Dataset Viewer
title
stringlengths 14
74
| link
stringlengths 84
183
| content
stringlengths 0
54.1k
|
---|---|---|
Milky Way chịu cả lực kéo và đẩy | https://thienvanvietnam.org/index.php?option=com_content&view=article&id=1173:milky-way-chiu-ca-luc-keo-va-day-1&catid=27&Itemid=135 | Mặc dù không thể cảm nhận trực tiếp, chúng ta đang liên tục chuyển động: Trái Đất tự quay quanh trục với vận tốc 1.600 km/h và chuyển động quanh Mặt Trời với vận tốc 100.000 km/h; Mặt Trời chuyển động trên quỹ đạo quanh thiên hà Milky Way với vận tốc 850.000 km/h và thiên hà Milky Way cùng bạn đồng hành của nó là thiên hà Andromeda đang chuyển động theo sự giãn nở của vũ trụ với vận tốc khoảng 2 triệu km/h (630 km/s). Nhưng thứ gì thực sự gây ra chuyển động của Milky Way trong không gian?
Cho tới nay, các nhà khoa học giả định rằng có một khu vực đậm đặc của vũ trụ kéo chúng ta về phía nó, theo cùng cách mà lực hấp dẫn đã kéo cho quả táo của Newton rơi xuống đất. "Nghi phạm chính" ban đầu được gọi là "Nguồn hấp dẫn lớn" (Great Attractor), một vùng có khoảng nửa tá cụm thiên hà lớn cách Milky Way 150 triệu năm ánh sáng. Khá nhanh sau đó, sự chú ý được chuyển sang một vùng khác với hơn 20 cụm thiên hà lớn như vậy, được gọi là "Vùng tập trung Shapley" (Shapley Concentration), nằm xa hơn 600 triệu năm ánh sáng so với Nguồn hấp dẫn lớn.
Mới đây, các nhà nghiên cứu đứng đầu bởi Giáo sư Yehuda Hoffman tại Đại học Hebrew ở Jerusalem đã thông báo rằng thiên hà của chúng ta không chỉ bị kéo, mà còn bị đẩy. Trong một nghiên cứu mới sẽ đăng trên Nature Astronomy, họ mô tả một vùng lân cận rất rộng lớn ngoài thiên hà chưa được biết tới trước đây. Gần như không có thiên hà trong đó, vùng không gian lớn này tạo nên một lực đẩy về phía Cụm địa phương của chúng ta (Local Group).
"Với việc lập bản đồ 3D dòng dịch chuyển của các thiên hà trong không gian, chúng tôi tìm ra rằng thiên hà Milky Way của chúng ta đang di chuyển nhanh ra khỏi một vùng rất rộng mật độ thấp chưa được xác định trước đây. Vì nó đẩy nhiều hơn là kéo, chúng tôi gọi vùng này là "Vùng xô đẩy lưỡng cực" (Dipole Repeller)," Hoffman nói. "Cùng với việc bị kéo về phía Vùng tập trung Shapley, chúng ta cũng bị đẩy ra xa từ Vùng xô đẩy lưỡng cực vừa được phát hiện. Do đó thật rõ ràng rằng kéo và đẩy có tầm quan trọng tương đương trong việc quyết định vị trí của chúng ta."
Sự có mặt của vùng mật độ thấp này đã được gợi ý trước đây, nhưng việc xác nhận sự vắng mặt của các thiên hà bằng quan sát thực sự là một thách thức. Nhưng trong nghiên cứu mới này, Hoffman - người đang làm việc tại Viện Vật lý Racah thuộc đại học Hebrew đã cùng các đồng nghiệp tại Mỹ và Pháp thực hiện một cách tiếp cận khác.
Sử dụng các kính thiên văn lớn, trong đó có kính thiên văn không gian Hubble, họ đã dựng nên bản đồ 3D của dòng dịch chuyển thiên hà. Dòng dịch chuyển này tác động trực tiếp tới sự phân bố vật chất, nó dịch chuyển theo hướng ra xa khỏi khu vực gần như trống rỗng và tiến về khu vực có sự tập trung cao của khối lượng; cấu trúc qui mô lớn của vũ trụ được mã hóa trong chính dòng dịch chuyển của các thiên hà. Họ nghiên cứu những vận tốc đặc biệt - những vận tốc vượt quá tốc độ giãn nở của vũ trụ - của các thiên hà quanh Milky Way, kết hợp với những dữ liệu khác về các vận tốc đặc biệt qua thống kê chi tiết. Từ đó họ suy ra sự phân bố khối lượng cơ bản bao gồm vật chất tối và các thiên hà sáng.
Với việc xác nhận được Vùng xô đẩy lưỡng cực, các nhà nghiên cứu đã có thể dung hòa được cả hướng chuyển động của Milky Way với độ lớn của nó. Họ trông đợi các khảo sát cực nhạy trong tương lai ở dải sóng biểu kiến, cận hồng ngoại và vô tuyến sẽ trực tiếp xác định được vài thiên hà trong khu vực này, và trực tiếp xác nhận được khoảng không gian trống của Vùng xô đẩy lưỡng cực. |
Máy quang phổ của Voyager1 lạnh dần | https://thienvanvietnam.org/index.php?option=com_content&view=article&id=408:may-quang-pho-cua-voyager1-lanh-dan&catid=27&Itemid=135 | Để giảm tiêu thụ năng lượng, các nhà quản lý đã tắt một thiết bị làm nóng trên tàu Voyager1 của NASA, làm nhiệt độ của máy quang phổ tử ngoại trên tàu giảm đi 41 độ F (23 độ C). Nhiệt độ lúc này chỉ còn dưới -110 độ F (-79 độ C), nhiệt độ thấp nhất mà thiết bị này từng trải qua. Đây là một bước thận trọng trong việc tiết kiệm năng lượng để Voyager1 có thể tiếp tục thu thập và truyền dữ liệu cho tới năm 2025.
Vào lúc này, máy quang phổ vẫn tiếp tục thu và phát dữ liệu. Nó được thiết kế ban đầu để có thể hoạt động ở nhiệt độ -31 độ F (-35 độ C), nhưng nó đã có thể hoạt động tiếp khi các thiết bị làm nóng bắt đầu được tắt từ 17 năm trước. Đến năm 2005, nhiệt độ của máy quang phổ đã là -69 độ F (-54 độ C), các kĩ sư tin rằng nó sẽ vẫn có thể tiếp tục hoạt động sau việc tắt thiết bị làm nóng gần đây nhất hồi tháng 12. Cho tới thời điểm này, máy quang phổ đang hoạt động ở nhiệt độ dưới -110 độ F (-79 độ C) (không chính xác do thiết bị đo không chạy xuống thấp hơn).
Các nhà khoa học và quản lý dự án sẽ tiếp tục theo dõi hiệu suất của máy quang phổ. Nó đã hoạt động rất tốt khi Voyager1 đi qua Sao Mộc và Sao Thổ, và kể từ đó một nhóm dẫn đầu bởi các nhà khoa học tại Pháp bắt đầu phan tích dữ liệu thu được.
Thiết bị làm nóng mới tắt gần đây thật ra là một phần của máy quang phổ hồng ngoại đã dừng hoạt động từ năm 1998.
(Theo Astronomy)
|
Giải thích sự dư thừa gamma ở trung tâm thiên hà | https://thienvanvietnam.org/index.php?option=com_content&view=article&id=982:giai-thich-su-du-thua-gamma-o-trung-tam-thien-ha&catid=27&Itemid=135 | Sự dư thừa các tia gamma từ trung tâm thiên hà Milky Way hầu như chắc chắn bắt nguồn từ những sao neutron quay nhanh, hay các pulsar mili giây, không phải từ sự hủy của vật chất tối như trước đây chúng ta vẫn nghĩ. Đây là kết luận từ các phân tích dữ liệu mới tiến hành bởi hai nhóm nghiên cứu đến từ Đại học Amsterdam (UvA), Hà Lan, và Đại học Princeton/Viện Công nghệ Massachusetts (MIT).
Năm 2009, các quan sát với Kính thiên văn phạm vi rộng Fermi đã cho thấy sự dư thừa các photon năng lượng cao, hay nói cách khác là tia gamma, ở trung tâm thiên hà chúng ta. Trong một thời gian dài sự dư thừa các tia gamma này đã được suy đoán là dấu hiệu của sự hủy vật chất tối. Nếu điều này đúng, nó sẽ thiết lập một bước đột phá trong vật lý cơ bản và một bước tiến lớn cho sự hiểu biết của chúng ta về thành phần vật chất của vũ trụ.
Tuy nhiên, nhiều giả thuyết khác ra đời trong những năm gần đây, gợi ý rằng sự dư thừa tia gamma ở trung tâm thiên hà chúng ta có thể có nhiều nguyên nhân khác, có thể đến từ hoạt động của một lỗ đen siêu nặng ở trung tâm Milky Way, sự hình thành sao ở vùng trung tâm mây phân tử, hay là sự phát xạ kết hợp tới từ tập hợp các nguồn bức xạ mới không rõ ràng trong chỗ phình thiên hà.
Các phân tích thống kê mới từ dữ liệu của Fermi bởi Christoph Weniger từ UvA và nhóm nghiên cứu đến từ Princeton/MIT hiện nay đã cho thấy chắc chắn rằng sự phát xạ dư thừa quả thực bắt nguồn từ các nguồn điểm chưa xác định. Ứng viên tốt nhất là các pulsar mili-giây, các nhà nghiên cứu kết luận.
Pulsar mili-giây, hay là các sao neutron quay nhanh, được hình thành từ hàng tỷ năm trước. Chúng là một trong những đối tượng đặc biệt nhất trong thiên hà. Một tập hợp hàng trăm hàng ngàn những pulsar mili-giây như vậy chắc hẳn đang ẩn náu ở trung tâm thiên hà và không phát hiện được với độ nhạy của các thiết bị hiện nay. Những cuộc khảo sát trong tương lai với các kính thiên văn đã có và sắp tới, ví dụ như Kính thiên văn vô tuyến Green Bank, Tổ hợp kính thiên văn vô tuyến một kilomet vuông, sẽ có khả năng kiểm tra kĩ hơn các giả thuyết này trong những năm tới.
Trong các phân tích của mình, các nhà nghiên cứu đến từ UvA và Princeton/MIT đã dùng những kĩ thuật thống kê khác nhau, “sự nhiễu không-Poisson” và “phép biến đổi wavelet”, để phân tích dữ liệu từ Fermi. Những gì họ phát hiện là sự phân bố các photon tạo thành những đám lộn xộn thay vì đều đặn, cho thấy các tia gamma không có vẻ như được gây ra bởi sự va chạm của các hạt vật chất tối.
Theo Weniger, đây là một tình huống mà cả hai trường hợp đều có lợi: “Hoặc chúng ta tìm thấy hàng trăm hay hàng ngàn pulsar mili-giây trong các thập kỉ tới, góp phần làm sáng tỏ lịch sử của Milky Way, hoặc chúng ta không tìm thấy gì cả. Trong trường hợp này, lời giải thích dựa trên vật chất tối cho sự dư thừa tia gamma càng trở nên rõ ràng hơn”.
Mariangela Lisanti từ Đại học Princeton nói rằng: “Kết quả từ các phân tích hầu như chắc chắn có nghĩa là những gì chúng ta quan sát được là bằng chứng cho một tập hợp các nguồn bức xạ mới ở trung tâm thiên hà. Điều đó tự bản thân nó đã là một điều mới và bất ngờ”. |
Tinh vân | https://thienvanvietnam.org/index.php?option=com_content&view=article&id=102:tinh-van&catid=16&Itemid=149 | Tinh vân hiểu đơn giản là các đám mây khí và bụi trong không gian. Do trước đây với các kính thiên văn quang học còn kém, các nhà thiên văn đã xác định và đặt tên cho một số tinh vân mà thực chất chúng không phải các đám khí bụi mà là cả một thiên hà. Vậy ngày nay tinh vân được hiểu chi tiết ra sao? Có bao nhiêu loại tinh vân đã được biết tới?
Ví dụ như M31 thường được gọi là tinh vân tiên nữ (Andromeda) thực chất không phải một tinh vân theo định nghĩa trên mà là một thiên hà, thiên hà Andromeda là thiên hà lớn nhất trong cụm thiên hà địa phương của chúng ta. thiên hà
của chúng ta chỉ lớn thứ hai và thứ 3 là một thiên hà nữa cũng bị hiểu nhầm là tinh vân - M33.
Do vậy, hiện nay khái niệm tinh vân như nhắc đến ở trên được áp dụng đối với các tinh vân mới phát hiện, còn các thiên hà đã từng bị hiểu nhầm là tinh vân thì đôi khi vẫn tiếp tục bị gọi nhầm bằng cái tên là "tinh vân".
Tinh vân có thể là những đám bụi tập hợp lại với nhau do hấp dẫn (khối lượng chưa đủ để tạo thành một ngôi sao hay một thiên thể lớn) như trên đã nói, cũng có thể là vật chất được phóng ra do sự kết thúc của một ngôi sao.
<
Đây là loại tinh vân phổ biến nhất. Chúng là những đám khí bụi không có ranh giới rõ ràng, thường được chia làm hai loại là phát xạ và phản xạ.
-
(emission nebula): loại tinh vân mà thành phần khí và bụi của nó khi ở gần các ngôi sao lớn bị kích thích mạnh dẫn đến bị ion hoá và phát ra ánh. Nhiệt độ ở tâm các tinh vân này có thể lên đến 8000 - 10000K, đường kính khoảng vài chục đến vài trăm LY (Light Year - năm ánh sáng). Một số tinh vân loại này tương đối nổi tiếng là tinh vân Orion (M42), tinh vân đại bàng (Eagle Nebula - M16).
(reflection nebula) Đây là những tinh vân có được ánh sáng so với xung quanh do phản xạ ánh sáng đến từ các ngôi sao gần đó. Loại tinh vân này gồm các khí và bụi có khả năng phản xạ tốt ánh sáng. Ánh sáng của loại tinh vân này không mạnh như của các tinh vân phát xạ. Tuy nhiên loại tinh vân này có quang phỏ kiên tục (do ánh sáng là ánh sáng phản xạ) còn tinh vân phát xạ thì quang phổ có các vạch phát xạ (do sự phát xạ kích thích)
Ví dụ: tinh vân Pleiades - M45
>
Một số tinh vân phản xạ nằm chắn ánh sáng từ ngôi sao gần nó tới chúng ta, do vậy khi quan sát chúng ta chỉ có thế thấy bóng đen hoặc mờ của nó. Khi đó tinh vân được gọi là
(dark nebula)
Các ngôi sao đều có đời sống hữu hạn. Khi chúng đốt đi về cuối đời của mình, các phản ứng nhiệt hạch giảm dần làm nó không còn khả năng tự chống lại hấp dẫn hướng tâm nữa. Cái lõi khi đó co lại còn vỏ ngoài bị thổi phồng ra, tiến sang giai đoạn sao khổng lồ đỏ. Trong lần giải phóng năng lượng lần cuối ở lõi ngôi sao, vỏ ngoài của ngôi sao bị phá vỡ và ném các mảnh vụ của nó vào không gian xung quanh.
Với các sao có khối lượng lớn, một
được tạo ra, phần được ném vào không gian này nằm rải rác và tạo thành một đám mây khí bụi lớn bao quanh ngôi sao, phát ra bức xạ ở dải X và vô tuyến mạnh mẽ, gọi là
.
Trong khi đó các sao khối lượng nhỏ đám khí bụi tàn dư do lớp vỏ sao khổng lồ đỏ bị phá vỡ thường mờ hơn, qua các kính thiên văn phần được quan sát rõ nhất là vùng khí có dạng gần với hình cầu thoát ra từ cái lõi co lại của ngôi sao. Đám khí này được gọi là
.
Tinh vân ngoài các dạng trên còn có thể là một đám khí bụi rất lớn, nơi ra đời của các ngôi sao (các vùng tạo sao/star-form region). Bản thân Hệ Mặt Trời của chúng ta cũng ra đời từ một tinh vân tiền sao.
Với sự hỗ trợ của kính thiên văn nghiệp dư hoặc một chiếc ống nhòm, bạn hoàn toàn có thể quan sát một số tinh vân đã được xác định vị trí.
Tham khảo thêm bài "
"
Vui lòng ghi rõ tên tác giả và nguồn trích dẫn khi bạn sử dụng bài viết này! |
Hiện tượng thiên văn có thể quan sát năm 2015 | https://thienvanvietnam.org/index.php?option=com_content&view=article&id=861:hien-tuong-thien-van-co-the-quan-sat-nam-2015&catid=27&Itemid=135 | Năm 2014 đã hết và năm mới lại tới. Năm 2015 đã được chọn là Năm ánh sáng quốc tế để kỉ niệm rất nhiều sự kiện khoa học liên quan tới ánh sáng - một đối tượng cơ bản của vậ lý và thiên văn học. Cũng như mọi năm, năm 2015 sẽ cho phép người yêu thích bầu trời quan sát được nhiều hiện tượng thiên văn thú vị. Dưới đây là danh sách và lịch trình xảy ra các hiện tượng có thể quan sát tại Việt Nam.
1.
có cực điểm vào đêm và rạng sáng ngày 3-4 tháng 1. Đây là trận mưa sao băng trung bình với mật độ lúc cực điểm khoảng 40 sao băng mỗi giờ. Nó có vùng trung tâm là chòm sao Bootes.
2.
với Mặt Trời vào tối mùng 6 tháng 1. Đây là thời điểm Sao Mộc nằm ở vị trí đối diện với Mặt Trời mà Trái Đất nằm ở giữa, do đó đây là lúc người từ Trái Đất có thể thấy rõ nhất phần bề mặt được chiếu sáng của nó. Một chiếc kính thiên văn nghiệp dư có thể giúp bạn theo dõi hành tinh này.
3.
ngày 22 tháng 2. Hai hành tinh sáng này sẽ nằm rất gần nhau trên bầu trời phía Tây sau lúc Mặt Trời lặn.
4.
ngày 4 tháng 4. Hiện tượng xảy ra khi Mặt Trăng đi vào vùng bóng tối của Trái Đất do Mặt Trời gây nên. Việt Nam có thể quan sát toàn bọ pha toàn phần của hiện tượng này.
5.
ngày 22, 23 tháng 4. Mưa sao băng loại nhỏ , chỉ với khoảng 20 sao băng mỗi giờ vào lúc cực điểm. Tuy vậy, do rơi vào đêm đầu tháng âm lịch, nếu điều kiện thời tiết thuận lợi người quan sát vẫn có thể thấy rõ hiện tượng này.
6.
ngày 5, 6 tháng 5. Mưa sao băng cỡ trung bình với mật độ lúc cực điểm khoảng hơn 30 sao băng mỗi giờ. Mặc dù vậy, do rơi vào gần thời điểm Trăng tròn nên số sao băng có thể được nhìn thấy ngay cả khi thời tiết lý tưởng bị giảm đáng kể.
7.
ngày 23 tháng 5. Sao Thổ sẽ nằm ở vị trí thuận tiện nhất để quan sát do nó nằm phía bên kia so với Mặt Trời đối với người quan sát từ Trái Đất. Bạn có thể quan sát nó cùng vành sánh rất đẹp (Saturn's ring) bằng một chiếc kính thiên văn nghiệp dư.
8.
có cực điểm ngày 28, 29 tháng 7. Đây là mưa sao băng nhỏ với mật độ lúc cực điểm khoảng 20 sao băng mỗi giờ. Do cực điểm nằm rất gần thời điểm Trăng tròn nên về cơ bản nó chỉ có thể được quan sát với mật độ nhỏ ở những nơi có điều kiện khí quyển và thời tiết lý tưởng.
9.
có cực điểm ngày 12, 13 tháng 8. Một trong những mưa sao băng lớn nhất hàng năm, được gây ra bởi những mảnh vụn còn sót lại của sao chổi Swift-Tuttle trên quĩ đạo Trái Đất. Nó có thể đạt trên 60 sao băng mỗi giờ vào lúc cực điểm. Năm 2015, nếu không có biến cố về thời tiết mưa sao băng này sẽ rất thuận lợi để quan sát vì nó có cực điểm vào lúc không Trăng.
10.
cực điểm ngày 21, 22 tháng 10. Mưa sao băng loại trên trung bình với cực điểm có thể đạt 20 đến 30 sao băng mỗi giờ. Rạng sáng khi Trăng đã lặn sẽ là thời điểm tốt nhất để quan sát hiện tượng này.
11.
giao hội lúc rạng sáng ngày 26 tháng 10. Hai hành tinh sáng nhất trên bầu trời sẽ nằm ở gần sát nhau trên bầu trời. Hãy nhìn về bầu trời phía Đông khi trời còn tối, trước lúc Mặt Trời mọc lên để thấy rõ hiện tượng này.
12.
giao hội rạng sáng ngày 28 tháng 10. Hai ngày sau hiện tượng giao hội ngày 26, Sao Hỏa sẽ tham gia vào cuộc gặp gỡ của các hành tinh này. Hãy nhìn về bầu trời phía Đông trước lúc Mặt Trời mọc. Với một chiếc kính thiên văn nhỏ, bạn cũng sẽ dễ dàng hơn để quan sát các hành tinh này.
13.
có cực điểm ngày 17, 18 tháng 11. Mưa sao băng Leonids năm 2015 sẽ là trận mưa sao băng trung bình, không còn lớn như trước đây. Nó cho phép bạn quan sát vào lúc cực điểm khoảng 20 sao băng mỗi giờ. Rạng sáng ngày 18/11 sẽ là thời điểm quan sát lý tưởng nhất. Khi Mặt Trăng đã lặn, nếu thời tiết thuận lợi đây vẫn sẽ là hiện tượng rất đáng chú ý.
14.
rạng sáng ngày 7 tháng 12. Hãy nhìn về bầu trời phía Đông trước lúc Mặt Trời mọc để quan sát hai thiên thể sáng nhất bầu trời đêm này khi chúng nằm rất gần nhau.
15.
có cực điểm ngày 13, 14 tháng 12. Mưa sao băng lớn nhất trong năm, với cực điểm có thể lên tới hơn 100 sao băng mỗi giờ. Nó có vùng trung tâm là chòm sao Gemini (Song Tử). Rơi vào thời điểm không Trăng, nếu không có biến cố thời tiết thì đây sẽ là điều kiện lý tưởng nhất để bạn quan sát trận mưa sao băng lớn nhất này.
Ngoài 15 sự kiện nêu trên, còn nhiều trận mưa sao băng nhỏ và một số thời điểm quan sát các hành tinh xa, tuy nhiên chúng tôi xin tạm bỏ qua vì về cơ bản các hiện tượng này không có ý nghĩa đáng kể và gần như không thể quan sát đối với người quan sát nghiệp dư.
Chúc quí độc giả năm mới nhiều sức khỏe và thành công.
(Chủ tịch VACA)
Vui lòng ghi rõ tên tác giả và nguồn trích dẫn khi sử dụng thông tin trong bài viết này.
Độc giar cũng có thể tham khảo ấn phẩm
của VACA để dễ dàng theo dõi các hiện tượng thiên văn trong năm. |
Proxima b có thể có đại dương | https://thienvanvietnam.org/index.php?option=com_content&view=article&id=1121:proxima-b-co-the-co-dai-duong&catid=27&Itemid=135 | Một hành tinh đá ngoài Hệ Mặt Trời với khối lượng tương đương Trái Đất gần đây đã được phát hiện chuyển động quanh sao Proxima Centauri - ngôi sao gần Mặt Trời nhất. Hành tinh này được gọi là Proxima b, nó có quỹ đạo phù hợp để có thể có nước lỏng trên bề mặt, đồng nghĩa với việc xuất hiện câu hỏi về khả năng có sự sống của nó.
Trong một nghiên cứu đã công bố trên Astrophysical Journal Letters, một nhóm nghiên cứu quốc tế đứng đầu bởi các nhà nghiên cứu tại phòng thí nghiệm vật lý thiên văn Marseille (thuộc CNRS, đại học Aix-Marseille - Pháp) đã xác định kích thước và đặc tính bề mặt của hành tinh này, cho thấy nó thực sự có thể phù hợp cho sự sống.
Nhóm nghiên cứu cho biết Proxima b có thể là một "hành tinh đại dương", với đại dương bao phủ toàn bộ bề mặt, nước của nó có lẽ tương tự với các đại dương ngầm phía dưới bề mặt của các vệ tinh băng quanh Sao Mộc và Sao Thổ. Các nhà nghiên cứu cũng cho thấy thành phần cấu tạo của hành tinh này có thể tương tự Sao Thuỷ, với lõi kim loại chiếm 2/3 khối lượng hành tinh. Những kết quả này cung cấp cơ sở cho những nghiên cứu trong tương lai để xác định khả năng sống được của Proxima b.
Proxima Centauri, ngôi sao gần Mặt Trời nhất, có hệ hành tinh chứa ít nhất một hành tinh. Nghiên cứu mới đã phân tích và bổ sung các quan sát trước đây. Các phép đo mới cho thấy hành tinh có tên Proxima b này có khối lượng gần với Trái Đất (chính xác là khoảng 1,3 lần khối lượng Trái Đất) và chuyển động quanh sao mẹ của nó ở khoảng cách 0,05 đơn vị thiên văn (chỉ bằng 1/10 khoảng cách từ Mặt Trời tới Sao Thuỷ).
Trái với những gì mà bạn có thể nghĩ, rằng khoảng cách nhỏ như vậy đồng nghĩa với nhiệt độ bề mặt rất cao. Trên thực tế, sao mẹ là Proxima Centauri chỉ là một sao lùn đỏ với khối lượng và bán kính chỉ khoảng một phần mười của Mặt Trời, còn độ sáng thì nhỏ hơn Mặt Trời khoảng 1.000 lần. Do đó Proxima b vẫn nằm trong vùng sống được của sao này và có thể có nước lỏng trên bề mặt của nó.
Tuy nhiên, chúng ta mới biết rất ít về Proxima b, đặc biệt là bán kính của nó. Điều đó khiến chúng ta không thể biết chính xác nó trông ra sao, được tạo thành từ những gì. Việc đo bán kính của một ngoại hành tinh thường được thực hiện khi xảy ra hiện tượng quá cảnh (hiện tượng hành tinh lướt qua phía trước của sao mẹ). Nhưng Proxima b không hề lướt qua như vậy.
Có một cách khác để ước tính bán kính của hành tinh. Nếu chúng ta biết khối lượng của nó, chúng ta có thể mô phỏng hành vi của vật chất thành phần. Đây là phương pháp đã được nhóm nghiên cứu Pháp-Mỹ đến từ Phòng thí nghiệm vật lý thiên văn Marseille và Khoa thiên văn học Đại học Cornell sử dụng. Với sự hỗ trợ của mô hình cấu trúc trong, họ đã khám phá ra những dạng thành phần khác nhau có thể phù hợp với Proxima b và suy ra được bán kính của hành tinh.
Họ khống chế nghiên cứu của mình ở trường hợp đối với các hành tinh có khả năng sống được, giả lập các hành tinh rắn và đặc được tạo thành với lõi kim loạ và vỏ đá giống như các hành tinh rắn trong Hệ Mặt Trời. Họ cũng cho phép sự kết hợp của một lượng nước lớn trong mô phỏng này.
Những giả định đó dẫn tới một loạt những dạng thành phần của Proxima b. Bán kính của hành tinh có thể dao động từ 0,94 đến 1,4 lần bán kính Trái Đất (bán kính Trái Đất là 6371 km). Nghiên cứu cho thấy Prxima b có bán kính tối thiểu là 5.990km và cách duy nhất để có thể có kích thước này là nó phải là một hành tinh rất đặc với lõi kim loại chiếm khoảng 65% khối lượng hành tinh, còn lại là lớp vỏ đá. Ranh giới giữa hai lớp vật chất này là khoảng 1,500km. Với sự kết hợp như vậy, Proxima b rất giống với Sao Thuỷ. Trường hợp đầu tiên này không loại trừ sự có mặt của nước trên bề mặt hành tinh, giống như đối với Trái Đất nơi mà nước chỉ chiếm không quá 0,05% khối lượng hành tinh.
Ngược lại, Proxima b cũng có thể có bán kính 8.920km, đồng nghĩa với việc nó tạo thành từ 50% đá và bao quanh bởi 50% còn lại là nước. Trong trường hợp này, Proxima b được bao phủ bởi một đại dương có độ sâu tới 200 km. Dưới đó, áp suất nước sẽ đủ lớn để nước lỏng bị nén thành băng mật độ cao trước khi chạm tới lớp vỏ ở độ sâu 3.100km. Trong những trường hợp như vậy, một lớp khí quyển mỏng có thể tồn tại bao quanh hành tinh giống như Trái Đất và điều này cho phép sự tồn tại của sự sống.
Những phát hiện này cung cấp thông tin quan trongh về những kịch bản cấu tạo khác nhau của Proxima b. Một số trong đó dẫn tới một hành tinh hoàn toàn khô cằn, trong khi một số khác cho phép sự tồn tại của nước lỏng. Nghiên cứu này cũng đưa ra ước đoán về bán kính của hành tinh đối với mỗi kịch bản, cũng như ước tính được giới hạn của lượng nước có thể có trên bề mặt hành tinh do sự bay hơi của chúng dưới tác dụng của bức xạ tử ngoại và tia X từ sao mẹ, vốn mạnh hơn Mặt Trời rất nhiều.
Các quan sát trong tương lai sẽ hoàn chỉnh thêm nghiên cứu này. Đặc biệt, việc đo chính xác hơn thành phần các nguyên tố nặng của sao mẹ Proxima Centauri sẽ làm giảm số lượng các kịch bản cấu tạo của Proxima b để ước tính được chính xác hơn bán kính của hành tinh này. |
Manh mối cho sự sống trên Sao Hỏa từ hố thiên thạch | https://thienvanvietnam.org/index.php?option=com_content&view=article&id=491:manh-moi-cho-su-song-tren-sao-hoa-tu-ho-thien-thach&catid=27&Itemid=135 | Các miệng núi tạo thành do va chạm của các tiểu hành tinh với Trái Đất có thể là một nơi lý tưởng để tìm hiểu về sự sống ngoài Trái Đất, một nghiên cứu mới đây đã gợi ý như vậy. Các vi sinh vật đã được phát hiện nằm sâu trong một vùng ở Mỹ nơi một tiểu hành tinh đã rơi xuống khoảng 35 triệu năm trước.
Các nhà khoa học tin rằng các vi sinh vật này là bằng chứng cho việc các miệng núi do va chạm cung cấp nơi ở cho vi khuẩn, bảo vệ chúng khỏi các hiệu ứng xảy ra do sự biến đổi khí hậu, sự nóng lên toàn cầu hay thậm chí là kỉ băng hà.
Các dạng sống
Nghiên cứu gợi ý rằng các miệng núi như vậy trên Sao Hỏa cũng có thể ẩn giấu sự sống, và nếu khoan sâu xuống thì có thể dẫn đến bằng chứng cho các dạng sống tương tự.
Các nhà nghiên cứu tại đại học Edinburgh đã khoan gần 2km xuống một lỗ thiên thạch lớn trên Trái Đất tại vịnh Chesapeake, Mỹ.
Các mẫu thu được cho thấy sự có mặt không đồng đều của vi khuẩn lan ra trong đá, gợi ý rằng sự biến đổi vẫn tiếp tục sau 35 triệu năm từ lúc va chạm.
Dinh dưỡng cho vi khuẩn
Các nhà khoa học cho biết nhiệt sinh ra khi va chạm đủ để giết chết tất cả các loài sinh vật có mặt. Tuy nhiên, những phần bị vỡ sâu trong đá cho phép nước và các chất dinh dưỡng chảy trong đó và hỗ trợ sự sống tồn tại.
Một số vi sinh vật có thể tồn tại và lớn lên nhờ hấp thụ một số nguyên tố chẳng hạn như sắt trong các lớp đá.
Nghiên cứu này đã được công bố trên tạp chí Astrobiology (Sinh học thiên văn)
"Những vùng nứt sâu quanh miệng các lỗ va chạm có thể cung cấp nơi ẩn náu an toàn mà tại đó vi sinh vật có thể phát triển trong thời gian dài. Phát hiện của chúng tôi gợi ý rằng các lớp dưới của hố va chạm trên Sao Hỏa có thể là một địa điểm lý tưởng cho việc tìm kiếm bằng chứng của sự sống" - cho biết của giáo sư Charles Cockell tại tại trường Vật lý và Thiên văn học, đứng đầu nhóm nghiên cứu.
(theo Science Daily) |
The Brightest Stars (pdf) | https://thienvanvietnam.org/index.php?option=com_content&view=article&id=423:the-brightest-stars-pdf&catid=29&Itemid=178 | Cuốn sách là một tài liệu tuyệt vời cho bất cứ ai quan tâm tới những tính chất và những điều kì diệu quanh các ngôi sao. Nó đưa người đọc đến với những khái niệm đầu tiên, những tính chất vật lý, cấu trúc và quá quá trình tiến hóa của ngôi sao cho tới những hướng dẫn tỉ mỉ về việc quan sát các sao bằng mắt thường cũng như qua các ống nhòm, kính thiên văn...
Cũng trong cuốn sách này, độc giả sẽ được tìm hiểu chi tiết hơn về các ngôi sao sáng nhất mà chúng ta có thể quan sát trên bầu trời.
Cuốn sách có tên đầy đủ là The Brightest Stars: Discovering the Universe Through the Sky's Most Brilliant Stars
Sách của tác giả Fred Schaaf, phát hành năm 2008 và được các nhà quan sát thiên văn đánh giá rất cao.
Sách gồm 290 trang, kiểu file: pdf, ngôn ngữ: tiếng Anh
Download:
Password: thienvanvietnam.org
|
Tổ chức thành công Ngày hội thiên văn học Việt Nam | https://thienvanvietnam.org/index.php?option=com_content&view=article&id=458:to-chuc-thanh-cong-ngay-hoi-thien-van-hoc-viet-nam&catid=34:hoat-dong&Itemid=136 | Chiều nay 25/3/2012, khoảng 60 bạn trẻ đã có mặt tại hội trường Liên hiệp các hội khoa học và kí thuật Việt Nam (VUSTA) số 53 Nguyễn Du, Hà Nội để tham gia hội thảo "Ngày hội thiên văn học Việt Nam" do Câu lạc bộ thiên văn học trẻ Việt Nam tổ chức.
Kỉ niệm 10 năm ngày thành lập của mình (ngày 29 tháng 3 năm 2002), CLB Thiên văn học trẻ Việt Nam (VACA) tổ chức sự kiện này với mong muốn nhìn lại chặng đường 10 năm hoạt động của mình đồng thời cũng là dịp để các bạn trẻ yêu thiên văn có cơ hội tham gia học hỏi thêm những kiến thức về lĩnh vực khoa học này, giao lưu và trò chuyện với các nhà khoa học có uy tín của Việt Nam.
Hội thảo được thực hiện sự phối hợp thực hiện của phòng nghiên cứu không gian F-Space, đại học FPT.
Buổi nói chuyện có sự tham gia của Giáo sư Chu Hảo - giám đốc NXB Tri thức, Thạc sĩ Đặng Vũ Cảnh Linh - phó trưởng ban thông tin và phổ biến kiến thức Liên hiệp các hội khoa học và kĩ thuật Việt Nam, cùng đại diện của Hội thiên văn nghiệp dư Hà Nội (HAS) và nhiều tổ chức, báo chí khác.
Hội thảo bắt đầu đúng 14 giờ 30 chiều nay, ba bài thuyết trình chính gồm:
1- Sự kì diệu của vũ trụ và mục đích của Vật lý thirn văn hiện đại (Đặng Vũ Tuấn Sơn)
2- Dự án F-1 của FPT và tương lai ngành hàng không vũ trụ Việt Nam (Vũ Trọng Thư)
3- Ngày tận thế dưới cái nhìn của Thiên văn học (Phạm Vũ Lộc)
Các bạn trẻ có mặt cũng được nghe những chia sẻ, suy nghĩ của giáo sư Chu Hảo và thạc sĩ Đặng Vũ Cảnh Linh về thiên văn học nói riêng và khoa học nói chung tại Việt Nam.
Sau các bài thuyết trình và phát biểu, ban tổ chức dành ít phút cho việc trao giải thưởng cuộc thi The Best of Vietnamese Young Astronomers 2012 cho giải nhất là Hà Đắc Long.
Hội thảo kết thúc bằng phàn câu hỏi có thưởng và các hỏi đáp thiên văn dành cho các bạn trẻ.
Ban tổ chức xin gửi lời cám ơn chân thành tới các vị đại biểu: giáo sư Chu Hảo và thạc sĩ Đặng Vũ Cảnh Linh; sự phối hợp tổ chức của anh Vũ Trọng Thư từ phòng nghiên cứu F-Space (FPT); các anh chị và các bạn thành viên của VACA đã nhiệt tình tham gia giúp buổi hội thảo thành công tốt đẹp. Xin cám ơn tất cả các anh chị và các bạn đã có mặt tham gia buổi hội thảo ngày hôm nay. Chúng tôi hi vọng sẽ tiếp tục nhận được sự tham gia nhiệt tình của tất cả các anh chị và các bạn trong các hoạt động tiếp theo của VACA.
Thay mặt ban tổ chức
(Hình ảnh chi tiết cũng video quay lại toàn bộ hội thảo hôm nay sẽ được upload chi tiết trong 1-3 ngày tới. Các anh phía trên chụp bởi 'Tuấn Dũng' (VACA)) |
Đón xem nguyệt thực nửa tối ngày 28/11 | https://thienvanvietnam.org/index.php?option=com_content&view=article&id=631:don-xem-nguyet-thuc-nua-toi-28-11&catid=27&Itemid=135 | Tối ngày 28 tháng 11 sắp tới, người quan sát trên toàn lãnh thổ Việt Nam sẽ có cơ hội quan sát trọn vẹn hiện tượng nguyệt thực nửa tối, hiện tượng thiên văn đáng chú ý nhất cuối năm 2012 này.
Ngày mùng 4 tháng 6 năm nay, chúng ta đã có cơ hội quan sát nguyệt thực một phần, tuy nhiên do thời tiết cản trở nên chỉ rất ít vùng tại Việt Nam quan sát được. Lần nguyệt thực cuối tháng 11 này sẽ là cơ hội cuối cùng trong năm nay cho người quan sát, mặc dù lần này nguyệt thực chỉ là nửa tối.
Chúng ta đã biết rằng nguyệt thực xảy ra khi Mặt Trăng đi vào nón bóng tối của Trái Đất tạo thành do ánh sáng Mặt Trời (hình dưới). Vùng nón bóng tối chính (umbra) là vùng tối hoàn toàn không nhận được ánh sáng Mặt Trời trong khi bao quanh nó là vùng nửa tối (penumbra) nhận được một phần ánh sáng Mặt Trời. Nguyệt thực toàn phần hay một phần là khi toàn bộ hay một phần của Mặt Trăng đi vào phần bóng tối hoàn toàn, trở nên tối và đỏ sẫm. Trong khi đó nguyệt thực nửa tối là hiện tượng khi Mặt Trăng chỉ đi vào vùng bóng nửa tối, nó cũng tối lại và chuyển sang màu đỏ nhưng nhạt hơn so với nguyệt thực toàn phần hoặc một phần. Mặc dù vậy nguyệt thực nửa tối vẫn là một hiện tượng rất thú vị, nhất là với người quan sát có sự hỗ trợ của ống nhòm hay kính thiên văn, vì họ có thể quan sát rõ hơn bề mặt Mặt Trăng so với ngày thường.
Hiện tượng nguyệt thực sẽ diễn ra vào tối ngày 28 tháng 11 sắp tới là một nguyệt thực nửa tối kéo dài tới 4 giờ 37 phút. Tuy nhiên khoảng thời gian lý tưởng nhất để quan sát hiện tượng này chỉ kéo dài khoảng 1 giờ từ 21h00 tới 22h00 ngày 28 tháng 11 theo giờ Việt Nam.
Trong hình ảnh mô phỏng bên dưới, bạn có thể thấy quá trình xảy ra nguyệt thực nửa tối từ khi nó bắt đầu vào bóng nửa tối (P1), tới cực đại (Greatest) cho tới khi thoát hẳn khỏi bóng nửa tối (P2). Hình ảnh do website Timeanddate.com thực hiện, giờ ghi chú trên hình là giờ UT (Universal Time), giờ của Việt Nam chúng ta là UT+7 (giờ UT gần như trùng khít với giờ GMT)
|
Vài hình ảnh nguyệt thực nửa tối 21/12/2010 | https://thienvanvietnam.org/index.php?option=com_content&view=article&id=211:vai-hinh-nh-nguyt-thc-na-ti-21122010&catid=27&Itemid=135 | Một số bức ảnh do VACA chụp hiện tượng nguyệt thực nửa tối hôm này (ngày 21 tháng 12). Do điều kiện thời tiết không tốt cũng như điều kiện không khí ô nhiễm tại Hà Nội nên những bức ảnh có phần còn chưa thật sự rõ nét, các độc giả bỏ lỡ hiện tượng vừa rồi do không có thời gian hay do điều kiện địa điểm, thời tiết ... có thể tham khảo.
Địa điểm chụp: bán đảo Linh Đàm (Hà Nội), chụp hướng về phía cầu Pháp Vân
Thời gian: 17h50 - 18h00 ngày 21/12/2010
Còn hình ảnh cuối này là lúc 18h06 khi hiện tượng nguyệt thực đã qua
Dụng cụ sử dụng:
Thảo luận và chia sẻ những hình ảnh bạn đã chụp về hiện tượng này tại diễn đàn: |
Milky Way - thiên hà của chúng ta | https://thienvanvietnam.org/index.php?option=com_content&view=article&id=917:milky-way-thien-ha-cua-chung-ta&catid=40:thien-has&Itemid=150 | Vào những đêm mùa hè hay mùa thu khi trời quang đãng, chúng ta thường nhìn thấy một dải sáng màu trắng nhạt vắt ngang qua bầu trời. Ở Việt Nam, người xưa đã sớm gọi dải sáng đó là Ngân Hà (dòng sông bạc), còn theo thần thoại Hy Lạp thì dải sáng đó là dòng sữa bất tử của nữ thần Hera tuôn chảy trên bầu trời do sức hút của người anh hùng Hercules, đó là câu chuyện giải thích cho cái tên của nó là Milky Way (con đường sữa)...
Ngày nay, chúng ta biết rằng dải sáng này chính là phần đĩa sáng chính của thiên hà chúng ta. Thiên hà của chúng ta có tên là Milky Way, một trong số ít nhất là 100 tỷ thiên hà trong vũ trụ (theo như ước tính gần đây của các nhà thiên văn học), nhưng đối với chúng ta nó vô cùng đặc biệt bởi vì nó là thiên hà chứa Hệ Mặt Trời của chúng ta – ngôi nhà của tất cả chúng ta. Hiểu về thiên hà của chúng ta chính là để hiểu thêm về vị trí, về quá khứ và cả tương lai của chính chúng ta.
Sở dĩ chúng ta nhìn thấy thiên hà Milky Way như một dải sáng rất mờ nhạt và có màu trắng sữa bởi vì nó được tập hợp từ rất nhiều ngôi sao mà chúng ta không thể phân biệt được bằng mắt thường. Từ xưa, khi chưa có kính viễn vọng để quan sát bầu trời, các nhà thiên văn chỉ có thể đưa ra những suy đoán và cũng có một số người đã nghĩ nó được tạo thành từ vô số các sao. Nhưng bằng chứng thực tế cho suy đoán này chỉ được đưa ra vào năm 1610 khi Galileo Galilei sử dụng kính thiên văn của mình để quan sát bầu trời và nhận thấy rất nhiều đốm sáng nhỏ tạo nên dải sáng. Năm 1755, Immanuel Kant, trong luận thuyết của mình rút ra từ công trình của Thomas Wright, suy đoán (chính xác) rằng Milky Way có thể là một đối tượng quay chứa một số lượng rất lớn các sao, được kết nối với nhau bởi lực hấp dẫn, cũng giống như Hệ Mặt Trời của chúng ta nhưng ở quy mô lớn hơn nhiều. Kant cũng phỏng đoán rằng một số tinh vân nhìn thấy trên bầu trời cũng có thể là những thiên hà riêng biệt, tương tự như thiên hà của chúng ta. Kant gọi Milky Way và những “tinh vân ngoài thiên hà” là những “hòn đảo vũ trụ” và thuật ngữ này tồn tại cho đến những năm 1930.
Những nỗ lực đầu tiên để mô tả hình dạng của Milky Way và vị trí của Mặt Trời trong nó được thực hiện bởi William Herschel vào năm 1785. Bằng cách đếm cẩn thận số lượng các sao ở các vùng khác nhau trên bầu trời, ông đã đưa ra biểu đồ hình dạng của Milky Way với hệ Mặt Trời nằm gần trung tâm.
Năm 1917, Heber Curtis bằng việc quan sát các nova đã ước tính được khoảng cách đến tinh vân Andromeda là 150.000 parsec. Từ đó, ông cho rằng tinh vân xoắn chính là những thiên hà độc lập.
Cho đến đầu những năm 1920 phần lớn các nhà thiên văn vẫn nghĩ Milky Way chứa tất cả các sao trong vũ trụ. Năm 1920 đã diễn ra cuộc tranh cãi lớn giữa Harlow Shapley và Heber Curtis về bản chất của Milky Way và kích thước của vũ trụ. Cuộc tranh cãi chỉ kết thúc khi Edwin Hubble quan sát các sao biến quang Cepheid và sử dụng chúng để đo khoảng cách đến Andromeda. Ông tính được rằng Andromeda cách Mặt Trời chúng ta 275.000 parsec, một khoảng cách quá xa để có thể là một phần của Milky Way. Điều này cho thấy rằng thiên hà của chúng ta chỉ là một trong số hàng tỉ thiên hà trong vũ trụ.
Nhìn từ Trái Đất, thiên hà Milky Way như một dải sáng màu trắng nhạt rộng khoảng 30 độ vắt ngang nền trời. Ánh sáng của dải sáng này bắt nguồn từ sự tích tụ ánh sáng của các ngôi sao mà chúng ta không phân biệt được và những vật chất nằm ở hướng mặt phẳng thiên hà. Vùng tối trong dải sáng là những vùng mà ánh sáng từ những ngôi sao xa bị chặn lại do bụi giữa các vì sao. Tất cả các ngôi sao mà chúng ta nhìn thấy bằng mắt thường trên bầu trời đều thuộc thiên hà Milky Way (các sao thuộc thiên hà khác quá xa để có thể nhìn thấy độc lập).
Vùng nhìn thấy được của mặt phẳng thiên hà chiếm một khu vực trên bầu trời bao trải dài trên phạm vi của 30 chòm sao. Trung tâm thiên hà nằm ở hướng chòm sao Sagittarius và là phần sáng nhất. Từ Sagittarius, dải sáng này đi về hướng tây đến điểm đối diện với trung tâm thiên hà trong chòm sao Auriga, rồi tiếp tục đi hướng tây vòng qua bầu trời và về lại Sagittarius, chia bầu trời thành hai bán cầu gần bằng nhau. Mặt phẳng thiên hà nghiêng khoảng 60 độ so với mặt phẳng quỹ đạo Trái Đất. Nó đi qua chòm sao Cassiopeia gần phía bắc và chòm sao Crux gần phía nam.
Milky Way có độ sáng bề mặt tương đối thấp do đó rất dễ bị ảnh hưởng bởi ô nhiễm ánh sáng hay ánh sáng từ Mặt Trăng. Điều này làm cho việc quan sát trở nên khó khăn đối với thành phố và các vùng ngoại ô, nhưng ở nông thôn thì ngược lại, Milky Way có thể được nhìn thấy khi Mặt Trăng nằm phía dưới đường chân trời.
Milky Way là một thiên hà xoắn dạng thanh (barred spiral galaxy) thuộc cụm thiên hà Địa Phương (Local Group), lớn hơn là siêu cụm thiên hà Virgo, siêu cụm Virgo lại là một phần của siêu cụm Laniakea.
Milky Way là thiên hà lớn thứ hai trong Cụm Địa Phương (cụm gồm hơn 50 thiên hà), với đường kính đĩa thiên hà khoảng 100.000 năm ánh sáng và dày khoảng 100 năm ánh sáng. Để dễ hình dung hơn, ta có thể tưởng tượng nếu Hệ Mặt Trời tính đến Sao Hải Vương có kích thước là 25mm thì Milky Way có kích thước xấp xỉ nước Mĩ. Còn có một dải sao bao quanh Milky Way có khả năng thuộc về thiên hà này, nên kích thước của thiên hà có thể là 150 đến 180 nghìn năm ánh sáng.
Theo quan sát và đo đạc mới nhất vào năm 2014, khối lượng của toàn bộ thiên hà Milky Way ước tính là 850 tỉ khối lượng Mặt Trời, tức bằng khoảng một nửa thiên hà Andromeda. Phần lớn khối lượng này là vật chất tối, một dạng vật chất không nhìn thấy được và cũng chưa được hiểu rõ nhưng có tương tác hấp dẫn với các dạng vật chất thông thường, do vậy nó được phát hiện thông qua việc nghiên cứu chuyển động của khí và sao trong thiên hà. Theo nghiên cứu, có một quầng vật chất tối trải rộng tương đối đều ở khoảng cách lớn hơn 100kpc tính từ trung tâm thiên hà. Tổng khối lượng của các sao trong thiên hà nằm trong khoảng từ 46 tỷ khối lượng Mặt Trời đến 64,3 tỷ khối lượng Mặt Trời, trong đó 10% đến 15% là khí, với 2/3 là dạng nguyên tử và 1/3 là dạng phân tử, còn khối lượng bụi giữa các vì sao thì chỉ bằng 1% khối lượng khí đó.
Nếu không tính những chuyển động ngẫu nhiên, mang tính cục bộ, thì toàn bộ thiên hà Milky Way đang di chuyển với vận tốc khoảng 630 km/s do sự dãn nở của vũ trụ.
Có hai thiên hà nhỏ hơn và nhiều thiên hà lùn trong Cụm Địa Phương quay quanh thiên hà Milky Way, trong đó lớn nhất là Đám mây Magellan Lớn với đường kính khoảng 14000 năm ánh sáng. Thiên hà này có một bạn đồng hành là Đám mây Magellan Nhỏ. Một số thiên hà vệ tinh của Milky Way là thiên hà lùn Canis Major (thiên hà gần nhất), Sagittarius, Ursa Minor, Sculptor, Sextans, Fornax, và Leo I. Những thiên hà lùn nhỏ nhất có đường kính chỉ khoảng 500 năm ánh sáng, bao gồm thiên hà Carina, Draco, và Leo II. Có lẽ vẫn còn nhiều thiên hà lùn chưa được tìm thấy là vệ tinh của Milky Way, năm 2015 đã có 9 trong số đó đã được tìm thấy. Cũng có những thiên hà lùn vừa bị bắt giữ bởi Milky Way, như Omega Centauri.
Thiên hà của chúng ta chứa khoảng từ 200 đến 400 tỷ sao. Con số chính xác phụ thuộc vào số lượng của các sao lùn, loại sao rất khó phát hiện, đặc biệt ở khoảng cách lớn hơn 300 năm ánh sáng tính từ Mặt Trời. Trong khi đó, thiên hà hàng xóm của chúng ta là Andromeda chứa khoảng 1000 tỷ sao. Lấp đầy không gian giữa các sao là môi trường liên sao gồm khí và bụi.
Theo kết quả quan sát của kính thiên văn không gian Kepler về hệ sao với năm hành tinh có tên là Kepler-32 vào tháng 1 năm 2013, Milky Way chứa ít nhất là một hành tinh trên một sao (tức là có tất cả khoảng 100-400 tỷ hành tinh trong thiên hà). Tháng 11 năm 2013, cũng theo dữ liệu từ Kepler, các nhà thiên văn học ước tính có khoảng 40 tỷ hành tinh có kích thước gần giống Trái Đất nằm trong “vùng sống được” (khu vực có khoảng cách tới sao mẹ đủ để nước có thể tồn tại ở dạng lỏng trên bề mặt hành tinh) quanh các sao tương tự Mặt Trời hoặc các sao lùn đỏ trong thiên hà. Hành tinh gần nhất trong số đó cách chúng ta khoảng 12 năm ánh sáng. Số lượng các hành tinh có kích thước tương tự Trái Đất còn nhiều hơn các hành tinh khí khổng lồ. Bên cạnh các hành tinh, các sao chổi có lẽ cũng rất phổ biến trong Milky Way.
Milky Way gồm vùng nhân thiên hà có dạng thanh được bao quanh bởi khí, bụi và những ngôi sao phân bố trong những cấu trúc được gọi là những cánh tay xoắn (spiral arm). Các cánh tay xoắn này chứa bụi và khí với mật độ cao hơn so với mật độ trung bình của thiên hà, cũng như là nơi tập trung các hoạt động hình thành sao. Các cánh tay đều có khởi điểm ở gần trung tâm của thiên hà và toả ra xung quanh theo đường xoắn. Hệ Mặt Trời của chúng ta nằm trên cánh tay Orion – một cánh tay phụ (nhở hơn các cánh tay chính) của thiên hà.
Bên ngoài những cánh tay xoắn là Vành đai Monoceros (hay Vành đai ngoài), một vành đai khí và sao bị xé ra từ một thiên hà khác hàng tỷ năm trước. Tuy nhiên gần đây cũng có ý kiến cho rằng cấu trúc của Monoceros là kết quả của sự bóp méo và mở rộng của đĩa thiên hà.
Trung tâm thiên hà là một nguồn phát song vô tuyến mạnh, có tên là Sagittarius A*, được cho rằng có sự tồn tại của một lỗ đen siêu nặng với khối lượng từ 4,1 đến 4,5 triệu khối lượng Mặt Trời. Trong vòng bán kính khoảng 10.000 năm ánh sáng tính từ tâm thiên hà là vùng tập trung dày đặc các ngôi sao già gọi là chỗ phình thiên hà. Nhân thiên hà còn được bao quanh bởi một vành đai gọi là “Vành 5kpc” chứa phần lớn hydro phân tử hiện có cũng như hầu hết các hoạt động hình thành sao trong thiên hà.
Đĩa thiên hà của Milky Way được bao quanh bởi một quầng (halo) gồm những sao già và các cụm sao cầu, 90% trong số đó nằm trong khoảng 100.000 năm ánh sáng tính từ tâm thiên hà. Các hoạt động hình thành sao diễn ra trong đĩa (đặc biệt ở các cánh tay xoắn, là vùng có mật độ cao), nhưng không diễn ra trong quầng, bởi vì có rất ít khí đủ lạnh để co lại thành các ngôi sao. Những cụm sao mở cũng nằm chủ yếu trong đĩa.
Milky Way được hình thành từ một hoặc một số vùng nhỏ với mật độ cao trong vũ trụ một thời gian ngắn sau Big Bang, một số trong những vùng này là hạt giống của các cụm sa. Trong vòng khoảng vài tỷ năm kể từ khi các sao đầu tiên hình thành, khối lượng của Milky Way đã đủ lớn để nó quay tương đối nhanh. Khí trong môi trường liên sao với tác dụng của lực li tâm đã định hình lại từ một hình dạng cầu thành hình đĩa và các thế hệ sao tiếp theo đều hình thành trong đĩa xoắn này. Hầu hết các sao trẻ, bao gồm cả Mặt Trời, đều thuộc đĩa thiên hà.
Khi những ngôi sao đầu tiên bắt đầu hình thành, Milky Way đã trải qua quá trình sáp nhập thiên hà (đặc biệt vào giai đoạn sớm) và bồi tụ khí trực tiếp từ quầng thiên hà. Nó còn được bồi thêm vật chất từ hai trong số các thiên hà vệ tinh của mình, Đám mây Magellan Lớn và Nhỏ. Các tính chất của thiên hà cho thấy nó không sáp nhập với những thiên hà lớn khác trong khoảng 10 tỷ năm gần đây, trong khi ở thiên hà Andrmeda quá trình đó vẫn diễn ra.
Nghiên cứu gần đây cho thấy cả Milky Way và Andromeda đều là thiên hà đang trong giai đoạn chuyển tiếp từ thiên hà với hoạt động hình thành sao tích cực sang thiên hà với ít hoạt động hình thành sao, bởi vì chúng đang cạn kiệt khí cho quá trình này.
Hệ Mặt Trời của chúng ta nằm trong đĩa thiên hà, gần rìa bên trong của cánh tay xoắn Orion, cách tâm thiên hà khoảng 27.200 năm ánh sáng và cách mặt phẳng chính của đĩa thiên hà khoảng 16-98 năm ánh sáng. Mặt Trời cũng như cả Hệ Mặt Trời, đều nằm trong vùng sống được của thiên hà.
Hệ Mặt Trời chuyển động quanh tâm thiên hà theo qũy đạo hình elip với một chút dao động bởi những cánh tay xoắn và sự phân bố khối lượng không đồng đều. Hiện tại nó đang di chuyển hướng về sao Vega (sao sáng nhất của chòm sao Lyra, gần chòm sao Hercules).
Phải mất đến 240 triệu năm để Hệ Mặt Trời hoàn thành một vòng quanh thiên hà (gọi là năm thiên hà). Mặt Trời được cho là đã hoàn thành 18-20 chu kì quanh tâm thiên hà, và kể từ khi con người xuất hiện cho đến nay nó đã đi được 1/1250 vòng, với tốc độ là 220 km/s.
Những số liệu đo đạc gần đây gợi ý rằng thiên hà Andromeda đang tiến lại gần chúng ta với tốc độ từ 100 đến 140 km/s. Trong vòng 3 đến 4 tỷ năm nữa, có thể có một vụ va chạm giữa Andromeda và Milky Way. Nếu vụ va chạm này xảy ra, hai thiên hà sẽ hợp nhất lại để tạo thành một thiên hà elip duy nhất hoặc là một thiên hà có đĩa lớn trong vòng khoảng hơn 1 tỷ năm.
Tháng 9 năm 2015 |
Vùng sống được mới cho các hành tinh | https://thienvanvietnam.org/index.php?option=com_content&view=article&id=1085:vung-song-duoc-moi-cho-cac-hanh-tinh&catid=27&Itemid=135 | Việc tìm kiếm sự sống, nền văn minh ngoài Trái Đất cần nhường chỗ cho một vùng Goldilocks (hay vùng sống được) thứ hai, theo một nhà nghiêm cứu của Đại học Yale.
Trong nhiều thập kỷ, người ta đã nghĩ rằng yếu tố then chốt trong việc xác định một hành tinh có thể tồn tại sự sống hay không là khoảng cách từ nó tới sao mẹ. Ví dụ như trong Hệ Mặt Trời của chúng ta, Sao Kim nằm quá gần Mặt Trời và Sao Hỏa thì nằm ở quá xa, còn Trái Đất nằm ở vị trí vừa đủ. Khoảng cách đó được các nhà khoa học gọi là “vùng sống được” hay “vùng Goldilocks”.
Người ta cũng từng cho rằng các hành tinh có thể tự điều chỉnh nhiệt độ bên trong của nó qua sự đối lưu của lớp vỏ - sự chuyển dịch của đá dưới bề mặt được gây ra bởi sự nung nóng và làm mát bên trong. Một hành tinh có thể khởi đầu quá lạnh hoặc quá nóng, nhưng cuối cùng nó sẽ ổn định ở một nhiệt độ nào đó.
Một nghiên cứu mới, được đăng tên tạp chí Science Advances ngày 19 tháng 8, cho thấy chỉ nằm trong vùng sống được là không đủ để tồn tại sự sống. Một hành tinh còn cần khởi đầu với một nhiệt độ vừa phải bên trong nó.
“Nếu bạn tập hợp tất cả các dữ liệu khoa học về sự phát triển của Trái Đất trong vài tỷ năm qua, và hiểu được ý nghĩa của chúng, bạn sẽ nhận ra rằng sự đối lưu của lớp vỏ khá ít bị ảnh hưởng bởi nhiệt độ bên trong”, theo Jun Korenaga, tác giả của nghiên cứu và là giáo sư Địa chất và Vật lý địa chất của Yale.
Korenaga trình bày một khung lý thuyết tổng quát giải thích sự tự điều chỉnh nhiệt độ được dự đoán do sự đối lưu của lớp vỏ và chỉ ra rằng sự tự điểu chỉnh nhiệt độ này là không có khả năng với các hành tinh như Trái Đất.
“Việc thiếu cơ chế tự điều chỉnh có ảnh hưởng lớn tới sự sống của hành tinh” Korenaga cho biết “Các nghiên cứu về sự hình thành hành tinh cho thấy các hành tinh như Trái Đất được tạo thành từ những va chạm lớn, và kết quả của quá trình mang tính ngẫu nhiên đó là rất đa dạng.”
Sự đa dạng về kích thước và nhiệt độ bên trong sẽ không cản trở sự phát triển của hành tinh nếu có sự tự điều chỉnh lớp vỏ đối lưu, Korenaga cho biết thêm “Những gì chúng ta cho là hiển nhiên trên hành tinh, như các đại dương và lục sẽ không tồn tại nếu nhiệt độ bên trong của Trái Đất ở trong một phạm vi nhất định, điều đó có nghĩa là lịch sử khởi đầu của Trái Đất không thể quá nóng hoặc quá lạnh”.
Viện Sinh học thiên văn NASA đã hỗ trợ nghiên cứu. Korenaga là một điều tra viên của nhóm nghiên cứu "Alternative Earths" của NASA, được thực hiện dựa trên các nguyên lý về cách Trái Đất đã duy trì một sinh quyển kéo dài hầu hết lịch sử của nó, cách bầu sinh quyển biểu hiện trong sinh học tự nhiên trên qui mô hành tinh và cách tái hiện lại lịch sử này có thể báo hiệu khả năng tồn tại sự sống trong và ngoài Hệ Mặt Trời. |
Khám phá trung tâm tinh vân Lagoon | https://thienvanvietnam.org/index.php?option=com_content&view=article&id=894:kham-pha-trung-tam-tinh-van-lagoon&catid=27&Itemid=135 | Rất nhiều trong số những cảnh tượng ngoạn mục nhất của vũ trụ được tạo nên bởi các tinh vân - những đám mây khí nóng và sáng. Bức ảnh mới này của kính thiên văn không gian Hubble cho thấy vùng trung tâm của tinh vân Lagoon (tinh vân đầm nước), một đối tượng với cái tên tưởng như yên bình. Khu vực của nó được lấp đầy bởi gió dữ dội từ các sao nóng, các luồng khí, và sự tạo sao mạnh mẽ, tất cả đặt trong một đám phức tạp của bụi và khí.
Các tinh vân thường được đặt tên dựa trên các đặc điểm cơ bản của chúng - chẳng hạn những tinh vân tuyệt đẹp như Ring Nebula (Tinh vân hình nhẫn), Horsehead Nebula (Tinh vân đầu ngựa) và Butterfly Nebula (tinh vân con bướm). Bức ảnh mới này của kính thiên văn không gian Hubble ghi lại hình ảnh vùng trung tâm của tinh vân Lagoon, còn được biết tới với tên gọi khác là Messier 8 (M8) - một tinh vân trong chòm sao Sagittarius (Cung Thủ).
Cảm hứng cho việc đặt tên tinh vân này không thật rõ ràng vì bức ảnh này chỉ chụp lại phần trung tâm của tinh vân. Cái tên "đầm nước" tỏ ra phù hợp hơn khi quan sát ở góc nhìn rộng - vùng bụi có hình như một cái đầm (hay hồ) lan rộng ra xung quanh giữa phần khí phát sáng của nó.
Một điểm khác nhau nữa giữa bức ảnh này và những hình ảnh trước đây là hình ảnh này được kết hợp kết quả quan sát ở hai dải sóng hồng ngoại và biểu kiến, trong khi các hình ảnh trước đây chỉ ghi lại hình ảnh ở bước sóng biểu kiến. Bức xạ hồng ngoại có thể xuyên qua những vùng bụi-khí mỏng và tối, hé lộ nhiều điều hơn về câu trúc bên trong của tinh vân và giúp chúng ta dựng nên bức tranh mới hoàn toàn khác biệt.
Tuy nhiên, ngay cả với ánh sáng biểu kiến, cái tên có vẻ yên bình này cũng vẫn không được phù hợp lắm nếu như so sánh với hoạt động dữ dội bên trong tinh vân này.
Ngôi sao sáng nằm giữa vùng mây tối ở trung tâm bức ảnh này có tên là Herschel 36. Nó là nguyên nhân gây ra đám mây xung quanh, ném vật chất ra xa và gây ảnh hưởng lên hình dạng của nó. Herschel 36 là nguồn chính của bức xạ ion hóa trong khu vực này của tinh vân Lagoon.
Theo Science Daily |
Quan sát mưa sao băng Orionids 2015 | https://thienvanvietnam.org/index.php?option=com_content&view=article&id=928:quan-sat-mua-sao-bang-orionids-2015&catid=27&Itemid=135 | Rạng sáng các ngày 21 và 22 tháng 10 tới đây, người yêu thích quan sát bầu trời sẽ có cơ hội chứng kiến cực điểm của mưa sao băng Orionids. Đây là mưa sao băng được coi là tương đối lớn hàng năm. Năm nay, nếu thời tiết cho phép, chúng ta sẽ có thể thấy nhiều sao băng dài và sáng với mật độ khoảng 20 sao băng mỗi giờ.
Lần đầu tiên mưa sao băng này được quan sát là vào các năm 1839 và 1940 bởi nhà quan sát E. C. Herrick. Lần đầu quan sát vào năm 1839 ông đã kết luận rằng trận mưa sao băng kéo dài từ mùng 8 tới 15 tháng 10. Lần quan sát năm 1840 ông đính chính rằng nó bắt đầu mùng 8 và kết thúc vào 25 tháng 10.
Tuy nhiên, người đầu tiên quan sát chính xác trận mưa sao băng này là nhà thiên văn Herschel, ông đã quan sát được 14 sao băng của trận này xuất phát từ khu vực của chòm sao Orion vào ngày 18 tháng 10 năm 1864 và năm tiếp theo, ông đã kết luận cực điểm của nó chính là là 20 tháng 10 (năm 1965). Khi đó Orionids đã là một trong số những trận mưa sao băng lớn nhất hàng năm có thể quan sát.
1,5 thế kỉ trôi qua, các thiên thạch của Orionids vẫn còn rất nhiều trên khí quyển Trái Đất và chúng ta vẫn có thể quan sát trận mưa sao băng này dù với mật độ sao băng nhỏ hơn trước khá nhiều. Nó không còn là một trận mưa sao băng thật sự lớn khi so sánh với các trận Perseids, Geminids hay thậm chí Leonids, nhưng vẫn là một hiện tượng thiên văn đáng chú ý với những người yêu thích quan sát bầu trời với mật độ những năm gần đây từ 25 tới 30 sao băng mỗi giờ. (trích lại đoạn giới thiệu về hiện tượng này trong bài viết cũ của VACA)
Năm 2015 này, hai đêm cực điểm của Orionids rơi vào thời gian nửa đầu tháng âm lịch. Do đó Trăng khá sáng nhưng sẽ lặn sớm, và khi ánh sáng của Mặt Trăng hoàn toàn không ảnh hưởng tới bầu trời nữa thì đó là lúc phù hợp nhất để quan sát.
Như vậy, thời điểm lý tưởng nhất cho việc theo dõi hiện tượng này là vào rạng sáng ngày 21 và 22 tháng 10, trong khoảng từ 2h đến trước lúc bình minh.
Bạn nên chọn cho mình vị trí quan sát có góc nhìn rộng, ít bị cản trở bởi cây cối hay các toà nhà cao, đồng thời hạn chế những nơi có nhiều ánh sáng nhân tạo, vì khi một bóng đèn chiếu vào mắt bạn thì nó sẽ làm bạn khó quan sát được bầu trời tối phía trên hơn nhiều (tất nhiên, đừng quên lưu ý bảo đảm an toàn cho bạn khi ra ngoài vào giữa đêm)
Vào thời điểm như nêu trên, hãy nhìn về bầu trời phía Đông, hơi chếch sang Đông Nam và tìm chòm sao Orion. Chòm sao này rất dễ nhận ra bởi ba ngôi sao sáng nằm thẳng hàng và cách đều nhau tạo thành thắt lưng của Orion, ngoài ra độ sáng nổi bật của các sao Betelgeuse, Rigel và Ballatrix cũng là những điểm khiến bạn không khó khăn gì để tìm thấy chòm sao này. Hầu hết các sao băng của Orionids đều xuất phát từ khu vực lân cận của chòm sao Orion, như bạn có thể thấy trong hình dưới.
Hãy hết sức lưu ý rằng bạn chỉ có thể quan sát hiện tượng này khi trời không mây hoặc rất ít mây. Mặt khác, những khu vực đô thị có mức độ ô nhiễm cao cũng làm ảnh hưởng rất lớn tới việc quan sát. Một phép thử đơn giản là hãy đứng ngoài trời tối từ 3 tới 5 phút để mắt bạn thích nghi, rồi quan sát bầu trời phía trên, nếu bạn không thể đếm được ít nhất vài chục ngôi sao (những chấm sáng bình thường trên bầu trời) thì bạn gần như không có cơ hội nào để quan sát mưa sao băng.
Một chiếc ống nhòm hay kính thiên văn nhỏ có thể giúp bạn ngắm dải sáng của Milky Way nếu muốn, nhưng chúng hoàn toàn vô ích đối với việc quan sát mưa sao băng.
Cái bạn nên mang theo là một chiếc ghế, giường gấp hay chiếu để có tư thế thoải mái nhất khi quan sát, ngoài ra nếu trời lạnh cũng đừng quên áo ấm, và bất cứ thứ gì khác mà bạn thấy có thể bảo vệ an toàn cho bạn nếu không phải bạn đang quan sát tại ngay ban công nhà mình.
Chúc các bạn may mắn!
(Chủ tịch Hội thiên văn học trẻ Việt Nam - VACA) |
Tuyển sinh lớp học thiên văn tháng 11/2012 | https://thienvanvietnam.org/index.php?option=com_content&view=article&id=616:tuyen-sinh-lop-thien-van-thang-11-2012&catid=34:hoat-dong&Itemid=136 | Lớp học thiên văn cơ bản thông báo tuyển sinh tháng 11 năm 2012 tại Hà Nội. Đây là khóa học được tổ chức do sự hợp tác giữa Tổ chức Giáo dục Khai Sáng và CLB Thiên văn học trẻ Việt Nam (VACA).
Đây là khóa học ngắn ngày gồm 8 buổi học lý thuyết, 1 hoặc 2 buổi thực hành cùng một số hoạt động ngoại khóa, giao lưu nhỏ (địa điểm linh động).
Đối tượng khóa học là các bạn:
-Tuổi tối thiểu: 15 (đã tốt nghiệp chương trình THCS)
-Tuổi tối đa: không giới hạn (áp dụng với mọi độ tuổi và ngành nghề)
-Lịch sử thiên văn học và cách hiểu đúng về thiên văn cũng như các mũi nhọn hiện nay
-Các qui ước cơ bản sử dụng trong thiên văn
-Sự phân định các chòm sao trên bầu trời và cách xác định các chòm sao cơ bản
-Sự ra đời của Trái Đất và Hệ Mặt Trời
-Sự sống trên Trái Đất
-Tiến hóa của các ngôi sao và thiên hà
-Các lực và các hạt cơ bản trong tự nhiên, các mô hình vũ trụ
-Kính thiên văn: cấu tạo, thực hành làm kính và sử dụng kính quan sát bầu trời
-Tương quan giữa thiên văn phương Đông và phương Tây
-Nguồn gốc và cơ sở của tử vi, chiêm tinh học và tương quan của chúng với thiên văn ngày nay
(hai phần cuối là nội dung bổ sung so với các khóa đã tổ chức trước đây)
- Chủ tịch CLB Thiên văn học trẻ Việt Nam
- Cố vấn Vật lý thiên văn tổ chức Giáo dục Khai Sáng
- Nguyên phó trưởng ban thông tin khoa học Hội trí thức trẻ Việt Nam
Trong phạm vi không quá 10 buổi, khóa học trang bị cho học viên không quá nhiều các thông tin, số liệu hay các phương trình phức tạp mà thay vào đó là các qui ước, các cách nhìn nhận chính xác về các vấn đề trong thiên văn học và các kĩ năng cơ bản trong quan sát cũng như tìm kiếm và tra cứu các tài liệu thiên văn.
Khóa học cũng sử dụng nhiều hình ảnh và dụng cụ minh họa cùng các buổi thực hành trực quan để tạo điều kiện cho học viên tiếp thu tri thức một cách gần gũi và sâu sắc hơn.
Xin tham khảo một số hình ảnh của khóa học này đã được tổ chức bằng cách
Download giáo trình sử dụng trong khóa học:
- Thời gian học tập: mỗi tuần 2 buổi, từ 15h00 tới 17h00, ngayf thứ bảy và chủ nhật hàng tuần, riêng buổi học đầu tiên bắt đầu vào tối ngày 15 tháng 11, buổi thứ hai ngày chủ nhạt 18 tháng 11 và tiếp tục hoạt động theo dự kiến nêu trên.
- Địa điểm: 12, N6 ngõ 90 Nguyễn Tuân, Thanh Xuân, Hà Nội (bản đồ dưới)
Nhân dịp kỉ niệm thành lập Tổ chức Giáo dục Khai Sáng (ngày 11 tháng 11), học phí cho khóa học này được giảm chỉ còn:
400.000 VND
(học viên không phải đóng thêm bất cứ khoản phí nào như in tài liệu, cấp chứng chỉ cuối khóa)
*
. Việc đăng kí trực tuyến sẽ giúp ban tổ chức xác minh số lượng học viên và chủ động liên lạc để qua đó hỗ trợ các bạn tốt hơn.
*
và đóng học phí tại tọa đàm ngày mùng 2 tháng 11 như đã thông báo
*
:
Cách 1: Liên hệ trực tiếp và đóng học phí tại:
Tổ chức Giáo dục Khai Sáng:
Số 10 ngõ 84 phố Chùa Láng, Đống Đa, Hà Nội
Điện thoại: 04.66728504
CLB Thiên văn học trẻ Việt Nam:
Số 90c phố Khương Đình, Thanh Xuân, Hà Nội
Điện thoại: 091.530.1116
(Bạn vui lòng liên hệ trước qua điện thoại trước khi tới đăng kí)
Cách 2: Thanh toán học phí bằng chuyển khoản
Học viên đăng kí thông tin trực tuyến theo mẫu trên rồi chuyển học phí qua tài khoản ngân hàng sau.
Ngân hàng Vietinbank
Chủ tài khoản: Đặng Vũ Tuấn Sơn
Số CMND: 162704037
Số tài khoản: 711A08575485
Sau khi gửi thành công, bạn vui lòng gửi mail hoặc nhắn tin tới số điện thoại 0915301116 thông báo việc chuyển tiền (trong mail/tin nhắn bao gồm tên của bạn và số tiền đã chuyển) để giảng viên kiểm tra tài khoản và xác minh thông tin của bạn.
: Giảm học phí cho các bạn đăng kí trực tiếp tại tọa đàm hoặc đăng kí trước ngày 12 tháng 11 theo một trong hai cách trên.
Học phí khuyến mại cho các hình thức đăng kí này là 350.000VND , tức là bạn chỉ cần đóng 350.000VND khi đăng kí hoặc chuyển khoản trước ngày 10/11.
Đặng Vũ Tuấn Sơn - giảng viên chính
Điện thoại: 0915301116
E-mail:
Y!M: darkknight_r2000 |
Dự đoán các vụ nổ tiểu hành tinh | https://thienvanvietnam.org/index.php?option=com_content&view=article&id=1199:du-doan-cac-vu-no-tieu-hanh-tinh&catid=27&Itemid=135 | Thiên thạch Chelyabinsk hồi năm 2013 đã chứng minh một điều. Đó là một tiểu hành tinh hoặc thiên thạch không cần thiết phải va chạm trực tiếp với Trái Đất mới có thể gây ra thiệt hại đáng kể.
Thiên thạch Chelyabinsk đã cháy sáng như một quả cầu lửa sáng hơn cả Mặt Trời khi nó lao vào khí quyển Trái Đất ở khu vực nước Nga và phát nổ ở độ cao 30km trên bầu trời vùng Chelyabinsk Oblast với sức nổ của 500.000 tấn thuốc nổ TNT. Sóng xung kích từ vụ nổ này đã làm vỡ hàng nghìn cửa sổ và khiến hàng trăm người phải nhập viện.
Hiện nay, các nhà khoa học ở Phòng thí nghiệm quốc gia Lawrence Berkeley (Mỹ) đang cố gắng nâng cao khả năng dự đoán đe dọa từ những vụ nổ tương tự. Những nỗ lực của họ là một phần của Dự án đánh giá mối đe dọa từ tiểu hành tinh do Văn phòng điều phối phòng thủ hành tinh thuộc NASA thực hiện.
Harold Barnard, một nhà khoa học tại Berkeley, đã thiết kế một căn phòng có thể tái tạo lại áp lực lên tiểu hành tinh khi nó lao thẳng qua khí quyển. Các nhà khoa học lên kế hoạch sử dụng tia X để ghi hình các mảnh của tiểu hành tinh dưới áp lực cực cao và phân tích tương tác của lực với các thành phần hóa học và cấu trúc khác nhau của tiểu hành tinh hoặc thiên thạch.
"Chúng tôi muốn hiểu được cơ chế vỡ ra của các thiên thạch," Barnard nói.
Mặc dù mục tiêu của nghiên cứu tương đối mới, phương pháp này khá quen thuộc đối với NASA. Nó đã được sử dụng để nghiên cứu các hiệu ứng của các lực khí quyển và dao động tác dụng lên các vật liệu khác nhau trong nhiều thế kỷ qua.
"Nó là một phương pháp khoa học phức tạp, nhưng nó có nhiều điểm chung với việc chế tạo tàu không gian. Chúng tôi sẽ sử dụng những công cụ đã được sử dụng để dựng mô hình tàu không gian cho các tiểu hành tinh" - Francesco Panerai tại Trung tâm nghiên cứu Ames của NASA cho biết.
Nhưng những tảng đá từ không gian không giống các kim loại công nghệ cao và những vật liệu tổng hợp khác được dùng để chế tạo tên lửa và tàu không gian. Việc hiểu được đặc trưng cấu trúc của các mảnh thiên thạch, cách mà chúng gãy vỡ và phân tách, là một câu đố khó giải quyết.
Những hình ảnh chụp ở tia X sẽ cho phép các nhà khoa học dựng mô hình 3D của những tảng đá không gian này và nghiên cứu hiệu ứng của sự thay đổi áp suất và nhiệt độ cực cao tác động lên các vi cấu trúc của vật thể. Các nhà khoa học cho biết công nghệ ghi hình và các mô hình máy tính đang được phát triển để nghiên cứu của họ có thể giải quyết được các vấn đề. |
Chúa có chơi súc sắc không? | https://thienvanvietnam.org/index.php?option=com_content&view=article&id=335:chua-co-choi-suc-sac-khong&catid=32&Itemid=189 | Xin giới thiệu cùng độc giả bản dịch bài viết nổi tiếng của Stephen Hawking "Does Dod play dice" (Chúa có chơi súc sắc không). Bài viết này được Hawking thực hiện năm 1999, lưu ý rằng từ đó đến nay chúng ta đã biết thêm nhiều điều về vũ trụ.
Dịch giả trẻ Phạm Quỳnh Chi dịch bài viết này vào năm 2011, khi đang là học sinh trường THPT Hanoi Amsterdam. Tuy là bản dịch của một học sinh, nhưng bản dịch đạt chất lượng khá tốt, chúng tôi chỉ hiệu chỉnh rất ít, không sửa chữa để giữ nguyên văn phong của dịch giả.
Xin trân trọng giới thiệu!
Bài giảng này là về liệu chúng ta có thể dự đoán được tương lai, hay tương lai là ngẫu hứng và không thể đoán biết. Vào thời cố đại, thế giới chắc chắn có vẻ khá khó đoán biết. Thảm hoạ như bão hoặc bệnh dịch xảy ra không có báo trước, và không có nguyên nhân rõ ràng. Người cổ đại quy những hiện tượng tự nhiên như vậy cho các vị thần, những nhân vật hành xử một cách rất ngẫu hứng và thất thường. Không có cách nào để dự đoán họ sẽ làm gì, và niềm hi vọng duy nhất là lấy lòng họ với quà cáp hoặc hành động. Ngày nay, nhiều người vẫn phần nào ủng hộ niềm tin này, và họ cố gắng thoả hiệp với vận may. Họ tình nguyện làm một số điều nhất định để hi vọng họ có thể có một điểm A trong một khoá học, hay đỗ kì thi lái xe.
Tuy nhiên, dần dần con người đã để ý một số quy tắc nhất định của thiên nhiên. Những quy tắc này thể hiện rõ nhất qua sự chuyển động của những vật thể trên bầu trời. Vì vậy, thiên văn học là ngành khoa học đầu tiên được phát triển. Hơn 300 năm trước, Newton đã chứng minh một nền tảng toán học vững chắc của thiên văn học, và ngày hôm nay chúng ta vẫn sử dụng định luật vạn vật hấp dẫn của ông để dự đoán sự chuyển động của hầu hết các hành tinh. Tiếp sau thiên văn học, các hiện tượng tự nhiên khác cũng đã được chứng minh là tuân theo một số quy tắc khoa học nhất định. Điều này đã dẫn tới sự phát triển của thuyết khoa học tiền định, lý thuyết đã được phát biểu công khai đầu tiên bời nhà khoa học người Pháp, Laplace. Ông đã nói, nếu tại một thời điểm, chúng ta biết vị trí và vận tốc của tất cả các hạt của vũ trụ, vậy chúng ta có thể tính toán hoạt động của chúng tại bất kì một thời điểm nào khác, trong quá khứ hay tương lai. Đã có một câu chuyện vui, rằng khi Napoleon hỏi Laplace Chúa đóng vai trò gì trong mối quan hệ này, Laplace đã trả lời: “Thưa ngài, tôi chưa bao giờ quan tâm tới giả thiết đó.” Tôi không nghĩ rằng Laplace ý nói rằng Chúa không tồn tại. Chỉ là Chúa đứng ngoài, để không phá vỡ các quy tắc của khoa học. Đó chắc chắn là quan điểm của mọi nhà khoa học. Một định luật khoa học sẽ không còn là một định luật khoa học, nếu nó chỉ áp dụng khi một đấng tối cao nào đó quyết định không can thiệp và để mặc mọi việc diễn ra.
Ý tưởng rằng trạng thái của vũ trụ tại một thời điểm quyết định trạng thái của tất cả các thời điểm còn lại đã trở thành một nguyên lí trung tâm của khoa học, kể từ thời của Laplace. Nó gợi ý rằng chúng ta có thể đoán được tương lai, ít ra là trên lý thuyết. Tuy nhiên, trong thực tế, khả năng dự đoán tương lai của chúng ta đã bị hạn chế một cách nghiêm trọng bởi độ phức tạp của các phương trình, và bởi việc các phương trình thường có một thành phần gọi là sự mất trật tự. Như những người đã xem bộ phim Công viên kỉ Jura sẽ hiểu, điều này có nghĩa là một sự rối loạn nhỏ ở một nơi có thể gây ra một thay đổi lớn ở một nơi khác. Một con bướm vỗ cánh cũng có thể gây mưa ở Công viên Trung tâm, New York. Vấn đề là, điều này không có tính lặp lại. Lần tiếp theo con bướm vỗ cánh, rất nhiều các yếu tố khác sẽ trở nên khác biệt, và những điều này cũng sẽ gây ảnh hưởng. Đó là lí do tại sao dự báo thời tiết lại không đáng tin cậy như vậy.
Bất chấp những khó khăn thực tiễn, thuyết khoa học tiền định vẫn là niềm tin chính thức xuyên suốt thế kỉ XIX. Tuy nhiên, vào thế kỉ XX, đã có hai sự phát triển chỉ ra rằng giấc mơ của Laplace để dự đoán trọn vẹn tương lai, không thể được thực hiện. Phát triển thứ nhất là ở cơ học lượng tử. Lý thuyết này lần đầu tiên được đề xuất bởi nhà vật lý học người Đức, Max Planck, như một giả thiết để giải thích một nghịch lý nổi tiếng. Theo những quan niệm của thời Laplace vào thế kỉ XIX, một vật thể nóng, ví dụ như một mảnh kim loại nóng đỏ, sẽ phát ra phóng xạ. Nó sẽ mất năng lượng ở dạng sóng vô tuyến, tia hồng ngoại, ánh sáng nhìn thấy, tia cực tím, tia X và tia gamma voi cùng một vận tốc không thay đổi. Điều này không chỉ có nghĩa là tất cả chúng ta sẽ cùng chết vì ung thư da, nó còn có nghĩa là tất cả mọi vật thể trong vũ trụ có cùng chung nhiệt độ, và điều này hiển nhiên sai. Tuy nhiên, Planck đã chứng minh chúng ta có thể thoát khỏi thảm hoạ này, nếu chúng ta từ bỏ quan niệm rằng lượng phóng xạ có thể mang bất cứ giá trị nào, và thay vào đó phát biểu rằng phóng xạ tồn tại duy nhất theo phần hay định lượng của một định mức nhất định. Điều này gần giống như việc nói bạn không thể mua đường bừa bãi trong siêu thị, mà phải mua theo từng cân. Năng lượng ở trong từng phần hay định lượng này sẽ cao hơn đối với tia cực tím và tia X, và thấp hơn đối với tia hồng ngoại và ánh sáng nhìn thấy. Vì vậy, trừ khi một vật thể có nhiệt độ rất cao, ví dụ như Mặt Trời, nó sẽ không có bao giờ có đủ năng lượng để phát ra một chút năng lượng nào ở dạng tia cực tím hoặc tia X. Đây là lí do vì sao chúng ta không bị cháy nắng vì một tách cà phê.
Planck coi ý tưởng về những phần hoặc định lượng này đơn thuần chỉ là một mẹo toán học mà không có bất cứ giá trị nào trong thực tế. Tuy nhiên, các nhà vật lý đang bắt đầu tìm thấy những hiện tượng khác chỉ có thể được giải thích dưới dạng các đại lượng mang các giá trị hằng số nhất định, chứ không phải những đại lượng biến thiên. Ví dụ, nghiên cứu đã chứng minh các hạt cơ sở hoạt động giống như những con quay, quay xung quanh một trục nhất định. Tuy nhiên vận tốc quay không thể nhận một giá trị bất kì. Nó phải là một bội số của một đơn vị nhất định. Vì đơn vị này là rất nhỏ, chúng ta thường không để ý một con quay thường quay chậm lại qua một chuỗi các hành động diễn ra rất chóng vánh gồm các bước riêng biệt, thay vì một quá trình liên tiếp. Nhưng với những con quay rất nhỏ như các nguyên tử, bản chất gián đoạn của sự quay này là rất quan trọng.
Chỉ một thời gian sau mọi người mới nhận ra mối liên hệ giữa lý thuyết về đơn vị năng lượng ở trên và thuyết khoa học tiền định. Năm 1926, Werner Heisenberg, một nhà vật lý học người Đức khác, đã chứng minh rằng chúng ta không thể xác định đồng thời vị trí và vận tốc của một hạt một cách chính xác. Để biết được một hạt đang ở đâu, nó phải được chiếu sáng. Nhưng theo kết quả nghiên cứu của Planck, chúng ta không thể dùng một lượng ánh sáng bất kì. Chúng ta phải sử dụng ít nhất một đơn vị năng lượng ánh sáng. Nhưng việc này sẽ làm ảnh hưởng tới hạt chúng ta đang nghiên cứu, và khiến nó thay đổi vận tốc một cách không thể đoán trước. Nó là một tình huống khá bất lực: chúng ta càng cố đo đạc vị trí của hạt một cách càng chính xác, chúng ta sẽ càng không thể đo được vận tốc của hạt, và ngược lại. Điều này đã được trình bày ở Nguyên lý bất định của Heisenberg; tích của tính bất định trong vị trí của hạt và tính bất định trong vận tốc của nó sẽ luôn luôn lớn hơn thương số giữa khối lượng của hạt và một đại lượng được gọi là hằng số của Planck.
Laplace hoài bão về thuyết khoa học tiền định đòi hỏi chúng ta phải biết tất cả các vị trí và vận tốc của tất cả các hạt trong vũ trụ vào bất cứ thời điểm nào. Vì vậy, nó đã bị phản chứng một cách nghiêm trọng bởi nguyên lý bất định của Heisenberg. Làm sao chúng ta có thể dự đoán được tương lai, khi chúng ta không thể đo đạc một cách chính xác vị trí và vận tốc của tất cả các hạt vào thời điểm hiện tại. Dù chúng ta có một hệ thống máy móc hiện đại đến đâu, nếu chúng ta chỉ có những dữ liệu sai lệch, chúng ta sẽ luôn nhận được những dự đoán sai lệch.
Einstein rất không hài lòng về tính bất định này của tự nhiên. Quan điểm của ông đã được thể hiện rất rõ qua câu nói nổi tiếng: “Chúa không chơi súc sắc.” Ông cảm thấy sự khó đoán biết chỉ là tạm thời: nhưng còn một kha năng ẩn đằng sau, khi tất cả các hạt sẽ được xác định chính xác vị trí và vận tốc, và khả năng này sẽ phát triển dựa trên thuyết khoa học tiền định của Laplace. Chúa có thể đã biết về thực tế này, nhưng bản chất lượng tử của ánh sáng sẽ cản trở chúng ta nhìn thấy nó, trừ khi là xuyên qua một thấu kính mờ mịt.
Quan điểm của Einstein đã trở thành điều mà ngày nay được gọi là một thuyết biến số ẩn. Thuyết biến số ẩn có lẽ là cách rõ ràng nhất để áp dụng nguyên lý bất định vào vật lý. Thuyết này dựng lên nền tảng của vũ trụ nhìn qua con mắt của nhiều nhà khoa học và triết gia khoa học. Nhưng thuyết biến số ẩn này là sai. John Bell, nhà vật lý người Anh người vừa qua đời cách đây không lâu đã chế tạo một thí nghiệm có thể nhận biết được các biến số ẩn. Khi thí nghiệm được tiến hành rất kĩ lưỡng, kết quả không phù hợp với sự tồn tại của các biến số ẩn. Vì vậy, nó trở nên rất rõ ràng rằng kể cả Chúa cũng nằm trong tầm ảnh hưởng của nguyên lý bất định, và Người không thể biết vị trí và vận tốc của một hạt. Vậy nên Chúa không thể không chơi súc sắc với vũ trụ. Tất cả các bằng chứng đều chỉ ra rằng Người là một con bạc không biết mệt mỏi, liên tục ném súc sắc bất cứ khi nào có cơ hội.
Các nhà khoa học khác có một quan điểm khá thoải mái so với Einstein trong việc thay đổi quan điểm khoa học tiền định của thế kỉ XIX. Một lý thuyết mới, được gọi là cơ học lượng tử, đã được giới thiệu bởi Heisenberg, nhà vật lí học người Úc Erwin Schroedinger và nhà vật lý người Anh Paul Dirac. Dù cơ học lượng tử đã có mặt gần 70 năm, thuyết này vẫn không được hiểu rõ hay được tôn trọng, kể cả từ phía những người sử dụng nó để tính toán các phương trình. Tuy vậy, tất cả chúng ta đều nên chú ý đến thuyết này, vì nó mang lại một bức tranh hoàn toàn khác biệt về vũ trụ hữu hình, và về thực tế. Trong cơ học lượng tử, vận tốc và vị trí của các hạt không được xác định rõ. Thay vào đó, chúng được biểu diễn bởi các hàm sóng. Đại lượng này mang một giá trị khác nhau tại mỗi điểm của vũ trụ. Độ lớn của hàm sóng cung cấp xác suất hạt đang nghiên cứu sẽ được tìm thấy tại một điểm. Vận tốc hàm sóng biến thiên từ điểm này tới điểm khác cung cấp vận tốc của hạt đó. Một hạt có thể có một hàm sóng đột ngột đạt cực đại trong một vùng nhỏ. Điều này nghĩa là tính khó đoán biết được tại vị trí đó là rất nhỏ. Nhưng hàm sóng sẽ biến thiên rất nhanh chóng ở gần đỉnh, lên ở một bên, và xuống ở bên còn lại. Vì thế tính khó đoán biết được của vận tốc sẽ trở nên rất lớn. Tương tự, một hạt khác có thể có một hàm sóng với tính bất định ở vận tốc rất nhỏ, nhưng tính bất định ở vị trí rất lớn.
Một hàm sóng cung cấp tất cả những điều chúng ta cần biết về một hạt: vị trí và vận tốc của nó. Nếu chúng ta biết hàm sóng tại một thời điểm, vậy giá trị của nó tại các thời điểm khác có thể được xác định bằng phương trình Schroedinger. Vì vậy, vẫn tồn tại một yếu tố tiền định nhất định, nhưng không chính xác như điều Laplace đã hình dung. Thay vì có thể dự đoán vị trí và vận tốc của các hạt, tất cả những gì chúng ta có thể dự đoán chỉ là hàm sóng. Điều này có nghĩa là chúng ta chỉ có thể dự đoán một nửa những gì chúng ta có thể dự đoán, theo như quan điểm của thế kỉ XIX.
Dù cơ học lượng tử dẫn đến sự không chắc chắn, khi chúng ta cố gắng dự đoán cả vị trí và vận tốc, chúng ta vẫn có thể dự đoán một cách chắn chắn một sự kết hợp của vận tốc và vị trí. Tuy nhiên, ngay cả khả năng chắc chắn này vẫn bị đe doạ bởi những phát hiện gần đây. Vấn đề nảy sinh vì trọng lực có thể làm cong không gian và thời gian, vì vậy sẽ tồn tại những khu vực chúng ta không thể quan sát.
Năm 1799, Laplace cũng đã viết một bài nghiên cứu về việc một số ngôi sao có thể có một trọng trường mạnh tới mức tới ánh sáng cũng không thể thoát ra ngoài, mà sẽ bị kéo trở về phía ngôi sao. Ông thậm chí còn tính toán được rằng một ngôi sao với kích thước tương đương với Mặt Trời, nhưng 250 lần lớn hơn, vẫn sẽ có tính chất này. Nhưng dù Laplace có nhận ra hay không, ý tưởng tương tự cũng đã được đề xuất 16 năm trước bởi một giáo sư từ Cambridge, John Mitchell. Cả Mitchell và Laplace nghĩ rằng ánh sáng được tạo nên bởi các hạt, giống như các quả đạn đại bác, vì vậy có thể bị làm giảm vận tốc bởi trọng lực, và bị kéo về phía các ngôi sao. Nhưng một thí nghiệm nổi tiếng tiến hành bởi hai người Mỹ, Michelson và Morley vào năm 1887 đã chứng minh rằng ánh sáng luôn luôn đi với một vận tốc là 186000 dặm một giây, không kể nó xuất phát từ đâu. Vì vậy trọng lực không thể làm ánh sáng di chuyển chậm lại, hay thậm chí là di chuyển ngược lại.
Điều này là bất khả thi, theo như những quan điểm được chấp nhận thời bấy giờ về không gian và thời gian. Nhưng vào năm 1915, Einstein đưa ra Thuyết Tương đối rộng. Ông chứng minh rằng không gian và thời gian không phải là những chủ thể tồn tại riêng rẽ và độc lập, thay vào đó, chúng chỉ là nhữg hướng đi khác nhau của một chủ thể chung gọi là không - thời gian. Không - thời gian không phẳng, mà bị bẻ cong bởi các vật chất và năng lượng ở trong nó. Để hiểu được điều này, chúng ta hãy hình dung một tấm cao su với một quả cân được đặt trên nó để đại diện cho một ngôi sao. Quả cân này sẽ tạo ra một chỗ lõm ở trên tấm cao su, và sẽ khiến những vùng gần quả cân bị bẻ cong, thay vì phẳng. Nếu chúng ta thả những hòn bi ở trên tấm cao su, hướng dịch chuyển của chúng sẽ bị cong, thay vì là những đường thẳng. Vào năm 1919, một đoàn thám hiểm người Anh đã tới Tây Phi đã quan sát ánh sáng từ các ngôi sao từ xa, băng qua Mặt trời trong một dịp nhật thực. Họ đã tìm ra rằng hình ảnh của các ngôi sao đã bị dịch chuyển nhẹ khỏi vị trí bình thường của chúng. Điều này phản ánh rằng đường đi của ánh sáng từ các ngôi sao đã bị bẻ cong bởi vùng không gian - thời gian bị bẻ cong xung quanh Mặt trời. Thuyết tương đối đã được chứng minh là đúng.
Hãy hình dung rằng chúng ta tiếp tục đặt thêm nhiều quả cân nặng hơn trên tấm cao su. Chúng sẽ làm tấm cao su tiếp tục bị oằn xuống. Cuối cùng, tới một trọng lượng và kích thước nhất định, chúng sẽ tạo thành một cái hố không đáy ở tấm cao su, một cái hố mà tất cả các hạt đều có thể đi vào, nhưng không hạt nào có thể đi ra.
Điều xảy ra trong không - thời gian theo Thuyết Tương đối cũng tương tự. Một ngôi sao sẽ bẻ cong và làm biến dạng không gian - thời gian xung quanh nó, và độ biến dạng sẽ tỉ lệ thuận với trọng lượng và độ rắn của ngôi sao. Nếu một ngôi sao khổng lồ, với tất cả nguyên liệu hạt nhân của nó đã bị đốt cháy, hạ nhiệt độ và co lại quá một kích thước nhất định, nó sẽ tạo ra một cái hố không đáy giữa không gian - thời gian, và ánh sáng không thể thoát khỏi cái lỗ này. Những cái hố này được gọi là Hố đen bởi nhà vật lý người Mỹ John Wheeler, một trong những nhà khoa học đầu tiên nhận ra tầm quan trọng cũng như những vấn đề hố đen mang lại. Cái tên này đã được lưu truyền nhanh chóng. Với những người Mỹ, nó gợi về một thứ gì đó tối tăm và bí ẩn, trong khi với người Anh, có một chút gì đó dư âm về Hố đen của Calcutta. Nhưng người Pháp nghĩ rằng cái tên này mang một chút gì đó khiếm nhã. Hàng năm trời, họ từ chối không sử dụng cái tên này, lấy lí do rằng nó quá thô tục. Nhưng cuối cùng, họ cũng phải đầu hàng. Ai có thể tảng lờ một cái tên nổi tiếng như vậy?
Ngày hôm nay, chúng ta đã thu thập được nhiều quan sát chứng minh sự tồn tại của hố đen trong nhiều sự vật, từ những hệ sao đôi, tới trung tâm những thiên hà. Vì vậy hôm nay số đông chúng ta chấp nhận rằng hố đen có tồn tại. Nhưng ngoài nguồn tài nguyên dồi dào cho các phim khoa học viễn tưởng, hố đen còn có một tầm quan trọng lớn đối với thuyết tiền định. Câu trả lời nằm trong một cái hình dán tôi có trong cánh cửa trước phòng làm việc: Không ai có thể quan sát hố đen. Không chỉ các hạt và các nhà du hành bất hạnh bị hút vào một hố đen không bao giờ ra ngoài nữa, cả những thông tin họ mang lại cũng bị thất lạc vĩnh viễn, ít nhất là đối với địa phận của chúng ta trong vũ trụ. Chúng ta có thể ném những ti vi, nhẫn kim cương, và kể cả những kẻ thù đáng ghét nhất của chúng ta vào một hố đen, và tất cả những gì cái hố đen sẽ ghi nhớ là tổng khối lượng, và trạng thái quay. John Wheeler gọi điều này là: “Một cái hố đen không có tóc.” Đối với người Pháp, câu nói này chỉ khẳng định những nghi ngờ của họ là đúng.
Khi chúng ta nghĩ rằng hố đen sẽ tồn tại mãi mãi, không mấy ai để tâm đến sự thất lạc thông tin này. Một người có thể nói rằng các thông tin vẫn tồn tại bên trong một hố đen. Vấn đề chỉ là chúng ta không thể xác định được nó từ bên ngoài. Tuy nhiên bức tranh đã thay đổi hoàn toàn, khi tôi phát hiện ra là hố đen không hoàn toàn đen. Cơ học lượng tử đã chứng minh chúng phải phát ra bức xạ và các hạt ở một tốc độ nhất định. Kết quả này là một ngạc nhiên hoàn toàn cho tôi và tất cả mọi người. Nhưng khi suy nghĩ lại, nó thật rõ ràng. Khi chúng ta nghĩ tới một khoảng không gian trống, nó không hẳn trống, mà chứa đầy những cặp hạt và phản hạt. Hai loại này tồn tại đồng thời ở một số điểm của không gian và thời gian, di chuyển ra xa nhau, sau đó đâm vào nhau và huỷ diệt lẫn nhau. Các hạt và phản hạt này xảy ra bởi vì một trường, ví dụ như trường có chứa ánh sáng và trọng lực, không thể mang giá trị bằng không. Điều này có nghĩa là giá trị của một trường sẽ có một vị trí nhất định (tại không) và một vận tốc nhất định của dịch chuyển (cũng là không). Điều này sẽ phản chúng lại nguyên lý bất định, cũng như một hạt không thể có đồng thời một vị trí nhất định và một vận tốc nhất định. Bởi vậy tất cả các trường đều phải có sự dao động chân không. Bởi vì bản chất lượng tử của tự nhiên, chúng ta có thể hiểu những dao động chân không này dưới dạng các hạt và phản hạt như tôi vừa miêu tả.
Những cặp hạt và phản hạt này xảy ra với mọi sự biến thiên của các hạt cơ bản. Chúng được gọi là các hạt ảo, bởi vì chúng xảy ra cả ở trong khoảng chân không, và chúng không thể được chính xác đo đạc bởi các thiết bị dò hạt..Tuy nhiên, kết quả gián tiếp của các hạt ảo, hoặc của các dao đọng chân không đã được quan sát thấy qua nhiều thí nghiệm, và sự tồn tại của chúng được chứng minh.
Với một cái hố đen ở gần, một phần tử của cặp hạt - phản hạt có thể bị hút vào hố, để lại phần tử kia không còn là một cặp. Phần tử này cũng có thể rơi vào hố, nhưng nó cũng có thể trốn một quãng xa khỏi cái hố, nơi nó sẽ trở thành một hạt thật, có thể được nhận dạng bởi các thiết bị dò hạt. Đối với một người ở rất xa hố đen, hạt này sẽ được coi như đã bị hố đen thải ra.
Giải thích về việc hố đen thực chất không thực sự đen này đã làm sáng tỏ rằng sự thải các hạt sẽ phụ thuộc vào độ lớn của hố đen, và tốc độ quay của nó. Nhưng bởi vì hố đen không có tóc, theo cách nói của Wheeler, phóng xạ sẽ không phụ thuộc vào những vật thể gì bị hút vào hố đen. Nó không tạo ra sự khác biệt nếu chúng ta ném vào đó ti vi, nhẫn kim cương, hoặc kẻ thù của chúng ta. Những thứ được thải ra sẽ luôn luôn giống nhau.
Mối liên hệ giữa những lập luận này và thuyết tiền định là những gì bài giảng này xoay quanh. Điều nó chỉ ra là có rất nhiều giai đoạn ban đầu, chứa ti vi, nhẫn kim cương, và cả con người, và chúng tiến hoá để trở thành cùng một trạng thái ban đầu, ít nhất ở bên ngoài hố đen. Nhưng ở trong Laplace viễn cảnh của thuyết khoa học tiền định, có một mối quan hệ một một giữa giai đọan đầu tiên và giai đoạn cuối cùng. Nếu chúng ta biết trạng thái của vũ trụ vào một thời điểm trong quá khứ, chúng ta có thể dự đoán tương lai. Tương tự, nếu chúng ta biết trạng thái của nó ở tương lai, chúng ta cũng có thể dự đoán trạng thái của nó trong quá khứ. Sự phát triển của thuyết lượng tử vào những năm 1920 đã giảm thiểu những khả năng chúng ta có thể dự đoán xuống một nửa, nhưng nó vẫn để lại một mối liên hệ giữa các trạng thái của vũ trụ ở những thời điểm khác nhau. Nếu chúng ta biết hàm sóng ở một thời điểm, chúng ta có thể tính toán nó tại bất kì thời điểm nào.
Tuy nhiên, với hố đen, mọi việc đều thay đổi. Chúng ta sẽ luôn kết thúc với cùng một trạng thái ở bên ngoài hố đen, bất chấp chúng ta ném vật gì vào, chỉ cần chúng có chung trọng lượng. Vì vậy, không tồn tại một mối quan hệ một một nào giữa giai đoạn đầu tiên, và giai đoạn cuối cùng bên ngoài hố đen. Nhưng vẫn tồn tại một mối quan hệ một một giữa trạng thái đầu tiên và trạng thái cuối cùng ở cả bên ngoài và bên trong hố đen. Nhưng điều đáng chú ý là sự phát ra các hạt và phóng xạ của các hố đen sẽ khiến cái hố này mất dần khối lượng, và trở nên nhỏ hơn. Cuối cùng, cái hố đen sẽ đạt mức không khối lượng, và sẽ biến mất hoàn toàn. Tới lúc đó điều gì sẽ xảy ra với tất cả những vật thể đã rơi vào bên trong hố, và tất cả những người đã nhảy vào, hay bị đẩy vào? Họ không thể ra ngoài được, bởi vị không còn đủ khối lượng hay năng lượng bên trong hố đen để gửi họ ra ngoài. Họ có thể được tới một vũ trụ khác, nhưng điều này không tạo ra một khác biệt lớn lao đối với chúng ta, những người đủ sáng suốt để không nhảy vào một hố đen. Ngay cả thông tin về việc những gì đã rơi vào bên trong hố đen, cũng không thể được tiết lộ khi hố đen biến mất. Thông tin không thể được vận chuyển một cách miễn phí, những người phải trả hoá đơn điện thoại sẽ hiểu điều này. Thông tin đòi hỏi năng lượng để lưu thông, và sẽ không còn đủ năng lượng còn lại khi hố đen biến mất.
Điều việc này chỉ ra là thông tin sẽ bị thất lạc khỏi miền của chúng ta trong vũ trụ khi hố đen được tạo ra và biến mất. Sự thất lạc thông tin này có nghĩa là chúng ta chỉ dự đoán được còn ít hơn chúng ta nghĩ, dựa trên thuyết lượng tử. Trong thuyết lượng tử, không ai có thể dự đoán một cách chắc chắn cả vị trí và vận tốc của một hạt. Nhưng vẫn còn một sự kết hợp của vị trí và vận tốc có thể được dự đoán. Trong trường hợp của một hố đen, sự dự đoán này đòi hỏi cả hai phần tử của một cặp hạt. Nhưng chúng ta chỉ có thể đo đạc hạt được thải ra. Không có cách nào trên lý thuyết để chúng ta có thể đo đạc được hạt đã rơi vào bên trong hố đen. Vì vậy, với tất cả những dự đoán của chúng ta, nó có thể mang bất kì hình dạng nào. Điều này có nghĩa là chúng ta không thể có một dự đoán chắc chắn nào về hạt được thải ra khỏi hố. Chúng ta có thể tính toán xác suất hạt này có vị trí này hay vận tốc nọ. Nhưng chúng ta không thể dự đoán một sự kết hợp nào của vị trí và vận tốc của chỉ một hạt, vì vị trí và vận tốc của hạt này sẽ dựa vào hạt còn lại, hạt mà chúng ta không thể quan sát. Vì vậy, có vẻ Einstein đã rất sai lầm khi ông nói Chúa không chơi súc sắc. Chúa không chỉ chắc chắn chơi súc sắc, ông còn thỉnh thoảng làm chúng ta hoang mang bằng cách ném những quân súc sắc vào những nơi chúng không thể bị nhìn thấy.
Rất nhiều nhà khoa học cũng giống như Einstein, ở việc họ có một sự gắn bó tình cảm sâu sắc với thuyết tiền định. Khác Einstein, họ chấp nhất sự giảm thiểu khả năng dự đoán của chúng ta đã được chứng minh bởi thuyết lượng tử. Nhưng điều đó đã là quá đủ. Họ không thích giảm thiểu hơn nữa, như những gì hố đen hàm ý. Vì vậy, họ nói rằng thông tin không thực sự bị thất lạc ở sâu bên trong hố đen. Nhưng họ cũng chưa tìm ra bất kì một cách thức nào để mang thông tin đó trở lại. Nó chỉ là một hi vọng phù phiếm khi tin rằng vũ trụ là tiền định theo cách Laplace đã nghĩ. Tôi cảm thấy những nhà khoa học này đã không học tập được từ những bài học kinh nghiệm của lịch sử. Vũ trụ không bao giờ hoạt đọng dựa trên những quan điểm chúng ta đã tiếp nhận. Nó luôn luôn làm chúng ta ngạc nhiên.
Một người có thể không nghĩ việc thuyết tiền định bị phản chứng ở gần hố đen là một việc có tầm quan trọng lớn. Chúng ta đã chắc chắn về ít nhất một vài năm ánh sáng từ một hố đen ở bất kì độ lớn nào. Nhưng Thuyết không thể biết hàm ý rằng mọi miền của vũ trụ đều chứa đấy những hố đen ảo tí hon, những vật biến mất rồi lại tái sinh liên tục. Một người có thể sẽ nghĩ rằng hạt và thông tin có thể rơi vào bên trong những hố đen này, và bị thất lạc. Vì những hố đen ảo này quá nhỏ bé, một trăm tỉ tỉ lần nhở hơn hạt nhân của một nguyên tử, tốc độ thông tin bị thất lạc sẽ rất nhỏ. Nhưng ở trong những điều kiện khắc nghiệt, ví dụ như ở vũ trụ sơ khai, hoặc ở trong một sự va chạm giữa các hạt mang lại nguồn năng lượng cao, có thể tồn tại những sự mất mát và thất lạc lớn về thông tin. Điều này sẽ dẫn tới việc sự tiến hoá của vũ trụ không thể dự đoán được.
Tóm lại, những điều tôi đang trình bày, là liệu vũ trụ sẽ tiến hoá ở một cách bất kì, hay nó là tiền định. Quan điểm cổ, đề xuất bởi Laplace, là những chuyển động trong tương lai của các hạt là hoàn toàn được định trước, nếu chúng ta biết vị trí và vận tốc của nó vào một thời điểm. Quan điểm này phải được sửa đổi, khi Heisenberg đề xuất Nguyên lý bất định, chỉ ra rằng chúng ta không thể biết cả vị trí và vận tốc của hạt một cách chính xác. Tuy nhiên, chúng ta vẫn có thể dự đoán một sự kết hợp của vận tốc và vị trí. Nhưng ngay cả khả năng dự đoán nhỏ hẹp này cung đã biến mất, khi những hệ quả của hố đen được đưa vào vấn đề. Sự mất mát của các hạt và thông tin sâu bên trong hố đen có nghĩa là các hạt bị thải ra ngoài là hoàn toàn ngẫu nhiên. Chúng ta có thể tính toán các xác suất, nhưng chúng ta không thể có một dự đoán chính xác nào. Vì vậy, tương lai của vũ trụ không hoàn toàn bị kiểm soát bởi các quy tắc khoa học hay trạng thái hiện tại của nó như Laplace đã nghĩ. Chúa vẫn còn một số mẹo nữa trong tay Người.
Đó là tất cả những gì tôi muốn nói cho ngày hôm nay. Xin cảm ơn.
Vui lòng ghi rõ tên dịch giả cũng như nguồn
khi bạn sử dụng bài viết này! |
440 năm ngày sinh Kepler | https://thienvanvietnam.org/index.php?option=com_content&view=article&id=384:440-nam-ngay-sinh-kepler&catid=27&Itemid=135 | Hôm nay, ngày 27 tháng 12 là kỉ niệm 440 năm ngày sinh của nhà thiên văn học người Đức Johannes Kepler. Ông là nhà thiên văn tiên phong đã chứng minh những quan điểm của Galileo Galilei bằng các định luật mô tả chính xác quĩ đạo của các hành tinh, và suốt nhiều ngày của năm 2011 này chúng ta đã luôn nghe thấy cái tên của ông ...
Johanne Kepler sinh ngày 27 tháng 12 năm 1571 trong một gia đình nghèo, tuy nhiên niềm say mê Thiên văn đã dẫn ông trở thành một nhà khoa học. Ông làm thầy giáo về toán học, vật lý tại Áo từ năm 1593. Từ năm 1594, Kepler bắt đầu giảng về Thiên văn và luôn là người ủng hộ mô hình nhật tâm của Nicolas Copernics.
Năm 1600, Kepler làm việc với Tycho Brahe khi đó là một nhà Thiên văn rất nổi tiếng. Năm 1601, Brahe mất và Kepler tiếp tục các nghiên cứu do Brahe để lại.
Các nghiên cứu và quan sát của Brahe về chuyển động của Sao Hỏa đã giúp Kepler đưa ra 3 định luật chuyển động hành tinh, đặt nền móng đầu tiên cho môn cơ học Thiên thể (Celestial Mechanics).
Tháng 3 năm 2009, NASA đưa lên quĩ đạo một kính thiên văn mới với nhiệm vụ quan sát hơn 160.000 ngôi sao trong thiên hà của chúng ta để tìm kiếm các hành tinh có quĩ đạo và các điều kiện gần giống Trái Đất. Để vinh danh nhà khoa học đã có công tìm ra các qui luật đầu tiên về chuyển động hành tinh, chương trình này đã được lấy theo tên của ông. Những ngày cuối năm 2011 này khi gần tới ngày sinh của nhà bác học, chúng ta đã không ngừng thấy những thông tin về các phát hiện của kính thiên văn không gian Kepler, việc tìm kiếm những hành tinh gần giống Trái Đất dù chưa thành công nhưng cái đích có vẻ như đã không còn là quá xa nữa.
Nhân kỉ niệm 440 năm ngày sinh của Johannes Kepler, chúng ta hãy dành 1 phút để tưởng nhớ tới ông!
|
Có phải ngày tận thế của chúng ta sẽ đến vào năm 2012? | https://thienvanvietnam.org/index.php?option=com_content&view=article&id=116&Itemid=178 | |
Khó quan sát mưa sao băng Lyrids | https://thienvanvietnam.org/index.php?option=com_content&view=article&id=878:kho-quan-sat-mua-sao-bang-lyrids-1&catid=27&Itemid=135 | Mưa sao băng Lyrids là trận mưa sao băng nhỏ diễn ra trong khoảng từ 16 đến 25 tháng 4 hàng năm với cực điểm rơi vào khoảng đêm 22, 23 cùng tháng. Ở các khu vực ít ô nhiễm khí quyển và thời tiết thuận lợi, người yêu thích thiên văn sẽ có cơ hội quan sát hiện tượng này. Mặc dù vậy, với điều kiện thời tiết hiện tại, hầu hết Việt Nam chúng ta khó quan sát được Lyrids năm 2015 này.
Mưa sao băng Lyrids có nguồn gốc từ các mảnh vụn của sao chổi Thatcher, một sao chổi có chu kì khoảng 415 năm trên quỹ đạo quanh Mặt Trời, khi nó đi ngang qua quĩ đạo Trái Đất nhiều năm trước. Tháng 4 hàng năm khi Trái Đất đi qua vùng quĩ đạo có chứa những mảnh vụn này, các thiên thạch lao vào khí quyển Trái Đất và bốc cháy thành những vệt sáng dài trên bầu trời mà chúng ta gọi là sao băng.
Lyrids là một trận mưa sao băng nhỏ, ngay cả với điều kiện thời tiết tốt và ở các vùng có điều kiện khí quyển ít ô nhiễm thì người quan sát cũng chỉ có thể thấy khoảng 20 sao băng mỗi giờ. Vì lí do này, hiện tượng trên sẽ khó được quan sát tại các thành phố lớn hoặc gần các khu dân cư, khu công nghiệp, công trường xây dựng ..., độc giả nên lưu ý để dựa vào vị trí địa lý của mình cũng như theo dõi thời tiết trước khi quyết định theo dõi hiện tượng.
Thời điểm lý tưởng nhất để quan sát hiện tượng này là sau nửa đêm ngày 22, tức rạng sáng ngày 23 tháng 4. Dù vậy, như đã nói trên, thời tiết đóng vai trò rất quan trọng. Mặc dù Trăng đầu tháng tạo điều kiện rất thuận lợi cho việc quan sát nhưng những ngày này một phần diện tích rất lớn ở Việt Nam chúng ta có lượng mây lớn, ngăn cản việc quan sát. Do vậy, về cơ bản hiện tượng này không có khả năng quan sát ở các đô thị lớn mà chỉ có thể được nhìn thấy ở các vùng ngoại ô, nông thôn, ... có mức độ ô nhiễm ánh sáng rất thấp. Và tất nhiên dù ở nông thôn hay núi cao, hiện tượng cũng không thể quan sát được nếu trời có mây mù.
Đúng như cái tên của nó, mưa sao băng Lyrids có trung tâm là khu vực chòm sao Lyra (cây đàn lire, một số tài liệu tiếng Việt dịch là "thiên cầm"). Vào thời điểm như nêu trên, chòm sao này đã nằm cao trên bầu trời phía Đông. Nếu chưa quen với việc xác định chòm sao này, bạn có thể nhận ra nó bằng cách tìm 3 ngôi sao sáng nhất bầu trời phía Đông, lập thành một tam giác lớn gồm ba đỉnh là các sao Vega, Altair và Deneb như trong hình dưới. Tam giác này được gọi là tam giác mùa hạ, nó rất dễ nhận ra khi trời ít mây. Đỉnh cao nhất của tam giác là sao Vega (gọi là sao Chức Nữ trong tiếng Việt), ngôi sao sáng nhất của chòm sao Lyra. Hầu hết các sao băng của Lyrids tập trung quanh khu vực này.
Để việc quan sát hiệu quả, xin chú ý vài điều sau:
- Bạn không cần (và không nên dùng) kính thiên văn hay bất cứ dụng cụ nào, hãy dùng mắt thường để quan sát.
- Lưu ý điều kiện thời tiết, bạn chỉ có thể thấy sao băng nếu trời không mây. Một chú ý nhỏ như sau có thể giúp bạn: hãy đứng khoảng 5 phút ngoài trời cho mắt bạn quen dần với bóng tối. Khi đó bạn sẽ dễ dàng thấy các sao trên bầu trời. Nếu bạn có thể đếm được trên 50 ngôi sao, và có thể thấy chòm sao Lyra hoặc tối thiểu là ngôi sao Vega như hướng dẫn trên thì bạn sẽ có thể dễ dàng quan sát các sao băng của hiện tượng. Ngược lại nếu bạn không thể thấy những ngôi sao bình thường thì có nghĩa là mây và khí quyển ô nhiễm đã cản tầm nhìn của bạn, và bạn sẽ không thấy được sao băng.
- Chọn địa điểm phù hợp, hạn chế ô nhiễm không khí và không bị ánh sáng mạnh chiếu thẳng vào mắt (Ví dụ như đèn trên các cột đèn đường, đèn từ các công trường xây dựng ...) và tất nhiên vẫn phải bảo đảm an toàn cho bản thân bạn
- Cuối cùng khi đã chuẩn bị đầy đủ các điều kiện, hãy thật kiên nhẫn, đừng rời mắt khói bầu trời, ngay cả vào lúc cực điểm có thể bạn sẽ phải nhìn liên tục tới 10 phút mới thấy một vệt sao băng lao qua.
(Chủ tịch Hội thiên văn học trẻ Việt Nam) |
Danh sách 88 chòm sao trong thiên văn học | https://thienvanvietnam.org/index.php?option=com_content&view=article&id=177:danh-sach-88-chom-sao-trong-thien-van-hoc&catid=9&Itemid=148 | Danh sách chính thức của thiên văn học hiện đại hiện nay gồm 88 chòm sao. Đây là các chòm sao được qui ước bởi Hiệp hội thiên văn quốc tế, và được sử dụng rộng rãi trong thiên văn học và vật lý thiên văn hiện đại. Khác với trước kia cũng như nhiều người còn hiểu nhầm, 88 chòm sao này không đơn giản chỉ là đường nối giữa các ngôi sao mà chúng tương ứng với 88 vùng trời có diện tích xác định trên thiên cầu, mỗi vùng trời chứa một chòm sao. Tên các chòm sao được thống nhất dung trên toàn thế giới là tên bằng tiếng Latin.
Dưới đây là danh sách 88 chòm sao của thiên văn học hiện đại, bên cạnh tên nguyên bản Latin là tên thường gọi thông dụng ở Việt Nam (Hán - Việt) và tên tiếng Việt với ý nghĩa chính xác (do nhiều tên Hán-Việt thông dụng phản ánh không đúng ý nghĩa ban đầu của chòm sao). Độc giả đọc thêm bài viết sau về cách sử dụng tên các chòm sao để tránh các nhầm lẫn đáng tiếng: "
"
(Theo phát âm tiếng Anh)
1
And
Tiên nữ
(công chúa) Andromeda
2
Ant
Máy bơm
Máy bơm
3
Aps
Chim trời
Chim trời
4
Aqr
Bảo bình
Người cầm bình
5
Aql
Thiên ưng
Đại bang
6
Ara
Đàn tế
Đàn tế
7
Ari
Bạch Dương
Con cừu
8
Aur
Ngự Phu
Người đánh xe
9
Boo
Mục Phu
Thợ săn gấu
10
Cae
Điêu cụ
Dao khắc/cái đục
11
Cam
Lộc báo
Hươu cao cổ
12
Cnc
Cự giải
Con Cua
13
CVn
Lạp Khuyển
Chó săn
14
CMa
Đại Khuyển
Chó lớn
15
CMi
Tiểu Khuyển
Chó nhỏ
16
Cap
Ma Kết
Dê biển
17
Car
Sống thuyền
Sống thuyền
18
Cas
Tiên Hậu
(hoàng hậu) Cassiopeia
19
Cen
Bán Nhân Mã
Nhân Mã
20
Cep
Tiên Vương
(vua) Cepheus
21
Cet
Kình Ngư
Cá voi/quái vật Cetus
22
Cha
Tắc Kè
Tắc kè
23
Cir
Viên Qui
Com-pa
24
Col
Thiên Cáp
Bồ câu
25
Com
Tóc Tiên
Mái tóc (của Berenices)
26
CrA
Nam Miện
Vương miện phương Nam
27
CrB
Bắc Miện
Vương miện phương Bắc
28
Crv
Điểu Nha
Con quạ
29
Crt
Cự Tước
Ly rượu
30
Cru
Nam Thập Tự
Chữ thập phương Nam
31
Cyg
Thiên Nga
Thiên nga
32
Del
Cá Heo
Cá heo
33
Dor
Cá Vàng
Cá Nục Heo
(còn được coi là Cá Kiếm hoặc Cá Vàng)
34
Dra
Thiên Long
Con rồng
35
Equ
Ngựa Con
Ngựa con
36
Eri
Sông Cái
Sông Eridanus
37
For
Lò Luyện
Lò luyện
38
Gem
Song Tử
Cặp song sinh
39
Gru
Thiên Hạc
Chim sếu
40
Her
Vũ Tiên
(dũng sĩ) Hercules/Heracles
41
Hor
Đồng hồ
Đồng hồ quả lắc
42
Hya
Trường Xà
(rắn nhiều đầu) Hydra
43
Hyi
Thủy Xà
Rắn nước
44
Ind
Anh-điêng
Người Anh-điêng (Da đỏ)
45
Lac
Thằn Lằn
Thằn lằn
46
Leo
Sư Tử
Sư tử
47
LMi
Sư Tử nhỏ
Sư tử nhỏ
48
Lep
Con Thỏ
Con thỏ
49
Lib
Thiên Bình
Cái cân
50
Lup
Chó Sói
Chó sói
51
Lyn
Linh Miêu
Mèo rừng
52
Lyr
Thiên Cầm
Đàn Lyr
53
Men
Sơn Ấn
Núi Mặt Bàn
54
Mic
Kính Hiển Vi
Kính hiển vi
55
Mon
Kì Lân
Ngựa một sừng
56
Mus
Con Ruồi
Con ruồi
57
Nor
Thước Thợ
Thước đo
58
Oct
Kính bát phân
Kính bát phân
59
Oph
Xà Phu
Người giữ rắn
60
Ori
Lạp Hộ
(thợ săn) Orion
61
Pav
Khổng Tước
Con công
62
Peg
Phi Mã
(ngựa bay) Pegaseus
63
Per
Anh Tiên
(dũng sĩ) Perseus
64
Phe
Phượng Hoàng
Phượng Hoàng
65
Pie
Giá Vẽ
Giá vẽ
66
Pse
Song Ngư
Hai con cá
67
PsA
Nam Ngư
Cá Phương Nam
68
Pup
Đuôi thuyền
Đuôi thuyền
69
Pyx
La Bàn
La bàn
70
Ret
Mắt lưới
Kính chia vạch
71
Sge
Thiên Tiễn
Mũi tên
72
Sgr
Nhân Mã
Cung Thủ
73
Sco
Bọ Cạp
Bọ Cạp
74
Scl
Ngọc Phu
Nhà điêu khắc
75
Sct
Lá Chắn
Lá chắn
76
Ser
Cự Xà
Con rắn
77
Sex
Kính lục phân
Kính lục phân
78
Tau
Kim Ngưu
Con bò
79
Tel
Kính thiên văn
Kính thiên văn
80
Tri
Tam Giác
Tam giác
81
TrA
Nam Tam giác
Tam giác phương Nam
82
Tuc
Mỏ chim
Chim mỏ lớn (chim Tucan)
83
UMa
Đại Hùng
Gấu lớn
84
UMi
Tiểu Hùng
Gấu nhỏ
85
Vel
Thuyền Phàm
Cánh buồm
86
Vir
Thất Nữ
Trinh nữ
87
Vol
Cá Chuồn
Cá chuồn
88
Vul
Cáo con
Con cáo
1- Nhiều chòm sao có nhiều tên gọi khác nhau, do giới hạn của bảng ngắn này tôi chỉ có thể nêu ra tên thường gọi phổ biến nhất.
2- Một số tên trong mục Tên/ý nghĩa chính xác có dấu ngoặc đơn, chẳng hạn như chòm sao Orion được chú thích là "(thợ săn) Orion" có nghĩa là tên chòm sao vốn là tên riêng của nhân vật trong thần thoại (do đó không thể dịch), còn từ trong ngoặc chỉ mang mục đích mô tả.
3- Độc giả nên chủ động đối chiếu tên thường gọi và ý nghĩa chính xác của các chòm sao trong bảng. Trong trường hợp ý nghĩa gần tương đương nhau thì tên thường gọi vẫn có thể sử dụng bình thường, còn với những ý nghĩa quá khác nhau chẳng hạn như chòm sao Sagittarius vốn có nghĩa là Cung Thủ, thường bị gọi sai là Nhân Mã, đây là cách gọi sai do các dịch giả trước đây chỉ nhìn vào hình dạng chòm sao, vì thế ngày nay không thể tiếp tục sử dụng, mà phải gọi là Cung Thủ
4- Chòm sao Scorpius nhiều tài liệu do tác giả thiếu kiến thức căn bản thường gọi là Thần Nông, trong khi Thần Nông là 1 chòm sao của người Việt cổ không được khoa học thừa nhận và rất khác so với Scorpius, nên tôi không tính Thần Nông là một "tên thường gọi" trong bảng trên
5- Chòm sao Monoceros theo tiếng Anh là Unicorn. Nhiều từ điển dân dụng của Việt Nam đã dịch từ này là "kì lân", đây cũng là cách dịch sai vì Unicorn là con ngựa có một sừng không giống chút nào với con Kì lân theo quan niệm phương Đông, do đó trong bảng trên ở phần tên chính xác tôi đặt tên nó là "Ngựa một sừng".
6- Để xác định vị trí và cách quan sát các chòm sao, độc giả nên chủ động tìm hiểu các bản đồ sao hoặc sử dụng các phần mềm hỗ trợ. Một phần mềm được chúng tôi khá tin tưởng là Stellarium (
). Độc giả cũng có thể trực tiếp tham gia hỏi đáp và thảo luận trên diễn đàn của chúng tôi tại website này.
7- Phiên âm trong bảng là phiên âm quốc tế
theo cách phát âm tiếng Anh hiện đại của các chòm sao. Phát âm Latin nguyên gốc của những tên gọi này có nhiều khác biệt do các tên gọi này hầu hết có nguồn gốc từ tiếng Latin. Để dễ dàng hơn trong việc phát âm, độc giả cũng có thể tham khảo các phát âm tiếng Anh mẫu của
bao gồm phát âm của tên chòm sao (Nominative Pronunciation) và phát âm của biến thể trong tên các ngôi sao (Genitive Pronunciation). Cám ơn độc giả
đã góp ý và hỗ trợ bổ sung phần phiên âm IPA cho bài biết này thêm chi tiết.
Chỉnh sửa và bổ sung lần cuối tháng 4 năm 2020. |
Bản đồ đầu tiên về tuổi sao trong Milky Way | https://thienvanvietnam.org/index.php?option=com_content&view=article&id=972:ban-do-dau-tien-ve-tuoi-sao-trong-milky-way&catid=27&Itemid=135 | Bằng những cách hoàn toàn mới trong việc suy đoán tuổi của các sao khổng lồ đỏ, các nhà thiên văn học đã xây dựng bản đồ qui mô lớn đầu tiên cho thấy tuổi của các sao trong Milky Way. Xác định tuổi của gần 100 000 sao khổng lồ đỏ ở những khoảng cách lên đến 50.000 năm ánh sáng từ trung tâm thiên hà, các nhà thiên văn dẫn đầu bởi Melissa Ness và Marie Martig của viện thiên văn Max Planck, đã có thể thử nghiệm những ý tưởng chính về sự phát triển của Milky Way. Đáng kể nhất là bản đồ xác nhận rằng thiên hà của chúng ta đã phát triển từ trong ra ngoài: trong giai đoạn hiện nay, hầu hết các sao già có thể tìm thấy ở giữa, những sao hình thành gần đây nằm ở phía ngoài.
Trong những thập kỷ qua, những cuộc khảo sát thiên văn lớn đã cung cấp cho các nhà thiên văn dữ liệu về hàng triệu thiên thể, cho phép thống kê phân tích trên qui mô lớn. Nhưng những dữ liệu này cũng chỉ như những công cụ sẵn có để phân tích.
Giờ đây, Melissa Ness và Marie Martig của viện thiên văn Max Planck đã bổ sung thêm 2 công cụ mạnh mẽ mới cho kho công cụ thiên văn. Sử dụng những dữ liệu mẫu từ khảo sát APOGEE (một phần của khảo sát bầu trời kỹ thuật số Sloan) và kính thiên văn không gian Kepler của NASA, Ness và Martig đã tìm ra hai phương pháp độc lập để xác định tuổi của một sao khổng lồ đỏ từ quang phổ của nó (nghĩa là từ các tính chất bức xạ của nó).
Bằng những phương pháp này, các nhà thiên văn học đã có thể ước tính tuổi của gần 100.000 sao quan sát được trong khảo sát APOGEE. Kết quả là một bản đồ tuổi Milky Way, cho biết chính xác những khu vực trong thiên hà tập trung sao trẻ, già hay có tuổi trung bình. Bản đồ cung cấp một mặt cắt tiêu biểu từ trung tâm Milky Way tới vùng ngoài ở khoảng cách 65.000 năm ánh sáng từ trung tâm thiên hà.
Với một bản đồ tuổi như vậy, các mô hình hiện có về cách thiên hà của chúng ta hình thành và phát triển có thể được đưa vào thử nghiệm
Chẳng hạn, các mô hình này dự đoán các đĩa sao, vùng chứa sao chủ yếu của các thiên hà như Milky Way, đã hình thành từ trong ra ngoài: như vậy, chúng ta sẽ mong đợi tìm thấy những sao già ở gần trung tâm thiên hà, và các sao trẻ ở phía ngoài. Bản đồ vừa công bố đã xác nhận sự phân bố này.
Ngoài ra, với những bán kính xác định, các sao trẻ hơn thường được phát hiện ở gần mặt phẳng thiên hà hơn so với những “họ hàng lớn tuổi của” mình. Điều này cũng được xác nhận bởi bản đồ tuổi của Ness và các đồng nghiệp.
Cuối cùng, nó có thể giúp các nhà thiên văn tái hiện lại toàn bộ lịch sử hình thành sao trong Milky Way: có bao nhiêu sao trong thiên hà được hình thành ở những thời điểm khác nhau trong lịch sử thiên hà, ở những khu vực nào, và cách những sao này làm phong phú cho nguyên liệu của thiên hà, với những nguyên tố khác nhau chúng tạo ra qua phản ứng tổng hợp hạt nhân (nhờ đó tổng hợp ra các nguyên tố nặng hơn, các hành tinh, và cuối cùng là sự sống). |
Cực điểm mưa sao băng Perseids 2011 | https://thienvanvietnam.org/index.php?option=com_content&view=article&id=290:mua-sao-bang-perseids-2011&catid=27&Itemid=135 | Tháng 8 này, hiện tượng thiên văn đáng chú ý nhất mà bạn có thể quan sát trên bầu trời đêm là mưa sao băng Perseids - mọt trong những trận mưa sao băng lớn nhất trong năm với cực điểm sẽ diễn ra vào rạng sáng 13 và 14 tháng 8 tới.
Cùng với mưa sao băng Geminids giữa tháng 12, Perseids là 1 trong 2 trận mưa sao băng lớn nhất hàng năm trên khí quyển của chúng ta. Nguồn gốc của trận mưa sao băng này là sao chổi Swift–Tuttle, một sao chổi phát độc lập bởi Lewis Swift và Horace Parnell Tuttle năm 1862 và đã quay lại năm 1992. Những gì để lại của sao chổi đường kính 27km này khi nó đi ngang quĩ đạo Trái Đất là một đám lớn các mảnh thiên thạch nhỏ. Hàng năm vào tháng 8 khi Trái Đất đi qua khu vực quĩ đạo chứa đám thiên thạch này, một phần trong số chúng lao vào khí quyển Trái Đất, cọ xát với không khí và bốc cháy tạo thành các vệt sáng mà ta gọi là sao băng.
Tại cực điểm của mình, mưa sao băng Perseids cho phép bạn có thể quan sát hơn 60 sao băng mỗi giờ, một phần không nhỏ trong số đó là sao băng dài và sáng.
Trên thực tế, các sao băng của trận mưa sao băng này xuất hiện kéo dài suốt từ 23 tháng 7 tới 22 tháng 8, tuy nhiên chỉ ở mật độ khá nhỏ, trừ thời gian cực điểm là rạng sáng ngày 13 và 14 tháng 8.
Trong thời gian những ngày vừa qua, thời tiết tại phần lớn lãnh thổ Việt Nam khá thất thường, hay có mây mù hoặc mưa vào ban đêm. Do đó chúng ta chỉ còn cách chờ đợi đến ngày cực điểm của trận mưa sao băng này. Nếu thời tiết cho phép, như trên đã nói, đây sẽ là 1 trong số 2 trận mưa sao băng lớn nhất trong năm mà bạn có thể quan sát.
Vào rạng sáng các ngày 13 và 14 tháng 8 tới (khoảng 1h-3h sáng) bạn hãy nhìn về phía bầu trời Đông Bắc và xác định chòm sao Perseus (theo dõi hình dưới đấy, chụp từ phần mềm Stellarium)
Tuy gần ngày rằm và Mặt Trăng sáng là một bất lợi không nhỏ với những người quan sát bầu trời, nhưng bạn không cần quá lo lắng, vì vào khoảng thời gian từ đến 3h giờ sáng nêu trên, Mặt Trăng đang lặn dần về phía bầu trời phía Tây, Tây Nam nên không gây ảnh hưởng nhiều đến việc quan sát trận mưa sao băng của bạn, tất cả chỉ còn là vấn đề của thời tiết. Và một lần nữa, đừng quên các ghi nhớ quen thuộc của VACA luôn lưu ý bạn về việc quan sát mưa sao băng.
(vui lòng ghi rõ nguồn Thienvanvietnam.org khi copy bài viết này) |
Nga thừa nhận thất bại Phobos-Grunt | https://thienvanvietnam.org/index.php?option=com_content&view=article&id=368:nga-thua-nhan-that-bai-phobos-grunt&catid=27&Itemid=135 | Tàu không gian Phobos-Grunt của Nga đã đi sai quĩ đạo được một tháng và vẫn kẹt trong đó, nó không thể hoàn thành nhiệm vụ của mình. Đây là tuyên bố của Viktor Khartov, lãnh đạo cơ quan tài không gian Lavochkin của Nga vào thứ ba vừa rồi.
"Chúng tôi phải thừa nhận rằng Phobos-Grunt đã thất bại trong việc hoàn thành nhiệm vụ tới Sao Hỏa của nó, sự thật là chương trình đã thất bại" Khartov nói.
Phobos-Grunt là tàu không gian mới được phóng hôm mùng 9 tháng 11 với nhiệm vụ mang về các mẫu đá trên bề mặt của Phobos (một trong 2 vệ tinh của Sao Hỏa). Tuy nhiên, tàu không gian này đã rơi vào một quĩ đạo khác với dự kiến ban đầu khi nó tiến tới gần hành tinh đỏ.
Khartov cho biết ước tính rằng nó sẽ quay trở lại Trái Đất vào giữa tháng 1/2012 sắp tới.
Đứng đầu cơ quan không gian Liên bang Nga là Vladimir Popovkin cho biết tàu này sẽ bốc cháy và vỡ vụn khi chạm khí quyển Trái Đất, không mảnh vụn nào có thể chạm đất như lo ngại của nhiều người do 7,5 tấn nhiên liệu của nó sẽ nổ tung khi va chạm với khí quyển. Tuy nhiên Khartov lại cho rằng một phần nào đó chịu nhiệt tốt nhất vẫn có thể rơi xuống tới mặt đất.
Một ủy ban được lập ra để tìm hiểu nguyên nhân của việc sai lệch quĩ đạo gồm các chuyên gia của Nga và châu Âu nhưng mọi liên lạc đều thất bại, Khartov cho biết họ sẽ tiếp tục cố liên lạc với Phobos-Grunt cho tới trước khi nó lao vào khí quyển Trái Đất.
(Theo SpaceDaily) |
Chúng ta đang mất dần cơ hội tìm hiểu vũ trụ | https://thienvanvietnam.org/index.php?option=com_content&view=article&id=513:chung-ta-dang-mat-dan-co-hoi-tim-hieu-vu-tru&catid=27&Itemid=135 | Vũ trụ là một nơi kì diệu và phức tạp lấp đầy bởi các thiên hà và các cấu trúc lớn luôn phát triển suốt hơn 13,7 tỷ năm lịch sử của nó. Sự nhiễu loạn của vật chất tăng dần theo thời gian tồn tại của nó giống như những làn sóng trên mặt hồ cùng với sự giãn nở của vũ trụ.
Bằng cách quan sát vũ trụ ở qui mô lớn, chúng ta có thể tìm hiểu các điều kiện ban đầu của vũ trụ. Tuy nhiên liệu rằng hiện nay có phải thời điểm lý tưởng để nghiên cứu vũ trụ hay thời điểm đó nằm ở hàng tỷ năm trong tương lai hay quá khứ?
Các tính toán mới bởi nhà lý thuyết Avi Loeb cho biết thời điểm phù hợp nhất để tìm hiểu vũ trụ là vào hơn 13 tỷ năm trước, chỉ khoảng 500 triệu năm sau
. Càng xa thời điểm này, thông tin về giai đoạn đầu của vũ trụ sẽ càng mất mát.
"Tôi rất vui mừng là nhà vũ trụ học vào thời điểm mà chúng ta vẫn còn có thể tái hiện lại những đầu mối về sự khởi đầu của vũ trụ", Loeb nói.
Có một mâu thuẫn trong việc xác minh thời điểm phù hợp nhất để nghiên cữu vũ trụ. Đó là vào thời điểm sớm của vũ trụ, chân trời của nó nhỏ hơn và bạn sẽ thấy được ít thông tin hơn, trong khi đó vào giai đoạn sau của nó thì thông tin được trải rộng chi tiết hơn nhưng nhiều thông tin có thể bị mất do sự nở ra của vũ trụ.
Khi xem xét tất cả các điều kiện, Loeb thấy rằng khoảng 500 triệu năm sau Big Bang, tức là thời điểm hình thành các sao và thiên hà đầu tiên là thời điểm phù hợp nhất để thu thập các thông tin về vũ trụ. Đây là thời kì các thông tin trong vũ trụ sớm bắt đầu bị thất thoát, cũng là lúc các sao bắt đầu hình thành, nó đưa lại khả năng quan sát lớn nhất qua sóng vô tuyến 21cm của hydro trong giai đoạn này.
Giãn nở gia tốc làm
tương lai sẽ ngày càng ảm đạm hơn đối với các nhà khoa học. Các thiên hà ngày càng rời xa nhau và ánh sáng từ nhiều nơi trong vũ trụ không bao giờ có thể tới được Trái Đất để người ta có thể quan sát nó.
"Nếu chúng ta muốn tìm hiểu về giai đoạn sớm của vũ trụ, chúng ta tốt nhất là làm nó ngay bây giờ trước khi quá muộn" Loeb nói.
(theo Space Daily) |
Big Bang và bức tranh của chúng ta về vũ trụ | https://thienvanvietnam.org/index.php?option=com_content&view=article&id=103&Itemid=178 | Vũ trụ tồn tại và tiến hoá! Điều này thật đơn giản.Nhưng để những kiến thức này trở nên quen thuộc với một bộ phận nhân loại như ngày nay thì đã phải trải qua một khoảng thời gian khá dài. Ngày nay mô hình Big Bang (vụ nổ lớn) như chúng ta sẽ nhắc tới dưới đây được thừa nhận rộng rãi, và thông qua đó chúng ta hiểu được phần nào sự ra đời của vũ trụ, hiểu được tại sao chúng ta có mặt trên thế giới này.
Trước đây, người ta luôn mặc định rằng không gian và thời gian là vô hạn. Dù trải qua nhiều giai đoạn nhận thức trong đó Trái Đất từ chỗ là trung tâm vũ trụ đã trở thành một thiên thể chuyển động quanh Mặt Trời trung tâm, rồi Mặt Trời cũng chỉ là một bộ phận của thiên hà Milky Way, và Milky Way cũng chỉ là một bộ phận vô cùng nhỏ bé trong vũ trụ; thì ngay trong những giai đoạn lịch sử kéo dài đến hơn 2000 năm đó, không gian và thời gian luôn là vô hạn và bất biến. Có vẻ như không gian và thời gian là 2 khái niệm tự nhiên và quá cơ bản đến mức không ai được phép nói rằng chúng phải tuân theo các định luật vật lí. Cho đến thế kỉ 20, với sự ra đời của thuyết tương đối rộng mà hằng số vũ trụ học bao hàm bởi phương trình trường của nó mô tả một vũ trụ đang nở rộng thì người ta mới nghĩ ra rằng hẳn không gian và thời gian cũng có kích thước, hình dạng và lịch sử của nó.
--
Năm 1927, một linh mục đồng thời là nhà vật lý người Bỉ là Georges Lemaître là người đầu tiên đề xuất rằng vũ trụ đã ra đời từ một vụ nổ phát sinh từ một cái tâm nguyên thuỷ. Hơn 1 năm sau đó, Edwin Hubble với những quan sát chi tiết về độ dịch bước sóng của các thiên hà ở xa đã nhận ra rằng tất cả các thiên hà đều đang chạy ra xa chúng ta theo mọi hướng. Trong khi đó chúng ta thì hẳn không phải trung tâm của vũ trụ, như vậy là vũ trụ đang giãn nở theo mọi hướng, không gian có kích thước và nó đang ngày càng tăng lên cùng với chiều tăng của thời gian. Hubble được coi là người đầu tiên đặt nền tảng cho thuyết Big Bang. Tuy nhiên đến tận năm 1948, George Gamov mới biến Big Bang thành một lí thuyết cho biết vũ trụ ra đời từ một vụ nổ lớn nóng (the hot big bang). Tất nhiên có rất nhiều sự hoài nghi về lí thuyết này cho đến năm 1964, khi Arno Penzias và Robert Wilson phát hiện ra sự tồn tại của bức xạ nền vũ trụ (cosmic background radiation) - và họ đã nhận giải Nobel cho phát hiện này. Sự tồn tại của loại bức xạ này đã chứng minh rằng vũ trụ phải ra đời từ một vụ nổ lớn cách đây khoảng 10 - 20 tỉ năm.
Như vậy là theo thuết Big Bang nói trên, tất cả chúng ta (vũ trụ) đã ra đời cách đây 13,9 tỷ năm (con số tương đối chính xác được tính cho tới thời điểm hiện nay) bởi một vụ nổ. Ta không thể nói gì về nó vì ngoài phạm vi của Big Bang thì không tồn tại vật chất và bức xạ, do đó không tồn tại khái niệm không gian và thời gian, từ duy nhất ta có thể dùng để chỉ nó là "không gì cả". Chúng ta không thể có khái niệm không gian và thời gian vào trước khi Big Bang xảy ra. Vì sao lại như vậy?
Như trên đã nói, toàn bộ vật chất (các hạt) chỉ được tạo thành bởi vụ nổ lớn (Big Bang). Vậy có nghĩa là trước Big Bang không hề có sự tồn taị của các hạt mà chúng ta đã biết. Như vậy là không có một sự khác biệt nào để phân biệt 2 điểm, như vậy là không gian không hề tồn tại. Mặt khác ta lại biết rằng thời gian chỉ là một đại luợng biểu diễn các quá trình. Vậy ở đây ta sẽ sử dụng thời gian để làm gì khi không có sự biến đổi, sự chuyển động của các hạt. Vậy ta có thể đi đến kết luận thời gian cũng không tồn tại ngoài phạm vi của Big Bang. Như thế thì chúng ta lại có một lưu ý nhỏ là không bao giờ được phép nói rằng Big Bang đã bùng phát tại "một điểm" vì đơn giản là điểm thì phải được xác định trong một không gian hình học nào đó trong khi ở đây ta không có không gian.
-
: Kỷ nguyên Planck. Đây là giai đoạn đầu tiên của vũ trụ theo mô tả của thuyết Big Bang, khi tuổi của vũ trụ là dưới 10
s (thời gian Planck). Ở giai đoạn đầu tiên này, các xác suất lượng tử là không thể dự đoán và do đó vật lý không thể mô tả bất cứ điều gì cụ thể về giai đoạn này của vũ trụ.
-
: Kỷ nguyên thống nhất lớn - ngay sau kỷ nguyên Planck. Giai đoạn này được gọi tên như vậy bởi đây là lúc ba tương tác cơ bản của thuyết thống nhất lớn là tương tác điện từ, tương tác mạnh và tương tác yếu vẫn còn thống nhất, chưa tách khỏi nhau.
-
: Kỷ nguyên điện yếu và
. Trong giai đoạn rất ngắn này, tương tác mạnh đã tách ra nhưng tương tác yếu và tương tác điện từ vẫn chưa tách khỏi nhau, được gọi là tương tác điện yếu. Cũng trong giai đoạn này, vũ trụ có sự giãn nở lạm phát, trong đó tốc độ giãn nở của vũ trụ mới hình thành khi đó được đẩy lên cực đại, nhanh hơn rất nhiều tốc độ giãn nở ngày nay mà chúng ta có thể quan sát. Đây là thời điểm các hạt tạo thành vật chất, quark và lepton hình thành cùng với các
của chúng, nhiều cặp phản hạt gặp nhau tự hủy giải phóng năng lượng dưới dạng photon, quá trình lạm phát không gian làm các hạt phóng đi mọi hướng mà không bị kéo lại với nhau với lực hấp dẫn.
-
, bắt đầu kỷ nguyên quark. Đây là khi tương tác điện yếu đã tách ra thành tương tác điện từ và tương tác yếu. Vũ trụ được lấp đầy bởi các quark, lepton cùng các phản hạt của chúng. Ở giai đoạn này, vũ trụ còn đủ nóng để các quark có vận tốc đủ cao khiến khi va chạm chúng không thể kết hợp với nhau thành các meson hay baryon. Kỷ nguyên quark kết thúc vào thời điểm tuổi của vũ trụ là 10-6s, lúc này vũ trụ đã đủ nguội và tương tác mạnh có thể liên kết các quark với nhau. Vũ trụ được tràn ngập bởi các hadron mới tạo thành và bước vào kỷ nguyên hadron.
-
: kỷ nguyên hadron. Đây là giai đoạn nhiệt độ đã giảm đủ để các quark kết hợp với nhau. Các quark và phản quark cùng photon mang năng lượng tập hợp lại với nhau tạo thành các hadron và phản hadron. Khi toàn bộ các quark đã mất trạng thái tự do và lượng photon đã đủ cân bằng để không gây ra những phản ứng kết hợp thêm nữa, thời kì hadron kết thúc.
-
: kỷ nguyên lepton. Các hadron và phản hadron huỷ nhau gần hết ngay sau khi kết thúc thời kỳ hadron. Tiếp đến các lepton và phản hạt của chúng cũng huỷ nhau cho tới khi vũ trụ đủ nguội để các cặp hạt này không còn được tiếp tục tạo ra nữa và chỉ còn lại một lượng nhỏ là các lepton còn lại. Vũ trụ rất đậm đặc và photon chưa thể di chuyển tự do trong vũ trụ.
-
: kỷ nguyên photon. Các photon tràn ngập vũ trụ nhưng chúng chưa thể di chuyển hoàn toạ tự do mà liên tục tương tác với các lepton và hadron tràn ngập trong vũ trụ. Quá trình tương tác này kéo dài trong khoảng 380.000 năm, trải dài qua cả giai đoạn tổng hợp hạt nhân ở thời điểm 3 phút sau Big Bang và giai đoạn thống trị của vật chất, kết thúc vào thời điểm bắt đầu của sự tái tổ hợp.
-
: giai đoạn tái tổ hợp. Đây là giai đoạn trong vũ trụ sớm bắt đầu vào khoảng 377.000 (hoặc 380.000) năm sau Big Bang. Trong giai đoạn tái tổ hợp, mật độ và nhiệt độ của vũ trụ đã giảm đủ để các proton bắt giữ được electron tạo thành các nguyên tử hydro trung hoà, giải phóng các photon có thể bắt đầu di chuyển tự do trong vũ trụ và tạo nên nền vi ba vũ trụ như được quan sát ngày nay.
-
: thời kỳ tối. Giai đoạn khá dài này bắt đầu ngay cuối tái tổ hợp (vốn diễn ra khá nhanh). Trong giai đoạn này, các photon đã được giải phóng trong giai đoạn tái tổ hợp nhưng chúng còn ít và tất cả đều bị tương tác với các hạt tràn ngập vũ trụ khi đó, do đó vũ trụ không được "chiếu sáng". Khoảng 100 triệu năm sau Big Bang, các sao và thiên hà đầu tiên hình thành và bức xạ chúng phát ra đưa vũ trụ vào giai đoạn tái ion hoá, các photon được giải phóng di chuyển tự do trong vũ trụ và đó là thời điểm thời kỳ tối kết thúc.
-
: Các sao đầu tiên hình thành do liên kết hấp dẫn.
-
: Các thiên hà đầu tiên hình thành.
-
: hiện tại.
Lý thuyết Big Bang về một vũ trụ đặc, nóng cho chúng ta 3 khả năng về một tương lai cho vũ trụ. Rất nhiều người nhìn chung là thấy thích thú với khả năng thứ nhất. Khả năng này được gọi là "Vũ trụ đóng" (Close Universe), theo đó gia tốc giãn nở của vũ trụ sẽ giảm dần trong khoảng 10-15 tỷ năm nữa, dần nhỏ dần và về đến âm, tức là vũ trụ sẽ giãn nở chậm dần, rồi sau đó sẽ đến một thời điểm gia tốc đó không còn đủ lớn đẻ chống lại hấp dẫn giữa các vật thể trong vũ trụ. Lực hấp dẫn sẽ thay sự ở ra của vũ trụ bằng sự co lại. Các thiên hà chạy lại gần nhau hơn làm mật độ vật chất tăng dần. Quá trình này có vẻ giống cái chết của một ngôi sao nặng. Sao càng nặng khi về già sẽ càng co lại mạnh mẽ do hấp dẫn, thậm chí có thể co lại đến mức trở thành một sao neutron với hấp dẫn hết sức khủng khiếp hoặc một lỗ đen với hấp dẫn không thể chống lại. Vũ trụ tương lai sẽ đậm đặc dần và tại một kích thước đủ nhỏ, tất cả vật chất sẽ cùng rơi vào một cuộc sụp đổ vĩ đại, đưa tất cả về ZERO (như trước khi Big Bang bùng phát). Khả năng này làm nhiều người yên tâm và có phần thích thú vì nó mở ra một cơ hội khả dĩ cho ý tưởng về một vũ trụ luân hồi.
Với lòng tin vào một vũ trụ đóng (sẽ co lại trong tương lai), những người theo đuổi lí thuyết về một vũ trụ luân hồi giải thích rằng có thể có nhiều vũ trụ tồn tại trước vũ trụ của chúng ta và cũng có thể có những vũ trụ khác tồn tại sau vũ trụ của chúng ta. Chính các vụ bùng nổ hoặc suy sụp là các thời điểm tại đó vật chất cùng không gian và thời gian ra đời hoặc chấm dứt. Ý nghĩ này củng cố một niềm tin rằng những vận động vật chất tuy có biến đổi nhưng là vĩnh cửu. Loài người có thể tuyệt diệt, vũ trụ có thể sẽ biến mất nhưng thay vào đó sẽ là một vũ trụ khác ra đời. Và rồi lại các thiên hà, các ngôi sao, các hành tinh ... nối nhau ra đời. Đó ... có thể là một cơ hội cho sự sống phát sinh.
Viễn cảnh này có vể rất sáng sủa, nhưng chúng ta hãy nên tìm hiểu thêm kĩ hơn về các khả năng tương lai khác do lý thuyết Big Bang đưa lại.
Theo lý thuyết này, một tham số quan trong quyết định số phận của vũ trụ là thông số mật độ
(hoặc Ω
), được tính bằng tỷ lệ giữa mật độ trung bình
của vũ trụ và mật độ tới hạn
.
Phương trình Friedmann cho biết mật độ tới hạn là
(Trong đó H là hằng số Hubble, G là hằng số hấp dẫn).
Khi đo được mật độ trung bình của vũ trụ, chúng ta sẽ tính ra được giá trị Ω và từ đó xác định được dạng hình học của vũ trụ:
Ở trên đã trình bày về vũ trụ đóng, còn hai trường hợp còn lại thì sao?
Nếu vũ trụ là phẳng thì có thể coi như mọi việc sẽ tiếp tục diễn biến như hiện nay, kích thước vũ trụ tăng chậm và nó có vẻ hơi giống với một vũ trụ tĩnh định mà trước đây nhiều người từng tin tưởng. Và như vậy thì thời gian sẽ là dài vô tận. Nó có điểm khởi đầu nhưng không có điểm kết thúc.
Thế còn một vũ trụ mở? Trước hết thì bạn đọc nên biết rằng những quan sát tỉ mỉ nhất cho tới nay đã cho một kết quả chính xác là Ω < 1, tức là điều kiện để vũ trụ là mở. Tuy nhiên một vài thắc mắc về phép đo này cũng như sự hoài nghi độ chính xác của hằng số Hubble đã giúp củng cố niềm tin cho 2 khả năng về vũ trụ đóng và vũ trụ phẳng để nó tiếp tục đứng vững cho đén những năm cuối cùng của thế kỉ 20. Những quan sát tỉ mỉ nhất vào những năm cuối cùng của thế kỉ 20 đã khẳng định rằng vũ trụ đang giãn nở với gia tốc hết sức nhanh, nhanh hơn bao giờ hết. Sự giãn nở gia tốc này là do sự có mặt của
như dự đoán của phương trình Einstein. Nó sẽ giãn nở mạnh mẽ như thế và hơn thế nữa vĩnh viễn, điều đó một lần nữa khẳng định cho sự chính xác của phép đo mật độ trước đây. Vũ trụ là mở, nó sẽ dãn nở nhanh dần mãi mãi!
Nếu như người ta mong muốn một vũ trụ luân hồi với điều kiện đóng của vũ trụ hiện tại thì ít ra người ta cũng vẫn sẽ được an ủi nếu như vũ trụ là phẳng. Một vũ trụ phẳng sẽ cho phép các ngôi sao tiếp tục hình thành cùng các hành tinh của chúng. Sự sống có thể biến mất trong hệ Mặt Trời nhưng vẫn có thể phát sinh và phát triển tại một nơi xa xôi nào đó. Nhưng với một vũ trụ mở ngày nay chúng ta đã biết thì cơ may cho một khả năng như thế là không hề tồn tại.
Thể tích không gian tăng dần sẽ làm mật độ vật chất trong vũ trụ tương lai giảm nhanh đáng kể. Khoảng cách trung bình giữa 2 hạt bất kì sẽ là lớn hơn hiện nay nhiều dần, có nghĩa là chúng sẽ ngày càng ít cơ hội để tương tác với nhau. Nhiều triệu năm sau khi trí tuệ và văn minh của chúng ta biến mất, vũ trụ sẽ "loãng" đến mức các tương tác hấp dẫn và điện từ không còn phát huy được nhiều tác dụng của nó. Không còn sự hình thành các đám tinh vân, các ngôi sao và các hành tinh mới. Trong khi đó thì các ngôi sao cũ như Mặt Trời của chúng ta sẽ già và chết dần, co lại và phân rã trong sự nở ra của vũ trụ. Hơn 10 tỷ năm nữa, vũ trụ sẽ chỉ còn là một nghĩa địa hoang tàn, không một dấu vết của sự sống. Các tương tác nhỏ nhất cũng đã mất hết tác dụng. Sẽ đến một thời điểm mà tương tác hấp dẫn (loại tuơng tác có tầm tác dụng xa nhất) giữa 2 hạt gần nhau nhất cũng sẽ nhỏ đến mức không còn đủ sức gây ra một tương tác nào đáng kể giữa 2 hạt đó nữa. Và như vậy, ta có thể coi đó là điểm kết thúc của thời gian. Mặc dù sau đó vũ trụ vẫn tiếp tục giãn nở nhưng mọi tương tác đã mất tác dụng, mọi quá trình lý - hoá đều đã biến mất. Thời gian cuối cùng vẫn chấm hết và chúng ta đành chấp nhận một kết cục đáng sợ - cái đáng sợ của sự vô tận!
Bài viết được thực hiện lần đầu năm 2006, đã được đính chính và bổ sung thêm thông tin.
Vui lòng ghi rõ tên tác giả và nguồn Thienvanvietnam.org khi bạn sử dụng bài viết này. |
Hình ảnh nguyệt thực tại Việt Nam | https://thienvanvietnam.org/index.php?option=com_content&view=article&id=364:hinh-anh-nguyet-thuc-tai-viet-nam&catid=27&Itemid=135 | Đây là một số hình ảnh về hiện tượng nguyệt thực tối 10 tháng 12 vừa qua ghi lại tại Việt Nam. Các hình ảnh này do thành viên và những người bạn của VACA ghi lại tại khu vực miền Nam do miền Bắc và miền Trung đều không thể quan sát hiện tượng này.
Các hình ảnh này được chụp đều bằng máy ảnh cá nhân, không qua các kính thiên văn nên tất nhiên hình ảnh không được rõ nét như mong muốn.
Chúng tôi đã để nickname hoặc địa chỉ e-mail của các bạn gửi hình ngay trên mỗi hình ảnh.
|
Chúng ta rất có thể là những người Sao Hỏa | https://thienvanvietnam.org/index.php?option=com_content&view=article&id=747:chung-ta-rat-co-the-la-nhung-nguoi-sao-hoa&catid=27&Itemid=135 | Sự sống trên Trái Đất đã được khởi đầu nhờ có một khoáng chất cốt yếu mang tới bởi một thiên thạch đến từ Sao Hỏa, theo một nghiên cứu mới được công bố hôm thứ năm ngày 29 tháng 8 vừa qua.
Thành phần quan trọng ở đây là khoáng chất đã được oxy hóa của molybden (
Mo), có tác dụng ngăn không cho các phân tử carbon - những viên gạch xây nên sự sống - phân hủy và biến đổi thành dạng nhớt giống như nhựa đường.
Ý tưởng này đến từ Steven Benner, giáo sư Viện khoa học và công nghệ Westheimer ở Gainesville, Florida - người đã trình bày nó tại một hội nghị địa hóa học quốc tế ở Florence, Italy.
"Chỉ khi molybden bị oxy hóa mạnh nó mới gây ảnh hưởng tới sự hình thành sự sống ban đầu", Benner nói trong một thông cáo báo chí, "Dạng này của molybden không thể tồn tại trên Trái Đất vào thời điểm sứ sống bắt đầu, vì ba tỷ năm trước về mặt Trái Đất có rất ít oxy, nhưng Sao Hỏa thì lại có nhiều.".
Trong giai đoạn "bạo lực" này của Hệ Mặt Trời, Trái Đất sơ sinh bị tấn công liên tiếp bởi các sao chổi và tiểu hành tinh.
Sao Hỏa cũng vậy, nó đã bị "dội bom", và các va chạm hẳn đã ném một đống những mảnh vỡ của hành tinh nào vào không gian, nơi chúng nán lại cho tới khi bị lực hấp dẫn của Trái Đất tóm lấy.
Các phân tích gần đây về thiên thạch của Sao Hỏa đã cho thấy sự có mặt của molybden, cũng như bo (
B), một nguyên tố cũng tham gia việc tạo thành sự sống qua việc bảo vệ RNA - một anh em nguyên thủy của DNA - từ những tác động ăn mòn của nước.
"Bằng chứng này có vẻ như cho thấy chúng ta thật ra là những người Sao Hỏa, sự sống đã bắt đầu ở Sao Hỏa và tới Trái Đất trên một tảng đá", Benner nói, "Thật may mắn vì chúng ta đã dừng chân ở đây, Trái Đất là nơi tốt hơn trong số hai hành tinh có thể hỗ trợ sứ sống. Nếu như tổ tiên của chúng ta (theo lý thuyết này) đã ở lại Sao Hỏa, thì có lẽ đã không có một câu chuyện để kể lại lúc này."
Các lý thuyết khác về việc sự sống đã bắt đầu trên Trái Đất ra sao gợi ý rằng nước, yếu tố thiết yếu, đã được mang tới từ các sao chổi, thường được gọi là "những bóng tuyết bẩn" (dirty snowball), gồm băng và bụi sót lại từ sự tạo thành Hệ Mặt Trời.
Một giả thuyết khác, gọi là panspermia, gợi ý rằng vi khuẩn đã nằm ngay trên các thiên thạch bắn phá Trái Đất, chúng rơi xuống đại dương và phát triển thành sự sống ngày nay.
Theo Space Daily |
Thiên thể mới mở ra bí ẩn của Hệ Mặt Trời | https://thienvanvietnam.org/index.php?option=com_content&view=article&id=1079:thien-the-moi-mo-ra-bi-an-cua-he-mat-troi&catid=27&Itemid=135 | Có rất nhiều thiên thể kỳ lạ trong Hệ Mặt Trời, nhưng thiên thể vừa mới phát hiện trong nhóm các thiên thể bên ngoài Sao Hải Vương (các TNO) với cái tên Niku có thể là một trong những đối tượng kỳ lạ nhất.
Thành phần của Niku không phải là thứ khiến nó khác thường. Nó có vẻ như giống một tảng băng với đường kính 200 km, nằm ở ngưỡng thấp hơn ngưỡng của các thiên thể được xem là hành tinh lùn. Có rất nhiều thiên thể ở khích thước và cấu tạo tương tự ở vành đai Kuiper và xa hơn.
Điều kỳ lạ nhất về Niku là mặt phẳng quỹ đạo của nó có độ lệch rất lớn so với mặt phẳng hoàng đạo, hay mặt phẳng quỹ đạo của Trái Đất và cũng là mặt phẳng chứa hầu hết các hành tinh trong Hệ Mặt Trời. Trái Đất nằm trên mặt phẳng Hoàng đạo, nên nó có độ lệch là 0 độ, vậy độ lệch của Niku là bao nhiêu? 110 độ. Hay nói cách khác, quỹ đạo của nó là quỹ đạo ngược.
Hành tinh có quỹ đạo lệch lớn nhất là Sao Thủy với độ lệch 7 độ. Hành tinh lùn Pluto và Eris là 17 và 44 độ và rất nhiều hành tinh lùn khác nằm trong phạm vi này. Nhiều thiên thể trong Hệ Mặt Trời có quỹ đạo lệch bao gồm cả tiểu hành tinh và sao chổi. Nhưng Niku chắc chắn là thiên thể lớn nhất có quỹ đạo như vậy.
Vậy làm sao nó tới đó được?
Đó là điều mà các nhà thiên văn học đang cố gắng tìm hiểu. Trong một báo cáo mới, có nhiều khả năng đã được khám phá. Nhưng thiên thể này không đủ xa để rơi vào nhóm các thiên thể Sedna - nhóm thiên thể đã cung cấp lập luận chắc chắn cho hành tinh thứ chín trong Hệ Mặt Trời. Còn có những thiên thể nhỏ hơn với quỹ đạo tương tự, vậy dường như có gì đó kéo chúng ở đó.
Nhưng dù là gì, nó không thể hiện một cách thật sự rõ ràng mà thay vào đó, thiên thể được phát hiện bởi đài quan sát Pan-STARRS 1 này tỏ ra rất kỳ quái và bí ẩn. Câu trả lời có thể sẽ đòi hỏi việc tìm kiếm nhiều hơn nữa các đối tượng giống như vậy.
|
Tại sao Trái Đất dường như quá khô cằn? | https://thienvanvietnam.org/index.php?option=com_content&view=article&id=556:tai-sao-trai-dat-duong-nhu-qua-kho-can&catid=27&Itemid=135 | Với đại dương rộng lớn, những con sông chạy khắp nơi tới hàng trăm dặm và những khối băng khổng lồ ở hai cực của mình, Trái Đất chẳng có vẻ gì là thiếu nước. Nhưng sự thật là chỉ có chưa tới 1% khối lượng của hành tinh chúng ta được lấp đầy bởi nước, và thậm chí chúng còn đến từ các sao chổi và tiểu hành tinh khi chúng tới với Trái Đất khi mới hình thành.
Các nhà thiên văn học từng gặp khúc mặc với sự thiếu nước của Trái Đất. Mô hình chuẩn giải thích cách mà Hệ Mặt Trời đã hình thành từ một đĩa tiền hành tinh, một đĩa gồm toàn khí và bụi quay tít xung quanh Mặt Trời ở trung tâm hàng tỷ năm trước, mô hình này dự đoán rằng hành tinh của chúng ta phải toàn nước.
Trái Đất có thể đã được tạo thành từ những vật chất đóng băng ở khu vực quanh Mặt Trời nơi mà nhiệt độ đủ thấp để đóng băng vùng ngoài đĩa. Như vậy Trái Đất phải tạo thành bởi một lượng nước lớn, vậy tại sao chúng ta lại "khô cằn" như vậy?
Một phân tích mới dẫn đần bởi Rebecca Martin và Mario Livio tại Viện khoa học kính thiên văn không gian Baltimore đã cho thấy Trái Đất đã được hình thành trong một vùng gồm toàn đá khô và nóng, phía trong một vùng gọi là "dòng băng".
Dòng băng trong Hệ Mặt Trời hiện nằm ở khoảng giữa vành đai tiểu hành tinh, một tập hợp các thiên thể nhỏ nằm giữa Sao Hỏa và Sao Mộc. Xa hơn nơi này, ánh sáng Mặt Trời không đủ mạnh để làm tan chảy băng trên đĩa tiền hành tinh. Mô hình trước đây về sự bồi đắp tạo thành các hành tinh cho rằng trước đây dòng băng này nằm gần Mặt Trời hơn, vào khoảng 4,5 tỷ năm trước khi Trái Đất hình thành.
"Không giống với mô hình chuẩn về đĩa bồi đắp, dòng băng trong các phân tích của chúng tôi chưa bao giờ nằm phía trong quĩ đạo Trái Đất," Livio nói, "Thay vào đó, nó nằm xa Mặt Trời hơn nhiều so với quĩ đạo Trái Đất, giải thích tại sao Trái Đất chúng ta là một hành tinh khô cằn. Trên thực tế, mô hình của chúng tôi dự đoán rằng các hành tinh nhóm trong khác gồm Sao Thủy, Sao Kim và Sao Hỏa cũng tương đối khô"
Kết quả này đã được chấp nhận công bố trên tạo chí Báo cáo hàng tháng cyar Hội thiên văn Hoàng gia.
Trong mô hình thông thường, đĩa tiền hành tinh quanh Mặt Trời hoàn toạn bị ion hóa và chuyển các vật chất vào ngôi sao, đốt nóng đĩa lên.
Dòng băng ban đầu nằm ở xa ngôi sao (Mặt Trời), có lẽ ít nhất là một tỷ dặm. Theo thời gian, đĩa này mất vật chất và trôi dần về phái trong, vượt qua quĩ đạo của Trái Đất trước khi Trái Đất được tạo thành.
"Nếu dòng băng đã nằm phía trong quỹ đạo Trái Đất khi hành tinh chúng ta hình thành, thì nó đã phải là một thiên thể băng", Martin giảithichs "Hành tính như Sao Thiên Vương và Sao Hải Vương được tạo thành phía người dòng băng có tới 10% khối lượng là nước. Nhưng Trái Đất lại không có nhiều nước, và đó luôn là một bài toán khó."
Nghiên cứu của Martin và Livio đã tìm ra một vấn đề đối với mô hình chuẩn về đĩa bồi đắp cho sự tiến hóa của dòng băng. "Chúng tôi đã nói rằng, đợi một chút, đĩa quanh các sao trẻ không hoàn toàn ion hóa", Livio cho biết "Chúng không phải một đĩa chuẩn vì không có đủ nhiệt và bức xạ để làm ion hóa đĩa"
"Những thiên thể rất nóng như các sao lùn hay các nguồn X-ray bức xạ ra đủ năng lượng để ion hóa đĩa của chúng" Martin nói thêm "Nhưng các sao trẻ không có đủ bức xạ hay là đủ nhiên liệu cần thiết đêt tạo ra những cú tác động năng lượng cần thiết để ion hóa đĩa"
Như vậy, nếu đĩa không được ion hóa, sẽ không có cơ chế đưa vật chất từ phía ngoài vào ngôi sao. Thay vào đó, khí và bụi chuyển động quanh ngôi sao mà không di chuyển vào phía trong, tạo thành một vùng gọi là "vùng chết"
Vùng chết trải rộng từ 0,1 đơn vị thiên văn tới vài đơn vị thiên văn tính từ ngôi sao. Vùng chết này ngăn cản vật chất phía ngoài tiến vào gần ngôi sao. Vật chất vì vậy tích dần ở rìa của vùng và đậm đặc dần.
Vật chất đậm đặc bắt đầu nóng lên do sự nén của lực hấp dẫn. Quá trình này làm nóng toàn bộ vùng phía ngoài, làm bay hơi các chất đóng băng và làm chúng trở nên khô. Trái Đất hình thành trong vùng nóng này, trải rộng vài đơn vị thiên văn quanh Mặt Trời, nó được tạo thành từ các vật chất khô. Sự chỉnh sửa của Martin và Livio so với mô hình chuẩn giải thích tại sao Trái Đất không tràn ngập nước.
Martin khuyến cáo rằng mô hình này không phải một mẫu chuẩn cho tất cả các đĩa quanh các sao. "Các điều kiện của đĩa khác nhau giữa các sao", Livio cho biết "và cơ hội, nhiều hơn bất cứ điều gì khác, xác định cho tính chính xác của kết quả đối với Trái Đất chúng ta".
Theo Space Daily |
Mặt Trời | https://thienvanvietnam.org/index.php?option=com_content&view=article&id=49:mat-troi&catid=38:he-mat-troi&Itemid=146 |
Quá trình tiến hóa của Mặt Trời tuân theo qui luật chung của vòng đời một ngôi sao. Sau khi lượng hydro phản ứng gần hết (với sao như Mặt Trời là khoảng 10 tỷ năm và nó đã đi được nửa quãng đường đó) thì các phản ứng nhiệt hạch sinh ra yếu dần không còn đủ sức chống lại lực hấp dẫn hướng tâm. Các lớp trong của Mặt Trời khi đó sẽ co lại do hấp dẫn. Quá trình co lại làm giải phóng một phần khí ra phía ngoài cùng với năng lượng tiếp tục sinh ra do các hạt nhân heli tiếp tục phản ứng để tạo thành các hạt nhân nặng hơn nên lớp vỏ ngoại bị thổi căng lên. Đây là giai đoạn sao khổng lồ đỏ, vỏ ngoài nguội dần nhưng nở rộng rất nhanh, nó sẽ nghiền nát các hành tinh ở gần gồm Sao Thủy, Sao Kim, Trái Đất và thậm chí cả Sao Hỏa.
Năng lượng giải phóng từ quá trình co lại của lõi trong phá vỡ lớp vỏ sao khổng lồ đỏ phía ngoài. Vụ nổ này ném các tàn dư của nó ra không gian xung quanh, chỉ còn lại một đám khí lớn dạng cầu bao quanh ngôi sao gọi là tinh vân hành tinh.
Phần trong của Mặt Trời tiếp tục co lại, các phản ứng tạo ra một số hạt nhân nặng hơn cho tới khi các lực liên kết hạt nhân chống lại được lực hấp dẫn không cho nó co lại thêm nữa. Các phản ứng chậm dần và ngôi sao nguội đi, Mặt Trời lúc này trở thành sao lùn trắng - một thiên thể phát ra ánh sáng rất mờ nhạt do những phản ứng cuối cùng.
Mặt Trời giống như một cỗ máy phát nhiệt có cấu tạo phức tạp gồm nhiều lớp.
Trong cùng là
(core) của ngôi sao. nó là một khối có mật độ rất đặc trải rộng từ tâm ngôi sao ra một khoảng chiếm 25% bán kính của Mặt Trời. Nhiệt độ của lõi Mặt trời là hơn 15 triệu K, nóng hơn rất nhiều so với bề mặt chỉ khoảng 6000K. Phản ứng tổng hợp hạt nhân giải phóng ra năng lượng chống lại hấp dẫn và làm ngôi sao tỏa sáng được thực hiện tại phần lõi này, mật độ cao và lực hấp dẫn hướng tâm từ các lớp phài ngoài làm sinh ra phản ứng tổng hợp các proton mà chúng ta thường gọi là phản ứng nhiệt hạch.
Phía ngoài lõi sao là
(radiative zone) - khu vực chiếm thể tích lớn nhất, nó trải dài từ biên giới của lõi ra đến 70% bán kính Mặt Trời (tính từ tâm). Vùng này có mật độ thấp hơn nhiều so với lõi, nhưng đủ đặc để truyền các bức xạ sinh ra từ các phản ứng nhiệt hạch và làm chúng nguội đi đáng kể trước khi ra ngoài. Nhiệt độ của vùng bức xạ này giảm nhanh từ trong ra ngoài, từ 7 triệu giảm xuống 2 triệu K.
(convective zone) nằm kế tiếp vùng bức xạ và trải rộng ra cho tới sát bề mặt của Mặt Trời. Tại đây nhiệt độ và mật độ đều thấp hơn nhiều so với vùng bức xạ, cho phép tạo nên các dòng đối lưu vận chuyển nhiệt và bức xạ ra bề mặt của Mặt Trời. Các dòng đối lưu mang các nguyên tử khí nóng lên bề mặt và làm chúng nguội dần, khi lên tới nơi và đã nguội xuống nhiệt độ chỉ còn gần 6000K chúng lại chìm xuống dưới theo dòng chuyển dịch và lại được làm nóng khi tới gần vùng bức xạ.
Lớp bề mặt của Mặt Trời, chính là phần vỏ sáng mà chúng ta có thể trực tiếp nhìn thấy từ Trái Đất gọi là
(photosphere). Đây là vùng nguội nhất trên mặt trời với nhiệt độ khoảng 5800-6000K. Độ dày của nó dao động từ vài chục tới vài trăm kilomet, tức là còn mỏng hơn khí quyển của Trái Đất. Chính qua nghiên cứu các vạch quang phổ hấp thụ của quang cầu mà năm 1868 một nguyên tố mới đã được phát hiện, đó là heli. Heli là cái tên được đặt theo tên của thần Mặt Trời Helios như đã nói qua bên trên, ngụ ý rằng đó là nguyên tố đến từ Mặt Trời.
Ngay phía trên quang cầu là lớp khí quyển thấp nhất bao quanh bề mặt Mặt Trời, dày khoảng 500km với nhiệt độ chỉ khoảng hơn 4000K. Đây là vùng nguội nhất Mặt Trời. Lớp ngay phía ngoài của nó là một lớp khí nóng dày gọi là
(chromosphere) dày khoảng 2000km. Lớp này có sự chuyển dịch không ngừng giống như sự dịch chuyển khí quyển trên bề mặt Trái Đất, vì thế nhiệt độ của nó có sự dao động, có thể lên tới 20.000K, tức là nóng hơn quang cầu rất nhiều, các nhà khoa học cho rằng đó là kết quả của sự ion hóa do nhận bức xạ thoát ra từ bề mặt.
Phía trên sắc cầu là lớp cuối cùng của Mặt Trời, gọi là
(corona), hay gọi cách khác là hào quang của Mặt Trời. Nó ngăn cách với sắc cầu bởi một lớp trung gian mỏng nơi khí bị ion hóa mạnh và nhiệt độ tăng lên rất cao. Nhiệt độ của nhật hoa có thể lên hơn 1 triệu K. Tuy nhiên nhật hoa phát ra bức xạ ở dải sóng biểu kiến khá yếu so với quang cầu nên thường không được quan sát thấy bằng mắt thường từ Trái Đất. Người ta chỉ thường nhận thấy sự có mặt của nhật hoa khi xảy ra nhật thực toàn phần do khi đó phần sáng nhất của Mặt Trời là quang cầu đã bị che khuất. Nhật hoa cũng là nơi phát sinh ra gió Mặt Trời ném các hạt mạng điện vào không gian.
Toàn bộ vùng bị ảnh hưởng của gió Mặt Trời trải dài ra 50AU (quĩ đạo Sao Hải Vương chỉ có 30AU) được gọi là
(heliosphere).
|
Sao chổi đá mang manh mối về hình thành Hệ Mặt Trời | https://thienvanvietnam.org/index.php?option=com_content&view=article&id=1021:sao-choi-da-mang-manh-moi-ve-hinh-thanh-he-mat-troi&catid=27&Itemid=135 | Một sao chổi mới được xác định có thể mang lại những cái nhìn mới về sự ra đời của Hệ Mặt Trời. Các nhà khoa học tin rằng sao chổi chứa các vật chất đã tạo thành vùng trong của Hệ Mặt Trời trong thời gian Trái Đất hình thành. Những vật liệu độc nhất này đã được lưu giữ trong đám mây Oort suốt hàng tỷ năm.
Sao chổi đặc biệt này giống một tiểu hành tinh hơn, nó khá mờ với nhiều đá và không có đuôi. Các nhà khoa học gọi những sao chổi không đuôi như vậy - thứ làm mờ đi ranh giới giữa
và tiểu hành tinh - là các sao chổi "Manx" (tên chỉ loài mèo không đuôi - Manx cat).
Mặc dù có thành phần tương tự như các tiểu hành tinh ở vùng trong Hệ Mặt Trời - những thứ đã được quĩ đạo đẩy tới gần Mặt Trời trong hàng triệu năm, sao chổi mới phát hiện có tên C/2014 S3 (PANSTARRS) này mới chỉ được làm ấm lên gần đây. Các quan sát bởi kính VLT (kính thiên văn cực lớn) của ESO và kính thiên văn Canada-Pháp-Hawaii gợi ý rằng nó mới chỉ được đẩy ra khỏi mây Oort trong thời gian gần đây.
"Chúng tôi đã biết nhiều tiểu hành tinh, nhưng tất cả chúng đều đều đã được nung nóng bởi hàng tỷ năm," Karen Meech, nhà nghiên cứu ở Viện thiên văn học thuộc Đại học Hawaii nói. "Cái này là tiểu hành tinh đầu tiên không bị "nấu chín" mà chúng tôi quan sát được. Nó được bảo quản trong thứ tủ đông tốt nhất."
Meech là tác giả chính của nghiên cứu mới đã công bố vừa qua trên tạp chí Science Advances.
Các nhà khoa học đã xây dựng nhiều mô hình mô phỏng sự tạo thành và tiến hóa của Hệ Mặt Trời. Hầu hết có chung các điểm chính, nhưng một khác biệt cơ bản của các dự đoán là tỷ lệ của các thiên thể đá so với băng trong mây Oort.
C/2014 S3 là mảnh đá đầu tiên đi ra từ đám mây này. Các nhà khoa học hi vọng sẽ tiếp tục quan sát đối tượng này khi vật chất của nó thăng hoa khi tới gần Mặt Trời, điều đó sẽ mang lại cái nhìn mới vào bản chất của vùng trong Hệ Mặt Trời. Nhưng các nhà nghiên cứu cho biết họ sẽ cần định vị được nhiều sao chổi Manx hơn nữa để xác định xem mô hình nào là chính xác nhất.
"Chúng tôi đã tìm thấy sao chổi đá đầu tiên, và đang tìm kiếm những cái tiếp theo," đồng tác giả nghiên cứu là Olivier Hainaut nói."Tùy thuộc vào số lượng chúng tôi tìm được, chúng tôi sẽ biết các hành tinh khổng lồ đã nhảy múa khắp nơi trong Hệ Mặt Trời khi chúng còn trẻ, hay chúng đã lớn lên một cách âm thầm mà không dịch chuyển nhiều." |
Sao chổi: nguồn gốc và đặc điểm | https://thienvanvietnam.org/index.php?option=com_content&view=article&id=884:sao-choi-nguon-goc-va-dac-diem&catid=38:he-mat-troi&Itemid=146 | Sao chổi là thiên thể chuyển động quanh Mặt Trời. Chúng ta có thể quan sát sao chổi lớn khi chúng đến đủ gần Trái Đất mà không cần đến sự hỗ trợ của các thiết bị quang học, một số sao chổi có khoảng cách xa hơn hoặc mờ hơn có thể được quan sát bằng các kính thiên văn hay ống nhòm nghiệp dư. Những quan sát sao chổi đã có từ rất lâu, nhưng quá trình nhận thức và tìm hiểu đối tượng này đã trải qua một loạt những biến chuyển. Ở đây chúng ta sẽ nhắc tới một số nét chính về nhận thức lịch sử và các đặc điểm vật lý của sao chổi.
Sao chổi từng là một cơn ác mộng, là nỗi sợ hãi trong nhiều nền văn hóa khác nhau trên thế giới trong suốt quãng thời gian dài. Trong các nền văn hóa cổ đại, sao chổi được coi là điềm báo chẳng lành từ các vị thần. Sự xuất hiện của sao chổi là báo hiệu cho chết chóc, bệnh dịch..... Đặc biệt, có những trùng hợp càng làm tăng thêm nỗi sợ hãi hiện tượng này. Chẳng hạn năm 1664 khi một sao chổi rất sáng xuất hiện trên bầu trời, trùng với thời điểm thành phố London (Anh) phải gánh chịu bệnh dịch hạch vào năm 1665 khiến hơn 100.000 người chết (bệnh dịch khi đó đã nổi tiếng với tên gọi là “cái chết đen”). Sau đó là đại hỏa hoạn tại thành phố London vào năm 1666 đã thiêu trụi gần như toàn bộ thành phố. Vậy từ đâu mà các nền văn minh cổ xưa lại cảm thấy sợ hãi hiện tượng này như vậy?
Khi quan sát bầu trời đêm, người ta nhận thấy rằng sao chổi không giống bất kì thiên thể nào. Trong khi những thiên thể khác có thể được dự đoán chu kì khá chính xác thì sao chổi luôn luôn không thể dự đoán trước được. Điều này đã khiến cho các nền văn minh cổ đại tin rằng các vị thần đã quyết định chuyển động của sao chổi và đã gửi thông điệp tới cho con người qua chúng.
Những quan sát đầu tiên.
Những quan sát về sao chổi từ lâu đã được người Trung Quốc ghi chép lại một cách rất tỉ mỉ. Những ghi chép cổ nhất được xác định có niên đại khoảng 1000 năm trước Công nguyên (TCN). Trong đó những quan sát đầu tiên về sự xuất hiện của sao chổi Halley vào năm 239 TCN được ghi chép lại bởi Shih Chi và Wen Hsien Thung Khao.
Những ý tưởng về bản chất của sao chổi đã xuất hiện với sư phát triển của triết học tự nhiên Hy Lạp vào khoảng năm 550 TCN khi trường phái Pythagoras coi sao chổi là một hành tinh thường xuyên xuất hiện tại chân trời vào buổi sáng hoặc buổi tối. Trong khi đó Aristotle cho rằng sao chổi là một thiên thể bay ở quỹ đạo thấp hơn Mặt Trăng. Quan điểm của Aristole về sao chổi đã được công nhận trong một thời gian dài.
Nhà thiên văn học đầu tiên có quan sát và nghiên cứu tỉ mỉ về sao chổi là Edmond Halley, ông coi nó là một hiện tượng kì thú. Halley đã có những quan sát rất chi tiết về một sao chổi xuất hiện vào năm 1680. Khi tìm hiểu các ghi chép cũ về sao chổi ông nhận thấy các sao chổi xuất hiện vào năm 1531, 1607 và 1682 có rất nhiều điểm chung và ông khẳng định 3 sao chổi đó là một. Ông đã tính toán chính xác được sự trở lại của sao chổi này vào năm 1758. Mặc dù ông không còn sống để quan sát sự trở lại của sao chổi này nhưng sự xác thực của nó đã là khởi đầu cho việc quan sát và nghiên cứu đặc tính của sao chổi sau này. Sao chổi đó đã được đặt theo tên của ông và đến nay chúng ta vẫn coi sao chổi Halley là sao chổi nổi tiếng nhất.
Trước Halley, vào 1577 khi một sao chổi xuất hiện trên bầu trời, bằng phương pháp thị sai Tycho Brahe đã cho thấy rằng khoảng cách từ sao chổi này đến Trái Đất lớn gấp 4 lần khoảng cách từ Trái Đất đến Mặt Trăng.
Sao chổi được chia làm 2 loại theo đặc điểm chu kỳ là sao chổi chu kỳ ngắn và sao chổi chu kì dài. Những sao chổi chu kỳ ngắn có nguồn gốc từ vành đai Kuiper nằm ngoài quỹ đạo của Sao Hải Vương. Những sao chổi có chu kỳ dài được cho là có nguồn từ đám mây Oort - một khối dạng cầu bao quanh biên giới Hệ Mặt Trời gồm tập hợp các vật thể chủ yếu là băng với đường kính khoảng 2 năm ánh sáng. Những sao chổi quỹ đạo dài từ mây Oort bị đẩy về phía Mặt trời với quỹ đạo parabol hoặc hyperbol do sự nhiễu loạn hấp dẫn từ các ngôi sao có quĩ đạo gần Hệ Mặt Trời và các biến động hấp dẫn của thiên hà.
Nhân sao chổi (core/nucleus) là một khối vật chất rắn có kích thước từ vài kilomet đến vài chục kilomet. Thành phần chủ yếu của nó là đá, bụi, khí và nước đóng băng, trong đó khoảng 80% là nước đóng băng, khoảng 15% là carbon monoxide (CO), còn lại là carbon dioxide (CO2), methane (CH4) và ammonia (NH3). Sâu bên trong nhân của sao chổi có chứa một thành phần nhỏ gồm các hợp chất hữu cơ như methanol, hydrogen cyanide, formaldehyde, ethanol, ethane và có thẻ cả các phân tử phức tạp hơn như axit amin.
Phần bao phủ (coma) là một lớp khí bao quanh phần nhân ở giữa. Nó chỉ xuất hiện khi sao chổi đến đủ gần để bức xạ Mặt Trời gây ra quá trình thăng hoa tại nhân. Khi đó một lớp khí được giải phóng từ lớp băng đá tại trung tâm sao chổi. Kích thước lớp phủ tăng dần khi đến gần Mặt Trời và có thể lớn bằng đường kính của Sao Mộc dù mật độ rất thấp. Vào tháng 12 năm 2007 một cuộc bùng phát bức xạ Mặt Trời đã làm cho đường kính phần đầu sao chổi 17P/ Holmes lớn hơn cả Mặt trời. Mặc dù lớn nhưng nó giảm dần khi đi qua quỹ đạo của Sao Hỏa vì ở khoảng cách này, gió Mặt trời đã đủ mạnh để thổi dạt lớp khí bụi này tạo thành đuôi sáng.
Đuôi sao chổi (tail) là điểm đặc trưng của thiên thể khi chúng ta quan sát từ Trái Đất. Nó là dòng khí do sự bay hơi các thành phần của nhân sao chổi, bị thổi dạt về một hướng do áp lực của gió Mặt Trời. Sự phân chia dòng khí bởi gió Mặt Trời làm cho đuôi của các sao chổi có thể khác nhau và về cơ bản được chia thành sao chổi một đuôi, hai đuôi, ba đuôi, ... Khác với phán đoán thông thường, đuôi của sao chổi không hướng dọc theo chiều chuyển động như một ống phản lực mà có hướng ngược lại với hướng đi vào tâm của Mặt Trời, bất kể sao chổi đang di chuyển theo hướng nào, đó là do nó vốn được tạo thành từ áp lực của gió Mặt Trời.
Mỗi sao chổi có một vòng đời khác nhau tính từ khi nó bắt đầu di chuyển vào Hệ Mặt Trời. Các sao chổi đều xuất phát từ những nơi rất xa Mặt Trời nên khi ở điểm viễn nhật chúng rất lạnh. Lúc này, các phân tử khí và nước đều bị đóng băng. Tại thời điểm xuất phát chúng ta không thể quan sát được chúng vì kích thước của chúng rất nhỏ và lại ở quá xa.
Sao chổi bắt đầu được quan sát khi nó tới đủ gần Mặt Trời và phát sáng do sự thăng hoa các vật chất trên bề mặt. Dưới tác động của bức xạ Mặt Trời, lớp băng tại bề mặt sao chổi không tan ra mà nó biến đổi trực tiếp từ băng thành khí. Khi quá trình thăng hoa diễn ra, các phân tử nước bị tách qua quá trình quang phân (Photodissciation – sự phân tách hợp chất hóa học do tác động của photon)
Trong tất cả các sao chổi đã được quan sát thì chỉ có khoảng 10% số sao chổi tồn tại sau 50 lần đi qua điểm cận nhật và chỉ 1% sống sót qua 2.000 lần. Những sao chổi may mắn sẽ thoát khỏi áp suất cao từ Mặt trời và tiếp tục lặp lại chu kỳ quỹ đạo của mình. Tuy nhiên một số khác lại không được may mắn như vậy. Một số sẽ đâm vào Mặt Trời hoặc bị phá tan bởi áp suất của Mặt Trời. Ngoài ra một số khác bị va chạm với các hành tinh như sao chổi Shoemaker-Levy 9 va chạm với Sao Mộc vào năm 1994.
Các sao chổi, như đã nói trên, đều có quĩ đạo dạng elip dẹt (tâm sai lớn), tức là điểm cận nhật và điểm viễn nhật cách rất xa nhau, khác với các hành tinh có quĩ đạo đều gần tròn.
Những sao chổi chu kỳ ngắn được quy ước là có chu kỳ quỹ đạo ít hơn 200 năm. Điểm viễn nhật nằm tại khu vực các hành tinh nhóm ngoài. Ngoài ra còn có các sao chổi có chu kỳ cực ngắn như sao chổi Encke có điểm viễn nhật không đến quỹ đạo của Sao Mộc. Nó có quỹ đạo ngắn hơn 20 năm. Những sao chổi như thế được xếp vào nhóm JFCs (Jupiter-Family comets – sao chổi có viễn nhật lân cận quĩ đạo Sao Mộc). Những sao chổi có quỹ đạo từ 20 đến 200 năm thuộc sao chổi loại Halley. Tính đến năm 2014, chỉ có 74 sao chổi loại Halley được phát hiện trong khi có đến 492 sao chổi loại JFCs.
Sao chổi chu kỳ dài có quỹ đạo và chu kỳ rất khác nhau, từ 200 năm đến hàng nghìn năm. Quỹ đạo của chúng vượt xa quỹ đạo của các hành tinh nhóm ngoài và mặt phẳng quỹ đạo của chúng không hẳn nằm trên mặt phẳng Hoàng đạo.
Một số sao chổi đơn (là những sao chổi chỉ qua điểm cận nhật 1 lần) cũng có quỹ đạo parabol nhưng bị nhiễu loạn hấp dẫn từ các hành tinh lớn như Sao Mộc đã làm thay đổi quỹ đạo từ parabol thành hyperbol khiến chúng vĩnh viễn ra khỏi Hệ Mặt Trời sau khi rời xa khỏi cận nhật. Đến nay chỉ một vài sao chổi được quan sát có thể đạt được quỹ đạo hyperbol (với tâm sai e>1) để có thể thoát ra khỏi HMT.
Khi đến gần Mặt Trời, áp suất từ Mặt Trời và tương tác hấp dẫn làm vỡ lớp đá trên bề mặt của sao chổi. Khi đó các mảnh vỡ bị bắn ra và có thể để lại trên đường đi của nó rất nhiều mảnh nhỏ - các thiên thạch. Vì đa số các sao chổi di chuyển trên mặt phẳng hoàng đạo nên khi đi ngang qua quỹ đạo Trái Đất, chúng để lại những đám thiên thạch do sự tham gia của hấp dẫn Trái Đất, là nguyên nhân gây là các trận mưa sao băng. Ví dụ, mưa sao băng Perseids từ ngày 09 đến 13 tháng 8 khi Trái Đất đi qua đám thiên thạch để lại bởi sao chổi Swift-Tuttle hay mưa sao băng Orionids vào tháng 10 có nguồn gốc từ sao chổi Halley.
Như trên đã nói, các hợp chất hữu cơ – yếu tố tiên quyết của sự sống có mặt trong nhân của các sao chổi. Trong giai đoạn mới hình thành, có rất nhiều sao chổi và các tiểu hành tinh va chạm vào Trái đất. Các nhà khoa học tin rằng các vụ va chạm với Trái Đất khoảng 4 tỷ năm trước đang đưa một lượng nước lớn đến cho Trái Đất. Việc phát hiện ra các phân tử hữu cơ như Polycyclic aromatic hydrocarbons (PAHs) với một lượng lớn sao chổi khiến một số người cho rằng sao chổi hoặc thiên thạch đã mang các phân tử hữu cơ ban đầu đến Trái Đất. Chính từ những hợp chất đầu tiên này, sự sống trên hành tinh của chúng ta đã hình thành và phát triển tới ngày nay.
Chỉ những sao chổi sáng và có điểm cận nhật rất gần Mặt Trời mới có thể được chúng ta quan sát bằng mắt thường. Mặc dù vận tốc của thiên thể này trên quĩ đạo khá cao (hàng chục hay hàng trăm kilomet mỗi giây), nhưng với khoảng cách của chúng khi quan sát từ Trái Đất thì chúng ta thấy các sao chổi di chuyển rất chậm, thậm chí trong nhiều trường hợp không thể nhận ra sự thay đổi vị trí trên nền trời trong đêm. Điều này khác với nhiều hiểu nhầm cho rằng sao chổi cũng lướt qua bầu trời giống như sao băng.
Với một chiếc kính thiên văn nghiệp dư hay một ống nhòm, chúng ta có thể quan sát các sao chổi khi chúng tới tương đối gần Mặt Trời.
(VACA)
Vui lòng ghi rõ tên tác giả và nguồn trích dẫn
khi sử dụng bài viết này |
Cuộc thi VAC2017 - 11/03/2017 | https://thienvanvietnam.org/index.php?option=com_content&view=article&id=1204:cuoc-thi-vac2017-11032017&catid=21&Itemid=136 | Như đã thông báo, cuộc thi mang tên Vietnam Astronomy Contest 2017 do VACA tổ chức được bắt đầu lúc 20h30 tối 11 tháng 3 năm 2017. Xin mời các độc giả yêu thiên văn tham gia cuộc thi bằng cách thực hiện đề thi dưới đây.
Đề thi của cuộc thi gồm hai phần trắc nghiệm và tự luận, trong đó có 30 câu trắc nghiệm, mỗi câu 2 điểm nếu trả lời đúng và 3 câu tự luận với tổng số điểm là 40. Nhưng vậy điểm tối đa của cuộc thi là 100 điểm.
Người tham gia cuộc thi cần thực hiện đúng hướng dẫn trong đề thi, điền đầy đủ thông tin cá nhân và gửi bài thi dưới dạng file *.doc hoặc *.docx về địa chỉ
.
Thời gian làm bài của cuộc thi là 60 phút. Để bảo đảm người dự thi tại những khu vực có tốc độ internet thấp hoặc gặp rắc rối với việc gửi file qua email không bị mất quyền lợi, thời hạn cuối cùng để Ban tổ chức nhận được email là lúc 21h45 cùng ngày. (Chúng tôi khuyến cáo rằng hãy cẩn thận với việc cố gắng tận dụng thêm thời gian, nếu 21h44 bạn gửi email và vì lý do nào đó 21h46 chúng tôi mới nhận được thì bài thi sẽ không được tính bởi thời gian làm bài thực tế đã kết thúc lúc 21h30).
Nếu chưa đọc các thông báo trước, mời bạn đọc thêm:
Sau tối đa 1 tuần kể từ ngày thi, kết quả cuộc thi sẽ được chính thức công bố. Giải thưởng sẽ được trao tại sự kiện mang tên "Ngày hội thiên văn Việt Nam 2017" do VACA tổ chức cuối tháng này (nếu người đoạt giải ở Hà Nội) hoặc gửi qua đường bưu điện (nếu người đoạt giải ở ngoài Hà Nội).
Sau thời gian làm bài qui định, đề thi sẽ được xóa khỏi địa chỉ nêu trên. |
End of preview. Expand
in Data Studio
- Downloads last month
- 351