question_id
stringlengths
10
14
question
stringlengths
3
206
positive_context_id
stringlengths
5
8
positive_context
stringlengths
126
7.22k
hard_negative_ids
stringlengths
53
60
hard_negatives
stringlengths
1.12k
13k
question_0
Phát xít duy trì hệ thống gì?
doc_0
Ban đầu, người Đức được đón nhận như những người giải phóng bởi một số người gốc Ba Lan ở tây Ukraina, họ chỉ mới gia nhập Liên xô năm 1939. Tuy nhiên, sự cai trị hà khắc của người Đức tại các vùng lãnh thổ chiếm đóng cuối cùng đã khiến những người ủng hộ họ quay sang chống đối sự chiếm đóng. Các viên chức Phát xít tại các vùng lãnh thổ Liên xô đã bị chiếm đóng ít có nỗ lực để khai thác sự bất mãn của dân chúng trong lãnh thổ Ukraina với các chính sách kinh tế và chính trị của Stalin. Thay vào đó, Phát xít duy trì hệ thống trang trại tập thể, tiến hành một cách có hệ thống các chính sách diệt chủng chống lại người Do Thái, bắt những người khác tới làm việc tại Đức, và bắt đầu một cuộc di dân có hệ thống tại Ukraina để chuẩn bị cho việc thực dân hoá của Đức, gồm cả phong toả lương thực với Kiev[cần dẫn nguồn].
doc_1861;;;;;doc_4927;;;;;doc_4977;;;;;doc_284;;;;;doc_4657
Roosevelt đã chi phối nền chính trị Mỹ, không chỉ trong suốt 12 năm làm tổng thống mà còn nhiều thập niên về sau. Ông là nhạc trưởng của việc tái phối trí cử tri mà sau đó hình thành nên Hệ thống đảng phái lần thứ 5. Liên minh New Deal của ông đã qui tụ được các công đoàn lao động, những cỗ máy thành phố lớn (?), các sắc tộc da trắng, những người nhận trợ cấp xã hội, người Mỹ gốc châu Phi và những người nông dân da trắng ở miền Nam Hoa Kỳ. Ảnh hưởng ngoại giao của Roosevelt cũng vang dội trên sân khấu thế giới rất lâu sau khi ông qua đời trong đó phải kể đến Liên Hiệp Quốc và Hệ thống Bretton Woods là những thí dụ về sức ảnh hưởng rộng lớn của chính phủ ông. Roosevelt từ trước đến nay luôn được các học giả đánh giá là một trong số các tổng thống vĩ đại của Hoa Kỳ.;;;;;Giai cấp công nhân Đức cũng có thái độ tương tự. Để ngăn chặn chủ nghĩa xã hội, trong giai đoạn 1883-1889 Bismarck thiết lập chương trình an ninh xã hội rộng rãi, bao gồm bảo hiểm cho lương hưu, bệnh tật, tai nạn và thương tật. Dù cho Nhà nước tổ chức, nguồn kinh phí được lấy từ chủ và thợ. Việc này khiến cho giai cấp công nhân đánh giá cao an ninh xã hội hơn là tự do về chính trị, và xem Nhà nước là ân nhân của họ. Hitler sau này lợi dụng triệt để tâm lý ấy. Trong quyển Mein Kampf, ông viết: "Tôi đã nghiên cứu pháp chế chủ nghĩa xã hội của Bismarck." Nước Đức vươn lên, và hầu như toàn dân Đức đều nức lòng làm theo tất cả những gì mà nhà lãnh đạo đòi hỏi.;;;;;Chúng tôi đã tìm người trú ẩn nhiều lần tại lô cốt.... Nhưng nó luôn bị bịt kín.... Lô cốt có vô tuyến, vòi nước uống, máy phát điện riêng, và trông đủ vững chắc để chống lại các loại vũ khí thông thường. Nhưng tôi đã thôi tìm cách vào trong, bởi một đêm tôi đã nhận ra vài chiếc limousine đen chạy ra chạy vào qua cánh cổng ngầm ở phía sau. Tôi hỏi những người ở xung quanh và được trả lời rằng đó là một trung tâm chỉ huy. Sau khi xem xét nó kỹ càng hơn, tôi đã cho rằng có thể nó là căn cứ điều hành riêng của Xát-đam.;;;;;Do có một số lượng lớn số xe tăng của Liên Xô tuy đã lỗi thời nhưng vẫn là loại tối tân ở Triều Tiên cộng với các vũ khí nặng khác, Bắc Triều Tiên đã có thể leo thang các cuộc đụng độ ở biên giới và ngày càng chuyển sang công kích trong khi Nam Triều Tiên với hậu thuẫn giới hạn của Hoa Kỳ có ít sự chọn lựa hơn. Chính phủ Hoa Kỳ lúc đó tin rằng Khối Xã hội chủ nghĩa là một khối thống nhất, và những hành động của Bắc Triều Tiên là chủ trương của cái khối này như là một cái móng vuốt của Liên Xô. Vì thế, Hoa Kỳ xem đây như là một cuộc xung đột quốc tế hơn là một cuộc nội chiến.[cần dẫn nguồn];;;;;Reagan ra lệnh tăng cường xây dựng lực lượng quân sự Hoa Kỳ, khiến tăng thêm sự thâm hụt ngân sách. Reagan giới thiệu một hệ thống phòng thủ tên lửa phức tạp, được biết với cái tên Sáng kiến Phòng thủ Chiến lược (những người phản đối gán cho nó biệt danh là "Chiến tranh giữa các vì sao") mà theo lý thuyết Hoa Kỳ có thể bắn hạ các tên lửa bằng hệ thống tia laser đặt trong không gian. Mặc dù hệ thống này chưa bao giờ được phát triển toàn diện hay được triển khai nhưng Liên Xô đặc biệt quan tâm về sự hiệu quả có thể có của chương trình này và trở nên sẵn sàng hơn để thương thuyết.
question_1
Newton đã loại bỏ được thuyết gì trong thời kì này?
doc_1
Luận thuyết của ông về Philosophiae Naturalis Principia Mathematica (Các Nguyên lý Toán học của Triết học Tự nhiên) xuất bản năm 1687, đã mô tả về vạn vật hấp dẫn và 3 định luật Newton, được coi là nền tảng của cơ học cổ điển, đã thống trị các quan niệm về vật lý, khoa học trong suốt 3 thế kỷ tiếp theo. ông cho rằng sự chuyển động của các vật thể trên mặt đất và các vật thể trong bầu trời bị chi phối bởi các định luật tự nhiên giống nhau; bằng cách chỉ ra sự thống nhất giữa Định luật Kepler về sự chuyển động của hành tinh và lý thuyết của ông về trọng lực, ông đã loại bỏ hoàn toàn Thuyết nhật tâm và theo đuổi cách mạng khoa học.
doc_562;;;;;doc_330;;;;;doc_4196;;;;;doc_4787;;;;;doc_730
Bốn quy tắc súc tích và tổng quát cho nghiên cứu khoa học này đã là một cuộc cách mạng về tư duy thực sự vào thời điểm bấy giờ. Thực hiện các quy tắc này, Newton đã hình thành được các định luật tổng quát của tự nhiên và giải thích được gần như tất cả các bài toán khoa học vào thời của ông. Newton còn đi xa hơn việc chỉ đưa ra các quy tắc cho lý luận, ông đã miêu tả cách áp dụng chúng trong việc giải quyết một bài toán cụ thể. Phương pháp giải tích mà ông sáng tạo vượt trội các phương pháp mang tính triết lý hơn là tính chính xác khoa học của Aristoteles và Thomas Aquinas. Newton đã hoàn thiện phương pháp thực nghiệm của Galileo Galilei, tạo ra phương pháp tổng hợp vẫn còn được sử dụng cho đến ngày nay trong khoa học. Những câu chữ sau đây trong quyển Opticks (Quang học) của ông có thể dễ dàng bị nhầm lẫn với trình bày hiện đại của phương pháp nghiên cứu thời nay, nếu Newton dùng từ "khoa học" thay cho "triết lý về tự nhiên":;;;;;Newton đã xây dựng lý thuyết cơ học và quang học cổ điển và sáng tạo ra giải tích nhiều năm trước Gottfried Leibniz. Tuy nhiên ông đã không công bố công trình về giải tích trước Leibniz. Điều này đã gây nên một cuộc tranh cãi giữa Anh và lục địa châu Âu suốt nhiều thập kỷ về việc ai đã sáng tạo ra giải tích trước. Newton đã phát hiện ra định lý nhị thức đúng cho các tích của phân số, nhưng ông đã để cho John Wallis công bố. Newton đã tìm ra một công thức cho vận tốc âm thanh, nhưng không phù hợp với kết quả thí nghiệm của ông. Lý do cho sự sai lệch này nằm ở sự giãn nở đoạn nhiệt, một khái niệm chưa được biết đến thời bấy giờ. Kết quả của Newton thấp hơn γ½ lần thực tế, với γ là tỷ lệ các nhiệt dung của không khí.;;;;;Cũng có các nhà triết học trước như Galileo và John Philoponus sử dụng phương pháp thực nghiệm, nhưng Newton là người đầu tiên định nghĩa cụ thể và hệ thống cách sử dụng phương pháp này. Phương pháp của ông cân bằng giữa lý thuyết và thực nghiệm, giữa toán học và cơ học. Ông toán học hoá mọi khoa học về tự nhiên, đơn giản hoá chúng thành các bước chặt chẽ, tổng quát và hợp lý, tạo nên sự bắt đầu của Kỷ nguyên Suy luận. Những nguyên lý mà Newton đưa ra do đó vẫn giữ nguyên giá trị cho đến thời đại ngày nay. Sau khi ông ra đi, những phương pháp của ông đã mang lại những thành tựu khoa học lớn gấp bội những gì mà ông có thể tưởng tượng lúc sinh thời. Các thành quả này là nền tảng cho nền công nghệ mà chúng ta được hưởng ngày nay.;;;;;Newton được bầu vào Hội Khoa học Hoàng gia Anh năm 1672 và bắt đầu vấp phải các phản bác từ Huygens và Hooke về lý thuyết hạt ánh sáng của ông. Lý thuyết về màu sắc ánh sáng của ông cũng bị một tác giả phản bác và cuộc tranh cãi đã dẫn đến suy sụp tinh thần cho Newton vào năm 1678. Năm 1679 Newton và Hooke tham gia vào một cuộc tranh luận mới về quỹ đạo của thiên thể trong trọng trường. Năm 1684, Halley thuyết phục được Newton xuất bản các tính toán sau cuộc tranh luận này trong quyển Philosophiae Naturalis Principia Mathematica. Quyển sách đã mang lại cho Newton tiếng tăm vượt ra ngoài nước Anh, đến châu Âu.;;;;;Ngay sau khi nhận bằng tốt nghiệp, năm 1630, ông phải trở về nhà 2 năm vì trường đóng cửa do bệnh dịch hạch lan truyền. Hai năm này chứng kiến một loạt các phát triển quan trọng của Newton với phương pháp tính vi phân và tích phân hoàn toàn mới, thống nhất và đơn giản hoá nhiều phương pháp tính khác nhau thời bấy giờ để giải quyết những bài toán có vẻ không liên quan trực tiếp đến nhau như tìm diện tích, tìm tiếp tuyến, độ dài đường cong và cực trị của hàm. Tài năng toán học của ông nhanh chóng được hiệu trưởng của Cambridge nhận ra khi trường mở cửa trở lại. Ông được nhận làm giảng viên của trường năm 1670, sau khi hoàn thành thạc sĩ, và bắt đầu nghiên cứu và giảng về quang học. Ông lần đầu chứng minh ánh sáng trắng thực ra được tạo thành bởi nhiều màu sắc, và đưa ra cải tiến cho kính thiên văn sử dụng gương thay thấu kính để hạn chế sự nhoè ảnh do tán sắc ánh sáng qua thuỷ tinh.
question_2
Những công trình nào là đại diện tiêu biểu cho phong cách kiến trúc phong kiến Trung Quốc?
doc_2
Trong nội thị Bắc Kinh có ba phong cách kiến trúc thống trị các công trình xây dựng. Trước tiên là kiến trúc phong kiến Trung Hoa, có lẽ minh họa tốt nhất là Thiên An Môn, Tử Cấm thành, Thái Miếu và Thiên Đàn. Tiếp theo, là phong cách kiến trúc mà đôi khi được gọi là "Trung-Xô", với các công trình kiến trúc có khuynh hướng giống như hình hộp, được xây dựng trong thời kỳ từ thập niên 1950 đến thập niên 1970. Cuối cùng, thành phố có nhiều mẫu kiến trúc hiện dại, đáng chú ý nhất là tại khu Trung tâm Thương vụ Bắc Kinh và phố Tài chính Bắc Kinh.
doc_1958;;;;;doc_53;;;;;doc_4911;;;;;doc_2050;;;;;doc_896
Hội họa Trung Quốc có lịch sử 5000 - 6000 năm với các loại hình: bạch hoạ, bản hoạ, bích hoạ. Đặc biệt là nghệ thuật vẽ tranh thuỷ mạc, có ảnh hưởng nhiều tới các nước ở Châu Á. Cuốn Lục pháp luận của Tạ Hách đã tổng kết những kinh nghiệm hội họa từ đời Hán đến đời Tuỳ. Tranh phong cảnh được coi là đặc trưng của nền hội họa Trung Quốc, mà đã phát triển đỉnh cao từ thời kì Ngũ Đại đên thời Bắc Tống (907–1127). Điêu khắc Trung Quốc được phân thành các ngành riêng như: Ngọc điêu, thạch điêu, mộc điêu. Những tác phẩm nổi tiếng như cặp tượng Tần ngẫu đời Tần, tượng Lạc sơn đại Phật đời Tây Hán (pho tượng cao nhất thế giới), tượng Phật nghìn mắt nghìn tay. Không giống như phong cách kiến trúc Phương Tây, kiến trúc Trung Hoa chú trọng đến chiều rộng hơn là chiều cao của công trình. Phong thủy đóng vai trò rất quan trọng trong quá trình xây dựng. Một số công trình kiến trúc nổi tiếng thế giới có thể kể đến như: Vạn Lý Trường Thành (dài 6700 km), Thành Tràng An, Cố cung, Tử cấm thành ở Bắc Kinh.;;;;;Bắc Kinh cũng nổi tiếng nhờ các tứ hợp viện (四合院), một kiểu dinh thự gồm các khối nhà bao quanh một khoảnh sân trong. Trong số chúng, có thể kể đến Cung Vương Phủ và Tống Khánh Linh cố cư (宋庆龄故居). Những sân trong này thường được kết nối bằng các ngõ nhỏ được gọi là hồ đồng (胡同). Các hồ đồng thường thẳng và chạy từ đông sang tây để các ô cửa phải đối mặt với hướng bắc và nam nhằm có Phong thủy tốt. Chúng khác nhau về chiều rộng; một số rất hẹp đến nỗi chỉ đủ cho một vài người đi bộ có thể qua cùng một lúc. Đã từng phổ biến khắp nơi tại Bắc Kinh, các tứ hợp viện và hồ đồng đang nhanh chóng biến mất, khi chúng bị các khu nhà cao tầng thay thế. Các cư dân trong các hồ đồng được quyền đến sống tại các tòa nhà mới tại những căn hộ có kích cỡ tối thiểu là tương đương nơi ở trước đây của họ. Tuy nhiên, nhiều người phàn nàn rằng không thể thay thế ý nghĩa truyền thống của lối sống cộng đồng và đường phố của các "hồ đồng",;;;;;Khởi phát nền văn minh Trung Quốc nằm cách không xa sông Hoàng Hà (dọc theo sông Trường Giang) do xung quanh khu vực tìm thấy nhiều di tích của thời Trung Quốc tiền sử. Các nền văn minh thời đại đồ đá mới tìm thấy được ở Trung Quốc là văn minh Bành Đầu Sơn (Pengtoushan) (sông Trường Giang) và văn minh Bùi Lý Cương (Kebudayaan Peiligang), tất cả chúng đều xuất hiện khoảng 7000 năm TCN hoặc sớm hơn. Giai đoạn văn hóa Bành Đầu Sơn khó xác định, kết quả các tính toán cho biến thiên từ 9000-5500 năm TCN, tại di chỉ của nền văn hóa này tìm thấy dấu tích của lúa gạo từ khoảng 7000 năm TCN. Tại di chỉ Giả Hồ (Jiahu) cổ đại tìm thấy vài bằng chứng về việc trồng lúa. Một khám phá quan trọng tại Giả Hồ là cây sáo cổ có niên đại khoảng 7000-6000 năm TCN. Văn minh Bùi Lý Cương là một trong những nền văn minh lâu đời nhất tại Trung Quốc có sản xuất đồ gốm. Cả nền văn minh Bành Đầu Sơn và nền văn minh Bùi Lý Cương đều phát triển hoạt động trồng Kê, chăn nuôi, lưu trữ và phân phối thực phẩm. Bằng chứng khảo cổ cũng cho thấy sự hiện diện của các thợ thủ công, đày tớ. Lối chữ hình vẽ (Pictogram) được cho là khởi đầu của hệ thống chữ viết Trung Quốc bắt nguồn từ các hoạt động nông nghiệp và chăn nuôi tại Trung Quốc. Tại di chỉ Giả Hồ tìm thấy một số lối chữ hình vẽ, nó không được xem là có hệ thống chữ viết nhưng những ký hiệu đó dẫn đến hệ thống chữ viết.;;;;;Bắc Kinh có một số ngôi tháp được bảo quản tốt và các tháp bằng đá, như tháp Thiên Ninh tự (天宁寺塔), được xây từ thời Liêu trong khoảng năm 1100 đến năm 1120, và Tháp Từ Thọ tự (慈寿寺塔), được xây dựng năm 1576 vào thời Minh. Các cầu đá đáng chú ý mang tính lịch sử gồm cầu Lư Câu từ thế kỷ XII, cầu Bát Lý (八里桥) từ thế kỷ XVII, cầu Ngọc Đới (玉带桥) từ thế kỷ XVIII. Đài quan sát cổ Bắc Kinh trưng bày các quả cầu tiền kính thiên văn có niên đại từ thời Minh và Thanh. Hương Sơn là một công viên công cộng nổi tiếng, nó có cả các khu phong cảnh tự nhiên cũng như các di tích truyền thống và văn hóa. Thực vật viên Bắc Kinh trưng bày trên 6.000 loài thực vật, bao gồm một loạt các loại cây thân gỗ, cây bụi và cây hoa, và một vườn mẫu đơn rộng lớn. Các công viên Đào Nhiên Đình (陶然亭), Long Đàm hồ (龙潭湖), Triều Dương (朝阳), Hải Điến (海淀), Mi Lộc Uyển (麋鹿苑) và Tử Trúc Viện (紫竹院) là một vài trong số các công viên tiêu khiển nổi tiếng của thành phố. Động vật viên Bắc Kinh là một trung tâm nghiên cứu động vật, nó cũng gồm có các loài động vật quý hiếm từ các châu lục khác nhau, bao gồm cả gấu trúc lớn.;;;;;Trong thế kỷ 19, hầu hết các tòa nhà của thành phố vẫn chỉ có một hoặc hai tầng. Các cấu trúc chính là Tháp đồng bằng của Nhà thờ Hồi giáo Huaisheng, Chùa Hoa chùa của Sáu cây Banyan, và tháp canh được gọi là chùa 5 tầng. Các ngọn đồi phía bắc, kể từ khi thành thị, đã được trần truồng và phủ đầy các ngôi mộ truyền thống. Các bức tường thành phố gạch là khoảng 6 dặm (10 km) trong chu vi, 25 feet (8 m) cao, và 20 feet (6 m) rộng. Tám cổng chính và hai cổng nước đều giữ các vệ sĩ trong ngày và đóng cửa vào ban đêm. Bức tường bao gồm một ngọn đồi ở phía bắc của nó và được bao quanh bởi ba con khác bởi một con hào, cùng với các kênh rạch, hoạt động như cống của thành phố, được đóng băng hàng ngày bằng dòng thủy triều của sông. Một bức tường phân chia với bốn cửa chia thành "thị trấn cổ" phía bắc từ "thị trấn mới" phía nam gần sông; vùng ngoại ô của Xiguan ("West Gate") lây lan ra ngoài và những chiếc thuyền của ngư dân, người buôn bán, và Tanka ("thuyền nhân") gần như hoàn toàn che dấu bờ sông khoảng 4 dặm (6 km). Việc nhà cửa phải đối mặt với đường phố và đối xử với sân của họ như một loại kho hàng là điều phổ biến. Thành phố này là một phần của một mạng lưới các tháp tín hiệu rất hiệu quả những thông điệp có thể được chuyển tiếp đến Bắc Kinh-khoảng 1.200 dặm (1.931 km), trong vòng chưa đầy 24 tiếng đồng hồ. Hệ thống Canton được duy trì cho đến khi cuộc chiến tranh nha phiến lần thứ nhất nổ ra ở Canton đã diễn ra hai tháng sau đó. Sau Hiệp ước Nam Kinh 1842, Quảng Châu trở thành "nhượng cảng", cùng với Ninh Ba, Hạ Môn, Phúc Châu và Thượng Hải phải mở cửa cho thương nhân phương Tây tự do giao dịch. Quảng Châu bị mất vị thế thương mại đặc quyền vì các cảng hiệp ước ngày càng mở rộng ra nhiều nước hơn nữa, thường là các khu vực ngoại vi. Trong sự suy giảm uy tín của nhà Thanh và sự hỗn loạn của Cuộc nổi dậy ở Taiping, Punti và Hakka đã tiến hành một loạt các cuộc chiến tranh gia tộc từ năm 1855 đến năm 1867, trong đó có 1 triệu người chết. Sự nhượng bộ cho Đường sắt Canton-Hankow đã được trao cho Công ty Phát triển Trung Quốc Hoa Kỳ vào năm 1898. Nó hoàn thành nhánh chi nhánh phía tây đến Phật Sơn và Sanshui trước khi bị khủng hoảng ngoại giao sau khi một tập đoàn Bỉ đã mua một quyền kiểm soát và nhà Thanh đã hủy bỏ nhượng bộ. J.P. Morgan đã được trao hàng triệu thiệt hại và tuyến đường đến Vũ Xương đã không hoàn thành cho đến năm 1936 và một tuyến đường sắt Bắc Kinh - Quảng Châu thống nhất chờ cho đến khi hoàn thành cầu sông Dương Tử ở Vũ Hán năm 1957.
question_3
Ai là người đã thất bại dưới quân Chu Nguyên Chương cùng năm với sự thất bại của Trương Sĩ Thành?
doc_3
Năm 1356, Chu Nguyên Chương suất binh chiếm lĩnh Kim Lăng (nay là Nam Kinh, Giang Tô), đổi thành Ứng Thiên phủ, đồng thời chiếm cứ một số địa điểm quân sự trọng yếu nằm quanh đó. Chu Nguyên Chương chấp thuận kiến nghị "cao trúc tường, quảng tích lương, hoãn xưng vương" của mưu sĩ Chu Thăng, trải qua vài năm nỗ lực, thực lực quân sự và kinh tế nhanh chóng lớn mạnh. Năm 1360, Chu Nguyên Chương và một thủ lĩnh khởi nghĩa khác là Trần Hữu Lượng tiến hành giao chiến tại Long Loan thuộc tây bắc Tập Khánh, thế lực Trần Hữu Lượng đại bại và phải đào thoát đến Giang Châu (nay thuộc Cửu Giang, Giang Tây). Năm 1363, thông qua Thủy chiến tại hồ Bà Dương, thế lực Trần Hữu Lượng về cơ bản bị tiêu diệt. Năm 1367, Chu Nguyên Chương tự xưng Ngô Vương, suất quân chiếm lĩnh Bình Giang (nay là Tô Châu, Giang Tô), diệt một thủ lĩnh khởi nghĩa lớn mạnh khác là Trương Sĩ Thành. Cùng năm, Chu Nguyên Chương tiêu diệt Phương Quốc Trân cát cứ tại duyên hải Chiết Giang.
doc_3500;;;;;doc_3902;;;;;doc_902;;;;;doc_2001;;;;;doc_3109
Sau khi Hoằng Quang Đế bị giết, Lỗ vương Chu Dĩ Hải tại Thiệu Hưng xưng là giám quốc, Đường vương Chu Duật Kiện được đám Trịnh Chi Long ủng hộ xưng đế tại Phúc Châu, tức Long Vũ Đế. Tuy nhiên, hai thế lực chủ yếu này của Nam Minh không thừa nhận địa vị của bên kia và đánh lẫn nhau. Long Vũ Đế liên tục đề nghị đưa quân Bắc phát, song không được Trịnh Chi Long ủng hộ nên cuối cùng không thành. Năm 1646, quân Thanh phân biệt chiếm lĩnh Chiết Giang và Phúc Kiến, Lỗ vương Chu Dĩ Hải đào vong trên biển, Long Vũ Đế đào thoát đến Giang Tây thì bị bắt rồi từ trần. Trịnh Chi Long đầu hàng quân Thanh, song vì con là Trịnh Thành Công khởi binh phản Thanh mà bị triều đình cầm tù. Sau khi Chu Duật Kiện từ trần, em là Chu Duật Việt tại Quảng Châu xưng đế, tức Thiệu Vũ Đế, cùng năm bị tướng Thanh là Lý Thành Đống công diệt. Đồng thời gian, Quế vương Chu Do Lang tại Triệu Khánh, Quảng Đông xưng đế, tức Vĩnh Lịch Đế.;;;;;Thời kỳ Bắc Dương quân phiệt, năm 1920, Lạc Dương trở thành căn cứ của Ngô Bội Phu thuộc Trực hệ quân phiệt, có sở quan Lưỡng Hồ tuần duyệt sử và bộ tư lệnh sư đoàn 3 Lục quân. Năm 1926, Phùng Ngọc Tường tham gia chiến tranh Bắc phạt do Tưởng Giới Thạch phát động từ Quảng Châu nhằm triệt tiêu các quân phiệt phương Bắc, Phùng tiến quân về phía nam, trong đó Ngô Bội Phu cát cứ Hoa Trung được liệt là một mục tiêu chính. Ngô Bội Phu trước tình thế này đã kêu gọi Trương Tác Lâm "khôi phục pháp thống" song không nhận được hưởng ứng. Do Ngô Bội Phu có lập trường chống Liên Xô nên Liên Xô hỗ trợ cho chính phủ Quốc dân đóng ở Quảng Châu. Cùng năm, quân Bắc phạt đánh tan quân chủ lực của Ngô Bội Phu, Ngô Bội Phu buộc phải dẫn tàn quân về Hà Nam sau khi để mất Vũ Hán tam trấn, sau lại chạy trốn đến Tứ Xuyên. Năm 1930, Trung Quốc đã nổ ra nội chiến giữa quân của Tưởng Giới Thạch với Diêm Tích Sơn, Phùng Ngọc Tường và Lý Tông Nhân, được gọi là đại chiến Trung Nguyên. Cuộc nội chiến này diễn ra chủ yếu trên địa bàn Hà Nam và là cuộc chiến tranh quy mô nhất trong thời kỳ cận đại của Trung Quốc. Kết quả, Tưởng Giới Thạch toàn thắng, chấm dứt thời kỳ quân phiệt cát cứ. Năm 1932, sau sự kiện Nhất Nhị Bát tại Thượng Hải, chính phủ Quốc dân Nam Kinh đã định Lạc Dương là "hành đô", chuyển văn phòng đến Lạc Dương, đến tháng 12 cùng năm thì lại trở về Nam Kinh.;;;;;Sau khi triều Minh diệt vong, tại phương nam vẫn còn thế lực, sử xưng Nam Minh. Thế lực chủ yếu của Nam Minh có Tứ hệ vương: Phúc vương Chu Do Tung, Lỗ vương Chu Dĩ Hải, Đường vương Chu Duật Kiện và Chu Duật Việt (𨮁), Quế vương Chu Do Lang. Sau khi Nam Minh diệt vong, còn có chính quyền Minh Trịnh do Trịnh Thành Công kiến lập, và Quỳ Đông thập tam gia kháng Thanh. Năm 1644, sau khi Bắc Kinh bị Lý Tự Thành chiếm lĩnh, đại thần Nam Minh có ý ủng hộ hoàng tộc Bắc phạt. Trải qua nhiều lần thảo luận, Phúc vương Chu Do Tung xưng đế dưới sự ủng hộ của Phụng Dương tổng đốc Mã Sĩ Anh và Giang Bắc tứ trấn Cao Kiệt, Hoàng Đắc Công, Lưu Trạch Thanh và Lưu Lương Tá, tức Hoằng Quang Đế, sử xưng Nam Minh. Năm 1645, triều Thanh phái Đa Đạc đem đại quân nam hạ Nam Kinh, đương thời Hoằng Quang Đế bất tài, đại quyền do tàn dư của Yêm đảng khống chế, Giang Bắc tứ trấn cuối cùng liên tiếp tan vỡ. Quân Thanh công phá Dương Châu do Sử Khả Pháp tử thủ, Hoằng Quang Đế đào thoát đến Vu Hồ thì bị bắt giữ, bị đưa đến Bắc Kinh để xử tử. Thời gian đó, quân Thanh tiến hành đại đồ sát Dương Châu thập nhật, Giang Âm bát thập nhất nhật và Gia Định tam đồ để trấn áp người Hán phản kháng.;;;;;Từ trung kỳ về sau, Đại Minh thường phát sinh nông dân khởi nghĩa, đến thời kỳ Minh Tư Tông do triều chính hỗn loạn và quan viên tham ô bất tài, nhu cầu phục vụ chiến tranh với Hậu Kim và quân Hậu Kim cướp đoạt, cùng với việc khí hậu trở nên lạnh hơn do tiểu băng kỳ, sản lượng nông nghiệp giảm gây nên đói kém trên quy mô toàn quốc, những điều này đều làm tăng gánh nặng cho nhân dân. Năm 1627, dân đói tại Trừng Thành thuộc Thiểm Tây tiến hành bạo động, khởi đầu cho giai đoạn Minh mạt dân biến, sau đó Vương Tự Dụng, Cao Nghênh Tường, Lý Tự Thành, Trương Hiến Trung cùng những nông dân khác khởi nghĩa, cuối cùng phát triển thành Lý Tự Thành hùng cứ Thiểm Tây, Hà Nam, còn Trương Hiến Trung chiếm cứ Tứ Xuyên. Năm 1644, Lý Tự Thành kiến quốc Đại Thuận, sau đó đánh hạ Bắc Kinh, Minh Tư Tông tự vẫn, triều Minh mất. Ngô Tam Quế là tướng Minh trấn thủ Sơn Hải Quan, sau khi triều Minh mất ông ta quyết định dẫn quân Thanh nhập quan, đánh bại quân Đại Thuận. Nhiếp chính vương Đa Nhĩ Cổn và Thuận Trị Đế của triều Thanh nhập quan, Bắc Kinh trở thành thủ đô của triều Thanh. Lý Tự Thành triệt thoái về Thiểm Tây, cuối cùng bị quân Thanh tiêu diệt;;;;;Năm 1398, Minh Thái Tổ từ trần, do Thái tử Chu Tiêu mất sớm nên Hoàng thái tôn Chu Doãn Văn tức vị, niên hiệu Kiến Văn, tức Minh Huệ Tông. Nhằm củng cố hoàng quyền, Minh Huệ Tông cùng với các đại thần thân tín như Tề Thái, Hoàng Tử Trừng mật mưu tước phiên. Chu vương Chu Túc, Đại vương Chu Quế, Tề vương Chu Phù, hay Tương vương Chu Bách trước sau bị phế trừ làm thứ nhân, hoặc bị giết. Đồng thời, Minh Huệ Tông lấy danh nghĩa biên phòng để điều động tinh binh của Yên vương đi, chuẩn bị tước trừ Yên vương. Kết quả là Yên vương Chu Đệ theo kiến nghị của Diêu Quảng Hiếu lấy danh nghĩa "thanh quân trắc, tĩnh nội nạn" để khởi binh, cuối cùng nam hạ chiếm lĩnh kinh sư, đó là Tĩnh Nan chi biến. Chu Đệ tức vị, tức Minh Thành Tổ, niên hiệu Vĩnh Lạc. Minh Huệ Tông không rõ tung tích giữa đám cháy lớn trong cung thành.
question_4
Những con sông chạy qua Bồ Đào Nha hầu hầu hết bắt nguồn từ đâu?
doc_4
Bồ Đào Nha là quốc gia ven biển tại tây nam châu Âu, tại cực tây của bán đảo Iberia, giáp với Tây Ban Nha về phía bắc và đông, đường biên giới dài 1.214 km. Lãnh thổ Bồ Đào Nha còn bao gồm các quần đảo trên Đại Tây Dương (Açores và Madeira), với vị trí chiến lược. Cực nam của đại lục Bồ Đào Nha nằm không xa lối vào Địa Trung Hải là eo biển Gibraltar. Tổng diện tích của Bồ Đào Nha là 91.470 km² mặt đất và 620 km² mặt nước. Bồ Đào Nha có nhiều sông chảy qua, chúng bắt nguồn từ Tây Ban Nha. Hầu hết các sông chảy từ tây sang đông để đổ vào Đại Tây Dương; từ bắc xuống nam các sông chính là Minho, Douro, Mondego, Tejo và Guadiana.
doc_3777;;;;;doc_2451;;;;;doc_3404;;;;;doc_4242;;;;;doc_295
Quốc hiệu Bồ Đào Nha (tiếng Bồ Đào Nha: Portugal) bắt nguồn từ tên của làng Cale ở thung lũng sông Douro. Cale có thể là một từ của tiếng Hy Lạp (Kalles: đẹp) và dùng để chỉ vẻ đẹp của tự nhiên ở vùng miền bắc của nước Bồ Đào Nha ngày nay, thuộc địa của Hy Lạp trong thời kỳ Thượng cổ. Những nhà lịch sử học khác cho rằng cale có nguồn gốc từ tiếng Phoenicia vì người Phoenicia đã định cư ở Bồ Đào Nha trước cả người Hy Lạp. Khi phần đất của Bồ Đào Nha ngày nay thuộc về Đế quốc La Mã, Cale trở thành một cảng quan trọng, trong tiếng La Tinh là Portus Cale. Trong thời kỳ Trung Cổ Portus Cale trở thành Portucale và sau đó là Portugale, thế nhưng trong thế kỷ thứ VII và thế kỷ thứ VIII từ này chỉ dùng để chỉ phần đất miền bắc của nước Bồ Đào Nha, tức là vùng giữa hai con sông Douro và Minho. Về mặt khác, Portus Cale được rút ngắn thành Porto, thành phố quan trọng thứ nhì của Bồ Đào Nha, người dân nơi đây tự hào là thành phố mang tên cho đất nước.;;;;;Đại lục Bồ Đào Nha không có các hồ tự nhiên cỡ lớn, và phần mặt nước nội lục lớn nhất là các hồ chứa hình thành do xây đập, như hồ chứa Alqueva rộng 250 km². Tuy nhiên, có một số hồ nước ngọt nhỏ tại Bồ Đào Nha, đáng chú ý nhất là các hồ tại Serra da Estrela, hồ Comprida (Lagoa Comprida) và hồ Escura (Lagoa Escura) được tạo thành từ các sông băng cổ đại. Tại quần đảo Açores, các hồ được hình thành trên hõm chảo của các núi lửa đã tắt. Lagoa do Fogo và Lagoa das Sete Cidades là những hồ nổi tiếng nhất trên đảo São Miguel. Bồ Đào Nha có các phá trên bờ biển Đại Tây Dương, như phá Albufeira và phá Óbidos.;;;;;Bồ Đào Nha có lịch sử thực dân lâu dài, tạo thành một nền tảng cho bản sắc quốc gia, cũng như từ vị trí địa lý tại góc tây nam của châu Âu, nhìn ra Đại Tây Dương. Đây là một trong các thế lực thực dân châu Âu cuối cùng từ bỏ các lãnh thổ hải ngoại. Do đó, Bồ Đào Nha gây ảnh hưởng cũng như chịu ảnh hưởng văn hoá từ các cựu thuộc địa, kết quả là nhập cư từ các lãnh thổ cũ vì nguyên nhân kinh tế và cá nhân. Bồ Đào Nha trong một thời gian dài là quốc gia xuất cư (nhiều người Brasil có nguồn gốc Bồ Đào Nha), song hiện trở thành quốc gia có nhập cư thuần,. Ước tính có đến 800 nghìn người Bồ Đào Nha trở về Bồ Đào Nha khi các thuộc địa của quốc gia này tại châu Phi được độc lập vào năm 1975.;;;;;Tiếng Bồ Đào Nha bắt nguồn từ tiếng La tinh dạng nói của các dân tộc tiền La Mã bị La Mã hoá trên bán đảo Iberia vào khoảng 2.000 năm trước, đặc biệt là người Celt, Tartessia, Lusitania và Iberia. Trong các thế kỷ XV và XVI, ngôn ngữ này được truyền bá trên toàn cầu khi Bồ Đào Nha lập nên một đế quốc thực dân và thương mại từ năm 1415. Tiếng Bồ Đào Nha có người bản ngữ trên năm lục địa, Brasil là quốc gia có nhiều người bản ngữ tiếng Bồ Đào Nha nhất (209,5 triệu người nói vào năm 2016).,;;;;;Người Bồ Đào Nha bản địa là một dân tộc Iberia, có tổ tiên rất tương đồng với các dân tộc Tây và Nam Âu cũng như Địa Trung Hải, đặc biệt là người Tây Ban Nha, tiếp theo là một số khu vực tại Pháp và Ý, chia sẻ về nguồn gốc, lịch sử và văn hoá. Ảnh hưởng nhân khẩu học quan trọng nhất đối với người Bồ Đào Nha hiện đại có vẻ như là những người cổ nhất tại địa phương; giải thích hiện hành về dữ liệu nhiễm sắc thể Y và ADN ti thể cho thấy người Bồ Đào Nha có nguồn gốc từ các dân tộc đồ đá cũ bắt đầu đến lục địa châu Âu vào khoảng 45.000 năm trước. Tất cả các cuộc di cư sau đó đều để lại ảnh hưởng về di truyền và văn hoá, song nguồn gốc chủ yếu của người Bồ Đào Nha vẫn là từ các cư dân đến vào thời đồ đá cũ. Các nghiên cứu di truyền thể hiện cư dân Bồ Đào Nha không có khác biệt đáng kể với các cư dân châu Âu khác.
question_5
Nhà nước Đông Hán đã làm gì để chống chọi với làn sóng đấu tranh của nhân dân?
doc_5
Hoảng sợ trước sự đấu tranh của cuộc nổi loạn, chính phủ Ðông Hán và các tập đoàn quân phiệt ở các địa phương đã huy động toàn bộ lực lượng để đàn áp, trong vòng 10 tháng đã bị đánh bại. Dư đảng quân Hoàng Cân còn ở khắp nơi hoành hành quấy nhiễu, quân triều đình qua cuộc chiến cũng bị thiệt hại nặng nề nên không đủ khả năng giúp các địa phương trấn áp triệt để. Tình thế ấy khiến cho Hoàng đế nhà Hán có một quyết sách rất mạo hiểm là mau chóng khuếch đại quyền hạn cho các thứ sử, cho phép họ thành lập quân đội riêng để tự dẹp loạn, đổi chức Thứ sử một số châu thành chức Châu mục (州牧). Chức mục bắt đầu ra đời từ đó, bấy giờ là năm 188. Các châu mục mau chóng có quyền hạn lớn, lực lượng độc lập, triều đình cũng nhanh chóng mất đi quyền chỉ huy khống chế các địa phương, tình trạng quần hùng cát cứ đã manh nha xuất hiện.
doc_2189;;;;;doc_1536;;;;;doc_67;;;;;doc_2409;;;;;doc_429
Một khó khăn cho nhà nước Đông Hán non trẻ là việc tái thiết lại nền kinh tế sau những năm nội chiến và thiên tai hoành hành ở vùng Hoàng Hà dưới thời Vương Mãng. Quang Vũ Đế đã thi hành nhiều chính sách tích cực như giảm thuế từ 1/10 sản lượng xuống 1/30 sản lượng như thời Hán Văn Đế và Hán Cảnh Đế, phục viên binh lính để tăng thêm nhân lực cho khu vực sản xuất nông nghiệp, xây dựng các công trình thủy lợi, không tăng thêm số lính ở vùng biên cương,... nhờ vậy tình hình xã hội tương đối ổn định. Những nông dân tản cư được đưa về quê cũ. Các quan liêu phú hào có nhiều ruộng đất không khai báo trung thực về số đất đai và nhân khẩu sở hữu để trốn thuế.;;;;;Sau nhiều năm tranh chấp chính quyền và các nhà cai trị không có thực lực, nhà Đông Hán dần suy vong. Ở một quốc gia coi Khổng giáo là quốc giáo, là bộ quy tắc ứng xử quan trọng nhất mà quyền lực thật sự lại không nằm trong tay các đồ đệ chân chính của Khổng Tử. Guồng máy nhà nước đã không được vận hành theo một cơ cấu hợp lý bởi thiếu những bộ óc lãnh đạo xứng đáng, và hệ quả tất yếu của nó là sự suy đồi của nền kinh tế. Thương nghiệp thoái hóa, cơ cấu kinh tế, nông nghiệp hoàn toàn bị phá vỡ bởi sự lộng hành của quý tộc địa chủ. Số lượng tiền tệ giảm bớt. Vàng gần như biến mất. Chinh phạt liên miên (đánh người Khương ở miền bắc, dẹp khởi loạn trong nước…) khiến quân phí tăng vọt (mấy mươi năm triều An đế, quân phí lên tới 70 triệu quan), do đó bắt buộc triều đình càng phải gia tăng thuế vụ, nhân dân bị bần cùng hóa.;;;;;Mùa hè năm 100, hơn 2.000 dân Tượng Lâm nổi lên phá đồn, đốt thành, giết một số quan quân cai trị. Chính quyền đô hộ Hán phải huy động quân của các quận huyện khác đến dẹp, giết được chủ tướng, cuộc nổi loạn mới tạm yên. Từ đó chính quyền nhà Hán không dám ức hiếp một cách thô bạo dân cư tại đây nhưng đặt vùng đất này dưới quyền cai trị trực tiếp, do một binh trưởng sứ cầm đầu, đề phòng những cuộc nổi loạn sau này. Để lấy lòng dân cư địa phương, quan quân nhà Hán tổ chức phát chẩn cho dân nghèo, miễn thuế hai năm v.v.;;;;;Từ thời lập quốc, nhà Hán có khả năng giữ được hoà bình với dân tộc du mục phía Bắc Hung Nô bằng cách nộp cống và gả các công chúa cho họ. Tại thời này, mục tiêu của chính quyền là giảm sự hà khắc của hình luật, chiến tranh và các điều kiện sống cho người dân so với thời Tần, hạn chế các đe doạ từ dân du mục bên ngoài và những xung đột sớm bên trong triều đình. Chính phủ giảm bớt thuế và đảm bảo tình trạng cống nộp cho các bộ lạc du mục. Chính sách này giảm can thiệp vào đời sống dân cư, gọi là Dữ dân hưu tức (與民休息) bắt đầu một giai đoạn ổn định.;;;;;Sau vụ ám sát Tống Giáo Nhân và những nỗ lực của Viên Thế Khải để loại bỏ những người theo chủ nghĩa Quốc gia khỏi quyền lực, lãnh đạo Quảng Đông Hồ Hán Dân đã gia nhập Cuộc Cách mạng thứ hai năm 1913 chống lại ông nhưng bị buộc phải chạy trốn sang Nhật Bản cùng Tôn Trung Sơn sau khi thất bại. Thành phố này lại trở nên nổi bật trong năm 1917, khi Thủ tướng Đoàn Kỳ Thụyi hủy bỏ hiến pháp gây ra Phong trào Bảo vệ Hiến pháp. Tôn Trung Sơn đã lên nắm quyền Chính phủ quân sự Quảng Châu được các thành viên của quốc hội giải tán và các lãnh chúa miền tây phương ủng hộ. Chính quyền Quảng Châu đã tan rã vì các lãnh chúa đã rút lại sự ủng hộ của họ. Tôn đã chạy trốn đến Thượng Hải vào tháng 11 năm 1918 cho đến khi ông Trần Quýnh Minh, lãnh chúa tỉnh Quảng Đông, đã hồi phục ông vào tháng 10 năm 1920 trong cuộc chiến Yuegui. Vào ngày 16 tháng 6 năm 1922, Tôn đã bị lật đổ trong một cuộc đảo chính và trốn khỏi tàu chiến Yongfeng sau khi Chen đứng về phía chính phủ Bắc Kinh của Zhili Clique. Trong những tháng tiếp theo, Sun đã tổ chức một cuộc phản công vào Quảng Đông bằng cách tập hợp những người ủng hộ từ Vân Nam và Quảng Tây, và vào tháng một thành lập chính phủ ở thành phố lần thứ ba.
question_6
HIV có thể đi sang con từ người mẹ ở các thời điểm nào?
doc_6
Việc lây truyền virus từ mẹ sang con có thể xảy ra trong tử cung (trong thời kỳ mang thai), trong quá trình chuyển dạ (sinh con), hoặc thông qua việc cho con bú. Trong trường hợp không điều trị, tỷ lệ lây truyền giữa mẹ và con lên đến khoảng 25%. Tuy nhiên, với sự kết hợp điều trị bằng thuốc kháng virus và mổ lấy thai thì nguy cơ này có thể được giảm xuống thấp khoảng 1%. Sau khi sinh thì có thể ngăn ngừa lây truyền bằng cách tránh hoàn toàn nuôi con bằng sữa mẹ, tuy nhiên, điều này liên quan đáng kể đến các bệnh khác. Cho con bú hoàn toàn bằng sữa mẹ và cung cấp điều trị dự phòng kháng virus mở rộng cho trẻ sơ sinh cũng có hiệu quả trong việc tránh lây truyền. UNAIDS ước tính có 430.000 trẻ em bị nhiễm HIV trên toàn thế giới trong năm 2008 (19% là các ca nhiễm mới), chủ yếu là từ đường mẹ sang con, và thêm 65.000 ca lây nhiễm đã được ngăn chặn thông qua việc cung cấp điều trị dự phòng kháng virus cho phụ nữ nhiễm HIV dương tính.
doc_4485;;;;;doc_3126;;;;;doc_2333;;;;;doc_4415;;;;;doc_1509
Bệnh nhân AIDS và người nhiễm HIV là nguồn truyền nhiễm duy nhất của nhiễm HIV. Không có ổ chứa nhiễm trùng ở động vật. Tất cả mọi người điều có khả năng cảm nhiễm HIV. HIV được phân lập từ máu, tinh dịch, dịch tiết âm đạo, nước bọt, nước mắt, sữa mẹ, nước tiểu và các dịch khác của cơ thể, nhưng nhiều nghiên cứu về dịch tể học cho thấy rằng chỉ có máu, tinh dịch và dịch tiết âm đạo đống vai trò quan trọng trong việc lây truyền HIV. Do đó chỉ có 3 phương thức hay đường lây truyền chính của HIV, trong đó HIV-2 có xác suất truyền qua đường mẹ sang con và quan hệ tình dục ít hơn HIV-1.;;;;;HIV có trong máu toàn phần và các thành phần của máu như hồng cầu, tiểu cầu, huyết tương, các yếu tố đông máu. Do đó HIV có thể được truyền qua máu hay các sản phẩm của máu có nhiễm HIV. Nguy cơ lây truyền qua đường máu có tỷ lệ rất cao, trên 90%. Kể từ năm 1985, sau khi có các xét nghiệm sàng lọc phát hiện kháng thể kháng HIV, nguy cơ lây truyền theo đường máu ở nhiều nước đã giảm đi rõ rệt. Tuy nhiên ngay cả khi xét nghiệm máu cho kết quả âm tính, khả năng lây nhiễm HIV vẫn có thể xảy ra, do máu được lấy ở người mới bị nhiễm HIV, người đó đang ở trong “thời kỳ cửa sổ” của quá trình nhiễm HIV. Nguy cơ này xảy ra nhiều ở nơi có tỷ lệ nhiễm HIV cao, đặc biệt ở những nơi người cho máu chuyên nghiệp cao và họ thường thay đổi địa điểm cho máu.;;;;;HIV lây truyền chủ yếu qua quan hệ tình dục không an toàn (bao gồm cả quan hệ tình dục qua đường hậu môn và thậm chí bằng miệng), qua việc truyền máu từ nguồn đã bị nhiễm bệnh, qua dùng chung kim tiêm, và từ mẹ sang con: trong khi mang thai, khi sinh (lây truyền chu sinh), hoặc khi cho con bú. Một số chất dịch của cơ thể như nước bọt và nước mắt không lây truyền HIV. Phòng chống lây nhiễm HIV, chủ yếu thông qua các chương trình trao đổi kim tiêm và tình dục an toàn, là một chiến dịch quan trọng để kiểm soát sự lây lan của căn bệnh này. Tuy bệnh không thể chữa lành và không có thuốc chủng ngừa, nhưng điều trị bằng thuốc kháng virus có thể làm chậm tiến trình của bệnh và kéo dài tuổi thọ của người bệnh thêm 8-12 năm, thậm chí lâu hơn nếu uống đều đặn và đủ liều. Thuốc kháng HIV cần phải được uống mỗi ngày, nếu không thì virus có thể nhanh chóng vượt khỏi kiểm soát và trở nên kháng thuốc. Tuy điều trị bằng thuốc kháng virus có thể làm giảm nguy cơ tử vong và các biến chứng từ bệnh này, nhưng rất tốn kém và có thể gây ra các tác dụng phụ.;;;;;Ngày 1/7/2015, Tổ chức Y tế thế giới (WHO) chính thức xác nhận Cuba trở thành quốc gia đầu tiên đã thành công trong việc ngăn chặn vi rút HIV truyền từ mẹ sang con. Theo Giám đốc WHO Margaret Chan, thành công của Cuba là một trong những thành tựu quan trọng nhất của hệ thống y tế toàn cầu, là chiến thắng y học rất vĩ đại của nhân loại trong cuộc chiến lâu dài với HIV/AIDS. Một trong những yếu tố quan trọng là nhờ vào hệ thống chăm sóc y tế quốc gia toàn diện tập trung vào sức khỏe sản phụ, Tại Cuba có đến 99% bà mẹ mang thai và 100% các bé sơ sinh từ mẹ bị HIV đều được điều trị thuốc ngăn chặn phơi nhiễm HIV và các loại thuốc này miễn phí hoàn toàn cho bệnh nhân, theo hướng dẫn của bác sĩ.;;;;;Phần lớn HIV lây qua đường quan hệ tình dục không được bảo vệ (quan hệ tình dục không an toàn). Ước tính tỷ lệ nhiễm HIV/AIDS trên thế giới qua đường tình dục chiếm khoảng 75% trong tổng số người bị nhiễm HIV/AIDS. Việc chủ quan đối với HIV đóng một vai trò quan trọng trong nguy cơ bị lây bệnh. Lây truyền qua đường tình dục có thể xảy ra khi chất tiết sinh dục của một bạn tình có chứa virus, tiếp xúc với niêm mạc sinh dục, miệng, hoặc trực tràng của người còn lại. Nguy cơ lây nhiễm qua một lần giao hợp với người nhiễm HIV là 0,1% đến 1%. Ở các quốc gia có thu nhập cao, nguy cơ nữ lây truyền cho nam là 0.04% cho mỗi lần quan hệ và nam truyền cho nữ là 0.08%. Vì những lý do khác nhau, nguy cơ này cao hơn từ 4 đến 10 lần ở các nước có thu nhập thấp. Người nhận trong giao hợp qua đường hậu môn có nguy cơ bị lây nhiễm cao hơn nhiều, 1.7% cho mỗi lần quan hệ. Người nào có nhiều bạn tình, đồng thời quan hệ tình dục không an toàn thì càng có nguy cơ lây nhiễm HIV. Mắc các bệnh lây truyền qua đường tình dục như giang mai, lậu... đều làm tăng nguy cơ lây nhiễm HIV lên gấp 20 lần.
question_7
Bây giờ người Do Thái chiếm bao nhiêu phần trăm dân số Israel?
doc_7
Giữa năm 1948 và năm 1958, dân số Do Thái tăng từ 800.000 người Do Thái lên đến hai triệu người Do Thái. Hiện tại, người Do Thái chiếm 75,4% dân số của Israel, hay 6 triệu người. Những năm đầu đời của Nhà nước Israel được đánh dấu bởi sự nhập cư hàng loạt của những người còn sống sót sau cuộc diệt chủng người Do Thái Holocaust và người Do Thái trốn khỏi các vùng đất của người Ả Rập. Israel cũng có một số lượng lớn người Do Thái Ethiopia, nhiều người trong số đó được đưa đến Israel vào cuối những năm 1980 và đầu những năm 1990. Từ năm 1974 đến năm 1979 gần 227.258 người nhập cư Do thái đến Israel, khoảng một nửa là từ Liên Xô. Giai đoạn này cũng cho thấy sự gia tăng số lượng dân nhập cư vào Israel từ Tây Âu, Châu Mỹ Latinh và Bắc Mỹ.
doc_195;;;;;doc_6593;;;;;doc_1336;;;;;doc_2661;;;;;doc_7113
Tại Israel thì người Do Thái gốc Ashkenazi chiếm khoảng 47,5% tổng dân số người Do Thái ở Israel (và do đó người Do Thái gốc Ashkenazi chiếm 35-36% tổng dân số người Israel). Người Do Thái Ashkenazi đã đóng một vai trò rất lớn và nổi bật trong nền kinh tế, truyền thông và chính trị của quốc gia Israel kể từ khi đất nước Israel hiện đại từ trong giai đoạn trứng nước cho đến khi được thành lập. Các đời tổng thống Israel từ khi quốc gia này được thành lập năm 1948 cho đến hiện này đều là người Ashkenazi Do Thái.;;;;;Người gốc Ashkenazi chiếm khoảng 47,5% người Do Thái ở Israel (và do đó chiếm 35–36% người Israel). Họ đã đóng một vai trò nổi bật trong nền kinh tế, truyền thông và chính trị của Israel kể từ khi thành lập. Trong những thập kỷ đầu tiên của Israel với tư cách là một quốc gia, xung đột văn hóa mạnh mẽ đã xảy ra giữa người Do Thái Sephardic và Ashkenazi (chủ yếu là người Ashkenazim ở Đông Âu). Nguồn gốc của cuộc xung đột này, vẫn còn tồn tại ở một mức độ nhỏ hơn nhiều trong xã hội Israel ngày nay, chủ yếu là do khái niệm "nồi nấu chảy". Điều đó có nghĩa là, tất cả những người nhập cư Do Thái đến Israel đều được khuyến khích mạnh mẽ "làm tan chảy" bản sắc lưu vong cụ thể của chính họ trong "nồi" xã hội chung để trở thành người Israel.;;;;;Người Do Thái đã trải qua một lịch sử lâu dài bị đàn áp và thảm sát trên nhiều vùng đất khác nhau; dân số và phân bố dân cư của họ thay đổi qua nhiều thế kỷ. Số lượng người Do Thái trên khắp thế giới đã đạt đỉnh là 16,7 triệu người trước Thế Chiến thứ hai, chiếm khoảng 0,7% tổng dân số thế giới vào thời điểm đó, nhưng khoảng 6 triệu người do thái đã bị tàn sát có hệ thống trong suốt nạn diệt chủng Do Thái. Sau đó, dân số tăng chậm trở lại, và vào năm 2014, theo North American Jewish Data Bank, ước tính có khoảng 14,2 triệu người Do Thái, chiếm gần 0,2% tổng dân số thế giới (khoảng một trong 514 người là người Do thái). Dựa theo báo cáo, khoảng 44% trong số tất cả người Do Thái sống ở Israel (6,3 triệu), và 40% người Do Thái ở Hoa Kỳ (5,7 triệu), phần lớn số người Do Thái còn lại sống ở châu Âu (1,4 triệu) và Canada (0,4 triệu). Những con số này bao gồm tất cả những người tự xác định là người Do Thái trong một nghiên cứu xã hội nhân khẩu học hoặc đã được xác định là như vậy bởi một người trả lời trong cùng một hộ gia đình. Tuy nhiên, số liệu chính xác của người Do Thái trên toàn thế giới rất khó đo lường. Ngoài các vấn đề về phương pháp thống kê, các tranh chấp giữa các yếu tố nhân dạng theo luật Do Thái halakhic, thế tục, chính trị, và tổ tiên liên quan đến người Do Thái và ai là một người Do Thái cũng có thể ảnh hưởng đáng kể đến con số thống kê tùy thuộc vào nguồn gốc. Israel là quốc gia duy nhất nơi mà người Do Thái chiếm đa số. Nhà nước Israel hiện đại được thành lập như một nhà nước Do thái và tự định nghĩa bản sắc của nó trong bảng Tuyên bố Độc lập và hiến pháp cơ bản. Luật về Sự trở lại của quốc gia Israel trao quyền công dân cho bất kỳ người Do Thái nào yêu cầu quốc tịch Israel.;;;;;Israel là quốc gia duy nhất có dân số người Do Thái phát triển liên tục qua sự tăng trưởng dân số tự nhiên, mặc dù dân số người Do Thái ở các nước khác, đặc biệt là cộng đồng người Do Thái ở châu Âu và ở Bắc Mỹ gần đây đã tăng lên thông qua làn sống di dân nhập cư. Trong cộng đồng người Do Thái hải ngoại, ở hầu hết mọi quốc gia thì dân số của người Do Thái nói chung đang suy giảm hoặc đang ở trong mức ổn định, nhưng cộng đồng người Do Thái Chính thống và cộng đồng người Do Thái Haredi, trong hai cộng đồng người Do Thái này thì các thành viên thường bỏ qua việc kiểm soát sinh đẻ và từ chối kế hoạch hóa gia đình vì lý do đức tin tôn giáo, hai cộng đồng người Do Thái trên có sự gia tăng dân số nhanh nhất.;;;;;Khoảng 150.000 người Đông Phi và người da đen sống ở Israel, chỉ chiếm hơn 2% dân số cả nước. Phần lớn trong số này, khoảng 120.000 người, là người Beta Israel, hầu hết là những người nhập cư gần đây đến từ Ethiopia trong những năm 1980 và 1990. Ngoài ra, Israel còn là nơi sinh sống của hơn 5.000 thành viên của phong trào Người Israel gốc Do Thái ở Jerusalem là hậu duệ của những người Mỹ gốc Phi di cư đến Israel vào thế kỷ 20 và cư trú chủ yếu ở một khu phố riêng biệt ở thị trấn Negev của Dimona. Số lượng người da đen chuyển sang đạo Do Thái không xác định cư trú ở Israel, hầu hết trong số họ chuyển đổi từ Vương quốc Anh, Canada và Hoa Kỳ.
question_8
Số lượng vở Opera của vua Louis XV mà được viết bởi Jean Philippe Rameau là bao nhiêu?
doc_8
Nhà vua, hoàng hậu và các công chúa cũng là những nhà bảo trợ âm nhạc. Hoàng hậu và các con gái học chơi clavecin, dưới sự chỉ dạy của François Couperin. Nhạc sĩ trẻ Mozart đến Paris và viết 2 sonata clavecin và violin tặng cho Madame Victoire, con gái nhà vua. Bản thân vua, cũng như tăng tổ phụ Louis XIV, được học nhảy ballet nhưng ông chỉ nhảy một lần trước công chúng, năm 1725. Nhà soạn nhạc lớn nhất thời này là Jean Philippe Rameau, là soạn giả của triều đình từ những năm 1740 đến những năm 1750, đã viết hơn 30 vở opera cho Louis và triều đình của ông.
doc_2034;;;;;doc_1224;;;;;doc_1516;;;;;doc_5053;;;;;doc_3173
Pháp có lịch sử âm nhạc lâu dài và đa dạng, trải qua một giai đoạn hoàng kim trong thế kỷ XVII nhờ bảo trợ của Louis XIV, vị quốc vương này đưa một số nhạc sĩ và nhà soạn nhạc tài năng vào làm việc trong triều đình. Các nhà soạn nhạc nổi danh nhất trong giai đoạn này gồm có Marc-Antoine Charpentier, François Couperin, Michel-Richard Delalande, Jean-Baptiste Lully và Marin Marais, họ đều là người của triều đình. Sau khi Louis XIV mất, sáng tạo âm nhạc của Pháp mất đi động lực, song đến thế kỷ sau đó âm nhạc của Jean-Philippe Rameau đạt được thanh thế đáng kể, và ngày nay ông vẫn là một trong các nhà soạn nhạc Pháp nổi tiếng nhất. Rameau trở thành nhà soạn nhạc chiếm ưu thế của opera Pháp và là nhà soạn nhạc Pháp hàng đầu về đàn clavecin.;;;;;Louis là một nhà bảo trợ kiến trúc; ông trích nhiều tiền ra xây các công trình thổ mộc nhiều hơn cả Louis XIV. Các dự án kiến trúc của ông là công trình của kiến trúc sư nổi tiếng phụ tá cho ông, Ange-Jacques Gabriel. Chúng bao gồm Ecole Militaire (1751-1770); Cung điện Louis XV (nay là Cung điện de la Concorde (1763–83); Petit Trianon tại Versailles (1762–64), và nhà hát Opera tại Cung điện Versailles. Louis cho khởi công xây Nhà thờ Saint-Geneviève, nay là Pantheon (1758–90). Ông cũng cho xây các quảng trường lớn và các tòa cao ốc ở trung tâm Nancy, Bordeaux, và Rennes. Các xưởng sản xuất của ông sản xuất ra đồ gia dụng, đồ sứ, thảm dệt và các mặt hàng khác theo phong cách Louis XV được xuất khẩu tới các thành phố thủ đô ở khắp châu Âu.;;;;;Rousseau gặt hái thành công vang dội năm 1756 với vở opera Devin du Village, và được Nhà vua mời tới Versailles, nhưng ông từ chối. Thay vào đó, ông viết Hợp đồng xã hội kêu gọi về một hệ thống mới ở đó có sự bình đẳng về chính trị và kinh tế, xuất bản năm 1762. Ngày càng cô độc và không ổn định, ông đi lang thang khắp các tỉnh, trước kh trở Paris, và chết trong cô độc năm 1778. Ý kiến của ông, được công bố thời Louis XV, được những người Cách mạng áp dụng sau khi họ lật đổ Louis XVI năm 1789.;;;;;Các nhà soạn nhạc Pháp có vai trò quan trọng trong âm nhạc thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX, tức vào giai đoạn âm nhạc lãng mạn. Âm nhạc lãng mạn nhấn mạnh dâng hiến cho thiên nhiên, đam mê với quá khứ và siêu nhiên, khám phá những âm thanh bất thường, kỳ lạ và gây ngạc nhiên, và tập trung vào bản sắc dân tộc. Giai đoạn này cũng là một thời hoàng kim của opera. Các nhà soạn nhạc Pháp trong giai đoạn lãng mạn gồm có Hector Berlioz (Symphonie fantastique), Georges Bizet (Carmen trở thành một trong các opera phổ biến và trình diễn thường xuyên nhất), Gabriel Fauré (Pavane, Requiem và các khúc cảnh đêm), Charles Gounod (Ave Maria và opera Faust), Jacques Offenbach (có 100 operetta trong thập niên 1850–1870 và opera chưa hoàn thành Những câu chuyện của Hoffmann), Édouard Lalo (Symphonie espagnole cho đàn violin và dàn nhạc cùng Cello Concerto trong cung Rê thứ), Jules Massenet (có hơn 30 opera, được trình diễn thường xuyên nhất là Manon (1884) và Werther (1892)) và Camille Saint-Saëns (Lễ hội muông thú, Vũ điệu thần chết, Samson và Delilah (Opera), Introduction and Rondo Capriccioso và Giao hưởng số 3).;;;;;Louis XV là tằng tôn của Louis XIV và là con trai thứ hai của Quận công xứ Bourgogne (1682-1712), cùng vợ là Marie Adélaïde xứ Savoia, trưởng nữ của Victor Amadeus II, Quận công xứ Savoia. Ông chào đời tại Cung điện Versailles ngày 15 tháng 2 năm 1710. Sau khi chào đời, ông được tấn phong làm Quận công xứ Anjou. Khả năng kế vị của ông khi đó không cao; ông đứng sau tổ phụ là trưởng tử của nhà vua, Louis Đại Thái tử (Grand Dauphin), còn có cha và trưởng huynh trong danh sách thừa kế. Tuy nhiên, Đại Thái tử chết vì bệnh đậu mùa ngày 14 tháng 4 năm 1711. Ngày 12 tháng 2 năm 1712, mẫu thân của Louis, Marie Adélaïde, sau đó ngày 18 tháng 2 là cha của Louis, Quận công xứ Bourgogne, người thừa kế số một, lần lượt mắc bệnh sởi và chết. Ngày 7 tháng 3, cả Louis và trưởng huynh, Quận công Bretagne, đều bị chẩn đoán mắc bệnh sởi. Quận công Bretagne được điều trị theo cách truyền thống là chích máu. Khoảng tối ngày 8 rạng sáng ngày 9 tháng 3, Quận công Bretagne chết mà nguyên nhân là do cả căn bệnh và cách điều trị sai lầm. Bảo mẫu của Louis, Madame de Ventadour, không cho phép các bác sĩ lấy máu, do đó mặc dù rất đau nhưng ông vẫn sống sót. Khi Louis XIV qua đời ngày 1 tháng 9 năm 1715, Louis, mới 5 tuổi, kế thừa hoàng vị.
question_9
Tình hình kinh tế của Thiểm Tây từ thời Tống đến thời Nguyên như thế nào?
doc_9
Từ thời Tống đến thời Nguyên, kinh tế Thiểm Tây, đặc biệt là nông nghiệp, đã khôi phục và phát triển tương đối, điểm nổi bật là sự nghiệp thủy lợi. Những năm Khánh Lịch (1041-1048) thời Tống Nhân Tông, diện tích ruộng được tưới đã tăng lên 6.000 khoảng từ mức 2.000 khoảnh vào đầu thời Tống, đạt mức thời kỳ giữa nhà Đường. Việc sử dụng dầu mỏ và khai mỏ tại Thiểm Tây cũng bắt đầu trong thời Tống-Nguyên. Trong thời gian làm quan tại Thiểm Bắc, Thẩm Quát đã tiến hành khảo sát tường tận và kết luận "dầu mỏ rất nhiều, được tạo ra vô cùng trong lòng đất, không như gỗ tùng có thời kỳ và có thể cạn kiệt".
doc_2359;;;;;doc_1533;;;;;doc_741;;;;;doc_5050;;;;;doc_3449
Biến thiên lịch sử và nguồn gốc địa danh Thiểm Tây có quan hệ với nhau. Ngày nay, ở Tây Nam huyện Thiểm của tỉnh Hà Nam, có một địa phương được gọi là Thiểm Nguyên (Thiểm Mạch). Những năm đầu nhà Chu, Chu công và Triệu công hoạch phân lãnh địa đất này, theo đó từ Thiểm về phía đông là đất của Chu công, từ Thiểm về phía tây là đất của Triệu công. Đến thời nhà Tống, triều đình đã thiết lập Thiểm Tây lộ, lãnh địa xứ này ở phía tây của Thiểm Nguyên, vì vậy mới có tên là Thiểm Tây lộ. Trong một thời kỳ lịch sử lâu dài, Thiểm Tây được gọi tắt là "Tần". Trước thời nhà Nguyên, Thiểm Tây không bao gồm các khu vực ở phía nam Tần Lĩnh như Hán Trung, An Khang.;;;;;Năm 1253, đại hãn Mông Cổ phân phong chư vương, Quan Trung trở thành đất phong của Hốt Tất Liệt. Năm 1271, Hốt Tất Liệt thiên đô về Yên Kinh, đổi quốc hiệu thành "Nguyên". Năm 1272, Hốt Tất Liệt phong cho con trai thứ ba là Mang Ca Lạt (忙哥剌) làm An Tây vương, lập phiên tại Thiểm Tây. Thời Nguyên, Trung Quốc phân thành các hành tỉnh, Thiểm Tây hành tỉnh có trị sở đặt tại Tây An ngày nay, quản lý toàn bộ Thiểm Tây ngày nay, cũng như khu vực phía đông Lan Châu của Cam Túc ngày nay và phía nam trung bộ Ngạc Nhĩ Đa Tư của Nội Mông hiện nay. Đến giữa thời Nguyên, An Tây vương phủ bị phế trừ, An Tây lộ đổi tên thành Phụng Nguyên lộ.;;;;;Tần Lĩnh, dãy núi phân định khí hậu phía bắc và Nam Trung Quốc, chạy dọc theo chiều đông-tây của Thiểm Tây. Thiểm Tây được phân thành ba vùng khí hậu, có sự khác biệt lớn giữa bắc và nam. Khu vực Thiểm Nam thuộc vùng khí hậu cận nhiệt đới gió mùa, Quan Trung và đại bộ phận Thiểm Bắc thuộc vùng khí hậu ôn đới ấm, khu vực dọc theo Vạn Lý Trường Thành ở bắc bộ của Thiểm Bắc thuộc vùng ôn đới lạnh (ôn đới trung). Nhìn chung, khí hậu Thiểm Tây có đặc điểm là: mùa xuân ấm và khô ráo, lượng giáng thủy khá thấp, nhiệt độ tăng nhanh song bất ổn định, nhiều gió cát; mùa hè có nhiệt độ cao và nhiều mưa, song cũng có lúc tái khô hạn; mùa thu mát dễ chịu với độ ẩm tương đối thấp, nhiệt độ hạ nhanh chóng; mùa đông rét lạnh lẽo và khô hanh, nhiệt độ thấp, có rất ít mưa tuyết. Nhiệt độ trung bình năm của Thiểm Tây là 13,7 °C, giảm dần từ nam đến bắc, từ đông sang tây: nhiệt độ trung bình năm của Thiểm Bắc là 7 °C-12 °C, nhiệt độ trung bình năm của Quan Trung là 12 °C-14 °C, nhiệt độ trung bình năm của Thiểm Nam là 14 °C-16 °C. Nhiệt độ trung bình tháng 1 của Thiểm Tây là -11 °C đến 3 °C, nhiệt độ trung bình tháng 7 là 21 °C-28 °C. Mỗi năm, Thiểm Tây có từ 160-250 ngày không có sương giá, nhiệt độ thấp kỷ lục là -32,7 °C, nhiệt độ cao kỷ lục là 42 °C. Lượng giáng thủy bình quân hàng năm của Thiểm Tây là 702,1 mm, biến đổi từ 340–1240 mm. Khoảng 60-70% lượng giáng thủy tập trung vào khoảng thời gian từ tháng 7 đến tháng 10, thường gây nên lũ lụt, còn hai mùa xuân và hè thường bị hạn hán. Lượng giáng thủy tại Thiểm Tây giảm từ nam lên bắc: Thiểm Nam là vùng ẩm ướt, Quan Trung là vùng bán ẩm còn Thiểm Bắc là vùng bán khô hạn.;;;;;Sau khi cuộc nổi loạn Hồi giáo kết thúc, Thiểm Tây lại bị một nạn đói nghiêm trọng do hạn hán kéo dài, tỉnh hầu như không có mưa từ năm 1876 đến năm 1878, và khi triều đình nhà Thanh cố gắng khắc phục tình hình vào năm 1877 thì những yếu kém về hạ tầng giao thông đã cản trở hoạt động cứu trợ. Có thể đã có từ 4 đến 5 người chết đói chỉ tính riêng ở Thiểm Tây, một số huyện trong thung lũng Vị Hà màu mỡ mất trên 100.000 người mỗi huyện. Do các tai họa vào cuối thế kỷ XIX, Thiểm Tây đã trở thành nơi nhập cư của những người mong muốn có ruộng đất từ Tứ Xuyên và Hà Bắc.;;;;;Năm 2011, tổng GDP của Thiểm Tây đạt 1.239,13 tỉ NDT, tăng trưởng 13,9% so với năm trước; cũng trong năm này GDP bình quân đầu người của Thiểm Tây đạt 33.142 NDT, tăng 13,7% so với năm trước. Năm 2011, trong cơ cấu kinh tế của Thiểm Tây khu vực một đạt giá trị 122,09 tỷ NDT, chiếm 9,8%; khu vực hai đạt giá trị 683,627 tỷ NDT, chiếm 55,2%; khu vực ba đạt giá trị 433,413 tỷ NDT, chiếm 35%. Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu năm 2011 của Thiểm Tây là 14,623 tỷ USD, tăng 20,8% so với năm trước, trong đó kim ngạch xuất khẩu lên tới 7,011 tỷ USD, tăng 12,9%; kim ngạch nhập khẩu đạt 7,613 tỷ USD, tăng 29,2%, thâm hụt thương mại là 602 triệu USD. Tám ngành công nghiệp trụ cột của Thiểm Tây là năng lượng và hóa chất, sản xuất thiết bị, luyện kim màu, công nghiệp thực phẩm, chế phẩm khoáng sản phi kim, sản phẩm y dược, thiết bị điện tử, dệt may. Năm 2009, Thiểm Tây xếp thứ ba Trung Quốc về sản xuất than đá, khí thiên nhiên và dầu thô. Tận dụng lợi thế có một vài đại học và viện nghiên cứu hàng đầu ở miền Tây Trung Quốc, Thiểm Tây cũng nắm giữ một vai trò lớn trong các ngành hàng không và vũ trụ, phần mềm, vật liệu mới đang nổi lên của Trung Quốc, tạo ra trên 50% R&D và thiết bị cho ngành công nghiệp hàng không thương mại nội địa.
question_10
Ai đưa ngôn ngữ thành văn đến cộng đồng mù chữ tại châu Âu trong thời kỳ Đen Tối?
doc_10
Tôn giáo giữ vai trò đáng kể trong sinh hoạt văn hoá trên đảo kể từ thời cổ đại (và từ khi xuất hiện các đồn điền trong thế kỷ XVII thì tập trung vào bản sắc và phân chia chính trị trên đảo). Di sản tiền Cơ Đốc của Ireland kết hợp cùng Giáo hội Celt sau khi có các đoàn truyền giáo của Thánh Patrick trong thế kỷ V. Các đoàn truyền giáo Ireland-Scotland có khởi đầu là tu sĩ người Ireland Columba, chúng giúp truyền bá mô hình Cơ Đốc giáo Ireland đến Anh và Francia dị giáo. Các đoàn truyền giáo này đưa ngôn ngữ thành văn đến cộng đồng mù chữ tại châu Âu trong thời kỳ Đen Tối sau khi La Mã sụp đổ, khiến Ireland giành được biệt hiệu là "đảo của các thánh và học giả".
doc_576;;;;;doc_8663;;;;;doc_7000;;;;;doc_5865;;;;;doc_9444
Dân số suy giảm trong nửa đầu thế kỷ XIV, bắt đầu từ nạn đói lớn năm 1315, tiếp đến là Cái chết Đen năm 1348–50. Tuy vậy, các nghệ sĩ, kỹ sư và nhà khoa học Đức phát triển một loạt các kỹ thuật tương tự như thứ được các nghệ sĩ và nhà thiết kế Ý sử dụng vào đương thời, những người phát triển hưng thịnh tại các thành bang thương nghiệp như Venezia, Firenze và Genova. Các trung tâm nghệ thuật và văn hóa khắp các quốc gia Đức sản sinh các nghệ sĩ như họa sĩ Hans Holbein và con trai, và Albrecht Dürer. Johannes Gutenberg giới thiệu in ấn kiểu di động đến châu Âu, đây là một bước phát triển đặt cơ sở để truyền bá kiến thức đến đại chúng.;;;;;Thất vọng khi biết rằng công trình mang tính đột phá đã được thực hiện bởi Helmholtz, người đã truyền tải các nguyên âm bằng một "thiết bị kỳ lạ" âm thoa tương tự, ông đã nghiền ngẫm cuốn sách của nhà khoa học người Đức. Từ lỗi dịch sai của chính mình trong một ấn bản tiếng Pháp, Bell tình cờ đưa ra một suy luận sẽ là nền tảng cho tất cả công việc truyền âm thanh trong tương lai của ông, báo cáo: "Không biết nhiều về chủ đề này, đối với tôi, dường như nếu các nguyên âm có thể được tạo ra bằng phương tiện điện, phụ âm cũng vậy, lời nói có thể phát âm rõ ràng." Sau này ông cũng nhận xét: "Tôi nghĩ rằng Helmholtz đã làm được điều đó... và sự thất bại của tôi chỉ là do tôi không biết gì về điện. Đó là một sai lầm có giá trị... Nếu tôi có thể đọc được tiếng Đức vào thời đó, tôi có thể tôi chưa bao giờ bắt đầu thí nghiệm của mình!"[N 7];;;;;Một số người có ảnh hưởng vào thời điểm đó, bao gồm cả Bell, coi bệnh điếc là một căn bệnh cần phải loại bỏ và cũng tin rằng với nguồn lực và nỗ lực, họ có thể dạy người điếc nói và tránh sử dụng ngôn ngữ ký hiệu, từ đó giúp họ hòa nhập với xã hội rộng lớn hơn. từ đó nhiều người thường bị loại trừ. Ở một số trường học, trẻ em bị ngược đãi, chẳng hạn như bị trói tay sau lưng để chúng không thể giao tiếp bằng ký hiệu—ngôn ngữ duy nhất chúng biết—nhằm ép chúng cố gắng giao tiếp bằng miệng. Do nỗ lực ngăn chặn việc dạy ngôn ngữ ký hiệu, Bell thường bị những người theo đuổi nền văn hóa Điếc nhìn nhận một cách tiêu cực.;;;;;Triều đình Charlemagne ở Aachen là trung tâm của sự phục hưng văn hóa đôi khi được gọi là "Phục hưng Carolingian". Trình độ đọc viết tăng lên, cũng như sự phát triển trong nghệ thuật, kiến trúc và luật học, cũng như nghiên cứu phụng vụ và kinh thánh. Nhà sư người Anh Alcuin (mất năm 804) được mời đến Aachen và mang nền giáo dục đến các tu viện ở Northumbria. Văn phòng thủ tướng của Charlemagne — hay văn phòng viết lách — đã sử dụng một loại chữ viết mới ngày nay được gọi là chữ viết Carolingian cực nhỏ, [M] cho phép một phong cách viết chung giúp nâng cao khả năng giao tiếp trên khắp châu Âu. Charlemagne đã tài trợ cho những thay đổi trong phụng vụ nhà thờ, áp đặt hình thức phụng vụ nhà thờ theo kiểu La Mã trên lãnh địa của ông, cũng như thánh ca Gregorian trong âm nhạc phụng vụ cho các nhà thờ. Một hoạt động quan trọng của các học giả trong thời kỳ này là sao chép, hiệu đính và phổ biến các tác phẩm cơ bản về các chủ đề tôn giáo và thế tục, nhằm mục đích khuyến khích việc học tập. Các tác phẩm mới về chủ đề tôn giáo và sách giáo khoa cũng được sản xuất. Các nhà ngữ pháp thời kỳ đó đã sửa đổi ngôn ngữ Latinh, thay đổi nó từ tiếng Latinh cổ điển của Đế chế La Mã thành một dạng linh hoạt hơn để phù hợp với nhu cầu của nhà thờ và chính phủ. Dưới triều đại của Charlemagne, ngôn ngữ này đã khác xa với ngôn ngữ cổ điển đến mức sau này nó được gọi là tiếng Latinh thời Trung cổ.;;;;;Với sự thống nhất của các vương quốc Anglo-Saxon (bên ngoài Danelaw) bởi Alfred Đại đế vào cuối thế kỷ thứ 9, ngôn ngữ của chính phủ và văn học đã được tiêu chuẩn hóa xung quanh phương ngữ Tây Saxon (Tiền Tây Saxon). Alfred ủng hộ việc giáo dục bằng tiếng Anh cùng với tiếng Latinh, và đã dịch nhiều tác phẩm sang tiếng Anh; một số trong số đó, chẳng hạn như chuyên luận Chăm sóc mục vụ của Giáo hoàng Gregory I, dường như đã được chính Alfred dịch. Trong tiếng Anh cổ, điển hình cho sự phát triển của văn học, thơ xuất hiện trước văn xuôi, nhưng Vua Alfred Đại đế (871 đến 901) là người truyền cảm hứng chủ yếu cho sự phát triển của văn xuôi.
question_11
Gió mùa đông bắc gây ảnh hưởng gì cho tỉnh Thừa Thiên- Huế?
doc_11
Khí hậu Thừa Thiên-Huế gần giống như Quảng Trị với kiểu khí hậu nhiệt đới gió mùa. Những tháng đầu năm có nắng ấm. Thỉnh thoảng lụt vào tháng 5. Các tháng 6, 7, 8 có gió mạnh. Mưa lũ và có gió đông vào tháng 9, 10. Tháng 11 thường có lụt. Cuối năm mưa kéo dài. Nhưng hiện nay do chịu tác động của biến đổi khí hậu nên từ tháng 3 đến tháng 8 nắng nóng lên đến đỉnh điểm. Các tháng 9, 10, 11 thường xuyên có bão. Từ tháng 12 đến tháng 2 năm sau là giai đoạn gió mùa đông bắc kéo về gây mưa to kèm theo đó lũ trên các sông tăng nhanh
doc_2332;;;;;doc_6357;;;;;doc_4184;;;;;doc_2242;;;;;doc_4338
Việt Nam có khí hậu nhiệt đới gió mùa, thời tiết biến động thường xuyên. Phía bắc (phía bắc dãy Bạch Mã) có hai mùa gió chính: gió mùa đông bắc lạnh và khô vào mùa đông tạo nên mùa đông lạnh, gió tây nam nóng khô và đông nam ẩm ướt vào mùa hè. Phía nam có gió đông bắc vào mùa khô và gió tây nam vào mùa mưa. Do nằm dọc theo bờ biển, khí hậu Việt Nam được điều hòa một phần bởi các dòng biển và mang nhiều yếu tố khí hậu biển. Độ ẩm tương đối trung bình là 84% suốt năm. Hằng năm, lượng mưa từ 1.200 đến 3.000 mm, số giờ nắng khoảng 1.500 đến 3.000 giờ/năm và nhiệt độ từ 5 °C đến 37 °C. Hàng năm, Việt Nam luôn phải phòng chống bão và lụt lội và hứng chịu 5 đến 10 cơn bão/năm. Do nằm ở Bắc Bán Cầu, nên bão (gió mạnh từ cấp 8 trở lên) và áp thấp nhiệt đới (gió mạnh cấp 6 hoặc cấp 7) vào Việt Nam xoáy ngược chiều kim đồng hồ.;;;;;Sương mù khá phổ biến, đặc biệt là vào mùa xuân và đầu mùa hè, và thỉnh thoảng có bão nhiệt đới hoặc cuồng phong có thể đe dọa khu vực, đặc biệt là vào cuối mùa hè và đầu mùa thu. Do nằm dọc theo Bắc Đại Tây Dương, thành phố thường nhận được gió biển, đặc biệt là vào cuối mùa xuân, khi nhiệt độ nước vẫn còn khá lạnh và nhiệt độ ở bờ biển có thể lạnh hơn một số nơi trên 20 °F (11 °C). dặm trong đất liền, đôi khi giảm đến gần giữa trưa. Giông bão xảy ra từ tháng 5 đến tháng 9, đôi khi dữ dội với mưa đá lớn, gió dữ dội và mưa lớn. Mặc dù trung tâm thành phố Boston chưa bao giờ bị lốc xoáy dữ dội tấn công nhưng bản thân thành phố này đã phải hứng chịu nhiều cảnh báo lốc xoáy. Những cơn bão gây thiệt hại phổ biến hơn ở các khu vực phía bắc, phía tây và tây bắc thành phố. Boston có khí hậu tương đối nắng đối với một thành phố ven biển ở vĩ độ của nó, trung bình hơn 2.600 giờ nắng mỗi năm.;;;;;Thừa Thiên Huế quan tâm đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội gắn với bảo tồn, phát huy các giá trị văn hoá. Thành phố Huế vừa mang dáng dấp hiện đại, vừa mang nét đẹp cổ kính với di sản văn hoá thế giới, đóng vai trò hạt nhân đô thị hoá lan toả và kết nối với các đô thị vệ tinh. Môi trường thu hút đầu tư lành mạnh và tạo điều kiện thuận lợi cho nhà đầu tư có năng lực. Hạ tầng giao thông ngày càng hiện đại, chống được chia cắt vùng miền, tạo ra động lực phát triển giữa nông thôn và thành thị. Năng lực sản xuất mới hình thành và mở ra tương lai gần sẽ có bước tăng trưởng đột phá: phía Bắc có các khu công nghiệp Phong Điền, Tứ Hạ, xi măng Đồng Lâm; phía Nam có khu công nghiệp Phú Bài, khu kinh tế-đô thị Chân Mây-Lăng Cô sôi động; phía Tây đã hình thành mạng lưới công nghiệp thuỷ điện Tả Trạch, Hương Điền, Bình Điền, A Lưới, xi măng Nam Đông; phía Đông phát triển mạnh khai thác và nuôi trồng thuỷ sản và Khu kinh tế tổng hợp Tam Giang-Cầu Hai.;;;;;Các khu vực duyên hải của Thổ Nhĩ Kỳ giáp với biển Aegea và Địa Trung Hải có khí hậu Địa Trung Hải ôn hòa, với mùa hè nóng khô và mùa đông mát ẩm. Các khu vực duyên hải giáp với biển Đen có khí hậu đại dương ôn hòa với mùa hè ấm ẩm và mùa đông lạnh ẩm. Duyên hải biển Đen của Thổ Nhĩ Kỳ nhận lượng giáng thủy lớn nhất và là khu vực duy nhất trong nước nhận được lượng giáng thủy cao suốt năm. Phần phía đông của khu vực duyên hải này nhận được lượng giáng thủy hàng năm là 2.200 milimét (87 in), cao nhất toàn quốc.;;;;;Thành phố Hồ Chí Minh chịu ảnh hưởng bởi hai hướng gió chính là gió mùa Tây – Tây Nam và Bắc – Ðông Bắc. Gió Tây – Tây Nam từ Ấn Độ Dương, tốc độ trung bình 3,6 m/s, vào mùa mưa. Gió Gió Bắc – Ðông Bắc từ biển Đông, tốc độ trung bình 2,4 m/s, vào mùa khô. Ngoài ra còn có gió mậu dịch theo hướng Nam – Đông Nam vào khoảng tháng 3 tới tháng 5, trung bình 3,7 m/s. Có thể nói Thành phố Hồ Chí Minh thuộc vùng không có gió bão. Cũng như lượng mưa, độ ẩm không khí ở thành phố lên cao vào mùa mưa (80%), và xuống thấp vào mùa khô (74,5%). Bình quân độ ẩm không khí đạt 79,5%/năm.
question_12
Các chương trình tiếng Nga ở Ukraina phải làm gì trước khi phát sóng?
doc_12
Trong một phần lớn thời gian thời kỳ Xô viết, số người nói tiếng Ukraina giảm sút sau mỗi thế hệ, và tới giữa thập niên 1980, việc sử dụng tiếng Ukraina trong đời sống công cộng đã sụt giảm đáng kể. Sau khi giành độc lập, chính phủ Ukraina bắt đầu chính sách Ukraina hoá, để tăng cường việc sử dụng tiếng Ukraina, trong khi không khuyến khích tiếng Nga, vốn đã bị cấm hay hạn chế trên truyền thông và phim ảnh. Điều này có nghĩa các chương trình tiếng Nga phải được dịch hay chạy tít tiếng Ukraina, nhưng điều này không áp dụng với các tác phẩm truyền thông được thực hiện trong thời Xô viết.
doc_4737;;;;;doc_4429;;;;;doc_9038;;;;;doc_4753;;;;;doc_1175
Theo Hiến pháp của Cộng hoà Tự trị Krym, tiếng Ukraina là ngôn ngữ nhà nước duy nhất của nước cộng hoà. Tuy nhiên, hiến pháp nước cộng hoà đặc biệt công nhận tiếng Nga là một ngôn ngữ được đa số người dân của nó sử đụng và đảm bảo việc sử dụng tiếng Nga 'trong mọi lĩnh vực của đời sống công cộng'. Tương tự, tiếng Tatar Crimea (ngôn ngữ của 12% dân số Crimea) được đảm bảo một sự bảo hộ đặc biệt của nhà nước cũng như trong 'các ngôn ngữ của các sắc tộc khác'. Những người nói tiếng Nga chiếm đại đa số dân cư Crimea (77%), tiếng Ukraina chỉ chiếm 10.1%, và người nói tiếng Tatar Crimea chiếm 11.4%. Nhưng trong đời sống hàng ngày đa số người Tatar Crimea và người Ukraina ở Crimea sử dụng tiếng Nga.;;;;;Thế kỷ XIX khởi đầu một thời kỳ tiếng địa phương tại Ukraina, khởi đầu với tác phẩm [Eneyida] lỗi: {{lang}}: văn bản có thẻ đánh dấu in xiên (trợ giúp) của Ivan Kotliarevsky, tác phẩm xuất bản đầu tiên của Ukraina hiện đại. Tới thập niên 1830, chủ nghĩa lãng mạn Ukraina bắt đầu phát triển, và nhân vật văn hoá nổi tiếng nhất Ukraina là nhà thơ/họa sĩ lãng mạn Taras Shevchenko. Nếu Ivan Kotliarevsky được coi là người cha của văn học tiếng địa phương Ukraina; Shevchenko là người cha của sự hồi phục quốc gia Ukraina. Sau đó, vào năm 1863, việc sử dụng tiếng Ukraina trong in ấn đã hoàn toàn bị ngăn cấm bởi Đế quốc Nga. Điều này đã hoàn toàn hạn chế hoạt động văn học trong khu vực, và các tác giả Ukraina bị buộc hoặc phải xuất bản tác phẩm bằng tiếng Nga hoặc phát hành chúng tại vùng Galicia do Áo quản lý. Lệnh cấm chưa từng bị chính thức dỡ bỏ, nhưng nó đã mất nhiều hiệu lực sau cuộc cách mạng và khi những người Bolshevik lên nắm quyền.;;;;;Ngày nay, ranh giới giữa tiếng Ukraina và tiếng Nga vẫn chưa được xác định rõ ràng, với một phương ngữ trung gian giữa chúng, được gọi là Surzhyk, đang phát triển ở Ukraine.;;;;;Năm 1648, Bohdan Khmelnytsky lãnh đạo những cuộc nổi dậy lớn nhất của người Cossack chống lại Khối thịnh vượng chung và vua Ba Lan John II Casimir. Bờ tả Ukraina cuối cùng sáp nhập vào Nga như Cossack Hetmanate, sau Hiệp ước Pereyaslav năm 1654 và cuộc Chiến tranh Nga Ba Lan sau đó. Sau cuộc phân chia Ba Lan ở cuối thế kỷ XVIII bởi Phổ, nhà Habsburg của Áo, và Nga, Tây Ukraina Galicia bị Áo chiếm, trong khi phần còn lại của Ukraina dần bị sáp nhập vào Đế quốc Nga. Từ đầu thế kỷ XVI tới cuối thế kỷ XVII các nhóm cướp phá của người Tatar vùng Krym hầu như đột nhập hàng năm vào các vùng đất nông nghiệp Slavơ bắt người để bán làm nô lệ. Sau sự sáp nhập Khả hãn quốc Crimea năm 1783, vùng này là nơi định cư của những người du cư từ các vùng khác của Ukraina. Dù có những lời hứa trao cho Ukraina quyền tự trị trong Hiệp ước Pereyaslav, giới lãnh đạo Ukraina và người Cossack không bao giờ có tự do và tự trị mà họ chờ đợi từ Đế quốc Nga. Tuy nhiên, bên trong Đế chế, người Ukraina lên được những chức vụ cao nhất của nhà nước Nga, và Nhà thờ Chính thống Nga.[a] Ở giai đoạn sau này, chính quyền Sa hoàng tiến hành chính sách Nga hoá các vùng đất Ukraina, cấm sử dụng ngôn ngữ Ukraina trong xuất bản và công cộng.;;;;;Các chi tiết kết quả khác biệt nhau rất nhiều tuỳ theo từng cuộc điều tra, và thậm chí một câu hỏi chỉ hơi khác biệt cũng dẫn tới những câu trả lời khác từ một nhóm người khá lớn.[f] Tiếng Ukraina chủ yếu được dùng ở phía tây và trung Ukraina. Ở phía tây Ukraina, tiếng Ukraina cũng là nguôn ngữ phổ biến trong các thành phố (như Lviv). Ở trung Ukraina, tiếng Ukraina và tiếng Nga được sử dụng như nhau trong các thành phố, tiếng Nga hơi phổ biến hơn ở Kiev,[f] trong khi tiếng Ukraina là ngôn ngữ chính tại các cộng đồng nông thôn. Tại phía đông và phía nam Ukrain, tiếng Nga được dùng chủ yếu trong các thành phố, tiếng Ukraina được dùng ở các vùng nông thôn.
question_13
Vì sao Trung Hoa muốn chiếm lấy biển Đông?
doc_13
Có rất nhiều tranh cãi về lãnh hải trên vùng Biển Đông và các nguồn tài nguyên của nó. Bởi Luật biển năm 1982 của Liên Hiệp Quốc cho phép các nước có vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) mở rộng 200 hải lý (370,6 km) từ lãnh hải của họ, tất cả các nước quanh vùng biển có thể đưa ra tuyên bố chủ quyền với những phần rộng lớn của nó. Cộng hoà nhân dân Trung Hoa đã tuyên bố chủ quyền hầu như toàn bộ vùng biển. Những báo cáo gần đây cho thấy CHND Trung Hoa đang phát triển một nhóm tàu sân bay để bảo vệ những đường vận chuyển nhiên liệu ở Biển Đông. Những vùng có nguy cơ tranh chấp gồm:
doc_317;;;;;doc_505;;;;;doc_3877;;;;;doc_5058;;;;;doc_1934
ASEAN nói chung, và Trung Quốc nói riêng luôn muốn đảm bảo rằng những tranh chấp bên trong Biển Đông sẽ không leo thang trở thành xung đột quân sự. Vì vậy, các cơ cấu phát triển chung (Joint Development Authorities) đã được lập ra tại các vùng tranh chấp chồng lấn để cùng phát triển vùng và phân chia quyền lợi công bằng tuy nhiên không giải quyết vấn đề chủ quyền của vùng đó. Điều này đã trở thành sự thực, đặc biệt là ở Vịnh Thái Lan. Tuy nhiên, gần đây Trung Quốc đã tuyên bố sẽ không ngại dùng vũ lực để chiếm đoạt quần đảo Trường Sa.;;;;;Tưởng Giới Thạch phát biểu rằng người Việt không phải là người Trung Quốc, không dễ bị Trung Quốc đồng hóa và Trung Quốc không có quyền lợi về đất đai ở Đông Dương. Trung Quốc nhiều lần tuyên bố mặc dầu Trung Quốc mong muốn thấy Đông Dương được trả lại cho Pháp nhưng không muốn điều đó được thực hiện mà không có một số bảo đảm nhằm ngăn chặn Pháp dùng Đông Dương vào những hoạt động có hại cho lợi ích của Trung Quốc sau này. Tương lai Đông Dương sẽ không được định đoạt nếu không có sự thỏa thuận của Trung Quốc trên bàn Hội nghị Hòa bình.;;;;;Theo quan điểm của Trung Quốc (tài liệu Bộ Ngoại giao), công hàm của Thủ tướng nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà Phạm Văn Đồng đương nhiên "công nhận" chủ quyền của Trung Quốc đối với các quần đảo trên biển Đông vì trước đó trong số báo ngày 6 tháng 9 báo Nhân dân "đã đăng chi tiết về Tuyên bố Lãnh hải của chính phủ Trung Quốc trong đó đường cơ sở để tính lãnh hải bao gồm bờ biển hai quần đảo Tây Sa và Nam Sa trên biển Đông". Các tài liệu công bố công khai cho công chúng Trung Quốc bản dịch tiếng Trung đều không dịch đầy đủ nội dung của văn kiện này, thiếu một số nội dung trong đó có đoạn "triệt để tôn trọng hải phận 12 hải lý của Trung Quốc".;;;;;Ngoài yêu sách đối với Đài Loan, Trung Quốc cũng tham dự một số tranh chấp lãnh thổ quốc tế khác. Kể từ thập niên 1990, Trung Quốc tham dự các cuộc đàm phán nhằm giải quyết tranh chấp về biên giới trên bộ, trong đó có tranh chấp biên giới với Ấn Độ và một biên giới chưa phân định với Bhutan. Ngoài ra, Trung Quốc còn tham dự các tranh chấp đa phương quanh quyền chiếm hữu một số đảo nhỏ trên biển Đông và biển Hoa Đông, gồm bãi cạn Scarborough, quần đảo Senkaku quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa.;;;;;Tạ Quang Bửu cho rằng: mặc dù Tưởng thừa nhận là đứng trung lập, nhưng ở Trung Quốc vẫn có hai lực lượng đấu tranh với nhau. Quốc dân Đảng Trung Quốc cho việc chiếm đóng là một cơ hội để ép Paris phải nhân nhượng. Các tướng địa phương, đặc biệt là Lư Hán, lại coi việc chiếm đóng là một dịp để cướp đoạt, gây dựng một nguồn cung cấp hàng hóa và thị trường lâu dài để buôn lậu, đồng thời mở rộng quyền sở hữu của họ ra vùng ngoài biên giới Trung Quốc. Trong chính sách 14 điểm của quân Trung Hoa Dân quốc, có 4 điểm thường gây ra sự bực bội cho tướng Lư Hán và Pháp. Hồ Chí Minh cho rằng mục tiêu trước mắt của Quốc dân Đảng Trung Quốc là giữ người Pháp đứng ngoài Đông Dương và ủng hộ phong trào Quốc gia tại Việt Nam cho đến khi đàm phán xong với Pháp. Theo ông, khi nào một chế độ thân Trung Quốc còn nắm quyền thì Pháp không thể lật đổ chính quyền Việt Nam tại miền Bắc.
question_14
Tổ chức nào đã tố cáo Mỹ về việc sử dụng vũ khí sinh học trong chiến tranh Triều Tiên?
doc_14
Tháng 9 năm 1952, Uỷ ban Khoa học Quốc tế về điều tra các sự kiện về chiến tranh vi khuẩn ở Triều Tiên và Trung Quốc (ISC) đã đưa ra một báo cáo cho thấy Mỹ đã tiến hành chiến tranh sinh học trong chiến tranh Triều Tiên. Một báo cáo công bố vào tháng 2 năm 2018 đề cập đến việc Hoa Kỳ đã sử dụng vũ khí sinh học đối với thường dân Triều Tiên. Máy bay Hoa Kỳ đã thả những con bọ chét nhiễm mầm bệnh dịch hạch vào Bắc Triều Tiên vào tháng 2 năm 1952. Kể từ đầu năm 1952, nhiều ổ bệnh dịch hạch đã xuất hiện ở Bắc Triều Tiên. Ví dụ như làng Bal-Nam-Ri bắt đầu xảy ra nạn dịch hạch vào ngày 25/2/1952, trong số 600 người trong làng, 50 người bị bệnh dịch hạch và 36 người đã chết
doc_185;;;;;doc_3703;;;;;doc_2734;;;;;doc_7412;;;;;doc_8151
Một cuộc điều tra của Uỷ ban tài chính Thượng nghị viện năm 1994 xác định rằng Bộ Thương mại Hoa Kỳ đã phê chuẩn, cho mục đích nghiên cứu, việc bán các tác nhân sinh học đa tác dụng cho Iraq hồi giữa thập niên 1980, gồm cả khuẩn bệnh than (anthrax), sau này bị Lầu Năm Góc coi là một nhân tố quan trọng trong chương trình vũ khí sinh học của Iraq, cũng như Clostridium botulinum, Histoplasma capsulatum, Brucella melitensis và Clostridium perfringens. Báo cáo của Uỷ ban cho rằng mỗi tác nhân trên đều đã bị "nhiều nước coi là có mục đích sử dụng trong chiến tranh". Các tài liệu được giải mật của chính phủ Mỹ cho thấy chính phủ đã xác nhận rằng Iraq đã sử dụng các vũ khí hoá học "hầu như hàng ngày" trong cuộc xung đột Iran-Iraq ngay từ năm 1983. Chủ tịch Uỷ ban thượng nghị viện, Don Riegle, đã nói: "Nhánh hành pháp của chính phủ chúng ta đã phê chuẩn 771 giấy phép xuất khẩu khác nhau cho việc bán các kỹ thuật đa ứng dụng cho Iraq. Tôi cho rằng đó là một kỷ lục kinh khủng". Có rất ít bằng chứng cho thấy Iraq từng sử dụng các loại vũ khí sinh học trong chiến tranh và không một tác nhân sinh học nào trong bản báo cáo trên có liên quan tới các vũ khí hoá học.;;;;;Với thất bại của Ủy ban hỗn hợp trong việc dàn xếp, Mỹ đã đưa vấn đề Triều Tiên trình lên Liên Hợp Quốc vào tháng 9 năm 1947. Liên Xô lại phản đối mọi sự can thiệp của Liên Hợp Quốc vào nội bộ Triều Tiên. Vào thời điểm đó, Mỹ có tầm ảnh hưởng lớn hơn Liên Xô trong Liên Hợp Quốc.. Liên Hợp Quốc thông qua nghị quyết vào ngày 14 tháng 11 năm 1947, tuyên bố rằng một cuộc bầu cử tự do trên toàn bán đảo Triều Tiên nên được tổ chức, quân đội nước ngoài phải rút lui, và thành lập một Uỷ ban của LHQ về Triều Tiên gọi là UNTCOK. Liên Xô và chính quyền cộng sản ở phía Bắc đã tẩy chay bầu cử và không coi nghị quyết của LHQ mang tính chất ràng buộc, họ cho rằng LHQ không thể bảo đảm bầu cử công bằng. Không có sự hợp tác từ phía Liên Xô, người ta quyết định tổ chức cuộc bầu cử dưới sự giám sát của LHQ ở miền nam (mặc dù bầu cử ban đầu dự kiến sẽ được tổ chức trên toàn bán đảo) . Một số đại biểu UNTCOK cho rằng bầu cử chỉ tổ chức ở miền Nam đã tạo ra lợi thế không công bằng cho các ứng cử viên cánh hữu, nhưng ý kiến của họ đã bị bác bỏ. Không ngoài mong muốn của Mỹ, chính phủ đắc cử được lãnh đạo bởi Lý Thừa Vãn, một người Triều Tiên sống lưu vong tại Mỹ và có tư tưởng chống cộng rất mạnh. Ông là một người Triều Tiên bị Nhật Bản cầm tù từ khi còn là một thanh niên và rồi trốn thoát sang Hoa Kỳ nơi ông lấy được các cấp bằng đại học và sau đại học tại Đại học Georgetown, Đại học Harvard và Đại học Princeton. Hoa Kỳ ủng hộ Lý Thừa Vãn bởi ông là một tín đồ Thiên Chúa giáo rất ngoan đạo và chống Cộng rất mạnh;;;;;Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ cũng đã xuất bản một cuốn sách về urani nghèo. Nó tuyên bố: "Tổ chức sức khỏe thế giới và các nghiên cứu khoa học khác đã cho thấy urani nghèo không gây ra những nguy cơ nghiêm trọng đối với sức khoẻ" và "urani nghèo không gây ra khuyết tật ở trẻ sơ sinh. Quân đội Iraq sử dụng các vũ khí hóa học và thần kinh trong thập kỷ 1980 và 1990 có thể là nguyên nhân gây ra cái gọi là khuyết tật ở trẻ em Iraq." Về những buộc tội gây ra ung thư, cuốn sách của Hoa Kỳ cho rằng "theo những chuyên gia về sức khỏe môi trường, về mặt y tế không thể coi việc nhiễm bệnh bạch cầu như là kết quả của việc chịu tác động của urani hay urani nghèo", và "tỷ lệ ung thư trong số 19.000 công nhân công nghiệp tiếp xúc với urani nghèo ở mức độ cao tại các dự án ở Phòng thí nghiệm quốc gia Oak Ridge trong giai đoạn 1943 và 1947 đã được xem xét, và việc tăng tỷ lệ ung thư không hề được quan sát thấy cho tới tận năm 1974. Các nghiên cứu dịch tễ học khác về ung thư phổi tại các công nhân làm việc tại nhà máy urani và nhà máy gia công thép không cho thấy tỷ lệ tăng bất thường hay sự liên quan tới những chất sinh ung thư khác đã được biết ngoài urani, như radon.";;;;;Chiến tranh Triều Tiên là cuộc xung đột giữa Hoa Kỳ với các đồng minh của Liên hợp quốc và các cường quốc cộng sản dưới ảnh hưởng của Liên Xô (cũng là một quốc gia thành viên Liên hợp quốc) và Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa (sau này cũng trở thành thành viên Liên hợp quốc). Các chiến binh chính là Bắc và Nam Triều Tiên. Các đồng minh chính của Hàn Quốc bao gồm Hoa Kỳ, Canada, Úc, Vương quốc Anh, mặc dù nhiều quốc gia khác đã gửi quân dưới sự bảo trợ của Liên hợp quốc. Các đồng minh của Triều Tiên bao gồm Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, nơi cung cấp lực lượng quân sự và Liên Xô, nơi cung cấp cố vấn chiến đấu và phi công máy bay, cũng như vũ khí cho quân đội Trung Quốc và Triều Tiên.;;;;;Một báo cáo của chính phủ được Guardian đưa tin năm 2002 chỉ ra rằng từ năm 1940 đến năm 1979, Bộ Quốc phòng "đã biến phần lớn đất nước thành một phòng thí nghiệm khổng lồ để tiến hành một loạt cuộc thử nghiệm chiến tranh vi trùng bí mật đối với công chúng" và nhiều cuộc thử nghiệm kiểu này " liên quan đến việc giải phóng các hóa chất và vi sinh vật nguy hiểm tiềm tàng trên nhiều vùng dân cư mà không cho công chúng biết." Bộ Quốc phòng tuyên bố rằng những thử nghiệm này nhằm mô phỏng chiến tranh vi trùng và các thử nghiệm này vô hại. Tuy nhiên, những gia đình từng tham gia nhiều cuộc kiểm tra đang gặp phải những đứa trẻ bị dị tật bẩm sinh, khuyết tật về thể chất và tinh thần và nhiều gia đình đang yêu cầu một cuộc điều tra công khai. Theo báo cáo, các cuộc thử nghiệm này đã ảnh hưởng đến ước tính hàng triệu người, trong đó có khoảng thời gian từ năm 1961 đến năm 1968, khi "hơn một triệu người dọc theo bờ biển phía nam nước Anh, từ Torquay đến New Forest, đã tiếp xúc với vi khuẩn bao gồm e.coli và trực khuẩn globigii". , bắt chước bệnh than." Hai nhà khoa học do Bộ Quốc phòng ủy quyền tuyên bố rằng những thử nghiệm này không gây rủi ro cho công chúng. Điều này đã được xác nhận bởi Sue Ellison, đại diện của Porton Down, người nói rằng kết quả từ những cuộc thử nghiệm này "sẽ cứu được nhiều mạng sống nếu đất nước hoặc lực lượng của chúng tôi phải đối mặt với một cuộc tấn công bằng vũ khí hóa học và sinh học." Khi được hỏi liệu những cuộc thử nghiệm như vậy có còn được thực hiện hay không, bà nói: “Chính sách của chúng tôi không phải là thảo luận về những nghiên cứu đang diễn ra”. Không rõ liệu sự vô hại của các thử nghiệm có được biết đến vào thời điểm chúng diễn ra hay không.
question_15
Các loài của các chi nào có hình thức sinh sản đơn tính?
doc_15
Một số sai biệt khi so sánh với sự phát triển thông thường cũng được ghi nhận. Sinh sản đơn tính, hay sự phát triển của phôi từ tế bào trứng mà không cần sự thụ phấn, đã được miêu tả đối với các loài của các chi Thalictrum, Antennaria và Alchemilla. Đa phôi nói chung gắn liền với sự phát triển của các tế bào hơn là từ tế bào trứng. Vì thế trong các chi Erythronium và Limnocharis thì tế bào trứng có thể tạo ra một lượng mô mà một vài phôi được tạo ra từ đó. Các trường hợp cá biệt chỉ ra rằng bất kỳ tế bào nào trong túi phôi có thể cũng tạo ra phôi, ví dụ tế bào trứng phát triển không đầy đủ trong các loài thuộc chi Mimosa, Iris và Allium, và trong chi cuối cùng đã nêu thì các tế bào đối cực cũng có thể. Trong chi Coelebogyne (họ Euphorbiaceae) và Funkia (họ Liliaceae) đa phôi được tạo ra từ việc sản xuất ngẫu nhiên các phôi từ các tế bào của phôi tâm xung quanh đỉnh của túi phôi. Ở các loài thuộc chi Allium, các phôi cũng đã được phát hiện là phát triển thành cùng một cá thể từ tế bào trứng, tế bào trứng không phát triển đầy đủ, tế bào đối cực và các tế bào của phôi tâm. Ở hai loài thuộc chi Balanophora sinh trưởng ở khu vực Malaya, phôi được phát triển từ tế bào của nội nhũ, nó chỉ được hình thành từ nhân có cực phía trên và bộ phận trứng bị phá hủy. Trường hợp vừa đề cập này có thể coi như là biểu hiện của sự phát triển sinh sản vô giao của thể bào tử từ thể giao tử khi so sánh với trường hợp sinh sản vô giao được miêu tả đối với các loài dương xỉ. Sự đa dạng của các trường hợp dị thường này, như đã chỉ ra trong các ví dụ trên đây, là lý do để người ta cần cân nhắc kỹ hơn trong việc thiết lập các nguyên lý hình thái cụ thể đối với thực vật có hoa.
doc_6193;;;;;doc_76;;;;;doc_3969;;;;;doc_2929;;;;;doc_7401
Một số loài động vật biển tồn tại và phụ thuộc trực tiếp hoặc gián tiếp vào thực vật phù du. Sinh vật biển ở Nam Cực bao gồm chim cánh cụt, cá voi xanh, cá kình, mực khổng lồ và hải cẩu lông thú. Chim cánh cụt hoàng đế là loài chim cánh cụt duy nhất sinh sản vào mùa đông ở Nam Cực, trong khi chim cánh cụt Adélie sinh sản ở xa hơn về phía nam so với bất kỳ loài chim cánh cụt nào khác. Chim cánh cụt rockhopper có bộ lông đặc biệt xung quanh mắt, tạo nên vẻ ngoài của lông mi phức tạp. Chim cánh cụt vua, chim cánh cụt chinstrap và chim cánh cụt gentoo cũng sinh sản ở Nam Cực.;;;;;Liên lớp động vật bốn chân (Tetrapoda) được chia thành 4 lớp gồm các loài động vật có 4 chi. Bò sát, chim và thú là các động vật có màng ối, trứng của chúng được đẻ ra ngoài hoặc mang trong cơ thể con cái và được bao bọc xung quanh bởi nhiều màng, một vài trong số đó vẫn chưa thể hiểu hết được. Thiếu các màng này, động vật lưỡng cư cần có các vực nước để sinh sản, mặc dù vài loài đã phát triển qua nhiều giai đoạn khác nhau để bảo vệ hoặc bỏ qua giai đoạn ấu trùng ở trong nước dễ bị tổn thương. Chúng không có mặt ở biển trừ một hoặc 2 loài ếch sống trong vùng nước lợ của các đầm lầy ngập mặn. Trên đất liền, các động vật lưỡng cư sống giới hạn trong các môi trường ẩm ướt do chúng cần phải giữ cho da của chúng ẩm.;;;;;Có bảy loài động vật chân màng cư ngụ ở châu Nam Cực. Lớn nhất là chi Hải tượng (Mirounga leonina), những loài thuộc chi này có thể nặng tới 4 tấn (8.818 lb), trong khi những con cái của loài nhỏ nhất, hải cẩu lông mao Nam Cực (Arctocephalus gazella), có cân nặng chỉ 150 kg (331 lb). Hai loại này sống ở phía bắc vùng nước đóng băng và sinh sản trên bãi biển với số lượng mỗi nhóm tầm một hai con đực và nhiều con cái. Có bốn loài khác có thể sống trên lớp băng bề mặt biển. Hải cẩu ăn cua (Lobodon carcinophagus) và hải cẩu Weddell (Leptonychotes weddellii) sinh sản theo bầy đàn còn hải cẩu báo và (Hydrurga leptonyx) hải cẩu Ross (Ommatophoca rossii) sống đơn độc. Hải cẩu sinh sản trên băng hoặc trên đất liền, còn lại chúng dành phần lớn thời gian hoạt động và săn mồi dưới lớp băng biển, trong nước tương đối ấm có nhiệt độ ổn định dao động nhỏ ở khoảng gần 1 °C.;;;;;Nhiều loài động vật biển khác nhau tồn tại và dựa trực tiếp hay gián tiếp vào thực vật phù du ở Nam Đại Dương. Các loài động vật biển Nam Cực gồm có chim cánh cụt, cá voi xanh, cá voi sát thủ, mực khổng lồ và hải cẩu lông mao. Chim cánh cụt hoàng đế là loại chim cánh cụt duy nhất sinh sản vào mùa đông ở châu Nam Cực, trong khi chim cánh cụt Adélie sinh sản ở vùng xa về phía nam hơn bất kỳ loại chim cánh cụt nào khác. Chim cánh cụt Rockhopper có đôi mắt màu đỏ, lông mày vàng, mỏ màu cam cùng những chiếc lông nhọn trên đầu. Cánh cụt vua, quai mũ, và Gentoo cũng sinh sản ở vùng Nam Cực.;;;;;Ngoại trừ một số sinh vật nguyên thủy như bọt biển (không có hệ thần kinh) và động vật cnidarians (có hệ thần kinh bao gồm mạng lưới thần kinh khuếch tán), tất cả các động vật đa bào đang sống đều là động vật song phương, nghĩa là động vật có hình dạng cơ thể đối xứng hai bên (tức là , bên trái và bên phải là hình ảnh phản chiếu gần đúng của nhau). Tất cả các loài song bào được cho là có nguồn gốc từ một tổ tiên chung xuất hiện sớm vào kỷ Cambri, 485-540 triệu năm trước, và người ta đưa ra giả thuyết rằng tổ tiên chung này có hình dạng một loài giun ống đơn giản với cơ thể phân đốt. Ở cấp độ sơ đồ, hình dạng giun cơ bản đó tiếp tục được phản ánh trong cấu trúc cơ thể và hệ thần kinh của tất cả các loài song sinh hiện đại, bao gồm cả động vật có xương sống. Dạng cơ thể hai bên cơ bản là một ống có khoang ruột rỗng chạy từ miệng đến hậu môn và một dây thần kinh có sự phình to (một hạch) cho mỗi đoạn cơ thể, với một hạch đặc biệt lớn ở phía trước, được gọi là não. Bộ não nhỏ và đơn giản ở một số loài, chẳng hạn như giun tròn; ở các loài khác, bao gồm cả động vật có xương sống, nó là cơ quan phức tạp nhất trong cơ thể. Một số loại giun, chẳng hạn như đỉa, cũng có hạch to ở đầu sau của dây thần kinh, được gọi là "não đuôi".
question_16
"Thống đốc La Mã", theo cách gọi bằng tiếng anh, là gọi tên những ai?
doc_16
Quá trình để một vùng lãnh thổ bị sáp nhập trở thành một tỉnh đều phải trải qua ba bước: làm một sổ ghi danh sách các thành phố, tiến hành một cuộc tổng điều tra dân số, và vẽ bản đồ Hơn nữa những hồ sơ lưu trữ của chính quyền còn bao gồm ngày sinh và qua đời, giao dịch bất động sản, thuế và những biên bản pháp lý Trong thế kỷ 1 và 2, chính quyền trung ương đã phái khoảng 160 quan chức mỗi năm để cai trị các vùng đất bên ngoài Ý Trong số các quan chức có các "thống đốc La Mã", theo cách gọi bằng tiếng Anh: hoặc thẩm phán được bầu tại Rome, những người có tên trong viện nguyên lão và nhân dân La Mã, cai trị các tỉnh trực thuộc viện nguyên lão;. hoặc thống đốc, thường thuộc tầng lớp kị sĩ, những người nắm giữ quyền tuyệt đối của họ thay mặt cho hoàng đế ở những tỉnh không nằm dưới sự kiểm soát của viện nguyên lão, đặc biệt là tỉnh Ai Cập thuộc La Mã Một thống đốc phải khiến cho bản thân ông ta trở nên gần gũi với người dân mà ông ta cai quản. Tuy nhiên, bộ máy giúp việc của ông ta lại rất nhỏ: những cấp dưới chính thức của ông ta (apparitores), bao gồm các vệ sĩ, sứ truyền lệnh, sứ giả, những người chép bản thảo, và cận vệ; Các Legate, cả dân sự và quân sự, thường là những người thuộc tầng lớp kị sĩ và bạn bè, đang trong độ tuổi và có kinh nghiệm, hộ tống ông ta nhưng không chính thức.
doc_1571;;;;;doc_4180;;;;;doc_3214;;;;;doc_7425;;;;;doc_8107
Đế quốc La Mã Thần Thánh (tiếng Latinh: Sacrum Romanum Imperium; tiếng Đức: Heiliges Römisches Reich; tiếng Ý: Sacro Romano Impero; tiếng Anh: Holy Roman Empire)[b] còn được gọi là Thánh chế La Mã, là một phức hợp lãnh thổ rộng lớn đa sắc tộc, mà chủ yếu là người Đức, tồn tại từ cuối thời sơ kỳ Trung cổ cho đến năm 1806. Tên của đế quốc bắt nguồn từ yêu sách của các Hoàng đế La Mã Đức vào thời Trung cổ, muốn tiếp tục truyền thống của đế chế La Mã cổ và hợp pháp hóa quyền cai trị như là thánh ý của Thiên Chúa. Lãnh thổ chủ yếu của Đế quốc gồm Vương quốc Đức, Vương quốc Bohemia, Vương quốc Burgundy, Vương quốc Ý và nhiều lãnh thổ, công quốc, thành phố đế quốc tự do lớn nhỏ khác.;;;;;Giám mục Roma được gọi là Giáo hoàng, và Roma là nơi quan trọng từ thời kỳ đầu của Cơ Đốc giáo do hai tông đồ Pedro và Paulo tử đạo tại đây. Các giám mục của Roma cũng được nhìn nhận là những người kế thừa của Pedro. Thành phố do đó tăng tầm quan trọng với vị thế là trung tâm của Giáo hội Công giáo. Sau khi Đế quốc Tây La Mã sụp đổ vào năm 476, Roma ban đầu nằm dưới quyền kiểm soát của Odoacer và sau đó là bộ phận của Vương quốc Ostrogoth trước khi qua tay Đông La Mã sau Chiến tranh Gothic (535-554), song cuộc chiến này tàn phá thành phố. Dân số Roma suy giảm từ hơn một triệu vào năm 210 xuống 500.000 vào năm 273 và còn 35.000 sau Chiến tranh Gothic, làm giảm quy mô thành phố còn một nhóm các toà nhà có người ở nằm rải rác trên một khu vực lớn các tàn tích và vườn tược.;;;;;Các dòng họ La Mã thời kỳ đầu được gọi là một gens (thị tộc) hay clan (gia tộc), và mỗi thị tộc là một tập hợp các gia đình sống dưới sự đứng đầu của một tộc trưởng được gọi là Pater (tiếng Latinh của từ "cha"). Các gens này được tập hợp để hình thành một hội đồng chung, và patres được chọn từ các thị tộc danh tiếng vào hội đồng liên minh các trưởng lão (những gì sẽ trở thành Viện nguyên lão La Mã).. Theo thời gian, patres nhận ra một nhu cầu tất yếu là cần phải có một người lãnh đạo duy nhất, vì vậy họ đã bầu ra vua (rex), và giao cho ông quyền lực tối cao. Khi nhà vua chết, quyền lực lại quay trở về với patres.;;;;;Dòng có sáu viên chức: Giám mục; trưởng khoa; thư ký; sự đăng ký; Vua vũ khí; và Usher. Giám mục Luân Đôn, một giám mục cao cấp trong Giáo hội Anh, giữ chức vụ Giám mục của Dòng. Trưởng khoa St Paul's đương nhiên là Trưởng khoa của Dòng. King of Arms của Order không phải là thành viên của College of Arms, cũng như nhiều sĩ quan huy hiệu khác. Usher of Order được biết đến với cái tên Quý ông Usher of the Purple Rod; anh ta không - không giống như Order of the Garter tương đương của anh ta, Quý ông Usher of the Black Rod - thực hiện bất kỳ nhiệm vụ nào liên quan đến House of Lords.;;;;;Nhiều người Hồi giáo chỉ trích Umayyads vì có quá nhiều người quản lý La Mã, không theo đạo Hồi trong chính phủ của họ. St John of Damascus cũng là một nhà quản lý cấp cao trong chính quyền Umayyad. Khi người Hồi giáo tiếp quản các thành phố, họ rời bỏ các đại diện chính trị của nhân dân, những người thu thuế và quản lý của người La Mã. Các khoản thuế nộp cho chính quyền trung ương do các đại diện chính trị của nhân dân tính toán và thương lượng. Chính quyền Trung ương được trả tiền cho các dịch vụ mà họ cung cấp và chính quyền địa phương nhận được tiền cho các dịch vụ mà họ cung cấp. Nhiều thành phố theo đạo Cơ đốc cũng sử dụng một số loại thuế để duy trì nhà thờ và điều hành các tổ chức của riêng họ. Sau đó Umayyad bị một số người Hồi giáo chỉ trích vì không giảm thuế cho những người cải sang đạo Hồi. Những người cải đạo mới này tiếp tục đóng các loại thuế tương tự như đã được thương lượng trước đó.
question_17
Săn thú và hái lượm là cách mà con người sinh sống tại các khu vực nào?
doc_17
Các nhà khảo cổ học đã tìm thấy những dấu vết của người đứng thẳng (Homo erectus) vào thời kỳ đồ đá cũ trên lãnh thổ Việt Nam cách đây khoảng 500.000 năm; các công cụ thô sơ bằng đá và các dấu răng của con người thời tiền sử được phát hiện tại các tỉnh phía Bắc gồm Lạng Sơn, Thanh Hóa, Yên Bái, Ninh Bình và Quảng Bình. Tại các vùng phía Bắc, con người sinh sống trong các hang động đá vôi và sống bằng các hoạt động săn thú, hái lượm. Trong khi đó, tại các vùng duyên hải miền Trung như Nghệ An, con người chủ yếu sống bằng hoạt động đánh cá.
doc_9494;;;;;doc_4892;;;;;doc_6317;;;;;doc_7479;;;;;doc_5857
Hầu hết những người săn bắn hái lượm là dân du mục hoặc bán du mục và sống ở các khu định cư tạm thời. Các cộng đồng di động thường xây dựng nơi trú ẩn bằng vật liệu xây dựng tạm thời hoặc họ có thể sử dụng nơi trú ẩn bằng đá tự nhiên nếu có.;;;;;Những người thượng cổ thường kiếm sống bằng cách săn bắt-hái lượm, một lối sống rất phù hợp với những vùng đồng cỏ châu Phi. Một số nhóm người về sau bắt đầu sống lối sống du mục và thường hay bắt thú vật để nuôi lấy thịt. Về sau nữa, khi lối sống định cư phát triển thì nền nông nghiệp cũng ra đời. Những khu vực định cư chính của con người phụ thuộc rất nhiều vào nguồn nước, vào lối sống, vào tài nguyên thiên nhiên (như đất đai có phù hợp để gieo trồng hay không, có nhiều cỏ để chăn nuôi hay không, có nhiều thú để săn bắt hay không). Tuy nhiên, con người lại có khả năng thay đổi nơi cư trú của họ bằng các phương tiện vận chuyển khác nhau. Do đó, sự thay đổi môi trường là nhân tố chủ yếu khiến con người thay đổi nơi cư sinh sống.;;;;;Một số nhà nông nghiệp cũng thường xuyên săn bắt và hái lượm (ví dụ: trồng trọt trong mùa không có sương giá và săn bắn trong mùa đông). Vẫn còn những người khác ở các nước phát triển đi săn, chủ yếu là để giải trí. Trong rừng nhiệt đới Brazil, những nhóm gần đây đã sử dụng hoặc thậm chí tiếp tục dựa vào kỹ thuật săn bắt và hái lượm dường như đã áp dụng lối sống này, từ bỏ hầu hết hoạt động nông nghiệp, như một cách để thoát khỏi sự kiểm soát của thực dân và do sự du nhập của các dịch bệnh châu Âu. giảm dân số của họ đến mức mà nông nghiệp trở nên khó khăn. [cần dẫn nguồn] [không rõ ràng – thảo luận];;;;;Người săn bắn hái lượm là con người sống trong một xã hội mà phần lớn hoặc tất cả thực phẩm có được bằng cách tìm kiếm thức ăn (thu hái thực vật hoang dã và săn bắt động vật hoang dã), trái ngược với các xã hội nông nghiệp chủ yếu dựa vào các loài được thuần hóa.;;;;;Săn bắn hái lượm là phương thức sinh tồn phổ biến của con người trong suốt thời kỳ Đồ đá cũ, nhưng quan sát về những người săn bắt và hái lượm ngày nay không nhất thiết phản ánh các xã hội thời kỳ Đồ đá cũ; các nền văn hóa săn bắn hái lượm được khảo sát ngày nay có nhiều mối liên hệ với nền văn minh hiện đại và không đại diện cho những điều kiện “nguyên sơ” thường thấy ở các dân tộc chưa tiếp xúc.
question_18
Nội dung chính của Nghị viện tháng 2 năm 1310 là gì?
doc_18
Nhà vua và Nghị viện họp một lần nữa vào tháng 2 năm 1310, và những cuộc thảo luận về chính sách ở Scotland được thay thế bằng các cuộc tranh luận về những vấn đề trong nước. Edward được kiến nghị phải bãi chức cố vấn của Gaveston và thay vào đó làm theo lời khuyên của 21 nam tước sẽ được bầu cử ra, gọi là Ordainers, thực hiện những cải cách sâu rộng đối với cả chính phủ và gia đình hoàng gia. Dưới áp lực rất lớn, Edward đồng ý với đề xuất này và Ordainers được bầu ra, có sự phân chia đồng đều giữa những người cải cách và những người bảo thủ. Trong khi những người Ordainers bắt đầu kế hoạch cải cách của họ, Edward và Gaveston dẫn một đội quân mới của họ gồm 4,700 người đến Scotland, nơi mà tình hình quân sự tiếp tục xấu đi. Robert the Bruce từ chối tham chiến và chiến dịch tiến triển không có hiệu quả qua mùa đông cho đến khi quân nhu và tài chính cạn kiệt năm 1311, buộc Edward trở về miền nam.
doc_4529;;;;;doc_3903;;;;;doc_1923;;;;;doc_6709;;;;;doc_4708
Nghị viện họp vào tháng 2 năm 1308 trong bầu không khí căng thẳng. Edward háo hức thảo luận về khả năng cải cách chính quyền, nhưng các nam tước không sẵn lòng bắt đầu những cuộc tranh luận như vậy cho đến sau khi vấn đề liên quan tới Gaveston được giải quyết. Nguy cơ bạo lực xuất hiện, nhưng tình hình được giải quyết thông qua trung gian Henry de Lacy, Bá tước Lincoln, người thuyết phục được các nam tước lùi một bước. Nghị viện mới được lập vào tháng 4, nơi các nam tước một lần nữa chỉ Gaveston, đòi lưu đày anh ta, lần này họ nhận được ủng hộ từ Isabella và quốc vương nước Pháp. Edward đã phản đối, nhưng cuối cùng bằng lòng, đồng ý gửi Gaveston đến Aquitaine, dưới sự đe dọa rút phép thông công của Tổng Giám mục Canterbury. Vào giờ chót, Edward thay đổi ý định và gửi Gaveston đến Dublin, bổ nhiệm ông ta làm Trung úy Ireland.;;;;;Vai trò của Quốc hội tăng lên dưới triều đại Edward, trở thành nơi đưa ra các quyết sách và hồi đáp các kiến nghị, mặc dù như sử gia Claire Valente chú rằng, triệu tập Quốc hội "vẫn như tổ chức sự kiện". Sau năm 1311, Nghị viện bắt đầu được triệu tập, ngoài các nam tước, đại diện của giới hiệp sĩ và thị dân, thành phần mà sau này đã thiết lập nên "Viện thứ dân Anh Cát Lợi". Mặc dù Nghị viện thường chống đối các loại thuế mới, ý kiến chống đối mạnh mẽ Edward đa phần là từ các nam tước, chứ không phải chính Nghị viện, dù các nam tước tận dụng các kỳ họp Quốc hội để hợp pháp hóa các đòi hỏi chính trị lâu dài của họ. Sau nhiều năm đối kháng với Quốc hội, trong nửa cuối giai đoạn trị vì, Edward bắt đầu can thiệp vào cơ quan này để đạt được các mục tiêu chính trị của mình. Chuyện Edward bị phế truất năm 1327 vẫn chưa rõ là được gây ra bởi một Nghị viện được triệu tập chính thức hay chỉ đơn giản là bởi sự nhóm họp của các thành phần chính trị bên cạnh Nghị viện hiện tại.;;;;;Đến lúc này Ordainers đã phác họa kế hoạch pháp lệnh của họ và Edward có không có nhiều sự lựa chọn và chấp nhận nó vào tháng 10. Pháp lệnh 1311 có những điều khoản giới hạn quyền lực của Nhà vua khi gây chiến tranh và phong đất nếu không có sự đồng ý của Nghị viện, đem đến cho Nghị viện quyền kiểm soát chính quyền của hoàng gia, bãi bỏ hệ thống đòn bẩy không bao gồm nhà cái Frescobaldi, và ban hành một hệ thống giám sát việc tuân thủ pháp lệnh. Thêm vào đó, Pháp lệnh một lần nữa lưu đày Gaveston once again, lần này có thêm những chỉ dẫn rằng ông ta không được phép sống ở bất cứ nơi nào bên trong các lãnh địa của Edward, gồm cả Gascony và Ireland, và tước hết các danh hiệu của ông. Edward rút về những bất động sản của ông, Windsor và Kings Langley; Gaveston rời Anh quốc, có thể là đến phía bắc nước Pháp hay Flanders.;;;;;Những thay đổi lập pháp quan trọng về tình trạng của szlachta, như được định nghĩa bởi Robert Bideleux và Ian Jeffries, bao gồm việc miễn thuế đất năm 1374, bảo đảm năm 1425 chống lại 'việc bắt giữ tùy tiện và/hoặc tịch thu tài sản' của các thành viên của nó, năm 1454. yêu cầu các lực lượng quân sự và các loại thuế mới phải được Hạ viện cấp tỉnh phê chuẩn, và các đạo luật được ban hành từ năm 1496 đến năm 1611 quy định các quyền của thường dân.;;;;;Edward triệu tập một chiến dịch quân sự mới chinh phạt Scotland, nhưng ý kiến này bị bác bỏ trong lặng lẽ, và thay vào đó Nhà vua cùng các nam tước họp vào tháng 8, 1308 để thảo luận cải cách. Phía sau hậu trường, Edward bắt đầu đàm phán nhằm thuyết phục Giáo hoàng Clement V và Philippe IV cho phép Gaveston trở về Anh, để đổi lại việc ông sẽ ngăn chặn các hiệp sĩ dòng Đền ở Anh, và phóng thích Giám mục Langton khỏi nhà lao. Edward kêu gọi một cuộc họp mới của các thành viên Giáo hội và các quý tộc lớn vào tháng 1 năm 1309, và các bá tước hàng đầu tụ họp vào tháng 3 và tháng 4, có thể là dưới sự lãnh đạo của Thomas, Bá tước Lancaster. Một nghị viện khác theo sau đó, từ chối không cho Gaveston trở về Anh, nhưng đồng ý cấp cho Edward những thứ thuế bổ sung nếu ông đồng tình với chương trình cải cách.
question_19
Tại Quảng Châu thì ước tính cứ mỗi km2 thì sẽ có bao nhiêu người?
doc_19
Cuộc điều tra dân số năm 2010 cho thấy dân số Quảng Châu là 12,78 triệu người. Tính đến năm 2014, ước tính khoảng 13.080.500, với 11.264.800 cư dân đô thị. Mật độ dân số của nó là khoảng 1.800 người/km2. Diện tích xây dựng của Quảng Châu thích hợp kết nối trực tiếp với một số thành phố khác. Khu vực được xây dựng của Khu kinh tế sông Châu Giang bao gồm khoảng 17.573 cây số vuông (6.785 dặm vuông) và ước tính có 22 triệu người, bao gồm 9 quận của Quảng Châu, Thẩm Quyến (5.36m), Đông Hoản (3.22m) Trung Sơn (3.12m), hầu hết Phật Sơn (2.2m), Giang Môn (1.82m), Chu Hải (890k) và Huệ Châu (760k). Tổng dân số của những khu vực này này là hơn 28 triệu sau khi tính cả dân số của vùng đặc quyền hành chính Hồng Kông liền kề. Nền kinh tế đang phát triển nhanh và nhu cầu lao động cao đã tạo ra một "số dân trôi nổi" khổng lồ của lao động di cư. Khoảng 10 triệu người di cư cư trú trong khu vực ít nhất sáu tháng mỗi năm. Năm 2008, khoảng 5 triệu người dân thường trú tại Quảng Châu là những người di cư không có người di dân.
doc_4895;;;;;doc_4047;;;;;doc_2145;;;;;doc_1942;;;;;doc_4170
Quảng Châu nằm ở trung tâm của khu đô thị được xây dựng có số dân đông nhất ở Trung Hoa đại lục, một khu vực mở rộng đến các thành phố Phật Sơn, Đông Quan và Thâm Quyến láng giềng, tạo thành một trong những vùng đô thị lớn nhất hành tinh. Về mặt hành chính, thành phố là thủ phủ của tỉnh, và là một trong năm thành phố trực thuộc trung ương của Trung Quốc. Vào năm 2015 khu vực hành chính của thành phố được ước tính có dân số 13.501.100. Quảng Châu được xếp hạng là một thành phố toàn cầu. Trong những năm gần đây, số lượng người nhập cư từ Đông Nam Á, Trung Đông, Đông Âu, và đặc biệt là từ châu Phi đã tăng lên nhanh chóng. Điều này đã dẫn tới nó được đặt tên là "Thủ đô của thế giới thứ ba". Dân số di cư từ các tỉnh khác của Trung Quốc ở Quảng Châu là 40% tổng dân số của thành phố trong năm 2008. Cùng với Thượng Hải, Bắc Kinh và Thâm Quyến, Quảng Châu là một trong những thị trường bất động sản đắt nhất ở Trung Quốc.;;;;;Quảng Châu (chữ Hán giản thể: 广州, phồn thể: 廣州, pinyin: Guǎngzhōu, Wade-Giles: Kuang-chou, việt phanh: Gwong2zau1, Yale: Gwóngjaū) là thủ phủ và là thành phố đông dân nhất của tỉnh Quảng Đông ở miền Nam Trung Quốc. Nằm trên sông Châu Giang, thành phố cách Hồng Kông 120 km (75 dặm) về phía Tây Bắc và cách Ma Cao 145 km (90 dặm) về phía Bắc. Quảng Châu có lịch sử hơn 2.200 năm và là một điểm cuối chính của con đường tơ lụa hàng hải và tiếp tục là cảng và trung tâm vận tải chính ngày nay, đây là một trong ba thành phố lớn nhất của Trung Quốc.;;;;;Sau khi Đại Minh thành lập và thống nhất Trung Hoa, Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương thi hành chính sách "hưu dưỡng sinh tức" (phục hồi và phát triển), nông nghiệp thời Mông-Nguyên vốn chịu sự phá hoại từ chiến tranh nay khôi phục ở mức độ lớn, những năm Hồng Vũ tiến hành khẩn hoang vùng đất phía bắc Hoài Hà và Tứ Xuyên trên quy mô lớn, nhân khẩu do vậy tăng trưởng ổn định. Đến năm Hồng Vũ thứ 26 (1393), toàn quốc có 63 triệu người, trong đó 61,75 triệu người thuộc dân hộ, 3,25 triệu người thuộc quân hộ. Bắc ngũ tỉnh (Bắc Bình, Sơn Tây, Sơn Đông, Hà Nam, Thiểm Tây) có 17,55 triệu nhân khẩu, chiếm 27% toàn quốc; trong đó Sơn Đông là đông dân nhất với 5.462.850 người, kế đến là Sơn Tây (3.790.760 người), Hà Nam (2.825.300 người), Thiểm Tây (2.646.450 người), Bắc Bình (2.619.500 người). Trung ngũ tỉnh (Kinh Sư, Chiết Giang, Giang Tây, Hồ Quảng, Tứ Xuyên) có 33,8 triệu người, chiếm 52% toàn quốc; trong đó Nam Trực Lệ có 11.291.460 người, mật độ nhân khẩu cao nhất là ở lực vực Tô Nam Thái Hồ với tổng số 6.320.300 người và đạt 220 người/km²; tiếp đến là Chiết Giang tỉnh với 9.959.270 người; Giang Tây có 7.260.000 người, Hồ Quảng có 4.318.420 người, Tứ Xuyên có 1.314.260 người. Nam ngũ tỉnh (Phúc Kiến, Quảng Tây, Quảng Đông, Vân Nam, Quý Châu) có tổng cộng 10,40 triệu người, chiếm 16% toàn quốc.;;;;;Trung Quốc trải qua đô thị hóa đáng kể trong các thập niên vừa qua. Tỷ lệ dân số trong các khu vực đô thị tăng từ 20% vào năm 1990 lên 46% vào năm 2007. và dân số đô thị của Trung Quốc được dự tính đạt một tỷ vào năm 2030. Năm 2012, có trên 262 triệu công nhân di cư tại Trung Quốc. Trung Quốc có trên 160 thành phố có dân số [đô thị] trên một triệu, trong đó có bảy siêu đô thị (dân số hành chính trên 10 triệu) là Trùng Khánh, Thượng Hải, Bắc Kinh, Quảng Châu, Thiên Tân, Thâm Quyến, và Vũ Hán. Đến năm 2025, ước tính Trung Quốc sẽ có 221 thành phố có trên một triệu dân cư [đô thị].;;;;;Hầu hết dân số Quảng Châu là người Hán. Hầu như tất cả người Quảng Đông địa phương nói tiếng Quảng Châu là ngôn ngữ đầu tiên của họ, trong khi hầu hết người di cư nói tiếng Quan Thoại. Trong năm 2010, mỗi ngôn ngữ là tiếng mẹ đẻ của khoảng một nửa dân số của thành phố, mặc dù con số nhỏ nhưng cũng có một số lượng người đáng kể nói các giọng khác. Cũng như các nơi khác ở Trung Quốc, hệ thống đăng ký hộ khẩu (hukou) hạn chế người di cư tiếp cận nhà ở, cơ sở giáo dục và các lợi ích công cộng khác. Vào tháng 5 năm 2014, những người nhập cư hợp pháp ở Quảng Châu được phép nhận thẻ hukou cho phép họ kết hôn và được phép mang thai trong thành phố, thay vì phải quay về quê hương chính thức như trước đây.
question_20
Donald John Trump học tại NYMA đến khi nào?
doc_20
Gia đình ông có một căn hộ hai tầng xây theo phong cách Tudor Revival ở Wareham Place trong Jamaica Estates, nơi Trump sống khi còn học tại trường The Kew-Forest. Tại Kew-Forest, Fred Trump là thành viên của Hội đồng Ủy thác. Năm 1983, trong một cuộc phỏng vấn Fred có nói rằng Donald "khá cục cằn khi còn là một cậu bé", nên ông đăng ký cho con mình học tại Học viện Quân sự New York (NYMA). Trump học hết lớp tám và trung học tại NYMA. Trong năm cuối cấp, Trump tham gia đội diễu hành, đạt cấp đại úy của thiếu sinh quân. Năm 2015, ông có nói với một nhà viết tiểu sử rằng NYMA "đã rèn giũa ông về mặt quân sự nhiều hơn rất nhiều người trực tiếp nhập ngũ".
doc_2626;;;;;doc_5019;;;;;doc_2476;;;;;doc_2779;;;;;doc_2166
Trump là công dân chính gốc của Thành phố New York và là con của Fred Trump, người đã truyền cảm hứng cho ông đi theo nghề phát triển bất động sản. Sau hai năm học tại Đại học Fordham và trong khi theo học trường Wharton thuộc Đại học Pennsylvania, Trump làm việc tại công ty của cha mình, Elizabeth Trump & Son. Ông chính thức gia nhập công ty năm 1968 sau khi tốt nghiệp và được giao quyền điều hành vào năm 1971, đổi tên công ty thành "The Trump Organization". Kể từ đó ông đã xây dựng nhiều khách sạn, sân golf và các công trình khác, rất nhiều trong số đó mang tên ông. Ông là một nhân vật quan trọng trong giới doanh nhân Hoa Kỳ và nhận được sự quan tâm đặc biệt của giới truyền thông. Chương trình truyền hình thực tế The Apprentice của đài NBC đã khuếch trương tên tuổi của ông và ba đám cưới của ông được giới báo lá cải đưa tin hết sức chi tiết.;;;;;Năm 2013, một vụ kiện khởi xướng bởi Tổng chưởng lý New York Eric Schneiderman cáo buộc Trump lừa đảo hơn 5.000 người với số tiền 40 triệu USD về cơ hội được học kĩ thuật đầu tư bất động sản của Trump ở một chương trình vì lợi nhuận, Đại học Trump, hoạt động từ 2005 đến 2011. Schneiderman lập luận rằng các hội nghị chuyên đề của Trump cấu thành một "cơ sở giáo dục không được cấp phép và bất hợp pháp", sử dụng quảng cáo sai lệch, chiến lược treo đầu dê bán thịt chó, cố tình truyền đạt sai và các thủ thuật lừa đảo khác. Tháng 1 năm 2014, Tòa án bang New York đồng tình với một số cáo buộc của Tổng chưởng lý, và vào tháng 10 năm 2014, nhận định Trump chịu trách nhiệm về việc không có giấy phép hoạt động trường đầu tư vì lợi nhuận, Trump Entrepreneur Initiative, trước đó được biết đến dưới tên Đại học Trump. (Trump ngừng sử dụng từ "Đại học" sau chỉ thị năm 2010 của nhà chức trách New York, nói rằng việc sử dụng từ đó của Trump là "gây nhầm lẫn và thậm chí bất hợp pháp", chính quyền bang trước đó đã cảnh báo Trump vào năm 2005 không sử dụng từ này hoặc không mở các hội nghị chuyên đề tại New York). Trong một vụ kiện dân sự tập thể khác vào giữa tháng 2 năm 2014, một thẩm phán liên bang San Diego cho phép nguyên đơn tại California, Florida và New York khởi kiện. Trump đã kiện ngược lại, cho rằng việc điều tra của Tổng chưởng lý đi kèm với việc ông ép buộc quyên góp cho chiến dịch tranh cử. Vụ việc được điều tra bởi ủy ban đạo đức New York và bị bác bỏ tháng 8 năm 2015. Trump cũng khởi xướng vụ kiện bôi nhọ danh dự và đòi 1 triệu USD bồi thường đối với cựu sinh viên Đại học Trump Tarla Makaeff, người đã chi khoảng 37.000 USD cho các buổi hội nghị chuyên đề, sau khi bà tham gia vụ kiện tập thể và công khai trải nghiệm ở lớp học trên mạng xã hội. Không thể chứng minh được mục đích xấu, Đại học Trump thua kiện khi bị kiện ngược với cáo buộc cố tình khởi kiện chiến thuật để bịt miệng nhân chứng, bị buộc phải trả Makaeff và luật sư của bà 798.774,24 USD chi phí tố tụng theo phán quyết của một thẩm phán tòa án quận đưa ra tháng 4 năm 2015. "Điều đó chứng tỏ họ sẽ cố gắng tới đâu để bịt miệng người khác", Makaeff bình luận.;;;;;Khi Trump tốt nghiệp đại học, tổng tài sản của ông đạt khoảng 200.000 USD (1.021.000 USD theo thời giá 2016). Ông khởi nghiệp tại công ty bất động sản của cha mình, Elizabeth Trump & Son, nơi tập trung chủ yếu vào mảng nhà cho thuê dành cho giới trung lưu tại các quận Brooklyn, Queens và Staten Island của Thành phố New York. Trong những năm học đại học, một trong những dự án đầu tiên của Trump là việc hồi sinh tổ hợp căn hộ Swifton Village ở Cincinnati, Ohio, được cha ông mua lại với giá 5,7 triệu USD năm 1962. Fred và Donald Trump đều tham gia vào dự án, nâng mật độ dân cư của 1.200 căn hộ từ 34% lên 100% với khoản đầu tư 500.000 USD. Trump quản lý 14.000 căn hộ của công ty ở Brooklyn, Queens và Staten Island. Năm 1972, The Trump Organization bán Swifton Village với giá 6,75 triệu USD.;;;;;Năm 2013, Trump là khách mời phát biểu tại Conservative Political Action Conference (Hội nghị Hành động Chính trị Bảo thủ - CPAC). Bài phát biểu hôm đó không có nhiều người lắng nghe. Ông đã dành hơn một triệu USD nhằm nghiên cứu tính khả thi của việc tranh cử tổng thống Mỹ. Tháng 10 năm 2013, Đảng Cộng hòa New York ban hành một bản ghi nhớ đề xuất rằng Trump nên tranh cử thống đốc bang năm 2014, cạnh tranh với Andrew Cuomo. Trump nói rằng mặc dù New York có một số vấn đề và thuế thì quá cao, việc tranh cử thống đốc bang không phải là mối quan tâm sâu sắc của ông. Tháng 2 năm 2015, Trump không gia hạn hợp đồng cho chương trình The Apprentice, dấy lên tin đồn rằng ông có thể chạy đua vào Nhà Trắng năm 2016.;;;;;Trump kết hôn với người mẫu Ivana Zelníčková vào ngày 7 tháng 4 năm 1977 tại Nhà thờ Marble Collegiate ở New York. Họ có ba người con: hai con trai Donald Jr. (sinh ngày 31 tháng 12 năm 1977) và Eric (sinh ngày 6 tháng 1 năm 1984) và con gái Ivanka (sinh ngày 30 tháng 10 năm 1981). Ivana nhập quốc tịch Mỹ năm 1988 với Trump là người bảo lãnh. Trump được nhiều người biết đến với cái tên "The Donald", biệt danh được giới truyền thông hay dùng sau khi được Ivana sử dụng trong một lần xuất hiện trên Spy Magazine năm 1989. Tới đầu năm 1990, chuyện hôn nhân rạn nứt giữa Trump và Ivanna và việc Trump ngoại tình với diễn viên Marla Maples trong một thời gian dài đã được đưa tin khắp các báo lá cải. Họ tiến tới li dị vào năm 1991.
question_21
Kể tên một số trận chiến có ý nghĩa quan trọng mà quân đội Canada tham gia?
doc_21
Trong Đại khủng hoảng tại Canada vào đầu thập kỷ 1930, kinh tế bị suy thoái, khiến toàn quốc gặp cảnh gian khổ. Ba ngày sau khi Anh Quốc tuyên chiến với Đức Quốc xã trong Chiến tranh thế giới thứ hai, chính phủ Tự do của Thủ tướng William Lyon Mackenzie King tuyên chiến với Đức một cách độc lập. Các đơn vị lục quân Canada đầu tiên đến Anh Quốc vào tháng 12 năm 1939. Quân Canada đóng vai trò quan trọng trong nhiều trận chiến then chốt của đại chiến, gồm có Trận Dieppe năm 1942, Đồng Minh xâm chiếm Ý, đổ bộ Normandie, trận Normandie, và trận Scheldt vào năm 1944. Canada cung cấp nơi tị nạn cho quân chủ Hà Lan khi quốc gia này bị Đức chiếm đóng, và được người Hà Lan tín nhiệm vì có đóng góp lớn vào việc giải phóng quốc gia này khỏi Đức Quốc xã. Kinh tế Canada bùng nổ trong chiến tranh khi mà các ngành công nghiệp của quốc gia sản xuất các trang thiết bị quân sự cho Canada, Anh Quốc, Trung Quốc và Liên Xô. Mặc dù có một cuộc khủng hoảng tòng quân khác tại Québec vào năm 1944, song Canada kết thúc chiến tranh với một quân đội lớn và kinh tế mạnh.
doc_2492;;;;;doc_4837;;;;;doc_3199;;;;;doc_4948;;;;;doc_4955
Canada gắn bó chặt chẽ với Đế quốc Anh và Thịnh vượng chung, do vậy quốc gia này tham gia nhiều trong các nỗ lực quân sự của Anh Quốc trong Chiến tranh Boer lần thứ hai, Chiến tranh thế giới thứ nhất và Chiến tranh thế giới thứ hai. Kể từ đó, Canada chủ trương đa phương hóa, tiến hành các nỗ lực nhằm giải quyết các vấn đề toàn cầu bằng cách cộng tác với các quốc gia khác. Canada là một thành viên sáng lập của Liên Hiệp Quốc vào năm 1945 và của NATO vào năm 1949. Trong Chiến tranh Lạnh, Canada là một nước đóng góp lớn cho lực lượng của Liên Hiệp Quốc trong Chiến tranh Triều Tiên và cùng với Hoa Kỳ thành lập Bộ Tư lệnh phòng thủ hành không vũ trụ Bắc Mỹ NORAD nhằm hợp tác để phòng thủ chống lại các cuộc tấn công trên không tiềm tàng của Liên Xô.;;;;;Anh Quốc vẫn duy trì quyền kiểm soát trên lĩnh vực đối ngoại của Canada theo Đạo luật Liên minh, do vậy việc cường quốc này tuyên chiến vào năm 1914 tự động đưa Canada vào Chiến tranh thế giới thứ nhất. Các quân nhân tình nguyện được đưa đến Mặt trận phía Tây và sau đó trở thành một phần của Quân đoàn Canada. Quân đoàn đóng một vai trò quan trọng trong trận cao điểm Vimy và các hoạt động giao chiến khác trong cuộc chiến. Trong số xấp xỉ 625.000 người Canada phục vụ trong Chiến tranh thế giới thứ nhất, có khoảng 60.000 bị giết và 173.000 bị thương. Khủng hoảng Tòng quân năm 1917 nổ ra khi Thủ tướng Bảo thủ Robert Borden cho tiến hành nghĩa vụ quân sự cưỡng bách bất chấp sự phản đối dữ dội của người Québec Pháp ngữ. Cuộc khủng hoảng này, cùng với các tranh chấp về các trường tiếng Pháp bên ngoài Quebec, tạo ra hố ngăn cách sâu sắc với người Canada Pháp ngữ và chia rẽ tạm thời Đảng Tự do. Chính phủ Liên minh của Robert Borden bao gồm cả nhiều người Tự do Anh ngữ, đã giành được chiến thắng lớn trong cuộc bầu cử năm 1917. Năm 1919, Canada gia nhập Hội Quốc Liên với tư cách độc lập với Anh, Quy chế Westminster 1931 xác nhận tình trạng độc lập của Canada.;;;;;Ngoài vấn đề chủ quyền của Québec, một số cuộc khủng hoảng làm náo động xã hội Canada vào cuối thập niên 1980 và đầu thập niên 1960. Chúng gồm có Chuyến bay 182 của Air India phát nổ vào năm 1985, vụ mưu sát hàng loạt lớn nhất trong lịch sử Canada; Thảm sát trường Bách khoa École vào năm 1989, một vụ xả súng đại học với mục tiêu là các nữ sinh; và Khủng hoảng Oka năm 1990, là diễn biến đầu tiên trong một loạt các xung đột bạo lực giữa chính phủ và các nhóm Thổ dân. Canada tham gia trong Chiến tranh Vùng Vịnh năm 1990 với vị thế là một phần trong lực lượng liên minh do Hoa Kỳ lãnh đạo, và hoạt động trong một số sứ mệnh gìn giữ hòa bình trong thập kỷ 1990, bao gồm sứ mệnh UNPROFOR tại Nam Tư cũ. Canada cử quân đến Afghanistan vào năm 2001, song từ chối tham gia cuộc xâm chiếm Iraq do Hoa Kỳ dẫn đầu vào năm 2003. Năm 2009, kinh tế Canada chịu tổn thất trong Đại suy thoái toàn cầu, song đã phục hồi một cách khiêm tốn. Năm 2011, các lực lượng của Canada tham gia vào cuộc can thiệp do NATO dẫn đầu trong Nội chiến Libya.;;;;;Canada và Hoa Kỳ chia sẻ đường biên giới không được bảo vệ dài nhất thế giới, hợp tác trong các chiến dịch và tập luyện quân sự, và là đối tác thương mại lớn nhất của nhau. Canada tuy vậy vẫn có một chính sách đối ngoại độc lập, đáng chú ý nhất là việc duy trì quan hệ đầy đủ với Cuba và từ chối chính thức tham gia trong Cuộc xâm chiếm Iraq năm 2003. Canada cũng duy trì các quan hệ mang tính lịch sử với Anh Quốc và Pháp và với các cựu thuộc địa của Anh và Pháp thông qua tư cách viên của minh trong Thịnh vượng chung các quốc gia và Cộng đồng Pháp ngữ. Canada có quan hệ tích cực với Hà Lan, một phần là do Canada từng góp phần giải phóng Hà Lan trong Chiến tranh thế giới thứ hai.;;;;;Vào tháng 2 năm 2007, Canada, Ý, Anh Quốc, Na Uy, và Nga tuyên bố cam kết chung của họ cho một dự án 1,5 tỷ đô la Mỹ nhằm giúp đỡ phát triển vắc-xin cho các quốc gia đang phát triển, và kêu gọi các quốc gia khác cùng tham gia. Vào tháng 8 năm 2007, tuyên bố chủ quyền đối với vùng Bắc Cực của Canada bị thử thách sau khi Nga tiến hành chiếm thám hiểm dưới nước đến Bắc Cực; kể từ năm 1925 thì Canada nhìn nhận khu vực này thuộc chủ quyền lãnh thổ của mình. Từ tháng 3 đến tháng 10 năm 2011, quân đội Canada tham gia vào cuộc can thiệp của NATO do Liên Hiệp Quốc ủy thác trong Nội chiến Libya.
question_22
Nghề thêu ren chiếm tỉ trọng bao nhiêu phần trăm trong cơ cấu lao động của xã Thanh Hà?
doc_22
Xã Thanh Hà (Thanh Liêm) nằm cạnh quốc lộ 1A, có 2.626 hộ với 9.699 người ở 7 thôn. Trong số 2.626 hộ thì có 2.002 hộ làm nghề thêu ren chiếm 76,2%, với 5.740 lao động tham gia, trong số này lao động chính có 2.684 người, lao động phụ là 2.896 người và lao động thuê là 160 người. Những con số trên chứng tỏ Thanh Hà là xã mà số hộ và số lao động làm nghề thêu ren nhiều nhất tỉnh. Sau khi miền Bắc được hoàn toàn giải phóng, làng nghề mở rộng về quy mô và thu hút hàng ngàn lao động, nghề thêu ren được truyền dạy rộng rãi, sản xuất không ngừng phát triển. Từ năm 1975 đến năm 1989 là thời gian thịnh vượng của làng nghề: sản phẩm đa dạng phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng trong nước, xuất khẩu sang Liên Xô và các nước Đông Âu. Từ năm 1990 đến nay là thời kỳ chuyển đổi cơ chế, làng thêu ren Thanh Hà đã trải qua bao trăn trở tìm cho mình hướng đi để tồn tại và phát triển trong điều kiện thị trường truyền thống bị thu hẹp và thị trường nước ngoài lại đòi hỏi rất khắt khe về chất lượng và thời gian.
doc_594;;;;;doc_2254;;;;;doc_9503;;;;;doc_6268;;;;;doc_1997
Để phát triển làng nghề, người Thanh Hà đã đầu tư cho việc tiếp thị như mở nhiều cửa hàng quảng cáo ở khắp mọi miền của đất nước, không ngừng nâng cao chất lượng hàng, cải tiến mẫu mã, đáp ứng yêu cầu của thị trường khó tính. Ở Thanh Hà, hiện nay, hầu hết các hộ đều làm vệ tinh cho các doanh nghiệp. Huyện Thanh Liêm hiện có 2 công ty TNHH và 3 doanh nghiệp tư nhân với tổng số vốn đầu tư 2,2 tỷ đồng cho sản xuất kinh doanh hàng thêu ren, đã tạo đầu mối và việc làm cho hàng ngàn lao động, trong đó có làng thêu ren Thanh Hà. Làng thêu Thanh Hà không gặp khó khăn về nguồn nguyên liệu. Vải, chỉ thêu có rất sẵn trên thị trường. Tuy nhiên, họ lại gặp khó khăn về vốn. Đó là vốn để mua nguyên liệu và vốn tồn đọng trong quá trình lưu thông. Theo kết quả điều tra của Sở Công nghiệp thì toàn bộ tài sản cố định gồm toàn thể cơ sở vật chất khoảng 30 triệu đồng/hộ; vốn lưu động bình quân 250.000đ/hộ.;;;;;Để tạo mẫu đảm bảo chất lượng, chỉ có một số hộ có kỹ thuật, có vốn đảm nhiệm công đoạn này và làm dịch vụ cho cả làng nghề. Khâu kiểm tra, đóng gói và tiêu thụ sản phẩm là thuộc về các doanh nghiệp (đảm nhận bao tiêu toàn bộ sản phẩm của làng nghề). Người lao động chỉ thực hiện một công đoạn: thêu. Nghề thêu ren có đặc điểm: nguyên liệu tiêu hao ít, nhưng lao động kết tinh trong sản phẩm nhiều vì thế giá trị sản phẩm lớn. Tuy nhiên, giá cả của sản phẩm thêu lại phụ thuộc vào hai yếu tố: nguyên liệu và kiểu dáng, mẫu mã của sản phẩm đó có được khách hàng ưa chuộng hay không. Hiện nay những mặt hàng đang được ưa chuộng là: ga trải giường, gối, khăn trải bàn…;;;;;Mức thất nghiệp thấp (31 người vào năm 2013, so với 50 người vào năm 2004 và 342 người vào năm 1998). Việc làm bị chi phối bởi khu vực công, số lượng vị trí trong chính phủ đã giảm từ 1.142 năm 2006 xuống chỉ còn hơn 800 vào năm 2013. Khu vực tư nhân của St Helena sử dụng khoảng 45% lực lượng lao động có việc làm và chủ yếu là các doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ với 218 doanh nghiệp tư nhân tuyển dụng 886 vào năm 2004.;;;;;Tính đến năm 2010[cập nhật], Bern có tỷ lệ thất nghiệp là 3,3%. Tính đến năm 2008[cập nhật], có 259 người làm việc trong khu vực kinh tế sơ cấp và khoảng 59 doanh nghiệp tham gia vào lĩnh vực này. 16.413 người làm việc trong lĩnh vực thứ cấp và có 950 doanh nghiệp trong lĩnh vực này. 135.973 người được tuyển dụng trong khu vực cấp 3, với 7.654 doanh nghiệp trong lĩnh vực này.;;;;;Trước năm 1949, ở Hà Nam có rất ít hoạt động sản xuất công nghiệp tại Hà Nam, từ năm 1950 trở đi thì quá trình công nghiệp hóa trên địa bàn đã diễn ra nhanh chóng và trên một phạm vi rộng lớn. Ban đầu, nền công nghiệp của tỉnh Hà Nam chủ yếu dựa vào tài nguyên than đá phong phú ở phía tây bắc. Sau đó, sản xuất công nghiệp phát triển một cách toàn diện hơn, với các ngành kỹ thuật, luyện kim loại màu, và dệt làm trụ cột. Năm 2011, giá trị công nghiệp của Hà Nam đạt 1440,170 tỉ NDT, tỷ trọng giữa hai ngành công nghiệp nhẹ và công nghiệp nặng là 30,6:69,4. Mười ngành nhỏ có quy mô đứng đầu trong nền công nghiệp Hà Nam là: sản phẩm khoáng sản phi kim, chế biến thực phẩm, gia công luyện và cán kim màu, khai thác và tuyển than đá, sản xuất và cung ứng điện-nhiệt, gia công luyện và cán kim loại đen, chế tạo nguyên liệu hóa học và chế phẩm hóa học, sản xuất thiết bị thông dụng, sản xuất thiết bị chuyên dụng, dệt.
question_23
Nhật Bản có bao nhiêu khu vực đã trở thành di sản thế giới?
doc_23
Nhật Bản có chín vùng sinh thái rừng để phản ánh rõ khí hậu và địa lý của cả đảo.Chúng bao gồm từ rừng ẩm lá rộng cận nhiệt ở Ryūkyū và quần đảo Ogasawara đến các khu rừng hỗn hợp lá rộng ôn đới trong nền khí hậu nhẹ của các đảo chính, và đến với các rừng lá kim ôn đới ở những phần lãnh thổ lạnh lẽo thuộc những hòn đảo miền bắc. Nhật Bản có hơn 90.000 loài động vật hoang dã, trong đó có gấu nâu, khỉ Nhật Bản, lửng chó Nhật Bản và kỳ giông khổng lồ Nhật Bản. Nước này đã thành lập một mạng lưới lớn các vườn quốc gia nhằm bảo vệ các quần động vật và thực vật quan trọng cũng như 37 vùng đất ngập nước ngập Ramsar. Bốn địa điểm đã được UNESCO công nhận là di sản thế giới vì có giá trị nổi bật về mặt thiên nhiên.
doc_2543;;;;;doc_3832;;;;;doc_1669;;;;;doc_1599;;;;;doc_2010
Nhật Bản là một quần đảo núi lửa với khoảng 6.852 đảo, chủ yếu nằm trong khu vực ôn đới với bốn mùa rõ rệt, nhưng có khí hậu khác biệt dọc theo chiều dài đất nước. Bốn hòn đảo lớn nhất là Honshu, Hokkaido, Kyushu và Shikoku chiếm khoảng 97% diện tích đất liền của nước này, nhưng phần nhiều chỉ là rừng và núi với nguồn tài nguyên khoáng sản rất hạn chế. Quần đảo được chia thành 47 tỉnh thuộc 8 vùng địa lý. Dân số Nhật Bản vào khoảng 126 triệu người, đứng thứ mười thế giới, tập trung chủ yếu ở các vùng đồng bằng nhỏ hẹp ven biển. Người Nhật chiếm khoảng 98,5% tổng dân số đất nước. Gần 9,1 triệu cư dân sống tại trung tâm Tokyo,(thủ đô không chính thức của đất nước), cũng là thành phố đông dân thứ tám trong khối OECD và là thành phố toàn cầu đứng hàng thứ tư thế giới. Vùng thủ đô Tokyo, bao gồm thủ đô và một vài tỉnh xung quanh nó, là đại đô thị lớn nhất thế giới với hơn 35 triệu dân và có nền kinh tế đô thị phát triển nhất hành tinh.;;;;;Nhật Bản là một xứ sở có phong cảnh được coi là một trong những nơi đẹp nhất thế giới, được đánh giá là một trong 10 đất nước tuyệt vời nhất trên thế giới (năm 2010) và cũng là đại diện châu Á duy nhất có mặt trong danh sách này với bốn mùa thay đổi rõ rệt: mùa xuân với hoa anh đào nở dần từ nam lên bắc, mùa hè cây cối xanh mướt, mùa thu lá phong (momiji) đỏ thắm từ bắc xuống nam, mùa đông tuyết trắng tinh khôi. Núi Phú Sĩ (Fujisan) là ngọn núi cao nhất Nhật Bản, nằm giữa đồng bằng, lại có tuyết bao phủ nơi phần đỉnh núi, là nguồn cảm hứng của rất nhiều văn sĩ và thi sĩ cũng như của các văn nghệ sĩ, trong đó có các nhiếp ảnh gia và họa sĩ khắp bốn phương.;;;;;Văn hóa Nhật Bản là một trong những nền văn hóa đặc sắc nhất thế giới, văn hóa Nhật đã phát triển mạnh mẽ qua thời gian từ thời kỳ Jōmon cho tới thời kỳ đương thời, mà trong đó chịu ảnh hưởng cả từ văn hóa châu Á, châu Âu và Bắc Mỹ. Nghệ thuật truyền thống Nhật Bản bao gồm các ngành nghề thủ công như ikebana, origami, ukiyo-e, đồ chơi, đồ gỗ sơn mài và gốm sứ; các môn nghệ thuật biểu diễn như bunraku, nhảy, kabuki, nō, rakugo, ngoài ra còn phải kể đến những nét đặc sắc truyền thống khác như trà đạo, Budō, Kimono, kiến trúc, vườn Nhật và cả gươm Nhật. Ẩm thực Nhật Bản hiện nay là một trong những nền ẩm thực nổi tiếng nhất trên thế giới.;;;;;Đơn vị phân vùng hành chính cấp 1 của Nhật Bản là đô đạo phủ huyện, cả nước được chia thành 1 đô, 1 đạo, 2 phủ, 43 huyện. Các đô thị lớn tùy theo số dân và ảnh hưởng mà được chỉ định làm thành phố chính lệnh chỉ định, thành phố trung tâm, thành phố đặc biệt. Phân vùng hành chính dưới đô đạo phủ huyện là thị định thôn, ngoài ra còn có các đơn vị như quận, chi sảnh, khu, đặc biệt khu,… Căn cứ vào địa lý và nhân văn, đặc trưng kinh tế, Nhật Bản thường được chia thành 8 khu vực lớn, bao gồm: vùng Hokkaidō, vùng Đông Bắc, vùng Kantō, vùng Trung Bộ, vùng Kinki (còn gọi là vùng Kansai), vùng Chūgoku, vùng Shikoku và vùng Kyushu-Okinawa.;;;;;Nhật Bản là nước thành viên của Liên Hợp Quốc, khối APEC, các nhóm G7, G8 và G20, đồng thời được xem như một cường quốc. Quốc gia này có nền kinh tế đứng hạng ba thế giới theo GDP danh nghĩa và hạng tư thế giới theo sức mua tương đương. Nó cũng đứng hạng tư hành tinh cả về kim ngạch nhập khẩu lẫn xuất khẩu. Mặc dù Nhật Bản đã chính thức từ bỏ quyền tuyên chiến, nước này vẫn sở hữu một lực lượng quân đội hiện đại có ngân sách cao thứ tám thế giới, được huy động với mục đích tự vệ và gìn giữ hòa bình. Nhật Bản là một nước phát triển với mức sống và Chỉ số phát triển con người rất cao, trong đó người dân được hưởng tuổi thọ cao nhất thế giới, đứng hạng ba trong số những quốc gia có tỉ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh thấp nhất thế giới, và vinh dự có số người đoạt giải Nobel nhiều nhất châu Á. Nhật Bản là quốc gia dẫn đầu về Chỉ số thương hiệu quốc gia, hạng sáu trong Báo cáo cạnh tranh toàn cầu 2015–2016 và giữ vị trí cao nhất ở châu Á về Chỉ số hòa bình toàn cầu. Nhật Bản cũng là quốc gia châu Á đầu tiên đăng cai tổ chức Thế vận hội Mùa hè và Mùa Đông. Tuy nhiên, xã hội Nhật Bản hiện cũng đang phải đối mặt với nhiều vấn đề, tiêu biểu là áp lực cuộc sống cao, nạn tự sát, phân hóa thành thị - nông thôn sâu sắc, tỷ lệ thanh niên kết hôn và sinh đẻ giảm mạnh khiến tình trạng lão hóa dân số đang diễn ra ngày càng nghiêm trọng.
question_24
Theo chế độ nhân tài của dân chủ điện tử, những người khác có thể được trao quyền dựa trên thứ bậc của những ai?
doc_24
Internet và các công nghệ thông tin khác cũng có liên quan đến dân chủ trực tiếp được gọi là dân chủ điện tử '(e-democracy). Hay chính xác hơn, khái niệm quản trị nguồn mở áp dụng nguyên tắc của phong trào phần mềm miễn phí cho việc quản trị của con người, cho phép toàn bộ quần chúng nhân dân tham gia vào chính quyền một cách trực tiếp theo ước muốn của họ. Sự phát triển này vi phạm khái niệm truyền thống của dân chủ, bởi vì nó không cho phép mọi người có sự đại diện như nhau. Chế độ nhân tài có thể là sự bổ sung thích hợp một cách dân chủ. Ở đó, những người ban hành luật được trao quyền dựa trên thứ bậc của họ do những người khác.
doc_8202;;;;;doc_3206;;;;;doc_4960;;;;;doc_294;;;;;doc_4556
Ưu ái họ hàng (gia đình trị) hoặc bạn bè thân thiết (cronyism) của quan chức là một hình thức thu lợi riêng bất chính. Điều này có thể được kết hợp với hành vi hối lộ, ví dụ như yêu cầu doanh nghiệp phải tuyển dụng người thân của một cơ quan quản lý chính thức có ảnh hưởng đến doanh nghiệp. Ví dụ cực đoan nhất là khi toàn bộ nhà nước được kế thừa, như ở Triều Tiên hay Syria. Một hình thức thấp hơn có thể là ở miền Nam Hoa Kỳ với Good ol' Boys, nơi phụ nữ và người thiểu số bị loại trừ. Một hình thức thân hữu nhẹ nhàng hơn là "mạng lưới cậu bé già", trong đó những người được bổ nhiệm vào các vị trí chính thức chỉ được lựa chọn từ một mạng xã hội khép kín và độc quyền - chẳng hạn như cựu sinh viên của các trường đại học cụ thể - thay vì bổ nhiệm ứng viên có năng lực nhất.;;;;;Các Phó Thủ tướng do Thủ tướng đề nghị Quốc hội phê chuẩn, là người giúp việc cho Thủ tướng và được Thủ tướng ủy nhiệm khi Thủ tướng vắng mặt. Các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ do Thủ tướng đề nghị Quốc hội phê chuẩn, đảm nhiệm chức năng quản lý Nhà nước đối với ngành hoặc lĩnh vực công tác được giao. Việc tổ chức nhân sự cấp cao này đều thông qua Bộ Chính trị và các viên chức này đều do Bộ Chính trị quản lý. Các Thứ trưởng và chức vụ tương đương do Thủ tướng bổ nhiệm, nhưng Ban Bí thư thông qua và quản lý.;;;;;Khi mà nguyên tắc về sự bình đẳng của các công dân trước pháp luật thời cộng hòa bị lu mờ dần, các đặc quyền mang tính biểu tượng và xã hội của tầng lớp thượng lưu dẫn sự phân cấp một cách không chính thức ở bên trong xã hội La Mã thành hai tầng lớp đó là những người nắm giữ quyền cao chức trọng (honestiores) và những người thuộc tầng lớp thấp kém(humiliores). Nói chung, honestiores là những thành viên của ba "giai cấp" trên, cùng với một số sĩ quan quân đội. Việc cấp quyền công dân cho tất cả cư dân vào năm 212 dường như đã thúc đẩy sự cạnh tranh giữa các tầng lớp thượng lưu vốn có địa vị cao hơn hẳn các công dân được xác nhân khác, đặc biệt là trong hệ thống tư pháp;;;;;Hiến pháp quy định Tổng thống là người nắm quyền cao nhất quốc gia sau Lãnh tụ tối cao. Tổng thống được bầu theo phổ thông đầu phiếu với nhiệm kỳ bốn năm. Các ứng cử viên tổng thống phải được Hội đồng bảo vệ Cách mạng phê chuẩn trước khi được ra tranh cử. Tổng thống chịu trách nhiệm việc áp dụng Hiến pháp và thực hiện các quyền hành pháp, trừ những việc liên quan trực tiếp tới Lãnh tụ tối cao. Tổng thống chỉ định và giám sát Hội đồng bộ trường, phối hợp các quyết định của chính phủ, và lựa chọn các chính sách chính phủ để đưa ra trước nhánh lập pháp. Tám phó tổng thống và nội các gồm 21 bộ trưởng phục vụ dưới quyền Tổng thống, tất cả các viên chức này đều phải được nhánh lập pháp thông qua. Không giống như các quốc gia khác, nhánh hành pháp ở Iran không quản lý các lực lượng vũ trang. Dù Tổng thống chỉ định Bộ trưởng Tình báo và Quốc phòng, thông thường Tổng thống phải tham khảo ý kiến của Lãnh tụ tối cao trước khi đưa ra quyết định lựa chọn hai chức vụ đó để nhánh lập pháp bỏ phiếu tín nhiệm.;;;;;Theo như cách phân loại về các nhóm xã hội, cho thấy rằng hầu như tất cả chúng đều rơi vào một trong hai dạng là nhóm sơ cấp hay nhóm thứ cấp. Thực tế, có một số nhóm có những đặc điểm của một tổ chức xã hội, và những đặc điểm cơ cấu của một nhóm sơ cấp - Đó chính là nhóm uy quyền. Các loại nhóm này do một thủ lĩnh đầy uy quyền lãnh đạo và dẫn dắt. Thủ lĩnh có một khả năng thu hút, lôi cuốn quần chúng một cách đặc biệt (charisma). Người thủ lĩnh đó được coi là có những năng lực vượt trội hoặc ít ra là khác thường. Các thành viên trong nhóm tôn sùng thủ lĩnh và sẵn sàng hiến dâng phần lớn sức lực của mình cho thủ lĩnh. Thí dụ: Chúa Giê Su và các môn đồ của chúa; Phật Thích Ca và các môn đồ - nhóm uy quyền đặc trưng. Nhóm uy quyền gần giống với hiện tượng chính trị phổ biến ở nhiều nước trên thế giới - sùng bái cá nhân. Tuy nhiên, nhóm này không hoàn toàn trùng lập, bởi vì một cá nhân nào đó có thể được sùng bái tột đỉnh nhưng cá nhân đó vẫn không được coi là năng lực siêu nhân, hoặc những người không đồng tình, không tán thành với thủ lĩnh này có thể hợp thành một nhóm đối lập với số lượng đáng kể. Đặc điểm quan trọng của nhóm uy quyền là nhóm này dễ bị biến đổi và phụ thuộc nhiều vào thủ lĩnh của nhóm. Thông thường, thủ lĩnh củ nhóm thường tự giải quyết các vấn đề mà không cần tham khảo ý kiến của các thành viên trong nhóm. Vị thế và vai trò của các thành viên trong nhóm không được xác lập theo những quy tắc khách quan, mà theo mối quan hệ với thủ lĩnh. Sự ràng buộc giữa thủ lĩnh với các thành viên của nhóm chủ yếu là sự ràng buộc cá nhân chứ không tuân theo quy tắc hay theo luật pháp chính thức như các tổ chức xã hội thông thường. Do vậy, những ràng buộc này kém bền vững, đặc biệt nó càng kém bền vững xét từ góc độ của thủ lĩnh.
question_25
Chiều dài của ếch giun trưởng thành nằm trong khoảng nào?
doc_25
Bộ Gymnophiona (tiếng Hy Lạp gymnos nghĩa là "trần trụi, khỏa thân" và ophis nghĩa là "rắn") hay Apoda (tiếng Latin an- nghĩa là "thiếu" và tiếng Hy Lạp poda nghĩa là "chân") gồm các loài ếch giun. Đây là những động vật có thân dài, không chân có hình dạng giống rắn hay giun. Chiều dài cá thể trưởng thành từ 8 tới 75 xentimét (3 tới 30 inch) với ngoại lệ là Ếch giun Thomson (Caecilia thompsoni) có thể đạt chiều dài 150 xentimét (4,9 foot). Ếch giun có một đôi mắt thô sơ được da phủ lên, đôi mắt này có thể chỉ phân biệt được sự khác biệt về cường độ ánh sáng. Nó cũng có một đôi tua ngắn gần mắt có chức năng về xúc giác và khứu giác. Hầu hết ếch giun sống trong các hang dưới đất ẩm, nhưng cũng có một số sống thủy sinh. Hầu hết các loài đẻ con trong hang và khi trứng nở ra chúng đưa ấu trùng đến vực nước. Số khác ấp trứng và ấu trùng trải qua quá trình biến thái trước khi trứng nở. Số ít loài nuôi con ấu trùng bằng các chất tiết khi chúng còn ở trong vòi trứng. Ếch giun sống ở vùng nhiệt đới châu Phi, châu Á, Trung và Nam Mỹ.
doc_3687;;;;;doc_1123;;;;;doc_4595;;;;;doc_4599;;;;;doc_2935
Động vật lưỡng cư (và cả động vật có xương sống) nhỏ nhất trên thế giới là loài Paedophryne amauensis trong họ microhylidae ở New Guinea được phát hiện năm 2012. Nó có chiều dài trung bình 7,7 mm (0,30 in) và nó thuộc chi có đến 4 trong số 10 loài ếch nhỏ nhát thế giới. Loài động vật lưỡng cư lớn nhất còn sinh tồn là Andrias davidianus, với chiều dài 1,8 m (5 ft 11 in) nhưng loài này lại nhỏ hơn nhiều so với loài đã tuyệt chủng trong chi Prionosuchus với chiều dài lên đến 9 m (30 ft). Loài tuyệt chủng này giống như cá sấu sống cách nay 270 triệu năm từ Permi giữa ở Brazil. Loài ếch lớn nhất là ếch Goliath châu Phi (Conraua goliath), với chiều dài có thể lên đến 32 cm (13 in) và cân nặng 3 kg (6,6 lb).;;;;;Kiến có kích thước thay đổi từ 0,75 đến 52 milimét (0,030 đến 2,0 in), loài lớn nhất là hóa thạch của Titanomyrma giganteum, kiến chúa có chiều dài 6 xentimét (2,4 in) với sải cách 15 xentimét (5,9 in). Kiến có nhiều màu sắc khác nhau, hầu hết chúng có màu đỏ hoặc đen, nhưng một vài loài có màu lục và các loài ở vùng nhiệt đới có ánh kim loại. Hơn 15.000 loài kiến hiện đã được phát hiện (với ước tính vào khoảng 22.000 loài) (xem danh sách các chi kiến), trong đó đa dạng hóa lớn nhất là ở các vùng nhiệt đới. Các nghiên cứu về phân loại học vẫn đang tiến hành để giải quyết những tồn tại liên quan đến họ kiến. Cơ sở dữ liệu các loài kiến như "AntBase" và "Hymenoptera Name Server" giúp theo dõi các loài kiến đã biết và các loài mới được miêu tả. Việc dễ dàng nghiên cứu các loài kiến như là một loài chỉ thị trong các hệ sinh thái là một thuận lợi cho nghiên cứu đa dạng sinh học.;;;;;Ba bộ hiện đại của động vật lưỡng cư là Anura (ếch và cóc), Caudata / Urodela (kỳ giông), và Gymnophiona / Apoda (bộ không chân). Số lượng các loài động vật lưỡng cư được biết đến là khoảng 7.000, trong đó gần 90% là các loài ếch nhái. Các động vật lưỡng cư nhỏ nhất (và có xương sống) trên thế giới là loài ếch ở New Guinea (Paedophryne amauensis) với chiều dài chỉ 7,7 mm (0,30 inch). Các động vật lưỡng cư còn tồn tại lớn nhất là kỳ giông khổng lồ Trung Quốc (Andrias davidianus), dài đến 1,8 m (5 ft 11 inch), nhưng vẫn còn rất nhỏ so với loài tuyệt chủng Prionosuchus ở kỷ Permi tại Brazil, dài 9 m (30 ft). Các nghiên cứu về động vật lưỡng cư được gọi là batrachology, trong khi các nghiên cứu của cả hai loài bò sát và lưỡng cư được gọi là herpetology.;;;;;Bộ Anura (từ tiếng Hy Lạp Cổ đại a(n)- nghĩa là "thiếu" và oura nghĩa là "đuôi") gồm có ếch, nhái và cóc. Chúng thường có chân sau rất dài, chân trước ngắn hơn, ngón chân có màng không móng, không có đuôi, mắt lớn và da có các tuyến nhầy. Các thành viên trong bộ có da trơn được gọi là ếch, trong khi các thành viên có da sần được biết tới như cóc. Quy tắc này không được dùng trong phân loại và cũng có nhiều ngoại lệ. Thành viên trong họ Bufonidae được gọi là "cóc thực sự". Kích thước của bộ không đuôi từ ếch Goliath (Conraua goliath) dài tới 30 xentimét (12 in) của Tây Phi đến Paedophryne amauensis chỉ dài 7,7 milimét (0,30 in)- sống ở Papua New Guinea được mô tả năm 2012, cũng là động vật có xương sống nhỏ nhất được biết đến. Mặc dù đa số các loài sống cả dưới nước và đất ẩm, một số chuyên biệt hóa để sống trên cây hay trong sa mạc. Bộ này được tìm thấy toàn thế giới trừ vùng cực.;;;;;Con người đã tìm thấy năm loài moi lân, những sinh vật giáp xác nhỏ bơi tự do, ở Nam Đại Dương. Moi lân Nam Cực (Euphausia superba) là một trong số những loài động vật dồi dào nhất trên Trái Đất với tổng trọng lượng (sinh khối) cỡ khoảng 500 triệu tấn. Mỗi cá thể của loài này dài 6 cm (2,4 in) và nặng 1 gram (0,035 oz). Những bầy moi lân với mật độ 30.000 cá thể trên một m3 (35 ft m3) có thể trải dài hàng km và làm nước biển chuyển màu đỏ. Ban ngày chúng thường ở dưới sâu, tới ban đêm thì ngoi lên để ăn phiêu sinh vật. Sự tồn vong của rất nhiều loài động vật lớn phụ thuộc vào moi lân. Vào mùa đông khi mà thức ăn trở nên khan hiếm, moi lân Nam Cực trưởng thành có thể quay trở lại giai đoạn chưa trưởng thành, dùng chính cơ thể bản thân làm nguồn dinh dưỡng.
question_26
Vimara Peres đã thành lập một trong các thành phố đầu tiên vào thời gian này với tên gọi là gì?
doc_26
Vímara Peres tổ chức khu vực ông giải phóng từ người Moor, nâng vị thế của nó thành một bá quốc với tên gọi Bồ Đào Nha (Portugal) theo tên thành phố cảng lớn nhất trong vùng—Portus Cale' hay Porto ngày nay. Một trong các thành phố đầu tiên được Vimara Peres thành lập vào thời gian này là Vimaranes, nay gọi là Guimarães— "nơi khai sinh quốc gia Bồ Đào Nha" hoặc "thành phố cội nguồn" (Cidade Berço trong tiếng Bồ Đào Nha). Năm 868, Alfonso III phong tước cho Vímara Peres là Bá tước Portus Cale (Bồ Đào Nha) thứ nhất. Khu vực được gọi là Portucale, Portugale, và đồng thời là Portugália—Bá quốc Bồ Đào Nha.
doc_8825;;;;;doc_7512;;;;;doc_1639;;;;;doc_3355;;;;;doc_1887
Năm 1562 Francisco de Ibarra đứng đầu một cuộc thám hiểm cá nhân để tìm kiếm các thành phố thần thoại Cibola và Quivira; anh ấy đã đi qua bang Chihuahua ngày nay. Francisco de Ibarra được cho là người châu Âu đầu tiên nhìn thấy tàn tích của Paquime. Năm 1564 Rodrigo de Río de Loza, một trung úy dưới quyền Francisco de Ibarra, ở lại sau chuyến thám hiểm và tìm thấy vàng dưới chân núi Sierra Madre Occidental; ông thành lập thành phố Tây Ban Nha đầu tiên trong vùng, Santa Barbara vào năm 1567 bằng cách đưa 400 gia đình châu Âu đến định cư. Vài năm sau, vào năm 1569, các nhà truyền giáo dòng Phanxicô do Fray Agustín Rodríguez lãnh đạo từ bờ biển Sinaloa và bang Durango đã thành lập cơ sở truyền giáo đầu tiên ở bang này ở Valle de San Bartolomé (Valle de Allende ngày nay). Fray Agustín Rodríguez đã truyền giáo cho người dân bản địa cho đến năm 1581. Từ năm 1586 đến năm 1588, một trận dịch đã gây ra một cuộc di cư tạm thời của một lượng nhỏ dân số trong lãnh thổ Nueva Vizcaya.;;;;;và Camargo. Năm 1631, Juan Rangel de Biezma phát hiện ra một mỏ bạc dồi dào và sau đó đã thành lập San Jose del Parral gần địa điểm này. Parral vẫn là một trung tâm kinh tế và văn hóa quan trọng trong 300 năm tiếp theo. Vào ngày 8 tháng 12 năm 1659, Fray García de San Francisco thành lập phái đoàn Nuestra Señora de Guadalupe de Mansos del Paso del Río del Norte và thành lập thị trấn El Paso Del Norte (ngày nay là Ciudad Juárez) vào năm 1667. Xã hội Tây Ban Nha phát triển vào thời kỳ sau khu vực thay thế dân số thưa thớt của người dân bản địa. Sự vắng mặt của người hầu và công nhân đã rèn luyện tinh thần của người dân miền Bắc như những người tự lập, sáng tạo để bảo vệ di sản châu Âu của họ. Năm 1680, những người định cư từ Santa Fe, New Mexico tìm nơi ẩn náu ở El Paso Del Norte trong 12 năm sau khi chạy trốn các cuộc tấn công từ các bộ lạc Pueblo, nhưng quay trở lại Santa Fe vào năm 1692 sau khi Diego de Vargas chiếm lại thành phố và vùng phụ cận. Năm 1709, Antonio de Deza y Ulloa thành lập thủ phủ bang Thành phố Chihuahua; ngay sau đó, thành phố trở thành trụ sở của các văn phòng khai thác khu vực của vương quốc Tây Ban Nha được gọi là Real de Minas de San Francisco de Cuéllar để vinh danh Phó vương của Tân Tây Ban Nha, Francisco Fernández de la Cueva Enríquez, Công tước Alburquerque và Marquee of Cuéllar..;;;;;Quá trình thực dân hóa của người châu Âu đã bắt đầu ngay sau chuyến đi đầu tiên của Cristoforo Colombo vào năm 1492. Điểm định cư đầu tiên của người Tây Ban Nha tại châu Mỹ là La Isabela ở miền bắc Hispaniola. Đô thị này đã bị bỏ hoang sớm sau đó khi thành lập Santo Domingo de Guzmán năm 1496, thành phố cổ nhất do người châu Âu lập nên tại châu Mỹ. Nơi này trở thành căn cứ và từ đó chế độ quân chủ Tây Ban Nha quản lý các thuộc địa và mở rộng lãnh địa của mình. Trên lục địa, thành phố Panama bên bờ biển Thái Bình Dương được hình thành vào ngày 5 tháng 8 năm 1519, đóng một vai trò quan trọng, và là cơ sở để thực dân Tây Ban Nha xâm chiếm Nam Mỹ. Theo nhà nhân chủng học R. Thornton, sự lây lan của các bệnh dịch mới do người châu Âu và châu Phi đem tới đã giết chết nhiều cư dân tại châu Mỹ, Người bản địa và thực dân châu Âu xảy ra xung đột trên diện rộng, kết quả dẫn đến điều mà David Stannard gọi là một cuộc diệt chủng dân bản địa. Những người di cư châu Âu đầu tiên là một phần của nỗ lực cấp nhà nước nhằm thành lập các thuộc địa tại châu Mỹ. Những người di cư tiếp tục di cư đến châu Mỹ nhắm trốn tránh các cuộc đàn áp tôn giáo hoặc tìm kiếm cơ hội về kinh tế. Trong khi đó, hàng triệu người đã bị buộc đưa đến châu Mỹ với thân phận nô lệ, tù nhân hay lao động giao kèo.;;;;;Vào đầu thế kỷ V, các bộ lạc German là Suebi và Vandal (Silingi và Hasdingi) cùng với các đồng minh Sarmatia và Alan của họ tiến hành xâm chiếm bán đảo Iberia, và lập ra vương quốc của họ. Vương quốc của người Suebi thành lập trên các tĩnh cũ Gallaecia-Lusitania của La Mã. Dấu tích các khu định cư trong thế kỷ V của người Alan được phát hiện tại Alenquer, Coimbra và Lisbon. Vào năm 500, Vương quốc Visigoth được thành lập tại Iberia, có trung tâm tại Toledo nay thuộc Tây Ban Nha. Người Visigoth cuối cùng chinh phục thành công người Suebi và thành phố thủ đô Bracara (nay là Braga) vào năm 584–585. Lãnh thổ cũ của người Suebi trở thành tỉnh thứ sáu của Vương quốc Visigoth.;;;;;Sự phát triển của các thành phố dẫn tới cái được gọi là văn minh: đầu tiên Văn minh Sumerian ở hạ Lưỡng Hà (3500 TCN), tiếp theo là văn minh Ai Cập dọc sông Nin (3300 TCN) và nền văn minh Harappan ở lưu vực sông Ấn (3300 TCN). Đã có bằng chứng về những thành phố phức tạp với những mức độ xã hội cao và nền kinh tế phát triển. Tuy nhiên, những nền văn minh này khá khác biệt so với nhau bởi vì chúng hầu như có nguồn gốc độc lập. Chính ở thời gian này chữ viết và thương mại ở tầm rộng bắt đầu xuất hiện.
question_27
Bộ phim Gandhi (1982) được ai đạo diễn?
doc_27
Cách trình bày cuộc đời Gandhi nổi tiếng nhất có lẽ là bộ phim Gandhi (1982), được đạo diễn bởi Richard Attenborough và diễn viên Ben Kingsley (chính ông là người nửa phần Gujarati) trong vai chính. Tuy nhiên, bộ phim sau này bị chỉ trích bởi các học giả hậu thực dân. Họ luận cứ là bộ phim miêu tả Gandhi như một người dùng một tay đưa Ấn Độ đến sự độc lập và bỏ qua những nhân vật quan trọng khác (của cả hai nhóm, tinh duệ và cấp dưới) trong cuộc kháng chiến chống thực dân. Bộ phim The Making of the Mahatma, với Shyam Benegal đạo diễn và Rajat Kapur trong vai chính là một phim nói về 21 năm hoạt động của Gandhi tại Nam Phi.
doc_2489;;;;;doc_4118;;;;;doc_3110;;;;;doc_750;;;;;doc_2856
Mahātmā Gāndhī (2 tháng 10 năm 1869 – 30 tháng 1 năm 1948), nguyên tên đầy đủ là Mohandas Karamchand Gandhi (Devanagari: मोहनदास करमचन्द गांधी; Gujarati: મોહનદાસ કરમચંદ ગાંધી), là anh hùng dân tộc Ấn Độ, đã chỉ đạo cuộc kháng chiến chống chế độ thực dân của Đế quốc Anh và giành độc lập cho Ấn Độ với sự ủng hộ của hàng triệu người dân. Trong suốt cuộc đời, ông phản đối tất cả các hình thức khủng bố bạo lực và thay vào đó, chỉ áp dụng những tiêu chuẩn đạo đức tối cao. Nguyên lý bất bạo lực (còn gọi là bất hại) được ông đề xướng với tên Chấp trì chân lý (sa. satyāgraha) đã ảnh hưởng đến các phong trào đấu tranh bất bạo động trong và ngoài nước cho đến ngày nay, bao gồm phong trào Vận động Quyền công dân tại Hoa Kỳ (American Civil Rights Movement) được dẫn đầu bởi Martin Luther King, Jr..;;;;;Lớn lên với một bà mẹ sùng tín Tì-thấp-nô trong một môi trường được ảnh hưởng bởi những người theo Kì-na giáo tại Gujarat, Gandhi sớm cảm nhận nguyên tắc bất hại, ăn chay, phương pháp nhịn ăn để thanh lọc tâm thức cũng như sự khoan dung lẫn nhau của các tín đồ và tông phái. Ông sinh ra trong giai cấp thứ ba của xã hội Ấn là Phệ-xá (sa. vaiśya, giai cấp thương gia). Tháng 5 năm 1882, vào tuổi 13, ông cưới cô Kasturba Makharji, 14 tuổi, qua một sự mai mối. Hai ông bà sau có bốn con trai: Harilal Gandhi, sinh năm 1888; Manilal Gandhi, sinh năm 1892; Ramdas Gandhi; sinh năm 1897 và Devdas Gandhi, sinh năm 1900.;;;;;Bằng phương tiện bất hợp tác, Gandhi đã dẫn khởi nền độc lập Ấn Độ, đưa nước mình thoát sự đô hộ của Anh, khích lệ những người dân bị đô hộ khác phấn đấu cho nền độc lập của nước nhà và đả đảo triệt để Đế quốc Anh. Nguyên lý Chấp trì chân lý của Gandhi (có gốc tiếng Phạn: satya là "chân lý" và ā-graha là "nắm lấy", "nắm chặt"), cũng thường được dịch là "con đường chân thật", "truy tầm chân lý", đã cảm kích những người chủ trương hành động giành tự do như Đạt-lại Lạt-ma Đăng-châu Gia-mục-thố (Tenzin Gyatso), Lech Wałęsa, Stephen Biko, Aung San Suu Kyi và Nelson Mandela. Tuy nhiên, không phải tất cả những nhà lãnh đạo nêu trên đều theo nguyên tắc bất bạo lực và bất kháng cự khắt khe của Gandhi.;;;;;Ngày 30 tháng 1 năm 1948, trên đường đến một nơi thờ tụng, Gandhi bị bắn chết bởi Nathuram Godse tại tòa nhà Birla ở New Delhi. Godse là một môn đồ Ấn giáo cực đoan được người đương thời cho là có mối quan hệ với cánh cực hữu của các tổ chức Ấn Độ giáo như Hindu Mahasabha. Tổ chức này cho Gandhi là người chịu trách nhiệm cho việc chính quyền suy nhược vì đã khăng khăng bắt buộc nộp một khoản tiền cho Pakistan. Godse và người cùng âm mưu là Narayan Apte sau bị đưa ra tòa kết án, và bị xử tử ngày 15 tháng 11 năm 1949. Vinayak Damodar Savarkar, chủ tịch của Hindu Mahasabha, một nhà cách mạng và môn đồ Ấn giáo cực đoan bị tố cáo là người nắm đầu dây của mưu đồ này, nhưng sau được giải tội vì thiếu bằng chứng.;;;;;Gandhi và toàn bộ ban chấp hành Quốc hội bị bắt giam ngày 9 tháng 8 năm 1942 tại Mumbai bởi lực lượng quân đội nước Anh. Gandhi bị giam hai năm trong điện Aga Khan tại Pune. Tại đây, Gandhi trải qua những nỗi khổ lớn nhất của cuộc đời, đó là cái chết của vợ Kasturbai chỉ vài tháng sau khi Mahadev Desai - người thư ký được ông xem như con trai - chết vì bị nhồi máu cơ tim vào tuổi 42. Gandhi được thả trước khi chiến tranh chấm dứt vì sức khoẻ sa sút và một ca mổ cần thiết. Chính quyền Anh không muốn ông chết trong tù vì đây là một sự kiện có thể làm lòng căm phẫn của công chúng vượt khỏi tầm kiểm soát.
question_28
Cuối cùng Gandhi có nghe lời Patel và đồng nghiệp không?
doc_28
Những nhà lãnh đạo cố cựu của Quốc hội biết rõ Gandhi sẽ phản đối cực lực sự phân chia, nhưng họ cũng thừa biết là Quốc hội không tiến bước nếu không có sự thoả thuận của ông vì sự hỗ trợ trong đảng và toàn quốc dành cho Gandhi rất sâu rộng. Những người bạn đồng nghiệp thân cận nhất của ông đã chấp nhận việc phân chia như phương án giải đáp tốt nhất, và Sardar Patel cố gắng thuyết phục Gandhi đây là con đường duy nhất để tránh cuộc nội chiến. Gandhi cuối cùng xuôi lòng, tán đồng bước thực hiện này.
doc_4929;;;;;doc_2660;;;;;doc_991;;;;;doc_3708;;;;;doc_4966
Không có nhân cách hùng mạnh của Gandhi để kiềm chế các người đồng sự, đảng Quốc dân Đại hội bắt đầu tan vỡ, phân thành hai phái trong thời gian ông ngồi tù. Một phái được dẫn đầu bởi Chitta Ranjan Das và Motilal Nehru, ủng hộ việc đảng tham dự cơ quan lập pháp. Phái thứ hai được dẫn đầu mởi Chakravarti Rajagopalachari và Sardar Vallabhbhai Patel, phản đối việc này. Thêm vào đó là việc hợp tác giữa tín đồ Ấn Độ giáo và Hồi giáo mạnh mẽ trong những chiến dịch bất bạo động giờ đây sa sút. Gandhi tìm cách bắc cầu nối những điểm sai biệt này bằng nhiều phương tiện, bao gồm một cuộc tuyệt thực ba tuần mùa thu năm 1924, nhưng chỉ với kết quả hạn chế.;;;;;Một lần nữa, Gandhi bị bắt giam, và chính quyền tìm cách đập tan ảnh hưởng của ông bằng cách cách li hoàn toàn ông và các người đi theo ủng hộ. Chiến lược này không hiệu quả. Năm 1932, qua chiến dịch của B. R. Ambedkar - lãnh tụ của những người Dalit - chính quyền đảm bảo cho dân ti tiện Dalit những khu bầu cử riêng trong hiến pháp mới. Để phản đối việc này, Gandhi bắt đầu một cuộc tuyệt thực 6 ngày vào tháng 9 năm 1932, thành công trong việc buộc chính quyền tiếp nhận một hệ thống công bằng hơn qua sự thương lượng qua trung gian là ông Palwankar Baloo, vốn là một người Dalit chơi ngoạn bản cầu (cricketer), sau trở thành nhà chính trị. Đây cũng là khởi điểm của một chiến dịch mới của Gandhi với mục đích cải thiện cuộc sống của dân ti tiện, những người được ông gọi là Harijan, "con của trời Hari". Ngày 8 tháng 5 năm 1933, Gandhi bắt đầu một cuộc tuyệt thực 21 ngày để phản đối sự đàn áp của người Anh tại Ấn Độ. Mùa hè năm 1934, ông ba lần bị mưu hại không thành công.;;;;;Nhưng cuộc phát động có tổ chức đầu tiên của Gandhi xảy ra khi ông bị cảnh sát bắt giam với lý do gây bạo động và được yêu cầu rời địa phương này. Hàng trăm nghìn người biểu tình chống đối, vây quanh nhà giam, các trạm cảnh sát và quan tòa đòi trả tự do lại cho ông, một sự việc pháp tòa không muốn nhưng sau cũng phải thực hiện. Gandhi đứng đầu những cuộc biểu tình có tổ chức chống lại điền chủ, và họ, dưới sự lãnh đạo của chính quyền Anh, đã ký một hiệp định đảm bảo trả lương cao hơn và kiểm soát việc cho nông dân nghèo địa phương thuê đất, xoá bỏ việc tăng thuế cũng như việc thu thuế đến khi nạn đói chấm dứt. Chính trong thời gian kích động này, Gandhi được quần chúng tôn xưng là Bapu (người cha già dân tộc) và Mahātmā (tâm hồn vĩ đại). Tại Kheda, Patel đại diện các nông gia trong những cuộc thương lượng với chính quyền Anh với kết quả là họ tạm dừng thu thuế, đảm bảo trợ cấp. Tất cả những người bị tù đều được thả ra. Danh tiếng Gandhi từ đây như một ngọn lửa lan truyền khắp nước và ông đã trở thành năng lực ảnh hưởng nhất định trong phong trào chủ nghĩa dân tộc Ấn Độ.;;;;;Gandhi khuyên Quốc hội từ khước những đề nghị trong kế hoạch của phái đoàn chính phủ Anh năm 1946 vì ông rất nghi ngờ việc chia quyền với Liên minh Hồi giáo (Muslim League) cũng như sự phân chia và hạ giảm chính quyền trung ương có thể xảy ra. Gandhi cảnh cáo sự tập hợp được đề nghị dành cho những liên bang có số đông người Hồi. Tuy nhiên, đây là một trong những lần ít ỏi mà Quốc hội không nghe lời Gandhi (nhưng không đặt câu hỏi về quyền lãnh đạo) vì những người cầm đầu không những muốn lập chính quyền nhanh như có thể khi người Anh trao quyền lại, mà còn muốn ngăn cản Mohammed Ali Jinnah và Liên minh Hồi giáo đạt vị trí ngang hàng với đảng Quốc dân Đại hội, vốn có bản chất dân tộc và hiện thế hơn.;;;;;Gandhi có ảnh hưởng lớn trong các cộng đồng Ấn Độ giáo và Hồi giáo tại Ấn Độ. Tương truyền chỉ sự hiện diện của ông thôi cũng đủ chấm dứt các cuộc bạo động. Ông phản đối kịch liệt tất cả những kế hoạch phân chia Ấn Độ thành hai quốc gia độc lập. Liên minh Hồi giáo luận cứ rằng thiểu số người Hồi giáo sẽ bị bức áp một cách có hệ thống bởi phần lớn môn đồ Ấn Độ giáo trong một quốc gia Ấn Độ thống nhất, và một quốc gia riêng cho người theo Hồi giáo là một giải pháp hợp lý. Tuy nhiên, nhiều người Hồi giáo ở trung tâm Ấn Độ - vốn chung sống với người Ấn giáo, đạo Sikhs, Phật giáo, Kì-na giáo, đạo Parsi, Kitô giáo và đạo Do Thái - lại muốn một quốc gia Ấn Độ thống nhất. Nhưng Jinnah ra lệnh hỗ trợ rộng rãi các vùng Tây Punjab, Sindh, NWFP và Đông Bengal, tất cả những vùng đã hợp thành dạng Pakistan và Bangladesh ngày nay. Xứ sở mới của người theo Hồi giáo được kiến lập từ các vùng Đông và Tây Ấn Độ. Ban đầu nó được gọi là Tây và Đông Pakistan, và giờ đây tương ưng với Pakistan và Bangladesh. Ngày trao quyền chính trị, Gandhi không ăn mừng độc lập cùng với công chúng Ấn Độ mà chỉ đơn độc tại Kolkata, đau buồn về sự phân chia và tiếp tục công việc nhằm chấm dứt bạo lực.
question_29
Những đợt ân xá của năm nào đã giúp cho phần lớn các tù binh chính trị được giải đến Nouvelle-Calédonie được trở về Pháp?
doc_29
Ngày 24 tháng 9 năm 1853, theo lệnh của Hoàng đế Napoléon III, Đô đốc Febvrier Despointes giành quyền chiếm hữu chính thức đối với Nouvelle-Calédonie và Port-de-France (Nouméa) được thành lập vào ngày 25 tháng 6 năm 1854. Vài chục người định cư tự do đến duyên hải phía tây trong những năm sau đó. Nouvelle-Calédonie trở thành một thuộc địa hình sự, và từ thập niên 1860 cho đến khi kết thúc vận chuyển tù nhân vào năm 1897, có khoản 22.000 tù nhân hình sự và chính trị bị đưa sang Nouvelle-Calédonie. Bulletin de la Société générale des prisons vào năm 1888 cho thấy rằng 10.428 tù nhân, bao gồm 2.329 người đã được phóng thích, ở trên đảo vào ngày 1 tháng 5 năm 1888, số lượng tù nhân lớn nhất và vượt xa số tù nhân bị giữ tại các trại tù hải ngoại khác. Trong số các tù nhân, có nhiều chiến sĩ bị bắt giữ sau thất bại của Công xã Paris, trong đó có Henri Rochefort và Louise Michel. Từ năm 1873 đến năm 1876, 4.200 tù nhân chính trị được chuyển đến Nouvelle-Calédonie. Chỉ có 40 trong số này định cư tại thuộc địa, phần còn lại trở về Pháp sau khi được ân xá vào năm 1879 và 1880.
doc_3695;;;;;doc_806;;;;;doc_310;;;;;doc_1876;;;;;doc_2817
Dân số người gốc Âu và Polynesia dần tăng lên trong những năm dẫn đến bùng nổ niken 1969–1972, và người Melanesia trở thành thiểu số, song vẫn là dân tộc lớn nhất. Từ năm 1976 đến năm 1988, Nouvelle-Calédonie thông qua năm đạo luật, đều gây nên bất mãn và hỗn loạn nghiêm trọng, đỉnh điểm là vào năm 1988 khi xảy ra cuộc bắt cóc con tin đẫm máu tại Ouvéa. Các hiệp định Matignon được ký kết vào ngày 26 tháng 6 năm 1988 đảm bảo một thập niên ổn định. Hiệp nghị Nouméa được ký kết vào ngày 5 tháng 5 năm 1998, định ra cơ sở cho 20 năm chuyển đổi, theo đó dần chuyển giao thẩm quyền cho chính quyền địa phương.;;;;;Trong tháng 6 năm 1940, sau khi Pháp thất thủ trước quân Đức, Hội đồng toàn thể Nouvelle-Calédonie nhất trí ủng hộ chính phủ Pháp quốc Tự do, và đến tháng 9 vị thống đốc thân Vichy bị buộc phải rời đến Đông Dương. Trong tháng 3 năm 1942, được Úc giúp đỡ, lãnh thổ trở thành một căn cứ quan trọng của Đồng Minh, và Nouméa là đại bản quan của lực lượng hải quân và lục quân của Hoa Kỳ tại Nam Thái Bình Dương. Hạm đội từng đẩy lui lực lượng hải quân của Nhật Bản trong trận chiến biển Coral vào tháng 5 năm 1942 có căn cứ tại Nouméa. Số lượng binh sĩ Hoa Kỳ đông đến 50.000, tương đương dân số lãnh thổ vào đương thời.;;;;;Đầu năm 1947, D'Argenlieu bị triệu hồi về nước do bị người Việt Nam và các đảng phái cánh tả Pháp căm ghét. Trước áp lực của các đảng phái cánh tả Pháp như Đảng Cộng sản Pháp và Đảng Xã hội Pháp, Thủ tướng Ramadier - một đại biểu xã hội chủ nghĩa, thông báo rằng chính phủ của ông ủng hộ nền độc lập và thống nhất cho Việt Nam: "Độc lập trong Liên hiệp Pháp [và] liên minh của ba nước An Nam, nếu người dân An Nam mong muốn nó" và Pháp sẵn sàng đàm phán hòa giải "với những đại diện chân chính của Việt Nam".;;;;;Người gốc Âu lần đầu định cư tại Nouvelle-Calédonie là khi Pháp lập một thuộc địa hình sự trên quần đảo. Khi các tù nhân hoàn thành bản án, họ được cấp đất để định cư. Theo điều tra năm 2009, trong số 71.721 người gốc Âu tại Nouvelle-Calédonie, có 32.354 người sinh tại quần đảo, 33.551 người sinh tại các nơi khác của Pháp, và 5.816 người sinh tại nước ngoài. Người gốc Âu được chia thành vài nhóm: Caldoche thường được định nghĩa là người sinh tại Nouvelle-Calédonie có quan hệ tổ tiên từ những người Pháp định cư ban đầu. Họ thường định cư tại các khu vực nông thôn thuộc duyên hải phía tây đảo chính, tại đó nhiều người tiếp tục điều hành các bất động sản chăn nuôi quy mô lớn.;;;;;Tháng 10 năm 1944 Mitterrand và Jacques Foccart cùng đặt một kế hoạch giải phóng các tù binh chiến tranh và các trại tập trung. Nó được gọi là chiến dịch Viacarage và vào tháng 4 năm 1945 Mitterrand tháp tùng General Lewis như đại diện của Pháp giải phóng các trại tù binh tại Kaufering và Dachau theo lệnh của de Gaulle. Mitterrand đã may mắn tìm thấy người bạn và là thành viên trong mạng lưới của ông Robert Antelme đang bị sốt Rickettsia. Antelme được ra lệnh ở lại trong trại để ngăn ngừa bệnh lây truyền vì thế Mitterrand đã thu xếp để ông "bỏ trốn" và gửi ông về Pháp để điều trị.,.
question_30
Tại Virginia vào năm 1622 đã xảy ra một xung đột tệ hại đó là cuộc xung đột nào?
doc_30
Thuộc địa thành công đầu tiên của người Anh được thiết lập vào năm 1607 trên sông James tại Jamestown là nơi bắt đầu biên cương Mỹ. Nó suy giảm dần trong nhiều thập niên cho đến khi một làn sóng người định cư mới đến vào cuối thế kỷ 17 và lập nên một nền nông nghiệp thương mại dựa vào cây thuốc lá. Giữa cuối thập niên 1610 và cách mạng Mỹ, người Anh đã đưa đến các thuộc địa Mỹ khoảng 50 ngàn tù nhân. Một trường hợp xung đột tệ hại là vụ nổi loạn Powhatan năm 1622 tại Virginia trong đó người bản địa Mỹ giết chết hàng trăm người định cư Anh. Cuộc xung đột lớn nhất giữa người bản địa Mỹ và người định cư Anh trong thế kỷ 17 là Chiến tranh của Vua Philip tại Tân Anh,. Chiến tranh Yamasee tại Nam Carolina thì đẫm máu.
doc_3017;;;;;doc_1800;;;;;doc_1370;;;;;doc_8150;;;;;doc_9052
Năm 1753, người Pháp bắt đầu mở rộng tầm kiểm soát quân sự của họ vào "Xứ Ohio", một lãnh thổ cũng bị các thuộc địa của Anh là Virginia và Pennsylvania tuyên bố chủ quyền. Cuộc tranh chấp chủ quyền này đã dẫn đến một cuộc chiến tranh mà các thuộc địa gọi là Chiến tranh chống người bản thổ và Pháp (French and Indian War) từ năm 1754–1762. Chiến tranh này đã góp phần khởi sự Chiến tranh 7 năm trên toàn cầu (1756–63). Washington ở tâm điểm của cuộc chiến này khi mới vừa bùng nổ. Công ty Ohio, một cỗ xe mà qua đó các nhà đầu tư người Anh có kế hoạch mở rộng vào lãnh thổ này, đang mở mang những khu định cư mới và xây dựng các trạm mậu dịch để buôn bán với người bản thổ Mỹ. Thống đốc Dinwiddie nhận lệnh từ chính phủ Anh cảnh cáo người Pháp về chủ quyền của Anh tại đó. Ông phái Thiếu tá Washington vào cuối năm 1753 giao một bức thư thông báo đến người Pháp về những tuyên bố chủ quyền của Anh và yêu cầu người Pháp rời bỏ lãnh thổ này. Washington cũng đến gặp mặt Tanacharison (cũng còn được gọi là "Half-King") và các lãnh tụ khác của người bản thổ Iroquois đang liên minh với Virginia tại Logstown để nhận sự ủng hộ của họ trong trường hợp có xung đột với người Pháp; Washington và Tanacharison trở thành bạn bè và đồng minh. Washington giao lá thư cho tư lệnh địa phương Pháp nhưng ông này từ chối một cách lịch sự là không rời bỏ lãnh thổ này.;;;;;Cuối mùa hè năm 1777, lực lượng Anh dưới sự chỉ huy của John Burgoyne đưa một quân đoàn xâm nhập lớn từ Quebec xuống phía Nam với ý định cắt đứt vùng Tân Anh nổi loạn. Tướng Anh là Howe tại New York đưa quân đoàn của ông về hướng nam đến Philadelphia thay vì lên phía trên sông Hudson để họp mặt với quân của Burgoyne gần Albany. Đây là một lỗi lầm chiến lược lớn đối với quân Anh. Washington liền vội vã tiến về Philadelphia để giáp chiến Howe trong khi đó theo dõi sát hành động trên vùng thượng bang New York. Trong các trận đánh giáp mặt quá phức tạp cho các binh sĩ tương đối không kinh nghiệm, quân của Washington bị đánh bại. Trong trận Brandywine ngày 11 tháng 9 năm 1777, chiến thuật của Howe hơn hẳn Washington. Kết quả là Howe hành quân vào thủ đô Mỹ vào lúc đó là Philadelphia mà không gặp sự phản kháng nào ngày 26 tháng 9. Quân của Washington tấn công bất thành quân đồn trú của Anh tại Germantown đầu tháng 10. Trong lúc Burgoyne ở ngoài tầm giải cứu của Howe nên bị vây bủa và buộc phải ra lệnh toàn bộ quân đoàn của mình đầu hàng tại Saratoga, New York. Đây là một điểm quay chính cả về mặt quân sự và ngoại giao. Pháp phản ứng việc Burgoyne bại trận bằng cách tham chiến, công khai liên minh với Mỹ và biến cuộc Chiến tranh Cách mạng thành một cuộc chiến tranh lớn có tầm cỡ thế giới. Việc Washington để mất Philadelphia đã khiến cho một số thành viên Quốc hội Mỹ thảo luận về việc tước quyền tư lệnh của Washington. Nỗ lực này bị thất bại sau khi những người ủng hộ Washington tề tựu ủng hộ đằng sau ông.;;;;;Mùa xuân năm 1793, một cuộc chiến tranh lớn nổ ra giữa nước Anh bảo thủ cùng với đồng minh của họ chống nước Pháp cách mạng, mở đầu một thời đại chiến tranh lan rộng khắp châu Âu mãi cho đến năm 1815. Được sự chấp thuận của nội các, Washington tuyên bố nước Mỹ trung lập. Chính phủ cách mạng Pháp phái nhà ngoại giao Edmond-Charles Genêt (được biết đến là công dân Genêt) đến Mỹ. Genêt được chào đón nhiệt liệt tại Mỹ. Ông tuyên truyền cho phía Pháp trong cuộc chiến tranh giữa Pháp và Anh. Với mục đích này, ông giúp đẩy mạnh phát triển một hệ thống gồm nhiều hội Dân chủ ở các thành phố lớn. Ông cấp phát thư ủy quyền tấn công của chính phủ Pháp cho các tàu Pháp được điều khiển bởi thủy thủ đoàn người Mỹ để họ có thể tấn công chiếm dụng các thương thuyền của Anh. Việc này làm cho Washington giận dữ, yêu cầu chính phủ Pháp triệu hồi Genêt về nước. Washington cũng lên án các hội dân chủ.;;;;;Cho đến nay, hành động quân sự lớn nhất mà Hoa Kỳ tham gia trong thời kỳ này là Chiến tranh năm 1812. Với việc Anh đang vướng vào một cuộc chiến lớn với nước Pháp của Napoléon, chính sách của nước này là chặn các chuyến hàng của Mỹ đến Pháp. Hoa Kỳ tìm cách giữ thái độ trung lập trong khi theo đuổi hoạt động thương mại ở nước ngoài. Anh cắt đứt thương mại và ép các thủy thủ trên tàu Mỹ gia nhập Hải quân Hoàng gia, bất chấp sự phản đối dữ dội. Anh ủng hộ cuộc nổi dậy của người Ấn Độ ở vùng Trung Tây nước Mỹ, với mục tiêu thành lập một nhà nước Ấn Độ ở đó nhằm ngăn chặn sự bành trướng của Mỹ. Hoa Kỳ cuối cùng đã tuyên chiến với Vương quốc Anh vào năm 1812, lần đầu tiên Hoa Kỳ chính thức tuyên chiến. Không có hy vọng đánh bại Hải quân Hoàng gia, Hoa Kỳ tấn công Đế quốc Anh bằng cách xâm lược Canada thuộc Anh, với hy vọng sử dụng lãnh thổ chiếm được làm con bài thương lượng. Cuộc xâm lược Canada là một thất bại, mặc dù các cuộc chiến tranh đồng thời với người Mỹ bản địa ở mặt trận phía tây (Chiến tranh Tecumseh và Chiến tranh Creek) đã thành công hơn. Sau khi đánh bại Napoléon vào năm 1814, Anh đã phái những đội quân kỳ cựu đông đảo xâm lược New York, đột kích Washington và chiếm quyền kiểm soát then chốt sông Mississippi tại New Orleans. Cuộc xâm lược New York là một thất bại sau khi quân đội Anh đông hơn nhiều rút lui về Canada. Những kẻ đột kích đã thành công trong việc đốt cháy Washington vào ngày 25 tháng 8 năm 1814, nhưng bị đẩy lùi trong Chiến dịch Vịnh Chesapeake của họ tại Trận Baltimore và chỉ huy người Anh bị giết. Cuộc xâm lược lớn ở Louisiana đã bị chặn đứng bởi một trận chiến quân sự một chiều khiến ba tướng lĩnh hàng đầu của Anh và hàng nghìn binh sĩ thiệt mạng. Những người chiến thắng là vị tướng chỉ huy của Trận chiến New Orleans, Thiếu tướng Andrew Jackson, người đã trở thành tổng thống và những người Mỹ đã giành chiến thắng trước một quốc gia hùng mạnh hơn nhiều. Hiệp ước hòa bình đã tỏ ra thành công và Mỹ và Anh không bao giờ xảy ra chiến tranh nữa. Những người thua cuộc là người da đỏ, những người không bao giờ giành được lãnh thổ độc lập ở Trung Tây như lời hứa của Anh.;;;;;Đối mặt với việc kinh doanh thua lỗ này, Valencia đã phải hứng chịu một cuộc khủng hoảng kinh tế nghiêm trọng. Điều này thể hiện sớm vào năm 1519–1523 khi các hội thủ công được gọi là Germanies nổi dậy chống lại chính quyền của vua Habsburg Charles I ở Valencia, hiện là một phần của Vương quốc Aragon, với hầu hết các cuộc giao tranh diễn ra vào năm 1521. Cuộc nổi dậy là một cuộc chống đối - theo chế độ quân chủ, phong trào tự trị chống phong kiến lấy cảm hứng từ các nước cộng hòa Ý, và một cuộc nổi dậy xã hội chống lại giới quý tộc đã chạy trốn khỏi thành phố trước trận dịch hạch năm 1519. Nó cũng mang khía cạnh chống Hồi giáo mạnh mẽ, khi quân nổi dậy bạo loạn chống lại người dân Aragon của những người theo đạo Hồi và áp đặt việc buộc phải chuyển đổi sang Cơ đốc giáo.
question_31
Ngày nào trong trong năm được giành cho trẻ con ở Nhật Bản?
doc_31
Các ngày lễ của Nhật Bản là New Year's Day vào 01/01, Coming of Age Day vào ngày hai tiếp theo của tháng 1, National Foundation Day vào 11/02, Vernal Equinox Day vào 20 hoặc 21 tháng 3, Shōwa Day vào 29/04, Constitution Memorial Day vào 03/05, Greenery Day vào 04/05, Children's Day vào 05/05, Marine Day vào ngày thứ hai tuần thứ ba của tháng 7, Mountain Day vào ngày 11/08, Respect for the Aged Day vào ngày thứ hai tuần thứ ba của tháng 9, Autumnal Equinox vào 23 hoặc 24 tháng 9, Health and Sports Day vào ngày thứ hai của tháng 10, Culture Day vào 03/11, Labour Thanksgiving Day vào ngày 23/11, and The Emperor's Birthday vào 23/12.
doc_2377;;;;;doc_6001;;;;;doc_8743;;;;;doc_6167;;;;;doc_3832
Nhật Bản có chính thức 16 ngày nghỉ quốc gia được chính phủ công nhận. Các ngày nghỉ lễ Nhật Bản được điều chỉnh theo luật nghỉ lễ năm 1948 the Public Holiday Law (国民の祝日に関する法律 Kokumin no Shukujitsu ni Kansuru Hōritsu). Từ những năm 2000 Nhật Bãn đã thực hiện Happy Monday System, đưa một số ngày lễ rơi vào cuối tuần lên thứ hai để có một ngày nghỉ dài. Vào năm 2006, nước này quyết định thêm ngày Shouwa, một ngày nghỉ quốc gia mới, thay cho ngày Greenery Day vào ngày 29/04 và chuyển ngày Greenery Day đến ngày 04/05. Quyết định này có hiệu lực vào năm 2007. Năm 2014, Nhật Bản thêm ngày Mountain Day (山の日 Yama no Hi) vào ngày 11/08, sau khi được đề xuất bởi câu lạc bộ leo núi Nhật Japanese Alpine Club.;;;;;Lễ Phục sinh là Chủ nhật sau ngày 15 của tuần trăng này, ngày thứ 14 được phép diễn ra trước ngày phân. Trong trường hợp hai hệ thống đưa ra những ngày khác nhau thì nhìn chung sẽ có sự thỏa hiệp để cả hai nhà thờ có thể cử hành trong cùng một ngày. Vào thế kỷ thứ 10, tất cả các nhà thờ (ngoại trừ một số nhà thờ ở biên giới phía đông của Đế quốc Byzantine) đã áp dụng Lễ Phục sinh của người Alexandria, vẫn đặt ngày xuân phân vào ngày 21 tháng 3, mặc dù Bede đã ghi nhận sự trôi dạt của nó vào năm 725—nó thậm chí còn trôi xa hơn vào năm 725. thế kỷ 16.;;;;;Ngoài sự thay đổi về độ dài trung bình của năm dương lịch từ 365,25 ngày (365 ngày 6 giờ) thành 365,2425 ngày (365 ngày 5 giờ 49 phút 12 giây), giảm 10 phút 48 giây mỗi năm, cải cách lịch Gregory cũng xử lý sự khác biệt tích lũy giữa các độ dài này. Các bảng lễ Phục sinh kinh điển được nghĩ ra vào cuối thế kỷ thứ ba, khi ngày xuân phân rơi vào ngày 20 tháng 3 hoặc 21 tháng 3 tùy thuộc vào vị trí của năm trong chu kỳ năm nhuận. Theo quy định, trăng tròn trước Lễ Phục sinh không được diễn ra trước điểm phân, điểm phân được ấn định vào ngày 21 tháng 3 nhằm mục đích tính toán và ngày sớm nhất cho Lễ Phục sinh được ấn định là ngày 22 tháng 3. Lịch Gregorian tái tạo những điều kiện này bằng cách loại bỏ mười ngày.;;;;;Bởi vì ngày xuân phân gắn liền với ngày lễ Phục sinh nên Giáo hội Công giáo La Mã coi sự trôi dạt theo mùa trong ngày lễ Phục sinh là điều không mong muốn. Nhà thờ Alexandria tổ chức lễ Phục sinh vào Chủ nhật sau ngày 14 của mặt trăng (được tính bằng chu kỳ Meton) rơi vào hoặc sau ngày xuân phân mà họ đặt vào ngày 21 tháng 3. Tuy nhiên, Giáo hội Rome vẫn coi ngày 25 tháng 3 là ngày phân (cho đến năm 342) và sử dụng một chu kỳ khác để tính ngày của mặt trăng. Trong hệ thống Alexandria, vì ngày 14 của Mặt trăng Phục sinh có thể rơi sớm nhất vào ngày 21 tháng 3 nên ngày đầu tiên của nó có thể rơi không sớm hơn ngày 8 tháng 3 và không muộn hơn ngày 5 tháng 4. Điều này có nghĩa là Lễ Phục sinh thay đổi từ ngày 22 tháng 3 đến ngày 25 tháng 4. Ở Rome, Lễ Phục sinh không được phép rơi muộn hơn ngày 21 tháng 4, đó là ngày Parilia hay ngày sinh nhật của Rome và là một lễ hội ngoại giáo. Ngày đầu tiên của Mặt trăng Phục sinh không thể rơi sớm hơn ngày 5 tháng 3 và không muộn hơn ngày 2 tháng 4 .;;;;;Nhật Bản là một xứ sở có phong cảnh được coi là một trong những nơi đẹp nhất thế giới, được đánh giá là một trong 10 đất nước tuyệt vời nhất trên thế giới (năm 2010) và cũng là đại diện châu Á duy nhất có mặt trong danh sách này với bốn mùa thay đổi rõ rệt: mùa xuân với hoa anh đào nở dần từ nam lên bắc, mùa hè cây cối xanh mướt, mùa thu lá phong (momiji) đỏ thắm từ bắc xuống nam, mùa đông tuyết trắng tinh khôi. Núi Phú Sĩ (Fujisan) là ngọn núi cao nhất Nhật Bản, nằm giữa đồng bằng, lại có tuyết bao phủ nơi phần đỉnh núi, là nguồn cảm hứng của rất nhiều văn sĩ và thi sĩ cũng như của các văn nghệ sĩ, trong đó có các nhiếp ảnh gia và họa sĩ khắp bốn phương.
question_32
Công ty nào đã đứng ra tài trợ cho giải Oscar lần thứ 86?
doc_32
Samsung cung cấp tài trợ cho lễ kỷ niệm Giải Oscar lần thứ 86 năm 2014, do việc sử dụng điện thoại thông minh Samsung Galaxy Note bởi chủ trì Ellen DeGeneres trong một bức ảnh tự sướng nhóm đã trở thành hiện tượng lan truyền trực tuyến, công ty quyên góp US$3 triệu cho hai nhà tổ chức từ thiện được lựa chọn bởi DeGeneres. Samsung chính thức giải thích: "... chúng tôi muốn đóng góp cho tổ chức từ thiện của Ellen lựa chọn: St Jude’ và Hội nhân đạo. Samsung sẽ quyên góp $1.5 triệu cho mỗi tổ chức."
doc_5512;;;;;doc_6459;;;;;doc_8248;;;;;doc_6006;;;;;doc_5258
Năm 1928, Laemmle, Sr. tặng con trai mình, Carl, Jr., người đứng đầu Universal Pictures như một món quà sinh nhật lần thứ 21. Universal đã nổi tiếng về chủ nghĩa gia đình trị - có thời điểm, 70 người trong số họ hàng của Carl, Sr. được cho là đã được trả lương. Nhiều người trong số họ là cháu trai, dẫn đến việc Carl, Sr. được mọi người khắp trường quay gọi là "Chú Carl." Ogden Nash đã châm biếm một cách nổi tiếng bằng vần điệu, "Chú Carl Laemmle/Có một gia đình rất lớn." Trong số những người thân này có đạo diễn/nhà sản xuất tương lai đoạt giải Oscar William Wyler.;;;;;Universal Studios Inc. (còn được gọi là Universal Pictures) là một hãng phim của Mỹ, thuộc sở hữu của Comcast thông qua công ty con NBCUniversal thuộc sở hữu hoàn toàn của nó, và là một trong những hãng phim "Big Six" của Hollywood. Xưởng sản xuất của nó đặt tại 100 Universal City Plaza Drive ở Universal City, California. Phân phối và các văn phòng công ty khác ở thành phố New York. Universal Studios là thành viên của Hiệp hội Điện ảnh Hoa Kỳ (MPAA). Universal được thành lập vào năm 1912 bởi Carl Laemmle người Đức (phát âm là "LEM-lee"), Mark Dintenfass, Charles O. Baumann, Adam Kessel, Pat Powers, William Swanson, David Horsley, Robert H. Cochrane và Jules Brulatour.;;;;;Hợp đồng tài trợ phim kéo dài nhiều năm của Universal với Elliott Management hết hạn vào năm 2013. Vào tháng 7 năm 2013, Universal đã đạt được thỏa thuận với Legendary Pictures để tiếp thị, đồng tài trợ và phân phối phim của Legendary trong 5 năm bắt đầu từ năm 2014, năm mà Legendary có thỏa thuận tương tự với Warner Bros. hết hạn.;;;;;Cái kết của Laemmles đến với một phiên bản xa hoa của Show Boat (1936), một phiên bản làm lại của tác phẩm bán phần nói năm 1929 trước đó và được sản xuất như một bộ phim chất lượng cao, kinh phí lớn thay vì dưới dạng phim B. Bộ phim mới có sự góp mặt của một số ngôi sao từ phiên bản sân khấu Broadway, bắt đầu được sản xuất vào cuối năm 1935, và không giống như bộ phim năm 1929 dựa trên vở nhạc kịch Broadway hơn là tiểu thuyết. Thói quen chi tiêu của Carl, Jr. khiến các cổ đông của công ty cảnh giác. Họ sẽ không cho phép bắt đầu sản xuất Show Boat trừ khi Laemmles nhận được một khoản vay. Universal buộc phải tìm kiếm khoản vay sản xuất trị giá 750.000 đô la từ Standard Capital Corporation, cam kết quyền lợi kiểm soát của gia đình Laemmle đối với Universal làm tài sản thế chấp. Đây là lần đầu tiên Universal vay tiền để sản xuất trong lịch sử 26 năm của mình. Quá trình sản xuất đã vượt quá ngân sách 300.000 USD; Standard đòi khoản vay, Universal thiếu tiền mặt không thể trả, Standard bị tịch thu tài sản và nắm quyền kiểm soát hãng phim vào ngày 2 tháng 4 năm 1936.;;;;;Matsushita cung cấp tiền mặt, nhưng sự xung đột giữa các nền văn hóa quá lớn để vượt qua, và 5 năm sau, Matsushita bán 80% cổ phần của MCA/Universal cho nhà phân phối đồ uống Seagram của Canada với giá 5,7 tỷ USD. Seagram đã bán bớt cổ phần của mình trong DuPont để tài trợ cho việc mở rộng sang ngành giải trí. Với hy vọng xây dựng một đế chế giải trí xung quanh Universal, Seagram đã mua PolyGram vào năm 1999 và các tài sản giải trí khác, nhưng lợi nhuận biến động đặc trưng của Hollywood không thể thay thế được nguồn thu nhập đáng tin cậy có được từ số cổ phần nắm giữ trước đây ở DuPont.
question_33
Theo tính toán của Hạ viện thì số tiền mà Mỹ chi tiêu cho chiến tranh là bao nhiêu?
doc_33
Chi phí chiến tranh của Hoa Kỳ do Hạ viện tính toán là $61,1 tỷ. Các nguồn khác ước tính lên tới $71 tỷ. Khoảng $53 tỷ trong số đó do các nước khác chi trả: $36 tỷ do Kuwait, Ả Rập Xê Út và các nước Vùng Vịnh khác; $16 tỷ bởi Đức và Nhật Bản (hai nước này không gửi lực lượng chiến đấu vì các điều khoản trong các hiệp ước chấm dứt Chiến tranh thế giới thứ hai). Khoảng 25% số đóng góp của Ả Rập Xê Út được thanh toán dưới hình thức các dịch vụ cung cấp cho lực lượng liên quân như thực phẩm và vận chuyển. Nhiều lý lẽ cho rằng Ả Rập Xê Út còn cung cấp cả gái mại dâm sau này đã được chứng minh là không chính xác.
doc_4474;;;;;doc_2435;;;;;doc_1806;;;;;doc_4421;;;;;doc_1711
Chi phí cho cuộc xâm lược của Pháp tăng hàng năm theo cấp số nhân. Năm 1945: 3 tỷ Franc; năm 1946: 27 tỷ Franc; năm 1947: 53 tỷ Franc; năm 1948: 89 tỷ Franc; năm 1949: 130 tỷ Franc; năm 1950: 201 tỷ Franc; năm 1951: 308 tỷ Franc; năm 1952: 535 tỷ Franc. Tổng cộng trong toàn bộ cuộc chiến, nước Pháp đã chi phí 3.370 tỷ Franc (vượt dự kiến 2.385 tỷ Franc), tương đương gần 60 tỷ USD theo thời giá 2008, (trung bình là 1 tỉ Franc/ngày), bằng 28% giá trị GDP của Pháp năm 1953. (từ năm 1950 trở đi, ngân sách Pháp đã không thể gánh được chiến phí và phải dựa phần lớn vào viện trợ của Mỹ). Chính phủ Pháp thay đổi 20 lần, trung bình mỗi chính phủ chỉ tồn tại 7 tháng (có chính phủ chỉ tồn tại trong 7 ngày). 7 lần cao uỷ Pháp bị triệu hồi, 8 tổng chỉ huy quân đội Pháp kế tiếp nhau bị thua trận. Đất nước Việt Nam, Lào, Campuchia cũng bị tàn phá bởi chiến tranh.;;;;;Đến cuối chiến tranh, gần 80% chiến phí chủ yếu của Pháp do Mỹ cung cấp, lên đến 1,5 tỷ USD. Cuối chiến tranh, người Mỹ trực tiếp chở khoảng 16 ngàn quân Pháp vào Điện Biên Phủ và hỗ trợ không quân cho quân Pháp. Tính đến tháng 1-1954, riêng về vũ khí và phương tiện chiến tranh, Mỹ đã viện trợ cho quân Pháp ở Đông Dương 360 máy bay, 1.400 xe tăng và xe bọc thép, 390 tàu chiến và tàu quân sự, 16.000 xe quân sự các loại, 175.000 súng trường và súng máy. Nhờ số lượng vũ khí viện trợ này mà người Pháp mới có thể duy trì được cuộc chiến.;;;;;Khi Tướng Park Chung-hee nắm quyền vào năm 1961, Hàn Quốc đã có một thu nhập bình quân đầu người ít hơn $ 80 USD mỗi năm. Trong thời gian đó, Hàn Quốc chủ yếu là phụ thuộc vào viện trợ nước ngoài, chủ yếu là từ Mỹ để đổi lấy sự tham gia của Hàn Quốc trong chiến tranh Việt Nam. Hàn Quốc đã cử khoảng 320.000 quân nhân sang tham chiến cùng Mỹ trong chiến tranh Việt Nam để đổi lấy những khoản viện trợ của Mỹ. Khoảng 5.000 lính Hàn Quốc đã chết và khoảng 11.000 lính khác bị thương tật trong cuộc chiến này. Đội quân này cũng gây ra một danh sách dài những tội ác chiến tranh, những vụ thảm sát thường dân Việt Nam khi tham chiến. Đổi lại, chính phủ Hoa Kỳ tài trợ mọi khoản chiến phí và trả tiền lương cho lính Hàn Quốc, tổng cộng khoảng 10 tỷ đôla Mĩ (tương đương 70 tỷ USD theo thời giá 2016). Số tiền được Mỹ chuyển thẳng cho chính phủ Hàn Quốc dưới hình thức trợ cấp, cho vay, chuyển giao công nghệ và ưu đãi thị trường;;;;;Những đóng góp chính của Hoa Kỳ cho nỗ lực chiến tranh của phe phe đồng minh gồm có tiền bạc, sản lượng công nghiệp, thực phẩm, dầu hỏa, phát minh kỹ thuật, và (đặc biệt từ năm 1944-1945) binh sĩ. Phần lớn sự tập trung của Washington là tăng tối đa sản lượng kinh tế quốc gia. Kết quả tổng thể là sự gia tăng ngoạn mục trong tổng sản lượng quốc gia, số lượng xuất khẩu khổng lồ hàng tiếp tế đến phe đồng minh và đến các lực lượng Mỹ ở ngoại quốc, kết thúc tình trạng thất nghiệp, và sự gia tăng tiêu thụ trong nước mặc dù 40% tổng sản lượng quốc gia đã được sử dụng cho nỗ lực chiến tranh. Điều này đạt được nhờ vào hàng chục triệu công nhân chuyển dịch từ các nghề nghiệp có năng suất thấp đến các việc làm hiệu quả cao, nhờ các cải tiến trong sản xuất dưới hệ thống quản lý và kỹ thuật tốt hơn, nhờ sự tham gia vào trong lực lượng lao động của các học sinh, người hồi hưu, phụ nữ nội trợ, và người thất nghiệp, và nhờ sự gia tăng số lượng giờ làm việc. Tất cả dốc sức. Các hoạt động vui chơi giải trí giảm mạnh. Mọi người không ngại làm thêm việc thêm giờ vì lòng yêu nước, vì tiền lương, và lòng tự tin rằng đây chỉ "là một khoản thời gian" và rồi cuộc sống sẽ trở về bình thường ngay sau khi chiến thắng cuộc chiến. Đa số hàng hóa lâu bền (durable goods) trở nên khan hiếm. Thịt, quần áo, và xăng bị hạn chế gắt gao. Tại các khu công nghiệp, nhà ở không đủ cung cấp vì số lượng người gia tăng gấp đôi và sống trong các khu chật hẹp. Giá và tiền lương bị kiểm soát. Người Mỹ tiết kiệm phần lớn tiền thu nhập của họ nên kinh tế tiếp tục phát triển sau chiến tranh thay vì quay về khủng hoảng.;;;;;Trong suốt giai đoạn chiến tranh thế giới của thế kỷ 20, Hoa Kỳ đã có những bước đi khôn ngoan hơn tất cả những quốc gia còn lại khi mà không có cuộc chiến nào của Chiến tranh thế giới thứ nhất (WWI) và một phần nhỏ của Chiến tranh thế giới thứ hai (WWII) xảy ra trên lãnh thổ Mỹ. Trong thời kỳ cao điểm của WWII, gần 40% GDP Hoa Kỳ đóng góp cho chiến tranh. Những quyết định về ngành sản xuất được phục vụ cho mục đích quân sự và gần như tất cả những yếu tố đầu vào được phân bổ cho nỗ lực chiến tranh. Nhiều loại hàng hoá được cố định phân phối, giá và tiền lương được kiểm soát và nhiều loại hàng hoá tiêu dùng lâu bền không còn được sản xuất. Một phần lớn lực lượng lao động được điều động vào quân đội, trả lương giảm một nửa và gần một nửa trong số này trở về với tình trạng bị thương.
question_34
Để vinh danh các nhà khoa học nổi tiếng trong thế kỷ XIX, Pháp đã làm gì?
doc_34
Thời kỳ Khai sáng có dấu ấn là công trình của nhà sinh vật học Buffon và nhà hoá học Lavoisier, là người phát hiện vai trò của ôxy trong sự cháy, còn Diderot và D'Alembert xuất bản Encyclopédie nhằm mục tiêu cung cấp có nhân dân lối tiếp cận "kiến thức hữu dụng", kiến thức mà họ có thể áp dụng trong sinh hoạt thường nhật của mình. Cùng với cách mạng công nghiệp, thế kỷ XIX chứng kiến bước phát triển khoa học ngoạn mục tại Pháp với các nhà khoa học như Augustin Fresnel sáng lập quang học hiện đại, Sadi Carnot đặt nền tảng cho nhiệt động lực học, và Louis Pasteur là nhà tiên phong về vi sinh vật học. Các nhà khoa học xuất sắc khác của Pháp trong thế kỷ XIX có tên được khắc trên Tháp Eiffel.
doc_2833;;;;;doc_4372;;;;;doc_5746;;;;;doc_2275;;;;;doc_3732
Từ thời Trung Cổ, Pháp đã là một nước có đóng góp lớn cho thành tựu khoa học và kỹ thuật. Khoảng đầu thế kỷ XI, Giáo hoàng Sylvestre II vốn là người Pháp đã giới thiệu lại bàn tính và hỗn thiên nghi, và giới thiệu chữ số Ả Rập cùng đồng hồ đến miền bắc và miền tây của châu Âu. Đại học Paris được thành lập vào giữa thế kỷ XII, và hiện vẫn là một trong các đại học quan trọng nhất của thế giới phương Tây. Trong thế kỷ XVII, nhà toán học René Descartes xác định một phương thức tiếp thu kiến thức khoa học, trong khi Blaise Pascal nổi tiếng với công trình về xác suất và cơ học chất lưu. Họ đều là các nhân vật chủ chốt trong cách mạng khoa học nở rộ tại châu Âu vào giai đoạn này. Louis XIV cho thành lập Viện Hàn lâm Khoa học Pháp nhằm khuyến khích và bảo hộ tinh thần nghiên cứu khoa học Pháp, đây là một trong các viện hàn lâm khoa học sớm nhất, và đi đầu trong phát triển khoa học tại châu Âu trong thế kỷ XVII và XVIII.;;;;;Các nhà khoa học Pháp nổi tiếng trong thế kỷ XX gồm có nhà toán học và vật lý học Henri Poincaré, các nhà vật lý học Henri Becquerel, Pierre và Marie Curie, nổi tiếng nhờ công trình của họ về phóng xạ, nhà vật lý học Paul Langevin và nhà vi-rút học Luc Montagnier cùng khám phá HIV/AIDS. Cấy ghép tay được phát triển vào năm 1998 tại Lyon bởi một nhóm tập hợp từ nhiều quốc gia, trong đó có Jean-Michel Dubernard, sau đó ông thực hiện ca cấy ghép hai tay thành công đầu tiên. Phẫu thuật từ xa do Jacques Marescaux và nhóm của ông phát triển vào năm 2001. Một ca cấy ghép mặt được thực hiện lần đầu vào năm 2005. Tính đến năm 2016[cập nhật], có 68 người Pháp từng thắng một giải thưởng Nobel và 12 người được nhận huy chương Fields.;;;;;Các nhà sử học Pháp theo truyền thống đặt thời kỳ Khai sáng vào khoảng thời gian từ năm 1715, năm Louis XIV qua đời và năm 1789, thời điểm bắt đầu Cách mạng Pháp. Một số nhà sử học gần đây bắt đầu thời kỳ này vào những năm 1620, với sự khởi đầu của cuộc cách mạng khoa học. Các nhà triết học, thuật ngữ tiếng Pháp để chỉ các nhà triết học thời đó, đã truyền bá rộng rãi ý tưởng của họ thông qua các cuộc họp tại các học viện khoa học, hội quán Tam điểm, các tiệm văn học và quán cà phê, cũng như qua sách in và sách nhỏ. Những ý tưởng của thời kỳ Khai sáng đã làm suy yếu quyền lực của chế độ quân chủ và nhà thờ, đồng thời mở đường cho các cuộc cách mạng trong thế kỷ 18 và 19. Một loạt các phong trào thế kỷ 19, bao gồm chủ nghĩa tự do và chủ nghĩa tân cổ điển, có dấu vết di sản trí tuệ của họ từ thời Khai sáng.;;;;;Louis XVI tích cực giúp đỡ người Mỹ khi họ tìm cách độc lập khỏi Anh (đạt được trong Hiệp định Paris (1783)). Khủng hoảng tài chính sau khi Pháp can dự vào Cách mạng Mỹ là một trong các yếu tố góp phần dẫn đến Cách mạng Pháp. Phần lớn phong trào Khai sáng diễn ra trong giới trí thức Pháp, các nhà khoa học Pháp đạt được nhiều đột phá cùng phát minh lớn về khoa học như phát hiện ôxy (1778) và khí cầu nóng chở khách đầu tiên (1783). Các nhà thám hiểm Pháp như Bougainville và Lapérouse tham gia các hành trình khám phá khoa học thông qua thám hiểm hàng hải khắp thế giới. Triết học Khai sáng làm xói mòn quyền lực và sự ủng hộ dành cho chế độ quân chủ, giúp mở đường cho Cách mạng Pháp.;;;;;Trong lịch sử của mình, Paris là nơi sản sinh và được tìm đến của rất nhiều nhân vật nổi tiếng cũng như các trào lưu tư tưởng, nghệ thuật. Vào thế kỷ 18, Paris là trung tâm của triết học Khai sáng với những Rousseau, Voltaire. Tới thế kỷ 19, các nhà văn vĩ đại của Pháp như Alexandre Dumas, Honoré de Balzac, Victor Hugo đều tìm tới Paris. Và cùng với đó là các tên tuổi đến từ nước ngoài như Chopin, Van Gogh, Heine. Cuối thế kỷ 19, thành phố trở thành thủ đô của hội họa, với các trường phái Ấn tượng, Hậu ấn tượng. Sang thế kỷ 20, Paris tiếp tục là trung tâm văn hóa của cả thế giới, là nơi sản sinh các nhà văn Marcel Proust, André Gide... và là điểm đến của Pablo Picasso, Marc Chagall, Henri Matisse, James Joyce, Ernest Hemingway, Albert Camus, Beckett. Một số nhà khoa học, chính trị gia quan trọng của thế kỷ 20 như Marie Curie, Chu Ân Lai, Hồ Chí Minh... cùng từng sống và học tập ở Paris.
question_35
Hồ Quý Ly và Đỗ Tử Bình đã làm gì khi vua Trần Duệ Tông đã tử trận?
doc_35
Năm 1370, các hoàng tử con vua Minh Tông lật đổ Dương Nhật Lễ (xem phần "Thời kỳ suy tàn" bên dưới) lập Trần Nghệ Tông. Mẹ Nhật Lễ chạy sang Chiêm Thành xui vua Chiêm đánh Đại Việt. Lúc đó thế lực nhà Trần suy yếu, Chiêm Thành có ý khởi binh đánh đòi lại hai châu đã mất. Đến đời vua Trần Duệ Tông, vua Chiêm Thành là Chế Bồng Nga quấy rối biên giới, vua Duệ Tông sai Đỗ Tử Bình đem quân trấn giữ Hóa Châu. Bồng Nga đem 10 mâm vàng dâng lên. Tử Bình ỉm đi, cướp làm của mình, nối dối là Bồng Nga ngạo mạn vô lễ, nên đem quân đánh. Duệ Tông giận lắm, quyết ý thân chinh. Cuối năm 1376, quân Trần xuất phát. Năm 1377, quân Trần chiếm cửa Thị Nại (Quy Nhơn ngày nay) rồi tiến đánh kinh thành là Đồ Bàn. Lúc đó Chế Bồng Nga, một ông vua có tài thao lược, dùng kế dụ quân Trần vào ổ mai phục đánh tan. Vua Trần Duệ Tông bị tử trận, Hồ Quý Ly, Đỗ Tử Bình rút quân bỏ chạy về nước. Thừa thắng xông lên, Chế Bồng Nga nhiều lần mang quân sang đánh phá Đại Việt, Hồ Quý Ly nhiều lần bị bại trận, quân Chiêm ba lần chiếm được kinh thành Thăng Long, vua tôi nhà Trần phải bỏ thành chạy. Quân Chiêm cướp phá kinh thành rồi rút về. Đỗ Tử Bình chỉ bị đồ làm lính 1 năm rồi sau đó lại được nhấc lên địa vị cao hơn.
doc_640;;;;;doc_4241;;;;;doc_606;;;;;doc_3071;;;;;doc_131
Tháng 11 năm 1372, Trần Nghệ Tông xuống chiếu nhường ngôi cho em là Trần Kính, tức là Trần Duệ Tông, còn bản thân lên làm Thái thượng hoàng. Trần Duệ Tông là con của Đôn Từ thái phi, cũng là cô của Lê Quý Ly. Trần Duệ Tông lấy Lê Quý Ly làm Tham mưu quân sự. Năm 1376, vua Chiêm là Chế Bồng Nga lại mang quân xâm lấn. Duệ Tông sai Đỗ Tử Bình đi đánh. Chế Bồng Nga sợ hãi, xin dâng 10 mâm vàng tạ tội. Tử Bình giấu vàng đi, lại tâu về triều rằng vua Chiêm kiêu ngạo không thần phục. Duệ Tông quyết định thân chinh đi đánh. Tháng 12 năm 1376, Duệ Tông cầm 12 vạn quân đánh Chiêm Thành. Tháng giêng năm 1377, quân Đại Việt tiến vào cửa Thi Nại (Quy Nhơn), đánh lấy đồn Thạch Kiều rồi tiến tới kinh thành Đồ Bàn nước Chiêm. Quân Việt bị quân Chiêm phục kích, Duệ Tông tử trận. Lê Quý Ly bấy giờ đang đốc thúc quân tải lương, được tin Duệ Tông tử trận, sợ hãi, bỏ chạy về trước.;;;;;Thời niên thiếu Hồ Quý Ly theo học võ, gia nhập chốn quan trường triều Trần sau khi đỗ thi Hương, khoa Hoành từ. Hồ Quý Ly có hai người cô ruột là vợ của vua Trần Minh Tông, một người sinh ra vua Trần Nghệ Tông, người khác sinh ra Trần Duệ Tông, do đó ông được sự tín nhiệm khi Trần Nghệ Tông lên làm vua. Năm 1372 ông được phong làm Tham mưu quân sự, đến năm 1380, Hồ Quý Ly làm Thống lĩnh quân Đại Việt để chống lại các đợt tấn công của Chiêm Thành. Năm 1387, ông được phong làm Tể tướng. Từ đó ông có quyền lực gần như tuyệt đối trong triều, các tông tộc, quan lại trung thành với họ Trần đã có 2 lần chính biến nhằm lật đổ sự thống trị của Quý Ly nhưng ông đều giành chiến thắng và đã có nhiều người bị hành quyết sau đó.;;;;;Năm 1384, nhà Minh đánh vùng Vân Nam, sai người sang Đại Việt đòi lương thực cấp cho quân lính ở Lâm An. Nhà Trần đồng ý cấp lương thực, các quan sai đi nhiều người nhiễm bệnh mà chết. Đến năm 1385, 1386, nhà Minh lại đòi cấp tăng nhân, các giống hoa quả, lại sai bọn Cẩm Y Vệ sang mượn đường đánh Chiêm Thành, đòi 50 con voi. Quan tư đồ, Chương túc Quốc thượng hầu Trần Nguyên Đán xin về trí sĩ ở Côn Sơn, đem con là Mộng Dữ gửi gắm cho Quý Ly. Quý Ly đem công chúa Hoàng Trung gả cho Mộng Dữ. Lúc này Hồ Quý Ly nắm quyền hành lớn, các tôn thất và quan lại tỏ ra lo lắng. Năm 1387, Hồ Quý Ly được thăng làm Đồng bình chương sự, Thượng hoàng ban cho một thanh gươm, một lá cờ đề tám chữ Văn võ toàn tài, quân thần đồng đức, Quý Ly làm một bài thơ cảm tạ.;;;;;Đầu năm 1380, vua Chăm Pa phát quân đánh vào Thanh Hóa, Nghệ An. Tháng 3 năm đó, Lê Quý Ly được lệnh thống lĩnh quân thủy, Đỗ Tử Bình chỉ huy quân bộ đi vào Thanh Hóa để chống giữ. Quý Ly đem quân đến sông Ngu (nay là sông Lạch Trường ở huyện Hoằng Hóa tỉnh Thanh Hóa), ra lệnh cho binh sĩ đóc cọc gỗ ở giữa lòng sông. Tháng 5 cùng năm, Quý Ly dẫn viên tướng chỉ huy quân Thần Vũ là Nguyễn Kim Ngao và tướng chỉ huy quân Thị vệ là Đỗ Dã Kha ra đánh. Kim Ngao quay thuyền trở lại để tránh mũi nhọn của giặc. Quý Ly chém Ngao để thị uy trước ba quân, rồi ra lệnh quân sĩ nổi trống hò reo mà tiến. Vua Chiêm Chế Bồng Nga chống cự không được, phải rút chạỵ về nam. Kể từ đó Đỗ Tử Bình cáo ốm, không giữ binh quyền nữa. Chỉ có Quý Ly giữ chức Nguyên Nhung hành Hải Tây đô thống chế.;;;;;Năm 1400, Hồ Quý Ly chiếm ngôi nhà Trần, đặt quốc hiệu là Đại Ngu, chưa được một năm trao ngôi cho con và làm Thái thượng hoàng nhưng vẫn nắm đại quyền. Hồ Quý Ly đã có những sự thay đổi về hành chính, kinh tế, quân sự và đã chuyển kinh đô từ Thăng Long về Thanh Hóa. Mười tháng sau khi lên ngôi, ông đã phát binh thảo phạt Chiêm Thành, qua hai lần phát binh, chiếm được hai châu Đại Chiêm và Cổ Lũy (1402). Năm sau (1403) ông còn cho đại quân bao vây Đồ Bàn nhưng không thắng. Đến năm 1406, nhà Minh đưa quân xâm lược Đại Ngu, quân Đại Ngu thất bại nhanh chóng, lui dần về phía nam và thất bại toàn cục năm 1407 khi cha con Hồ Quý Ly đều bị quân Minh bắt và giải về Trung Quốc.
question_36
Ai đã đem nước về cho Alexandros và binh lính?
doc_36
Vào năm 330 trước Công Nguyên, nhà vua viếng thăm lăng mộ của Cyrus Đại Đế. Ông luôn muốn mình được làm vị vua kế tục đích thực của Cyrus Đại Đế năm xưa. Rồi cũng đến lúc phải truy tìm Darius. Sau khi vượt qua 400 dặm trong 11 ngày đường, Alexandros và binh lính của ông gần chết khát. Một số quân do thám người Macedonia đã đem về một ít túi nước từ một dòng sông cách đó khá xa và mang cho Alexandros một chiếc mũ đầy nước. Mặc dù miệng khô đến mức sắp nghẹt thở, Alexandros cũng từ chối và nói:
doc_1167;;;;;doc_2722;;;;;doc_1134;;;;;doc_3243;;;;;doc_4157
Vua Darius vội vã rút quân ra khỏi Issus khi nhận thấy địa hình gồ ghề khiến kị binh trở nên vô dụng và quân đội của ông ta bị chia tách, còn quân Hy Lạp giành được lợi thế. Nhưng trước khi Darius thoát được cái bẫy của chính mình thì Alexandros đã đến nơi. Alexandros tự mình chỉ huy cánh phải nghiền nát cánh trái của quân Ba Tư. Trong trận này quân Ba tư mất tới 11 vạn người. Còn Darius tháo chạy khỏi trận đánh trong hoảng loạn bỏ lại vợ là Stateira I, hai con gái, mẹ già, và phần lớn của cải cá nhân. Sisygambis, mẹ của hoàng hậu, không bao giờ tha thứ Darius đã bỏ rơi con gái bà. Bà chối bỏ Darius, và Alexandros đã cưới được một con gái của Darius III là Stateira II. Tiến xuống bờ biển Địa Trung Hải, ông lấy được Týros và Gaza sau những trận vây hãm nổi tiếng (xem Vây hãm Týros). Alexandros đi ngang qua gần đó nhưng có lẽ không ghé vào Jerusalem. Một ngày kia, Alexandros bị tụt lại sau đạo quân của mình vì người thầy cũ của chàng là Lysimachos không theo kịp. Đêm đến, Alexandros thấy mình đang ở trong một tình thế nguy hiểm. Khi đó chàng đã đi quá xa đoàn quân và không có lửa để chống lại cái lạnh. Chàng phát hiện có vài lửa trại của kẻ thù gần đó, chạy đến đống lửa gần nhất và giết chết 2 tên lính rồi mang lửa về cho các chiến binh của mình. Đó là tính cách điển hình của Alexandros: luôn cổ vũ những chiến binh bằng hành động và sẵn sàng đương đầu với hiểm nguy.;;;;;Vào năm 332 TCN – 331 TCN, Alexandros Đại Đế được chào đón như là người giải phóng ở xứ Ai Cập và được công nhận là con trai của Zeus bởi các tu sỹ Ai Cập thờ thần Ammon tại Đền thờ thần ở Ốc đảo Siwa trong sa mạc ở Libya. Từ đó trở về sau, Alexandros nhắc đến thần Zeus-Ammon như là cha thật sự của mình, và sau đó đồng tiền có hình ông với sừng cừu như là chứng minh cho niềm tin phổ biến này. Ông thành lập thành phố Alexandria ở Ai Cập, sau đó trở thành một kinh đô phồn vinh của Triều đại Ptolemy sau khi ông qua đời. Trong lúc đó, Darius III không phải là mối bận tâm duy nhất của ông: có hung tin báo rằng tình hình Âu Châu đang nằm trong rối loạn, do vua xứ Sparta Agis III đã thân hành cầm đầu một liên quân chống Macedonia và đánh tan nát quân Macedonia của quan Tổng đốc quân sự vùng Peloponnesus là Corrhagus. Cuối cùng, Hộ quốc công Antipatros hành binh về thành phố Megalopolis và chiếm lại được thành này sau một trận càn khốc liệt: 3.500 chiến binh Macedonia phải ngã xuống, bên cạnh thi thể của họ là xác của 5.300 tên địch, trong đó có cả Agis III. Cuộc chiến này tuy diễn ra đột ngột, nhưng nó kết thúc trước khi Alexandros Đại Đế đánh thắng quân Ba Tư thêm một trận nữa. Khi tin chiến thắng được báo đến tai ông, Alexandros Đại Đế chẳng vui mừng gì vì ông nghĩ đây là một chiến thắng chẳng có gì nổi bật:;;;;;Cuối cùng thì vua cha Philipos giảng hòa với con trai, và Alexandros quay trở lại nhà; Olympias và em gái của ông vẫn ở lại xứ Epirus. Vào năm 338 TCN, trên lưng con thần mã Bucephalus, Alexandros giúp vua cha trong trận quyết định Trận đánh Chaeronea chống lại các thành phố Hy Lạp tự trị Athena và Thebes, cánh do đội kỵ binh dẫn đầu bởi Alexandros đã tiêu diệt Đội thần binh Thebes - một lực lượng tinh nhuệ được xem là bất khả chiến bại. Sau trận đánh, Philipos tổ chức ăn mừng trọng thể, và đáng để ý là Alexandros không tham dự (người ta tin rằng ông đang chăm sóc thương binh và chôn cất liệt sĩ, của Quân đội Macedonia và của kẻ thù). Chiến thắng này đã làm Philipos yêu quý con trai đến mức ông thích nghe các chiến binh gọi Philipos là vị tướng còn Alexandros mới là vị vua của họ. Philipos bằng lòng tước quyền thống trị của Thebes đối với Boeotia và để lại một đội quân đồn trú trong thành. Một vài tháng sau, để gia cố sự thống trị của Macedonia đối với các thành phố Hy Lạp tự trị, Hiệp hội Corinth được thành lập.;;;;;Năm kế tiếp, (335 TCN), Alexandros cảm thấy tự do tiến đánh Thracia và Illyria để bảo vệ sông Danube như là biên giới phương bắc của Vương quốc Macedonia. Trong khi ông đang chinh phạt phía bắc một cách thắng lợi, người Thebes và Athena lại nổi dậy một lần nữa. Alexandros phản ứng lập tức và trong khi các thành phố khác lại một lần nữa do dự, Thebes lần này quyết định chống trả cật lực nhất. Sự chống trả là vô ích; cuối cùng, thành phố bị chinh phục với nhiều máu đổ. Người Thebes chịu số phận thê thảm hơn khi thành phố bị đốt trụi và lãnh thổ bị chia ra giữa các thành phố Boeotian khác. Hơn nữa, tất cả các công dân của thành phố bị bán thành nô lệ, chỉ chừa lại các thầy tu, các lãnh tụ của các đảng ủng hộ Macedonia và hậu duệ của Pindar - nhà của người này không bị đụng chạm đến. Kết cục của xứ Thebes làm Athena sợ hãi mà đầu hàng và sẵn sàng chấp nhận yêu sách của Alexandros cho lưu đày các lãnh tụ của phe cánh chống lại Macedonia, Demosthenes là người đầu tiên. Người ta không biết thái độ ôn hòa sau đó của Alexandros đối với người Athena là do lòng thương hại của chàng đối với sự tàn bạo dành cho Thebes hay đơn giản chỉ vì sự khát máu của chàng đã được thỏa mãn. Nhưng kể từ đó, Alexandros luôn đối xử tử tế đối với bất cứ người Thebes nào sống sót mà chàng gặp.;;;;;Chiến dịch ba năm của Alexandros ban đầu là chống lại Darius và sau đó là các satrap (thống đốc) của các vùng Sogdiana, Spitamenes, đã đưa ông qua các vùng Media, Parthia, Aria, Drangiana, Arachosia, Bactria và Scythia. Trong quá trình đó, ông chiếm được và tái thiết lập Herat và Maracanda. Hơn nữa, ông lập ra một chuỗi các thành phố mới, tất cả đều gọi là Alexandria, bao gồm cả Kandahar ngày nay ở Afghanistan, và Alexandria Eschate ("Xa nhất") ở vùng nay là Tajikistan. Vào năm 329 TCN, Spitamenes làm phản Bessus (không rõ Spitamenes giữ chức vụ gì ở tỉnh Sogdiana?). Spitamenes nộp Bessus cho Ptolemaios, một trong những cận tướng của vua Alexandros Đại Đế, và Bessus bị hành quyết.. Alexandros cho quân dừng lại tại Parthia. Đây là lần đầu tiên Alexandros khoác những bộ quần áo của người châu Á rồi trò chuyện với họ. Hy vọng bằng cách này ông sẽ lôi kéo họ theo mình. Nhưng sau đó ông vẫn giữ nguyên trang phục này khi đứng trước đội quân của mình. Điều này làm các chiến binh tức giận nhưng rồi họ cũng chiều theo tính lập dị của vị thủ lĩnh dũng cảm.
question_37
Tình hình dân số tại Đông Đức trong suốt giai đoạn tồn tại của nó là như thế nào?
doc_37
Dân số Đông Đức giảm đều đặn trong suốt thời kỳ tồn tại của nó, từ 19 triệu người năm 1948 xuống còn 16 triệu năm 1990. Khoảng 4 triệu người trong dân số năm 1948 là những người Đức bị trục xuất từ các khu vực phía đông giới tuyến Oder-Neisse. Chủ yếu đây là hậu quả của sự di cư – khoảng một phần tư người Đông Đức đã rời bò đất nước trước khi Bức tường Berlin được hoàn thành năm 1961, và sau thời điểm đó, Đông Đức có tỷ lệ sinh rất thấp. Điều này trái ngược với Ba Lan, có dân số trong giai đoạn đó tăng từ 24 triệu năm 1950 (hơi lớn hơn Đông Đức) lên 38 triệu (gấp đôi dân số Đông Đức).
doc_751;;;;;doc_3346;;;;;doc_2436;;;;;doc_3488;;;;;doc_4802
Cộng hòa Dân chủ Đức (tiếng Đức: Deutsche Demokratische Republik, DDR; thường được gọi là Đông Đức) là một quốc gia nay không còn nữa, tồn tại từ 1949 đến 1990 theo định hướng xã hội chủ nghĩa tại phần phía đông nước Đức ngày nay. Cộng hòa Dân chủ Đức được thành lập tại vùng quản lý của Quân đội Xô-viết tại Đức ngày 7 tháng 10 năm 1949, sau khi Nhà nước Cộng hòa Liên bang Đức (Tây Đức) ra đời tại phần phía tây trong khu vực do Pháp, Anh và Hoa Kỳ quản lý. Đông Berlin là thủ đô của Cộng hòa Dân chủ Đức.;;;;;Theo điều tra nhân khẩu năm 2011, dân số Đức là 80,2 triệu, và tăng lên 81,5 triệu theo ước tính ngày 30 tháng 6 năm 2015 và lên đến ít nhất là 81,9 triệu vào ngày 31 tháng 12 năm 2015, Đức là quốc gia đông dân nhất trong Liên minh châu Âu, và có dân số đông thứ nhì tại châu Âu sau Nga, và là quốc gia đông dân thứ 16 trên thế giới. Tuổi thọ dự kiến khi sinh tại Đức là 80,19 năm (77,93 năm với nam giới và 82,58 năm với nữ giới). Tỷ suất sinh là 1,41 trẻ em với mỗi phụ nữ (ước tính năm 2011), hay 8,33‰, một trong các mức thấp nhất trên thế giới. Kể từ thập niên 1970, tỷ lệ tử vong của Đức đã vượt tỷ lệ sinh. Tuy nhiên, Đức đang chứng kiến tỷ lệ sinh và tỷ lệ nhập cư gia tăng bắt đầu trong thập niên 2010, đặc biệt là tăng số lượng người nhập cư có học thức.;;;;;Đông Đức là một quốc gia thuộc Khối phía Đông, nắm dưới quyền kiểm soát chính trị và quân sự của Liên Xô thông qua lực lượng chiếm đóng và Khối Warszawa. Mặc dù Đông Đức tự nhận là một quốc gia dân chủ, song quyền lực chính trị do các thành viên Bộ chính trị của Đảng Xã hội chủ nghĩa Thống nhất Đức độc quyền thi hành, được hỗ trợ từ cơ quan an ninh mật Stasi. Một nền kinh tế chỉ huy theo kiểu Liên Xô được lập nên và Đông Đức trở thành một quốc gia thuộc Hội đồng Tương trợ Kinh tế SEV. Tuyên truyền của Đông Đức dựa trên quyền lợi của các chương trình xã hội do chính phủ thực hiện, và liên tục cáo buộc mối đe dọa về Tây Đức xâm chiếm, song nhiều công dân của Đông Đức nhìn nhận phương Tây đại diện cho tự do và thịnh vượng. Bức tường Berlin được xây dựng vào năm 1961 ngằm ngăn người Đông Đức đào thoát sang Tây Đức, nó trở thành một tượng trưng cho Chiến tranh Lạnh. Sự kiện bức tường này sụp đổ vào năm 1989 trở thành một tượng trưng cho chủ nghĩa cộng sản sụp đổ, tái thống nhất Đức và bước ngoặt tại Đông Đức (Die Wende).;;;;;Sau gần nửa thế kỷ theo đuổi XHCN, khi sắp sáp nhập vào Tây Đức, ở thời điểm 1989, GDP của Đông Đức đạt 159,5 tỷ USD (thời giá 1989) so với 945,7 tỷ USD của Tây Đức, trong khi dân số Đông Đức bằng khoảng 1/4 so với Tây Đức (16 triệu so với 63 triệu), tức là tính theo thu nhập bình quân đầu người thì Đông Đức bằng khoảng 64% so với Tây Đức (9.679 USD so với 15.300 USD, thời giá 1989). Tiếp theo sự sụp đổ của Bức tường Berlin ngày 9 tháng 11 năm 1989, Đảng Xã hội chủ nghĩa thống nhất Đức mất đi đa số ủng hộ của người dân trong Quốc hội tại cuộc bầu cử ngày 18 tháng 3 năm 1990. Ngày 23 tháng 8 cùng năm, Quốc hội Đông Đức quyết định rằng lãnh thổ quốc gia này sẽ được đặt dưới hệ thống pháp luật của Cộng hòa Liên bang Đức kể từ ngày 3 tháng 10 năm 1990. Kết quả của sự sáp nhập này, Cộng hòa Dân chủ Đức chính thức chấm dứt sự tồn tại của nó.;;;;;Từ khi Đông Đức được thành lập, người Đông Đức chạy sang Tây Đức ngày càng nhiều. Bắt đầu từ năm 1952 biên giới giữa hai nước Đức được bảo vệ bằng hàng rào và có lực lượng canh phòng. Một khu vực cấm dọc theo biên giới có chiều ngang 5 km được thành lập, người dân chỉ được phép đi vào khi có giấy phép đặc biệt – thông thường là chỉ cho những người dân cư trong vùng. Về hướng biên giới là một giải đất bảo vệ rộng 500 m và tiếp theo ngay sau đó, trực tiếp cạnh biên giới, là một giải đất canh phòng có chiều ngang 10 m. Ngược lại, ranh giới của các khu vực chiếm đóng giữa Tây Berlin và Đông Berlin lại vẫn còn bỏ ngỏ, vì thế mà gần như không thể kiểm soát được và trở thành một lỗ hổng để người dân chạy qua Tây Berlin. Từ 1949 cho đến 1961 khoảng 2,6 triệu người đã rời bỏ Đông Đức và Đông Berlin, trong số đó vẫn còn 47.433 người chạy trốn chỉ riêng trong hai tuần đầu của tháng 8 năm 1961. Ngoài ra Tây Berlin cũng là cửa ngỏ đi đến phương Tây cho nhiều người Ba Lan và Tiệp Khắc. Vì những người này thường là những người trẻ tuổi và được đào tạo tốt nên việc di dân này là mối đe dọa cho sức mạnh kinh tế của Đông Đức và cuối cùng là cho sự tồn tại của quốc gia này.
question_38
Khi nào thì Lãnh thổ Yukon được thiết lập?
doc_38
Thủ tướng John A. Macdonald và chính phủ Bảo thủ của ông lập ra một chính sách quốc gia về thuế quan nhằm bảo hộ các ngành công nghiệp chế tạo còn non trẻ của Canada. Để khai thông phía Tây, chính phủ tài trợ việc xây dựng ba tuyến đường sắt xuyên lục địa, mở cửa các thảo nguyên cho hoạt động định cư theo Đạo luật Thổ địa Lãnh thổ tự trị, và thiết lập Kị cảnh Tây-Bắc để khẳng định quyền lực trên lãnh thổ này. Năm 1898, trong Cơn sốt vàng Klondike tại các Lãnh thổ Tây Bắc, chính phủ Canada lập ra Lãnh thổ Yukon. Dưới thời Chính phủ Tự do của Thủ tướng Wilfrid Laurier, những người nhập cư đến từ lục địa châu Âu đến định cư trên các thảo nguyên, rồi Alberta và Saskatchewan trở thành các tỉnh vào năm 1905.
doc_524;;;;;doc_4521;;;;;doc_3259;;;;;doc_1277;;;;;doc_4558
Nhiều dân tộc Thổ dân cư trú tại lãnh thổ nay là Canada trong hàng thiên niên kỷ. Bắt đầu từ cuối thế kỷ XV, người Anh và người Pháp thành lập các thuộc địa trên vùng duyên hải Đại Tây Dương của khu vực. Sau các xung đột khác nhau, Anh Quốc giành được rồi để mất nhiều lãnh thổ tại Bắc Mỹ, và đến cuối thế kỷ XVIII thì còn lại lãnh thổ chủ yếu thuộc Canada ngày nay. Căn cứ theo Đạo luật Bắc Mỹ thuộc Anh vào ngày 1 tháng 7 năm 1867, ba thuộc địa hợp thành thuộc địa liên bang tự trị Canada. Sau đó thuộc địa tự trị dần sáp nhập thêm các tỉnh và lãnh thổ. Năm 1931, theo Quy chế Westminster 1931, Anh Quốc trao cho Canada tình trạng độc lập hoàn toàn trên hầu hết các vấn đề. Các quan hệ cuối cùng giữa hai bên bị đoạn tuyệt vào năm 1982 theo Đạo luật Canada 1982.;;;;;Các nghiên cứu khảo cổ chỉ ra rằng đã có người định cư tại Nhật Bản từ thời Thượng kỳ đồ đá cũ. Những ghi chép đầu tiên đề cập đến quốc gia này nằm trong các thư liệu lịch sử Trung Hoa có từ thế kỷ thứ nhất Công Nguyên. Thoạt đầu chịu ảnh hưởng từ các vùng đất khác, chủ yếu là Đế quốc Trung Quốc, tiếp đến là giai đoạn tự cách ly, về sau thoát khỏi sự chi phối của thế giới phương Tây, đã hình thành những nét đặc trưng trong lịch sử và văn hóa Nhật Bản. Từ thế kỷ XII đến năm 1868, Nhật Bản liên tục thuộc quyền cai trị của các quân nhân phong kiến shogun nhân danh Thiên hoàng. Quốc gia này bước vào quá trình cô lập kéo dài suốt nửa đầu thế kỷ XVII, và chỉ kết thúc vào năm 1853 khi một hạm đội của Hoa Kỳ gây áp lực buộc Nhật Bản phải mở cửa với phương Tây. Gần hai thập kỷ nội chiến và bạo loạn đã xảy ra trước khi Thiên hoàng Minh Trị tái thiết lại đất nước trong vai trò nguyên thủ vào năm 1868 và khai sinh Đế quốc Nhật Bản, với Thiên hoàng trở thành biểu tượng thiêng liêng của dân tộc. Trong những năm cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, những thắng lợi sau chiến tranh Thanh-Nhật, chiến tranh Nga-Nhật và Chiến tranh thế giới thứ nhất đã cho phép Nhật Bản mở rộng đế chế của mình và củng cố quyền lực của chủ nghĩa quân phiệt. Cuộc chiến tranh Trung-Nhật năm 1937 đã nhanh chóng lan rộng thành một phần của Chiến tranh thế giới thứ hai từ năm 1941, mà cuối cùng kết thúc vào năm 1945 sau vụ ném bom nguyên tử xuống Hiroshima và Nagasaki. Từ thời điểm bản Hiến pháp mới được ban hành năm 1947, Nhật Bản duy trì chế độ quân chủ lập hiến kết hợp dân chủ đại nghị, trong đó cơ quan lập pháp dân cử là Quốc hội Nhật Bản.;;;;;Tháng 2 năm 1945, Hội nghị Yalta quy định về Liên Xô tham gia Chiến tranh Thái Bình Dương. Một trong số các điều kiện của Liên Xô tại hội nghị Yalta là sau chiến tranh Ngoại Mông duy trì độc lập. Một cuộc trưng cầu dân ý diễn ra vào ngày 20 tháng 10 năm 1945, theo số liệu chính thức 100% cử tri bỏ phiếu cho độc lập. Sau khi nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa thành lập, họ và Mông Cổ xác nhận công nhận lẫn nhau vào ngày 6 tháng 10 năm 1949. Đến khi Chia rẽ Trung-Xô phát triển trong thập niên 1960, Mông Cổ liên kết vững chắc với Liên Xô. Năm 1960, Mông Cổ giành được ghế thành viên tại Liên Hiệp Quốc sau khi nhiều nỗ lực trước đó thất bại do Hoa Kỳ và Trung Hoa Dân Quốc tại Đài Loan phủ quyết.;;;;;Tại Hội nghị Yalta vào tháng 2 năm 1945, lãnh đạo Liên Xô Joseph Stalin kêu gọi lập "các vùng đệm" tại châu Á và châu Âu. Stalin tin rằng Liên Xô phải có tiếng nói quyết định tại Trung Quốc và để đổi lại Liên Xô sẽ tham chiến chống Nhật Bản "hai hoặc ba tuần sau khi Đức đầu hàng." Ngày 6 tháng 8 năm 1945, Liên Xô tuyên chiến với Đế quốc Nhật Bản và vào ngày 8 tháng 8 bắt đầu tấn công phía bắc Bán đảo Triều Tiên. Như đã thỏa thuận với Mỹ, Liên Xô dừng quân lại ở vĩ tuyến 38 độ bắc. Quân đội Hoa Kỳ ở phần phía nam của bán đảo đầu tháng 9 năm 1945. Nhiều người Triều Tiên đã tổ chức chính trị trước khi quân đội Hoa Kỳ đến.;;;;;Ngày 4 tháng 7 năm 1776, Đệ nhị Quốc hội Lục địa họp tại thành phố Philadelphia tuyên bố nền độc lập của "Hợp chúng quốc châu Mỹ" bằng bản Tuyên ngôn Độc lập. Ngày 4 tháng 7 được chào mừng như là ngày quốc khánh. Quốc gia mới được thành lập trên cơ sở các ý tưởng khai sáng của chủ nghĩa tự do mà theo Thomas Jefferson được gọi là các quyền không thể chuyển nhượng được đó là "sống, tự do và mưu cầu hạnh phúc" và quốc gia này cống hiến mạnh mẽ cho các nguyên lý cộng hòa. Chủ nghĩa cộng hòa nhấn mạnh rằng nhân dân có chủ quyền (chứ không phải là các quốc vương thế tập), đòi hỏi quyền công dân, lánh xa tham nhũng, và bác bỏ chế độ quý tộc.
question_39
Nơi nào diễn ra tiệc ăn mừng của Surena cùng toàn quân?
doc_39
Thất bại của Crassus tại Carrhae là một trong những thất bại quân sự tồi tệ nhất trong lịch sử quân sự của La Mã. Chiến thắng của Parthia đã củng cố danh tiếng của nó như là một đối trọng hùng mạnh cân bằng quyền lực với La Mã Cùng những sĩ quan tuỳ tùng, những tù binh và chiến lợi phẩm La Mã quý giá, Surena đã quay về Seleucia cách đó khoảng 700 km (430 mi) để ăn mừng chiến thắng ở đó. Tuy nhiên, do lo sợ rằng Surena có tham vọng một ngày nào đó sẽ cướp ngôi nhà Arsaces, Orodes đã hành quyết Surena chẳng bao lâu sau chiến thắng này.
doc_3054;;;;;doc_5198;;;;;doc_1309;;;;;doc_1135;;;;;doc_3825
Surena, với một đội quân hoàn toàn là kị binh, tiến quân đến để chống trả Crassus Surena có 1.000 cataphract, trang bị thương, và 9.000 kị cung ít hơn với tỉ lệ khoảng 4-1 so với của quân đội Crassus, bao gồm bảy quân đoàn La Mã và quân trợ chiến bao gồm kị binh người Gaul và bộ binh nhẹ. Họ sử dụng chiến thuật phát bắn của người Parthia, bằng cách sẽ giả vờ rút lui và chỉ quay người trở lại để bắn vào đối thủ của họ. Chiến thuật này, kết hợp với việc sử dụng loại cung tên hỗn hợp nặng trên đồng bằng phẳng đã đánh tan tác bộ binh của Crassus Với khoảng 20.000 người La Mã chết. Khoảng 10.000 bị bắt, và khoảng 10.000 người khác trốn thóat về phía tây, Crassus bỏ chạy vào vùng nông thôn của Armenia. Ở vị trí đứng đầu quân đội của mình, Surena tiếp cận Crassus, cho phép một cuộc thương lượng, mà Crassus chấp nhận. Tuy nhiên, ông đã thiệt mạng khi một trong những sĩ quan cấp dưới của mình, nghi ngờ đây là một cái bẫy, đã cố gắng ngăn chặn ông ta khi đi vào trại của Surena.;;;;;Lễ kỷ niệm Kim cương của bà vào năm 2012 đánh dấu 60 năm trị vì của bà và các lễ kỷ niệm được tổ chức trên khắp vương quốc của bà, Khối thịnh vượng chung rộng lớn hơn và hơn thế nữa. Trong một thông điệp được đưa ra vào Ngày gia nhập, cô nói: "Trong năm đặc biệt này, khi tôi cống hiến hết mình cho sự phục vụ của các bạn, tôi hy vọng tất cả chúng ta sẽ được nhắc nhở về sức mạnh của sự đoàn kết và sức mạnh đoàn kết của gia đình, tình bạn và tình láng giềng tốt đẹp. .. Tôi cũng hy vọng rằng Năm Thánh này sẽ là thời gian để tạ ơn vì những tiến bộ to lớn đã đạt được kể từ năm 1952 và nhìn về tương lai với cái đầu sáng suốt và trái tim ấm áp”. Cô và chồng đã thực hiện một chuyến du lịch rộng khắp Vương quốc Anh, trong khi các con và cháu của cô thay mặt cô thực hiện các chuyến du lịch hoàng gia đến các bang thuộc Khối thịnh vượng chung khác. Vào ngày 4 tháng 6, đèn hiệu Năm Thánh được thắp sáng trên khắp thế giới. Vào ngày 18 tháng 12, bà trở thành nữ hoàng đầu tiên của Anh tham dự cuộc họp Nội các thời bình kể từ George III năm 1781.;;;;;Hai người kết hôn ở Boulogne ngày 25 tháng 1. Edward tặng cho Isabella một sách thánh thi làm quà cưới, và cha bà cho bà những món quà trị giá tổng cộng hơn 21,000 livre và một mảnh bội tinh thực. Họ trở về Anh quốc vào tháng 2, nơi Edward hạ lệnh trùng tu một cách hoang phí cho Cung điện Westminster để tổ chức lễ đăng qua và đám cưới của họ, đủ bàn đá cẩm thạnh, 40 cái lò và một cái vòi phun rượu vang và ớt Gia-mai-ca, một thức uống gia vị thời Trung Cổ. Sau một số chậm trễ, buổi lễ diễn ra ngày 25 tháng 2, dưới sự chủ trì của Robert Winchelsey, Tổng Giám mục Canterbury. Như một phần của lễ đăng quang, Edward đã thề sẽ suy trì "những điều luật hợp pháp và phong tục mà người dân của vương quốc đã lựa chọn". Không chắc chắn về nghĩa của những lời này: nó có thể là những dự định nhằm buộc Edward chấp nhận những điều luật trong tương lai, cũng có thể nó được đưa ra để việc ngăn chặn việc nếu trong tương lại ông đảo lộn bất cứ thề nguyện nào mà ông từng thề, hoặc cũng có thể là một nỗ lực của Nhà vua nhằm lấy lòng các nam tước.[nb 11] Sự kiện bị phá hỏng bởi đám đông lớn quần chúng đang háo hức đổ xô vào cung điện, làm đổ một bức tường và buộc Edward phải chạy trốn bằng cửa sau.;;;;;Trước đó, trong cuộc diễu hành chiến thắng đi qua khắp thành phố ngay vào ngày trước lễ đăng quang, Elizabeth được thần dân hết lòng chào đón với những bài diễn văn cùng những lễ hội tung hô tân vương, hầu hết diễn ra theo khuynh hướng Kháng Cách. Sự duyên dáng và thái độ cởi mở của Elizabeth làm thần dân càng thêm yêu mến bà. Hôm sau, tại Điện Westminster, Owen Oglethorpe, Giám mục Carlise, đội vương miện cho Elizabeth. Lễ đăng quang được xem như là một sự kiện thể hiện sự đồng thuận của thần dân, trong âm thanh ồn ả của các loại nhạc cụ như đàn organ, sáo, kèn, trống, và chuông.;;;;;Năm 1744, Hà Lan trở thành chiến trường chính, và tình hình chiến tranh có chút chuyển biến tốt cho phía Pháp. Friedrich Đại đế quyết định tái ủng hộ Pháp. Louis XV rời Versailles và thân chinh dẫn quân đến Hà Lan, tướng chỉ huy quân Pháp là Nguyên soái Maurice de Saxe, người gốc Đức. Tại Trận Fontenoy ngày 11 tháng 5 năm 1745, Louis, dẫn theo Thái tử, giành chiến thắng trước liên quân Anh, Hà Lan và Áo. Khi Thái tử xúc động vì nhìn thấy máu những người lính chết, nhà vua bảo, "Mày nên biết rằng chiến thắng nào cũng có giá của nó. Máu của kẻ thù vẫn là máu con người. Chiến thắng chân chính cần phải giảm thiểu điều đó." Saxe thắng trận tiếp theo tại Rocoux (1746) và Lauffeld (1747). Năm 1746, quân Pháp bao vây và chiếm lấy Brussels, và Louis ca khải hoàn vào thành. Nhà vua ban cho de Saxe Lâu đài de Chambord ở thung lũng Loire để tưởng thưởng.
question_40
Tính tình cư dân ở Montréal như thế nào?
doc_40
Tuy có nhiều nhà thờ nhưng dân Montréal sống rất phóng khoáng, ít bảo thủ - mức độ sinh sản và số người sùng đạo càng ngày càng giảm kể từ thập niên 1960. Trái lại, họ thích hội hè, yêu chuộng âm nhạc, văn nghệ, phim ảnh, thể thao và các trao đổi văn hóa quốc tế. Năm 1967 Montréal là địa điểm tổ chức Triển lãm Quốc tế (Expos '67), một triển lãm thành công nhất trong lịch sử; đến năm 1976 Montréal lại tổ chức Thế vận hội mùa hè 1976, một Thế vận hội quá tốn kém đưa đến một sự lỗ lã nhất trong lịch sử của phong trào Thế vận hội. Mỗi mùa xuân, vào ngày Thánh bổn mạng của Ireland (Ngày St. Patrick), Montréal tổ chức một đám rước cho vị thánh này, to thứ nhì trên thế giới (sau New York). Điểm đặc biệt là đám rước này mất hẳn tính chất tôn giáo và biến thành một trình diễn văn hóa cộng đồng - ngay cả cộng đồng Phật giáo Tây Tạng cũng có đại diện trong đám rước này.
doc_3185;;;;;doc_4194;;;;;doc_2927;;;;;doc_5066;;;;;doc_4354
Đảo Montréal vốn là đất của thổ dân Algonquin, Huron và Iroquois từ hàng ngàn năm trước khi người Pháp đến thám hiểm Bắc Mỹ vào đầu thế kỷ 16 (Jacques Cartier - 1535; Samuel de Champlain - 1608). Đến 1642 các nhà truyền giáo Paul de Chomedey de Maisonneuve và Jeanne Mance lập ra một làng nằm trong phạm vi của Montréal ngày nay. Làng đó được đặt tên là Ville-Marie và càng ngày càng mở rộng nhờ vào sự trao đổi giữa người Pháp định cư và dân bản xứ. Đa số dân của Ville-Marie là người Pháp nhưng sau khi Hầu tước Vaudreuil (Pierre Francois de Rigaud) trao thành Ville-Marie cho Đế quốc Anh vào 1760, các dân di cư từ Anh, Ireland, Scotland và những nơi khác ở Âu Châu cũng đến lập nghiệp tại đây. Montréal chính thức trở thành một thành phố vào năm 1832. Từ thập niên 1860 đến thập niên 1930 là thời kỳ huy hoàng nhất của Montréal; nhiều người cho rằng thời kỳ này kéo dài đến cuối thập niên 1970, trước khi các kỹ nghệ, thương mại và dân nói tiếng Anh dọn đi Toronto.;;;;;Sang đến mùa hè thì Montréal lúc nào cũng có ít nhất một hội hè. Trong khi các thành phố khác chỉ có một, Montréal có 3 liên hoan phim diễn ra hàng năm, trong đó Liên hoan phim thế giới Montréal (Festival du Film International de Montréal) - đứng thứ ba sau Liên hoan phim Cannes và Liên hoan phim quốc tế Toronto - là quan trọng nhất. Đại hội nhạc Jazz Montréal (Montreal Jazz Festival) - một trong hàng chục các nhạc hội khác - thu hút hàng trăm ngàn người mỗi năm. Ngày Canada Day là một ngày mọi người nghỉ ngơi nhưng ngày Thánh bổn mạng của Québec (St. Jean Bapstiste) lại là một dịp để mọi người vui chơi, nhất là ở những khu đông dân nói tiếng Pháp. Francopholie là một dịp để các nhạc sĩ, nghệ sĩ nói tiếng Pháp trên toàn thế giới đến khoe tài tại Montréal. Triển lãm nghệ thuật pháo bông quốc tế (với nhạc) diễn ra hàng tuần trong tháng 7 và tháng 8. Montréal cũng là một địa điểm của loại đua xe nhanh nhất và tốn tiền nhất trên thế giới: Formula One. Hàng năm cả trăm ngàn người trên khắp thế giới kéo nhau đến Montréal để xem các tay lái thượng thặng đua tài với tốc độ hơn 300 km/giờ. Hầu như không có tay khôi hài nào ở Bắc Mỹ không tham dự Juste pour rire/Just For Laugh diễn ra vào tháng 8 hàng năm tại Montréal. Trong các hội hè của các dân định cư thì Tuần lễ của Ý và ngày Độc lập của Hy Lạp là hai lễ hội to nhất.;;;;;Trước 1975, cộng đồng người Việt ở Montréal chỉ độ 100 người, đa số là sinh viên du học. Sau đó, nhất là từ 1975 đến 1985, Montréal là nơi tiếp nhận người Việt nhiều nhất tại Canada. Thống kê dân số năm 2001 tính được 25.605 cư dân gốc Việt đông thứ nhì sau cộng đồng người Việt tại Toronto. So với dân địa phương, người Việt ở Montreal có học vấn cao (14,5%: 28,3% có bằng đại học). Một số đáng kể hoạt động trong ngành y khoa (10,4% so với 5,5% dân bản xứ). Cộng đồng người Việt tại Montréal được cho là đã sát nhập một cách rất hòa đồng với đời sống và dân bản xứ.;;;;;Montréal nằm ở phía tây-nam của Thành phố Québec - thủ phủ của tỉnh bang - khoảng 200 km, và độ 150 km về phía đông của Ottawa - thủ đô của Canada. Toàn thể thành phố chính và các khu vực ngoại ô phụ cận nằm trên một hòn đảo lớn ở giữa sông Saint-Laurent (tiếng Anh: Saint Lawrence). Tổng cộng diện tích của đảo Montréal và các đảo nhỏ hơn xung quanh Montréal khoảng 500 km². Đối diện, qua phía bắc của sông, là Laval - thành phố đông dân thứ nhì của Québec và các thị trấn nhỏ hơn; qua phía nam của sông là Longeuil, Brossard, Saint-Hubert,...;;;;;Tuy vậy, Montréal vẫn còn là một thành phố quan trọng của Bắc Mỹ, nếu không muốn nói là của thế giới, về thương mại, kỹ nghệ, đầu tư, chính trị, du lịch và nhất là về các hoạt động văn hóa. Montréal là hải cảng chính nối liền Ngũ Đại Hồ với Đại Tây Dương. Dưới ảnh hưởng của hai nền văn hóa Anh và văn hóa Pháp, cộng thêm vào đó là dân cư nói nhiều thứ tiếng, Montréal trở thành một cái gạch nối tự nhiên giữa châu Âu và Bắc Mỹ. Montréal còn giữ được rất nhiều kiến trúc cổ từ thế kỷ 18, thế kỷ 19 cho đến những trụ sở thương mại của đầu thế kỷ 20 và những cao ốc trụ sở kinh doanh xây vào thập niên 1950, thập niên 1960. Khu Montréal Cổ (tiếng Pháp: Vieux Montréal, tiếng Anh: Old Montreal) vẫn còn nhiều con đường đá và nhiều di tích cũ của thị trấn Ville-Marie ngày xưa. Montréal có một hệ thống xe điện ngầm (Métro) nối liền với các hệ thống xe lửa và xe buýt - ngay cả sang hai thành phố bên kia bờ sông của Montréal (Laval và Longeuil) bằng cách đào đường hầm dưới sông Saint-Laurent. Hầu hết các cơ sở thương mại, trường đại học, cơ quan chính phủ và các cao ốc tại trung tâm của thành phố đều được nối với nhau bằng đường hầm. Ảnh hưởng của tôn giáo, nhất là của Giáo hội Công giáo La Mã, thể hiện qua hàng trăm các nhà thờ to nhỏ khác nhau của Montréal. To, đẹp và quan trọng nhất là các thánh đường sau đây:
question_41
Năm bắt đầu của lịch sử Cuba là vào năm nào?
doc_41
Theo văn tịch thì lịch sử Cuba bắt đầu ngày 28 tháng 10 năm 1492, khi Colombo nhận diện đảo này trong chuyến đi thứ nhất của ông và tuyên bố chủ quyền nhân danh triều đình Tây Ban Nha. (Điều này vẫn còn chưa chắc chắn và là một vấn đề chưa ngã ngũ.) Hòn đảo này trước đó đã được thổ dân châu Mỹ, bộ tộc Taíno và Ciboney xuất xứ từ Nam Mỹ nhiều thế kỷ trước đến lập nghiệp. Người Taíno và người Ciboney (cũng được viết là Siboney các quốc gia Taino mới) đều là những cư dân biết trồng cấy cùng săn bắn-hái lượm; có thuyết cho rằng kỹ thuật đồ đồng đã khá phát triển dựa trên số di vật phát hiện được trong các di chỉ Taino.
doc_1396;;;;;doc_1233;;;;;doc_1759;;;;;doc_2903;;;;;doc_2701
Bờ biển Cuba được Sebastián de Ocampo vẽ bản đồ đầy đủ vào năm 1511, và cũng trong năm ấy thôn ấp của nhóm di dân Tây Ban Nha đầu tiên đến lập nghiệp được Diego Velázquez de Cuéllar khai sáng tại Baracoa. Các thị trấn khác như La Habana (thành lập năm 1515) nhanh chóng mọc lên. Người Tây Ban Nha, như họ đã hành động trên khắp châu Mỹ, đàn áp và bắt làm nô lệ gần 100.000 người bản xứ chống việc cải đạo theo Công giáo trên đảo. Trong một thế kỷ vì chính sách lao động cưỡng bức, diệt chủng cộng với những ảnh hưởng từ các dịch bệnh được đem tới từ châu Âu hầu như các yếu tố quốc gia trên hòn đảo đã biến mất, dù một số khía cạnh di sản bản xứ vẫn còn lại một phần qua sự gia tăng đáng kể của số người Mestizo. Với sự phá hủy xã hội bản xứ, những người định cư bắt đầu khai thác những nô lệ châu Phi, họ đã có khả năng chống chịu tốt hơn với các loại bệnh dịch từ thế giới cũ, và nhanh chóng chiếm một phần đáng kể dân số.;;;;;Cuba độc lập nhanh chóng phải đối mặt với những khó khăn do sự tranh giành bè phái và tình trạng tham nhũng trong giới trí thức lãnh đạo và sự lực của chính phủ trong việc giải quyết các vấn đề xã hội sâu sắc hậu quả của chế độ thực dân Tây Ban Nha. Năm 1906, sau cuộc bầu cử lựa chọn người kế tục Estrada Palma gây nhiều tranh cãi, một cuộc nổi dậy vũ trang bùng phát và Hoa Kỳ đã thực hiện quyền can thiệp của minh. Đất nước này được đặt dưới quyền kiểm soát của Mỹ và một vị Thống đốc, Charles Edward Magoon, nhận trách nhiệm quản lý trong ba năm. Thời kỳ cầm quyền của Magoon tại Cuba bị nhiều nhà sử học nước này coi là không thành công, họ cho rằng tình trạng tham nhũng của chính quyền Magoon còn trầm trọng hơn trước đó. Năm 1908 chính phủ tự quản được tái lập khi José Miguel Gómez được bầu làm tổng thống, nhưng Hoa Kỳ vẫn giữ quyền giám sát các công việc của Cuba. Tuy nhiên, dù những cuộc phản đối bất tuân lệnh chính phủ vẫn diễn ra, chính phủ lập hiến vẫn tồn tại cho tới năm 1925, khi Gerardo Machado y Morales, đã được bầu làm tổng thống, tạm ngưng hiệu lực của hiến pháp. Machado là một người Cuba theo đường lối quốc gia và chế độ của ông được sự ủng hộ rộng rãi của người dân trong nước dù chính phủ vẫn thường sử dụng bạo lực đàn áp sự chỉ trích. Trong thời kỳ cầm quyền của ông, người dân Cuba có quyền kiểm soát rộng rãi hơn với nền kinh tế của họ và các dự án phát triển quốc gia lớn được triển khai. Quyền lực của ông giảm sút sau cuộc Đại Suy thoái, khiến giá các mặt hàng xuất khẩu của Cuba giảm mạnh gây tình trạng nghèo đói khắp nước. Tháng 8 năm 1933, các nhóm trong quân đội Cuba tổ chức một cuộc đảo chính hạ bệ Machado và đưa Carlos Manuel de Céspedes, con trai người sáng lập nhà nước Cuba lên làm Tổng thống. Tuy nhiên, vào tháng 9 một cuộc đảo chính thứ hai do Fulgencio Batista lãnh đạo lật đổ Céspedes dẫn tới sự hình thành chính phủ Ramón Grau San Martín thứ nhất. Chính phủ này chỉ tồn tại 100 ngày nhưng đã đặt những cơ sở cho những thay đổi tự do căn bản của xã hội Cuba và sự khước từ Tu chính Platt.;;;;;Cuba thuộc quyền sở hữu của người Tây Ban Nha trong 388 năm, được cai trị bởi một vị Toàn quyền tại La Habana, với một nền kinh tế dựa trên trồng trọt nông nghiệp và xuất khẩu đường, cà phê và thuốc lá tới Châu Âu và sau này là tới Bắc Mỹ. Nước này bị Anh Quốc chiếm năm 1762, nhưng quay trở lại dưới quyền Tây Ban Nha vào năm sau. Dân số Tây Ban Nha đã tăng mạnh sau khi người định cư Tây Ban Nha rời Haiti khi lãnh thổ này được nhượng lại cho Pháp. Tương tự như tại các vùng khác của Đế chế Tây Ban Nha, một giới chủ đất giàu có với dòng máu Tây Ban Nha nắm quyền kinh tế và xã hội, tiếp đó là giới bình dân tiểu điền chủ người lai, pha trộn (Mestizo), giới lao động và những nô lệ da đen nguồn gốc châu Phi.;;;;;Theodore Roosevelt, người đã chiến đấu trong cuộc Chiến tranh Tây Ban Nha-Mỹ và có một số tình cảm với phong trào độc lập, kế tục McKinley trở thành Tổng thống Hoa Kỳ năm 1901 và bãi bỏ đề xuất bảo hộ 20 năm. Thay vào đó, Cộng hòa Cuba chính thức được độc lập ngày 20 tháng 5 năm 1902, và vị lãnh đạo cuộc kháng chiến đòi độc lập Tomás Estrada Palma trở thành tổng thống đầu tiên của đất nước. Tuy nhiên, theo hiến pháp mới của Cuba, Hoa Kỳ giữ quyền can thiệp vào các công việc của Cuba và giám sát tài chính cũng như quan hệ ngoại giao của nước này. Theo Tu chính Platt, Cuba cũng đồng ý cho Hoa Kỳ thuê căn cứ hải quân tại Vịnh Guantánamo. Cuba ngày nay không tổ chức lễ kỷ niệm ngày 20 tháng 5 là ngày độc lập, mà là ngày 10 tháng 10, ngày lần đầu tuyên ngôn độc lập được công bố và ngày Castro cùng đội quân của mình tiến vào La Habana, 1 tháng 1 năm 1959 là ngày "thắng lợi cách mạng".;;;;;Sau cuộc Nội chiến Mỹ với thắng lợi của phương Bắc góp phần chấm dứt nỗi lo sáp nhập của phái ủng hộ chế độ nô lệ, làn sóng đòi độc lập tại Cuba xuất hiện trở lại, dẫn tới một cuộc nổi dậy năm 1868 do Carlos Manuel de Céspedes, một luật sư và chủ đất giàu có từ tỉnh Oriente, người đã trả tự do cho các nô lệ của mình, lãnh đạo. Ông tuyên chiến và được phong là Tổng thống Cộng hòa Cuba. Sự kiện này đã dẫn đến một cuộc xung đột kéo dài được gọi là cuộc Chiến tranh Mười Năm giữa các lực lượng ủng hộ độc lập và Quân đội Tây Ban Nha, với đồng minh là những kẻ phản đối độc lập người địa phương. Người Mỹ đồng tình với mong muốn độc lập của Cuba, nhưng Hoa Kỳ không can thiệp quân sự hay thậm chí là công nhận tính hợp pháp của chính phủ Cuba, dù nhiều quốc gia châu Âu và Mỹ Latinh đã làm như vậy. Năm 1878, Hòa bình Zanjon chấm dứt cuộc xung đột, với lời hứa của Tây Ban Nha trao quyền tự trị rộng rãi hơn cho Cuba.
question_42
Ai là người kế nhiệm của Grau?
doc_42
Năm 1948, Carlos Prío Socarrás lên thay Grau, ông này từng là bộ trưởng lao động trong chính quyền trước và đặc biệt bị những người Cộng sản căm ghét. Prío ít tư tưởng tự do hơn Grau và dưới thời cầm quyền của ông tình trạng tham nhũng đa gia tăng đáng kể. Điều này một phần có nguyên nhân ở sự phục hồi sức mạnh của Hoa Kỳ thời hậu chiến và dòng tiền cờ bạc đổ vào La Habana, vốn đã trở thành một thiên đường cho các hoạt động của mafia. Quả thực Prío đã tiến hành nhiều cải cách lớn như thành lập Ngân hàng Quốc gia và ổn định đồng tiền tệ Cuba. Dòng vốn từ Bắc Mỹ đã trở thành nhiên liệu cho cuộc bùng nổ kinh tế, làm tăng mức sống của nhân dân và tạo ra một tầng lớp trung lưu khá giả tại hầu hết các vùng đô thị, dù hố ngăn cách giữa người giàu và người nghèo trở nên rộng hơn và rõ ràng hơn.
doc_3345;;;;;doc_289;;;;;doc_5619;;;;;doc_9492;;;;;doc_3672
Với sự hỗ trợ của các liên đoàn lao động do những người Cộng sản kiểm soát, Batista được bầu làm Tổng thống và chính quyền của ông đã tiến hành các cải cách xã hội rộng lớn cũng như đưa ra một bản hiến pháp mới tiến bộ hơn. Nhiều thành viên của Đảng Cộng sản giữ các chức vụ trong chính quyền này. Chính quyền Batista chính thức đưa Cuba tham gia Chiến tranh thế giới thứ hai với tư cách đồng minh của Mỹ, tuyên chiến với Đế quốc Nhật Bản ngày 9 tháng 12 năm 1941, sau đó với Đức Quốc Xã và phát xít Ý ngày 11 tháng 12 năm 1941; Tuy nhiên, Cuba không tham gia nhiều về mặt quân sự vào các cuộc xung đột trong Thế Chiến II. Vào cuối nhiệm kỳ của mình năm 1944, theo hiến pháp Batista lùi bước và Ramón Grau được bầu làm người kế tục ông. Grau tăng chi tiêu chính phủ cho y tế, giáo dục và nhà cửa. Phái tự do của Grau đối lập với những người Cộng sản và Batista phản đối hầu hết các chương trình của Grau.;;;;;Bất bình với thất bại của Rocard trong việc thực hiện các chương trình xã hội, Mitterrand bãi chức Rocard năm 1991 và chỉ định Edith Cresson thay thế ông. Bà là người phụ nữ đầu tiên làm Thủ tướng Pháp, nhưng đã bị buộc phải từ chức sau thảm hoạ của cuộc bầu cử cấp vùng năm 1992. Người kế nhiệm bà Pierre Bérégovoy hứa hẹn chiến đấu chống nạn thất nghiệp và tham nhũng nhưng ông không thể ngăn được thất bại cay đắng của phái Tả trong cuộc bầu cử lập pháp năm 1993. Ông tự sát ngày 1 tháng 5 năm 1993.;;;;;Jerry Kurz cũng từ chức ủy viên AFL khi ông được thăng chức làm chủ tịch đầu tiên của AFL. Cựu Giám đốc điều hành Foxwoods Scott Butera được thuê làm người kế nhiệm ông với tư cách là ủy viên.;;;;;Người Arians không còn thể hiện một mặt trận liên tục trước các đối thủ chính thống của họ nữa. Hoàng đế Constantius, người từng gây ra biết bao rắc rối, qua đời ngày 4 tháng 11 năm 361 và Julian kế vị. Lời tuyên bố về việc hoàng tử mới lên ngôi là tín hiệu cho một cuộc bùng phát ngoại giáo chống lại phe Arian vẫn thống trị ở Alexandria. George, Bishop soán ngôi, bị tống vào tù và bị sát hại. Một vị trưởng lão ít người biết đến tên là Pistus ngay lập tức được người Arians chọn để kế vị ông, khi có tin tức mới khiến đảng chính thống tràn đầy hy vọng. Một sắc lệnh đã được Julian đưa ra cho phép các giám mục bị lưu đày của "người Galilê" trở về "các thị trấn và tỉnh" của họ. Athanasius nhận được lời triệu tập từ chính đàn chiên của mình, và theo đó ông trở lại thủ đô giám mục của mình vào ngày 22 tháng 2 năm 362.;;;;;Ngày 2 tháng 8, sau khi từ chối cải sang Công giáo, Kepler và gia đình bị trục xuất khỏi Graz. Vài tháng sau, Kepler đưa cả gia đình tới Praha. Trong suốt năm 1601, ông được Tycho hỗ trợ trực tiếp, giao cho ông việc phân tích các quan sát về hành tinh và viết một đoản luận chống lại Ursus (đã quá cố). Vào tháng 9, Tycho đảm bảo cho ông một vị trí cộng tác viên trong một dự án mới mà ông đề xuất với hoàng đế: Bảng Rudolf thay thế cho danh mục sao trước đây của Erasmus Reinhold. Hai ngày sau cái chết đột ngột của Tycho vào ngày 24 tháng 10 năm 1601, Kepler được bổ nhiệm làm người kế nhiệm ở vị trí nhà toán học hoàng gia với trách nhiệm hoàn thành những công trình dang dở của Tycho. Đã có những giả thiết rằng Kepler đầu độc Tycho để hưởng lợi nhưng một nghiên cứu khai quật tử thi xác nhận rằng đó là đột tử do suy thận. 11 năm làm nhà thiên văn hoàng gia từ đó sẽ là những năm nghiên cứu sôi nổi nhất cuộc đời ông.
question_43
Độ dài công lộ mà cả nước đã có đến năm 1928 là bao nhiêu?
doc_43
Năm 1928, Bộ Giao thông khởi thảo kế hoạch công lộ toàn quốc, lấy Lan Châu làm trung tâm công lộ, phân công lộ toàn quốc thành ba loại là quốc đạo, tỉnh đạo, huyện đạo, dự kiến hoàn thành trong 10 năm. Năm 1928, toàn quốc tổng cộng có 29.127 km công lộ. Chính phủ Quốc dân đưa xây dựng công lộ vào hàng chính yếu trong xây dựng kinh tế quốc gia. Tháng 5 năm 1932, Ban trù bị Ủy ban Kinh tế toàn quốc nhận nhiệm vụ giám sát xây dựng công lộ liên kết ba tỉnh Giang Tô, Chiết Giang, An Huy. Đến cuối tháng 6 năm 1936, các tỉnh hoàn thành công lộ liên kết tổng cộng dài hơn 21.000 km, trên 30.000 km công lộ có thể qua lại. Từ năm 1935 đến năm 1936, xây dựng công lộ Tây An-Lan Châu ước tính dài 700 km, công lộ Bảo Kê-Hán Trung dài hơn 250 km, công lộ Hán Trung-Thất Bàn Quan dài hơn 150 km. Đến cuối năm 1936, toàn quốc tổng cộng có 108.117 km công lộ, mạng lưới công lộ Trung Quốc hoàn thành về cơ bản. Trước khi bùng phát chiến tranh kháng Nhật, Chính phủ Quốc dân xây dựng được tám mươi nghìn km công lộ, tạo điều kiện cho kinh tế Trung Quốc phát triển.
doc_4728;;;;;doc_2912;;;;;doc_869;;;;;doc_1502;;;;;doc_2344
Kể từ cuối thập niên 1990, mạng lưới đường bộ quốc gia của Trung Quốc được mở rộng đáng kể thông qua thiết lập một mạng lưới quốc đạo và công lộ cao tốc. Năm 2011, các quốc đạo của Trung Quốc đạt tổng chiều dài 85.000 km (53.000 mi), trở thành hệ thống công lộ dài nhất trên thế giới. Trung Quốc sở hữu thị trường lớn nhất thế giới đối với ô tô, vượt qua Hoa Kỳ về cả bán và sản xuất ô tô. Số xe bán được trong năm 2009 vượt quá 13,6 triệu và dự đoán đạt 40 triệu vào năm 2020. Trong các khu vực đô thị, xe đạp vẫn là một phương tiện giao thông phổ biến, tính đến năm 2012, có khoảng 470 triệu xe đạp tại Trung Quốc.;;;;;Hệ thống đường bộ của Malaysia trải dài 98.721 kilômét (61.342 mi) và có 1.821 kilômét (1.132 mi) đường cao tốc. Xa lộ dài nhất Malaysia là xa lộ Nam-Bắc với chiều dài trên 800 kilômét (497 mi) từ biên giới với Thái Lan đến biên giới với Singapore. Hệ thống đường bộ tại Đông Malaysia kém phát triển hơn và có chất lượng thấp hơn so với Malaysia bán đảo. Malaysia có 118 sân bay, trong đó 38 có đường băng được lát. Hãng hàng không quốc gia chính thức là Malaysia Airlines, cung cấp dịch vụ hàng không quốc tế và quốc nội. Hệ thống đường sắt do nhà nước vận hành, có tổng chiều dài 1.849 kilômét (1.149 mi). Các hệ thống đường sắt nhẹ trên cao có giá tương đối rẻ và được sử dụng tại một số thành phố như Kuala Lumpur.;;;;;Toàn tỉnh hiện có 2.086 km đường giao thông. Trong đó, đường do trung ương quản lý dài 224,38 km, chiếm 10,75%; đường do tỉnh quản lý dài 254,95 km, chiếm 12,21%; đường do huyện quản lý dài 327,47 km, chiếm 15,69% và đường do xã quản lý dài 1.566,97 km, chiếm 75%. Chất lượng đường bộ: Ðường cấp phối, đường đá dăm dài 399,52 km chiếm 19,14%; đường nhựa dài 362,77 km, chiếm 17,38% còn lại là đường đất. Tất cả các xã đã có đường ô tô đến tận trung tâm xã. Hiện nay, Nha Trang đang có 6 tuyến xe buýt phục vụ công cộng.;;;;;Công ty Đường sắt Chính phủ Síp đã ngừng hoạt động ngày 31 tháng 12 năm 1951, các phương thức vận tải khác là đường bộ, đường sắt và đường không. Trong số 10.663 km (6.626 mi) đường bộ tại vùng Síp Hy Lạp năm 1998, 6.249 km (3.883 mi) được trải nhựa, và 4.414 km (2.743 mi) không trải nhựa. Ở thời điểm năm 1996 vùng Síp Thổ Nhĩ Kỳ có tỷ lệ đường trải nhựa và không trải nhựa tương tự, với xấp xỉ 1.370 km (850 mi) đường trải nhựa và 980 km (610 mi) chưa trải nhựa. Síp là một trong bốn quốc gia Liên minh châu Âu duy nhất theo đó các phương tiện lưu thông theo phía bên trái đường, một tàn tích của sự thuộc địa hoá Anh, các quốc gia kia là Ireland, Malta và Anh Quốc.;;;;;Ước pháp Lâm thời năm 1912 có quy định trong Điều 3 rằng lãnh thổ quốc gia gồm 22 tỉnh, Nội-Ngoại Mông Cổ, Tây Tạng, Thanh Hải. Ước pháp thời kỳ huấn chính năm 1931 có quy định trong điều 1 rằng lãnh thổ quốc gia gồm các tỉnh cùng với Mông Cổ và Tây Tạng. Trong Hiến pháp năm 1947 tại Điều 4 có quy định "lãnh thổ Trung Hoa Dân Quốc căn cứ theo cương vực cố hữu của mình", song không định nghĩa rõ phạm vi. Có thuyết nhận định, Trung Hoa Dân Quốc thời kỳ Đại lục có tổng diện tích là 11.418.194 km², là nước lớn thứ hai trên lục địa thế giới, cương vực xa đến đỉnh Sayan tại Tannu Uriankhai ở phía bắc; phía đông đến nơi hợp lưu của Hắc Long Giang và Ô Tô Lý Giang; phía nam đến vùng biển bãi ngầm Tăng Mẫu và Lập Địa thuộc Nam Sa; phía tây đến sông Panj thuộc Cao nguyên Pamir.
question_44
Tình trạng hiện tại ngân quỹ của Edward được đánh giá như thế nào?
doc_44
Trong chuyến trở về từ nước Pháp, Edward nhận thấy địa vị chính trị của ông đã được tăng cường đáng kể. Sau các cuộc đàm phán căng thẳng, các bá tước, bao gồm Lancaster và Warwick, đi đến một thỏa hiệp vào tháng 10 năm 1313, cơ bản là rất giống với bản dự luật thỏa thuận vào tháng 12 năm trước. Tài chính của Edward được cải thiện, nhờ vào việc Nghị viện đồng ý tăng thuế, một khoản vay 160,000 florin (25,000 bảng) từ đức Giáo hoàng, 33,000 bảng ông mượn của Philippe, và các khoản vay mượn thêm bởi giám đốc ngân hàng mới của Edward ở Italia, Antonio Pessagno. Lần đầu tiên trong triều đại của mình, ngân quỹ của Edward ở trong tình trạng ổn định.
doc_62;;;;;doc_569;;;;;doc_2620;;;;;doc_3614;;;;;doc_4756
Khó khăn dai dẳng của Edward trong phần lớn thời gian ông cai trị là thiếu hụt tiền bạc, từ các khoản nợ ông phải nhận lãnh từ vua cha, khoảng 60.000 bảng và vẫn chưa trả hết tới những năm 1320. Nhà vua dùng nhiều thủ quỹ và quan chức tài chính khác, không nhiều người trong số họ tại vị được lâu, để tăng nguồn lợi qua nhiều thứ thuế mất lòng dân, và dùng quyền lực của mình để trưng dụng hàng hóa. Ông cũng có nhiều khoản vay, ban đầu là qua gia đình Frescobaldi, và sau đó thông qua quản lý ngân hàng Antonio Pessagno. Edward có một mối quan tâm mạnh mẽ trong vấn đề tài chính trong những năm cuối tại vị, ngờ vực cả các quan chức riêng của ông và cố gắng tăng doanh thu trực tiếp bằng cách giảm chi tiêu trong tư gia của mình.;;;;;Edward trừng phạt những người ủng hộ Lancaster bằng việc lập ra một hệ thống tòa án đặc biệt trên toàn quốc, theo đó thẩm phán được làm theo mệnh lệnh kết án bị cáo như thế nào, và các bị cáo không được phép nói chuyện trong phòng riêng của họ. Phần nhiều những bản án như thế này gọi là "Contrariants" đơn giản chỉ là những vụ hành quyết, và những người may mắn hơn cũng bị giam giữ và phạt tiền, đất đai bị tịch thu và người thân bị quản thúc. Bá tước Pembroke, Edward lúc này không còn tin tưởng ông, đã bị bắt và chỉ được phóng thích sau khi giao hết toàn bộ gia tài như là tài sản thế chấp cho lòng trung thành của ông. Edward đã tưởng thưởng cho những người ủng hộ trung thành với ông, đặc biệt là gia đình Despenser, bằng những tài sản tịch thu được và những chức vị mới. Việc phạt tiền và sung công khiến Edward trở nên giàu có: khoảng £15,000 bảng được nhập vào ngân khố trong những tháng đầu tiên, và năm 1326, kho bạc của Edward chứa tới 62,000 bảng. Một Nghị viện được lập ra ở York vào tháng 3 năm 1322 mà tại đó Pháp lệnh chính thức bị thu hồi bằng Quy chế York, và các loại thuế mới được chấp nhận để phục vụ cho chiến dịch mới chống người Scot.;;;;;Các chiến dịch quân sự thường xuyên của Edward I đã làm gia tăng tình trạng căng thẳng về tài chính trên toàn quốc. Có một vài cách để nhà vua có tiền trang trải cho chiến tranh, bao gồm thuế hải quan, cho vay tiền và bắt trợ cấp. Năm 1275, Edward I đàm phán một thỏa thuận với hội đồng các thương gia trong nước để vay một khoản vay lâu dài. Năm 1303, một thỏa thuận tương tự với các thương gia nước ngoài, đổi lại ông cho họ một số đặc quyền nhất định. Các khoản thu từ thuế hải quan được xếp đặt bởi Riccardi, một nhóm ngân hàng đến từ Lucca của Ý. Điều này đổi lấy vị trí của họ là cho quốc vương vay tiền, giúp đỡ tài chính cho cuộc chiến tranh Wales. Khi chiến tranh với Pháp nổ ra, nhà vua nước Pháp tịch thu tài sản trong Riccardi, và ngân hàng phá sản. Sau vụ đó, Frescobaldi xứ Florence đảm nhận vai trò người cho vay tiền của quốc vương nước Anh.;;;;;Quan hệ giữa Edward và các nam tước vẫn rất căng thẳng. Các bá tước chống đối việc ông giữ lại quân đội của họ vốn được huy động chiến tranh vào cuối năm 1311. Lúc này Edward trở nên lạnh nhạt với em họ của ông, Bá tước Lancaster, người cai trị Lãnh thổ bá tước Lancaster, Leicester, Lincoln, Salisbury và Derby, với thu nhập khoảng 11 000 bảng mỗi năm từ những vùng đất của mình, gần gấp đôi so với nam tước giàu thứ hai. Được các bá tước Arundel, Gloucester, Hereford, Pembroke và Warwick ủng hộ, Lancaster dẫn đầu một phe phái sừng sỏ ở Anh, nhưng ông không quan tâm đến chính quyền thực tế, ông cũng không phải là một chính trị gia sáng tạo và có năng lực.;;;;;Edward có quan hệ tốt với Giáo hoàng Clêmentê V, mặc cho sự can thiệp thường xuyên của Nhà vua vào hoạt động của Giáo hội Anh, bao gồm cả trừng phạt các giám mục mà ông không hài lòng. Với sự ủng hộ của Clêmentê, Edward cố gắng kiếm sự hỗ trợ tài chính từ Giáo hội Anh cho các chiến dịch quân sự của ông ở Scotland, bao gồm cả đánh thuế và vay tiền từ các quỹ quyên góp ủng hộ các cuộc Thập tự chinh. Giáo hội Anh có tương đối ít hoặc chỉ có ảnh hưởng vừa phải lên hành vi của Edward của trong suốt triều đại ông, có thể bởi vì lợi ích cá nhân và mối quan tâm của các giám mục đối với sự bảo hộ dành cho họ.
question_45
Một trong những ngành khoa học cổ xưa nhất là ngành gì?
doc_45
Thiên văn học là một trong những ngành khoa học cổ nhất. Các nhà thiên văn học của những nền văn minh đầu tiên đã tiến hành những cuộc quan sát có phương pháp bầu trời đêm, và các dụng cụ thiên văn học đã được tìm thấy từ những giai đoạn còn sớm hơn nữa. Tuy nhiên, sự xuất hiện của kính viễn vọng là thời điểm thiên văn học bắt đầu bước vào giai đoạn khoa học hiện đại. Về lịch sử, thiên văn học từng gồm cả các ngành đo sao, hoa tiêu thiên văn, quan sát thiên văn, làm lịch, và thậm chí cả chiêm tinh học, nhưng ngành thiên văn học chuyên môn hiện đại ngày nay thường chỉ có nghĩa vật lý học thiên thể.
doc_3806;;;;;doc_4820;;;;;doc_9855;;;;;doc_7712;;;;;doc_4302
Mặc dù sinh học hiện đại là một phát triển trong thời gian tương đối gần đây, các ngành khoa học liên quan và bao gồm nó đã được nghiên cứu từ thời Cổ đại. Triết học tự nhiên đã được nghiên cứu sớm nhất tận các nền văn minh cổ đại như Lưỡng Hà, Ai Cập, tiểu lục địa Ấn Độ và Trung Hoa. Tuy nhiên, nguồn gốc của sinh học hiện đại và cách tiếp cận đối với việc nghiên cứu về tự nhiên dường như lại bắt nguồn từ Hy Lạp cổ đại. Trong khi nghiên cứu chính thức về thuốc bắt đầu từ thời Hippocrates (khoảng 460-370 TCN), chính Aristotle (384-322 TCN) lại đóng góp nhiều nhất cho sự phát triển của sinh học. Đặc biệt quan trọng là cuốn Lịch sử Động vật của ông cùng các công trình khác, tác phẩm cho thấy những khuynh hướng thiên về lịch sử tự nhiên; sau đó là những công trình thực nghiệm hơn tập trung vào các nguyên nhân sinh học và đa dạng của sự sống. Người kế vị của Aristotle là Theophrastus xứ Lyceum, ông đã viết một loạt sách về thực vật học. Tập sách vẫn tồn tại như đóng góp quan trọng nhất của thời Cổ đại cho ngành khoa học thực vật, thậm chí đến tận thời Trung Cổ.;;;;;Các ngành động vật được biết đến nhiều nhất có lẽ là Mollusca, Porifera, Cnidaria, Platyhelminthes, Nematoda, Annelida, Arthropoda, Echinodermata và Chordata (loài người thuộc về ngành này). Hiện nay người ta đã biết khoảng 35 ngành động vật, trong đó 9 ngành chiếm phần lớn các loài. Nhiều ngành chỉ tồn tại trong lòng đại dương, và chỉ duy nhất 1 ngành là hoàn toàn không có trong các đại dương của thế giới: ngành Onychophora (giun có móc). Ngành gần đây mới phát hiện ra là Cycliophora được tìm thấy năm 1993; và chỉ có 3 ngành được phát hiện ra trong thế kỷ 20.;;;;;Một số ngành động vật được công nhận là do chúng thiếu tính đối xứng hai bên và được cho là đã tách ra khỏi các động vật khác trong giai đoạn đầu tiến hóa. Trong số này, bọt biển (Porifera) từ lâu được cho là đã phân nhánh đầu tiên, đại diện cho ngành động vật lâu đời nhất. Chúng thiếu tổ chức phức tạp như ở hầu hết các ngành khác. Các tế bào của chúng được biệt hóa, nhưng trong hầu hết các trường hợp không được tổ chức thành các mô riêng biệt. Bọt biển thường ăn bằng cách hút nước qua lỗ chân lông. Tuy nhiên, một loạt nghiên cứu phát sinh gen từ năm 2008-2015 đã tìm thấy sự ủng hộ cho Ctenophora, hay thạch lược, là dòng dõi cơ bản của động vật. Kết quả này đã gây tranh cãi, vì nó hàm ý rằng bọt biển có thể không quá thô sơ mà thay vào đó có thể được đơn giản hóa lần thứ hai. Các nhà nghiên cứu khác đã lập luận rằng việc đặt Ctenophora làm ngành động vật phân kỳ sớm nhất là một sự bất thường về mặt thống kê gây ra bởi tốc độ tiến hóa cao trong bộ gen của ctenophore.;;;;;Miễn dịch học cổ điển gắn liền với lĩnh vực dịch tễ học và y học. Nó nghiên cứu mối quan hệ giữa các hệ thống cơ thể, mầm bệnh và khả năng miễn dịch. Văn bản đề cập sớm nhất về khả năng miễn dịch có thể bắt nguồn từ trận dịch hạch ở Athens vào năm 430 trước Công nguyên. Thucydides lưu ý rằng những người đã khỏi bệnh trước đó có thể chăm sóc người bệnh mà không mắc bệnh lần thứ hai. Nhiều xã hội cổ đại khác có đề cập đến hiện tượng này, nhưng phải đến thế kỷ 19 và 20, khái niệm này mới phát triển thành lý thuyết khoa học.;;;;;Một ngành đại diện cho việc gộp nhóm nói chung được công nhận và ở cấp lớn nhất của giới động vật và các sinh vật khác với các đặc trưng tiến hóa nào đó, mặc dù một số ngành đôi khi cũng được gộp chung lại trong nhóm gọi là siêu ngành (superphyla), ví dụ như siêu ngành Ecdysozoa với 8 ngành, trong đó có Arthropoda và Nematoda; còn siêu ngành Deuterostomia chứa Echinoderma, Chordata, Hemichordata v.v. Một cách không chính thức thì các ngành có thể coi là việc gộp nhóm các động vật dựa trên sơ đồ cơ thể tổng quát; đây chính là việc gộp nhóm theo hình thái. Vì vậy, mặc dù dường như có các khác biệt bề ngoài của các sinh vật, nhưng chúng được phân loại vào trong các ngành dựa trên cơ cấu tổ chức bên trong của chúng. Chẳng hạn, dường như là đã rẽ nhánh và không giống nhau về bề ngoài, nhưng nhên và cua cả hai đều thuộc về ngành Arthropoda, trong khi giun đất và giun dẹp, khá tương tự về hình dáng, lại tạo thành hai ngành Annelida và Platyhelminthes.
question_46
Ai là người đã tìm ra được nguyên tố zirconi?
doc_46
Khoáng vật zircon chứa zirconi hay các biến thể của nó (như jargoon, hyacinth, jacinth, ligure), được đề cập tới trong các văn bản của Kinh Thánh. Khoáng vật này đã không được biết như là có chứa một nguyên tố mới cho tới tận khi Klaproth phân tích mẫu jargoon từ đảo Ceylon ở Ấn Độ Dương.Ông đặt tên cho ngyên tố mới này là Zirkonerde (zirconia). Humphry Davy đã cố gắng cô lập nguyên tố mới này vào năm 1808 bằng điện phân, nhưng thất bại. Zirconi (từ tiếng Syriac zargono, tiếng Ả Rập zarkûn từ tiếng Ba Tư zargûn زرگون nghĩa là "giống như vàng") lần đầu tiên được Berzelius cô lập ở dạng không tinh khiết vào năm 1824 bằng cách nung nóng hỗn hợp kali và florua zirconi-kali để phân hủy trong ống sắt.
doc_6222;;;;;doc_2550;;;;;doc_3275;;;;;doc_121;;;;;doc_2480
Việc phát hiện ra nguyên tố này được ghi nhận là công của nhà hóa học người Đức Martin Heinrich Klaproth. Khi đang làm việc trong phòng thí nghiệm thực nghiệm của mình ở Berlin vào năm 1789, Klaproth đã có thể kết tủa một hợp chất màu vàng (có thể là natri diuranate) bằng cách hòa tan pitchblend trong axit nitric và trung hòa dung dịch bằng natri hydroxit. Klaproth cho rằng chất màu vàng là oxit của một nguyên tố chưa được khám phá và đun nóng nó bằng than củi để thu được một loại bột màu đen, thứ mà ông cho rằng chính là kim loại mới được phát hiện (trên thực tế, loại bột đó là một oxit của uranium). Ông đặt tên cho nguyên tố mới được phát hiện theo tên hành tinh Uranus, (được đặt theo tên của vị thần bầu trời nguyên thủy của Hy Lạp), được William Herschel phát hiện tám năm trước đó.;;;;;Zirconi có hàm lượng khoảng 130 mg/kg trong lớp vỏ Trái Đất và khoảng 0,026 μg/L trong nước biển, mặc dù không bao giờ ở dạng kim loại tự nhiên. Nguồn thương mại chủ yếu chứa zirconi là khoáng vật silicat zirconi là zircon (ZrSiO4), chủ yếu có ở Australia, Brasil, Ấn Độ, Nga, Nam Phi, Hoa Kỳ, cũng như ở dạng trầm tích với trữ lượng nhỏ hơn nhiều khắp thế giới. 80% lượng zircon khai thác tại Australia và Nam Phi. Ước tính trữ lượng zircon toàn cầu là trên 60 triệu tấn và tổng sản lượng hàng năm là khoảng 900.000 tấn.;;;;;Enrico Fermi (tiếng Ý: [enˈri.ko ˈfeɾ.mi]; 29 tháng 9 năm 1901 – 28 tháng 11 năm 1954) là nhà vật lý lý thuyết và thực nghiệm người Italia, với nghiên cứu về lò Chicago Pile-1, lò phản ứng hạt nhân do con người xây dựng đầu tiên trên thế giới, và nổi tiếng với những công trình đóng góp cho cơ học lượng tử, vật lý hạt nhân, vật lý hạt, và cơ học thống kê. Cùng với Robert Oppenheimer, ông được coi là một trong những "cha đẻ của bom nguyên tử". Ông có một số bằng sáng chế liên quan đến năng lượng hạt nhân, và nhận Giải Nobel Vật lý năm 1938 cho lý thuyết phóng xạ cảm ứng và phát hiện ra các nguyên tố siêu urani. Cộng đồng các nhà vật lý đều công nhận Fermi là một trong số rất ít các nhà khoa học vừa giỏi về lý thuyết lẫn thực nghiệm.;;;;;Xeri được Jöns Jakob Berzelius và Wilhelm Hisinger phát hiện tại Bastnäs, Thụy Điển và độc lập với họ là Martin Heinrich Klaproth tại Đức, đều vào năm 1803. Xeri được Berzelius đặt tên theo hành tinh lùn Ceres, phát hiện hai năm trước đó (1801). Như ban đầu được cô lập, xeri thực ra ở dạng ôxít của nó, và được gọi là Xeria, một thuật ngữ hiện nay vẫn còn dùng. Bản thân kim loại này là quá dương điện để có thể cô lập bằng công nghệ nung chảy khi đó, một đặc trưng của các kim loại đất hiếm nói chung. Tuy nhiên, sự phát triển của điện hóa học do Humphry Davy chỉ sau đó 5 năm và khi đó thì các loại đất hiếm này đã đi đúng vào con đường để sinh ra các kim loại chúng chứa bên trong. Xeria, như được cô lập năm 1803, chứa tất cả các nguyên tố nhóm Lantan có mặt trong quặng xerit từ Bastnäs, Thụy Điển và vì thế chỉ chứa khoảng 45% của cái mà ngày nay gọi là xeria tinh khiết. Cho tới tận khi Carl Gustaf Mosander thành công trong việc loại bỏ lantana và "didymia" vào cuối thập niên 1830 thì xeria mới thu được ở dạng tinh khiết. Wilhelm Hisinger là một chủ mỏ giàu có, một nhà khoa học nghiệp dư và là người tài trợ cho Berzelius. Ông sở hữu hoặc kiểm soát mỏ tại Bastnäs và trong nhiều năm đã cố gắng để tìm ra thành phần của loại đá nặng bị bỏ đi sau khi lấy quặng ("Tungstein của Bastnäs") với số lượng lớn, mà hiện nay gọi là xerit, mà ông có trong các khu mỏ của mình. Mosander và gia đình ông đã sinh sống nhiều năm trong cùng một ngôi nhà với Berzelius và có lẽ ông đã được Berzelius thuyết phục để tiếp tục nghiên cứu xeria.;;;;;Là một kim loại chuyển tiếp, zirconi tạo thành nhiều hợp chất vô cơ, như điôxít zirconi (ZrO2). Hợp chất này còn gọi là zirconia, có khả năng chống đứt gãy hiếm có và khả năng chống ăn mòn cao, đặc biệt là khi ở dạng hình hộp. Các tính chất này làm cho zirconia là hữu ích khi làm lớp che phủ cản nhiệt, và nó cũng là vật liệu thay thế phổ biến cho kim cương. Tungstat zirconi là một loại vật chất bất thường ở chỗ nó co lại khi bị nung nóng thay vì giãn nở ra như ở các vật liệu khác. Các hợp chất vô cơ khác của zirconi còn có hiđrua zirconi (II), nitrua zirconi, tetraclorua zirconi (ZrCl4), được dùng trong phản ứng Friedel-Crafts.
question_47
Ai có một bài nói tại New York và Trường Đại học Harvard năm 1846?
doc_47
Năm 1846, những bài giảng về lịch sử tự nhiên của Louis Agassiz được chào đón nồng nhiệt ở New York lẫn trong khuôn viên Trường Đại học Harvard. Cách tiếp cận của Agassiz duy tâm theo một cách hoàn toàn khác và đã đặt cơ sở cho "sự tham gia vào Bản thể Thần tính" của người Mỹ và khả năng hiểu "những hiện thể tri thức". Cách nhìn của Agassiz về khoa học kết hợp quan sát với trực giác và giả định rằng người ta có thể nắm bắt được "kế hoạch thần thánh" trong tất cả các hiện tượng. Quan điểm lưỡng nguyên về tri thức này phù hợp với tư tưởng của chủ nghĩa hiện thực mang tính cảm quan kinh nghiệm bắt nguồn từ hai triết gia Scotland Thomas Reid và Dugald Stewart, người có tác phẩm được đưa vào chương trình học của Harvard vào thời ấy.
doc_2364;;;;;doc_4049;;;;;doc_6867;;;;;doc_4016;;;;;doc_1230
Albert Gallatin, Bộ trưởng Ngân khố Hoa Kỳ dưới thời Thomas Jefferson và James Madison, tuyên bố rằng ông có ý định sẽ thành lập "trong thành phố rộng lớn và phát triển nhanh này... một hệ thống giáo dục dựa trên lý trí và có tính thực tiễn phù hợp với tất cả và cũng sẽ rộng cửa chào đón tất cả mọi người". Một "hội nghị văn chương và khoa học" kéo dài ba ngày đã được tổ chức tại hội trường thành phố vào năm 1830 với sự tham dự của trên 100 đại biểu tranh luận về các điều khoản của dự thảo thành lập một trường đại học mới. Những người New York này tin rằng thành phố cần một trường đại học được thiết kế dành cho những thanh niên trẻ, họ sẽ được nhận vào dựa theo năng lực chứ không phải do quyền lực dòng họ, địa vị hay tầng lớp xã hội. Ngày 18 tháng 4 năm 1831, một cơ sở được hình thành, với sự hỗ trợ của một nhóm cư dân thành phố New York xuất chúng sở hữu nhiều đất đai như các nhà buôn, chủ ngân hàng và các thương gia. Albert Gallatin được bầu làm Chủ tịch đầu tiên của trường này. Vào ngày 21 tháng 4 năm 1831, cơ sở giáo dục mới này nhận được giấy phép và được hợp nhất thành Đại học thành phố New York bởi Cơ quan lập pháp bang New York; các tài liệu cũ thường gọi NYU với tên này. Tuy vậy, tên gọi Đại học New York ngay từ đầu đã phổ biến hơn và trường được chính thức đổi tên thành Đại học New York vào năm 1896. Năm 1832, NYU mở các lớp học đầu tiên tại các phòng học thuê của Hội trường Clinton, toạ lạc gần Hội trường Thành phố. Năm 1835, Trường Luật, trường trực thuộc chuyên nghiệp đầu tiên của NYU, được thành lập. Mặc dù quyết tâm thành lập trường phần nào là sự đáp lại của Giáo hội Trưởng nhiệm Tin Lành với cái họ coi là giáo phái Tân giáo của Đại học Columbia, nhưng cuối cùng, NYU không theo giáo phái nào cả, khác với hầu hết các trường đại học Mỹ đương thời.;;;;;Trong suốt thế kỷ XVIII, những ý tưởng của Thời kỳ Khai minh về sức mạnh của lý tính và ý chí tự do trở nên phổ biến trong giới mục sư theo Giáo đoàn Tự trị, khiến họ và giáo đoàn của họ ở trong thế căng thẳng với những nhóm theo thần học Calvin có quan điểm truyền thống hơn. Khi Giáo sư Thần học David Tappan qua đời vào năm 1803 và viện trưởng Harvard Joseph Willard qua đời một năm sau đó, năm 1804, một cuộc đấu tranh đã nỗ ra trong quá trình tìm người thay thế. Henry Ware được chọn vào vị trí giáo sư thần học vào năm 1805, và Samuel Webber - một người theo khuynh hướng tự do - được chỉ định làm viện trưởng hai năm sau đó, đánh dấu sự thay đổi từ thời kỳ những ý tưởng của chủ nghĩa truyền thống là chủ đạo ở Harvard sang thời kỳ những ý tưởng của chủ nghĩa tự do theo lối của Jacobus Arminius.;;;;;Không chắc chắn về tương lai của mình, lần đầu tiên anh dự tính quay trở lại London để hoàn thành việc học của mình, nhưng quyết định quay lại Boston với tư cách là một giáo viên. Cha anh đã giúp anh thành lập cơ sở hành nghề tư nhân bằng cách liên hệ với Gardiner Greene Hubbard, hiệu trưởng Trường dành cho người điếc Clarke để được giới thiệu. Dạy theo hệ thống của cha mình, vào tháng 10 năm 1872, Alexander Bell mở "Trường Sinh lý Thanh âm và Cơ chế Lời nói" ở Boston, nơi thu hút một số lượng lớn học sinh khiếm thính, với lớp học đầu tiên của ông có 30 học sinh. Khi ông đang làm gia sư riêng, một trong những học trò nổi tiếng nhất của ông là Helen Keller, người đến với ông khi còn là một đứa trẻ không thể nhìn, nghe hoặc nói. Sau đó, cô ấy nói rằng Bell đã cống hiến cả cuộc đời mình cho việc thâm nhập "sự im lặng vô nhân đạo vốn chia cắt và ghẻ lạnh đó." Năm 1893, Keller thực hiện lễ động thổ xây dựng Cục Volta mới của Bell, nhằm mục đích "tăng cường và phổ biến kiến thức liên quan đến người điếc".;;;;;Được thành lập vào năm 1636 bởi Cơ quan Lập pháp Thuộc địa Vịnh Massachusetts và không lâu sau đó đặt theo tên của John Harvard - người đã hiến tặng của cải cho trường, Harvard là cơ sở học tập bậc cao lâu đời nhất Hoa Kỳ. Mặc dù chưa bao giờ có mối quan hệ chính thức với bất kỳ giáo phái nào, Trường Đại học Harvard (Harvard College, sau này là trường giáo dục bậc đại học của Viện Đại học Harvard) trong thời kỳ đầu chủ yếu đào tạo các mục sư Kháng Cách thuộc hệ phái Tự trị Giáo đoàn. Chương trình học và thành phần sinh viên của trường dần dần trở nên có tính chất thế tục trong thế kỷ XVIII, và đến thế kỷ XIX thì Harvard đã nổi lên như một cơ sở văn hóa chủ chốt của giới tinh hoa vùng Boston. Sau Nội chiến Hoa Kỳ, Charles W. Eliot trong nhiệm kỳ viện trưởng kéo dài nhiều năm của mình (từ 1869 đến 1909) đã chuyển đổi trường đại học này và các trường chuyên nghiệp liên kết với nó thành một viện đại học nghiên cứu hiện đại. Harvard là thành viên sáng lập Hiệp hội Viện Đại học Bắc Mỹ vào năm 1900. James Bryant Conant lãnh đạo viện đại học này trong suốt thời kỳ Đại suy thoái và Chiến tranh thế giới thứ hai, và sau chiến tranh bắt đầu cải cách chương trình học và mở rộng việc tuyển sinh. Trường Đại học Harvard trở thành cơ sở giáo dục dành cho cả nam lẫn nữ vào năm 1977 khi nó sáp nhập với Trường Đại học Radcliffe.;;;;;Trong những năm đầu của mình, Trường Đại học Harvard đã đào tạo nhiều mục sư Thanh giáo. Chương trình học của trường dựa theo mô hình viện đại học Anh - nhiều nhà lãnh đạo ở vùng thuộc địa này từng theo học ở Viện Đại học Cambridge - với các môn học cổ điển nhưng làm cho phù hợp với triết lý Thanh giáo thịnh hành lúc bấy giờ. Mặc dù chưa bao giờ thuộc bất kỳ giáo phái nào, nhiều sinh viên tốt nghiệp từ Harvard ra đã trở thành mục sư cho các nhà thờ theo phái Giáo đoàn Tự trị và phái Nhất thể ở khắp vùng New England. Một tập sách giới thiệu, xuất bản vào năm 1643, đã mô tả việc thành lập trường đại học này như là để đáp ứng lại mong muốn "thúc đẩy và làm sống mãi sự học, nếu không thì sợ rằng sẽ để lại những mục sư thất học cho nhà thờ".
question_48
Đất nước nào đã trở thành một trong những nước đầu tiên cấm việc buôn bán nô lệ?
doc_48
Vào năm 1807, nhờ sự đấu tranh của các nhà nhân đạo chủ nghĩa, Vương quốc Anh trở thành một trong những quốc gia đầu tiên cấm việc buôn bán nô lệ. Từ năm 1808 đến 1860, Đội tàu Tây Phi của Anh đã bắt được xấp xỉ 1.600 tàu chở nô lệ và giải phóng 150.000 người Phi trên tàu. Đã có nhiều hành động chống lại những nhà lãnh đạo châu Phi nào từ chối ký một thỏa thuận với nước Anh đặt việc buôn bán này ra khỏi vòng pháp luật, ví dụ như vụ chống lại "Vua cướp ngôi của Lagos", bị hạ bệ vào năm 1851. Các hiệp ước chống chế độ nô lệ đã được ký với hơn 50 người đứng đầu các nước châu Phi. Vào năm 1827, nước Anh tuyên bố rằng buôn bán nô lệ là cướp biển, có thể bị phạt tội chết. Tuy nhiên, các nước châu Âu khác vẫn tiếp tục thực hiện buôn bán nô lệ cho tới cuối thế kỷ 19 mới chấm dứt.
doc_4636;;;;;doc_120;;;;;doc_8622;;;;;doc_6246;;;;;doc_2687
Chế độ buôn bán nô lệ tồn tại trên lục địa châu Phi ngót 400 năm đã gây ra hậu quả nghiêm trọng. Từ thế kỷ 15 đến thế kỷ 19, trong giai đoạn buôn bán nô lệ Đại Tây Dương, các nước châu Âu như Anh, Pháp, Hà Lan... đã bắt giam khoảng 10 tới 28 triệu nô lệ châu Phi và đưa họ đến Châu Mỹ. Theo thống kê chưa đầy đủ, chỉ riêng các thuộc địa của Anh trong quần đảo Tây Ấn, từ năm 1680 đến năm 1786 đã “nhập khẩu” tới 2,13 triệu nô lệ Châu Phi. Một hòn đảo Jamaica nhỏ bé ở châu Mỹ mà từ năm 1700 đến 1786 đã “nhập khẩu” 610.000 nô lệ da đen.;;;;;Nạn buôn bán nô lệ nở rộ khi các nước thực dân châu Âu tấn công vào châu Phi và phát hiện ra Châu Mỹ. Thực dân Anh, Pháp, Mỹ, Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha đã xâm chiếm và tàn sát với quy mô lớn nên người da đỏ bản địa ở châu Mỹ hầu như đã bị giết sạch. Để khai thác những nguồn tài nguyên phong phú ở châu Mỹ, thực dân châu Âu rất cần nhân công. Số nhân công không chỉ đòi hỏi nhiều về số lượng mà khỏe và thích hợp với điều kiện trồng trọt nhiệt đới, người da đen ở châu Phi rất phù hợp với tiêu chí đó. Vậy là những nước châu Âu tự xưng là "văn minh" bắt đầu tiến hành săn lùng, bắt làm nô lệ những người da đen để biến thành những món hàng để trao đổi giống như thú vật. Nguyễn Ái Quốc viết: “Từ lúc Colombo tìm ra châu Mĩ thì các nước châu Âu tràn qua đây làm ăn. Người da trắng muốn bắt người da đỏ làm nô lệ, nhưng họ không chịu làm, thì chúng giết mòn, giết mỏi người da đỏ đi rồi bắt người da đen từ châu Phi qua làm cho chúng”.;;;;;Khoảng 12 triệu người châu Phi đã được chuyển đến châu Mỹ trong hoạt động buôn bán nô lệ trên Đại Tây Dương từ năm 1492 đến năm 1888, trong đó có 11,5 triệu người được chuyển đến Nam Mỹ và vùng Caribe. Brazil là nước nhập khẩu lớn nhất ở châu Mỹ, với 5,5 triệu nô lệ châu Phi được nhập khẩu, tiếp theo là vùng Caribe thuộc Anh với 2,76 triệu, vùng Caribe thuộc Tây Ban Nha và lục địa Tây Ban Nha với 1,59 triệu người châu Phi và vùng Caribe thuộc Pháp với 1,32 triệu. Ngày nay con cháu của họ có khoảng 150 triệu người ở Nam Mỹ và vùng Caribe. Ngoài màu da, các đặc điểm thể chất khác như đặc điểm khuôn mặt và kết cấu tóc thường được sử dụng đa dạng để phân loại người da đen ở Nam Mỹ và Caribe. Ở Nam Mỹ và Caribe, việc phân loại người da đen cũng gắn chặt với địa vị xã hội và các biến số kinh tế xã hội, đặc biệt là theo quan niệm xã hội về "blancqueamiento" (làm trắng chủng tộc) và các khái niệm liên quan.;;;;;Guinea-Bissau từng là một phần của vương quốc Gabu, một phần của Đế quốc Mali; các phần của vương quốc này tồn tại cho đến thế kỷ 18. Các phần lãnh thổ khác ở quốc gia hiện tại được người Bồ Đào Nha coi là một phần đế chế của họ. Guinea thuộc Bồ Đào Nha được gọi là Bờ biển Nô lệ vì đây là khu vực chính để người châu Âu xuất khẩu nô lệ châu Phi sang Tây bán cầu. Trước đây, nô lệ đã được người Ả Rập buôn bán ở phía bắc tới phía bắc châu Phi và vào Trung Đông.;;;;;Dưới triều đaị của Augustus, có đến 35 phần trăm người dân ở Ý là nô lệ, điều này khiến cho Roma trở thành một trong năm "xã hội nô lệ" trong lịch sử, trong đó những người nô lệ chiếm ít nhất một phần năm dân số và đóng một vai trò quan trọng trong nền kinh tế. Trong môi trường đô thị, nô lệ có thể là các chuyên gia như thầy giáo, thầy thuốc, đầu bếp, người giữ sổ sách, ngoài ra thì phần lớn các nô lệ đã qua huấn luyện hoặc không có kỹ năng thì lao động ở trong các hộ gia đình hoặc các công xưởng. Các ngành nông nghiệp và công nghiệp, chẳng hạn như xay xát và khai thác mỏ, đều dựa trên việc khai thác sức lao động của nô lệ. Bên ngoài đất Ý, nô lệ chiếm trung bình khoảng từ 10 đến 20 phần trăm dân số, ở tỉnh Ai Cập thuộc La Mã thì lại thưa thớt nhưng tập trung nhiều hơn ở một số vùng của Hy Lạp. Việc mở rộng quyền sở hữu đất canh tác và các ngành công nghiệp của người La Mã sẽ bị ảnh hưởng từ thực tiễn của chế độ nô lệ ở các tỉnh..
question_49
Aelian đã khẳng định điều gì?
doc_49
Trên lưng con thần mã Bucephalus, Alexandros Đại Đế đánh đâu cũng thắng. Ngoài ra, sự gắn bó sâu sắc nhất về tình cảm của ông hầu như được cho là đối với người đồng hữu, người chỉ huy đội kị binh (chiliarchos) và là người bạn từ thời thơ ấu của ông, Hephaestion. Ông học cùng Alexandros, như một nhóm trẻ em con nhà quý tộc khác ở Macedonia, dưới sự dạy dỗ của Aristotle. Hephaestion đánh dấu sự xuất hiện đầu tiên trong lịch sử của mình vào thời điểm Alexandros tiến đến Troia. Tại đây hai người bạn đã đặt vòng hoa tại các đền thờ của hai vị anh hùng Achilles và Patroclus năm xưa; Alexandros Đại Đế tại đền thờ Achilles, và Hephaestion tại đền thờ Patroclus. Aelian trong cuốn Varia Historia (12.7) khẳng định rằng Hephaestion "tiết lộ ông là eromenos ["người tình"] của Alexandros, như Patroclus đối với Achilles vậy." Có lẽ Olympias cũng đã từng cổ võ cho Alexandros Đại Đế hãnh diện vì ông là hậu duệ của vị anh hùng Achilles này.
doc_9329;;;;;doc_8861;;;;;doc_9550;;;;;doc_8418;;;;;doc_9669
Những người chỉ trích Aeneid tập trung vào nhiều vấn đề khác nhau. Giọng điệu của toàn bộ bài thơ là một vấn đề gây tranh cãi; một số người coi bài thơ cuối cùng là bi quan và mang tính chất lật đổ chế độ Augustan về mặt chính trị, trong khi những người khác coi nó như một sự tôn vinh triều đại đế quốc mới. Virgil sử dụng biểu tượng của chế độ Augustan, và một số học giả nhận thấy mối liên hệ chặt chẽ giữa Augustus và Aeneas, một người là người sáng lập và người kia là người tái lập thành Rome. Một mục đích luận mạnh mẽ, hay động lực hướng tới cao trào, đã được phát hiện trong bài thơ. Aeneid chứa đầy những lời tiên tri về tương lai của Rome, những việc làm của Augustus, tổ tiên của ông, những người La Mã nổi tiếng cũng như các cuộc Chiến tranh Carthage; tấm khiên của Aeneas thậm chí còn mô tả chiến thắng của Augustus tại Actium trước Mark Antony và Cleopatra VII vào năm 31 trước Công nguyên. Trọng tâm nghiên cứu sâu hơn là nhân vật Aeneas. Với tư cách là nhân vật chính của bài thơ, Aeneas dường như thường xuyên dao động giữa cảm xúc và cam kết thực hiện nghĩa vụ tiên tri của mình là thành lập thành Rome; các nhà phê bình ghi nhận sự phá vỡ khả năng kiểm soát cảm xúc của Aeneas trong phần cuối của bài thơ, nơi Aeneas "ngoan đạo" và "chính trực" tàn sát Turnus một cách không thương tiếc.;;;;;Các tác phẩm của Virgil gần như ngay từ khi xuất bản đã cách mạng hóa thơ ca Latinh. Eclogues, Georgics, và trên hết là Aeneid đã trở thành những văn bản tiêu chuẩn trong chương trình giảng dạy ở trường mà tất cả những người La Mã có học thức đều quen thuộc. Các nhà thơ theo dõi Virgil thường tham khảo xen kẽ các tác phẩm của ông để tạo ra ý nghĩa trong thơ của chính họ. Nhà thơ Augustan Ovid nhại lại những dòng mở đầu của Aeneid trong Amores 1.1.1–2, và bản tóm tắt của ông về câu chuyện Aeneas trong Quyển 14 của Metamorphoses, cái gọi là "Aeneid nhỏ", được coi là một đặc biệt quan trọng. ví dụ về phản ứng hậu Virgilian đối với thể loại sử thi. Sử thi của Lucan, Bellum Civile đã được coi là sử thi chống Virgilian, sử dụng cơ chế thần thánh, xử lý các sự kiện lịch sử và khác hẳn với thực hành sử thi Virgilian. Nhà thơ Flavian Statius trong sử thi 12 cuốn Thebaid gắn bó chặt chẽ với thơ của Virgil; trong phần kết của mình, ông khuyên bài thơ của mình không nên "đối đầu với Aeneid thần thánh, mà hãy đi theo những bước chân xa xôi và tôn kính những bước chân của nó." Trong Silius Italicus, Virgil tìm thấy một trong những người ngưỡng mộ nhiệt thành nhất của mình. Hầu hết mọi dòng sử thi Punica Silius đều đề cập đến Virgil. Thật vậy, Silius được biết là đã mua lăng mộ của Virgil và tôn thờ nhà thơ. Một phần là kết quả của cái gọi là Sinh thái thứ tư "Đấng Mê-si" - sau này được giải thích rộng rãi là đã dự đoán về sự ra đời của Chúa Giê-su Christ - Virgil về sau ở thời cổ đại được cho là có khả năng kỳ diệu của một nhà tiên tri; Sortes Vergilianae, quá trình sử dụng thơ của Virgil làm công cụ bói toán, được tìm thấy từ thời Hadrian và tiếp tục cho đến thời Trung Cổ. Tương tự như vậy, Macrobius trong Saturnalia cho rằng tác phẩm của Virgil là hiện thân của kiến thức và kinh nghiệm của con người, phản ánh quan niệm của người Hy Lạp về Homer. Virgil cũng tìm thấy những nhà bình luận thời cổ đại. Servius, một nhà bình luận ở thế kỷ thứ 4 sau Công nguyên, đã viết tác phẩm của mình dựa trên bài bình luận của Donatus. Bài bình luận của Servius cung cấp cho chúng ta rất nhiều thông tin về cuộc đời, nguồn tài liệu và tài liệu tham khảo của Virgil; tuy nhiên, nhiều học giả hiện đại nhận thấy chất lượng tác phẩm của ông thay đổi và cách giải thích thường đơn giản khiến họ khó chịu.;;;;;Quyển 7 (bắt đầu nửa Iliadic) mở đầu bằng lời nói với nàng thơ và kể lại việc Aeneas đến Ý và hứa hôn với Lavinia, con gái của Vua Latinus. Lavinia đã được hứa hẹn với Turnus, vua của người Rutulians, người bị Fury Allecto kích động gây chiến và mẹ của Amata Lavinia. Trong Quyển 8, Aeneas liên minh với Vua Evander, người chiếm giữ địa điểm tương lai của Rome, và được trao áo giáp mới và một chiếc khiên mô tả lịch sử La Mã. Quyển 9 ghi lại cuộc tấn công của Nisus và Euryalus vào người Rutulians, Quyển 10, cái chết của Pallas, con trai nhỏ của Evander, và 11 cái chết của công chúa chiến binh Volscian Camilla và quyết định giải quyết cuộc chiến bằng cuộc đấu tay đôi giữa Aeneas và Turnus. Aeneid kết thúc ở Quyển 12 với việc chiếm thành phố của Latinus, cái chết của Amata, Aeneas đánh bại và giết chết Turnus, người mà lời cầu xin lòng thương xót đã bị từ chối. Cuốn sách cuối cùng kết thúc với hình ảnh linh hồn Turnus than thở khi chạy trốn xuống thế giới ngầm.;;;;;Cô ấy là người phụ nữ duy nhất có tên trực tiếp trong Kinh Qur'an; được tuyên bố (duy nhất cùng với Chúa Giêsu) là Dấu hiệu của Thiên Chúa đối với nhân loại; là người “bảo vệ sự trong trắng của mình”; một người vâng lời; được mẹ cô chọn và hiến dâng cho Allah khi còn trong bụng mẹ; duy nhất (trong số phụ nữ) Được Chúa chấp nhận phục vụ; được chăm sóc bởi (một trong những nhà tiên tri theo đạo Hồi) Zakariya (Zacharias); rằng trong thời thơ ấu của mình, cô đã cư trú trong Đền thờ và duy nhất có quyền tiếp cận Al-Mihrab (được hiểu là Thánh địa), và được Chúa ban cho những "điều khoản" thiên đường.;;;;;T. Gilmartin, (Giáo sư Lịch sử, Maynooth, 1890), viết trong Church History, Vol. 1, Ch XVII: Người Arians tìm kiếm sự chấp thuận của Công đồng Đại kết. Họ tìm cách tổ chức hai hội đồng. Constantius, đã triệu tập các giám mục phương Đông đến gặp nhau tại Seleucia ở Isauria, và các giám mục phương Tây đến Rimini ở Ý. Một cuộc hội nghị sơ bộ đã được người Arians tổ chức tại Sirmium để thống nhất một công thức đức tin. Tín điều "Homoeon" đã được thông qua, tuyên bố Con là "giống như Cha". Hai người gặp nhau vào mùa thu năm 359. Tại Seleucia, có 150 giám mục, trong đó 105 người bán Arian. Những người theo chủ nghĩa bán Arians từ chối chấp nhận bất cứ điều gì ít hơn "Homoiousion", (xem: Homoiousian), công thức đức tin. Quận trưởng Hoàng gia buộc phải giải tán mà không đồng ý với bất kỳ tín ngưỡng nào. Acacius, lãnh đạo của đảng "Homoean" đã đến Constantinople, nơi công thức đức tin của người Sirmian đã được "Thượng hội đồng tại gia" phê duyệt (bao gồm những giám mục tình cờ có mặt tại Tòa án vào thời điểm đó), và một sắc lệnh về sự phế truất được đưa ra chống lại các nhà lãnh đạo của phe bán Arians. Tại Rimini có hơn bốn trăm người, trong đó có tám mươi người theo Arian, số còn lại là chính thống. Những người cha chính thống từ chối chấp nhận bất kỳ tín ngưỡng nào ngoại trừ Nicene, trong khi những người khác đều ủng hộ Sirmian. Mỗi bên cử một phái đoàn đến gặp Hoàng đế để nói rằng không có khả năng đạt được thỏa thuận và yêu cầu các giám mục quay trở lại giáo phận của họ. Nhằm mục đích hạ bệ các giám mục chính thống; (Sulpitius Severius nói), Constantius đã trì hoãn câu trả lời của mình trong vài tháng, và cuối cùng thuyết phục được họ chấp nhận tín ngưỡng của Sirmian. Sau Công đồng này, Jerome đã nói: " ...cả thế giới rên rỉ kinh ngạc khi thấy mình là Arian."
question_50
Đám cưới của Jackson được tổ chức ở đâu?
doc_50
Jackson cầu hôn với Presley qua điện thoại vào mùa thu năm 1993, nói rằng "Nếu anh muốn cưới em, em sẽ đồng ý chứ?" Hai người kết hôn tại Cộng hòa Dominica trong vòng bí mật và liên tiếp phủ nhận đã cưới nhau trong gần hai tháng sau đó. Vào thời điểm đó, báo lá cải cho rằng đám cưới là một mánh khóe chống đỡ cho hình ảnh công chúng của Jackson. Cuộc hôn nhân kéo dài chưa đầy hai năm và kết thúc trong thân tình. Vào năm 2010, khi phỏng vấn cùng Oprah, Presley thừa nhận họ quay lại cùng nhau thêm 4 năm sau cuộc ly hôn, cho đến khi cô quyết định dừng lại.
doc_2808;;;;;doc_4930;;;;;doc_1953;;;;;doc_873;;;;;doc_4816
Chuyến lưu diễn HIStory World Tour bắt đầu từ ngày 7 tháng 9 năm 1996 đến 15 tháng 10 năm 1997, thu về tổng cộng 165 triệu đô-la Mỹ. Jackson trình diễn 82 đêm nhạc tại 58 thành phố, đi qua 5 châu lục và 35 quốc gia, phục vụ hơn 4.5 triệu người hâm mộ; đây là chuyến lưu diễn thành công nhất trong sự nghiệp của Jackson về lượng khán giả. Vào tháng 11 năm 1996, trong chuyến lưu diễn HIStory World Tour, Jackson kết hôn với y tá da liễu Deborah Jeanne Rowe tại một buổi lễ không sắp đặt trước tại Sydney, Úc. Hai người gặp gỡ từ giữa những năm 80 khi Jackson bắt đầu bị chẩn đoán mắc chứng bạch biến. Rowe giành nhiều thời gian chăm sóc, động viên Jackson và xây dựng tình bạn giữa họ trước khi bắt đầu yêu nhau. Vào thời gian làm lễ cưới, Rowe đã mang thai đứa con đầu lòng của Jackson được 6 tháng. Cả hai ban đầu không có kế hoạch kết hôn, nhưng mẹ của Jackson đã can thiệp và thuyết phục họ cưới nhau. Michael Joseph Jackson Jr (được biết đến với tên "Prince") chào đời ngày 13 tháng 2 năm 1997; Rowe hạ sinh thêm bé gái Paris-Michael Katherine Jackson vào ngày 3 tháng 4 năm 1998. Cả hai ly hôn năm 1999 trong bầu không khí tương đối hòa đồng và Rowe trao hết quyền nuôi con cho Jackson.;;;;;Vào tháng 5 năm 1994, Jackson kết hôn với Lisa Marie Presley, con gái của Elvis và Priscilla Presley. Hai người gặp nhau lần đầu năm 1975, khi Lisa mới 7 tuổi, trong lễ đính hôn của một thành viên gia đình Jackson tại MGM Grand và sau này đoàn tụ qua một người bạn. Theo một người bạn của Presley, "tình bạn của cả hai bắt đầu vào tháng 11 năm 1992 tại L.A." Họ liên lạc với nhau hằng ngày bằng điện thoại. Khi những lời cáo buộc xâm hại tình dục trẻ em trở nên công khai, Jackson nhận được nhiều lời động viên tinh thần từ Lisa; cô quan tâm đến tình hình sức khỏe sút kém và nghiện thuốc phiện của Jackson. Presley giải thích "Tôi tin rằng anh ấy không làm gì sai và bị vu cáo. Và tôi bắt đầu yêu anh ấy. Tôi muốn giúp đỡ anh. Tôi cảm thấy mình có thể làm được việc đó." Sau đó, cô thuyết phục Jackson giải quyết vụ bê bối xâm hại tình dục trẻ em ngoài tòa án và đi cai nghiện.;;;;;Buổi lễ tưởng nhớ Michael Jackson được tổ chức tại Staples Center, Los Angeles vào ngày 7 tháng 7 năm 2009, theo sau buổi lễ cầu nguyện của riêng gia đình Jackson tại Forest Lawn Memorial Park's Hall of Liberty. Vì nhu cầu tăng cao, chủ sự kiện phân phối vé đến dự cho công chúng theo kiểu xổ số; có 1.6 triệu người hâm mộ đăng ký chỉ trong thời gian 2 ngày và tổng cộng 8.750 cái tên ngẫu nhiên được chọn nhận 2 vé. Chiếc quan tài mạ vàng được đặt ngay dưới sân khấu trong suốt buổi lễ nhưng vẫn không có thông tin nào về nơi an nghỉ cuối cùng của ông. Chương trình tưởng niệm là một trong những sự kiện thu hút lượng người xem lớn nhất lịch sử streaming, với ước tính 31.1 triệu người theo dõi tại Hoa Kỳ, so với xấp xỉ 35.1 triệu lượt xem lễ chôn cất cựu tổng thống Ronald Reagan (2004) và khoảng 33.1 triệu người theo dõi lễ tang công nương Diana (1997). Mariah Carey, Stevie Wonder, Lionel Richie, John Mayer, Jennifer Hudson, Usher, Jermaine Jackson và Shaheen Jafargholi đã trình diễn tại sự kiện này. Berry Gordy và Smokey Robinson đọc lời điếu văn, trong khi Queen Latifah đọc một bài thơ của Maya Angelou, "We had him". Al Sharpton nhận được tràng vỗ tay khi ông bảo với các con của Jackson, "Chẳng có gì kỳ lạ ở bố các cháu. Điều bất thường duy nhất là những gì bố các cháu phải trải qua. Nhưng ông ấy đã kiên cường đối mặt với chúng.";;;;;Cùng năm, đứa con thứ ba của Jackson, Prince Michael Jackson Jr II (biệt danh "Blanket") ra đời. Jackson chưa bao giờ tiết lộ danh tính của mẹ đứa trẻ, chỉ khẳng định đây là kết quả của quá trình thụ tinh trong ống nghiệm từ người phụ nữ và tinh trùng của ông. Ngày 20 tháng 11 năm đó, Jackson đem con trai mình ra trước ban công nơi Khách sạn Adlon, Berlin; ông bế con mình bằng tay phải và giơ con mình ra ngoài lan can ban công trong một khoảnh khắc ngắn để khoe với những người hâm mộ bên dưới. Hành động liều lĩnh đã bị dư luận chỉ trích. Jackson sau đó đã xin lỗi về vụ việc, gọi đó là "một sai lầm tồi tệ". Sony phát hành Number Ones, một đĩa hát tập hợp các ca khúc thành công của Jackson dưới định dạng CD và DVD. Tại Hoa Kỳ, album đạt 3 lần chứng nhận Bạch kim bởi RIAA; 6 lần chứng nhận Bạch kim tại Vương quốc Liên hiệp Anh với doanh số 1.2 triệu bản.;;;;;Michael Joseph Jackson sinh ngày 29 tháng 8 năm 1958. Ông là con thứ 8 trong số 10 người con trong một gia đình thuộc tầng lớp lao động người Mỹ gốc Phi, sinh sống trong một căn nhà 3 phòng tại đường Jackson, thuộc thành phố công nghiệp Gary, Indiana, một phần của vùng đô thị Chicago. Mẹ của ông, Katherine Esther Scruse là một tín đồ nhiệt thành của giáo phái Nhân chứng Giê-hô-va. Bà từng mong muốn trở thành một ca sĩ nhạc đồng quê và dân ca, chơi clarinet và dương cầm, nhưng phải làm bán thời gian tại hãng Sears để hỗ trợ gia đình. Cha của ông, Joseph Walter "Joe" Jackson làm thuê cho Tổng công ty Thép Hoa Kỳ. Joe từng là một võ sĩ và thường biểu diễn với một ban nhạc R&B có tên là "The Falcons" để trang trải thu nhập cho gia đình. Michael lớn lên cùng 3 chị em gái (Rebbie, La Toya và Janet) và 5 anh em trai (Jackie, Tito, Jermaine, Marlon và Randy). Người anh thứ sáu, Brandon, là anh em sinh đôi với Marlon, đã mất khi vừa kịp chào đời.
question_51
Nội dung của những bức tranh do Emily Carr vẽ là gì?
doc_51
Nghệ thuật thị giác Canada chịu sự chi phối của các cá nhân như Tom Thomson – họa sĩ nổi tiếng nhất của quốc gia – hay Group of Seven (nhóm 7 họa sĩ). Sự nghiệp hội họa phong cảnh Canada của Tom Thomson kéo dài một thập kỷ cho đến khi ông mất vào năm 1917 ở tuổi 39. Group of Seven là các họa sĩ mang một tiêu điểm dân tộc chủ nghĩa và duy tâm chủ nghĩa, họ trưng bày các tác phẩm đặc biệt của mình lần đầu tiên vào tháng 5 năm 1920. Mặc dù theo tên gọi thì có nghĩa là có bảy thành viên, song năm họa sĩ – Lawren Harris, A. Y. Jackson, Arthur Lismer, J. E. H. MacDonald, và Frederick Varley – chịu trách nhiệm về khớp nối các ý tưởng của Nhóm. Frank Johnston, và Franklin Carmichael cũng từng tham gia Nhóm. A. J. Casson trở thành một phần của Nhóm vào năm 1926. Một nghệ sĩ Canada nổi tiếng khác cũng liên kết với Group of Seven, đó là Emily Carr, bà được biết đến với các bức họa phong cảnh và chân dung về những người bản địa tại vùng Duyên hải Tây Bắc Thái Bình Dương. Kể từ thập niên 1950, các tác phẩm nghệ thuật Inuit được chính phủ Canada dùng làm quà tặng cho giới chức ngoại quốc cấp cao.
doc_5234;;;;;doc_5600;;;;;doc_9477;;;;;doc_7155;;;;;doc_3342
Bên ngoài những phả hệ này, các nhà lý luận và sử gia truyện tranh đã thấy tiền lệ của truyện tranh trong các bức tranh hang động Lascaux ở Pháp (một số trong đó dường như là chuỗi hình ảnh theo trình tự thời gian), chữ tượng hình Ai Cập, Cột Trajan ở Rome, Tấm thảm Norman Bayeux thế kỷ 11, bản khắc gỗ bois Protat năm 1370, tác phẩm Ars moriendi và sách khối thế kỷ 15, Phán quyết cuối cùng trong Nhà nguyện Sistine của Michelangelo, và các bản khắc tuần tự thế kỷ 17 của William Hogarth, cùng nhiều tác phẩm khác.[b];;;;;Coulton Waugh đã cố gắng tìm hiểu lịch sử toàn diện đầu tiên của truyện tranh Mỹ với The Comics (1947). Truyện tranh và nghệ thuật tuần tự của Will Eisner (1985) và Truyện tranh hiểu biết của Scott McCloud (1993) là những nỗ lực đầu tiên bằng tiếng Anh để chính thức hóa việc nghiên cứu truyện tranh. Tính thẩm mỹ của truyện tranh (2000) của David Carrier là tác phẩm dài tập đầu tiên xử lý truyện tranh từ góc độ triết học. Những nỗ lực nổi bật của người Mỹ nhằm định nghĩa truyện tranh bao gồm của Eisner, McCloud và Harvey. Eisner mô tả cái mà ông gọi là "nghệ thuật tuần tự" là "sự sắp xếp các bức tranh hoặc hình ảnh và từ ngữ để kể lại một câu chuyện hoặc kịch tính hóa một ý tưởng"; Scott McCloud định nghĩa truyện tranh là "hình ảnh và các hình ảnh khác được đặt cạnh nhau theo trình tự có chủ ý, nhằm truyền tải thông tin và/hoặc tạo ra phản ứng thẩm mỹ ở người xem", một định nghĩa chính thức nghiêm ngặt giúp tách truyện tranh ra khỏi bẫy lịch sử và văn hóa của nó. R. C. Harvey định nghĩa truyện tranh là "những câu chuyện hoặc cách trình bày bằng hình ảnh trong đó các từ (thường được viết chữ vào vùng hình ảnh trong khung lời thoại) thường góp phần tạo nên ý nghĩa của hình ảnh và ngược lại". Mỗi định nghĩa đều có những lời gièm pha. Harvey coi định nghĩa của McCloud là loại trừ phim hoạt hình một bảng và phản đối việc McCloud không nhấn mạnh vào các yếu tố lời nói, nhấn mạnh "đặc điểm cơ bản của truyện tranh là sự kết hợp nội dung lời nói". Aaron Meskin coi lý thuyết của McCloud là một nỗ lực giả tạo nhằm hợp pháp hóa vị trí của truyện tranh trong lịch sử nghệ thuật.;;;;;The Eagle and Child và the Lamb and Flag, Oxford, là nơi gặp gỡ thường xuyên của Inklings, một nhóm nhà văn bao gồm J. R. R. Tolkien và C. S. Lewis. The Eagle ở Cambridge là nơi Francis Crick làm gián đoạn giờ ăn trưa của khách hàng vào ngày 28 tháng 2 năm 1953 để thông báo rằng ông và James Watson đã "khám phá ra bí mật của sự sống" sau khi họ đưa ra đề xuất về cấu trúc DNA. Giai thoại này có liên quan đến cuốn sách The Double Helix của Watson. và được tưởng nhớ bằng một tấm bảng màu xanh trên bức tường bên ngoài.;;;;;Từ năm 1941 đến năm 1946, nhà sử học cánh tả người Anh E.H. Carr là Trợ lý Biên tập. Carr nổi tiếng với giọng điệu ủng hộ Liên Xô mạnh mẽ trong các bài xã luận của mình. Vào tháng 12 năm 1944, khi giao tranh nổ ra ở Athens giữa ELAS Cộng sản Hy Lạp và Quân đội Anh, Carr trong một bài xã luận trên tờ Times đã đứng về phía Cộng sản, khiến Winston Churchill lên án ông và nhà lãnh đạo đó trong bài phát biểu trước Hạ viện. Nhờ bài xã luận của Carr, The Times đã được biết đến rộng rãi trong giai đoạn đó của Thế chiến thứ hai với tư cách là Công nhân hàng ngày ba xu (giá của Công nhân hàng ngày là một xu).;;;;;Có thêm bốn phi vụ đổ bộ nữa diễn ra trong bốn năm tiếp theo, mà các tàu Venera 11 và Venera 12 phát hiện ra những cơn bão điện tích trong khí quyển; và Venera 13 và Venera 14, đổ bộ cách nhau bốn ngày 1 và 5 tháng 3 năm 1982, gửi về những bức ảnh màu đầu tiên về bề mặt hành tinh. Cả bốn phi vụ đều sử dụng dù bung để hãm tàu rơi trong khí quyển, nhưng sau đó thả chúng ra tại độ cao 50 km, nơi khí quyển có mật độ dày đặc hơn và cho phép các tàu chạm đất nhẹ nhàng dựa vào ma sát với không khí mà không cần sự hỗ trợ của dù. Cả Venera 13 và 14 đều thực hiện nhiệm vụ phân tích mẫu đất bằng phổ kế huỳnh quang tia X gắn trên tàu, cũng như đo tính nén của đất nơi chúng đổ bộ bằng một thiết bị va chạm. Venera 14 bị hỏng lắp chụp camera và thiết bị của nó không thể tiếp xúc với đất được. Chương trình Venera kết thúc vào tháng 10 năm 1983, khi Venera 15 và Venera 16 đi vào quỹ đạo quanh Sao Kim nhằm vẽ bản đồ địa hình hành tinh thông qua phương pháp tổng hợp tín hiệu ra đa.
question_52
Khi nào thì người lãnh đạo Việt Quốc trở về Việt Nam?
doc_52
Đầu tháng 9/1945, Vũ Hồng Khanh, người đứng đầu Việt Quốc, sau nhiều lần bị Trung Quốc cản trở từ Vân Nam, Trung Quốc về đến Hà Nội ngày 20/10/1945. Trong khi ông vắng mặt, một nhóm đảng viên Việt Quốc sẵn sàng hợp tác với Việt Minh đã thành lập một ủy ban nhằm tái cơ cấu lại Việt Quốc. Vũ Hồng Khanh làm ngơ việc này. Nguyễn Tường Tam ở lại Trung Quốc trong suốt năm 1945 để vận động Trung Quốc và Mỹ ủng hộ nền độc lập của Việt Nam nhưng không thành công. Vì vậy tài năng báo chí của Tam không được sử dụng.
doc_4137;;;;;doc_2670;;;;;doc_732;;;;;doc_1183;;;;;doc_4679
Ngay sau khi ký Hiệp định sơ bộ ngày 6/3/1946, do Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Tường Tam gợi ý, Hồ Chí Minh được nội các đồng ý đã gửi một phái đoàn ngoại giao bao gồm đại diện các đảng phái chính ở Việt Nam đến Trùng Khánh để tái khẳng định tình hữu nghị Việt - Trung và để thăm dò việc Tưởng Giới Thạch muốn hai nước sẽ có quan hệ thế nào sau khi ký Hiệp ước Hoa-Pháp. Thứ trưởng Ngoại giao Nghiêm Kế Tổ, một thành viên Việt Quốc có nhiều mối quan hệ ở Trung Quốc, làm trưởng đoàn, 2 người còn lại là thành viên Việt Minh. Theo yêu cầu của Nguyễn Tường Tam, đêm trước khi 3 người khởi hành, Hồ Chí Minh cử Cố vấn Vĩnh Thụy (Bảo Đại) đi cùng. Ban đầu cả Nghiêm Kế Tổ và Bảo Đại đều phản đối ý tưởng này nhưng sau khi họp với Nguyễn Tường Tam và Vũ Hồng Khanh họ thay đổi ý kiến. Theo David G. Marr, Hồ Chí Minh muốn ngăn cản tướng Leclerc lôi kéo Bảo Đại trong khi các nhà lãnh đạo Việt Quốc lại thấy Bảo Đại có thể trở thành lãnh tụ của một chính phủ mới của phe Quốc gia được Trung Quốc và Hoa Kỳ ủng hộ. Ngày 13/4/1946, đoàn công tác về đến Hà Nội còn Bảo Đại vẫn ở lại Trùng Khánh rồi sang Hồng Kông sống lưu vong cho đến khi những người Việt Quốc gia lưu vong khác đến gặp ông năm 1947.;;;;;Ngày 15/6/1946, người lính cuối cùng của quân đội Trung Hoa Dân Quốc rời khỏi Việt Nam. Các thành viên Việt Nam Quốc dân Đảng và Việt Nam Cách Mệnh Đồng minh hội mất chỗ dựa hậu thuẫn chính là quân đội Tưởng Giới Thạch và do bất đồng về việc ký Hiệp định sơ bộ Pháp-Việt mùng 6 tháng 3 đã lần lượt rút khỏi chính phủ Liên hiệp.[cần dẫn nguồn] Lãnh tụ Việt Cách là Nguyễn Hải Thần, lãnh tụ Việt Quốc Vũ Hồng Khanh trong chính phủ và cánh thân Tưởng do Vũ Hồng Khanh lãnh đạo lưu vong sang Trung Quốc. Các đảng viên Đại Việt phần lớn vẫn ở lại Việt Nam chờ thời cơ. Mặc dù Hồ Chí Minh giữ độc quyền liên lạc với Pháp với sự trợ giúp của Hoàng Minh Giám nhưng Nguyễn Tường Tam vẫn thực hiện trách nhiệm của mình một cách nghiêm túc. Nguyễn Tường Tam với tư cách Bộ trưởng Bộ ngoại giao dẫn đầu phái đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tham gia Hội nghị trù bị tại Đà Lạt mặc dù trên thực tế Võ Nguyên Giáp là người lãnh đạo phái đoàn. Theo đại tướng Võ Nguyên Giáp, do bất đồng Tam đã không tham gia hầu hết các phiên họp còn theo David G. Marr Tam là người phát ngôn có năng lực và giúp giải quyết một số tranh cãi về chiến thuật đàm phán trong đoàn.. Sau đó Tam cũng không tham gia Hội nghị Fontainebleau, cuối cùng rời bỏ chính phủ (tài liệu nhà nước nêu Nguyễn Tường Tam thiếu bản lĩnh chính trị, lập trường bấp bênh, biển thủ công quỹ, tiền chi phí cho phái đoàn sang Pháp đàm phán, rồi đào nhiệm ra nước ngoài nhưng theo sử gia David G. Marr việc này khó xảy ra vì Tam khó lòng được giao trách nhiệm giữ tiền của phái đoàn).;;;;;Đến tháng 1 năm 1973, sau những tổn thất vượt ngưỡng chịu đựng trên chiến trường Việt Nam, cùng với những khó khăn trên chính trường Mỹ cộng với tác động của phong trào phản chiến trong nước và trên thế giới và việc Hoa Kỳ đã có những thỏa hiệp với chính quyền Mao Trạch Đông sau chuyến thăm Trung Quốc của Tổng thống Richard Nixon, Hoa Kỳ ký Hiệp định Paris và rút phần lớn quân khỏi Việt Nam, chỉ để lại một số cố vấn quân sự. Cuộc chiến kết thúc vào ngày ngày 30 tháng 4 năm 1975 khi tổng thống Dương Văn Minh của Việt Nam Cộng hòa tuyên bố đầu hàng trước Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam.;;;;;Khi quân đội Tưởng Giới Thạch rút khỏi Việt Nam ngày 15/6/1946, Võ Nguyên Giáp thấy thời cơ đã tới. Không còn phải e ngại quân Trung Quốc, ông quyết định phải dẹp bỏ mọi sự chống đối trong nội bộ đất nước để Chính phủ có thể tập trung các nỗ lực đối phó với Pháp. Võ Nguyên Giáp hành động ngay với mục tiêu rải khắp: Việt Nam Cách mệnh Đồng minh Hội được Trung Hoa Quốc dân Đảng ủng hộ, Việt Nam Quốc dân Đảng , nhóm quốc gia thân Nhật Đại Việt, những người Trotskyist, những người quốc gia chống Pháp, nhóm Công giáo mang tên "chiến sĩ Công giáo". Võ Nguyên Giáp đã từng bước tìm cách loại bỏ dần các đảng phái này. Nhà báo Nguyễn Kỳ Nam cho rằng khi sang Pháp đàm phán Hồ Chí Minh đã lên kế hoạch để Võ Nguyên Giáp ở lại Hà Nội tiêu diệt các đảng phái đối lập để dẹp yên sự chống đối trong nội bộ đất nước, và qua đó chính phủ cũng dễ đàm phán với Pháp.;;;;;Tháng 5/1945, các thành viên của các đảng Đại Việt Quốc dân Đảng, Đại Việt Dân chính Đảng thân Nhật và Việt Nam Quốc dân Đảng (Việt Quốc) gặp nhau tại Trung Quốc để thành lập một liên minh đặc biệt nhằm phối hợp hoạt động giữa các nhóm trong nước và nhóm lưu vong trong trường hợp Trung Quốc đưa quân vào Đông Dương. Đại Việt Dân chính Đảng sáp nhập vào Việt Nam Quốc dân Đảng. Khi Nhật tuyên bố đầu hàng vào tháng 8/1945, ở Việt Nam chỉ có lực lượng vũ trang của Đại Việt còn lực lượng vũ trang của Việt Nam Quốc dân Đảng vẫn còn ở Trung Quốc. Ngày 17/8/1945, Trương Tử Anh, Đảng trưởng Đại Việt Quốc dân Đảng, dẫn đầu một đơn vị 250 người hành quân vào Hà Nội. Tuy nhiên ngày 19/8/1945, lực lượng này đã không ngăn cản Việt Minh cướp chính quyền của phát-xít Nhật tại Hà Nội. Tối hôm đó, các đảng viên Đại Việt và Việt Quốc tổ chức họp nhưng không thống nhất được kế hoạch chống Việt Minh giành chính quyền. Các đơn vị khác của Đại Việt ở các tỉnh không thể tiến về Hà Nội do lũ sông Hồng. Quân đội của Đại Việt rút về phía Đông và phía Tây Hà Nội chờ diễn biến tình hình.
question_53
Những người sinh sống tại các hồ đồng có được quyền gì?
doc_53
Bắc Kinh cũng nổi tiếng nhờ các tứ hợp viện (四合院), một kiểu dinh thự gồm các khối nhà bao quanh một khoảnh sân trong. Trong số chúng, có thể kể đến Cung Vương Phủ và Tống Khánh Linh cố cư (宋庆龄故居). Những sân trong này thường được kết nối bằng các ngõ nhỏ được gọi là hồ đồng (胡同). Các hồ đồng thường thẳng và chạy từ đông sang tây để các ô cửa phải đối mặt với hướng bắc và nam nhằm có Phong thủy tốt. Chúng khác nhau về chiều rộng; một số rất hẹp đến nỗi chỉ đủ cho một vài người đi bộ có thể qua cùng một lúc. Đã từng phổ biến khắp nơi tại Bắc Kinh, các tứ hợp viện và hồ đồng đang nhanh chóng biến mất, khi chúng bị các khu nhà cao tầng thay thế. Các cư dân trong các hồ đồng được quyền đến sống tại các tòa nhà mới tại những căn hộ có kích cỡ tối thiểu là tương đương nơi ở trước đây của họ. Tuy nhiên, nhiều người phàn nàn rằng không thể thay thế ý nghĩa truyền thống của lối sống cộng đồng và đường phố của các "hồ đồng",
doc_3790;;;;;doc_7034;;;;;doc_4159;;;;;doc_1080;;;;;doc_2664
Toàn tỉnh Bình Định có nhiều hồ nhân tạo được xây dựng để phục vụ mục đích tưới tiêu trong mùa khô. Trong đó có thể kể tên một số hồ lớn tại các huyện trong tỉnh như: hồ Hưng Long (An Lão); hồ Vạn Hội, Mỹ Đức và Thạch Khê (Hoài Ân); hồ Mỹ Bình (Hoài Nhơn); hồ Hội Sơn và Mỹ Thuận (Phù Cát); hồ Diêm Tiêu, Hóc Nhạn và Phú Hà (Phù Mỹ); hồ Định Bình, Thuận Ninh (Tây Sơn); hồ Núi Một (Vân Canh - An Nhơn); hồ Vĩnh Sơn, hồ Định Bình (Vĩnh Thạnh). Ngoài ra Bình Định còn có một đầm nước ngọt khá rộng là đầm Trà Ổ (Phù Mỹ) và hai đầm nước lợ là Đề Gi (Phù Mỹ - Phù Cát) và Thị Nại (Tuy Phước - Quy Nhơn). Hệ thống hồ đầm này tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển nông nghiệp và nuôi trồng thủy hải sản. Đặc biệt đầm Thị Nại là đầm lớn rất thuận lợi cho việc phát triển cảng biển tầm cỡ quốc gia và góp phần phát triển khu kinh tế Nhơn Hội, đầm còn được biết đến với cây cầu vượt biển dài nhất Việt Nam hiện nay.;;;;;Để cho phép phát triển nông nghiệp ở Great Plains và cung cấp nơi ở cho dân số ngày càng tăng, Hoa Kỳ đã thông qua Đạo luật Nhà ở năm 1862: đạo luật này cho phép một người định cư được yêu cầu tới 160 mẫu Anh (65 ha) đất, với điều kiện là người đó phải sống trên đó trong một thời gian. trong năm năm và đã trau dồi nó. Các điều khoản đã được mở rộng theo Đạo luật Kinkaid năm 1904 để bao gồm cả nhà ở của toàn bộ khu vực. Hàng trăm nghìn người đã sở hữu những ngôi nhà như vậy, đôi khi xây dựng những ngôi nhà bằng cỏ ngay trên mảnh đất của họ. Nhiều người trong số họ không phải là những nông dân vùng đất khô cằn lành nghề và thường xuyên thất bại. Phần lớn vùng đồng bằng đã được định cư trong những năm tương đối ẩm ướt. Các chuyên gia của chính phủ không hiểu nông dân nên canh tác trên thảo nguyên như thế nào và đưa ra lời khuyên trái ngược với những gì lẽ ra sẽ có tác dụng [cần dẫn nguồn]. Những người Đức đến từ Nga trước đây từng làm nông nghiệp trong những hoàn cảnh tương tự ở khu vực ngày nay là Ukraine đã thành công hơn một chút so với những người chủ trang trại khác. Đạo luật Đất đai thống trị năm 1871 có chức năng tương tự trong việc thành lập các trang trại trên thảo nguyên ở Canada.;;;;;Từ nguyên tắc này, các nhà bảo tồn sinh học có thể theo dõi được nguồn tài nguyên xã hội dựa vào những nguyên tắc của các nền văn hóa như là một giải pháp cho cuộc khủng hoảng tài nguyên chung. Điển hình như người Alaskan Tlingit và người Haida ở vùng Tây Bắc Thái Bình Dương có ranh giới tài nguyên, quy tắc và hạn chế giữa các gia tộc với việc bắt cá ở Sockeye Salmon. Những quy tắc này được truyền lại bởi những người lớn tuổi trong gia tộc biết rõ về các con sông, suối mà gia tộc quản lý. Có rất nhiều ví dụ trong lịch sử khi các quy tắc về quản lý tài nguyên thiên nhiên đi vào trong quy tắc, nghi lễ và tổ chức của các gia tộc.;;;;;Do các lưu vực thoát nước là các thực thể chặt chẽ theo nghĩa hợp lý về hydro, nên việc quản lý tài nguyên nước trên cơ sở các lưu vực riêng biệt trở nên phổ biến. Ở tiểu bang Minnesota của Hoa Kỳ, các thực thể chính phủ thực hiện chức năng này được gọi là "các huyện đầu nguồn". Tại New Zealand, chúng được gọi là các ban quản lý. Các nhóm cộng đồng có trụ sở tại Ontario, Canada, được gọi là các cơ quan bảo tồn. Ở Bắc Mỹ, chức năng này được gọi là "quản lý rừng đầu nguồn". Tại Braxin, Chính sách Quốc gia về Tài nguyên Nước được điều chỉnh bởi Đạo luật số 9.433 năm 1997, thiết lập lưu vực thoát nước là bộ phận lãnh thổ của quản lý nước của Braxin.;;;;;Các lưu vực thoát nước có ý nghĩa lịch sử quan trọng trong việc xác định ranh giới lãnh thổ, đặc biệt là ở các khu vực mà thương mại bằng đường thủy rất quan trọng. Ví dụ, nước Anh đã cho Công ty Vịnh Hudson một sự độc quyền về buôn bán lông thú trong lưu vực toàn bộ vịnh Hudson, khu vực được gọi là Rupert's Land. Tổ chức chính trị sinh học ngày nay bao gồm các thỏa thuận của các quốc gia (ví dụ, các hiệp ước quốc tế và, nội bộ Hoa Kỳ, các tiểu bang liên kết) hoặc các thực thể chính trị khác trong lưu vực thoát nước cụ thể để quản lý cơ thể hoặc các nguồn nước mà nó cống. Ví dụ về các tiểu bang liên kết như vậy là Great Lakes Commission và Tahoe Regional Planning Agency.
question_54
Phong trào Khai sáng là tên gọi khác của phong trào nào tại Pháp?
doc_54
Phong trào Triết học Pháp, về sau gọi là Phong trào Khai sáng manh nha và phát triển mạnh dưới thời Louis XV; năm 1746 Diderot xuất bản cuốn Pensees philisophiques, sau đó đến 1749 với Lettres sur les Aveugles và tập đầu của Encyclopédie, năm 1751. Montesquieu xuất bản De l'esprit des Lois năm 1748. Voltaire cho ra rời le Siecle de Louis XIV và l'Essai sur les moeurs et l'esprit des nations năm 1756. Rousseau trở nên nổi tiếng trong công chúng từ 1750 sau khi Discours sur les sciences et les arts được xuất bản, đến 1755 tiếp tục với Discours sur les origins et les fundaments de l'inégalité. Cùng với những công trình mới về kinh tế, tài chính và thương mại của Mirabeau già, François Quesnay và những nhà tư tưởng nổi tiếng khác làm suy yếu ác giả định tiêu chuẩn của chính phủ hoàng gia, kinh tế và chính sách tài khóa.
doc_6685;;;;;doc_6319;;;;;doc_5746;;;;;doc_6137;;;;;doc_2275
Khai sáng – được biết đến trong tiếng Pháp là Siècle des Lumières, Thế kỷ Khai sáng và trong tiếng Đức là Aufklärung – là một phong trào triết học thống trị thế giới tư tưởng ở châu Âu vào thế kỷ 18. Thời kỳ Khai sáng bao gồm một loạt các ý tưởng tập trung vào lý trí như nguồn gốc chính của quyền lực và tính hợp pháp, đồng thời thúc đẩy các lý tưởng như tự do, tiến bộ, khoan dung, tình huynh đệ, chính phủ hợp hiến và chấm dứt sự lạm dụng nhà thờ và nhà nước. Ở Pháp, học thuyết trung tâm của Lumières là tự do cá nhân và khoan dung tôn giáo, đối lập với nguyên tắc quân chủ tuyệt đối và những giáo điều cố định của Giáo hội Công giáo La Mã. Thời kỳ Khai sáng được đánh dấu bằng việc gia tăng chủ nghĩa kinh nghiệm, sự chặt chẽ về mặt khoa học và chủ nghĩa giản lược, cùng với việc gia tăng nghi vấn về tính chính thống của tôn giáo.;;;;;Phong trào Khai sáng diễn ra ở hầu hết các nước châu Âu, thường tập trung vào địa phương cụ thể. Ví dụ, ở Pháp, nó gắn liền với chủ nghĩa cực đoan chống chính phủ và chống Giáo hội trong khi ở Đức, nó đã đi sâu vào tầng lớp trung lưu và là nơi nó thể hiện giọng điệu tâm linh và chủ nghĩa dân tộc mà không đe dọa các chính phủ hoặc các giáo hội đã thành lập. Phản ứng của chính phủ rất khác nhau. Ở Pháp, chính phủ tỏ ra thù địch, và các triết gia đấu tranh chống lại sự kiểm duyệt của chính phủ, đôi khi bị bỏ tù hoặc bị truy đuổi đi đày. Chính phủ Anh phần lớn đã phớt lờ các nhà lãnh đạo của Phong trào Khai sáng ở Anh và Scotland, mặc dù điều đó đã phong cho Isaac Newton một tước hiệu hiệp sĩ và một văn phòng chính phủ rất béo bở.;;;;;Các nhà sử học Pháp theo truyền thống đặt thời kỳ Khai sáng vào khoảng thời gian từ năm 1715, năm Louis XIV qua đời và năm 1789, thời điểm bắt đầu Cách mạng Pháp. Một số nhà sử học gần đây bắt đầu thời kỳ này vào những năm 1620, với sự khởi đầu của cuộc cách mạng khoa học. Các nhà triết học, thuật ngữ tiếng Pháp để chỉ các nhà triết học thời đó, đã truyền bá rộng rãi ý tưởng của họ thông qua các cuộc họp tại các học viện khoa học, hội quán Tam điểm, các tiệm văn học và quán cà phê, cũng như qua sách in và sách nhỏ. Những ý tưởng của thời kỳ Khai sáng đã làm suy yếu quyền lực của chế độ quân chủ và nhà thờ, đồng thời mở đường cho các cuộc cách mạng trong thế kỷ 18 và 19. Một loạt các phong trào thế kỷ 19, bao gồm chủ nghĩa tự do và chủ nghĩa tân cổ điển, có dấu vết di sản trí tuệ của họ từ thời Khai sáng.;;;;;Thời kỳ Khai sáng thường gắn liền với Cách mạng Pháp năm 1789. Một quan điểm về những thay đổi chính trị xảy ra trong thời kỳ Khai sáng là triết lý "sự đồng ý của người bị cai trị" như được Locke mô tả trong Hai chuyên luận về chính phủ (1689) thể hiện một sự thay đổi mô hình từ mô hình cai trị cũ dưới chế độ phong kiến được mệnh danh là “quyền thiêng liêng của vua chúa”. Theo quan điểm này, các cuộc cách mạng vào cuối những năm 1700 và đầu những năm 1800 là do sự thay đổi mô hình quản trị này thường không thể được giải quyết một cách hòa bình, và do đó kết quả là cách mạng bạo lực. Rõ ràng triết lý quản trị trong đó nhà vua không bao giờ sai đang mâu thuẫn trực tiếp với triết lý theo đó công dân theo luật tự nhiên phải đồng ý với các hành vi và phán quyết của chính phủ của họ.;;;;;Louis XVI tích cực giúp đỡ người Mỹ khi họ tìm cách độc lập khỏi Anh (đạt được trong Hiệp định Paris (1783)). Khủng hoảng tài chính sau khi Pháp can dự vào Cách mạng Mỹ là một trong các yếu tố góp phần dẫn đến Cách mạng Pháp. Phần lớn phong trào Khai sáng diễn ra trong giới trí thức Pháp, các nhà khoa học Pháp đạt được nhiều đột phá cùng phát minh lớn về khoa học như phát hiện ôxy (1778) và khí cầu nóng chở khách đầu tiên (1783). Các nhà thám hiểm Pháp như Bougainville và Lapérouse tham gia các hành trình khám phá khoa học thông qua thám hiểm hàng hải khắp thế giới. Triết học Khai sáng làm xói mòn quyền lực và sự ủng hộ dành cho chế độ quân chủ, giúp mở đường cho Cách mạng Pháp.
question_55
Trần Quốc Tuấn đã nói gì với vua Trần khi cuộc chiến chống quân Mông Nguyên lần ba nổ ra?
doc_55
Thắng lợi năm 1285 cơ bản xác định sự tồn tại của Đại Việt và củng cố lòng tin của người Việt có thể đương đầu được với đạo quân hùng mạnh của Mông Nguyên liền kề phía bắc. Bởi vậy trong lần kháng chiến thứ 3 chống Mông Nguyên năm 1287, Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn nói với vua Trần: "...Quân ta đã quen việc chiến trận, mà quân nó thì sợ phải đi xa... Theo như thần thấy, phá được chúng là điều chắc chắn". Nhà Trần tiếp tục chủ động áp dụng chiến thuật tránh thế mạnh, triệt lương thảo. Cuối cùng quân Trần đại phá quân Nguyên ở sông Bạch Đằng tháng 4 năm 1288, bắt sống Nguyên soái Ô Mã Nhi, Phàn Tiếp, Tích Lệ Cơ. Thoát Hoan một lần nữa trốn chạy về bắc.
doc_5046;;;;;doc_2676;;;;;doc_488;;;;;doc_1900;;;;;doc_996
Dưới triều Trần, lực lượng quân đội đặc biệt được chú trọng phát triển đủ sức đánh dẹp các cuộc nội loạn và đương đầu với quân đội các nước xung quanh. Lực lượng quân đội nhà Trần thiện chiến nhất là thủy binh, rồi kỵ binh, bộ binh, tượng binh....chính sách chia thực ấp cho các thân tộc trong họ, mỗi thế lực trong dòng tộc đều có quân đội tinh nhuệ là nền tản lớn khiến quân đội nhà Trần tiêu diệt được cuộc xâm phạm của quân đội Nhà Nguyên, Đế quốc Mông Cổ qua 3 lần vào năm 1258, 1285 và 1287. Nhiều tôn thất hoàng gia như Chiêu Minh Đại vương Trần Quang Khải, Chiêu Văn Đại vương Trần Nhật Duật, Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn và Nhân Huệ vương Trần Khánh Dư đều là những tướng cầm quân tài ba, có vai trò quan trọng trong chiến thắng vào năm 1285 và 1287.;;;;;Cuối năm 1257, tướng Mông Cổ là Ngột Lương Hợp Thai (Uriyangqadai hay 兀良合台) mang 3 vạn quân tiến vào nước Đại Việt qua đường Vân Nam. Vua Trần Thái Tông đích thân ra chiến trận. Quân Trần cố gắng chặn nhưng quân Mông Cổ vẫn tiến vào được Thăng Long. Nhân dân Thăng Long theo lệnh của triều đình đã thực hiện "vườn không nhà trống", rút về Thiên Mạc (Hà Nam). Ngột Lương Hợp Thai kéo quân vào Thăng Long chưa đầy 1 tháng thì bị thiếu lương thực. Nhân cơ hội đó quân Đại Việt phản công ở Đông Bộ Đầu (Từ Liêm-Hà Nội). Quân Mông Cổ thua phải rút khỏi Thăng Long, đến vùng Quy Hóa (Yên Bái) bị quân của tộc trưởng Hà Bổng đánh tan tác, quân Mông Cổ rút chạy về Vân Nam.;;;;;Mông - Nguyên đương thời là đế quốc lớn nhất thế giới. Những nơi người Mông bại trận lúc đó như Ai Cập quá xa xôi, Nhật Bản và Indonesia đều có biển cả ngăn cách và quân Mông cũng không có sở trường đánh thủy quân nên mới bị thua trận. Thế nhưng nước Đại Việt lúc đó nằm liền kề trên đại lục Trung Hoa, chung đường biên giới cả ngàn dặm với người Mông mà người Mông vẫn không đánh chiếm được. Một đế quốc đã nằm trùm cả đại lục Á-Âu mà không lấy nổi một dải đất bé nhỏ ở phía nam. Có so sánh tương quan lực lượng với kẻ địch và vị trí địa lý với những quốc gia làm được điều tương tự mới thấy được sự vĩ đại của chiến công 3 lần đánh đuổi Mông - Nguyên của nhà Trần.;;;;;Năm 1209, khi trong triều có biến loạn, vua Lý Cao Tông phải chạy lên Quy Hoá, Thái tử Lý Sảm (李旵) chạy về Hải Ấp đã được gia đình Trần Lý giúp đỡ. Hoàng tử Sảm đã kết duyên cùng Trần Thị Dung - con gái của Trần Lý. Họ Trần đã tập hợp hương binh giúp nhà Lý dẹp loạn, diệt trừ Quách Bốc, đưa vua Lý trở lại kinh đô. Cậu ruột Trần Thị Dung là Tô Trung Từ được làm Điện tiền chỉ huy sứ. Trung Từ lại đang tâm muốn nắm quyền riêng, lạnh nhạt với người đứng đầu chỉ huy họ Trần lúc bấy giờ là Trần Tự Khánh.;;;;;Vào đời nhà Trần, quân của Ai Lao thường sang quấy phá cướp bóc ở vùng Nghệ An và Thanh Hóa. Vì thế triều đình đã phải sai quân lính đi đánh dẹp mãi và chính các vị vua phải thân chinh đi dẹp giặc, trong đó nhiều nhất phải kể đến vua Trần Nhân Tông. Mỗi lần bị thua thì quân Ai Lao rút về, nhưng sau đó thì lại sang quấy phá. Trong đời vua Trần Anh Tông, ông cũng nhiều lần thân chinh đi dẹp giặc nhưng ông cũng đã ra lệnh cho Phạm Ngũ Lão hơn ba, bốn phen đi dẹp giặc. Vua Trần Minh Tông cũng nhiều phen thân chinh đi dẹp giặc. Trong triều đại nhà Trần, mục đích của Đại Việt là dẹp các cuộc đánh phá và quấy nhiễu của quân Ai Lao chứ không có mục đích đánh chiếm lấy đất nước này.
question_56
Hiện tượng carxtơ tại đây không giống với các khu vực ôn đới về yếu tố gì?
doc_56
So với các khu vực carxtơ khác trên thế giới đã được công nhận là di sản thế giới, khu vực Phong Nha-Kẻ Bàng có đặc điểm tự nhiên có nhiều dị biệt do điều kiện khí hậu và cấu trúc địa chất khác nhau. Khu vực Phong Nha-Kẻ Bàng nằm trong vành đai tạo núi Alpi, một đai núi trẻ phát triển mạnh mẽ vào thời kỳ Đại Tân sinh. Vì vậy, các khối đá vôi tại khu vực này bị biến dạng cơ học khá mạnh do đứt gãy. Khí hậu khu vực này là nhiệt đới gió mùa nên các hiện tượng carxtơ tại đây không giống với các khu vực ôn đới về cường độ quá trình carxtơ cũng như các dạng địa hình mà nó tạo ra trên bề mặt và khu vực ngầm.
doc_1456;;;;;doc_2685;;;;;doc_7881;;;;;doc_708;;;;;doc_385
Phong Nha-Kẻ Bàng có một cấu trúc địa chất phức tạp, với lịch sử phát triển vỏ Trái Đất từ thời kỳ kỷ Ordovicia (464 Ma). Điều này đã tạo ra ba loại địa hình và địa mạo. Một trong số đó là các kiến tạo không phải carxtơ với các ngọn núi thấp tròn với các thềm đất tích tụ mài mòn dọc theo các thung lũng sông Son và sông Chay và tại các mép khối núi đá vôi trung tâm. Loại kiến tạo lớn khác là các kiến tạo carxtơ có đặc trưng là các carxtơ nhiệt đới cổ chủ yếu là từ Đại Trung sinh, nhưng 2/3 của khu vực này là carxtơ từ Đại Tân sinh. Đá vôi chiếm một diện tích khoảng 200.000 ha, với một khu vực tương tự ở tỉnh Khammuane của Lào. Quá trình kiến tạo carxtơ đã tạo ra nhiều đặc điểm như các sông ngầm, các động khô, các động bậc thang, động treo, động hình cây và động cắt chéo nhau. Các động có sông được chia thành 9 động của hệ thống Phong Nha đổ vào sông Son và 8 động của hệ thống động Vòm đổ vào sông Chay.;;;;;Vườn quốc gia Phong Nha-Kẻ Bàng là một trong hai khu vực đá vôi lớn nhất thế giới. So với 41 di sản thế giới khác có carxtơ, Phong Nha-Kẻ Bàng có các điều kiện địa hình, địa mạo và sinh vật khác biệt. Carxtơ tại đây có niên đại từ thời kỳ Đại Cổ Sinh, 400 triệu năm trước, do đó Phong Nha-Kẻ Bàng là vùng carxtơ lớn cổ nhất châu Á. Nếu như khu vực Hin Namno, một khu vực bảo tồn tự nhiên của tỉnh Khăm Muộn, Lào, giáp Phong Nha-Kẻ Bàng về phía tây được kết hợp thành một khu bảo tồn liên tục, thì khu vực bảo tồn này sẽ là khu rừng carxtơ còn tồn tại lớn nhất ở Đông Nam Á với diện tích 317.754 ha.;;;;;Ở vùng viễn đông của bang, sa mạc Chihuahuan chiếm ưu thế do lượng mưa thấp và nhiệt độ cực cao; một số khu vực phía đông của bang khô đến mức không có thảm thực vật nào được tìm thấy như Cồn cát Samalayuca. Có hai vùng khí hậu đặc biệt được tìm thấy ở phần phía đông của bang: Sa mạc nóng (BWh) và Sa mạc mát (BWk) được phân biệt bởi nhiệt độ trung bình hàng năm do sự khác biệt về độ cao. Có một vùng chuyển tiếp ở giữa bang giữa hai vùng khí hậu cực kỳ khác nhau từ phía đông và phía tây; vùng này là thảo nguyên được đặc trưng bởi sự dung hòa giữa các vùng khí hậu liền kề nhau.;;;;;Mặc dù việc nhiệt độ giảm theo độ cao là xu hướng chung trong tầng đối lưu, thực tế đôi khi có ngoại lệ, gọi là hiện tượng nghịch nhiệt. Ví dụ ở châu Nam Cực, nhiệt độ tăng khi lên cao. Một ví dụ khác, hàng năm, xung quanh Hà Nội, Việt Nam, về đầu mùa đông có những đợt nghịch nhiệt về ban đêm, thường xảy ra vài ngày sau khi gió mùa đông bắc tràn về và kéo dài cho đến khi gió thịnh hành chuyển sang hướng đông nam và lặp lại khi có đợt gió mùa mới. Trong điều kiện nghịch nhiệt, khí thải từ hoạt động công nghiệp và nông nghiệp bị ứ đọng ở tầng thấp, không tỏa đi được, do chúng lạnh và nặng hơn các lớp khí bên trên.;;;;;Hệ thống đứt gãy chằng chịt trên mặt đá vôi tại khu vực Phong Nha-Kẻ Bàng đã tạo điều kiện cho nước dễ thấm vào các khối đá làm tăng khả năng hòa tan do trong nước có chứa các chất axít có phản ứng với đá vôi (cácbonat canxi). Hệ thống hang động hùng vĩ của Phong Nha được tạo ra do quá trình các khe nứt kiến tạo, sau đó là quá trình phong hoá vật lý và hoá học đã gặm mòn, hoà tan, rửa trôi qua hàng triệu năm. Trong điều kiện nhiệt đới ẩm, quá trình carxtơ hoá rất mạnh mẽ về cường độ và tốc độ phá huỷ. Ngoài hệ thống núi đá vôi, vùng núi đất có nền đá mẹ chủ yếu là đá mácma axít, đá sét, đá biến chất và phù sa cổ.
question_57
Loài chim nào được thuần hóa làm chim săn truyền thống của Ả Rập Xê Út?
doc_57
Bóng đá là môn thể thao quốc gia tại Ả Rập Xê Út. Lặn biển, lướt ván buồm, thuyền buồm và bóng rổ cũng phổ biến, được cả nam giới và nữ giới chơi, và đội tuyển bóng rổ quốc gia Ả Rập Xê Út từng giành huy chương đồng tại giải vô địch châu Á năm 1999. Các môn thể thao truyền thống hơn như đua lạc đà trở nên phổ biến hơn trong thập niên 1970. Một sân vận động tại Riyadh tổ chức các cuộc đua lạc đà trong mùa đông. Giải đua lạc đà Quốc vương được tổ chức thường niên từ năm 1974, là một trong các cuộc thi quan trọng nhất và thu hút động vật và tay đua từ khắp khu vực. Việc đi săn bằng chim ưng cũng là một việc truyền thống và vẫn được thực hiện.
doc_753;;;;;doc_9675;;;;;doc_9348;;;;;doc_3559;;;;;doc_4466
Đời sống động vật gồm các loài như chó sói Ả Rập, linh cẩu vằn, cầy Mangut, khỉ đầu chó, thỏ sa mạc, cuột cát, chuột nhảy. Các loài động vật lớn như linh dương Gazelle, linh dương sừng kiếm, và báo có số lượng tương đối nhiều cho đến thập niên 1950, song săn bắn bằng ô tô làm giảm số lượng các loài này đến mức gần tuyệt chủng. Các loài chim bao gồm chim cắt (bị bắt và huấn luyện để săn bắt), đại bàng, diều hâu, kền kền, gà gô cát và chào mào. Ả Rập Xê Út có một số loài rắn trong đó nhiều loài có độc, và một số loài thằn lằn. Hệ sinh vật biển tại vịnh Ba Tư đa dạng. Các động vật được thuần hoá gồm lạc đà một bướu, dê, cừu, lừa và gà. Do có điều kiện sa mạc, hệ thực vật Ả Rập Xê Út hầu hết là các cây thân thảo và cây bụi nhỏ cần ít nước. Cũng có một số khu vực đồng cỏ và cây với quy mô nhỏ tại miền nam Asir. Chà là là loài cây phổ biến.;;;;;Tiểu bang này cũng là nơi sinh sống của một số lượng lớn các loài chim bao gồm các loài đặc hữu và các loài di cư: Geococcyx californianus, xương rồng xương rồng Campylorhynchus brunneicapillus, giẻ cùi Mexico Aphelocoma ultramarina, giẻ cùi Steller Cyanocitta stelleri, chim gõ kiến Melanerpes formicivorus, hẻm núi towhee Pipilo fuscus, chim bồ câu tang Zenaida macroura, chim ruồi mỏ rộng Cynanthus latirostris, chim cút Montezuma Cyrtonyx montezumae, trogon núi Trogon mexicanus, kền kền gà tây hào quang Cathartes và đại bàng vàng Aquila chrysaetos. Trogon mexicanus là loài đặc hữu được tìm thấy ở vùng núi ở Mexico; nó được coi là một loài có nguy cơ tuyệt chủng[cần dẫn nguồn] và có ý nghĩa biểu tượng đối với người Mexico.;;;;;Hình ảnh di cư điển hình là các loài chim đất phương Bắc như chim én (Hirundinidae) và chim săn mồi thực hiện những chuyến bay dài đến vùng nhiệt đới. Tuy nhiên, nhiều loài chim hoang dã Holarctic và chim sẻ (Fringillidae) trú đông ở Vùng ôn đới phía Bắc, ở những vùng có mùa đông ôn hòa hơn nơi sinh sản vào mùa hè của chúng. Ví dụ, loài ngỗng chân hồng Anser brachyrhynchus di cư từ Iceland đến Anh và các nước lân cận, trong khi loài junco Junco hyemalis mắt đen di cư từ vùng khí hậu cận Bắc Cực và Bắc Cực đến Hoa Kỳ tiếp giáp và loài chim sẻ vàng Mỹ từ rừng taiga đến khu vực trú đông kéo dài từ Nam Mỹ về phía tây bắc đến Tây Oregon. Các tuyến đường di cư và nơi trú đông là truyền thống và được trẻ em học hỏi trong lần di cư đầu tiên cùng với cha mẹ. Một số loài vịt, chẳng hạn như loài vịt garganey Anas querquedula, di chuyển hoàn toàn hoặc một phần vào vùng nhiệt đới. Đớp ruồi châu Âu Ficedula hypoleuca cũng theo xu hướng di cư này, sinh sản ở châu Á và châu Âu và trú đông ở châu Phi.;;;;;Lãnh thổ Ả Rập Xê Út ngày nay khi xưa là 4 khu vực riêng biệt: Hejaz, Najd, bộ phận của Đông Ả Rập (Al-Ahsa) và Nam Ả Rập ('Asir). Vương quốc Ả Rập Xê Út được Ibn Saud thành lập vào năm 1932, "Saud" bắt nguồn từ hoàng tộc Saud, thể hiện quan điểm quốc gia là tài sản cá nhân của hoàng tộc. Ibn Saud thống nhất bốn khu vực thành một quốc gia duy nhất thông qua một loạt cuộc chinh phạt bắt đầu từ năm 1902. Ả Rập Xê Út từ đó là một quốc gia quân chủ chuyên chế, thực chất là một chế độ độc tài thế tập do các dòng Hồi giáo cai trị. Phong trào tôn giáo Wahhabi cực bảo thủ thuộc phái Hồi giáo Sunni được gọi là "đặc điểm nổi bật của văn hóa Ả Rập Xê Út", được truyền bá toàn cầu phần lớn nhờ tài trợ từ mậu dịch dầu khí. Ả Rập Xê Út đôi khi được gọi là "Vùng đất Hai Thánh đường" để ám chỉ Al-Masjid al-Haram (tại Mecca), và Al-Masjid an-Nabawi (tại Medina), đó là hai địa điểm linh thiêng nhất trong Hồi giáo. Ả Rập Xê Út có tổng dân số là 28,7 triệu vào năm 2013, trong đó 20 triệu người là công dân Ả Rập Xê Út và 8 triệu người là ngoại kiều. Ngôn ngữ chính thức quốc gia là tiếng Ả Rập.;;;;;Ẩm thực Ả Rập Xê Út tương tự như các quốc gia xung quanh trên bán đảo Ả Rập, và chịu ảnh hưởng từ đồ ăn Thổ Nhĩ Kỳ, Ấn Độ, Ba Tư và châu Phi. Luật chế độ ăn uống Hồi giáo được thi hành, theo đó thịt lợn là bất hợp pháp và các loại động vật khác phải được giết mổ phù hợp với halal. Một món ăn gồm thịt cừu non mang tên khūzī là món ăn dân tộc truyền thống. Các món Kebab được phổ biến, như shāwarmā (shawarma), một món thịt ướp nướng gồm thịt cừu hoặc thịt gà. Giống như tại các quốc gia khác trên bán đảo Ả Rập, một món cơm với cá hoặc tôm gọi là machbūs (kabsa) được phổ biến. Bánh mì dẹt, không men là thành phần chủ yếu của gần như mọi bữa ăn, giống như chà là và nước hoa quả. Cà phê theo phong cách Thổ Nhĩ Kỳ là loại đồ uống truyền thống.
question_58
Cuộc trấn áp chính trị do Quốc dân Đảng lãnh đạo đã làm chết bao nhiêu người?
doc_58
Sau khi Nhật Bản đầu hàng năm 1945, Đài Loan trở về dưới quyền cai trị của Trung Hoa Dân Quốc vào ngày 25 tháng 10 năm 1945. Xung đột giữa người Đài Loan bản địa và người đến từ Trung Quốc Đại lục gia tăng sau khi Nhật Bản đầu hàng, đỉnh điểm là cuộc khởi nghĩa đổ máu của người bản địa bị quân đội của Quốc dân Đảng trấn áp vào ngày 28 tháng 2 năm 1947. Do hậu quả từ sự kiện này, người Đài Loan phải chịu đựng "Khủng bố trắng", một cuộc trấn áp chính trị do Quốc dân Đảng lãnh đạo làm chết hoặc mất tích trên 30.000 tri thức, nhà hoạt động Đài Loan và những người Đài Loan bị nghi là chống đối Quốc dân Đảng.
doc_3399;;;;;doc_491;;;;;doc_4465;;;;;doc_3313;;;;;doc_3992
Thành viên có thế lực nhất của đảng là Tống Giáo Nhân, ông huy động ủng hộ lớn từ giới thân sĩ và thương nhân cho Quốc dân Đảng nhằm chủ trương một chế độ dân chủ nghị viện lập hiến. Đảng phản đối phái chủ nghĩa quân chủ lập hiến và tìm cách kiềm chế quyền lực của Viên Thế Khải. Quốc dân Đảng giành được số ghế nhiều nhất trong bầu cử quốc hội lần thứ nhất vào tháng 12 năm 1912-tháng 1 năm 1913. Tuy nhiên, Viên Thế Khải nhanh chóng bắt đầu bác bỏ quốc hội trong các quyết định. Tống Giáo Nhân bị ám sát tại Thượng Hải vào năm 1913. Các thành viên của Quốc dân Đảng dưới quyền Tôn Trung Sơn nghi ngờ Viên Thế Khải đứng sau âm mưu nên họ tổ chức Cách mạng thứ hai vào tháng 7 năm 1913 song thất bại. Viên Thế Khải tuyên bố Quốc dân Đảng tiến hành lật đổ và phản bội, ra lệnh trục xuất thành viên của Quốc dân Đảng khỏi Quốc hội. Viên Thế Khải cho giải tán Quốc dân Đảng vào tháng 11 (một phần lớn thành viên của đảng đào thoát sang Nhật Bản) và giải tán quốc hội vào đầu năm 1914.;;;;;Mao Trạch Đông khuyến khích tăng trưởng dân số, cùng với các tiến bộ về y tế, nông nghiệp đã khiến dân số Trung Quốc tăng từ khoảng 550 triệu lên trên 900 triệu trong thời gian ông lãnh đạo. Các chính sách mới về kinh tế, giáo dục đã nâng cao đời sống nhân dân. Tuy nhiên, kế hoạch cải cách kinh tế và xã hội quy mô lớn mang tên Đại nhảy vọt bị thất bại đã khiến kinh tế đình đốn, hàng chục triệu người thiệt mạng từ năm 1958 đến năm 1961, hầu hết là do nạn đói. Từ 1 đến 2 triệu địa chủ bị xử bắn vì tội phản cách mạng Năm 1966, Mao Trạch Đông cùng các đồng minh của ông tiến hành Đại cách mạng Văn hóa, kéo theo một giai đoạn tố cáo chính trị lẫn nhau và biến động xã hội kéo dài đến khi Mao Trạch Đông từ trần vào năm 1976. Trong tháng 10 năm 1971, nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa thay thế Trung Hoa Dân Quốc tại Liên Hiệp Quốc, giành được ghế một ủy viên thường trực của Hội đồng Bảo an.;;;;;Sau khi Viên Thế Khải mất năm 1916, Trung Quốc bị tan vỡ về chính trị. Chính phủ đặt tại Bắc Kinh được quốc tế công nhận song bất lực trên thực tế; các quân phiệt địa phương kiểm soát hầu hết lãnh thổ. Đến cuối thập niên 1920, Quốc dân đảng dưới sự lãnh đạo của Tưởng Giới Thạch thống nhất quốc gia dưới quyền quản lý của họ sau một loạt hành động khéo léo về quân sự và chính trị, được gọi chung là Bắc phạt. Tuy nhiên, các quân phiệt địa phương vẫn chưa bị loại trừ hoàn toàn, họ vẫn nắm quyền tại nhiều địa phương và chỉ trung thành với chính phủ trung ương Quốc dân đảng trên danh nghĩa.;;;;;Tôn Trung Sơn mất vào năm 1925, quyền lãnh đạo chính trị của Trung Quốc Quốc dân Đảng thuộc về Uông Tinh Vệ và Hồ Hán Dân, lần lượt là thủ lĩnh của phái tả và phái hữu trong đảng. Tuy nhiên, quyền lực thực tế nằm trong tay Tưởng Giới Thạch, ông là hiệu trưởng Trường Quân sự Hoàng Phố, và gần như kiểm soát hoàn toàn quân đội. Nhờ ưu thế về quân sự, Tưởng Giới Thạch lãnh đạo thầy trò Trường quân sự Hoàng Phố phát động Đông chinh, bình định Quảng Đông, thành lập Chính phủ Quốc dân tại Quảng Châu. Quốc dân Đảng lúc này trở thành một chính quyền đối địch với Chính phủ Bắc Dương đặt tại Bắc Kinh.;;;;;Sau đó, lúc 7h sáng ngày 12/7/1946, Việt Nam Công an vụ thực hiện phá vụ án phố Ôn Như Hầu. Chỉ đạo trực tiếp lực lượng công an phá vụ án này là các ông Lê Giản (Giám đốc Nha Công an Bắc bộ), Nguyễn Tuấn Thức (Giám đốc Công an Hà Nội) và Nguyễn Tạo (Trưởng nha Điệp báo Công an Trung ương). Lực lượng công an xung phong đã thực hiện khám xét các trụ sở Việt Nam Quốc dân Đảng (7 căn nhà) tại Hà Nội, bắt tại chỗ nhiều thành viên của Việt Nam Quốc dân Đảng cùng nhiều tang vật như truyền đơn, vũ khí, dụng cụ tra tấn, đồng thời phát hiện nhiều xác chết tại đó... Hơn 100 người bị bắt và một số người biến mất không dấu vết. Trong số các thành viên của Quốc dân Đảng bị bắt có một đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa I là Phan Kích Nam. Theo điều tra của Nha công an, Việt Nam Quốc dân Đảng đang chuẩn bị những hành động khiêu khích rất nghiêm trọng. Dự định các thành viên của Việt Nam Quốc dân Đảng sẽ phục sẵn dọc đường quân Pháp diễu qua nhân ngày quốc khánh Pháp, bắn súng, ném lựu đạn để tạo ra những chuyện rắc rối giữa Pháp và Chính phủ, gây sự phá hoại hòa bình rồi tung truyền đơn hô hào lật đổ chính quyền và sau đó đứng ra bắt tay với Pháp.
question_59
Số lượng tín đồ Hồi giáo phi giáo phái là bao nhiêu trong tổng số những tín đồ Hồi giáo nói chung?
doc_59
Hiến pháp Malaysia đảm bảo quyền tự do tôn giáo trong khi xác định Hồi giáo là quốc giáo. Theo số liệu từ Điều tra dân số và nhà ở năm 2010, có sự tương liên cao giữa dân tộc và tôn giáo. Xấp xỉ 61,3% dân số thực hành Hồi giáo, 19,8% thực hành Phật giáo, 9,2% thực hành Ki-tô giáo, 6,3% thực hành Ấn Độ giáo và 1,3% thực hành Nho giáo, Đạo giáo và các tôn giáo truyền thống Trung Hoa. 0,7% tuyên bố là người không tôn giáo và 1,4% còn lại thực hành các tôn giáo khác hoặc không cung cấp thông tin nào. Trong số tín đồ Hồi giáo, tín đồ phái Sunni chiếm đa số trong khi tín đồ Hồi giáo phi giáo phái là nhóm đông thứ hai với 18%.
doc_4033;;;;;doc_4788;;;;;doc_2386;;;;;doc_1475;;;;;doc_9354
Hồi giáo là tôn giáo chiếm ưu thế tại Thổ Nhĩ Kỳ với 99,8% cư dân đăng ký là tín đồ Hồi giáo. trong khi một số nguồn đưa ra một ước tính thấp hơn là 96,4%, trong đó giáo phái phổ biến nhất là phái Hanafi của Hồi giáo Sunni. Quyền lực tôn giáo Hồi giáo tối cao thuộc về Chủ tịch sự vụ tôn giáo (tiếng Thổ Nhĩ Kỳ: Diyanet İşleri Başkanlığı); chịu trách nhiệm quản lý hoạt động của khoảng 80.000 thánh đường có đăng ký trên toàn quốc và sử dụng các imam địa phương và cấp tỉnh. Các nguồn hàn lâm đề xuất số tín đồ phái Alevi có thể là từ 15 đến 20 triệu, và theo tạp chí Aksiyon thì số lượng tín đồ phái Imamiyyah (bao gồm Alevi) thuộc Hồi giáo Shia là 3 triệu (4,2%). Thổ Nhĩ Kỳ cũng có một số tín đồ phái Sufi của Hồi giáo. Khoảng 2% cư dân Thổ Nhĩ Kỳ là người Hồi giáo phi giáo phái.;;;;;Hồi giáo là quốc giáo của Ả Rập Xê Út và pháp luật vương quốc yêu cầu rằng toàn bộ công dân là tín đồ Hồi giáo., và gần như toàn bộ cư dân Ả Rập Xê Út là người Hồi giáo. Khu vực Hejaz có các thành phố Mecca và Medina là cái nôi của Hồi giáo, là điểm đến trong cuộc hành hương hajj, là hai thánh địa của Hồi giáo. Theo ước tính số lượng tín đồ hệ Hồi giáo Sunni tại Ả Rập Xê Út là từ 75% đến 90%, 10–25% còn lại thuộc hệ Hồi giáo Shia. Thể thức chính thức và chi phối của hệ Hồi giáo Sunni tại Ả Rập Xê Út thường được gọi là Wahhabi (những người đề xướng chuộng tên gọi tư tưởng Salafi, nhìn nhận Wahhabi là xúc phạm) và thường được các nhà quan sát mô tả là 'chủ nghĩa đạo đức', 'không khoan dung', hay 'cực bảo thủ', còn các tín đồ xem đây là Hồi giáo "đích thực". Phái này do Muhammad ibn Abd al-Wahhab thành lập trong thế kỷ XVIII tại bán đảo Ả Rập. Các phái khác như Hồi giáo Shia thiểu số bị đàn áp có hệ thống. do tư tưởng Wahabbi lên án đức tin Shia.;;;;;Theo ước tính có khoảng 1,5 triệu tín đồ Cơ Đốc giáo tại Ả Rập Xê Út, gần như toàn bộ là công nhân nước ngoài. Ả Rập Xê Út cho phép người Cơ Đốc giáo nhập cảnh với tư cách công nhân nước ngoài để làm việc tạm thời, song không cho phép họ hành lễ công khai. Tỷ lệ công dân Ả Rập Xê Út theo Cơ Đốc giáo về chính thức là không có, do công dân bị cấm cải đạo khỏi Hồi giáo và nếu vi phạm sẽ bị tử hình. Bất chấp điều đó, một nghiên cứu vào năm 2015 ước tính rằng có 60.000 người Hồi giáo cải sang Cơ Đốc giáo tại Ả Rập Xê Út. Theo Trung tâm Nghiên cứu Pew thì có 390.000 tín đồ Ấn Độ giáo tại Ả Rập Xê Út, gần như toàn bộ là công nhân nước ngoài. Theo pháp lý từ năm 2014, Người vô thần sẽ bị xác định là phần tử khủng bố.;;;;;Tính đến ngày 1 tháng 4 năm 2009, toàn thành phố có 13 Tôn giáo khác nhau đạt 1.983.048 người, nhiều nhất là Phật giáo có 1.164.930 người, tiếp theo là Công giáo đạt 745.283 người, đạo Cao Đài chiếm 31.633 người, Đạo Tin lành có 27.016 người, Hồi giáo chiếm 6.580 người, Phật giáo Hòa Hảo đạt 4.894 người, Tịnh độ cư sĩ Phật hội Việt Nam có 1.387 người. Còn lại các tôn giáo khác như Ấn giáo có 395 người, Đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa có 298 người, Minh Sư Đạo có 283 người, đạo Bahá'í có 192 người, Bửu Sơn Kỳ Hương 89 người và 67 người theo Minh Lý Đạo.;;;;;Theo khảo sát của Trung tâm Nghiên cứu Pew năm 2012, nếu xu hướng hiện tại tiếp tục, Cơ đốc giáo sẽ vẫn là tôn giáo lớn nhất thế giới vào năm 2050. Đến năm 2050, dân số Cơ đốc giáo dự kiến sẽ vượt quá 3 tỷ người. Trong khi người Hồi giáo có trung bình 3,1 con trên một phụ nữ - tỷ lệ cao nhất trong tất cả các nhóm tôn giáo. Kitô hữu đứng thứ hai, với 2,7 trẻ em trên một phụ nữ. Tỷ lệ sinh cao và sự cải đạo được coi là lý do khiến dân số theo đạo Cơ đốc tăng lên. Một nghiên cứu năm 2015 cho thấy khoảng 10,2 triệu người Hồi giáo đã chuyển sang Cơ đốc giáo. Kitô giáo đang phát triển ở Châu Phi, Châu Á, Châu Mỹ Latinh, thế giới Hồi giáo và Châu Đại Dương.
question_60
Chữ cái Latinh Rōmaji được sử dụng ở nơi nào?
doc_60
Tiếng Nhật được viết trong sự phối hợp ba kiểu chữ: chữ Hán hay Kanji và hai kiểu chữ đơn âm mềm Hiragana (Bình Giá Danh) và đơn âm cứng Katakana (Phiến Giá Danh). Kanji dùng để viết các từ Hán (mượn của Trung Quốc) hoặc các từ người Nhật dùng chữ Hán để thể hiện rõ nghĩa. Hiragana dùng để ghi các từ gốc Nhật và các thành tố ngữ pháp như trợ từ, trợ động từ, đuôi động từ, tính từ,… Katakana dùng để phiên âm từ vựng nước ngoài, trừ tiếng Trung và từ vựng của một số nước dùng chữ Hán khác. Bảng ký tự Latinh Rōmaji cũng được dùng trong tiếng Nhật hiện đại, đặc biệt là ở tên và biểu trưng của các công ty, quảng cáo, nhãn hiệu hàng hóa, khi nhập tiếng Nhật vào máy tính và được dạy ở cấp tiểu học nhưng chỉ có tính thí điểm. Số Ả Rập theo kiểu phương Tây được dùng để ghi số, nhưng cách viết số theo ngữ hệ Hán-Nhật cũng rất phổ biến.
doc_1146;;;;;doc_8907;;;;;doc_5955;;;;;doc_6930;;;;;doc_7153
Đóng góp lịch sử của Roma cho ngôn ngữ của toàn cầu còn rộng hơn nhiều, thông qua quá trình La Mã hoá, cư dân Ý, Gallia (Pháp), bán đảo Iberia và Dacia (Romania) phát triển các ngôn ngữ bắt nguồn trực tiếp từ tiếng Latinh, và được sử dụng tại nhiều phần rộng lớn trên thế giới thông qua ảnh hưởng văn hoá, thuộc địa hoá và di cư. Ngoài ra, nó còn ảnh hưởng đến tiếng Anh hiện đại, do người Norman khi chinh phục Anh đã đem theo một tỷ lệ lớn từ vựng mà họ mượn từ tiếng Latinh. Chữ cái Latinh là hệ thống chữ viết phổ biến nhất trên thế giới xét về số lượng ngôn ngữ.;;;;;Hầu hết các ngôn ngữ phương Tây (đặc biệt là những ngôn ngữ có hệ thống chữ viết dựa trên bảng chữ cái Latinh, Cyrillic, Hy Lạp, Coptic và Armenia) đều sử dụng cách viết hoa chữ cái trong dạng viết của chúng để giúp cho văn bản rõ ràng hơn. Chữ viết sử dụng hai trường hợp riêng biệt còn được gọi là chữ viết lưỡng viện. Nhiều hệ thống chữ viết khác không phân biệt chữ viết nhỏ và chữ nhỏ – một hệ thống được gọi là chữ viết đơn viện hoặc chữ viết đơn. Điều này bao gồm hầu hết các chữ viết có âm tiết và không phải chữ cái khác. Bảng chữ cái Georgia rất đặc biệt vì trước đây nó có hệ thống lưỡng viện, nhưng ngày nay hầu hết được sử dụng theo cách đơn viện.;;;;;Có một khuynh hướng ngôn ngữ để sử dụng những thuật ngữ như vậy. Người La Mã đã sử dụng chúng ở gần Gaul/xa Gaul, gần Tây Ban Nha/xa Tây Ban Nha và những nơi khác. Trước họ, người Hy Lạp đã có thói quen xuất hiện trong Linear B, chữ viết cổ nhất được biết đến ở châu Âu, đề cập đến tỉnh gần và tỉnh xa của vương quốc Pylos. Thông thường những thuật ngữ này được đưa ra có liên quan đến một đặc điểm địa lý, chẳng hạn như dãy núi hoặc dòng sông.;;;;;Ngôn ngữ tiêu chuẩn Slavic là ngôn ngữ chính thức ở ít nhất một quốc gia: tiếng Belarus, tiếng Bosnia, tiếng Bungari, tiếng Croatia, tiếng Séc, tiếng Macedonia, tiếng Montenegro, tiếng Ba Lan, tiếng Nga, tiếng Serbia, tiếng Slovak, tiếng Slovene và tiếng Ukraina. Bảng chữ cái phụ thuộc vào tôn giáo thông thường của các nhóm dân tộc Slav tương ứng. Chính thống giáo sử dụng bảng chữ cái Cyrillic và người Công giáo La Mã sử dụng bảng chữ cái Latinh, người Bosniak theo đạo Hồi cũng sử dụng bảng chữ cái Latinh. Tuy nhiên, rất ít người Công giáo La Mã và La Mã ở Hy Lạp sử dụng bảng chữ cái Cyrillic. Tiếng Serbia và tiếng Montenegro sử dụng cả bảng chữ cái Cyrillic và Latin. Ngoài ra còn có một loại chữ Latinh để viết bằng tiếng Belarus, được gọi là bảng chữ cái Lacinka.;;;;;Chữ Brahmi đã phát triển thành nhiều loại chữ viết Brahmic, nhiều trong số đó được dùng để viết tiếng Phạn. Gần như cùng thời với người Brahmi, Kharosthi được sử dụng ở phía tây bắc tiểu lục địa. Vào khoảng giữa thế kỷ thứ tư và thứ tám, chữ viết Gupta, bắt nguồn từ Brahmi, đã trở nên phổ biến. Khoảng thế kỷ thứ tám, chữ Śāradā phát triển từ chữ Gupta. Sau này đến lượt nó bị Devanagari thay thế vào thế kỷ 11 hoặc 12, với các giai đoạn trung gian như chữ viết Siddhaṃ. Ở Đông Ấn Độ, bảng chữ cái Bengali và sau này là bảng chữ cái Odia đã được sử dụng.
question_61
Nội dung chính của biên niên sử năm 1320 là gì?
doc_61
Những bằng chứng hiện nay ủng hộ quan hệ đồng tính giữa họ xuất phát từ một biên niên sử những năm 1320 mô tả cách mà Edward "cảm thấy như tình yêu" dành cho Gaveston, rằng "ông dính dáng vào một giao ước không thay đổi, và ràng buộc chính ông với ông ta trước tất cả những người khác với một tình yêu bất khả phân li, vững bền quyến rũ và buộc chặt bằng một mối ràng". Những gợi ý cụ thể đầu tiên rằng Edward có quan hệ với đàn ông được ghi nhận vào năm 1334 khi Adam Orleton, Giám mục Winchester, bị buộc tội vào năm 1326 đã ghi là Edward là một "người kê gian", mặc dù Orleton tự bào chữa bằng cách nói rằng ý của ông là cố vấn của Edward, Hugh Despenser trẻ, là người kê gian, chứ không phải là vị vua quá cố. Meaux Chronicle từ những năm 1390 chỉ ghi đơn giản rằng Edward tự ông có "quá nhiều hành vi kê gian."
doc_18;;;;;doc_4921;;;;;doc_5594;;;;;doc_4499;;;;;doc_4529
Nhà vua và Nghị viện họp một lần nữa vào tháng 2 năm 1310, và những cuộc thảo luận về chính sách ở Scotland được thay thế bằng các cuộc tranh luận về những vấn đề trong nước. Edward được kiến nghị phải bãi chức cố vấn của Gaveston và thay vào đó làm theo lời khuyên của 21 nam tước sẽ được bầu cử ra, gọi là Ordainers, thực hiện những cải cách sâu rộng đối với cả chính phủ và gia đình hoàng gia. Dưới áp lực rất lớn, Edward đồng ý với đề xuất này và Ordainers được bầu ra, có sự phân chia đồng đều giữa những người cải cách và những người bảo thủ. Trong khi những người Ordainers bắt đầu kế hoạch cải cách của họ, Edward và Gaveston dẫn một đội quân mới của họ gồm 4,700 người đến Scotland, nơi mà tình hình quân sự tiếp tục xấu đi. Robert the Bruce từ chối tham chiến và chiến dịch tiến triển không có hiệu quả qua mùa đông cho đến khi quân nhu và tài chính cạn kiệt năm 1311, buộc Edward trở về miền nam.;;;;;Những khó khăn của Edward càng trầm trọng thêm bởi vấn đề nông nghiệp của Anh, một phần của một tai họa lan tràn khắp miền bắc châu Âu được gọi là Nạn đói lớn. Nó bắt đầu bằng những trận mưa không ngớt vào cuối năm 1314, tiếp sau là mùa đông vô cùng khắc nghiệp rồi những cơ mưa lớn vào mùa xuân năm sau đã giết chết rất nhiều cừu và ngựa. Thời tiết tiếp tục diễn biến xấu, không hề giảm sút chút nào, đến năm 1321, kết quả là một chuỗi liên tục những năm mất mùa. Những nguồn thu từ xuất khẩu len giảm mạnh và giá lương thực tăng, bất chấp những nỗ lực điều chỉnh mức giá của chính phủ Edward. Edward kêu gọi những kẻ tích trữ xuất lương thực ra, và cố gắng khuyến khích của nội thương và nhập khẩu ngũ cốc, nhưng không có nhiều thành công. Lệnh trung dụng thực phẩm dự trữ cho hoàng tộc suốt những năm đói kém chỉ làm trầm trọng thêm tình hình.;;;;;Diwan của Umar, ấn định niên kim cho tất cả người Ả Rập và binh lính Hồi giáo thuộc các chủng tộc khác, đã trải qua một sự thay đổi trong tay của Umayyads. Umayyads đã can thiệp vào việc đăng ký và những người nhận coi lương hưu là khoản trợ cấp sinh hoạt ngay cả khi không tại ngũ. Hisham đã cải tổ nó và chỉ trả tiền cho những người tham gia trận chiến. Theo mô hình của hệ thống Byzantine, Umayyads đã cải tổ tổ chức quân đội của họ nói chung và chia thành năm quân đoàn: quân đoàn trung tâm, quân đoàn hai cánh, quân tiên phong và quân hậu quân, theo cùng một đội hình khi hành quân hoặc trên chiến trường. Marwan II (740–50) từ bỏ phân chia cũ và giới thiệu Kurdus (đoàn quân), một nhóm nhỏ gọn. Quân Umayyad được chia thành ba sư đoàn: bộ binh, kỵ binh và pháo binh. Quân đội Ả Rập ăn mặc và trang bị theo phong cách Hy Lạp. Kỵ binh Umayyad sử dụng yên tròn và trơn. Pháo binh sử dụng arradah (ballista), manjaniq (manonel) và dabbabah hoặc kabsh (ram đập). Những động cơ hạng nặng, máy bao vây và hành lý được chở trên lạc đà phía sau quân đội.;;;;;Trong lúc đó, Robert the Bruce thừa dịp mới chiến thắng ở Bannockburn để tấn công miền bắc nước Anh, ban đầu là đánh Carlisle và Berwick, và sau đó tiến đến sâu hơn về phía nam, vào Lancashire và Yorkshire, thậm chí đe dọa cả thành York. Edward chiến hành một chiến dịch tốn kém nhưng không thành công nhằm ngăn chặn quân xâm lược năm 1319, nhưng nạn đói gây ra nhiều khó khăn trong việc cung cấp lương thực cho các đơn vị đồn trú của ông. Giữa lúc này, một đoàn thám hiểm người Scot dẫn đầu bởi em trai của Robert đã xâm chiếm được Ireland năm 1315, và Edward Bruce tự xưng là Vua của Ireland. Cuối cùng ông ta bị đánh bại năm 1318 bởi Quan chánh án tối cao Ireland dưới quyền Edward II, Edmund Butler, tại Trận Faughart, đầu Edward Bruce bị chặt xuống và gửi đến cho Nhà vua. Các cuộc nổi dậy cũng diễn ra ở Lancashire và Bristol năm 1315, và ở Glamorgan thuộc xứ Wales năm 1316, nhưng đều bị đán áp.;;;;;Nghị viện họp vào tháng 2 năm 1308 trong bầu không khí căng thẳng. Edward háo hức thảo luận về khả năng cải cách chính quyền, nhưng các nam tước không sẵn lòng bắt đầu những cuộc tranh luận như vậy cho đến sau khi vấn đề liên quan tới Gaveston được giải quyết. Nguy cơ bạo lực xuất hiện, nhưng tình hình được giải quyết thông qua trung gian Henry de Lacy, Bá tước Lincoln, người thuyết phục được các nam tước lùi một bước. Nghị viện mới được lập vào tháng 4, nơi các nam tước một lần nữa chỉ Gaveston, đòi lưu đày anh ta, lần này họ nhận được ủng hộ từ Isabella và quốc vương nước Pháp. Edward đã phản đối, nhưng cuối cùng bằng lòng, đồng ý gửi Gaveston đến Aquitaine, dưới sự đe dọa rút phép thông công của Tổng Giám mục Canterbury. Vào giờ chót, Edward thay đổi ý định và gửi Gaveston đến Dublin, bổ nhiệm ông ta làm Trung úy Ireland.
question_62
Các nguồn vay tiền của Edward ở đâu?
doc_62
Khó khăn dai dẳng của Edward trong phần lớn thời gian ông cai trị là thiếu hụt tiền bạc, từ các khoản nợ ông phải nhận lãnh từ vua cha, khoảng 60.000 bảng và vẫn chưa trả hết tới những năm 1320. Nhà vua dùng nhiều thủ quỹ và quan chức tài chính khác, không nhiều người trong số họ tại vị được lâu, để tăng nguồn lợi qua nhiều thứ thuế mất lòng dân, và dùng quyền lực của mình để trưng dụng hàng hóa. Ông cũng có nhiều khoản vay, ban đầu là qua gia đình Frescobaldi, và sau đó thông qua quản lý ngân hàng Antonio Pessagno. Edward có một mối quan tâm mạnh mẽ trong vấn đề tài chính trong những năm cuối tại vị, ngờ vực cả các quan chức riêng của ông và cố gắng tăng doanh thu trực tiếp bằng cách giảm chi tiêu trong tư gia của mình.
doc_44;;;;;doc_2620;;;;;doc_569;;;;;doc_2177;;;;;doc_3614
Trong chuyến trở về từ nước Pháp, Edward nhận thấy địa vị chính trị của ông đã được tăng cường đáng kể. Sau các cuộc đàm phán căng thẳng, các bá tước, bao gồm Lancaster và Warwick, đi đến một thỏa hiệp vào tháng 10 năm 1313, cơ bản là rất giống với bản dự luật thỏa thuận vào tháng 12 năm trước. Tài chính của Edward được cải thiện, nhờ vào việc Nghị viện đồng ý tăng thuế, một khoản vay 160,000 florin (25,000 bảng) từ đức Giáo hoàng, 33,000 bảng ông mượn của Philippe, và các khoản vay mượn thêm bởi giám đốc ngân hàng mới của Edward ở Italia, Antonio Pessagno. Lần đầu tiên trong triều đại của mình, ngân quỹ của Edward ở trong tình trạng ổn định.;;;;;Các chiến dịch quân sự thường xuyên của Edward I đã làm gia tăng tình trạng căng thẳng về tài chính trên toàn quốc. Có một vài cách để nhà vua có tiền trang trải cho chiến tranh, bao gồm thuế hải quan, cho vay tiền và bắt trợ cấp. Năm 1275, Edward I đàm phán một thỏa thuận với hội đồng các thương gia trong nước để vay một khoản vay lâu dài. Năm 1303, một thỏa thuận tương tự với các thương gia nước ngoài, đổi lại ông cho họ một số đặc quyền nhất định. Các khoản thu từ thuế hải quan được xếp đặt bởi Riccardi, một nhóm ngân hàng đến từ Lucca của Ý. Điều này đổi lấy vị trí của họ là cho quốc vương vay tiền, giúp đỡ tài chính cho cuộc chiến tranh Wales. Khi chiến tranh với Pháp nổ ra, nhà vua nước Pháp tịch thu tài sản trong Riccardi, và ngân hàng phá sản. Sau vụ đó, Frescobaldi xứ Florence đảm nhận vai trò người cho vay tiền của quốc vương nước Anh.;;;;;Edward trừng phạt những người ủng hộ Lancaster bằng việc lập ra một hệ thống tòa án đặc biệt trên toàn quốc, theo đó thẩm phán được làm theo mệnh lệnh kết án bị cáo như thế nào, và các bị cáo không được phép nói chuyện trong phòng riêng của họ. Phần nhiều những bản án như thế này gọi là "Contrariants" đơn giản chỉ là những vụ hành quyết, và những người may mắn hơn cũng bị giam giữ và phạt tiền, đất đai bị tịch thu và người thân bị quản thúc. Bá tước Pembroke, Edward lúc này không còn tin tưởng ông, đã bị bắt và chỉ được phóng thích sau khi giao hết toàn bộ gia tài như là tài sản thế chấp cho lòng trung thành của ông. Edward đã tưởng thưởng cho những người ủng hộ trung thành với ông, đặc biệt là gia đình Despenser, bằng những tài sản tịch thu được và những chức vị mới. Việc phạt tiền và sung công khiến Edward trở nên giàu có: khoảng £15,000 bảng được nhập vào ngân khố trong những tháng đầu tiên, và năm 1326, kho bạc của Edward chứa tới 62,000 bảng. Một Nghị viện được lập ra ở York vào tháng 3 năm 1322 mà tại đó Pháp lệnh chính thức bị thu hồi bằng Quy chế York, và các loại thuế mới được chấp nhận để phục vụ cho chiến dịch mới chống người Scot.;;;;;Edward lớn lên, các chi tiêu trong tư thất của Edward cũng tăng theo, năm 1293 William xứ Blyborough trở thành quản gia của Edward. Edward có thể đã tiếp nhận nền giáo dục Công giáo từ các tu sĩ dòng Đa Minh, những người được thân mẫu ông mời đến vào năm 1290. Ông được giao một người hầu của bà nội, Guy Ferre, làm quân sư cho riêng ông, với trách nhiệm rèn luyện, huấn luyện cưỡi ngựa và kỹ năng quân sự cho Edward. Trình độ văn hóa của Edward vẫn còn là dấu chấm hỏi; không có nhiều tài liệu chứng minh cho khả năng đọc và viết của ông, tuy rằng mẫu thân ông đã từng chua chát khi nói những người con khác của bà đều được giáo dục tốt, và rằng Ferre là một nhà thông thái trong thời kỳ đó.[nb 2] Edward chủ yếu nói tiếng Pháp Anglo-Norman trong đời sống hàng ngày, và một ít tiếng Anh và có thể là tiếng La Tinh.[nb 3];;;;;Quan hệ giữa Edward và các nam tước vẫn rất căng thẳng. Các bá tước chống đối việc ông giữ lại quân đội của họ vốn được huy động chiến tranh vào cuối năm 1311. Lúc này Edward trở nên lạnh nhạt với em họ của ông, Bá tước Lancaster, người cai trị Lãnh thổ bá tước Lancaster, Leicester, Lincoln, Salisbury và Derby, với thu nhập khoảng 11 000 bảng mỗi năm từ những vùng đất của mình, gần gấp đôi so với nam tước giàu thứ hai. Được các bá tước Arundel, Gloucester, Hereford, Pembroke và Warwick ủng hộ, Lancaster dẫn đầu một phe phái sừng sỏ ở Anh, nhưng ông không quan tâm đến chính quyền thực tế, ông cũng không phải là một chính trị gia sáng tạo và có năng lực.
question_63
Với sự lãnh đạo của William Henry Harrison thì cuối cùng người Mỹ cũng có được thành công nào?
doc_63
Cuộc chiến gây thất vọng cho cả hai phía. Cả hai phía đều cố tìm cách xâm lấn bên kia nhưng rồi bị đánh bật trở lại. Bộ tư lệnh cao cấp của Mỹ vẫn bất lực cho đến năm cuối cùng. Địa phương quân Mỹ chứng tỏ kém hiệu quả vì binh sĩ còn do dự phải xa nhà và các cố gắng xâm nhập Canada liên tiếp bị thất bại. Cuộc phong tỏa của người Anh gây thiệt hại cho ngành thương mại Mỹ, phá sản ngân khố, và càng làm cho người Tân Anh buôn lậu đồ tiếp liệu đến Anh Quốc thêm tức giận. Người Mỹ dưới quyền của tướng William Henry Harrison cuối cùng giành được quyền kiểm soát đường thủy trên hồ Erie và đánh bại người bản địa Mỹ dưới quyền chỉ huy của Tecumseh tại Canada, trong khi đó Andrew Jackson chấm dứt mối đe dọa của người bản địa Mỹ tại đông nam. Mối đe dọa lấn chiếm vào vùng trung-tây của người bản địa Mỹ bị kết liễu vĩnh viễn. Người Anh xâm nhập và chiếm đóng phần lớn tiểu bang Maine.
doc_1387;;;;;doc_846;;;;;doc_2216;;;;;doc_694;;;;;doc_3312
Lực lượng yêu nước nhận được sự ủng hộ về tài chính và quân sự trên mức độ lớn từ Pháp và dưới sự lãnh đạo quân sự của Tướng George Washington, đã giành được chiến thắng trong cuộc chiến tranh cách mạng và hòa bình đạt được vào năm 1783. Trong và sau chiến tranh, 13 tiểu quốc thống nhất thành một chính phủ liên bang yếu thông qua bản hiến pháp hợp bang. Khi bản hiến pháp hợp bang này chứng tỏ không phù hợp, một bản hiến pháp mới được thông qua vào năm 1789. Bản hiến pháp này vẫn là cơ sở của Chính phủ Liên bang Hoa Kỳ, và sau đó còn có thêm đạo luật nhân quyền. Một chính phủ quốc gia mạnh được thành lập với Washington là tổng thống đầu tiên và Alexander Hamilton là cố vấn trưởng tài chính. Trong thời kỳ hệ thống đảng phái lần thứ nhất, hai đảng chính trị quốc gia hình thành để ủng hộ hay chống đối các chính sách của Hamilton. Khi Thomas Jefferson trở thành thống thống, ông mua Lãnh thổ Louisiana từ Pháp, gia tăng diện tích của Hoa Kỳ lên gấp đôi. Một cuộc chiến tranh lần thứ hai cũng là lần cuối cùng với Anh Quốc xảy ra vào năm 1812. Kết quả chủ yếu của cuộc chiến tranh này là sự chấm dứt ủng hộ của châu Âu dành cho các cuộc tiến công của người bản địa Mỹ (người da đỏ) nhằm chống những người định cư ở miền Tây nước Mỹ.;;;;;Những thành tựu to lớn của chính phủ George Washington là tạo ra một chính phủ quốc gia mạnh được toàn dân Mỹ công nhận mà không có nghi ngờ. Chính phủ của ông, theo sự lãnh đạo đầy nghị lực của Bộ trưởng Ngân khố Alexander Hamilton, đảm nhận hết số nợ của các tiểu bang (những người cho mượn nợ khi đó sẽ nhận lấy trái phiếu liên bang), thành lập Ngân hàng Hoa Kỳ để cân bằng hệ thống tài chính, và lập ra một hệ thống thu thuế đồng bộ (thuế nhập cảng) và các thứ thuế khác để trả hết nợ và cung cấp một cơ sở hạ tầng tài chính. Để hỗ trợ cho các chương trình của mình, Hamilton thành lập một đảng chính trị mới - đảng đầu tiên trên thế giới dựa vào cử tri - đó là Đảng Liên bang.;;;;;Thứ hai, ông đứng ra tổ chức và huấn luyện lục quân. Ông tuyển mộ quân chính quy và giao nhiệm vụ cho tướng von Steuben, một chuyên gia quân sự người Đức, huấn luyện họ. Ông không nhận trách nhiệm đối với nguồn tiếp liệu mà lúc nào cũng thiếu hụt nhưng ông luôn làm áp lực với Quốc hội và các tiểu bang cung cấp nhu yếu phẩm. Washington có tiếng nói quan trọng trong việc chọn lựa các tướng lãnh tư lệnh và trong việc hoạch định chiến lược cơ bản của họ. Những thành tựu của ông thì hỗn tạp vì một số người mà ông chọn lựa lại chưa bao giờ giỏi về thuật chỉ huy. Dần dần ông tìm được các sĩ quan có khả năng như tướng Nathaniel Greene, và tham mưu trưởng của ông là Alexander Hamilton. Các sĩ quan Mỹ không bao giờ đạt trình độ tương bằng với các đối thủ người Anh của họ trong chiến thuật và tác chiến. Dần dần họ thua phần lớn các trận đánh đã chọn địa điểm trước (pitched battles). Các thành công lớn tại Boston (1776), Saratoga (1777) và Yorktown (1781) xảy ra khi quân cách mạng gài bẫy dụ quân Anh ra xa khỏi căn cứ có nhiều quân số để dễ dàng tiêu diệt quân Anh hơn.;;;;;Phe bảo hoàng mà người Anh trông cậy quá nhiều chiếm khoảng 20 phần trăm dân số nhưng chưa bao giờ được tổ chức tốt. Khi chiến tranh kết thúc, Washington tự hào nhìn thấy đội quân cuối cùng của Anh thầm lặng đi thuyền ra khỏi Thành phố New York vào tháng 11 năm 1783, mang theo giới lãnh đạo phe bảo hoàng cùng với họ. Washington gây sửng sốt cho thế giới khi thay vì chiếm lấy quyền lực cho chính mình, ông đã âm thầm về hưu ở nông trại của mình tại Virginia. Nhà khoa học chính trị Seymour Martin Lipset nhận định rằng "Hoa Kỳ là thuộc địa lớn đầu tiên thành công chống lại sự cai trị của chính quyền thuộc địa. Trong ý nghĩa này, đây là 'quốc gia mới' đầu tiên.";;;;;Sau năm 1820, một loạt các thoả hiệp đã giúp xóa bỏ đối đầu giữa miền bắc và miền nam về vấn đề chủ nghĩa nô lệ. Vào giữa thập niên 1850, lực lượng Cộng hòa mới thành lập nắm kiểm soát nền chính trị miền Bắc và hứa ngăn chăn sự mở rộng của chủ nghĩa nô lệ với ám chỉ rằng chủ nghĩa nô lệ sẽ dần dần bị loại bỏ. Cuộc bầu cử tổng thống năm 1860 với kết quả chiến thắng của đảng viên Đảng Cộng hòa Abraham Lincoln đã châm ngòi cho cuộc ly khai của mười một tiểu bang theo chủ nghĩa nô lệ để lập ra Liên minh miền Nam Hoa Kỳ năm 1861. Nội chiến Hoa Kỳ (1861-1865) là hạch tâm của lịch sử Mỹ. Sau bốn năm chiến tranh đẫm máu, phe miền Bắc dưới sự lãnh đạo của Tổng thống Lincoln và Tướng Ulysses S. Grant đánh bại phe miền Nam với sự chỉ huy của Tướng Robert E. Lee. Liên bang được bảo tồn và chủ nghĩa nô lệ bị bãi bỏ, và miền nam bị suy kiệt. Trong thời đại tái thiết (1863–1877), Hoa Kỳ chấm dứt chủ nghĩa nô lệ và nới rộng quyền đầu phiếu và pháp lý cho những người "tự do" (người Mỹ gốc châu Phi trước đó từng là nô lệ). Chính phủ quốc gia ngày càng vững chắc hơn, và nhờ vào Tu chính án hiến pháp điều 14, giờ đây đã có nhiệm vụ rõ ràng là bảo vệ quyền của mỗi cá nhân. Thời đại tái thiết chấm dứt vào năm 1877 và từ thập niên 1890 đến thập niên 1960, hệ thống Jim Crow (tách ly chủng tộc) kìm hãm người da đen luôn ở vị trí thấp kém về kinh tế, xã hội và chính trị. Toàn miền nam vẫn bần cùng cho đến nửa sau của thế kỷ 20, trong khi đó miền Bắc và miền Tây phát triển nhanh chóng và thịnh vượng.
question_64
Vì sao các nhà máy chuyển sang các nước khác?
doc_64
Từ những năm 1970, một vài nền kinh tế mới nổi đã bắt đầu thu hẹp khoảng cách với kinh tế Hoa Kỳ. Trong hầu hết các trường hợp, điều này xảy ra có nguyên nhân từ việc dịch chuyển các nhà máy sản xuất vốn trước kia đặt tại Mỹ tới các quốc gia này, nơi việc sản xuất được thực hiện với chi phí thấp hơn, đủ để bảo đảm các chi phí vận chuyển và đem lại lợi nhuận cao hơn. Trong các trường hợp khác, một vài quốc gia đã dần học được cách sản xuất ra những hàng hoá và dịch vụ giống như những loại trước kia chỉ được sản xuất tại Mỹ và một số quốc gia khác. Tăng trưởng về thu nhập thực tế của Hoa Kỳ đã chậm lại.
doc_6563;;;;;doc_3651;;;;;doc_7932;;;;;doc_6671;;;;;doc_103
Khi Thế chiến thứ hai bắt đầu, trọng tải tại cảng giảm và hoạt động vận tải biển bị đình chỉ; tuy nhiên, chiến tranh đã mang lại lợi ích kinh tế cho thành phố. Các nhà máy lọc hóa dầu và nhà máy sản xuất được xây dựng dọc theo luồng tàu do nhu cầu về dầu mỏ và các sản phẩm cao su tổng hợp của ngành công nghiệp quốc phòng trong chiến tranh. Ellington Field, ban đầu được xây dựng trong Thế chiến thứ nhất, đã được hồi sinh thành một trung tâm đào tạo nâng cao dành cho lính bắn phá và hoa tiêu. Công ty đóng tàu Brown được thành lập vào năm 1942 để đóng tàu cho Hải quân Hoa Kỳ trong Thế chiến thứ hai. Do sự bùng nổ trong công việc quốc phòng, hàng nghìn công nhân mới đã di cư đến thành phố, cả người da đen và người da trắng đều tranh giành những công việc được trả lương cao hơn. Tổng thống Roosevelt đã thiết lập chính sách không phân biệt đối xử đối với các nhà thầu quốc phòng và người da đen đã có được một số cơ hội, đặc biệt là trong lĩnh vực đóng tàu, mặc dù không phải không có sự phản đối của người da trắng và căng thẳng xã hội ngày càng gia tăng, thỉnh thoảng bùng phát thành bạo lực. Lợi ích kinh tế của người da đen tham gia vào ngành công nghiệp quốc phòng vẫn tiếp tục trong những năm sau chiến tranh.;;;;;Đến năm 1890, sản lượng công nghiệp Mỹ và thu nhập tính theo đầu người vượt xa tất cả các quốc gia khác trên thế giới. Để đối phó với nợ nần chồng chất và giảm giá thành nông nghiệp, các nông gia trồng bông vải và lúa mì gia nhập đảng Nhân dân. Làn sóng di dân đột ngột từ châu Âu đến đã giúp cả việc cung cấp lao động cho ngành công nghiệp Mỹ và tạo ra các cộng đồng đa chủng tộc tại các khu vực trước đây chưa phát triển. Từ năm 1880 đến 1914, những năm di dân đỉnh điểm, trên 22 triệu người đã di cư đến Hoa Kỳ. Sự đòi hỏi của công nhân muốn kiểm soát nơi làm việc của họ đã dẫn đến tình trạng thường hay bạo động tại các thành phố và trại khai thác mỏ. Các nhà lãnh đạo công nghiệp gồm có John D. Rockefeller về dầu hỏa và Andrew Carnegie về thép. Cả hai trở thành các nhà lãnh đạo từ thiện, trao tặng tài sản tiền bạc của họ để xây dựng hệ thống hiện đại gồm các bệnh viện, đại học, thư viện và quỹ hội.;;;;;Công việc chiến tranh một lần nữa mang lại sự thịnh vượng cho địa phương trong Thế chiến thứ hai, lần này tập trung vào máy bay Boeing. Chiến tranh đã làm phân tán nhiều doanh nhân người Mỹ gốc Nhật trong thành phố do người Mỹ gốc Nhật thực tập. Sau chiến tranh, nền kinh tế địa phương suy thoái. Nó tăng trở lại với sự thống trị ngày càng tăng của Boeing trên thị trường máy bay thương mại. Seattle ăn mừng sự thịnh vượng được khôi phục của mình và nỗ lực để được thế giới công nhận với Triển lãm Thế kỷ 21, Hội chợ Thế giới năm 1962. Một cuộc suy thoái kinh tế địa phương lớn khác xảy ra vào cuối những năm 1960 và đầu những năm 1970, vào thời điểm Boeing bị ảnh hưởng nặng nề bởi cuộc khủng hoảng dầu mỏ, mất hợp đồng với Chính phủ cũng như chi phí và sự chậm trễ liên quan đến Boeing 747. Nhiều người đã rời khu vực này để tìm kiếm làm việc ở nơi khác, và hai đại lý bất động sản địa phương treo một bảng quảng cáo có nội dung "Người cuối cùng rời Seattle – Tắt đèn đi.";;;;;Dell lắp ráp máy tính cho thị trường EMEA tại cơ sở Limerick ở Cộng hòa Ireland và từng tuyển dụng khoảng 4.500 người ở quốc gia đó. Dell bắt đầu sản xuất tại Limerick vào năm 1991 và tiếp tục trở thành nhà xuất khẩu hàng hóa lớn nhất Ireland, đồng thời là công ty lớn thứ hai và nhà đầu tư nước ngoài. Vào ngày 8 tháng 1 năm 2009, Dell thông báo rằng họ sẽ chuyển toàn bộ hoạt động sản xuất của Dell ở Limerick sang nhà máy mới của Dell ở thành phố Łódź của Ba Lan vào tháng 1 năm 2010. Các quan chức Liên minh Châu Âu cho biết họ sẽ điều tra gói viện trợ trị giá 52,7 triệu euro mà chính phủ Ba Lan đã sử dụng để thu hút. Dell rời Ireland. Cơ sở Sản xuất Châu Âu 1 (EMF1, khai trương năm 1990) và EMF3 là một phần của Khu Công nghiệp Raheen gần Limerick. EMF2 (trước đây là cơ sở của Wang, sau này do Flextronics chiếm giữ, đặt tại Castletroy) đóng cửa vào năm 2002,[cần dẫn nguồn] và Dell Inc. đã hợp nhất hoạt động sản xuất thành EMF3 (EMF1 bây giờ[khi nào?] chỉ chứa các văn phòng). Các khoản trợ cấp từ chính phủ Ba Lan đã giữ chân Dell trong một thời gian dài. Sau khi kết thúc lắp ráp tại nhà máy Limerick, Cơ sở Công nghệ Cherrywood ở Dublin là văn phòng Dell lớn nhất tại nước cộng hòa với hơn 1200 nhân viên bán hàng (chủ yếu ở Vương quốc Anh và Ireland), hỗ trợ (hỗ trợ doanh nghiệp cho EMEA) và nghiên cứu và phát triển cho điện toán đám mây, nhưng không còn hoạt động sản xuất nào ngoại trừ công ty con Alienware của Dell, công ty sản xuất PC tại nhà máy Athlone, Ireland. Việc cơ sở này có còn ở Ireland hay không là điều chưa chắc chắn. Việc xây dựng EMF4 ở Łódź, Ba Lan đã bắt đầu[cập nhật]: Dell bắt đầu sản xuất ở đó vào mùa thu năm 2007.;;;;;Tuy nhiên càng về sau, những điểm yếu của nền kinh tế Puerto Rico cũng dần bộc lộ và gây ra nhiều biến động khá lớn. Puerto Rico phải đối mặt với việc các doanh nghiệp chuyển địa điểm sang các nước Mỹ Latinh khác có giá nhân công rẻ hơn. Tình trạng kinh tế khó khăn giữa các cuộc khủng hoảng kinh tế khiến người dân Puerto Rico có chiều hướng di dân ra nước ngoài, đặc biệt là tới Mỹ để tìm kiếm công việc tốt hơn. Đặc biệt vào năm 2006, Puerto Rico diễn ra cuộc khủng hoảng ngân quỹ trầm trọng khiến nhiều cơ quan chính phủ và 1536 trường công phải đóng cửa, gần 96 000 người bị cho nghỉ việc. Những chính sách thuế mới sau đó đã giẩi quyết cuộc khủng hoảng này nhưng vẫn còn nhiều thách thức khó khắc phục. Vài năm trở lại đây, Puerto Rico rơi vào tình trạng suy giảm kinh tế. Nếu như năm 2006, mức tăng GDP còn ở mức 0,5% thì đến năm 2007 xuống còn -1,8%, năm 2008 xuống đến -2%.
question_65
Viện Đại học Chicago đã có liên kết mật thiết với các cơ sở học thuật độc lập nào?
doc_65
Về mặt học thuật, Viện Đại học Chicago bao gồm Trường Đại học (the College, chuyên về giáo dục bậc đại học), bốn phân khoa nghiên cứu sau đại học (Phân khoa Khoa học Sinh học, Phân khoa Nhân văn, Phân khoa Khoa học Vật lý, và Phân khoa Khoa học Xã hội), sáu trường chuyên nghiệp (Trường Y khoa, Trường Kinh doanh, Trường Luật, Trường Thần học, Trường Nghiên cứu Chính sách công, và Trường Quản trị Dịch vụ Xã hội), và Trường Giáo dục Thường xuyên trong các ngành Chuyên nghiệp và Khai phóng (Graham School of Continuing Liberal and Professional Studies). Viện đại học còn có một hệ thống thư viện, Nhà xuất bản Viện Đại học Chicago (University of Chicago Press), các Trường Thực nghiệm Viện Đại học Chicago (University of Chicago Laboratory School, dành cho các lớp từ mẫu giáo đến trung học), và Trung tâm Y khoa Viện Đại học Chicago (University of Chicago Medical Center), và có quan hệ mật thiết với một số các cơ sở học thuật độc lập, bao gồm Fermilab và Phòng Thí nghiệm Quốc gia Argonne (Argonne National Laboratory).
doc_3194;;;;;doc_1109;;;;;doc_2681;;;;;doc_1703;;;;;doc_4995
Trong thập niên 1890, vì sợ rằng nguồn lực to lớn của mình sẽ làm tổn hại các trường nhỏ hơn vì thu hút hết sinh viên giỏi, Viện Đại học Chicago đã liên kết với một số trường và viện đại học trong vùng: Trường Đại học Des Moines, Trường Đại học Kalamazoo, Trường Đại học Butler, và Viện Đại học Stetson. Theo thỏa thuận liên kết, các trường vừa kể được yêu cầu phải có những khóa học tương đương với những khóa học ở Viện Đại học Chicago, phải báo trước với viện đại học bất kỳ sự bổ nhiệm hay sa thải giảng viên nào, không được bổ nhiệm giảng viên nếu không có sự chấp thuận của viện đại học, và phải gởi bản sao các bài thi để được nhận góp ý. Viện Đại học đồng ý trao bằng cho bất cứ sinh viên năm cuối sắp tốt nghiệp nào từ trường liên kết nếu sinh viên này đạt được điểm A trong suốt bốn năm học, và trao bằng cho bất cứ sinh viên tốt nghiệp nào học thêm 12 tuần ở Viện Đại học. Sinh viên hay giảng viên của một trường liên kết được hưởng chế độ miễn học phí ở Viện Đại học, và sinh viên Chicago được phép theo học ở một trường liên kết và được hưởng chế độ tương tự và được công nhận tín chỉ. Viện Đại học cũng đồng ý cung cấp cho các trường liên kết sách và trang thiết bị và dụng cụ khoa học với một mức giá nào đó; cung cấp những giảng viên biệt phái mà các trường liên kết không phải trả tiền, ngoại trừ chi phí đi lại; và cung cấp miễn phí mỗi bản một cuốn sách hay tạp chí do Nhà xuất bản Viện Đại học Chicago ấn hành. Thỏa thuận này cũng quy định rằng một trong hai bên có thể chấm dứt sự liên kết này bằng cách thông báo cho bên kia biết theo đúng quy định. Một số giáo sư ở Viện Đại học Chicago thời đó không thích chương trình này vì công sức mà họ bỏ ra thêm không được đền bù, và họ cho rằng nó hạ thấp danh tiếng học thuật của Viện Đại học Chicago. Chương trình này chấm dứt vào năm 1910.;;;;;Viện Đại học Chicago được Hội Giáo dục Baptist Hoa Kỳ thành lập vào năm 1890 như một cơ sở giáo dục phi tôn giáo, dành cho cả nam lẫn nữ, với tiền hiến tặng từ tỉ phú dầu lửa John D. Rockefeller và được xây dựng trên phần đất do Marshall Field hiến tặng. Viện đại học này là một cơ sở độc lập về mặt pháp lý; nó thay thế cho viện đại học có cùng tên gọi của những người theo phái Baptist, vốn đã đóng cửa vào năm 1886 vì những khó khăn tài chính và khủng hoảng lãnh đạo triền miên. William Rainey Harper trở thành viện trưởng đầu tiên của viện đại học hiện đại này vào ngày 1 tháng 7 năm 1891, và viện đại học mở cửa đón sinh viên vào học vào ngày 1 tháng 10 năm 1892.;;;;;Các học giả của Viện Đại học Chicago đã đóng một vai trò quan trọng trong việc phát triển những lĩnh vực học thuật khác nhau, trong đó có: trường phái kinh tế học Chicago, trường phái xã hội học Chicago, phong trào luật và kinh tế học trong phân tích pháp lý, trường phái phê bình văn học Chicago, trường phái nghiên cứu tôn giáo Chicago, trường phái khoa học chính trị được biết đến với tên "thuyết hành vi" (behavioralism), và trong lĩnh vực vật lý nơi các nhà khoa học của viện đại học đã tạo ra phản ứng hạt nhân nhân tạo và tự duy trì đầu tiên của thế giới. Viện Đại học Chicago cũng là cơ sở giáo dục đại học có nhà xuất bản lớn nhất Hoa Kỳ, Nhà xuất bản Viện Đại học Chicago.;;;;;Viện Đại học Chicago bao gồm Trường Đại học (the College), nhiều chương trình sau đại học và ủy ban liên ngành khác nhau được tổ chức thành bốn phân khoa, sáu trường chuyên nghiệp, và một trường giáo dục thường xuyên. Viện đại học có tổng cộng khoảng 15.000 sinh viên, trong đó chừng 5.000 sinh viên theo học ở Trường Đại học. Viện Đại học Chicago nhiều năm liền được xếp vào một trong 10 viện đại học hàng đầu thế giới; và được xếp thứ năm cùng với Viện Đại học Stanford trong "Bảng xếp hạng những viện đại học tốt nhất nước" năm 2014 của U.S. News & World Report.;;;;;Trong thập niên vừa qua, viện đại học đã khởi sự một số các dự án mở rộng. Năm 2008, Viện Đại học Chicago thông báo kế hoạch thiết lập Viện Milton Friedman; dự án này thu hút cả sự ủng hộ lẫn tranh cãi từ cả giảng viên và sinh viên. Viện này sẽ tốn khoảng 200 triệu đô-la và chiếm cứ các tòa nhà của Chủng viện Thần học Chicago. Trong cùng năm đó, nhà đầu tư David G. Booth hiến tặng 300 triệu đô-la cho Trường Kinh doanh Booth của viện đại học; đây là khoản hiến tặng lớn nhất trong lịch sử viện đại học và là khoản lớn nhất tặng cho một trường kinh doanh. Năm 2009, việc thiết kế hay xây dựng một số tòa nhà mới được tiến hành, một nửa trong số các công trình đó tốn không dưới 100 triệu đô-la.
question_66
Ai là ca sĩ thành công nhất khoảng năm 1980?
doc_66
Là người con thứ 8 trong gia đình nhà Jackson, ông bắt đầu sự nghiệp âm nhạc chuyên nghiệp từ năm lên 11 với vị trí thành viên út trong nhóm nhạc The Jackson 5 và khởi nghiệp đơn ca năm 1971. Trong những năm đầu của thập niên 80, Jackson được xem là nghệ sĩ giải trí thành công nhất. Các video ca nhạc của ông như "Beat It", "Billie Jean" và "Thriller" đã phá vỡ rào cản chủng tộc và nâng tầm giá trị của video ca nhạc như một hình thức nghệ thuật và công cụ quảng cáo. Sự phổ biến của những video này sau đó đã giúp kênh truyền hình âm nhạc non trẻ lúc bấy giờ là MTV trở nên nổi tiếng. Những video sau này như "Black or White" hay "Scream" tiếp tục khẳng định vị trí của ông trên MTV trong thập niên 1990, cũng như xây dựng danh tiếng như một nghệ sĩ lưu diễn đơn ca. Với những màn biểu diễn trên sân khấu hay trong video ca nhạc, Jackson giúp phổ biến nhiều màn vũ đạo phức tạp như robot hay moonwalk. Thêm vào đó, giọng ca và phong cách hát đặc biệt của ông cũng ảnh hưởng lớn tới nhiều thế hệ nghệ sĩ nhạc hip-hop, pop và R&B đương đại sau này.
doc_7464;;;;;doc_8338;;;;;doc_9879;;;;;doc_8659;;;;;doc_5379
Mặc dù thiên về dance, nhạc pop điện tử và nhạc ballad thống trị những năm 1980, các ca khúc soft rock vẫn đạt được thành công nhẹ nhàng nhờ các nghệ sĩ như Sheena Easton, Amy Grant, Lionel Richie, Christopher Cross, Dan Hill, Leo Sayer, Billy Ocean, Julio Iglesias, Bertie Higgins và Tommy Page. Không có bài hát nào dành hơn sáu tuần ở vị trí số 1 trên bảng xếp hạng này trong suốt những năm 1980, với chín bài hát đã đạt được thành tích đó. Hai trong số này là của Lionel Richie, "You Are" năm 1983 và "Xin chào" năm 1984, cũng đạt vị trí số 1 trên Hot 100.;;;;;Ngoài Celine Dion, người đã đạt được thành công đáng kể trên bảng xếp hạng này, những nghệ sĩ khác có nhiều vị trí quán quân trên bảng xếp hạng AC trong những năm 1990 bao gồm Mariah Carey, Phil Collins, Michael Bolton, Whitney Houston và Shania Twain. Các nữ ca sĩ kiêm nhạc sĩ mới hơn như Sarah McLachlan, Natalie Merchant, Jewel, Melissa Etheridge và Sheryl Crow cũng đột phá trên bảng xếp hạng AC trong thời gian này.;;;;;Những năm đầu của thập niên 1980 chứng kiến một số thay đổi về nhân sự và chỉ đạo của các ban nhạc hard rock đã thành danh, bao gồm cái chết của Bon Scott, ca sĩ chính của AC/DC, và John Bonham, tay trống của Led Zeppelin. Trong khi Zeppelin gần như tan rã ngay sau đó thì AC/DC vẫn tiếp tục thu âm album Back in Black (1980) với ca sĩ chính mới của họ, Brian Johnson. Nó trở thành album bán chạy thứ năm mọi thời đại ở Mỹ và là album bán chạy thứ hai trên thế giới. Black Sabbath đã chia tay với ca sĩ gốc Ozzy Osbourne vào năm 1979 và thay thế anh ấy bằng Ronnie James Dio, trước đây của Rainbow, mang đến cho ban nhạc một âm hưởng mới và một thời kỳ sáng tạo và nổi tiếng bắt đầu từ Heaven and Hell (1980). Osbourne bắt đầu sự nghiệp solo với Blizzard of Ozz (1980), hợp tác với nghệ sĩ guitar người Mỹ Randy Rhoads. Một số ban nhạc, chẳng hạn như Queen, đã rời xa nguồn gốc hard rock của họ và hướng tới pop rock nhiều hơn, trong khi những ban nhạc khác, bao gồm Rush with Moving Pictures (1981), bắt đầu quay trở lại với âm hưởng hard rock. Việc tạo ra thrash metal, pha trộn kim loại nặng với các yếu tố của nhạc punk hạng nặng từ khoảng năm 1982, đặc biệt là bởi Metallica, Anthrax, Megadeth và Slayer, đã giúp tạo ra Extreme Metal và loại bỏ phong cách này khỏi hard rock, mặc dù một số ban nhạc hoặc các thành viên của họ sẽ tiếp tục thu âm một số bài hát gần với âm hưởng hard rock hơn. Kiss đã rời xa nguồn gốc hard rock của họ để chuyển sang pop metal: lần đầu tiên họ tẩy trang vào năm 1983 cho album Lick It Up, sau đó áp dụng hình ảnh và âm thanh của glam metal cho bản phát hành năm 1984 của họ, Animalize, cả hai đều đánh dấu sự trở lại với lĩnh vực thương mại. thành công. Pat Benatar là một trong những phụ nữ đầu tiên đạt được thành công về mặt thương mại ở thể loại hard rock, với ba album liên tiếp lọt vào Top 5 từ năm 1980 đến năm 1982.;;;;;Không giống như phần lớn các ca sĩ chính thống của thập niên 1980, các ca sĩ nhạc pop/R&B chính thống của thập niên 1990 như All-4-One, Boyz II Men, Rob Thomas, Christina Aguilera, Backstreet Boys và Savage Garden thường vượt qua bảng xếp hạng AC. Các nghệ sĩ nhạc pop Latin như Lynda Thomas, Ricky Martin, Marc Anthony, Selena, Enrique Iglesias và Luis Miguel cũng đạt được thành công trên bảng xếp hạng AC.;;;;;Bản thân AC chính thống đã phát triển theo cách tương tự trong những năm qua; các nghệ sĩ AC truyền thống như Barbra Streisand, the Carpenters, Dionne Warwick, Barry Manilow, John Denver và Olivia Newton-John cảm thấy khó có được những bản hit lớn trong Top 40 khi thập niên 1980 tiếp tục và do ảnh hưởng của MTV, các nghệ sĩ đã các mặt hàng chủ lực của định dạng Radio Hit Đương đại, chẳng hạn như Richard Marx, Michael Jackson, Bonnie Tyler, George Michael, Phil Collins và Laura Branigan bắt đầu chuyển sang bảng xếp hạng AC với tần suất lớn hơn. Collins đã được AllMusic mô tả là "một trong những ca sĩ nhạc pop và người lớn đương đại thành công nhất trong thập niên 80 trở đi". Tuy nhiên, với sự kết hợp giữa đài MTV và AC, thể loại đương đại dành cho người lớn dường như khó xác định hơn là một thể loại, với các nghệ sĩ soft-rock lâu đời vẫn xếp hạng các bản hit nhạc pop và nhận được lượt phát sóng cùng với giá vé radio chính thống từ các nghệ sĩ mới hơn vào thời điểm đó.
question_67
Nhà Hán đã thực hiện chính sách gì để hòa giải với người dân Tượng Lâm?
doc_67
Mùa hè năm 100, hơn 2.000 dân Tượng Lâm nổi lên phá đồn, đốt thành, giết một số quan quân cai trị. Chính quyền đô hộ Hán phải huy động quân của các quận huyện khác đến dẹp, giết được chủ tướng, cuộc nổi loạn mới tạm yên. Từ đó chính quyền nhà Hán không dám ức hiếp một cách thô bạo dân cư tại đây nhưng đặt vùng đất này dưới quyền cai trị trực tiếp, do một binh trưởng sứ cầm đầu, đề phòng những cuộc nổi loạn sau này. Để lấy lòng dân cư địa phương, quan quân nhà Hán tổ chức phát chẩn cho dân nghèo, miễn thuế hai năm v.v.
doc_2568;;;;;doc_2623;;;;;doc_2409;;;;;doc_627;;;;;doc_1234
Năm 144, dân quận Nhật Nam và huyện Tượng Lâm lại nổi lên chống lại ách cai trị của nhà Hán, nhưng bị thứ sử Hạ Phương đánh bại. Năm 157, Chu Đạt cùng với dân chúng Cửu Chân nổi lên giết huyện lệnh Cự Phong và thái thú Nghê Thức chiếm quyền lãnh đạo. Sự kết hợp tự nhiên giữa dân chúng hai quận Cửu Chân và Nhật Nam gây nhiều bối rối cho các quan quân cai trị. Dưới sự chỉ huy của đô úy quận Cửu Chân là Ngụy Lãng, quân Hán phản công quyết liệt, giết hơn 2.000 dân Cửu Chân, phe nổi loạn phải chạy xuống phía nam chiếm quận Nhật Nam và chống trả lại. Trong ba năm, từ 157 đến 160, quân Tượng Lâm (khoảng 20.000 người) tiến lên đánh quân Hán và chiếm nhiều huyện khác của Nhật Nam. Vài năm sau, năm 178, Lương Long cầm đầu cuộc khởi nghĩa chống lại quân Hán, chiếm được nhiều vùng đất từ Giao Chỉ đến Hợp Phố và từ Cửu Chân đến Nhật Nam; năm 181 Hán vương cử Lã Đại mang quân sang đánh dẹp.;;;;;Năm 138, Giả Xương, quan thị ngự sử nhà Hán đi sứ phía nam, đã cùng với các quan thái thú trong quận Nhật Nam gom quân dẹp những cuộc nổi loạn ở huyện Tượng Lâm. Sau gần một năm, tất cả đều thất bại, và họ còn bị quân địa phương bao vây hơn cả năm trời. Từ đó nhà Hán mất tin tưởng ở đám quan quân địa phương và chỉ tin dùng quan quân từ Trung Hoa đưa xuống. Năm sau Hán Thuận Đế sai tướng Cổ Xương huy động 40.000 quân ở các châu Kinh, châu Dương, châu Duyên, châu Dự xuống đàn áp cuộc nổi dậy. Cổ Xương bị quân nổi loạn đánh bại, nhà Hán sai một tướng khác là Lý Cố mang viện binh tiếp trợ nhưng Lý Cố viện các lý do để hoãn binh. Cuộc tiến quân bị dừng lại.;;;;;Từ thời lập quốc, nhà Hán có khả năng giữ được hoà bình với dân tộc du mục phía Bắc Hung Nô bằng cách nộp cống và gả các công chúa cho họ. Tại thời này, mục tiêu của chính quyền là giảm sự hà khắc của hình luật, chiến tranh và các điều kiện sống cho người dân so với thời Tần, hạn chế các đe doạ từ dân du mục bên ngoài và những xung đột sớm bên trong triều đình. Chính phủ giảm bớt thuế và đảm bảo tình trạng cống nộp cho các bộ lạc du mục. Chính sách này giảm can thiệp vào đời sống dân cư, gọi là Dữ dân hưu tức (與民休息) bắt đầu một giai đoạn ổn định.;;;;;Ngày 7 tháng 9 năm 1926, quân Bắc phạt công chiếm Hán Khẩu, ngày 8 tháng 11 công chiếm Nam Xương, ngày 11 tháng 11, Chính phủ Quốc dân tại Quảng Châu quyết định dời về phía bắc đến Vũ Hán, Tưởng Giới Thạch thì chủ trương thiên đô đến Nam Xương đang do ông khống chế. Tháng 3 năm 1927, quân Bắc phạt chiếm xong Thượng Hải và Nam Kinh, song giữa thế lực chống cộng do Tưởng Giới Thạch đứng đầu và thế lực dung cộng do Uông Tinh Vệ đứng đầu phát sinh phân liệt. Tưởng Giới Thạch sau thời gian ở Liên Xô đã trở nên căm ghét chủ nghĩa cộng sản. Ông hủy bỏ chính sách Liên Nga của Tôn Trung Sơn. Mâu thuẫn giữa Liên Xô và Trung Hoa Dân Quốc gia tăng tới mức vào tháng 4/1927, Stalin gửi thư cho Đảng Cộng sản Trung Quốc kêu gọi nổi dậy vũ trang. Ngày 6/4/1927, Stalin tuyên bố Quân đội Quốc Dân Đảng là kẻ thù và Tưởng phải bị tiêu diệt. Ngày 12 tháng 4 năm 1927, bùng phát sự kiện Tứ Nhất Nhị tại Thượng Hải khi Tưởng Giới Thạch phát động thanh lọc cộng sản, đến ngày 18 tháng 4 ông lập riêng Chính phủ Quốc dân tại Nam Kinh. Ngày 15 tháng 7, Uông Tinh Vệ tại Vũ Hán bắt đầu thanh lọc cộng sản, Quốc-Cộng hợp tác lần thứ nhất do đó kết thúc. Ngày 1 tháng 8 năm 1927, Đảng Cộng sản Trung Quốc phát động Khởi nghĩa Nam Xương, bắt đầu sử dụng vũ lực đoạt chính quyền, mở màn Quốc-Cộng nội chiến lần thứ nhất kéo dài 10 năm liên tục. Tháng 5 năm 1928, Quốc dân Cách mạng quân tại Tế Nam bị quân đội Nhật Bản đánh chặn gây ra Thảm án Ngũ Tam, phải đi đường vòng để Bắc phạt. Tháng 6 năm 1928, quân Bắc phạt chiếm được Bắc Kinh. Ngày 29 tháng 12 cùng năm, lãnh đạo Phụng hệ là Trương Học Lương đánh điện đến Nam Kinh, tuyên bố tiếp nhận Chính phủ Quốc dân cai quản, đánh dấu thắng lợi của Chính phủ Quốc dân trong Bắc phạt, thống nhất Trung Quốc trên danh nghĩa. Tuy nhiên, không lâu sau giữa trung ương và quân phiệt địa phương bùng phát Trung Nguyên đại chiến, còn xung đột Quốc-Cộng tiếp tục tiến hành.;;;;;Nhà Hán nổi tiếng vì khả năng quân sự. Đế chế này mở rộng về phía tây tới tận mép lưu vực Tarim (Khu tự trị Duy Ngô Nhĩ Tân Cương ngày nay), có thể đã kiểm soát được con đường vận chuyển ngang Trung Á. Những con đường này thường được gọi là "Con đường tơ lụa" vì nó được dùng để xuất khẩu tơ lụa của Trung Quốc. Các đội quân Trung Quốc cũng đã tấn công và sáp nhập nhiều vùng ở bắc Việt Nam và bắc Triều Tiên (Vệ Mãn Triều Tiên) ở khoảng gần cuối thế kỷ thứ 2 TCN. Tuy nhiên, các vùng kiểm soát ngoại vi của nhà Hán nói chung là không chắc chắn. Để đảm bảo hoà bình với các lực lượng phi Hán ở các địa phương, triều đình Hán phát triển một "hệ thống chư hầu" lợi ích song phương. Các nước chư hầu phi Hán được phép giữ quyền tự trị với sự chấp nhận quyền lực tượng trưng của nhà Hán. Các mối quan hệ cống nạp được xác định và được tăng cường bằng những cuộc hôn nhân lẫn nhau ở tầng lớp cai trị và những trao đổi quà tặng và hàng hóa thường xuyên.
question_68
Hành động gì của vua Louis XV đã làm cho Sa hoàng Nga ấn tượng trong chuyến thăm nước Pháp của mình?
doc_68
Gia sư của nhà vua là Tu viện trưởng André-Hercule de Fleury, Giám mục xứ Frejus, (về sau trở thành Hồng y de Fleury), dạy cho ông các ngôn ngữ Latin, Ý, các môn lịch sử, địa lý, thiên văn, toán học, mĩ thuật và bản đồ. Khi Sa hoàng Nga có chuyến thăm nước Pháp, nhà vua khiến Sa hoàng thích thú khi ông xác định những con sông, thành phố và các địa điểm địa lý của Nga. Trong những năm cuối đời nhà vua vẫn đam mê với khoa học và địa lý; ông lập ra Khoa Vật lý (1769) và Cơ khí (1773) tại Collège de France., và tài trợ cho tấm bản đồ hoàn chỉnh và chính xác đầu tiên của nước Pháp, Cartes de Cassini. Ngoài các môn khoa học lý thuyết, ông còn nhận được nền giáo dục thực tiễn trong chính phủ. Bắt đầu từ năm 1720 ông tham dự các cuộc họp thường kỳ của Hội đồng Nhiếp chính.
doc_1224;;;;;doc_4772;;;;;doc_298;;;;;doc_4798;;;;;doc_3825
Louis là một nhà bảo trợ kiến trúc; ông trích nhiều tiền ra xây các công trình thổ mộc nhiều hơn cả Louis XIV. Các dự án kiến trúc của ông là công trình của kiến trúc sư nổi tiếng phụ tá cho ông, Ange-Jacques Gabriel. Chúng bao gồm Ecole Militaire (1751-1770); Cung điện Louis XV (nay là Cung điện de la Concorde (1763–83); Petit Trianon tại Versailles (1762–64), và nhà hát Opera tại Cung điện Versailles. Louis cho khởi công xây Nhà thờ Saint-Geneviève, nay là Pantheon (1758–90). Ông cũng cho xây các quảng trường lớn và các tòa cao ốc ở trung tâm Nancy, Bordeaux, và Rennes. Các xưởng sản xuất của ông sản xuất ra đồ gia dụng, đồ sứ, thảm dệt và các mặt hàng khác theo phong cách Louis XV được xuất khẩu tới các thành phố thủ đô ở khắp châu Âu.;;;;;Dưới thời của mình, Louis XV được tôn vinh như một anh hùng dân tộc. Bức tượng Louis của điêu khắc gia Edmé Bouchardon được dựng lên để tưởng nhớ chiến thắng trong Chiến tranh Kế vị Áo. Ông được coi là người tạo ra hòa bình. Nó không được tiết lộ cho đến năm 1763, sau thất bại của Pháp trong Chiến tranh Bảy năm. Được thiết kế như một biểu tượng về lòng trung thành với vua, công trình của Bouchardon được Hoàng tộc chưng ra trước công chúng nhằm khôi phục danh tiếng cho nền quân chủ chuyên quyền đang trên đường suy vong. Nghệ thuật được sử dụng với mục đích tuyên truyền trên quy mô lớn. Bức tượng được đặt tại on the Cung điện Louis XV và bị hạ xuống dưới thời cách mạng.;;;;;Louis XV, phần nhiều theo ý của Madame de Pompadour, là nhà bảo trợ lớn cho nghệ thuật của thời đại. Ông ủy nhiệm cho François Boucher vẽ những bức tranh sinh hoạt mục vụ cho những gia trang của ông tại Versailles, và trao cho ông ta chức Họa sĩ thứ nhất của Nhà vua năm 1765. Những nghệ sĩ khác được đỡ đầu bởi nhà vua bao gồm Jean-Baptiste Oudry, Maurice Quentin de la Tour, Jean Marc Nattier, và nhà điêu khắc Edme Bouchardon. Bouchardon đã tạo ra một bức tượng hoành tráng khắc hình Louis XV cưỡi ngựa, được dựng ở trung tâm Cung điện Louis XV cho đến khi bị hạ xuống dưới thời Cách mạng Pháp.;;;;;Sau khi Thượng thư Choiseul bị đuổi, chức vụ lãnh đạo Bộ Ngoại giao bỏ trống. Nhà vua khuyên đồng minh và cũng là cậu em họ Carlos III của Tây Ban Nha dùng biện pháp hòa bình để giải quyết tranh chấp ở Falkland Islands, tránh chiến tranh nổ ra. Choiseul, quá tập trung vào cuộc chiến với Anh Quốc, đã hoàn toàn lờ đi phần còn lại của châu Âu, không đặt đại sứ ở Vienna. Trong khi Nga và Phổ, không gặp phản đối của Pháp, và đang xâu xé nước đồng minh cũ của Pháp, Ba Lan. Một đồng minh khác của Pháp, Thụy Điển, cũng bị Nga và Phổ đe dọa xâu xé sau cái chết của nhà vua Adolf Fredrik năm 1771. Hoàng tử hoàng gia (thái tử Thụy Điển), Gustav lúc này đang ở Paris. Ông gặp mặt Louis XV và nhận được lời hứa giúp đỡ từ nhà vua. Với sự hỗ trợ của Pháp, cùng chiến dịch tình báo bí mật của Louis, Secret de Roi, Gustave III trở lại Stockholm. Ngày 19 tháng 8 năm 1772, với tư cách người đứng đầu hoàng gia, Gustav dùng quân làm chính biến, bắt giam các thành viên Thượng viện Thụy Điển, và hai ngày sau được Hạ viện làm lễ Gia miện. Nga và Phổ, đã cùng nhau phân chia Ba Lan, phản đối hành động này nhưng không can thiệp vào.;;;;;Năm 1744, Hà Lan trở thành chiến trường chính, và tình hình chiến tranh có chút chuyển biến tốt cho phía Pháp. Friedrich Đại đế quyết định tái ủng hộ Pháp. Louis XV rời Versailles và thân chinh dẫn quân đến Hà Lan, tướng chỉ huy quân Pháp là Nguyên soái Maurice de Saxe, người gốc Đức. Tại Trận Fontenoy ngày 11 tháng 5 năm 1745, Louis, dẫn theo Thái tử, giành chiến thắng trước liên quân Anh, Hà Lan và Áo. Khi Thái tử xúc động vì nhìn thấy máu những người lính chết, nhà vua bảo, "Mày nên biết rằng chiến thắng nào cũng có giá của nó. Máu của kẻ thù vẫn là máu con người. Chiến thắng chân chính cần phải giảm thiểu điều đó." Saxe thắng trận tiếp theo tại Rocoux (1746) và Lauffeld (1747). Năm 1746, quân Pháp bao vây và chiếm lấy Brussels, và Louis ca khải hoàn vào thành. Nhà vua ban cho de Saxe Lâu đài de Chambord ở thung lũng Loire để tưởng thưởng.
question_69
Năm 1944, Erwin Schrödinger đã nghiên cứu gì về sự di truyền?
doc_69
Năm 1944, ông viết cuốn sách Sự sống là gì? (What Is Life?), với thảo luận về negentropy và đề cập đến khái niệm về một phân tử phức hợp mang mã di truyền cho các sinh vật sống. Theo như hồi ký của James D. Watson, DNA, the Secret of Life, cuốn sách của Schrödinger tạo cảm hứng cho Watson thực hiện nghiên cứu về gen, mà dẫn tới khám phá ra cấu trúc chuỗi xoắn kép DNA vào năm 1953. Cũng vậy, Francis Crick, trong cuốn tự thuật của ông What Mad Pursuit, miêu tả ông đã bị ảnh hưởng như thế nào bởi các phỏng đoán của Schrödinger về cách thức mà thông tin di truyền có thể được lưu giữ trong các phân tử.
doc_4818;;;;;doc_3552;;;;;doc_5310;;;;;doc_9674;;;;;doc_1873
Erwin Rudolf Josef Alexander Schrödinger ( /ˈʃroʊdɪŋər/; tiếng Đức: [ˈɛʁviːn ˈʃʁøːdɪŋɐ]; 12 tháng 8 năm 1887 – 4 tháng 1 năm 1961), là nhà vật lý người Áo với những đóng góp nền tảng cho lý thuyết cơ học lượng tử, đặc biệt là cơ học sóng: ông nêu ra phương trình sóng mô tả trạng thái của hệ lượng tử (phương trình Schrödinger phụ thuộc thời gian và dừng) và đã chứng minh hai hình thức cơ học sóng và cơ học ma trận của Werner Heisenberg về bản chất là giống nhau. Schrödinger cũng tự đề xuất ra cách giải thích cho ý nghĩa vật lý của hàm sóng và những năm về sau ông luôn phản đối cách giải thích Copenhagen về bản chất của cơ học lượng tử (với nghịch lý nổi tiếng con mèo của Schrödinger). Ngoài ra, ông còn nghiên cứu trong những lĩnh vực khác như: cơ học thống kê và nhiệt động lực học, lý thuyết điện môi, lý thuyết màu sắc, điện động lực học, thuyết tương đối rộng, và vũ trụ học, cũng như thử xây dựng một lý thuyết trường thống nhất. Trong cuốn sách của ông Sự sống là gì?, Schrödinger thảo luận về di truyền học, ông giải thích các hiện tượng sự sống trong tự nhiên theo quan điểm của vật lý học. Ông cũng chú trọng đến khía cạnh triết học trong khoa học, những khái niệm triết học từ thời cổ đại, luân lý học và tôn giáo. Ông cũng viết một số công trình về triết học và sinh học lý thuyết.;;;;;Ngày 6 tháng 4 năm 1920, Schrödinger cưới Annemarie (Anny) Bertel. Schrödinger bị chứng lao phổi và phải chữa trị vài lần trong thập niên 1920 tại một nhà điều dưỡng ở Arosa. Cũng chính tại đây, ông đã thiết lập lên phương trình sóng nổi tiếng trong cơ học lượng tử. Như đã nêu ở trên, Schrödinger có đời sống cá nhân không bình thường. Khi nhập cư vào Ireland năm 1938, ông được nhận thị thực cho mình, vợ ông và một người phụ nữ khác, cô Hilde March. March là vợ của một đồng nghiệp người Áo và Schrödinger có với cô này một con gái vào năm 1934. Schrödinger đã viết thư gửi tới thủ tướng Ireland Éamon de Valera để nhận được thị thực cho cô March. Tháng 10 năm 1939 ba người đến định cư ở Dublin. Schrödinger còn là cha của hai con gái nữa với hai người phụ nữ khác trong thời gian ông sống ở Ireland. Cháu nội của ông, Terry Rudolph, cũng theo sự nghiệp của Schrödinger khi ông ta là một nhà vật lý lượng tử, giảng dạy ở trường Imperial College, London.;;;;;Trước công trình của Mendel, lý thuyết nổi trội về di truyền là lý thuyết di truyền pha trộn, cho rằng mỗi bố mẹ đóng góp chất lỏng vào quá trình thụ tinh và các đặc điểm của bố mẹ hòa trộn và trộn lẫn để tạo ra con cái. Charles Darwin đã phát triển một lý thuyết về di truyền mà ông gọi là pangenesis, sử dụng thuật ngữ gemmule để mô tả các hạt giả thuyết sẽ trộn lẫn trong quá trình sinh sản. Mặc dù công trình của Mendel phần lớn không được công nhận sau lần xuất bản đầu tiên vào năm 1866, nhưng nó đã được 'tái khám phá' vào năm 1900 bởi ba nhà khoa học châu Âu, Hugo de Vries, Carl Correns và Erich von Tschermak, những người tuyên bố đã đưa ra kết luận tương tự trong nghiên cứu của chính họ.;;;;;Những tiến bộ trong việc hiểu biết về gen và di truyền tiếp tục diễn ra trong suốt thế kỷ 20. Axit deoxyribonucleic (DNA) đã được chứng minh là kho lưu trữ thông tin di truyền phân tử bằng các thí nghiệm trong những năm 1940 đến 1950. Cấu trúc của DNA được Rosalind Franklin nghiên cứu bằng phương pháp tinh thể học tia X, khiến James D. Watson và Francis Crick công bố mô hình phân tử DNA sợi đôi có các bazơ nucleotide ghép đôi cho thấy một giả thuyết thuyết phục về cơ chế sao chép di truyền. Nói chung, nhóm nghiên cứu này đã thiết lập giáo lý trung tâm của sinh học phân tử, trong đó tuyên bố rằng protein được dịch từ RNA, được phiên mã từ DNA. Giáo điều này kể từ đó đã được chứng minh là có những ngoại lệ, chẳng hạn như phiên mã ngược ở retrovirus. Nghiên cứu hiện đại về di truyền ở cấp độ DNA được gọi là di truyền phân tử.;;;;;Khám phá về sự biểu hiện vật lý của di truyền đã đến cùng với các nguyên tắc tiến hoá và di truyền quần thể. Trong những năm 1940 và đầu những năm 1950, các thí nghiệm đã chỉ ra DNA là thành phần của nhiễm sắc thể với chức năng mang các tính trạng đã được biết đến với tên gọi là gen. Tập trung vào các loại dạng sống mới như vi khuẩn và virus, cùng với việc khám phá ra cấu trúc chuỗi xoắn kép của DNA năm 1953, sinh học đã tiến sang thời kỳ di truyền phân tử. Từ những năm 1950 đến nay, sinh học đã được mở rộng rất nhiều trong lĩnh vực phân tử. Mã di truyền đã được khám phá bởi Har Gobind Khorana, Robert W. Holley và Marshall Warren Nirenberg sau khi DNA được biết là chứa các codon-bộ ba mã hóa. Cuối cùng, Dự án Hệ gen Con người đã được đưa ra vào năm 1990 với mục đích lập bản đồ bộ gen chung của toàn thể con người. Dự án này đã được hoàn thành vào năm 2003, với những phân tích tiếp tục được xuất bản. Dự án Hệ gen Con người là bước đầu tiên trong nỗ lực toàn cầu hoá để tích hợp kiến thức về sinh học với một định nghĩa chức năng, phân tử cho cơ thể con người và của các sinh vật khác.
question_70
Huyện Chợ Mới, Cao Lãnh, Kiến Văn, Mỹ An và thị xã Cao Lãnh thuộc tỉnh nào?
doc_70
Tháng 8 năm 1974, Trung ương Cục miền Nam quyết định giải thể các tỉnh Kiến Phong và An Giang để tái lập các tỉnh Long Châu Tiền và tỉnh Sa Đéc. Tỉnh Sa Đéc gồm các huyện Chợ Mới, Cao Lãnh, Kiến Văn, Mỹ An và thị xã Cao Lãnh của tỉnh Kiến Phong cũ; đồng thời cũng nhận lại các huyện Lấp Vò, Châu Thành, thị xã Sa Đéc của tỉnh Vĩnh Long giao lại; tỉnh lỵ tỉnh Sa Đéc khi đó đặt tại thị xã Sa Đéc. Tỉnh Long Châu Tiền gồm các huyện: Hồng Ngự, Thanh Bình, Tam Nông của tỉnh Kiến Phong cũ và các huyện An Phú, Tân Châu, Phú Tân A và Phú Tân B của tỉnh An Giang cũ; tỉnh lỵ đặt tại thị trấn Tân Châu, huyện Tân Châu (ngày nay là thị xã Tân Châu).
doc_2319;;;;;doc_1015;;;;;doc_4505;;;;;doc_4134;;;;;doc_4183
Chính quyền Cách mạng khi đó cũng đồng thời tách xã Mỹ Trà và các vùng lân cận để thành lập thị xã Cao Lãnh thuộc tỉnh Kiến Phong. Như vậy, lúc bấy giờ thị xã Cao Lãnh và huyện Cao Lãnh cùng là hai đơn vị hành chính cấp huyện ngang bằng nhau. Sau đó, chính quyền Cách mạng cũng cho thành lập thêm huyện Kiến Văn, huyện Mỹ An và huyện Thanh Bình như phía chính quyền Việt Nam Cộng hòa. Tỉnh Kiến Phong khi đó gồm các đơn vị hành chính trực thuộc: thị xã Cao Lãnh, huyện Cao Lãnh, huyện Mỹ An (ngày nay là huyện Tháp Mười), huyện Kiến Văn, huyện Thanh Bình, huyện Hồng Ngự. Tháng 12 năm 1965 tỉnh Kiến Phong nhận thêm huyện Chợ Mới từ tỉnh An Giang (trước năm 1956 thuộc tỉnh Long Xuyên).;;;;;Đến ngày 22 tháng 10 năm 1956, Tổng thống Việt Nam Cộng hòa Ngô Đình Diệm ban hành Sắc lệnh 143-NV để " thay đổi địa giới và tên Đô thành Sài Gòn – Chợ Lớn cùng các tỉnh và tỉnh lỵ tại Việt Nam". Địa giới và địa danh các tỉnh ở miền Nam thay đổi nhiều, một số tỉnh mới được thành lập. Theo Sắc lệnh này, địa phận Nam Phần của Việt Nam Cộng Hoà gồm Đô thành Sài Gòn và 22 tỉnh. Lúc này, tỉnh Phong Thạnh được đổi tên thành tỉnh Kiến Phong; còn toàn bộ phần còn lại tỉnh Sa Đéc bị giải thể, sáp nhập vào địa bàn tỉnh Vĩnh Long. Tỉnh lỵ tỉnh Kiến Phong có tên là "Cao Lãnh", về mặt hành chánh thuộc xã Mỹ Trà, quận Cao Lãnh.;;;;;Ngày 11 tháng 3 năm 1970, quận Vĩnh Lợi thuộc tỉnh Bạc Liêu nhận thêm một phần đất đai trước đó thuộc xã Châu Hưng, quận Thạnh Trị, tỉnh Ba Xuyên và cũng nhận lại phần đất đai trước đó thuộc xã Hưng Hội nhưng từng bị cắt chuyển về thuộc quận Hòa Tú thuộc tỉnh Ba Xuyên; đồng thời nửa phía bắc xã Châu Thới thuộc quận Vĩnh Lợi, tỉnh Bạc Liêu cũng lại sáp nhập vào xã Châu Hưng thuộc quận Thạnh Trị, tỉnh Ba Xuyên. Bên cạnh đó, dải đất rộng 1500m chạy dọc sông Mỹ Thanh thuộc các xã Khánh Hòa và Vĩnh Phước của quận Vĩnh Châu thuộc tỉnh Bạc Liêu cũng giao về cho quận Hòa Tú thuộc tỉnh Ba Xuyên.;;;;;Ngày 12 tháng 9 năm 1947, theo chỉ thị số 50/CT của Ủy ban kháng chiến hành chính Nam Bộ (chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa), lúc bấy giờ có sự thay đổi sắp xếp hành chính của tỉnh Châu Đốc và tỉnh Long Xuyên, thành lập các tỉnh mới có tên là Long Châu Tiền và Long Châu Hậu. Theo đó, tỉnh Long Châu Tiền nằm ở phía bờ trái (tả ngạn) sông Hậu, hai bên sông Tiền, thuộc khu 8 và có 5 huyện: Tân Châu, Hồng Ngự, Chợ Mới, Châu Phú B và Lấp Vò. Ngày 14 tháng 5 năm 1949, huyện Lấp Vò được trả về tỉnh Sa Đéc. Cũng trong năm đó, huyện Tân Châu của tỉnh Long Châu Tiền chia thành 2 huyện mới là Phú Châu và Tân Châu.;;;;;Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, tỉnh Sa Đéc, tỉnh Long Xuyên và tỉnh Châu Đốc nằm trong danh sách 21 tỉnh ở Nam Bộ. Lúc này, Ủy ban Kháng chiến Hành chánh Nam bộ chủ trương bỏ cấp tổng, bỏ đơn vị làng, thống nhất gọi là xã, đồng thời bỏ danh xưng quận, gọi thay thế bằng huyện. Chính quyền Việt Nam Cộng hòa đến năm 1956 cũng thống nhất dùng danh xưng là xã, tuy nhiên vẫn gọi là quận cho đến năm 1975. Đồng thời, chính quyền Việt Minh cũng cho thành lập thị xã Sa Đéc trực thuộc tỉnh Sa Đéc trên cơ sở tách đất làng Tân Vĩnh Hòa và các vùng lân cận.
question_71
Đài Loan trồng trọt những loại cây gì là chủ yếu?
doc_71
Mặc dù chỉ có khoảng một phần tư diện tích đất của Đài Loan thích hợp cho canh tác, hầu như tất cả đất nông nghiệp đều được canh tác mạnh mẽ, với một số khu vực thích hợp cho hai và thậm chí ba vụ mỗi năm. Tuy nhiên, tăng sản xuất nông nghiệp chậm hơn nhiều so với tăng trưởng công nghiệp. Hiện đại hóa nông nghiệp đã bị ức chế bởi quy mô nhỏ của các trang trại và thiếu đầu tư vào các cơ sở vật chất tốt hơn và đào tạo để phát triển các doanh nghiệp có lợi nhuận cao hơn. Dân số nông nghiệp của Đài Loan đã giảm đều từ năm 1974 xuống 2002, khiến Hội đồng Nông nghiệp giới thiệu quản lý trang trại hiện đại, đào tạo kỹ thuật và tư vấn cho các hệ thống sản xuất và phân phối tốt hơn. Thúc đẩy cơ giới hóa trang trạiđã giúp giảm bớt tình trạng thiếu lao động trong khi tăng năng suất; cả sản xuất lúa và mía đều được cơ giới hoá hoàn toàn. Cây trồng chính của Đài Loan là gạo, mía, hoa quả (nhiều loại trong số đó là nhiệt đới) và rau. Mặc dù tự cung tự cấp trong sản xuất gạo, Đài Loan nhập khẩu một lượng lớn lúa mì, chủ yếu là từ Hoa Kỳ. Sản xuất và tiêu thụ thịt đã tăng mạnh, phản ánh mức sống cao. Đài Loan đã xuất khẩu một lượng lớn thịt lợn đông lạnh, mặc dù điều này đã bị ảnh hưởng bởi dịch bệnh hoof và miệng vào năm 1997. Các mặt hàng nông sản khác bao gồm cá, thủy sản và hải sản, rau quả đóng hộp và đông lạnh và các sản phẩm ngũ cốc. Nhập khẩu các sản phẩm nông nghiệp dự kiến sẽ tăng do gia nhập WTO, đang mở cửa thị trường nông nghiệp được bảo hộ trước đây.
doc_582;;;;;doc_459;;;;;doc_1381;;;;;doc_2858;;;;;doc_1055
Nông nghiệp đã phục vụ như một nền tảng vững chắc cho phép lạ kinh tế của Đài Loan. Sau khi nhượng từ Nhật Bản vào năm 1945, chính phủ công bố một chiến lược lâu dài của "phát triển ngành công nghiệp thông qua sản xuất nông nghiệp và phát triển nông nghiệp thông qua ngành công nghiệp". Như vậy, nông nghiệp đã trở thành nền tảng cho sự phát triển kinh tế của Đài Loan trong những năm đầu và phục vụ như là một neo cho tăng trưởng trong công nghiệp và thương mại. Vào năm 1951, sản xuất nông nghiệp chiếm 35,8% GDP của Đài Loan, vào năm 2013, nó đã được vượt xa và 475,90 tỷ đô-la của nó chỉ chiếm 1,69% GDP. Như năm 2013, Nông nghiệp của Đài Loan là hỗn hợp các loại cây trồng (47,88%), chăn nuôi (31,16%), thủy sản (20,87%) và lâm nghiệp (0,09%). Kể từ khi gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới và tự do hóa thương mại tiếp theo, chính phủ đã thực hiện các chính sách mới để phát triển ngành thành một ngành công nghiệp xanh hiện đại và cạnh tranh hơn.;;;;;Thương mại quốc tế được chính thức hỗ trợ bởi Hội đồng phát triển ngoại thương Đài Loan. Các nhà đầu tư và doanh nghiệp Đài Loan đã trở thành nhà đầu tư lớn ở Trung Quốc đại lục, Việt Nam, Thái Lan, Indonesia, Philippines và Malaysia. Do chính sách tài chính bảo thủ và ổn định của Ngân hàng Trung ương Cộng hòa Trung Quốc (Đài Loan) và các thế mạnh kinh doanh, Đài Loan ít chịu đựng cuộc khủng hoảng tài chínhnăm 1997-1999 so với nhiều nền kinh tế trong khu vực. Hai ngân hàng lớn ở Đài Loan là Ngân hàng Đài Loan và Ngân hàng Thương mại Quốc tế Mega, nhưng ngành tài chính không phải là ngành công nghiệp quốc tế lớn ở Đài Loan. Không giống như Nhật Bản và Hàn Quốc láng giềng, các doanh nghiệp nhỏ và vừa chiếm một tỷ lệ đáng kể các doanh nghiệp ở Đài Loan. Đài Loan được đặc trưng là một trong những nền kinh tế công nghiệp hóa mới trong sự trỗi dậy của mười dự án xây dựng lớn kể từ năm 1970. Từ những năm 1990, nền kinh tế Đài Loan đã thông qua tự do hóa kinh tế với những cải cách điều chỉnh liên tiếp. London Metal Exchange, thị trường chứng khoán kim loại lớn nhất thế giới, đã chấp thuận Kaohsiung, Đài Loan là một điểm giao hàng tốt cho nhôm chính, hợp kim nhôm, đồng, chì, niken, thiếc và kẽm và là vị trí thứ chín của LME ở châu Á vào ngày 17 tháng 6 năm 2013, cho các hợp đồng tương lai về kim loại và sản xuất công nghiệp của sự hội nhập toàn cầu của nền kinh tế Đài Loan. Nền kinh tế của Đài Loan có mật độ tập trung cửa hàng tiện lợi hiện đại cao nhất thế giới. Các thuế gián tiếp hệ thống của nền kinh tế của Đài Loan bao gồm Tổng biên nhận kinh doanh Thuế (GBRT) (thuế thu gộp) và thuế giá trị gia tăng. Nền kinh tế của Đài Loan được xếp hạng thứ 15 trong 20 thành phố điểm đến hàng đầu toàn cầu theo số lượt truy cập qua đêm quốc tế (2014) theo Chỉ số thành phố điểm đến toàn cầu của MasterCard 2014. Trà bong bóng có nguồn gốc từ Đài Loan.;;;;;Nhập khẩu bị chi phối bởi nguyên vật liệu và hàng hóa vốn, chiếm hơn 90% tổng số. Đài Loan nhập khẩu hầu hết nhu cầu năng lượng của mình. Hoa Kỳ là đối tác thương mại lớn thứ ba của Đài Loan, chiếm 11,4% kim ngạch xuất khẩu của Đài Loan và cung cấp 10,0% lượng nhập khẩu. Trung Quốc đại lục gần đây đã trở thành đối tác xuất nhập khẩu lớn nhất của Đài Loan. Trong năm 2010, đất liền chiếm 28,0% xuất khẩu của Đài Loan và 13,2% nhập khẩu. Con số này đang phát triển nhanh chóng khi cả hai nền kinh tế trở nên phụ thuộc lẫn nhau hơn bao giờ hết. Nhập khẩu từ Trung Quốc đại lục bao gồm chủ yếu là nguyên liệu nông nghiệp và công nghiệp. Xuất khẩu sang Hoa Kỳ chủ yếu là hàng điện tử và hàng tiêu dùng. Khi mức thu nhập bình quân đầu người của Đài Loan tăng lên, nhu cầu nhập khẩu, hàng tiêu dùng chất lượng cao đã tăng lên. Thặng dư thương mại năm 2002 của Đài Loan với Hoa Kỳ là 8,70 tỷ đô la.;;;;;Ngoại thương là động cơ tăng trưởng nhanh của Đài Loan trong 40 năm qua. Nền kinh tế của Đài Loan vẫn theo định hướng xuất khẩu, do đó, nó phụ thuộc vào một chế độ thương mại thế giới mở và vẫn còn dễ bị tổn thương do suy thoái trong nền kinh tế thế giới. Tổng giá trị thương mại tăng hơn năm lần trong những năm 1960, gần gấp mười lần trong thập niên 1970, và tăng gấp đôi một lần nữa trong những năm 1980. Những năm 1990 chứng kiến sự tăng trưởng khiêm tốn hơn, ít hơn hai lần. Thành phần xuất khẩu thay đổi chủ yếu từ hàng nông sản sang hàng công nghiệp (nay là 98%). Ngành điện tử là lĩnh vực xuất khẩu công nghiệp quan trọng nhất của Đài Loan và là nước nhận đầu tư lớn nhất của Hoa Kỳ.;;;;;Một lần nữa, việc chuyển đổi nền kinh tế của Đài Loan không thể hiểu được nếu không có tham chiếu đến khuôn khổ địa chính trị lớn hơn. Mặc dù viện trợ đã được cắt giảm trong thập niên 1970, nhưng điều đó rất quan trọng trong những năm hình thành, thúc đẩy công nghiệp hóa và an ninh và liên kết kinh tế được duy trì. Sự không chắc chắn về cam kết của Hoa Kỳ đã đẩy nhanh sự thay đổi của đất nước từ việc thay thế nhập khẩu được trợ cấp trong những năm 1950 để tăng trưởng dẫn đầu xuất khẩu. Sự phát triển của thương mại và xuất khẩu nước ngoài đã giúp thu hút lao động dư thừa từ việc giảm tầm quan trọng của nông nghiệp trong nền kinh tế. Giống như Hàn Quốc, Đài Loan đã chuyển từ các nhà sản xuất rẻ tiền, tốn nhiều công sức, như dệt may và đồ chơi, thành một sự mở rộng của ngành công nghiệp nặng và cơ sở hạ tầng vào những năm 1970, và sau đóthiết bị điện tử tiên tiến trong thập kỷ tiếp theo. Đến những năm 1980, nền kinh tế ngày càng mở cửa và chính phủ đã chuyển sang tư nhân hoá các doanh nghiệp nhà nước. Phát triển công nghệ dẫn đến việc thành lập Công viên Khoa học Hsinchu vào năm 1981. Đầu tư vào Trung Quốc đại lục thúc đẩy thương mại qua eo biển, giảm sự phụ thuộc của Đài Loan vào thị trường Hoa Kỳ. Từ 1981-1995, nền kinh tế tăng trưởng với tốc độ hàng năm là 7,52%, và khu vực dịch vụ trở thành ngành lớn nhất với 51,67%, vượt qua khu vực công nghiệp và trở thành một nguồn chính của tăng trưởng kinh tế.
question_72
Sự tăng trưởng kinh tế của Bồ Đào Nha bắt dầu vào thời gian nào?
doc_72
Đến đầu thập niên 1970, tăng trưởng kinh tế nhanh chóng của Bồ Đào Nha kéo theo gia tăng chủ nghĩa tiêu thụ, và việc mua ô tô mới khiến chính quyền ưu tiên trong cải thiện giao thông. Đến thập niên 1990, sau khi gia nhập Cộng đồng Kinh tế châu Âu, Bồ Đào Nha xây dựng nhiều xa lộ mới. Ngày nay, Bồ Đào Nha có hệ thống đường bộ dài hơn 68,7 nghìn km, khoảng ba nghìn km thuộc hệ thống 44 xa lộ. Xa lộ đầu tiên được khánh thành vào năm 1944, liên kết Lisboa đến Sân vận động Quốc gia, đó là một dự án sáng tạo khiến Bồ Đào Nha trở thành một trong các quốc gia đầu tiên có xa lộ (tuyến đường hiện trở thành đường cao tốc Lisbon-Cascais, hay A5).
doc_3324;;;;;doc_3291;;;;;doc_2292;;;;;doc_2713;;;;;doc_4939
Sau Cách mạng hoa cẩm chương năm 1974, Bồ Đào Nha kết thúc một trong các chu kỳ tăng trưởng kinh tế đáng chú ý nhất của mình (bắt đầu trong thập niên 1960),. Sau rối loạn từ khởi nghĩa và giai đoạn PREC, Bồ Đào Nha nỗ lực thích ứng với kinh tế toàn cầu hiện đại đang biến đổi, quá trình này vẫn đang tiếp tục. Kể từ thập niên 1990, mô hình phát triển kinh tế dựa trên tiêu thụ của công chúng thay đổi chậm thành một hệ thống tập trung vào xuất khẩu, đầu tư tư nhân và phát triển lĩnh vực công nghệ cao. Do đó, các dịch vụ kinh doanh đã vượt qua các ngành công nghiệp truyền thống hơn như dệt, quần áo, giầy dép, nút bần (Bồ Đào Nha là nhà sản xuất nút bần hàng đầu thế giới), các sản phẩm từ gỗ, và đồ uống.;;;;;Bồ Đào Nha là quốc gia phát triển và có thu nhập cao, GDP bình quân đầu người vào năm 2014 đạt 78% mức trung bình của Liên minh châu Âu – tăng so với 76% vào năm 2012.. Đến cuối năm 2016, GDP PPP bình quân của Bồ Đào Nha là hơn 30 nghìn USD. Tiền tệ của Bồ Đào Nha là euro (€), nó thay thế escudo Bồ Đào Nha, và đây là một trong các quốc gia thành viên ban đầu của khu vực đồng euro. Ngân hàng trung ương của Bồ Đào Nha là Banco de Portugal, một bộ phận tích hợp của Hệ thống Ngân hàng Trung ương châu Âu. Hầu hết các ngành công nghiệp, thể chế kinh doanh và tài chính tập trung tại các vùng đô thị Lisboa và Porto, còn các tỉnh Setúbal, Aveiro, Braga, Coimbra và Leiria cũng là các trung tâm kinh tế lớn. Đại đa số mậu dịch quốc tế của Bồ Đào Nha là với Liên minh châu Âu, các đối tác mậu dịch quan trọng khác là Bắc Mỹ, các quốc gia nói tiếng Bồ Đào Nha tại châu Phi, Bắc Phi và Mercosul.;;;;;Trong thập niên thứ nhì của thế kỷ XXI, kinh tế Bồ Đào Nha phải trải qua cuộc suy thoái nghiêm trọng nhất kể từ thập niên 1970, khiến quốc gia này phải nhận cứu trợ Ủy ban châu Âu, Ngân hàng Trung ương châu Âu và Quỹ Tiền tệ Quốc tế. Khoản cứu trợ được thoả thuận vào năm 2011, yêu cầu Bồ Đào Nha áp dụng một loạt các biện pháp khắc khổ để đối lấy hỗ trợ tài chính 78 tỷ euro. Trong tháng 5 năm 2014, Bồ Đào Nha ra khỏi cứu trợ song tái khẳng định cam kết duy trì động lực cải cách. Trong thời điểm ra khỏi gói cứu trợ, kinh tế giảm đến 0,7% vào quý đầu của năm 2014, song tỷ lệ Thất nghiệp giảm xuống 15,3%.;;;;;Ngày 26 tháng 3 năm 1995, Bồ Đào Nha bắt đầu áp dụng các quy tắc Khu vực Schengen, loại bỏ kiểm soát biên giới với các thành viên Schengen đồng thời củng cố biên giới các quốc gia khác. Năm 1996, Bồ Đào Nha đồng sáng lập Cộng đồng các quốc gia nói tiếng Bồ Đào Nha (CPLP) có trụ sở tại Lisboa. Triển lãm thế giới năm 1998 diễn ra tại Bồ Đào Nha, và đến năm 1999 quốc gia này cho lưu hành đồng euro. Ngày 1 tháng 12 năm 2009, Hiệp ước Lisboa có hiệu lực sau khi được ký kết vào năm 2007 tại Tu viện Jerónimos của Lisboa, tăng cường tính hợp pháp hiệu quả và dân chủ của Liên minh và cải thiện gắn kết trong các hành động nội khối. Kinh tế suy thoái trong khủng hoảng tài chính cuối thập niên 2010 khiến Bồ Đào Nha đàm phán với IMF và Liên minh châu Âu vào năm 2011 về một khoản vay nhằm giúp ổn định tài chính trong nước.;;;;;Bồ Đào Nha có tài nguyên đáng kể về năng lượng gió và sông, hai nguồn tái tạo có hiệu quả kinh tế cao nhất. Kể từ khi bước sang thế kỷ XXI, diễn ra xu thế hướng đến phát triển một ngành tài nguyên tái tạo và giảm tiêu thụ và sử dụng các tài nguyên nhiên liệu hoá thạch. Vào năm 2006, nhà máy quang năng lớn nhất thế giới đương thời là nhà máy quang năng Moura bắt đầu hoạt động gần Moura thuộc miền nam, trong khi trang trại năng lượng sóng biển thương mại đầu tiên trên thế giới là trang trại sóng Aguçadoura được khánh thành tại vùng Norte vào năm 2008. Đến cuối năm 2006, 66% sản lượng điện năng quốc gia đến từ các nhà máy điện sử dụng than đá và chất đốt, 29% đến từ các đập thuỷ điện, và 6% đến từ năng lượng gió.
question_73
Khu vực bồn địa Hán Trung sẽ hợp lí hơn nếu được quy nhập vào bố chính ty nào?
doc_73
Thừa tuyên bố chính sứ ty (bố chính ty) quản lý hành chính địa phương, địa vị tương đương với "hành trung thư tỉnh" vào thời Nguyên. Minh Thái Tổ vốn duy trì tên gọi "hành trung thư tỉnh", đến năm 1376 thì đổi thành "bố chính sứ ty", thường gọi là hành tỉnh. Đầu thời Minh đặt 13 bố chính ty cùng kinh sư (địa vị tương đương bố chính ty, quản lý Giang Tô và An Huy hiện nay). Năm 1380, sau án Hồ Duy Dung triều Minh phế bỏ "trung thư tỉnh", kinh sư và bố chính ty trực thuộc Lục bộ. Thời kỳ Minh Thành Tổ, từ năm 1407 đến năm 1428 đặt Giao Chỉ bố chính ty. Năm 1413, đặt Quý Châu bố chính ty. Do thiên đô Bắc Kinh, vào năm 1403 đưa Bắc Bình bố chính ty thăng làm "hành tại", năm 1421 sau khi thiên đô Bắc Kinh gọi là kinh sư (Bắc Trực Lệ), kinh sư cũ đổi thành Nam Kinh (Nam Trực Lệ), hình thành phân chia hành chính "lưỡng kinh thập tam tỉnh". Lưỡng kinh là Bắc Kinh và Nam Kinh, gọi chính thức là Thuận Thiên phủ và Ứng Thiên phủ, chúng cùng với các châu phủ lân cận lần lượt gọi chung là Bắc Trực Lệ và Nam Trực Lệ, không đặt bố chính ty, 13 bố chính ty gồm: Thiểm Tây, Sơn Tây, Sơn Đông, Hà Nam, Chiết Giang, Giang Tây, Hồ Quảng, Tứ Xuyên, Quảng Đông, Phúc Kiến, Quảng Tây, Quý Châu, Vân Nam. Phân chia hành chính của triều Minh về đại thể phù hợp với địa thế núi sông, song có một số điểm bất hợp lý, như Nam Trực Lệ nằm vắt qua cả ba khu vực Hoài Bắc, Hoài Nam, Giang Nam, khu vực Tô-Tùng về ngôn ngữ-văn hóa thuộc khu Thái Hồ Ngô-Việt song được quy nhập Nam Trực Lệ thay vì Chiết Giang; bồn địa Hán Trung nằm tại phía nam Tần Lĩnh được quy nhập Thiểm Tây thay vì Tứ Xuyên, Hà Nam bao gồm một phần phía bắc Hoàng Hà. Quý Châu có hình giống loài bướm khi khoảng giữa hẹp song hai bên thì rộng.
doc_1333;;;;;doc_2409;;;;;doc_685;;;;;doc_1885;;;;;doc_469
Cùng với sự sụp đổ của triều Tây Tấn vào cuối thế kỷ IV và đầu thế kỷ V, các tộc du mục (Ngũ Hồ) từ phía bắc đã xâm chiếm miền Bắc Trung Quốc và lập ra nhiều chế độ kế tiếp nhau. Tuy nhiên, các dân tộc này dần dần bị Hán hóa. Trong thời Ngũ Hồ thập lục quốc, địa bàn Hà Nam trước sau thuộc về các nước Tiền Triệu, Hậu Triệu, rồi Tiền Yên, Tiền Tần. Sau khi Tiền Tần thống nhất Hoa Bắc, lại thất bại trong trận Phì Thủy trước triều Đông Tấn, Hoa Bắc lại một lần nữa phân liệt thành nhiều nước, Hà Nam lần lượt thuộc quyền cai quản của các nước Hậu Yên, Hậu Tần. Nhận thấy Hậu Tần có bất ổn nội bộ, thu năm 416, tướng Lưu Dụ của Đông Tấn đã cho mở một chiến dịch lớn đánh Hậu Tần, quân Tấn đã nhanh chóng đoạt được nửa phía đông của Hậu Tần, bao gồm cả thành Lạc Dương. Quân Đông Tấn sau đó liên tiếp giành được thắng lợi, lấy được vùng đất rộng lớn nằm ở phía bắc Hoài Hà và phía nam Hoàng Hà.;;;;;Từ thời lập quốc, nhà Hán có khả năng giữ được hoà bình với dân tộc du mục phía Bắc Hung Nô bằng cách nộp cống và gả các công chúa cho họ. Tại thời này, mục tiêu của chính quyền là giảm sự hà khắc của hình luật, chiến tranh và các điều kiện sống cho người dân so với thời Tần, hạn chế các đe doạ từ dân du mục bên ngoài và những xung đột sớm bên trong triều đình. Chính phủ giảm bớt thuế và đảm bảo tình trạng cống nộp cho các bộ lạc du mục. Chính sách này giảm can thiệp vào đời sống dân cư, gọi là Dữ dân hưu tức (與民休息) bắt đầu một giai đoạn ổn định.;;;;;Khu vực Thiểm Bắc thuộc vùng trung thượng du Hoàng Hà, khu vực phía nam Tần Lĩnh thuộc vùng thượng du Trường Giang, Quan Trung là những vùng phát địa quan trọng của nền văn minh Trung Hoa. Theo phân kỳ khảo cổ, khu vực Quan Trung từ xưa đã có các hoạt động của người Lam Điền (蓝田人, Homo erectus lantianensis). Trong các di chỉ thời đại đồ đá mới, có niên đại sớm nhất là thuộc về văn hóa Lão Quan Đài (khoảng 6000 TCN-5000 TCN), kế tiếp là thuộc văn hóa Ngưỡng Thiều (khoảng 5000 TCN-3000 TCN) nổi tiếng, sau đó là văn hóa Long Sơn (khoảng 3000 TCN-2000 TCN).;;;;;Khu nội thị Bắc Kinh có một vài hồ được gọi là hải. Vào thời nhà Nguyên, những người cai trị Mông Cổ đã cho mở rộng và xây dựng hoàng cung Đại Đô xung quanh chúng. Sau này, các hoàng đế nhà Minh và nhà Thanh đã sử dụng các hồ này làm ngự hoa viên. Ngày nay, ba hồ cực bắc trong nội thị là Tây Hải, Hậu Hải và Tiền Hải, được gọi chung là Thập Sát Hải (什刹海). Ở phía nam của chúng, Bắc Hải là một công viên của thành phố, còn Trung Hải và Nam Hải là một bộ phận của quần thể Trung Nam Hải. Chuỗi hồ này từng là lòng sông chính của Vĩnh Định Hà- cong sông mà ngày nay chảy cách đó 50–60 km (31–37 mi) về phía tây. Cách nay 1.800 năm, Vĩnh Định Hà chảy qua Tích Thủy Đàm (积水潭) và trung tâm đô thị của Bắc Kinh và sau đó chảy vào hồ Long Đàm và vào Thông Châu.;;;;;Tháng 2 năm 206 TCN, Hạng Vũ tự lập làm Tây Sở Bá vương, lấy khu vực Quan Trung và Thiểm Bắc của Thiểm Tây phân phong cho ba danh hàng tướng của triều Tần; Chương Hàm được phong làm Ung vương, đất đai từ Hàm Dương về phía tây, đóng đô tại Phế Khâu (廢丘)[chú 23]; Tư Mã Hân được phong làm Tắc vương, đất đai ở phía đông Hàm Dương, đóng đô tại Lịch Dương (栎阳)[chú 24]; Đổng Ế được phong làm Địch vương, đất đai ở Thiểm Bắc, đóng đô tại Cao Nô (高奴)[chú 25] Do đó, Thiểm Tây còn mang danh là "Tam Tần". Còn vùng Hán Trung ở phía nam Tần Lĩnh thuộc về Hán vương Lưu Bang. Tháng 8 năm 206 TCN, quân của Hán vương Lưu Bang bí mật tiến đến Trần Thương (陳倉)[chú 26], tập kích Quan Trung, Chương Hàm rút về cố thủ ở Phế Khâu (đến năm 205 TCN tự sát) còn Tư Mã Hân và Đổng Ế đầu hàng, toàn bộ Thiểm Tây thuộc quyền kiểm soát của Lưu Bang.
question_74
Dân số tại 13 thuộc địa Anh vào năm 1770 là bao nhiêu?
doc_74
Người bản địa sống tại nơi mà ngày nay là Hoa Kỳ trước khi những người thực dân châu Âu bắt đầu đi đến, phần lớn là từ Anh Quốc, sau năm 1600. Vào thập niên 1770, Mười ba thuộc địa Anh có đến 2 triệu rưỡi người sinh sống. Các thuộc địa này thịnh vượng và phát triển nhanh chóng, phát triển các hệ thống pháp lý và chính trị tự chủ của chính mình. Nghị viện Anh Quốc áp đặt quyền lực của mình đối với các thuộc địa này bằng cách đặt ra các thứ thuế mới mà người Mỹ cho rằng là vi hiến bởi vì họ không có đại diện của mình trong nghị viện. Các cuộc xung đột ngày càng nhiều đã biến thành cuộc chiến tranh toàn lực, bắt đầu vào tháng 4 năm 1775. Ngày 4 tháng 7 năm 1776, các thuộc địa tuyên bố độc lập khỏi Vương quốc Anh bằng một văn kiện do Thomas Jefferson viết ra và trở thành Hợp chúng quốc Hoa Kỳ.
doc_8522;;;;;doc_3422;;;;;doc_214;;;;;doc_3868;;;;;doc_9124
Từ tháng 1 đến tháng 5 năm 1673, Công ty Đông Ấn Hà Lan đã dùng vũ lực chiếm hòn đảo, trước khi quân tiếp viện của Anh khôi phục quyền kiểm soát của Công ty Đông Ấn Anh. Công ty gặp khó khăn trong việc thu hút những người nhập cư mới và tình trạng bất ổn và nổi loạn ngày càng gia tăng trong người dân. Các vấn đề sinh thái, bao gồm nạn phá rừng, xói mòn đất, sâu bọ và hạn hán, khiến Thống đốc Isaac Pyke đề xuất vào năm 1715 rằng dân số nên được chuyển đến Mauritius, nhưng điều này không được thực hiện và công ty tiếp tục trợ cấp cho cộng đồng vì vị trí chiến lược của hòn đảo. Một cuộc điều tra dân số năm 1723 ghi nhận 1.110 người, trong đó có 610 nô lệ.;;;;;Người Anh thiết lập thêm các thuộc địa tại Cupids và Ferryland trên đảo Newfoundland, bắt đầu vào năm 1610. Mười ba thuộc địa ở phía nam được thành lập ngay sau đó. Một loạt bốn cuộc chiến bùng nổ tại Bắc Mỹ thuộc địa hóa từ năm 1689 đến năm 1763; các cuộc chiến sau của giai đoạn này tạo thành Mặt trận Bắc Mỹ trong Chiến tranh Bảy năm. Nova Scotia đại lục nằm dưới quyền cai trị của người Anh theo Hiệp định Utrecht 1713; Hiệp định Paris (1763) nhượng lại Canada và hầu hết Tân Pháp cho Đế quốc Anh sau Chiến tranh Bảy năm.;;;;;Mỗi trong số 13 thuộc địa Mỹ có một cơ cấu chính quyền hơi khác biệt. Thông thường một thuộc địa do một thống đốc cai trị, đó là người được Luân Đôn bổ nhiệm, có trách nhiệm quản lý ngành hành pháp và dựa vào một nghị viện do địa phương bầu lên để biểu quyết về thuế và làm luật. Vào thế kỷ 18, các thuộc địa Mỹ phát triển rất nhanh chóng vì đất đai và thực phẩm phong phú, và tỉ lệ tử thấp. Các thuộc địa giàu có hơn phần lớn các khu vực tại Anh Quốc. Điều này hấp dẫn dòng người di dân đều đặn, đặc biệt là giới thiếu niên đến Mỹ với địa vị lao công khế ước. Các đồn điền thuốc lá và lúa nhập cảng các nô lệ da đen từ các thuộc địa Anh ở vùng Tây Ấn. Đến khoảng thập niên 1770, họ chiếm một phần năm dân số Mỹ. Câu hỏi về sự độc lập khỏi Anh chưa nảy sinh chừng nào mà các thuộc địa vẫn còn cần đến quân đội Anh để chống lại cường quốc Pháp và Tây Ban Nha. Những mối đe dọa này biến mất vào năm 1765. Luân Đôn xem sự tồn tại của các thuộc địa Mỹ chỉ vì lợi ích của mẫu quốc, đây là một chính sách được biết đến với tên gọi Chủ nghĩa trọng thương.;;;;;Theo sau sự kiện người Anh thu phục lãnh thổ của Pháp tại Bắc Mỹ, Quốc vương George III ra Tuyên ngôn năm 1763 với mục đích tổ chức đế quốc mới Bắc Mỹ và bảo vệ người bản địa Mỹ khỏi sự bành trướng của người định cư vào các vùng đất phía tây. Trong những năm tiếp theo, căng thẳng càng phát triển trong các mối quan hệ giữa những thực dân và vương quyền. Nghị viện Anh thông qua Đạo luật tem 1765, áp đặt một thứ thuế mới vào các thuộc địa mà không thông qua các nghị viện thuộc địa. Vấn đề này được nêu lên: liệu Nghị viện Anh có quyền đánh thuế người Mỹ khi họ không có đại diện trong đó? Bằng cách hò hét "không đóng thuế khi không có đại diện", người định cư từ chối trả thuế khi căng thẳng leo thang vào cuối thập niên 1760 và đầu thập niên 1770.;;;;;Bắt đầu từ năm 1689, các thuộc địa đã tham gia vào một loạt cuộc chiến tranh giữa Anh và Pháp để giành quyền kiểm soát Bắc Mỹ, trong đó quan trọng nhất là Chiến tranh của Nữ hoàng Anne, trong đó người Anh chinh phục thuộc địa Acadia của Pháp và Chiến tranh Pháp và Ấn Độ cuối cùng. (1754–63) khi Anh chiến thắng tất cả các thuộc địa của Pháp ở Bắc Mỹ. Cuộc chiến cuối cùng này nhằm mang lại cho hàng nghìn người dân thuộc địa, bao gồm cả đại tá George Washington của bang Virginia, kinh nghiệm quân sự mà họ đã sử dụng trong Chiến tranh Cách mạng Hoa Kỳ.
question_75
Nạn tắc nghẽn xe hơi vào các năm 1970 và 1980 đã dẫn đến hệ quả gì?
doc_75
Thành phố Roma đang hứng chịu các vấn đề giao thông, chủ yếu là do mô hình đường xuyên tâm đã gây khó khăn cho người dân Roma: nếu muốn di chuyển từ các vùng lân cận của một trong những tuyến đường xuyên tâm đến tuyến đường khác họ phải đi vào trung tâm lịch sử hoặc phải đi đường vòng. Vấn đề này không thể giải quyết do quy mô hệ thống tàu điện ngầm tại Roma bị hạn chế so với các thành phố khác có kích thước tương tự. Ngoài ra, Roma chỉ có 21 xe taxi cho mỗi 10.000 dân, cách biệt xa so với các thành phố lớn ở châu Âu. Nạn tắc nghẽn xe hơi thường xuyên xảy ra trong những năm 1970 và 1980 đã dẫn đến việc hạn chế lưu thông phương tiện vào trung tâm nội thành trong thời điểm ban ngày. Những khu vực áp dụng hạn chế được gọi là Khu Hạn chế Giao thông (Zona a Traffico Limitato (ZTL) ở Ý). Gần đây hơn, lượng giao thông tấp nập vào ban đêm ở Trastevere và San Lorenzo đã dẫn đến việc hình thành những khu ZTL đêm ở những vùng đó, ngoài ra còn có kế hoạch lập một khu ZTL đêm ở Testaccio.
doc_4972;;;;;doc_4123;;;;;doc_518;;;;;doc_5474;;;;;doc_6335
Tuy số lượng xe máy, xe ô tô tăng nhanh nhờ viện trợ Mỹ, nhưng nhìn chung vẫn còn khá ít xét theo tỷ lệ dân số. Đầu thập niên 1970, toàn thành phố Sài Gòn có khoảng 250.000 xe gắn máy hai bánh, 800 xe buýt và khoảng 20.000 xe ô tô (trên tổng dân số 2,5 triệu), trung bình cứ 10 người dân thì mới có 1 xe máy. Phần lớn người dân không có phương tiện di chuyển nào khác hơn là đi bộ hoặc đi xe đạp, người nghèo từ các khu ổ chuột ngoại ô thường phải đi bộ 2 giờ để tới làm việc ở trung tâm thành phố. Khi Mỹ dần rút quân thì các phương tiện giao thông cũng xuống dốc do thiếu tiền. Đến cuối năm 1969, do Mỹ ngừng thuê lao động người Việt và giảm viện trợ, nên kinh tế Việt Nam Cộng hòa bị suy thoái, lạm phát trở nên nghiêm trọng, Chính phủ Việt Nam Cộng hòa phải ban lệnh cấm nhập khẩu xe hơi từ nước ngoài. Cuộc khủng hoảng dầu mỏ 1973 tiếp tục giáng một đòn mạnh vào hệ thống giao thông Sài Gòn. Do giá dầu nhập khẩu tăng cao trong khi Mỹ giảm viện trợ kinh tế, xăng dầu trở nên khan hiếm, nhiều loại xe cộ phải xếp xó do chủ nhân không có đủ tiền mua xăng. Ngay cả ở Sài Gòn, số lượng người dân đi làm bằng xe đạp cũng tăng nhanh chóng từ năm 1973;;;;;Sự kiên cấm vận dầu của OPEC đánh dấu một thời kỳ chuyển tiếp kéo dài vì, đây là lần đầu tiên, giá dầu mỏ đột ngột tăng cao. Các nhà máy sản xuất của Mỹ đối mặt với sự cạnh tranh khắc nghiệt từ hàng hóa tiêu thụ, điện tử, và xe hơi ngoại quốc. Đến cuối thập niên 1970 nền kinh tế trải qua một cuộc khủng hoảng năng lượng, tăng trưởng kinh tế chậm, thất nghiệp cao, và lạm phát rất cao đi kèm với tỉ lệ tính lời cao. Vì các kinh tế gia đồng ý về sự khôn ngoan của việc xóa bỏ luật lệ ràng buộc kinh tế nên nhiều luật lệ ràng buộc của thời New Deal bị chấm dứt, thí dụ như trong giao thông, ngân hàng và viễn thông.;;;;;Cuối thập niên 1990 và thập niên 2000, nhiều con đường giao thông chính của Hà Nội, như Giải Phóng, Nguyễn Văn Cừ, Láng Hạ, Ngọc Khánh, Thái Hà... được mở rộng. Các khách sạn, cao ốc văn phòng mọc lên, những khu đô thị mới như Khu đô thị mới Nam Thăng Long, bắc Thăng Long, Du lịch Hồ Tây, Định Công, Bắc Linh Đàm... cũng dần xuất hiện. Khoảng thời gian gần đây,[khi nào?] khu vực Mỹ Đình được đô thị hóa nhanh chóng với hàng loạt những ngôi nhà cao tầng mọc lên. Tuy vậy, các khu đô thị mới này cũng gặp nhiều vấn đề, như công năng không hợp lý, thiếu quy hoạch đồng bộ, không đủ không gian công cộng. Trong trận mưa kỷ lục cuối năm 2008, Mỹ Đình là một trong những khu vực chịu thiệt hại nặng nề vì nước ngập.;;;;;Để chống lại xu hướng phát triển dân cư ngoại ô mật độ thấp, chính phủ đã bắt đầu một loạt dự án nhà ở công cộng gây tranh cãi trong nội thành bởi Ủy ban Nhà ở Victoria, dẫn đến việc phá hủy nhiều khu dân cư và mọc lên các tòa tháp cao tầng. Trong những năm sau đó, với sự gia tăng nhanh chóng tỷ lệ sở hữu phương tiện cơ giới, việc đầu tư vào phát triển đường cao tốc và đường cao tốc đã đẩy nhanh đáng kể quá trình mở rộng ra các vùng ngoại ô và giảm dân số nội thành. Chính phủ Bolte đã tìm cách đẩy nhanh quá trình hiện đại hóa Melbourne. Các dự án đường bộ lớn bao gồm việc tu sửa Giao lộ St Kilda, mở rộng Phố Hoddle và sau đó là Kế hoạch Giao thông vận tải Melbourne năm 1969 đã thay đổi bộ mặt thành phố thành một môi trường chủ yếu là ô tô.;;;;;Giống như nhiều thành phố lâu đời ở bờ biển phía đông sau Thế chiến thứ hai, Thành phố Atlantic trở nên đầy rẫy nghèo đói, tội phạm, tham nhũng và suy thoái kinh tế nói chung vào giữa đến cuối thế kỷ 20. Khu phố được gọi là "Inlet" trở nên đặc biệt nghèo khó. Nguyên nhân suy thoái của khu nghỉ dưỡng có nhiều tầng. Trước hết, ô tô trở nên phổ biến hơn đối với nhiều người Mỹ sau chiến tranh. Thành phố Atlantic ban đầu dựa vào du khách đến bằng tàu hỏa và ở lại trong vài tuần. Chiếc xe cho phép họ đến và đi tùy thích, và nhiều người chỉ ở vài ngày thay vì vài tuần. Ngoài ra, sự xuất hiện của vùng ngoại ô cũng đóng một vai trò rất lớn. Với việc nhiều gia đình chuyển đến nhà riêng, những thứ xa xỉ như máy điều hòa không khí trong nhà và hồ bơi đã làm giảm sự quan tâm của họ khi đổ xô đến các khu nghỉ dưỡng sang trọng trên bãi biển trong mùa hè nóng bức. Nhưng có lẽ yếu tố lớn nhất dẫn đến sự suy giảm mức độ nổi tiếng của Thành phố Atlantic đến từ dịch vụ máy bay nhanh, giá rẻ đến các khu nghỉ dưỡng hàng đầu khác, như Bãi biển Miami và Bahamas.
question_76
Liên lớp động vật bốn chân gồm mấy lớp?
doc_76
Liên lớp động vật bốn chân (Tetrapoda) được chia thành 4 lớp gồm các loài động vật có 4 chi. Bò sát, chim và thú là các động vật có màng ối, trứng của chúng được đẻ ra ngoài hoặc mang trong cơ thể con cái và được bao bọc xung quanh bởi nhiều màng, một vài trong số đó vẫn chưa thể hiểu hết được. Thiếu các màng này, động vật lưỡng cư cần có các vực nước để sinh sản, mặc dù vài loài đã phát triển qua nhiều giai đoạn khác nhau để bảo vệ hoặc bỏ qua giai đoạn ấu trùng ở trong nước dễ bị tổn thương. Chúng không có mặt ở biển trừ một hoặc 2 loài ếch sống trong vùng nước lợ của các đầm lầy ngập mặn. Trên đất liền, các động vật lưỡng cư sống giới hạn trong các môi trường ẩm ướt do chúng cần phải giữ cho da của chúng ẩm.
doc_3541;;;;;doc_4302;;;;;doc_4216;;;;;doc_1966;;;;;doc_6041
Nhóm chính động vật lưỡng cư đầu tiên đã phát triển vào kỷ Devon, cách nay khoảng 370 triệu năm, từ Sarcopterygii tương tự như cá vây tay và cá phổi hiện đại, chúng đã tiến hóa các vây thùy giống chân nhiều đốt với các ngón cho phép chúng lê dọc theo đáy biển. Một vài loài cá đã phát triển phổi nguyên thủy giúp chúng hít thởi không khí trong các hồ tù đọng của đầm lầy kỷ Devon có ôxy thấp. Chúng cũng có thể sử dụng các vây thùy mạnh mẽ của chúng để đưa cơ thể chúng lên khỏi mặt nước và "đi" trên đất khô trong trường hợp cần thiết. Cuối cùng vây xương của chúng có thể đã tiến hóa thành các chi và chúng có thể trở thành tổ tiên của tất cả các loài động vật bốn chân, bao gồm lưỡng cư hiện đại, bò sát, chim, và thú. Thay vì có thể trườn trên đất, nhiều loài cá dạng bốn chân tiền sử này vẫn mất nhiều thời gian của chúng sống dưới nước. Chúng đã bắt đầu phát triển phổi, nhưng vẫn thở qua mang là chủ yếu.;;;;;Một ngành đại diện cho việc gộp nhóm nói chung được công nhận và ở cấp lớn nhất của giới động vật và các sinh vật khác với các đặc trưng tiến hóa nào đó, mặc dù một số ngành đôi khi cũng được gộp chung lại trong nhóm gọi là siêu ngành (superphyla), ví dụ như siêu ngành Ecdysozoa với 8 ngành, trong đó có Arthropoda và Nematoda; còn siêu ngành Deuterostomia chứa Echinoderma, Chordata, Hemichordata v.v. Một cách không chính thức thì các ngành có thể coi là việc gộp nhóm các động vật dựa trên sơ đồ cơ thể tổng quát; đây chính là việc gộp nhóm theo hình thái. Vì vậy, mặc dù dường như có các khác biệt bề ngoài của các sinh vật, nhưng chúng được phân loại vào trong các ngành dựa trên cơ cấu tổ chức bên trong của chúng. Chẳng hạn, dường như là đã rẽ nhánh và không giống nhau về bề ngoài, nhưng nhên và cua cả hai đều thuộc về ngành Arthropoda, trong khi giun đất và giun dẹp, khá tương tự về hình dáng, lại tạo thành hai ngành Annelida và Platyhelminthes.;;;;;Tuy nhiên, cần lưu ý là trong động vật học thì thuật ngữ divisio lại được áp dụng một cách tùy chọn cho cấp dưới cận lớp và trên cohort. Hệ thống phân loại được sử dụng rộng rãi như của Carroll (1988) công nhận nhóm cá xương thật sự như là divisio Teleostei trong phạm vi lớp Actinopterygii (cá vây tia). Ít phổ biến hơn (chẳng hạn trong Milner 1988), các dạng động vật bốn chân được coi là các divisio Amphibia và Amniota trong một nhánh của động vật có xương sống với các chi nhiều thịt (Sarcopterygii).;;;;;Với việc phân loại phát sinh loài, các đơn vị phân loại Labyrinthodontia đã được loại bỏ vì nó là một nhóm cận ngành mà không có tính năng độc đáo rõ nét ngoài đặc điểm nguyên thủy được chia sẻ chung. Phân loại thay đổi theo sự phát sinh loài được tác giả ưa thích và cho dù họ sử dụng một gốc dựa trên phân loại hoặc dựa trên chia nút. Theo truyền thống, động vật lưỡng cư là một lớp được định nghĩa là tất cả động vật bốn chân với một giai đoạn ấu trùng, trong khi các nhóm bao gồm tổ tiên chung của tất cả các loài lưỡng cư còn đang tồn tại (ếch, kỳ giông và các loài lưỡng cư không chân) và tất cả phân hệ của chúng được gọi là Lissamphibia. Các phát sinh loài của động vật lưỡng cư Paleozoi là không chắc chắn, và Lissamphibia có thể nằm trong nhóm đã tuyệt chủng, như Temnospondyli (theo truyền thống được đặt trong lớp con Labyrinthodontia) hoặc Lepospondyli. Điều này có nghĩa rằng những người ủng hộ cho danh pháp phát sinh loài đã loại bỏ một số lượng lớn các nhóm động vật lưỡng cư tetrapod trong kỷ Devon và kỷ Cacbon trước đây đã được đưa vào phân loại của Linnaeus, và đưa vào một chỗ khác trong phân loại tiến hóa. Nếu tổ tiên chung của lưỡng cư và động vật có màng ối được bao gồm trong Amphibia, nó sẽ trở thành một nhóm cận ngành.;;;;;Phân tích phát sinh chủng loại phân tử hình thái truyền thống và hiện đại đều đã công nhận một quá trình tiến hóa lớn từ động vật "không song phương", là những động vật thiếu sơ đồ cơ thể đối xứng hai bên (Porifera, Ctenophora, Cnidaria và Placozoa), sang động vật "song phương" (Bilateria) có sơ đồ cơ thể thể hiện sự đối xứng hai bên. Loại thứ hai được phân loại sâu hơn dựa trên sự phân chia chính giữa Deuterostomes và Protostomes. Mối quan hệ giữa các động vật không song phương đang bị tranh cãi, nhưng tất cả các động vật song phương được cho là tạo thành một nhóm đơn ngành. Sự hiểu biết hiện tại về mối quan hệ giữa các nhóm động vật chính được tóm tắt bằng biểu đồ phân nhánh sau:
question_77
Trump đã mấy lần được đề cử cho giải Emmy?
doc_77
Trong giới giải trí, Trump đã hai lần là ứng cử viên cho Giải Emmy, xuất hiện trong các chương trình truyền hình và phim ảnh với tư cách là chính mình nhưng dưới góc độ hài hước (ví dụ: Ở nhà một mình 2: Lạc ở New York The Nanny, The Fresh Prince of Bel-Air, Days of Our Lives, Wall Street: Money Never Sleeps) và là một nhân vật khác (The Little Rascals). Ông là chủ đề của nhiều danh hài, họa sĩ phim hoạt hình và họa sĩ tranh biếm họa online. Trump cũng có một chương trình trò chuyện radio của riêng ông với tên gọi Trumped! Ông cũng từng xuất hiện trong một tập của phim truyền hình Sex and the City qua một vai diễn khách mời. Trump cũng là thành viên của Screen Actors Guild và nhận khoản trợ cấp hơn 110.000 USD hàng năm.
doc_2166;;;;;doc_186;;;;;doc_4059;;;;;doc_3314;;;;;doc_2626
Trump kết hôn với người mẫu Ivana Zelníčková vào ngày 7 tháng 4 năm 1977 tại Nhà thờ Marble Collegiate ở New York. Họ có ba người con: hai con trai Donald Jr. (sinh ngày 31 tháng 12 năm 1977) và Eric (sinh ngày 6 tháng 1 năm 1984) và con gái Ivanka (sinh ngày 30 tháng 10 năm 1981). Ivana nhập quốc tịch Mỹ năm 1988 với Trump là người bảo lãnh. Trump được nhiều người biết đến với cái tên "The Donald", biệt danh được giới truyền thông hay dùng sau khi được Ivana sử dụng trong một lần xuất hiện trên Spy Magazine năm 1989. Tới đầu năm 1990, chuyện hôn nhân rạn nứt giữa Trump và Ivanna và việc Trump ngoại tình với diễn viên Marla Maples trong một thời gian dài đã được đưa tin khắp các báo lá cải. Họ tiến tới li dị vào năm 1991.;;;;;Trong năm đầu tiên của chương trình, Trump kiếm được 50.000 USD mỗi tập (gần 700.000 USD cho mùa đầu tiên). Tiếp nối thành công ban đầu, sau này ông được trả tới 3 triệu USD mỗi tập, đưa ông trở thành một trong những ngôi sao truyền hình có mức thù lao cao nhất. Tháng 7 năm 2015, Trump công bố trong báo cáo tài chính cá nhân của mình với Hội đồng Bầu cử Liên bang rằng NBCUniversal đã trả cho ông 213.606.575 USD trong suốt 14 mùa dẫn chương trình. Năm 2007, Trump được gắn sao trên Đại lộ Danh vọng Hollywood vì những đóng góp của ông cho truyền hình (The Apprentice).;;;;;Trump có để ngỏ ý định tranh cử tổng thống vào các năm 1988, 2004 và 2012 và tranh cử Thống đốc New York vào các năm 2006 và 2014, nhưng đều không thực hiện. Ông cũng được coi là bạn đồng hành tiềm năng của George H. W. Bush cho tấm vé vào Nhà Trắng của Đảng Cộng hòa, nhưng rồi thua cuộc trước Phó Tổng thống sau này là Dan Quayle. Hiện tại dư luận vẫn đặt dấu hỏi nguyên nhân là do Trump hay chiến dịch của Bush. Năm 1999, Trump nộp hồ sơ thành lập hội đồng thăm dò để tìm kiếm đề cử ứng viên tổng thống của Đảng Cải cách vào năm 2000. Một cuộc thăm dò tháng 7 năm 1999 so sánh ông với ứng viên được dự báo của Đảng Cộng hòa George W. Bush và ứng viên được dự báo của Đảng Dân chủ Al Gore cho thấy Trump có bảy phần trăm số người ủng hộ. Mặc dù sau đó Trump bỏ cuộc vì lý do lục đục nội bộ đảng, Trump vẫn giành chiến thắng trong cuộc bầu cử sơ bộ của đảng tại bang California và Michigan.;;;;;Trump đã hai lần chạy đua cho chức Tổng thống Hoa Kỳ. Năm 2000, ông phát động một chiến dịch thăm dò và giành chiến thắng ở hai cuộc bầu cử sơ bộ của Đảng Cải cách. Tháng 6 năm 2015, Trump tuyên bố ứng cử tổng thống nhiệm kì 2016 và chiến dịch tranh cử cho Đảng Cộng hòa của ông thu hút được sự quan tâm của giới truyền thông nhiều hơn tất cả các ứng viên Đảng Cộng hòa khác gộp lại; thêm vào đó, việc giới truyền thông đưa tin miễn phí và sự tự chủ về mặt tài chính cho chiến dịch cho phép ông không cần sử dụng tới mô hình super PAC. Trump luôn là người dẫn đầu trong các cuộc thăm dò dư luận cho người nhận được đề cử của Đảng Cộng hòa. Chiến dịch của ông dựa trên nền tảng chủ nghĩa đại chúng, một lý tưởng nhận được sự ủng hộ của tầng lớp cử tri công nhân, những người bất mãn vì mất việc làm và những thay đổi về sắc tộc và tôn giáo đang diễn ra trên đất Mỹ. Phong cách chính trị trung thực, chính sách phản đối người nhập cư bất hợp pháp và việc nhấn mạnh vào khủng bố và các mối lo ngại về an ninh quốc gia của Trump đem lại cho ông sự ủng hộ của tầng lớp cử tri công nhận cũng như sự phản đối rộng khắp của cộng đồng người gốc Tây Ban Nha/Mỹ La-tinh, người Hồi giáo, người Mỹ gốc Á, doanh nghiệp, thành viên Đảng Dân chủ cũng như một số người thuộc Đảng Cộng hòa khác.;;;;;Trump là công dân chính gốc của Thành phố New York và là con của Fred Trump, người đã truyền cảm hứng cho ông đi theo nghề phát triển bất động sản. Sau hai năm học tại Đại học Fordham và trong khi theo học trường Wharton thuộc Đại học Pennsylvania, Trump làm việc tại công ty của cha mình, Elizabeth Trump & Son. Ông chính thức gia nhập công ty năm 1968 sau khi tốt nghiệp và được giao quyền điều hành vào năm 1971, đổi tên công ty thành "The Trump Organization". Kể từ đó ông đã xây dựng nhiều khách sạn, sân golf và các công trình khác, rất nhiều trong số đó mang tên ông. Ông là một nhân vật quan trọng trong giới doanh nhân Hoa Kỳ và nhận được sự quan tâm đặc biệt của giới truyền thông. Chương trình truyền hình thực tế The Apprentice của đài NBC đã khuếch trương tên tuổi của ông và ba đám cưới của ông được giới báo lá cải đưa tin hết sức chi tiết.
question_78
Loại thịt nào được tiêu thụ nhiều nhất ở Trung Quốc?
doc_78
Ẩm thực Trung Quốc rất đa dạng, có nền tảng là lịch sử ẩm thực kéo dài hàng thiên niên kỷ. Các quân chủ Trung Hoa cổ đại được biết là có nhiều phòng ăn trong cung, mỗi phòng lại chia thành vài gian, mỗi gian phục vụ một loại món ăn đặc trưng. Lúa gạo là cây lương thực phổ biến nhất, được trồng tại phía nam Hoài Hà; lúa mì là loại cây trồng phổ biến thứ nhì và tập trung tại đồng bằng miền bắc. Thịt lợn là loại thịt phổ biến nhất tại Trung Quốc, chiếm khoảng ba phần tư tổng lượng tiêu thụ thịt toàn quốc. Gia vị là trọng tâm trong ẩm thực Trung Hoa.
doc_1586;;;;;doc_1485;;;;;doc_4899;;;;;doc_1929;;;;;doc_3161
Tổng diện tích đất canh tác của tỉnh là 71.792.000 ha, hầu hết nằm trên vùng bình nguyên phía đông Đường sắt Bắc Kinh-Quảng Châu, chỉ có đất nhàn rỗi tại các vùng núi ở phía tây và nam, cũng như các vùng đất nhiễm mặn ở phía đông bắc. Hà Nam là khu vực sản xuất lương thực, bông chủ yếu của Trung Quốc, trong đó sản lượng lúa mì, thuốc lá, vừng đứng ở vị trí đầu tiên. Các loại cây trồng khác là kê cao lương, đỗ tương, đại mạch, ngô, khoai lang, lúa gạo, thiết đậu. Lúa mì có diện tích và sản lượng vượt trội so với các loại cây trồng khác, lúa gạo chỉ chiếm một diện tích nhỏ song tại Hà Nam nó có năng suất gấp ba lần lúa mì. Năm 2007, tổng sản lượng lương thực của Hà Nam là 104,9 tỉ cân, liên tục 8 năm liền đứng đầu Trung Quốc, lượng tăng sản lượng lương thực của Hà Nam cũng chiếm một phần ba lượng tăng sản lượng lương thực cả nước. Mặc dù có dân số rất đông song Hà Nam đã gần như giải quyết được vấn đề cái ăn cho người dân trong tỉnh, mỗi năm còn xuất 20 tỉ cân lương thực sang các tỉnh khác. Việc trồng cây ăn quả cũng phát triển trong những năm gần đây, một phần là nhằm bảo vệ đất, đặc biệt là ở các vùng đất nhàn rỗi. Hồng, táo tây, lê là các loại cây ăn quả chính, ngoài ra còn có óc chó và hạt dẻ. Ở Hà Nam, người ta cũng nuôi các loài động vật lấy sức kéo, chủ yếu là bò vàng và lừa. Lợn là loại gia súc quan trọng nhất, dê và cừu chủ yếu được nuôi ở vùng núi phía tây. Hà Nam là một trong những trung tâm lâu đời nhất của ngành trồng dâu nuôi tằm ở Trung Quốc, sau Chiến tranh, ngành này đã hồi sinh trên các sườn dốc của Phục Ngưu Sơn, và tỉnh đã trở thành một nhà xuất khẩu tơ lụa quan trọng.;;;;;Việt Nam là một nước nông nghiệp thuộc về xứ nóng, vùng nhiệt đới gió mùa. Ngoài ra lãnh thổ Việt Nam được chia ra ba miền rõ rệt là Bắc, Trung, Nam. Chính các đặc điểm về địa lý, văn hóa, dân tộc, khí hậu đã quy định những đặc điểm riêng của ẩm thực từng vùng - miền. Mỗi miền có một nét, khẩu vị đặc trưng. Điều đó góp phần làm ẩm thực Việt Nam phong phú, đa dạng. Đây là một văn hóa ăn uống sử dụng rất nhiều loại rau (luộc, xào, làm dưa, ăn sống); nhiều loại nước canh đặc biệt là canh chua, trong khi đó số lượng các món ăn có dinh dưỡng từ động vật thường ít hơn. Những loại thịt được dùng phổ biến nhất là thịt lợn, bò, gà, ngan, vịt, các loại tôm, cá, cua, ốc, hến, trai, sò v.v. Những món ăn chế biến từ những loại thịt ít thông dụng hơn như thịt chó, thịt dê, thịt rùa, thịt rắn, thịt ba ba... thường không phải là nguồn thịt chính, nhiều khi được coi là đặc sản và chỉ được sử dụng trong một dịp liên hoan nào đó với rượu uống kèm. Người Việt cũng có một số món ăn chay theo đạo Phật được chế biến từ các loại thực vật, không có nguồn thực phẩm từ động vật. Tuy nhiên, trong cộng đồng thì lại có rất ít người ăn chay trường, chỉ có các sư thầy trong các chùa hoặc người bị bệnh nặng buộc phải ăn kiêng.;;;;;Trung Quốc có trên 32.000 loài thực vật có mạch, và là nơi có nhiều loại rừng. Những khu rừng thông lạnh chiếm ưu thế tại miền bắc của quốc gia, là nơi sinh sống của các loài động vật như nai sừng tấm và gấu đen, cùng với hơn 120 loài chim. Tầng dưới của rừng thông ẩm có thể gồm các bụi tre. Trên các vùng núi cao của bách xù và thủy tùng, thay thế cho tre là đỗ quyên. Các khu rừng cận nhiệt đới chiếm ưu thế tại miền trung và miền nam Trung Quốc, là nơi sinh sống của khoảng 146.000 loài thực vật. Những khu rừng mưa nhiệt đới và theo mùa bị hạn chế tại Vân Nam và Hải Nam, song bao gồm một phần tư tổng số loài động thực vật phát hiện được tại Trung Quốc. Ghi nhận được trên 10.000 loài nấm tại Trung Quốc, và trong số đó có gần 6.000 loài nấm bậc cao.;;;;;Vịt nhà được chăn nuôi tại nhiều nước Đông Nam Á khoảng vài ngàn năm trước, trong đó có Việt Nam. Vịt có rất nhiều giá trị kinh tế, chúng cung cấp cho con người thịt vịt, trứng, lông. Ngoài ra, vịt còn được dùng để nuôi nhốt như một loài chim kiểng, hay phục vụ các màn xiếc trong Sở thú. Hầu hết các loài vịt đều được thuần hóa từ loài vịt cổ xanh (Anas platyrhynchos) ở vùng Mallard. Nhiều loài vịt ngày nay có kích cỡ lớn hơn so với thủy tổ của chúng (chiều dài từ cổ đến đuôi của chúng vào khoảng 12 inch tức khoảng 30 cm). Năm 2002, theo báo cáo của Tổ chức Lương - Nông Thế giới (FAO), Trung Quốc là thị trường tiêu thụ vịt dẫn đầu thế giới, kế đến là Việt Nam và các quốc gia Đông Nam Á khác.;;;;;Trung Quốc là nơi sinh sống của ít nhất 551 loài thú (nhiều thứ ba thế giới), 1.221 loài chim (thứ tám), 424 loài bò sát (thứ bảy) và 333 loài động vật lưỡng cư (thứ bảy). Trung Quốc là quốc gia đa dạng sinh học ở mức độ cao nhất trong mỗi hạng mục ngoài vùng nhiệt đới. Động vật hoang dã tại Trung Quốc chia sẻ môi trường sống và chịu áp lực gay gắt từ lượng dân cư đông nhất thế giới. Ít nhất có 840 loài động vật bị đe dọa, dễ bị tổn thương, hoặc gặp nguy hiểm tuyệt chủng địa phương tại Trung Quốc, phần lớn là do hoạt động của con người như phá hoại môi trường sống, ô nhiễm và săn bắn phi pháp để làm thực phẩm, lấy da lông và làm nguyên liệu cho Trung dược. Gấu trúc là một trong số những động vật đứng trước nguy cơ tuyệt chủng hiện chỉ còn những cá thể tự nhiên duy nhất sống tại Trung Quốc. Động vật hoang dã gặp nguy hiểm được pháp luật bảo hộ, tính đến năm 2005, Trung Quốc có trên 2.349 khu bảo tồn tự nhiên, bao phủ một tổng diện tích là 149,95 triệu ha, tức 15% tổng diện tích của Trung Quốc.
question_79
Ý nghĩa của thông cáo do chính phủ Pháp đưa ra là gì?
doc_79
Ngày 8/12/1943, chính phủ Pháp lưu vong công bố thông cáo về Đông Dương trong đó ghi rõ "Đồng thời với việc luôn luôn ghi nhớ thái độ cao thượng và trung thực của các vị Quốc vương đương trị của Đông Dương, nước Pháp cũng sẽ ghi tạc mãi mãi thái độ kiên cường và thẳng thắng của các dân tộc Đông Dương, cuộc kháng chiến mà họ đã tiến hành bên cạnh chúng ta chống Nhật Bản và Thái Lan, cũng như tấm lòng thủy chung gắn bó của họ đối với cộng đồng Pháp. Với các dân tộc đã biết cùng một lúc biểu hiện tinh thần yêu nước và ý thức trách nhiệm chính trị của mình, nước Pháp thỏa thuận ban hành trong nội bộ khối cộng đồng Pháp một quy chế chính trị mới theo đó, trong khuôn khổ của tổ chức liên bang, những quyền tự do của các nước trong Liên bang sẽ được nới rộng và khẳng định; tính chất tự do rộng rãi của các tổ chức sẽ được nổi bật mà không hề mất đi dấu hiệu của nền văn minh và truyền thống Đông Dương; những người Đông Dương có thể nhận bất cứ công việc nào và chức vụ nào của nhà nước. Phù hợp với sự cải cách quy chế chính trị ấy, sẽ có một cuộc cải cách quy chế kinh tế của cả Liên bang - cuộc cải cách này đặt trên cơ sở chế độ hải quan và thuế khóa tự trị, đảm bảo sự phồn vinh và góp phần vào sự phồn vinh của các nước láng giềng." Thông cáo này cho thấy Pháp chỉ hứa hẹn về những cải cách nhưng không hề có ý định trao trả độc lập cho các nước Đông Dương, các nước này sẽ phải chấp nhận các quy chế chính trị do Pháp đề ra cho khối cộng đồng Pháp trong khi xu hướng phi thực dân hóa đang nổi lên và được Anh, Mỹ ủng hộ bằng việc ký kết Hiến chương Đại Tây Dương.
doc_4205;;;;;doc_4823;;;;;doc_4730;;;;;doc_1608;;;;;doc_1676
Ngày 27 tháng 8, Leopold và Vua Frederick William II của Phổ, sau khi bàn bạc với những nhà quý tộc Pháp lưu vong, ra Thông cáo Pillnitz, tuyên bố lợi ích của các vương quyền ở châu Âu liên kết với sự an toàn của Louis và gia đình, cảnh cáo sẽ có hậu quả nghiêm trọng nếu bất cứ điều gì xảy ra với họ. Mặc dù Leopold xem thông cáo Pillnitz là một cách bày tỏ sự lo ngại đối với những diễn biến ở Pháp mà không cần viện đến biện pháp quân sự hoặc tài chính để can thiệp, giới lãnh đạo cách mạng tại Paris xem động thái đó là đáng sợ, và là nỗ lực nguy hiểm của ngoại bang nhằm phá hoại chủ quyền nước Pháp.;;;;;Theo sử gia William Duiker, đây là việc né tránh vấn đề điều đình với Chính phủ Hồ Chí Minh. Thực chất mục đích của Pháp là tìm cách xây dựng một chính quyền bản xứ người Việt để làm đối trọng với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, và để thuyết phục Mỹ viện trợ kinh tế và quân sự để Pháp có thể tiếp tục đứng chân tại Đông Dương, bởi trong hiệp ước không có quy định rõ ràng nào về nghĩa của chữ "độc lập" cũng như quyền hạn của Quốc gia Việt Nam, cũng không nói rõ việc thành lập Quốc gia này có thể ảnh hưởng gì đến cuộc chiến Việt – Pháp hiện vẫn tiếp diễn.;;;;;Pháp tham gia cuộc chiến này thời gian đầu với lý do muốn giữ Đông Dương là Liên bang Đông Dương nằm trong Liên hiệp Pháp mới được thành lập - theo tuyên bố ngày 24 tháng 3 năm 1945 của Chính phủ lâm thời Cộng hòa Pháp Charles de Gaulle và được quy định trong Hiến pháp Pháp năm 1946 - sau khi người Nhật đã bại trận và mất quyền kiểm soát Đông Dương. Động cơ thúc đẩy Pháp tham chiến mang tính chính trị và tâm lý hơn là kinh tế. Những người Pháp ủng hộ cuộc chiến cho rằng nếu Pháp để mất Đông Dương, sở hữu của Pháp tại các thuộc địa hải ngoại sẽ nhanh chóng bị mất theo.;;;;;Để đáp trả, ngày 24 tháng 3 năm 1945, chính phủ Charles de Gaulle tuyên bố chủ quyền của Pháp ở Đông Dương và không công nhận sự cai trị của Nhật Bản ở khu vực này. Pháp dự định thành lập Liên bang Đông Dương thuộc Liên hiệp Pháp, bao gồm năm quốc gia có đại diện riêng trong Liên bang, có lợi ích bên ngoài do Pháp đại diện; và dự kiến cơ cấu của chính phủ Liên bang Đông Dương sẽ theo mô hình chính phủ do Thống đốc đứng đầu, với các bộ trưởng người Đông Dương và người dân Pháp ở Đông Dương, và một Quốc hội được bầu theo phương thức phổ thông đầu phiếu tại mỗi quốc gia của Liên bang, trong đó có đại diện lợi ích của người Pháp. Thống đốc, Hội đồng Nhà nước chịu trách nhiệm chuẩn bị các luật và quy định, còn Quốc hội giữ vai trò biểu quyết mọi loại thuế, ngân sách, các dự luật và các điều ước quốc tế về thương mại và hợp tác với các nước khác. Liên bang sẽ có lực lượng vũ trang riêng được trang bị kỹ năng tương đương với của Liên hiệp Pháp và phát triển quan hệ thương mại với tất cả các nước khác, đặc biệt là với Trung Quốc. Cũng trong tuyên bố này, Pháp cam kết đảm bảo bình đẳng giữa công dân Đông Dương với các công dân Liên hiệp Pháp về quyền tham gia các vị trí của Liên bang Đông Dương và Liên hiệp Pháp, cũng như mọi quyền tự do dân chủ nói chung (tự do tư tưởng, tín ngưỡng, tự do báo chí, tự do lập hội, hội họp...). Đồng thời Liên hiệp Pháp có nghĩa vụ giúp đỡ thành lập lực lượng vũ trang Liên bang Đông Dương, cũng như thúc đẩy sự phát triển kinh tế, tiến bộ xã hội, văn hóa, giáo dục, chính trị và hành chính ở Đông Dương.;;;;;Kỳ thực Pháp coi giải pháp Bảo Đại chỉ là do tình thế thúc ép, họ không tin tưởng và tôn trọng chính phủ này. Năm 1949, Tổng tham mưu trưởng lục quân Pháp, đại tướng Revers sau chuyến khảo sát tình hình Đông Dương đã có bản tường trình mật trong đó viết: "Vấn đề điều đình với Việt Nam thì tìm những người quốc gia chống cộng để điều đình. Giải pháp Bảo đại chỉ là một giải pháp thí nghiệm, nhưng chế độ Bảo Đại là một chế độ ung thối với sự tham nhũng, buôn lậu đồng bạc, buôn lậu giấy phép nhập cảng, những khu chứa cờ bạc đĩ điếm..." (Trung tâm du hí Đại thế Giới ở Chợ Lớn được chính phủ Bảo Đại cho phép công khai sòng bạc và chứa mại dâm để kiếm chác). Bản tường trình sau đó bị lộ khiến chính phủ Pháp "muối mặt", và Revers bị cho về hưu non sau khi ra khai trình tại Hội đồng tối cao quân lực. bản thân Bảo Đại cũng nhận xét rằng: "Cái được gọi là giải pháp Bảo Đại hóa ra là giải pháp của người Pháp."
question_80
Bang nào đã không có đại biểu đến dự trong buổi triệu tập Quốc hội lập hiến năm 1787?
doc_80
Những Điều khoản Liên hiệp, theo đó Hợp Chủng Quốc Hoa Kỳ mới giành độc lập được điều hành, quy định Quốc hội là thiết chế một viện, mỗi bang có số đại biểu bằng nhau. Sự thiếu hiệu quả của Chính phủ liên bang theo thể chế này dẫn đến việc triệu tập Quốc hội lập hiến năm 1787; tất cả các bang, ngoại trừ Rhode Island, cử đại biểu đến tham dự. Một trong những vấn đề gây chia rẽ tại đây là cơ cấu của quốc hội. Kế hoạch Virginia của James Madison chủ trương một quốc hội lưỡng viện; Viện dân biểu được người dân bầu trực tiếp, Thượng viện được bầu bởi Viện dân biểu và số đại biểu được ấn định theo tỷ lệ dân số. Kế hoạch này nhận được sự ủng hộ từ các bang lớn như Virginia, Massachusetts và Pennsylvania. Trong khi đó, các bang nhỏ hơn ủng hộ Kế hoạch Jersey, chủ trương quốc hội một viện với số đại biểu bằng nhau cho mỗi bang. Dần dần, một đề án mang tính thoả hiệp gọi là Connecticut hay Đại Thỏa hiệp, được hình thành. Theo đó, nhằm ngăn chặn tình trạng lạm quyền có thể xảy ra ở cấp liên bang, Hiến pháp xác lập nguyên tắc phân quyền với quyền lực được phân bổ cho ba nhánh: hành pháp, lập pháp, và tư pháp. Hơn nữa, nhánh lập pháp được quy định theo mô hình lưỡng viện để bảo đảm nguyên tắc kiểm soát lẫn nhau và cân bằng quyền lực. Một viện (viện dân biểu) có số đại biểu theo tỷ lệ dân số, trong khi viện còn lại (Thượng viện) có số đại biểu bằng nhau, và để duy trì quyền lực của bang, viện lập pháp bang, chứ không phải người dân, bầu chọn các thượng nghị sĩ. Hiến chương được thông qua bởi chín trong số mười ba bang và có hiệu lực từ ngày 4 tháng 3 năm 1789.
doc_1519;;;;;doc_1564;;;;;doc_2078;;;;;doc_2396;;;;;doc_178
Hiến pháp không dành quyền đại diện cho Đặc khu Columbia (District of Columbia) và các vùng lãnh thổ. Tuy nhiên, Quốc hội cho phép họ bầu các đại biểu hoặc ủy viên quốc hội (Resident Commissioner) với quyền tham dự và tranh luận tại các phiên họp của Quốc hội, nhưng không có quyền biểu quyết. Các dân biểu phục vụ với nhiệm kỳ hai năm trong khi nhiệm kỳ dành cho Resident Commissioner là bốn năm. Đặc khu Columbia, Samoa, Guam, quần đảo Virgin thuộc Mỹ, mỗi nơi có một đại biểu. Riêng Puerto Rico bầu cho mình một Resident Commissioner.;;;;;Cuộc sống hưu trí của Washington ở Mount Vernon chỉ tồn tại ngắn ngủi. Ông thực hiện một chuyến thám hiểm đến biên cương phía Tây vào năm 1784, được thuyết phục tham gia Hội nghị Hiến pháp tại Philadelphia vào mùa hè năm 1787, và được bầu làm chủ tịch Hội nghị này. Ông tham dự ít vào các buổi tranh luận (tuy ông có bỏ phiếu chống hoặc thuận cho nhiều điều khoản khác nhau) nhưng uy tín cao của ông đã giúp ông duy trì quyền lực trong hội nghị và giữ chân các đại biểu tiếp tục làm việc của họ. Trong đầu các đại biểu là muốn lập ra chức tổng thống cho Washington, và họ sẽ cho phép ông định nghĩa chức vụ này một khi ông được bầu. Sau hội nghị, sự ủng hộ của ông đã thuyết phục nhiều người bỏ phiếu thông qua hiến pháp; Hiến pháp mới được tất cả 13 tiểu bang thông qua.;;;;;Trong thập niên 1780, chính phủ quốc gia có thể giàn xếp được vấn đề về các lãnh thổ phía tây, chúng được các tiểu bang nhượng lại cho Quốc hội Hoa Kỳ và trở thành các lãnh thổ. Với việc những người định cư di dân đến vùng Tây Bắc (hiện nay là vùng Trung Tây Hoa Kỳ), chẳng bao lâu thì các lãnh thổ này trở thành các tiểu bang. Những người theo chủ nghĩa quốc gia lo sợ rằng quốc gia mới quá yếu không thể chịu đựng được một cuộc chiến tranh quốc tế, hay thậm chí là các cuộc nổi loạn trong nước, thí dụ như cuộc nổi loạn Shays năm 1786 tại Massachusetts. Những người theo chủ nghĩa quốc gia mà đa số là các cựu chiến binh đã tổ chức tại mọi tiểu bang và thuyết phục Quốc hội cho mở Hội nghị Philadelphia năm 1787. Các đại biểu từ mỗi tiểu bang cùng viết ra một bản Hiến pháp mới nhằm thiết lập ra một chính phủ trung ương hữu hiệu và mạnh hơn nhiều. Chính phủ này có một tổng thống mạnh và quyền thu thuế. Chính phủ mới phản ánh những ý tưởng cộng hòa đang thắng thế, bảo đảm quyền tự do cá nhân và kiềm chế quyền lực chính phủ bằng một hệ thống tam quyền phân lập.;;;;;Việc triệu tập Hội nghị là một trong những biến cố khiến tình trạng kinh tế chính trị bất ổn biến thành cuộc cách mạng, khởi đầu từ tháng 6 năm 1789 khi tầng lớp bình dân (Third Estate) trong Hội nghị đơn phương tuyên bố họ là Quốc hội. Tình hình diễn biến phức tạp hơn khi ngày 20 tháng 6, 576 trong số 577 đại biểu thuộc Third Estate tụ họp tại một sân quần vợt trong nhà cùng thề nguyện đoàn kết và đấu tranh cho đến khi hình thành một hiến pháp. Ngày 9 tháng 7, tuyên bố thành lập Quốc hội Lập hiến.;;;;;Năm 1791, Quốc hội áp đặt thuế môn bài lên các loại rượu khiến gây ra các cuộc phản đối nổ ra tại các khu vực biên cương, đặc biệt là tại tiểu bang Pennsylvania. Năm 1794, sau khi Washington ra lệnh những người biểu tình ra trình diện tại tòa án khu vực của Hoa Kỳ thì các cuộc phản đối trở nên bất chấp đối với chính phủ liên bang với quy mô lan rộng, được biết với tên gọi là Cuộc nổi loạn Whiskey. Lục quân liên bang quá nhỏ nhoi không thể dùng đến nên Washington áp dụng Đạo luật Quân sự 1792 để triệu hồi địa phương quân từ các tiểu bang Pennsylvania, Virginia và một số tiểu bang khác đến giúp. Các thống đốc phái binh sĩ đến. Washington tiếp nhận chức tư lệnh và đưa quân vào các khu vực nổi loạn. Những người nổi loạn tự giải tán và không có xung đột nào vì hành động mạnh bạo của Washington đã chứng minh rằng chính phủ mới có thể tự bảo vệ mình. Các sự kiện này đánh dấu lần đầu tiên dưới hiến pháp mới rằng chính phủ liên bang đã sử dụng lực lượng quân sự mạnh để thực thi quyền lực của mình đối với các tiểu bang và công dân.
question_81
Quá trình nào tạo ra một chuỗi các axit amin?
doc_81
Gen là đơn vị cơ bản của di truyền ở tất cả các sinh vật. Gen là một đơn vị di truyền và tương ứng với một đoạn DNA có ảnh hưởng đến hình thái hoặc chức năng của một cơ thể theo những cách cụ thể. Tất cả các sinh vật, dù là vi khuẩn hay động vật, chia sẻ cùng một bộ máy cơ bản sao chép và 'dịch' DNA thành các protein. Các tế bào sẽ phiên mã một gen DNA thành một phiên bản RNA của gen, và một ribosome sau đó dịch mã RNA thành một chuỗi các axit amin trước khi uốn gấp thành một protein. Mã để dịch từ RNA đến axit amin là khá giống nhau đối với hầu hết các sinh vật. Chẳng hạn, một dãy trình tự DNA mã hóa cho protein insulin ở người cũng mã hóa cho insulin nếu chèn vào các sinh vật khác, ví dụ như thực vật.
doc_6070;;;;;doc_6359;;;;;doc_7666;;;;;doc_9469;;;;;doc_7109
Trình tự nucleotide của DNA của gen quy định trình tự axit amin của protein thông qua mã di truyền. Bộ ba nucleotide, được gọi là codon, mỗi bộ tương ứng với một axit amin cụ thể.:6 Ngoài ra, một "codon khởi đầu" và ba "codon dừng" biểu thị điểm bắt đầu và kết thúc của vùng mã hóa protein. Có 64 codon có thể có (bốn nucleotide có thể có ở mỗi vị trí trong số ba vị trí, do đó có thể có 43 codon) và chỉ có 20 axit amin tiêu chuẩn; do đó mã này có tính dư thừa và nhiều codon có thể xác định cùng một axit amin. Sự tương ứng giữa codon và axit amin gần như phổ biến ở tất cả các sinh vật sống đã biết.;;;;;Dịch mã là quá trình trong đó phân tử mRNA trưởng thành được sử dụng làm khuôn mẫu để tổng hợp protein mới.:6.2 Quá trình dịch mã được thực hiện bởi ribosome, phức hợp lớn gồm RNA và protein chịu trách nhiệm thực hiện các phản ứng hóa học để thêm axit amin mới vào chuỗi polypeptide phát triển bằng cách hình thành các liên kết peptide. Mã di truyền được đọc ba nucleotide cùng một lúc, theo đơn vị gọi là codon, thông qua tương tác với các phân tử RNA chuyên biệt gọi là RNA chuyển (tRNA). Mỗi tRNA có ba bazơ chưa ghép cặp được gọi là anticodon bổ sung cho codon mà nó đọc trên mRNA. tRNA cũng được liên kết cộng hóa trị với axit amin được xác định bởi codon bổ sung. Khi tRNA liên kết với codon bổ sung của nó trong chuỗi mRNA, ribosome sẽ gắn hàng hóa axit amin của nó vào chuỗi polypeptide mới, được tổng hợp từ đầu amino đến đầu carboxyl. Trong và sau khi tổng hợp, hầu hết các protein mới phải gấp nếp theo cấu trúc ba chiều hoạt động của chúng trước khi chúng có thể thực hiện các chức năng tế bào của mình.:3;;;;;Quá trình tiêu hóa protein xảy ra ở dạ dày và tá tràng, trong đó 3 enzyme chính, pepsin do dạ dày tiết ra và trypsin và chymotrypsin do tuyến tụy tiết ra, phân hủy protein thực phẩm thành các polypeptide sau đó bị phân hủy bởi nhiều exopeptidase và dipeptidase khác nhau thành axit amin. Tuy nhiên, các enzyme tiêu hóa chủ yếu được tiết ra dưới dạng tiền chất không hoạt động của chúng, các zymogen. Ví dụ, trypsin được tuyến tụy tiết ra dưới dạng trypsinogen, được kích hoạt trong tá tràng bởi enterokinase để tạo thành trypsin. Trypsin sau đó phân cắt protein thành các polypeptide nhỏ hơn.;;;;;Sự tăng trưởng, phát triển và sinh sản của sinh vật phụ thuộc vào sự phân chia tế bào hoặc quá trình một tế bào đơn lẻ phân chia thành hai tế bào con thường giống hệt nhau. Điều này đòi hỏi trước tiên phải tạo một bản sao của mỗi gen trong bộ gen trong một quá trình gọi là sao chép DNA.:5.2 Các bản sao được tạo ra bởi các enzyme chuyên biệt được gọi là DNA polymerase, enzyme này "đọc" một chuỗi DNA xoắn kép, được gọi là mạch khuôn và tổng hợp mạch bổ sung mới. Bởi vì chuỗi xoắn kép DNA được giữ với nhau bằng cách ghép cặp bazơ, nên trình tự của một chuỗi xác định hoàn toàn trình tự phần bổ sung của nó; do đó enzyme chỉ cần đọc một chuỗi để tạo ra một bản sao trung thực. Quá trình sao chép DNA là bán bảo toàn; nghĩa là, bản sao của bộ gen được thừa hưởng bởi mỗi tế bào con chứa một chuỗi DNA gốc và một chuỗi DNA mới được tổng hợp.:5.2;;;;;Quá trình phiên mã tạo ra một phân tử RNA chuỗi đơn được gọi là RNA thông tin, có trình tự nucleotide bổ sung cho DNA mà nó được phiên mã.:6.1 MRNA hoạt động như một chất trung gian giữa gen DNA và sản phẩm protein cuối cùng của nó. DNA của gen được sử dụng làm khuôn mẫu để tạo ra mRNA bổ sung. MRNA khớp với trình tự chuỗi mã hóa DNA của gen vì nó được tổng hợp dưới dạng phần bổ sung của chuỗi mẫu. Quá trình phiên mã được thực hiện bởi một enzyme gọi là RNA polymerase, enzyme này đọc chuỗi mẫu theo hướng 3' đến 5' và tổng hợp RNA từ đầu 5' đến 3'. Để bắt đầu phiên mã, đầu tiên polymerase nhận biết và liên kết với vùng khởi động của gen. Do đó, cơ chế chính của điều hòa gen là ngăn chặn hoặc cô lập vùng khởi động, bằng cách liên kết chặt chẽ bởi các phân tử ức chế ngăn chặn vật lý polymerase hoặc bằng cách tổ chức DNA sao cho vùng khởi động không thể tiếp cận được.:7
question_82
Các lãnh chúa nắm thứ gì trong tay bắt mọi người phải nghe theo?
doc_82
Các lãnh chúa nắm mọi quyền quyết định tôn giáo nào thần dân của họ phải theo, bao nhiêu quân công quốc của họ có quyền huy động, ngay cả quyền quyết định trong thời chiến: về phe với Hoàng đế, hoặc chống lại Hoàng đế, hoặc giữ trung lập. Khi liên quan đến sách lược trọng đại, họ phớt lờ mối dây liên hệ giữa họ và Hoàng đế. Họ, hoặc người đại diện của họ, tham gia vào Hội đồng Đế quốc, khởi đầu là cơ quan lập pháp, sau đó giờ chỉ có chức năng tham khảo và trang trí. Hoàng đế phải thông qua Hội đồng để ban hành luật, và những buổi thảo luận ít khi đạt sự nhất trí vì tranh cãi kéo dài không dứt.
doc_7816;;;;;doc_1989;;;;;doc_4698;;;;;doc_93;;;;;doc_4910
Các thành phần khác của xã hội bao gồm giới quý tộc, giáo sĩ và người dân thị trấn. Các quý tộc, cả quý tộc có tước hiệu và hiệp sĩ đơn giản, bóc lột các trang viên và nông dân, mặc dù họ không sở hữu hoàn toàn đất đai nhưng được lãnh chúa cấp quyền đối với thu nhập từ trang viên hoặc các vùng đất khác thông qua hệ thống phong kiến. Trong thế kỷ 11 và 12, những vùng đất hay thái ấp này được coi là cha truyền con nối và ở hầu hết các khu vực, chúng không còn được phân chia cho tất cả những người thừa kế như trường hợp đầu thời trung cổ. Thay vào đó, hầu hết các thái ấp và đất đai đều thuộc về con trai cả.[R] Sự thống trị của giới quý tộc được xây dựng dựa trên quyền kiểm soát đất đai, nghĩa vụ quân sự với tư cách là kỵ binh hạng nặng, quyền kiểm soát các lâu đài và nhiều quyền miễn trừ thuế hoặc các sự áp đặt khác.[ S] Các lâu đài, ban đầu bằng gỗ nhưng sau đó bằng đá, bắt đầu được xây dựng vào thế kỷ 9 và 10 để đối phó với tình trạng hỗn loạn của thời đó, đồng thời cung cấp sự bảo vệ khỏi những kẻ xâm lược cũng như cho phép các lãnh chúa phòng thủ khỏi các đối thủ. Việc kiểm soát các lâu đài cho phép giới quý tộc thách thức các vị vua hoặc các lãnh chúa khác. Quý tộc được phân tầng; các vị vua và giới quý tộc cấp cao nhất kiểm soát số lượng lớn dân thường và những vùng đất rộng lớn, cũng như các quý tộc khác. Bên dưới họ, những quý tộc cấp thấp hơn có quyền lực trên những vùng đất nhỏ hơn và ít người hơn. Hiệp sĩ là tầng lớp quý tộc thấp nhất; họ kiểm soát nhưng không sở hữu đất đai và phải phục vụ các quý tộc khác.[T];;;;;Các nam tước địa phương bỏ rơi Isaac, vốn dự định giảng hòa với Richard, hợp quân với ông trong cuộc Thập tự chinh và gả con gái của mình cho một người được lựa chọn bởi Richard. Nhưng Isaac đổi ý và cố gắng trốn thoát. Richard sau đó tiến hành chiếm đóng toàn bộ hòn đảo với quân đội của mình, chỉ huy bởi Guy de Lusignan. Isaac đầu hàng và bị trói bằng xích bạc vì Richard đã hứa là ông sẽ không bắt giam Isaac bằng xích sắt. Đến ngày 1 tháng 6 Richard đã chiếm được toàn bộ hòn đảo. Ông giao cho Richard de Camville và Robert xứ Thornham chức vụ thống đốc. Ông sau đó đã bán lại hòn đảo cho các Hiệp sĩ dòng Đền và cuối cùng rơi vào tay Guy Lusignan vào năm 1192 và hòn đảo trở thành một vương quốc phong kiến ổn định.;;;;;Áo là trung tâm và Viên là con tim của thế giới Habsburg. Đây là một thế giới vỹ đại, một thế giới Công giáo, một thế giới có truyền thống đạo đức cao, được lãnh đạo bởi các giáo sĩ dòng Tên - những người có cuộc sống rất đạo đức. Các nghi lễ truyền thống ở đây được tổ chức rất là trọng đại, nghiêm trang, vì các giáo sĩ mong muốn người dân và cả quân vương phải sống đạo đức và biết kính trọng Đức Chúa Trời. Họ trấn an các quân vương rằng "mọi chuyện đã được định đoạt bởi Thượng đế. Do đó các quân vương phải biết chăm chỉ cầu nguyện để Thượng đế soi sáng và giúp đỡ họ".;;;;;Hoàng đế cũng có thẩm quyền để thực hiện một loạt các công việc đã được thực hiện bởi các kiểm duyệt viên, bao gồm cả quyền hạn kiểm soát các thành viên của viện nguyên lão Ngoài ra, hoàng đế còn kiểm soát cả tôn giáo, vì từ khi là hoàng đế, ông cũng luôn luôn đảm nhiệm chức Pontifex Maximus (Đại Tư tế) và là thành viên của mỗi nhóm trong bốn nhóm thầy tế lớn.. Trong khi những tước hiệu này đã được định rõ vào thời kì đầu của giai đoạn đế quốc, cuối cùng chúng cũng bị mất đi, và quyền lực của hoàng đế dần ít tính lập hiến và mang nhiều tính quân chủ hơn.;;;;;Có một ngày một người thợ vàng ở Roma được phép cho hoàng đế Tiberius xem một chiếc đĩa ăn làm từ một kim loại mới. Chiếc đĩa rất nhẹ và có màu sáng như bạc. Người thợ vàng nói với hoàng đế rằng ông đã sản xuất kim loại từ đất sét thô. Ông cũng cam đoan với hoàng đế rằng chỉ có ông ta và chúa Trời biết cách sản xuất kim loại này từ đất sét. Hoàng đế rất thích thú, và như một chuyên gia về tài chính ông đã quan tâm tới nó. Tuy nhiên ông nhận ngay ra là mọi tài sản vàng, bạc của ông sẽ mất giá trị nếu như người dân bắt đầu sản xuất kim loại màu sáng này từ đất sét. Vì thế, thay vì cảm ơn người thợ vàng, ông đã ra lệnh chặt đầu ông ta.
question_83
Nga cho rằng Mỹ đã thâm nhập vào chính trị của mình bằng tổ chức nào?
doc_83
Theo báo Pravda của Nga cho là Quỹ Dân chủ Mỹ (NED - National Endowment for Democracy) có mặt trên khắp đất nước Nga, thâm nhập vào diễn biến chính trị ở Nga hiện nay, giúp đỡ "trung tâm tin tức quốc tế" đặt tại Moskva để hơn 80 tổ chức phi chính phủ xuyên quốc gia có thể tận dụng "trung tâm tin tức" này để tổ chức họp báo về các vấn đề. Tổ chức này cũng tài trợ cho nhiều tổ chức thanh niên và các buổi thảo luận dưới nhiều hình thức khác nhau với mục đích "bồi dưỡng thế hệ lãnh đạo mới cho đất nước Nga". Chỉ trong năm 2010, NED tiêu tốn 278.300 USD để tài trợ cho hàng chục chương trình như thế này trên khắp đất nước Nga. Theo học giả người Mỹ Frederick William Engdahl qua trích dẫn bởi báo Đất Việt thì "Washington không muốn Moscow xuất hiện kẻ mạnh. Sự trở lại của Putin sẽ trở thành chướng ngại lớn nhất của Mỹ và châu Âu... Đối với Washington, nước Nga có dân chủ thật sự hay không không quan trọng. Quan trọng nhất là phải lật đổ chướng ngại vật lớn nhất ngăn cản kế hoạch của Mỹ - Putin".
doc_5064;;;;;doc_3729;;;;;doc_5809;;;;;doc_3505;;;;;doc_415
Năm 2006, Chính phủ Nga đã quyết định cấm hoạt động tổ chức Giám sát nhân quyền, Ân xá quốc tế, Viện Cộng hòa quốc tế... cùng hơn 90 tổ chức phi chính phủ (NGO). Một trong những nguyên nhân chính là sự can thiệp vào nội bộ Nga của vài tổ chức thuộc NGO. Tuy gọi là “phi chính phủ” nhưng các tổ chức thuộc dạng này ngày càng liên hệ chặt chẽ với chính phủ nhiều nước, thậm chí hiện diện trong các chiến dịch tranh cử chứ không đơn thuần hoạt động nhân đạo. Tờ The Economist đã đưa ra câu hỏi rằng liệu có phải vài NGO là bù nhìn của (một số) chính phủ. Một trong những nguyên nhân chính của hiện tượng bùng nổ NGO trong vài năm gần đây là sự tài trợ từ các chính phủ phương Tây;;;;;13 thành viên Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc đã lên án cuộc bỏ phiếu tại Crimea là bất hợp pháp. Trung Quốc cũng không thể hiện sự ủng hộ cho Nga khi chỉ bỏ phiếu trắng. Samantha Power, Đại sứ Mỹ nói "đó là thời khắc buồn và đáng nhớ". Bà Samantha cũng gọi Nga là quốc gia "cô lập, cô đơn và sai trái". Trước đó ngày 15/03 khoảng 50.000 người Nga đổ xuống đường ở Moscow, hô khẩu hiệu "tránh ra khỏi Ukraine" nhằm phản đối hành động của Nga ở Ukraine. Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc cũng đã thông qua nghị quyết tuyên bố rằng cuộc trưng cầu dân ý không hợp lệ, và sự sáp nhập Crimea vào Nga là bất hợp pháp..;;;;;Vào ngày 24 tháng 12, Yeltsin thông báo với Tổng thư ký Liên hợp quốc rằng theo thỏa thuận của các quốc gia thành viên CIS, Liên bang Nga sẽ đảm nhận tư cách thành viên của Liên Xô trong tất cả các cơ quan của Liên hợp quốc (bao gồm cả tư cách thành viên thường trực trong Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc). Như vậy, Nga được coi là thành viên ban đầu của Liên hợp quốc (kể từ ngày 24/10/1945) cùng với Ukraina (CHXD Ukraina) và Belarus (SSR Byelorussian). Vào ngày 25 tháng 12 - chỉ vài giờ sau khi Gorbachev từ chức tổng thống Liên Xô - SFSR của Nga được đổi tên thành Liên bang Nga (Nga), phản ánh rằng nước này hiện là một quốc gia có chủ quyền với Yeltsin đảm nhận chức Tổng thống. Sự thay đổi ban đầu được công bố vào ngày 6 tháng 1 năm 1992 (Rossiyskaya Gazeta). Theo luật, vào năm 1992, nó được phép sử dụng tên cũ của RSFSR cho hoạt động kinh doanh chính thức (biểu mẫu, con dấu và tem). Hiến pháp Liên bang Nga (Luật cơ bản) năm 1978, mặc dù có các Tu chính án 1991–1992, vẫn có hiệu lực cho đến cuộc khủng hoảng hiến pháp Nga năm 1993.;;;;;Vào năm 2014, quân đội Nga đã thực hiện một số cuộc xâm nhập trái phép vào lãnh thổ Ucraina. Sau cuộc biểu tình Euromaidan và sự sụp đổ của chính quyền Tổng thống Ucraina Viktor Yanukovych, lực lượng vũ trang đặc biệt của Nga đã nhanh chóng kiểm soát các vị trí chiến lược và cơ sở hạ tầng trong phạm vi lãnh thổ Ukraine của Crimea. Nga sau đó đã sát nhập Crimea sau cuộc trưng cầu dân ý, khi mà người dân Crimea bỏ phiếu sáp nhập vùng lãnh thổ này vào Liên bang Nga. Sau đó, các cuộc biểu tình của các nhóm thân Nga ở vùng Donbass của Ucraina đã leo thang thành một cuộc xung đột vũ trang giữa chính phủ Ucraina và lực lượng ly khai do Nga hậu thuẫn tại Donetsk và Lugansk. Các quốc gia phương Tây và các tổ chức như Tổ chức Ân xá quốc tế đã lên án Nga vì những hành động của họ ở Ukraine sau cuộc cách mạng, cáo buộc Nga vi phạm luật pháp quốc tế và vi phạm chủ quyền của Ucraina. Nhiều quốc gia áp dụng các biện pháp trừng phạt kinh tế đối với Nga. Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc đã thông qua nghị quyết tuyên bố rằng cuộc trưng cầu dân ý không hợp lệ, và sự sáp nhập Crimea vào Nga là bất hợp pháp.;;;;;Nhân cơ hội Tổng thống Yanukovych bị lật đổ và tình hình chính trị rối ren đang xảy ra ở Ukraina, Tổng thống Nga Vladimir Putin bắt đầu lên kế hoạch để sáp nhập Crimea trở lại nước Nga vào ngày 23 tháng 2 năm 2014. Bốn ngày sau, vào ngày 27/2/2014, một nhóm người có vũ trang trùm mặt đã chiếm các tòa nhà chính quyền và quốc hội của Krym và cắm quốc kỳ Nga trên các tòa nhà này. Một nhóm khác mặt quân phục nhưng không đeo quân hiệu có vũ trang cũng đã chiếm hai sân bay ở Krym. Tổng thống tạm thời của Ukraina là Oleksandr Turchynov đã cáo buộc Nga triển khai quân đội tại bán đảo Krym để kích động một "cuộc xung đột vũ trang" nhưng phía Nga phủ nhận cáo buộc này. Ngày 1 tháng 3, Thượng viện Nga đã chấp thuận một kiến nghị của Tổng thống Nga Putin cho phép ông được quyền đưa quân vào Ukraina hỗ trợ chính quyền mới do Sergey Aksyonov đứng đầu Ngày 2 tháng 3 năm 2014, một số căn cứ quân sự Ukraina đã bị vây hãm hoặc bị tấn công. Ukraina tuyên bố cảnh báo chiến đấu và ra lệnh tổng động viên trên cả nước. Các nước G7 (Hoa Kỳ, Đức Nhật Bản, Canada, Pháp, Ý và Vương quốc Anh) lên án hành động của Nga tại bán đảo Krym, trong một bài tuyên bố chung được công bố bởi phủ tổng thống Hoa Kỳ vào ngày 02.03.2014, rõ ràng là đã vi phạm chủ quyền, xâm phạm lãnh thổ của Ukraina.,,,. Sau khi quân đội Nga tiến vào Crimea, một cuộc trưng cầu dân ý gây tranh cãi đã được tổ chức vào ngày 16 tháng 3 năm 2014 và kết quả chính thức là 97% nguòi dân Crimea đồng ý sáp nhập vùng lãnh thổ này vào Liên bang Nga . Ngày 18 tháng 3 năm 2014, Nga và Cộng hòa Crimea tự xưng đã ký một hiệp ước chính thức tuyên bố Cộng hòa Crimea và Sevastopol gia nhập Liên bang Nga.
question_84
Hình ảnh Washington được xuất hiện ở những nơi nào?
doc_84
Ngày nay, hình tượng và khuôn mặt của Washington thường được dùng như những biểu tượng quốc gia của Hoa Kỳ. Hình ảnh ông có mặt trên các loại tiền hiện thời trong đó có tiền giấy một đô la và tiền kim loại 25 xu, và trên các loại tem thư của Hoa Kỳ. Ngoài việc hình ảnh ông có mặt trên các loại tem thư đầu tiên do Bưu điện Hoa Kỳ phát hành năm 1847, Washington cùng với Theodore Roosevelt, Thomas Jefferson, và Lincoln, được tạc tượng trên Đài tượng niệm Núi Rushmore. Tượng đài Washington, một trong số những địa điểm nổi tiếng nhất của Mỹ, được xây để vinh danh ông. Tượng đài Quốc gia Tam điểm George Washington tại Alexandria, Virginia được xây dựng giữa năm 1922 và 1932 với đóng góp tự nguyện của tất cả 52 cơ quan điều hành địa phương của Hội Tam điểm tại Hoa Kỳ.
doc_2656;;;;;doc_119;;;;;doc_3208;;;;;doc_6263;;;;;doc_4906
Hình của George Washington được in trên tiền của Hoa Kỳ trong đó có tiền giấy một đô la và tiền kim loại 25 xu. Trên tem thư Hoa Kỳ, hình của Washington được in vô số lần và trong nhiều loại khác nhau. Hình ông có trên một trong số những con tem đầu tiên do Bưu điện Hoa Kỳ phát hành vào năm 1847 cùng với hình của Benjamin Franklin. Bắt đầu vào năm 1908, Bưu điện Hoa Kỳ phát hành trong thời gian dài nhất một loạt tem thư trong lịch sử Bưu điện Hoa Kỳ khi phát hành bộ tem "Washington-Franklin". Đây là một bộ tem thư gồm có hơn 250 con tem có hình Washington và Franklin. Hình của Washington được in trên tem thư Hoa Kỳ nhiều hơn tất cả những người Mỹ nổi tiếng khác cộng lại, kể cả Abraham Lincoln và Benjamin Franklin.;;;;;Ngay sau khi chiến thắng trong cuộc cách mạng Mỹ, có nhiều lời đề nghị xây đựng một tượng đài ghi công Washington. Sau khi ông mất, Quốc hội Hoa Kỳ ra lệnh xây dựng một đài tưởng niệm phù hợp tại thủ đô quốc gia nhưng quyết định này bị đảo ngược khi đảng Cộng hòa nắm kiếm soát Quốc hội vào năm 1801. Các đảng viên Cộng hòa mất tinh thần vì Washington đã trở thành biểu tượng của đảng Liên bang; hơn thế nữa, các giá trị của chủ nghĩa cộng hòa dường như không phù hợp với ý tưởng xây dựng những tượng đài dành cho những người có quyền lực. Thêm chuyện cãi vã chính trị cùng với sự chia rẽ Nam-Bắc trong cuộc Nội chiến Hoa Kỳ đã ngăn cản việc hoàn thành tượng đài Washington mãi cho đến cuối thế kỷ 19. Đến thời điểm đó, hình ảnh của Washington được xem là vị anh hùng quốc gia được cả hai miền Nam và Bắc tôn sùng nên các tượng đài của ông không còn là chuyện gây tranh cãi nữa. Trước khi có tượng đài hình tháp nằm trên National Mall vào khoảng vài thập niên trước đó, công dân của thành phố Boonsboro, Maryland đã xây dựng đài tưởng niệm công cộng đầu tiên để tưởng niệm Washington vào năm 1827.;;;;;Ông có một viễn tưởng về một quốc gia hùng mạnh và vĩ đại, xây dựng trên những nền tảng của nền cộng hòa, sử dụng sức mạnh của liên bang. Ông tìm cách sử dụng chính phủ cộng hòa để cải thiện hạ tầng cơ sở, mở rộng lãnh thổ phía tây, lập ra một trường đại học quốc gia, khuyến khích thương mại, tìm nơi xây dựng lên một thành phố thủ đô (sau này gọi là Washington, D.C.), giảm thiểu những sự căng thẳng giữa các vùng và vinh danh tinh thần chủ nghĩa quốc gia. Ông nói "Cái tên người Mỹ" phải xóa bỏ bất cứ những liên hệ ràng buộc nào mang tính cách địa phương. Khi mất, Washington được táng tụng như là "người đầu tiên trong chiến tranh, người đầu tiên trong hòa bình, và người đầu tiên trong lòng dân tộc của ông". Những người theo chủ nghĩa liên bang đã coi ông như là biểu tượng của đảng nhưng những người theo chủ nghĩa Jefferson trong nhiều năm trời vẫn tiếp tục không tin vào ảnh hưởng của ông và cố tìm cách trì hoãn xây dựng tượng đài Washington. Với tư cách là nhà lãnh đạo cách mạng thành công đầu tiên chống lại một đế quốc thuộc địa trong lịch sử thế giới, Washington đã trở thành một hình tượng quốc tế đối với phong trào giải phóng dân tộc và chủ nghĩa quốc gia. Chủ nghĩa biểu tượng của ông đặc biệt gây âm vang tại Pháp và châu Mỹ Latin. Các học giả lịch sử luôn xếp ông là một trong số hai hoặc ba vị tổng thống vĩ đại nhất.;;;;;Bản chất của thành phố là có nhiều đồi núi, dù vậy không phải lúc nào cũng thế. Giống như Rome, thành phố được cho là nằm trên bảy ngọn đồi; các danh sách khác nhau, nhưng thường bao gồm Capitol Hill, First Hill, West Seattle, Beacon Hill, Queen Anne, Magnolia và Denny Hill trước đây. Các khu dân cư Wallingford, Mount Baker và Crown Hill về mặt kỹ thuật cũng nằm trên đồi. Nhiều khu vực đồi núi nhất nằm gần trung tâm thành phố, với Đồi Capitol, Đồi First và Đồi Beacon tạo thành một sườn núi dọc theo eo đất giữa Vịnh Elliott và Hồ Washington. Vết nứt trên sườn núi giữa First Hill và Beacon Hill là do con người tạo ra, là kết quả của hai trong số nhiều dự án cải tạo nhằm định hình lại địa hình của trung tâm thành phố. Địa hình của trung tâm thành phố cũng bị thay đổi do việc xây dựng đê biển và Đảo Cảng nhân tạo (hoàn thành năm 1909) tại cửa Đường thủy Duwamish công nghiệp của thành phố, bến cuối của Sông Green. Điểm cao nhất trong giới hạn thành phố là tại High Point ở Tây Seattle, nằm gần 35th Ave SW và SW Myrtle St. Những ngọn đồi đáng chú ý khác bao gồm Crown Hill, View Ridge/Wedgwood/Bryant, Maple Leaf, Phinney Ridge, Mt. Baker Ridge và Highlands/Carkeek/Bitterlake.;;;;;Washington là một thành viên của Giáo hội Anh giáo, sau này gọi là Giáo hội Giám nhiệm, "có địa vị được thiết lập" tại tiểu bang Virginia (điều đó có nghĩa là tiền thuế được dùng để trả cho các vị chức sắc nhà thờ). Ông là một thành viên phục vụ trong ban điều hành Nhà thờ Christ tại Alexandria, Virginia và Nhà thờ Pohick gần nhà của ông trong đồn điền Mount Vernon cho đến khi chiến tranh bắt đầu; tuy nhiên giáo xứ này là một đơn vị của chính quyền địa phương và giáo xứ này phần lớn lo những công việc dân sự như đường sá và giảm nghèo.
question_85
Vì sao diện tích lãnh thổ của Iran bị giảm sút đáng kể?
doc_85
Sau hai thế kỷ dưới quyền người Ả Rập là một giai đoạn các vương triều Hồi giáo bản địa, song tiếp đó Iran lại bị người Thổ và người Mông Cổ chinh phục. Người Safavid nổi lên vào thế kỷ XV, rồi tái lập một nhà nước và bản sắc dân tộc Iran thống nhất. Iran sau đó cải sang Hồi giáo Shia, đánh dấu một bước ngoặt của quốc gia cũng như lịch sử Hồi giáo. Đến thế kỷ XVIII, dưới quyền Nader Shah, Iran trong một thời gian ngắn từng được cho là đế quốc hùng mạnh nhất đương thời. Xung đột với Đế quốc Nga trong thế kỷ XIX khiến Iran mất đi nhiều lãnh thổ. Cách mạng Hiến pháp năm 1906 lập ra một chế độ quân chủ lập hiến. Sau một cuộc đảo chính vào năm 1953, Iran dần liên kết mật thiết với phương Tây và ngày càng chuyên quyền. Bất mãn trước ảnh hưởng của nước ngoài và đàn áp chính trị dẫn đến Cách mạng Hồi giáo năm 1979, lập ra chế độ cộng hoà Hồi giáo. Trong thập niên 1980, Iran có chiến tranh với Iraq, cuộc chiến gây thương vong cao và tổn thất tài chính lớn cho hai nước. Từ thập niên 2000, chương trình hạt nhân gây tranh cãi của Iran khiến quốc tế lo ngại, dẫn đến nhiều chế tài quốc tế.
doc_3145;;;;;doc_4785;;;;;doc_779;;;;;doc_4936;;;;;doc_1915
Iran có chung biên giới với Azerbaijan (chiều dài: 432 km / 268 dặm) và Armenia (35 km / 22 dặm) ở phía tây bắc, với Biển Caspia ở phía bắc, Turkmenistan (992 km / 616 dặm) ở phía đông bắc, Pakistan (909 km / 565 dặm) và Afghanistan (936 km / 582 dặm) ở phía đông, Thổ Nhĩ Kỳ (499 km / 310 dặm) và Iraq (1.458 km / 906 dặm) ở phía tây, và cuối cùng giáp với Vịnh Péc xích và Vịnh Oman ở phía nam. Diện tích lãnh thổ Iran 1.648.000 km² ≈636.300 dặm vuông (Đất liền: 1.636.000 km² ≈631.663 mi², Nước: 12.000 km² ≈4.633 mi²), gần tương đương Alaska.;;;;;Iran sở hữu một trong các nền văn minh cổ nhất thế giới, bắt đầu là các vương quốc Elam vào thiên niên kỷ 4 TCN. Người Media thống nhất Iran vào thế kỷ VII TCN, lãnh thổ Iran được mở rộng cực độ dưới thời Cyrus Đại đế của Đế quốc Achaemenes vào thế kỷ VI TCN, là đế quốc lớn nhất thế giới cho đến lúc đó. Quốc gia Iran thất thủ trước Alexandros Đại đế vào thế kỷ IV TCN, song Đế quốc Parthia nhanh chóng tái lập độc lập. Năm 224, Parthia bị thay thế bằng Đế quốc Sasanid, Sasanid trở thành một cường quốc hàng đầu thế giới trong bốn thế kỷ sau đó. Người Hồi giáo Ả Rập chinh phục Sasanid vào thế kỷ VII, kết quả là Hồi giáo thay thế các tín ngưỡng bản địa Hoả giáo và Minh giáo. Iran có đóng góp lớn vào thời kỳ hoàng kim Hồi giáo (thế kỷ VIII-XIII), sản sinh nhiều nhân vật có ảnh hưởng về nghệ thuật và khoa học.;;;;;Thập kỷ 1970, Ayatollah Ruhollah Khomeini chiếm được cảm tình của đa số dân Iran. Những người Hồi giáo, cộng sản và những người theo đường lối tự do tiến hành cuộc Cách mạng Iran năm 1979, triều đình Shah bỏ chạy khỏi đất nước, sau đó Khomeini lên nắm quyền lực lập ra một nhà nước Cộng hòa Hồi giáo. Hệ thống mới lập ra những luật lệ Hồi giáo và quy định quyền cai trị trực tiếp ở mức cao nhất từ trước tới nay cho giới tăng lữ. Chính phủ chỉ trích mạnh mẽ phương Tây, đặc biệt là Mỹ vì đã ủng hộ triều đình Shah. Các quan hệ với phương Tây trở nên đặc biệt căng thẳng năm 1979, sau khi các sinh viên Iran bắt giữ các nhân viên Đại sứ quán Mỹ. Sau này, Iran đã tìm cách xuất khẩu cuộc cách mạng của mình ra nước ngoài, ủng hộ các nhóm quân sự chống phương Tây như nhóm Hezbollah ở Liban. Từ năm 1980 đến 1988, Iran và nước láng giềng Iraq lao vào một cuộc chiến đẫm máu Chiến tranh Iran-Iraq.;;;;;Chính quyền hiện tại tiếp tục theo đuổi các kế hoạch cải cách thị trường của chính phủ tiền nhiệm và đã thông báo rằng họ sẽ thay đổi nền kinh tế dựa nhiều vào dầu mỏ của Iran. Chính quyền đang tìm cách thực hiện mục tiêu trên thông qua việc đầu tư các khoản lợi nhuận vào các lĩnh vực như sản xuất ô tô, công nghiệp hàng không vũ trụ, hàng điện tử tiêu dùng, hoá dầu và công nghệ hạt nhân. Iran cũng hy vọng thu hút được hàng tỷ dollar đầu tư nước ngoài bằng cách tạo ra một môi trường đầu tư dễ chịu hơn, như giảm các quy định hạn chế và thuế nhập khẩu, thiết lập các vùng thương mại tự do như Chabahar và đảo Kish. Nước Iran hiện đại có một tầng lớp trung lưu mạnh và một nền kinh tế tăng trường nhưng vẫn tiếp tục phải đương đầu với tình trạng lạm phát và thất nghiệp ở mức cao.;;;;;Jimmy Carter, một người không thuộc một thành phần nào trong giới chính trị tại Washington, được bầu làm tổng thống vào năm 1976. Trên sân khấu thế giới, Carter làm trung gian cho Hòa ước Trại David giữa Israel và Ai Cập. Năm 1979, nhóm sinh viên Iran xông vào tòa đại sứ Hoa Kỳ tại Tehran và bắt 66 người Mỹ làm con tin, gây ra khủng hoảng con tin Iran. Vì cuộc khủng hoảng con tin và sự trì trệ kinh tế kéo dài đi đôi với lạm phát khiến cho Carter thua bầu cử tổng thống năm 1980 về tay đảng viên Cộng hòa là Ronald Reagan. Ngày 20 tháng 1 năm 1981, vài phút sau khi nhiệm kỳ của Carter chấm dứt, những con tin Mỹ còn bị giam giữ trong tòa đại sứ Hoa Kỳ tại Iran được phóng thích, kết thúc 444 ngày khủng hoảng con tin.
question_86
Ngày nào mà Tôn Trung Sơn đã khẳng định về việc nhân dân là chủ Trung Hoa Dân Quốc?
doc_86
Ngày 30 tháng 7 năm 1905, khi Tôn Trung Sơn triệu tập hội nghị trù bị Trung Quốc Đồng Minh hội tại Tokyo, Nhật Bản, trong "Trung Quốc Đồng Minh hội minh thư" có đề xuất cương lĩnh "khu trừ Thác Lỗ, khôi phục Trung Hoa, sáng lập Dân Quốc, bình quân địa quyền". Ông nhận thấy dù các chế độ cộng hòa đại đa số thi hành chế độ dân chủ đại nghị, song để xác lập nguyên tắc phát triển chủ quyền quốc gia thuộc toàn thể quốc dân, và hướng tới tiến hành dân quyền trực tiếp như Thụy Sĩ và Hoa Kỳ đang thực thi, nên mới chọn quốc hiệu là "Trung Hoa Dân Quốc". Ngày 20 tháng 10 năm 1923, Tôn Trung Sơn khi diễn giảng tại Hội Liên Hiệp Thanh niên Toàn quốc Quảng Châu một lần nữa nhấn mạnh Trung Hoa Dân Quốc là để nhân dân làm chủ.
doc_767;;;;;doc_2351;;;;;doc_853;;;;;doc_3313;;;;;doc_1666
Ngày 2 tháng 4 năm 1921, Chính phủ Trung Hoa Dân Quốc (Quảng Châu) được thành lập, Tôn Trung Sơn nhậm chức "đại tổng thống phi thường", lần đầu tiên sử dụng "Thanh Thiên Bạch Nhật Mãn Địa Hồng kỳ" làm quốc kỳ, nhằm phản đối tính hợp pháp của Chính phủ Bắc Dương, đến năm sau do Vận động Hộ pháp lần thứ hai thất bại nên giải thể. Ngày 2 tháng 3 năm 1923, Tôn Trung Sơn về Quảng Châu lập Đại bản doanh Đại nguyên soái Lục-Hải quân, tái lập chính phủ quân sự; đến ngày 1 tháng 7 năm 1925, cải tổ thành Chính phủ Quốc dân Trung Hoa Dân Quốc, sau khi Bắc phạt thành công thay thế Chính phủ Bắc Dương làm chính phủ trung ương và cơ quan hành chính tối cao của Trung Hoa Dân Quốc. Ngày 20 tháng 5 năm 1948, Chính phủ Quốc dân cải tổ thành Chính phủ Trung Hoa Dân Quốc, chức vụ Chủ tịch Chính phủ Quốc dân đổi thành "Tổng thống", duy trì đến nay.;;;;;Trung Hoa Dân Quốc là nhà nước thống trị Trung Quốc từ năm 1912 đến năm 1949. Năm 1911, Cách mạng Tân Hợi bùng phát khiến triều đại Thanh sụp đổ. Ngày 1 tháng 1 năm 1912, Tôn Trung Sơn thành lập Chính phủ lâm thời tại Nam Kinh, tuyên bố kiến lập Trung Hoa Dân Quốc. Sau Nghị hòa Nam-Bắc, Chính phủ lâm thời dời đến Bắc Kinh. Tháng 10 năm 1913, Chính phủ Trung Hoa Dân Quốc chính thức thành lập, song liền bị phân liệt không lâu sau đó. Trải qua Chiến dịch Bắc phạt của Quốc dân Cách mạng quân, Chính phủ Quốc dân Nam Kinh thay thế Chính phủ Bắc Dương vào năm 1928, thống nhất Trung Quốc trên danh nghĩa, song sau đó lại rơi vào xung đột với Đảng Cộng sản Trung Quốc, tàn dư quân phiệt và Đế quốc Nhật Bản. Từ sau sự kiện tháng 7 năm 1937, Nhật Bản tiến hành xâm lược toàn diện Trung Quốc, tháng 12 cùng năm thủ đô của Trung Hoa Dân Quốc thất thủ, Chính phủ Quốc dân triệt thoái đến Trùng Khánh. Tháng 12 năm 1941, Chính phủ Quốc dân chính thức tuyên chiến với Nhật Bản, đến năm 1945 thì giành được thắng lợi. Năm 1947, Chính phủ Quốc dân ban bố hiến pháp, cải tổ thành Chính phủ Trung Hoa Dân Quốc.;;;;;Ngày 11 tháng 3 năm 1912, Tôn Trung Sơn công bố "Ước pháp lâm thời Trung Hoa Dân Quốc" để làm pháp luật cơ bản lâm thời của quốc gia, đây là lần đầu tiên trong lịch sử Trung Quốc tư tưởng "chủ quyền tại dân" được đưa vào pháp quy. Năm 1913, Quốc hội khóa I của Trung Hoa Dân Quốc đề xuất dự thảo hiến pháp (còn gọi là Dự thảo hiến pháp Thiên Đàn). Năm 1914, Viên Thế Khải giải tán quốc hội, đến ngày 1 tháng 5 cùng năm ông công bố "Ước pháp Trung Hoa Dân Quốc" (còn gọi là Ước pháp Viên ký"). Năm 1919, trong thời kỳ Đoàn Kỳ Thụy chấp chính, có đề xuất dự thảo hiến (Dự thảo hiến pháp năm thứ 8). Năm 1923, trong thời kỳ Tào Côn nhậm chức đại tổng thống đã công bố "Hiến pháp Trung Hoa Dân Quốc (Hiến pháp Tào Côn). Năm 1925, Đoàn Kỳ Thụy trong thời gian tại nhiệm lần thứ hai lại đề xuất dự thảo hiến pháp (Dự thảo hiến pháp năm thứ 14) Năm 1928, sau khi Quốc Dân đảng thống nhất Trung Quốc, vào ngày 3 tháng 10 cùng năm Ủy ban Thường vụ Trung ương của đảng này thông qua "Cương lĩnh huấn chính", vào ngày 5 tháng 5 năm 1931 trong Đại hội đảng thông qua "Ước pháp thời kỳ huấn chính Trung Hoa Dân Quốc". Ngày 5 tháng 5 năm 1936, Chính phủ Quốc Dân công bố dự thảo hiến pháp, là tiền thân của Hiến pháp Trung Hoa Dân Quốc hiện nay. Ngày 25 tháng 12 năm 1946, Hiến pháp Trung Hoa Dân Quốc được thông qua, được công bố vào đầu năm 1947 và thi hành từ ngày 25 tháng 12 cùng năm. Từ đó, Trung Hoa Dân Quốc kết thúc thời kỳ huấn chính, chính thức bước vào thời kỳ hiến chính. Tuy nhiên, Quốc-Cộng nội chiến khiến rất nhiều điều khoản mất hiệu lực.;;;;;Tôn Trung Sơn mất vào năm 1925, quyền lãnh đạo chính trị của Trung Quốc Quốc dân Đảng thuộc về Uông Tinh Vệ và Hồ Hán Dân, lần lượt là thủ lĩnh của phái tả và phái hữu trong đảng. Tuy nhiên, quyền lực thực tế nằm trong tay Tưởng Giới Thạch, ông là hiệu trưởng Trường Quân sự Hoàng Phố, và gần như kiểm soát hoàn toàn quân đội. Nhờ ưu thế về quân sự, Tưởng Giới Thạch lãnh đạo thầy trò Trường quân sự Hoàng Phố phát động Đông chinh, bình định Quảng Đông, thành lập Chính phủ Quốc dân tại Quảng Châu. Quốc dân Đảng lúc này trở thành một chính quyền đối địch với Chính phủ Bắc Dương đặt tại Bắc Kinh.;;;;;Nguồn gốc tư tưởng và tổ chức của Quốc dân Đảng là công lao của nhân vật dân tộc chủ nghĩa Trung Hoa Tôn Trung Sơn, ông thành lập "Hưng Trung hội" tại Honolulu, Hawaii vào ngày 24 tháng 11 năm 1894. Năm 1905, Tôn Trung Sơn liên hiệp lực lượng với các đoàn thể chống phong kiến Hoa Hưng hội, Quang Phục hội tại Tokyo, Nhật Bản để hình thành Trung Quốc Đồng minh Hội vào ngày 20 tháng 8 năm 1905, tổ chức cam kết phế truất triều Thanh và lập một chính phủ cộng hòa. Tổ chức lên kế hoạch và ủng hộ Cách mạng Tân Hợi năm 1911 và thành lập Trung Hoa Dân Quốc vào ngày 1 tháng 1 năm 1912. Tuy nhiên, Tôn Trung Sơn không có quyền lực quân sự và nhượng lại cho Viên Thế Khải chức vụ đại tổng thống lâm thời của nước cộng hòa. Ngày 11 tháng 8 năm 1912, Đồng minh Hội, Thống nhất Cộng hòa Đảng, Quốc dân Công Đảng, Quốc dân Cộng tiến Đảng và Cộng hòa Thực tiến hội hợp nhất, đến ngày 13 tháng 8 tuyên bố: "chế độ cộng hòa, quốc dân là chủ thể của đất nước, chúng tôi vì để mọi người không quên lẽ đó, nên để tên là Quốc dân Đảng". Ngày 25 tháng 8 năm 1912, Quốc dân Đảng được thành lập tại Hội quán Hồ Quảng tại Bắc Kinh,, chính thức tuyên bố Quốc dân Đảng ra đời
question_87
Chiến dịch bão táp sa mạc xuất hiện nhiều nhất những loại hoả lực nào?
doc_87
Những vũ khí được sử dụng trong chiến dịch này gồm các vũ khí dẫn đường chính xác (hay "bom thông minh"), bom bầy, BLU-82 "daisy cutters" và tên lửa hành trình. Iraq trả lời bằng cách phóng 8 tên lửa Scud vào Israel ngày hôm sau. Mục tiêu ưu tiên hàng đầu của liên minh là phá hủy các cơ sở không quân và phòng không của Iraq. Nhiệm vụ này được nhanh chóng hoàn thành và trong suốt thời gian xảy ra cuộc chiến, không quân liên minh hầu như không gặp phải trở ngại nào khi hoạt động. Dù khả năng phòng không của Iraq tốt hơn so với dự đoán, liên minh chỉ thiệt hại một máy bay trong ngày mở màn chiến tranh. Máy bay tàng hình đã được sử dụng nhiều trong giai đoạn đầu tiên này nhằm tránh các hệ thống tên lửa đất đối không SAM dày đặc của Iraq; khi đã phá hủy xong những hệ thống đó, các kiểu máy bay khác có thể được đem ra sử dụng với độ an toàn cao hơn. Đa số các phi vụ tấn công xuất phát từ Ả Rập Xê Út và sáu nhóm tàu sân bay của liên minh ở Vịnh Péc-xích.
doc_498;;;;;doc_9154;;;;;doc_3007;;;;;doc_1797;;;;;doc_3973
Một ngày sau thời hạn chót do Nghị quyết của Liên Hiệp Quốc đặt ra, liên minh tung ra một cuộc tấn công không quân ồ ạt với mật danh "Chiến dịch bão táp sa mạc" với hơn 1.000 lần xuất kích một ngày, bắt đầu từ sáng sớm ngày 17 tháng 1 năm 1991. Năm tiếng đồng hồ sau những cuộc tấn công đầu tiên, đài phát thanh quốc gia Bagdad phát đi một giọng nói được xác định là của Saddam Hussein tuyên bố rằng "Cuộc chiến vĩ đại, cuộc chiến của mọi cuộc chiến đã bắt đầu. Bình minh thắng lợi đã rất gần khi cuộc thử thách cuối cùng đã đến.";;;;;Đến năm 1989, nước Đức sắp thống nhất và Chiến tranh Lạnh sắp kết thúc. Lãnh đạo quân đội phản ứng bằng cách bắt đầu lên kế hoạch giảm sức mạnh. Đến tháng 11 năm 1989, các báo cáo viên của Lầu Năm Góc đã đặt ra kế hoạch giảm 23% sức mạnh quân đội, từ 750.000 xuống 580.000. Một số biện pháp khuyến khích như nghỉ hưu sớm đã được sử dụng. Năm 1990, Iraq xâm lược nước láng giềng nhỏ hơn là Kuwait và lực lượng trên bộ của Mỹ nhanh chóng được triển khai để đảm bảo sự bảo vệ cho Ả Rập Saudi. Vào tháng 1 năm 1991, Chiến dịch Bão táp sa mạc bắt đầu, một liên minh do Hoa Kỳ lãnh đạo đã triển khai hơn 500.000 quân, phần lớn trong số họ đến từ các đơn vị của Quân đội Hoa Kỳ, để đánh đuổi lực lượng Iraq. Chiến dịch kết thúc với chiến thắng hoàn toàn khi lực lượng liên minh phương Tây đánh tan quân đội Iraq, được tổ chức theo phòng tuyến của Liên Xô, chỉ trong một trăm giờ.;;;;;Giai đoạn thứ ba và là lớn nhất của chiến dịch không quân nhắm tới các mục tiêu quân sự trên khắp Iraq và Kuwait: các bệ phóng tên lửa Scud, các địa điểm vũ khí hủy diệt hàng loạt, những cơ sở nghiên cứu vũ khí và các lực lượng hải quân. Khoảng một phần ba không lực liên quân được dành riêng để tấn công các bệ phóng tên lửa Scud, nằm trên các xe tải và do đó rất khó tìm kiếm để tiêu diệt. Ngoài ra, họ cũng nhắm vào các mục tiêu có thể sử dụng được cho cả mục đích dân sự và quân sự: các nhà máy điện, các lò phản ứng hạt nhân, các thiết bị thông tin liên lạc, các cảng biển, các nhà máy lọc và phân phối xăng dầu, các đường sắt và các cây cầu. Các nhà máy điện trên toàn quốc bị phá hủy. Tới cuối cuộc chiến, việc sản xuất điện chỉ còn đạt mức 4% so với trước chiến tranh. Bom đã phá hủy tất cả các đập chính, đa số những trạm bơm chính và nhiều nhà máy xử lý nước thải. Một số đội thuộc các lực lượng đặc biệt của Mỹ và Anh được đưa thâm nhập vào phía tây Iraq để tìm kiếm và phá hủy các tên lửa Scud. Tuy nhiên, vì thiếu những điều kiện địa lý thích hợp để ẩn náu khiến các hoạt động của họ gặp nhiều khó khăn và nhiều người đã bị giết hoặc bị bắt giữ.;;;;;"Chiến tranh Vùng Vịnh" và "Chiến tranh vịnh Ba Tư" là những thuật ngữ thường được dùng nhất để chỉ cuộc xung đột này ở các nước phương Tây. Những cái tên đó đã được đa số các nhà sử học và nhà báo sử dụng tại Hoa Kỳ. Từ "Chiến dịch Iraq tự do" ngày 22 tháng 3 năm 2003 và tiếp theo là việc Hoa Kỳ chiếm đóng Iraq, cuộc xung đột năm 1991 hiện nay thường được gọi là "Chiến tranh Vùng Vịnh lần thứ nhất". Tại Hoa Kỳ cuộc xung đột thường được gọi là Chiến dịch "Lá chắn sa mạc" (Desert Shield) và "Bão táp sa mạc" (Desert Storm) và ở Anh là Chiến dịch Granby. Tại Kuwait và đa số các nước Ả Rập cuộc xung đột thường được gọi là Harb Tahrir al-Kuwait hay "Chiến tranh giải phóng Kuwait". Tại Iraq, cuộc chiến thường được gọi là Um M'aārak - "Cuộc chiến của mọi cuộc chiến".;;;;;Không lực Hoa Kỳ đến với số lượng lớn, thực hiện 40 phi vụ một ngày trong những hành động hỗ trợ bộ binh, nhắm vào các lực lượng Bắc Triều Tiên nhưng cũng gây ra sự tàn phá to lớn đến người dân cũng như các thành phố. Các máy bay ném bom chiến thuật (đa số là oanh tạc cơ B-29 có căn cứ ở Nhật Bản) gây ngừng lưu thông đường sá và đường xe hỏa trong ban ngày, và tàn phá 32 cây cầu thiết yếu không chỉ cần thiết cho chiến tranh mà còn quan trọng đối với việc di tản của người dân. Xe lửa dùng cho cả quân sự và dân sự đều phải nằm chờ đợi lúc ban ngày bên trong các đường hầm.
question_88
Ngôn ngữ nào phổ biến ở Québec?
doc_88
Theo Hiệp định Paris 1783, Anh Quốc công nhận tình trạng độc lập của Hoa Kỳ và nhượng lại các lãnh thổ ở phía nam của Ngũ Đại Hồ cho Hoa Kỳ. New Brunswick tách khỏi Nova Scotia trong một chiến dịch tái tổ chức các khu định cư trung thành tại The Maritime. Nhằm hòa giải những người nói tiếng Anh trung thành tại Quebec, Đạo luật Hiến pháp 1791 chia tỉnh này thành Hạ Canada (sau là Québec) Pháp ngữ và Thượng Canada (sau là Ontario) Anh ngữ, trao cho mỗi nơi quyền có riêng hội đồng lập pháp được bầu cử.
doc_4644;;;;;doc_3772;;;;;doc_3103;;;;;doc_947;;;;;doc_2305
Hiến chương Pháp ngữ 1977 xác định tiếng Pháp là ngôn ngữ chính thức của Québec. Mặc dù hơn 85% số người Canada nói tiếng Pháp sống tại Québec, song cũng có dân số Pháp ngữ đáng kể tại Ontario, Alberta, và nam bộ Manitoba; Ontario là tỉnh có nhiều dân số Pháp ngữ nhất bên ngoài Québec. New Brunswick là tỉnh chính thức song ngữ duy nhất, có cộng đồng thiểu số Acadia nói tiếng Pháp chiếm 33% dân số. Cũng có các nhóm người Acadia tại tây nam bộ Nova Scotia, trên đảo Cape Breton, và qua trung bộ và tây bộ đảo Prince Edward.;;;;;Ngôn ngữ chiếm ưu thế tịa Mỹ Anglo là tiếng Anh. Tiếng Pháp cũng là một ngôn ngữ chính thức của Canada, và là ngôn ngữ chiếm ưu thế tại Québec và là một ngôn ngữ chính thức tại New Brunswick cùng với tiếng Anh. Tiếng Pháp cũng là một ngôn ngữ quan trọng tại tiểu bang Louisiana, và một phần các tiểu bang New Hampshire, Maine, và Vermont của Hoa Kỳ. Tiếng Tây Ban Nha đã giữ sự hiện diện liên tục tại vùng Tây Nam Hoa Kỳ, vốn là một phần của Phó vương quốc Tân Tây Ban Nha, đặc biệt là California và New Mexico, nơi một thứ tiếng Tây Ban Nha được biến đổi từ thế kỷ XVII vẫn còn tồn tại. Tiếng Tây Ban Nha cũng phát triển mạnh tại Hoa Kỳ do dòng người nhập cư từ các nước Mỹ Latinh.;;;;;Các tỉnh khác không có ngôn ngữ chính thức như vậy, song tiếng Pháp được sử dụng như một ngôn ngữ trong giảng dạy, trong tòa án, và cho các dịch vụ chính quyền khác, cùng với tiếng Anh. Manitoba, Ontario, và Québec cho phép nói cả tiếng Anh và tiếng Pháp tại các cơ quan lập pháp cấp tỉnh, và các đạo luật được ban hành bằng cả hai ngôn ngữ. Tại Ontario, tiếng Pháp có một số địa vị pháp lý, song không hoàn toàn là ngôn ngữ đồng chính thức. Có 11 nhóm ngôn ngữ Thổ dân, bao gồm hơn 65 phương ngôn riêng biệt. Trong số đó, chỉ có Cree, Inuktitut và Ojibway là có số người nói thành thạo đủ lớn để được xem là có thể sinh tồn trường kỳ. Một vài ngôn ngữ thổ dân có địa vị chính thức tại Các Lãnh thổ Tây Bắc. Inuktitut là ngôn ngữ chính tại Nunavut, và là một trong ba ngôn ngữ chính thức tại lãnh thổ này.;;;;;Canada có hai ngôn ngữ chính thức là tiếng Anh và tiếng Pháp, theo điều 16 của Hiến chương Canada về Quyền lợi và Tự do và Đạo luật ngôn ngữ chính thức của Liên bang. Chính phủ Canada thực hiện song ngữ chính thức, do Uỷ viên hội đồng các ngôn ngữ chính thức chấp hành. Tiếng Anh và tiếng Pháp có địa vị ngang nhau trong các tòa án liên bang, Nghị viện, và trong toàn bộ các cơ quan liên bang. Các công dân có quyền, ở nơi đủ nhu cầu, nhận các dịch vụ của chính phủ liên bang bằng tiếng Anh hoặc tiếng Pháp, và các ngôn ngữ thiểu số có địa vị chính thức được đảm bảo có trường học sử dụng chúng tại tất cả các tỉnh và lãnh thổ.;;;;;Tuyên ngôn Vương thất 1763 tạo nên tỉnh Quebec từ Tân Pháp, và sáp nhập đảo Cape Breton vào Nova Scotia. Đảo St. John's (nay là đảo Prince Edward) trở thành một thuộc địa riêng biệt vào năm 1769. Nhằm ngăn ngừa xung đột tại Québec, Anh Quốc thông qua đạo luật Québec vào năm 1774, mở rộng lãnh thổ của Québec đến Ngũ Đại Hồ và thung lũng sông Ohio. Anh Quốc cũng tái lập ngôn ngữ Pháp, đức tin Công giáo La Mã, và dân luật Pháp tại đây. Điều này khiến cho nhiều cư dân Mười ba Thuộc địa tức giận, kích động tình cảm chống Anh trong những năm trước khi bùng nổ Cách mạng Mỹ.
question_89
Tại Afghanistan, Mông Cổ hiện nay đã triển khai bao nhiêu quân?
doc_89
Mông Cổ vẫn duy trì các quan hệ thân cận và các phái bộ ngoại giao với nhiều quốc gia như Hoa Kỳ, Nga, Bắc Triều Tiên và Hàn Quốc, Nhật Bản, và Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa. Chính phủ tập trung trên việc khuyến khích đầu tư và thương mại nước ngoài. Mông Cổ ủng hộ cuộc xâm lược Iraq năm 2003, và đã nhiều lần gửi binh sĩ với số lượng mỗi lần từ 103 tới 180 quân tới Iraq. Khoảng 130 lính hiện đang được triển khai tại Afghanistan. 200 quân Mông Cổ đang thực hiện nhiệm vụ ở Sierra Leone dưới một sự uỷ quyền của Liên hiệp quốc để bảo vệ toà án đặc biệt của Liên hiệp quốc được thành lập ở đó, và vào tháng 7 năm 2009, Mông Cổ đã quyết định gửi một tiểu đoàn tới Chad để hỗ trợ cho MINURCAT.
doc_4852;;;;;doc_3589;;;;;doc_2566;;;;;doc_2676;;;;;doc_2636
Tổng dân số Mông Cổ vào tháng 7 năm 2007 ước tính bởi Văn phòng Điều tra Hoa Kỳ là 2.951.786 người, xếp khoảng hạng thứ 138 trên thế giới theo quy mô dân số. Nhưng Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ Văn phòng các Công việc Đông Á và Thái Bình Dương sử dụng những ước tính của Liên hiệp quốc thay vì các con số của Văn phòng Thống kê Hoa Kỳ. Cục Kinh tế và các Vấn đề Xã hội Liên hiệp quốc Phòng dân số ước tính tổng dân số Mông Cổ (giữa năm 2007) là 2.629.000 (11% nhỏ hơn con số của Phòng Thống kê Hoa Kỳ). Ước tính của Liên hiệp quốc giống với con số của Phòng Thống kê Quốc gia Mông Cổ (2.612.900, cuối tháng 6 năm 2007). Tỷ lệ tăng trưởng dân số của Mông Cổ ở mức 1.2% (ước tính 2007). Khoảng 59% trong tổng dân số dưới 30 tuổi, 27% trong số đó dưới 14. Đây là dân số khá trẻ và sự tăng trưởng dân số đã đặt ra một số vấn đề với nền kinh tế Mông Cổ.;;;;;Kể từ thời tiền sử, Mông Cổ là nơi cư trú của các dân tộc du mục, theo thời gian họ hình thành các bang liên lớn giúp gia tăng sức mạnh và ưu thế. Các thể chế thường thấy là chức vụ hãn, Kurultai (hội đồng tối cao), tả dực và hữu dực, quân đội đế quốc (Keshig) và hệ thống quân sự theo hệ thập phân. Đế quốc đầu tiên là Hung Nô, do Mặc Đốn tập hợp để hình thành một bang liên vào năm 209 TCN. Họ nhanh chóng nổi lên thành mối đe dọa lớn nhất cho nhà Tần, buộc Trung Hoa phải xây Trường thành. Tướng quân Mông Điềm của Tần phải đem 30 vạn quân canh giữ biên giới phía bắc, nhằm phòng thủ trước các cuộc tấn công hủy diệt của Hung Nô. Đế quốc Hung Nô rộng lớn tồn tại cho đến năm 93, bị thay thế bằng Đế quốc Tiên Ti (93–234), toàn bộ Mông Cổ ngày nay nằm trong lãnh thổ quốc gia này.;;;;;Trong cảnh hỗn loạn vào cuối thế kỷ XII, một tù trưởng tên là Thiết Mộc Chân cuối cùng thống nhất thành công các bộ lạc Mông Cổ nằm giữa Mãn Châu và dãy núi Altai. Năm 1206, ông lấy hiệu là Thành Cát Tư Hãn, và tiến hành một loạt chiến dịch quân sự vốn nổi tiếng tàn bạo tại một phần lớn của châu Á, lập nên Đế quốc Mông Cổ, là đế quốc lục địa liền kề lớn nhất trong lịch sử thế giới. Dưới sự cai trị của những người thừa kế của ông, đế quốc kéo dài từ Ukraina hiện nay đến bán đảo Triều Tiên, và từ Siberia đến vịnh Oman và Việt Nam hiện nay, chiếm diện tích khoảng 33.000.000 kilômét vuông (13.000.000 sq mi), (22% tổng diện tích đất liền của Trái đất), dân số đạt trên 100 triệu người (khoảng một phần tư tổng dân số thế giới vào đương thời). Sự xuất hiện của Thái bình Mông Cổ cũng tạo thuận lợi đáng kể cho mậu dịch và thương nghiệp trên khắp châu Á vào thời đỉnh cao của nó.;;;;;Cuối năm 1257, tướng Mông Cổ là Ngột Lương Hợp Thai (Uriyangqadai hay 兀良合台) mang 3 vạn quân tiến vào nước Đại Việt qua đường Vân Nam. Vua Trần Thái Tông đích thân ra chiến trận. Quân Trần cố gắng chặn nhưng quân Mông Cổ vẫn tiến vào được Thăng Long. Nhân dân Thăng Long theo lệnh của triều đình đã thực hiện "vườn không nhà trống", rút về Thiên Mạc (Hà Nam). Ngột Lương Hợp Thai kéo quân vào Thăng Long chưa đầy 1 tháng thì bị thiếu lương thực. Nhân cơ hội đó quân Đại Việt phản công ở Đông Bộ Đầu (Từ Liêm-Hà Nội). Quân Mông Cổ thua phải rút khỏi Thăng Long, đến vùng Quy Hóa (Yên Bái) bị quân của tộc trưởng Hà Bổng đánh tan tác, quân Mông Cổ rút chạy về Vân Nam.;;;;;Sắc tộc Mông Cổ chiếm khoảng 85% dân số và gồm Khalkha cùng các nhóm khác, tất cả được phân biệt chủ yếu bởi các phương ngữ của ngôn ngữ Mông Cổ. Người Khalkha chiếm 90% dân số Mông Cổ. 10% còn lại gồm Buryat, Durbet Mông Cổ và các nhóm khác ở phía bắc và Dariganga Mông Cổ ở phía đông. Người Turk (Kazakh, Tuva, và Chantuu (Uzbek) chiếm 7% dân số Mông Cổ, và số còn lại là người Tungus, Trung Quốc, và người Nga. Đa số, nhưng không phải toàn bộ, người Nga đã rời khỏi quốc gia này sau sự rút lui hỗ trợ kinh tế và sự sụp đổ của Liên bang Xô viết năm 1991.
question_90
Richard đã nói gì khi ông đang gây quỹ cho cuộc Thập tự chinh?
doc_90
Richard đã nói rằng nước Anh "rất lạnh và luôn đổ mưa," [cần dẫn nguồn] và khi ông đang gây quỹ cho cuộc Thập tự chinh, ông được cho là đã nói, "Ta đã có thể bán luôn London nếu ta có thể tìm được người mua." Tuy nhiên, dù nước Anh là phần lãnh thổ chính của ông – đặc biệt quan trọng khi nó cho ông một tước hiệu hoàng gia để có thể đứng ngang hàng với các vị vua khác – nó không đối mặt với cả thù trong lẫn giặc ngoài trong suốt triều đại của ông, không giống nhưng phần lãnh thổ ở đại lục, và vì vậy không cần ông phải luôn có mặt tại đây. Giống như phần lớn vua Plantagenet trước thế kỷ 14, ông không cần phải học tiếng Anh. Bỏ lại quê hương trong tay nhiều quan chức khác nhau mà ông bổ nhiệm (bao gồm cả mẹ ông), Richard quan tâm tới lãnh thổ rộng lớn tại Pháp nhiều hơn. Sau khi chuẩn bị xong, ông có một đạo quân 4000 kị binh, 4000 bộ binh và một hạm đội 100 tàu.
doc_1430;;;;;doc_2198;;;;;doc_4128;;;;;doc_765;;;;;doc_1063
Richard, tuy vậy, cũng nhận được những đánh giá tiêu cực. Trong suốt cuộc đời, ông bị chỉ trích bởi các nhà viết sử vì đã đánh thuế giới tăng lữ nhằm quyên tiền cho cuộc Thập tự chinh và trả tiền chuộc cho ông, trong khi nhà thờ và giới tăng lữ thường được miễn thuế. Nước Anh thời Victoria chia rẽ trong cách nhìn nhận về Richard: "Nhiều người trong số đó ngưỡng mộ ông vì cuộc Thập tự chinh và lòng mộ đạo của ông, dựng nên một tượng đài anh hùng về ông bên ngoài các tòa nhà Nghị viện; Stubbs, mặt khác, lại cho rằng ông là "một người con bất hiếu, một người chồng tồi, một kẻ chuyên quyền độc đoán và một con người xấu xa". Mặc dù sinh ra ở Oxford, ông không biết nói tiếng Anh. Trong triều đại 10 năm của mình, ông ở Anh không quá 6 tháng, và hoàn toàn vắng mặt trong 5 năm cuối cùng.;;;;;Richard thề sẽ từ bỏ sự độc ác trong quá khứ để chứng tỏ mình đủ tư cách để tuyên thệ. Ông bắt đầu huy động và vũ trang một đạo quân Thập tự mới. Ông tiêu gần hết kho báu của cha mình (vốn rất nhiều của cải thu được từ thuế Saladin), tăng thuế và thậm chí đồng ý cho William I của Scotland từ bỏ lời thề trung thành với Richard để đổi lấy 10000 mác. Để có thêm tiền ông bán cả chức vụ, đặc quyền và đất đai cho những kẻ muốn mua. Những người đã có chức tước thì bị buộc phải trả những khoản tiền lớn để duy trì chức vụ của mình. William Longchamp, giám mục xứ Ely và Đại Chưởng ấn của nhà vua, ra giá 3000 bảng để tiếp tục giữ chức Đại Chưởng ấn. Reginald người Ý ra giá cao hơn, nhưng lại bị từ chối.;;;;;Richard và lực lượng của ông hỗ trợ trong cuộc xâm chiến thành Acre, mặc dù lúc này ông lâm bệnh nặng. Một mặt, khi đang bị bệnh Scobat, Richard được kể rằng đã dùng nỏ hạ gục lính gác trên tường thành trong khi đang được khiêng trên cáng. Cuối cùng Conrad xứ Montferrat đàm phán về việc đầu hàng của người Hồi giáo với Saladin và giương cờ hiệu của các vị vua trong thành phố. Richard tranh cãi với Leopold V của Áo về việc phế truất Isaac Komnenos (có họ hàng với người mẹ gốc Byzantine của Leopold) và vị trí của ông trong cuộc Thập tự chinh. Cờ hiệu của Leopold được giương lên cùng với cờ hiệu của Pháp và Anh. Điều này được giải thích là do sự ngạo mạn của cả Richard và Philip, vì Leopold chỉ là chư hầu của Hoàng đế La Mã Thần thánh (dù ông là nhà lãnh đạo còn sống sót cao nhất của lực lượng Đế quốc La Mã Thần thánh). Người của Richard giật lá cờ xuống và ném nó vào con hào của Acre. Leopold ngay sau đó từ bỏ cuộc Thập tự chinh, Philip sau đó cũng sớm ra đi với sức khỏe kém sau khi tranh chấp với Richard, đòi một nửa đảo Cyprus và ngai vàng Jerusalem. Richard, đột nhiên, thấy mình mất hết đồng minh.;;;;;Một phần nhờ các mưu đồ này mà Richard giành được nhiều thắng lợi trước Philip. Ở Freteval năm 1194, khi Richard trở về sau vụ bắt giữ và sau việc thu tiền ở Anh cho Pháp, Philip bỏ chạy, để lại toàn bộ tài liệu về kiểm toán tài chính rơi vào tay Richard. Trong trận Gisors (đôi khi được gọi là Courcelles) vào năm 1198, Richard chọn khẩu hiệu của mình là "Dieu et mon Droit" – "Chúa và Quyền của ta" (vẫn được Hoàng gia Anh ngày nay sử dụng), thể hiện niềm kiêu hãnh trước đây của ông với Hoàng đế Henry rằng địa vị của ông không thể hiện sự thần phục với bất kỳ ai trừ Chúa.;;;;;Richard thu xếp vài việc cuối cùng tại châu Âu. Ông tái khẳng định việc bổ nhiệm William Fitz Ralph vào chức vụ quản gia của Normandy. Tại Anjou, Stephen xứ Tours bị tước quyền quản gia và bị tạm giam vì quản lý tài chính yếu kém. Payn de Rochefort, một hiệp sĩ Angevin, được thăng chức quản gia Anjou. Tại Poitou cựu mục sư trưởng của Benon, Peter Bertin, được phong chức quản gia, và cuối cùng ở Gascony quan chức nội vụ Helie de La Celle được chọn làm quản gia. Sau khi tái bố trí phần quân đội mà ông để lại nhằm bảo vệ các lãnh thổ ở Pháp, Richard cuối cùng lên đường trong cuộc Thập tự chinh vào mùa hè năm 1190. (Sự trì hoãn của ông bị phê bình bởi những người hát rong như Bertran de Born.) Ông trao quyền nhiếp chính cho Hugh de Puiset, giám mục của Durham, và William de Mandeville, Bá tước thứ ba của Essex – người này sau đó sớm qua đời và được thay thế bởi Đại Chưởng ấn của Richard William Longchamp. Em trai của Richard, John không hài lòng trước quyết định này và bắt đầu âm mưu chống lại William.
question_91
Nhờ đâu mà các công đoàn lại có thể trở nên một lực lượng hậu thuẫn vững chắc cho Roosevelt trong các cuộc tranh cử?
doc_91
Trong khi New Deal lần thứ nhất năm 1933 được đa số thành phần xã hội rộng rãi ủng hộ, New Deal lần thứ hai phải đối mặt với cộng đồng thương mại. Các đảng viên Dân chủ bảo thủ, do Al Smith lãnh đạo, đánh trả bằng cách thành lập Liên đoàn Tự do Mỹ (American Liberty League). Họ tấn công Roosevelt một cách điên cuồng và so sánh ông với Marx và Lênin. Ngược lại, các công đoàn, được thêm năng lực nhờ vào Đạo luật Wagner, đã ký tên hàng triệu thành viên mới và trở thành lực lượng hậu thuẫn lớn cho các cuộc tái tranh cử của Roosevelt vào năm 1936, 1940 và 1944.
doc_774;;;;;doc_1861;;;;;doc_1706;;;;;doc_3481;;;;;doc_1432
Năm 1932, ứng cử viên tổng thống thuộc đảng Dân chủ Franklin D. Roosevelt hứa hẹn "một đối sách mới (hay tiếng Anh là "New Deal") cho nhân dân Mỹ". Đây là nhãn mác lâu dài để chỉ chung các chính sách đối nội của ông. Tình hình kinh tế tuyệt vọng cùng với các chiến thắng đáng kể của đảng Dân chủ trong các cuộc bầu cử năm 1932 đã cho phép Roosevelt có sức ảnh hưởng dị thường đối với Quốc hội Hoa Kỳ trong một trăm ngày đầu tiên của nhiệm kỳ tổng thống. Ông dùng ảnh hưởng của mình để thông qua nhanh chóng một loạt các đối sách để lập ra các chương trình phúc lợi và áp đặt các quy định vào hệ thống ngân hàng, thị trường chứng khoán, công nghiệp và nông nghiệp cùng với nhiều nỗ lực khác của chính phủ để kết thúc đại khủng hoảng và cải cách nền kinh tế Mỹ. New Deal áp đặt nhiều luật lệ vào nền kinh tế, đặc biệt là ngành tài chính. Nó trợ giúp những người thất nghiệp qua vô số chương trình như Cơ quan Quản trị Tiến triển Công chánh (WPA) và Đoàn Bảo tồn Dân sự (Civilian Conservation Corps). Các dự án chi tiêu trên diện rộng, được trù tính nhằm cung cấp việc làm lương cao và xây dựng cơ sở hạ tầng, thì nằm dưới tầm phạm vi hoạt động của Cơ quan Quản trị Tiến triển Công chánh. Roosevelt ngả sang cánh tả vào năm 1935–36, hình thành các công đoàn bằng Đạo luật Wagner. Các công đoàn trở thành một nhân tố mạnh của liên minh New Deal mới hình thành. Liên minh này đã giúp tổng thống Roosevelt tái đắc cử vào năm 1936, 1940, và 1944 bằng cách vận động toàn thể thành viên của các công đoàn, giới công nhân lao động, những người nhận trợ cấp, các cỗ máy chính trị thành phố, các nhóm chủng tộc và tôn giáo (đặc biệt là người Công giáo và Do Thái), người da trắng miền Nam cùng với người da đen miền Bắc (nơi người da đen có quyền đầu phiếu). Một số chương trình bị loại bỏ trong thập niên 1940 khi nhóm bảo thủ giành được quyền lực tại Quốc hội bằng Liên minh Bảo thủ. Quan trọng đặc biệt là chương trình An sinh Xã hội, bắt đầu vào năm 1935.;;;;;Roosevelt đã chi phối nền chính trị Mỹ, không chỉ trong suốt 12 năm làm tổng thống mà còn nhiều thập niên về sau. Ông là nhạc trưởng của việc tái phối trí cử tri mà sau đó hình thành nên Hệ thống đảng phái lần thứ 5. Liên minh New Deal của ông đã qui tụ được các công đoàn lao động, những cỗ máy thành phố lớn (?), các sắc tộc da trắng, những người nhận trợ cấp xã hội, người Mỹ gốc châu Phi và những người nông dân da trắng ở miền Nam Hoa Kỳ. Ảnh hưởng ngoại giao của Roosevelt cũng vang dội trên sân khấu thế giới rất lâu sau khi ông qua đời trong đó phải kể đến Liên Hiệp Quốc và Hệ thống Bretton Woods là những thí dụ về sức ảnh hưởng rộng lớn của chính phủ ông. Roosevelt từ trước đến nay luôn được các học giả đánh giá là một trong số các tổng thống vĩ đại của Hoa Kỳ.;;;;;Nhờ hậu thuẫn của tiểu bang đông dân nhất mà Roosevelt trở thành ứng viên sáng giá trong cuộc chạy đua tranh sự đề cử của Đảng Dân chủ. Song cuộc đua trở nên quyết liệt hơn khi có những dấu hiệu cho thấy tổng thống đương nhiệm, Herbert Hoover, sẽ thất bại trong kỳ bầu cử tổng thống năm 1932. Al Smith được một số đại gia thành phố hậu thuẫn nhưng mất quyền kiểm soát đảng Dân chủ tại tiểu bang New York vào tay Roosevelt. Roosevelt tự xây dựng một liên minh toàn quốc với những đồng minh riêng của mình như trùm báo chí William Randolph Hearst, lãnh tụ cộng đồng Ái Nhĩ Lan Joseph P. Kennedy và nhà lãnh đạo tiểu bang California William G. McAdoo. Khi nhà lãnh đạo tiểu bang Texas John Nance Garner quay sang ủng hộ FDR thì vị lãnh đạo này được đề cử vào chức vụ phó tổng thống trong liên danh tranh cử của Roosevelt.;;;;;Cuộc vận động tranh cử được tiến hành dưới cái bóng của Đại khủng hoảng và cái liên minh mới mà cuộc vận động tranh cử đã tạo nên. Roosevelt và Đảng Dân chủ tổng động viên một phạm vi rộng lớn các tầng lớp xã hội bao gồm người nghèo cũng như các công đoàn lao động, sắc dân thiểu số, người thành thị, và người da trắng miền Nam Hoa Kỳ để tạo nên liên minh New Deal. Trong suốt thời gian tranh cử, Roosevelt thường nói: "Tôi xin cam kết với các bạn, Tôi xin cam kết với bản thân mình một đối sách mới ( a new deal) cho nhân dân Mỹ". Câu nói này đã tạo ra một khẩu hiệu mà sau đó được dùng làm tên cho chương trình hành động của chính phủ ông cũng như liên minh mới của ông.;;;;;Nhà kinh tế học Marriner Eccles quan sát thấy rằng "Trong các giai đoạn phát triển sau đó của cuộc vận động tranh cử, các bài diễn văn tranh cử đọc giống như có nhiều chỗ sai sót mà trong đó cả Roosevelt và Hoover thường đọc các hàng chữ của nhau." Roosevelt tố cáo Hoover thất bại phục hồi thịnh vượng hoặc thậm chí thất bại trong việc kìm hãm đà xuống dốc của nền kinh tế. Ông mỉa mai con số thâm thủng ngân sách khổng lồ của Hoover. Roosevelt vận động tranh cử theo cương lĩnh của Đảng Dân chủ với chủ trương "cắt giảm mạnh và ngay tức khắc tất cả chi tiêu công cộng", "bãi bỏ các cơ quan và các ủy ban vô dụng, kết hợp lại các cơ quan văn phòng và loại trừ lãng phí quan liêu." Ngày 23 tháng 9, Roosevelt đưa ra nhận định u ám rằng "bộ máy công nghiệp của chúng ta được xây dựng; vấn đề hiện nay là có phải chăng dưới những điều kiện hiện tại nó được xây quá mức hay không. Giới hạn cuối cùng của chúng ta đã đến đích từ lâu rồi." Hoover chê trách chủ nghĩa bi quan đó như là một sự phủ nhận "triển vọng của cuộc sống Mỹ... đó là chỉ dẫn đầy tuyệt vọng." Vấn đề cấm rượu cồn củng cố thêm số phiếu mới cho Roosevelt vì ông cho rằng việc bãi bỏ cấm rượu cồn sẽ mang lại thêm tiền thu nhập mới qua đánh thuế.
question_92
Thành tựu nào giúp cho việc đi lại giữa hai miền Đông - Tây Hoa Kỳ dễ dàng hơn?
doc_92
Đầu tiên, việc đi lại lại giữa miền Tây và các trung tâm ở miền Đông tốn thì giờ và nguy hiểm. Hành khách phải đi theo các chuyến đường biển dài hoặc đi bằng xe ngựa hay đi bộ rất khó khăn trên những con đường đất. Năm 1869, đường xe lửa xuyên lục địa đầu tiên được hoàn thành, tạo ra một lối đi thẳng hơn. Sau đó, hàng trăm ngàn người Mỹ tới California, nơi những người mới đến khám phá ra rằng nếu tưới đất vào những tháng hè khô cạn, đất đó rất hợp để trồng cây ăn quả và làm nông nghiệp nói chung. Các loại cây giống cam quýt được trồng phổ biến (nhất là cây cam), và từ đó ngành sản xuất nông nghiệp California bắt đầu rất thành công đến ngày nay.
doc_7161;;;;;doc_4833;;;;;doc_9245;;;;;doc_3791;;;;;doc_8922
Các tuyến đường sắt đã mở ra vùng Great Plains để định cư, giờ đây người ta có thể vận chuyển lúa mì và các loại cây trồng khác với chi phí thấp đến các thị trường đô thị ở phía Đông và Châu Âu. Đất Homestead được miễn phí cho những người định cư Mỹ. Đường sắt đã bán đất của họ với giá rẻ cho người nhập cư với kỳ vọng họ sẽ tạo ra giao thông ngay khi các trang trại được thành lập. Người nhập cư đổ về, đặc biệt là từ Đức và Scandinavia. Ở vùng đồng bằng, rất ít đàn ông độc thân cố gắng tự mình điều hành một trang trại hoặc trang trại; họ hiểu rõ sự cần thiết của một người vợ chăm chỉ và đông con để đảm đương nhiều công việc nhà, bao gồm nuôi con, cho ăn và mặc quần áo cho gia đình, quản lý việc nhà, nuôi những người làm thuê, và đặc biệt là sau những năm 1930, xử lý các công việc nhà. giấy tờ và chi tiết tài chính. Trong những năm đầu định cư, phụ nữ nông dân đóng một vai trò không thể thiếu trong việc đảm bảo sự sống còn của gia đình bằng cách làm việc ngoài trời. Sau khoảng một thế hệ, ngày càng có nhiều phụ nữ rời bỏ đồng ruộng, do đó xác định lại vai trò của họ trong gia đình. Công nghệ mới bao gồm máy may và máy giặt đã khuyến khích phụ nữ chuyển sang làm công việc nội trợ. Phong trào quản lý nhà cửa khoa học, được quảng bá trên khắp đất nước bởi các phương tiện truyền thông và các cơ quan khuyến nông của chính phủ, cũng như các hội chợ quận giới thiệu những thành tựu trong nấu ăn tại nhà và đóng hộp, các chuyên mục tư vấn cho phụ nữ về sổ sách kế toán trang trại và các khóa học kinh tế gia đình ở trường học.;;;;;Qua chiến tranh và hiệp ước, thiết lập luật và trật tự, xây dựng nông trại và thị trấn, làm đường mòn và đào quặng mỏ cũng như lôi cuốn vô số di dân ngoại quốc, Hoa Kỳ đã mở rộng lãnh thổ từ bờ biển phía đông sang bờ biển phía tây để hoàn thành giấc mơ về vận mệnh hiển nhiên. Khi biên cương Mỹ đi vào lịch sử, những huyền thoại về miền tây trong các tiểu thuyết và phim ảnh có chỗ đứng vững chắc trong trí tưởng tượng của người Mỹ cũng như người ngoại quốc. Nước Mỹ đặc biệt đã chọn cho mình một hình ảnh biểu tượng. "Không quốc gia nào khác" như David Murdoch đã nói "đã lấy một thời điểm và địa điểm từ quá khứ của mình để tạo lập ra một cấu trúc dành cho trí tưởng tượng mà tương xứng với sự tạo lập ra miền Tây của nước Mỹ.";;;;;Đến năm 1878, do sự phát triển ngày càng tăng của thành phố, một tuyến đường sắt không thể đáp ứng kịp nhu cầu nữa. Chẳng bao lâu, Đường sắt Philadelphia và Thành phố Atlantic cũng được xây dựng để vận chuyển khách du lịch đến Thành phố Atlantic. Vào thời điểm này, các khách sạn lớn như The United States và Surf House, cũng như các nhà cho thuê phòng nhỏ hơn, đã mọc lên khắp thị trấn. Khách sạn United States chiếm trọn một khu phố giữa các đại lộ Atlantic, Pacific, Delaware và Maryland. Những khách sạn này không chỉ có quy mô ấn tượng mà còn có những tiện nghi hiện đại nhất và được coi là khá sang trọng vào thời đó.;;;;;Sau khi đánh bại một cuộc nổi dậy của người theo chủ nghĩa dân tộc tại Philippines, Hoa Kỳ bắt tay vào một chương trình hiện đại hóa trên diện rộng nền kinh tế Philippines và nâng cấp đáng kể các cơ sở y tế công cộng. Tuy nhiên vào năm 1908, người Mỹ không còn hứng thú vào một nước Mỹ đế quốc nữa và chuyển quan tâm quốc tế của họ vào vùng Caribe, đặc biệt là xây dựng kênh đào Panama. Năm 1912 khi Arizona trở thành tiểu bang cuối cùng tại chính địa Mỹ thì Biên cương Mỹ chấm dứt. Kênh đào mở cửa năm 1914 và làm tăng hoạt động mậu dịch với Nhật Bản và phần còn lại của Viễn Đông. Một sáng kiến canh tân chủ lực là chính sách mở cửa mà qua đó các cường quốc đế quốc được phép trao đổi mậu dịch công bằng tại Trung Quốc nhưng không một nước nào được phép chiếm giữ Trung Quốc.;;;;;Các tuyến Hành lang Đông Bắc và Chicago của Amtrak bắt nguồn từ Ga Nam, đóng vai trò là trung tâm vận tải đa phương thức chính và dừng ở Vịnh Back. Các chuyến tàu Hành lang Đông Bắc nhanh, phục vụ Thành phố New York, Washington, D.C. và các điểm ở giữa, cũng dừng tại Ga Tuyến 128 ở vùng ngoại ô phía tây nam của Boston. Trong khi đó, tuyến Downeaster của Amtrak đến Maine bắt nguồn từ Ga Bắc, mặc dù hiện tại thiếu tuyến đường sắt chở khách chuyên dụng giữa hai trung tâm đường sắt, ngoại trừ các tuyến tàu điện ngầm "T".
question_93
Trong tôn giáo, quyền hạn của hoàng đế được xác định như thế nào?
doc_93
Hoàng đế cũng có thẩm quyền để thực hiện một loạt các công việc đã được thực hiện bởi các kiểm duyệt viên, bao gồm cả quyền hạn kiểm soát các thành viên của viện nguyên lão Ngoài ra, hoàng đế còn kiểm soát cả tôn giáo, vì từ khi là hoàng đế, ông cũng luôn luôn đảm nhiệm chức Pontifex Maximus (Đại Tư tế) và là thành viên của mỗi nhóm trong bốn nhóm thầy tế lớn.. Trong khi những tước hiệu này đã được định rõ vào thời kì đầu của giai đoạn đế quốc, cuối cùng chúng cũng bị mất đi, và quyền lực của hoàng đế dần ít tính lập hiến và mang nhiều tính quân chủ hơn.
doc_82;;;;;doc_2655;;;;;doc_256;;;;;doc_1695;;;;;doc_5394
Các lãnh chúa nắm mọi quyền quyết định tôn giáo nào thần dân của họ phải theo, bao nhiêu quân công quốc của họ có quyền huy động, ngay cả quyền quyết định trong thời chiến: về phe với Hoàng đế, hoặc chống lại Hoàng đế, hoặc giữ trung lập. Khi liên quan đến sách lược trọng đại, họ phớt lờ mối dây liên hệ giữa họ và Hoàng đế. Họ, hoặc người đại diện của họ, tham gia vào Hội đồng Đế quốc, khởi đầu là cơ quan lập pháp, sau đó giờ chỉ có chức năng tham khảo và trang trí. Hoàng đế phải thông qua Hội đồng để ban hành luật, và những buổi thảo luận ít khi đạt sự nhất trí vì tranh cãi kéo dài không dứt.;;;;;Quyền hạn của một vị hoàng đế (quyền lực tuyệt đối của ông) tồn tại ít nhất là trong lý thuyết, gồm có "quyền quan bảo dân" (potestas tribunicia) và "quyền quan trấn thủ của Hoàng đế" (Imperium proconsulare). Trên lý thuyết, quyền hạn của quan bảo dân (tương tự như Quan bảo dân của người bình dân của nền cộng hòa cũ) khiến cho bản thân hoàng đế và chức vụ của ông trở thành bất khả xâm phạm, và đem lại cho hoàng đế quyền lực đối với chính quyền dân sự của Roma, bao gồm cả quyền lực để chủ trì và kiểm soát viện nguyên lão.;;;;;Tóm lại, Đế quốc La Mã Thần Thánh bao trùm nhiều lãnh thổ như một "liên hiệp" và tạo ra khuôn khổ luật lệ cho cuộc chung sống của những vị lãnh chúa. Các công tước và hầu tước trên thực tế là tự chủ nhưng lại không có chủ quyền này, công nhận vị hoàng đế như là người đứng đầu đế chế, ít nhất là về mặt tư tưởng và phải tuân theo các đạo luật đế chế, tòa án đế chế và các nghị quyết của quốc hội đế chế nhưng đồng thời cũng thông qua việc lựa chọn hoàng đế, đại hội đế chế và các đại diện tầng lớp khác mà tham gia vào chính sách của đế chế và đã có thể tạo ảnh hưởng cho chính mình.;;;;;Khái niệm về một Đấng Tối cao hay Thượng đế là đa dạng, với các tên gọi khác nhau phụ thuộc vào cách nhìn nhận của con người về vị thần này, từ Brahma (Đại Ngã, Phạm Thiên) của Ấn Độ giáo, Waheguru của đạo Sikh, Jah của phong trào Rastafari cho đến Giavê của Do Thái giáo, Allah của Hồi giáo và Thiên Chúa ba ngôi của Cơ Đốc giáo. Tóm lại, hầu như có bao nhiêu tôn giáo là có bấy nhiêu cách giải thích về sự hiện hữu, bản thể và các thuộc tính của thực thể tối thượng này. Tuy nhiên, ở đây chỉ đề cập đến khái niệm độc thần về Thiên Chúa.;;;;;Trong Giáo hội La Mã, các luật giáo hội tích cực phổ quát, dựa trên luật thiêng liêng và tự nhiên bất biến, hoặc luật hoàn cảnh có thể thay đổi và chỉ thuần túy tích cực, có được thẩm quyền chính thức và ban hành từ văn phòng giáo hoàng, người với tư cách là Giáo hoàng tối cao sở hữu toàn bộ quyền lập pháp, hành pháp, và quyền tư pháp trong con người anh ta. Nội dung thực tế của các kinh điển không chỉ mang tính chất giáo lý hay đạo đức mà còn bao gồm tất cả thân phận con người.
question_94
Vì yếu tố gì mà người ta đặt tên cho hang là Thiên Đường?
doc_94
Hang Thiên Đường được phát hiện năm 2005, Hiệp hội hang động Hoàng gia Anh khám phá từ năm 2005 và xác định hang này có tổng chiều dài là 31 km. Do vẻ đẹp của hang, họ đã đặt tên hang này là Thiên Đường. Hang Thiên Đường được đánh giá là hang động lớn và dài hơn hang động Phong Nha. Đây là một động khô, không có sông ngầm chảy qua như động Phong Nha. Trong động Thiên Đường có nhiều khối thạch nhũ và măng đá kỳ ảo. Phần lớn nền động là đất dẻo, khá bằng phẳng nên thuận tiện cho việc tham quan và thám hiểm. Trong khi nhiệt độ mùa Hè ở bên ngoài là 36-37 °C thì nhiệt độ trong động Thiên Đường luôn ở 20-21 °C. Hang Thiên Đương đã được Tập đoàn Trường Thịnh đầu tư phương tiện và đường vào động, đường bên trong động với chiều dài 1,1 km và đã đón khách tham quan từ ngày 3 tháng 9 năm 2010.
doc_306;;;;;doc_1140;;;;;doc_404;;;;;doc_1681;;;;;doc_9720
Tên gọi vườn quốc gia này ghép từ hai thành phần: tên động Phong Nha và tên khu vực rừng núi đá vôi Kẻ Bàng. Động Phong Nha trước đây thường được xem là động lớn và đẹp nhất trong quần thể hang động này. Có ý kiến giải thích cho rằng nguồn gốc tên gọi Phong Nha có nghĩa là gió (chữ Hán: 風 phong) răng (chữ Hán: 牙 nha) (gió thổi từ trong động, nhũ đá tua tủa như hàm răng); nhưng ý kiến khác lại cho rằng Phong Nha có nghĩa là tên ngôi làng gần đấy chứ không có nghĩa là gió và răng như vẫn thường được giải thích. Theo Lê Quý Đôn thì Phong Nha là tên một làng miền núi ngày xưa (nay là thôn Phong Nha, xã Sơn Trạch, huyện Bố Trạch). Có ý kiến khác lại cho rằng tên gọi Phong Nha không phải xuất phát từ ý nghĩa răng và gió, mà từ hình ảnh những ngọn núi nằm thành từng dãy đều đặn như hình ảnh các quan đứng thành hàng trên sân chầu hay ở quan thự, người ta đã lấy chữ Phong Nha theo chữ Hán (chữ 峰 phong nghĩa là đỉnh núi, 衙 nha có nghĩa là quan lại) để đặt tên cho động Phong Nha.;;;;;Sơn Động hay Sơn Đoòng là một trong những hang mới nhất được phát hiện tại khu vực Phong Nha-Kẻ Bang. Hang này do nhóm thám hiểm thuộc Hiệp hội Hang động Hoàng gia Anh tiến hành thám hiểm. Hang này được cho là hang động lớn nhất thế giới. Khoang lớn nhất ở Sơn Động có chiều dài hơn 5 km, cao 200 m và rộng 150 m. Với kích thước này, hang Sơn Động vượt hang Deer ở vườn quốc gia Gunung Mulu ở Sarawak Malaysia, lớn gấp 4-5 lần động Phong Nha, lớn hơn Động Thiên Đường. Do dòng nước của sông ngầm ở động này chảy xiết nên các nhà thám hiểm Anh không thể thám hiểm hết động này. Họ đã ước lượng chiều dài của hang bằng cách sử dụng đèn nháy. Đoàn thám hiểm đã báo cáo chính quyền tỉnh Quảng Bình về phát hiện này nhưng cho rằng chưa thể khai thác du lịch ngay. Họ sẽ quay lại khám phá hang này vào năm 2011.;;;;;Tháng 4 năm 2009, đoàn thám hiểm thuộc Hiệp hội hang động hoàng gia Anh đã tiến hành thám hiểm khu vực vườn quốc gia Phong Nha-Kẻ Bàng và các khu vực phụ cận. Họ đã phát hiện thêm 20 hang động mới với tổng chiều dài 56 km. Trong đợt khảo sát này, hội hang động hoàng gia Anh và Trường đại học Khoa học tự nhiên - Đại học Quốc gia Hà Nội đã công bố phát hiện mới về hang Cha Lo (Minh Hóa) dài trên 5 km. Đoàn cũng công bố mới về độ dài của các hang động chính như Phong Nha trên 57 km (trước đây là 45 km), Vòm trên 35 km, đồng thời phát hiện hang Khe Ri là hang sông ngầm dài nhất thế giới. Đặc biệt, đoàn thám hiểm cũng đã phát hiện một hang mới và tạm đặt tên là Sơn Động. Theo kết quả khảo sát, hàng này dài 6,5 km, rộng hơn 150m và vòm hang chỗ cao nhất hơn 200m, kích thước gấp 4-5 lần so với hang Phong Nha, lớn hơn nhiều so với hang Deer tại vườn quốc gia Gunung Mulu tại Sarawak, Malaysia vốn được xem là hang động lớn nhất thế giới. Con sông ngầm ở hang này cũng lớn hơn nhiều lần so với sông ngầm ở hang Phong Nha. Hang này có dòng sông ngầm. Nước và dòng chảy ngầm trong hang rất mạnh nên hiện đoàn thám hiểm chỉ khảo sát được một phần Đoàn thám hiểm cũng đã tiến hàng khảo sát hố sụt karst (đá vôi) ở khu vực hang Vòm có tên là vực Tang với kết quả cho thấy hố sụt có độ sâu đến 255 m. Tuy nhiên, đoàn thám hiểm vẫn chưa thể đo hết độ sâu của hố sụt này, nhưng qua đó đánh giá đó là hố sụt sâu nhất Việt Nam.;;;;;Hệ thống hang động tại khu vực Phong Nha-Kẻ Bàng được hình thành do những kiến tạo địa chất xảy ra trong lòng dãy núi đá vôi Kẻ Bàng cách đây hơn 400 triệu năm vào thời kỳ Đại Cổ sinh. Trải qua các thời kỳ kiến tạo quan trọng và các pha chuyển động đứt gãy, phối tảng và uốn nếp đã liên tục tạo ra các dãy núi trùng điệp do chuyển động nâng cao và các bồn trầm tích do chuyển động sụt lún, đóng vai trò như nguyên nhân của mọi nguyên nhân để tạo ra tính đa dạng về địa chất, địa hình - địa mạo, mạng lưới thủy văn và tính đa dạng, kỳ thú về hang động du lịch đối với các thành hệ đá vôi Phong Nha-Kẻ Bàng phát triển từ Devon đến Kỷ Cacbon - Trecmi.;;;;;Than có niên đại bằng carbon phóng xạ được đặt cách đây khoảng 50.000 năm đã được tìm thấy trong hang Drachloch (Hố rồng) phía trên làng Vattis thuộc bang St. Gallen, chứng tỏ rằng những đỉnh núi cao đã được người tiền sử viếng thăm. Bảy hộp sọ gấu từ hang động có thể đã được chôn cất bởi cùng một người tiền sử. Tuy nhiên, các đỉnh núi hầu như bị bỏ qua ngoại trừ một số ví dụ đáng chú ý và từ lâu chỉ dành sự chú ý của người dân ở các thung lũng liền kề. Những đỉnh núi được coi là đáng sợ, là nơi ở của rồng và quỷ, đến mức người ta phải bịt mắt để vượt qua đèo Alpine. Các sông băng vẫn còn là một bí ẩn và nhiều người vẫn tin rằng những khu vực cao nhất có loài rồng sinh sống.
question_95
Vì sao Henry the Young King lại đúng lên nổi loạn?
doc_95
Theo như Ralph của Coggeshall, Henry the Young King là kẻ chủ mưu của cuộc nổi loạn chống lại Henry II; ông muốn thống trị một cách độc lập ít nhất một phần lãnh thổ mà cha ông đã hứa, và muốn thoát li khỏi Henry II, người nắm giữ tài chính của vương quốc. Jean Flori, một nhà sử học chuyên về lịch sử Trung Cổ, tin rằng Eleanor đã xúi giục các con mình nổi loạn chống lại cha. Henry the Young King bỏ cha mình và đến triều đình Pháp hy vọng nhận được sự bảo hộ của Louis VII; Richard và rồi Geoffrey cũng nhanh chóng đi theo anh mình, trong khi John – lúc này mới 5 tuổi – ở bên Henry II. Louis trợ giúp ba người con của Henry II và thậm chí còn phong tước hiệp sĩ cho Richard, nhận họ làm chư hầu của mình. Trong một bài thơ của mình, Jordan Fantosme miêu tả cuộc nổi loạn là một "cuộc chiến không tình yêu".
doc_9149;;;;;doc_7829;;;;;doc_4757;;;;;doc_9654;;;;;doc_3352
Năm 1173, các anh trai của John, được Eleanor hậu thuẫn, đã nổi dậy chống lại Henry trong cuộc nổi dậy ngắn ngủi từ năm 1173 đến năm 1174. Càng ngày càng khó chịu với vị trí cấp dưới của mình đối với Henry II và ngày càng lo lắng rằng John có thể được trao thêm đất đai và lâu đài bằng chi phí của mình. , Henry the Young King tới Paris và liên minh với Louis VII. Eleanor, khó chịu vì sự can thiệp dai dẳng của chồng vào Aquitaine, đã khuyến khích Richard và Geoffrey cùng anh trai Henry của họ đến Paris. Henry II đã chiến thắng trước liên minh của các con trai mình, nhưng lại hào phóng với họ trong thỏa thuận hòa bình tại Montlouis. Henry the Young King được phép đi du lịch rộng rãi ở châu Âu cùng với gia đình hiệp sĩ của riêng mình, Richard được trao lại Aquitaine, và Geoffrey được phép quay trở lại Brittany; chỉ có Eleanor bị bỏ tù vì vai trò của cô trong cuộc nổi dậy.;;;;;Henry the Young King đã có một cuộc chiến ngắn với anh trai Richard vào năm 1183 để tranh giành địa vị của nước Anh, Normandy và Aquitaine. Henry II ủng hộ Richard, và Henry the Young King chết vì bệnh kiết lỵ vào cuối chiến dịch. Khi người thừa kế chính đã chết, Henry sắp xếp lại kế hoạch kế vị: Richard sẽ trở thành Vua nước Anh, mặc dù không có bất kỳ quyền lực thực sự nào cho đến khi cha anh qua đời; Geoffrey sẽ giữ lại Brittany; và John bây giờ sẽ trở thành Công tước Aquitaine thay cho Richard. Richard từ chối từ bỏ Aquitaine; Henry II vô cùng tức giận và ra lệnh cho John, với sự giúp đỡ của Geoffrey, hành quân về phía nam và sử dụng vũ lực chiếm lại công quốc. Cả hai tấn công thủ đô Poitiers, và Richard đáp trả bằng cách tấn công Brittany. Chiến tranh kết thúc trong bế tắc và sự hòa giải gia đình căng thẳng ở Anh vào cuối năm 1184.;;;;;Sau khi khuất phục được các nam tước của mình, Richard một lần nữa thách thức cha mình để giành lấy ngai vàng. Từ 1180 – 1183, căng thẳng giữa Henry và Richard gia tăng vì Vua Henry ra lệnh cho Richard phải thể hiện sự thần phục đối với Henry the Young King, nhưng Richard từ chối. Cuối cùng, vào năm 1183 Henry the Young King và Geoffrey, Công tước xứ Brittany xâm lược Aquitaine trong nỗ lực khuất phục Richard. Các nam tước của ông tham gia cuộc xung đột và chống lại Công tước của họ. Tuy nhiên, Richard và quân đội của ông đã ngăn được quân xâm lược, và họ hành quyết bất kỳ tù binh nào. Cuộc xung đột ngừng lại trong một khoảng thời gian ngắn vào tháng 6, 1183 khi Henry the Young King qua đời. Với cái chết của Henry the Young King, Richard trở thành người con lớn nhất và vì vậy: người thừa kế ngai vàng nước Anh. Vua Henry yêu cầu Richard từ bỏ Aquitaine (lãnh địa ông dự định sẽ trao cho người con út John như là tài sản thừa kế). Richard từ chối, và cuộc xung đột tiếp diễn. Henry II sau đó nhanh chóng cho phép John xâm lược Aquitaine.;;;;;Trong những năm đầu của John, Henry đã cố gắng giải quyết vấn đề về quyền kế vị của mình. Henry the Young King đã lên ngôi Vua nước Anh vào năm 1170, nhưng không được cha mình trao bất kỳ quyền lực chính thức nào; anh ta cũng được hứa hẹn với Normandy và Anjou như một phần tài sản thừa kế trong tương lai của mình. Richard được bổ nhiệm làm Bá tước Poitou với quyền kiểm soát Aquitaine, trong khi Geoffrey trở thành Công tước xứ Brittany. Vào thời điểm này, có vẻ như John sẽ không bao giờ được thừa kế những vùng đất đáng kể, và anh được cha mình đặt cho biệt danh đùa là "Lackland".;;;;;Trong khi đó Henry II đã huy động một đạo quân tốn kém với hơn 20000 lính đánh thuê để đàn áp cuộc nổi loạn. Ông hành quân đến Verneuil, và Louis rút lui. Đội quân tiếp tục giành lại Dol và chiếm toàn bộ xứ Brittany. Đến lúc này Henry II đưa ra lời cầu hòa với các con mình; nhưng theo lời khuyên của Louis, hòa ước bị từ chối. Lực lượng của Henry II bất ngờ chiếm Saintes và bắt giữ phần lớn quân đồn trú tại đây, dù Richard đã thoát được với một toán lính nhỏ. Ông ẩn náu tại Château de Taillebourg cho đến khi cuộc chiến kết thúc. Henry the Young King và Công tước xứ Flanders dự định sẽ đổ bộ lên nước Anh để hỗ trợ cuộc nổi loạn dẫn đầu bởi Bá tước xứ Leicester. Thấy trước được điều này, Henry II trở về Anh với 500 quân và tù binh (bao gồm Eleanor cùng với vợ và hôn thê của các con mình), nhưng khi đến nơi ông mới phát hiện ra cuộc nổi loạn đã bị dập tắt. William I của Scotland và Hugh Bigod bị bắt vào ngày 13 và 25 tháng 7. Henry II về lại Pháp và bao vây Rouen, nơi Henry the Young King hợp quân với Louis VII sau khi ông từ bỏ kế hoạch xâm chiếm nước Anh. Louis bị đánh bại và một hòa ước được ký kết vào tháng 9, 1174, Hòa ước Montlouis.
question_96
Các loại thực vật nào đã được trao đổi trong cuộc trao đổi này?
doc_96
Sau năm 1492, một sự trao đổi các giống cây trồng và gia súc trên phạm toàn cầu đã diễn ra. Các loại cây trồng chính trong cuộc trao đổi này là cà chua, ngô, khoai tây và sắn từ Tân Thế giới sang Cựu thế giới. Khi nhà Minh hình thành ở Trung Quốc vào năm 1368, dân số nước này có gần 60 triệu người, và đến cuối thời nhà Minh vào năm 1644 đã đạt đến con số 150 triệu. Các loại cây trồng mới đã được du nhập từ châu Mỹ sang châu Á thông qua những tên thực dân Tây Ban Nha vào thế kỷ 16, trong đó có ngô và khoai lang, góp phần cho sự tăng trưởng dân số này. Mặc dù ban đầu bị xem là không phù hợp cho con người, khoai tây đã trở thành loại cây trồng chủ yếu tại bắc Âu. Ngô có mặt tại châu Âu vào thế kỷ 15. Do sản lượng cao, nó đã nhanh chóng được truyền đi khắp châu Âu, và sau đó đến châu Phi và Ấn Độ. Ngô có thể đã du nhập vào Ấn Độ nhờ những người Bồ Đào Nha vào thế kỷ 16.
doc_667;;;;;doc_4857;;;;;doc_558;;;;;doc_9906;;;;;doc_6918
Hàng loạt các động vật đã cùng tiến hóa với thực vật. Nhiều động vật thụ phấn cho hoa để đổi lấy là nguồn thức ăn trong dạng phấn hoa hay mật hoa. Nhiều động vật cũng làm các hạt được phân tán rộng khắp do chúng ăn quả và để lại hạt trong phân của chúng. Cây ổ kiến gai (Myrmecodia armata) là những thực vật đã cùng tiến hoa với kiến. Cây cung cấp nơi cư trú, và đôi khi là thức ăn cho kiến. Để đổi lại, kiến bảo vệ cây tránh khỏi các loài động vật ăn cỏ và đôi khi là các loài cây cạnh tranh khác. Các chất thải của kiến lại cung cấp một lượng phân bón hữu cơ cho cây.;;;;;Nó được xây dựng để trồng một loại thực vật của vùng Amazon, loài hoa Victoria Amazonia (Súng Nia), đây loài cây lớn nhất trong họ Nymphaeaceae. Loài thực vật này được chuyển tới Kew trong một ống nước sạch nhỏ vào tháng 2, năm 1849, sau một số nỗ lực trước đó nhằm chuyển hạt giống và rễ của loài cây này nhưng không thành công. Mặc dù rất nhiều thành viên trong họ Nymphaeaceae sinh trưởng tốt tại đây nhưng tòa nhà không phù hợp với loài cây này do hệ thống thong gió không tốt, và nó được chuyển tới một tòa nhà khác nhỏ hơn.;;;;;Các dạng khác nhau của sự sống ký sinh cũng khá phổ biến giữa các loài thực vật, từ dạng bán ký sinh như cây tầm gửi (một phần bộ Santalales) chỉ đơn thuần lấy đi một số chất dinh dưỡng từ cây chủ và vẫn có các lá có khả năng quang hợp, tới các loài ký sinh hoàn toàn như các loài cỏ chổi (chi Orobanche) hay các loài cỏ thuộc chi Lathrea lấy tất cả các loại chất dinh dưỡng chúng cần thông qua sự kết nối vào rễ các loài thực vật khác, và không có diệp lục. Một số loài thực vật, được biết đến như là dị dưỡng nấm, chúng ký sinh các loài nấm rễ, và vì thế có cơ chế hoạt động ký sinh ngoài trên các loài thực vật khác.;;;;;Sự giao tiếp được quan sát thấy trong cơ thể thực vật, tức là trong tế bào thực vật và giữa các tế bào thực vật, giữa các thực vật cùng loài hoặc có liên quan với nhau, và giữa thực vật với các sinh vật không phải thực vật, đặc biệt là ở vùng rễ. Rễ cây giao tiếp với vi khuẩn thân rễ, nấm và côn trùng trong đất. Những tương tác này được điều chỉnh bởi các quy tắc cú pháp, thực dụng và ngữ nghĩa,[cần dẫn nguồn] và có thể thực hiện được nhờ "hệ thần kinh" phi tập trung của thực vật. Ý nghĩa ban đầu của từ "neuron" trong tiếng Hy Lạp là "chất xơ thực vật" và nghiên cứu gần đây đã chỉ ra rằng hầu hết các quá trình giao tiếp thực vật của vi sinh vật đều giống như tế bào thần kinh. Thực vật cũng giao tiếp thông qua các chất dễ bay hơi khi tiếp xúc với hành vi tấn công của động vật ăn cỏ, do đó cảnh báo các thực vật lân cận. Song song, chúng tạo ra các chất dễ bay hơi khác để thu hút ký sinh trùng tấn công những động vật ăn cỏ này. Trong những tình huống căng thẳng, thực vật có thể ghi đè lên bộ gen mà chúng được thừa hưởng từ cha mẹ và trở lại bộ gen của ông bà hoặc ông cố của chúng.[cần dẫn nguồn];;;;;Các loài thực vật trên cạn chiếm ưu thế vào thời đó là thực vật hạt trần, là những thực vật có mạch, hình nón, không ra hoa như cây lá kim tạo ra hạt mà không có lớp phủ. Điều này trái ngược với hệ thực vật hiện tại trên trái đất, trong đó thực vật trên cạn chiếm ưu thế về số lượng loài là thực vật hạt kín. Một chi thực vật cụ thể, Ginkgo, được cho là đã tiến hóa vào thời điểm này và ngày nay được đại diện bởi một loài duy nhất, Ginkgo biloba. Ngoài ra, chi Sequoia còn tồn tại được cho là đã tiến hóa trong Đại Trung sinh.
question_97
Cả hai viện của Quốc hội đều do đảng nào kiểm soát trong suốt nhiệm kỳ của tổng thống Franklin D. Roosevelt?
doc_97
Trong ba nhiệm kỳ lâu dài của tổng thống Franklin D. Roosevelt (1933–1945), đảng Dân chủ kiểm soát cả hai viện Quốc hội, có lúc chiếm hai phần ba số ghế trong cả hai viện. Các dự luật cho chương trình New Deal được Quốc hội thông qua đều đến từ Tòa Bạch Ốc thay vì được các nghị sĩ đệ trình. Song, sau khi xảy ra vụ Watergate và những vụ lạm quyền khác của chính phủ Nixon, Quốc hội bắt đầu tái khẳng định quyền lực của mình trong chức năng làm luật và giám sát hành pháp. Trong thập niên kế tiếp, có sự phân phối đồng đều hơn cho đảng Cộng hoà và đảng Dân chủ. Đảng Cộng hòa thắng trong kỳ bầu cử năm 1946, nhưng lại thất bại hai năm sau đó; đến khi Dwight D. Eisenhower đắc cử tổng thống năm 1952, Đảng Cộng hòa giành đa số ở cả hai viện. Tuy nhiên, trong kỳ bầu cử năm 1954 các đảng viên Dân chủ lại giành quyền kiểm soát lưỡng viện Quốc hội trong suốt 40 năm kế tiếp; Đảng Cộng hòa chỉ kiểm soát Thượng viện một lần trong sáu năm (1981-1987). Kể từ kỳ tuyển cử năm 1994, các đảng viên Cộng hoà đã ào ạt chiếm lại quyền lực dưới sự lãnh đạo của Newt Gingrich cho đến năm 2006, ngoại trừ giai đoạn từ năm 2001 đến 2002, khi Đảng Dân chủ kiểm soát Thượng viện. Năm 2006, Đảng Dân chủ tái lập thế đa số ở Viện Dân biểu. Đến Quốc hội khóa 110 (2007-2008), các nghị sĩ Dân chủ kiểm soát Thượng vien my với 51 - 49 ghế.
doc_3146;;;;;doc_774;;;;;doc_841;;;;;doc_261;;;;;doc_3032
Năm 1910, Roosevelt tranh cử vào Thượng viện tiểu bang New York, đại diện cho một khu vực thuộc Quận Dutchess. Đây là một khu vực bao quanh thị trấn Hyde Park mà từ năm 1884 chưa có một ứng viên đảng Dân chủ nào đắc cử ở đây. Tham gia cuộc đua, Roosevelt là hình ảnh gắn kết với sự giàu có, đặc quyền và ảnh hưởng tại Hudson Valley. Chiến thắng vang dội của đảng Dân chủ năm ấy đã đưa Roosevelt đến thủ phủ tiểu bang là Albany. Roosevelt nhậm chức ngày 1 tháng 1 năm 1911 và trở thành thủ lĩnh nhóm "phản loạn" chống đối bộ máy chính trị "Tammany Hall" (nhóm chính trị thuộc đảng Dân chủ luôn đóng vai trò chính kiểm soát chính trường thành phố New York) là nhóm đang chi phối đảng Dân chủ của tiểu bang. Cuộc bầu cử Thượng viện Hoa Kỳ được bắt đầu với việc bầu cử sơ bộ của đảng Dân chủ vào ngày 16 tháng 1 năm 1911 có kết quả bế tắc vì sự tranh giành của hai phe phái trong 74 ngày. Ngày 31 tháng 3, James A. O'Gorman được bầu và Roosevelt đạt được mục tiêu của mình: đó là chọc giận bộ máy chính trị Tammany Hall bằng cách ngăn chặn người mà nhóm này chọn lựa làm ứng cử viên là William F. Sheehan. Chẳng bao lâu sau đó, Roosevelt trở nên một khuôn mặt quen thuộc đối với các đảng viên Dân chủ New York. Ông tái đắc cử nhiệm kỳ hai trong cuộc bầu cử tiểu bang năm 1912 nhưng từ chức thượng nghị sĩ tiểu bang vào ngày 17 tháng 3 năm 1913 để nhận bổ nhiệm làm Trợ tá Bộ trưởng Hải quân Hoa Kỳ.;;;;;Năm 1932, ứng cử viên tổng thống thuộc đảng Dân chủ Franklin D. Roosevelt hứa hẹn "một đối sách mới (hay tiếng Anh là "New Deal") cho nhân dân Mỹ". Đây là nhãn mác lâu dài để chỉ chung các chính sách đối nội của ông. Tình hình kinh tế tuyệt vọng cùng với các chiến thắng đáng kể của đảng Dân chủ trong các cuộc bầu cử năm 1932 đã cho phép Roosevelt có sức ảnh hưởng dị thường đối với Quốc hội Hoa Kỳ trong một trăm ngày đầu tiên của nhiệm kỳ tổng thống. Ông dùng ảnh hưởng của mình để thông qua nhanh chóng một loạt các đối sách để lập ra các chương trình phúc lợi và áp đặt các quy định vào hệ thống ngân hàng, thị trường chứng khoán, công nghiệp và nông nghiệp cùng với nhiều nỗ lực khác của chính phủ để kết thúc đại khủng hoảng và cải cách nền kinh tế Mỹ. New Deal áp đặt nhiều luật lệ vào nền kinh tế, đặc biệt là ngành tài chính. Nó trợ giúp những người thất nghiệp qua vô số chương trình như Cơ quan Quản trị Tiến triển Công chánh (WPA) và Đoàn Bảo tồn Dân sự (Civilian Conservation Corps). Các dự án chi tiêu trên diện rộng, được trù tính nhằm cung cấp việc làm lương cao và xây dựng cơ sở hạ tầng, thì nằm dưới tầm phạm vi hoạt động của Cơ quan Quản trị Tiến triển Công chánh. Roosevelt ngả sang cánh tả vào năm 1935–36, hình thành các công đoàn bằng Đạo luật Wagner. Các công đoàn trở thành một nhân tố mạnh của liên minh New Deal mới hình thành. Liên minh này đã giúp tổng thống Roosevelt tái đắc cử vào năm 1936, 1940, và 1944 bằng cách vận động toàn thể thành viên của các công đoàn, giới công nhân lao động, những người nhận trợ cấp, các cỗ máy chính trị thành phố, các nhóm chủng tộc và tôn giáo (đặc biệt là người Công giáo và Do Thái), người da trắng miền Nam cùng với người da đen miền Bắc (nơi người da đen có quyền đầu phiếu). Một số chương trình bị loại bỏ trong thập niên 1940 khi nhóm bảo thủ giành được quyền lực tại Quốc hội bằng Liên minh Bảo thủ. Quan trọng đặc biệt là chương trình An sinh Xã hội, bắt đầu vào năm 1935.;;;;;Franklin Delano Roosevelt (phiên âm: Phranh-kơ-lin Đê-la-nô Ru-dơ-ven) (30 tháng 1 năm 1882 – 12 tháng 4 năm 1945, thường được gọi tắt là FDR) là Tổng thống Hoa Kỳ thứ 32 và là một khuôn mặt trung tâm của các sự kiện thế giới trong giữa thế kỷ XX. Là tổng thống Hoa Kỳ duy nhất được bầu hơn hai nhiệm kỳ, ông tạo ra một liên minh bền vững giúp tái tổ chức nền chính trị Hoa Kỳ trong nhiều thập niên. FDR đánh bại đương kim tổng thống Cộng hòa là Herbert Hoover trong cuộc bầu cử tổng thống vào tháng 11 năm 1932 ở thời điểm tệ hại nhất của cuộc Đại khủng hoảng. Chính nhờ vào chủ nghĩa lạc quan và sự năng nổ hoạt động của ông đã làm cho tinh thần quốc gia sống dậy. Tuy nhiên các sử gia và kinh tế gia vẫn còn đang tranh luận về tính thông thái trong các chính sách của ông. Ông lãnh đạo Hoa Kỳ qua Chiến tranh thế giới thứ hai, mất khi đang bắt đầu nhiệm kỳ thứ tư của mình khi chiến thắng Đức và Nhật gần kề một bên.;;;;;Trong một trăm ngày đầu tiên với vai trò tổng thống, bắt đầu từ ngày 4 tháng 3 năm 1933, Roosevelt đã khởi động rất nhiều chương trình lớn khác nhau. Trong nhiệm kỳ đầu tiên (1933–37), FDR đã hướng dẫn Quốc hội Hoa Kỳ thông qua chương trình kinh tế Kinh tế Mới. Đây là một loạt gồm nhiều chương trình phức hợp lớn có liên quan với nhau nhằm giải cứu khủng hoảng (đặc biệt là tạo ra các việc làm của chính phủ dành cho người thất nghiệp) và cải cách kinh tế (theo ông có nghĩa là lập ra quy định kiểm soát đối với Phố Wall, ngân hàng và giao thông). Nền kinh tế cải thiện nhanh chóng từ năm 1933 đến 1937 nhưng lúc đó cũng đang rơi vào một tình trạng khủng hoảng sâu. Liên minh bảo thủ lưỡng đảng hình thành vào năm 1937 đã ngăn cản ông "đưa người" vào Tối cao Pháp viện Hoa Kỳ hoặc thông qua quá nhiều luật mới; liên minh này cũng đã hủy bỏ phần lớn các chương trình trợ cấp khi tình trạng thất nghiệp thực tế chấm dứt trong suốt Chiến tranh thế giới thứ hai. Phần lớn các quy định kiểm soát thương nghiệp chấm dứt vào khoảng thời gian từ năm 1975–85, trừ quy định kiểm soát đối với Phố Wall do Ủy ban Giao dịch và Chứng khoán Hoa Kỳ đảm trách vẫn còn tồn tại đến ngày nay. Cùng với một số chương trình nhỏ hơn, chương trình lớn còn tồn tại đến ngày nay là chương trình An sinh Xã hội được quốc hội thông qua năm 1935.;;;;;Roosevelt duy trì liên lạc và hàn gắn rào cản cách biệt với Đảng Dân chủ trong suốt thập niên 1920, đặc biệt là tại New York. Mặc dù ông vẫn có tên trong thành phần chống đối bộ máy chính trị Tammany Hall của Thành phố New York nhưng ông giảm nhẹ thái độ của mình. Ông giúp Alfred E. Smith đắc cử thống đốc tiểu bang New York năm 1922, và thậm chí ông còn là một người ủng hộ tích cực cho Smith chống lại người cháu họ của mình là đảng viên Cộng hòa Theodore Roosevelt, Jr. năm 1924. Roosevelt đã đọc diễn văn đề cử Smith trong các đại hội toàn quốc của Đảng Dân chủ năm 1924 và 1928. Với tư cách là ứng viên tổng thống của Đảng Dân chủ trong cuộc bầu cử tổng thống vào năm 1928, Smith đáp lại bằng cách yêu cầu Roosevelt ra tranh cử chức thống đốc tiểu bang New York năm 1928. Trong khi Smith thất cử tổng thống một cách thảm bại, thậm chí thua tại ngay tiểu bang nhà của mình thì Roosevelt đắc cử thống đốc với tỉ lệ sít sao.
question_98
Liên Xô đã kết hợp nhiệm vụ gì?
doc_98
Năm 1985, Liên Xô đã kết hợp nhiệm vụ thám hiểm Sao Kim với thăm dò sao chổi Halley, sao chổi đi vào vùng bên trong Hệ Mặt Trời năm đó. Trên đường đến sao chổi Halley, ngày 11 và 15 tháng 6 năm 1985, hai tàu không gian của chương trình Vega mỗi tàu đã thả một thiết bị thăm dò từng thiết kế trong chương trình Venera và giải phóng một robot bay trong khí quyển nhờ khí cầu. Robot khí cầu này hoạt động trên độ cao khoảng 53 km, nơi áp suất và nhiệt độ tương đương trên bề mặt Trái Đất. Hai robot đã hoạt động trong khoảng 46 giờ, và khám phá ra khí quyển Sao Kim hỗn loạn hơn rất nhiều so với trước đó từng nghĩ, với những luồng gió mạnh và những ô đối lưu khí quyển mạnh.
doc_3388;;;;;doc_8469;;;;;doc_7620;;;;;doc_7328;;;;;doc_881
Trên phạm vi thế giới, Cách mạng Tháng Mười là một trong những sự kiện có ảnh hưởng lớn nhất trong thế kỷ 20. Nó đánh dấu việc ra đời của Nhà nước Liên Xô, một nhà nước ủng hộ phong trào cộng sản và công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của các nước thuộc địa. Liên Xô đã thúc đẩy chủ nghĩa cộng sản lan rộng ra toàn thế giới buộc các nước phương Tây phải cải cách nền kinh tế - chính trị - xã hội của mình để thích nghi với hoàn cảnh mới. Cuộc cách mạng cũng tác động lớn đến các thuộc địa. Vào thời bấy giờ, hầu hết các nước châu Á, châu Phi đều bị các nước thực dân phương Tây xâm chiếm và biến thành thuộc địa. Trong suốt hàng trăm năm, các phong trào đòi độc lập ở các nước này đều bị dập tắt do trang bị thô sơ, lại không có lực lượng quốc tế nào ủng hộ. Sau khi ra đời, Liên Xô đã hỗ trợ rất nhiều về vật chất và ngoại giao để giúp các nước này giành độc lập. Trung Hoa Dân quốc tiến hành Bắc phạt và phát triển nhờ sự giúp đỡ của Liên Xô. Nhiều nước khác ở châu Á, châu Phi và khu vực Mỹ La-tinh được sự hỗ trợ chính trị và viện trợ kinh tế - quân sự của Liên Xô đã vùng lên đấu tranh đánh đổ ách thống trị của chủ nghĩa thực dân. Đến những năm 1970 thì hệ thống thuộc địa của thực dân phương Tây đã bị tan rã sau 300 năm tồn tại.;;;;;Vào ngày 30 tháng 12 năm 1922, Đại hội lần thứ nhất của các Xô viết Liên Xô đã thông qua Hiệp ước thành lập Liên Xô, theo đó Nga hợp nhất với Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xô viết Ukraina, Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xô viết Byelorussia và Cộng hòa xã hội chủ nghĩa liên bang Xô viết Transcaucasian thành một một quốc gia liên bang duy nhất, Liên Xô. Hiệp ước sau này được đưa vào Hiến pháp Liên Xô năm 1924, [cần làm rõ] được thông qua vào ngày 31 tháng 1 năm 1924 bởi Đại hội Xô viết lần thứ hai của Liên Xô.;;;;;Hầu hết các quân đội phương Tây và Khối thịnh vượng chung đều tích hợp phòng không hoàn toàn với các dịch vụ truyền thống của quân đội (tức là lục quân, hải quân và không quân), như một nhánh riêng biệt hoặc như một phần của pháo binh. Ví dụ, trong Quân đội Hoa Kỳ, lực lượng phòng không là một phần của lực lượng pháo binh, trong khi ở Quân đội Pakistan, lực lượng này được tách ra khỏi Pháo binh để thành lập một lực lượng riêng vào năm 1990. Điều này trái ngược với một số lực lượng (phần lớn là cộng sản hoặc cộng sản). các nước cộng sản cũ), nơi không chỉ có các quy định về phòng không trong lục quân, hải quân và không quân mà còn có các ngành cụ thể chỉ liên quan đến phòng không trên lãnh thổ, ví dụ như PVO Strany của Liên Xô. Liên Xô cũng có một lực lượng tên lửa chiến lược riêng phụ trách tên lửa đạn đạo liên lục địa hạt nhân.;;;;;Vào ngày 30 tháng 12 năm 1922, với việc thành lập Liên Xô, Nga trở thành một trong sáu nước cộng hòa trong liên bang Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xô viết. Tên Xô viết cuối cùng của nước cộng hòa, Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xô viết Liên bang Nga, đã được thông qua trong Hiến pháp Liên Xô năm 1936. Vào thời điểm đó, nước Nga Xô viết đã có được đường biên giới tương tự như nước Nga Sa hoàng cũ trước Đại chiến phương Bắc năm 1700.;;;;;Ngày 19/1/1950, Kim Nhật Thành nói với đại sứ Liên Xô rằng ông ta có kế hoạch tấn công xuống phía Nam để thống nhất đất nước. Stalin gửi một bức điện thể hiện ủng hộ kế hoạch, nhưng không nói gì với Mao Trạch Đông và cũng đồng ý cung cấp trong năm 1950 vũ khí và trang thiết bị đã cam kết cho năm 1951, để Kim Nhật Thành có thể tăng thêm 3 sư đoàn, nâng quân đội Bắc Triều Tiên lên 10 sư đoàn. Kim Nhật Thành bảo đảm với Stalin rằng ông ta có thể chiếm xong Hàn Quốc trước khi người Mỹ có thời gian cũng như ý định can thiệp. Mục đích của Stalin là muốn kiểm soát bán đảo Triều Tiên và dùng các cảng không bao giờ bị đóng băng là Inchon và Pusan cho hải quân Liên Xô, thay thế cho việc mất cảng Đại Liên (Trung Quốc) mà quân đội Liên Xô đã kiểm soát trong tháng 8/1945.[cần dẫn nguồn]
question_99
Vấn đề gì được công chúng quan tâm từ nửa sau thập niên 1970?
doc_99
Hawking trở về Cambridge tháng 10 năm 1975 với một căn nhà mới, một công việc mới-Phó Giáo sư (Reader, một vị trí đặc biệt ở các trường đại học Anh, cao hơn giảng viên cao cấp, nhưng chưa tới ghế giáo sư). Don Page, người bắt đầu thân thiết với Hawking ở Caltech, đến Anh để làm việc như một nghiên cứu sinh, trợ lý sống trong nhà ông. Với sự giúp đỡ của Page và một thư ký, các trách nhiệm của Jane nhẹ bớt và cô có thể quay lại với luận án của mình cũng như niềm yêu thích mới dành cho ca hát. Nửa sau thập niên 1970 là một thời kì công chúng có sự quan tâm ngày càng tăng tới hố đen và những nhà vật lý nghiên cứu đề tài này; do đó Hawking thường xuyên được báo chí và truyền hình mời phỏng vấn.
doc_1952;;;;;doc_4610;;;;;doc_1611;;;;;doc_7994;;;;;doc_3613
Thái độ của người Mỹ về những quy định pháp luật đã thay đổi đáng kể trong suốt ba thập kỷ cuối của thế kỷ 20. Bắt đầu những năm 1970, các nhà làm chính sách bị thuyết phục rằng các quy định kinh tế bảo vệ các công ty với mức chi phí người tiêu dùng gánh chịu trong một số lĩnh vực như vận tải đường bộ hoặc hàng không. Cùng thời gian đó, sự thay đổi về kỹ thuật sinh ra nhiều đối thủ cạnh tranh mới trong một số ngành như viễn thông, nơi từng được coi là độc quyền. Cả hai hướng phát triển đều dẫn tới việc nới lỏng các quy định kiểm soát.;;;;;Trong khi những nhà lãnh đạo Hoa Kỳ của cả hai Đảng chính trị lớn nhất thường ủng hộ việc bãi bỏ kiểm soát kinh tế trong suốt những năm 1970, 1980, và 1990, có rất ít những thoả thuận liên quan tới việc tạo ra những chính sách điều tiết nhằm đạt được các mục tiêu xã hội. Điều tiết xã hội đã trở nên quan trọng trong những năm theo sau thời kỳ suy thoái và chiến tranh thế giới thứ hai, và các thời kỳ 1960, 1970. Trong suốt những năm 1980, chính phủ đã giảm nhẹ những quy định về lao động, tiêu dùng và môi trường dựa trên ý tưởng rằng những quy định đó can thiệp vào tự do kinh doanh, từ đó làm tăng chi phí hoạt động kinh doanh và góp phần tăng lạm phát. Nhiều người Mỹ vẫn tiếp tục đưa ra ý kiến về việc yêu cầu chính phủ cần ban hành những quy định mới trong các lĩnh vực nhất định, bao gồm việc bảo vệ môi trường.;;;;;Vào nửa cuối thập niên 1950, nhờ viện trợ của Chính phủ Hoa Kỳ, Sài Gòn trở thành một trung tâm về chính trị, kinh tế, văn hóa, giải trí tại miền Nam Việt Nam, là thành phố lớn nhất của kinh tế Việt Nam Cộng hòa Từ giữa thập niên 1960 đến những năm đầu thập niên 1970, việc Quân đội Hoa Kỳ vào tham chiến tại miền Nam Việt Nam cũng gây nên những xáo trộn đối với thành phố. Nhiều cao ốc, công trình quân sự mọc lên. Lối sống của giới trẻ Sài Gòn cũng chịu ảnh hưởng bởi văn hóa phương Tây được du nhập từ binh lính và sách báo Mỹ.;;;;;Nửa sau thế kỷ 20 đến nay đã chứng kiến sự thay đổi dần dần theo hướng cải thiện nhân quyền cho thổ dân. Trong một cuộc trưng cầu dân ý năm 1967, hơn 90% dân số Úc đã bỏ phiếu chấm dứt sự phân biệt đối xử theo hiến pháp và đưa thổ dân vào cuộc điều tra dân số quốc gia. Trong thời kỳ này, nhiều nhà hoạt động thổ dân bắt đầu sử dụng thuật ngữ "da đen" và coi tổ tiên của họ như một nguồn tự hào. Nhà hoạt động Bob Maza nói:;;;;;Vào lúc Chiến tranh lạnh, Hoa Kỳ bước vào Chiến tranh Việt Nam là cuộc chiến ngày càng bị người Mỹ phản đối. Cuộc chiến này châm thêm lửa vào các phong trào xã hội đang tồn tại: phong trào phụ nữ, người thiểu số và giới trẻ. Các chương trình xã hội vĩ đại của Lyndon B. Johnson cùng với vô số các phán quyết của tối cao pháp viện đã giúp gia tăng tầm mức lớn rộng các cãi cách xã hội trong suốt thập niên 1960 và thập niên 1970. Chủ nghĩa nữ quyền và phong trào môi trường trở thành các lực lượng chính trị. Tiến triển vẫn tiếp tục về hướng dân quyến cho tất cả mọi người Mỹ. Cuộc cách mạng phản-văn hóa quét qua đất nước và phần lớn các quốc gia phương Tây trong cuối thập niên 1960 và đầu thập niên 1970, càng chia rẽ người Mỹ hơn trong một cuộc "chiến tranh văn hóa" nhưng cũng mang lại những quan điểm xã hội cởi mở và tự do hơn.