article
stringclasses
375 values
question
stringlengths
10
452
opa
stringlengths
2
258
opb
stringlengths
2
198
opc
stringlengths
2
213
opd
stringlengths
2
208
answer
stringclasses
4 values
Một người có hai chiếc chậu lớn để khuân nước. Một trong hai chiếc chậu có một vết nứt. Khi từ giếng về nhà, nước trong chậu này chỉ còn một nửa. Chiếc chậu còn nguyên vẹn rất tự hào về sự hoàn hảo của mình, còn chiếc chậu nứt luôn bị cắn rứt vì không thể hoàn thành nhiệm vụ. Một ngày nọ, chiếc chậu nứt nói với người chủ: "Tôi thật sự xấu hổ về mình. Tôi muốn xin lỗi ông!". Người chủ hỏi: "Ngươi xấu hổ về chuyện gì?". Chiếc chậu nứt đáp: - Chỉ vì lỗi của tôi mà ông không nhận được đầy đủ những gì xứng đáng với công sức của ông!" Người chủ liền khuyên chiếc chậu này chú ý đến những luống hoa bên vệ đường khi đi lấy nước về. Quả thật, dọc theo bên đường là những luống hoa rực rỡ khiến chiếc chậu nứt rất vui vẻ. Tuy nhiên, khi về đến nhà thì nó lại xin lỗi ông chủ vì nước mà nó mang vẫn chỉ còn một nửa. Người đó đáp: "Nhờ có nước chảy ra từ vết nứt của ngươi mà những cây hoa này mới khoe sắc được. Ta đã hái những bông hoa đó để trang hoàng cho căn nhà của ta thêm ấm cúng và duyên dáng!" Mỗi chúng ta đều có thể sống như cái chậu nứt: hãy biết tận dụng "vết nứt" của mình.
Em hiểu việc tận dụng "vết nứt" của mình là làm gì?
Luôn nhìn vào những điểm xấu của mình để buồn rầu, cắn rứt.
Tạo ra nhiều đặc điểm xấu của mình để giống như chiếc chậu nứt.
Sử dụng những gì mà bản thân có để làm những việc có ích.
Sử dụng những thứ tốt của bản thân vào những việc khó.
C
Một người có hai chiếc chậu lớn để khuân nước. Một trong hai chiếc chậu có một vết nứt. Khi từ giếng về nhà, nước trong chậu này chỉ còn một nửa. Chiếc chậu còn nguyên vẹn rất tự hào về sự hoàn hảo của mình, còn chiếc chậu nứt luôn bị cắn rứt vì không thể hoàn thành nhiệm vụ. Một ngày nọ, chiếc chậu nứt nói với người chủ: "Tôi thật sự xấu hổ về mình. Tôi muốn xin lỗi ông!". Người chủ hỏi: "Ngươi xấu hổ về chuyện gì?". Chiếc chậu nứt đáp: - Chỉ vì lỗi của tôi mà ông không nhận được đầy đủ những gì xứng đáng với công sức của ông!" Người chủ liền khuyên chiếc chậu này chú ý đến những luống hoa bên vệ đường khi đi lấy nước về. Quả thật, dọc theo bên đường là những luống hoa rực rỡ khiến chiếc chậu nứt rất vui vẻ. Tuy nhiên, khi về đến nhà thì nó lại xin lỗi ông chủ vì nước mà nó mang vẫn chỉ còn một nửa. Người đó đáp: "Nhờ có nước chảy ra từ vết nứt của ngươi mà những cây hoa này mới khoe sắc được. Ta đã hái những bông hoa đó để trang hoàng cho căn nhà của ta thêm ấm cúng và duyên dáng!" Mỗi chúng ta đều có thể sống như cái chậu nứt: hãy biết tận dụng "vết nứt" của mình.
Tác nhân nào đã làm những bông hoa tươi tốt và khoe sắc?
Nước chảy từ vết nứt.
Được chăm sóc.
Do đất trồng tốt.
Do có nhiều người chăm sóc.
A
Một người có hai chiếc chậu lớn để khuân nước. Một trong hai chiếc chậu có một vết nứt. Khi từ giếng về nhà, nước trong chậu này chỉ còn một nửa. Chiếc chậu còn nguyên vẹn rất tự hào về sự hoàn hảo của mình, còn chiếc chậu nứt luôn bị cắn rứt vì không thể hoàn thành nhiệm vụ. Một ngày nọ, chiếc chậu nứt nói với người chủ: "Tôi thật sự xấu hổ về mình. Tôi muốn xin lỗi ông!". Người chủ hỏi: "Ngươi xấu hổ về chuyện gì?". Chiếc chậu nứt đáp: - Chỉ vì lỗi của tôi mà ông không nhận được đầy đủ những gì xứng đáng với công sức của ông!" Người chủ liền khuyên chiếc chậu này chú ý đến những luống hoa bên vệ đường khi đi lấy nước về. Quả thật, dọc theo bên đường là những luống hoa rực rỡ khiến chiếc chậu nứt rất vui vẻ. Tuy nhiên, khi về đến nhà thì nó lại xin lỗi ông chủ vì nước mà nó mang vẫn chỉ còn một nửa. Người đó đáp: "Nhờ có nước chảy ra từ vết nứt của ngươi mà những cây hoa này mới khoe sắc được. Ta đã hái những bông hoa đó để trang hoàng cho căn nhà của ta thêm ấm cúng và duyên dáng!" Mỗi chúng ta đều có thể sống như cái chậu nứt: hãy biết tận dụng "vết nứt" của mình.
Cái gì còn nguyên vẹn rất tự hào về sự hoàn hảo của mình?
Chiếc thao.
Chiếc chậu.
Rất tự hào về sự hoàn hảo của mình.
Cái tô.
B
Một người có hai chiếc chậu lớn để khuân nước. Một trong hai chiếc chậu có một vết nứt. Khi từ giếng về nhà, nước trong chậu này chỉ còn một nửa. Chiếc chậu còn nguyên vẹn rất tự hào về sự hoàn hảo của mình, còn chiếc chậu nứt luôn bị cắn rứt vì không thể hoàn thành nhiệm vụ. Một ngày nọ, chiếc chậu nứt nói với người chủ: "Tôi thật sự xấu hổ về mình. Tôi muốn xin lỗi ông!". Người chủ hỏi: "Ngươi xấu hổ về chuyện gì?". Chiếc chậu nứt đáp: - Chỉ vì lỗi của tôi mà ông không nhận được đầy đủ những gì xứng đáng với công sức của ông!" Người chủ liền khuyên chiếc chậu này chú ý đến những luống hoa bên vệ đường khi đi lấy nước về. Quả thật, dọc theo bên đường là những luống hoa rực rỡ khiến chiếc chậu nứt rất vui vẻ. Tuy nhiên, khi về đến nhà thì nó lại xin lỗi ông chủ vì nước mà nó mang vẫn chỉ còn một nửa. Người đó đáp: "Nhờ có nước chảy ra từ vết nứt của ngươi mà những cây hoa này mới khoe sắc được. Ta đã hái những bông hoa đó để trang hoàng cho căn nhà của ta thêm ấm cúng và duyên dáng!" Mỗi chúng ta đều có thể sống như cái chậu nứt: hãy biết tận dụng "vết nứt" của mình.
Dòng nào gồm các từ chỉ đặc điểm của sự vật?
Hoàn hảo, khoe sắc, rực rỡ.
Hoàn hảo, rực rỡ, duyên dáng.
Hoàn hảo, rực rỡ, xấu hổ.
Hoà nhập và duyên dáng.
B
Trên cành cây cao có một chiếc lá non bướng bỉnh đòi bay. Trời nổi dông bão ào ào, mặc cho anh chị níu kéo, nó quyết định thoát ra. Phựt, nó bị một cơn gió mạnh bứt lìa cành. Nó reo vui khi thấy mình bồng bềnh giữa không trung. Nhưng ngay lúc nó đang lâng lâng sung sướng, thì những hạt mưa ném tới tấp vào nó, khiến nó quay cuồng rồi rơi xuống dòng nước lũ. Một lát sau, nó bị rách tơi tả, vật vờ dạt vào bờ suối đầy bùn lầy. Nó bật khóc nức nở. Nó chỉ muốn quay về với các anh chị ở trên cành cây cao nhưng không thể được nữa rồi.
Chiếc lá non muốn điều gì?
Đi chơi trong trời dông bão.
Bay khỏi cành.
Xuống bơi dưới dòng nước.
Bay lên bầu trời.
B
Trên cành cây cao có một chiếc lá non bướng bỉnh đòi bay. Trời nổi dông bão ào ào, mặc cho anh chị níu kéo, nó quyết định thoát ra. Phựt, nó bị một cơn gió mạnh bứt lìa cành. Nó reo vui khi thấy mình bồng bềnh giữa không trung. Nhưng ngay lúc nó đang lâng lâng sung sướng, thì những hạt mưa ném tới tấp vào nó, khiến nó quay cuồng rồi rơi xuống dòng nước lũ. Một lát sau, nó bị rách tơi tả, vật vờ dạt vào bờ suối đầy bùn lầy. Nó bật khóc nức nở. Nó chỉ muốn quay về với các anh chị ở trên cành cây cao nhưng không thể được nữa rồi.
Sau khi bứt lìa cành, rơi xuống dòng nước, chiếc lá non như thế nào?
Nó bồng bềnh giữa không trung, bay mãi, bay mãi đến phương trời.
Lạnh buốt và tiếp tục trôi theo dòng nước lũ.
Rách tả tơi, dạt vào bờ suối đầy bùn.
Bị hư và dính đầy bùn.
C
Trên cành cây cao có một chiếc lá non bướng bỉnh đòi bay. Trời nổi dông bão ào ào, mặc cho anh chị níu kéo, nó quyết định thoát ra. Phựt, nó bị một cơn gió mạnh bứt lìa cành. Nó reo vui khi thấy mình bồng bềnh giữa không trung. Nhưng ngay lúc nó đang lâng lâng sung sướng, thì những hạt mưa ném tới tấp vào nó, khiến nó quay cuồng rồi rơi xuống dòng nước lũ. Một lát sau, nó bị rách tơi tả, vật vờ dạt vào bờ suối đầy bùn lầy. Nó bật khóc nức nở. Nó chỉ muốn quay về với các anh chị ở trên cành cây cao nhưng không thể được nữa rồi.
Cuối cùng, chiếc lá non mong muốn điều gì?
Nó muốn quay về với các anh chị ở trên cành cao nhưng không được nữa.
Nó muốn trôi theo dòng nước để cuốn đi.
Nó muốn tiếp tục bồng bềnh giữa không trung.
Nó muốn quay về cội nguồn.
A
Trên cành cây cao có một chiếc lá non bướng bỉnh đòi bay. Trời nổi dông bão ào ào, mặc cho anh chị níu kéo, nó quyết định thoát ra. Phựt, nó bị một cơn gió mạnh bứt lìa cành. Nó reo vui khi thấy mình bồng bềnh giữa không trung. Nhưng ngay lúc nó đang lâng lâng sung sướng, thì những hạt mưa ném tới tấp vào nó, khiến nó quay cuồng rồi rơi xuống dòng nước lũ. Một lát sau, nó bị rách tơi tả, vật vờ dạt vào bờ suối đầy bùn lầy. Nó bật khóc nức nở. Nó chỉ muốn quay về với các anh chị ở trên cành cây cao nhưng không thể được nữa rồi.
Nó reo vui được ví như gì?
Nhẹ nhàng như chiếc lá mùa thu.
Vật vờ dạt vào bờ suối.
Bồng bềnh giữa không trung.
Nâng mình trên giữa con suối.
C
Trên cành cây cao có một chiếc lá non bướng bỉnh đòi bay. Trời nổi dông bão ào ào, mặc cho anh chị níu kéo, nó quyết định thoát ra. Phựt, nó bị một cơn gió mạnh bứt lìa cành. Nó reo vui khi thấy mình bồng bềnh giữa không trung. Nhưng ngay lúc nó đang lâng lâng sung sướng, thì những hạt mưa ném tới tấp vào nó, khiến nó quay cuồng rồi rơi xuống dòng nước lũ. Một lát sau, nó bị rách tơi tả, vật vờ dạt vào bờ suối đầy bùn lầy. Nó bật khóc nức nở. Nó chỉ muốn quay về với các anh chị ở trên cành cây cao nhưng không thể được nữa rồi.
Vì sao chiếc lá non bật khóc?
Bị rách và vật vờ dạt vào bờ suối đầy bùn.
Bị rơi khỏi cành cây.
Bị con sâu ăn.
Bị đứt một nửa.
A
Em vẽ Bác Hồ Trên tờ giấy trắng. Em vẽ vầng trán Trán Bác Hồ cao. Em vẽ tóc râu Chỉ vờn nhè nhẹ. Em vẽ Bác bế Hai cháu trên tay. Cháu Bắc bên này Cháu Nam bên ấy. Vẽ hết trang giấy Toàn những thiếu nhi. Theo bước Bác đi Khăn quàng đỏ thắm. Em vẽ chim trắng Bay trên trời xanh. Em để dưới tranh: "Đời đời ơn Bác".
Hình ảnh "Bác Hồ bế hai cháu Bắc, Nam trên tay" mang ý nghĩa gì?
Bác Hồ rất yêu nước và yêu nhân dân Việt Nam.
Bác Hồ rất công bằng, không thiên vị ai bao giờ.
Bác yêu và thương thiếu nhi hai miền như nhau.
Bác Hồ rất khỏe.
C
Em vẽ Bác Hồ Trên tờ giấy trắng. Em vẽ vầng trán Trán Bác Hồ cao. Em vẽ tóc râu Chỉ vờn nhè nhẹ. Em vẽ Bác bế Hai cháu trên tay. Cháu Bắc bên này Cháu Nam bên ấy. Vẽ hết trang giấy Toàn những thiếu nhi. Theo bước Bác đi Khăn quàng đỏ thắm. Em vẽ chim trắng Bay trên trời xanh. Em để dưới tranh: "Đời đời ơn Bác".
Hình ảnh "Thiếu nhi theo bước Bác Hồ" mang ý nghĩa gì?
Thiếu nhi rất kính trọng và muốn được gặp gỡ, trò chuyện với Bác.
Thiếu nhi rất kính trọng, muốn trò chuyện và học tập tấm gương Bác Hồ.
Thiếu nhi muốn tiếp nối con đường, học tập tấm gương đạo đức của Bác.
Tất cả các ý trên.
B
Em vẽ Bác Hồ Trên tờ giấy trắng. Em vẽ vầng trán Trán Bác Hồ cao. Em vẽ tóc râu Chỉ vờn nhè nhẹ. Em vẽ Bác bế Hai cháu trên tay. Cháu Bắc bên này Cháu Nam bên ấy. Vẽ hết trang giấy Toàn những thiếu nhi. Theo bước Bác đi Khăn quàng đỏ thắm. Em vẽ chim trắng Bay trên trời xanh. Em để dưới tranh: "Đời đời ơn Bác".
Hình ảnh "Chim trắng bay trên nền trời xanh" mang ý nghĩa gì?
Cánh chim tượng trưng cho hòa bình mà Bác Hồ mang lại cho dân tộc.
Cánh chim là tượng trưng cho cuộc sống.
Cánh chim tượng trưng cho Bác Hồ.
Tất cả các ý trên.
A
Em vẽ Bác Hồ Trên tờ giấy trắng. Em vẽ vầng trán Trán Bác Hồ cao. Em vẽ tóc râu Chỉ vờn nhè nhẹ. Em vẽ Bác bế Hai cháu trên tay. Cháu Bắc bên này Cháu Nam bên ấy. Vẽ hết trang giấy Toàn những thiếu nhi. Theo bước Bác đi Khăn quàng đỏ thắm. Em vẽ chim trắng Bay trên trời xanh. Em để dưới tranh: "Đời đời ơn Bác".
Cụm từ "Đời đời ơn Bác" có ý nghĩa gì?
Thiếu nhi Việt Nam rất ngoan và biết kính trọng người già.
Thiếu nhi rất kính trọng và biết ơn Bác Hồ.
Thiếu nhi Việt Nam vẽ rất giỏi và tình cảm.
Tất cả các ý trên.
B
Em vẽ Bác Hồ Trên tờ giấy trắng. Em vẽ vầng trán Trán Bác Hồ cao. Em vẽ tóc râu Chỉ vờn nhè nhẹ. Em vẽ Bác bế Hai cháu trên tay. Cháu Bắc bên này Cháu Nam bên ấy. Vẽ hết trang giấy Toàn những thiếu nhi. Theo bước Bác đi Khăn quàng đỏ thắm. Em vẽ chim trắng Bay trên trời xanh. Em để dưới tranh: "Đời đời ơn Bác".
Chú chim trắng được vẽ trong trạng thái như thế nào?
Đang bay trên bầu trời xanh.
Đang đậu trên cành cây.
Đang bơi dưới nước.
Đang lạc bầy.
A
Cơn mưa bất chợt đổ xuống. Hoa vội vàng khi sực nhớ ra mình không mang áo mưa. Nhưng rồi em liền cho cặp sách vào túi ni lông, lên xe và phóng thẳng vào nhà. Trời mưa to và lạnh quá. Hoa cố nhấn bàn đạp thật mạnh. Bánh xe lăn đều trên những con đường ướt phát ra những âm thanhh nghe thật vui tai. Về đến nhà thì cả người ướt sũng. Hoa thấy trước cửa có một ông lão đang đứng trú mưa. Ông lão nói: “Cho ông đừng nhờ đây một tí nhé!”. Hoa chỉ kịp nói: “Vâng ạ!” rồi vội vã vào nhà. Em run lên vì rét và hắt hơi liên tục. Chợt, Hoa nhớ đến ông lão đang đứng trú mưa ngoài cửa, em vội lấy chiếc áo mưa trong tủ, chạy ra đưa cho ông và nói: “Ông ơi, ông mặc áo mưa rồi về nhà đi kẻo muộn”. Ông lão nhìn Hoa trìu mến và nói lời cảm ơn. Hoa thấy lòng vui vui.
Tan học, trời mưa mà Hoa lại quên áo mưa, bạn đã làm gì để về nhà?
Mua áo mưa rồi về nhà.
Đi chung áo mưa với bạn.
Cho cặp vào túi ni lông và phóng xe về nhà.
Tắm dưới mưa.
C
Cơn mưa bất chợt đổ xuống. Hoa vội vàng khi sực nhớ ra mình không mang áo mưa. Nhưng rồi em liền cho cặp sách vào túi ni lông, lên xe và phóng thẳng vào nhà. Trời mưa to và lạnh quá. Hoa cố nhấn bàn đạp thật mạnh. Bánh xe lăn đều trên những con đường ướt phát ra những âm thanhh nghe thật vui tai. Về đến nhà thì cả người ướt sũng. Hoa thấy trước cửa có một ông lão đang đứng trú mưa. Ông lão nói: “Cho ông đừng nhờ đây một tí nhé!”. Hoa chỉ kịp nói: “Vâng ạ!” rồi vội vã vào nhà. Em run lên vì rét và hắt hơi liên tục. Chợt, Hoa nhớ đến ông lão đang đứng trú mưa ngoài cửa, em vội lấy chiếc áo mưa trong tủ, chạy ra đưa cho ông và nói: “Ông ơi, ông mặc áo mưa rồi về nhà đi kẻo muộn”. Ông lão nhìn Hoa trìu mến và nói lời cảm ơn. Hoa thấy lòng vui vui.
Thấy ông lão đang trú mưa trước cửa nhà mình, Hoa đã làm gì?
Mời ông lão vào trong nhà trú mưa.
Vào nhà lấy cho ông lão áo mưa.
Mặc kệ ông lão đứng đó.
Đưa cho ông lão một cái bánh.
B
Cơn mưa bất chợt đổ xuống. Hoa vội vàng khi sực nhớ ra mình không mang áo mưa. Nhưng rồi em liền cho cặp sách vào túi ni lông, lên xe và phóng thẳng vào nhà. Trời mưa to và lạnh quá. Hoa cố nhấn bàn đạp thật mạnh. Bánh xe lăn đều trên những con đường ướt phát ra những âm thanhh nghe thật vui tai. Về đến nhà thì cả người ướt sũng. Hoa thấy trước cửa có một ông lão đang đứng trú mưa. Ông lão nói: “Cho ông đừng nhờ đây một tí nhé!”. Hoa chỉ kịp nói: “Vâng ạ!” rồi vội vã vào nhà. Em run lên vì rét và hắt hơi liên tục. Chợt, Hoa nhớ đến ông lão đang đứng trú mưa ngoài cửa, em vội lấy chiếc áo mưa trong tủ, chạy ra đưa cho ông và nói: “Ông ơi, ông mặc áo mưa rồi về nhà đi kẻo muộn”. Ông lão nhìn Hoa trìu mến và nói lời cảm ơn. Hoa thấy lòng vui vui.
Vì sao Hoa thấy lòng vui vui?
Vì trời đã hết mưa.
Vì ông lão không còn đứng trước cửa nhà Hoa nữa.
Vì Hoa đã làm được một việc tốt.
Vì Hoa đã kiếm được tiền.
C
Cơn mưa bất chợt đổ xuống. Hoa vội vàng khi sực nhớ ra mình không mang áo mưa. Nhưng rồi em liền cho cặp sách vào túi ni lông, lên xe và phóng thẳng vào nhà. Trời mưa to và lạnh quá. Hoa cố nhấn bàn đạp thật mạnh. Bánh xe lăn đều trên những con đường ướt phát ra những âm thanhh nghe thật vui tai. Về đến nhà thì cả người ướt sũng. Hoa thấy trước cửa có một ông lão đang đứng trú mưa. Ông lão nói: “Cho ông đừng nhờ đây một tí nhé!”. Hoa chỉ kịp nói: “Vâng ạ!” rồi vội vã vào nhà. Em run lên vì rét và hắt hơi liên tục. Chợt, Hoa nhớ đến ông lão đang đứng trú mưa ngoài cửa, em vội lấy chiếc áo mưa trong tủ, chạy ra đưa cho ông và nói: “Ông ơi, ông mặc áo mưa rồi về nhà đi kẻo muộn”. Ông lão nhìn Hoa trìu mến và nói lời cảm ơn. Hoa thấy lòng vui vui.
Ai đang đứng trú mưa ngoài nửa?
Ông lão.
Bé Hoa.
Mẹ Hoa.
Ba Hoa.
A
Cơn mưa bất chợt đổ xuống. Hoa vội vàng khi sực nhớ ra mình không mang áo mưa. Nhưng rồi em liền cho cặp sách vào túi ni lông, lên xe và phóng thẳng vào nhà. Trời mưa to và lạnh quá. Hoa cố nhấn bàn đạp thật mạnh. Bánh xe lăn đều trên những con đường ướt phát ra những âm thanhh nghe thật vui tai. Về đến nhà thì cả người ướt sũng. Hoa thấy trước cửa có một ông lão đang đứng trú mưa. Ông lão nói: “Cho ông đừng nhờ đây một tí nhé!”. Hoa chỉ kịp nói: “Vâng ạ!” rồi vội vã vào nhà. Em run lên vì rét và hắt hơi liên tục. Chợt, Hoa nhớ đến ông lão đang đứng trú mưa ngoài cửa, em vội lấy chiếc áo mưa trong tủ, chạy ra đưa cho ông và nói: “Ông ơi, ông mặc áo mưa rồi về nhà đi kẻo muộn”. Ông lão nhìn Hoa trìu mến và nói lời cảm ơn. Hoa thấy lòng vui vui.
Bối cảnh diễn ra trong câu chuyện là gì?
Trời mưa.
Trời nắng.
Trời rét.
Trời trong xanh.
A
Trong vườn hồng, có một con sâu đo bám lấy gốc cây, bò nhấp nhổm. Bỗng một con chim chích sà xuống: - A, có một tên sâu rồi. Con sâu đo sợ cứng cả người nhưng nó vội lấy bình tĩnh rồi quát lên. - Ê, chim chích kia, suốt từ sáng đến giờ, ta miệt mài đo cây hồng cao bao nhiêu. Ta có ích như vậy, sao lại bắt ta? - Chim chích phân vân: "Mình chỉ bắt bọn sâu hại cây thôi. Lạ quá, có khi nào tên sâu đo này có ích thật không?" Sâu đo thấy lừa được chim chích nó khoái lắm. Thế là cứ hễ gặp các mầm cây nhỏ là nó ăn liền. Nó nghĩ: "Mình đo cây hồng... Mình phải được trả công chứ!" Hôm sau, chim chích bay tới. Nó nhảy lích chích, ngó nghiêng: "Ô, sao mầm cây gãy cả thế này? Thôi chết, mình bị tên sâu đo lừa rồi!" Chim chích giận lắm, nó quyết định tìm bằng được tên sâu đo. Sâu đo thấy chim chích quay lại, định tìm cách cãi... Nhưng lần này thì đừng hòng! Chim chích mổ một cái thế là đi đời sâu đo.
Con sâu đo trong bài là con vật có tính gì?
Nguy hiểm chuyên phá hại cây xanh.
Hiền lành, giúp ích cho cây xanh.
Siêng năng vừa có ích, vừa có hại cho cây xanh.
Siêng năng và cần cù.
A
Trong vườn hồng, có một con sâu đo bám lấy gốc cây, bò nhấp nhổm. Bỗng một con chim chích sà xuống: - A, có một tên sâu rồi. Con sâu đo sợ cứng cả người nhưng nó vội lấy bình tĩnh rồi quát lên. - Ê, chim chích kia, suốt từ sáng đến giờ, ta miệt mài đo cây hồng cao bao nhiêu. Ta có ích như vậy, sao lại bắt ta? - Chim chích phân vân: "Mình chỉ bắt bọn sâu hại cây thôi. Lạ quá, có khi nào tên sâu đo này có ích thật không?" Sâu đo thấy lừa được chim chích nó khoái lắm. Thế là cứ hễ gặp các mầm cây nhỏ là nó ăn liền. Nó nghĩ: "Mình đo cây hồng... Mình phải được trả công chứ!" Hôm sau, chim chích bay tới. Nó nhảy lích chích, ngó nghiêng: "Ô, sao mầm cây gãy cả thế này? Thôi chết, mình bị tên sâu đo lừa rồi!" Chim chích giận lắm, nó quyết định tìm bằng được tên sâu đo. Sâu đo thấy chim chích quay lại, định tìm cách cãi... Nhưng lần này thì đừng hòng! Chim chích mổ một cái thế là đi đời sâu đo.
Chim chích mắc lừa sâu đo là do đâu?
Chim chích nhìn thấy sâu đo đang làm việc miệt mài để đo cây hồng.
Chim chích nửa ngờ, nửa tin vào giọng điệu ngọt ngào, lên mặt kể công của sâu đo.
Chim chích tin vào giọng điệu ngọt ngào, lên mặt kể công của sâu đo.
Chim chích tin vào sự miệt mài đo cây của con sâu.
B
Trong vườn hồng, có một con sâu đo bám lấy gốc cây, bò nhấp nhổm. Bỗng một con chim chích sà xuống: - A, có một tên sâu rồi. Con sâu đo sợ cứng cả người nhưng nó vội lấy bình tĩnh rồi quát lên. - Ê, chim chích kia, suốt từ sáng đến giờ, ta miệt mài đo cây hồng cao bao nhiêu. Ta có ích như vậy, sao lại bắt ta? - Chim chích phân vân: "Mình chỉ bắt bọn sâu hại cây thôi. Lạ quá, có khi nào tên sâu đo này có ích thật không?" Sâu đo thấy lừa được chim chích nó khoái lắm. Thế là cứ hễ gặp các mầm cây nhỏ là nó ăn liền. Nó nghĩ: "Mình đo cây hồng... Mình phải được trả công chứ!" Hôm sau, chim chích bay tới. Nó nhảy lích chích, ngó nghiêng: "Ô, sao mầm cây gãy cả thế này? Thôi chết, mình bị tên sâu đo lừa rồi!" Chim chích giận lắm, nó quyết định tìm bằng được tên sâu đo. Sâu đo thấy chim chích quay lại, định tìm cách cãi... Nhưng lần này thì đừng hòng! Chim chích mổ một cái thế là đi đời sâu đo.
Hành động mổ chết sâu đo của chim chích nói lên điều gì?
Chim chích hung dữ, nóng tính và rất háu ăn.
Chim chích hiền lành nhưng là bạn của sâu đo hại cây.
Chim chích hiền lành nhưng chuyên bắt sâu bọ hại cây.
Chim chích hiền lành nhưng chuyên đi ăn lá cây.
C
Trong vườn hồng, có một con sâu đo bám lấy gốc cây, bò nhấp nhổm. Bỗng một con chim chích sà xuống: - A, có một tên sâu rồi. Con sâu đo sợ cứng cả người nhưng nó vội lấy bình tĩnh rồi quát lên. - Ê, chim chích kia, suốt từ sáng đến giờ, ta miệt mài đo cây hồng cao bao nhiêu. Ta có ích như vậy, sao lại bắt ta? - Chim chích phân vân: "Mình chỉ bắt bọn sâu hại cây thôi. Lạ quá, có khi nào tên sâu đo này có ích thật không?" Sâu đo thấy lừa được chim chích nó khoái lắm. Thế là cứ hễ gặp các mầm cây nhỏ là nó ăn liền. Nó nghĩ: "Mình đo cây hồng... Mình phải được trả công chứ!" Hôm sau, chim chích bay tới. Nó nhảy lích chích, ngó nghiêng: "Ô, sao mầm cây gãy cả thế này? Thôi chết, mình bị tên sâu đo lừa rồi!" Chim chích giận lắm, nó quyết định tìm bằng được tên sâu đo. Sâu đo thấy chim chích quay lại, định tìm cách cãi... Nhưng lần này thì đừng hòng! Chim chích mổ một cái thế là đi đời sâu đo.
Sâu đo khoá chí khi làm gì với chim chích?
Thấy.
Lừa.
Khoái.
Chơi cùng.
B
Trong vườn hồng, có một con sâu đo bám lấy gốc cây, bò nhấp nhổm. Bỗng một con chim chích sà xuống: - A, có một tên sâu rồi. Con sâu đo sợ cứng cả người nhưng nó vội lấy bình tĩnh rồi quát lên. - Ê, chim chích kia, suốt từ sáng đến giờ, ta miệt mài đo cây hồng cao bao nhiêu. Ta có ích như vậy, sao lại bắt ta? - Chim chích phân vân: "Mình chỉ bắt bọn sâu hại cây thôi. Lạ quá, có khi nào tên sâu đo này có ích thật không?" Sâu đo thấy lừa được chim chích nó khoái lắm. Thế là cứ hễ gặp các mầm cây nhỏ là nó ăn liền. Nó nghĩ: "Mình đo cây hồng... Mình phải được trả công chứ!" Hôm sau, chim chích bay tới. Nó nhảy lích chích, ngó nghiêng: "Ô, sao mầm cây gãy cả thế này? Thôi chết, mình bị tên sâu đo lừa rồi!" Chim chích giận lắm, nó quyết định tìm bằng được tên sâu đo. Sâu đo thấy chim chích quay lại, định tìm cách cãi... Nhưng lần này thì đừng hòng! Chim chích mổ một cái thế là đi đời sâu đo.
Trong vườn hồng có một con sâu đo bám lấy gốc cây, bò nhấp nhổm là gì?
Trong vườn hồng.
Gốc cây.
Bò nhấp nhổm.
Chim chích.
A
Trong vườn hồng, có một con sâu đo bám lấy gốc cây, bò nhấp nhổm. Bỗng một con chim chích sà xuống: - A, có một tên sâu rồi. Con sâu đo sợ cứng cả người nhưng nó vội lấy bình tĩnh rồi quát lên. - Ê, chim chích kia, suốt từ sáng đến giờ, ta miệt mài đo cây hồng cao bao nhiêu. Ta có ích như vậy, sao lại bắt ta? - Chim chích phân vân: "Mình chỉ bắt bọn sâu hại cây thôi. Lạ quá, có khi nào tên sâu đo này có ích thật không?" Sâu đo thấy lừa được chim chích nó khoái lắm. Thế là cứ hễ gặp các mầm cây nhỏ là nó ăn liền. Nó nghĩ: "Mình đo cây hồng... Mình phải được trả công chứ!" Hôm sau, chim chích bay tới. Nó nhảy lích chích, ngó nghiêng: "Ô, sao mầm cây gãy cả thế này? Thôi chết, mình bị tên sâu đo lừa rồi!" Chim chích giận lắm, nó quyết định tìm bằng được tên sâu đo. Sâu đo thấy chim chích quay lại, định tìm cách cãi... Nhưng lần này thì đừng hòng! Chim chích mổ một cái thế là đi đời sâu đo.
Trong các câu sau câu nào đặt đúng dấu phẩy?
Chim chích là chú chim, hiền lành, chuyên bắt sâu giúp ích nhà nông.
Chim chích là chú chim hiền lành, chuyên bắt sâu, giúp ích nhà nông.
Chim chích là chú chim, hiền lành, chuyên bắt sâu giúp ích, nhà nông.
Chim chích là chú chim, chuyên bắt sậu giúp ích nhà nông.
B
Dì tôi cắp một chiếc rổ lớn, dắt tay tôi đi hái rau khúc. Cây rau khúc rất nhỏ, chỉ bằng một mầm cỏ non mới nhú. Lá rau như mạ bạc, trông như được phủ một lượt tuyết cực mỏng. Những hạt sương sớm đọng trên lá long lanh như những bóng đèn pha lê. Hai dì cháu tôi hái đầy rổ mới về. ... Ngủ một giấc dậy, tôi đã thấy dì mang chõ bánh lên. Vung vừa mở ra, hơi nóng bốc nghi ngút. Những cái bánh màu rêu xanh lấp ló trong áo xôi nếp trắng được đặt vào trong những miếng lá chuối hơ qua lửa thật mềm, trông đẹp như những bông hoa. Nhân bánh là một viên đậu xanh giã nhỏ vàng ươm, xen một thỏi mỡ xinh xắn, pha hạt tiêu. Cắn một miếng bánh thì cứ như thấy cả hương đồng, cỏ nội gói vào trong đó. Bao năm rồi, tôi vẫn không sao quên được vị thơm ngậy, hăng hắc của chiếc bánh khúc quê hương.
Bài đọc viết về loại bánh nào?
Bánh đỗ.
Bánh khúc.
Bánh đậu xanh.
Miếng bánh.
B
Dì tôi cắp một chiếc rổ lớn, dắt tay tôi đi hái rau khúc. Cây rau khúc rất nhỏ, chỉ bằng một mầm cỏ non mới nhú. Lá rau như mạ bạc, trông như được phủ một lượt tuyết cực mỏng. Những hạt sương sớm đọng trên lá long lanh như những bóng đèn pha lê. Hai dì cháu tôi hái đầy rổ mới về. ... Ngủ một giấc dậy, tôi đã thấy dì mang chõ bánh lên. Vung vừa mở ra, hơi nóng bốc nghi ngút. Những cái bánh màu rêu xanh lấp ló trong áo xôi nếp trắng được đặt vào trong những miếng lá chuối hơ qua lửa thật mềm, trông đẹp như những bông hoa. Nhân bánh là một viên đậu xanh giã nhỏ vàng ươm, xen một thỏi mỡ xinh xắn, pha hạt tiêu. Cắn một miếng bánh thì cứ như thấy cả hương đồng, cỏ nội gói vào trong đó. Bao năm rồi, tôi vẫn không sao quên được vị thơm ngậy, hăng hắc của chiếc bánh khúc quê hương.
Đặc điểm của chiếc bánh khúc là gì?
Chiếc lá khúc nhỏ, trắng như mạ bạc.
Bánh khúc có nhân đỗ giã nhỏ và thịt tiêu thơm nức.
Bánh khúc có chiếc vỏ màu rêu bọc xôi nếp.
Bánh khúc gói cả hương đồng, cỏ nội ở trong đó.
A
Dì tôi cắp một chiếc rổ lớn, dắt tay tôi đi hái rau khúc. Cây rau khúc rất nhỏ, chỉ bằng một mầm cỏ non mới nhú. Lá rau như mạ bạc, trông như được phủ một lượt tuyết cực mỏng. Những hạt sương sớm đọng trên lá long lanh như những bóng đèn pha lê. Hai dì cháu tôi hái đầy rổ mới về. ... Ngủ một giấc dậy, tôi đã thấy dì mang chõ bánh lên. Vung vừa mở ra, hơi nóng bốc nghi ngút. Những cái bánh màu rêu xanh lấp ló trong áo xôi nếp trắng được đặt vào trong những miếng lá chuối hơ qua lửa thật mềm, trông đẹp như những bông hoa. Nhân bánh là một viên đậu xanh giã nhỏ vàng ươm, xen một thỏi mỡ xinh xắn, pha hạt tiêu. Cắn một miếng bánh thì cứ như thấy cả hương đồng, cỏ nội gói vào trong đó. Bao năm rồi, tôi vẫn không sao quên được vị thơm ngậy, hăng hắc của chiếc bánh khúc quê hương.
Đặc điểm của chiếc bánh khúc được miêu tả như thế nào?
Tác giả miêu tả vẻ đẹp độc đáo của chiếc lá khúc.
Tác giả miêu tả sự kì công từ lúc hái những chiếc lá khúc.
Tác giả miêu tả sức hấp dẫn của chiếc bánh từ vỏ, nhân, đến hương vị.
Tác giả bày tỏ niềm thương nhớ đối với hương vị của quê hương.
C
Dì tôi cắp một chiếc rổ lớn, dắt tay tôi đi hái rau khúc. Cây rau khúc rất nhỏ, chỉ bằng một mầm cỏ non mới nhú. Lá rau như mạ bạc, trông như được phủ một lượt tuyết cực mỏng. Những hạt sương sớm đọng trên lá long lanh như những bóng đèn pha lê. Hai dì cháu tôi hái đầy rổ mới về. ... Ngủ một giấc dậy, tôi đã thấy dì mang chõ bánh lên. Vung vừa mở ra, hơi nóng bốc nghi ngút. Những cái bánh màu rêu xanh lấp ló trong áo xôi nếp trắng được đặt vào trong những miếng lá chuối hơ qua lửa thật mềm, trông đẹp như những bông hoa. Nhân bánh là một viên đậu xanh giã nhỏ vàng ươm, xen một thỏi mỡ xinh xắn, pha hạt tiêu. Cắn một miếng bánh thì cứ như thấy cả hương đồng, cỏ nội gói vào trong đó. Bao năm rồi, tôi vẫn không sao quên được vị thơm ngậy, hăng hắc của chiếc bánh khúc quê hương.
Tình cảm của tác giả đối với "bánh khúc quê hương" như thế nào?
Tự hào, khoe với bạn bè quốc tế.
Không sao quên được.
Phát sợ, ghê sợ.
Chán ngấy.
B
Dì tôi cắp một chiếc rổ lớn, dắt tay tôi đi hái rau khúc. Cây rau khúc rất nhỏ, chỉ bằng một mầm cỏ non mới nhú. Lá rau như mạ bạc, trông như được phủ một lượt tuyết cực mỏng. Những hạt sương sớm đọng trên lá long lanh như những bóng đèn pha lê. Hai dì cháu tôi hái đầy rổ mới về. ... Ngủ một giấc dậy, tôi đã thấy dì mang chõ bánh lên. Vung vừa mở ra, hơi nóng bốc nghi ngút. Những cái bánh màu rêu xanh lấp ló trong áo xôi nếp trắng được đặt vào trong những miếng lá chuối hơ qua lửa thật mềm, trông đẹp như những bông hoa. Nhân bánh là một viên đậu xanh giã nhỏ vàng ươm, xen một thỏi mỡ xinh xắn, pha hạt tiêu. Cắn một miếng bánh thì cứ như thấy cả hương đồng, cỏ nội gói vào trong đó. Bao năm rồi, tôi vẫn không sao quên được vị thơm ngậy, hăng hắc của chiếc bánh khúc quê hương.
Tại sao tác giả không quên được mùi vị của chiếc bánh khúc quê hương?
Vì mùi vị ấy gắn với tuổi thơ êm đẹp của chính tác giả.
Vì mùi vị ấy gắn với quê hương, gia đình và cả tuổi thơ của tác giả.
Vì mùi vị ấy gắn bó với người dì, gia đình của tác giả.
Vì mùi vị ấy chỉ có ở quê hương.
B
Dì tôi cắp một chiếc rổ lớn, dắt tay tôi đi hái rau khúc. Cây rau khúc rất nhỏ, chỉ bằng một mầm cỏ non mới nhú. Lá rau như mạ bạc, trông như được phủ một lượt tuyết cực mỏng. Những hạt sương sớm đọng trên lá long lanh như những bóng đèn pha lê. Hai dì cháu tôi hái đầy rổ mới về. ... Ngủ một giấc dậy, tôi đã thấy dì mang chõ bánh lên. Vung vừa mở ra, hơi nóng bốc nghi ngút. Những cái bánh màu rêu xanh lấp ló trong áo xôi nếp trắng được đặt vào trong những miếng lá chuối hơ qua lửa thật mềm, trông đẹp như những bông hoa. Nhân bánh là một viên đậu xanh giã nhỏ vàng ươm, xen một thỏi mỡ xinh xắn, pha hạt tiêu. Cắn một miếng bánh thì cứ như thấy cả hương đồng, cỏ nội gói vào trong đó. Bao năm rồi, tôi vẫn không sao quên được vị thơm ngậy, hăng hắc của chiếc bánh khúc quê hương.
Nội dung của bài đọc này là gì?
Hành trình hái lá để làm chiếc bánh khúc thời ấu thơ của tác giả.
Cách làm chiếc bánh khúc có mang hương vị của quê hương.
Tình cảm và sự gắn bó của tác giả đối với chõ bánh khúc quê hương.
Một loại bánh mang hương vị của quê hương.
C
Thuyền chúng tôi đang xuôi dòng Bến Hải – con sông in đậm dấu ấn lịch sử một thời chống Mĩ cứu nước. Đôi bờ thôn xóm mướt màu xanh luỹ tre làng và những rặng phi lao rì rào gió thổi. Từ cầu Hiền Lương thuyền xuôi khoảng sáu cây số nữa là đã gặp biển cả mênh mông. Nơi dòng Bến Hải gặp sóng biển khơi ấy chính là Cửa Tùng. Bãi cát ở đây từng được ngợi ca là "Bà chúa của các bãi tắm". Diệu kì thay trong một ngày, Cửa Tùng có ba sắc màu nước biển. Bình minh, mặt trời như chiếc thau đồng đỏ ối chiếu xuống mặt biển, nước biển nhuộm màu hồng nhạt. Trưa, nước biển xanh lơ và khi chiều tà thì đổi sang màu xanh lục. Người xưa đã ví bờ biển Cửa Tùng giống như một chiếc lược đồi mồi cài vào mái tóc bạch kim của sóng biển.
Cảnh hai bên bờ sông Bến Hải đẹp như thế nào?
Thôn xóm mướt màu xanh luỹ tre làng, những rặng phi lao rì rào gió thổi.
Những cánh đồng lúa trải dài đôi bờ.
Những chiếc thuyền cặp bến hai bờ sông.
Những cánh đồng tre bất tận.
A
Thuyền chúng tôi đang xuôi dòng Bến Hải – con sông in đậm dấu ấn lịch sử một thời chống Mĩ cứu nước. Đôi bờ thôn xóm mướt màu xanh luỹ tre làng và những rặng phi lao rì rào gió thổi. Từ cầu Hiền Lương thuyền xuôi khoảng sáu cây số nữa là đã gặp biển cả mênh mông. Nơi dòng Bến Hải gặp sóng biển khơi ấy chính là Cửa Tùng. Bãi cát ở đây từng được ngợi ca là "Bà chúa của các bãi tắm". Diệu kì thay trong một ngày, Cửa Tùng có ba sắc màu nước biển. Bình minh, mặt trời như chiếc thau đồng đỏ ối chiếu xuống mặt biển, nước biển nhuộm màu hồng nhạt. Trưa, nước biển xanh lơ và khi chiều tà thì đổi sang màu xanh lục. Người xưa đã ví bờ biển Cửa Tùng giống như một chiếc lược đồi mồi cài vào mái tóc bạch kim của sóng biển.
Ba sắc màu nào của nước biển trong một ngày?
Xanh thẫm, vàng tươi và đỏ rực.
Xanh nhạt, đỏ tươi và vàng hoe.
Hồng nhạt, xanh lơ và xanh lục.
Xanh, đỏ và tím.
C
Thuyền chúng tôi đang xuôi dòng Bến Hải – con sông in đậm dấu ấn lịch sử một thời chống Mĩ cứu nước. Đôi bờ thôn xóm mướt màu xanh luỹ tre làng và những rặng phi lao rì rào gió thổi. Từ cầu Hiền Lương thuyền xuôi khoảng sáu cây số nữa là đã gặp biển cả mênh mông. Nơi dòng Bến Hải gặp sóng biển khơi ấy chính là Cửa Tùng. Bãi cát ở đây từng được ngợi ca là "Bà chúa của các bãi tắm". Diệu kì thay trong một ngày, Cửa Tùng có ba sắc màu nước biển. Bình minh, mặt trời như chiếc thau đồng đỏ ối chiếu xuống mặt biển, nước biển nhuộm màu hồng nhạt. Trưa, nước biển xanh lơ và khi chiều tà thì đổi sang màu xanh lục. Người xưa đã ví bờ biển Cửa Tùng giống như một chiếc lược đồi mồi cài vào mái tóc bạch kim của sóng biển.
Bờ biển Cửa Tùng được so sánh giống với hình ảnh nào?
Một dòng sông.
Một tấm vải khổng lồ.
Một chiếc lược đồi mồi cài vào mái tóc bạch kim.
Một cánh đồng bất tận.
C
Thuyền chúng tôi đang xuôi dòng Bến Hải – con sông in đậm dấu ấn lịch sử một thời chống Mĩ cứu nước. Đôi bờ thôn xóm mướt màu xanh luỹ tre làng và những rặng phi lao rì rào gió thổi. Từ cầu Hiền Lương thuyền xuôi khoảng sáu cây số nữa là đã gặp biển cả mênh mông. Nơi dòng Bến Hải gặp sóng biển khơi ấy chính là Cửa Tùng. Bãi cát ở đây từng được ngợi ca là "Bà chúa của các bãi tắm". Diệu kì thay trong một ngày, Cửa Tùng có ba sắc màu nước biển. Bình minh, mặt trời như chiếc thau đồng đỏ ối chiếu xuống mặt biển, nước biển nhuộm màu hồng nhạt. Trưa, nước biển xanh lơ và khi chiều tà thì đổi sang màu xanh lục. Người xưa đã ví bờ biển Cửa Tùng giống như một chiếc lược đồi mồi cài vào mái tóc bạch kim của sóng biển.
Từ nào chỉ hoạt động?
Thuyền.
Thổi.
Đỏ.
Bà chúa.
B
Thuyền chúng tôi đang xuôi dòng Bến Hải – con sông in đậm dấu ấn lịch sử một thời chống Mĩ cứu nước. Đôi bờ thôn xóm mướt màu xanh luỹ tre làng và những rặng phi lao rì rào gió thổi. Từ cầu Hiền Lương thuyền xuôi khoảng sáu cây số nữa là đã gặp biển cả mênh mông. Nơi dòng Bến Hải gặp sóng biển khơi ấy chính là Cửa Tùng. Bãi cát ở đây từng được ngợi ca là "Bà chúa của các bãi tắm". Diệu kì thay trong một ngày, Cửa Tùng có ba sắc màu nước biển. Bình minh, mặt trời như chiếc thau đồng đỏ ối chiếu xuống mặt biển, nước biển nhuộm màu hồng nhạt. Trưa, nước biển xanh lơ và khi chiều tà thì đổi sang màu xanh lục. Người xưa đã ví bờ biển Cửa Tùng giống như một chiếc lược đồi mồi cài vào mái tóc bạch kim của sóng biển.
Cụm từ nào trong câu "Cửa Tùng có ba sắc màu nước biển." trả lời câu hỏi Ai (con gì, cái gì)?
Cửa Tùng.
Có ba sắc màu nước biển.
Nước biển.
Có ba màu sắc.
A
1. Thuyên và Đồng rời quê đi làm đã mấy năm. Một hôm, hai anh rủ nhau đi chơi thật xa, nhưng đến giữa trưa thì lạc mất đường về. Hai người phải ghé vào cái quán gần đấy để hỏi đường, luôn tiện để ăn cho đỡ đói. Cùng ăn trong quán ấy có ba thanh niên. Họ chuyện trò luôn miệng. Bầu không khí trong quán vui vẻ lạ thường. 2. Lúc đứng lên trả tiền, Thuyên mới biết mình quên chiếc ví ở nhà. Hỏi Đồng, Đồng cũng không mang tiền theo. Hai người đang lúng túng, chợt một trong ba thanh niên bước lại gần, nói: - Xin hai anh vui lòng cho tôi được trả tiền. Thuyên ngạc nhiên nhìn anh thanh niên. Trên gương mặt đôn hậu, cặp mắt anh ánh lên vẻ thành thực, dễ mến. Thuyên bối rối: - Xin lỗi. Tôi quả thật chưa nhớ ra anh là... Người thanh niên không để Thuyên kịp dứt lời: - Dạ, không! Bây giờ tôi mới được biết hai anh. Tôi muốn làm quen... 3. Ngừng một lát như để nén nỗi xúc động, anh thanh niên nói tiếp: - Hai anh đã cho tôi nghe lại giọng nói của mẹ tôi xưa... Bất ngờ trước tình cảm của người bạn mới, Thuyên mới chỉ biết nói: - Cảm ơn anh... Anh thanh niên xua tay: - Tôi cảm ơn hai anh mới phải. Rồi người ấy nghẹn ngào: - Mẹ tôi là người miền Trung... Ba qua đời đã hơn tám năm rồi. Nói đến đây, người trẻ tuổi lẳng lặng cúi đầu, đôi môi mím chặt lộ vẻ đau thương. Còn Thuyên, Đồng thì bùi ngùi nhớ đến quê hương, yên lặng nhìn nhau, mắt rớm lệ.
Thuyên và Đồng rủ nhau đi chơi, khi bị lạc đường họ đã làm như thế nào?
Trách móc nhau vì đã không phân biệt được đường đi.
Ghé vào quán ăn để hỏi đường và ăn cho đỡ đói.
Tuyệt vọng ôm nhau khóc giữa đường.
Nhìn la bàn để xác định lại phương hướng, đường đi.
B
1. Thuyên và Đồng rời quê đi làm đã mấy năm. Một hôm, hai anh rủ nhau đi chơi thật xa, nhưng đến giữa trưa thì lạc mất đường về. Hai người phải ghé vào cái quán gần đấy để hỏi đường, luôn tiện để ăn cho đỡ đói. Cùng ăn trong quán ấy có ba thanh niên. Họ chuyện trò luôn miệng. Bầu không khí trong quán vui vẻ lạ thường. 2. Lúc đứng lên trả tiền, Thuyên mới biết mình quên chiếc ví ở nhà. Hỏi Đồng, Đồng cũng không mang tiền theo. Hai người đang lúng túng, chợt một trong ba thanh niên bước lại gần, nói: - Xin hai anh vui lòng cho tôi được trả tiền. Thuyên ngạc nhiên nhìn anh thanh niên. Trên gương mặt đôn hậu, cặp mắt anh ánh lên vẻ thành thực, dễ mến. Thuyên bối rối: - Xin lỗi. Tôi quả thật chưa nhớ ra anh là... Người thanh niên không để Thuyên kịp dứt lời: - Dạ, không! Bây giờ tôi mới được biết hai anh. Tôi muốn làm quen... 3. Ngừng một lát như để nén nỗi xúc động, anh thanh niên nói tiếp: - Hai anh đã cho tôi nghe lại giọng nói của mẹ tôi xưa... Bất ngờ trước tình cảm của người bạn mới, Thuyên mới chỉ biết nói: - Cảm ơn anh... Anh thanh niên xua tay: - Tôi cảm ơn hai anh mới phải. Rồi người ấy nghẹn ngào: - Mẹ tôi là người miền Trung... Ba qua đời đã hơn tám năm rồi. Nói đến đây, người trẻ tuổi lẳng lặng cúi đầu, đôi môi mím chặt lộ vẻ đau thương. Còn Thuyên, Đồng thì bùi ngùi nhớ đến quê hương, yên lặng nhìn nhau, mắt rớm lệ.
Thuyên và Đồng cùng ăn với những ai trong quán?
Ba cô gái xinh đẹp.
Ba người làm kẻ cướp.
Ba người xa lạ.
Ba người lạ mặt cùng quê.
C
1. Thuyên và Đồng rời quê đi làm đã mấy năm. Một hôm, hai anh rủ nhau đi chơi thật xa, nhưng đến giữa trưa thì lạc mất đường về. Hai người phải ghé vào cái quán gần đấy để hỏi đường, luôn tiện để ăn cho đỡ đói. Cùng ăn trong quán ấy có ba thanh niên. Họ chuyện trò luôn miệng. Bầu không khí trong quán vui vẻ lạ thường. 2. Lúc đứng lên trả tiền, Thuyên mới biết mình quên chiếc ví ở nhà. Hỏi Đồng, Đồng cũng không mang tiền theo. Hai người đang lúng túng, chợt một trong ba thanh niên bước lại gần, nói: - Xin hai anh vui lòng cho tôi được trả tiền. Thuyên ngạc nhiên nhìn anh thanh niên. Trên gương mặt đôn hậu, cặp mắt anh ánh lên vẻ thành thực, dễ mến. Thuyên bối rối: - Xin lỗi. Tôi quả thật chưa nhớ ra anh là... Người thanh niên không để Thuyên kịp dứt lời: - Dạ, không! Bây giờ tôi mới được biết hai anh. Tôi muốn làm quen... 3. Ngừng một lát như để nén nỗi xúc động, anh thanh niên nói tiếp: - Hai anh đã cho tôi nghe lại giọng nói của mẹ tôi xưa... Bất ngờ trước tình cảm của người bạn mới, Thuyên mới chỉ biết nói: - Cảm ơn anh... Anh thanh niên xua tay: - Tôi cảm ơn hai anh mới phải. Rồi người ấy nghẹn ngào: - Mẹ tôi là người miền Trung... Ba qua đời đã hơn tám năm rồi. Nói đến đây, người trẻ tuổi lẳng lặng cúi đầu, đôi môi mím chặt lộ vẻ đau thương. Còn Thuyên, Đồng thì bùi ngùi nhớ đến quê hương, yên lặng nhìn nhau, mắt rớm lệ.
Khi trả tiền, Thuyên mới phát hiện ra điều gì?
Thuyên để quên ví ở nhà.
Thuyên và Đồng quên không hỏi đường.
Thuyên vô tình gặp bạn cũ trong quán ăn.
Thuyên và Đồng tranh nhau trả tiền.
A
1. Thuyên và Đồng rời quê đi làm đã mấy năm. Một hôm, hai anh rủ nhau đi chơi thật xa, nhưng đến giữa trưa thì lạc mất đường về. Hai người phải ghé vào cái quán gần đấy để hỏi đường, luôn tiện để ăn cho đỡ đói. Cùng ăn trong quán ấy có ba thanh niên. Họ chuyện trò luôn miệng. Bầu không khí trong quán vui vẻ lạ thường. 2. Lúc đứng lên trả tiền, Thuyên mới biết mình quên chiếc ví ở nhà. Hỏi Đồng, Đồng cũng không mang tiền theo. Hai người đang lúng túng, chợt một trong ba thanh niên bước lại gần, nói: - Xin hai anh vui lòng cho tôi được trả tiền. Thuyên ngạc nhiên nhìn anh thanh niên. Trên gương mặt đôn hậu, cặp mắt anh ánh lên vẻ thành thực, dễ mến. Thuyên bối rối: - Xin lỗi. Tôi quả thật chưa nhớ ra anh là... Người thanh niên không để Thuyên kịp dứt lời: - Dạ, không! Bây giờ tôi mới được biết hai anh. Tôi muốn làm quen... 3. Ngừng một lát như để nén nỗi xúc động, anh thanh niên nói tiếp: - Hai anh đã cho tôi nghe lại giọng nói của mẹ tôi xưa... Bất ngờ trước tình cảm của người bạn mới, Thuyên mới chỉ biết nói: - Cảm ơn anh... Anh thanh niên xua tay: - Tôi cảm ơn hai anh mới phải. Rồi người ấy nghẹn ngào: - Mẹ tôi là người miền Trung... Ba qua đời đã hơn tám năm rồi. Nói đến đây, người trẻ tuổi lẳng lặng cúi đầu, đôi môi mím chặt lộ vẻ đau thương. Còn Thuyên, Đồng thì bùi ngùi nhớ đến quê hương, yên lặng nhìn nhau, mắt rớm lệ.
Khi đang bối rối vì quên không mang ví, Thuyên và Đồng ngạc nhiên bởi vì điều gì?
Có người lạ mặt đứng ra cướp tài sản của hai người.
Người chủ quán giữ hai người ở lại làm phục vụ trừ nợ.
Người chủ quán miễn phí đồ ăn cho hai người.
Có người lạ mặt muốn xin được trả tiền hộ hai người.
D
1. Thuyên và Đồng rời quê đi làm đã mấy năm. Một hôm, hai anh rủ nhau đi chơi thật xa, nhưng đến giữa trưa thì lạc mất đường về. Hai người phải ghé vào cái quán gần đấy để hỏi đường, luôn tiện để ăn cho đỡ đói. Cùng ăn trong quán ấy có ba thanh niên. Họ chuyện trò luôn miệng. Bầu không khí trong quán vui vẻ lạ thường. 2. Lúc đứng lên trả tiền, Thuyên mới biết mình quên chiếc ví ở nhà. Hỏi Đồng, Đồng cũng không mang tiền theo. Hai người đang lúng túng, chợt một trong ba thanh niên bước lại gần, nói: - Xin hai anh vui lòng cho tôi được trả tiền. Thuyên ngạc nhiên nhìn anh thanh niên. Trên gương mặt đôn hậu, cặp mắt anh ánh lên vẻ thành thực, dễ mến. Thuyên bối rối: - Xin lỗi. Tôi quả thật chưa nhớ ra anh là... Người thanh niên không để Thuyên kịp dứt lời: - Dạ, không! Bây giờ tôi mới được biết hai anh. Tôi muốn làm quen... 3. Ngừng một lát như để nén nỗi xúc động, anh thanh niên nói tiếp: - Hai anh đã cho tôi nghe lại giọng nói của mẹ tôi xưa... Bất ngờ trước tình cảm của người bạn mới, Thuyên mới chỉ biết nói: - Cảm ơn anh... Anh thanh niên xua tay: - Tôi cảm ơn hai anh mới phải. Rồi người ấy nghẹn ngào: - Mẹ tôi là người miền Trung... Ba qua đời đã hơn tám năm rồi. Nói đến đây, người trẻ tuổi lẳng lặng cúi đầu, đôi môi mím chặt lộ vẻ đau thương. Còn Thuyên, Đồng thì bùi ngùi nhớ đến quê hương, yên lặng nhìn nhau, mắt rớm lệ.
Tại sao anh thanh niên lại cảm ơn Thuyên và Đồng?
Vì đã cho anh ta được nghe lại giọng nói của mẹ anh hồi xưa.
Vì đã cho anh ta được phép trả tiền hộ hai người.
Vì đã gặp gỡ và nói chuyện với anh ta.
Tất cả các đáp án trên.
A
1. Thuyên và Đồng rời quê đi làm đã mấy năm. Một hôm, hai anh rủ nhau đi chơi thật xa, nhưng đến giữa trưa thì lạc mất đường về. Hai người phải ghé vào cái quán gần đấy để hỏi đường, luôn tiện để ăn cho đỡ đói. Cùng ăn trong quán ấy có ba thanh niên. Họ chuyện trò luôn miệng. Bầu không khí trong quán vui vẻ lạ thường. 2. Lúc đứng lên trả tiền, Thuyên mới biết mình quên chiếc ví ở nhà. Hỏi Đồng, Đồng cũng không mang tiền theo. Hai người đang lúng túng, chợt một trong ba thanh niên bước lại gần, nói: - Xin hai anh vui lòng cho tôi được trả tiền. Thuyên ngạc nhiên nhìn anh thanh niên. Trên gương mặt đôn hậu, cặp mắt anh ánh lên vẻ thành thực, dễ mến. Thuyên bối rối: - Xin lỗi. Tôi quả thật chưa nhớ ra anh là... Người thanh niên không để Thuyên kịp dứt lời: - Dạ, không! Bây giờ tôi mới được biết hai anh. Tôi muốn làm quen... 3. Ngừng một lát như để nén nỗi xúc động, anh thanh niên nói tiếp: - Hai anh đã cho tôi nghe lại giọng nói của mẹ tôi xưa... Bất ngờ trước tình cảm của người bạn mới, Thuyên mới chỉ biết nói: - Cảm ơn anh... Anh thanh niên xua tay: - Tôi cảm ơn hai anh mới phải. Rồi người ấy nghẹn ngào: - Mẹ tôi là người miền Trung... Ba qua đời đã hơn tám năm rồi. Nói đến đây, người trẻ tuổi lẳng lặng cúi đầu, đôi môi mím chặt lộ vẻ đau thương. Còn Thuyên, Đồng thì bùi ngùi nhớ đến quê hương, yên lặng nhìn nhau, mắt rớm lệ.
Sau khi cảm ơn, anh thanh niên đã tâm sự điều gì với Thuyên và Đồng?
Anh thanh niên rất muốn giúp đỡ mọi người khi gặp khó khăn.
Anh thanh niên cũng là người miền Trung rời xa quê hương.
Anh thanh niên muốn tìm đường về quê thăm mẹ của anh.
Mẹ anh cũng người miền Trung, bà đã qua đời hơn tám năm trước.
D
1. Thuyên và Đồng rời quê đi làm đã mấy năm. Một hôm, hai anh rủ nhau đi chơi thật xa, nhưng đến giữa trưa thì lạc mất đường về. Hai người phải ghé vào cái quán gần đấy để hỏi đường, luôn tiện để ăn cho đỡ đói. Cùng ăn trong quán ấy có ba thanh niên. Họ chuyện trò luôn miệng. Bầu không khí trong quán vui vẻ lạ thường. 2. Lúc đứng lên trả tiền, Thuyên mới biết mình quên chiếc ví ở nhà. Hỏi Đồng, Đồng cũng không mang tiền theo. Hai người đang lúng túng, chợt một trong ba thanh niên bước lại gần, nói: - Xin hai anh vui lòng cho tôi được trả tiền. Thuyên ngạc nhiên nhìn anh thanh niên. Trên gương mặt đôn hậu, cặp mắt anh ánh lên vẻ thành thực, dễ mến. Thuyên bối rối: - Xin lỗi. Tôi quả thật chưa nhớ ra anh là... Người thanh niên không để Thuyên kịp dứt lời: - Dạ, không! Bây giờ tôi mới được biết hai anh. Tôi muốn làm quen... 3. Ngừng một lát như để nén nỗi xúc động, anh thanh niên nói tiếp: - Hai anh đã cho tôi nghe lại giọng nói của mẹ tôi xưa... Bất ngờ trước tình cảm của người bạn mới, Thuyên mới chỉ biết nói: - Cảm ơn anh... Anh thanh niên xua tay: - Tôi cảm ơn hai anh mới phải. Rồi người ấy nghẹn ngào: - Mẹ tôi là người miền Trung... Ba qua đời đã hơn tám năm rồi. Nói đến đây, người trẻ tuổi lẳng lặng cúi đầu, đôi môi mím chặt lộ vẻ đau thương. Còn Thuyên, Đồng thì bùi ngùi nhớ đến quê hương, yên lặng nhìn nhau, mắt rớm lệ.
Chi tiết nào không nói lên tình cảm của các nhân vật đối với quê hương?
Thuyên, Đồng bùi ngùi nhớ đến quê hương.
Anh thanh niên cúi đầu, môi mím chặt lộ vẻ đau thương.
Thuyên và Đồng rời quê đi làm đã mấy năm không về.
Thuyên, Đồng lặng nhìn nhau, đôi mắt rớm lệ.
C
1. Thuyên và Đồng rời quê đi làm đã mấy năm. Một hôm, hai anh rủ nhau đi chơi thật xa, nhưng đến giữa trưa thì lạc mất đường về. Hai người phải ghé vào cái quán gần đấy để hỏi đường, luôn tiện để ăn cho đỡ đói. Cùng ăn trong quán ấy có ba thanh niên. Họ chuyện trò luôn miệng. Bầu không khí trong quán vui vẻ lạ thường. 2. Lúc đứng lên trả tiền, Thuyên mới biết mình quên chiếc ví ở nhà. Hỏi Đồng, Đồng cũng không mang tiền theo. Hai người đang lúng túng, chợt một trong ba thanh niên bước lại gần, nói: - Xin hai anh vui lòng cho tôi được trả tiền. Thuyên ngạc nhiên nhìn anh thanh niên. Trên gương mặt đôn hậu, cặp mắt anh ánh lên vẻ thành thực, dễ mến. Thuyên bối rối: - Xin lỗi. Tôi quả thật chưa nhớ ra anh là... Người thanh niên không để Thuyên kịp dứt lời: - Dạ, không! Bây giờ tôi mới được biết hai anh. Tôi muốn làm quen... 3. Ngừng một lát như để nén nỗi xúc động, anh thanh niên nói tiếp: - Hai anh đã cho tôi nghe lại giọng nói của mẹ tôi xưa... Bất ngờ trước tình cảm của người bạn mới, Thuyên mới chỉ biết nói: - Cảm ơn anh... Anh thanh niên xua tay: - Tôi cảm ơn hai anh mới phải. Rồi người ấy nghẹn ngào: - Mẹ tôi là người miền Trung... Ba qua đời đã hơn tám năm rồi. Nói đến đây, người trẻ tuổi lẳng lặng cúi đầu, đôi môi mím chặt lộ vẻ đau thương. Còn Thuyên, Đồng thì bùi ngùi nhớ đến quê hương, yên lặng nhìn nhau, mắt rớm lệ.
Nội dung của bài đọc này là gì?
Thuyên, Đồng, anh thanh niên từ những người lạ trở thành bạn.
Hai người con xa quê rủ nhau đi chơi và bị lạc đường.
Tình bạn thân thiết của những người cùng quê hương.
Tình cảm yêu quê hương tha thiết của những người xa quê.
D
1. Thuở xưa, nước ta bị giặc ngoại xâm đô hộ. Chúng thẳng tay chém giết dân lành, cướp hết ruộng nương màu mỡ. Chúng bắt dân ta lên rừng săn thú lạ, xuống biển mò ngọc trai, khiến bao người thiệt mạng vì hổ báo, cá sấu, thuồng luồng,... Lòng dân oán hận ngút trời, chỉ chờ dịp vùng lên đánh đuổi quân xâm lược. 2. Bấy giờ, ở huyện Mê Linh có hai người con gái tài giỏi là Trưng Trắc và Trưng Nhị. Cha mất sớm, nhờ mẹ dạy dỗ, hai chị em đều giỏi võ nghệ và nuôi chí giành lại non sông. Chồng bà Trưng Trắc là Thi Sách cũng cùng chí hướng với vợ. Tướng giặc Tô Định biết vậy, bèn lập mưu giết chết Thi Sách. 3. Nhận được tin dữ, Hai Bà Trưng liền kéo quân về thành Luy Lâu hỏi tội kẻ thù. Trước lúc trẩy quân, có người xin nữ chủ tướng cho mặc đồ tang. Trưng Trắc trả lời: - Không! Ta sẽ mặc giáp phục thật đẹp để dân chúng thêm phấn khích, còn giặc trông thấy thì kinh hồn. Hai Bà Trưng bước lên bành voi. Đoàn quân rùng rùng lên đường. Giáo lao, cung nỏ, rìu búa, khiên mộc cuồn cuộn tràn theo bóng voi ẩn hiện của Hai Bà. Tiếng trống đồng dội lên vòm cây, đập vào sườn đồi, theo suốt đường hành quân. 4. Thành trì của giặc lần lượt sụp đổ dưới chân của đoàn quân khởi nghĩa. Tô Định ôm đầu chạy về nước. Đất nước ta sạch bóng quân thù. Hai Bà Trưng trở thành hai vị anh hùng chống ngoại xâm đầu tiên trong lịch sử nước nhà.
Nhân vật lịch sử nào chủ yếu được kể trong câu chuyện này?
Thi Sách.
Mê Linh.
Tô Định.
Hai Bà Trưng.
D
1. Thuở xưa, nước ta bị giặc ngoại xâm đô hộ. Chúng thẳng tay chém giết dân lành, cướp hết ruộng nương màu mỡ. Chúng bắt dân ta lên rừng săn thú lạ, xuống biển mò ngọc trai, khiến bao người thiệt mạng vì hổ báo, cá sấu, thuồng luồng,... Lòng dân oán hận ngút trời, chỉ chờ dịp vùng lên đánh đuổi quân xâm lược. 2. Bấy giờ, ở huyện Mê Linh có hai người con gái tài giỏi là Trưng Trắc và Trưng Nhị. Cha mất sớm, nhờ mẹ dạy dỗ, hai chị em đều giỏi võ nghệ và nuôi chí giành lại non sông. Chồng bà Trưng Trắc là Thi Sách cũng cùng chí hướng với vợ. Tướng giặc Tô Định biết vậy, bèn lập mưu giết chết Thi Sách. 3. Nhận được tin dữ, Hai Bà Trưng liền kéo quân về thành Luy Lâu hỏi tội kẻ thù. Trước lúc trẩy quân, có người xin nữ chủ tướng cho mặc đồ tang. Trưng Trắc trả lời: - Không! Ta sẽ mặc giáp phục thật đẹp để dân chúng thêm phấn khích, còn giặc trông thấy thì kinh hồn. Hai Bà Trưng bước lên bành voi. Đoàn quân rùng rùng lên đường. Giáo lao, cung nỏ, rìu búa, khiên mộc cuồn cuộn tràn theo bóng voi ẩn hiện của Hai Bà. Tiếng trống đồng dội lên vòm cây, đập vào sườn đồi, theo suốt đường hành quân. 4. Thành trì của giặc lần lượt sụp đổ dưới chân của đoàn quân khởi nghĩa. Tô Định ôm đầu chạy về nước. Đất nước ta sạch bóng quân thù. Hai Bà Trưng trở thành hai vị anh hùng chống ngoại xâm đầu tiên trong lịch sử nước nhà.
Hai Bà Trưng gồm những người nào?
Trưng Nhị và Tô Định.
Trưng Trắc và Thi Sách.
Trưng Trắc và Trưng Nhị.
Tô Định và Luy Lâu.
C
1. Thuở xưa, nước ta bị giặc ngoại xâm đô hộ. Chúng thẳng tay chém giết dân lành, cướp hết ruộng nương màu mỡ. Chúng bắt dân ta lên rừng săn thú lạ, xuống biển mò ngọc trai, khiến bao người thiệt mạng vì hổ báo, cá sấu, thuồng luồng,... Lòng dân oán hận ngút trời, chỉ chờ dịp vùng lên đánh đuổi quân xâm lược. 2. Bấy giờ, ở huyện Mê Linh có hai người con gái tài giỏi là Trưng Trắc và Trưng Nhị. Cha mất sớm, nhờ mẹ dạy dỗ, hai chị em đều giỏi võ nghệ và nuôi chí giành lại non sông. Chồng bà Trưng Trắc là Thi Sách cũng cùng chí hướng với vợ. Tướng giặc Tô Định biết vậy, bèn lập mưu giết chết Thi Sách. 3. Nhận được tin dữ, Hai Bà Trưng liền kéo quân về thành Luy Lâu hỏi tội kẻ thù. Trước lúc trẩy quân, có người xin nữ chủ tướng cho mặc đồ tang. Trưng Trắc trả lời: - Không! Ta sẽ mặc giáp phục thật đẹp để dân chúng thêm phấn khích, còn giặc trông thấy thì kinh hồn. Hai Bà Trưng bước lên bành voi. Đoàn quân rùng rùng lên đường. Giáo lao, cung nỏ, rìu búa, khiên mộc cuồn cuộn tràn theo bóng voi ẩn hiện của Hai Bà. Tiếng trống đồng dội lên vòm cây, đập vào sườn đồi, theo suốt đường hành quân. 4. Thành trì của giặc lần lượt sụp đổ dưới chân của đoàn quân khởi nghĩa. Tô Định ôm đầu chạy về nước. Đất nước ta sạch bóng quân thù. Hai Bà Trưng trở thành hai vị anh hùng chống ngoại xâm đầu tiên trong lịch sử nước nhà.
Quê hương của Hai Bà Trưng ở nơi nào?
Huyện Mai Châu.
Núi Tam Lĩnh.
Huyện Mê Linh.
Núi Ba Vì.
C
1. Thuở xưa, nước ta bị giặc ngoại xâm đô hộ. Chúng thẳng tay chém giết dân lành, cướp hết ruộng nương màu mỡ. Chúng bắt dân ta lên rừng săn thú lạ, xuống biển mò ngọc trai, khiến bao người thiệt mạng vì hổ báo, cá sấu, thuồng luồng,... Lòng dân oán hận ngút trời, chỉ chờ dịp vùng lên đánh đuổi quân xâm lược. 2. Bấy giờ, ở huyện Mê Linh có hai người con gái tài giỏi là Trưng Trắc và Trưng Nhị. Cha mất sớm, nhờ mẹ dạy dỗ, hai chị em đều giỏi võ nghệ và nuôi chí giành lại non sông. Chồng bà Trưng Trắc là Thi Sách cũng cùng chí hướng với vợ. Tướng giặc Tô Định biết vậy, bèn lập mưu giết chết Thi Sách. 3. Nhận được tin dữ, Hai Bà Trưng liền kéo quân về thành Luy Lâu hỏi tội kẻ thù. Trước lúc trẩy quân, có người xin nữ chủ tướng cho mặc đồ tang. Trưng Trắc trả lời: - Không! Ta sẽ mặc giáp phục thật đẹp để dân chúng thêm phấn khích, còn giặc trông thấy thì kinh hồn. Hai Bà Trưng bước lên bành voi. Đoàn quân rùng rùng lên đường. Giáo lao, cung nỏ, rìu búa, khiên mộc cuồn cuộn tràn theo bóng voi ẩn hiện của Hai Bà. Tiếng trống đồng dội lên vòm cây, đập vào sườn đồi, theo suốt đường hành quân. 4. Thành trì của giặc lần lượt sụp đổ dưới chân của đoàn quân khởi nghĩa. Tô Định ôm đầu chạy về nước. Đất nước ta sạch bóng quân thù. Hai Bà Trưng trở thành hai vị anh hùng chống ngoại xâm đầu tiên trong lịch sử nước nhà.
Hai Bà Trưng được sử sách lưu danh là người như thế nào?
Là hai người phụ nữ dám đứng lên đòi nợ nước, trả thù nhà.
Là hai vị anh hùng chống ngoại xâm đầu tiên trong lịch sử dân tộc.
Là hai người phụ nữ tài năng, có võ nghệ cao cường.
Là hai người phụ nữ vừa đảm việc nhà, vừa giỏi việc nước.
B
1. Thuở xưa, nước ta bị giặc ngoại xâm đô hộ. Chúng thẳng tay chém giết dân lành, cướp hết ruộng nương màu mỡ. Chúng bắt dân ta lên rừng săn thú lạ, xuống biển mò ngọc trai, khiến bao người thiệt mạng vì hổ báo, cá sấu, thuồng luồng,... Lòng dân oán hận ngút trời, chỉ chờ dịp vùng lên đánh đuổi quân xâm lược. 2. Bấy giờ, ở huyện Mê Linh có hai người con gái tài giỏi là Trưng Trắc và Trưng Nhị. Cha mất sớm, nhờ mẹ dạy dỗ, hai chị em đều giỏi võ nghệ và nuôi chí giành lại non sông. Chồng bà Trưng Trắc là Thi Sách cũng cùng chí hướng với vợ. Tướng giặc Tô Định biết vậy, bèn lập mưu giết chết Thi Sách. 3. Nhận được tin dữ, Hai Bà Trưng liền kéo quân về thành Luy Lâu hỏi tội kẻ thù. Trước lúc trẩy quân, có người xin nữ chủ tướng cho mặc đồ tang. Trưng Trắc trả lời: - Không! Ta sẽ mặc giáp phục thật đẹp để dân chúng thêm phấn khích, còn giặc trông thấy thì kinh hồn. Hai Bà Trưng bước lên bành voi. Đoàn quân rùng rùng lên đường. Giáo lao, cung nỏ, rìu búa, khiên mộc cuồn cuộn tràn theo bóng voi ẩn hiện của Hai Bà. Tiếng trống đồng dội lên vòm cây, đập vào sườn đồi, theo suốt đường hành quân. 4. Thành trì của giặc lần lượt sụp đổ dưới chân của đoàn quân khởi nghĩa. Tô Định ôm đầu chạy về nước. Đất nước ta sạch bóng quân thù. Hai Bà Trưng trở thành hai vị anh hùng chống ngoại xâm đầu tiên trong lịch sử nước nhà.
Tại sao bao lâu nay nhân dân ta tôn kính Hai Bà Trưng?
Vì hai bà là những người phụ nữ vừa đảm việc nhà vừa giỏi việc nước.
Vì hai bà là vị anh hùng chống ngoại xâm đầu tiên trong lịch sử dân tộc.
Vì Hai Bà Trưng là những người phụ nữ mạnh mẽ, rắn rỏi, kiên cường.
Tất cả các ý trên.
B
Mấy ngày mẹ vắng nhà Là mấy ngày bão nổi Con đường mẹ đi về Cơn mưa dài chặn lối. Hai chiếc giường ướt một Ba bố con nằm chung Vẫn thấy trống phía trong Nằm ấm mà thao thức. Nghĩ giờ này ở quê Mẹ cũng không ngủ được Thương bố con vụng về Củi mùn thì lại ướt. Nhưng chị vẫn hái lá Cho thỏ mẹ, thỏ con Em thì chăm đàn ngan Sáng lại chiều no bữa Bố đội nón đi chợ Mua cá về nấu chua.... Thế rồi cơn bão qua Bầu trời xanh trở lại Mẹ về như nắng mới Sáng ấm cả gian nhà.
Ngày bão vắng mẹ, ba cha con vất vả như thế nào?
Giường có hai chiếc thì một chiếc bị ướt, ba bố con phải nằm chung.
Củi mùn cũng bị ướt.
Chị hái lá cho thỏ ăn, em thì chăm đàn ngan, bố đi chợ và nấu cơm.
Cả ba ý trên đều đúng.
C
Mấy ngày mẹ vắng nhà Là mấy ngày bão nổi Con đường mẹ đi về Cơn mưa dài chặn lối. Hai chiếc giường ướt một Ba bố con nằm chung Vẫn thấy trống phía trong Nằm ấm mà thao thức. Nghĩ giờ này ở quê Mẹ cũng không ngủ được Thương bố con vụng về Củi mùn thì lại ướt. Nhưng chị vẫn hái lá Cho thỏ mẹ, thỏ con Em thì chăm đàn ngan Sáng lại chiều no bữa Bố đội nón đi chợ Mua cá về nấu chua.... Thế rồi cơn bão qua Bầu trời xanh trở lại Mẹ về như nắng mới Sáng ấm cả gian nhà.
Những khổ thơ nào thể hiện rằng cả nhà luôn nghĩ đến nhau?
Khổ thơ 1 và khổ thơ 2.
Khổ thơ 2 và khổ thơ 3.
Khổ thơ 3 và khổ thơ 4.
Khổ thơ 4 và khổ thơ 5.
B
Mấy ngày mẹ vắng nhà Là mấy ngày bão nổi Con đường mẹ đi về Cơn mưa dài chặn lối. Hai chiếc giường ướt một Ba bố con nằm chung Vẫn thấy trống phía trong Nằm ấm mà thao thức. Nghĩ giờ này ở quê Mẹ cũng không ngủ được Thương bố con vụng về Củi mùn thì lại ướt. Nhưng chị vẫn hái lá Cho thỏ mẹ, thỏ con Em thì chăm đàn ngan Sáng lại chiều no bữa Bố đội nón đi chợ Mua cá về nấu chua.... Thế rồi cơn bão qua Bầu trời xanh trở lại Mẹ về như nắng mới Sáng ấm cả gian nhà.
Câu thơ nào thể hiện niềm vui của cả nhà khi mẹ về?
Thế rồi cơn bão qua.
Bầu trời xanh trở lại.
Mẹ về như nắng mới.
Mẹ về nhưng bình thường.
C
Mấy ngày mẹ vắng nhà Là mấy ngày bão nổi Con đường mẹ đi về Cơn mưa dài chặn lối. Hai chiếc giường ướt một Ba bố con nằm chung Vẫn thấy trống phía trong Nằm ấm mà thao thức. Nghĩ giờ này ở quê Mẹ cũng không ngủ được Thương bố con vụng về Củi mùn thì lại ướt. Nhưng chị vẫn hái lá Cho thỏ mẹ, thỏ con Em thì chăm đàn ngan Sáng lại chiều no bữa Bố đội nón đi chợ Mua cá về nấu chua.... Thế rồi cơn bão qua Bầu trời xanh trở lại Mẹ về như nắng mới Sáng ấm cả gian nhà.
Khi mẹ đi vắng, hai chị em đã làm những việc gì?
Hai chị em giúp bố nấu cơm.
Hai chị em giúp bố nấu cơm và chăm đàn ngan.
Chị hái lá cho thỏ, em thì chăm đàn ngan.
Chi và em ra vườn chăm cây cối.
C
Mấy ngày mẹ vắng nhà Là mấy ngày bão nổi Con đường mẹ đi về Cơn mưa dài chặn lối. Hai chiếc giường ướt một Ba bố con nằm chung Vẫn thấy trống phía trong Nằm ấm mà thao thức. Nghĩ giờ này ở quê Mẹ cũng không ngủ được Thương bố con vụng về Củi mùn thì lại ướt. Nhưng chị vẫn hái lá Cho thỏ mẹ, thỏ con Em thì chăm đàn ngan Sáng lại chiều no bữa Bố đội nón đi chợ Mua cá về nấu chua.... Thế rồi cơn bão qua Bầu trời xanh trở lại Mẹ về như nắng mới Sáng ấm cả gian nhà.
Câu thơ nào có hình ảnh so sánh?
Cơn mưa dài chặn lối.
Mẹ về như nắng mới.
Bố đội nón đi chợ.
Thế rồi cơn bão qua.
B
Mấy ngày mẹ vắng nhà Là mấy ngày bão nổi Con đường mẹ đi về Cơn mưa dài chặn lối. Hai chiếc giường ướt một Ba bố con nằm chung Vẫn thấy trống phía trong Nằm ấm mà thao thức. Nghĩ giờ này ở quê Mẹ cũng không ngủ được Thương bố con vụng về Củi mùn thì lại ướt. Nhưng chị vẫn hái lá Cho thỏ mẹ, thỏ con Em thì chăm đàn ngan Sáng lại chiều no bữa Bố đội nón đi chợ Mua cá về nấu chua.... Thế rồi cơn bão qua Bầu trời xanh trở lại Mẹ về như nắng mới Sáng ấm cả gian nhà.
Câu thơ "Bố đội nón đi chợ" sử dụng mẫu câu nào?
Ai là gì?
Ai làm gì?
Ai thế nào?
Ai như thế nào?
B
Mấy ngày mẹ vắng nhà Là mấy ngày bão nổi Con đường mẹ đi về Cơn mưa dài chặn lối. Hai chiếc giường ướt một Ba bố con nằm chung Vẫn thấy trống phía trong Nằm ấm mà thao thức. Nghĩ giờ này ở quê Mẹ cũng không ngủ được Thương bố con vụng về Củi mùn thì lại ướt. Nhưng chị vẫn hái lá Cho thỏ mẹ, thỏ con Em thì chăm đàn ngan Sáng lại chiều no bữa Bố đội nón đi chợ Mua cá về nấu chua.... Thế rồi cơn bão qua Bầu trời xanh trở lại Mẹ về như nắng mới Sáng ấm cả gian nhà.
Câu "Bố đội nón đi chợ" có mấy từ chỉ hoạt động?
1 từ.
2 từ.
3 từ.
4 từ.
B
Trường đua voi là một đường rộng phẳng lì, dài hơn năm cây số. Chiêng khua trống đánh vang lừng. Voi đua từng tốp mười con dàn hàng ngang ở nơi xuất phát. Trên mỗi con voi, ngồi hai chàng man-gát. Người ngồi phía cổ có vuông vải đỏ thắm ở ngực. Người ngồi trên lưng mặc áo xanh da trời. Trông họ rất bình tĩnh vì họ thường là những người phi ngựa giỏi nhất. Đến giờ xuất phát, chiêng trống nổi lên thì cả mười con voi lao đầu chạy. Cái dáng lầm lì, chậm chạp thường ngày bỗng dưng biến mất. Cả bầy hăng máu phóng như bay. Bụi cuốn mù mịt. Các chàng man-gát phải rất gan dạ và khéo léo điều khiển cho voi về trúng đích. Những chú voi chạy đến đích trước tiên đều ghìm đà, huơ vòi chào những khán giả đã nhiệt liệt cổ vũ, khen ngợi chúng.
Ngày hội đua voi diễn ra ở nơi nào?
Thái Nguyên.
Tây Tạng.
Tây Nguyên.
Cao Nguyên.
C
Trường đua voi là một đường rộng phẳng lì, dài hơn năm cây số. Chiêng khua trống đánh vang lừng. Voi đua từng tốp mười con dàn hàng ngang ở nơi xuất phát. Trên mỗi con voi, ngồi hai chàng man-gát. Người ngồi phía cổ có vuông vải đỏ thắm ở ngực. Người ngồi trên lưng mặc áo xanh da trời. Trông họ rất bình tĩnh vì họ thường là những người phi ngựa giỏi nhất. Đến giờ xuất phát, chiêng trống nổi lên thì cả mười con voi lao đầu chạy. Cái dáng lầm lì, chậm chạp thường ngày bỗng dưng biến mất. Cả bầy hăng máu phóng như bay. Bụi cuốn mù mịt. Các chàng man-gát phải rất gan dạ và khéo léo điều khiển cho voi về trúng đích. Những chú voi chạy đến đích trước tiên đều ghìm đà, huơ vòi chào những khán giả đã nhiệt liệt cổ vũ, khen ngợi chúng.
Hội đua voi ở Tây Nguyên được tổ chức ở nơi nào?
Đường quốc lộ.
Công viên.
Trường đua.
Nhà hàng.
C
Trường đua voi là một đường rộng phẳng lì, dài hơn năm cây số. Chiêng khua trống đánh vang lừng. Voi đua từng tốp mười con dàn hàng ngang ở nơi xuất phát. Trên mỗi con voi, ngồi hai chàng man-gát. Người ngồi phía cổ có vuông vải đỏ thắm ở ngực. Người ngồi trên lưng mặc áo xanh da trời. Trông họ rất bình tĩnh vì họ thường là những người phi ngựa giỏi nhất. Đến giờ xuất phát, chiêng trống nổi lên thì cả mười con voi lao đầu chạy. Cái dáng lầm lì, chậm chạp thường ngày bỗng dưng biến mất. Cả bầy hăng máu phóng như bay. Bụi cuốn mù mịt. Các chàng man-gát phải rất gan dạ và khéo léo điều khiển cho voi về trúng đích. Những chú voi chạy đến đích trước tiên đều ghìm đà, huơ vòi chào những khán giả đã nhiệt liệt cổ vũ, khen ngợi chúng.
Đàn voi trong cuộc đua được miêu tả như thế nào?
Hăng máu phóng như bay.
Ghìm đà, huơ vòi chào khán giả.
Đi lầm lì, chậm chạp.
Gan dạ và khéo léo.
A
Trường đua voi là một đường rộng phẳng lì, dài hơn năm cây số. Chiêng khua trống đánh vang lừng. Voi đua từng tốp mười con dàn hàng ngang ở nơi xuất phát. Trên mỗi con voi, ngồi hai chàng man-gát. Người ngồi phía cổ có vuông vải đỏ thắm ở ngực. Người ngồi trên lưng mặc áo xanh da trời. Trông họ rất bình tĩnh vì họ thường là những người phi ngựa giỏi nhất. Đến giờ xuất phát, chiêng trống nổi lên thì cả mười con voi lao đầu chạy. Cái dáng lầm lì, chậm chạp thường ngày bỗng dưng biến mất. Cả bầy hăng máu phóng như bay. Bụi cuốn mù mịt. Các chàng man-gát phải rất gan dạ và khéo léo điều khiển cho voi về trúng đích. Những chú voi chạy đến đích trước tiên đều ghìm đà, huơ vòi chào những khán giả đã nhiệt liệt cổ vũ, khen ngợi chúng.
Các chàng man-gat trong cuộc đua được miêu tả như thế nào?
Lầm lì và chậm chạp.
Ăn mặc đẹp đẽ và bình tĩnh.
Gan dạ và khéo léo.
Nhiệt liệt cổ vũ và khen ngợi.
C
Trường đua voi là một đường rộng phẳng lì, dài hơn năm cây số. Chiêng khua trống đánh vang lừng. Voi đua từng tốp mười con dàn hàng ngang ở nơi xuất phát. Trên mỗi con voi, ngồi hai chàng man-gát. Người ngồi phía cổ có vuông vải đỏ thắm ở ngực. Người ngồi trên lưng mặc áo xanh da trời. Trông họ rất bình tĩnh vì họ thường là những người phi ngựa giỏi nhất. Đến giờ xuất phát, chiêng trống nổi lên thì cả mười con voi lao đầu chạy. Cái dáng lầm lì, chậm chạp thường ngày bỗng dưng biến mất. Cả bầy hăng máu phóng như bay. Bụi cuốn mù mịt. Các chàng man-gát phải rất gan dạ và khéo léo điều khiển cho voi về trúng đích. Những chú voi chạy đến đích trước tiên đều ghìm đà, huơ vòi chào những khán giả đã nhiệt liệt cổ vũ, khen ngợi chúng.
Tại sao các chàng man-gát lại có dáng vẻ bình tĩnh trước khi tham gia cuộc đua?
Vì họ đã có sự chuẩn bị kĩ lưỡng.
Vì họ là những người giỏi nhất và đã có sự chuẩn bị kĩ lưỡng.
Vì họ là những người (phi ngựa) giỏi nhất.
Tất cả các ý trên.
B
Trường đua voi là một đường rộng phẳng lì, dài hơn năm cây số. Chiêng khua trống đánh vang lừng. Voi đua từng tốp mười con dàn hàng ngang ở nơi xuất phát. Trên mỗi con voi, ngồi hai chàng man-gát. Người ngồi phía cổ có vuông vải đỏ thắm ở ngực. Người ngồi trên lưng mặc áo xanh da trời. Trông họ rất bình tĩnh vì họ thường là những người phi ngựa giỏi nhất. Đến giờ xuất phát, chiêng trống nổi lên thì cả mười con voi lao đầu chạy. Cái dáng lầm lì, chậm chạp thường ngày bỗng dưng biến mất. Cả bầy hăng máu phóng như bay. Bụi cuốn mù mịt. Các chàng man-gát phải rất gan dạ và khéo léo điều khiển cho voi về trúng đích. Những chú voi chạy đến đích trước tiên đều ghìm đà, huơ vòi chào những khán giả đã nhiệt liệt cổ vũ, khen ngợi chúng.
Những chú voi đua có cử chỉ ngộ nghĩnh và dễ thương nào?
Cả mười con đều lao đầu chạy khi có hiệu lệnh.
Cái dáng vẻ lầm lì chậm chạp thay bằng sự hăng máu.
Huơ vòi chào khán giả đã nhiệt liệt cổ vũ, khen ngợi chúng.
Cả bầy hăng máu phóng như bay, bụi cuốn mù mịt.
C
Trên cây ngái sau vườn nhà tôi, vợ chồng Chích nuôi bốn chú Chích con và hai con Bồ Nâu. Ngày ngày, vợ chồng Chích như con thoi tha mồi về mớm cho lũ con. Lũ chim non lớn dần. Bốn chú chim Chích tập bay chuyền trên cây ngái, quấn quýt theo sau cha mẹ. Hai con Bồ Nâu đứng bên mép tổ, đập cánh rỉa lông, nhìn ra phía chân trời xa tít. Rồi đột nhiên chúng bay vọt lên, phóng đi giữa nắng. Vợ chồng Chích hoảng hốt bay theo hai con Bồ Nâu một quãng, rồi thảng thốt quay về. Dưới bóng lá cây ngái xanh mát, cả nhà Chích ríu ran.
Nhà Chích sống ở đâu?
Trên cây bưởi.
Trong nhà chim sau vườn.
Trên cây ngái.
Trên cây chanh.
C
Trên cây ngái sau vườn nhà tôi, vợ chồng Chích nuôi bốn chú Chích con và hai con Bồ Nâu. Ngày ngày, vợ chồng Chích như con thoi tha mồi về mớm cho lũ con. Lũ chim non lớn dần. Bốn chú chim Chích tập bay chuyền trên cây ngái, quấn quýt theo sau cha mẹ. Hai con Bồ Nâu đứng bên mép tổ, đập cánh rỉa lông, nhìn ra phía chân trời xa tít. Rồi đột nhiên chúng bay vọt lên, phóng đi giữa nắng. Vợ chồng Chích hoảng hốt bay theo hai con Bồ Nâu một quãng, rồi thảng thốt quay về. Dưới bóng lá cây ngái xanh mát, cả nhà Chích ríu ran.
Vợ chồng Chích nuôi những con vật nào?
Sáu chú Chích con.
Bốn chú Chích con.
Bốn chú Chích con và hai con Bồ Nâu.
Sáu chú Chích chim con.
C
Trên cây ngái sau vườn nhà tôi, vợ chồng Chích nuôi bốn chú Chích con và hai con Bồ Nâu. Ngày ngày, vợ chồng Chích như con thoi tha mồi về mớm cho lũ con. Lũ chim non lớn dần. Bốn chú chim Chích tập bay chuyền trên cây ngái, quấn quýt theo sau cha mẹ. Hai con Bồ Nâu đứng bên mép tổ, đập cánh rỉa lông, nhìn ra phía chân trời xa tít. Rồi đột nhiên chúng bay vọt lên, phóng đi giữa nắng. Vợ chồng Chích hoảng hốt bay theo hai con Bồ Nâu một quãng, rồi thảng thốt quay về. Dưới bóng lá cây ngái xanh mát, cả nhà Chích ríu ran.
Tại sao vợ chồng Chích hoảng hốt?
Bốn chú Chích con tập chuyền cành.
Hai con Bồ Nâu vụt bay đi mất.
Chúng kiếm không đủ thức ăn cho các con.
Chú chim Chích đi lạc.
B
Trên cây ngái sau vườn nhà tôi, vợ chồng Chích nuôi bốn chú Chích con và hai con Bồ Nâu. Ngày ngày, vợ chồng Chích như con thoi tha mồi về mớm cho lũ con. Lũ chim non lớn dần. Bốn chú chim Chích tập bay chuyền trên cây ngái, quấn quýt theo sau cha mẹ. Hai con Bồ Nâu đứng bên mép tổ, đập cánh rỉa lông, nhìn ra phía chân trời xa tít. Rồi đột nhiên chúng bay vọt lên, phóng đi giữa nắng. Vợ chồng Chích hoảng hốt bay theo hai con Bồ Nâu một quãng, rồi thảng thốt quay về. Dưới bóng lá cây ngái xanh mát, cả nhà Chích ríu ran.
Cả nhà Chích ríu ran ở nơi nào?
Cây dừa.
Dưới bóng cây ngáy xanh mát.
Bầu trời.
Bãi biển.
B
Trên cây ngái sau vườn nhà tôi, vợ chồng Chích nuôi bốn chú Chích con và hai con Bồ Nâu. Ngày ngày, vợ chồng Chích như con thoi tha mồi về mớm cho lũ con. Lũ chim non lớn dần. Bốn chú chim Chích tập bay chuyền trên cây ngái, quấn quýt theo sau cha mẹ. Hai con Bồ Nâu đứng bên mép tổ, đập cánh rỉa lông, nhìn ra phía chân trời xa tít. Rồi đột nhiên chúng bay vọt lên, phóng đi giữa nắng. Vợ chồng Chích hoảng hốt bay theo hai con Bồ Nâu một quãng, rồi thảng thốt quay về. Dưới bóng lá cây ngái xanh mát, cả nhà Chích ríu ran.
Ngoài chim Chích, bài văn còn nhắc đến loài chim nào?
Chim Bồ Nâu.
Chim Công.
Chim Trĩ.
Chim Hoạ mi.
A
1. Ngày xưa, có một nông dân người Chăm rất siêng năng. Về già, ông để dành được một hũ bạc. Tuy vậy, ông rất buồn vì cậu con trai lười biếng. Một hôm, ông bảo con: - Cha muốn trước khi nhắm mắt thấy con kiếm nổi bát cơm. Con hãy đi làm và mang tiền về đây! 2. Bà mẹ sợ con vất vả, liền dúi cho một ít tiền. Anh này cầm tiền đi chơi mấy hôm, khi chỉ còn vài đồng mới trở về đưa cho cha. Người cha vứt ngay nắm tiền xuống ao. Thấy con vẫn thản nhiên, ông nghiêm giọng: - Đây không phải tiền con làm ra . 3. Người con lại ra đi. Bà mẹ chỉ dám cho ít tiền ăn đường. Ăn hết tiền, anh ta đành tìm vô một làng xin xay thóc thuê. Xay một thúng thóc được trả công hai bát gạo, anh chỉ dám ăn một bát. Suốt ba tháng, dành dụm được chín mươi bát gạo, anh bán lấy tiền. 4. Hôm đó, ông lo đang ngồi sưởi lửa thì con đem tiền về. Ông liền ném luôn mấy đồng vào bếp lửa. Người con vội thọc tay vào lửa lấy ra. Ông lo cười chảy nước mắt : - Bây giờ cha tin tiền đó chính tay con làm ra. Có làm lụng vất vả, người ta mới biết quý đồng tiền. 5. Ông đào hũ bạc lên, đưa cho con và bảo : - Nếu con lười biếng, dù cha cho một trăm hũ bạc cũng không đủ. Hũ bạc tiêu không bao giờ hết chính là hai
Ông lão trước khi nhắm mắt muốn con trai mình trở thành người như thế nào?
Muốn con trai trở thành người có nhiều hũ bạc.
Muốn con trai trở thành người tự mình kiếm nổi bát cơm.
Muốn con trai trở thành người ăn nhiều bát cơm.
Muốn con trai trở thành người kiếm nhiều tiền nhất.
B
1. Ngày xưa, có một nông dân người Chăm rất siêng năng. Về già, ông để dành được một hũ bạc. Tuy vậy, ông rất buồn vì cậu con trai lười biếng. Một hôm, ông bảo con: - Cha muốn trước khi nhắm mắt thấy con kiếm nổi bát cơm. Con hãy đi làm và mang tiền về đây! 2. Bà mẹ sợ con vất vả, liền dúi cho một ít tiền. Anh này cầm tiền đi chơi mấy hôm, khi chỉ còn vài đồng mới trở về đưa cho cha. Người cha vứt ngay nắm tiền xuống ao. Thấy con vẫn thản nhiên, ông nghiêm giọng: - Đây không phải tiền con làm ra . 3. Người con lại ra đi. Bà mẹ chỉ dám cho ít tiền ăn đường. Ăn hết tiền, anh ta đành tìm vô một làng xin xay thóc thuê. Xay một thúng thóc được trả công hai bát gạo, anh chỉ dám ăn một bát. Suốt ba tháng, dành dụm được chín mươi bát gạo, anh bán lấy tiền. 4. Hôm đó, ông lo đang ngồi sưởi lửa thì con đem tiền về. Ông liền ném luôn mấy đồng vào bếp lửa. Người con vội thọc tay vào lửa lấy ra. Ông lo cười chảy nước mắt : - Bây giờ cha tin tiền đó chính tay con làm ra. Có làm lụng vất vả, người ta mới biết quý đồng tiền. 5. Ông đào hũ bạc lên, đưa cho con và bảo : - Nếu con lười biếng, dù cha cho một trăm hũ bạc cũng không đủ. Hũ bạc tiêu không bao giờ hết chính là hai
Người con đã vất vả làm lụng và tiết kiệm như thế nào để đem tiền về cho cha?
Anh này cầm tiền của mẹ đưa đi chơi mấy hôm, khi chỉ còn vài đồng mới trở về đưa cho cha.
Đi buôn bán, được bao nhiêu tiền thì để dành không dám ăn uống gì.
Xay thóc thuê, xay một thúng thóc trả công 2 bát gạo. Anh chỉ dám ăn một bát. Suốt ba tháng dành dụm chín mươi bát gạo, anh bán lấy tiền.
Đi buôn bán, được bao nhiêu tiền thì tiết kiệm.
C
1. Ngày xưa, có một nông dân người Chăm rất siêng năng. Về già, ông để dành được một hũ bạc. Tuy vậy, ông rất buồn vì cậu con trai lười biếng. Một hôm, ông bảo con: - Cha muốn trước khi nhắm mắt thấy con kiếm nổi bát cơm. Con hãy đi làm và mang tiền về đây! 2. Bà mẹ sợ con vất vả, liền dúi cho một ít tiền. Anh này cầm tiền đi chơi mấy hôm, khi chỉ còn vài đồng mới trở về đưa cho cha. Người cha vứt ngay nắm tiền xuống ao. Thấy con vẫn thản nhiên, ông nghiêm giọng: - Đây không phải tiền con làm ra . 3. Người con lại ra đi. Bà mẹ chỉ dám cho ít tiền ăn đường. Ăn hết tiền, anh ta đành tìm vô một làng xin xay thóc thuê. Xay một thúng thóc được trả công hai bát gạo, anh chỉ dám ăn một bát. Suốt ba tháng, dành dụm được chín mươi bát gạo, anh bán lấy tiền. 4. Hôm đó, ông lo đang ngồi sưởi lửa thì con đem tiền về. Ông liền ném luôn mấy đồng vào bếp lửa. Người con vội thọc tay vào lửa lấy ra. Ông lo cười chảy nước mắt : - Bây giờ cha tin tiền đó chính tay con làm ra. Có làm lụng vất vả, người ta mới biết quý đồng tiền. 5. Ông đào hũ bạc lên, đưa cho con và bảo : - Nếu con lười biếng, dù cha cho một trăm hũ bạc cũng không đủ. Hũ bạc tiêu không bao giờ hết chính là hai
Khi ông lão vứt tiền vào bếp lửa, người con đã làm gì ? Vì sao?
Người con vội thọc tay vào lửa lấy tiền ra vì tiền đó do anh vất vả kiếm được.
Người con vẫn thản nhiên như không vì tiền đó không phải do anh làm ra.
Người con vội thọc tay vào lửa lấy tiền ra vì đó là tiền mẹ anh cho.
Người con lấy tiền vì đó là tiền anh lấy từ cha của anh.
A
1. Ngày xưa, có một nông dân người Chăm rất siêng năng. Về già, ông để dành được một hũ bạc. Tuy vậy, ông rất buồn vì cậu con trai lười biếng. Một hôm, ông bảo con: - Cha muốn trước khi nhắm mắt thấy con kiếm nổi bát cơm. Con hãy đi làm và mang tiền về đây! 2. Bà mẹ sợ con vất vả, liền dúi cho một ít tiền. Anh này cầm tiền đi chơi mấy hôm, khi chỉ còn vài đồng mới trở về đưa cho cha. Người cha vứt ngay nắm tiền xuống ao. Thấy con vẫn thản nhiên, ông nghiêm giọng: - Đây không phải tiền con làm ra . 3. Người con lại ra đi. Bà mẹ chỉ dám cho ít tiền ăn đường. Ăn hết tiền, anh ta đành tìm vô một làng xin xay thóc thuê. Xay một thúng thóc được trả công hai bát gạo, anh chỉ dám ăn một bát. Suốt ba tháng, dành dụm được chín mươi bát gạo, anh bán lấy tiền. 4. Hôm đó, ông lo đang ngồi sưởi lửa thì con đem tiền về. Ông liền ném luôn mấy đồng vào bếp lửa. Người con vội thọc tay vào lửa lấy ra. Ông lo cười chảy nước mắt : - Bây giờ cha tin tiền đó chính tay con làm ra. Có làm lụng vất vả, người ta mới biết quý đồng tiền. 5. Ông đào hũ bạc lên, đưa cho con và bảo : - Nếu con lười biếng, dù cha cho một trăm hũ bạc cũng không đủ. Hũ bạc tiêu không bao giờ hết chính là hai
Ý nào dưới đây nói lên ý nghĩa của truyện?
Có làm lụng vất vả, người ta mới biết quý đồng tiền.
Hũ bạc tiêu không bao giờ hết chính là hai bàn tay con người.
Có làm mới biết quý đồng tiền và con người có thể tạo ra tiền.
Con người quý đồng tiền do nhu cầu cần thiết.
C
1. Ngày xưa, có một nông dân người Chăm rất siêng năng. Về già, ông để dành được một hũ bạc. Tuy vậy, ông rất buồn vì cậu con trai lười biếng. Một hôm, ông bảo con: - Cha muốn trước khi nhắm mắt thấy con kiếm nổi bát cơm. Con hãy đi làm và mang tiền về đây! 2. Bà mẹ sợ con vất vả, liền dúi cho một ít tiền. Anh này cầm tiền đi chơi mấy hôm, khi chỉ còn vài đồng mới trở về đưa cho cha. Người cha vứt ngay nắm tiền xuống ao. Thấy con vẫn thản nhiên, ông nghiêm giọng: - Đây không phải tiền con làm ra . 3. Người con lại ra đi. Bà mẹ chỉ dám cho ít tiền ăn đường. Ăn hết tiền, anh ta đành tìm vô một làng xin xay thóc thuê. Xay một thúng thóc được trả công hai bát gạo, anh chỉ dám ăn một bát. Suốt ba tháng, dành dụm được chín mươi bát gạo, anh bán lấy tiền. 4. Hôm đó, ông lo đang ngồi sưởi lửa thì con đem tiền về. Ông liền ném luôn mấy đồng vào bếp lửa. Người con vội thọc tay vào lửa lấy ra. Ông lo cười chảy nước mắt : - Bây giờ cha tin tiền đó chính tay con làm ra. Có làm lụng vất vả, người ta mới biết quý đồng tiền. 5. Ông đào hũ bạc lên, đưa cho con và bảo : - Nếu con lười biếng, dù cha cho một trăm hũ bạc cũng không đủ. Hũ bạc tiêu không bao giờ hết chính là hai
Người ta làm lụng như thế nào thì người ta mới biết quý đồng tiền?
Vất vả.
Đồng tiền.
Làm lụng.
Kinh doanh.
C
Ơi chích chòe ơi! Chim đừng hót nữa, Bà em ốm rồi, Lặng cho bà ngủ. Bàn tay bé nhỏ Vẫy quạt thật đều Ngấn nắng thiu thiu Đậu trên tường trắng. Căn nhà đã vắng Cốc chén nằm im. Đôi mắt lim dim Ngủ ngon bà nhé. Hoa cam, hoa khế Chín lặng trong vườn, Bà mơ tay cháu Quạt đầy hương thơm.
Bạn nhỏ đang làm gì?
Ngắm cây cối trong vườn.
Nói chuyện với chim chích chòe.
Dọn dẹp nhà cửa.
Quạt cho bà ngủ.
D
Ơi chích chòe ơi! Chim đừng hót nữa, Bà em ốm rồi, Lặng cho bà ngủ. Bàn tay bé nhỏ Vẫy quạt thật đều Ngấn nắng thiu thiu Đậu trên tường trắng. Căn nhà đã vắng Cốc chén nằm im. Đôi mắt lim dim Ngủ ngon bà nhé. Hoa cam, hoa khế Chín lặng trong vườn, Bà mơ tay cháu Quạt đầy hương thơm.
Bà của bạn nhỏ bị gì?
Bà bị ốm.
Bà đang ăn trầu.
Bà buồn ngủ.
Bà đang buồn.
A
Ơi chích chòe ơi! Chim đừng hót nữa, Bà em ốm rồi, Lặng cho bà ngủ. Bàn tay bé nhỏ Vẫy quạt thật đều Ngấn nắng thiu thiu Đậu trên tường trắng. Căn nhà đã vắng Cốc chén nằm im. Đôi mắt lim dim Ngủ ngon bà nhé. Hoa cam, hoa khế Chín lặng trong vườn, Bà mơ tay cháu Quạt đầy hương thơm.
Cảnh vật trong nhà ở trạng thái ra sao?
Vắng vẻ, im lìm.
Mới mẻ, sinh động.
Buồn bã, hiu quạnh.
Vui tươi, rộn rã.
A
Ơi chích chòe ơi! Chim đừng hót nữa, Bà em ốm rồi, Lặng cho bà ngủ. Bàn tay bé nhỏ Vẫy quạt thật đều Ngấn nắng thiu thiu Đậu trên tường trắng. Căn nhà đã vắng Cốc chén nằm im. Đôi mắt lim dim Ngủ ngon bà nhé. Hoa cam, hoa khế Chín lặng trong vườn, Bà mơ tay cháu Quạt đầy hương thơm.
Cảnh vật ngoài vườn trong trạng thái ra sao?
Không có người chăm.
Chín lặng trong vườn.
Xôn xao, rộn rã.
Buồn héo ủ rũ.
B
Ơi chích chòe ơi! Chim đừng hót nữa, Bà em ốm rồi, Lặng cho bà ngủ. Bàn tay bé nhỏ Vẫy quạt thật đều Ngấn nắng thiu thiu Đậu trên tường trắng. Căn nhà đã vắng Cốc chén nằm im. Đôi mắt lim dim Ngủ ngon bà nhé. Hoa cam, hoa khế Chín lặng trong vườn, Bà mơ tay cháu Quạt đầy hương thơm.
Bà của bạn nhỏ mơ thấy thứ gì?
Bà mơ tay cháu, quạt đầy hương thơm.
Bà mơ hai bà cháu, có đầy quả thơm.
Bà mơ vườn nhà, chứa đầy quả thơm.
Bà mơ trong nhà, chứa đầy hoa thơm.
A
Ơi chích chòe ơi! Chim đừng hót nữa, Bà em ốm rồi, Lặng cho bà ngủ. Bàn tay bé nhỏ Vẫy quạt thật đều Ngấn nắng thiu thiu Đậu trên tường trắng. Căn nhà đã vắng Cốc chén nằm im. Đôi mắt lim dim Ngủ ngon bà nhé. Hoa cam, hoa khế Chín lặng trong vườn, Bà mơ tay cháu Quạt đầy hương thơm.
Bài thơ này có nội dung gì?
Ca ngợi tình cảm gắn bó của hai bà cháu.
Ca ngợi bạn nhỏ biết chăm sóc ngôi nhà và vườn cây.
Ca ngợi bạn nhỏ biết yêu thương, hiếu thảo với bà.
Ca ngợi bạn nhỏ biết quạt cho bà khi bà bị ốm.
C
1. Ê-đi-xơn là một nhà bác học nổi tiếng người Mĩ. Khi ông chế ra đèn điện, người từ khắp nơi ùn ùn kéo đến xem. Có một bà cụ phải đi bộ mười hai cây số. Đến nơi, cụ mỏi quá, ngồi xuống vệ đường bóp chân, đấm lưng thùm thụp. 2. Lúc ấy, Ê-đi-xơn chợt đi qua. Ông dừng lại hỏi chuyện. Bà cụ nói: - Già đã phải đi bộ gần ba giờ đồng hồ để được nhìn tận mắt cái đèn điện. Giá ông Ê-đi-xơn làm được cái xe chở người già đi nơi này nơi khác có phải may mắn hơn cho già không? - Thưa cụ, tôi tưởng vẫn có xe ngựa chở khách chứ? - Đi xe ấy thì ốm mất. Già chỉ muốn có một thứ xe không cần ngựa kéo mà lại thật êm. 3. Nghe bà cụ nói vậy, bỗng một ý nghĩ lóe lên trong đầu Ê-đi-xơn. Ông reo lên: - Cụ ơi! Tôi là Ê-đi-xơn đây. Nhờ cụ mà tôi nảy ra ý định làm một cái xe chạy bằng dòng điện đấy. Bà cụ vô cùng ngạc nhiên khi thấy nhà bác học cũng bình thường như mọi người khác. Lúc chia tay, Ê-đi-xơn bảo: - Tôi sẽ mời cụ đi chuyến xe điện đầu tiên. - Thế nào già cũng đến... Nhưng ông phải làm nhanh lên nhé, kẻo tuổi già chẳng còn được bao lâu đâu. 4. Từ lần gặp bà cụ, Ê-đi-xơn miệt mài với công việc chế tạo xe điện và đã thành công. Hôm chạy thử xe điện, người ta xếp hàng dài để mua vé. Ê-đi-xơn mời bà cụ dạo nọ đi chuyến đầu tiên. Đến ga, ông bảo: - Tôi giữ đúng lời hứa với cụ rồi nhé! Bà cụ cười móm mém: - Cảm ơn ông. Giờ thì già có thể đi chơi cả ngày với chiếc xe này rồi!
Thông tin nào chính xác về Ê-đi-xơn?
Ê-đi-xơn là nhà bác học nổi tiếng người Mĩ.
Ông là người Hy Lạp, là nhà bác học vĩ đại thời cổ đại.
Ông khám phá ra thuyết tương đối và nghiên cứu thuyết vạn vật.
Ê-đi-xơn là nhà bác học nổi tiếng người Anh.
A
1. Ê-đi-xơn là một nhà bác học nổi tiếng người Mĩ. Khi ông chế ra đèn điện, người từ khắp nơi ùn ùn kéo đến xem. Có một bà cụ phải đi bộ mười hai cây số. Đến nơi, cụ mỏi quá, ngồi xuống vệ đường bóp chân, đấm lưng thùm thụp. 2. Lúc ấy, Ê-đi-xơn chợt đi qua. Ông dừng lại hỏi chuyện. Bà cụ nói: - Già đã phải đi bộ gần ba giờ đồng hồ để được nhìn tận mắt cái đèn điện. Giá ông Ê-đi-xơn làm được cái xe chở người già đi nơi này nơi khác có phải may mắn hơn cho già không? - Thưa cụ, tôi tưởng vẫn có xe ngựa chở khách chứ? - Đi xe ấy thì ốm mất. Già chỉ muốn có một thứ xe không cần ngựa kéo mà lại thật êm. 3. Nghe bà cụ nói vậy, bỗng một ý nghĩ lóe lên trong đầu Ê-đi-xơn. Ông reo lên: - Cụ ơi! Tôi là Ê-đi-xơn đây. Nhờ cụ mà tôi nảy ra ý định làm một cái xe chạy bằng dòng điện đấy. Bà cụ vô cùng ngạc nhiên khi thấy nhà bác học cũng bình thường như mọi người khác. Lúc chia tay, Ê-đi-xơn bảo: - Tôi sẽ mời cụ đi chuyến xe điện đầu tiên. - Thế nào già cũng đến... Nhưng ông phải làm nhanh lên nhé, kẻo tuổi già chẳng còn được bao lâu đâu. 4. Từ lần gặp bà cụ, Ê-đi-xơn miệt mài với công việc chế tạo xe điện và đã thành công. Hôm chạy thử xe điện, người ta xếp hàng dài để mua vé. Ê-đi-xơn mời bà cụ dạo nọ đi chuyến đầu tiên. Đến ga, ông bảo: - Tôi giữ đúng lời hứa với cụ rồi nhé! Bà cụ cười móm mém: - Cảm ơn ông. Giờ thì già có thể đi chơi cả ngày với chiếc xe này rồi!
Tại sao bà cụ không đi chiếc xe ngựa chở khách mà lại đi bộ?
Vì chiếc xe ngựa đi lại rất tốn kém, đắt đỏ.
Vì chiếc xe ngựa đi lại vòng vèo, tốn thời gian.
Vì chiếc xe ngựa rất xóc, làm cụ đau lưng, phát ốm.
Tất cả các ý trên.
C
1. Ê-đi-xơn là một nhà bác học nổi tiếng người Mĩ. Khi ông chế ra đèn điện, người từ khắp nơi ùn ùn kéo đến xem. Có một bà cụ phải đi bộ mười hai cây số. Đến nơi, cụ mỏi quá, ngồi xuống vệ đường bóp chân, đấm lưng thùm thụp. 2. Lúc ấy, Ê-đi-xơn chợt đi qua. Ông dừng lại hỏi chuyện. Bà cụ nói: - Già đã phải đi bộ gần ba giờ đồng hồ để được nhìn tận mắt cái đèn điện. Giá ông Ê-đi-xơn làm được cái xe chở người già đi nơi này nơi khác có phải may mắn hơn cho già không? - Thưa cụ, tôi tưởng vẫn có xe ngựa chở khách chứ? - Đi xe ấy thì ốm mất. Già chỉ muốn có một thứ xe không cần ngựa kéo mà lại thật êm. 3. Nghe bà cụ nói vậy, bỗng một ý nghĩ lóe lên trong đầu Ê-đi-xơn. Ông reo lên: - Cụ ơi! Tôi là Ê-đi-xơn đây. Nhờ cụ mà tôi nảy ra ý định làm một cái xe chạy bằng dòng điện đấy. Bà cụ vô cùng ngạc nhiên khi thấy nhà bác học cũng bình thường như mọi người khác. Lúc chia tay, Ê-đi-xơn bảo: - Tôi sẽ mời cụ đi chuyến xe điện đầu tiên. - Thế nào già cũng đến... Nhưng ông phải làm nhanh lên nhé, kẻo tuổi già chẳng còn được bao lâu đâu. 4. Từ lần gặp bà cụ, Ê-đi-xơn miệt mài với công việc chế tạo xe điện và đã thành công. Hôm chạy thử xe điện, người ta xếp hàng dài để mua vé. Ê-đi-xơn mời bà cụ dạo nọ đi chuyến đầu tiên. Đến ga, ông bảo: - Tôi giữ đúng lời hứa với cụ rồi nhé! Bà cụ cười móm mém: - Cảm ơn ông. Giờ thì già có thể đi chơi cả ngày với chiếc xe này rồi!
Bà cụ mong muốn có chiếc xe như thế nào để thay thế xe ngựa kéo?
Bà cụ mong muốn có chiếc xe chạy bằng người kéo, đi lại thật êm.
Bà cụ mong muốn có chiếc xe chạy bằng điện, đi lại thật êm.
Bà cụ mong có chiếc xe không cần ngựa kéo, mà đi lại thật êm.
Tất cả các ý trên.
C
1. Ê-đi-xơn là một nhà bác học nổi tiếng người Mĩ. Khi ông chế ra đèn điện, người từ khắp nơi ùn ùn kéo đến xem. Có một bà cụ phải đi bộ mười hai cây số. Đến nơi, cụ mỏi quá, ngồi xuống vệ đường bóp chân, đấm lưng thùm thụp. 2. Lúc ấy, Ê-đi-xơn chợt đi qua. Ông dừng lại hỏi chuyện. Bà cụ nói: - Già đã phải đi bộ gần ba giờ đồng hồ để được nhìn tận mắt cái đèn điện. Giá ông Ê-đi-xơn làm được cái xe chở người già đi nơi này nơi khác có phải may mắn hơn cho già không? - Thưa cụ, tôi tưởng vẫn có xe ngựa chở khách chứ? - Đi xe ấy thì ốm mất. Già chỉ muốn có một thứ xe không cần ngựa kéo mà lại thật êm. 3. Nghe bà cụ nói vậy, bỗng một ý nghĩ lóe lên trong đầu Ê-đi-xơn. Ông reo lên: - Cụ ơi! Tôi là Ê-đi-xơn đây. Nhờ cụ mà tôi nảy ra ý định làm một cái xe chạy bằng dòng điện đấy. Bà cụ vô cùng ngạc nhiên khi thấy nhà bác học cũng bình thường như mọi người khác. Lúc chia tay, Ê-đi-xơn bảo: - Tôi sẽ mời cụ đi chuyến xe điện đầu tiên. - Thế nào già cũng đến... Nhưng ông phải làm nhanh lên nhé, kẻo tuổi già chẳng còn được bao lâu đâu. 4. Từ lần gặp bà cụ, Ê-đi-xơn miệt mài với công việc chế tạo xe điện và đã thành công. Hôm chạy thử xe điện, người ta xếp hàng dài để mua vé. Ê-đi-xơn mời bà cụ dạo nọ đi chuyến đầu tiên. Đến ga, ông bảo: - Tôi giữ đúng lời hứa với cụ rồi nhé! Bà cụ cười móm mém: - Cảm ơn ông. Giờ thì già có thể đi chơi cả ngày với chiếc xe này rồi!
Điều ước của bà cụ đã khiến Ê-đi-xơn nảy ra ý tưởng gì?
Làm một cái xe chạy bằng xăng dầu.
Làm một cái xe chạy bằng dòng điện.
Làm một cái xe chạy bằng năng lượng mặt trời.
Làm một cái xe chạy bằng khí đốt.
B
1. Ê-đi-xơn là một nhà bác học nổi tiếng người Mĩ. Khi ông chế ra đèn điện, người từ khắp nơi ùn ùn kéo đến xem. Có một bà cụ phải đi bộ mười hai cây số. Đến nơi, cụ mỏi quá, ngồi xuống vệ đường bóp chân, đấm lưng thùm thụp. 2. Lúc ấy, Ê-đi-xơn chợt đi qua. Ông dừng lại hỏi chuyện. Bà cụ nói: - Già đã phải đi bộ gần ba giờ đồng hồ để được nhìn tận mắt cái đèn điện. Giá ông Ê-đi-xơn làm được cái xe chở người già đi nơi này nơi khác có phải may mắn hơn cho già không? - Thưa cụ, tôi tưởng vẫn có xe ngựa chở khách chứ? - Đi xe ấy thì ốm mất. Già chỉ muốn có một thứ xe không cần ngựa kéo mà lại thật êm. 3. Nghe bà cụ nói vậy, bỗng một ý nghĩ lóe lên trong đầu Ê-đi-xơn. Ông reo lên: - Cụ ơi! Tôi là Ê-đi-xơn đây. Nhờ cụ mà tôi nảy ra ý định làm một cái xe chạy bằng dòng điện đấy. Bà cụ vô cùng ngạc nhiên khi thấy nhà bác học cũng bình thường như mọi người khác. Lúc chia tay, Ê-đi-xơn bảo: - Tôi sẽ mời cụ đi chuyến xe điện đầu tiên. - Thế nào già cũng đến... Nhưng ông phải làm nhanh lên nhé, kẻo tuổi già chẳng còn được bao lâu đâu. 4. Từ lần gặp bà cụ, Ê-đi-xơn miệt mài với công việc chế tạo xe điện và đã thành công. Hôm chạy thử xe điện, người ta xếp hàng dài để mua vé. Ê-đi-xơn mời bà cụ dạo nọ đi chuyến đầu tiên. Đến ga, ông bảo: - Tôi giữ đúng lời hứa với cụ rồi nhé! Bà cụ cười móm mém: - Cảm ơn ông. Giờ thì già có thể đi chơi cả ngày với chiếc xe này rồi!
Ê-đi-xơn đã hứa với bà cụ điều gì?
Ê-đi-xơn sẽ mời cụ đi chuyến xe điện đầu tiên.
Ê-đi-xơn hứa sẽ tặng cụ chiếc xe điện đầu tiên.
Ê-đi-xơn sẽ phát minh ra chiếc ti vi để cụ đỡ phải đi lại.
Ê-đi-xơn hứa tặng cụ già chiếc bóng đèn điện để cụ dùng.
A
1. Ê-đi-xơn là một nhà bác học nổi tiếng người Mĩ. Khi ông chế ra đèn điện, người từ khắp nơi ùn ùn kéo đến xem. Có một bà cụ phải đi bộ mười hai cây số. Đến nơi, cụ mỏi quá, ngồi xuống vệ đường bóp chân, đấm lưng thùm thụp. 2. Lúc ấy, Ê-đi-xơn chợt đi qua. Ông dừng lại hỏi chuyện. Bà cụ nói: - Già đã phải đi bộ gần ba giờ đồng hồ để được nhìn tận mắt cái đèn điện. Giá ông Ê-đi-xơn làm được cái xe chở người già đi nơi này nơi khác có phải may mắn hơn cho già không? - Thưa cụ, tôi tưởng vẫn có xe ngựa chở khách chứ? - Đi xe ấy thì ốm mất. Già chỉ muốn có một thứ xe không cần ngựa kéo mà lại thật êm. 3. Nghe bà cụ nói vậy, bỗng một ý nghĩ lóe lên trong đầu Ê-đi-xơn. Ông reo lên: - Cụ ơi! Tôi là Ê-đi-xơn đây. Nhờ cụ mà tôi nảy ra ý định làm một cái xe chạy bằng dòng điện đấy. Bà cụ vô cùng ngạc nhiên khi thấy nhà bác học cũng bình thường như mọi người khác. Lúc chia tay, Ê-đi-xơn bảo: - Tôi sẽ mời cụ đi chuyến xe điện đầu tiên. - Thế nào già cũng đến... Nhưng ông phải làm nhanh lên nhé, kẻo tuổi già chẳng còn được bao lâu đâu. 4. Từ lần gặp bà cụ, Ê-đi-xơn miệt mài với công việc chế tạo xe điện và đã thành công. Hôm chạy thử xe điện, người ta xếp hàng dài để mua vé. Ê-đi-xơn mời bà cụ dạo nọ đi chuyến đầu tiên. Đến ga, ông bảo: - Tôi giữ đúng lời hứa với cụ rồi nhé! Bà cụ cười móm mém: - Cảm ơn ông. Giờ thì già có thể đi chơi cả ngày với chiếc xe này rồi!
Nhờ đâu mà điều ước của bà cụ trở thành hiện thực?
Nhờ sự hợp tác của Ê-đi-xơn với các nhà khoa học khác.
Nhờ lời ước nguyện của bà cụ đã linh ứng.
Nhờ trí tuệ, sự sáng tạo và lòng kiên trì của nhà khoa học Ê-đi-xơn.
Tất cả các ý trên.
C
1. Ê-đi-xơn là một nhà bác học nổi tiếng người Mĩ. Khi ông chế ra đèn điện, người từ khắp nơi ùn ùn kéo đến xem. Có một bà cụ phải đi bộ mười hai cây số. Đến nơi, cụ mỏi quá, ngồi xuống vệ đường bóp chân, đấm lưng thùm thụp. 2. Lúc ấy, Ê-đi-xơn chợt đi qua. Ông dừng lại hỏi chuyện. Bà cụ nói: - Già đã phải đi bộ gần ba giờ đồng hồ để được nhìn tận mắt cái đèn điện. Giá ông Ê-đi-xơn làm được cái xe chở người già đi nơi này nơi khác có phải may mắn hơn cho già không? - Thưa cụ, tôi tưởng vẫn có xe ngựa chở khách chứ? - Đi xe ấy thì ốm mất. Già chỉ muốn có một thứ xe không cần ngựa kéo mà lại thật êm. 3. Nghe bà cụ nói vậy, bỗng một ý nghĩ lóe lên trong đầu Ê-đi-xơn. Ông reo lên: - Cụ ơi! Tôi là Ê-đi-xơn đây. Nhờ cụ mà tôi nảy ra ý định làm một cái xe chạy bằng dòng điện đấy. Bà cụ vô cùng ngạc nhiên khi thấy nhà bác học cũng bình thường như mọi người khác. Lúc chia tay, Ê-đi-xơn bảo: - Tôi sẽ mời cụ đi chuyến xe điện đầu tiên. - Thế nào già cũng đến... Nhưng ông phải làm nhanh lên nhé, kẻo tuổi già chẳng còn được bao lâu đâu. 4. Từ lần gặp bà cụ, Ê-đi-xơn miệt mài với công việc chế tạo xe điện và đã thành công. Hôm chạy thử xe điện, người ta xếp hàng dài để mua vé. Ê-đi-xơn mời bà cụ dạo nọ đi chuyến đầu tiên. Đến ga, ông bảo: - Tôi giữ đúng lời hứa với cụ rồi nhé! Bà cụ cười móm mém: - Cảm ơn ông. Giờ thì già có thể đi chơi cả ngày với chiếc xe này rồi!
Cuối cùng, ý tưởng và lời hứa của Ê-đi-xơn đã được thực hiện như thế nào?
Ê-đi-xơn miệt mài chế tạo chiếc xe điện và đã thành công.
Ê-đi-xơn miệt mài thử nghiệm sáng chế ra đĩa hát và máy chiếu bóng.
Ê-đi-xơn miệt mài nghiên cứu nhưng không thành công.
Ê-đi-xơn miệt mài nghiên cứu và tạo ra chiếc xe lửa.
A
1. Ê-đi-xơn là một nhà bác học nổi tiếng người Mĩ. Khi ông chế ra đèn điện, người từ khắp nơi ùn ùn kéo đến xem. Có một bà cụ phải đi bộ mười hai cây số. Đến nơi, cụ mỏi quá, ngồi xuống vệ đường bóp chân, đấm lưng thùm thụp. 2. Lúc ấy, Ê-đi-xơn chợt đi qua. Ông dừng lại hỏi chuyện. Bà cụ nói: - Già đã phải đi bộ gần ba giờ đồng hồ để được nhìn tận mắt cái đèn điện. Giá ông Ê-đi-xơn làm được cái xe chở người già đi nơi này nơi khác có phải may mắn hơn cho già không? - Thưa cụ, tôi tưởng vẫn có xe ngựa chở khách chứ? - Đi xe ấy thì ốm mất. Già chỉ muốn có một thứ xe không cần ngựa kéo mà lại thật êm. 3. Nghe bà cụ nói vậy, bỗng một ý nghĩ lóe lên trong đầu Ê-đi-xơn. Ông reo lên: - Cụ ơi! Tôi là Ê-đi-xơn đây. Nhờ cụ mà tôi nảy ra ý định làm một cái xe chạy bằng dòng điện đấy. Bà cụ vô cùng ngạc nhiên khi thấy nhà bác học cũng bình thường như mọi người khác. Lúc chia tay, Ê-đi-xơn bảo: - Tôi sẽ mời cụ đi chuyến xe điện đầu tiên. - Thế nào già cũng đến... Nhưng ông phải làm nhanh lên nhé, kẻo tuổi già chẳng còn được bao lâu đâu. 4. Từ lần gặp bà cụ, Ê-đi-xơn miệt mài với công việc chế tạo xe điện và đã thành công. Hôm chạy thử xe điện, người ta xếp hàng dài để mua vé. Ê-đi-xơn mời bà cụ dạo nọ đi chuyến đầu tiên. Đến ga, ông bảo: - Tôi giữ đúng lời hứa với cụ rồi nhé! Bà cụ cười móm mém: - Cảm ơn ông. Giờ thì già có thể đi chơi cả ngày với chiếc xe này rồi!
Khoa học đã đem lại lợi ích gì cho con người?
Khoa học đem lại các phát minh phục vụ cho cuộc sống của con người.
Khoa học đem lại sự sáng tạo, nuôi dưỡng ý tưởng của con người.
Khoa học chỉ phục vụ cho lợi ích của các nhà khoa học.
Tất cả các ý trên.
A
1. Ê-đi-xơn là một nhà bác học nổi tiếng người Mĩ. Khi ông chế ra đèn điện, người từ khắp nơi ùn ùn kéo đến xem. Có một bà cụ phải đi bộ mười hai cây số. Đến nơi, cụ mỏi quá, ngồi xuống vệ đường bóp chân, đấm lưng thùm thụp. 2. Lúc ấy, Ê-đi-xơn chợt đi qua. Ông dừng lại hỏi chuyện. Bà cụ nói: - Già đã phải đi bộ gần ba giờ đồng hồ để được nhìn tận mắt cái đèn điện. Giá ông Ê-đi-xơn làm được cái xe chở người già đi nơi này nơi khác có phải may mắn hơn cho già không? - Thưa cụ, tôi tưởng vẫn có xe ngựa chở khách chứ? - Đi xe ấy thì ốm mất. Già chỉ muốn có một thứ xe không cần ngựa kéo mà lại thật êm. 3. Nghe bà cụ nói vậy, bỗng một ý nghĩ lóe lên trong đầu Ê-đi-xơn. Ông reo lên: - Cụ ơi! Tôi là Ê-đi-xơn đây. Nhờ cụ mà tôi nảy ra ý định làm một cái xe chạy bằng dòng điện đấy. Bà cụ vô cùng ngạc nhiên khi thấy nhà bác học cũng bình thường như mọi người khác. Lúc chia tay, Ê-đi-xơn bảo: - Tôi sẽ mời cụ đi chuyến xe điện đầu tiên. - Thế nào già cũng đến... Nhưng ông phải làm nhanh lên nhé, kẻo tuổi già chẳng còn được bao lâu đâu. 4. Từ lần gặp bà cụ, Ê-đi-xơn miệt mài với công việc chế tạo xe điện và đã thành công. Hôm chạy thử xe điện, người ta xếp hàng dài để mua vé. Ê-đi-xơn mời bà cụ dạo nọ đi chuyến đầu tiên. Đến ga, ông bảo: - Tôi giữ đúng lời hứa với cụ rồi nhé! Bà cụ cười móm mém: - Cảm ơn ông. Giờ thì già có thể đi chơi cả ngày với chiếc xe này rồi!
Nội dung của bài đọc này là gì?
Kể về các phát minh vĩ đại của nhà bác học Ê-đi-xơn nổi tiếng.
Ca ngợi nhà bác học Ê-đi-xơn giàu sáng kiến và mong muốn đem lại điều tốt đẹp cho con người.
Giới thiệu về cuộc đời và sự nghiệp phát minh sáng chế của nhà bác học Ê-đi-xơn.
Tất cả các ý trên.
B
Cua Càng đi hội Cõng nồi trên lưng Vừa đi vừa thổi Mùi xôi thơm lừng. Cái Tép đỏ mắt Cậu Ốc vặn mình Chú Tôm lật đật Bà Sam cồng kềnh. Tép chuyên nhóm lửa Bà Sam dựng nhà Tôm đi chợ cá Cậu Ốc pha trà. Hai tay dụi mắt Tép chép miệng: Xong! Chú Tôm về chậm Dắt tay bà Còng. Hong xôi vừa chín Nhà đổ mái bằng Trà pha thơm ngát Mời ông Dã Tràng. Dã Tràng móm mém Rụng hai chiếc răng Khen xôi nấu dẻo Có công Cua Càng
Bài thơ trên kể về điều gì?
Cua Càng đi chợ.
Cua Càng đi chơi.
Cua Càng thổi xôi.
Cua càng đi học.
C
Cua Càng đi hội Cõng nồi trên lưng Vừa đi vừa thổi Mùi xôi thơm lừng. Cái Tép đỏ mắt Cậu Ốc vặn mình Chú Tôm lật đật Bà Sam cồng kềnh. Tép chuyên nhóm lửa Bà Sam dựng nhà Tôm đi chợ cá Cậu Ốc pha trà. Hai tay dụi mắt Tép chép miệng: Xong! Chú Tôm về chậm Dắt tay bà Còng. Hong xôi vừa chín Nhà đổ mái bằng Trà pha thơm ngát Mời ông Dã Tràng. Dã Tràng móm mém Rụng hai chiếc răng Khen xôi nấu dẻo Có công Cua Càng
Cua Càng nấu xôi như thế nào?
Vừa đi vừa thổi.
Ngồi thổi xôi.
Đứng thổi xôi.
Nằm thổi xôi.
A
Cua Càng đi hội Cõng nồi trên lưng Vừa đi vừa thổi Mùi xôi thơm lừng. Cái Tép đỏ mắt Cậu Ốc vặn mình Chú Tôm lật đật Bà Sam cồng kềnh. Tép chuyên nhóm lửa Bà Sam dựng nhà Tôm đi chợ cá Cậu Ốc pha trà. Hai tay dụi mắt Tép chép miệng: Xong! Chú Tôm về chậm Dắt tay bà Còng. Hong xôi vừa chín Nhà đổ mái bằng Trà pha thơm ngát Mời ông Dã Tràng. Dã Tràng móm mém Rụng hai chiếc răng Khen xôi nấu dẻo Có công Cua Càng
Bài thơ trên có những con vật nào được nhân hóa?
Cua Càng, Tép, Ốc, Tôm, Dã Tràng.
Cua Càng, Tép, Ốc, Tôm, Sam, Dã Tràng.
Cua Càng, Tép, Ốc, Tôm, Sam, Còng, Dã Tràng.
Cua Càng, Tép.
C
Cua Càng đi hội Cõng nồi trên lưng Vừa đi vừa thổi Mùi xôi thơm lừng. Cái Tép đỏ mắt Cậu Ốc vặn mình Chú Tôm lật đật Bà Sam cồng kềnh. Tép chuyên nhóm lửa Bà Sam dựng nhà Tôm đi chợ cá Cậu Ốc pha trà. Hai tay dụi mắt Tép chép miệng: Xong! Chú Tôm về chậm Dắt tay bà Còng. Hong xôi vừa chín Nhà đổ mái bằng Trà pha thơm ngát Mời ông Dã Tràng. Dã Tràng móm mém Rụng hai chiếc răng Khen xôi nấu dẻo Có công Cua Càng
Ai đi chợ cá?
Tôm.
Cua.
Tép.
Còng.
A
Cua Càng đi hội Cõng nồi trên lưng Vừa đi vừa thổi Mùi xôi thơm lừng. Cái Tép đỏ mắt Cậu Ốc vặn mình Chú Tôm lật đật Bà Sam cồng kềnh. Tép chuyên nhóm lửa Bà Sam dựng nhà Tôm đi chợ cá Cậu Ốc pha trà. Hai tay dụi mắt Tép chép miệng: Xong! Chú Tôm về chậm Dắt tay bà Còng. Hong xôi vừa chín Nhà đổ mái bằng Trà pha thơm ngát Mời ông Dã Tràng. Dã Tràng móm mém Rụng hai chiếc răng Khen xôi nấu dẻo Có công Cua Càng
Câu nào không xuất hiện trong bài trên?
Bà Sam cồng kềnh.
Tôm đi chợ cá.
Dã Tràng móm mém.
Hong xôi thơm mát.
B
Cua Càng đi hội Cõng nồi trên lưng Vừa đi vừa thổi Mùi xôi thơm lừng. Cái Tép đỏ mắt Cậu Ốc vặn mình Chú Tôm lật đật Bà Sam cồng kềnh. Tép chuyên nhóm lửa Bà Sam dựng nhà Tôm đi chợ cá Cậu Ốc pha trà. Hai tay dụi mắt Tép chép miệng: Xong! Chú Tôm về chậm Dắt tay bà Còng. Hong xôi vừa chín Nhà đổ mái bằng Trà pha thơm ngát Mời ông Dã Tràng. Dã Tràng móm mém Rụng hai chiếc răng Khen xôi nấu dẻo Có công Cua Càng
Ai rụng hai chiếc răng?
Cua càng.
Dã Tràng.
Còng.
Tôm.
B
Em về quê ngoại nghỉ hè Gặp đầm sen nở mà mê hương trời. Gặp bà tuổi đã tám mươi Quên quên nhớ nhớ những lời ngày xưa. Gặp trăng gặp gió bất ngờ, Ở trong phố chẳng bao giờ có đâu. Bạn bè ríu rít tìm nhau Qua con đường đất rực màu rơm phơi. Bóng tre mát rợp vai người Vầng trăng như lá thuyền trôi êm đềm. Về thăm quê ngoại, lòng em Yêu thêm cuộc sống, yêu thêm con người: Em ăn hạt gạo lâu rồi Hôm nay mới gặp những người làm ra. Những người chân đất thật thà Em thương như thể thương bà ngoại em.
Bạn nhỏ từ đâu về thăm lại quê hương?
Nước ngoài.
Thành phố.
Trên nú.
Hải đảo.
B
Em về quê ngoại nghỉ hè Gặp đầm sen nở mà mê hương trời. Gặp bà tuổi đã tám mươi Quên quên nhớ nhớ những lời ngày xưa. Gặp trăng gặp gió bất ngờ, Ở trong phố chẳng bao giờ có đâu. Bạn bè ríu rít tìm nhau Qua con đường đất rực màu rơm phơi. Bóng tre mát rợp vai người Vầng trăng như lá thuyền trôi êm đềm. Về thăm quê ngoại, lòng em Yêu thêm cuộc sống, yêu thêm con người: Em ăn hạt gạo lâu rồi Hôm nay mới gặp những người làm ra. Những người chân đất thật thà Em thương như thể thương bà ngoại em.
Quê ngoại bạn nhỏ ở nơi nào?
Miền núi.
Nước ngoài.
Thành phố.
Nông thôn.
D
Em về quê ngoại nghỉ hè Gặp đầm sen nở mà mê hương trời. Gặp bà tuổi đã tám mươi Quên quên nhớ nhớ những lời ngày xưa. Gặp trăng gặp gió bất ngờ, Ở trong phố chẳng bao giờ có đâu. Bạn bè ríu rít tìm nhau Qua con đường đất rực màu rơm phơi. Bóng tre mát rợp vai người Vầng trăng như lá thuyền trôi êm đềm. Về thăm quê ngoại, lòng em Yêu thêm cuộc sống, yêu thêm con người: Em ăn hạt gạo lâu rồi Hôm nay mới gặp những người làm ra. Những người chân đất thật thà Em thương như thể thương bà ngoại em.
Qua hai câu thơ "Bạn bè ríu rít tìm nhau / Qua con đường đất rực màu rơm phơi" cho thấy điều gì đáng quý ở người nông thôn?
Người nông dân đôn hậu, chất phác, cần cù.
Trẻ nhỏ hồn nhiên, thân thiết, gắn bó với nhau.
Cụ già sống giản dị, mộc mạc, chân thật.
Tất cả các ý trên.
B
Em về quê ngoại nghỉ hè Gặp đầm sen nở mà mê hương trời. Gặp bà tuổi đã tám mươi Quên quên nhớ nhớ những lời ngày xưa. Gặp trăng gặp gió bất ngờ, Ở trong phố chẳng bao giờ có đâu. Bạn bè ríu rít tìm nhau Qua con đường đất rực màu rơm phơi. Bóng tre mát rợp vai người Vầng trăng như lá thuyền trôi êm đềm. Về thăm quê ngoại, lòng em Yêu thêm cuộc sống, yêu thêm con người: Em ăn hạt gạo lâu rồi Hôm nay mới gặp những người làm ra. Những người chân đất thật thà Em thương như thể thương bà ngoại em.
Từ "chân đất" trong bài thơ này nói lên điều gì?
Người nông dân chân lấm tay bùn, vất vả nhưng cần cù.
Những người nhà quê đi chân đất, không đi dép.
Những người nghèo khó, khổ sở, sống tiết kiệm.
Tất cả các ý trên.
A
Em về quê ngoại nghỉ hè Gặp đầm sen nở mà mê hương trời. Gặp bà tuổi đã tám mươi Quên quên nhớ nhớ những lời ngày xưa. Gặp trăng gặp gió bất ngờ, Ở trong phố chẳng bao giờ có đâu. Bạn bè ríu rít tìm nhau Qua con đường đất rực màu rơm phơi. Bóng tre mát rợp vai người Vầng trăng như lá thuyền trôi êm đềm. Về thăm quê ngoại, lòng em Yêu thêm cuộc sống, yêu thêm con người: Em ăn hạt gạo lâu rồi Hôm nay mới gặp những người làm ra. Những người chân đất thật thà Em thương như thể thương bà ngoại em.
Hai câu thơ "Những người chân đất thật thà / Em thương như thể thương bà ngoại em." cho thấy bạn nhỏ nghĩ gì về những người làm ra hạt gạo?
Họ rất lười biếng.
Họ rất giàu có, dư dả.
Họ rất nghèo khổ, khó khăn.
Họ rất thật thà, chấc phác.
D
Em về quê ngoại nghỉ hè Gặp đầm sen nở mà mê hương trời. Gặp bà tuổi đã tám mươi Quên quên nhớ nhớ những lời ngày xưa. Gặp trăng gặp gió bất ngờ, Ở trong phố chẳng bao giờ có đâu. Bạn bè ríu rít tìm nhau Qua con đường đất rực màu rơm phơi. Bóng tre mát rợp vai người Vầng trăng như lá thuyền trôi êm đềm. Về thăm quê ngoại, lòng em Yêu thêm cuộc sống, yêu thêm con người: Em ăn hạt gạo lâu rồi Hôm nay mới gặp những người làm ra. Những người chân đất thật thà Em thương như thể thương bà ngoại em.
Nội dung của bài thơ này là gì?
Kỉ niệm của bạn nhỏ trong những năm tháng tuổi thơ.
Nỗi nhớ quê ngoại, nhớ người bà và người làng của bạn nhỏ.
Tình yêu cảnh vật và con người của bạn nhỏ trong một lần về thăm quê.
Niềm vui của bạn nhỏ trong kì nghỉ hè.
C
Em về quê ngoại nghỉ hè Gặp đầm sen nở mà mê hương trời. Gặp bà tuổi đã tám mươi Quên quên nhớ nhớ những lời ngày xưa. Gặp trăng gặp gió bất ngờ, Ở trong phố chẳng bao giờ có đâu. Bạn bè ríu rít tìm nhau Qua con đường đất rực màu rơm phơi. Bóng tre mát rợp vai người Vầng trăng như lá thuyền trôi êm đềm. Về thăm quê ngoại, lòng em Yêu thêm cuộc sống, yêu thêm con người: Em ăn hạt gạo lâu rồi Hôm nay mới gặp những người làm ra. Những người chân đất thật thà Em thương như thể thương bà ngoại em.
Từ "người làm ra" trong hai câu thơ "Em ăn hạt gạo lâu rồi / Hôm nay mới gặp những người làm ra" chỉ ai?
Người giàu có.
Người nghèo khổ.
Người nông dân.
Người địa chủ.
C