topic
stringclasses
149 values
context
stringlengths
84
21k
Evidence
stringlengths
51
1.33k
Hoa Mộc Lan
Trong kho tàng dân ca nhạc phủ phong phú của dân tộc Trung Quốc, "Mộc Lan từ" và "Khổng tước đông nam phi" đời Đông Hán được đánh giá là hai bài dân ca hay vào bậc nhất. Nhưng hai tác phẩm này hoàn toàn khác nhau. Nếu "Khổng tước đông nam phi" là bài tình ca diễm lệ bi thảm mang theo tình điệu của người phương Nam, thì "Mộc Lan từ" là bài quân ca hùng tráng khảng khái thể hiện khí chất của người phương Bắc. Bản "Mộc Lan từ" còn lưu truyền ngày nay là bản đã qua bút pháp của các thi nhân đời nhà Đường, tuy nhiên vẻ hào hùng đẹp đẽ nguyên thủy vẫn còn được thể hiện rõ ràng.
Trong kho tàng dân ca nhạc phủ phong phú của dân tộc Trung Quốc, "Mộc Lan từ" và "Khổng tước đông nam phi" đời Đông Hán được đánh giá là hai bài dân ca hay vào bậc nhất. Bản "Mộc Lan từ" còn lưu truyền ngày nay là bản đã qua bút pháp của các thi nhân đời nhà Đường, tuy nhiên vẻ hào hùng đẹp đẽ nguyên thủy vẫn còn được thể hiện rõ ràng.
Phượng vĩ
Phượng vĩ có nguồn gốc từ Madagascar, tại đó người ta tìm thấy nó trong các cánh rừng ở miền tây Malagasy. Trong điều kiện hoang dã, nó là loài đang nguy cấp, nhưng nó được con người trồng ở rất nhiều nơi. Ngoài giá trị là cây cảnh, nó còn có tác dụng như một loài cây tạo bóng râm trong điều kiện nhiệt đới, do thông thường nó có thể cao tới một độ cao vừa phải (khoảng 10 m-15m, mặc dù đôi khi có thể cao tới 20 m) nhưng có tán lá tỏa rộng và các tán lá dày đặc của nó tạo ra những bóng mát. Trong những khu vực với mùa khô rõ nét thì nó rụng lá trong thời kỳ khô.
Phượng vĩ có nguồn gốc từ Madagascar, tại đó người ta tìm thấy nó trong các cánh rừng ở miền tây Malagasy. Trong những khu vực với mùa khô rõ nét thì nó rụng lá trong thời kỳ khô.
Phượng vĩ
Cánh hoa của phượng vĩ lớn, với 4 cánh hoa tỏa rộng màu đỏ tươi hay đỏ hơi cam, dài tới 8 cm, còn cánh hoa thứ năm mọc thẳng, cánh hoa này lớn hơn một chút so với 4 cánh kia và lốm đốm màu trắng/vàng hoặc cam/vàng (cũng có khi trắng/đỏ). Nguồn gốc tự nhiên có hoa màu vàng (kim phượng). Quả là loại quả đậu có màu nâu sẫm khi chín, dài tới 60 cm và rộng khoảng 5 cm; tuy nhiên, các hạt riêng rẽ lại nhỏ và cân nặng trung bình chỉ khoảng 0,4 g, hạt to cỡ đầu đũa, hạt ăn rất bùi và ngon. Các lá phức có bề ngoài giống như lông chim và có màu lục sáng, nhạt đặc trưng. Nó là loại lá phức lông chim kép: Mỗi lá dài khoảng 30–50 cm và có từ 20 đến 40 cặp lá chét sơ cấp hay lá chét lông chim lớn, và mỗi lá chét lông chim lớn lại được chia tiếp thành 10-20 cặp lá chét thứ cấp hay lá chét con. Phượng vĩ cần khí hậu nhiệt đới hay cận nhiệt đới để phát triển tốt, nhưng nó có thể chịu được các điều kiện khô hạn và đất mặn.không những vậy cây phượng ở Việt Nam, còn được
Cánh hoa của phượng vĩ lớn, với 4 cánh hoa tỏa rộng màu đỏ tươi hay đỏ hơi cam, dài tới 8 cm, còn cánh hoa thứ năm mọc thẳng, cánh hoa này lớn hơn một chút so với 4 cánh kia và lốm đốm màu trắng/vàng hoặc cam/vàng (cũng có khi trắng/đỏ). Quả là loại quả đậu có màu nâu sẫm khi chín, dài tới 60 cm và rộng khoảng 5 cm; tuy nhiên, các hạt riêng rẽ lại nhỏ và cân nặng trung bình chỉ khoảng 0,4 g, hạt to cỡ đầu đũa, hạt ăn rất bùi và ngon.
Phượng vĩ
+Cây tái sinh hạt và chồi đều mạnh, có thể phát triển tốt trên mọi loại địa hình như ven biển, đồi núi, trung du và đồng bằng. Cây thuộc loại ưa sáng, mọc khoẻ, phát triển nhanh, không kén đất. Tuy nhiên, nhược điểm lớn nhất của cây phượng là tuổi thọ không cao;cây trồng trên đường phố chỉ 30 tuổi là đã già cỗi, thân có dấu hiệu mục rỗng, sâu bệnh, nấm bắt đầu tấn công. Còn cây trồng trong công viên, trường học thì có thể có tuổi thọ cao hơn nhưng cũng chỉ đạt 40-50 năm tuổi.
+Cây tái sinh hạt và chồi đều mạnh, có thể phát triển tốt trên mọi loại địa hình như ven biển, đồi núi, trung du và đồng bằng. Còn cây trồng trong công viên, trường học thì có thể có tuổi thọ cao hơn nhưng cũng chỉ đạt 40-50 năm tuổi.
Phượng vĩ
Gỗ thuộc loại trung bình, dùng trong xây dựng, đồ gỗ dân dụng, đóng hòm, xẻ ván. Cây cho vỏ và rễ làm thuốc hạ nhiệt, chống sốt. Vỏ cây có thể sắc nước uống trị sốt rét, đầy bụng, tê thấp, giảm huyết áp. Lá trị tê thấp và đầy hơi.
Gỗ thuộc loại trung bình, dùng trong xây dựng, đồ gỗ dân dụng, đóng hòm, xẻ ván. Cây cho vỏ và rễ làm thuốc hạ nhiệt, chống sốt.
Phượng vĩ
Tại Việt Nam, phượng vĩ là biểu tượng gắn liền với tuổi học trò, do mùa nở hoa của nó trùng với thời điểm kết thúc năm học, mùa chia tay của nhiều thế hệ học trò. Do vậy, nó gắn liền với nhiều kỷ niệm buồn vui của tuổi học trò, và vì thế người ta gắn cho nó tên gọi "hoa học trò". Thành phố Hải Phòng là khu vực trồng rất nhiều phượng vĩ, vì thế thành phố này còn được gọi một cách văn chương là "thành phố Hoa Phượng Đỏ" hay "thành phố hoa học trò". Nhà thơ Thanh Tùng có bài thơ Thời hoa đỏ đã được nhạc sĩ Nguyễn Đình Bảng phổ nhạc thành bài hát cùng tên, viết về những kỷ niệm của tuổi trẻ với mùa hoa phượng vĩ.
Tại Việt Nam, phượng vĩ là biểu tượng gắn liền với tuổi học trò, do mùa nở hoa của nó trùng với thời điểm kết thúc năm học, mùa chia tay của nhiều thế hệ học trò. Do vậy, nó gắn liền với nhiều kỷ niệm buồn vui của tuổi học trò, và vì thế người ta gắn cho nó tên gọi "hoa học trò".
Bàng
Loài cây này có thể mọc cao tới 35 m, với tán lá mọc thẳng, đối xứng và các cành nằm ngang. Khi cây già hơn thì tán lá của nó trở nên phẳng hơn để tạo thành hình dáng giống như cái bát trải rộng. Lá to, dài khoảng 15–25 cm và rộng 10–14 cm, hình trứng, xanh sẫm và bóng. Đây là loài cây có lá sớm rụng về mùa khô; trước khi rụng thì các lá chuyển màu thành màu đỏ ánh hồng hay nâu vàng, do các sắc tố như violaxanthin, lutein hay zeaxanthin.
Loài cây này có thể mọc cao tới 35 m, với tán lá mọc thẳng, đối xứng và các cành nằm ngang. Khi cây già hơn thì tán lá của nó trở nên phẳng hơn để tạo thành hình dáng giống như cái bát trải rộng.
Bàng
Bàng được trồng trong khu vực nhiệt đới như là một loại cây cảnh hay để lấy bóng râm nhờ tán lá lớn và rậm. Quả ăn được và có vị hơi chua. Hạt bàng thì dùng làm nguyên liệu để chế biến thành đặc sản mứt. Gỗ có màu đỏ, rắn chắc và chống thấm nước khá tốt; tại Polynesia người ta dùng nó để đóng các loại canoe (xuồng gỗ).
Bàng được trồng trong khu vực nhiệt đới như là một loại cây cảnh hay để lấy bóng râm nhờ tán lá lớn và rậm. Hạt bàng thì dùng làm nguyên liệu để chế biến thành đặc sản mứt.
Bàng
Lá chứa một số flavonoid (chẳng hạn kamferol hay quercetin) cũng như các chất tanin (như punicalin, punicalagin, tercatin), các chất saponin và phytosterol. Do chứa nhiều hóa chất nên lá và vỏ thân cây bàng còn được sử dụng trong nhiều nền y học cổ truyền khác nhau vào một số mục đích. Chẳng hạn, tại Đài Loan người ta dùng các lá rụng làm thuốc chữa một số bệnh liên quan tới gan. Tại Suriname, chè được làm từ lá bàng được dùng để chữa các bệnh như lỵ và tiêu chảy. Người ta cũng cho rằng lá bàng có chứa các chất ngăn cản ung thư (mặc dù không thấy chúng thể hiện khả năng chống ung thư) và các đặc trưng chống oxy hóa cũng như chống phá hủy bộ nhiễm sắc thể.
Lá chứa một số flavonoid (chẳng hạn kamferol hay quercetin) cũng như các chất tanin (như punicalin, punicalagin, tercatin), các chất saponin và phytosterol. Chẳng hạn, tại Đài Loan người ta dùng các lá rụng làm thuốc chữa một số bệnh liên quan tới gan.
Tripura
Tripura là một bang nằm tại Đông Bắc Ấn Độ. Đây là bang nhỏ thứ ba toàn quốc với diện tích 10.491 km2 (4.051 dặm vuông Anh) và có biên giới quốc tế với Bangladesh (giáp các phân khu Sylhet và Chittagong) ở phía bắc, phía nam, và phía tây, và có biên giới quốc nội với hai bang Assam và Mizoram ở phía đông. Theo điều tra năm 2011, bang có 3.671.032 cư dân, trong đó các cộng đồng bản địa chiếm khoảng 30%. Người Bengal chiếm đa số trong dân cư, còn người Tripura nói tiếng Kokborok là nhóm chiếm đa số trong các bộ lạc. Tripura cùng với quốc gia Bangladesh và bang Tây Bengal tạo thành khu vực dân tộc-ngôn ngữ Bengal.
Tripura là một bang nằm tại Đông Bắc Ấn Độ. Tripura cùng với quốc gia Bangladesh và bang Tây Bengal tạo thành khu vực dân tộc-ngôn ngữ Bengal.
Tripura
Tripura có vị trí địa lý bất lợi bên trong Ấn Độ, chỉ có một xa lộ lớn là Quốc lộ 44 kết nối bang với phần còn lại của quốc gia. Năm dãy núi là Boromura, Atharamura, Longtharai, Shakhan và Jampui chạy từ bắc đến nam Tripura, xen lẫn là các thung lũng. Thủ phủ Agartala nằm trên một bình nguyên ở phía tây. Tripura có khí hậu xa van nhiệt đới, nhận được lượng mưa lớn theo mùa từ gió mùa tây nam. Các khu rừng bao phủ trên một nửa diện tích của bang. Tripura có số lượng loài linh trưởng cao nhất trong số các bang tại Ấn Độ.
Tripura có vị trí địa lý bất lợi bên trong Ấn Độ, chỉ có một xa lộ lớn là Quốc lộ 44 kết nối bang với phần còn lại của quốc gia. Thủ phủ Agartala nằm trên một bình nguyên ở phía tây.
Tripura
Do bị cô lập về vị trí địa lý, Tripura gặp trở ngại trong phát triển kinh tế, bị nghèo khổ và thất nghiệp đe dọa. Cơ sở hạ tầng tại Tripura có hạn chế. Hầu hết cư dân trong bang tham gia vào lĩnh vực nông nghiệp và các hoạt động có liên quan, song lĩnh vực dịch vụ đóng góp lớn nhất vào tổng sản phẩm quốc nội của bang. Các yếu tố văn hóa Ấn Độ chủ đạo, đặc biệt là từ văn hóa Bengal, cùng tồn tại với các tập tục truyền thống của các dân tộc bản địa, như các vũ đạo khác nhau được trình diễn trong các lễ hội; việc sử dụng các nhạc cụ và trang phục địa phương; và thờ phụng các thổ thần.
Do bị cô lập về vị trí địa lý, Tripura gặp trở ngại trong phát triển kinh tế, bị nghèo khổ và thất nghiệp đe dọa. Hầu hết cư dân trong bang tham gia vào lĩnh vực nông nghiệp và các hoạt động có liên quan, song lĩnh vực dịch vụ đóng góp lớn nhất vào tổng sản phẩm quốc nội của bang.
Tripura
Trong tiếng Phạn, tên gọi Tripura có nghĩa là "ba thành phố". Tên tiếng Phạn có liên hệ với Tripura Sundari, là thần chủ trì của đền Tripura Sundari tại Udaipur, và đền là một trong 51 Shakti Peetha (các trung tâm hành hương của giáo phái Shakti); và đến bạo quân truyền thuyết Tripur từng cai trị khu vực. Tripur là hậu duệ thứ 39 của Druhyu, Druhyu thuộc dòng dõi của Yayati- một quốc vương của triều đại Lunar.Tuy nhiên, có các ý kiến nghi ngờ về nguồn gốc tên gọi Tripura, đề cao khả năng dạng tiếng Phạn chỉ là do một từ nguyên dân gian của một tên tiếng Tạng-Miến (Kokborok). Các biến thể của tên gọi gồm có Twipra, Tuipura và Tippera. Một từ nguyên tiếng Kokborok bắt nguồn từ tui (nước) và pra (gần) được đề xuất; biên giới của Tripura mở rộng đến vịnh Bengal khi các quốc vương của nó nắm quyền cai trị từ vùng đồi Garo thuộc Meghalaya đến Arakan thuộc Myanmar ngày nay; do đó tên gọi có thể phản ánh sự lân cận với biển.
Trong tiếng Phạn, tên gọi Tripura có nghĩa là "ba thành phố". Một từ nguyên tiếng Kokborok bắt nguồn từ tui (nước) và pra (gần) được đề xuất; biên giới của Tripura mở rộng đến vịnh Bengal khi các quốc vương của nó nắm quyền cai trị từ vùng đồi Garo thuộc Meghalaya đến Arakan thuộc Myanmar ngày nay; do đó tên gọi có thể phản ánh sự lân cận với biển.
Tripura
Không có bằng chứng về các khu định cư hạ kỳ và trung kỳ đồ đá cũ tại Tripura, song phát hiện được các công cụ thượng kỳ đồ đá mới làm từ gỗ nay đã hóa thạch tại các thung lũng Haora và Khowai. Sử thi Mahabharata; bản văn tôn giáo cổ Purana; và các chiếu thư của Ashoka đều đề cập đến Tripura. Một tên gọi cổ của Tripura là Kirat Desh ("vùng đất của Kirat"), có lẽ ám chỉ đến các vương quốc Kirata hay thuật ngữ Kirata tổng quát hơn. Tuy nhiên, không rõ liệu phạm vi Tripura hiện nay có ranh giới tương ứng với Kirat Desh hay không. Khu vực nằm dưới quyền cai trị của Vương quốc Twipra trong hàng thế kỷ, song không có tư liệu về niên đại. Rajmala là một biên niên sử về các quốc vương Tripura, nó được viết lần đầu vào thế kỷ XV, cung cấp một danh sách gồm 179 quốc vương từ thời cổ cho đến Krishna Kishore Manikya (1830–1850), song tính khả tín của Rajmala bị nghi ngờ.
Không có bằng chứng về các khu định cư hạ kỳ và trung kỳ đồ đá cũ tại Tripura, song phát hiện được các công cụ thượng kỳ đồ đá mới làm từ gỗ nay đã hóa thạch tại các thung lũng Haora và Khowai. Một tên gọi cổ của Tripura là Kirat Desh ("vùng đất của Kirat"), có lẽ ám chỉ đến các vương quốc Kirata hay thuật ngữ Kirata tổng quát hơn.
Tripura
Biên giới của vương quốc thay đổi theo thời gian, tại các thời điểm khác nhau, biên giới mở rộng về phía nam đến các khu rừng Sundarban bên vịnh Bengal; về phía đông đến Myanmar; và về phía bắc đến biên giới của Vương quốc Kamarupa tại Assam. Từ thế kỷ XIII trở đi, người Hồi giáo từng vài lần tiến hành xâm chiếm khu vực, cực điểm là Đế quốc Mogul thống trị các đồng bằng của vương quốc vào năm 1733, song quyền lực của họ chưa từng mở rộng đến các vùng đồi. Người Mogul có uy thế trong việc bổ nhiệm các quốc vương của Tripura. Tripura trở thành một phiên vương quốc trong giai đoạn Anh Quốc cai trị Ấn Độ. Các quốc vương của Tripura có một bất động sản tại Ấn Độ thuộc Anh, được gọi là huyện Tippera hay Chakla Roshnabad (nay là huyện Comilla của Bangladesh), cùng với một khu vực độc lập gọi là Đồi Tippera mà nay là Tripura. Udaipur nằm tại nam bộ của Tripura và đóng vai trò là kinh đô của vương quốc cho đến khi Quốc vương Krishna Manikya dời đô đến Agartala Cổ trong thế kỷ XVIII. Kinh đô được dời đến thành phố mới Agartala trong thế kỷ XIX. Quốc vương Bir Chandra Manikya (1862–1896) tái cấu trúc chính quyền theo mô hình của Ấn Độ thuộc Anh, và ban hành các cải cách bao gồm việc thành lập Hội đồng thành phố Agartala.Sau khi Ấn Độ độc lập vào năm 1947, huyện Tippera trở thành một bộ phận của Đông Pakistan, còn Đồi Tippera vẫn nằm dưới quyền của hội đồng nhiếp chính cho đến năm 1949. Nhiếp chính của Tripura là Vương hậu Kanchanprabha Devi ký vào Hiệp định Hợp nhất Tripura vào ngày 9 tháng 9 năm 1949, theo đó Tripura trở thành một bộ phận của Ấn Độ. Tripura gia nhập Liên bang Ấn Độ vào ngày 15 tháng 10 năm 1949 với địa vị một bang loại "C", trở thành một Lãnh thổ liên bang không có cơ quan lập pháp vào tháng 11 năm 1956 và nội các tuyển cử nhậm chức vào tháng 7 năm 1963. Việc Ấn Độ bị phân chia sau khi độc lập gây nên các trở ngại lớn về kinh tế và cơ sở hạ tầng đối với Tripura, giao thông đường bộ giữa Tripura và các thành thị lớn của Ấn Độ phải đi theo đường vòng. Trước khi phân chia, khoảng cách đường bộ giữa Kolkata và Agartala là dưới 350 km (220 mi), song tăng lên 1.700 km (1.100 mi) sau khi phân chia do phải tránh Đông Pakistan. Cô lập về địa chính trị của Tripura càng tăng thêm do không có giao thông đường sắt.Một số nơi tại Tripura từng bị Quân đội Pakistan pháo kích trong Chiến tranh Ấn Độ-Pakistan 1971. Sau chiến tranh, chính phủ Ấn Độ tái tổ chức khu vực Đông Bắc nhằm bảo đảm kiểm soát hiệu quả biên giới quốc tế; trong đó ba bang mới được hình thành vào ngày 21 tháng 1 năm 1972: Meghalaya, Manipur và Tripura. Kể từ khi Ấn Độ bị phân chia, người Bengal theo Ấn Độ giáo di cư đến Tripura trong thân phận người tị nạn từ Đông Pakistan; số người Bengal đến định cư tăng lên trong thời gian diễn ra Chiến tranh giải phóng Bangladesh vào năm 1971. Trước khi Ấn Độ độc lập, hầu hết cư dân trong bang là người bản địa; song họ hiện là thiểu số. Xung đột sắc tộc giữa các bộ lạc và cộng đồng người Bengal nhập cư chiếm đa số dẫn đến các hành động bạo lực rải rác, và một cuộc nổi dậy kéo dài hàng thập niên. Tình trạng này dần hạ nhiệt sau khi thành lập một hội đồng khu vực tự trị bộ lạc và tiến hành các chiến dịch bình loạn chiến lược,
Biên giới của vương quốc thay đổi theo thời gian, tại các thời điểm khác nhau, biên giới mở rộng về phía nam đến các khu rừng Sundarban bên vịnh Bengal; về phía đông đến Myanmar; và về phía bắc đến biên giới của Vương quốc Kamarupa tại Assam. Quốc vương Bir Chandra Manikya (1862–1896) tái cấu trúc chính quyền theo mô hình của Ấn Độ thuộc Anh, và ban hành các cải cách bao gồm việc thành lập Hội đồng thành phố Agartala.Sau khi Ấn Độ độc lập vào năm 1947, huyện Tippera trở thành một bộ phận của Đông Pakistan, còn Đồi Tippera vẫn nằm dưới quyền của hội đồng nhiếp chính cho đến năm 1949.
Tripura
Tripura là một bang nội lục tại Đông Bắc Ấn Độ với diện tích 10.491,69 km2 (4.050,86 dặm vuông Anh), là bang nhỏ thứ ba tại Ấn Độ, đứng trên Goa và Sikkim. Tripura trải dài từ 22°56'B đến 24°32'B, và từ 91°09'Đ đến 92°20'Đ. Khoảng cách tối đa của bang là 184 km (114 mi) từ bắc đến nam, và 113 km (70 mi) từ đông sang tây. Tripura giáp với quốc gia Bangladesh ở phía tây, bắc và nam; giáp với bang Assam ở phía đông bắc; và giáp với bang Mizoram ở phía đông. Có thể tiếp cận với Tripura thông qua các quốc lộ đi qua huyện Karimganj của Assam và huyện Mamit của Mizoram.Địa văn học của Tripura mang đặc trưng với các dãy đồi, thung lũng và đồng bằng. Bang có năm dãy nếp lồi gồm các đồi chạy từ bắc xuống nam, từ Boromura ở phía tây, qua Atharamura, Longtharai và Shakhan, đến vùng Đồi Jampui ở phía đông. Các nếp lõm xen giữa là các thung lũng Agartala–Udaipur, Khowai–Teliamura, Kamalpur–Ambasa, Kailasahar–Manu và Dharmanagar–Kanchanpur. Trên cao độ 939 m (3.081 ft), Betling Shib trên dãy Jampui là điểm cao nhất trong bang. Các gò nhỏ biệt lập nằm rải rác khắp bang được gọi là tillas, các thung lũng phù sa màu mỡ song hẹp chủ yếu nằm ở phía tây và chúng được gọi là lungas. Một số sông khởi nguồn từ các đồi của Tripura và chảy sang Bangladesh. Khowai, Dhalai, Manu, Juri và Longai chảy hướng về phía bắc; Gumti chảy về phía tây; và Muhuri cùng Feni chảy về phía tây nam.Dữ liệu thạch địa tầng do Cục Nghiên cứu địa chất Ấn Độ phát hành xác định niên đại của các đá nằm giữa thế Tiệm Tân (34-23 triệu năm trước), và thế Toàn Tân (bắt đầu từ 12.000 năm trước) theo niên đại địa chất. Các đồi có đất laterit đỏ có đặc tính xốp. Đất phù sa phủ trên các bãi bồi và thung lũng hẹp, hầu hết đất nông nghiệp nằm trên các bãi bồi và thung lũng ở phía tây và nam. Theo Cục Tiêu chuẩn Ấn Độ, theo thang đo từ I đến V theo thứ tự tăng dần về tính nhạy cảm với địa chấn, Tripura thuộc khu địa chấn V.Tripura có khí hậu xa van nhiệt đới, được xác định là Aw theo phân loại khí hậu Köppen. Địa hình nhấp nhô dẫn đến những biến thiên địa phương, đặc biệt là trên các dãy đồi. Bốn mùa chính trong năm là mùa đông từ tháng 12 đến tháng 2; mùa trước gió mùa hay mùa hè kéo dài từ tháng 3 đến tháng 4, mùa gió mùa kéo dài từ tháng 5 đến tháng 9; và mùa sau gió mùa kéo dài từ tháng 10 đến tháng 11. Trong mùa gió mùa, gió mùa tây nam đưa đến các cơn mưa lớn, gây lũ lụt thường xuyên. Lượng mưa trung bình năm từ năm 1995 đến năm 2006 dao động từ 1.979,6 đến 2.745,9 mm (77,94 đến 108,11 in). Trong mùa đông, nhiệt độ dao động từ 13 đến 27 °C (55 đến 81 °F), còn nhiệt độ vào mùa hè dao động từ 24 và 36 °C (75 và 97 °F). Theo tường trình của Chương trình phát triển Liên Hợp Quốc (UNDP), Tripura nằm trên đới "có nguy cơ chịu thiệt hại rất cao" do gió lốc.
Tripura là một bang nội lục tại Đông Bắc Ấn Độ với diện tích 10.491,69 km2 (4.050,86 dặm vuông Anh), là bang nhỏ thứ ba tại Ấn Độ, đứng trên Goa và Sikkim. Khoảng cách tối đa của bang là 184 km (114 mi) từ bắc đến nam, và 113 km (70 mi) từ đông sang tây.
Tripura
Tripura nằm trong vùng sinh thái Indomalaya giống như hầu hết những nơi khác trên tiểu lục địa Ấn Độ. Theo phân loại địa lý sinh học của Ấn Độ, bang thuộc về vùng địa lý sinh học "Đông-Bắc". Tính đến năm 2011, rừng bao phủ 57,73% diện tích của bang. Tripura có ba loại hệ sinh thái khác biệt: núi, rừng và nước ngọt. Các loài thuộc chi dầu, mít, Amoora, côm, trâm và vối chiếm ưu thế trong các khu rừng thường xanh trên các sườn đồi và bãi đất cát ven sông. Đa số các loài thực vật xuất hiện trong hai loại rừng rụng lá ẩm: rừng hỗn tạp rụng lá và loại rừng mà Sala (Shorea robusta) chiếm ưu thế. Các rừng tre và mây nằm rải rác với các loài thực vật rụng lá và thường xanh là điểm đặc biệt của hệ thực vật trong bang. Tripura cũng có các thảo nguyên và đầm lầy, đặc biệt là tại các đồng bằng. Các loài thực vật thân thảo, cây bụi, và thực vật thuộc chi bản xe, lộc vừng, tử vi và mã rạng mọc sum sê trong các đầm lầy của Tripura. Các loài cây bụi và thân cỏ gồm có Schumannianthus dichotoma (shitalpati), Phragmites và Saccharum.Theo một nghiên cứu vào năm 1989–90, Tripura có 90 loài thú trên cạn thuộc 65 chi và 10 bộ, bao gồm các loài như voi (Elephas maximus), gấu (Melursus ursinus), cầy mực (Arctictis binturong), sói đỏ (Cuon alpinus), đon (Artherurus assamensis), mang (Muntiacus muntjak), nai (Cervus unicolor), lợn rừng (Sus scrofa), bò tót (Bos gaurus), báo hoa mai (Panthera pardus), báo gấm (Neofelis nebulosa), và nhiều loài nhỏ thuộc họ Mèo và loài thuộc bộ Linh trưởng. Trong số 15 loài linh trưởng sinh sống trong môi trường tự do tại Ấn Độ, có bảy loài được phát hiện tại Tripura; đây là con số cao nhất trong các bang của Ấn Độ. Trâu rừng (Bubalus arnee) hiện đã tuyệt chủng tại bang. Có gần 300 loài chim tại bang.Tipura có các khu bảo tồn loài hoang dã Sipahijola, Gumti, Rowa và Trishna. có các vườn quốc gia Báo gấm và Rajbari. Tổng cộng, các khu bao tồn này bao phủ một diện tích 566,93 km2 (218,89 dặm vuông Anh). Gumti cũng là một vùng chim quan trọng. Vào mùa đông, có hàng nghìn cá thể chim nước tụ tập tại các hồ Gumti và Rudrasagar.
Tripura nằm trong vùng sinh thái Indomalaya giống như hầu hết những nơi khác trên tiểu lục địa Ấn Độ. Tripura có ba loại hệ sinh thái khác biệt: núi, rừng và nước ngọt.
Tripura
Tripura trải qua thay đổi lớn về phân chia hành chính vào tháng 1 năm 2012. Trước đó, bang có bốn huyện là Dhalai (thủ phủ là Ambassa), Bắc Tripura (thủ phủ là Kailashahar), Nam Tripura (thủ phủ là Udaipur), và Tây Tripura (thủ phủ là Agartala). Bốn huyện mới được tách ra từ các huyện này vào tháng 1 năm 2012 là Khowai, Unakoti, Sipahijala và Gomati. Huyện trưởng là người quản lý mỗi huyện, họ thường được Cục Hành chính Ấn Độ bổ nhiệm. Các đơn vị hành chính trực thuộc mỗi huyện do phó phân khu trưởng quản lý, mỗi phó phân khu lại được chia tiếp thành các block. Các block gồm có các Panchayat (hội đồng làng) và chính quyền đô thị. Tính đến năm 2012, bang có tám huyện, 23 phó phân khu và 45 block. Agartala là thủ phủ của Tripura, và cũng là thành phố đông dân nhất trong bang. Các đô thị khác có 10.000 cư dân hoặc nhiều hơn (điều tra năm 2001) là Badharghat, Dharmanagar, Jogendranagar, Kailashahar, Pratapgarh, Udaipur, Amarpur, Belonia, Gandhigram, Indranagar, Kumarghat, Ranirbazar, Sonamura, và Teliamura.
Tripura trải qua thay đổi lớn về phân chia hành chính vào tháng 1 năm 2012. Agartala là thủ phủ của Tripura, và cũng là thành phố đông dân nhất trong bang.
Tripura
Giống với các bang khác tại Ấn Độ, Tripura có một hệ thống nghị viện theo hình thức dân chủ đại nghị. Các cư dân trong bang được trao quyền tuyển cử phổ thông. Chính phủ Tripura gồm ba nhánh: hành pháp, lập pháp và tư pháp. Hội đồng lập pháp Tripura gồm có các thành viên được bầu và các cán sự đặc thù do các thành viên bầu nên. Chủ tịch hội đồng là người chủ trì các cuộc họp của hội đồng lập pháp, nếu chủ tịch vắng mặt thì phó chủ tịch là người thay thế. Hội đồng lập pháp Tripura là đơn viện với 60 thành viên. Các thành viên được bầu cho một nhiệm kỳ 5 năm, trừ trường hợp Hội đồng bị giải tán trước khi kết thúc nhiệm kỳ. Hệ thống tư pháp gồm có Tòa cấp cao Tripura và một hệ thống các tòa cấp thấp. Quyền hành pháp được trao cho Hội đồng bộ trưởng, với người đứng đầu là Thủ tịch bộ trưởng (Chief Minister). Thống đốc là người đứng đầu bang trên danh nghĩa, người này do Tổng thống Ấn Độ bổ nhiệm. Lãnh đạo của đảng hoặc liên minh đảng phái chiếm đa số trong Hội đồng lập pháp sẽ được Toàn quyền bổ nhiệm làm Thủ tịch bộ trưởng. Các thành viên trong Hội đồng bộ trưởng do Toàn quyền bổ nhiệm theo cố vấn của Thủ tịch bộ trưởng. Hội đồng bộ trưởng phải tường trình trước Hội đồng lập pháp.
Giống với các bang khác tại Ấn Độ, Tripura có một hệ thống nghị viện theo hình thức dân chủ đại nghị. Thống đốc là người đứng đầu bang trên danh nghĩa, người này do Tổng thống Ấn Độ bổ nhiệm.
Tripura
Tripura gửi hai đại diện đến Lok Sabha (hạ nghị viện Ấn Độ) và một đại diện đến Rajya Sabha (thượng nghị viện Ấn Độ). Các Panchayat (chính quyền tự trị địa phương) được bầu trong các cuộc tuyển cử hội đồng địa phương và hiện diện tại nhiều làng tự trị. Tripura cũng có một hội đồng tự trị bộ lạc độc nhất đó là Hội đồng khu vực tự trị các khu vực bộ lạc Tripura (TTAADC). Hội đồng này chịu trách nhiệm đối với một số khía cạnh trong quản trị địa phương tại hàng trăm làng có tỷ lệ lớn "các bộ lạc được liệt kê".Các chính đảng lớn tại Tripura là Mặt trận Cánh Tả và Đảng Quốc Đại, Đảng Quốc Đại cầm quyền tại Tripura cho đến năm 1977. Mặt trận Cánh Tả giành được quyền lực từ năm 1978 đến năm 1988, và từ năm 1993 trở đi. Trong giai đoạn 1988–1993, Đảng Quốc Đại và Hiệp hội Thanh niên bộ lạc Tripura tạo thành một liên minh cầm quyền. Trong cuộc tuyển cử được tổ chức vào tháng 2 năm 2013, Mặt trận Cánh Tả giành được 50 trong số 60 ghế tại Hội đồng lập pháp, 49 ghế trong đó thuộc về Đảng Cộng sản Ấn Độ (Marxist) (CPM). Trong năm 2013, Tripura là bang duy nhất tại Ấn Độ có một đảng cộng sản cầm quyền. Trước đó, hai bang Tây Bengal và Kerala cũng từng có các chính phủ cộng sản được bầu lên theo cách thức dân chủ.Chủ nghĩa cộng sản tại Tripura khởi đầu từ thời kỳ tiền độc lập, lấy cảm hứng từ các hoạt động đấu tranh đòi tự do tại Bengal, và lên đến cực độ khi có các chính đảng địa phương mang khuynh hướng cộng sản. Phong trào cộng sản lợi dụng sự bất mãn của các bộ lạc đối với người thống trị chủ đạo. và được biết đến vì các liên kết với việc tìm kiếm bản sắc địa phương hoặc sắc tộc. Kể từ thập niên 1990, diễn ra một cuộc nổi dậy liên tục của người Tripura nhằm đòi đất, với sự tham gia của các tổ chức quân sự như Mặt trận Giải phóng Dân tộc Tripura và Lực lượng Hổ Toàn Tripura (ATTF); các sự kiện khủng bố có liên quan đến ATTF được ghi nhận là có 389 nạn nhân từ năm 1993 đến năm 2000.
Tripura gửi hai đại diện đến Lok Sabha (hạ nghị viện Ấn Độ) và một đại diện đến Rajya Sabha (thượng nghị viện Ấn Độ). Trong giai đoạn 1988–1993, Đảng Quốc Đại và Hiệp hội Thanh niên bộ lạc Tripura tạo thành một liên minh cầm quyền.
Tripura
Tổng sản phẩm nội địa bang của Tripura năm 2010–11 là 129,47 tỷ rupee theo giá cố định (2004–05), tăng trưởng 5,71% so với năm trước. Trong cùng thời kỳ, GDP của Ấn Độ tăng trưởng 8,55%. Năm 2009-2010, thu nhập bình quân đầu người hàng năm theo giá hiện tại của Tripura là 38.493 rupee, trong khi thu nhập bình quân đầu người toàn quốc là 44.345 rupee. Năm 2009, khu vực thứ ba của nền kinh tế (dịch vụ) có đóng góp lớn nhất vào tổng sản phẩm nội địa của bang, với 53,98% so với đóng góp 23,07% của khu vực sơ khai (nông lâm nghiệp, khai mỏ) và đóng góp 22,95% của khu vực thứ hai (công nghiệp và chế tạo). Theo Điều tra Kinh tế năm 2005, sau nông nghiệp, số lao động lớn nhất là trong lĩnh vực bán lẻ (28,21% tổng số lao động phi nông nghiệp), tiếp đến là ngành chế tạo (18,60%), hành chính công (14,54%), và giáo dục (14,40%).Tripura là một bang nông nghiệp, với trên một nửa dân số phụ thuộc vào nông nghiệp và các hoạt động có liên quan. Tuy nhiên, do địa hình nhiều đồi và có độ che phủ rừng lớn, chỉ có 27% đất có thể canh tác. Lúa là cây trồng chính trong bang, chiếm khoảng 91% diện tích gieo trồng. Theo cục Kinh tế và Thống kê của Chính phủ Tripura, trong năm 2009–10, khoai tây, mía, bụt giấm, các loại đậu và đay là những cây trồng chính khác tại bang. Mít và dứa đứng đầu trong số các sản phẩm từ vườn. Theo truyền thống, hầu hết cư dân bản địa sử dụng phương pháp trồng trọt jhum (một kiểu chặt và đốt). Số người dựa vào jhum suy giảm theo thời gian.
Tổng sản phẩm nội địa bang của Tripura năm 2010–11 là 129,47 tỷ rupee theo giá cố định (2004–05), tăng trưởng 5,71% so với năm trước. Năm 2009-2010, thu nhập bình quân đầu người hàng năm theo giá hiện tại của Tripura là 38.493 rupee, trong khi thu nhập bình quân đầu người toàn quốc là 44.345 rupee.
Tripura
Ngư nghiệp Tripura đạt được những tiến bộ đáng kể. Đến cuối năm 2009-2010, bang sản xuất thặng dư 104,3 triệu cá giống. Cao su và trà là các cây trồng kinh tế quan trọng tại bang, Tripura xếp thứ nhì sau Kerala về sản lượng cao su tự nhiên tại Ấn Độ. Thủ công nghiệp Tripura được biết đến, đặc biệt là vải bông dệt thủ công, đồ khắc gỗ, và các sản phẩm từ tre. Cây gỗ chất lượng cao gồm sala, dầu, tếch và lõi thọ, chúng có nhiều trong các khu rừng tại Tripura.
Ngư nghiệp Tripura đạt được những tiến bộ đáng kể. Đến cuối năm 2009-2010, bang sản xuất thặng dư 104,3 triệu cá giống.
Tripura
Khu vực công nghiệp của Tripura vẫn hết sức kém phát triển; hai ngành được tổ chức duy nhất là gạch và trà. Tripura có trữ lượng đáng kể về khí đốt tự nhiên, song nghèo các loại khoáng sản khác như khoáng vật sét, cát thủy tinh, than nâu, và đá vôi. Theo ước tính của Tổng công ty Dầu và Khí thiên nhiên (ONGC) của Ấn Độ, Tripura có trữ lượng 400 tỷ m³ khí đốt thiên nhiên, trong đó có thể khai thác 16 tỷ m³. ONGC sản xuất 480 triệu m³ khí đốt thiên nhiên tại Tripura vào năm 2006–07. Ngành công nghiệp du lịch Tripura đang phát triển, thu nhập từ lĩnh vực du lịch vượt 10 triệu rupee lần đầu tiên vào năm 2009–10, và vượt 15 triệu rupee vào năm 2010–11. Mặc dù Bangladesh nằm trong tình trạng thâm hụt mậu dịch với Ấn Độ, song xuất khẩu của nước này sang Tripura nhiều hơn đáng kể so với nhập khẩu từ bang; một tường thuật trên báo The Hindu ước tính Bangladesh xuất khẩu hàng hóa trị giá 3,5 tỷ rupee sang Tripura vào năm 2012, song nhập khẩu "số lượng rất ít". Bên cạnh mậu dịch quốc tế hợp pháp, hoạt động biên mậu phi chính thức và phi pháp diễn ra tràn lan.
Khu vực công nghiệp của Tripura vẫn hết sức kém phát triển; hai ngành được tổ chức duy nhất là gạch và trà. Tripura có trữ lượng đáng kể về khí đốt tự nhiên, song nghèo các loại khoáng sản khác như khoáng vật sét, cát thủy tinh, than nâu, và đá vôi.
Tripura
Quốc lộ 44 (NH-44) là tuyến đường bộ lớn duy nhất kết nối Tripura với phần còn lại của Ấn Độ. Quốc lộ bắt đầu từ Sabroom tại nam bộ Tripura, chạy hướng về phía bắc đến thủ phủ Agartala, rồi chuyển sang hướng đông rồi đông bắc và đi sang bang Assam. Quốc lộ 44 được người địa phương gọi là "đường Assam", và thường được gọi là đường sinh mệnh của Tripura. Tuy nhiên, tuyến đường này chỉ có một làn và có chất lượng kém, thường xảy ra lở đất, mưa và các sự cố khác trên đường khiến Tripura bị cô lập với các bang khác. Quốc lộ 44A (NH 44A) nối đô thị Manu tại huyện Nam Tripura với Aizawl thuộc Mizoram. Tổng công ty giao thông đường bộ Tripura là cơ quan chính phủ làm nhiệm vụ giám sát giao thông công cộng bằng đường bộ. Tripura là một bang nội lục nhiều đồi, dựa chủ yếu vào loại hình giao thông đường bộ. Tổng chiều dài các tuyến đường bộ trong bang là 16.931 km (10.520 mi), trong đó theo số liệu năm 2009–10 thì các quốc lộ dài tổng cộng 448 km (278 mi) và các bang lộ dài tổng cộng 689 km (428 mi). Dân cư tại các khu vực nông thôn thường xuyên sử dụng phương thức vận chuyển bằng đường thủy.Sân bay Agartala nằm cách thủ phủ Agartala 12,5 km về phía tây bắc, và là sân bay bận rộn thứ nhì tại Đông Bắc Ấn Độ, sau Guwahati. Cảng hàng không này có các chuyến bay thẳng kết nối đến Kolkata, Imphal, Delhi, Silchar, Aizwal, Guwahati, Bangalore, Chennai, Ahmedabad và Mumbai. Các hãng hàng không hoạt động tại cảng hàng không là Air India, Jet Airways, Indigo Airlines và Spicejet. Dịch vụ trực thăng hành khách khả dụng giữa thủ phủ và các đô thị lớn (Kailashahar, Dharmanagar) cũng như đến các khu vực hẻo lánh hơn như Kanchanpur và Gandacherra.Tripura không có loại hình giao thông đường sắt cho đến năm 2008–09, khi đó một tuyến đường sắt giữa thủ phủ Agartala và ga đầu mối Lumding tại Assam được hoàn thành. Đây là tuyến đường sắt có đường ray khổ mét, nối với đường ray khổ Ấn Độ tại Lumding. Các ga chính trên tuyến đường sắt này là tại Agartala, Dharmanagar, và Kumarghat. Tính đến năm 2009–10, tổng chiều dài đường ray đường sắt trong bang là 153 km (95 mi). Việc kéo dài tuyến đường sắt từ Agartala về đô thị Sabroom ở cực nam cũng được tiến hành.Tripura có tuyến biên giới quốc tế dài 856 km (532 mi) với Bangladesh, chiếm 84% chu vi của bang. Một số địa điểm dọc theo biên giới đóng vai trò là các trạm mậu dịch song phương giữa Ấn Độ và Bangladesh, như Akhaura gần Agartala, Raghna, Srimantpur, Belonia, Khowai và Kailasahar. Có dịch vụ xe khách giữa Agartala và thủ đô Dhaka của Bangladesh. Năm 2013, hai quốc gia ký kết một hiệp định về việc thiết lập một tuyến đường sắt dài 15 km (9,3 mi) kết nối giữa Agartala và ga đầu mối Akhaura của Bangladesh. Công dân hai quốc gia cần phải có thị thực để nhập cảnh quốc gia khác một cách hợp pháp; song di chuyển và buôn lậu phi pháp qua biên giới diễn ra phổ biến.
Quốc lộ 44 (NH-44) là tuyến đường bộ lớn duy nhất kết nối Tripura với phần còn lại của Ấn Độ. Có dịch vụ xe khách giữa Agartala và thủ đô Dhaka của Bangladesh.
Tripura
Tính đến năm 2012, có 56 nhật báo và tuần báo phát hành tại Tripura. Hầu hết các báo phát hành bằng tiếng Bengal, ngoại trừ một nhật báo viết bằng tiếng Kokborok (Hachukni Kok), một tuần báo viết bằng tiếng Manipur (Marup), hai nhật báo tiếng Anh và ba tuần báo song ngữ. Các nhật báo trứ danh là Daily Desher Katha, Ajkal Tripura, Dainik Sambad, và Syandan Patrika. Một nghiên cứu của Viện Ấn Độ về truyền thông đại chúng (IIMC) vào năm 2009 cho thấy có 93% số phiếu lấy mẫu tại Tripura đánh giá truyền hình là rất hữu hiệu đối với thông tin và giáo dục đại chúng. Theo nghiên cứu, 67% số phiếu lấy mẫu trả lời có nghe phát thanh và 80–90% trả lời có đọc báo. Hầu hết các công ty truyền thông lớn của Ấn Độ hiện diện tại Tripura, chẳng hạn như Airtel, Aircel, Vodafone, Reliance, Tata Indicom, Idea và BSNL. Kết nối di động vượt trội so với kết nối cố định, tính đến năm 2011, công ty quốc doanh BSNL có 57.897 thuê bao cố định và 325.279 thuê bao di động GSM. Tính đến năm 2011, có 84 tổng đài điện thoại (dành cho điện thoại cố định) và 716 bưu cục tại Tripura.
Tính đến năm 2012, có 56 nhật báo và tuần báo phát hành tại Tripura. Một nghiên cứu của Viện Ấn Độ về truyền thông đại chúng (IIMC) vào năm 2009 cho thấy có 93% số phiếu lấy mẫu tại Tripura đánh giá truyền hình là rất hữu hiệu đối với thông tin và giáo dục đại chúng.
Tripura
Tính đến năm 2013, Tripura có ba nhà máy phát điện thuộc sở hữu của Tập đoàn điện năng bang Tripura, đó là các nhà máy nhiệt điện sử dụng khí thiên nhiên tại Rokhia và Baramura, và nhà máy thủy điện trên sông Gumti. Tổng công suất của ba nhà máy điện này là 100–105 MW. Công ty Điện lực Đông Bắc Bộ (NEEPCO) điều hành nhà máy điện tuốc bin khí Agartala có công suất 84 MW nằm gần Agartala. Trong những thời điểm nhu cầu điện năng đạt cực độ, bang phải vay 50–60 MW điện năng từ lưới điện Đông Bắc của mạng lưới truyền tải quốc gia. Một nhà máy nhiệt điện do Tập đoàn dầu và khí thiên nhiên điều hành được khánh thành vào tháng 6 năm 2013 tại Palatala, có công suất dự kiến đạt trên 700 MW. Tính đến tháng 3 năm 2014, một nhà máy nhiệt điện khác đang chờ được vận hành tại Monarchak.Tính đến năm 2011, 255.241 hécta (985 dặm vuông Anh) đất tại Tripura có thể canh tác, trong đó các dự án tưới tiêu có khả năng bao phủ 108.646 hécta (419 dặm vuông Anh). Tuy nhiên, chỉ có 74.796 hécta (289 dặm vuông Anh) là được tưới. Tripura thiếu các dự án tưới tiêu lớn; phải dựa và các dự án quy mô trung bình lấy nước từ các sông Gumti, Khowai và Manu, và các dự án quy mô nhỏ do hội đồng cấp làng quản lý, các dự án này sử dụng các giếng ống, bơm tay, bể và nâng thủy lợi.
Tính đến năm 2013, Tripura có ba nhà máy phát điện thuộc sở hữu của Tập đoàn điện năng bang Tripura, đó là các nhà máy nhiệt điện sử dụng khí thiên nhiên tại Rokhia và Baramura, và nhà máy thủy điện trên sông Gumti. Tripura thiếu các dự án tưới tiêu lớn; phải dựa và các dự án quy mô trung bình lấy nước từ các sông Gumti, Khowai và Manu, và các dự án quy mô nhỏ do hội đồng cấp làng quản lý, các dự án này sử dụng các giếng ống, bơm tay, bể và nâng thủy lợi.
Tripura
Các trường học tại Tripura do chính phủ bang và các tổ chức tư nhân điều hành, trong đó có các tổ chức tôn giáo. Ngôn ngữ giảng dạy chính trong các trường học là tiếng Anh hoặc tiếng Bengal, song tiếng Kokborok và các ngôn ngữ địa phương khác cũng được sử dụng. Các trường học là thành viên của Hội đồng Khảo thí chứng chỉ trường học Ấn Độ (CISCE), Ủy ban Trung ương về giáo dục trung học (CBSE), Viện quốc gia về giáo dục mở (NIOS) hay Ủy ban Tripura về giáo dục trung học. Theo kế hoạch 10+2+3, sau khi tốt nghiệp trung học, học sinh thường theo học hai năm cao đẳng hoặc trong một trường trung học cao cấp là thành viên của Ủy ban Tripura về giáo dục trung học hoặc các ủy ban trung ương khác. Học sinh lựa chọn một trong ba ban: khai phóng, thương mại hay khoa học. Giống như phần còn lại của Ấn Độ, sau khi vượt qua kỳ khảo thí trung học cao cấp (kỳ thi lớp 12), học sinh có thể ghi danh vào các chương trình đào tạo tổng quát hoặc chuyên nghiệp.
Các trường học tại Tripura do chính phủ bang và các tổ chức tư nhân điều hành, trong đó có các tổ chức tôn giáo. Học sinh lựa chọn một trong ba ban: khai phóng, thương mại hay khoa học.
Tripura
Theo Bình luận kinh tế Tripura 2010–11, Tripura có tổng cộng 4.455 trường học, trong đó có 2.298 trường tiểu học. Tổng số học sinh ghi danh trong các trường học tại bang là 767.672. Tripura có một Đại học trung tâm (Đại học Tripura) và một đại học tư thục (một phân hiệu của Học viện phân tích viên tài chính đặc hứa Ấn Độ). Bang có 15 trường tổng quát, hai trường kỹ thuật (trường kỹ thuật Tripura và trường quốc gia về kỹ thuật, Agartala), hai trường y (trường y chính phủ Agartala và trường y Tripura), ba trường bách khoa, một trường luật, một trường nhạc, và một trường nghệ thuật.
Theo Bình luận kinh tế Tripura 2010–11, Tripura có tổng cộng 4.455 trường học, trong đó có 2.298 trường tiểu học. Tổng số học sinh ghi danh trong các trường học tại bang là 767.672.
Tripura
Tripura có một hệ thống y tế phổ thông do Bộ Y tế và Phúc lợi gia đình của Chính phủ Tripura vận hành. Cơ sở hạ tầng chăm sóc y tế được chia thành ba bậc: mạng lưới chăm sóc y tế sơ cấp, một hệ thống chăm sóc trung cấp gồm các bệnh viện huyện và phó phân khu, và các bệnh viện cấp ba cung cấp dịch vụ chăm sóc chuyên khoa và siêu chuyên khoa. Tính đến năm 2010–11, Tripura có 17 bệnh viện, 11 bệnh viện nông thôn và trung tâm y tế cộng đồng, 79 trung tâm y tế sơ cấp, 635 phân trung tâm/trạm phát thuốc, 7 ngân hàng máu và 7 trung tâm kho máu. Các phương pháp y khoa vi lượng đồng căn và Ayurveda cũng phổ biến tại bang. Điều tra y tế gia đình quốc gia – 3 tiến hành vào năm 2005–06 cho thấy rằng 20% cư dân tại Tripura không thường xuyên sử dụng các phương tiện y tế của chính phủ, và ưa thích khu vực y tế tư nhân hơn. Tỷ lệ này thấp hơn so với mức trung bình toàn quốc, theo đó 65,6% dân số Ấn Độ không dựa vào các phương tiện y tế của chính phủ. Giống như phần còn lại của Ấn Độ, cư dân Tripura cũng cho rằng chất lượng chăm sóc yếu kém là nguyên nhân phổ biến nhất khiến họ không dựa vào dịch vụ y tế công. Các lý do khác bao gồm khoảng cách xa xôi với dịch vụ y tế công, thời gian chờ đợi lâu, và thời gian hoạt động bất tiện Tính đến năm 2010, thành tích của Tripura trên các chỉ số lớn về chăm sóc y tế công cộng, như tỷ suất tử vong, tỷ suất tử vong trẻ sơ sinh và tổng tỷ suất sinh là tốt hơn so với trung bình toàn quốc.
Tripura có một hệ thống y tế phổ thông do Bộ Y tế và Phúc lợi gia đình của Chính phủ Tripura vận hành. Tỷ lệ này thấp hơn so với mức trung bình toàn quốc, theo đó 65,6% dân số Ấn Độ không dựa vào các phương tiện y tế của chính phủ.
Tripura
Tripura là bang đông dân thứ nhì tại Đông Bắc Ấn Độ, đứng sau Assam. Theo kết quả tạm thời của cuộc điều tra nhân khẩu năm 2011 tại Ấn Độ, Tripura có dân số 3.671.032, với 1.871.867 nam và 1.799.165 nữ. Tỷ suất giới tính trong bang là 961 nữ trên một nghìn nam, cao hơn mức trung bình toàn quốc là 940. Mật độ dân số là 350 người/km². Tỷ lệ biết chữ tại Tripura vào năm 2011 là 87,75%, cao hơn mức trung bình toàn quốc là 74,04%. Đến năm 2013, chính quyền bang tuyên bố tỷ lệ biết chữ đã lên đến 94,65%, chiếm vị trí hàng đầu toàn quốc.Năm 1875, thành viên các bộ lạc chiếm 63,77% dân số trong khu vực, điều này cho thấy dân số phi bản địa khi đó có sự hiện diện đáng kể, chủ yếu là người Bengal. Các quốc vương của phiên vương quốc Tripura khuyến khích người Bengal di cư đến, và người Bengal tham gia vào các công việc hành chính và tiến hành canh tác hiện đại năng suất cao hơn, trong khi người bản địa canh tác theo kiểu jhum (đốt nương rẫy). Số người Bengal di cư tăng lên đáng kể sau khi Ấn Độ phân chia, khiến các bộ lạc trở thành thiểu số.
Tripura là bang đông dân thứ nhì tại Đông Bắc Ấn Độ, đứng sau Assam. Tỷ suất giới tính trong bang là 961 nữ trên một nghìn nam, cao hơn mức trung bình toàn quốc là 940.
Tripura
Trong điều tra nhân khẩu năm 2001 tại Ấn Độ, người Bengal chiếm 69% dân số Tripura, trong khi người bản địa chiếm 31%. "Các bộ lạc được liệt kê" gồm các nhóm dân tộc chịu thiệt thòi trong lịch sử được công nhận theo hiến pháp Ấn Độ, trong đó Tripura có 19 dân tộc và nhiều phân nhóm, với sự đa dạng về ngôn ngữ và văn hóa. Năm 2001, nhóm "bộ lạc được liệt kê" lớn nhất là người Tripura nói tiếng Kokborok, họ có dân số là 543.848 và chiếm 17,0% dân số toàn bang, chiếm 54,7% dân số "các bộ lạc được liệt kê". Các nhóm lớn khác theo thứ tự dân số giảm dần là Reang, Jamatia, Chakma, Halam, Mog, Munda, Kuki và Garo. Tiếng Bengal là ngôn ngữ được nói phổ biến nhất trong bang do người Bengal có số lượng lớn. Kokborok là một ngôn ngữ chiếm ưu thế trong các bộ lạc. Một số ngôn ngữ khác như tiếng Hindi, Mog, Oriya, Bishnupriya Manipur, Manipur, Halam, Garo và Chakma thuộc các ngữ hệ Ấn-Âu và Hán-Tạng được nói tại bang.
Trong điều tra nhân khẩu năm 2001 tại Ấn Độ, người Bengal chiếm 69% dân số Tripura, trong khi người bản địa chiếm 31%. Năm 2001, nhóm "bộ lạc được liệt kê" lớn nhất là người Tripura nói tiếng Kokborok, họ có dân số là 543.848 và chiếm 17,0% dân số toàn bang, chiếm 54,7% dân số "các bộ lạc được liệt kê".
Tripura
Tripura xếp thứ 18 về chỉ số phát triển con người (HDI) trong số các bang và lãnh thổ liên bang tại Ấn Độ, theo ước tính năm 2006 của Bộ Phát triển Phụ nữ và Thiếu nhi; HDI của Tripura là 0,663, trong khi mức trung bình toàn quốc là 0,605. Theo điều tra nhân khẩu năm 2001, Ấn Độ giáo là tôn giáo đa số trong bang, được 85,8% dân số trong bang tin theo. Người Hồi giáo chiếm 7,9% dân số, người Cơ Đốc giáo chiếm 3,2%, và người Phật giáo chiếm 3,1%. Tỷ lệ người Hồi giáo tại Tripura dần suy giảm kể từ năm 1971 do những tín đồ Ấn Độ giáo nhập cư từ Bangladesh, trong khi tín đồ Hồi giáo trong bang di cư đến quốc gia này với quy mô lớn. Đa số các bộ lạc trong bang theo Ấn Độ giáo và tiến hành các nghi thức tôn giáo Ấn Độ giáo. Họ tin tưởng và sự tồn tại của Thượng đế trong toàn bộ các yếu tố tự nhiên do họ tin theo thuyết vật linh. Người Mog và người Chakma là các cộng đồng theo Phật giáo tại Tripura. Những tín đồ Cơ Đốc giáo trong bang chủ yếu là thành viên của các bộ lạc Lushai, Kuki và Garo.
Tripura xếp thứ 18 về chỉ số phát triển con người (HDI) trong số các bang và lãnh thổ liên bang tại Ấn Độ, theo ước tính năm 2006 của Bộ Phát triển Phụ nữ và Thiếu nhi; HDI của Tripura là 0,663, trong khi mức trung bình toàn quốc là 0,605. Đa số các bộ lạc trong bang theo Ấn Độ giáo và tiến hành các nghi thức tôn giáo Ấn Độ giáo.
Tripura
Các nhóm dân tộc-ngôn ngữ đa dạng tại Tripura tạo ra một văn hóa hỗn hợp. Người Bengal là cộng đồng dân tộc-ngôn ngữ lớn nhất trong bang, văn hóa Bengal do vậy là văn hóa phi bản địa chính tại Tripura. Trên thực tế, có nhiều gia đình sinh sống trong đô thị thuộc tầng lớp tinh hoa trong các bộ lạc đã và đang tích cực tiếp nhận văn hóa và ngôn ngữ Bengal. Các quốc vương Tripura xưa kia là những nhà bảo trợ lớn đối với văn hóa Bengal, đặc biệt là văn học; Tiếng Bengal khi đó là ngôn ngữ của triều đình. Các yếu tố của văn hóa Bengal như văn học, âm nhạc, ẩm thực trở nên phổ biến, đặc biệt là tại các khu vực đô thị của bang.
Các nhóm dân tộc-ngôn ngữ đa dạng tại Tripura tạo ra một văn hóa hỗn hợp. Trên thực tế, có nhiều gia đình sinh sống trong đô thị thuộc tầng lớp tinh hoa trong các bộ lạc đã và đang tích cực tiếp nhận văn hóa và ngôn ngữ Bengal.
Tripura
Tripura nổi tiếng với các đồ thủ công làm bằng tre và mây. Tre, gỗ và mây được sử dụng để tạo ra một loạt gia cụ, dụng cụ, quạt cầm tay, chế phẩm mô phỏng, chiếu, rổ, tượng thần và vật liệu trang trí nội thất. Âm nhạc và vũ đạo là các loại hình không thể thiếu trong văn hóa Tripura. Một số nhạc cụ địa phương là sarinda, chongpreng (các loại đàn), và sumui (một loại sáo). Mỗi cộng đồng bản địa lại sở hữu riêng vốn tiết mục ca khúc và vũ đạo biểu diễn trong các hôn lễ, các công việc tôn giáo, và các lễ hội khác. Người Tripura và người Jamatia biểu diễn vũ điệu Goria trong dịp Goria Puja. Các vũ điệu khác của người Tripura là Jhum, Lebang, Mamita, hay Mosak sulmani. Cộng đồng Reang được chú ý với vũ điệu Hojagiri, vũ điệu này do các thiếu nữ biểu diễn với các động tác giữ thăng bằng đồ vật. Vũ điệu Bizhu được người Chakma biểu diễn vào lễ hội Bizhu (ngày cuối của tháng Chaitra theo lịch Hindu). Các vũ điệu khác bao gồm Wangala của người Garo, Hai-hak của nhánh Halam của người Kuki, và Sangrai và Owa của người Mog. Bên cạnh đó, âm nhạc và vũ đạo cổ điển Ấn Độ, Rabindra Sangeet của Rabindranath Tagore cũng được biểu diễn. Sachin Dev Burman là một thành viên vương thất Tripura, ông là một nhà soạn nhạc bậc thầy trong thể loại âm nhạc đại chúng filmi.Các tín đồ Ấn Độ giáo tin rằng Tripureshwari là nữ thần bảo hộ của Tripura và một diện mạo của Shakti. Các lễ hội quan trọng trong bang là Durga Puja, Kali Puja, Ashokastami và thờ phụng các thần Chaturdasha. Một số lễ hội tiêu biểu cho việc dung hợp các truyền thống địa phương các nhau, như Ganga Puja, Garia Puja, Kharchi Puja và Ker Puja. Unakoti, Pilak và Devtamura là các di chỉ lịch sử, nổi tiếng với các bộ sưu tập lớn về tác phẩm khắc đá. Những tác phẩm điêu khắc này là bằng chứng cho sự hiện diện của tín đồ Phật giáo và giai cấp Bà-la-môn trong nhiều thế kỷ, và đại diện cho một sự dung hợp nghệ thuật hiếm hoi của các tôn giáo có tổ chức truyền thống và ảnh hưởng bộ lạc.Bóng đá và cricket là hai môn thể thao phổ biến nhất tại Tripura. Thủ phủ Agartala có giải vô địch các câu lạc bộ bóng đá riêng, được tổ chức thường niên với thể thức loại trực tiếp. Tripura tham gia giải cricket quốc nội của Ấn Độ là Ranji Trophy với tư cách đội của một bang miền Đông. Tripura tham gia đều đặn Đại hội thể thao quốc gia Ấn Độ và Đại hội thể thao Đông Bắc Bộ (Ấn Độ).
Tripura nổi tiếng với các đồ thủ công làm bằng tre và mây. Vũ điệu Bizhu được người Chakma biểu diễn vào lễ hội Bizhu (ngày cuối của tháng Chaitra theo lịch Hindu).
Paul McCartney
Là một nhạc sĩ tự học, McCartney chơi thành thạo các nhạc cụ như bass, guitar, organ và trống. Ông nổi tiếng với phong cách chơi bass du dương (chủ yếu chơi bằng miếng gảy), âm vực giọng nam cao linh hoạt và rộng (kéo dài trên bốn quãng tám), và chủ nghĩa chiết trung (khám phá các phong cách âm nhạc từ pre-rock and roll pop đến cổ điển và electronica). McCartney bắt đầu sự nghiệp với tư cách là thành viên của The Quarrymen năm 1957, nhóm sau đó đổi tên thành The Beatles vào năm 1960. Từ album năm 1967 Sgt. Pepper's Lonely Hearts Club Band, ông dần trở thành thủ lĩnh trên thực tế của The Beatles, truyền động lực sáng tạo cho hầu hết các tác phẩm âm nhạc và phim ảnh của họ. Các bài hát của The Beatles "And I Love Her" (1964), "Yesterday" (1965), "Eleanor Rigby" (1966) và "Blackbird" (1968) xếp trong số những bài hát được cover nhiều nhất trong lịch sử.Năm 1970, McCartney ra mắt solo với album McCartney. Trong suốt những năm 1970, ông đã dẫn dắt Wings, một trong những ban nhạc thành công nhất của thập kỷ, với hơn 10 đĩa đơn và album thành công quốc tế. McCartney tiếp tục sự nghiệp solo của mình vào năm 1980. Kể từ năm 1989, ông đã lưu diễn liên tục với tư cách là một nghệ sĩ solo. Năm 1993, ông thành lập bộ đôi The Fireman với Youth of Killing Joke. Ngoài âm nhạc, ông còn tham gia các dự án của nhiều tổ chức từ thiện quốc tế liên quan đến quyền động vật, săn hải cẩu, bom mìn, ăn chay, nghèo đói và giáo dục âm nhạc.
Là một nhạc sĩ tự học, McCartney chơi thành thạo các nhạc cụ như bass, guitar, organ và trống. Năm 1993, ông thành lập bộ đôi The Fireman với Youth of Killing Joke.
Paul McCartney
McCartney là một trong nghệ sĩ âm nhạc bán đĩa nhạc chạy nhất thế giới. Ông đã viết và đồng sáng tác 32 bài hát đạt vị trí quán quân trên Billboard Hot 100, tính đến năm 2009, đã có 25,5 triệu bản được RIAA chứng nhận tại Hoa Kỳ. Ông được hai lần vinh danh vào Đại sảnh Danh vọng Rock and Roll (với tư cách là thành viên của The Beatles năm 1988 và với tư cách là nghệ sĩ solo năm 1999), nhận 18 giải Grammy, được bổ nhiệm làm Thành viên Đế quốc Anh năm 1965, và được phong tước hiệp sĩ vào năm 1997 vì những cống hiến trong âm nhạc. Tính đến năm 2020, ông cũng là một trong những nhạc sĩ giàu có nhất thế giới, với tài sản ước tính 800 triệu bảng Anh.
McCartney là một trong nghệ sĩ âm nhạc bán đĩa nhạc chạy nhất thế giới. Tính đến năm 2020, ông cũng là một trong những nhạc sĩ giàu có nhất thế giới, với tài sản ước tính 800 triệu bảng Anh.
Paul McCartney
James Paul McCartney sinh ngày 18 tháng 6 năm 1942 tại bệnh viện Walton ở khu vực Walton thuộc Liverpool. Cha của cậu, James, hay gọi là "Jim" McCartney không có mặt trong khoảnh khắc ra đời của con trai vì làm lính cứu hỏa tình nguyện trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Paul có một em trai, Michael, sinh năm 1944. Mặc 2 anh em nhà McCartney đều được đặt theo tên thánh tại nhà thờ Công giáo theo tín ngưỡng của mẹ, không khí tôn giáo ít hiện hữu trong gia đình bởi ông Jim từng theo đạo Tin Lành nhưng về sau trở nên bất khả tri.
James Paul McCartney sinh ngày 18 tháng 6 năm 1942 tại bệnh viện Walton ở khu vực Walton thuộc Liverpool. Mặc 2 anh em nhà McCartney đều được đặt theo tên thánh tại nhà thờ Công giáo theo tín ngưỡng của mẹ, không khí tôn giáo ít hiện hữu trong gia đình bởi ông Jim từng theo đạo Tin Lành nhưng về sau trở nên bất khả tri.
Paul McCartney
Năm 1947, Paul đi học tại trường tiểu học Stockton Wood Road, trường này bị quá tải nên năm 1949 cậu chuyển sang trường Joseph Williams.. Năm 1953, Paul là một trong số 4 đứa trẻ vượt qua kì thi tốt nghiệp tiểu học của trường (trên tổng số 90 thí sinh). Năm 1954, khi đang ngồi trên chiếc xe bus để đi từ nhà tới khu nội trú của trường nam sinh Liverpool ở vùng Speke, cậu đã gặp George Harrison. Hai người nhanh chóng trở thành bạn, mặc dù sau này McCartney thú nhận: "Tôi có xu hướng nói với giọng kẻ cả với cậu ấy, bởi cậu ta kém tôi một tuổi.
Năm 1947, Paul đi học tại trường tiểu học Stockton Wood Road, trường này bị quá tải nên năm 1949 cậu chuyển sang trường Joseph Williams.. Năm 1953, Paul là một trong số 4 đứa trẻ vượt qua kì thi tốt nghiệp tiểu học của trường (trên tổng số 90 thí sinh). Năm 1954, khi đang ngồi trên chiếc xe bus để đi từ nhà tới khu nội trú của trường nam sinh Liverpool ở vùng Speke, cậu đã gặp George Harrison.
Paul McCartney
Trong gia đình, nguồn thu nhập chính đến từ bà Mary làm nghề đỡ đẻ. Bà thường đến nhà khách hàng bằng xe đạp, và McCartney từng kể lại một ký ức thiếu thời về việc bà đi làm vào "khoảng 3 giờ sáng, con đường... dày tuyết". Năm 1955, nhà McCartney chuyển về số 20 đường Forthlin, Allerton, nơi mà họ sống tới tận năm 1964. Năm 1956, bà Mary qua đời sau một phẫu thuật loại bỏ khối u gây ung thư vú. Mồ côi mẹ ở tuổi 14, Paul nhờ đó dễ dàng có được tình bạn và sự đồng cảm sau này từ John Lennon, một người cũng mồ côi mẹ sau một tai nạn xe hơi khi mới 17 tuổi.
Trong gia đình, nguồn thu nhập chính đến từ bà Mary làm nghề đỡ đẻ. Năm 1956, bà Mary qua đời sau một phẫu thuật loại bỏ khối u gây ung thư vú.
Paul McCartney
Jim McCartney cũng là một nhạc công chơi kèn trumpet cũng như piano, từng là thủ lĩnh một ban nhạc ít tiếng tăm tên là Jazz Jim Mac. Ông động viên hai con trai của mình chơi nhạc, và chính ông là người mua cho Paul chiếc đàn piano ở cửa hàng NEMS của Brian Epstein. Ông tặng Paul một chiếc kèn mạ kền vào ngày sinh nhật thứ 14 của cậu, nhưng trước làn sóng rock and roll đang lên mạnh mẽ, Paul đã đổi nó để lấy chiếc guitar Framus Zenith trị giá 15 bảng. Là người thuận tay trái, cậu thấy rằng chiếc guitar được thiết kế cho người thuận tay phải thực sự khó chơi; tuy nhiên sau khi được xem buổi hòa nhạc của Slim Whitman, cậu đã biết rằng tốt hơn là nên chỉnh dây theo chiều ngược lại. Ca khúc đầu tiên mà Paul viết là "I Lost My Little Girl" bằng cây đàn acoustic này, sau đó là "When I'm Sixty-Four" với chiếc piano. Trái với lời khuyên của cha, cậu ít luyện tập piano mà ưa học ứng tấu (learn by ear) hơn. Ca khúc đầu tiên mà cậu trình diễn là "Long Tall Sally" trong một cuộc thi tài năng ở hội trại.
Jim McCartney cũng là một nhạc công chơi kèn trumpet cũng như piano, từng là thủ lĩnh một ban nhạc ít tiếng tăm tên là Jazz Jim Mac. Là người thuận tay trái, cậu thấy rằng chiếc guitar được thiết kế cho người thuận tay phải thực sự khó chơi; tuy nhiên sau khi được xem buổi hòa nhạc của Slim Whitman, cậu đã biết rằng tốt hơn là nên chỉnh dây theo chiều ngược lại.
Paul McCartney
Paul gặp John Lennon và ban nhạc The Quarrymen lần đầu tại nhà thờ St. Peter ngày 6 tháng 6 năm 1957 khi cậu mới 15 tuổi. Cậu nhanh chóng gia nhập nhóm sau đó, tạo nên một tình bạn - tình đồng nghiệp vĩ đại với Lennon, để sau này trở thành bộ đôi sáng tác xuất chúng nhất thế kỷ XX. The Quarrymen bấy giờ chơi một thứ âm nhạc trộn lẫn giữa rock and roll và skiffle (một thể loại nhạc nhẹ chịu ảnh hưởng của jazz, blues và folk). McCartney gia nhập ban nhạc với tư cách là lead guitar của nhóm vì lúc đó chỉ có mình Paul là biết chơi guitar bài bản nhất, còn John Lennon chơi guitar theo cách chơi đàn banjo do mẹ là bà Julia chỉ cho. Sau này Paul đã dạy cho John các thế bấm hợp âm trên đàn guitar qua một tấm gương vì Paul là người thuận tay trái. George Harrison sau đó vào nhóm vào năm 1958 và người bạn của Lennon ở trường nghệ thuật, Stuart Sutcliffe làm tay guitar bass của ban nhạc. Họ đổi tên rất nhiều lần, trong đó có "Johnny and the Moondogs" và "The Silver Beetles", trước khi quyết định lấy tên "The Beatles" vào giữa tháng 8 năm 1960 và tuyển Pete Best làm tay trống cho nhóm trong chuyến lưu diễn đầu tiên tại Hamburg, Đức. Paul sử dụng tên lót để làm tên chính thức vì không muốn trùng với tên của cha mình, ông James McCartney.
Paul gặp John Lennon và ban nhạc The Quarrymen lần đầu tại nhà thờ St. Peter ngày 6 tháng 6 năm 1957 khi cậu mới 15 tuổi. Paul sử dụng tên lót để làm tên chính thức vì không muốn trùng với tên của cha mình, ông James McCartney.
Paul McCartney
Sau chuyến đi Hamburg, ban nhạc nhờ Allan Williams đã có được suất diễn đều đặn tại Cavern Club. Năm 1961, Sutcliffe rời nhóm, McCartney bất đắc dĩ trở thành tay bass của ban nhạc. Một vài thành công từ chuyến lưu diễn tại Hamburg đã tới tai của Brian Epstein, một doanh nhân trẻ người Do Thái ở Liverpool, và anh quyết tâm làm nhà quản lý nhóm vào đầu năm 1962. Tháng 5 cùng năm, Epstein đã thương lượng thành công với Parlophone để ban nhạc có được hợp đồng thu âm đầu tiên. Tới tháng 8, ban nhạc sa thải Pete Best và chọn Ringo Starr làm người thay thế. Thời kỳ Beatlemania bắt đầu, đưa tên tuổi The Beatles ra toàn thế giới. Vào thời điểm đó, McCartney được gọi là "the cute Beatle". Năm 1965, The Beatles được phong tước Thành viên của Hoàng gia Anh (MBE).
Sau chuyến đi Hamburg, ban nhạc nhờ Allan Williams đã có được suất diễn đều đặn tại Cavern Club. Tháng 5 cùng năm, Epstein đã thương lượng thành công với Parlophone để ban nhạc có được hợp đồng thu âm đầu tiên.
Paul McCartney
The Beatles tiếp tục quãng thời gian phòng thu với những thành công vang dội từ Revolver (1966), Sgt. Pepper's Lonely Hearts Club Band (1967), Album trắng (1968) và Abbey Road (1969). Cho tới năm 1970, họ đã phát hành ở Anh 12 album phòng thu và 22 đĩa đơn, trong đó 18 đứng số 1 tại bảng xếp hạng. Ban nhạc cũng đứng đầu Billboard Hot 100 20 lần, cùng với đó là 14 album số 1. Những ca khúc nổi tiếng nhất của McCartney có thể kể tới "Can't Buy Me Love" (1964), "Yesterday" (1965), "Paperback Writer" và "Eleanor Rigby" (1966), "Hello, Goodbye" (1967), "Hey Jude" (1968), "Get Back" (1969), "Let It Be" và "The Long and Winding Road" (1970).
The Beatles tiếp tục quãng thời gian phòng thu với những thành công vang dội từ Revolver (1966), Sgt. Những ca khúc nổi tiếng nhất của McCartney có thể kể tới "Can't Buy Me Love" (1964), "Yesterday" (1965), "Paperback Writer" và "Eleanor Rigby" (1966), "Hello, Goodbye" (1967), "Hey Jude" (1968), "Get Back" (1969), "Let It Be" và "The Long and Winding Road" (1970).
Paul McCartney
Năm 1970, trước những đối đầu với các thành viên khác, McCartney tuyên bố giải tán ban nhạc vào ngày 10 tháng 4. Về mặt pháp lý, ban nhạc chính thức tan rã vào ngày 31 tháng 12 năm 1970. Tuy nhiên, một số vấn đề pháp lý vẫn kéo dài, và tai tiếng nhất là vụ việc bố và anh vợ của McCartney cùng với quản lý Allen Klein đã biển thủ một số lượng lớn công quỹ. The Beatles đã phải ra tòa vào ngày 9 tháng 1 năm 1975 để giải quyết những tranh chấp liên quan tới EMI, Klein và mỗi thành viên. Vụ việc chỉ kết thúc vào năm 1989.
Năm 1970, trước những đối đầu với các thành viên khác, McCartney tuyên bố giải tán ban nhạc vào ngày 10 tháng 4. The Beatles đã phải ra tòa vào ngày 9 tháng 1 năm 1975 để giải quyết những tranh chấp liên quan tới EMI, Klein và mỗi thành viên.
Paul McCartney
Sau khi The Beatles tan rã năm 1970, Paul bắt đầu một sự nghiệp khác của mình. Anh phát hành album solo đầu tay McCartney, trong đó có ca khúc "Maybe I'm Amazed" sáng tác cho Linda. Theo Bill Harry, ngoài Linda, chỉ có một mình Paul McCartney đã chơi tất cả các nhạc cụ rồi thực hiện album. Năm 1971, McCartney và vợ tiếp tục cho ra album Ram thành công với vị trí số 1 tại Anh sau đó. Họ tiếp nhận tay guitar Denny Laine cùng tay trống Denny Seiwell tới cộng tác, từ đó lập ra ban nhạc Wings. Album đầu tay của họ, Wild Life ra mắt vào tháng 12 cùng năm. Paul nói về Wings: "Wings luôn là một ý tưởng khó khăn... mọi ban nhạc kể từ [The Beatles] luôn phải nỗ lực hết mình... Tôi thấy mình có đủ khả năng. Đó là sự lựa chọn giữa một bên là tiếp tục, còn một bên là kết thúc sự nghiệp. Nhưng tôi lại yêu âm nhạc tới mức chưa bao giờ muốn dừng lại."Tháng 9 năm 1971, gia đình McCartney có thêm cô con gái thứ hai, Stella, đặt theo tên bà ngoại của Linda.
Sau khi The Beatles tan rã năm 1970, Paul bắt đầu một sự nghiệp khác của mình. Nhưng tôi lại yêu âm nhạc tới mức chưa bao giờ muốn dừng lại.
Paul McCartney
Năm 1973, McCartney viết ca khúc quán quân đầu tiên cho Wings, "My Love", cùng với đó là bản LP cho album Red Rose Speedway. Anh cộng tác với phụ trách cũ của The Beatles, George Martin thực hiện phần nhạc cho serie James Bond với ca khúc nổi tiếng "Live and Let Die" (Grammy và đề cử Oscar cho nhạc phim xuất sắc nhất cho Martin). Năm 1975, McCartney viết "Band on the Run" cùng với đó ra mắt album cùng tên. Đây là một album vô cùng thành công và là album đầu tiên của Wings đạt chứng chỉ Bạch kim. Họ có thêm những album đứng đầu các bảng xếp hạng sau đó, bao gồm Venus and Mars (1975) và Wings at the Speed of Sound (1976). Tháng 9 năm 1977, McCartney đón chào người con thứ ba có tên là James và tới tháng 11, anh cho ra mắt "Mull of Kintyre" – ca khúc bán chạy nhất lịch sử âm nhạc Anh. Anh cũng phát hành Thrillington, bản hòa âm của Ram theo ý tưởng của Percy "Thrills" Thrillington và phần bìa được thiết kế bởi Hipgnosis.
Năm 1973, McCartney viết ca khúc quán quân đầu tiên cho Wings, "My Love", cùng với đó là bản LP cho album Red Rose Speedway. Tháng 9 năm 1977, McCartney đón chào người con thứ ba có tên là James và tới tháng 11, anh cho ra mắt "Mull of Kintyre" – ca khúc bán chạy nhất lịch sử âm nhạc Anh.
Paul McCartney
Năm 1980, anh cho ra album solo thứ 2, McCartney II. Cũng giống album đầu tiên, Paul vẫn một tay sáng tác và chơi tất cả các nhạc cụ. Album bao gồm một số ca khúc nổi tiếng như "Coming Up", "Waterfalls" và "Temporary Secretary". Năm 1982, McCartney hợp tác với Stevie Wonder trong ca khúc hit sản xuất bởi George Martin, "Ebony and Ivory", sau này nằm trong album Tug of War của anh. Sau đó anh còn hợp tác với Michael Jackson trong ca khúc "The Girl Is Mine" nằm trong Thriller. Năm tiếp theo, họ thực hiện ca khúc đình đám của Jackson "Say Say Say", còn McCartney có được ca khúc solo đầu tiên đứng đầu tại Anh, "Pipes of Peace".
Năm 1980, anh cho ra album solo thứ 2, McCartney II. Năm 1982, McCartney hợp tác với Stevie Wonder trong ca khúc hit sản xuất bởi George Martin, "Ebony and Ivory", sau này nằm trong album Tug of War của anh.
Paul McCartney
Năm 1990, McCartney cho đĩa LP Tripping the Live Fantastic lấy từ The Paul McCartney World Tour, chuyến lưu diễn đầu tiên của ông trong thập kỷ. Trong những năm sau, Paul thử sức với nhạc cổ điển cùng dàn nhạc Hoàng gia thành phố Liverpool. Ông hợp tác với Carl Lewis để phát hành Liverpool Oratorio, với sự tham gia của Dame Kiri Te Kanawa, Sally Burgess, Jerry Hadley, Willard White, dàn nhạc Hoàng gia và dàn hợp ca thành phố Liverpool. Năm 1990, Paul McCartney được ghi danh vào Sách Kỷ lục Guinness với danh hiệu buổi trình diễn trực tiếp có số lượng người tham dự đông nhất của một nghệ sĩ solo. Buổi diễn ngày 21 tháng 4 năm 1990 của ông ở Rio De Janeiro, Brasil đã bán được 184.000 vé.
Năm 1990, McCartney cho đĩa LP Tripping the Live Fantastic lấy từ The Paul McCartney World Tour, chuyến lưu diễn đầu tiên của ông trong thập kỷ. Ông hợp tác với Carl Lewis để phát hành Liverpool Oratorio, với sự tham gia của Dame Kiri Te Kanawa, Sally Burgess, Jerry Hadley, Willard White, dàn nhạc Hoàng gia và dàn hợp ca thành phố Liverpool.
Paul McCartney
Trong những năm 90, ông còn 2 lần hợp tác với Martin Glove của Killing Joke tạo nên The Fireman và ra mắt các album nhạc điện tử Strawberries Oceans Ships Forest (1993) và Rushes (1998). Ngoài ra, họ còn có album Off the Ground (1993) từ tour diễn The New World Tour, rồi sau đó là album Paul Is Live. Năm 1994, Paul tạm thời bỏ sự nghiệp solo để cùng George Harrison, Ringo Starr, và đội ngũ của George Martin thực hiện dự án The Beatles Anthology, gồm các cảnh quay và những bản thu âm trực tiếp các bài hát của ban nhạc. Ông cũng tham gia vào chương trình radio "Oobu Joobu" năm 1995, dự án truyền hình Westwood One. Cùng năm, Thái tử Charles trao tặng ông tấm bằng danh dự của Học viện Âm nhạc Hoàng gia Anh. Tháng 3 năm 1997, McCartney được phong tước MBE lần thứ 2.
Trong những năm 90, ông còn 2 lần hợp tác với Martin Glove của Killing Joke tạo nên The Fireman và ra mắt các album nhạc điện tử Strawberries Oceans Ships Forest (1993) và Rushes (1998). Tháng 3 năm 1997, McCartney được phong tước MBE lần thứ 2.
Paul McCartney
Năm 1997, ông trở lại với rock trong Flaming Pie, rồi lại là nhạc cổ điển với Standing Stone. Run Devil Run (1999) với sự tham gia của Ian Paice và Gilmour là album McCartney tâm huyết thực hiện cùng những tâm sức cuối cùng của Linda, người đã qua đời vào tháng 4 năm 1998 sau 17 tháng chống chọi với ung thư. Với Linda, McCartney đã viết "Nova" rồi sau đó là album A Garland for Linda (2000). Năm 1999, ông tiếp tục với nhạc cổ điển trong Working Classical, cùng lúc đó ông được vinh danh tại Đại sảnh Danh vọng Rock and Roll. Tháng 5 năm 2000, ông được mời vào Hiệp hội nhạc sĩ và tác giả Anh, và tới tháng 6, ông phát hành Liverpool Sound Collage cùng Super Furry Animals và Youth, sử dụng những âm thanh và hiệu ứng mà ông yêu thích từ những năm 60.
Năm 1997, ông trở lại với rock trong Flaming Pie, rồi lại là nhạc cổ điển với Standing Stone. Với Linda, McCartney đã viết "Nova" rồi sau đó là album A Garland for Linda (2000).
Paul McCartney
Năm 2001, McCartney cho phát hành album acoustic duy nhất có tên Unplugged (The Official Bootleg). Trước thảm họa 11 tháng 9 năm 2001, ông đã đứng ra tổ chức chương trình tưởng niệm The Concert for New York City, cùng với đó là việc ra mắt album Diving Rain có ca khúc "Freedom" liên quan tới sự kiện trên. Trong tour diễn sau đó, ông cũng phát hành album Back in the U.S. (còn có tên khác là Back in the World). Tháng 11 năm 2002, để kỉ niệm 1 năm ngày mất của Harrison, McCartney đã đứng ra tổ chức Concert for George vô cùng thành công. Ông cũng biểu diễn tại một số trận chung kết Super Bowl của giải National Football League, Mỹ.
Năm 2001, McCartney cho phát hành album acoustic duy nhất có tên Unplugged (The Official Bootleg). Trước thảm họa 11 tháng 9 năm 2001, ông đã đứng ra tổ chức chương trình tưởng niệm The Concert for New York City, cùng với đó là việc ra mắt album Diving Rain có ca khúc "Freedom" liên quan tới sự kiện trên.
Paul McCartney
Năm 2005, Paul tiếp tục ra album Chaos and Creation in the Backyard, rồi sau đó Twin Freaks. Năm 2006, đó là Ecce Cor Meum, năm 2007, Memory Almost Full và năm 2008, Electric Arguments. Năm 2008, ông nhiệt tình tham gia buổi hòa nhạc nhân dịp Liverpool được công nhận là thủ đô Văn hóa châu Âu. Năm 2010, McCartney được tổng thống Mỹ Barack Obama trao giải thưởng Gershwin cho những đóng góp quan trọng tới nền âm nhạc đại chúng.
Năm 2005, Paul tiếp tục ra album Chaos and Creation in the Backyard, rồi sau đó Twin Freaks. Năm 2010, McCartney được tổng thống Mỹ Barack Obama trao giải thưởng Gershwin cho những đóng góp quan trọng tới nền âm nhạc đại chúng.
Paul McCartney
McCartney là một nghệ sĩ vô cùng bận rộn với các tour diễn. Năm 2004, khi biểu diễn tại Cung điện Mùa đông ở St. Petersburg, Nga, Paul đã từng chi tới 36.000$ để thuê ba chiếc phản lực rải nước đá khô lên những đám mây nhằm ngăn chặn cơn mưa. Năm 2009, ông làm show tại Citi Field ở Queens, New York sau đó là album live Good Evening New York City. Năm 2010, ông mở Consol Energy Center ở Pittsburgh, Pennsylvania. Năm 2011, ông có buổi trình diễn tại Sân vận động Yankee, kèm với đó là ca khúc cổ điển "Ocean's Kingdom". Từ năm 2001, theo tour của ông bao gồm guitar Rusty Anderson và Brian Ray, Paul "Wix" Wickens chơi keyboards và tay trống Abe Laboriel, Jr. Trong album tri ân ra mắt vào năm 2012, Kisses on the Bottom, rất nhiều nghệ sĩ như Kiss, Garth Brooks, Billy Joel, Brian Wilson, Willie Nelson, Steve Miller, B.B. King đã hát lại các ca khúc nổi tiếng của McCartney. Tháng 2 năm 2012, ông được MusiCares chọn là nhân vật của năm.
McCartney là một nghệ sĩ vô cùng bận rộn với các tour diễn. King đã hát lại các ca khúc nổi tiếng của McCartney.
Paul McCartney
Năm 2012 là một năm bận rộn của Paul. Trong 2 buổi diễn ở Mexico City, ông đã chơi trước tổng cộng 100.000 người hâm mộ, thu về khoảng 6 triệu $. Tháng 6, ông trình diễn tại Diamond Jubilee Concert của nữ hoàng Elizabeth với 2 ca khúc "Let It Be" và "Live and Let Die". Ngày 27 tháng 7, Paul chính là người kết thúc Lễ khai mạc của Olympics Luân Đôn 2012 với ca khúc kinh điển "Hey Jude". Ông cũng là một trong những người ủng hộ tích cực cho Ủy ban Olympics của nước Anh với phần đóng góp lên tới 1 triệu $.
Năm 2012 là một năm bận rộn của Paul. Trong 2 buổi diễn ở Mexico City, ông đã chơi trước tổng cộng 100.000 người hâm mộ, thu về khoảng 6 triệu $.
Paul McCartney
Vào ngày 12 tháng 12 năm 2012, McCartney cùng với ba thành viên cũ của Nirvana (Krist Novoselic, Dave Grohl và Pat Smear) trình diễn trong màn khép lại của 12-12-12: The Concert for Sandy Relief, thu hút khoảng hai tỷ người trên toàn thế giới theo dõi. Vào ngày 28 tháng 8 năm 2013, McCartney phát hành ca khúc chủ đề của album phòng thu sắp tới của ông New, ra mắt vào tháng 10 năm 2013. Một chương trình đặc biệt vào giờ vàng đã được ghi hình vào ngày 27 tháng 1 năm 2014 tại Nhà hát Ed Sullivan với buổi phát sóng trên đài CBS ngày 9 tháng 2 năm 2014. Chương trình có sự góp mặt của McCartney và Ringo Starr, tôn vinh những di sản của The Beatles và màn trình diễn đột phá năm 1964 của họ trên The Ed Sullivan Show. Chương trình mang tên The Night That Changed America: A Grammy Salute to The Beatles, giới thiệu 22 bài hát kinh điển của The Beatles do nhiều nghệ sĩ khác nhau, bao gồm McCartney và Starr biểu diễn.
Vào ngày 12 tháng 12 năm 2012, McCartney cùng với ba thành viên cũ của Nirvana (Krist Novoselic, Dave Grohl và Pat Smear) trình diễn trong màn khép lại của 12-12-12: The Concert for Sandy Relief, thu hút khoảng hai tỷ người trên toàn thế giới theo dõi. Chương trình mang tên The Night That Changed America: A Grammy Salute to The Beatles, giới thiệu 22 bài hát kinh điển của The Beatles do nhiều nghệ sĩ khác nhau, bao gồm McCartney và Starr biểu diễn.
Paul McCartney
Vào ngày 19 tháng 5 năm 2014, có thông tin cho rằng McCartney phải nằm liệt giường theo chỉ định của bác sĩ do một loại vi rút không xác định, khiến ông phải hủy chuyến lưu diễn tại Nhật Bản dự kiến bắt đầu vào cuối tuần. Chuyến lưu diễn này diễn ra tại Budokan Hall nổi tiếng. McCartney cũng phải dời lịch từ tháng 6 ở Mỹ sang tháng 10, theo yêu cầu của bác sĩ nghỉ ngơi để hồi phục sức khỏe. Tuy nhiên, ông đã tiếp tục chuyến lưu diễn kéo dài 3 tiếng ở Albany, New York vào ngày 5 tháng 7 năm 2014. Vào ngày 14 tháng 8 năm 2014, McCartney biểu diễn trong buổi hòa nhạc cuối cùng điễn ra tại Candlestick Park ở San Francisco, California trước khi kết thúc. Đây cũng là nơi mà The Beatles đã biểu diễn buổi hòa nhạc cuối cùng của họ vào năm 1966.
Vào ngày 19 tháng 5 năm 2014, có thông tin cho rằng McCartney phải nằm liệt giường theo chỉ định của bác sĩ do một loại vi rút không xác định, khiến ông phải hủy chuyến lưu diễn tại Nhật Bản dự kiến bắt đầu vào cuối tuần. McCartney cũng phải dời lịch từ tháng 6 ở Mỹ sang tháng 10, theo yêu cầu của bác sĩ nghỉ ngơi để hồi phục sức khỏe.
Paul McCartney
Năm 2014, McCartney sáng tác và biểu diễn "Hope for the Future", bài hát kết thúc cho trò chơi điện tử Destiny. Vào tháng 11 năm 2014, một album kỷ niệm bao gồm 42 bài hát có tựa đề The Art of McCartney được phát hành, trong đó có sự tham gia của nhiều nghệ sĩ thể hiện lại các tác phẩm solo của McCartney và The Beatles. Cũng trong năm đó, McCartney hợp tác với Kanye West trong đĩa đơn "Only One", phát hành vào ngày 31 tháng 12.
Năm 2014, McCartney sáng tác và biểu diễn "Hope for the Future", bài hát kết thúc cho trò chơi điện tử Destiny. Cũng trong năm đó, McCartney hợp tác với Kanye West trong đĩa đơn "Only One", phát hành vào ngày 31 tháng 12.
Paul McCartney
Vào tháng 1 năm 2015, McCartney hợp tác với ca sĩ Rihanna và Kanye West trong đĩa đơn "FourFiveSeconds". Họ đã phát hành một video âm nhạc chính thức cho bài hát vào tháng 1 và biểu diễn trực tiếp tại lễ trao giải Grammy lần thứ 57 vào ngày 8 tháng 2 năm 2015. McCartney góp mặt trong đĩa đơn "All Day" năm 2015 của West, cùng với Theophilus London và Allan Kingdom.Vào tháng 2 năm 2015, McCartney xuất hiện và biểu diễn cùng Paul Simon trong chương trình Saturday Night Live 40th Anniversary Special. McCartney và Simon đã thể hiện câu đầu tiên của "I'll Just Seen a Face" trên nền guitar acoustic, và McCartney sau đó đã biểu diễn "Maybe I'm Amazed". Vào ngày 10 tháng 6 năm 2016, McCartney phát hành album tổng hợp Pure McCartney, bao gồm tất cả các bài hát trong suốt sự nghiệp solo của McCartney và sản phẩm của ông với Wings and The Fireman, có sẵn ở ba định dạng khác nhau (2-CD, 4-CD, 4-LP và Digital). Phiên bản 4 CD bao gồm 67 bài hát, phần lớn trong số đó là 40 bài hát hay nhất. McCartney góp mặt trong bộ phim phiêu lưu năm 2017 Pirates of the Caribbean: Dead Men Tell No Tales, với vai diễn khách mời là Uncle Jack.Vào tháng 1 năm 2017, McCartney đã đệ đơn chống lại Sony/ATV Music Publishing lên tòa án quận Hoa Kỳ nhằm đòi quyền sở hữu một phần đóng góp của ông trong danh mục bài hát Lennon–McCartney bắt đầu từ năm 2018. Theo luật bản quyền của Hoa Kỳ, đối với các tác phẩm được xuất bản trước năm 1978, tác giả có thể đòi lại bản quyền đã chuyển nhượng cho một nhà xuất bản sau 56 năm. McCartney và Sony đã đồng ý một thỏa thuận bí mật vào tháng 6 năm 2017. Vào ngày 20 tháng 6 năm 2018, McCartney phát hành hai bài hát, "I Don't Know" và "Come On to Me", nằm trong album Egypt Station của ông, được phát hành vào ngày 7 tháng 9 thông qua Capitol Records. Egypt Station trở thành album đầu tiên của McCartney sau 36 năm đứng đầu bảng xếp hạng Billboard 200 và là album đầu tiên của ông ra mắt ở vị trí số một.Vào tháng 10 năm 2020, McCartney công bố album mới McCartney III, được phát hành vào ngày 11 tháng 12 thông qua Capitol Records. Một album "diễn giải lại, phối lại và cover lại" có tên McCartney III Imagined được phát hành vào ngày 16 tháng 4 năm 2021.Cuốn sách The Lyrics: 1956 to the Present của McCartney dự kiến phát hành vào tháng 11 năm 2021. Cuốn sách được mô tả như một "bức chân dung tự họa của 154 bài hát". Nó dựa trên các cuộc nói chuyện giữa McCartney với nhà thơ Ireland Paul Muldoon. The Lyrics được vinh danh là Quyển sách của năm bởi cả Barnes & Noble và Waterstones.
Vào tháng 1 năm 2015, McCartney hợp tác với ca sĩ Rihanna và Kanye West trong đĩa đơn "FourFiveSeconds". Một album "diễn giải lại, phối lại và cover lại" có tên McCartney III Imagined được phát hành vào ngày 16 tháng 4 năm 2021.Cuốn sách The Lyrics: 1956 to the Present của McCartney dự kiến phát hành vào tháng 11 năm 2021.
Paul McCartney
Sau khi có được tấm bằng A-level ở tuổi 19, nghệ thuật là mối quan tâm duy nhất của McCartney. Tới giữa những năm 60, anh bắt đầu quan tâm tới visual art, cùng với đó kết bạn với nhiều ông chủ các phòng tranh, tham gia vào vài dự án phim, kịch và nhạc cổ điển. Ban đầu, Paul làm quen với nghệ sĩ avant-garde John Dunbar, người đã giới thiệu anh với Robert Fraser, người định hướng cho McCartney những cung cách của một nhà văn và nghệ sĩ. Anh là người chỉnh sửa và ra mắt phòng tranh Indica Gallery ở Mason's Yard, Luân Đôn, nơi sau này Lennon gặp gỡ Ono. Indica Gallery giúp McCartney làm quen với Miles, người làm việc ở tờ International Times. Miles sau này là quản lý của một nhãn đĩa nhỏ của Apple, Zapple Records, và là người viết cuốn tự truyện chính thức của McCartney, Many Years From Now (1997).
Sau khi có được tấm bằng A-level ở tuổi 19, nghệ thuật là mối quan tâm duy nhất của McCartney. Ban đầu, Paul làm quen với nghệ sĩ avant-garde John Dunbar, người đã giới thiệu anh với Robert Fraser, người định hướng cho McCartney những cung cách của một nhà văn và nghệ sĩ.
Paul McCartney
Khi còn ở nhà của Jane Asher, McCartney được chính mẹ của Jane hướng dẫn học đàn piano khi bà là giáo viên của Trường Nhạc kịch Guilddall, nơi mà George Martin từng theo học. Khả năng sáng tác của anh được học từ Karlheinz Stockhausen và Luciano Berio. Về sau Paul cũng thử sức với nhạc tân cổ điển cùng các thể loại điện tử, sau đó là văn học. McCartney là người bảo trợ cho Học viện Nghệ thuật thành phố Liverpool, ngôi trường được xây từ cơ sở hạ tầng của Trường nam sinh Liverpool.
Khi còn ở nhà của Jane Asher, McCartney được chính mẹ của Jane hướng dẫn học đàn piano khi bà là giáo viên của Trường Nhạc kịch Guilddall, nơi mà George Martin từng theo học. McCartney là người bảo trợ cho Học viện Nghệ thuật thành phố Liverpool, ngôi trường được xây từ cơ sở hạ tầng của Trường nam sinh Liverpool.
Paul McCartney
McCartney bắt đầu thích vẽ khi xem nghệ sĩ Willem de Kooning thể hiện ở xưởng vẽ của mình. Anh bắt đầu vẽ từ năm 1983 và tới năm 1999, Paul có triển lãm tranh đầu tiên (cùng vài bức của Lennon, Andy Warhol và David Bowie và ảnh chụp của Linda) ở Siegen, Đức. Wolfgang Suttner là người quan tâm tới phong cách của McCartney và những phản ứng tích cực đã thúc đẩy ông thực hiện triển lãm tại Anh. Triển lãm đầu tiên được mở tại Bristol, Anh với 50 bức được trưng bày. Trước đây, McCartney từng tin rằng "chỉ có những người từng học trường nghệ thuật mới có thể vẽ được tranh", như Lennon nói.
McCartney bắt đầu thích vẽ khi xem nghệ sĩ Willem de Kooning thể hiện ở xưởng vẽ của mình. Triển lãm đầu tiên được mở tại Bristol, Anh với 50 bức được trưng bày.
Paul McCartney
Tháng 10 năm 2000, Ono và McCartney cùng tổ chức những cuộc triển lãm tranh tại Luân Đôn và New York. McCartney nói: "Tôi đã dành buổi triển lãm của mình cho Walker Art Gallery ở Liverpool, nơi mà Lennon và tôi từng tốn rất nhiều thời gian vào mỗi buổi chiều. Tôi thực sự rất vui vì điều đó. Tôi chưa từng nói với ai rằng tôi đã vẽ suốt 15 năm qua, nhưng giờ đã tới lúc mọi người cần biết điều đó." Chính Paul là người thiết kế serie tem cho Isle of Man Post vào năm 2002, và theo BBC, ông là ngôi sao nhạc rock đầu tiên thực hiện điều này.
Tháng 10 năm 2000, Ono và McCartney cùng tổ chức những cuộc triển lãm tranh tại Luân Đôn và New York. Tôi chưa từng nói với ai rằng tôi đã vẽ suốt 15 năm qua, nhưng giờ đã tới lúc mọi người cần biết điều đó."
Paul McCartney
Năm 2001, McCartney cho phát hành cuốn Blackbird Singing bao gồm những phần thơ và lời của những ca khúc của ông. Trong lời giới thiệu cuốn sách, ông nói: "Khi tôi còn là một chú nhóc... trí óc tôi từng bị lấn át bởi ý nghĩ xuất bản một tập thơ cho tờ báo trường. Tôi đã từng viết một vài điều sâu sắc và ý nghĩa, song nó đã bị từ chối, vậy nên tôi nghĩ tôi nên quay lại làm điều mà tôi chưa từng làm được." Vài năm sau, ông có viết một bài thơ tưởng nhớ cái chết của người bạn ấu thơ, Ivan Vaughan. Năm 2005, ông cộng tác cùng Philip Ardagh và Geoff Dunbar để viết cuốn sách High in the Clouds: An Urban Furry Tail. Tờ The Guardian gọi đây là "cuốn sách chống chủ nghĩa tư bản dành cho thiếu nhi".
Năm 2001, McCartney cho phát hành cuốn Blackbird Singing bao gồm những phần thơ và lời của những ca khúc của ông. Năm 2005, ông cộng tác cùng Philip Ardagh và Geoff Dunbar để viết cuốn sách High in the Clouds: An Urban Furry Tail.
Paul McCartney
Phim ảnhKhi còn nhỏ, McCartney luôn quan tâm tới phim hoạt hình và tới năm 1981, anh có đề nghị Geoff Dunbar để anh làm bộ phim hoạt hình ngắn có nhan đề Rupert and the Frog Song. McCartney vừa là người viết kịch bản, sản xuất và lồng tiếng cho vài nhân vật của phim. Năm 1992, Paul lại cùng Dunbar tham gia vào một dự án phim nói về nghệ sĩ người Pháp Honoré Daumier - bộ phim giúp họ cùng nhận được giải BAFTA. Năm 2004, họ cùng thực hiện bộ phim hoạt hình ngắn có tên Tropic Island Hum. Năm 1995, McCartney xuất hiện trong tập phim "Lisa the Vegetarian" của serie phim hoạt hình Mỹ The Simpsons và đạo diễn bộ phim tư liệu về ban nhạc Grateful Dead.
Phim ảnhKhi còn nhỏ, McCartney luôn quan tâm tới phim hoạt hình và tới năm 1981, anh có đề nghị Geoff Dunbar để anh làm bộ phim hoạt hình ngắn có nhan đề Rupert and the Frog Song. McCartney vừa là người viết kịch bản, sản xuất và lồng tiếng cho vài nhân vật của phim.
Paul McCartney
Jane AsherNgày 18 tháng 3 năm 1963, McCartney lần đầu gặp nữ diễn viên Jane Asher, khi phóng viên hỏi liệu cô có thể chụp ảnh cùng The Beatles trong buổi diễn của họ tại Royal Albert Hall. Cả hai bắt đầu mối quan hệ và McCartney dọn tới ở cùng Asher tại nhà bố mẹ cô ở địa chí 57 phố Wimpole, Luân Đôn. Họ ở đó gần 3 năm cho tới khi anh dọn ra nhà riêng ở St John's Wood. Khi ở nhà Asher, McCartney đã viết rất nhiều ca khúc để đời, trong đó có thể kể tới "Yesterday", "And I Love Her", "You Won't See Me", và "I'm Looking Through You". Họ đã có mối tình kéo dài 5 năm, có kế hoạch kết hôn đàng hoàng, trước khi Asher tuyên bố hủy đính hôn khi phát hiện McCartney có mối quan hệ với một người con gái khác, Francie Schwartz.
Jane AsherNgày 18 tháng 3 năm 1963, McCartney lần đầu gặp nữ diễn viên Jane Asher, khi phóng viên hỏi liệu cô có thể chụp ảnh cùng The Beatles trong buổi diễn của họ tại Royal Albert Hall. Cả hai bắt đầu mối quan hệ và McCartney dọn tới ở cùng Asher tại nhà bố mẹ cô ở địa chí 57 phố Wimpole, Luân Đôn.
Paul McCartney
Linda EastmanLinda Eastman là một người yêu nhạc thực sự khi từng nói: "Tuổi teen của tôi là dành cho các chương trình radio", và cô cũng từng tìm mọi cách kể từ khi còn đi học để có vé xem Fabian, Bobby Darin, hay Chuck Berry trình diễn. Cô là người chụp ảnh cho rất nhiều nghệ sĩ nổi tiếng như The Jimi Hendrix Experience, The Grateful Dead, The Doors, và The Beatles. Cô nói khi lần đầu gặp họ năm 1966 tại Sân vận động Shea: "John là người hùng của đời tôi, vậy nên tôi luôn chú ý tới anh ấy. Nhưng khi tôi tiếp xúc thì sự cuốn hút đó nhanh chóng biến mất, và tôi lại thấy thích Paul hơn." McCartney và Eastman lần đầu tiếp xúc với nhau tại quán bar The Bag O'Nails năm 1967. Paul nhớ lại: "Cái buổi tối mà tôi và Linda gặp nhau, tôi vốn đã thấy cô ấy qua lại trong quán nhiều, và tôi nghĩ tốt hơn là nên bắt chuyện thử, tôi nghĩ là tôi phải làm vậy..." Linda nói: "Tôi có hơi ngượng ngùng vào tối đó. Tôi có đi cùng với một vài người khác, và tôi thấy Paul ngồi ở một góc quán bar. Anh ấy trông thật bảnh bao, tôi thấy tự tin và muốn nói chuyện thử với anh." Họ kết hôn năm 1969, và anh nói về tình yêu của họ: "Chúng tôi có thật nhiều điều tuyệt vời,... nó tự nhiên như những gì chúng tôi có. Niềm vui của chúng tôi đơn giản là đi chơi. Linda luôn biết cách thể hiện trong mọi khoảnh khắc." Anh cũng thêm: "Chúng tôi đã có lúc điên dại. Chúng tôi đã cãi vã ra trò vào đêm trước khi quyết định kết hôn... và thật kỳ diệu là chúng tôi đã vượt qua được."Hai vợ chồng đã cùng cộng tác trong lĩnh vực âm nhạc sau khi The Beatles tan rã vào năm 1970 với việc lập ra ban nhạc Wings. Họ đều ăn chay trường vì là thành viên của hiệp hội bảo vệ động vật hoang dã. Họ có bốn người con, Heather (con riêng của Linda), Mary, Stella và James. Linda qua đời năm 1998 vì ung thư vú. Sau cái chết của cô, McCartney nói với tờ Daily Mail: "Tôi cần những lời an ủi vì tôi biết tôi thực sự cần những sự giúp đỡ. Cô ấy thật tuyệt vời, giúp tôi vựot qua những sai lầm... Nhưng tôi chợt nghĩ, rằng chúng ta cũng chỉ là những con người. Đám cưới của chúng tôi thực sự hoàn hảo. Chúng tôi chỉ như là những người đang yêu nhau mà có thêm những đứa trẻ."
Linda EastmanLinda Eastman là một người yêu nhạc thực sự khi từng nói: "Tuổi teen của tôi là dành cho các chương trình radio", và cô cũng từng tìm mọi cách kể từ khi còn đi học để có vé xem Fabian, Bobby Darin, hay Chuck Berry trình diễn. Đám cưới của chúng tôi thực sự hoàn hảo.
Paul McCartney
Heather MillsÔng tái hôn cùng Heather Mills, vào tháng 6 năm 2002. Năm 2003, họ có đứa con đầu lòng, Beatrice Milly. Năm 2004, McCartney nói trước truyền thông: "Họ (công chúng) không đánh giá chuyện này như khi tôi với Asher", "Tôi cưới ở New York và đã có con, và có vẻ họ không thích điều đó.". Họ ly thân năm 2006 và chính thức ly dị vào năm 2008 với cái giá 140 triệu đô-la.
Heather MillsÔng tái hôn cùng Heather Mills, vào tháng 6 năm 2002. Họ ly thân năm 2006 và chính thức ly dị vào năm 2008 với cái giá 140 triệu đô-la.
Paul McCartney
Ngày 24 tháng 4 năm 1976, cả hai cùng ngồi xem chương trình Saturday Night Live tại nhà Lennon ở thành phố New York. Đây cũng là lần cuối cùng hai người trực tiếp gặp mặt nhau. Sự kiện này được thực hiện thành bộ phim Two of Us, chiếu trên truyền hình năm 2000. Lần cuối McCartney gọi điện cho Lennon là hôm trước khi anh và Ono phát hành Double Fantasy: "Điều đó thực sự an ủi tôi, bởi vì tôi luôn cảm thấy thật buồn khi chúng tôi không còn ngồi bên nhau để cùng nói về sự khác biệt ở mỗi người. Thật may mắn làm sao, rằng lần cuối chúng tôi còn được nói chuyện thực sự tuyệt vời, vì chúng tôi chưa từng có được những khoảnh khắc bùng nổ dữ dội vậy."Sáng sớm ngày 9 tháng 12 năm 1980, McCartney tỉnh dậy với tin Lennon bị ám sát tại nhà riêng đêm hôm trước. Tối ngày hôm đó, McCartney rời phòng thu ở phố Oxford và đối diện trước đám phóng viên đang ngóng đợi những phản ứng từ chính anh. Anh bị chỉ trích dữ dội khi trả lời: "Đó là một vấn đề sao?" ("It's a drag?"). Paul sau đó giải thích: "Khi John bị ám sát bởi ai đó và trước mặt tôi là bao nhiêu chiếc micro với câu hỏi: 'Anh đang nghĩ gì?', vậy nên tôi trả lời như vậy với ý rằng tôi vẫn đang day dứt với từng nỗi đau trong lòng." Anh cũng nói về lần đầu gặp gỡ Ono sau cái chết của Lennon:
Ngày 24 tháng 4 năm 1976, cả hai cùng ngồi xem chương trình Saturday Night Live tại nhà Lennon ở thành phố New York. ("It's a drag?").
Paul McCartney
"Tôi gặp Yoko sau cái ngày định mệnh đó và điều đầu tiên cô ấy nói với tôi: "Có lẽ John quá ngây thơ với anh". Cuộc gọi cuối cùng giữa chúng tôi khẳng định rằng chúng tôi vẫn là những người bạn tốt. Anh ấy luôn là một chàng trai nồng hậu, John. Anh ấy thích hạ chiếc kính râm xuống, và nói: "Chỉ có thể là tôi". Điều đó vững chãi như những bức tường vậy. Một tấm khiên. Đó là những khoảnh khắc mà tôi không bao giờ quên."Năm 1983, Paul bộc bạch: "Tôi sẽ không trở thành một kẻ khó tính và kín đáo như vậy nếu tôi biết là John sắp phải rời xa thế giới. Tôi sẽ cố gắng bỏ đi thứ "mặt nạ" để có mối quan hệ tốt hơn với anh ấy." McCartney nói rằng đêm đó, anh đọc tin trên truyền hình, ngồi với các con, và nằm khóc suốt tối. Năm 1997, anh nói rằng các Beatle khác đều cảm thấy lo lắng khi nghĩ rằng mình có thể là mục tiêu ám sát. Năm 2002, McCartney trả lời trên tờ Mojo rằng Lennon là một "người anh hùng". Tháng 6 năm 1981, McCartney gặp Harrison và Starr để cùng thu âm ca khúc "All Those Years Ago". Năm 1982, McCartney viết "Here Today" tưởng nhớ những năm tháng anh còn bên Lennon.
"Tôi gặp Yoko sau cái ngày định mệnh đó và điều đầu tiên cô ấy nói với tôi: "Có lẽ John quá ngây thơ với anh". Đó là những khoảnh khắc mà tôi không bao giờ quên.
Paul McCartney
George HarrisonHarrison nói về McCartney: "Paul chỉ tận tình giúp đỡ khi bạn giúp anh ấy khoảng 10 bài, đáng lẽ anh ấy nên giúp đỡ các sáng tác của tôi. Điều đó thật buồn. Thực tế nó là sự ích kỷ... Có rất nhiều ca khúc mà tôi phải chơi bass, bởi vì đó là những gì mà Paul muốn làm. Nếu anh ấy là người viết ca khúc, anh ấy sẽ tới phòng thu và nói: "Hãy làm đi". Anh ấy không cho bạn chút cơ hội nào để thể hiện mình."Cuối năm 2001, Paul hay tin George không thể chiến thắng được căn bệnh ung thư phổi. Sau khi George qua đời ngày 29 tháng 11 năm 2001, Paul đã trả lời trước phóng viên ở gần nhà của George ở St. John's Wood, rằng "(George) là một chàng trai tuyệt vời và là một người đàn ông mạnh mẽ vô cùng đa cảm với cuộc sống.""Chúng tôi đã lớn lên bên nhau và chúng tôi đã cùng có rất nhiều kỷ niệm đẹp. Đó là những điều tôi luôn khắc ghi. Tôi luôn yêu cậu ấy như với một người em trai." Những ngày cuối đời, Harrison sống tại một phòng điều trị ở Hollywood do McCartney chính tay trả tiền. Một năm sau ngày mất của Harrison, McCartney đã chơi "Something" bằng đàn ukulele tại chương trình tưởng niệm Concert for George. Anh cũng chơi "For You Blue" và "All Things Must Pass", cùng với đó là chơi piano trong bản hát "While My Guitar Gently Weeps" trình diễn bởi Eric Clapton.
George HarrisonHarrison nói về McCartney: "Paul chỉ tận tình giúp đỡ khi bạn giúp anh ấy khoảng 10 bài, đáng lẽ anh ấy nên giúp đỡ các sáng tác của tôi. Đó là những điều tôi luôn khắc ghi.
Paul McCartney
Ringo StarrDù rằng Starr từng nói về McCartney là một kẻ "tốt bụng song không thành thật", cả hai vẫn thường giúp đỡ hoạt động các công ty của nhau, và nhất là từng có một chuyến nghỉ mát gia đình ở Hy Lạp. Starr nhớ lại: "Dù chúng tôi không hề hiểu ca khúc mà khách sạn bật, song tới đêm cuối Paul và tôi trở thành những rocker chơi "What I'd Say"". Đã từng có một số thời gian họ có những khúc mắc, như trong quá trình thu âm Album trắng. Theo Peter Brown: "Thật tệ nếu cữ giữ bí mật rằng khi Starr rời nhóm, Paul đã phải chơi trống cho các sáng tác của mình..." Năm 1968, cả hai đã cãi nhau khi Paul phàn nàn việc chơi trống của Starr trong "Back in the U.S.S.R." và điều đó khiến Starr bực tức rời nhóm trong một thời gian ngắn. Starr trở lại nhóm vào tháng 9 và thấy những lẵng hoa trên dàn trống của anh. Starr nói về tài năng của McCartney: "Một trong những tay bass xuất chúng nhất của thế giới. Tuy nhiên, anh ấy có cá tính rất mạnh... để thể hiện mình... vậy nên những bất đồng là điều không thể tránh khỏi theo thời gian."
Ringo StarrDù rằng Starr từng nói về McCartney là một kẻ "tốt bụng song không thành thật", cả hai vẫn thường giúp đỡ hoạt động các công ty của nhau, và nhất là từng có một chuyến nghỉ mát gia đình ở Hy Lạp. Starr nhớ lại: "Dù chúng tôi không hề hiểu ca khúc mà khách sạn bật, song tới đêm cuối Paul và tôi trở thành những rocker chơi "What I'd Say"".
Paul McCartney
McCartney lần đầu sử dụng chất kích thích khi The Beatles biểu diễn tại Hamburg, Đức. Họ dùng preludin để đảm bảo có được năng lượng, và được Astrid Kirchherr ủng hộ. Theo McCartney, thông thường mỗi lần anh chỉ dùng 1-2 viên, trong khi Lennon dùng mỗi lần 4-5 viên mỗi tối. Anh nói rằng đã cảm thấy rất "phê" khi Bob Dylan giới thiệu cần sa cho ban nhạc ở New York năm 1964. Việc lạm dụng nó dần trở thành thói quen, theo Barry Miles, mọi ca từ của The Beatles sau này luôn có hàm ý "thuốc" hoặc "phê", lấy cảm hứng khi họ đang dùng cần sa, điển hình trong ca khúc "Got to Get You into My Life". Khi quay bộ phim Help!, Paul thú nhận rằng anh thường hút thuốc khi lái xe tới trường quay, và điều đó đôi khi khiến anh không biết đang đi đường nào. Đạo diễn Dick Lester từng rủ rê anh dùng heroin tuy nhiên bị anh thẳng thừng từ chối. Tuy nhiên, McCartney đã thử dùng cocaine khi bắt đầu dự án Sgt. Pepper's Lonely Hearts Club Band bởi nghệ sĩ Robert Fraser. Anh nói rằng việc anh quyết tâm bỏ chất kích thích là vì anh ghét những cảm giác chán nản, hụt hẫng sau khi những cơn thuốc chấm dứt.
McCartney lần đầu sử dụng chất kích thích khi The Beatles biểu diễn tại Hamburg, Đức. Theo McCartney, thông thường mỗi lần anh chỉ dùng 1-2 viên, trong khi Lennon dùng mỗi lần 4-5 viên mỗi tối.
Paul McCartney
Paul bắt đầu thử LSD vào mùa thu năm 1966 qua lời giới thiệu của người bạn thân Tara Browne. Ngày 21 tháng 3 năm 1967, anh có lần thử thứ 2 cùng Lennon tại phòng thu trong quá trình thu âm Sgt. Pepper. Anh trở thành Beatle đầu tiên thú nhận sử dụng chất kích thích trước công chúng khi nói rằng chúng "khai sáng" anh, giúp anh "trở nên một người tốt hơn, trung thực hơn, vị tha hơn với xã hội". Ngày 24 tháng 7, McCartney có bài tranh luận trên tờ The Times về tính hợp pháp của cần sa, yêu cầu phóng thích những người sở hữu và đề nghị những nghiên cứu về giá trị y học của chúng. Anh trở thành nghệ sĩ đầu tiên của Anh thừa nhận mình sử dụng LSD trước công chúng. Một chiến dịch được kêu gọi bởi một nhóm có tên là Soma, bao gồm nhiều nhân vật quan trọng, như một vài Nghị sĩ Quốc hội, The Beatles, Brian Epstein, R.D. Laing, Francis Crick và Graham Greene.
Paul bắt đầu thử LSD vào mùa thu năm 1966 qua lời giới thiệu của người bạn thân Tara Browne. Laing, Francis Crick và Graham Greene.
Paul McCartney
Dù trước đó chưa từng bị bắt bởi cảnh sát như Lennon, Harrison hay Mick Jagger đã từng bị, nhưng cuối cùng tới năm 1972, anh bị cảnh sát Thụy Điển điều tra với tội danh tàng trữ cần sa, cùng với đó là bằng chứng chứng tỏ anh đang trông giống cây này tại trang trại của mình. McCartney bị bắt một lần nữa vào năm 1975, rồi 1980 khi cùng Wings biểu diễn tại Nhật Bản. Cảnh sát đã tìm được khoảng 8 ounce (218.3 g) cần sa trong hành lý của anh, và McCartney bị dẫn tới phòng tạm giam chờ quyết định của chính phủ Nhật. Sau 10 ngày, anh được thả ra và liền bị trục xuất. Paul bị bắt một lần nữa vào năm 1984, và tới năm 1997, anh nói: "Người người hút thuốc và việc biến nó thành một tội thực sự là sai lầm."
Dù trước đó chưa từng bị bắt bởi cảnh sát như Lennon, Harrison hay Mick Jagger đã từng bị, nhưng cuối cùng tới năm 1972, anh bị cảnh sát Thụy Điển điều tra với tội danh tàng trữ cần sa, cùng với đó là bằng chứng chứng tỏ anh đang trông giống cây này tại trang trại của mình. Cảnh sát đã tìm được khoảng 8 ounce (218.3 g) cần sa trong hành lý của anh, và McCartney bị dẫn tới phòng tạm giam chờ quyết định của chính phủ Nhật.
Paul McCartney
Ngày 24 tháng 8 năm 1967, McCartney lần đầu gặp thiền sư Maharishi Mahesh Yogi ở khách sạn Hilton thành phố Luân Đôn, sau đó, anh tới Bangor, phía bắc xứ Wales tham dự một hội thảo mà The Beatles bắt đầu nghiên cứu sâu về thiền siêu việt. "Thiền thực sự là một điều tuyệt vời và tới giờ tôi vẫn sử dụng các chân ngôn. Tôi thấy điều đó thực sự nhẹ nhàng, và khi bạn ngày một hiểu nó, bạn sẽ lại càng quan tâm tới nó hơn." Quãng thời gian sau đó mà McCartney cùng The Beatles dành cho việc tới thỉnh Maharishi ở Ấn Độ chính là lúc anh sáng tác với khối lượng rất lớn ca khúc cho các album Album trắng và Abbey Road sau này. Dù McCartney nói anh không hề tiết lộ các chân ngôn cho bất kỳ ai, song anh đã thừa nhận từng có lần nói cho Linda, và anh đã thiền rất nhiều trong thời gian anh bị giam tại Nhật Bản. Năm 2009, McCartney và Starr cùng tham gia vào buổi biểu diễn tại Radio City Music Hall để gây quỹ David Lynch Foundation nhằm giới thiệu thiền siêu việt cho những trẻ em mắc bệnh hiểm nghèo.
Ngày 24 tháng 8 năm 1967, McCartney lần đầu gặp thiền sư Maharishi Mahesh Yogi ở khách sạn Hilton thành phố Luân Đôn, sau đó, anh tới Bangor, phía bắc xứ Wales tham dự một hội thảo mà The Beatles bắt đầu nghiên cứu sâu về thiền siêu việt. Quãng thời gian sau đó mà McCartney cùng The Beatles dành cho việc tới thỉnh Maharishi ở Ấn Độ chính là lúc anh sáng tác với khối lượng rất lớn ca khúc cho các album Album trắng và Abbey Road sau này.
Paul McCartney
Bảo vệ quyền động vật là một trong những hoạt động tích cực nhất mà Paul với Linda cùng thực hiện. Họ trở thành những người ăn chay trường, sau khi một lần Paul đang ăn thịt cừu và nhìn thấy những con cừu khác qua cửa sổ. Paul nói anh bắt đầu quan tâm tới vấn đề này sau khi xem cảnh nai mẹ bị bắn trong bộ phim Bambi (1942) của Disney. Sau khi Linda qua đời, anh vẫn tiếp tục các hoạt động bảo vệ quyền động vật. Năm 1999, Paul trả 3.000.000 £ cho công ty Linda McCartney Foods đảm bảo tiếp tục sản xuất các thực phẩm theo công nghệ di truyền.
Bảo vệ quyền động vật là một trong những hoạt động tích cực nhất mà Paul với Linda cùng thực hiện. Họ trở thành những người ăn chay trường, sau khi một lần Paul đang ăn thịt cừu và nhìn thấy những con cừu khác qua cửa sổ.
Paul McCartney
Sau đám cưới với Heather Mills, ông tham gia vào chiến dịch vận động chống bom mìn và cùng làm chủ tịch của Adopt-A-Minefield. Năm 2003, McCartney tổ chức một buổi diễn cá nhân để quyên góp tiền cho chiến dịch của vợ. Ông cũng mặc chiếc áo ghi dòng chữ "no more land mines" trong tour diễn Back in the World của mình. Năm 2006, ông tới đảo Hoàng tử Edward nhằm góp phần huy động sự chú ý của thế giới trước nạn săn bắt hải cẩu. Chuyến đi của ông gây chú ý mạnh mẽ tới tỉnh Newfoundland và Labrador phía bắc Canada, nơi mà săn bắt loài động vật này là nguồn thu nhập chính. Đôi vợ chồng đã cùng tranh luận với chủ tịch tỉnh Newfoundland, Danny Williams, trong chương trình Larry King Live. Tại đây, họ đã cùng thống nhất rằng người ngư dân nên dừng việc săn bắt hải cẩu, thay vào đó nên bắt đầu quan tâm tới chúng hơn. McCartney cũng chỉ trích các công ty sản xuất lông thú của Trung Quốc, cùng với đó ủng hộ chương trình Make Poverty History.
Sau đám cưới với Heather Mills, ông tham gia vào chiến dịch vận động chống bom mìn và cùng làm chủ tịch của Adopt-A-Minefield. Tại đây, họ đã cùng thống nhất rằng người ngư dân nên dừng việc săn bắt hải cẩu, thay vào đó nên bắt đầu quan tâm tới chúng hơn.
Paul McCartney
Năm 2009, ông viết cho Đạt-lại Lạt-ma thứ 14 Tenzin Gyatso hỏi lý do tại sao ông không phải là một người ăn chay. McCartney nói: "Ông ấy đã trả lời vô cùng lịch sự, nói rằng bác sĩ của tôi khuyên tôi cần phải ăn thịt. Tôi trả lời ông ấy rằng tôi thấy điều đó không hoàn toàn đúng. Chúng tôi đã trao đổi rất nhiều, và giờ tôi nghĩ ông ấy đã giống với một người ăn chay hơn. Tôi nghĩ tới giờ ông ấy... có thể tìm thấy chất đạm từ nhiều nguồn khác. Thực sự là vô cùng cổ hủ nếu ông ấy nghĩ rằng chất đạm chỉ có ở thịt. Và thực tế sẽ là không đúng nếu một Đạt-lại Lạt-ma nói rằng: "Đừng làm hại chúng sinh... Oh, và tôi đang ăn một miếng thịt.""
Năm 2009, ông viết cho Đạt-lại Lạt-ma thứ 14 Tenzin Gyatso hỏi lý do tại sao ông không phải là một người ăn chay. Tôi nghĩ tới giờ ông ấy... có thể tìm thấy chất đạm từ nhiều nguồn khác.
Paul McCartney
McCartney bị bắt gặp khi xem trận chung kết cúp FA năm 1968 giữa West Bromwich Albion và Everton F.C. Sau trận đấu, anh còn vui vẻ chia thuốc lá cho vài cổ động viên. Dù công khai ủng hộ Everton, anh cũng tuyên bố mình yêu thích cả Liverpool F.C. khi mặc áo đấu của họ trong một bức ảnh chụp cũng vào năm 1968. Một cựu cầu thủ của Liverpool, Albert Stubbins, cũng được xuất hiện trên bìa của Sgt. Pepper. Video ca khúc "Pipes of Peace" (1983) của McCartney tái hiện lại trận đấu đêm Giáng sinh 1915 giữa Đức và Anh hồi Chiến tranh thế giới thứ nhất. Khi kết thúc buổi diễn "Coming Up (Live at Glasgow)", khán giả vẫn hô vang "Paul McCartney!" cho tới khi anh hét to "Kenny Dalglish!" (huyền thoại bóng đá của Scotland và CLB Liverpool).
McCartney bị bắt gặp khi xem trận chung kết cúp FA năm 1968 giữa West Bromwich Albion và Everton F.C. Khi kết thúc buổi diễn "Coming Up (Live at Glasgow)", khán giả vẫn hô vang "Paul McCartney!"
Paul McCartney
McCartney lại bị bắt gặp lần nữa khi xem trận chung kết cúp FA năm 1986 giữa Liverpool và Everton. Năm 2008, ông biểu diễn tại Anfield trình diễn nhân dịp thành phố Liverpool nhận giải thưởng Thủ đô văn hóa của châu Âu. Dave Grohl của Foo Fighters hát cùng ông ca khúc "Band on the Run", sau đó là chơi trống cho "Back in the U.S.S.R.". Yoko Ono và Olivia Harrison cùng tới tham dự buổi diễn, cùng với đó là HLV của Liverpool, Rafael Benítez. Khi được hỏi về lý do vì sao ông ủng hộ cả hai đội bóng đối địch, ông giải thích: "Thế này, bố tôi sinh ra ở Everton, về lý thuyết gia đình của tôi là những người ủng hộ Everton, vậy nên nếu có trận đấu nào mà 2 đội đối đầu, tôi sẽ ủng hộ Everton. Nhưng sau buổi biểu diễn ở sân vận động Wembley, tôi kết thân với Dalglish và tôi nghĩ sẽ ủng hộ cả hai đội, bởi họ đều tới từ Liverpool!"
McCartney lại bị bắt gặp lần nữa khi xem trận chung kết cúp FA năm 1986 giữa Liverpool và Everton. Khi được hỏi về lý do vì sao ông ủng hộ cả hai đội bóng đối địch, ông giải thích: "Thế này, bố tôi sinh ra ở Everton, về lý thuyết gia đình của tôi là những người ủng hộ Everton, vậy nên nếu có trận đấu nào mà 2 đội đối đầu, tôi sẽ ủng hộ Everton.
Paul McCartney
McCartney là một trong những người giàu nhất nước Anh, với tổng tài sản ước tính khoảng 475 triệu bảng (năm 2010). Ngoài Apple Corps, công ty MPL Communications của ông sở hữu tới 25.000 ca khúc, trong đó sở hữu quyền phát hành của các nghệ sĩ như Guys and Dolls, A Chorus Line, và Grease. Ông kiếm được 40 triệu bảng vào năm 2003, trở thành người Anh kiếm được nhiều nhất ngành giải trí. Năm 2005, con số đó là 48,5 triệu. Năm 2006, "Paul McCartney" được MPL đăng ký bản quyền và trở thành một thương hiệu riêng.
McCartney là một trong những người giàu nhất nước Anh, với tổng tài sản ước tính khoảng 475 triệu bảng (năm 2010). Ông kiếm được 40 triệu bảng vào năm 2003, trở thành người Anh kiếm được nhiều nhất ngành giải trí.
Paul McCartney
Northern SongsNorthern Songs được thành lập vào năm 1963 bởi Dick James nhằm phát hành các sáng tác của Lennon-McCartney. The Beatles ngừng cộng tác với họ sau khi gia nhập Apple Corps vào năm 1968. Năm 1969, Northern Songs bị bán cho Associated Television, rồi được Michael Jackson mua lại vào năm 1985. Trong một thời gian dài, McCartney luôn tỏ rõ thái độ không hài lòng khi Jackson sở hữu Northern Songs.
Northern SongsNorthern Songs được thành lập vào năm 1963 bởi Dick James nhằm phát hành các sáng tác của Lennon-McCartney. Năm 1969, Northern Songs bị bán cho Associated Television, rồi được Michael Jackson mua lại vào năm 1985.
Paul McCartney
Là một tài năng âm nhạc, song McCartney lại chủ yếu tự học. Theo Ian MacDonald, "rất tự nhiên thứ âm nhạc của ông ấy không hề được đào tạo... [Ông ấy] thường hoàn thành công việc của mình hầu như hoàn toàn bởi bản năng, khả năng hòa âm của ông chủ yếu dựa vào việc ghi nhớ các cao độ hoàn hảo và đôi tai vô cùng sắc sảo." Về phần mình, McCartney nói: "Tôi thích nghĩ về năng khiếu chơi nhạc của mình... giống như những nghệ sĩ trước kia vẽ tranh trong hang động vậy: họ vẽ mà không cần được chỉ dẫn."
Là một tài năng âm nhạc, song McCartney lại chủ yếu tự học. Về phần mình, McCartney nói: "Tôi thích nghĩ về năng khiếu chơi nhạc của mình... giống như những nghệ sĩ trước kia vẽ tranh trong hang động vậy: họ vẽ mà không cần được chỉ dẫn."
Paul McCartney
McCartney được ngưỡng mộ bởi rất nhiều tay bass lừng danh, trong đó có Sting, Mike Elizondo và Colin Moulding của XTC. Ông được biết đến khi sử dụng thường xuyên gảy, tuy nhiên đôi khi ông cũng chơi fingerstyle rất tuyệt. Trong những năm đầu với The Beatles, Paul hay dùng cây bass Höfner 500/1 trong liveshow cũng như thu âm. Từ năm 1965, ông chuyển sang Rickenbacker 4001s tích hợp với dàn ampli của Vox. Những năm gần đây, ông dùng dàn Mesa Boogie để chỉnh âm bass. McCartney thừa nhận ông bị ảnh hưởng bởi phong cách của James Jamerson, người mà cùng Brian Wilson được ông gọi là 2 "người hùng" của mình. Ông cũng kể thêm Stanley Clarke như là tay bass mà ông ưa thích nhất.
McCartney được ngưỡng mộ bởi rất nhiều tay bass lừng danh, trong đó có Sting, Mike Elizondo và Colin Moulding của XTC. Ông cũng kể thêm Stanley Clarke như là tay bass mà ông ưa thích nhất.
Paul McCartney
Bacon và Morgan miêu tả rằng cách chơi bass của McCartney trong "Rain" "thực sự bất ngờ... [McCartney] nghĩ về cả việc chơi bass làm nền cũng như làm lead [trong khi lựa chọn] vào các đoạn thắt... việc đó giúp ông làm rõ hơn các giai điệu mà không cần phải làm cho âm thanh thêm sắc". MacDonald gọi ca khúc đó là mặt B đĩa đơn mượt mà nhất, "thứ hòa âm lanh lảnh xung quanh tiếng bass của McCartney". Ông cũng miêu tả những tiếng bass đó là "sự đe dọa tiềm tàng có thể áp đảo toàn bộ ca khúc", cùng với đó là sự chú ý tới ảnh hưởng của âm nhạc cổ điển Ấn Độ trong "những đoạn luyến cuốn hút của phần bass".
Bacon và Morgan miêu tả rằng cách chơi bass của McCartney trong "Rain" "thực sự bất ngờ... [McCartney] nghĩ về cả việc chơi bass làm nền cũng như làm lead [trong khi lựa chọn] vào các đoạn thắt... việc đó giúp ông làm rõ hơn các giai điệu mà không cần phải làm cho âm thanh thêm sắc". Ông cũng miêu tả những tiếng bass đó là "sự đe dọa tiềm tàng có thể áp đảo toàn bộ ca khúc", cùng với đó là sự chú ý tới ảnh hưởng của âm nhạc cổ điển Ấn Độ trong "những đoạn luyến cuốn hút của phần bass".
Paul McCartney
Với acoustic, McCartney thường chơi kiểu flatpick với gảy, tuy nhiên đôi lúc ông cũng chơi gảy bằng ngón (fingerpick). Hàng loạt ca khúc của The Beatles mà Paul chơi acoustic vô cùng thuần thục: "Yesterday", "I'm Looking Through You", "Michelle", "Blackbird", "I Will", "Mother Nature's Son" và "Rocky Raccoon". Trong số đó, "Blackbird" là ca khúc ưa thích của ông: "Tôi thường có vài trò khi chơi fingerpick, và trong "Blackbird" đôi lúc tôi đánh đồng thời 2 dây cùng lúc... Tôi thực sự cố bắt chước mấy nghệ sĩ chơi nhạc folk." McCartney hay sử dụng cây Epiphone Texan, cùng với đó là Martin D-28.
Với acoustic, McCartney thường chơi kiểu flatpick với gảy, tuy nhiên đôi lúc ông cũng chơi gảy bằng ngón (fingerpick). Hàng loạt ca khúc của The Beatles mà Paul chơi acoustic vô cùng thuần thục: "Yesterday", "I'm Looking Through You", "Michelle", "Blackbird", "I Will", "Mother Nature's Son" và "Rocky Raccoon".
Paul McCartney
McCartney chơi lead guitar trong khá nhiều ca khúc của The Beatles, mà theo MacDonald đó là "cách chơi guitar solo vô cùng góc cạnh và dữ dội" trong "Drive My Car" với cây Epiphone Casino; Paul nói: "Nếu tôi được cầm một cây guitar điện thì nó phải chơi như thế." Ông cũng chơi lead trong sáng tác của Harrison "Taxman", mà theo MacDonald là "cách chơi guitar solo gây sốc", cùng với đó là "rền rĩ" trong "Sgt. Pepper's Lonely Hearts Club Band" và "Helter Skelter", "sáng lòa" trong "Good Morning Good Morning". Trong "Taxman", McCartney bình luận: "Tôi lấy cảm hứng từ Jimi Hendrix. Đó là trải nghiệm đầu tiên của tôi khi dùng feedback cho guitar." Năm 1990, khi được hỏi ai là tay guitar ông thích nhất trong số Eddie Van Halen, Eric Clapton và David Gilmour, Paul bình thản nói: "Tôi vẫn thích Hendrix nhất." Trong những năm gần đây, ông dùng nhiều cây Gibson Les Paul, nhất là trong các buổi trình diễn trực tiếp.
McCartney chơi lead guitar trong khá nhiều ca khúc của The Beatles, mà theo MacDonald đó là "cách chơi guitar solo vô cùng góc cạnh và dữ dội" trong "Drive My Car" với cây Epiphone Casino; Paul nói: "Nếu tôi được cầm một cây guitar điện thì nó phải chơi như thế." Trong những năm gần đây, ông dùng nhiều cây Gibson Les Paul, nhất là trong các buổi trình diễn trực tiếp.
Paul McCartney
KeyboardsMcCartney chơi piano trong khá nhiều các ca khúc của The Beatles, tuy nhiên phần nhiều do chính ông sáng tác, như "Every Little Thing", "For No One", "A Day in the Life", "Hello, Goodbye", "Hey Jude", "Lady Madonna", "Let It Be" và "The Long and Winding Road". MacDonald cho rằng phần piano trong "Lady Madonna" rất giống với Fats Domino còn "Let It Be" thì nghe như nhạc phúc âm. MacDonald nói tiếng mellotron mà McCartney chơi trong "Strawberry Fields Forever" là vô cùng phù hợp với nhân vật trong ca khúc. Paul sử dụng máy chỉnh âm Moog trong 2 ca khúc "Maxwell's Silver Hammer" và "Loup (1st Indian on the Moon)" (của Wings). Ingham miêu tả 2 ca khúc của Wings "With a Little Luck" và "London Town" "tràn đầy những nốt nhạy cảm của nhạc pop". McCartney cũng dùng máy chỉnh âm trong một ca khúc khác nữa, "Wonderful Christmastime".
KeyboardsMcCartney chơi piano trong khá nhiều các ca khúc của The Beatles, tuy nhiên phần nhiều do chính ông sáng tác, như "Every Little Thing", "For No One", "A Day in the Life", "Hello, Goodbye", "Hey Jude", "Lady Madonna", "Let It Be" và "The Long and Winding Road". MacDonald nói tiếng mellotron mà McCartney chơi trong "Strawberry Fields Forever" là vô cùng phù hợp với nhân vật trong ca khúc.
Paul McCartney
HátGiọng ca của McCartney pha trộn khá nhiều phong cách. Chẳng hạn trong "Call Me Back Again", Benitez đánh giá "giọng McCartney nghe giống giọng solo nhạc blues". Ian MacDonald nói "I'm Down" là "giọng rock and roll cơ bản". Ông cũng cho rằng "Helter Skelter" là tiền đề của heavy metal, trong khi "Hey Jude" là một "huyền thoại của pop/rock" cho thấy rằng McCartney đã dùng cả "những đoạn luyến của nhạc phúc âm" và thêm "đoạn kết bất ngờ theo kiểu nhạc soul". Theo Benitez, "Hope of Deliverance" và "Put It There" là những ca khúc mà McCartney đã cố thể hiện theo phong cách nhạc folk, còn nhà nghiên cứu âm nhạc Walter Everett cho rằng "When I'm Sixty-Four" và "Honey Pie" đã gần giống với vaudeville (một dạng hát nhạc kịch).
HátGiọng ca của McCartney pha trộn khá nhiều phong cách. Ian MacDonald nói "I'm Down" là "giọng rock and roll cơ bản".
Paul McCartney
Những ảnh hưởng khácÂm nhạc của Paul sớm bị ảnh hưởng bởi nhiều nghệ sĩ khác, bao gồm Elvis Presley, Carl Perkins, Buddy Holly, Chuck Berry và Little Richard. Khi được hỏi tại sao Presley không có mặt trong bìa của Sgt. Pepper, McCartney trả lời: "Elvis quá quan trọng và ở xa phía trên so với những người khác. Tôi nghĩ mọi người đều công nhận điều này, vậy nên chúng tôi không cho ông ấy vào trong danh sách, vì đơn giản ông ấy hơn hẳn mọi nghệ sĩ nhạc pop khác. Ông ấy là Elvis the King." Theo MacDonald, cách chơi bass của McCartney trong "I Saw Her Standing There", đã bị "lấy cắp" bởi Chuck Berry trong "I'm Talking About You".
Những ảnh hưởng khácÂm nhạc của Paul sớm bị ảnh hưởng bởi nhiều nghệ sĩ khác, bao gồm Elvis Presley, Carl Perkins, Buddy Holly, Chuck Berry và Little Richard. Pepper, McCartney trả lời: "Elvis quá quan trọng và ở xa phía trên so với những người khác.
Paul McCartney
McCartney được Sách Kỷ lục Guinness miêu tả như "nhạc sĩ và nghệ sĩ thu âm xuất sắc nhất mọi thời đại", với 60 đĩa Vàng, 100 triệu album, 100 triệu đĩa đơn, và đồng tác giả với 43 ca khúc với tổng số lượng đĩa đã bản khoảng 1 triệu. Theo Guinness, ông là "người viết nhạc xuất sắc nhất" trong lịch sử âm nhạc Anh với việc là tác giả và đồng tác giả của "188 ca khúc trong bảng xếp hạng, trong số đó là 129 ca khúc khác nhau. Cùng với đó, 91 ca khúc đã nằm trong Top 10, 33 đã đứng ở vị trí số 1. Tổng cộng, các ca khúc của ông đã có 1,662 tuần trong bảng xếp hạng (tới năm 2007)". Năm 1986, ông nhận Huân chương danh vọng của Guinness là một chiếc đĩa làm bằng rhodi cùng với chứng nhận "nhạc sĩ vĩ đại nhất mọi thời đại".
McCartney được Sách Kỷ lục Guinness miêu tả như "nhạc sĩ và nghệ sĩ thu âm xuất sắc nhất mọi thời đại", với 60 đĩa Vàng, 100 triệu album, 100 triệu đĩa đơn, và đồng tác giả với 43 ca khúc với tổng số lượng đĩa đã bản khoảng 1 triệu. Năm 1986, ông nhận Huân chương danh vọng của Guinness là một chiếc đĩa làm bằng rhodi cùng với chứng nhận "nhạc sĩ vĩ đại nhất mọi thời đại".
Paul McCartney
Ca khúc bất tử của McCartney, "Yesterday" được coi là ca khúc được nổi tiếng nhất lịch sử âm nhạc với hơn 2.200 bản cover được biết đến. Theo BBC "đây là ca khúc duy nhất của Anh được chiếu tới hơn 7 triệu lần trên truyền hình và radio Mỹ và giành vị trí số 3 trong danh sách các ca khúc sáng tác bởi một nghệ sĩ Anh được chơi nhiều nhất tại Mỹ". "Hey Jude" sáng tác năm 1968 cũng là điểm sáng trong sự nghiệp của ông. Nó đứng đầu Billboard trong 9 tuần, nhiều hơn bất kể mọi đĩa đơn nào khác của The Beatles. Đây cũng là đĩa đơn dài nhất của họ. Ca khúc này được hát lại bởi rất nhiều danh ca, trong đó có Elvis Presley, Bing Crosby, Count Basie, và Wilson Pickett. Với 5 triệu bản đã bán, đây cũng là đĩa đơn bán chạy nhất của The Beatles.
Ca khúc bất tử của McCartney, "Yesterday" được coi là ca khúc được nổi tiếng nhất lịch sử âm nhạc với hơn 2.200 bản cover được biết đến. Với 5 triệu bản đã bán, đây cũng là đĩa đơn bán chạy nhất của The Beatles.
Paul McCartney
Năm 1990, tiểu hành tinh 4148 được đặt tên theo McCartney. Tháng 7 năm 2005, ông lập kỷ lục khi có đĩa đơn ra mắt nhanh nhất lịch sử với "Sgt. Pepper's Lonely Hearts Club Band" hát cùng với U2 tại chương trình Live 8. Đĩa đơn này được phát hành thậm chí trước khi chương trình kết thúc. Nó đạt vị trí số 6 ở Billboard, và đạt vị trí số 1 ở nhiều nguồn download toàn thế giới. Năm 2008, ông nhận giải thưởng cống hiến tại Brit Awards, cùng với đó là bằng Tiến sĩ âm nhạc danh dự tại Đại học Yale. Năm 2012, ông là người cuối cùng của The Beatles nhận ngôi sao tại Đại lộ Danh vọng Hollywood.
Năm 1990, tiểu hành tinh 4148 được đặt tên theo McCartney. Năm 2012, ông là người cuối cùng của The Beatles nhận ngôi sao tại Đại lộ Danh vọng Hollywood.
Xbox 360
Xbox 360 là video game console do tập đoàn Microsoft sản xuất và phát triển. Đây là dòng máy nối tiếp dòng máy Xbox, nằm trong thương hiệu Xbox của Microsoft. Cùng với 2 đối thủ là máy PlayStation 3 của Sony và máy Wii của Nintendo, Xbox 360 thuộc thế hệ máy console thứ 7. Xbox 360 chính thức được tiết lộ trên MTV vào ngày 12 tháng 5 năm 2005. Một tháng sau, tại triển lãm video game thường niên Electronic Entertainment Expo (E3), Microsoft trình làng Xbox 360 với nhiều thông tin chi tiết về hệ máy đồng thời công bố các tựa game sắp phát hành khi ra mắt máy. Máy được bán trên toàn thế giới ngay sau thời điểm phát hành, trừ thị trường Nhật Bản.Tính năng nổi bật của Xbox 360 là dịch vụ trực tuyến Xbox Live. Gồm 2 phiên bản miễn phí và thuê bao, Xbox Live cho người dùng khả năng thi đấu trực tuyến; tải về trò chơi hay bản dùng thử trò chơi mới; xem trailer, mua và xem bản thu sóng trực tuyến các chương trình TV, âm nhạc và phim ảnh qua các cổng Xbox Video và Xbox Music; và truy cập những dịch vụ nội dung bên thứ ba qua các ứng dụng thu sóng truyền thông. Bên cạnh những tính năng đa phương tiện trực tuyến, Xbox còn cho phép thu sóng phát hình trực tiếp từ máy vi tính.
Xbox 360 là video game console do tập đoàn Microsoft sản xuất và phát triển. Một tháng sau, tại triển lãm video game thường niên Electronic Entertainment Expo (E3), Microsoft trình làng Xbox 360 với nhiều thông tin chi tiết về hệ máy đồng thời công bố các tựa game sắp phát hành khi ra mắt máy.
Xbox 360
Tại buổi trình diễn của họ tại E3 vào ngày 14 tháng 10 năm 2010, Microsoft đã công bố model máy Xbox 360 với thiết kế mới và có thể được bán ra ngay vào ngày hôm sau. Máy console mới này có thiết kế mỏng hơn so với các bản đời đầu, tích hợp Wi-Fi 802.11 b/g/n Wi-Fi, đầu ra âm thanh TOSLINK S/PDIF, năm cổng USB 2.0 so với ba của bản cũ, có ổ cứng dung lượng 250GB và cổng AUX đặc biệt. Các model Xbox 360 cũ hơn đã bị ngừng phát triển từ thời điểm này. Cũng tại triển lãm E3 năm 2013, Microsoft đã công bố phiên bản Xbox 360 mới hơn thiết kế nhỏ gọn hơn nhiều so với đời trước, bộ nhớ trong 4GB và mã tồn kho (Stock keeping unit-SKU) rẻ hơn.
Tại buổi trình diễn của họ tại E3 vào ngày 14 tháng 10 năm 2010, Microsoft đã công bố model máy Xbox 360 với thiết kế mới và có thể được bán ra ngay vào ngày hôm sau. Cũng tại triển lãm E3 năm 2013, Microsoft đã công bố phiên bản Xbox 360 mới hơn thiết kế nhỏ gọn hơn nhiều so với đời trước, bộ nhớ trong 4GB và mã tồn kho (Stock keeping unit-SKU) rẻ hơn.
Xbox 360
Từ đầu năm 2003, ý tưởng về thế hệ Xbox kế tiếp đã được thai nghén, với các tên gọi trong thời gian sản xuất là Xbox Next, Xenon, Xbox 2, Xbox FS hoặc NextBox. Tháng 2 năm 2003, Phó Chủ tịch Microsoft J Allard lãnh đạo đội ngũ bắt đầu cho kế hoạch phát triển nền máy tính Xenon. Trong tháng này có hai sự kiến chính xảy ra: Microsoft đã tổ chức sự kiện tại Bellevue, Washington với sự tham gia của khoảng 400 người để tuyển người hỗ trợ cho dự án; Peter Moore, cựu Chủ tịch của Sega chi nhánh tại Mỹ, đầu quân cho Microsoft. Vào ngày 12 tháng 8 năm 2003, ATI thoả thuận sẽ sản xuất bộ vi xử lý đồ hoạ cho máy console mới, và vụ hợp tác làm ăn này được công bố trên báo chí 2 ngày sau đó.. Trước ngày ra mắt của Xbox 360, một vài bản Alpha test của máy được phát hiện sử dụng phần cứng Power Mac G5 của Apple. Sở dĩ có lý do như vậy bởi vì bộ vi xử lý của PowerPC 970 (hay Power Mac G5) sử dụng chung kiến trúc PowerPC mà bộ vi xử lý Xbox 360 cuối cùng sẽ sử dụng là Xenon của IBM. Bộ nhân của vi xử lý Xenon đã được thay đổi chút ít so với kiến trúc Cell Processor PPE của PlayStation 3. Theo David Shippy and Mickie Phipps, các nhân viên của IBM đã "lẩn trốn" công việc của họ khỏi hai đối tác của công ty là Toshiba và Sony trong việc sản xuất Cell Processor.
Từ đầu năm 2003, ý tưởng về thế hệ Xbox kế tiếp đã được thai nghén, với các tên gọi trong thời gian sản xuất là Xbox Next, Xenon, Xbox 2, Xbox FS hoặc NextBox. Trong tháng này có hai sự kiến chính xảy ra: Microsoft đã tổ chức sự kiện tại Bellevue, Washington với sự tham gia của khoảng 400 người để tuyển người hỗ trợ cho dự án; Peter Moore, cựu Chủ tịch của Sega chi nhánh tại Mỹ, đầu quân cho Microsoft.
Xbox 360
Kể từ khi ra mắt vào năm 2005, Xbox 360 thường xuyên vướng vào các rắc rối kỹ thuật.Để hỗ trợ cho khách hàng, Microsoft tăng thời gian bảo hành cho máy lên 3 năm cho những lỗi hư hại phần cứng được báo cáo là lỗi "Hư hỏng phần cứng tổng quát" (General Hardware Failure). Đây là lỗi nghiêm trọng, phát sinh ở các máy Xbox 360 đời trước Xbox 360 S. Khi dính lỗi, máy xuất hiện 3 vòng tròn đỏ báo hiệu phần cứng bị lỗi do máy bị quá nhiệt trong thời gian dài, gây hư hỏng vật lý, buộc người dùng phải đem máy đi bảo hành. Chính vì vậy lỗi còn có tên là "Vòng tròn đỏ chết chóc" (Red Ring of Death) ăn theo "Màn hình xanh chết chóc" của Windows. Vào tháng 4 năm 2009, những máy bị lỗi mã E74 sẽ được hưởng chế độ bảo hành này. Sự gia tăng quyền hạn bảo hành này không áp dụng cho những máy bị lỗi mã không thuộc E74.Từ năm 2008 trở đi hãng Microsoft đã cho ra bản Xbox mới mang mã Jasper, với thay đổi lớn nhất là sử dụng các CPU-GPU thế hệ mới được chế tạo ở tiến trình 65 nm, giúp chúng tiêu tốn năng lượng ít hơn và cũng tỏa nhiệt ít hơn; tăng lỗ thông hơi trên các góc và cạnh của CPU và GPU cũng như dán chặt hơn để tránh tình trạng chúng bị lệch khỏi bo mạch khi nhiệt độ tăng, và bổ sung thêm một GPU, nhờ đó giảm nhiệt độ cũng như điện năng tiêu thụ.
Kể từ khi ra mắt vào năm 2005, Xbox 360 thường xuyên vướng vào các rắc rối kỹ thuật.Để hỗ trợ cho khách hàng, Microsoft tăng thời gian bảo hành cho máy lên 3 năm cho những lỗi hư hại phần cứng được báo cáo là lỗi "Hư hỏng phần cứng tổng quát" (General Hardware Failure). Vào tháng 4 năm 2009, những máy bị lỗi mã E74 sẽ được hưởng chế độ bảo hành này.
Xbox 360
Năm 2010, Microsoft tung model Slim được thiết kế mới hoàn toàn; đời máy này và bản Jasper của Xbox 360 nguyên mẫu được coi là khắc phục triệt để lỗi quá nhiệt. Với việc phát hành model mới này, quyền bảo hành của máy này không bao gồm việc gia tăng hạn bảo hành với lỗi phần cứng tổng quát. Khi quá nhiệt, nút nguồn trên đời máy Xbox 360 mới sẽ hiển thị màu đỏ, khác với đời máy trước một phần ba vòng tròn xung quanh nút nguồn sẽ phát sáng đỏ khi quá nhiệt. Hệ thống sẽ cảnh bảo người dùng về việc máy sẽ ngừng hoạt động cho đến khi hệ thống nguội lại, trong khi đèn flash trên nút nguồn sẽ chớp tắt xanh đỏ báo hiệu cho "Lỗi phần cứng tổng quát".
Năm 2010, Microsoft tung model Slim được thiết kế mới hoàn toàn; đời máy này và bản Jasper của Xbox 360 nguyên mẫu được coi là khắc phục triệt để lỗi quá nhiệt. Khi quá nhiệt, nút nguồn trên đời máy Xbox 360 mới sẽ hiển thị màu đỏ, khác với đời máy trước một phần ba vòng tròn xung quanh nút nguồn sẽ phát sáng đỏ khi quá nhiệt.
Xbox 360
Tay cầm điều khiển của Xbox 360 là bộ phận điều khiển chính của máy, được giới thiệu vào E3 2005. Tay cầm này có 2 phiên bản: có dây và không dây. Tay cầm Xbox cũ không tương thích với máy. Tuy nhiên thì tay cầm của Xbox 360 lại tương thích với PC, và đối với bản không dây thì máy tính cần cắm bộ thu có tên Wireless Gaming Receiver. Phiên bản không dây cần 2 cục pin AA hoặc bộ pin sạc để hoạt động. Phiên bản có dây thì có thể cắm dây vào bất cứ cổng USB nào trên máy, hoặc vào bộ chia cổng USB đã đính kèm.
Tay cầm điều khiển của Xbox 360 là bộ phận điều khiển chính của máy, được giới thiệu vào E3 2005. Tay cầm Xbox cũ không tương thích với máy.
Xbox 360
Thiết kếTay cầm Xbox 360 có 7 nút bấm vật lý, 2 cần analog và nút điều hướng D-pad. Mặt bên phải của tay cầm có 4 nút bấm kỹ thuật số: nút "A" xanh lá cây, nút "B" đỏ, nút "Y" hổ phách và nút "X" màu xanh dương. Bên dưới tay phải là 1 cần analog, bên trái nó là D-pad. Mặt tay trái của tay cầm là 1 cần analog nữa. Cả hai cần analog này đều có thể nhấn vào được để kích hoạt thêm 1 nút bấm bên dưới. Ở trung tâm trên mặt tay cầm là các nút kỹ thuật số "Start", "Back" và "Guide". Trên mặt nút "Guide" được dán nhãn Xbox, và nó còn có công dụng sáng đèn cho biết tay cầm này là vị trí thứ mấy trong số các tay cầm được kết nối vào console. Trên mỗi vai của tay cầm có nút bấm vai và nút cò.
Thiết kếTay cầm Xbox 360 có 7 nút bấm vật lý, 2 cần analog và nút điều hướng D-pad. Ở trung tâm trên mặt tay cầm là các nút kỹ thuật số "Start", "Back" và "Guide".