topic
stringclasses
149 values
context
stringlengths
84
21k
Evidence
stringlengths
51
1.33k
Virus
Dịch tễ học virus là một nhánh của y học, nghiên cứu sự lây truyền và kiểm soát bệnh truyền nhiễm do virus gây ra ở con người. Sự lây truyền của virus có thể theo chiều dọc, tức từ mẹ sang con, hoặc chiều ngang, tức từ người này sang người khác. Những ví dụ về truyền bệnh theo chiều dọc là virus viêm gan B và HIV, ở đây trẻ con sinh ra đã bị nhiễm virus lây từ mẹ. Một ví dụ khác, hiếm hơn, là virus varicella zoster, loại mặc dù chỉ gây ra sự nhiễm bệnh tương đối nhẹ ở người, lại có thể gây tử vong với thai nhi và trẻ sơ sinh.Truyền bệnh theo chiều ngang là cơ chế lây lan virus phổ biến nhất trong quần thể. Sự lây bệnh có thể xảy ra khi: chất dịch cơ thể được trao đổi trong hoạt động tình dục (ví dụ HIV); máu được trao đổi do truyền máu bị nhiễm bệnh hoặc dùng chung kim tiêm (ví dụ virus viêm gan C); trao đổi nước bọt qua đường miệng (ví dụ virus Epstein-Barr); thực phẩm và nước bị nhiễm bẩn đi qua đường tiêu hóa (ví dụ norovirus); hít phải các sol khí chứa virion (ví dụ virus cúm); và các vector côn trùng như muỗi đưa mầm bệnh xâm nhập qua da của người bệnh (ví dụ sốt xuất huyết). Tỷ lệ hoặc tốc độ lây truyền bệnh virus phụ thuộc vào các nhân tố như mật độ dân số, số cá thể nhạy cảm (như những người không miễn dịch), chất lượng y tế và thời tiết.Dịch tễ học được ứng dụng để phá vỡ chuỗi lây nhiễm trong các quần thể đang phải chịu sự bùng phát dịch bệnh do virus. Các phương pháp kiểm soát được dựa trên những kiến thức về cách mà virus lây lan. Việc tìm ra nguồn bệnh của sự bùng phát dịch và việc xác định virus rất quan trọng. Một qua virus đã được định danh, chuỗi lan truyền có thể được phá vỡ nhờ các vắc-xin; hoặc khi vắc-xin không có sẵn thì vệ sinh và khử trùng cũng có thể có hiệu quả. Thông thường, những người nhiễm bệnh bị cô lập khỏi phần còn lại của cộng đồng, và những người đã tiếp xúc với virus sẽ bị đặt trong tình trạng cách ly. Để khống chế sự bùng phát bệnh lở mồm long móng ở bò tại Anh năm 2001, hàng ngàn con bò đã bị giết. Hầu hết bệnh truyền nhiễm do virus ở người và các động vật khác có thời kỳ ủ bệnh khi sự nhiễm bệnh không gây ra dấu hiệu hay triệu chứng nào. Thời gian ủ bệnh do virus dao động từ một vài ngày đến vài tuần, được biết với hầu hết bệnh do virus. Mặc dù có hơi chồng lấn lên nhau, nhưng chủ yếu diễn ra sau thời kỳ ủ bệnh là một thời kỳ lây lan— giai đoạn mà một cá thể nhiễm bệnh dễ lây nhiễm và có thể lây sang những người hay động vật khác. Điều này cũng xảy ra với nhiều bệnh virus, và hiểu biết về độ dài của hai thời kỳ rất quan trọng đối với sự kiểm soát các trận dịch. Khi sự bùng phát gây nên một tỷ lệ cao bất thường các ca bệnh trong một cộng đồng hay một vùng, chúng được gọi là những "dịch bệnh" hay "dịch" (epidemic). Nếu sự bùng phát lan ra toàn thế giới, chúng được xem như những "đại dịch" (pandemic).
Dịch tễ học virus là một nhánh của y học, nghiên cứu sự lây truyền và kiểm soát bệnh truyền nhiễm do virus gây ra ở con người. Mặc dù có hơi chồng lấn lên nhau, nhưng chủ yếu diễn ra sau thời kỳ ủ bệnh là một thời kỳ lây lan— giai đoạn mà một cá thể nhiễm bệnh dễ lây nhiễm và có thể lây sang những người hay động vật khác.
Virus
Những quần thể người Mỹ bản địa đã bị tàn phá bởi những căn bệnh truyền nhiễm, đặc biệt bệnh đậu mùa, do những thực dân châu Âu mang tới châu Mỹ. Người ta không rõ là đã có bao nhiêu người Mỹ bản địa bị chết do những căn bệnh ngoại lai xuất hiện sau sự có mặt của Columbus ở châu Mỹ, nhưng đã ước tính là lên tới 70% dân số bản địa. Sự hủy diệt do những căn bệnh này gây ra đã hỗ trợ đáng kể cho nỗ lực của người châu Âu để thay thế và chinh phục những cộng đồng bản địa nơi đây.Nhìn chung, một đại dịch là một dịch bệnh mang tính toàn cầu. Đại dịch cúm 1918, diễn ra cho đến năm 1919, là một đại dịch cúm nằm trong nhóm 5 (nhóm nghiêm trọng nhất) trong Chỉ số Nghiêm trọng của Đại dịch (PSI), gây ra bởi một dạng virus cúm A nguy hiểm chết người và nghiêm trọng một cách bất thường. Các nạn nhân thường là những thanh niên khỏe mạnh, trái ngược với hầu hết các dịch cúm khác vốn chủ yếu ảnh hưởng đến trẻ em, người già, hoặc nếu không là những bệnh nhân ốm yếu. Những ước tính ban đầu nói rằng dịch cúm này đã giết chết khoảng 40–50 triệu người, trong khi những nghiên cứu gần đây hơn đề xuất rằng nó có thể đã giết hại lên tới 100 triệu người, tức khoảng 5% dân số thế giới chỉ trong năm 1918.
Những quần thể người Mỹ bản địa đã bị tàn phá bởi những căn bệnh truyền nhiễm, đặc biệt bệnh đậu mùa, do những thực dân châu Âu mang tới châu Mỹ. Các nạn nhân thường là những thanh niên khỏe mạnh, trái ngược với hầu hết các dịch cúm khác vốn chủ yếu ảnh hưởng đến trẻ em, người già, hoặc nếu không là những bệnh nhân ốm yếu.
Virus
Nhiều nhà nghiên cứu tin rằng virus HIV có xuất xứ từ châu Phi cận Sahara trong thế kỷ XX; nó hiện nay được công nhận là một đại dịch, với ước tính khoảng 38,6 triệu người hiện sống với căn bệnh này trên toàn thế giới. Chương trình Phối hợp của Liên Hợp Quốc về HIV/AIDS (UNAIDS) và Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) ước tính rằng AIDS đã giết hại hơn 25 triệu người tính từ khi được ghi nhận lần đầu vào 5 tháng 6 năm 1981, khiến nó là một trong những dịch bệnh hủy hoại nhất được ghi lại trong lịch sử. Chỉ trong năm 2007, có thêm khoảng 2,7 triệu ca nhiễm HIV mới và thêm 2 triệu người chết có liên quan tới HIV.Một số mầm bệnh virus cực kỳ nguy hiểm khác là những thành viên của họ Filoviridae. Filovirus là những virus gây ra bệnh sốt xuất huyết siêu vi, bao gồm virus Ebola và virus Marburg. Virus Marburg đã thu hút sự quan tâm rộng rãi của báo chí vào tháng 4 năm 2005 với một trận bùng phát đầu tiên ở Angola. Bệnh do vi rút Ebola cũng gây ra các đợt bùng phát không liên tục với tỷ lệ tử vong cao, kể từ năm 1976 khi lần đầu tiên được xác định. Tồi tệ và gần đây nhất là dịch bệnh tại Tây Phi năm 2014.Ngoại trừ bệnh đậu mùa, hầu hết các đại dịch đều do virus mới tiến hóa gây ra. Các virus "mới nổi" này thường là đột biến của những loại virus ít gây hại hơn đã từng lưu hành trước đây ở người hoặc động vật khác.Hội chứng hô hấp cấp tính nặng (SARS) và hội chứng hô hấp Trung Đông (MERS) đều do các chủng coronavirus mới gây ra. Các chủng coronavirus khác được biết đến là đã gây ra những bệnh nhiễm trùng nhẹ ở người, do vậy độc lực và sự lây lan nhanh chóng của SARS—vào tháng 7 năm 2003 đã gây ra khoảng 8.000 ca nhiễm và 800 ca tử vong—là điều không ngờ và hầu hết các quốc gia đều không chuẩn bị sẵn sàng để ứng phó.Một chủng liên quan tới coronavirus, virus corona gây hội chứng hô hấp cấp tính nặng 2 (SARS-CoV-2), được cho là có nguồn gốc từ loài dơi, xuất hiện tại Vũ Hán, Trung Quốc vào tháng 11 năm 2019 và nhanh chóng lây lan trên toàn thế giới. Các trường hợp lây nhiễm virus này đã gây ra đại dịch COVID-19 bắt đầu vào năm 2020. Nhằm đối phó với đại dịch, những hạn chế chưa từng có trong thời bình đã được đặt ra đối với việc đi lại quốc tế, và lệnh giới nghiêm đã được áp dụng tại một số thành phố lớn trên thế giới.
Nhiều nhà nghiên cứu tin rằng virus HIV có xuất xứ từ châu Phi cận Sahara trong thế kỷ XX; nó hiện nay được công nhận là một đại dịch, với ước tính khoảng 38,6 triệu người hiện sống với căn bệnh này trên toàn thế giới. Các trường hợp lây nhiễm virus này đã gây ra đại dịch COVID-19 bắt đầu vào năm 2020.
Virus
Virus là một nguyên nhân được công nhận của bệnh ung thư ở con người và các loài khác. Ung thư do virus chỉ xảy ra ở một số ít người (hay động vật) bị nhiễm. Virus ung thư đến từ một loạt các họ virus, ở cả hai nhóm virus RNA và DNA, và không có bất kỳ loại đơn lẻ nào là "oncovirus" (một thuật ngữ đã lỗi thời ban đầu dùng để chỉ retrovirus chuyển đổi cấp). Sự phát triển của ung thư do virus được xác định bởi nhiều nhân tố, như sự miễn dịch của vật chủ và những đột biến bên trong vật chủ. Virus được đồng thuận là gây ra bệnh ung thư ở người bao gồm một số kiểu gen của các loại virus papilloma ở người, virus viêm gan B, virus viêm gan C, virus Epstein-Barr, virus herpes ung thư mô liên kết Kaposi và virus ưa lympho T ở người. Một loại virus ung thư ở người mới khám phá gần đây là polyomavirus (virus polyoma tế bào Merkel) mà gây ra phần lớn các ca của một dạng ung thư da hiếm gặp gọi là ung thư biểu mô tế bào Merkel.
Virus là một nguyên nhân được công nhận của bệnh ung thư ở con người và các loài khác. Ung thư do virus chỉ xảy ra ở một số ít người (hay động vật) bị nhiễm.
Virus
Những virus viêm gan cũng có thể phát triển thành bệnh virus mãn tính mà dẫn tới ung thư gan. Sự xâm nhiễm của virus ưa bạch cầu T ở người cũng có thể dẫn tới chứng liệt cứng chi dưới nhiệt đới và ung thư bạch cầu tế bào T trưởng thành. Virus papilloma cũng được xác định là một trong những nguyên nhân của các dạng ung thư cổ tử cung, da, hậu môn, và dương vật. Trong họ Herpesviridae, virus herpes ung thư mô liên kết Kaposi gây ra bệnh ung thư mô liên kết Kaposi (Kaposi's sarcoma) và ung thư hạch khoang cơ thể, và virus Epstein–Barr gây ra ung thư hạch Burkitt, ung thư hạch Hodgkin, rối loạn tăng sinh lympho B và ung thư vòm họng. Virus polyoma tế bào Merkel cũng có sự liên hệ mật thiết với SV40 và virus polyoma ở chuột mà đã được sử dụng như những mô hình tiêu biểu cho virus gây ung thư ở động vật trong hơn 50 năm qua.
Những virus viêm gan cũng có thể phát triển thành bệnh virus mãn tính mà dẫn tới ung thư gan. Virus papilloma cũng được xác định là một trong những nguyên nhân của các dạng ung thư cổ tử cung, da, hậu môn, và dương vật.
Virus
Rào chắn bảo vệ đầu tiên của cơ thể chống lại virus là hệ thống miễn dịch tự nhiên. Nó bao gồm những tế bào và các cơ chế khác giúp bảo vệ vật chủ chống lại sự xâm nhiễm một cách không đặc hiệu. Điều này có nghĩa là những tế bào của hệ thống tự nhiên sẽ ghi nhận và phản ức với mầm bệnh theo một cách chung chung, nhưng không giống với hệ thống miễn dịch thích ứng, nó không cung cấp sự miễn dịch bảo vệ hoặc lâu dài với vật chủ.Can thiệp RNA là một cơ chế phòng ngự bẩm sinh khác chống lại virus. Nhiều loại virus có chiến lược nhân lên mà có sự tham gia của RNA sợi đôi (dsRNA). Khi một virus như vậy lây nhiễm vào tế bào, nó giải phóng phân tử RNA của nó, thứ mà ngay lập tức sẽ gắn vào một phức hợp protein gọi là dicer, một enzym cắt RNA thành những mảnh nhỏ. Một con đường sinh hóa gọi là phức hợp RISC được kích hoạt, giúp phân hủy mRNA của virus và tế bào sẽ sống sót qua khỏi sự nhiễm bệnh. Rotavirus tránh cơ chế này bằng cách không lột vỏ hoàn toàn bên trong tế bào, và giải phóng mRNA mới qua các lỗ trong vỏ capsid trong của hạt virus. Bộ gen dsRNA nhờ thế vẫn được bảo vệ bên trong hạch tâm của virion.Khi một hệ thống miễn dịch thích ứng của một động vật có xương sống gặp phải một virus, nó sẽ sản sinh ra các kháng thể đặc hiệu, gắn vào virus và thường làm nó không nhiễm bệnh. Đây gọi là miễn dịch dịch thể. Có hai loại kháng thể rất quan trọng, Loại đầu tiên gọi là IgM, rất hiệu quả trong việc trung hòa virus, được sản xuất bởi tế bào của hệ miền dịch chỉ trong vài tuần. Loại thứ hai, gọi là IgG, được sản xuất không giới hạn. Sự hiện diện của IgM trong máu vật chủ được sử dụng để kiểm tra sự nhiễm bệnh cấp tính, trong khi IgG biểu thị về sự nhiễm bệnh vào một lúc nào đó trong quá khứ. Kháng thể IgG cũng được đo trong các xét nghiệm miễn dịch.Kháng thể cũng tiếp tục trở thành một cơ chế phòng ngự hữu hiệu ngay cả sau khi virus đã khống chế và xâm nhập vào tế bào chủ. Một protein trong tế bào này, gọi là TRIM21, có thể gắn vào kháng thể trên bề mặt của phần tử virus. Điều này chuẩn bị cho sự phá hủy virus kế tiếp thực hiện bởi các enzym của hệ thống proteosome trong tế bào.
Rào chắn bảo vệ đầu tiên của cơ thể chống lại virus là hệ thống miễn dịch tự nhiên. Kháng thể IgG cũng được đo trong các xét nghiệm miễn dịch.Kháng thể cũng tiếp tục trở thành một cơ chế phòng ngự hữu hiệu ngay cả sau khi virus đã khống chế và xâm nhập vào tế bào chủ.
Virus
Sự bảo vệ thứ hai của động vật có xương sống chống lại virus là miễn dịch qua trung gian tế bào, liên quan đến các tế bào miễn dịch được biết đến với tên tế bào T. Tế bào của cơ thể liên tục hiển thị các đoạn protein ngắn trên bề mặt tế bào, và nếu tế bào T nhận ra được một phân đoạn được nghi ngờ là của virus ở đây, tế bào chủ sẽ bị các tế bào giết tự nhiên T tiêu diệt, và những tế bào T đặc hiệu với virus sẽ sinh sôi nhanh chóng. Những tế bào như đại thực bào là những chuyên gia trong quá trình trình diện kháng nguyên. Sự sản xuất ra các interferon cũng là một cơ chế bảo vệ quan trọng. Đây là một hormone do cơ thể sinh ra khi virus xuất hiện. Vai trò của nó trong sự miễn dịch rất phức tạp; nó cuối cùng sẽ làm dừng lại sự sinh sản của virus bằng cách giết chết tế bào bị nhiễm và các tế bào xung quanh nó.Không phải tất cả sự xâm nhiễm virus đều tạo ra một phản ứng miễn dịch bảo vệ theo cách trên. HIV trốn tránh khỏi hệ thống miễn dịch bằng cách liên tục thay đổi trình tự amino acid của protein trên bề mặt virion. Loại virus dai dẳng này trốn tránh sự kiểm soát miễn dịch bằng cách cô lập, phong tỏa trình diện kháng nguyên, đề kháng lại cytokine, tránh khỏi hoạt động của tế bào giết tự nhiên và chết rụng tế bào, cùng sự trôi dạt kháng nguyên. Một số loại virus khác, được gọi là virus hướng thần kinh, có thể lây lan đến các tế bào thần kinh nơi hệ thống miễn dịch không thể nào tiếp cận chúng.
Sự bảo vệ thứ hai của động vật có xương sống chống lại virus là miễn dịch qua trung gian tế bào, liên quan đến các tế bào miễn dịch được biết đến với tên tế bào T. Tế bào của cơ thể liên tục hiển thị các đoạn protein ngắn trên bề mặt tế bào, và nếu tế bào T nhận ra được một phân đoạn được nghi ngờ là của virus ở đây, tế bào chủ sẽ bị các tế bào giết tự nhiên T tiêu diệt, và những tế bào T đặc hiệu với virus sẽ sinh sôi nhanh chóng. Những tế bào như đại thực bào là những chuyên gia trong quá trình trình diện kháng nguyên.
Virus
Tiêm chủng là một biện pháp có phi tổn thấp và hữu hiệu để ngăn chặn sự xâm nhiễm của virus. Các vắc-xin đã được sử dụng để ngăn chặn để ngăn ngừa virus lây nhiễm trong một thời gian dài trước khi tìm thấy những loại virus thực sự. Việc sử dụng vắc-xin đã dẫn tới sự suy giảm đáng kể trong tỷ lệ mắc bệnh (bị ốm) và tỉ lệ tử vong (bị chết) bởi các bệnh liên quan tới virus như bại liệt, sởi, quai bị và rubella. Đặc biệt bệnh đậu mùa đã hoàn toàn bị loại trừ nhờ những chiến dịch tiêm chủng quy mô lớn. Vắc-xin có khả năng ngăn chặn hơn 13 bệnh lây nhiễm do virus khác ở người, và nhiều bệnh hơn ở động vật. Vắc-xin có thể bao gồm những virus còn sống đã làm giảm độc lực hoặc virus đã chết, hay những protein của virus (kháng nguyên). Vắc-xin sống có chứa các dạng đã bị làm suy yếu của virus, những dạng này không gây ra bệnh nhưng lại có thể tạo ra sự miễn dịch. Vắc-xin sống có thể gây nguy hiểm nếu được đưa vào cơ thể người mà có hệ miễn dịch yếu (người bị suy giảm miễn dịch), bởi ở những người này, virus suy yếu vẫn có thể gây ra bệnh như ban đầu. Công nghệ sinh học và các kĩ thuật di truyền đã được sử dụng để sản xuất ra vắc-xin tiểu đơn vị. Loại vắc-xin này chỉ sử dụng duy nhất protein ở vỏ capsid của virus. Vắc-xin virus viêm gan B là ví dụ cho loại vắc-xin này. Vắc-xin tiểu đơn vị thì an toàn với những bệnh nhân bị suy giảm miễn dịch do chúng không thể nào gây ra căn bệnh.
Tiêm chủng là một biện pháp có phi tổn thấp và hữu hiệu để ngăn chặn sự xâm nhiễm của virus. Vắc-xin tiểu đơn vị thì an toàn với những bệnh nhân bị suy giảm miễn dịch do chúng không thể nào gây ra căn bệnh.
Virus
Những loại thuốc kháng virus thường là những chất tương tự nucleoside - thành phần xây dựng nên DNA - khiến virus nhầm lẫn và tích hợp chúng vào trong bộ gen của virus lúc đang ở trong quá trình sinh sản. Vòng đời của virus sau đó sẽ bị dừng lại do DNA mới tổng hợp rơi vào trạng thái bất hoạt. Điều này là bởi những chất tương tự này thiếu đi nhóm hydroxyl (-OH), nhóm mà cùng với các nguyên tử phosphor, liên kết với nhau để tạo nên một bộ "xương sống" mạnh mẽ cho phân tử DNA. Việc làm này gọi là sự ngắt mạch DNA. Những ví dụ cho chất tương tự nucleoside là aciclovir, thuốc kháng lây nhiễm virus Herpes đơn dạng, và lamivudine, thuốc kháng lây nhiễm HIV và HBV. Aciclovir chính là một trong những loại thuốc kháng virus lâu đời nhất và thường được kê đơn nhất.
Những loại thuốc kháng virus thường là những chất tương tự nucleoside - thành phần xây dựng nên DNA - khiến virus nhầm lẫn và tích hợp chúng vào trong bộ gen của virus lúc đang ở trong quá trình sinh sản. Vòng đời của virus sau đó sẽ bị dừng lại do DNA mới tổng hợp rơi vào trạng thái bất hoạt.
Virus
Bệnh viêm gan C là một bệnh gây ra bởi một virus RNA. Ở 80% người bị nhiễm, căn bệnh này là mãn tính, và nếu không được điều trị thì người nhiễm sẽ mắc bệnh trong suốt phần đời còn lại của họ. Tuy nhiên, có một cách điều trị hiệu quả đó là sử dụng thuốc tương tự ucleoside ribavirin kết hợp với interferon. Việc điều trị những người mang virus viêm gan B mãn tính bằng cách sử dụng chiến thuật tương tự với thuốc lamivudine cũng đã được phát triển.
Bệnh viêm gan C là một bệnh gây ra bởi một virus RNA. Ở 80% người bị nhiễm, căn bệnh này là mãn tính, và nếu không được điều trị thì người nhiễm sẽ mắc bệnh trong suốt phần đời còn lại của họ.
Virus
Virus lây nhiễm lên tất cả các dạng sống tế bào và, dù virus xuất hiện rất phổ biến, thì mỗi loài sinh vật có tế bào đều có một phạm vi cụ thể những virus mà thường chỉ xâm nhiễm duy nhất lên loài đó. Một số virus, gọi là những vệ tinh, chỉ có nhân lên ở trong những tế bào mà đã từng bị xâm nhiễm bởi một virus khác. Virus là những tác nhân gây bệnh quan trọng ở gia súc. Những bệnh như lở mồm long móng và lưỡi xanh là những ví dụ về bệnh gia súc gây ra do virus. Các loài vật cưng như chó, mèo hay ngựa, nếu không được tiêm phòng, cũng dễ nhạy cảm với những bệnh virus nghiêm trọng. Bệnh virus parvo ở chó gây ra do một loại virus DNA nhỏ và sự nhiễm bệnh thường dẫn đến tử vong ở chó con. Các loài không xương sống, ví dụ như ong mật, cũng dễ bị lây nhiễm nhiều bệnh do virus. Tuy nhiên, hầu hết virus đều chung sống một cách vô hại với vật chủ và không gây ra bất kỳ dấu hiệu hay triệu chứng bệnh nào.
Virus lây nhiễm lên tất cả các dạng sống tế bào và, dù virus xuất hiện rất phổ biến, thì mỗi loài sinh vật có tế bào đều có một phạm vi cụ thể những virus mà thường chỉ xâm nhiễm duy nhất lên loài đó. Các loài vật cưng như chó, mèo hay ngựa, nếu không được tiêm phòng, cũng dễ nhạy cảm với những bệnh virus nghiêm trọng.
Virus
Có rất nhiều loại virus thực vật, nhưng chúng thường chỉ gây ra tổn thất về sản lượng, và sẽ không khả thi về mặt kinh tế khi cố gắng kiểm soát chúng. Virus thực vật thường lây lan từ cây này sang cây khác qua những sinh vật trung gian, gọi là các vector. Chúng thường là côn trùng, nhưng một số loài nấm, giun tròn và sinh vật đơn bào cũng được chứng minh là những vector. Khi sự kiểm soát các bệnh virus thực vật được công nhận là kinh tế, ví dụ ở các cây ăn quả lâu năm, người ta thường tập trung các nỗ lực vào việc giết chết các vector và loại bỏ những vật chủ thay thế như cỏ dại. Virus thực vật không thể lây nhiễm lên con người và các loài động vật khác.Thực vật có những cơ chế bảo vệ hiệu quả và phức tạp chống lại virus. Một trong những cơ chế hiệu quả nhất là sự có mặt của những gen gọi là gen đề kháng (R). Mỗi gen R giúp đề kháng một loại virus cụ thể bằng cách kích hoạt cái chết của những khu vực cục bộ các tế bào xung quanh tế bào bị nhiễm, những vùng này có thể nhìn thấy bằng mắt thường dưới dạng những đốm lớn. Điều này sẽ ngăn ngừa căn bệnh lây lan. Can thiệp RNA cũng là một cách phòng ngự hiệu quả ở thực vật. Khi chúng bị nhiễm bệnh, thực vật thường tạo ra những chất khử trùng tự nhiên để tiêu diệt virus, chẳng hạn như acid salicylic, nitơ monoxit và các phân tử oxy phản ứng.Những phần tử virus hoặc giống virus (virus-like particle, VLP) ở thực vật có những ứng dụng trong cả công nghệ sinh học và công nghệ nano. Vỏ capsid của phần lớn virus thực vật là những cấu trúc đơn giản và mạnh mẽ, có thể được sản xuất với số lượng lớn bởi bệnh lây nhiễm ở thực vật hay bởi biểu hiện của một loạt các hệ thống dị thể. Các phần tử virus thực vật có thể được chỉnh sửa về cả di truyền và hóa học để 'đóng gói' các vật liệu ngoại lai, và có thể tích hợp vào trong các cấu trúc siêu phân tử để sử dụng trong công nghệ sinh học.
Có rất nhiều loại virus thực vật, nhưng chúng thường chỉ gây ra tổn thất về sản lượng, và sẽ không khả thi về mặt kinh tế khi cố gắng kiểm soát chúng. Mỗi gen R giúp đề kháng một loại virus cụ thể bằng cách kích hoạt cái chết của những khu vực cục bộ các tế bào xung quanh tế bào bị nhiễm, những vùng này có thể nhìn thấy bằng mắt thường dưới dạng những đốm lớn.
Virus
Bacteriophage là một nhóm virus phổ biến và đa dạng, và là dạng thực thể sinh học nhiều nhất trong môi trường nước – chúng có số lượng nhiều gấp tới 10 lần số vi khuẩn ở các đại dương, đạt mật độ khoảng 250.000.000 bacteriophage mỗi mililít nước biển. Những virus này xâm nhiễm đặc hiệu vào các vi khuẩn bằng cách liên kết với những thụ thể trên bề mặt và sau đó đi vào trong tế bào. Trong một khoảng thời gian ngắn, đôi khi chỉ vài phút, polymerase của vi khuẩn sẽ bắt đầu dịch mã mRNA của virus thành protein. Những protein này sẽ tiếp tục trở thành những virion mới bên trong tế bào, hoặc các protein hỗ trợ, giúp đỡ lắp ráp virion mới, hay những protein tham gia vào tiêu bào. Những enzym virus xúc tác cho sự phá vỡ màng tế bào, và trong trường hợp của phage T4, thì chỉ hơn 20 phút sau khi bơm vào có tới hơn 300 phage có thể được giải phóng.Cách thức chính mà vi khuẩn bảo vệ bản thân chúng khỏi bacteriophage là sản sinh ra những enzym mà phá hủy DNA ngoại lai. Những enzym này gọi là endonuclease giới hạn, cắt đi DNA mà bacteriophage tiêm vào trong tế bào vi khuẩn. Vi khuẩn cũng chứa một hệ thống có sử dụng các trình tự CRISPR để giữ lại các mảnh của bộ gen virus mà vi khuẩn đã từng tiếp xúc trong quá khứ, điều cho phép chúng ngăn chặn sự sao chép của virus thông qua một dạng can thiệp RNA. Hệ thống di truyền này sẽ cung cấp cho vi khuẩn sự miễn dịch thu được với sự xâm nhiễm của virus.
Bacteriophage là một nhóm virus phổ biến và đa dạng, và là dạng thực thể sinh học nhiều nhất trong môi trường nước – chúng có số lượng nhiều gấp tới 10 lần số vi khuẩn ở các đại dương, đạt mật độ khoảng 250.000.000 bacteriophage mỗi mililít nước biển. Trong một khoảng thời gian ngắn, đôi khi chỉ vài phút, polymerase của vi khuẩn sẽ bắt đầu dịch mã mRNA của virus thành protein.
Virus
Một muỗng cà phê nước biển có chứa khoảng một triệu hạt virus. Chúng rất cần thiết cho sự điều hòa hệ sinh thái nước mặn và nước ngọt. Hầu hết những virus này đều là bacteriophage, những loại vô hại đối với thực vật và động vật. Chúng lây nhiễm và tiêu diệt vi khuẩn trong các cộng đồng vi sinh dưới nước, làm nên cơ chế quan trọng nhất trong sự tái chế carbon ở môi trường đại dương. Những phân tử hữu cơ được giải phóng ra khỏi tế bào vi khuẩn sẽ kích thích sự phát triển mới của vi khuẩn và tảo.Những vi sinh vật chiếm hơn 90% tổng sinh khối ở biển. Ước tính rằng virus đã giết và giải phóng xấp xỉ 20% của lượng sinh khối đấy mỗi ngày và chúng có số lượng nhiều gấp 15 lần số lượng của vi khuẩn và cổ khuẩn ở đại dương. Virus là tác nhân chính gây nên sự tàn phá nhanh chóng của các đợt tảo nở hoa, hiện tượng mà thường giết hại những sinh vật biển khác. Số lượng virus trong đại dương giảm khi đi ra ngoài khơi và sâu vào trong nước, nơi có ít vật chủ hơn.Những ảnh hưởng của virus đại dương rất sâu rộng; bằng cách gia tăng lượng quang hợp ở biển, virus là nguyên nhân gián tiếp làm giảm lượng khí carbon dioxide trong khí quyển vào khoảng xấp xỉ 3 tỉ tấn cacbon mỗi năm.Giống như bất cứ sinh vật nào, động vật có vú ở biển cũng nhạy cảm với các bệnh do virus. Vào năm 1988 và 2001, hàng ngàn con hải cẩu đã bị giết hại ở châu Âu do virus sài sốt hải cẩu (PDV). Nhiều loại virus khác, như calicivirus, herpesvirus, adenovirus và parvovirus, cũng lưu hành trong cách quần thể động vật có vú đại dương.
Một muỗng cà phê nước biển có chứa khoảng một triệu hạt virus. Chúng rất cần thiết cho sự điều hòa hệ sinh thái nước mặn và nước ngọt.
Virus
Di truyền học thường sử dụng virus như những vector để đưa các gen vào tế bào mà họ đang nghiên cứu. Điều này rất có ích để tạo nên tế bào mà sản xuất ra một chất ngoại lai, hoặc nghiên cứu ảnh hưởng của việc đưa gen mới vào trong bộ gen. Theo cách tương tự, liệu pháp virus (virotherapy) sử dụng những virus như những vector để điều trị các bệnh khác nhau, do chúng có thể nhắm đến các tế bào và DNA một cách đặc hiệu. Điều này cho thấy ứng dụng rất triển vọng của virus trong việc điều trị bệnh ung thư và trong liệu pháp gen. Các nhà khoa học Đông Âu cũng đã sử dụng liệu pháp phage như là một sự thay thế cho thuốc kháng sinh trong một thời gian, và mối quan tâm đến cách tiếp cận này đang gia tăng, bởi vì sự đề kháng kháng sinh ở mức độ cao hiện nay đã được tìm thấy ở một số vi khuẩn gây bệnh. Sự biểu hiện các protein dị thể bởi virus là cơ sở cho một vài quy trình sản xuất hiện đang được dùng để sản xuất nên nhiều protein như kháng nguyên của vắc-xin và kháng thể. Người ta gần đây cũng đã phát triển những quy trình công nghiệp sử dụng vector virus; và một số các protein dược phẩm hiện nay đang trong quá trình thử nghiệm tiền lâm sàng và lâm sàng.
Di truyền học thường sử dụng virus như những vector để đưa các gen vào tế bào mà họ đang nghiên cứu. Sự biểu hiện các protein dị thể bởi virus là cơ sở cho một vài quy trình sản xuất hiện đang được dùng để sản xuất nên nhiều protein như kháng nguyên của vắc-xin và kháng thể.
Virus
Những xu hướng hiện nay trong công nghệ nano hứa hẹn sẽ đem lại việc ứng dụng virus một cách linh hoạt hơn. Theo quan điểm của các nhà khoa học vật liệu, virus có thể được xem như những hạt nano hữu cơ. Bề mặt của chúng chứa những công cụ đặc biệt được thiết kế để vượt qua các rào chắn của tế bào vật chủ. Kích cỡ và hình dạng của virus, cũng như số lượng và bản chất của các nhóm chức năng trên bề mặt chúng, đã được xác định một cách chính xác. Như vậy, virus có thể được sử dụng phổ biến trong khoa học vật liệu như giá đỡ cho những sửa đổi bề mặt được liên kết cộng hóa trị. Một phẩm chất đặc biệt của virus là chúng có thể được điều chỉnh nhờ tiến hóa có định hướng. Các kĩ thuật mạnh mẽ được phát triển trong các ngành khoa học sự sống đã đang trở thành nền tảng cho hướng tiếp cận kĩ thuật về vật liệu nano, mở ra một loạt những ứng dụng rộng rãi vượt ra khỏi sinh học và y học.Do kích thước, hình dạng, và cấu trúc hóa học dễ xác định, virus được sử dụng như những bản mẫu để tạo nên những vật liệu ở cấp độ nano. Những ví dụ gần đây bao gồm nghiên cứu tại Phòng thí nghiệm Nghiên cứu Hải quân Mỹ ở Washington, D.C., sử dụng các phần tử virus khảm đậu đũa (CPMV) để khuếch đại những tín hiệu trong cảm biến dựa trên DNA microarray. Trong ứng dụng này, các hạt virus tách riêng các thuốc nhuộm huỳnh quang sử dụng cho báo hiệu để ngăn ngừa sự hình thành các dimer (chất nhị trùng) mà đóng vai trò là những tác nhân dập tắt huỳnh quang. Một ví dụ khác là việc sử dụng CPMV như một bộ cắm dây có kích thước nano dùng trong điện tử học phân tử.
Những xu hướng hiện nay trong công nghệ nano hứa hẹn sẽ đem lại việc ứng dụng virus một cách linh hoạt hơn. Một ví dụ khác là việc sử dụng CPMV như một bộ cắm dây có kích thước nano dùng trong điện tử học phân tử.
Virus
Nhiều virus có thể được tổng hợp "từ đầu" ("de novo") và virus nhân tạo (virus tổng hợp) đầu tiên đã được tạo ra năm 2002. Mặc dù phần nào bị hiểu sai, nó thực chất không phải là một virus thực sự được tổng hợp, mà thay vào đó là bộ gen DNA của nó (nếu đó là virus DNA) hoặc một bản sao DNA bổ sung (cDNA) của bộ gen của nó (nếu đó là virus RNA). Với nhiều họ virus, DNA hay RNA nhân tạo dạng trần (khi được chuyển đổi lại bằng enzym từ phân tử cDNA) có khả năng lây nhiễm khi được đưa vào bên trong tế bào. Chúng có chứa tất cả các thông tin cần thiết để sản xuất những virus mới. Công nghệ này hiện nay được sử dụng để nghiên cứu những chiến lược vắc-xin mới. Khả năng tổng hợp nên những virus đã có những hệ quả sâu rộng,bởi virus nhờ vậy không bao giờ có thể coi là tuyệt chủng nếu trình tự bộ gen của chúng còn được biết đến và các tế bào cho phép tiếp nhận vẫn có sẵn. Hiện nay, trình tự bộ gen đầy đủ của 2408 loại virus khác nhau (bao gồm cả đậu mùa) đã được công bố công khai ở một cơ sở dữ liệu trực tiếp, được duy trì bởi Viện Y tế Quốc gia Hoa Kỳ.
Nhiều virus có thể được tổng hợp "từ đầu" ("de novo") và virus nhân tạo (virus tổng hợp) đầu tiên đã được tạo ra năm 2002. Công nghệ này hiện nay được sử dụng để nghiên cứu những chiến lược vắc-xin mới.
Virus
Khả năng tạo nên những dịch bệnh trong xã hội loài người của virus đã đưa tới những lo ngại rằng virus có thể được vũ khí hóa cho chiến tranh sinh học. Mối lo lắng này được nâng lên bởi sự tái tạo thành công loại virus cúm Tây Ban Nha năm 1918 nổi tiếng ở một phòng thí nghiệm. Virus đậu mùa cũng đã tàn phá nhiều xã hội trong suốt lịch sử loài người trước khi nó bị tiêu diệt hoàn toàn. Chỉ có duy nhất hai trung tâm chính thức lưu trữ virus bệnh đậu mùa – Phòng thí nghiệm Vector của Nga và Trung tâm Kiểm soát Bệnh của Hoa Kỳ. Tuy nhiên, nỗi sợ rằng nó có thể được sử dụng làm vũ khí không hẳn là không có cơ sở; vắc-xin đậu mùa đôi lúc có những tác dụng phụ nghiêm trọng – trong những năm sau cùng trước khi bệnh đậu mùa bị tiêu diệt, nhiều người đã bị bệnh nghiêm trọng do hậu quả của tiêm chủng còn nhiều hơn số người bị nhiễm trực tiếp. Việc tiêm phòng đậu mùa cũng đã không còn được áp dụng rộng rãi, và như vậy, phần lớn dân số loài người hiện đại đều gần như không có sự đề kháng nào được thiết lập chống lại bệnh đậu mùa.
Khả năng tạo nên những dịch bệnh trong xã hội loài người của virus đã đưa tới những lo ngại rằng virus có thể được vũ khí hóa cho chiến tranh sinh học. Virus đậu mùa cũng đã tàn phá nhiều xã hội trong suốt lịch sử loài người trước khi nó bị tiêu diệt hoàn toàn.
Cây trứng cá
Cây trứng cá hay còn gọi là mật sâm (danh pháp hai phần: Muntingia calabura), loài duy nhất trong chi Muntingia, là một loài thực vật có hoa có nguồn gốc ở miền nam México, Caribe, Trung Mỹ và miền tây Nam Mỹ về phía nam của Peru và Bolivia. Chi này đã từng được các hệ thống phân loại khác nhau xếp trong các họ khác nhau, như họ Đoạn (Tiliaceae) hay họ Côm (Elaeocarpaceae), nhưng trong phân loại của APG và sau này là APG II thì người ta đã tách nó ra thành một họ riêng trong bộ Cẩm quỳ (Malvales) với danh pháp Muntingiaceae cùng các chi Dicraspidia, Neotessmannia với mỗi chi này chỉ có 1 loài.Nó là một loại cây thân gỗ nhỏ, cao khoảng 7–12 m với các cành xếp chồng lên nhau và hơi rủ xuống. Nó có các lá có mép khía răng cưa, dài 2,5–15 cm và rộng 1-6,5 cm. Các hoa nhỏ màu trắng, tạo quả khi chín có màu đỏ nhạt đường kính khoảng 1-1,5 cm. Quả ăn được, có vị ngọt và mọng nước, chứa nhiều hạt nhỏ (0,5 mm) màu vàng trông như trứng cá. Nó thuộc loại rễ chùm.
Cây trứng cá hay còn gọi là mật sâm (danh pháp hai phần: Muntingia calabura), loài duy nhất trong chi Muntingia, là một loài thực vật có hoa có nguồn gốc ở miền nam México, Caribe, Trung Mỹ và miền tây Nam Mỹ về phía nam của Peru và Bolivia. Quả ăn được, có vị ngọt và mọng nước, chứa nhiều hạt nhỏ (0,5 mm) màu vàng trông như trứng cá.
Cây trứng cá
Nó là một loài cây tiên phong có thể phát triển tốt trên đất nghèo dinh dưỡng, có khả năng chịu được các điều kiện chua mặn và khô hạn. Hạt của nó được các loài chim và dơi ăn quả phát tán. Nó được trồng ở một vài nơi để lấy quả ăn, và đã hợp thủy thổ ở một số khu vực khác thuộc vùng nhiệt đới ngoài khu vực nguồn gốc bản địa, bao gồm cả ở Đông Nam Á. Là loài cây tiên phong, nó cũng giúp cho việc cải thiện các điều kiện của đất và góp phần làm cho các loài cây khác có thể sinh sống được ở các vùng đất này. Tuy nhiên, nó cũng có thể bị coi là loài xâm hại nguy hiểm do nó có thể cạnh tranh với các loài cây bản địa.
Nó là một loài cây tiên phong có thể phát triển tốt trên đất nghèo dinh dưỡng, có khả năng chịu được các điều kiện chua mặn và khô hạn. Tuy nhiên, nó cũng có thể bị coi là loài xâm hại nguy hiểm do nó có thể cạnh tranh với các loài cây bản địa.
Cây trứng cá
Tại México, quả của nó được thu hoạch để ăn và bán ngoài chợ. Quả có thể chế biến thành mứt và lá có thể sử dụng như một loại chè. Tại Brasil, người ta trồng nhiều cây này ven bờ sông. Quả rụng từ cây thu hút các loài cá để sau đó người ta đánh bắt chúng. Tại Philippines trẻ em cũng hay ăn quả trứng cá, mặc dù không thấy bán ngoài chợ.
Tại México, quả của nó được thu hoạch để ăn và bán ngoài chợ. Quả có thể chế biến thành mứt và lá có thể sử dụng như một loại chè.
Cây trứng cá
Gỗ từ cây trứng cá có màu nâu đỏ. Nó khá rắn chắc, bền và nhẹ, có thể dùng làm đồ mộc. Nó cũng được dùng làm củi đun. Vỏ có thể dùng làm dây thừng. Do khả năng sinh sống được ở các vùng đất nghèo dinh dưỡng và khô hạn cũng như khả năng phát tán cao nên nó cũng có thể dùng làm loại cây trồng trong các dự án tái trồng rừng.
Gỗ từ cây trứng cá có màu nâu đỏ. Do khả năng sinh sống được ở các vùng đất nghèo dinh dưỡng và khô hạn cũng như khả năng phát tán cao nên nó cũng có thể dùng làm loại cây trồng trong các dự án tái trồng rừng.
Những người bạn
Những người bạn (tựa gốc tiếng Anh: Friends) là một loạt phim truyền hình hài kịch tình huống Mỹ do David Crane và Marta Kauffman sáng lập, công chiếu lần đầu tiên trên kênh National Broadcasting Company (NBC) vào ngày 22 tháng 9 năm 1994. Loạt phim chủ yếu xoay quanh đời sống xã hội và tình cảm của một nhóm bạn gồm 6 người tầm lứa tuổi 20 sinh sống và làm việc tại Manhattan, thành phố New York. Loạt phim sản xuất bởi Bright/Kauffman/Crane Productions, hợp tác cùng Warner Bros. Television. Những giám đốc sản xuất đầu tiên của loạt phim bao gồm Kevin S. Bright, Marta Kauffman và David Crane.
Những người bạn (tựa gốc tiếng Anh: Friends) là một loạt phim truyền hình hài kịch tình huống Mỹ do David Crane và Marta Kauffman sáng lập, công chiếu lần đầu tiên trên kênh National Broadcasting Company (NBC) vào ngày 22 tháng 9 năm 1994. Những giám đốc sản xuất đầu tiên của loạt phim bao gồm Kevin S. Bright, Marta Kauffman và David Crane.
Những người bạn
Kauffman và Crane bắt đầu thực hiện series phim "Những người bạn" dưới cái tên Insomnia Cafe vào tầm giữa tháng 11 và tháng 12 năm 1993. Họ giới thiệu ý tưởng này đến Bright, người từng hợp tác cùng họ trước đây và cùng lên kế hoạch viết 7 trang giới thiệu chương trình để gửi đến đài NBC. Sau vài lần thay đổi và viết lại kịch bản, bao gồm việc loạt phim sẽ được đặt tựa đề là "Six Of One" và "Friend Like Us", loạt phim cuối cùng thống nhất với tên "Những người bạn" và trình chiếu ở khung giờ 8:30 tối thứ Năm trên đài NBC. Phần ghi hình của loạt phim diễn ra tại Warner Bros. Studios ở Burbank, California trực tiếp trước các khán giả. Sau 10 mùa phim, tập phim cuối cùng được NBC tăng cường quảng bá và trình chiếu vào ngày 6 tháng 5 năm 2004, với tỉ suất người xem trung bình 52.5 triệu khán giả Mỹ theo dõi đã trở thành tập phim được xem nhiều nhất trong thập niên 2000 và là một trong những tập kết mùa thu hút nhiều người xem nhất lịch sử truyền hình.
Kauffman và Crane bắt đầu thực hiện series phim "Những người bạn" dưới cái tên Insomnia Cafe vào tầm giữa tháng 11 và tháng 12 năm 1993. Sau vài lần thay đổi và viết lại kịch bản, bao gồm việc loạt phim sẽ được đặt tựa đề là "Six Of One" và "Friend Like Us", loạt phim cuối cùng thống nhất với tên "Những người bạn" và trình chiếu ở khung giờ 8:30 tối thứ Năm trên đài NBC.
Những người bạn
"Những người bạn" nhận nhiều phản hồi tích cực trong suốt thời gian lên sóng và trở thành một trong những loạt phim hài kịch tình huống ăn khách nhất mọi thời đại. Loạt phim giành nhiều giải thưởng và vinh danh, trong đó có 62 đề cử cho giải Primetime Emmy; đồng thời đạt thành công về tỉ lệ khán giả khi giữ vững xếp hạng trong top 10 tỉ lệ người xem trong khung giờ vàng cuối cùng. Trong khi tạo được những ảnh hưởng văn hóa đáng kể, "Những người bạn" tiếp tục được trình chiếu trên toàn cầu với mỗi mùa phim phát hành qua định dạng DVD. Tiếp nối tập phim cuối cùng, một loạt phim ngoại truyện Joey cũng được thực hiện. Dàn diễn viên chính trong sitcom này đã quay lại buổi tái ngộ đặc biệt được công chiếu trên HBO Max vào 27 tháng 5, 2021.
"Những người bạn" nhận nhiều phản hồi tích cực trong suốt thời gian lên sóng và trở thành một trong những loạt phim hài kịch tình huống ăn khách nhất mọi thời đại. Trong khi tạo được những ảnh hưởng văn hóa đáng kể, "Những người bạn" tiếp tục được trình chiếu trên toàn cầu với mỗi mùa phim phát hành qua định dạng DVD.
Những người bạn
Rachel Green bỏ trốn khỏi đám cưới của mình và tìm đến người bạn thời thơ ấu Monica Geller, một đầu bếp sinh sống tại thành phố New York. Họ trở thành bạn cùng phòng và Rachel gia nhập nhóm bạn độc thân của Monica, bao gồm: Joey Tribbiani — một diễn viên nghiệp dư gặp khó khăn trong công việc của mình, Chandler Bing — một nhân viên thuộc lĩnh vực kinh doanh, Phoebe Buffay — nhân viên xoa bóp kiêm nhạc công và anh trai của Monica, Ross Geller, một nhà sinh vật học vừa ly dị. Để kiếm sống, Rachel trở thành hầu bàn tại Central Perk, một quán cà phê ở Manhattan nơi cả nhóm thường xuyên ghé thăm. Khi họ không ở quán, bộ sáu thường đến căn hộ của Monica và Rachel gần West Village hay tập trung tại căn hộ Joey và Chandler ngay đối diện hành lang.
Rachel Green bỏ trốn khỏi đám cưới của mình và tìm đến người bạn thời thơ ấu Monica Geller, một đầu bếp sinh sống tại thành phố New York. Khi họ không ở quán, bộ sáu thường đến căn hộ của Monica và Rachel gần West Village hay tập trung tại căn hộ Joey và Chandler ngay đối diện hành lang.
Những người bạn
Các tập phim chủ yếu xoay quanh những mối quan hệ tình cảm và vấn đề nghề nghiệp vui nhộn của những người bạn trong nhóm, như Joey liên tiếp đi thử vai hay Rachel thường xuyên đi tìm việc làm trong ngành thời trang. Cả sáu nhân vật đều trải qua nhiều cuộc tình và những mối quan hệ nghiêm túc, như Monica và Richard Burke hay Ross với Emily Waltham. Mối quan hệ phức tạp giữa Ross và Rachel luôn trở thành điểm nhấn trong suốt 10 mùa phim, họ liên tục hẹn hò rồi chia tay, Ross sau đó cưới Emily rồi ly hôn một thời gian ngắn sau đó, cuối cùng, anh và Rachel cùng nhau sinh con. Trong khoảng thời gian này, Chandler và Monica cũng hẹn hò và cưới nhau, Phoebe kết hôn với Mike Hannigan. Những nhân vật phụ thường xuyên xuất hiện trong phim bao gồm ba mẹ của Ross và Monica ở Long Island; vợ cũ của Ross cùng con trai của anh; bạn gái cũ của Chandler, Janice; em gái sinh đôi của Phoebe, Ursula; và thợ pha cà phê ở Central Perk, Gunther.
Các tập phim chủ yếu xoay quanh những mối quan hệ tình cảm và vấn đề nghề nghiệp vui nhộn của những người bạn trong nhóm, như Joey liên tiếp đi thử vai hay Rachel thường xuyên đi tìm việc làm trong ngành thời trang. Cả sáu nhân vật đều trải qua nhiều cuộc tình và những mối quan hệ nghiêm túc, như Monica và Richard Burke hay Ross với Emily Waltham.
Những người bạn
Jennifer Aniston trong vai Rachel Green, người đam mê thời trang và là bạn thân thuở ấu thơ của Monica Geller. Rachel chuyển đến ở cùng Monica sau khi suýt cưới người mà cô không yêu, Barry Farber. Rachel và Ross Geller sau đó có mối tình chìm nổi cùng nhau suốt loạt phim. Rachel hẹn hò nhiều người đàn ông khác trong loạt phim, bao gồm gã hàng xóm người Ý, Paolo trong mùa 1; khách hàng Joshua Bergin trong mùa 4; trợ lý Tag trong mùa 7; và Joey Tribbiani trong mùa 10. Công việc đầu tiên của Rachel là bồi bàn ở quán cà phê Central Perk nhưng sau đó trở thành trợ lý mua hàng tại Bloomingdale's trong mùa 3 và là nhà tư vấn mua hàng tại Ralph Lauren trong mùa 5. Rachel và Ross có một đứa con gái tên là Emma trong tập "The One Where Rachel Has a Baby, Part Two". Trong tập cuối của loạt phim, Ross và Rachel thổ lộ tình cảm cùng nhau, khi Rachel từ bỏ công việc ở Paris để trở về bên Ross. Aniston từng xuất hiện trong một số loạt phim hài kịch tình huống không thành công trước khi đến với vai diễn Rachel trong "Những người bạn".Courteney Cox trong vai Monica Geller, được xem là "người mẹ" của nhóm và là một đầu bếp, cô được biết đến bởi tính cầu toàn, hách dịch, cạnh tranh và bị ám ảnh cưỡng chế. Monica thường xuyên bị bạn bè châm chọc vì thân hình quá khổ lúc còn nhỏ, đặc biệt là bởi anh trai Ross. Monica làm việc như một đầu bếp trong nhiều nhà hàng xuyên suốt loạt phim. Mối quan hệ nghiêm túc đầu tiên của Monica là với người bạn lâu năm của gia đình Richard Burke, người hơn cô 21 tuổi. Cả hai giữ vững mối quan hệ cho đến khi Richard thổ lộ mình không có nguyện vọng có con như hy vọng của Monica. Monica và Chandler Bing bắt đầu hẹn hò sau khi cùng nhau qua đêm tại Luân Đôn trong tập cuối mùa 4, với đám cưới diễn ra ở mùa 7 và nhận nuôi một cặp song sinh vào cuối chương trình. Cox được biết đến từ Ace Ventura: Pet Detective (1994) hay Family Ties (1982–89) trước khi tham gia Những người bạn.Lisa Kudrow trong vai Phoebe Buffay, một nhân viên massage kiêm nhạc công tự học. Phoebe sống ở vùng ven New York cùng mẹ cho đến khi bà tự tử và Phoebe phải sống lang thang. Phoebe tuy ngớ ngẩn nhưng rất thạo đời, thường mang theo chiếc đàn guitar bên mình, đồng thời sáng tác và hát những bài hát kỳ quặc. Cô có một người em sinh đôi "xấu xa" tên là Ursula, người cũng có tính cách ngớ ngẩn như Phoebe nhưng lại có vẻ ích kỷ và vô tâm. Phoebe có ba mối quan hệ nghiêm túc: tay cảnh sát Gary trong mùa 5, David trong mùa 1 cho đến khi anh chuyển đến Minsk cho một chương trình nghiên cứu và cùng Mike Hannigan trong một mối quan hệ chìm nổi trong mùa 9 và 10. Tuy David và Phoebe có tái hợp khi anh quay về, cô sau cùng từ chối anh ta và đính hôn với Mike trong mùa 9, với đám cưới diễn ra trong mùa 10. Vai diễn này lấy cảm hứng từ nhân vật bồi bàn Ursula Buffay cũng do Kudrow thủ vai trong loạt phim Mad About You của NBC.Matt LeBlanc trong vai Joey Tribbiani, một người yêu thức ăn và là một diễn viên sống chật vật, nổi tiếng với vai diễn bác sĩ Drake Ramoray trong loạt phim truyền hình dài tập Days of Our Lives. Mặc dù bị cho là một tay lăng nhăng với nhiều mối quan hệ ngắn hạn, Joey lại là người hồn nhiên, ngây thơ, chu đáo và có thiện chí. Joey thường dùng câu chào cửa miệng "How you doin'?" để chinh phục phụ nữ, trong đó có cô em gái Jill của Rachel. Joey ở cùng người bạn thân Chandler trong nhiều năm và vài tháng sau đó cùng với Rachel. Anh phải lòng Rachel trong mùa 8, nhưng Rachel tế nhị từ chối. Sau cùng cả hai hẹn hò với nhau một cách ngắn ngủi trong mùa 10 và sau đó quyết định làm bạn. Trước khi gia nhập Những người bạn, LeBlanc từng tham gia một vai nhỏ trong Married... with Children và là nhân vật chính trong các phần hậu truyện Top of the Heap và Vinnie & Bobby.Matthew Perry trong vai Chandler Bing, một nhân viên trong ngành khoa học thống kê và cấu trúc tái dữ liệu trong một hãng công ty đa quốc gia. Chandler sau đó bỏ việc và trở thành một copywriter nghiệp dư tại một công ty quảng cáo trong mùa 9. Chandler có một quá khứ gia đình dị biệt, khi là con trai của một nữ tiểu thuyết gia ngôn tình và một người đồng tính nam kiêm ngôi sao hóa trang thành nữ tại Las Vegas. Chandler biết đến bởi nét hài hước mỉa mai và vận rủi trong các mối quan hệ. Chandler hẹn hò cùng Janice Hosenstein trong mùa 1 và sau đó chia tay với cô nhiều lần. Anh cưới Monica trong mùa 7 và nhận nuôi một cặp song sinh vào cuối chương trình. Giống như Aniston, Perry từng tham gia một vài loạt phim truyền hình hài kịch tình huống không thành công trước khi bén duyên với Những người bạn.David Schwimmer trong vai Ross Geller, anh trai của Monica Geller, một nhà cổ sinh vật học làm việc tại Bảo tàng Lịch sử Tự nhiên Hoa Kỳ và sau đó là giáo sư tại Đại học New York. Ross là một người đàn ông dịu dàng và hóm hỉnh, mặc cho đôi lúc trở nên lúng túng và vụng về trong giao tiếp. Ross có mối quan hệ chìm nổi cùng Rachel trong suốt loạt phim. Anh từng có 3 cuộc hôn nhân đổ vỡ trong chương trình: Rachel, Emily và Carol, một người đồng tính nữ và là mẹ của Ben, con trai anh. Các cuộc hôn nhân thất bại chủ yếu vì tính hoang tưởng và ghen tuông của anh, trong khi các cuộc ly hôn trở thành một điểm hài hước trong loạt phim. Anh và Rachel có một đứa con gái tên là Emma vào cuối mùa 8 và thổ lộ tình cảm cùng nhau trong tập phim cuối cùng. Trước khi được tuyển vai trong Những người bạn, Schwimmer đã sắm một vai nhỏ trong The Wonder Years và NYPD Blue.
Jennifer Aniston trong vai Rachel Green, người đam mê thời trang và là bạn thân thuở ấu thơ của Monica Geller. Các cuộc hôn nhân thất bại chủ yếu vì tính hoang tưởng và ghen tuông của anh, trong khi các cuộc ly hôn trở thành một điểm hài hước trong loạt phim.
Những người bạn
Trong hợp đồng bàn đần của các diễn viên ở mùa đầu tiên, họ chỉ được trả 22.500 đô-la Mỹ cho mỗi tập phim. Ở mùa thứ hai, cả nhóm nhận những số lương khác nhau, dao động từ 20.000 đến 40.000 đô-la Mỹ mỗi tập. Trước khi đàm phán về cát-xê cho mùa thứ ba, các diễn viên quyết định muốn nhận số lương ngang nhau, bất chấp những thỏa thuận khác nhau cho từng diễn viên của hãng Warner Bros. Chính vì thế, những thành viên trong nhóm phải bù lương của mình cho thành viên trả lương thấp nhất, với Aniston và Schwimmer phải giảm cát-xê của mình. Các ngôi sao của loạt phim được trả 75.000 đô-la Mỹ mỗi tập ở mùa 3, 85.000 đô-la Mỹ ở mùa 4, 100.000 đô-la Mỹ ở mùa 5, 125.000 đô-la Mỹ ở mùa 6, 750.000 đô-la Mỹ ở mùa 7 và 8. Ở mùa 9 và 10, số tiền lên đến 1 triệu đô-la Mỹ, giúp Aniston, Cox và Kudrow trở thành những nữ diễn viên truyền hình được trả thù lao cao nhất mọi thời đại. Cả nhóm cũng đồng thời bắt đầu nhận tiền bản quyền phát sóng loạt phim từ mùa thứ 5. Vào thời điểm này, lợi nhuận trích từ phần sinh lời của chương trình thường chỉ được đưa đến những ngôi sao nắm quyền sở hữu của chương trình ấy, như Jerry Seinfeld hay Bill Cosby.Người sáng lập loạt phim David Crane muốn cả sáu diễn viên đều nổi tiếng như nhau và loạt phim được khen ngợi về việc trở thành "chương trình 'tập thể' đích thực đầu tiên". Những diễn viên trong nhóm đều cố gắng để giữ lấy tính tập thể của loạt phim và không cho phép bất cứ thành viên nào chiếm ưu thế; họ tham gia vào những hạng mục giống nhau của các giải thưởng, chọn tham gia những cuộc thương lượng thù lao tập thể và ngỏ ý cùng nhau thực hiện những bìa tạp chí trong mùa đầu tiên. Ngoài đời, các diễn viên đồng thời cũng là bạn thân, điều này khiến ngôi sao khách mời Tom Selleck có cảm giác bị bỏ rơi.Sau khi loạt phim kết thúc, các diễn viên vẫn tiếp tục là bạn tốt với nhau, đáng chú ý nhất là Cox và Aniston, khi Aniston làm mẹ đỡ đầu cho con gái của Cox và David Arquette, Coco. Trong cuốn sách lưu niệm tạm biệt Friends 'Til the End, mỗi diễn viên đều thừa nhận trong phần phỏng vấn của mình rằng cả nhóm đã trở thành gia đình của họ.
Trong hợp đồng bàn đần của các diễn viên ở mùa đầu tiên, họ chỉ được trả 22.500 đô-la Mỹ cho mỗi tập phim. Trước khi đàm phán về cát-xê cho mùa thứ ba, các diễn viên quyết định muốn nhận số lương ngang nhau, bất chấp những thỏa thuận khác nhau cho từng diễn viên của hãng Warner Bros. Chính vì thế, những thành viên trong nhóm phải bù lương của mình cho thành viên trả lương thấp nhất, với Aniston và Schwimmer phải giảm cát-xê của mình.
Những người bạn
Mùa phim đầu tiên giới thiệu 6 nhân vật chính: Rachel, Monica, Phoebe, Joey, Chandler và Ross. Rachel tìm đến Central Perk sau khi bỏ trốn khỏi đám cưới với hôn phu Barry và dọn đến ở cùng với Monica, người bạn thân của cô thời trung học. Ross, người thầm mến Rachel từ khi cả hai còn ở trường trung học, liên tục cố gắng thổ lộ tình cảm của mình với cô. Dù vậy, anh luôn gặp phải chướng ngại, như khi chuẩn bị có con với người vợ cũ là đồng tính nữ, Carol. Joey là một diễn viên độc thân sống chật vật, trong khi Phoebe là một nhân viên massage mang tính cách "điên rồ" dựa trên những rắc rối lúc nhỏ sau khi mẹ cô tự sát. Chandler chia tay với cô bạn gái Janice (Maggie Wheeler), người thường xuyên có mặt trong những mùa sau này. Vào cuối mùa phim, Chandler vô tình tiết lộ tình cảm của Ross với Rachel, người nhận ra mình cũng có cảm nhận tương tự. Mùa phim kết thúc khi Rachel đứng chờ Ross tại sân bay sau một chuyến đi.
Mùa phim đầu tiên giới thiệu 6 nhân vật chính: Rachel, Monica, Phoebe, Joey, Chandler và Ross. Joey là một diễn viên độc thân sống chật vật, trong khi Phoebe là một nhân viên massage mang tính cách "điên rồ" dựa trên những rắc rối lúc nhỏ sau khi mẹ cô tự sát.
Những người bạn
Mùa phim thứ hai bắt đầu khi Rachel đứng đợi Ross tại sân bay để bày tỏ tình cảm của cô dành cho anh. Dù vậy, cô biết anh đang hẹn hò Julie (Lauren Tom), người mà anh quen biết từ lúc tốt nghiệp. Ý định muốn thổ lộ tình cảm của Rachel tương tự như ở Ross trong mùa đầu tiên, mặc dù cả hai sau cùng lại bắt đầu một mối quan hệ cùng nhau. Joey được tuyển vai cho phiên bản hư cấu của loạt phim truyền hình dài tập Days of Our Lives, nhưng nhân vật của anh bị giết chết sau khi gặp mâu thuẫn với biên kịch phim. Chandler trở lại với Janice, cô bạn gái cũ từ mùa phim đầu. Monica bắt đầu hẹn họ với Richard (Tom Selleck), một người bạn đã ly hôn của gia đình cô và hơn cô 21 tuổi. Ở cuối mùa phim, họ chia tay khi nhận ra Richard không muốn có con như Monica luôn mong muốn.
Mùa phim thứ hai bắt đầu khi Rachel đứng đợi Ross tại sân bay để bày tỏ tình cảm của cô dành cho anh. Monica bắt đầu hẹn họ với Richard (Tom Selleck), một người bạn đã ly hôn của gia đình cô và hơn cô 21 tuổi.
Những người bạn
Mùa thứ 3 được kéo dài hơn bình thường. Rachel bắt đầu làm việc tại Bloomingdale's, một hệ thống cửa hàng bán đồ cao cấp và Ross trở nên ghen tuông với đồng nghiệp của cô là Mark. Khi Rachel quyết định tạm dừng mối quan hệ, Ross đau khổ và qua đêm cùng Chloe trong lúc say, khiến Rachel phải chia tay với anh. Trong lúc đó, Chandler đối mặt cuộc chia tay của họ một cách khó khăn vì chúng làm anh nhớ đến vụ ly hôn của cha mẹ mình. Sau khi tin rằng mình không có gia đình, ngoại trừ cô em gái song sinh Ursula (Lisa Kudrow), Phoebe trở nên gắn bó với cậu em cùng cha khác mẹ (Giovanni Ribisi) và mẹ ruột của mình (Teri Garr). Joey bắt đầu có mối quan hệ tình cảm cùng cộng sự Kate (Dina Meyer), trong khi Monica lại có cảm tình với tay triệu phú Pete Becker (Jon Favreau) nhưng sau cùng đổ vỡ vì những bất đồng giữa cả hai.
Mùa thứ 3 được kéo dài hơn bình thường. Rachel bắt đầu làm việc tại Bloomingdale's, một hệ thống cửa hàng bán đồ cao cấp và Ross trở nên ghen tuông với đồng nghiệp của cô là Mark.
Những người bạn
Trong tập đầu mùa 4, Ross và Rachel tái hợp sau khi Ross giả vờ đọc một bức thư dài mà Rachel gửi cho anh và sau đó cả hai lại tan vỡ một cách nhanh chóng. Joey hẹn hò cùng Kathy (Paget Brewster), một cô gái mà Chandler có cảm tình. Kathy và Chandler sau đó hôn nhau, khiến cho Chandler và Joey giận dỗi. Phoebe trở thành người mang thai hộ cho em trai và Alice (Debra Jo Rupp), người vợ của anh ta. Sau một vụ cá cược, Monica và Rachel buộc phải đổi căn hộ cho Joey và Chandler, nhưng sau đó mọi thứ trở lại như cũ khi Monica và Rachel hối lộ cho hai chàng trai vé cả mùa của đội Knicks và một nụ hôn kéo dài 1 phút giữa các cô gái. Ross bắt đầu hẹn hò một người phụ nữ Anh tên là Emily (Helen Baxendale) và mùa phim kết thúc trong đám cưới của họ tại Luân Đôn. Trong thời gian tại lễ cưới, Chandler và Monica ngủ cùng nhau, trong khi Rachel quyết định đến dự buổi lễ. Trong lúc tuyên thệ, Ross vô tình đọc nhầm tên của Rachel tại lễ đường, khiến cho quan khách và cô dâu phải hoảng hốt.
Trong tập đầu mùa 4, Ross và Rachel tái hợp sau khi Ross giả vờ đọc một bức thư dài mà Rachel gửi cho anh và sau đó cả hai lại tan vỡ một cách nhanh chóng. Trong lúc tuyên thệ, Ross vô tình đọc nhầm tên của Rachel tại lễ đường, khiến cho quan khách và cô dâu phải hoảng hốt.
Những người bạn
Mùa phim thứ 5 cho thấy Monica và Chandler cố gắng giữ bí mật về mối quan hệ của hai người khỏi nhóm bạn của mình. Phoebe sinh ba trong tập phim thứ 100, bao gồm một bé trai, Frank Jr. Jr. và hai bé gái Leslie và Chandler. Emily đưa ra đề nghị duy nhất để duy trì tình cảm với Ross là phải chấm dứt liên lạc với Rachel. Ross đồng ý, nhưng trong bữa tối sau cùng của cả sáu nhân vật chính cùng nhau, Emily gọi cho Ross và biết Rachel vẫn còn ở cùng anh. Do không thể tin anh hơn nữa, cô quyết định chấm dứt mối quan hệ. Phoebe bắt đầu có mối quan hệ cùng cảnh sát Gary (Michael Rapaport), sau khi tìm thấy phù hiệu của anh và sử dụng nó. Monica và Chandler công bố tình cảm của mình, khiến các bạn mình bất ngờ và hạnh phúc. Họ quyết định kết hôn trong chuyến đi đến Las Vegas nhưng sau đó thay đổi dự định sau khi chứng kiến Ross và Rachel say khướt bước ra khỏi nơi tổ chức tiệc cưới.
Mùa phim thứ 5 cho thấy Monica và Chandler cố gắng giữ bí mật về mối quan hệ của hai người khỏi nhóm bạn của mình. Ross đồng ý, nhưng trong bữa tối sau cùng của cả sáu nhân vật chính cùng nhau, Emily gọi cho Ross và biết Rachel vẫn còn ở cùng anh.
Những người bạn
Trong mùa phim thứ 6, cuộc hôn nhân của Ross và Rachel được tiết lộ là sai lầm lúc say và cả hai muốn từ bỏ mối quan hệ này. Ross sau đó nhận ra mình không thể ly hôn lần thứ 3 và cố gắng giữ bí mật với Rachel, dù vậy họ vẫn ly hôn một vài tập sau đó. Monica và Chandler dời về ở cùng nhau, khiến Rachel phải chuyến đến căn hộ của Phoebe. Joey nhận một vai diễn trong chương trình truyền hình Mac and C.H.E.E.S.E., nơi anh phải đóng cùng với một người máy. Ross nhận công việc giảng dạy tại Đại học New York và bắt đầu hẹn hò một cách ngắn ngủi với một trong số những sinh viên của mình, Elizabeth (Alexandra Holden). Khi căn hộ của Phoebe và Rachel bị cháy, Rachel phải đến ở cùng Joey trong khi Phoebe chuyển đến cùng Chandler và Monica. Chandler sau cùng đã cầu hôn Monica, cô đồng ý cho dù bạn trai cũ Richard thổ lộ tình cảm cho cô.
Trong mùa phim thứ 6, cuộc hôn nhân của Ross và Rachel được tiết lộ là sai lầm lúc say và cả hai muốn từ bỏ mối quan hệ này. Monica và Chandler dời về ở cùng nhau, khiến Rachel phải chuyến đến căn hộ của Phoebe.
Những người bạn
Mùa thứ 7 chủ yếu tập trung vào Monica và Chandler, những người bắt đầu kế hoạch đám cưới và gặp phải vấn đề tài chính. Chương trình Mac and C.H.E.E.S.E của Joey bị hủy, nhưng anh lại được mời trở lại trên chương trình Days of Our Lives. Căn hộ của Phoebe được sửa chữa nhưng chỉ gồm một phòng ngủ lớn thay vì hai như trước, khiến Rachel quyết định ở lại với Joey. Mùa phim kết thúc khi Monica và Chandler tổ chức đám cưới, nơi Phoebe và Rachel tìm thấy một que thử thai mang kết quả dương tính trong phòng tắm.
Mùa thứ 7 chủ yếu tập trung vào Monica và Chandler, những người bắt đầu kế hoạch đám cưới và gặp phải vấn đề tài chính. Căn hộ của Phoebe được sửa chữa nhưng chỉ gồm một phòng ngủ lớn thay vì hai như trước, khiến Rachel quyết định ở lại với Joey.
Những người bạn
Trong mùa phim thứ 8, que thử thai mang kết quả dương tính được tiết lộ thuộc về Rachel. Ross là cha của đứa bé sau một cuộc điều tra có liên quan đến chiếc áo màu đỏ. Rachel và Ross quyết định nuôi đứa bé nhưng không quay lại với nhau. Joey nuôi giữ tình cảm cùng Rachel nhưng cô không đáp trả. Rachel hạ sinh bé Emma trong tập kết mùa. Tại bệnh viện, mẹ của Ross đưa cho anh chiếc nhẫn đính hôn vì bà muốn anh cưới Rachel. Ross từ chối nhưng vẫn giữ lại chiếc nhẫn, mà sau cùng Joey nhặt được và vô tình cầu hôn Rachel. Cô mở lời đồng ý khi nghĩ anh đang cầu hôn mình.
Trong mùa phim thứ 8, que thử thai mang kết quả dương tính được tiết lộ thuộc về Rachel. Joey nuôi giữ tình cảm cùng Rachel nhưng cô không đáp trả.
Những người bạn
Mùa thứ 9 bắt đầu khi Ross và Rachel bắt đầu sống cùng phòng với bé Emma. Monica và Chandler cố gắng thụ thai nhưng bất thành khi biết họ gặp hạn chế về sức khỏe. Phoebe bắt đầu hẹn hò Mike Hannigan (Paul Rudd) thay vì anh chàng bạn trai cũ David (Hank Azaria). Rachel và Emma dọn đến cùng Joey ở giữa mùa phim và Rachel bắt đầu có những trải nghiệm tình cảm dành cho Joey, trong khi nhóm bạn cố gắng đưa Ross và Rachel trở lại. Nhóm đến Barbados trong tập kết mùa để nghe Ross thuyết trình chính trong một buổi hội thảo cổ sinh vật học. Joey và bạn gái Charlie (Aisha Tyler) chia tay và cô lại bắt đầu có mối quan hệ cùng Ross. Sau cùng, Joey và Rachel đáp trả tình cảm của nhau và hôn nhau trong đoạn kết mùa.
Mùa thứ 9 bắt đầu khi Ross và Rachel bắt đầu sống cùng phòng với bé Emma. Monica và Chandler cố gắng thụ thai nhưng bất thành khi biết họ gặp hạn chế về sức khỏe.
Những người bạn
Mùa phim cuối cùng kết thúc nhiều câu chuyện kéo dài. Charlie chia tay với Ross và trở về với bạn trai cũ. Joey và Rachel cố gắng làm hòa với Ross, quyết định kết thúc mối quan hệ và làm bạn cùng nhau. Phoebe và Mike lấy nhau vào giữa mùa phim bên ngoài quán cà phê Central Perk. Monica và Chandler đăng ký nhận nuôi một đứa bé và được Erica (Anna Faris) chấp nhận. Trong tập cuối cùng, Erica hạ sinh một cặp song sinh và khiến Monica và Chandler sửng sốt—một bé trai, Jack (đặt theo tên cha Monica) và một bé gái, Erica (đặt theo tên mẹ ruột). Monica và Chandler cũng chuẩn bị dời về vùng ngoại ô, khiến Joey buồn bã vì nhiều biến đổi trong cuộc sống. Rachel bị đuổi việc và nhận một công việc tại Paris, khi Ross nhận ra mình yêu cô ấy, anh đuổi theo cô. Rachel sau đó hủy bỏ chuyến đi đến Paris, thổ lộ tình cảm cùng Ross và ở lại cùng anh. Loạt phim kết thúc khi tất cả nhân vật chính cùng những đứa con của Monica và Chandler bước ra khỏi căn hộ, đi đến Central Perk để uống ly cà phê sau cùng.
Mùa phim cuối cùng kết thúc nhiều câu chuyện kéo dài. Charlie chia tay với Ross và trở về với bạn trai cũ.
Những người bạn
David Crane và Marta Kauffman bắt đầu phát triển 3 mở đầu phim truyền hình mới—dự kiến công chiếu vào năm 1994—sau khi loạt phim hài kịch tình huống Family Album bị đài CBS dừng phát sóng vào năm 1993. Kauffman và Crane quyết định đệ trình một loạt phim về "6 người trong độ tuổi 20 cố gắng tạo dựng cuộc sống tại Manhattan" đến cho hãng NBC, khi họ nghĩ đây là nơi phù hợp nhất. Crane và Kauffman đưa ý tưởng này đến cộng sự sản xuất Kevin Bright, nhà điều hành sản xuất loạt phim hãng HBO Dream On. Ý tưởng hình thành khi Crane và Kauffman bắt đầu nghĩ về khoảng thời gian họ tốt nghiệp đại học và bắt đầu tự lập tại New York; Kauffman tin rằng họ tìm đến khoảng thời gian mà tương lai "giống như một dấu chấm hỏi." Họ thấy ý tưởng này thú vị khi tin rằng "mọi người đều biết đến cảm giác ấy" và vì đây cũng là cách mà họ cảm nhận về cuộc sống của chính mình vào thời điểm trên. Cả nhóm gọi loạt phim bằng tựa đề Insomnia Cafe và đưa ý tưởng dưới dạng 7 trang giới thiệu đến hãng NBC vào tháng 12 năm 1993.Ở thời điểm đó, Warren Littlefield, chủ tịch đương thời của hãng NBC Entertainment, đang tìm kiếm thể loại phim hài kịch có liên quan đến những người trẻ chung sống và chi trả chi phí cùng nhau. Littlefield muốn nhóm bạn trẻ này cùng chia sẻ những thời khắc đáng nhớ trong đời mình, những người trở thành "những thành viên mới và đại diện gia đình." Dù vậy, Littlefield lại gặp khó khăn để đưa ý tưởng này vào đời thực và cảm thấy những kịch bản do NBC thực hiện đều không có tiến triển tốt. Khi Kauffman, Crane và Bright đệ trình Insomnia Cafe, Littlefield bị ấn tượng bởi tính tường tận mà họ thấu hiểu các nhân vật của mình. NBC quyết định mua lại ý tưởng tập phim đầu tiên của loạt phim, mạo hiểm hình phạt tài chính nếu tập phim này không được ghi hình. Kauffman và Crane trải qua 3 ngày sáng tác kịch bản tập đầu tiên, với tên gọi của loạt phim lúc này đổi sang Friends Like Us. Littlefield muốn chương trình phải đại diện cho Thế hệ X và khám phá thể loại kết thân mới, nhưng cả ba đều không có chung suy nghĩ. Crane cho rằng đây không phải là chương trình dành riêng cho một thế hệ nào và muốn sản xuất một loạt phim mà mọi người đều muốn xem. NBC phê chuẩn kịch bản tập đầu và đặt mua loạt phim dưới cái tên Six of One, vì tựa đề cũ trùng với một loạt phim hài kịch tình huống khác của đài ABC These Friends of Mine.
David Crane và Marta Kauffman bắt đầu phát triển 3 mở đầu phim truyền hình mới—dự kiến công chiếu vào năm 1994—sau khi loạt phim hài kịch tình huống Family Album bị đài CBS dừng phát sóng vào năm 1993. Kauffman và Crane trải qua 3 ngày sáng tác kịch bản tập đầu tiên, với tên gọi của loạt phim lúc này đổi sang Friends Like Us.
Những người bạn
Từ khi công bố là dự án và được phê chuẩn bởi NBC, Littlefield thông báo nhận nhiều cuộc gọi từ mọi nhà đại diện trong thành phố, mong muốn khách hàng của họ tham gia trong loạt phim. Các buổi thử vai cho những nhân vật chính diễn ra tại New York và Los Angeles. Đạo diễn tuyển vai rút ngắn từ 1.000 diễn viên đăng ký cho mỗi vai xuống còn 75 người, với mỗi người được gọi lại để dượt thoại trước Crane, Kauffman và Bright. Vào cuối tháng 3, số diễn viên tiềm năng giảm xuống chỉ còn từ 3 đến 4 người cho mỗi vai và được mời dượt thoại cùng Les Moonves, chủ tịch đương thời của hãng Warner Bros. Television.Từng cộng tác cùng David Schwimmer, các nhà sáng lập chương trình nhắm sẵn nhân vật Ross theo hình tượng Schwimmer và anh là diễn viên đầu tiên tuyển vai. Cox muốn vào vai Monica, nhưng các nhà sản xuất lại hình dung cô với nhân vật Rachel bởi "năng lượng vui vẻ và lạc quan", khiến họ không nhìn nhận cô ở vai Monica; sau phần tuyển vai của Cox, Kauffman đồng tình và giao cho cô vai diễn này. Khi Matt LeBlanc dự tuyển cho vai Joey, anh đưa ra một "câu chuyện khác biệt" cho nhân vật này. Dàn biên kịch ban đầu không có ý định mang tính cách khờ khạo cho Joey, nhưng lại cảm thấy đây là khởi nguồn chính của sự hài hước. LeBlanc còn chỉ ra tấm lòng chất phác của nhân vật này, điều mà các biên kịch không nhận ra ở Joey. Cho dù Crane và Kauffman không muốn LeBlanc nhận vai vào thời điểm trên, hãng truyền hình đã yêu cầu họ đưa cho anh vai diễn này. Jennifer Aniston, Matthew Perry và Lisa Kudrow cũng được tuyển từ các lần thử vai trước đó.Nhiều thay đổi đến câu chuyện của loạt phim diễn ra trong giai đoạn tuyển vai này. Dàn biên kịch cảm thấy cần phải chỉnh lý các nhân vật sao cho phù hợp với diễn viên và quá trình khám phá các nhân vật diễn ra trong xuyên suốt mùa phim đầu tiên. Kauffman thừa nhận nhân vật của Joey đã trở thành "một cá thể hoàn toàn mới" và nó chỉ diễn ra "khi chúng tôi thực hiện tập phim Lễ tạ ơn đầu tiên và nhận ra Monica điên rồ đến mức nào".
Từ khi công bố là dự án và được phê chuẩn bởi NBC, Littlefield thông báo nhận nhiều cuộc gọi từ mọi nhà đại diện trong thành phố, mong muốn khách hàng của họ tham gia trong loạt phim. Cho dù Crane và Kauffman không muốn LeBlanc nhận vai vào thời điểm trên, hãng truyền hình đã yêu cầu họ đưa cho anh vai diễn này.
Những người bạn
Nhiều tuần sau khi đài NBC quyết định chọn sản xuất Những người bạn, Crane, Kauffman và Bright phải duyệt lại kịch bản dự bị cho những loạt phim truyền hình khác, chủ yếu là những tập phim Seinfeld chưa sản xuất. Kauffman và Crane thuê một đội ngũ gồm 7 biên kịch trẻ tuổi, vì "khi ở độ tuổi 40, bạn không thể thực hiện được nữa. Hãng sản xuất và xưởng phim muốn tìm những người trẻ vừa bước khỏi ngưỡng cửa đại học". Các nhà sáng lập cảm thấy khi sử dụng ngang bằng cùng lúc 6 nhân vật, thay vì chú trọng ở 1 hay 2, sẽ giúp "mở rộng nhiều cốt truyện và đưa cho chương trình nhiều hướng đi". Đa số ý tưởng cốt truyện đều do dàn biên kịch thực hiện, cho dù được các diễn viên thêm thắt các ý tưởng. Dàn biên kịch ban đầu dự định một chuyện tình quan trọng giữa Joey và Monica, khi cả hai là các nhân vật gợi cảm nhất trong kịch bản đệ trình. Ý tưởng mối tình lãng mạn giữa Ross và Rachel hình thành trong quá trình Kauffman và Crane sáng tác kịch bản mở đầu.Trong lúc sản xuất tập đầu tiên, NBC yêu cầu kịch bản nên chia thành một cốt truyện chi phối và những chi tiết nhỏ khác, nhưng dàn biên kịch đã từ chối, khi muốn có 3 cốt truyện tồn tại song song. NBC còn cho rằng dàn diễn viên quá non trẻ và đề nghị một nhân vật già dặn hơn nhằm đưa lời khuyên đến những người trẻ tuổi. Crane và Kauffman miễn cưỡng đồng ý và viết một bản nháp của tập đầu với sự xuất hiện của "Pat the Cop". Crane cảm thấy câu chuyện rất tồi và Kauffman bông đùa rằng "Bạn biết quyển sách cho trẻ em, Pat the Bunny chứ? Chúng tôi có Pat the Cop". NBC sau cùng loại bỏ ý tưởng này. Ngoại trừ tập cuối, tất cả tập phim đều có định dạng tựa đề "The One...".Mỗi mùa chiếu vào tháng 6, 7 và 8 tại Hoa Kỳ, các nhà sản xuất thường phác thảo câu chuyện cho mùa phim kế tiếp. Trước khi một tập được sản xuất, Kauffman và Crane thường duyệt lại kịch bản của biên kịch khác, chủ yếu nhằm loại bỏ yếu tố sai lệch ở loạt phim hoặc một nhân vật. Tách biệt với những cốt truyện khác, ý tưởng tình cảm giữa Joey và Rachel chỉ mới quyết định ở nửa sau mùa 8. Các nhà sáng lập không muốn Ross và Rachel trở lại với nhau quá sớm và trong lúc tìm kiếm một chướng ngại tình cảm, một biên kịch đề nghị một câu chuyện lãng mạn cùng Joey. Câu chuyện này sáp nhập vào mùa phim; dù vậy, khi các diễn viên sợ câu chuyện sẽ khiến các nhân vật của họ không còn dễ mến nữa, câu chuyện được rút gọn, cho đến khi đề cập lại trong tập kết mùa. Trong mùa phim thứ 9, các biên kịch phân vân về lượng câu chuyện liên quan đến đứa bé của Rachel, khi họ không muốn chương trình tập trung vào đứa bé nhưng cũng không thể ngó lơ nhân vật này. Crane chia sẻ họ phải mất một thời gian để chấp nhận ý tưởng của mùa phim thứ 10, khi họ có vừa đủ câu chuyện để kể trong mùa phim. Kauffman và Crane cũng quyết định không tiếp tục thực hiện mùa phim thứ 11, ngay cả nếu dàn diễn viên có đồng tình đi chăng nữa.
Nhiều tuần sau khi đài NBC quyết định chọn sản xuất Những người bạn, Crane, Kauffman và Bright phải duyệt lại kịch bản dự bị cho những loạt phim truyền hình khác, chủ yếu là những tập phim Seinfeld chưa sản xuất. Crane cảm thấy câu chuyện rất tồi và Kauffman bông đùa rằng "Bạn biết quyển sách cho trẻ em, Pat the Bunny chứ?
Những người bạn
Mùa phim đầu tiên ghi hình tại Stage 5 ở Warner Bros. Studios, Burbank, California. Ban điều hành NBC cho rằng phối cảnh quán cà phê có thể quá mới mẻ và đề nghị chuyển sang khung cảnh một quán ăn, nhưng sau cùng giữ nguyên bối cảnh gốc. Cảnh quay tiêu đề phim ghi hình tại đài phun nước Warner Bros. Ranch trong tiết trời lạnh giá lúc 4 giờ sáng tại Burbank. Đầu mùa hai, toàn bộ bối cảnh được chuyển sang Stage 24, với diện tích lớn hơn và đổi tên thành "The Friends Stage" sau khi loạt phim kết thúc. Phim bắt đầu ghi hình vào giữa mùa chiếu tháng 6, 7 và 8 ở Hoa Kỳ vào năm 1994, trực tiếp trước khán giả tại trường quay, những người được cung cấp một bản tóm tắt cả loạt phim nhằm hiểu rõ 6 nhân vật chính; một diễn viên hài cũng xuất hiện để pha trò cho khán giả giữa các cảnh quay. Mỗi tập phim dài 22 phút phải mất đến 6 giờ ghi hình—gấp đôi thời lượng quay của hầu hết các phim hài kịch tình huống khác—vì phần lớn phải thực hiện nhiều lần quay và viết lại kịch bản.Cho dù các nhà sản xuất luôn muốn tìm những câu chuyện phù hợp theo địa điểm thuận lợi trong tiền đề, Những người bạn chưa bao giờ ghi hình tại New York. Bright cảm thấy ghi hình bên ngoài trường quay khiến tập phim mất đi sự hài hước—ngay cả khi nhiều lần ghi hình ngoại cảnh—và cho rằng khán giả trực tiếp là một phần quan trọng của loạt phim. Khi loạt phim bị chỉ trích vì đề cập đến New York một cách không chính xác, với chi tiết nhóm bạn đều gặp khó khăn về tài chính nhưng vẫn thuê những căn hộ lớn, Bright chỉ ra rằng bối cảnh phải đủ lớn cho các máy ghi hình, ánh sáng hoạt động và "cho khán giả có thể chứng kiến những gì đang diễn ra"; và bối cảnh căn hộ cũng phải đủ rộng để các diễn viên thực hiện các kịch bản hài hước. Tập kết mùa thứ 4 ghi hình tại Luân Đôn vì các nhà sản xuất nhận thức được tầm phổ biến của loạt phim tại Anh Quốc. Các cảnh quay ghi hình tại trường quay có 3 cụm khán giả với tổng cộng 500 người ở mỗi cụm, đánh dấu lần sở hữu khán giả đông đảo nhất loạt phim. Tập kết mùa thứ 5, với bối cảnh tại Las Vegas ghi hình tại Warner Bros. Studios.
Mùa phim đầu tiên ghi hình tại Stage 5 ở Warner Bros. Studios, Burbank, California. Bright cảm thấy ghi hình bên ngoài trường quay khiến tập phim mất đi sự hài hước—ngay cả khi nhiều lần ghi hình ngoại cảnh—và cho rằng khán giả trực tiếp là một phần quan trọng của loạt phim.
Những người bạn
Sau khi tập phim sản xuất đầu tiên vực dậy kỳ vọng của NBC, loạt phim được trình chiếu dưới cái tên Những người bạn vào ngày 22 tháng 9 năm 1994, vào khung giờ 8 giờ 30 phút thứ Năm hàng tuần. Tập phim đầu tiên chiếu giữa hai loạt phim Mad About You và Seinfeld, với gần 22 triệu khán giả Hoa Kỳ theo dõi. Dựa theo những thành công trong thời gian phát sóng, khi nằm trong số những chương trình quan trọng đêm thứ Năm của NBC, Những người bạn được đài xếp vào mục Must See TV. Crane thông báo có khả năng thực hiện mùa phim thứ 9 vào năm 2001, khiến các nhà phê bình tin rằng anh đang giả vờ và sẽ có ít nhất 2 trong số dàn diễn viên chính không trở lại. Khi Những người bạn xác định trở lại ở mùa thứ 9, thông tin đưa ra với mức tiền—trị giá 7 triệu đô-la Mỹ một tập—là yếu tố giúp loạt phim trải qua thêm một mùa nữa.Sau khi dự kiến mùa phim thứ 9 sẽ là sản phẩm cuối cùng, NBC ký một hợp đồng vào tháng 12 năm 2002 để mang loạt phim trở lại trong mùa 10. Đội ngũ sáng tạo của loạt phim không muốn đàm phán gia hạn cho đến năm sau và muốn bắt đầu sáng tác các tập còn lại của mùa 9 và khả năng mùa 10. NBC đồng ý trả 10 triệu đô-la Mỹ cho hãng Warner Bros. để sản xuất mỗi tập của mùa phim thứ 10, mức giá cao nhất trong lịch sử của bất kỳ một loạt phim truyền hình dài 30 phút nào. Dù NBC không thể mang lại đủ doanh thu từ quảng cáo để bù lại số tiền đã bỏ ra, loạt phim vẫn chiếm trọn lịch chiếu đêm thứ 5, giành tỉ lệ người xem cao lẫn lợi nhuận cho các loạt phim khác. Dàn diễn viên yêu cầu mùa thứ 10 phải giảm từ 24 tập thông thường xuống 18 tập nhằm giúp họ thực hiện những dự án khác.
Sau khi tập phim sản xuất đầu tiên vực dậy kỳ vọng của NBC, loạt phim được trình chiếu dưới cái tên Những người bạn vào ngày 22 tháng 9 năm 1994, vào khung giờ 8 giờ 30 phút thứ Năm hàng tuần. Dù NBC không thể mang lại đủ doanh thu từ quảng cáo để bù lại số tiền đã bỏ ra, loạt phim vẫn chiếm trọn lịch chiếu đêm thứ 5, giành tỉ lệ người xem cao lẫn lợi nhuận cho các loạt phim khác.
Những người bạn
Các nhà sáng lập loạt phim hoàn thành bản nháp đầu tiên của tập phim cuối cùng kéo dài 1 tiếng vào tháng 1 năm 2004, tức 4 tháng trước khi công chiếu. Crane, Kauffman và Bright xem những cái kết từ các loạt phim hài kịch tình huống khác để chuẩn bị phác thảo cho tập phim này, đồng thời chú ý đến những gì có hoặc không hiệu quả. Họ cảm mến những cái kết đúng theo tinh thần của loạt phim và gọi tập cuối của The Mary Tyler Moore Show là tiêu chuẩn vàng. Crane, Kauffman và Bright gặp khó khăn trong việc sáng tác tập cuối và dành ra vài ngày suy nghĩ về cảnh cuối cùng mà không viết thành chữ. Họ không muốn thực hiện "thứ gì đó quá sắp đặt hoặc thiếu màu sắc của chương trình." Các phần then chốt của tập cuối được ghi hình mà không có khán giả tại trường quay mà chỉ có một lượng ít đoàn làm phim. Dàn diễn viên yêu thích tập phim cuối và tự tin rằng khán giả hâm mộ cũng sẽ phản ứng tương tự.Hãng NBC tăng cường quảng bá tập cuối của Những người bạn, với nhiều tuần xuất hiện rộng khắp trên các phương tiện truyền thông trước khi công chiếu ngày 6 tháng 5 năm 2004. Các chi nhánh địa phương của NBC tổ chức nhiều bữa tiệc trình chiếu khắp Hoa Kỳ, bao gồm một sự kiện trình chiếu đặc biệt tập cuối trên màn hình Astrovision ngoài trời tại Universal CityWalk. Tập cuối là chủ đề của hai tập Dateline NBC, một chương trình tạp chí thời sự trên truyền hình, với một tập kéo dài 2 tiếng đồng hồ. Một tập hồi tưởng bao gồm trích đoạn của những tập trước kéo dài 1 tiếng được trình chiếu trước khi phát sóng tập cuối. Sau tập cuối, The Tonight Show with Jay Leno ghi hình tại phim trường quán cà phê Central Perk của Những người bạn, với sự xuất hiện của những diễn viên chính với tư cách khách mời. Mức giá quảng cáo trung bình trong tập cuối đạt mức 2 triệu đô-la Mỹ cho 30 giây quảng cáo, phá vỡ kỷ lục của tập cuối Seinfeld với 1.7 triệu đô-la Mỹ.
Các nhà sáng lập loạt phim hoàn thành bản nháp đầu tiên của tập phim cuối cùng kéo dài 1 tiếng vào tháng 1 năm 2004, tức 4 tháng trước khi công chiếu. Mức giá quảng cáo trung bình trong tập cuối đạt mức 2 triệu đô-la Mỹ cho 30 giây quảng cáo, phá vỡ kỷ lục của tập cuối Seinfeld với 1.7 triệu đô-la Mỹ.
Những người bạn
Những đánh giá ban đầu của loạt phim đa số là trung lập và giành số điểm 59/100 trên trang mạng tổng hợp đánh giá Metacritic, dựa trên 20 bình luận mẫu, đồng nghĩa với mức đánh giá trái chiều. Tom Feran từ The Plain Dealer viết rằng loạt phim mang đến trạng thái "mơ hồ và ít thành công hơn phong cách dạo chơi của Seinfeld", trong khi Ann Hodges từ Houston Chronicle cho rằng loạt phim "muốn trở thành một Seinfeld mới nhưng sẽ không bao giờ hài hước như Seinfeld." Trên tờ Los Angeles Daily News, Ray Richmond gọi đây là "một trong những [loạt phim] hài tươi sáng hơn của mùa chiếu mới" và The Los Angeles Times gọi đây "chắc chắn là loạt phim hài xuất sắc nhất của mùa chiếu mới." Ginny Holbert của Chicago Sun-Times cảm thấy đặc điểm nhân vật Joey và Rachel kém phát triển, trong khi Richmond khen ngợi tính "trẻ trung, dễ mến" của dàn diễn viên, cùng nét kết hợp "ăn ý" giữa họ. Robert Bianco từ USA Today gọi Schwimmer "tuyệt vời", đồng thời khen ngợi dàn diễn viên nữ chính nhưng lo lắng vai diễn của Perry "mơ hồ" và LeBlanc "dựa dẫm quá nhiều vào tính cách khờ khạo một cách mệt mỏi mà anh từng hai lần thử sức." Tác giả cuốn Friends Like Us: The Unofficial Guide to Friends cho rằng dàn diễn viên "cố gắng hơi quá sức", đặc biệt ở Perry và Schwimmer.Theo tiến triển của loạt phim, các đánh giá dần trở nên tích cực và sau cùng biến Những người bạn trở thành một trong những loạt phim hài kịch tình huống xuất sắc nhất thời đại. Các nhà phê bình khen ngợi loạt phim bởi kịch bản mang tính kiên định và sắc bén cũng như sự hợp tác ăn ý giữa các diễn viên chính. Noel Holston từ Newsday, người từng nhận xét tập phim đầu tiên "giống như muốn trở thành Seinfeld" vào năm 1994, đã bác bỏ bài đánh giá trên sau khi xem lại tập phim và cảm thấy như viết lời xin lỗi đến dàn biên kịch. Heather Havrilesky từ trang mạng Salon cho rằng loạt phim "sải bước tiến" trong mùa thứ 2, với các câu đùa cợt của từng nhân vật và các tình huống "chắc chắn có thể khiến bạn cười vang một vài lần ở mỗi tập" và chất lượng kịch bản cho phép loạt phim trở nên "độc đáo và cải tiến." Bill Carter của The New York Times gọi mùa phim thứ 8 là "sự trở lại vô cùng kinh ngạc", cảm thấy loạt phim "tạo nên những câu chuyện mới hấp dẫn và những tiếng cười lớn" và khen ngợi cách mà phim tìm được lối "trở về trái tim của những người hâm mộ." Liane Bonin từ Entertainment Weekly tuy cảm thấy chiều hướng của mùa 9 "thất vọng tràn trề" và chỉ trích sự xuất hiện của hàng loạt các khách mời là người nổi tiếng, nhưng cho rằng "phần sáng tác vẫn còn nhạy bén." Havrilesky gọi mùa phim cuối cùng "tồi tệ một cách đáng lo ngại, dở hơn những gì mà bạn có thể hình dung ở một chương trình đã từng vô cùng xuất sắc".
Những đánh giá ban đầu của loạt phim đa số là trung lập và giành số điểm 59/100 trên trang mạng tổng hợp đánh giá Metacritic, dựa trên 20 bình luận mẫu, đồng nghĩa với mức đánh giá trái chiều. Các nhà phê bình khen ngợi loạt phim bởi kịch bản mang tính kiên định và sắc bén cũng như sự hợp tác ăn ý giữa các diễn viên chính.
Những người bạn
Các đánh giá về tập phim cuối cùng chủ yếu là trái chiều. Robert Bianco của USA Today mỏ tả nét giải trí và thỏa mãn của tập phim và khen ngợi sự dung hòa khéo léo giữa cảm xúc và hài hước trong khi đề bật mỗi nhân vật chính. Sarah Rodman của Boston Herald khen ngợi diễn xuất của Aniston và Schwimmer, nhưng cảm thấy cuộc sum họp của các nhân vật "đôi chút quá ngắn gọn, cho dù đó là những gì mà hầu hết những người hâm mộ trung thành của loạt phim mong muốn." Roger Catlin của Hartford Courant cảm thấy những người mới xem loạt phim có thể sẽ "bất ngờ với sự nhạt nhẽo của tập phim và cách mà mọi câu nói đùa gượng gạo tùy thuộc vào sự đỉnh điểm khờ khạo của nhân vật." Ken Parish Perkins trên tờ Fort Worth Star-Telegram cho rằng tập phim "cảm động nhiều hơn hài hước, thỏa mãn hơn trong việc kết thúc hơn là buồn cười thả ga." Theo sau tập cuối cùng của Những người bạn và Frasier, nhiều nhà phê bình dự đoán về số phận của thể loại phim hài kịch tình huống. Các ý kiến trải dài từ dấu hiệu của việc chấm dứt dòng phim hài kịch tình huống, một sự suy giảm nhỏ trong lịch sử của thể loại này và khả năng bị từ chối của truyền hình kịch bản khi dòng chương trình thực tế bắt đầu lên ngôi.
Các đánh giá về tập phim cuối cùng chủ yếu là trái chiều. Sarah Rodman của Boston Herald khen ngợi diễn xuất của Aniston và Schwimmer, nhưng cảm thấy cuộc sum họp của các nhân vật "đôi chút quá ngắn gọn, cho dù đó là những gì mà hầu hết những người hâm mộ trung thành của loạt phim mong muốn."
Những người bạn
Để duy trì định dạng tập thể của loạt phim, dàn diễn viên chính quyết định gia nhập vào cùng một hạng mục diễn xuất tại các giải thưởng. Bắt đầu từ mùa thứ 8, các diễn viên quyết định đệ trình vào bảng đề cử diễn viên chính thay vì ở bảng diễn viên phụ. Loạt phim giành đề cử cho tổng cộng 62 giải Primetime Emmy, giành tổng cộng 6 giải. Trong dàn diễn viên chính, duy chỉ có Aniston và Kudrow là giành giải Emmy, trong khi Cox là diễn viên duy nhất không được đề cử. Loạt phim giành giải Primetime Emmy cho "Loạt phim hài nổi bật" vào năm 2002, với các đề cử diễn ra vào năm 1995, 1996, 1999, 2000 và 2003. Loạt phim còn giành 1 giải American Comedy, 1 giải GLAAD Media, 1 giải Quả cầu vàng, 2 giải Logie, 6 giải Sự lựa chọn của Công chúng, 1 giải Satellite và 1 giải Screen Actors Guild Award.Những người bạn còn được ghi danh trong nhiều danh sách phim truyền hình xuất sắc nhất bởi các nhà phê bình. Phim xuất hiện trong danh sách "100 chương trình truyền hình xuất sắc nhất mọi thời đại" của tạp chí Time. Trong khi tạp chí Empire xếp phim vào danh sách "50 tập phim xuất sắc nhất mọi thời đại", Hiệp hội tác giả Hoa Kỳ cũng vinh danh phim trong "101 chương trình sáng tác xuất sắc nhất" vào năm 2012. Một cuộc bình chọn do 60 Minutes và Vanity Fair tổ chức xướng danh Những người bạn là loạt phim hài kịch tình huống xuất sắc nhất mọi thời đại.Vào năm 1997, tập "The One with the Prom Video" lọt vào danh sách "100 tập phim xuất sắc nhất mọi thời đại" của TV Guide. Cũng do trang TV Guide bình chọn, loạt phim còn xếp lần lượt ở vị trí thứ 21 trong danh sách "50 chương trình truyền hình vĩ đại nhất mọi thời đại" và vị trí thứ 28 trong danh sách "60 chương trình truyền hình sáng tác xuất sắc nhất mọi thời đại" vào năm 1997. Đọc giả của trang này còn bình chọn dàn diễn viên của Những người bạn là "Dàn diễn viên phim hài xuất sắc nhất mọi thời đại" với 29% phiếu, vượt mặt Seinfeld với 18% phiếu.
Để duy trì định dạng tập thể của loạt phim, dàn diễn viên chính quyết định gia nhập vào cùng một hạng mục diễn xuất tại các giải thưởng. Loạt phim còn giành 1 giải American Comedy, 1 giải GLAAD Media, 1 giải Quả cầu vàng, 2 giải Logie, 6 giải Sự lựa chọn của Công chúng, 1 giải Satellite và 1 giải Screen Actors Guild Award.Những người bạn còn được ghi danh trong nhiều danh sách phim truyền hình xuất sắc nhất bởi các nhà phê bình.
Những người bạn
Bảng dưới đây chỉ về tỉ lệ người xem của Những người bạn tại Hoa Kỳ, nơi loạt phim này luôn nằm trong top 10 tỉ lệ người xem truyền hình cuối cùng. Cột "Xếp hạng" chỉ lượng người xem Những người bạn khi so sánh với các loạt phim truyền hình khác trình chiếu trong cùng một khung giờ vàng theo mùa chiếu. Mùa chiếu truyền hình thường bắt đầu vào tháng 9 hàng năm và kết thúc vào tháng 5 kế tiếp, trùng với đợt tổng sắp vào tháng 5 của Nielsen. Cột "Khán giả" cho thấy lượng khán giả cho tất cả tập và mùa phim trình chiếu theo mùa thuộc khung giờ của chương trình. Các cột "Tập đầu mùa" và "Tập kết mùa" biểu thị ngày tháng trình chiếu các tập tương ứng theo mùa phim.
Bảng dưới đây chỉ về tỉ lệ người xem của Những người bạn tại Hoa Kỳ, nơi loạt phim này luôn nằm trong top 10 tỉ lệ người xem truyền hình cuối cùng. Các cột "Tập đầu mùa" và "Tập kết mùa" biểu thị ngày tháng trình chiếu các tập tương ứng theo mùa phim.
Những người bạn
Tập phim đầu tiên trình chiếu trên kênh NBC vào ngày 22 tháng 9 năm 1994 từ 8 giờ 30 đến 9 giờ tối, là chương trình được xem nhiều thứ 15 trong tuần, đạt tỉ lệ người xem 14.7/23 từ Nielsen (mỗi điểm đại diện cho 954.000 căn hộ) và gần 22 triệu người xem. Trong khi đó, có 52.5 triệu người theo dõi tập phim cuối cùng vào ngày 6 tháng 5 năm 2004, trở thành chương trình giải trí được theo dõi nhiều nhất kể từ tập cuối Seinfeld vào năm 1998. Đây còn là tập phim cuối xem nhiều thứ 4 trong lịch sử truyền hình, chỉ đứng sau M*A*S*H, Cheers và Seinfeld, lần lượt theo dõi bởi 105, 80.4 và 76.2 triệu người xem. Tập phim hồi tưởng trước đó thu hút 36 triệu khán giả và tập cuối là chương trình truyền hình được xem nhiều thứ hai trong năm, chỉ đứng sau giải đấu Super Bowl. Trong toàn bộ loạt phim, tập theo dõi nhiều nhất là "The One After the Superbowl" với tổng cộng 52.9 triệu khán giả theo dõi sau khi trận Super Bowl kết thúc, thu về 29.5 tỉ lệ Nielsen và 47% cổ phần khán giả, trở thành tập phim hài kịch tình huống mở đầu sau trận SuperBowl có tỉ lệ theo dõi cao nhất.
Tập phim đầu tiên trình chiếu trên kênh NBC vào ngày 22 tháng 9 năm 1994 từ 8 giờ 30 đến 9 giờ tối, là chương trình được xem nhiều thứ 15 trong tuần, đạt tỉ lệ người xem 14.7/23 từ Nielsen (mỗi điểm đại diện cho 954.000 căn hộ) và gần 22 triệu người xem. Tập phim hồi tưởng trước đó thu hút 36 triệu khán giả và tập cuối là chương trình truyền hình được xem nhiều thứ hai trong năm, chỉ đứng sau giải đấu Super Bowl.
Những người bạn
Cho dù các nhà sản xuất nghĩ Những người bạn "chỉ là một chương trình truyền hình", nhiều nhà tâm lý học đã chỉ ra những ảnh hưởng văn hóa bắt nguồn từ thời gian trình chiếu loạt phim. Kiểu tóc của Aniston được gọi bằng tên "The Rachel" và sao chép rộng rãi trên toàn thế giới. Câu cửa miệng của Joey, "How you doin'?" trở thành một phần phổ biến của tiếng lóng vùng Tây Hoa Kỳ, thường sử dụng để mở lời hoặc chào bạn bè. Loạt phim còn ảnh hưởng đến ngôn ngữ tiếng Anh, với một nghiên cứu của Đại học Toronto cho thấy các nhân vật thường dùng cụm từ "so" để chỉnh sửa các tính từ thường xuyên hơn bất cứ từ nhấn mạnh nào. Cho dù người bản xứ đã dùng kỹ thuật này vào thời điểm chiếu, việc sử dụng trong loạt phim có thể đã gia tăng sự thay đổi. Thói quen bỏ ngỏ kết thúc của một câu nhằm mục đích mỉa mai của Perry cũng ảnh hưởng đến lời nói của người xem. Theo sau Sự kiện 11 tháng 9, tỉ lệ người xem tăng 17% so với mùa phim trước.Những người bạn được nhại lại trong tập "Murder Among Friends" của Murder, She Wrote mùa thứ 12. Trong tập phim, trinh thám nghiệp dư Jessica Fletcher (Angela Lansbury) điều tra vụ án mạng của tác giả Buds, một loạt phim truyền hình hư cấu về đời sống thường ngày của một nhóm bạn thành phố. Tập phim lấy cảm hứng sau khi CBS dời Murder, She Wrote từ khung giờ đêm Chủ Nhật sang đêm thứ Năm, đối diện trực tiếp với Những người bạn trên NBC; Bruce Lansbury trích dẫn lời của Angela Lansbury, khi "bày tỏ đôi chút thái độ" về việc dời chương trình vào ngày thứ Năm, nhưng anh thấy nội dung tập phim "dàn dựng thân thiện, không mang không khí ích kỷ." Jerry Ludwig, biên kịch của tập phim, nghiên cứu "gia vị" của Buds bằng việc theo dõi các tập phim Những người bạn.Quán cà phê Central Perk, một trong những bối cảnh chính trong loạt phim, gây cảm hứng cho nhiều nơi mô phỏng trên toàn cầu. Vào năm 2006, một doanh nhân người Iran khởi động một chuỗi quán Central Perk và đăng ký cái tên này ở 32 quốc gia. Nội thất của chuỗi quán lấy cảm hứng bởi loạt phim Những người bạn, với James Michael Tyler, người vào vai quản lý của Central Perk trong loạt phim, Gunther, cũng đến lễ khánh thành quán cà phê tại Dubai, nơi anh làm việc như một bồi bàn. Từ ngày 24 tháng 9 đến 7 tháng 10 năm 2009, một bản sao của Central Perk xuất hiện tại Đường Broadwick, Soho, Luân Đôn. Quán bán cà phê thật cho khách hàng, trưng bày các kỷ vật và đạo cụ của Những người bạn, như chiếc Cúp Geller từ tập "The One with the Football". Central Perk được tái tạo như một phần của bảo tàng trưng bày tại Warner Bros. Studios và cho thấy trên chương trình The Ellen DeGeneres Show vào tháng 10 năm 2008, cũng là lúc Jennifer Aniston đến thăm lại trường quay kể từ tập cuối vào năm 2004.Những người bạn còn phát triển lối sống gia đình luân phiên bằng việc đại diện cho những người trẻ có đời sống gia đình khác biệt. Phim đưa ra ý tưởng "mọi điều bạn cần là những người bạn tốt", có thể xây dựng một mái ấm thông qua lựa chọn, thể hiện lối sống mới và phát triển tình bạn mà ta không được thường xuyên chứng kiến trong xã hội thông thường. Theo chuyên gia văn hóa đại chúng tại Đại học Buffalo, Những người bạn là "một trong những chương trình hiếm có đánh dấu sự thay đổi trong văn hóa Mỹ". Cùng với Sex and the City, Những người bạn từng bị chỉ trích bởi "tính quyến rũ hóa tình dục, trong khi ít đề cập đến các tác hại như mang thai hoặc bệnh tình dục" đến đối tượng khán giả vị thành niên. Trang The Guardian khẳng định Những người bạn có những ảnh hưởng lớn đến nhiều loạt phim truyền hình khác, đơn cử như How I Met Your Mother, một loạt phim hài kịch tình huống khác lấy bối cảnh tại Manhattan, với một nhóm bạn trưởng thành và có nét tương đồng giữa các nhân vật.
Cho dù các nhà sản xuất nghĩ Những người bạn "chỉ là một chương trình truyền hình", nhiều nhà tâm lý học đã chỉ ra những ảnh hưởng văn hóa bắt nguồn từ thời gian trình chiếu loạt phim. Trang The Guardian khẳng định Những người bạn có những ảnh hưởng lớn đến nhiều loạt phim truyền hình khác, đơn cử như How I Met Your Mother, một loạt phim hài kịch tình huống khác lấy bối cảnh tại Manhattan, với một nhóm bạn trưởng thành và có nét tương đồng giữa các nhân vật.
Những người bạn
Vào mùa thu năm 2001, Warner Bros. Domestic Cable thỏa thuận cùng hãng phim TBS (cả hai đều do Time Warner sở hữu) để cung cấp phim trình chiếu lại. Warner Bros. Domestic Cable thông báo đã nhượng lại quyền cáp phụ của Những người bạn cho Nick at Nite. Warner Bros. ước tính thu về 200 triệu đô-la Mỹ từ phí cấp phép và hợp đồng quảng cáo. Nick at Nite phải trả 500.000 đô-la Mỹ cho mỗi tập trình chiếu sau 6 giờ tối trong thời gian 6 năm, kéo dài đến mùa thu năm 2017. TBS cũng tái hợp đồng với thời gian 6 năm trình chiếu giống như Nick at Nite nhưng chỉ trả 275.000 đô-la Mỹ vì trình chiếu giới hạn trước 6 giờ tối, ngoại trừ năm đầu tiên. Tính đến năm 2005, Những người bạn đã thu về 4 triệu đô-la Mỹ mỗi tập phim trong tổng số phí cấp phép 944 triệu đô-la Mỹ tiền mặt.Ngày 5 tháng 3 năm 2012, phiên bản định dạng cao của toàn bộ 236 tập phim Những người bạn phát hành tại các trạm truyền hình địa phương, bắt đầu bằng tập phim đầu tiên. Với các tập phim phục hồi, Warner Bros. khôi phục lại những hình ảnh được cắt bên góc trái và phải màn hình, sử dụng nguồn phim gốc 35mm để trình chiếu dưới dạng màn hình rộng 16:9. Các tập phục hồi ra mắt tại New Zealand trên hệ thống TV2 từ tháng 1 năm 2011. Netflix bổ sung toàn bộ 10 mùa phim của Những người bạn theo định dạng cao vào hệ thống truyền dữ liệu của họ tại Hoa Kỳ vào ngày 1 tháng 1 năm 2015.
Vào mùa thu năm 2001, Warner Bros. Domestic Cable thỏa thuận cùng hãng phim TBS (cả hai đều do Time Warner sở hữu) để cung cấp phim trình chiếu lại.
Những người bạn
Những người bạn bắt đầu trình chiếu tại Anh Quốc vào năm 1994 trên Channel 4; dù vậy, năm 1996, Sky1 đã mua lại bản quyền loạt phim này. Dù Channel 4 tiếp tục chiếu vài tuần sau khi Sky1 bắt đầu phát sóng, đây vẫn là một trong những loạt phim ăn khách nhất của đài, với trung bình 2.6 triệu lượt xem mỗi tập. Năm 1999, Channel 4 ký hợp đồng 100 triệu bảng Anh để giành lại quyền chiếu Những người bạn và ER từ Sky1. Hợp đồng 3 năm cho phép Channel 4 chiếu trước những tập phim mới tại Anh Quốc và đàm phán trình chiếu trên truyền hình trả phí cùng các hãng truyền hình khác của Anh Quốc. Tập phim cuối có trung bình 8.6 triệu người xem—nhiều hơn 1/3 khán giả Anh Quốc vào thời điểm đó—và đạt mốc 8.9 triệu khán giả. Đây là lượng người xem cao nhất của Những người bạn, đánh bật tập phim tháng 6 năm 2002 với 6.5 triệu lượt xem. Những lần chiếu lại của phim tại Anh Quốc xuất hiện trên Channel 4, E4 và Comedy Central UK.Kênh truyền hình Ireland RTÉ Two là nơi đầu tiên tại châu Âu chiếu tập cuối vào ngày 24 tháng 5 năm 2004. Những người bạn mở đầu trên sóng truyền hình Úc vào năm 1996 trên Seven Network, khi bắt đầu chiếu mùa phim thứ hai vào năm 1997 cho đến tập cuối vào năm 2004. Network Ten thông báo vào tháng 11 năm 2007 đã mua lại bản quyền trình chiếu phim tại Úc, phát sóng vào các đêm hàng tuần lúc 7 giờ tối. Chương trình sau đó xuất hiện trên Nine Network, Network Ten, GEM và trên truyền hình trả phí TV Hits, 111 Hits. TV2 chiếu trọn 10 mùa phim tại New Zealand và tiếp tục chiếu lại. Tại Serbia, chương trình ban đầu trình chiếu trên RTV Pink, sau đó chuyển sang kênh B92.Vào năm 2003, một hãng phát hành phim Hàn Quốc tại Việt Nam từng đàm phán mua lại loạt phim này nhưng do phí bản quyền quá cao nên chào thua. Vào tháng 9 năm 2004, Đài truyền hình Việt Nam công chiếu 48 tập trong mùa 7 và 8 của Những người bạn trên kênh VTV3. Loạt phim phát lúc 18 giờ hàng ngày và thuyết minh tiếng Việt. Việc chiếu giữa chừng của đài nhận nhiều phản hồi gay gắt, khi "khiến người xem rất khó nắm bắt được nội dung câu chuyện, các mối quan hệ và nghề nghiệp của các nhân vật, dù [...] đã phát sóng hơn 10 tập. Thậm chí, vì chiếu lưng chừng nên người dịch cũng khó nắm bắt được câu chuyện, dẫn đến việc dịch phim gặp nhiều sơ suất".
Những người bạn bắt đầu trình chiếu tại Anh Quốc vào năm 1994 trên Channel 4; dù vậy, năm 1996, Sky1 đã mua lại bản quyền loạt phim này. Loạt phim phát lúc 18 giờ hàng ngày và thuyết minh tiếng Việt.
Những người bạn
Tất cả 10 mùa phim đều phát hành dưới dạng DVD riêng lẻ và dưới dạng bộ đĩa. Mỗi mùa phát hành tại khu vực 1 bao gồm các cảnh đặc biệt và tư liệu cắt từ loạt phim, dù trình chiếu gốc khi phát hành tại Khu vực 2. Trong mùa đầu, mỗi tập được cải tiến chỉnh màu và tăng cường âm thanh. Một lượng lớn các sản phẩm của Những người bạn được nhiều công ty sản xuất. Vào tháng 9 năm 1995, WEA Records phát hành album nhạc của Những người bạn đầu tiên, Friends Original TV Soundtrack, bao gồm âm nhạc sử dụng trong các tập đã thực hiện và trong tương lai. Nhạc phim mở đầu trên Billboard 200 tại vị trí thứ 46, và bán ra 500.000 bản trong tháng 11 năm 1995. Năm 1999, album nhạc phim thứ hai Friends Again ra mắt. Các sản phẩm nhượng quyền khác bao gồm phiên bản tiếng Pháp của DVD trò chơi "Scene It?" và video trò chơi câu đố trên PlayStation 2 và PC mang tựa đề Friends: The One with All the Trivia. Vào ngày 28 tháng 9 năm 2009, một bộ đĩa phát hành tại Anh Quốc nhân kỉ niệm 15 năm của loạt phim, với những tập bổ sung, một tập hướng dẫn và nội dung đặc biệt. Warner Home Video phát hành trọn bộ loạt phim dưới định dạng Blu-ray vào ngày 13 tháng 11 năm 2012.
Tất cả 10 mùa phim đều phát hành dưới dạng DVD riêng lẻ và dưới dạng bộ đĩa. Các sản phẩm nhượng quyền khác bao gồm phiên bản tiếng Pháp của DVD trò chơi "Scene It?"
Những người bạn
Vì mong muốn có một ban nhạc thực thụ thực hiện bài hát dạo đầu cho chương trình, Bright đưa ra nhiều cái tên như Natalie Merchant hay Michael Stipe từ nhóm R.E.M. nhưng cả hai đều từ chối. Là một người hâm mộ của The Rembrandts, Bright gọi đến quản lý của nhóm cùng nhã ý muốn hợp tác và nhóm đồng ý ngay lập tức. Dù The Rembrandts thường hay sáng tác âm nhạc của mình, họ lại có ít đóng góp trong bài hát "I'll Be There for You" cho Những người bạn. Đạo diễn âm nhạc Michael Skloff là người nghĩ ra giai điệu, trong khi Allee Willis cùng Kauffman và Crane sáng tác lời một đoạn nhạc 30 giây và phần điệp khúc. Danny Wilde từ nhóm The Rembrandts chia sẻ "Chúng tôi chỉ chỉnh lại đôi chút lời nhạc, Phil nghĩ ra đoạn guitar trứ danh đầu bài hát và chúng tôi trở lại vài ngày sau đó để thu âm phần thân và điệp khúc." Quá trình thực hiện diễn ra trong vòng 3 ngày.Trong thời gian bài hát lên sóng cùng chương trình trong mùa 1, The Rembrandts không được xuất hiện trong phần ghi danh. Từ khi loạt phim trở nên nổi tiếng, các đài phát thanh Hoa Kỳ nhận nhiều yêu cầu phát "nhạc nền phim Những người bạn", tuy bài hát chỉ dài có vỏn vẹn 40 giây và không đủ để phát hành làm một đĩa đơn. Sau khi các DJ tại trạm phát thanh Nashville phối bài hát thành một phiên bản bổ sung của riêng mình, hãng thu âm đã đề nghị nhóm đến thu âm bài hát dưới dạng đĩa đơn đầy đủ tại một phòng thu tại Los Angeles. Từ khi phát hành làm đĩa đơn, "I'll Be There for You" đạt đến vị trí thứ 17 trên Billboard Hot 100 và giữ ngôi quán quân trên các bảng xếp hạng Hoa Kỳ trong 11 tuần liên tiếp. Bài hát tiếp tục được hãng thu âm đưa vào album phòng thu thứ 3 đạt chứng nhận Bạch kim của nhóm, L.P. (1995).
Vì mong muốn có một ban nhạc thực thụ thực hiện bài hát dạo đầu cho chương trình, Bright đưa ra nhiều cái tên như Natalie Merchant hay Michael Stipe từ nhóm R.E.M. nhưng cả hai đều từ chối.
Những người bạn
Sau tập cuối vào năm 2004, LeBlanc ký hợp đồng cho loạt phim ngoại truyện Joey, theo chân nhân vật Joey đến Los Angeles để theo đuổi nghiệp diễn viên. Kauffman và Crane không có hứng thú với phiên bản ngoại truyện, dù Bright đồng ý đồng sản xuất loạt phim cùng Scott Silveri và Shana Goldberg-Meehan. NBC tăng cường quảng bá cho Joey và đưa phim vào khung giờ cũ vào lúc 8 giờ của Những người bạn. Tập phim đầu tiên theo dõi bởi 18.60 triệu khán giả, nhưng tỉ lệ người xem tiếp tục giảm trong hai mùa phim, với trung bình 10.20 triệu người xem trong mùa đầu và 7.10 triệu người xem trong mùa cuối. Tập cuối của phim chiếu vào ngày 7 tháng 3 năm 2006 với 7.09 triệu khán giả; và bị NBC dừng phát sóng vào ngày 15 tháng 5 năm 2006 chỉ sau 2 mùa. Bright đổ lỗi cho sự hợp tác giữa nhân viên NBC, xưởng phim và các nhà sản xuất vì sớm phá hủy loạt phim:
Sau tập cuối vào năm 2004, LeBlanc ký hợp đồng cho loạt phim ngoại truyện Joey, theo chân nhân vật Joey đến Los Angeles để theo đuổi nghiệp diễn viên. Bright đổ lỗi cho sự hợp tác giữa nhân viên NBC, xưởng phim và các nhà sản xuất vì sớm phá hủy loạt phim:
Những người bạn
Trong Những người bạn, Joey là một gã lăng nhăng, nhưng ta cảm mến sự khai thác về anh ta. Anh ta là một người bạn đáng quý, một chàng trai mà bạn biết có thể dựa dẫm vào. Joey sau đó bị mổ xẻ thành một chàng trai thất nghiệp, không thể cưa cẩm được một cô gái. Anh ta trở nên lâm ly và bi đát. Tôi cảm thấy anh ấy bị chuyển hướng sai, nhưng tôi lại không được nghe gì.
Trong Những người bạn, Joey là một gã lăng nhăng, nhưng ta cảm mến sự khai thác về anh ta. Anh ta trở nên lâm ly và bi đát.
Những người bạn
Sau khi kết thúc tập cuối, nhiều tin đồn nổi lên về một bộ phim điện ảnh Những người bạn, cho dù chúng đều được chứng minh là sai. Tin đồn về một bộ phim quay trở lại sau khi Sex and the City phát hành vào năm 2008 và đạt thành công về thương mại. Tờ The Daily Telegraph loan tin các diễn viên chính đã đồng tình tham gia vào dự án điện ảnh vào năm 2008 và dự kiến bấm máy trong vòng 18 tháng tới. Khi được hỏi về bộ phim, Kudrow chia sẻ mình không để ý đến câu chuyện nhưng cảm thấy ý tưởng trên rất thú vị. Đạo diễn công khai của hãng Warner Bros., Jayne Trotman, cho rằng "câu chuyện này không đáng tin", và nữ đại diện cho Perry phát biểu rằng "không có điều gì diễn ra như thế, vậy nên tin đồn là sai sự thật." Nhà đồng sáng lập Marta Kauffman chối bỏ những tin đồn tái hợp vào năm 2003, cho rằng "Những người bạn nói về thời gian khi bạn bè là gia đình của bạn và một khi đã có gia đình, ta không cần đến nó nữa." Kudrow và Cox chia sẻ cùng Associated Press vào tháng 1 năm 2010 rằng họ chưa hề tìm đến Crane và Kauffman để thực hiện phiên bản điện ảnh của loạt phim. Đến đầu năm 2020, lần lượt 6 diến viên thủ vai chính trong bộ phim đăng hình ảnh phim trên mạng xã hội với chú thích: "It's happening." (dịch: "Chuyện ấy đang xảy ra.") (riêng LeBlanc lại đăng một bức ảnh khác với ý nghĩa đùa vui) và tag tên nhà đài hiện đang sở hữu bản quyền Những người bạn trực tuyến là HBO Max, làm nhiều người hâm mộ tin rằng sẽ có một phiên bản tái hợp của các thành viên trong tương lai gần.
Sau khi kết thúc tập cuối, nhiều tin đồn nổi lên về một bộ phim điện ảnh Những người bạn, cho dù chúng đều được chứng minh là sai. Tờ The Daily Telegraph loan tin các diễn viên chính đã đồng tình tham gia vào dự án điện ảnh vào năm 2008 và dự kiến bấm máy trong vòng 18 tháng tới.
Cam
Cam là một loại quả của nhiều loài cây có múi khác nhau thuộc họ Cửu lý hương (Rutaceae) (xem danh sách các loài thực vật được gọi là cam); nó chủ yếu đề cập đến Citrus × sinensis, mà còn được gọi là cam ngọt, để phân biệt với Citrus × aurantium có liên quan, được gọi là cam chua. Cam ngọt sinh sản vô tính (apomixis thông qua phôi nucellar); giống cam ngọt phát sinh do đột biến.Cam là trái lai từ quả chanh và quả bưởi. Bộ gen lục lạp, và do đó là dòng ngoại, là bộ gen của bưởi. Quả cam ngọt đã có trình tự bộ gen đầy đủ.Cam có nguồn gốc ở một khu vực bao gồm Nam Trung Quốc, Đông Bắc Ấn Độ và Myanmar, và người ta nhắc đến cam ngọt sớm nhất trong văn học Trung Quốc vào năm 314 trước Công nguyên. Tính đến năm 1987, cây cam được coi là cây ăn quả được trồng nhiều nhất trên thế giới. Cây cam được trồng rộng rãi ở các vùng khí hậu nhiệt đới và cận nhiệt đới để cho quả ngọt. Quả của cây cam có thể ăn tươi hoặc chế biến lấy nước cốt hoặc vỏ thơm. Tính đến năm 2012, cam ngọt chiếm khoảng 70% sản lượng cam quýt.Năm 2019, 79 triệu tấn cam đã được trồng trên toàn thế giới, trong đó Brasil sản xuất 22% tổng số, tiếp theo là Trung Quốc và Ấn Độ.
Cam là một loại quả của nhiều loài cây có múi khác nhau thuộc họ Cửu lý hương (Rutaceae) (xem danh sách các loài thực vật được gọi là cam); nó chủ yếu đề cập đến Citrus × sinensis, mà còn được gọi là cam ngọt, để phân biệt với Citrus × aurantium có liên quan, được gọi là cam chua. Quả cam ngọt đã có trình tự bộ gen đầy đủ.Cam có nguồn gốc ở một khu vực bao gồm Nam Trung Quốc, Đông Bắc Ấn Độ và Myanmar, và người ta nhắc đến cam ngọt sớm nhất trong văn học Trung Quốc vào năm 314 trước Công nguyên.
Cam
Cam được trồng rộng rãi ở những nơi có khí hậu ấm áp, và vị cam có thể biến đổi từ ngọt đến chua. Cam thường lột vỏ và ăn lúc còn tươi, hay vắt lấy nước. Vỏ cam dày, có vị đắng, thường bị vứt đi nhưng có thể chế biến thành thức ăn cho súc vật bằng cách rút nước bằng sức ép và hơi nóng. Nó cũng được dùng làm gia vị hay đồ trang trí trong một số món ăn. Lớp ngoài cùng của vỏ có thể được dùng làm "zest" để thêm hương vị cam vào thức ăn. Phần trắng của vỏ cam là một nguồn pectin.
Cam được trồng rộng rãi ở những nơi có khí hậu ấm áp, và vị cam có thể biến đổi từ ngọt đến chua. Nó cũng được dùng làm gia vị hay đồ trang trí trong một số món ăn.
Cam
Dầu cam, được chế biến bằng cách ép vỏ. Nó được dùng làm gia vị trong thực phẩm và làm hương vị trong nước hoa. Dầu cam có khoảng 90% d-Limonene, một dung môi dùng trong nhiều hóa chất dùng trong gia đình, cùng với dầu chanh dùng để làm chất tẩy dầu mỡ và tẩy rửa nói chung. Chất tẩy rửa từ tinh chất cam hiệu quả, thân thiện với môi trường, và ít độc hại hơn sản phẩm cất từ dầu mỏ, đồng thời có mùi dễ chịu hơn.
Dầu cam, được chế biến bằng cách ép vỏ. Chất tẩy rửa từ tinh chất cam hiệu quả, thân thiện với môi trường, và ít độc hại hơn sản phẩm cất từ dầu mỏ, đồng thời có mùi dễ chịu hơn.
Dâu tây
Dâu tây (danh pháp khoa học: Fragaria × ananassa) là một chi thực vật hạt kín và là loài thực vật có hoa thuộc họ Hoa hồng (Rosaceae). Dâu tây xuất xứ từ châu Mỹ và được các nhà làm vườn châu Âu cho lai tạo vào thế kỷ 18 để tạo nên giống dâu tây được trồng rộng rãi hiện nay. Loài này được (Weston) Duchesne miêu tả khoa học đầu tiên năm 1788. Loại quả này được nhiều người đánh giá cao nhờ hương thơm đặc trưng, màu đỏ tươi, mọng nước và vị ngọt. Nó được tiêu thụ với số lượng lớn, hoặc được tiêu thụ dưới dạng dâu tươi hoặc được chế biến thành mứt, nước trái cây, bánh nướng, kem, sữa lắc và sôcôla. Nguyên liệu và hương liệu dâu nhân tạo cũng được sử dụng rộng rãi trong các sản phẩm như kẹo, xà phòng, son bóng, nước hoa, và nhiều loại khác.
Dâu tây (danh pháp khoa học: Fragaria × ananassa) là một chi thực vật hạt kín và là loài thực vật có hoa thuộc họ Hoa hồng (Rosaceae). Nguyên liệu và hương liệu dâu nhân tạo cũng được sử dụng rộng rãi trong các sản phẩm như kẹo, xà phòng, son bóng, nước hoa, và nhiều loại khác.
Dâu tây
Dâu tây lần đầu tiên được trồng ở Brittany, Pháp vào năm 1750 thông qua một cây giống Fragaria virginiana từ Đông Bắc Mỹ và một cây Fragaria chiloensis thuộc giống được mang đến từ Chile bởi Amédée-François Frézier vào năm 1714. Giống cây lai Fragaria × ananassa thay thế giống dâu rừng (Fragaria vesca) trong sản xuất thương mại, là loài dâu đầu tiên được trồng vào đầu thế kỷ 17.Theo quan điểm thực vật học, dù có tên tiếng Anh là "strawberry", dâu tây không phải là một "berry" (quả mọng). Về mặt kỹ thuật, nó là một loại hoa quả giả tụ, có nghĩa là phần cái để ăn có nguồn gốc không phải từ quả tụ mà từ đế hoa. Mỗi "hạt" (quả bế) rõ ràng ở bên ngoài của quả thực sự là một trong các bầu nhụy của hoa, với một hạt bên trong.Năm 2017, sản lượng dâu tây trên thế giới là 9,22 triệu tấn, dẫn đầu là Trung Quốc chiếm 40% tổng sản lượng.Dâu tây thường được trồng lấy trái ở vùng ôn đới. Ở Việt Nam, khí hậu mát mẻ của miền núi Đà Lạt là môi trường thích hợp với việc canh tác dâu, nên loại trái cây này được xem là đặc sản của vùng cao nguyên nơi đây.
Dâu tây lần đầu tiên được trồng ở Brittany, Pháp vào năm 1750 thông qua một cây giống Fragaria virginiana từ Đông Bắc Mỹ và một cây Fragaria chiloensis thuộc giống được mang đến từ Chile bởi Amédée-François Frézier vào năm 1714. Giống cây lai Fragaria × ananassa thay thế giống dâu rừng (Fragaria vesca) trong sản xuất thương mại, là loài dâu đầu tiên được trồng vào đầu thế kỷ 17.Theo quan điểm thực vật học, dù có tên tiếng Anh là "strawberry", dâu tây không phải là một "berry" (quả mọng).
Dâu tây
Quả dâu tây đã được đề cập trong văn học La Mã cổ đại liên quan đến công dụng chữa bệnh của nó. Người Pháp bắt đầu đưa dâu tây từ rừng về vườn để trồng và thu hoạch quả vào thế kỷ 14. Charles V, vua của Pháp từ năm 1364 đến năm 1380 có 1.200 cây dâu tây trong vườn thượng uyển của mình. Vào đầu thế kỷ 15, tăng lữ Tây Âu đã sử dụng dâu rừng trong các bản thảo được minh họa của họ. Hình ảnh quả dâu tây được tìm thấy trong nghệ thuật Ý, Vlaanderen và Đức và trong các bức tranh thu nhỏ của Anh. Cây dâu tây cũng được sử dụng để điều trị bệnh trầm cảm.
Quả dâu tây đã được đề cập trong văn học La Mã cổ đại liên quan đến công dụng chữa bệnh của nó. Cây dâu tây cũng được sử dụng để điều trị bệnh trầm cảm.
Dâu tây
Món ăn kết hợp giữa dâu tây và kem được Thomas Wolsey, người phục vụ trong triều đình của Vua Henry VIII tạo ra. Tài liệu hướng dẫn trồng và thu hoạch dâu tây được xuất bản vào năm 1578. Vào cuối thế kỷ 16, ba loài dâu ở châu Âu đã được trích dẫn: F. vesca, F. moschata, và F. viridis. Dâu tây được cấy ghép từ dâu rừng và sau đó cây sẽ được nhân giống vô tính bằng cách cắt bỏ các rễ cây.
Món ăn kết hợp giữa dâu tây và kem được Thomas Wolsey, người phục vụ trong triều đình của Vua Henry VIII tạo ra. Dâu tây được cấy ghép từ dâu rừng và sau đó cây sẽ được nhân giống vô tính bằng cách cắt bỏ các rễ cây.
Dâu tây
Hai phân loài của F. vesca đã được xác định: F. sylvestris alba và F. sylvestris semperflorens. Sự du nhập của F. virginiana từ Đông Bắc Mỹ đến Châu Âu vào thế kỷ 17 là một phần quan trọng của lịch sử dâu tây vì nó là một trong hai loài phát sinh ra giống dâu tây hiện đại. Các loài mới dần dần lan rộng khắp lục địa dù không hoàn toàn được đánh giá cao mãi cho đến cuối thế kỷ 18. Một chuyến du ngoạn của một người Pháp đến Chile vào năm 1712, dẫn đến sự ra đời của một loại cây dâu tây có hoa cái, kết quả là loại dâu tây phổ biến như chúng ta biết ngày nay.
Hai phân loài của F. vesca đã được xác định: F. sylvestris alba và F. sylvestris semperflorens. Các loài mới dần dần lan rộng khắp lục địa dù không hoàn toàn được đánh giá cao mãi cho đến cuối thế kỷ 18.
Dâu tây
Thổ dân da đỏ Mapuche và Huilliche ở Chile đã trồng các loài dâu có hoa cái cho đến năm 1551 thì người Tây Ban Nha đến chinh phục vùng đất này. Năm 1765, một nhà thám hiểm người châu Âu đã ghi lại việc trồng trọt F. chiloensis, một loại dâu tây Chile. Lúc ban đầu khi du nhập vào châu Âu, chúng phát triển mạnh mẽ nhưng không ra quả. Vào khoảng giữa thế kỷ 18, những nhà làm vườn người Pháp ở Brest và Cherbourg lần đầu tiên nhận thấy rằng khi giống F. moschata và F. virginiana được trồng giữa các hàng F. chiloensis thì dâu tây Chile sẽ cho nhiều quả và kích thước to bất thường. Ngay sau đó, Antoine Nicolas Duchesne bắt tay vào nghiên cứu nhân giống dâu tây và thực hiện một số khám phá quan trọng đối với khoa học nhân giống cây trồng đối với loài này, chẳng hạn như sinh sản hữu tính của dâu tây mà ông công bố năm 1766. Duchesne phát hiện ra rằng F. chiloensis cái chỉ có thể được thụ phấn bởi F. moschata và F. virginiana đực. Đây là khi người châu Âu biết rằng thực vật có khả năng ra hoa chỉ đực hoặc hoa cái.
Thổ dân da đỏ Mapuche và Huilliche ở Chile đã trồng các loài dâu có hoa cái cho đến năm 1551 thì người Tây Ban Nha đến chinh phục vùng đất này. Ngay sau đó, Antoine Nicolas Duchesne bắt tay vào nghiên cứu nhân giống dâu tây và thực hiện một số khám phá quan trọng đối với khoa học nhân giống cây trồng đối với loài này, chẳng hạn như sinh sản hữu tính của dâu tây mà ông công bố năm 1766.
Dâu tây
Duchesne xác định F. ananassa là con lai giữa F. chiloensis và F. virginiana. F. ananassa, loài cho quả lớn, được đặt tên như vậy vì nó giống dứa về mùi, vị và hình dạng quả mọng. Ở Anh, nhiều giống F. ananassa đã được sản xuất, và chúng là cơ sở của các giống dâu tây hiện đại hiện đang được trồng và tiêu thụ. Việc nhân giống khác cũng được tiến hành ở Châu Âu và Châu Mỹ để cải thiện độ cứng, khả năng kháng bệnh, kích thước và hương vị của dâu tây.
Duchesne xác định F. ananassa là con lai giữa F. chiloensis và F. virginiana. Việc nhân giống khác cũng được tiến hành ở Châu Âu và Châu Mỹ để cải thiện độ cứng, khả năng kháng bệnh, kích thước và hương vị của dâu tây.
Dâu tây
Dâu tây thường được phân nhóm theo thói quen nở hoa. Thông thường, việc phân nhóm bao gồm sự phân chia giữa dâu tây "mang trái vào Tháng 6", chúng ra quả vào đầu mùa hè và dâu tây "từng ra quả" ("ever-bearing"), thường ra quả vài vụ trong suốt mùa. Một cây trong suốt một mùa có thể ra hoa từ 50 đến 60 lần hoặc khoảng ba ngày một lần.Một nghiên cứu được công bố vào năm 2001 cho thấy dâu tây thực sự có ba thói quen ra hoa cơ bản: ngắn ngày, dài ngày và trung tính. Những điều này liên quan đến độ nhạy kéo dài trong nhiều ngày của cây và quang kỳ dẫn đến sự hình thành hoa. Các giống cây 'trung tính - ban ngày' thì ra hoa không phụ thuộc vào quang kỳ.
Dâu tây thường được phân nhóm theo thói quen nở hoa. Thông thường, việc phân nhóm bao gồm sự phân chia giữa dâu tây "mang trái vào Tháng 6", chúng ra quả vào đầu mùa hè và dâu tây "từng ra quả" ("ever-bearing"), thường ra quả vài vụ trong suốt mùa.
Dâu tây
Các giống dâu tây rất đa dạng về kích thước, màu sắc, hương vị, hình dạng, mức độ sinh sản, mùa chín quả, khả năng mắc bệnh và cấu tạo của cây. Một quả dâu tây có trung bình 200 hạt trên vỏ ngoài của nó. Một số khác nhau về tán lá, và một số khác nhau quá trình phát triển các cơ quan sinh sản. Hầu hết hoa của các giống trồng có cấu trúc lưỡng tính nhưng có chức năng như hoa đực hoặc hoa cái.Đối với mục đích trồng để sản xuất thương mại, cây được nhân giống từ kết nối ngang, được trồng dưới dạng cây rễ trần hoặc cây cắm. Việc canh tác tuân theo một trong hai mô hình chung - canh tác nhựa hóa (phủ kín nhựa bọc lên líp trồng), hoặc hệ thống hàng hoặc gò trồng lâu năm theo hàng (líp trồng) hoặc ụ đất. Các vườn dâu nhà kính sản xuất một lượng nhỏ dâu tây trong thời kỳ trái vụ.Phần lớn sản xuất dâu tây thương mại hiện đại sử dụng hệ thống trồng nhựa hóa. Theo phương pháp này, luống trồng được tái tạo lại hàng năm, tẩy trùng và phủ nhựa bọc để ngăn cỏ dại phát triển và xói mòn mô đất. Cây trồng thường lấy từ các vườn ươm, được trồng tại vị trí lỗ đục xuyên qua lớp nhựa phủ đất bọc kín hàng trồng, và ống tưới được đặt sát bề mặt bên dưới. Cây trồng trổ đọt non được loại bỏ hết phần đọt khỏi cây khi chúng xuất hiện, để giúp cây trồng tập trung phần lớn dinh dưỡng vào sự phát triển của quả. Vào cuối mùa thu hoạch, tiến hành loại bỏ nhựa bọc mô trồng và cây được bứng lên. Vì cây dâu tây hơn một hoặc hai năm tuổi bắt đầu giảm năng suất và chất lượng quả, việc nhổ và trồng lại cây mới mỗi năm cho phép cải thiện năng suất và dày đặc quả hơn. Tuy nhiên do việc này đòi hỏi một mùa sinh trưởng dài hơn để tạo điều kiện cho cây trồng mỗi năm, và do chi phí nhựa bọc và cây giống để trồng mới hàng năm tăng lên, nên không phải lúc nào cũng có thể dễ dàng thực hiện ở mọi khu vực trồng dâu.Phương pháp chính khác là sử dụng cùng một loại cây dâu để trồng từ năm này qua năm khác, trồng chúng thành hàng hoặc trên gò, phổ biến nhất ở những vùng khí hậu lạnh hơn. Nó có chi phí đầu tư thấp hơn và yêu cầu chăm sóc cây tổng thể thấp hơn. Năng suất thường thấp hơn so với trồng dâu phủ nhựa bọc.Một phương pháp khác sử dụng chậu trồng phân hữu cơ. Cây trồng kiểu này đã được chứng minh là sản xuất flavonoid, anthocyanin, fructose, glucose, sucrose, malic acid, và citric acid nhiều hơn so với các cách khác. Kết quả tương tự trong một nghiên cứu trước đó do Bộ Nông nghiệp Hoa Kỳ thực hiện cũng đã xác nhận cách canh tác này, và việc nó đóng vai trò như thế nào đối với các phẩm chất hoạt tính sinh học của hai giống dâu tây.Dâu tây cũng có thể được nhân giống bằng hạt, mặc dù chỉ là thói quen của một số người trồng và không được phổ biến trong việc canh tác dâu tây. Một số giống cây trồng nhân giống bằng hạt đã được phát triển để sử dụng cho các hộ gia đình trồng dâu, và việc nghiên cứu trồng thương mại từ hạt giống đang được tiến hành. Hạt giống (achenes) được mua thông qua các nhà cung cấp hạt giống thương mại, hoặc bằng cách tự thu thập và lưu trữ hạt của chúng từ quả.
Các giống dâu tây rất đa dạng về kích thước, màu sắc, hương vị, hình dạng, mức độ sinh sản, mùa chín quả, khả năng mắc bệnh và cấu tạo của cây. Một số giống cây trồng nhân giống bằng hạt đã được phát triển để sử dụng cho các hộ gia đình trồng dâu, và việc nghiên cứu trồng thương mại từ hạt giống đang được tiến hành.
Dâu tây
Hầu hết các giống dâu tây hiện nay đều được bón phân nhân tạo, cả trước và sau khi thu hoạch, và thường được bón trước khi trồng bằng phương pháp phủ màng nhựa.Để duy trì quả đạt chất lượng cao, quả mọng được thu hoạch cách ngày. Các quả mọng được chọn với nắp cuống vẫn còn dính và còn ít nhất là nửa inch phần cuống. Dâu tây cần phải ở trên cây để chín hoàn toàn vì quả của chúng sẽ không chín sau khi được hái. Những quả chín quá mức và bị thối được loại bỏ để giảm thiểu các vấn đề về côn trùng và bệnh tật. Cho đến trước khi tiêu thụ quả mọng không được rửa sạch.
Hầu hết các giống dâu tây hiện nay đều được bón phân nhân tạo, cả trước và sau khi thu hoạch, và thường được bón trước khi trồng bằng phương pháp phủ màng nhựa.Để duy trì quả đạt chất lượng cao, quả mọng được thu hoạch cách ngày. Các quả mọng được chọn với nắp cuống vẫn còn dính và còn ít nhất là nửa inch phần cuống.
Dâu tây
Thông tin kiểm tra đất trồng và kết quả phân tích thực vật được sử dụng để xác định việc thực hành về khả năng sinh sản. Cần bón phân đạm vào đầu thời điểm trồng hằng năm. Thường phải bón phân đủ lượng phosphor và kali để đạt năng suất cao nhất. Để cung cấp thêm chất hữu cơ, thường sẽ có thêm một vụ trồng lúa mì hoặc lúa mạch đen vào mùa đông trước khi trồng dâu tây. Dâu tây ưa độ pH từ 5,5 đến 6,5 nên thường không được bón vôi.Quá trình thu hoạch và dọn vườn về cơ bản không thay đổi theo thời gian. Những trái dâu tây mỏng manh được thu hoạch bằng tay. Việc phân loại và đóng gói thường tiến hành tại vườn hơn là trong cơ sở chế biến. Trong các hoạt động thu hoạch quy mô lớn, dâu tây được làm sạch bằng nước và băng tải lắc.
Thông tin kiểm tra đất trồng và kết quả phân tích thực vật được sử dụng để xác định việc thực hành về khả năng sinh sản. Dâu tây ưa độ pH từ 5,5 đến 6,5 nên thường không được bón vôi.Quá trình thu hoạch và dọn vườn về cơ bản không thay đổi theo thời gian.
Dâu tây
Dâu tây có thể bị một số bệnh thực vật, đặc biệt là khi bị căng thẳng. Lá cây có thể bị nhiễm bệnh phấn trắng, đốm lá (do nấm Sphaerella fragariae gây ra), cháy lá (do nấm Phomopsis obscurans) và nhiễm nhiều loại nấm mốc. Thân và rễ có thể bị nấm mốc đỏ, nấm verticillium, nấm Thielaviopsis và giun tròn. Quả bị mốc xám, nấm hoại sinh rhizopus, và thối vỏ. Để ngăn ngừa thối rễ, dâu tây nên được trồng trên luống mới ở vị trí khác bốn đến năm năm một lần.Cây cũng có thể phát sinh bệnh trong mùa đông do nhiệt độ khắc nghiệt. Khi tưới dâu tây, người ta khuyên chỉ nên tưới vào rễ chứ không tưới lên lá vì độ ẩm trên lá sẽ khuyến khích nấm phát triển.Quả dâu tây cũng có thể dính liền với nhau hoặc bị biến dạng do các nguyên nhân như thụ phấn kém.
Dâu tây có thể bị một số bệnh thực vật, đặc biệt là khi bị căng thẳng. Quả bị mốc xám, nấm hoại sinh rhizopus, và thối vỏ.
Dâu tây
Dâu tây chứa agrimoniin ellagitannin dimeric, là một đồng phân của sanguiin H-6. Các polyphenol khác bao gồm flavonoid, chẳng hạn như anthocyanins, flavanols-3, flavonols và axit phenolic chẳng hạn như axit hydroxybenzoic và axit hydroxycinnamic. Dâu tây chứa fisetin và có hàm lượng flavonoid cao hơn các loại trái cây khác. Mặc dù achenes chỉ chiếm khoảng 1% tổng trọng lượng tươi của một quả dâu tây, chúng đóng góp 11% tổng số polyphenol có trong toàn bộ quả; Thành phần hóa học achene bao gồm axit ellagic, glycoside axit ellagic và ellagitannin.
Dâu tây chứa agrimoniin ellagitannin dimeric, là một đồng phân của sanguiin H-6. Dâu tây chứa fisetin và có hàm lượng flavonoid cao hơn các loại trái cây khác.
Dâu tây
Vì hương vị và hương thơm dâu tây là những đặc điểm có thể thu hút người tiêu dùng, dâu tây được sử dụng rộng rãi trong nhiều ngành sản xuất, bao gồm thực phẩm, đồ uống, bánh kẹo, nước hoa và mỹ phẩm.Vị ngọt, hương thơm và hương vị phức hợp là những thuộc tính của dâu tây. Trong trồng trọt và chăm sóc, người ta chú trọng đến đường, axit và các hợp chất dễ bay hơi , giúp cải thiện mùi vị và hương thơm của quả dâu tây khi chín. Este, tecpen và furan là những hợp chất hóa học có mối quan hệ chặt chẽ nhất với hương vị và mùi thơm dâu tây, 31 trong tổng số 360 hợp chất dễ bay hơi có liên quan đáng kể đến hương vị và mùi thơm. Trong việc nhân giống dâu tây cho thị trường thương mại ở Hoa Kỳ, các hợp chất dễ bay hơi, metyl anthranilate và gamma-decalactone nổi bật trong dâu tây rừng thơm, được ưa chuộng vì đặc tính hương thơm "ngọt ngào và vị trái cây" của chúng.Các thành phần hóa học có trong hương thơm của dâu tây bao gồm:
Vì hương vị và hương thơm dâu tây là những đặc điểm có thể thu hút người tiêu dùng, dâu tây được sử dụng rộng rãi trong nhiều ngành sản xuất, bao gồm thực phẩm, đồ uống, bánh kẹo, nước hoa và mỹ phẩm.Vị ngọt, hương thơm và hương vị phức hợp là những thuộc tính của dâu tây. Este, tecpen và furan là những hợp chất hóa học có mối quan hệ chặt chẽ nhất với hương vị và mùi thơm dâu tây, 31 trong tổng số 360 hợp chất dễ bay hơi có liên quan đáng kể đến hương vị và mùi thơm.
Dâu tây
Có trên 20 loài dâu tây khác nhau trên khắp thế giới. Chìa khóa để phân loại các loài dâu tây dựa trên số lượng nhiễm sắc thể của chúng. Có 7 kiểu nhiễm sắc thể cơ bản mà tất cả chúng đều có điểm chung. Tuy nhiên, chúng thể hiện tính đa bội khác nhau. Một số loài là lưỡng bội, có 2 tập chứa 7 nhiễm sắc thể (2n = 14). Các loài khác là tứ bội (4 tập, 4n = 28), lục bội (6 tập, 6n = 42), bát bội (8 tập, 8n = 56) hay thập bội (10 tập, 10n = 70).
Có trên 20 loài dâu tây khác nhau trên khắp thế giới. Có 7 kiểu nhiễm sắc thể cơ bản mà tất cả chúng đều có điểm chung.
Hoa hồng
Hồng hay hường là tên gọi chung cho các loài thực vật có hoa dạng cây bụi hoặc cây leo lâu năm thuộc chi Rosa, họ Rosaceae, với hơn 100 loài với màu hoa đa dạng, phân bố từ miền ôn đới đến nhiệt đới. Các loài này nổi tiếng vì hoa đẹp nên thường gọi là hoa hồng. Phần lớn có nguồn gốc từ bản địa châu Á, số ít còn lại có nguồn gốc bản địa từ châu Âu, Bắc Mỹ và Tây Bắc Phi. Các loài bản địa, giống cây trồng và cây lai ghép đều được trồng làm cảnh và lấy hương thơm và được làm quà.
Hồng hay hường là tên gọi chung cho các loài thực vật có hoa dạng cây bụi hoặc cây leo lâu năm thuộc chi Rosa, họ Rosaceae, với hơn 100 loài với màu hoa đa dạng, phân bố từ miền ôn đới đến nhiệt đới. Các loài này nổi tiếng vì hoa đẹp nên thường gọi là hoa hồng.
Hoa hồng
Đây là các cây bụi mọc đứng hoặc mọc leo, thân và cành có gai. Lá kép lông chim sẻ, lá chét khía răng, có lá kèm. Hoa thơm, màu sắc đa dạng: hồng, trắng, vàng hay đỏ... Hoa thường có nhiều cánh do nhị đực biến thành. Đế hoa hình chén. Quả bế, tụ nhau trong đế hoa tôn dày lên thành quả.có mùi thơm đặc trưng
Đây là các cây bụi mọc đứng hoặc mọc leo, thân và cành có gai. Hoa thơm, màu sắc đa dạng: hồng, trắng, vàng hay đỏ... Hoa thường có nhiều cánh do nhị đực biến thành.
Hoa hồng
Trong văn hóa phương Tây, hoa hồng, bởi sự tương hợp với màu máu chảy, thường xuất hiện như là biểu tượng của sự phục sinh huyền bí. Abd Ul Kadir Gilani so sánh hoa hồng với những vết sẹo trên cơ thể sống, trong khi đó F. Portal quan niệm hoa hồng vào màu hồng hợp thành một biểu tượng của sự tái sinh do có quan hệ gần gũi ngữ nghĩa của từ latinh rosa (hoa hồng) với ros (mưa, sương). Với người Hy Lạp hoa hồng vốn là một loài hoa màu trắng, nhưng khi Adonis bị tử thương, nữ thần Aphrodite chạy đến cứu chàng đã bị đâm phải một cái gai và máu đã nhuộm thẫm những bông hồng cung tiến nàng. Chính ý nghĩa biểu trưng về sự tái sinh đã khiến con người, từ thời cổ đại, đặt những bông hồng lên các nấm mộ, và Hecate, nữ thần âm phủ đôi khi được thể hiện với hình ảnh đầu quấn một vòng hoa hồng có 5 lá.
Trong văn hóa phương Tây, hoa hồng, bởi sự tương hợp với màu máu chảy, thường xuất hiện như là biểu tượng của sự phục sinh huyền bí. Chính ý nghĩa biểu trưng về sự tái sinh đã khiến con người, từ thời cổ đại, đặt những bông hồng lên các nấm mộ, và Hecate, nữ thần âm phủ đôi khi được thể hiện với hình ảnh đầu quấn một vòng hoa hồng có 5 lá.
Chi Lay ơn
Chi Lay ơn có khoảng 260 loài, trong đó 250 loài có nguồn gốc từ vùng châu Phi hạ Sahara, phần lớn xuất xứ từ Nam Phi. Khoảng 10 loài có xuất xứ Âu-Á. Có 160 loài lay ơn đặc hữu của Nam Phi và 76 loài ở vùng nhiệt đới châu Phi. Các loài đa dạng, từ kích thước rất nhỏ đến khổng lồ, thường thấy trong thương mại.
Chi Lay ơn có khoảng 260 loài, trong đó 250 loài có nguồn gốc từ vùng châu Phi hạ Sahara, phần lớn xuất xứ từ Nam Phi. Khoảng 10 loài có xuất xứ Âu-Á.
Chi Lay ơn
Các loài thảo mộc quyến rũ sống lưu niên này là bán chịu hạn tại các vùng có khí hậu ôn hòa. Chúng phát triển từ thân hình tròn, đối xứng, bao xung quanh bằng các lớp vỏ màu hơi nâu, và có thớ sợi. Thân cây nói chung không có nhánh, chỉ có từ 1-9 lá nhỏ hình lưỡi kiếm, có gân sọc viền ngoài và được bao trong vỏ bọc ngoài. Lá thấp nhất là lá mầm. Phiến lá có thể phẳng hoặc có hình chữ thập.
Các loài thảo mộc quyến rũ sống lưu niên này là bán chịu hạn tại các vùng có khí hậu ôn hòa. Phiến lá có thể phẳng hoặc có hình chữ thập.
Chi Lay ơn
Các cụm hoa thơm ngát gồm những bông hoa lớn, lưỡng tính xếp thành một phía, có 2 lá bắc màu xanh, dai, mọc đối diện nhau. Đài hoa và cánh hoa hầu có vẻ ngoài giống nhau. Chúng hợp nhất tại đế thành một cấu trúc hình ống và được gọi chung là lá đài. Lá đài sống lưng là lớn nhất, bao quanh 3 nhị. 3 lá đài ở ngoài có kích thước nhỏ hơn. Bao hoa có dạng hình phễu, gắn với nhị ở đáy. Vòi nhụy có ba nhánh dạng chỉ, hình thìa, mỗi nhánh trải rộng về phía đỉnh.
Các cụm hoa thơm ngát gồm những bông hoa lớn, lưỡng tính xếp thành một phía, có 2 lá bắc màu xanh, dai, mọc đối diện nhau. Vòi nhụy có ba nhánh dạng chỉ, hình thìa, mỗi nhánh trải rộng về phía đỉnh.
Chi Lay ơn
Bầu nhụy là dạng quả nang 3 ngăn hình thuôn hoặc hình cầu, chứa nhiều hạt có lông màu nâu và nứt theo chiều dọc. Tại tâm của chúng là cấu trúc dễ thấy giống như cục nhỏ đặc trưng, là hạt thật sự không có lớp vỏ bọc mịn. Tại một số hạt cấu trúc này bị nhăn và có màu đen. Những hạt như vậy không thể nảy mầm.
Bầu nhụy là dạng quả nang 3 ngăn hình thuôn hoặc hình cầu, chứa nhiều hạt có lông màu nâu và nứt theo chiều dọc. Tại tâm của chúng là cấu trúc dễ thấy giống như cục nhỏ đặc trưng, là hạt thật sự không có lớp vỏ bọc mịn.
Chi Lay ơn
Lay ơn được lai ghép rất phổ biến, phục vụ cho việc trang trí vì có màu sắc rất phong phú. Những nhóm được ghép thông qua sự thụ phấn chéo giữa 4 hoặc 5 loài, tiếp theo là bằng chọn lọc, theo các tiêu chuẩn: Grandiflorus (tức là độ lớn của hoa, theo nghĩa La tinh), Primuline (màu sắc có chứa vòng benzothiazole, còn được biết tới như là Direct Yellow 7, Carnotine hoặc C.I. 49010) và Nanus (đặc tính lùn do di truyền). Chúng tạo ra những bông hoa được cắt tỉa rất tốt. Tuy nhiên, do chiều cao, cây trồng thường hay bị đổ rạp khi có gió lớn.
Lay ơn được lai ghép rất phổ biến, phục vụ cho việc trang trí vì có màu sắc rất phong phú. Tuy nhiên, do chiều cao, cây trồng thường hay bị đổ rạp khi có gió lớn.
Hoa hậu Thế giới
Hoa hậu Thế giới (tiếng Anh: Miss World) là tên cuộc thi sắc đẹp quốc tế được Sách Kỷ lục Guinness công nhận là cuộc thi có có quy mô lớn nhất trên thế giới và có lịch sử truyền hình dài nhất mọi thời đại. Cùng với Hoa hậu Hoàn vũ, Hoa hậu Quốc tế và Hoa hậu Trái Đất, Hoa hậu Thế giới là một trong bốn cuộc thi sắc đẹp lớn nhất hành tinh, gọi chung là Tứ đại Hoa hậu (Big 4). Cuộc thi được tổ chức lần đầu tiên bởi Eric Morley vào năm 1951. Năm 2000 khi ông qua đời thì vợ của ông là Julia Morley đã thay ông lên nắm quyền điều hành cuộc thi.
Hoa hậu Thế giới (tiếng Anh: Miss World) là tên cuộc thi sắc đẹp quốc tế được Sách Kỷ lục Guinness công nhận là cuộc thi có có quy mô lớn nhất trên thế giới và có lịch sử truyền hình dài nhất mọi thời đại. Cuộc thi được tổ chức lần đầu tiên bởi Eric Morley vào năm 1951.
Hoa hậu Thế giới
Cuộc thi Hoa hậu Thế giới được bắt đầu từ cuộc thi áo tắm ở Anh vào năm 1951 chỉ với mục đích quảng bá các mốt áo tắm mới nhất lúc đó, nhưng được gọi là Hoa hậu Thế giới bởi các phương tiện truyền thông. Eric Morley, người khởi xướng cuộc thi áo tắm đó đã dự định sẽ chỉ tổ chức cuộc thi này một lần duy nhất nhưng khi nghe tin cuộc thi Hoa hậu Hoàn vũ sẽ được tổ chức tại Hoa Kỳ vào năm 1952, ông đã quyết định biến Hoa hậu Thế giới thành một cuộc thi sắc đẹp thường niên.Cuộc thi Hoa hậu Thế giới đầu tiên được phát sóng là vào năm 1959 bởi đài BBC. Vào thập niên 1980, cuộc thi quyết định thay đổi khẩu hiệu thành Beauty with a purpose (Sắc đẹp vì mục đích cao cả). Cuộc thi chú trọng hơn tới trí tuệ và nhân cách của những người đẹp tham gia cuộc thi. Từ thập niên 1990, cuộc thi đã thu hút hơn 2 tỉ người xem trên thế giới.
Cuộc thi Hoa hậu Thế giới được bắt đầu từ cuộc thi áo tắm ở Anh vào năm 1951 chỉ với mục đích quảng bá các mốt áo tắm mới nhất lúc đó, nhưng được gọi là Hoa hậu Thế giới bởi các phương tiện truyền thông. Eric Morley, người khởi xướng cuộc thi áo tắm đó đã dự định sẽ chỉ tổ chức cuộc thi này một lần duy nhất nhưng khi nghe tin cuộc thi Hoa hậu Hoàn vũ sẽ được tổ chức tại Hoa Kỳ vào năm 1952, ông đã quyết định biến Hoa hậu Thế giới thành một cuộc thi sắc đẹp thường niên.Cuộc thi Hoa hậu Thế giới đầu tiên được phát sóng là vào năm 1959 bởi đài BBC.
Hoa hậu Thế giới
Năm 2002, cuộc thi quyết định chọn địa điểm đăng cai là Abuja, thủ đô của Nigeria, đất nước của người đẹp vừa đăng quang năm trước Agbani Darego. Tại Nigeria, cuộc thi đã bị chỉ trích mạnh mẽ vì Nigeria là một quốc gia theo đạo Hồi. Những cuộc bạo động đã nổ ra để phản đối cuộc thi Hoa hậu Thế giới khiến hàng trăm người chết và bị thương. Cuộc thi đã phải ngay lập tức dời về quê nhà Anh. Đây được coi là sự cố đáng tiếc nhất trong lịch sử cuộc thi Hoa hậu Thế giới.Năm 2013, ban tổ chức cuộc thi đã bỏ phần thi bikini trước sức ép của người dân Đạo hồi ở nước chủ nhà Indonesia. Hội đồng Hồi giáo Indonesia, cho rằng màn trình diễn bikini cần phải bị hủy bỏ vì nó thúc đẩy "chủ nghĩa khoái lạc, chủ nghĩa thực dụng, chủ nghĩa tiêu dùng," và rằng "thi bikini chỉ là một cái cớ để khoe mẽ các bộ phận cơ thể của phụ nữ vốn cần phải kín đáo" Thay vào đó, các thí sinh sẽ trình diễn những bộ sarong đi biển do Indonesia sản xuất ở phần thi này.
Năm 2002, cuộc thi quyết định chọn địa điểm đăng cai là Abuja, thủ đô của Nigeria, đất nước của người đẹp vừa đăng quang năm trước Agbani Darego. Đây được coi là sự cố đáng tiếc nhất trong lịch sử cuộc thi Hoa hậu Thế giới.Năm 2013, ban tổ chức cuộc thi đã bỏ phần thi bikini trước sức ép của người dân Đạo hồi ở nước chủ nhà Indonesia.
Hoa hậu Thế giới
Việc loại bỏ phần thi bikini ở Hoa hậu Thế giới 2013 xảy ra nhiều tranh cãi khen chê, tuy nhiên nhiều người nhìn nhận ở góc độ khác, việc bỏ phần thi bikini sẽ mang đến cơ hội dự thi cho các cô gái nước Đạo hồi. Sau đó, trong khuôn khổ Hoa hậu Thế giới 2014 diễn ra tại Anh đã không còn phần trình diễn trang phục bikini trong đêm thi chung kết. Đồng thời, bà Julia Morley - chủ tịch cuộc thi Hoa hậu Thế giới thông báo phần thi bikini chính thức bị loại bỏ khỏi đấu trường nhan sắc lớn nhất thế giới này kể từ năm 2015. Bà cho rằng phần thi bikini không còn cần thiết và muốn các thí sinh cạnh tranh nhau ở vẻ đẹp trí tuệ, cách ứng xử, lòng nhân ái... hơn là vẻ đẹp hình thể, và đó mới là phương châm "vẻ đẹp có mục đích" mà cuộc thi theo đuổiBà Julia Morley thể hiện quan điểm rằng bà không muốn nhìn những cô gái diễu qua lại trên sân khấu trong những bộ áo tắm: “Nó không có tác dụng gì với phụ nữ và cũng không có bất cứ tác dụng nào với bất cứ ai trong chúng ta". Thay vào đó, Miss World sẽ tập trung vào trí tuệ, sự nhân hậu và tinh thần mạnh mẽ của các cô gái. Quyết định của bà Morley được đánh giá là bước đi tiên phong, tạo bước chuyển về bản chất của các cuộc thi sắc đẹp, để các thí sinh không còn bị đánh giá chỉ bởi vẻ bề ngoài cũng như phải hứng chịu những bình luận khiếm nhã về cơ thể họ.
Việc loại bỏ phần thi bikini ở Hoa hậu Thế giới 2013 xảy ra nhiều tranh cãi khen chê, tuy nhiên nhiều người nhìn nhận ở góc độ khác, việc bỏ phần thi bikini sẽ mang đến cơ hội dự thi cho các cô gái nước Đạo hồi. Bà cho rằng phần thi bikini không còn cần thiết và muốn các thí sinh cạnh tranh nhau ở vẻ đẹp trí tuệ, cách ứng xử, lòng nhân ái... hơn là vẻ đẹp hình thể, và đó mới là phương châm "vẻ đẹp có mục đích" mà cuộc thi theo đuổiBà Julia Morley thể hiện quan điểm rằng bà không muốn nhìn những cô gái diễu qua lại trên sân khấu trong những bộ áo tắm: “Nó không có tác dụng gì với phụ nữ và cũng không có bất cứ tác dụng nào với bất cứ ai trong chúng ta".
Hoa hậu Thế giới
Trên thế giới đầu thế kỷ 21, chỉ còn một số nước chậm phát triển nhưng "cuồng" hoa hậu tại Nam Mỹ và Đông Nam Á như Venezuela, Philippines, Colombia, Việt Nam... là tích cực tổ chức thi hoa hậu nhằm thỏa mãn ham muốn dùng sắc đẹp để kiếm danh tiếng hoặc lấy chồng giàu có của các cô gái, tâm lý thích "hư danh" của công chúng. Còn ở các nước phát triển, những cuộc thi Hoa hậu chẳng còn được khán giả thế giới chú ý nhiều, đặc biệt là tại các nước phát triển như châu Âu, Bắc Mỹ, Hàn Quốc, Nhật Bản, Trung Quốc... Khi hiểu biết về quyền phụ nữ được nâng cao, người dân các nước này đã nhận ra rằng thi Hoa hậu thực chất là việc hạ thấp phẩm giá phụ nữ, vì các cuộc thi này xem cơ thể phụ nữ giống như vật trưng bày di động để chấm điểm, buộc phụ nữ phải mặc áo tắm trình diễn hở hang chỉ để mọi người bình phẩm, kiếm lợi cho ban tổ chức. Một xã hội văn minh thì sẽ không chấp nhận việc cơ thể người khác (dù xấu hay đẹp) bị đem ra bình phẩm một cách công khai; và một người phụ nữ giàu lòng tự trọng cũng sẽ không dùng cơ thể mình làm vật trưng bày để người khác chấm điểm. Do vậy, những người đẹp ở các nước phát triển không còn muốn thi Hoa hậu nữa, danh hiệu Hoa hậu tại các nước này chỉ còn là "hữu danh vô thực", chẳng có mấy ai quan tâm hoặc nhớ đến những người từng đoạt giảiCác tổ chức đấu tranh vì quyền bình đẳng phụ nữ trên thế giới từ lâu đã phê phán các cuộc thi sắc đẹp, nơi mà người khác có quyền được buông ra những lời nhận xét (dù vô tình hay cố ý) có thể làm tổn thương đến phụ nữ. Năm 1970, khi cuộc thi Hoa hậu Thế giới được tổ chức tại Anh, nhiều tổ chức bảo vệ nữ quyền đã tổ chức biểu tình, giơ những biểu ngữ như "Phụ nữ cũng là con người", "Chấm dứt trưng bày cơ thể phụ nữ"... khiến các kênh truyền hình Anh phải từ chối phát sóng cuộc thi. Các cuộc thi hoa hậu đang ngày càng bị công chúng ở các nước phát triển xem thường vì đã bị thương mại hóa, những "ông bầu" tổ chức thi hoa hậu chỉ để bán danh hiệu thu tiền, hoặc "tuyển gái đẹp cho đại gia", nhiều thí sinh tham dự đã bị xúc phạm phẩm giá nặng nề. Hoa hậu Thế giới 2015, Mireia Lalaguna, khi trở về Tây Ban Nha sau đăng quang đã chẳng có khán giả nào đến sân bay để chào đón. Tại Hoa Kỳ, số người xem tivi tường thuật các cuộc thi Hoa hậu đã giảm mạnh, năm 2006 chỉ còn bằng 1/3 so với năm 1980.Tại Mỹ và châu Âu, công chúng tại những nước này đã không còn quan tâm đến các cuộc thi nhan sắc. Hoa hậu Thế giới ngày nay đã không còn được truyền hình trực tiếp tại Anh, đất nước khai sinh ra cuộc thi. Trong một bài khảo sát đăng tải trên The Guardian, nhiều người Anh thậm chí còn không biết đến sự tồn tại của cuộc thi này.
Trên thế giới đầu thế kỷ 21, chỉ còn một số nước chậm phát triển nhưng "cuồng" hoa hậu tại Nam Mỹ và Đông Nam Á như Venezuela, Philippines, Colombia, Việt Nam... là tích cực tổ chức thi hoa hậu nhằm thỏa mãn ham muốn dùng sắc đẹp để kiếm danh tiếng hoặc lấy chồng giàu có của các cô gái, tâm lý thích "hư danh" của công chúng. Năm 1970, khi cuộc thi Hoa hậu Thế giới được tổ chức tại Anh, nhiều tổ chức bảo vệ nữ quyền đã tổ chức biểu tình, giơ những biểu ngữ như "Phụ nữ cũng là con người", "Chấm dứt trưng bày cơ thể phụ nữ"... khiến các kênh truyền hình Anh phải từ chối phát sóng cuộc thi.
Hoa hậu Thế giới
Tổ chức Hoa hậu Thế giới sở hữu cuộc thi Hoa hậu Thế giới và tổ chức sự kiện này mỗi năm một lần. Kể từ khi bắt đầu hoạt động vào năm 1951, tổ chức Hoa hậu Thế giới đã quyên góp được 250 triệu bảng Anh cho các tổ chức từ thiện vì trẻ em. Tổ chức Hoa hậu Thế giới ký kết các bản quyền thương mại tới hơn 100 quốc gia. Công ty Trách nhiệm hữu hạn Hoa hậu Thế giới là một công ty tư nhân, do đó các số liệu, các khoản thu nhập và chi phí đóng góp cho các quỹ từ thiện không cần công khai.
Tổ chức Hoa hậu Thế giới sở hữu cuộc thi Hoa hậu Thế giới và tổ chức sự kiện này mỗi năm một lần. Kể từ khi bắt đầu hoạt động vào năm 1951, tổ chức Hoa hậu Thế giới đã quyên góp được 250 triệu bảng Anh cho các tổ chức từ thiện vì trẻ em.
Hoa hậu Thế giới
Cuộc hành trình đến chiếc vương miện vô cùng khó khăn. Đầu tiên, thí sinh tham dự cuộc thi này phải là người đã chiến thắng tại cuộc thi hoa hậu quốc gia. Đến cuộc thi, các thí sinh sẽ tham dự vào các sự kiện được tổ chức trong cuộc thi, các gala, những buổi dạ hội và các hoạt động trước khi ban giám khảo chọn ra những người xuất sắc nhất. Cuộc thi sẽ chọn ra Top bán kết, top 5->6 (hoặc 7) và cuối cùng là Hoa hậu thế giới và 2 Á hậu. Người chiến thắng sẽ được chính đương kim Hoa hậu đeo dải băng Miss World, trao lại vương miện và ngồi trên chiếc ghế đặt ở chính giữa sân khấu còn 2 Á hậu sẽ đứng ở bên cạnh.
Cuộc hành trình đến chiếc vương miện vô cùng khó khăn. Người chiến thắng sẽ được chính đương kim Hoa hậu đeo dải băng Miss World, trao lại vương miện và ngồi trên chiếc ghế đặt ở chính giữa sân khấu còn 2 Á hậu sẽ đứng ở bên cạnh.
Hoa hậu Thế giới
Hoa hậu Thời trang, hoặc Trang phục Dân tộc, (Top Model): Là phần thi mà thí sinh sẽ trình diễn các mẫu thiết kế thời trang hoặc trang phục truyền thống của dân tộc mình. Đây là phần thi mà khán giả sẽ phải choáng ngợp bởi rất nhiều bộ trang phục rực rỡ, nhiều màu sắc được trình diễn bởi các người đẹp. Phần thi cũng công bố top 10, top 5.Ngoài ra, ở Miss World còn có thêm giải phụ Hoa hậu Nhân ái (Beauty with a Purpose). Đây là giải thưởng dành cho hoa hậu trước khi đến với cuộc thi đã có những hoạt động xã hội có ý nghĩa cao cả. Giải thưởng này có cách trao khá giống với giải thưởng Sắc đẹp vì một mục tiêu (Beauty for a Cause) của cuộc thi Hoa hậu Trái Đất. Những việc làm đó sẽ phải được minh chứng bằng một video clip ghi lại hoạt động của thí sinh gửi cho Ban tổ chức. Giải thưởng này được công bố trong đêm chung kết. Đây là một giải thưởng phụ quan trọng và có ý nghĩa quyết định vị trí của thí sinh trong đêm chung kết.
Hoa hậu Thời trang, hoặc Trang phục Dân tộc, (Top Model): Là phần thi mà thí sinh sẽ trình diễn các mẫu thiết kế thời trang hoặc trang phục truyền thống của dân tộc mình. Giải thưởng này có cách trao khá giống với giải thưởng Sắc đẹp vì một mục tiêu (Beauty for a Cause) của cuộc thi Hoa hậu Trái Đất.
Hoa hậu Thế giới
Sau đó tất cả các thí sinh, trong trang phục dạ hội, sẽ được tập hợp lại để chuẩn bị nghe công bố kết quả. Mở đầu là màn xuất hiện của 4 thí sinh được đặc cách do đoạt các danh hiệu Hoa hậu Bãi biển, Hoa hậu Thể thao, Hoa hậu Mặc trang phục dân tộc đẹp nhất), sau đó Ban giám khảo công bố thí sinh đoạt danh hiệu Hoa hậu nhân ái. Tất cả các thí sinh đoạt các giải phụ này đều được đặc cách thẳng vào top Bán kết. Tiếp đến, MC sẽ công bố những người còn lại lọt vào top bán kết. Các thí sinh còn lại này được ban giám khảo lựa chọn ngẫu nhiên (không tính yếu tố vùng miền) hoặc lựa chọn theo vùng miền (mỗi khu vực thường có khoảng 2 đại diện).
Sau đó tất cả các thí sinh, trong trang phục dạ hội, sẽ được tập hợp lại để chuẩn bị nghe công bố kết quả. Các thí sinh còn lại này được ban giám khảo lựa chọn ngẫu nhiên (không tính yếu tố vùng miền) hoặc lựa chọn theo vùng miền (mỗi khu vực thường có khoảng 2 đại diện).
Hoa hậu Thế giới
Từ năm 2009, trong đêm chung kết có thêm phần trình diễn Dances of the World (Các điệu nhảy của thế giới). Đây là một phần trình diễn không tính điểm. Phần trình diễn luôn luôn được chờ đợi trong mỗi đêm chung kết và là một trong số những đặc sắc của cuộc thi. Cùng với đó, phần trình diễn trang phục áo tắm mở màn của đêm chung kết cũng dần được tối giản và bỏ hẳn khỏi nội dung đêm chung kết.
Từ năm 2009, trong đêm chung kết có thêm phần trình diễn Dances of the World (Các điệu nhảy của thế giới). Đây là một phần trình diễn không tính điểm.
Hoa hậu Thế giới
Cuộc thi Hoa hậu Thế giới 1983 có thí sinh Unnur Steinsson từ Iceland đã mang thai ba tháng khi tham gia cuộc thi (chung kết diễn ra ngày 17/11/1983) đã vi phạm các nguyên tắc cấm là không được kết hôn hoặc có thai. Tuy nhiên, điều đó đã không được phát hiện khi bà tham dự cuộc thi mặc dù bà lọt vào chung kết và là người Iceland đầu tiên lọt vào Top 7. Con gái bà, sinh ngày 25/05/1984 và có tên là Unnur Birna Vilhjálmsdóttir, 22 năm sau đã đăng quang Hoa hậu Thế giới 2005. Steinsson cũng tham dự cuộc thi Hoa hậu Trẻ Quốc tế 1980 tổ chức tại Manila. Bà cũng tham dự cuộc thi Hoa hậu Hoàn vũ 1983. Cả hai mẹ con bà đều là diễn viên.
Cuộc thi Hoa hậu Thế giới 1983 có thí sinh Unnur Steinsson từ Iceland đã mang thai ba tháng khi tham gia cuộc thi (chung kết diễn ra ngày 17/11/1983) đã vi phạm các nguyên tắc cấm là không được kết hôn hoặc có thai. Tuy nhiên, điều đó đã không được phát hiện khi bà tham dự cuộc thi mặc dù bà lọt vào chung kết và là người Iceland đầu tiên lọt vào Top 7.
Hoa Mộc Lan
Trong bài thơ này, Mộc Lan vẫn không có họ, quê quán thậm chí cũng không đề cập đến niên đại của nhân vật. Cái họ tên đầy đủ 「"Hoa Mộc Lan"」 trở nên phổ biến cũng bắt đầu từ "Tứ thanh viên" (四聲猿) của học giả đời nhà Minh là Từ Vị. Hình tượng Hoa Mộc Lan đi vào văn hóa Trung Quốc biểu thị một ý nghĩa lý tưởng cao thượng, nói về một thiếu nữ yếu đuối thay cha già đi giả nam để tòng quân. Do đó, cô được lưu truyền rộng rãi qua truyền thuyết và những tác phẩm thiên về thơ ca hoặc sân khấu. Truyền thuyết về Hoa Mộc Lan đã được làm thành phim, cả phim hoạt hình lẫn phim do người đóng, bởi hãng Walt Disney (Mỹ).
Trong bài thơ này, Mộc Lan vẫn không có họ, quê quán thậm chí cũng không đề cập đến niên đại của nhân vật. Cái họ tên đầy đủ 「"Hoa Mộc Lan"」 trở nên phổ biến cũng bắt đầu từ "Tứ thanh viên" (四聲猿) của học giả đời nhà Minh là Từ Vị.
Hoa Mộc Lan
Sở dĩ cha mẹ của cô lấy tên "Mộc Lan" là vì cha mẹ đi cầu tự trên núi Mộc Lan ở quê nhà, sau đó sinh ra cô. Riêng về võ nghệ, Mộc Lan được nhà sư chùa Đại Ngô truyền dạy các môn đao kiếm, lại giảng cho cả binh pháp, nên mới 10 tuổi, mà Mộc Lan đã có tài nghệ khác thường (vị sư này chính là Ngũ Vân Thiệu, một võ tướng vì thất thủ thành Nam Xương, nên bỏ trốn rồi đổi họ tên đi tu). Năm Hoa Mộc Lan 18 tuổi, dân tộc du mục Nhu Nhiên xâm phạm biên cảnh khiến quân tình khẩn cấp, toàn dân Bắc Nguỵ lên đường ra trận. Hoa Mộc Lan không muốn cha già cực khổ nên lén chuốc rượu cha và âm thầm lên đường tòng quân len lỏi vào đám nam nhân để giết giặc. Sau khi cuộc chiến kết thúc, Hoa Mộc Lan trở về quê nhà và trở lại thân phận một cô gái hiếu thảo. Sau cùng, Mộc Lan được gả cho chàng trai tên Vương Lang.
Sở dĩ cha mẹ của cô lấy tên "Mộc Lan" là vì cha mẹ đi cầu tự trên núi Mộc Lan ở quê nhà, sau đó sinh ra cô. Hoa Mộc Lan không muốn cha già cực khổ nên lén chuốc rượu cha và âm thầm lên đường tòng quân len lỏi vào đám nam nhân để giết giặc.
Hoa Mộc Lan
Thời đại của nhân vật cũng không có đề cập, "Mộc Lan từ" cung cấp cực ít tin tức, đại khái họ và quê quán là có nhiều dị bản cùng tranh luận nhất. Còn về thời đại, ban đầu bài thơ này là nhạc phủ, được trích thấy ở "Cổ kim nhạc lục" (古今樂錄) thời Nam triều nhà Trần của thời Nam-Bắc triều, do địa danh trong thơ đại đa số ứng với phía Bắc nên rất dễ hình dung thời đại được đề cập là Bắc Ngụy, dù chẳng ai khẳng định điều này, vì thế có không ít dị bản nói thời đại của nhân vật là thời nhà Đường. Từ đó, "Mộc Lan từ" nổi tiếng và bắt đầu thêu dệt hình ảnh truyền kỳ, nhưng thực sự nổi tiếng là qua Thư Mộc Lan thế phụ tòng quân (雌木蘭替父從軍) của Từ Vị nhà Minh. Trong vở kịch này, Mộc Lan tự xưng:「"Thiếp thân họ Hoa, tên Mộc Lan, tổ tiên từ thuở Tây Hán là Lương gia tử của 6 quận, nhiều đời trú ngụ ở quận Ngụy thuộc Hà Bắc"; 妾身姓花名木蘭,祖上在西漢時,以六郡良家子,世住河北魏郡。」, cũng từ đây mà [Hoa Mộc Lan] mởi dần phổ biến và biến thành một hình tượng nữ tử nổi tiếng.
Thời đại của nhân vật cũng không có đề cập, "Mộc Lan từ" cung cấp cực ít tin tức, đại khái họ và quê quán là có nhiều dị bản cùng tranh luận nhất. Còn về thời đại, ban đầu bài thơ này là nhạc phủ, được trích thấy ở "Cổ kim nhạc lục" (古今樂錄) thời Nam triều nhà Trần của thời Nam-Bắc triều, do địa danh trong thơ đại đa số ứng với phía Bắc nên rất dễ hình dung thời đại được đề cập là Bắc Ngụy, dù chẳng ai khẳng định điều này, vì thế có không ít dị bản nói thời đại của nhân vật là thời nhà Đường.
Hoa Mộc Lan
Do "Hoa Mộc Lan" chỉ là một sản phẩm hư cấu, vô tình phổ biến của Từ Vị nên cái họ Hoa của Mộc Lan không có thực, cũng vì thế mà rất nhiều người đời Minh và đời Thanh cũng tự có một "phiên bản Mộc Lan" với đủ loại họ. Sách "Huyện chí" của huyện Hoàng Bi thời Khang Hi có ghi:「"Mộc Lan, con gái bổn huyện, mang họ Chu thị, sinh thời Đường,... giả nam tử thay cha tòng quân,... Đến nay nhà này vẫn còn ở dưới núi Mộc Lan";木蘭,本縣朱氏女,生於唐初,……假男子代父從軍,……至今其家猶在木蘭山下」. Người đời Minh là Lưu Duy Đức (刘惟德) có sáng tác "Hàn Mộc Lan truyện" (韓木蘭傳), có ghi:「"Thiếu nữ Mộc Lan, họ Hàn, nguyên tên là Nga, người Lãng Trung thuộc Tứ Xuyên"; 少女木蘭,姓韓,原名娥,四川閬中人」.
Do "Hoa Mộc Lan" chỉ là một sản phẩm hư cấu, vô tình phổ biến của Từ Vị nên cái họ Hoa của Mộc Lan không có thực, cũng vì thế mà rất nhiều người đời Minh và đời Thanh cũng tự có một "phiên bản Mộc Lan" với đủ loại họ. Người đời Minh là Lưu Duy Đức (刘惟德) có sáng tác "Hàn Mộc Lan truyện" (韓木蘭傳), có ghi:「"Thiếu nữ Mộc Lan, họ Hàn, nguyên tên là Nga, người Lãng Trung thuộc Tứ Xuyên"; 少女木蘭,姓韓,原名娥,四川閬中人」.
Hoa Mộc Lan
Đây là bài quân ca nổi tiếng trong lịch sử văn học Trung Quốc. Nội dung bài thơ đơn giản, không có những chi tiết ly kỳ, không có những éo le làm xao xuyến lòng người. Bài thơ kể về câu chuyện một người thiếu nữ thay cha tòng quân. Nhà không có con trai lớn để nhập ngũ, cha già thì đã cao tuổi, người thiếu nữ ấy liền ăn mặc giả nam nhi để tòng quân thay cha. Nàng ở trong quân ngũ mười hai năm, lập được nhiều chiến công. Khi trở về triều đình, nhà vua muốn ban thưởng chức tước, nàng đều không nhận, chỉ xin ngựa tốt để trở về quê nhà. Về đến nhà, nàng lại mặc trang phục nữ nhi, trang điểm soi gương, trở lại với cuộc sống bình thường như trước khi nhập ngũ.
Đây là bài quân ca nổi tiếng trong lịch sử văn học Trung Quốc. Khi trở về triều đình, nhà vua muốn ban thưởng chức tước, nàng đều không nhận, chỉ xin ngựa tốt để trở về quê nhà.