topic
stringclasses
149 values
context
stringlengths
84
21k
Evidence
stringlengths
51
1.33k
The Beatles
Thoát khỏi những mối bận tâm từ việc đi tour, The Beatles liền tập trung hơn vào các thử nghiệm khi bắt đầu thu âm Sgt. Pepper's Lonely Hearts Club Band vào cuối tháng 11 năm 1966. Theo kỹ thuật viên Geoff Emerick, thời gian hoàn thiện album tổng cộng là hơn 700 giờ. Ông nhớ lại mối quan tâm của ban nhạc "rằng mọi thứ trong Sgt. Pepper cần phải khác biệt. Chúng tôi có micro ngay bên dưới miệng những chiếc kèn và tai nghe đưa những âm thanh trực tiếp từ những chiếc micro của violin. Chúng tôi ưu tiên sử dụng nhiều máy làm dao động để thay đổi tốc độ chơi của từng nhạc cụ cũng như giọng hát, và chúng tôi có những băng thâu được cắt rời rồi lại được đính lại với nhau theo cách trái với thông thường hoặc bất kỳ cách nào khác thường nhất." Ví dụ điển hình là tuyệt tác "A Day in the Life" được thực hiện với dàn nhạc 40 người. Quá trình thu âm được quảng bá với đĩa đơn gồm 2 ca khúc không nằm trong album "Strawberry Fields Forever"/"Penny Lane" vào tháng 2 năm 1967. Sgt. Pepper được phát hành vào tháng 6 cùng năm.
Thoát khỏi những mối bận tâm từ việc đi tour, The Beatles liền tập trung hơn vào các thử nghiệm khi bắt đầu thu âm Sgt. Theo kỹ thuật viên Geoff Emerick, thời gian hoàn thiện album tổng cộng là hơn 700 giờ.
The Beatles
Sự phức tạp về âm nhạc, được thực hiện bởi kỹ thuật thu âm 4-băng, đã làm hầu hết nghệ sĩ đương thời sửng sốt. Thủ lĩnh Brian Wilson của The Beach Boys, vốn đang trong thời kỳ giữa những vấn đề cá nhân và trục trặc trong dự án tham vọng Smile, đã hoàn toàn choáng váng khi nghe "Strawberry Fields" và quyết định từ bỏ mọi ý tưởng ban đầu để cạnh tranh với những người bạn thân thiết của mình. Về chuyên môn, nhìn chung album được đánh giá cao một cách rộng rãi. Gould viết:
Sự phức tạp về âm nhạc, được thực hiện bởi kỹ thuật thu âm 4-băng, đã làm hầu hết nghệ sĩ đương thời sửng sốt. Gould viết:
The Beatles
"Có một sự đồng thuận rộng khắp rằng The Beatles đã tạo nên một siêu phẩm nhạc pop: một sản phẩm thiên tài thực sự phong phú, chất lượng và dạt dào mà thứ tham vọng rõ nét cùng những tính căn nguyên khởi nguồn của nó đã được trải rộng ra tới mức tối đa, nâng tầm sự kỳ vọng từ trải nghiệm của thính giả. Về cơ bản, Sgt. Pepper là chất xúc tác cho việc bùng nổ những cấu trúc cần thiết cho một album nhạc rock vốn cần đòi hỏi cả về mặt thẩm mỹ cũng như kinh tế song không còn giống với thời bùng nổ nhạc pop bởi hiện tượng Elvis vào năm 1956 và ngay cả với Beatlemania vào năm 1963."Sgt. Pepper cũng là album LP đầu tiên bao gồm phần lời hoàn chỉnh tất cả các ca khúc được ghi ở phần bìa sau. Nội dung của chúng trở thành trọng tâm của rất nhiều nghiên cứu và đánh giá: vào cuối năm 1967, phần ca từ trên đã trở thành chủ đề trong những bài điều tra bởi nhiều nhà nghiên cứu văn học Mỹ, còn giáo sư người Anh, Richard Poirier, đã đánh giá sinh viên của mình "nghe thứ âm nhạc với đẳng cấp viết lời mà ông, với tư cách là người dạy Anh văn, cũng chỉ mong đạt được." Poirier cũng chỉ rõ thứ mà ông gọi là "sự tượng trưng pha trộn": "Thật là thiếu khôn ngoan nếu cho rằng họ chỉ biết làm có một việc và cũng chỉ có một phong cách duy nhất... Một thứ cảm xúc đối với sản phẩm này xem chừng là không đủ... Bất cứ cảm xúc riêng biệt nào đều có thể tồn tại trong những ngữ cảnh có vẻ như hoàn toàn đối lập nhau." McCartney từng nói vào thời điểm đó: "Chúng tôi viết những ca khúc. Chúng tôi biết chúng tôi cần diễn đạt những gì với chúng. Nhưng cứ mỗi tuần lại có người nói một điều gì đó mới, và bạn không thể phủ nhận điều ấy... Bạn chỉ cần tự đặt khả năng nhìn nhận của bạn tương xứng với khả năng bạn hiểu từng ca khúc." Sgt. Pepper giành được 4 trong tổng số 7 đề cử của giải Grammy năm 1968 và trở thành album nhạc rock đầu tiên được trao giải thưởng Album của năm. Năm 2003, tạp chí Rolling Stone xếp đây là album vĩ đại nhất mọi thời đại trong danh sách của họ.
"Có một sự đồng thuận rộng khắp rằng The Beatles đã tạo nên một siêu phẩm nhạc pop: một sản phẩm thiên tài thực sự phong phú, chất lượng và dạt dào mà thứ tham vọng rõ nét cùng những tính căn nguyên khởi nguồn của nó đã được trải rộng ra tới mức tối đa, nâng tầm sự kỳ vọng từ trải nghiệm của thính giả. McCartney từng nói vào thời điểm đó: "Chúng tôi viết những ca khúc.
The Beatles
Phần bìa của Sgt. Pepper cũng là chủ đề trong nhiều bài nghiên cứu. Phần trọng tâm được thiết kế bởi Peter Blake và Jann Haworth, miêu tả The Beatles trong vai ban nhạc tưởng tượng theo nhan đề album đứng giữa những nhân vật nổi tiếng đương thời. Bộ ria mép mà họ nuôi theo ý tưởng về những người hippie được cây viết sử Jonathan Harris miêu tả "sự châm biếm rõ ràng và sặc sỡ về trang phục quân đội" cũng như "chống lại sự độc đoán và chống lại tính tổ chức".
Phần bìa của Sgt. Bộ ria mép mà họ nuôi theo ý tưởng về những người hippie được cây viết sử Jonathan Harris miêu tả "sự châm biếm rõ ràng và sặc sỡ về trang phục quân đội" cũng như "chống lại sự độc đoán và chống lại tính tổ chức".
The Beatles
Ngày 25 tháng 6 năm 1967, The Beatles trình diễn đĩa đơn tiếp theo của họ, "All You Need Is Love", tới hơn 350 triệu người xem toàn cầu qua chương trình Our World – chương trình trực tiếp toàn thế giới đầu tiên của ngành truyền hình. Được phát hành 1 tuần sau đó trong quãng thời gian Summer of Love, đĩa đơn đã trở thành thánh ca của giai đoạn này. Chỉ 2 tháng sau, ban nhạc có sự mất mát lớn trực tiếp đưa họ tới thời kỳ rối loạn. Vốn chỉ gặp gỡ thiền sư Maharishi Mahesh Yogi ở London vào tối hôm trước, ngày 25 tháng 8 ban nhạc quyết định bay tới Bangor để tham gia khu thiền đặc biệt của ông. Đúng 2 ngày sau, trợ lý quản lý của nhóm, Peter Brown, gọi điện thông báo Epstein qua đời. Những điều tra cho thấy cái chết là do ông bị sốc khi dùng ma túy, song nhiều tin đồn cho rằng thực chất Epstein đã tự tử. Epstein vốn đang trong quãng thời gian nhạy cảm, bị trầm cảm do những soi mói vào đời sống cá nhân và ban nhạc có vẻ không muốn ký hợp đồng tiếp với ông, vốn sắp đáo hạn vào tháng 10, khi mà họ tỏ rõ việc không hài lòng trong cách quản lý của ông, đặc biệt về Seltaeb – công ty phân phối các sản phẩm lưu niệm của họ tại Mỹ. Cái chết của Epstein khiến ban nhạc mất định hướng và lo sợ về tương lai của mình. Lennon nói: "Chúng tôi bỗng đổ sụp. Tôi biết mọi khó khăn sắp bắt đầu. Tôi chẳng hề có một chút khả năng gì khác ngoài việc chơi nhạc, và tôi đã rất sợ. Tôi liền nghĩ: "Tất cả chúng tôi đều biết như vậy.""
Ngày 25 tháng 6 năm 1967, The Beatles trình diễn đĩa đơn tiếp theo của họ, "All You Need Is Love", tới hơn 350 triệu người xem toàn cầu qua chương trình Our World – chương trình trực tiếp toàn thế giới đầu tiên của ngành truyền hình. Epstein vốn đang trong quãng thời gian nhạy cảm, bị trầm cảm do những soi mói vào đời sống cá nhân và ban nhạc có vẻ không muốn ký hợp đồng tiếp với ông, vốn sắp đáo hạn vào tháng 10, khi mà họ tỏ rõ việc không hài lòng trong cách quản lý của ông, đặc biệt về Seltaeb – công ty phân phối các sản phẩm lưu niệm của họ tại Mỹ.
The Beatles
Magical Mystery Tour, bản soundtrack cho bộ phim cùng tên của The Beatles, được phát hành dưới dạng EP-kép tại Anh đầu tháng 12 năm 1967. Tại Mỹ, cả sáu ca khúc trên được gộp lại với 5 đĩa đơn trước đó của nhóm và trở thành bản LP tại đây. Unterberger nói về ấn bản Magical Mystery Tour tại Mỹ "thứ âm thanh psychedelic từ Sgt. Pepper, thậm chí phóng khoáng hơn (đặc biệt trong "I Am the Walrus")" và ông gọi 5 đĩa đơn được cho vào album là "đồ sộ, lộng lẫy và cách tân". Chỉ trong 3 tuần, nó đã trở thành album bán chạy nhất lịch sử hãng Capitol Records, và nó cũng là album tuyển tập duy nhất của Capitol được ban nhạc sau này chọn làm album phát hành chính thức. Được lên sóng đúng ngày Boxing Day, bộ phim Magical Mystery Tour, được chủ yếu đạo diễn bởi McCartney, khiến ban nhạc nhận được thất bại thực sự đầu tiên tại Mỹ. Tờ Daily Express gọi đây là "thứ rác rưởi ồn ào", còn Daily Mail gọi bộ phim là "sự tự mãn quá đà". The Guardian bình luận "một kiểu đạo đức hoang đường hướng về sự tục tĩu, sự hân hoan và cả sự ngu dốt của khán giả". Gould miêu tả "một minh chứng của cách dàn dựng non nớt về một nhóm người chỉ biết lên, xuống rồi lái chiếc xe bus". Cho dù tỉ lệ người xem vẫn ở mức cao, những công kích từ báo chí đã khiến các đài truyền hình của Mỹ sau đó cũng dè dặt hơn trong việc đưa bộ phim lên sóng.
Magical Mystery Tour, bản soundtrack cho bộ phim cùng tên của The Beatles, được phát hành dưới dạng EP-kép tại Anh đầu tháng 12 năm 1967. Tại Mỹ, cả sáu ca khúc trên được gộp lại với 5 đĩa đơn trước đó của nhóm và trở thành bản LP tại đây.
The Beatles
Trong quãng thời gian đó, ban nhạc thực hiện album The Beatles – bản LP sau này được phân biệt dưới tên gọi Album trắng với phần bìa vô cùng đặc trưng của mình. Ý tưởng thực hiện album lần này là hoàn toàn mới: không còn những định hướng từ Epstein, ban nhạc đã chuyển hướng sang Maharishi Mahesh Yogi như là guru của họ. Tham dự khu thiền ashram ở Rishikesh, Ấn Độ trong chuyến đi "Guide Course" dự tính kéo dài 3 tháng, ban nhạc đã có quãng thời gian đặc biệt nhất sự nghiệp của mình khi đã viết nên vô số những ca khúc xuất sắc mà trong đó là phần lớn các sáng tác cho Album trắng. Tuy nhiên, Starr bỏ về chỉ sau 10 ngày và so sánh chuyến đi với Butlin's, trong khi McCartney cũng ngày một cảm thấy chán nản và bỏ cuộc 1 tháng sau đó. Với Lennon và Harrison, sức sáng tạo của họ cũng bị đặt dấu hỏi khi những kỹ thuật viên như Magic Alex từng nhớ lại rằng Maharishi thực tế toàn cố gắng làm xao nhãng họ. Khi họ phát hiện ra rằng Maharishi có những hành vi không lành mạnh với một nữ thành viên trong đoàn, Lennon lập tức chấm dứt chuyến đi, mang theo Harrison cùng toàn bộ số thành viên còn lại trở về Anh. Tức giận và cảm thấy bị xúc phạm, Lennon viết nên ca khúc "Maharishi", sau này đổi tên thành "Sexy Sadie" nhằm tránh những kiện tụng không cần thiết. McCartney nói: "Chúng tôi đã phạm sai lầm. Chúng tôi cứ nghĩ rằng có thể có được nhiều hơn từ ông ấy."Trong quãng thời gian thực hiện Album trắng, tức là khoảng từ cuối tháng 5 tới giữa tháng 10 năm 1968, mối quan hệ giữa các thành viên xấu đi trông thấy. Starr bỏ nhóm 2 tuần, buộc McCartney phải chơi trống trong "Back in the U.S.S.R." (và lần lượt cả Harrison và Lennon) rồi "Dear Prudence". Lennon mất mọi cảm hứng cộng tác với McCartney và gọi ca khúc "Ob-La-Di, Ob-La-Da" là "thứ âm nhạc bỏ đi của các cụ già". Căng thẳng đặc biệt gia tăng khi những động thái quan tâm lãng mạn của Lennon tới nghệ sĩ avant-garde Yoko Ono đã dẫn tới việc anh mang cô tới phòng thu, trong khi trước đó ban nhạc đã có quy ước không đem theo bạn gái hay vợ trong lúc thu âm. Nói về album-kép này, Lennon bình luận: "Mỗi ca khúc đều là sản phẩm cá nhân, chẳng có một chút Beatles nào trong đó hết; [đó là] John cùng ban nhạc, Paul cùng ban nhạc, George cùng ban nhạc." McCartney sau này gọi album "không phải là một thành quả hài lòng". Cả anh lẫn Lennon sau này đều cho rằng quá trình thu âm Album trắng chính là điểm khởi đầu của việc ban nhạc tan rã.
Trong quãng thời gian đó, ban nhạc thực hiện album The Beatles – bản LP sau này được phân biệt dưới tên gọi Album trắng với phần bìa vô cùng đặc trưng của mình. Chúng tôi cứ nghĩ rằng có thể có được nhiều hơn từ ông ấy.
The Beatles
Được phát hành vào tháng 11, Album trắng là album đầu tiên của The Beatles dưới nhãn đĩa Apple Records, trong khi EMI tiếp tục song song giữ quyền phát hành. Nhãn đĩa riêng của ban nhạc là một công ty con của Apple Corps, vốn được Epstein lập nên nhằm giúp ban nhạc giải quyết những vấn đề về thuế. Album có được tới 2 triệu bản đặt hàng trước, rồi sau đó bán được tới 4 triệu đĩa ở Mỹ chỉ sau hơn 1 tháng, và các ca khúc thống trị các bảng xếp hạng tại đây. Cho dù thành công về thương mại, song album không hoàn toàn nhận được những đánh giá chuyên môn tích cực. Gould viết:
Được phát hành vào tháng 11, Album trắng là album đầu tiên của The Beatles dưới nhãn đĩa Apple Records, trong khi EMI tiếp tục song song giữ quyền phát hành. Cho dù thành công về thương mại, song album không hoàn toàn nhận được những đánh giá chuyên môn tích cực.
The Beatles
"Những đánh giá chuyên môn... trải rộng từ lẫn lộn tới thờ ơ. Đối lập với Sgt. Pepper vốn từng giúp ban nhạc có được sự ngưỡng mộ rộng khắp, Album trắng không có được những lời phê bình ấn tượng trong bất cứ mặt nào. Kể cả với những cây viết thân thiện nhất... cũng thực sự không hình dung ra những cảm xúc kỳ quái lẫn lộn trong các ca khúc. Hubert Saal của Newsweek, với lời bình mang tính mỉa mai nhất, cho rằng ban nhạc vẫn còn chưa "uốn lưỡi" thật kỹ."Nhìn chung các đánh giá sau này đều tôn vinh Album trắng. Năm 2003, tạp chí Rolling Stone xếp album ở vị trí số 10 trong danh sách "500 album vĩ đại nhất". Mark Richardson từ Pitchfork Media miêu tả album "rộng lớn và trải khắp, bùng nổ với những ý tưởng cùng những đam mê và được hoàn thiện bởi những chất liệu ngay ngắn nhất... Sự thất bại của họ cũng đặc sắc như cá tính và vinh quang của họ vậy." Erlewine bình luận: "2 cây viết chủ lực [của ban nhạc] đã không còn chung một con đường, kể cả với George và Ringo", và "Lennon đã viết nên 2 trong số những bản ballad hay nhất của mình", các ca khúc của McCartney là "sửng sốt", còn Harrison "đã trở thành người viết nhạc đáng được tôn trọng", trong khi những sáng tác của Starr là "sự thích thú".
"Những đánh giá chuyên môn... trải rộng từ lẫn lộn tới thờ ơ. Đối lập với Sgt. Hubert Saal của Newsweek, với lời bình mang tính mỉa mai nhất, cho rằng ban nhạc vẫn còn chưa "uốn lưỡi" thật kỹ.
The Beatles
Bản LP Yellow Submarine được phát hành vào tháng 1 năm 1969, bao gồm 4 ca khúc từng được phát hành trước đó, trong đó có ca khúc tiêu đề (từng xuất hiện trong Revolver), "All You Need Is Love" (từng nằm trong EP Magical Mystery Tour) theo kèm là bảy bản nhạc hòa tấu sáng tác bởi Martin. Với thứ âm nhạc mới của ban nhạc, Unterberger và Bruce Eder của Allmusic cho rằng album là một sản phẩm "không chính yếu" song lại ấn tượng với ca khúc "It's All Too Much" của Harrison "viên ngọc trong số những ca khúc mới... rực rỡ với giai điệu của mellotron, định âm tuyệt hảo và những đoạn lướt mềm mại của guitar... một cuộc dạo chơi của người sành sỏi tới thứ âm nhạc psychedelic mờ ảo kiểu mới."
Bản LP Yellow Submarine được phát hành vào tháng 1 năm 1969, bao gồm 4 ca khúc từng được phát hành trước đó, trong đó có ca khúc tiêu đề (từng xuất hiện trong Revolver), "All You Need Is Love" (từng nằm trong EP Magical Mystery Tour) theo kèm là bảy bản nhạc hòa tấu sáng tác bởi Martin. Với thứ âm nhạc mới của ban nhạc, Unterberger và Bruce Eder của Allmusic cho rằng album là một sản phẩm "không chính yếu" song lại ấn tượng với ca khúc "It's All Too Much" của Harrison "viên ngọc trong số những ca khúc mới... rực rỡ với giai điệu của mellotron, định âm tuyệt hảo và những đoạn lướt mềm mại của guitar... một cuộc dạo chơi của người sành sỏi tới thứ âm nhạc psychedelic mờ ảo kiểu mới."
The Beatles
Cho dù Let It Be là album chính thức cuối cùng của ban nhạc, song thực tế album cuối cùng mà The Beatles thực hiện thu âm là Abbey Road. Ngọn nguồn của dự án tới từ câu nói của Martin với McCartney khi gợi ý "thu âm một sản phẩm với những chất liệu mới rồi chơi nháp chúng, rồi lần đầu tiên thực hiện chúng trước khi trình diễn trực tiếp – kể cả thu âm lẫn thu hình". Vốn dự định để dành cho chương trình tài liệu Beatles at Work, hầu hết quãng thời gian thực hiện dự án đều được quay lại bởi Michael Lindsay-Hogg tại phòng thu Twickenham Film Studios từ tháng 1 năm 1969. Martin cho rằng dự án "không hoàn toàn là những buổi thu vui vẻ. Đó cũng là lúc mà mối quan hệ giữa các Beatle đã chạm đáy của nó." Lennon miêu tả quãng thời gian này như "địa ngục... điều khốn khổ nhất... trên Trái Đất", còn với Harrison là "thất vọng nhất từng có". Bị ức chế từ cả McCartney lẫn Lennon, Harrison rời nhóm 5 ngày. Khi quay trở lại, anh tuyên bố sẽ ra đi trừ khi "[ban nhạc] không được nhắc tới buổi trình diễn trực tiếp" và mặt khác nhấn mạnh việc dự án sẽ cho ra đời một album mới mang tên Get Back với các ca khúc sẽ được trình chiếu trên truyền hình. Anh cũng đề nghị cả nhóm dừng công việc ở Twickenham để tập trung thu âm ở phòng thu của hãng Apple. Các thành viên khác đều đồng ý, và ý tưởng đã góp phần cứu vớt nội dung những cảnh quay sau đó được chiếu trên truyền hình.
Cho dù Let It Be là album chính thức cuối cùng của ban nhạc, song thực tế album cuối cùng mà The Beatles thực hiện thu âm là Abbey Road. Anh cũng đề nghị cả nhóm dừng công việc ở Twickenham để tập trung thu âm ở phòng thu của hãng Apple.
The Beatles
Những nỗ lực giảm bớt căng thẳng giữa các thành viên đã thúc đẩy chất lượng công việc, và Harrison đã mời tay keyboard trẻ Billy Preston tới tham gia trong 9 ngày cuối cùng của đợt thu. Preston được đề tên trong đĩa đơn "Get Back" của ban nhạc – đây cũng là nghệ sĩ duy nhất được có tên trong một sản phẩm chính thức của The Beatles. Sau khi kết thúc những buổi thu thử, ban nhạc không thể thống nhất được địa điểm trình diễn sau khi bỏ qua lần lượt từng đề xuất, trong đó có cả du thuyền trên biển, nhà thương điên, sa mạc Tunisia và đấu trường Colosseum. Cuối cùng họ cũng đồng ý trình diễn buổi diễn cuối cùng của ban nhạc trên tầng mái của Apple Corps ở địa chỉ số 3 phố Savile Row, London ngày 30 tháng 1 năm 1969. 5 tuần sau, kỹ thuật viên Glyn Johns – người từng được Lennon gọi là "nhà sản xuất giấu mặt" của dự án Get Back – bắt đầu tổng hợp và hoàn thiện album mà như ông gọi là "chiếc dây cương tự do" cho phép ban nhạc "làm tất cả song không được nhúng tay vào toàn bộ dự án".
Những nỗ lực giảm bớt căng thẳng giữa các thành viên đã thúc đẩy chất lượng công việc, và Harrison đã mời tay keyboard trẻ Billy Preston tới tham gia trong 9 ngày cuối cùng của đợt thu. 5 tuần sau, kỹ thuật viên Glyn Johns – người từng được Lennon gọi là "nhà sản xuất giấu mặt" của dự án Get Back – bắt đầu tổng hợp và hoàn thiện album mà như ông gọi là "chiếc dây cương tự do" cho phép ban nhạc "làm tất cả song không được nhúng tay vào toàn bộ dự án".
The Beatles
Những trục trặc giữa các thành viên tiếp tục gia tăng khi liên quan tới vấn đề tìm kiếm cố vấn tài chính, một công việc tối quan trọng sau khi Epstein không còn quản lý nhóm nữa. Lennon, Harrison và Starr đồng ý chọn Allen Klein – quản lý của The Rolling Stones và Sam Cooke – trong khi McCartney lại muốn John Eastman, anh trai của Linda Eastman – người mà anh mới kết hôn ngày 12 tháng 3 cùng năm. Không thể đạt được đồng thuận vậy nên cả hai nhân vật trên đều được bổ nhiệm, song những tranh cãi sau đó xuất hiện và rất nhiều cơ hội đầu tư đã bị bỏ lỡ. Tới ngày 8 tháng 5, Klein được chỉ định vào vị trí phụ trách doanh thu của ban nhạc.
Những trục trặc giữa các thành viên tiếp tục gia tăng khi liên quan tới vấn đề tìm kiếm cố vấn tài chính, một công việc tối quan trọng sau khi Epstein không còn quản lý nhóm nữa. Lennon, Harrison và Starr đồng ý chọn Allen Klein – quản lý của The Rolling Stones và Sam Cooke – trong khi McCartney lại muốn John Eastman, anh trai của Linda Eastman – người mà anh mới kết hôn ngày 12 tháng 3 cùng năm.
The Beatles
Martin nhớ lại việc ông cảm thấy sốc khi McCartney đề nghị sản xuất 1 album mới, cho dù dự án Get Back là "trải nghiệm tồi tệ" và bản thân anh cho rằng "chúng tôi đã đi tới đoạn cuối của con đường". Những buổi thu đầu tiên của Abbey Road được thực hiện vào ngày 2 tháng 7 năm 1969. Lennon, người từ chối ý tưởng của Martin "tiếp tục chuỗi những ca khúc", đã yêu cầu các sáng tác của mình và McCartney phải được nằm ở mỗi mặt khác nhau của album. Cuối cùng hình thức được họ lựa chọn là các sáng tác cá nhân ở mặt A, còn mặt B chủ yếu là medley theo gợi ý của McCartney. Ngày 4 tháng 7, đĩa đơn solo đầu tiên của một Beatle được phát hành mang tên "Give Peace a Chance" (dưới tên Plastic Ono Band). Ngày 20 tháng 8 năm 1969, ca khúc với cấu trúc phức tạp "I Want You (She's So Heavy)" chính là lần cuối cùng cả bốn thành viên của The Beatles ngồi cùng nhau thu âm trong phòng thu. Lennon tuyên bố rời khỏi ban nhạc vào ngày 20 tháng 9 song đồng ý giữ yên lặng trước công chúng nhằm đảm bảo doanh thu cho album sắp ra mắt.
Martin nhớ lại việc ông cảm thấy sốc khi McCartney đề nghị sản xuất 1 album mới, cho dù dự án Get Back là "trải nghiệm tồi tệ" và bản thân anh cho rằng "chúng tôi đã đi tới đoạn cuối của con đường". Lennon tuyên bố rời khỏi ban nhạc vào ngày 20 tháng 9 song đồng ý giữ yên lặng trước công chúng nhằm đảm bảo doanh thu cho album sắp ra mắt.
The Beatles
Được phát hành 4 ngày sau tuyên bố của Lennon, Abbey Road bán được 4 triệu bản tại Anh chỉ trong vòng 3 tháng và đứng đầu bảng xếp hạng tại đây trong vòng 17 tuần. Ca khúc thứ hai của album, bản ballad "Something", trở thành sáng tác duy nhất của Harrison được làm đĩa đơn mặt A cho The Beatles. Abbey Road nhận được nhiều đánh giá trái chiều, cho dù medley hầu hết nhận được những lời ngưỡng mộ. Unterberger gọi đây là "tuyệt tác thiên tài của ban nhạc" bao gồm "những hòa âm tuyệt vời nhất từng có của nhạc rock". Nhà nghiên cứu âm nhạc Ian MacDonald gọi album là "thất thường và đôi lúc rỗng tuếch", cho dù đánh giá cao medley "nhìn chung là thống nhất và hài hòa". Martin coi đây là album mà ông yêu thích nhất của nhóm, trong khi Lennon cho rằng album "có tiềm năng" song "không có sức sống trong nó". Kỹ thuật viên âm thanh Emerick nhớ lại việc thay thế bộ điều khiển trộn âm nút bấm bằng hệ thống cần gạt đã giúp họ tạo nên ít âm thanh gằn hơn, mặt khác khiến ban nhạc tập trung hơn vào những âm sắc thanh gọn và không bị pha tạp, cũng như góp phần làm nên thứ cảm xúc tương đối "dễ chịu hơn, gần gũi hơn" so với những album trước đó.
Được phát hành 4 ngày sau tuyên bố của Lennon, Abbey Road bán được 4 triệu bản tại Anh chỉ trong vòng 3 tháng và đứng đầu bảng xếp hạng tại đây trong vòng 17 tuần. Unterberger gọi đây là "tuyệt tác thiên tài của ban nhạc" bao gồm "những hòa âm tuyệt vời nhất từng có của nhạc rock".
The Beatles
Ca khúc "I Me Mine" của Harrison được thu vào ngày 3 tháng 1 năm 1970 để dành cho album chưa hoàn thiện Get Back. Lennon, khi đó đang ở Đan Mạch, không tham gia vào buổi thu. Tới tháng 3, không hài lòng với kết quả dự án được thực hiện bởi Johns, giờ đã được đổi tên thành Let It Be, Klein liền chuyển tất cả các bản thu gốc cho Phil Spector – người vốn đang cộng tác cùng Lennon cho đĩa đơn solo "Instant Karma!". Bổ sung nhiều chất liệu mới, Spector đã chỉnh sửa, cắt gọt, ghi đè nhằm cố gắng biến các ca khúc có cảm giác như thu âm trực tiếp. McCartney không hài lòng với phương pháp này của Spector và đặc biệt bực tức trong việc thay đổi hòa âm ca khúc "The Long and Winding Road" khi cho thêm dàn hợp ca 14 người và phần bè mới với 36 nhạc cụ. Yêu cầu của McCartney về việc hủy bỏ ấn bản này bị bỏ qua, và gần như ngay lập tức anh tuyên bố chia tay ban nhạc trong buổi họp báo ngày 10 tháng 4 năm 1970 – chỉ đúng 1 tuần sau khi cho ra mắt album solo đầu tay.
Ca khúc "I Me Mine" của Harrison được thu vào ngày 3 tháng 1 năm 1970 để dành cho album chưa hoàn thiện Get Back. Yêu cầu của McCartney về việc hủy bỏ ấn bản này bị bỏ qua, và gần như ngay lập tức anh tuyên bố chia tay ban nhạc trong buổi họp báo ngày 10 tháng 4 năm 1970 – chỉ đúng 1 tuần sau khi cho ra mắt album solo đầu tay.
The Beatles
Ngày 8 tháng 5 năm 1970, album Let It Be do Spector sản xuất được bày bán. "The Long and Winding Road" trở thành đĩa đơn cuối cùng của The Beatles, song nó chỉ được phát hành tại Mỹ. Bộ phim tài liệu cùng tên được phát hành không lâu sau, rồi được trao giải Oscar năm 1970 cho Nhạc phim xuất sắc nhất. Nhà báo Penelope Gilliatt của tờ Sunday Telegraph nhận xét "một bộ phim tồi song rất xúc động... về sự tan vỡ của một gia đình của những người anh em thân thiết, gần gũi về địa lý và có vẻ ngoài không tuổi". Nhiều đánh giá cho rằng vài phần trình bày trong bộ phim có chất lượng tốt hơn cả ấn bản trong album chính thức. Gọi Let It Be là "album duy nhất của The Beatles có nhiều phản ứng tiêu cực, thậm chí bài bác", Unterberger nói album "bị đánh giá quá thấp"; ông cũng ấn tượng "những khoảnh khắc hard rock tới từ "I've Got a Feeling" và "Dig a Pony"" và hài lòng với những ca khúc như "Let It Be", "Get Back", và "giai điệu folk của "Two of Us" khi John và Paul vẫn cùng nhau hòa âm". McCartney hoàn tất những thủ tục về việc giải tán ban nhạc vào ngày 31 tháng 12 năm 1970. Những tranh chấp pháp lý còn kéo dài sau khi ban nhạc tan rã và chúng chỉ chính thức chấm dứt vào ngày 29 tháng 12 năm 1974.
Ngày 8 tháng 5 năm 1970, album Let It Be do Spector sản xuất được bày bán. Nhiều đánh giá cho rằng vài phần trình bày trong bộ phim có chất lượng tốt hơn cả ấn bản trong album chính thức.
The Beatles
Lennon, McCartney, Harrison và Starr đều cho phát hành những album solo vào năm 1970. Các album solo của họ vẫn có sự tham gia của một hoặc vài thành viên khác. Album Ringo (1973) của Starr là sản phẩm duy nhất có sự đóng góp của cả bốn cựu-Beatle, cho dù mỗi người chỉ thu âm một cách độc lập. Harrison cũng tổ chức chương trình hòa nhạc từ thiện Concert for Bangladesh vào tháng 8 năm 1971 ở New York với sự góp mặt của Starr. Ngoài một buổi thu ngẫu hứng sau này được cho vào bootleg mang tên A Toot and a Snore in '74, Lennon và McCartney không bao giờ cộng tác với nhau nữa.
Lennon, McCartney, Harrison và Starr đều cho phát hành những album solo vào năm 1970. Album Ringo (1973) của Starr là sản phẩm duy nhất có sự đóng góp của cả bốn cựu-Beatle, cho dù mỗi người chỉ thu âm một cách độc lập.
The Beatles
2 album-kép tuyển tập thực hiện bởi Klein, 1962–1966 và 1967–1970, được phát hành vào năm 1973 dưới tên hãng Apple Records. Thường được gọi bằng tên Album đỏ và Album xanh, cả hai đều có được chứng chỉ đa-Bạch kim tại Mỹ và Bạch kim tại Anh. Trong những năm 1976 tới 1982, EMI và Capitol Records cho ra mắt liên tiếp nhiều album tuyển tập của The Beatles, bắt đầu với album-kép Rock 'n' Roll Music. Sản phẩm duy nhất chưa từng được phát hành là The Beatles at the Hollywood Bowl (1977) – album thu âm trực tiếp chính thức đầu tiên của ban nhạc bao gồm những ca khúc chọn lọc từ 2 buổi diễn của họ tại Mỹ vào năm 1964 và 1965.
2 album-kép tuyển tập thực hiện bởi Klein, 1962–1966 và 1967–1970, được phát hành vào năm 1973 dưới tên hãng Apple Records. Thường được gọi bằng tên Album đỏ và Album xanh, cả hai đều có được chứng chỉ đa-Bạch kim tại Mỹ và Bạch kim tại Anh.
The Beatles
Âm nhạc và ảnh hưởng của The Beatles tiếp tục được khai thác dưới nhiều hình thức khác nhau, và thường ngoài khả năng kiểm soát của họ. Tháng 4 năm 1974, vở nhạc kịch John, Paul, George, Ringo ... and Bert, được viết bởi Willy Russell và xướng ca bởi Barbara Dickson, công chiếu ở London. Vở nhạc kịch, với sự đồng ý từ Northern Songs, bao gồm 11 sáng tác của Lennon-McCartney và ca khúc "Here Comes the Sun" của Harrison. Không hài lòng về cách dàn dựng, Harrison rút lại giấy phép sử dụng ca khúc này. All This and World War II (1976) là một bộ phim trái lề bao gồm nhiều cảnh quay cùng các phần bìa album của The Beatles được trình bày bởi Elton John và Keith Moon cùng Dàn nhạc giao hưởng London. Vở nhạc kịch Broadway mang tên Beatlemania với nội dung chưa được cấp phép ra mắt vào năm 1977 và trở nên nổi tiếng, giúp họ có nhiều tour diễn khắp nơi. Năm 1979, ban nhạc khởi kiện nhà sản xuất và được bồi thường hàng triệu $. Sgt. Pepper's Lonely Hearts Club Band (1978) – bộ phim được thực hiện với The Bee Gees và Peter Frampton thủ vai chính – thất bại hoàn toàn về mặt thương mại và được Ingham gọi là "thảm họa nghệ thuật".
Âm nhạc và ảnh hưởng của The Beatles tiếp tục được khai thác dưới nhiều hình thức khác nhau, và thường ngoài khả năng kiểm soát của họ. Vở nhạc kịch, với sự đồng ý từ Northern Songs, bao gồm 11 sáng tác của Lennon-McCartney và ca khúc "Here Comes the Sun" của Harrison.
The Beatles
Sau khi Lennon bị ám sát vào tháng 12 năm 1980, Harrison đã viết lại phần lời ca khúc "All Those Years Ago" để tưởng nhớ tới Lennon. Đĩa đơn được ra mắt vào tháng 5 năm 1981 với Starr chơi trống, McCartney hát chính và vợ anh, Linda, hát bè. Ca khúc tri ân của riêng McCartney, "Here Today", được đưa vào album Tug of War vào tháng 4 năm 1982. Năm 1987, Harrison sáng tác "When We Was Fab" viết về thời kỳ Beatlemania và cho vào album Cloud Nine của mình.
Sau khi Lennon bị ám sát vào tháng 12 năm 1980, Harrison đã viết lại phần lời ca khúc "All Those Years Ago" để tưởng nhớ tới Lennon. Ca khúc tri ân của riêng McCartney, "Here Today", được đưa vào album Tug of War vào tháng 4 năm 1982.
The Beatles
Năm 1988, The Beatles được vinh danh tại Đại sảnh Danh vọng Rock and Roll ngay trong năm đầu tiên mà họ đủ điều kiện để được đề cử. Harrison và Starr thay mặt ban nhạc tới nhận giải thưởng cùng gia đình Lennon bao gồm người vợ góa Yoko Ono và hai con trai, Julian và Sean. McCartney không có mặt với lý do "quan điểm khác biệt" khiến anh "cảm thấy hoàn toàn đạo đức giả khi phải vẫy tay và mỉm cười trước một đám đông giả tạo". Ngay năm sau, EMI/Capitol bắt đầu vướng vào vụ kiện bởi chính ban nhạc kéo dài cả thập kỷ về vấn đề bản quyền nhằm giải quyết những tranh chấp nhằm bày bán những sản phẩm chưa từng được phát hành của The Beatles.
Năm 1988, The Beatles được vinh danh tại Đại sảnh Danh vọng Rock and Roll ngay trong năm đầu tiên mà họ đủ điều kiện để được đề cử. Ngay năm sau, EMI/Capitol bắt đầu vướng vào vụ kiện bởi chính ban nhạc kéo dài cả thập kỷ về vấn đề bản quyền nhằm giải quyết những tranh chấp nhằm bày bán những sản phẩm chưa từng được phát hành của The Beatles.
The Beatles
17 năm sau Hollywood Bowl, Live at the BBC, album trình diễn trực tiếp chính thức tiếp theo của The Beatles được phát hành vào năm 1994. Cùng năm, McCartney, Ringo và Harrison cũng bắt tay vào dự án Anthology. Anthology vốn được manh nha từ năm 1970 khi giám đốc của Apple Corps – Neil Aspinall, người từng là trợ lý và quản lý hành trình của ban nhạc – bắt đầu việc tổng hợp những tài liệu về họ dưới tên dự án The Long and Winding Road. Tập trung khai thác những câu chuyện của The Beatles qua lời kể từ từng thành viên, Anthology theo kèm nhiều sản phẩm chưa từng được phát hành. McCartney, Harrison và Starr cũng bổ sung phần chơi bè và hát cho 2 ca khúc dưới dạng demo mà Lennon từng thu vào cuối những năm 1970 và đầu 1980.
17 năm sau Hollywood Bowl, Live at the BBC, album trình diễn trực tiếp chính thức tiếp theo của The Beatles được phát hành vào năm 1994. Tập trung khai thác những câu chuyện của The Beatles qua lời kể từ từng thành viên, Anthology theo kèm nhiều sản phẩm chưa từng được phát hành.
The Beatles
Trong những năm 1995-1996, dự án được trình chiếu trên truyền hình trong 8 tập phim, theo kèm là 2 CD-box set được thiết kế bởi Voormann. Cả hai ca khúc được thực hiện từ bản demo của Lennon, "Free as a Bird" và "Real Love", đều trở thành những đĩa đơn cuối cùng đứng tên The Beatles. Dự án thành công vang dội về mặt thương mại và serie phim truyền hình thu hút được tổng cộng khoảng 400 triệu người xem. "Free as a Bird" được trao Giải Grammy cho Trình diễn song ca hoặc nhóm nhạc pop xuất sắc nhất vào năm 1997. Năm 1999, nhân dịp tái bản bộ phim Yellow Submarine, bản CD soundtrack tổng hợp Yellow Submarine Songtrack cũng được phát hành.
Trong những năm 1995-1996, dự án được trình chiếu trên truyền hình trong 8 tập phim, theo kèm là 2 CD-box set được thiết kế bởi Voormann. "Free as a Bird" được trao Giải Grammy cho Trình diễn song ca hoặc nhóm nhạc pop xuất sắc nhất vào năm 1997.
The Beatles
Album tuyển tập 1 bao gồm những ca khúc quán quân tại Anh và Mỹ của The Beatles được phát hành vào ngày 13 tháng 11 năm 2000. 1 đạt kỷ lục album bán chạy trong thời gian ngắn nhất mọi thời đại với 3,6 triệu đĩa chỉ trong 1 tuần và 13 triệu đĩa trong tháng đầu tiên. Album đạt vị trí quán quân tại ít nhất 26 quốc gia, trong đó có cả ở Anh và Mỹ. Tính tới tháng 4 năm 2009, album bán được tổng cộng 31 triệu bản, trở thành album bán chạy nhất thập kỷ tại Mỹ.
Album tuyển tập 1 bao gồm những ca khúc quán quân tại Anh và Mỹ của The Beatles được phát hành vào ngày 13 tháng 11 năm 2000. 1 đạt kỷ lục album bán chạy trong thời gian ngắn nhất mọi thời đại với 3,6 triệu đĩa chỉ trong 1 tuần và 13 triệu đĩa trong tháng đầu tiên.
The Beatles
Harrison qua đời vì bị ung thư phổi di căn vào tháng 11 năm 2001. McCartney và Starr là 2 trong số nhiều nghệ sĩ tham gia vào Concert for George, buổi diễn từ thiện tưởng nhớ tới Harrison được tổ chức bởi gia đình anh cùng Clapton. Sự kiện được tổ chức tại Royal Albert Hall nhân dịp kỷ niệm đúng 1 năm ngày mất của Harrison. Ngoài những ca khúc do anh sáng tác, chương trình còn có sự tham gia trình diễn của dàn nhạc cổ điển Ấn Độ, trình bày và dàn dựng bởi gia đình Ravi Shankar, vốn có ảnh hưởng rất lớn tới cuộc đời Harrison.
Harrison qua đời vì bị ung thư phổi di căn vào tháng 11 năm 2001. McCartney và Starr là 2 trong số nhiều nghệ sĩ tham gia vào Concert for George, buổi diễn từ thiện tưởng nhớ tới Harrison được tổ chức bởi gia đình anh cùng Clapton.
The Beatles
Let It Be... Naked, một ấn bản khác của album Let It Be do McCartney biên tập, được phát hành vào năm 2003. Một trong những điểm khác biệt lớn nhất với ấn bản của Spector đó là việc không còn tồn tại phần bè bởi dàn dây. Album dễ dàng đạt vị trí quán quân tại Anh và Mỹ. Những album của The Beatles từng được phát hành trong giai đoạn 1964-1965 tại Mỹ được tuyển tập lại trong box set The Capitol Albums, Volume 1 (2004) và Volume 2 (2006) bao gồm cả hai định dạng stereo và mono được chỉnh sửa theo những ấn bản đĩa than dự tính được bày bán tại Mỹ vào thời điểm đó.
Let It Be... Naked, một ấn bản khác của album Let It Be do McCartney biên tập, được phát hành vào năm 2003. Album dễ dàng đạt vị trí quán quân tại Anh và Mỹ.
The Beatles
Buổi trình diễn về The Beatles bởi Cirque du Soleil tại Las Vegas được George Martin và con trai Giles hoàn thiện thành album soundtrack mang tên Love với sự tham gia của hơn 130 nghệ sĩ mà Martin gọi là "cách để làm sống lại sự nghiệp âm nhạc của The Beatles trong một khoảng thời gian vô cùng cô đọng". Buổi diễn được thực hiện lần đầu vào tháng 6 năm 2006, và album được phát hành vào tháng 11 cùng năm khi McCartney còn thương lượng để cho ra mắt ca khúc "Carnival of Light" – bản thu thử nghiệm dài 14 phút của ban nhạc tại phòng thu Abbey Road vào năm 1967. Một phần trình diễn hiếm có của 2 cựu-Beatle diễn ra vào tháng 4 năm 2009 tại Royal Albert Hall trong khuôn khổ một hoạt động từ thiện của McCartney. Tại đây, Starr đã tới song ca 3 ca khúc.
Buổi trình diễn về The Beatles bởi Cirque du Soleil tại Las Vegas được George Martin và con trai Giles hoàn thiện thành album soundtrack mang tên Love với sự tham gia của hơn 130 nghệ sĩ mà Martin gọi là "cách để làm sống lại sự nghiệp âm nhạc của The Beatles trong một khoảng thời gian vô cùng cô đọng". Tại đây, Starr đã tới song ca 3 ca khúc.
The Beatles
Năm 2009, toàn bộ lưu trữ của The Beatles được phân phối dưới dạng kỹ thuật số sau quá trình biên tập và chỉnh âm kéo dài tận 4 năm. Cả 12 album chính thức tại Anh dưới định dạng stereo cùng Magical Mystery Tour và album tuyển tập Past Masters được phát hành đồng thời theo ấn bản CD và box set. So sánh với ấn bản CD năm 1987 vốn bị chê bai vì không rõ nét và sinh động, cây viết Danny Eccleston của tờ Mojo nhận xét: "Phần hát trở nên trong trẻo hơn, nhiều âm thanh tự nhiên hơn và tạo cảm giác nhiều đầu tư trong kỹ thuật trộn âm hơn." Tuyển tập tiếp theo The Beatles in Mono ra mắt bao gồm định dạng mono của từng album của ban nhạc cùng với bản stereo gốc năm 1965 của Help! và Rubber Soul (Martin sau này có chỉnh sửa vào năm 1987). The Beatles: Rock Band, một phần trong serie trò chơi điện tử Rock Band, cũng được ra mắt cùng ngày. Tháng 12 năm 2009, lưu trữ của ban nhạc được phát hành dưới định dạng FLAC và MP3 song giới hạn với 30.000 USB.
Năm 2009, toàn bộ lưu trữ của The Beatles được phân phối dưới dạng kỹ thuật số sau quá trình biên tập và chỉnh âm kéo dài tận 4 năm. The Beatles: Rock Band, một phần trong serie trò chơi điện tử Rock Band, cũng được ra mắt cùng ngày.
The Beatles
Vì những bất đồng về bản quyền kéo dài, The Beatles là một trong số những nghệ sĩ tên tuổi cuối cùng ký kết phân phối nhạc trực tuyến. Những tranh chấp bắt nguồn từ vụ kiện của Apple Corps với Apple Inc. – chủ sở hữu của iTunes – về việc sử dụng thương hiệu "Apple". Tới năm 2008, McCartney tuyên bố rằng trở ngại lớn nhất khiến lưu trữ của ban nhạc không thể có được định dạng kỹ thuật số là do EMI "còn muốn một thứ gì đó nữa từ chúng tôi". Năm 2010, toàn bộ 13 album phòng thu chính thức của The Beatles, cùng các album tuyển tập Past Masters, Album đỏ và Album xanh cuối cùng cũng được xuất hiện trên hệ thống phân phối của iTunes.
Vì những bất đồng về bản quyền kéo dài, The Beatles là một trong số những nghệ sĩ tên tuổi cuối cùng ký kết phân phối nhạc trực tuyến. Năm 2010, toàn bộ 13 album phòng thu chính thức của The Beatles, cùng các album tuyển tập Past Masters, Album đỏ và Album xanh cuối cùng cũng được xuất hiện trên hệ thống phân phối của iTunes.
The Beatles
Năm 2012, tập đoàn Universal Music Group của Mỹ mua lại hãng đĩa EMI. Theo những điều luật ràng buộc, Liên minh châu Âu, vì những lý do chống độc quyền, đã buộc EMI phải giữ lại những lưu trữ quý giá, trong đó có Parlophone. EMI được phép giữ lại toàn bộ lưu trữ của The Beatles dưới tên hãng đĩa mới Capitol Records – một chi nhánh mới tại Anh của Universal. Cũng trong năm 2012, EMI cũng cho tái bản toàn bộ các album của ban nhạc dưới dạng đĩa than cũng như từng album dưới dạng box set.
Năm 2012, tập đoàn Universal Music Group của Mỹ mua lại hãng đĩa EMI. EMI được phép giữ lại toàn bộ lưu trữ của The Beatles dưới tên hãng đĩa mới Capitol Records – một chi nhánh mới tại Anh của Universal.
The Beatles
Tới tháng 12 năm 2013, 59 bản thu khác của The Beatles được phát hành trên iTunes. Ấn phẩm mang tên The Beatles Bootleg Recordings 1963 được phép chia sẻ bản quyền tới tận 70 năm tiếp theo với điều kiện các ca khúc đều được giới thiệu ít nhất 1 lần cho tới cuối năm 2013. Apple Records cho phát hành sản phẩm này vào ngày 17 tháng 12 nhằm tránh việc bị phát tán miễn phí rồi bị gỡ trong cùng ngày trên iTunes. Người hâm mộ phản ứng khá trái chiều, và một blogger bình luận "một sản phẩm tuyệt hảo của The Beatles nhằm cố gắng giành lấy tất cả những gì mà vốn họ đã có hết rồi."Ngày 26 tháng 1 năm 2014, McCartney và Starr cùng nhau trình diễn ca khúc "Queenie Eye" tại Giải Grammy lần thứ 56, được tổ chức tại Trung tâm Staples ở Los Angeles. Ngày hôm sau, chương trình truyền hình đặc biệt The Night That Changed America: A Grammy Salute to The Beatles được ghi hình tại Sảnh Tây của Trung tâm Hội nghị Los Angeles. Nó lên sóng vào ngày 9 tháng 2, đúng vào ngày này và trên cùng một kênh thuyền hình cách đây 50 năm về trước – chương trình đầu tiên trên sóng truyền hình Hoa Kỳ của The Beatles tại The Ed Sullivan Show được phát sóng. Chương trình đặc biệt bao gồm các buổi biểu diễn nhiều bài hát của The Beatles do các nghệ sĩ hiện đại thể hiện cũng như của chính McCartney và Starr, những đoạn phim lưu trữ và các buổi phỏng vấn với hai cựu thành viên còn sống do David Letterman thực hiện tại Nhà hát Ed Sullivan. Vào tháng 12 năm 2015, The Beatles đã phát hành tuyển tập những ca khúc của họ trên nhiều dịch vụ âm nhạc trực tuyến khác nhau bao gồm Spotify và Apple Music.Vào tháng 9 năm 2016, bộ phim tài liệu The Beatles: Eight Days a Week được phát hành. Phim do Ron Howard làm đạo diễn, tường thuật lại sự nghiệp của The Beatles trong những năm lưu diễn từ năm 1962 đến năm 1966, từ buổi biểu diễn ở Liverpool vào năm 1961 đến buổi hòa nhạc cuối cùng ở San Francisco năm 1966. Phim được trình chiếu tại các rạp vào ngày 15 tháng 9 tại Vương quốc Anh và Hoa Kỳ, và bắt đầu phát trực tuyến trên Hulu vào ngày 17 tháng 9. Tác phẩm nhận được một số giải thưởng và đề cử, bao gồm đề cử Phim tài liệu xuất sắc nhất tại Giải BAFTA lần thứ 70 và đề cử Phim tài liệu hoặc phi hư cấu xuất sắc nhất tại Giải Primetime Creative Arts Emmy lần thứ 69. Một phiên bản mở rộng, phối và làm lại của The Beatles at the Hollywood Bowl đã được phát hành vào ngày 9 tháng 9, trùng với thời điểm phát hành bộ phim.Vào ngày 18 tháng 5 năm 2017, Sirius XM Radio đã ra mắt kênh phát thanh 24/7, The Beatles Channel. Một tuần sau, Sgt. Pepper's Lonely Hearts Club Band đã được tái phát hành với các bản phối mới và những tác phẩm chưa từng được ra mắt nhân kỷ niệm 50 năm ngày phát hành album. Các box set đã được phát hành cho The Beatles vào tháng 11 năm 2018, và Abbey Road vào tháng 9 năm 2019. Vào tuần đầu tiên của tháng 10 năm 2019, Abbey Road trở lại vị trí số một trên UK Albums Chart. The Beatles đã tự phá kỷ lục của chính mình với việc sở hữu album phòng thu có khoảng cách giữa hai lần đứng đầu bảng xếp hạng âm nhạc dài nhất khi Abbey Road đạt lại vị trí quán quân sau 50 năm kể từ lần phát hành gốc.
Tới tháng 12 năm 2013, 59 bản thu khác của The Beatles được phát hành trên iTunes. Ngày hôm sau, chương trình truyền hình đặc biệt The Night That Changed America: A Grammy Salute to The Beatles được ghi hình tại Sảnh Tây của Trung tâm Hội nghị Los Angeles.
The Beatles
Tháng 11 năm 2021, The Beatles: Get Back, một bộ phim tài liệu do Peter Jackson làm đạo diễn sử dụng các cảnh quay trong bộ phim Let It Be, được phát hành trên Disney+ dưới dạng một miniseries ba phần. Một cuốn sách cũng có tựa đề The Beatles: Get Back đã được phát hành vào ngày 12 tháng 10, trước thời điểm ra mắt bộ phim tài liệu. Một phiên bản siêu sang trọng của album Let It Be được phát hành vào ngày 15 tháng 10. Vào tháng 1 năm 2022, một album mang tên Get Back (Rooftop Performance), bao gồm những bản phối mới về buổi diễn trên sân thượng của The Beatles, đã được phát hành trên nhiều dịch vụ phát nhạc trực tuyến.Năm 2022, McCartney và Starr đã hợp tác thực hiện một bản thu mới của bài hát "Let It Be" với sự tham gia của Dolly Parton, Peter Frampton và Mick Fleetwood, nó dự kiến sẽ được phát hành trong album Rockstar của Parton vào tháng 11 năm 2023. Tháng 10 năm 2022, một phiên bản đặc biệt của album Revolver đã được phát hành, bao gồm những bản demo chưa từng được phát hành, những đoạn thu âm trong phòng thu không được sử dụng (studio outtakes), bản trộn âm thanh ban đầu (original mono mix) và một bản remix stereo mới sử dụng công nghệ tách âm bằng AI do WingNuts Films của Peter Jackson phát triển, trước đây đã được sử dụng để khôi phục âm thanh cho bộ phim tài liệu Get Back.Tháng 6 năm 2023, McCartney công bố kế hoạch phát hành "bản thu cuối cùng của The Beatles" vào cuối năm, sử dụng công nghệ tách âm của Jackson để trích xuất giọng hát của Lennon từ bản demo cũ của một bài hát mà ông đã sáng tác khi hoạt động solo. Tháng 10 năm 2023, bài hát được tiết lộ là "Now and Then", với thời điểm phát hành vật lý và kỹ thuật số là vào ngày 2 tháng 11 năm 2023.
Tháng 11 năm 2021, The Beatles: Get Back, một bộ phim tài liệu do Peter Jackson làm đạo diễn sử dụng các cảnh quay trong bộ phim Let It Be, được phát hành trên Disney+ dưới dạng một miniseries ba phần. Vào tháng 1 năm 2022, một album mang tên Get Back (Rooftop Performance), bao gồm những bản phối mới về buổi diễn trên sân thượng của The Beatles, đã được phát hành trên nhiều dịch vụ phát nhạc trực tuyến.Năm 2022, McCartney và Starr đã hợp tác thực hiện một bản thu mới của bài hát "Let It Be" với sự tham gia của Dolly Parton, Peter Frampton và Mick Fleetwood, nó dự kiến sẽ được phát hành trong album Rockstar của Parton vào tháng 11 năm 2023.
The Beatles
"Từ hình ảnh thuở ban đầu hồn nhiên của những chàng trai bù xù dí dỏm, The Beatles đã phát triển âm thanh, phong cách và cả thái độ trên sân khấu cũng như mở tung cánh cửa rock 'n' roll cho nhạc rock nước Anh. Những thành công ban đầu đã quá đủ để biến họ trở thành một trong những nhân vật có ảnh hưởng nhất của thời đại, song họ không muốn dừng lại ở đó. Cho dù phong cách ban đầu của họ là vô cùng cơ bản, dung hòa được nhạc rock 'n' roll Mỹ nguyên thủy với nhạc R&B, song The Beatles đã dành hầu hết quãng thời gian còn lại của thập kỷ 1960 để phá vỡ mọi giới hạn của nhạc rock, đem tới những phong cách mới trong mỗi album. Những thử nghiệm ngày một phức tạp của ban nhạc đã được tạo nên từ vô số thể loại khác nhau, từ folk rock, nhạc đồng quê, psychedelic rock cho tới baroque pop mà không có chút liên hệ mật thiết nào với thời kỳ đầu của họ."Trong cuốn The Beatles as Musicians, Walter Everett viết về sự cạnh tranh và đối lập giữa Lennon và McCartney trong những sáng tác của ban nhạc: "Có thể nói McCartney đã trưởng thành không ngừng – theo ý nghĩa giải trí – trong hình ảnh người nhạc sĩ tài năng với đôi tai đối âm hoàn hảo cùng nhiều khía cạnh khác của những ngón nghề từng được tất cả mọi người thừa nhận – thứ ngôn ngữ chung mà anh vô cùng chú trọng. Trái lại, âm nhạc của Lennon được đánh giá cao trong việc táo bạo sản xuất những tiềm thức lớn lao, tìm kiếm những xúc cảm nghệ thuật rất hệ thống."Ian MacDonald miêu tả McCartney là "một người viết nhạc bẩm sinh – người tạo ra những âm thanh sống động cùng những hòa âm của chúng". Những giai điệu của McCartney thường đặc trưng bởi sự nổi bật của "trục dọc" cùng với đó là những quãng rộng, du dương nhằm diễn đạt "năng lượng và sự lạc quan ngoại hướng". Trong khi đó, "bản lĩnh vững vàng và đầy châm biếm" của Lennon là hình ảnh của "trục ngang" với những quãng nhỏ và nghịch tai cùng với đó là những giai điệu lặp theo kèm với thứ nhạc đệm mà anh luôn chú trọng: "Vốn là một người thực tế, anh ấy luôn giữ giai điệu của mình theo sát với nhịp điệu và phách, bổ sung vào ca từ những yếu tố blues hơn là sáng tạo ra những nốt có thể khiến người khác sửng sốt." MacDonald cũng đánh giá cao vai trò lead guitar của Harrison với "những nốt đặc trưng cùng chất liệu đầy màu sắc" bên cạnh những đóng góp của Lennon và McCartney, đồng thời gọi Starr là "hình mẫu của mọi tay trống pop/rock hiện đại".
"Từ hình ảnh thuở ban đầu hồn nhiên của những chàng trai bù xù dí dỏm, The Beatles đã phát triển âm thanh, phong cách và cả thái độ trên sân khấu cũng như mở tung cánh cửa rock 'n' roll cho nhạc rock nước Anh. Cho dù phong cách ban đầu của họ là vô cùng cơ bản, dung hòa được nhạc rock 'n' roll Mỹ nguyên thủy với nhạc R&B, song The Beatles đã dành hầu hết quãng thời gian còn lại của thập kỷ 1960 để phá vỡ mọi giới hạn của nhạc rock, đem tới những phong cách mới trong mỗi album.
The Beatles
Những người sớm có ảnh hưởng tới ban nhạc bao gồm Elvis Presley, Carl Perkins, Little Richard và Chuck Berry. Trong thời gian The Beatles ở cùng Little Richard tại câu lạc bộ Star-Club ở Hamburg từ tháng 4 tới tháng 5 năm 1962, họ đã được chỉ dẫn nhiều kỹ năng về nghệ thuật trình diễn. Về Presley, Lennon nói: "Chưa có gì thu hút tôi cho tới khi tôi được nghe Elvis. Nếu không có Elvis, hẳn sẽ không bao giờ có The Beatles."Những nghệ sĩ lớn khác có ảnh hưởng tới ban nhạc còn có thể kể tới Buddy Holly, Eddie Cochran, Roy Orbison và The Everly Brothers. The Beatles tiếp tục thu nhận những ảnh hướng khác ngay từ những thành công đầu tiên của họ, cùng với đó là thường xuyên tham khảo nhiều hình mẫu về ca từ và âm nhạc từ các nghệ sĩ đương thời, bao gồm Bob Dylan, Frank Zappa, The Lovin' Spoonful, The Byrds và The Beach Boys, đặc biệt album Pet Sounds (1966) đã làm choáng ngợp và tạo cảm hứng lớn lao cho McCartney. Martin nhấn mạnh: "Nếu không có Pet Sounds thì sẽ không bao giờ có Sgt. Pepper... Pepper sinh ra là để đáp lại Pet Sounds." Ravi Shankar từng trải qua 6 tuần cùng Harrison tại Ấn Độ vào cuối năm 1966, và kể từ đó tạo nên những ảnh hưởng rõ ràng lên tư duy và sự phát triển âm nhạc của The Beatles.
Những người sớm có ảnh hưởng tới ban nhạc bao gồm Elvis Presley, Carl Perkins, Little Richard và Chuck Berry. Nếu không có Elvis, hẳn sẽ không bao giờ có The Beatles.
The Beatles
Cải tiến chính là một trong những nét đặc trưng nhất trong quá trình phát triển của ban nhạc. Nhà nghiên cứu âm nhạc Michael Campbell bình luận: ""A Day in the Life" đã đúc kết nghệ thuật và những thành tựu của The Beatles trong một đĩa đơn. Điểm sáng nằm trong âm nhạc tuyệt hảo của họ: những âm thành giàu hình tượng, sự du dương của giai điệu ngọt ngào và sự phối hợp chặt chẽ giữa âm nhạc và ca từ. Ca khúc đã trở thành một biểu tượng mới – phức tạp hơn nhạc pop thông thường... và hoàn toàn tân tiến. Chưa bao giờ tồn tại một sản phẩm như vậy – vừa đặc trưng vừa kết hợp âm nhạc cổ điển – mà họ đã tổng hợp lại từ rất nhiều yếu tố đa dạng." Nhà nghiên cứu triết học Bruce Ellis Benson cũng đồng ý: "The Beatles... đã đem tới cho chúng ta ví dụ về những hình tượng có ảnh hưởng nhất như âm nhạc Celtic, R&B, âm nhạc đồng quê và cả âm nhạc phương Đông đều có thể dung hòa với nhau và tự trở thành một con đường hoàn toàn mới."Cây bút Dominic Pedler viết về cách The Beatles đi xa hơn những thể loại âm nhạc thông thường: "Hơn cả việc đi từ thể loại này sang thể loại khác (mà đôi lúc bị nhầm lẫn), ban nhạc vẫn giữ nguyên trong mình sự bí ẩn âm nhạc đặc trưng, tạo nên những bản hit cùng lúc với việc nâng cấp nhạc rock và lục tìm những giới hạn rộng lớn kể cả từ những yếu tố ngoại vi như nhạc đồng quê và vaudeville. Một trong những bước tiến của họ là vẫn sử dụng folk rock như phần nền cho âm nhạc của mình bên cạnh âm nhạc Ấn Độ và cả triết học." Khi mối bất đồng giữa các thành viên ngày một gia tăng, sự khác biệt cá nhân lại ngày một rõ rệt. Phần bìa thiết kế tối giản của Album trắng hoàn toàn đối lập với sự phức tạp và đa dạng của phần nội dung âm nhạc, điển hình là ca khúc "Revolution 9" của Lennon được viết theo phong cách musique concrète ảnh hưởng từ Yoko Ono, "Don't Pass Me By" của Starr được viết theo phong cách đồng quê, "While My Guitar Gently Weeps" của Harrison mang phong cách rock ballad còn "Helter Skelter" của McCartney được coi là tiền thân của heavy metal.
Cải tiến chính là một trong những nét đặc trưng nhất trong quá trình phát triển của ban nhạc. Ca khúc đã trở thành một biểu tượng mới – phức tạp hơn nhạc pop thông thường... và hoàn toàn tân tiến.
The Beatles
Ảnh hưởng của George Martin trong vai trò nhà sản xuất đã đưa ông trở thành một trong những nhân vật xứng đáng nhất với tên gọi "Beatle thứ năm". Ông đã đem tới niềm đam mê âm nhạc cổ điển qua nhiều hình thức khác nhau, biến mình trở thành "một thầy giáo dạy nhạc" qua việc tham gia vào công việc viết nhạc. Chính Martin là người đã gợi ý với McCartney việc sử dụng dàn tứ tấu dây làm phần bè cho ca khúc "Yesterday", từ đó giới thiệu với The Beatles "thế giới bất ngờ và rộng lớn của những nhạc cụ cổ điển đầy màu sắc". Sức sáng tạo của ban nhạc cũng nhận được sự ủng hộ lớn từ Martin khi ông dám đề nghị thử nghiệm với mọi ý kiến của họ, điển hình là việc cho thêm "chút baroque" vào nhiều ca khúc. Ngoài việc hòa âm và chỉ huy dàn nhạc, Martin đôi lúc còn tham gia thu âm cùng ban nhạc khi chơi piano, organ và cả kèn hơi.
Ảnh hưởng của George Martin trong vai trò nhà sản xuất đã đưa ông trở thành một trong những nhân vật xứng đáng nhất với tên gọi "Beatle thứ năm". Ông đã đem tới niềm đam mê âm nhạc cổ điển qua nhiều hình thức khác nhau, biến mình trở thành "một thầy giáo dạy nhạc" qua việc tham gia vào công việc viết nhạc.
The Beatles
"So với những ca khúc của Paul vốn được viết ít nhiều liên quan tới thực tế, các ca khúc của John mang tính phiêu diêu và nhiều yếu tố bí ẩn hơn... Khả năng tưởng tượng chính là điểm nổi bật trong các sáng tác của John – "những cây quýt", "bầu trời màu mứt cam", "những bông hoa bằng giấy bóng kính",... Tôi cứ nghĩ rằng cậu ấy là Salvador Dalí trong hình hài một nhạc sĩ phong lưu - nghiện thuốc. Mặt khác, tôi không thể nói rằng các chất kích thích không có ảnh hưởng lớn tới cuộc sống của các Beatle... họ biết rằng tôi – một người được học hành đầy đủ – sẽ không bao giờ đồng tình... Không những tôi không thử dùng những thứ đó, tự tôi thấy mình không cần tới chúng. Và tôi cũng không ngần ngại nói rằng nếu như tôi từng sử dụng ma túy thì Pepper sẽ không bao giờ được như vậy. Có lẽ sự cộng hưởng giữa những tay nghiện thuốc và những người không dùng chúng chính là chìa khóa của thành công, liệu có ai dám chắc?"Harrison cũng tôn vinh vai trò trong phòng thu của Martin: "Tôi nghĩ chúng tôi đã cùng nhau trưởng thành suốt quãng thời gian đó, ông ấy là một người đường hoàng còn chúng tôi thì như lũ điên. Nhưng ông ấy lại luôn ở bên để giúp chúng tôi hiểu hơn về sự điên rồ của mình – chúng tôi vẫn thường thử nghiệm avant-garde vài ngày mỗi tuần, và ông ấy có mặt như người đáng tin cậy nhất để diễn đạt trực tiếp tới kỹ thuật viên và với băng thâu."
"So với những ca khúc của Paul vốn được viết ít nhiều liên quan tới thực tế, các ca khúc của John mang tính phiêu diêu và nhiều yếu tố bí ẩn hơn... Khả năng tưởng tượng chính là điểm nổi bật trong các sáng tác của John – "những cây quýt", "bầu trời màu mứt cam", "những bông hoa bằng giấy bóng kính",... Tôi cứ nghĩ rằng cậu ấy là Salvador Dalí trong hình hài một nhạc sĩ phong lưu - nghiện thuốc. Có lẽ sự cộng hưởng giữa những tay nghiện thuốc và những người không dùng chúng chính là chìa khóa của thành công, liệu có ai dám chắc?
The Beatles
Nhận thức rằng cải tiến kỹ thuật phòng thu cũng là giúp mở rộng chất lượng thu âm, The Beatles đã tận dụng triệt để kinh nghiệm từ George Martin và đội ngũ kỹ thuật viên của ông. Luôn hướng tới việc tận dụng mọi cơ hội để sáng tạo, từ cách chơi guitar ngược, dội âm theo nguyên tắc chai thủy tinh, thu âm băng ngược để có đoạn chơi ngược,... tất cả đều có trong những sản phẩm thu âm của họ. Niềm đam mê tạo nên những âm thanh mới trong mỗi bản thu cùng với khả năng hòa âm tuyệt vời của Martin cùng với tài năng của các kỹ thuật viên kinh nghiệm của EMI như Norman Smith, Ken Townsend và Geoff Emerick, đã tạo nên những ấn tượng vô cùng đặc trưng kể từ Rubber Soul, và có lẽ rõ ràng hơn, kể từ Revolver. Cùng với những cải tiến về kỹ thuật thu âm và hiệu ứng âm thanh, những vị trí đặt micro bất bình thường, băng thâu, ghi âm đè và thay đổi tốc độ băng thâu, The Beatles cũng đưa vào nhiều nhạc cụ chưa từng được sử dụng với nhạc rock vào thời điểm đó. Những nhạc cụ kể trên bao gồm dàn dây và dàn hơi cùng những nhạc cụ Ấn Độ như sitar trong "Norwegian Wood" và swarmandal trong "Strawberry Fields Forever". Họ cũng sử dụng nhiều nhạc cụ điện mới như mellotron mà McCartney chơi trong phần mở đầu của "Strawberry Fields", hay chiếc clavioline – chiếc keyboard đặc biệt đã tạo nên hiệu ứng như kèn ô-boa trong "Baby, You're a Rich Man".
Nhận thức rằng cải tiến kỹ thuật phòng thu cũng là giúp mở rộng chất lượng thu âm, The Beatles đã tận dụng triệt để kinh nghiệm từ George Martin và đội ngũ kỹ thuật viên của ông. Luôn hướng tới việc tận dụng mọi cơ hội để sáng tạo, từ cách chơi guitar ngược, dội âm theo nguyên tắc chai thủy tinh, thu âm băng ngược để có đoạn chơi ngược,... tất cả đều có trong những sản phẩm thu âm của họ.
The Beatles
Những cải tiến của ban nhạc đã tạo nên niềm cảm hứng cho vô vàn nghệ sĩ trên toàn thế giới. Rất nhiều nghệ sĩ đã tiếp nhận ảnh hưởng từ The Beatles và có được những thành công tại các bảng xếp hạng khi hát lại các ca khúc của ban nhạc. Trên sóng phát thanh, sự xuất hiện của họ đánh dấu một thời kỳ mới; năm 1968, phát thanh viên đài WABC ở New York từng cấm DJ cho phát bất cứ ca khúc nào "tiền-Beatles". Họ cũng góp phần định nghĩa lại album là một khối thống nhất chứ không phải là các bản hit theo kèm là những ca khúc "lấp chỗ trống", và họ cũng là những người đầu tiên cách tân các video ca nhạc. Buổi diễn của ban nhạc tại sân vận động Shea Stadium mở màn tour diễn vòng quanh nước Mỹ năm 1965 thu hút 55.600 khán giả và đây chính là buổi diễn ngoài trời lớn nhất lịch sử. Spitz miêu tả sự kiện này "một cơn địa chấn... một bước tiến khổng lồ trong việc định hình lại khái niệm buổi trình diễn thương mại". Trang phục và đặc biệt kiểu tóc của họ – thứ vốn trở thành biểu tượng của phong trào giải phóng xã hội – có ảnh hưởng toàn cầu về mặt thời trang.
Những cải tiến của ban nhạc đã tạo nên niềm cảm hứng cho vô vàn nghệ sĩ trên toàn thế giới. Spitz miêu tả sự kiện này "một cơn địa chấn... một bước tiến khổng lồ trong việc định hình lại khái niệm buổi trình diễn thương mại".
The Beatles
Theo Gould, The Beatles đã thay đổi cách người nghe thưởng thức âm nhạc quần chúng, mặt khác đưa nó vào cuộc sống chính mình. Kể từ thời kỳ Beatlemania, sự nổi tiếng của ban nhạc đã trở thành hiện thân của những chuyển biến văn hóa xã hội của thập kỷ. Là biểu tượng của phong trào phản văn hóa thập niên 1960, họ chính là chất xúc tác đưa những người phóng túng tự do và những nhà hoạt động xã hội tới những chủ đề tranh luận đa dạng, thúc đẩy những hoạt động như phong trào giải phóng phụ nữ, phong trào giải phóng người đồng tính và bảo vệ môi trường. Theo Peter Lavezzoli, sau sự kiện gây tranh cãi "nổi tiếng hơn cả Chúa Jesus" vào năm 1966, The Beatles đã cảm thấy áp lực hơn trước mỗi phát ngôn của mình và "bắt đầu những cố gắng đầy toan tính mỗi khi truyền đạt một thông điệp về sự thông thái hay về kiến thức sâu xa."
Theo Gould, The Beatles đã thay đổi cách người nghe thưởng thức âm nhạc quần chúng, mặt khác đưa nó vào cuộc sống chính mình. Là biểu tượng của phong trào phản văn hóa thập niên 1960, họ chính là chất xúc tác đưa những người phóng túng tự do và những nhà hoạt động xã hội tới những chủ đề tranh luận đa dạng, thúc đẩy những hoạt động như phong trào giải phóng phụ nữ, phong trào giải phóng người đồng tính và bảo vệ môi trường.
The Beatles
Năm 1965, nữ hoàng Elizabeth II đã trao tặng tước hiệu Thành viên Hoàng gia Anh (MBE) cho ban nhạc. Bộ phim Let It Be cũng giành tượng vàng Oscar năm 1971 cho Nhạc phim xuất sắc nhất. Ngoài 7 giải Grammy và 15 giải Ivor Novello, The Beatles còn có 6 album đạt chứng chỉ Kim cương, 24 album đạt chứng chỉ đa-Bạch kim, 39 album đạt chứng chỉ Bạch kim và 45 album đạt chứng chỉ Vàng tại Mỹ. Tại Anh, ban nhạc có 4 album đa-Bạch kim, 4 album Bạch kim, 8 album Vàng và 1 album Bạc. Họ được vinh danh tại Đại sảnh Danh vọng Rock and Roll vào năm 1998.
Năm 1965, nữ hoàng Elizabeth II đã trao tặng tước hiệu Thành viên Hoàng gia Anh (MBE) cho ban nhạc. Ngoài 7 giải Grammy và 15 giải Ivor Novello, The Beatles còn có 6 album đạt chứng chỉ Kim cương, 24 album đạt chứng chỉ đa-Bạch kim, 39 album đạt chứng chỉ Bạch kim và 45 album đạt chứng chỉ Vàng tại Mỹ.
The Beatles
Với ít nhất 600 triệu đĩa đã bán, The Beatles là ban nhạc có số đĩa bán chạy nhất lịch sử (theo EMI, con số này là 1 tỷ). Họ cũng là nghệ sĩ có nhiều album quán quân nhất tại Anh (với 15 album) và bán được tổng cộng 21,9 triệu đĩa đơn, nhiều hơn bất kể nghệ sĩ nào khác. Năm 2004, tạp chí danh giá Rolling Stone xếp The Beatles là nghệ sĩ vĩ đại nhất mọi thời đại. Năm 2008, họ cũng có được vị trí số một trong danh sách nghệ sĩ thành công nhất tại Billboard Hot 100 nhân dịp kỷ niệm 50 năm ra đời của bảng xếp hạng. Tính tới năm 2012, họ chính là nghệ sĩ có nhiều đĩa đơn quán quân nhất tại bảng xếp hạng trên với 20 đĩa đơn. RIAA chứng nhận The Beatles bán được 117 triệu đĩa tại Mỹ, nhiều hơn bất kể nghệ sĩ nào khác. Họ cũng được có tên trong danh sách "Nhân vật quan trọng nhất của thế kỷ 20" của tạp chí Time. Năm 2014, The Beatles được trao giải Grammy Thành tựu trọn đời.
Với ít nhất 600 triệu đĩa đã bán, The Beatles là ban nhạc có số đĩa bán chạy nhất lịch sử (theo EMI, con số này là 1 tỷ). Năm 2004, tạp chí danh giá Rolling Stone xếp The Beatles là nghệ sĩ vĩ đại nhất mọi thời đại.
The Beatles
Năm 1965, công ty không còn thuộc quyền sở hữu tư nhân nữa. Gần 5 triệu cổ phiếu được niêm yết với mệnh giá tổng cộng tới 3,75 triệu $. James và Silver sở hữu 935.000 cổ phiếu, Lennon và McCartney sở hữu lần lượt 750.000 cổ phiếu còn công ty của Epstein – NEMS – được nhận 375.000 cổ phiếu. Trong số 1,25 triệu cổ phiếu còn lại, Starr và Harrison chỉ nhận lần lượt 40.000 cổ phiếu. Cùng lúc công ty được đưa lên sàn chứng khoán, Lennon và McCartney cũng ký hợp đồng mới có thời hạn 3 năm ràng buộc họ với Northern Songs tới năm 1973.
Năm 1965, công ty không còn thuộc quyền sở hữu tư nhân nữa. James và Silver sở hữu 935.000 cổ phiếu, Lennon và McCartney sở hữu lần lượt 750.000 cổ phiếu còn công ty của Epstein – NEMS – được nhận 375.000 cổ phiếu.
The Beatles
Harrison thành lập công ty Harrisongs nhằm giới thiệu những sáng tác của mình trong thời kỳ The Beatles, nhưng rồi sau đó cũng ký hợp đồng với Northern Songs để chia sẻ bản quyền cho tới tháng 3 năm 1968, bao gồm cả những ca khúc như "Taxman", "Within You Without You". Những ca khúc đồng sáng tác bởi Starr trước năm 1968 như "What Goes On" và "Flying" cũng thuộc quyền sở hữu của Northern Songs. Harrison không ký hợp đồng mới với Northern Songs mà ký hợp đồng với Apple Corps nhằm giúp anh giữ được bản quyền tất cả các sáng tác của mình. Kể từ đó, Harrison đã không mất bản quyền cho những sáng tác sau này cho The Beatles như "While My Guitar Gently Weeps" và "Something". Cùng năm, Starr thành lập công ty Startling Music nhằm giữ bản quyền cho các sáng tác của mình như "Don't Pass Me By" và "Octopus's Garden".
Harrison thành lập công ty Harrisongs nhằm giới thiệu những sáng tác của mình trong thời kỳ The Beatles, nhưng rồi sau đó cũng ký hợp đồng với Northern Songs để chia sẻ bản quyền cho tới tháng 3 năm 1968, bao gồm cả những ca khúc như "Taxman", "Within You Without You". Những ca khúc đồng sáng tác bởi Starr trước năm 1968 như "What Goes On" và "Flying" cũng thuộc quyền sở hữu của Northern Songs.
The Beatles
Tháng 3 năm 1969, James bí mật thu xếp bán cổ phần của mình và Silver cho hãng truyền hình Anh quốc Associated Television (ATV) được thành lập bởi Lew Grade mà không thông báo cho The Beatles. Ban nhạc buộc phải thương thảo để giành lấy tác quyền qua việc đưa ra đề nghị rằng hãng truyền hình có trụ sở ở London được quyền nắm 14% lợi nhuận. Tuy nhiên, điều khoản này bị từ chối bởi Lennon khi anh tuyên bố "tôi phát ốm vì mấy gã ăn mặc bảnh bao béo mập ngồi ở văn phòng trên Thành phố". Tới cuối tháng 5, ATV đã có được phần lớn sản phẩm của Northern Songs, kiểm soát hầu hết các lưu trữ của Lennon-McCartney cũng như những sáng tác cho tới năm 1973. Quá thất vọng, cả Lennon và McCartney đều bán hết cổ phiếu của mình cho ATV vào cuối tháng 10 năm 1969.
Tháng 3 năm 1969, James bí mật thu xếp bán cổ phần của mình và Silver cho hãng truyền hình Anh quốc Associated Television (ATV) được thành lập bởi Lew Grade mà không thông báo cho The Beatles. Ban nhạc buộc phải thương thảo để giành lấy tác quyền qua việc đưa ra đề nghị rằng hãng truyền hình có trụ sở ở London được quyền nắm 14% lợi nhuận.
The Beatles
Năm 1981, ACC – công ty mẹ của ATV – làm ăn thua lỗ, buộc họ phải rao bán mảng âm nhạc của mình. Theo 2 tác giả Brian Southall và Rupert Perry, Grade đã liên lạc với McCartney đề nghị bán ATV và Northern Songs với giá 30 triệu $. Theo lời McCartney kể lại vào năm 1995, anh đã gặp Grade và giải thích mình chỉ quan tâm duy nhất tới Northern Songs vậy nên anh chỉ mua lại nếu Grade chịu "phân tách" lời đề nghị. Không lâu sau, Grade rao bán Northern Songs với giá 20 triệu £ và cho các cựu-Beatles "1 tuần để suy nghĩ". Theo McCartney, anh và Ono có đề nghị với giá 5 triệu £ song bị từ chối. Theo nhiều nguồn vào thời điểm đó, Grade sau đó từ chối lời đề nghị mua Northern Songs rồi cũng từ chối lời mua lại ATV Music từ Ono và McCartney với giá 21-25 triệu £. Năm 1982, ACC được mua lại bởi doanh nhân người Úc, Robert Holmes à Court, với giá 60 triệu £.
Năm 1981, ACC – công ty mẹ của ATV – làm ăn thua lỗ, buộc họ phải rao bán mảng âm nhạc của mình. Theo nhiều nguồn vào thời điểm đó, Grade sau đó từ chối lời đề nghị mua Northern Songs rồi cũng từ chối lời mua lại ATV Music từ Ono và McCartney với giá 21-25 triệu £.
The Beatles
3 năm sau, Michael Jackson mua lại ATV với giá 47,5 triệu $. Thương vụ giúp anh kiểm soát toàn bộ hơn 200 ca khúc của The Beatles, cùng với đó là hơn 40.000 hợp đồng bản quyền. Năm 1995, Jackson sáp nhập công ty với Sony để thành lập nên công ty phát hành Sony/ATV Music Publishing mà anh nắm giữ 50% cổ phần. Công ty mới này được định giá tới hơn nửa tỷ $ và trở thành hãng quản lý âm nhạc lớn thứ 3 thế giới.
3 năm sau, Michael Jackson mua lại ATV với giá 47,5 triệu $. Năm 1995, Jackson sáp nhập công ty với Sony để thành lập nên công ty phát hành Sony/ATV Music Publishing mà anh nắm giữ 50% cổ phần.
The Beatles
Cho dù bị mất tác quyền của phần lớn những sáng tác, song những người thừa kế hợp pháp của Lennon và bản thân McCartney vẫn được nhận % theo luật bản quyền, giúp họ có được 33⅓% doanh thu từ Mỹ và 50-55% doanh thu trên toàn thế giới. 2 ca khúc đầu tiên của Lennon-McCartney, "Love Me Do" và "P.S. I Love You", được phát hành bởi công ty con của EMI – Ardmore & Beechwood – trước khi họ ký hợp đồng với James. McCartney mua lại Ardmore vào giữa những năm 1980, và đây trở thành 2 ca khúc duy nhất của The Beatles thuộc quyền sở hữu của công ty MPL Communications của McCartney.
Cho dù bị mất tác quyền của phần lớn những sáng tác, song những người thừa kế hợp pháp của Lennon và bản thân McCartney vẫn được nhận % theo luật bản quyền, giúp họ có được 33⅓% doanh thu từ Mỹ và 50-55% doanh thu trên toàn thế giới. 2 ca khúc đầu tiên của Lennon-McCartney, "Love Me Do" và "P.S.
When Harry Met Sally...
When Harry Met Sally... (tạm dịch: Khi Harry gặp Sally...) là một bộ phim hài kịch lãng mạn của Hoa Kỳ năm 1989 do Nora Ephron viết kịch bản và Rob Reiner đạo diễn. Phim xoay quanh câu chuyện của hai nhân vật Harry (Billy Crystal) và Sally (Meg Ryan) từ lần gặp mặt đầu tiên của họ trong chuyến đi dọc đất nước cho đến mối quan hệ tình cảm giữa hai người 12 năm sau đó ở New York. Phim đặt nên câu hỏi "Liệu phụ nữ và đàn ông có thể chỉ là bạn bè?" và đề cập đến nhiều ý tưởng về mối quan hệ tình cảm quen thuộc trong đời sống.Phim bắt nguồn từ lúc Reiner trở lại cuộc sống độc thân sau khi ly hôn, tạo nên nền tảng cho nhân vật Harry, trong khi Sally dựa trên Ephron và một vài người bạn của bà ngoài đời thực. Crystal bắt tay vào dự án và có đóng góp vào phần kịch bản, mang tính hài hước cho nhân vật Harry. Ephron dựng nên cấu trúc cho bộ phim, với lời thoại dựa trên tình bạn ngoài đời giữa Reiner và Crystal. Nhạc phim chứa nhiều bản nhạc do Harry Connick, Jr. trình bày, với ban nhạc và dàn hòa tấu được Marc Shaiman điều khiển, giúp Connick giành giải Grammy cho "Trình diễn giọng nam jazz xuất sắc nhất".
When Harry Met Sally... (tạm dịch: Khi Harry gặp Sally...) là một bộ phim hài kịch lãng mạn của Hoa Kỳ năm 1989 do Nora Ephron viết kịch bản và Rob Reiner đạo diễn. Nhạc phim chứa nhiều bản nhạc do Harry Connick, Jr. trình bày, với ban nhạc và dàn hòa tấu được Marc Shaiman điều khiển, giúp Connick giành giải Grammy cho "Trình diễn giọng nam jazz xuất sắc nhất".
When Harry Met Sally...
Columbia Pictures phát hành bộ phim thông qua kỹ thuật "nền tảng"—hãng công bố phim tại nhiều thành phố chọn lọc, sau đó tạo nên sức hút bằng những lời truyền miệng và sau cùng ra mắt mở rộng trong nhiều tuần. When Harry Met Sally... đạt doanh thu 92.8 triệu đô-la Mỹ tại khu vực Bắc Mỹ. Ephron nhận một giải BAFTA, một đề cử giải Oscar và một giải Nghiệp đoàn tác giả Hoa Kỳ cho kịch bản của bà. Phim nằm trong danh sách 100 phim hài của Viện phim Mỹ và danh sách "100 phim hài hước nhất" của Bravo's. Entertainment Weekly liệt bộ phim này vào danh sách "10 bộ phim lãng mạn hay nhất mọi thời đại".
Columbia Pictures phát hành bộ phim thông qua kỹ thuật "nền tảng"—hãng công bố phim tại nhiều thành phố chọn lọc, sau đó tạo nên sức hút bằng những lời truyền miệng và sau cùng ra mắt mở rộng trong nhiều tuần. Ephron nhận một giải BAFTA, một đề cử giải Oscar và một giải Nghiệp đoàn tác giả Hoa Kỳ cho kịch bản của bà.
When Harry Met Sally...
Năm 1977, Harry Burns (Billy Crystal) và Sally Albright (Meg Ryan) tốt nghiệp từ Đại học Chicago và dùng chung xe đến thành phố New York, nơi Sally theo học trường báo chí và Harry xây dựng sự nghiệp. Harry đang hẹn hò với cô bạn của Sally, Amanda (Michelle Nicastro). Trong chuyến hành trình dài 18 tiếng, hai người tranh luận về mối quan hệ giữa nam giới và nữ giới. Theo Harry: "Đàn ông và đàn bà không bao giờ có thể trở thành bạn bè vì vấn đề tình dục luôn xen vào giữa mối quan hệ của họ". Sally không đồng ý, khẳng định hai phái hoàn toàn có thể trở thành bạn bè mà không dính dáng đến chuyện tình dục. Trong lúc dừng lại ăn tối, Sally bực tức khi Harry bảo rằng cô hấp dẫn; cô cáo buộc anh đang tán tỉnh cô. Tại New York, hai người chia tay trong gượng gạo.
Năm 1977, Harry Burns (Billy Crystal) và Sally Albright (Meg Ryan) tốt nghiệp từ Đại học Chicago và dùng chung xe đến thành phố New York, nơi Sally theo học trường báo chí và Harry xây dựng sự nghiệp. Harry đang hẹn hò với cô bạn của Sally, Amanda (Michelle Nicastro).
When Harry Met Sally...
Năm năm sau, Harry và Sally tình cờ đi cùng một chuyến bay. Sally lúc này đang hẹn hò với một người đàn ông tên Joe (Steven Ford)—người ở cùng nhà với Harry trước đây—và Harry đang đính hôn với một người phụ nữ tên Helen, khiến Sally bất ngờ. Trong lần nói chuyện thứ hai, Harry thay đổi quan điểm về quan hệ nam nữ, anh đề nghị được kết bạn với Sally nhưng cô tỏ ra thờ ơ và họ lại chia tay mà không hẹn ngày gặp lại. Cả hai gặp lại tại một hiệu sách ở New York vào 5 năm sau đó. Họ cùng uống cà phê và kể về những mối tình trước đây; Sally đã chia tay Joe vì cô muốn một gia đình nhưng anh ta không muốn kết hôn; và cuộc tình của Harry và Helen kết thúc khi cô yêu một người đàn ông khác. Hai người đi dạo và quyết định làm bạn. Họ trò chuyện qua điện thoại suốt đêm khuya, đi ăn tối và thường xuyên ở bên nhau. Trải nghiệm hẹn hò của họ tiếp tục cho thấy sự khác biệt giữa tình yêu và tình dục của cả hai.
Năm năm sau, Harry và Sally tình cờ đi cùng một chuyến bay. Hai người đi dạo và quyết định làm bạn.
When Harry Met Sally...
Trong bữa tiệc cuối năm, họ thực sự bị hấp dẫn lẫn nhau. Dù cố giữ tình bạn, họ vẫn giới thiệu cho đối phương người bạn thân nhất, Marie (Carrie Fisher) và Jess (Bruno Kirby). Khi 4 người đến một nhà hàng, Marie và Jess lại vô cùng ăn ý; sau cùng họ đính hôn với nhau. Một đêm nọ, Sally òa khóc khi gọi điện cho Harry và kể về người bạn trai cũ của cô sắp lấy vợ. Harry chạy đến căn hộ của cô để an ủi và cả hai vô tình ngủ với nhau để rồi thức dậy sáng hôm sau với tâm trạng bối rối. Sự kiện này khiến quan hệ tốt đẹp giữa Harry và Sally trở nên căng thẳng. 3 tuần sau, cả hai cãi nhau rất lớn trong đám cưới của Jess và Marie. Sau đó, Harry liên tục hàn gắn tình bạn nhưng cô cảm thấy họ không thể làm bạn được nữa. Tại bữa tiệc năm mới, Sally lạc lõng khi không có Harry bên cạnh. Harry thì lang thang một mình trên những con phố. Khi Sally quyết định rời bữa tiệc, Harry xuất hiện và nói thật với Sally rằng anh yêu cô và cả những thói quen kì quặc của cô. Họ làm lành và kết hôn 3 tháng sau đó.
Trong bữa tiệc cuối năm, họ thực sự bị hấp dẫn lẫn nhau. Tại bữa tiệc năm mới, Sally lạc lõng khi không có Harry bên cạnh.
When Harry Met Sally...
Năm 1984, đạo diễn Rob Reiner, nhà sản xuất Andy Scheinman và biên kịch Nora Ephron bắt đầu bàn về một bộ phim chung của ba người. Reiner nảy ra một ý tưởng nhưng Ephron từ chối. Cuộc gặp gỡ thứ hai biến thành một buổi thảo luận dài hơi về đời sống độc thân của Reiner và Scheinman. Reiner nhớ lại: "Tôi lúc này đang sống độc thân sau khi ly dị được một thời gian ngắn và trải qua những mối quan hệ tình cảm tồi tệ". Lần gặp kế đến, Reiner nói rằng ông muốn làm một bộ phim về hai người muốn trở thành bạn bè mà không dính dáng đến tình dục vì sợ làm hỏng mối quan hệ để rồi cuối cùng họ lại ngủ với nhau. Ephron cảm thấy thích ý tưởng này và Reiner yêu cầu một bản hợp đồng tại xưởng phim.Bà sau đó phỏng vấn Reiner và Scheinman về cuộc sống của họ để lấy tư liệu viết kịch bản. Những buổi phỏng vấn cũng là nền tảng cho nhân vật Harry. Reiner liên tục chán nản, bi quan nhưng rất hài hước. Ephron cũng gặp nhiều khó khăn với lời thoại trong buổi phỏng vấn. Sally dựa trên hình tượng của Ephron và một vài người bạn của bà. Bà viết nhiều bản nháp trong nhiều năm trong khi Reiner thực hiện Stand By Me và The Princess Bride. Billy Crystal tham gia khi dự án này mang tên Boy Meets Girl và có đóng góp riêng đến kịch bản, khiến nhân vật Harry hài hước hơn. Crystal cũng từng có "trải nghiệm gián tiếp" với cuộc sống độc thân sau khi ly hôn diễn viên hài và nhà làm phim Penny Marshall và nghiên cứu cho vai Harry.Trong quá trình viết kịch bản, Ephron tham khảo cả ý kiến những nhân viên trong công ty sản xuất phim. Một vài buổi phỏng vấn xuất hiện trong bộ phim như những đoạn trò chuyện ngắn giữa các đôi vợ chồng về việc làm thế nào họ đến được với nhau, dù đã được viết lại và quay với các diễn viên. Ephron đưa vào cấu trúc phim nhiều lời thoại dựa trên tình bạn ngoài đời của Reiner và Crystal. Ví dụ như cảnh Sally và Harry trò chuyện điện thoại ở hai nửa màn ảnh, cùng nhau xem truyền hình, là điều mà Crystal và Reiner làm mỗi đêm.
Năm 1984, đạo diễn Rob Reiner, nhà sản xuất Andy Scheinman và biên kịch Nora Ephron bắt đầu bàn về một bộ phim chung của ba người. Một vài buổi phỏng vấn xuất hiện trong bộ phim như những đoạn trò chuyện ngắn giữa các đôi vợ chồng về việc làm thế nào họ đến được với nhau, dù đã được viết lại và quay với các diễn viên.
When Harry Met Sally...
Lúc đầu, Ephron muốn gọi bộ phim này là How They Met và tiếp tục chuyển sang nhiều tựa đề khác. Reiner còn tổ chức một cuộc thi trong đoàn làm phim trong thời gian ghi hình—ai nghĩ ra cái tên hay nhất sẽ giành một hộp rượu champagne. Để nhập vai Harry trong tình trạng cô độc sau khi ly hôn, Crystal ở trong một phòng riêng, ngăn cách với cả đoàn làm phim trong suốt thời gian quay ở Manhattan. Kịch bản dự định kết thúc với việc Harry và Sally chỉ giữ tình bạn mà không tiến xa hơn thành tình yêu, vì Ephron và Reiner cảm thấy đó mới là "cái kết đúng nghĩa". Sau cùng, Ephron và Reiner nhận ra sẽ phù hợp hơn nếu để họ lấy nhau, dù không được thực tế. Khi đề cập đến câu hỏi trọng tâm của bộ phim, "Liệu phụ nữ và đàn ông có thể chỉ là bạn bè?", Ryan trả lời, "Có chứ, phụ nữ và đàn ông có thể chỉ là bạn bè. Tôi có nhiều người bạn là nam và tình dục không ảnh hưởng gì cả." Crystal nói, "Tôi có đôi chút lạc quan hơn Harry. Nhưng tôi nghĩ chuyện này rất khó."Trong một cảnh khi hai nhân vật ăn trưa tại Katz's Delicatessen, Manhattan, họ tranh cãi liệu một người đàn ông có thể nhận ra khi một người phụ nữ đang giả vờ đạt cực khoái hay không. Sally khẳng định đàn ông không thể biết và chứng minh khi giả vờ đạt cực khoái ngay giữa nhà hàng đông người. Cảnh phim kết thúc khi Sally thản nhiên tiếp tục ăn, khiến một người phụ nữ ngồi cạnh bên (do mẹ của Reiner, Estelle Reiner thủ vai) đã đề nghị người hầu bàn: "Cho tôi một suất giống cô ấy" (Nguyên văn: "I'll have what she's having"). Khi Estelle Reiner qua đời vào năm 2008, The New York Times gọi bà là người phụ nữ "mang đến một trong những lời thoại hài hước dễ nhớ nhất lịch sử điện ảnh". Viện phim Mỹ bình chọn câu thoại này, xếp thứ 33 trong số 100 câu thoại đáng nhớ từ các bộ phim Mỹ mọi thời đại. Cảnh này được quay lại nhiều lần và Ryan phải diễn đạt cực khoái trong nhiều tiếng đồng hồ liền. Nhà hàng Katz's Deli vẫn còn đặt một tấm biển trên chiếc bàn này, ghi rằng "Nơi Harry gặp Sally... Chúc bạn sẽ có những gì cô ấy đạt được!".
Lúc đầu, Ephron muốn gọi bộ phim này là How They Met và tiếp tục chuyển sang nhiều tựa đề khác. Cảnh này được quay lại nhiều lần và Ryan phải diễn đạt cực khoái trong nhiều tiếng đồng hồ liền.
When Harry Met Sally...
Hãng Columbia Records phát hành album nhạc phim vào tháng 7 năm 1989 với âm hưởng chủ đạo là nhạc jazz. Nghệ sĩ trình bày chính là Harry Connick, Jr. cùng ban nhạc, nhạc đệm được soạn bởi Marc Shaiman. Khi Reiner nghe đoạn băng do Colomby gửi, ông bị thu hút bởi giọng hát của Connick và cho rằng rất giống với giọng của Frank Sinatra hồi trẻ. Phần trình diễn của Connick giúp ông giành giải Grammy đầu tiên cho "Trình diễn giọng nam jazz hay nhất". Connick cũng lưu diễn tại Bắc Mỹ để quảng bá album này.
Hãng Columbia Records phát hành album nhạc phim vào tháng 7 năm 1989 với âm hưởng chủ đạo là nhạc jazz. Phần trình diễn của Connick giúp ông giành giải Grammy đầu tiên cho "Trình diễn giọng nam jazz hay nhất".
When Harry Met Sally...
Columbia Pictures phát hành bộ phim thông qua kỹ thuật "nền tảng"—hãng công bố phim tại nhiều thành phố chọn lọc, sau đó tạo nên sức hút bằng những lời truyền miệng và sau cùng ra mắt mở rộng trong nhiều tuần. Trong tuần đầu tiên phát hành, bộ phim thu về 1 triệu đô-la Mỹ tiền vé trên tổng số 41 rạp. Billy Crystal lo rằng phim có thể sẽ thất bại về doanh thu khi phải đối mặt với nhiều phim bom tấn mùa hè năm đó như Indiana Jones and the Last Crusade hay Người dơi. Bộ phim bắt đầu chiếu rộng rãi trên 775 rạp từ ngày 21 tháng 7 năm 1989 và thu về ở tuần đầu tiên 8.8 triệu đô-la Mỹ. Phim sau đó mở rộng đến 1.147 rạp chiếu và đạt tổng doanh thu 92.8 triệu đô-la Mỹ tính riêng ở khu vực Bắc Mỹ, so với khoản đầu tư 16 triệu đô-la Mỹ cho phim.When Harry Met Sally... lần đầu ra mắt dưới định dạng VHS vào cuối năm 1989, vài tháng sau khi công chiếu ở rạp. Phim tái phát hành trên VHS vào năm 1994 như là một phần trong bộ sưu tập của Billy Crystal và năm 1997 trong phiên bản Contemporary Classics. Phim phát hành dưới dạng DVD vào ngày 9 tháng 1 năm 2001. DVD bao gồm bộ phim, phần bình luận của Reiner, phóng sự dài 35 phút về việc thực hiện bộ phim ("Making Of", có cả các cuộc phỏng vấn ngắn với Reiner, Ephron, Ryan và Crystal), một số cảnh bị cắt khỏi bản phát hành ngoài rạp và một clip bài hát "It Had To Be You" do Harry Connick, Jr. biểu diễn. Ngày 15 tháng 1 năm 2008, một DVD đặc biệt cho người sưu tầm được phát hành với phần bình luận mới của Reiner, Ephron, Crystal, 8 cảnh bị cắt, 8 đoạn phim ngắn (featurette) chưa từng được phát hành (gồm It All Started Like This, Stories Of Love, When Rob Met Billy, Billy On Harry, I Love New York, What Harry Meeting Sally Meant, So Can Men And Women Really Be Friends?) và đoạn phim quảng cáo gốc. Trên định dạng Blu-ray phát hành ngày 5 tháng 7 năm 2011 còn có chứa những đoạn phim đặc biệt từ lần ra mắt DVD 2008.
Columbia Pictures phát hành bộ phim thông qua kỹ thuật "nền tảng"—hãng công bố phim tại nhiều thành phố chọn lọc, sau đó tạo nên sức hút bằng những lời truyền miệng và sau cùng ra mắt mở rộng trong nhiều tuần. DVD bao gồm bộ phim, phần bình luận của Reiner, phóng sự dài 35 phút về việc thực hiện bộ phim ("Making Of", có cả các cuộc phỏng vấn ngắn với Reiner, Ephron, Ryan và Crystal), một số cảnh bị cắt khỏi bản phát hành ngoài rạp và một clip bài hát "It Had To Be You" do Harry Connick, Jr. biểu diễn.
When Harry Met Sally...
Các đánh giá đến When Harry Met Sally... đa phần là tích cực. Phim giành được tỉ lệ 90% tích cực trên Rotten Tomatoes, với lời tổng kết: "Bộ phim hài hước, cảm động của Rob Reiner đã nâng cao tiêu chuẩn cho thể loại hài kịch lãng mạn và thừa hưởng từ sự tương tác ăn ý giữa Billy Crystal và Meg Ryan". Trên Metacritic, bộ phim đạt 76 trên 100 điểm, dựa trên 17 bài nhận xét.Nhà phê bình phim hàng đầu Roger Ebert đã nhận xét Reiner là "một trong những đạo diễn phim hài xuất sắc nhất Hollywood" và rằng bộ phim "ngoài cấu trúc chuẩn mực theo đúng như mong đợi, còn trở nên đặc biệt nhờ sự phối hợp diễn xuất giữa Crystal và Ryan. Còn trên báo The New York Times, Caryn James lại cho rằng When Harry Met Sally... đã "lãng mạn hóa cuộc sống của những người New York thông minh, thành đạt nhưng đầu óc luôn căng thẳng", James cũng đánh giá đây là một "phiên bản hài kịch tình huống của Woody Allen, với đầy các câu thoại và cảnh phim hài hước, nhưng cũng làm người xem không thoải mái vì cảm giác có thể đoán trước được kết cục".Bài phê bình của Rita Kempley trên Washington Post thì ca ngợi Meg Ryan là "Melanie Griffith của mùa hè – một cô nàng tóc vàng đáng yêu cuối cùng cũng có cơ hội để bộc lộ sự cởi mở của mình. Mike Clark trên tờ USA Today đã chấm cho phim 3 trên 4 sao với nhận xét: "Crystal đủ hài hước để được khen ngợi bên cạnh diễn xuất của Ryan. Còn về Meg Ryan thì đây thực sự là vai diễn đột phá của cô, nó một lần nữa chứng tỏ con mắt tinh tế của Reiner trong việc chọn diễn viên". Một trong số các nhận xét tồi hiếm hoi về When Harry Met Sally... là của David Ansen trên Newsweek, ông cho rằng "không ngạc nhiên khi thấy Crystal nắm bắt rất tốt bộ phim hài này, tuy nhiên anh ta tỏ ra quá lạnh và thu mình cho một vai diễn lãng mạn như Harry", David cũng đánh giá bộ phim "có nhiều đoạn xuất sắc nhưng lại không được ghép nối tốt".
Các đánh giá đến When Harry Met Sally... đa phần là tích cực. Phim giành được tỉ lệ 90% tích cực trên Rotten Tomatoes, với lời tổng kết: "Bộ phim hài hước, cảm động của Rob Reiner đã nâng cao tiêu chuẩn cho thể loại hài kịch lãng mạn và thừa hưởng từ sự tương tác ăn ý giữa Billy Crystal và Meg Ryan".
When Harry Met Sally...
Trong nhiều năm, When Harry Met Sally... đã trở thành "bộ phim tình cảm đương đại tinh túy vẫn sống cùng thời gian". Ephron chia sẻ mình vẫn nhận nhiều thư từ người hâm mộ bộ phim và "mọi người cứ liên tục kể với tôi rằng họ 'đang có một mối tình Harry-và-Sally với cô ấy hay anh ấy'." Phim nằm ở vị trí thứ 23 trong danh sách 100 phim hài của Viện phim Mỹ và danh sách "100 phim hài hước nhất" của Bravo's. Entertainment Weekly liệt bộ phim này vào danh sách "10 bộ phim lãng mạn hay nhất mọi thời đại", đạt hạng 75 tại danh sách "Phim hài hước nhất trong 25 năm qua" và thứ 3 trong danh sách "25 phim lãng mạn đương đại".Bộ phim được cho là nguồn cảm hứng với nhiều bộ phim lãng mạn hài hước khác như A Lot Like Love, Hum Tum và Definitely, Maybe. Ngoài ra, bộ phim cũng giúp truyền bá nhiều ý tưởng về mối quan hệ tình cảm quen thuộc trong đời sống. Vào tháng 6 năm 2008, Viện phim Mỹ công bố danh sách "Ten top Ten"—liệt kê 10 phim Mỹ "kinh điển" hay nhất thuộc 10 thể loại khác nhau—sau khi khảo sát 1.500 người trong ban chọn lọc. When Harry Met Sally đạt hạng 6 trong thể loại phim hài hước lãng mạn. Phim cũng đứng ở vị trí thứ 15 trong danh sách "25 phim lãng mạn hài hước hay nhất" trên trang Rotten Tomatoes.Nora Ephron đã giành nhiều đề cử và giải thưởng với kịch bản của When Harry Met Sally... Tại lễ trao giải Oscar lần thứ 62, bà được đề cử cho hạng mục "Kịch bản gốc hay nhất" nhưng thất bại trước Tom Schulman với kịch bản phim Dead Poets Society. Ephron chiến thắng giải giải thưởng của Viện Hàn lâm Nghệ thuật Điện ảnh và Truyền hình Anh quốc (BAFTA) cho "Kịch bản gốc hay nhất" vào năm 1990. Tại lễ trao giải Quả cầu vàng lần thứ 47, phim giành 5 đề cử cho "Phim ca nhạc hoặc hài kịch hay nhất", "Đạo diễn xuất sắc nhất" (cho Reiner), "Vai nam chính phim ca nhạc hoặc hài kịch xuất sắc nhất" (cho Billy Crystal), "Vai nữ chính phim ca nhạc hoặc hài kịch xuất sắc nhất" (cho Meg Ryan) và "Kịch bản xuất sắc nhất" (cho Nora Ephron).
Trong nhiều năm, When Harry Met Sally... đã trở thành "bộ phim tình cảm đương đại tinh túy vẫn sống cùng thời gian". Ngoài ra, bộ phim cũng giúp truyền bá nhiều ý tưởng về mối quan hệ tình cảm quen thuộc trong đời sống.
Ó cá
Như tên gọi của chúng, thức ăn của chúng hầu như chỉ là cá. Chúng có các đặc điểm hình thái và hành vi rất đặc biệt giúp chúng có thể săn và bắt con mồi. Do các đặc điểm độc đáo này, chúng được phân loại vào một chi riêng, chi Pandion duy nhất của họ Pandionidae. Có 4 phân loài được công nhận trên thế giới. Mặc dù có xu hướng làm tổ gần các khu vực có nước, chúng không phải là một loài đại bàng biển.
Như tên gọi của chúng, thức ăn của chúng hầu như chỉ là cá. Chúng có các đặc điểm hình thái và hành vi rất đặc biệt giúp chúng có thể săn và bắt con mồi.
Ó cá
Ó cá là một trong những loài được Carolus Linnaeus mô tả trong công trình của ông trong thế kỷ XVIII, Systema Naturae, và được đặt tên là Falco haliætus thuộc chi Cắt Falco. Chi Pandion là chi duy nhất trong họ Pandionidae, và chỉ chứa một loài duy nhất là P. haliaetus. Chi Pandion được nhà động vật học Pháp Marie Jules César Savigny mô tả năm 1809, và được đặt theo tên vị vua thành Athens trong thần thoại Hy Lạp là Pandion II. Tên loài haliaetus biến thể từ tiếng Hy Lạp cổ đại ἁλιάετος "Haliaeetus/đại bàng biển". Trong tiếng Việt, tên gọi ưng biển hay ó cá xuất phát môi trường sinh thái ngoài biển và tập tính bắt cá làm thức ăn của chúng.
Ó cá là một trong những loài được Carolus Linnaeus mô tả trong công trình của ông trong thế kỷ XVIII, Systema Naturae, và được đặt tên là Falco haliætus thuộc chi Cắt Falco. Trong tiếng Việt, tên gọi ưng biển hay ó cá xuất phát môi trường sinh thái ngoài biển và tập tính bắt cá làm thức ăn của chúng.
Ó cá
Ó cá có một số nét khác với các loài chim săn mồi ban ngày khác. Các ngón ở chân của ó cá dài bằng nhau, xương cổ chân có dạng lưới, còn móng vuốt lại tròn thay vì có rãnh. Ó cá và cú là các loài săn mồi duy nhất mà ngón chân cái của chúng lại ở bên ngoài, ngược lại so với các loài chim săn mồi khác (thường thì ngón cái ở phía bên trong), cho phép chúng có thể bắt được con mồi với hai ngón trước và hai ngón sau. Điều này đặc biệt có ích khi bắt các loài cá trơn trượt. Nó luôn thể hiện một điều gì đó còn thách thức đối với các nhà phân loại học, nhưng trong trường hợp này nó được xem là một thành viên trong họ Pandionidae, và họ này từng được xếp vào bộ Cắt. Theo một số người khác thì chúng cũng được xếp cùng với diều, ưng và đại bàng vào họ Ưng, và nằm trong một bộ lớn là bộ Ưng hoặc họ Cắt trong bộ Cắt. Ví dụ như phân loại của Sibley-Ahlquist xếp nó cùng với các loài săn mồi ban ngày khác vào một đơn vị phân loại lớn hơn là Ciconiiformes, nhưng cách xếp này làm cho việc phân loại cận ngành không tự nhiên.
Ó cá có một số nét khác với các loài chim săn mồi ban ngày khác. Điều này đặc biệt có ích khi bắt các loài cá trơn trượt.
Ó cá
Có hai loài tuyệt chủng được ghi nhận từ việc phát hiện ra các hóa thạch. Pandion homalopteron được Stuart L. Warter đặt tên năm 1976 từ một hóa thạch có tuổi thuộc thế Miocen giữa, tầng Barstow, được tìm thấy trong các trầm tích biển ở một vài nơi thuộc miền nam tiểu bang California. Loài thứ hai là Pandion lovensis được Jonathan J. Becker mô tả năm 1985 từ các nghiên cứu hóa thạch được tìm thấy ở tiểu bang Florida và được xác định là có niên đại thuộc giai đoạn Clarendon sớm và có thể đại diện một nhánh riêng biệt của nó là P. homalopteron và P. haliaetus. Một số hóa thạch móng vuốt đã được thu nhặt trong các trầm tích Pliocen và Pleistocen ở Florida và Nam Carolina, Hoa Kỳ. Tuy nhiên hóa thạch cổ nhất là của họ Pandionidae được tìm thấy thuộc Oligocene, giai đoạn hình thành Jebel Qatrani, ở Faiyum, Ai Cập. Tuy nhiên, những đặc điểm của chúng không đủ để có thể xếp vào loài cụ thể. Một hóa thạch khác của họ Pandionidae cũng đã được tìm thấy trong các lớp trầm tích Oligocen sớm tại thung lũng Mainz, Đức, đã được Gerald Mayr mô tả năm 2006.
Có hai loài tuyệt chủng được ghi nhận từ việc phát hiện ra các hóa thạch. Pandion homalopteron được Stuart L. Warter đặt tên năm 1976 từ một hóa thạch có tuổi thuộc thế Miocen giữa, tầng Barstow, được tìm thấy trong các trầm tích biển ở một vài nơi thuộc miền nam tiểu bang California.
Ó cá
Ó cá có trọng lượng trung bình 0,9-2,1 kg, chiều dài 50–66 cm và sải cánh rộng 127–180 cm. Các phân loài có kích thước gần giống nhau, trung bình 1,53 kg: phân loài P. h. carolinensis là 1,7 kg và P. h. cristatus là 1,25 kg. Cánh có chiều dài 38–52 cm, đuôi 16,5–24 cm và xương cổ chân 5,2-6,6 cm. Phần trên có màu nâu đậm trong khi ức có màu trắng và đôi khi có sọc màu nâu, còn phần lông còn lại có màu trắng. Phần đầu màu trắng với một vòng màu sẫm quanh mắt, kéo dài đến hai bên cổ. Đồng tử có màu vàng và nâu, trong khi vòng màng xung quanh trong suốt có màu xanh dương nhạt. Mỏ có màu đen, phần đỉnh nhô lên có màu xanh dương, và bàn chân có màu trắng với các móng vuốt đen. Với một cái đuôi ngắn, cánh hẹp và bốn lông vũ dài như những ngón tay, lông thứ 5 ngắn hơn làm cho nó có hình dáng rất đặc biệt.Con trống với con mái gần như giống nhau về diện mạo, nhưng con trống trưởng thành khác với con mái ở chỗ cơ thể nó mảnh hơn và cánh hẹp hơn. Phần lông ở ngực của con trống nhỏ và nhạt hơn so với con mái hoặc có thể là chỉ có màu trắng tinh khiết, và lông dưới cánh của con trống cũng nhạt hơn con mái. Có thể dễ dàng phân biệt khi chúng mới nở hơn so với các cá thể trưởng thành. Ó cá non có thể được xác định bởi màu sắc phần lông trên lưng, dưới bụng, và các lông sọc trên đầu. Đến mùa xuân, ó cá non có thêm một lớp lông vũ dày hơn so với lớp lông tơ trước đây của nó.Khi bay, ó cá cong các cánh và rủ xuống giống với mòng biển. Chúng có tiếng kêu thanh, như cheep, cheep hay yewk, yewk. Nếu tổ của chúng có nguy hiểm, chúng phát ra tiếng kêu như cheereek!
Ó cá có trọng lượng trung bình 0,9-2,1 kg, chiều dài 50–66 cm và sải cánh rộng 127–180 cm. Các phân loài có kích thước gần giống nhau, trung bình 1,53 kg: phân loài P. h. carolinensis là 1,7 kg và P. h. cristatus là 1,25 kg.
Ó cá
Ó cá là loài chim ăn thịt phân bố rộng rãi thứ hai trên thế giới chỉ sau loài Falco peregrinus. Chúng được tìm thấy ở tất cả các châu lục trừ lục địa Nam Cực, tại các vùng đất có khí hậu nhiệt đới và ôn đới. Ở Bắc Mỹ, nó sinh sản khắp các vùng đất từ Alaska, Newfoundland đến tận phía Nam các bang Vùng vịnh của Hoa Kỳ và Florida, trú đông từ miền Nam Hoa Kỳ đến tận Argentina. Tại châu Âu, ó cá được tìm thấy tại khắp bán đảo Scandinavia và Scotland vào mùa hè. Những khu vực khắc nghiệt bao gồm cả Iceland, Bắc Phi không thấy sự xuất hiện của chúng. Ở Úc, ó cá chủ yếu sinh sống rải rác xung quanh bờ biển, tuy nhiên chúng cũng di trú không sinh sản ở Tây Victoria và Tasmania. Có một khoảng cách 1000 km so với bờ biển của đồng bằng Nullarbor, giữa điểm sinh sản cận Tây của nó ở Nam Úc và các điểm sinh sản gần nhất về phía Tây ở Tây Úc. Ó cá cũng có mặt tại các đảo thuộc Thái Bình Dương như quần đảo Bismarck, quần đảo Solomon và Nouvelle-Calédonie, và các hóa thạch đã được tìm thấy ở Tonga, có lẽ do sự lấn chiếm đất đai của con người khiến chúng mất dần khu vực sinh sống tại đây. Có thể chúng từng có thời gian phân bố khắp các đảo thuộc Vanuatu và Fiji. Tại châu Á, các khu vực di trú bao gồm Nam Á, và Đông Nam Á từ Myanmar qua Đông Dương, miền Nam Trung Quốc, Indonesia, Malaysia và Philippines.
Ó cá là loài chim ăn thịt phân bố rộng rãi thứ hai trên thế giới chỉ sau loài Falco peregrinus. Có một khoảng cách 1000 km so với bờ biển của đồng bằng Nullarbor, giữa điểm sinh sản cận Tây của nó ở Nam Úc và các điểm sinh sản gần nhất về phía Tây ở Tây Úc.
Ó cá
Ó cá sinh sản cạnh các hồ nước ngọt, và đôi khi là các vùng nước lợ ven biển. Các vách đá ngoài khơi được sử dụng ở đảo Rottnest bờ biển của Tây Úc có khoảng 14 địa điểm làm tổ trong đó có từ 4-7 là được sử dụng trong một năm. Một số được làm lại theo từng mùa, và một số có thể sử dụng cho 70 năm. Tổ là một đống các than gỗ, cỏ biển được xây dựng trong các ốc cây, mỏm đá, cột điện, các công trình nhân tạo trên các đảo nhỏ ngoài khơi. Nhìn chung, ó cá đạt đến tuổi trưởng thành và bắt đầu sinh sản từ đó đến 3 hoặc 4 năm tiếp theo, mặc dù ở một số khu vực có mật độ ó cá lớn, như vịnh Chesapeake ở Hoa Kỳ, chúng có thể không bắt đầu sinh sản mãi cho đến khi được 5 đến 7 tuổi, và có thể là sự thiếu hụt các cấu trúc có độ cao thích hợp cho chúng làm tổ. Nếu không có các vị trí làm tổ, ó cá con có thể buộc phải trì hoãn sinh sản. Để giải quyết vấn đền này, các trụ đôi khi được xây dựng để tạo ra các vị trí thích hợp cho chúng xây tổ.
Ó cá sinh sản cạnh các hồ nước ngọt, và đôi khi là các vùng nước lợ ven biển. Nhìn chung, ó cá đạt đến tuổi trưởng thành và bắt đầu sinh sản từ đó đến 3 hoặc 4 năm tiếp theo, mặc dù ở một số khu vực có mật độ ó cá lớn, như vịnh Chesapeake ở Hoa Kỳ, chúng có thể không bắt đầu sinh sản mãi cho đến khi được 5 đến 7 tuổi, và có thể là sự thiếu hụt các cấu trúc có độ cao thích hợp cho chúng làm tổ.
Ó cá
Các nghiên cứu về ó cá của Thụy Điển cho thấy rằng các con cái có khuynh hướng di cư đến châu Phi sớm hơn con đực. Có nhiều chặng dừng chân trong suốt đợt di cư trong mùa thu. Sự thay đổi về giờ và khoảng thời gian trong mùa thu thì có ý nghĩa nhiều hơn trong mùa xuân. Mặc dù di chuyển chủ yếu trong ngày, thỉnh thoảng chúng bay một vài giờ trong đêm đặc biệt là qua các vực nước và trung bình bay 260–280 km/ngày, tối đa là 431 km/ngày. Các loài chim châu Âu cũng có thể di trú mùa đông ở Nam Á, ó cá xung quanh Na Uy cũng được phát hiện ở miền tây Ấn Độ.
Các nghiên cứu về ó cá của Thụy Điển cho thấy rằng các con cái có khuynh hướng di cư đến châu Phi sớm hơn con đực. Các loài chim châu Âu cũng có thể di trú mùa đông ở Nam Á, ó cá xung quanh Na Uy cũng được phát hiện ở miền tây Ấn Độ.
Ó cá
Ó cá có diện phân bố rộng lớn, chỉ tính riêng châu Phi và châu Mỹ là 9.670.000 km², và có số cá thể trên toàn cầu ước tính khoảng 460.000 con. Mặc dù các khuynh hướng cá thể trên toàn cầu không định lượng được nhưng loài này được cho là không nằm ở ngưỡng giảm số cá thể theo tiêu chí của IUCN (như giảm hơn 30% trong vòng 10 năm hoặc 3 thế hệ), và do đó, loài này được xếp vào nhóm ít quan tâm. Có dấu hiệu cho thấy sự sụt giảm cá thể ở Nam Úc ở những nơi thuộc vịnh Spencer và dọc theo hạ lưu của sông Murray.Vào cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX, các mối đe dọa chính đối với số lượng cá thể ó cá là việc thu lượm trứng và săn bắt con trưởng thành cùng với các loài chim săn mồi khác, số cá thể ó cá đã giảm nhiều mạnh ở một số khu vực trong thập niên 1950 và 1960, một phần là do ảnh hưởng của các thuốc trừ sâu như DDT lên hệ sinh sản của chúng. Thuốc trừ sâu can thiệp vào quá trình trao đổi calci của chim làm cho trứng trứng có thành mỏng, dễ vỡ hoặc không thể thụ tinh. Có thể vì cấm sử dụng DDT ở nhiều quốc gia vào đầu thập niên 1970 cùng với việc giảm săn bắt, số cá thể ó cá cũng như những loài bị ảnh hưởng khác đã hồi phục đáng kể. Ở Nam Úc, các địa điểm làm tổ của chúng trên bán đảo Eyre và đảo Kangaroo là dễ bị tổn thương bởi các hoạt động giải trí không kiểm soát ven biển và phát triển đô thị.Ó cá là loài chim biểu tượng của tỉnh bang Nova Scotia, Canada và tỉnh Södermanland, Thụy Điển.
Ó cá có diện phân bố rộng lớn, chỉ tính riêng châu Phi và châu Mỹ là 9.670.000 km², và có số cá thể trên toàn cầu ước tính khoảng 460.000 con. Mặc dù các khuynh hướng cá thể trên toàn cầu không định lượng được nhưng loài này được cho là không nằm ở ngưỡng giảm số cá thể theo tiêu chí của IUCN (như giảm hơn 30% trong vòng 10 năm hoặc 3 thế hệ), và do đó, loài này được xếp vào nhóm ít quan tâm.
Virus
Virus, thường được viết là vi-rút (bắt nguồn từ tiếng Pháp virus /viʁys/), còn được gọi là siêu vi, siêu vi khuẩn hay siêu vi trùng, là một tác nhân truyền nhiễm chỉ nhân lên được khi ở bên trong tế bào sống của một sinh vật khác. Virus có thể xâm nhiễm vào tất cả các dạng sinh vật, từ động vật, thực vật cho tới vi khuẩn và cổ khuẩn. Kể từ bài viết đầu tiên của Dmitriy Iosifovich Ivanovsky năm 1892, mô tả về một dạng mầm bệnh không thuộc vi khuẩn mà lây nhiễm vào cây thuốc lá, và sự khám phá ra virus khảm thuốc lá của Martinus Beijerinck năm 1898, cho đến nay có khoảng 9,000 loại virus đã được miêu tả chi tiết, mặc dù vẫn còn có tới hàng triệu (hoặc tỷ) dạng virus khác nhau. Virus được tìm thấy ở hầu hết mọi hệ sinh thái trên Trái Đất và là dạng có số lượng nhiều nhất trong tất cả các thực thể sinh học. Khoa học nghiên cứu virus được biết với tên virus học (virology), một chuyên ngành phụ của vi sinh.
Virus, thường được viết là vi-rút (bắt nguồn từ tiếng Pháp virus /viʁys/), còn được gọi là siêu vi, siêu vi khuẩn hay siêu vi trùng, là một tác nhân truyền nhiễm chỉ nhân lên được khi ở bên trong tế bào sống của một sinh vật khác. Virus có thể xâm nhiễm vào tất cả các dạng sinh vật, từ động vật, thực vật cho tới vi khuẩn và cổ khuẩn.
Virus
Các phần tử (hay hạt) virus (được gọi là virion hoặc vi-ri-ông) được tạo thành từ hai hoặc ba bộ phận: phần vật chất di truyền được tạo nên từ DNA hoặc RNA – những phân tử dài có mang thông tin di truyền, một lớp vỏ protein – được gọi với tên capsid – có chức năng bảo vệ hệ gen và một lớp vỏ bọc bên ngoài làm từ lipid mà bao bọc bên ngoài lớp vỏ protein khi virus ở ngoài tế bào (chỉ có trong một số trường hợp). Hình dạng của virus có sự khác nhau, từ dạng xoắn ốc hay khối hai mươi mặt đều đơn giản cho tới những cấu trúc phức tạp hơn. Một virus có kích thước trung bình vào khoảng 1/100 kích cỡ trung bình của một con vi khuẩn. Hầu hết virus đều quá nhỏ nên không thể quan sát trực tiếp dưới kính hiển vi quang học.
Các phần tử (hay hạt) virus (được gọi là virion hoặc vi-ri-ông) được tạo thành từ hai hoặc ba bộ phận: phần vật chất di truyền được tạo nên từ DNA hoặc RNA – những phân tử dài có mang thông tin di truyền, một lớp vỏ protein – được gọi với tên capsid – có chức năng bảo vệ hệ gen và một lớp vỏ bọc bên ngoài làm từ lipid mà bao bọc bên ngoài lớp vỏ protein khi virus ở ngoài tế bào (chỉ có trong một số trường hợp). Một virus có kích thước trung bình vào khoảng 1/100 kích cỡ trung bình của một con vi khuẩn.
Virus
Nguồn gốc của virus trong lịch sử tiến hóa của sự sống không rõ ràng: một số có thể đã tiến hóa từ những plasmid – những đoạn DNA ngắn có khả năng di chuyển giữa các tế bào – trong khi số khác có thể đã tiến hóa từ vi khuẩn. Trong tiến hóa, virus là một phương tiện chuyển gen ngang quan trọng, góp phần gia tăng sự đa dạng di truyền. Virus được công nhận là một dạng sống bởi một số nhà khoa học, do chúng có mang vật chất di truyền, có thể sinh sản và tiến hóa thông qua quá trình chọn lọc tự nhiên. Tuy nhiên mặt khác chúng lại thiếu những đặc tính thiết yếu (như cấu trúc tế bào) – những điều được công nhận rộng rãi là cần thiết để được coi như sinh vật sống. Bởi vì chỉ có một số chứ không tất cả các phẩm chất cần thiết, nên virus được mô tả như "những sinh vật ở bên lề của sự sống". Tuy nhiên, virus chỉ có thể xâm nhập qua một số tế bào nhất định nhờ có giác bám (gai glycoprotein) của virus bám đặc hiệu lên thụ thể của tế bào chủ.Virus lây lan theo nhiều cách; virus thực vật thường được truyền từ cây này sang cây khác qua những loài côn trùng hút nhựa cây như rệp vừng; trong khi virus động vật lại có thể được truyền đi nhờ những côn trùng hút máu. Những sinh vật mang mầm bệnh như vậy được gọi là những véc-tơ. Virus cúm lan truyền thông qua ho và hắt hơi. Norovirus và rotavirus, nguyên nhân chính của bệnh viêm dạ dày ruột siêu vi, lây lan qua đường phân-miệng và truyền từ người này sang người khác thông qua tiếp xúc, cũng như xâm nhập vào cơ thể qua thức ăn hay nước uống. HIV là một trong vài loại virus lây nhiễm thông qua quan hệ tình dục và tiếp xúc với máu bị nhiễm bệnh. Mỗi virus chỉ có thể xâm nhiễm vào một số dạng tế bào vật chủ nhất định, gọi là "biên độ vật chủ" (host range); biên độ này có thể rất hẹp hoặc rất rộng, tùy vào số lượng những sinh vật khác nhau mà virus có khả năng lây nhiễm.Sự xâm nhập của virus trong động vật đã kích hoạt một phản ứng miễn dịch nhằm loại bỏ virus xâm nhiễm. Những phản ứng miễn dịch cũng có thể được tạo ra bởi vắc-xin, giúp tạo ra miễn dịch chủ động nhân tạo đối với một virus xâm nhiễm nhất định. Tuy nhiên, một số virus, bao gồm những loại gây ra AIDS và viêm gan siêu vi, lại có thể trốn tránh những phản ứng trên và gây ra sự nhiễm bệnh mãn tính. Đa phần các chất kháng sinh không có hiệu quả đối với virus, dù vậy cũng đã có những loại thuốc kháng virus được phát triển.
Nguồn gốc của virus trong lịch sử tiến hóa của sự sống không rõ ràng: một số có thể đã tiến hóa từ những plasmid – những đoạn DNA ngắn có khả năng di chuyển giữa các tế bào – trong khi số khác có thể đã tiến hóa từ vi khuẩn. Bởi vì chỉ có một số chứ không tất cả các phẩm chất cần thiết, nên virus được mô tả như "những sinh vật ở bên lề của sự sống".
Virus
Từ virus trong tiếng Việt bắt nguồn từ từ tiếng Pháp virus /viʁys/.. Từ virus trong tiếng Pháp thì bắt nguồn từ từ tiếng Latinh virus, có nghĩa là chất độc. Virus được ghi nhận với nghĩa "tác nhân gây bệnh truyền nhiễm" lần đầu vào năm 1728, trước khi Dmitri Ivanovsky phát hiện ra virus vào năm 1892. Thuật ngữ virion bắt đầu có từ năm 1959, được dùng để chỉ một phần tử virus, đơn lẻ, ổn định, có khả năng lây nhiễm được giải phóng ra từ tế bào và hoàn toàn có thể xâm nhập các tế bào khác cùng loại.
Từ virus trong tiếng Việt bắt nguồn từ từ tiếng Pháp virus /viʁys/.. Từ virus trong tiếng Pháp thì bắt nguồn từ từ tiếng Latinh virus, có nghĩa là chất độc. Virus được ghi nhận với nghĩa "tác nhân gây bệnh truyền nhiễm" lần đầu vào năm 1728, trước khi Dmitri Ivanovsky phát hiện ra virus vào năm 1892.
Virus
Vào những năm 1880, Louis Pasteur khi nghiên cứu về bệnh dại đã không thể tìm ra tác nhân gây ra bệnh này, và dự đoán về một mầm bệnh quá nhỏ để có thể phát hiện được dưới kính hiển vi. Năm 1884, nhà vi sinh vật học người Pháp Charles Chamberland đã phát minh ra một bộ lọc (được biết tới ngày nay là bộ lọc Chamberland hay bộ lọc Chamberland-Pasteur) với các lỗ có kích thước còn nhỏ hơn cả vi khuẩn. Nhờ thế, ông có thể cho một dung dịch chứa vi khuẩn chảy qua bộ lọc và hoàn toàn loại bỏ chúng khỏi dung dịch. Năm 1892, nhà sinh vật học người Nga, Dmitriy Iosifovich Ivanovskiy đã sử dụng bộ lọc này để nghiên cứu về thứ mà hiện nay được biết với tên virus khảm thuốc lá. Thí nghiệm của ông cho thấy chiết xuất từ lá cây thuốc lá nhiễm bệnh được nghiền nát vẫn có thể lây nhiễm sau khi lọc. D. I. Ivanovskiy đề xuất rằng sự nhiễm bệnh có thể là do một độc tố từ vi khuẩn gây ra, nhưng đã không theo đuổi ý tưởng đó. Lý do là vì vào thời điểm đó, người ta đã nghĩ rằng tất cả các tác nhân truyền nhiễm đều có thể bị các bộ lọc giữ lại và chỉ có thể phát triển trên một môi trường dinh dưỡng – đây là một phần của thuyết mầm bệnh. Năm 1898, nhà vi sinh vật học người Hà Lan Martinus Beijerinck đã lặp lại thí nghiệm và tin rằng dung dịch đã lọc vẫn còn chứa một dạng tác nhân truyền nhiễm mới. Ông nhận thấy rằng tác nhân này chỉ có thể nhân lên trong tế bào đang phân chia, nhưng thí nghiệm của ông không chỉ ra là nó được làm từ các hạt; ông gọi tác nhân này là một contagium vivum fluidum (mầm sống có thể hòa tan) và sử dụng lại từ virus để gọi nó. Beijerinck giữ quan điểm rằng virus có bản chất là chất lỏng, tuy nhiên về sau thuyết này đã bị bác bỏ bởi Wendell Stanley, người chứng minh được chúng có dạng hạt. Trong cùng năm đó, Friedrich Loeffler và Frosch đã cho chảy lần đầu tiên dung dịch chứa virus động vật – tác nhân gây bệnh lở mồm long móng (aphthovirus) – qua một bộ lọc tương tự.Vào đầu của thế kỷ XX, Frederick Twort - một nhà vi khuẩn học người Anh - đã khám phá ra một nhóm những virus có thể xâm nhiễm vào vi khuẩn, mà nay gọi là thực khuẩn thể (bacteriophage hay phage), và nhà vi sinh học người Canada gốc Pháp Félix d'Herelle đã miêu tả về virus rằng: khi thêm chúng vào vi khuẩn trên thạch agar, sẽ tạo ra những vùng vi khuẩn bị chết. Ông đã pha loãng chính xác một dịch huyền phù những virus trên và khám phá ra rằng những dịch pha loãng cao nhất (mật độ virus thấp nhất), thay vì giết chết toàn bộ vi khuẩn, đã tạo những vùng riêng biệt gồm những cá thể bị chết. Tính toán diện tích những vùng này và nhân với hệ số pha loãng cho phép ông tính được số lượng virus trong dịch huyền phù gốc. Phage đã được cho rằng sẽ là một giải pháp điều trị tiềm năng cho những bệnh như thương hàn và tả, nhưng triển vọng của chúng đã bị lãng quên cùng với sự phát triển của penicillin. Nghiên cứu về phage đã cung cấp cái nhìn sâu hơn về sự bất hoạt và kích hoạt gen, và một cơ chế hữu hiệu cho việc đưa những gen bên ngoài vào bên trong vi khuẩn.
Vào những năm 1880, Louis Pasteur khi nghiên cứu về bệnh dại đã không thể tìm ra tác nhân gây ra bệnh này, và dự đoán về một mầm bệnh quá nhỏ để có thể phát hiện được dưới kính hiển vi. Lý do là vì vào thời điểm đó, người ta đã nghĩ rằng tất cả các tác nhân truyền nhiễm đều có thể bị các bộ lọc giữ lại và chỉ có thể phát triển trên một môi trường dinh dưỡng – đây là một phần của thuyết mầm bệnh.
Virus
Cho đến cuối thế kỷ XIX, virus được định nghĩa dựa trên sự lây nhiễm của chúng, khả năng chống lọc, và việc chúng đòi hỏi phải có một vật chủ. Virus đã từng chỉ được nuôi trong thực vật và động vật. Năm 1906, Ross Granville Harrison phát minh ra một phương pháp để nuôi dưỡng mô trong bạch huyết, và sau đó năm 1913, E. Steinhardt, C. Israeli, và R. A. Lambert đã sử dụng phương pháp này để phát triển virus vaccinia trong những mảnh vụn của mô giác mạc chuột lang nhà. Năm 1928, H. B. Maitland và M. C. Maitland đã nuôi virus vaccinia trong những thể huyền phù của thận gà băm nhỏ. Phương pháp của họ đã không được áp dụng rộng rãi cho tới thập niên 1950, khi poliovirus được nuôi ở quy mô lớn phục vụ việc sản xuất vaccine.Một bước đột phá khác đến vào năm 1931, khi nhà bệnh học Hoa Kỳ Ernest William Goodpasture đã nuôi dưỡng virus cúm và vài loại virus khác trong trứng gà đã thụ tinh. Năm 1949, John Franklin Enders, Thomas Weller, và Frederick Robbins cũng nuôi cấy virus bại liệt trong tế bào phôi người, virus đầu tiên được nuôi mà không sử dụng mô thể rắn của động vật hay trứng. Công trình này cho phép Jonas Salk tạo ra một vắc-xin bại liệt hiệu quả.Những hình ảnh đầu tiên của virus thu nhận được là nhờ sự phát minh ra kính hiển vi điện tử năm 1931 của hai kĩ sư người Đức Ernst Ruska và Max Knoll. Năm 1935, Wendell Meredith Stanley - một nhà sinh hóa và virus học người Mỹ - đã nghiên cứu virus khảm thuốc lá và nhận thấy chúng được tạo thành phần lớn từ protein. Một thời gian ngắn sau, virus này đã được phân tách thành các phần protein và RNA riêng biệt.
Cho đến cuối thế kỷ XIX, virus được định nghĩa dựa trên sự lây nhiễm của chúng, khả năng chống lọc, và việc chúng đòi hỏi phải có một vật chủ. Một thời gian ngắn sau, virus này đã được phân tách thành các phần protein và RNA riêng biệt.
Virus
Virus khảm thuốc lá là dạng virus đầu tiên được tinh thể hóa và cấu trúc của nó do đó đã được làm sáng tỏ chi tiết. Những hình ảnh nhiễu xạ tia X đầu tiên của virus kết tinh đã được Bernal và Fankuchen thu được vào 1941. Dựa trên những tấm hình này, Rosalind Franklin đã khám phá ra cấu trúc DNA hoàn thiện của loại virus này vào năm 1955. Cùng trong năm đó, Heinz Fraenkel-Conrat và Robley Williams chứng minh được là chiết xuất RNA và vỏ protein của virus khảm thuốc lá có thể tự lắp ráp lại để tạo thành những virus có chức năng, cho thấy cơ chế đơn giản này có thể là cách virus sinh ra trong tế bào vật chủ.Nửa sau của thế kỷ XX đánh dấu một kỉ nguyên vàng cho sự khám phá virus với hầu hết trong số hơn 2.000 loài virus động vật, thực vật và vi khuẩn đã được phát hiện trong những năm này. Năm 1957, virus arteri ở ngựa và virus gây bệnh tiêu chảy ở bò (một loại pestivirus) đã được phát hiện. Năm 1963, virus viêm gan siêu vi B cũng được Baruch Blumberg khám phá, và năm 1965, Howard Temin đã mô tả loại retrovirus đầu tiên. Sau đó, enzym phiên mã ngược (Reverse transcriptase), loại enzym quan trọng mà retrovirus sử dụng để phiên mã RNA của chúng thành DNA, được miêu tả lần đầu vào năm 1970, một cách độc lập bởi Howard Martin Temin và David Baltimore. Năm 1983, nhóm nghiên cứu của Luc Montagnier tại Viện Pasteur ở Pháp, đã lần đầu tiên phân lập một loại retrovirus được biết với tên gọi ngày nay là virus suy giảm miễn dịch ở người (HIV).
Virus khảm thuốc lá là dạng virus đầu tiên được tinh thể hóa và cấu trúc của nó do đó đã được làm sáng tỏ chi tiết. Năm 1957, virus arteri ở ngựa và virus gây bệnh tiêu chảy ở bò (một loại pestivirus) đã được phát hiện.
Virus
Giả thuyết này cho rằng virus có thể đã từng là những tế bào nhỏ ký sinh bên trong những tế bào lớn hơn. Trải qua thời gian, những gen không cần thiết cho sự ký sinh này mất đi. Những vi khuẩn như Rickettsia và Chlamydia cũng sống trong tế bào và giống như virus, chỉ có thể sinh sản khi ở bên trong tế bào vật chủ. Những vi khuẩn này đã hỗ trợ cho giả thuyết thoái lui, do sự phụ thuộc ký sinh của chúng có thể đã làm mất đi những gen cho phép chúng tồn tại bên ngoài tế bào. Giả thuyết này còn được gọi là "giả thuyết thoái hóa" (degenracy hypothesis), hoặc "giả thuyết suy giảm" (reduction hypothesis).
Giả thuyết này cho rằng virus có thể đã từng là những tế bào nhỏ ký sinh bên trong những tế bào lớn hơn. Giả thuyết này còn được gọi là "giả thuyết thoái hóa" (degenracy hypothesis), hoặc "giả thuyết suy giảm" (reduction hypothesis).
Virus
Theo giả thuyết này, một số virus có thể đã tiến hóa từ những mảnh DNA hay RNA mà "thoát ra" (escape) từ hệ gen của những sinh vật lớn hơn. DNA thoát ra có thể là từ những plasmid (những đoạn DNA trần mà có thể di chuyển giữa những tế bào) hoặc từ những transposon (những phân tử DNA mà nhân lên và di chuyển quanh những vị trí khác nhau bên trong bộ gen của tế bào). Từng được gọi là những "gen nhảy", transposon là những ví dụ của các yếu tố di truyền di động và có thể là nguồn gốc của một số virus. Chúng được Barbara McClintock phát hiện ở cây ngô vào năm 1950. Đôi khi giả thuyết này còn được gọi là "giả thuyết lang thang" (vagrancy hypothesis), hoặc "giả thuyết trốn thoát" (escape hypothesis).
Theo giả thuyết này, một số virus có thể đã tiến hóa từ những mảnh DNA hay RNA mà "thoát ra" (escape) từ hệ gen của những sinh vật lớn hơn. DNA thoát ra có thể là từ những plasmid (những đoạn DNA trần mà có thể di chuyển giữa những tế bào) hoặc từ những transposon (những phân tử DNA mà nhân lên và di chuyển quanh những vị trí khác nhau bên trong bộ gen của tế bào).
Virus
Giả thuyết này còn được gọi là "giả thuyết virus-đầu tiên" (virus-first hypothesis), đề xuất rằng virus có thể đã tiến hóa từ những phân tử protein và acid nucleic phức tạp cùng một thời điểm khi tế bào xuất hiện lần đầu trên Trái Đất, và đã không hề bị phụ thuộc vào tế bào trong hàng tỷ năm. Viroid là những phân tử RNA mà không được phân loại là virus bởi chúng thiếu đi lớp vỏ protein. Tuy nhiên, chúng có những đặc tính tương đồng với vài loại virus và thường được gọi là những "tác nhân dưới virus" (subviral agent). Viroid là những mầm bệnh quan trọng ở thực vật. Chúng không mã hóa protein nhưng lại tương tác với tế bào chủ và sử dụng bộ máy tế bào vật chủ cho sự nhân lên của chúng. Virus viêm gan siêu vi D trên người cũng có bộ gen RNA tương đồng với viroid nhưng có lớp vỏ protein xuất xứ từ virus viêm gan B và không có khả năng tạo ra lớp vỏ của riêng chúng. Vì vậy, chúng là một loại virus khiếm khuyết và không thể tự nhân lên mà không có virus viêm gan B giúp đỡ. Tương tự như vậy, sputnik virophage cũng bị lệ thuộc vào mimivirus, loại virus lây nhiễm trên Acanthamoeba castellanii. Những virus phụ thuộc vào sự hiện diện của những loài virus khác trong tế bào vật chủ được gọi là những vệ tinh và có thể là đại diện cho một bước trung gian trong quá trình tiến hóa giữa viroid và virus.
Giả thuyết này còn được gọi là "giả thuyết virus-đầu tiên" (virus-first hypothesis), đề xuất rằng virus có thể đã tiến hóa từ những phân tử protein và acid nucleic phức tạp cùng một thời điểm khi tế bào xuất hiện lần đầu trên Trái Đất, và đã không hề bị phụ thuộc vào tế bào trong hàng tỷ năm. Chúng không mã hóa protein nhưng lại tương tác với tế bào chủ và sử dụng bộ máy tế bào vật chủ cho sự nhân lên của chúng.
Virus
Trong quá khứ, tất cả những giả thuyết trên đều gặp phải vấn đề: giả thuyết thoái lui không giải thích được tại sao kể cả những ký sinh nội bào nhỏ nhất cũng không giống với virus ở bất kỳ góc độ nào. Giả thuyết trốn thoát không lý giải được về lớp vỏ capsid phức hợp và các cấu trúc khác của phần tử virus. Giả thuyết virus-đầu tiên thì trái với định nghĩa của virus là chúng đòi hỏi phải có tế bào chủ. Cho đến hiện nay, virus được công nhận là rất cổ xưa và có nguồn gốc mà bắt đầu từ trước cả sự rẽ nhánh của sự sống vào ba vực. Phát hiện này đã khiến những nhà virus học hiện đại phải xem xét và đánh giá lại cả ba giả thuyết cổ điển trên.Bằng chứng về một thế giới của những tế bào RNA tổ tiên và những phân tích máy tính về trình tự DNA của virus và vật chủ đã đem lại sự hiểu biết tốt hơn về mối quan hệ tiến hóa giữa những loại virus khác nhau, và có thể giúp xác định tổ tiên của những virus hiện đại. Cho đến nay, những phân tích này vẫn chưa chứng tỏ được giả thuyết nào ở trên là đúng. Tuy nhiên, có vẻ như ít có khả năng rằng tất cả các virus hiện đang được biết có cùng một tổ tiên chung, và virus có lẽ đã phát sinh nhiều lần trong quá khứ bởi một hay nhiều cơ chế.Prion là những phân tử protein có khả năng lây nhiễm mà không phải DNA hay RNA. Chúng có thể gây các bệnh như bệnh ngứa điên ở cừu (scrapie), bệnh viêm não thể bọt biển ở bò (bệnh bò điên) và bệnh suy mòn mãn tính ở hươu; ở con người, những bệnh gây ra bởi prion bao gồm bệnh Kuru, bệnh Creutzfeldt–Jakob, và hội chứng Gerstmann–Sträussler–Scheinker. Prion có khả năng nhân lên do một số protein có thể tồn tại ở hai hình dạng khác nhau, và prion thay đổi hình dạng thông thường của protein vật chủ thành dạng prion. Điều này sẽ phát động một phản ứng chuỗi khi mỗi protein prion biến đổi nhiều protein vật chủ thành nhiều prion hơn, và những prion mới này lại tiếp tục biến đổi càng lúc càng nhiều protein thành prion hơn nữa; và tất cả những bệnh liên quan tới prion được biết đến đều dẫn đến tử vong. Mặc dù những prion về cơ bản khá khác biệt với virus và viroid, thì sự khám phá ra chúng đã làm gia tăng niềm tin vào học thuyết rằng virus có thể đã tiến hóa từ những phân tử tự sao chép.
Trong quá khứ, tất cả những giả thuyết trên đều gặp phải vấn đề: giả thuyết thoái lui không giải thích được tại sao kể cả những ký sinh nội bào nhỏ nhất cũng không giống với virus ở bất kỳ góc độ nào. Cho đến nay, những phân tích này vẫn chưa chứng tỏ được giả thuyết nào ở trên là đúng.
Virus
Có những ý kiến khác nhau về việc liệu virus có phải là một dạng sống không, hay chỉ là những cấu trúc hữu cơ tương tác với những sinh vật sống. Chúng đã được mô tả là "những sinh vật bên lề của sự sống" ("organisms at the edge of life"), do chúng giống với những cơ thể sống ở chỗ chúng mang những gen và tiến hóa nhờ quá trình chọn lọc tự nhiên, và có thể sinh sản bằng cách tạo ra rất nhiều bản sao của chính chúng bằng cách tự lắp ráp. Dù vậy, chúng lại không có cấu trúc tế bào, thứ mà thường được coi như đơn vị cơ bản của sự sống. Virus cũng không có hệ thống trao đổi chất của riêng chúng, và đòi hỏi phải có một tế bào chủ để tạo ra cá thể mới. Chúng do đó không thể sinh sản tự nhiên bên ngoài tế bào vật chủ – dù một số loài vi khuẩn như Rickettsia và Chlamydia được công nhận là sinh vật sống cũng có giới hạn tương tự. Những dạng sống được chấp nhận thường phải sử dụng phân chia tế bào để sinh sản, trong khi virus lại tự lắp ráp bên trong tế bào. Chúng cũng khác với sự tăng trưởng tự động của những tinh thể, do chúng được thừa hưởng những đột biến di truyền và phải chịu sự chọn lọc tự nhiên. Sự tự lắp ráp của virus trong tế bào chủ có ý nghĩa quan trọng cho việc nghiên cứu nguồn gốc sự sống, và củng cố niềm tin cho giả thuyết về việc sự sống có thể đã bắt đầu từ những phân tử hữu cơ tự lắp ráp.
Có những ý kiến khác nhau về việc liệu virus có phải là một dạng sống không, hay chỉ là những cấu trúc hữu cơ tương tác với những sinh vật sống. Chúng đã được mô tả là "những sinh vật bên lề của sự sống" ("organisms at the edge of life"), do chúng giống với những cơ thể sống ở chỗ chúng mang những gen và tiến hóa nhờ quá trình chọn lọc tự nhiên, và có thể sinh sản bằng cách tạo ra rất nhiều bản sao của chính chúng bằng cách tự lắp ráp.
Virus
Virus rất đa dạng về kích thước và hình dạng, được gọi chung là những hình thái của virus. Nhìn chung, virus có kích cỡ nhỏ hơn vi khuẩn. Hầu hết các virus được nghiên cứu có đường kính trong khoảng từ 20 đến 300 nanomet. Một số filovirus có tổng chiều dài lên tới 1400 nm; dù đường kính của chúng chỉ vào khoảng 80 nm. Đa phần các virus đều không thể quan sát được bằng kính hiển vi quang học, cho nên kính hiển vi điện tử quét và truyền qua được sử dụng để trực quan hóa những virion. Để gia tăng sự tương phản giữa virus và xung quanh, người ta phải sử dụng những "vết nhuộm" ("stain") với mật độ electron dày đặc. Những dung dịch muối của những kim loại nặng, như wolfram, có thể phân tán electron khỏi những vùng được các vết nhuộm che phủ. Nếu virion được bao bọc bằng các vết nhuộm (nhuộm dương tính), những chi tiết tỉ mỉ sẽ bị che mờ. Phương pháp nhuộm âm tính vì thế sẽ giúp khắc phục vấn đề này khi chỉ nhuộm màu môi trường nền.Một phần tử (hạt) virus hoàn chỉnh - được gọi virion - bao gồm acid nucleic được bao bọc bởi một lớp vỏ protein bảo vệ gọi là capsid. Lớp vỏ này được tạo thành từ những tiểu đơn vị protein giống hệt nhau gọi là capsomer. Ngoài ra, virus có thể có một vỏ bọc bằng lipid có xuất xứ từ màng tế bào vật chủ. Vỏ capsid được tạo ra từ protein được dịch mã bởi bộ gen của virus và hình dạng của chúng chính là cơ sở để phân biệt về mặt hình thái học. Các tiểu đơn vị protein do virus mã hóa sẽ tự lắp ráp để tạo nên vỏ capsid, nhìn chung sẽ đòi hỏi sự có mặt của bộ gen virus. Những virus phức tạp còn mã hóa những protein trợ giúp cho quá trình xây dựng capsid của chúng. Những protein mà kết hợp với acid nucleic được biết với tên nucleoprotein, và sự kết hợp của những protein ở capsid với acid nucleic của virus được gọi là một nucleocapsid. Vỏ capsid và toàn bộ cấu trúc virus có thể được thăm dò vật lý (cơ học) thông qua kính hiển vi lực nguyên tử. Nhìn chung, có bốn hình thái virus chính:
Virus rất đa dạng về kích thước và hình dạng, được gọi chung là những hình thái của virus. Các tiểu đơn vị protein do virus mã hóa sẽ tự lắp ráp để tạo nên vỏ capsid, nhìn chung sẽ đòi hỏi sự có mặt của bộ gen virus.
Virus
Những virus này được tạo thành từ một loại capsomer duy nhất xếp chồng lên quanh một trục trung tâm để tạo nên cấu trúc xoắn ốc, có thể có một khoang trung tâm hoặc là một ống rỗng. Sự sắp xếp này dẫn đến việc tạo ra những virion dạng hình que hay sợi, chúng có thể ngắn và rất cứng, hoặc dài và rất linh hoạt. Vật liệu di truyền nhìn chung là RNA sợi đơn (ssRNA), nhưng đôi khi là DNA sợi đơn (ssDNA), và được gắn chặt với chuỗi xoắn protein bằng những tương tác giữa acid nucleic mang điện tích âm và phần điện tích dương trên protein. Nói chung, độ dài của vỏ capsid xoắn ốc có liên quan tới độ dài của acid nucleic bên trong nó và đường kính thì phụ thuộc vào kích thước và cách sắp xếp các capsomer. Loại virus khảm thuốc lá - mà đã được nghiên cứu kĩ lưỡng - là một ví dụ của virus dạng xoắn ốc.
Những virus này được tạo thành từ một loại capsomer duy nhất xếp chồng lên quanh một trục trung tâm để tạo nên cấu trúc xoắn ốc, có thể có một khoang trung tâm hoặc là một ống rỗng. Loại virus khảm thuốc lá - mà đã được nghiên cứu kĩ lưỡng - là một ví dụ của virus dạng xoắn ốc.
Virus
Hầu hết virus động vật đều có dạng khối hai mươi mặt đều hoặc gần hình cầu với hai mươi mặt đều đối xứng (nhị thập diện đều). Một khối hai mươi mặt đều bình thường là cách tối ưu để tạo nên một vỏ khép kín từ những tiểu đơn vị giống y như nhau. Số lượng các capsomer tối thiểu cần đến là 12, trong đó mỗi capsomer tạo thành từ năm tiểu đơn vị y hệt nhau. Nhiều virus, ví dụ rotavirus, có nhiều hơn 12 capsomer và xuất hiện dưới dạng hình cầu nhưng vẫn giữ tính đối xứng. Capsomer tại mỗi đỉnh được bao quanh bởi 5 capsomer khác gọi là penton. Capsomer trên những mặt hình tam giác thì được bao quanh bởi 6 và gọi là hexon. Hexon về bản chất thường phẳng và penton, cấu trúc tạo nên 12 đỉnh, lại thường cong. Cùng một protein cũng có thể là tiểu đơn vị của cả penton và hexon, hoặc chúng có thể được cấu tạo bởi những protein khác nhau.
Hầu hết virus động vật đều có dạng khối hai mươi mặt đều hoặc gần hình cầu với hai mươi mặt đều đối xứng (nhị thập diện đều). Một khối hai mươi mặt đều bình thường là cách tối ưu để tạo nên một vỏ khép kín từ những tiểu đơn vị giống y như nhau.
Virus
Một vài loài virus bao phủ bản thân chúng bằng một lớp vỏ bọc, là một dạng chỉnh sửa của một trong những màng tế bào: có thể là lớp màng ngoài bao quanh tế bào vật chủ bị nhiễm, hoặc màng trong như màng nhân hay mạng lưới nội chất, tạo ra một lớp lipid kép bao ngoài được gọi là vỏ bọc virus (viral envelope). Màng này được đính vào những protein mã hóa bởi bộ gen virus và bộ gen vật chủ; ngoài ra, tất cả màng lipid và bất cứ carbohydrat đều có nguồn gốc từ vật chủ. Virus cúm và HIV là ví dụ cho những loại sử dụng chiến thuật này. Hầu hết các virus có màng đều phụ thuộc vào lớp vỏ của chúng để có thể xâm nhiễm vào vật chủ.
Một vài loài virus bao phủ bản thân chúng bằng một lớp vỏ bọc, là một dạng chỉnh sửa của một trong những màng tế bào: có thể là lớp màng ngoài bao quanh tế bào vật chủ bị nhiễm, hoặc màng trong như màng nhân hay mạng lưới nội chất, tạo ra một lớp lipid kép bao ngoài được gọi là vỏ bọc virus (viral envelope). Màng này được đính vào những protein mã hóa bởi bộ gen virus và bộ gen vật chủ; ngoài ra, tất cả màng lipid và bất cứ carbohydrat đều có nguồn gốc từ vật chủ.
Virus
poxvirus là những virus lớn, phức tạp có hình thái bất thường. Bộ gen của chúng được gắn với protein bên trong một cấu trúc đĩa ở trung tâm gọi là một nucleoid. Nucleoid được bao quanh bởi một lớp màng và hai cơ quan ở hai bên mà không rõ chức năng. Virus có một vỏ bọc ngoài với một lớp protein dày đính trên bề mặt vỏ bọc. Về tổng thể, virion của poxvirus là đa hình thái, do có thể có hình dạng trứng hoặc hình dạng gạch. Mimivirus là virus lớn nhất thường được biết, với đường kính vỏ capsid là 400 nm. Các sợi protein có thể nhô lên khỏi bề mặt với chiều dài lên tới 100 nm. Vỏ capsid có dạng đa giác đều dưới kính hiển vi điện tử, do đó có thể đây là một virus dạng khối hai mươi mặt đều. Năm 2011, các nhà nghiên cứu đã khám phá ra một virus lớn hơn ở đáy đại dương gần bờ biển Las Cruces, Chile. Nó tạm được đặt tên là Megavirus chilensis, và có thể nhìn thấy được dưới kính hiển vi quang học cơ bản.
poxvirus là những virus lớn, phức tạp có hình thái bất thường. Mimivirus là virus lớn nhất thường được biết, với đường kính vỏ capsid là 400 nm.
Virus
Có rất nhiều cấu trúc bộ gen có thể được nhìn thấy ở các loài virus; chúng là nhóm có sự đa dạng cấu trúc bộ gen nhiều hơn thực vật, động vật, vi khuẩn hay vi khuẩn cổ. Có tới hàng triệu loại virus khác nhau, dù mới chỉ có khoảng 7.000 trong số đó đã được mô tả chi tiết. Cho đến tháng 1 năm 2021, cơ sở dữ liệu bộ gen virus của Trung tâm Thông tin Công nghệ sinh học Quốc gia Hoa Kỳ (NCBI) lưu trữ hơn 193.000 trình tự bộ gen hoàn chỉnh, nhưng chắc chắn còn nhiều vấn đề cần khám phá.Một virus có các gen DNA hay RNA được gọi tương ứng là một virus DNA hoặc virus RNA. Phần lớn virus có bộ gen là RNA. Virus thực vật có xu hướng có bộ gen RNA sợi đơn và bacteriophage thường có bộ gen DNA sợi đôi.Bộ gen virus có dạng mạch vòng, như ở polyomavirus, hay mạch thẳng, như ở adenovirus. Loại acid nucleic không liên quan tới hình dạng của bộ gen. Ở các virus RNA hay một số virus DNA, bộ gen thường được phân làm các phần riêng biệt, gọi là bị phân đoạn. Với virus RNA, mỗi phân đoạn thường mã hóa cho chỉ một protein và chúng thường được tìm thấy với nhau trong một capsid. Tuy nhiên, tất cả phân đoạn không bắt buộc phải ở trong cùng một virion của virus để có thể xâm nhiễm, như được minh chứng ở virus khảm brom và vài loại virus thực vật khác.Bộ gen virus, bất kể là loại acid nucleic nào, gần như luôn luôn có dạng sợi đơn hay sợi đôi. Bộ gen sợi đơn chứa một acid nucleic không bắt cặp, giống như một nửa của một cái thang bị cắt làm đôi ở giữa. Bộ gen sợi đôi có chứa hai acid nucleic bắt cặp bổ sung cho nhau, giống như toàn bộ cái thang. Những phần tử của một số họ virus, chẳng hạn những loại thuộc họ Hepadnaviridae, có một bộ gen mà một phần sợi đơn và một phần sợi đôi.Với hầu hết virus có bộ gen RNA và một số với bộ gen DNA sợi đơn, những sợi đơn lẻ được cho là có tính dương (+) hoặc tính âm (-), tùy thuộc vào liệu chúng có bổ sung với RNA thông tin (mRNA) của virus hay không. RNA dương tính tức là có cùng tính với mRNA và do vậy có ít nhất một phần của nó có thể dịch mã trực tiếp bởi tế bào vật chủ. RNA âm tính thì bổ sung với mRNA và do vậy phải được chuyển thành RNA dương tính bởi một enzym RNA polymerase phụ thuộc RNA trước khi dịch mã. Danh pháp DNA với virus bộ gen ssDNA đơn tính thì tương tự như danh pháp RNA, trong đó sợi mã hóa cho mRNA của virus thì bổ sung với nó (-) và sợi không mã hóa là một bản sao của nó (+). Tuy nhiên, một vài loại virus ssDNA và ssRNA có bộ gen lưỡng tính trong đó sự phiên mã và dịch mã có thể xảy ở cả hai loại sợi trong một trung gian sao chép dạng sợi đôi. Ví dụ như geminivirus, những virus thực vật có bộ gen ssDNA, và arenavirus, những virus động vật có bộ gen ssRNA.Kích thước bộ gen khác biệt rất lớn giữa các loài. Bộ gen virus nhỏ nhất – circovirus ssDNA, thuộc họ Circoviridae – chỉ mã hóa cho hai loại protein và có kích cỡ bộ gen vào khoảng 2 nghìn cặp base; bộ gen lớn nhất – của mimivirus – có kích thước bộ gen lên tới hơn 1,2 triệu cặp base và mã hóa cho hơn 1000 protein. Nói chung, virus RNA có bộ gen nhỏ hơn virus DNA do có tỷ lệ lỗi cao hơn khi sao chép, và có giới hạn trên về kích thước tối đa. Khi vượt qua giới hạn này, những lỗi trong bộ gen khi sao chép sẽ làm cho virus trở nên vô dụng hoặc không có tính cạnh tranh. Để khắc phục điều này, virus RNA thường có bộ gen phân đoạn – chia bộ gen thành những phân tử nhỏ hơn – để làm giảm xác suất mà một lỗi trong một bộ gen đơn phần sẽ làm mất khả năng của toàn bộ bộ gen. Trái ngược lại, virus DNA thường có bộ gen lớn hơn do độ chính xác cao của những enzym sao chép của chúng. Tuy nhiên những virus DNA sợi đơn là một ngoại lệ của quy luật này, bởi tỷ lệ đột biến ở bộ gen những loại này có thể đạt đến mức cực đại như ở trường hợp virus RNA sợi đơn.Virus cũng trải qua sự biến đổi di truyền theo một số cơ chế. Chúng bao gồm một quá trình gọi là biến động di truyền (hay trôi dạt di truyền, gentic drift) khi những base đơn lẻ trong RNA hoặc DNA đột biến thành những base khác. Hầu hết những đột biến điểm này đều "im lặng" – không thay đổi protein mà gen đó mã hóa – nhưng số khác lại có thể đem tới những lợi thế về tiến hóa như sự đề kháng với các thuốc kháng virus. Sự trôi dạt kháng nguyên diễn ra khi có một thay đổi lớn trong bộ gen của virus, có thể là hệ quả của tái tổ hợp hoặc tái sắp xếp vật liệu di truyền. Khi điều này xảy ra với virus cúm, những đại dịch có thể sẽ xảy ra. Virus RNA thường tồn tại ở dạng những loài giả (hay "biến chủng", quasispecies) hoặc những đám virus của cùng một loài nhưng có trình tự nucleoside của bộ gen hơi khác nhau. Những biến chủng này là mục tiêu chính của chọn lọc tự nhiên.Những bộ gen phân đoạn cũng đem tới những lợi thế tiến hóa; các chủng khác nhau của cùng một virus với bộ gen phân đoạn có thể xáo trộn ngẫu nhiên và tổ hợp các gen để sản xuất ra những virus thế hệ sau (con cái) có những đặc tính độc nhất vô nhị. Điều này gọi là sự tái sắp xếp hay "sự giao phối của virus" (viral sex).Tái tổ hợp di truyền là quá trình mà một sợi DNA bị phá vỡ và sau đó nhập vào đoạn cuối của một phân tử DNA khác. Điều này có thể xảy ra đồng thời khi virus xâm nhiễm vào tế bào và những nghiên cứu về sự tiến hóa của virus đã cho thấy rằng tái tổ hợp rất tràn lan ở các loài được nghiên cứu. Nó phổ biến ở cả virus RNA lẫn virus DNA.
Có rất nhiều cấu trúc bộ gen có thể được nhìn thấy ở các loài virus; chúng là nhóm có sự đa dạng cấu trúc bộ gen nhiều hơn thực vật, động vật, vi khuẩn hay vi khuẩn cổ. RNA âm tính thì bổ sung với mRNA và do vậy phải được chuyển thành RNA dương tính bởi một enzym RNA polymerase phụ thuộc RNA trước khi dịch mã.
Virus
Hấp phụ là sự liên kết đặc hiệu giữa protein của vỏ capsid ở virus với những thụ thể đặc hiệu trên bề mặt tế bào vật chủ. Tính đặc hiệu này giúp xác định biên độ vật chủ của virus. Lấy ví dụ HIV, loại virus này xâm nhiễm vào một phạm vi giới hạn những tế bào bạch cầu của con người. Điều này là vì protein trên bề mặt của nó, gp120, tương tác đặc hiệu với phân tử CD4 – một thụ thể chemokine thường được tìm thấy nhiều nhất trên bề mặt của tế bào T CD4+. Cơ chế này đã tiến hóa để giúp những virus này có thể lây nhiễm chỉ trên những tế bào mà chúng có khả năng nhân lên trong đó. Sự hấp phụ (bám lấy) thụ thể có thể tạo ra những thay đổi đối với những protein của vỏ bọc virus, dẫn đến sự hợp nhất lớp lipid kép của màng tế bào và màng virus, hoặc tạo ra những biến đổi của protein bề mặt của virus (khi không có vỏ bọc) để cho phép virus đi được vào bên trong.
Hấp phụ là sự liên kết đặc hiệu giữa protein của vỏ capsid ở virus với những thụ thể đặc hiệu trên bề mặt tế bào vật chủ. Lấy ví dụ HIV, loại virus này xâm nhiễm vào một phạm vi giới hạn những tế bào bạch cầu của con người.
Virus
Xâm nhập sau khi đã hấp phụ: Virion đi vào trong tế bào vật chủ nhờ sự nhập bào qua trung gian thụ thể hoặc sự hợp nhất màng. Sự xâm nhiễm của virus lên tế bào thực vật và nấm khác biệt với sự xâm nhiễm lên tế bào động vật. Thực vật có một thành tế bào rắn chắc được làm từ cellulose, và nấm cũng có thành tế bào từ chitin, cho nên hầu hết virus đều chỉ có thể đi vào trong những tế bào này sau một tổn thương nào đấy lên thành tế bào. Tuy nhiên, gần như tất cả virus (như virus khám thuốc lá) lại có thể di chuyển trực tiếp từ tế bào này qua tế bào khác, dưới dạng những phức hợp nucleoprotein sợi đơn thông qua các lỗ gọi là kênh liên bào (plasmodesma). Vi khuẩn, giống với thực vật, cũng có một thành tế bào rất mạnh mẽ mà virus buộc phải chọc thủng để xâm nhiễm vào tế bào. Dù vậy, bởi thành tế bào vi khuẩn kém dày hơn nhiều so với thành tế bào thực vật do kích thước nhỏ hơn rất nhiều của chúng, nên một số virus đã phát triển những cơ chế giúp bơm bộ gen của chúng vào tế bào vi khuẩn xuyên qua thành tế bào, trong khi vỏ capsid vẫn còn ở bên ngoài.
Xâm nhập sau khi đã hấp phụ: Virion đi vào trong tế bào vật chủ nhờ sự nhập bào qua trung gian thụ thể hoặc sự hợp nhất màng. Vi khuẩn, giống với thực vật, cũng có một thành tế bào rất mạnh mẽ mà virus buộc phải chọc thủng để xâm nhiễm vào tế bào.
Virus
Virus có thể được giải phóng ra khỏi tế bào vật chủ nhờ tiêu bào (hay làm tan tế bào), một quá trình tiêu diệt tế bào bằng cách phá tan màng tế bào (và thành tế bào nếu có) của vật chủ. Đây là một đặc tính của nhiều virus động vật và vi khuẩn. Một số virus trải qua chu trình tiềm tan, khi mà bộ gen của virus được kết hợp do tái tổ hơp di truyền vào một vị trí cụ thể trong chromosome của vật chủ. Bộ gen của virus lúc này được gọi là một "provirus", hoặc trong trường hợp của bacteriophages là một "prophage". Bất cứ khi nào vật chủ phân chia, bộ gen của virus cũng được nhân lên cùng. Bộ gen này phần lớn thời gian sẽ không hoạt động ở bên trong vật chủ, tuy nhiên, vào một thời điểm nào đó, provirus hay prophage có thể làm hoạt hóa virus, điều này có thể sẽ làm tan tế bào vật chủ. Những virus có vỏ bọc (ví dụ HIV) có đặc trưng là giải phóng khỏi tế bào chủ nhờ "nảy chồi". Trong quá trình này, virus sẽ nhận được vỏ bọc của chúng, là một phần nhỏ đã thay đổi do màng sinh chất hoặc các lưới nội chất khác của tế bào vật chủ.Vật liệu di truyền bên trong, và phương pháp nhân lên của những vật liệu đó, khác nhau đáng kể giữa những loại virus khác nhau.
Virus có thể được giải phóng ra khỏi tế bào vật chủ nhờ tiêu bào (hay làm tan tế bào), một quá trình tiêu diệt tế bào bằng cách phá tan màng tế bào (và thành tế bào nếu có) của vật chủ. Bộ gen của virus lúc này được gọi là một "provirus", hoặc trong trường hợp của bacteriophages là một "prophage".
Virus
Quá trình sao chép bộ gen ở hầu hết virus DNA diễn ra trong nhân tế bào. Nếu tế bào có thụ thể thích hợp trên bề mặt của nó, những virus này đôi khi sẽ đi vào trong tế bào bằng cách hợp nhất ngay với màng tế bào (ví dụ virus herpes) hoặc – hoặc thông thường hơn là bằng nhập vào qua trung gian thụ thể. Hầu hết virus DNA đều hoàn toàn phụ thuộc vào bộ máy sinh tổng hợp DNA và RNA, và bộ máy xử lý RNA của tế bào chủ; tuy nhiên, virus với bộ gen lớn hơn có thể tự mã hóa phần lớn bộ máy này. Ở sinh vật nhân chuẩn, bộ gen của virus phải xuyên qua màng nhân để tiếp cận với bộ máy trên, trong khi ở vi khuẩn, chúng chỉ cần đi vào bên trong tế bào là có thể tiếp cận.Virus RNA
Quá trình sao chép bộ gen ở hầu hết virus DNA diễn ra trong nhân tế bào. Nếu tế bào có thụ thể thích hợp trên bề mặt của nó, những virus này đôi khi sẽ đi vào trong tế bào bằng cách hợp nhất ngay với màng tế bào (ví dụ virus herpes) hoặc – hoặc thông thường hơn là bằng nhập vào qua trung gian thụ thể.
Virus
Sự sao chép thường xuyên diễn ra ở tế bào chất. Virus RNA có thể được chia làm một trong bốn nhóm khác nhau phụ thuộc vào phương thức sao chép của chúng. Sự phân cực (tức khả năng nó có thể được ribosome sử dụng trực tiếp bởi ribosome để tạo ra protein hay không) của viru RNA sợi đơn là một tiêu chí quan trọng guyết định cơ chế sao chép; trong khi tiêu chí khác đó là vật liệu di truyền là sợi đơn hay sợi đôi. Tất cả virus RNA đều sử dụng enzym sao chép RNA của chính chúng để tạo ra những bản sao của bộ gen.Virus phiên mã ngược
Sự sao chép thường xuyên diễn ra ở tế bào chất. Virus RNA có thể được chia làm một trong bốn nhóm khác nhau phụ thuộc vào phương thức sao chép của chúng.
Virus
Những loại virus này có thể là virus RNA sợi đơn, ssRNA, (Retroviridae, Metaviridae, Pseudoviridae) hoặc DNA sợi đôi, dsDNA, (Caulimoviridae và Hepadnaviridae). Những virus phiên mã ngược với bộ gen RNA (retrovirus), sử dụng một DNA trung gian cho quá trình sao chép, trong khi những loại có bộ gen DNA (pararetrovirus) sử dụng trung gian là RNA. Cả hai loại đều có enzym phiên mã ngược (reverse transcriptase), hoặc enzym DNA polymerase phụ thuộc vào RNA, để thực hiện việc chuyển đổi acid nucleic. Retrovirus sẽ tích hợp DNA tạo ra từ quá trình phiên mã ngược vào bộ gen vật chủ như một provirus (virus tiềm tan) như một bước trong chu trình nhân lên; còn pararetrovirus thì lại không làm vậy, dù bản sao bộ gen được tích hợp của một số loại pararetrovirus đặc biệt cũng đã được tìm thấy. Nhìn chung những retrovirus và pararetrovirus nhạy cảm với các loại thuốc kháng virus có khả năng ức chế enzym phiên mã ngược, ví dụ như zidovudinehay lamivudine. Một ví dụ của retrovirus là HIV, và ví dụ cho pararetrovirus là họ Hepadnaviridae, trong đó có virus viêm gan B.
Những loại virus này có thể là virus RNA sợi đơn, ssRNA, (Retroviridae, Metaviridae, Pseudoviridae) hoặc DNA sợi đôi, dsDNA, (Caulimoviridae và Hepadnaviridae). Retrovirus sẽ tích hợp DNA tạo ra từ quá trình phiên mã ngược vào bộ gen vật chủ như một provirus (virus tiềm tan) như một bước trong chu trình nhân lên; còn pararetrovirus thì lại không làm vậy, dù bản sao bộ gen được tích hợp của một số loại pararetrovirus đặc biệt cũng đã được tìm thấy.
Virus
Phạm vi của những tác động về cấu trúc và sinh hóa của virus lên tế bào vật chủ là rất rộng lớn. Chúng được gọi là những tác động bệnh tích tế bào. Hầu hết những sự xâm nhiễm virus cuối cùng đều dẫn đến cái chết của tế bào vật chủ. Nguyên nhân gây ra chết bao gồm làm tan tế bào (tiêu bào), thay đổi màng ngoài tế bào và chết rụng tế bào. Thường tế bào bị chết là do việc ngừng lại các hoạt động thông thường của nó gây ra do sự ức chế của những protein đặc trưng của virus, dù không phải tất cả số đó đều là thành phần của các hạt virus.Một số virus không gây ra sự thay đổi rõ ràng đối với tế bào bị nhiễm. Tế bào mà virus tiềm tan và bất hoạt thì cho thấy rất ít dấu hiệu bị nhiễm và thường hoạt động bình thường. Điều này gây nên sự nhiễm bệnh dai dẳng và virus thường 'ngủ đông' trong nhiều tháng hoặc nhiều năm. Điển hình cho việc này là những virus herpes. Một số loại, như virus Epstein-Barr, có thể khiến tế bào tăng sinh mà không gây ra khối u ác tính, trong khi một số loại khác như virus papilloma lại được xem là một nguyên nhân được xác nhận của bệnh ung thư.
Phạm vi của những tác động về cấu trúc và sinh hóa của virus lên tế bào vật chủ là rất rộng lớn. Thường tế bào bị chết là do việc ngừng lại các hoạt động thông thường của nó gây ra do sự ức chế của những protein đặc trưng của virus, dù không phải tất cả số đó đều là thành phần của các hạt virus.Một số virus không gây ra sự thay đổi rõ ràng đối với tế bào bị nhiễm.
Virus
Virus chính là những thực thể sinh học dồi dào nhất từ trước tới nay trên Trái Đất, và chúng có số lượng đông hơn tất cả những loài khác cộng lại với nhau. Chúng có thể xâm nhiễm lên tất cả các dạng tế bào bao gồm của động vật, thực vật, vi khuẩn, vi khuẩn cổ và nấm. Tuy nhiên, những loại khác nhau của virus thì chỉ có thể lây nhiễm trên một phạm vi giới hạn những vật chủ khác nhau, và nhiều loại có tính đặc hiệu loài. Một số, ví dụ như virus đậu mùa, chỉ có thể nhiễm vào một loài duy nhất – trong trường hợp này là con người, và vì thế chúng được nói rằng có "biên độ vật chủ" (host range) hẹp. Những virus khác, ví dụ như virus dại, có thể lây lan trên nhiều loài động vật có vú, và do vậy có biên độ rộng. Virus mà chỉ lây nhiễm vào thực vật thì vô hại với động vật, và hầu hết virus mà xâm nhiễm lên các động vật khác thì vô hại với con người. Biên độ vật chủ của một số virus vi khuẩn - bacteriophage - thì bị giới hạn vào chỉ duy nhất một chủng vi khuẩn và chúng có thể được dùng để truy nguyên nguồn gốc bùng phát bệnh truyền nhiễm bằng một phương pháp gọi là phân loại bằng phage (phage typing).
Virus chính là những thực thể sinh học dồi dào nhất từ trước tới nay trên Trái Đất, và chúng có số lượng đông hơn tất cả những loài khác cộng lại với nhau. Tuy nhiên, những loại khác nhau của virus thì chỉ có thể lây nhiễm trên một phạm vi giới hạn những vật chủ khác nhau, và nhiều loại có tính đặc hiệu loài.
Virus
Phân loại virus tìm cách mô tả tính đa dạng của virus bằng cách đặt tên và nhóm chúng dựa trên cơ sở là những điểm tương đồng. Năm 1962, André Lwoff, Robert Horne, và Paul Tournier là những người đầu tiên phát triển một phương pháp phân loại virus, dựa trên hệ thống thứ bậc của Linnaeus. Hệ thống này tạo cơ sở cho sự phân loại theo ngành, lớp, bộ, họ, chi và loài. Virus được nhóm lại dựa theo những thuộc tính chung của chúng (mà không phải của vật chủ) và loại acid nucleic tạo nên bộ gen. Về sau, Ủy ban Quốc tế về Phân loại Virus được thành lập. Tuy nhiên, virus không được phân loại theo ngành hay lớp, do bộ gen có kích thước nhỏ và tỷ lệ đột biến cao khiến chúng khó xác định tổ tiên ở trên cấp Bộ. Vì vậy, hệ thống phân loại Baltimore đã được sử dụng để bổ sung thay thế cho các cấp bậc truyền thống này.
Phân loại virus tìm cách mô tả tính đa dạng của virus bằng cách đặt tên và nhóm chúng dựa trên cơ sở là những điểm tương đồng. Hệ thống này tạo cơ sở cho sự phân loại theo ngành, lớp, bộ, họ, chi và loài.
Virus
Ủy ban Quốc tế về Phân loại Virus (ICTV) đã phát triển hệ thống phân loại hiện hành và viết ra các hướng dẫn mà đề cao hơn đến các thuộc tính nhất định của virus để duy trì tính thống nhất của chúng trong một họ. Một hệ thống phân loại thống nhất đã được thành lập. Báo cáo lần thứ 7 của ICTV đã chính thức hóa lần đầu tiên khái niệm loài virus như là taxon (nhóm) thấp nhất trong hệ thống thứ bậc phân nhánh của các nhóm virus. Tuy nhiên, hiện tại chỉ có một phần nhỏ trong sự đa dạng của virus được nghiên cứu: phân tích các mẫu lấy từ con người cho thấy rằng có khoảng 20% trình tự virus được phục hồi là chưa từng được nhìn thấy trước đó, phân tích các mẫu lấy từ môi trường, như nước biển và trầm tích đại dương, giúp phát hiện ra một lượng lớn những trình tự mà hoàn toàn mới lạ với con người.Cấu trúc hệ thống phân loại chung như sau:
Ủy ban Quốc tế về Phân loại Virus (ICTV) đã phát triển hệ thống phân loại hiện hành và viết ra các hướng dẫn mà đề cao hơn đến các thuộc tính nhất định của virus để duy trì tính thống nhất của chúng trong một họ. Tuy nhiên, hiện tại chỉ có một phần nhỏ trong sự đa dạng của virus được nghiên cứu: phân tích các mẫu lấy từ con người cho thấy rằng có khoảng 20% trình tự virus được phục hồi là chưa từng được nhìn thấy trước đó, phân tích các mẫu lấy từ môi trường, như nước biển và trầm tích đại dương, giúp phát hiện ra một lượng lớn những trình tự mà hoàn toàn mới lạ với con người.Cấu trúc hệ thống phân loại chung như sau:
Virus
Loài (-virus)Theo bảng phân loại năm 2013 của ICTV, có sáu bộ được xác lập, bao gồm Caudovirales, Herpesvirales, Mononegavirales, Nidovirales, Picornavirales và Tymovirales. Bộ thứ bảy Ligamenvirales cũng đã được đề xuất. Ủy ban không chính thức phân biệt các phân loài, chủng và dòng phân lập. Tổng cộng hiện nay có 7 bộ, 87 họ, 19 phân họ, 349 chi và khoảng 2.827 loài
Loài (-virus)Theo bảng phân loại năm 2013 của ICTV, có sáu bộ được xác lập, bao gồm Caudovirales, Herpesvirales, Mononegavirales, Nidovirales, Picornavirales và Tymovirales. Ủy ban không chính thức phân biệt các phân loài, chủng và dòng phân lập.
Virus
Nhà sinh vật học từng đoạt giải Nobel - David Baltimore đã phát minh ra hệ thống phân loại Baltimore. Nó được sử dụng kết hợp với hệ thống phân loại ICTV trong phân loại virus hiện đại.Baltimore phân loại virus dựa trên cơ chế sản xuất RNA thông tin (mRNA). Virus phải tạo ra mRNA từ bộ gen của chúng để sản xuất protein và sao chép chính chúng, nhưng có những cơ chế khác nhau đã được sử dụng để đạt được điều này trong mỗi họ virus. Bộ gen virus có thể là sợi đơn (ss) hoặc sợi đôi (ds), RNA hoặc DNA, và có thể sử dụng enzym phiên mã ngược (RT) hoặc không. Thêm vào đó, những virus ssRNA có thể là dương bản (+) hoặc âm bản (−). Hệ thống phân loại này sắp xếp virus vào 7 nhóm:
Nhà sinh vật học từng đoạt giải Nobel - David Baltimore đã phát minh ra hệ thống phân loại Baltimore. Nó được sử dụng kết hợp với hệ thống phân loại ICTV trong phân loại virus hiện đại.Baltimore phân loại virus dựa trên cơ chế sản xuất RNA thông tin (mRNA).
Virus
Những ví dụ về các loại bệnh thông thường ở người gây ra do virus bao gồm cảm lạnh, cúm, thủy đậu và mụn rộp ở môi. Nhiều bệnh nghiêm trọng như ebola, AIDS, cúm gia cầm, và SARS cũng gây ra bởi virus. Một số bệnh đang được điều tra xem liệu chúng cũng có một virus là tác nhân gây bệnh không, chẳng hạn mối liên hệ nếu có giữa virus herpes 6 ở người (HHV6) và các bệnh thần kinh như bệnh đa xơ cứng và hội chứng mệt mỏi mãn tính. Có những tranh cãi xung quanh bornavirus, trước thường được coi là gây nên các bệnh thần kinh ở ngựa, có thể nào là thủ phạm của những bệnh tâm thần ở người hay không.Các virus có những cơ chế gây bệnh khác nhau ở một sinh vật, phụ thuộc phần lớn vào loài virus. Cơ chế ở cấp độ tế bào chủ yếu là tiêu bào - sự mở tan và cái chết của tế bào sau đó. Ở các sinh vật đa bào, nếu có đủ số lượng tế bào chết, toàn bộ cơ thể sẽ bắt đầu chịu tác động. Mặc dù virus cũng gây nên sự gián đoạn của cân bằng nội môi khỏe mạnh, gây nên bệnh tật, chúng có thể cùng tồn tại một cách vô hại bên trong một sinh vật. Một ví dụ là khả năng của virus herpes đơn dạng, nguyên nhân gây ra bệnh rộp môi, có thể duy trì trạng thái bất hoạt bên trong cơ thể người. Đây gọi là trạng thái tiềm ẩn (latency) và là một đặc tính của các virus herpes, bao gồm virus Epstein-Barr, gây ra bệnh sốt tuyến, và virus varicella zoster, loại gây ra thủy đậu và zona. Hầu hết loài người đều đã từng nhiễm ít nhất một trong số các loại virus herpes. Tuy nhiên, những virus tiềm ẩn này đôi khi có thể có lợi, vì sự có mặt của virus làm gia tăng sự miễn dịch chống lại các mầm bệnh vi khuẩn, ví dụ như Yersinia pestis.Một số loại virus có thể gây ra sự nhiễm bệnh mãn tính hoặc suốt đời, khi mà virus tiếp tục nhân lên trong cơ thể bất kể có những cơ chế phòng ngự của vật chủ. Điều này rất phổ biến với bệnh do virus viêm gan B và viêm gan C. Những người bị nhiễm bệnh mãn tính gọi là những người mang (carrier), do họ đóng vai trò một nguồn dự trữ loại virus xâm nhiễm. Ở những quần thể có tỷ lệ người mang cao, căn bệnh được coi là có tính địa phương.
Những ví dụ về các loại bệnh thông thường ở người gây ra do virus bao gồm cảm lạnh, cúm, thủy đậu và mụn rộp ở môi. Cơ chế ở cấp độ tế bào chủ yếu là tiêu bào - sự mở tan và cái chết của tế bào sau đó.