topic
stringclasses
149 values
context
stringlengths
84
21k
Evidence
stringlengths
51
1.33k
Xbox 360
Kinect là một "trải nghiệm chơi game và giải trí không tay cầm" cho Xbox 360. Lần đầu tiên được công bố vào ngày 1 tháng 6 năm 2009 tại Electronic Entertainment Expo dưới tên mã Project Natal (Dự án Natal). Thiết bị ngoại vi này hoạt động không cần đến cần điều khiển mà hoạt động dựa vào những cử động, lệnh thoại và đưa ra hình ảnh, vật thể. Kinect tương thích với tất cả với các model Xbox 360, Để hoạt động, thiết bị cần kết nối với các model nguyên bản thông qua USB, với model Slim là thông qua một sợi dây nối chuyên dụng; và power adapter chính cung cấp nguồn điện. Tại buổi thuyết trình tại CES 2010, Robbie Bach và CEO Microsoft Steve Ballmer nói rằng Kinect sẽ được bán vào mùa nghỉ lễ trong năm (từ tháng 11 đến tháng 1) và sẽ hoạt động với tất cả các hệ máy Xbox 360. Tên gọi chính thức và thời điểm bán ra là 4 tháng 11 năm 2010 được thông báo vào ngày 13 tháng 6 năm 2010, tại sự kiện họp báo của Microsoft ở E3 2010.
Kinect là một "trải nghiệm chơi game và giải trí không tay cầm" cho Xbox 360. Lần đầu tiên được công bố vào ngày 1 tháng 6 năm 2009 tại Electronic Entertainment Expo dưới tên mã Project Natal (Dự án Natal).
Xbox 360
Giao diện người dùng đồ họa (GUI) của Xbox 360 là Xbox 360 Dashboard. Ban đầu nó là giao diện theo phong cách thẻ với 5 "Blades" (trước là 4) và được thiết kế bởi AKQA và Audiobrain. Nó có thể tự khởi động khi bật máy mà không cần có đĩa bên trong, hay khi khay đĩa đang mở. Nhưng người dùng có quyền lựa chọn console sẽ làm gì khi có đĩa game trong khay. Khi bấm vào nút Xbox Guide trên cần phím, phiên bản đơn giản hoá của Dashboard sẽ xuất hiện. Bản Dashboard này hiện tên người dùng, tin nhắn mới và danh sách bạn bè. Nó cũng cho phép cài đặt cá nhân và nhạc, bổ sung cho tính năng gọi thoại và video, và trở về Dashboard chính từ trong game.
Giao diện người dùng đồ họa (GUI) của Xbox 360 là Xbox 360 Dashboard. Bản Dashboard này hiện tên người dùng, tin nhắn mới và danh sách bạn bè.
Xbox 360
Tại E3 2008, Microsoft giới thiệu giao diện mới cho Xbox 360 là "New Xbox Experience" (NXE) (tạm dịch:Trải nghiệm Xbox mới). Bản nâng cấp này giúp cho việc điều hướng dễ dàng hơn. GUI sử dụng Twist UI, đã từng xuất hiện ở Windows Media Center và Zune. Xbox Guide (bản Dashboard đơn giản hoá) vẫn giữ những tính năng cũ với giao diện giống như Blade ngày trước. Các mục chính của Dashboard đã được sắp xếp theo phương thẳng đứng, không còn nằm ngang như các Blade cũ.
Tại E3 2008, Microsoft giới thiệu giao diện mới cho Xbox 360 là "New Xbox Experience" (NXE) (tạm dịch:Trải nghiệm Xbox mới). Các mục chính của Dashboard đã được sắp xếp theo phương thẳng đứng, không còn nằm ngang như các Blade cũ.
Xbox 360
NXE còn có vài tính năng mới. Người dùng có thể cài game từ đĩa vào ổ cứng. Điều này làm giảm thời gian tải game, giảm tiếng ồn từ việc đọc đĩa và hạn chế hư mắt đọc. Hệ thống Community mới được cài sẵn cho phép sáng tạo các "Avatar" kỹ thuật số. Avatar là tượng trưng cho người sở hữu máy, được dùng ở nhiều hoạt động khác như chia sẻ ảnh, xuất hiện khi chơi game arcade hay game kinect. Bản update ra mắt ngày 19 tháng 11 năm 2008.Trong khi những bản cập nhật của hệ thống trước được cài ở bộ nhớ trong máy, lần đầu tiên NXE yêu cầu người chơi phải có ít nhất 128 MB thẻ nhớ hoặc ổ cứng.
NXE còn có vài tính năng mới. Bản update ra mắt ngày 19 tháng 11 năm 2008.Trong khi những bản cập nhật của hệ thống trước được cài ở bộ nhớ trong máy, lần đầu tiên NXE yêu cầu người chơi phải có ít nhất 128 MB thẻ nhớ hoặc ổ cứng.
Xbox 360
Xbox 360 hỗ trợ video định dạng Windows Media Video (WMV) (bao gồm Truyền hình độ nét cao và chuẩn PlaysForSure của Microsoft), cũng như định dạng H.264 và MPEG-4. Bản nâng cấp Dashboard vào tháng 12 năm 2007 hỗ trợ thêm video định dạng MPEG-4 ASP. Máy console này còn có thể trình chiếu ảnh trong bộ sưu tập hình ảnh với nhiều hiệu ứng chuyển cảnh; hỗ trợ nghe nhạc với trình phát nhạc sử dụng được thông qua nút Xbox Guide. Người dùng có thể nghe nhạc trong khi đang chơi game hay ở ngoài Dashboard.
Xbox 360 hỗ trợ video định dạng Windows Media Video (WMV) (bao gồm Truyền hình độ nét cao và chuẩn PlaysForSure của Microsoft), cũng như định dạng H.264 và MPEG-4. Máy console này còn có thể trình chiếu ảnh trong bộ sưu tập hình ảnh với nhiều hiệu ứng chuyển cảnh; hỗ trợ nghe nhạc với trình phát nhạc sử dụng được thông qua nút Xbox Guide.
Xbox 360
Nhạc, hình ảnh và video có thể chơi từ USB chuẩn, bộ nhớ Xbox 360 (gồm thẻ nhớ hoặc ổ cứng) và máy chủ hoặc máy tính có cài Windows Media Center hay Windows XP chạy Service Pack 2 hoặc cao hơn được kết nối trong mạng nội bộ ở chế độ truyền streaming. Bởi vì Xbox 360 dùng phiên bản AV Universal Plug and Play (UPnP) đã chỉnh sửa, một vài máy chủ UPnP thay thế như uShare (một phần của dự án GeeXboX), MythTV có thể được truyền phương tiện đến Xbox 360, cho phép sử dụng những tính năng tương đương trên những máy tính, máy chủ không chạy Windows. Chính vì thế, máy có thể chơi được những tập tin có độ phân giải cao như HD, một vài codec như (MPEG-2, MPEG-4, WMV), và một vài định dạng thùng chứa (WMV, MOV, TS).Đến ngày 27 tháng 10 năm 2009, người dùng tại Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland và Ireland có thể xem trực tiếp và kênh truyền hình theo yêu cầu của Sky television.Tại Consumer Electronics Shows năm 2007, 2008, và 2009, Microsoft thông báo dịch vụ truyền hình giao thức Internet (IPTV) có thể được sử dụng trên Xbox 360. Năm 2007, chủ tịch công ty Bill Gates chia sẻ rằng IPTV trên Xbox 360 dự kiến sẽ đến tay người dùng vào mùa nghỉ lễ, sử dụng Microsoft TV IPTV Edition. Năm 2008, Gates và Giám đốc bộ phận giải trí và thiết bị Robbie Bach công bố hợp tác với tập đoàn BT tại Anh, trong đó dịch vụ BT Vision sử dụng nền IPTV Microsoft Mediaroom tiên tiến hơn có thể được xem trên Xbox 360, dự định ra mắt vào giữa năm. Tuy nhiên, đầu kỹ thuật số của BT Vision lại không xuất hiện trên máy vì hạn chế dung lượng bộ nhớ. Cuối cùng vào năm 2010, trong khi giới thiệu phiên bản 2.0 của Microsoft Mediaroom, CEO Microsoft Steve Ballmer nhắc đến dịch vụ IPTV của AT&T U-verse có thể hoạt động trên Xbox 360 như là một set-top box. Đến tháng 1 năm 2010, truyền hình giao thức Internet trên Xbox 360 đã được triển khai bên ngoài các thử nghiệm giới hạn.
Nhạc, hình ảnh và video có thể chơi từ USB chuẩn, bộ nhớ Xbox 360 (gồm thẻ nhớ hoặc ổ cứng) và máy chủ hoặc máy tính có cài Windows Media Center hay Windows XP chạy Service Pack 2 hoặc cao hơn được kết nối trong mạng nội bộ ở chế độ truyền streaming. Đến tháng 1 năm 2010, truyền hình giao thức Internet trên Xbox 360 đã được triển khai bên ngoài các thử nghiệm giới hạn.
Xbox 360
Cộng đồng XNA là một tính năng cho phép người dùng Xbox 360 nhận được những trò chơi do cộng đồng sáng tạo, hợp tác với Microsoft XNA Game Studio, từ XNA Creators Club. Các trò chơi được viết kịch bản, phát hành và phân phối thông qua đơn vị quản lý của cộng đồng. Cộng đồng XNA cung cấp kênh giao hàng trò chơi kỹ thuật số mà không cần trả tiền thuế. Tuy nhiên doanh thu của XNA lại không đạt được kỳ vọng ban đầu, mặc dù vẫn có một số game Xbox Live Indie (game được phát triển độc lập) tạo được tiếng vang lớn.
Cộng đồng XNA là một tính năng cho phép người dùng Xbox 360 nhận được những trò chơi do cộng đồng sáng tạo, hợp tác với Microsoft XNA Game Studio, từ XNA Creators Club. Tuy nhiên doanh thu của XNA lại không đạt được kỳ vọng ban đầu, mặc dù vẫn có một số game Xbox Live Indie (game được phát triển độc lập) tạo được tiếng vang lớn.
Xbox 360
Khi vừa phát hành Xbox 360, dịch vụ chơi game trực tuyến Xbox Live tạm dừng hoạt động trong 24 tiếng và trải qua một đợt nâng cấp lớn. Đợt nâng cấp này bổ sung dịch vụ Xbox cơ bản Live Silver (nay là Xbox Live Free) không cần trả phí, bên cạnh dịch vụ cao cấp cần trả tiền (sau đổi tên là Gold). Xbox Live Free bao gồm tất cả SKU của console. Người dùng có thể tạo hồ sơ cá nhân, gửi tin nhắn và trò chuyện với người khác, và truy cập Xbox Live Arcade và Marketplace của Microsoft. Với tài khoản Free, người dùng không được chơi game trực tuyến. Tuy nhiên có một số trò chơi không có quy định nghiêm ngặt như trò Viva Piñata; một số trò chơi thì có riêng mã kích hoạt chơi trực tuyến kèm theo hộp đĩa như các game từ EA Sports. Xbox Live còn hỗ trợ giọng nói, một tính năng có trong Xbox Live Vision.Xbox Live Gold có các tính năng tương tự như Free nhưng hỗ trợ khả năng chơi game trực tuyến nếu không có sự can thiệp từ bên thứ ba. Người dùng có quyền giữ thông tin cá nhân, danh sách bạn bè và trò chơi khi nâng cấp lên Xbox Live Gold. Để thực hiện quá trình này, người dùng cần kết nối tài khoản Windows Live ID với gamertag trên Xbox.com. Khi Xbox Live Gold được kích hoạt, người dùng cần cung cấp thông tin hộ chiếu và bốn mã số cuối trong thẻ tín dụng để phục vụ cho việc xác minh tài khoản và thanh toán tiền. Dịch vụ này có khoản phí phải đóng hằng năm là US$49.99, C$59.99, NZ$90.00, GB£39.99, hoặc €59.99. Đến tháng 6 năm 2013, Xbox Live đã có tổng cộng 31 triệu người đăng ký.
Khi vừa phát hành Xbox 360, dịch vụ chơi game trực tuyến Xbox Live tạm dừng hoạt động trong 24 tiếng và trải qua một đợt nâng cấp lớn. Tuy nhiên có một số trò chơi không có quy định nghiêm ngặt như trò Viva Piñata; một số trò chơi thì có riêng mã kích hoạt chơi trực tuyến kèm theo hộp đĩa như các game từ EA Sports.
Xbox 360
Xbox Live Marketplace là một chợ ảo thiết kế cho máy cho phép người dùng tải nội dung trực tuyến, có thể là trò chơi hoặc khuyến mãi. Một số có niêm yết giá, còn một số thì không có. Đó có thể là phim hoặc trailer game, bản dùng thử game, game Xbox Live Arcade, chủ đề cho Dashboard, các phụ trợ cho trò chơi (vật phẩm, quần áo, cấp độ,...). Tính năng này hỗ trợ trên cả hai dịch vụ Free và Gold. Máy cần có dung lượng vừa đủ, có thể là ổ cứng hoặc thẻ nhớ ngoài, để lưu trữ những sản phẩm từ Nếu muốn tải về những sản phẩm cần trả tiền, người dùng cần mua Microsoft Points và các vật dụng đều niêm yết giá theo Microsoft Points. Microsoft Points có thể mua bằng thẻ trả trước với các mệnh giá 1600 và 4000; hoặc bằng thẻ tín dụng với giá trị là 500, 1,000, 2,000 và 5,000. Người dùng còn có thể "mua sắm" trên máy tính qua trang web của Xbox Live Marketplace. Khoảng 70% người sử dụng Xbox Live đều đã từng mua sắm trên chợ ảo này.
Xbox Live Marketplace là một chợ ảo thiết kế cho máy cho phép người dùng tải nội dung trực tuyến, có thể là trò chơi hoặc khuyến mãi. Tính năng này hỗ trợ trên cả hai dịch vụ Free và Gold.
Xbox 360
Xbox Live Arcade là dịch vụ trực tuyến dùng để phân phối những trò chơi tải về cho Xbox và Xbox 360. Bên cạnh những game arcade cổ điển như ''Pac-man'', dịch vụ còn cung cấp những trò chơi khác như Assault Heroes. Xbox Live Arcade còn phân phối những game từ các máy console khác như Castlevania: Symphony of the Night trên máy PlayStation, Zuma trên máy PC. Dịch vụ này bắt đầu hoạt động từ ngày 3 tháng 11 năm 2004, sử dụng đĩa DVD để tải và các trò chơi có giá từ 5 đến 15 đô-la Mỹ. Ngày 22 tháng 11 năm 2005, khi Xbox 360 phát hành, Xbox Live Arcade được bổ sung vào và giờ đây nó được tích hợp vào Dashboard. Những trò chơi này hướng đến người chơi phổ thông, với những dòng game có tiếng như Geometry Wars, Street Fighter II' Hyper Fighting, và Uno. Ngày 24 tháng 3 năm 2010, Microsoft ra mắt Game Room. Đây là dịch vụ chơi game cho Xbox 360 và Windows, cho phép người chơi thi đấu game arcade và game console trong một máy arcade ảo.
Xbox Live Arcade là dịch vụ trực tuyến dùng để phân phối những trò chơi tải về cho Xbox và Xbox 360. Ngày 22 tháng 11 năm 2005, khi Xbox 360 phát hành, Xbox Live Arcade được bổ sung vào và giờ đây nó được tích hợp vào Dashboard.
Xbox 360
Microsoft trình làng Xbox Video Marketplace vào ngày 6 tháng 11 năm 2006, và phát hành ngày 22 tháng 11, nhân ngày kỷ niệm 1 năm ra mắt máy console. Dịch vụ này cho phép người dùng tại Mỹ tải về những show truyền hình và phim với độ nét cao HD hoặc độ nét thường SD. Các nội dung tại đây không thể xem trực tuyến mà bắt buộc phải tải về, ngoại trừ những đoạn video ngắn. Phim còn có thể được thuê, và sẽ hết hạn trong 14 ngày hoặc sau khi phim đã chiếu được 24 tiếng. Những video tải về sử dụng âm thanh vòm 5.1 và được mã hoá dưới định dạng VC-1, độ phân giải 720p với bitrate là 6.8 Mbit/s. Các nhà đài như MTV, VH1, Comedy Central, Turner Broadcasting, và CBS cung cấp các chương trình truyền hình, còn phim do Warner Bros., Paramount, và Disney phân phối.
Microsoft trình làng Xbox Video Marketplace vào ngày 6 tháng 11 năm 2006, và phát hành ngày 22 tháng 11, nhân ngày kỷ niệm 1 năm ra mắt máy console. Phim còn có thể được thuê, và sẽ hết hạn trong 14 ngày hoặc sau khi phim đã chiếu được 24 tiếng.
Xbox 360
Máy Xbox 360 được sản xuất trước ngày bán chỉ trong vòng 69 ngày, và Microsoft không có đủ hàng để phân phối cho các khách hàng đặt trước tại châu Âu và Bắc Mỹ. 40 000 máy được rao bán trên trang đấu giá eBay ngay trong tuần lễ giao hàng cho người dùng đặt trước, chiếm 10% tổng đơn đặt hàng. Đến cuối năm, Microsoft bán tổng cộng 1,5 triệu máy, bao gồm 900 000 ở Bắc Mỹ, 500 000 ở châu Âu và 100 000 ở Nhật Bản.Ngày 13 tháng 2 năm 2008, Microsoft thông báo họ gặp tình trạng hết hàng tại Mỹ vào tháng 1 năm 2008, và có thể phải kéo đến tận tháng 2. Theo thống kê từ công ty nghiên cứu thị trường NPD Group, Xbox 360 đứng ở vị trí thứ 2 sau máy Wii về doanh thu tại Mỹ trong nhiều tháng từ khi có cuộc đua "tam mã" của Xbox 360, Wii và PlayStation 3. Ngày 14 tháng 5 năm 2008, Microsoft tuyên bố 10 triệu máy Xbox 360 đã được tiêu thụ, và đây là "máy console đầu tiên trong thế hệ hiện" tại vượt qua mốc 10 triệu máy bán ra tại Mỹ.
Máy Xbox 360 được sản xuất trước ngày bán chỉ trong vòng 69 ngày, và Microsoft không có đủ hàng để phân phối cho các khách hàng đặt trước tại châu Âu và Bắc Mỹ. Đến cuối năm, Microsoft bán tổng cộng 1,5 triệu máy, bao gồm 900 000 ở Bắc Mỹ, 500 000 ở châu Âu và 100 000 ở Nhật Bản.Ngày 13 tháng 2 năm 2008, Microsoft thông báo họ gặp tình trạng hết hàng tại Mỹ vào tháng 1 năm 2008, và có thể phải kéo đến tận tháng 2.
Xbox 360
Trong khi doanh số của máy Xbox khá tệ tại Nhật Bản, chỉ với 2 triệu máy được bán ra trong 3 năm có mặt (từ 2002 đến 2005), doanh thu của Xbox 360 tại thị trường này còn tệ hại hơn cả máy tiền nhiệm của nó. Trong vòng 6 năm từ 2005 đến 2011, Microsoft chỉ bán được 1,5 triệu máy Xbox 360. Đây được xem là sự thất bại của Xbox 360 tại thị trường này.Tạp chí Edge trong một báo cáo vào tháng 8 năm 2011 chỉ ra rằng, sự thiếu quan tâm ban đầu dẫn đến thất bại trong doanh thu của máy tại Nhật Bản. Microsoft đã không thể xâm nhập và thống trị thị trường nội địa của 2 kình địch Sony và Nintendo, khiến cho các nhà bán lẻ quay lưng với họ và trong vài trường hợp việc bán máy Xbox 360 đã bị đình chỉ tại nơi này. Ngoài ra còn phải kể đến tâm lý của người tiêu dùng. Đối với người Nhật, đồ Nhật sản xuất ra luôn là tốt nhất. Microsoft đã không thể thuyết phục mọi người rằng Xbox tốt hơn PlayStation.
Trong khi doanh số của máy Xbox khá tệ tại Nhật Bản, chỉ với 2 triệu máy được bán ra trong 3 năm có mặt (từ 2002 đến 2005), doanh thu của Xbox 360 tại thị trường này còn tệ hại hơn cả máy tiền nhiệm của nó. Microsoft đã không thể thuyết phục mọi người rằng Xbox tốt hơn PlayStation.
Nhàn mào
Nhàn mào (Thalasseus bergii) là một loài chim biển trong họ Mòng biển, gồm 5 phân loài, làm tổ thành từng tập đoàn dày đặc ở các bờ biển và hòn đảo tại các vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới thuộc Cựu Thế giới. Loài này sinh sản ở các khu vực từ Cộng hòa Nam Phi, vòng quanh Ấn Độ Dương đến giữa Thái Bình Dương cho đến nước Úc. Toàn bộ các cá thể sẽ di cư khỏi khu vực sinh sản sau khi làm tổ. Loài này có họ hàng rất gần gũi với nhàn hoàng gia (Thalasseus maximus) và nhàn mào nhỏ (Thalasseus bengalensis) nhưng có thể phân biệt được chúng qua kích thước và màu sắc của mỏ.
Nhàn mào (Thalasseus bergii) là một loài chim biển trong họ Mòng biển, gồm 5 phân loài, làm tổ thành từng tập đoàn dày đặc ở các bờ biển và hòn đảo tại các vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới thuộc Cựu Thế giới. Toàn bộ các cá thể sẽ di cư khỏi khu vực sinh sản sau khi làm tổ.
Nhàn mào
Loài chim này có tính thích nghi và đã học được cách bám theo các thuyền đánh cá để ăn những con cá bị ngư dân vứt bỏ do không phải là thứ họ muốn đánh bắt. Chúng cũng tận dụng những địa điểm dị thường để làm tổ, ví dụ trên mái các toà nhà và trên các đảo nhân tạo trong các ruộng muối hay trong hồ xử lý nước thải. Trứng và chim non bị mòng biển và cò quăm ăn, đồng thời hoạt động đánh cá, săn bắn và khai thác trứng chim của loài người đã gây suy giảm số lượng cá thể loài này. Tuy nhiên, đây là loài ít quan tâm với số lượng cá thể ổn định ở mức 500.000 trên phạm vi toàn cầu.
Loài chim này có tính thích nghi và đã học được cách bám theo các thuyền đánh cá để ăn những con cá bị ngư dân vứt bỏ do không phải là thứ họ muốn đánh bắt. Chúng cũng tận dụng những địa điểm dị thường để làm tổ, ví dụ trên mái các toà nhà và trên các đảo nhân tạo trong các ruộng muối hay trong hồ xử lý nước thải.
Nhàn mào
Vào năm 1823, nhà tự nhiên học Martin Lichtenstein là người đầu tiên gọi nhàn mào bằng danh pháp Sterna bergii, nhưng sau này người ta đã chuyển nhàn mào từ chi Sterna sang chi Thalasseus như hiện nay sau khi các nghiên cứu DNA ty thể xác nhận rằng ba kiểu hình hiện diện trên đầu của nhàn (không có mào màu đen, có mào màu đen và có mào màu đen với trán màu trắng) đã dẫn đến một nhánh chim riêng biệt.Trong chi Thalasseus, họ hàng gần nhất của nhàn mào là "nhàn mào nhỏ" (T. bengalensis) và "nhàn hoàng gia" (T. maximus). Nghiên cứu DNA không bao hàm loài cực kỳ nguy cấp là "nhàn mào Trung Quốc" (T. bernsteini), nhưng do loài này từng được xem là cùng loài với nhàn mào (được xem là từ đồng nghĩa trong phân loài T. b. cristatus) nên T. bernsteini cũng được xem là có quan hệ rất mật thiết với nhàn mào.Tên chi Thalasseus bắt nguồn từ tiếng Hi Lạp là Thalassa (nghĩa là "biển") còn bergii là để tưởng nhớ Karl Heinrich Bergius (một nhà sinh vật học và dược sĩ người Phổ), người đã thu thập mẫu vật đầu tiên của loài nhàn này ở một địa điểm gần Cape Town, Nam Phi.Nhàn mào có khoảng năm phân loài, chủ yếu khác nhau về màu sắc của phần trên cơ thể và màu sắc của mỏ. Người ta còn đề xuất một số lượng tương tự các phân loài khác nhưng số phân loài này không được coi là hợp lệ. Dưới đây là danh sách năm phân loài:
Vào năm 1823, nhà tự nhiên học Martin Lichtenstein là người đầu tiên gọi nhàn mào bằng danh pháp Sterna bergii, nhưng sau này người ta đã chuyển nhàn mào từ chi Sterna sang chi Thalasseus như hiện nay sau khi các nghiên cứu DNA ty thể xác nhận rằng ba kiểu hình hiện diện trên đầu của nhàn (không có mào màu đen, có mào màu đen và có mào màu đen với trán màu trắng) đã dẫn đến một nhánh chim riêng biệt.Trong chi Thalasseus, họ hàng gần nhất của nhàn mào là "nhàn mào nhỏ" (T. bengalensis) và "nhàn hoàng gia" (T. maximus). Người ta còn đề xuất một số lượng tương tự các phân loài khác nhưng số phân loài này không được coi là hợp lệ.
Nhàn mào
Nhàn mào là một loài nhàn lớn với chiếc mỏ dài 5,4-6,5 cm có màu vàng. Chân chim và chiếc mào bóng bẩy trông rất bờm xờm ở phần chóp cùng có màu đen. Nhàn mào trưởng thành trong thời kì sinh sản thuộc phân loài T. b. bergii có cơ thể dài từ 46 đến 49 cm, sải cánh dài 125–130 cm và cân nặng 325-397 gam. Phần trán và phần bên dưới cơ thể có màu trắng; phần lưng và mặt trong của cánh có màu xám tối. Vào mùa đông, bộ lông ở phần trên cơ thể chuyển sang màu xám nhợt, đỉnh đầu chuyển sang màu trắng và hợp với phần mào [cụp lại] thành màu muối tiêu.Chim trống và chim mái trưởng thành đều có vẻ ngoài giống nhau, trong khi vẻ ngoài của chim non lại khác biệt hẳn: đầu chúng trông giống với đầu của chim trưởng thành vào mùa đông; bộ lông ở phần trên của cơ thể có hằn rõ có màu xám, nâu và trắng; cánh khi khép lại thì giống như có những vệt màu sẫm. Chim non sau khi thay lông trông khá giống với chim trưởng thành nhưng màu sắc trên cánh vẫn loang lổ với một vệt màu sẫm ở phần trong của lông bay (tức loại lông trên cánh giúp cho chim bay).
Nhàn mào là một loài nhàn lớn với chiếc mỏ dài 5,4-6,5 cm có màu vàng. Nhàn mào trưởng thành trong thời kì sinh sản thuộc phân loài T. b. bergii có cơ thể dài từ 46 đến 49 cm, sải cánh dài 125–130 cm và cân nặng 325-397 gam.
Nhàn mào
Hai phân loài ở miền bắc là T. b. velox và T. b. thalassina thay đổi bộ lông sang dạng bộ lông thời kì sinh sản trong khoảng thời gian từ tháng năm đến tháng mười. Trong khi đó, hai phân loài ở miền nam thì đổi sang bộ lông thời kì sinh sản trong khoảng thời gian từ tháng 12 đến tháng tư. Đối với T. b. cristata, thời gian thay lông phụ thuộc vào địa điểm. Chim ở Úc và châu Đại Dương thay bộ lông trong khoảng từ tháng chín đến tháng tư, trong khi chim ở Thái Lan, Trung Quốc và đảo Sulawesi thay lông từ tháng hai đến tháng sáu hoặc tháng bảy.Loài "nhàn hoàng gia" (T. maximus) có kích cỡ tương đương nhàn mào nhưng vóc dáng nặng nề hơn, sải cánh rộng hơn, lưng có màu nhợt nhạt hơn và cái mỏ ngắn, đậm sắc da cam hơn. Nhàn mào thường được kết chung với "nhàn mào nhỏ" (T. bengalensis) nhưng loài này lớn hơn "nhàn mào nhỏ" 25%, mỏ dài hơn và cân xứng hơn, đầu dài và nặng hơn, vóc dáng to hơn. So với nhàn mào, "nhàn mào nhỏ" có mỏ nhuộm màu da cam, đồng thời chim non có bộ lông loang lổ hơn.Nhàn mào có tiếng kêu lớn, đặc biệt là tại các bãi sinh sản. Để ra một cảnh báo về lãnh thổ, loài chim này phát ra một âm thanh lớn, khàn khàn và giống như của quạ: kerrak. Những con chim đang lo lắng hay phấn khích thì phát ra tiếng kêu korrkorrkorr. Khi bay, chúng phát ra tiếng wep wep.
Hai phân loài ở miền bắc là T. b. velox và T. b. thalassina thay đổi bộ lông sang dạng bộ lông thời kì sinh sản trong khoảng thời gian từ tháng năm đến tháng mười. So với nhàn mào, "nhàn mào nhỏ" có mỏ nhuộm màu da cam, đồng thời chim non có bộ lông loang lổ hơn.Nhàn mào có tiếng kêu lớn, đặc biệt là tại các bãi sinh sản.
Nhàn mào
Nhàn mào sống ở các vùng bờ biển nhiệt đới hay ôn đới ấm áp thuộc Cựu thế giới, trải dài từ Nam Phi, vòng quanh Ấn Độ Dương đến Thái Bình Dương và Úc. Phân loài T. b. bergii và T. b. enigma sinh sản tại miền nam châu Phi, từ Namibia đến Tanzania, và có lẽ là cả trên các đảo xung quanh Madagascar. Không thấy nhàn mào phân bố trong cả một vùng tính từ vùng vừa kể đến tận Somalia và Biển Đỏ và chúng cũng không phân bố ở khu vực miền nam Ấn Độ.Ở Ấn Độ Dương, nhàn mào sinh sản trên nhiều hòn đảo bao gồm Aldabra và Etoile thuộc quần đảo Seychelles, quần đảo Chagos và đảo Rodrigues. Có nhiều tập đoàn chim sống trên vô số các hòn đảo thuộc Thái Bình Dương, bao gồm Kiribati, Fiji, Tonga, quần đảo Société và quần đảo Tuamotu.Tổ của nhàn mào nằm trên những đảo san hô, đảo đá hay đảo cát thấp, thỉnh thoảng tổ của chúng nằm trong các bụi cây còi cọc, nhưng thường thì chúng không có nơi trú ẩn. Khi không sinh sản, nhàn mào sẽ đậu hay nghỉ ngơi trên các bờ biển rộng rãi, có khi là trên thuyền, nhà cửa ở cảng hay các mô đất nhô cao trong các phá nước (vụng biển). Hiếm khi thấy loài này ở các lạch triều (lạch nước bị tác động bởi thủy triều) hay các vùng nước nội địa.
Nhàn mào sống ở các vùng bờ biển nhiệt đới hay ôn đới ấm áp thuộc Cựu thế giới, trải dài từ Nam Phi, vòng quanh Ấn Độ Dương đến Thái Bình Dương và Úc. Có nhiều tập đoàn chim sống trên vô số các hòn đảo thuộc Thái Bình Dương, bao gồm Kiribati, Fiji, Tonga, quần đảo Société và quần đảo Tuamotu.Tổ của nhàn mào nằm trên những đảo san hô, đảo đá hay đảo cát thấp, thỉnh thoảng tổ của chúng nằm trong các bụi cây còi cọc, nhưng thường thì chúng không có nơi trú ẩn.
Nhàn mào
Sau khi sinh sản, toàn bộ các cá thể nhàn mào sẽ di trú. Khi chim ở miền nam châu Phi rời khỏi các điểm sinh sản ở Namibia và Tây Cape, đa phần số chim trưởng thành sẽ bay về phương đông đến dải bờ biển Ấn Độ Dương thuộc Nam Phi. Nhiều chim non cũng bay về phía đông, thỉnh thoảng chúng bay hơn 2.000 km trong khi số khác bay về phương bắc dọc theo bờ biển phía tây. Phân loài T. b. thalassina trú đông ở bờ biển đông châu Phi, phía bắc kéo dài đến Kenya và Somalia, phía nam có thể kéo dài tới Durban thuộc Nam Phi. Những con nhàn thuộc phân loài T. b. velox sinh sản về phía đông vịnh Ba Tư có vẻ như không rời đi chỗ khác hay chỉ đơn thuần là giải tán thay vì di trú thực sự; tuy vậy, những con chim sinh sản ở Biển Đỏ sẽ đi trú đông bằng cách bay về phương nam dọc theo bờ biển miền đông châu Phi đến Kenya. Nhìn chung, T. b. cristata chủ yếu chỉ loanh quanh trong phạm vi 400 km xung quanh sân chim. Tuy nhiên, cũng có một số cá thể bay lang thang trong phạm vi lên đến 1.000 km. Chim nhàn mào còn phiêu bạt đến Hawaii, New Zealand, Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên, Jordan và Israel.
Sau khi sinh sản, toàn bộ các cá thể nhàn mào sẽ di trú. Những con nhàn thuộc phân loài T. b. velox sinh sản về phía đông vịnh Ba Tư có vẻ như không rời đi chỗ khác hay chỉ đơn thuần là giải tán thay vì di trú thực sự; tuy vậy, những con chim sinh sản ở Biển Đỏ sẽ đi trú đông bằng cách bay về phương nam dọc theo bờ biển miền đông châu Phi đến Kenya.
Nhàn mào
Nhàn mào phân bố rộng rãi khắp nơi, ước tính trên một diện tích là 1-10 triệu kilômét vuông. Loài này được xếp vào loại Loài ít quan tâm ở cấp độ toàn cầu. Tuy nhiên, đã có những mối quan ngại về số lượng cá thể, đơn cử là nhàn không còn sinh sản ở vịnh Thái Lan và số lượng nhàn mào ở Indonesia đã suy giảm do hoạt động khai thác trứng chim.Tất cả các phân loài, trừ T. b. cristata, đều nằm trong tầm bao quát của Thoả thuận về bảo tồn chim nước di trú Phi-Âu (AEWA). Các bên ký vào thoả thuận có trách nhiệm thực hiện nhiều chiến lược bảo tồn được mô tả trong kế hoạch hành động chi tiết.Ở Việt Nam, người ta đã quan sát thấy nhàn mào ở các vùng biển Trung Bộ như Nha Trang, quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa và Côn Đảo.
Nhàn mào phân bố rộng rãi khắp nơi, ước tính trên một diện tích là 1-10 triệu kilômét vuông. Tuy nhiên, đã có những mối quan ngại về số lượng cá thể, đơn cử là nhàn không còn sinh sản ở vịnh Thái Lan và số lượng nhàn mào ở Indonesia đã suy giảm do hoạt động khai thác trứng chim.Tất cả các phân loài, trừ T. b. cristata, đều nằm trong tầm bao quát của Thoả thuận về bảo tồn chim nước di trú Phi-Âu (AEWA).
Nhàn mào
Nhàn mào sinh sản tại nhiều sân chim, thường là cùng chỗ với các loài chim biển khác. Loài này sống theo cặp gồm một trống - một mái, và mối liên hệ giữa cặp đôi được duy trì suốt trong năm, thỉnh thoảng là trong nhiều kì sinh sản liên tục. Kích thước của sân chim lệ thuộc vào lượng cá ở biển, và sân chim lớn nhất từng được ghi nhận là tại vịnh Carpentaria thuộc miền bắc nước Úc với 13.000-15.000 cặp chim. Có lẽ các cơn lũ theo mùa vào mùa hè và sự gia tăng lượng dưỡng chất cung cấp cho vịnh do dòng sông mang lại đã giúp làm tăng lượng cá tại vùng này. Nhàn mào không trung thành với nơi chúng sinh ra mà thường xuyên thay đổi nơi sinh sản từ năm này đến năm khác, thỉnh thoảng cách đó hơn 200 km.
Nhàn mào sinh sản tại nhiều sân chim, thường là cùng chỗ với các loài chim biển khác. Nhàn mào không trung thành với nơi chúng sinh ra mà thường xuyên thay đổi nơi sinh sản từ năm này đến năm khác, thỉnh thoảng cách đó hơn 200 km.
Nhàn mào
Một con nhàn mào trống sẽ thiết lập một lãnh địa nhỏ để chuẩn bị làm tổ và sẽ mổ bất cứ con nhàn nào dám tiến vào lãnh địa của nó. Nếu kẻ xâm nhập là một con trống khác thì kẻ xâm nhập này cũng đáp trả đòn tấn công và thường là sẽ bị chủ nhân lãnh địa đẩy lùi một cách rất mãnh liệt. Nếu kẻ xâm nhập là một con mái thì nó sẽ phản ứng thụ động lại sự hung hăng của chim trống, cho phép chim trống có thời gian nhận ra giới tính của nó và khởi động màn trình diễn (ngẩng đầu và cúi chào) để cùng nhau cặp đôi. Nhàn mào còn tặng cá như một phần của nghi lễ tỏ tình: một con chim bay vòng quanh sân chim với con cá trong mỏ và kêu lớn; con chim còn lại có thể cũng bay theo nhưng cuối cùng chúng sẽ đậu lại và trao nhau món quà.
Một con nhàn mào trống sẽ thiết lập một lãnh địa nhỏ để chuẩn bị làm tổ và sẽ mổ bất cứ con nhàn nào dám tiến vào lãnh địa của nó. Nếu kẻ xâm nhập là một con trống khác thì kẻ xâm nhập này cũng đáp trả đòn tấn công và thường là sẽ bị chủ nhân lãnh địa đẩy lùi một cách rất mãnh liệt.
Nhàn mào
Tổ chim thực chất là một chỗ cát nông được đào trên một nền đất rộng và phẳng, có khi là nền dốc. Thường thì chim không lót gì vào tổ này nhưng thỉnh thoảng có đá hoặc "xương" của mực nang. Nhàn mào đẻ một (thỉnh thoảng là hai) quả trứng vào tổ rồi cả chim trống và mái cùng ấp trứng trong vòng 25-30 ngày đến khi trứng nở. Trứng có màu kem với những sọc hơi đen. Tính đồng bộ hóa trong hành vi đẻ trứng biểu hiện trong phạm vi bầy sinh sản và còn rõ hơn nữa trong phạm vi các bầy nhỏ. Chim cha mẹ không nhận diện được trứng của mình hay chim non mới nở nhưng có thể phân biệt được đâu là con mình khi chim non đạt hai ngày tuổi, tức là ngay trước khi chúng bắt đầu di chuyển ra khỏi tổ. Chim non có màu sắc rất nhợt nhạt với các đốm màu đen; chúng có khả năng sống độc lập sau khi nở nhưng được chim cha mẹ ấp ủ và cho ăn. Chim non đủ lông đủ cánh sau 38-40 ngày nhưng sau khi rời khỏi sân chim thì chúng vẫn lệ thuộc vào cha mẹ cho đến khi chúng được khoảng bốn tháng tuổi.
Tổ chim thực chất là một chỗ cát nông được đào trên một nền đất rộng và phẳng, có khi là nền dốc. Chim non có màu sắc rất nhợt nhạt với các đốm màu đen; chúng có khả năng sống độc lập sau khi nở nhưng được chim cha mẹ ấp ủ và cho ăn.
Nhàn mào
Tại Nam Phi, nhàn mào đã thích nghi với việc sinh sản trên mái nhà, thỉnh thoảng cùng chỗ với "mòng biển vua" (Chroicocephalus hartlaubii). Vào năm 2000, nơi đây có 7,5% số cá thể nhàn sinh sản trên mái nhà. Chim cũng tìm đến các đảo nhân tạo nằm trong các ruộng muối và hồ xử lý nước thải để sinh sản.Có rất ít loài ăn thịt săn đuổi nhàn mào trưởng thành, nhưng ở Namibia thì chim non thường bị loài mòng biển Larus dominicanus cướp thức ăn. Người ta còn quan sát thấy Larus dominicanus, Chroicocephalus hartlaubii, mòng biển bạc và Threskiornis aethiopicus ăn trứng và nhàn mào non, đặc biệt là khi sân chim của những loài này bị quấy rầy. Các bầy chim nằm ở vành ngoài của sân chim cũng dễ trở thành mục tiêu của kẻ ăn thịt hơn. Ở Úc, nhàn mào bị chó và mèo ăn thịt; thỉnh thoảng chúng bị bắn hoặc đâm đầu vào xe hơi, dây cáp và cột đèn.
Tại Nam Phi, nhàn mào đã thích nghi với việc sinh sản trên mái nhà, thỉnh thoảng cùng chỗ với "mòng biển vua" (Chroicocephalus hartlaubii). Các bầy chim nằm ở vành ngoài của sân chim cũng dễ trở thành mục tiêu của kẻ ăn thịt hơn.
Nhàn mào
Tác động của ngành đánh cá thương mại thể hiện cả mặt tích cực và tiêu cực lên nhàn mào. Tỉ lệ sống sót của chim chưa trưởng thành được cải thiện nếu có tàu cá thải bỏ thức ăn thừa, và số lượng cá thể nhàn mào ở vịnh Carpentaria tăng có thể là do sự phát triển của nghề cào tôm. Ngược lại, nghề đánh cá bằng lưới kéo đã làm giảm lượng thức ăn của chim, và sự thay đổi khá lớn trong số lượng cá thể nhàn mào ở Tây Cape (Nam Phi) có liên quan mật thiết đến những thay đổi trong lượng cá ở biển do hoạt động khai thác cá bằng lưới kéo gây nên. Nhàn mào có thể chết hay bị thương khi đâm vào hay bị mắc kẹt trong lưới; tuy vậy, có ít bằng chứng nói lên rằng số lượng toàn thể nhàn mào bị ảnh hưởng đáng kể bởi hoạt động đánh cá của con người.Một sự việc rắc rối bất thường đã xảy ra vào năm 2006 khi 103 con chim nhàn ngoài khơi ven đảo Robben, Nam Phi bị bọt biển (sinh ra từ sự kết hợp của tác động sóng biển, chất nhầy tảo bẹ và thực vật phiêu sinh) làm tê liệt khả năng vận động. Sau khi chữa trị, 90% số chim đã đủ khỏe mạnh để được thả ra.
Tác động của ngành đánh cá thương mại thể hiện cả mặt tích cực và tiêu cực lên nhàn mào. Nhàn mào có thể chết hay bị thương khi đâm vào hay bị mắc kẹt trong lưới; tuy vậy, có ít bằng chứng nói lên rằng số lượng toàn thể nhàn mào bị ảnh hưởng đáng kể bởi hoạt động đánh cá của con người.Một sự việc rắc rối bất thường đã xảy ra vào năm 2006 khi 103 con chim nhàn ngoài khơi ven đảo Robben, Nam Phi bị bọt biển (sinh ra từ sự kết hợp của tác động sóng biển, chất nhầy tảo bẹ và thực vật phiêu sinh) làm tê liệt khả năng vận động.
Nhàn mào
Nhàn mào kiếm ăn chủ yếu ở biển bằng cách lao vào nước và lặn xuống độ sâu tối đa là 1 m hay trầm mình từ mặt biển. Chim có thể kiếm ăn trong phạm vi 10 km từ đất liền trong mùa sinh sản. Con mồi có chiều dài từ 7–138 mm và cân nặng tối đa 30 g. Nhàn mào thường ăn những loài cá sống gần mặt nước như cá trổng và cá mòi nhưng chúng cũng ăn những động vật đáy do con người thải bỏ từ tàu đánh cá. Loài chim này cũng chủ động bám theo tàu cá, dù cho đó là vào ban đêm; trong mùa đánh cá, số thức ăn chim kiếm được từ những loại hải sản do con người thải bỏ có thể chiếm tới 70% khẩu phần ăn của chúng. Các tàu đánh bắt tôm mang lại lợi ích nhiều nhất về mặt thức ăn cho nhàn mào do tôm thường chỉ chiếm 10-20% sản lượng đánh bắt lên trong khi số còn lại (chủ yếu là các loài cá như cá sơn và cá bống trắng) đều bị con người thải bỏ.Một nghiên cứu tại vùng biển rạn san hô Great Barrier (nơi số lượng nhàn mào tăng gấp mười lần, có thể là nhờ thức ăn thải bỏ từ tàu cá) đã chỉ ra rằng "nhàn mào nhỏ" và Onychoprion fuscatus đã rời khỏi khu vực và chuyển đến sinh sản tại một vùng cấm đánh cá thuộc rạn san hô này. Có khả năng là số lượng nhàn mào đông đúc đã gây ảnh hưởng lên các loài khác thông qua sự cạnh tranh về thức ăn và địa điểm làm tổ.Nhàn mào có các giọt dầu màu đỏ trong các tế bào nón của võng mạc mắt. Đặc điểm này giúp cải thiện độ tương phản và làm tăng thêm thị lực tầm xa, đặc biệt là trong điều kiện không khí mù sương. Trong các giọt dầu tế bào nón của những loài chim phải nhìn qua mặt phân giới không khí/nước - như nhàn và mòng bể - có các sắc tố carotenoid nhuộm màu mạnh hơn so với các loài chim khác. Thị lực được cải thiện giúp chim nhàn định vị các đàn cá, mặc dù người ta vẫn chưa chắc chắn được là chúng nhìn vào đám thực vật phiêu sinh là mồi của cá, hay chúng quan sát các con chim nhàn khác đang lao xuống kiếm ăn. Một điểm nữa là mắt chim nhàn không nhạy với tia cực tím - một đặc điểm thích nghi phù hợp với những loài kiếm ăn trên cạn như mòng bể hơn.
Nhàn mào kiếm ăn chủ yếu ở biển bằng cách lao vào nước và lặn xuống độ sâu tối đa là 1 m hay trầm mình từ mặt biển. Có khả năng là số lượng nhàn mào đông đúc đã gây ảnh hưởng lên các loài khác thông qua sự cạnh tranh về thức ăn và địa điểm làm tổ.Nhàn mào có các giọt dầu màu đỏ trong các tế bào nón của võng mạc mắt.
Rồng
Rồng hay long (tiếng Anh: dragon) là sinh vật thần thoại khổng lồ sở hữu phép thuật xuất hiện trong văn hóa dân gian ở nhiều nơi trên thế giới. Những tín ngưỡng về rồng khác biệt đáng kể theo từng vùng miền, song rồng trong văn hóa phương Tây từ Trung kỳ Trung Cổ thường được miêu tả là có cánh, mọc sừng và có thể phun lửa. Rồng trong văn hóa phương Đông thường được miêu tả là những sinh vật không có cánh, bốn chi, hình rắn cùng trí tuệ trên mức trung bình. Điểm chung giữa các đặc điểm của rồng ở hai nền văn hóa là lai mèo, bò sát, lớp thú và chim. Giới học giả tin rằng những con cá sấu lớn đã tiệt chủng hoặc di cư có nhiều nét tương đồng nhất, đặc biệt khi tiếp xúc với chúng ở các vùng đầm lầy, và nhiều khả năng là nguyên mẫu cho hình ảnh rồng châu Á hiện đại.
Rồng hay long (tiếng Anh: dragon) là sinh vật thần thoại khổng lồ sở hữu phép thuật xuất hiện trong văn hóa dân gian ở nhiều nơi trên thế giới. Những tín ngưỡng về rồng khác biệt đáng kể theo từng vùng miền, song rồng trong văn hóa phương Tây từ Trung kỳ Trung Cổ thường được miêu tả là có cánh, mọc sừng và có thể phun lửa.
Rồng
Vương Trung Hiếu từ báo Thanh niên giải thích về từ "long" và "rồng": "Long (龍) là rồng, một con vật tưởng tượng trong thần thoại và văn hóa dân gian Trung Quốc. Khái niệm này đã lan rộng đến Việt Nam, Hàn Quốc, Nhật Bản,... hòa nhập vào nền văn hóa bản địa của mỗi nước. Người Việt gọi chung là rồng (chữ Nôm: 𧍰, 𧏵, 蠬) hoặc long (龍) – từ Hán-Việt." Năm 2012, học giả Đinh Văn Tuấn từng đưa ra diễn giải về cách người Việt sử dụng các chữ 'Thìn' (辰), 'Long' (龍) và 'Rồng' trên tạp chí Ngôn ngữ số 7 của Viện Ngôn ngữ học Việt Nam: "Ở Việt Nam, chưa có các bằng chứng từ khảo cổ, thư tịch, ngôn ngữ,... cho thấy hệ thống lịch 12 con giáp và dấu vết con rồng đã từng xuất hiện ở Việt Nam thời cổ đại. Tên gọi 'Rồng' và cả âm đọc 'Long' của người Việt Nam xưa nay có gốc từ tiếng Hán cổ qua giai đoạn lịch sử từ khi Cổ Việt bị nhà Triệu và nhà Hán xâm lược, thôn tính. Hệ quả là người Việt đã chịu ảnh hưởng hệ thống lịch pháp cổ của Trung Hoa, trong đó có Chi Thìn 辰 cùng với biểu tượng của nó là con 'Rồng'". Trên tạp chí Sông Hương, tác giả Lê Quang Thái lại đưa ra một cách diễn giải khác: "'Rồng' là tiếng Nôm để gọi tên con rồng, dân gian còn gọi con long: "Làng ta phong cảnh hữu tình/ Dân cư giang khúc như hình con long". Nét viết chữ 'rồng' như biểu hiện tính cách tượng trưng. 'Rồng' biến thái từ chữ "long" (龍),... Người Trung Quốc phát âm từ "龍" (long) theo giọng Bắc Kinh là "lóng" hoặc "chóng" còn đọc là "sủng". Tiếng Việt phiên âm là "rồng". Người Hoa không có phụ âm "r", họ đọc cực nhọc phụ âm này na ná như phụ âm "l" vậy. Đồng âm với chữ "long" (龍) là chữ "long" (隆); có nghĩa là cao nhất, thịnh vượng, đầy đặn, tôn quý. Vì vậy khiến cho nhiều khi chủ quan không tra chữ Hán nên vướng phải nhầm lẫn về từ và nghĩa của chữ "Long" trong địa danh, bút danh, phẩm tước. Chữ long (隆) trong các địa danh hoặc biển hiệu như Hưng Long, Phú Long, Tân Long, Long Phát, Long Phúc, Long Hưng có nghĩa là thịnh, thịnh vượng."Từ "rồng" đã được sử dụng để chỉ sinh vật thần thoại trong thần thoại Trung Hoa là long (giản thể: 龙; phồn thể: 龍; bính âm: lóng) – gắn liền với vận may; nhiều vị thần và á thần của Đông Á lấy rồng làm thú cưỡi hoặc bạn đồng hành của họ. "Long" cũng được xem là để chỉ Hoàng đế Trung Hoa – nhân vật duy nhất trong thời kỳ phong kiến Trung Hoa có rồng được in lên quần áo, tư gia hoặc đồ cá nhân. Nhà khảo cổ học Zhōu Chong-Fa tin rằng từ "long" trong tiếng Trung là từ tượng thanh chỉ tiếng sấm hoặc lùhng trong tiếng Quảng Châu.Từ dragon du nhập vào tiếng Anh đầu thế kỷ thứ 13, gốc là từ dragon tiếng Pháp cổ – vốn xuất phát từ tiếng Latinh: draco (thuộc cách draconis), nghĩa là "rồng, rắn khổng lồ," và từ tiếng Hy Lạp cổ đại δράκων, drákōn (thuộc cách δράκοντος, drákontos) "sinh vật rắn". Thuật ngữ tiếng Hy Lạp và Latinh nhằm ám chỉ bất kỳ con rắn lớn nào, chứ không nhất thiết phải là thần thoại. Từ tiếng Hy Lạp δράκων nhiều khả năng là bắt nguồn từ động từ tiếng Hy Lạp δέρκομαι (dérkomai), nghĩa là "Tôi thấy", dạng bất định của từ ἔδρακον (édrakon). Từ này được cho là dùng để chỉ một thứ với "ánh nhìn chết người", đôi mắt sáng hoặc "sắc" bất thường, hay vì mắt rắn dường như luôn mở; mỗi mắt thật sự nhìn qua lớp vảy lớn trong suốt ở mí mắt, mà chỗ mí mắt này lại luôn cụp xuống. Từ tiếng Hy Lạp còn có thể xuất phát từ từ gốc Ấn-Âu *derḱ-, nghĩa là "thấy"; gốc Sanskrit दृश् (dr̥ś-) cũng nghĩa là "thấy".
Vương Trung Hiếu từ báo Thanh niên giải thích về từ "long" và "rồng": "Long (龍) là rồng, một con vật tưởng tượng trong thần thoại và văn hóa dân gian Trung Quốc. Từ này được cho là dùng để chỉ một thứ với "ánh nhìn chết người", đôi mắt sáng hoặc "sắc" bất thường, hay vì mắt rắn dường như luôn mở; mỗi mắt thật sự nhìn qua lớp vảy lớn trong suốt ở mí mắt, mà chỗ mí mắt này lại luôn cụp xuống.
Rồng
Sinh vật rồng hiện diện ở hầu hết mọi nền văn hóa trên toàn cầu, những ghi chép được kiểm chứng sớm nhất về những sinh vật rồng có hình hài tương tự rắn khổng lồ. Sinh vật rồng được miêu tả lần đầu trong thần thoại Cận Đông cổ đại và xuất hiện trong văn học và nghệ thuật Lưỡng Hà cổ đại. Những câu chuyện về các vị thần thời tiết đi tiêu diệt các loài hình rắn khổng lồ diễn ra ở gần như mọi thần thoại thần thoại Ấn-Indo. Những sinh vật rồng nguyên mẫu nổi tiếng gồm mušḫuššu ở Lưỡng Hà; Apep trong thần thoại Ai Cập; Vṛtra trong Rigveda; Leviathan trong Kinh Thánh Hebrew; Grand'Goule ở vùng Poitou của Pháp; Python, Ladon, Wyvern và Hydra trong thần thoại Hy Lạp; Kulshedra trong thần thoại Albania; Unhcegila trong thần thoại Lakota; Jörmungandr, Níðhöggr và Fafnir trong thần thoại Bắc Âu; rồng trong Beowulf; aži và az trong thần thoại Ba Tư cổ đại – liên hệt mật thiết với một sinh vật thần thoại nữa có tên là Aži Dahaka của Zahhak.
Sinh vật rồng hiện diện ở hầu hết mọi nền văn hóa trên toàn cầu, những ghi chép được kiểm chứng sớm nhất về những sinh vật rồng có hình hài tương tự rắn khổng lồ. Sinh vật rồng được miêu tả lần đầu trong thần thoại Cận Đông cổ đại và xuất hiện trong văn học và nghệ thuật Lưỡng Hà cổ đại.
Rồng
Tuy nhiên, các học giả vẫn tranh luận xem ý tưởng loài rồng xuất phát từ đâu và hàng loạt giả thuyết đã được trình bày.Trong cuốn sách An Instinct for Dragons (2000), nhà nhân chủng học David E. Jones đề xuất giả thuyết rằng con người (giống như khỉ) thừa hưởng những phản ứng bản năng với rắn, mèo lớn và chim săn mồi. Anh trích dẫn một nghiên cứu chỉ ra rằng cứ 100 người thì có khoảng 39 người sợ rắn và lưu ý rằng nỗi sợ rắn đặc biệt phổ biến ở trẻ em, ngay cả ở những nơi hiếm có loài rắn sinh sống. Những con rồng được chứng thực sớm nhất đều có ngoại hình tương đồng hoặc có đôi nét giống rắn. Do đó, Jones đúc kết rằng rồng hiện diện gần như ở mọi nền văn hóa vì con người có nỗi sợ bẩm sinh với rắn và những động vật khác, mà chúng vốn là loài săn mồi chính tổ tiên linh trưởng của con người. Rồng thường được cho là trú ngụ ở "hang tối, vực sâu, vùng núi hoang dã, đáy biển, rừng bị ám", tất cả những nơi này có thể đầy rẫy hiểm nguy với tổ tiên loài người thời sơ khai.Trong cuốn sách The First Fossil Hunters: Dinosaurs, Mammoths, and Myth in Greek and Roman Times (2000), Adrienne Mayor nhận định rằng một vài câu chuyện về rồng có thể được truyền cảm hứng từ những khám phá hóa thạch cổ của khủng long và những động vật thời tiền sử khác. Cô cho rằng truyền thuyết về rồng ở Bắc Ấn Độ có thể lấy cảm hứng từ "những chiếc xương lớn lạ thường nằm trong các lớp hóa thạch của dãy Siwalik Hills, phía dưới dãy Himalaya" và những hình ảnh nghệ thuật của Hy Lạp cổ đại mô tả Quái vật thành Troy có thể lấy cảm hứng từ hóa thạch của Samotherium – loài hươu cao cổ đã tuyệt chủng và để lại hóa thạch nằm phổ biến ở vùng Địa Trung Hải. Ở Trung Quốc (nơi hóa thạch của động vật khổng lồ thời tiền sử rất phổ biến), những di tích này thường được phân định là "long cốt" (xương rồng) và sử dụng đại trà trong đông y. Tuy nhiên, Mayor cẩn trọng chỉ ra rằng không phải mọi câu chuyện về rồng và người khổng lồ đều có cảm hứng từ hóa thạch và lưu ý rằng Scandinavia có nhiều câu chuyện về rồng và quái vật biển, song từ lâu bị xem là "nơi ít hóa thạch lớn." Trong một cuốn sách chắp bút sau này, cô nhận xét: "Nhiều hình ảnh loài rồng khắp thế giới dựa trên kiến thức dân gian hoặc phép phóng đại các loài bò sát sống, chẳng hạn như rồng Komodo, quái vật Gila, cự đà, cá sấu mõm ngắn hay ở California là thằn lằn cá sấu mõm ngắn, dẫu cho điều này vẫn chưa giải thích hợp lý cho các truyền thuyết của người Scandinavia, vì chẳng có loài động vật nào (trong lịch sử) như vậy từng được phát hiện ở vùng này."Robert Blust trong cuốn The Origin of Dragons (2000) bình phẩm rằng, như nhiều phép sáng tạo khác trong các nền văn hóa truyền thống, rồng có thể được lý giải chủ yếu là những sản phẩm tập hợp suy đoán tiền khoa học hợp lý về thế giới sự việc đời thực. Trong trường hợp này, sự việc là cơ chế tự nhiên chi phối lượng mưa và hạn hán, đặc biệt chú ý tới hiện tượng cầu vồng.
Tuy nhiên, các học giả vẫn tranh luận xem ý tưởng loài rồng xuất phát từ đâu và hàng loạt giả thuyết đã được trình bày.Trong cuốn sách An Instinct for Dragons (2000), nhà nhân chủng học David E. Jones đề xuất giả thuyết rằng con người (giống như khỉ) thừa hưởng những phản ứng bản năng với rắn, mèo lớn và chim săn mồi. Do đó, Jones đúc kết rằng rồng hiện diện gần như ở mọi nền văn hóa vì con người có nỗi sợ bẩm sinh với rắn và những động vật khác, mà chúng vốn là loài săn mồi chính tổ tiên linh trưởng của con người.
Rồng
Trong thần thoại Ai Cập, Apep (hay Apophis) là một sinh vật rắn khổng lồ trú tại Duat – Địa Ngục của Ai Cập. Giấy cói Bremner-Rhind (được viết vào khoảng năm 310 TCN) lưu trữ ghi chép về truyền thống Ai Cập cổ xưa hơn nhiều: Mặt Trời lặn là do thần Ra xuống Duat để chiến đấu với Apep. Ở một số ghi chép, Apep có kích thước dài bằng tám người đàn ông với cái đầu làm bằng đá lửa. Sấm sét và động đất được cho là do tiếng gầm của Apep gây nên, còn nhật thực được cho là do Apep tấn công Ra lúc ban ngày. Ở một số giai thoại, Apep bị thần Set tiêu diệt. Nehebkau là một sinh vật rắn khổng lồ khác canh giữ Duat và hỗ trợ Ra chiến đấu với Apep. Nehebkau lớn đến mức ở một số truyện ghi rằng toàn bộ Trái Đất bị cơ thể rắn của ông bao quanh. Denwen là một sinh vật rắn khổng lồ được nhắc đến trong Văn thư Kim Tự Tháp, sở hữu cơ thể làm từ lửa và là thủ phạm của một vụ phóng hỏa lớn gần như thiêu trụi toàn bộ đền thờ của các vị thần Ai Cập. Cuối cùng, ông bị Pharaoh đánh bại, và chiến thắng ấy khẳng định quyền cai trị thiêng liêng của Pharaoh.Ouroboros là biểu tượng con rắn ăn đuôi nối tiếng của Ai Cập. Tiền thân của ouroboros là "Many-Faced" – một loài rắn có năm đầu mà theo Amduat (cuốn Sách về cái chết cổ nhất còn sót lại), được cho là cuốn quanh bảo quản xác của thần Mặt Trời Ra. Ghi chép sớm nhất sót lại về ouroboros "thật" đến từ những ngôi đền mạ vàng ở lăng mộ của Tutankhamun. Ở đầu các thế kỷ sau CN, ouroboros được tín đồ Cơ đốc giáo Ngộ đạo lấy làm biểu tượng, còn chương 136 của Pistis Sophia (văn thư Ngộ đạo đầu tiên) miêu tả "một con rồng lớn có đuôi ở trong miệng". Trong giả kim thuật thời Trung Cổ, ouroboros trở thành sinh vật rồng phương Tây điển hình với cánh, chi và đuôi. Hình ảnh nổi tiếng về con rồng gặm đuôi từ cuốn Codex Marcianus đã được sao chép trong nhiều tác phẩm về giả kim thuật.
Trong thần thoại Ai Cập, Apep (hay Apophis) là một sinh vật rắn khổng lồ trú tại Duat – Địa Ngục của Ai Cập. Sấm sét và động đất được cho là do tiếng gầm của Apep gây nên, còn nhật thực được cho là do Apep tấn công Ra lúc ban ngày.
Rồng
Người cổ đại khắp Cận Đông tin vào những sinh vật giống như thứ mà người hiện đại gọi là "rồng". Những người cổ đại này không hề biết đến sự tồn tại của khủng long hay những sinh vật tương tự ở quá khứ xa hơn thế. Những chi tiết liên hệ đến rồng cả về mặt thiện lẫn ác xuất hiện xuyên suốt nền văn học Lưỡng Hà cổ đại. Trong thơ ca của người Sumer, những vị vua vĩ đại thường được so sánh với ušumgal (một quái vật rắn khổng lồ). Sinh vật rồng với chi trước của sư tử, chi sau, đuôi và cánh của chim xuất hiện trong tác phẩm nghệ thuật Lưỡng Hà từ thời Akkad (k. 2334–2154 TCN) cho đến thời Tân Babylon (626 TCN–539 TCN). Rồng thường được miêu tả là có miệng mở. Nó có thể được biết tới là (ūmu) nā'iru (nghĩa là "quái vật thời tiết gầm thét)", và có thể liên hệ tới thần Ishkur (Hadad). Một sinh vật sư tử–rồng có chút khác biệt với hai sừng và đuôi của bọ cạp xuất hiện trong nghệ thuật của thời Tân-Assyria (911 TCN–609 TCN). Một tín ngưỡng (có thể là do Sennacherib ủy thác) cho thấy các thần Ashur, Sin và Adad đứng trên lưng của sinh vật này.Một sinh vật rồng khác với cơ thể, cổ và sừng của rắn, chi trước của sư tử và chi sau của chim xuất hiện trong nghệ thuật Lưỡng Hà từ thời Akkad đến thời Hy Lạp hóa (323 TCN–31 TCN). Sinh vật này (được ghi trong tiếng Akkad là mušḫuššu, tức là "rắn dữ tợn") được dùng làm biểu tượng cho các vị thần cụ thể và còn là biểu tượng bảo vệ chung. Dường như ban đầu nó là người hầu của thần Địa Ngục Ninazu, song sau trở thành người hầu của thần bão Hurry Tishpak, cũng như về sau phục vụ cho con trai của Ninazu là Ningishzida, quốc thần Baybylon Marduk, thần văn thư Nabu, và quốc thần Assy Ashur.
Người cổ đại khắp Cận Đông tin vào những sinh vật giống như thứ mà người hiện đại gọi là "rồng". Sinh vật rồng với chi trước của sư tử, chi sau, đuôi và cánh của chim xuất hiện trong tác phẩm nghệ thuật Lưỡng Hà từ thời Akkad (k. 2334–2154 TCN) cho đến thời Tân Babylon (626 TCN–539 TCN).
Rồng
Sách Job 41:1–34 chứa một miêu tả chi tiết về Leviathan – sinh vật được miêu tả là quyền năng đến nỗi chỉ Yahweh mới có thể trị được nó. Job 41:19–21 ghi chép rằng Leviathan phun ra lửa và khói, khiến cho việc nhận diện nó là rồng thần thoại là quá hiển nhiên. Ở một số phần trong Cựu Ước, Leviathan được lịch sử hóa thành biểu tượng cho các quốc gia đối đầu Yahweh. Rahab (từ đồng nghĩa với "Leviathan") được dùng trong một số đoạn Kinh Thánh để ám chỉ Ai Cập. Isaiah 30:7 ghi: "Vì sự giúp đỡ của Ai Cập là vô dụng và hão huyền, thế nên ta gọi cô ta là 'Rahab câm lặng'." Tương tự, Thánh Vịnh 87:3 ghi: "Ta xem Rahab và Babylon là những kẻ biết đến ta..." Trong Ezekiel 29:3–5 và Ezekiel 32:2–8, pharaoh của Ai Cập được miêu tả là một "con rồng" (tannîn). Trong truyện về Bel và Rồng trích từ Sách Daniel, nhà tiên tri Daniel thấy một con rồng được người Babylon tôn thờ. Daniel làm "bánh từ hắc ín, mỡ và tóc"; con rồng ăn chiếc bánh rồi nổ tung.
Sách Job 41:1–34 chứa một miêu tả chi tiết về Leviathan – sinh vật được miêu tả là quyền năng đến nỗi chỉ Yahweh mới có thể trị được nó. Tương tự, Thánh Vịnh 87:3 ghi: "Ta xem Rahab và Babylon là những kẻ biết đến ta..." Trong Ezekiel 29:3–5 và Ezekiel 32:2–8, pharaoh của Ai Cập được miêu tả là một "con rồng" (tannîn).
Rồng
Rồng Trung Hoa (giản thể: 龙; phồn thể: 龍; bính âm: lóng) là sinh vật cấp cao nhất trong hệ thống phân cấp động vật của Trung Quốc. Nguồn gốc của rồng còn mơ hồ, song "tổ tiên của nó có thể được tìm thấy trên đồ gốm của thời đại đồ đá mới cũng như các bình thờ thời đại đồ đồng." Có một số truyện phổ biến liên quan đến nuôi rồng. Cuốn Tả truyện (được cho sáng tác vào thời Chiến Quốc) miêu tả một người đàn ông tên là Đổng Phụ yêu rồng vì anh ta có thể hiểu được ý chí của rồng, nên anh có thể nuôi dạy chúng tốt. Anh phục vụ Vua Thuấn và được vị vua ban cho họ Hoạn Long (豢龍), nghĩa là "người nuôi rồng". Trong một truyện khác, Khổng Giáp (hoàng đế thứ 14 của nhà Hạ) được ban tặng một đôi rồng đực–cái nhằm tưởng thưởng cho sự vâng mệnh Trời, song vì không thể huấn luyện chúng, ông bèn thuê một người nuôi rồng tên Lưu Lũy (劉累) (học cách nuôi dạy rồng từ Hoạn Long). Một ngày nọ, con rồng cái bất ngờ qua đời, vì thế Lưu Lũy bí mật băm nhỏ nó ra, nấu chín thịt rồi đem nó dâng lên vua, vua yêu thích món đó đến nỗi lệnh cho Lưu phải phục vụ món ăn ấy lần nữa. Vì Lưu Lũy không có cách nào kiếm được thêm thịt rồng, anh đã bỏ trốn khỏi hoàng cung.Hình ảnh rồng Trung Hoa được tạo dựng sơ khai ở thời nhà Thương và nhà Chu, song không mấy thay đổi trong thời gian dài. Dưới triều nhà Hán (202 TCN–220 CN), Ứng Long (biểu tượng quyền lực phong kiến) thường xuyên xuất hiện trong các bình lọ của Rồng Hoàng Gia, tức là hầu hết mẫu thiết kế hình rồng mà hoàng thất nhà Hán sử dụng đều là họa tiết Ứng Long. Ứng Long là một con rồng có cánh trong thần thoại Trung Hoa cổ đại. Ngày nay, những ghi chép văn học về hình ảnh Ứng Long có cánh có thể được kiểm chứng từ "Quảng Nhã"(广雅), nghĩa là "cực kỳ thanh nhã" trong thời Tam Quốc, song mẫu thiết kế Ứng Long có cánh đã có trên đồ đồng từ thời nhà Thương và nhà Chu, cho tới tranh chạm khắc đá, tranh lụa và sơn mà đời nhà Hán. Những ghi chép văn học về Ứng Long có thể bắt nguồn từ những tài liệu về thời tiền Nhà Tần, chẳng hạn như Sơn hải kinh hay Sở từ. Theo những ghi chép trong Sơn hải kinh (thần thoại Trung Hoa 2200 năm trước), Ứng Long mang những đặc điểm chính của rồng Trung Hoa sau này – quyền năng kiểm soát bầu trời và địa vị thần thoại cao quý.Tuy nhiên, kể từ đời nhà Đường và nhà Tống (618–1279 SCN), hình ảnh rồng thật sự tượng trưng cho quyền lực phong kiến Trung Quốc không còn là Ứng Long có cánh nữa, mà thay bằng Hoàng Long (hay Rồng Vàng) không cánh phổ biến thời hiện đại. Nói về sự tiến hóa của Ứng Long và Hoàng Long, học giả Trần Chinh cho rằng trong "Ứng Long – nguồn gốc hình ảnh con rồng thật" bắt nguồn từ giữa triều nhà Chu, cánh của Ứng Long dần trở thành dạng họa tiết lửa và mây trên vai rồng trong sáng tạo nghệ thuật – xuất phát từ hình con rắn dài không cánh. Hình ảnh Hoàng Long được sử dụng chung với Ứng Long có cánh. Kể từ đó, sau hàng loạt cuộc chiến tranh, nền văn minh Trung Quốc bị tổn thất nặng nề, dẫn đến việc lãng quên hình ảnh Ứng Long có cánh, và hình ảnh Rồng Vàng không cánh thay thế Ứng Long và trở thành biểu tượng rồng thật tượng trưng cho quyền lực phong kiến Trung Quốc. Dựa trên cơ sở này, học giả Tiêu Thông Dung (肖聪榕) cho rằng việc tối giản sáng tạo nghệ thuật cánh Ứng Long của tổ tiên người Trung Quốc là một quá trình liên tục, tức là việc tối giản cánh rồng là một xu hướng không thể đảo ngược. Tiêu Thông Dung tin rằng hiện tượng "Rồng Vàng" thay thế "Ứng Long" là không thể tránh khỏi bất chấp nền văn minh Trung Hoa có chịu tổn thất hay không.Một trong những truyện nổi tiếng nhất về rồng là truyện kể Diệp Công – nhân vật yêu rồng đến mức ám ảnh, mặc dù ông chưa bao giờ thấy rồng. Ông trang hoàng tư gia bằng họa tiết rồng và khi nhìn thấy sự ngưỡng mộ ấy, một con rồng thật đã đến và ghé thăm Diệp Công, song ông này trông thấy rồng thì hoảng sợ quá nên bỏ chạy. Trong thần thoại Trung Hoa, giai thoại kể rằng anh hùng văn hóa Phục Hy băng qua sông Lạc Hà thì thấy Long Mã – một con ngựa–rồng với bảy đốm trên mặt, sáu đốm ở lưng, tám đốm ở sườn trái và chín đốm ở sườn phải. Anh xúc động trước cảnh tượng ấy đến mức khi về tới nhà, anh liền vẽ bức họa về nó, kể cả những vết đốm. Sau đó anh sử dụng những đốm này làm chữ cái và phát minh ra ký tự Trung văn mà anh dùng để viết cuốn Kinh Dịch. Trong một truyền thuyết Trung Quốc khác, y sĩ Mã Sư Hoàng (馬師皇) được cho là đã chữa cho một con rồng đang lâm bệnh. Một truyền thuyết nữa kể rằng một người đàn ông tìm tới thầy thuốc Lo Chên-jen, nói với ông rằng mình là rồng và cần được chữa trị. Sau khi Lo Chên-jen chữa trị cho người đàn ông, một con rồng hiện ra và đưa ông lên trời.Trong Sơn hải kinh (tuyển tập thần thoại cổ đại được cho là biên soạn dưới đời nhà Hán), nhiều vị thần và á thần được liên hệ tới rồng. Một trong những con rồng Trung Hoa nổi tiếng nhất là Ứng Long ("rồng đáp gọi") – sinh vật hỗ trợ Hoàng Đế đánh bại bạo chúa Xi Vưu. Rồng Chúc Long là một vị thần "sáng tạo ra vũ trụ bằng cơ thể mình." Trong Sơn hải kinh, nhiều anh hùng trong thần thoại đã chào đời sau khi mẹ của họ quan hệ với rồng thần rồi thụ thai, gồm có: Hoàng Đế, Thần Nông, Vua Nghiêu và Vua Thuấn. Thần Chúc Dung và vua Hạ Khải được miêu tả là được hai con rồng chở đi, giống như Hoàng Đế, Chuyên Húc và Ngu Cường trong nhiều văn bản cổ khác. Theo Hoài Nam Tử, một con hắc long từng gây ra một trận đại hồng thủy hủy diệt, và cuối cùng nó kết thúc khi thần mẫu Nữ Oa tiêu diệt con rồng.
Rồng Trung Hoa (giản thể: 龙; phồn thể: 龍; bính âm: lóng) là sinh vật cấp cao nhất trong hệ thống phân cấp động vật của Trung Quốc. Sau đó anh sử dụng những đốm này làm chữ cái và phát minh ra ký tự Trung văn mà anh dùng để viết cuốn Kinh Dịch.
Rồng
Theo nhiều cách thì rồng Triều Tiên tương tự với ngoại hình các con rồng Đông Á khác như rồng Trung Hoa và Rồng Nhật Bản. Nó khác rồng Trung Hoa ở chỗ có râu dài hơn. Rất hiếm khi rồng có thể được miêu tả là mang theo một quả cầu gọi là Yeouiju (여의주), tiếng Triều Tiên của Cintamani trong thần thoại, trong bộ vuốt hoặc miệng nó. Giai thoại kể rằng bất cứ ai có thể sử dụng Yeouiju đều được ban những năng lực toàn năng và sáng tạo và theo ý muốn, và chỉ rồng bốn ngón (ngón cái để giữ quả cầu) mới đủ khôn ngoan và sử dụng đủ những quả cầu này, trái ngược với những con rồng ba ngón bé hơn. Giống Trung Quốc, con số chín mang ý nghĩa tốt lành và quan trọng ở Triều Tiên, và rồng được cho là có 81 (9×9) vảy trên lưng, đại diện cho tính dương. Rồng trong thần thoại Triều Tiên chủ yếu là hướng thiện, liên quan đến nước và nông nghiệp, thường gieo mưa và mây. Do đó, nhiều con rồng ở Triều Tiên trú ở sông, hồ, đại dương, thậm chí là ao sâu trên núi. Những cuộc hành trình của con người tới cõi dưới biển, và đặc biệt là cung điện dưới biển của Long Vương (용왕), rất phổ biến trong văn hóa dân gian Triều Tiên.Trong thần thoại Triều Tiên, một vài vị vua lập quốc được miêu tả là hậu duệ của rồng vì rồng là biểu tượng của quân chủ. Nữ vương Aryeong (nữ vương đầu tiên của Tân La) được cho là sinh ra từ cockatrice, còn bà của Cao Ly Thái Tổ (nhà lập quốc Cao Ly) được cho là con gái của long vương ở Biển Tây. Trên giường bệnh, Văn Vũ Vương của Tân La đã mong muốn biến thành rồng ở Biển Đông để bảo vệ vương quốc. Hoạ tiết rồng được hoàng thất độc quyền sử dụng. Áo choàng của hoàng thất còn được gọi là long bào (용포). Ở triều đại Triều Tiên, phù hiệu hoàng tộc (có thêu hình rồng) được đính trên lưng, ngực và vai của long bào. Vua đeo phù hiệu rồng năm ngón còn Thái tử đeo phù hiệu rồng bốn ngón.
Theo nhiều cách thì rồng Triều Tiên tương tự với ngoại hình các con rồng Đông Á khác như rồng Trung Hoa và Rồng Nhật Bản. Nữ vương Aryeong (nữ vương đầu tiên của Tân La) được cho là sinh ra từ cockatrice, còn bà của Cao Ly Thái Tổ (nhà lập quốc Cao Ly) được cho là con gái của long vương ở Biển Tây.
Rồng
Giai thoại về rồng Nhật Bản kết hợp với truyền thuyết bản địa cùng những câu chuyện du nhập từ rồng Trung Hoa. Như một số rồng khác, đa số rồng Nhật Bản là thủy thần gắn liền với lượng mưa và cơ thể từ nước, thường được miêu tả là những sinh vật hình rắn không cánh khổng lồ với chi có vuốt. Gould ghi chép (1896:248), rồng Nhật Bản "luôn được cho là có ba móng vuốt". Một câu chuyện về samurai Mitsunaka no Minamoto kể rằng khi ông đang săn bắn trên lãnh thổ của mình ở Settsu, ông nằm dưới gốc cây và mơ về một người phụ nữ xinh đẹp xuất hiện trước ông và cầu xin ông cứu giúp vùng đất của cô đang bị một con rắn khổng lồ gây tai ương. Mitsunaka đồng ý giúp đỡ và thiếu nữ đem tặng ông một con ngựa tuyệt đẹp. Khi ông thức dậy, con thủy mã đã đang đứng trước ông. Ông cưỡi nó đến đền Sumiyoshi để lập đàn cầu nguyện trong tám ngày ở đây. Rồi ông đối mặt với con rắn và dùng cung tên kết liễu nó.Người Nhật xưa tin rằng có thể xoa dịu hoặc thanh tẩy cho rồng bằng kim loại. Yoshisada Nitta được cho là đã ném thanh kiếm nổi tiếng xuống biển ở Sagami để làm xoa dịu thần rồng của biển, còn Tsurayuki no Ki cũng ném một tấm gương bằng kim loại xuống biển ở Sumiyoshi với mục đích tương tự. Phật giáo Nhật Bản đã bắt rồng phải thích ứng và tuân theo Pháp luân; các vị thần Phật giáo Nhật Bản là Benten và Quan Âm thường được miêu tả ngồi trên lưng rồng. Một số vị tiên của Nhật Bản lấy rồng làm thú cưỡi. Bômô được cho là đã ném cây trượng xuống vũng nước, làm con rồng bay lên và dùng nó cưỡi lên trời. A-la-hán Handaka được cho là có thể triệu hồi rồng từ một cái bát, ông thường chơi đùa với nó trên kagamibuta. Shachihoko là một sinh vật có đầu rồng, đuôi mọc lông rậm, vảy giống cá và đôi khi nách phát lửa. Fun có đầu rồng, cánh lông vũ, đuôi và móng vuốt của chim. Rồng trắng được cho là trú ở một hồ nước ở tỉnh Yamashiro và cứ sau 50 năm, nó sẽ biến thành một con chim gọi là Ogonchô, phát ra tiếng kêu như "tiếng tru của chó hoang". Sự kiện này được tin là điềm báo về nạn đói khủng khiếp. Ở ngôi làng Okumura, gần Edo của Nhật Bản trong mùa hạn hán, dân làng dựng một hình nộm rồng từ rơm, lá mộc lan và tre, rồi đem diễu hành nó quanh làng để gọi mưa.
Giai thoại về rồng Nhật Bản kết hợp với truyền thuyết bản địa cùng những câu chuyện du nhập từ rồng Trung Hoa. Shachihoko là một sinh vật có đầu rồng, đuôi mọc lông rậm, vảy giống cá và đôi khi nách phát lửa.
Rồng
Rồng Việt Nam (tiếng Việt: rồng 龍) là một sinh vật thần thoại thường được sử dụng làm biểu tượng thần thánh và gắn liền với hoàng tộc. Học giả Đinh Văn Tuấn nhấn mạnh rằng: "hình tượng con 'Rồng' đã hội nhập vào tâm linh, đời sống, ngôn ngữ, lịch pháp, văn học, nghệ thuật,... của Việt Nam và đã được bao thế hệ tiền nhân ở các triều đại từ nhà Đinh đến nhà Nguyễn biến hóa, thăng hoa trở thành một hình tượng con 'Rồng' mới với hình thức và nội dung mang dấu ấn sâu đậm bản sắc dân tộc Việt khác hẳn hình tượng con Rồng gốc Trung Quốc". Tương tự như những nền văn hóa khác, rồng trong văn hóa Việt Nam đại diện cho tính dương và thần linh gắn liền với sáng tạo và sự sống. Trong truyền thuyết Trăm trứng nở trăm con của người Việt, họ là con cháu của thần rồng Lạc Long Quân và nữ tiên Âu Cơ. Âu Cơ sinh ra 100 trứng; khi chia tay nhau Lạc Long Quân đã đưa 50 con xuống biển trong khi Âu Cơ đưa 50 con lên núi. Đến ngày nay, người Việt vẫn dùng cụm từ "con rồng cháu tiên" để chỉ đến chính mình.
Rồng Việt Nam (tiếng Việt: rồng 龍) là một sinh vật thần thoại thường được sử dụng làm biểu tượng thần thánh và gắn liền với hoàng tộc. Tương tự như những nền văn hóa khác, rồng trong văn hóa Việt Nam đại diện cho tính dương và thần linh gắn liền với sáng tạo và sự sống.
Rồng
Truyện về người hùng diệt rắn/rồng khổng lồ xuất hiện ở hầu hết thần thoại Ấn-Âu nguyên thủy. Ở đa số truyện, người hùng là thần sấm. Ở gần như mọi mô-típ của truyện, sinh vật rắn có nhiều đầu hoặc đôi khi là "nhiều" cơ thể theo một cách nào đó. Ngoài ra, gần như ở mọi truyện, rắn luôn phải dính dáng đến nước. Giáo sư Bruce Lincoln nhận định rằng thần thoại giết rồng Ấn-Âu nguyên thủy có thể được dựng thành như sau: Đầu tiên, các vị thần bầu trời ban con bò cho một người đàn ông *Tritos ("thứ ba"), vì anh là người thứ ba sinh ra trên Trái Đất, song chúng bị con rắn ba đầu tên là *Ngwhi đánh cắp. *Tritos đuổi theo con rắn với bạn đồng hành *Hanér, (tên nghĩa là "người"). Hai vị anh hùng cùng nhau tiêu diệt con rắn và giải cứu con bò.
Truyện về người hùng diệt rắn/rồng khổng lồ xuất hiện ở hầu hết thần thoại Ấn-Âu nguyên thủy. Hai vị anh hùng cùng nhau tiêu diệt con rắn và giải cứu con bò.
Rồng
Từ tiếng Hy Lạp cổ đại thường dịch thành "rồng" (δράκων drákōn, sở hữu cách δράκοντοϛ drákontos) – có thể nghĩa là "rắn", nhưng nó thường để chỉ loài rắn khổng lồ sở hữu năng lực siêu nhiên hoặc bị sức mạnh siêu nhiên nào đó chi phối. Từ "dragon" được nhắc đến lần đầu trong văn học Hy Lạp cổ đại, cụ thể là cuốn sử thi Iliad; trong cuốn sách, Agamemnon được miêu tả là mang họa tiết rồng xanh trên đai đeo kiếm và biểu tượng rồng ba đầu trên giáp ngực. Ở các câu số 820–880 của Theogony (bài thơ tiếng Hy Lạp do nhà thơ người Boeotia Hēsíodos sáng tác vào thế kỷ thứ bảy TCN), vị thần Zeus của Hy Lạp đại chiến với Typhon – con quái vật rắn có một trăm đầu, phun ra lửa và tạo tiếng động vật gây hoảng sợ. Zeus cầm tia chớp để đốt hết các đầu của Typhon rồi đẩy nó xuống ngục Tartarus. Ở những tài liệu tiếng Hy Lạp khác, Typhon được miêu tả là rồng hình rắn có cánh và phun lửa. Trong tuyển tập thánh ca Homeric Hymn to Apollo, thần Apollo sử dụng mũi tên tẩm độc để tiêu diệt con rắn Python – thủ phạm gây ra chết chóc và dịch bệnh ở khu vực quanh Delphi. Rồi Apollo dựng đền thờ của ông tại đó.Trong bài thơ Culex (các câu thơ số 163–201), nhà thơ người La Mã Virgil miêu tả một người chăn cừu chiến đấu với một con rắn chuyên siết đối thủ, gọi nó bằng cái tên "serpens" hoặc "draco", cho thấy rằng ở thời ông sống, có thể hai từ này được dùng thay phiên nhau.
Từ tiếng Hy Lạp cổ đại thường dịch thành "rồng" (δράκων drákōn, sở hữu cách δράκοντοϛ drákontos) – có thể nghĩa là "rắn", nhưng nó thường để chỉ loài rắn khổng lồ sở hữu năng lực siêu nhiên hoặc bị sức mạnh siêu nhiên nào đó chi phối. Trong tuyển tập thánh ca Homeric Hymn to Apollo, thần Apollo sử dụng mũi tên tẩm độc để tiêu diệt con rắn Python – thủ phạm gây ra chết chóc và dịch bệnh ở khu vực quanh Delphi.
Rồng
Hēsíodos còn ghi chép rằng vị anh hùng Heracles đã tiêu diệt Hydra – con rắn nhiều đầu sống ở vùng đầm lầy Lerna. Cái tên "Hydra" nghĩa là "rắn nước" trong tiếng Hy Lạp. Theo tác phẩm tóm lược Bibliotheka của Pseudo-Apollodorus, vụ tiêu diệt Hydra là chiến công thứ hai trong Mười hai chiến công của Heracles. Các ghi chép không thống nhất về thứ vũ khí mà Heracles dùng để giết Hydra, song đến cuối thế kỷ thứ sáu TCN, các tác giả nhất trí rằng cần phải đốt những cái đầu bị trảm để ngăn chúng mọc lại. Heracles nhận được sự hỗ trợ từ cháu trai Iolaus trong nhiệm vụ này. Trong trận chiến, một con cua khổng lồ bò ra khỏi đầm lầy và kẹp chân của Heracles, song chàng đã kịp nghiền nát nó. Hera đưa con cua lên bầu trời thành chòm sao Cự Giải. Một cái đầu của Hydra là bất tử nên Heracles đem chôn nó dưới một tảng đá nặng sau khi chém được nó. Ở chiến công thứ bảy, Heracles phải hái quả táo vàng từ cây trong Vườn Hesperides – nơi con rắn khổng lồ không bao giờ ngủ (mà Pseudo-Apollodorus gọi là "Ladon") canh giữ. Ở những ghi chép cũ, Ladon thường được ghi có nhiều đầu. Ở ghi chép của Pseudo-Apollodorus, Ladon là sinh vật bất tử, nhưng Sophocles và Euripides đều miêu tả Heracles đã tiêu diệt được nó, dù chẳng ai ghi cụ thể ra sao. Một số nhận định cho rằng quả táo vàng không phải là phần thưởng sau trận chiến với Ladon mà là được Heracles dùng để thu hút các Hesperides. Học giả thần thoại Herodorus là người đầu tiên cho rằng Heracles đã tiêu diệt sinh vật bằng cây dùi trứ danh của chàng. Trong bài thơ sử thi Argonautica, Apollonius của Rhodes miêu tả Ladon đã bị bắn đầy tên tẩm độc lấy từ máu của Hydra.
Hēsíodos còn ghi chép rằng vị anh hùng Heracles đã tiêu diệt Hydra – con rắn nhiều đầu sống ở vùng đầm lầy Lerna. Một cái đầu của Hydra là bất tử nên Heracles đem chôn nó dưới một tảng đá nặng sau khi chém được nó.
Rồng
Ở bài thơ tiếng Bắc Âu Cổ Grímnismál trong tuyển tập Poetic Edda, rồng Níðhöggr được miêu tả đang gặm rễ của cây thần thế giới Yggdrasil. Trong thần thoại Bắc Âu, Jörmungandr là con rắn khổng lồ sống trên biển, với cơ thể bao quanh toàn bộ cõi Miðgarð. Từ phần Gylfaginning từ cuốn sách giáo khoa cổ Prose Edda (do học giả thần thoại người Iceland Snorri Sturluson chắp bút vào thế kỷ thứ mười ba), thần sấm Bắc Âu Thor từng đi chung thuyền với Hymnir khổng lồ ra vùng biển ngoài và câu được Jörmungandr nhờ lấy đầu bò làm mồi. Thor tóm được con rắn và sau khi kéo đầu nó lên mặt nước, chàng đập nó bằng cây búa Mjölnir. Snorri ghi rằng cú đập không gây tử vong: "và người ta cho rằng chàng đập đầu nó rồi thả xuống đáy biển. Nhưng tôi nghĩ cần nói sự thật với bạn là Rắn Miðgarð vẫn sống và nằm ở vùng biển xung quanh."Ở đoạn cuối của bài thơ sử thi bằng tiếng Anh cổ Beowulf, một nô lệ lấy cắp chiếc cốc từ hang trữ đồ của con rồng đang ngủ, làm con rồng thức giấc và nổi giận đi hủy diệt khắp vùng nông thôn. Vị anh hùng cùng tên bài thơ quả quyết muốn một mình đối đầu với con rồng, dẫu chàng tuổi đã cao, song Wiglaf (người trẻ nhất trong đoàn mười hai chiến binh mà Beowulf dẫn đi cùng) nhất quyết muốn theo vua ra trận. Kiếm của Beowulf bị gãy trong lúc chiến đấu còn chàng bị thương nặng, song Wiglaf kịp tới giải cứu và giúp chàng tiêu diệt con rồng. Beowulf hấp hối và bảo Wiglaf rằng kho báu của con rồng phải được đem chôn thay vì đem chia chác với những chiến binh hèn nhát không tới hỗ trợ vị vua của họ, rồi chàng tắt thở.Ở tác phẩm tiếng Bắc Âu cổ Völsunga saga, vị anh hùng Sigurd bắt được con rồng Fáfnir nhờ đào một cái hố giữa hang động nơi chàng sống và con suối chàng uống nước, rồi lấy kiếm đâm vào bụng lấy mạng nó. Theo lời khuyên của Odin, Sigurd lấy máu Fafnir để uống, đem lại cho chàng năng lực hiểu được ngôn ngữ của chim; chàng nghe chúng nói rằng người thầy Regin đang âm mưu phản bội chàng để y có thể chiếm giữ toàn bộ kho báu của Fafnir cho riêng mình. Chi tiết người anh hùng tìm cách lẻn vào lúc con rồng đang ngủ và lấy cắp kho báu của nó là mô típ phổ biến trong nhiều bộ saga bằng tiếng Bắc Âu cổ. Cuốn saga vào thế kỷ mười bốn Flóres saga konungs ok sona hans miêu tả một vị anh hùng chủ động cố không làm đánh thức con rồng đang ngủ lúc lẻn qua nó. Trong Yngvars saga víðförla, nhân vật chính cố lấy cắp kho báu từ một số con rồng đang ngủ, song vô tình đánh thức chúng.
Ở bài thơ tiếng Bắc Âu Cổ Grímnismál trong tuyển tập Poetic Edda, rồng Níðhöggr được miêu tả đang gặm rễ của cây thần thế giới Yggdrasil. Thor tóm được con rắn và sau khi kéo đầu nó lên mặt nước, chàng đập nó bằng cây búa Mjölnir.
Rồng
Rồng và họa tiết rồng đã xuất hiện trong nhiều tác phẩm văn học hiện đại, đặc biệt ở thể loại kỳ ảo. Ngay từ đầu thế kỷ 18, các nhà tư tưởng phê phán như Denis Diderot đã quả quyết rằng có nhiều tác phẩm văn học về rồng được xuất bản: "Trong sách đã có quá nhiều truyện cổ tích/thần thoại về rồng". Trong cuốn tiểu thuyết thiếu nhi Alice ở xứ sở trong gương (1872) của Lewis Carroll, một trong những bài thơ trong truyện mô tả một loài rồng tên là Jabberwock. Người vẽ minh họa cho truyện của Carroll, ông John Tenniel (một họa sĩ diễn họa chính luận nổi tiếng) đã trình bày Jabberwock theo lối hài hước với ngoại hình áo gi lê, lệch khớp răng cắn và mắt cận của một giảng viên đại học thời Victoria, như chính Carroll. Trong các tác phẩm hài sử thi kỳ ảo thiếu nhi, rồng thường nắm vai trò trợ thủ phép thuật trong truyện cổ tích. Ở những tác phẩm ấy, thay vì có vẻ ngoài đáng sợ như miêu tả truyền thống, rồng lại được thể hiện là vô hại, hướng thiện và thấp kém hơn loài người. Đôi khi chúng được thể hiện sống chung với người hoặc ở cộng đồng biệt lập chỉ có rồng sinh sống. Dẫu phổ biến ở cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20, "những truyện hài và bình dị như vậy" bắt đầu mai một dần sau thập niên 1960, do độc giả có nhu cầu làm văn học thiếu nhi theo hướng nghiêm túc hơn.Một trong những con rồng hiện đại nổi tiếng nhất là Smaug từ loạt tiểu thuyết kinh điển Anh chàng Hobbit của J. R. R. Tolkien. Rồng cũng xuất hiện trong loạt tiểu thuyết thiếu nhi bán chạy Harry Potter của J. K. Rowling. Những tác phẩm nổi bật khác miêu tả rồng có thể kể đến Dragonriders of Pern của Anne McCaffrey, Earthsea Cycle của Ursula K. Le Guin, loạt Trò chơi vương quyền của George R. R. Martin và The Inheritance Cycle của Christopher Paolini. Sandra Martina Schwab viết, "Với số ít ngoại lệ, gồm loạt tiểu thuyết Pern của McCaffrey và phim điện ảnh Reign of Fire (2002), rồng dường như phù hợp với bối cảnh Trung Cổ trong văn học kỳ ảo hơn là thế giới công nghệ trong khoa học viễn tưởng. Quả thực chúng được gọi là biểu tượng của thể loại kỳ ảo. Trận đánh của người hùng với rồng nhấn mạnh và tôn vinh sức nam tính của anh ta, còn những truyện kỳ ảo xét lại về rồng và diệt rồng thường hạ thấp vai trò giới tính truyền thống. Trong văn học thiếu nhi, rồng trở thành đồng minh mạnh mẽ nhằm đối mặt với nỗi sợ của trẻ em." Loạt trò chơi nhập vai nổi tiếng Dungeons & Dragons (D&D) sử dụng rất nhiều rồng.
Rồng và họa tiết rồng đã xuất hiện trong nhiều tác phẩm văn học hiện đại, đặc biệt ở thể loại kỳ ảo. Người vẽ minh họa cho truyện của Carroll, ông John Tenniel (một họa sĩ diễn họa chính luận nổi tiếng) đã trình bày Jabberwock theo lối hài hước với ngoại hình áo gi lê, lệch khớp răng cắn và mắt cận của một giảng viên đại học thời Victoria, như chính Carroll.