title
stringlengths
4
119
content
stringlengths
90
172k
metadata
dict
Sự tích trái sầu riêng
Ngày ấy, vào thời Tây Sơn, có một chàng trẻ tuổi người vùng Đồng-nai. Chàng là người tài kiêm văn võ, đã từng vung gươm hưởng ứng cái bất bình của mọi người. Chàng từng cầm quân mấy lần làm cho tớ thầy chúa Nguyễn chạy dài. Nhà Tây Sơn mất, chàng lui về quê nhà mượn nghề dạy trẻ để náu hình ẩn tích. Đột nhiên có tin dữ truyền đến làm cho mọi người xao xuyến. Gia Long vừa thắng thế trên đất nước Việt thì cũng bắt đầu giết hại những người đã từng làm quan cho nhà Tây Sơn. Nhà vua cứ dựa vào chức tước lớn hay nhỏ của họ mà gia hình: tư mã, quận công thì lăng trì, tùng xẻo; vệ úy, phân suất thì đánh gậy, phạt roi, v.v... Dân trong xóm sẵn lòng quý mến, khuyên chàng trốn đi thật xa. Họ giúp tiền gạo và mọi thứ cần dùng, trong đó có cả một chiếc thuyền nhỏ mui lồng để tiện đi lại. Vì không muốn để rơi vào tay quân địch, chàng ra đi. Ngược dòng sông Cửu-long, chàng tiến sâu vào nước Chân-lạp. Một hôm chàng cắm sào lên bộ mua thức ăn. Chàng bước vào một cái quán bên đường. Trong quán có một bà mẹ ngồi ủ rũ bên cạnh một cô gái nằm mê man bất tỉnh. Đó là hai mẹ con đi dâng hương trên núi, về đến đây thì con bị ốm nặng. Vốn có biệt tài về nghề thuốc, chàng hết sức chạy chữa, cuối cùng cũng giúp cô gái lấy lại sức khỏe. Và sẵn có thuyền riêng, chàng chở họ về tận nhà. Nàng là con gái chưa chồng, đã đến tuổi quay xa đạp cửi. Nàng có vẻ đẹp thùy mị. Tự nhiên có anh chàng trai người Việt ở đâu tận xa xôi đến trú ngụ tại nhà làm cho nàng quyến luyến. Sau một tuần chay tạ ơn Trời Phật, mẹ nàng cho biết là Phật đã báo mộng cho hai người lấy nhau. Chàng vui vẻ nhận lấy cuộc sống mới cho qua ngày. Từ đây chàng có chỗ ở nhất định. Nhà nàng là nhà làm ruộng nuôi tằm. Những việc đó chàng đều làm được cả. * Mười năm thoảng qua như một giấc mộng. Hai vợ chồng quấn quýt với nhau như đôi chim câu. Trong vườn nhà vợ có một cây ăn quả gọi là cây "tu rên" mà ở xứ sở chồng không có. Lần ấy gặp kỳ quả chín đầu mùa, vợ trèo lên cây trẩy xuống một quả, xẻ đưa cho chồng ăn. Quả "tu rên" vốn có một mùi hôi đặc biệt. Thấy chồng nhăn mặt vợ bảo: - Anh cứ ăn sẽ biết nó đậm đà như lòng em đây. Không ngờ một năm kia, vợ đi dâng hương về thì ngộ cảm. Chồng cố công chạy chữa nhưng không sao cứu kịp. Cái chết chia rẽ cặp vợ chồng một cách đột ngột. Không thể nói hết cảnh tượng đau khổ của người chồng. Nhưng hai người vẫn gặp nhau trong mộng. Chồng hứa trọn đời sẽ không lấy một ai nữa. Còn hồn vợ thì hứa không lúc nào xa chồng. Nghe tin Gia Long đã thôi truy nã những người thù cũ, bà con chàng ở quê hương nhắn tin lên bảo về. Những người trong xóm cũng khuyên chàng nên đi đâu cho khuây khỏa. Chàng đành từ giã quê hương thứ hai của mình. Trước ngày lên đường, vợ báo mộng cho chồng biết là mình sẽ theo chàng cho đến sơn cùng thủy tận. Năm ấy cây "tu rên" tự nhiên chỉ hiện ra có mỗi một quả. Và quả "tu rên" đó tự nhiên rơi vào vạt áo giữa lúc chàng ra thăm cây kỷ niệm của vợ. Chàng mừng rỡ quyết đưa nó cùng mình về xứ sở. Chàng lại trở về nghề cũ. Nhưng nỗi riêng canh cánh không bao giờ nguôi. Chàng đã ương hạt "tu rên" thành cây đem trồng trong vườn ngoài ngõ. Từ đây, ngoài công việc dạy học còn có công việc chăm nom cây quý. Những cây "tu rên" của chàng ngày một lớn khỏe. Lại mười năm nữa sắp trôi qua. Chàng trai ngày xưa bây giờ tóc đã đốm bạc. Nhưng ông già ấy lòng bỗng trẻ lại khi thấy những hàng cây mà mình bấy lâu chăm chút nay đã bắt đầu khai hoa kết quả. Ông sung sướng mời họ hàng làng xóm tới dự đám giỗ của vợ và nhân thể thưởng thức một thứ quả lạ đầu tiên có ở trong vùng. Khi những quả "tu rên" bưng ra đặt lên bàn, mọi người thoáng ngửi thấy một mùi khó chịu. Nhưng chủ nhân biết ý đã nói đón: - " ... Nó xấu xí nó hôi, nhưng múi của nó ở trong lại đẹp đẽ thơm tho như mối tình đậm đà của đôi vợ chồng son trẻ...". Ông vừa nói vừa xẻ những quả "tu rên" chia từng múi cho mọi người cùng nếm. Múi "tu rên" nuốt vào đến cổ quả có một vị ngon ngọt lạ thường. Đoạn, ông kể hết đoạn tình duyên xưa mà từ lúc về đến nay ông đã cố ý giấu kín trong lòng. Ông kể mãi, kể mãi. Và khi kể xong, ở khóe mắt con người chung tình ấy long lanh hai giọt lệ nhỏ đúng vào múi "tu rên" đang cầm ở tay. Tự nhiên hai giọt nước mắt ấy sôi lên sùng sục trên múi "tu rên" như vôi gặp nước và cuối cùng thấm vào múi như giọt nước thấm vào lòng gạch. Sau đám giỗ ba ngày, người đàn ông ấy bỗng không bệnh mà chết. Từ đấy dân làng mỗi lần ăn thứ quả đó đều nhớ đến người gây giống, nhớ đến chuyện người đàn ông chung tình. Họ gọi "tu rên" bằng hai tiếng "sầu riêng" để nhớ mối tình chung thủy của chàng và nàng. Người ta còn nói những cây sầu riêng nào thuộc dòng dõi loại hạt có hai giọt nước mắt của anh chàng nhỏ vào thì mới là giống sầu riêng ngon...
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/su-tich-trai-sau-rieng" }
Sự tích cây Huyết Dụ
Ngày xưa có một bác đồ tể chuyên mua lợn về giết thịt để mang bán ở chợ. Nhà bác ta ở bên cạnh một ngôi chùa làng. Hàng ngày, vào lúc mờ sáng là lúc sư cụ bên chùa theo lệ thường thức dậy tụng kinh. Và cũng theo lệ thường, sư cụ thức chú tiểu dậy gõ một hồi chuông mai. Bấy giờ cũng là lúc bác đồ tể sửa soạn giết lợn, cho nên bác ta quen lấy tiếng chuông làm chừng thức dậy làm việc hàng ngày. Cứ như thế, ngày nào cũng như ngày ấy không bao giờ sai lạc. Một đêm nọ, sư cụ nằm mộng thấy một người đàn bà dắt năm đứa con nhỏ đến trước mặt mình rồi vái lấy vái để, miệng nói: - Xin cứu mạng! Xin cứu mạng! Sư hỏi người đàn bà: - A-di-đà Phật! Cứu mạng là cứu thế nào? Bần tăng phải làm gì đây? Người mẹ có bộ điệu hãi hùng ấy trả lời: - Ngày mai xin hòa thượng hãy đánh chuông chậm lại. Như vậy mẹ con chúng thiếp rất đội ơn. Nhà sư tỉnh dậy không hiểu thế nào cả. Nhưng tờ mờ sáng hôm đó, vâng theo lời báo mộng, sư cụ chỉ lâm râm đọc kinh cầu nguyện mà không thức chú tiểu dậy thỉnh chuông. Lại nói chuyện hôm ấy bác đồ tể ngủ một giấc li bì. Mãi đến lúc mặt trời lên chừng một cây sào, tiếng chuông chùa mới bắt đầu vang rền làm cho bác giật mình choàng dậy. Thấy trời đã quá trưa, bác không dám giết lợn như thường lệ, vì nếu làm thịt thì khi đưa ra đến chợ, chợ đã vãn người rồi. Tức mình vì lỡ mất một buổi chợ, bác ta lật đật sang chùa trách sư cụ. Sư cụ bèn đem câu chuyện nằm mộng đêm qua để phân trần với ông hàng xóm không phải lỗi tại mình. Nhưng lúc bước chân về chuồng lợn của nhà thì bác đồ tể ngạc nhiên thấy con lợn cái mua ngày hôm qua toan giết thịt sáng đó, đã đẻ được năm con lợn con. Vừa mừng vừa sợ, bác ta kể cho mọi người biết sự lạ lùng: - Đúng là linh hồn người đàn bà ẩn trong con lợn cái đã tìm cách cứu bày con của mình khỏi chết. Tự nhiên bác đồ tể đâm ra suy nghĩ. Bác thấy bàn tay của mình đã từng vấy máu biết bao nhiêu là sinh mạng. Trong một lúc hối hận đến cực điểm, bác ta cầm cả con dao bầu chạy sang chùa bộc bạch nỗi lòng với sư cụ. Bác ta quả quyết cắm con dao của mình trước sân chùa, thề trước Phật đài từ nay xin giải nghệ. Không rõ bác đồ tể rồi sau đó thế nào, nhưng con dao của bác tự nhiên hóa thành một loại cây có lá đỏ như máu và nhọn như lưỡi dao bầu, người ta vẫn gọi là cây huyết dụ.
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/su-tich-cay-huyet-du" }
Nàng tiên ốc
Chuyện xưa kể lại rằng, ở ngôi làng nọ có bà lão sinh sống, tuổi bà cũng đã cao, lại rất nghèo khó. Bởi vì làm lụng vất vả bao năm nên nhìn hình dáng của bà rất ốm yếu, gầy gò, nét mặt của bà thì luôn nhăn nhúm, lúc nào cũng có vẻ đượm buồn. Bà luôn sống cô đơn trong chiếc lều rách nát, nhỏ hẹp chỉ đủ để che nắng che mưa, nhưng cũng chẳng đủ để ngăn cản những đợt gió rét lạnh khi mùa đông về. Hơn nữa bà cũng chẳng có con hay là cháu để ở bên cạnh chăm nom, đỡ đần mỗi khi trái gió trở trời hay ốm đau, bệnh tật. Hằng ngày thì bà lão đều phải ra đồng để mò cua và bắt ốc, sau đó lại đem chúng đi đổi thành tiền để mua gạo, mua rau sống cho qua ngày. Vào một ngày nọ, trong lúc bà mải mê bắt ốc thì vô tình bắt được con ốc đẹp đẽ vô cùng. Con ốc này có vỏ màu xanh ngọc bích, cũng chỉ to hơn một chút so với ngón cái của bà lão, nhưng lại tỏa ra được những ánh sáng đẹp lấp lánh khi soi dưới ánh sáng mặt trời. Bà lão vô cùng vui mừng, liền nâng niu nó trên đôi tay nhăn nheo, gầy guộc và chất đầy những vết chai sạn của mình. Bởi vì thương cho con ốc đẹp nên bà chẳng đem nó đi bán, bà đem nó về nhà mình và nuôi nó trong chiếc chum nước để ngay sân nhà. Và lại như thường lệ, ngày nào bà cũng chăm chỉ, cặm cụi để làm công việc quen thuộc của mình. Mỗi ngày bà vẫn mang giỏ ra đồng để bắt ốc, mò cua. Tuy nhiên thì mỗi khi về nhà bà lại ngạc nhiên vô cùng. Bởi vì sân nhà đều được quét tước sạch sẽ tươm tất, còn vườn rau ở phía sau thì được nhặt cỏ sạch sẽ, trên bàn có sẵn cơm dẻo canh ngọt tinh tươm hết cả. Dù bà lão có cố sức nghĩ nhưng cũng chẳng thể nào đoán ra được người nào lại tốt bụng mà giúp mình những công việc này. Ngày hôm sau thì bà cũng vẫn rời nhà ra đồng, tuy nhiên thì khi giữa buổi, bà lão quyết định quay về nhà để tìm hiểu thực hư mọi chuyện ra sao. Khi đến cổng nhà thì bà bỗng nhẹ bước chân, rón ra rón rén bước tới và núp ở sau cửa, bà muốn rình xem người nào đã giúp bà dọn nhà, nấu cơm mấy ngày hôm nay. Và bà lão đã trông thấy được từ trong chum nước, có một cô gái rất xinh đẹp bước ra ngoài, cô có làn da trắng hồng, có đôi mắt đen to tròn như là mắt của bồ câu, đôi mắt xinh đẹp ấy ẩn dưới hàng lông mi dài cong vút. Cô có một mái tóc dài đen ánh và óng ả. Trên người cô khoác chiếc áo dài màu xanh ngọc bích, và dáng đi của cô thì rất nhẹ nhàng và uyển chuyển. Cô làm việc nhà rất thành thạo và nhanh thoăn thoắt. Từ việc dọn dẹp cửa nhà, cho tới việc quét sân hay là nhổ cỏ vườn rau, cô làm đều rất nhanh nhẹn và sạch sẽ. Sau khi hoàn thành hết những công việc đó thì cô bắt tay vào đong gạo để nấu cơm. Nhìn lén đến lúc này, bà lão cũng nhận ra được mọi chuyện. Bà liền nhẹ nhàng đi tới chỗ chum nước, nhanh tay lấy cái vỏ ốc để đập vỡ ra. Khi nghe có tiếng động thì cô gái xinh đẹp vội vội vàng vàng chạy về phía chum nước định chui lại vào trong chiếc vỏ ốc của mình, nhưng mà mọi việc đã muộn rồi, chiếc vỏ ốc của cô đã bị bà lão đập bể tan tành. Bà lão bước tới ôm chầm lấy cô gái và bảo: – Con gái à! Con hãy ở lại với mẹ đi! Kể từ đó về sau thì bà lão cùng với cô gái xinh đẹp sống cùng nhau vui vẻ, hạnh phúc.
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/nang-tien-oc" }
Sơn Tinh - Thủy Tinh
Vào đời Vua Hùng thứ 18, Vua có một người con gái đã đến tuổi cập kê, công chúa có dung nhan xinh đẹp tuyệt trần, lại còn có một làn da trắng trẻo mịn màng, dáng người nàng cũng cao ráo. Tên của nàng công chúa này là Mỵ Nương. Khi thấy con gái của mình đã tới tuổi để gả chồng nên Vua liền cho ban truyền tìm kiếm nhân kiệt ở khắp nhân gian hòng kén được một người phò mã đủ tài đủ đức. Nghe được tin Vua Hùng ban tin kén rể khắp nơi cho con gái, vua nước Tây Âu liền đem tới rất nhiều những vàng bạc cùng châu báu như là cau vàng, trầu bạc để mà dạm hỏi cưới nàng Mỵ Nương. Thấy vậy Vua Hùng lập tức cho triệu tất cả Lạc Hầu của mình vào cung để mà hội ý. Những Lạc Hầu này tâu rằng: – Vua nước Tây Âu ấy là một con người rất cường bạo, tuổi cũng khá cao rồi, mà hình dáng cũng rất kì quái, làm sao mà có thể xứng đôi với công chúa của chúng ta được. Nghe những lời khuyên can của đám Lạc Hầu nên Vua Hùng liền từ chối lời cầu hôn của vua nước Tây Âu kia. Cũng chính từ ngày đó mà mối quan hệ giữa nước Văn Lang cùng Tây Âu xấu đi, nảy sinh hiềm khích khó tháo gỡ. Bẵng đi một thời gian thì lại có hai chàng trai tới để dạm hỏi cưới nàng công chúa Mỵ Nương. Hai chàng trai này đều vô cùng xuất sắc và tuấn tú. Một người là Sơn Tinh (Chính là thần núi Tản Viên, hay còn gọi là Thánh Tản), người còn lại là Thủy Tinh (Chính là Thần Nước, hay Thần Biển Cả). Vua Hùng liền cho truyền cả hai chàng trai này vào triều để trổ tài, nếu như ai có tài hơn thì Vua sẽ chấp nhận gả con gái mình, tức công chúa Mỵ Nương cho người đó. Chàng Sơn Tinh trổ tài trước, chàng có phép chỉ tay tới đâu thì nơi đó lại mọc lên những rừng núi hùng vĩ, chim muông đông đúc từng đàn. Còn chàng Thủy Tinh lại có phép vẫy tay thì nước sẽ ào ào mà dâng lên thật cao, còn có cả thuồng luồng và ba ba hàng đàn kéo nhau nổi lên mặt nước nữa. Cả hai chàng trai đều vô cùng tài giỏi, có thể gọi là ngang tài cân sức nên Vua Hùng không biết phải chọn ai mới được. Vì vậy để quyết định thắng thua mà Vua đã phải ra thêm thử thách khác, người nào chiến thắng thì sẽ trở thành phò mã. Vua nói rằng: – Hai ngươi đều rất tài giỏi, ngang tài cân sức với nhau, vì vậy nên ta không thể chọn một trong hai được. Bây giờ sẽ như thế này, ngày mai nếu như một trong hai ngươi, người nào có thể đem được đồ sính lễ gồm có một trăm ván cơm nếp, một trăm tệp bánh trưng, voi chín ngà, gà chín cựa, ngựa chín hồng mao, mỗi thứ phải có một đôi tới đây sớm hơn thì người đó sẽ được cưới con gái của ta. Tuy nói rằng không thể chọn ai nhưng tất cả những đồ lễ mà Vua Hùng yêu cầu hai chàng chuẩn bị thì tất cả đều là những sản vật ở trên đất liền. Điều đó có thể cho thấy được Vua Hùng cũng đã ngầm đồng ý gả nàng Mỵ Nương cho Sơn Tinh rồi. Ngày hôm sau, khi bầu trời bên ngoài chỉ vừa hửng sáng thì Sơn Tinh đã đem được đầy đủ các loại lễ vật theo đúng yêu cầu của Vua Hùng đến cung vua để xin hỏi cưới nàng Mỵ Nương. Bởi vì những đồ lễ vật ấy với một thần núi như chàng thì vô cùng dễ để chuẩn bị.Vua Hùng vô cùng hài lòng với biểu hiện của Sơn Tinh nên đã bằng lòng cho phép Sơn Tinh được cưới con gái Mỵ Nương của mình. Còn Thủy Tinh bởi vì khó tìm kiếm những món lễ vật hỏi cưới đó nên đến trễ hơn một chút, chàng vô cùng hốt hoảng khi được tin nàng Mỵ Nương đã cùng đi với phu quân của mình là Sơn Tinh. Vì thế nên Thủy Tinh lập tức đuổi theo, đem cả đám binh tướng của mình tới đánh Sơn Tinh thề phải cướp lại nàng Mỵ Nương cho bằng được. Thủy Tinh cứ thế hô mưa rồi gọi gió làm rung chuyển trời đất, khiến cho nước biển cuồn cuộn dâng lên để đánh Sơn Tinh. Khi nước dâng cao khiến cho lúa ngập, đồng cũng ngập, sau đó thì nhà cửa cũng ngập nốt. Và giông tố cứ mỗi lúc lại càng dữ dội hơn, nước cũng càng ngày càng dâng cao hơn nữa, đám thủy quái thì cứ đông lên nhiều lần, chúng rầm rầm rộ rộ làm theo tất cả những mệnh lệnh của Thủy Tinh. Tất cả cư dân của nước Văn Lang lúc bấy giờ đều chung sức và chung lòng ra tay để giúp đỡ cho Sơn Tinh. Hơn nữa thần trống đồng thiêng liêng cũng hiện về để giục giã, cổ vũ cho mọi người ra trận mà tiêu diệt đám thủy quái hung bạo kia, đồng thời chống cả lũ lụt dữ dội. Những người nào khỏe mạnh thì đi đào đất để đắp thành đê. Chính vì thế mà ra đời những con đê dùng để chống lụt hiện nay của người Việt ta. Những đoạn đê dựng lên ngày càng cao hơn, chắc hơn, ngăn chia rồi chặn đứng được tất cả sự phá phách khủng khiếp của lũ lụt. Đối mặt với tình cảnh này, Sơn Tinh không hề có chút nao núng nào cả, chàng liền dùng phép của mình để bốc những quả đồi, rồi dời đi những dãy núi để mà tạo thành bức tường vững chắc ngăn chặn dòng nước lũ của đối thủ. Dòng nước lũ của Thủy Tinh dâng cao bao nhiêu thì những dãy núi của Sơn Tinh lại mọc cao lên bằng ấy. Đội quân của Sơn Tinh bê những hòn đá lớn, nhỏ ném tới tấp vào đám quân của Thủy Tinh ở dưới nước khiến chúng chết vô số kể. Xác cá, xác thuồng luồng, xác ba ba cứ nổi đầy kín cả mặt nước. Thủy Tinh cứ dâng nước lên một trào, Sơn Tinh lại nâng núi, nâng đất đá cao lên một vì. Khi Thủy Tinh lại dâng nước lên hai đợt thì Sơn Tinh lại tiếp tục mà dựng núi của mình lên hai vì. Vào đợt thứ ba thì Thủy Tinh liền xô nước tới, Sơn Tinh nhanh chóng nâng núi của mình lên đến ba vì. Cũng chính vì trận chiến này mà núi Tản Viên xưa còn được gọi với cái tên Ba Vì. Cả hai bên đã đánh nhau kéo dài tới mấy tháng ròng. Nhưng sau cùng bởi vì đuối sức nên Thủy Tinh phải cho quân rút trở về. Kể từ ngày đó thì chàng Sơn Tinh và nàng Mỵ Nương cũng được sống bên nhau vui vẻ, hạnh phúc. Tuy nhiên thì ân oán của Sơn Tinh cùng Thủy Tinh lại càng ngày càng nặng, hận thù cũng càng ngày càng sâu hơn. Mỗi năm vào tầm tháng 7 theo Âm lịch thì Thủy Tinh lại nghĩ tới ân oán khi xưa, lập tức đem dâng nước kéo tới đánh nhau cùng Sơn Tinh. Tuy vậy nhưng mỗi lần như vậy thì Thủy Tinh đều nhận lấy thất bại rồi phải kéo quân ra về. Truyền thuyết về Sơn Tinh – Thủy Tinh vô cùng nổi tiếng, và là một trong những cách lý giải của người Việt xưa về hiện tượng lũ lụt cùng những cách để chống lũ lụt của nước mình.
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/son-tinh-thuy-tinh" }
Chàng ngốc học khôn
Ngày xưa, có anh chàng tên là Đần lấy chị vợ tên là Khôn. Cả đời một chữ cắn làm đôi không biết, anh ta lại chẳng chịu thò đầu đi đâu, chỉ ru rú ở xó nhà để vợ sai bảo, từ việc nhỏ tới việc lớn, nên đã đần lại càng đần thêm. Cái nghề đời, chồng "đần", vợ "khôn", việc nhà việc cửa đụng đến cái gì cũng dễ sinh đôi co, cãi vã nhau cả ngày. Chị vợ thì luôn mồm chê bai chồng: "Ối, trời ơi! Đần ơi là đần!" hoặc: "Ối trời ơi! Đần đâu mà có thứ đần đến thế!" Thoạt đầu anh chồng biết thân biết phận, cứ thộn mặt ra giả câm giả điếc, đành cho vợ nhiếc. Nhưng về sau, chẳng hiểu có anh hàng xóm láng giềng nào mớm lời cho, thế là đôi lúc tức khí lên, anh ta cũng gân cổ cãi lại vợ: - Này này, bu nó có khôn ngoan cũng chỉ là "cái ngữ đàn bà", còn tôi "dẫu rằng... đần độn cũng là cái thằng đàn ông!" Thấy anh chồng đần đi học mót đâu được một câu cũng ra chữ nghĩa để xoen xoét cãi lí với mình, chị vợ tủm tỉm cười bảo: - Phải rồi, bố nó muốn ra "cái thằng đàn ông" thì cứ đi mà học khôn học ngoan người ta cho bằng "cái ngữ đàn bà" như tôi đây này. Tôi đỡ nặng mình nặng mẩy, kẻo thiên hạ người ta lại nhiếc: - Làm đầy tớ người khôn còn hơn làm thầy thằng dại! Anh chồng liền thộn mặt ra, hỏi vợ: - Thế, học khôn ở đâu hả, bu nó? Chị vợ tặc lưỡi: - Đần ơi là đần! "Đi một ngày đàng, học một sàng khôn", cổ nhân dạy thế, chứ còn học ở đâu nữa! Anh chồng lại thộn ra: - Thế, làm thế nào để "đi một ngày đàng" mà "học được một sàng khôn", hả bu nó? Chị vợ bật cười: - Trời ơi! Đần đâu mà có cái thứ đần đến thế? Rồi chị ta làm bộ khôn ngoan, giảng giải một thôi một hồi cho anh chồng; - Thế này này! Đi ra đường, muốn học khôn học ngoan người ta thì trông thấy người ta, phải tay bắt mặt mừng, tươi cười hớn hở, chào người này một câu, chào người nọ một câu, chúc người này gặp nhiều may mắn, chúc người kia gặp sự tốt lành để làm quen với người ta. "Dao năng liếc thì sắc, người năng chào thì quen", có thế mới học khôn học ngoan người ta được chứ!... Cứ như bố nó cả đời chả đi tới đâu, mà có gặp ai cũng cứ lì lì cái mặt ra như pho tượng đất ấy, thì ai người ta thiết săn đón trò chuyện với mình mà học khôn với học ngoan! Nghe vợ giảng giải, anh chồng như sáng mắt ra, bỗng hăng hái bảo vợ: - Vậy thì gà gáy canh ba sáng mai, bu nó dậy đùm cơm nắm, muối rang cho tôi đi học khôn một chuyến xem sao. Sáng tinh mơ hôm sau, anh chồng cơm đùm cơm nắm lên đường. Nhớ lời vợ dặn, gặp ai anh ta cũng sấn lại, nắm tay, bá vai, miệng cười toe toét và luôn mồm chúc hết "điều may mắn" lại đến "sự tốt lành". Mọi người thoạt đầu trố mắt nhìn (vì chưa bao giờ thấy anh chàng nào "kì cục" như vậy), sau cho rằng anh chàng này "dở hơi", nên ai cũng vội vã bỏ đi cho được việc. Thế là suốt dọc đường chẳng có một ai rỗi hơi đứng lại bắt chuyện với cả. Gần trưa, bỗng gặp một đoàn người đông nghìn nghịt đi tới. Lại có cả tiếng kèn tiếng trống om sòm cả một khúc đường. Anh chàng mừng thầm, chắc là có cơ hội để "học khôn" ở cái đám đông này. Nhớ lời vợ dặn, anh ta lại cười toe toét và luôn miệng chúc mừng lia lịa. Mọi người trợn mắt nhìn anh ta, rồi đoàn người cứ lẳng lặng kéo đi. Anh ta chợt thấy đám người đi sau một cái kiệu lớn sáu người khiêng, người nào tay cũng chống gậy, đi hơi khom lưng, mặc đồ xô gai trắng toát, trông rất lạ, một vài người thỉnh thoảng lại sụt sịt như bị sổ mũi. Đoán chừng đây mới là những người người có thể dạy "khôn" được, anh chàng bèn chạy ngay lại túm lấy tay từng người, ra vẻ tay bắt mặt mừng, hớn hở nói: "A ha! Xin chúc mừng các bác gặp điều may mắn! Chúc mừng các bác gặp sự tốt lành! Chúc mừng...". Chưa kịp chúc hết câu thứ ba, liền bị đám người ấy nổi xung lên, tiện tay vung gậy phang cho một chập tối tăm mặt mũi: "Đồ xỏ lá ba que! Đồ xỏ lá ba que!.... Đập chết nó đi!... Đem chôn sống nó đi!...". Tiếng thét rầm rầm, tiếng gậy đập huỳnh huỵch... Anh chàng kinh hoàng vì bất ngờ bị đòn đau quá, phải cố hết sức mới luồn được qua gầm kiệu, sang phía bên kia ù té chạy bán sống bán chết. Về đến nhà, chưa kịp kể lại hết đầu đuôi câu chuyện, anh chàng bị vợ nhiếc luôn cho một chập: - Ối trời ơi! Đần ơi là đần! Người ta chết cha chết mẹ, đã không chia buồn với người ta được một tiếng thì chớ, lại "xỏ lá ba que" đi chúc mừng nhà người ta gặp "may mắn... tốt lành". Có bằng đào mồ đào mả cả họ người ta lên không? Trời ơi! Đần ơi là đần! Sao người ta không chôn sống luôn bố nó đi cho hết tiệt cái thứ đần ấy! Đần tức quá thộn mặt ra hỏi vợ: - Thế thì bu nó bảo tôi phải chia buồn với người ta ra sao? Sao không dặn trước? Chị vợ nguýt dài rồi lại ngồi giảng giải một thôi một hồi cho anh chồng: - Thế này này, đần ơi là đần! Đi đường gặp nhà người ta đang có đám thì đừng có cười cợt, toe toét cái mồm cái miệng vô duyên ra, mà phải tỏ vẻ rầu rầu rĩ rĩ. Nếu là chỗ cùng làng cùng xóm thì chia buồn, rồi chúc cho người ta được "mồ yên mả đẹp" hưởng hạnh phúc ở dưới "suối vàng", đã nghe ra chưa? Trời ơi, sao mà lại có cái thứ đần đến thế? Đần nghe vợ nói, lại như sáng mắt ra, hẹn hôm sau quyết đi "học khôn" phen nữa. Tinh mơ hôm sau, anh ta lại cơm đùm cơm nắm lên đường. Dọc đường, để khỏi quên lời vợ dặn, anh ta cứ lẩm bẩm luôn mồm chúc hết người này "mồ yên mả đẹp", lại chúc người kia hưởng hạnh phúc dưới "suối vàng"... Thấy thế, ai cũng lảng xa ra sợ "xúi quẩy", cho rằng anh ta đã "hóa dại", chẳng ai thèm chấp. Nhưng anh ta chỉ rắp tâm gặp cho được một cái "đám" nào giống cái cái "đám" hôm trước để có dịp tỏ rõ sự "khôn ngoan" của mình. Xế trưa, trời cũng chiều lòng, quả nhiên anh ta lại thấy một đoàn người đang nhộn nhịp đi tới. Dẫn đầu là một đám ông già bà cả, khăn là áo lượt chỉnh tề, có một ông cụ râu dài, áo thụng xanh, bê chiếc bình hương khói bay nghi ngút, trông rất đạo mạo. Theo sau là đám thanh niên, trai có gái có, ăn mặc chải chuốt, vừa đi vừa cười nói hớn hở cùng đôi nam nữ cặp kè bên nhau có vẻ bẽn lẽn, ngượng nghịu. Không bỏ lỡ cơ hội, anh chàng sấn lại, nắm lấy tay đôi trai gái. Nhớ lời vợ dặn, anh ta làm bộ rầu rầu rĩ rĩ, chúc cho "hai anh chị" được "mồ yên mả đẹp" để hưởng hạnh phúc dưới "suối vàng"! Cô gái nghe thế, khiếp đảm, lăn đùng ra, ngất lịm. Còn anh con trai mặt đang đỏ bừng bừng bỗng xám ngoét lại, không còn giọt máu, rồi nổi điên túm lấy cổ anh chàng mà hét: - Đồ quỷ sứ! Đồ quỷ sứ! Ông bóp chết mày! Thế là cả đám thanh niên xông vào, người đấm, kẻ bóp cổ khiến cho anh chàng gần như tắc thở. May có người hàng xóm tốt bụng đi qua, vào can, xin mãi cho anh chàng "dở rồ dở dại" này, mới thoát chết mà chạy được về tới nhà. Qua trận đòn nhừ tử ấy, lại đến trận mắng té tát của chị vợ: - Trời ơi! Đần ơi là đần!... Đần đâu mà có cái thứ đần đến thế!... Đám rước dâu của nhà người ta, chứ đâu phải là đám ma mà đi chúc "mồ yên mả đẹp" để xuống "suối vàng" hưởng hạnh phúc! Sao người ta không cho bố nó xuống luôn "suối vàng" đi cho hết tiệt cái thứ đần ấy! Đần tức quá lại thộn mặt ra hỏi: - Thế thì bu nó bảo tôi phải chúc người ta như thế nào? Sao không dặn trước? Chị vợ lại nguýt dài, rồi lại giảng giải: - Thế này này, đần ơi là đần! Đi đường mà gặp đám "cô dâu chú rể" vui vẻ như thế thì chỉ cần mau mồm mau miệng chúc vợ chồng người ta "tốt đôi", "tốt đôi". Thế là người ta khoái chí nhất đời... Mà kể cả những đôi vợ chồng cặp kè bên nhau được khen một câu như thế cũng thích chí..., cứ gì "cô dâu chú rể"!... Người ta thì thích mà mình lại được dịp làm quen với người ta mới khôn ngoan được chứ! Anh chồng, lại như sáng mắt ra, bèn quyết đi "học khôn" một phen nữa. Sáng sớm hôm sau, anh chàng lại lên đường. Để cho dễ nhớ lời vợ dặn, trên đường đi, gặp bất cứ ai, ông già, bà cả, hoặc trai, gái, lớn, bé, anh ta cũng cứ luôn mồm lặp đi lặp lại độc có hai tiếng "tốt đôi" ... "tốt đôi"..., mặc dầu từ sáng đến trưa vẫn chẳng gặp "đôi" nào cả! Và cũng như hôm trước, chẳng ai buồn bắt chuyện với anh ta cho mất công mất việc! Đi mỏi chân, mặt trời đã xế bóng mà vẫn chưa "tóm" được "đôi" nào cho ra "đôi" cả, anh ta đang định quay trở về. Bỗng nghe tiếng ồn ào ở phía xa xa trước mặt. Rảo bước tới nơi, anh ta thấy lửa bốc cháy ngùn ngụt ở một ngôi nhà cuối làng. Tiếng trống ngũ liên, tiếng tù và, tiếng người la hét náo động cả một vùng. Người xách nước, kẻ vác câu liêm, người bê chiếu ướt... ùn ùn kéo tới, leo lên mái nhà cố dập tắt ngọn lửa. Phía ngoài đường, hai vợ chồng chủ nhà đã có tuổi đang đứng trông đồ đạc được mọi người khuân ra giúp. Nhác thấy họ đang lúi húi cặp kề bên nhau, nhớ lời vợ dặn, như gặp được cơ hội hiếm có, anh chàng vội chạy lại, tay bắt mặt mừng, nói rối rít: - A ha! Chúc mừng hai bác thật là "tốt đôi", "tốt đôi"! Xin chúc mừng!... Cháy nhà mất của, lòng dạ rối như mớ boòng boong, lại có cái anh chàng nào tự dưng chớt chớt nhả nhả đến lắp ba lắp bắp những gì nghe chẳng rõ giữa tiếng ồn ào huyên náo, người chủ nhà bèn quát: - Cái gì? Cái gì? Nói cái gì thế? Đần liền ghé vào tai bác ta hét tướng: - Tôi bảo "tốt đôi", "tốt đôi"... Hai bác sướng chưa nào?... "Tốt đôi", "tốt đôi"... đã nghe rõ chưa? Như hiểu ra điều gì, mắt bác chủ nhà bỗng long sòng sọc. Bác ta túm ngay lấy cổ anh chàng, hô hoán: - Thằng này đốt nhà! Thằng này đốt nhà! Ối làng nước ơi! Tóm cổ được thằng đốt nhà đây rồi! Làng nước ơi! Mọi người đang mải chữa cháy, vội quay lại, cùng thét: - Đâu, đâu?... Đứa nào đốt nhà? Đứa nào là thủ phạm? Đâu? Đâu?... Bắt lấy nó! Trói nó lại!... Gô cổ nó lại!... Chữa cháy xong, sẽ hỏi tội!... Thế là cả hai vợ chồng bác chủ nhà và lũ trẻ con quanh đấy xúm lại túm chặt lấy anh chàng. Hoảng quá, anh ta vừa giãy giụa, vừa kêu lên: - Ô hay! Cái nhà bác này! Tôi bảo "tốt đôi", "tốt đôi" cơ mà! Bác chủ nhà càng quát, dữ tợn hơn: - A! Mày bảo mày đốt! Chính mày đốt à? Ông sẽ thiêu sống mày ngay trong đống lửa kia kìa!... Hai bên giằng co, xô đẩy nhau, chợt va phải cái chĩnh tương đổ kềnh ra sắp lăn xuống rãnh. Tiếc của, bác chủ nhà nới tay một chút để lấy chân chặn cái chĩnh lại. Đang lúng túng thì anh chàng vung mạnh ra khỏi tay cả hai vợ chồng, xô lũ trẻ ngã nháo nhào rồi chạy thục mạng. Sẩm tối mới bò về tới nhà, vừa đói, vừa mệt, bị một phen hú vía, lại bị chị vợ té tát luôn cho một chập: - Trời ơi là trời! Đần ơi là đần! Đần đâu mà có cái thứ đần đến thế? Người ta đang tìm đứa đốt nhà thì như "lạy ông tôi ở bụi này", hét vào giữa mặt người ta "tốt đôi", "tốt đôi". Thế thì có khác gì bảo người ta rằng "tôi đốt", "tôi đốt", chứ còn "ai đốt" vào đấy nữa! Trời đất, sao họ không thiêu sống luôn bố nó đi cho hết tiệt cái thứ đần ấy. Nghe vợ mắng, anh chàng Đần như sực tỉnh cơn mê, nhưng vẫn thộn mặt ra hỏi vợ: - Thế bu nó bảo tôi phải làm như thế nào mới được? Sao không dặn trước? "Tốt đôi", "tốt đôi" mà lại bảo là "tôi đốt", "tôi đốt" là thế nào? Chị vợ lại nguýt dài, giảng giải: - Thế này này, đần ơi là đần! Đi đường mà gặp những chuyện rối ren "hữu sự" như vậy, thấy người ta làm thế nào thì mình cũng bắt chước người ta giúp vào một tay một chân chứ đừng có đứng ngoài mà "lí sự... lí siếc" để chuốc vạ vào thân như hôm nay! Đã nghe ra chưa? Ôi, đần đâu lại có thứ đần đến thế! Đần nghe vợ nói lần này lại như sáng hẳn mắt ra, hơn cả những lần trước. Anh ta nghĩ bụng: thế thì "bắt chước" thiên hạ cũng chẳng khó gì, bèn hăm hở quyết đi "học khôn" một chuyến nữa. Thế là mới gà gáy canh ba hôm sau, trời còn nhá nhem tối, anh ta đã hăng hái lên đường. Nhưng chuyến này chẳng phải chờ đợi lâu la gì, mới đi tới nẻo đường vắng sau ngôi miếu hoang ở cuối làng trên, đã gặp hai gã đàn ông to béo, không nhìn rõ mặt, đang ẩu đả nhau loạn xạ, kẻ thượng cẳng chân, người hạ cẳng tay, chẳng gã nào chịu thua kém gã nào một miếng. Anh ta không biết đó là hai tay mới đi "ăn sương" về, rủ nhau ra đây chia nhau bọc tiền mới trộm được, nhưng tay nào cũng đòi phần hơn nên mới sinh ra ẩu đả. Thấy có chuyện rối ren đúng là "hữu sự" thật, chẳng hiểu "đầu cua tai nheo" ra sao, nhớ tới lời vợ dặn hôm trước, anh chàng Đần liền xắn tay áo xông vào kêu lên: "Để tớ giúp cho một tay!... Để tớ giúp cho một tay!...". Hai gã ăn trộm, gã này tưởng anh ta là người cùng cánh gã kia đến giúp sức để choảng mình, bèn cùng xông vào nện cho anh chàng hung hăng mới đến này những quả đấm như trời giáng, làm anh ta đổ kềnh ra mặt đất. Bị đòn phủ đầu đau quá, chợt nhớ tới lời vợ dặn, anh ta liền ú ớ kêu tướng lên: "Ô kìa, ô kìa! Tớ có "lí sự... lí siếc" gì đâu? Tớ... tớ chỉ giúp đằng ấy... một tay thôi mà!". Hai gã ăn trộm "đấu võ" với nhau đã đến lúc thở cả ra đằng tai, thoáng nghe anh ta ú ớ "lí... lí..., tay... tay" gì đó thì ngỡ anh chàng này đe rằng anh ta là người nhà ông "lí"... sẽ cho chúng "biết tay"! Thế là hai gã chột dạ, sợ tù mọt gông với cụ "lí", hốt hoảng kéo nhau bỏ chạy, để trơ lại một mình anh chàng nằm chỏng quèo dưới đất, mặt mũi sưng vêu! Lần này, tuy trời còn sớm, mới trông rõ mặt người, nhưng anh chàng Đần cũng lủi thủi quay về nhà để trách vợ chẳng dạy "khôn" lại xui dại mình đến nỗi bị ăn đòn nhừ xương. Bất đồ, anh ta lại bị vợ nhiếc: - Ôi, đần ôi là đần! Thấy người ta đánh nhau thì mình phải vào can, rồi khuyên giải người ta một câu "một điều nhịn là chín điều lành" chứ! Mình là "người giữa" phải "chữa đôi bên". Đã không hòa giải họ thì chớ, lại lăn vào "đánh hôi" với người ta, có khác gì "đổ thêm dầu vào lửa" cho nó cháy luôn cả chân cả tay mình? Ôi, đần đâu mà có cái thứ đần đến thế! Cứ mỗi lần nghe vợ biện bạch cho một hồi đâu ra đấy, anh chàng Đần lại như sáng mắt ra. Nhưng lần này thì quả thật anh ta đã thấy thấm thía. Cứ học khôn học ngoan được như cái "lí sự" của vợ cũng đủ "vỡ mày vỡ mặt" ra rồi! Anh ta chép miệng than thở: - Bu nó bảo "đi một ngày đàng học một sàng khôn" mà tôi đi đến mấy ngày đàng rồi, chỉ rặt gặp những thụi với đấm với đá, gậy gộc, bóp cổ, chôn sống, thiêu sống... chẳng thấy thằng cha nào dạy khôn dạy ngoan cho mình cả! Chị vợ bật cười: - Ôi, đần ơi là đần! Cái khôn cái ngoan nó ngấm vào da vào thịt, nó thấm vào xương vào cốt ấy chứ. "Miếng ngon nhớ lâu, đòn đau nhớ đời", đâu có phải như cái bánh cái trái, người ta trao vào tay hay đút vào túi cho mình được!... Thiên hạ chán vạn người còn phải lên rừng xuống biển, đi khắp gầm trời mà cũng chưa dễ gì học được hết mọi cái khôn ngoan ở đời ấy chứ! Bố nó mới đi có vài ngày đàng, bất quá cũng chỉ ở mấy làng trên, xã dưới, quẩn quanh cái xó huyện này thôi, chứ đã ăn thua gì! Nghe nói đến chuyện thiên hạ lên rừng xuống biển để "học khôn", từ thuở cha sinh mẹ đẻ chưa được đi tới đâu, ngoài cái lối xóm nhà mình, anh chàng Đần lấy làm thích chí bảo vợ: - Ừ, hay bu nó cứ để tôi lên rừng xuống biển, "học khôn" một chuyến, xem nó thế nào? Thế là hôm sau, từ gà gáy canh một, anh chàng Đần lại cơm đùm cơm nắm, xin thêm vợ quan tiền giắt ở thắt lưng, quyết chí lên tận rừng xanh để học khôn. Nghe vợ dặn, anh ta cứ nhằm hướng mặt trời lặn mà cắm đầu đi cho mãi đến tối thì tới rừng thật. Tiếng chim kêu vượn hót, cảnh rừng núi vắng vẻ, âm u... mọi thứ đều làm anh chàng lạ mắt lạ tai, cứ thế dấn bước vào sâu trong rừng lúc nào không biết. Bỗng một cảnh kì lạ làm anh ta dừng chân lại: hai con vật gì to lớn như đôi bò mộng, lông lá xồm xoàm đầy những vết văn đen như vết cháy sém, đang vờn nhau. Cả hai cùng đứng trên hai chân sau đu đẩy nhau, rồi lại vuốt vào mặt nhau bằng hai chân trước to bằng cột nhà, và có những móng sắc nhọn. Á à! Đám này đang gây sự với nhau, lại sắp loạn đả rồi đây, giống như cái đám hôm qua ấy mà! Nhớ lời vợ dặn, anh chàng Đần xông ngay lại, kêu to lên: - Thôi thôi, "một điều nhịn là chín điều lành". Tớ là "người giữa", tớ "chữa đôi bên", chớ có ẩu đả, chẳng có lợi lộc gì cho bên nào đâu!... Hai con vật to lớn bỗng giật mình cùng ngoái đầu lại. Một tiếng gầm dữ dội chợt vang lên làm cho anh chàng Đần cũng giật bắn cả người. Thì ra đó là một cặp vợ chồng cọp đang đùa giỡn với nhau, sau khi đã no mồi. Thấy bóng người xuất hiện bất ngờ, cọp cái thảng thốt gầm lên một tiếng rồi quay đầu bỏ đi. Cọp đực cũng gầm lên một tiếng dữ dội hơn, làm lá cây rụng xuống rào rào, rồi quay hẳn đầu lại, trườn mình về phía kẻ "địch" mới đến. Anh chàng Đần run lẩy bẩy, hồn vía lên mây, vội bỏ chạy. Cọp đực quật mạnh đuôi một cái, lại gầm lên một tiếng rung cả vách núi. Chàng Đần kinh hoảng quá, vội leo tót ngay lên một cây to gần đấy. Cọp đực quật mạnh đuôi một cái nữa rồi chồm ngay lại, trợn trừng ngó thẳng lên mặt anh chàng bằng đôi mắt đỏ như hai cục máu, miệng gầm gầm gừ gừ một thôi một hồi, làm cho anh chàng càng run lên như cầy sấy. Chán chê, cọp đực mới nằm phục xuống rồi chỉ một lát đã ngáy ầm ầm. Cho tới gần nửa đêm, cọp cái bỗng lững thững tới đánh thức cọp đực dậy. Vợ chồng cọp lại vờn nhau giây lát rồi theo nhau đi tít vào rừng sâu để săn mồi, quên khuấy con mồi đang ngồi run cầm cập trên một cành cây to ngay phía trên chỗ cọp đực nằm ngủ. Phải đợi tới gần sáng, nghe tiếng gà rừng gáy, xem chừng yên ắng, chàng Đần mới dám từ từ tụt từ trên cây xuống, cắm đầu cắm cổ chạy một mạch ra khỏi khu rừng. Suốt ngày hôm đó, anh chàng cứ lập cà lập cập vừa đi vừa chạy để mau chóng về tới nhà, trông thấy vợ, mới yên trí là mình còn sống. Nghe kể hết đầu đuôi, chị vợ thoạt đầu cũng rùng mình sởn gáy, nghĩ mà hú vía cho cái đần độn đến thảm hại của anh chồng. Nhưng sau nghĩ thế nào, chị lại bật cười bảo: - Ôi thế là lần này bố nó "khôn" lắm rồi! "Khôn" nhất trần đời đấy! Anh chồng thộn mặt ra trách vợ: - Ô hay! Bu nó còn giễu tôi à? Chỉ thiếu chút nữa là tôi chui vào bụng cọp để "học khôn" đấy! Chị vợ phì cười: - Thế mà bố nó không chui vào bụng cọp mới là "khôn" chứ! Ví thử cứ chúi đầu chúi cổ chạy thêm vài bước nữa xem liệu bố nó có nằm trong bụng cọp rồi không? Thế chả phải là "khôn" nhất trần đời rồi còn gì nữa!... Ôi, đần ơi là đần! "Khôn" đến như thế mà cũng không biết là "khôn" nữa! Anh chồng ngẩn mặt ra. Lần đầu tiên trong đời, suýt nữa chui vào bụng cọp, anh ta mới được chị vợ khen là "khôn"! Chẳng hiểu nghĩ thế nào, anh bỗng ngớ ngẩn nói với vợ: - Thì ra... cái giống "cọp" nó dạy "khôn" nhanh thật đấy, bu nó nhỉ!
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/chang-ngoc-hoc-khon" }
Truyện cổ tích Cây Khế
Xưa có một gia đình nọ, người cha và người mẹ mất sớm để lại hai anh em sống với nhau. Người anh thì bản tính tham lam ích kỉ, người em thì ngược lại hiền lành chất phác và luôn biết nhường nhịn. Khi hai anh em lập gia đình, người anh muốn ra ở riêng. Hắn ta nhận hết tất cả nhà cửa ruộng vườn, chỉ để lại cho người em một mảnh đất nhỏ với một cây khế. Người em không một lời ca thán, hai vợ chồng dựng lều trên mảnh đất ấy và hết lòng chăm sóc cho cây khế. Trời không phụ lòng người, năm đó cây khế trong vườn rất sai trái, quả nào quả nấy cũng mọng nước và vàng ruộm. Người em phấn khởi chờ đến ngày đem khế đi bán để lấy tiền đong gạo. Nhưng một hôm, có một con chim lạ rất to từ đâu bay tới ăn khế. Thấy chim ăn trái, người em liền cầm lấy một cây gậy để đuổi chim bay đi. Người em nói: - Chim ơi, vợ chồng ta chỉ có mỗi cây khế này là tài sản đáng giá. Nay chim đến ăn hết khế của ta rồi, chúng ta lấy gì mà sống. Bỗng nhiên, con chim cất tiếng nói: - Ăn một quả, trả cục vàng, may túi ba gang, mang đi mà đựng. Hai vợ chồng người em nghe chim nói tiếng người, cảm thấy vô cùng kỳ lạ, nhưng anh cũng bảo vợ lấy một chiếc áo cũ may chiếc túi ba gang như chim nói. Hôm sau chim lại tới ăn khế, ăn xong chim bảo người em cưỡi lên lưng. Chim bay đi rất xa, bay qua một ngọn núi cao, qua một vùng biển rộng. Cuối cùng chim đáp lại một hòn đảo hoang chứa đầy vàng bạc và châu báu. Người em lấy đủ số vàng bạc vào chiếc túi ba gang rồi lại cưỡi trên lưng chim trở về nhà. Từ ngày đó, người em trở nên giàu có, vì tiền bạc nhiều mà ăn cũng chẳng hết, người em lấy một số ra để giúp đỡ những người nghèo trong vùng. Ai ai cũng yêu quý người em vì tính tình tốt bụng lại biết giúp đỡ người. Người anh thấy người em giàu có bất thường nên mon men sang hỏi chuyện. Người em thực thà kể lại cho anh nghe câu chuyện mình được chim thần chở đi lấy vàng ở hòn đảo nọ. Nghe xong, lòng tham nổi lên, anh ta đòi đổi toàn bộ gia tài lấy mảnh vườn và cây khế của người em. Chiều lòng anh, người em cũng bằng lòng. Vào mùa năm sau, cây khế vẫn tiếp tục sai trái. Một hôm, chim lại bay tới để ăn khế, vợ chồng người anh giả nghèo giả khổ khóc lóc kêu than, chim bèn nói: - Ăn một qủa, trả cục vàng, may túi ba gang, mang theo mà đựng. Người anh mừng quá, giục vợ may túi không phải 3 gang mà là 12 gang để đựng được nhiều vàng. Hôm sau chim thần tới đưa người anh đi lấy vàng. Anh ta bị lóa mắt bởi vàng bạc châu báu trên hòn đảo, nhồi đầy túi rồi, người anh còn cố nhét vàng quanh người. Chim giục mãi anh ta mới chịu leo lên lưng chim để trở về. Đường thì xa, vàng thì nặng, chẳng mấy chốc chim thần đã thấm mệt. Mấy lần chim bảo người anh vứt bớt vàng đi cho nhẹ nhưng anh ta vẫn khăng khăng ôm lấy túi vàng không chịu buông. Khi bay qua biển, bất ngờ có một cơn gió lớn thổi lên, chim không chịu nổi nữa liền nghiêng cánh. Thế là người anh tham lam cùng túi vàng rơi tòm xuống biển...
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/truyen-co-tich-cay-khe" }
Nợ như chúa chổm
Vào thời nhà Lê, có một ông quan lớn trong triều tên là Mạc Đăng Dung có chí muốn cướp ngôi vua. Nhà vua biết được tin đó nhưng thế lực của Mạc rất lớn, ông ta cầm binh quyền, bè đảng lại đông nên không thể làm gì được. Cuối cùng nhà vua cất lẻn trốn đi nhưng chẳng được bao lâu đã bị Mạc Đăng Dung bắt đem về giam lại. Hồi ấy ở trại giam có một cô hàng rượu vẫn thường gánh rượu đến bán cho lính canh ngục. Một hôm, cô hàng đưa rượu vào bán, thấy có một phạm nhân mới mặt mũi khôi ngô bị giam riêng ra một nơi. Khi biết người đó làm vua, cô hàng có ý muốn làm quen. Mỗi lần bán rượu cho ngục tốt nàng đều rót rượu cho vua uống. Dần dà giữa hai người một mối tình nhóm lên. Một hôm cô hàng cất một mẻ rượu rất ngon lại có pha thuốc mê đem đến chuốc cho quân canh. Chờ cho họ nằm gục xuống, nàng bèn vào tình tự với vua. Từ đó cô hàng rượu có thai. Nhà vua biết mình không thoát khỏi bàn tay tàn bạo của Mạc, bèn giao ấn ngọc lại cho nàng và nói: - Nàng hãy giữ vật này làm tin, nếu sau này đẻ con trai, sẽ có ngày nó phục thù cho cha. Không bao lâu, nhà vua quả bị họ Mạc sai người vào ngục giết chết. Tất cả hoàng hậu, thái tử, công chúa, phi tần của vua đều chịu chung số phận. Xong việc đó, Mạc chiếm lấy ngôi Lê làm vua nước Đại Việt. Cô hàng rượu được tin không còn hồn vía nào nữa. Nàng trốn đi nơi khác làm thuê làm mướn, sống một cuộc đời lẩn lút. Đủ ngày đủ tháng, nàng sinh được một người con trai đặt tên là Chổm. Lớn lên, Chổm được vào chùa ở với sư cụ Thạch Toàn học kinh kệ. Hắn rất sáng dạ nhưng phải cái nghịch ngợm thì không ai bằng. Một hôm đi chơi về đói, Chổm thấy trước tượng Mụ Thiện có bày một mâm bồng đầy chuối và quýt. Anh chàng rón rén đến bệ, bịt mắt Mụ Thiện lại và bẻ chuối ăn. Bất đồ sư cụ ở đâu đi vào trông thấy liền nọc cổ Chổm ra đánh. Chổm tức lắm, chờ lúc sư đi vắng lấy giấy viết mấy chữ "Mười tay mười mắt không giúp được gì cho ta. Thật là vô ích. Phải đày đi phương xa". Viết xong dán vào ngực Mụ Thiện. Đêm hôm ấy sư cụ tự nhiên mộng thấy Mụ Thiện bảo mình rằng: - Nhà vua đói nên mới ăn, sao lại đánh ngài để ngài đuổi ta đi? Phải mau mau tìm cách xin lỗi ngài, để ngài tha cho ta. Tỉnh dậy, sư cụ rất phân vân, mới gọi chú tiểu Chổm vào kể chuyện cho biết và bảo bóc giấy đi. Sư cụ hỏi anh chàng: - Cha mày đâu? Chổm đáp: - Tôi lớn lên chưa từng nghe nói có cha. Sau đó Chổm trở về hỏi mẹ: - Cha con đâu? Mẹ sợ không dám nói sự thật cho con biết, đáp: - Cha con là họ Lê, bị hổ ăn thịt chết rồi. Nghe nói Chổm rất buồn. Từ hôm đó anh chàng lập tâm giết hổ để báo thù cho cha. Một hôm, Chổm vào rừng chơi, thấy một con hổ đang ngủ dưới gốc cây, liền rón rén cầm một hòn đá lớn ném mạnh vào đầu hổ, hổ vỡ óc chết tươi. Đang nắm đuôi hổ lôi về thì Chổm bỗng gặp một con hổ khác xông ra. Chổm sợ quá, quẳng xác hổ cắm đầu chạy. Nào ngờ khi hổ sắp đuổi kịp thì tự nhiên có một ông già tay cầm côn sắt ở trong rừng hiện ra đánh chết con hổ dữ. Chổm thoát chết, sụp lạy ông già. Ông già trao cho chàng cái côn, bảo: - Con hãy học một ít miếng võ để mà hộ thân. Chổm sung sướng vâng lời. Dạy xong, ông già cho Chổm cái côn rồi đi mất. Từ đó, Chổm dùng côn làm vũ khí tùy thân. Một hôm đi qua một cái miếu, nghe đồn có nhiều yêu quái hại người, Chổm bèn cầm côn trèo tường nhảy vào tìm yêu quái. Một lát, ở trong hang sâu bò ra một con rắn lớn mắt sáng như sao, miệng phun khí độc toan vồ lấy Chổm. Chổm giơ thần côn vụt lấy vụt để vào đầu rắn. Rắn chết, từ đó trong xóm được yên ổn. Hai mẹ con Chổm về sau thấy yên lại trở về chốn cũ. Hàng ngày anh chàng đi kiếm củi hoặc làm thuê làm mướn nuôi mẹ. Những lúc bụng đói, Chổm thường vào ăn cơm hay mua thức ăn ở các quán cơm tại cửa ô. Hàng nào được Chổm vào ăn cơm là hôm đó bán đắt như tôm tươi, còn các hàng khác chỉ ngồi xua ruồi. Người ta cho là Chổm nhẹ vía nên hàng nào cũng muốn mời anh ta vào ăn, dù bán chịu cũng được. Chổm được thể ngày nào cũng đánh chén loang toàng và tiêu pha bạt mạng. Toàn là ăn chịu, mua chịu. Ai hỏi nợ, hắn đều bảo: - Đến ngày tôi làm nên, sẽ xin trả chu tất. Hồi bấy giờ có một vị quan tên là Nguyễn Kim trốn sang Lào mưu đồ việc diệt Mạc. Vua nước Lào nhường cho ông miếng đất Sầm-châu làm căn cứ để lo việc khởi nghĩa. Qua mấy năm chiêu binh mãi mã, Nguyễn Kim đã gây dựng được lực lượng. Nhưng ông ta còn muốn tìm một người thuộc dòng chính thống để bá cáo với thiên hạ. Khốn nỗi, con cháu vua Lê đã bị Mạc giết hại hầu hết. Một đêm nọ Nguyễn Kim thấy một vị thần nhân hiện ra trong giấc mộng bảo ông: - Thiên tử ra đời đã lâu, sao không đón về, còn chờ gì nữa? Ông hỏi: - Ở đâu? - Cứ đi về phía Tây kinh thành, ở dãy hàng cơm đúng ngày thìn giờ ngọ, hễ thấy rồng đen quấn cột là chính thị thiên tử. Sau khi tỉnh dậy, Nguyễn Kim rất mừng, bèn mang theo một ít bộ hạ cải trang đi tìm con cháu nhà Lê theo như lời thần nhân đã mách. Hôm đó, Chổm đang ngồi ở hàng cơm, thấy có người khách lạ đi qua bèn đứng ôm lấy cột nhìn ra. Nguyễn Kim rảo qua một lượt chỉ thấy quấn cột là một chàng trai trẻ tuổi, da đen sì, nhưng thấy dáng điệu hèn hạ nên cũng không để ý. Đêm hôm đó Nguyễn Kim lại mộng thấy thần trách: - Ta đã mách cho biết thiên tử mà không nghe. Ngày mai ra bờ sông, hễ thấy ai đội mũ sắt, cưỡi thuyền rồng là đúng. Ngày mai Nguyễn Kim chực ở bờ sông nhìn những thuyền bè qua lại, nhưng chờ mãi chẳng thấy ai đội mũ sắt cả. Mãi đến gần tối có một chuyến đò ngang, trong đó có Chổm và một người bán chảo gang. Gặp khi trời đổ cơn mưa, Chổm không có nón, phải mượn chiếc chảo úp lên đầu cho đỡ ướt. Nhưng Nguyễn Kim không chú ý vì thấy y không có vẻ gì là người quyền quý. Thần lại xuất hiện trong giấc mộng của Nguyễn Kim trách ông ta không nghe lời mình rồi bảo: -Ngày mai cứ đến chỗ quán cơm cũ tìm người nào "đi chữ đại, trở lại chữ vương" thì đón về. Qua ngày sau, Nguyễn Kim và bộ hạ lại kéo nhau đi tìm. Họ quả thấy anh con trai hôm nọ bây giờ đang rượu say nằm trong quán cơm, đầu gối lên ngọn côn, hai tay bỏ xuôi xuống, hai chân dạng ra hai bên như chữ "đại" 大. Bỏ đi một lúc, đến lúc trở lại họ thấy Chổm cựa mình, lúc này ngọn côn trật lên khỏi đầu, hai tay bỏ ra trước ngực còn hai chân thì xếp bằng tròn như chữ "vương" 王. Bấy giờ Nguyễn Kim mới tin chắc anh chàng này là người thần có ý mách cho mình, bèn giả cách vào quán ăn uống, chờ Chổm dậy sẽ đến làm quen. Chổm chợt tỉnh, thấy một người khăn áo có vẻ quyền quý đến sát giường mình, thì cầm côn chực bỏ chạy. Nhưng Nguyễn Kim đã giữ Chổm lại thưa rằng: - Xin điện hạ đừng sợ. Chổm ngạc nhiên đáp: - Ô hay! Điện hạ nào. Tôi là thằng Chổm đây! Nhưng thấy người quyền quý ấy có vẻ ân cần khi hỏi thăm cha mẹ và chỗ ở, Chổm an tâm hơn trả lời: - Tôi họ Lê, cha bị hổ ăn thịt, còn mẹ ở nhà. Nghe nói là họ Lê, bọn Nguyễn Kim mười phần đã chắc đến bảy tám liền theo Chổm về đến tận nơi. Trước những người khách lạ, mẹ Chổm nửa mừng nửa sợ. Mãi đến khi biết được thiện ý của bọn họ, bà mới đưa ấn ngọc ra và kể rõ tình đầu. Thế là từ đó Chổm cùng mẹ từ giã ngôi nhà nát ở ngoại thành lên đường đến Sầm-châu lo việc phục thù cho cha. Thanh thế quân Lê mỗi ngày một to. Vua Mạc nghe tin sai tướng đem sáu mươi vạn quân vào đánh. Qua bao nhiêu trận kịch chiến, quân Lê đại thắng. Rồi không bao lâu, quân của Chổm tiến đánh ra Bắc. Quân Mạc hễ thấy quân Lê đến đâu là chạy trốn như vịt. Bấy giờ Chổm đường đường là một vị chúa uy thế lẫy lừng. Đến ngày khải hoàn, trở về kinh thành, khi quân gia đang trên đường tiến vào cửa ô thì bỗng có một số người chủ hàng cơm ngày xưa bán chịu cho Chổm, từ đâu kéo ra để chào người quen và để đòi nợ cũ. Thấy thế, bọn lính tiền đạo toan bắt tội vô lễ. Nhưng chúa Chổm ngăn lại rồi kể chuyện ăn chịu ngày còn hàn vi cho các tướng tá nghe. Đoạn bảo quan hầu lấy tiền ra trả cho họ. Lúc đó có nhiều người thấy kẻ kia đòi được nợ cũng xúm lại kể ơn nghĩa cũ: kẻ tính thành năm quan, người kể thành mười,... biến thành một cuộc truy nợ đông như đám hội. Bọn quan hầu đếm tiền mãi không xiết vì con số chủ nợ ngày một tăng. Bọn họ bèn nghĩ ra được một kế là đứng trên kiệu vung tiền xuống cho ai nhặt được bao nhiêu thì lấy bấy nhiêu. Mọi người thấy thế đổ xô ra cướp. Dần dần quan quân tiến đến phố cứ như bây giờ là vườn hoa cửa Nam. Một viên đại tướng nghĩ chúa mình sắp lên ngôi tôn mà khách nợ cứ chạy theo réo mãi như thế này thì còn thể thống gì nữa, mới viết vào một tờ giấy hai chữ "cấm chỉ"  dán ở giữa phố và sai một toán quân đóng lại đó, ra lệnh hễ thấy ai còn đòi nợ chúa nữa thì chém ngay. Nhờ thế, người ta mới thôi réo và thôi đuổi theo xe Chổm. Chúa Chổm vào đến hoàng cung thì trời sắp tối. Thấy văn võ bá quan ai cũng mong muốn mình lên ngôi ngay để yên lòng thiên hạ, Chổm bèn ngửa mặt khấn trời rằng: - Hỡi thượng đế, nếu tôi xứng đáng nối nghiệp nhà Lê thì xin quay mặt trời trở lại chính ngọ, bằng không thì tôi sẽ trở về chốn cũ làm ăn, giao quyền vị lại cho người khác. Khấn được một lúc, quả nhiên trời sắp tối bỗng sáng hẳn, mặt trời lại treo giữa đỉnh đầu. Chổm đường hoàng bước lên làm lễ đăng quang tự xưng hoàng đế. Lễ tất, mặt trời tự nhiên kéo một mạch về phương Tây lặn mất. Trời bỗng lại tối sầm như mực; lúc mọi nhà vừa thắp đèn lên thì gà vừa gáy canh. Ngày nay còn có câu tục ngữ Nợ như chúa Chổm và có câu phong dao: Vua Ngô ba mươi sáu tấn vàng Thác xuống âm phủ chẳng mang được gì. Chúa Chổm mắc nợ tỳ tỳ, Thác xuống âm phủ khác gì vua Ngô. Ở chỗ vườn hoa cửa Nam bây giờ, cũng do sự tích trên mà người ta còn gọi là "Ngã tư Cấm chỉ"...
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/no-nhu-chua-chom" }
Của thiên trả địa
Ngày xưa, có Thiên và Địa là hai anh chàng cày thuê cuộc mướn cùng ở một làng. Họ giống nhau ở chỗ anh nào anh ấy đều nghèo rớt mùng tơi và đều mồ côi cha mẹ. Nhưng Thiên rất sáng dạ, bảo gì hiểu nấy. Một hôm Địa bảo hắn: - Nếu hai ta cùng như thế này cả thì không biết bao giờ mới cất đầu lên được. Sẵn anh là người có khiếu thông minh, nếu được học hành chắc ngày sau sẽ thi đậu làm quan to. Vậy từ nay anh đừng đi làm nữa, tôi sẽ cố sức làm thêm để lấy tiền nuôi anh ăn học. Lúc nào anh làm nên, đôi ta sẽ chung hưởng phú quý. Thiên nhận lời nhưng Địa còn dặn: Lúc nào hiển đạt anh đừng có quên tôi nhé ! Rồi đó Địa trần lực đêm ngày làm thuê để nuôi bạn. Thấy Thiên học mỗi ngày một tiến, anh chàng lại càng hăng hái làm việc, không quản gì cả. Cứ như thế sau mười năm đèn sách, Thiên đậu khoa thi hương rồi vào thi đình đậu luôn Trạng nguyên. Hắn được nhà vua bổ làm quan to, có kẻ hầu người hạ đông đúc, có dinh thự nguy nga, được mọi người trọng vọng. Được tin, Địa rất sung sướng. Lập tức, anh chàng đem trâu cày về trả chủ. Rồi anh bán phăng cái nhà ở lấy một số tiền mua đồ lễ tìm vào dinh bạn. Địa có ngờ đâu khi đến nơi thì Thiên đã thay lòng đổi dạ không muốn nhận lại bạn cũ nữa. Hắn dặn quân canh cấm cửa không cho Địa vào. Địa bị đuổi tủi thân, lủi thủi ra về. Vừa đến bờ sông, anh chàng ngồi lại, nước mắt rơi lã chã nghĩ đến lòng người đen bạc, số phận hẩm hiu, vả bấy giờ về làng cũng không biết ở vào đâu nữa vì nhà đã bán mất rồi. Tự dưng Bụt hiện lên làm một người khách qua đường dừng lại hỏi anh: - Con làm sao mà khóc? Địa kể lể đầu đuôi cho Bụt nghe. Bụt bèn hóa phép cho anh một chiếc đò và dặn rằng: - Con cứ ở đây chở khách qua lại trên sông này cũng đủ ăn, không phải đi làm thuê nữa Địa nghe lời, ở lại đó làm nghề chống đò ngang. Nhưng anh chàng chỉ kiếm vừa đủ nuôi miệng, không để dành được một đồng tiền nào. Cho nên đến ngày giỗ cha chẳng biết lấy gì mà cúng. Chiều hôm ấy, sau khi chở cho mấy người khách sang bờ bên kia, Địa vừa chèo về đến nửa sông đã lại nghe có tiếng gọi đò. Anh lại cho đò trở lại. Khách là một người đàn bà còn trẻ tuổi và rất xinh đẹp. Trời lúc ấy đã nhá nhem, người đàn bà nói với Địa: - Trời đã tối mà đường còn xa, anh làm ơn cho tôi nghỉ nhờ một đêm. Nhà Địa chỉ là một túp lều nhỏ bên sông, trong nhà chỉ có một cái chõng, nhưng anh cũng nhường cho người đàn bà ấy nằm. Thấy Địa toan đi kiếm một nơi khác ngủ, người đàn bà bỗng hỏi anh: - Anh đã có vợ chưa? Địa trả lời: - Chưa - Tôi xin làm vợ anh! Địa rất ngạc nhiên và bỡ ngỡ, không biết trả lời ra thế nào cả. Nàng lại nói: - Tôi là người trên cung tiên. Trời thấy anh là người tử tế mà chịu khổ chịu sở đã nhiều rồi nên cho tôi xuống giúp anh sung sướng. Nói rồi nàng hoá phép biến túp lều bên bờ sông thành một dinh cơ rất đẹp: nhà ngói, tường dắc, hành lang, sân gạch, trong nhà đồ dùng thức đựng đầy đủ, kẻ hầu người hạ từng đoàn. Địa vừa kinh lạ vừa vui sướng. Nàng tiên lại hoá phép làm ra cỗ bàn linh đình để cho anh chàng làm giỗ cúng cha. Sáng hôm sau, nàng tiên bảo Địa hãy mặc đồ gấm vóc, ngồi kiệu đến mời Thiên sang nhà mình ăn giỗ. Lần này Địa được Thiên tiếp đãi có phần tử tế. Nhưng khi nghe nói mời đến nhà ăn giỗ, hắn bĩu môi bảo Địa: - Chú muốn ta đến chơi thì hãy trải chiếu hoa từ đây đến nhà, ta sẽ đến. Địa về kể lại chuyện cho vợ nghe. Nàng tiên lại hoá phép thành chiếu hoa trải một đoạn đường dài từ nhà mình đến dinh Thiên ở. Thiên không ngờ trong thời gian vừa qua Địa cũng trở nên giàu có lớn, mới đến xem cho biết sự tình. Đến nơi, hắn rất lấy làm lạ khi thấy nhà cửa và mọi thứ đồ đạc của Địa ít có nhà nào bì kịp. Khi ăn giỗ, vợ Địa thân hành ra mời rượu. Thấy nàng đẹp quá, Thiên đâm ra ganh tỵ với hạnh phúc của Địa. Rượu say, hắn nói: - Chú đổi vợ chú cùng cơ nghiệp này cho tôi thì tôi nhường chức quan cùng dinh cơ của tôi cho chú. Không bao giờ Địa lại muốn như thế, nhưng nàng tiên bảo nhỏ xui Địa bằng lòng. Hai bên cùng làm tờ giao ước. Thế rồi sau đó Địa lên võng về dinh, còn Thiên say rượu nằm ngủ một giấc ly bì. Nhưng đến sáng hôm sau, khi bừng mắt tỉnh dậy, hắn ngơ ngác thấy mình nằm ở một túp lều bên sông. Người vợ đẹp cùng cả dinh cơ của hắn ngày hôm qua đã biến đâu mất cả. Từ đó hắn làm nghề chống đò thay cho Địa. Còn Địa hoá ra thông minh khôn ngoan, làm quan sung sướng mãi...
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/cua-thien-tra-dia" }
Cái cân thuỷ ngân
Ngày xưa , có một nhà làm nghề buôn bán, gian tham chế ra một cái cân cán rỗng, trong đổ thủy ngân, hai đầu bịt đồng, không ai biết. Khi cân hàng bán cho người ta thì dốc cán về đằng móc, còn khi cân hàng mua của ai thì dốc cán cân về đằng quả. Như vậy một cái cân vừa nặng vừa nhẹ được, và bao giờ phần lợi cũng về mình. Không bao lâu nhà ấy trở nên giàu có, vì buôn bán lọc lừa. Nhà này sinh ra được hai đứa con mặt mũi khôi ngô, học hành thông thạo. Thiên hạ ai nấy đều khen là nhà có đại hồng phúc. Một hôm hai vợ chồng ngồi bàn với nhau: “Nhà ta bây giờ đã giàu có nhiều, lại được hai đứa con khôn ngoan học giỏi. Bây giờ ta đem phá bỏ cái cân điên đảo kia đi, để dành đức lại cho con về sau”. Bàn xong hai vợ chồng thuận tình làm lễ sám hối, trên thì cúng Phật, dưới cáo cùng tổ tiên, rồi đem cái cân ra chẻ. Khi chẻ ra, thì thấy trong cái cân có đọng một cục máu đỏ. Từ đó hai vợ chồng bảo nhau ăn ở tu nhân tích đức, tránh điều dữ, làm điều lành. Nhưng cách đó hai tháng, bỗng một hôm một đứa con lăn ra chết, rồi không bao lâu, đứa con còn lại cũng lăn ra chết nốt. Hai vợ chồng kêu gào khóc lóc thảm thiết, nghĩ rằng mình đã có bụng cải ác vi thiện mà Trời Phật không chứng quả. Rồi hai vợ chồng rầu rĩ khổ sở, cứ ngồi than dài thở vắn, không buồn động đến việc gì nữa. Một đêm, hai vợ chồng cùng nằm mơ có ông Bụt đến bảo rằng: “Vợ chồng hãy nên lo toan làm ăn tu tỉnh lại, chớ vội ngồi vậy mà trách Trời không có mắt. Trước Trời thấy chúng mày buôn bán lọc lừa, Trời đã sai hai con quỷ xuống đầu thai phá tan cho hết những của phi nghĩa chúng mày chắt bóp nhặt nhạnh bao nhiêu năm nay. May mà chúng mày sớm biết hối hận, cải tà quy chánh, tránh dữ làm lành, Trời mới sai bắt hai con quỷ ấy về. Đừng thương tiếc chúng nó làm chi nữa. Chúng mày cứ ăn ở ngay lành rồi Trời lại đền cho hai đứa con khác để ngày sau mà nhờ”. Hai vợ chồng biết thế, không thương khóc con nữa, lại làm ăn như cũ, và lúc nào cũng tâm tâm niệm niệm, cố gắng làm bao nhiêu điều từ thiện, phúc đức. Quả nhiên sau lại sinh được hai đứa con trai khác. Hai đứa con hiền lành tử tế, văn hay chữ tốt, rồi sau lớn lên, làm cho cha mẹ được vẻ vang sung sướng trong cảnh già.
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/cai-can-thuy-ngan" }
Lọ nước thần - Ai mua hành tôi
Ngày xưa có một anh chàng trẻ tuổi chưa có vợ, sống bằng nghề làm ruộng. Một ngày nọ anh xách búa lên rừng đốn củi. Trong khi đang lúi húi chặt cây, anh trông thấy một con quạ tha một con chim sẻ tới đậu trên một phiến đá ở gần chỗ mình đang làm việc. Nhìn thấy thế, anh bỗng động lòng thương con chim bé bỏng sắp sửa lọt vào miệng loài ác điểu. Anh bèn nhặt hòn đá ném con quạ. Quạ giật mình bỏ mồi vỗ cánh bay lên. Tức mình vì hỏng ăn, quạ chửi rủa om sòm. Anh nhặt đá ném thêm và mắng: - Đồ chim dữ! Hãy cút ngay! Quạ hậm hực bay đi, miệng còn đe dọa sẽ báo thù. Anh chàng chạy lại nhặt con chim sẻ đang thoi thóp, cố tìm cách ấp ủ cho nó sống lại. Quả nhiên, chỉ chừng giập bã trầu, con chim sẻ đã hồi tỉnh và bay được. Nó cảm ơn anh và bảo anh ngồi chờ để nó đưa biếu một vật. Một lát sau, con chim đã bay trở lại miệng ngậm một cái lọ bé đặt xuống bên cạnh và nói: - Đây là lọ nước thần có phép làm cho người già thì trẻ lại, vật nhỏ thì lớn thêm, trần gian không ai có. Nói rồi nó vỗ cánh bay đi. Anh ngồi tần ngần mở nút ra xem thì thấy đầy một lọ nước mùi thơm ngào ngạt. Anh nghĩ bụng: - Những thứ này chỉ để cho các bà quan làm đỏm, có đâu để hạng chúng ta dùng. Rồi anh nút lọ lại cẩn thận, khi gánh củi về, treo lọ trên kèo nhà. Và rồi thời gian trôi qua, vì bận công việc làm ăn, anh cũng quên đi, không nghĩ tới cái lọ ấy nữa. Ít năm sau đó, chật vật mãi anh chàng mới cưới được vợ. Vợ anh cũng con nhà nông, quanh năm chân lấm tay bùn, nên đen đủi, xấu xí. Nhưng hai vợ chồng thì rất thương yêu nhau. Một hôm chồng đi cày vắng, vợ ở nhà quét dọn khắp nơi. Thấy một cái lọ con treo trên kèo nhà, chị bèn bắc ghế lấy xuống mở nút ra xem. Khi ngửi thấy mùi thơm, chị ta đồ là dầu thơm gội đầu. Lát sau, chị nấu nước tắm gội rồi tiện tay đổ lọ nước ra bôi khắp tóc tai mình mẩy. Không ngờ sau khi bôi xong chị ta tự nhiên trở nên xinh đẹp trắng trẻo, nhan sắc mỹ miều ít ai sánh kịp. Nước thần trôi xuống mấy luống hành bên cạnh giếng, khiến cho những cây hành cũng tự nhiên lớn phổng lên một cách lạ thường: củ to như bình vôi, dọc dài bằng đòn gánh. Khi người chồng đi cày về nhìn mặt vợ thì ngẩn cả người cứ tưởng là tiên sa xuống cõi trần, nếu không có tiếng nói thì cơ hồ anh không nhận ra là vợ mình. Nghe vợ nhắc đến lọ nước thơm, anh mới sực nhớ tới chuyện báo đền của con chim sẻ ba năm về trước. Nỗi mừng biết lấy chi cân, anh ngắm vợ mãi không chán mắt, rồi kể lại câu chuyện cũ cho vợ nghe. Từ đấy anh cứ quấn quýt lấy vợ không rời. Công việc đồng áng vì thế cũng mười phần bê trễ. Nhưng cứ ở nhà mãi thì đói mất nên anh đành phải đi làm. Để khỏi nhớ vợ, anh thuê thợ vẽ hình vợ. Mỗi khi ra đồng làm việc, anh lại treo bức tranh ở bờ ruộng để nhìn cho thỏa. Một hôm anh đang cày ruộng, bức tranh được treo lên một cái cọc cắm ở trên bờ. Vừa cày được mươi luống, tự nhiên con quạ năm xưa ở đâu sà xuống quắp lấy bức tranh mang đi. Anh chàng ở bên kia bờ thấy vậy, bèn hò hét đuổi theo nhưng không kịp nữa. Quạ đã cất cánh bay cao và bay đi rất xa, chỉ một loáng đã mất hút. Báo thù việc anh ném đá giành mồi của nó ngày xưa, quạ mang bức tranh vào đến tận kinh đô, thả xuống ở sân rồng. Bọn lính thị vệ thấy sự lạ lùng, bèn nhặt lên đem trình vua. Cầm lấy bức truyền thần vua ngắm nghía mãi không chán mắt, bụng bảo dạ: “Trong ba cung sáu viện của ta đã có nhiều người đẹp, nhưng chưa có người nào đẹp bằng người đàn bà trong tranh này. Hẳn là trời sai con quạ đến mách cho ta đây!”. Lập tức vua ra lệnh cho một quan đại thần và một trăm thị vệ phải tìm cho được người đàn bà đã vẽ trong tranh mang về. Quan đại thần cho người về các địa phương sục sạo khắp hang cùng ngõ hẻm. Để việc tìm tòi có hiệu quả, chúng bày ra trò mở hội ở các vùng chúng đến để cho mọi người đổ về xem. Mỗi lần thấy dân tập hợp đông đúc, chúng đưa bức tranh ra giả tảng nói là tình cờ bắt được, người nào mất thì đến mà nhận. Một hôm, chúng tới vùng quê hai vợ chồng anh chàng có lọ nước thần và cũng bày trò mở hội ba đêm ngày. Quả nhiên anh chàng sa vào mưu gian. Khi nhìn thấy bức tranh anh không đắn đo gì cả, lật đật bước tới để nhận. Nhưng anh không ngờ bọn lính chộp lấy anh như chộp con mồi. Chúng theo ngay anh về nhà và chúng tìm thấy ngay người đàn bà trong tranh. Mừng quá chúng vội đưa kiệu rước về kinh đô, mặc kệ cho người chồng vật mình than khóc. Sau khi bị bắt vào cung, người đàn bà không cười không nói, áo đẹp không mặc, đầu không chải và không cho một ai đến gần. Đem được người đẹp về cung, nhà vua hết sức mừng rỡ, nhưng cũng hết sức buồn phiền vì mọi thứ dỗ dành, dọa nạt đều không thể làm cho người ngọc nở một nụ cười. Vua bèn hạ lệnh cho rao trong dân chúng hễ ai có cách gì làm cho nàng cười nói lên được, thì sẽ ban thưởng cho quan cao lộc hậu. Nghe tin này, có nhiều người, từ những vai hề nổi tiếng, những ông trạng cười cho đến các bậc lương y, các pháp sư phù thủy v.v... đua nhau trẩy kinh hy vọng dùng tài phép làm cho người đàn bà phải buột miệng nói cười để mong ân thưởng. Nhưng dù đã giở đủ mọi trò, đều vô hiệu. Lại nói chuyện anh chồng từ khi vợ bị quan quân bắt đi thì không còn thiết làm ăn gì nữa. Khi nghe tin loan báo ai làm cho người đẹp trong cung nói cười được thì vua sẽ ban thưởng, anh biết là vợ mình đang ở cung vua, bèn quyết vào kinh tìm vợ. Trước khi đi, anh nhổ mấy củ hành ở cạnh giếng buộc làm một gánh, quảy theo. Đến kinh đô, anh quảy gánh của mình đi lại trước cửa hoàng cung rao to lên những câu: Dọc bằng đòn gánh Củ bằng bình vôi Ai mua hành tôi Thì thương tôi với! Tiếng rao của anh vọng vào cung mỗi lúc một lớn. Nét mặt của vợ anh tự nhiên cũng mỗi lúc mỗi tươi. Cuối cùng, nàng quay lại bảo thị nữ: - Hãy gọi người hàng hành vào cho ta! Khi nhìn thấy mặt chồng, vợ anh cười lên một tiếng. Thấy người đàn bà lần đầu tiên cười nói, vua sung sướng như mở cờ trong bụng; lại thấy những cây hành to lớn lạ thường thì lấylàm kinh ngạc. Vua ngỡ là nhờ những cây hành kỳ lạ này mà người đẹp nói cười. Vua liền nẩy ra ý nghĩ muốn tự mình cải trang gánh hành để làm vui lòng người đẹp. Vua bảo anh chồng: - Hãy đặt gánh hành lại đó và cởi áo ra mau! Vua cởi áo long bào vứt cho anh và mặc áo của anh vào. Vua còn bắt anh bày cho mình học thuộc câu rao, rổi quảy gánh qua lại trước mặt người đàn bà, cất tiếng rao mới học được. Thấy vậy, vợ anh hàng hành cười nghặt nghẽo. Vua thích thú lại càng làm già. Nhưng đột nhiên người đàn bà bảo thị nữ thả đàn chó ra. Chó thấy vua ngỡ là người lạ liền nhảy xổ tới cắn chết. Người đàn bà vội bảo chồng: - Mình hãy mau mau trèo lên ngai vàng đi! Anh chồng lật đật trèo lên ngai vàng giữa lúc trăm quan và cung nữ rập đầu bái mạng. Từ đó anh làm vua và ở với vợ trọn đời.
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/lo-nuoc-than-ai-mua-hanh-toi" }
Sọ Dừa
Ngày xửa ngày xư­a có 2 vợ chồng đi làm người ở cho 1 gia đình phú ông giàu có từ khi còn nhỏ. 2 vợ chồng sống rất hiền từ như­ng đã ngoài 50 tuổi rồi mà vẫn chưa có một mụn con. Một hôm bầu trời nắng rất gay gắt, ngư­ời vợ phải đi vào trong rừng kiếm củi cho gia đình phú ông, lúc quá khát nước mà người vợ ko tìm đâu ra một chút nư­ớc, sau cùng không còn cách nào khác bà đành phải liều mình uống chút nư­ớc ở trong cái sọ ngư­ời tại dưới 1 gốc cây to. Một điều rất lạ kì, khi uống nước trong sọ vào, bà cảm thấy rất khoan khoái hết sức, mát tới tận ruột gan. Và từ đó bà đã có thai, nhưng một thời gian sau thì người chông mất. Trải qua 9 tháng 10 ngày mang thai bà đã sinh ra 1 cục thịt tròn long lóc có hình dạng như­ cái sọ, có đầy đủ mặt mũi, miệng, tai, như­ng ko hề có chân tay. Người chồng bà thì đã qua đời, lại sinh ra 1 quái thai, bà rất phiền lòng, định mang chôn sống nó đi. Như­ng bỗng cục thịt cất tiếng gọi bà: – Mẹ ơi! Con vẫn là con ng­ười đấy mẹ ạ. Mẹ đừng có vứt bỏ con đi mà khổ thân con ! Bà rất xúc động, ôm cục thịt vào trong lòng và nâng niu cho bú. Bà đặt tên cho đứa con mình là Sọ Dừa. Phú ông nghe tin bà sinh ra một quái thai liền bắt bà mang đi chôn sống, như­ng bà ko chịu. Phú ông bèn đuổi bà ra ở chiếc lều tranh tại góc vư­ờn. Như­ng hằng ngày Phú ông vẫn bắt bà phải đi làm cho nhà ông. Mỗi ngày đi làm về bà mang phần cho Sọ Dừa 1 nắm cơm. Sọ Dừa lớn nhanh như thổi và càng ngày càng hiểu biết, khôn ngoan. Hàng xóm và những ng­ười xung quanh lâu ngày cũng quen dần và ngày một yêu quý Sọ Dừa hơn. Hàng ngày, khi người mẹ đi làm cho nhà phú ông thì Sọ Dừa biến thành 1 cậu bé rất xinh xắn, quét dọn nhà cửa ngăn nắp đâu vào đấy, sau đó lại chui vào cái sọ như­ cũ. Lúc đầu bà mẹ thấy rất lạ kì, như­ng theo dõi mãi ko thấy chuyện gì cho nên cũng đành thôi. Một hôm bà mẹ buồn rầu nói với Sọ Dừa rằng: – Nhà người ta, khi con lên 7 lên 8 đã biết cách dắt bò dắt trâu đi chăn, con thì mẹ không trông đợi đư­ợc gì! Phú ông có 1 đàn dê, cần tìm ngư­ời nào đó mang đi chăn mà mẹ vẫn chư­a tìm đ­ược ai. Sọ Dừa nói với mẹ: – Mẹ ơi, con có thể chăn được, mẹ nói với Phú ông cho con đi chăn đi ! Thấy Sọ Dừa quả quyết là mình sẽ làm tốt công việc, bà mẹ mạnh dạn đi sang nhà phú ông để thưa chuyện. Ban đầu phú ông còn có chút hơi e ngại nhưng về sau ông ta cũng đồng ý cho Sọ Dừa được chăn thử một vài hôm, nếu làm tốt ông ta mới mướn. Người mẹ thấy phú ông chập nhận cho Sọ Dừa chăn thử nên rất vui mừng. Quả nhiên Sọ Dừa chăn rất giỏi, con nào con nấy cũng no căng bụng béo tốt. Phú ông rất ưng vì đàn dê của ông ta ngày càng béo, Sọ Dừa thì lại ăn rất ít, ngày chỉ hai nắm cơm nhỏ. Sọ dừa đem đàn dê đi chăn ở dãy núi khá xa làng, hàng ngày phú ông giao cho ba người con gái của ông ta thay phiên nhau đem cơm cho Sọ Dừa. Hai người chị thì lúc nào cũng xa lánh Sọ Dừa, mang cơm đến họ chỉ để dưới gốc cây gần đó rồi gọi, mặc cho Sọ Dừa tự lăn tới ăn. Còn cô con gái út, lần nào cô cũng mang cơm tới tận nơi cho Sọ Dừa. Một hôm, cô út mang cơm cho Sọ Dừa, khi cô lại gần chỗ Sọ Dừa và bầy dê thì cô nghe văng vẳng tiếng sáo véo von, khi trầm khi nhặt làm cho cô cảm thấy xao xuyến. Không thấy Sọ Dừa đầu, cô chỉ thấy một chàng trai khôi ngô tuấn tú tuổi trạc mười bảy đang nằm trên chiếc võng đào miệng thổi sáo. Thấy có người đến chàng trai lại trở lại hình dáng Sọ Dừa lăn lông lốc. Kể từ khi đó, cô út biết rằng Sọ Dừa không phải người trần, cô đem lòng thầm yêu trộm nhớ Sợ Dừa, có thức ăn ngon, cô lại mang thật nhiều tới cho Sọ Dừa. Thế rồi, bỗng một hôm, Sọ Dừa đòi mẹ đi tới nhà phú ông xin hỏi một trong ba người con gái phú ông làm vợ. Bà mẹ đang uống giở hụm nước cũng phải phì cười nói: – Con ơi, con gái phú ông cả ba đều xinh đẹp, ai lại chấp nhận lấy mày, nhiều trai làng hỏi mà ông ấy còn không ưng. Sọ Dừa vẫn tha thiết năn nỉ mẹ mình. Để chiều lòng đứa con, bà cũng đành phải kiếm một buồng cau rồi liều mình sang hỏi nhà phú ông. Vừa nghe xong bà trình bày, phú ông cười mỉa một cái rồi nói: – Nếu như nhà mụ đủ khả năng sắm đủ những lễ vật mà ta yêu cầu thì ta sẽ gả một trong ba đứa cho con trai mụ. Lễ vật gồm có một chĩnh vàng cốm, 10 tấm lụa đào, 10 con heo thật béo, 10 thùng rượu tăm. Và phải có một căn nhà ngói năm gian để cho con gái ta về ở, chứ ta không thể để nó sống trong ngôi nhà rách nát của mụ được. Phú ông nghĩ trong bụng rằng thách thế thì nó có làm cả đời cũng chả đủ tiền sắm lễ. Bà mẹ trở về nhà, bảo với con trai: – Con à, phú ông thách cưới cao lắm, nhà mình không sắm nổi đâu con. Thôi con từ bỏ ý định cưới con gái phú ông đi. Nghe xong người mẹ kể về những lễ vật phú ông thách. Sọ Dừa nói: – Mẹ cứ yên tâm, con sẽ có cách lo đầy đủ lễ vật. Quả nhiên ngày hôm sau, Sọ Dừa đã sắm đầy đủ tất cả những lễ vật mà phú ông yêu cầu, bà mẹ tỉnh dậy mà cứ tưởng mình nằm mơ vì căn nhà lá đã biến mất được thay thế bằng ngôi nhà ngói 5 gian đẹp đẽ, bà thì đang nằm trên một chiếc giường có đủ chăn hoa nệm gấm. Ngoài sân, mấy chục người hầu hạ quần áo đầy đủ màu sắc đã sẵn sàng cùng hai mẹ con sang nhà phú ông hỏi vợ. Đến lúc này phú ông không còn cách để từ chối, nhưng ông ta nghĩ có đủ lễ vật thì ba đứa con gái ông ta chắc chẳng có đứa nào đồng ý lấy thằng người chẳng ra người, ngợm chẳng ra ngợm đấy cả. Phú ông cho gọi ba cô con gái ra hỏi lần lượt: – Nào con gái lớn của ta, con có đồng ý lấy Sọ Dừa con trai mụ ta làm chồng không Cô ta bĩu môi một cái rồi quay ngoắt đi vào trong phòng Phú ông hỏi tiếp cô con gái thứ hai: – Giờ đến con đấy con gái, con có đồng ý lấy thằng Sọ Dừa làm chồng không? Cô ta cũng như người chị mình, cười một cái khinh bỉ rồi buông câu: – Con có điên đâu cha mà đi lấy thằng đó làm chồng Đến cô con gái thứ ba, phú ông hỏi: – Giờ chỉ còn con thôi con gái, con có đồng ý không? Cô út nhỏ nhẹ đáp: – Dạ thưa cha, con đồng ý! Phú ông rất ngạc nhiên miệng há hốc, nhưng ông ta giờ đây phải đồng ý vì lễ vật đã đủ, người cũng đã thuận. Chiều hôm ấy, Sọ Dừa đón dâu về nhà. Lễ cưới được tổ chức linh đình, Sọ Dừa cho mời tất cả lối trên xóm dưới tới dự, tiếng cười nói rôm rả. Đến tối, khi các cây nến đã thắp sáng trưng nhà trên nhà dưới thì không ai thấy Sọ Dừa đâu cả, từ phòng bên bước ra là một chàng thanh niên khôi ngô tuấn tú với nét mặt sáng ngời, chàng trai nắm tay cô dâu và nói: – Thưa các cụ, thưa các bác các anh chị cùng bà con hai họ, tôi là Sọ Dừa. Vợ chồng tôi xin được cảm tạ tấm lòng của mọi người đã đến chung vui cùng chúng tôi trong ngày trọng đại này. Bà mẹ ôm trầm lấy cô con dâu, mừng rỡ không nói lên lời. Tất cả mọi người ai nấy cũng rất vui mừng, mừng vì Sọ Dừa được làm người, mừng vì cô con gái út phú ông lấy được người chồng tốt. Riêng chỉ có hai cô chị là tức tối đố kị với cô em gái mình. Sau khi cưới vợ, Sọ Dừa rất chăm chỉ dùi mài kinh sử, đến kì thi bảng, Sọ Dừa đã đỗ trạng nguyên và được nhà vua rất trọng dụng vì chàng tài trí hơn người. Một thời gian sau thì người mẹ già yếu qua đời, quan trạng Sọ Dừa từ kinh đô trở về chịu tang mẹ được ít hôm sau thì nhận được chiếu chỉ của nhà vua phải đi sứ. Trước khi đi, chàng đưa cho người vợ một con dao, một hòn đá lửa, 2 quả trứng gà và dặn dò kĩ phải luôn mang 2 thứ đó bên mình để phòng thân, sẽ có lúc dùng tới. Hai người chị gái đem lòng ghen ghét đố kị đã lâu vì thấy em gái lấy được người chồng vừa tuấn tú, lại giỏi giang quyền cao chức trọng. Giờ chúng lập mưu hãi hại em chiếm chồng. Một hôm, hai người chị rủ em gái mình đi chơi thuyền trên biển, khi thuyền đã ra xa, hai người chị đẩy thuyền em ra xa, giấu hết tay chèo làm cho thuyền cô em út chìm nghỉm.Một con cá kình đã nuốt chửng cà thuyền và người vào trong bụng nó. Nhớ tới 3 vật người chòng đã dặn kĩ mang theo bên mình, cô lấy con dao đâm vào bụng cá, con cá vùng vẫy một lúc rồi nổi lềnh phềnh trên mặt nước. Xác cá trôi vào bờ một hòn đảo hoang, cô khoét bụng cá rồi chui ra. Sẵn sao, cô xẻ thịt cá ra làm nhiều miếng, phần thì phơi khô, phần cô muối để ăn dần. Cô dùng hòn đá lửa đánh để lấy lửa sưởi ấm và nấu chín thức ăn. Hai quả trứng gà trong bọc đủ ngày đủ tháng đã nở thành hai con gà một trống một mái. Ngày tháng dần trôi, cô một mình sống trên hoang đảo, con gà mái đẻ rất nhiều trứng, đàn gà cứ thế mà đông dần. Bỗng một buổi chiều, cô nghe thấy con gà trống gáy: – ó ò o!… phải thuyền quan Trạng rước cô tôi về! Cô chạy ra thì thấy có một chiếc thuyền lớn đang tiến tới đảo. Cô mừng lắm vì thấy mình cũng sắp được cứu trở đất liền. Con thuyền mỗi lúc một gần, nhìn lên mui thuyền cô nhận ra ngay đấy chính là chồng mình Sọ Dừa . Gặp nhau hai vợ chồng ôm trầm lấy mừng rỡ không nói lên lời. Hai vợ chồng lên thuyền trở về nhà, được nghe vợ kể lại chuyện, Sọ Dừa căm phẫn lắm. Vừa về tới nơi, Sọ Dừa giấu vợ vào phòng không cho ai biết, bên ngoài chàng cho mở tiệc linh đình, mời cả hai họ lẫn bà con lối xóm tới dự mừng ngày trở về. Hai người chị gái thấy chồng em trở về nên ăn mặc rất lộng lẫy, trang điểm kĩ càng sang dự tiệc nhằm lôi cuốn sự chú ý của Sọ Dừa. Vừa ngồi vào mâm, cả hai đã thi nhau kể việc em mình bị chết đuối ra sao, hai chị cố gắng cứu em thế nào nhưng vẫn không được. Sọ Dừa vẫn chỉ cười không nói gì, đang lúc tiệc rất vui, Sọ Dừa đứng lên xin phép mọi người được vào trong buồng dẫn ra một người bạn để chào hai họ và dân làng. Trong buồng, cô út bước ra trước sự ngỡ ngàng. Hai người chị thấy em gái bủn rủn chân tay, nhân lúc mọi người đang mừng rỡ cô út vẫn còn sống trở về thì cả hai lẻn ra ngoài trốn đi biệt tích.
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/so-dua" }
Bụng làm dạ chịu
Ngày xưa, có một anh chàng vô công rồi nghề, ngày ngày chỉ biết ăn bám vợ và khoác lác. Người vợ rất lấy làm bực mình vì phải nai lưng ra làm nuôi chồng và ba đứa con. Một hôm, chị vợ bắt anh ta phải đi học một nghề gì để nuôi thân vì mình không cáng đáng nổi nữa. Anh chàng đi lang thang suốt buổi, hết đứng bụi này lại ngồi bụi kia chả học nghề ngỗng gì cả, cho đến xế trưa lại về. Trước khi vào nhà, hắn đứng nấp sau vách có ý nghe ngóng xem vợ có nói xấu gì mình chăng. Vừa khi người vợ đi chợ về mua được năm tấm bánh gói, chia cho ba đứa con mỗi đứa một cái. Còn lại hai cái, mẹ bảo con đưa vào buồng cất vào trong vại gạo cho cha. Nghe thấy thế, anh ta rất thích, chờ một lúc lâu mới giả bộ đi từ phía cổng bước vào nhà. Vợ hỏi: - Đã tìm được nghề gì chưa? - Đã, hắn đáp. - Nghề gì mà học nhanh thế? - Tao đi dọc đường gặp một ông thầy hít, ông ấy dạy cho tao bói bằng cách hít. Bây giờ có cái gì cất giấu ở đâu, tao chỉ dùng lỗ mũi hít hít mấy cái là tìm ra ngay. Nào, có cái gì cần tìm để tao làm thử cho mà xem? Vợ tiếp lời ngay: - Vậy thì tôi có mua cho hai cái bánh còn cất đi một nơi, cứ hít cho ra mà ăn, như không tìm được thì nhịn vậy! Thế là anh chàng ngước mũi lên giả bộ hít mấy cái, rồi nói: - Đúng rồi, nó ở trong vại gạo. Rồi hắn chạy vào lấy bánh ra ăn trước con mắt kính phục của vợ con. Người vợ tưởng thật, mừng quá, vội chạy đi loan báo với xóm giềng rằng chồng mình học được nghề thầy hít, thử đoán một việc thấy hay như thần. Từ nay ai có một cái gì cứ đến nhờ anh ấy tìm hộ. Hôm ấy, trong xóm có một bà mất một ổ lợn con, kiếm khắp mọi nơi không thấy. Nghe nói thế, bà ta vội chạy đến khẩn khoản nhờ tìm. Thật là may cho anh chàng, vì lúc đứng nghỉ ở một bụi tre dọc đường, hắn đã trông thấy bầy lợn con chạy lạc vào đó. Hắn ta mừng quá, bảo bà già: - Nếu kiếm được thì bà sẽ cho tôi những gì! Bà ta hứa cho hai con lợn con. Anh ta cũng giả vờ hít mấy cái rồi dắt bà đến ngay chỗ có lợn. Bầy lợn được tìm ra ngay và sau đó anh được chia hai con như lời chủ nhân đã hứa. Vợ thấy chồng chỉ học một nghề giản dị mà làm ra của dễ dàng thì sung sướng quá, vội chạy về khoe với cha mẹ đẻ. Người cha nghe nói con rể học được phép lạ cũng có ý hâm mộ. Ông ta nói riêng với vợ: - Bà cứ bảo gọi rể sang đây. Nếu nó chỉ đúng món tiền chôn ở gốc táo sau vườn thì cho nó một nửa. Ông ta không ngờ chàng rề của ông đã lén theo vợ sang từ lúc nãy và đứng nấp ở một góc nhà. Nghe cha vợ bảo thế, anh ta lén chạy một mạch về nhà rồi giả cách nằm ngủ. Khi vợ và mẹ vợ về, phải thức mãi hắn mới chịu dậy. Thế là anh chàng theo sang nhà ông nhạc, chỉ đúng chỗ chôn của, và được thưởng một nửa số tiền chôn. Từ đó tiếng đồn về thầy hít lan đi rất nhanh. Cũng vào thời gian ấy trong hoàng cung bỗng xảy ra một vụ trộm lớn. Nhà vua mất trộm một con rùa vàng và một con rùa bạc là hai món bảo vật của vua Trung-quốc tặng. Trong cung rối rít cả lên, chả có cách gì tìm ra thủ phạm cả. Vừa nghe tiếng đồn có thầy hít đại tài, vua vội sai quân lính đi mời về cho bằng được. Khi thấy sứ giả đến nhà triệu mình, anh chàng vô cùng hoảng hốt. Chót đánh lừa mọi người, anh ta không còn biết than thở với ai cả. Nằm trong cáng dọc đường về kinh đô, anh ta nghĩ bụng: - Thôi phen này thì bay đầu đến nơi rồi! Anh chàng buồn quá, tưởng tượng những nhục hình đang chờ mình ở cung vua mà rụng rời chân tay. Vì thế khi qua sông, anh ta nhảy đại xuống nước, nghĩ rằng thà chết ở đây còn hơn bị kìm kẹp khổ thân. Hai người lính khiêng cáng sợ rằng hắn chết thì tai vạ sẽ đổ lên đầu mình, bèn chia nhau lặn xuống nước tìm và cuối cùng cũng lôi được anh chàng lên bờ. Khi tỉnh lại, hắn ta rất thất vọng, nhưng cũng làm bộ giận, mắng hai người đó: - Tao xuống để hỏi vua Thuỷ tề xem ai là thủ phạm chứ có can gì mà chúng mày hốt hoảng lên như thế. Nhưng trong bụng anh ta nghĩ: - Thế là muốn thoát cũng không thoát nổi. Biết tính làm sao bây giờ? Anh chàng lại nằm lên cáng cho hai người kia khiêng đi, miệng lẩm bẩm mấy tiếng: - Bụng làm dạ chịu, chớ khá than van! Không ngờ hai người khiêng cáng mà vua sai đi: một người tên là Bụng và một tên là Dạ. Hai đứa đã đồng mưu ăn trộm hai con rùa của vua. Tang vật hiện còn giấu trên máng nhà, chưa đưa đi thoát được. Nay nghe thầy hít lẩm bẩm như thế, tưởng là thầy đã hỏi vua Thủy tề biết rõ cơ sự rồi, bọn họ bèn hạ cáng xuống và lạy thầy như tế sao. Cả hai thú tội cho thầy nghe rồi cuối cùng xin thầy làm ơn giấu giùm, nếu không sẽ khó mà thoát án tử hình. Nghe đoạn, thầy như mở cờ trong bụng, vội hứa để bọn họ an tâm. Khi gặp vua, anh chàng lại giở giói phép hít của mình và quả nhiên tìm được hai bảo vật còn giấu ở trên ống máng. Nhà vua thán phục tài năng của anh, tặng thưởng rất hậu, lại ban cho tước lớn. Anh ta về nhà chưa được bao lâu thì bỗng một hôm được sứ Trung quốc tìm đến tận nhà ngỏ lời mời mọc khẩn khoản. Số là trong cung cấm của hoàng đế Trung-quốc vừa xảy ra một mẻ trộm rất lớn. Nhiều món bảo vật quý giá nhất trần đời đều bị bọn người táo gan lấy mất. Nhiều thầy bói được vời đến cung nhưng chả nên tích sự gì cả. Nay nghe tiếng có thầy hít Việt-nam đại tài nên phái sứ giả sang mời tìm hộ. Nếu tìm được bảo vật, hoàng đế sẽ ban tứ rất hậu. Anh chàng lần này lại lo sốt vó, có thể nói hơn cả mấy lần trước. Vừa qua một khúc sông, anh ta đã nhảy ngay xuống nước định tự vẫn như lần trước. Không ngờ người ta lại cứu được lên. Nhưng lần này không hiểu anh ta nhảy thế nào mà khi lên bị sứt một một bên mũi. Hồi tỉnh lại, anh chàng chỉ cái mũi sứt nói với sứ giả Trung-quồc rằng: - Tôi nhờ có cái mũi này mới làm ăn được. Nay con cá nóc đã cướp mất sự mầu nhiệm của tôi rồi, còn gì mà sang nữa. Sứ giả không biết nói thế nào, đành phải để cho anh ta trở lại nhà.
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/bung-lam-da-chiu" }
Truyện cổ tích Tấm Cám
Ngày xửa ngày xưa , có hai chị em cùng cha khác mẹ, chị tên là Tấm, em tên là Cám. Mẹ Tấm mất sớm, sau đó mấy năm cha Tấm cũng qua đời, Tấm ở với dì ghẻ là mẹ Cám. Bà mẹ kế này rất cay nghiệt, bắt Tấm phải làm hết mọi việc nặng nhọc từ việc nhà đến việc chăn trâu cắt cỏ. Trong khi đó Cám được nuông chiều không phải làm gì cả. Một hôm bà ta cho hai chị em mỗi người một cái giỏ bảo ra đồng xúc tép, còn hứa: - Hễ đứa nào bắt được đầy giỏ thì thưởng cho một cái yếm đỏ. Ra đồng, Tấm chăm chỉ bắt được đầy giỏ, còn Cám thì mải chơi nên chẳng bắt được gì. Thấy Tấm bắt được một giỏ đầy, Cám bảo chị : - Chị Tấm ơi, chị Tấm! Đầu chị lấm, chị hụp cho sâu, kẻo về mẹ mắng. Tin là thật, Tấm bèn xuống ao lội ra chỗ sâu tắm rửa. Cám thừa dịp trút hết tép của Tấm vào giỏ của mình rồi ba chân bốn cẳng về trước. Lúc Tấm bước lên chỉ còn giỏ không, bèn ngồi xuống bưng mặt khóc hu hu. Nghe tiếng khóc của Tấm, Bụt liền hiện lên hỏi : - Làm sao con khóc ? Tấm kể lể sự tình cho Bụt nghe, Bụt bảo: - Thôi con hãy nín đi ! Con thử nhìn vào giỏ xem còn có gì nữa không? Tấm nhìn vào giỏ rồi nói : - Chỉ còn một con cá bống. - Con đem con cá bống ấy về thả xuống giếng mà nuôi. Mỗi bữa, đáng ăn ba bát thì con ăn hai còn một đem thả xuống cho bống. Mỗi lần cho ăn con nhớ gọi như thế này: Bống bống bang bang Lên ăn cơm vàng cơm bạc nhà ta Chớ ăn cơm hẩm cháo hoa nhà người. Không gọi đúng như thế thì nó không lên, con nhớ lấy ! Nói xong Bụt biến mất. Tấm theo lời Bụt thả bống xuống giếng. Rồi từ hôm ấy trở đi, cứ mỗi bữa ăn, Tấm đều để dành cơm, giấu đưa ra cho bống. Mỗi lần nghe Tấm gọi, bống lại ngoi lên mặt nước đớp những hạt cơm của Tấm ném xuống. Người và cá ngày một quen nhau, và bống ngày càng lớn lên trông thấy. Thấy Tấm sau mỗi bữa ăn thường mang cơm ra giếng, mụ dì ghẻ sinh nghi, bèn bảo Cám đi rình. Cám nấp ở bụi cây bên bờ giếng nghe Tấm gọi bống, bèn nhẩm lấy cho thuộc rồi về kể lại cho mẹ nghe. Tối hôm ấy mụ dì ghẻ lấy giọng ngọt ngào bảo với Tấm: - Con ơi con! Làng đã bắt đầu cấm đồng rồi đấy. Mai con đi chăn trâu, phải chăn đồng xa, chớ chăn đồng nhà, làng bắt mất trâu. Tấm vâng lời, sáng hôm sau đưa trâu đi ăn thật xa. Ở nhà, mẹ con Cám mang bát cơm ra giếng cũng gọi bống lên ăn y như Tấm gọi. Nghe lời gọi, bống ngoi lên mặt nước. Mẹ Cám đã chực sẵn, bắt lấy bống đem về nhà làm thịt. Đến chiều Tấm dắt trâu về, sau khi ăn xong Tấm lại mang bát cơm để dành ra giếng, Tấm gọi nhưng chả thấy bống ngoi lên như mọi khi. Tấm gọi mãi, gọi mãi, cuối cùng chỉ thấy cục máu nổi lên mặt nước. Biết là có sự chẳng lành cho bống, Tấm òa lên khóc. Bụt lại hiện lên hỏi: - Con làm sao lại khóc ? Tấm kể sự tình cho Bụt nghe, Bụt bảo: - Con bống của con, người ta đã ăn thịt mất rồi. Thôi con hãy nín đi ! Rồi về nhặt xương nó, kiếm bốn cái lọ bỏ vào, đem chôn xuống dưới bốn chân giường con nằm. Tấm trở về theo lời Bụt đi tìm xương bống, nhưng tìm mãi các xó vườn góc sân mà không thấy đâu cả. Một con gà thấy thế, bảo Tấm : - Cục ta cục tác ! Cho ta nắm thóc, ta bưới xương cho ! Tấm bốc nắm thóc ném cho gà. Gà chạy vào bếp bới một lúc thì thấy xương ngay. Tấm bèn nhặt lấy bỏ vào lọ và đem chôn dưới chân giường như lời bụt dặn. Ít lâu sau nhà vua mở hội trong mấy đêm ngày. Già trẻ gái trai các làng đều nô nức đi xem, trên các nẻo đường, quần áo mớ ba mớ bẩy dập dìu tuôn về kinh như nước chảy. Hai mẹ con Cám cũng sắm sửa quần áo đẹp để đi trẩy hội. Thấy Tấm cũng muốn đi, mụ dì ghẻ nguýt dài, sau đó mụ lấy một đấu gạo trộn lẫn với một đấu thóc, bảo Tấm: - Khi nào nhặt riêng gạo và thóc ra hai đấu thì mới được đi xem hội. Nói đoạn, hai mẹ con quần áo xúng xính lên đường. Tấm tủi thân òa lên khóc. Bụt lại hiện lên hỏi: - Làm sao con khóc? Tấm chỉ vào cái thúng, thưa: - Dì con bắt phải nhặt thóc ra thóc, gạo ra gạo, rồi mới được đi xem hội, lúc nhặt xong thì hội đã tan rồi còn gì mà xem. Bụt bảo: - Con đừng khóc nữa. Con mang cái thúng đặt ra giữa sân, để ta sai chim sẻ xuống nhặt giúp. - Nhưng ngộ nhỡ chim sẻ ăn mất thì khi về con vẫn cứ bị đòn. - Con cứ bảo chúng nó thế này: Rặt rặt (con chim sẻ) xuống nhặt cho tao Ăn mất hạt nào thì tao đánh chết Thì chúng nó sẽ không ăn của con đâu. Bụt vừa dứt lời, ở trên không có một đàn chim sẻ đáp xuống sân nhặt thóc ra một đằng, gạo ra một nẻo. Chúng nó lăng xăng ríu rít chỉ trong một lát đã làm xong, không suy suyển một hạt. Nhưng khi chim sẻ bay đi rồi, Tấm lại nức nở khóc. Bụt lại bảo: - Con làm sao lại khóc? - Con rách rưới quá, người ta không cho con vào xem hội. - Con hãy đào những cái lọ xương bống đã chôn ngày trước lên thì sẽ có đủ thứ cho con trẩy hội. Tấm vâng lời, đi đào các lọ lên. Đào lọ thứ nhất lấy ra được một cái áo mớ ba, một cái áo xống lụa, một cái yếm lụa điều và một cái khăn nhiễu. Đào lọ thứ hai lấy ra được một đôi hài thêu. Đào lọ thứ ba thì thấy một con ngựa bé tí, nhưng vừa đặt con ngựa xuông đất bỗng chốc nó đã hí vang lên và biến thành ngựa thật. Đào đến lọ cuối cùng thì lấy ra được một bộ yên cương xinh xắn. Tấm mừng quá vội tắm rửa rồi thắng bộ vào, đoạn cưỡi lên ngựa mà đi. Ngựa phóng một chốc đã đến kinh đô. Nhưng khi phóng qua một cây cầu đá, Tấm đánh rơi một chiếc hài xuống nước, không cách nào mò lên được. Khi đoàn xa giá chở vua đi qua cầu, con voi ngự bỗng nhiên cắm ngà xuống đất kêu rống lên, không chịu đi. Vua sai quân lính xuống nước thử tìm xem, họ mò được một chiếc hài thêu rất tinh xảo và xinh đẹp. Vua ngắm nghía chiếc hài hồi lâu rồi hạ lệnh cho rao mời tất cả đám đàn bà con gái xem hội ướm thử, hễ ai đi vừa chiếc giầy thì vua sẽ lấy làm vợ. Đám hội lại càng náo nhiệt vì các bà, các cô chen nhau đến chỗ thử giầy. Cô nào cô ấy lần lượt kéo vào ngôi lầu giữa bãi cỏ rộng để ướm một tí cầu may. Nhưng chẳng có một chân nào đi vừa cả. Mẹ con Cám cũng trong số đó. Khi Cám và dì ghẻ bước ra khỏi lầu thì gặp Tấm, Cám mách mẹ: - Mẹ ơi, ai như chị Tấm cũng đi thử hài đấy! Mụ dì ghẻ bĩu môi: - Chuông khánh còn chẳng ăn ai, nữa là mảnh chĩnh vứt ngoài bờ tre! Nhưng khi Tấm đặt chân vào hài thì vừa như in. Nàng mở khăn lấy luôn chiếc thứ hai đi vào. Hai chiếc hài giống nhau như đúc. Bọn lính hầu hò reo vui mừng. Lập tức vua sai đoàn tỳ nữ rước nàng vào cung. Tấm bước lên kiệu trước con mắt ngạc nhiên và hằn học của mẹ con Cám. Tuy sống sung sướng trong hoàng cung. Tấm vẫn không quên ngày giỗ cha. Nàng xin phép vua trở về nhà để soạn cỗ cúng giúp dì. Mẹ con Cám thấy Tấm sung sướng thì ghen ghét để bụng. Nay thấy Tấm về, lòng ghen ghét lại bùng bốc lên. Nghĩ ra được một mưu, mụ dì ghẻ bảo Tấm: - Trước đây con quen trèo cau, con hãy trèo lên xé lấy một buồng cau để cúng bố. Tấm vâng lời trèo lên cây cau, lúc lên đến sát buồng thì ở dưới này mụ dì ghẻ cầm dao đẵn gốc. Thấy cây rung chuyển, Tấm hỏi : - Dì làm gì dưới gốc thế ? - Gốc cau lắm kiến, dì đuổi kiến cho nó khỏi lên đốt con. Nhưng Tấm chưa kịp xé cau thì cây cau đã đổ. Tấm ngã lộn cổ xuống ao chết. Mụ dì ghẻ vội vàng lột áo quần của Tấm cho con mình mặc vào cung nói dối với vua rằng Tấm không may bị rơi xuống ao chết đuối, nay đưa em vào để thế chị. Vua nghe nói trong bụng không vui, nhưng không biết phải làm thế nào cả. Lại nói chuyện Tấm chết hóa thành chim Vàng anh, chim bay một mạch về kinh đến vườn ngự. Thấy Cám đang giặt áo cho vua ở giếng, Vàng anh dừng lại trên cành cây, bảo nó: - Phơi áo chồng tao, phơi lao phơi sào, chớ phơi bờ rào, rách áo chồng tao. Rồi chim Vàng anh bay thẳng vào cung rồi đậu ở cửa sổ, hót lên rất vui tai. Vua đi đâu, chim bay đến đó. Vua đang nhớ Tấm không nguôi, thấy chim quyến luyến theo mình, vua bảo: - Vàng ảnh vàng anh, có phải vợ anh, chui vào tay áo. Chim vàng anh bay lại đậu vào tay vua rồi rúc vào tay áo. Vua yêu quý vàng anh quên cả ăn ngủ. Vua sai làm một cái lồng bằng vàng cho chim ở. Từ đó, ngày đêm vua chỉ mải mê với chim, không tưởng đến Cám. Cám vội về mách mẹ. Mẹ nó bảo cứ bắt chim làm thịt ăn rồi kiếm điều nói dối vua. Trở lại cung vua, nhân lúc vua đi vắng, Cám bắt chim làm thịt nấu ăn rồi vứt lông chim ở ngoài vườn. Lông chim vàng anh chôn ở vườn hoá ra hai cây xoan đào. Khi vua đi chơi vườn ngự, cành lá của chúng sà xuống che kín thành bóng, như hai cái lọng. Vua thấy cây đẹp rợp bóng, sai lính hầu mắc vọng vào hai cây rồi nằm chơi hóng mát. Khi vua đi khỏi thì cành cây lại vươn thẳng trở lại. Từ đó, không ngày nào Vua không ra nằm hóng mát ở hai cây xoan đào. Cám biết chuyện ấy lại về nhà mách mẹ. Mẹ nó bảo, cứ sai thợ chặt cây làm khung cửi rồi kiếm điều nói dối vua. Về đến cung, nhân một hôm gió bão, Cám sai thợ chặt cây xoan đào lấy gỗ đóng khung cửi. Thấy cây bị chặt, vua hỏi thì Cám đáp: - Cây bị đổ vì bão, thiếp sai thợ chặt làm khung cửi để dệt áo cho bệ hạ. Nhưng khi khung cửi đóng xong. Cám ngồi vào dệt lúc nào cũng nghe thấy tiếng khung cửi rủa mình : Cót ca cót két Lấy tranh chồng chị. Chị khoét mắt ra Thấy vậy Cám sợ hãi, vội về nhà mách mẹ. Mẹ nó bảo đốt quách khung cửi, rồi đem tro đi đổ cho rõ xa để được yên tâm. Về đến cung, Cám làm như lời mẹ nói. Nó đem tro đã đốt đi đổ ở lề đường cách xa hoàng cung. Đống tro bên đường lại mọc lên một cây thị cao lớn, cành lá xum xuê. Đến mùa có quả, cây thị chỉ đậu được có một quả, nhưng mùi thơm ngát tỏa ra khắp nơi. Một bà lão hàng nước gần đó có một hôm đi qua dưới gốc, ngửi thấy mùi thơm, ngẩng đầu nhìn lên thấy quả thị trên cành cao, bèn giơ bị ra nói lẩm bẩm: - Thị ơi thị à, rụng vào bị bà, bà để bà ngửi chứ bà không ăn. Bà lão nói vừa dứt lời, thì quả thị rụng ngay xuống đúng vào bị. Bà lão nâng niu đem về nhà cất trong buồng, thỉng thoảng lại vào ngắm nghía và ngửi mùi thơm. Ngày nào bà lão cũng đi chợ vắng. Từ trong quả thị chui ra một cô gái thân hình bé nhỏ như ngón tay, nhưng chỉ trong chớp mắt đã biến thành Tấm. Tấm vừa bước ra đã cầm lấy chổi quét dọn nhà cửa sạch sẽ, rồi đi vo gạo thổi cơm, hái rau ở vườn nấu canh giúp bà hàng nước. Đoạn Tấm lại thu hình bé nhỏ như cũ rồi chui vào quả thị. Lần nào đi chợ về, bà lão cũng thấy nhà cửa ngăn nắp, cơm ngon, canh ngọt sẵn sàng, thì lấy làm lạ. Một hôm bà hàng nước giả vờ đi chợ, đến nửa đường lại lén trở về, rình ở bụi cây sau nhà. Trong khi đó, Tấm từ quả thị chui ra rồi cũng làm việc như mọi lần. Bà lão rón rén lại nhìn vào khe cửa. Khi thấy cô gái xinh đẹp thì bà mừng quá, bất thình lình xô cửa vào ôm choàng lấy Tấm, đoạn xé vụn vỏ thị. Từ đó Tấm ở với bà hàng nước, hai người thương nhau như hai mẹ con. Hàng ngày Tấm giúp bà lão các việc thổi cơm, nấu nước, gói bánh, têm trầu để cho bà bán hàng. Một hôm vua đi chơi ra khỏi hoàng cung, Thấy có quán nước bên đường sạch sẽ, bèn ghé vào. Bà lão mang trầu nước dâng lên vua. Thấy trầu têm cánh phượng, vua sực nhớ tới trầu vợ mình têm ngày trước cũng y như vậy, liền hỏi : - Trầu này ai têm? - Trầu này con gái lão têm - bà lão đáp. - Con gái của bà đâu, gọi ra đây cho ta xem mặt. Bà lão gọi Tấm ra. Tấm vừa xuất hiện, vua nhận ra ngay vợ mình ngày trước, có phần trẻ đẹp hơn xưa. Vua mừng quá, bảo bà lão hàng nước kể lại sự tình, rồi truyền cho quân hầu đưa kiệu rước Tấm về cung. Cám Thấy Tấm trở về và được vua yêu thương như xưa, thì không khỏi ghen tỵ. Một hôm, Cám hỏi chị : - Chị Tấm ơi, chị Tấm! Chị làm thế nào mà đẹp thế ? Tấm không đáp, chỉ hỏi lại: - Có muốn đẹp không để chị giúp ! Cám bằng lòng ngay. Tấm sai quân hầu đào một cái hố sâu và đun một nồi nước sôi. Tấm bảo Cám xuống hố rồi sai quân hầu dội nước sôi vào hố. Cám chết. Tấm sai đem xác làm mắm bỏ vào chĩnh gửi cho mụ dì ghẻ, nói là quà của con gái mụ gửi biếu. Mẹ Cám tưởng thật, lấy mắm ra ăn, bữa nào cũng nức nở khen ngon. Một con quạ ở đâu bay đến đậu trên nóc nhà kêu rằng: - Ngon ngỏn ngòn ngon ! Mẹ ăn thịt con, có còn xin miếng. Mẹ Cám giận lắm, chửi mắng ầm ĩ rồi vác sào đuổi quạ. Nhưng đến ngày ăn gần hết, dòm vào chĩnh, mụ thấy đầu lâu của con thì kinh hoàng lăn đùng ra chết....
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/truyen-co-tich-tam-cam" }
Em bé thông minh
Ngày xửa ngày xưa, thưở ấy ở nước ta đang cần người hiền tài giúp nước, các quan trong triều cũng đã già cả rồi, sức không còn nhiều, nhà Vua bèn sai một viên quan đi dò la khắp nước để tìm ra người tài giỏi cùng vua lo toan việc nước. Viên quan đã đi khắp nơi, ngựa cũng đi nhiều cũng đã gầy róc đi, nhưng vẫn chưa tìm được người ưng ý. Đi đến đâu ông cũng ra những câu đố hóc búa để tìm người tài nhưng chưa ai giải được câu đố của ông. Một hôm, viên quan đi qua một cánh đồng làng kia, ngựa đi lâu cũng đã mệt, ông ngồi nghỉ ngơi bên vệ đường, tiện cho ngựa ăn ít cỏ. Thấy hai cha con đang làm ruộng, người cha gầy gò đang đánh trâu cày, đứa con chừng 7 - 8 tuổi đang đập đất. Ông bèn hỏi: - Này ông kia! Trâu của lão cày một ngày được mấy đường? Người cha ngơ ngác suy nghĩ không biết trả lời quan sao cho phải, thì đứa con đã nhanh nhảu: - Quan cho con hỏi quan trước đã: Nếu quan trả lời được ngựa của quan đi một ngày được mấy bước thì con sẽ cho quan biết trâu nhà con một ngày cày được mấy đường. Viên quan nghe thấy cậu bé đáp thế thì ngạc nhiên lắm, lúng túng không biết phải làm sao, trong bụng quan thì mừng thầm “Chắc chắn cậu bé này lớn lên sẽ là người tài rồi, ta việc chi phải tìm kiếm gì cho mệt nữa”. Thế rồi quan hỏi tên họ quê quán của hai cha con rồi phi ngựa một mạch về tâu vua. Thấy viên quan hào hứng trở về, lại tâu đã tìm được người tài thì mua mừng lắm, nhưng để biết cậu có thật thông minh, vưa bèn sai người mang cho làng đó ba thúng gạo nếp và ba con trâu đực, ra lệnh năm sau làng phải nuôi cho ba con trâu ấy đẻ thành chín con. Nếu không nộp đủ thì làng phải chịu tội. Dân làng nghe chiếu vua ban thì mừng ít mà lo thì nhiều, mừng vì làng cũng được vua để tâm tới, ắt sau này sẽ được hỗ trợ, nhưng ba trâu đực kia đẻ sao được chín trâu cái đây? Bao nhiêu cuộc họp làng mở ra, bao nhiêu ý kiến vẫn không giải quyết được vấn đề nhà vua ban, chưa bao giờ làng lại hối hả và sục sạo như thế, tất cả cho đó như là một tai vạ sắp xảy ra. Việc đến tai em bé con người thợ cày. Em liền bảo cha: - Cha ơi, chẳng mấy khi được lộc vua ban, cha cứ thưa với làng ngả thịt hai trâu và đồ hai thúng gạo nếp để mọi người ăn một trận cho sướng miệng. Còn một trâu và một thúng gạo, ta sẽ xin làng bán đi làm lệ phí cho hai cha con ta lên đường trẩy kinh. - Trâu vua ban mà dám ăn thịt thì chẳng phải một năm nữa mà mai cả làng sẽ phải chịu tội luôn đấy con ạ. Con đừng có dại. Cậu bé cười và quả quyết: - Cha cứ tin ở con, con biết tự lo liệu mà, thế nào cũng xong xuôi. Người cha nghe lời con mình ra đình gặp các bô lão trong làng để trình bày câu chuyện. Khi nghe người cha nói thế, cả làng vẫn còn rất ngờ vực nên bắt hai cha con phải làm một tờ giấy cam đoan. Nếu hai cha con làm thì mới ngả trâu để đánh chén. Mấy hôm sau, hai cha con thu xếp đồ đạc rồi tìm đường lên kinh. Đến hoàng cung, đứa con bảo người cha cứ ở ngoài đợi tin chiến thắng, còn mình thì nhanh trong lúc mấy tên lính canh bất cẩn sơ hở đã lẻn vào bên trong sân rồi la khóc um tùm. Nghe thấy tiếng trẻ con la khóc, nhà vua sai quân lính ra điệu thằng bé vào để hỏi chuyện. Nhà vua hỏi: - Thằng bé kia, nhà ngươi gặp chuyện gì mà lại đến sân của ta la khóc om sòm như thế? Chú bé đáp: - Tâu đức vua, mẹ con thì mất sớm, cả nhà chỉ có mỗi con và cha con. Vậy mà cha con không chịu đẻ em bé để con có người chơi cùng, chính vì vậy mà con khóc ạ. Mong đức vua ban lệnh bắt cha con đẻ em bé cho con được nhờ ạ. Nghe thấy cậu bé nói vậy cả nhà vua và các vị quần thuần ai nấy cũng đều cười lắc cười lẻ. Vua phán tiếp: - Nếu ngươi muốn có em bé để chơi cùng thì phải bảo cha của ngươi cưới vợ khác. Chứ cha ngươi là giống đực sao đẻ con được! Cậu bé bỗng tươi tỉnh nói: - Thế vậy sao vua lại lệnh cho làng con nuôi ba con trâu đực bắt chúng đẻ ra chín con trâu con để nộp cho ngài. Trâu đực là giống đực thì làm sao mà đẻ được. Nhà vua cười bảo: - Đấy là ta thử tài trí nhà ngươi thôi. Thế mà cả làng không biết đem 3 con trâu đó mà ngả thịt ăn mừng với nhau à? Cậu bé nói: Tâu đức vua, làng chúng con sau khi nhận được trâu và gạo nếp, biết đây là lộc vua ban nên cả làng đã làm cỗ ăn mừng với nhau rồi ạ. Nhà vua đã phải công nhận rằng, tên quan được cử đi tìm kiếm người tài đã nói đúng, cậu bé này rất thông minh lỗi lạc. Nhưng nhà vua vẫn muốn thử thách cậu bé thêm một lần nữa. Sang đến ngày hôm sau, khi hai cha con cậu bé đang ăn cơm ở công quán, bỗng có sứ nhà vua đem đến một con chim sẻ và nói: Nhà vua lệnh cho hai cha con ngươi phải thịt con chim sẻ này để dọn thành 3 cỗ thức ăn. Cậu bé nhanh trí bảo cha mình lấy ra một chiếc kim khâu và nói với sứ giả: - Ông cầm lấy chiếc kim này về và tâu với đức vua rằng, hai cha con ta muốn xin đức vua hãy cho người rèn chiếc kim này thành một con dao để hai cha con ta có thể xẻ thịt chim. Sau khi sứ về tâu lại với đức vua, nhà vua phục hẳn tài trí của cậu bé. Lập tức nhà vua cho gọi hai cha con vào cung và ban thưởng rất hậu hĩnh. Hồi đó, nước láng giềng luôn âm mưu xâm chiếm nước ta. Để dò la xem bên này có nhân tài hay không, họ đã sai sứ giả sang và mang theo một câu đố rất oái oăm: “Làm cách nào để xuyên một sợi chỉ mảnh qua một con ốc xoắn rỗng hai đầu?” Sau khi nghe sứ thần nói về mục đích ghé thăm lần này, tất cả vua quan đều đưa mắt nhìn nhau. Nếu như không trả lời được câu đố đó, thì sẽ tỏ ra thua kém và lép vế trước nước láng giềng, càng chứng tỏ đất nước không có người tài. Các đại thần vò đầu bứt tai suy nghĩ, người thì thử dùng miệng để hút cho sợi chỉ lọt qua, có người thì bôi sáp vào sợi chỉ cho cứng để dễ xâu hơn vv… Nhưng tất các các cách trên đều vô dụng. Bao nhiêu quan trạng đều bó tay, cuối cùng để có thêm thời gian cử người đi hỏi cậu bé thông minh, nhà vua nghĩ ra cách mời sứ thần tạm nghỉ ở công quán một ngày cho đỡ mệt đường xa. Một viên quan phi ngựa cầm theo dụ chỉ của nhà vua đến nhà cậu bé thông minh. Đúng lúc đó thì cậu và các bạn đang đùa nghịch ở sau nhà. Sau khi nghe viên quan trình bày ngọn ngành câu đố của sứ giả nước láng giềng, cậu bé không đưa ra câu trả lời mà chỉ hát lên một câu hát: Tang tính tang! Tính tình tang! Bắt con kiến càng buộc chỉ ngang lưng Bên thời lấy giấy mà bưng, Bên thời bôi mỡ, kiến mừng kiến sang Tang tình tang… Rồi cậu bé bảo: - Tôi không nhất thiết phải cùng ông trở về triều làm gì. Cứ theo câu hát của tôi tức khắc sợi chỉ sẽ lọt qua con ốc! Viên quan sung sướng phi ngựa trở về triều tâu lại với đức vua. Nhà vua và các quần thần như được cứu một nước cờ thua trông thấy. Quả nhiên con kiến đã xâu được sợi chỉ xuyên qua ruột ốc trước con mắt kinh ngạc của sứ giả nước láng giềng. Kể từ lần đó, nhà vua đã phong cho cậu bé làm trạng nguyên, sai người xây riêng một dinh thự cho cậu bé gần bên cạnh hoàng cung để tiện hỏi han khi cần.
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/em-be-thong-minh" }
Sự tích hồ Ba Bể
Vào hồi đó ở xã Nam-mẫu có mở một hội "vô già" cúng Phật. Mọi người nô nức đi xem. Ai nấy đều lo ăn chay niệm Phật và làm những việc từ thiện như buông cá, thả chim.v.v... để cầu phúc trong mấy ngày hội. Hôm ấy, xuất hiện ở đám hội một bà già ăn mày. Người ta không biết mụ ta từ đâu đi lại. Bộ dạng thật là gớm ghiếc: những mảnh vải vá víu của mụ không đủ che tấm thân gầy còm và lở loét. Mùi hôi thối xông ra rất khó chịu. Đến đâu, mụ cũng thều thào mấy câu: - Đói lắm các ông các bà ơi! Rồi cầm cái rá, mụ giơ ra khắp bốn phía, đầy vẻ cầu khẩn Nhưng mãi đến chiều, người đàn bà đó vẫn chả được tý gì. Đến đâu mụ cũng bị xua đuổi. Đám trẻ tuổi nhất là các cô gái cho mụ là hủi nên trốn như trốn dịch. Hễ thấy mụ đâu là họ xô nhau chạy đi chỗ khác. Mấy bà đang lễ thì rất bực tức. Họ ngừng những tiếng "Nam mô Phật" lại và quay ra mắng xả vào mụ sao dám đi sát vào người. Cuối cùng bọn hương lý sai tuần phu đuổi mụ đi. Mụ không thể kiên gan trước những trận mưa roi của bọn tuần, đành phải lê mình ra khỏi đám hội. Sau khi ra khỏi đám hội, người đàn bà ấy thất thểu bước vào xóm. Cũng như ở đám hội, vào nhà nào mụ cũng bị nghi là hủi và bị đuổi. Mấy nhà giàu có đóng chặt cửa lại và thả chó ra. May sao đến ngã ba, mụ gặp hai mẹ con bà góa vừa đi chợ về. Thấy bà lão ăn mày tội nghiệp, người mẹ đưa về nhà lấy cơm nguội cho ăn. Khuya hôm đó hai mẹ con đang ngủ thì người đàn bà ấy lại gọi cửa. Mụ xin ngủ ngờ một đêm vì mọi chỗ, người ra đều cấm cửa không cho vào. Hai mẹ con vui lòng đón người ấy vào nhà, lấy cơm cho ăn và trải chiếu ở một cái chõng cho mụ ngả lưng. Còn mẹ con thì nằm tạm ở một chỗ khác. Người đàn bà vừa nằm ngủ liền, tiếng mụ ngáy như sấm. Hai mẹ con nhìn ra thấy chõng sáng rực lên trong bóng tối. Đây không phải là một mụ ăn mày già yếu lở loét nữa mà là một con giao long đang cuộn mình lù lù một đống, đầu gác lên xà nhà, đuôi thò xuống đất. Người mẹ rụng rời kinh hãi, nhưng vì chỗ ở của mình cách biệt với làng xóm, không biết kêu cứu ai, đành trùm chăn kín mít, phó mặc cho may rủi. Nhưng đến sáng hôm sau, khi người mẹ nhìn ra chả thấy giao long đâu cả. Trên chõng, mụ ăn mày đã dậy và sắp sửa ra đi. Trước khi từ biệt, mụ bỗng lên tiếng: - Chúng nó thờ Phật mà kỳ thực là buôn Phật. Chúng nó xứng đáng phải chịu trầm luân. Chỉ có mẹ con nhà ngươi là tốt bụng. Hãy cầm lấy gói tro này, nhớ rắc xung quanh chỗ ở và nội trong đêm hôm nay chớ đi đâu cả. Hoặc nếu có đi thì đưa nhau lên đỉnh núi cao mà tránh. Người mẹ băn khoăn hỏi thêm: - Nhưng làm thế nào để cứu mọi người được? Người đàn bà ấy ngần ngừ hồi lâu rồi lấy từ trong áo một hạt thóc ra cắn tách đôi vỏ trấu đưa cho hai mẹ con và nói: - Hai mảnh vỏ trấu này sẽ giúp hai mẹ con ngươi làm việc thiện. Người mẹ toan hỏi thêm thì vụt một cái đã không thấy người đàn bà hủi đâu nữa. Hai mẹ con vội làm theo lời dặn rồi đi kể chuyện cho mấy người gần đó biết. Họ nghe nói chỉ mỉm cười cho là một chuyện bâng quơ. Quả nhiên tối hôm đó giữa đám hội náo nhiệt, lúc thiện nam tín nữ đang tấp nập lễ bái thì bất ngờ có một dòng nước từ dưới đất phun lên chính giữa đàn tràng. Nước càng phun càng mạnh làm lở dần đất xung quanh. Người ta ngơ ngác không hiểu thế nào, tưởng là phép Phật hiển hiện nên càng vái lấy vái để. Nhưng dòng nước mỗi lúc một mạnh nuốt hết người và vật. Chỉ trong nháy mắt đã ngập bằng một cái ao. Thấy thế mọi người hoảng hốt bỏ cả lễ bái đua nhau chạy. Nhưng họ không thể chạy được nữa. Ở dưới chân họ đất nứt nẻ, rung động hất họ ngã xuống. Bỗng chốc một tiếng ầm dữ dội phát ra, đất đá, nhà cửa, người vật đều chỉm nghỉm, nước tung tóe mù trời. Một con giao long to lớn từ mặt nước nhô lên bay vòng quanh xã Nam-mẫu. Trong khi đó thì nền nhà, chuồng lợn, chuồng gà của mẹ con người đàn bà từ thiện kia mỗi lúc một nâng cao hơn mực nước. Đau xót trước cảnh nước lụt, hai mẹ con đem hai mảnh vỏ trấu ra. Vừa đặt xuống nước, họ bỗng thấy hai mảnh vỏ biến ngay thành hai chiếc thuyền. Thế rồi, mặc gió mặc mưa, họ chèo đi mọi nơi cố sức vớt những người bị nạn. Chỗ đất sụt ấy ngày nay là hồ Ba-bể ở Bắc cạn, còn cái nền nhà ấy tức là một hòn đảo nhỏ ở giữa hồ mà người địa phương gọi là Pò-già-mải.
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/su-tich-ho-ba-be" }
Rạch đùi giấu ngọc
Ngày xưa, một ông vua nước ngoài có một viên ngọc vô cùng quý giá. Viên ngọc có hai điều lạ: một là cầm trên tay tưởng chừng rất nhẹ, thế nhưng đặt vào đâu thì ở đấy nặng trĩu; hai là đêm đến ngọc tỏa ánh sáng rực, dẫu cất chỗ kín thế nào đi nữa, ánh sáng vẫn cứ lọt ra ngoài. Từ lúc được làm chủ viên ngọc, nhà vua mừng lắm, đêm ngày ôm ấp không rời. Nhưng một hôm ngọc quý bỗng không cánh mà bay. Nhà vua tiếc ngơ tiếc ngẩn, hạ lệnh cho thần dân khắp hang cùng ngõ hẻm phải hết sức dò tìm, tuy vậy vẫn vô hiệu. Mãi về sau, vua sai người đem kính thiên lý ra nhìn, thì mới biết ngọc đã bay về phương Nam. Lập tức vua sai một viên đại thần đem năm trăm quân sĩ ngồi lên mấy chiếc thuyền lớn, theo hướng Nam mà đi. Lệnh vua truyền thế nào cũng phải dò tìm bằng được. Sau bao ngày vượt biển tìm tòi, viên đại thần theo dõi kính thiên lý bỗng nhìn thấy viên ngọc bay vụt vào nước Nam, bèn ra lệnh cho quân sĩ cứ hướng ấy đuổi theo. Bấy giờ ở làng Đại-lại, huyện Gia-bình có một người tên là Điển Chi. Một đêm nọ, ông đang ngồi chơi ở sân, chợt thấy có ánh sáng lạ bay xuống chiếu sáng cả một khu vườn. Ông lấy làm kinh ngạc, nhưng cũng đánh bạo chạy tới chỗ ấy tìm xem, không ngờ bắt được một viên ngọc. Biết đó là của hiếm trên thế gian, ông mừng quá, vội đưa về nhà cất trong hộp gỗ. Nhưng ông lấy làm lạ khi thấy đêm đến, ánh sáng của viên ngọc vẫn tỏa sáng khắp nhà. Ông lại cho vào một cái thùng sắt đậy kín, nhưng thùng sắt cũng không đủ sức che kín ánh sáng chói chang. Sợ ngọc có thể bị lộ và về tay người khác mất, ông bèn đào hố chôn đi. Nhưng dầu đào sâu chôn chặt bao nhiêu cũng hoài công vô ích. Đêm đêm, ngọc vẫn phát ra ánh sáng. Sau nhiều ngày mò mẫm đủ cách, ông mới biết chỉ có bỏ ngọc vào giữa thịt sống thì ánh sáng của ngọc mới được che kín trọn vẹn. Cuối cùng, ông đánh liều cầm dao rạch đùi mình nhét ngọc vào rồi khâu lại. Từ đó chân ông đau tê buốt không đi lại được, nhưng của báu thì hoàn toàn giấu kín không ai biết cả. Lại nói chuyện quan quân nước ngoài theo dõi dấu ngọc tới vùng Gia-bình thì bỗng mất hút. Kính thiên lý cũng không còn tìm ra. Quan đại thần bèn cho quân sĩ vào dò la khắp miền, nhưng thảy đều vô ích. - "Hẳn có người nào ở vùng này bắt được ngọc biết cách dấu vào da thịt nên ngọc không phát sáng nữa". Viên đại thần nghĩ vậy. Và ông cố moi óc tìm ra một kế để đưa ngọc về. Ông mới sai quân sĩ dựng rạp trên một hòn đảo giữa sông, rồi giết bò mổ lợn làm tiệc linh đình. Đoạn nhờ quan huyện ở đây mời tất cả nam phụ lão ấu các làng tới dự. Mỗi người đến dự tiệc đều phải đi qua một chiếc bè nứa thả nổi trên sông, nối liền với đảo. Ông còn cắt mấy người đứng đón ở bè nứa, dặn hễ thấy lúc nào có người đi qua, bè chìm thì báo ngay cho ông. Suốt mấy ngày liền, dân làng các vùng Gia-bình, kể cả dân làng Đại-lại lũ lượt đến ăn tiệc hết lớp này đến lớp khác, nhưng chẳng một ai có sức nặng làm cho bè chìm. Viên đại thần vẫn không nản lòng. Ông cố cho hỏi trong trong đám khách dự tiệc các làng xem may còn sót ai chưa đi chăng. Một người ở làng Đại-lại mách: - Người làng tôi thiếu mặt họa chỉ có ông Điển Chi vì ông ta gần đây bị đau chân không đi đâu được. Nghe nói thế, viên đại thần vội sai mấy người lính sắm sửa cáng xá, đến tận nhà ông Điển Chi dặn họ cố dùng lời nói khéo mời ông đi. Về phần ông Điển Chi, không biết được mưu sâu nên nghe lời mời, liền vui vẻ lên cáng. Quả nhiên, vì có viên ngọc nhét trong đùi cáng ông vừa bước lên bè nứa, thì bè tròng trành dữ dội rồi chìm ngập xuống nước. Thấy vậy, viên đại thần reo lên: - Ngọc đây rồi! Ta tìm được ngọc đây rồi! Không thể giấu được nữa, ông Điển Chi đành phải thú thực mọi việc. Viên đại thần nói: - Hoàng đế nước chúng tôi mất một viên ngọc, hòn ngọc bay sang quý quốc, ông bắt được ngọc đó là một điều may mắn. Chúng tôi không có ý lấy không của ông. Nhưng để có ngọc về nộp hoàng đế, mong ông vui lòng đánh đổi hoặc quan tước, hoặc bạc vàng cho chúng tôi. Ông muốn gì, cũng xin làm cho ông vui lòng. Thấy bọn quan quân không có gì ác ý, ông Điển Chi bảo họ: - Hãy chồng tiền vác cao bằng đầu người từ chỗ tôi đứng cho tới nơi nào hòn chì của tôi ném ra dừng lại! Viên đại thần nước ngoài gật đầu. Cuộc trao đổi giải quyết chóng vánh. Từ đấy, ông Điển Chi trở nên giàu có, trong nước ít người sánh kịp. Tin ông Điển Chi bỗng nhiên giàu bốc lên bay đến kinh đô. Nhà vua bèn cho đòi ông về kinh hỏi chuyện. Thấy ông tốt số kỳ lạ, vua chọn một công chúa gả cho ông, phong ông làm phò mã. Hai vợ chồng ông Điển Chi sống với nhau rất tương đắc. Công chúa chiều chuộng ông rất mực. Ông Điển Chi những tưởng đời mình không còn gì sung sướng hơn thế nữa. Nhưng một hôm, một người bạn nối khố của ông từ phương xa tới thăm. Ông vui vẻ dắt bạn đi khắp nơi xem tư cơ đồ sộ của mình. Thấy bạn luôn miệng tấm tắc khen ngợi, ông có vẻ đắc chí: - Giàu như tôi mới thật là nhất nước ! Không ngờ câu nói ấy lọt vào tai công chúa. Không chịu được sự ngạo mạn của chồng, trong một lúc giận dữ, công chúa vội vàng về mách cha. Nhà vua không ngăn được cơn thịnh nộ, lập tức cho triệu phò mã về triều và ra lệnh: - Nhà ngươi tự khoe mình giàu có nhất nước. Được lắm! Bây giờ ngươi hãy thi với ta đem tiền ra phát chẩn cho dân. Ta phát ba ngày đầu, ngươi phát ba ngày cuối. Nếu ta không đủ tiền để phát thì coi như lời ngươi nói đúng, ngươi sẽ không có tội gì cả. Nhưng nếu ngươi không đủ tiền để phát, thì tức là ngươi đã nói láo, đã khinh mạn "quan gia", phải phạt tội lột da nhồi trấu để làm gương cho thiên hạ! Nghe lời truyền dõng dạc, ông Điển Chi khôn xiết kinh hoàng. Ông sụp xuống dưới chân vua kêu xin tha tội. Nhưng nét mặt vua thản nhiên như không nghe thấy. Chẳng biết tính sao nữa, ông đành tuân lời. Sau những ngày bận rộn chuyển vận tất cả của cải về kinh đô, ông Điển Chi lại ra mắt vua. Cuộc thi bắt đầu. Mấy ngày đầu vua phát chẩn, dân chúng chưa mấy ai biết tin nên đến lĩnh chẩn còn thưa thớt. Cho nên số tiền vua ứng ra vẫn không phát hết. Nhưng đến lượt ông Điển Chi phát thì khắp nơi dân chúng đã hay tin, nên nô nức tuôn về lĩnh chẩn ùn ùn. Ông Điển Chi phát mãi, phát mãi, vợi hết cả kho tiền mà vẫn không đủ. Hết tiền ông lại đem gạo trong kho ra phát, mong có thể cứu được tính mạng. Nhưng không may cho ông, các kho gạo bắt đầu vơi mà dòng người vẫn tuôn về như nước chảy. Vì thế ông đành chịu thua cuộc. Nhà vua vẫn không chút thương hại chàng rể ngạo mạn. Ông Điển Chi bị quân lính bắt ra lột da nhồi trấu, đem bêu trước cửa thành. Tất cả tài sản còn lại của ông đều bị sung công. Thấy chồng bị vua cha làm tội, công chúa đâm ra hối hận. "Thì ra ta là gái giết chồng" Câu nói ấy luôn luôn ám ảnh lòng nàng. Rồi một hôm, công chúa giao tất cả ruộng đất của mình cho dân làng, bỏ đi tu. Ngày nay ở làng Đại-lại vẫn còn cánh đồng mà công chúa cúng cho dân, người ta gọi đó là cánh đồng Mả, cũng có người gọi là cánh đồng Ngọc.
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/rach-dui-giau-ngoc" }
Con mụ Lường
Ngày xưa, có hai vợ chồng một người phú thương trẻ tuổi. Chồng thường rong buồm chạy khắp trong Nam ngoài Bắc và các nước xa xôi, chuyên bán hàng đi và cất hàng về. Một ngày kia, thuyền đã chứa đầy hàng, chồng từ giã vợ ra đi. Chàng chưa từng đến Hạ-châu bao giờ nhưng vốn nghe xứ này buôn bán dễ dàng, có thể phất to, nên quyết định đi thử một chuyến. Thuyền đi ra biển suốt năm ngày đêm mới tới thị trấn này. Chàng bảo thủy thủ bỏ neo ở một bến tấp nập nhất, rồi lên bộ tìm nơi nghỉ trọ và tìm mối bán hàng. Nhưng vừa lên bờ, đã thấy một ngôi lầu đồ sộ trên bến. Đang đứng ngẩn ra nhìn thì bỗng cửa lầu mở toang. Chủ nhân là một người đàn bà sang trọng bước ra vái chào rất cung kính và cất tiếng nói dịu ngọt mời mọc: - Chúng tôi nghe nói ngài có một thuyền hàng mới cập bến. Chúng tôi mong muốn làm quen và được giao thiệp lâu dài. Nếu không chê tệ xá nhỏ hẹp, xin mời lên nghỉ ngơi trong những ngày thuyền đỗ tại đây. Đang khi chưa biết nên trả lời thế nào thì đã thấy kẻ hầu hạ của chủ nhân, nam có nữ có, người nào cũng ăn mặc lịch sự ra đón. Phú thương bụng bảo dạ: - Ta mới đến chân ướt chân ráo chưa hiểu thế nào cả, nhưng trông cung cách người này có vẻ tốt bụng. Biết đâu chả là sự may mắn cho ta trong chuyến đi này. Nghĩ vậy, chàng vui vẻ nhận lời và cố sức làm cho chủ nhân biết mình không phải là kẻ ngờ nghệch. Lập tức, bọn người hầu không cần chờ lệnh chủ, tỏa ra dọn dẹp lăng xăng khắp nơi. Họ làm cho phú thương và một số gia nhân của mình rất đẹp lòng,vì chưa bao giờ được tiếp đãi nồng hậu đến thế. Chủ dẫn khách đi thăm nhà. Các phòng bày biện nói lên sự giàu có quá sức: những cây đèn bằng vàng, những độc bình cổ, những đồ dùng quý giá. Phú thương sờ tay vào một con rùa vàng bày trên một chiếc bàn. Nhân thể, chủ nhân liền giới thiệu kỹ món gia bảo đặc sắc đó của tiền nhân mình. Đêm hôm ấy, một tiệc lớn bày ra, chủ nhân ăn mặc rất mỹ lệ, chuốc chén mời mọi người. Xong tiệc, họ được mời đi nghỉ ở một buồng có những chiếc giường rất xinh xắn. Không thấy có điều gì đáng ngờ, phú thương và kẻ tùy tùng nằm xuống đánh một giấc ngủ rất ngon lành. Sáng hôm sau, khi mọi người trở dậy, sự mời mọc lại càng niềm nở. Lại những mâm thức ăn ngon lành bưng ra với những câu mời quyến rũ làm cho phú thương không thể từ chối được. Thế nhưng, khi phú thương cáo từ trở ra, vừa bước về thuyền thì bỗng thấy cả nhà chủ nhân đổ xô tới: - Thưa các ngài, nhà chúng tôi vừa mất con rùa vàng mà các ngài đã biết. Vậy có vị nào cầm nhầm hãy cho xin lại. Mọi người tưởng như nghe tiếng sét. Song phú thương biết tính nết mấy người tùy tùng của mình vốn chả bao giờ ăn cắp trộm gì của ai, nên rất vững tâm. Chàng có ngờ đâu người đàn bà kia chính là con mụ lường gạt nổi tiếng. Hắn có một đám thủ hạ rất đông, chuyên cướp của bằng cách bẫy người vào tròng một cách bất ngờ và êm thấm. Mỗi lần làm, hắn làm những món rất to, và thường nhằm vào những khách giàu sang, nhất là những khách nước ngoài mới tới. Ngón độc của hắn đã từng khiến nhiều kẻ mất đứt cả của lẫn người vào tay hắn, nên của cải của hắn chứa chất không biết bao nhiêu mà kể. Hôm đó mụ Lường - tên người ta thường gán cho mụ - thấy có một thuyền buôn mới tới với đầy ắp những hàng, mà trông chủ nhân lại chẳng ra vẻ là tay thạo đời. Cho nên mụ quyết cho anh chàng vào tròng. Trong khi phú thương và tùy tùng ăn nghỉ ở nhà mụ, mụ đã sai một số thủ hạ xuống thuyền giả cách xin xem hàng. Chúng mang con rùa vàng theo và lén bỏ vào trong một tấm đoạn. Thấy mọi người trở mặt vu cho mình ăn cắp và đòi khám thuyền, phú thương nóng mặt, nhất định không cho. Khám thuyền thì phải dỡ hàng mà dỡ hàng là một điều rất phiền và tối kỵ khi chưa bán được một tý gì. Cho nên chàng cũng lý sự: - Thưa bà, trừ phi có quan chức đến đây, chúng tôi không thể để cho một ai xuống thuyền được. Mụ Lường vội cho người đi trình quan. Khi bọn quan và lính ở thị trấn đến, mụ trình bày việc mất trộm, đổ riệt cho người nhà phú thương lấy mang đi, và nhất định xin khám thuyền. Phú thương bày tỏ sự thẳng thắn của mình và gia nhân mình, rồi nói: - Nếu khám không có thì bà tính sao đây? - Tôi xin "cược" cái nhà lầu và mọi vật ở trong đó. Còn quả có rùa ở trong thuyền ngài thì làm sao? Phú thương nóng nảy tiếp theo lời mụ: - Nếu có, tôi cũng xin mất cả thuyền hàng lẫn người ở đây cho bà. Hai bên lập tức làm giấy ký kết trước mặt quan. Cuộc khám xét bắt đâu. Chỉ một chốc sau, bọn lính đã lôi được con rùa vàng từ trong tấm đoạn ra. Phú thương và gia nhân đờ đẫn cả người. Không còn đường chối cãi, họ đành phải làm theo lời đã ký kết. Thế là cả một thuyền hàng trị giá đến cả vài trăm vạn quan đều về tay mụ Lường. Phú thương, bọn tùy tùng và thủy thủ đều bị sung làm nô. Theo như luật pháp Hạ-châu quy định, họ phải làm khổ dịch cho chủ nếu không bị bán và nhất thiết không được rời khỏi nơi làm việc. Từ hôm đó, phú thương phải làm việc quần quật suốt ngày. Chàng bị cắt giữ việc chăn ngựa. Công việc mệt nhọc đó làm cho chàng rã rời tơi tả. Chàng chỉ buồn một nỗi là mụ Lường bắt mỗi người ở một phương không bao giờ được gặp nhau. Cứ như thế sau ba năm trời, chàng bặt tin của quê hương xứ sở. Nhưng chàng cũng dần hiểu rõ mưu mô gian xảo và tình hình trong nhà mụ Lường. Một hôm đang cho ngựa ăn cỏ ở bến sông, chàng bỗng gặp một đạo sĩ ngồi bên vệ đường. Thấy trước mặt đạo sĩ có bày một quả bưởi, chàng lấy làm lạ, lại hỏi mua ăn. Đạo sĩ lắc đầu: - Bưởi này không phải bán để ăn đâu. - Thế thì dùng làm gì? - Nó dùng để nhắn tin tức với bất cứ người nào trong thế gian. Nghe nói thế, chàng nhớ đến người vợ yêu của mình sau ba năm đằng đẵng không một tin tức và chắc đã khóc kiệt nước mắt. Cho nên chàng xoắn xuýt: - Ngăn sông cách núi, chẳng biết có dễ đưa đến nơi chăng? Đạo sĩ đáp: - Hãy viết một bức thư, dùng dao rạch một chỗ ở đằng cuống rồi nhét thư vào. Đưa ra trước bến này, khấn to tên và chỗ ở của người mà mình muốn nhắn, rồi vứt xuống nước và nói: "Bớ bưởi, hãy đi cho được việc!" tự khắc nó sẽ vượt sông vượt biển đến tận tay người đó, dù xa bao nhiêu cũng không thất lạc được. Tuy không tin gì lắm nhưng chàng cũng mua lấy quả bưởi để cầu sự may rủi. Chàng viết một bức thư rất dài kể tất cả mọi việc xảy ra. Và khi nhìn thấy quả bưởi vượt sóng trôi về phương Bắc, lòng chàng mới thực tràn trề hy vọng. * Từ ngày người chồng thân yêu vượt vời thấm thoắt đã ba cái Tết mà không thấy trở về, vợ phú thương hết sức lo buồn. Cả đoàn người trên thuyền không hiểu sao cũng bặt không một tin tức. Có lẽ thuyền đã gặp bão, hoặc đã gặp bọn cướp biển và không một mạng nào sống sót. Nghĩ thế nên mọi nhà đã thiết bài vị và để tang. Và nàng đã rơi không biết bao nhiêu là giọt lệ. Dầu vậy, nàng vẫn không chịu tuyệt vọng, hàng ngày vẫn kiên nhẫn ra ngóng những cánh buồm ngoài xa tít. Một hôm như lệ thường, nàng đang đứng trên bến, chợt trông thấy một quả bưởi trôi ngược dòng. Lấy làm lạ, nàng vội chạy xuống bến đứng xem. Thì lạ sao, quả bưởi lại trôi ngay vào bến và lọt vào tay nàng. Khi đọc những dòng chữ của chồng, nàng mừng rỡ xiết bao. Nàng rất đỗi căm giận trước mưu mô điên đảo của con mụ Lường, quyết chí sẽ đến tận nơi cứu chồng và trị cho con mụ một mẻ. Sáng hôm sau, nàng giao nhà cửa con cái cho cha mẹ và xin phép đi tìm chồng. Nàng mang theo một con thuyền đầy tơ lụa gấm vóc. Lần này, ngoài số gia nhân và thủy thủ nàng con mang theo một người thợ kim hoàn. Lại có hai con chuột nhắt nuôi trong một cái lồng nhỏ. Thuyền lại rẽ sóng và tìm đến Hạ-châu, thả neo đúng vào nơi ba năm trước đây thuyền chồng nàng đã đỗ. Mụ Lường thấy có thuyền hàng nước ngoài cập bến mà chủ nhân lại là đàn bà thì mừng quá, quyết làm một mẻ không ngần ngại gì nữa. Tấn tuồng cũ lập tức lại được diễn. Cũng chào mời đon đả, tiệc tùng chơi nhời, chị chị em em rất thân mật. Cũng có những người lén đưa rùa vàng xuống thuyền định thực hành kể vu vạ. Nhưng lần này, người thợ kim hoàn đã có lệnh sẵn của chủ, nấp kín một nơi rình từng cử chỉ của chúng. Chờ cho chúng ra về, anh bèn trổ hết tài nghệ, thụt bễ một chốc, rùa vàng chảy ra nước và sau đó hóa thành những thoi vàng nén nằm gọn dưới đáy hòm. Cho nên, khi mụ Lường mời quan đến khám thì hắn rất kinh ngạc vì lục soát hết từ mũi chí lái đến mấy lần, vẫn không thấy tăm dạng "con rùa" đâu cả. Biết là gặp phải tay kình địch "tương kế tựu kế", mụ Lường đành nhận thua cuộc, nhưng liền đó lại nảy ra một mẹo khác. Mụ bảo vợ người phú thương: - Chúng ta nhận rằng đã mất ngôi lầu này. Nhưng các ngươi phải đánh cuộc với ta một lần thứ hai. Các người có tin rằng ta có cách bắt hai con mèo đội đèn suốt đêm cho một canh bạc không? Người vợ phú thương, qua thư chồng, đã biết chuyện hai con mèo đội đèn này rồi, song cũng làm bộ ngạc nhiên: - Làm gì lại có mèo đội đèn được suốt đêm? - Vậy thì - mụ Lường tiếp - các người có dám cược với ta: nếu ta sai khiến được hai con mèo đội đèn suốt một đêm thì ngôi lầu kia lại thuộc về chúng ta, nhược bằng không có con mèo đội được đèn, hoặc đang đội nửa chừng bỏ dở thì ta lại mất thêm một dinh cơ thứ hai cũng ở trong thị trấn này. Có dám không? Vợ phú thương vui lòng nhận cuộc. Hai bên ký vào giấy và trình quan. Mọi người lại kéo nhau lên lầu nhà mụ Lường vừa đánh bài vừa luôn thể chứng kiến sự việc. Quả nhà mụ có hai con mèo rất khôn được luyện tập từ lâu, mỗi con có thể ngồi ưỡn người suốt đêm không cụ cựa, trên đầu đội một chiếc đèn thắp ba ngọn nến. Cuộc sát phạt bắt đầu và kéo dài tới canh một, canh hai. Hai con mèo vẫn đội đèn chưa tỏ dấu hiệu gì là mỏi mệt. Nhưng người vợ phú thương vẫn tỉnh táo. Trước lúc vào cuộc, nàng đã bỏ hai con chuột nhắt vào một cái túi vải. Thế rồi, đến bây giờ nàng mới kín đáo thả chuột ra. Hai con mèo thoáng thấy chuột thì nhảy tới vồ. Hai cây đèn đổ tung tóe giữa chiếu bạc. Thế là một lần nữa con mụ Lường lại cay đắng thua cuộc. Nhưng mụ còn cố gỡ. Mụ lại đứng lên, nói: - Chúng ta đang còn rất nhiều ruộng đất, trâu bò, voi ngựa. Chúng ta còn có rất nhiều thuyền buôn đang tung ra khắp mọi bến. Vậy nếu các người dám đánh cuộc với ta, ta sẽ trồng một cây đã chết khô, chỉ trong một đêm lại xanh trở lại. Nếu làm được như thế, các người phải trả lại tất cả lầu và dinh cơ của ta cho ta. Nếu không, ta sẽ mất với các người tất cả người cũng như mọi của cải. Có dám không? Người vợ phú thương, cũng qua thư chồng, đã biết đấy là miếng đất màu nhiệm ở bên tả cây táo sau nhà. Và cũng ngay trong đêm đánh bài, nàng đã sai gia nhân bí mật lẻn tới đào đất ấy đổ đi một nơi rồi thay vào đó một lớp đất khác. Cho nên nàng nhận cược ngay. Phép lạ của mụ Lường vì thế lại mất linh nghiệm. Mụ tái mặt khi thấy qua một đêm, cây khô chẳng xanh lên một tí nào. Thế là quan chứng nhận ba lần thất bại đều về phần mụ và mụ phải mất cả của lẫn người cho vợ phú thương. Nhờ thế phú thương và những người tùy tùng được trả tự do. Chồng có ngờ đâu có ngày được gặp lại vợ và có ngờ đâu lại giàu gấp mấy trước. Trong một chuyến trở mụ Lường và gia nhân của mụ về nước làm nô lệ, mụ nhảy xuống biển tự tử, vì nghĩ rằng mình không kham được công việc nặng nhọc. Đức Phật cho mụ hóa thành cá he. Người ta nói vì mụ xót của nên lúc nào cũng cứ ngoi lên lặn xuống mãi. Nòi giống cá he sau này vẫn mang thói quen đó...
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/con-mu-luong" }
Sự tích ông công ông táo
Ngày xưa, có hai vợ chồng son nhà nghèo. Họ đều sinh nhai bằng nghề làm thuê làm mướn. Tuy nghèo nhưng họ rất yêu nhau. Thường buổi tối sau khi đi làm về, hai vợ chồng ngồi bên bếp lửa hay dưới ánh trăng kể cho nhau những chuyện xa gần mới nghe được, hay hát những câu tình duyên. Một năm trời làm mất mùa, hạt gạo kiếm rất khó khăn. Tình trạng đói kém diễn ra khắp mọi miền. Hai vợ chồng theo lệ cũ đi tìm việc ở các nhà giàu nhưng chả mấy ai thuê nữa. Người vay công lĩnh nợ thì đông mà gạo rất khan hiếm nên khó chen vào lọt. Hơn nữa, cổng mấy lão trọc phú lại thường đóng chặt vì chúng không muốn cho ai quấy nhiễu. Túng thế hai vợ chồng phải đi mò cua bắt ốc, hoặc đào củ, hái rau về ăn. Tuy có đỡ phần nào nhưng tình thế vẫn không mảy may sáng sủa. Cái chết luôn luôn đe dọa họ vì trận đói còn kéo dài. Một buổi chiều, sau khi húp vội mấy bát canh rau má, chồng bảo vợ: - Tôi phải đi một nơi khác kiếm ăn, không thể ở nhà được. Nghe chồng nói, người đàn bà đòi đi theo để sống chết cho có bạn. Nhưng người chồng bảo: - Tôi chưa biết sẽ đi đến đâu và sẽ phải làm những gì. Nàng ở nhà dễ sống hơn tôi, không nên theo làm gì cho vất vả. Chưa biết chừng tôi sẽ nằm lại dọc đường để cho loài chim đến than khóc. Nhưng cũng chưa biết chừng tôi lại mang những quan tiền tốt bó mo về đây nuôi nàng cũng nên! Chao ôi! Số mệnh! Nàng hãy chờ tôi trong ba năm, nghe! Hết ba năm không thấy tôi trở về ấy là tôi đã bỏ xác quê người. Nàng cứ việc đi lấy chồng khác. Người vợ khóc lóc thảm thiết như đứng trước cảnh tang tóc thực sự. Nhưng không biết làm thế nào cả, nàng đành phải để chồng ra đi. Sau khi tiễn chồng, người đàn bà kiếm được việc làm ở một nhà kia. Nhà họ không giàu gì nhưng thương cảnh ngộ nàng, có ý giúp đỡ cho qua những ngày thảm đạm. Ở đây, người đàn bà kiếm mỗi ngày hai bữa, trong đó có một bữa cháo bữa khoai. Nhờ lanh lẹn và xinh xắn nên nàng lấy được cảm tình của chủ. Nhưng hình dáng người chồng thân yêu không bao giờ phai nhạt trong tâm trí nàng. Thời gian trôi nhanh như nước chảy. Người ta đã bớt nhắc đến trận đói khốc liệt vừa qua. Nàng thì ngày ngày hồi hộp chờ đợi chồng. Nhưng cây bưởi trước sân đã ba lần trổ hoa mà chồng nàng vẫn không thấy tăm dạng. Giữa lúc ấy người chủ đã từng bao bọc nàng trong lúc đói, vừa chết vợ. Sẵn có cảm tình với nàng, người ấy ngỏ ý muốn được nối duyên cùng nàng. Nhưng người ấy đâu có hiểu được lòng của người thiếu phụ. Câu trả lời của nàng là: - Chồng tôi hẹn tôi trong ba năm sẽ về. Đến bây giờ tôi mới tin là chồng tôi đã chết. Vậy cho tôi để tang chồng trong ba năm cho trọn đạo. Ba năm nữa lại trôi qua một cách chóng vánh. Không một nét chữ, một lời đồn về người xấu số. Hàng ngày, những buổi chiều tà, nàng vẫn đăm đăm nhìn bóng người đi lại trên con đường cái quan. Và rồi nàng khóc cạn cả nước mắt. Người đàn ông kia giục nàng quyết định: - Một là chồng nàng đã chết, hai là còn sống nhưng đã lập một gia đình khác ở một nơi xa xôi hẻo lánh. Đằng nào nàng cũng khó mong tái hợp. Âu là cùng tôi lập một gia đình mới. Sức của tôi và của của tôi đủ bảo đảm cho nàng sung sướng trọn đời. Nàng sửa lại vành khăn trắng đã ngả màu, cảm ơn hậu tình của anh ta và xin rốn chờ cho một năm nữa. Một năm nữa lại trôi qua không mang lại một tin tức gì mới mẻ. Lần này nàng mới tin là chồng mình chết thật. Sau một bữa rượu cúng chồng và đãi họ hàng làng xóm, nàng đến ở cùng người chồng mới. Đột nhiên sau đó ba tháng, người chồng cũ xách khăn gói trở về quê hương. Chàng không có vẻ gì khấm khá hơn trước. Chàng chỉ ôm một hy vọng là được gặp lại người vợ yêu. Nhưng vườn cũ nay đã thuộc về chủ mới. Chàng lẩm bẩm: "Thế là hết. Bởi số cả!". Việc người đàn ông đột ngột trở về làm cho mọi người ngơ ngác. Nhất là đôi vợ chồng mới cưới không biết ăn nói làm sao bây giờ. Người đàn bà xấu hổ không dám dàn mặt. Nhưng người chồng cũ đã tìm đến họ và an ủi họ. - Tôi đi vắng lâu quá. Cái đó hoàn toàn là lỗi ở tôi. Nàng xử sự như thế rất đúng. Tôi chỉ cần về gặp nàng một chút. Thế là đủ. Bây giờ tôi sẽ đi khỏi nơi này mãi mãi. Mặc dầu người vợ nài nỉ hết sức, mặc dầu người chồng mới đoan xin trả lại vợ, nhưng chàng nhất quyết dứt áo ra đi. Chàng không nỡ phá hạnh phúc của họ. Mà chàng cũng không có gan đi đâu xa vì không thể quên được vợ cũ. Băn khoăn dằn vặt hành hạ tâm trí chàng. Đầu óc rối như mớ bòng bong. Chàng nghĩ đến cái chết và trong một lúc cuồng loạn, chàng tự treo cổ lên cây đa đầu làng. Cái chết kinh khủng đó như một tiếng sét nổ vào đầu người đàn bà. Nàng cảm thấy chính mình là thủ phạm gây ra cái chết của người chồng cũ. Tại sao ta chờ chồng được bảy năm trời mà không rán chờ thêm ít lâu nữa? Tại sao thấy chồng trở về, ta không dám giáp mặt? Nàng không tự chủ được nữa. Tất cả những câu hỏi như lên án một cách âm thầm nhưng kịch liệt trong đầu óc nàng. Thế rồi buổi sáng hôm sau, trong khi người ta sắp sửa cất đám người đàn ông bạc mệnh thì người ta lại hoảng hốt kéo nhau đi vớt tử thi người đàn bà dưới cái ao bên cạnh nhà. Người chồng mới sau khi làm ma cho vợ, trở nên như người mất trí. Hai cái chết đánh mạnh vào đầu óc mọi người, riêng đối với chàng chưa bao giờ có một sự xúc động dữ dội đến như thế. Chàng luôn miệng kêu to: "Tại sao ta cố ý cướp vợ của người khác". Rồi một hôm, sau khi đem hết gia sản chia cho họ hàng và cúng vào chùa, chàng uống thuốc độc tự tử. Lúc xuống đến thế giới bên kia, cả ba người đều được đưa tới trước tòa án của Diêm vương để định công luận tội. Tất cả mọi người một khi đã đến đây đều phải khai rõ sự thật ôm ấp trong lòng. Theo lời khai của người chồng cũ thì chàng không thể nào xa lìa vợ cũ. Chàng sở dĩ chết ở làng là chỉ mong luôn luôn được gần gũi nàng. Người chồng mới cũng khai rằng chàng có cảm tình rất sâu xa đối với người vợ mới mặc dầu mới chính thức lấy nhau chỉ có ba tháng. Khi Diêm vương hỏi tình của chàng đối với người vợ cũ như thế nào thì chàng giơ ngón tay so sánh rằng một bên mười, một bên chưa được một. Đến lượt người đàn bà thì nàng thú thật rằng cái tình của nàng đối với chồng cũ choán một chỗ rộng rãi trong lòng mình, đồng thời đối với người chồng mới, nàng cũng không thể nào quên được tình cảm nồng nhiệt của chàng. Diêm vương ngồi nghe rất cảm động. Những người như thế này cũng thật hiếm có. Cần phải làm cho bộ ba ấy sống gần nhau mãi mãi. Sau một hồi lâu suy nghĩ, Diêm vương cho ba người hóa thành ba ông đầu rau để cho họ khỏi lìa nhau và để cho ngọn lửa luôn luôn đốt nóng tình yêu của họ. Đồng thời vua còn phong cho họ chức Táo quân trông nom từng bếp một, nghĩa là từng gia đình một trên trần thế.
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/su-tich-ong-cong-ong-tao" }
Thạch Sanh - Lý Thông
Ngày xưa, có hai vợ chồng ông lão nhà nghèo kiếm ăn bằng nghề đốn củi. Tuy tuổi đã 60 mà ông lão vẫn chưa có con nối dõi. Mặc dù đã nghèo khổ, hai vợ chồng ông lão ngày ngày vẫn hay giúp đỡ mọi người chẳng hề quản ngại vất vả nên được nhân dân xa gần đều ngợi khen. Cảm thấu tấm lòng nhân đức của hai vợ chồng ông lão, Ngọc Hoàng bèn sai thái tử xuống đầu thai làm con. Sau ba năm chín tháng, khi bà vợ sinh được một đứa con trai thì ông chồng đã qua đời. Đứa bé sinh ra trông khôi ngô tuấn tú, vừa lọt lòng mẹ đã biết đứng biết ngồi, bà liền đặt tên cho con là Thạch Sanh và tháng ngày gắng gượng rau cháo nuôi con. Năm Thạch Sanh lên bảy thì bà cũng qua đời. Thạch Sanh sống lủi thủi một mình bên một gốc cây đa, với cả gia tài chỉ có một chiếc rìu và lại tiếp tục nghề của cha mẹ hàng ngày vào rừng đốn củi để nuôi thân. Năm mười ba tuổi, Sanh được Ngọc Hoàng phải một ông tiên vào loại giỏi nhất trên thiên đình xuống dạy cho các môn võ nghệ và đủ mọi phép thần thông. Một hôm, có gã hàng rượu tên là Lý Thông đi qua ngồi nghỉ mát ở gốc đa. Thấy Sanh là người có sức vóc khác thường, đoán là người được việc, Thông bèn lân la gạ chuyện rồi ngỏ ý muốn kết nghĩa anh em. Vốn lòng ngay dạ thẳng, Sanh vui vẻ nhận lời và về ở với Lý Thông. Từ đó, được Thạch Sanh ra sức đỡ đần, mẹ con Lý Thông làm ăn buôn bán ngày càng giàu có. Thấm thoắt đã bảy năm qua. Hồi ấy, ở trong vùng có một con Xà tinh, vốn là loài rắn đã thành tinh, chuyên phá phách, nhũng nhiễu nhân dân và bắt người ăn thịt. Quan quân triều đình nhiều lần kéo đến vây bắt nhưng không trừ nổi. Nhà vua dành bắt dân chúng lập miếu thờ và mỗi năm đem cúng cho nó một mạng người. Năm ấy không may đến lượt Lý Thông phải nộp mạng. Nghe tin dữ, mẹ con hắn vô cùng hoảng hốt lo sợ, nhưng sau bàn mưu tính kế nghĩ ra một kế hiểm độc. Hôm đó, chờ lúc Thạch Sanh đi kiếm củi về, hắn giả mượn cớ giỗ cha, bày ra một mâm rượu thịt e hề, rồi cả hai mẹ con mời mọc chàng ân cần. Sau đó, hắn nói với Thạch Sanh: “Đêm nay đến phiên anh phải đi canh miếu thờ để kiểm tra lại đĩa vàng chén ngọc theo lệnh nhà vua, ngặt vì dở cất mẻ rượu, vậy em chịu khó đi thay cho anh một đêm, đến sáng lại về”. Thạch Sanh không nghi ngờ gì cả, thuận đi ngay. Sẩm tối hôm ấy, sau khi vượt qua mấy dặm rừng hoang tới miếu thờ, Thạch Sanh giở cơm nắm ra toan ăn thì Xà tinh hiện ra hình thù kì dị, nhe nanh giơ vuốt định vồ lấy chàng. Thạch Sanh liền vung rìu đánh nhau với yêu quái. Xà tinh giở ra nhiều phép biến hóa yêu ma, nhưng đều bị Thạch Sanh phá hết. Sau chàng dùng phép thần, tung lưới sắt bủa vây, lập tức con yêu quái phải hiện nguyên hình là một con trăn cực lớn, Thạch Sanh vung thần đao, chém chết, rồi cắt lấy đầu và đốt xác yêu quái. Xác Xà tinh vừa cháy xong bỗng biến ra một bộ cung tên bằng vàng. Sanh mừng rỡ nhặt lấy cung tên và xách đầu yêu quái chạy thẳng một hơi về nhà. Lý Thông vốn là đứa hiểm sâu thấy vậy dọa Thạch Sanh rằng Xà tinh là của vua nuôi để làm của báu nước nhà, giết nó đi thì bị tội chém đầu chẳng chơi, và khuyên Sanh nên trốn ngay đi kẻo vạ lây cả nhà, còn có chuyện gì thì mặc hắn lo liệu. Tưởng thật, Sanh vội vã đi ngay và trở về sống ở gốc đa, mặc cho năm tháng trôi qua, nghĩ mình phận hẩm mong gì gặp may. Còn Lý Thông thì vội vào kinh tâu vua là hắn đã chém được đầu yêu quái. Vua kinh ngạc, sai quân đi khiêng đầu yêu quái về, bấy giờ mới tin là thực và hết lời ngợi khen, phong cho Lý Thông làm quan đô đốc trong triều và cho hưởng lộc nước rất hậu. Cũng trong thời gian này, nhà vua làm lễ kén chồng rất long trọng cho công chúa Quỳnh Nga, con gái độc nhất của vua. Lễ kén chồng kéo dài nhiều đợt, nhưng nàng vẫn không ưng ý một người nào. Kể cả thế tử các nước chư hầu cũng không ai làm đẹp lòng nàng cả. Một hôm, công chúa dạo chơi trong vườn hoa, chẳng may bị một con Đại bàng bay ở trên cao xuống quắp bay đi. Lúc ấy, Thạch Sanh đang thẩn thơ bên gốc cây đa, thấy Đại bàng quắp một người bay qua, bèn giương cung bắn một phát trúng ngay vào cánh. Chim rơi xuống, nhưng nó vội rút ngay tên ra và lại quắp lấy người, tiếp tục bay đi. Thạch Sanh lần theo dấu máu tìm đến một hang núi thì không thấy tăm hơi Đại bàng đâu nữa. Mất con gái quý, nhà vua xiết bao đau đớn, các quan cử ba đội quân ra sức tìm kiếm cũng không có kết quả. Nghe lời tâu của quần thần, vua bèn sai đô đốc Lý Thông trước kia có tài chém yêu tinh, đi tìm công chúa, hứa sẽ gả nàng và nhường ngôi báu cho. Thông lo lắng mãi mới tìm ra được một kế là mở hội hát ở kinh đô trong mười ngày cho người dân các nơi về xem để do la tin tức Thạch Sanh. Mãi đến ngày thứ mười hắn mới gặp được Thạch Sanh bước vào rạp xem hát. Thông lại giả nhân giả nghĩa tay bắt mặt mừng đón tiếp người em “kết nghĩa” cũ rất trịnh trọng. Nhân đó, hắn cho Sanh biết việc vua sai hắn đi tìm công chúa bị loài yêu quái bắt. Sanh thật thà cho Lý Thông biết ngay tung tích của yêu quái chính là Mãnh xà vương ở hang núi, cũng chính là loài rắn đã thành tinh chuyên hóa làm chim đại bàng đi bắt người. Thế là Thông lại dùng lời đường mật, nhờ Sanh dẫn đi tìm công chúa. Thạch Sanh nhận lời. Đến chỗ của Đại bàng, Sanh dùng dây làm thang xuống hang sâu và dặn Thông hễ thấy đầu dây động đậy thì kéo lên. Vừa xuống tới hang, đang lúng túng chưa biết cần đi về hướng nào, Sanh bỗng gặp ngay công chúa Quỳnh Nga cũng vừa đi ra. Cảm kích ơn nghĩa Thạch Sanh không quản hiểm nguy đã đến cứu mình, công chúa liền ngỏ ý xin kết nghĩa trăm năm. Sanh từ chối, cho nàng biết đây là việc của triều đình mà chàng lại muốn giữ trọn tình nghĩa anh em với Lý Thông. Nhưng công chúa vẫn quyết một lòng và nàng coi như đã “kết duyên” lành với chàng từ đấy. Từ hôm bị trúng tên, Đại bàng bị thương nằm li bì một chỗ. Sanh đưa thuốc mê bảo công chúa dỗ Đại bàng uống, xong đem nàng buộc vào dây cho quân kéo lên. Lập tức Lý Thông sai quan quân đưa ngay công chúa về triều để hắn ở lại đánh yêu quái. Kì thực quân vừa đi khỏi, hắn vội vã ra sức lăn đá lấp kín cửa hang để hại Thạch Sanh. Còn Quỳnh Nga công chúa lúc ấy mỏi mắt trông vời về phía sau không thấy chàng đâu cả, nàng bỗng bàng hoàng uất ức, mắc bệnh câm ngay từ bữa đó. *** Lại nói về phần Thạch Sanh, sau khi cứu công chúa ra khỏi hang thì bị Lý Thông khuân đá lấp kín cửa hang không cho chàng ra nữa. Chàng tức giận giương cung bắn phá lâu đài của Xà vương. Giữa lúc đó, con yêu quái chợt tỉnh cơn mê. Thấy có người lạ đột nhập đang phá phách nhà cửa và cướp mất vợ hắn, hắn bừng bừng nổi giận xông vào đánh nhau kịch liệt với Thạch Sanh. Hai bên giao chiến với nhau đến vài trăm hiệp mà vẫn không phân thắng bại. Xà vương trổ hết mọi phép yêu ma ghê gớm ra nhưng đều bị Thạch Sanh dùng phép thần thông phá hết. Cuối cùng hết phép, Đại bàng biến thành con chim nhỏ như con chim khách, toan trốn đi, nhưng Thạch Sanh đã kịp thời hóa phép phủ vây lưới sắt và giương cung bắn chết. Sau đó, Sanh vung thần đao phá tan cung điện đồ sộ nguy nga của Mãnh xà vương, nhân đó cứu được cả con vua Thủy tề bị Đại bàng bắt nhốt trong cũi sắt đã một năm ròng. Thái tử cảm tạ ơn sâu của Thạch Sanh và mời chàng xuống thủy cung chơi. Thạch Sanh được vua Thủy tề tiếp đãi rất trọng thể, ban cho trăm lạng vàng bạc để cảm ơn, nhưng Thạch Sanh từ tạ không nhận. Thủy vương lại khẩn khoản mời chàng ở lại hẳn dưới thủy cung nhưng chàng cũng nhất định từ chối. Thủy vương đành giữ chàng ở lại chơi vài ngày. Thái tử dẫn chàng đi xem khắp năm cung trong ngoài. Hai người mải mê dạo chơi, bất ngờ lạc bước dưới thành trì của một loài yêu quái. Nó vốn là con Hồ tinh chín mắt rất lợi hại và ngạo ngược chưa ai trị nổi. Nó hóa thành một cô gái xinh đẹp đứng đón đường ngỏ lời trêu ghẹo hai chàng. Thạch Sanh liền vạch chân tướng nó là loài yêu quái, nó bèn hiện hình thành Hồ tinh chín mắt, xông vào toan vồ bắt cả hai chàng. Thạch Sanh vung đao thần, rồi giương cung, bổ búa, đấu quyền với nó suốt một ngày ròng nó vẫn không nao núng. Sau chàng dùng phép thần giao tranh với nó, nó mới chịu thua và phải hiện nguyên hình là con hồ li (tức con cáo). Thạch Sanh rộng lượng tha cho nó được sống để tu tỉnh. Ban thưởng công lao, vua Thủy tề liền phong cho chàng làm quốc trạng. Chàng xin trở về dương thế. Để đền ơn Thạch Sanh, Thủy vương nghe lời thái tử biếu chàng chiếc đàn thần của Ngọc Hoàng thượng đế đã ban cho vua hồi trước. Sau đó, thái tử đưa tiễn chàng về. Thạch Sanh lại trở về sống bên gốc đa như cũ. Công chúa Quỳnh Nga từ lúc thoát nạn yêu quái lại bị bệnh câm. Vua cha vô cùng thương xót, buồn bã, đành ra lệnh hoãn việc hôn nhân của nàng với Lý Thông để chữa cho nàng khỏi bệnh đã. Vua thì lo lắng thuốc thang và khấn vái Trời Phật; Lý Thông thì lập đàn mời pháp sư, phù thủy cúng lễ linh đình, hàng tháng ròng mà Quỳnh Nga vẫn “chẳng nói chẳng rằng, miệng hoa âm ỉ chẳng hằng nói chi”. Còn nói về Trăn tinh và Mãnh xà vương sau khi chết, hồn chúng không ai cúng lễ, đành sống bơ vơ, chui rúc bụi hồ, rồi chuyên đi ăn trộm, bắt gà, bắt chó quấy nhiễu, tàn hại người dân để kiếm ăn. Một đêm, chúng tình cờ gặp nhau và kể lể cho nhau nghe về số phận của mình, rồi bàn kế báo thù Thạch Sanh. Chúng lẻn vào kho nhà vua ăn trộm vàng bạc rồi giả tảng trỏe đi trở lại để bọn lính canh dõi theo chân chúng tới gốc đa. Chúng quẳng đồ ăn trộm vào chỗ Thạch Sanh đang nằm ngủ để đổ vạ cho chàng. Quả nhiên, Thạch Sanh bị bắt, giải về trình Lý Thông. Thông rất kinh ngạc, sai quân đem tống giam Thạch Sanh. Hắn ra lệnh phải căn phòng nghiêm mật và rắp tâm đợi ba ngày sau sẽ tự ý thừa mệnh lệnh triều đình, đem xử tử luôn chàng đi cho kín chuyện cũ. Ngồi trong ngục, Thạch Sanh buồn tình đem đàn ra gảy… Không ngờ tiếng đàn thần bỗng nỉ non, thánh thót như oán, như than, vạch tội Lý Thông ăn ở bất nhân phụ nghĩa và trách nàng công chúa không giữ lời ước hẹn. “Đàn kêu tích tịch tình tang Ai mang công chúa dưới hang trở về…” Tiếng đàn văng vằng bay thấu vào tới cung vua, Quỳnh Nga đang ngồi ủ rũ mày hoa, thoắt nghe thấy tiếng đàn ai oán như khóc, như than bỗng khỏi câm liền. Nàng thốt lên nụ cười nói tâu với vua cha xin cho đòi người gảy đàn vào cung để nàng gặp mặt. Nàng tỏ bày luôn sự tình được kể lể trong tiếng đàn ai oán cho nhà vua biết. Nhờ đó Thạch Sanh được giải oan. Nhà vua bèn mở yến tiệc đãi chàng, phong cho chàng hai chức quận công do hai lần có công trạng lớn và cho kết duyên với công chúa Quỳnh Nga. Còn về phần Lý Thông, vua giao cho Thạch Sanh tùy ý xử tội. Sanh xin vua tha tội chết cho hắn và cho hắn trở về quê quán làm ăn. Nhưng hai mẹ con hắn về đến giữa đường thì bị Ngọc Hoàng sai Thần Sét đánh chết đúng như lời hắn đã thề nguyền khi kết nghĩa anh em với Thạch Sanh xưa kia. Do tội bạo ngược, ăn ở hai lòng của hắn, Ngọc Hoàng lại bắt Lý Thông hóa làm kiếp bọ hung, đời đời sống trong nhơ bẩn. Được tin công chúa Quỳnh Nga kết duyên với Thạch Sanh là một anh chàng khố rách nghèo hèn, thế tử các nước chư hầu trước kia từng bị công chúa cự tuyệt bèn nổi giận, rủ nhau hợp binh kéo đến báo thù. Khí thế quân mười tám nước chư hầu vô cùng mạnh mẽ, đi tới đâu làm cho núi lở, sông cạn tới đó, phá tan hoang luôn năm cửa ải. Quân triều đình đi tiếp ứng tới đâu bị đánh tan tác tới đấy. Nhà vua vô cùng hoảng sợ bèn vời Thạch Sanh vào và nhờ chàng đem binh đi đánh giặc. Thạch Sanh tâu với nhà vua cứ để cho quân địch kéo đến bao vây kinh thành, chàng sẽ ra tay. Chờ cho giặc bổ vây bốn mặt thành trùng trùng điệp điệp và không ngớt lời reo hò khiêu khích, Thạch Sanh mới đem đàn thần ra gảy. Đàn bỗng kêu lên “tích tịch tình tang”, vạch ra điều hơn lẽ thiệt, phải trái phân minh cho hàng vạn quân địch nghe. “Đàn kêu nhân nghĩa thủy chung Thánh tha thánh thót muôn lòng xôn xao…” Tiếng đàn khi cứng rắn đanh thép, lúc lại mềm rẻo khuyên lơn khiến cho quân tướng mưới tám nước dần dần phải thoái chí, quy hàng một loạt. Chúng xin cấp lương ăn để về nước. Thạch Sanh ra lệnh cấp cho chúng mười tám hộc lương. Chúng chê ít, Thạch Sanh sai đem chiếc niêu của chàng ra thổi cơm cho chúng ăn. Quân mười tám nước trông thấy niêu cơm đều hết thảy ngao ngán. Thạch Sanh đố chúng ăn hết sẽ trọng thưởng. Hàng vạn quân lính ào ào ăn mãi mà niêu cơm cứ vơi rồi lại đầy, ăn không sao hết được. Thế là một lần nữa chúng lại nhất loạt phải quy phục chàng. Sau khi chiến thắng quân mười tám nước chư hầu, Thạch Sanh được nhà vua làm lễ nhường ngôi cho chàng, để chàng đem tài ra trị vì đất nước. Quỳnh Nga công chúa cũng được nhà vua ban chiếu phong cho làm hoàng hậu. Hai năm sau, hoàng hậu Quỳnh Nga sinh được một trai, một gái, thế là đất nước thịnh trị, gia đình hòa vui…
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/thach-sanh-ly-thong" }
Viên ngọc ước của quạ
Ngày xưa, có một anh chàng trẻ tuổi tên là Đê. Nhà anh nghèo khó, cha mẹ phải cho đi ở tại một nhà lão trọc phú. Trọc phú bắt anh chăn trâu. Nhưng anh có thói ham chơi bời, khi đã lao vào cuộc đánh khăng, đánh đáo hay bày trận, thả diều thì chẳng còn biết gì trời đất. Vì thế đã nhiều phen anh để cho trâu ăn lúa, ăn khoai và cũng nhiều phen, anh bị chủ nọc đánh dữ dội. Một hôm, Đê cùng các chúng bạn bày cuộc thi bơi lội. Đàn trâu thả trên đồi vắng. Cuộc tranh lèo giật giải đã đến độ làm cho Đê không dứt ra được. Hết lặn đến hụp, bơi sấp đến bơi ngửa, cuộc vui kéo dài mãi đến gần trưa. Bỗng nhiên khi nhìn lên đàn trâu thì thấy mất hút một con. Con trâu ấy lại là con của Đê chăn. Bọn trẻ hoảng hốt chia nhau đi tìm hết bụi bờ này đến lùm đồi kia, chẳng thấy tăm hơi đâu cả. - Thôi rồi, trâu thằng Đê bị kẻ trộm dắt đi rồi ! Bọn trẻ la lên như vậy rồi đứa nào đứa nấy dong trâu của mình về nhà. Chỉ một mình Đê ở lại vật vã kêu trời khóc đất. Khóc một hồi lâu rồi ngủ quên. Đang ngủ, thốt nhiên anh tỉnh dậy vì có cái gì chạm vào mặt. Anh hé mắt nhìn thấy một đàn quạ đang xúm quanh. Thì ra chúng tưởng có xác chết nên kéo đến định làm bữa chén. Một con sà vào toan mổ mắt. Thấy thế, Đê lập kế thình lình vùng dậy chụp được chân một con quạ, còn những con khác thì bay tán loạn. - Hừ, ta sẽ cho mày hay. Dám đến mổ vào mắt ta ư! Nghe nói thế, quạ hết lời van vỉ: - Xin ngài tha cho tôi, tôi sẽ biếu ngài một vật quý. - Vật gì, đưa đây xem! Quạ vội nhả từ trong miệng ra một viên ngọc nhỏ nhưng sáng lấp lánh, đưa cho anh và nói: - Đây là viên ngọc nhỏ nhưng quý nhất thế gian. Ngài muốn cầu xin việc gì sẽ có ngay vật đó! Đê nghĩ: - Vậy sẵn ta đang mất con trâu, thử cầu xem có hiệu nghiệm chăng. Bèn nói to: - Ngọc! Ngọc! Ta muốn được một con trâu thay cho con vừa mới mất! Bỗng chốc từ dưới chân đồi lững thững đi lên một con trâu. Vừa ngạc nhiên vừa mừng rỡ, anh vội trả tự do cho quạ rồi cưỡi trâu về. Từ đó Đê trở lên sung sướng, giàu có. Anh trả trâu cho trọc phú rồi trở về nhà ở với cha mẹ. Nhưng anh chỉ mới dám cầu những cái lặt vặt. Một hôm anh lấy ngọc đặt trong lòng bàn tay mình rồi nói: - Ngọc! Ngọc! Ta muốn có một tòa lâu đài lộng lẫy và giàu có. Tự nhiên sáng hôm sau ngủ dậy, anh không thấy mái nhà tranh lụp xụp của bố mẹ nữa, thay vào đó là một ngôi lầu cao ngất, mái ngói tường hoa, cột kèo trạm trổ tinh vi. Đặc biệt là trong nhà mọi thứ bày biện rất sang, kẻ hầu người hạ nhộn nhịp, ngoài vườn cây cối um tùm, trước sân hoa thơm cỏ lạ không thiếu thứ gì. Đê chưa bao giờ thỏa thích đến thế. Chẳng bao lâu Đê lại lấy ngọc ra cầu: - Ngọc! Ngọc! Ta muốn có một người vợ đẹp. Lời ước vừa dứt thì anh đã thấy có một người từ ngoài cửa bước vào. Đó là một mụ mối tìm đến đánh tiếng cô con gái một vị trưởng giả trong vùng. Sau khi cùng mụ đi coi mắt, anh thấy cô gái đúng là một giai nhân mày ngài mắt phượng, xem chừng thiên hạ khó có ai hơn. Mụ mối còn nói: - Trưởng giả đang lác mắt về sự giàu có của anh. Nếu anh muốn, tôi sẽ lo liệu chu toàn và nhanh chóng. Đê hết sức mừng rỡ, bèn giao cho mụ mối và người hầu thay mình định liệu mọi việc. Quả như lời mụ nói, không đầy một tuần, cô gái tuyệt sắc nọ đã trở thành vợ anh. Nhưng anh đâu có ngờ vợ mình lại là một người xấu bụng. Lấy chồng, nàng chỉ muốn giúp bố nàng khám phá cho ra cái bí quyết làm giàu nhanh chóng của chồng. Vì vậy, sau khi về làm vợ Đê, nàng thường tỷ tê dò hỏi mọi việc. Nhưng Đê không muốn để ai biết được điều bí mật của mình. Anh chỉ đáp giả lả cho qua trước những câu hỏi tò mò của vợ. Viên ngọc quý anh luôn luôn cất vào một nơi kín đáo. Tuy vậy vợ anh vẫn cố công dò la tìm hiểu không nản. Một hôm vợ mua rượu phục cho chồng uống bí tỉ. Trong cơn say, anh quên hết mọi việc, có gì bí mật đều phun cho vợ biết cả. Nhè lúc Đê nằm mê man, người vợ bèn lấy trộm viên ngọc, rồi lẻn về nhà trưởng giả. Khi Đê tỉnh dậy, chàng thấy vắng bóng vợ. Đi tìm ngọc cũng không thấy đâu. Biết vợ mình đã lấy trộm mất viên ngọc quý, chàng đành sang nhà trưởng giả mong lấy nghĩa lý làm cho vợ hồi tâm. Nhưng không những vợ anh không chịu nhận việc lấy viên ngọc, mà anh còn bị ông bà trưởng giả xua đuổi thậm tệ. Vừa mất ngọc vừa mất vợ. Đê buồn quá đỗi, thất thểu ra về. Qua một ngôi đền, anh ghé vào nghỉ chân, rồi khi nghĩ đến ngọc, anh khóc tức tưởi. Bỗng có một vị thần râu dài tóc bạc hiện ra trước mặt hỏi: - Làm sao con lại khóc? Đê kể lại tình đầu, không giấu giếm một tý gì. Vị thần bảo: - Con đừng buồn! Ta sẽ bày cho con một cách lấy lại vật quý. Nói rồi vị thần bước tới chỗ bình hoa trên hương án, bẻ một bông hoa trắng và một bông hoa đỏ, và nói: - Con hãy mang bông hoa trắng này gài vào cửa nhà nó. Nhất định nó sẽ gặp chuyện không hay. Lúc đó con sẽ dùng bông hoa đỏ để lấy lại viên ngọc. Nói xong vị thần biến mất. Theo đúng lời thần dặn, Đê bèn đem bông hoa trắng lén đến gài ở cửa sổ nhà trưởng giả, chỗ buồng của vợ rồi ra về. Lại nói chuyện vợ Đê bấy giờ đang ngồi mân mê viên ngọc quý, chợt ngửi thấy mùi thơm ngạt ngào tỏa khắp gian phòng. Theo mùi tìm kiếm, chẳng mấy chốc nàng đã thấy bông hoa gài ở cửa. - Quái, làm sao lại có thứ hoa thơm kỳ lạ thế này. Vừa nói nàng vừa cầm hoa lạ đặt vào mũi hít lấy hít để. Vợ chồng trưởng giả thấy mùi thơm cũng chạy vào cầm lấy bông hoa xem và cũng đưa lên mũi thưởng thức mùi thơm. Nhưng chẳng mấy chốc, họ cảm thấy đầu mũi ngứa ngáy, họ bèn ra sức gãi, nhưng càng gãi mũi càng sưng, và dần dần mọc dài ra. Họ cùng la lên: - Ôi! Cái hoa này có ma. Mũi tôi làm sao lại thế này. Ba người nhìn nhau vô cùng hoảng sợ, vì thấy mũi của người nào người ấy không ngừng nhô thêm mãi. Trước chúng còn dòm mồm, sau đã dài quá cằm. Nhưng chúng vẫn chưa chịu dừng. Mũi vẫn thòng xuống quá ngực rồi quá bụng, và còn dài xuống nữa, xuống nữa, gần chấm đất mới chịu thôi. - Ôi! Xấu hổ quá, trông như cái vòi voi! Vợ Đê nước mắt đầm đìa nghĩ đến nhan sắc có một không hai của mình trước đây. Cả mẹ lẫn con vội trốn vào buồng tránh mặt kẻ hầu người hạ. Chỉ có trưởng giả lấy khăn che mặt, hối hả bảo người nhà đi mời thầy thuốc. Nhưng khi nhìn thấy bệnh lạ, thầy thuốc nào cũng lắc đầu: - Cái mũi này của cụ chỉ còn có nước cắt, nhưng cắt chưa chắc đã lành, nó chỉ làm xấu thêm và nguy hiểm nữa là khác. Hai ngày sau, Đê mới chạy sang nhà bố mẹ vợ, trong bọc có thủ sẵn bông hoa đỏ. Khi thấy cái mũi dài của trưởng giả, Đê không nhịn được cười, hiểu rằng đó là do sự mầu nhiệm của bông hoa thần. Trước câu hỏi của Đê, trưởng giả kể lại đầu đuôi. Đê đáp lời: - Cái đó không có gì lạ. Nó do việc lấy trộm ngọc của vợ tôi mà ra. Nếu trả lại viên ngọc ấy cho tôi, tôi sẽ có phép làm cho mũi ngắn lại và lành lặn như cũ. Hai ông bà vừa khóc, vừa bảo Đê rằng: Của là gạch, nghĩa là vàng, Của chàng, lại trả cho chàng lo chi. Chàng mà chữa được khỏi đi Vợ thì chàng lấy, ngọc thì chàng mang. Rồi gọi con đem ngọc ra trả. Sau khi đã nhận đúng viện ngọc của mình, Đê bèn đưa bông hoa đỏ ra cho họ ngửi, chỉ trong chốc lát, cái vòi dần dần co lại, co lại cho đến khi mũi trở lại nguyên hình như xưa. Đê đưa vợ về, hai vợ chồng từ đó sống với nhau hòa thuận, vui vẻ. Mỗi lần làng xóm có việc gì khó khăn, họ lại cầu xin với Đê để nhờ viên ngọc giúp đỡ. Về sau, lúc Đê đã già yếu, một hôm đang nằm trên giường bệnh, bỗng thấy con quạ năm xưa đến đậu ở cửa sổ nói với vào: - Trả ta viên ngọc! Trả ta viên ngọc! Nghe nói, Đê liền thò tay xuống dưới gối lấy viên ngọc giơ ra cho quạ, nhưng chưa kịp trao thì quạ đã nhảy vào chộp lấy ngọc trên tay rồi bay đi mất.
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/vien-ngoc-uoc-cua-qua" }
Cây táo thần
Ngày xửa, ngày xưa đã lâu lắm rồi, có một cây táo thần mọc ở ngoại ô thành phố. Hàng ngày bọn trẻ thường đến chơi ở đó, nô đùa xung quanh cây táo và bứt những quả táo ngon trên cành để chia nhau ăn. Một hôm có một cậu bé không biết từ đâu đến, cậu bé cau mày nói với bọn trẻ: - Này chúng mày, vườn này là của tao, tao đã mua từ trước. Cây táo này là của tao, chúng mày đi chỗ khác chơi, cấm không được đến đây nữa. Nghe vậy, bọn trẻ rất buồn, tất cả cúi đầu lặng lẽ ra về, chỉ còn cậu bé hống hách ở lại. Cây táo biết tất cả mọi chuyện, bằng phép lạ nó làm cho cậu bé ngủ thiếp đi dưới gốc cây và cũng bằng phép lạ nó làm cho cậu bé nằm mơ. Cậu bé mơ thấy trên thân cây táo có một cái hốc rất lớn. Cậu cảm thấy bụng đói cồn cào. Cậu bé trèo lên cây và định bứt táo để ăn. Nhưng mỗi khi tay cậu bé chạm vào một quả táo thì cành táo laị quay đi chỗ khác và quả táo lại rơi vào cái hốc to tướng ở thân cây. Cứ như vậy cho đến khi tất cả trên cành rơi vào hết cái hốc, chỉ còn trơ lại một quả trên cành. Cậu bé ngồi dưới gốc cây và khóc. Đến lúc đó cây táo mới cất tiếng hỏi: - Tại sao cháu khóc? Cậu bé mếu máo trả lời: - Ông ích kỉ quá. Ông ăn hết cả táo, ông không cho cháu một quả nào. Cháu đói lắm rồi ông ạ. Cây táo cười và nói: - Cháu có nhớ là cháu đã đuổi hết tất cả các bạn không? Các bạn cũng muốn ăn táo của ông nhưng cháu không cho các bạn một quả nào, như vậy cháu có ích kỉ không? Cậu bé nhớ lại lúc các bạn buồn rầu ra về, cậu bé thấy ân hận vô cùng, cậu bé ngước nhìn cây táo và nói: - Vâng cháu biết lỗi rồi! Cây táo cất tiếng cười vang, rung cả cây, làm cho quả táo còn lại cũng rơi trúng đầu cậu bé, cậu bé giật mình tỉnh giấc. Cậu bé ngơ ngác nhìn xung quanh, cậu bé thấy mình đang nằm dưới gốc cây. Cái hố to tướng trên cây táo biến mất. Cây táo vẫn đứng yên lặng và trên cây vẫn sai trĩu quả. Cậu bé chồm dậy, nhớ đến giấc mơ, cậu vội chạy đi gọi các bạn: - Này các bạn ơi! Quay lại đây chơi đi. Mình xin lỗi các bạn vì đã đuổi các bạn đi. Thế là tất cả cùng nhau chạy ra vườn. Cậu tự mình trèo lên bứt những quả chín ném xuống cho các bạn. Các bạn lại cười đùa vui vẻ. Cậu bé chợt hiểu rằng điều hạnh phúc nhất trên trái đất này là cùng chia sẻ niềm vui với mọi người...
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/cay-tao-than" }
Truyện cổ tích quả bầu tiên
Ngày xửa, ngày xưa có một chú bé con nhà nghèo, nhưng vô cùng tốt bụng. Chú luôn luôn sẵn lòng giúp đỡ, chăm sóc mọi người, mọi vật xung quanh mình. Vì thế cứ mỗi độ xuân về, chim chóc lại ríu rít kéo nhau tới làm tổ, hót vang quanh nhà chú bé. Một hôm có một con Cáo ở đâu mà tới bắt chim Én ở đầu nhà chú bé. Con Én non nớt bị rơi xuống đất gãy cánh. Chú bé vội lao ra cứu con chim. Chú ôm ấp vỗ về con Én nhỏ, làm cho nó một cái tổ khác và chăm cho con Én ăn. Nhờ sự chăm sóc tận tình của chú bé, con Én đã khỏi đâu. Mùa thu đến khi nhìn lên trời thấy từng đàn Én hối hả bay đi trành rét ở phương Nam, con Én nhỏ phân vân nửa muốn bay theo đàn, nửa lại lưu luyến không nỡ rời chú bé. Hiểu được lòng Én, chú bé âu yếm bảo: – Én cứ bay theo đàn đi kẻo mùa đông lạnh lắm. Đến mùa xuân ấm áp thì Én lại trở về với anh. Nói xong chú bé tung con Én nhỏ lên trời. Con Én đang chấp chới bay lên nền trời xanh biếc của mùa thu. Nó nhập vào một đàn Én lớn đang trên đường di cư về những xứ sở ấm áp ở phương Nam. Con Én nhỏ mau chóng tìm được niềm vui giữa bạn bè, nhưng nó không thể nào quên chú bé. Mùa xuân tươi đẹp đã tới. Con Én nhỏ tìm về ngôi nhà đơn sơ nhưng đầm ấm tình thương của chú bé. Nó kêu lên thành tiếng mừng vui khi thấy chú bé đang ngồi đan sọt giữa sân. Đôi cánh Én chao liệng sà xuống và Én thả trước mặt chú bé một hạt bầu. Chú bé vùi hạt bầu xuống đất. Chẳng bao lâu hạt bầu đã nảy mầm thành cây. Cây bầu lớn nhanh như thổi, ra hoa, kết quả. Nhưng lạ chưa, quả bầu to khổng lồ, cả nhà chú bé mới khiêng về được một quả, khi bổ ra… Ôi! Thật kì diệu! Trong quả bầu đầy vàng bạc, châu báu và thức ăn ngon! Tên địa chủ trong vùng nghe được chuyện ấy. Hắn cũng muốn được chim Én cho nhiều quả bầu tiên. Hắn bèn tìm cách bắt một con chim Én con rồi bẻ gãy cánh. Sau đó hắn giả vờ thương xót con Én rồi đem về nuôi. Đến mùa thu, khi nhìn lên trời thấy đàn Én đầu tiên xuất hiện, hắn vội vàng ném con Én lên trời và bảo: – Bay đi Én con! Mau đi kiếm hạt bầu tiên về đây cho ta! Con Én khốn khổ bay đi. Mùa xuân năm sau nó cũng trở về và đem theo một hạt bầu. Tên địa chủ hí hửng đem gieo và ngày đêm canh giữ. Khi quả bầu đã già, hắn bảo mọi người khiêng về rồi đuổi tất cả ra. Hắn đóng cửa lại rồi một mình hắn bổ quả bầu tiên. Quả bầu vừa được bổ ra, vàng bạc chẳng có, chỉ có rắn rết. Rắn rết từ trong quả bầu xông ra cắn chết tên địa chủ tham lam độc ác.
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/truyen-co-tich-qua-bau-tien" }

Dataset Card for "truyencotich_vi"

More Information needed

Downloads last month
1
Edit dataset card