question_id
stringlengths
10
14
question
stringlengths
3
206
positive_context_id
stringlengths
5
8
positive_context
stringlengths
126
7.22k
hard_negative_ids
stringlengths
53
60
hard_negatives
stringlengths
1.12k
13k
question_0
Phát xít duy trì hệ thống gì?
doc_0
Ban đầu, người Đức được đón nhận như những người giải phóng bởi một số người gốc Ba Lan ở tây Ukraina, họ chỉ mới gia nhập Liên xô năm 1939. Tuy nhiên, sự cai trị hà khắc của người Đức tại các vùng lãnh thổ chiếm đóng cuối cùng đã khiến những người ủng hộ họ quay sang chống đối sự chiếm đóng. Các viên chức Phát xít tại các vùng lãnh thổ Liên xô đã bị chiếm đóng ít có nỗ lực để khai thác sự bất mãn của dân chúng trong lãnh thổ Ukraina với các chính sách kinh tế và chính trị của Stalin. Thay vào đó, Phát xít duy trì hệ thống trang trại tập thể, tiến hành một cách có hệ thống các chính sách diệt chủng chống lại người Do Thái, bắt những người khác tới làm việc tại Đức, và bắt đầu một cuộc di dân có hệ thống tại Ukraina để chuẩn bị cho việc thực dân hoá của Đức, gồm cả phong toả lương thực với Kiev[cần dẫn nguồn].
doc_1861;;;;;doc_4927;;;;;doc_4977;;;;;doc_284;;;;;doc_4657
Roosevelt đã chi phối nền chính trị Mỹ, không chỉ trong suốt 12 năm làm tổng thống mà còn nhiều thập niên về sau. Ông là nhạc trưởng của việc tái phối trí cử tri mà sau đó hình thành nên Hệ thống đảng phái lần thứ 5. Liên minh New Deal của ông đã qui tụ được các công đoàn lao động, những cỗ máy thành phố lớn (?), các sắc tộc da trắng, những người nhận trợ cấp xã hội, người Mỹ gốc châu Phi và những người nông dân da trắng ở miền Nam Hoa Kỳ. Ảnh hưởng ngoại giao của Roosevelt cũng vang dội trên sân khấu thế giới rất lâu sau khi ông qua đời trong đó phải kể đến Liên Hiệp Quốc và Hệ thống Bretton Woods là những thí dụ về sức ảnh hưởng rộng lớn của chính phủ ông. Roosevelt từ trước đến nay luôn được các học giả đánh giá là một trong số các tổng thống vĩ đại của Hoa Kỳ.;;;;;Giai cấp công nhân Đức cũng có thái độ tương tự. Để ngăn chặn chủ nghĩa xã hội, trong giai đoạn 1883-1889 Bismarck thiết lập chương trình an ninh xã hội rộng rãi, bao gồm bảo hiểm cho lương hưu, bệnh tật, tai nạn và thương tật. Dù cho Nhà nước tổ chức, nguồn kinh phí được lấy từ chủ và thợ. Việc này khiến cho giai cấp công nhân đánh giá cao an ninh xã hội hơn là tự do về chính trị, và xem Nhà nước là ân nhân của họ. Hitler sau này lợi dụng triệt để tâm lý ấy. Trong quyển Mein Kampf, ông viết: "Tôi đã nghiên cứu pháp chế chủ nghĩa xã hội của Bismarck." Nước Đức vươn lên, và hầu như toàn dân Đức đều nức lòng làm theo tất cả những gì mà nhà lãnh đạo đòi hỏi.;;;;;Chúng tôi đã tìm người trú ẩn nhiều lần tại lô cốt.... Nhưng nó luôn bị bịt kín.... Lô cốt có vô tuyến, vòi nước uống, máy phát điện riêng, và trông đủ vững chắc để chống lại các loại vũ khí thông thường. Nhưng tôi đã thôi tìm cách vào trong, bởi một đêm tôi đã nhận ra vài chiếc limousine đen chạy ra chạy vào qua cánh cổng ngầm ở phía sau. Tôi hỏi những người ở xung quanh và được trả lời rằng đó là một trung tâm chỉ huy. Sau khi xem xét nó kỹ càng hơn, tôi đã cho rằng có thể nó là căn cứ điều hành riêng của Xát-đam.;;;;;Do có một số lượng lớn số xe tăng của Liên Xô tuy đã lỗi thời nhưng vẫn là loại tối tân ở Triều Tiên cộng với các vũ khí nặng khác, Bắc Triều Tiên đã có thể leo thang các cuộc đụng độ ở biên giới và ngày càng chuyển sang công kích trong khi Nam Triều Tiên với hậu thuẫn giới hạn của Hoa Kỳ có ít sự chọn lựa hơn. Chính phủ Hoa Kỳ lúc đó tin rằng Khối Xã hội chủ nghĩa là một khối thống nhất, và những hành động của Bắc Triều Tiên là chủ trương của cái khối này như là một cái móng vuốt của Liên Xô. Vì thế, Hoa Kỳ xem đây như là một cuộc xung đột quốc tế hơn là một cuộc nội chiến.[cần dẫn nguồn];;;;;Reagan ra lệnh tăng cường xây dựng lực lượng quân sự Hoa Kỳ, khiến tăng thêm sự thâm hụt ngân sách. Reagan giới thiệu một hệ thống phòng thủ tên lửa phức tạp, được biết với cái tên Sáng kiến Phòng thủ Chiến lược (những người phản đối gán cho nó biệt danh là "Chiến tranh giữa các vì sao") mà theo lý thuyết Hoa Kỳ có thể bắn hạ các tên lửa bằng hệ thống tia laser đặt trong không gian. Mặc dù hệ thống này chưa bao giờ được phát triển toàn diện hay được triển khai nhưng Liên Xô đặc biệt quan tâm về sự hiệu quả có thể có của chương trình này và trở nên sẵn sàng hơn để thương thuyết.
question_1
Newton đã loại bỏ được thuyết gì trong thời kì này?
doc_1
Luận thuyết của ông về Philosophiae Naturalis Principia Mathematica (Các Nguyên lý Toán học của Triết học Tự nhiên) xuất bản năm 1687, đã mô tả về vạn vật hấp dẫn và 3 định luật Newton, được coi là nền tảng của cơ học cổ điển, đã thống trị các quan niệm về vật lý, khoa học trong suốt 3 thế kỷ tiếp theo. ông cho rằng sự chuyển động của các vật thể trên mặt đất và các vật thể trong bầu trời bị chi phối bởi các định luật tự nhiên giống nhau; bằng cách chỉ ra sự thống nhất giữa Định luật Kepler về sự chuyển động của hành tinh và lý thuyết của ông về trọng lực, ông đã loại bỏ hoàn toàn Thuyết nhật tâm và theo đuổi cách mạng khoa học.
doc_562;;;;;doc_330;;;;;doc_4196;;;;;doc_4787;;;;;doc_730
Bốn quy tắc súc tích và tổng quát cho nghiên cứu khoa học này đã là một cuộc cách mạng về tư duy thực sự vào thời điểm bấy giờ. Thực hiện các quy tắc này, Newton đã hình thành được các định luật tổng quát của tự nhiên và giải thích được gần như tất cả các bài toán khoa học vào thời của ông. Newton còn đi xa hơn việc chỉ đưa ra các quy tắc cho lý luận, ông đã miêu tả cách áp dụng chúng trong việc giải quyết một bài toán cụ thể. Phương pháp giải tích mà ông sáng tạo vượt trội các phương pháp mang tính triết lý hơn là tính chính xác khoa học của Aristoteles và Thomas Aquinas. Newton đã hoàn thiện phương pháp thực nghiệm của Galileo Galilei, tạo ra phương pháp tổng hợp vẫn còn được sử dụng cho đến ngày nay trong khoa học. Những câu chữ sau đây trong quyển Opticks (Quang học) của ông có thể dễ dàng bị nhầm lẫn với trình bày hiện đại của phương pháp nghiên cứu thời nay, nếu Newton dùng từ "khoa học" thay cho "triết lý về tự nhiên":;;;;;Newton đã xây dựng lý thuyết cơ học và quang học cổ điển và sáng tạo ra giải tích nhiều năm trước Gottfried Leibniz. Tuy nhiên ông đã không công bố công trình về giải tích trước Leibniz. Điều này đã gây nên một cuộc tranh cãi giữa Anh và lục địa châu Âu suốt nhiều thập kỷ về việc ai đã sáng tạo ra giải tích trước. Newton đã phát hiện ra định lý nhị thức đúng cho các tích của phân số, nhưng ông đã để cho John Wallis công bố. Newton đã tìm ra một công thức cho vận tốc âm thanh, nhưng không phù hợp với kết quả thí nghiệm của ông. Lý do cho sự sai lệch này nằm ở sự giãn nở đoạn nhiệt, một khái niệm chưa được biết đến thời bấy giờ. Kết quả của Newton thấp hơn γ½ lần thực tế, với γ là tỷ lệ các nhiệt dung của không khí.;;;;;Cũng có các nhà triết học trước như Galileo và John Philoponus sử dụng phương pháp thực nghiệm, nhưng Newton là người đầu tiên định nghĩa cụ thể và hệ thống cách sử dụng phương pháp này. Phương pháp của ông cân bằng giữa lý thuyết và thực nghiệm, giữa toán học và cơ học. Ông toán học hoá mọi khoa học về tự nhiên, đơn giản hoá chúng thành các bước chặt chẽ, tổng quát và hợp lý, tạo nên sự bắt đầu của Kỷ nguyên Suy luận. Những nguyên lý mà Newton đưa ra do đó vẫn giữ nguyên giá trị cho đến thời đại ngày nay. Sau khi ông ra đi, những phương pháp của ông đã mang lại những thành tựu khoa học lớn gấp bội những gì mà ông có thể tưởng tượng lúc sinh thời. Các thành quả này là nền tảng cho nền công nghệ mà chúng ta được hưởng ngày nay.;;;;;Newton được bầu vào Hội Khoa học Hoàng gia Anh năm 1672 và bắt đầu vấp phải các phản bác từ Huygens và Hooke về lý thuyết hạt ánh sáng của ông. Lý thuyết về màu sắc ánh sáng của ông cũng bị một tác giả phản bác và cuộc tranh cãi đã dẫn đến suy sụp tinh thần cho Newton vào năm 1678. Năm 1679 Newton và Hooke tham gia vào một cuộc tranh luận mới về quỹ đạo của thiên thể trong trọng trường. Năm 1684, Halley thuyết phục được Newton xuất bản các tính toán sau cuộc tranh luận này trong quyển Philosophiae Naturalis Principia Mathematica. Quyển sách đã mang lại cho Newton tiếng tăm vượt ra ngoài nước Anh, đến châu Âu.;;;;;Ngay sau khi nhận bằng tốt nghiệp, năm 1630, ông phải trở về nhà 2 năm vì trường đóng cửa do bệnh dịch hạch lan truyền. Hai năm này chứng kiến một loạt các phát triển quan trọng của Newton với phương pháp tính vi phân và tích phân hoàn toàn mới, thống nhất và đơn giản hoá nhiều phương pháp tính khác nhau thời bấy giờ để giải quyết những bài toán có vẻ không liên quan trực tiếp đến nhau như tìm diện tích, tìm tiếp tuyến, độ dài đường cong và cực trị của hàm. Tài năng toán học của ông nhanh chóng được hiệu trưởng của Cambridge nhận ra khi trường mở cửa trở lại. Ông được nhận làm giảng viên của trường năm 1670, sau khi hoàn thành thạc sĩ, và bắt đầu nghiên cứu và giảng về quang học. Ông lần đầu chứng minh ánh sáng trắng thực ra được tạo thành bởi nhiều màu sắc, và đưa ra cải tiến cho kính thiên văn sử dụng gương thay thấu kính để hạn chế sự nhoè ảnh do tán sắc ánh sáng qua thuỷ tinh.
question_2
Những công trình nào là đại diện tiêu biểu cho phong cách kiến trúc phong kiến Trung Quốc?
doc_2
Trong nội thị Bắc Kinh có ba phong cách kiến trúc thống trị các công trình xây dựng. Trước tiên là kiến trúc phong kiến Trung Hoa, có lẽ minh họa tốt nhất là Thiên An Môn, Tử Cấm thành, Thái Miếu và Thiên Đàn. Tiếp theo, là phong cách kiến trúc mà đôi khi được gọi là "Trung-Xô", với các công trình kiến trúc có khuynh hướng giống như hình hộp, được xây dựng trong thời kỳ từ thập niên 1950 đến thập niên 1970. Cuối cùng, thành phố có nhiều mẫu kiến trúc hiện dại, đáng chú ý nhất là tại khu Trung tâm Thương vụ Bắc Kinh và phố Tài chính Bắc Kinh.
doc_1958;;;;;doc_53;;;;;doc_4911;;;;;doc_2050;;;;;doc_896
Hội họa Trung Quốc có lịch sử 5000 - 6000 năm với các loại hình: bạch hoạ, bản hoạ, bích hoạ. Đặc biệt là nghệ thuật vẽ tranh thuỷ mạc, có ảnh hưởng nhiều tới các nước ở Châu Á. Cuốn Lục pháp luận của Tạ Hách đã tổng kết những kinh nghiệm hội họa từ đời Hán đến đời Tuỳ. Tranh phong cảnh được coi là đặc trưng của nền hội họa Trung Quốc, mà đã phát triển đỉnh cao từ thời kì Ngũ Đại đên thời Bắc Tống (907–1127). Điêu khắc Trung Quốc được phân thành các ngành riêng như: Ngọc điêu, thạch điêu, mộc điêu. Những tác phẩm nổi tiếng như cặp tượng Tần ngẫu đời Tần, tượng Lạc sơn đại Phật đời Tây Hán (pho tượng cao nhất thế giới), tượng Phật nghìn mắt nghìn tay. Không giống như phong cách kiến trúc Phương Tây, kiến trúc Trung Hoa chú trọng đến chiều rộng hơn là chiều cao của công trình. Phong thủy đóng vai trò rất quan trọng trong quá trình xây dựng. Một số công trình kiến trúc nổi tiếng thế giới có thể kể đến như: Vạn Lý Trường Thành (dài 6700 km), Thành Tràng An, Cố cung, Tử cấm thành ở Bắc Kinh.;;;;;Bắc Kinh cũng nổi tiếng nhờ các tứ hợp viện (四合院), một kiểu dinh thự gồm các khối nhà bao quanh một khoảnh sân trong. Trong số chúng, có thể kể đến Cung Vương Phủ và Tống Khánh Linh cố cư (宋庆龄故居). Những sân trong này thường được kết nối bằng các ngõ nhỏ được gọi là hồ đồng (胡同). Các hồ đồng thường thẳng và chạy từ đông sang tây để các ô cửa phải đối mặt với hướng bắc và nam nhằm có Phong thủy tốt. Chúng khác nhau về chiều rộng; một số rất hẹp đến nỗi chỉ đủ cho một vài người đi bộ có thể qua cùng một lúc. Đã từng phổ biến khắp nơi tại Bắc Kinh, các tứ hợp viện và hồ đồng đang nhanh chóng biến mất, khi chúng bị các khu nhà cao tầng thay thế. Các cư dân trong các hồ đồng được quyền đến sống tại các tòa nhà mới tại những căn hộ có kích cỡ tối thiểu là tương đương nơi ở trước đây của họ. Tuy nhiên, nhiều người phàn nàn rằng không thể thay thế ý nghĩa truyền thống của lối sống cộng đồng và đường phố của các "hồ đồng",;;;;;Khởi phát nền văn minh Trung Quốc nằm cách không xa sông Hoàng Hà (dọc theo sông Trường Giang) do xung quanh khu vực tìm thấy nhiều di tích của thời Trung Quốc tiền sử. Các nền văn minh thời đại đồ đá mới tìm thấy được ở Trung Quốc là văn minh Bành Đầu Sơn (Pengtoushan) (sông Trường Giang) và văn minh Bùi Lý Cương (Kebudayaan Peiligang), tất cả chúng đều xuất hiện khoảng 7000 năm TCN hoặc sớm hơn. Giai đoạn văn hóa Bành Đầu Sơn khó xác định, kết quả các tính toán cho biến thiên từ 9000-5500 năm TCN, tại di chỉ của nền văn hóa này tìm thấy dấu tích của lúa gạo từ khoảng 7000 năm TCN. Tại di chỉ Giả Hồ (Jiahu) cổ đại tìm thấy vài bằng chứng về việc trồng lúa. Một khám phá quan trọng tại Giả Hồ là cây sáo cổ có niên đại khoảng 7000-6000 năm TCN. Văn minh Bùi Lý Cương là một trong những nền văn minh lâu đời nhất tại Trung Quốc có sản xuất đồ gốm. Cả nền văn minh Bành Đầu Sơn và nền văn minh Bùi Lý Cương đều phát triển hoạt động trồng Kê, chăn nuôi, lưu trữ và phân phối thực phẩm. Bằng chứng khảo cổ cũng cho thấy sự hiện diện của các thợ thủ công, đày tớ. Lối chữ hình vẽ (Pictogram) được cho là khởi đầu của hệ thống chữ viết Trung Quốc bắt nguồn từ các hoạt động nông nghiệp và chăn nuôi tại Trung Quốc. Tại di chỉ Giả Hồ tìm thấy một số lối chữ hình vẽ, nó không được xem là có hệ thống chữ viết nhưng những ký hiệu đó dẫn đến hệ thống chữ viết.;;;;;Bắc Kinh có một số ngôi tháp được bảo quản tốt và các tháp bằng đá, như tháp Thiên Ninh tự (天宁寺塔), được xây từ thời Liêu trong khoảng năm 1100 đến năm 1120, và Tháp Từ Thọ tự (慈寿寺塔), được xây dựng năm 1576 vào thời Minh. Các cầu đá đáng chú ý mang tính lịch sử gồm cầu Lư Câu từ thế kỷ XII, cầu Bát Lý (八里桥) từ thế kỷ XVII, cầu Ngọc Đới (玉带桥) từ thế kỷ XVIII. Đài quan sát cổ Bắc Kinh trưng bày các quả cầu tiền kính thiên văn có niên đại từ thời Minh và Thanh. Hương Sơn là một công viên công cộng nổi tiếng, nó có cả các khu phong cảnh tự nhiên cũng như các di tích truyền thống và văn hóa. Thực vật viên Bắc Kinh trưng bày trên 6.000 loài thực vật, bao gồm một loạt các loại cây thân gỗ, cây bụi và cây hoa, và một vườn mẫu đơn rộng lớn. Các công viên Đào Nhiên Đình (陶然亭), Long Đàm hồ (龙潭湖), Triều Dương (朝阳), Hải Điến (海淀), Mi Lộc Uyển (麋鹿苑) và Tử Trúc Viện (紫竹院) là một vài trong số các công viên tiêu khiển nổi tiếng của thành phố. Động vật viên Bắc Kinh là một trung tâm nghiên cứu động vật, nó cũng gồm có các loài động vật quý hiếm từ các châu lục khác nhau, bao gồm cả gấu trúc lớn.;;;;;Trong thế kỷ 19, hầu hết các tòa nhà của thành phố vẫn chỉ có một hoặc hai tầng. Các cấu trúc chính là Tháp đồng bằng của Nhà thờ Hồi giáo Huaisheng, Chùa Hoa chùa của Sáu cây Banyan, và tháp canh được gọi là chùa 5 tầng. Các ngọn đồi phía bắc, kể từ khi thành thị, đã được trần truồng và phủ đầy các ngôi mộ truyền thống. Các bức tường thành phố gạch là khoảng 6 dặm (10 km) trong chu vi, 25 feet (8 m) cao, và 20 feet (6 m) rộng. Tám cổng chính và hai cổng nước đều giữ các vệ sĩ trong ngày và đóng cửa vào ban đêm. Bức tường bao gồm một ngọn đồi ở phía bắc của nó và được bao quanh bởi ba con khác bởi một con hào, cùng với các kênh rạch, hoạt động như cống của thành phố, được đóng băng hàng ngày bằng dòng thủy triều của sông. Một bức tường phân chia với bốn cửa chia thành "thị trấn cổ" phía bắc từ "thị trấn mới" phía nam gần sông; vùng ngoại ô của Xiguan ("West Gate") lây lan ra ngoài và những chiếc thuyền của ngư dân, người buôn bán, và Tanka ("thuyền nhân") gần như hoàn toàn che dấu bờ sông khoảng 4 dặm (6 km). Việc nhà cửa phải đối mặt với đường phố và đối xử với sân của họ như một loại kho hàng là điều phổ biến. Thành phố này là một phần của một mạng lưới các tháp tín hiệu rất hiệu quả những thông điệp có thể được chuyển tiếp đến Bắc Kinh-khoảng 1.200 dặm (1.931 km), trong vòng chưa đầy 24 tiếng đồng hồ. Hệ thống Canton được duy trì cho đến khi cuộc chiến tranh nha phiến lần thứ nhất nổ ra ở Canton đã diễn ra hai tháng sau đó. Sau Hiệp ước Nam Kinh 1842, Quảng Châu trở thành "nhượng cảng", cùng với Ninh Ba, Hạ Môn, Phúc Châu và Thượng Hải phải mở cửa cho thương nhân phương Tây tự do giao dịch. Quảng Châu bị mất vị thế thương mại đặc quyền vì các cảng hiệp ước ngày càng mở rộng ra nhiều nước hơn nữa, thường là các khu vực ngoại vi. Trong sự suy giảm uy tín của nhà Thanh và sự hỗn loạn của Cuộc nổi dậy ở Taiping, Punti và Hakka đã tiến hành một loạt các cuộc chiến tranh gia tộc từ năm 1855 đến năm 1867, trong đó có 1 triệu người chết. Sự nhượng bộ cho Đường sắt Canton-Hankow đã được trao cho Công ty Phát triển Trung Quốc Hoa Kỳ vào năm 1898. Nó hoàn thành nhánh chi nhánh phía tây đến Phật Sơn và Sanshui trước khi bị khủng hoảng ngoại giao sau khi một tập đoàn Bỉ đã mua một quyền kiểm soát và nhà Thanh đã hủy bỏ nhượng bộ. J.P. Morgan đã được trao hàng triệu thiệt hại và tuyến đường đến Vũ Xương đã không hoàn thành cho đến năm 1936 và một tuyến đường sắt Bắc Kinh - Quảng Châu thống nhất chờ cho đến khi hoàn thành cầu sông Dương Tử ở Vũ Hán năm 1957.
question_3
Ai là người đã thất bại dưới quân Chu Nguyên Chương cùng năm với sự thất bại của Trương Sĩ Thành?
doc_3
Năm 1356, Chu Nguyên Chương suất binh chiếm lĩnh Kim Lăng (nay là Nam Kinh, Giang Tô), đổi thành Ứng Thiên phủ, đồng thời chiếm cứ một số địa điểm quân sự trọng yếu nằm quanh đó. Chu Nguyên Chương chấp thuận kiến nghị "cao trúc tường, quảng tích lương, hoãn xưng vương" của mưu sĩ Chu Thăng, trải qua vài năm nỗ lực, thực lực quân sự và kinh tế nhanh chóng lớn mạnh. Năm 1360, Chu Nguyên Chương và một thủ lĩnh khởi nghĩa khác là Trần Hữu Lượng tiến hành giao chiến tại Long Loan thuộc tây bắc Tập Khánh, thế lực Trần Hữu Lượng đại bại và phải đào thoát đến Giang Châu (nay thuộc Cửu Giang, Giang Tây). Năm 1363, thông qua Thủy chiến tại hồ Bà Dương, thế lực Trần Hữu Lượng về cơ bản bị tiêu diệt. Năm 1367, Chu Nguyên Chương tự xưng Ngô Vương, suất quân chiếm lĩnh Bình Giang (nay là Tô Châu, Giang Tô), diệt một thủ lĩnh khởi nghĩa lớn mạnh khác là Trương Sĩ Thành. Cùng năm, Chu Nguyên Chương tiêu diệt Phương Quốc Trân cát cứ tại duyên hải Chiết Giang.
doc_3500;;;;;doc_3902;;;;;doc_902;;;;;doc_2001;;;;;doc_3109
Sau khi Hoằng Quang Đế bị giết, Lỗ vương Chu Dĩ Hải tại Thiệu Hưng xưng là giám quốc, Đường vương Chu Duật Kiện được đám Trịnh Chi Long ủng hộ xưng đế tại Phúc Châu, tức Long Vũ Đế. Tuy nhiên, hai thế lực chủ yếu này của Nam Minh không thừa nhận địa vị của bên kia và đánh lẫn nhau. Long Vũ Đế liên tục đề nghị đưa quân Bắc phát, song không được Trịnh Chi Long ủng hộ nên cuối cùng không thành. Năm 1646, quân Thanh phân biệt chiếm lĩnh Chiết Giang và Phúc Kiến, Lỗ vương Chu Dĩ Hải đào vong trên biển, Long Vũ Đế đào thoát đến Giang Tây thì bị bắt rồi từ trần. Trịnh Chi Long đầu hàng quân Thanh, song vì con là Trịnh Thành Công khởi binh phản Thanh mà bị triều đình cầm tù. Sau khi Chu Duật Kiện từ trần, em là Chu Duật Việt tại Quảng Châu xưng đế, tức Thiệu Vũ Đế, cùng năm bị tướng Thanh là Lý Thành Đống công diệt. Đồng thời gian, Quế vương Chu Do Lang tại Triệu Khánh, Quảng Đông xưng đế, tức Vĩnh Lịch Đế.;;;;;Thời kỳ Bắc Dương quân phiệt, năm 1920, Lạc Dương trở thành căn cứ của Ngô Bội Phu thuộc Trực hệ quân phiệt, có sở quan Lưỡng Hồ tuần duyệt sử và bộ tư lệnh sư đoàn 3 Lục quân. Năm 1926, Phùng Ngọc Tường tham gia chiến tranh Bắc phạt do Tưởng Giới Thạch phát động từ Quảng Châu nhằm triệt tiêu các quân phiệt phương Bắc, Phùng tiến quân về phía nam, trong đó Ngô Bội Phu cát cứ Hoa Trung được liệt là một mục tiêu chính. Ngô Bội Phu trước tình thế này đã kêu gọi Trương Tác Lâm "khôi phục pháp thống" song không nhận được hưởng ứng. Do Ngô Bội Phu có lập trường chống Liên Xô nên Liên Xô hỗ trợ cho chính phủ Quốc dân đóng ở Quảng Châu. Cùng năm, quân Bắc phạt đánh tan quân chủ lực của Ngô Bội Phu, Ngô Bội Phu buộc phải dẫn tàn quân về Hà Nam sau khi để mất Vũ Hán tam trấn, sau lại chạy trốn đến Tứ Xuyên. Năm 1930, Trung Quốc đã nổ ra nội chiến giữa quân của Tưởng Giới Thạch với Diêm Tích Sơn, Phùng Ngọc Tường và Lý Tông Nhân, được gọi là đại chiến Trung Nguyên. Cuộc nội chiến này diễn ra chủ yếu trên địa bàn Hà Nam và là cuộc chiến tranh quy mô nhất trong thời kỳ cận đại của Trung Quốc. Kết quả, Tưởng Giới Thạch toàn thắng, chấm dứt thời kỳ quân phiệt cát cứ. Năm 1932, sau sự kiện Nhất Nhị Bát tại Thượng Hải, chính phủ Quốc dân Nam Kinh đã định Lạc Dương là "hành đô", chuyển văn phòng đến Lạc Dương, đến tháng 12 cùng năm thì lại trở về Nam Kinh.;;;;;Sau khi triều Minh diệt vong, tại phương nam vẫn còn thế lực, sử xưng Nam Minh. Thế lực chủ yếu của Nam Minh có Tứ hệ vương: Phúc vương Chu Do Tung, Lỗ vương Chu Dĩ Hải, Đường vương Chu Duật Kiện và Chu Duật Việt (𨮁), Quế vương Chu Do Lang. Sau khi Nam Minh diệt vong, còn có chính quyền Minh Trịnh do Trịnh Thành Công kiến lập, và Quỳ Đông thập tam gia kháng Thanh. Năm 1644, sau khi Bắc Kinh bị Lý Tự Thành chiếm lĩnh, đại thần Nam Minh có ý ủng hộ hoàng tộc Bắc phạt. Trải qua nhiều lần thảo luận, Phúc vương Chu Do Tung xưng đế dưới sự ủng hộ của Phụng Dương tổng đốc Mã Sĩ Anh và Giang Bắc tứ trấn Cao Kiệt, Hoàng Đắc Công, Lưu Trạch Thanh và Lưu Lương Tá, tức Hoằng Quang Đế, sử xưng Nam Minh. Năm 1645, triều Thanh phái Đa Đạc đem đại quân nam hạ Nam Kinh, đương thời Hoằng Quang Đế bất tài, đại quyền do tàn dư của Yêm đảng khống chế, Giang Bắc tứ trấn cuối cùng liên tiếp tan vỡ. Quân Thanh công phá Dương Châu do Sử Khả Pháp tử thủ, Hoằng Quang Đế đào thoát đến Vu Hồ thì bị bắt giữ, bị đưa đến Bắc Kinh để xử tử. Thời gian đó, quân Thanh tiến hành đại đồ sát Dương Châu thập nhật, Giang Âm bát thập nhất nhật và Gia Định tam đồ để trấn áp người Hán phản kháng.;;;;;Từ trung kỳ về sau, Đại Minh thường phát sinh nông dân khởi nghĩa, đến thời kỳ Minh Tư Tông do triều chính hỗn loạn và quan viên tham ô bất tài, nhu cầu phục vụ chiến tranh với Hậu Kim và quân Hậu Kim cướp đoạt, cùng với việc khí hậu trở nên lạnh hơn do tiểu băng kỳ, sản lượng nông nghiệp giảm gây nên đói kém trên quy mô toàn quốc, những điều này đều làm tăng gánh nặng cho nhân dân. Năm 1627, dân đói tại Trừng Thành thuộc Thiểm Tây tiến hành bạo động, khởi đầu cho giai đoạn Minh mạt dân biến, sau đó Vương Tự Dụng, Cao Nghênh Tường, Lý Tự Thành, Trương Hiến Trung cùng những nông dân khác khởi nghĩa, cuối cùng phát triển thành Lý Tự Thành hùng cứ Thiểm Tây, Hà Nam, còn Trương Hiến Trung chiếm cứ Tứ Xuyên. Năm 1644, Lý Tự Thành kiến quốc Đại Thuận, sau đó đánh hạ Bắc Kinh, Minh Tư Tông tự vẫn, triều Minh mất. Ngô Tam Quế là tướng Minh trấn thủ Sơn Hải Quan, sau khi triều Minh mất ông ta quyết định dẫn quân Thanh nhập quan, đánh bại quân Đại Thuận. Nhiếp chính vương Đa Nhĩ Cổn và Thuận Trị Đế của triều Thanh nhập quan, Bắc Kinh trở thành thủ đô của triều Thanh. Lý Tự Thành triệt thoái về Thiểm Tây, cuối cùng bị quân Thanh tiêu diệt;;;;;Năm 1398, Minh Thái Tổ từ trần, do Thái tử Chu Tiêu mất sớm nên Hoàng thái tôn Chu Doãn Văn tức vị, niên hiệu Kiến Văn, tức Minh Huệ Tông. Nhằm củng cố hoàng quyền, Minh Huệ Tông cùng với các đại thần thân tín như Tề Thái, Hoàng Tử Trừng mật mưu tước phiên. Chu vương Chu Túc, Đại vương Chu Quế, Tề vương Chu Phù, hay Tương vương Chu Bách trước sau bị phế trừ làm thứ nhân, hoặc bị giết. Đồng thời, Minh Huệ Tông lấy danh nghĩa biên phòng để điều động tinh binh của Yên vương đi, chuẩn bị tước trừ Yên vương. Kết quả là Yên vương Chu Đệ theo kiến nghị của Diêu Quảng Hiếu lấy danh nghĩa "thanh quân trắc, tĩnh nội nạn" để khởi binh, cuối cùng nam hạ chiếm lĩnh kinh sư, đó là Tĩnh Nan chi biến. Chu Đệ tức vị, tức Minh Thành Tổ, niên hiệu Vĩnh Lạc. Minh Huệ Tông không rõ tung tích giữa đám cháy lớn trong cung thành.
question_4
Những con sông chạy qua Bồ Đào Nha hầu hầu hết bắt nguồn từ đâu?
doc_4
Bồ Đào Nha là quốc gia ven biển tại tây nam châu Âu, tại cực tây của bán đảo Iberia, giáp với Tây Ban Nha về phía bắc và đông, đường biên giới dài 1.214 km. Lãnh thổ Bồ Đào Nha còn bao gồm các quần đảo trên Đại Tây Dương (Açores và Madeira), với vị trí chiến lược. Cực nam của đại lục Bồ Đào Nha nằm không xa lối vào Địa Trung Hải là eo biển Gibraltar. Tổng diện tích của Bồ Đào Nha là 91.470 km² mặt đất và 620 km² mặt nước. Bồ Đào Nha có nhiều sông chảy qua, chúng bắt nguồn từ Tây Ban Nha. Hầu hết các sông chảy từ tây sang đông để đổ vào Đại Tây Dương; từ bắc xuống nam các sông chính là Minho, Douro, Mondego, Tejo và Guadiana.
doc_3777;;;;;doc_2451;;;;;doc_3404;;;;;doc_4242;;;;;doc_295
Quốc hiệu Bồ Đào Nha (tiếng Bồ Đào Nha: Portugal) bắt nguồn từ tên của làng Cale ở thung lũng sông Douro. Cale có thể là một từ của tiếng Hy Lạp (Kalles: đẹp) và dùng để chỉ vẻ đẹp của tự nhiên ở vùng miền bắc của nước Bồ Đào Nha ngày nay, thuộc địa của Hy Lạp trong thời kỳ Thượng cổ. Những nhà lịch sử học khác cho rằng cale có nguồn gốc từ tiếng Phoenicia vì người Phoenicia đã định cư ở Bồ Đào Nha trước cả người Hy Lạp. Khi phần đất của Bồ Đào Nha ngày nay thuộc về Đế quốc La Mã, Cale trở thành một cảng quan trọng, trong tiếng La Tinh là Portus Cale. Trong thời kỳ Trung Cổ Portus Cale trở thành Portucale và sau đó là Portugale, thế nhưng trong thế kỷ thứ VII và thế kỷ thứ VIII từ này chỉ dùng để chỉ phần đất miền bắc của nước Bồ Đào Nha, tức là vùng giữa hai con sông Douro và Minho. Về mặt khác, Portus Cale được rút ngắn thành Porto, thành phố quan trọng thứ nhì của Bồ Đào Nha, người dân nơi đây tự hào là thành phố mang tên cho đất nước.;;;;;Đại lục Bồ Đào Nha không có các hồ tự nhiên cỡ lớn, và phần mặt nước nội lục lớn nhất là các hồ chứa hình thành do xây đập, như hồ chứa Alqueva rộng 250 km². Tuy nhiên, có một số hồ nước ngọt nhỏ tại Bồ Đào Nha, đáng chú ý nhất là các hồ tại Serra da Estrela, hồ Comprida (Lagoa Comprida) và hồ Escura (Lagoa Escura) được tạo thành từ các sông băng cổ đại. Tại quần đảo Açores, các hồ được hình thành trên hõm chảo của các núi lửa đã tắt. Lagoa do Fogo và Lagoa das Sete Cidades là những hồ nổi tiếng nhất trên đảo São Miguel. Bồ Đào Nha có các phá trên bờ biển Đại Tây Dương, như phá Albufeira và phá Óbidos.;;;;;Bồ Đào Nha có lịch sử thực dân lâu dài, tạo thành một nền tảng cho bản sắc quốc gia, cũng như từ vị trí địa lý tại góc tây nam của châu Âu, nhìn ra Đại Tây Dương. Đây là một trong các thế lực thực dân châu Âu cuối cùng từ bỏ các lãnh thổ hải ngoại. Do đó, Bồ Đào Nha gây ảnh hưởng cũng như chịu ảnh hưởng văn hoá từ các cựu thuộc địa, kết quả là nhập cư từ các lãnh thổ cũ vì nguyên nhân kinh tế và cá nhân. Bồ Đào Nha trong một thời gian dài là quốc gia xuất cư (nhiều người Brasil có nguồn gốc Bồ Đào Nha), song hiện trở thành quốc gia có nhập cư thuần,. Ước tính có đến 800 nghìn người Bồ Đào Nha trở về Bồ Đào Nha khi các thuộc địa của quốc gia này tại châu Phi được độc lập vào năm 1975.;;;;;Tiếng Bồ Đào Nha bắt nguồn từ tiếng La tinh dạng nói của các dân tộc tiền La Mã bị La Mã hoá trên bán đảo Iberia vào khoảng 2.000 năm trước, đặc biệt là người Celt, Tartessia, Lusitania và Iberia. Trong các thế kỷ XV và XVI, ngôn ngữ này được truyền bá trên toàn cầu khi Bồ Đào Nha lập nên một đế quốc thực dân và thương mại từ năm 1415. Tiếng Bồ Đào Nha có người bản ngữ trên năm lục địa, Brasil là quốc gia có nhiều người bản ngữ tiếng Bồ Đào Nha nhất (209,5 triệu người nói vào năm 2016).,;;;;;Người Bồ Đào Nha bản địa là một dân tộc Iberia, có tổ tiên rất tương đồng với các dân tộc Tây và Nam Âu cũng như Địa Trung Hải, đặc biệt là người Tây Ban Nha, tiếp theo là một số khu vực tại Pháp và Ý, chia sẻ về nguồn gốc, lịch sử và văn hoá. Ảnh hưởng nhân khẩu học quan trọng nhất đối với người Bồ Đào Nha hiện đại có vẻ như là những người cổ nhất tại địa phương; giải thích hiện hành về dữ liệu nhiễm sắc thể Y và ADN ti thể cho thấy người Bồ Đào Nha có nguồn gốc từ các dân tộc đồ đá cũ bắt đầu đến lục địa châu Âu vào khoảng 45.000 năm trước. Tất cả các cuộc di cư sau đó đều để lại ảnh hưởng về di truyền và văn hoá, song nguồn gốc chủ yếu của người Bồ Đào Nha vẫn là từ các cư dân đến vào thời đồ đá cũ. Các nghiên cứu di truyền thể hiện cư dân Bồ Đào Nha không có khác biệt đáng kể với các cư dân châu Âu khác.
question_5
Nhà nước Đông Hán đã làm gì để chống chọi với làn sóng đấu tranh của nhân dân?
doc_5
Hoảng sợ trước sự đấu tranh của cuộc nổi loạn, chính phủ Ðông Hán và các tập đoàn quân phiệt ở các địa phương đã huy động toàn bộ lực lượng để đàn áp, trong vòng 10 tháng đã bị đánh bại. Dư đảng quân Hoàng Cân còn ở khắp nơi hoành hành quấy nhiễu, quân triều đình qua cuộc chiến cũng bị thiệt hại nặng nề nên không đủ khả năng giúp các địa phương trấn áp triệt để. Tình thế ấy khiến cho Hoàng đế nhà Hán có một quyết sách rất mạo hiểm là mau chóng khuếch đại quyền hạn cho các thứ sử, cho phép họ thành lập quân đội riêng để tự dẹp loạn, đổi chức Thứ sử một số châu thành chức Châu mục (州牧). Chức mục bắt đầu ra đời từ đó, bấy giờ là năm 188. Các châu mục mau chóng có quyền hạn lớn, lực lượng độc lập, triều đình cũng nhanh chóng mất đi quyền chỉ huy khống chế các địa phương, tình trạng quần hùng cát cứ đã manh nha xuất hiện.
doc_2189;;;;;doc_1536;;;;;doc_67;;;;;doc_2409;;;;;doc_429
Một khó khăn cho nhà nước Đông Hán non trẻ là việc tái thiết lại nền kinh tế sau những năm nội chiến và thiên tai hoành hành ở vùng Hoàng Hà dưới thời Vương Mãng. Quang Vũ Đế đã thi hành nhiều chính sách tích cực như giảm thuế từ 1/10 sản lượng xuống 1/30 sản lượng như thời Hán Văn Đế và Hán Cảnh Đế, phục viên binh lính để tăng thêm nhân lực cho khu vực sản xuất nông nghiệp, xây dựng các công trình thủy lợi, không tăng thêm số lính ở vùng biên cương,... nhờ vậy tình hình xã hội tương đối ổn định. Những nông dân tản cư được đưa về quê cũ. Các quan liêu phú hào có nhiều ruộng đất không khai báo trung thực về số đất đai và nhân khẩu sở hữu để trốn thuế.;;;;;Sau nhiều năm tranh chấp chính quyền và các nhà cai trị không có thực lực, nhà Đông Hán dần suy vong. Ở một quốc gia coi Khổng giáo là quốc giáo, là bộ quy tắc ứng xử quan trọng nhất mà quyền lực thật sự lại không nằm trong tay các đồ đệ chân chính của Khổng Tử. Guồng máy nhà nước đã không được vận hành theo một cơ cấu hợp lý bởi thiếu những bộ óc lãnh đạo xứng đáng, và hệ quả tất yếu của nó là sự suy đồi của nền kinh tế. Thương nghiệp thoái hóa, cơ cấu kinh tế, nông nghiệp hoàn toàn bị phá vỡ bởi sự lộng hành của quý tộc địa chủ. Số lượng tiền tệ giảm bớt. Vàng gần như biến mất. Chinh phạt liên miên (đánh người Khương ở miền bắc, dẹp khởi loạn trong nước…) khiến quân phí tăng vọt (mấy mươi năm triều An đế, quân phí lên tới 70 triệu quan), do đó bắt buộc triều đình càng phải gia tăng thuế vụ, nhân dân bị bần cùng hóa.;;;;;Mùa hè năm 100, hơn 2.000 dân Tượng Lâm nổi lên phá đồn, đốt thành, giết một số quan quân cai trị. Chính quyền đô hộ Hán phải huy động quân của các quận huyện khác đến dẹp, giết được chủ tướng, cuộc nổi loạn mới tạm yên. Từ đó chính quyền nhà Hán không dám ức hiếp một cách thô bạo dân cư tại đây nhưng đặt vùng đất này dưới quyền cai trị trực tiếp, do một binh trưởng sứ cầm đầu, đề phòng những cuộc nổi loạn sau này. Để lấy lòng dân cư địa phương, quan quân nhà Hán tổ chức phát chẩn cho dân nghèo, miễn thuế hai năm v.v.;;;;;Từ thời lập quốc, nhà Hán có khả năng giữ được hoà bình với dân tộc du mục phía Bắc Hung Nô bằng cách nộp cống và gả các công chúa cho họ. Tại thời này, mục tiêu của chính quyền là giảm sự hà khắc của hình luật, chiến tranh và các điều kiện sống cho người dân so với thời Tần, hạn chế các đe doạ từ dân du mục bên ngoài và những xung đột sớm bên trong triều đình. Chính phủ giảm bớt thuế và đảm bảo tình trạng cống nộp cho các bộ lạc du mục. Chính sách này giảm can thiệp vào đời sống dân cư, gọi là Dữ dân hưu tức (與民休息) bắt đầu một giai đoạn ổn định.;;;;;Sau vụ ám sát Tống Giáo Nhân và những nỗ lực của Viên Thế Khải để loại bỏ những người theo chủ nghĩa Quốc gia khỏi quyền lực, lãnh đạo Quảng Đông Hồ Hán Dân đã gia nhập Cuộc Cách mạng thứ hai năm 1913 chống lại ông nhưng bị buộc phải chạy trốn sang Nhật Bản cùng Tôn Trung Sơn sau khi thất bại. Thành phố này lại trở nên nổi bật trong năm 1917, khi Thủ tướng Đoàn Kỳ Thụyi hủy bỏ hiến pháp gây ra Phong trào Bảo vệ Hiến pháp. Tôn Trung Sơn đã lên nắm quyền Chính phủ quân sự Quảng Châu được các thành viên của quốc hội giải tán và các lãnh chúa miền tây phương ủng hộ. Chính quyền Quảng Châu đã tan rã vì các lãnh chúa đã rút lại sự ủng hộ của họ. Tôn đã chạy trốn đến Thượng Hải vào tháng 11 năm 1918 cho đến khi ông Trần Quýnh Minh, lãnh chúa tỉnh Quảng Đông, đã hồi phục ông vào tháng 10 năm 1920 trong cuộc chiến Yuegui. Vào ngày 16 tháng 6 năm 1922, Tôn đã bị lật đổ trong một cuộc đảo chính và trốn khỏi tàu chiến Yongfeng sau khi Chen đứng về phía chính phủ Bắc Kinh của Zhili Clique. Trong những tháng tiếp theo, Sun đã tổ chức một cuộc phản công vào Quảng Đông bằng cách tập hợp những người ủng hộ từ Vân Nam và Quảng Tây, và vào tháng một thành lập chính phủ ở thành phố lần thứ ba.
question_6
HIV có thể đi sang con từ người mẹ ở các thời điểm nào?
doc_6
Việc lây truyền virus từ mẹ sang con có thể xảy ra trong tử cung (trong thời kỳ mang thai), trong quá trình chuyển dạ (sinh con), hoặc thông qua việc cho con bú. Trong trường hợp không điều trị, tỷ lệ lây truyền giữa mẹ và con lên đến khoảng 25%. Tuy nhiên, với sự kết hợp điều trị bằng thuốc kháng virus và mổ lấy thai thì nguy cơ này có thể được giảm xuống thấp khoảng 1%. Sau khi sinh thì có thể ngăn ngừa lây truyền bằng cách tránh hoàn toàn nuôi con bằng sữa mẹ, tuy nhiên, điều này liên quan đáng kể đến các bệnh khác. Cho con bú hoàn toàn bằng sữa mẹ và cung cấp điều trị dự phòng kháng virus mở rộng cho trẻ sơ sinh cũng có hiệu quả trong việc tránh lây truyền. UNAIDS ước tính có 430.000 trẻ em bị nhiễm HIV trên toàn thế giới trong năm 2008 (19% là các ca nhiễm mới), chủ yếu là từ đường mẹ sang con, và thêm 65.000 ca lây nhiễm đã được ngăn chặn thông qua việc cung cấp điều trị dự phòng kháng virus cho phụ nữ nhiễm HIV dương tính.
doc_4485;;;;;doc_3126;;;;;doc_2333;;;;;doc_4415;;;;;doc_1509
Bệnh nhân AIDS và người nhiễm HIV là nguồn truyền nhiễm duy nhất của nhiễm HIV. Không có ổ chứa nhiễm trùng ở động vật. Tất cả mọi người điều có khả năng cảm nhiễm HIV. HIV được phân lập từ máu, tinh dịch, dịch tiết âm đạo, nước bọt, nước mắt, sữa mẹ, nước tiểu và các dịch khác của cơ thể, nhưng nhiều nghiên cứu về dịch tể học cho thấy rằng chỉ có máu, tinh dịch và dịch tiết âm đạo đống vai trò quan trọng trong việc lây truyền HIV. Do đó chỉ có 3 phương thức hay đường lây truyền chính của HIV, trong đó HIV-2 có xác suất truyền qua đường mẹ sang con và quan hệ tình dục ít hơn HIV-1.;;;;;HIV có trong máu toàn phần và các thành phần của máu như hồng cầu, tiểu cầu, huyết tương, các yếu tố đông máu. Do đó HIV có thể được truyền qua máu hay các sản phẩm của máu có nhiễm HIV. Nguy cơ lây truyền qua đường máu có tỷ lệ rất cao, trên 90%. Kể từ năm 1985, sau khi có các xét nghiệm sàng lọc phát hiện kháng thể kháng HIV, nguy cơ lây truyền theo đường máu ở nhiều nước đã giảm đi rõ rệt. Tuy nhiên ngay cả khi xét nghiệm máu cho kết quả âm tính, khả năng lây nhiễm HIV vẫn có thể xảy ra, do máu được lấy ở người mới bị nhiễm HIV, người đó đang ở trong “thời kỳ cửa sổ” của quá trình nhiễm HIV. Nguy cơ này xảy ra nhiều ở nơi có tỷ lệ nhiễm HIV cao, đặc biệt ở những nơi người cho máu chuyên nghiệp cao và họ thường thay đổi địa điểm cho máu.;;;;;HIV lây truyền chủ yếu qua quan hệ tình dục không an toàn (bao gồm cả quan hệ tình dục qua đường hậu môn và thậm chí bằng miệng), qua việc truyền máu từ nguồn đã bị nhiễm bệnh, qua dùng chung kim tiêm, và từ mẹ sang con: trong khi mang thai, khi sinh (lây truyền chu sinh), hoặc khi cho con bú. Một số chất dịch của cơ thể như nước bọt và nước mắt không lây truyền HIV. Phòng chống lây nhiễm HIV, chủ yếu thông qua các chương trình trao đổi kim tiêm và tình dục an toàn, là một chiến dịch quan trọng để kiểm soát sự lây lan của căn bệnh này. Tuy bệnh không thể chữa lành và không có thuốc chủng ngừa, nhưng điều trị bằng thuốc kháng virus có thể làm chậm tiến trình của bệnh và kéo dài tuổi thọ của người bệnh thêm 8-12 năm, thậm chí lâu hơn nếu uống đều đặn và đủ liều. Thuốc kháng HIV cần phải được uống mỗi ngày, nếu không thì virus có thể nhanh chóng vượt khỏi kiểm soát và trở nên kháng thuốc. Tuy điều trị bằng thuốc kháng virus có thể làm giảm nguy cơ tử vong và các biến chứng từ bệnh này, nhưng rất tốn kém và có thể gây ra các tác dụng phụ.;;;;;Ngày 1/7/2015, Tổ chức Y tế thế giới (WHO) chính thức xác nhận Cuba trở thành quốc gia đầu tiên đã thành công trong việc ngăn chặn vi rút HIV truyền từ mẹ sang con. Theo Giám đốc WHO Margaret Chan, thành công của Cuba là một trong những thành tựu quan trọng nhất của hệ thống y tế toàn cầu, là chiến thắng y học rất vĩ đại của nhân loại trong cuộc chiến lâu dài với HIV/AIDS. Một trong những yếu tố quan trọng là nhờ vào hệ thống chăm sóc y tế quốc gia toàn diện tập trung vào sức khỏe sản phụ, Tại Cuba có đến 99% bà mẹ mang thai và 100% các bé sơ sinh từ mẹ bị HIV đều được điều trị thuốc ngăn chặn phơi nhiễm HIV và các loại thuốc này miễn phí hoàn toàn cho bệnh nhân, theo hướng dẫn của bác sĩ.;;;;;Phần lớn HIV lây qua đường quan hệ tình dục không được bảo vệ (quan hệ tình dục không an toàn). Ước tính tỷ lệ nhiễm HIV/AIDS trên thế giới qua đường tình dục chiếm khoảng 75% trong tổng số người bị nhiễm HIV/AIDS. Việc chủ quan đối với HIV đóng một vai trò quan trọng trong nguy cơ bị lây bệnh. Lây truyền qua đường tình dục có thể xảy ra khi chất tiết sinh dục của một bạn tình có chứa virus, tiếp xúc với niêm mạc sinh dục, miệng, hoặc trực tràng của người còn lại. Nguy cơ lây nhiễm qua một lần giao hợp với người nhiễm HIV là 0,1% đến 1%. Ở các quốc gia có thu nhập cao, nguy cơ nữ lây truyền cho nam là 0.04% cho mỗi lần quan hệ và nam truyền cho nữ là 0.08%. Vì những lý do khác nhau, nguy cơ này cao hơn từ 4 đến 10 lần ở các nước có thu nhập thấp. Người nhận trong giao hợp qua đường hậu môn có nguy cơ bị lây nhiễm cao hơn nhiều, 1.7% cho mỗi lần quan hệ. Người nào có nhiều bạn tình, đồng thời quan hệ tình dục không an toàn thì càng có nguy cơ lây nhiễm HIV. Mắc các bệnh lây truyền qua đường tình dục như giang mai, lậu... đều làm tăng nguy cơ lây nhiễm HIV lên gấp 20 lần.
question_7
Bây giờ người Do Thái chiếm bao nhiêu phần trăm dân số Israel?
doc_7
Giữa năm 1948 và năm 1958, dân số Do Thái tăng từ 800.000 người Do Thái lên đến hai triệu người Do Thái. Hiện tại, người Do Thái chiếm 75,4% dân số của Israel, hay 6 triệu người. Những năm đầu đời của Nhà nước Israel được đánh dấu bởi sự nhập cư hàng loạt của những người còn sống sót sau cuộc diệt chủng người Do Thái Holocaust và người Do Thái trốn khỏi các vùng đất của người Ả Rập. Israel cũng có một số lượng lớn người Do Thái Ethiopia, nhiều người trong số đó được đưa đến Israel vào cuối những năm 1980 và đầu những năm 1990. Từ năm 1974 đến năm 1979 gần 227.258 người nhập cư Do thái đến Israel, khoảng một nửa là từ Liên Xô. Giai đoạn này cũng cho thấy sự gia tăng số lượng dân nhập cư vào Israel từ Tây Âu, Châu Mỹ Latinh và Bắc Mỹ.
doc_195;;;;;doc_6593;;;;;doc_1336;;;;;doc_2661;;;;;doc_7113
Tại Israel thì người Do Thái gốc Ashkenazi chiếm khoảng 47,5% tổng dân số người Do Thái ở Israel (và do đó người Do Thái gốc Ashkenazi chiếm 35-36% tổng dân số người Israel). Người Do Thái Ashkenazi đã đóng một vai trò rất lớn và nổi bật trong nền kinh tế, truyền thông và chính trị của quốc gia Israel kể từ khi đất nước Israel hiện đại từ trong giai đoạn trứng nước cho đến khi được thành lập. Các đời tổng thống Israel từ khi quốc gia này được thành lập năm 1948 cho đến hiện này đều là người Ashkenazi Do Thái.;;;;;Người gốc Ashkenazi chiếm khoảng 47,5% người Do Thái ở Israel (và do đó chiếm 35–36% người Israel). Họ đã đóng một vai trò nổi bật trong nền kinh tế, truyền thông và chính trị của Israel kể từ khi thành lập. Trong những thập kỷ đầu tiên của Israel với tư cách là một quốc gia, xung đột văn hóa mạnh mẽ đã xảy ra giữa người Do Thái Sephardic và Ashkenazi (chủ yếu là người Ashkenazim ở Đông Âu). Nguồn gốc của cuộc xung đột này, vẫn còn tồn tại ở một mức độ nhỏ hơn nhiều trong xã hội Israel ngày nay, chủ yếu là do khái niệm "nồi nấu chảy". Điều đó có nghĩa là, tất cả những người nhập cư Do Thái đến Israel đều được khuyến khích mạnh mẽ "làm tan chảy" bản sắc lưu vong cụ thể của chính họ trong "nồi" xã hội chung để trở thành người Israel.;;;;;Người Do Thái đã trải qua một lịch sử lâu dài bị đàn áp và thảm sát trên nhiều vùng đất khác nhau; dân số và phân bố dân cư của họ thay đổi qua nhiều thế kỷ. Số lượng người Do Thái trên khắp thế giới đã đạt đỉnh là 16,7 triệu người trước Thế Chiến thứ hai, chiếm khoảng 0,7% tổng dân số thế giới vào thời điểm đó, nhưng khoảng 6 triệu người do thái đã bị tàn sát có hệ thống trong suốt nạn diệt chủng Do Thái. Sau đó, dân số tăng chậm trở lại, và vào năm 2014, theo North American Jewish Data Bank, ước tính có khoảng 14,2 triệu người Do Thái, chiếm gần 0,2% tổng dân số thế giới (khoảng một trong 514 người là người Do thái). Dựa theo báo cáo, khoảng 44% trong số tất cả người Do Thái sống ở Israel (6,3 triệu), và 40% người Do Thái ở Hoa Kỳ (5,7 triệu), phần lớn số người Do Thái còn lại sống ở châu Âu (1,4 triệu) và Canada (0,4 triệu). Những con số này bao gồm tất cả những người tự xác định là người Do Thái trong một nghiên cứu xã hội nhân khẩu học hoặc đã được xác định là như vậy bởi một người trả lời trong cùng một hộ gia đình. Tuy nhiên, số liệu chính xác của người Do Thái trên toàn thế giới rất khó đo lường. Ngoài các vấn đề về phương pháp thống kê, các tranh chấp giữa các yếu tố nhân dạng theo luật Do Thái halakhic, thế tục, chính trị, và tổ tiên liên quan đến người Do Thái và ai là một người Do Thái cũng có thể ảnh hưởng đáng kể đến con số thống kê tùy thuộc vào nguồn gốc. Israel là quốc gia duy nhất nơi mà người Do Thái chiếm đa số. Nhà nước Israel hiện đại được thành lập như một nhà nước Do thái và tự định nghĩa bản sắc của nó trong bảng Tuyên bố Độc lập và hiến pháp cơ bản. Luật về Sự trở lại của quốc gia Israel trao quyền công dân cho bất kỳ người Do Thái nào yêu cầu quốc tịch Israel.;;;;;Israel là quốc gia duy nhất có dân số người Do Thái phát triển liên tục qua sự tăng trưởng dân số tự nhiên, mặc dù dân số người Do Thái ở các nước khác, đặc biệt là cộng đồng người Do Thái ở châu Âu và ở Bắc Mỹ gần đây đã tăng lên thông qua làn sống di dân nhập cư. Trong cộng đồng người Do Thái hải ngoại, ở hầu hết mọi quốc gia thì dân số của người Do Thái nói chung đang suy giảm hoặc đang ở trong mức ổn định, nhưng cộng đồng người Do Thái Chính thống và cộng đồng người Do Thái Haredi, trong hai cộng đồng người Do Thái này thì các thành viên thường bỏ qua việc kiểm soát sinh đẻ và từ chối kế hoạch hóa gia đình vì lý do đức tin tôn giáo, hai cộng đồng người Do Thái trên có sự gia tăng dân số nhanh nhất.;;;;;Khoảng 150.000 người Đông Phi và người da đen sống ở Israel, chỉ chiếm hơn 2% dân số cả nước. Phần lớn trong số này, khoảng 120.000 người, là người Beta Israel, hầu hết là những người nhập cư gần đây đến từ Ethiopia trong những năm 1980 và 1990. Ngoài ra, Israel còn là nơi sinh sống của hơn 5.000 thành viên của phong trào Người Israel gốc Do Thái ở Jerusalem là hậu duệ của những người Mỹ gốc Phi di cư đến Israel vào thế kỷ 20 và cư trú chủ yếu ở một khu phố riêng biệt ở thị trấn Negev của Dimona. Số lượng người da đen chuyển sang đạo Do Thái không xác định cư trú ở Israel, hầu hết trong số họ chuyển đổi từ Vương quốc Anh, Canada và Hoa Kỳ.
question_8
Số lượng vở Opera của vua Louis XV mà được viết bởi Jean Philippe Rameau là bao nhiêu?
doc_8
Nhà vua, hoàng hậu và các công chúa cũng là những nhà bảo trợ âm nhạc. Hoàng hậu và các con gái học chơi clavecin, dưới sự chỉ dạy của François Couperin. Nhạc sĩ trẻ Mozart đến Paris và viết 2 sonata clavecin và violin tặng cho Madame Victoire, con gái nhà vua. Bản thân vua, cũng như tăng tổ phụ Louis XIV, được học nhảy ballet nhưng ông chỉ nhảy một lần trước công chúng, năm 1725. Nhà soạn nhạc lớn nhất thời này là Jean Philippe Rameau, là soạn giả của triều đình từ những năm 1740 đến những năm 1750, đã viết hơn 30 vở opera cho Louis và triều đình của ông.
doc_2034;;;;;doc_1224;;;;;doc_1516;;;;;doc_5053;;;;;doc_3173
Pháp có lịch sử âm nhạc lâu dài và đa dạng, trải qua một giai đoạn hoàng kim trong thế kỷ XVII nhờ bảo trợ của Louis XIV, vị quốc vương này đưa một số nhạc sĩ và nhà soạn nhạc tài năng vào làm việc trong triều đình. Các nhà soạn nhạc nổi danh nhất trong giai đoạn này gồm có Marc-Antoine Charpentier, François Couperin, Michel-Richard Delalande, Jean-Baptiste Lully và Marin Marais, họ đều là người của triều đình. Sau khi Louis XIV mất, sáng tạo âm nhạc của Pháp mất đi động lực, song đến thế kỷ sau đó âm nhạc của Jean-Philippe Rameau đạt được thanh thế đáng kể, và ngày nay ông vẫn là một trong các nhà soạn nhạc Pháp nổi tiếng nhất. Rameau trở thành nhà soạn nhạc chiếm ưu thế của opera Pháp và là nhà soạn nhạc Pháp hàng đầu về đàn clavecin.;;;;;Louis là một nhà bảo trợ kiến trúc; ông trích nhiều tiền ra xây các công trình thổ mộc nhiều hơn cả Louis XIV. Các dự án kiến trúc của ông là công trình của kiến trúc sư nổi tiếng phụ tá cho ông, Ange-Jacques Gabriel. Chúng bao gồm Ecole Militaire (1751-1770); Cung điện Louis XV (nay là Cung điện de la Concorde (1763–83); Petit Trianon tại Versailles (1762–64), và nhà hát Opera tại Cung điện Versailles. Louis cho khởi công xây Nhà thờ Saint-Geneviève, nay là Pantheon (1758–90). Ông cũng cho xây các quảng trường lớn và các tòa cao ốc ở trung tâm Nancy, Bordeaux, và Rennes. Các xưởng sản xuất của ông sản xuất ra đồ gia dụng, đồ sứ, thảm dệt và các mặt hàng khác theo phong cách Louis XV được xuất khẩu tới các thành phố thủ đô ở khắp châu Âu.;;;;;Rousseau gặt hái thành công vang dội năm 1756 với vở opera Devin du Village, và được Nhà vua mời tới Versailles, nhưng ông từ chối. Thay vào đó, ông viết Hợp đồng xã hội kêu gọi về một hệ thống mới ở đó có sự bình đẳng về chính trị và kinh tế, xuất bản năm 1762. Ngày càng cô độc và không ổn định, ông đi lang thang khắp các tỉnh, trước kh trở Paris, và chết trong cô độc năm 1778. Ý kiến của ông, được công bố thời Louis XV, được những người Cách mạng áp dụng sau khi họ lật đổ Louis XVI năm 1789.;;;;;Các nhà soạn nhạc Pháp có vai trò quan trọng trong âm nhạc thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX, tức vào giai đoạn âm nhạc lãng mạn. Âm nhạc lãng mạn nhấn mạnh dâng hiến cho thiên nhiên, đam mê với quá khứ và siêu nhiên, khám phá những âm thanh bất thường, kỳ lạ và gây ngạc nhiên, và tập trung vào bản sắc dân tộc. Giai đoạn này cũng là một thời hoàng kim của opera. Các nhà soạn nhạc Pháp trong giai đoạn lãng mạn gồm có Hector Berlioz (Symphonie fantastique), Georges Bizet (Carmen trở thành một trong các opera phổ biến và trình diễn thường xuyên nhất), Gabriel Fauré (Pavane, Requiem và các khúc cảnh đêm), Charles Gounod (Ave Maria và opera Faust), Jacques Offenbach (có 100 operetta trong thập niên 1850–1870 và opera chưa hoàn thành Những câu chuyện của Hoffmann), Édouard Lalo (Symphonie espagnole cho đàn violin và dàn nhạc cùng Cello Concerto trong cung Rê thứ), Jules Massenet (có hơn 30 opera, được trình diễn thường xuyên nhất là Manon (1884) và Werther (1892)) và Camille Saint-Saëns (Lễ hội muông thú, Vũ điệu thần chết, Samson và Delilah (Opera), Introduction and Rondo Capriccioso và Giao hưởng số 3).;;;;;Louis XV là tằng tôn của Louis XIV và là con trai thứ hai của Quận công xứ Bourgogne (1682-1712), cùng vợ là Marie Adélaïde xứ Savoia, trưởng nữ của Victor Amadeus II, Quận công xứ Savoia. Ông chào đời tại Cung điện Versailles ngày 15 tháng 2 năm 1710. Sau khi chào đời, ông được tấn phong làm Quận công xứ Anjou. Khả năng kế vị của ông khi đó không cao; ông đứng sau tổ phụ là trưởng tử của nhà vua, Louis Đại Thái tử (Grand Dauphin), còn có cha và trưởng huynh trong danh sách thừa kế. Tuy nhiên, Đại Thái tử chết vì bệnh đậu mùa ngày 14 tháng 4 năm 1711. Ngày 12 tháng 2 năm 1712, mẫu thân của Louis, Marie Adélaïde, sau đó ngày 18 tháng 2 là cha của Louis, Quận công xứ Bourgogne, người thừa kế số một, lần lượt mắc bệnh sởi và chết. Ngày 7 tháng 3, cả Louis và trưởng huynh, Quận công Bretagne, đều bị chẩn đoán mắc bệnh sởi. Quận công Bretagne được điều trị theo cách truyền thống là chích máu. Khoảng tối ngày 8 rạng sáng ngày 9 tháng 3, Quận công Bretagne chết mà nguyên nhân là do cả căn bệnh và cách điều trị sai lầm. Bảo mẫu của Louis, Madame de Ventadour, không cho phép các bác sĩ lấy máu, do đó mặc dù rất đau nhưng ông vẫn sống sót. Khi Louis XIV qua đời ngày 1 tháng 9 năm 1715, Louis, mới 5 tuổi, kế thừa hoàng vị.
question_9
Tình hình kinh tế của Thiểm Tây từ thời Tống đến thời Nguyên như thế nào?
doc_9
Từ thời Tống đến thời Nguyên, kinh tế Thiểm Tây, đặc biệt là nông nghiệp, đã khôi phục và phát triển tương đối, điểm nổi bật là sự nghiệp thủy lợi. Những năm Khánh Lịch (1041-1048) thời Tống Nhân Tông, diện tích ruộng được tưới đã tăng lên 6.000 khoảng từ mức 2.000 khoảnh vào đầu thời Tống, đạt mức thời kỳ giữa nhà Đường. Việc sử dụng dầu mỏ và khai mỏ tại Thiểm Tây cũng bắt đầu trong thời Tống-Nguyên. Trong thời gian làm quan tại Thiểm Bắc, Thẩm Quát đã tiến hành khảo sát tường tận và kết luận "dầu mỏ rất nhiều, được tạo ra vô cùng trong lòng đất, không như gỗ tùng có thời kỳ và có thể cạn kiệt".
doc_2359;;;;;doc_1533;;;;;doc_741;;;;;doc_5050;;;;;doc_3449
Biến thiên lịch sử và nguồn gốc địa danh Thiểm Tây có quan hệ với nhau. Ngày nay, ở Tây Nam huyện Thiểm của tỉnh Hà Nam, có một địa phương được gọi là Thiểm Nguyên (Thiểm Mạch). Những năm đầu nhà Chu, Chu công và Triệu công hoạch phân lãnh địa đất này, theo đó từ Thiểm về phía đông là đất của Chu công, từ Thiểm về phía tây là đất của Triệu công. Đến thời nhà Tống, triều đình đã thiết lập Thiểm Tây lộ, lãnh địa xứ này ở phía tây của Thiểm Nguyên, vì vậy mới có tên là Thiểm Tây lộ. Trong một thời kỳ lịch sử lâu dài, Thiểm Tây được gọi tắt là "Tần". Trước thời nhà Nguyên, Thiểm Tây không bao gồm các khu vực ở phía nam Tần Lĩnh như Hán Trung, An Khang.;;;;;Năm 1253, đại hãn Mông Cổ phân phong chư vương, Quan Trung trở thành đất phong của Hốt Tất Liệt. Năm 1271, Hốt Tất Liệt thiên đô về Yên Kinh, đổi quốc hiệu thành "Nguyên". Năm 1272, Hốt Tất Liệt phong cho con trai thứ ba là Mang Ca Lạt (忙哥剌) làm An Tây vương, lập phiên tại Thiểm Tây. Thời Nguyên, Trung Quốc phân thành các hành tỉnh, Thiểm Tây hành tỉnh có trị sở đặt tại Tây An ngày nay, quản lý toàn bộ Thiểm Tây ngày nay, cũng như khu vực phía đông Lan Châu của Cam Túc ngày nay và phía nam trung bộ Ngạc Nhĩ Đa Tư của Nội Mông hiện nay. Đến giữa thời Nguyên, An Tây vương phủ bị phế trừ, An Tây lộ đổi tên thành Phụng Nguyên lộ.;;;;;Tần Lĩnh, dãy núi phân định khí hậu phía bắc và Nam Trung Quốc, chạy dọc theo chiều đông-tây của Thiểm Tây. Thiểm Tây được phân thành ba vùng khí hậu, có sự khác biệt lớn giữa bắc và nam. Khu vực Thiểm Nam thuộc vùng khí hậu cận nhiệt đới gió mùa, Quan Trung và đại bộ phận Thiểm Bắc thuộc vùng khí hậu ôn đới ấm, khu vực dọc theo Vạn Lý Trường Thành ở bắc bộ của Thiểm Bắc thuộc vùng ôn đới lạnh (ôn đới trung). Nhìn chung, khí hậu Thiểm Tây có đặc điểm là: mùa xuân ấm và khô ráo, lượng giáng thủy khá thấp, nhiệt độ tăng nhanh song bất ổn định, nhiều gió cát; mùa hè có nhiệt độ cao và nhiều mưa, song cũng có lúc tái khô hạn; mùa thu mát dễ chịu với độ ẩm tương đối thấp, nhiệt độ hạ nhanh chóng; mùa đông rét lạnh lẽo và khô hanh, nhiệt độ thấp, có rất ít mưa tuyết. Nhiệt độ trung bình năm của Thiểm Tây là 13,7 °C, giảm dần từ nam đến bắc, từ đông sang tây: nhiệt độ trung bình năm của Thiểm Bắc là 7 °C-12 °C, nhiệt độ trung bình năm của Quan Trung là 12 °C-14 °C, nhiệt độ trung bình năm của Thiểm Nam là 14 °C-16 °C. Nhiệt độ trung bình tháng 1 của Thiểm Tây là -11 °C đến 3 °C, nhiệt độ trung bình tháng 7 là 21 °C-28 °C. Mỗi năm, Thiểm Tây có từ 160-250 ngày không có sương giá, nhiệt độ thấp kỷ lục là -32,7 °C, nhiệt độ cao kỷ lục là 42 °C. Lượng giáng thủy bình quân hàng năm của Thiểm Tây là 702,1 mm, biến đổi từ 340–1240 mm. Khoảng 60-70% lượng giáng thủy tập trung vào khoảng thời gian từ tháng 7 đến tháng 10, thường gây nên lũ lụt, còn hai mùa xuân và hè thường bị hạn hán. Lượng giáng thủy tại Thiểm Tây giảm từ nam lên bắc: Thiểm Nam là vùng ẩm ướt, Quan Trung là vùng bán ẩm còn Thiểm Bắc là vùng bán khô hạn.;;;;;Sau khi cuộc nổi loạn Hồi giáo kết thúc, Thiểm Tây lại bị một nạn đói nghiêm trọng do hạn hán kéo dài, tỉnh hầu như không có mưa từ năm 1876 đến năm 1878, và khi triều đình nhà Thanh cố gắng khắc phục tình hình vào năm 1877 thì những yếu kém về hạ tầng giao thông đã cản trở hoạt động cứu trợ. Có thể đã có từ 4 đến 5 người chết đói chỉ tính riêng ở Thiểm Tây, một số huyện trong thung lũng Vị Hà màu mỡ mất trên 100.000 người mỗi huyện. Do các tai họa vào cuối thế kỷ XIX, Thiểm Tây đã trở thành nơi nhập cư của những người mong muốn có ruộng đất từ Tứ Xuyên và Hà Bắc.;;;;;Năm 2011, tổng GDP của Thiểm Tây đạt 1.239,13 tỉ NDT, tăng trưởng 13,9% so với năm trước; cũng trong năm này GDP bình quân đầu người của Thiểm Tây đạt 33.142 NDT, tăng 13,7% so với năm trước. Năm 2011, trong cơ cấu kinh tế của Thiểm Tây khu vực một đạt giá trị 122,09 tỷ NDT, chiếm 9,8%; khu vực hai đạt giá trị 683,627 tỷ NDT, chiếm 55,2%; khu vực ba đạt giá trị 433,413 tỷ NDT, chiếm 35%. Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu năm 2011 của Thiểm Tây là 14,623 tỷ USD, tăng 20,8% so với năm trước, trong đó kim ngạch xuất khẩu lên tới 7,011 tỷ USD, tăng 12,9%; kim ngạch nhập khẩu đạt 7,613 tỷ USD, tăng 29,2%, thâm hụt thương mại là 602 triệu USD. Tám ngành công nghiệp trụ cột của Thiểm Tây là năng lượng và hóa chất, sản xuất thiết bị, luyện kim màu, công nghiệp thực phẩm, chế phẩm khoáng sản phi kim, sản phẩm y dược, thiết bị điện tử, dệt may. Năm 2009, Thiểm Tây xếp thứ ba Trung Quốc về sản xuất than đá, khí thiên nhiên và dầu thô. Tận dụng lợi thế có một vài đại học và viện nghiên cứu hàng đầu ở miền Tây Trung Quốc, Thiểm Tây cũng nắm giữ một vai trò lớn trong các ngành hàng không và vũ trụ, phần mềm, vật liệu mới đang nổi lên của Trung Quốc, tạo ra trên 50% R&D và thiết bị cho ngành công nghiệp hàng không thương mại nội địa.
question_10
Ai đưa ngôn ngữ thành văn đến cộng đồng mù chữ tại châu Âu trong thời kỳ Đen Tối?
doc_10
Tôn giáo giữ vai trò đáng kể trong sinh hoạt văn hoá trên đảo kể từ thời cổ đại (và từ khi xuất hiện các đồn điền trong thế kỷ XVII thì tập trung vào bản sắc và phân chia chính trị trên đảo). Di sản tiền Cơ Đốc của Ireland kết hợp cùng Giáo hội Celt sau khi có các đoàn truyền giáo của Thánh Patrick trong thế kỷ V. Các đoàn truyền giáo Ireland-Scotland có khởi đầu là tu sĩ người Ireland Columba, chúng giúp truyền bá mô hình Cơ Đốc giáo Ireland đến Anh và Francia dị giáo. Các đoàn truyền giáo này đưa ngôn ngữ thành văn đến cộng đồng mù chữ tại châu Âu trong thời kỳ Đen Tối sau khi La Mã sụp đổ, khiến Ireland giành được biệt hiệu là "đảo của các thánh và học giả".
doc_576;;;;;doc_8663;;;;;doc_7000;;;;;doc_5865;;;;;doc_9444
Dân số suy giảm trong nửa đầu thế kỷ XIV, bắt đầu từ nạn đói lớn năm 1315, tiếp đến là Cái chết Đen năm 1348–50. Tuy vậy, các nghệ sĩ, kỹ sư và nhà khoa học Đức phát triển một loạt các kỹ thuật tương tự như thứ được các nghệ sĩ và nhà thiết kế Ý sử dụng vào đương thời, những người phát triển hưng thịnh tại các thành bang thương nghiệp như Venezia, Firenze và Genova. Các trung tâm nghệ thuật và văn hóa khắp các quốc gia Đức sản sinh các nghệ sĩ như họa sĩ Hans Holbein và con trai, và Albrecht Dürer. Johannes Gutenberg giới thiệu in ấn kiểu di động đến châu Âu, đây là một bước phát triển đặt cơ sở để truyền bá kiến thức đến đại chúng.;;;;;Thất vọng khi biết rằng công trình mang tính đột phá đã được thực hiện bởi Helmholtz, người đã truyền tải các nguyên âm bằng một "thiết bị kỳ lạ" âm thoa tương tự, ông đã nghiền ngẫm cuốn sách của nhà khoa học người Đức. Từ lỗi dịch sai của chính mình trong một ấn bản tiếng Pháp, Bell tình cờ đưa ra một suy luận sẽ là nền tảng cho tất cả công việc truyền âm thanh trong tương lai của ông, báo cáo: "Không biết nhiều về chủ đề này, đối với tôi, dường như nếu các nguyên âm có thể được tạo ra bằng phương tiện điện, phụ âm cũng vậy, lời nói có thể phát âm rõ ràng." Sau này ông cũng nhận xét: "Tôi nghĩ rằng Helmholtz đã làm được điều đó... và sự thất bại của tôi chỉ là do tôi không biết gì về điện. Đó là một sai lầm có giá trị... Nếu tôi có thể đọc được tiếng Đức vào thời đó, tôi có thể tôi chưa bao giờ bắt đầu thí nghiệm của mình!"[N 7];;;;;Một số người có ảnh hưởng vào thời điểm đó, bao gồm cả Bell, coi bệnh điếc là một căn bệnh cần phải loại bỏ và cũng tin rằng với nguồn lực và nỗ lực, họ có thể dạy người điếc nói và tránh sử dụng ngôn ngữ ký hiệu, từ đó giúp họ hòa nhập với xã hội rộng lớn hơn. từ đó nhiều người thường bị loại trừ. Ở một số trường học, trẻ em bị ngược đãi, chẳng hạn như bị trói tay sau lưng để chúng không thể giao tiếp bằng ký hiệu—ngôn ngữ duy nhất chúng biết—nhằm ép chúng cố gắng giao tiếp bằng miệng. Do nỗ lực ngăn chặn việc dạy ngôn ngữ ký hiệu, Bell thường bị những người theo đuổi nền văn hóa Điếc nhìn nhận một cách tiêu cực.;;;;;Triều đình Charlemagne ở Aachen là trung tâm của sự phục hưng văn hóa đôi khi được gọi là "Phục hưng Carolingian". Trình độ đọc viết tăng lên, cũng như sự phát triển trong nghệ thuật, kiến trúc và luật học, cũng như nghiên cứu phụng vụ và kinh thánh. Nhà sư người Anh Alcuin (mất năm 804) được mời đến Aachen và mang nền giáo dục đến các tu viện ở Northumbria. Văn phòng thủ tướng của Charlemagne — hay văn phòng viết lách — đã sử dụng một loại chữ viết mới ngày nay được gọi là chữ viết Carolingian cực nhỏ, [M] cho phép một phong cách viết chung giúp nâng cao khả năng giao tiếp trên khắp châu Âu. Charlemagne đã tài trợ cho những thay đổi trong phụng vụ nhà thờ, áp đặt hình thức phụng vụ nhà thờ theo kiểu La Mã trên lãnh địa của ông, cũng như thánh ca Gregorian trong âm nhạc phụng vụ cho các nhà thờ. Một hoạt động quan trọng của các học giả trong thời kỳ này là sao chép, hiệu đính và phổ biến các tác phẩm cơ bản về các chủ đề tôn giáo và thế tục, nhằm mục đích khuyến khích việc học tập. Các tác phẩm mới về chủ đề tôn giáo và sách giáo khoa cũng được sản xuất. Các nhà ngữ pháp thời kỳ đó đã sửa đổi ngôn ngữ Latinh, thay đổi nó từ tiếng Latinh cổ điển của Đế chế La Mã thành một dạng linh hoạt hơn để phù hợp với nhu cầu của nhà thờ và chính phủ. Dưới triều đại của Charlemagne, ngôn ngữ này đã khác xa với ngôn ngữ cổ điển đến mức sau này nó được gọi là tiếng Latinh thời Trung cổ.;;;;;Với sự thống nhất của các vương quốc Anglo-Saxon (bên ngoài Danelaw) bởi Alfred Đại đế vào cuối thế kỷ thứ 9, ngôn ngữ của chính phủ và văn học đã được tiêu chuẩn hóa xung quanh phương ngữ Tây Saxon (Tiền Tây Saxon). Alfred ủng hộ việc giáo dục bằng tiếng Anh cùng với tiếng Latinh, và đã dịch nhiều tác phẩm sang tiếng Anh; một số trong số đó, chẳng hạn như chuyên luận Chăm sóc mục vụ của Giáo hoàng Gregory I, dường như đã được chính Alfred dịch. Trong tiếng Anh cổ, điển hình cho sự phát triển của văn học, thơ xuất hiện trước văn xuôi, nhưng Vua Alfred Đại đế (871 đến 901) là người truyền cảm hứng chủ yếu cho sự phát triển của văn xuôi.
question_11
Gió mùa đông bắc gây ảnh hưởng gì cho tỉnh Thừa Thiên- Huế?
doc_11
Khí hậu Thừa Thiên-Huế gần giống như Quảng Trị với kiểu khí hậu nhiệt đới gió mùa. Những tháng đầu năm có nắng ấm. Thỉnh thoảng lụt vào tháng 5. Các tháng 6, 7, 8 có gió mạnh. Mưa lũ và có gió đông vào tháng 9, 10. Tháng 11 thường có lụt. Cuối năm mưa kéo dài. Nhưng hiện nay do chịu tác động của biến đổi khí hậu nên từ tháng 3 đến tháng 8 nắng nóng lên đến đỉnh điểm. Các tháng 9, 10, 11 thường xuyên có bão. Từ tháng 12 đến tháng 2 năm sau là giai đoạn gió mùa đông bắc kéo về gây mưa to kèm theo đó lũ trên các sông tăng nhanh
doc_2332;;;;;doc_6357;;;;;doc_4184;;;;;doc_2242;;;;;doc_4338
Việt Nam có khí hậu nhiệt đới gió mùa, thời tiết biến động thường xuyên. Phía bắc (phía bắc dãy Bạch Mã) có hai mùa gió chính: gió mùa đông bắc lạnh và khô vào mùa đông tạo nên mùa đông lạnh, gió tây nam nóng khô và đông nam ẩm ướt vào mùa hè. Phía nam có gió đông bắc vào mùa khô và gió tây nam vào mùa mưa. Do nằm dọc theo bờ biển, khí hậu Việt Nam được điều hòa một phần bởi các dòng biển và mang nhiều yếu tố khí hậu biển. Độ ẩm tương đối trung bình là 84% suốt năm. Hằng năm, lượng mưa từ 1.200 đến 3.000 mm, số giờ nắng khoảng 1.500 đến 3.000 giờ/năm và nhiệt độ từ 5 °C đến 37 °C. Hàng năm, Việt Nam luôn phải phòng chống bão và lụt lội và hứng chịu 5 đến 10 cơn bão/năm. Do nằm ở Bắc Bán Cầu, nên bão (gió mạnh từ cấp 8 trở lên) và áp thấp nhiệt đới (gió mạnh cấp 6 hoặc cấp 7) vào Việt Nam xoáy ngược chiều kim đồng hồ.;;;;;Sương mù khá phổ biến, đặc biệt là vào mùa xuân và đầu mùa hè, và thỉnh thoảng có bão nhiệt đới hoặc cuồng phong có thể đe dọa khu vực, đặc biệt là vào cuối mùa hè và đầu mùa thu. Do nằm dọc theo Bắc Đại Tây Dương, thành phố thường nhận được gió biển, đặc biệt là vào cuối mùa xuân, khi nhiệt độ nước vẫn còn khá lạnh và nhiệt độ ở bờ biển có thể lạnh hơn một số nơi trên 20 °F (11 °C). dặm trong đất liền, đôi khi giảm đến gần giữa trưa. Giông bão xảy ra từ tháng 5 đến tháng 9, đôi khi dữ dội với mưa đá lớn, gió dữ dội và mưa lớn. Mặc dù trung tâm thành phố Boston chưa bao giờ bị lốc xoáy dữ dội tấn công nhưng bản thân thành phố này đã phải hứng chịu nhiều cảnh báo lốc xoáy. Những cơn bão gây thiệt hại phổ biến hơn ở các khu vực phía bắc, phía tây và tây bắc thành phố. Boston có khí hậu tương đối nắng đối với một thành phố ven biển ở vĩ độ của nó, trung bình hơn 2.600 giờ nắng mỗi năm.;;;;;Thừa Thiên Huế quan tâm đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội gắn với bảo tồn, phát huy các giá trị văn hoá. Thành phố Huế vừa mang dáng dấp hiện đại, vừa mang nét đẹp cổ kính với di sản văn hoá thế giới, đóng vai trò hạt nhân đô thị hoá lan toả và kết nối với các đô thị vệ tinh. Môi trường thu hút đầu tư lành mạnh và tạo điều kiện thuận lợi cho nhà đầu tư có năng lực. Hạ tầng giao thông ngày càng hiện đại, chống được chia cắt vùng miền, tạo ra động lực phát triển giữa nông thôn và thành thị. Năng lực sản xuất mới hình thành và mở ra tương lai gần sẽ có bước tăng trưởng đột phá: phía Bắc có các khu công nghiệp Phong Điền, Tứ Hạ, xi măng Đồng Lâm; phía Nam có khu công nghiệp Phú Bài, khu kinh tế-đô thị Chân Mây-Lăng Cô sôi động; phía Tây đã hình thành mạng lưới công nghiệp thuỷ điện Tả Trạch, Hương Điền, Bình Điền, A Lưới, xi măng Nam Đông; phía Đông phát triển mạnh khai thác và nuôi trồng thuỷ sản và Khu kinh tế tổng hợp Tam Giang-Cầu Hai.;;;;;Các khu vực duyên hải của Thổ Nhĩ Kỳ giáp với biển Aegea và Địa Trung Hải có khí hậu Địa Trung Hải ôn hòa, với mùa hè nóng khô và mùa đông mát ẩm. Các khu vực duyên hải giáp với biển Đen có khí hậu đại dương ôn hòa với mùa hè ấm ẩm và mùa đông lạnh ẩm. Duyên hải biển Đen của Thổ Nhĩ Kỳ nhận lượng giáng thủy lớn nhất và là khu vực duy nhất trong nước nhận được lượng giáng thủy cao suốt năm. Phần phía đông của khu vực duyên hải này nhận được lượng giáng thủy hàng năm là 2.200 milimét (87 in), cao nhất toàn quốc.;;;;;Thành phố Hồ Chí Minh chịu ảnh hưởng bởi hai hướng gió chính là gió mùa Tây – Tây Nam và Bắc – Ðông Bắc. Gió Tây – Tây Nam từ Ấn Độ Dương, tốc độ trung bình 3,6 m/s, vào mùa mưa. Gió Gió Bắc – Ðông Bắc từ biển Đông, tốc độ trung bình 2,4 m/s, vào mùa khô. Ngoài ra còn có gió mậu dịch theo hướng Nam – Đông Nam vào khoảng tháng 3 tới tháng 5, trung bình 3,7 m/s. Có thể nói Thành phố Hồ Chí Minh thuộc vùng không có gió bão. Cũng như lượng mưa, độ ẩm không khí ở thành phố lên cao vào mùa mưa (80%), và xuống thấp vào mùa khô (74,5%). Bình quân độ ẩm không khí đạt 79,5%/năm.
question_12
Các chương trình tiếng Nga ở Ukraina phải làm gì trước khi phát sóng?
doc_12
Trong một phần lớn thời gian thời kỳ Xô viết, số người nói tiếng Ukraina giảm sút sau mỗi thế hệ, và tới giữa thập niên 1980, việc sử dụng tiếng Ukraina trong đời sống công cộng đã sụt giảm đáng kể. Sau khi giành độc lập, chính phủ Ukraina bắt đầu chính sách Ukraina hoá, để tăng cường việc sử dụng tiếng Ukraina, trong khi không khuyến khích tiếng Nga, vốn đã bị cấm hay hạn chế trên truyền thông và phim ảnh. Điều này có nghĩa các chương trình tiếng Nga phải được dịch hay chạy tít tiếng Ukraina, nhưng điều này không áp dụng với các tác phẩm truyền thông được thực hiện trong thời Xô viết.
doc_4737;;;;;doc_4429;;;;;doc_9038;;;;;doc_4753;;;;;doc_1175
Theo Hiến pháp của Cộng hoà Tự trị Krym, tiếng Ukraina là ngôn ngữ nhà nước duy nhất của nước cộng hoà. Tuy nhiên, hiến pháp nước cộng hoà đặc biệt công nhận tiếng Nga là một ngôn ngữ được đa số người dân của nó sử đụng và đảm bảo việc sử dụng tiếng Nga 'trong mọi lĩnh vực của đời sống công cộng'. Tương tự, tiếng Tatar Crimea (ngôn ngữ của 12% dân số Crimea) được đảm bảo một sự bảo hộ đặc biệt của nhà nước cũng như trong 'các ngôn ngữ của các sắc tộc khác'. Những người nói tiếng Nga chiếm đại đa số dân cư Crimea (77%), tiếng Ukraina chỉ chiếm 10.1%, và người nói tiếng Tatar Crimea chiếm 11.4%. Nhưng trong đời sống hàng ngày đa số người Tatar Crimea và người Ukraina ở Crimea sử dụng tiếng Nga.;;;;;Thế kỷ XIX khởi đầu một thời kỳ tiếng địa phương tại Ukraina, khởi đầu với tác phẩm [Eneyida] lỗi: {{lang}}: văn bản có thẻ đánh dấu in xiên (trợ giúp) của Ivan Kotliarevsky, tác phẩm xuất bản đầu tiên của Ukraina hiện đại. Tới thập niên 1830, chủ nghĩa lãng mạn Ukraina bắt đầu phát triển, và nhân vật văn hoá nổi tiếng nhất Ukraina là nhà thơ/họa sĩ lãng mạn Taras Shevchenko. Nếu Ivan Kotliarevsky được coi là người cha của văn học tiếng địa phương Ukraina; Shevchenko là người cha của sự hồi phục quốc gia Ukraina. Sau đó, vào năm 1863, việc sử dụng tiếng Ukraina trong in ấn đã hoàn toàn bị ngăn cấm bởi Đế quốc Nga. Điều này đã hoàn toàn hạn chế hoạt động văn học trong khu vực, và các tác giả Ukraina bị buộc hoặc phải xuất bản tác phẩm bằng tiếng Nga hoặc phát hành chúng tại vùng Galicia do Áo quản lý. Lệnh cấm chưa từng bị chính thức dỡ bỏ, nhưng nó đã mất nhiều hiệu lực sau cuộc cách mạng và khi những người Bolshevik lên nắm quyền.;;;;;Ngày nay, ranh giới giữa tiếng Ukraina và tiếng Nga vẫn chưa được xác định rõ ràng, với một phương ngữ trung gian giữa chúng, được gọi là Surzhyk, đang phát triển ở Ukraine.;;;;;Năm 1648, Bohdan Khmelnytsky lãnh đạo những cuộc nổi dậy lớn nhất của người Cossack chống lại Khối thịnh vượng chung và vua Ba Lan John II Casimir. Bờ tả Ukraina cuối cùng sáp nhập vào Nga như Cossack Hetmanate, sau Hiệp ước Pereyaslav năm 1654 và cuộc Chiến tranh Nga Ba Lan sau đó. Sau cuộc phân chia Ba Lan ở cuối thế kỷ XVIII bởi Phổ, nhà Habsburg của Áo, và Nga, Tây Ukraina Galicia bị Áo chiếm, trong khi phần còn lại của Ukraina dần bị sáp nhập vào Đế quốc Nga. Từ đầu thế kỷ XVI tới cuối thế kỷ XVII các nhóm cướp phá của người Tatar vùng Krym hầu như đột nhập hàng năm vào các vùng đất nông nghiệp Slavơ bắt người để bán làm nô lệ. Sau sự sáp nhập Khả hãn quốc Crimea năm 1783, vùng này là nơi định cư của những người du cư từ các vùng khác của Ukraina. Dù có những lời hứa trao cho Ukraina quyền tự trị trong Hiệp ước Pereyaslav, giới lãnh đạo Ukraina và người Cossack không bao giờ có tự do và tự trị mà họ chờ đợi từ Đế quốc Nga. Tuy nhiên, bên trong Đế chế, người Ukraina lên được những chức vụ cao nhất của nhà nước Nga, và Nhà thờ Chính thống Nga.[a] Ở giai đoạn sau này, chính quyền Sa hoàng tiến hành chính sách Nga hoá các vùng đất Ukraina, cấm sử dụng ngôn ngữ Ukraina trong xuất bản và công cộng.;;;;;Các chi tiết kết quả khác biệt nhau rất nhiều tuỳ theo từng cuộc điều tra, và thậm chí một câu hỏi chỉ hơi khác biệt cũng dẫn tới những câu trả lời khác từ một nhóm người khá lớn.[f] Tiếng Ukraina chủ yếu được dùng ở phía tây và trung Ukraina. Ở phía tây Ukraina, tiếng Ukraina cũng là nguôn ngữ phổ biến trong các thành phố (như Lviv). Ở trung Ukraina, tiếng Ukraina và tiếng Nga được sử dụng như nhau trong các thành phố, tiếng Nga hơi phổ biến hơn ở Kiev,[f] trong khi tiếng Ukraina là ngôn ngữ chính tại các cộng đồng nông thôn. Tại phía đông và phía nam Ukrain, tiếng Nga được dùng chủ yếu trong các thành phố, tiếng Ukraina được dùng ở các vùng nông thôn.
question_13
Vì sao Trung Hoa muốn chiếm lấy biển Đông?
doc_13
Có rất nhiều tranh cãi về lãnh hải trên vùng Biển Đông và các nguồn tài nguyên của nó. Bởi Luật biển năm 1982 của Liên Hiệp Quốc cho phép các nước có vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) mở rộng 200 hải lý (370,6 km) từ lãnh hải của họ, tất cả các nước quanh vùng biển có thể đưa ra tuyên bố chủ quyền với những phần rộng lớn của nó. Cộng hoà nhân dân Trung Hoa đã tuyên bố chủ quyền hầu như toàn bộ vùng biển. Những báo cáo gần đây cho thấy CHND Trung Hoa đang phát triển một nhóm tàu sân bay để bảo vệ những đường vận chuyển nhiên liệu ở Biển Đông. Những vùng có nguy cơ tranh chấp gồm:
doc_317;;;;;doc_505;;;;;doc_3877;;;;;doc_5058;;;;;doc_1934
ASEAN nói chung, và Trung Quốc nói riêng luôn muốn đảm bảo rằng những tranh chấp bên trong Biển Đông sẽ không leo thang trở thành xung đột quân sự. Vì vậy, các cơ cấu phát triển chung (Joint Development Authorities) đã được lập ra tại các vùng tranh chấp chồng lấn để cùng phát triển vùng và phân chia quyền lợi công bằng tuy nhiên không giải quyết vấn đề chủ quyền của vùng đó. Điều này đã trở thành sự thực, đặc biệt là ở Vịnh Thái Lan. Tuy nhiên, gần đây Trung Quốc đã tuyên bố sẽ không ngại dùng vũ lực để chiếm đoạt quần đảo Trường Sa.;;;;;Tưởng Giới Thạch phát biểu rằng người Việt không phải là người Trung Quốc, không dễ bị Trung Quốc đồng hóa và Trung Quốc không có quyền lợi về đất đai ở Đông Dương. Trung Quốc nhiều lần tuyên bố mặc dầu Trung Quốc mong muốn thấy Đông Dương được trả lại cho Pháp nhưng không muốn điều đó được thực hiện mà không có một số bảo đảm nhằm ngăn chặn Pháp dùng Đông Dương vào những hoạt động có hại cho lợi ích của Trung Quốc sau này. Tương lai Đông Dương sẽ không được định đoạt nếu không có sự thỏa thuận của Trung Quốc trên bàn Hội nghị Hòa bình.;;;;;Theo quan điểm của Trung Quốc (tài liệu Bộ Ngoại giao), công hàm của Thủ tướng nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà Phạm Văn Đồng đương nhiên "công nhận" chủ quyền của Trung Quốc đối với các quần đảo trên biển Đông vì trước đó trong số báo ngày 6 tháng 9 báo Nhân dân "đã đăng chi tiết về Tuyên bố Lãnh hải của chính phủ Trung Quốc trong đó đường cơ sở để tính lãnh hải bao gồm bờ biển hai quần đảo Tây Sa và Nam Sa trên biển Đông". Các tài liệu công bố công khai cho công chúng Trung Quốc bản dịch tiếng Trung đều không dịch đầy đủ nội dung của văn kiện này, thiếu một số nội dung trong đó có đoạn "triệt để tôn trọng hải phận 12 hải lý của Trung Quốc".;;;;;Ngoài yêu sách đối với Đài Loan, Trung Quốc cũng tham dự một số tranh chấp lãnh thổ quốc tế khác. Kể từ thập niên 1990, Trung Quốc tham dự các cuộc đàm phán nhằm giải quyết tranh chấp về biên giới trên bộ, trong đó có tranh chấp biên giới với Ấn Độ và một biên giới chưa phân định với Bhutan. Ngoài ra, Trung Quốc còn tham dự các tranh chấp đa phương quanh quyền chiếm hữu một số đảo nhỏ trên biển Đông và biển Hoa Đông, gồm bãi cạn Scarborough, quần đảo Senkaku quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa.;;;;;Tạ Quang Bửu cho rằng: mặc dù Tưởng thừa nhận là đứng trung lập, nhưng ở Trung Quốc vẫn có hai lực lượng đấu tranh với nhau. Quốc dân Đảng Trung Quốc cho việc chiếm đóng là một cơ hội để ép Paris phải nhân nhượng. Các tướng địa phương, đặc biệt là Lư Hán, lại coi việc chiếm đóng là một dịp để cướp đoạt, gây dựng một nguồn cung cấp hàng hóa và thị trường lâu dài để buôn lậu, đồng thời mở rộng quyền sở hữu của họ ra vùng ngoài biên giới Trung Quốc. Trong chính sách 14 điểm của quân Trung Hoa Dân quốc, có 4 điểm thường gây ra sự bực bội cho tướng Lư Hán và Pháp. Hồ Chí Minh cho rằng mục tiêu trước mắt của Quốc dân Đảng Trung Quốc là giữ người Pháp đứng ngoài Đông Dương và ủng hộ phong trào Quốc gia tại Việt Nam cho đến khi đàm phán xong với Pháp. Theo ông, khi nào một chế độ thân Trung Quốc còn nắm quyền thì Pháp không thể lật đổ chính quyền Việt Nam tại miền Bắc.
question_14
Tổ chức nào đã tố cáo Mỹ về việc sử dụng vũ khí sinh học trong chiến tranh Triều Tiên?
doc_14
Tháng 9 năm 1952, Uỷ ban Khoa học Quốc tế về điều tra các sự kiện về chiến tranh vi khuẩn ở Triều Tiên và Trung Quốc (ISC) đã đưa ra một báo cáo cho thấy Mỹ đã tiến hành chiến tranh sinh học trong chiến tranh Triều Tiên. Một báo cáo công bố vào tháng 2 năm 2018 đề cập đến việc Hoa Kỳ đã sử dụng vũ khí sinh học đối với thường dân Triều Tiên. Máy bay Hoa Kỳ đã thả những con bọ chét nhiễm mầm bệnh dịch hạch vào Bắc Triều Tiên vào tháng 2 năm 1952. Kể từ đầu năm 1952, nhiều ổ bệnh dịch hạch đã xuất hiện ở Bắc Triều Tiên. Ví dụ như làng Bal-Nam-Ri bắt đầu xảy ra nạn dịch hạch vào ngày 25/2/1952, trong số 600 người trong làng, 50 người bị bệnh dịch hạch và 36 người đã chết
doc_185;;;;;doc_3703;;;;;doc_2734;;;;;doc_7412;;;;;doc_8151
Một cuộc điều tra của Uỷ ban tài chính Thượng nghị viện năm 1994 xác định rằng Bộ Thương mại Hoa Kỳ đã phê chuẩn, cho mục đích nghiên cứu, việc bán các tác nhân sinh học đa tác dụng cho Iraq hồi giữa thập niên 1980, gồm cả khuẩn bệnh than (anthrax), sau này bị Lầu Năm Góc coi là một nhân tố quan trọng trong chương trình vũ khí sinh học của Iraq, cũng như Clostridium botulinum, Histoplasma capsulatum, Brucella melitensis và Clostridium perfringens. Báo cáo của Uỷ ban cho rằng mỗi tác nhân trên đều đã bị "nhiều nước coi là có mục đích sử dụng trong chiến tranh". Các tài liệu được giải mật của chính phủ Mỹ cho thấy chính phủ đã xác nhận rằng Iraq đã sử dụng các vũ khí hoá học "hầu như hàng ngày" trong cuộc xung đột Iran-Iraq ngay từ năm 1983. Chủ tịch Uỷ ban thượng nghị viện, Don Riegle, đã nói: "Nhánh hành pháp của chính phủ chúng ta đã phê chuẩn 771 giấy phép xuất khẩu khác nhau cho việc bán các kỹ thuật đa ứng dụng cho Iraq. Tôi cho rằng đó là một kỷ lục kinh khủng". Có rất ít bằng chứng cho thấy Iraq từng sử dụng các loại vũ khí sinh học trong chiến tranh và không một tác nhân sinh học nào trong bản báo cáo trên có liên quan tới các vũ khí hoá học.;;;;;Với thất bại của Ủy ban hỗn hợp trong việc dàn xếp, Mỹ đã đưa vấn đề Triều Tiên trình lên Liên Hợp Quốc vào tháng 9 năm 1947. Liên Xô lại phản đối mọi sự can thiệp của Liên Hợp Quốc vào nội bộ Triều Tiên. Vào thời điểm đó, Mỹ có tầm ảnh hưởng lớn hơn Liên Xô trong Liên Hợp Quốc.. Liên Hợp Quốc thông qua nghị quyết vào ngày 14 tháng 11 năm 1947, tuyên bố rằng một cuộc bầu cử tự do trên toàn bán đảo Triều Tiên nên được tổ chức, quân đội nước ngoài phải rút lui, và thành lập một Uỷ ban của LHQ về Triều Tiên gọi là UNTCOK. Liên Xô và chính quyền cộng sản ở phía Bắc đã tẩy chay bầu cử và không coi nghị quyết của LHQ mang tính chất ràng buộc, họ cho rằng LHQ không thể bảo đảm bầu cử công bằng. Không có sự hợp tác từ phía Liên Xô, người ta quyết định tổ chức cuộc bầu cử dưới sự giám sát của LHQ ở miền nam (mặc dù bầu cử ban đầu dự kiến sẽ được tổ chức trên toàn bán đảo) . Một số đại biểu UNTCOK cho rằng bầu cử chỉ tổ chức ở miền Nam đã tạo ra lợi thế không công bằng cho các ứng cử viên cánh hữu, nhưng ý kiến của họ đã bị bác bỏ. Không ngoài mong muốn của Mỹ, chính phủ đắc cử được lãnh đạo bởi Lý Thừa Vãn, một người Triều Tiên sống lưu vong tại Mỹ và có tư tưởng chống cộng rất mạnh. Ông là một người Triều Tiên bị Nhật Bản cầm tù từ khi còn là một thanh niên và rồi trốn thoát sang Hoa Kỳ nơi ông lấy được các cấp bằng đại học và sau đại học tại Đại học Georgetown, Đại học Harvard và Đại học Princeton. Hoa Kỳ ủng hộ Lý Thừa Vãn bởi ông là một tín đồ Thiên Chúa giáo rất ngoan đạo và chống Cộng rất mạnh;;;;;Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ cũng đã xuất bản một cuốn sách về urani nghèo. Nó tuyên bố: "Tổ chức sức khỏe thế giới và các nghiên cứu khoa học khác đã cho thấy urani nghèo không gây ra những nguy cơ nghiêm trọng đối với sức khoẻ" và "urani nghèo không gây ra khuyết tật ở trẻ sơ sinh. Quân đội Iraq sử dụng các vũ khí hóa học và thần kinh trong thập kỷ 1980 và 1990 có thể là nguyên nhân gây ra cái gọi là khuyết tật ở trẻ em Iraq." Về những buộc tội gây ra ung thư, cuốn sách của Hoa Kỳ cho rằng "theo những chuyên gia về sức khỏe môi trường, về mặt y tế không thể coi việc nhiễm bệnh bạch cầu như là kết quả của việc chịu tác động của urani hay urani nghèo", và "tỷ lệ ung thư trong số 19.000 công nhân công nghiệp tiếp xúc với urani nghèo ở mức độ cao tại các dự án ở Phòng thí nghiệm quốc gia Oak Ridge trong giai đoạn 1943 và 1947 đã được xem xét, và việc tăng tỷ lệ ung thư không hề được quan sát thấy cho tới tận năm 1974. Các nghiên cứu dịch tễ học khác về ung thư phổi tại các công nhân làm việc tại nhà máy urani và nhà máy gia công thép không cho thấy tỷ lệ tăng bất thường hay sự liên quan tới những chất sinh ung thư khác đã được biết ngoài urani, như radon.";;;;;Chiến tranh Triều Tiên là cuộc xung đột giữa Hoa Kỳ với các đồng minh của Liên hợp quốc và các cường quốc cộng sản dưới ảnh hưởng của Liên Xô (cũng là một quốc gia thành viên Liên hợp quốc) và Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa (sau này cũng trở thành thành viên Liên hợp quốc). Các chiến binh chính là Bắc và Nam Triều Tiên. Các đồng minh chính của Hàn Quốc bao gồm Hoa Kỳ, Canada, Úc, Vương quốc Anh, mặc dù nhiều quốc gia khác đã gửi quân dưới sự bảo trợ của Liên hợp quốc. Các đồng minh của Triều Tiên bao gồm Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, nơi cung cấp lực lượng quân sự và Liên Xô, nơi cung cấp cố vấn chiến đấu và phi công máy bay, cũng như vũ khí cho quân đội Trung Quốc và Triều Tiên.;;;;;Một báo cáo của chính phủ được Guardian đưa tin năm 2002 chỉ ra rằng từ năm 1940 đến năm 1979, Bộ Quốc phòng "đã biến phần lớn đất nước thành một phòng thí nghiệm khổng lồ để tiến hành một loạt cuộc thử nghiệm chiến tranh vi trùng bí mật đối với công chúng" và nhiều cuộc thử nghiệm kiểu này " liên quan đến việc giải phóng các hóa chất và vi sinh vật nguy hiểm tiềm tàng trên nhiều vùng dân cư mà không cho công chúng biết." Bộ Quốc phòng tuyên bố rằng những thử nghiệm này nhằm mô phỏng chiến tranh vi trùng và các thử nghiệm này vô hại. Tuy nhiên, những gia đình từng tham gia nhiều cuộc kiểm tra đang gặp phải những đứa trẻ bị dị tật bẩm sinh, khuyết tật về thể chất và tinh thần và nhiều gia đình đang yêu cầu một cuộc điều tra công khai. Theo báo cáo, các cuộc thử nghiệm này đã ảnh hưởng đến ước tính hàng triệu người, trong đó có khoảng thời gian từ năm 1961 đến năm 1968, khi "hơn một triệu người dọc theo bờ biển phía nam nước Anh, từ Torquay đến New Forest, đã tiếp xúc với vi khuẩn bao gồm e.coli và trực khuẩn globigii". , bắt chước bệnh than." Hai nhà khoa học do Bộ Quốc phòng ủy quyền tuyên bố rằng những thử nghiệm này không gây rủi ro cho công chúng. Điều này đã được xác nhận bởi Sue Ellison, đại diện của Porton Down, người nói rằng kết quả từ những cuộc thử nghiệm này "sẽ cứu được nhiều mạng sống nếu đất nước hoặc lực lượng của chúng tôi phải đối mặt với một cuộc tấn công bằng vũ khí hóa học và sinh học." Khi được hỏi liệu những cuộc thử nghiệm như vậy có còn được thực hiện hay không, bà nói: “Chính sách của chúng tôi không phải là thảo luận về những nghiên cứu đang diễn ra”. Không rõ liệu sự vô hại của các thử nghiệm có được biết đến vào thời điểm chúng diễn ra hay không.
question_15
Các loài của các chi nào có hình thức sinh sản đơn tính?
doc_15
Một số sai biệt khi so sánh với sự phát triển thông thường cũng được ghi nhận. Sinh sản đơn tính, hay sự phát triển của phôi từ tế bào trứng mà không cần sự thụ phấn, đã được miêu tả đối với các loài của các chi Thalictrum, Antennaria và Alchemilla. Đa phôi nói chung gắn liền với sự phát triển của các tế bào hơn là từ tế bào trứng. Vì thế trong các chi Erythronium và Limnocharis thì tế bào trứng có thể tạo ra một lượng mô mà một vài phôi được tạo ra từ đó. Các trường hợp cá biệt chỉ ra rằng bất kỳ tế bào nào trong túi phôi có thể cũng tạo ra phôi, ví dụ tế bào trứng phát triển không đầy đủ trong các loài thuộc chi Mimosa, Iris và Allium, và trong chi cuối cùng đã nêu thì các tế bào đối cực cũng có thể. Trong chi Coelebogyne (họ Euphorbiaceae) và Funkia (họ Liliaceae) đa phôi được tạo ra từ việc sản xuất ngẫu nhiên các phôi từ các tế bào của phôi tâm xung quanh đỉnh của túi phôi. Ở các loài thuộc chi Allium, các phôi cũng đã được phát hiện là phát triển thành cùng một cá thể từ tế bào trứng, tế bào trứng không phát triển đầy đủ, tế bào đối cực và các tế bào của phôi tâm. Ở hai loài thuộc chi Balanophora sinh trưởng ở khu vực Malaya, phôi được phát triển từ tế bào của nội nhũ, nó chỉ được hình thành từ nhân có cực phía trên và bộ phận trứng bị phá hủy. Trường hợp vừa đề cập này có thể coi như là biểu hiện của sự phát triển sinh sản vô giao của thể bào tử từ thể giao tử khi so sánh với trường hợp sinh sản vô giao được miêu tả đối với các loài dương xỉ. Sự đa dạng của các trường hợp dị thường này, như đã chỉ ra trong các ví dụ trên đây, là lý do để người ta cần cân nhắc kỹ hơn trong việc thiết lập các nguyên lý hình thái cụ thể đối với thực vật có hoa.
doc_6193;;;;;doc_76;;;;;doc_3969;;;;;doc_2929;;;;;doc_7401
Một số loài động vật biển tồn tại và phụ thuộc trực tiếp hoặc gián tiếp vào thực vật phù du. Sinh vật biển ở Nam Cực bao gồm chim cánh cụt, cá voi xanh, cá kình, mực khổng lồ và hải cẩu lông thú. Chim cánh cụt hoàng đế là loài chim cánh cụt duy nhất sinh sản vào mùa đông ở Nam Cực, trong khi chim cánh cụt Adélie sinh sản ở xa hơn về phía nam so với bất kỳ loài chim cánh cụt nào khác. Chim cánh cụt rockhopper có bộ lông đặc biệt xung quanh mắt, tạo nên vẻ ngoài của lông mi phức tạp. Chim cánh cụt vua, chim cánh cụt chinstrap và chim cánh cụt gentoo cũng sinh sản ở Nam Cực.;;;;;Liên lớp động vật bốn chân (Tetrapoda) được chia thành 4 lớp gồm các loài động vật có 4 chi. Bò sát, chim và thú là các động vật có màng ối, trứng của chúng được đẻ ra ngoài hoặc mang trong cơ thể con cái và được bao bọc xung quanh bởi nhiều màng, một vài trong số đó vẫn chưa thể hiểu hết được. Thiếu các màng này, động vật lưỡng cư cần có các vực nước để sinh sản, mặc dù vài loài đã phát triển qua nhiều giai đoạn khác nhau để bảo vệ hoặc bỏ qua giai đoạn ấu trùng ở trong nước dễ bị tổn thương. Chúng không có mặt ở biển trừ một hoặc 2 loài ếch sống trong vùng nước lợ của các đầm lầy ngập mặn. Trên đất liền, các động vật lưỡng cư sống giới hạn trong các môi trường ẩm ướt do chúng cần phải giữ cho da của chúng ẩm.;;;;;Có bảy loài động vật chân màng cư ngụ ở châu Nam Cực. Lớn nhất là chi Hải tượng (Mirounga leonina), những loài thuộc chi này có thể nặng tới 4 tấn (8.818 lb), trong khi những con cái của loài nhỏ nhất, hải cẩu lông mao Nam Cực (Arctocephalus gazella), có cân nặng chỉ 150 kg (331 lb). Hai loại này sống ở phía bắc vùng nước đóng băng và sinh sản trên bãi biển với số lượng mỗi nhóm tầm một hai con đực và nhiều con cái. Có bốn loài khác có thể sống trên lớp băng bề mặt biển. Hải cẩu ăn cua (Lobodon carcinophagus) và hải cẩu Weddell (Leptonychotes weddellii) sinh sản theo bầy đàn còn hải cẩu báo và (Hydrurga leptonyx) hải cẩu Ross (Ommatophoca rossii) sống đơn độc. Hải cẩu sinh sản trên băng hoặc trên đất liền, còn lại chúng dành phần lớn thời gian hoạt động và săn mồi dưới lớp băng biển, trong nước tương đối ấm có nhiệt độ ổn định dao động nhỏ ở khoảng gần 1 °C.;;;;;Nhiều loài động vật biển khác nhau tồn tại và dựa trực tiếp hay gián tiếp vào thực vật phù du ở Nam Đại Dương. Các loài động vật biển Nam Cực gồm có chim cánh cụt, cá voi xanh, cá voi sát thủ, mực khổng lồ và hải cẩu lông mao. Chim cánh cụt hoàng đế là loại chim cánh cụt duy nhất sinh sản vào mùa đông ở châu Nam Cực, trong khi chim cánh cụt Adélie sinh sản ở vùng xa về phía nam hơn bất kỳ loại chim cánh cụt nào khác. Chim cánh cụt Rockhopper có đôi mắt màu đỏ, lông mày vàng, mỏ màu cam cùng những chiếc lông nhọn trên đầu. Cánh cụt vua, quai mũ, và Gentoo cũng sinh sản ở vùng Nam Cực.;;;;;Ngoại trừ một số sinh vật nguyên thủy như bọt biển (không có hệ thần kinh) và động vật cnidarians (có hệ thần kinh bao gồm mạng lưới thần kinh khuếch tán), tất cả các động vật đa bào đang sống đều là động vật song phương, nghĩa là động vật có hình dạng cơ thể đối xứng hai bên (tức là , bên trái và bên phải là hình ảnh phản chiếu gần đúng của nhau). Tất cả các loài song bào được cho là có nguồn gốc từ một tổ tiên chung xuất hiện sớm vào kỷ Cambri, 485-540 triệu năm trước, và người ta đưa ra giả thuyết rằng tổ tiên chung này có hình dạng một loài giun ống đơn giản với cơ thể phân đốt. Ở cấp độ sơ đồ, hình dạng giun cơ bản đó tiếp tục được phản ánh trong cấu trúc cơ thể và hệ thần kinh của tất cả các loài song sinh hiện đại, bao gồm cả động vật có xương sống. Dạng cơ thể hai bên cơ bản là một ống có khoang ruột rỗng chạy từ miệng đến hậu môn và một dây thần kinh có sự phình to (một hạch) cho mỗi đoạn cơ thể, với một hạch đặc biệt lớn ở phía trước, được gọi là não. Bộ não nhỏ và đơn giản ở một số loài, chẳng hạn như giun tròn; ở các loài khác, bao gồm cả động vật có xương sống, nó là cơ quan phức tạp nhất trong cơ thể. Một số loại giun, chẳng hạn như đỉa, cũng có hạch to ở đầu sau của dây thần kinh, được gọi là "não đuôi".
question_16
"Thống đốc La Mã", theo cách gọi bằng tiếng anh, là gọi tên những ai?
doc_16
Quá trình để một vùng lãnh thổ bị sáp nhập trở thành một tỉnh đều phải trải qua ba bước: làm một sổ ghi danh sách các thành phố, tiến hành một cuộc tổng điều tra dân số, và vẽ bản đồ Hơn nữa những hồ sơ lưu trữ của chính quyền còn bao gồm ngày sinh và qua đời, giao dịch bất động sản, thuế và những biên bản pháp lý Trong thế kỷ 1 và 2, chính quyền trung ương đã phái khoảng 160 quan chức mỗi năm để cai trị các vùng đất bên ngoài Ý Trong số các quan chức có các "thống đốc La Mã", theo cách gọi bằng tiếng Anh: hoặc thẩm phán được bầu tại Rome, những người có tên trong viện nguyên lão và nhân dân La Mã, cai trị các tỉnh trực thuộc viện nguyên lão;. hoặc thống đốc, thường thuộc tầng lớp kị sĩ, những người nắm giữ quyền tuyệt đối của họ thay mặt cho hoàng đế ở những tỉnh không nằm dưới sự kiểm soát của viện nguyên lão, đặc biệt là tỉnh Ai Cập thuộc La Mã Một thống đốc phải khiến cho bản thân ông ta trở nên gần gũi với người dân mà ông ta cai quản. Tuy nhiên, bộ máy giúp việc của ông ta lại rất nhỏ: những cấp dưới chính thức của ông ta (apparitores), bao gồm các vệ sĩ, sứ truyền lệnh, sứ giả, những người chép bản thảo, và cận vệ; Các Legate, cả dân sự và quân sự, thường là những người thuộc tầng lớp kị sĩ và bạn bè, đang trong độ tuổi và có kinh nghiệm, hộ tống ông ta nhưng không chính thức.
doc_1571;;;;;doc_4180;;;;;doc_3214;;;;;doc_7425;;;;;doc_8107
Đế quốc La Mã Thần Thánh (tiếng Latinh: Sacrum Romanum Imperium; tiếng Đức: Heiliges Römisches Reich; tiếng Ý: Sacro Romano Impero; tiếng Anh: Holy Roman Empire)[b] còn được gọi là Thánh chế La Mã, là một phức hợp lãnh thổ rộng lớn đa sắc tộc, mà chủ yếu là người Đức, tồn tại từ cuối thời sơ kỳ Trung cổ cho đến năm 1806. Tên của đế quốc bắt nguồn từ yêu sách của các Hoàng đế La Mã Đức vào thời Trung cổ, muốn tiếp tục truyền thống của đế chế La Mã cổ và hợp pháp hóa quyền cai trị như là thánh ý của Thiên Chúa. Lãnh thổ chủ yếu của Đế quốc gồm Vương quốc Đức, Vương quốc Bohemia, Vương quốc Burgundy, Vương quốc Ý và nhiều lãnh thổ, công quốc, thành phố đế quốc tự do lớn nhỏ khác.;;;;;Giám mục Roma được gọi là Giáo hoàng, và Roma là nơi quan trọng từ thời kỳ đầu của Cơ Đốc giáo do hai tông đồ Pedro và Paulo tử đạo tại đây. Các giám mục của Roma cũng được nhìn nhận là những người kế thừa của Pedro. Thành phố do đó tăng tầm quan trọng với vị thế là trung tâm của Giáo hội Công giáo. Sau khi Đế quốc Tây La Mã sụp đổ vào năm 476, Roma ban đầu nằm dưới quyền kiểm soát của Odoacer và sau đó là bộ phận của Vương quốc Ostrogoth trước khi qua tay Đông La Mã sau Chiến tranh Gothic (535-554), song cuộc chiến này tàn phá thành phố. Dân số Roma suy giảm từ hơn một triệu vào năm 210 xuống 500.000 vào năm 273 và còn 35.000 sau Chiến tranh Gothic, làm giảm quy mô thành phố còn một nhóm các toà nhà có người ở nằm rải rác trên một khu vực lớn các tàn tích và vườn tược.;;;;;Các dòng họ La Mã thời kỳ đầu được gọi là một gens (thị tộc) hay clan (gia tộc), và mỗi thị tộc là một tập hợp các gia đình sống dưới sự đứng đầu của một tộc trưởng được gọi là Pater (tiếng Latinh của từ "cha"). Các gens này được tập hợp để hình thành một hội đồng chung, và patres được chọn từ các thị tộc danh tiếng vào hội đồng liên minh các trưởng lão (những gì sẽ trở thành Viện nguyên lão La Mã).. Theo thời gian, patres nhận ra một nhu cầu tất yếu là cần phải có một người lãnh đạo duy nhất, vì vậy họ đã bầu ra vua (rex), và giao cho ông quyền lực tối cao. Khi nhà vua chết, quyền lực lại quay trở về với patres.;;;;;Dòng có sáu viên chức: Giám mục; trưởng khoa; thư ký; sự đăng ký; Vua vũ khí; và Usher. Giám mục Luân Đôn, một giám mục cao cấp trong Giáo hội Anh, giữ chức vụ Giám mục của Dòng. Trưởng khoa St Paul's đương nhiên là Trưởng khoa của Dòng. King of Arms của Order không phải là thành viên của College of Arms, cũng như nhiều sĩ quan huy hiệu khác. Usher of Order được biết đến với cái tên Quý ông Usher of the Purple Rod; anh ta không - không giống như Order of the Garter tương đương của anh ta, Quý ông Usher of the Black Rod - thực hiện bất kỳ nhiệm vụ nào liên quan đến House of Lords.;;;;;Nhiều người Hồi giáo chỉ trích Umayyads vì có quá nhiều người quản lý La Mã, không theo đạo Hồi trong chính phủ của họ. St John of Damascus cũng là một nhà quản lý cấp cao trong chính quyền Umayyad. Khi người Hồi giáo tiếp quản các thành phố, họ rời bỏ các đại diện chính trị của nhân dân, những người thu thuế và quản lý của người La Mã. Các khoản thuế nộp cho chính quyền trung ương do các đại diện chính trị của nhân dân tính toán và thương lượng. Chính quyền Trung ương được trả tiền cho các dịch vụ mà họ cung cấp và chính quyền địa phương nhận được tiền cho các dịch vụ mà họ cung cấp. Nhiều thành phố theo đạo Cơ đốc cũng sử dụng một số loại thuế để duy trì nhà thờ và điều hành các tổ chức của riêng họ. Sau đó Umayyad bị một số người Hồi giáo chỉ trích vì không giảm thuế cho những người cải sang đạo Hồi. Những người cải đạo mới này tiếp tục đóng các loại thuế tương tự như đã được thương lượng trước đó.
question_17
Săn thú và hái lượm là cách mà con người sinh sống tại các khu vực nào?
doc_17
Các nhà khảo cổ học đã tìm thấy những dấu vết của người đứng thẳng (Homo erectus) vào thời kỳ đồ đá cũ trên lãnh thổ Việt Nam cách đây khoảng 500.000 năm; các công cụ thô sơ bằng đá và các dấu răng của con người thời tiền sử được phát hiện tại các tỉnh phía Bắc gồm Lạng Sơn, Thanh Hóa, Yên Bái, Ninh Bình và Quảng Bình. Tại các vùng phía Bắc, con người sinh sống trong các hang động đá vôi và sống bằng các hoạt động săn thú, hái lượm. Trong khi đó, tại các vùng duyên hải miền Trung như Nghệ An, con người chủ yếu sống bằng hoạt động đánh cá.
doc_9494;;;;;doc_4892;;;;;doc_6317;;;;;doc_7479;;;;;doc_5857
Hầu hết những người săn bắn hái lượm là dân du mục hoặc bán du mục và sống ở các khu định cư tạm thời. Các cộng đồng di động thường xây dựng nơi trú ẩn bằng vật liệu xây dựng tạm thời hoặc họ có thể sử dụng nơi trú ẩn bằng đá tự nhiên nếu có.;;;;;Những người thượng cổ thường kiếm sống bằng cách săn bắt-hái lượm, một lối sống rất phù hợp với những vùng đồng cỏ châu Phi. Một số nhóm người về sau bắt đầu sống lối sống du mục và thường hay bắt thú vật để nuôi lấy thịt. Về sau nữa, khi lối sống định cư phát triển thì nền nông nghiệp cũng ra đời. Những khu vực định cư chính của con người phụ thuộc rất nhiều vào nguồn nước, vào lối sống, vào tài nguyên thiên nhiên (như đất đai có phù hợp để gieo trồng hay không, có nhiều cỏ để chăn nuôi hay không, có nhiều thú để săn bắt hay không). Tuy nhiên, con người lại có khả năng thay đổi nơi cư trú của họ bằng các phương tiện vận chuyển khác nhau. Do đó, sự thay đổi môi trường là nhân tố chủ yếu khiến con người thay đổi nơi cư sinh sống.;;;;;Một số nhà nông nghiệp cũng thường xuyên săn bắt và hái lượm (ví dụ: trồng trọt trong mùa không có sương giá và săn bắn trong mùa đông). Vẫn còn những người khác ở các nước phát triển đi săn, chủ yếu là để giải trí. Trong rừng nhiệt đới Brazil, những nhóm gần đây đã sử dụng hoặc thậm chí tiếp tục dựa vào kỹ thuật săn bắt và hái lượm dường như đã áp dụng lối sống này, từ bỏ hầu hết hoạt động nông nghiệp, như một cách để thoát khỏi sự kiểm soát của thực dân và do sự du nhập của các dịch bệnh châu Âu. giảm dân số của họ đến mức mà nông nghiệp trở nên khó khăn. [cần dẫn nguồn] [không rõ ràng – thảo luận];;;;;Người săn bắn hái lượm là con người sống trong một xã hội mà phần lớn hoặc tất cả thực phẩm có được bằng cách tìm kiếm thức ăn (thu hái thực vật hoang dã và săn bắt động vật hoang dã), trái ngược với các xã hội nông nghiệp chủ yếu dựa vào các loài được thuần hóa.;;;;;Săn bắn hái lượm là phương thức sinh tồn phổ biến của con người trong suốt thời kỳ Đồ đá cũ, nhưng quan sát về những người săn bắt và hái lượm ngày nay không nhất thiết phản ánh các xã hội thời kỳ Đồ đá cũ; các nền văn hóa săn bắn hái lượm được khảo sát ngày nay có nhiều mối liên hệ với nền văn minh hiện đại và không đại diện cho những điều kiện “nguyên sơ” thường thấy ở các dân tộc chưa tiếp xúc.
question_18
Nội dung chính của Nghị viện tháng 2 năm 1310 là gì?
doc_18
Nhà vua và Nghị viện họp một lần nữa vào tháng 2 năm 1310, và những cuộc thảo luận về chính sách ở Scotland được thay thế bằng các cuộc tranh luận về những vấn đề trong nước. Edward được kiến nghị phải bãi chức cố vấn của Gaveston và thay vào đó làm theo lời khuyên của 21 nam tước sẽ được bầu cử ra, gọi là Ordainers, thực hiện những cải cách sâu rộng đối với cả chính phủ và gia đình hoàng gia. Dưới áp lực rất lớn, Edward đồng ý với đề xuất này và Ordainers được bầu ra, có sự phân chia đồng đều giữa những người cải cách và những người bảo thủ. Trong khi những người Ordainers bắt đầu kế hoạch cải cách của họ, Edward và Gaveston dẫn một đội quân mới của họ gồm 4,700 người đến Scotland, nơi mà tình hình quân sự tiếp tục xấu đi. Robert the Bruce từ chối tham chiến và chiến dịch tiến triển không có hiệu quả qua mùa đông cho đến khi quân nhu và tài chính cạn kiệt năm 1311, buộc Edward trở về miền nam.
doc_4529;;;;;doc_3903;;;;;doc_1923;;;;;doc_6709;;;;;doc_4708
Nghị viện họp vào tháng 2 năm 1308 trong bầu không khí căng thẳng. Edward háo hức thảo luận về khả năng cải cách chính quyền, nhưng các nam tước không sẵn lòng bắt đầu những cuộc tranh luận như vậy cho đến sau khi vấn đề liên quan tới Gaveston được giải quyết. Nguy cơ bạo lực xuất hiện, nhưng tình hình được giải quyết thông qua trung gian Henry de Lacy, Bá tước Lincoln, người thuyết phục được các nam tước lùi một bước. Nghị viện mới được lập vào tháng 4, nơi các nam tước một lần nữa chỉ Gaveston, đòi lưu đày anh ta, lần này họ nhận được ủng hộ từ Isabella và quốc vương nước Pháp. Edward đã phản đối, nhưng cuối cùng bằng lòng, đồng ý gửi Gaveston đến Aquitaine, dưới sự đe dọa rút phép thông công của Tổng Giám mục Canterbury. Vào giờ chót, Edward thay đổi ý định và gửi Gaveston đến Dublin, bổ nhiệm ông ta làm Trung úy Ireland.;;;;;Vai trò của Quốc hội tăng lên dưới triều đại Edward, trở thành nơi đưa ra các quyết sách và hồi đáp các kiến nghị, mặc dù như sử gia Claire Valente chú rằng, triệu tập Quốc hội "vẫn như tổ chức sự kiện". Sau năm 1311, Nghị viện bắt đầu được triệu tập, ngoài các nam tước, đại diện của giới hiệp sĩ và thị dân, thành phần mà sau này đã thiết lập nên "Viện thứ dân Anh Cát Lợi". Mặc dù Nghị viện thường chống đối các loại thuế mới, ý kiến chống đối mạnh mẽ Edward đa phần là từ các nam tước, chứ không phải chính Nghị viện, dù các nam tước tận dụng các kỳ họp Quốc hội để hợp pháp hóa các đòi hỏi chính trị lâu dài của họ. Sau nhiều năm đối kháng với Quốc hội, trong nửa cuối giai đoạn trị vì, Edward bắt đầu can thiệp vào cơ quan này để đạt được các mục tiêu chính trị của mình. Chuyện Edward bị phế truất năm 1327 vẫn chưa rõ là được gây ra bởi một Nghị viện được triệu tập chính thức hay chỉ đơn giản là bởi sự nhóm họp của các thành phần chính trị bên cạnh Nghị viện hiện tại.;;;;;Đến lúc này Ordainers đã phác họa kế hoạch pháp lệnh của họ và Edward có không có nhiều sự lựa chọn và chấp nhận nó vào tháng 10. Pháp lệnh 1311 có những điều khoản giới hạn quyền lực của Nhà vua khi gây chiến tranh và phong đất nếu không có sự đồng ý của Nghị viện, đem đến cho Nghị viện quyền kiểm soát chính quyền của hoàng gia, bãi bỏ hệ thống đòn bẩy không bao gồm nhà cái Frescobaldi, và ban hành một hệ thống giám sát việc tuân thủ pháp lệnh. Thêm vào đó, Pháp lệnh một lần nữa lưu đày Gaveston once again, lần này có thêm những chỉ dẫn rằng ông ta không được phép sống ở bất cứ nơi nào bên trong các lãnh địa của Edward, gồm cả Gascony và Ireland, và tước hết các danh hiệu của ông. Edward rút về những bất động sản của ông, Windsor và Kings Langley; Gaveston rời Anh quốc, có thể là đến phía bắc nước Pháp hay Flanders.;;;;;Những thay đổi lập pháp quan trọng về tình trạng của szlachta, như được định nghĩa bởi Robert Bideleux và Ian Jeffries, bao gồm việc miễn thuế đất năm 1374, bảo đảm năm 1425 chống lại 'việc bắt giữ tùy tiện và/hoặc tịch thu tài sản' của các thành viên của nó, năm 1454. yêu cầu các lực lượng quân sự và các loại thuế mới phải được Hạ viện cấp tỉnh phê chuẩn, và các đạo luật được ban hành từ năm 1496 đến năm 1611 quy định các quyền của thường dân.;;;;;Edward triệu tập một chiến dịch quân sự mới chinh phạt Scotland, nhưng ý kiến này bị bác bỏ trong lặng lẽ, và thay vào đó Nhà vua cùng các nam tước họp vào tháng 8, 1308 để thảo luận cải cách. Phía sau hậu trường, Edward bắt đầu đàm phán nhằm thuyết phục Giáo hoàng Clement V và Philippe IV cho phép Gaveston trở về Anh, để đổi lại việc ông sẽ ngăn chặn các hiệp sĩ dòng Đền ở Anh, và phóng thích Giám mục Langton khỏi nhà lao. Edward kêu gọi một cuộc họp mới của các thành viên Giáo hội và các quý tộc lớn vào tháng 1 năm 1309, và các bá tước hàng đầu tụ họp vào tháng 3 và tháng 4, có thể là dưới sự lãnh đạo của Thomas, Bá tước Lancaster. Một nghị viện khác theo sau đó, từ chối không cho Gaveston trở về Anh, nhưng đồng ý cấp cho Edward những thứ thuế bổ sung nếu ông đồng tình với chương trình cải cách.
question_19
Tại Quảng Châu thì ước tính cứ mỗi km2 thì sẽ có bao nhiêu người?
doc_19
Cuộc điều tra dân số năm 2010 cho thấy dân số Quảng Châu là 12,78 triệu người. Tính đến năm 2014, ước tính khoảng 13.080.500, với 11.264.800 cư dân đô thị. Mật độ dân số của nó là khoảng 1.800 người/km2. Diện tích xây dựng của Quảng Châu thích hợp kết nối trực tiếp với một số thành phố khác. Khu vực được xây dựng của Khu kinh tế sông Châu Giang bao gồm khoảng 17.573 cây số vuông (6.785 dặm vuông) và ước tính có 22 triệu người, bao gồm 9 quận của Quảng Châu, Thẩm Quyến (5.36m), Đông Hoản (3.22m) Trung Sơn (3.12m), hầu hết Phật Sơn (2.2m), Giang Môn (1.82m), Chu Hải (890k) và Huệ Châu (760k). Tổng dân số của những khu vực này này là hơn 28 triệu sau khi tính cả dân số của vùng đặc quyền hành chính Hồng Kông liền kề. Nền kinh tế đang phát triển nhanh và nhu cầu lao động cao đã tạo ra một "số dân trôi nổi" khổng lồ của lao động di cư. Khoảng 10 triệu người di cư cư trú trong khu vực ít nhất sáu tháng mỗi năm. Năm 2008, khoảng 5 triệu người dân thường trú tại Quảng Châu là những người di cư không có người di dân.
doc_4895;;;;;doc_4047;;;;;doc_2145;;;;;doc_1942;;;;;doc_4170
Quảng Châu nằm ở trung tâm của khu đô thị được xây dựng có số dân đông nhất ở Trung Hoa đại lục, một khu vực mở rộng đến các thành phố Phật Sơn, Đông Quan và Thâm Quyến láng giềng, tạo thành một trong những vùng đô thị lớn nhất hành tinh. Về mặt hành chính, thành phố là thủ phủ của tỉnh, và là một trong năm thành phố trực thuộc trung ương của Trung Quốc. Vào năm 2015 khu vực hành chính của thành phố được ước tính có dân số 13.501.100. Quảng Châu được xếp hạng là một thành phố toàn cầu. Trong những năm gần đây, số lượng người nhập cư từ Đông Nam Á, Trung Đông, Đông Âu, và đặc biệt là từ châu Phi đã tăng lên nhanh chóng. Điều này đã dẫn tới nó được đặt tên là "Thủ đô của thế giới thứ ba". Dân số di cư từ các tỉnh khác của Trung Quốc ở Quảng Châu là 40% tổng dân số của thành phố trong năm 2008. Cùng với Thượng Hải, Bắc Kinh và Thâm Quyến, Quảng Châu là một trong những thị trường bất động sản đắt nhất ở Trung Quốc.;;;;;Quảng Châu (chữ Hán giản thể: 广州, phồn thể: 廣州, pinyin: Guǎngzhōu, Wade-Giles: Kuang-chou, việt phanh: Gwong2zau1, Yale: Gwóngjaū) là thủ phủ và là thành phố đông dân nhất của tỉnh Quảng Đông ở miền Nam Trung Quốc. Nằm trên sông Châu Giang, thành phố cách Hồng Kông 120 km (75 dặm) về phía Tây Bắc và cách Ma Cao 145 km (90 dặm) về phía Bắc. Quảng Châu có lịch sử hơn 2.200 năm và là một điểm cuối chính của con đường tơ lụa hàng hải và tiếp tục là cảng và trung tâm vận tải chính ngày nay, đây là một trong ba thành phố lớn nhất của Trung Quốc.;;;;;Sau khi Đại Minh thành lập và thống nhất Trung Hoa, Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương thi hành chính sách "hưu dưỡng sinh tức" (phục hồi và phát triển), nông nghiệp thời Mông-Nguyên vốn chịu sự phá hoại từ chiến tranh nay khôi phục ở mức độ lớn, những năm Hồng Vũ tiến hành khẩn hoang vùng đất phía bắc Hoài Hà và Tứ Xuyên trên quy mô lớn, nhân khẩu do vậy tăng trưởng ổn định. Đến năm Hồng Vũ thứ 26 (1393), toàn quốc có 63 triệu người, trong đó 61,75 triệu người thuộc dân hộ, 3,25 triệu người thuộc quân hộ. Bắc ngũ tỉnh (Bắc Bình, Sơn Tây, Sơn Đông, Hà Nam, Thiểm Tây) có 17,55 triệu nhân khẩu, chiếm 27% toàn quốc; trong đó Sơn Đông là đông dân nhất với 5.462.850 người, kế đến là Sơn Tây (3.790.760 người), Hà Nam (2.825.300 người), Thiểm Tây (2.646.450 người), Bắc Bình (2.619.500 người). Trung ngũ tỉnh (Kinh Sư, Chiết Giang, Giang Tây, Hồ Quảng, Tứ Xuyên) có 33,8 triệu người, chiếm 52% toàn quốc; trong đó Nam Trực Lệ có 11.291.460 người, mật độ nhân khẩu cao nhất là ở lực vực Tô Nam Thái Hồ với tổng số 6.320.300 người và đạt 220 người/km²; tiếp đến là Chiết Giang tỉnh với 9.959.270 người; Giang Tây có 7.260.000 người, Hồ Quảng có 4.318.420 người, Tứ Xuyên có 1.314.260 người. Nam ngũ tỉnh (Phúc Kiến, Quảng Tây, Quảng Đông, Vân Nam, Quý Châu) có tổng cộng 10,40 triệu người, chiếm 16% toàn quốc.;;;;;Trung Quốc trải qua đô thị hóa đáng kể trong các thập niên vừa qua. Tỷ lệ dân số trong các khu vực đô thị tăng từ 20% vào năm 1990 lên 46% vào năm 2007. và dân số đô thị của Trung Quốc được dự tính đạt một tỷ vào năm 2030. Năm 2012, có trên 262 triệu công nhân di cư tại Trung Quốc. Trung Quốc có trên 160 thành phố có dân số [đô thị] trên một triệu, trong đó có bảy siêu đô thị (dân số hành chính trên 10 triệu) là Trùng Khánh, Thượng Hải, Bắc Kinh, Quảng Châu, Thiên Tân, Thâm Quyến, và Vũ Hán. Đến năm 2025, ước tính Trung Quốc sẽ có 221 thành phố có trên một triệu dân cư [đô thị].;;;;;Hầu hết dân số Quảng Châu là người Hán. Hầu như tất cả người Quảng Đông địa phương nói tiếng Quảng Châu là ngôn ngữ đầu tiên của họ, trong khi hầu hết người di cư nói tiếng Quan Thoại. Trong năm 2010, mỗi ngôn ngữ là tiếng mẹ đẻ của khoảng một nửa dân số của thành phố, mặc dù con số nhỏ nhưng cũng có một số lượng người đáng kể nói các giọng khác. Cũng như các nơi khác ở Trung Quốc, hệ thống đăng ký hộ khẩu (hukou) hạn chế người di cư tiếp cận nhà ở, cơ sở giáo dục và các lợi ích công cộng khác. Vào tháng 5 năm 2014, những người nhập cư hợp pháp ở Quảng Châu được phép nhận thẻ hukou cho phép họ kết hôn và được phép mang thai trong thành phố, thay vì phải quay về quê hương chính thức như trước đây.
question_20
Donald John Trump học tại NYMA đến khi nào?
doc_20
Gia đình ông có một căn hộ hai tầng xây theo phong cách Tudor Revival ở Wareham Place trong Jamaica Estates, nơi Trump sống khi còn học tại trường The Kew-Forest. Tại Kew-Forest, Fred Trump là thành viên của Hội đồng Ủy thác. Năm 1983, trong một cuộc phỏng vấn Fred có nói rằng Donald "khá cục cằn khi còn là một cậu bé", nên ông đăng ký cho con mình học tại Học viện Quân sự New York (NYMA). Trump học hết lớp tám và trung học tại NYMA. Trong năm cuối cấp, Trump tham gia đội diễu hành, đạt cấp đại úy của thiếu sinh quân. Năm 2015, ông có nói với một nhà viết tiểu sử rằng NYMA "đã rèn giũa ông về mặt quân sự nhiều hơn rất nhiều người trực tiếp nhập ngũ".
doc_2626;;;;;doc_5019;;;;;doc_2476;;;;;doc_2779;;;;;doc_2166
Trump là công dân chính gốc của Thành phố New York và là con của Fred Trump, người đã truyền cảm hứng cho ông đi theo nghề phát triển bất động sản. Sau hai năm học tại Đại học Fordham và trong khi theo học trường Wharton thuộc Đại học Pennsylvania, Trump làm việc tại công ty của cha mình, Elizabeth Trump & Son. Ông chính thức gia nhập công ty năm 1968 sau khi tốt nghiệp và được giao quyền điều hành vào năm 1971, đổi tên công ty thành "The Trump Organization". Kể từ đó ông đã xây dựng nhiều khách sạn, sân golf và các công trình khác, rất nhiều trong số đó mang tên ông. Ông là một nhân vật quan trọng trong giới doanh nhân Hoa Kỳ và nhận được sự quan tâm đặc biệt của giới truyền thông. Chương trình truyền hình thực tế The Apprentice của đài NBC đã khuếch trương tên tuổi của ông và ba đám cưới của ông được giới báo lá cải đưa tin hết sức chi tiết.;;;;;Năm 2013, một vụ kiện khởi xướng bởi Tổng chưởng lý New York Eric Schneiderman cáo buộc Trump lừa đảo hơn 5.000 người với số tiền 40 triệu USD về cơ hội được học kĩ thuật đầu tư bất động sản của Trump ở một chương trình vì lợi nhuận, Đại học Trump, hoạt động từ 2005 đến 2011. Schneiderman lập luận rằng các hội nghị chuyên đề của Trump cấu thành một "cơ sở giáo dục không được cấp phép và bất hợp pháp", sử dụng quảng cáo sai lệch, chiến lược treo đầu dê bán thịt chó, cố tình truyền đạt sai và các thủ thuật lừa đảo khác. Tháng 1 năm 2014, Tòa án bang New York đồng tình với một số cáo buộc của Tổng chưởng lý, và vào tháng 10 năm 2014, nhận định Trump chịu trách nhiệm về việc không có giấy phép hoạt động trường đầu tư vì lợi nhuận, Trump Entrepreneur Initiative, trước đó được biết đến dưới tên Đại học Trump. (Trump ngừng sử dụng từ "Đại học" sau chỉ thị năm 2010 của nhà chức trách New York, nói rằng việc sử dụng từ đó của Trump là "gây nhầm lẫn và thậm chí bất hợp pháp", chính quyền bang trước đó đã cảnh báo Trump vào năm 2005 không sử dụng từ này hoặc không mở các hội nghị chuyên đề tại New York). Trong một vụ kiện dân sự tập thể khác vào giữa tháng 2 năm 2014, một thẩm phán liên bang San Diego cho phép nguyên đơn tại California, Florida và New York khởi kiện. Trump đã kiện ngược lại, cho rằng việc điều tra của Tổng chưởng lý đi kèm với việc ông ép buộc quyên góp cho chiến dịch tranh cử. Vụ việc được điều tra bởi ủy ban đạo đức New York và bị bác bỏ tháng 8 năm 2015. Trump cũng khởi xướng vụ kiện bôi nhọ danh dự và đòi 1 triệu USD bồi thường đối với cựu sinh viên Đại học Trump Tarla Makaeff, người đã chi khoảng 37.000 USD cho các buổi hội nghị chuyên đề, sau khi bà tham gia vụ kiện tập thể và công khai trải nghiệm ở lớp học trên mạng xã hội. Không thể chứng minh được mục đích xấu, Đại học Trump thua kiện khi bị kiện ngược với cáo buộc cố tình khởi kiện chiến thuật để bịt miệng nhân chứng, bị buộc phải trả Makaeff và luật sư của bà 798.774,24 USD chi phí tố tụng theo phán quyết của một thẩm phán tòa án quận đưa ra tháng 4 năm 2015. "Điều đó chứng tỏ họ sẽ cố gắng tới đâu để bịt miệng người khác", Makaeff bình luận.;;;;;Khi Trump tốt nghiệp đại học, tổng tài sản của ông đạt khoảng 200.000 USD (1.021.000 USD theo thời giá 2016). Ông khởi nghiệp tại công ty bất động sản của cha mình, Elizabeth Trump & Son, nơi tập trung chủ yếu vào mảng nhà cho thuê dành cho giới trung lưu tại các quận Brooklyn, Queens và Staten Island của Thành phố New York. Trong những năm học đại học, một trong những dự án đầu tiên của Trump là việc hồi sinh tổ hợp căn hộ Swifton Village ở Cincinnati, Ohio, được cha ông mua lại với giá 5,7 triệu USD năm 1962. Fred và Donald Trump đều tham gia vào dự án, nâng mật độ dân cư của 1.200 căn hộ từ 34% lên 100% với khoản đầu tư 500.000 USD. Trump quản lý 14.000 căn hộ của công ty ở Brooklyn, Queens và Staten Island. Năm 1972, The Trump Organization bán Swifton Village với giá 6,75 triệu USD.;;;;;Năm 2013, Trump là khách mời phát biểu tại Conservative Political Action Conference (Hội nghị Hành động Chính trị Bảo thủ - CPAC). Bài phát biểu hôm đó không có nhiều người lắng nghe. Ông đã dành hơn một triệu USD nhằm nghiên cứu tính khả thi của việc tranh cử tổng thống Mỹ. Tháng 10 năm 2013, Đảng Cộng hòa New York ban hành một bản ghi nhớ đề xuất rằng Trump nên tranh cử thống đốc bang năm 2014, cạnh tranh với Andrew Cuomo. Trump nói rằng mặc dù New York có một số vấn đề và thuế thì quá cao, việc tranh cử thống đốc bang không phải là mối quan tâm sâu sắc của ông. Tháng 2 năm 2015, Trump không gia hạn hợp đồng cho chương trình The Apprentice, dấy lên tin đồn rằng ông có thể chạy đua vào Nhà Trắng năm 2016.;;;;;Trump kết hôn với người mẫu Ivana Zelníčková vào ngày 7 tháng 4 năm 1977 tại Nhà thờ Marble Collegiate ở New York. Họ có ba người con: hai con trai Donald Jr. (sinh ngày 31 tháng 12 năm 1977) và Eric (sinh ngày 6 tháng 1 năm 1984) và con gái Ivanka (sinh ngày 30 tháng 10 năm 1981). Ivana nhập quốc tịch Mỹ năm 1988 với Trump là người bảo lãnh. Trump được nhiều người biết đến với cái tên "The Donald", biệt danh được giới truyền thông hay dùng sau khi được Ivana sử dụng trong một lần xuất hiện trên Spy Magazine năm 1989. Tới đầu năm 1990, chuyện hôn nhân rạn nứt giữa Trump và Ivanna và việc Trump ngoại tình với diễn viên Marla Maples trong một thời gian dài đã được đưa tin khắp các báo lá cải. Họ tiến tới li dị vào năm 1991.
question_21
Kể tên một số trận chiến có ý nghĩa quan trọng mà quân đội Canada tham gia?
doc_21
Trong Đại khủng hoảng tại Canada vào đầu thập kỷ 1930, kinh tế bị suy thoái, khiến toàn quốc gặp cảnh gian khổ. Ba ngày sau khi Anh Quốc tuyên chiến với Đức Quốc xã trong Chiến tranh thế giới thứ hai, chính phủ Tự do của Thủ tướng William Lyon Mackenzie King tuyên chiến với Đức một cách độc lập. Các đơn vị lục quân Canada đầu tiên đến Anh Quốc vào tháng 12 năm 1939. Quân Canada đóng vai trò quan trọng trong nhiều trận chiến then chốt của đại chiến, gồm có Trận Dieppe năm 1942, Đồng Minh xâm chiếm Ý, đổ bộ Normandie, trận Normandie, và trận Scheldt vào năm 1944. Canada cung cấp nơi tị nạn cho quân chủ Hà Lan khi quốc gia này bị Đức chiếm đóng, và được người Hà Lan tín nhiệm vì có đóng góp lớn vào việc giải phóng quốc gia này khỏi Đức Quốc xã. Kinh tế Canada bùng nổ trong chiến tranh khi mà các ngành công nghiệp của quốc gia sản xuất các trang thiết bị quân sự cho Canada, Anh Quốc, Trung Quốc và Liên Xô. Mặc dù có một cuộc khủng hoảng tòng quân khác tại Québec vào năm 1944, song Canada kết thúc chiến tranh với một quân đội lớn và kinh tế mạnh.
doc_2492;;;;;doc_4837;;;;;doc_3199;;;;;doc_4948;;;;;doc_4955
Canada gắn bó chặt chẽ với Đế quốc Anh và Thịnh vượng chung, do vậy quốc gia này tham gia nhiều trong các nỗ lực quân sự của Anh Quốc trong Chiến tranh Boer lần thứ hai, Chiến tranh thế giới thứ nhất và Chiến tranh thế giới thứ hai. Kể từ đó, Canada chủ trương đa phương hóa, tiến hành các nỗ lực nhằm giải quyết các vấn đề toàn cầu bằng cách cộng tác với các quốc gia khác. Canada là một thành viên sáng lập của Liên Hiệp Quốc vào năm 1945 và của NATO vào năm 1949. Trong Chiến tranh Lạnh, Canada là một nước đóng góp lớn cho lực lượng của Liên Hiệp Quốc trong Chiến tranh Triều Tiên và cùng với Hoa Kỳ thành lập Bộ Tư lệnh phòng thủ hành không vũ trụ Bắc Mỹ NORAD nhằm hợp tác để phòng thủ chống lại các cuộc tấn công trên không tiềm tàng của Liên Xô.;;;;;Anh Quốc vẫn duy trì quyền kiểm soát trên lĩnh vực đối ngoại của Canada theo Đạo luật Liên minh, do vậy việc cường quốc này tuyên chiến vào năm 1914 tự động đưa Canada vào Chiến tranh thế giới thứ nhất. Các quân nhân tình nguyện được đưa đến Mặt trận phía Tây và sau đó trở thành một phần của Quân đoàn Canada. Quân đoàn đóng một vai trò quan trọng trong trận cao điểm Vimy và các hoạt động giao chiến khác trong cuộc chiến. Trong số xấp xỉ 625.000 người Canada phục vụ trong Chiến tranh thế giới thứ nhất, có khoảng 60.000 bị giết và 173.000 bị thương. Khủng hoảng Tòng quân năm 1917 nổ ra khi Thủ tướng Bảo thủ Robert Borden cho tiến hành nghĩa vụ quân sự cưỡng bách bất chấp sự phản đối dữ dội của người Québec Pháp ngữ. Cuộc khủng hoảng này, cùng với các tranh chấp về các trường tiếng Pháp bên ngoài Quebec, tạo ra hố ngăn cách sâu sắc với người Canada Pháp ngữ và chia rẽ tạm thời Đảng Tự do. Chính phủ Liên minh của Robert Borden bao gồm cả nhiều người Tự do Anh ngữ, đã giành được chiến thắng lớn trong cuộc bầu cử năm 1917. Năm 1919, Canada gia nhập Hội Quốc Liên với tư cách độc lập với Anh, Quy chế Westminster 1931 xác nhận tình trạng độc lập của Canada.;;;;;Ngoài vấn đề chủ quyền của Québec, một số cuộc khủng hoảng làm náo động xã hội Canada vào cuối thập niên 1980 và đầu thập niên 1960. Chúng gồm có Chuyến bay 182 của Air India phát nổ vào năm 1985, vụ mưu sát hàng loạt lớn nhất trong lịch sử Canada; Thảm sát trường Bách khoa École vào năm 1989, một vụ xả súng đại học với mục tiêu là các nữ sinh; và Khủng hoảng Oka năm 1990, là diễn biến đầu tiên trong một loạt các xung đột bạo lực giữa chính phủ và các nhóm Thổ dân. Canada tham gia trong Chiến tranh Vùng Vịnh năm 1990 với vị thế là một phần trong lực lượng liên minh do Hoa Kỳ lãnh đạo, và hoạt động trong một số sứ mệnh gìn giữ hòa bình trong thập kỷ 1990, bao gồm sứ mệnh UNPROFOR tại Nam Tư cũ. Canada cử quân đến Afghanistan vào năm 2001, song từ chối tham gia cuộc xâm chiếm Iraq do Hoa Kỳ dẫn đầu vào năm 2003. Năm 2009, kinh tế Canada chịu tổn thất trong Đại suy thoái toàn cầu, song đã phục hồi một cách khiêm tốn. Năm 2011, các lực lượng của Canada tham gia vào cuộc can thiệp do NATO dẫn đầu trong Nội chiến Libya.;;;;;Canada và Hoa Kỳ chia sẻ đường biên giới không được bảo vệ dài nhất thế giới, hợp tác trong các chiến dịch và tập luyện quân sự, và là đối tác thương mại lớn nhất của nhau. Canada tuy vậy vẫn có một chính sách đối ngoại độc lập, đáng chú ý nhất là việc duy trì quan hệ đầy đủ với Cuba và từ chối chính thức tham gia trong Cuộc xâm chiếm Iraq năm 2003. Canada cũng duy trì các quan hệ mang tính lịch sử với Anh Quốc và Pháp và với các cựu thuộc địa của Anh và Pháp thông qua tư cách viên của minh trong Thịnh vượng chung các quốc gia và Cộng đồng Pháp ngữ. Canada có quan hệ tích cực với Hà Lan, một phần là do Canada từng góp phần giải phóng Hà Lan trong Chiến tranh thế giới thứ hai.;;;;;Vào tháng 2 năm 2007, Canada, Ý, Anh Quốc, Na Uy, và Nga tuyên bố cam kết chung của họ cho một dự án 1,5 tỷ đô la Mỹ nhằm giúp đỡ phát triển vắc-xin cho các quốc gia đang phát triển, và kêu gọi các quốc gia khác cùng tham gia. Vào tháng 8 năm 2007, tuyên bố chủ quyền đối với vùng Bắc Cực của Canada bị thử thách sau khi Nga tiến hành chiếm thám hiểm dưới nước đến Bắc Cực; kể từ năm 1925 thì Canada nhìn nhận khu vực này thuộc chủ quyền lãnh thổ của mình. Từ tháng 3 đến tháng 10 năm 2011, quân đội Canada tham gia vào cuộc can thiệp của NATO do Liên Hiệp Quốc ủy thác trong Nội chiến Libya.
question_22
Nghề thêu ren chiếm tỉ trọng bao nhiêu phần trăm trong cơ cấu lao động của xã Thanh Hà?
doc_22
Xã Thanh Hà (Thanh Liêm) nằm cạnh quốc lộ 1A, có 2.626 hộ với 9.699 người ở 7 thôn. Trong số 2.626 hộ thì có 2.002 hộ làm nghề thêu ren chiếm 76,2%, với 5.740 lao động tham gia, trong số này lao động chính có 2.684 người, lao động phụ là 2.896 người và lao động thuê là 160 người. Những con số trên chứng tỏ Thanh Hà là xã mà số hộ và số lao động làm nghề thêu ren nhiều nhất tỉnh. Sau khi miền Bắc được hoàn toàn giải phóng, làng nghề mở rộng về quy mô và thu hút hàng ngàn lao động, nghề thêu ren được truyền dạy rộng rãi, sản xuất không ngừng phát triển. Từ năm 1975 đến năm 1989 là thời gian thịnh vượng của làng nghề: sản phẩm đa dạng phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng trong nước, xuất khẩu sang Liên Xô và các nước Đông Âu. Từ năm 1990 đến nay là thời kỳ chuyển đổi cơ chế, làng thêu ren Thanh Hà đã trải qua bao trăn trở tìm cho mình hướng đi để tồn tại và phát triển trong điều kiện thị trường truyền thống bị thu hẹp và thị trường nước ngoài lại đòi hỏi rất khắt khe về chất lượng và thời gian.
doc_594;;;;;doc_2254;;;;;doc_9503;;;;;doc_6268;;;;;doc_1997
Để phát triển làng nghề, người Thanh Hà đã đầu tư cho việc tiếp thị như mở nhiều cửa hàng quảng cáo ở khắp mọi miền của đất nước, không ngừng nâng cao chất lượng hàng, cải tiến mẫu mã, đáp ứng yêu cầu của thị trường khó tính. Ở Thanh Hà, hiện nay, hầu hết các hộ đều làm vệ tinh cho các doanh nghiệp. Huyện Thanh Liêm hiện có 2 công ty TNHH và 3 doanh nghiệp tư nhân với tổng số vốn đầu tư 2,2 tỷ đồng cho sản xuất kinh doanh hàng thêu ren, đã tạo đầu mối và việc làm cho hàng ngàn lao động, trong đó có làng thêu ren Thanh Hà. Làng thêu Thanh Hà không gặp khó khăn về nguồn nguyên liệu. Vải, chỉ thêu có rất sẵn trên thị trường. Tuy nhiên, họ lại gặp khó khăn về vốn. Đó là vốn để mua nguyên liệu và vốn tồn đọng trong quá trình lưu thông. Theo kết quả điều tra của Sở Công nghiệp thì toàn bộ tài sản cố định gồm toàn thể cơ sở vật chất khoảng 30 triệu đồng/hộ; vốn lưu động bình quân 250.000đ/hộ.;;;;;Để tạo mẫu đảm bảo chất lượng, chỉ có một số hộ có kỹ thuật, có vốn đảm nhiệm công đoạn này và làm dịch vụ cho cả làng nghề. Khâu kiểm tra, đóng gói và tiêu thụ sản phẩm là thuộc về các doanh nghiệp (đảm nhận bao tiêu toàn bộ sản phẩm của làng nghề). Người lao động chỉ thực hiện một công đoạn: thêu. Nghề thêu ren có đặc điểm: nguyên liệu tiêu hao ít, nhưng lao động kết tinh trong sản phẩm nhiều vì thế giá trị sản phẩm lớn. Tuy nhiên, giá cả của sản phẩm thêu lại phụ thuộc vào hai yếu tố: nguyên liệu và kiểu dáng, mẫu mã của sản phẩm đó có được khách hàng ưa chuộng hay không. Hiện nay những mặt hàng đang được ưa chuộng là: ga trải giường, gối, khăn trải bàn…;;;;;Mức thất nghiệp thấp (31 người vào năm 2013, so với 50 người vào năm 2004 và 342 người vào năm 1998). Việc làm bị chi phối bởi khu vực công, số lượng vị trí trong chính phủ đã giảm từ 1.142 năm 2006 xuống chỉ còn hơn 800 vào năm 2013. Khu vực tư nhân của St Helena sử dụng khoảng 45% lực lượng lao động có việc làm và chủ yếu là các doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ với 218 doanh nghiệp tư nhân tuyển dụng 886 vào năm 2004.;;;;;Tính đến năm 2010[cập nhật], Bern có tỷ lệ thất nghiệp là 3,3%. Tính đến năm 2008[cập nhật], có 259 người làm việc trong khu vực kinh tế sơ cấp và khoảng 59 doanh nghiệp tham gia vào lĩnh vực này. 16.413 người làm việc trong lĩnh vực thứ cấp và có 950 doanh nghiệp trong lĩnh vực này. 135.973 người được tuyển dụng trong khu vực cấp 3, với 7.654 doanh nghiệp trong lĩnh vực này.;;;;;Trước năm 1949, ở Hà Nam có rất ít hoạt động sản xuất công nghiệp tại Hà Nam, từ năm 1950 trở đi thì quá trình công nghiệp hóa trên địa bàn đã diễn ra nhanh chóng và trên một phạm vi rộng lớn. Ban đầu, nền công nghiệp của tỉnh Hà Nam chủ yếu dựa vào tài nguyên than đá phong phú ở phía tây bắc. Sau đó, sản xuất công nghiệp phát triển một cách toàn diện hơn, với các ngành kỹ thuật, luyện kim loại màu, và dệt làm trụ cột. Năm 2011, giá trị công nghiệp của Hà Nam đạt 1440,170 tỉ NDT, tỷ trọng giữa hai ngành công nghiệp nhẹ và công nghiệp nặng là 30,6:69,4. Mười ngành nhỏ có quy mô đứng đầu trong nền công nghiệp Hà Nam là: sản phẩm khoáng sản phi kim, chế biến thực phẩm, gia công luyện và cán kim màu, khai thác và tuyển than đá, sản xuất và cung ứng điện-nhiệt, gia công luyện và cán kim loại đen, chế tạo nguyên liệu hóa học và chế phẩm hóa học, sản xuất thiết bị thông dụng, sản xuất thiết bị chuyên dụng, dệt.
question_23
Nhật Bản có bao nhiêu khu vực đã trở thành di sản thế giới?
doc_23
Nhật Bản có chín vùng sinh thái rừng để phản ánh rõ khí hậu và địa lý của cả đảo.Chúng bao gồm từ rừng ẩm lá rộng cận nhiệt ở Ryūkyū và quần đảo Ogasawara đến các khu rừng hỗn hợp lá rộng ôn đới trong nền khí hậu nhẹ của các đảo chính, và đến với các rừng lá kim ôn đới ở những phần lãnh thổ lạnh lẽo thuộc những hòn đảo miền bắc. Nhật Bản có hơn 90.000 loài động vật hoang dã, trong đó có gấu nâu, khỉ Nhật Bản, lửng chó Nhật Bản và kỳ giông khổng lồ Nhật Bản. Nước này đã thành lập một mạng lưới lớn các vườn quốc gia nhằm bảo vệ các quần động vật và thực vật quan trọng cũng như 37 vùng đất ngập nước ngập Ramsar. Bốn địa điểm đã được UNESCO công nhận là di sản thế giới vì có giá trị nổi bật về mặt thiên nhiên.
doc_2543;;;;;doc_3832;;;;;doc_1669;;;;;doc_1599;;;;;doc_2010
Nhật Bản là một quần đảo núi lửa với khoảng 6.852 đảo, chủ yếu nằm trong khu vực ôn đới với bốn mùa rõ rệt, nhưng có khí hậu khác biệt dọc theo chiều dài đất nước. Bốn hòn đảo lớn nhất là Honshu, Hokkaido, Kyushu và Shikoku chiếm khoảng 97% diện tích đất liền của nước này, nhưng phần nhiều chỉ là rừng và núi với nguồn tài nguyên khoáng sản rất hạn chế. Quần đảo được chia thành 47 tỉnh thuộc 8 vùng địa lý. Dân số Nhật Bản vào khoảng 126 triệu người, đứng thứ mười thế giới, tập trung chủ yếu ở các vùng đồng bằng nhỏ hẹp ven biển. Người Nhật chiếm khoảng 98,5% tổng dân số đất nước. Gần 9,1 triệu cư dân sống tại trung tâm Tokyo,(thủ đô không chính thức của đất nước), cũng là thành phố đông dân thứ tám trong khối OECD và là thành phố toàn cầu đứng hàng thứ tư thế giới. Vùng thủ đô Tokyo, bao gồm thủ đô và một vài tỉnh xung quanh nó, là đại đô thị lớn nhất thế giới với hơn 35 triệu dân và có nền kinh tế đô thị phát triển nhất hành tinh.;;;;;Nhật Bản là một xứ sở có phong cảnh được coi là một trong những nơi đẹp nhất thế giới, được đánh giá là một trong 10 đất nước tuyệt vời nhất trên thế giới (năm 2010) và cũng là đại diện châu Á duy nhất có mặt trong danh sách này với bốn mùa thay đổi rõ rệt: mùa xuân với hoa anh đào nở dần từ nam lên bắc, mùa hè cây cối xanh mướt, mùa thu lá phong (momiji) đỏ thắm từ bắc xuống nam, mùa đông tuyết trắng tinh khôi. Núi Phú Sĩ (Fujisan) là ngọn núi cao nhất Nhật Bản, nằm giữa đồng bằng, lại có tuyết bao phủ nơi phần đỉnh núi, là nguồn cảm hứng của rất nhiều văn sĩ và thi sĩ cũng như của các văn nghệ sĩ, trong đó có các nhiếp ảnh gia và họa sĩ khắp bốn phương.;;;;;Văn hóa Nhật Bản là một trong những nền văn hóa đặc sắc nhất thế giới, văn hóa Nhật đã phát triển mạnh mẽ qua thời gian từ thời kỳ Jōmon cho tới thời kỳ đương thời, mà trong đó chịu ảnh hưởng cả từ văn hóa châu Á, châu Âu và Bắc Mỹ. Nghệ thuật truyền thống Nhật Bản bao gồm các ngành nghề thủ công như ikebana, origami, ukiyo-e, đồ chơi, đồ gỗ sơn mài và gốm sứ; các môn nghệ thuật biểu diễn như bunraku, nhảy, kabuki, nō, rakugo, ngoài ra còn phải kể đến những nét đặc sắc truyền thống khác như trà đạo, Budō, Kimono, kiến trúc, vườn Nhật và cả gươm Nhật. Ẩm thực Nhật Bản hiện nay là một trong những nền ẩm thực nổi tiếng nhất trên thế giới.;;;;;Đơn vị phân vùng hành chính cấp 1 của Nhật Bản là đô đạo phủ huyện, cả nước được chia thành 1 đô, 1 đạo, 2 phủ, 43 huyện. Các đô thị lớn tùy theo số dân và ảnh hưởng mà được chỉ định làm thành phố chính lệnh chỉ định, thành phố trung tâm, thành phố đặc biệt. Phân vùng hành chính dưới đô đạo phủ huyện là thị định thôn, ngoài ra còn có các đơn vị như quận, chi sảnh, khu, đặc biệt khu,… Căn cứ vào địa lý và nhân văn, đặc trưng kinh tế, Nhật Bản thường được chia thành 8 khu vực lớn, bao gồm: vùng Hokkaidō, vùng Đông Bắc, vùng Kantō, vùng Trung Bộ, vùng Kinki (còn gọi là vùng Kansai), vùng Chūgoku, vùng Shikoku và vùng Kyushu-Okinawa.;;;;;Nhật Bản là nước thành viên của Liên Hợp Quốc, khối APEC, các nhóm G7, G8 và G20, đồng thời được xem như một cường quốc. Quốc gia này có nền kinh tế đứng hạng ba thế giới theo GDP danh nghĩa và hạng tư thế giới theo sức mua tương đương. Nó cũng đứng hạng tư hành tinh cả về kim ngạch nhập khẩu lẫn xuất khẩu. Mặc dù Nhật Bản đã chính thức từ bỏ quyền tuyên chiến, nước này vẫn sở hữu một lực lượng quân đội hiện đại có ngân sách cao thứ tám thế giới, được huy động với mục đích tự vệ và gìn giữ hòa bình. Nhật Bản là một nước phát triển với mức sống và Chỉ số phát triển con người rất cao, trong đó người dân được hưởng tuổi thọ cao nhất thế giới, đứng hạng ba trong số những quốc gia có tỉ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh thấp nhất thế giới, và vinh dự có số người đoạt giải Nobel nhiều nhất châu Á. Nhật Bản là quốc gia dẫn đầu về Chỉ số thương hiệu quốc gia, hạng sáu trong Báo cáo cạnh tranh toàn cầu 2015–2016 và giữ vị trí cao nhất ở châu Á về Chỉ số hòa bình toàn cầu. Nhật Bản cũng là quốc gia châu Á đầu tiên đăng cai tổ chức Thế vận hội Mùa hè và Mùa Đông. Tuy nhiên, xã hội Nhật Bản hiện cũng đang phải đối mặt với nhiều vấn đề, tiêu biểu là áp lực cuộc sống cao, nạn tự sát, phân hóa thành thị - nông thôn sâu sắc, tỷ lệ thanh niên kết hôn và sinh đẻ giảm mạnh khiến tình trạng lão hóa dân số đang diễn ra ngày càng nghiêm trọng.
question_24
Theo chế độ nhân tài của dân chủ điện tử, những người khác có thể được trao quyền dựa trên thứ bậc của những ai?
doc_24
Internet và các công nghệ thông tin khác cũng có liên quan đến dân chủ trực tiếp được gọi là dân chủ điện tử '(e-democracy). Hay chính xác hơn, khái niệm quản trị nguồn mở áp dụng nguyên tắc của phong trào phần mềm miễn phí cho việc quản trị của con người, cho phép toàn bộ quần chúng nhân dân tham gia vào chính quyền một cách trực tiếp theo ước muốn của họ. Sự phát triển này vi phạm khái niệm truyền thống của dân chủ, bởi vì nó không cho phép mọi người có sự đại diện như nhau. Chế độ nhân tài có thể là sự bổ sung thích hợp một cách dân chủ. Ở đó, những người ban hành luật được trao quyền dựa trên thứ bậc của họ do những người khác.
doc_8202;;;;;doc_3206;;;;;doc_4960;;;;;doc_294;;;;;doc_4556
Ưu ái họ hàng (gia đình trị) hoặc bạn bè thân thiết (cronyism) của quan chức là một hình thức thu lợi riêng bất chính. Điều này có thể được kết hợp với hành vi hối lộ, ví dụ như yêu cầu doanh nghiệp phải tuyển dụng người thân của một cơ quan quản lý chính thức có ảnh hưởng đến doanh nghiệp. Ví dụ cực đoan nhất là khi toàn bộ nhà nước được kế thừa, như ở Triều Tiên hay Syria. Một hình thức thấp hơn có thể là ở miền Nam Hoa Kỳ với Good ol' Boys, nơi phụ nữ và người thiểu số bị loại trừ. Một hình thức thân hữu nhẹ nhàng hơn là "mạng lưới cậu bé già", trong đó những người được bổ nhiệm vào các vị trí chính thức chỉ được lựa chọn từ một mạng xã hội khép kín và độc quyền - chẳng hạn như cựu sinh viên của các trường đại học cụ thể - thay vì bổ nhiệm ứng viên có năng lực nhất.;;;;;Các Phó Thủ tướng do Thủ tướng đề nghị Quốc hội phê chuẩn, là người giúp việc cho Thủ tướng và được Thủ tướng ủy nhiệm khi Thủ tướng vắng mặt. Các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ do Thủ tướng đề nghị Quốc hội phê chuẩn, đảm nhiệm chức năng quản lý Nhà nước đối với ngành hoặc lĩnh vực công tác được giao. Việc tổ chức nhân sự cấp cao này đều thông qua Bộ Chính trị và các viên chức này đều do Bộ Chính trị quản lý. Các Thứ trưởng và chức vụ tương đương do Thủ tướng bổ nhiệm, nhưng Ban Bí thư thông qua và quản lý.;;;;;Khi mà nguyên tắc về sự bình đẳng của các công dân trước pháp luật thời cộng hòa bị lu mờ dần, các đặc quyền mang tính biểu tượng và xã hội của tầng lớp thượng lưu dẫn sự phân cấp một cách không chính thức ở bên trong xã hội La Mã thành hai tầng lớp đó là những người nắm giữ quyền cao chức trọng (honestiores) và những người thuộc tầng lớp thấp kém(humiliores). Nói chung, honestiores là những thành viên của ba "giai cấp" trên, cùng với một số sĩ quan quân đội. Việc cấp quyền công dân cho tất cả cư dân vào năm 212 dường như đã thúc đẩy sự cạnh tranh giữa các tầng lớp thượng lưu vốn có địa vị cao hơn hẳn các công dân được xác nhân khác, đặc biệt là trong hệ thống tư pháp;;;;;Hiến pháp quy định Tổng thống là người nắm quyền cao nhất quốc gia sau Lãnh tụ tối cao. Tổng thống được bầu theo phổ thông đầu phiếu với nhiệm kỳ bốn năm. Các ứng cử viên tổng thống phải được Hội đồng bảo vệ Cách mạng phê chuẩn trước khi được ra tranh cử. Tổng thống chịu trách nhiệm việc áp dụng Hiến pháp và thực hiện các quyền hành pháp, trừ những việc liên quan trực tiếp tới Lãnh tụ tối cao. Tổng thống chỉ định và giám sát Hội đồng bộ trường, phối hợp các quyết định của chính phủ, và lựa chọn các chính sách chính phủ để đưa ra trước nhánh lập pháp. Tám phó tổng thống và nội các gồm 21 bộ trưởng phục vụ dưới quyền Tổng thống, tất cả các viên chức này đều phải được nhánh lập pháp thông qua. Không giống như các quốc gia khác, nhánh hành pháp ở Iran không quản lý các lực lượng vũ trang. Dù Tổng thống chỉ định Bộ trưởng Tình báo và Quốc phòng, thông thường Tổng thống phải tham khảo ý kiến của Lãnh tụ tối cao trước khi đưa ra quyết định lựa chọn hai chức vụ đó để nhánh lập pháp bỏ phiếu tín nhiệm.;;;;;Theo như cách phân loại về các nhóm xã hội, cho thấy rằng hầu như tất cả chúng đều rơi vào một trong hai dạng là nhóm sơ cấp hay nhóm thứ cấp. Thực tế, có một số nhóm có những đặc điểm của một tổ chức xã hội, và những đặc điểm cơ cấu của một nhóm sơ cấp - Đó chính là nhóm uy quyền. Các loại nhóm này do một thủ lĩnh đầy uy quyền lãnh đạo và dẫn dắt. Thủ lĩnh có một khả năng thu hút, lôi cuốn quần chúng một cách đặc biệt (charisma). Người thủ lĩnh đó được coi là có những năng lực vượt trội hoặc ít ra là khác thường. Các thành viên trong nhóm tôn sùng thủ lĩnh và sẵn sàng hiến dâng phần lớn sức lực của mình cho thủ lĩnh. Thí dụ: Chúa Giê Su và các môn đồ của chúa; Phật Thích Ca và các môn đồ - nhóm uy quyền đặc trưng. Nhóm uy quyền gần giống với hiện tượng chính trị phổ biến ở nhiều nước trên thế giới - sùng bái cá nhân. Tuy nhiên, nhóm này không hoàn toàn trùng lập, bởi vì một cá nhân nào đó có thể được sùng bái tột đỉnh nhưng cá nhân đó vẫn không được coi là năng lực siêu nhân, hoặc những người không đồng tình, không tán thành với thủ lĩnh này có thể hợp thành một nhóm đối lập với số lượng đáng kể. Đặc điểm quan trọng của nhóm uy quyền là nhóm này dễ bị biến đổi và phụ thuộc nhiều vào thủ lĩnh của nhóm. Thông thường, thủ lĩnh củ nhóm thường tự giải quyết các vấn đề mà không cần tham khảo ý kiến của các thành viên trong nhóm. Vị thế và vai trò của các thành viên trong nhóm không được xác lập theo những quy tắc khách quan, mà theo mối quan hệ với thủ lĩnh. Sự ràng buộc giữa thủ lĩnh với các thành viên của nhóm chủ yếu là sự ràng buộc cá nhân chứ không tuân theo quy tắc hay theo luật pháp chính thức như các tổ chức xã hội thông thường. Do vậy, những ràng buộc này kém bền vững, đặc biệt nó càng kém bền vững xét từ góc độ của thủ lĩnh.
question_25
Chiều dài của ếch giun trưởng thành nằm trong khoảng nào?
doc_25
Bộ Gymnophiona (tiếng Hy Lạp gymnos nghĩa là "trần trụi, khỏa thân" và ophis nghĩa là "rắn") hay Apoda (tiếng Latin an- nghĩa là "thiếu" và tiếng Hy Lạp poda nghĩa là "chân") gồm các loài ếch giun. Đây là những động vật có thân dài, không chân có hình dạng giống rắn hay giun. Chiều dài cá thể trưởng thành từ 8 tới 75 xentimét (3 tới 30 inch) với ngoại lệ là Ếch giun Thomson (Caecilia thompsoni) có thể đạt chiều dài 150 xentimét (4,9 foot). Ếch giun có một đôi mắt thô sơ được da phủ lên, đôi mắt này có thể chỉ phân biệt được sự khác biệt về cường độ ánh sáng. Nó cũng có một đôi tua ngắn gần mắt có chức năng về xúc giác và khứu giác. Hầu hết ếch giun sống trong các hang dưới đất ẩm, nhưng cũng có một số sống thủy sinh. Hầu hết các loài đẻ con trong hang và khi trứng nở ra chúng đưa ấu trùng đến vực nước. Số khác ấp trứng và ấu trùng trải qua quá trình biến thái trước khi trứng nở. Số ít loài nuôi con ấu trùng bằng các chất tiết khi chúng còn ở trong vòi trứng. Ếch giun sống ở vùng nhiệt đới châu Phi, châu Á, Trung và Nam Mỹ.
doc_3687;;;;;doc_1123;;;;;doc_4595;;;;;doc_4599;;;;;doc_2935
Động vật lưỡng cư (và cả động vật có xương sống) nhỏ nhất trên thế giới là loài Paedophryne amauensis trong họ microhylidae ở New Guinea được phát hiện năm 2012. Nó có chiều dài trung bình 7,7 mm (0,30 in) và nó thuộc chi có đến 4 trong số 10 loài ếch nhỏ nhát thế giới. Loài động vật lưỡng cư lớn nhất còn sinh tồn là Andrias davidianus, với chiều dài 1,8 m (5 ft 11 in) nhưng loài này lại nhỏ hơn nhiều so với loài đã tuyệt chủng trong chi Prionosuchus với chiều dài lên đến 9 m (30 ft). Loài tuyệt chủng này giống như cá sấu sống cách nay 270 triệu năm từ Permi giữa ở Brazil. Loài ếch lớn nhất là ếch Goliath châu Phi (Conraua goliath), với chiều dài có thể lên đến 32 cm (13 in) và cân nặng 3 kg (6,6 lb).;;;;;Kiến có kích thước thay đổi từ 0,75 đến 52 milimét (0,030 đến 2,0 in), loài lớn nhất là hóa thạch của Titanomyrma giganteum, kiến chúa có chiều dài 6 xentimét (2,4 in) với sải cách 15 xentimét (5,9 in). Kiến có nhiều màu sắc khác nhau, hầu hết chúng có màu đỏ hoặc đen, nhưng một vài loài có màu lục và các loài ở vùng nhiệt đới có ánh kim loại. Hơn 15.000 loài kiến hiện đã được phát hiện (với ước tính vào khoảng 22.000 loài) (xem danh sách các chi kiến), trong đó đa dạng hóa lớn nhất là ở các vùng nhiệt đới. Các nghiên cứu về phân loại học vẫn đang tiến hành để giải quyết những tồn tại liên quan đến họ kiến. Cơ sở dữ liệu các loài kiến như "AntBase" và "Hymenoptera Name Server" giúp theo dõi các loài kiến đã biết và các loài mới được miêu tả. Việc dễ dàng nghiên cứu các loài kiến như là một loài chỉ thị trong các hệ sinh thái là một thuận lợi cho nghiên cứu đa dạng sinh học.;;;;;Ba bộ hiện đại của động vật lưỡng cư là Anura (ếch và cóc), Caudata / Urodela (kỳ giông), và Gymnophiona / Apoda (bộ không chân). Số lượng các loài động vật lưỡng cư được biết đến là khoảng 7.000, trong đó gần 90% là các loài ếch nhái. Các động vật lưỡng cư nhỏ nhất (và có xương sống) trên thế giới là loài ếch ở New Guinea (Paedophryne amauensis) với chiều dài chỉ 7,7 mm (0,30 inch). Các động vật lưỡng cư còn tồn tại lớn nhất là kỳ giông khổng lồ Trung Quốc (Andrias davidianus), dài đến 1,8 m (5 ft 11 inch), nhưng vẫn còn rất nhỏ so với loài tuyệt chủng Prionosuchus ở kỷ Permi tại Brazil, dài 9 m (30 ft). Các nghiên cứu về động vật lưỡng cư được gọi là batrachology, trong khi các nghiên cứu của cả hai loài bò sát và lưỡng cư được gọi là herpetology.;;;;;Bộ Anura (từ tiếng Hy Lạp Cổ đại a(n)- nghĩa là "thiếu" và oura nghĩa là "đuôi") gồm có ếch, nhái và cóc. Chúng thường có chân sau rất dài, chân trước ngắn hơn, ngón chân có màng không móng, không có đuôi, mắt lớn và da có các tuyến nhầy. Các thành viên trong bộ có da trơn được gọi là ếch, trong khi các thành viên có da sần được biết tới như cóc. Quy tắc này không được dùng trong phân loại và cũng có nhiều ngoại lệ. Thành viên trong họ Bufonidae được gọi là "cóc thực sự". Kích thước của bộ không đuôi từ ếch Goliath (Conraua goliath) dài tới 30 xentimét (12 in) của Tây Phi đến Paedophryne amauensis chỉ dài 7,7 milimét (0,30 in)- sống ở Papua New Guinea được mô tả năm 2012, cũng là động vật có xương sống nhỏ nhất được biết đến. Mặc dù đa số các loài sống cả dưới nước và đất ẩm, một số chuyên biệt hóa để sống trên cây hay trong sa mạc. Bộ này được tìm thấy toàn thế giới trừ vùng cực.;;;;;Con người đã tìm thấy năm loài moi lân, những sinh vật giáp xác nhỏ bơi tự do, ở Nam Đại Dương. Moi lân Nam Cực (Euphausia superba) là một trong số những loài động vật dồi dào nhất trên Trái Đất với tổng trọng lượng (sinh khối) cỡ khoảng 500 triệu tấn. Mỗi cá thể của loài này dài 6 cm (2,4 in) và nặng 1 gram (0,035 oz). Những bầy moi lân với mật độ 30.000 cá thể trên một m3 (35 ft m3) có thể trải dài hàng km và làm nước biển chuyển màu đỏ. Ban ngày chúng thường ở dưới sâu, tới ban đêm thì ngoi lên để ăn phiêu sinh vật. Sự tồn vong của rất nhiều loài động vật lớn phụ thuộc vào moi lân. Vào mùa đông khi mà thức ăn trở nên khan hiếm, moi lân Nam Cực trưởng thành có thể quay trở lại giai đoạn chưa trưởng thành, dùng chính cơ thể bản thân làm nguồn dinh dưỡng.
question_26
Vimara Peres đã thành lập một trong các thành phố đầu tiên vào thời gian này với tên gọi là gì?
doc_26
Vímara Peres tổ chức khu vực ông giải phóng từ người Moor, nâng vị thế của nó thành một bá quốc với tên gọi Bồ Đào Nha (Portugal) theo tên thành phố cảng lớn nhất trong vùng—Portus Cale' hay Porto ngày nay. Một trong các thành phố đầu tiên được Vimara Peres thành lập vào thời gian này là Vimaranes, nay gọi là Guimarães— "nơi khai sinh quốc gia Bồ Đào Nha" hoặc "thành phố cội nguồn" (Cidade Berço trong tiếng Bồ Đào Nha). Năm 868, Alfonso III phong tước cho Vímara Peres là Bá tước Portus Cale (Bồ Đào Nha) thứ nhất. Khu vực được gọi là Portucale, Portugale, và đồng thời là Portugália—Bá quốc Bồ Đào Nha.
doc_8825;;;;;doc_7512;;;;;doc_1639;;;;;doc_3355;;;;;doc_1887
Năm 1562 Francisco de Ibarra đứng đầu một cuộc thám hiểm cá nhân để tìm kiếm các thành phố thần thoại Cibola và Quivira; anh ấy đã đi qua bang Chihuahua ngày nay. Francisco de Ibarra được cho là người châu Âu đầu tiên nhìn thấy tàn tích của Paquime. Năm 1564 Rodrigo de Río de Loza, một trung úy dưới quyền Francisco de Ibarra, ở lại sau chuyến thám hiểm và tìm thấy vàng dưới chân núi Sierra Madre Occidental; ông thành lập thành phố Tây Ban Nha đầu tiên trong vùng, Santa Barbara vào năm 1567 bằng cách đưa 400 gia đình châu Âu đến định cư. Vài năm sau, vào năm 1569, các nhà truyền giáo dòng Phanxicô do Fray Agustín Rodríguez lãnh đạo từ bờ biển Sinaloa và bang Durango đã thành lập cơ sở truyền giáo đầu tiên ở bang này ở Valle de San Bartolomé (Valle de Allende ngày nay). Fray Agustín Rodríguez đã truyền giáo cho người dân bản địa cho đến năm 1581. Từ năm 1586 đến năm 1588, một trận dịch đã gây ra một cuộc di cư tạm thời của một lượng nhỏ dân số trong lãnh thổ Nueva Vizcaya.;;;;;và Camargo. Năm 1631, Juan Rangel de Biezma phát hiện ra một mỏ bạc dồi dào và sau đó đã thành lập San Jose del Parral gần địa điểm này. Parral vẫn là một trung tâm kinh tế và văn hóa quan trọng trong 300 năm tiếp theo. Vào ngày 8 tháng 12 năm 1659, Fray García de San Francisco thành lập phái đoàn Nuestra Señora de Guadalupe de Mansos del Paso del Río del Norte và thành lập thị trấn El Paso Del Norte (ngày nay là Ciudad Juárez) vào năm 1667. Xã hội Tây Ban Nha phát triển vào thời kỳ sau khu vực thay thế dân số thưa thớt của người dân bản địa. Sự vắng mặt của người hầu và công nhân đã rèn luyện tinh thần của người dân miền Bắc như những người tự lập, sáng tạo để bảo vệ di sản châu Âu của họ. Năm 1680, những người định cư từ Santa Fe, New Mexico tìm nơi ẩn náu ở El Paso Del Norte trong 12 năm sau khi chạy trốn các cuộc tấn công từ các bộ lạc Pueblo, nhưng quay trở lại Santa Fe vào năm 1692 sau khi Diego de Vargas chiếm lại thành phố và vùng phụ cận. Năm 1709, Antonio de Deza y Ulloa thành lập thủ phủ bang Thành phố Chihuahua; ngay sau đó, thành phố trở thành trụ sở của các văn phòng khai thác khu vực của vương quốc Tây Ban Nha được gọi là Real de Minas de San Francisco de Cuéllar để vinh danh Phó vương của Tân Tây Ban Nha, Francisco Fernández de la Cueva Enríquez, Công tước Alburquerque và Marquee of Cuéllar..;;;;;Quá trình thực dân hóa của người châu Âu đã bắt đầu ngay sau chuyến đi đầu tiên của Cristoforo Colombo vào năm 1492. Điểm định cư đầu tiên của người Tây Ban Nha tại châu Mỹ là La Isabela ở miền bắc Hispaniola. Đô thị này đã bị bỏ hoang sớm sau đó khi thành lập Santo Domingo de Guzmán năm 1496, thành phố cổ nhất do người châu Âu lập nên tại châu Mỹ. Nơi này trở thành căn cứ và từ đó chế độ quân chủ Tây Ban Nha quản lý các thuộc địa và mở rộng lãnh địa của mình. Trên lục địa, thành phố Panama bên bờ biển Thái Bình Dương được hình thành vào ngày 5 tháng 8 năm 1519, đóng một vai trò quan trọng, và là cơ sở để thực dân Tây Ban Nha xâm chiếm Nam Mỹ. Theo nhà nhân chủng học R. Thornton, sự lây lan của các bệnh dịch mới do người châu Âu và châu Phi đem tới đã giết chết nhiều cư dân tại châu Mỹ, Người bản địa và thực dân châu Âu xảy ra xung đột trên diện rộng, kết quả dẫn đến điều mà David Stannard gọi là một cuộc diệt chủng dân bản địa. Những người di cư châu Âu đầu tiên là một phần của nỗ lực cấp nhà nước nhằm thành lập các thuộc địa tại châu Mỹ. Những người di cư tiếp tục di cư đến châu Mỹ nhắm trốn tránh các cuộc đàn áp tôn giáo hoặc tìm kiếm cơ hội về kinh tế. Trong khi đó, hàng triệu người đã bị buộc đưa đến châu Mỹ với thân phận nô lệ, tù nhân hay lao động giao kèo.;;;;;Vào đầu thế kỷ V, các bộ lạc German là Suebi và Vandal (Silingi và Hasdingi) cùng với các đồng minh Sarmatia và Alan của họ tiến hành xâm chiếm bán đảo Iberia, và lập ra vương quốc của họ. Vương quốc của người Suebi thành lập trên các tĩnh cũ Gallaecia-Lusitania của La Mã. Dấu tích các khu định cư trong thế kỷ V của người Alan được phát hiện tại Alenquer, Coimbra và Lisbon. Vào năm 500, Vương quốc Visigoth được thành lập tại Iberia, có trung tâm tại Toledo nay thuộc Tây Ban Nha. Người Visigoth cuối cùng chinh phục thành công người Suebi và thành phố thủ đô Bracara (nay là Braga) vào năm 584–585. Lãnh thổ cũ của người Suebi trở thành tỉnh thứ sáu của Vương quốc Visigoth.;;;;;Sự phát triển của các thành phố dẫn tới cái được gọi là văn minh: đầu tiên Văn minh Sumerian ở hạ Lưỡng Hà (3500 TCN), tiếp theo là văn minh Ai Cập dọc sông Nin (3300 TCN) và nền văn minh Harappan ở lưu vực sông Ấn (3300 TCN). Đã có bằng chứng về những thành phố phức tạp với những mức độ xã hội cao và nền kinh tế phát triển. Tuy nhiên, những nền văn minh này khá khác biệt so với nhau bởi vì chúng hầu như có nguồn gốc độc lập. Chính ở thời gian này chữ viết và thương mại ở tầm rộng bắt đầu xuất hiện.
question_27
Bộ phim Gandhi (1982) được ai đạo diễn?
doc_27
Cách trình bày cuộc đời Gandhi nổi tiếng nhất có lẽ là bộ phim Gandhi (1982), được đạo diễn bởi Richard Attenborough và diễn viên Ben Kingsley (chính ông là người nửa phần Gujarati) trong vai chính. Tuy nhiên, bộ phim sau này bị chỉ trích bởi các học giả hậu thực dân. Họ luận cứ là bộ phim miêu tả Gandhi như một người dùng một tay đưa Ấn Độ đến sự độc lập và bỏ qua những nhân vật quan trọng khác (của cả hai nhóm, tinh duệ và cấp dưới) trong cuộc kháng chiến chống thực dân. Bộ phim The Making of the Mahatma, với Shyam Benegal đạo diễn và Rajat Kapur trong vai chính là một phim nói về 21 năm hoạt động của Gandhi tại Nam Phi.
doc_2489;;;;;doc_4118;;;;;doc_3110;;;;;doc_750;;;;;doc_2856
Mahātmā Gāndhī (2 tháng 10 năm 1869 – 30 tháng 1 năm 1948), nguyên tên đầy đủ là Mohandas Karamchand Gandhi (Devanagari: मोहनदास करमचन्द गांधी; Gujarati: મોહનદાસ કરમચંદ ગાંધી), là anh hùng dân tộc Ấn Độ, đã chỉ đạo cuộc kháng chiến chống chế độ thực dân của Đế quốc Anh và giành độc lập cho Ấn Độ với sự ủng hộ của hàng triệu người dân. Trong suốt cuộc đời, ông phản đối tất cả các hình thức khủng bố bạo lực và thay vào đó, chỉ áp dụng những tiêu chuẩn đạo đức tối cao. Nguyên lý bất bạo lực (còn gọi là bất hại) được ông đề xướng với tên Chấp trì chân lý (sa. satyāgraha) đã ảnh hưởng đến các phong trào đấu tranh bất bạo động trong và ngoài nước cho đến ngày nay, bao gồm phong trào Vận động Quyền công dân tại Hoa Kỳ (American Civil Rights Movement) được dẫn đầu bởi Martin Luther King, Jr..;;;;;Lớn lên với một bà mẹ sùng tín Tì-thấp-nô trong một môi trường được ảnh hưởng bởi những người theo Kì-na giáo tại Gujarat, Gandhi sớm cảm nhận nguyên tắc bất hại, ăn chay, phương pháp nhịn ăn để thanh lọc tâm thức cũng như sự khoan dung lẫn nhau của các tín đồ và tông phái. Ông sinh ra trong giai cấp thứ ba của xã hội Ấn là Phệ-xá (sa. vaiśya, giai cấp thương gia). Tháng 5 năm 1882, vào tuổi 13, ông cưới cô Kasturba Makharji, 14 tuổi, qua một sự mai mối. Hai ông bà sau có bốn con trai: Harilal Gandhi, sinh năm 1888; Manilal Gandhi, sinh năm 1892; Ramdas Gandhi; sinh năm 1897 và Devdas Gandhi, sinh năm 1900.;;;;;Bằng phương tiện bất hợp tác, Gandhi đã dẫn khởi nền độc lập Ấn Độ, đưa nước mình thoát sự đô hộ của Anh, khích lệ những người dân bị đô hộ khác phấn đấu cho nền độc lập của nước nhà và đả đảo triệt để Đế quốc Anh. Nguyên lý Chấp trì chân lý của Gandhi (có gốc tiếng Phạn: satya là "chân lý" và ā-graha là "nắm lấy", "nắm chặt"), cũng thường được dịch là "con đường chân thật", "truy tầm chân lý", đã cảm kích những người chủ trương hành động giành tự do như Đạt-lại Lạt-ma Đăng-châu Gia-mục-thố (Tenzin Gyatso), Lech Wałęsa, Stephen Biko, Aung San Suu Kyi và Nelson Mandela. Tuy nhiên, không phải tất cả những nhà lãnh đạo nêu trên đều theo nguyên tắc bất bạo lực và bất kháng cự khắt khe của Gandhi.;;;;;Ngày 30 tháng 1 năm 1948, trên đường đến một nơi thờ tụng, Gandhi bị bắn chết bởi Nathuram Godse tại tòa nhà Birla ở New Delhi. Godse là một môn đồ Ấn giáo cực đoan được người đương thời cho là có mối quan hệ với cánh cực hữu của các tổ chức Ấn Độ giáo như Hindu Mahasabha. Tổ chức này cho Gandhi là người chịu trách nhiệm cho việc chính quyền suy nhược vì đã khăng khăng bắt buộc nộp một khoản tiền cho Pakistan. Godse và người cùng âm mưu là Narayan Apte sau bị đưa ra tòa kết án, và bị xử tử ngày 15 tháng 11 năm 1949. Vinayak Damodar Savarkar, chủ tịch của Hindu Mahasabha, một nhà cách mạng và môn đồ Ấn giáo cực đoan bị tố cáo là người nắm đầu dây của mưu đồ này, nhưng sau được giải tội vì thiếu bằng chứng.;;;;;Gandhi và toàn bộ ban chấp hành Quốc hội bị bắt giam ngày 9 tháng 8 năm 1942 tại Mumbai bởi lực lượng quân đội nước Anh. Gandhi bị giam hai năm trong điện Aga Khan tại Pune. Tại đây, Gandhi trải qua những nỗi khổ lớn nhất của cuộc đời, đó là cái chết của vợ Kasturbai chỉ vài tháng sau khi Mahadev Desai - người thư ký được ông xem như con trai - chết vì bị nhồi máu cơ tim vào tuổi 42. Gandhi được thả trước khi chiến tranh chấm dứt vì sức khoẻ sa sút và một ca mổ cần thiết. Chính quyền Anh không muốn ông chết trong tù vì đây là một sự kiện có thể làm lòng căm phẫn của công chúng vượt khỏi tầm kiểm soát.
question_28
Cuối cùng Gandhi có nghe lời Patel và đồng nghiệp không?
doc_28
Những nhà lãnh đạo cố cựu của Quốc hội biết rõ Gandhi sẽ phản đối cực lực sự phân chia, nhưng họ cũng thừa biết là Quốc hội không tiến bước nếu không có sự thoả thuận của ông vì sự hỗ trợ trong đảng và toàn quốc dành cho Gandhi rất sâu rộng. Những người bạn đồng nghiệp thân cận nhất của ông đã chấp nhận việc phân chia như phương án giải đáp tốt nhất, và Sardar Patel cố gắng thuyết phục Gandhi đây là con đường duy nhất để tránh cuộc nội chiến. Gandhi cuối cùng xuôi lòng, tán đồng bước thực hiện này.
doc_4929;;;;;doc_2660;;;;;doc_991;;;;;doc_3708;;;;;doc_4966
Không có nhân cách hùng mạnh của Gandhi để kiềm chế các người đồng sự, đảng Quốc dân Đại hội bắt đầu tan vỡ, phân thành hai phái trong thời gian ông ngồi tù. Một phái được dẫn đầu bởi Chitta Ranjan Das và Motilal Nehru, ủng hộ việc đảng tham dự cơ quan lập pháp. Phái thứ hai được dẫn đầu mởi Chakravarti Rajagopalachari và Sardar Vallabhbhai Patel, phản đối việc này. Thêm vào đó là việc hợp tác giữa tín đồ Ấn Độ giáo và Hồi giáo mạnh mẽ trong những chiến dịch bất bạo động giờ đây sa sút. Gandhi tìm cách bắc cầu nối những điểm sai biệt này bằng nhiều phương tiện, bao gồm một cuộc tuyệt thực ba tuần mùa thu năm 1924, nhưng chỉ với kết quả hạn chế.;;;;;Một lần nữa, Gandhi bị bắt giam, và chính quyền tìm cách đập tan ảnh hưởng của ông bằng cách cách li hoàn toàn ông và các người đi theo ủng hộ. Chiến lược này không hiệu quả. Năm 1932, qua chiến dịch của B. R. Ambedkar - lãnh tụ của những người Dalit - chính quyền đảm bảo cho dân ti tiện Dalit những khu bầu cử riêng trong hiến pháp mới. Để phản đối việc này, Gandhi bắt đầu một cuộc tuyệt thực 6 ngày vào tháng 9 năm 1932, thành công trong việc buộc chính quyền tiếp nhận một hệ thống công bằng hơn qua sự thương lượng qua trung gian là ông Palwankar Baloo, vốn là một người Dalit chơi ngoạn bản cầu (cricketer), sau trở thành nhà chính trị. Đây cũng là khởi điểm của một chiến dịch mới của Gandhi với mục đích cải thiện cuộc sống của dân ti tiện, những người được ông gọi là Harijan, "con của trời Hari". Ngày 8 tháng 5 năm 1933, Gandhi bắt đầu một cuộc tuyệt thực 21 ngày để phản đối sự đàn áp của người Anh tại Ấn Độ. Mùa hè năm 1934, ông ba lần bị mưu hại không thành công.;;;;;Nhưng cuộc phát động có tổ chức đầu tiên của Gandhi xảy ra khi ông bị cảnh sát bắt giam với lý do gây bạo động và được yêu cầu rời địa phương này. Hàng trăm nghìn người biểu tình chống đối, vây quanh nhà giam, các trạm cảnh sát và quan tòa đòi trả tự do lại cho ông, một sự việc pháp tòa không muốn nhưng sau cũng phải thực hiện. Gandhi đứng đầu những cuộc biểu tình có tổ chức chống lại điền chủ, và họ, dưới sự lãnh đạo của chính quyền Anh, đã ký một hiệp định đảm bảo trả lương cao hơn và kiểm soát việc cho nông dân nghèo địa phương thuê đất, xoá bỏ việc tăng thuế cũng như việc thu thuế đến khi nạn đói chấm dứt. Chính trong thời gian kích động này, Gandhi được quần chúng tôn xưng là Bapu (người cha già dân tộc) và Mahātmā (tâm hồn vĩ đại). Tại Kheda, Patel đại diện các nông gia trong những cuộc thương lượng với chính quyền Anh với kết quả là họ tạm dừng thu thuế, đảm bảo trợ cấp. Tất cả những người bị tù đều được thả ra. Danh tiếng Gandhi từ đây như một ngọn lửa lan truyền khắp nước và ông đã trở thành năng lực ảnh hưởng nhất định trong phong trào chủ nghĩa dân tộc Ấn Độ.;;;;;Gandhi khuyên Quốc hội từ khước những đề nghị trong kế hoạch của phái đoàn chính phủ Anh năm 1946 vì ông rất nghi ngờ việc chia quyền với Liên minh Hồi giáo (Muslim League) cũng như sự phân chia và hạ giảm chính quyền trung ương có thể xảy ra. Gandhi cảnh cáo sự tập hợp được đề nghị dành cho những liên bang có số đông người Hồi. Tuy nhiên, đây là một trong những lần ít ỏi mà Quốc hội không nghe lời Gandhi (nhưng không đặt câu hỏi về quyền lãnh đạo) vì những người cầm đầu không những muốn lập chính quyền nhanh như có thể khi người Anh trao quyền lại, mà còn muốn ngăn cản Mohammed Ali Jinnah và Liên minh Hồi giáo đạt vị trí ngang hàng với đảng Quốc dân Đại hội, vốn có bản chất dân tộc và hiện thế hơn.;;;;;Gandhi có ảnh hưởng lớn trong các cộng đồng Ấn Độ giáo và Hồi giáo tại Ấn Độ. Tương truyền chỉ sự hiện diện của ông thôi cũng đủ chấm dứt các cuộc bạo động. Ông phản đối kịch liệt tất cả những kế hoạch phân chia Ấn Độ thành hai quốc gia độc lập. Liên minh Hồi giáo luận cứ rằng thiểu số người Hồi giáo sẽ bị bức áp một cách có hệ thống bởi phần lớn môn đồ Ấn Độ giáo trong một quốc gia Ấn Độ thống nhất, và một quốc gia riêng cho người theo Hồi giáo là một giải pháp hợp lý. Tuy nhiên, nhiều người Hồi giáo ở trung tâm Ấn Độ - vốn chung sống với người Ấn giáo, đạo Sikhs, Phật giáo, Kì-na giáo, đạo Parsi, Kitô giáo và đạo Do Thái - lại muốn một quốc gia Ấn Độ thống nhất. Nhưng Jinnah ra lệnh hỗ trợ rộng rãi các vùng Tây Punjab, Sindh, NWFP và Đông Bengal, tất cả những vùng đã hợp thành dạng Pakistan và Bangladesh ngày nay. Xứ sở mới của người theo Hồi giáo được kiến lập từ các vùng Đông và Tây Ấn Độ. Ban đầu nó được gọi là Tây và Đông Pakistan, và giờ đây tương ưng với Pakistan và Bangladesh. Ngày trao quyền chính trị, Gandhi không ăn mừng độc lập cùng với công chúng Ấn Độ mà chỉ đơn độc tại Kolkata, đau buồn về sự phân chia và tiếp tục công việc nhằm chấm dứt bạo lực.
README.md exists but content is empty. Use the Edit dataset card button to edit it.
Downloads last month
39
Edit dataset card