filename
stringlengths
4
100
text
stringlengths
0
254k
hệ thống nhận dạng khuôn mặt.txt
Hệ thống nhận dạng khuôn mặt là một ứng dụng máy tính tự động xác định hoặc nhận dạng một người nào đó từ một bức hình ảnh kỹ thuật số hoặc một khung hình video từ một nguồn video. Một trong những cách để thực hiện điều này là so sánh các đặc điểm khuôn mặt chọn trước từ hình ảnh và một cơ sở dữ liệu về khuôn mặt. Hệ thống này thường được sử dụng trong các hệ thống an ninh và có thể được so sánh với các dạng sinh trắc học khác như các hệ thống nhận dạng vân tay hay tròng mắt. == Kỹ thuật == === Truyền thống === Một số thuật toán nhận dạng khuôn mặt xác định các đặc điểm khuôn mặt bằng cách trích xuất các ranh giới, hoặc đặc điểm, từ một hình ảnh khuôn mặt của đối tượng. Ví dụ, một thuật toán có thể phân tích các vị trí tương đối, kích thước, và/hoặc hình dạng của mắt, mũi, gò má, và cằm. Những tính năng này sau đó được sử dụng để tìm kiếm các hình ảnh khác với các tính năng phù hợp. Các thuật toán bình thường hóa một bộ sưu tập các hình ảnh khuôn mặt và sau đó nén dữ liệu khuôn mặt, chỉ lưu dữ liệu hình ảnh nào là hữu ích cho việc nhận dạng khuôn mặt. Một hình ảnh mẫu sau đó được so sánh với các dữ liệu khuôn mặt. Một trong những hệ thống thành công sớm nhất dựa trên các kỹ thuật phù hợp với mẫu áp dụng cho một tập hợp các đặc điểm khuôn mặt nổi bật, cung cấp một dạng đại diện của khuôn mặt được nén. Các thuật toán nhận dạng có thể được chia thành hai hướng chính, là hình học, đó là nhìn vào tính năng phân biệt, hoặc trắc quang (đo sáng), là sử dụng phương pháp thống kê để 'chưng cất' một hình ảnh thành những giá trị và so sánh các giá trị với các mẫu để loại bỏ chênh lệch. Các thuật toán nhận dạng phổ biến bao gồm Principal Component Analysis (Phép phân tích thành phần chính) sử dụng các khuôn mặt riêng, Linear Discriminate Analysis (Phân tích biệt tuyến tính), Elastic Bunch Graph Matching sử dụng thuật toán Fisherface, các mô hình Markov ẩn, Multilinear Subspace Learning (Luyện nhớ không gian con đa tuyến) sử dụng đại diện cơ căng, và theo dõi liên kết động thần kinh. === Nhận dạng 3-chiều === Một xu hướng mới nổi lên, tuyên bố cải thiện được độ chính xác, là nhận dạng khuôn mặt ba chiều. Kỹ thuật này sử dụng các cảm biến 3D để nắm bắt thông tin về hình dạng của khuôn mặt. Thông tin này sau đó được sử dụng để xác định các tính năng đặc biệt trên bề mặt của một khuôn mặt, chẳng hạn như các đường viền của hốc mắt, mũi và cằm. Một lợi thế của nhận dạng khuôn mặt 3D là nó không bị ảnh hưởng bởi những thay đổi trong ánh sáng như các kỹ thuật khác. Nó cũng có thể xác định một khuôn mặt từ một loạt các góc nhìn, trong đó có góc nhìn nghiêng. Các điểm dữ liệu ba chiều từ một khuôn mặt cải thiện lớn độ chính xác cho nhận dạng khuôn mặt. Nghiên cứu 3D được tăng cường bởi sự phát triển của các bộ cảm biến tinh vi giúp nắm bắt hình ảnh chụp khuôn mặt 3D được tốt hơn. Các cảm biến hoạt động bằng cách chiếu ánh sáng có cấu trúc lên gương mặt. Hàng chục hoặc nhiều hơn nữa các bộ cảm biến hình ảnh này có thể được đặt lên trên cùng một con chip CMOS-mỗi cảm biến sẽ thu một phần khác nhau của hình ảnh. Ngay cả một kỹ thuật 3D hoàn hảo cũng có thể gặp khó khăn bởi các sắc thái biểu cảm trên gương mặt. Để đạt được mục tiêu đó một nhóm tại Technion (viện công nghệ Israel tại Haifa) đã áp dụng các công cụ từ hình học metric để giải quyết các biểu lộ cảm xúc như phép đẳng cự Một công ty có tên Vision Access tạo ra một giải pháp vững chắc cho nhận dạng khuôn mặt 3D. Công ty này sau đó đã được mua lại bởi công ty truy cập sinh trắc học Bioscrypt Inc. Công ty đã phát triển một phiên bản được gọi là 3D FastPass. === Phân tích kết cấu da === Một xu hướng mới nổi sử dụng các chi tiết hình ảnh của da, được chụp trong các hình ảnh kỹ thuật số hoặc máy scan tiêu chuẩn. Kỹ thuật này được gọi là phân tích kết cấu da, đưa các đường đặc trưng, hình dạng, và các điểm nốt trên làn da của một người vào một không gian toán học. Các thử nghiệm đã chỉ ra rằng với việc bổ sung các phân tích cấu trúc của da, hiệu quả trong việc nhận ra khuôn mặt có thể tăng 20-25 phần trăm. == Phần mềm == Phần mềm với khả năng nhận dạng khuôn mặt nổi bật bao gồm: digiKam (KDE) iPhoto (Apple) OpenCV (Open Source) Photoshop Elements (Adobe Systems) Picasa (của Google) Picture Motion Browser (Sony) Windows Live Photo Gallery (Microsoft) == Người dùng và các triển khai nổi bật == Khu Newham của Luân Đôn, ở Anh, trước đây đã thử nghiệm một hệ thống nhận dạng khuôn mặt được xây dựng thành hệ thống camera quan sát cả khu phố. Cảnh sát Liên bang Đức sử dụng một hệ thống nhận dạng khuôn mặt để cho phép các khách hàng tình nguyện vượt qua các điểm kiểm soát biên giới hoàn toàn tự động tại sân bay quốc tế Frankfurt Rhein-Main. Khách hàng phải là công dân của Liên minh châu Âu, hoặc công dân Thụy Sĩ. Kể từ năm 2005, Văn phòng Cảnh sát hình sự Liên bang Đức cung cấp nhận dạng khuôn mặt tập trung đối với hình thẻ cho tất cả các cơ quan cảnh sát Đức. Hệ thống nhận dạng cũng được sử dụng bởi các casino để bắt những kẻ gian lận hoặc những cá nhân nằm trong danh sách đen khác. Dịch vụ Hải quan Úc và New Zealand có một hệ thống xử lý biên giới tự động gọi SmartGate sử dụng nhận dạng khuôn mặt. Hệ thống so sánh gương mặt của cá nhân với các hình ảnh trong các microchip hộ chiếu điện tử, xác nhận rằng người giữ hộ chiếu là chủ sở hữu hợp pháp. Mạng Tư pháp Pennsylvania tìm kiếm hình ảnh hiện trường vụ án và cảnh quay camera quan sát trong cơ sở dữ liệu hình thẻ của đối tượng bắt giữ trước đó. Hàng loạt các tình huống nhạy cảm đã được giải quyết kể từ khi hệ thống đi vào hoạt động vào năm 2005. Các cơ quan thực thi pháp luật khác ở Hoa Kỳ, bao gồm toà án Los Angeles, sử dụng cơ sở dữ liệu hình thẻ vào công việc điều tra pháp y của họ. Tính đến năm 2013, không có cơ sở dữ liệu thống nhất toàn quốc về hình ảnh khuôn mặt nào được lập cụ thể, nhưng có một số nỗ lực để tạo ra một hệ thống như vậy. Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ điều hành một trong các hệ thống nhận dạng khuôn mặt lớn nhất trên thế giới với hơn 75 triệu bức ảnh được chủ động sử dụng để xử lý visa. Sân bay Quốc tế Tocumen ở Panama điều hành một hệ thống giám sát toàn sân bay sử dụng hàng trăm camera nhận dạng khuôn mặt trực tiếp để xác định các cá nhân đi qua sân bay. === Tác dụng khác === Ngoài việc được sử dụng cho các hệ thống an ninh, nhà chức trách đã tìm thấy một số ứng dụng khác cho các hệ thống nhận dạng khuôn mặt. Trong khi triển khai sau sự kiện 11 tháng 9 trước đó cũng đã được công bố thử nghiệm, triển khai gần đây hơn hiếm khi được biết do tính chất bí mật của chúng. Tại Super Bowl XXXV trong tháng 1 năm 2001, cảnh sát ở Vịnh Tampa, Florida đã sử dụng phần mềm nhận dạng khuôn mặt Viisage để tìm kiếm tên tội phạm và khủng bố tiềm năng có mặt tại sự kiện này. 19 người có hồ sơ tội phạm vị thành niên đã có khả năng xác định. Trong cuộc bầu cử tổng thống năm 2000, chính phủ Mexico sử dụng phần mềm nhận dạng khuôn mặt để ngăn chặn gian lận bầu cử. Một số cá nhân đã đăng ký bầu cử dưới nhiều tên khác nhau, trong một nỗ lực để đặt được nhiều phiếu. Bằng cách so sánh hình ảnh gương mặt mới cho những người đã có trong cơ sở dữ liệu của cử tri, chính quyền đã có thể giảm các cử tri trùng lặp. Công nghệ tương tự đang được sử dụng ở Hoa Kỳ để ngăn chặn những người lấy thẻ căn cước giả và giấy phép lái xe. Ngoài ra còn có một số ứng dụng tiềm năng của nhận dạng khuôn mặt hiện đang được phát triển. Ví dụ, công nghệ này có thể được sử dụng như một biện pháp an ninh tại các máy ATM. Thay vì sử dụng một thẻ ngân hàng hoặc số nhận dạng cá nhân, máy ATM sẽ chụp một hình ảnh của khuôn mặt của khách hàng, và so sánh nó với các bức ảnh của chủ tài khoản ngân hàng trong cơ sở dữ liệu để xác nhận danh tính của khách hàng. Hệ thống nhận dạng khuôn mặt được sử dụng để mở khóa các phần mềm trên các thiết bị di động. Một ứng dụng trên Android Marketplace được phát triển một cách độc lập gọi là Visidon AppLock dùng điện thoại tích hợp máy ảnh để chụp ảnh của người dùng. Nhận dạng khuôn mặt được sử dụng để đảm bảo chỉ có người này mới có thể sử dụng ứng dụng nào đó mà họ chọn để đảm bảo bí mật. Nhận diện khuôn mặt và nhận dạng khuôn mặt được tích hợp vào các ứng dụng iPhoto cho Macintosh, để giúp người dùng tổ chức và chú thích các bộ sưu tập của họ. Ngoài ra, thêm vào tính năng sinh trắc học, các máy ảnh kỹ thuật số hiện đại thường kết hợp một hệ thống phát hiện khuôn mặt, cho phép máy ảnh tập trung và đo lường độ phơi sáng trên khuôn mặt của đối tượng, do đó đảm bảo lấy được rõ nét bức chân dung của người được chụp. Một số máy ảnh, còn tích hợp tính năng phát hiện nụ cười, hay tự động chụp một bức ảnh thứ hai, nếu một người nào đó nhắm mắt trong thời gian chụp. Do hạn chế của một số của hệ thống nhận dạng vân tay, hệ thống nhận dạng khuôn mặt được sử dụng như là một cách khác để chấm công người lao động tại nơi làm việc trong các giờ quy định. Một ứng dụng khác có thể là một thiết bị cầm tay để hỗ trợ những người bị chứng mất khả năng nhận diện khuôn mặt trong việc nhận ra người quen của họ. == Ưu điểm và nhược điểm == === So với các công nghệ khác === Trong số các kỹ thuật sinh trắc học, nhận dạng khuôn mặt có thể không đáng tin cậy và hiệu quả nhất. [49] Tuy nhiên, một trong những lợi thế quan trọng là nó không đòi hỏi sự hợp tác của các đối tượng thử nghiệm. Các hệ thống thiết kế được lắp đặt tại các sân bay, khu chung cư, và những nơi công cộng khác có thể xác định các cá nhân giữa đám đông, mà không bỏ sót một ai. Sinh trắc học khác như dấu vân tay, quét mống mắt, và nhận dạng giọng nói không thể thực hiện được như vậy. Tuy nhiên, câu hỏi đã được đặt ra về hiệu quả của phần mềm nhận dạng khuôn mặt trong trường hợp của an ninh đường sắt và sân bay. === Nhược điểm === Nhận dạng khuôn mặt không phải là hoàn hảo và khó khăn để thực hiện trong các điều kiện nhất định. Ralph Gross, một nhà nghiên cứu tại Viện Mellon Robotics Carnegie, mô tả một trở ngại liên quan đến các góc nhìn của khuôn mặt: "Nhận dạng khuôn mặt đã thực hiện được khá tốt ở phía mặt trước và phía chênh lệch 20 độ, nhưng ngay sau khi bạn đi về phía góc khuất, thì nó có vấn đề." Các điều kiện khác mà nhận dạng khuôn mặt không làm việc tốt bao gồm thiếu ánh sáng, đeo kính mát, tóc dài, hoặc các đối tượng khác mà một phần khuôn mặt bị che, và các hình ảnh độ phân giải thấp. Một bất lợi nghiêm trọng là nhiều hệ thống sẽ kém hiệu quả nếu biểu hiện khuôn mặt khác nhau. Ngay cả một nụ cười lớn, cũng có thể làm cho hệ thống giảm tính hiệu quả. Ví dụ: Canada hiện nay cho phép biểu lộ nét mặt trung tính trong ảnh chụp hộ chiếu. Ngoài ra còn có sự không thống nhất trong các dữ liệu được sử dụng bởi các nhà nghiên cứu. Các nhà nghiên cứu có thể sử dụng bất cứ nơi nào từ nhiều đối tượng khác nhau cho đến điểm số của các đối tượng, và một vài trăm bức hình cho tới hàng ngàn bức hình. Điều quan trọng là các nhà nghiên cứu cho phép những bộ dữ liệu mà họ sử dụng cũng có thể được sử dụng bởi người khác, hoặc có ít nhất một bộ dữ liệu chuẩn. Ngày 18/1/2013 các nhà nghiên cứu Nhật Bản đã tạo ra một tấm che mặt riêng tư sử dụng ánh sáng gần dãi hồng ngoại làm cho bộ mặt bên dưới không thể nhận ra bởi phần mềm nhận dạng khuôn mặt. === Hiệu quả === Các nhà phê bình của công nghệ này phàn nàn rằng, kế hoạch Khu phố London của Newham chưa bao giờ nhận dạng được một tội phạm đơn lẻ, mặc dù nhiều tên tội phạm trong cơ sở dữ liệu của hệ thống sống ở Borough và hệ thống đã làm việc trong nhiều năm. "Không phải một lần, theo như cảnh sát biết, đã hệ thống nhận diện khuôn mặt tự động Newham đã phát hiện ra một mục tiêu sống." Thông tin này dường như mâu thuẫn với tuyên bố rằng hệ thống đã được ghi nhận với việc giảm 34% tội phạm (do vậy tại sao nó đã được tung ra để Birmingham cũng có). Tuy nhiên nó có thể được giải thích bởi quan điểm rằng khi công chúng thường xuyên được nghe kể rằng họ đang bị theo dõi bởi công nghệ nhận dạng khuôn mặt tiên tiến, sự sợ hãi này riêng nó cũng có thể làm giảm tỷ lệ tội phạm, cho dù các hệ thống nhận dạng khuôn mặt kỹ có làm việc về mặt kỹ thuật hay không. Điều này đã là cơ sở cho việc đưa vào nhiều hệ thống bảo mật nhận dạng khuôn mặt khác, nơi mà bản thân công nghệ không làm việc đặc biệt tốt nhưng nhận thức của người sử dụng về công nghệ lại đóng vai trò then chốt. Một thí nghiệm vào năm 2002 bởi sở cảnh sát địa phương ở Tampa, Florida, đã có kết quả đáng thất vọng tương tự. Một hệ thống tại sân bay Logan ở Boston đã bị đóng cửa vào năm 2003 sau khi không thực hiện được bất kỳ phát hiện nào trong suốt thời gian thử nghiệm hai năm. === Vấn đề về tính riêng tư === Các tổ chức quyền công dân, và các nhà vận động quyền riêng tư như EFF (Electronic Frontier Foundation) và ACLU (American Civil Liberties Union) bày tỏ lo ngại rằng sự riêng tư đang được tổn hại bằng cách sử dụng các công nghệ giám sát. Một số người sợ rằng nó có thể dẫn đến một "xã hội giám sát toàn diện," với chính phủ và các cơ quan khác có khả năng biết nơi ở và hoạt động của tất cả các công dân suốt ngày đêm. Những kiến ​​thức này đã được, đang được, và có thể tiếp tục được triển khai để ngăn chặn các sự xâm phạm quyền công dân của các chính sách nhà nước hoặc từ các công ty, tập đoàn. Nhiều cơ cấu quyền lực tập trung với khả năng giám sát đã lạm dụng đặc quyền truy cập của họ để duy trì sự kiểm soát của bộ máy chính trị và kinh tế, và để ngăn chặn những cải cách dân túy. Nhận dạng khuôn mặt có thể được sử dụng không chỉ để xác định một cá nhân, mà còn để tìm ra dữ liệu cá nhân khác liên quan đến một cá nhân - ví dụ như hình ảnh có tính cá nhân, blog bài viết, hồ sơ mạng xã hội, hành vi trên mạng, đi lại vv - tất cả thông qua đặc điểm khuôn mặt của họ. Hơn nữa, các cá nhân có khả năng hạn chế để tránh hoặc ngăn chặn việc theo dõi nhận dạng khuôn mặt, trừ khi họ che giấu khuôn mặt của mình. Điều này về cơ bản là thay đổi động lực của sự riêng tư hàng ngày bằng cách cho phép bất kỳ nhà tiếp thị, cơ quan chính phủ, hay người lạ ngẫu nhiên thu thập bí mật danh tính và thông tin cá nhân liên quan bất kỳ của cá nhân nào bởi các hệ thống nhận dạng khuôn mặt. Phương tiện truyền thông các trang web xã hội như Facebook có số lượng rất lớn các bức ảnh của người dân, chú thích bằng tên. Điều này đại diện cho một cơ sở dữ liệu mà có thể được sử dụng (hoặc bị lạm dụng) bởi các chính phủ cho các mục đích nhận dạng khuôn mặt. Trong tháng 7 năm 2012, một cuộc điều trần được tổ chức trước Tiểu ban về Riêng tư, Công nghệ và Luật của Ủy ban Tư pháp, Thượng viện Hoa Kỳ, để giải quyết các vấn đề xung quanh những công nghệ nhận dạng khuôn mặt để bảo vệ cho sự riêng tư và tự do dân sự. == Lịch sử == Những người tiên phong trong tự động nhận dạng khuôn mặt bao gồm Woody Bledsoe, Helen Chan Wolf, và Charles Bisson. Trong năm 1964 và 1965, Bledsoe, cùng với Helen Chan và Charles Bisson, bắt đầu ý tưởng sử dụng máy tính để nhận ra khuôn mặt của con người (Bledsoe 1966a, 1966b; Bledsoe và Chan 1965). Ông rất tự hào về công việc này, nhưng do kinh phí được cung cấp bởi một cơ quan tình báo giấu tên mà không cho phép công khai, rất ít tác phẩm đã được xuất bản. Với một cơ sở dữ liệu lớn các hình ảnh (thực tế là một cuốn sách ảnh thẻ) và một bức ảnh, vấn đề là phải lựa chọn từ cơ sở dữ liệu là một tập hợp nhỏ các hồ sơ hình ảnh như vậy có chứa các hình ảnh ăn khớp với bức ảnh đưa ra. Sự thành công của phương pháp này có thể được đo bằng tỷ lệ danh sách câu trả lời trên số lượng các hồ sơ trong cơ sở dữ liệu. Bledsoe (1966a) đã mô tả những khó khăn sau đây: Dự án này đã được dán nhãn "man-machine" bởi vì con người trích xuất tọa độ của một tập hợp các đặc điểm từ các hình ảnh, sau đó được máy tính sử dụng để nhận dạng. Sử dụng một graphic tablet (GRAFACON hoặc RAND TABLET), các toán tử sẽ trích xuất các tọa độ của các đặc điểm như tâm của con ngươi, các góc bên trong mắt, góc ngoài của mắt, điểm widows peak và... Từ những tọa độ này, một danh sách 20 khoảng cách, như chiều rộng của miệng và khoảng cách giữa 2 mắt, từ con ngươi đến con ngươi sẽ được tính toán. Các toán tử có thể xử lý khoảng 40 hình ảnh một giờ. Khi xây dựng các cơ sở dữ liệu, tên của người trong bức ảnh đã được gắn liền với danh sách của các khoảng cách tính toán và được lưu trữ trong máy tính. Trong giai đoạn nhận dạng, tập hợp các khoảng cách được so sánh với khoảng cách tương ứng cho mỗi bức ảnh, cho ra một khoảng cách giữa các bức ảnh và các bản ghi cơ sở dữ liệu. Các hồ sơ gần nhất được trả về. Bởi vì không chắc rằng bất kỳ hai hình ảnh sẽ khớp nhau khi xoay đầu, nghiêng hoặc cúi đầu, và tỉ lệ (khoảng cách tới máy ảnh), mỗi bộ khoảng cách được chuẩn hóa để đại diện cho khuôn mặt theo hướng nhìn từ phía trước. Để thực việc chuẩn hóa này, chương trình đầu tiên cố gắng để xác định độ nghiêng, xoay đầu, và cúi đầu. Sau đó, sử dụng các góc độ này, máy tính sẽ xóa những biến dạng này trên các khoảng cách tính toán. Để tính toán các góc, các máy tính phải biết được dạng hình học ba chiều của đầu. Vì đầu thực tế là không có sẵn, Bledsoe (1964) sử dụng một đầu tiêu chuẩn từ việc đo đạc trên bảy đầu. Sau đó Bledsoe rời PRI vào năm 1966, công việc này được tiếp tục tại Viện nghiên cứu Stanford, chủ yếu bởi Peter Hart. Trong các thí nghiệm thực hiện trên một cơ sở dữ liệu hơn 2.000 bức ảnh, máy tính luôn vượt trội so với con người khi thể hiện cùng một nhiệm vụ nhận dạng (Bledsoe 1968). Peter Hart (1996) phấn khởi nhớ lại dự án với giọng xúc động, "Nó thực sự làm việc!" Đến khoảng năm 1997, hệ thống được phát triển bởi Christoph von der Malsburg và các sinh viên sau đại học của trường Đại học Bochum ở Đức và Đại học Nam California tại Mỹ đã thể hiện vượt trội so với hầu hết các hệ thống của Viện Công nghệ Massachusetts và Đại học Maryland xếp hạng theo sau. Hệ thống Bochum được phát triển thông qua tài trợ bởi Phòng Thí Nghiệm Nghiên cứu Quân đội Hoa Kỳ. Phần mềm này được bán với cái tên ZN-Face và sử dụng bởi các khách hàng như Deutsche Bank và các nhà điều hành sân bay và các địa điểm đông đúc khác. Phần mềm này "đủ mạnh mẽ để nhận dạng được gương mặt từ các góc nhìn ít lý tưởng hơn. Nó cũng thường xuyên có thể nhận dạng được gương mặt mặc dù có những trở ngại như ria mép, râu, thay đổi kiểu tóc và thậm chí đeo kính râm". Trong khoảng tháng 1 năm 2007, tìm kiếm hình ảnh đã là "dựa trên ký tự xung quanh bức ảnh", ví dụ, đoạn văn kế bên đề cập đến các nội dung hình ảnh. Công nghệ Polar Rose có thể đoán từ một bức ảnh, trong khoảng 1,5 giây, bất kỳ người nào sẽ trông như thế nào trong không gian ba chiều, và khẳng định rằng họ "sẽ yêu cầu người dùng nhập tên của những người mà họ nhận ra trong ảnh online" để giúp xây dựng một cơ sở dữ liệu. Identix, một công ty từ Minnesota, đã phát triển một phần mềm là FaceIt. FaceIt có thể nhận ra khuôn mặt của một ai đó trong đám đông và so sánh nó với cơ sở dữ liệu trên toàn thế giới để nhận dạng và đặt tên cho một khuôn mặt. Phần mềm được viết để phát hiện nhiều đặc điểm trên khuôn mặt người. Nó có thể phát hiện khoảng cách giữa hai mắt, chiều rộng của mũi, hình dạng của xương gò má, độ dài của đường viền của hàm dưới và nhiều đặc điểm khác trên khuôn mặt. Nó thực hiện điều này bằng cách đưa hình ảnh của khuôn mặt vào một faceprint, một mã số đại diện cho gương mặt của con người. Phần mềm nhận dạng khuôn mặt trước kia thường phải dựa trên một hình ảnh 2D với người cần nhận dạng gần như phải trực tiếp đối mặt với máy ảnh. Bây giờ, với FaceIt, một hình ảnh 3D có thể được so sánh với một hình ảnh 2D bằng cách chọn 3 điểm cụ thể trên tấm hình 3D và chuyển đổi nó thành một hình ảnh 2D sử dụng một thuật toán đặc biệt có thể được quét qua hầu như tất cả các cơ sở dữ liệu.   Năm 2006, các thuật toán nhận dạng khuôn mặt mới nhất đã được đánh giá trong Face Recognition Grand Challenge (FRGC). Hình ảnh gương mặt, hình ảnh scan gương mặt 3D và ảnh iris độ phân giải cao, được sử dụng trong các bài kiểm tra. Kết quả cho thấy rằng các thuật toán mới là chính xác hơn 10 lần so với các thuật toán nhận dạng khuôn mặt của năm 2002 và chính xác hơn 100 lần so với các thuật toán của năm 1995. Một số thuật toán đã có thể nhận dạng tốt hơn người tham gia trong việc nhận diện khuôn mặt và duy nhất có thể xác định từng người trong các cặp song sinh giống hệt nhau. Các đánh giá và các vấn đề thách thức do Chính phủ Hoa Kỳ tài trợ đã giúp thúc đẩy 2 vấn đề hiệu năng và "cấp phóng đại" trong các hệ thống nhận dạng khuôn mặt. Từ năm 1993, tỷ lệ lỗi của hệ thống nhận diện khuôn mặt tự động đã giảm bởi một yếu tố của 272. Việc giảm áp dụng cho các hệ thống phù hợp với những người có hình thẻ được chụp trong studio hay những nơi chụp hình thẻ. Định luật Moore, nói rằng tỷ lệ lỗi giảm một nửa mỗi hai năm một lần. Hình ảnh độ phân giải thấp của khuôn mặt có thể được tăng cường bằng cách sử dụng khuôn mặt ảo giác. Các cải tiến cao hơn trong hình có độ phân giải cao, máy ảnh megapixel trong vài năm gần đây đã giúp giải quyết vấn đề thiếu độ phân giải. == Xem thêm == Ứng dụng của AI Các ứng dụng của trí tuệ nhân tạo Nhận dạng biển số tự động Công nghệ sinh trắc học trong kiểm soát truy cập Coke Zero Facial Profiler Thị giác máy tính Eigenface Phát hiện khuôn mặt Nhận diện khuôn mặt Thử nghiệm so sánh gương mặt Glasgow Nhận dạng Iris MALINTENT Giám sát hàng loạt Trích xuất thông tin từ Multimedia Nghiên cứu không gian con đa tuyến Nhận dạng mẫu, suy diễnvà lý luận Quét võng mạc So sánh mẫu Nhận dạng khuôn mặt ba chiều So sánh mạch máu Xử lý máy tính của ngôn ngữ cơ thể == Tham khảo == == Tham khảo == == Đọc thêm ==
viên tiểu điền.txt
Viên Tiểu Điền (tiếng Trung: 袁小田) (sinh ngày 27 tháng 11năm 1912 – mất ngày 8 tháng 1 năm 1979) (còn được biết đến như Viên Hiếu Thiện, Simon Yuen) là một diễn viên võ thuật Hồng Kông những năm 70. Viên Tiểu Điền được biết đến nhiều nhất trong ba bộ phim về Túy Quyền: Drunken Master, Story of Drunken Master, và cuối cùng Dance of the Drunk Mantis. Ông đóng vai chính trong vài phim với các diễn viên điện ảnh như Jackie Chan (Thành Long) và dưới sự chỉ đạo của con trai ông Yuen Woo-ping (Viên Hòa Bình). == Sự nghiệp điện ảnh == === Thành công khi ở tuổi đã về già === Tiểu Điền được đào tạo Kinh kịch truyền thống. Ông bắt đầu sự nghiệp diễn xuất ở tuổi 37, trong bộ phim đầu tiên Hoàng Phi hùng,với ngôi sao Kwan Tak-Hing (Quang Đức Hưng), Câu chuyện của Hoàng Phi Hồng (năm 1949), trong phim ông xuất hiện rất ít cho đến cuối những năm 1950. Ông được biết đến với vai trò cố vấn, chỉ đạo võ thuật và giữ vai trò chủ chốt trong gần 150 phim trong sự nghiệp của mình. Một trong những vai để đời vào cuối sự nghiệp của ông là trong phim Drunken Master (Túy quyền) (1978), trong đó ông vào vai ông lão ăn mày, một ẩn sĩ, sư phụ về Túy quyền đạt tới đỉnh cao võ thuật, đã cứu chữa cậu thanh niên trẻ Hoàng Phi Hùng, được thể hiện bởi Jackie Chan. Ông còn đóng vai một người mang trong mình mối thù cần trả trong phim khác của Thành Long là Xà Hình Điêu Thủ (1978). Tại thời điểm đó, Drunken Master (Túy Quyền) được đánh giá là phim thành công nhất của tài năng trẻ Thành Long. Bộ phim miêu tả Hoàng Phi Hùng, một thiếu niên trẻ tinh nghịch trái ngược với các vai diễn mang tính cách nho nhã đã thể hiện trong các phim bởi Kwan Tak-Hing (Quang Đức Hưng). Bộ phim là một cú hít lớn trên toàn cầu, đã phần nào đưa tên tuổi, sự nghiệp của ông lên tầm cao khi ông đã 66 tuổi. Tiểu Điền còn vào vai "Người ăn mày" cho ba một bộ phim Dance of the Drunk Mantis, Story of Drunken Master và World Of The Drunken Master (trong đó ông đã có một khách mời). == Nghệ danh "Ol' Dirty" == Rapper Ol' Dirty Bastard đã lấy tên một nhân vật trong phim của Viên Tiểu Điền để đặt tên cho anh trong phim Ol' Dirty & The Bastard. Các lời bài hát của ban nhạc Wu-Tang được lấy cảm hứng từ những bộ phim kungfu những năm 1970. == Cuộc sống cá nhân == Tiểu Điền là cha của mười một người con, sáu người đã làm việc và vẫn đang còn làm việc ở Hong Kong trong ngành công nghiệp phim. Năm người, cả con trai đều biết đến với tên gọi là "Gia tộc họ Điền" và thường làm việc trong kết hợp trên nhiều phim: Yuen Woo-ping (Viên Hòa Bình) - Đạo diễn chính và chỉ đạo võ thuật Yuen Cheung-yan (Viên Chương Yên) - diễn viên và đạo diễn Yuen Shun-yi (Sunny Yuen) - diễn viên và đạo diễn Yuen Yat chor - diễn viên Yuen Chun-yeung (Brandy Yuen) - diễn viên, diễn viên đóng thế và chỉ đạo hành động Yuen Lung-chu - diễn viên Yuen có thêm hai con trai và ba con gái. == Di sản == Hình tượng của Tiểu Điền đã được thể hiện với nhân vật Chin Gentsai trong seri SNK, The King of Fighters, cũng như cho nhân vật Shun Di trong seri Virtual Fighter (được thể hiện từ vai của Su Hai trong Drunken Master (Túy quyền)). == Cuối đời == Vào ngày 8 tháng 1 năm 1979, ông qua đời vì đau tim, hưởng thọ 66 tuổi. Năm 1979, Tiểu Điền còn nhận vai "Lão ăn mày" trong phim Magnificent Butcher cùng với Hồng Kim Bảo, nhưng đã ra đi khi phim mới được bắt đầu. Vai diễn của ông đã được thay thế bởi Fan Mei-sheng (cha của Fan Siu-wong, ngôi sao trong phim Câu chuyện của Ricky). Phim được tiếp tục với các cảnh quay bởi Fan Mei-sheng thay cho các cảnh diễn của Tiểu Điền. Tuy nhiên, nhân vật ăn mày của Fan Mei-sheng không bao giờ được gọi là "Begger So" trong bộ phim này. == Đóng phim == === Bộ phim === Dance of the Drunk Mantis (1979) (a.k.a. Drunken Master II) - Beggar So / Sam Seed Jade Claw (1979) - Cook / Teacher Against Rascals with Kung-Fu (1979) Mean Drunken Master (1979) Horse boxing Killer (1979) (a.k.a. "Nu Shao Lin si") - Yan Shao Tien Blind Fist of Bruce (1979) - The Blind Master (as Simon Yuen) Sleeping Fist (1979) Drunken Arts and Crippled Fist (1979) Mystery of Chessboxing (1979) (a.k.a. Ninja Checkmate) - Master Yuen/Master Cook (Guest star) Story of Drunken Master (1979) (a.k.a.:Drunken Fist Boxing") - Beggar So Drunken Master (1978) - Su Hua Chi / Beggar So / Sam Seed Peculiar Boxing Tricks and Master (1978) (a.k.a. Old Dirty Strikes Back)- Tung The 36th Chamber of Shaolin (1978) (a.k.a. The Master Killer; Mandarin title: Shao Lin san shi liu fang) - Teacher Snake in the Eagle's Shadow (1978) - Grandmaster Pai Cheng-Tien (as Hsiao-Tien Yuan) Heroes of the East (1978) - Tao's Teacher Boxing Wizard (1978) - Tung (as Yuan Hsiao-Tien) Deadly Snake Versus Kung Fu Killers (1977) - Snake Demon Bons baisers de Hong Kong (a.k.a. From Hong Kong with Love) (1975) Little Tiger of Canton (1971) (a.k.a. "Master with Cracked Fingers") - Old Master (as Hsao Ten Juan) Come Drink with Me (1966) - Bandit The Flying Fox (1964) (a.k.a. The Purple Lightning Sword) 55 Days at Peking (1963) (uncredited) Story of the Sword and the Sabre (1963) The Story of the Great Heroes (1960–1961) (4 parts) The Book and the Sword (1960) Sword of Blood and Valour (1958/1959) - Mute Story of the Vulture Conqueror (1958/1959) Story of Huang Feihong (1949) === Phim truyền hình === The Legend of the Book and the Sword (1976) == Tham khảo ==
sông colorado.txt
Sông Colorado (tiếng Maricopa: Xakxwet, tiếng Mojave: 'Aha Kwahwat, tiếng Havasupai: Ha Ŧay Gʼam hay Sil Gsvgov, tiếng Tây Ban Nha: Río Colorado), là một con sông ở Tây Nam Hoa Kỳ và Tây Bắc Mexico, dài khoảng 2.330 kilômét (1.450 mi) long,, chảy qua một phần của vùng khô hạn trên sườn phía tây của dãy núi Rocky. Đầu nguồn của sông Colorado bao gồm 637.000 km² (246,000 sq mi) ở các bộ phận của bảy tiểu bang Hoa Kỳ và hai quốc gia Mexico. Trên sông này có kỳ quan thiên nhiên hẻm núi Grand Canyon. Sông cũng nổi tiếng với đập Hoover, đã từng có tên gọi là đập Boulder, là một đập vòm bê tông trọng lực trong Black Canyon của sông Colorado. Đầu nguồn của sông Colorado bao gồm 637.000 km² (246,000 sq mi) ở các bộ phận của bảy tiểu bang Hoa Kỳ và hai bang Mexico. Dòng chảy tự nhiên của con sông từ Continental Divide tại đèo La Poudretrong vườn quốc gia Rocky Mountain, tiểu bang Colorado, vào vịnh California giữa bán đảo Baja California và Trung Mexico. Được nắn dòng lớn để lấy nước cho thủy lợi, và một mức độ thấp hơn rất nhiều để cung cấp các thành phố kết hợp với những mất mát bay hơi đáng kể từ hồ chứa của nó đã làm giảm nước của hạ lưu sông của sông Yuma, AZ, trên đồng bằng châu thổ sông Colorado, kết quả là nó không còn nhất quán đến Vịnh California. Nhiều hơn 20 đập thủy điện lớn đã được xây dựng trên sông Colorado và các nhánh của nó. == Tham khảo ==
castricum.txt
Castricum là một đô thị ở tỉnh Noord-Holland của Hà Lan. Ngày 6 tháng 10 năm 1799, quân đội Pháp-Hà Lan dưới quyền chỉ huy của Guillaume Brune đã đánh bại quân Nga-Anh do Ralph Abercromby và Duke of York chỉ huy ở trận Castricum. Castricum là một trung tâm thu hút khách du lịch của tỉnh nhờ có bãi biển và hồ Alkmaar-Uitgeest. == Các trung tâm dân cư == Đô thị Castricum bao gồm các trung tâm dân cư sau: Castricum, Akersloot, Bakkum, De Woude, Limmen. == Tham khảo == Số liệu thống kê lấy từ SDU Staatscourant == Liên kết ngoài == Trang mạng chính thức của Castricum Bản đồ Castricum
icloud.txt
iCloud là một dịch vụ lưu trữ và điện toán đám mây của Apple Inc. hoạt động từ 12/10/2011. Tính đến tháng 2 năm 2016, dịch vụ có 782 triệu người dùng. Dịch vụ này cung cấp cho người sử dụng các công cụ lưu trữ dữ liệu như văn bản, hình ảnh, và âm nhạc trên các máy chủ từ xa để tải về cho các thiết bị iOS, Macintosh hoặc Windows, để chia sẻ và gửi dữ liệu cho người dùng khác, và để quản lý các thiết bị Apple của họ nếu bị mất hoặc bị đánh cắp. Dịch vụ này cũng cung cấp các phương tiện để sao lưu không dây các thiết bị iOS trực tiếp đến iCloud, thay vì phụ thuộc vào các bản sao lưu thủ công thông qua một máy tính Mac hay Windows sử dụng iTunes. người sử dụng dịch vụ cũng có thể chia sẻ hình ảnh, âm nhạc, và các trò chơi ngay lập tức bằng cách liên kết các tài khoản thông qua AirDrop không dây. Nó thay thế cho dịch vụ MobileMe của Apple, hoạt động như một trung tâm dữ liệu đồng bộ hóa cho email, danh bạ, lịch, đánh dấu, ghi chú, nhắc nhở (danh sách công việc phải làm), các tài liệu iWork, hình ảnh và các dữ liệu khác. Một trung tâm dữ liệu iCloud của Apple có trụ sở ở Maiden, North Carolina, Mỹ. Khởi động năm 2011, iCloud dựa trên Amazon Web Services và Microsoft Azure (Sách trắng Apple iOS Security được xuất bản năm 2014, Apple đã thừa nhận rằng các tập tin iOS mã hóa được lưu trữ trong Amazon S3 và Microsoft Azure). Năm 2016, Apple đã ký một thỏa thuận với Google để sử dụng Google Cloud Platform cho một số dịch vụ iCloud. Tháng 10/2016, Bloomberg loan tin Apple đã làm việc với dự án Pie nhằm cải thiện tốc độ và kinh nghiệm của các dịch vụ trực tuyến của Apple đang được vận hành trực tiếp bởi Apple. Ngoài ra nó đã được báo cáo rằng Apple sẽ chuyển nơi ở tất cả các nhân viên dịch vụ của mình đến Apple Campus (1 Infinite Loop, Cupertino, California), cũng như nhiều nhân viên khác sẽ được di chuyển đến Apple Campus 2. == Lịch sử == iCloud được công bố ngày 6/6/2011, tại Apple Worldwide Developers Conference (WWDC) 2011. Apple thông báo rằng MobileMe sẽ được ngưng sau ngày 30/6/2012, với những ai đã có một tài khoản trước khi ra mắt của iCloud dịch vụ MobileMe của họ kéo dài đến ngày đó, miễn phí. Website chính thức, www.icloud.com, hoạt động từ đầu tháng 8 cho Apple Developers. Ngày 12/10/2011, iCloud có sẵn cho người dùng thông qua một cập nhật iTunes. iCloud had 20 million users in less than a week after launch. Tên miền iCloud.com đăng ký nhãn hiệu đã được mua từ một công ty Thụy Điển Xcerion, và đổi tên dịch vụ của họ thành CloudMe. Apple bây giờ quản lý hầu hết các tên miền như iCloud.de, iCloud.fr và iCloud.es. Một vụ kiện của người dùng không hài lòng trong quá trình chuyển đổi từ MobileMe sang iCloud đã được nộp vào đầu tháng 5/2012. == Công bố == Đề cập chính thức đầu tiên về iCloud của Apple là vào ngày 31/5/2011, khi một thông cáo báo chí cho rằng họ sẽ cho ra mắt các dịch vụ tại WWDC ngày 6/6/2011. Một biểu ngữ treo tại Trung tâm Moscone tại WWDC tiết lộ logo iCloud năm ngày trước khi ra mắt chính thức Trong bài phát biểu phát biểu quan trọng tại WWDC 2011, Apple đã công bố iCloud sẽ thay thế dịch vụ MobileMe và dịch vụ iCloud cơ bản sẽ được miễn phí. == Tính năng == Hệ thống dựa trên đám mây cho phép người dùng lưu trữ âm nhạc không đồng nhất, hình ảnh, ứng dụng, tài liệu, bookmark, nhắc nhở, sao lưu, ghi chú, iBooks, và địa chỉ liên lạc, và cung cấp một nền tảng cho các máy chủ email và lịch của Apple. Các nhà phát triển bên thứ 3 có thể bổ sung các tính năng của iCloud vào các ứng dụng của họ thông qua iCloud API. === Sao lưu và khôi phục === iCloud cho phép người dùng sao lưu các cài đặt và dữ liệu trên các thiết bị iOS chạy iOS 5 trở lên. Dữ liệu sao lưu bao gồm ảnh và video trong Camera Roll, cài đặt thiết bị, dữ liệu ứng dụng, tin nhắn(iMessage, SMS, và MMS), nhạc chuông, và Visual Voicemails. Sao lưu diễn ra hàng ngày khi thiết bị bị khóa và kết nối Wi-Fi và bật nguồn. Trong trường hợp về một trục trặc của bất kỳ thiết bị Apple, trong quá trình phục hồi, iCloud cung cấp khôi phục lại tất cả các dữ liệu cùng với dữ liệu ứng dụng chỉ khi thiết bị được đồng bộ hóa với iCloud và sao lưu. === Back to My Mac === Back to My Mac, là một phần của MobileMe trước đây, bây giờ nó là một phần của iCloud. Như trước đây, dịch vụ này cho phép người dùng đăng nhập từ xa vào máy tính khác mà có Back to My Mac kích hoạt và được cấu hình với cùng Apple ID. === Email === Như với MobileMe (và .Mac và iTools trước nó), một tài khoản iCloud bao gồm một tài khoản email. Không giống MobileMe lần lặp lại trước đây của nó, một địa chỉ email là một phần tùy chọn của một tài khoản iCloud, trong đó người dùng có thể không sử dụng nó, nhưng vẫn có thể sử dụng email như ID Apple iCloud của họ. Các tài khoản email có thể được truy cập bằng cách sử dụng bất kỳ ứng dụng email tương thích với chuẩn IMAP, cũng như ứng dụng web mail của khách hàng trực tuyến tại iCloud.com. Ngoài ra, trên một thiết bị iOS, iCloud email là tự kích hoạt. Người dùng chuyển đổi tài khoản MobileMe có sẵn sang tài khoản iCloud vẫn giữ lại địa chỉ email "@me.com", và người dùng có tài khoản trước MobileMe được giữ lại cả hai địa chỉ email me.com và mac.com. Cũng giống với chuyển đổi.Mac sang MobileMe, người dùng hiện tại có được giữ địa chỉ cũ của mình và cũng có một địa chỉ iCloud.com mới phù hợp, vì vậy tin nhắn gửi đến một tài khoản hợp lệ với nhiều địa chỉ đều được đưa vào cùng hộp thư đến. === Find My Friends === Find My Friends là một tính năng mới được giưới thiệu tới iCloud trên iOS 5. Find My Friends rất giống với Find My iPhone, ngoại trừ người dùng có thể chia sẻ vị trí của mình với bạn bè hoặc gia đình sử dụng tính năng này. Đồng thời với việc ra mắt iOS 5, Apple đã phát hành một ứng dụng cho Find My Friends. iOS 6 thêm các cảnh báo dựa trên vị trí để thông báo cho người dùng khi một thiết bị tới một vị trí nhất định. Trong iOS 9 Find My Friends xây dựng trong các thiết bị và không thể được gỡ bỏ. Tháng 10/2015 Find My Friends được bổ sung vào iCloud.com để xem các vị trí của "bạn bè" khác. === Find My iPhone === Find My iPhone, là một phần của MobileMe, cho phép người dùng theo dõi vị trí của thiết bị iOS hoặc Mac của họ. Người dùng có thể thấy vị trí gần đúng của thiết bị trên bản đồ (cùng với một vòng tròn bán kính hiển thị sai số), hiển thị một thông báo và/hoặc phát một âm thanh trên thiết bị (kể cả khi nó được thiết lập để im lặng), thay đổi mật khẩu trên thiết bị, và xóa từ xa nội dung của nó. Các tính năng lần đầu tiên được công bố vào ngày 10/6/2009 và được đưa vào trong bản cập nhật cho iOS 3.0 như là một tính năng cho người dùng MobileMe trả phí. Find My iPhone đã được miễn phí cho các bản cập nhật phần mềm iOS 4.2.1 vào ngày 22/11/2010, nhưng chỉ cho các thiết bị được giới thiệu trong năm 2010. Một ứng dụng iOS cũng đã được phát hành bởi Apple vào ngày 18/6/2010, trong đó cho phép người dùng xác định vị trí thiết bị của họ từ các thiết bị iOS khác chạy iOS 4 hoặc cao hơn. Trong iOS 5, Find My iPhone được tiếp tục như một tính năng của iCloud. iOS 6 giới thiệu Lost Mode, một tính năng cho phép người dùng đánh dấu thiết bị là "bị mất", khiến dễ dàng hơn để bảo vệ và tìm kiếm. Tính năng này cũng cho phép một người nào đó tìm thấy iPhone bị mất gọi trực tiếp cho người dùng mà không cần mở khóa nó. Tương tự như các dịch vụ tìm điện thoại dưới tên khác nhau có sẵn cho các dòng smartphone khác. Activation Lock được giới thiệu năm 2013 với iOS 7. Nó được tích hợp với iCloud và tính năng Find My iPhone. Tính năng mới này khóa kích hoạt bất kỳ iPhone, iPad, iPod touch hoặc Apple watch đã được khôi phục trong DFU hoặc Recovery mode mà không cần tắt tính năng Find My iPhone. Khi khôi phục được hoàn thành, các thiết bị sẽ yêu cầu Apple ID và mật khẩu đã được gắn trước với nó, để tiến hành kích hoạt, sau cùng ngăn chặn bất kỳ thiết bị bị đánh cắp khỏi việc có thể bị sử dụng. Tính đến iOS 9, Find my iPhone là ứng dụng tích vào hệ thống, và do đó không thể gỡ bỏ. === iCloud Keychain === === iTunes Match === iTunes Match ra mắt vào ngày 14 /11/2011. Nó ban đầu có sẵn để chỉ cho người dùng Mỹ. Với một khoản phí hàng năm, khách hàng có thể quét và xem các bài hát trong thư viện iTunes âm nhạc của họ, bao gồm cả các bài hát sao chép từ CD hoặc các nguồn khác, với các bài hát trong iTunes Store, vì vậy khách hàng không cần phải mua lại nói bài hát. Khách hàng có thể tải lên tới 100.000 bài hát 256 kbit/s có định dạng AAC phù hợp với bài hát trong bất kỳ định dạng tập tin âm thanh được hỗ trợ trong thư viện iTunes, bao gồm ALAC và MP3. Khách hàng cũng có thể lựa chọn để giữ bản gốc của họ được lưu trữ trên máy tính của họ hoặc họ đã thay thế bằng bản sao từ iTunes Store. Bất kỳ bài nhạc không có sẵn trong iTunes Store sẽ được tải lên để download về các thiết bị hỗ trợ khác của khách hàng và máy tính; việc này sẽ không mất bộ nhớ từ lưu trữ iCloud của khách hàng. Bất kỳ bài hát được lưu trữ trong các Lossless Audio ALAC, định dạng nguyên gốc PCM, WAV và AIFF, are transcoded tsex được chuyển mã sang định dạng 256 kbit/s DRM-free AAC trước khi tải lên tài khoản lưu trữ iCloud của khách hàng, giữ lại các file chất lượng cao cục bộ ở định dạng ban đầu của chúng. === iCloud Drive === iCloud Drive là một dịch vụ lưu trữ file của iCloudcho các thiết bị chạy iOS 8, OS X Yosemite (phiên bản 10.10), hoặc Windows 7 hay mới hơn, cộng với truy cập ứng dụng web trực tuyến qua iCloud.com. Tính năng này cho phép người dùng lưu trữ bất kỳ loại tập tin, bao gồm cả hình ảnh, video, tài liệu, âm nhạc, và dữ liệu của ứng dụng khác, trong iCloud Drive và truy cập nó trên bất kỳ máy Mac, iPad, iPhone, iPod Touch, hoặc Windows PC. Người dùng có thể bắt đầu công việc của mình trên một thiết bị và tiếp tục trên một thiết bị khác. Theo mặc định, người dùng vẫn sẽ nhận được 5 GB dung lượng lưu trữ miễn phí như trước đây, nhưng các kế hoạch lưu trữ mở rộng có sẵn đã tăng lên đáng kể về kích thước (lên đến 2 TB của không gian) và thay đổi các tùy chọn thuê bao hàng tháng từ từng năm một được cung cấp được cung cấp cho các dịch vụ không iCloud Drive trước đây. == Yêu cầu hệ thống == Tạo tài khoản iCloud yêu cầu hoặc là một thiết bị iOS chạy iOS 5 trở lên hoặc một máy Mac chạy OS X Lion v10.7.5 hoặc mới hơn. Truy cập trực tuyến vào iCloud yêu cầu một trình duyệt web tương thích, và các tính năng nhất định là các yêu cầu tối thiểu về hệ điều hành của hệ thống. Ví dụ dùng iCloud Photo Sharing yêu cầu OS X Mavericks v10.9 hoặc ở trên vào một Mac. Thiết bị chạy phiên bản cũ của hệ điều hành MacOS (trước Mavericks) hoặc iOS (dưới 7) có thể không thể đăng nhập vào iCloud sau khi mật khẩu iCloud đã được thay đổi: chỉ có một giải pháp cho vấn đề này là để nâng cấp hệ điều hành, có thể là không thể trên một thiết bị không đáp ứng yêu cầu tối thiểu của hệ điều hành mới hơn '. Đồng bộ với PC yêu cầu Windows 7 hoặc mới hơn và dùng iCloud Control Panel, và tùy chọn Outlook 2007 hoặc mới hơn được tích hợp trong Windows 10 các ứng dụng Mail và Lịch để đồng bộ Lịch, danh bạ và Nhắc nhở. Người dùng phải sở hữu một thiết bị của Apple để thiết lập iCloud cho Windows. Đồng bộ bookmarks yêu cầu Safari 5.1.1 hoặc mới hơn trên macOS, và Internet Explorer 9, Firefox 22 hoạc Google Chrome 28 trên Windows. Người dùng tài khoản MobileMe có thể chuyển tài khoản của họ sang một tài khoản iCloud, giữ các thông tin tài khoản. == Chỉ trích == iCloud đã bị chỉ trích bởi các nhà phát triển bên thứ ba đối với các lỗi mà làm cho một số tính năng gần như không sử dụng được trên các phiên bản trước đó của iOS và MacOS, cụ thể việc sử dụng Core Data trong iCloud, để lưu trữ và đồng bộ một lượng lớn dữ liệu giữa các ứng dụng của bên thứ ba trên các thiết bị của người sử dụng. Các nhà phát triển bên thứ ba đã thông báo rằng những thay đổi được thực hiện trong việc phát hành iOS 7 và OS X Mavericks (phiên bản 10.9) giải quyết những lời chỉ trích iCloud. === Tranh chấp tên gọi === iCloud Communications, một công ty truyền thông ở Arizona, đã kiện Apple tháng 6/2011 cho vi phạm nhãn hiệu trong thời gian ngắn sau khi Apple công bố iCloud. Vụ kiện đã được nộp tại tòa án quận của bang Arizona và yêu cầu Apple ngừng sử dụng tên iCloud và bồi thường thiệt hại tiền tệ không xác định. iCloud Communications đổi tên thành Clear Digital Communications tháng 8/2011 và bỏ vụ kiện chống lại Apple ngay sau đó. === Riêng tư === Dịch vụ iCloud của Apple, bao gồm cả iCloud Drive và sao lưu thiết bị iOS, không cung cấp mã hóa end-to-end, còn được gọi là mã hóa phía khách hàng, và không có mã hóa end-to-end, thông tin của người sử dụng không được an toàn, vì nó vẫn còn dễ dàng truy cập trái phép. Tháng 8/2014, có tin đồn rằng tin tặc đã phát hiện ra một exploit liên quan đến các dịch vụ Find My iPhone,cho phép các hacker có thể tấn công brute-force một tài khoản Apple ID và truy cập dữ liệu iCloud của họ. Exploit này sau đó được cho là một phần của vụ rò rit một số lượng lớn thông tin cá nhân và ảnh nude của người nổi tiếng tháng 8/20014 được đồng bộ lên iCloud từ iPhone của họ. Apple xác nhận họ đã làm việc với các cơ quan thực thi pháp luật để điều tra sự rò rỉ. Apple sau đó đã phủ nhận rằng các dịch vụ iCloud tự họ hoặc các exploit phải chịu trách nhiệm về vụ rò rĩ, khẳng định rằng việc rò rỉ là kết quả của một cuộc tấn công lừa đảo có chủ đích chống lại các nhân vật nổi tiếng. Ngày 13/9/2014 Tim Cook, khi được phỏng vấn bởi Charlie Rose, tuyên bố rằng việc rò rỉ người nổi tiếng không phải là một exploit của iCloud ở tất cả, mà là những người nổi tiếng đã bị tấn công lừa đảo có chủ đích để lừa họ đưa ra các thông tin đăng nhập của họ. Sau đó, khi công bố Apple Pay, CEO của Apple Tim Cook công bố một loạt biện pháp để tăng cường an ninh bao gồm cả việc thúc đẩy nâng cao nhận thức của quá trình xác thực hai bước của họ. === Mất dữ liệu === Một lỗi trên iCloud Drive có thể dẫn đến mất dữ liệu. Ví dụ, di chuyển một tập các file từ iCloud Drive nếu chúng chưa được đồng bộ thì có thể sẽ cho kết quả là chúng bị mất. == Xem thêm == So sánh các dịch vụ lưu trữ file Google Drive Dropbox Microsoft Azure == Chú thích == == Liên kết ngoài == Website chính thức iCloud tại Apple iCloud login guide
texas instruments.txt
Texas Instruments (thường được viết tắt là TI) là một trong những tập đoàn lớn nhất Hoa Kỳ, đặt trụ sở tại Dallas, Texas và tại châu Âu có trụ sở chính tại Freising, gần München, Đức. TI sản xuất chất bán dẫn, phụ tùng máy điện toán và bàn tính. Hai trong những ngành công nghiệp mũi nhọn của TI hiện nay là sản xuất những sản phẩm DLP (Digital Light Processing, một kỹ thuật sử dụng trong công nghệ sản xuất truyền hình) và bộ vi xử lý DSP (Digital signal processors). TI được thành lập bởi Cecil H. Green, Jon Erik Jonsson, Eugene McDermott và Henry Bates Peacock vào ngày 6 tháng 12 năm 1941. Ngày 18 tháng 10 năm 1954, công ty thông báo sản xuất chiếc máy phát thanh (radio) transistor đầu tiên. 1958, bộ vi mạch đầu tiên được Jack S. Kilby của TI phát triển. Trong lĩnh vực vũ khí quân sự, TI cũng rất thành công, Ví dụ như sản xuất tên lửa AGM-88 HARM và các loại radar. Năm 1997, TI sang nhượng bộ phận sản xuất quân sự cho Raytheon Corporation. == Lịch sử == Texas Instruments được thành lập bởi Cecil H. Green, J. Erik Jonsson, Eugene McDermott, và Patrick E. Haggerty in 1951. McDermott là một trong những nhà sáng lập ban đầu của Geophysical Service Inc. (GSI) năm 1930. McDermott, Green, và Jonsson là nhân viên của GSI đã mua lại công ty năm 1941. Vào tháng 11 năm 1945, Patrick Haggerty đã được thuê làm giám đốc bộ phận Sản xuất và Thí nghiệm (L&M), tập trung vào các thiết bị điện tử. Tới năm 1951, bộ phận L&M, với các hợp đồng quốc phòng, đã phát triển nhanh hơn bộ phận Geophysical của GSI. Công ty được tái cấu trúc và đổi tên thành General Instruments Inc. Bởi vì đã có công ty tên General Instrument, nên công ty được đổi tên thành Texas Instruments trong cùng năm. Từ năm 1956 đến năm 1961, Fred Agnich của Dallas, sau đó là thành viên Đảng Cộng Hòa của Hạ viện Texas, là chủ tịch của Texas Instruments. Geophysical Service, Inc. trở thành công ty con của Texas Instruments. Đầu năm 1988 hầu hết GSI được bán cho công ty Halliburton. Texas Instruments tồn tại để tạo ra, sản xuất và quảng bá các sản phẩm và dịch vụ hữu ích để đáp ứng nhu cầu của khách hàng trên toàn thế giới. – Patrick Haggerty, Tuyên bố về Mục đích của Texas Instruments == Các bộ phận == Ngày nay, TI được tạo nên từ bốn bộ phận: sản phẩm analog, bộ xử lý nhúng (EP), xử lý ánh sáng kĩ thuật số (DLP), và công nghệ giáo dục (ET). === Sản phẩm analog === === Xử lý nhúng === === Doanh nghiệp khác === == Chú thích ==
dãy appalachian.txt
Dãy Appalachian (phát âm như "A-pa-lấy-sân" hay "A-pa-lát-chân"; tiếng Pháp: les Appalaches) là dãy núi khá rộng ở Bắc Mỹ, có phần ở Canada nhưng phần lớn ở Hoa Kỳ. Nó tạo thành một đới có bề ngang từ 150 đến 500 kilômét (100–300 dặm), từ đảo Newfoundland (Canada) nó kéo dài khoảng 2.500 km về phía tây nam tới miền Trung Alabama (Mỹ), cũng có chân núi ở miền đông bắc Mississippi, nếu chỉ tính đất liền thì phía bắc của nó ở bán đảo Gaspé, Québec. Dãy này được chia thành nhiều vùng núi, các núi nói riêng có độ cao trung bình là khoảng 900 mét (3.000 foot). Núi cao nhất trong dãy là núi Mitchell ở Bắc Carolina (2.037 m hay 6.684 foot), đó là nơi cao nhất ở nước Mỹ về phía đông của sông Mississippi, cũng như là nơi cao nhất ở phía đông bắc Mỹ. Tên Appalachia có thể chỉ đến một số vùng khác nhau ở dãy núi này. Theo định nghĩa rộng nhất, nó chỉ đến cả dãy núi, các đồi chung quanh, và hai vùng cao nguyên. Tuy nhiên, tên này được sử dụng hạn chế hơn để chỉ đến những vùng ở phía trung và nam của dãy Appalachian, thường bao gồm các tiểu bang Kentucky, Tennessee, Virginia, Tây Virginia, và Bắc Carolina; đôi khi nó bao gồm miền Bắc Georgia và miền Tây Nam Carolina về phía nam, Pennsylvania về phía bắc, và miền Đông Nam Ohio về phía tây. == Tên gọi == Khi đoàn thám hiểm Álvar Núñez Cabeza de Vaca đi dọc bờ biển Florida năm 1528, họ kiếm thấy một thị xã thổ dân và ghi xuống tên thị xã là Apalachen [a.paˈla.tʃɛn]. Tên và cách phát âm này chỉ đến người Apalachee, cũng như một vịnh gần đấy (ngày nay là vịnh Apalachee), sông Apalachicola và vịnh Apalachicola, và thành phố dưới tên Apalachicola, Florida. Từ "Apalachen" cũng chỉ đến một vùng núi nội địa, và từ từ nó bắt đầu chỉ đến cả dãy núi và người ta bắt đầu đánh vần nó là "Appalachian". Có vài cách phát âm tên "Appalachia". Người miền Nam Hoa Kỳ thường đọc /æpə'lætʃʲə/ (như "A-pa-lát-cha"), còn những người khác, nhất là từ miền đông bắc, thường đọc /æpə'leɪʃʲə/ ("A-pa-lấy-sa"). [1] == Tham khảo == Topographic maps and Geologic Folios of the United States Geological Survey Bailey Willis, The Northern Appalachians, and C. W. Hayes, The Southern Appalachians, both in National Geographic Monographs, vol. i. chaps, iii., iv. and v. of Miss E. C. Semple's American History and its Geographic Conditions (Boston, 1903). == Đọc thêm == Brooks, Maurice (1965), The Appalachians: The Naturalist's America; illustrated by Lois Darling and Lo Brooks. Boston; Houghton Mifflin Company. Caudill, Harry M. (1963), Night Comes to the Cumberlands. ISBN 0-316-13212-8. Constantz, George (2004), Hollows, Peepers, and Highlanders: an Appalachian Mountain Ecology (2nd edition). West Virginia University Press; Morgantown. 359 p. Weidensaul, Scott (2000), Mountains of the Heart: A Natural History of the Appalachians. Fulcrum Publishing, 288 pages, ISBN 1-55591-139-0. Appalachian flora and fauna-related journals: Castanea, the journal of the Southern Appalachian Botanical Society. Banisteria, a journal devoted to the natural history of Virginia. The Journal of the Torrey Botanical Society. == Liên kết ngoài == Appalachian/Blue Ridge Forests images at bioimages.vanderbilt.edu (slow modem version) Appalachian Mixed Mesophytic Forests images at bioimages.vanderbilt.edu (slow modem version) Appalachian Tectonics Study Group Forests of the Central Appalachians Project Detailed inventories of forest species at dozens of sites.
1454.txt
Năm 1454 là một năm trong lịch Julius. == Sự kiện == == Sinh == == Mất == == Tham khảo ==
viện công nghệ massachusetts.txt
Viện Công nghệ Massachusetts (tiếng Anh: Massachusetts Institute of Technology hay MIT - đọc là em ai ti) là một viện đại học nghiên cứu tư thục ở thành phố Cambridge, bang Massachusetts, Hoa Kỳ. MIT nổi tiếng nhờ hoạt động nghiên cứu và giáo dục trong các ngành khoa học vật lý, kỹ thuật, cũng như trong các ngành sinh học, kinh tế học, ngôn ngữ học, và quản lý. MIT được thành lập vào năm 1861 nhằm đáp ứng nhu cầu công nghiệp hóa của Hoa Kỳ, dựa trên mô hình viện đại học bách khoa (polytechnic university) và nhấn mạnh đến việc giảng dạy trong phòng thí nghiệm. MIT ban đầu nhấn mạnh đến các ngành công nghệ ứng dụng ở bậc đại học và sau đại học, và chính điều này giúp thiết lập sự hợp tác gần gũi với các công ty công nghiệp. Những cải cách chương trình học dưới thời các Viện trưởng Karl Compton và Vannevar Bush trong thập niên 1930 nhấn mạnh các ngành khoa học cơ bản. MIT được kết nạp vào Hiệp hội Viện Đại học Bắc Mỹ vào năm 1934. Các nhà nghiên cứu ở MIT nghiên cứu và thiết kế máy tính, radar, và hệ thống định vị trong suốt Chiến tranh thế giới thứ hai và thời Chiến tranh lạnh. Hoạt động nghiên cứu quốc phòng thời hậu chiến đã đóng góp vào sự gia tăng nhanh chóng số lượng giảng viên và sự phát triển của khuôn viên viện đại học dưới thời Viện trưởng James Killian. Khuôn viên hiện tại rộng 168 mẫu Anh (68,0 ha) mở cửa vào năm 1916 và mở rộng hơn 1 dặm (1,6 km) dòng theo bờ bắc con sông Charles. Ngày nay MIT bao gồm nhiều khoa học thuật khác nhau, nhấn mạnh đến nghiên cứu và giáo dục trong các lĩnh vực khoa học, kỹ thuật, và công nghệ. MIT có năm trường (Trường Khoa học, Trường Kỹ thuật, Trường Kiến trúc và Quy hoạch, Trường Quản lý, và Trường Nhân văn, Nghệ thuật, và Khoa học Xã hội) và một trường đại học (Trường Đại học Khoa học và Công nghệ Y tế), bao gồm tổng cộng 32 khoa. Viện đại học này có 81 người được giải Nobel, 52 người nhận Huân chương Khoa học Quốc gia (National Medal of Science), 45 Học giả Rhodes (Rhodes Scholars), và 38 Học giả MacArthur (MacArthur Fellows). MIT là một trong những cơ sở giáo dục bậc cao có tiêu chuẩn tuyển chọn sinh viên khắt khe nhất; chẳng hạn, khóa sẽ tốt nghiệp vào năm 2016 có 1.620 sinh viên được tuyển chọn từ 18.109 thí sinh, như vậy tỷ lệ được nhận vào chỉ 8.95%. == Lịch sử == === Sự hình thành và tầm nhìn === Năm 1859, đề xuất sử dụng khu đất mới san bằng ở Back Bay, Boston, để xây một "Viện Kỹ nghệ và Khoa học" (Conservatory of Art and Science) đã được gởi đến Cơ quan Lập pháp Massachusetts nhưng không được chấp thuận. Năm 1861, William Barton Rogers đề xuất thành lập Viện Công nghệ Massachusetts thì được chấp thuận, và thống đốc John Albion Andrew của bang Massachusetts ký quyết định thành lập vào ngày 10 tháng 4 năm 1861. Rogers muốn thiết lập một cơ sở giáo dục nhằm đáp ứng những tiến bộ nhanh chóng trong khoa học và công nghệ. Ông không muốn thành lập một trường chuyên nghiệp (professional school), mà muốn tạo ra một sự kết hợp bao gồm yếu tố giáo dục khai phóng và giáo dục chuyên nghiệp, cho rằng "Đối tượng thực sự và duy nhất mang tính thực tiễn của một trường bách khoa (polytechnic school) là, như tôi thấy, sự giảng dạy không chỉ những chi tiết vụn vặt và những thao tác kỹ thuật vốn chỉ có thể thực hiện trong xưởng thực hành mà còn khắc sâu những nguyên lý khoa học hình thành nên cơ sở và lời giải thích cho những chi tiết và thao tác đó, và cùng với nó, một sự xem xét đầy đủ và có phương pháp tất cả những quá trình và hoạt động chủ đạo của chúng trong liên hệ với các định luật vật lý." Kế hoạch của Rogers phản ánh mô hình viện đại học nghiên cứu của Đức, nhấn mạnh đến một tập thể giáo sư độc lập với hoạt động nghiên cứu và giảng dạy diễn ra quanh các buổi xê-mi-na và trong phòng thí nghiệm. === Những phát triển ban đầu === Chỉ hai ngày sau khi quyết định thành lập MIT được ký, Nội chiến Hoa Kỳ bùng nổ. Sau một thời gian dài trì hoãn, những lớp học đầu tiên của MIT diễn ra ở Tòa nhà Mercantile ở Boston năm 1865. Viện công nghệ này có sứ mệnh phù hợp với ý định của Luật Morill năm 1862 nhằm hỗ trợ các cơ sở giáo dục "nhằm thúc đẩy giáo dục khai phóng và thực hành trong các tầng lớp kỹ nghệ," và là một trường được cấp đất (land-grant school). Năm 1866, tiền thu được từ việc bán đất được sử dụng để xây những tòa nhà mới ở vùng Back Bay. MIT từng được gọi một cách không chính thức là "Boston Tech". Viện công nghệ này được xây dựng theo mô hình viện đại học bách khoa của châu Âu và lúc ban đầu nhấn mạnh đến việc giảng dạy thực hành. Sau một khoảng thời gian có nhiều bất ổn về tài chính, MIT phát triển mạnh trong hai thập niên cuối thế kỷ 19 dưới thời Viện trưởng Francis Amasa Walker. Các chương trình trong các ngành kỹ thuật điện, hóa, hàng hải, và y tế được mở ra, các tòa nhà mới được xây dựng, và số lượng sinh viên tăng lên thành hơn một ngàn. Chương trình học trở nên có tính chất dạy nghề hơn, ít tập trung vào khoa học lý thuyết. Trong những năm thường được gọi với tên "Boston Tech" này, tập thể giảng viên và các cựu sinh viên của MIT đã cự tuyệt quyết tâm của Charles W. Eliot, viện trưởng của Viện Đại học Harvard và là cựu giảng viên của MIT, nhiều lần muốn hợp nhất MIT với Trường Khoa học Lawrence (Lawrence Scientific School) của Harvard. Năm 1916, MIT chuyển đến khuôn viên mới nằm trên một dải đất dài một dặm dọc theo sông Charles ở phía thành phố Cambridge, một phần trước đây là đất ngập nước. Khu khuôn viên theo kiến trúc tân cổ điển do William W. Bosworth thiết kế và được tài trợ chủ yếu từ những khoản đóng góp nặc danh từ một người có tên bí ẩn "Ông Smith." Gần 80 năm sau lần đóng góp đầu tiên, người ta phát hiện ra "Ông Smith" chính là nhà công nghiệp George Eastman. Trong thời gian 80 năm này, George Eastman tặng 20 triệu đô-la bằng tiền mặt và bằng cổ phiếu của công ty Kodak cho MIT. === Những cải cách chương trình học === Trong thập niên 1930, Viện trưởng Karl Taylor Compton và Phó viện trưởng (phụ trách học thuật) Vannevar Bush nhấn mạnh tầm quan trọng của các ngành khoa học thuần túy như vật lý và hóa học, và do đó giảm bớt thời gian học tập trong các xưởng thực hành. Những cải cách của Compton "đã giúp khôi phục và thúc đẩy sự tự tin ở khả năng MIT sẽ dẫn đầu trong khoa học cũng như trong kỹ thuật." Không giống như những trường khác thuộc nhóm Ivy League, MIT hướng nhiều hơn đến các gia đình trung lưu, dựa vào học phí nhiều hơn là những khoản hiến tặng hay tài trợ. MIT được kết nạp vào Hiệp hội Viện Đại học Bắc Mỹ vào năm 1934. Tuy vậy, cho đến tận năm 1949, Ủy ban Lewis (Lewis Committee) vẫn than vãn trong báo cáo của mình về tình trạng giáo dục ở MIT rằng "nhiều người xem viện công nghệ này về cơ bản vẫn là một trường dạy nghề," một quan điểm mà ủy ban này cho là "hơi thiếu thỏa đáng" và muốn thay đổi. Bản báo cáo xem xét toàn diện chương trình học bậc đại học, đề xuất một chương trình giáo dục rộng hơn, và cảnh báo việc để các ngành kỹ thuật và các chương trình nghiên cứu do chính phủ tài trợ làm chệch hướng khỏi các ngành khoa học và nhân văn. Trường Nhân văn, Nghệ thuật, và Khoa học Xã hội (School of Humanities, Arts, and Social Sciences) và Trường Quản lý Sloan (Sloan School of Management) được thành lập vào năm 1950 để cạnh tranh với hai trường hùng mạnh mà MIT đang có vào lúc đó: Trường Khoa học (School of Science) và Trường Kỹ thuật (School of Engineering). Những tập thể giảng viên trước đây trong những lĩnh vực không được xem trọng như kinh tế, quản lý, khoa học chính trị, và ngôn ngữ học nay hợp thành những khoa hoàn chỉnh và đầy tự tin bằng cách thu hút những vị giáo sư đáng kính và mở ra những chương trình sau đại học có tính cạnh tranh. Trường Nhân văn, Nghệ thuật, và Khoa học Xã hội tiếp tục phát triển dưới các nhiệm kỳ liên tiếp của các viện trưởng Howard W. Johnson và Jerome Wiesner từ 1966 đến 1980, hai nhà lãnh đạo có xu hướng ưu ái các ngành nhân văn. === Nghiên cứu quốc phòng === Sự can dự của MIT vào nghiên cứu quân sự bùng nổ trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Năm 1941, Vannevar Bush được bổ nhiệm đứng đầu Phòng Nghiên cứu Khoa học và Phát triển của liên bang và đã phân bổ các khoản tài trợ đến chỉ một nhóm viện đại học được chọn, trong đó có MIT. Các kỹ sư và nhà khoa học từ khắp nước hội tụ về Phòng Thí nghiệm Bức xạ (Radiation Laboratory) của MIT, được thiết lập vào năm 1940 nhằm giúp quân đội Anh phát triển radar có bước sóng micromét. Công trình thực hiện ở đây đã có tác động đáng kể lên cuộc chiến và hoạt động nghiên cứu sau đó trong lĩnh vực nghiên cứu này. Những công trình nghiên cứ phục vụ quốc phòng khác bao gồm những hệ thống điều khiển dựa trên con quay hồi chuyển và những hệ thống phức tạp khác cho thiết bị ngắm của súng, thiết bị định vị để thả bom, và thiết bị định hướng quán tính, thực hiện ở Phòng Thí nghiệm Công cụ (Instrumentation Laboratory) do Charles Stark Draper sáng lập và điều hành.; phát triển máy tính kỹ thuật số dùng trong mô phỏng chuyến bay, trong Dự án Whirlwind (Project Whirlwind); và thiết bị chụp ảnh từ cao và ở tốc độ cao, do Harold Edgerton nghiên cứu. Vào cuối cuộc chiến, MIT trở thành nhà thầu lớn nhất nước về nghiên cứu và phát triển trong thời chiến (khiến Bush có vài lời chỉ trích), thuê gần 4000 người làm việc trong Phòng Thí nghiệm Bức xạ và nhận hơn 100 triệu đô-la ($1,2 tỷ đô-la tính theo giá trị đồng đô-la năm 2012) trước năm 1946. Các công trình quốc phòng vẫn được tiếp tục sau đó. Nghiên cứu do chính phủ tài trợ sau chiến tranh ở MIT bao gồm hệ thống môi trường mặt đất bán tự động (SAGE) và hệ thống dẫn đường cho tên lửa đạn đạo và Dự án Apollo. Những hoạt động này ảnh hưởng MIT một cách sâu sắc. Một báo cáo năm 1949 lưu ý việc "không có dấu hiệu chậm lại nào trong đời sống ở Viện công nghệ" đánh dấu hòa bình trở lại, hoài niệm "sự thanh bình học thuật của những năm trước chiến tranh", mặc dù ghi nhận những đóng góp đáng kể của hoạt động nghiên cứu quân sự lên việc nhấn mạnh hơn vào giáo dục sau đại học và sự gia tăng nhanh chóng nhận lực và cơ sở vật chất. Thực sự số lượng giảng viên đã tăng gấp đôi và số lượng sinh viên đã tăng gấp bốn lần trong các nhiệm kỳ của Karl Taylor Compton, viện trưởng của MIT từ năm 1930 đến 1948, James Rhyne Killian, viện trưởng từ năm 1948 đến 1957, và Julius Adams Stratton, viện trưởng từ năm 1952 đến 1957, những người đã định hình sự phát triển của viện đại học. Đến thập niên 1950, MIT không còn là nơi chỉ mang lại lợi ích cho các công ty công nghiệp mà nó đã có quan hệ gần gũi trong suốt ba thập niên trước đó, mà còn gần gũi hơn với những tổ chức bảo trợ mới của mình, những quỹ thiện nguyện và chính phủ liên bang. Cuối thập niên 1960 và đầu thập niên 1970, những nhà hoạt động là sinh viên và giảng viên phản đối Chiến tranh Việt Nam và hoạt động nghiên cứu quốc phòng của MIT. Liên đoàn các nhà khoa học có quan tâm (Union of Concerned Scientists) được thành lập vào ngày 4 tháng 3 năm 1969 trong một cuộc họp của giảng viên và sinh viên nhằm chuyển sự nhấn mạnh từ nghiên cứu quân sự sang các vấn đề môi trường và xã hội. MIT cuối cùng đã giảm đầu tư cho Phòng Thí nghiệm Bức xạ và chuyển tất cả các nghiên cứu mật sang cơ sở Phòng Thí nghiệm Lincoln (Lincoln Laboratory) nằm ngoài khuôn viên của MIT vào năm 1973 nhằm đáp lại những hoạt động phản đối, từ đó tập thể sinh viên, giảng viên, và ban lãnh đạo MIT tương đối ít chia rẽ trong suốt thời kỳ xáo trộn xảy ra ở nhiều viện đại học khác. === Lịch sử gần đây === MIT đã đồng hành với và giúp thúc đẩy thời đại kỹ thuật số. Ngoài việc có những phát triển mở đường cho tính toán hiện đại và công nghệ mạng máy tính, sinh viên, nhân viên, và giảng viên ở Dự án MAC (Project MAC), Phòng Thí nghiệm Trí tuệ Nhân tạo (Artificial Intelligence Laboratory hay AI Lab), và Tech Model Railroad Club đã viết một số những chương trình trò chơi tương tác đầu tiên như Spacewar! và tạo ra phần lớn những từ lóng và văn hóa hacker hiện đại. Một số tổ chức quan trọng liên quan đến máy tính ra đời ở MIT từ thập niên 1980: GNU Project và sau đó là Free Software Foundation đều do Richard Stallman lập ra ở AI Lab vào giữa thập niên 1980; MIT Media Lab do Nicholas Negroponte và Jerome Wiesner thành lập vào năm 1985 nhằm thúc đẩy nghiên cứu những cách sử dụng mới mẽ công nghệ máy tính; tổ chức phát triển các tiêu chuẩn World Wide Web Consortium được Tim Berners-Lee thành lập ở Phòng Thí nghiệm Khoa học Máy tính MIT vào năm 1994; dự án OpenCourseWare giúp đưa lên mạng tài liệu khóa học của hơn 2.000 lớp học ở MIT để mọi người truy cập miễn phí từ năm 2002; và dự án "Một máy tính xách tay cho mỗi trẻ em" (One Laptop per Child) nhằm mở rộng việc giáo dục máy tính và sự kết nối cho trẻ em trên khắp thế giới được triển khai từ năm 2005. MIT được gọi là "sea-grant college" vào năm 1976 nhằm hỗ trợ những chương trình nghiên cứu của MIT trong các lĩnh vực hải dương học và khoa học hàng hải, và được gọi là "space-grant college" vào năm 1989 nhằm hỗ trợ các chương trình nghiên cứu hàng không và du hành vũ trụ. Mặc dù sự hỗ trợ tài chính của chính phủ đã suy giảm trong hơn một phần tư thế kỷ qua, MIT đã thực hiện một số chiến dịch gây quỹ thành công để mở rộng đáng kế khuôn viên của mình: những khu cư xá và những tòa nhà thể thao mới ở khu phía tây khuôn viên; tòa nhà Trung tâm Giáo dục Quản lý Tang (Tang Center for Management Education); một số tòa nhà ở góc đông bắc khuôn viên hỗ trợ nghiên cứu sinh học, các ngành khoa học não bộ và nhận thức, genomics, công nghệ sinh học, và nghiên cứu ung thư; và một số tòa nhà mới nằm dọc đường Vassar bao gồm Trung tâm Stata (Stata Center). Việc xây dựng trong thập niên 2000 bao gồm sự mở rộng tòa nhà Media Lab, khu phía đông khuôn viên của Trường Quản lý Sloan, và những cư xá cho sinh viên sau đại học ở phía tây bắc khuôn viên. Năm 2006, Viện trưởng Hockfield thành lập Ủy ban Nghiên cứu Năng lượng (MIT Energy Research Council) nhằm nghiên cứu những thách thức mang tính liên ngành do việc sử dụng năng lượng toàn cầu ngày càng gia tăng mang lại. == Các trường thành viên == MIT có năm trường (school) và một trường đại học (college): Trường Khoa học (School of Science), gồm có sáu khoa (Sinh học, Não bộ và các ngành khoa học nhận thức, Hóa học, Các ngành khoa học về khí quyển Trái Đất và hành tinh, Toán học, và Vật lý) cùng nhiều trung tâm và phòng thí nghiệm trực thuộc. Trường Khoa học hiện có khoảng 300 giảng viên, 1200 sinh viên sau đại học, và 1000 sinh viên đại học. Đây là trường lớn thứ hai ở MIT. Trường có 16 giảng viên và 16 cựu sinh viên của trường đã được Giải Nobel. Trường Kỹ thuật (School of Engineering), gồm có tám khoa (Hàng không và vũ trụ, Kỹ thuật sinh học, Kỹ thuật hóa học, Kỹ thuật môi trường và xây dựng, Kỹ thuật điện và khoa học máy tính, Khoa học và kỹ thuật vật liệu, Kỹ thuật cơ khí, Khoa học và kỹ thuật hạt nhân), một phân khoa liên ngành (Kỹ thuật các hệ thống công nghiệp), và nhiều trung tâm và phòng thí nghiệm trực thuộc khác. Đây là trường lớn nhất ở MIT. Trường Kiến trúc và Quy hoạch (School of Architecture and Planning), gồm có năm đơn vị thành viên chính: Khoa Kiến trúc, Khoa Nghiên cứu và Quy hoạch Đô thị, Media Lab, Trung tâm Bất động sản, và Chương trình Nghệ thuật, Văn hóa, và Công nghệ; ngoài ra trường còn có các trung tâm trực thuộc khác. Trường Quản lý Sloan (Sloan School of Management). Đây là trường kinh doanh của MIT. Trường Nhân văn, Nghệ thuật, và Khoa học Xã hội (School of Humanities, Arts, and Social Sciences), bao gồm 13 khoa và chương trình, trong đó có các ngành Nhân học, Truyền thông học so sánh, Kinh tế học, Ngôn ngữ và văn học nước ngoài, Lịch sử, Ngôn ngữ học, Triết học, Văn học, Âm nhạc, Nghệ thuật sân khấu, Khoa học chính trị, Khoa học Công nghệ và Xã hội, v.v... Trường Đại học Khoa học và Công nghệ Y tế Whitaker (Whitaker College of Health Sciences and Technology). == Hoạt động học thuật == MIT là một viện đại học nghiên cứu có quy mô lớn, phần lớn là nội trú, với đa số sinh viên theo học các chương trình sau đại học và chuyên nghiệp. Viện đại học này đã được Hiệp hội các trường và trường đại học New England (New England Association of Schools and Colleges) kiểm định từ năm 1929. MIT hoạt động theo lịch học 4–1–4, theo đó học kỳ mùa thu bắt đầu sau Lễ Lao động (ngày thứ Hai đầu tiên của tháng 9 hàng năm) và kết thúc vào giữa tháng 12, trong tháng 1 có một giai đoạn kéo dài 4 tuần gọi là "Giai đoạn của các hoạt động độc lập", rồi học kỳ mùa xuân bắt đầu vào đầu tháng 2 và kết thúc vào cuối tháng 5. === Chương trình đại học === MIT có các chương trình đại học toàn thời gian, học 4 năm, trong các ngành chuyên nghiệp, khai phóng, và khoa học. Các chương trình này tuyển chọn sinh viên khắt khe, chỉ nhận 9.7% trong số các thí sinh nộp đơn xin học trong mùa tuyển sinh 2010-2011, và nhận rất ít sinh viên chuyển trường. Năm trường của MIT trao 44 loại bằng cấp bậc đại học khác nhau. Trong năm học 2010–2011, MIT trao 1,161 bằng cử nhân (bachelor of science, viết tắt là SB), đây là bằng cấp duy nhất mà MIT trao ở bậc đại học. Trong học kỳ mùa thu năm 2011, trong số các sinh viên đã chọn chuyên ngành chính, Trường Kỹ thuật là đơn vị có đông sinh viên nhất, chiếm 62.7% sinh viên, Trường Khoa học theo sau với 28.5%, Trường Nhân văn, Nghệ thuật, và Khoa học Xã hội 3.7%, Trường Quản lý Sloan 3.3%, và Trường Kiến trúc và Quy hoạch 1.8%. === Chương trình sau đại học === Khác với hầu hết các trường đại học trên thế giới, tại MIT, số lượng sinh viên sau đại học nhiều hơn sinh viên đại học (chiếm khoảng 60% tổng số sinh viên). Nhiều chương trình sau đại học được xếp trong số 10 chương trình hàng đầu của toàn nước Mỹ. Các sinh viên sau đại học của MIT có thể làm tiến sĩ (Doctor of Philosophy hay Ph.D. và Doctor of Science hay Sc.D.), thạc sĩ khoa học (Master of Science hay M.Sc.), thạc sĩ kỹ thuật (Master of Engineering hay M.Eng.), thạc sĩ kiến trúc (Master of Architecture hay M.Arch.), thạc sĩ quản trị kinh doanh (Master of Business Administration hay MBA) tùy thuộc vào ngành học. == Chú thích == == Liên kết ngoài == MIT. Trang mạng của MIT. MyMIT. Trang mạng dành cho những người muốn vào học MIT.
thanh lam.txt
Thanh Lam (sinh ngày 19 tháng 6 năm 1969 tại Hà Nội) tên đầy đủ là Đoàn Thanh Lam, là một ca sĩ người Việt Nam. Thanh Lam sở hữu một giọng nữ trung (Mezzo vocal) đầy nội lực, kỹ thuật thanh nhạc tốt, với đa dạng trong phong cách âm nhạc. Cô là một trong bốn diva Việt Nam. Thanh Lam là người mở đường, định hướng cho nền nhạc nhẹ Việt Nam từ đầu thập niên 90. Cô có ảnh hưởng đến những thế hệ ca sĩ thành danh sau này như Mỹ Linh, Đàm Vĩnh Hưng, Trần Thu Hà, Tùng Dương, Hoàng Quyên. Thanh Lam cũng là ca sĩ tự do đầu tiên được Nhà nước phong danh hiệu Nghệ sĩ ưu tú. == Tiểu sử và sự nghiệp == Thanh Lam sinh ra trong một gia đình nghệ thuật. Cô là con gái của nhạc sĩ Thuận Yến và nghệ sĩ nhạc dân tộc Thanh Hương. Từ lúc lên 3 tuổi, Thanh Lam đã được người cha dạy hát và nghe đàn piano. Bảy tuổi người mẹ dạy cho cô chơi đàn thập lục, tập hát các bài dân ca Việt Nam. Năm 9 tuổi (1978) Thanh Lam được tuyển chọn vào Nhạc viện Hà Nội theo học môn đàn tỳ bà hệ 11 năm, đồng thời tham gia ca hát trong đội "Chim sơn ca" của Đài Tiếng nói Việt Nam và đội Họa Mi Cung Văn hóa Thiếu nhi Hà Nội. Năm 1981 (12 tuổi), Thanh Lam một mình đi dự Festival thiếu nhi ở Đức. Nhạc sĩ Thuận Yến từng chia sẻ về chuyến đi này: "Cháu đứng trên sân khấu vừa đánh đàn guitar vừa hát bài Mặt trời và ánh lửa của nhạc sĩ Trần Long Ẩn. Lam không học guitar mà vẫn chơi được". Năm 1984, Thanh Lam tham gia biểu diễn tại Festival Thanh Niên thế giới 1984. Năm 1985, Thanh Lam dừng việc học đàn tỳ bà, chuyển sang học thanh nhạc tại Nhạc viện Hà Nội. Ðây là một bước ngoặt quan trọng có tính chất quyết định cho con đường nghệ thuật của cô sau này. Song song việc học, Thanh Lam cùng với ca sĩ Thái Bảo thành lập nhóm nhạc Bồ câu trắng đi biểu diễn khắp nơi (từ năm 1985 đến năm 1987). Ngoài ra, khoảng thời gian từ năm 1985 đến 1991, Thanh Lam là ca sĩ của Đoàn ca múa nhạc nhẹ Trung ương, cô đã cùng đoàn đi biểu diễn ở nhiều nơi, nhiều nước trên thế giới như: Ðức, Nga, Bungari, Trung Quốc, Cuba, Hà Lan, Hungary và Rumani. Năm 1986, cô tham dự liên hoan Ca khúc chính trị tại Berlin và với bài hát "Mặt trời và ánh lửa" Thanh Lam đã đoạt giải nhất, bài hát được ghi âm và phát hành ngay tại liên hoan. Năm 1989, Thanh Lam đoạt giải thưởng "Ca sĩ được yêu thích nhất" tại Festival âm nhạc Lahavan (Cuba). Năm 1991, Thanh Lam đoạt giải thưởng lớn cuộc thi Đơn ca nhạc nhẹ toàn quốc lần 2 với thang điểm kỷ lục: 6 điểm 10 của 6 vị giám khảo. Đêm chung kết, cô thể hiện ca khúc Chia tay hoàng hôn và Giọt nắng bên thềm. Trong năm 1991, cô về sống chung với nhạc sĩ Quốc Trung. Cũng chính năm này, Quốc Trung thành lập ban nhạc Phương Đông và cùng Thanh Lam đi biểu diễn nhiều chương trình. Năm 1993, Ban nhạc Phương Đông (Thanh Lam là giọng hát chính) giành giải nhất cuộc thi Liên hoan các ban nhạc nhẹ toàn quốc lần thứ nhất (và duy nhất cho tới hiện nay) được tổ chức tại Đà Nẵng vào tháng 8. Năm 1994, Thanh Lam tham gia và để lại nhiều ấn tượng trong chương trình Nửa thế kỷ bài hát Việt Nam do Hội nhạc sĩ tổ chức, một chương trình gây được tiếng vang trong thập niên 1990. Năm 1995, Thanh Lam cùng ban nhạc Phương Đông thực hiện chương trình "Thiện Thanh" tại Nhà hát lớn. Đây là show nhạc đầu tiên của nhạc sĩ Quốc Trung. Nhạc sĩ Dương Thụ từng chia sẻ về 1 bài hát ông ấn tượng trong đêm nhạc: "Trong chương trình “Thiện Thanh 1”, Lam hát “Bài hát ru cho anh” trên phần phối của Quốc Trung, tôi thật sự xúc động. Lam đã hát được cái khao khát sống của tôi, đằm thắm, mãnh liệt, và đượm buồn." Năm 1996, Thanh Lam độc diễn chương trình Đêm huyền diệu kéo dài suốt 1 tuần lễ (diễn thêm cả ban ngày) ở Cung Hữu Nghị. Theo nhạc sĩ Quốc Trung thì đây là liveshow đầu tiên anh làm cho Thanh Lam. Sự thành công của chương trình này là nguồn động lực lớn cho họ tổ chức 1 tour diễn xuyên Việt vào năm sau (lúc đó chưa có ca sĩ nào thực hiện việc này). Cũng trong năm 1996 này, Thanh Lam được mời đi biểu diễn tại Liên hoan nhạc pop châu Á Fukuota (Nhật Bản) vào tháng 5 và Liên hoan nhạc jazz tại Montreax (Thụy Sĩ) vào tháng 9. Ở Liên hoan nhạc pop châu Á Fukuota, cô đã hát Giọt nắng bên thềm trong đêm duy nhất giữa 8.000 khán giả. Còn ở Liên hoan nhạc Jazz tại Montreax, cô đã hát Hò mái nhì trên nền phối nhạc Jazz của Quốc Trung. Cô còn song ca với ca sĩ nổi tiếng Thụy Sĩ Stefan Eicher một sáng tác của chính ca sĩ đó: Wake up (Dậy đi em). Liên tiếp các năm: 1997, 1998, 1999, 2000 và 2001, Thanh Lam đều nhận giải Top 10 Ca sĩ được yêu thích nhất của Làn sóng xanh - một chương trình của FM 99.9 Mhz (Đài Tiếng nói Nhân dân TPHCM). Các ca khúc từng lọt vào top và giúp cô nhận giải ca sĩ được yêu thích: Khát vọng, Cho em một ngày, Bên em là biển rộng, Giọt nắng bên thềm, Hoa tím ngoài sân, Em và tôi, Chia tay hoàng hôn, Một ngày mùa đông, Chiều xuân, Hoa cỏ mùa xuân, Hát với chú ve con, Ngồi hát ca bềnh bồng, Không thể và có thể, Đợi chờ, Đố tình,... Tháng 11, 12/1997, Thanh Lam tổ chức liveshow Cho em một ngày ở 3 thành phố: TP.HCM, Hà Nội và Đà Nẵng với sự hỗ trợ của ban nhạc Phương Đông và 2 ca sĩ trẻ là Bằng Kiều và Trần Thu Hà. Đây được xem là tour diễn cá nhân đầu tiên của nhạc nhẹ Việt Nam. Liveshow còn được nhớ đến nhiều vì đã khai trương sân khấu ca nhạc Lan Anh ở TP.HCM. Ngoài ra, cô đã phát hành album Bài hát ru cho anh trong năm. Năm 1998, Thanh Lam đoạt giải Giọng hát Vàng tại Liên hoan Giọng hát vàng Asean 1998 tổ chức ở Hà Nội. Cô dự thi với 2 ca khúc: Không thể và có thể và Khát vọng. Trong năm 1998 này, cô đã phát hành album Em và tôi, album Khát vọng và VCD Cho em một ngày. Năm 1999, Thanh Lam thực hiện liveshow Em và tôi cùng với ban nhạc Phương Đông và phần hát bè của nhóm nhạc Tic Tic Tac. Đây là tour diễn xuyên Việt lần thứ hai của cô. Một sự kiện khác trong năm, Thanh Lam sang Pháp để thu âm 2 bài hát (Một thoáng Tây Hồ, Biển cười) trong album “Asian Sessions” của Niels Lan Doky - một nhạc sĩ Jazz nổi tiếng của Đan Mạch. Sau đó, cô cùng với Niels Lan Doky biểu diễn tại 30 thành phố ở Đan Mạch để quảng bá cho CD Asean Sessions. Ký giả Kjeld Frandsen đã viết trên tờ Berkingske Tidende tường thuật về chuyến lưu diễn Âu Châu của Niels Lan Doky và Thanh Lam: “...và Thanh Lam phối hợp những yếu tố của nhạc Folk và Pop và nâng chúng lên trình độ cao hơn trong phong cách đầy duyên dáng bằng giọng hát cực kỳ quyến rũ... một nhạc phẩm mới với tựa đề Dạ Khúc (Night Song), chất chứa những giai điệu tuyệt vời của Niels Lan Doky. Nhạc phẩm này có phần lời Việt và được Thanh Lam diễn đạt một cách nồng ấm, rõ ràng và đầy thi vị...”. Ký giả Fyns Stitidence, cũng viết về các buổi trình diễn này: “Đó là một buổi tối khi toàn bộ xúc cảm được khơi động, từ sự tĩnh lặng sâu xa của bản độc tấu dương cầm của Doky, cho tới sự đam mê mãnh liệt qua những bài hát do Thanh Lam, một ca sĩ tuyệt đẹp trình bày...” Năm này cô còn cho ra đời 2 album: Ru đời đi nhé và Nơi mùa thu bắt đầu. Năm 2000, cô cho phát hành album Tự sự. Album gồm 10 bài hát tình ca của nhạc sĩ Thuận Yến. Năm 2001, Thanh Lam phát hành album Mây trắng bay về. Album theo đuổi phong cách world music này được đánh giá là đỉnh cao mới trong sự nghiệp của Thanh Lam cũng là cột mốc cho sự kết thúc của cặp đôi (Quốc Trung - Thanh Lam). Nhạc sĩ Quốc Bảo từng nói rằng: "Đây là đĩa nhạc hay nhất Việt Nam". Các năm 2002, 2003, 2004, Thanh Lam tham gia chương trình VTV - Bài hát tôi yêu và đều nhận giải thưởng dành cho Top 5 video clip hay nhất do Hội đồng nghệ thuật bình chọn. Lần 1 cô tham gia với bài hát Đố tình (Quốc Trung), lần 2 là bài hát Em tôi (Thuận Yến), lần 3 là bài hát Người ở người về (Lê Minh Sơn). Năm 2002, Thanh Lam hát nhạc jazz trong sự kiện Festival jazz châu Âu diễn ra tại Việt Nam (từ 22 đến 30/11 tại Hà Nội và từ 23/11 đến 5/12 tại TP HCM). Cô được mời trình diễn chung với nhóm nhạc nổi tiếng đến từ Đan Mạch. Tháng 6/2003, cô cùng với NSND Đặng Thái Sơn và nghệ sĩ Niels Lan Doky thực hiện 1 chương trình nghệ thuật tại Cung Đại hội ở thành phố Saint-Malo (Pháp). Buổi hoà nhạc diễn ra thành công với sự tham dự của gần 1.200 khán giả. Nhiều vị thượng nghị sĩ, đại biểu quốc hội Pháp, thị trưởng thành phố và đại sứ nhiều nước đã đến xem chương trình này. Tháng 6/2004, Thanh Lam và nhóm nhạc Bức Tường được lựa chọn đại diện Việt Nam biểu diễn tại Lễ trao giải Âm nhạc hoà bình thế giới (WPMA) tại sân vận động Mỹ Đình. Website chính thức của WMPA đã giới thiệu về Thanh Lam: "Thanh Lam là một nữ ca sĩ xinh đẹp và một giọng ca ấn tượng của Hà Nội. Hiện Thanh Lam là ngôi sao nhạc pop thành công nhất Việt Nam. Chị đã thu nhiều album trong đó có nhiều đĩa được phát hành tại châu Á và Mỹ. Thanh Lam được sinh ra trong một gia đình có truyền thống âm nhạc ở Hà Nội, cha cô là nhạc sĩ Thuận Yến. Thanh Lam được biết đến với chất giọng khỏe, đặc trưng và phong cách độc đáo của một ca sĩ châu Á. Chị là một phụ nữ quyến rũ, xinh đẹp với một phong cách hoàn hảo". Ngày 18/7/2004, Thanh Lam tổ chức liveshow trong chương trình Âm nhạc và những người bạn mang tên Nắng lên. Chương trình được phát sóng trực tiếp trên VTV3. Đến tháng 11/ 2004, cô tiếp tục thực hiện chương trình độc diễn của riêng mình với 1 liveshow chủ đề Ru mãi ngàn năm diễn ra 2 đêm ở TP. Hồ Chí Minh và 2 đêm ở Hà Nội. Hai liveshow trong năm của cô đều được giới báo chí ca ngợi nhiều, xứng đáng với kỳ vọng của người hâm mộ. Trong năm 2004, cô đã phát hành 3 album: Ru mãi ngàn năm, Nắng lên và 1 album chung với Hà Trần có tên là Thanh Lam - Hà Trần. Cả 3 album đều rất thành công. Ru mãi ngàn năm nhận giải "Album của năm" (giải Cống Hiến), Nắng lên đứng thứ nhì "Album của năm" (giải Cống Hiến năm 2005), Thanh Lam - Hà Trần được độc giả VnExpress.net bình chọn đứng đầu album yêu thích nhất 2004. Từ ngày 9 đến 15/6/2005, Thanh Lam và nhóm Trio 666 được phía Pháp chủ động mời biểu diễn trong chương trình giao lưu âm nhạc Pháp - Việt. Thanh Lam đại diện cho dòng nhạc pop Việt, còn nhóm Trio 666 đại diện cho mảng rock alternative Việt. Họ đã cùng với ban nhạc rock Pháp La Souris Déglinguée thực hiện tour lưu diễn 4 tỉnh miền Nam Việt Nam trong sự kiện này. Năm này, cô phát hành được 2 album: Em và đêm và Này em có nhớ. Ngoài ra, cô còn tham gia chương trình Bài Hát Việt với phần biểu diễn Hát một ngày mới. Ca khúc này sau đó giành được giải "Bài hát của tháng", còn cô nhận giải "Ca sĩ thể hiện hiệu quả" do Hội đồng nghệ thuật bầu chọn. Trong tháng 6 và tháng 7, nhóm nghệ sĩ gồm: Niels Lan Doky, Quốc Trung, Thanh Lam, Tùng Dương và các nhạc công thực hiện một chương trình nghệ thuật mang tên Vọng nguyệt (Wishing upon the moon). Ngoài hai đêm diễn tại Hà Nội và TPHCM, Vọng Nguyệt còn được trình diễn tại Festival Âm nhạc quốc tế Roskilde ở Đan Mạch, một trong những Festival Âm nhạc lớn nhất thế giới. Cuối năm 2006, cô phát hành album Giọt Lam với 18 ca khúc gắn liền với tên tuổi được làm mới lại. Album này giành được 2 giải trong chương trình Album Vàng ("Album nghệ thuật xuất sắc nhất của tháng" và "Ca sĩ thể hiện thành công nhất"). Năm 2007, Thanh Lam tổ chức liveshow Lam xưa nhằm kỷ niệm 20 năm ca hát (dự định thực hiện năm 2005 nhưng đã dời lại) diễn ra ở Hà Nội (Tháng 10) và TP. Hồ Chí Minh (Tháng 11). Sự thành công của liveshow này cùng với 2 album ra mắt trong năm (Giọt Lam và Lam Blue ta), Thanh Lam được báo Vnmedia.vn bình chọn là ca sĩ ấn tượng nhất trong năm. Ngày 20/12/2007, cô vào TP. Hồ Chí Minh nhận giải thưởng "Ca sĩ được yêu thích nhất" (10 ca sĩ nhận giải này) của Làn sóng xanh tổng kết 10 năm. Thanh Lam đã được Nhà nước phong tặng danh hiệu Nghệ sĩ ưu tú năm 2007 do có nhiều đóng góp cho nền nhạc nhẹ Việt Nam. Cô là ca sĩ tự do đầu tiên nhận được danh hiệu này. == Giọng hát == Loại giọng: Mezzo-alto (Nữ trung trầm) Quãng giọng: C3 - F5 (Đô quãng 3 - Fa quãng 5) Giọng Thanh Lam phát triển ở quãng trầm. Cô có thể xuống được những nốt trầm sâu, dày, có sức nặng và tạo ra được chất cổ quái, huyền bí khi phiêu những ca khúc dân gian đương đại. Quãng trung của Thanh Lam mạnh, rất có lực và vang rền. Thanh Lam cũng thường belting và sở trường là những nốt G4, A4 (Sol, La quãng 4) được cô belt một cách thoải mái nhưng đầy kịch tính và vang vọng. 11 năm học đàn tỳ bà giúp Thanh Lam tiếp thu được lối hát truyền thống của dân tộc, cụ thể là các cách nhả chữ, đổ hột, nảy chữ của chầu văn, ca trù, đều là những kĩ thuật hát rất khó. Và cô cũng từng áp dụng rất nhiều những kỹ thuật ấy vào nhạc nhẹ, vào một số màn thể hiện của mình. Thanh Lam cũng là người tiên phong trong việc kết hợp giữa cách hát truyền thống dân tộc (khép chữ - lấy độ vang ở sau chữ như hát ru, dân ca, ca trù, quan họ...) với lối hát mới bel canto ở Tây phương (lối hát mở - mở rộng âm thanh tạo ra những quãng âm vang, rộng nhưng vẫn tròn vành, rõ chữ). Đây là sự kết hợp khó vì Tiếng Việt là ngôn ngữ đơn âm tiết, mỗi tiếng, mỗi chữ chỉ có một vần, không dính kết vào nhau và không có nối âm như một số ngôn ngữ dạng hòa kết, tổng hợp như của phương Tây. Hơn nữa, kỹ thuật bel canto tốt nhưng đóng, mở “chữ” không hợp lý hoặc mở quá hát không rõ lời hoặc khép quá hát sẽ không có âm thanh, thành ra khô vụn, vận dụng cứng nhắc, máy móc, “tròn vành” nhưng không “rõ chữ”. Vì vậy, Thanh Lam có thể hát theo lối nhạc nhẹ mà vẫn có thể giữ lại bản sắc ngữ âm Tiếng Việt (khởi - mở - đóng chữ, 6 thanh điệu trầm bổng). == Giải thưởng == Giải nhất liên hoan Ca khúc chính trị tại Berlin (1986). "Ca sĩ được yêu thích nhất" tại Festival âm nhạc Lahavan - Cuba (1989). "Giải thưởng lớn" (giải cao nhất) cuộc thi Đơn ca nhạc nhẹ toàn quốc lần 2 (1991). Giải nhất cuộc thi Liên hoan các ban nhạc nhẹ toàn quốc cùng với ban nhạc Phương Đông (1993). "Giọng hát Vàng" tại Liên hoan Giọng hát vàng Asean (1998). Danh hiệu Nghệ sĩ ưu tú (2007). Các giải thưởng khác: Top ten Làn Sóng Xanh (1997, 1998, 1999, 2000, 2001, Tổng kết 10 năm), VTV - Bài hát tôi yêu (2002, 2003, 2004), Cống Hiến, Album Vàng, Bài hát Việt (thể hiện hiệu quả nhất), Bài hát yêu thích,... == Thành công/Đánh giá == "Thanh Lam nắm ngôi vị Nữ hoàng nhạc pop được tròn 10 năm. Là ca sĩ tiên phong của nhạc trẻ VN, Thanh Lam được ghi nhớ là một trong những người gây dựng nên pop Việt. Một giọng hát mê hồn, cá tính táo bạo, bản năng nghệ sĩ thật sự... của cô đã ảnh hưởng không nhỏ đến lứa ca sĩ đàn em, kể cả Trần Thu Hà, Mỹ Linh khi họ bắt đầu sự nghiệp". "Tôi hơi tham, kết tới 4 giọng ca: Thanh Lam, Mỹ Linh, Hồng Nhung và Bằng Kiều. Họ giải mã được bài hát, vì vậy thể hiện chúng hết sức truyền cảm, đạt đến sự điêu luyện, chứ không chỉ đơn thuần là phô diễn kỹ thuật. 3 nữ ca sĩ trên còn tiến đến mức hát như chơi, hát như nói, những rung động từ tác phẩm trực tiếp đến thẳng người nghe qua cách luyến láy, xử lý ca từ. Một sự rèn luyện công phu mới đủ sức đạt đến đỉnh cao như thế.". "Nhạc của tôi nhiều người hát được đó chứ. Trước đây có Ngọc Thúy và sau này là Thanh Lam, Hồng Nhung. Trong thời gian gần đây, tôi đang cố xây dựng một thế hệ ca sĩ kế tục họ". "Nghệ sĩ mà thăng bằng, tỉnh táo quá là vứt, cảm giác chông chênh mới mang lại thăng hoa trong sáng tạo. Có thể thấy sự thiếu thăng bằng đến nghiêng ngả ở Thanh Lam, thể hiện ở sự khát khao, nổi loạn, có lúc đẩy niềm vui lên đến tận cùng, rồi cũng có lúc để mình chìm đi trong nỗi buồn. Và đó chính là cái hay, cái mạnh của Thanh Lam". "Khi nghe Lam thể hiện những ca khúc của mình tôi cảm nhận rõ được sự nâng niu và vuốt ve từng câu chữ. Hát như thế thì tôi thực sự kính phục và ngưỡng mộ. Với tôi, Lam vẫn là một giọng hát nồng nàn, bốc lửa. Chị đã hát bằng tất cả những gì được học, tất cả những gì đã trải nghiệm - một giọng hát đầy bản năng nhưng cũng rất tinh tế! Cho tới bây giờ, tôi chưa một lần nghe chị gào thét hoặc rú rít lên trong bài hát của tôi. Ở giọng ca đó tôi luôn cảm nhận rõ sự biểu cảm mạnh mẽ và rất vừa vặn. Tôi nghĩ rằng cuộc đời tôi đã rất may mắn khi gặp được giọng hát như thế này! Còn với riêng Sơn, Thanh Lam là một nghệ sĩ đích thực, là giọng hát số một mà Sơn nghĩ là không có số hai, vì đẳng cấp chênh lệch nhau rất nhiều, vậy thôi, chỉ một câu như thế thôi. Muốn hát được hay, được lâu, mười mấy năm rồi luôn được coi là "nữ hoàng nhạc nhẹ" như thế thì không chỉ là tài năng mà còn là văn hoá nữa!" "Sau tất cả mọi chuyện, giờ đây chúng tôi làm việc với nhau có phần dễ hơn vì cô ấy có phong cách làm việc rất chuyên nghiệp, và giọng hát, theo tôi, hiện chưa có ai qua mặt được...""Mãi mãi ấn tượng của tôi về Lam là một ca sĩ luôn thể hiện sự đam mê và khát khao một cách mãnh liệt trong âm nhạc. Đó là điều không dễ làm được, và làm được cũng không dễ để duy trì lâu dài". "Họ là những ca sĩ mà tôi yêu quý. Biểu diễn chung với họ, tôi có cảm hứng thật đặc biệt. Thanh Lam đại diện cho sự cháy bỏng, nồng nàn; Hồng Nhung biểu hiện của cái đẹp mượt mà; Trần Thu Hà là sự phiêu diêu, ngẫu hứng rất jazz. Họ thật sự là những tài năng, thành danh bằng chính thực lực của mình." "Lam hay lắm. Làm việc với nhau tôi nhận ra Lam giỏi vô cùng. Một cái kết, Lam đưa ra 8 cách hát khác nhau cho tôi chọn. Điều đó là vô cùng hiếm trong thời buổi nhiều ngôi sao nhìn thấy bản nhạc là khóc thét vì không biết đọc nốt nhạc. Và quan trọng nữa là Lam có được cảm xúc mãnh liệt khi hát". "Tôi quen Thanh Lam từ rất lâu rồi. Giọng cô ấy rất đẹp và mạnh mẽ, cô ấy hát được mọi thể loại nhạc, như soul, pop, rock, blues… Dù không gặp cô ấy thường xuyên nhưng tôi vẫn theo dõi cô ấy hát những gì theo dòng thời gian. Vào đầu những năm 1990 tôi gặp Trịnh Công Sơn, ông ấy nói tương lai nhạc Việt là giọng của Hồng Nhung, Thanh Lam. Dù lúc đó Lam còn rất trẻ, nhưng rõ ràng là Trịnh Công Sơn đã dự đoán đúng. Hôm qua tôi đã làm việc với Thanh Lam 4 tiếng đồng hồ liền. Cô ấy là 3 con người trong 1, khi tôi đề nghị cô ấy làm 3 việc cho show diễn này: Chia sẻ sân khấu với các nhạc công khác mà cô ấy chưa từng làm việc cùng, thể hiện một khoảnh khắc rock ồn ào mạnh mẽ, và một khoảnh khắc rất dịu nhẹ chỉ có thuần túy giọng cô ấy với guitar và violin. Vừa thời điểm này là sắc thái này, thời điểm khác lại là sắc thái khác nối tiếp nhau - rất ít ca sĩ có thể làm được như cô ấy". "Tôi không chê trách nhạc trẻ bây giờ. Đã có rất nhiều nhạc sĩ, ca sĩ trẻ khá thành công. Bản thân tôi cũng ngưỡng mộ một vài giọng hát như Thanh Lam, Hồng Nhung, Mỹ Linh và gần đây có Mỹ Tâm. Các bạn trẻ không mặn mà lắm với dòng nhạc truyền thống có lẽ vì họ còn non về kỹ thuật, không dám dấn thân vào. Với nhạc trẻ sẽ dễ dàng bước đi hơn". "Tôi thấy ca nhạc trong nước phát triển quá chừng. Tôi rất mê không khí âm nhạc ở quê hương, nó nhộn nhịp và đa dạng làm sao! Các ca sĩ ở đây đều có phong cách riêng và giỏi hơn thời của chúng tôi ngày xưa. Tôi thích Thanh Lam, Hồng Nhung, Trần Thu Hà". "Tôi nghe Thanh Lam từ thời tôi mới lớn. Nhiều thế hệ người Việt Nam cũng vậy, khen chê đủ cả. Thế nhưng người đầu tiên được công chúng và báo giới gọi là nữ hoàng nhạc nhẹ từ thời những năm cuối 1988 cho tới nhiều năm về sau chính là chị. Là người có nghề, ít ai không phục chị vì bản lĩnh âm nhạc và tôi là một trong số những người thành danh hàng chục năm cũng không đủ tư cách để so bì". "Chị Lam là một đàn chị trong nghề, một người đã rất thành công ở dòng nhạc nhẹ, là người đi đầu trong đổi mới phong cách nhạc nhẹ ở Việt Nam. Tấn đã rất thích chị Lam từ lúc chưa đi học hát. Khi đã vào nghề, Tấn rất thích sự đam mê hết mình trên sân khấu của chị Lam. Chính Tấn đã học được điều này từ chị Lam". "Để đi theo một con đường riêng chắc chắn có nhiều khó khăn. Tôi phải nhìn những ca sĩ đàn chị như Mỹ Linh, Thanh Lam, Hà Trần để học hỏi những phong cách thay đổi trong âm nhạc". "Chị Thanh Lam là ngôi sao thần tượng của giới trẻ. Một giọng mezzo-alto như chị là hiếm ở Việt Nam. Ở chị luôn luôn là một ngọn lửa cháy". "Thanh Lam hôm qua, hôm nay hay ngày mai sẽ vẫn là thần tượng của tôi. Có thể khán giả sẽ không hài lòng về điều này hay điều kia, thậm chí không đón nhận những cái mới mà chị Lam đã phải uốn mình ra chịu trận để tìm ra một mình một hướng đi riêng biệt, một định hướng cao hơn những gì được xem là giải trí hàng ngày. Nếu ai đó đã từng ngồi vào những vị trí mà chúng tôi đang ngồi thì sẽ thấy những áp lực nặng nề là phải làm sao để mình luôn mới, luôn cao hơn hôm qua và luôn được mọi người đón nhận. Tuy nhiên không phải quyết định nào cũng đúng, cũng có những trái tim và những gu âm nhạc bắt nhịp và đón nhận được những thử nghiệm đó. Con đường của một nghệ sĩ có lúc thênh thang, có lúc phải đi qua nhiều gai nhọn. Với tôi, ngọn lửa trong giọng hát của chị Lam vẫn mãi là ngọn lửa thiêng của một ngôi đền với nhiều tượng đài xuất chúng, cao quý đang ở đó và ngọn lửa ấy sẽ không bao giờ tắt". "Thanh Lam, bao nhiêu cú shock, bao nhiêu trắc trở, chị vẫn tồn tại và hát, lực và lửa hát vẫn mạnh mẽ, ngùn ngụt nhất, vẫn là số 1". "Ngày xưa tôi chưa là ca sĩ tôi luôn xem Thanh Lam là thần tượng của mình. Còn bây giờ tôi ngưỡng mộ và mục tiêu của tôi để vươn tới thì cũng là Thanh Lam, chú trần Tiến và Bố Trần Hiếu đó thôi!" "Ở Việt Nam chỉ có NSND Lê Dung và Thanh Lam mới có thể xứng với danh xưng đó. Cô Lê Dung là người hát rút ruột, rút gan và gây ra một ảnh hưởng lớn trong các thế hệ ca sĩ sau này. Cũng giống như chị Thanh Lam. Chị ấy vẫn luôn ở đỉnh cao sau bao sóng gió của cuộc đời. Thanh Lam là người quyết liệt. Tôi không chịu nhiều ảnh hưởng của cô Lê Dung vì cách xa thế hệ, nhưng tôi chịu ảnh hưởng rất nhiều từ Thanh Lam". "Thời điểm này rất khó cho bất cứ ca sĩ nào vượt lên chứ không riêng gì tôi. Thời của Thanh Lam, Hồng Nhung nhạc nhẹ chưa có, họ như là những người tiên phong. Sau đó là Mỹ Linh, Trần Thu Hà, 3A... đều dễ dàng bứt phá, đạt được cả chuyên môn lẫn kinh tế". "Thần tượng trong nghề của Thu Minh là Celine Dion và Thanh Lam". "Đối với tôi, phải có lý do để mọi người ca tụng chị Thanh Lam là Diva của âm nhạc Việt Nam. Chị là một hình mẫu mà bao thế hệ ca sĩ đàn em phải học tập, trong đó có tôi. Trong những lần biểu diễn chung, tôi lại càng dành sự ngưỡng mộ, trân trọng giọng hát thiên bẩm cũng như khả năng chuyên môn và cả tính bộc trực của chị…" "Tôi phục Cẩm Vân, Thanh Lam, Mỹ Linh và anh Quang Linh! Vì anh Quang Linh hát nhạc không theo xu hướng thị trường mà vẫn được khán giả yêu thích. Còn Thanh Lam là 1 ca sĩ có giọng ca thiên bẩm, kĩ thuật thanh nhạc cao, đặc biệt là có khả năng cảm ứng âm nhạc rất tốt. Tôi luôn phục họ". "Giọng hát thì Quyên rất thích chị Thanh Lam. Còn về một cách toàn diện, về con người, về sự phấn đấu, tài năng thì đến thời điểm này là anh Đàm Vĩnh Hưng". "Theo cách nghĩ của cá nhân tôi, người duy nhất tôi công nhận ở đẳng cấp Diva hiện tại ở Việt Nam là Thanh Lam". "Từ ca sĩ trở thành nghệ sĩ đã khó, trở thành một nữ danh ca được nhiều người công nhận lại càng khó hơn. Tôi thấy mình như một quả xanh chưa chín, vẫn đang trong quá trình tích lũy để hình thành một lối đi. Trở thành một Diva như Thanh Lam, Mỹ Linh, Hồng Nhung, Trần Thu Hà chắc phải còn dài". "Tôi thừa hiểu tất cả danh xưng chẳng bao giờ tự mình nói ra mà có được. Là nữ ca sĩ, không ai không mơ được thành danh như các chị Thanh Lam, Hồng Nhung, Mỹ Linh, Trần Thu Hà. Từ bé, tôi đã thần tượng họ và chưa bao giờ thôi ngưỡng mộ, học hỏi cũng như phấn đấu theo gương các đàn chị. Đối với tôi, danh hiệu đó là vương miện của nghề hát". "Tôi cũng mơ đến một ngày mình bước lên đẳng cấp diva như những Thanh Lam, Mỹ Linh, Hồng Nhung, Trần Thu Hà... đã làm. Ai cũng có quyền ước mơ mà. Bao năm qua, đã có ca sĩ nào vượt qua được chị Thanh Lam, Hồng Nhung, Mỹ Linh? Hình như là chưa thì phải, khó lắm. Vì thế, nếu xuất hiện người giỏi, hát hay, làm nên hiện tượng, tôi sẽ rất mừng vì nền âm nhạc có bước đột phá". "Linh thấy điều đáng quý nhất ở chị Thanh Lam là dù buổi tập ngắn hay dài, ở trong phòng thu hay trên sân khấu, chị vẫn hát và thể hiện hết mình trong từng câu hát, liên tục tương tác với các nhạc công để tiết mục được hoàn chỉnh tốt hơn. Nhờ thế mà những phần tập của chị rất hứng thú và hiệu quả. Cung cách và tác phong làm việc chuyên nghiệp, hết mình vì tiết mục đó của chị Thanh Lam sẽ luôn là một bài học đáng quý cho những ca sĩ trẻ như Uyên Linh, và luôn truyền cho Linh thêm những ngọn lửa đam mê, nhiệt huyết và nghiêm túc với nghề". "Tôi yêu chị Thanh Lam. Có nhiều đêm diễn, tôi đứng trong cánh gà, cứ mải ngắm Thanh Lam mà quên mất, sắp tới mình phải hát gì. Người đâu mà đẹp và hát hay thế. Giọng hát của tôi có nhiều điểm giống Thanh Lam, về quãng trầm giống nhau nhưng ở quãng cao, tôi thấp hơn chị Lam một nốt, nên nghe cứ hay bị ghìm lại chứ không bùng nổ. Tôi tránh hát những ca khúc mà chị Lam từng hát, rất dễ bị giống và bị ảnh hưởng. Nhiều người bảo tôi hát kĩ thuật quá nhưng nói thế là sai. Người nào hiểu kĩ thuật thì biết ngay, kĩ thuật tôi còn non lắm. Sắp tới, tôi sẽ học lên tiếp để chinh phục những quãng cao, người ta bảo giọng trầm như tôi hiếm nhưng cứ nhìn chị Lam kìa, người đâu mà có quãng trầm đẹp thế, nghe đã lắm". "Em thích giọng Thanh Lam từ hồi chị chuyển qua hát nhạc của Lê Minh Sơn. Chị ấy đã được vùng vẫy thể hiện cá tính riêng trong âm nhạc rất kén người nghe. Với em, việc xử lý bài hát không phủ nhận cũng bị ảnh hưởng một chút từ Thanh Lam. Nhưng đó là điều hết sức bình thường, em không chủ động bị ảnh hưởng chỉ vô thức thôi". "Hầu hết những ca sĩ trẻ đều chịu ảnh hưởng từ chị Thanh Lam. Phải nói chị Lam là người viết một câu thơ hay mà câu thơ đó đã trở thành một câu đồng dao trong làng nhạc Việt". "Trong số những ca sĩ trong nước, tôi thích Thanh Lam, một giọng ca rất điêu luyện và hay. Cô ấy là ca sĩ đầu tiên trong nước qua hải ngoại thâu băng cách đây khoảng 10 năm". "Tôi không tin vào chuyện lăng xê. Ai có tài thì sẽ nổi lên thôi. Tại thị trường âm nhạc Việt Nam hiện nay, có quá nhiều ca sĩ nhưng nhìn lại những ca sĩ đàn chị như Hồng Nhung, Mỹ Linh, Thanh Lam... vẫn đứng ở vị trí hàng đầu". "Thanh Lam là 1 diva, với giọng hát như…nhập về từ 1 cõi nào đó mà Tùng và rất nhiều ca sĩ đàn em ngưỡng mộ". "Tôi nghĩ rằng không chỉ tôi mà nhiều ca sĩ thần tượng Thanh Lam". "Nhìn những nghệ sĩ phía Bắc Hoàng Hải vẫn thấy các tên tuổi đàn chị như Thanh Lam, Mỹ Linh vẫn có chỗ đứng, gần như là tượng đài không thể thay thế dù họ đã đứng trên sâu khấu rất lâu rồi nhưng đến nay vẫn chưa ai thay thế được. Đó là mơ ước của tất cả những người nghệ sĩ, không riêng gì Hải". == Liveshow == Đêm huyền diệu (1996) Cho em một ngày (1997) Em và Tôi (1999) Ru mãi ngàn năm (2004) Âm nhạc và Những người bạn (Nắng Lên) (2004) Em tôi (2006) Lam Xưa (2007) Echo of Love (2009) Tình yêu không lời (2009) Yêu (với Tùng Dương) (2010) Cầm tay mùa hè (2011, 2012, 2013) Đường xa mây trắng (2011) Thương (với Tùng Dương) (2012) Người đàn bà yêu (2013) Bản tình ca cha viết (2014) == CD - DVD - VCD == Gọi tên bốn mùa Nghe mưa (1997) (với Hồng Nhung) Bài hát ru anh (1997) Bốn giọng ca vàng (1997) (với Hồng Nhung, Thu Phương và Mỹ Linh) Tình ta ngày đó (với Duy Quang) Lá thư (1998) Tình thôi xót xa (1998) (với Lam Trường) VCD Cho em một ngày (1998) Em và tôi (1998) DVD Em và tôi (1999) 5 diva Việt Nam - Mùa đông mong manh (1999) (với Hồng Nhung, Thu Phương, Phương Thanh và Mỹ Linh) Noel đầu tiên (1999) (với Hồng Nhung và Mỹ Linh) Ru đời đi nhé (1999) Khát vọng (1999) Nơi mùa thu bắt đầu (1999) Anh mãi yêu em (2000) (với Bằng Kiều) Tự sự (2000) Gửi anh nỗi nhớ (2001) (với Hồng Nhung và Phương Thanh) Mây trắng bay về (2001) Giọt lệ tình (2002) (với Hồng Nhung) Thiện Thanh (2002) Thanh Lam – Hà Trần (2004) (với Hà Trần) Ru mãi ngàn năm (2004) Nắng lên (2004) Này em có nhớ (2005) Em và đêm (2005) Nợ (2006) (với Hồng Nhung) Thanh Lam – Trọng Tấn (2006) (với Trọng Tấn) Giọt Lam (2006) Biệt (2007) (với Hà Trần và Tùng Dương) Lam blue ta (2007) DVD liveshow Lam xưa (2008) Nơi bình yên (2009) Acoustic (2009) DVD live-concert Echo of love (2010) Sa mạc tình yêu (2011) (với Đàm Vĩnh Hưng) Yêu (2013) (với Tùng Dương) == Chú thích == == Liên kết ngoài == Thanh Lam trên Facebook Kênh YouTube: Thanh Lam Hat
nhiệm vụ bất khả thi
phong tục.txt
Phong tục là toàn bộ những hoạt động sống của con người được hình thành trong quá trình lịch sử và ổn định thành nề nếp, được cộng đồng thừa nhận, truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Phong tục không mang tính cố định, bắt buộc như nghi thức, nghi lễ, nhưng cũng không tùy tiện như hoạt động sống thường ngày. Nó trở thành một tập quán xã hội tương đối bền vững và tương đối thống nhất. Phong tục có thể ở một dân tộc, địa phương, tầng lớp xã hội hay thậm chỉ một dòng họ, gia tộc. Phong tục là một bộ phận của văn hóa và có thể chia thành nhiều loại. Hệ thống phong tục liên quan đến vòng đời của con người, như phong tục về sinh đẻ, trưởng thành, cưới xin, mừng thọ và lên lão... Hệ thống phong tục liên quan đến hoạt động của con người theo chu kỳ thời tiết trong năm, hệ thống phong tục liên quan đến chu kỳ lao động của con người... == Xem thêm == Tập quán Hủ tục và mỹ tục == Tham khảo ==
danh sách nhà toán học.txt
Đây là danh sách các nhà toán học nổi tiếng theo thứ tự bảng chữ cái Latinh: == A == Niels Henrik Abel - Na Uy (1802-1829) John Couch Adams - Anh (1819-1892) Jean le Rond d'Alembert - Pháp (1717-1783) Abu Raihan Al-Biruni - Ba Tư (973-1048) Al-Khwarizmi - Ba Tư (780-850) André-Marie Ampère - Pháp (1775-1836) Archimedes - Hy Lạp (287-212 TCN) Aristarchus - Hy Lạp (vào khoảng 310-230 TCN) Aristotle - Hy Lạp (384-322 TCN) George Atwood - Anh (1746-1807) == B == Charles Babbage - Anh (1791-1871) Stefan Banach - Ba Lan (1892-1945) Eric Temple Bell - Scotland-Hoa Kỳ (1883-1960) Richard Bentley - Anh (1662-1742) Jakob Bernoulli - Thụy Sĩ (1654-1705) Johann Bernoulli - Thụy Sĩ (1667-1748) Daniel Bernoulli - Thụy Sĩ (1700-1782) Friedrich Wilhelm Bessel - Đức (1784-1846) George Boole - Anh (1815-1864) Henry Briggs - Anh (1561-1630) == C == Georg Ferdinand Cantor - Đức (1845-1918) Élie Cartan - Pháp (1869-1951) Henri Cartan - Pháp (1904-) Augustin Louis Cauchy - Pháp (1789-1857) Eduard Čech - Tiệp Khắc (1893-1960) Pafnuty Lvovich Chebyshev - Nga (1821-1894) Sarvadaman Chowla - Ấn Độ (1907-1995) Roger Cotes - Anh (1682-1716) == D == David van Dantzig - Hà Lan (1900-1959) George Dantzig - Hoa Kỳ (1914-) René Descartes - Pháp (1596-1650) Jean Dieudonné - Pháp (1906–1992) Johann Peter Gustav Lejeune Dirichlet - Đức Edsger Dijkstra - Hà Lan (1930-2002) Democrit-Hy Lạp == E == Albert Einstein - Đức-Thụy Sĩ-Hoa Kỳ (1879-1955) Paul Erdös - Hungary (1913-1996) Euclid - Ai Cập (vào khoảng 365-275 TCN) Leonhard Euler - Thụy Sĩ (1707-1783) == F == Pierre de Fermat - Pháp (1601-1665) Leonardo Pisano Fibonacci - Ý (1170-1250) Jean-Baptiste Joseph Fourier - Pháp (1768-1830) == G == Évariste Galois - Pháp, 1811-1832 Martin Gardner - Hoa Kỳ (1914-) Carl Friedrich Gauss - Đức (1777-1855) Kurt Gödel - Áo, Hoa Kỳ (1906-1978) Christian Goldbach - Đức (1690-1764) Hermann Günther Grassmann - Vương quốc Phổ (1809-1877) Alexander Grothendieck - Pháp (1928-) == H == Galileo Galilei - Italia(1564 - 1642) William Rowan Hamilton - Ireland (1805-1865) Peter Andreas Hansen - Đan Mạch (1795-1874) Godfrey Harold Hardy - Anh (1877-1947) Thomas Heath - Anh (1861-1940) David Hilbert - Đức (1862-1943) Guillaume François Antoine (Hầu tước Hôpital) - Pháp (1661-1704) Hoàng Tụy - Việt Nam (1927) Christiaan Huygens - Hà Lan (1629-1695) == I == Itō Kiyoshi - Nhật Bản (1915-2008) == J == Carl Gustav Jakob Jacobi - Đức (1804-1851) James Jurin - Anh (1684-1750) == K == Ghiyath al-Kashi - Ba Tư (vào khoảng 1370-1429) Omar Khayyám - Ba Tư (1028-1123) Johannes Kepler - Đức (1571-1630) Donald Knuth - Hoa Kỳ (1938-) Helge von Koch - Thụy Điển (1870-1924) == L == Joseph-Louis de Lagrange - Pháp (1736-1813) Edmond Laguerre - Pháp (1834-1886) Johann Heinrich Lambert - Đức (1728-1777) Pierre-Simon Laplace - Pháp (1749-1827) Estienne de La Roche - Pháp (1470-1530) Henri Leon Lebesgue - Pháp (1875-1941) Adrien-Marie Legendre - Pháp (1752-1833) Gottfried Wilhelm Leibniz - Đức (1646-1716) Sophus Lie - Na Uy (1842-1899) Ernst Leonard Lindelöf - Phần Lan (1870-1946) Jules Antoine Lissajous - Pháp (1822-1880) Nikolai Ivanovich Lobachevsky - Nga (1792-1856) László Lovász - Hungary (1947-) Ada Lovelace - Anh (1815-1852) François-Édouard-Anatole Lucas - Pháp (1842-1891) Lê Văn Thiêm - Việt Nam (–) Lương Thế Vinh - Việt Nam (1442–?) == M == Benoît Mandelbrot - Ba Lan-Pháp-Hoa Kỳ (1924–2010) Andrei Andreevich Markov - Nga (1856-1922) Maryam Mirzakhani - Iran (1977) Hermann Minkowski - Đức (1864-1909) August Ferdinand Möbius - Đức (1790-1868) Georg Mohr - Đan Mạch (1640-1697) Abraham de Moivre - Pháp (1667-1754) == N == John Napier - Scotland (1550-1617) John von Neumann - Hungary-Hoa Kỳ (1903-1957) Isaac Newton - Anh (1643-1727) Jakob Nielsen - Đan Mạch (1890–1959) Nilakantha Somayaji - Ấn Độ (1444-1544) Sergei Petrovich Novikov - Nga (1938-) Petr Sergeevich Novikov - Nga (1901-1935) Kristen Nygaard - Na Uy (1926-2002) Ngô Bảo Châu - Việt Nam (s. 1972) == O == == P == Blaise Pascal - Pháp (1623-1662) Roger Penrose - Anh (1931-) Jules-Henri Poincaré - Pháp (1854-1912) Louis Poinsot - Pháp (1777-1859) Alphonse de Polignac - Pháp (1817-1890) Siméon-Denis Poisson - Pháp (1781-1840) Pythagoras - Hy Lạp (582-496 TCN)) == Q == == R == Srinivasa Aaiyangar Ramanujan - Ấn Độ (1887-1920) Frank Plumpton Ramsey - Anh (1903-1930) Bernhard Riemann - Đức (1826-1866) Bertrand Russell - Anh (1872-1970) == S == Jean-Pierre Serre - Pháp (1926-) Waclaw Sierpinski - Ba Lan (1882-1969) Stephen Smale - Hoa Kỳ (1930-) Henry John Stephen Smith - Anh (1826-1883) George Gabriel Stokes - Ireland-Anh (1819-1903) == T == John Tate - Hoa Kỳ (1925-) Thales - Hy Lạp (vào khoảng 624-547 TCN) Alan Turing - Anh (1912-1954) Andrey Nikolayevich Tychonoff - Nga (1906-1993) == U == Stanislaw Marcin Ulam - Ba Lan-Hoa Kỳ (1909-1984) == V == Jurij Vega - Slovenia (1754-1802) John Venn - Anh (1834-1923) Leonardo da Vinci - Ý (1452 - 1519) Giuseppe Vitali - Ý (1875-1932) Vũ Hữu - Việt Nam (1437–1530) == W == André Weil - Pháp (1906-1998) Hermann Klaus Hugo Weyl - Đức-Hoa Kỳ (1885-1955) Hassler Whitney - Hoa Kỳ (1907-1989) William Whiston - Anh (1667-1752) Andrew Wiles - Anh (s. 1953) Josef Wronski - Ba Lan-Pháp (1778-1853) == X == == Y == == Z == Zeno - Hy Lạp (vào khoảng 490-430 TCN) == Tham khảo == == Liên kết ngoài == Danh sách các nữ Tiến sĩ Toán học đầu tiên tại Bắc Mỹ
số âm.txt
Số âm là một số có giá trị nhỏ hơn 0. Trong toán học, số âm thường được biểu diễn bằng một dấu trừ – nằm trước giá trị tuyệt đối của nó. == Biểu thị == Số nguyên âm được biểu thị bằng công thức đại số a < 0 {\displaystyle a<\ 0} . Ví dụ tập hợp các số nguyên âm: { − 1 , − 2 , − 3 , − 4 , − 5 , − 6... } {\displaystyle \left\{-1,-2,-3,-4,-5,-6...\right\}\quad } == Phân số == == Xem thêm == Số dương == Tham khảo ==
swaziland.txt
Swaziland (phiên âm tiếng Việt: Xoa-di-len) tên chính thức là Vương quốc Swaziland (tiếng Swati: Umbuso we Swatini; tiếng Anh: Kingdom of Swaziland) là một quốc gia thuộc khu vực châu Phi. Swaziland là một quốc gia có diện tích tương đối nhỏ và không giáp biển. Nước này giáp với Nam Phi về ba phía bắc, tây, nam và giáp với Mozambique về phía đông. Tên gọi của đất nước này được đặt theo cái tên "Swazi", một ngôn ngữ thuộc nhóm ngôn ngữ Bantu ở miền nam châu Phi. Swaziland giành được độc lập từ Anh vào ngày 6 tháng 9 năm 1968. Hiện nay nước này là một quốc gia theo chế độ quân chủ chuyên chế. Kinh tế Swaziland phát triển không ổn định và nước này đang phải đối mặt với nhiều vấn đề xã hội nghiêm trọng, đặc biệt là đói nghèo và đại dịch HIV/AIDS. == Lịch sử == Con người đã xuất hiện ở vùng đất ngày nay là Swaziland từ lâu đời. Những công cụ từ thời kỳ đồ đá có niên đại 200.000 năm trước đã được phát hiện tại đây. Bên cạnh đó, người ta còn phát hiện được rất nhiều những bức tranh vẽ trên đá có niên đại cổ nhất từ 25.000 năm trước tại vùng đất này. Cư dân đầu tiên xuất hiện tại Swaziland là những bộ tộc Khoisan sống bằng nghề săn bắn. Sau đó, một dòng người Bantu rất lớn đã tràn vào vùng đất này. Bằng chứng về sự phát triển của ngành trồng trọt cũng như sử dụng công cụ bằng sắt đã được phát hiện và xác định vào khoảng thế kỉ 4. Bên cạnh đó, những tổ tiên của người Sotho và Nguni cũng đến đây trong khoảng thời gian trước thế kỉ 11. Vương triều Dlamini bắt đầu cai trị Swaziland từ thế kỉ 18 và được mở rộng vào đầu thế kỉ 19 dưới triều vua Sobhuza I. Thời gian này, người da trắng cũng bắt đầu đến Swziland sinh sống. Vào những năm 1890, nước Cộng hòa Transvaal tuyên bố chủ quyền đối với Swaziland nhưng chưa kịp thiết lập chế độ cai trị tại đây thì cuộc Chiến tranh Boer thứ hai (1899-1902) giữa hai nước cộng hòa của người Boer và người Anh nổ ra. Kết quả người Boer thất bại và Swaziland được đặt dưới chế độ bảo hộ của Liên Hiệp Anh. Nước này giành được độc lập và trở thành một thành viên của Khối thịnh vượng chung Anh vào ngày 6 tháng 9 năm 1968. Từ đó đến nay, Swaziland là một nước theo chế độ quân chủ chuyên chế. == Chính trị == Theo thể chế Quân chủ Nghị viện, chế độ lưỡng viện, (từ năm 1973). Hiến pháp được ban hành năm 1968, năm 1973 không có hiệu lực; sau đó là các bản Hiến pháp năm 1978, 1992; năm 1996 ban hành Hiến pháp mới. Vua bổ nhiệm Thủ tướng và các thành viên Nội các. Giúp việc cho Vua có Thượng nghị viện gồm 30 thành viên và Hạ nghị viện gồm 65 thành viên. Trong Thượng nghị viện cũng như trong Hạ Nghị viện đều có 10 thành viên do vua bổ nhiệm. Mỗi cộng đồng, trong số 40 cộng đồng bộ lạc lâu đời, bầu 2 thành viên vào cử tri đoàn. 10 thành viên của cử tri đoàn trở thành thượng nghị sĩ. 40 thành viên của cử tri đoàn trở thành hạ nghị sĩ. Không có các đảng chính trị từ năm 1973. == Địa lý == Swaziland là một quốc gia có diện tích tương đối nhỏ tại châu Phi. Tổng diện tích của nước này là 17.363 km², đứng hàng 153 thế giới (Xem Danh sách quốc gia theo diện tích). Cảnh quan của Swaziland nhìn chung khá đa dạng. Núi cao tập trung chủ yếu ở khu vực giữa biên giới nước này với Mozambique. Đồng cỏ khô nhiệt đới (savanna) tập trung chủ yếu ở phía đông và phía tây bắc nước này có những cánh rừng mưa nhiệt đới. Có một vài con sông nhỏ chảy qua lãnh thổ Swaziland. == Kinh tế == Swaziland là một nền kinh tế nhỏ và nhìn chung còn khá lạc hậu. Hơn 70% dân số của Swaziland sống ở nông thôn và sống bằng nghề trồng trọt. Hạn hán khi xảy ra thường gây ra nạn đói và đe dọa đến cuộc sống của rất nhiều người. Tỉ lệ thất nghiệp của nước này cũng khá cao, lên tới 40% và có tới 70% dân số nước này sống dưới mức 1 dollar Mỹ một ngày. Số lượng việc làm mới không đáp ứng đủ nhu cầu việc làm của người dân. Gia tăng dân số tại nước này càng làm gia tăng áp lực lên những nguồn tài nguyên và các dịch vụ xã hội như giáo dục và y tế. Những năm qua, tốc độ tăng trưởng kinh tế của Swaziland không ổn định và khá bấp bênh. Năm 2006, tốc độ tăng trưởng kinh tế của nước này là 1,2%. Nền kinh tế Swaziland dựa một phần khá lớn vào ngành sản xuất nước ngọt, xuất khẩu đường, vải sợi, hoa quả đóng hộp. Các mặt hàng nhập khẩu chính của nước này là máy móc, thiết bị, hóa chất và nhiên liệu. Đối tác thương mại chủ yếu của nước này là Nam Phi, bên cạnh đó còn có Liên minh châu Âu và Mỹ. == Nhân khẩu == Dân tộc chủ yếu sinh sống tại Swaziland là người Swazi. Bên cạnh đó còn có một số người Zulu và người da trắng thiểu số có gốc Anh và Hà Lan. Tiếng Swazi và tiếng Anh là hai ngôn ngữ chính thức ở Swaziland. Tiếng Zulu và tiếng Tsonga được nói bởi những người dân thuộc các bộ tộc thiểu số này. Theo số liệu tháng 7 năm 2007, dân số của Swaziland là 1.113.066 người. Swaziland là một trong số rất ít nước tại châu Phi có tỉ lệ gia tăng dân số tự nhiên âm. Năm 2007, tốc độ gia tăng dân số của nước này là -0,337%. Nguyên nhân là do tỉ lệ tử tại Swaziland quá cao, chủ yếu là do sự lan tràn của đại dịch HIV/AIDS. Tính đến năm 2013, nước này đã có tới 27.36% người trưởng thành bị nhiễm AIDS, một con số cao đến mức khó tin. Đại dịch AIDS đang trở thành một thảm họa sống còn tại đất nước Swaziland nhỏ bé. 82,70% dân số theo Kitô giáo, làm cho nó là tôn giáo phổ biến nhất ở Swaziland. Anh giáo, Tin Lành, chiếm đa số trong các Kitô hữu (40%), tiếp theo là Công giáo La Mã 20% dân số. Cũng có một số lượng nhỏ hơn các tôn giáo ngoài Kitô giáo trong cả nước như Hồi giáo (0,95%), Đức tin Bahá'í (0,5%), và Ấn Độ giáo (0,15%) [27]. == Hình ảnh về Swaziland == == Tham khảo == == Liên kết ngoài == The Government of the Kingdom of Swaziland
giải bóng đá vô địch quốc gia 2016.txt
Giải bóng đá vô địch quốc gia 2016 có tên gọi chính thức là Giải bóng đá vô địch quốc gia – Toyota V.League 2016 hay Toyota V.League 1 – 2016 đã diễn ra từ ngày 20 tháng 2 đến ngày 18 tháng 9 năm 2016. == Thay đổi trước mùa giải == Danh sách các đội bóng có sự thay đổi so với mùa giải 2015: == Những điểm mới của mùa giải 2016 == Trong mùa giải 2016 sẽ có 1,5 suất xuống hạng. Đội xếp thứ 14 chung cuộc sẽ trực tiếp xuống tham gia mùa giải V.League 2 2017. Còn đội xếp thứ 13 chung cuộc sẽ phải thi đấu trận Play-off với đội đại diện V.League 2 2016 để giành quyền tham gia V.League 1 mùa giải tiếp theo. Bóng thi đấu chính thức từ mùa bóng 2016 được tài trợ bởi hãng Grand Sport (Thái Lan). Một số đội bóng đã bắt đầu quan tâm đến hình ảnh của câu lạc bộ bằng cách hợp tác với nhà tài trợ sản xuất trang phục thi đấu như: Than Quảng Ninh (Joma),Becamex Bình Dương (Kappa), Đồng Tháp (CODAD), Long An (Kappa), Hải Phòng (Mitre),... Cũng trong mùa giải 2016 này, Công ty Cổ phần Bóng đá chuyên nghiệp Việt Nam hợp tác với Sportradar - công ty chuyên nghiên cứu, phân tích các dữ liệu thể thao - nhằm thể hiện quyết tâm phòng ngừa, ngăn chặn những hành vi tiêu cực trong giải đấu. Từ mùa bóng 2016, toàn bộ các cầu thủ, trọng tài, giám sát tham gia thi đấu và điều hành các trận đấu tại V.League 1 2016 được trang bị bảo hiểm thân thể, rủi ro khi thi đấu với mức chi trả lên đến 300 triệu đồng/mùa cho 1 cầu thủ và 200 triệu đồng/mùa đối với trọng tài hoặc giám sát. Toàn bộ số tiền tham gia bảo hiểm do Công ty Bảo hiểm Hùng Vương tài trợ. Ngày 31 tháng 3 năm 2016 công ty cổ phần phát triển bóng đá Hà Nội đổi tên thành công ty cổ phần phát triển bóng đá Sài Gòn vẫn thuộc sở hữu của ông chủ Nguyễn Giang Đông, đồng thời công ty gửi công văn tới liên đoàn bóng đá Việt Nam đề nghị chuyển địa điểm và tên gọi ngay giữa mùa giải bóng đá vô địch quốc gia 2016. Ngày 4 tháng 4 năm 2016, liên đoàn bóng đá Việt Nam đồng ý để câu lạc bộ Hà Nội đổi tên thành câu lạc bộ bóng đá Sài Gòn và đăng ký sân vận động Thống Nhất làm sân nhà thi đấu tại V.League-1 2016. == Các đội tham dự == === Thông tin đội bóng và trang phục === === Thay đổi huấn luyện viên === == Cầu thủ ngoại binh và nhập tịch == Mỗi câu lạc bộ tại V.League 2016 được cho phép đăng ký và sử dụng hai cầu thủ ngoại binh và 1 cầu thủ nhập tịch trong thi đấu. Riêng Becamex Bình Dương và Hà Nội T&T do phải tham gia AFC Champions League nên được phép đăng ký 3 ngoại binh, 1 ngoại binh gốc Á và 1 cầu thủ nhập tịch, nhưng chỉ được phép đăng ký và sử dụng 2 ngoại binh và 1 cầu thủ nhập tịch trong 1 trận đấu. == Bảng xếp hạng == === Vị trí các đội qua các vòng đấu === Nguồn: Công ty Cổ phần Bóng đá chuyên nghiệp Việt Nam (VPF) == Kết quả các vòng đấu == Cập nhật lần cuối: 18 tháng 9 năm 2016. Nguồn: Vietnam Professional Football 1 ^ Đội chủ nhà được liệt kê ở cột bên tay trái.Màu sắc: Xanh = Chủ nhà thắng; Vàng = Hòa; Đỏ = Đội khách thắng. == Play-off == === Phương thức thi đấu === Theo điều lệ trận play-off ở mùa bóng 2016, thì để xác định đội hạng Nhất 2016 dự trận đấu tranh suất còn lại dự V-League 2017 với đại diện V-League 2016, 3 đội bóng đứng từ thứ hai đến thứ tư chung cuộc sẽ giáp mặt nhau. Cụ thể, hai đội đứng thứ ba và thứ tư sẽ gặp nhau vào ngày 27/8 tại sân đội đứng thứ ba. Đội thắng trong cặp đấu này sẽ gặp đội đứng thứ nhì ở giải hạng Nhất 2016 vào ngày 31/8 trên sân của đội đứng thứ hai. Đội thắng trong cặp đấu này sẽ giành quyền đá trận play-off với đội liền kề trước đội rớt hạng của V-League 2016. Sân thi đấu trận chung kết (play-off 3) sẽ do BTC quyết định. Ở 2 trận play-off đầu, trường hợp 2 đội hoà nhau sau 2 hiệp thi đấu chính thức sẽ đá luân lưu mà không có 2 hiệp phụ. Play-off 1: Hạng 3 HNQG - Hạng 4 HNQG Play-off 2: Hạng 2 HNQG - Thắng trận 1 Play-off 3: Hạng 13 V.League 1 - Thắng trận 2 === Kết quả === == Thống kê mùa giải == Số liệu thống kê chính xác tới 18 tháng 9 năm 2016 === Ghi bàn hàng đầu === === Phản lưới nhà === === Ghi hattrick === == Giải thưởng == === Giải thưởng tháng === == Tổng kết mùa giải == Các danh hiệu cá nhân và tập thể được bình chọn sau khi kết thúc V.League 1-2016 Trọng tài xuất sắc nhất: Nguyễn Ngọc Châu. Trợ lý trọng tài xuất sắc nhất: Nguyễn Trường Sơn. Ban tổ chức trận đấu tốt nhất: Than Quảng Ninh. Câu lạc bộ có mặt sân tốt nhất: Than Quảng Ninh. Câu lạc bộ đào tạo trẻ tốt nhất: Hoàng Anh Gia Lai. Huấn luyện viên xuất sắc nhất: Chu Đình Nghiêm (Hà Nội T&T). Cầu thủ xuất sắc nhất: Gastón Merlo (SHB Đà Nẵng - 24 bàn thắng). Vua phá lưới: Gastón Merlo (SHB Đà Nẵng). Bàn thắng đẹp nhất: Phạm Thành Lương (Hà Nội T&T - Vòng 8). Cầu thủ trẻ xuất sắc nhất: Vũ Văn Thanh (Hoàng Anh Gia Lai). Hội cổ động viên xuất sắc nhất: Hội cổ động viên FLC Thanh Hoá. Đội hình tiêu biểu mùa giải V.League 1-2016: Thủ Môn: Huỳnh Tuấn Linh (thủ môn) (Than Quảng Ninh) Hậu vệ: Sầm Ngọc Đức (Hà Nội T&T), Lê Văn Phú (Hải Phòng), Quế Ngọc Hải (Sông Lam Nghệ An), Trần Văn Vũ (Sanna Khánh Hoà BVN) Tiền vệ: Đinh Thanh Trung (QNK Quảng Nam), Pape Omar Faye (FLC Thanh Hoá), Lê Văn Thắng (Hải Phòng), Nghiêm Xuân Tú (Than Quảng Ninh) Tiền đạo: Gastón Merlo (SHB Đà Nẵng), Uche Iheroume (Sanna Khánh Hoà BVN) == Xem thêm == Giải bóng đá hạng nhất quốc gia 2016 Giải bóng đá Cúp Quốc gia 2016 Giải bóng đá hạng ba quốc gia 2016 Giải bóng đá hạng nhì quốc gia 2016 == Chú thích == == Liên kết ngoài == Trang chủ Công ty Cổ phần Bóng đá Chuyên nghiệp Việt Nam (VPF) (tiếng Việt) Trang chủ Liên đoàn bóng đá Việt Nam (VFF) (tiếng Việt) Trang chủ flashscore.pl (tiếng Ba Lan)
vệ tinh.txt
Một vệ tinh là bất kỳ một vật thể nào quay quanh một vật thể khác (được coi là vật thể chính của nó). Mọi vật thể thuộc Hệ Mặt Trời, gồm cả Trái Đất, đều là vệ tinh của Mặt Trời, hay là vệ tinh của các vật thể đó, như trong trường hợp của Mặt Trăng. Việc định nghĩa vật thể nào là vệ tinh không phải luôn đơn giản khi xét đến một cặp hai vật thể. Bởi vì mọi vật thể đều có sức hút của trọng lực, chuyển động của vật thể chính cũng bị ảnh hưởng bởi vệ tinh của nó. Nếu hai vật thể có khối lượng tương đương, thì chúng thường được coi là một hệ đôi và không một vật thể nào bị coi là vệ tinh; một ví dụ là tiểu hành tinh kép 90 Antiope. Tiêu chuẩn chung để một vật thể được coi là vệ tinh là trung tâm khối lượng của hệ nằm bên trong vật thể chính. Trong cách nói thông thường, thuật ngữ "vệ tinh" thường để chỉ một vệ tinh nhân tạo, nó là một vật thể do con người chế tạo và bay quanh Trái Đất (hay một thiên thể khác). Tuy nhiên, các nhà khoa học cũng có thể sử dụng thuật ngữ đó để chỉ các vệ tinh thiên nhiên, hay các Mặt Trăng. Nói chung, trong cách dùng thông thường, "vệ tinh thiên nhiên" là thuật ngữ để chỉ các Mặt Trăng. == Các vệ tinh nhân tạo == === Vệ tinh nhân tạo đầu tiên === Người đầu tiên đã nghĩ ra vệ tinh nhân tạo dùng cho truyền thông là nhà viết truyện khoa học giả tưởng Arthur C. Clarke vào năm 1945 ([2]). Ông đã nghiên cứu về cách phóng các vệ tinh này, quỹ đạo của chúng và nhiều khía cạnh khác cho việc thành lập một hệ thống vệ tinh nhân tạo bao phủ thế giới. Ông cũng đề nghị 3 vệ tinh địa tĩnh (geostationary) sẽ đủ để bao phủ viễn thông cho toàn bộ Trái Đất. Tuy nhiên, vệ tinh nhân tạo đầu tiên là Sputnik 1 được Liên bang Xô viết phóng lên ngày 4 tháng 10 năm 1957. === Các loại vệ tinh === Vệ tinh vũ trụ là các vệ tinh được dùng để quan sát các hành tinh xa xôi, các thiên hà và các vật thể ngoài vũ trụ khác. Vệ tinh thông tin là các vệ tinh nhân tạo nằm trong không gian dùng cho các mục đích viễn thông sử dụng sóng radio ở tần số vi ba. Đa số các vệ tinh truyền thông sử dụng các quỹ đạo đồng bộ hay các quỹ đạo địa tĩnh, mặc dù các hệ thống gần đây sử dụng các vệ tinh tại quỹ đạo Trái Đất tầm thấp. Vệ tinh quan sát Trái Đất là các vệ tinh được thiết kế đặc biệt để quan sát Trái Đất từ quỹ đạo, tương tự như các vệ tinh trinh sát nhưng được dùng cho các mục đích phi quân sự như kiểm tra môi trường, khí tượng học, lập bản đồ, vân vân. (Xem thêm Hệ thống quan sát Trái Đất.) Vệ tinh hoa tiêu (navigation satellite) là các vệ tinh sử dụng các tín hiệu radio được truyền đi theo đúng chu kỳ cho phép các bộ thu sóng di động trên mặt đất xác định chính xác được vị trí của chúng. Sự quang đãng (không có vật cản) của đường truyền và thu tín hiệu giữa vệ tinh (nguồn phát) và máy thu trên mặt đất tích hợp với những cải tiến mới về điện tử học cho phép hệ thống vệ tinh hoa tiêu đo đạc khoảng cách với độ chính xác khoảng một vài mét. Vệ tinh tiêu diệt là các vệ tinh được thiết kế để tiêu diệt các vệ tinh "đối phương", các vũ khí và các mục tiêu bay trên quỹ đạo khác. Một số vệ tinh này được trang bị đạn động lực, một số khác sử dụng năng lượng và/hay các vũ khí hạt nhân để phá huỷ các vệ tinh, ICBMs, MIRVs. Cả Hoa Kỳ và Liên bang Xô viết đều có các vệ tinh này. Các đường dẫn bàn luận về các "Vệ tinh tiêu diệt", ASATS (Vệ tinh chống vệ tinh) gồm USSR Tests ASAT weapon và ASAT Test. Xem thêm IMINT. Vệ tinh trinh sát là những vệ tinh quan sát Trái Đất hay vệ tinh truyền thông được triển khai cho các ứng dụng quân sự hay tình báo. Chúng ta hiện không biết nhiều về năng lực thực sự của các vệ tinh này vì các chính phủ điều hành chúng thường giữ tuyệt đối bí mật về thông tin cho các vệ tinh loại này. Vệ tinh năng lượng Mặt trời là các vệ tinh được đề xuất là sẽ bay trên quỹ đạo Trái Đất tầm cao sử dụng cách truyền năng lượng viba để chiếu năng lượng mặt trời tới những antenna cực lớn trên mặt đất, nơi nó có thể được dùng để thay thế cho những nguồn năng lượng quy ước thông thường. Trạm vũ trụ là các cơ cấu do con người chế tạo, được thiết kế để con người sống được trong vũ trụ. Một trạm vũ trụ được phân biệt với những tàu vũ trụ ở điểm nó không có động cơ đầy chính hay các thiết bị hạ cánh — thay vào đó, người ta dùng các thiết bị khác để vận chuyển lên và xuống trạm. Các trạm vũ trụ được thiết kế để có thể duy trì sự sống trong một khoảng thời gian trung bình trên quỹ đạo, các khoảng thời gian có thể là tuần, tháng, hay thậm chí là năm. Vệ tinh thời tiết là các vệ tinh có mục đích chính là để quan sát thời tiết và/hay khí hậu của Trái Đất. Vệ tinh thu nhỏ là các vệ tinh có trọng lượng và kích thước nhỏ hơn thông thường. Những tiêu chí xếp hạng mới để đánh giá các vệ tinh đó: tiểu vệ tinh (500–200 kg), vệ tinh siêu nhỏ (dưới 200 kg), vệ tinh cỡ nano (dưới 10 kg), vệ tinh cỡ pico (dưới 1 kg) và vệ tinh cỡ femto (dưới 100 g). Vệ tinh sinh học là các vệ tinh có mang các tổ chức sinh vật sống, nói chung là cho mục đích thực nghiệm khoa học. === Các loại quỹ đạo === Đa số các vệ tinh thường được mô tả đặc điểm dựa theo quỹ đạo của chúng. Mặc dù một vệ tinh có thể bay trên một quỹ đạo ở bất kỳ độ cao nào, các vệ tinh thường được xếp theo độ cao của chúng. Quỹ đạo Trái Đất tầm thấp (LEO: 200 đến 1200 km bên trên bề mặt Trái Đất) Quỹ đạo Trái Đất tầm trung (ICO hay MEO: 1200 đến 35786 km) Quỹ đạo Trái Đất đồng bộ (GSO) Quỹ đạo địa tĩnh (GEO: quỹ đạo đồng bộ không nghiêng, cách xích đạo Trái Đất 35 786 km) Quỹ đạo Trái Đất tầm cao (HEO: trên 35786 km) Các quỹ đạo sau là các quỹ đạo đặc biệt cũng thường được dùng để xác định đặc điểm của vệ tinh: Quỹ đạo Molniya Quỹ đạo đồng bộ Mặt Trời Quỹ đạo cực Quỹ đạo di chuyển Mặt Trăng Quỹ đạo di chuyển Hohmann Đối với kiểu quỹ đạo này thì vệ tinh thường là một tàu vũ trụ Quỹ đạo siêu đồng bộ hay quỹ đạo trôi dạt — quỹ đạo bên trên GEO. Các vệ tinh sẽ trôi dạt theo hướng tây. (GEO + 235 km + (1000 × CR × A/m) km) nếu CR là hệ số bức xạ áp suất của Mặt Trời (thường giữa 1.2 và 1.5) và A/m là vùng tương quan [m²] với tỷ lệ khối lượng [kg] khô Quỹ đạo dưới đồng bộ hay quỹ đạo trôi dạt - quỹ đạo gần nhưng bên dưới GEO. Được sử dụng cho các vệ tinh đang trải qua những thay đổi tình trạng ổn định theo hướng đông. Các vệ tinh cũng có thể quay quanh các điểm đu đưa. === Các nước có khả năng phóng vệ tinh nhân tạo === Danh sách này bao gồm những quốc gia có khả năng độc lập để tự phóng vệ tinh lên quỹ đạo, gồm cả việc sản xuất ra khí cụ cần thiết để phóng. Ghi chú: nhiều nước khác cũng có khả năng thiết kế hay chế tạo vệ tinh - việc này, nói chung, không tốn nhiều tiền và cũng không đòi hỏi khả năng khoa học và kỹ thuật lớn – nhưng không thể phóng chúng lên, thay vào đó họ dùng các dịch vụ phóng vệ tinh của nước ngoài. Danh sách này không nhắc tới các quốc gia đó mà chỉ liệt kê những nước có khả năng phóng vệ tinh và ngày khả năng này lần đầu tiên được thể hiện. Cả Bắc Triều Tiên và Iraq đã tuyên bố những vụ phóng vệ tinh lên quỹ đạo nhưng điều này còn chưa được xác định. Na Uy đã phóng các vệ tinh trong nước và quốc tế từ trung tâm vũ trụ của họ ở Andøya. Tới năm 2006, chỉ có tám quốc gia đã phóng các vệ tinh lên quỹ đạo một cách độc lập với phương tiện phóng của chính họ chế tạo – theo thứ tự thời gian: Liên bang Xô viết, Hoa Kỳ, Pháp, Nhật Bản, Trung Quốc, Anh, Ấn Độ và Israel. Khả năng phóng vệ tinh của Anh và Pháp hiện được quy cho Liên minh châu Âu, và khả năng của Liên bang Xô viết được chuyển cho Nga, làm giảm số lượng những thực thể chính trị với khả năng phóng vệ tinh thực tế xuống còn bảy cường quốc vũ trụ chính: Hoa Kỳ, Nga, Trung Quốc, Ấn Độ, Liên minh châu Âu, Nhật Bản – và một cường quốc vũ trụ "nhỏ": Israel. Nhiều quốc gia khác như Nam Triều Tiên, Pakistan và Brasil đang ở giai đoạn đầu chương trình phát triển khả năng phóng vệ tinh ở mức độ nhỏ của họ, và đang tìm cách trở thành các tiểu cường quốc vũ trụ - các nước khác có thể có khả năng về khoa học và công nghệ, nhưng không có khả năng kinh tế hay không có tham vọng về chính trị. == Vệ tinh đầu tiên của các quốc gia == === Vệ tinh nhân tạo của Việt Nam === Tháng 4 năm 2008 Việt Nam đã thuê Pháp phóng thành công vệ tinh VINASAT-1 (mua của Mỹ) lên quỹ đạo địa tĩnh, với việc phóng được vệ tinh nhân tạo Việt Nam đã tiết kiệm 10 triệu USD mỗi năm. Việt Nam là nước thứ 93 phóng vệ tinh nhân tạo và là nước thứ sáu tại Đông Nam Á. Theo các nguồn thông tin nước ngoài, tổng trị giá của dự án VINASAT-1 là 250 triệu USD, trong đó bao gồm chi phí mua vệ tinh và phí phóng vệ tinh, xây dựng trạm mặt đất, bảo hiểm... Dự tính vệ tinh hoạt động được từ 15 đến 20 năm và được khoảng 20 công ty phụ trách. Năm 2007, sau khi được thành lập, Viện Công nghệ Vũ trụ Việt Nam đã tiến hành dự án chế tạo vệ tinh nhỏ pico (10x10x10cm, 1 kg) Năm 2008, công ty FPT thành lập Phòng nghiên cứu không gian FSpace với mục tiêu thiết kế chế tạo vệ tinh nhỏ vệ tinh nano F-1 (10x10x20cm, 2 kg). Ngày 16-5-2012, 5g13p, tên lửa Arian 5 mang theo vệ tinh Vinasat-2 rời bãi phóng Kouru của Guyana, Nam Mỹ. Sau 36 phút bay, lúc 5g49p, vệ tinh Vinasat-2 rời khỏi tên lửa Arian 5, vào quỹ đạo an toàn. Vinasat-2 với nhiệm vụ và thiết kế tương tự như Vinasat-1. == Xem thêm == Bảng thời gian các vệ tinh nhân tạo và các tàu thăm dò vũ trụ Các vệ tinh (theo ngày phóng) Syncom 1 (1963), 2 (1963) and 3 (1964) Anik 1 (1972) Aryabhata (1975) (Ấn Độ, phóng bởi Liên bang xô viết) Hermes Communications Technology Satellite (1976) Munin (2000) (Thụy Sĩ, phóng bởi Hoa Kỳ) KEO satellite - a space time capsule (2006) Các dịch vụ vệ tinh Điện thoại vệ tinh Internet vệ tinh Truyền hình vệ tinh Radio vệ tinh Vũ khí chống vệ tinh Vệ tinh kéo dây Voyager 1 == Chú thích == ^ Hess, Wilmot (1968). The Radiation Belt and Magnetosphere. == Liên kết ngoài == J-Pass NASA site for satellite-watching heavens-above.com site for satellite-watching 卫星的运行轨迹图 所有卫星的实时轨迹.tiếng Trung: {{{1}}}(tiếng Anh)(tiếng Tây Ban Nha)(tiếng Pháp) Orbitron - Satellite Tracking System Free satellite tracking software Satellite Tracking in Recreation Radio Amateur an excellent link to many links UN Office for Outer Space Affairs ensures all countries benefit from satellites Internet via Satellite The attraction of Satellite for professional users is the ability to establish a network specifically dimensioned for the required service in terms of demand, performance, and geographical distribution, with the ease of scalability as the market expands Phòng nghiên cứu FSpace và giấc mơ chế tạo vệ tinh nano đầu tiên của Việt Nam
hypenia.txt
Hypenia là một chi thực vật có hoa trong họ Hoa môi (Lamiaceae). == Loài == Chi Hypenia gồm các loài: == Hình ảnh == == Chú thích == == Liên kết ngoài == Phương tiện liên quan tới Hypenia tại Wikimedia Commons Dữ liệu liên quan tới Hypenia tại Wikispecies
john keats.txt
John Keats (31 tháng 10 năm 1795 – 23 tháng 2 năm 1821) – nhà thơ Anh, người cùng thời với Percy Bysshe Shelley, Lord Byron, một đại diện tiêu biểu của trường phái lãng mạn Anh thế kỉ XIX. == Tiểu sử == John Keats sinh ở Moorgate, London, là con trai cả của Thomas Keats và Frances Jennings Keats. Năm 1804 bố mất, ba tuần sau đó mẹ đi lấy chồng nên các con ở với bà ngoại. Năm 1810 mẹ chết vì bệnh lao phổi, hậu quả của cái chết này là sau đó các con trai của bà cũng chết vì bệnh này. Từ năm 1803-1811 học ở trường tư, năm 1811 học ngành y ở King's College London. Thời gian này Keats đã bắt đầu say mê thơ ca, tốt nghiệp ngành y nhưng Keats không làm bác sĩ mà theo đuổi sự nghiệp thơ ca. Tập thơ đầu tiên Poems (1917) còn mang vẻ đa sầu đa cảm nhưng đã có tiếng ngân vang của niềm vui ca ngợi cuộc sống, đây cũng là đề tài trung tâm trong sáng tạo của Keats. Các trường ca Endymion (1817), Ode to a Grecian urn (1820) là sự tìm kiếm cái đẹp và sự hài hòa từ thời cổ đại, ballad La Belle Dame sans Merci (1819) – trở về với thời đại kỵ sĩ, còn Ode to a nightingale (1819) – ca ngợi vẻ đẹp muôn thuở của thiên nhiên… Bạn đọc có thể đọc những phân tích chi tiết về tác phẩm Người đẹp không có lòng thương xót ở mục từ: La Belle Dame sans Merci Đặc điểm dễ nhận thấy ở thơ Keats là sự đa dạng của vần luật, cái nhìn vào cuộc đời đầy màu sắc và sự chính xác, cụ thể của hình tượng thơ ca. Cuộc đời của Keats thật ngắn ngủi nhưng sự nghiệp thơ ca mà ông để lại cho đời là vô giá. Keats nổi tiếng là nhà thơ ca ngợi cái đẹp "Cái đẹp là chân lý, chân lý là cái đẹp, thế thôi, đấy là tất cả những gì ta biết và ta cần biết". Theo quan niệm của ông, nghệ thuật là phải thể hiện cái đẹp chứ không phải là thứ vũ khí của chính trị, khoa học hay tôn giáo. Nhà thơ không phải là lãnh tụ, không phải là người thầy, nhà thơ không nên tham gia vào đấu tranh xã hội mà nhà thơ – trước hết là người sáng tạo. Keats mất ở Ý vì bệnh lao phổi. Ông được mai táng tại nghĩa trang Tin lành ở Roma, trên mộ có dòng chữ đề: "tên của người này in trên nước" (whose name was writ in water). == Tác phẩm == Endymion Hyperion Ode to a Grecian urn Ode to a nightingale On Melancholy То autumn Isabella The Eve of St. Agnes La Belle Dame sans Merci The poetical works and other writings of J. Keats, 4 vv., ed. by Forman, 1883 Poetical works, ed. by Arnold, 1929 The letters, ed. by Golvin, 1891 == Một bài thơ == == Xem thêm == La Belle Dame sans Merci == Tham khảo == == Liên kết ngoài == Complete Poetical Works Sources Works by or about John Keats at Internet Archive (scanned books original editions color illustrated) Các tác phẩm của John Keats tại Dự án Gutenberg Complete Poetical Works Complete Poetical Works, in an RSS feed Electronic Concordance to the standard edition of Keats's poetry Keats's Poetry and commentary at Oldpoetry.com Portals John-Keats.com Keatsian.com Scholarship Romantic Circles -- Excellent Editions & Articles on Keats and other Authors of the Romantic period The Life of John Keats: a memoir by his friend Charles Armitage Brown The Life and Work of John Keats Misc Keats's grave Keats House The Keats-Shelley House in Rome "'Once More the Poet': Keats, Severn and the Grecian Lyre". Article by John Curtis Franklin about Severn's role in the design of Keats' tombstone, Protestant Cemetery, Rome John Keats at the National Portrait Gallery (London) "Second only to Byron": an essay on "Barry Cornwall" and Keats from TLS, 3 tháng 9 năm 2008. Selected Works at Poetry Index
họ.txt
Bài này nói về họ như là một phần trong tên gọi hoàn chỉnh của người. Các ý nghĩa khác xem bài Họ (định hướng). Họ là một phần trong tên gọi đầy đủ của một người để chỉ ra rằng người đó thuộc về dòng họ nào. Trong các ngôn ngữ như tiếng Anh, tiếng Đức, tiếng Hà Lan và tiếng Pháp, người ta thường có hai tên hoặc nhiều hơn (tên và tên đệm), và họ thông thường đứng ở cuối, điều này giải thích tại sao đôi khi người ta gọi họ là last name (tên cuối). (Đôi khi nó được gọi không chính xác là second name – tên thứ hai – điều này có thể gây nhầm lẫn với tên đệm). Trong tiếng Tây Ban Nha, tiếng Bồ Đào Nha người ta thông thường có một (hoặc nhiều) tên và hai họ. Việc đặt họ trong tên gọi hoàn chỉnh của một người nào đó không phải là hiện tượng phổ biến trên toàn thế giới. Cụ thể, tên gọi đầy đủ của những người dân Iceland, Tây Tạng và người dân trên đảo Java thông thường không có họ – những người nổi tiếng không có họ có thể kể đến là Suharto và Sukarno (xem Họ tên của người Indonesia). Ngoài ra, nhiều hoàng tộc cũng không sử dụng họ. == Châu Âu-Châu Mỹ == Trong tiếng Anh, từ surname là "tên" được tiếp đầu ngữ bởi từ sur của tiếng Pháp (có nghĩa là "trên"), có nguồn gốc từ tiếng Latinh super ("trên"). Trong quá khứ nó đôi khi được phát âm là sirname hay sirename (người ta cho rằng nó có nghĩa là "tên gọi của người đàn ông" hay "tên gọi của bố") theo những diễn giải tưởng tượng. Phụ nữ thông thường đổi họ của mình sau khi kết hôn. Họ của người phụ nữ trước bất kỳ một cuộc hôn nhân nào của người đó được biết đến như là maiden name (họ thời con gái). Đây là điều bình thường đối với những người phụ nữ khi lấy họ của chồng mình, và con cái của họ cũng lấy họ của bố; mặc dù tại một số quốc gia người ta cho phép các bà vợ hay các đứa con có thể mang họ khác. Vẫn có những quốc gia còn cho phép người đàn ông lấy họ vợ. Cụ thể tại những nước nói tiếng Anh, một số người chọn họ kép sau khi kết hôn, tạo ra từ họ của vợ và chồng, nối với nhau bằng dấu gạch ngang (-). Trong thế kỷ 19, Francis Galton công bố các nghiên cứu thống kê về sự biến mất của một số họ. Xem Quy trình Galton-Watson để hiểu thêm về các giải thích toán học. === Các quốc gia dùng tiếng Anh === Một điều đáng ngạc nhiên là tất cả các họ có nguồn gốc Anh chỉ có một trong 4 dạng sau: Nghề nghiệp (ví dụ: Smith, Baker, Archer) Các đặc điểm cá nhân (ví dụ: Short, Brown, Goodman, Whitehead) Các đặc điểm về địa phương hay địa lý (ví dụ: Scott, Hill, Rivers, Windsor) Lấy theo tổ tiên, thông thường dựa trên tên (ví dụ Richardson, James) hay - nếu tính cả họ của những người có nguồn gốc Scotland - thị tộc (ví dụ: Macdonald).Các dạng họ này miêu tả một cách tương ứng nghề nghiệp, đặc điểm cá nhân, khu vực/nguồn gốc và tổ tiên (thông thường là tên cha) của tổ tiên xa của những người mà cách đặt họ lần đầu tiên được áp dụng. Tất nhiên, ý nghĩa nguyên thủy của tên gọi có thể ngày nay không còn ý nghĩa như thế (ví dụ: Cooper = người làm thùng). Một vấn đề còn gây tranh luận là thể loại họ thứ 5 có liên quan đến tôn giáo, mặc dù một số họ trong đó cũng là nghề nghiệp (ví dụ: Bishop). Tại Mỹ, họ của nhiều người da đen có nguồn gốc từ sự chiếm hữu nô lệ. Rất nhiều người trong số đó có họ là do trước đây các chủ nô đã đặt họ cho tổ tiên của những người đó. Ngoài ra nhiều nô lệ sau khi được giải phóng đã tự đặt họ hay lấy họ của chủ cũ. Rất nhiều người, chẳng hạn như Muhammad Ali và Malcolm X, thay đổi họ của mình hơn là sống cùng với những cái họ mà chủ nô đã đặt cho tổ tiên của mình. Truyền thống bỏ họ của mình của người phụ nữ (gọi là họ khi sinh hay họ thời con gái) sau khi kết hôn để sử dụng họ của chồng có lịch sử lâu dài. Trong những năm gần đây, nhiều phụ nữ đã giữ lại họ của mình kể cả sau khi đã lấy chồng. Tuy nhiên, trong những gia đình như vậy thì con cái đa phần vẫn lấy theo họ của người cha. Tại Mỹ, người phụ nữ thông thường trở thành Mrs. X (hay Bà X, với X là họ của người chồng) sau khi cưới, mặc dù gần đây các bà này còn được gọi như là Mrs. Y X nhiều hơn (với Y là tên và X là họ của chồng). Rất hiếm người đàn ông ở các nước phương Tây lấy họ của vợ; điều này chủ yếu diễn ra vào thời Trung cổ, khi người đàn ông từ những gia đình nghèo khó lấy vợ là con gái duy nhất của người ở đẳng cấp cao hơn và giàu có - do vậy họ có trách nhiệm lấy họ của vợ để đổi lấy quyền thừa kế. Trong thế kỷ 18 và 19 ở Vương quốc Anh, các di chúc đôi khi được viết phụ thuộc vào việc người đàn ông thay đổi (hay kết hợp) họ của người đó, việc này có giá trị để họ của người trao thừa kế còn được xuất hiện. Ngày nay, một số đàn ông lấy họ của vợ là do họ tự chọn hơn là bị ép buộc. Các cặp vợ chồng có thể chọn họ khác thay vì lấy họ của vợ hay chồng. Như là một giải pháp cho vấn đề này, nói chung các cặp vợ chồng sẽ lấy họ kép. Ví dụ: khi John Smith và Mary Jones cưới nhau, họ sẽ trở thành John Smith-Jones và Mary Smith-Jones. Tuy nhiên, nhiều cặp không thích lựa chọn này, vì nó có thể tạo ra tên gọi dài dòng (ví dụ: Heathcote-Drummond-Willoughby). Vì thế người vợ có thể lấy họ thời con gái làm tên đệm. Vì thế, khi John Smith cưới Mary Jones, cô ta sẽ trở thành Mrs. Smith, nhưng cô có thể nói về mình như là Mary Jones Smith. Trong một số vụ việc pháp lý, đã từng có vụ kiện để họ hợp pháp của người phụ nữ được thay đổi một cách tự động sau khi kết hôn. Ngày nay điều này không phải là như vậy do người phụ nữ có thể dễ dàng thay đổi họ của mình thành họ sau khi kết hôn, mặc dù nó không còn là tự động nữa. Trong một số luật pháp, các vụ kiện quyền công dân đã từng xảy ra nhằm thay đổi luật sao cho người đàn ông có thể dễ dàng đổi họ thành họ sau khi cưới. === Các quốc gia dùng tiếng Pháp === Tại các quốc gia dùng tiếng Pháp có những sự tương đồng với những quốc gia dùng tiếng Anh trong việc sử dụng họ. Tuy nhiên, tại Pháp và Québec việc thay đổi họ sau khi kết hôn không còn được thừa nhận. Những người muốn đổi họ sau khi kết hôn phải tuân theo cùng một thủ tục pháp lý như những trường hợp muốn đổi họ khác. Nói cách khác, mặc dù một người có thể sử dụng họ kết hôn nhưng "họ luật định" của người đó là không thay đổi. Họ của người Pháp thông thường được viết hoa, giống như là thông thường được viết cho họ của người Trung Quốc (xem dưới đây). Tại Pháp, cho đến ngày 1 tháng 1 năm 2005, trẻ em phải mang họ của người cha theo luật định. Từ ngày này trở đi, khoản 311-21 của Luật dân sự Pháp cho phép cha mẹ lấy họ cho con theo họ bố, mẹ hay kết hợp cả hai họ - nhưng không cho phép quá hai họ được kết hợp. Trong trường hợp không thỏa thuận được thì họ của người cha được sử dụng [1]. Điều này làm cho luật pháp của Pháp phù hợp với tuyên ngôn năm 1978 của Liên minh châu Âu về việc yêu cầu các chính phủ thành viên có các biện pháp để chấp nhận quyền bình đẳng trong việc đặt họ, biện pháp này cũng được Liên hiệp quốc ủng hộ năm 1979. Các biện pháp tương tự cũng đã được chấp thuận ở Đức (năm 1976), Thụy Điển (năm 1982), Đan Mạch (năm 1983) và Tây Ban Nha (năm 1999). === Ireland === Nhiều họ ở Ireland có nguồn gốc Gaelic được biến đổi từ tên của cha hay tổ tiên, tên hiệu, hay các tên miêu tả. Trong nhóm thứ nhất có thể đưa vào các họ như Mac Murrough, Maguire, MacDermott, MacCarthy (tất cả đều biến đổi từ tên cha) hay O'Brian, O'Neill, O'Donnell, O'Toole (tên tổ tiên). Các họ biến đổi từ tên hiệu gồm có: Docherty (dortach - gây tổn thương), Garvery (garbh - thô), Manton (mantach - sún), Duffy (dubh - đen, giống như tóc đen), Bane (ban - trắng, giống như tóc trắng), Finn (fionn - vàng hoe, giống như tóc vàng hay tóc hung), Kennedy (cennidie - đầu thô). Các họ miêu tả gồm có: Carr (gearr - ngắn hay nhỏ), Joyce/Seoige (từ tiếng Wales sais có nghĩa là Saxon hay English), Kearney (ceithearnach - người có đôi chân vững chắc), Brehony (mac an Brehon - con trai của người am hiểu), Ward (mac an Bard - con trai của thi sĩ). Ngược lại với nước Anh, rất ít họ Gaelic được biến đổi từ tên gọi của một khu vực. Trong số những họ như vậy có thể nhóm lại thành một nhóm nhỏ, một số họ có thể là sự lai tạp của tên riêng hay họ Gaelic. Trong những khu vực mà một họ nào đó là quá phổ biến, các tên gọi bổ sung được thêm vào mà đôi khi chúng tuân theo các mẫu cổ xưa. Ví dụ, tại Ireland, "Murphy" là một tên gọi cực kỳ phổ biến, các gia đình Murphy cụ thể nào đó có thể thêm tên hiệu, vì thế gia đình Denis Murphy được gọi là "những người thợ dệt" và Denis tự gọi mình là Murphy "thợ dệt". Xem thêm O'Hay Vì những lý do như vậy, các tên hiệu (the Fada Burkes, có nghĩa là Burkes dài/cao), tên cha (John Morrissey Ned) hay họ thời con gái của mẹ (Kennedy trở thành Kennedy-Lydon) có thể trở thành các họ thông thường hay luật định. Các gia đình người Ireland của "de Courcy Ireland" đã gọi mình như thế để phân biệt họ với những người họ hàng đã chuyển tới Pháp trong thế kỷ 17-18. Ngoài ra, những khu vực dùng Tiếng Ireland vẫn còn tuân theo các truyền thống cũ về việc đặt tên, họ theo tên, họ của cha, ông, cụ, kỵ v.v. Ví dụ: Mike Bartly Pat Reilly (có nghĩa là Mike- con trai của Bartholomew- con trai của Pat Reilly), John Michel John Oge Pat Breanach (John-con trai của Michael- con trai của John trẻ- con trai của Pat Breanach), Tom Paddy-Joe Seoige (Tom- con trai của Paddy-Joe Seoige), Mary Bartly Mike Walsh (Mary- con gái của Bartly- con trai của Mike Walsh) v.v. Thậm chí ngay những vùng dùng tiếng Anh, đặc biệt ở vùng nông thôn, đôi khi truyền thống này vẫn còn tồn tại. Một số tiền tố trong họ của người Ireland: Mac: Mac là tiếng Ireland để chỉ con trai. Mac Gilla: Con trai của người đàn ông có tên đầy đủ tương tự như là Gilla Padraigh, Gilla Christ, (Mac) Gilla Bridge v.v. Việc sử dụng tương đương có thể là việc sử dụng tên thánh như St. George hay St. John ở Anh vào thế kỷ 18 và 19. Mael: Trong thời kỳ Pagan nó được viết như là Mug, giống như trong trường hợp của Mug Nuada. Diễn giải văn chương của nó là "nô lệ của Nuada". Từ nô lệ cần phải hiểu như nghĩa của từ "người mộ đạo". Trong thời kỳ Công giáo từ Mael được sử dụng như là tên, chẳng hạn Mael Bridget, Mael Padraig, Mael Sechlainn, Mael Martain v.v. Sau này, một số tên tiến hóa thành họ (O Mael Sechlainn, Mac Mael Martain v.v). Fitz: Fitz là từ trong ngôn ngữ Norman-Pháp có nguồn gốc từ tiếng Latinh filius, có nghĩa là "con trai của". Nó được sử dụng theo cách đặt theo tên của cha bởi hàng nghìn đàn ông trong thời kỳ đầu của thời đại Norman ở Ireland (fitz Stephen, fitz Richard, fitz Robert, fitz William) và chỉ trong một số trường hợp nó mới trở thành họ thực sự, ví dụ FitzGerald. Có thể là trong giai đoạn các thế kỷ 17 và 18 nó đã được sử dụng trong hình thức nguyên thủy của nó ở một số khu vực mà những người Cựu Anh của Ireland chiếm đa số, như là hình thức đặt theo tên cha. Các bộ tộc vùng Galway đã duy trì tập quán này rất tốt, ví dụ như John fitz John Bodkin, Michael Lynch fitz Arthur v.v, nó còn được sử dụng cho đến tận những năm đầu của thế kỷ 19. O: Nguyên thủy là 'hua', có nghĩa là cháu, hay hậu duệ của người nào đó. Ví dụ, tổ tiên của thị tộc O'Brien, Brian Boru (937-1014) đã được biết đến trong thời đại của mình như là Brian mac Lorcan mac Cennedie, có nghĩa là Brian- con trai của Lorcan- con trai của Cennedie. Vẫn chưa đến thời kỳ mà cháu chắt của tên O'Brien được sử dụng như là họ, để biểu thị nguồn gốc từ tổ tiên nổi tiếng. Có một khoảng thời gian khoảng 200 năm nó được viết như là O', nhưng trong những năm gần đây dấu nháy đơn đang bị bỏ dần đi, làm cho nó phù hợp với cách viết thời trung cổ. Uí: Nguyên thủy không được sử dụng như là một phần của họ nhưng để biểu thị các thành viên có quan hệ của một triều đại hay king-group, tất cả đều là hậu duệ của một người nào đó, ví dụ Uí Neill, Uí Censellagh. Ngày nay đôi khi nó được sử dụng thay thế cho O. Phát âm giống như (U)i. Ní: Có nguồn gốc từ Tiếng Ireland để chỉ con gái - íníon, và được biến thành Ní. Phát âm giống như ni. Bean: Vợ. Phát âm giống như bân. === Tây Ban Nha và các khu vực dùng tiếng Tây Ban Nha === Trong thời trung cổ, hệ thống lấy tên cha tương tự như hệ thống sử dụng ở Iceland. Ví dụ, Álvaro - con trai của Rodrigo - có tên gọi là Álvaro Rodríguez. Con trai của ông ta - Juan - không phải là Juan Rodríguez, mà là Juan Álvarez. Theo thời gian rất nhiều tên gọi theo kiểu này trở thành họ và chúng là những họ phổ biến trong thế giới dùng tiếng Tây Ban Nha. Các nguồn khác của các họ là các đặc trưng hay thói quen cá nhân, nghề nghiệp, khu vực địa lý hay đặc trưng dân tộc: Delgado (mỏng), Moreno (sẫm); Molina (chủ cối xay), Guerrero (chiến binh); Alemán (Đức). Tại Tây Ban Nha và một số quốc gia chịu ảnh hưởng của nền văn hóa này (các cựu thuộc địa của Tây Ban Nha), mỗi người có 2 họ (mặc dù trong một số hoàn cảnh chỉ có họ đầu tiên được dùng): họ thứ nhất là họ thứ nhất của người cha, họ thứ hai là họ thứ nhất của người mẹ. Phụ thuộc vào từng quốc gia, các họ này có thể (hoặc không) nối với nhau bằng chữ cái "y" (và) hay "de" (của). Tuy vậy, hiện nay nhiều người ở các nước Nam Mỹ chấp nhận cách đặt tên-họ theo kiểu Anh, vì thế họ có hai tên và một họ duy nhất. Ngày nay ở Tây Ban Nha, phụ nữ khi lấy chồng vẫn giữ nguyên vẹn 2 họ của mình. Trong một số tình huống người phụ nữ đó có thể được gọi đầy đủ như sau: tên + họ cha đẻ + họ cha chồng (thông thường được liên kết bằng chữ "de"). Ví dụ, Ana García Díaz, khi lấy Juan Guerrero Macías, có thể gọi là Ana García de Guerrero, nhưng tập quán này (có từ thời trung cổ), đang bị suy tàn, và nó không có giá trị pháp lý. Các cặp vợ chồng có thể tự lựa chọn trật tự cho họ của con cái của mình: chúng hoặc giữ cách đặt họ truyền thống, như đã nói trong ví dụ (Guerrero García) là cách phần lớn mọi người đều theo, hay theo trật tự ngược lại (García Guerrero). Quyết định này phải duy trì cho tất cả mọi người con của cặp vợ chồng đó. === Bồ Đào Nha và Brasil === Cách đặt họ của người Bồ Đào Nha ngược lại với cách đặt của người Tây Ban Nha. Mỗi người có ít nhất 2 họ: họ đầu tiên là họ thứ hai của mẹ; họ thứ hai là họ thứ hai của cha. Tên gọi đầy đủ của mỗi người có thể có nhiều nhất là 6 (2 tên và 4 họ - có thể có 2 họ từ cha và 2 họ từ mẹ). Tại Brasil quy tắc là tương tự, ngoại trừ duy nhất là hiện nay rất phổ biến đối với mỗi người là chỉ có một họ: họ thứ hai của cha. Trong thời trung cổ truyền thống đặt theo tên cha là rất phổ biến – các họ tương tự như Gonçalves (con trai của Gonçalo), Fernandes (con trai của Fernando), Nunes (con trai của Nuno) v.v ngày nay được sử dụng như là họ thông thường. === Iceland === Tại Iceland, phần lớn người dân không có họ; phần tên gọi cuối cùng trong tên gọi đầy đủ của một người được đặt theo tên người cha của người đó. Ví dụ, ông Karl có con gái tên là Anna và con trai tên là Magnús, thì tên gọi đầy đủ của hai người này sẽ là Anna Karlsdóttir ("con gái của Karl") và Magnús Karlsson ("con trai của Karl"). === Khu vực Scandinavia === Tại khu vực Scandinavia các họ thông thường (nhưng không nhất thiết phải có) có nguồn gốc từ tên của cha. Ví dụ: họ của người Thụy Điển Karlsson (lưu ý là có 2 chữ s), có nghĩa là "con trai của Karl" nhưng ngày nay Karlsson là một họ và cha của người mang họ này không nhất thiết phải có tên là Karl. Ở Đan Mạch và Na Uy các họ kết thúc với cụm từ -sen là phổ biến. Ví dụ: Karlsen có nghĩa là "con trai của Karl". Các họ này ngày nay tương tự như các họ khác ở nhiều quốc gia phương Tây khác. Trước thế kỷ 19 đã tồn tại một hệ thống đặt tên-họ ở Scandinavia giống như ở Iceland ngày nay. Tuy nhiên, các gia đình quý tộc, về nguyên tắc đã chấp nhận họ, có thể được nói đến như là tổ tiên thực sự hay được coi là như thế (ví dụ Earl Birger Magnusson Folkunge) hay là phù hiệu của gia đình (ví dụ vua Gustav Eriksson Vasa). Trong nhiều tên gọi của các dòng họ quý tộc còn tồn tại, chẳng hạn Cederqvist ("cành tuyết tùng") hay Stiernhielm ("mũ ngôi sao"), việc diễn giải theo kiểu ngày xưa đã lỗi thời, nhưng tên gọi thì không thay đổi. Sau này, những người dân từ tầng lớp trung lưu của Scandinavia, chủ yếu là thợ thủ công và dân thành thị, đã lấy họ tương tự như của tầng lớp quý tộc. Các họ của người Thụy Điển như là Bergman, Holmberg, Lindgren, Sandström và Åkerlund là rất hay gặp và phổ biến tới ngày nay. Điều tương tự cũng đúng với người Na Uy hay Đan Mạch. Các họ như thế thông thường chỉ tới nơi cư ngụ của gia đình. Vì lý do này, Đan Mạch có tỷ lệ cao các tên gọi các họ được biến hóa từ các trang trại, được kèm theo bằng hậu tố -gaard – cách phát âm hiện đại là gård, nhưng ở Thụy Điển, cách phát âm thời cổ vẫn còn trong tên gọi của các họ. Ví dụ nổi tiếng nhất của loại tên gọi họ như vậy có lẽ là Kierkegaard (nghĩa nguyên thủy là: trang trại cạnh nhà thờ, cùng với kierke, thực tế bao gồm cả hai kiểu phát âm thượng cổ), nhưng nhiều họ khác cũng có thể minh họa cho điều này. Cần phải nói thêm rằng, cho dù các họ là có nguồn gốc từ nguyên quán của chủ sở hữu, quyền sở hữu họ như thế không phải là chỉ thị của mối quan hệ họ hàng với những người khác cũng mang họ đó. === Các vùng dùng tiếng Hà Lan === Rất nhiều họ của người Hà Lan và người Vlaanderen cùng bắt đầu với tiền tố như "van" (từ, của), "de" (tương tự mạo từ "the" tiếng Anh chỉ cái, con, người), "der" (của...), "van de" (từ cái...), "in het" (trong cái...). Ví dụ: "de Groot" (người vĩ đại), "van Rijn" (từ sông Rhine). Các tiền tố này thông thường không viết hoa. Đây có quy tắc chính tả mà xui khiến khi nào nên hay không nên viết hoa. Ở nước Bỉ bình thường người ta dùng chính tả của giấy chứng minh, không kể đến quy tắc này. Trong các danh mục tên-họ thì các tiền tố này bị bỏ đi để phân loại. === Nga, Ukraina, Belarus và các nước cộng hòa Xô viết cũ === Tại Nga, phần đuôi của họ phụ thuộc theo giới tính của người mang họ. Ví dụ, vợ của Ivanov có họ là Ivanova. Tương tự như vậy cho các đuôi: "-ov" → "-ova" (nam: Fradkov, nữ: Fradkova); "-ev" → "-eva" (nam: Lebedev, nữ: Lebedeva); "-in" → "-ina" (nam: Putin, nữ: Putina) "-ưi" → "-aya", "-oya", "-eya", "-iaya" (nam: Белый Belưi, nữ: Белая Belaya) Nó là đặc trưng cho gần như tất cả những người sử dụng các ngôn ngữ Kiril. Tên gọi đầy đủ của người Nga, nói chung, gồm tên, họ và phụ danh (một dạng thức có biến đổi của tên người cha). Ví dụ, trong tên gọi "Aleksei Ivanovich Chekhov", "Chekhov" là họ và "Ivanovich" là phụ danh; ta có thể suy ra cha của ông Aleksei này có tên là "Ivan". Điều tương tự cũng đúng đối với Ukraina, Belarus và các nước cộng hòa Xô viết cũ. Trong giấy tờ tùy thân, hộ tịch, danh sách biên chế... tên người Nga viết theo thứ tự họ – tên – phụ danh, ví dụ Chekhov Aleksei Ivanovich; nhưng trong sách báo thì viết tên – phụ danh – họ, ví dụ Aleksei Ivanovich Chekhov. Khi xưng hô thì người ngang hàng hoặc người dưới gọi người trên bằng tên – phụ danh (ví dụ Aleksei Ivanovich, Tatyana Ivanovna). Trẻ em, bạn bè, hoặc người trên gọi người dưới bằng tên (Aleksei, Tatyana), nhưng thường là bằng tên thân mật (ví dụ Aleksei thì gọi là Aliosha, Tatyana thì gọi là Tanya). Phụ danh cũng thay đổi theo giới nên khác nhau đối với con trai và con gái của một người. Ví dụ trong tên con trai (của ông Ivan) sẽ là Ivanovich, còn con gái của ông ta là Ivanovna. Tại Nga, ngoài các thể loại họ như của người Anh, còn có một thể loại lớn về họ khác: các họ có liên quan tới tôn giáo. Các họ này dựa theo tên gọi của nhà thờ (ví dụ Uspensky, Kazansky), hay biệt ngữ của các sinh viên trong các tu viện hoặc thậm chí là các từ trong tiếng Latinh và tiếng Hy Lạp (ví dụ Gilyarov, có nguồn gốc từ tiếng Latinh hilarius). === Ba Lan === Ở Ba Lan và phần lớn các khu vực trước đây thuộc Liên bang Ba Lan-Litva, cách đặt tên gọi cho họ đã xuất hiện từ thời trung cổ. Nguyên thủy, nó được sử dụng để phân biệt sự khác nhau trong tên gọi chung của những người dân trong cùng một khu vực mà lại trùng tên. Tập quán này cũng giống với việc đặt họ ở Anh: nguyên thủy tên gọi của họ là các danh từ đơn giản để biểu thị nghề nghiệp (như Karczmarz - người mở quán trọ, Kowal - thợ rèn, Bednarczyk - người đóng thùng trẻ tuổi), hay hậu duệ (tên gọi theo cha đẻ như Szczepaniak - con trai của Szczepan, Józefski - con trai của Józef hay Kaźmirkiewicz - con trai của Kazimierz) hoặc các điểm đặc trưng (Nowak - người mới, Biały - người ốm yếu, Mazur người đến từ Masovia hoặc Wielgus - người to lớn). Từ đầu thế kỷ 16 các tên gọi theo khu vực địa lý bắt đầu xuất hiện trong các họ và trở thành phổ biến, đặc biệt là trong tầng lớp quý tộc (szlachta). Nguyên thủy các họ có dạng như Jan z Kolna (có nghĩa là John của Kolno), sau đó các họ đổi dần sang dạng tính từ (Jakub Wiślicki - James của Wisła, Zbigniew Oleśnicki - Zbigniew của Oleśnica) với các hậu tố -ski, -cki và -dzki. Tên gọi của họ hình thành theo cách này về mặt ngữ pháp là các tính từ, và vì thế - giống như mọi tính từ trong tiếng Ba Lan – chúng biến đổi theo giới tính. Vì thế ta có ông Jan Kowalski và cô Maria Kowalska là anh em (và Kowalscy trong dạng số nhiều). Vì các họ với hậu tố -ski/cki/dzki gắn liền với các nguồn gốc quý tộc, nhiều người dân từ các tầng lớp dưới dần dà cũng thay đổi họ của mình theo mô hình kể trên. Điều này sinh ra một loạt các Kowalski, Bednarski, Kaczmarski v.v. Ngày nay phần lớn những người nói tiếng Ba Lan không nhất thiết cần biết mối liên hệ giữa kết thúc –ski với nguồn gốc quý tộc, nhưng những họ như vậy dường như "nghe có vẻ hay hơn". Một nhóm riêng các họ được cấu thành từ tên của các phù hiệu của các gia đình quý tộc. Các tên gọi này được sử dụng như là các họ độc lập hay làm phần đầu tiên của họ kép. Tương tự, sau đại chiến thế giới 1 và đại chiến thế giới 2 rất nhiều thành viên của tổ chức kháng chiến Ba Lan đã lấy bí danh làm phần đầu tiên trong họ của mình. Theo cách thức này mà Edward Rydz sau này trở thành nguyên soái Ba Lan Edward Śmigły-Rydz và Jan Nowak trở thành Jan Nowak-Jeziorański. === Romania === Tại România, các họ thông thường có cách sử dụng giống như của người Anh: Trẻ em thừa hưởng họ của cha đẻ và vợ lấy họ của chồng. Tuy nhiên, tồn tại những ngoại lệ và áp lực xã hội không quá mạnh để người ta phải tuân theo truyền thống này. Nguyên từ học trong tên gọi của người Romania là hỗn tạp. Đôi khi, họ biểu thị một số đặc điểm nghề nghiệp của tổ tiên (ví dụ: Butnaru có nghĩa là "người làm thùng"), đôi khi là theo tên của cha hay mẹ - đáng chú ý là có những họ phổ biến có nguồn gốc từ tên của người mẹ, (ví dụ: Amarandei có nghĩa là "con trai hay con gái của [S]maranda"). Cũng cần lưu ý là tên/họ của người Romania không có sự phân biệt rõ ràng. Trong khi các phương tiện thông tin đại chúng nói chung sắp xếp tên-họ theo trật tự tên trước họ sau thì trong các văn bản chính thức nó được sắp xếp theo trật tự ngược lại. Người Romania thông thường tự giới thiệu theo họ. === Hungary === Xem phần Trung Quốc dưới đây. == Châu Á == === Trung Quốc, Nhật Bản, Triều Tiên, Việt Nam === Các bài chính: Họ người Trung Quốc, Họ tên người Triều Tiên, Họ tên người Nhật Bản và Họ người Việt Nam Tại các nền văn hóa của người Trung Quốc, Nhật Bản, Triều Tiên, Việt Nam và Hungary thì họ được đặt trước tên. Vì thế các thuật ngữ trong tiếng Anh như first name và last name dùng để chỉ tên, họ có khả năng gây nhầm lẫn và cần phải tránh, vì trong trường hợp này chúng không phân định đúng tên và họ một cách tương ứng. Một số người Trung Quốc thêm tên gọi theo kiểu tiếng Anh vào trước tên gọi hoàn chỉnh Trung Quốc của họ, ví dụ Martin LEE Chu-ming. Ngoài ra, nhiều người Mỹ gốc Trung Quốc viết họ-tên theo kiểu Anh, nó được sử dụng thường xuyên và tên Trung Quốc được sử dụng như tên đệm, ví dụ Martin Chu-ming Lee. Những người Trung Quốc sống tại Mỹ tự động sắp xếp lại tên, họ của mình khi viết bằng tiếng Anh để tránh hiểu nhầm. Tuy nhiên, không có người nào ở Trung Quốc lại sắp xếp lại cụm từ Mao Zedong (Mao Trạch Đông) thành Zedong Mao theo kiểu viết trong tiếng Anh. Tên gọi của người Triều Tiên và Việt Nam nói chung được sắp xếp theo trật tự Đông Á (họ trước, tên sau) ngay cả khi viết trong tiếng Anh. Viết trong tiếng Anh, tên gọi của người Nhật Bản hiện nay thường theo kiểu phương Tây (tên trước, họ sau) trong khi tên gọi của những nhân vật lịch sử trước đây thì vẫn viết theo kiểu Đông Á. Tên gọi của người Hungary khi viết trong tiếng Anh thì được viết theo kiểu phương Tây. Trong cách viết Anh ngữ của các nền văn hóa phi-Anh ngữ (ví dụ báo chí bằng tiếng Anh tại Trung Quốc), họ thông thường được viết bằng chữ hoa để tránh hiểu lầm thành tên đệm: "Martin LEE Chu-ming" (điều này rất phổ biến trên Internet), hoặc bằng chữ hoa cỡ nhỏ (ngoại trừ chữ cái đầu tiên) thành "Martin LEE Chu-ming" (điều này phổ biến trong sách vở) hay AKUTAGAWA, Ryunosuke để làm rõ cái nào là họ (thông thường được viết trong các phương tiện thông tin đại chúng về các sự kiện quốc tế như Thế vận hội). The CIA World Factbook thông báo rằng "The Factbook viết chữ hoa họ của các cá nhân để thuận tiện cho người sử dụng, nhất là đối với những người có thể gặp vấn đề do sự khác biệt văn hóa hay tập quán trong cách gọi". Ngược lại, phiên bản tiếng Anh của Wikipedia tuân theo hướng dẫn chặt chẽ về việc không viết hoa toàn bộ các chữ cái của họ (Wikipedia Quốc tế ngữ thì thường viết hoa toàn bộ chữ cái của họ không phụ thuộc vào gốc gác của người đó.) Kết quả là các tên gọi phi-Anh ngữ xuất hiện trong các bài của Wikipedia là tối nghĩa đối với những người không có chuyên môn. Ví dụ, Leslie Cheung Kwok Wing có thể bị người đọc (không biết các tập quán viết tên-họ của người Trung Quốc) nhầm thành Mr. Wing. Các họ của người Việt thì giống như họ của người Trung Quốc, chúng được đặt ở đầu trong tên gọi hoàn chỉnh, nhưng trong giao tiếp thì không giống như cách gọi của người Trung Quốc, thông thường chúng không được nhắc tới. Nói chung, người ta gọi nhau theo tên, thông thường kèm theo các từ để chỉ địa vị, vai vế cho phù hợp. Ví dụ, Phan Văn Khải - thông thường được người nước ngoài gọi là "Mr. Khai" còn người Việt thì gọi là bác (anh, chú, ông, cụ v.v - tùy theo tuổi tác, quan hệ và sự tôn trọng của người đối thoại đối với ông) + Khải, mặc dù "Phan" là họ của ông. Điều này khác với cách xưng hô của phần lớn các tập quán đặt tên-họ và cách gọi của khu vực Đông Á và nó có thể gây nhầm lẫn hay khó hiểu đối với người nước ngoài, nhưng đối với người Việt thì không. Ngày nay, con cái lấy theo họ của người cha, tuy nhiên có một số người được đặt họ ghép từ họ của cha + mẹ, ví dụ: Lê Đỗ Vân Anh trong đó Lê là họ của cha, còn Đỗ là họ của mẹ. Tuy nhiên, theo luật định thì họ chính thức vẫn là họ của người cha; còn họ ghép không truyền cho đời sau. Ở Việt Nam có rất nhiều nhà thờ họ. Người ta có thể thờ tổ tiên dòng họ mình theo họ chính như: họ Phạm, họ Nguyễn, họ Lê v.v...hoặc có thể thờ theo họ và tên đệm như: họ Lê Gia, họ Tưởng Công, họ Phan Huy v.v... Tại Nhật Bản, phụ nữ sẽ bỏ họ của mình sau khi kết hôn và sử dụng họ của chồng mình. Tuy nhiên, đôi khi tập tục người đàn ông lấy họ của vợ làm họ cho mình vẫn còn tồn tại nếu như người vợ là con gái độc nhất. Truyền thống tương tự như vậy, gọi là nhập chuế (入贅, ru zhui) là phổ biến ở Trung Quốc nếu gia đình vợ giàu có và không có con trai nhưng muốn rằng người thừa kế tài sản của họ phải được truyền lại theo cùng một dòng họ. Tất cả con cháu sau này cũng mang họ mẹ. Thông thường chú rể hay gia đình người này không đồng ý với sự dàn xếp như thế, nếu như chú rể là con trai trưởng hoặc là người có trách nhiệm gánh vác công việc của dòng họ mình. Trong những trường hợp như thế, một giải pháp trung hòa có thể được đưa ra, trong đó đứa con trai đầu tiên của cặp vợ chồng sẽ mang họ mẹ trong khi tất cả những đứa con khác mang họ cha. Truyền thống này vẫn còn được áp dụng ở nhiều cộng đồng người Hoa ngoài Trung Hoa lục địa. Ở Trung Quốc, sau năm 1949, truyền thống này không cần thiết, do đa phần người dân không có tài sản riêng đáng kể để trao thừa kế. Sau cải tổ kinh tế Trung Quốc, người ta không chắc chắn là truyền thống này có trở lại nữa hay không. Tại Hồng Kông, Trung Quốc đại lục, Triều Tiên, Việt Nam và Đài Loan, phụ nữ vẫn giữ nguyên họ của mình, trong khi toàn bộ gia đình được nhắc tới như là gia đình của người chồng (nói chung là nhắc tới theo họ, trừ Việt Nam là theo tên của người chồng hoặc theo tên của con trai trưởng). Tại Hồng Kông, một số phụ nữ có thể được công chúng biết tới theo họ của chồng trước họ của người đó, chẳng hạn Anson Chan Fang On Sang. Anson là tên tiếng Anh, On Sang là tên tiếng Trung, Chan là họ của chồng Anson, và Fang là họ của cô. Việc thay đổi tên họ trong các hồ sơ pháp lý là điều không cần thiết. Tại Ma Cao (Macau), một số người có tên họ theo kiểu Bồ Đào Nha với kiểu viết tiếng Bồ Đào Nha, chẳng hạn như Carlos do Rosario Tchiang. Những phụ nữ gốc Hoa ở Canada, đặc biệt là phụ nữ Hồng Kông ở Toronto, thông thường viết họ thời con gái trước họ chồng khi viết bằng tiếng Anh, ví dụ Rosa Chan Leung, trong đó Chan là họ thời con gái, và Leung là họ của chồng. === Ấn Độ và Indonesia === Các bài chính: Họ tên của người Ấn Độ, Họ tên của người Indonesia. Tập quán đặt họ theo tên của cha tồn tại ở một số vùng của Ấn Độ và Indonesia. Tuy nhiên, nhiều người Ấn (từ Ấn Độ) sống ở các quốc gia hay khu vực nói tiếng Anh đã bỏ truyền thống này vì rất nhiều người nói tiếng Anh thấy khó hiểu tập quán này; vì thế nhiều ông bố gốc Ấn theo tập quán của người nói tiếng Anh để truyền lại cho con cái họ chứ không phải tên của mình. Vì lý do tôn giáo, những người đàn ông Sikh thông thường có họ là Singh (nghĩa là "sư tử"), và phụ nữ người Sikh thông thường có họ là Kaur ("công chúa"). === Philippines === Cho đến giữa thế kỷ 19, đã không tồn tại tiêu chuẩn về họ của người Philippines. Ở đây có những người gốc Philippines không có họ, hay những người có họ nhưng không trùng với gia đình họ cũng như những người có họ nào đó đơn giản là vì họ có những niềm kiêu hãnh nào đó (thông thường là những người làm việc với giáo hội Công giáo Rôma) chẳng hạn như de los Santos và de la Cruz. Năm 1849, nhà cầm quyền, tướng Narciso Clavería y Zaldúa, đã ban hành một sắc lệnh để chấm dứt tình trạng tự do này. Kết quả của nó là quyển Catálogo Alfabético de Apellidos ("Danh mục họ theo chữ cái"). Quyển sách này chứa rất nhiều từ vay mượn từ tiếng Tây Ban Nha và các ngôn ngữ khác ở Philippines, chẳng hạn như tiếng Tagalog. Áp dụng thực sự của sắc lệnh này thay đổi tùy theo từng khu vực. Một số khu vực chỉ nhận được một số họ bắt đầu bằng một số chữ cái cụ thể nào đó. Ví dụ, phần lớn người dân trên đảo Banton ở tỉnh Romblon có họ bắt đầu bằng chữ F như Fabicon, Fallarme, Fadrilan, Ferran, v.v. Điều này có nghĩa là mặc dù những người này có họ giống như người Tây Ban Nha nhưng không nhất thiết là họ có tổ tiên là người Tây Ban Nha. Cũng có những nguồn khác về các tên gọi của họ. Ví dụ trong khu vực đông người theo đạo Hồi ở Philippines, các họ thông thường có nguồn gốc Ả Rập như Hassan hay Haradji. Nhiều người Philippines mang họ của người Trung Quốc, có thể là do tổ tiên họ di cư từ Trung Quốc tới đây. Ví dụ, họ như Cojuangco - là từ đã được Tây Ban Nha hóa, có thể là của những người di cư từ thế kỷ 18 trong khi họ như Lim thì là của những người di cư gần đây. Một số họ Trung Quốc như Tiu-Laurel là tổ hợp họ của tổ tiên những người di cư cũng như là tên của các vị tổ tiên này. Hiện nay còn có những người Philippines, chủ yếu thuộc các tộc người thiểu số, vẫn không có họ. Phần lớn người Philippines tuân theo quy tắc đặt tên-họ của người Tây Ban Nha. Trẻ em có tên đệm là họ của mẹ, tiếp theo là họ của cha - là họ của chúng; ví dụ, con trai của ông Juan de la Cruz và bà Maria Agbayani có thể là David Agbayani de la Cruz. Phụ nữ lấy họ của chồng sau khi kết hôn; vì thế sau khi lấy David Agbayani de la Cruz thì tên gọi đầy đủ của Laura Yuchengco Macaraeg sẽ là Laura Yuchengco Macaraeg de la Cruz. === Do Thái === Vài trăm năm trước, người Do Thái không có họ, nhưng họ sử dụng cách ghép tên cha thành tên đạo và tên mẹ thành tên theo mẹ trong các giao tiếp khác nhau. Ví dụ, một cậu bé tên là Joseph có bố là Isaac và mẹ là Rachel được gọi theo Torah (đạo) là Joseph ben Isaac. Cũng cậu bé này trong công việc làm ăn đời thường được gọi là Joseph ben Rachel. Đàn ông thì dùng từ "ben" (con trai) còn đàn bà thì dùng "bat" (con gái) theo tiếng Hebrew. Khi các quốc gia châu Âu sửa đổi luật pháp và bắt buộc người Do Thái phải có họ "chuẩn", thì người Do Thái đã có một số lựa chọn. Rất nhiều người Do Thái (chủ yếu ở Áo, Phổ và Nga) đã bị bắt ép phải lấy họ theo kiểu Đức. Hoàng đế Joseph II đã ban hành sắc luật năm 1787 trong đó nói rõ tất cả những người Do Thái phải lấy họ kiểu Đức. Các thị trưởng đã lựa chọn họ cho tất cả các gia đình Do Thái. Những họ có liên quan đến kim loại quý và hoa thì phải nộp lệ phí, còn các họ liên quan đến động vật hay kim loại thường thì cấp miễn phí. Rất nhiều người lấy họ theo tiếng Yiddish có nguồn gốc từ nghề nghiệp (ví dụ Goldstein, 'thợ kim hoàn'), từ tên cha (ví dụ Jacobson), hay từ tên gọi của khu vực (ví dụ Berliner, Warszawski hay Pinsker). Chính điều này làm cho họ của người Do Thái rất giống với họ của những người vùng Scandinavia và đặc biệt là giống với họ của người Thụy Điển. Tại Vương quốc Phổ các hội đồng quân sự đặc biệt được thành lập để chọn họ cho người Do Thái. Nó trở thành phổ biến đến mức những người Do Thái nghèo khổ đã bị ép buộc phải lấy những cái họ thô tục, kỳ quái hay xúc phạm đến nhân phẩm. Theo Ernst Theodor Amadeus Hoffmann, các họ như thế bao gồm: Ochsenschwanz – Đuôi bò Temperaturwechsel – Khuyết tật nhiệt độ Kanalgeruch – Mùi hôi thối cống rãnh Singmirwas – Hát cho tao một bài gì đó Người Do Thái ở Ba Lan có họ sớm hơn. Những người được các gia đình quý tộc Ba Lan (szlachta) chấp nhận thông thường lấy họ của những gia đình này. Những người Do Thái theo đạo Thiên chúa thông thường lấy họ phổ biến của người Ba Lan hoặc lấy theo tháng diễn ra lễ rửa tội của họ (điều này giải thích tại sao nhiều người Frankist có họ Majewski – lấy theo tháng 5 (May) năm 1759). Những người Do Thái sống ở phương Tây ngày nay có thể có họ-tên như người phương Tây cũng như tên Do Thái, tên gọi Do Thái này chỉ sử dụng trong các nghi thức tôn giáo. == Châu Phi == === Ethiopia === Ở phần lớn Ethiopia, truyền thống lấy tên cha còn tồn tại. Trẻ em được lấy tên chính xác của người cha làm họ cho chúng. == Xem thêm == Danh sách một số họ phổ biến Các phụ tố trong họ Dach sách các họ phổ biến ở Trung Quốc Danh sách họ Do Thái Danh sách các họ Trung Đông Danh sách các họ Đông Âu Danh sách các họ ở Trung Á, Iran, Caucasia và Tatar Danh sách các họ Nam Á Danh sách các họ Đông Nam Á Danh sách các họ theo văn hóa Tây Ban Nha hay Rôman Danh sách các họ theo văn hóa Đức Danh sách các họ ở Thụy Điển Danh sách các họ ở châu Phi Đặt theo tên cha Tên Tên hiệu Họ thời con gái == Tham khảo == == Liên kết ngoài == Glossary of Surname Meanings & Origins Inbreeding and genetic distance between hierarchically structured populations measured by surname frequencies Short explanation of Polish surname endings and their origin Dictionary of Surname Origins and Last Name Meanings Surnames in Denmark - Naming Traditions, Meaning, and Origin
ẩm thực trung quốc.txt
Ẩm thực Trung Quốc (tiếng Trung: 中國菜) xuất phát từ nhiều vùng khác nhau của Trung Quốc và đã lan rộng ra khắp nơi trên thế giới - từ Đông Á đến Bắc Mỹ, Úc và Tây Âu. Sự rông lớn của đất Trung Quốc dẫn tới sự đa dạng về sản vật cũng như khí hậu dẫn tới sự khác biệt rõ ràng giữa các miền văn hóa ẩm thực trong lòng Trung Quốc. Có nhiều cách chia phân chia các vùng, trong đó phổ biến là chia thành 8 vùng lớn, gọi là Bát đại thái hệ, gồm: An Huy hay Quảng Đông hay Ngô, Sơn Đông hay Lỗ, Phúc Kiến hay Mân, Giang Tô hay Tô, Hồ Nam hay Tương, Tứ Xuyên còn gọi là Thục hay Xuyên và Chiết Giang hay Chiết và chia làm 4 vùng, gọi là Tứ thái, gồm Lỗ, Ngô, Xuyên, Tô. Ngoài ra còn có cách chi là hai, đặc trưng cho hai vùng Giang Bắc (châu thổ sông Hoàng Hà), và Giang Nam (lưu vực Trường Giang. Tuy ngày nay cơm là lương thực chính của người Trung Quốc tuy nhiên trong một phần lịch sử, một phần rất lớn khu vực Hoa Bắc lấy lúa mì, lúa mạch và kê làm lương thực chính, dẫn đến sự phổ biết của các mòn làm từ bột mì như mì sợi, bánh bao (màn thầu, mantoo), sủi cảo, làm nên đặc trưng của ẩm thực Giang Bắc. Ở miền Giang Nam, cơm thay cho mì là món chính trong bữa ăn hằng ngày. Người Trung Quốc có thói quen dùng đũa khi ăn. Thói quen nảy được phát tán rộng khắp Đông Á và phổ biến đồng thời tại các nước Đông Á và Đông Nam Á. == Đặc điểm về ẩm thực Trung Hoa == === Lương thực === Gạo là thành phần chính của những món ăn Trung Hoa cũng như ở Tây Âucó món chính là bánh mỳ.Chỉ có một và tỉnh ở phía Bắc, gạo được thay thế lúa mỳ do khí hậu & đất trồng trọt. Gạo và kê được nấu để nguyên cả hạt hưng lúa mỳ thì thường xay nhỏ ra. Gạo được giữ một vị trí lớn trong các bữa ăn, gọi là "ăn cơm" Bính âm:吃米饭(Chī mǐfàn). Lúa mì được dùng làm lương thực chính phổ biến ở các tỉnh phía bắc Trung Quốc, tuy vậy các địa phương khác cũng biết sử dụng bột mì để làm bánh. Bột mỳ tuy không có vai trò quan trọng trong bữa ăn của tát cả dân tộc sinh sống tại Trung Quốc như gạo nhưng bột mỳ với chiếc bánh bao đã góp phần tạo nên sự nổi tiếng cho ẩm thực Trung Quốc và nét đặc sắc riêng của nền ẩm thực này. === Thực phẩm === Người Trung Quốc sử dụng mọi loại nguyên liệu thực phẩm mà loài người sử dụng để nấu thức ăn và làm đò uống. Khi Trung Quốc không có nguyên liệu thực phẩm, họ sẵn sàng nhập và lai tạo, tìm cách sử dụng thích hợp theo cách riêng của họ trong từng khẩu vị. Thực phẩm được dùng nhiều là thịt lợn, thịt gia cầm, trâu, bò,cừu,dê, thủy hải sản, các loại côn trùng, bò sát, những thực phẩm yêu chuộng như ngó và hạt của cây sen; măng tre, nứa; vây cá mập; cánh hoa mộc lan, tổ yến,... Trong thực đơn hàng ngày, nghĩ tới thịt thì người Trung Quốc nghĩ ngay tới thịt lợn. Nó quan trọng trong hầu hết kết cấu nguyên liệu chế biến. Khi nói về trâu, bò,cừu,dê thì chỉ sử dụng ở những địa phương có các dân tộc sống trong khu tự trị hay có người theo đạo Cơ đốc. Về gia cầm thì cổ cánh và nội tạng được yêu chuộng hơn cả thịt. Tứng gia cầm được dùng nhiều; đa số trứng vịt thường được chế biến trong món trà trứng, trứng vịt bắc thảo, hay trứng luộc nước tiểu. Đậu phụ (tiếng Trung: 荳腐 - đậu hũ) là một món ăn dân dã của người dân một số quốc gia Đông Á như Trung Hoa, các nước vùng Đông Á và Đông Nam Á như Việt Nam. Đậu phụ có nguồn gốc từ Trung Quốc. Đậu phụ là món ăn có thể giúp phòng chống xơ vữa động mạch, cũng thường được làm món ăn chay cho những người theo đạo Phật. Đậu phụ đưược chế biến theo nhiều hình thức, nhưng phải kế đến là đậu phụ kho, đậu phụ thối và đậu phụ ma bà. === Gia vị === Gia vị của Trung Quốc gồm nhiều loại, họ có sử dụng xì dầu gồm đầu trừu, tàu vị yểu và tàu xì. Tàu xì là một sản phẩm làm từ đậu nành đen, được làm bằng cách muối và ủ cho lên men. Thành phần chính có trong sốt tàu xì gồm có đậu nành đen,rượu hoa tiêu,hạt nêm,bột ngọt, bột hành củ,trần bì và một số phụ gia khác.Người ta hầm mềm thức ăn với tàu xì trong chảo. Xì dầu Trung Quốc (tương du/thị du, 酱油/豉油) chủ yếu được làm từ đậu tương, với một lượng tương đối ít ngũ cốc. Có hai dạng chính là: Xì dầu nhạt màu/tươi ("Sinh trừu"; 生抽): Là loại xì dầu màu nâu sẫm trong mờ, loãng (không nhớt). Nó là loại xì dầu chủ yếu dùng để ướp thực phẩm, do nó mặn hơn, chủ yếu để bổ sung hương vị nhưng cũng bổ sung thêm một chút màu sắc cho món ăn cho dù nó nhạt màu và ít ảnh hưởng tới màu sắc của món ăn. Loại xì dầu nhạt màu làm từ nước ép đầu tiên của đậu tương lên men gọi là đầu trừu (头抽 hay 頭抽), nghĩa văn chương là xì dầu nước đầu hay xì dầu nhạt màu thượng hạng. Đầu trừu thông thường được bán đắt hơn, do có mùi vị tốt hơn (tương tự như dầu ôliu thượng hạng). Ngoài ra, phân loại Song Hoàng (雙璜) còn nhắc đến quá trình lên men kép để bổ sung và tăng thêm mùi vị. Xì dầu sẫm màu/để lâu ("Lão trừu"; 老抽): Loại xì dầu sẫm màu hơn và đặc hơn một chút, được ngâm ủ lâu hơn và chứa mật đường bổ sung để tạo cho nó biểu hiện bề ngoài khác biệt. Loại xì dầu này chủ yếu được dùng khi nấu ăn do mùi vị của nó sẽ tạo ra khi đun nóng. Nó ngọt hơn và ít hương vị hơn khi so sánh với loại xì dầu nhạt màu. Nó dùng để bổ sung màu sắc cho món ăn nhiều hơn là tạo mùi vị. Trong ẩm thực Trung Hoa truyền thống, một trong hai loại này hoặc hỗn hợp của chúng, được sử dụng để thu được hương vị và màu sắc cụ thể cho mỗi món ăn cụ thể nào đó. Các loại khác: Xì dầu đặc ("Tương du cao": 醬油膏 hay "Ấm du cao": 蔭油膏): Loại xì dầu sẫm màu được cô đặc bằng tinh bột và đường. Nó đôi khi cũng được tạo vị bằng glutamat mononatri. Loại xì dầu này ít khi được sử dụng trực tiếp trong nấu ăn, mà thường được sử dụng để pha nước chấm hay rót lên trên thực phẩm đã chế biến để bổ sung hương vị. Xì dầu bột nhão (Hoàng tương: 黄酱): Nó không phải là xì dầu thực sự mà là một loại sản phẩm mặn khác từ đậu tương. Nó là một trong những thành phần chính của món ăn gọi là tạc tương miến (炸酱面, nghĩa văn chương là "mì sợi chiên xì dầu"). Tại Singapore và Malaysia, xì dầu nói chung được người gốc Trung Quốc gọi là đậu du (豆油); loại xì dầu sẫm màu gọi là tương du (醬油) còn loại xì dầu nhạt màu là tương thanh (醬清). Angmoh tauyew (紅貌豆油: Hồng mạo đậu du), nghĩa văn chương là "xì dầu nước ngoài" là tên gọi trong tiếng Mân Nam để chỉ nước xốt Worcestershire.Xì dầu Trung Quốc (tương du/thị du, 酱油/豉油) chủ yếu được làm từ đậu tương, với một lượng tương đối ít ngũ cốc. Có hai dạng chính là: Xì dầu nhạt màu/tươi ("Sinh trừu"; 生抽): Là loại xì dầu màu nâu sẫm trong mờ, loãng (không nhớt). Nó là loại xì dầu chủ yếu dùng để ướp thực phẩm, do nó mặn hơn, chủ yếu để bổ sung hương vị nhưng cũng bổ sung thêm một chút màu sắc cho món ăn cho dù nó nhạt màu và ít ảnh hưởng tới màu sắc của món ăn. Loại xì dầu nhạt màu làm từ nước ép đầu tiên của đậu tương lên men gọi là đầu trừu (头抽 hay 頭抽), nghĩa văn chương là xì dầu nước đầu hay xì dầu nhạt màu thượng hạng. Đầu trừu thông thường được bán đắt hơn, do có mùi vị tốt hơn (tương tự như dầu ôliu thượng hạng). Ngoài ra, phân loại Song Hoàng (雙璜) còn nhắc đến quá trình lên men kép để bổ sung và tăng thêm mùi vị. Xì dầu sẫm màu/để lâu ("Lão trừu"; 老抽): Loại xì dầu sẫm màu hơn và đặc hơn một chút, được ngâm ủ lâu hơn và chứa mật đường bổ sung để tạo cho nó biểu hiện bề ngoài khác biệt. Loại xì dầu này chủ yếu được dùng khi nấu ăn do mùi vị của nó sẽ tạo ra khi đun nóng. Nó ngọt hơn và ít hương vị hơn khi so sánh với loại xì dầu nhạt màu. Nó dùng để bổ sung màu sắc cho món ăn nhiều hơn là tạo mùi vị. Trong ẩm thực Trung Hoa truyền thống, một trong hai loại này hoặc hỗn hợp của chúng, được sử dụng để thu được hương vị và màu sắc cụ thể cho mỗi món ăn cụ thể nào đó. Tại Đài Loan, người ta chỉ sử dụng loại xì dầu nhạt màu và gọi nó là tương du (醬油); còn các thuật ngữ như sinh trừu (生抽) và lão trừu (老抽) thì không sử dụng. Ngoài loại xì dầu làm từ đậu tương và lúa mì thì còn có loại làm từ đậu thị. Loại này nói chung đắt tiền hơn do mất nhiều thời gian sản xuất hơn và được coi là có giá trị dinh dưỡng cao hơn cũng như có hương vị thơm ngon hơn. Lịch sử sản xuất xì dầu tại Đài Loan có thể lần ngược lại tới vùng đông nam Trung Quốc lục địa, tại các tỉnh Phúc Kiến và Quảng Đông. Sự chia cắt chính trị và văn hóa giữa Đài Loan và Trung Quốc kể từ khi kết thúc chiến tranh Trung-Nhật lần thứ nhất năm 1895, khi Trung Quốc phải nhượng Đài Loan cho Nhật Bản, đã tạo ra một sự thay đổi ngoài dự kiến trong sản xuất xì dầu tại Đài Loan. Ngoài ra, Đài Loan cũng là nơi duy nhất sản xuất xì dầu đậu thị ở quy mô thương mại, xuất khẩu tới các quốc gia và vùng lãnh thổ như Malaysia, Hồng Kông, Indonesia, Thái Lan, Hoa Kỳ, Canada, Đức và Vương quốc Anh. Ngũ vị hương (gọi là 五香粉-ngũ hương phấn) là một loại gia vị tiện lợi dùng trong ẩm thực của người Trung Hoa hay Việt Nam, đặc biệt hay dùng trong ẩm thực của người Quảng Đông. Nó bao gồm 5 loại vị cơ bản trong ẩm thực là: mặn, ngọt, chua, cay, đắng.Thành phần của ngũ vị hương không giống nhau trong từng loại công thức pha chế. Nó có thể bao gồm bột của các loại thực vật sau: sơn tiêu (hay hoa tiêu hoặc xuyên tiêu, thuộc chi Zanthoxylum), nhục quế (Cinnamomum aromaticum), đại hồi (Illicium verum), đinh hương (Syzygium aromaticum), tiểu hồi hương (Pimpinella anisum). Tuy nhiên, người ta cũng có thể dùng một công thức pha chế khác bao gồm nhục quế, hồ tiêu (Piper nigrum), đinh hương, tiểu hồi hương và đại hồi. Nó được sử dụng trong các món ăn (vịt, bò) quay hay hầm hay các món cà ri. Bột ngũ vị hương bán trên thị trường có thể có thêm bột ớt hay gừng. Ngũ vị hương đóng gói sẵn ở Việt Nam thường có: đại hồi, đinh hương, nhục quế, ngọc khấu, hồ tiêu, trần bì (tức vỏ quýt (Citrus reticulata) phơi khô tán thành bột), hạt ngò, thảo quả (Amomum hongtsaoko), hạt điều để tạo màu đỏ. Ngoài ra, còn có vài công thức ngũ vị hương khác như: hạt ngò, tiểu hồi, bạch đậu khấu (Amomum kwangsiense hay A.kravanh/compactum), hồ tiêu. Công thức chế biến ngũ vị hương dựa trên nền tảng triết học Trung Hoa cổ về sự cân bằng âm-dương trong thực phẩm. == Đặc điẻm về ẩm thực qua từng địa phương == Mỗi lần các bạn du lịch hay đi chơi ở một nơi nào đó thì chắc chắn rằng các bạn sẽ không bao giờ bỏ qua những món ăn cũng như thưởng thức toàn bộ văn hóa ẩm thực tại đó. Hãy cùng du lịch Trung Quốc khám phá một số nét văn hóa đặc sắc trong nền ẩm thực của đất nước vô cùng rộng lớn này. Ẩm thực Trung Hoa được chia thành một số trường sau: Sơn Đông, Quảng Đông, Tứ Xuyên, Hồ Nam. === Sơn Đông === Đệ nhất ẩm thực Trung Hoa là trường phái ẩm thực Sơn Đông. Nét đặc trưng của ẩm thực vùng đất này là các món ăn mang vị nồng đậm, mạnh về rán, nướng, hấp với màu sắc tươi, rất bắt mắt. Đặc biệt, những món ăn thường sử dụng nhiều hành, tỏi, nhất là các món hải sản. Ốc kho, cá chép chua ngọt là 2 món ăn nổi tiếng nhất của Sơn Đông === Quảng Đông === Là một trong 4 trường phái ẩm thực chính, ẩm thực Quảng Đông không ngừng tiếp thu tinh hoa các trường phái khác và kết hợp món ăn Tây trong món ăn của mình. Những món ăn Quảng Đông rất đa dạng về thành phần và được chế biến theo 21 cách nấu nướng khác nhau: xào, chiên rán, nướng, quay, hầm, hấp, kho, chao hấp bát úp… Về mặt phối hợp nguyên liệu và khẩu vị, người Quảng Đông thích cách chế biến sống. Ngày nay, người Quảng Đông rất yêu thích cá sống và cháo cá sống. Quảng Đông có một số món nổi tiếng như: lợn sữa quay, gà hấp muối, ngỗng quay, gà luộc, thịt heo xá xíu, tôm hấp, gà om rắn vv…Không chỉ đa dạng về ẩm thực mà tại đây cũng có rất nhiều phong cảnh đẹp thu hút rất nhiều tour Trung Quốc. === Hồ Nam === Trải qua hơn 2000 năm tồn tại và phát triển, trường phái ẩm thực Hồ Nam đã hoàn thiện và khẳng định mình bởi các món ngon độc đáo. Ẩm thực Hồ Nam nổi tiếng với 3 thành phần, đó là bếp lưu vực Hương Giang, bếp khu vực hồ Động Đình và bếp miền núi Hồ Nam. Những thực đơn và nghệ thuật nướng của các món ăn Hồ Nam rất tinh tế và hoàn mỹ. Khẩu vị cơ bản của Hồ Nam là béo, chua - cay, hương thơm và nhẹ nhàng. Những món ăn thường được sử dụng nhiều ớt, tỏi, hẹ tây và nước sốt để tăng hương vị cho món ăn. === Tứ Xuyên === Với địa thế hình lòng chảo, quanh năm có sương mù, khí hậu ẩm thấp nên các món ăn Tứ Xuyên rất cay. Các món ăn Tứ Xuyên chú trọng đến màu sắc, hương vị với nhiều vị tê, cay,ngọt mặn, chua, đắng, thơm trộn lẫn khéo léo, biến hóa linh hoạt. Không chỉ thế, những món ăn ở đây còn có nhiều kiểu cách đổi mùi vị, phù hợp với khẩu vị của từng thực khách, thích hợp với từng mùa, từng kiểu khí hậu trong năm. === Chiết Giang === Bao gồm các món ăn của Hàng Châu, Ninh Ba, Thiệu Hưng. Chủ yếu là của Hàng Châu. Món ăn Chiết Giang thường tươi mềm, thanh đạm, không ngấy. Nổi tiếng với món tôm nõn Long Tỉnh, cá chép Tây Hồ. Ẩm thực Quảng Đông: hình thành từ 3 truyền thống nấu bếp là Quảng Châu, Triều Châu, và Đông Giang, phong phú về thành phần, cách chế biến tinh tế và phức tạp. Quảng Châu nổi tiếng hơn cả về các món chiên, rán, hầm với khẩu vị thơm giòn và tươi. Nổi tiếng với món Tam xà long hổ phượng, lợn quay. === Phúc Kiến === Gồm các món ăn Phúc Châu, Tuyền Châu và Hạ Môn, chủ yếu là món Phúc Châu. Các món ăn Phúc Kiến với nguyên liệu chủ yếu là hải sản, chú trọng vị ngọt, chua, mặn thơm, màu đẹp vị tươi. Nổi tiếng với món Kim phúc thọ, cá kho khô... Ẩm thực Hồ Nam: được hình thành từ thời nhà Hán, các món ăn của Hồ Nam thường được chú trọng độ thơm cay, tê cay, chua, cay và tươi. Đặc biệt là vị chua cay. Hồ Nam có món kho vây cá là nổi nhất. === An Huy === Gồm các món ăn của miền Nam An Huy, khu vực dọc sông Trường Giang và Hoài Hà. An Huy có sở trường về các món ninh, hầm. Người An Huy đặc biệt chú trọng về mặt dùng lửa, nổi tiếng với món vịt hồ lô. === Vân Nam === Ở Vân Nam,món ăn rất thịnh soạn. Một đĩa ớt tươi được bưng ra dọn lên chiếc bàn ăn khổng lồ xoay tròn.Cùng với đó là món ớt xào thịt trâu khô. Thịt trâu lùn Vân Nam vốn được coi là đặc sản của kho tàng ẩm thực Vân Nam. Khi người ta tẩm ướp để chế biến, bản thân miếng thịt trâu đã cay xé. Rồi khi được xào lên với mỡ, món thịt trâu khô Vân Nam lại được cho thêm đến quá nửa là những trái ớt khô quắt, đen sẫm. Miếng ớt giòn tan, cay dịu. Gà Hấp Nồi: như tên gọi của nó, món ăn này được nấu trong một nồi đất nung với nguyên liệu chính là thịt gà và rau quả tươi. Món ăn này rất cay, nhưng chắc chắn khi ăn bạn sẽ có cảm giác khá tuyetj vời và khá tốt cho sức khoẻ. Con gà được hầm trong nồi, cùng với các loại rau và gia vị, và hấp trong một vài giờ để có được độ mềm, món này thường ăn kèm với mì hoặc cơm. Khi bạn đang đi du lịch ở Vân Nam, bạn có thể dễ dàng thưởng thức món ăn này trong bất kỳ của các nhà hàng chuyên về các món ăn địa phương, hay các khách sạn phục vụ cho khách du lịch. Nhà hàng chuyên về các loại thực phẩm tại Vân Nam có mặt khắp nơi trên thế giới trong đó có Mỹ, các món ăn này ngày càng phổ biến. Thịt hầm Tuyên Uy: nếu bạn là một người thích ăn các món thịt nói chung, bạn chắc chắn nên thử món thịt này, đây là món ăn rất phổ biến ở Dali. Các công thức cho món ăn này có nguồn gốc ở thành phố Tuyên Uy ở phía đông bắc Vân Nam, trong những năm gần đay nó đã trở nên rất phổ biến với khách du lịch đến Dali, và thậm chí nó còn có mặt trong thực đơn của một số nhà hàng quốc tế lớn. Thịt hầm Tuyên Uy là khác biệt do màu sắc của nó tươi sáng, mùi thơm mạnh, hương vị đa dạng, và thịt khá dày nhưng lại không quá dai vì thế mà món ăn này đã giành một huy chương vàng tại Hội chợ Thế giới Panama vào năm 1915 về ẩm thực. Thịt hầm có mặt rộng rãi ở bất kỳ cửa hàng ở Vân Nam, với các nhà hàng ngoài tỉnh Dali thì bạn có thể thưởng thức món ăn này đậm đà nhất và giữ đúng được hương vị của món ăn tại các nhà hàng dọc theo con đường Renmin. === Ẩm thực các dân tộc ở Trung Quốc === Ngoài ra còn phải kể tới những món ăn đặc sản của các dân tộc của Trung Quốc như: người Hà Nhì thường chế biến các món ăn của mình gồm các món luộc; món xào; món rang; món gỏi; món nướng; món tái; món quay; món rán; món xáo; món canh... Tất cả các món này khi ăn thường kèm với bát muối ớt hoặc nước mắm ớt. Món ăn ngày thường gồm có cơm, rau, thịt, cá, măng. Để món dưa chua thơm, ngon, khi lấy rau cải ở nương về đem phơi héo, dùng dao sắc thái nhỏ từ gốc đến ngọn, trộn lẫn với muối cho vừa mặn. Đem cho vào ống nứa hoặc chum đậy kín cho ít nước chua, thời gian ủ khoảng 1 tuần thì đem ra chế biến các món ăn tổng hợp. Dưa chua có thể xào thịt gà, lợn, khi xào phải vớt dưa và bóp hết nước chua, xào bằng chảo cho mỡ lợn và gia vị muối mắm. Khi ăn với cơm có vị chua và mùi thơm ăn với cơm rất ngon. Ngon nhất là món dưa xào cá suối. Cá được mổ moi bỏ ruột, ướp muối cho vào nồi ninh cho chín thịt mềm xương, sau đó mới cho dưa vào sau, cho gia vị muối mắm vừa đủ ăn rất ngon, dễ đưa cơm.Món canh cá chua, nguyên liệu gồm có cá hoặc đầu cá và loại lá chua có gai. Cá được làm sạch đem cho vào nồi ninh chín kỹ, sau đó cho lá chua buộc thành túm lại để khi vớt ra cho dễ. Lúc gần bắc xuống thì cho gia vị cho vừa. Khi ăn chan với cơm vừa thơm cá, vừa thơm mùi lá chua, đặc biệt là vị ngọt của cá, vị chua của lá hòa quyện rất dễ ăn. Món cá tái hay còn gọi là gỏi cá thì lấy cá được làm sạch, lọc bỏ xương, thái thành từng miếng nhỏ vuông bằng 2-3 đầu ngón tay, trần qua nước sôi, sau đó vắt ráo nước cho vào bát, tẩm ướp gia vị, rau thơm, ớt. Lấy loại rễ cây chát, quả chín cây măccó, vắt lấy nước chua cho vào cá, dùng tay bóp đều, để khoảng 5-10 phút là được ăn. Món này chỉ dùng được cho người lớn, trẻ con và phụ nữ chửa hoặc đang ốm không dùng. Gỏi cá dùng uống với rượu nấu rất hợp và ngon.Còn món cá chua thì làm sạch cá, đem ướp với muối, mắc khén để khoảng 5 phút, sau đó cho vào trong ống nứa đã được làm sạch. Mặt miệng ống cho một lớp cơm rồi dùng lá bịt miệng ống thật kỹ. Để khoảng 4-5 ngày thấy dậy mùi là cá đã ngấu chua. Lúc này vớt bỏ cá ra để chế biến nấu thành các món ăn. Món ăn được ưa thích là cá chua xào mỡ hoặc ăn trực tiếp. Khi làm món này thì gia vị hợp nhất để có thể tạo nên hương vị riêng của món ăn là ngoài muối, mì chính, nhất thiết phải có gừng. Người Hà Nhì vào tháng 3-4 đầu năm thường làm măng chua để ăn. Măng ống hoặc măng củ bó vỏ bỏ lớp vỏ, rồi ngâm nước sạch khoảng 10-15 phút. Chuẩn bị một chum nước hoặc một ống chứa nước đã được rửa sạch, rồi đổ nước vào chum. Sau đó thái bổ dọc măng thành từng miếng dày khoảng 3–5 cm, rồi cho vào chum ngâm ngập nước. Ngâm khoảng 5-7 ngày nước chua lên men đã ngấu, lúc này có thể mang chế biến để ăn. Các món chế biến có thể là: thịt lợn, già, xương sườn xào, xào với cá bống măng chua. Trường hợp thịt rang, xào trước thì cho măng vào sau cách khoảng 3-5 phút xào đảo đều cho 1 ít nước đun cho đến khi nếm măng không còn vị đăng đắng là được rồi với cho muối, mỳ chính gia vị như tía tô, rau thơm khác vào đảo đều rồi bắc ra ăn, làm món thịt xào măng chua thì nhiều dân tộc biết làm, nhưng người Hà Nhì có bí quyết riêng cho món ăn này khác so với dân tộc khác làm, đó là không nên cho muối vào khi măng chua chưa chín. Làm như vậy để giữ được hương cùng với vị ngăm ngăm đắng đặc trưng, cùng với sự mềm giòn của măng. Vào ngày Tết Âm Lịch, người Hà Nhì ở Trung Quốc không thể thiếu các món bún sợi gạo. Còn về người H'mông đều dựa vào hai nguồn lương thực phẩm chính: từ các sản phẩm trồng trọt và chăn nuôi; từ khai thác sản phẩm tự nhiên(săn bắn, hái lượm). Sản phẩm trồng trọt gồm có: lúa nương, ngô, sắn, khoai lang, đậu tương, lạc, rau (rau cải, bầu bí, các loại đậu) và gia vị như: hành, tỏi, gừng, ớt…Nguồn thực phẩm do chăn nuôi đem lại bao gồm: trâu, bò, dê, lợn, gà, vịt. Ngựa và chó được nuôi nhiều nhưng họ ít ăn thịt. Sản phẩm tự nhiên khai thác được đã bổ sung quan trọng cho nguồn lương thực, thực phẩm. Đó là các loại cây dùng để lấy bột ăn.Người Hmông ở Quý Châu, Hồ Nam, Vân Nam, Tứ Xuyên, Quảng Tây ăn ngô là chính, còn đối với người Hmông ở Hải Nam và Hồ Bắc, cây lúa nương là thức ăn chính của họ.Từ các nguồn lương thực, thực phẩm như trên, họ chế biến thành các món ăn. Món ăn của người Hmông (bao gồm cơm và thức ăn) cũng như của cư dân nương rẫy nói chung, thường đơn giản và ít được chế biến cầu kì. Cơm: Người Hmông gọi món cơm với tên chung là mó, và tùy từng nguyên liệu nấu mà kèm thêm phụ danh; chẳng hạn, nấu bằng gạo là mó plê, nấu ngô- mó cừ, độn lẫn sắn- mó cò. Cách nấu cơm truyền thống gồm hai công đoạn: lần thứ nhất nấu hoặc đồ nửa sống, nửa chín sau đó trút ra rá cho khô rồi đồ lại lần thứ hai. Với ngô họ có hai cách chế biến: xay thành bột, hoặc chỉ xay thành hạt nhỏ rồi độn với gạo. Sắn ăn độn cũng được chế biến bằng cách thái lát mỏng, hoặc nạo thành sợi đem trộn với gạo rồi nấu như trên. Mó chà sang(cơm lam) khá phổ biến ở người Hmông, đồng bào thường dùng trong lúc đi nương hoặc đi rừng. Đối với cơm tẻ, họ chặt ống luồng, rửa sạch, đun nước gần sôi mới đổ gạo vào. Khi gạo sắp chín, chắt bớt nước, nút ống bằng lá rồi để cho cơm chín bằng lửa than. Đối với cơm nếp, người ta dùng ống nứa để nấu. Thức ăn và cách chế biến: bữa ăn hằng ngày của người Hmông thường rất đơn giản. Ngoài món cơm, thức ăn chủ yếu là món canh nhạt, khi săn bắn được chim thú hoặc kiếm được tôm, cá, người ta nấu canh mặn hoặc nướng. Khách đến chơi nhà nếu là nữ giới: vào lúc khan hiếm thức ăn có thể ngồi chung mân với gia đình. Khi có điều kiện, nữ chủ nhà sẽ tiếp khách mâm riêng. Nơi đặt mâm tiếp khách thường là ở gian giữa. Đối với khách là nam giới thì chủ nhà nhất thiết tiếp mâm riêng. Phụ nữ có trách nhiệm phục vụ khách ăn trước. Tết của người Hmông thường sớm hơn tết của người Việt khoảng 1 tháng. Vào dịp này người ta thường tổ chức gói bánh, làm thịt lợn, gà. Đối với những gia đình khá giả, họ có thể làm thịt bò, đây cũng là dịp người ta tổ chức cúng lễ ma nhà để cầu mong một năm mới tốt lành. Ngoài tết Nguyên đán, người ta còn tổ chức đều đặn các lễ tết khác như Tết cơm mới, cúng ma buồng hoặc những lễ cúng đột xuất khác như: lễ đặt tên cho trẻ mới sinh hoặc khi có người đau ốm. Một món ăn đặc trưng của người Hmông là món thắng cố. Nghĩa đen của nó là canh chảo. Món này chế biến như sau: tất cả các loại thịt, xương, lòng, gan, tim, phổi của một con vật như bò, dê, chó…được chặt và thái thành miếng nhỏ nấu chung vào một chảo canh. Vào những dịp quan trọng như cưới xin, ma chay…đồng bào hay nấu món thắng cố. Bánh canh há cảo nhân thắng cố (湯骨粉粿: Tāng gǔfěn guǒ), không như thắng cố được nấu theo kiểu cũ, người ta còn cho thêm bột ngũ vị hương. Khi ăn dùng kèm đậu phụ thối và ca la thầu. Người đi chợ thường hay mua món “thắng cố” ăn với cơm mang sẵn từ nhà đi. Người H'mông ở Hồng Kông cũng rất yêu chuộng các món ăn của người Hán. Họ cũng có thể biến tấu các món ăn H'mông xen lẫn với các món ăn của người Hán và Mãn Thanh. Người Duy Ngô Nhĩ có các thực phẩm cho các món ăn nhất định bao gồm sữa ngựa (kymyz) cho Kyrgyzstan và cừu ruột của Xibe. Các món ăn của người Duy Ngô Nhĩ là nổi bật trong các nhà hàng ở Tân Cương. Dongxiang món ăn bao gồm mì luộc trong một món súp thịt cừu dày và cuộn xoắn hấp.Thực phẩm Uyghur là đặc trưng của thịt cừu, thịt bò, lạc đà (chỉ Bactria), gà, ngỗng, cà rốt, cà chua, hành tây, ớt, cà tím, cần tây, các loại thực phẩm từ sữa và trái cây. Một người Duy Ngô Nhĩ ăn sáng với trà với bánh mì nướng, Smetana, ô liu, mật ong, nho khô, và hạnh nhân. Uyghur muốn đối xử với khách với trà, naan, và trái cây trước khi các món ăn chính đã sẵn sàng. Hầu hết các loại thực phẩm Uyghur được ăn với đũa, một tùy chỉnh mà đã được áp dụng từ Hán văn hóa từ thế kỷ 19. Người Duy Ngô Nhĩ có món ăn phổ biến được lengmen (لەڭمەن, ләңмән; Shou La Mian, 手拉面, shǒu lāmiàn, شو لاميا), một món mì có khả năng có nguồn gốc từ Trung Quốc lamian, nhưng hương vị của nó và phương pháp chuẩn bị là rất đặc trưng của người Duy Ngô Nhĩ. Nó là một loại đặc biệt của mì làm bằng tay, được làm từ bột mì, nước và muối. Bột được chia thành những quả bóng nhỏ và sau đó kéo căng bằng tay. Các món mì được đun sôi cho đến rất mềm và sau đó được phục vụ đứng đầu với xào thịt và rau (ớt chuông, ớt, bắp cải, hành tây và cà chua) trong kho thịt.Món ăn điển hình là polu (پولۇ, полу; 抓饭, zhuāfàn, جو فا; nghĩa là: "lấy gạo"), một món ăn tìm thấy trên khắp Trung Á. Trong một phiên bản phổ biến của người Uyghur polu, cà rốt và thịt cừu (hoặc thịt gà) đầu tiên được chiên trong dầu với hành tây, sau đó gạo và nước được thêm vào, và cả món ăn được hấp. Nho khô và mơ khô cũng có thể được thêm vào. Các món ăn khác bao gồm súp làm từ thịt cừu hay thịt gà, và kawaplar (Uyghur: كاۋاپلار, каваплар) (thịt nướng) được làm từ thịt cừu hay thịt bò. Bánh mì là Trung Á phong cách nướng bánh mì dẹt gọi là nan (نان, нан; 馕, nang, نا), sử dụng hạt mè, bơ, sữa, dầu thực vật, muối, và đường;kawaplar, thịt ướp với bột ớt, muối, hạt tiêu đen, và thì là. Sản phẩm chính của người Choang là các cây trồng nhiệt đới và cận nhiệt đới như gạo và ngô do khí hậu ôn hòa và lượng mưa dồi dào. Những người ăn tất cả các loại thịt, bao gồm thịt bò, thịt cừu, thịt lợn và thịt gà, vv Các loại rau của cuộc sống hàng ngày của họ có nhiều chủng loại. rau trần và dưa là những người ưa chuộng. Ngoài các nguồn lương thực chính là gạo và ngô, người Dao cũng có nhiều món chế biến từ thịt và cá rất đa dạng. Món xào: Khi thịt gà, thịt lợn, thịt dê, thịt bò người Dao thường đem xào gừng và nghệ. Đối với thịt lợn, thịt gà khi chế biến món sào đều cho một ít nước và thường cho thêm gừng. Một số món như thịt bò, thịt trâu còn tươi cũng được đem xào chín với gừng. Chỉ có lòng gan lợn. thịt chim, thịt chuột đồng, nhộng được xào khô và cho thêm hành, gừng hoặc lá chanh thái nhỏ và cho một ít rượu. Trường hợp xào cho nhiều người ăn còn nêm thêm một số hương vị như thảo quả, quế, gừng, sả... Món luộc: Để làm món thịt luộc, người Dao thường rửa sạch thịt và cắt thành miếng to bằng bàn tay. Sau đó bỏ vào nồi hoặc chảo, cho nước vừa đủ rồi bắc lên bếp lửa đun sôi, dùng đũa lật và chọc vào thịt để kiểm tra, nếu thấy chín đều thì vớt ra. Nước luộc thịt được đem nấu canh với rau cải, cải bắp hoặc với rau ngót, mồng tơi. Trước khi ăn, thịt luộc chín được đem thái hoặc chặt thành miếng nhà xếp vào bát, đĩa hay đổ thịt ra lá dong, lá chuối. Món hầm: Thịt hầm cũng được người Dao ưa thích. Món thịt hầm thường phải có thêm những thứ bổ trợ như đu đủ, khoai sọ, măng khô, giá đậu tương, su hào... Tuỳ theo đặc điểm của món thịt hầm, họ có cho thêm một số gia vị như rượu, hành, hồ tiêu, củ sả, riềng, gừng... Món nấu (o khấu): Trong các món ăn của người Dao, nếu so sánh với các món xào, luộc và hầm thì các món nấu từ thịt cũng không phải là ít. Họ rất thích ăn thịt lợn nạc nấu hoặc rim, nhất là thịt gà nấu canh gừng. Nhiều khi đậu phụ, trứng gà cũng được đem nấu canh. Ngoài ra, họ còn hay nấu canh thịt lợn nạc với phở hoặc miến dong, nấu xương lợn với bí đao... Khi bắt được những con cá to họ cũng hay đem nấu canh với gia vị. Nhìn chung, trong những ngày Tết hoặc lễ thường thấy xuất hiện nhiều món thịt nấu. Với ốc đồng hoặc ốc suối, họ thường đem rửa sạch, chặt đuôi rồi nấu canh nghệ, khi ăn thì mút lấy thịt bỏ vỏ. Món rán: Món rán được chế biến khá đơn giản. Khi thấy chảo nóng thì cho mỡ vừa đủ, sau đó đập trứng hoặc cho đậu phụ hay cá xuống rán cho đến khi chín thì vớt ra. Món nướng: Trước đây khi thịt lợn, người Dao có thói quen lấy ít gan có cả mật và thịt nạc đem ướp muối rồi dùng tre gắp lại, đặt cạnh than hồng để nướng. Khi chín gan được thái từng miếng, mật thì cho vào bát rượu, sau đó chia cho mọi người cùng ăn, thịt nướng thái ra bát cho trẻ con ăn. Đối với các món rau, trong các món thức ăn hàng ngày, món rau nấu canh mặn hoặc nhạt là món chính. Bất kể loại rau nào cũng được người Dao đem nấu canh, chẳng hạn như rau cải, cà chua, bắp cải, đu đủ, su su, rau bí, rau rền, măng, mướp, bầu, bí, khoai sọ.... Các loại rau như: mùi khai, ngọn khoai lang, lá non của cây sắn, rau cải làn, rau đớn thường được xào, ít dùng nấu canh. Tuy gọi là rau xào nhưng vẫn phải cho một ít nước để đun cho rau chín, tránh cho rau bị cháy. Hiện nay, do ảnh hưởng văn hoá, người Dao cũng ưa thích món rau luộc. Rất nhiều loại rau như rau cải, bắp cải, su hào, rau rền...được họ đem luộc ăn với nước chấm. Với người Hồi,các món ăn rất đa dạng và thay đổi từ vùng này đến vùng. Nếu bạn đến thăm họ, bạn sẽ được phục vụ một loạt các món ăn đặc biệt. Người Hồi sống ở khu tự trị Ninh Hạ Hồi thích ăn bột; ở Cam Túc và Thanh Hải, họ ủng hộ lúa mì, ngô, lúa mạch, và khoai tây. Gaiwan Trà có chứa không chỉ với trà, nhưng cũng có nhiều thành phần dinh dưỡng khác như nhãn, táo tàu, vừng, đường phèn, và sơn tra. Chim bồ câu được coi là con chim thần thánh "có thể được ăn chỉ trong những trường hợp nhất định. Ví dụ, một con chim đang ăn cho người bệnh như một loại thuốc bổ, nhưng chỉ sau khi được sự chấp thuận của Imam. Họ thường bị cấm không được ăn thịt lợn, chó, ngựa, lừa, la cũng như máu của động vật. Hơn nữa, nếu người quốc tịch khác sử dụng một nồi hoặc món ăn để giữ thịt lợn, sau đó họ sẽ không sử dụng hoặc chạm vào các món ăn. Tham quan khách nhận được ngấm trà và được phục vụ trái cây hoặc bánh tự làm. Tất cả các thành viên trong gia đình sẽ đến để chào đón khách hàng của họ, và, nếu khách là từ xa, bạn sẽ được nhìn thấy đi thậm chí ra khỏi làng của người Hồi. Ẩm thực Trung Hoa được coi là ẩm thực mang đậm nét Phương Đông. Mỗi lần có tour du lịch Trung Quốc, đến với thế giới ẩm thực Trung Hoa là đến với những món ăn truyền thống từ mọi miền đất nước của họ. Mỗi một vùng miền lại mang trong mình một nền văn hóa ẩm thực với những nét đặc sắc riêng. Cũng chính bởi vậy, không chỉ người Trung Quốc mà ngay cả những thực khách nước ngoài khi đặt chân lên đất nước này luôn dành thời gian để được trải nghiệm những đặc sản vùng miền. == Phương thức nấu ăn == Nấu ăn Trung Quốc đang nổi tiếng khắp thế giới. Thực phẩm Trung Quốc mang một phong cách riêng của nó. Nhấn mạnh về nguyên liệu tươi ngon theo mùa, chuẩn bị với một số tiền tối thiểu nhất, trình bày màu sắc, kết cấu, và trình bày có liên quan.Một số phương pháp nấu ăn của người Trung Hoa giữ được tất cả những hương vị và chất dinh dưỡng. Kỹ thuật nấu ăn Trung Quốc sớm phát triển từ hàng ngàn năm. Họ luôn là người cầu kỳ cẩn trọng từ khâu nuôi trồng, lựa chọn, chuẩn bị chế biến tới khi chế biến hoàn thiện món ăn.Người đầu bếp khi chế biến món ăn phải trải qua một quá trình được gọi là "nấu"; nấu ăn bao gồm từ khâu chọn lựa nguyên liệu thực phẩm, sơ chế, cắt thái thực phẩm thành các thành phần nguyên liệu sau đó tẩm ướp; cuối cùng là khâu trình bày để tăng thêm sự hấp dẫn về thẩm mỹ cho món ăn. Quá trình này được người Trung Quốc chia thành 4 giai đoạn: thái, phối,gia nhiệt và nêm. === Thái === Trước hết là thái và chặt, mà người Trung Quốc gọi là đao khẩu: Đó là cắt thức ăn sống thành miếng nhỏ chỉ bằng con dao và cái thớt. Có ít nhất 200 cách thái chặt mà mỗi loai có một tên riêng tùy theo hình dáng của thịt, cá và rau. Và khi đã làm xong món ăn dọn lên bàn, thì người Trung Quốc không dùng đến dao nữa, mà tất cả đều gắp bằng đũa. Điều này cho thấy cái khác của người phương Tây, bàn ăn là không gian yên bình không dùng đến dao búa của nhà bếp, không như người phương Tây dọn ăn vẫn có cả dao để cắt ăn. === Phối === Giai đoạn thứ hai người Trùng Quốc gọi là phối, có nghĩa là pha chế. Trước khi được đưa qua lửa, thức ăn được phối trộn theo yêu cầu của việc ăn uống, thích hợp với tính chất của từng loại thực phẩm được dùng. Từ xưa, ngươì Trung Quốc đã biết đến sự phối hợp các loại thực phẩm tùy theo tính âm hay dương, tính hàn hay nhiệt của mỗi loại, khiến cho món ăn dọn ra không những phải ngon, mà còn phải có tác dụng bổ dưỡng cho sức khỏe con người. === Gia nhiệt === ==== Chiên ==== Các món chiên là phương pháp cổ điển của nấu ăn Trung Quốc. Món chiên làm rất nhanh chóng và dễ dàng, ngon và có hương vị đặc trưng. Các dụng cụ nấu ăn là một chảo và chảo thìa. Khuấy-chiên thường được thực hiện trên một bếp gas, mặc dù một bếp điện có thể được sử dụng nếu làm nóng trước đến một nhiệt độ cao.Khuấy-chiên thường sử dụng một sự kết hợp của thịt hoặc hải sản, rau, và đậu hũ. Tất cả các thành phần được xắt lát mỏng hoặc cắt nhỏ hinh khôi. Thịt hoặc hải sản được ướp bằng nước tương, muối và các gia vị khác.ất cả các thành phần cần được sẵn sàng trước khi làm nóng chảo. (Các thực phẩm được nấu chín nên được tinh thái lát hoặc cắt nhỏ thành từng miếng có kích thước tương tự như sử dụng một con dao rất sắc nét hoặc dao Trung Quốc). Khi chảo nóng, một lượng nhỏ dầu được thêm vào, thịt hoặc hải sản được nhanh chóng khuấy động và quay cho đến khi bán được nấu chín. Sau đó nó được lấy ra từ chảo và đặt sang một bên.Thêm dầu được thêm vào chảo, nếu cần thiết. Các loại rau và / hoặc đậu phụ được thêm vào và nhanh chóng xào;thịt hoặc hải sản được thêm lại giữa chừng nấu ăn, gia vị được điều chỉnh nếu cần thiết, và các món ăn được khuấy cho đến khi thực hiện. Nó cần phải được phục vụ ngay lập tức. ==== Chiên ngập dầu với chảo sâu lòng ==== Chiên ngập dầu được sử dụng để sản xuất thực phẩm sắc nét kết cấu. Nó thường được sử dụng để chiên một loạt các loại thịt và rau trong dầu đun nóng đến nhiệt độ cao.Chiên ngập dầu được thực hiện với một cái chảo sâu hoặc một nồi chiên sâu, và một chiếc muỗng lọc (dùng để chứa đựng thực phẩm trong nồi chiên sâu và ép các loại thực phẩm khi lấy ra từ dầu), đũa dài. ==== Hấp ==== Hấp là một phương pháp nấu bằng hơi nước. Nó được coi là kỹ thuật nấu ăn lành mạnh.Hấp có thể làm cho các món ăn hương vị tươi và ngon. Nó có thể giữ lại các chất dinh dưỡng khác nhau trong thực phẩm và giảm sự mất chất dinh dưỡng đến một mức độ lớn. Vì vậy, nó được sử dụng rộng rãi để nấu một loạt các thành phần.Người Trung Quốc hấp thực phẩm bằng cách sử dụng xửng hấp làm từ tre, có thể được xếp chồng lên cái kia, cho phép một số loại thực phẩm được nấu chín cùng một lúc, do đó tiết kiệm thời gian và nhiên liệu.Món ăn đòi hỏi thời gian nấu nhất được đặt trên lớp dưới cùng gần nước sôi, trong khi những người đòi hỏi ít được đặt trên lớp. Các nước cần được lưu giữ tại một sôi chậm cho đến khi thực phẩm được thực hiện.Các ví dụ nổi tiếng nhất của hấp là dim sum, bánh bao, bánh và cá hấp. ==== Hầm ==== Hầm là một kỹ thuật nấu ăn Trung Quốc duy nhất, được sử dụng chủ yếu để nấu một vết cắt khó khăn hơn trong thịt, gia cầm.Thức ăn được nấu chín rất chậm trên một ngọn lửa thấp. Thịt thường được chín vàng đầu tiên, sau đó số lượng lớn của nước tương, đường, rượu vang hoặc rượu sherry, gừng, ngũ vị hương, bột ớt, rau mùi và gia vị khác được thêm vào, cùng với nước hoặc nước dùng.Có thể mất đến vài giờ trước khi thịt được thực hiện với sự dịu dàng mong muốn. Sản phẩm cuối cùng có thể được phục vụ nóng hoặc lạnh. Các nước giàu và màu nâu sẫm; do đó các tên mô tả "hầm đỏ".Các ví dụ nổi tiếng nhất của màu đỏ-nấu ăn có màu đỏ nấu xương sườn và cá đỏ nấu chín. ==== Nấu chín ==== Những món luộc được coi là đơn giản nhất trong số tất cả các kỹ thuật nấu ăn Trung Quốc. Phương pháp nấu ăn này nhanh hơn so với các kỹ thuật khác và nó đảm bảo màu sắc, kết cấu, hình dạng và chất dinh dưỡng của thực phẩm.Các thành phần được rửa sạch và cắt giảm đầu tiên, sau đó nhúng vào nước hoặc nước dùng sôi. Khi chúng được nấu chín hoàn toàn, họ đang ráo nước ngay lập tức, và sau đó họ được phục vụ với gia vị, hoặc đã hoàn thành bằng các kỹ thuật nấu ăn khác.Đun sôi là chủ yếu được sử dụng để nấu ăn nhỏ các thành phần và mềm mại. Ví dụ, các loại rau và súp rau có thể được chế biến theo kiểu này.Các đồ dùng ăn được sử dụng để đun sôi một chảo, đũa dài, và một muỗng lọc Trung Quốc.Hai ví dụ tốt của thực phẩm luộc là bông cải xanh Trung Quốc với dầu hào, cà chua và súp trứng. ==== Quay ==== Nhiều loại thực phẩm Trung Quốc như gà, vịt, cả một con cừu, chân của một con cừu, và cả một con lợn có thể được nấu theo cách này.Thông thường, thịt được chuẩn bị (làm sạch, dày dạn, và rán với dầu ăn) sau đó treo ở trên một ngọn lửa hoặc đặt trong lò rất nóng. Thịt phải được thiêu đốt để da có vị giòn.Khi thịt đã được quay, đó là sau đó xắt nhỏ, sắp xếp một cách nghệ thuật trên đĩa, ăn kèm với nước sốt.Một trong những món nướng nổi tiếng nhất là vịt quay Bắc Kinh. ==== Om ==== Những món om liên quan đến các thành phần bổ sung, gia vị, và một lượng nhỏ nước hoặc nước dùng để chảo hay nồi, tất cả mọi thứ sôi cùng ban đầu ở nhiệt độ cao, và sau đó nung nấu nó ở nhiệt độ thấp trong một thời gian dài (thường là một giờ hoặc hơn).Các thành phần này thường được cắt thành hình khối có kích thước lớn hoặc kim cương. Sử dụng kỹ thuật này, tất cả các thực phẩm được nấu chín kỹ.Các món om nổi tiếng nhất ở Trung Quốc bao gồm thịt gà om với nấm và thịt bò om với khoai tây. == Danh sách các đặc sản cổ truyền của ẩm thực Trung Quốc == Há cảo Sủi cảo Xá xíu Hoành thánh Dimsum Thắng cố Trứng vịt Bắc Thảo Phá lấu Vịt quay Bắc Kinh Đậu phụ thối Đậu phụ mapo Trứng luộc nước tiểu Súp hải sản cay Khâu nhục Thịt bò nướng Tứ Xuyên Ba ba tần bát bảo Gà "ăn mày" Cơm chiên Dương Châu Lẩu "Phật nhảy tường" Bún "qua cầu" Vân Nam Bò nấu đậu phụ Tứ Xuyên Bào ngư xào nấm Cá, tôm viên chiên Chả cá Bắc Kinh Cá song hấp xì dầu Chân gà hấp tàu xì Tôm sốt Tứ Xuyên Màn thầu Bánh bao Lẩu cay Tứ Xuyên Óc khỉ sống Quẩy Thịt chuột sống Gà Cung Bảo Trứng sốt đậu tương Trà trứng: trứng gà sẽ được nấu với trà đen cho đến khi nước trà ngấm tận vào lòng đỏ. Khi ăn, phần lòng trắng sẽ chuyển sang màu nâu, dai và có vị chát của trà rõ rệt. Phần lòng đỏ vẫn có độ bùi và béo nhưng không còn ngấy mà thơm đậm đà hương trà đen, tạo cho người ăn cảm giác vừa lạ vừa quen.Phần nước trà khi dọn ra với trứng có lẽ là một loại nước dùng chè ngon và đặc sắc nhất. Nó không chỉ có vị ngọt mà còn có vị chát, vị thơm, lạnh mát của nước đá. Súp dơi Đài Loan Mì danzi (mì hàng rong) ở Đại Nam (Đài Loan) Trứng tráng sò điệp ở Lugang Bianshi tại Hualien Thịt viên nhồi ở Hsinchu Trà sữa trân châu ở Đài Bắc Bánh mặt trời ở Đài Trung Súp cá viên ở Jiufen "Trứng sắt" ở Tamsui: Món ăn có cái tên rất lạ này nổi tiếng khắp vùng Tamsui. Đầu bếp sử dụng trứng gà hoặc trứng chim bồ câu, hầm trong nước tương với các loại gia vị cho tới khi trứng cứng lại, chuyển sang màu đen. Canh tiết lợn ở Taitung: Tiết canh là một trong những món đặc sản tại Taitung mà du khách có thể tìm thấy ở khu chợ đêm Siwei Road họp vào các chủ nhật. Ngoài ra, thành phố này cũng nổi tiếng với các loại trái cây và đặc biệt là món bánh táo. Siu Yuk (Lợn quay): Thịt lợn quay được thái vuông và chấm với nước sốt chua ngọt lạ miệng và rất dễ ăn. Vị ngọt của thịt nạc hòa quyện với vị bùi của lớp mỡ và phần bì giòn tan khiến Siu Yuk được nhiều người yêu thích. Cheong Fun (Bánh cuốn nhân): Khá giống bánh cuốn của người Việt Nam, Cheaong Fun có lớp vỏ mềm và nhân làm từ thịt bò hoặc tôm, chấm với nước tương. Fish Congee (Cháo cá): Món ăn nhẹ nhàng mà giàu dinh dưỡng này có thể cho thêm các nguyên liệu như thịt lợn, trứng muối... Tong Jyun/Tang Yuan (Bánh trôi tàu hay chè thang viên): Những viên bánh nhân vừng đen ngọt ngào được thả trong nước dùng ngọt ngọt, cay cay là món ăn lý tưởng cho những ngày mát trời.Bột nếp được nặn từng viên to hơn một chút, đường kính khoảng 3 đến 3,5 cm; đậu xanh ngâm mềm, đãi sạch vỏ, hấp hoặc đồ chín, xúc ra đem giã nhuyễn, chừa lại một ít chưa giã để trang trí. Xào phần đậu xanh đã giã với đường, vê tròn lại.Quấy bột sắn dây hoặc bột đao với nước pha đường, kèm một chút nước gừng, đun nhỏ lửa, đảo đều tay cho bột hơi sánh lại và không bị cháy khét ở đáy nồi.Nặn bột mỏng đều ra rồi cho nhân vào giữa, vê tròn lại cho kín nhân rồi ấn bánh hơi dẹt một chút (có một số địa phương không ấn dẹt bánh ra từ trước, mà đợi khi bánh chín vớt ra sẽ cho vào từng bát, dùng thìa ấn hơi dẹt bánh). Luộc bánh trong nước sôi già, khi bánh nổi lên là đã chín. Cho bánh ra bát, múc nước đường đổ ngập bánh, rắc vừng (rang vàng, xát bỏ vỏ) hoặc rắc chút đậu xanh hấp chín lên trên, có thể thêm một ít sợi dừa nạo và nước hoa bưởi cho thơm. Cũng có nơi người ta sử dụng các nhân khác nhau như hạt sen, xoài, mứt dâu tây (strawberry jam),... Hoặc cũng có cách làm sau: Cho 300 gam bột nếp và 100 gam bột tẻ vào một cái tô lớn trộn đều. Rót từ từ nước ấm nóng vào và nhào bột, đến khi bột mịn không dính tay là bột đã được; ngắt bột thành từng khối nhỏ, vo viên tròn hoặc dài tùy theo sở thích. Bắc 2 nồi nước lên bếp, 1 nồi nước lọc để luộc bánh, còn nồi kia cho 200 ml mật mía và gừng thái sợi, táo tàu sấy khô vào. Khi nồi nước lọc sôi, cho các viên bánh vào, đợi bánh nổi lên khoảng chừng 1 phút,vớt các viên bánh sang nồi nước mật mía gừng hạ nhỏ lửa và đun riu riu cho bánh ngấm vị ngọt, khoảng 5-10 phút. Yuk Song Bao (Bánh bao chà bông): Loại bánh bao này có nhân là thịt heo xay nhuyễn như ruốc và món ăn hoàn hảo cho bữa sáng. Ngau Lam Tong (Bò hầm): Ức bò được ướp gia vị và ninh đến khi có thể tan ngay khi cho vào miệng. Vị ngọt mềm của thịt bò kết hợp với nước dùng đậm đà và mùi thơm của hành tươi thật hấp dẫn. Put Chai Ko (Bánh đúc đậu đỏ): Món ăn vặt này gần giống như bánh đúc Việt Nam, với nhân đậu đỏ ngọt bùi và lạ miệng. Siu Gno (Ngỗng quay): Thịt ngỗng ngọt mềm với lớp da bắt mắt, giòn tan là một trong những món ngon bạn không nên bỏ qua khi tới Hong Kong. Poon Choi (Lẩu khô): Với nguyên liệu đa dạng từ hải sản tới các loại thịt được chế biến và bày vào một thố lớn, Poon Choi là món ăn hấp dẫn phù hợp với nhiều khẩu vị, sở thích. Hong Kong French (Bánh mì kiểu Pháp): Bánh sandwich được phết bơ và thêm si-rô mạch nha hẳn sẽ làm những người thích ăn ngọt hài lòng. Zhang Liang (Bánh cuốn quẩy): Tương tự như Cheong Fun, Zha Liang có lớp vỏ mềm như bánh cuốn bọc ngoài quẩy giòn. Jin Deui (Bánh rán vừng): Với nhân đậu đỏ hoặc đậu đen và vỏ ngoài nhiều màu rực rỡ, Jin Deui là món ăn chơi thú vị của Hong Kong. Boh Loh Baau (Bánh dứa): Loại bánh xốp mềm này thường được ăn vào bữa sáng. Boh Loh Baau còn có tên “bánh dứa” do hình dạng mặt bánh. Lạp xưởng Thịt kho tàu Gai Daan Jai (Bánh quế trứng): Được bày bán trên những con phố khắp Hong Kong, Gai Daan Jai hấp dẫn du khách với vị trứng đậm đà và giòn tan. Thịt xiên nướng: Đây là một trong những món ăn đường phố hấp dẫn nhất Hong Kong, với đủ mọi loại nguyên liệu từ thịt tới hải sản, chả cá... Bánh Zong Zi: Bánh Zong Zi của Tainan có lớp vỏ gạo mềm dai, kèm phần nhân đậm đà. Tào phớ(Douhua): Táo phớ kiểu Tainan được làm từ đậu nành và chan nước đường phèn, thêm đậu đỏ, đậu xanh hay khoai sọ. Cơm chân giò: Chân giò lợn được rưới xì dầu, ăn kèm rau thơm và rau là món ăn vừa ngon miệng vừa no bụng. Súp mực hầm: Nhìn chung súp mực ở Tainan ngọt hơn ở các vùng khác của Đài Loan. Phiên bản của quán Fushui Huazhi Geng còn có cả cá măng sữa hấp. Cá măng sữa: Món ăn đơn giản này chỉ gồm một miếng cá măng sữa rán ăn kèm chanh và muối tiêu, nhưng cũng đủ làm hài lòng bất cứ thực khách nào. Canh vịt: Hầu hết các nhà hàng đã chuyển từ nồi đá sang nồi kim loại khi nấu canh vịt, nhưng họ vẫn sử dụng một loại than củi truyền thống. Cháo/chè bát bảo: Nguyên liệu chính để nấu món này là gạo nếp, lạc, đậu xanh và đậu đỏ. Vào mùa hè, món chè bát bảo thường được ăn cùng đá lạnh, trong khi vào mùa đông du khách sẽ được thưởng thức món cháo bát bảo. Miến lươn: Để thịt lươn có độ giòn, nhiều nhà hàng đã rán qua trước khi cho vào nước dùng. Bánh mì quan tài: Đây là sự kết hợp giữa bánh mì Pháp và hải sản hầm. Tương truyền, tên của món ăn bắt nguồn từ chuyện một nhà khảo cổ ăn bánh mì và bảo đầu bếp rằng trông nó giống như chiếc quan tài mà ông đang khai quật. Thịt viên Đài Loan (Ba wan): Món ăn này gồm phần nhân mặn làm từ thịt lợn và măng, bọc trong lớp vỏ mềm mại làm từ bột gạo, bột ngô và bột khoai lang. Nước sốt có vị ngọt tạo ra hương vị độc đáo cho món ăn. Súp vi cá mập: Đây là món ăn có nguồn gốc từ người Quảng Đông, nơi nổi tiếng với phong cách nấu ăn sáng tạo, ít dầu mỡ và hương vị luôn tinh tế. Súp vi cá mập là món ăn ngon, có giá trị dinh dưỡng cao và được nhiều người Trung Quốc thuộc tầng lớp giàu có ưa chuộng, như một cách để khẳng định đẳng cấp xã hội. Khâu chế biến súp vi cá mập tương tự như những món súp Trung Hoa khác, được nấu với nước cốt gà, thêm nạc cua, trứng gà và bột năng để có độ sệt hấp dẫn. Điểm nhấn của món ăn này là có thêm vi cá mập, một nguyên liệu vô cùng mắc tiền và bổ dưỡng. Một chén súp vi cá mập được bán với giá khoảng 1.000 Nhân dân tệ, vào khoảng 3 triệu đồng Việt Nam. Súp vi cá mập đã một thời khuấy đảo nền ẩm thực Trung Quốc, đặc biệt lan sang các quốc gia lận cận như Việt Nam. Khách du lịch đến với Trung Quốc luôn tìm kiếm để được thưởng thức món ăn độc đáo và ”sang chảnh” này. Tuy nhiên, đây là một trong những món ăn chịu sự phản đối nhiều nhất từ báo chí phương Tây, đặc biệt là những tổ chức bảo vệ môi trường trên thế giới. Bởi sự phổ biến của món ăn này mà mỗi năm có đến 73 triệu con cá mập bị giết hại để lấy vây, khiến số lượng cá thể loài này suy giảm đến 99%. Gần đây, một số báo chí Trung Quốc cũng rộ lên tin đồn vi cá mập được làm giả từ chất gelatin và chất dẻo tạo từ rong biển. Đây là lý do khiến cho món ăn này bị tẩy chay ngay tại Trung Quốc. Tuy nhiên, thực tế món súp vi cá mập vẫn có một sức hấp dẫn đặc biệt với những người sành ăn. Màn thầu Xíu mại Pancake bí đao (蔥油餅Bính âm:cōngyóubǐng): Trong ẩm thực Đài Loan, bánh làm từ bí đao, hành lá và ngũ vị hương được xào với trứng bọc ở một bên và bột mỏng hơn giữ ẩm. Bánh nướng Trung thu: Trong phong tục của người Trung Quốc, tết Trung thu còn gọi là tết đoàn viên, thời điểm mọi thành viên trong gia đình tụ họp. Chính bởi vậy bánh trung thu của Trung Quốc theo truyền thống thường có hình tròn, tượng trưng cho "đoàn viên" và ý nghĩa này bắt nguồn từ đời nhà Minh. Bánh thường mang tên "bánh trăng", "bánh mặt trăng" (月餅 "nguyệt bính", Yuebing) Bề mặt bánh thường in các chữ ngụ ý tốt lành. Ngày nay, bánh trung thu có nhiều hình dạng hơn, bao gồm cả hình vuông, hình các con giống, và được làm bằng nhiều nguyên liệu mới lạ, thậm chí chia thành nhiều kiểu loại đặc trưng Quảng Đông, Tô Châu hay Bắc Kinh. Trong văn học Trung Quốc, có một loại bánh trung thu được nêu trong tiểu thuyết võ hiệp của Cổ Long, truyện về Sở Lưu Hương là bánh trung thu "Hằng Nga hận" do tiệm bánh Tam Nhật Khai sản xuất, nổi danh giang hồ.Tại Đài Loan những chiếc bánh trung thu truyền thống sử dụng nhân làm từ khoai lang. Ngày nay khi văn hóa du nhập phát triển, có thêm nhiều vị mới như kem, trà xanh, sôcôla,...Bánh nướng có vỏ làm từ bột mì, nước đường đun lẫn mạch nha, dầu ăn. Sau khi nặn bột đã ngào bao quanh nhân bánh, người làm bánh cho bánh vào khuôn ép rồi đem bánh nướng trong lò cho tới khi chín. Trong quá trình nướng bánh được phết thêm lòng đỏ trứng.Ở Trung Quốc, trên mặt bánh trung thu thường in những chữ mang thông điệp tốt lành (như "Song Hỷ", "Cát Tường"), hay tên của cơ sở sản xuất. Bên cạnh đó là biểu tượng của Mặt Trăng, Hằng Nga, Thỏ Ngọc, hình hoa lá, như là sự trang trí bổ sung. Shaobing: là một loại bánh nướng, không men, lớp bánh mì dẹt trong ẩm thực Trung Hoa. Shaobing có thể được thực hiện có hoặc không nhồi, và có hoặc không có mè lên trên. Shaobing chứa nhiều loại độn có thể được chia thành hai hương vị chính: mặn hoặc ngọt. Một số độn thông thường bao gồm bột đậu đỏ, bột mè đen, xào đậu xanh với trứng và đậu hũ, thịt bò kho, thịt hun khói,hoặc thịt bò hoặc thịt lợn với các loại gia vị. Quẩy Saqima: bánh snack của Trung Quốc Ca la thầu: Ca la thầu là món của Trung Quốc. Có 2 loại ca la thầu, 1 loại miếng nhỏ màu vàng, loại miếng to dài thì màu đậm hơn. Cả 2 loại đều mặn, giòn, nhưng theo mình thì loại nhỏ ngon hơn. Canh cá chua cay(Quý Châu): Ẩm thực Quý Châu không chỉ nổi tiếng ở Trung Quốc mà còn được biết đến trên toàn thế giới với những món ăn ngon hấp dẫn khơi dậy vị giác của thực khách, trong đó món canh cá chua cay là một trong những món ăn đặc trưng được yêu thích nhất. Cá được chọn thường là các loại cá nước ngọt nấu trong nước dùng xương và cà chua, nêm nếm bằng loại ớt đỏ cay chỉ có ở Quý Châu, dầu ớt, tỏi và hành lá. Đặc biệt, vị chua của món ăn không phải đến từ dấm gạo thông thường mà được tạo ra bởi vị của hoa quả lên men rất phổ biến ở đây. Khi ăn, độ cay nóng của ớt hòa quyện cùng với vị chua sẽ khiến cho bất kỳ thực khách nào cũng phải xuýt xoa. Bò cay (Hồ Nam): Đối với những tín đồ món cay Trung Hoa, bò cay Hồ Nam là món ngon hấp dẫn không thể bỏ qua. Món ăn này có nguyên liệu chính là thịt bò xào, một số loại rau củ như bông cải xanh hoặc hành tây và nước sốt cay được làm từ ớt và tỏi. Khâu quan trọng khi chế biến món ăn này là bước xào thịt bò. Bò không phải chỉ cần thái mỏng rồi cho vào chảo mà trước tiên người ta phải ướp thịt bằng một loại nước sốt đơn giản cùng với một chút tinh bột khoai tây, sau đó đem chiên lên trên lửa nhỏ trong vài phút rồi vớt ra cho ráo dầu. Lúc này thịt bò mới sẵn sàng để được xào cùng các loại nguyên liệu khác, trở thành món thịt bò cay thơm ngon hấp dẫn trứ danh Trung Quốc. Đậu phụ Tứ Xuyên: Đứng đầu bảng trong danh sách những món ăn cay nhất ẩm thực Trung Hoa là món đậu phụ Tứ Xuyên. Món ăn này không chỉ có ở riêng Trung Quốc mà còn nổi tiếng khắp thế giới. Nguyên liệu chính gồm có sốt ớt đậu tương cay, đậu hũ non, thịt lợn thái chỉ và loại hạt tiêu đặc biệt chỉ có ở Tứ Xuyên và Trùng Khánh. Nổi tiếng nhất ở Thành Đô - thủ phủ tỉnh Tứ Xuyên là cửa hàng thương hiệu bà Trần, nơi thực khách có thể thưởng thức món đậu phụ cay xé lưỡi chuẩn vị phong cách ẩm thực Trung Hoa truyền thống. Lẩu cay (Trùng Khánh): Mặc dù ở Trung Quốc có rất nhiều phong cách lẩu khác nhau, nhưng danh hiệu lẩu cay và ngon nhất phải thuộc về lẩu Trùng Khánh. Lẩu ở đây ngon và đặc biệt bởi lớp mỡ bò phủ lên trên nồi nước dùng, kết hợp với ớt đỏ tươi và khô cùng 20 loại thảo mộc và nguyên liệu ăn kèm. Vì vậy đảm bảo sau khi thưởng thức bất cứ loại rau hay thịt nào nhúng vào nồi lẩu này bạn cũng sẽ cảm thấy vị cay xé lưỡi nhưng ngon khó cưỡng lan tỏa khắp cơ thể. Hiện nay lẩu cay Trùng Khánh có thể tìm được ở khắp Trung Quốc nhưng chỉ có món lẩu ở chính gốc Trùng Khánh mới ngon và nổi tiếng nhất. Tong sui (糖水 tángshuǐ): món chè của Trung Quốc. Tiêu biểu nhất là món chè của người Hmông sống tại Hồng Kông là chè vừng đen (chí mà phù) (芝麻糊Bính âm: zhīmahú, tiếng Hmông: zhimabhuv). Tào phớ hạnh nhân là một dạng thạch như rau câu nhưng mềm hơn, có vị hạnh nhân thơm lừng dùng kèm với nước đường phèn và phải dùng lạnh mới thật ngon. Chè hạnh nhân khi dọn ra được cắt thành khối vuông vừa ăn, có màu trắng đục, nước trong veo ngọt thanh thoát. Những ai đã trót thích nghiện loại chè ăn, lâu không được ăn lại thèm, nhất là vào những tối trời hanh háo, oi nồng. Chè cao quy linh ở được dọn kèm với sữa đặc, sữa béo, để cái ngậy ngọt làm giảm đi chất đắng đặc trưng trong thạch cao quy linh. Người ăn không quen, sẽ chê rằng món này không “đúng chuẩn”, thế nhưng đây thật sự là một sự sáng tạo thông minh, để món cao quy linh phù hợp hơn với giới trẻ. Đủ đủ tiềm là một trong những loại chè đặc trưng mà hiếm có nền ẩm thực nào có được. Đu đủ muốn tiềm cho ngon phải chọn loại vừa chín tới, không quá mềm nhưng đã bắt đầu có vị ngọt. Đu đủ được cho vào thố đá, nấu lửa nhỏ với nước đường phèn. Quá trình ninh đu đủ với nước đường ở lửa nhỏ như thế gọi là “tiềm”. Khi dọn ra, đu đủ không còn là một loại trái cây đơn thuần nữa mà đã trở thành một món ăn mềm, ngọt đầy tinh tế. Lục tào xá là món chè đậu xanh với vỏ quýt,hạt sen của người Quảng Đông. Chè đậu đỏ Trung Quốc: Đầu tiên làm sạch đậu rồi ngâm qua nước 1 đêm (cho ít muối vào nước). Sau đó lấy đậu ra nấu cho tới khi đậu mềm. lấy đậu ra giữ lại nước, cho đậu đã nấu vào nồi rồi cho đường cát vào nấu với lửa nhỏ rồi tắt bếp đậy nắp 1 đến 2 tiếng. Tiếp theo cho đậu vào nồi đổ nước nấu đậu hồi nãy vào nấu tiếp cho đến khi đậu mềm ăn vừa miệng (đổ từ từ nước nấu đậu).Cho thêm trân trâu đen cùng chút sữa bò tươi và thêm đá lạnh. Bồ câu quay: Trong ẩm thực Trung Hoa, người bồ câu quay là một phần của bữa tiệc ăn mừng cho ngày lễ như Tết Nguyên Đán, thường được phục vụ chiên. Bồ câu quay Quảng Đông thường được om với nước sốt đậu nành, rượu gạo và sao hồi sau đó rang với da giòn và thịt mềm. Bồ câu được bán trực tiếp tại các chợ Trung Quốc để đảm bảo độ tươi. == Đồ uống Trung Quốc == === Rượu === Rượu của người Trung Hoa phần lớn nấu bằng ngũ cốc, thông dụng nhất là rượu gạo mà họ gọi là hoàng tửu (rượu vàng) hay mễ tửu (rượu gạo). Hoàng tửu được cất bằng men lúa mì tức miến cúc hay tiểu cúc. Người Trung Hoa vẫn đặc biệt coi trọng những loại rượu chỉ cất nguyên chất bằng gạo mà thôi, không pha chế thêm gì khác. Rượu cất theo lối cũ chỉ có chừng 15-16% alcohol và phải mất một thời gian chừng ba tháng từ khi bắt đầu sửa soạn gạo tới khi nấu xong. Rượu nấu xong còn phải để từ 6 tháng tới 1 năm trước khi đem ra bán trên thị trường. Cứ 100 kg gạo thì người ta có thể nấu được 230 kg rượu.Ngày xưa, người ta thường tự nấu lấy rượu để uống trong nhà nhưng hiện nay rượu trở thành một loại kỹ nghệ quan trọng sản xuất tại những hãng rượu sử dụng nhiều chuyên viên được huấn luyện kỹ càng. Rượu gạo cũng được xuất cảng sang những quốc gia khác, nhất là những nơi có đông Hoa kiều cư ngụ. Rượu Trung Quốc được chia thành nhiều loại khác nhau, tùy theo cách nấu, lượng đường, cách ủ và loại men dùng để nấu. Phương thức thông dụng nhất là chia ra thành năm loại tùy theo lượng đường chứa trong rượu. Lượng đường đó khác nhau tùy theo cách nấu, được gọi là rượu mạnh (không có vị ngọt, tức dry wine), rượu nhẹ nhưng không ngọt (semi-dry), rượu có một phần ngọt (semi-sweet), rượu ngọt (sweet) và rượu thật ngọt (extra-sweet). Về cách chế tác, gạo đồ thành xôi, có thể để nguội trước khi trộn men hay trộn men khi còn nóng. Cách làm nguội cũng có thể bằng nước lạnh hay chỉ để ngoài trời cho hạ nhiệt độ. Ðôi khi người ta cũng dùng rượu cũ, đã cất từ lâu, bỏ thêm men để thành rượu mới. Cách này có thể làm nồng độ rượu lên cao hơn 20%. Cũng tùy theo loại men, người ta có thể có những sản phẩm khác nhau. Men có thể làm bằng lúa mì, lúa nếp, hay men bào chế bằng hóa chất.Những người sành uống rượu quí trọng những loại rượu ngon không phải ít. Nhiều chai rượu quí đã có thể bán đấu giá với những số tiền khiến người ta phải rùng mình. Người Trung Hoa phân biệt rượu theo tên gọi. Theo Ẩm Thiện Tiêu Ðề thì rượu có những loại: thanh, trọc, hậu, bạc, cam, khổ, hồng, lục, bạch chi biệt (nghĩa là chia làm trong đục, đặc loãng, ngọt đắng đỏ xanh trắng khác nhau). Rượu trong gọi là tiêu, trong mà ngọt thì gọi là dĩ, đục mà trắng thì gọi là áng, cũng gọi là lao, đục mà hơi xanh thì gọi là trản, đặc thì gọi là thuần hay nhu, nặng thì gọi là nhĩ, loãng thì gọi là li, ngọt thì gọi là lễ, ngon thì gọi là tư, đắng thì gọi là thiện, đỏ thì gọi là thể, xanh thì gọi là linh, trắng thì gọi là ta. Về tên riêng của rượu, người ta cũng đặt cho rượu nhiều cái tên nghe rất kêu như Ðộng Ðình Xuân, Kiếm Nam Xuân, Tường Vi Lộ. Trương Năng Thần đời Tống trong tác phẩm Tửu Danh Ký có chép đến hơn một trăm loại rượu khác nhau. Phùng Thời Hóa đời Minh cũng ghi lại trong cuốn Tửu Sử rất nhiều tên của những loại rượu của từng địa phương. Về rượu nho, người Tàu chỉ biết đến khi người từ Tây Vực đem tới trung nguyên. Sách Hậu Hán Thư có chép là Nước Lật Dặc (Ả rập) có loại trái cây, vắt nước có vị ngon, làm rượu gọi là rượu bồ đào. Người phương Tây đã biết làm rượu bằng trái nho (wine) từ thời cổ. Sách Cựu Ước (Old Testtament) đề cập đến rượu tới 155 lần và người Hebrews đã từng tiếc rẻ không mang được rượu Ai Cập khi họ đi di cư. Người Hi Lạp thời cổ cũng uống rượu và chính những thần minh trong huyền sử cũng đều thích uống rượu và ưa gái đẹp. Tuy đã biết đến rượu bồ đào từ đời Hán, mãi tới đời Ðường (640 sau TL), khi Ðường Thái Tông đem quân đánh nước Cao Xương (nay thuộc Tân Cương) người Trung Hoa mới học được phép làm rượu nho. Về những đặc sản, mỗi vùng có một loại rượu nổi tiếng, có cách thức chế biến khác nhau. Ngoài những loại rượu thông dụng mà người Trung hoa học của Tây phương gần đây, họ có những loại riêng đã nổi tiếng từ lâu như sau: Ô Trình tửu: Sản xuất tại Ô Trình, nay thuộc huyện Ngô Hưng, Chiết Giang, vẫn được thiên hạ cho rằng đây là loại rượu ngon hạng nhất của Trung Hoa (thiên hạ đệ nhất Ô Trình tửu). Rượu Ô Trình đã đi vào lịch sử vì xuất phát từ một câu truyện tình vừa thơ mộng vừa gian nan của một vương tôn như đã chép ở trên. Phần tửu: Ðược người đời gọi là cam tuyền giai nhưỡng hay dịch thể bảo thạch, Phần tửu là rượu ngon của đất Sơn Tây, và cũng là một loại rượu danh tiếng của Trung Hoa đã có hơn 1500 năm. Rượu Phần có mùi thơm, uống vào có hậu vị, được nấu bằng cao lương nổi danh của thôn Hạnh Hoa và nước suối Cam Tuyền. Thiệu Hưng tửu: là một loại rượu nếp nổi tiếng nhất của Trung Hoa. Hiện nay người Tàu đã cải tiến phương pháp nấu để trở thành một kỹ nghệ quan trọng dùng nhiều loại gạo khác nhau, trong đó có gạo nếp (nhu), men rượu làm bằng gạo hay lúa mạch. Rượu Thiệu Hưng phải để ít nhất là ba năm mới cho vào bình, thường hâm lên trước khi uống. Nếu rượu để trên 5 năm, người ta gọi là Trần Niên tửu (nghĩa đen chỉ là rượu lâu năm), hương càng nồng và thơm. Cũng có sách chép là rượu Thiệu Hưng nấu cho khi sanh con trai thì gọi là Trạng nguyên Hồng, cho con gái thì gọi là Nữ Nhi Hồng, dùng trong dịp đội mũ hay cài trâm (là một lễ khi đã họ đến tuổi trưởng thành). Hồng Lộ tửu: Vốn là đặc sản của hai đất Mân Ðài (Phúc Kiến và Ðài Loan), hương rất thơm, vị lại ngon. Rượu này dùng gạo nếp trộn với gạo đang lên men, ủ kín, sau đó mới cất vào bình tàng trữ trong khoảng từ 3 đến 8 năm. Rượu càng để lâu càng đậm đà nên người ta gọi là Bát Niên Hồng Lão tửu. Phúc tửu: Là loại rượu cất theo phương pháp của tỉnh Phúc Kiến, dùng gạo nếp, tiểu mạch, sau khi nấu xong phải bỏ thịt gà vào ngâm, để một năm trước khi cho vào bình. Hoàng tửu: dùng loại gạo ngon có tên là Bồng Lai và tiểu mạch để cất rượu. Rượu trong và nồng, sắc óng ánh như hổ phách, thường hâm nóng trước khi uống. Lệ Chi tửu: Là loại rượu mới chế tạo từ trái vải tươi ở Ðài Loan. Vải bóc vỏ, bỏ hột rồi mới dùng để cất rượu. Lệ chi tửu thơm và trong. Ngoài ra người ta còn dùng phượng lê, chuối tiêu, dương đào, quất tử (trái tắc) ép lấy nước để cất rượu nhẹ, dùng như một loại giải khát. Hoa điêu tửu: Gốc từ rượu Thiệu Hưng tỉnh Chiết Giang, đã có từ nhiều ngàn năm và là một loại danh tửu của Trung Hoa. Người ta chọn loại gạo ngon nấu thành rượu, để lâu có màu vàng, khi hâm lên mùi rất thơm. Theo Lâm Ngữ Ðường, ông giải thích hoa điêu tửu cũng chỉ là rượu Thiệu Hưng nhưng là một loại rượu mà người ta nấu lên khi sanh một đứa con gái, để sau này khi cô ta đi lấy chồng sẽ đem ra đãi khách và hoa điêu chỉ để miêu tả những hình vẽ trang trí trên bình rượu hơn là loại rượu. Trên đây là những loại rượu nguyên chất. Ngoài ra còn một số loại rượu cũng nổi danh nhưng đã được tái chế từ rượu nguyên thủy, pha thêm những chất khác nên được gọi là hợp thành tửu. Có rất nhiều loại khác nhau nhưng nổi tiếng nhất có thể kể trúc diệp thanh, ngũ gia bì, mai khôi lộ (sau thường viết trại thành mai quế lộ), hổ cốt tửu, sâm nhung tửu, ô kê tửu, mao đài tửu, ô mai tửu, long nhãn tửu,… Trúc diệp thanh: là rượu nổi tiếng đất Sơn Tây, nấu bằng cao lương, tiểu mạch và đậu xanh cùng một số dược thảo. Sau khi thành rượu lại đem ngâm thuốc bắc và lá tre. Màu rượu xanh nhạt, mùi thơm. Uống vào nhẹ nhàng không gắt. Ngũ gia bì: Dùng cao lương nấu với thuốc bắc, thêm mật ong, mạch nha. Giả Tư Hiệp đời Hậu Ngụy trong sách Tế Dân Yếu Thuật có chép là dùng vỏ cây ngũ gia (ngũ gia bì) cùng với thuốc ngâm rượu có thể làm cho thân thể khỏe mạnh. Mai quế lộ: Mai quế là một loại hoa hồng dại, được hái về trộn chung với cao lương để cất rượu. Hoa phải được hái vào sáng sớm để còn những hạt sương đọng trên cánh hoa (vì thế nên gọi là mai khôi lộ—lộ là hạt sương) và là một loại danh tửu của Trung Hoa. Hổ cốt tửu: Dùng rượu trắng để ngâm thuốc bắc (trong có vị hổ cốt tức xương cọp) có thể trừ được bệnh đau nhức, phong thấp. Sâm nhung tửu: dùng lộc nhung, nhân sâm và nhiều loại thuốc bắc ngâm rượu. Ô kê tửu: dùng gà ác và thuốc bắc ngâm trong rượu, dùng cho phụ nữ khi thai sản. Mao Đài tửu: chỉ mới nổi tiếng trong khoảng 100 năm nay được nhiều người biết đến từ khi Mao Trạch Ðông đãi tổng thống Mỹ Nixon trong chuyến Hoa du năm 1972. Tương truyền đời vua Khang Hi, đất Phần Dương Sơn Tây, có một người lái buôn tên là Giả Phú rất thích uống Phần tửu. Một hôm y đi xuống miền nam, đến Quí Châu nhưng ở đây lại không có rượu ngon để uống. Giả Phú trở về mướn một người chuyên cất Phần tửu xuống thôn Hạnh Hoa thôn, huyện Nhân Hoài, tỉnh Quí Châu (nay đổi là Mao Ðài trấn) dùng thổ sản nấu theo phương pháp miền bắc, người ta gọi là rượu Mao Ðài. Mao Ðài chủ yếu dùng đậu nành, cao lương, tiểu mạch, vị hơi ngọt và trong. Phương pháp nấu phức tạp và phải ủ với nhiệt độ cao. Rượu Mao Ðài uống cạn ly để qua đêm vẫn còn thơm. Ô mai tửu: dùng mơ và mận tươi cất thành rượu. Khi nấu xong đem trà ô long ngâm và thường được dùng ướp lạnh hay trong các loại cocktail. Long nhãn tửu: hay quế viên tửu, dùng nhãn để nấu rượu, vị ngọt. Bao túc tửu: là đặc sản của đồng bào các dân tộc như ở Vân Nam,Quảng Tây,Tân Cương, Ninh Hạ, Nội Mông và Tây Tạng.Ngô được thu hoạch vào cuối tháng 6 dương lịch hàng năm, người dân thu hoạch về, để cả bắp (còn áo) phơi vài nắng, rồi ngô được chất lên gác bếp cất trữ. Khi nấu rượu, bà con mang bắp ngô xuống tẽ hạt, loại bỏ các hạt hỏng và lép rồi làm nguyên liệu chính để nấu rượu ngô. Ngô được đem luộc lên (nhiều nơi gọi là bung ngô), ngô được bung trong thời gian khá dài, khoảng 24h với lửa nhỏ, để sôi ậm ạch, khi nào các hạt ngô chớm bung và đều thì được vớt ra. Ngô bung được dải đều trên các nia mẹt. Ngô sau khi nấu cần để nguôi đến nhiệt độ bình thường để khi trộn với bánh men rượu không làm chết các vi sinh vật trong bánh men rượu hay làm giảm khả năng lên men của các các tế bào nấm men. Tùy kinh nghiệm của từng địa phương, từng dân tộc, sử dụng các loại men khác nhau. Dân tộc Thổ Gia (Hồ Bắc) sử dụng loại men đặc biệt chế từ hạt Hồng My (loại hạt gần giống như hạt kê), cùng nhiều loại cây khác như chỉ thiên, sơn phục, …; người Dao tại Long Thắng, Quảng Tây chọn cây “chè lao”- cây trầu rừng, có dân tộc lại chọn loại men được pha chế từ hơn 20 loại thảo dược quý hiếm như: cây dây nước, trầu rừng, dây ngọt… có tác dụng chữa lành vết thương, thấp khớp. Tuỳ vào loại lá chính trong men sẽ có những vị rượu khác nhau.Trộn men và lên men: Cứ 10 kg ngô thì trộn với 2-3 quả men, nếu cho quá nhiều hoặc quá ít thì khi chưng cất rượu ngô sẽ không ngon, thậm chí sẽ không thể thành rượu. Bánh men được bóp nhỏ và trộn với ngô bung bằng cách rắc đều lên bề mặt với tỷ lệ thích hợp rồi đem ủ, bắt đầu quá trình lên men. Ngô được ủ men trong các thùng kín, để ở chỗ khô thoáng, ngay trên nền nhà thì tốt, để đảm bảo quá trình lên men được tốt nhất. Người nấu rượu sẽ nhận biết nhiệt độ ủ men bằng cách cho tay vào thùng đựng ngô. Sau khoảng thời gian chừng 5 đến 6 ngày thì cho ngô vào chõ để nấu rượu, chõ phải làm bằng gỗ thì mới tốt. Nước dùng để nấu rượu là nước trên núi cao, sẽ cho vị rượu ngô tinh khiết.Chưng cất: Nguyên liệu dùng đun nấu rượu ngô tốt nhất là củi khô, khi chưng cất phải đốt lửa cháy âm ỉ. Sau khoảng 30 phút, hơi rượu sẽ bốc lên lắng tụ lại và chảy ra ngoài qua một thanh gỗ được nối với chõ. Trong khoảng 3h đồng hồ, người ta có thể chưng cất được 22-25 lít rượu ngô. === Các loại trà === Trung Quốc là quê hương của lá chè (trà), người Trung Quốc là người biết đến cách trồng trà và chế biến các loại đồ uống từ lá trà sớm nhất. Trong lịch sử Trung Quốc có không ít các sách liên quan ghi chép tới trà như Trà xanh, Kinh trà, Trà phổ, Sử trà…Tất cả các loại sách đó rất có ích với việc chế biến trà cũng như cách trồng trà. “Người Trung Quốc rất thích các sản phẩm làm từ trà, ở trong nhà uống trà, lên quán trà cũng uống trà, bắt đầu cuộc họp cũng uống trà, bạn bè gặp nhau nói chuyện cũng uống trà, thậm chí, lúc giảng đạo lý cũng uống trà, trước khi ăn sáng uống trà, sau khi ăn cơm trưa cũng uống trà”. Thói quen uống trà của người Trung Quốc đã ảnh hưởng không ít tới quốc gia. Khoảng giữa thế kỷ 17, trà của người Trung Quốc bắt đầu du nhập vào nước Mỹ.Đầu thế kỷ thứ 18, trà Trung Quốc bắt đầu thâm nhập vào thị trường Luân Đôn. Các loại đồ uống giải khát từ trà tại nước Anh bắt đầu lưu hành trở lại.Tại Ấn Độ, năm 1780, lần đầu tiên đã nhập vào loại trà Trung Quốc, tại Srilanca, năm 1841 mới bắt đầu trồng cây trà của Trung Quốc. Năm 1893, nước Nga đã mời một chuyên gia về kỹ thuật trồng trà Trung Quốc tới để phổ biến, lá trà đã có một sự phát triển nhanh chóng tới nhiều quốc gia trên thế giới. Từ trước tới nay, thói quen uống trà đã lưu hành trên 100 quốc gia và các vùng đất khác nhau trên thế giới. Sản phẩm từ lá trà có rất nhiều, dựa trên đặc tính của từng loại trà, có thể chia ra làm năm loại: trà xanh, hồng trà, trà Ô Long, hoa trà, và cuối cùng là trà ép. Trong các loại trà trên lại được chia ra làm các tiểu loại trà nhỏ hơn rất nổi tiếng. Trà xanh có các loại như: trà Long Tỉnh của Tây Hồ Hàng Châu, trà Bích La Xuân của Thái Hồ Giang Tô, trà Hoàng Sơn Mao Đài của Hoàng Sơn tỉnh An Huy, trà Lục An Qua Phiến của Lục An tỉnh An Huy, trà Tín Dương Mao Tiêm của Tín Dương tỉnh Hồ Nam. Hồng trà có các loại trà nổi tiếng như trà Chấn Hồng của Vân Nam. Trà Ô Long bao gồm: Trà Di Nham của Phúc Kiến, trà Thiết Quan Âm của Phúc Kiến, trà Ô Long của Đài Loan. Trà hoa gồm: Trà ướp hoa nhài của Phúc Châu, trà hoa nhài của Hàng Châu và trà hoa nhài của Tô Châu. Trà ép bao gồm: trà Phổ Nhĩ của huyện Tư mão tỉnh Vân Nam và Tây Song Bản Nạp, Lục bảo trà của Quảng Tây. Chè Shan Tuyết là loại trà có búp to màu trắng xám, dưới lá chè có phủ 1 lớp lông tơ mịn, trắng nên người dân gọi là chè tuyết. Chè Shan Tuyết có mùi thơm dịu, nước xanh. Chè được chế biến theo phương pháp thủ công của người dân tộc Hmông (Miêu), Dao, Shan, Choang Cây chè là loại cây cổ thụ, mọc cao đến vài mét, khi hái chè phải trèo hẳn lên cây. Có những gốc chè vài người ôm không xuể. Nằm ở khu vực có độ cao hơn 1200 mét, mây mù bao phủ quanh năm, sự chênh lệch về nhiệt độ giữa ngày và đêm lớn cùng với điều kiện khí hậu thổ nhưỡng tạo cho Trà Shan tuyết có chất lượng tốt. Trà Shan tuyết thông thường được canh tác hoàn toàn tự nhiên không sử dụng bất cứ một hóa chất hay phân bón nên được xem là trà sạch. Trong các loại trà trên thì trà Long Tỉnh của Tây Hồ là nổi tiếng nhất, nó có lịch sử lên tới hàng nghìn năm, trà Long Tỉnh có bốn đặc điểm, đó là sắc, hương, vị và hình dáng lá trà. Cách thu hoạch và chế biến lá trà Long Tỉnh không giống nhau. Mỗi năm, vào tháng 3 thì bắt đầu thu hoạch, và thu hoạch liên tục cho tới tháng 10 thì dừng lại. Trong khoảng thời gian này, có thể thu hoạch tổng cộng là mười sáu lần, và phân ra làm mười sáu cấp khác nhau, là Xuân trà, Hạ trà và Thu trà. Trong đó thì Xuân trà là tốt nhất. Thế nhưng trong Xuân trà, thì Xuân tiền trà- loại trà được thu hoạch vào trước tiết thanh minh là đắt nhất, là loại trà ngon được xếp vào đẳng cấp bậc nhất của Long Tỉnh trà. Việc chế biến trà Long Tỉnh phân ra làm hai phần, phần thứ nhất là bỏ lá trà vào trong một chiếc nồi, đun ở nhiệt độ 80 độ C trong vòng từ 15 tới 20 phút. Phần thứ hai là bỏ tất cả lá trà đã được sao qua đem bỏ vào trong một chiếc chảo lớn, đảo liên tục trong vòng từ 30 tới 40 phút ở 40 độ C. Trong thời gian chế biến trà, toàn bộ phải làm bằng tay, không được sử dụng bất cứ loại vật dụng nào để thay thế. Một kilô gam trà Long Tỉnh được chế biến từ bốn kg lá trà tươi, qua tám tiếng gia công, chính vì vậy mà trà Long Tỉnh được tôn vinh là loại trà báu vật hàng thủ công.Trà Long Tỉnh có hàm lượng chất dinh dưỡng rất cao, nó bao gồm VitaminC, Vitamin E và hơn 24 loại nguyên tố khác. Khi pha trà Long Tỉnh, nhiệt độ của nước không được cao quá, thông thường từ khoảng 80 tới 90 độ C. Nếu nhiệt độ nước cao quá sẽ khiến cho các thành phần vitamin trong lá trà mất đi. Người ta uống trà Long Tỉnh thường uống trong cốc thuỷ tinh, tốt nhất là chỉ uống ba cốc, cốc thứ nhất để ngửi, cốc hứ hai để uống và cốc thứ ba để nhìn. “Khách đến kính trà” là phong tục lễ nghĩa hiếu khách trọng tình của người Trung Hoa. Ngày nay, người Trung Quốc sử dụng trà để mời bạn bè biểu thị niềm vui. “Khách đến kính trà” cũng đã trở thành một thói quen của dân tộc Trung Hoa cho dù là ở nơi thành thị hay ở thôn quê. Người Trung Quốc ở phương nam có thói quen dùng “nguyên bảo trà” để mời khách, trong cốc trà còn bỏ thêm hai miếng quýt để biểu thị cát tường, may mắn. Ở Mông Cổ, người ta hay dùng trà sữa hoặc trà bơ để tiếp đãi khách. Còn có nơi, nam nữ đính hôn lấy trà làm lễ, phía nhà gái nhận lễ từ nhà trai gọi là “hạ trà” hoặc “thụ trà”, đem lễ nghĩa hôn nhân gọi thành “tam trà chi lễ”, chính là “hạ trà” trong lễ đính hôn, “định trà” trong lễ kết hôn và “hợp trà” trong lúc động phòng. == Tham khảo == Ẩm thực Việt Nam Ẩm thực Pháp Ẩm thực Ý
trung cổ.txt
Thời kỳ Trung Cổ (hay Trung Đại) là giai đoạn trong lịch sử châu Âu bắt đầu từ sự sụp đổ của Đế quốc Tây Rôma vào thế kỷ 5, kéo dài tới thế kỉ 15, hòa vào thời Phục hưng và Thời đại khám phá. Thời Trung Cổ (Trung đại) là thời đại thứ hai trong ba thời đại lịch sử theo cách phân kỳ truyền thống của lịch sử phương Tây, cùng với Cổ đại và Hiện đại. Thời kỳ Trung Cổ tự nó chia làm ba giai đoạn, Sơ kỳ Trung Cổ, Trung kỳ Trung Cổ và Hậu kỳ Trung Cổ. Suy giảm dân số, sự đảo ngược đô thị hóa, xâm lược, và di dân, bắt đầu từ Hậu kỳ Cổ đại, tiếp diễn trong thời Sơ kỳ Trung Cổ. Những man tộc xâm lược, bao gồm các dân tộc German, lập nên những vương quốc mới trên tàn tích của Đế quốc Tây Rôma. Bắc Phi, Trung Đông và bán đảo Iberia rơi vào tay người Hồi giáo, tuy đế quốc Đông Rôma (tức Byzantine) vẫn duy trì vai trò một cường quốc quan trọng ở phương Đông. Quá trình Kitô hóa vẫn tiếp tục, chế độ tu viện được thành lập. Người Frank, dưới triều đại Nhà Carolingien, đã thiết lập nên một đế chế ngắn ngủi bao phủ phần lớn Tây Âu, trước khi tàn lụi dưới áp lực của nội chiến cộng với ngoại xâm. Trong thời Trung kỳ Trung Cổ, bắt đầu từ thế kỉ 11, dân số châu Âu tăng nhanh khi các tiến bộ kĩ thuật và thời tiết thuận lợi giúp sản xuất phát triển và theo đó là thương mại phát đạt. Chế độ trang viên và chế độ phong kiến xác lập nên cấu trúc kinh tế-chính trị của xã hội thời Trung kỳ Trung Cổ. Giáo hội Công giáo củng cố sức ảnh hưởng trong khi những cuộc thập tự chinh được kêu gọi để tái chiếm Đất Thánh từ tay người Hồi giáo. Các nhà quân chủ ở nhiều quốc gia củng cố nhà nước trung ương tập quyền, giảm bớt tình trạng cát cứ. Đời sống trí thức ghi nhận sự thống trị của chủ nghĩa kinh viện và sự thành lập những trường đại học, trong khi nghệ thuật chứng kiến phong cách Gothic lên đến đỉnh cao. Thời Hậu kỳ Trung Cổ đánh dấu một loạt những khó khăn và tai họa bao gồm nạn đói, dịch hạch, và chiến tranh, gây suy giảm nghiêm trọng dân số Tây Âu; chỉ riêng Cái chết Đen đã hủy diệt một phần ba dân số châu Âu. Tranh cãi giáo lý, dị giáo và ly giáo bên trong Giáo hội song hành với chiến tranh quy mô giữa các cường quốc, nội chiến, khởi nghĩa nông dân nổ ra trong khắp châu lục. Trong khi đó, những phát triển và văn hóa biến đổi xã hội châu Âu, khép lại thời Trung Cổ và bắt đầu thời kỳ Cận đại. == Từ nguyên và phân kỳ == Trung Cổ (hay Trung Đại) là một trong ba thời đại chính trong sơ đồ phân kỳ lâu đời về lịch sử châu Âu: văn minh cổ điển hay thời Cổ Đại, Trung Đại, và thời Hiện đại. Các nhà văn thời trung đại chia lịch sử làm các thời kì khác nhau như "Sáu thời đại" hay "Bốn đế chế" và xem thời họ sống là giai đoạn cuối cùng trước buổi diệt vong của thế giới. Khi nhắc đến thời đại của chính mình, họ thường tự gọi là "hiện đại". Trong những năm 1330, nhà nhân văn, thi hào Petrarca gọi thời kì tiền Ki-tô giáo là antiqua ("cổ đại:) và thời kì Ki-tô giáo là nova ("mới"). Leonardo Bruni là nhà sử học đầu tiên đề xuất cách phân loại ba thời kỳ trong cuốn Lịch sử dân tộc Florentine (1442). Bruni và các sử gia sau ông lập luận rằng Ý đã khôi phục kể từ thời Petrarca, và do đó thêm một thời kỳ thứ ba vào sau hai thời kỳ của Petrarca. Thuật ngữ "Trung Đại" xuất hiện lần đầu trong tiếng Latin là media tempetas (dịch nghĩa đen là "mùa trung gian"). Ban đầu, có nhiều cách dùng khác nhau, bao gồm medium aevum, tức "thời đại trung gian" (trung đại) xuất hiện năm 1625., là nguồn gốc của từ medievale trong tiếng Ý hay medieval trong tiếng Anh ngày nay. Cách phân kỳ ba giai đoạn trở thành tiêu chuẩn sau khi nhà sử học người Đức Christoph Cellarius (1638-1707) chia lịch sử làm ba giai đoạn: Cổ Đại, Trung Đại và Hiện đại. Các tài liệu tiếng Việt cũng sử dụng cách phân kỳ trên, và sử dụng các thuật ngữ "Trung Cổ", "Trung Đại" hoặc "Trung thế kỷ" để chỉ giai đoạn thứ hai. Mốc lịch sử được cho là đánh dấu khởi đầu thời Trung Đại phổ biến nhất là năm 476, do Bruni sử dụng đầu tiên. Xét cả châu Âu như một toàn thể, năm 1500 thường được xem là kết thúc thời Trung Đại, nhưng không có sự thống nhất rộng rãi nào về thời điểm kết thúc này. Tùy thuộc vào hoàn cảnh, các sự kiện như chuyến hành trình đầu tiên của Christopher Columbus tới châu Mỹ năm 1492, thành Constantinopolis thất thủ vào tay người Thổ năm 1453, hoặc Cải cách Kháng Cách năm 1517 đôi khi cũng được sử dụng. Các nhà sử học Anh thường dùng trận Bosworth trong Chiến tranh Hoa Hồng năm 1485. Đối với Tây Ban Nha, các thời điểm thường dùng là caí chết của Ferdinand II năm 1516, cái chết của Nữ hoàng Isabella I của Castilla năm 1504, hoặc Chiến tranh Granada kết thúc Reconquista năm 1492. Các nhà sử học từ các quốc gia nói tiếng Rôman có khuynh hướng chia Trung Đại làm hai phần: "Thượng phần" và "Hạ phần" (chẳng hạn tiếng Pháp: haut Moyen Âge và bas Moyen Âge). Các nước nói tiếng Anh hoặc nói tiếng Đức, thường chia Trung Đại làm ba giai đoạn: "Sơ kỳ", "Trung kỳ" và "Hậu kỳ" (tiếng Anh: Early, High và Late Middle Ages). Trong thế kỉ 19, toàn bộ thời Trung Đại thường được gọi bằng tên "Thời kỳ tăm tối" (tiếng Anh: Dark Ages), nhưng với sự tiếp nhận cách phân kỳ ba giai đoạn, việc dùng thuật ngữ Thời kỳ Tăm tối hạn chế lại chỉ để nhắc đến thời Sơ kỳ Trung Đại, ít nhất là trong số các sử gia. == Ðế quốc Rôma suy tàn == Đế quốc Rôma đạt đến cực điểm về quy mô lãnh thổ trong thế kỉ thứ 2; hai thế kỉ sau đó chứng kiến sự suy giảm từ từ năng lực kiểm soát của Rôma đối với các vùng thuộc địa xa xôi. Các vấn đề kinh tế, nhất là lạm phát, và các áp lực bên ngoài từ các miền biên giới kết hợp lại khiến cho thế kỉ thứ 3 đầy bất ổn chính trị, với các hoàng đế đoạt được ngai vàng chỉ để bị thay thế nhanh chóng bởi những kẻ thoán ngôi mới. Phí tổn quân sự tăng không ngừng trong thế kỉ thứ 3, chủ yếu dành cho cuộc chiến với đế quốc Sassanid mới phục hưng ở Ba Tư. Quân đội tăng gấp đôi quân số, và kỵ binh cùng các đơn vị nhỏ hơn thay thế legion làm các đơn vị chiến thuật chính. Nhu cầu thu ngân sách dẫn đến việc tăng thuế và suy yếu tầng lớp địa chủ, những người kém bằng lòng đảm trách các cơ quan hành chính địa phương hơn. Cần thêm nhiều viên chức ở chính quyền trung ương để giải quyết nhu cầu của quân đội, dẫn đến sự phàn nàn từ công dân rằng trong đế quốc có nhiều kẻ thu thuế hơn là người đóng thuế. Hoàng đế Diocletianus (cai trị 284-305) quyết định chia đế chế thành hai thể chế hành chính miền đông và miền tây năm 286; tuy nhiên Rôma không được xem là bị chia cắt bởi dân cư hay những nhà cai trị của nó, bởi những luật pháp và sắc lệnh ban hành ở một miền này cũng có hiệu lực ở miền kia. Năm 330, sau một giai đoạn nội chiến, Constantinus Đại đế (cai trị 306-337) tái lập thành phố Byzantium thành kinh đô phương đông, đổi tên thành Constantinopolis (hay Constantinople). Những cuộc cải cách của Diolectian đã củng cố bộ máy quan liêu chính phủ, đổi mới chính sách thuế, và tăng cường quân đội, cho đế chế thêm thời gian cầm cự nhưng không tận gốc giải quyết những vấn đề nó đang đối mặt: thuế khóa quá mức, tỉ lệ sinh trong dân số giảm dần, sức ép từ các biên giới, và những vấn đề khác. Nội chiến giữa các hoàng đế đối địch trở nên phổ biến từ giữa thế kỉ 4, khiến cho quân lính xao lãng biên giới và cho phép các man tộc xâm lấn. Trong phần lớn thế kỉ 3, xã hội Rôma ổn định trong một hình thức mới khác với thời kì cổ điển (Rôma trước thời quân chủ), với một khoảng cách giàu nghèo rộng thêm, và một sự suy yếu trong sức sống của các thị trấn tỉnh lẻ. Một sự thay đổi khác là "Kitô hóa", hay sự cải đạo diễn ra trên toàn đế chế sang Kitô giáo, một quá trình từ từ xảy ra từ thế kỉ 2 tới thế kỉ 5. Năm 376, người Ostrogoth, trốn chạy khỏi người Hung, được hoàng đế Valens (cai trị 364-378) cho phép định cư tại tỉnh Thracia ở Balkan. Sự định cư này không diễn ra không êm ả, và khi những viên chức không giải quyết tốt tình huống, người Ostrogoth bắt đầu cướp bóc và tàn phá Valens, người tìm cách dẹp tắt sự hỗn loạn, đã bị giết trong khi đánh nhau với người Ostrogoth tại trận Hadrianopolis ngày 9 tháng 8 năm 378. Không kém gì những liên minh bộ tộc như vậy từ phương bắc, các chia rẽ nội bộ trong lòng đế chế, đặc biệt là bên trong giáo hội Kitô, cũng gây nên nhiều vấn đề. Năm 400, người Visigoth xâm lược đế quốc Tây Rôma, và tuy bị đẩy lùi khỏi Ý trong một thời gian ngắn, năm 410 dưới sự lãnh đạo của Alaric I họ đã cướp thành Rôma. Năm 406 người Halani, người Vandal và người Suevi băng qua xứ Gallia; trong ba năm sau đó họ đã lan khắp xứ này và từ 409 tràn qua Pyrénées vào miền Iberia. Cái gọi là "Thời đại Di cư" bắt đầu, khi nhiều dân tộc khác nhau, ban đầu chủ yếu là các dân tộc German di chuyển khắp châu Âu. Người Frank, người Alemanni, người Burgundy đều dừng chân ở bắc Gallia trong khi người Angles, người Sachsen, người Juti định cư tại quần đảo Anh. Vào những năm 430 người Hung bắt đầu xâm lược đế chế; vua của họ là Attila (cai trị 434-453) lãnh đạo các cuộc xâm lược Balkan năm 442 và 447, Gallia năm 451, và Ý năm 452. Chỉ đến khi Attila chết vào năm 453, liên minh Hung tan rã thì người Hung mới thôi là mối đe dọa cho đế chế. Những cuộc xâm lược từ các bộ lạc này đã thay đổi hoàn toàn bản chất chính trị và dân cư của thứ từng là Đế quốc Tây Rôma. Đến nửa cuối thế kỷ thứ 5 miền tây của đế chế bị chia ra thành các đơn vị chính trị khác nhau, cai trị bởi các bộ lạc đã xâm lược chúng trong nửa đầu thế kỷ. Việc hoàng đế cuối cùng của phương tây, Romulus Augustus, bị phế truất năm 476 thường được xem là đánh dấu sự chấm dứt của đế quốc Tây Rôma. Đế quốc Đông Rôma, kể từ sau đó thường được gọi là Đế quốc Byzantine, không có mấy khả năng để khẳng định quyền cai trị trên những phần lãnh thổ phía tây bị mất. Các hoàng đế Byzantine vẫn giữ tuyên bố chúng thuộc về chủ quyền của mình, tuy nhiên dù không một vị vua nào ở phương Tây dám tuyên bố nâng mình lên làm hoàng đế ở phương Tây, Byzantine cũng không có cách nào xác lập lại sự thống trị; cuộc tái chinh phục bán đảo Ý và miền phụ cận Địa Trung Hải của Justinianus I (cai trị 527-565) là một ngoại lệ ngắn ngủi duy nhất. == Sơ kỳ Trung Cổ == === Các xã hội mới === Cấu trúc chính tị của Tây Âu thay đổi với sự kết thúc đế quốc Rôma thống nhất một thời. Mặc dù sự di cư các dân tộc thường được mô tả là những cuộc "xâm lược", chúng không chỉ là những cuộc viễn chinh quân sự thuần túy mà còn là những đợt di cư toàn bộ các bộ tộc vào đế quốc. Những đợt di dân như vậy xảy ra thuận lợi nhờ giới thượng lưu Tây Rôma không chịu hỗ trợ quân đội hoặc đóng các loại thuế để quân đội có thể kìm giữ man dân di cư. Những hoàng đế ở thế kỉ 5 thường chịu sự điều khiển của những vị tướng quyền lực nắm quân đội như Stilicho (mất năm 408), Aspar (chết năm 471), Ricimer (chết năm 472) hay Gundobad (chết năm 516), những người chỉ một phần hoặc hoàn toàn không có gốc gác Rôma. Khi dòng tộc hoàng đế đứt đoạn, nhiều vị vua thay thế họ cũng mang dòng dõi ngoại dân. Hôn nhân giữa những vị vua này với giới thượng lưu Rôma xảy ra phổ biến đương thời. Điều này dẫn tới một sự dung hợp văn hóa Rôma với các tập quán của những bộ tộc xâm lược, bao gồm những nghị hội cho phép những đàn ông tự do của bộ tộc nhiều tiếng nói trong các vấn đề chính trị hơn trong nhà nước Rôma. Những vật tạo tác còn lưu lại đến nay của người Rôma và man dân thường tương tự nhau, và thường là man dân bắt chước Rôma. Phần nhiều văn hóa văn tự và học thuật của những vương quốc mới cũng dựa trên các truyền thống trí thức Rôma. Một khác biệt quan trọng là sự giảm hụt trong ngân sách thuế do những chính thể mới. Nhiều thực thể chính trị mới không còn chu cấp cho quân đội thông qua thuế, mà dựa vào việc ban cho tướng lĩnh đất đai hoặc cho thuê. Điều này giảm bớt nhu cầu ngân sách thuế lớn và hệ thống đánh thuế Rôma tan rã. Chiến tranh thường xuyên xảy ra giữa các vương quốc và cả trong nội bộ vương quốc. Chế độ nô lệ suy giảm khi nguồn cung suy yếu, các đô thị suy sút và nhìn chung xã hội trở nên nông thôn hóa. Giữa thế kỉ 5 và thế kỉ, những dân tộc mới và những cá nhân hùng mạnh lấp vào chỗ trống chính trị để lại bởi chính phủ trung ương tập quyền Rôma. Người Ostrogoth định cư ở Italia vào cuối thế kỉ 5 dưới thời Theodoric Đại đế (mất năm |526) và thành lập một vương quốc đánh dấu sự hợp tác giữa người Ý và người Ostrogoth, ít nhất là cho đến những cuối triều đại của Theodoric. Người Burgundy định cư tại Gallia, và sau khi một triều đại trước đó bị người Hung hủy diệt, họ thành lập một vương quốc vào những năm 440. Giữa miền Genève và Lyon ngày nay, nó trở thành một triều đại hùng mạnh của Burgundy trong cuối thế kỉ 5 và đầu thế kỉ 6. Ở miền bắc Gallia, người Frank và người Briton xây dựng những thể chế nhỏ. Vương quốc của người Frank có trung tâm năm ở miền đông nam Gallia, và vị vua mà ta có được nhiều thông tin là Childeric (mất năm 481). Dưới triều đại con trai của Childeric là Clovis (cai trị 509-511), vương quốc Frank mở rộng và cải sang Ki-tô giáo. Người Briton, gắn bó với dân bản địa của Britannia-tức Đại Anh (Great Britain) ngày nay-định cư ở nơi nay gọi là Bretagne. Những nền quân chủ khác được thiết lập bởi người Visigoth ở Tây Ban Nha, người Suevi ở tây bắc Tây Ban Nha, và người Vandal ở Bắc Phi. Trong thế kỉ 6, người Lombard định cư ở bắc Italia, thay thế vương quốc Ostrogoth bằng một nhóm những công quốc thỉnh thoảng mới bầu ra một vị vua cai quản chung. Đến cuối thế kỉ 6 sự sắp đặt này mới chuyển thành một nền quân chủ truyền ngôi. Những cuộc xâm lăng mang những nhóm sắc tộc mới tới châu Âu, mặc dù không đồng đều vì một số khu vực nhận những dòng di cư nhiều hơn vùng khác. Chẳng hạn ở Gallia, những người xâm lược định cư chủ yếu ở miền đông bắc so với tây nam. Người Slav định cư ở Trung và Đông Âu và bán đảo Balkan. Sự định cư của các dân tộc kéo theo sự thay đổi trong ngôn ngữ. Tiếng Latin của Đế quốc Tây Rôma dần dần bị thay thế bởi những ngôn ngữ dựa trên Latin, nhưng có những đặc trưng riêng, được gọi là các ngôn ngữ Roman. Những thay đổi từ Latin sang ngôn ngữ mới mất nhiều thế kỉ. Tiếng Hy Lạp vẫn duy trì là ngôn ngữ của Đế quốc Byzantine, nhưng sự di cư của người Slav dẫn đến sự lan truyền các ngôn ngữ Slav ở Đông Âu. === Byzantine sống sót === Trong khi Tây Âu chứng kiến sự hình thành những vương quốc mới, Đế quốc Đông Rôma vẫn còn nguyên vẹn và trải qua một sự phục hồi kinh tế cho tới đầu thế kỉ 7. Ít có cuộc xâm lược động đến miền đông đế chế; hầu hết xảy ra ở vùng Balkan. Hòa bình với Ba Tư, kẻ thù truyền kiếp của Rôma, kèo dài trong phần lớn thế kỉ 5. Đế quốc phương đông đặc trưng bởi những mối quan hệ gần gũi hơn giữa nhà nước chính trị và Giáo hội Ki-tô, và những vấn đề giáo lý có một vai trò quan trọng hơn trong chính trị phương đông so với Tây Âu. Sự phát triển của nền pháp lý bao gồm sự hoàn chỉnh Luật Rôma; nỗ lực đầu tiên-Bộ luật Theodosianus-hoàn tất năm 438. Dưới triều đại hoàng đế Justinian (cai trị 527-565), một đợt biên soạn mới diễn ra Bộ luật Justinianus hay Corpus Juris Civilis (Bộ Luật Dân sự). Justinian cũng giám sát việc xây dựng Đại giáo đường Hagia Sophia ở Contantinopolis và sự tái chinh phục Bắc Phi từ tay người Vandal và Ý từ người Ostrogoth của đội quân Rôma do viên tướng tài Belisarius (chết năm 565) thống lĩnh. Cuộc chinh phục Ý không hoàn thành, bởi một sự bùng phát dịch hạch năm 542 đầy chết chóc, buộc Justinian dành phần cuối cuộc đời tập trung vào các biện pháp phòng thủ thay vì mở rộng tái chiếm. Khi vị hoàng đế băng hà, Byzantine đã lấy lại quyền kiểm soát phần lớn Ý, Bắc Phi, và có một chỗ đứng chân ở nam Tây Ban Nha. Nhiều nhà sử học chỉ trích tham vọng khôi phục Đế quốc Rôma thống nhất của Justinianus là tốn kém, tạo ra một đế quốc quá lớn vượt tầm kiểm soát và tạo điều kiện cho người Hồi giáo xâm lược; tuy nhiên những vấn đề mà những người kế tục Justinian đối diện không chỉ bởi việc tăng thuế quá mức để bù đắp chiến phí mà còn là bản chất dân sự của đế chế, khiến cho việc tăng quân số hết sức khó khăn. Bên trong đế quốc sự xâm nhập từ từ vào vùng Balkan của người Slav tạo thêm một khó khăn nữa cho những người kế thừa Justinianus. Nó bắt đầu một cách chậm chạp, nhưng tới cuối những năm 540 các bộ lạc Slav đã tràn khắp Thrace và Illyrium, và đánh bại một đạo quân đế chế gần Hadrianopolis năm 551. Trong những năm 560 người Avar bắt đầu mở rộng căn cứ của họ ở bờ bắc sông Danube, tới cuối thế kỉ 6 họ đã trở thành thế lực thống trị ở Trung Âu và thường xuyên có thể buộc các hoàng đế phương Đông nộp cống phẩm; thế lực của họ còn tồn tại tới năm 796. Một vấn đề khác nảy sinh từ can dự của Hoàng đế Mauricius (cai trị 582-602) vào chính trị Ba Tư khi ông can thiệp để đưa Khosrau II lên ngôi ở Ctesiphon. Điều này giúp tạo nên một thời kỳ hòa bình giữa hai cường quốc, nhưng khi Mauricius bị lật đổ, người Ba Tư đã lấy cớ xâm lược Byzantine, chiếm đóng phần lớn đế chế, bao gồm Ai Cập, Syria và Tiểu Á, trước khi Hoàng đế Heraclius phản công thắng lợi, khôi phục toàn bộ lãnh thổ bị mất và ký hòa ước năm 628. === Xã hội phương Tây === Ở Tây Âu, một số gia tộc thượng lưu Rôma diệt vong trong khi số còn lại tham gia vào Giáo hội nhiều hơn các sự vụ thế tục. Các giá trị gắn với nền học thức và giáo dục Rôma hầu như biến mất, và trong khi năng lực biết đọc biết viết vẫn là quan trọng, nó lui xuống thành một kĩ năng thực dụng hơn là một dấu hiệu về vị thế tinh hoa. Trong thế kỉ 4, Thánh Hieronymus (mất năm 420) thuật lại giấc mơ thấy Thượng đế khiển trách ông vì đã dành nhiều thời gian đọc Cicero hơn là Kinh Thánh. Đến thế kỉ 6, Thánh Gregorius của Tours (mất năm 594) cũng có một giấc mơ tương tự, nhưng ở đây là bị trừng trị vì học tốc ký. Vào cuối thế kỉ 6, những phương tiện chính cho giảng truyền của Giáo hội đã chuyển sang âm nhạc và mỹ thuật thay vì sách. Hầu hết các nỗ lực trí thức hướng vào việc bắt chước nền học vấn cổ điển, nhưng một vài tác phẩm độc đáo cũng được sáng tác, bên cạnh những bài hát truyền khẩu mà nay đã thất truyền. Các tác phẩm của Sidonius Apollinaris (mất. 489), Cassiodorus (mất khoảng 585), và Boethius (mất khoảng 525) là tiêu biểu cho thời kỳ này. Những thay đổi cũng diễn ra trong dân thường, khi mà văn hóa quý tộc tập trung vào những bữa yến tiệc lớn tổ chức ở các sảnh đường thay vì những mối quan tâm tới nghệ thuật. Trang phục giới thượng lưu thường đính rất nhiều trang sức vàng. Các vị vua và lãnh chúa xây dựng một giới thân cận quanh mình gồm những chiến binh tạo nên xương sống của quân đội. Trong giới tinh hoa các mối ràng buộc thân tộc đóng vai trò quan trọng, bên cạnh các phẩm hạnh như trung thành, dũng cảm, và danh dự. Những mối ràng buộc này dẫn đến sự thịnh hành của các mối hận thù truyền kiếp (bởi nghĩa vụ trả thù cho người thân) trong xã hội quý tộc, chẳng hạn như ở xứ Gallia thời Merovingien theo lời thuật của Gregorius xứ Tours. Hầu hết các mối hận thù này kết thúc với những khoản bồi thường mạng người (tiếng Đức là wergeld). Phụ nữ tham gia vào xã hội quý tộc chủ yếu trong vai trò là vợ và mẹ, nhất là vị trí mẹ của một nhà cầm quyền đặc biệt nổi bật ở Gallia, Trong xã hội Anglo-Saxon ít khi có những ấu vương khiến cho vai trò thái hậu yếu ớt hơn, nhưng bù lại ở đây các nữ tu viện trưởng nắm quyền rộng rãi ở các tu viện. Chỉ ở Ý dường như phụ nữ luôn được xem là ở dưới sự bảo vệ và kiểm soát của đàn ông. Xã hội nông thôn ít được ghi chép lại hơn nhiều so với giới quý tộc. Hầu hết thông tin có được đến từ khảo cổ học; chỉ một vài ghi chép chi tiết về đời sống nông dân trước thế kỉ 9 còn sót lại. Hầu hết những mô tả này gián tiếp xuất hiện trong các đạo luật hoặc từ con mắt của những tác giả thuộc giới thượng lưu. Những hình mẫu chiếm hữu đất ở phương Tây không đồng nhất; một vài khu vực có đất đai rất phân tán, nhưng ở những nơi khác những điền trang lớn lại phổ biến. Những sự khác biệt này cho phép một sự đa dạng những nếp sống khác nhau, một số do những quý tộc địa chủ thống trị trong khi một số cộng đồng có rất nhiều quyền tự trị. Quy mô định cư cũng rất khác nhau: một số nông dân sống trong những làng lớn có tới 700 cư dân; số khác sống trong những trang trại cách biệt nhau; và cả những vùng hai hình thức trên trộn lẫn với nhau. Không giống như thời Mạt kỳ Rôma, không có sự chia cách sắc nét nào giữa vị trí pháp lý của nông dân tự do và quý tộc, và một gia đình nông dân tự do có thể nâng mình lên qua vài thế hệ nhờ phục vụ trong quân đội để trở thành một lãnh chúa quyền lực. Đời sống và văn hóa thành thị thay đổi mạnh mẽ trong Sơ kỳ Trung Đại. Mặc dù các thành phố Ý vẫn có người cư trú, chúng co lại đáng kể về quy mô. Chẳng hạn Rôma, giảm từ dân số hàng trăm nghìn người xuống còn khoảng 30 nghìn vào cuối thế kỉ 6. Các đền thờ Rôma cải thành nhà thờ Công giáo và các tường thành vẫn được duy trì. Ở Bắc Âu, các thành phố cũng thu hẹp, trong khi các công trình dân sự và các tòa nhà công cộng bị hủy hoại làm vật liệu xây dựng. Sự thành lập của những vương quốc mới cũng tạo ra sự phát triển ở những thị trấn được chọn làm thủ đô. Mặc dù từng có những cộng đồng người Do Thái trong nhiều thành phố Rôma, họ chịu đựng những thời kì ngược đãi sau khi đế quốc cải sang đạo Ki-tô. Chính thức mà nói họ được khoan dung, nhưng luôn chịu những áp lực cải đạo và có những thời kì bị xua đuổi tới những vùng khác. === Sự trỗi dậy của Hồi giáo === Những tín ngưỡng tôn giáo trong đế quốc Byzantine và Ba Tư chuyển đổi mạnh mẽ cuối thế kỷ 6 và đầu thế kỷ 7. Đạo Do Thái là một đức tin cải đạo tích cực, và ít nhất một lãnh tụ chính trị người Ả Rập cải sang đạo này. Kitô giáo cũng cử những đoàn truyền giáo tích cực cạnh tranh với đạo Zoroastre (Hỏa giáo), đặc biệt nhắm vào người dân ở bán đảo Ả Rập. Những mối quan hệ phức tạp này hội tụ với sự trỗi dậy của đạo Islam (Hồi giáo) ở Arabia dưới thời Mohammed (mất năm 632). Sau cái chết của ông, các đội quân Islam đã chinh phục phần lớn Byzantine và Ba Tư, bắt đầu với Syria năm 634-635, vươn tới Ai Cập năm 640-641, Ba Tư những năm 637-642, Bắc Phi cuối thế kỉ 7. Năm 711, người Hồi giáo vươn tới bán đảo Iberia và tới 714 chiếm phần lớn nơi này, một vùng mà họ gọi là Al-Andalus. Các cuộc chinh phục của Hồi giáo đạt đến đỉnh điểm vào giữa thế kỉ 8. Sự thất bại của quân Hồi giáo trong Trận Tours năm 732 dẫn đến sự tái chiếm miền nam Pháp bởi người Frank, nhưng thực ra lý do chính của việc Hồi giáo ngừng tấn công châu Âu là cuộc đảo chính lật đổ Khalifah Omeyyad. Triều đại kế tục là Nhà Abbas dời đô tới Bagdad và từ đó bận tâm đến Trung Đông nhiều hơn châu Âu, để mất kiểm soát nhiều vùng đất Hồi giáo. Những con cháu dòng dõi Omeyyad chiếm đóng bán đảo Iberia, Nhà Aghlab kiểm soát Bắc Phi và Nhà Tulun cai trị ở Ai Cập. Đến giữa thế kỉ 8, các tuyến đường giao thương mới nổi lên ở Địa Trung Hải; thương mại giữa người Frank và người Ả Rập thay thế cho các tuyến đường hàng hải của Rôma trước kia. Người Frank cung cấp gỗ, lông thú, gươm và cả nô lệ để đổi lại lụa và các loại sợi khác, gia vị, và các kim loại quý từ Ả Rập. === Thương mại và tiền tệ === Các cuộc di cư và xâm lược ở thế kỉ 4 và 5 đã làm đứt đoạn mạng lưới giao thương giữa các miền Địa Trung Hải. Các sản phẩm châu Phi ngừng xuất khẩu sang châu Âu, đầu tiên không còn thấy trong nội địa và tới thế kỉ 7 chỉ còn thấy ở vài thành phố như Rôma hay Naples và tới cuối thế kỉ 7 hoàn toàn không hiện diện dưới ảnh hưởng của cuộc chinh phục của Hồi giáo. Sự thay thế hàng hóa từ viễn dương bằng các sản phẩm địa phương là một xu hướng xảy ra ở các miền Rôma cũ trong suốt thời Sơ kỳ Trung Đại. Điều này đặc biệt rõ ràng ở những miền không nằm trên bờ Địa Trung Hải, như bắc Gallia hay đảo Anh. Các hàng hóa hiếm hoi không phải từ địa phương mà khảo cổ học ghi nhận thường là những mặt hàng xa xỉ. Ở miền bắc châu Âu, mạng lưới buôn bán không chỉ có tính địa phương, mà các hàng hóa cũng thường đơn sơ, chỉ có một rất ít đồ gốm và các sản phẩm tinh xảo khác. Xung quanh bờ Địa Trung Hải, đồ gốm vẫn còn phổ biến và được vận chuyển từ nơi tương đối xa chứ không chỉ gồm hàng địa phương. Các nhà nước German khác nhau ở phương tây đều đúc những đồng tiền bắt chước những dạng Rôma và Byzantine sẵn có. Vàng tiếp tục được khai thác để đúc tiền cho đến cuối thế kỉ 7, cho đến khi nó được thay thế bởi bạc. Đồng tiền bạc Frank nhỏ nhất là denarius hay denier, trong khi ở miền Anglo-Saxon là penny. Từ những miền này, đồng denier và penny lan ra khắp châu Âu trong thời kì 700-1000. Tiền đồng hoặc đồng thau không được đúc, vàng cũng vậy, trừ miền Nam Âu. Các đồng tiền này chỉ có đơn vị nhỏ nhất mà không có đơn vị bội. === Giáo hội và đời sống tu viện === Ki-tô giáo từng là một nhân tố thống nhất chính yếu giữa miền Đông và Tây châu Âu, nhưng cuộc chinh phục Bắc Phi của người Ả Rập đã cắt lìa mối liên lạc đường biển giữa hai khu vực này. Giáo hội Byzantine ngày càng khác biệt trong ngôn ngữ, nghi lễ, luật lệ với Giáo hội phương Tây. Giáo hội phương Đông dùng tiếng Hy Lạp thay vì tiếng Latin ở phương Tây. Sự khác biệt về thần học và chính trị xuất hiện, và tới đầu và giữa thế kỉ 8 những vấn đề như sự bài trừ thánh tượng, hôn nhân tăng lữ, và chế độ nhà nước kiểm soát nhà thờ đã tới mức độ mà sự khác biệt về văn hóa và tôn giáo giữa hai miền lớn hơn là những tương đồng. Sự đổ vỡ chính thức xảy ra vào năm 1054, khi Giáo hoàng ở Rôma và Thượng phụ Đại kết ở Constantinopolis xung đột với nhau về quyền tối cao trong giáo hội và rút phép thông công lẫn nhau, dẫn tới sự phân chia Ki-tô giáo thành hai Giáo hội-nhánh phương Tây trở thành Công giáo Rôma và nhánh phương Đông thành Chính thống giáo Hy Lạp. Cấu trúc giáo hội thời Đế quốc Rôma tồn tại qua những đợt di dân và xâm lược hầu như nguyên vẹn ở phương Tây, nhưng ngôi vị giáo hoàng ít được coi trọng, và chỉ một vài giám mục ở phương Tây xem giám mục của Rôma (tức Giáo hoàng) như là lãnh tụ về tôn giáo hay chính trị. Với việc Byzantine tái chinh phục Italia từ người Goth, trước năm 750 các Giáo hoàng muốn đăng quang cần sự chuẩn thuận từ Hoàng đế Đông Rôma và do đó nhiều Giáo hoàng quan tâm nhiều hơn tới các sự vụ ở Byzantine và các tranh cãi thần học ở phương Đông. Các bản lưu trữ thư từ của Gregorius Cả (Giáo hoàng những năm 590-604) cho thấy trong số hơn 850 bức thư, hầu hết là liên quan tới sự vụ ở Ý hay ở Constantinopolis. Phần duy nhất ở Tây Âu mà Giáo hoàng có ảnh hưởng là đảo Anh, nơi Gregorius gửi đoàn truyền giáo năm 597 để cải người Anglo-Saxon sang Ki-tô gáo. Những linh mục Ireland là những nhà truyền giáo tích cực nhất ở Tây Âu giữa thế kỉ 5 và 7, đầu tiên tới xứ Anh và Scotland sau đó tiến vào lục địa. Dẫn dắt bởi những tu sĩ như Columba (mất năm 597) và Columbanus (mất năm 615), họ đã lập nên những tu viện, dạy tiếng Latin và Hy Lạp, và soạn nhiều công trình tôn giáo lẫn thế tục. Sơ kỳ Trung Đại cũng chứng kiến sự thịnh hành chế độ tu viện ở phương Tây. Hình hài đời sống tu viện được xác định bởi những truyền thống và tư tưởng vốn bắt nguồn từ những Giáo phụ sa mạc ở Ai Cập và Syria. Hầu hết các tu viện châu Âu thuộc vào loại tập trung vào trải nghiệm cộng đồng về đời sống tinh thần, khởi đầu vào thế kỉ 4 bởi thánh Pachomius (mất năm 348). Những lý tưởng về đời sống tu viện lan truyền từ Ai Cập tới Tây Âu trong các thế kỉ 5 và 6 thông qua các sách kể truyện thánh như "Cuộc đời thánh Antôn Cả". Thánh Benedictus của Nurcia (mất năm 547) viết Luật Benedict cho tu viện vào thế kỉ 6, mô tả chi tiết những trách nhiệm điều hành và tôn giáo của một cộng đồng các tu sĩ lãnh đạo bởi một tu viện trưởng. Tu sĩ và các tu viện có một tác động sâu sắc lên đời sống tôn giáo và chính trị thời Sơ kỳ Trung Đại, trong nhiều trường hợp đã đóng vai trò như những nơi ủy thác đất đai cho những gia đình quyền quý, trung tâm tuyên truyền và ủng hộ cho hoàng gia ở những vùng mới chiếm đóng, và căn cứ cho các đoàn truyền giáo và nhập đạo. Chúng là những trụ sở dạy chữ và kiến thức chính và đôi khi là duy nhất trong một vùng. Nhiều trong số những bản thảo của văn học Latin cổ điển được chép lại trong các tu viện vào thời Sơ kỳ Trung Đại. Các tu sĩ cũng là tác giả của những tác phẩm mới, bao gồm lịch sử, thần học, và các đề tài khác, với những đại diện như Bede (mất năm 735) ở miền bắc xứ Anh. === châu Âu thời Carolingien === Miền đất của người Frank ở bắc Gallia chia ra thành ba vương quốc là Austrasia, Neustria, và Burgundy trong thế kỉ 6 và 7, có quan hệ lỏng lẻo với nhau vì vương vị ở ba vương quốc đều thuộc vương tộc Merovingian có tổ tiên chung là Clovis. Thế kỉ 7 chứng kiến một thời kì chiến tranh hỗn loạn giữa Austrasia và Neustria. Sự hỗn loạn này bị Pépin Già, Trưởng quản hoàng gia Austrasia (mất năm 640) đứng đằng sau ngai vàng, khai thác. Con cháu Pépin thừa hưởng ngôi vị này, đóng vai trò cố vấn và nhiếp chính. Một trong những người chắt của ông, Charles Martel (mất năm 741), thắng trận Poitiers năm 732, ngăn chặn sự xâm lặng của quân đội Hồi giáo qua dãy Pyrénées. Con trai của Charles Martel, Pépin Lùn (mất năm 768) tiến hành cuộc đảo chính năm 753 và thống nhất hai vương quốc Austrasia và Neustria, lập nên triều đại Carolingien. Một cuốn biên niên sử đương thời cho rằng Pépin đã được Giáo hoàng Stephanus II (giữ ngôi 752-757) ủng hộ đảo chính. Pépin sử dụng bộ máy tuyên truyền để hợp thức hóa triều đại của mình, bằng cách mô tả nhà Merovingien là bất tài hoặc tàn bạo, tán tụng công lao của Charles Martel, và lan truyền những giai thoại về lòng mộ đạo cao cả của dòng họ ông. Đến lúc sắp qua đời năm 768, theo tục lệ người Frank Pépin chia vương quốc cho hai con trai, Charles và Carloman. Khi Carloman chết bệnh, Charles không cho con nhỏ của em trai nối ngôi, và tự đưa mình nên thành nhà vua duy nhất của Austrasia và Neustria. Charles, ngày nay thường được gọi dưới tên Charles Đại Đế hay Charlemagne, tiến hành một chương trình xâm lược quy mô kể từ năm 774, dần dần thống nhất một phần lớn châu Âu, lập lên một đế chế bao phủ phần lớn nước Pháp hiện nay, bắc Ý và miền Sachsen. Trong các cuộc chiến tranh kéo dài tới khoảng năm 800, ông tặng thưởng chiến lợi phẩm và đất đai chiếm được cho các đồng minh. Với việc chinh phục vương quốc Lombard (774), ông giải phóng Giáo hội Rôma khỏi nỗi sợ một cuộc xâm lược từ phía Bắc, xác lập Lãnh thổ Giáo hoàng. Vào ngày Giáng sinh năm 800, tại Vương cung thánh đường Thánh Phêrô, Giáo hoàng Leo III tuyên phong Charlemagne làm Hoàng đế của người Rôma. Lễ đăng quang của Charlemagne được xem như một điểm bước ngoặt trong lịch sử trung đại, đánh dấu sự trở lại Đế quốc Tây Rôma trong hình hài mới, bởi tân hoàng đế cai trị trên phần lớn lãnh thổ trước kia thuộc các hoàng đế phương Tây. Nó cũng đặt Charlemagne lên tư thế ngang hàng với Đế quốc Byzantine. Tuy nhiên, có những khác biệt giữa đế quốc Carolingien mới thành lập và cả đế quốc Tây Rôma trước kia và đế quốc Byzantine đương thời. Lãnh thổ Frank chủ yếu là nông thôn, chỉ có một vài thành thị nhỏ. Hầu hết dân cư là nông dân sinh sống ở những trang trại nhỏ. Thương mại rất yếu ớt và hầu hết diễn ra với người Anh và Scandinavia, tương phản với Đế quốc Rôma xưa kia với mạng lưới giao thương tập trung ở miền Địa Trung Hải. Đế chế Frank được cai trị bằng một triều đình lưu động, chu du cùng nhà vua từ miền này sang miền khác mà không có kinh đô thực sự, cùng với khoảng 300 quan lại được gọi là những bá tước (tiếng Pháp cổ:comte) cai quản những quận (tiếng Pháp cổ: conté, nguồn gốc của từ 'county' trong tiếng Anh hay tương tự). Tăng lữ và giám mục giáo phận cũng đóng vai trò quan lại, cung như các sứ thần của hoàng đế (tiếng Latin: missus dominicus) đóng vai trò thanh tra biệt phái và người giảng hòa. ==== Phục Hưng Carolingien ==== Triều đình Charlemagne ở Aachen từng là trung tâm của một sự nảy nở văn hóa đôi khi được gọi là "Phục hưng Carolingien". Thời kì này chứng kiến một sự gia tăng tỉ lệ biết chữ, sự phát triển của mỹ thuật, kiến trúc và luật học. Tu sĩ người Anh Alcuin (mất năm 804) được mời tới Aachen và truyền bá giáo dục tại các tu viện ở miền Northumbria. Cơ quan văn thư của Charlemagne tạo nên một kiểu chữ viết mới, ngày nay gọi là chữ Carolingien, cho phép kiểu ghi chép thông thường giúp phát triển sự liên lạc trên khắp châu Âu. Charlemagne bảo trợ những thay đổi trong nghi lễ nhà thờ, áp đặt các dạng nghi lễ Rôma lên các vùng ông cai quản, cũng như những các bình ca Gregoriano vào thánh ca nhà thờ. Một hoạt động quan trọng của các học giả thời kì này là sao chép, hiệu đính và truyền bá các tác phẩm đại cương về các chủ đề tôn giáo và thế tục, với mục đích khuyến khích việc học tập. Các công trình mới về các chủ đề tâm linh và sách giáo khoa cũng được lưu hành. Các nhà ngữ pháp học của thời kì này đã chỉnh sửa ngôn ngữ Latin, biến nó từ dạng tiếng Latin Cổ điển của Đế quốc Rôma thành một dạng linh hoạt hơn để phù hợp nhu cầu của giáo hội và chính quyền. Dưới thời Charlemagne, ngôn ngữ này đã phân kỳ quá nhiều khỏi ngôn ngữ cổ điển đến mức về sau nó được gọi là tiếng Latin Trung Cổ. === Đế quốc tan vỡ === Charlemagne dự định tiếp tục truyền thống Frank là chia lãnh thổ đế quốc cho những người con của mình, nhưng bất thành vì đến năm 813 chỉ còn một người con của ông còn sống là Louis Mộ Đạo (cai trị 814-840). Ngay trước khi qua đời, Charlemagne đưa Louis lên làm thái tử. Triều đại của Louis đánh dầu bởi một loạt những sự chia cắt đế chế giữa các con trai của ông và từ năm 829 là các cuộc nội chiến giữa nhiều liên minh của phụ vương và các hoàng tử giành quyền kiểm soát các miền đế quốc. Cuối cùng, Louis chấp nhận cho con cả là Lothaire I (mất năm 855) là hoàng đế và thừa hưởng Italia. Phần còn lại của đế chế chủ yếu được chia giữa Lothaire và Charles Hói (mất năm 877), con út của ông. Lothaire giữ Đông Frank, bao gồm hai bờ sông Rhine về phía đông, để lại cho Charles Tây Frank tới các miền tây của Rhineland và Alps. Louis German (mất 876), người con thứ ba từng nổi dậy chống em trai, được phép cai trị miền Bavaria dưới quyền anh cả Lothaire. Tuy nhiên việc phân chia này vẫn chưa làm hài lòng các thành viên hoàng tộc: cháu nội hoàng đế là Pépin II của Aquitaine (con trai của hoàng tử Pépin I của Aquitaine đã chết) nổi loạn đòi làm chủ Aquitaine, trong khi Louis German tìm cách sáp nhập toàn bộ miền Đông Frank. Louis Mộ Đạo mất năm 840 trong lúc đế quốc vẫn trong cảnh rối ren. Một cuộc nội chiến dài ba năm theo sau hoàng đế băng hà chấm dứt bởi Hiệp ước Verdun (843), một vương quốc được thành lập giữa sông Rhine và sông Rhône dưới quyền cai trị của Lothaire cùng với các lãnh thổ ở Ý; đồng thời đế vị của ông được xác nhận. Louis German kiểm soát Bavaria và miền đất phía đông ở Đức ngày nay. Charles Hói nhận miền phía tây Frank, bao gồm phần lớn nước Pháp hiện nay. Những người cháu và chắt của Charlemagne lại chia cắt vương quốc của họ cho các con cháu, cuối cùng khiến cho sự thống nhất nội bộ một thời hoàn toàn biến mất. Năm 987 nhà Carolingien bị thay thế ở lãnh thổ phía tây, với sự đăng quang của Hugh Capet (cai trị 987-996) mở đầu vương triều Capetien ở Pháp. Dòng dõi này ở miền Đông còn diệt vong sớm hơn, vào năm 911, với cái chết của Louis Thiếu Đế, và việc Konrad I (cai trị 911-918), một người ngoài hoàng tộc, được bầu làm vua. Sự đổ vỡ của Đế quốc Carolingien song hành với những cuộc xâm lược, di cư và cướp bóc bởi các kẻ thù bên ngoài. Các miền bờ biển Đại Tây Dương và phía bắc bị quấy nhiễu bởi người Viking, những người cũng tấn công quần đảo Anh và định cư ở đó cũng như ở Iceland. Năm 911, thủ lĩnh Viking Rollo (mất khoảng 931) nhận được sự cho phép từ Charles Giản Dị (cai trị 898-922) định cư cộng đồng Viking ở nơi về sau trở thành Normandie. Miền đông của đế quốc Frank cũ, đặc biệt là ở Đức và Ý, chịu đựng những đợt công kích liên tục của người Magyar cho đến khi đội quân xâm lược thất bại tại trận Lechfeld năm 955. Trong khi đó, sự sụp đổ của triều đại Abbas dẫn tới thế giới Hồi giáo bị phân mảnh thành các tiểu quốc nhỏ hơn, một vài trong số đó bắt đầu bành trướng tới Italia và Sicilia, cũng như vượt Pyréneés vào miền Nam của một số vương quốc Frank. === Các vương quốc mới và Byzantine hồi sinh === Các nỗ lực của các vị vua ở địa phương nhằm chống lại những kẻ xâm lược dẫn đến sự hình thành những thực thể chính trị mới. Ở nước Anh Anglo-Saxon, Vua Alfred Đại đế (cai trị 871-899) đạt được một thỏa thuận với thủ lĩnh Viking cuối thế kỉ 9, dẫn đến việc những di dân Đan Mạch định cư ở Northumbria, Mercia và, nhiều phần thuộc Đông Anglia. Tới giữa thế kỉ 10, con cháu của Alfred đã hoàn thành chinh phục Northumbria, và khôi phục quyền cai quản của người Anh trên phần lớn đảo Anh. Ở miền bắc Anh, Kenneth MacAlpin (mất khoảng 860) thống nhất người Pict và người Scot, lập nên Vương quốc Alba. Trong khi đó, đầu thế kỉ 10, Nhà Ottonen thiết lập vị trí thống trị ở Đức sau khi lãnh đạo đẩy lùi người Hungary. Những nỗ lực của gia tộc này đạt đến đỉnh cao với sự đăng quang ngôi Hoàng đế Rôma Thần thánh của Otto I năm 962 (cai trị 936-973). Ông tìm kiếm sự công nhận của Đế quốc Byzantine với đế hiệu của mình, bằng cách cho con trai Otto II (cai trị 967-983) kết hôn với Theophanu (mất 991), con gái của hoàng đế Byzantine quá cố Romanos II (cai trị 959-963) năm 972. Đến cuối thế kỉ 10 vương quốc Italia đã rơi vào vùng ảnh hưởng của nhà Ottonen sau một thời gian ổn định; Otto III (cai trị 996-1002) dành phần lớn triều đại của ông cai trị ở vương quốc này Vương quốc Tây Frank bị chia nhỏ hơn nữa, và dù các vị vua vẫn đứng đầu trên danh nghĩa, phần lớn quyền lực chính trị đã rơi vào tay các lãnh chúa địa phương. Các nỗ lực truyền đạo Ki-tô tới Scandinavia trong thế kỉ 9 và 10 đã giúp tăng cường sự phát triển của các nền quân chủ ở Thụy Điển, Đan Mạch và Na Uy, thu nhận nhiều quyền lực và lãnh thổ. Một vài vị vua cải sang Ki-tô giáo, nhưng tới năm 1000 không phải tất cả. Người Scandinavi cũng bành trướng và lập thuộc địa khắp châu Âu. Bên cạnh định cư ở Ireland, xứ Anh, và Normandie, các đợt di dân còn diễn ra ở nơi là nước Nga này nay và Iceland. Các thương nhân và cướp biển người Thụy Điển tràn xuống những con sông ở thảo nguyên Nga, thậm chí còn thử tấn công bất thành Constantinople vào những năm 860 và 907. Nước Tây Ban Nha Ki-tô giáo, ban đầu bị đẩy lùi vào một vùng nhỏ phía bắc bán đảo, đã mở rộng chậm chạp về phía nam suốt các thế kỉ 9 và 10, lập nên các vương quốc Asturias và Vương quốc León. Ở Đông Âu, Byzantine hồi phục lại sự thịnh vượng của mình dưới thời các Hoàng đế Basil I (cai trị 867-886), Leo VI (886-912) và Constantinus VII (913-959) thuộc Nhà Macedonian. Thương mại hồi sinh và các vị hoàng đế trông nom việc mở rộng một nền hành chính thống nhất cho các tỉnh. Quân đội được tổ chức lại, cho phép các Hoàng đế John I (cai trị 969-976) và Basil II (cai trị 976-1025) mở rộng cương vực đế chế ở mọi hướng. Triều đình đế quốc ở Constantinople là trung tâm của một sự hồi sinh trong nghiên cứu cổ điển, một thời kì mà giờ đôi khi gọi là "Phục Hưng Macedonia". Các tác giả như John Geometres (sống khoảng thế kỉ 10) sáng tác những khúc ca, bài thơ, và các tác phẩm mới. Các nỗ lực truyền giáo của cả giới tăng lữ Tây và Đông dẫn tới sự cải đạo của người Moravia, người Bulgary, người Bohemia, người Ba Lan, người Hungary, và các cư dân Slav ở Rus Kiev. Bulgaria, thành lập khoảng năm 680, đạt đến đỉnh cao sau đó, vươn từ Budapest tới Hắc Hải và từ sông Dnieper ở Ukraina ngày nay tới Biển Adriatic. Suy yếu dần bởi các cuộc chiến tranh với các thế lực khác, tới năm 1018, những quý tộc người Bulgary cuối cùng đã đầu hàng đế quốc Byzantine. === Nghệ thuật và kiến trúc === Rất ít công trình đồ sộ bằng đá nào được xây dựng trong thời kì giữa các giáo đường kiểu Constantine thế kỉ 4 tới thế kỉ 8, mặc dù ở thế kỉ 6-7 khá nhiều giáo đường cỡ nhỏ xuất hiện. Tới đầu thế kỉ 8, Đế quốc Carolingien hồi sinh dạng kiến trúc nhà thờ lớn. Một đặc điểm của nhà thờ thời kì này là sử dụng cánh ngang, tức những "cánh tay" của một công trình có hình chữ thập vông góc với trục chính hay gian giữa của nó. Các đặc điểm khác của kiến trúc nhà thờ bao gồm tháp trung tâm, và mặt tiền đồ sộ thường nằm ở phía tây của tòa nhà. Nghệ thuật Carolingien chỉ nhằm phục vụ cho một nhóm nhỏ những nhân vật ở triều đình, các tu viện và giáo đường. Nó bị thống ngự bởi nỗ lực lấy lại chân giá trị và chủ nghĩa cổ điển trong nghệ thuật cung đình Rôma và Byzantine. Trong khi ở quần đảo Anh hình thành nghệ thuật đảo quốc, hay sự kết hợp của truyền thống Celt với nghệ thuật Anglo-Saxon trong trang trí với các hình thức Địa Trung Hải, các tác phẩm chính còn lưu lại ngày nay là các thánh kinh minh họa và các phù điêu chạm ngà (mẫu của những tác phẩm trên kim loại đã bị nung chảy). Các vật tạo tác từ kim loại quý là dạng nghệ thuật đỉnh cao của thời đại này, nhưng hầu hết đã thất truyền chỉ trừ một vài cây thập tự như Thánh giá Lothaire, một vài hòm thánh tích, và các vật khai quật được hầm mộ Sutton Hoo (Anglo-Saxon), các kho báu ở Gourdon (Merovingien), Guarrazar (Vigigoth) và Nagyszentmiklós (Byzantine). Trâm cài đầu là một phần quan trọng của trang sức cá nhân giới thượng lưu, một số chiếc tinh xảo còn lưu lại tới nay như Trâm Tara (Ireland). Các sách Phúc Âm được trang trí dầy đặc cũng còn được bảo tồn với số lượng lớn, trong đó có những tác phẩm nổi bật về hàm lượng nghệ thuật như Phúc Âm Kells, Phúc Âm Lindisfarne, và cuốn sách kinh của Charles Hói, Codex Aureus của St. Emmeram nổi tiếng và làm từ vàng và khảm đá quý. Triều đình Charlemagne dường như đã đóng vai trò tiếp nhận điêu khắc tượng hình quy mô lớn vào nghệ thuật Ki-tô giáo, và tới cuối thời kì này các tượng có kích thước giống người thật như Thánh giá Gero trở thành phổ biến trong các nhà thờ lớn. === Thành tựu quân sự === Trong thời mạt kì Đế quốc Rôma, những phát triển chính về quân sự là nỗ lực tạo ra một lực lượng kỵ binh hiệu quả cũng như tiếp tục phát triển hai loại quân có tính đặc chủng cao. Sự thành lập của kỵ binh trang bị nặng cataphract (quân thiết kỵ) là một đặc điểm quan trọng của quân đội La mã thế kỉ 5. Các đội quân man dân có trọng tâm khác nhau trong đội hình-người Anglo-Saxon chủ yếu bao gồm bộ binh trong khi quân Vandal và Visigoth có một tỉ lệ kỵ binh đáng kể. Thời kỳ đầu xâm lược, yên cương còn chưa được biết đến, gây hạn chế cho tính hữu dụng của kỵ binh trong vai trò quân xung kích. Sự thay đổi lớn nhất trong thời kì này là sự tiếp nhận loại cung của người Hung thay cho cung Scythia yếu hơn trước đó. Một sự phát triển khác là việc sử dụng ngày càng nhiều trường kiếm và và sự thay thế dần áo giáp vảy bằng áo giáp lưới và áo giáo tấm. Tầm quan trọng của bộ binh và khinh kỵ bắt đầu suy giảm vào đầu thời Carolingien, trong khi thiết kị tinh nhuệ trở thành nòng cốt. Việc đánh thuế dân quân lên dân tự do suy giảm trong thời kì này. Mặc dù phần lớn quân đội Carolingien cưỡi ngựa, một tỉ lệ lớn trong đó là bộ binh cưỡi ngựa (chỉ để tăng tính cơ động, còn dàn trận tấn công kiểu bộ binh), thay vì kỵ binh thực sự. Một ngoại lệ là nước Anh Anglo-Saxon nơi quân đội vẫn hợp thành từ các đội quân tuyển mộ ở địa phương, gọi là fyrd (dân quân) do quý tộc địa phương đó chỉ huy. Về mặt kĩ thuật, một trong những thay đổi chính là sự trở lại của nỏ vốn từng xuất hiện và mai một trong thời Rôma. Một thay đổi khác là sự xuất hiện của yên cương cho phép tăng hiệu quả đột kích của kỵ binh. Móng ngựa cũng xuất hiện và tỏ ra hữu ích ngoài cả ý nghĩa quân sự, nó cho phép ngựa có thể sử dụng ở những địa hình nhiều đá. == Trung kỳ Trung Cổ == === Xã hội và đời sống kinh tế === Trung kỳ Trung Đại chứng kiến một sự gia tăng dân số. Dân cư châu Âu tăng từ khoảng 35 triệu năm 1000 lên khoảng 80 triệu năm 1347, mặc dù nguyên nhân chính xác vẫn còn chưa rõ ràng: có thể là những kĩ thuật canh tác cải tiến, sự suy giảm của chiếm hữu nô lệ, một khí hậu ấm hơn hoặc nhờ không chịu những cuộc xâm lược. Tới khoảng 90 phần trăm dân số châu Âu là nông dân sống ở nông thôn. Nhiều người không còn sống trong những nông trang biệt lập mà gia nhập vào những cộng đồng nhỏ, tức các trang viên hoặc làng. Những nông dân này thường chịu lệ thuộc vào một lãnh chúa quý tộc về đất canh tác và các dịch vụ khác, trong một hệ thống gọi là chế độ trang viên. Tuy thế vẫn có một lượng nhỏ nông dân tự do trong suốt thời kỳ này và cả sau đó, phân bố ở Nam Âu nhiều hơn là miền bắc. Việc phá rừng lấy đất canh tác, hoặc khuyến khích nông dân khẩn hoang cũng đóng góp vào sự gia tăng dân số. Các giai tầng khác của xã hội bao gồm quý tộc, tăng lữ và thị dân. Quý tộc, bao gồm giới quyền quý có tước hiệu và các hiệp sĩ đơn thuần, khai thác lợi ích từ các trang viên và nông dân, mặc dù thẳng thừng thì họ không sở hữu đất đai mà là được ban quyền thu lợi tức của đất đai từ trang viên hay các miền đất khác từ một chúa tể đứng trên họ, trong một hệ thống gọi là chế độ phong kiến. Trong thế kỉ 11 và 12, những miền đất này, tức những đất phong (hay thái ấp), trở thành có tính thừa kế, và ở nhiều vùng không còn có thể bị phân chia giữa những người thừa kế khác nhau của một gia trưởng như thời kì đầu Trung Cổ. Thay đó, hầu hết thái ấp và đất đai khác được truyền cho con trai cả của gia trưởng. Sự thống trị của quý tộc được xây dựng trên quyền kiểm soát đất đai, tham gia vào quân đội như kỵ binh nặng, kiểm soát các lâu đài, và được miễn sưu thuế lao dịch. Các lâu đài, ban đầu bằng gỗ và về sau bằng đá, bắt đầu được xây dựng từ thế kỉ 9 và 10 để phòng bị với những rối loạn xã hội đương thời, cung cấp sự bảo vệ khỏi quân xâm lược cướp bóc cũng như cho phép các lãnh chúa phòng ngự địch thủ. Quyền kiểm soát lâu đài ít nhiều cho phép quý tộc thách thức vua hoặc các vị chúa tể khác. Giới quý tộc có tính phân tầng; vua và các quý tộc bậc cao nhất kiểm soát lượng lớn bình dân và đất đai, cũng như các quý tộc phụ thuộc. Bên dưới đó, các quý tộc thấp hơn có ít đất đai và nông dân hơn. Thấp nhất là những hiệp sĩ; họ thu lợi tức nhưng không sở hữu đất đai và phải phục vụ quý tộc (phong quân) của họ. Giới giáo sĩ (tăng lữ) chia thành hai loại: giáo sĩ triều, tức những người sống ở thế giới bên ngoài, và giáo sĩ dòng, tức những người sống theo luật lệ tu trì và thường là tu sĩ. Trong suốt thời kì này giáo sĩ vẫn chiếm một tỉ lệ rất nhỏ trong dân chúng, thường dưới một phần trăm. Hầu hết giáo sĩ dòng tu là từ thành viên giới quý tộc chọn đời sống tôn giáo, đây cũng là nguồn gốc xuất thân của giáo sĩ triều bậc trên; trong khi các thầy tu ở xứ đạo địa phương thường xuất thân từ nông dân. Thị dân có một vị trí ít nhiều khác biệt, vì họ không phù hợp vào sự phân chia ba giai cấp xã hội truyền thống gồm quý tộc, tăng lữ và nông dân. Trong thế kỉ 12 và 13, vai trò của thị dân tăng cường nhanh chóng nhờ các thị trấn đã có lớn lên cùng những trung tâm dân cư được thành lập. Tuy vậy trong suốt thời Trung Cổ dân cư thành thị chắc chắn không bao giờ vượt quá được 10 phần trăm tổng dân số. Người Do Thái cũng di cư khắp châu Âu trong thời kỳ này. Các cộng đồng được thành lập ở Đức và Anh trong các thế kỉ 11 và 12, nhưng người Do Thái Tây Ban Nha, định cư từ lâu dưới chính quyền Hồi giáo, nay chịu sự thống trị của người Ki-tô và chịu áp lực cải đạo. Hầu hết người Do Thái bị giam cầm trong những thị trấn, bởi vì họ không được phép sở hữu đất đai hay được làm nông dân. Bên cạnh người Do Thái, cũng có những người không theo Ki-tô giáo khác ở nhiều nơi của châu Âu-người Slav đa thần ở Đông Âu và người Hồi giáo ở Nam Âu. Phụ nữ ở thời Trung Đại chính thức thì phụ thuộc vào một người đàn ông, có thể là cha, chồng hoặc một người họ hàng nam giới nào đó. Các góa phụ, những người thường có nhiều quyền hạn trên đời sống của chính mình hơn, vẫn bị giới hạn bởi luật lệ. Công việc của phụ nữ thường chỉ bao gồm cai quản gia đình và những nhiệm vụ liên quan tới việc trong nhà. Phụ nữ nông dân chịu trách nhiệm chăm sóc gia đình, nuôi dưỡng trẻ nhỏ, cũng như làm vườn và trông nom gia súc gần nhà. Họ có thể bổ sung cho thu nhập gia đình bằng việc quay sợi hoặc ủ rượu tại gia. Vào mùa thu hoạch, họ cũng tham gia phụ giúp đồng áng. Phụ nữ trong giới thị dân bên cạnh việc gia đình cũng tham gia và buôn bán, nhưng loại buôn bán nào cho phép phụ nữ tham gia thì thay đổi theo từng quốc gia và từng thời kì. Phụ nữ quý tộc đôi khi có thể đảm nhiệm việc cai quản cơ ngơi thái ấp trong khi nam giới vắng mặt, nhưng họ thường bị cấm tham gia vào sự vụ quân đội hoặc chính quyền. Vai trò duy nhất dành cho phụ nữ trong Giáo hội là sơ, vì họ không thể trở thành linh mục. Ở Trung Ý, Bắc Ý, và ở miền Vlaanderen, sự trỗi dậy của những thành thị đã tới một mức độ mà sự tự quản kích thích phát triển kinh tế và tạo nên một môi trường cho các loại hiệp hội thương mại mới. Các thành phố thương mại trên bờ biển Baltic đạt tới những thỏa thuận được biết tới như Liên minh Hanse, trong khi những cộng hòa hàng hải như Venezia, Genova và Pisa mở rộng việc buôn bán của họ trong khắp Địa Trung Hải. Những hội chợ thương mại lớn thành lập và nở rộ ở miền bắc Pháp trong thời kì này, cho phép các thương nhân người Ý và Đức tới trao đổi với nhau và với thương nhân địa phương. Trong cuối thế kỉ 13 các tuyến đường thủy và bộ tới Viễn Đông đã được khai phá, nhất là được mô tả trong cuốn Marco Polo phiêu lưu ký của nhà buôn Marco Polo (mất năm 1324). Bên cạnh các cơ hội thương mại, các tiến bộ nông nghiệp và kĩ thuật khiến cho sản lượng thu hoạch gia tăng, đến lượt mình nó cho phép mạng lưới giao thương mở rộng. Thương mại gia tăng đem lại những phương thức giao dịch tiền tệ mới, và tiền vàng một lần nữa được khai thác ở châu Âu, đầu tiên ở Ý và sau đó ở Pháp và các quốc gia khác. Các dạng hợp đồng thương mại mới xuất hiện, cho phép chia sẻ rủi ro giữa giới thương gia. Các phương pháp kế toán được cải tiến, một phần qua việc sử dụng vào sổ hai lần; các loại ngân phiếu cũng xuất hiện, cho phép tiền được chuyển phát dễ dàng hơn. === Các cường quốc nổi lên === Thời Trung Kỳ Trung Đại là chính là giai đoạn hình thành nhiều nhà nước phương Tây hiện đại. Các vị quân vương ở Pháp, Anh, và Tây Ban Nha củng cố quyền lực của họ, và lập nên những thể chế cai trị vững bền. Các quốc gia mới như Hungary và Ba Lan, sau khi cải sang đạo Ki-tô, trở thành những cường quốc ở Trung Âu. Chế độ giáo hoàng, gắn bó lâu dài với ý thức hệ về nền độc lập khỏi các vị vua thế tục, lần đầu tiên khẳng định tuyên bố thẩm quyền trần thế trên toàn bộ thế giới Ki-tô; nền Quân chủ Giáo hoàng đạt tới đỉnh điểm của nó vào đầu thế kỉ 13 dưới triều đại Giáo hoàng Innocent III (tại vị 1198-1216). Các cuộc Thập tự chinh phương Bắc và sự xâm nhập của các vương quốc và quân đội Ki-tô vào các vùng trước đây theo đa thần ở miền Baltic và đông bắc Phần Lan đã dẫn tới sự cưỡng bức đồng hóa nhiều sắc dân bản địa vào văn hóa châu Âu. Trong thời kì đầu Trung Kỳ Trung Đại, triều đại Ottonen cai trị Đức nỗ lực tìm cách kiểm soát các vị công tước hùng mạnh nắm quyền ở các công quốc có nguồn gốc từ thời kỳ Di cư. Năm 1024, họ bị thay thế bởi triều đại Salien, nổi tiếng về xung đột với giáo hoàng dưới thời Hoàng đế Heinrich (cai trị 1084-1105) trên quyền bổ nhiệm giáo chức, trong một cuộc tranh chấp kéo dài thường gọi là Tranh cãi Tấn phong. Những hậu duệ của Heinrich IV tiếp tục xung đột với giáo hoàng cũng như giới quý tộc trong nước. Một giai đoạn bất ổn diễn ra sau cái chết của Hoàng đế Heinrich V người không để lại người thừa kế nào, cho đến khi Friedrich Barbarossa (cai trị 1155-1190) nắm được ngai vàng. Mặc dù ông cai trị đất nước một cách hiệu quả, các vấn đề cơ bản vẫn còn đó, và những vị vua sau ông vật lộn để giữ quyền lực cho tới thế kỉ 13. Cháu nội của Barbarossa là Friedrich II (cai trị 1220-1250), người cũng được thừa kế ngai vàng Sicilia thông qua mẹ mình, liên tục đụng độ với giáo hoàng. Triều đình của ông nổi tiếng nhờ những học giả mà ông vời tới và bản thân ông thường bị cáo buộc là dị giáo. Cùng lúc ông và những người kế vị chịu rất nhiều khó khăn, bao gồm sự xâm lược của người Mông Cổ vào châu Âu từ giữa thế kỉ 13. Người Mông Cổ đầu tiên tiêu diệt các công quốc Kievan Rus' và sau đó xâm lược Đông Âu vào những năm 1241, 1259, 1287. Dưới triều đại cai trị của nhà Capétien nước Pháp chậm chạp mở rộng quyền lực trung ương tới giới quý tộc, vươn ra khỏi Île-de-France để kiểm soát ngày càng nhiều phần vương quốc vào thế kỉ 11 và 12. Họ đối mặt với một đối thủ hùng mạnh từ ngôi Công tước Normandie, mà dưới thời William Người chinh phục đã lên cầm quyền ở Anh năm 1066 và tạo ra một đế chế hai bên eo biển tồn tại dưới nhiều dạng khác nhau, trong suốt phần còn lại của thời Trung Cổ. Những người Norman cũng định cư ở Sicilia và bắc Ý, khi Robert Guiscard (mất năm 1085) đổ bộ vào năm 1059 và lập nên một công quốc mà về sau trở thành Vương quốc Sicilia. Dưới triều Angevin của Henry II (cai trị 1154-1189) và con trai ông là Richard Tim sư tử (cai trị 1189-1199), vương triều Anh cai trị phần lớn xứ Anh và nhiều vùng rộng lớn thuộc Pháp, mà gia tộc thu được thông qua đám cưới của Henry II với Eleanor của Aquitaine, người thừa kế phần lớn miền nam Pháp. Em trai của Richard là John Mất đất (cai trị 1199-1216) để mất Normandie và phần còn lại của tài sản gia tộc ở bắc Pháp năm 1204 vào tay vua Pháp Philippe II Augustus (cai trị 1180-1223). Điều này dẫn tới sự bất mãn của quý tộc, cộng thêm việc tăng thuế quá mức nhằm bù đắp cho những nỗ lực bất thành để tái chiếm Normandie cuối cùng khiến nhà vua phải chấp thuận Magna Carta (Đại Hiến chương), một thỏa ước xác nhận quyền và đặc quyền của nam công dân tự do trong toàn xứ Anh. Dưới triều Henry III (cai trị 1216-1272), con trai John, có thêm những sự nhượng bộ cho giới quý tộc, và quyền lực hoàng gia ngày càng suy giảm, trong khi một hình thức nghị viện của giới quý tộc manh nha hình thành. Trái lại, các vị quân vương Pháp tiếp tục thu được lợi ích trong cuộc đấu tranh với quý tộc cát cứ trong cuối thế kỉ 12 và thế kỉ 13, thâu tóm nhiều miền lãnh thổ vào tầm kiểm soát của vương quyền và củng cố bộ máy hành chính trung ương. Dưới thời Louis IX (cai trị 1226-1270), thanh thế hoàng gia Pháp đạt đỉnh cao mới khi Louis đóng vai trò như một người dàn xếp các sự vụ chính trị cho phần lớn châu Âu. Ở miền Iberia, các nhà nước Ki-tô, trước đó bị giam hãm ở miền tây bắc bán đảo, bắt đầu đẩy lùi các nhà nước Hồi giáo ở phía nam, trong một thời kỳ được gọi là Reconquista. Cho đến khoảng năm 1150, miền Bắc theo Ki-tô đã hợp lại thành 5 vương quốc chính là León, Castilla, Aragon, Navarra, và Bồ Đào Nha Miền nam Iberia vẫn nằm dưới quyền các tiểu vương Hồi giáo, ban đầu thuộc Khalifah Córdoba (khalifah là một đế quốc Hồi giáo), về sau tan rã (năm 1301) thành một loạt các tiểu quốc gọi là các taifa, những người chiến đấu với người Ki-tô cho tới khi Khalifah Almohad tái lập nhà nước tập quyền trên toàn miền Nam Iberia và một phần Bắc Phi những năm 1170. Các lực lượng Ki-tô lại thắng thế một lần nữa vào đầu những năm 1200, đạt đến đỉnh cao trong lần đánh chiếm thành Sevilla năm 1248. === Các cuộc Thập tự chinh === Trong thế kỉ 11, người Thổ Seljuk thâu tóm phần lớn Địa Trung Hải, chiếm Ba Tư những năm 1040, Armenia những năm 1060, và Jerusalem vào năm 1070. Năm 1071, quân Thổ đánh bại quân Byzantine tại Trận Manzikert và cầm tù Hoàng đế Byzantine Romanos IV Diogenes (cai trị 1068-1071). Người Thổ sau đó tự do xâm lược Tiểu Á, tung một đòn nguy hiểm vào Đế quốc Byzantine với việc chiếm phần lớn dân số và trung tâm kinh tế của nó. Mặc dù người Byzantine đoàn kết lại và khôi phục ít nhiều, họ không còn có thể tái chiếm Tiểu Á và thường xuyên trong thế phòng thủ. Người Thổ cũng có những khó khăn của mình, đánh mất Jerusalem vào tay nhà Fatima ở Ai Cập và trải qua một loạt các cuộc nội chiến. Trong khi đó Byzantine lại phải đối đầu với một Bulgary đang hồi sinh và lan rộng khắp miền Balkan cuối thế kỉ 12 và thế kỉ 13. Các cuộc Thập tự chinh ban đầu nhằm để chiếm lại thánh địa Jerusalem từ tay Hồi giáo. Cuộc thập tự chinh thứ nhất do Giáo hoàng Urbanus II (tại vị 1088-1099) tuyên cáo khởi xướng tại Công đồng Clermont năm 1095 để đáp lại lời thỉnh cầu từ Hoàng đế Byzantine Alexios I Komnenos (cai trị 1081-1118) xin cứu viện chống lại quân Hồi giáo xâm lược. Urbanus hứa hẹn xá tội cho bất kỳ ai tham gia. Hàng chục ngàn người thuộc mọi tầng lớp xã hội được huy động trên khắp châu Âu và đã đánh chiếm Jerusalem thành công năm 1099. Một đặc điểm của các cuộc thập tự chinh là các cuộc tàn sát nhằm vào người Do Thái địa phương thường diễn ra khi những người lính thập tự rời bỏ đất nước họ hành trình về phương Đông. Các cuộc tàn sát này đặc biệt đẫm máu trong cuộc thập tự chinh thứ nhất, khi các cộng đồng Do Thái ở Cologne, Mainz và Worms bị hủy diệt, và những cộng đồng khác ở những thành phố dọc sông Seine và sông Rhine cũng gần như diệt vong. Một sản phẩm tự nhiên khác của thập tự chinh là việc thành lập những dòng tu mới mang tính cách vũ trang, như Hiệp sĩ dòng Đền hay Hiệp sĩ Cứu tế, trộn lẫn đời sống tu đạo với nghĩa vụ quân ngũ. Quân thập tự củng cố những miền đất chiếm được bằng cách lập nên các nhà nước mới. Trong thế kỉ 12 và 13, một loạt các cuộc tranh chấp xảy ra giữa những nhà nước này và các nước Hồi giáo xung quanh. Sự thỉnh cầu từ các quốc gia tới giáo hoàng dẫn tới những cuộc thập tự chinh về sau, chẳng hạn như Cuộc thập tự chinh thứ ba, được triệu tập để nỗ lực giành lại Jerusalem vốn bị Saladin (mất năm 1193) chiếm năm 1187. Năm 1203, dưới tác động của Cộng hòa Venezia, cuộc Thập tự chinh thứ tư bị phân tán khỏi mục tiêu ban đầu là Đất Thánh sang Constantinople (từ lâu là đối thủ thương mại của Venezia), chiếm đóng thành phố này năm 1204, lập nên Đế quốc Latin và làm suy sụp Byzantine. Người Byzantine khôi phục được thành đô năm 1261, nhưng không bao giờ khôi phục lại được sức mạnh trước kia. Tới năm 1291 tất cả các nhà nước của quân thập tự đều bị chiếm đóng hoặc bị đẩy lùi khỏi nội địa, mặc dù một vương quốc trên danh nghĩa là Vương quốc Jerusalem vẫn tồn tại trên đảo Síp thêm được ít năm sau đó. Các đời giáo hoàng cũng kêu gọi thập tự chinh hướng tới các miền dị giáo khác: ở Tây Ban Nha, ở bắc Pháp, và dọc theo bờ Baltic. Thập tự chinh ở Tây Ban Nha hòa trộn với cuộc Reconquista diễn ra từ trước đó. Mặc dù những hiệp sĩ dòng Đền và dòng Cứu tế cũng tham gia vào thập tự chinh ở đây, người Tây Ban Nha cũng lập ra những dòng tu quân sự tương tự, mà phần lớn về sau nhập vào Dòng tu Calatrava và Dòng tu Santiago đầu thế kỉ 12. Bắc Âu cũng từng nằm ngoài ảnh hưởng của Ki-tô giáo cho tới thế kỉ 11, và trở thành điếm đến thập tự chinh trong giai đoạn thế kỉ 12-thế kỉ 14, dẫn tới sự thành lập Hội Huynh đệ của thanh kiếm Livonia. Một dòng khác, Hiệp sĩ Teuton, ban đầu thành lập ở các nhà nước thập tự quân, từ 1225 tập trung phần lớn hoạt động của nó về Baltic và năm 1309 chuyển tổng hành dinh tới Marienburg ở Phổ. === Đời sống trí thức === Trong thế kỉ 11, những sự phát triển trong triết học và thần học dẫn tới những hoạt động trí thức gia tăng. Nổi bật khi đó là cuộc tranh luận giữa những người duy thực và những người duy danh về quan niệm "Phổ quát". Các luận văn triết học được kích thích nhờ sự tái khám phá tư tưởng Aristoteles với sự nhấn mạnh của triết gia cổ điển này về chủ nghĩa kinh nghiệm và chủ nghĩa duy lý. Các học giả như Pierre Abélard (mất năm 1142) và Pierre Lombard (mất năm 1164) giới thiệu logic Aristoteles vào thần học. Cuối thế kỉ 11 và đầu thế kỉ 12 cũng chứng kiến nhiều trường học ở nhà thờ lớn mọc lên trên khắp châu Âu, báo hiệu sự dịch chuyển trung tâm giáo dục từ những trường dòng tu viện sang các nhà thờ lớn và thị trấn. Các trường học này đến lượt nó dần thay thế bởi các trường đại học thành lập tại các thành phố chính ở châu Âu. Triết học và thần học trộn lẫn nhau trong chủ nghĩa kinh viện, một nỗ lực của các học giả thế kỉ 12-13 nhằm hòa giải các văn bản có thẩm quyền, nhất là giữa Aristoteles và Kinh Thánh. Phong trào này thử áp dụng một cách tiếp cận hệ thống với chân lý và lý trí và kết tinh trong tư tưởng của Thomas Aquinas (mất năm 1274), người viết cuốn Summa Theologica (Tổng luận Thần học). Đời sống cung đình ở hoàng gia và giới quý tộc chứng kiến sự phát triển của tinh thần hiệp sĩ và phong thái tình yêu cung đình. Văn hóa này được biểu hiện trong các ngôn ngữ thế tục hơn là Latin, và bao gồm những bài thơ, truyện kể, huyền thoại, và những bài hát dân dã được lan truyền bởi những nghệ sĩ hát rong (troubadour). Thông thường những câu truyện được viết thành những anh hùng ca (tiếng Pháp:chansons de geste) như Bài ca Roland hay Bài ca Hildebrand. Lịch sử thế tục và tôn giáo cũng được biên soạn. Geoffrey của Monmouth (mất khoảng 1155) biên soạn cuốn "Lịch sử các vị vua nước Anh", một tập hợp các truyện kể và huyền thoại về Vua Arthur. Các công trình khác có tính lịch sử hơn, như "Những đại chiến công của Hoàng đế Friedrich" của Otto của Freising (mất năm 1158) chép về Friedrich Barbarossa, hay sách của William của Malmesbury (mất khoảng 1143) về các vị vua Anh. Nghiên cứu luật học tiến bộ trong thế kỉ 12. Cả luật thế tục và luật giáo hội được nghiên cứu trong thời Trung kỳ Trung Đại. Luật thế tục, tức luật Rôma, có những tiến bộ lớn lao nhờ sự khám phá ra Bộ Luật Dân sự của Byzantine ở thế kỉ 11, và tới năm 1100 luật Rôma đã được giảng ở Đại học Bologna. Điều này dẫn tới việc ghi chép và tiêu chuẩn hóa các bộ luật trên khắp châu Âu. Luật giáo hội cũng được nghiên cứu, và khoảng năm 1140 một linh mục tên là Gratian dạy ở Bologna viết nên tác phẩm mà về sau trở thành kinh điển của luật giáo hội Decretum Gratiani. Trong số những kết quả của ảnh hưởng Hy Lạp và Hồi giáo trong thời kỳ này của lịch sử châu Âu là sự thay thế số La Mã bằng hệ đếm có cơ số thập phân và sự phát minh ra đại số, cho phép toán học phát triển hơn. Hiểu biết về thiên văn học cũng được cải thiện với việc dịch Almagest của Ptolemaeus từ tiếng Hy Lạp sang tiếng Latin vào cuối thế kỉ 12. Y học cũng được nghiên cứu, đặc biệt là ở Nam Ý, nơi y học Hồi giáo ảnh hưởng tới trường y ở Salerno. === Kỹ thuật và quân sự === Trong các thế kỉ 12 và 13, châu Âu chứng kiến sự phát triển kinh tế và cải tiến trong phương thức sản xuất. Các tiến bộ công nghệ quan trọng bao gồm sự phát minh ra cối xay gió, những chiếc đồng hồ cơ học đầu tiên, chưng cất rượu bia, và phổ biến việc sử dụng thước trắc tinh. Kính mắt cầu lõm được phát minh khoảng năm 1286 bởi một thợ thủ công người Ý khuyết danh, có lẽ làm việc tại hoặc gần Pisa. Sự phát triển của chế độ quay vòng ba vụ trong trồng trọt gia tăng tận dụng đất đai từ nửa năm trong chế độ hai vụ trước kia lên hai phần ba thời gian trong năm, kéo theo đó là năng suất tăng lên. Sự phát triển của cày kích thước lớn cho phép cày xới các loại đất đặc nặng hiệu quả hơn, bên cạnh sự phổ biến của vòng cổ ngựa, dẫn tới việc sử dụng ngựa kéo thay thế cho bò. Ngựa nhanh hơn bò và cần ít cỏ hơn, những yếu tố này tạo điều kiện thuận lợi cho chế độ ba vụ hình thành. Việc xây dựng những đại giáo đường và lâu đài giúp kỹ thuật xây dựng tiến bộ, dẫn tới sự phát triển của kiến trúc đá cỡ lớn. Các cấu trúc phụ thuộc bao gồm những tòa thị sảnh, căn hộ, cầu cống, kho thuế mới. Nghề đóng tàu cũng được cải tiến với việc sử dụng sườn và ván thay vì hệ thống đục mộng từ thời Rôma cổ. Các cải tiến khác bao gồm việc sử dụng buồm tam giác và bánh lái đuôi, cả hai giúp tăng tốc độ tối đa của tàu. Quân sự chứng kiến một sự gia tăng bộ binh với những vai trò chuyên biệt. Cùng với kỵ binh nặng vẫn có vai trò chủ chốt, các đội quân thường có lính bắn nỏ bộ binh hoặc cưỡi ngựa, cũng như công binh và kỹ sư. Nỏ đã xuất hiện từ hậu kỳ Cổ đại, ngày càng được ưa chuộng vì chiến tranh công thành trở thành trận thế phổ biến từ thế kỉ 10-11. Việc sử dụng nỏ ngày càng nhiều trong thế kỉ 12 và 13 dẫn tới việc sử dụng mũ giáp che mặt, áo giáp nặng, cũng như giáp sắt che cho ngựa chiến. Thuốc súng đã xuất hiện ở châu Âu giữa thế kỉ 13, và ghi nhận lần đầu tiên được sử dụng trong chiến tranh là bởi người Anh trong cuộc chiến chống người Scotland năm 1304, mặc dù thuần túy là thuốc nổ chứ không phải vũ khí. Đại bác được sử dụng để công thành từ những năm 1320, và súng cầm tay được sử dụng ít nhất từ những năm 1360. === Kiến trúc, nghệ thuật và âm nhạc === Vào thế kỉ 10 sự thành lập các nhà thờ, tu viện dẫn tới sự phát triển của kiến trúc đá trau chuốt các dạng thức Rôma thế tục, được biết tới tên kiến trúc Roman (tiếng Pháp: Romanesque). Ở nhiều nơi, các công trình thời Rôma bị tháo dỡ đi lấy gạch, đá làm vật liệu xây dựng. Từ sự khởi đầu dè dặt thường được gọi là kiến trúc "Roman thứ nhất" ở miền Iberia, phong cách mô phỏng Rôma này nở rộ và lan tràn khắp châu Âu trong một dạng đồng nhất đáng ngạc nhiên. Ngay trước năm 1000 có một làn sóng ồ ạt xây dựng những nhà thờ đá trên khắp châu Âu. Các công trình Roman đặc trưng bởi tường đá đồ sộ, các lối vào đỡ lấy các cung bán nguyệt, cửa sổ nhỏ, và, đặc biệt là ở Pháp, các mái vòm đá. Cửa chính lớn với phù điêu tô màu là đặc điểm trung tâm của mặt tiền, đặc biệt là ở Pháp, và cá đầu cột thường chạm những cảnh minh họa động vật hoặc quái thú. Theo sử gia nghệ thuật C. R. Dodwell, "hầu như mọi nhà thờ ở phương Tây đều được trang trí bằng tranh tường", nhưng chỉ còn một ít lưu lại tới nay. Đồng thời với sự phát triển kiến trúc nhà thờ, các dạng lâu đài đặc trưng châu Âu cũng phát triển, và đóng vai trò quan trọng trong chiến trận và chính trị. Trong thời kỳ việc chế bản các sách kinh trang trí dần dần chuyển từ các tu viện sang tay các xưởng của dân chúng, vì thế theo Janetta "tới khoảng 1300 hầu hết các linh mục mua sách của họ ở cửa hàng", và các cuốn kinh nhật tụng phát triển như một dạng sách cầu nguyện dành cho thường dân. Các đồ kim khí tiếp tục là dạng nghệ thuật được trân trọng nhất, với đồ đồng tráng men Limoges là một lựa chọn phổ biến và giá tương đối phải chăng cho các đồ vật như hòm thánh tích hay thánh giá. Ở Ý các cách tân của Cimabue và Duccio, tiếp đó là bậc thầy thời kỳ Trecento là Giotto (mất năm 1337), phát triển vượt bậc độ tinh xảo và vị thế của tranh vẽ trên ván và tranh tường. Sự thịnh vượng kinh tế trong thế kỉ 12 dẫn đến nhiều sản phẩm nghệ thuật thế tục hơn, nhiều đồ chạm ngà như con súc sắc, lược và một số tranh tôn giáo cỡ nhỏ còn tồn tại tới ngày nay. === Đời sống giáo hội === Cải cách tu viện trở thành một vấn đề quan trọng trong thế kỉ 11, khi giới thượng lưu bắt đầu lo ngại rằng giới tu sĩ không trung thành với luật lệ gắn họ vào một đời sống tôn giáo nghiêm khắc. Tu viện Cluny, thành lập ở vùng Mâcon thuộc Pháp năm 909, đã khởi đầu Cải cách Cluny, một phong trào cải cách rộng lớn để đáp lại nỗi sợ trên. Cluny nhanh chóng thiết lập danh tiếng về sự khổ hạnh và tính khắt khe. Nó tìm cách duy trì chất lượng đời sống tu hành bằng cách đặt chính mình dưới sự bảo trợ của giáo hoàng và bằng cách tự bầu tu viện trưởng mà không có can thiệp từ thường dân, do đó duy trì sự độc lập về kinh tế và chính trị đối với các lãnh chúa địa phương. Cải cách tu viện gợi hứng cho những thay đổi trong giáo hội triều. Các lý tưởng mà nó dựa trên được đưa tới chế độ giáo hoàng bởi Giáo hoàng Leo IX (tại vị 1049-1054), và cung cấp hệ tư tưởng về sự độc lập của giới tăng lữ dẫn tới Tranh cãi Tấn phong trong cuối thế kỉ 11. Tranh cãi này liên quan tới Giáo hoàng Gregorius VII (tại vị 1073-1085) và Hoàng đế Heinrich IV, bắt đầu tranh chấp về việc bổ nhiệm giám mục, sau chuyển thành một cuộc chiến về quan niệm tấn phong, hôn nhân tăng lữ, và mại thánh. Hoàng đế xem việc bảo trợ nhà thờ như một trong các chức trách của mình cũng như muốn duy trì quyền bổ nhiệm người ông ta muốn vào các vị trí giám mục trong lãnh địa của mình, còn giáo hoàng nhấn mạnh sự độc lập của nhà thờ khỏi các vị lãnh chúa thế tục. Những vấn đề này còn tiếp tục tồn tại ngay cả sau khi có sự nhượng bộ giữa hai bên năm 1122 với Giáo ước Worms. Tranh cãi này đại điện cho một giai đoạn đáng chú ý trong sự hình thành nền quân chủ giáo hoàng tách biệt và ngang hàng với chính quyền thế tục. Nó cũng có những hậu quả lâu dài tới việc ban quyền cho các hoàng thân Đức làm tổn thương uy thế của Hoàng đế Rôma Thần thánh. Trung kỳ Trung Cổ là một thời đại của những phong trào tôn giáo vĩ đại. Bên cạnh những cuộc thập tự chinh và cải cách tu viện, con người tìm cách tham gia vào những dạng thức mới của đời sống tôn giáo. Nhiều dòng tu được thành lập, trong đó có các dòng Citeaux và Chartreux. Dòng Citeaux mở rộng đặc biệt nhanh chóng từ miền Bourgogne trong những năm đầu tiên dưới sự dẫn dắt của thánh Bernard (mất năm 1153). Những dòng tu mới này được thành lập để đáp lại tình cảm của dân chúng rằng tu viện dòng Benedict không còn đáp ứng được nhu cầu của giáo dân, những người cùng với những ước mong bước vào đời sống tôn giáo đều muốn một sự trở lại của đời sống ẩn tu đơn giản hơn của thời Ki-tô sơ khai, hoặc sống một cuộc đời sứ đồ. Các cuộc hành hương tôn giáo cũng được khuyến khích. Những vị trí hành hương cũ như Rôma, Jerusalem, và Compostela thu hút một lượng khách lớn, và các địa điểm mới như Monte Gargano và Bari cũng trở nên nổi bật. Trong thế kỉ 13 các dòng tu hành khất-dòng Francis và dòng Dominic- những người tuyên khấn sống đời nghèo khó và kiếm sống bằng cách hành khất, được giáo hoàng chuẩn thuận. Các nhóm tôn giáo như phái Vaudès (Waldo) hay Humiliati cũng cố gắng trở lại đời sống Ki-tô sơ khai trong thế kỉ 12 và đầu thế kỉ 13, nhưng họ bị giáo hoàng kết tội dị giáo. Những người khác gia nhập giáo phái Cathar, một phong trào tôn giáo khác bị quy kết là "Giáo hội của Satan". Năm 1209, một cuộc thập tự chinh được kêu gọi chống những người theo phái này, tức Thập tự chinh Cathar, kết hợp với tòa án dị giáo để dập tắt phong trào. == Hậu kỳ Trung Cổ == === Chiến tranh, nạn đói và dịch bệnh === Những năm đầu tiên của thế kỉ 14 được đánh dấu bởi nạn đói, đỉnh điểm là Đại nạn đói năm 1315-1317. Nguyên nhân của nạn đói này bao gồm sự chuyển dịch từ thời kỳ ấm Trung cổ sang thời Tiểu Băng hà, khiến cho dân chúng lao đao khi thời tiết xấu gây mất mùa. Những năm 1313-1314 và 1317-1321 trên toàn châu Âu đặc biệt nhiều mưa, khiến cho khắp nơi thất thu gặt hái. Thay đổi khí hậu-dẫn đến sụt giảm nhiệt độ trung bình hàng năm trong thế kỉ 14 đi kèm với một đợt suy thoái kinh tế. Những khó khăn này được tiếp nối năm 1347 bởi Cái chết Đen, một bệnh dịch lan tràn khắp châu lục trong ba năm sau đó. Con số tử vong vào cỡ 35 triệu người trên toàn châu Âu, tức một phần ba dân số. Các thị trấn đặc biệt bị tàn phá bởi các điều kiện sinh hoạt chật chội ở đó. Nhiều vùng rộng lớn trở nên hoàn toàn hoang vắng, và ở một số vùng các cánh đồng không có người canh tác. Tiền công tăng lên vì địa chủ tìm cách thu hút lượng nhân công khan hiếm tới cánh đồng của mình. Các thảm họa càng kéo dài tiền thuê đất càng giảm và nhu cầu lương thực cũng giảm theo, cả hai điều làm giảm thu nhập từ nông nghiệp của địa chủ. Những thợ thủ công ở thành thị cũng bắt đầu cảm thấy rằng họ có quyền được trả lương khá hơn, và mâu thuẫn xã hội bùng lên thành những cuộc nổi dậy quy mô lớn ở nhiều nơi. Trong số đó có phong trào Jacquerie ở Pháp, khởi nghĩa nông dân ở Anh, và các cuộc nổi loạn ở Firenze (Ý) và Gent, Brugge (Vlaanderen). Sự tàn phá khủng khiếp của bệnh dịch dẫn đến một sự mộ đạo sám hối trên khắp châu Âu, thể hiện thành những quỹ từ thiện mới được thành lập, phong trào tự hành xác tập thể của "những người tự đánh đòn" (flagellant), và quy người Do Thái gây nên bệnh dịch và tăng cường ngược đãi họ. Tình hình ngày càng trở nên mất ổn định khi bệnh dịch còn tái phát nhiều lần trong suốt phần còn lại của thế kỉ 14; nó thậm chí còn tiếp tục tấn công châu Âu một cách định kì trong phần còn lại của thời Trung Cổ. === Xã hội và kinh tế === Xã hội toàn châu Âu bị xáo trộn bởi Cái chết Đen. Các mảnh đất từng cho năng suất thấp bị bỏ hoang, vì những người sống sót nay dễ kiếm được những mảnh đất màu mỡ hơn. Mặc dù chế độ nông nô suy giảm ở Tây Âu nó lại trở nên phổ biến hơn ở Đông Âu, vì địa chủ áp đặt nó lên những tá điền trước đó còn tự do. Hầu hết nông dân ở Tây Âu tìm cách thay đồi chuyển công lao động nợ địa chủ trước kia thành tiền thuê đất. Phần trăm nông nô trong giới nông dân giảm từ đỉnh cao 90 tới khoảng 50 phần trăm cuối thời kì này. Địa chủ cũng trở nên nhận thức nhiều hơn về lợi ích chung với các địa chủ khác, hợp lực với nhau để đòi hỏi đặc lợi từ chính quyền. Một phần dưới áp lực của địa chủ, các chính quyền tìm cách luật hóa một sự quay về các điều kiện kinh tế thời trước Cái chết Đen, nhưng ít thành công. Tỉ lệ biết đọc biết viết trong dân chúng ngày càng tăng, và dân cư thành thị bắt đầu bắt chước phong cách hiệp sĩ của giới quý tộc. === Các quốc gia hồi sinh === Thời Hậu kỳ Trung Cổ chứng kiến sự trỗi dậy của các quốc gia dân tộc quân chủ hùng mạnh đặc biệt là ở Anh, Pháp và các vương quốc Ki-tô giáo ở bán đảo Iberia: Aragon và Castilla, và Bồ Đào Nha. Những tranh chấp kéo dài cuối thời Trung Cổ tăng cường quyền kiểm soát của các hoàng gia lên vương quốc của họ, nhưng giới nông dân gánh chịu hậu quả. Các vị vua hưởng lợi từ chiến tranh tăng cường quyền lực hoàng gia và mở rộng miền đất trung ương kiểm soát trực tiếp. Việc chi trả cho chiến tranh đòi hỏi những biện pháp đánh thuế hiệu quả và hữu hiệu hơn, và mức thuế thường tăng ở khắp nơi. Mặt khác tầm quan trọng của thuế khóa kéo theo đó sự cần thiết đạt được đồng thuận của những người chịu đóng thuế dẫn tới các thể chế đại diện như Nghị viện Anh hay Hội nghị Đẳng cấp Pháp tích lũy quyền lực. Trong suốt thế kỉ 14, các vị vua Pháp tìm cách mở rộng ảnh hưởng họ trên các lãnh địa của quý tộc. Họ gặp thách thức lớn khi tìm cách tịch thu các tài sản của vua Anh ở miền nam Pháp, dẫn đến Chiến tranh Trăm Năm kéo dài đến tận năm 1453. Buổi đầu cuộc chiến người Anh dưới thời Edward III (cai trị 1327-1377) và con trai ông là Edward, Hoàng tử Đen (mất năm 1376) đã thắng các trận quan trọng ở Crécy và Poitiers, chiếm đóng thành phố trọng yếu Calais và kiểm soát phần lớn nước Pháp. Những áp lực kéo theo đó gần như đã khiến vương quốc Pháp tan rã trong những năm đầu cuộc chiến, tuy nhiên những khó khăn tài chính và nội bộ ở Anh khiến hai bên ký kết hòa ước. Vào đầu thế kỉ 15, nước Pháp một lần nữa tiến gần đến chỗ giải thể, khi Charles VI của Pháp phát bệnh điên và các lãnh chúa lao vào nội chiến, quân Anh dưới quyền Henry V đã đại thắng tại trận Agincourt (1415). Tuy nhiên, vào cuối những năm 1420 các thắng lợi quân sự của Jeanne d'Arc (mất năm 1431) dẫn tới chiến thắng chung cuộc của người Pháp và Anh đánh mất những lãnh địa cuối cùng ở miền nam Pháp vào năm 1453. Cái giả phải trả là rất đắt, với dân số Pháp chỉ còn khoảng một nửa so với trước cuộc chiến. Ngược lại, chiến tranh có tác động tích cực lên sự hình thành bản sắc dân tộc Anh, hòa trộn những tính cách địa phương vào một lý tưởng dân tộc Anh. Tranh chấp cũng giúp tạo nên một văn hóa dân tộc ở Anh tách biệt khỏi văn hóa Pháp mà trước đó từng có ảnh hưởng thống trị lên văn hóa Anh trước chiến tranh. Thời kì đầu của cuộc chiến cũng đánh dấu sự thống trị của cung dài (longbow), và sự xuất hiện của đại bác trên chiến trường tại Crécy năm 1346. Đế quốc Rôma Thần thánh tiếp tục tồn tại, nhưng do ngôi hoàng đế là do bầu cử, không có một triều đại nào kéo dài đủ lâu để xây dựng lên một nhà nước mạnh. Xa hơn về phía đông, các vương quốc Ba Lan, vương quốc Hungary và vương quốc Bohemia trở nên hùng mạnh. Các vương quốc ở bán đảo Iberia tiếp tục mở rộng lãnh thổ bằng cách đẩy lùi người Hồi giáo ra khỏi bán đảo; Bồ Đào Nha tập trung vào việc bành trướng hải ngoại trong thế kỉ 14, trong khi các vương quốc khác bị chia cắt bởi những khó khăn do việc kế tục vương vị và các vấn đề khác. Nước Anh, sau khi thất bại trong Chiến tranh Trăm Năm, tiếp tục rơi vào một cuộc nội chiến kéo dài biết đến dưới tên Chiến tranh Hoa Hồng, kéo dài tới tận năm 1490, và chỉ kết thúc khi Henry Tudor (cai trị năm 1485-1509) lên ngôi vua (tức Henry VII) và củng cố quyền kiểm soát đất nước sau chiến thắng trước Richard III (cai trị 1483-1485) tại trận Bosworth năm 1485. Miền Scandinavia trải qua một thời kì thống nhất dưới Liên minh Kalmar trong thế kỉ 14 và đầu thế kỉ 15, nhưng giải thể một lần nữa sau cái chết của Margrete I của Đan Mạch (mất năm 1412) người từng thống nhất Đan Mạch, Na Uy và Thụy Điển. Một thế lực quan trọng quanh biển Baltic là Liên hiệp Hanseatic, một liên minh thương mại của các thành bang có hoạt động buôn bán từ Tây Âu tới Nga. Scotland thoát ra khỏi sự thống trị của Anh dưới thời Robert Bruce (cai trị 1306-1329), người được giáo hoàng công nhận vương vị vào năm 1328. === Sự sụp đổ của Byzantine === Mặc dù các đời hoàng đế dòng Palaiologos tái chiếm Constantinopolis từ tay người Tây Âu năm 1261, họ không thể tái chiếm phần lớn các miền đất đế quốc trước kia. Lãnh thổ họ kiểm soát được thường chỉ bao gồm bản thân thành phố cộng thêm một phần nhỏ bán đảo Balkan gần Constantinople vài vùng ven biển Aegea và Biển Đen. Các miền đất thuộc Byzantine trước kia ở Balkan nay thuộc về Vương quốc Serbia, Đế chế Bulgaria thứ hai và Cộng hòa Venezia. Quyền lực của các hoàng đế Byzantine bị đe dọa bởi một bộ tộc người Thổ mới là Ottoman, những người xây dựng lực lượng ở miền Anatolia đầu thế kỉ 13 và đều đặn bành trướng trong khắp thế kỉ 14. Người Ottoman bành trướng vào châu Âu, biến Bulgaria thành một nước chư hầu năm 1366 và chiếm Serbia sau khi đánh bại vương quốc này tại trận Kosovo năm 1389. Người Tây Âu tập hợp lại trước cảnh ngộ người Ki-tô giáo ở Balkan và tuyên bố một cuộc thập tự chinh mới vào năm 1396, một đội quân lớn được gửi tới đây nhưng bị đánh bại tại trận Nicopolis. Bị bao vây tứ phía và kiệt quệ sức lực, thành Constantinople-thành đô lớn nhất châu Âu trong 1000 năm-thất thủ sau gần hai tháng cầm cự vào năm 1453. === Tranh cãi bên trong Giáo hội === Thế kỉ 14 đầy khó khăn chứng kiến thời kỳ vua Pháp buộc các đời Giáo hoàng dời tới Avignon những năm 1305-1378, cũng gọi là cuộc lưu đày Babylon của Giáo hoàng (liên hệ tới cuộc lưu đày Babylon của người Do Thái), và sau đó là Ly giáo Tây phương từ năm 1378 tới 1418, khi có hai, sau đó là ba, vị giáo hoàng đối địch, mỗi vị được một số quốc gia kình địch nhau ủng hộ. Những năm đầu thế ki 15, sau một thời kì biến động, các chức sắc giáo hội họp tại Công đồng Constance (1414) và quyết định lần lượt bãi miễn các vị giáo hoàng và đến tháng 11 năm 1417 bầu lên Giáo hoàng Martinus V. Bên cạnh ly giáo, giáo hội phương tây cũng chia rẽ trong các tranh cãi thần học, và một số bị quy thành dị giáo. John Wycliffe (mất năm 1384), một nhà thần học Anh bị buộc tội dị giáo năm 1415 do truyền giảng rằng giáo dân cần phải được tiếp cận Kinh Thánh (vốn trước giờ chỉ dành cho giáo sĩ) cũng như giữ quan điểm về Tiệc thánh khác với giáo lý giáo hội. Những bài giảng của Wycliffe ảnh hướng tới hai trong số những phong trào dị giáo lớn thời hậu kỳ Trung Cổ: Lollardy ở Anh và Hussite ở Bohemia. Người Bohemia cũng chịu ảnh hưởng từ những bài giảng của Jan Hus, người bị lừa triệu tập tới Công đồng Constance rồi đem hỏa thiêu năm 1415. Giáo hội Hussite đã chiến thắng một cuộc thập tự chinh và tồn tại qua thời Trung Cổ, báo trước Cải cách Tin Lành sau này. Các tranh chấp khác cũng xảy ra, như việc buộc tội chống lại hiệp sĩ dòng Đền dẫn tới lệnh cấm dòng tu này hoạt động năm 1312, và sự chia rẽ giữa vua Pháp Philippe IV (cai trị 1285-1314) và dòng Hiệp sĩ Cứu tế. Trong thời Hậu kỳ Trung Đại, Giáo hoàng thay đổi thực hành trong thánh lễ, quy định rằng chỉ có linh mục mới được hưởng phần rượu thánh trong Tiệc thánh. Điều này tăng khoảng cách giữa giáo dân và giáo sĩ. Giáo dân tiếp tục tiến hành những cuộc hành hương, tôn kính thánh tích, và tin có quyền lực của quỷ dữ. Những nhà thần bí như Meister Eckhart (mất năm 1327) hay Thomas à Kempis (mất năm 1471) viết những tác phẩm dạy giáo dân tập trung vào đời sống tinh thần bên trong, đặt nền tảng cho Kháng Cách. Bên cạnh chủ nghĩa thần bí, niềm tin vào phù thủy phổ biến rộng khắp, vào cuối thế kỉ 15 Giáo hội bắt đầu cung cấp thêm căn cứ cho nỗi sợ phù thủy trong dân chúng bằng sự lên án phù thủy vào năm 1484 và công bố cuốn Malleus Maleficarum (Lưỡi búa phù thủy), được xem như sổ tay trong những cuộc săn phù thủy ở thời cận đại. === Học giả, trí thức và phát kiến địa lý === Cuối thời Trung Đại chứng kiến một sự phản ứng lại chủ nghĩa kinh viện, dẫn đầu bởi John Duns Scotus (mất năm 1308) và William xứ Ockham (mất khoảng năm 1348), cả hai đều chống lại sự áp dụng lý trí vào đức tin. Nỗ lực của họ, cùng với những người khác, dẫn tới một sự xói mòn ý tưởng kiểu Platon về "cái phổ quát" thịnh hành đương thời. Sự nhấn mạnh củ Ockham rằng lý trí vận hành độc lập với đức tin cho phép khoa học tách khỏi thần học và triết học. Các nghiên cứu luật học cũng ghi nhận sự thắng thế từ từ của luật Rôma vào các lĩnh vực tư pháp trước đây cai quản bởi luật phong tục. Một ngoại lệ của khuynh hướng này là ở Anh, nơi luật tục vẫn còn phổ biến. Các quốc gia cũng san định các điều luật riêng lẻ thành các bộ luật, không chỉ ở trung tâm châu Âu mà cả những miền xa xôi như Castilla hay Lithuania. Giáo dục vẫn chủ yếu tập trung vào việc đào tạo tầng lớp giáo sĩ kế cận. Việc học chữ viết và số cơ bản diễn ra trong phạm vi gia đình và từ các linh mục của làng, nhưng các môn trung học–ngữ pháp, tu từ, luận lý–được gọi là trivium, thì được dạy ở các trường thuộc nhà thờ chính tòa hoặc trường thành phố. Các trường tư xuất hiện, nhất là ở các thành thị Ý. Các trường đại học cũng lan rộng khắp châu Âu trong các thế kỉ 14 và 15. Sự nổi lên của văn học thế tục tăng cường, với Dante (mất năm 1321) và Petrarca (mất năm 1374) và Giovanni Boccaccio (mất năm 1375) ở Ý thế kỉ 14, Geoffrey Chaucer (mất năm 1400) và William Langland (mất năm 1386) ở Anh, và François Villon (mất năm 1464) và Christine de Pizan (mất khoảng năm 1430) ở Pháp. Phần lớn văn học mang tính cách tôn giáo, và mặc dù một phần lớn của nó được viết bằng tiếng Latin, một nhu cầu mới phát triển về đời sống các vị thánh và các tiểu luận tôn giáo khác trong ngôn ngữ thế tục. Điều này được nuôi dưỡng của sự lớn mạnh của phong trào Devotio Moderna và cả trong các tác phẩm của những nhà thần bí Đức như Meister Eckhart và Johannes Tauler (mất năm 1361). Sân khấu cũng phát triển dưới cái vỏ của kịch phép màu biểu diễn bởi nhà thờ. Vào cuối thời kì này, sự phát triển của công nghệ in vào khoảng năm 1450 dẫn tới sự thành lập của các nhà xuất bản khắp châu Âu vào khoảng năm 1500. Tỉ lệ biết chữ trong giới bình dân tăng lên, nhưng vẫn còn thấp: một ước tính cho rằng tỉ lệ này cỡ 10 phần trăm ở đàn ông và một phần trăm ở phụ nữ vào năm 1500. Từ thế kỉ 15, các quốc gia trên bán đảo Iberia bắt đầu tài trợ các cuộc khám phá ngoài lãnh thổ châu Âu. Hoàng tử Henry Nhà hàng hải của Bồ Đào Nha (mất năm 1460) đã gửi các đoàn thám hiểm khám phá ra quần đảo Canaria, Açores và Cabo Verde. Sau khi ông mất, các cuộc thám hiểm tiếp tục; Bartolomeu Dias (mất năm 1500) đi vòng quanh Mũi Hảo Vọng năm 1486 và Vasco da Gama (mất năm 1524) dong thuyền vòng qua châu Phi để tới Ấn Độ năm 1498. Các nhà quân chủ Tây Ban Nha ở Castilla và Aragon cùng nhau tài trợ chuyến thám hiểm của Cristoforo Colombo (mất năm 1506) năm 1492 dẫn tới việc tìm thấy châu Mỹ. Nước Anh dưới thời Henry VII tài trợ chuyến đi của John Cabot (mất năm 1498) năm 1497 đặt chân tới đảo Cape Breton (gần Canada lục địa). === Tiến bộ kỹ thuật và quân sự === Một trong những phát triển quan trọng trong lĩnh vực quân sự thời Hậu kỳ Trung Cổ là việc sử dụng ngày càng nhiều bộ binh và khinh kỵ. Người Anh còn sử dụng lính cung dài như một lực lượng then chốt, nhưng các quốc gia khác bắt chước thành lập các lực lượng tương tự không thành công. Áo giáp tiếp tục phát triển, và áo giáp tấm ra đời dưới áp lực của sức mạnh ngày càng tăng của nỏ cũng như súng cầm tay mới xuất hiện. Các vũ khí cán dài như thương, giáo trở nên nổi bật với sự phát triển của bộ binh Bỉ và Thụy Sĩ trang bị bằng các loại giáo dài. Trong nông nghiệp, một tiến bộ đáng kể là việc sử dụng ngày càng nhiều cừu cho len sợi dài cho phép cộn những ống sợi chắc hơn. Quan trọng không kém là việc thay thế con quay truyền thống bằng bánh xe sợi, làm tăng gấp ba năng suất xe sợi bằng tay. Một cải tiến ít có tính công nghệ hơn nhưng có tác động đáng kể tới đời sống thường nhật là việc sử dụng cúc để đóng quần áo, giúp cho quần áo vừa người hơn mà không phải nịt chặt vào người mặc. Các cối xay gió được tinh chỉnh với sự xuất hiện của các cối xay dạng tháp, cho phép phần trên của cối xay quay xung quanh để hướng vào bất kì hướng gió nào đang thổi. Các bễ lò xuất hiện khoảng năm 1350 ở Thụy Điển, tăng cường số lượng sắt chế tạo và cải tiến chất lượng. Luật cấp bằng sáng chế đầu tiên năm 1447 ở Venezia bảo vệ quyền của nhà phát minh đối với tài sản trí tuệ của họ. === Nghệ thuật và kiến trúc === Hậu kỳ Trung Đại ở châu Âu xét toàn thể tương ứng với các thời kì văn hóa Trecento và Sơ kỳ Phục Hưng ở Ý, mặc dù Bắc Âu và Tây Ban Nha tiếp tục theo phong cách Gothic, ngày càng tinh xảo trong thế kỉ 15, cho đến gần hết thời Trung Đại. Gothic quốc tế là một phong cách cung đình phổ biến khắp châu Âu những thế kỉ gần 1400, tạo nên những kiệt tác như Très Riches Heures du Duc de Berry. Nghệ thuật thế tục tiếp tục gia tăng về số lượng và chất lượng và trong thế kỉ 15 tầng lớp buôn bán ở Ý và Vlaanderen trở thành những nhà bảo trợ quan trọng, đặt hàng những bức chân dung sơn dầu cũng như một lượng lớn những đồ trang sức, tráp ngà, rương cassone và đồ gốm maiolica. Mặc dù các vương tộc thường sở hữu những bộ sưu tập đồ lưu niệm khổng lồ, chỉ còn một ít lưu lại tới nay như Cúp Thánh Anê. Ngành sản xuất lụa của Ý phát triển đến mức các nhà thờ và giới thượng lưu phương Tây không còn cần phụ thuộc vào nguồn nhập khẩu từ Byzantine hay thế giới Hồi giáo. Ở Pháp và Vlaanderen nghề dệt thảm trở thành một ngành công nghiệp xa xỉ quan trọng. Các kiểu thức điêu khắc bên ngoài khổ lớn ở các nhà thờ giai đoạn đầu Gothic nhường chỗ cho những điêu khắc bên trong tòa nhà, và các hầm mộ trở nên tinh xảo trong khi nhiều chi tiết khác như bục giảng kinh đôi khi được chạm khắc lộng lẫy như ở nhà thờ Sant'Andrea (Ý). Các bàn thờ bằng gỗ được chạm hoặc sơ trở nên phổ biến, đặc biệt vì các nhà thờ tạo nên các giáo đường nhỏ. Hội họa Hà Lan sơ kỳ bởi những nghệ sĩ như Jan van Eyck (mất năm 1441) và Rogier van der Weyden (mất năm 1464) cạnh tranh với hội họa Ý, cũng như các thủ bản minh họa phương bắc, mà trong thế kỉ 15 được sưu tầm ở quy mô lớn bởi giới thượng lưu, những người cũng đặt hàng các cuốn sách thế tục, đặc biệt là lịch sử. Từ khoảng năm 1450 sách in nhanh chóng trở nên phổ biến, mặc dù vẫn còn rất đắt. Có khoảng 30 nghìn đầu sách hoặc tác phẩm khác nhau được in trước năm 1500, ở thời mà các thủ bản minh họa chỉ do hoàng gia và một vài người khác đặt hàng. Các tranh khắc gỗ nhỏ, phần lớn có tính cách tôn giáo, thường giá phải chăng hơn ngay cả với nông dân ở một số miền thuộc phía bắc châu Âu từ giữa thế kỉ 15. Các tranh khắc kim loại đắt tiền hơn và dành cho một thị trường những người giàu có hơn. == Cách nhìn nhận hiện đại == Thời Trung Cổ thường bị bóp méo thành một "thời kì của sự ngu dốt và mê tín" đặt "lời nói của những thế lực tôn giáo lên trên trải nghiệm cá nhân và hoạt động lý trí." Đây là điều để lại từ cả thời Phục Hưng và thời Khai sáng, khi các học giả tìm cách đối lập văn hóa tinh thần của họ với văn hóa Trung Cổ, lẽ dĩ nhiên thiên vị thời đại của họ. Các học giả Phục Hưng xem thời Trung Cổ như một thời kỳ suy thoái từ văn hóa tinh hoa và văn minh của thế giới Cổ điển; các học giả Khai sáng xem lý tính là ưu việt hơn đức tin, và do đó xem thời Trung Đại như một thời kỳ của mông muội. Những người khác lập luận rằng lý trí nhìn chung được xem trọng trong thời Trung Cổ. Sử gia khoa học Edward Grant viết, "Nếu các tư tưởng lý tính cách mạng được biểu hiện [trong Thời đại Lý tính], chúng chỉ có thể khả dĩ bởi vì truyền thống lâu dài từ Trung Cổ đã thiết lập việc sử dụng lý trí như một trong những hoạt động quan trọng nhất của con người". Đồng thời, trái với niềm tin thông thường, David Lindberg viết, "các học giả hậu kỳ Trung Cổ hiếm khi nếm trải sức mạnh cưỡng bức của nhà thờ và sẽ tự xem mình là tự do (đặc biệt trong các ngành khoa học tự nhiên) đi theo lý tính và quan sát bất cứ nơi nào chúng dẫn tới". Sự khắc họa sai lệch về thời kỳ này cũng được phản ánh trong một số ý niệm cụ thể hơn. Một quan niệm sai lầm, bắt đầu lan truyền trong thế kỉ 19 và vẫn còn rất phổ biến, đó là tất cả mọi người trong thời Trung Cổ tin rằng Trái Đất phẳng. Điều này không chính xác, vì các giảng viên trong các đại học Trung Cổ thông thường lập luận rằng bằng chứng cho thấy Trái Đất là một quả cầu. Lindberg và Ronald Numbers, một học giả khác về thời kỳ này, khẳng định rằng "hiếm có một học giả Ki-tô giáo nào thời Trung Cổ lại không nhận thức được tính chất cầu [của Trái Đất] và họ thậm chí biết chu vi xấp xỉ của nó". Một số lầm tưởng khác như "Giáo hội cấm đoán phẫu thuật và giải phẫu tử thi trong thời Trung Cổ", "sự trỗi dậy của Ki-tô giáo giết chết khoa học cổ đại", hay "giáo hội Ki-tô Trung Cổ dập tắt sự phát triển của triết học tự nhiên", tất cả được Numbers trích dẫn là những ví dụ về những huyền thoại phổ biến vẫn lan truyền như những sự thật lịch sử, trong khi chúng không được các nghiên cứu lịch sử hiện nay ủng hộ. == Chú thích == == Trích dẫn == == Tham khảo == == Liên kết ngoài == ORB The Online Reference Book of Medieval Studies Các bài viết thẩm định và bách khoa toàn thư về chủ đề NetSERF Liên kết Internet về các tư liệu Trung Cổ. De Re Militari: The Society for Medieval Military History Medievalmap.org Bản đồ tương tác của thời Trung Cổ (yêu cầu trình cắm Flash) Medieval Realms Tư liệu học tập từ Thư viện Anh bao gồm các nghiên cứu về các bản thảo Trung Đại Medievalists.net Tin tức và bài báo về thời kỳ này. Medieval.name Từ điển về các thuật ngữ và tên gọi Trung Cổ.
malaysia.txt
Malaysia (phiên âm tiếng Việt: "Ma-lai-xi-a") là một quốc gia quân chủ lập hiến liên bang tại Đông Nam Á. Quốc gia bao gồm 13 bang và ba lãnh thổ liên bang với tổng diện tích đất là 329.847 kilômét vuông (127.350 sq mi). Malaysia bị tách làm hai phần qua biển Đông: Malaysia bán đảo và Borneo thuộc Malaysia. Malaysia có biên giới trên bộ với Thái Lan, Indonesia, và Brunei, trong khi có biên giới trên biển với Singapore, Việt Nam, và Philippines. Thành phố thủ đô là Kuala Lumpur, song nơi đặt trụ sở của chính phủ liên bang là Putrajaya. Năm 2010, dân số Malaysia là 28,33 triệu, trong đó 22,6 triệu sinh sống tại phần Bán đảo. Malaysia có điểm cực nam của đại lục Á-Âu là Tanjung Piai. Malaysia là một quốc gia nhiệt đới, là một trong 17 quốc gia đa dạng sinh học siêu cấp trên Trái Đất, với nhiều loài đặc hữu. Malaysia có nguồn gốc từ các vương quốc Mã Lai hiện diện trong khu vực, và từ thế kỷ 18, các vương quốc này bắt đầu lệ thuộc vào Đế quốc Anh. Các lãnh thổ đầu tiên của Anh Quốc được gọi là Các khu định cư Eo biển. Các lãnh thổ tại Malaysia bán đảo được hợp nhất thành Liên hiệp Malaya vào năm 1946. Malaya được tái cấu trúc thành Liên bang Malaya vào năm 1948, và giành được độc lập vào ngày 31 tháng 8 năm 1957. Malaya hợp nhất với Bắc Borneo, Sarawak, và Singapore vào ngày 16 tháng 9 năm 1963, với từ si được thêm vào quốc hiệu mới là Malaysia. Đến năm 1965, Singapore bị trục xuất khỏi liên bang. Malaysia là một quốc gia đa dân tộc và đa văn hóa, đặc điểm này đóng một vai trò lớn trong chính trị quốc gia. Hiến pháp tuyên bố Hồi giáo là quốc giáo trong khi bảo vệ quyền tự do tôn giáo. Hệ thống chính quyền của Malaysia có mô hình gần với hệ thống nghị viện Westminster và hệ thống pháp luật dựa trên thông luật. Nguyên thủ quốc gia là quốc vương, được gọi là Yang di-Pertuan Agong. Người này là một quân chủ tuyển cử, được chọn từ các quân chủ kế tập của chín bang Mã Lai theo chế độ quân chủ, thay đổi sau mỗi 5 năm. Người đứng đầu chính phủ liên bang là thủ tướng. Kể từ khi độc lập, Malaysia trở thành một trong những nước có hồ sơ kinh tế tốt nhất tại châu Á, GDP tăng trưởng trung bình 6,5% trong gần 50 năm. Về truyền thống, yếu tố thúc đẩy kinh tế Malaysia là các nguồn tài nguyên thiên nhiên, song quốc gia cũng phát triển các lĩnh vực khoa học, du lịch, thương mại hay du lịch y tế. Ngày nay, Malaysia có một nền kinh tế thị trường công nghiệp mới, có GDP danh nghĩa xếp thứ ba tại Đông Nam Á và xếp thứ 29 trên thế giới. Malaysia là một thành viên sáng lập của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á, Hội nghị cấp cao Đông Á và Tổ chức Hợp tác Hồi giáo, và là một thành viên của Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á - Thái Bình Dương, Thịnh vượng chung các quốc gia, và Phong trào không liên kết. == Lịch sử == Có bằng chứng về việc người hiện đại cư trú tại Malaysia cách nay 40.000 năm. Tại bán đảo Mã Lai, các cư dân đầu tiên được cho là người Negrito. Các thương nhân và người định cư từ Ấn Độ và Trung Quốc đến từ thế kỷ 1 CN, lập nên các thương cảng và đô thị duyên hải vào thế kỷ 2 và 3. Sự xuất hiện của họ khiến ảnh hưởng của Ấn Độ và Trung Quốc có tác động mạnh đối các văn hóa bản địa, và người dân trên bán đảo Mã Lai tiếp nhận Ấn Độ giáo và Phật giáo. Các bản khắc bằng tiếng Phạn xuất hiện từ thế kỷ 4 hoặc 5. Vương quốc Langkasuka nổi lên vào khoảng thế kỷ 2 ở khu vực bắc bộ của bán đảo Mã Lai, tồn tại cho đến khoảng thế kỷ 15. Từ thế kỷ 7 đến thế kỷ 13, phần lớn nam bộ bán đảo Mã Lai là một phần của đế quốc hàng hải Srivijaya. Sau khi Srivijaya sụp đổ, đế quốc Majapahit có ảnh hưởng đối với hầu hết Malaysia bán đảo và quần đảo Mã Lai. Hồi giáo bắt đầu truyền bá trong cộng đồng người Mã Lai vào thế kỷ 14. Vào đầu thế kỷ 15, một hậu duệ của hoàng thất Srivijaya là Parameswara thành lập Vương quốc Malacca, đây thường được xem là quốc gia độc lập đầu tiên tại bán đảo Mã Lai. Đương thời, Malacca là một trung tâm thương mại quan trọng. Năm 1511, Bồ Đào Nha chinh phục Malacca, đến năm 1641 thì lãnh thổ này bị người Hà Lan chiếm đoạt. Năm 1786, Đế quốc Anh thiết lập một sự hiện diện tại Malaya, khi đó Sultan của Kedah cho Công ty Đông Ấn Anh thuê Penang. Người Anh giành được Singapore vào năm 1819, và đến năm 1824 thì đoạt quyền kiểm soát Malacca sau Hiệp định Anh-Hà Lan. Năm 1826, người Anh bắt đầu quản lý trực tiếp Penang, Malacca, Singapore, và đảo Labuan. Đến thế kỷ 20, tại các quốc gia Pahang, Selangor, Perak, và Negeri Sembilan, được gọi chung là Các quốc gia Mã Lai liên minh, có các thống sứ người Anh được bổ nhiệm để cố vấn cho các quân chủ Mã Lai theo điều khoản trong các hiệp định mà họ từng ký. Năm quốc gia còn lại trên bán đảo được gọi là Các quốc gia Mã Lai phi liên minh, các quốc gia này không chịu sự quản lý trực tiếp của người Anh, song cũng chấp thuận các cố vấn người Anh. Tiến triển tại Bán đảo và Borneo nhìn chung là tách biệt cho đến thế kỷ 19. Trong thời gian người Anh cai trị, họ khuyến khích người Hoa và người Ấn nhập cư để trở thành lao công. Khu vực mà nay là Sabah nằm dưới sự cai trị của người Anh với tên gọi Bắc Borneo khi cả Sultan của Brunei và Sultan của Sulu chuyển giao quyền sở hữu các lãnh thổ của riêng họ từ năm 1877 đến năm 1878. Năm 1842, Sultan của Brunei nhượng Sarawak cho James Brooke, các Rajah da trắng kế tập cai trị Vương quốc Sarawak độc lập cho đến khi lãnh thổ này trở thành một thuộc địa vương thất Anh vào năm 1946. Trong Chiến tranh thế giới thứ hai, quân đội Nhật Bản xâm nhập và chiếm đóng Malaya, Bắc Borneo, Sarawak, và Singapore trong ba năm. Trong thời kỳ này, căng thẳng sắc tộc gia tăng và chủ nghĩa dân tộc phát triển. Sự ủng hộ của dân chúng đối với độc lập tăng lên sau khi lực lượng Đồng Minh tái chiếm Malaya. Hậu chiến, người Anh tiến hành các nỗ lực nhằm hợp nhất việc cai quản Malaya trong một thuộc địa vương thất duy nhất gọi là Liên hiệp Malaya (Malayan Union), tuy nhiên điều này bị người Mã Lai phản đối mạnh, người Mã Lai phản đối việc địa vị của các quân chủ Mã Lai suy yếu và việc trao quyền công dân cho người gốc Hoa. Liên hiệp Malaya được thành lập vào năm 1946 và bao gồm toàn bộ các thuộc địa của Anh Quốc tại khu vực bán đảo Mã Lai, ngoại trừ Singapore, song chính thể này nhanh chóng bị giải thể và thay thế bởi Liên bang Malaya (Federation of Malaya), chính thể này khôi phục quyền tự trị cho các quân chủ của các quốc gia Mã Lai dưới sự bảo hộ của người Anh. Trong thời kỳ này, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Malaya, quân nổi dậy mà hầu hết là người gốc Hoa tiến hành các hoạt động du kích với mục đích đẩy người Anh ra khỏi Malaya. Tình trạng khẩn cấp Malaya kéo dài từ năm 1948 đến năm 1960, và liên quan đến một chiến dịch chống nổi loạn kéo dài của quân Thịnh vương chung tại Malaya. Sau đó, người ta đưa ra một kế hoạch nhằm Liên hiệp Malaya với các thuộc địa vương thất Bắc Borneo (gia nhập với tên Sabah), Sarawak, và Singapore. Ngày đề xuất hợp thành liên bang là 31 tháng 8 năm 1963, tuy nhiên, thời điểm bị trì hoãn cho đến ngày 16 tháng 9 năm 1963 do phản đối của Indonesia dưới quyền Tổng thống Sukarno và Đảng Nhân dân Liên hiệp Sarawak. Sự thành lập liên bang khiến các căng thẳng tăng cao, bao gồm một cuộc xung đột với Indonesia, Singapore bị trục xuất vào năm 1965, và xung đột sắc tộc. Xung đột sắc tộc lên đến đỉnh điểm trong các cuộc bạo loạn sắc tộc ngày 13 tháng 5 năm 1969. Sau các cuộc bạo loạn, Thủ tướng Tun Abdul Razak đưa ra Chính sách Kinh tế mới gây tranh cãi, mục đích là nhằm nâng cao phần sở hữu kinh tế của bumiputera. Dưới thời Thủ tướng Mahathir Mohamad, Malaysia trải qua tăng trưởng kinh tế và đô thị hóa nhanh chóng. Kinh tế Malaysia chuyển đổi từ dựa vào nông nghiệp sang dựa vào chế tạo và công nghiệp. Nhiều siêu dự án được hoàn thành, chẳng hạn như tháp đôi Petronas, xa lộ Nam-Bắc, hành lang đa phương tiện siêu cấp, và thủ đô hành chính liên bang mới Putrajaya. Tuy nhiên, vào cuối thập niên 1990, Khủng hoảng tài chính châu Á suýt khiến cho đồng Ringgit cùng các thị trường chứng khoán và bất động sản Malaysia sụp đổ. == Phân chia == Malaysia là một liên bang gồm 13 bang và ba lãnh thổ liên bang. Chúng được phân thành hai khu vực, 11 bang và hai lãnh thổ liên bang nằm tại Malaysia bán đảo; hai bang và một lãnh thổ liên bang nằm ở Đông Malaysia. Quyền cai quản các bang được phân chia giữa chính phủ liên bang và bang, trong khi chính phủ liên bang quản lý trực tiếp đối với các lãnh thổ liên bang. 13 bang của Malaysia dựa trên nền tảng các vương quốc Mã Lai lịch sử, 9 trong số 11 bang Bán đảo vẫn duy trì các gia tộc vương thất của mình, và được gọi là các bang Mã Lai. Quốc vương được tuyển cử từ chín quân chủ với nhiệm kỳ 5 năm. Mỗi bang có một cơ quan lập pháp đơn viện được gọi là Hội đồng lập pháp bang. Mỗi bang được chia tiếp thành các huyện, rồi lại được chia thành mukim. Tại Sabah và Sarawak các huyện được nhóm thành tỉnh. Sabah và Sarawak có quyền tự chủ nhiều hơn đáng kể so với các bang khác, đáng chú ý nhất là chính sách và kiểm soát nhập cư riêng. == Chính phủ và chính trị == Malaysia là một quốc gia quân chủ tuyển cử lập hiến liên bang. Hệ thống chính phủ theo mô hình gần với hệ thống nghị viện Westminster, một di sản của chế độ thuộc địa Anh. Nguyên thủ quốc gia là Yang di-Pertuan Agong, thường được gọi là Quốc vương. Quốc vương được bầu theo mỗi nhiệm kỳ 5 năm từ chín quân chủ kế tập của các bang Mã Lai; bốn bang còn lại có nguyên thủ trên danh nghĩa song không tham gia vào việc tuyển lựa. Theo thỏa thuận không chính thức, vị trí Quốc vương sẽ do quân chủ chín bang luân phiên nắm giữ, Vai trò của Quốc vương phần lớn mang tính lễ nghi kể từ sau các thay đổi trong hiến pháp vào năm 1994. Quyền lập pháp được phân chia giữa các cơ quan lập pháp liên bang và bang. Nghị viện liên bang của Malaysia bao gồm hạ viện và thượng viện. Hạ viện gồm có 222 thành viên, được bầu với nhiệm kỳ tối đa là 5 năm từ các khu vực bầu cử một ghế. Toàn bộ 70 thượng nghị sĩ có nhiệm kỳ 3 năm; 26 người được 13 quốc hội bang tuyển chọn, 44 người được Quốc vương bổ nhiệm theo tiến cử của Thủ tướng. Nghị viện Malaysia theo một hệ thống đa đảng và chính phủ được bầu thông qua một hệ thống đa số chế. Kể từ khi độc lập, cầm quyền tại Malaysia là một liên minh đa đảng được gọi là Barisan Nasional. Mỗi bang có một quốc hội đơn viện, các nghị viên được bầu từ các đơn vị bầu cử một ghế. Người đứng đầu các chính phủ bang là các thủ hiến (Chief Minister), họ là những thành viên quốc hội và đến từ đảng chiếm đa số trong quốc hội. Tại các bang có quân chủ kế tập, thủ hiến theo thường lệ cần phải là người Mã Lai, do quân chủ bổ nhiệm theo tiến cử của thủ tướng. Các cuộc bầu cử nghị viện được tổ chức 5 năm một lần. Các cử tri đăng ký 21 tuổi hoặc lớn hơn có thể bỏ phiếu để bầu các thành viên của Hạ viện, và bầu các thành viên quốc hội bang ở hầu hết các bang. Bầu cử không bắt buộc. Ngoại trừ Sarawak, cuộc bầu cử cấp bang tại các khu vực còn lại diễn ra đồng thời với bầu cử liên bang. Quyền hành pháp được trao cho Nội các do thủ tướng lãnh đạo. Thủ tướng phải là thành viên của hạ viện, được Quốc vương chuẩn thuận, nhận được đa số ủng hộ tại nghị viện. Nội các được lựa chọn từ lưỡng viện quốc hội liên bang. Thủ tướng là người đứng đầu nội các và cũng là người đứng đầu chính phủ. Hệ thống pháp luật Malaysia dựa trên thông luật Anh. Mặc dù cơ quan tư pháp độc lập về lý thuyết, song sự độc lập của chúng bị đặt dấu hỏi và việc bổ nhiệm các thẩm phán thiếu trách nhiệm giải trình và tính minh bạch. Tòa án tối cao trong hệ thống tư pháp là Tòa án Liên bang, sau đó là Tòa thượng tố và hai Tòa cao đẳng, một cho Malaysia bán đảo và một cho Đông Malaysia. Malaysia cũng có một tòa án đặc biệt để xét xử các vụ án do Quốc vương đưa ra hoặc chống lại Quốc vương. Các tòa án Syariah tách biệt với các tòa án dân sự, các tòa này áp dụng luật Sharia trong các vụ án liên quan đến người Hồi giáo Malaysia và vận hành song song với hệ thống tòa án thế tục. Đạo luật An ninh Nội địa cho phép giam giữ không cần xét xử, và án tử hình được áp dụng cho các tội như buôn bán ma túy. Sắc tộc có ảnh hưởng lớn trong chính trị Malaysia, nhiều chính đảng dựa trên nền tảng dân tộc. Các hành động quả quyết như Chính sách Kinh tế mới và thay thế nó là Chính sách Phát triển Quốc gia, được thực hiện nhằm thúc đẩy địa vị của bumiputera, bao gồm người Mã Lai và các bộ lạc bản địa, trước những người phi bumiputera như người Malaysia gốc Hoa và người Malaysia gốc Ấn. Các chính sách này quy định ưu đãi cho bumiputera trong việc làm, giáo dục, học bổng, kinh doanh, tiếp cận nhà giá rẻ hơn và hỗ trợ tiết kiệm. Tuy nhiên, nó gây ra oán giận rất lớn giữa các dân tộc. == Quan hệ đối ngoại và quân sự == Malaysia là một thành viên sáng lập của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) Tổ chức Hợp tác Hồi giáo (OIC), và cũng tham gia vào nhiều tổ chức quốc tế như Liên Hiệp Quốc, Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á - Thái Bình Dương, và Phong trào không liên kết (NAM). Malaysia từng giữ chức chủ tịch ASEAN, OIC, và NAM. Do là một cựu thuộc địa của Anh Quốc, Malaysia cũng là một thành viên của Thịnh vượng chung các quốc gia. Kuala Lumpur là địa điểm diễn ra Hội nghị thượng đỉnh Đông Á vào năm 2005. Chính sách ngoại giao của Malaysia về chính thức là dựa trên nguyên tắc trung lập và duy trì các quan hệ hòa bình với tất cả các quốc gia, bất kể hệ thống chính trị của quốc gia đó. Chính phủ đặt ưu tiên cao đối với an ninh và ổn định của Đông Nam Á, và cố gắng phát triển hơn nữa mối quan hệ với các quốc gia khác trong khu vực. Về phương diện lịch sử, chính phủ cố gắng khắc họa Malaysia là một quốc gia Hồi giáo tiến bộ trong khi tăng cường quan hệ với các quốc gia Hồi giáo khác. Trong chính sách của Malaysia, có một nguyên lý kiên định là chủ quyền quốc gia và quyền của một quốc gia trong việc kiểm soát các công việc nội bộ. Chính phủ Malaysia theo chủ nghĩa thực dụng trong chính sách đối với các tranh chấp lãnh thổ, giải quyết các tranh chấp theo một số phương pháp, chẳng hạn như đưa vụ việc ra Tòa án Công lý Quốc tế. Nhiều quốc gia trong khu vực tranh chấp chủ quyền đối với quần đảo Trường Sa. Brunei và Malaysia vào năm 2008 tuyên bố kết thúc tuyên bố chủ quyền đối với các vùng đất của nhau, và giải quyết các vấn đề liên quan đến biên giới trên biển. Philippines có tuyên bố chủ quyền không thi hành đối với Sabah. Hoạt động cải tạo đất của Singapore gây ra căng thẳng giữa hai bên, và Malaysia cũng có tranh chấp biên giới trên biển với Indonesia. Malaysia chưa từng công nhận Israel và không có quan hệ ngoại giao với quốc gia này. Malaysia ủng hộ mạnh mẽ Nhà nước Palestine. Lực lượng gìn giữ hòa bình của Malaysia hiện diện tại Liban và Malaysia đóng góp vào nhiều sứ mệnh gìn giữ hòa bình khác của Liên Hiệp Quốc. Lực lượng Vũ trang Malaysia gồm ba nhánh là Hải quân Hoàng gia Malaysia, Lục quân Malaysia, và Không quân Hoàng gia Malaysia. Malaysia không thi hành chế độ nghĩa vụ quân sự, độ tuổi cần thiết để thực hiện quân sự tự nguyện là 18. Quân đội sử dụng 1,9% GDP của quốc gia, và sử dụng 1,23% nhân lực của Malaysia. Thỏa thuận phòng thủ năm nước là một sáng kiến an ninh khu vực tồn tại trong gần 40 năm, liên quan đến các cuộc luyện tập quân sự chung được tổ chức giữa Malaysia, Singapore, Australia, New Zealand, và Anh Quốc. Các cuộc tuyện tập quân sự và tập trận chung được tổ chức với Indonesia trong nhiều năm. Malaysia và Philippines chấp thuận tổ chức luyện tập an ninh chung nhằm đảm bảo biên giới hàng hải và giải quyết các vấn đề như nhập cư bất hợp pháp. == Địa lý == Malaysia là quốc gia lớn thứ 67 trên thế giới về diện tích đất liền, với 329.847 km2 (127.355 sq mi). Tây Malaysia có biên giới trên bộ với Thái Lan, Đông Malaysia có biên giới trên bộ với Indonesia và Brunei. Malaysia kết nối với Singapore thông qua một đường đắp cao hẹp và một cầu. Malaysia có biên giới trên biển với Việt Nam và Philippines. Biên giới trên bộ được xác định phần lớn dựa trên các đặc điểm địa chất, chẳng hạn như sông Perlis, sông Golok và kênh Pagalayan, trong khi một số biên giới trên biển đang là chủ đề tranh chấp. Brunei hầu như bị Malaysia bao quanh, bang Sarawak của Malaysia chia Brunei thành hai phần. Malaysia là quốc gia duy nhất có lãnh thổ nằm cả trên lục địa châu Á và quần đảo Mã Lai. Điểm cực nam của lục địa châu Á là Tanjung Piai, thuộc bang nam bộ Johor. Eo biển Malacca nằm giữa đảo Sumatra và Malaysia bán đảo, đây là một trong các tuyến đường quan trọng nhất trong thương mại toàn cầu. Hai phần của Malaysia tách nhau qua biển Đông, tuy nhiên hai phần này có cảnh quan phần lớn là tương tự nhau với các đồng bằng duyên hải rồi cao lên đồi và núi. Malaysia bán đảo chiếm 40% diện tích đất liền của Malaysia, trải dài 740 km (460 mi) từ bắc xuống nam, và có chiều rộng tối đa là 322 km (200 mi). Dãy Titiwangsa phân chia bờ biển đông và tây tại Malaysia bán đảo, dãy núi này là một phần của hàng loạt dãy núi chạy từ phần trung tâm của bán đảo. Các dãy núi này vẫn có rừng bao phủ dày đặc, và có cấu tạo chủ yếu gồm đá hoa cương và các loại đá lửa khác. Nhiều phần trong đó bị xói mòn, tạo thành cảnh quan karst. Dãy núi là đầu nguồn của một số hệ thống sông tại Malaysia bán đảo. Các đồng bằng duyên hải bao quanh bán đảo, có chiều rộng tối đa là 50 kilômét (31 mi), và bờ biển của phần bán đảo dài 1.931 km (1.200 mi), song các bến cảng chỉ có ở bờ phía tây. Đông Malaysia nằm trên đảo Borneo, có bờ biển dài 2.607 km (1.620 mi). Khu vực này bao gồm các miền ven biển, đồi và thung lũng, và nội lục đồi núi. Dãy Crocker trải dài về phía bắc từ Sarawak, phân chia bang Sabah. Trên dãy này có núi Kinabalu với cao độ 4.095,2 m (13.436 ft), là núi cao nhất Malaysia. Núi Kinabalu được bảo vệ trong khuôn khổ Vườn quốc gia Kinabalu- một di sản thế giới của UNESCO. Các dãy núi cao nhất tạo thành biên giới giữa Malaysia và Indonesia. quần thể hang Mulu tại Sarawak nằm trong số các hệ thống hang lớn nhất trên thế giới. Xung quanh hai phần của Malaysia là một số hòn đảo, lớn nhất trong số đó là đảo Banggi. Malaysia có khí hậu xích đạo, điểm đặc trưng là gió mùa tây nam (tháng 4 đến tháng 10) và gió mùa đông bắc (tháng 10 đến tháng 2). Các vùng biển xung quanh giúp điều hòa nhiệt độ cho Malaysia. Ẩm độ thường cao, và lượng mưa trung bình hàng năm là 250 cm (98 in). Khí hậu tại Bán đảo và Đông bộ khác biệt, thời tiết Bán đảo chịu ảnh hưởng trực tiếp từ gió thổi từ lục địa, trong khi Đông bộ có khí hậu mang tính hải dương hơn. Các khí hậu địa phương có thể phân thành: vùng cao, vùng thấp và vùng duyên hải. Biến đổi khí hậu có thể tác động đến mực nước biển và lượng mưa, tăng nguy cơ lũ lụt và dẫn đến hạn hán. == Đa dạng sinh học == Malaysia ký kết Công ước đa dạng sinh vật học Rio vào ngày 12 tháng 6 năm 1993, và trở thành một bên của công ước vào ngày 24 tháng 6 năm 1994. Sau đó, Malaysia đưa ra một kế hoạch chiến lược và hành động đa dạng sinh vật quốc gia, được công ước công nhận vào ngày 16 tháng 4 năm 1998. Malaysia là một quốc gia đa dạng sinh vật siêu cấp với một lượng lớn các loài và có mức độ loài đặc hữu cao. Theo ước tính, Malaysia có 20% số loài động vật trên thế giới. Mức độ loài đặc hữu cao được phát hiện tại các khu rừng đa dạng ở vùng núi Borneo, các loài tại đây bị cô lập với các loài khác ở các khu rừng đất thấp. == Kinh tế == Malaysia là một nền kinh tế thị trường định hướng nhà nước tương đối mở và công nghiệp hóa mới. Nhà nước đóng một vai trò quan trọng trong hướng dẫn hoạt động kinh tế thông qua các dự án kinh tế vĩ mô, song vai trò này đang giảm xuống. Malaysia sở hữu một trong những hồ sơ kinh tế tốt nhất tại châu Á, GDP tăng trưởng trung bình 6,5% mỗi năm trong giai đoạn từ 1957 đến 2005. Năm 2016, GDP của Malaysia là khoảng 302 tỷ đô la Mỹ, là nền kinh tế lớn thứ tư trong ASEAN, lớn thứ 14 châu Á và lớn thứ 38 trên thế giới. Năm 1991, Thủ tướng Malaysia đương thời là Mahathir Mohamad phác thảo ý tưởng của ông trong "Tầm nhìn 2020", theo đó Malaysia sẽ trở thành một quốc gia công nghiệp hóa tự túc vào năm 2020. Thủ tướng thứ sáu là Najib Razak nói rằng Malaysia sẽ đạt đến tình trạng nước phát triển vào năm 2018, sớm hơn so với mục tiêu vào năm 2020, ông đưa vào thực hiện hai chương trình là Chương trình chuyển đổi chính phủ và Chương trình chuyển đổi kinh tế. Trong thập niên 1970, nền kinh tế dựa chủ yếu vào khai mỏ và nông nghiệp của Malaysia bắt đầu chuyển đổi hướng đến một nền kinh tế đa lĩnh vực hơn. Từ thập niên 1980, lĩnh vực công nghiệp, với đầu tư ở mức cao, dẫn dắt tăng trưởng của quốc gia. Sau Khủng hoảng tài chính châu Á 1997, kinh tế Malaysia phục hồi sớm hơn các quốc gia láng giềng, và kể từ đó phục hồi mức của thời kỳ tiền khủng hoảng với GDP bình quân đầu người là 14.800 đô la. Bất bình đẳng kinh tế tồn tại giữa các dân tộc khác nhau, người Hoa chiếm khoảng một phần ba dân số song lại chiếm 70% giá trị vốn hóa thị trường của quốc gia. Thương mại quốc tế của Malaysia có thuận lợi do nằm sát tuyến đường tàu thủy qua eo biển Malacca, và chế tạo là lĩnh vực then chốt. Malaysia là một nước xuất khẩu tài nguyên thiên nhiên và nông sản, dầu mỏ là mặt hàng xuất khẩu chính. Malaysia từng là nhà sản xuất lớn nhất các mặt hàng thiếc, cao su và dầu cọ trên thế giới. Lĩnh vực chế tạo có ảnh hưởng lớn trong kinh tế quốc gia, song cấu trúc kinh tế của Malaysia đang chuyển ra khỏi tình trạng này. Malaysia vẫn là một trong các nhà sản xuất dầu cọ lớn nhất thế giới. Chính phủ thúc đẩy sự gia tăng du lịch đến Malaysia trong một nỗ lực nhằm đa dạng hóa kinh tế và giảm sự phụ thuộc vào hàng xuất khẩu. Kết quả là du lịch trở thành nguồn thu ngoại tệ lớn thứ ba của Malaysia, song nó đang bị đe dọa do những tác động tiêu cực từ ngành công nghiệp đang phát triển, với một lượng lớn khí thải và nước thải cùng với nạn phá rừng. Từ năm 2013-2014, Malaysia được xếp là một trong những nơi tốt nhất để nghỉ hưu trên thế giới, đứng vị trí thứ 3 theo Chỉ số hưu trí toàn cầu. Đây là một trong những kết quả của chương trình "Malaysia My Second Home", theo đó người ngoại quốc được phép sống tại Malaysia theo một thị thực trường trú lâu đến 10 năm. Malaysia phát triển thành một trung tâm của ngân hàng Hồi giáo, và là quốc gia có số nữ lao động cao nhất trong ngành này. Các ngành dịch vụ dựa trên tri thức cũng phát triển. Để tạo ra khả năng phòng thủ tự lực và hỗ trợ phát triển quốc gia, Malaysia tiến hành tư hữu hóa một số cơ sở quân sự của mình trong thập niên 1970. Hành động tư hữu hóa tạo ra ngành công nghiệp quốc phòng, đến năm 1999 thì nằm dưới sự quản lý của Hội đồng công nghiệp quốc phòng Malaysia. Chính phủ tiếp tục thúc đẩy lĩnh vực này và tính cạnh tranh của nó, tích cực tiếp thị công nghiệp quốc phòng. Bộ Khoa học, Công nghệ và Cách tân quy định các chính sách khoa học tại Malaysia. Malaysia nằm trong số các nhà xuất khẩu lớn nhất thế giới về thiết bị bán dẫn, thiết bị điện tử, sản phẩm công nghệ thông tin và truyền thông. Malaysia bắt đầu phát triển chương trình không gian một cách riêng rẽ vào năm 2002, và đến năm 2006, Nga đồng ý vận chuyển một người Malaysia lên Trạm vũ trụ Quốc tế như là một phần trong thương vụ 18 chiến đấu cơ Sukhoi Su-30MKM trị giá nhiều tỷ đô la giữa hai bên. Chính phủ Malaysia đầu tư kiến thiết các vệ tinh thông qua chương trình RazakSAT. === Cơ sở hạ tầng === Malaysia có cơ sở hạ tầng thuộc hàng phát triển nhất tại châu Á. Hệ thống viễn thông chỉ đứng sau Singapore tại Đông Nam Á, với 4,7 triệu thuê bao điện thoại cố định và trên 30 thuê bao điện thoại di động. Malaysia có bảy cảng quốc tế, cảng chính là cảng Klang. Malaysia có 200 khu công nghiệp cùng với các chuyên khu như Khu Công nghệ Malaysia hay Khu Công nghệ cao Kulim. Trong thời kỳ thuộc địa, sự phát triển chủ yếu tập trung các thành thị hùng mạnh về mặt kinh tế và tại các khu vực hình thành mối quan tâm về an ninh. Mặc dù các khu vực nông thôn được chú trọng, song vẫn tụt hậu so với các khu vực như bờ Tây của Malaysia bán đảo. Hệ thống đường bộ của Malaysia trải dài 98.721 kilômét (61.342 mi) và có 1.821 kilômét (1.132 mi) đường cao tốc. Xa lộ dài nhất Malaysia là xa lộ Nam-Bắc với chiều dài trên 800 kilômét (497 mi) từ biên giới với Thái Lan đến biên giới với Singapore. Hệ thống đường bộ tại Đông Malaysia kém phát triển hơn và có chất lượng thấp hơn so với Malaysia bán đảo. Malaysia có 118 sân bay, trong đó 38 có đường băng được lát. Hãng hàng không quốc gia chính thức là Malaysia Airlines, cung cấp dịch vụ hàng không quốc tế và quốc nội. Hệ thống đường sắt do nhà nước vận hành, có tổng chiều dài 1.849 kilômét (1.149 mi). Các hệ thống đường sắt nhẹ trên cao có giá tương đối rẻ và được sử dụng tại một số thành phố như Kuala Lumpur. Theo truyền thống, sản xuất năng lượng tại Malaysia dựa vào dầu và khí đốt thiên nhiên. Quốc gia có công suất phát điện 13 GW. Tuy nhiên, Malaysia chỉ có dự trữ khí đốt thiên nhiên 33 năm, và dự trữ dầu 19 năm, trong khi nhu cầu năng lượng đang gia tăng. Nhằm ứng phó, chính phủ phát triển các nguồn năng lượng tái tạo. 16% nguồn cung điện năng đến từ thủy điện, 84% còn lại đến từ nhiệt điện. Công ty quốc hữu Petronas chi phối ngành dầu khí Malaysia. == Nhân khẩu == Theo điều tra dân số năm 2010, dân số Malaysia là 28.334.135, là quốc gia đông dân thứ 42 trên thế giới. Dân số Malaysia bao gồm nhiều dân tộc. Năm 2010, các công dân Malaysia chiếm 91,8% dân số,trong đó bumiputera là 67,4%,. Theo định nghĩa trong hiến pháp, người Mã Lai là những tín đồ Hồi giáo thực hiện các phong tục và văn hóa Mã Lai. Họ đóng vai trò chi phối về mặt chính trị. Thân thế Bumiputera cũng được trao cho các dân tộc bản địa, trong đó có người Thái, người Khmer, người Chăm và dân tộc bản địa tại Sabah và Sarawak. Những người Bumiputera phi Mã Lai chiếm hơn một nửa dân số bang Sarawak và hơn hai phần ba dân số bang Sabah. Các nhóm thổ dân cũng hiện diện trên phần Malaysia bán đảo song với số lượng ít hơn nhiều, họ được gọi chung là Orang Asli. Luật về cấp thân thế bumiputera khác biệt giữa các bang. Các nhóm thiểu số khác không có thân thế bumiputera chiếm một lượng khá lớn trong dân số. 24,6% dân số Malaysia có nguồn gốc Trung Quốc, trong khi những người có nguồn gốc Ấn Độ chiếm 7,3% dân số. Người Hoa có lịch sử chi phối trong cộng đồng kinh doanh và thương mại, và chiếm đa số trong dân số bang Penang. Người Ấn Độ nhập cư đến Malaysia vào cuối thế kỷ 19. Phần lớn cộng đồng người gốc Ấn Độ là người Tamil. Quyền công dân Malaysia không tự động cấp cho những người sinh ra tại Malaysia, song một trẻ em sinh tại ngoại quốc có cha mẹ là người Malaysia thì sẽ có quyền công dân Malaysia. Sở hữu quốc tịch kép không được phép tại Malaysia. Công dân tại các bang Sabah và Sarawak trên phần đảo Borneo của Malaysia bị phân biệt với công dân của Malaysia bán đảo vì mục đích nhập cư. Mỗi công dân được cấp một thẻ nhận dạng chíp nhân trắc học thông minh được gọi là MyKad ở tuổi 12, và phải luôn mang theo thẻ. Trong hệ thống giáo dục tại Malaysia, mẫu giáo là không bắt buộc, giáo dục tiểu học 6 năm là bắt buộc, và giáo dục trung học 5 năm là tùy chọn. Các trường học trong hệ thống tiểu học được phân thành hai loại: các trường tiểu học quốc gia dạy bằng tiếng Mã Lai, các trường thổ ngữ dạy bằng tiếng Hán hoặc tiếng Tamil. Vào năm cuối trung học, các học sinh tham gia khảo thí Văn bằng giáo dục Malaysia. Từ khi đưa vào chương trình dự khoa vào năm 1999, các học sinh hoàn thành chương trình 12 tháng tại các trường cao đẳng dự khoa có thể nhập học tại các đại học địa phương. Tuy nhiên, trong hệ thống dự khoa, chỉ 10% số chỗ dành cho các sinh viên phi bumiputera. Tỷ suất tử vong của trẻ sơ sinh năm 2009 là 6‰, và tuổi thọ bình quân vào năm 2009 là 75 năm. Với mục tiêu phát triển Malaysia thành một điểm đến du lịch y tế, 5% ngân sách phát triển lĩnh vực xã hội của chính phủ được dành cho chăm sóc sức khỏe. Dân số tập trung tại Malaysia bán đảo với 20 triệu người trong xấp xỉ 28 triệu cư dân Malaysia. 70% cư dân sống tại đô thị. Kuala Lumpur là thủ đô và thành phố lớn nhất tại Malaysia, cũng như là trung tâm thương mại và tài chính lớn. Putrajaya là một thành phố được hình thành có mục đích từ năm 1999, và là nơi đặt trụ sở của chính phủ, do nhiều nhánh hành pháp và tư pháp của chính phủ liên bang chuyển tới thành phố này nhằm giảm bớt sự đông đúc ngày càng tăng tại Kuala Lumpur. Do sự nổi lên của các ngành công nghiệp sử dụng nhiều lao động, ước tính có trên 3 triệu công nhân nhập cư tại Malaysia; tức khoảng 10% dân số. === Tôn giáo === Hiến pháp Malaysia đảm bảo quyền tự do tôn giáo trong khi xác định Hồi giáo là quốc giáo. Theo số liệu từ Điều tra dân số và nhà ở năm 2010, có sự tương liên cao giữa dân tộc và tôn giáo. Xấp xỉ 61,3% dân số thực hành Hồi giáo, 19,8% thực hành Phật giáo, 9,2% thực hành Ki-tô giáo, 6,3% thực hành Ấn Độ giáo và 1,3% thực hành Nho giáo, Đạo giáo và các tôn giáo truyền thống Trung Hoa. 0,7% tuyên bố là người không tôn giáo và 1,4% còn lại thực hành các tôn giáo khác hoặc không cung cấp thông tin nào. Trong số tín đồ Hồi giáo, tín đồ phái Sunni chiếm đa số trong khi tín đồ Hồi giáo phi giáo phái là nhóm đông thứ hai với 18%. Theo Hiến pháp, toàn bộ người Mã Lai được xem là người Hồi giáo. Số liệu từ cuộc điều tra dân số năm 2010 cho thấy rằng 83,6% người Trung Quốc xác định bản thân là Phật tử, và một lượng lớn các tín đồ theo Đạo giáo (3,4%) và Ki-tô giáo (11,1%), cùng với một nhóm nhỏ người Hồi sinh sống tại các khu vực như Penang. Phần lớn người Ấn Độ theo Ấn Độ giáo (86,2%), với một thiểu số quan trọng xác định bản thân là tín đồ Ki-tô giáo (6,0%) hay Hồi giáo (4,1%). Ki-tô giáo là tôn giáo chiếm ưu thế trong cộng đồng bumiputera phi Mã Lai (46,5%), và thêm 40,4% xác định bản thân là người Hồi giáo. Người Hồi giáo có nghĩa vụ phải tuân theo phán quyết của các tòa án Syariah trong các vấn đề liên quan đến tôn giáo của họ. Các thẩm phán Hồi giáo được cho là theo trường phái pháp luật Shafi`i của Hồi giáo, madh'hab chính của Malaysia. Quyền hạn của các tòa án Shariah bị giới hạn trong cộng đồng người Hồi giáo trong các vấn đề như kết hôn, thừa kế, ly dị, bội giáo, cải đạo. Các tội và vi phạm dân sự khác thuộc thẩm quyền của các tòa án công dân, các tòa án công dân không thụ lý các vấn đề liên quan đến thực hành Hồi giáo. === Ngôn ngữ === Ngôn ngữ chính thức tại Malaysia là tiếng Malaysia, đây là một hình thái tiêu chuẩn hóa của tiếng Mã Lai. Về mặt lịch sử, tiếng Anh là ngôn ngữ hành chính trên thực tế, tiếng Mã Lai chiếm ưu thế sau các cuộc bạo loạn sắc tộc năm 1969. Theo Đạo luật ngôn ngữ quốc gia năm 1967, "chữ quốc ngữ sẽ là chữ cái Rumi [Latin]: quy định này sẽ không ngăn cấm việc sử dụng chữ Mã Lai, còn được gọi phổ biến hơn là chữ Jawi, đối với quốc ngữ." Tiếng Anh vẫn là ngôn ngữ thứ hai đang dùng, Đạo luật ngôn ngữ năm 1967 cho phép sử dụng tiếng Anh trong một số mục đích chính thức, và tiếng Anh đóng vai trò là ngôn ngữ giảng dạy toán và khoa học trong toàn bộ các trường công. Tiếng Anh Malaysia là một hình thái của tiếng Anh bắt nguồn từ tiếng Anh Anh. Tiếng Anh Malaysia được sử dụng rộng rãi trong giao dịch cùng với tiếng bồi bắt nguồn từ tiếng Anh là Manglish. Chính phủ ngăn cản việc sử dụng tiếng Mã Lai phi tiêu chuẩn. Nhiều ngôn ngữ khác được sử dụng tại Malaysia, tại quốc gia này có người nói 137 thứ ngôn ngữ đang tồn tại. Malaysia bán đảo có người nói 41 ngôn ngữ trong số đó. Các bộ lạc bản địa tại Đông Malaysia có ngôn ngữ riêng của họ, chúng có liên hệ song dễ dàng phân biệt với tiếng Mã Lai. Tiếng Iban là ngôn ngữ bộ lạc chính tại Sarawak trong khi những người bản địa tại Sabah nói các ngôn ngữ Dusun. Người Malaysia gốc Trung Quốc chủ yếu nói các phương ngôn có nguồn gốc từ các tỉnh Hoa Nam. Phương ngôn tiếng Hán phổ biến nhất tại Malaysia là tiếng Quảng Đông, Quan thoại, tiếng Phúc Kiến, tiếng Khách Gia, tiếng Hải Nam và tiếng Phúc Châu. Phần lớn người nói tiếng Tamil là người Tamil, họ là nhóm chiếm đa số trong cộng đồng người Malaysia gốc Ấn. Các ngôn ngữ Nam Á khác cũng được nói phổ biến tại Malaysia, cùng với tiếng Thái Lan. Một số lượng nhỏ người Malaysia có nguồn gốc da trắng và nói các ngôn ngữ bồi, như tiếng bồi Malacca dựa trên tiếng Bồ Đào Nha, và tiếng Chavacano dựa trên tiếng Tây Ban Nha. == Văn hóa == Malaysia là một xã hội đa dân tộc, đa văn hóa và đa ngôn ngữ. Văn hóa ban đầu của khu vực bắt nguồn từ các bộ lạc bản địa, cùng với những người Mã Lai nhập cư sau đó. Văn hóa Malaysia tồn tại các ảnh hưởng đáng kể từ văn hóa Trung Quốc và văn hóa Ấn Độ, bắt nguồn từ khi xuất hiện ngoại thương. Các ảnh hưởng văn hóa khác đến từ văn hóa Ba Tư, Ả Rập và Anh Quốc. Do cấu trúc của chính phủ, cộng thêm thuyết khế ước xã hội, có sự đồng hóa văn hóa tối thiểu đối với các dân tộc thiểu số. Năm 1971, chính phủ ban hành một "Chính sách văn hóa quốc gia", xác định văn hóa Malaysia. Theo đó, văn hóa Malaysia phải dựa trên các dân tộc bản địa của Malaysia, có thể dung nạp các yếu tố phù hợp từ các văn hóa khác, và rằng Hồi giáo phải đóng một vai trò trong đó. Nó cũng thúc đẩy tiếng Mã Lai ở cao hơn các ngôn ngữ khác. Sự can thiệp này của chính phủ vào văn hóa khiến các dân tộc phi Mã Lai bất bình và cảm thấy quyền tự do văn hóa của họ bị giảm đi. Các hiệp hội của người Hoa và người Ấn đều đệ trình các bị vong lục lên chính phủ, buộc tội chính phủ chế định một chính sách văn hóa phi dân chủ. Tồn tại một số tranh chấp văn hóa giữa Malaysia và các quốc gia láng giềng, đặc biệt là Indonesia. Hai quốc gia có một di sản văn hóa tương đồng, có chung nhiều truyền thống và hạng mục. Tuy nhiên, diễn ra tranh chấp về nhiều điều, từ các món ăn cho đến quốc ca của Malaysia. Tại Indonesia có cảm tình mạnh mẽ về việc bảo vệ di sản văn hóa quốc gia. Chính phủ Malaysia và chính phủ Indonesia có sự tiếp xúc nhằm xoa dịu một số căng thẳng bắt nguồn từ trùng lặp văn hóa. Tình cảm này không phải là mạnh tại Malaysia, tại đây hầu hết đều công nhận nhiều giá trị văn hóa là của chung. Nghệ thuật truyền thống Malaysia chủ yếu tập trung quanh các lĩnh vực chạm khắc, dệt và bạc. Nghệ thuật truyền thống có phạm vi từ những giỏ đan thủ công tại vùng nông thôn cho đến ngân sức của các triều đình Mã Lai. Các đồ nghệ thuật phổ biến vao gồm dao găm (kris) trang sức, bộ giã hạt cau, vải dệt batik và songket. Người bản địa tại Đông Malaysia nổi tiếng với các mặt nạ bằng gỗ. Mỗi dân tộc có nghệ thuật trình diễn riêng biệt, có ít sự trùng lặp giữa họ. Tuy nhiên, nghệ thuật Mã Lai thể hiện một số ảnh hưởng của Bắc Ấn Độ do ảnh hưởng lịch sử của Ấn Độ. Nghệ thuật âm nhạc và trình diễn Mã Lai có vẻ như bắt nguồn từ khu vực Kelantan-Pattani với các ảnh hưởng từ Ấn Độ, Trung Quốc, Thái Lan và Indonesia. Âm nhạc dựa trên các nhạc cụ gõ, quan trọng nhất trong đó là gendang (trống). Có ít nhất 14 loại trống truyền thống. Trống và các nhạc cụ gõ truyền thống khác thường được làm từ các vật liệu tự nhiên. Âm nhạc về mặt truyền thống được sử dụng để phục vụ cho kể chuyện, các sự kiện kỷ niệm vòng đời, và các dịp như vụ gặt. Nó từng được sử dụng làm một hình thức truyền thông đường dài. Tại Đông Malaysia, các bộ nhạc cụ bắt nguồn từ cồng như agung và kulintang được sử dụng phổ biến trong các dịp lễ như tang lễ và hôn lễ. Các bộ nhạc cụ này cũng phổ biến tại các khu vực lân cận như tại Mindanao tại Philippines, Kalimantan tại Indonesia, và Brunei. Malaysia mạnh về truyền thống truyền miệng, loại hình này tồn tại từ trước khi văn bản xuất hiện tại khu vực, và tiếp tục tồn tại cho đến nay. Mỗi vương quốc hồi giáo Mã Lai hình thành các truyền thống văn học riêng, có ảnh hưởng từ các câu chuyện truyền miệng có từ trước và các câu chuyện đến cùng với Hồi giáo. Tác phẩm văn học Mã Lai đầu tiên được viết bằng chữ Ả Rập. Bản văn Mã Lai đầu tiên được biết đến được khắc trên đá Terengganu, thực hiện vào năm 1303. Văn học Trung Quốc và Ấn Độ trở nên phổ biến khi số người nói các ngôn ngữ này tăng lên tại Malaysia, và các tác phẩm xuất bản bản địa dựa trên ngôn ngữ từ các khu vực này bắt đầu được xuất bản vào thế kỷ 19. Tiếng Anh cũng trở thành một ngôn ngữ văn học phổ biến. Năm 1971, chính phủ tiến hành bước đi nhằm hạn chế văn học bằng các ngôn ngữ khác. Văn học viết bằng tiếng Mã Lai được gọi là "văn học quốc gia của Malaysia", văn học bằng các ngôn ngữ bumiputera khác được gọi là "văn học khu vực", trong khi văn học viết bằng các ngôn ngữ khác được gọi là "văn học tầng lớp". Thơ Mã Lai có sự phát triển ở mức độ cao, sử dụng nhiều thể thơ, trong đó phổ biến là Hikayat, và pantun được truyền bá từ tiếng Mã Lai sang các ngôn ngữ khác. Ẩm thực của Malaysia phản ánh đặc điểm đa dân tộc của quốc gia. Nhiều nền văn hóa đến từ bên trong quốc gia và các khu vực xung quanh có ảnh hưởng lớn đến với ẩm thực Malaysia. Phần lớn ảnh hưởng đến từ văn hóa Mã Lai, Trung Hoa, Ấn Độ, Thái Lan, Java, và Sumatra, phần lớn là do quốc gia là một phần của con đường hương liệu cổ đại. Ẩm thực Malaysia rất tương đồng với ẩm thực Singapore và Brunei, và cũng mang các đặc điểm tương tự với ẩm thực Philippines. Các bang khác nhau có sự biến đổi về món ăn. == Truyền thông == Các báo chính của Malaysia thuộc sở hữu của chính phủ và các chính đảng trong liên minh cầm quyền, song một số đảng đối lập lớn cũng có báo riêng, chúng được bán công khai cùng với các báo chí chính quy. Sự phân chia tồn tại giữa truyền thông tại hai phần của quốc gia. Truyền thông đặt tại Bán đảo kém ưu tiến đối với các tin tức đến từ phía Đông, và thường xem các bang phía Đông như là những thuộc địa của Bán đảo. Người ta đổ lỗi cho truyền thông trong việc gia tăng căng thẳng giữa Indonesia và Malaysia, mang đến cho người dân Malaysia một hình ảnh xấu về người Indonesia. Malaysia có các nhật báo bằng tiếng Mã Lai, tiếng Anh, tiếng Trung, và tiếng Tamil. == Nghi lễ == Malaysia cử hành một số ngày lễ và lễ hội trong năm, một số là ngày lễ toàn liên bang, và một số là ngày lễ của riêng từng bang. Các lễ hội khác do các nhóm dân tộc đặc thù cử hành, và ngày lễ chính của mỗi nhóm dân tộc chính được tuyên bố là ngày nghỉ công. Ngày nghỉ quốc gia được cử hành trang trọng nhất là Hari Merdeka (ngày Độc lập) vào 31 tháng 8, kỷ niệm sự kiện Liên hiệp bang Malaya độc lập vào năm 1957. Ngày Malaysia được cử hành vào ngày 16 tháng 9 để kỷ niệm sự kiện thành lập liên bang vào năm 1963. Ngày nghỉ quốc gia đáng chú ý khác là ngày Lao động (1 tháng 5) và sinh nhật Quốc vương. Các ngày nghỉ Hồi giáo nổi bật do Hồi giáo là quốc giáo; Hari Raya Puasa (cũng gọi là Hari Raya Aidilfitri, tên tiếng Mã Lai của Eid al-Fitr), Hari Raya Haji (cũng gọi là Hari Raya Aidiladha, tức Eid ul-Adha), Maulidur Rasul (sinh nhật của Tiên tri), và các ngày lễ khác được cử hành. Người Malaysia gốc Hoa tổ chức các lễ hội như tết Trung Quốc và các lễ hội khác liên quan đến tín ngưỡng Trung Quốc truyền thống. Tín đồ Ấn Độ giáo tại Malaysia tổ chức Deepavali, lễ hội ánh sáng, trong khi Thaipusam là một nghi thức tôn giáo và khi đó xuất hiện việc người hành hương từ khắp nước hội tụ về động Batu. Cộng đồng Ki-tô giáo Malaysia tổ chức hầu hết các ngày lễ mà các Ki-tô hữu ở những nơi khác cử hành, đáng chú ý nhất là lễ Giáng sinh và Phục sinh. Người dân tại Đông Malaysia cũng tổ chức một lễ hội gặt hái mang tên Gawai. == Thể thao == Các môn thể thao phổ biến tại Malaysia gồm bóng đá, cầu lông, khúc côn cầu, bóng gỗ, quần vợt, bóng quần, võ thuật, cưỡi ngựa, thuyền buồm, và trượt ván. Bóng đá là môn thể thao phổ biến nhất tại Malaysia và quốc gia đang nghiên cứu về khả năng ứng cử làm đồng chủ nhà của Cúp bóng đá thế giới năm 2034. Các trận đấu cầu lông thu hút hàng nghìn khán giả, và kể từ năm 1948 thì Malaysia là một trong ba quốc gia từng giành chức vô địch Thomas Cup. Liên đoàn bóng gỗ Malaysia được đăng ký vào năm 1997. Các thành viên của quân đội Anh Quốc đưa môn bóng quần đến Malaysia, cuộc thi đấu đầu tiên được tổ chức vào năm 1939. Hiệp hội bóng quần Malaysia được hình thành vào ngày 25 tháng 6 năm 1972. Đội tuyển khúc côn cầu nam quốc gia của Malaysia xếp hạng thứ 13 thế giới vào tháng 11 năm 2013. Cúp Khúc côn cầu thế giới lần thứ ba và lần thứ 10 được tổ chức tại Kuala Lumpur. Malaysia cũng có đường đua công thức 1 riêng là Đường đua quốc tế Sepang. Đường đua tổ chức giải Grand Prix đầu tiên vào năm 1999. Hội đồng Olympic Malaya được hình thành vào năm 1953, và được IOC công nhận vào năm 1954. Malaysia lần đầu tiên tham gia Thế vận hội vào năm 1956 tại Melbourne. Hội đồng được đổi tên hành Hội đồng Olympic Malaysia vào năm 1964, và tham gia hầu hết các kỳ Thế vận hội kể từ khi ra đời (trừ Thế vận hội năm 1980 tại Moskva). Số vận động viên lớn nhất mà Malaysia cử tham gia Thế vận hội là 57 trong Thế vận hội Mùa hè 1972. Các vận động viên Malaysia giành được tổng cộng sáu huy chương Thế vận hội, trong đó có năm huy chương tại môn cầu lông. Quốc gia tranh tài trong Đại hội thể thao Thịnh vượng chung kể từ năm 1950 với tên Malaya, và năm 1966 với tên Malaysia, đại hội từng được tổ chức tại Kuala Lumpur vào năm 1998. == Tham khảo == == Liên kết ngoài == Chính phủ myGovernment portal – Cổng chính phủ Malaysia Văn phòng Thủ tướng Malaysia Cơ quan Thống kê Malaysia Thông tin chung Malaysia trên Encyclopædia Britannica Mục “Malaysia” trên trang của CIA World Factbook. Malaysia tren UCB Libraries GovPubs Malaysia tại DMOZ Sơ lược Malaysia từ BBC News Wikimedia Atlas của Malaysia, có một số bản đồ liên quan đến Malaysia. Du lịch Cổng thông tin du lịch điện tử chính thức của Malaysia Du lịch Malaysia Giáo dục Cổng đại học Malaysia Bộ Giáo dục Malaysia
vị thanh.txt
Vị Thanh là thành phố thuộc tỉnh Hậu Giang (trước năm 2004 vùng đất này thuộc tỉnh Cần Thơ cũ), Đồng bằng sông Cửu Long, Việt Nam. Thành phố Vị Thanh được mệnh danh là "Thành phố Tây sông Hậu", đồng thời là thành phố trẻ bên dòng Xà No và là trung tâm tỉnh lỵ của tỉnh Hậu Giang từ năm 2004, khi tỉnh Hậu Giang được tái lập. Vị Thanh hiện tại là đô thị loại 3. Vị Thanh từng là tỉnh lỵ của tỉnh Chương Thiện cũ trong giai đoạn 1961-1975 dưới thời Việt Nam Cộng hòa. Năm 1966, chính quyền Cách mạng cũng cho thành lập thị xã Vị Thanh trực thuộc tỉnh Cần Thơ. Cuối năm 1977, thị xã Vị Thanh bị giải thể. Đến năm 1999, thị xã Vị Thanh lại được tái lập, tuy nhiên lúc này vẫn còn thuộc tỉnh Cần Thơ. Đầu năm 2004, thị xã Vị Thanh chuyển sang thuộc tỉnh Hậu Giang. Năm 2010, Vị Thanh chính thức trở thành thành phố trực thuộc tỉnh Hậu Giang. == Vị trí địa lý == Địa giới hành chính của thành phố Vị Thanh: Đông giáp huyện Vị Thủy, (Hậu Giang). Nam giáp huyện Long Mỹ, (Hậu Giang). Bắc giáp huyện Vị Thủy, (Hậu Giang) và huyện Giồng Riềng, (Kiên Giang). Tây giáp huyện Gò Quao, (Kiên Giang). == Hành chính == Thành phố Vị Thanh có 9 đơn vị hành chính cấp xã, phường gồm 5 phường: 1, 3, 4, 5, 7 và 4 xã: Hỏa Lựu, Hỏa Tiến, Tân Tiến, Vị Tân. Hiện nay, xã Tân Tiến là một trong các xã nông thôn mới tiêu biểu của toàn tỉnh Hậu Giang. Đồng thời, trong tương lai dự định sẽ chia tách xã Vị Tân để thành lập phường 2 và phường 6. == Lịch sử == Vùng Vị Thanh xưa được xem là thuộc Chân Lạp, nhưng trên thực tế là vùng tự trị và không thuộc quyền cai quản của chính quyền. Cha con Mạc Cửu và Mặc Thiên Tứ đã quy tụ cư dân góp công sức phát triển miền đất mới hình thành trấn Hà Tiên. Vùng Vị Thanh bấy giờ thuộc huyện Kiên Giang, trấn Hà Tiên (về sau đổi thành tỉnh Hà Tiên). === Thời Pháp thuộc === Sau khi người Pháp chiếm được Lục tỉnh, họ tiến hành sắp xếp lại các đơn vị hành chính. Năm 1876, Pháp chia Nam Kỳ thành 4 khu vực hành chính lớn, mỗi khu vực hành chính lại chia nhỏ thành các tiểu khu hay hạt tham biện (arrondissement administratif). Tỉnh Hà Tiên cũ bị chia thành 2 hạt tham biện là Hà Tiên và Rạch Giá. Bấy giờ, làng Vị Thanh thuộc tổng Long Mỹ, hạt Tham biện Rạch Giá. Sau khi hạt Rạch Giá đổi thành tỉnh Rạch Giá vào năm 1900, tổng Long Mỹ cũng được nâng thành quận Long Mỹ vào năm 1908. Làng Vị Thanh bấy giờ thuộc tổng An Ninh, quận Long Mỹ, tỉnh Rạch Giá.. Sau Cách mạng tháng Tám 1945, Ủy ban Kháng chiến Hành chánh Nam bộ chủ trương bỏ cấp tổng, bỏ đơn vị làng, thống nhất gọi là xã, đồng thời bỏ danh xưng quận, gọi thay thế bằng huyện. Chính quyền Việt Nam Cộng hòa đến năm 1956 cũng thống nhất dùng danh xưng là xã, tuy nhiên vẫn gọi là quận cho đến năm 1975. Sau năm 1945, chính quyền Việt Minh hình thành khu Vị Thanh (gồm các làng Hòa Hưng, Hòa Thuận, Ngọc Hòa của quận Giồng Riềng và làng Vị Thanh của quận Long Mỹ) thuộc tỉnh Rạch Giá. Năm 1946, khu Vị Thanh đổi thành huyện Vị Thanh, đến cuối năm 1947, hai huyện Giồng Riềng và Vị Thanh nhập lại thành huyện Giồng Riềng. Vị Thanh chỉ còn là đơn vị hành chính cấp xã thuộc huyện Giồng Riềng, tỉnh Rạch Giá. Năm 1951, chính quyền Việt Minh giải thể tỉnh Rạch Giá, sáp nhập địa bàn vào các tỉnh Bạc Liêu, Cần Thơ, Sóc Trăng, đến năm 1954 lại tái lập. Khi đó, huyện Long Mỹ và huyện Giồng Riềng được giao cho tỉnh Cần Thơ, đến năm 1954 được trả về cho tỉnh Rạch Giá như cũ. Ngày 01 tháng 10 năm 1954, chính quyền Quốc gia Việt Nam của Bảo Đại giao quận Long Mỹ về cho tỉnh Sóc Trăng. Ngày 31 tháng 03 năm 1955, quận Long Mỹ nhận thêm làng Vị Thanh từ quận Giồng Riềng. === Giai đoạn 1956-1976 === ==== Việt Nam Cộng hòa ==== Sau năm 1956, các làng gọi là xã. Ngày 23 tháng 2 năm 1957, chính quyền Việt Nam Cộng hòa đặt quận Long Mỹ thuộc tỉnh Phong Dinh, tức tỉnh Cần Thơ trước đó. Lúc này, Vị Thanh là xã thuộc tổng An Ninh, quận Long Mỹ, tỉnh Phong Dinh. Ngày 12 tháng 3 năm 1960, chính quyền Ngô Đình Diệm tổ chức khánh thành Khu trù mật Vị Thanh - Hỏa Lựu. Ngày 18 tháng 3 năm 1960, tách tổng An Ninh ra khỏi quận Long Mỹ để lập thêm quận Đức Long cùng thuộc tỉnh Phong Dinh. Lúc này, xã Vị Thanh thuộc quận Đức Long, đồng thời là nơi đặt quận lỵ quận Đức Long mới được thành lập. Quận Đức Long khi đó gồm 1 tổng là An Ninh với 7 xã trực thuộc: Vị Thanh, Vị Thủy, Hỏa Lựu, Vĩnh Tường, Hòa An, An Lợi, Vĩnh Thuận Đông. Không lâu sau, vào ngày 24 tháng 12 năm 1961, Tổng thống Việt Nam Cộng hòa Ngô Đình Diệm ban hành Sắc lệnh 244-NV cho thành lập tỉnh Chương Thiện từ những quận tách ra từ ba tỉnh Ba Xuyên, Kiên Giang và Phong Dinh. Khi đó Vị Thanh được chọn làm tên tỉnh lỵ của tỉnh Chương Thiện, về mặt hành chánh thì vẫn là xã Vị Thanh thuộc quận Đức Long. Ngoài ra, quận lỵ quận Đức Long cũng được dời về xã Vị Thủy, dưới chân cầu Nàng Mau. Quận Đức Long khi đó còn nhận thêm 3 xã là Hòa Hưng, Hòa Thuận, Ngọc Hòa tách từ quận Kiên Hưng, tỉnh Kiên Giang. Đồng thời, giải thể và sáp nhập xã An Lợi vào xã Hòa An, thành lập mới xã Vị Đức thuộc quận Đức Long. Năm 1962, quận Đức Long gồm 1 tổng là An Ninh với 10 xã: Hòa An, Hòa Hưng, Hòa Thuận, Hỏa Lựu, Ngọc Hòa, Vị Đức, Vị Thanh, Vị Thủy, Vĩnh Tường, Vĩnh Thuận Đông. Sau năm 1965, giải thể cấp tổng, các xã trực thuộc quận. Cho đến năm 1975, quận Đức Long vẫn gồm 10 xã trực thuộc như cũ. Năm 1968, địa bàn xã Vị Thanh gồm 9 ấp trực thuộc: Vị Thiện, Vị Thành, Vị Long, Vị Đức, Vị Hưng, Vị An, Vị Nghĩa, Vị Tín, Vị Hòa. Đô thị tỉnh lỵ Vị Thanh phát triển nhanh chóng. Năm 1971, dân số của Vị Thanh là 24.477 người1. ==== Chính quyền Cách mạng ==== Còn về phía chính quyền Cách mạng, cho đến năm 1966, khu vực quận Long Mỹ và quận Đức Long của Việt Nam Cộng hòa vẫn cùng thuộc địa phận huyện Long Mỹ. Từ năm 1957 huyện Long Mỹ thuộc tỉnh Cần Thơ nhưng giữ lại xã Vị Thanh và nhập vào huyện Giồng Riềng của tỉnh Rạch Giá. Tháng 7 năm 1960, huyện Giồng Riềng giao xã Vị Thanh về cho huyện Long Mỹ của tỉnh Cần Thơ quản lý. Ngày 9 tháng 3 năm 1961, chính quyền Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam quyết định thành lập thị trấn Vị Thanh bao gồm khu vực chợ Cái Nhum và các ấp xung quanh, bên cạnh xã Vị Thanh. Tháng 6 năm 1966, chính quyền Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam tách thị trấn Vị Thanh và một số ấp của xã Vị Thanh ra khỏi huyện Long Mỹ để thành lập thị xã Vị Thanh trực thuộc tỉnh Cần Thơ . Thị xã Vị Thanh có 11 ấp, gồm 8 ấp vùng ven và 3 ấp nội ô. Chính quyền Cách mạng chia địa bàn thị xã ra làm 4 khu vực (gồm 3 khu vực ven và 1 khu vực nội ô) gồm: Khu vực 1 (vùng 1) có 2 ấp: Vị Hưng, Vị Nghĩa (tương đương một phần phường 4 và một phần xã Vị Đông thuộc huyện Vị Thủy hiện nay); Khu vực 2 (vùng 2) có 3 ấp: Nàng Chăn, Vị An A, Vị An B (tương đương xã Vị Tân hiện nay); Khu vực 3 (vùng 3) có 3 ấp: Vị Long, Vị Hòa, Vị Đức (tương đương phường 3 và phường 5 hiện nay); Khu vực nội ô có 3 ấp: Vị Thành, Vị Thiện, Vị Tín (tương đương phường 1 và một phần phường 4 hiện nay) Sau ngày 30 tháng 04 năm 1975, chính quyền quân quản Cộng hòa miền Nam Việt Nam của tỉnh Cần Thơ lúc bấy giờ vẫn đặt thị xã Vị Thanh trực thuộc tỉnh Cần Thơ như trước. Lúc bấy giờ, do tỉnh Cần Thơ và thành phố Cần Thơ là hai đơn vị hành chính cấp tỉnh ngang bằng nhau và cùng thuộc Khu 9, cho nên các cơ quan, lực lượng cách mạng, Ủy ban quân quản tỉnh Cần Thơ đều đặt tại thị xã Vị Thanh. === Từ năm 1976 đến nay === Theo Nghị định số 03/NĐ-76 ngày 24 tháng 2 năm 1976 và Quyết định số 17/QĐ-76 ngày 24 tháng 3 năm 1976, Chính phủ Việt Nam quyết định hợp nhất ba đơn vị hành chính cấp tỉnh ngang bằng nhau là tỉnh Sóc Trăng, tỉnh Cần Thơ và thành phố Cần Thơ để thành lập một tỉnh mới có tên là tỉnh Hậu Giang. Tỉnh lỵ khi đó lại đặt tại thành phố Cần Thơ, đơn vị hành chính cấp huyện trực thuộc tỉnh Hậu Giang. Ban đầu, thị xã Vị Thanh thuộc tỉnh Hậu Giang. Ngày 15 tháng 12 năm 1977, Hội đồng Chính phủ ban hành Quyết định số 330-CP về việc hợp nhất huyện Long Mỹ và thị xã Vị Thanh thuộc tỉnh Hậu Giang thành một đơn vị hành chính lấy tên là huyện Long Mỹ thuộc tỉnh Hậu Giang. Thị xã Vị Thanh chuyển xuống thành thị trấn Vị Thanh thuộc huyện Long Mỹ, tỉnh Hậu Giang. Ngày 23 tháng 10 năm 1978, Hội đồng Chính phủ ban hành Quyết định số 273-CP về việc thành lập một xã mới lấy tên là xã Vị Tân thuộc huyện Long Mỹ, tỉnh Hậu Giang trên cơ sở tách đất từ thị trấn Vị Thanh thuộc huyện Long Mỹ. Ngày 21 tháng 4 năm 1979, Hội đồng Chính phủ ban hành Quyết định số 174-CP về việc chia một số xã thuộc huyện Long Mỹ, tỉnh Hậu Giang như sau: Chia xã Vĩnh Thuận Đông thành hai xã lấy tên là xã Vĩnh Thuận Đông và xã Vĩnh Thuận Tây. Chia xã Thuận Hưng thành hai xã lấy tên là xã Thuận Hưng và xã Thuận Hòa. Chia xã Hỏa Lựu thành hai xã lấy tên là xã Hỏa Lựu và xã Hỏa Tuyến. Chia xã Long Phú thành hai xã lấy tên là xã Long Phú và xã Tân Phú. Chia xã Vĩnh Viễn thành hai xã lấy tên là xã Vĩnh Viễn và xã Vĩnh Lập. Chia xã Long Bình thành hai xã lấy tên là xã Long Bình và xã Long Hòa. Chia xã Vị Tân thành hai xã lấy tên là xã Vị Tân và xã Vị Đông. Sáp nhập ấp 8 của xã Thuận Hưng và ấp 9 của xã Long Trị cũ vào thị trấn Long Mỹ. Ngày 15 tháng 9 năm 1981, Hội đồng Bộ trưởng ban hành Quyết định số 70-HĐBT về việc chia một số xã để thành lập các xã mới thuộc huyện Long Mỹ, tỉnh Hậu Giang như sau: Chia xã Vị Thuỷ thành ba xã lấy tên là xã Vị Thuỷ, xã Vị Thắng và xã Vị Lợi. Chia xã Vĩnh Tường thành ba xã lấy tên là xã Vĩnh Tường, Vĩnh Trúng và xã Vĩnh Hiếu. Chia xã Vị Thanh thành ba xã lấy tên là xã Vị Thanh, xã Vị Xuân và xã Vị Bình. Chia xã Long Trị thành hai xã lấy tên là xã Long Trị và xã Long Tân. Chia xã Xà Phiên thành hai xã lấy tên là xã Xà Phiên và xã Tân Thành. Chia xã Lương Tâm thành hai xã lấy tên là xã Lương Tâm và xã Lương Nghĩa. Ngày 26 tháng 10 năm 1981, Hội đồng Bộ trưởng của ban hành Quyết định số 119-HĐBT về việc tách huyện Long Mỹ thành hai huyện Long Mỹ và huyện Mỹ Thanh thuộc tỉnh Hậu Giang như sau: Huyện Long Mỹ gồm có các xã Lương Nghĩa, Lương Tâm, Vĩnh Viễn, Tân Thành, Vĩnh Thuận Đông, Thuận Hưng, Xà Phiên, Vị Thắng, Long Hoà, Thuận Hoà, Long Bình, Long Trị, Long Tân, Long Phú, Tân Phú và thị trấn Long Mỹ. Trụ sở huyện đóng tại thị trấn Long Mỹ. Huyện Long Mỹ có diện tích tự nhiên 38388,92 ha, diện tích canh tác 29366,30 ha và dân số 109.867 người. Huyện Mỹ Thanh gồm có các xã Hỏa Tuyến, Vĩnh Lập, Hỏa Lựu, Vị Tân, Vĩnh Thuận Tây, Vị Đông, Vị Xuân, Vị Bình, Vị Thanh, Vị Lợi, Vĩnh Trung, Vĩnh Tường, Vĩnh Hiếu, Vị Thuỷ và thị trấn Vị Thanh. Trụ sở huyện đóng tại thị trấn Vị Thanh. Huyện Mỹ Thanh có diện tích tự nhiên 35283,43 ha, diện tích canh tác 23128,69 ha và dân số 104.675 người. Ngày 6 tháng 4 năm 1982, Hội đồng Bộ trưởng của ban hành Quyết định số 64-HĐBT về việc đổi tên huyện Mỹ Thanh thành huyện Vị Thanh thuộc tỉnh Hậu Giang. Bấy giờ, địa danh Vị Thanh được dùng cho cả 3 đơn vị hành chính khác nhau là thị trấn Vị Thanh và xã Vị Thanh cùng trực thuộc huyện Vị Thanh. Ngày 16 tháng 9 năm 1989, huyện Vị Thanh giải thể xã Vị Lợi, nhập địa bàn vào các xã Vị Thủy, Vị Xuân, Vĩnh Hiếu. Ngày 28 tháng 1 năm 1991, xã Vị Đông và xã Vị Xuân nhập lại thành xã Vị Đông, xã Vị Bình và xã Vị Thanh nhập lại thành xã Vị Thanh. Ngày 2 tháng 8 năm 1991, giải thể xã Vĩnh Hiếu, nhập địa bàn vào các xã Vĩnh Tường, Vĩnh Trung. Ngày 25 tháng 1 năm 1994, giải thể xã Vĩnh Lập, nhập địa bàn vào xã Vĩnh Viễn thuộc huyện Long Mỹ. Ngày 26 tháng 12 năm 1991, Quốc hội Việt Nam ban hành Nghị quyết chia tỉnh Hậu Giang thành tỉnh Cần Thơ và tỉnh Sóc Trăng. Huyện Vị Thanh thuộc tỉnh Cần Thơ, gồm thị trấn Vị Thanh và 9 xã: Vị Tân, Hỏa Lựu, Hỏa Tiến, Vị Thanh, Vị Thủy, Vị Đông, Vĩnh Tường, Vĩnh Trung, Vĩnh Thuận Tây. Ngày 1 tháng 7 năm 1999, Chính phủ Việt Nam ra Nghị định số 45/1999/NĐ-CP về việc tái lập thị xã Vị Thanh, đổi tên huyện Vị Thanh thành huyện Vị Thủy và thành lập các phường, xã, thị trấn thuộc thị xã Vị Thanh và huyện Vị Thủy, tỉnh Cần Thơ. Cụ thể như sau: Thành lập thị xã Vị Thanh và đổi tên huyện Vị Thanh thành huyện Vị Thủy như sau: Thành lập thị xã Vị Thanh trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của thị trấn Vị Thanh, xã Vị Tân, xã Hỏa Lựu, xã Hỏa Tiến, 438 ha diện tích tự nhiên và 6.326 nhân khẩu của xã Vị Đông, huyện Vị Thanh. Thị xã Vị Thanh có 11.582,15 ha diện tích tự nhiên và 70.456 nhân khẩu, có 7 đơn vị hành chính trực thuộc gồm 4 phường: phường I, phường III, phường IV, phường V và 3 xã: Vị Tân, Hoả Lựu và Hỏa Tiến. Sau khi điều chỉnh địa giới hành chính, huyện Vị Thanh có 20.849,65 ha diện tích tự nhiên và 85.342 nhân khẩu và đổi tên thành huyện Vị Thủy. Thành lập các phường thuộc thị xã Vị Thanh trên cơ sở thị trấn Vị Thanh (cũ), 438 ha diện tích tự nhiên và 6.326 nhân khẩu của xã Vị Đông, cụ thể như sau: Thành lập phường I trên cơ sở 102,63 ha diện tích tự nhiên và 6.402 nhân khẩu. Thành lập phường III trên cơ sở 1.270,36 ha diện tích tự nhiên và 7.109 nhân khẩu. Thành lập phường IV trên cơ sở 562,32 ha diện tích tự nhiên và 11.272 nhân khẩu (trong đó có 210 ha diện tích tự nhiên và 3.754 nhân khẩu của xã Vị Đông). Thành lập phường V trên cơ sở 803,38 ha diện tích tự nhiên và 7.497 nhân khẩu (trong đó có 228 ha diện tích tự nhiên và 2.572 nhân khẩu của xã Vị Đông). Ngày 12 tháng 5 năm 2003, Chính phủ Việt Nam ban hành Nghị định số 48/2003/NĐ-CP về việc thành lập xã, phường, thị trấn thuộc các huyện Châu Thành A, Ô Môn, Phụng Hiệp và thị xã Vị Thanh, tỉnh Cần Thơ. Theo đó, thành lập phường 7 thuộc thị xã Vị Thanh trên cơ sở 616 ha diện tích tự nhiên và 6.625 nhân khẩu của xã Hỏa Lựu. Ngày 26 tháng 11 năm 2003, Quốc hội Việt Nam thông qua Nghị quyết số 22/2003/QH11 về việc chia và điều chỉnh địa giới hành chính một số tỉnh. Theo đó, chia tỉnh Cần Thơ thành thành phố Cần Thơ trực thuộc trung ương và tỉnh Hậu Giang. Thị xã Vị Thanh khi đó thuộc tỉnh Hậu Giang và được chọn làm tỉnh lỵ của tỉnh Hậu Giang. Ngày 27 tháng 10 năm 2006, Chính phủ Việt Nam ban hành Nghị định số 124/2006/NĐ-CP về việc điều chỉnh địa giới hành chính, thành lập xã, thị trấn thuộc thị xã Vị Thanh, huyện Long Mỹ; đổi tên thị xã Tân Hiệp thành thị xã Ngã Bảy, tỉnh Hậu Giang. Theo đó, thành lập xã Tân Tiến thuộc thị xã Vị Thanh trên cơ sở điều chỉnh 2.202,12 ha diện tích tự nhiên và 7.089 nhân khẩu của xã Hỏa Tiến. Sau khi điều chỉnh, thị xã Vị Thanh có 11.879,99 ha diện tích tự nhiên và 69.785 nhân khẩu, có 9 đơn vị hành chính trực thuộc gồm các phường: 1, 3, 4, 5, 7 và các xã: Vị Tân, Hỏa Lựu, Tân Tiến, Hỏa Tiến. Ngày 15 tháng 12 năm 2009, thị xã Vị Thanh được công nhận đô thị loại III. Ngày 23 tháng 9 năm 2010, thay mặt Chính phủ Việt Nam, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng ký Nghị quyết số 34/NQ-CP về việc thành lập THÀNH PHỐ VỊ THANH thuộc tỉnh Hậu Giang trên cơ sở toàn bộ diện tích tự nhiên, dân số và các đơn vị hành chính trực thuộc của Thành phố Vị Thanh. Thành phố Vị Thanh có diện tích tự nhiên 11.867,74 ha và 97.222 nhân khẩu, 09 đơn vị hành chính cấp xã, gồm các phường: I, III, IV, V, VII và các xã: Vị Tân, Hỏa Lựu, Tân Tiến, Hỏa Tiến. == Các tuyến đường chính trên địa bàn == Trần Hưng Đạo (Quốc lộ 61) 3 tháng 2 (Quốc lộ 61) Võ Văn Kiệt (đường Tây Sông Hậu) Võ Nguyên Giáp Hùng Vương Lê Hồng Phong (tỉnh lộ 933) 19 tháng 8 1 tháng 5 30 tháng 4 Châu Văn Liêm Nguyễn Thái Học Nguyễn Công Trứ Trần Ngọc Quế Nguyễn Huệ Nguyễn Trãi == Mục tiêu == Thành phố Vị thanh tiếp tục hoàn thiện các tiêu chí của đô thị loại III và phấn đấu đạt các chỉ tiêu của đô thị loại II vào năm 2015, là thành phố văn minh, hiện đại, xứng đáng là trung tâm của tỉnh Hậu Giang - động lực phát triển tiểu vùng Tây sông Hậu. == Hình ảnh == == Chú thích ==
1978.txt
Theo lịch Gregory, năm 1978 (số La Mã: MCMLXXVIII) là một năm bắt đầu từ ngày Chủ nhật. Bản mẫu:Tháng trong năm 1978 == Sự kiện == 1 tháng 1: Willy Ritschard trở thành tổng thống Thụy Sĩ 1 tháng 1: Vương quốc Anh, Ireland và Đan Mạch trở thành thành viên của Liên minh châu Âu 1 tháng 1: Bombay, Ấn Độ. Một Boeing 747 của Air India nổ và rơi xuống biển. Tất cả 213 người trên máy bay đều đã chết 25 tháng 1: Swaziland trở thành thành viên trong UNESCO 15 tháng 2: Kap Verde trở thành thành viên trong UNESCO 24 tháng 2: Tây Ban Nha gia nhập Hội đồng châu Âu 27 tháng 4: Afghanistan. Đảo chính của giới quân đội chống lại Mohammad Daud. Taraki trở thành tổng thống mới. 17 tháng 6: Jacques de Larosière, Pháp, trở thành giám đốc của Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) 26 tháng 6: Đánh bom trong lâu đài Versailles 17 tháng 7: Ali Abdallah Saleh trở thành tổng thống của Yemen 26 tháng 8: Johannes Paul I được bầu làm Giáo hoàng 16 tháng 9: Động đất 7,8 độ trong Iran, khoảng 15.000 người chết 19 tháng 9: Solomon Island trở thành thành viên của Liên Hiệp Quốc 1 tháng 10: Tuvalu độc lập 16 tháng 10: Karol Józef Wojtyła đắc cử ngôi vị Giáo hoàng thứ 264 của Giáo hội Công giáo Rôma, Thánh hiệu Gioan Phaolô II. Vị Giáo hoàng đầu tiên đến từ Ba Lan 2 tháng 11: Namibia trở thành thành viên trong UNESCO 3 tháng 11: Dominica độc lập 11 tháng 11: Maumoon Abdul Gayoom trở thành tổng thống Maldives 8 tháng 12: Dominica trở thành thành viên Liên Hiệp Quốc 23 tháng 12: Palermo, Ý. Một chiếc Douglas DC-9 của Alitalia rơi. 21 người được cứu thoát, 108 người đã chết. 25 tháng 12: Việt Nam đánh trả Khơ me đỏ trên lãnh thổ Campuchia 27 tháng 12: Tây Ban Nha. Hiến pháp mới có hiệu lực == Người sinh == === Tháng 1 === 1 tháng 1: Nina Bott, nữ diễn viên Đức 2 tháng 1: Dawit Mudschiri, cầu thủ bóng đá 3 tháng 1: Mike York, vận động viên khúc côn cầu trên băng Mỹ 4 tháng 1: Marius Ebbers, cầu thủ bóng đá Đức 4 tháng 1: Alexander Weber, vận động viên thể thao 5 tháng 1: January Jones, nữ diễn viên Mỹ 5 tháng 1: Franck Montagny, đua xe người Pháp (Công thức 1) 5 tháng 1: Emilia Rydberg, nữ ca sĩ Thụy Điển 8 tháng 1: Leonardo Bertagnolli, tay đua xe đạp Ý 9 tháng 1: A.J. McLean, nam ca sĩ Mỹ, thành viên Backstreet Boys 10 tháng 1: Facundo Quiroga, cầu thủ bóng đá Argentina 10 tháng 1: Tanel Tein, cầu thủ bóng rổ Estonia 14 tháng 1: Shawn Crawford, vận động viên điền kinh Mỹ 15 tháng 1: Franco Pellizotti, tay đua xe đạp Ý 17 tháng 1: Ingo Rust, chính trị gia Đức 18 tháng 1: Sebastian Siedler, tay đua xe đạp Đức 18 tháng 1: Stev Theloke, vận động viên bơi lội Đức 18 tháng 1: Thor Hushovd, tay đua xe đạp Na Uy 19 tháng 1: Katja Kipping, nữ chính trị gia Đức 23 tháng 1: Markus Dworrak, cầu thủ bóng đá Đức 25 tháng 1: Denis Nikolayevich Menchov, tay đua xe đạp Nga 26 tháng 1: Adam Svoboda, vận động viên khúc côn cầu trên băng Séc 27 tháng 1: Robert Förster, tay đua xe đạp Đức 28 tháng 1: Jamie Carragher, cầu thủ bóng đá Anh 28 tháng 1: Gianluigi Buffon, cầu thủ bóng đá Ý 28 tháng 1: Pape Bouba Diop, cầu thủ bóng đá === Tháng 2 === 1 tháng 2: Marion Wagner, nữ vận động viên điền kinh Đức 3 tháng 2: Joan Capdevila, cầu thủ bóng đá Tây Ban Nha 7 tháng 2: Daniel van Buyten, cầu thủ bóng đá Bỉ 7 tháng 2: Adama Njie, nữ vận động viên điền kinh 7 tháng 2: Ashton Kutcher, diễn viên Mỹ 13 tháng 2: Edsilia Rombley, nữ ca sĩ Hà Lan 14 tháng 2: Rie Rasmussen, người mẫu Đan Mạch, nữ diễn viên 16 tháng 2: Vala Flosadóttir, nữ vận động viên điền kinh 18 tháng 2: Josip Šimunić, cầu thủ bóng đá Croatia 18 tháng 2: Rubén Xaus, người đua mô tô Tây Ban Nha 20 tháng 2: Julia Jentsch, nữ diễn viên Đức 20 tháng 2: Lauren Ambrose, nữ diễn viên 23 tháng 2: Lars Klingbeil, chính trị gia Đức 28 tháng 2: Benjamin Raich, vận động viên chạy ski Áo === Tháng 3 === 3 tháng 3: Britta Carlson, nữ cầu thủ bóng đá Đức 4 tháng 3: Giovanni Zarrella, ca sĩ nhạc pop Đức 10 tháng 3: André Höhne, vận động viên điền kinh Đức 11 tháng 3: Didier Drogba, cầu thủ bóng đá Bờ Biển Ngà 11 tháng 3: Albert Luque, cầu thủ bóng đá Tây Ban Nha 12 tháng 3: Daniel Becke, tay đua xe đạp Đức 14 tháng 3: Pieter van den Hoogenband, vận động viên bơi lội Hà Lan 18 tháng 3: Brooke Hanson, nữ vận động viên bơi lội Úc 21 tháng 3: Rani Mukherjee, nữ diễn viên Ấn Độ, người mẫu 21 tháng 3: Kevin Federline, nghệ sĩ múa Mỹ, diễn viên 22 tháng 3: Heinz Winckler, nam ca sĩ Nam Phi 23 tháng 3: Wálter Samuel, cầu thủ bóng đá Argentina 23 tháng 3: Nicholle Tom, nữ diễn viên Mỹ 24 tháng 3: Bertrand Gille, cầu thủ bóng ném Pháp 28 tháng 3: Nafisa Joseph, người mẫu Ấn Độ (mất 2004) 29 tháng 3: Mattias Andersson, thủ môn bóng ném Thụy Điển 30 tháng 3: Christoph Spycher, cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp Thụy Sĩ 31 tháng 3: Vivian Schmitt, nữ diễn viên phim khiêu dâm Đức === Tháng 4 === 4 tháng 4: Lemar, nam ca sĩ Anh 5 tháng 4: Dwain Chambers, vận động viên điền kinh Anh 5 tháng 4: Franziska van Almsick, nữ vận động viên bơi lội Đức 8 tháng 4: Nico Frommer, cầu thủ bóng đá Đức 9 tháng 4: Vesna Pisarović, nữ ca sĩ Croatia, nhà soạn nhạc 9 tháng 4: Jorge Andrade, cầu thủ bóng đá Bồ Đào Nha 12 tháng 4: Trần Hùng Huy, CEO ACB 13 tháng 4: Sylvie van der Vaart, nữ diễn viên, người mẫu 15 tháng 4: Philippe Baden Powell de Aquino, nghệ sĩ dương cầm Brasil 17 tháng 4: Monika Bergmann-Schmuderer, nữ vận động viên chạy ski Đức 18 tháng 4: Maxim Podoprigora, vận động viên bơi lội Áo 19 tháng 4: Gabriel Heinze, cầu thủ bóng đá Argentina 19 tháng 4: Dorothee Mantel, nữ chính trị gia Đức, nghị sĩ quốc hội liên bang 19 tháng 4: James Franco, diễn viên Mỹ 20 tháng 4: Stefan Wächter, thủ môn bóng đá Đức 20 tháng 4: Ferdinand Peroutka, nhà văn Séc, nhà xuất bản 22 tháng 4: Marc Pircher, nhạc sĩ Áo 24 tháng 4: Ronny Scholz, tay đua xe đạp Đức 26 tháng 4: Peter Madsen, cầu thủ bóng đá Đan Mạch 28 tháng 4: Nate Richert, diễn viên Mỹ 30 tháng 4: Joachim Boldsen, vận động viên bóng ném Đan Mạch === Tháng 5 === 8 tháng 5: Lúcio, cầu thủ bóng đá đội tuyển quốc gia Brasil 10 tháng 5: Mithat Demirel, cầu thủ bóng rổ Đức 11 tháng 5: Laetitia Casta, người mẫu Pháp 12 tháng 5: Jason Biggs, diễn viên Mỹ 14 tháng 5: Gustavo Antonio Varela, cầu thủ bóng đá 15 tháng 5: Egoi Martínez, tay đua xe đạp Tây Ban Nha 18 tháng 5: Ricardo Carvalho, cầu thủ bóng đá Bồ Đào Nha 21 tháng 5: Briana Banks, nữ diễn viên phim khiêu dâm Mỹ 22 tháng 5: Katie Price, người mẫu Anh 26 tháng 5: Benji Gregory, diễn viên Mỹ 29 tháng 5: Sébastien Grosjean, vận động viên quần vợt Pháp 30 tháng 5: Martin Rother, diễn viên Đức === Tháng 6 === 1 tháng 6: Hasna Benhassi, nữ vận động viên điền kinh Maroc 2 tháng 6: Nikki Cox, nữ diễn viên Mỹ 3 tháng 6: Michael Clivot, chính trị gia Đức 5 tháng 6: Fernando Meira, cầu thủ bóng đá Bồ Đào Nha 9 tháng 6: Miroslav Klose, cầu thủ bóng đá Đức 11 tháng 6: Jasmin Hutter, nữ chính trị gia Thụy Sĩ 11 tháng 6: Joshua Jackson, diễn viên Mỹ 13 tháng 6: Natalie Alison, nữ diễn viên Áo 13 tháng 6: Mathis Künzler, diễn viên Thụy Sĩ 16 tháng 6: Daniel Brühl, diễn viên Đức 19 tháng 6: Dirk Nowitzki, cầu thủ bóng rổ Đức 19 tháng 6: Glennis Grace, nữ ca sĩ Hà Lan 20 tháng 6: Nils Schumann, vận động viên điền kinh Đức 20 tháng 6: Frank Lampard, cầu thủ bóng đá Anh 26 tháng 6: Juan Román Riquelme, cầu thủ bóng đá Argentina 27 tháng 6: Petra Frey, nữ ca sĩ Áo 27 tháng 6: Marc Terenzi, ca sĩ nhạc pop Mỹ === Tháng 7 === 1 tháng 7: Hillary Tuck, nữ diễn viên Mỹ 1 tháng 7: Christoph Dabrowski, cầu thủ bóng đá Đức 2 tháng 7: Darlington Omodiagbe, cầu thủ bóng đá 3 tháng 7: Kim nhà thờ, tay đua xe đạp Luxembourg 4 tháng 7: Emile Mpenza, cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp Bỉ 7 tháng 7: Marcus Ahlm, vận động viên bóng ném Thụy Điển 8 tháng 7: Dimitrios Grammozis, cầu thủ bóng đá Hy Lạp 9 tháng 7: Linda Park, nữ diễn viên 9 tháng 7: Gulnara Samitova, nữ vận động viên điền kinh Nga 10 tháng 7: Christina Roslyng, nữ vận động viên bóng ném Đan Mạch 11 tháng 7: Filiz Polat, nữ chính trị gia 12 tháng 7: DJ Qualls, diễn viên Mỹ 12 tháng 7: Michelle Rodríguez, nữ diễn viên Mỹ 12 tháng 7: Topher Grace, diễn viên Mỹ 12 tháng 7: Katrine Fruelund, nữ vận động viên bóng ném Đan Mạch 13 tháng 7: Antonio da Silva, cầu thủ bóng đá Brasil 13 tháng 7: Marcus Andreasson, cầu thủ bóng đá Thụy Điển 14 tháng 7: Mattias Ekström, đua ô tô Thụy Điển 15 tháng 7: Stephan Schreck, tay đua xe đạp Đức 17 tháng 7: Dolores Fonzi, nữ diễn viên Argentina 17 tháng 7: Katharine Towne, nữ diễn viên Mỹ 18 tháng 7: Rogier Oosterbaan, vận động viên chạy ski Hà Lan 18 tháng 7: Ben Sheets, cầu thủ bóng chày Mỹ 20 tháng 7: Zoltan Fejer-Konnerth, vận động viên bóng bàn 20 tháng 7: Elliot Yamin, nam ca sĩ Mỹ 21 tháng 7: Josh Hartnett, diễn viên Mỹ 23 tháng 7: Stuart Elliott, cầu thủ bóng đá Bắc Ireland 23 tháng 7: Stefanie Sun, nữ ca sĩ 25 tháng 7: Lisa Maria Potthoff, nữ diễn viên Đức 25 tháng 7: Francisco Peña, cầu thủ bóng đá Tây Ban Nha === Tháng 8 === 2 tháng 8: Goran Gavrančić, cầu thủ bóng đá Serbia 5 tháng 8: Kim Gevaert, nữ vận động viên điền kinh Bỉ 7 tháng 8: Juan Miguel Mercado, tay đua xe đạp Tây Ban Nha 8 tháng 8: Alexander Bugera, cầu thủ bóng đá Đức 9 tháng 8: Audrey Tautou, nữ diễn viên Pháp 10 tháng 8: Oli P., diễn viên Đức, nam ca sĩ 13 tháng 8: Beniamin Mwaruwari, cầu thủ bóng đá Zimbabwe 15 tháng 8: Christopher Brown, vận động viên điền kinh 23 tháng 8: Kobe Bryant, cầu thủ bóng rổ Mỹ 24 tháng 8: Yves Allegro, vận động viên quần vợt Thụy Sĩ 25 tháng 8: Christian Maicon Hening, cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp Brasil 29 tháng 8: Jens Boden, vận động viên chạy đua trên băng Đức === Tháng 9 === 4 tháng 9: Wes Bentley, diễn viên Mỹ 4 tháng 9: Michael V Knudsen, vận động viên bóng ném Đan Mạch 4 tháng 9: Danijel Ljuboja, cầu thủ bóng đá 6 tháng 9: Süreyya Ayhan, nữ vận động viên điền kinh Thổ Nhĩ Kỳ 8 tháng 9: Marco Sturm, vận động viên khúc côn cầu trên băng Đức 11 tháng 9: Dejan Stanković, cầu thủ bóng đá Serbia 11 tháng 9: Edward Reed, cầu thủ football Mỹ 11 tháng 9: Else-Marthe Sørlie-Lybekk, nữ vận động viên bóng ném Na Uy 12 tháng 9: Lukáš Došek, cầu thủ bóng đá Séc 12 tháng 9: Benjamin McKenzie, diễn viên Mỹ 15 tháng 9: Marko Pantelić, cầu thủ bóng đá Serbia 16 tháng 9: Claudia Marx, nữ vận động viên điền kinh Đức 19 tháng 9: Mariano Puerta, vận động viên quần vợt Argentina 20 tháng 9: Sarit Hadad, nữ ca sĩ Israel 23 tháng 9: Ingrid Jacquemod, nữ vận động viên chạy ski Pháp 29 tháng 9: Karen Putzer, nữ vận động viên chạy ski Ý 29 tháng 9: Kurt Nilsen, nhạc sĩ Na Uy === Tháng 10 === 2 tháng 10: Simon Pierro, ảo thuật gia Đức 3 tháng 10: Gerald Asamoah, cầu thủ bóng đá Đức 3 tháng 10: Claudio Pizarro, cầu thủ bóng đá đội tuyển quốc gia Peru 9 tháng 10: Nicky Byrne, ca sĩ nhạc pop Ireland 12 tháng 10: Marko Jarić, cầu thủ bóng rổ Serbia 13 tháng 10: Jan Šimák, cầu thủ bóng đá Séc 13 tháng 10: Jermaine O'Neal, cầu thủ bóng rổ Mỹ 14 tháng 10: Allison Forsyth, nữ vận động viên chạy ski Canada 19 tháng 10: Ruslan Chagayev, võ sĩ quyền Anh 27 tháng 10: Josh Ritter, nam ca sĩ, nhà soạn nhạc 28 tháng 10: Justin Guarini, nam ca sĩ Mỹ 30 tháng 10: Gerardo Seoane, cầu thủ bóng đá Thụy Sĩ 31 tháng 10: Inka Grings, nữ cầu thủ bóng đá Đức 31 tháng 10: Martin Verkerk, vận động viên quần vợt Hà Lan === Tháng 11 === 2 tháng 11: Noah Ngeny, vận động viên điền kinh, huy chương Thế Vận Hội 3 tháng 11: Aria Giovanni, nữ diễn viên phim khiêu dâm Mỹ, người mẫu 5 tháng 11: Sonja Fuss, nữ cầu thủ bóng đá Đức 8 tháng 11: Ali Karimi, cầu thủ bóng đá đội tuyển quốc gia Iran 10 tháng 11: Nadine Angerer, nữ cầu thủ bóng đá Đức 10 tháng 11: Ken Bardowicks, ảo thuật gia Đức 10 tháng 11: Kyla Cole, nữ diễn viên phim khiêu dâm 11 tháng 11: Erik Edman, cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp Thụy Điển 12 tháng 11: Alexandra Maria Lara, nữ diễn viên Đức 16 tháng 11: Conny Pohlers, nữ cầu thủ bóng đá Đức 16 tháng 11: Gerhard Tremmel, cầu thủ bóng đá Đức 17 tháng 11: Rachel McAdams, nữ diễn viên Canada 19 tháng 11: Věra Pospíšilová-Cechlová, nữ vận động viên điền kinh Séc 22 tháng 11: Francis Obikwelu, vận động viên điền kinh Bồ Đào Nha 25 tháng 11: Shiina Ringo, nữ ca sĩ Nhật Bản, nghệ sĩ dương cầm 27 tháng 11: José Iván Gutiérrez, tay đua xe đạp Tây Ban Nha 27 tháng 11: John Capel, vận động viên điền kinh Mỹ 30 tháng 11: Gael García Bernal, diễn viên === Tháng 12 === 2 tháng 12: Trần Hùng Huy, doanh nhân Việt Nam 2 tháng 12: Nelly Furtado, nữ ca sĩ 3 tháng 12: Eva Briegel, nữ nhạc sĩ Đức 3 tháng 12: Bram Tankink, tay đua xe đạp Hà Lan 4 tháng 12: Mina Tander, nữ diễn viên Đức 9 tháng 12: Jesse Metcalfe, diễn viên Mỹ 10 tháng 12: Anna Jesień, nữ vận động viên điền kinh Ba Lan 12 tháng 12: Luciano Emilio, cầu thủ bóng đá Brasil 14 tháng 12: Patty Schnyder, nữ vận động viên quần vợt Thụy Sĩ 18 tháng 12: Katie Holmes, nữ diễn viên Mỹ 23 tháng 12: Estella Warren, nữ diễn viên Canada, người mẫu 24 tháng 12: Harald Planer, thủ môn bóng đá 24 tháng 12: Yıldıray Baştürk, cầu thủ bóng đá Thổ Nhĩ Kỳ 25 tháng 12: Jasmin Gerat, nữ diễn viên 27 tháng 12: Antje Buschschulte, nữ vận động viên bơi lội Đức 28 tháng 12: John Legend, nhạc sĩ 29 tháng 12: Victor Agali, cầu thủ bóng đá Nigeria 29 tháng 12: Alexis Amore, nữ diễn viên phim khiêu dâm == Qua đời == === Tháng 1 === 7 tháng 1: Alfred von Beckerath, nhà soạn nhạc Đức, người điều khiển dàn nhạc (sinh 1901) 8 tháng 1: André François-Poncet, chính trị gia Pháp, nhà ngoại giao (sinh 1887) 13 tháng 1: Hubert H. Humphrey, chính trị gia Mỹ (sinh 1911) 14 tháng 1: Harold Abrahams, vận động viên điền kinh Anh (sinh 1899) 14 tháng 1: Kurt Gödel, nhà toán học Áo (sinh 1906) 21 tháng 1: Dit Clapper, vận động viên khúc côn cầu trên băng Canada (sinh 1907) 22 tháng 1: Léon-Gontran Damas, nhà văn (sinh 1912) 24 tháng 1: Georges Speicher, tay đua xe đạp Pháp (sinh 1907) 28 tháng 1: Arnold Hauser, sử gia về nghệ thuật (sinh 1892) === Tháng 2 === 1 tháng 2: Roland Kohlsaat, họa sĩ vẽ tranh cho truyện comic Đức, họa sĩ vẽ tranh minh họa, tác giả (sinh 1913) 11 tháng 2: Harry Martinson, nhà văn, Giải Nobel (văn học) (sinh 1904) 12 tháng 2: Kurt Angstmann, chính trị gia Đức (sinh 1915) 15 tháng 2: Josef Pelz von Felinau, nhà văn Áo, diễn viên (sinh 1895) 18 tháng 2: Maggie McNamara, nữ diễn viên Mỹ (sinh 1928) 22 tháng 2: Harold Glen Borland, nhà văn Mỹ (sinh 1900) 22 tháng 2: Joachim Büchner, vận động viên điền kinh Đức (sinh 1905) 23 tháng 2: Paul Yoshigorō Taguchi, tổng Giám mục Osaka, Hồng y Giáo chủ (sinh 1902) 27 tháng 2: Vadim Salmanov, nhà soạn nhạc Nga (sinh 1912) 28 tháng 2: Eric Frank Russell, nhà văn Anh (sinh 1905) === Tháng 3 === 3 tháng 3: Otto Steinert, nhiếp ảnh gia Đức (sinh 1915) 12 tháng 3: John Cazale, diễn viên Mỹ (sinh 1935) 16 tháng 3: Alfred Müller-Armack, nhà kinh tế học Đức (sinh 1901) 18 tháng 3: Valeska Gert, nữ nghệ sĩ múa (sinh 1892) 18 tháng 3: Maria Neubaum, nữ nhà thơ trữ tình Đức, nữ soạn kịch (sinh 1912) 19 tháng 3: Carlos Torre, người đánh cờ Mexico (sinh 1905) 19 tháng 3: Gaston Maurice Julia, nhà toán học Pháp (sinh 1893) 20 tháng 3: Robert Gilbert, nhà soạn nhạc Đức, nam ca sĩ, diễn viên (sinh 1899) 21 tháng 3: Cearbhall Ó Dálaigh, tổng thống Ireland (sinh 1911) 25 tháng 3: Hanna Ralph, nữ diễn viên Đức (sinh 1885) 27 tháng 3: Johannes Göderitz, kiến trúc sư Đức (sinh 1888) 30 tháng 3: Larry Young, nhạc sĩ nhạc jazz Mỹ (nghệ sĩ đàn ống, nhà soạn nhạc) (sinh 1940) 31 tháng 3: Charles Best, nhà sinh lý học Mỹ, nhà hóa sinh (sinh 1899) === Tháng 4 === 14 tháng 4: Hermann Etzel, chính trị gia Đức (sinh 1882) 14 tháng 4: Erwin Damerow, nhà điêu khắc Đức 16 tháng 4: Richard Lindner, họa sĩ Mỹ gốc Đức (sinh 1901) 16 tháng 4: Lucius D. Clay, chính trị gia (sinh 1897) 17 tháng 4: Ewald Balser, diễn viên Đức (sinh 1898) 20 tháng 4: Ferdinand Peroutka, nhà văn Séc, nhà xuất bản (sinh 1895) 21 tháng 4: Sandy Denny, nữ ca sĩ Anh (sinh 1947) 25 tháng 4: Zenta Mauriņa, nhà văn nữ (sinh 1897) 27 tháng 4: Daoed Khan, chính khách (sinh 1908) 27 tháng 4: John Doeg, vận động viên quần vợt Mỹ (sinh 1908) 28 tháng 4: Maurice Dela, nhà soạn nhạc Canada, nghệ sĩ đàn ống (sinh 1919) === Tháng 5 === 1 tháng 5: Aram Khachaturian, nhà soạn nhạc Xô Viết (sinh 1903) 1 tháng 5: Hans Severus Ziegler, nhà xuất bản Đức, chính trị gia (sinh 1893) 6 tháng 5: Heinrich Luhmann, nhà sư phạm Đức (sinh 1890) 7 tháng 5: Gene Tunney, võ sĩ quyền Anh (sinh 1897) 8 tháng 5: Samuel Trask Dana, nhà lâm học Mỹ (sinh 1883) 9 tháng 5: Duncan Grant, họa sĩ Scotland (sinh 1885) 9 tháng 5: George Maciunas, nghệ nhân Mỹ (sinh 1931) 15 tháng 5: Robert Menzies, thủ tướng Úc (sinh 1894) 21 tháng 5: Kurt Halbritter, họa sĩ biếm họa (sinh 1924) 22 tháng 5: Václav Dobiaš, nhà soạn nhạc Séc (sinh 1909) 23 tháng 5: Bertram Blank, chính trị gia Đức, nghị sĩ quốc hội liên bang (sinh 1930) 31 tháng 5: József Bozsik, cầu thủ bóng đá Hungary, huấn luyện viên bóng đá (sinh 1925) === Tháng 6 === 12 tháng 6: Guo Moruo, nhà văn Trung Hoa, chính trị gia (sinh 1892) 20 tháng 6: Mark Robson, đạo diễn phim Canada (sinh 1913) 22 tháng 6: Jens Otto Krag, chính trị gia Đan Mạch (sinh 1914) 29 tháng 6: Bob Crane, diễn viên Mỹ (sinh 1928) === Tháng 7 === 4 tháng 7: Carola Braunbock, nữ diễn viên Đức (sinh 1924) 6 tháng 7: Gustav Burmester, đạo diễn phim Đức, diễn viên (sinh 1904) 22 tháng 7: André Chapelon, kĩ sư Pháp (sinh 1892) 26 tháng 7: Mary Blair, nữ nghệ nhân Mỹ (sinh 1911) 29 tháng 7: Wesley La Violette, nhà soạn nhạc Mỹ (sinh 1894) 30 tháng 7: Michael Kraus, nghệ sĩ tạo hình Đức, nghệ nhân (sinh 1945) 30 tháng 7: Curt Mahr, nhà soạn nhạc Đức (sinh 1907) 31 tháng 7: Werner Finck, nhà văn Đức, diễn viên (sinh 1902) === Tháng 8 === 5 tháng 8: Clemens von Podewils, nhà báo Đức, nhà văn (sinh 1905) 6 tháng 8: Paul VI, Giáo hoàng (sinh 1897) 8 tháng 8: Hans Revenstorff, chính trị gia Đức 16 tháng 8: Paul Yü Pin, tổng Giám mục Nam Kinh, Hồng y Giáo chủ (sinh 1901) 17 tháng 8: Hans Wolter, nhà vật lý học Đức (sinh 1911) 19 tháng 8: Max Mallowan, nhà khảo cổ học (sinh 1904) 21 tháng 8: Charles Eames, nhà thiết kế, kiến trúc sư (sinh 1907) 21 tháng 8: Nicolaas Diederichs, chính trị gia Nam Phi, tổng thống (sinh 1903) 22 tháng 8: Ignazio Silone, nhà văn Ý (sinh 1900) 22 tháng 8: Jomo Kenyatta, thủ tướng Kenia (sinh 1893) 26 tháng 8: Charles Boyer, diễn viên Pháp (sinh 1897) 29 tháng 8: Karl Hartl, đạo diễn phim Áo (sinh 1899) === Tháng 9 === 6 tháng 9: Max Decugis, vận động viên quần vợt Pháp (sinh 1882) 6 tháng 9: Adolf Dassler, doanh nhân Đức, người thành lập Adidas (sinh 1900) 7 tháng 9: Keith Moon, nhạc sĩ Anh (sinh 1946) 8 tháng 9: Pantscho Wladigerow, nhà soạn nhạc Bulgaria (sinh 1899 9 tháng 9: Jürgen Feindt, nghệ sĩ múa Đức, diễn viên (sinh 1935) 9 tháng 9: Jacobo Ficher, nhà soạn nhạc Argentina (sinh 1896) 10 tháng 9: Zita Zehner, nữ chính trị gia Đức (sinh 1900) 11 tháng 9: Georgi Markow, nhà văn (sinh 1929) 11 tháng 9: Valerian Gracias, tổng Giám mục Bombay, Hồng y Giáo chủ (sinh 1901) 12 tháng 9: O. E. Hasse, diễn viên Đức, đạo diễn phim (sinh 1903) 19 tháng 9: Étienne Gilson, triết gia Pháp (sinh 1884) 20 tháng 9: Lilly Becher, nhà văn nữ, nhà nữ xuất bản. (sinh 1901) 20 tháng 9: Neil Johnston, cầu thủ bóng rổ Mỹ (sinh 1929) 21 tháng 9: Peter Vogel, diễn viên Đức (sinh 1937) 24 tháng 9: Ida Noddack-Tacke, nữ hóa học gia Đức (sinh 1896) 26 tháng 9: Karl Manne Siegbahn, nhà vật lý học Thụy Điển, Giải Nobel (sinh 1886) 28 tháng 9: Johannes Paul I, Giáo hoàng (sinh 1912) === Tháng 10 === 3 tháng 10: George Grant Blaisdell, kĩ sư Mỹ, nhà phát minh (sinh 1895) 5 tháng 10: May Warden, nữ diễn viên Anh (sinh 1891) 8 tháng 10: Tibor Serly, nhà soạn nhạc Hungary (sinh 1901) 10 tháng 10: Ralph Metcalfe, vận động viên điền kinh Mỹ, huy chương Thế Vận Hội, chính trị gia (sinh 1910) 14 tháng 10: Bolesław Filipiak, Hồng y Giáo chủ (sinh 1901) 17 tháng 10: Franz Varelmann, chính trị gia Đức (sinh 1904) 17 tháng 10: Jean Améry, nhà văn Áo (sinh 1912) 17 tháng 10: Alexander Spoerl, nhà văn (sinh 1917) 19 tháng 10: Gig Young, diễn viên Mỹ (sinh 1913) === Tháng 11 === 2 tháng 11: Giuseppe Berto, nhà văn Ý (sinh 1914) 2 tháng 11: Fritz Mensing, chính trị gia Đức 8 tháng 11: Norman Rockwell, họa sĩ Mỹ, họa sĩ vẽ tranh minh họa (sinh 1894) 10 tháng 11: Theo Lingen, diễn viên Đức, đạo diễn phim, tác giả (sinh 1903) 15 tháng 11: Margaret Mead, nhà nữ nhân loại học Mỹ, nhà dân tộc học (sinh 1901) 18 tháng 11: Lennie Tristano, nhạc sĩ nhạc jazz Mỹ (nghệ sĩ dương cầm, nhà soạn nhạc) (sinh 1919) 19 tháng 11: Giorgio de Chirico, họa sĩ Ý (sinh 1888) 19 tháng 11: Ernst Eikhoff, cầu thủ bóng đá đội tuyển quốc gia Đức (sinh 1892) 26 tháng 11: Willi Steinhörster, chính trị gia Đức (sinh 1908) 26 tháng 11: Thanh Nga, nghệ sĩ cải lương tài sắc nổi tiếng của Việt Nam (sinh 1942). 27 tháng 11: Giuse Maria Trịnh Như Khuê, tổng Giám mục Hà Nội, Hồng y Giáo chủ (sinh 1898) 27 tháng 11: Walter Kühlthau, chính trị gia Đức 28 tháng 11: Carlo Scarpa, kiến trúc sư Ý (sinh 1906) === Tháng 12 === 4 tháng 12: Samuel Abraham Goudsmit, nhà vật lý học Mỹ (sinh 1902) 8 tháng 12: Golda Meïr, nữ chính trị gia Israel (sinh 1898) 10 tháng 12: Ed Wood, đạo diễn phim Mỹ (sinh 1924) 14 tháng 12: Salvador de Madariaga, nhà ngoại giao Tây Ban Nha, nhà văn (sinh 1886) 17 tháng 12: Walter Vesper, chính trị gia Đức (sinh 1897) 22 tháng 12: Otto Probst, chính trị gia Áo, (sinh 1911) 25 tháng 12: Alfred Wickenburg, họa sĩ Áo, nghệ sĩ tạo hình (sinh 1895) 26 tháng 12: Fritz Büchtger, nhà soạn nhạc Đức (sinh 1903) 27 tháng 12: Bob Luman, ca sĩ nhạc country Mỹ (sinh 1937) 27 tháng 12: Houari Boumedienne, lãnh đạo nhà nước Algérie (sinh 1925) 28 tháng 12: Wilhelm Troll, nhà thực vật học Đức (sinh 1897) == Giải thưởng Nobel == Hóa học - Peter D. Mitchell Văn học - Isaac Bashevis Singer Hòa bình - Mohamed Anwar Al-Sadat, Menachem Begin Vật lý - Pyotr Leonidovich Kapitsa, Arno Allan Penzias, Robert Woodrow Wilson Y học - Werner Arber, Daniel Nathans, Hamilton O. Smith Kinh tế - Herbert Simon == Xem thêm == Thế giới trong năm 1978, tình trạng thế giới trong năm này == Tham khảo ==
ủy ban nhân dân.txt
Ủy ban nhân dân là một cơ quan hành chính nhà nước của hệ thống hành chính Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Đây là cơ quan thực thi pháp luật tại các cấp: tỉnh, huyện, xã. Các chức danh của Ủy ban nhân dân được Hội đồng nhân dân cấp tương ứng bầu ra và có nhiệm kỳ trùng với nhiệm kỳ của Hội đồng nhân dân. Người đứng đầu Ủy ban nhân dân là Chủ tịch Ủy ban nhân dân, thường là phó bí thư Đảng ủy Đảng Cộng sản Việt Nam cấp tương ứng. Quyền hạn của Ủy ban nhân dân được quy định tại Hiến pháp nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Luật Tổ chức Chính quyền địa phương. Ủy ban nhân dân các cấp có các cơ quan giúp việc như: Sở (cấp tỉnh), Phòng (cấp huyện), Ban (cấp xã). == Chức năng == Theo điều 2 và 3 Luật tổ chức Hội đồng Nhân dân và Ủy ban Nhân dân (năm 2003) quy định về chức năng và mục đích Ủy ban Nhân dân như sau: Điều 2 Uỷ ban nhân dân do Hội đồng nhân dân bầu là cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân dân, cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương, chịu trách nhiệm trước Hội đồng nhân dân cùng cấp và cơ quan nhà nước cấp trên. Uỷ ban nhân dân chịu trách nhiệm chấp hành Hiến pháp, luật, các văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên và nghị quyết của Hội đồng nhân dân cùng cấp nhằm bảo đảm thực hiện chủ trương, biện pháp phát triển kinh tế - xã hội, củng cố quốc phòng, an ninh và thực hiện các chính sách khác trên địa bàn. Uỷ ban nhân dân thực hiện chức năng quản lý nhà nước ở địa phương, góp phần bảo đảm sự chỉ đạo, quản lý thống nhất trong bộ máy hành chính nhà nước từ trung ương tới cơ sở. Điều 3 Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ. Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình theo Hiến pháp, luật và các văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên; phát huy quyền làm chủ của nhân dân, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, ngăn ngừa và chống các biểu hiện quan liêu, hách dịch, cửa quyền, tham nhũng, lãng phí, vô trách nhiệm và các biểu hiện tiêu cực khác của cán bộ, công chức và trong bộ máy chính quyền địa phương. == Ủy ban nhân dân cấp tỉnh == Đây là chính quyền của các địa phương cấp tỉnh và thành phố trực thuộc trung ương. Ủy ban nhân dân cấp tỉnh có từ 9 đến 11 thành viên, gồm Chủ tịch, các Phó Chủ tịch, 1 ủy viên thư ký và các ủy viên khác. Thường trực Ủy ban nhân dân cấp tỉnh gồm Chủ tịch, các Phó Chủ tịch, và ủy viên thư ký. Người đứng đầu chính quyền địa phương cấp tỉnh là Chủ tịch Ủy ban nhân dân. Trên danh nghĩa, vị trí này do Hội đồng nhân dân tỉnh quyết định bằng bầu cử theo hình thức bỏ phiếu. Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh thường đồng thời là một Phó Bí thư Tỉnh ủy. Chủ tịch Ủy ban nhân dân của hai thành phố trực thuộc trung ương lớn nhất là Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh sẽ đồng thời là Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam. Bộ máy giúp việc của chính quyền địa phương cấp tỉnh gồm Văn phòng Ủy ban Nhân dân và các sở, ban, ngành, chia thành các khối: Khối tổng hợp: Văn phòng Ủy ban Nhân dân, Sở Kế hoạch và Đầu tư, Sở Nội vụ (trước kia là Ban Tổ chức chính quyền). Khối nội chính: Sở Tư pháp, Thanh tra. Ngoài ra, các cơ quan sau đây chịu sự chỉ đạo theo ngành dọc, mà không trực thuộc Ủy ban Nhân dân: Công an tỉnh, Tòa án Nhân dân, Viện Kiểm sát Nhân dân, Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh. Khối lưu thông phân phối: Sở Công Thương, Sở Tài chính (trong đó có Kho bạc Nhà nước). Ngoài ra, Ngân hàng Nhà nước tỉnh, thành chịu sự chỉ đạo theo ngành dọc, mà không trực thuộc Ủy ban Nhân dân. Khối nông lâm nghiệp: Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Sở Tài nguyên và môi trường Khối công nghiệp: Sở Xây dựng, Sở Giao thông vận tải, Sở Thông tin và Truyền thông, Sở Khoa học và công nghệ (trong đó có Cục Tiêu chuẩn, đo lường, chất lượng). Khối văn hóa xã hội: Sở Giáo dục và Đào tạo, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Sở Y tế, Sở Lao động, Thương binh và Xã hội Số Sở, ban thuộc Ủy ban Nhân dân cấp tỉnh là 19, trong đó cơ cấu cứng là 18 Sở, ban, bao gồm các Sở: Nội vụ, Tư pháp, Kế hoạch và Đầu tư, Tài chính, Công thương, Giao thông vận tải, Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Xây dựng (Quy hoạch và Kiến trúc), Tài nguyên và Môi trường, Thông tin và Truyền thông, Lao động- Thương binh và Xã hội, Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Khoa học và Công nghệ, Giáo dục và Đào tạo, Y tế; Thanh tra tỉnh; Văn phòng Ủy ban Nhân dân. 1 Sở được tổ chức theo đặc thù của từng địa phương là các Sở: Ngoại vụ. Tuy nhiên tùy thuộc vào từng địa phương có thể có thêm các cơ quan chuyên môn ngang Sở khác như: Ban Quản lý các KCN, Ban Dân tộc, Ban Quản lý phát triển Côn Đảo (BRVT),.v.v... == Ủy ban nhân dân cấp huyện == Đây là chính quyền của các địa phương cấp huyện, quận, thành phố trực thuộc tỉnh, thị xã. Ủy ban nhân dân cấp huyện có từ 7 đến 9 thành viên, gồm Chủ tịch, 2-3 Phó Chủ tịch và các ủy viên. Lãnh đạo Ủy ban nhân dân cấp huyện gồm Chủ tịch, các Phó Chủ tịch. Người đứng đầu Ủy ban nhân dân cấp huyện là Chủ tịch Ủy ban nhân dân, trên danh nghĩa là do Hội đồng nhân dân huyện sở tại lựa chọn. Thông thường, Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện sẽ đồng thời là một Phó Bí thư Huyện ủy. Các cơ quan giúp việc của chính quyền địa phương cấp huyện thông thường gồm các phòng, ban trực thuộc: Văn phòng Ủy ban Nhân dân, Phòng Tài chính - Kế hoạch, Phòng Nội vụ, Phòng Tài nguyên - môi trường, Phòng Công thương, Phòng Nông nghiệp-PTNT, Phòng Tư pháp, Phòng Giáo dục- Đào tạo, Phòng Y tế, Phòng Lao động- Thương binh xã hội, Thanh tra huyện, Phòng Văn hóa - thông tin. Một số cơ quan nhà nước ở cấp huyện như Chi cục Thuế, Chi cục Thống kê, Ban chỉ huy Quân sự Huyện, Công an Huyện, v.v... không phải là cơ quan của chính quyền địa phương cấp huyện mà là cơ quan của chính quyền trung ương đặt tại huyện (theo ngành dọc) == Ủy ban nhân dân cấp xã == Đây là chính quyền của các đơn vị hành chính cấp xã, phường, thị trấn. Ủy ban nhân dân cấp xã là cấp chính quyền địa phương cấp cơ sở, gần dân nhất ở Việt Nam. Ủy ban nhân dân cấp xã có từ 3 đến 5 thành viên, gồm Chủ tịch, 2 Phó Chủ tịch và các ủy viên(thường là chỉ huy trưởng BCH quân sự và Trưởng công an xã). Thường trực Ủy ban nhân dân cấp xã gồm Chủ tịch, các Phó Chủ tịch. Người đứng đầu Ủy ban nhân dân cấp xã là Chủ tịch Ủy ban nhân dân. Về danh nghĩa, người này do Hội đồng nhân dân của xã, thị trấn hay phường đó bầu ra bằng hình thức bỏ phiếu kín. Thông thường, Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã, phường hay thị trấn sẽ đồng thời là một Phó Bí thư Đảng ủy của xã, thị trấn hay phường đó. Ủy ban nhân dân xã, phường hay thị trấn hoạt động theo hình thức chuyên trách. Bộ máy giúp việc của Ủy ban nhân dân cấp xã gồm có 7 chức danh: Công an, quân sự, kế toán, văn phòng, tư pháp - hộ tịch, văn hóa - xã hội, địa chính. Mỗi chức danh tùy vào tình hình thực tế địa phương mà bố trí số lượng biên chế phù hợp. == Ủy ban Hành chính == Tiền thân của Ủy ban nhân dân các cấp của nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam chính là Ủy ban Hành chính của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (1945-1976). Các cơ quan giúp việc của Ủy ban Hành chính cấp tỉnh đa số được gọi là Ty, số ít gọi là Ban (Ban Tổ chức chính quyền, Ban Bảo vệ bà mẹ trẻ em) hoặc Chi cục (Chi cục Hải quan, Chi cục Kiểm lâm, Chi cục Thống kê). == Chú thích ==
winston churchill.txt
Sir Winston Leonard Spencer-Churchill (30 tháng 11 năm 1874 – 24 tháng 1 năm 1965) là một nhà chính trị người Anh, nổi tiếng nhất với cương vị Thủ tướng Anh trong thời Chiến tranh thế giới thứ hai. Ông từng là một người lính, nhà báo, tác giả, họa sĩ và chính trị gia. Churchill, nói chung, được coi là một trong những nhà lãnh đạo quan trọng nhất trong lịch sử Anh và lịch sử thế giới. Ông là Thủ tướng Anh duy nhất nhận giải Nobel Văn học và là người đầu tiên được công nhận là Công dân danh dự Hoa Kỳ Ông đã được tặng thưởng nhiều danh hiệu cao quý như Huân chương Garter, Huân chương Công lao, Huân chương Companions of Honour, Huân chương Quân địa phương và Viện sĩ Hội Hoàng gia và là hội viên Hội đồng cơ mật Nữ hoàng Canada. Họ chính thức của Churchill là Spencer-Churchill (ông có quan hệ với gia đình Spencer), nhưng bắt đầu từ cha ông, Sir Randolph Churchill, nhánh gia đình ông luôn chỉ sử dụng tên Churchill trước công chúng. == Tuổi trẻ == Winston Churchill là một hậu duệ của thành viên nổi tiếng đầu tiên trong dòng họ Churchill, John Churchill, Quận công Marlborough thứ nhất. Người cha của Winston và là một chính khách, Sir Randolph Churchill, là con trai thứ ba của John Spencer-Churchill, Quận công Marlborough thứ bảy; mẹ của Winston là Lady ("Quý bà") Randolph Churchill (tên khai sinh Jennie Jerome), con gái nhà triệu phú Mỹ Leonard Jerome. Winston Churchill sinh tại Lâu đài Blenheim ở Woodstock, Oxfordshire; ông đã ra đời sớm hơn dự kiến khi mẹ ông đang tham gia một buổi khiêu vũ. Như thói thường đối với những cậu bé con nhà thượng lưu thời buổi ấy, hầu như trong cả thời thơ ấu ông học tại các trường nội trú. Ông tham dự kỳ thi vào Trường Harrow nhưng khi làm bài tiếng Latin, ông đã cẩn thận viết tước vị, tên ông, số 1 và tiếp sau là một chấm, và không thể viết thêm được gì. Tuy vậy, ông vẫn được nhận vào trường, nhưng bị xếp vào lớp cuối nơi dạy chủ yếu môn tiếng Anh, môn ông học rất giỏi. Hiện nay, ngôi trường công có lịch sử lâu đời này hàng năm có trao một giải thưởng về tiểu luận mang tên Churchill với đầu bài do vị trưởng khoa tiếng Anh ra đề. Ông hiếm khi được mẹ, người ông thực sự tôn thờ, tới thăm, dù ông viết nhiều bức thư cầu khẩn bà tới hay đồng ý để cha ông cho ông về nhà. Jennie Jerome (mẹ ông, và sau này được gọi là Lady Randolph) có một cá tính mạnh, và sau khi lấy Sir Randolph bà đã có quan hệ với nhiều người đàn ông nắm quyền lực lúc đó, đa số những mối quan hệ này đều được chồng bà biết đến. Những năm về sau, khi Winston đã tới tuổi thanh niên, ông và mẹ ngày càng gần nhau hơn, quan hệ giữa ông và mẹ phát triển theo kiểu hầu như giống tình cảm giữa một người em trai và chị gái hơn là giữa mẹ và con, gần gũi nhau với một tình cảm bạn bè sâu sắc. Ông hăng hái nối bước nghề nghiệp của cha nhưng luôn có khoảng cách trong quan hệ với cha mình. Năm 1886, một lần ông bị thuật lại là đã tuyên bố "Cha tôi là Bộ trưởng bộ tài chính và một ngày nào đó tôi cũng sẽ nắm chức vụ đó." Tuổi thơ cô đơn một mình đã ghi dấu ấn lên cả cuộc đời ông. Mặt khác, khi còn nhỏ ông rất gần gũi với vú nuôi là Elizabeth Anne Everest (người được gọi là vú em), ông đã rất buồn khi bà mất ngày 3 tháng 7 năm 1895. Ông trả tiền hỏa táng và làm bia mộ cho bà tại nghĩa trang thành phố Luân Đôn. Tại trường Harrow, Churchill có kết quả học tập kém và thường xuyên bị phạt vì làm bài không tốt và thiếu nỗ lực. Khi còn nhỏ, thành tích của ông không hề nổi trội, thâm chí là không được học lực khá. Với bản tính độc lập và nổi loạn, Churchill từ chối việc tiếp thu thụ động và cả những môn lý thuyết, học thuộc. Những môn học mà ông không thích bao gồm tiếng Latinh, tiếng Hy Lạp, Toán học và Pháp văn. Churchill học muời môn thì ông không thích học một nửa trong tổng số tất cả các môn bắt buộc học. Ông cho rằng trước hết phải thông thạo ngôn ngữ tiếng Anh mẹ đẻ đã rồi mới học các môn tiếp theo. Vì thế, ông luôn được xếp ngồi vào hàng ngũ của những học sinh được thầy cô và nhà trường quan tâm đặc biệt. Mà sự chăm sóc đó chỉ dành cho học sinh yếu. Bản tính của ông là độc lập và nổi loạn và ông không thể học tập được các môn lý thuyết, thi trượt nhiều môn và ông đã từ chối học các môn kinh điển (như, tiếng Latin và tiếng Hy Lạp cổ). Quan điểm cho rằng Churchill thiếu khả năng học tập là do chính cha ông đưa ra, có lẽ vì sự không hài lòng của cha ông đối với chàng trai trẻ Churchill và sẵn sàng coi con trai như một sự thất vọng. Tuy nhiên, ông đã thực sự trở thành nhà vô địch môn đánh kiếm của trường. == Tham gia Quân đội == Đến tuổi thi đại học, ông đăng ký trường quân sự hoàng gia Sandhurst vì ước mơ từ bé của ông là đi lính. Qủa thật là không có con đường trải hoa hồng khi theo đuổi ước mơ và Churchill đã thi mãi ba lần, tới lần thứ tư thì đỗ. Sau khi tốt nghiệp tại Sandhurst, Churchill thấy một điều mà nhiều sinh viên tốt nghiệp đã thấy đó chính là mình thực ra chẳng biết chút gì cả. Dường như ông không tìm thấy mối liên hệ như những gì được dạy với thực tế trần trụi. Cảm thấy thua kém, tức thì ông quyết định thực hiện chương trình tự giáo dục bằng việc tự học mỗi ngày. Cũng giống như Abraham Lincoln, Churchill tìm thấy mình trong việc tự học. Ông bắt đầu ngấu nghiến những cuốn sách về doanh nhân trên thế giới, lịch sử, triết học và kinh tế. Trong khi các bạn cùng trường ngủ để tránh cái nóng trưa hè, thì ông bắt đâu đọc sách đủ các loại từ Platon tới Gibbon và Shakespeare nhằm học tập sự thông thái và kinh nghiệm từ họ. Năm 20 tuổi, ngay sau khi tốt nghiệp, ông gia nhập quân đội với quân hàm Trung uý thuộc trung đoàn kỵ binh hạng nhẹ. Trung đoàn này đóng quân ở Bangalore, Ấn Độ. Khi tới Ấn Độ, Churchill bị trật khớp tay khi nhoài từ tàu ra với một sợi xích trên bến và bị quăng vào ke. Cánh tay này đã gây nhiều vấn đề cho ông trong những năm về sau, đôi khi nó lại rời ra khỏi khớp. Ở Ấn Độ công việc chính của Churchill là chơi polo, một hoàn cảnh không có sức lôi cuốn đối với chàng trai trẻ, đang muốn lao vào hành động quân sự. Ông dành thời gian để tự học qua các cuốn sách mà ông đã gửi đi từ trước. Câu lạc bộ Bangalore, nơi ông từng là một thành viên, có những bản ghi chép (mà họ đem ra trưng cho khách du lịch) cho thấy Winston Churchill đã quên không trả món hội phí 13 rupees, vì "không có tiền", một khoản nợ mà họ tin rằng vẫn còn chưa giải quyết xong. Trong khi còn đóng quân ở Ấn Độ, ông đã bắt đầu tìm kiếm các cuộc chiến tranh. Năm 1895 ông và Reggie Barnes được cử tới Cuba để quan sát các trận đánh của người Tây Ban Nha chống lại du kích người Cuba. Churchill cũng được uỷ quyền viết về cuộc xung đột đó cho tờ báo Daily Graphic. Với niềm hứng khởi, Churchill lần đầu tiên lao vào lửa đạn đúng ngày sinh lần thứ hai mươi mốt của mình. Trên đường tới Cuba ông cũng lần đầu thăm nước Mỹ, được giới thiệu vào xã hội New York bởi một trong những người hâm mộ mẹ ông, Bourke Cockran. Năm 1897 Churchill muốn tới quan sát Chiến tranh Hy Lạp-Thổ Nhĩ Kỳ nhưng cuộc xung đột này đã hoàn toàn chấm dứt trước khi ông tới nơi. Sau đó ông tiếp tục rời nơi đó quay về Anh trước khi nghe thông tin về cuộc nổi dậy Pathan ở Biên giới tây bắc và nhanh chóng trở về Ấn Độ để tham gia vào chiến dịch dẹp yên nó. Từ trước đó Churchill đã nhận được lời hứa của Sir Bindon Blood, người chỉ huy cuộc viễn chinh này, rằng nếu ông nắm quyền chỉ huy một lần nữa, ông sẽ mang Churchill theo. Ông không cần tốn thời gian để nhắc Blood về lời hứa đó và đã được tham gia vào chiến dịch sáu tuần, ông cũng viết những bài báo cho tờ The Pioneer và The Daily Telegraph với giá 5 bảng Anh một bài. Tới tháng 10 năm 1897 Churchill quay về Anh và cuốn sách đầu tiên của ông, "Câu chuyện của Lực lượng hành quân Malakand", kể về chiến dịch đó được xuất bản vào tháng 12. Trong khi về mặt chính thức vẫn đang đóng quân ở Ấn Độ, và được phép đi công tác dài hạn, Churchill vẫn cố gắng ghi tên vào đội quân đang được tập hợp và nằm dưới quyền chỉ huy của Sir Horatio Herbert Kitchener và dự định hoàn thành cuộc tái chinh phục Sudan. Kitchener phản đối việc thu nhận Churchill, với cảm giác rằng ông có thể sẽ quay lại với trung đoàn của mình ở Ấn Độ, nhưng Churchill đã đưa ra nhiều điều kiện ràng buộc để được chấp nhận - thậm chí còn sắp xếp để Kitchener nhận được một bức điện từ Thủ tướng Robert Gascoyne-Cecil, Hầu tước Salisbury. Cuối cùng, Churchill được tham gia vào cuộc chiến sau khi nhận được một vị trí trong đoàn kỵ binh số 21 - một lực lượng mà thành phần của nó được lựa chọn bởi Bộ quốc phòng Anh, chứ không phải bởi Kitchener. Ông cũng làm việc với tư cách phóng viên cho tờ Morning Post, với mức thù lao 15 bảng Anh cho một bài báo. Trong khi ở Sudan, Churchill tham dự vào cái từng được miêu tả là đội kỵ binh thực sự cuối cùng tham gia vào trận Omdurman. Tới tháng 10 năm 1898 ông đã quay về Anh và bắt đầu viết cuốn sách hai tập The River War, được xuất bản vào năm sau đó. Năm 1899 Churchill rời quân ngũ và quyết định theo nghiệp chính trị. Ông ra tranh cử với tư cách ứng cử viên Đảng bảo thủ ở Khu vực bầu cử Oldham trong một cuộc bầu cử phụ vào năm đó. Ông về thứ ba (lúc ấy Oldham là khu chỉ bầu ra hai ghế), và không trúng cử. Ngày 12 tháng 10 năm 1899 Cuộc chiến Anh-Boer lần hai giữa Anh và những người Afrikan bùng nổ ở Nam Phi. Churchill được cử làm phóng viên chiến tranh cho tờ Morning Post, nhận lương 250 bảng Anh một tháng trong bốn tháng. Một lần ở Nam Phi ông đã chấp nhận đi nhờ trên một chuyến tàu hoả vũ trang của Quân đội Anh dưới quyền chỉ huy của Aylmer Haldane. Đoàn tàu này bị mìn phục kích của người Boer làm trật đường ray. Dù không chính thức là một chiến binh, Churchill vẫn nhận lãnh trách nhiệm trong những công việc sửa chữa và khôi phục để đầu tàu và nửa số toa còn lại chở theo thương binh có thể tiếp tục lên đường. Tuy nhiên, Churchill không gặp may và ông cùng với các binh lính và sĩ quan khác bị bắt giữ trong trại tù binh chiến tranh ở Pretoria, dù có những nghi ngờ về tư cách quân nhân của ông. Churchill tìm cách trốn trại, gây ra sự chỉ trích rất lâu về sau này và sự tranh luận khi buộc tội rằng ông đã không chờ Haldane và những người khác đã cùng bàn kế hoạch chạy trốn với ông, nhưng những người đó đã không thể, hay không muốn, chấp nhận rủi ro bị trượt ngã khỏi hàng rào trong khi Churchill đã dám làm. Khi đã ở bên ngoài nhà tù Pretoria đã đi qua gần 300 dặm (480 km) để tới Lourenço Marques của người Bồ Đào Nha ở Vịnh Delagoa. Ông đã vượt qua được nhờ vào sự giúp đỡ của một người chủ mỏ người Anh, ông ta đã giấu Churchill trong mỏ của mình và đưa giấu ông lên một chuyến tàu hoả chạy ra khỏi lãnh địa của người Boer. Cuộc tẩu thoát này biến ông hầu như trở thành một anh hùng dân tộc của người Anh ở thời điểm đó, mặc dù thay vì quay về nhà ông lại bắt tàu thuỷ đến Durban và gia nhập vào đội quân của tướng Redvers Buller khi họ hành quân cứu trợ cho Ladysmith và chiếm Pretoria. Lần này, dù tiếp tục với tư cách là phóng viên chiến tranh, Churchill có được uỷ quyền của Trung đoàn Kỵ binh nhẹ của Nam Phi. Ông chiến đấu ở Spion Kop và ở trong số một trong những binh sĩ Anh đầu tiên tiến vào Ladysmith và Pretoria; trên thực tế, ông và Charles Spencer-Churchill, Quận công Marlborough, anh họ của ông, đã có thể tiến trước phần còn lại của các đội quân ở Pretoria, nơi họ đã yêu cầu và chấp nhận sự đầu hàng của đội quân Boer số 52 đang canh gác nhà tù ở đó. Hai cuốn sách của Churchill về chiến tranh Boer, "Từ London tới Ladysmith qua Pretoria" và "Cuộc hành quân của Ian Hamilton", được xuất bản vào tháng 5 và tháng 10 năm 1900. == Tham gia Nghị viện == Sau khi trở về từ Nam Phi, một lần nữa Churchill lại ra ứng cử với tư cách ứng cử viên Đảng bảo thủ ở Oldham, lần này là trong Cuộc tổng tuyển cử 1900, hay "Cuộc bầu cử Khaki". Ông trúng cử, nhưng thay vì tham gia cuộc họp khai mạc nghị viện, ông lên tàu đi diễn thuyết xuyên nước Anh và nước Mỹ, bằng cách đó ông kiếm được 10 nghìn bảng Anh. (Thời ấy các thành viên của nghị viện không được trả lương và Churchill cũng không được coi là giàu có theo những tiêu chuẩn lúc đó.) Khi ở Mỹ, một trong những bài phát biểu của ông được nhà văn Mark Twain giới thiệu, và ông đã ăn tối với Thống đốc bang New York và Phó tổng thống Theodore Roosevelt. Tháng 2 năm 1901, Churchill quay trở lại Anh để vào nghị viện, và ông liên kết với một nhóm thành viên Đảng bảo thủ bất đồng quan điểm do Sir Hugh Cecil lãnh đạo, nhóm này được gọi là Hughligan, một sự chơi chữ từ chữ hooligan ("người vô kỷ luật"). Trong khóa đầu ở nghị viện, Churchill đã tỏ ra ưa tranh cãi bằng cách phản đối các ước tính về quân đội của chính phủ, đưa ra lý lẽ chống lại chi tiêu quá mức cho quân đội. Tới năm 1903 ông ngày càng tách biệt khỏi các quan điểm của Sir Hugh Cecil. Ông cũng phản đối người lãnh đạo Công đoàn những người tự do Joseph Chamberlain, người lãnh đạo của đảng đang liên minh với Đảng bảo thủ. Chamberlain đề xuất những cải cách thuế quan rộng rãi nhằm mục tiêu bảo vệ vị trí vượt trội của nền kinh tế Anh bằng những hàng rào thuế quan. Các chống đối của Churchill làm ông bị chính những người ủng hộ mình ghét cay ghét đắng - thực vậy, những thành viên Đảng bảo thủ đã dàn xếp để cùng bỏ ra ngoài một khi ông phát biểu. Khu vực bầu cử của ông đã phế truất ông, mặc dù ông vẫn tiếp tục đại diện cho Oldham cho tới kỳ bầu cử tiếp sau. Năm 1904 vì sự bất mãn của mình với những người bảo thủ và sức lôi cuốn của những người tự do đã trở nên mạnh mẽ nên sau khi quay về từ cuộc họp nghị viện ở Whitsun ông đã gia nhập đảng khác để trở thành một thành viên của Đảng tự do. Khi đã chuyển sang Đảng tự do, ông vẫn tiếp tục chiến dịch kêu gọi ủng hộ thương mại tự do. Ghế đại diện cho vùng khu vực bầu cử nghị viện Anh, Tây bắc Manchester đã được dành cho ông sau khi ông thắng lợi trong Cuộc tổng tuyển cử 1906. Từ 1903 đến 1905, Churchill cũng bắt tay vào viết cuốn "Sir Randolph Churchill", một cuốn tiểu sử hai tập về cha mình, ra mắt vào năm 1906 và được đón nhận như một kiệt tác. Tuy nhiên, khuynh hướng của người con trong gia đình đã làm ông giảm nhẹ một số mặt kém hấp dẫn của người cha. == Chính phủ == Khi Đảng Tự do thắng cử và Henry Campbell-Bannerman lên làm thủ tướng vào tháng 12 năm 1905 Churchill trở thành Trợ lý bộ trưởng ngoại giao của các thuộc địa. Phục vụ dưới quyền Bộ trưởng ngoại giao của các thuộc địa, Victor Bruce, Churchill đã giải quyết vấn đề chấp nhận các hiến pháp cho các nước cộng hòa Boer thất trận vùng Transvaal và Thuộc địa sông Orange và với sự nảy sinh vấn đề "lao động nô lệ Trung Quốc" ở các mỏ tại Nam Phi. Ông cũng đã trở thành một người phát ngôn có uy tín về thương mại tự do. Churchill nhanh chóng trở thành thành viên có nổi bật của chính phủ bên ngoài Nội các, và khi Campbell-Bannerman được thay thế bằng Herbert Henry Asquith năm 1908, không ai ngạc nhiên khi Churchill được đưa vào Nội các với tư cách Chủ tịch Ủy ban Thương mại. Theo luật ở thời đó, một bộ trưởng nội các mới được chỉ định buộc phải tái thắng cử ở một cuộc bầu cử phụ. Churchill mất ghế đại diện cho Manchester vào tay ứng cử viên bảo thủ William Joynson-Hicks, nhưng ông nhanh chóng tái đắc cử ở một cuộc bầu cử phụ khác tại khu vực bầu cử Dundee. Với tư cách Chủ tịch Ủy ban Thương mại, ông theo đuổi những cải cách xã hội căn bản cùng với David Lloyd George, vị Bộ trưởng Tài chính mới. Năm 1910 Churchill được thăng lên chức Bộ trưởng Nội vụ, nhưng ông gây nhiều tranh luận với chức vụ này. Một bức ảnh nổi tiếng thời đó diễn tả một Churchill mạnh mẽ nhận trách nhiệm cá nhân vào Cuộc vây hãm đường phố ở Sidney, xảy ra tháng 1 năm 1911, đứng ở góc phố chăm chú nhìn vào một khẩu súng trận giữa những kẻ bất mãn ở một góc và những người lính Scotland. Vai trò của ông gây ra nhiều chỉ trích. Ngôi nhà bị bao vây bốc cháy. Churchill cấm lính cứu hỏa vào trong, buộc những kẻ tội phạm phải lựa chọn đầu hàng hay là chết. Arthur Balfour đã hỏi, "Ông ấy [Churchill] và nhà nhiếp ảnh cả hai đều đang tiêu phí các tính mạng đáng giá. Tôi hiểu điều nhà nhiếp ảnh phải làm nhưng Sir [Churchill] đáng kính kia đang làm gì vậy?" 1910 cũng chính Churchill ngăn cản việc sử dụng quân đội để giải quyết cuộc tranh luận tại mỏ than Cambrian ở Tonypandy. Ban đầu Churchill phong tỏa việc sử dụng quân đội vì sợ sẽ lặp lại sự kiện ngày Chủ nhật đẫm máu năm 1887 ở Quảng trường Trafalgar. Tuy nhiên quân đội đã được triển khai để bảo vệ các mỏ và tránh các cuộc náo loạn khi 13 người đình công tìm cách tấn công, một hành động đã phá vỡ truyền thống không can thiệp vào các công việc dân sự của quân đội và dẫn tới ác cảm kéo dài đối với Churchill ở Wales. Năm 1911, Churchill trở thành người đứng đầu Cục Hải quân hoàng gia, vị trí mà ông nắm giữ cả trong Chiến tranh thế giới thứ nhất. Ông thúc đẩy những cố gắng cải cách của quân đội, gồm cả phát triển hàng không hải quân, xe tăng, và chuyển nhiên liệu sử dụng từ than sang dầu lửa, một nhiệm vụ kỹ thuật lớn, cũng dựa trên việc chiếm giữ những quyền lợi dầu hỏa của vùng Lưỡng Hà, vào khoảng năm 1907 thông qua Cục tình báo và dùng Công ty dầu khí hoàng gia Miến Điện làm bình phong. Sự phát triển của xe tăng chiến đấu được cấp tiền từ quỹ nghiên cứu của hải quân thông qua Ủy ban Landships, và, mặc dù một thập kỷ sau sự phát triển của xe tăng chiến đấu được coi là một toan tính thiên tài, lúc ấy nó bị coi là không được ưu tiên về vốn. Xe tăng chiến đấu được triển khai một cách lạc lõng năm 1915, và Churchill rất bực tức về điều đó. Ông muốn một đội xe tăng được dùng ngụy trang dưới một làn khói để làm bất ngờ quân Đức, và mở cửa tiến vào các hầm hào bằng cách triệt hạ dây thép gai và tạo ra một lĩnh vực có sức đột phá. Năm 1915 Churchill là một trong những người chịu trách nhiệm điều khiển cuộc đổ bộ thất bại Gallipoli vào Dardanelles trong Chiến tranh thế giới thứ nhất, việc này làm ông bị coi là "tên đồ tể ở Gallipoli". Khi Asquith lập ra một chính phủ đa đảng phái, những người bảo thủ yêu cầu giáng chức Churchill nếu ông muốn họ tham gia vào đó. Trong nhiều tháng, Churchill làm việc với tư cách Thủ hiến lãnh địa Lancaster là chức vụ không có thực quyền, trước khi rút khỏi Chính phủ khi cảm thấy ông không còn được sử dụng thực sự nữa. Ông gia nhập quân đội, dù vẫn là nghị viên, và phục vụ nhiều tháng ở Mặt trận phía Tây. Giai đoạn này phụ tá chỉ huy của ông là Archibald Sinclair, một người trẻ tuổi và sau này sẽ lãnh đạo Đảng Tự do. == Quay lại quyền lực == Tháng 12 năm 1916, Asquith từ chức Thủ tướng và được thay thế bởi Lloyd George. Tuy nhiên, đó vẫn chưa phải là lúc đương đầu với nguy cơ về sự giận dữ từ phía những người bảo thủ nếu đưa Churchill trở lại với chính phủ. Tuy nhiên, vào tháng 1 năm 1917 Churchill được chỉ định làm Bộ trưởng Quân khí. Ông là người đưa ra Quy luật Mười năm cầm quyền. Tuy vậy, nhiệm vụ quan trọng nhất của ông trong Bộ Chiến tranh là sự can thiệp của Đồng Minh vào cuộc Nội chiến Nga. Churchill là một người ủng hộ trung thành cho sự can thiệp từ bên ngoài, tuyên bố rằng Chủ nghĩa Bolshevic phải bị "bóp nghẹt từ trong nôi". Ông thành công trong việc yêu cầu nội các bị chia rẽ và lỏng lẻo của Anh phải tăng cường và kéo dài sự tham gia của người Anh vào cuộc nội chiến đó với mức độ cao hơn rất nhiều những mong ước của các nhóm đa số trong nghị viện hay trong quốc gia - và đương đầu với sự thù địch từ phía Đảng Lao động. Năm 1920, sau khi những lực lượng cuối cùng của Anh đã rút về, Churchill đã cung cấp vũ khí cho những người Ba Lan khi họ tấn công Ukraina. Ông trở thành Bộ trưởng Thuộc địa quốc gia năm 1921 và là một trong những người đã ký vào Hiệp ước Anh-Ireland năm 1921, thành lập nên Nhà nước Ireland Tự do. == Nghề nghiệp giữa hai cuộc chiến == Vào tháng 10 năm 1922, Churchill phải mổ ruột thừa. Khi trở lại, ông biết rằng chính phủ đã sụp đổ và một cuộc tổng tuyển cử sắp diễn ra. Đảng Tự do lúc ấy đang có lục đục nội bộ và chiến dịch tranh cử của Churchill rất yếu kém. Ông mất ghế ở Dundee vào tay ứng cử viên phe Bảo thủ, Edwin Scrymgeour, và nói đùa rằng ông đã mất cả vị trí trong chính phủ, ghế đại biểu trong nghị viện và cả ruột thừa cùng một lúc. Trong cuộc Tổng tuyển cử năm 1923, ông lại sát cánh cùng phe Tự do, và thua cử ở Leicester, nhưng vài tháng sau đó, ông lại quay sang Đảng Bảo thủ, mặc dù ban đầu sử dụng chiêu bài "Chống người xã hội" và là "người theo chủ nghĩa hợp hiến". Chưa tới một năm sau, trong cuộc Tổng tuyển cử năm 1924, ông được bầu làm đại biểu cho vùng Epping với tư cách "người theo chủ nghĩa hợp hiến" và với sự hỗ trợ của Đảng bảo thủ (một bức tượng để vinh danh ông ở Woodford Green đã được dựng lên khi Woodford Green còn là một khu bên trong vùng bầu cử Epping). Năm sau đó, ông chính thức gia nhập Đảng bảo thủ, và gượng chống chế rằng "Bất kỳ ai đều có thể rời bỏ đảng, nhưng tất nhiên là cũng cần khá nhiều khéo léo để gia nhập trở lại." Ông được chỉ định làm Bộ trưởng Tài chính năm 1924 dưới thời Stanley Baldwin và có nhiệm vụ phụ trách việc phục hồi hệ thống bản vị vàng đầy tai hại, khiến cho lạm phát, thất nghiệp, và những vụ đình công của công nhân mỏ nổi lên dẫn tới cuộc Tổng đình công năm 1926. Quyết định này đã khiến nhà kinh tế John Maynard Keynes phải viết cuốn sách "Những hậu quả kinh tế của Churchill", đưa ra lý lẽ chính xác rằng việc quay lại áp dụng bản vị vàng sẽ dẫn tới giảm phát kinh tế thế giới. Sau này Churchill coi đây là một trong những quyết định tồi nhất trong cuộc đời chính trị của ông. Để công bằng, cũng phải nói rằng ông không phải là một nhà kinh tế và rằng ông đã hành động theo lời khuyên của Thống đốc Ngân hàng Anh Quốc, Montagu Norman (Keynes đã nói về ông này, "Luôn rất quyến rũ, và luôn rất sai lầm.") Trong cuộc Tổng đình công năm 1926, Churchill bị cho rằng đã đề xuất sử dụng súng máy để đối phó với những thợ mỏ đình công. Churchill làm chủ bút tờ báo của chính phủ, tờ British Gazette (Công báo Anh), và trong cuộc tranh luận ông đã đưa ra lý lẽ rằng "hoặc đất nước sẽ đập tan được cuộc Tổng đình công, hoặc cuộc Tổng đình công sẽ đập tan đất nước". Hơn nữa, ông tuyên bố trong cuộc tranh luận rằng Chủ nghĩa phát xít của Benito Mussolini đã "giúp đỡ cả thế giới", cho rằng nó có "một con đường để chiến đấu với những lực lượng có âm mưu lật đổ" - có nghĩa là, ông coi chế độ phải là một lực lượng bảo vệ chống lại mối đe doạ xâm nhập của cách mạng cộng sản. Ở một quan điểm, Churchill còn đi xa tới mức gọi Mussolini là "Thiên tài của Roma nhà lập pháp lớn nhất của loài người". Chính phủ bảo thủ bị đánh bại tại cuộc Tổng tuyển cử năm 1929. Trong hai năm tiếp theo, Churchill tỏ vẻ ghẻ lạnh với ban lãnh đạo đảng Bảo thủ về những vấn đề thuế quan bảo hộ và phong trào đòi độc lập Ấn Độ, mà ông phản đối. Ông bôi nhọ người cha phong trào đòi độc lập Ấn Độ, Mahatma Gandhi, là "một thầy tu khổ hạnh bán khoả thân" người "cần phải bị đập cho một trận, trói chân tay vào cổng thành Delhi và sau đó mang ra cho một con voi lớn với vị phó vương cưỡi trên lưng giẫm đạp". Khi Ramsay MacDonald thành lập Chính phủ quốc gia năm 1931, Churchill không được mời tham gia. Lúc ấy ông đang ở giai đoạn tồi tệ nhất về nghề nghiệp, giai đoạn được gọi là "những năm tháng thất lạc". Ông dành thời gian mấy năm tiếp sau đó để tập trung vào viết lách, gồm cuốn "Marlborough: Cuộc đời và thời đại" - một cuốn tiểu sử về tổ tiên ông là John Churchill, Quận công Marlborough thứ nhất - và "Một lịch sử của những người nói tiếng Anh" (cuốn này không được xuất bản mãi tới sau Chiến tranh thế giới thứ hai). Ông trở nên nổi tiếng nhất về những câu nói chống lại việc trao lại độc lập cho Ấn Độ (xem Ủy ban Simon và Đạo luật Chính phủ Ấn Độ 1935). Dù vậy, sự chú ý của ông ngay lập tức chuyển sang sự nổi lên nhanh chóng của Adolf Hitler và những mối nguy từ việc tái vũ trang của nước Đức. Trong một thời gian, ông là người duy nhất kêu gọi nước Anh phải tự tăng cường sức mạnh nhằm chống lại tình trạng chuẩn bị chiến tranh của Đức. Churchill là một người chỉ trích mãnh liệt chính sách nhân nhượng của Neville Chamberlain đối với Hitler, dẫn đầu phe bảo thủ phản đối Hiệp ước München mà Chamberlain đã tuyên bố là "hoà bình trong thời đại của chúng ta". Ông cũng tuyên bố là người ủng hộ vua Edward VIII trong thời gian xảy ra cuộc khủng hoảng thoái vị, dẫn tới một số suy đoán rằng ông có thể được chỉ định làm Thủ tướng nếu nhà vua từ chối nghe lời khuyên của Baldwin và vì thế buộc chính phủ phải từ chức. Tuy nhiên, điều này đã không xảy ra và Churchill thấy mình bị cô lập về chính trị và bị bôi bác tới bầm dập trong khoảng thời gian sau đó. == Vai trò Thủ tướng trong cuộc chiến == Sau khi Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, Churchill được chỉ định làm Bộ trưởng Hải quân là chức vụ ông đã đảm nhiệm thời Chiến tranh thế giới thứ nhất, và trong Hạm đội Hải quân Hoàng gia đã có nhiều tiếng kêu vui mừng: "Winston đã trở lại!" Trong cương vị này ông đã chứng tỏ là một trong những bộ trưởng tài năng nhất ở thời gọi là "Chiến tranh giả", khi mà hành động đáng chú ý nhất chỉ diễn ra trên biển. Churchill đề xuất việc tấn công chiếm giữ trước cảng quặng sắt Narvik của nước Na Uy trung lập và mỏ sắt Kiruna của Thuỵ Điển ngay từ đầu cuộc chiến. Tuy nhiên, Chamberlain và toàn bộ Chính phủ Chiến tranh không đồng ý, và chiến dịch này bị trì hoãn tới tận khi Đức tấn công Na Uy, đã thành công tuy có nỗ lực của Anh. Tháng 5 năm 1940, ngay lúc Đức đánh Pháp bằng một cuộc tấn công chớp nhoáng xuyên qua Hà Lan, rõ ràng là Chamberlain đã không còn được dân chúng tin tưởng ở cương vị điều hành chiến tranh. Chamberlain từ chức, Churchill được chỉ định làm Thủ tướng và lập nên một chính phủ mọi đảng phái. Có lẽ trước khi Churchill được chỉ định làm Thủ tướng, nhà vua đã cân nhắc tới việc chỉ định Lord Edward Frederick Lindley Wood, Bá tước Halifax thứ nhất. Lý do của việc này được cho là vì nền quân chủ sợ rằng nó sẽ không thể tồn tại sau cuộc chiến, và rằng Bá tước Halifax là người thuộc phe nhân nhượng trước đây có thể đàm phán một thoả hiệp với Hitler cho phép nước Anh đứng ngoài cuộc chiến và giữ gìn nền quân chủ. Mặc dù những sự kiện thường được dẫn chứng để biện minh lý do Halifax không được bổ nhiệm cho rằng vì ông sợ ông không thể điều hành chính phủ một cách hiệu quả bởi vì ông là thành viên của Thượng nghị viện chứ không phải Hạ nghị viện, cũng có lời bóng gió rằng Churchill đã sử dụng biện pháp hăm doạ để đạt được mục đích. Mặc dù theo truyền thống Thủ tướng không tư vấn cho nhà vua về người kế vị, Chamberlain đã muốn một người có khả năng thu hút được sự ủng hộ của ba đảng lớn trong Hạ nghị viện. Một cuộc gặp gỡ với hai vị lãnh đạo các đảng kia đã dẫn tới việc giới thiệu Churchill. Vì thế, George VI có lẽ đã bắt buộc phải chấp nhận Churchill làm Thủ tướng. Churchill, không theo truyền thống, không gửi cho Chamberlain một bức thư bày tỏ sự lấy làm tiếc về sự từ chức của Chamberlain. Có một chi tiết ít ai biết về ông đó là ông đã từng phác thảo kế hoạch tấn công Liên Xô. Tên của chiến dịch là Unthinkable, trong đó có việc vũ trang cho hơn 100.000 lính Đức và để họ gia nhập lực lượng Đồng minh. Công lao lớn nhất của Churchill là ông đã từ chối đầu hàng khi khả năng bị người Đức đánh bại là rất lớn và luôn phản đối bất kỳ một sự đàm phán nào với Đức, giữ vững chính sách buộc nước Đức Phát xít đầu hàng vô điều kiện, đã được thoả thuận trong cuộc gặp Tam cường tại Hội nghị Tehran. Để trả lời những lời chỉ trích trước đó rằng đã không có một vị bộ trưởng chuyên trách cho cuộc chiến, Churchill đã thành lập và nắm thêm vị trí Bộ trưởng Quốc phòng. Ông ngay lập tức đưa bạn và là người thân tín của ông, chính khách, nhà công nghiệp và chủ báo, Nam tước Beaverbrook, làm Bộ trưởng Sản xuất máy bay. Nhờ sự nhạy bén đáng kinh ngạc của Beaverbrook, nước Anh nhanh chóng tăng tốc độ sản xuất máy bay tới mức làm thay đổi cục diện chiến trường. Các bài phát biểu của Churchill là cảm hứng to lớn cho tinh thần chiến đấu của Anh Quốc. Bài phát biểu đầu tiên của ông ở cương vị thủ tướng rất nổi tiếng với tên gọi "Tôi không có gì để cống hiến ngoài máu, sự lao động, nước mắt và mồ hôi". Ông đã hành động đúng theo đó và tiếp tục có hai bài phát biểu nổi tiếng khác ngay trước Trận chiến nước Anh. Một bài với câu nói bất hủ, "Chúng ta sẽ bảo vệ Tổ quốc của chúng ta, dù với bất kỳ giá nào, chúng ta sẽ chiến đấu trên đất Pháp, chiến đấu trên biển, chiến đấu với không lực ngày càng vững mạnh, chiến đấu từ bờ biển vào đất liền, từ nông thôn ra thành thị, lên miền núi, chúng ta quyết không đầu hàng." Bài phát biểu kia cũng có một câu nổi tiếng "Vì thế chúng ta hãy can đảm để thực hiện những nghĩa vụ của mình, và hãy hành động để, dù Đế chế Anh và Khối thịnh vượng chung của nó tồn tại hàng nghìn năm nữa. " Khi trận chiến nước Anh ở thời đỉnh điểm, sự can đảm của ông trước tình thế với câu nói đáng ghi nhớ "Never in the field of human conflict was so much owed by so many to so few", khiến ông được các phi công chiến đấu Đồng minh đặt tên hiệu là "The Few". Quan hệ tốt của ông với Franklin D. Roosevelt đã giúp Anh Quốc có được nguồn viện trợ sống còn trên những con đường biển ngang Đại Tây Dương. Cũng vì lý do này Churchill đã cảm thấy rất nhẹ nhõm khi Roosevelt tái thắng cử. Ngay khi tái cử, Roosevelt lập tức áp dụng một biện pháp mới để không chỉ cung cấp miễn phí vũ khí mà còn miễn thuế cho đa số những con tàu chở hàng viện trợ cho Anh quốc. Một cách đơn giản, Roosevelt đã thuyết phục nghị viện rằng việc chi trả cho chính sách vô cùng tốn kém này chính là sự bảo vệ cho nước Mỹ; và vì thế chính sách Lend-lease đã ra đời. Churchill đã có 12 cuộc gặp gỡ chiến lược với Roosevelt về Hiến chương Đại Tây Dương, chiến lược Europe first, Tuyên bố của Hoa Kỳ và các chiến lược chiến tranh khác. Churchill đã đặt ra chức Cao ủy Các chiến dịch Đặc biệt (SOE) thuộc Bộ Kinh tế thời Chiến Hugh Dalton, chọu trách nhiệm tiến hành và tạo điều kiện cho các chiến dịch bí mật, phá hoại du kích tại những vùng đất bị chiếm đóng với những thành công to lớn; và cả lực lượng đặc biệt trở thành hình mẫu cho đa số các lực lượng đặc biệt ngày nay trên thế giới. Người Nga gọi ông là "British Bulldog". Điều này cũng phản ánh ý định đối đầu với hiểm nguy của Churchill so với hai đồng minh kia là Franklin Roosevelt và Josef Stalin, những người đã tỏ ra do dự khi tới thăm các mặt trận. Điều này có nghĩa Churchill tới rất gần quân Đức và có nguy cơ bị ám sát cao. Quả thực, Churchill đã suýt mất mạng, nhưng không phải bởi những kẻ thù của mình, mà bởi ông đã làm việc quá mức khi sức khỏe kém. Ông đã bị một cơn đau tim nhẹ tháng 12 năm 1941 tại Nhà Trắng và một lần nữa vào tháng 12 năm 1943 vì viêm phổi. Đã có những lời đồn thổi rằng thực tế tim của Churchill đã ngừng đập nhưng nhờ các vệ sĩ của ông hành động đúng đắn và kịp thời nên đã cứu được ông; tuy nhiên, điều này chưa bao giờ được xác nhận. Một số hoạt động quân sự trong chiến tranh vẫn còn gây nhiều tranh cãi. Churchill đã lãnh đạm và có lẽ liên đới chịu trách nhiệm trong Nạn đói Bengal năm 1943 khiến ít nhất 2.5 triệu người Bengal thiệt mạng. Quân đội Nhật Bản khi ấy đang đe dọa Ấn Độ thuộc Anh sau khi chiếm đóng nước láng giềng Miến Điện thuộc Anh. Một số người coi chính sách của chính phủ Anh bác bỏ trách nhiệm với nạn đói có liên quan tới chính sách tiêu thổ có chủ ý và nhẫn tâm trước sự kiện cuộc xâm lược thành công của Nhật Bản. Churchill đã ủng hộ việc ném bom Dresden chỉ một thời gian ngắn trước khi chiến tranh kết thúc; nhiều người vẫn giữ quan điểm rằng tại thành phố này chủ yếu chỉ có các mục tiêu dân sự và có rất ít giá trị quân sự. Tuy nhiên, khi ấy việc ném bom được coi mang lại lợi ích cho Đồng minh Xô viết. Churchill đã tham gia vào các hiệp ước tái lập các biên giới châu Âu và châu Á thời hậu chiến. Những vấn đề này đã được bàn thảo ngay từ năm 1943. Những đề xuất về các biên giới châu Âu và định cư đã được Harry S. Truman, Churchill, và Stalin chính thức đồng thuận tại Potsdam. Tại Hội nghị Quebec lần hai năm 1944 ông cùng Tổng thống Hoa Kỳ Franklin D. Roosevelt đã soạn thảo và ký kết một phác thảo đầu tiên của Kế hoạch Morgenthau, nơi họ cam kết với nhau về hành động với Đức sau khi nước này đầu hàng vô điều kiện đưa nó "trở thành một quốc gia chủ yếu là nông nghiệp và chăn nuôi theo những đặc điểm của nó." Việc giải quyết các biên giới của Ba Lan, ví dụ như biên giới giữa Ba Lan và Liên bang Xô viết và giữa Đức và Ba Lan, được coi là một sự phản bội với Ba Lan trong những năm hậu chiến, bởi chúng đi ngược với những quan điểm của Chính phủ Hải ngoại Ba Lan. Churchill bị thuyết phục rằng cách thức duy nhất để giải tỏa những căng thẳng giữa hai dân tộc là đưa họ về trong biên giới quốc gia của mình. Như ông đã trình bày tại Hạ viện năm 1944, "Sự trục xuất là cách thức theo đó, ở mức độ như chúng ta đã thấy, sẽ là cách thích hợp và lâu dài nhất. Sẽ không có sự hòa trộn dân tộc để gây ra những cuộc căng thẳng không bao giờ chấm dứt... Một chiến dịch di chuyển sẽ được tiến hành. Tôi không lo lắng trước những cuộc di chuyển đó, chúng đang ở những điều kiện thuận lợi nhất để tiến hành trong hoàn cảnh hiện nay." Hậu quả của những cuộc di chuyển người Đức sau thế chiến II là sự gian khổ và dẫn tới cái chết của 2.100.000 người. Churchill đã phản đối sự sáp nhập Ba Lan của Liên bang Xô viết và đã viết về điều này một cách chua chát trong những cuốn sách của ông, nhưng ông không thể ngăn chặn nó tại những cuộc hội nghị. Thủ tướng Churchill và Vua George VI đã có ý định cùng với quân Đồng minh tham gia trực tiếp cuộc đổ bộ lịch sử D-Day. Tuy nhiên, Đô đốc Bertram Ramsay đã thuyết phục hai lãnh đạo cấp cao trên không trực tiếp cùng hành quân với quân Đồng minh tham gia cuộc đổ bộ trên vì lo rằng sẽ không thể đảm bảo an toàn cho họ nếu xảy ra sai sót, sự cố ngoài ý muốn. Ngày 9 tháng 10 năm 1944, ông và Eden có mặt tại Moskva, và buổi tối hôm đó họ đã gặp Stalin tại Kremlin, mà không có sự hiện diện của người Mỹ. Cuộc mặc cả diễn ra suốt buổi tối. Churchill đã viết trong một mảnh giấy nhỏ rằng Stalin có được 90 phần trăm "lợi ích" tại Romani, Anh Quốc 90 phần trăm "lợi ích" tại Hy Lạp, cả Nga và Anh Quốc đều có 50 phần trăm lợi ích tại Nam Tư. Khi nói tới Italia, Stalin đã nhường nước này cho Churchill. Vấn đề mấu chốt nảy sinh khi các Bộ trưởng Ngoại giao bàn bạc về số "phần trăm" tại Đông Âu. Những đề xuất của Molotov rằng nước Nga sẽ có 75 phần trăm lợi ích tại Hungary, 75 phần trăm tại Bulgaria, và 60 phần trăm tại Nam Tư. Đây chính là cái giá của Stalin để nhường Italia và Hy Lạp. Eden đã tìm cách mặc cả: Hungary 75/25, Bulgaria 80/20, nhưng Nam Tư 50/50. Sau một cuộc mặc cả kéo dài họ quyết định phân chia 80/20 về lợi ích giữa Nga và Anh tại Bulgaria và Hungary, và 50/50 tại Nam Tư. Đại sứ Hoa Kỳ Harriman chỉ được thông báo sau khi mọi việc đã được dàn xếp. Thỏa thuận giữa các quý ông ngoại giao này được ghi nhận bằng một cái bắt tay. == Sau Thế Chiến Thứ Hai == Mặc dù lãnh đạo Anh Quốc chiến thắng trong Thế Chiến Thứ Hai và được dân chúng yêu mến, đảng Bảo thủ của Churchill thua trong cuộc bầu cử năm 1945. Có nhiều lý do để giải thích việc này, một lý do chính là vì người dân muốn có cải cách chính phủ sau chiến tranh và mặc dù Churchill được coi là một nhà lãnh đạo tài ba trong thời chiến, dân chúng nghĩ ông không thích hợp làm một nhà lãnh đạo trong thời bình. Phó Thủ tướng và là lãnh đạo Công đảng Clement Atlee lên nắm quyền. Trong 6 năm tiếp theo ông làm lãnh tụ đối Lập. Ông vẫn có ảnh hưởng lớn trên chính trường thế giới. Tháng Ba 1946 tại Trường Đại học Westminster ở Missouri, Hoa Kỳ, ông đọc một bài diễn văn nổi tiếng gọi là Bài Diễn văn Bức Màn sắt về hiểm họa do chế độ cộng sản Liên Xô gây ra ở Đông Âu. Ông nói như sau: "Từ Stettin ở bờ biển Baltic cho đến Trieste ở bờ biển Adriatic, một bức tường sắt đã được dựng lên xuyên khắp lục địa. Đằng sau phòng tuyến ấy là những điều giả dối ở khắp các thủ đô của những quốc gia cổ đại miền Trung và Đông Âu. Warszawa, Berlin, Praha, Viên, Budapest, Belgrade, Bucharest và Sofia, những thành phố nổi tiếng và đông dân này xung quanh là những điều dối trá, cái mà tôi gọi là "Bầu không khí Xô Viết." Năm 1951 ông thắng cử và giữ chức vụ Thủ tướng lần thứ 2 cho đến năm 1955. Thủ tướng Churchill được trao giải thưởng Nobel Văn học năm 1953. Trước đó, thủ tướng Anh này đã từng 20 lần được đề cử Nobel Văn học và 2 lần đề cử tại giải Nobel Hòa bình == Qua đời == Năm 1963, Tổng thống Mỹ John F. Kennedy đã trao tặng giải Công Dân Danh Dự Hoa Kỳ cho Churchill. Vì già yếu Churchill không dự được buổi lễ ở Nhà Trắng, con và cháu ông thay mặt nhận giải. Churchill sống trong âm thầm những năm cuối cuộc đời. Ông và người con trai (Randolph Churchill) không hàn gắn được mối liên hệ khúc mắc giữa hai người. Con gái trưởng là Diana tự vẫn vào mùa thu 1963; con gái thứ Sarah ngày càng nghiện rượu hơn. Trong lễ thượng thọ 90 tuổi của ông vào tháng 11 năm 1964, ông đứng trước cửa sổ nhà số 28 Cửa Hyde Park (Luân Đôn) cho phóng viên chụp ảnh. Ông trông già nua và thiểu não. Ngày 15 tháng 1 năm 1965, Churchill một lần nữa bị tắc nghẽn mạch máu não và mê man. Ông mất tại tư gia chín ngày sau đó, vào lúc sau tám giờ sáng ngày Chủ Nhật 24 tháng 1 năm 1965, hưởng thọ 90 tuổi. == Câu nói nổi tiếng == "Bạn sẽ không bao giờ đạt đến đích, nếu bạn cứ dừng lại và ném đá vào mỗi con chó bên đường, chỉ vì tiếng sủa của chúng" "Bây giờ không phải sự kết thúc. Đó cũng không phải là sự khởi đầu của kết thúc. Nhưng có lẽ đó là kết thúc của một sự khởi đầu" "Trên thế giới này, không có bạn bè vĩnh viễn hay kẻ thù vĩnh viễn, chỉ có lợi ích quốc gia mới là vĩnh viễn" "Chủ nghĩa tư bản không chia đều sự thịnh vượng, nhưng chủ nghĩa xã hội lại chia đều sự nghèo khổ" == Ghi chú và tham khảo == === Tham khảo khác === Dreadnought: Britain, Germany and the Coming of the Great War của Robert Massie (ISBN 1844135284); deals with forty years of European politics by reference to the naval arms race between Britain and Germany. Contains chapters on Churchill's early life (chapter 40: "I Do Believe That I Am a Glowworm") and period as First Lord of the Admiralty (chapter 41: Churchill at the Admiralty). Churchill: A Life của Martin Gilbert (ISBN 0-8050-2396-8) Winston Churchill của Henry Pelling, (ấn bản đầu) 1974, (Wordsworth Military Library Edition) 1999 (ISBN 1-84022-218-2), Winston Churchill của Sebastian Haffner, Reinbek 1967, Đức. Churchill and De Gaulle của François Kersaudy, London: Collins, 1981 ISBN 0002163284. Churchill: Man of the Century của Christian Krockow, London: Sutton Pub Ltd, 2000 ISBN 1902809432. Churchill: Visionary, Statesman, Historian của John Lukacs New Haven, Conn.: Yale University Press, 2002. Quotations database, World Beyond Borders. The Oxford Dictionary of 20th Century Quotations của Oxford University Press (ISBN 0-19-860103-4) The Last Lion: Winston Spencer Churchill, Visions of Glory 1874-1932, 1983, Little, Brown (quyển I) của William Manchester, ISBN 0316545031 The Last Lion: Winston Spencer Churchill, Alone 1932-1940, 1988, Little, Brown (Vol. II) của William Manchester, ISBN 0316545120 == Liên kết ngoài == Bản mẫu:Spoken Wikipedia-3 Các tác phẩm của Winston Churchill tại Dự án Gutenberg Churchill World History Database The Churchill Centre website Churchill Video Speech, We Stood Alone Rethinking Churchill, Parts 1 to 5 Winston Churchill in Cuba Opinion piece on Churchill's significance in history. Another bio of him including extended quotations from his speeches Churchill and the Great Republic. Exhibition explores Churchill's lifelong relationship with the United States. Churchill and Zionism (by Dr. Yoav Tenenbaum, Tel Aviv University) Churchill Quotations (240 Quotations) Prominent People - Sir Winston Churchill Ron Schuler's Parlour Tricks: Churchill Winston Churchill and the Bombing of Dresden UK National Archives documents. === Những bài diễn văn === http://www.churchill-speeches.com/ Audio of Churchill's "finest hour" speech Many speeches by Churchill
úc.txt
Úc hay Australia (phát âm tiếng Việt: Ô-xtrây-li-a, phát âm tiếng Anh: /əˈstreɪljə,_ɒʔ,_ʔiə/,) tên chính thức là Thịnh vượng chung Úc (tiếng Anh: Commonwealth of Australia,) là một quốc gia bao gồm đại lục châu Úc, đảo Tasmania, và nhiều đảo nhỏ. Đây là quốc gia lớn thứ sáu về diện tích trên thế giới. Các quốc gia lân cận của Úc gồm có Indonesia, Đông Timor và Papua New Guinea ở phía bắc; Quần đảo Solomon, Vanuatu, và Nouvelle-Calédonie thuộc Pháp ở phía đông-bắc; và New Zealand ở phía đông-nam. Người Úc bản địa sinh sống tại Úc ít nhất là 40.000 năm trước khi người Anh Quốc định cư lần đầu vào thế kỷ 18, Người Úc bản địa nói nhiều ngôn ngữ, các ngôn ngữ này được nhóm lại thành khoảng 250 nhóm ngôn ngữ. Các nhà thám hiểm người Hà Lan khám phá ra lục địa vào năm 1606, sau đó Anh Quốc tuyên bố chủ quyền đối với nửa phía đông của Úc vào năm 1770 và ban đầu tiến hành thuộc địa hóa bằng cách đày ải tội phạm đến thuộc địa New South Wales từ ngày 26 tháng 1 năm 1788. Dân số tăng đều đặn trong các thập kỷ tiếp theo và người châu Âu dần trở thành đa số so người bản địa. Lục địa được thám hiểm và có thêm năm thuộc địa vương thất được thành lập. Ngày 1 tháng 1 năm 1901, sáu thuộc địa liên hiệp, hình thành Thịnh vượng chung Úc. Từ khi thành lập Liên bang, Úc duy trì một hệ thống chính trị dân chủ tự do ổn định. Liên bang gồm có sáu bang và một số lãnh thổ. Dân số Úc là 23,1 triệu, có mức đô thị hóa cao, tập trung cao tại các bang đông bộ. Úc là một quốc gia phát triển và nằm trong số các quốc gia thịnh vượng nhất trên thế giới, có nền kinh tế lớn thứ 12 thế giới. Năm 2012, Úc có thu nhập bình quân đầu người cao thứ năm thế giới. Chi tiêu quân sự của Úc đứng thứ 13 thế giới. Úc có chỉ số phát triển con người cao thứ hai toàn cầu, xếp thứ hạng cao trong nhiều so sánh quốc tế, như chất lượng sinh hoạt, y tế, giáo dục, tự do kinh tế, và bảo vệ các quyền tự do dân sự và chính trị. Úc là một thành viên của Liên Hiệp Quốc, G20, Thịnh vượng chung các quốc gia, ANZUS, Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD), Tổ chức Thương mại Thế giới, Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á - Thái Bình Dương, và Diễn đàn các đảo Thái Bình Dương. == Tên gọi == Tên gọi Úc trong tiếng Việt bắt nguồn từ tên gọi của nước Úc trong tiếng Trung. Trong tiếng Trung nước Úc được gọi là “澳大利亞” (phanh âm: Àodàlìyà). Chữ “澳” có hai âm Hán Việt là áo (âm Hán ngữ tiêu chuẩn đối ứng là ào) và úc (âm Hán ngữ tiêu chuẩn đối ứng là yù). Âm Hán Việt chính xác của chữ “澳” trong tên gọi “澳大利亞” là áo, âm Hán Việt chính xác của “澳大利亞” là Áo Đại Lợi Á. Tên gọi “Úc” trong tiếng Việt là gọi tắt của tên đọc sai “Úc Đại Lợi Á”. Tên "Úc" hay "Australia" được dùng phổ biến ngang nhau ở Việt Nam, giống như "Ý" và "Italia". Tên gọi "Australia" bắt nguồn từ từ "australis" trong tiếng Latinh có nghĩa là "phương nam". Những huyền thoại về "một vùng đất chưa được biết đến ở phương Nam" đã có từ thời La Mã và là cái tên bình thường trong địa lý thời Trung Cổ nhưng không dựa trên bất kỳ sự hiểu biết giấy tờ nào về lục địa này. Năm 1521, người Tây Ban Nha là một trong những người châu Âu đầu tiên đến Thái Bình Dương. Lần sử dụng từ "Australia" lần đầu tiên là vào năm 1625 - nằm trong những chữ "Ghi chép về Australia del Espiritu Santo, viết bởi Master Hakluyt", xuất bản bởi Samuel Purchas ở trong Hakluytus Posthumus. Trong tiếng Hà Lan, từ Australische thuộc dạng tính từ được sử dụng bởi công ty Đông Ấn Hà Lan ở Batavia để nhắc tới vùng đất mới được khám phá ở phía Nam năm 1638. Australia còn được sử dụng trong một bản dịch năm 1693 của Les Aventures de Jacques Sadeur dans la Découverte et le Voyage de la Terre Australe, một tiểu thuyết Pháp năm 1676 viết bởi Gabriel de Foigny. Alexander Dalrymple sau đó sử dụng từ này trong An Historical Collection of Voyages and Discoveries in the South Pacific Ocean (1771), nhắc tới toàn bộ vùng Nam Thái Bình Dương. Năm 1793, George Shaw và James Smith xuất bản cuốn Zoology and Botany of New Holland (Hệ động thực vật của Tân Hà Lan) trong đó họ đã viết hàng loạt "những đảo, hoặc đúng hơn là lục địa, của Australia, Australasia hoặc Tân Hà Lan". Cái tên "Australia" được phổ biến bởi cuốn sách năm 1814 A Voyage to Terra Australis (Một chuyến đi biển tới Australis) bởi nhà hàng hải Matthew Flinders, người đầu tiên được ghi chép là đã đi vòng quanh Australia bằng đường biển. Mặc dù tựa đề của nó được sử dụng cho Bộ Hải quân Anh nhưng Flinders đã dùng từ "Australia" trong cuốn sách của ông bởi vì nó được đọc một cách rộng rãi nên từ này trở nên thịnh hành. Thống đốc Lachlan Macquarie của New South Wales sau đó đã sử dụng từ này trong bản thông điệp gửi tới nước Anh ngày 12 tháng 12 năm 1817, giới thiệu với văn phòng thuộc địa rằng từ ngữ này đã được chính thức thông qua. Năm 1824, Bộ Hải quân đã đồng ý rằng lục địa này sẽ được nhắc tới chính thức bằng cái tên Australia. == Lịch sử == Theo ước tính, loài người bắt đầu định cư tại lục địa Úc từ 42.000 đến 48.000 năm trước, các di dân này có thể đã từ khu vực mà nay là Đông Nam Á và đến theo các cầu lục địa và vượt biển khoảng cách ngắn. Các cư dân đầu tiên này có thể là tổ tiên của thổ dân Úc hiện nay. Khi người châu Âu tiến hành định cư vào cuối thế kỷ 18, hầu hết thổ dân Úc là những người săn bắn-hái lượm, có một văn hóa truyền khẩu phức tạp và các giá trị tinh thần dựa trên sùng kính thổ địa và tin tưởng vào thời mộng ảo. Người quần đảo Eo biển Torres thuộc nhóm dân tộc Melanesia, họ ban đầu là những người làm vườn và săn bắn-hái lượm. các ngư dân từ Đông Nam Á hàng hải thỉnh thoảng cũng đi đến các vùng duyên hải và vùng biển bắc bộ của Úc. Nhà hàng hải người Hà Lan Willem Janszoon là người châu Âu đầu tiên được ghi chép là đã trông thấy đại lục Úc, và là người châu Âu đầu tiên được ghi chép là đã đổ bộ lên lục địa Úc. Ông trông thấy bờ biển của bán đảo Cape York vào đầu năm 1606, và tiến hành đổ bộ vào ngày 26 tháng 2 tại sông Pennefather gần thị trấn Weipa ngày nay tại Cape York. Người Hà Lan vẽ hải đồ toàn bộ đường bờ biển tây bộ và bắc bộ và đặt tên cho lục địa đảo là "Tân Hà Lan" trong thế kỷ 17, song không tiến hành nỗ lực định cư. Nhà thám hiểm người Anh William Dampier đổ bộ lên bờ biển tây-bắc của Tân Hà Lan vào năm 1688 và tiếp một lần nữa vào năm 1699 trong một chuyến đi trở lại. Năm 1770, James Cook đi thuyền dọc theo và vẽ bản đồ bờ biển phía đông, ông định danh cho nó là New South Wales và tuyên bố chủ quyền cho Anh Quốc. Sau khi mất 13 thuộc địa tại Bắc Mỹ vào năm 1780, Chính phủ Anh cử một hạm đội tàu, "Đệ nhất hạm đội", dưới quyền chỉ huy của Thuyền trưởng Arthur Phillip, đi thiết lập một thuộc địa lưu đày mới tại New South Wales. Một trại được lập ra và quốc kỳ được kéo lên tại Sydney Cove, Port Jackson, vào ngày 26 tháng 1 năm 1788, ngày này trở thành ngày quốc khánh của Úc. Một khu định cư của Anh Quốc được thiết lập tại đất Van Diemen, nay là Tasmania, vào năm 1803 và đảo này trở thành một thuộc địa riêng biệt vào năm 1825. Anh Quốc chính thức tuyên bố chủ quyền đối với phần tây bộ của Tây Úc (thuộc địa sông Swan) vào năm 1828. Các thuộc địa riêng biệt được tách ra từ các lãnh thổ của New South Wales: Nam Úc vào năm 1836, Victoria vào năm 1851, và Queensland vào năm 1859. Lãnh thổ phương Bắc được tách ra từ Nam Úc và thành lập vào năm 1911. Nam Úc được thành lập với tình trạng là một "tỉnh tự do"—nơi này chưa từng là một thuộc địa lưu đày. Victoria và Tây Úc cũng được thành lập với tình trạng "tự do", song về sau chấp thuận các tù nhân được vận chuyển đến. Những người định cư tại New South Wales tiến hành một chiến dịch mà cuối cùng đã dẫn đến việc chấm dứt vận chuyển tù nhân đến thuộc địa này; tàu chở tù nhân cuối cùng đến vào năm 1848. Theo ước tính, dân số thổ dân là từ 750.000 đến 1.000.000 vào thời điểm người châu Âu bắt đầu định cư, song dân số của họ suy giảm trong 150 năm sau đó, chủ yếu do bệnh truyền nhiễm. Một chính sách "đồng hóa" của chính phủ bắt đầu với Đạo luật Bảo vệ thổ dân 1869, kết quả là nhiều trẻ em thổ dân bị đưa ra khỏi gia đình và cộng đồng của chúng, hành động này cũng có thể góp phần vào sự suy giảm của dân số người bản địa. Chính phủ Liên bang giành được quyền ra các điều luật tôn trọng thổ dân sau cuộc trưng cầu dân ý năm 1967. Quyền sở hữu đất đai theo truyền thống—quyền sở hữu của thổ dân—không được công nhận cho đến năm 1992, khi Tòa Cao đẳng Úc ra phán quyết Mabo v Queensland (số 2) lật đổ học thuyết pháp lý rằng Úc là "đất vô chủ" trước khi người châu Âu chiếm giữ. Một cơn sốt vàng bắt đầu tại Úc vào đầu thập kỷ 1850 và Nổi loạn Eureka năm 1854 nhằm chống phí cấp phép khai mỏ là một biểu hiện bất tuân dân sự đầu tiên. Từ năm 1855 đến năm 1890, sáu thuộc địa dần giành được quyền có chính phủ chịu trách nhiệm, tự quản lý hầu hết các vấn đề của họ song vẫn là một bộ phận của Đế quốc Anh. Văn phòng Thuộc địa tại Luân Đôn duy trì quyền kiểm soát trên một số vấn đề, đáng chú ý là các quan hệ đối ngoại, phòng thủ, và vận chuyển quốc tế. Ngày 1 tháng 1 năm 1901, đạt được liên minh của các thuộc địa sau một thập kỷ lên kế hoạch, thảo luận và bỏ phiếu. Thịnh vượng chung Úc được thành lập và trở thành một nước tự trị của Đế quốc Anh vào năm 1907. Lãnh thổ Thủ đô Liên bang (sau đổi tên thành Lãnh thổ Thủ đô Úc) được thành lập vào năm 1911 để làm địa điểm của thủ đô liên bang tương lai- Canberra. Trong khi Canberra được xây dựng, Melbourne là nơi tạm thời đặt trụ sở chính phủ từ năm 1901 đến năm 1927. Quyền kiểm soát Lãnh thổ phương Bắc được chuyển từ chính phủ Nam Úc sang nghị viện liên bang vào năm 1911. Năm 1914, Úc cùng Anh Quốc chiến đấu trong Chiến tranh thế giới thứ nhất, với sự ủng hộ của Đảng Tự do Thịnh vượng chung đang chuyển giao và Đảng Lao động Úc đang tiếp nhận chính phủ. Úc tham gia trong nhiều trận chiến lớn tại Mặt trận phía Tây. Trong số khoảng 416.000 người từng phục vụ, khoảng 60.000 chết và 152.000 bị thương. Nhiều người Úc nhìn nhận thất bại của Quân đoàn Úc và New Zealand tại Gallipoli là mốc quốc gia đản sinh, đó là hành động quân sự lớn đầu tiên của Úc.Chiến dịch đường Kokoda được nhiều người nhìn nhận là một sự kiện định nghĩa quốc gia tương tự trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Đạo luật Westminster 1931 của Anh Quốc chính thức chấm dứt hầu hết các liên kết hiến pháp giữa Úc và Anh Quốc. Úc chuẩn thuận nó vào năm 1942, song tuyên bố rằng đạo luật có hiệu lực từ năm 1939 để xác nhận tính hợp lệ của các pháp luật do Nghị viện Úc thông qua trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Bất ngờ trước thất bại của Anh Quốc tại châu Á vào năm 1942 và mối đe dọa Nhật Bản xâm chiếm khiến Úc hướng sang Hoa Kỳ như một đồng minh và nước bảo hộ mới. Từ năm 1951, Úc trở thành một đồng minh quân sự chính thức của Hoa Kỳ, theo hiệp định ANZUS. Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, Úc khuyến khích nhập cư từ châu Âu. Kể từ thập niên 1970 và sau khi bãi bỏ chính sách Úc Da trắng, nhập cư từ châu Á và những nơi khác cũng tăng tiến. Kết quả là Úc có sự biến đổi về các mặt nhân khẩu học, văn hóa, tự nhận thức về bản thân. Việc thông qua Đạo luật Úc năm 1986 đã đoạn tuyệt các quan hệ hiến pháp cuối cùng giữa Úc và Anh Quốc, theo đó chấm dứt hoàn toàn vai trò của Anh Quốc trong chính phủ của các bang của Úc, và kết thúc quyền chọn lựa chống án pháp lý lên Xu mật viện tại Luân Đôn. Trong một cuộc trưng cầu dân ý vào năm 1999, 55% số cử tri và đa số tại mọi bang đã bác bỏ một đề xuất trở thành một nước cộng hòa với một tổng chống được bầu từ ít nhất 2/3 số phiếu tại cả hai viện của Nghị viện Úc. Kể từ khi Gough Whitlam trở thành thủ tướng vào năm 1972, chính sách đối ngoại của Úc ngày càng tập trung vào các mối quan hệ với các quốc gia khác trong vành đai Thái Bình Dương, trong khi duy trì quan hệ gần gũi với các đồng minh và đối tác thương mại truyền thống của mình. == Địa lý và khí hậu == Diện tích đất liền của Úc là 7.617.930 kilômét vuông (2.941.300 sq mi). Tọa lạc trên mảng Ấn-Úc, bao quanh là Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương, tách biệt với châu Á qua các biển Arafura và Timor, biển San hô nằm ngoài khơi bờ biển bang Queensland, và biển Tasman nằm giữa Úc và New Zealand. Úc là lục địa nhỏ nhất thế giới nhưng là quốc gia lớn thứ 6 về tổng diện tích, do kích thước lớn và biệt lập nên Úc còn được gán cho tên "lục địa đảo", và đôi khi được xem là đảo lớn nhất thế giới. Úc có đường bờ biển dài 34.218 kilômét (21.262 mi) (chưa tính đến các đảo ngoài khơi), và tuyên bố vùng đặc quyền kinh tế rộng 8.148.250 kilômét vuông (3.146.060 sq mi), chưa tính đến vùng đặc quyền kinh tế của Lãnh thổ châu Nam Cực thuộc Úc. Rạn san hô Great Barrier (Đại Bảo tiêu) là ám tiêu san hô lớn nhất thế giới, có một khoảng cách ngắn với bờ biển đông bắc của lục địa và trải dài trên 2.000 kilômét (1.240 mi). Núi Augustus tại Tây Úc được tuyên bố là đá nguyên khối lớn nhất thế giới,. Với độ cao 2.228 mét (7.310 ft), núi Kosciuszko thuộc Great Dividing Range (dãy Đại Phân Thủy) là núi cao nhất tại Úc đại lục. Các đỉnh núi cao hơn là đỉnh Mawson với cao độ 2.745 mét hoặc 9.006 foot trên đảo Heard; núi McClintock và núi Menzies có cao độ lần lượt là 3.492 mét (11.457 ft) và 3.355 mét (11.007 ft) tại Lãnh thổ châu Nam Cực thuộc Úc. Kích thước lớn khiến Úc có nhiều dạng phong cảnh khác nhau, với rừng mưa nhiệt đới ở đông-bắc, các dãy núi ở đông-nam, tây-nam và đông, các hoang mạc khô hạn ở trung tâm. Úc là lục địa bằng phẳng nhất, với đất đai cổ nhất và kém phì nhiêu nhất; hoang mạc hay các vùng đất bán khô hạn thường được gọi là "outback" tạo thành phong cảnh phổ biến nhất. Úc là lục địa có người định cư khô hạn nhất, chỉ có các góc đông-nam và tây-nam có khí hậu ôn hòa. Mật độ dân số của Úc là 2,8 người/km², xếp vào hàng thấp nhất trên thế giới, song một phần lớn dân cư sống dọc theo bờ biển đông-nam bộ có khí hậu ôn hòa. Đông bộ Úc có điểm nhấn là Great Dividing Range (dãy Đại Phân Thủy), dãy núi trải dài song song với bờ biển của Queensland, New South Wales và phần lớn Victoria. Nhiều phần của dãy núi gồm các đồi thấp, và các vùng đất cao thường không có cao độ lớn hơn 1.600 mét (5.249 ft). Các vùng cao duyên hải và một vành đai thảo nguyên cây keo nằm giữa bờ biển và các ngọn núi, trong khi vùng nội địa của dãy phân thủy là các khu vực thảo nguyên rộng lớn. Chúng gồm có các bình nguyên tây bộ của New South Wales, và cao địa Einasleigh, đài địa Barkly, và thổ địa Mulga ở vùng nội địa Queensland. Đỉnh cực bắc của vùng bờ biển phía đông là bán đảo Cape York với các khu rừng nhiệt đới. Các phong cảnh ở phần bắc bộ của quốc gia— Top End và Gulf Country nằm bên vịnh Carpentaria, có khí hậu nhiệt đới—gồm có rừng thưa, thảo nguyên, và hoang mạc. Tại góc tây-bắc của lục địa là các vách đá và hẻm núi cát kết của vùng The Kimberley, và Pilbara ở bên dưới. Phía nam của chúng và vùng nội địa, nằm trên nhiều khu vực thảo nguyên hơn: đồng bằng Ord Victoria và đất bụi keo Tây Úc. Phần trung tâm của quốc gia là các cao địa Trung Úc; các đặc trưng của trung bộ và nam bộ gồm có các hoang mạc lục địa Simpson, Tirari và Sturt phủ đá, Gibson, Great Sandy-Tanami, và Đại Victoria, với bình nguyên Nullarbor nổi tiếng tại duyên hải nam bộ. Khí hậu Úc chịu ảnh hưởng đáng kể từ các dòng hải lưu, bao gồm lưỡng cực Ấn Độ Dương và dao động El Niño–phương Nam, tương quan với hạn hán theo chu kỳ, và hệ thống áp thấp nhiệt đới theo mùa là nhân tố sản sinh các xoáy tụ tại bắc bộ Úc. Các nhân tố này khiến cho lượng mưa thay đổi rõ rệt giữa các năm. Phần lớn phần bắc bộ của quốc gia có một khí hậu nhiệt đới, chủ yếu là mùa hạ-mưa (gió mùa). Góc tây nam của quốc gia có một khí hậu Địa Trung Hải. Phần lớn đông nam bộ (bao gồm Tasmania) có khí hậu ôn hòa. == Môi trường == Mặc dù hầu hết lãnh thổ là bán khô hạn hoặc hoang mạc, song Úc sở hữu các môi trường sống đa dạng từ những bãi hoang núi cao đến rừng mưa nhiệt đới, và được công nhận là một quốc gia đa dạng sinh học siêu cấp. Các loại nấm điển hình cho sự đa dạng này; tổng số loài nấm xuất hiện tại Úc, bao gồm cả những loài chưa được phát hiện, được ước tính là khoảng 250.000 loài, trong đó chừng 5% đã được mô tả. Do là lục địa có tuổi lâu năm, các hình thái thời tiết thay đổi cực độ, và cô lập lâu dài về địa lý, phần lớn quần thể sinh vật của Úc có sự khác biệt và đa dạng. Xấp xỉ 85% loài thực vật có hoa, 84% loài thú, trên 45% loài chim, và 89% loài cá ven bờ và vùng ôn đới là loài đặc hữu. Úc là quốc gia có số loài bò sát lớn nhất thế giới, với 755 loài. Rừng tại Úc chủ yếu gồm các loài cây thường xanh, đặc biệt là các loài cây bạch đàn tại những vùng ít khô hạn, các loài keo thay thế địa vị chiếm ưu thế của chúng tại các vùng khô hạn hơn và các hoang mạc. Trong số các động vật nổi tiếng của Úc có các loài đơn huyệt (như thú mỏ vịt và thú lông nhím); một loạt loài thú có túi bao gồm kangaroo (chuột túi), koala (gấu không đuôi), và Vombatidae (gấu túi), và các loài chim như đà điểu châu Úc và chim bói cá kookaburra. Úc là nơi có nhiều loại động vật nguy hiểm, bao gồm một số loài rắn độc nhất trên thế giới. Người Nam Đảo đưa chó Dingo đến Úc- giống người này trao đổi mậu dịch với thổ dân Úc- khoảng năm 3000 TCN. Nhiều loài động thực vật bị tuyệt chủng ngay sau khi những người đầu tiên đến định cư, bao gồm quần thể động vật cỡ lớn Úc (Australian megafauna); nhiều loài khác biến mất sau khi người châu Âu đến định cư, trong số đó có Thylacinus cynocephalus (sói túi). Nhiều vùng sinh thái của Úc, cùng các loài trong những vùng đó, bị đe dọa do các hoạt động của con người và các loài động vật, tảo, nấm, và thực vật xâm nhập. Đạo luật Bảo vệ môi trường và bảo toàn tính đa dạng sinh học 1999 cấp liên bang là khuôn khổ pháp lý cho việc bảo vệ các loài bị đe dọa. Nhiều khu bảo tồn được lập ra theo Chiến lược quốc gia về bảo toàn tính đa dạng sinh học của Úc để bảo vệ và bảo tồn các hệ sinh thái độc đáo; 65 vùng đất ngập nước được liệt vào Công ước Ramsar, và 16 di sản tự nhiên thế giới được công nhận. Úc xếp hạng 51/163 thế giới trong Chỉ số thành tích môi trường 2010. Trong những năm gần đây, biến đổi khí hậu trở thành một mối quan tâm ngày càng tăng lên tại Úc, và bảo vệ môi trường là một vấn đề chính trị lớn. Năm 2007, Nội các đầu tiên của Thủ tướng Kevin Rudd ký vào văn kiện phê chuẩn nghị định thư Kyoto. Tuy thế, lượng phát thải cacbon điôxít đầu người của Úc nằm trong hàng cao nhất trên thế giới, chỉ thấp hơn một vài quốc gia công nghiệp hóa khác. Lượng mưa tại Úc tăng nhẹ trong thế kỷ qua, cả trên quy mô toàn quốc và hai góc phần tư của quốc gia. Hạn chế nước được tiến hành thường xuyên tại nhiều khu vực và thành thị của Úc, mục đích là nhằm đối phó với tình trạng thiếu hụt nước kinh niên do dân số thành thị tăng lên và hạn hán cục bộ. == Chính phủ == Úc là một quốc gia quân chủ lập hiến, là một liên bang phân chia quyền lực. Quốc gia này có chính phủ theo thể chế đại nghị, Nữ vương Elizabeth II là nguyên thủ quốc gia với tư cách Nữ vương Úc- một vai trò tách biệt so với địa vị là quân chủ của các quốc gia khác trong Vương quốc Khối thịnh vượng chung. Nữ vương cư trú tại Anh Quốc, các phó vương đại diện cho bà tại Úc (Toàn quyền tại cấp liên bang và Thống đốc tại cấp bang), theo quy ước thì họ hành động theo cố vấn của các bộ trưởng. Hiến pháp Úc trao cho quân chủ quyền hành pháp tối cao, song quyền thi hành nó được Hiến pháp ban cho riêng Toàn quyền. Hành động đáng chú ý nhất về việc thực hành quyền lực dự trữ của Toàn quyền bên ngoài đề nghị của Thủ tướng là việc giải tán chính phủ Whitlam trong cuộc khủng hoảng hiến pháp năm 1975. Chính phủ liên bang được phân thành ba nhánh: Cơ quan lập pháp: lưỡng viện Quốc hội, được quy định tại điều 1 của hiến pháp mà theo đó gồm có Nữ vương (đại diện là Toàn quyền), Thượng nghị viện, và Hạ nghị viện; Cơ quan hành pháp: Hội đồng Hành pháp Liên bang, thi hành theo Toàn quyền với cố vấn của Thủ tướng và các bộ trưởng; Cơ quan tư pháp: Tòa Cao đẳng Úc và các tòa án liên bang khác, các thẩm phán do Toàn quyền bổ nhiệm theo cố vấn của Hội đồng. Tham nghị viện (thượng nghị viện) có 76 nghị sĩ: mỗi bang có 12 nghị sĩ, mỗi lãnh thổ ở đại lục (Lãnh thổ thủ đô Úc và Lãnh thổ phương Bắc) có hai nghị sĩ. Chúng nghị viện (hạ nghị viện) có 150 thành viên được bầu theo hình thức mỗi đại biểu đại diện cho một khu vực bầu cử, được phân bổ cho các bang dựa theo dân số, với mỗi bang được đảm bảo tối thiểu là năm ghế. Bầu cử lưỡng viện theo thường lệ được tiến hành mỗi ba năm, và đồng thời; các thượng nghị sĩ từ các bang có các nhiệm kỳ 6 năm so le, còn thượng nghị sĩ từ các lãnh thổ không có nhiệm kỳ cố định mà phụ thuộc vào vòng bầu cử hạ nghị viện; do đó chỉ có 40 trong số 76 ghế tại Thượng được bầu trong các cuộc bỏ phiếu trừ khi vòng bị gián đoạn theo một quyết định giải tán lưỡng viện. Hệ thống bầu cử của Úc sử dụng bầu cử thay thế trong toàn bộ các cuộc bầu cử hạ nghị viện ngoại trừ tại Tasmania và Lãnh thổ Thủ đô Úc, bầu cử hạ nghị viện tại hai nơi này cũng như bầu cử thượng nghị viện liên bang và thượng nghị viện của hầu hết các bang là kết hợp bầu cử thay thế và đại diện tỷ lệ trong một hệ thống bầu cử có thể chuyển di đơn phiếu (single transferable vote). Bầu cử là bắt buộc đối với các công dân 18 tuổi và lớn hơn trong mỗi khu vực thuộc phạm vi quyền hạn, như là ghi danh (ngoại trừ Nam Úc). Đảng nhận được sự ủng hộ của đa số tại Hạ nghị viện sẽ thành lập chính phủ và lãnh tụ của họ trở thành Thủ tướng. Trong trường hợp không đảng nào giành được đa số ủng hộ, Toàn quyền có quyền bổ nhiệm Thủ tướng, và nếu cần thiết thì bãi truất người để mất tín nhiệm của Nghị viện. Có hai phe chính trị lớn thường xuyên thành lập chính phủ ở cấp liên bang và cấp bang: Đảng Lao động Úc (Công đảng Úc) và Liên minh- về chính thức là một nhóm gồm có Đảng Tự do và đối tác nhỏ là Đảng Quốc gia. Các thành viên độc lập và của một vào đảng nhỏ cũng có đại diện trong lưỡng viện quốc hội Úc. == Bang và lãnh thổ == Úc có sáu bang là—New South Wales (NSW), Queensland (QLD), Nam Úc (SA), Tasmania (TAS), Victoria (VIC) và Tây Úc (WA)—và hai lãnh thổ đại lục— Lãnh thổ Thủ đô Úc (ACT) và Lãnh thổ phương Bắc (NT). Trên hầu hết phương diện thì hai lãnh thổ này có chức năng như các bang, song Nghị viện Thịnh vượng chung có thể phế trưc bất kỳ pháp luật nào do nghị viện hai lãnh thổ này ban hành. Ngược lại, pháp luật liên bang chỉ có thể phế trừ pháp luật các bang trong các phạm vi được quy định trong điều 51 Hiến pháp; nghị viện các bang bảo lưu toàn bộ các quyền lập pháp còn lại, bao gồm trên các lĩnh vực trường học, cảnh sát bang, tòa án bang, đường sá, giao thông cộng cộng và chính phủ địa phương, những lĩnh vực không được liệt kê trong điều 51. Mỗi bang và lãnh thổ đại lục có nghị viện riêng—đơn viện tại Lãnh thổ phương Bắc, Lãnh thổ Thủ đô Úc, Queensland—và lưỡng viện tại các bang còn lại. Các bang là những thực thể có chủ quyền, song lệ thuộc vào các quyền hạn nhất định của Thịnh vượng chung theo như hiến pháp của liên bang. Các hạ nghị viện của các bang được gọi là Legislative Assembly (House of Assembly tại Nam Úc và Tasmania); các thượng nghị viện được gọi là Legislative Council. Người đứng đầu chính phủ mỗi bang là Thủ tướng (Premier) là tại mỗi lãnh thổ là Thủ tịch bộ trưởng (Chief Minister). Đại diện của Nữ vương tại mỗi bang là một Thống đốc (Governor); và tại Lãnh thổ phương Bắc là Quản lý viên (Administrator). Nghị viện liên bang trực tiếp quản lý các lãnh thổ sau: Quần đảo Ashmore và Cartier Lãnh thổ châu Nam Cực thuộc Úc Đảo Christmas Quần đảo Cocos (Keeling) Quần đảo Biển San hô Đảo Heard và quần đảo McDonald Lãnh thổ vịnh Jervis, một căn cứ hải quân và hải cảng cho thủ đô quốc gia. Đảo Norfolk về mặt kỹ thuật là một lãnh thổ ngoại bộ, song theo Đạo luật Đảo 1979 thì đảo này được trao thêm quyền tự trị và có hội đồng lập pháp riêng quản lý cục bộ. Đại diện cho Nữ vương là một Quản lý viên. == Quan hệ đối ngoại và quốc phòng == Trong các thập kỷ gần đây, chi phối các chính sách đối ngoại của Úc là mối quan hệ gần gũi với Hoa Kỳ, và mưu cầu phát triển các mối quan hệ với châu Á và Thái Bình Dương, đặc biệt là thông qua ASEAN và Diễn đàn các đảo Thái Bình Dương. Năm 2005, Úc gia nhập vào Hiệp ước Thân thiện và Hợp tác ở Đông Nam Á và có ghế chính thức trong Hội nghị cấp cao Đông Á. Úc là một thành viên của Thịnh vượng chung các quốc gia, những người đứng đầu các chính phủ trong tổ chức này tiến hành hội nghị để thảo luận về hợp tác. Úc theo đuổi mục tiêu tự do hóa thương mại quốc tế. Quốc gia này dẫn đầu trong việc hình thành nhóm Cairns và Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á - Thái Bình Dương. Úc là một thành viên của Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế và Tổ chức Thương mại Thế giới, và theo đuổi một số hiệp định thương mại tự do song phương quy mô lớn, chẳng hạn như Hiệp định Thương mại tự do Úc-Mỹ và Giao thiệp kinh tế gần gũi với New Zealand, cùng hiệp định thương mại tự do được dàn xếp với Trung Quốc, và Nhật Bản, Hàn Quốc vào năm 2011, Cùng với New Zealand, Anh Quốc, Malaysia và Singapore, Úc là một bên trong FPDA, một hiệp định phòng thủ khu vực. Úc là một thành viên sáng lập của Liên Hiệp Quốc, cam kết mạnh mẽ đa phương hóa và duy trì một chương trình viện trợ cho khoảng 60 quốc gia. Ngân sách 2005–06 cung cấp 2,5 tỷ đô la Úc cho viện trợ phát triển. Lực lượng Quốc phòng Úc (ADF)—gồm có Hải quân Hoàng gia Úc (RAN), Lục quân Úc và Không quân Hoàng gia Úc (RAAF), tổng số nhân viên là khoảng 80 nghìn người. Vai trò Tổng tư lệnh mang tính danh nghĩa được trao cho Toàn quyền, người này bổ nhiệm một Tư lệnh lực lượng quốc phòng từ một trong số các nhân viên quân sự theo cố vấn của chính phủ. Hoạt động thường nhật của quân đội nằm dưới quyền chỉ huy của Tư lệnh, trong khi nhiệm vụ quản lý trên quy mô rộng hơn và xây dựng chính sách quốc phòng do Bộ trưởng và Bộ Quốc phòng tiến hành. Trong ngân sách năm 2010–11, chi phí cho quốc phòng của Úc là 25,7 tỷ đô la Úc, xếp thứ 13 thế giới về ngân sách quốc phòng. Úc tham gia vào các hoạt động gìn giữ hòa bình, cứu trợ thiên tai và xung đột vũ trang; năm 2009, Úc triển khai khoảng 3.300 nhân viên quốc phòng trong 12 hoạt động quốc tế trong khu vực, bao gồm tại Đông Timor, Quần đảo Solomon và Afghanistan. == Kinh tế == Úc là một quốc gia giàu có với một nền kinh tế thị trường, GDP bình quân đầu người tương đối cao, và tỷ lệ nghèo tương đối thấp. Theo mức độ giàu có bình quân, Úc xếp hàng đầu thế giới trong năm 2013, song mức nghèo tại quốc gia tăng lên từ 10,2% đến 11,8% trong khoảng thời gian từ 2000/01 đến 2013. Viện Nghiên cứu Tín dụng Thụy Sĩ (Credit Suisse) xác định Úc là quốc gia có mức giàu có bình quân cao nhất trên thế giới và có mức giàu có bình quân đối với người trưởng thành cao thứ nhì thế giới trong năm 2013. Đô la Úc là tiền tệ của quốc gia, bao gồm cả đảo Christmas, quần đảo Cocos (Keeling), và đảo Norfolk, cũng như các đảo quốc độc lập Thái Bình Dương là Kiribati, Nauru, và Tuvalu. Với việc hợp nhất Sở giao dịch chứng khoán Úc (Australian Stock Exchange) và Sở giao dịch hàng hóa kỳ hạn Sydney vào năm 2006, Sở giao dịch chứng khoán Úc (Australian Securities Exchange) trở thành sở giao dịch chứng khoán lớn thứ chín trên thế giới. Úc xếp thứ ba trong Chỉ số Tự do kinh tế năm 2010, là nền kinh tế lớn thứ 12 trên thế giới. Quốc gia xếp hạng hai trong Chỉ số phát triển con người năm 2011 của Liên Hiệp Quốc, xếp hạng nhất trong Chỉ số thịnh vượng năm 2008 của Legatum. Toàn bộ các thành phố lớn của Úc đều được đánh giá tốt trong các nghiên cứu đáng sống tương đối toàn cầu; Melbourne đạt hạng nhất trong các danh sách thành phố đáng sống nhất của The Economist' năm 2011, 2012 và 2013, tiếp theo là Adelaide, Sydney, và Perth lần lượt xếp thứ 5, thứ 7, và thứ 9. Tổng nợ chính phủ của Úc chiếm 20% GDP vào năm 2010. Úc nằm trong số những nơi có giá nhà cao nhất và nợ hộ gia đình cao nhất trên thế giới. Nhấn mạnh vào các mặt hàng xuất khẩu thay vì hàng hóa chế tạo đã trở thành trụ cột trong sự gia tăng đáng kể giá cánh kéo của Úc từ khi bắt đầu thế kỷ 21, do giá các mặt hàng tăng lên. Cán cân thanh toán của Úc âm trên 7% GDP, và trải qua thâm hụt tài khoản vãng lai lớn liên tục trong trên 50 năm. Úc là nền kinh tế phát triển duy nhất không trải qua suy giảm do khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008–2009. Tuy nhiên, nền kinh tế của sáu đối tác thương mại lớn của Úc đã bị giảm sút, khiến Úc bị ảnh hưởng, gây cản trở đáng kể đối với tăng trưởng kinh tế trong những năm gần đây. Từ năm 2012 đến đầu năm 2013, kinh tế quốc dân của Úc tăng trưởng, song vài bang không dựa vào khai mỏ và kinh tế phi khai mỏ của Úc trải qua một cuộc suy giảm. Chính phủ của Bob Hawke thả nổi đô la Úc vào năm 1983 và bãi bỏ quy định một phần đối với hệ thống tài chính. Chính phủ Howard theo sau với việc bãi bỏ quy định một phần đối với thị trường lao động và đẩy mạnh tư nhân hóa các doanh nghiệp thuộc sở hữu nhà nước, đáng chú ý nhất là trong ngành công nghiệp viễn thông. Hệ thống thuế gián tiếp được thay đổi về căn bản vào tháng 7 năm 2000 bằng việc ra đời thuế hàng hóa và dịch vụ (GST) 10%. Trong hệ thống thuế của Úc, thuế thu nhập cá nhân và công ty là những nguồn thu chính của thu nhập chính phủ. Tháng 5 năm 2012, Úc có 11.537.900 người lao động, với tỷ lệ thất nghiệp là 5,1%. Tỷ lệ thất nghiệp của thanh thiếu niên (15–24) đứng ở mức 11,2%. Dữ liệu được công bố vào giữa tháng 11 năm 2013 cho thấy rằng số người nhận phúc lợi tăng lên đến 55%%. Năm 2007, 228.621 người đăng ký nhận trợ cấp thất nghiệp của Newstart, con số này tăng lên 646.414 vào tháng 3 năm 2013. Trong thập kỷ qua, lạm phát thường niên là 2–3% và lãi suất cơ bản là 5–6%. Lĩnh vực dịch vụ của nền kinh tế, gồm du lịch, giáo dục, các dịch vụ tài chính, chiếm khoảng 70% GDP. Úc là nước giàu tài nguyên tự nhiên, là một nước lớn về xuất khẩu các nông sản, đặc biệt là lúa mì và len, các loại khoáng sản như quặng sắt và vàng, mặt hàng năng lượng như khí đốt hóa lỏng và than đá. Mặc dù nông nghiệp và tài nguyên tự nhiên chỉ lần lượt chiếm 3% và 5% GDP, song chúng đóng góp đáng kể vào thành tích xuất khẩu. Các thị trường xuất khẩu lớn nhất của Úc trong năm 2005 là Nhật Bản, Trung Quốc, Hoa Kỳ, Hàn Quốc và New Zealand. == Nhân khẩu == Trong gần hai thế kỷ, phần lớn những người định cư, và sau đó là những người nhập cư, đến Úc từ Quần đảo Anh. Do vậy, người dân Úc chủ yếu có nguồn gốc dân tộc đảo Anh và/hoặc Ireland. Điều tra dân số năm 2011 yêu cầu cung cấp tối đa hai nguồn gốc mà họ nhận thấy gần gũi nhất, các tổ tiên được trả lời phổ biến nhất là người Anh (36,1%), sau đó là người Úc (35,4%), người Ireland (10,4%), người Scotland (8,9%), người Ý (4,6%), người Đức (4,5%), người Hoa (4,3%), người Ấn Độ (2,0%), người Hy Lạp (1,9%), và người Hà Lan (1,7%). Người Úc gốc châu Á chiếm 12% dân số. Dân số Úc tăng gấp bốn lần kể từ khi Chiến tranh thế giới thứ nhất kết thúc. Tuy vậy, mật độ dân số 2,8 người/km² của Úc vẫn nằm trong hàng thấp nhất trên thế giới. Phần lớn gia tăng dân số bắt nguồn từ nhập cư. Sau Chiến tranh thế giới thứ hai và cho đến năm 2000, có gần 5,9 triệu trong tổng dân số định cư tại Úc trong thân phận tân di dân, có nghĩa rằng gần hai trong số mỗi bảy người Úc sinh ra tại quốc gia khác. Hầu hết những người nhập cư là người lành nghề, song hạn ngạch nhập cư tính đến cả các diện thành viên gia đình và người tị nạn. Dân số Úc được dự đoán lên đến khoảng 42 triệu người vào năm 2050. Năm 2011, 24,6% người Úc sinh ra tại các quốc gia khác và 43,1% cư dân có ít nhất một cha mẹ sinh ra tại hải ngoại; Theo điều tra dân số năm 2011, các nhóm nhập cư lớn nhất là những người đến từ Anh Quốc, New Zealand, Trung Quốc, Ấn Độ, Ý, Việt Nam và Philippines. Trên 80% dân số Úc có nguồn gốc châu Âu, và hầu hết những người còn lại có nguồn gốc châu Á, cùng một thiểu số nhỏ hơn là thổ dân. Sau khi bãi bỏ chính sách Úc Da trắng vào năm 1973, nhiều sáng kiến của chính phủ được tiến hành nhằm cổ vũ và xúc tiến hòa hợp dân tộc dựa trên một chính sách đa nguyên văn hóa. Trong các năm 2005–06, có trên 131.000 người nhập cư đến Úc, chủ yếu từ châu Á và châu Đại Dương. Mục tiêu nhập cư giai đoạn 2012–13 là 190.000, so với 67.900 trong giai đoạn 1998–99. Dân số nông thôn của Úc vào năm 2012 là 2.420.731 (10,66% tổng dân số). Các cư dân bản địa là thổ dân và người quần đảo Eo biển Torres có 548.370 người (2,5% tổng dân số) vào năm 2011, một sự gia tăng đáng kể so với con số 115.953 trong điều tra dân số năm 1976. Người bản địa Úc có tỷ lệ bị giam cầm và thất nghiệp cao hơn, có trình độ giáo dục thấp hơn, có tuổi thọ của nam và nữ thấp hơn 11-17 năm so với những người Úc phi bản địa. Cùng với nhiều quốc gia phát triển khác, Úc đang phải trải qua một cuộc biến đổi nhân khẩu học theo hướng dân số già hơn, có thêm nhiều người nghỉ hưu và ít người trong độ tuổi làm việc hơn. Năm 2004, tuổi trung bình của cư dân Úc là 38,8 tuổi. Một lượng lớn người Úc (759.849 trong giai đoạn 2002–03; 1 triệu hay 5% tổng dân số vào năm 2005) sống bên ngoài quốc gia của họ. === Ngôn ngữ === Mặc dù Úc không có ngôn ngữ chính thức, song tiếng Anh luôn là ngôn ngữ quốc gia trên thực tế. Tiếng Anh-Úc là một dạng chính của ngôn ngữ này với khẩu âm và từ vựng đặc biệt, và có một số điểm khác biệt về chính tả và ngữ pháp đối với các phương ngữ tiếng Anh khác. Theo điều tra dân số năm 2011, tiếng Anh là ngôn ngữ duy nhất được nói tại nhà của gần 81% dân số. Các ngôn ngữ được sử dụng trong gia đình phổ biến tiếp sau là Quan thoại (1,7%), tiếng Ý (1,5%), tiếng Ả Rập (1,4%), tiếng Quảng Đông (1,3%), tiếng Hy Lạp (1,3%), và tiếng Việt (1,2%); một tỷ lệ đáng kể người nhập cư thế hệ thứ nhất và thứ hai là người song ngữ. Một nghiên cứu năm 2010–2011 của AEDI cho thấy ngôn ngữ mà trẻ em Úc nói phổ biến nhất sau tiếng Anh là tiếng Ả Rập, tiếp theo là tiếng Việt, tiếng Hy Lạp, tiếng Trung Quốc, và tiếng Hindi. Từ 200 đến 300 ngôn ngữ Úc bản địa tồn tại vào thời điểm người châu Âu lần đầu tiên tiếp xúc với lục địa, trong đó chỉ còn khoảng 70 ngôn ngữ là còn tồn tại. Nhiều ngôn ngữ trong số đó chỉ còn được những người già nói; chỉ 18 ngôn ngữ bản địa là vẫn được nói ở toàn bộ các nhóm tuổi. Vào thời điểm tiến hành điều tra dân số năm 2006, 52.000 người Úc bản địa, chiếm 12% dân số bản địa, nói rằng họ nói một ngôn ngữ bản địa tại nhà. Úc có một ngôn ngữ ký hiệu được gọi là Auslan, đây là ngôn ngữ chính của khoảng 5.500 người khiếm thính. === Tôn giáo === Úc không có quốc giáo; điều 116 của Hiến pháp Úc nghiên cấm chính phủ liên bang ra bất kỳ đạo luật nào nhằm chính thức hóa bất kỳ tôn giáo nào, lạm dụng bất kỳ nghi thức tôn giáo nào, hoặc nghiêm cấm việc hành lễ tự do bất kỳ tôn giáo nào. Trong điều tra dân số năm 2011, 61,1% người Úc được tính là tín đồ Cơ Đốc giáo, bao gồm 25,3% là tín đồ Công giáo La Mã và 17,1% là tín đồ Anh giáo; 22,3% dân số nói rằng họ là người "không tôn giáo"; 7,2% nhận là tín đồ các tôn giáo phi Cơ Đốc giáo, lớn nhất trong số đó là tín đồ Phật giáo (2,5%), tiếp theo là Hồi giáo (2,2%), Ấn Độ giáo (1,3%) và Do Thái giáo (0,5%). 9.4% còn lại không cung cấp câu trả lời đầy đủ. Trong phần lớn lịch sử của Úc, Giáo hội Anh (nay gọi là Giáo hội Anh giáo Úc) là đoàn thể tôn giáo lớn nhất, tuy nhiên những di dân đến từ những nền văn hóa khác góp phần khiến cho giáo hội này suy giảm tương đối, còn Giáo hội Công giáo La Mã được hưởng lợi từ việc mở cửa nước Úc thời hậu chiến cho nhập cư đa văn hóa và trở thành giáo hội lớn nhất. Tương tự, Hồi giáo, Phật giáo, Ấn Độ giáo, và Do Thái giáo đều có sự phát triển vào các thập kỷ hậu chiến. Trên mức độ thấp hơn, các tôn giáo nhỏ như Bahá'í, Sikh giáo, Wicca và dị giáo cũng gia tăng đáng kể về số lượng tín đồ. Trong cuộc điều tra dân số năm 2001, có 17.381 tín đồ Sikh giáo, 11.037 tín đồ Bahá'í, 10.632 người dị giáo và 8.755 tín đồ Wicca tại Úc. === Giáo dục === Đến trường, hoặc đăng ký học tập tại gia, là điều bắt buộc trên toàn bộ Úc. Giáo dục là trách nhiệm của riêng các bang và lãnh thổ do vậy các quy định có sự khác biệt giữa các bang, song trẻ em thông thường cần phải đến trường từ độ tuổi từ khoảng 5 cho đến khoảng 15 tuổi. Tại các bang như Tây Úc, Lãnh thổ phương Bắc và New South Wales), thiếu niên 16–17 được yêu cầu đi học hoặc tham gia vào giáo dục nghề nghiệp. Tỷ lệ biết chữ của người trưởng thành tại Úc được ước tính đạt 99% vào năm 2003. Tuy nhiên, một báo cáo 2011–12 của Cục Thống kê Úc nói rằng một nửa người lớn tại Tasmania mù chữ chức năng. Úc có 37 trường đại học được chính phủ tài trợ và hai trường đại học tư nhân, một số học viện chuyên khoa khác cũng cung cấp các khóa học được phê duyệt ở bậc giáo dục đại học. OECD xếp Úc nằm trong số các quốc gia học đại học tốn kém nhất. Úc có một hệ thống giáo dục nghề nghiệp dựa vào nhà nước, gọi là TAFE. Xấp xỉ 58% người Úc tuổi từ 25 đến 64 có trình độ nghề hoặc đại học, và tỷ lệ tốt nghiệp đại học 49% nằm hàng đầu trong các quốc gia OECD. Tỷ lệ sinh viên quốc tế đến địa phương để theo học giáo dục bậc đại học của Úc là cao nhất trong các quốc gia OECD. === Sức khỏe === Cư dân Úc có tuổi thọ cao thứ tư thế giới sau Iceland, Nhật Bản và Hong Kong. Tuổi thọ tại Úc trong năm 2010 là 79,5 đối với nam giới và 84,0 đối với nữ giới. Úc có tỷ lệ ung thư da cao nhất trên thế giới, trong khi hút thuốc lá là nguyên nhân phòng tránh được lớn nhất gây tử vong và bệnh tật. Đứng thứ hai trong số các nguyên nhân có thể phòng tránh là tăng huyết áp, và thứ ba là béo phì. Úc xếp thứ 35 thế giới và gần ở hàng đầu các quốc gia phát triển về tỷ lệ người trưởng thành béo phì. Tổng chi phí y tế (bao gồm chi phí khu vực tư nhân) là khoảng 9,8% GDP. Úc bắt đầu tiến hành chăm sóc y tế toàn dân vào năm 1975. Chương trình này được gọi là Medicare, hiện trên danh nghĩa lấy kinh phí từ một khoản phụ thuế thu nhập là trưng thu Medicare, hiện ở mức 1,5%. Các bang quản lý các bệnh viện và các dịch vụ ngoại trú trực thuộc, còn Thịnh vượng chung cấp kinh phí cho Kế hoạch phúc lợi dược phẩm (trợ cấp giá dược phẩm) và hành nghề nói chung. == Văn hóa == Kể từ năm 1788, nền tảng của văn hóa Úc chịu ảnh hưởng mạnh của văn hóa phương Tây Anglo-Celt. Các đặc điểm văn hóa đặc thù cũng xuất hiện từ môi trường tự nhiên của Úc và văn hóa bản địa. Từ giữa thế kỷ 20, văn hóa đại chúng Mỹ có ảnh hưởng mạnh đối với Úc, đặc biệt là thông qua truyền hình và điện ảnh. Các ảnh hưởng văn hóa khác đến từ các quốc gia châu Á lân cận, và thông qua nhập cư quy mô lớn từ các quốc gia không nói tiếng Anh. === Nghệ thuật === Nghệ thuật thị giác của Úc được cho là khởi nguồn từ các bích họa hang động, khắc đá và hội họa thân thể của các dân tộc bản địa. Các truyền thống của người Úc bản địa phần lớn được lưu truyền nhờ truyền khẩu, thông qua các nghi lễ và kể các chuyện thời mộng ảo. Từ khi người châu Âu định cư, một đề tài trong nghệ thuật Úc là phong cảnh tự nhiên, có thể nhận thấy thông qua các tác phẩm của Albert Namatjira, Arthur Streeton và những người khác có liên hệ với họa phái Heidelberg, và Arthur Boyd. Phong cảnh quốc gia vẫn là một nguồn cảm hứng của các nghệ sĩ đương đại của Úc; nó được miêu tả trong các tác phẩm nổi tiếng của Sidney Nolan, Fred Williams, Sydney Long, và Clifton Pugh. Các nghệ sĩ Úc chịu ảnh hưởng của nghệ thuật hiện đại Mỹ và châu Âu gồm họa sĩ lập thể Grace Crowley, nghệ sĩ siêu thực James Gleeson, và nghệ sĩ đại chúng Martin Sharp. Nghệ thuật người Úc bản địa đương đại là phong trào nghệ thuật duy nhất nổi lên từ Úc mà có tầm quan trọng quốc tế và "phong trào nghệ thuật lớn cuối cùng của thế kỷ 20"; các truyền nhân của nó gồm có Emily Kngwarreye. Nhà phê bình nghệ thuật Robert Hughes từng viết một vài sách có ảnh hưởng về lịch sử va nghệ thuật Úc, và được The New York Times mô tả là "nhà phê bình nghệ thuật nổi tiếng nhất thế giới". Nhà trưng bày quốc gia Úc và các nhà trưng bày cấp bang bảo quản các bộ sự tập của Úc và hải ngoại. Úc là một trong những quốc gia có tỷ lệ người đến các nhà trưng bày và bảo tàng nghệ thuật cao nhất thế giới, vượt xa Anh Quốc hay Hoa Kỳ. Nhiều trong số các công ty biểu diễn nghệ thuật của Úc nhận tài trợ thông qua Hội đồng Úc của chính phủ liên bang. Mỗi bang của Úc có một dàn nhạc giao hưởng, và có một công ty nhạc kịch quốc gia là Opera Australia, được biết đến với giọng nữ cao trứ danh Joan Sutherland. Vào đầu thế kỷ 20, Nellie Melba là một trong số các ca sĩ ca kịch hàng đầu thế giới. The Australian Ballet và các công ty cấp bang khác biểu diễn Balê và vũ đạo. Mỗi bang có một kịch đoàn được tài trợ công. Văn học Úc cũng chịu ảnh hưởng từ phong cảnh; các tác phẩm của những nhà văn như Banjo Paterson, Henry Lawson, và Dorothea Mackellar nói về kinh nghiệm trải qua tại rừng cây bụi của Úc. Nhân vật của thời thuộc địa được thể hiện trong văn học thời kỳ đầu, và trở nên nổi tiếng đối với người Úc hiện đại. Năm 1973, Patrick White nhận được giải Nobel Văn học, ông là người Úc đầu tiên giành được giải thưởng này. Những người Úc từng thắng giải Man Booker gồm có Peter Carey và Thomas Keneally; David Williamson, David Malouf, và J. M. Coetzee (người nhập quốc tịch Úc vào năm 2006) cũng là những nhà văn có tiếng, và Les Murray được đánh giá là "một trong những thi sĩ hàng đầu trong thế hệ của ông". === Truyền thông === Ngành công nghiệp điện ảnh của Úc bắt đầu từ năm 1906 bằng việc phát hành The Story of the Kelly Gang (chuyện về băng đảng Kelly)- được xem như phim dài đầu tiên của thế giới; song cả lĩnh vực sản xuất phim chiếu bóng Úc và phân phối phim chiếu bóng do Anh Quốc sản xuất bị suy giảm đột ngột sau Chiến tranh thế giới thứ nhất khi các xưởng phim và nhà phân phối của Hoa Kỳ giữ độc quyền ngành công nghiệp này, và đến thập niên 1930 thì khoảng 95% lượng phim chiếu bóng xuất hiện trên màn bạc tại Úc được sản xuất tại Hollywood. Đến cuối thập niên 1950, sản xuất phim chiếu bóng tại Úc đã không còn hiệu quả và do đó không còn bộ phim chiếu bóng Úc nào được sản xuất trong một thập kỷ từ 1959 đến 1969. Nhờ các sáng kiến của các chính phủ John Gorton và Gough Whitlam, điện ảnh Úc tạo làn sóng mới trong thập niên 1970 khi đem đến các bộ phim kích thích và thành công, một số lấy bối cảnh thời kỳ thực dân trước đây của Úc, như Picnic at Hanging Rock (Giao dụ tại núi đá Hanging) và Breaker Morant, trong khi thể loại được gọi là "Ocker" mang đặc điểm hài đạt được thành công lớn như The Adventures of Barry McKenzie (Những cuộc phiêu lưu của Barry McKenzie) và Alvin Purple. Các phim thành công sau đó gồm có Mad Max và Gallipoli. Các phim thành công trong thời gian gần đây hơn gồm có Shine và Rabbit-Proof Fence. Các diễn Úc nổi tiếng gồm có Judith Anderson, Errol Flynn, Nicole Kidman, Naomi Watts, Hugh Jackman, Heath Ledger, Geoffrey Rush, và Cate Blanchett. Năm 2010, Phóng viên không biên giới xếp Úc đứng thứ 18 trong số 178 quốc gia về tự do báo chí, sau New Zealand (8) song đứng trước Anh Quốc (19) và Hoa Kỳ (20). Thứ hạng này chủ yếu là do hạn chế về tính đa dạng trong sở hữu truyền thông thương mại tại Úc; hầu hết thông tin in xuất bản đều nằm dưới sự kiểm soát của News Corporation và Fairfax Media. === Ẩm thực === Thực phẩm của người Úc bản địa chịu ảnh hưởng lớn từ khu vực mà họ cư trú. Hầu hết các nhóm bộ lạc sống bằng một chế độ ăn săn bắn-hái lượm giản đơn. Thuật ngữ chung để chỉ các thực vật và động vật được sử dụng làm nguồn thực phẩm là "bush tucker" (đồ ăn bụi cây). Những người châu Âu định cư đầu tiên đưa thực phẩm Anh Quốc đến lục địa, và phần lớn chúng nay được xem là thực phẩm Úc điển hình; Sunday roast (thịt quay Chủ nhật) trở thành một truyền thống lâu dài của nhiều người Úc. Kể từ khi bắt đầu thế kỷ 20, thực phẩm tại Úc ngày càng chịu ảnh hưởng từ những người nhập cư đến quốc gia, đặc biệt là từ các nền văn hóa Nam Âu và châu Á. Rượu vang Úc được sản xuất tại 60 vùng sản xuất riêng biệt với tổng diện tích là 160.000 ha, chủ yếu tại nam bộ- nơi mát hơn tại quốc gia. Các vùng sản xuất rượu vang tại mỗi bang sản xuất ra các chủng loại rượu vang khác nhau dựa theo lợi thế về khí hậu và thổ nhưỡng của địa phương. Các chủng chiếm ưu thế là Shiraz, Cabernet Sauvignon, Chardonnay, Merlot, Sémillon, Pinot noir, Riesling, và Sauvignon blanc. === Thể thao === Khoảng 24% người Úc trên 15 tuổi thường xuyên tham gia vào các hoạt động thể thao có tổ chức. Úc có đội tuyển mạnh ở tầm quốc tế trong các môn cricket, khúc côn cầu sân cỏ, bóng lưới, bóng bầu dục liên minh, và bóng bầu dục liên hiệp. Úc cũng mạnh trong các môn đua xe đạp đường vòng, chèo thuyền, và bơi. Úc tham gia mọi kỳ Thế vận hội Mùa hè trong thời hiện đại, và mọi Đại hội thể thao Thịnh vượng chung. Úc từng đăng cai Thế vận hội Mùa hè 1956 tại Melbourne và Thế vận hội Mùa hè 2000 tại Sydney, và xếp trong số sáu đoàn giành nhiều huy chương nhất trong các kỳ thế vận hội 2000, 2004 và 2008. Trong Thế vận hội Mùa hè năm 2012 tại Luân Đôn, Úc xếp thứ 10 trong bảng tổng sắp huy chương. Úc cũng từng đăng cai các kỹ Đại hội thể thao Thịnh vượng chung 1938, 1962, 1982, 2006 và sẽ đăng cai kỳ đại hội năm 2018. Các sự kiện thể thao lớn khác được tổ chức tại Úc bao gồm Giải quần vợt Úc Mở rộng, hay Giải đua ô tô Công thức 1 Úc. Úc từng tổ chức Giải vô địch bóng bầu dục thế giới 2003 và Cúp Bledisloe thường niên giữa Australia–New Zealand được theo dõi nhiệt tình. Các chương trình truyền hình có tỷ suất người xem cao nhất bao gồm các chương trình thể thao như Thế vận hội Mùa hè, Giải vô địch bóng đá thế giới, loạt trận bóng bầu dục liên minh State of Origin, chung kết giải bóng bầu dục liên minh quốc gia và giải bóng đá kiểu Úc quốc gia. Môn trượt tuyết bắt đầu xuất hiện tại Úc trong thập niên 1860 và các môn thể thao tuyết được chơi trên dãy Alps Úc và nhiều nơi tại Tasmania. == Ghi chú == == Chú thích == == Thư mục == Davison, Graeme; Hirst, John; Macintyre, Stuart (1999). The Oxford Companion to Australian History. Melbourne, Vic.: Oxford University Press. ISBN 0-19-553597-9. Jupp, James (2001). The Australian people: an encyclopedia of the nation, its people, and their origins. Cambridge University Press. ISBN 0-521-80789-1. Smith, Bernard; Smith, Terry (1991). Australian painting 1788–1990. Melbourne, Vic.: Oxford University Press. ISBN 0-19-554901-5. Teo, Hsu-Ming; White, Richard (2003). Cultural history in Australia. University of New South Wales Press. ISBN 0-86840-589-2. == Liên kết ngoài == Chính phủ Liên bang trực tuyến Cổng vào chính phủ Úc Uỷ ban du lịch Úc Thư viện quốc gia Úc Bảo tàng quốc gia Úc Văn phòng thống kê Úc Học tập ở Úc Bộ di trú DFAT: Thông tin về đất nước Đại sứ quán Úc tại Việt Nam Wikimedia Atlas của Australia, có một số bản đồ liên quan đến Australia.
celaena.txt
Celaena là một chi bướm đêm thuộc họ Noctuidae. == Các loài == Celaena haworthii – Haworth's Minor (Curtis, 1829) == Tham khảo == Celaena at funet.fi Natural History Museum Lepidoptera genus database
mangistau (tỉnh).txt
Mangistau (Kazakhstan: Маңғыстау облысы, Mañğıstaw oblısı), là một tỉnh tọa lạc ở tây nam nước cộng hòa Kazakhstan, với thủ phủ là thành phố cảng Aktau, đồng thời là thành phố lớn nhất tỉnh, có dân số được thống kê năm 2004 đạt 154.500, trong đó dân số toàn tỉnh là 373.400 người. == Địa lý == Tỉnh Mangistau nằm ở phía tây nam Kazakhstan, và bao gồm cả bán đảo Mangyshlak. Đây là tỉnh có đường bờ biển trên biển Caspi dài nhất của Kazakhstan. Nó cũng giáp với hai quốc gia láng giềng Turkmenistan và Uzbekistan. Ngoài ra Mangistau còn có chung đường biên giới với 2 tỉnh khác của Kazakhstan là Akmola và Atyrau. Diện tích toàn tỉnh là 165.600 km2. Các kỷ sư đã phát hiện ra dầu mỏ ở vùng đất này dưới thời Liên Xô và nhiều khu công nghiệp dầu mỏ đã được xây dựng tại đây. Lãnh thổ của Mangystau bao gồm rất nhiều cảnh quan khác nhau và các vùng đất sa mạc: đồng bằng Caspi, cao nguyên (Usturt, Mangyshlak, Kendirli-Kayasan), núi (Aktau, Karatau)... Điểm cao nhất là núi Otpan tại 556 mét (1.824 ft). Điểm thấp nhất là Karagie, 132 mét (433 ft) dưới mực nước biển. == Khí hậu == Do lãnh thổ rộng lớn của nó, toàn tỉnh có nhiều điều kiện khí hậu. Khí hậu phía bắc Mangystau là lạnh vào mùa đông do nằm trong cao nguyên Usturt, vị trí của vùng cao nguyên chủ yếu là ở trên mực nước biển. Nhìn chung, khí hậu lục địa với mùa đông lạnh và mùa hè nhẹ. Nhiệt độ trung bình -3 °C (27 °F) vào tháng Giêng và 26 °C (79 °F) vào tháng Bảy. Lượng mưa trung bình hàng năm là 150 mm (5.9 in). == Hành chính == Toàn tỉnh được chia thành 5 huyện và 2 thành phố pAktau và Zhanaozen. Có 3 địa phương trong tỉnh ở dạng thị xã: Aktau, Fort-Shevchenko, và Zhanaozen. == Nhân khẩu == Theo điều tra dân số năm 1999, [[người Kazakh (50,9%) đông hơn người Nga (32,9%). Dân số (2009): 416 500 người (2,6%) Mật độ: 2,5 người / km ² Cấu trúc Quốc gia: [[người Kazakh - 70,9%; người Nga - 22,9% Diện tích: 165.600 km ² (6,1%) == Tham khảo == ^ Official site – Climate and Geography ^ Official site – Province population ^ "Список телефонов акимов городов и районов Мангистауской области и их заместителей" (in Russian). Акимат Мангистауской области. Truy cập ngày 3 tháng 6 năm 2012. ^ ru:Мангистауская область == Liên kết == Phương tiện liên quan tới Mangystau Province tại Wikimedia Commons Official website
lotte center hà nội.txt
Trung tâm Lotte Hà Nội (Lotte Center Hanoi) là tòa nhà chọc trời cao thứ 2 tại Việt Nam được xây dựng tại Hà Nội. Tòa nhà này có 65 tầng và có phong cách kiến ​​trúc hiện đại. Nhà thầu của công trình là công ty Callison từ Mỹ. Tính đến tháng 11 năm 2010, tòa nhà cao nhất Việt Nam là Keangnam Hanoi Landmark Tower tại Hà Nội với 72 tầng. Lotte Center Hà Nội bao gồm khu văn phòng, giải trí, trung tâm mua sắm và một trung tâm hội nghị. == Mô tả == Dự án với tổng vốn lên đến 400 triệu $, diện tích đất 14.094 m2, diện tích sàn 247.075 m2, 5 tầng hầm, 65 tầng bên trên, cao 267 m. Từ tầng hầm 1 là siêu thị LOTTE MART. Từ tầng 1 đến tầng 6 là trung tâm thương mại Lotte. Tầng 7 đến tầng 31 là văn phòng cho thuê. Tầng 33 đến 64 là 233 phòng chung cư và khách sạn 300 phòng. Tòa nhà đã được khai trương vào ngày 2 tháng 9 năm 2014. Tòa tháp được thiết kế bởi công ty Callison, lấy cảm hứng từ tà áo dài Việt Nam. == Chú thích == == Liên kết ngoài == Phương tiện liên quan tới Lotte Center Hanoi tại Wikimedia Commons Website chính thức Lotte Center Hà Nội trên trang SkyscraperPage S.Korea’s Lotte eyes Vietnam’s highest skyscraper project Hà Nội sẽ có nhà "chọc trời" 65 tầng trên Báo Dân Trí Điều ít biết về cao ốc 65 tầng Lotte Center Hanoi Theo Anh Minh, VnEconomy. 18:00 ngày 23 tháng 07 năm 2013
molypden.txt
Molypden (tiếng La tinh: molybdenum, từ tiếng Hy Lạp molybdos nghĩa là "giống như chì", trong tiếng Việt được đọc là Mô lip đen), là một nguyên tố hóa học thuộc nhóm 6 với ký hiệu Mo và số nguyên tử 42. Nó có điểm nóng chảy cao hàng thứ 6 trong số mọi nguyên tố đã biết và vì thế thường được sử dụng trong các loại hợp kim thép có sức bền cao. Molypden được tìm thấy ở dạng dấu vết trong thực vật và động vật, mặc dù sự dư thừa molypden thái quá có thể gây độc hại cho một số động vật. Molypden được Carl Wilhelm Scheele phát hiện năm 1778 và lần đầu tiên được Peter Jacob Hjelm cô lập năm 1781. == Lịch sử == Molypdenit (từ tiếng Hy Lạp Μόλυβδος molybdos, nghĩa là chì), loại quặng chính mà hiện nay người ta dùng để sản xuất molypden, trước đây gọi là molypdena. Molypdena từng bị nhầm lẫn và thường được dùng như thể nó là graphit (than chì). Ngay cả khi hai loại quặng này có thể phân biệt thì molypdena cũng đã từng được coi là quặng chì. Năm 1754, Bengt Qvist đã khảo sát khoáng vật và xác định rằng nó không chứa chì. ICho tới tận năm 1778 thì nhà hóa học người Thụy Điển là Carl Wilhelm Scheele mới nhận thấy molypdena không phải chì mà cũng chẳng phải graphit. Ông và các nhà hóa học khác sau đó giả định chính xác rằng nó là quặng của nguyên tố mới khác biệt, đặt tên là molybdenum cho khoáng vật mà trong đó nó được phát hiện ra. Peter Jacob Hjelm đã thành công trong việc cô lập molypden bằng cách sử dụng cacbon và dầu lanh vào năm 1781. Trong một khoảng thời gian dài đã không có ứng dụng công nghiệp nào từ molypden. Công ty Schneider Electrics của Pháp đã sản xuất hợp kim thép molypden lần đầu tiên vào năm 1894 dưới dạng các tấm giáp sắt. Cho tới Chiến tranh thế giới thứ nhất phần lớn các xí nghiệp sản xuất giáp sắt khác cũng sử dụng thép hợp kim molypden. Trong Chiến tranh thế giới thứ nhất, một số xe tăng của Anh được bảo vệ bằng các tấm mangan dày tới 75 mm, nhưng nó tỏ ra không hiệu quả. Các tấm mangan sau đó được thay thế bằng các tấm molypden dày 25 mm. Điều này cho phép đạt được tốc độ cao hơn, khả năng thao diễn lớn hơn và mặc dù mỏng hơn nhưng lại có sự bảo vệ tốt hơn. Nhu cầu lớn về molypden trong Chiến tranh thế giới thứ nhất và Đại chiến thế giới lần thứ hai cùng sự giảm sút mạnh sau chiến tranh có ảnh hưởng lớn tới giá cả và sản lượng molypden. == Phổ biến == Các nhà sản xuất molypden hàng đầu thế giới là Hoa Kỳ, Canada, Chile, Nga và Trung Quốc. Mặc dù molypden được tìm thấy trong các khoáng vật như wulfenit (PbMoO4) và powellit (CaMoO4), nhưng nguồn thương mại chính chứa molypden là molypdenit (MoS2). Molypden được khai thác như là loại quặng chính cũng như được phục hồi từ phụ phẩm trong khai thác đồng và vonfram. Các mỏ lớn tại Colorado (Climax) và British Columbia chứa molypdenit, trong khi nhiều trầm tích porphyry đồng như mỏ Chuquicamata ở miền bắc Chile lại sản xuất molypden như là phụ phẩm của khai thác đồng. Mỏ Knaben ở miền nam Na Uy mở cửa năm 1885 và là mỏ molypden đầu tiên trên thế giới. Nó còn duy trì hoạt động tới năm 1973. Molypden là nguyên tố phổ biến hàng thứ 42 trong vũ trụ và thứ 25 trong lòng đại dương của Trái Đất, với trung bình khoảng 10,8 tấn/km³. Tàu Luna 24 của Nga đã phát hiện ra một hạt chỉ chứa molypden (kích thước 1 × 0,6 µm) trong mẩu đá pyroxen thu được từ Mare Crisium trên Mặt Trăng. Phụ phẩm trong khai thác molypden là rheni. Do nó luôn có mặt với lượng nhỏ trong molypdenit nên nguồn thương mại duy nhất của rheni chính là các mỏ molypden. == Đặc trưng == Molypden là một kim loại chuyển tiếp với độ âm điện 1,8 trên thang Pauling và nguyên tử lượng 95,9 g/mol. Nó không phản ứng với ôxy hay nước ở nhiệt độ phòng. Ở nhiệt độ cao hơn, triôxít molypden được tạo ra theo phản ứng: 2Mo + 3O2 → 2MoO3 Ở dạng kim loại nguyên chất, molypden có màu xám trắng bạc và rất cứng, mặc dù nó hơi mềm hơn vonfram. Dạng bột màu xám sẫm hoặc đen, nó có điểm nóng chảy là 2.623 °C, cao hàng thứ sáu trong số các nguyên tố đã biết, và chỉ có cacbon cùng các kim loại như vonfram, rheni, osmi và tantali là có nhiệt độ nóng chảy cao hơn, theo trật tự như trên đây. Molypden bắt cháy ở nhiệt độ trên 600 °C. Nó cũng có hệ số giãn nở nhiệt thấp nhất trong số các kim loại sử dụng ở quy mô thương mại (4,8 µm/m•K ở 25 °C). Molypden có giá trị vào khoảng 65.000 USD mỗi tấn vào ngày 4 tháng 5 năm 2007. Nó duy trì mức giá khoảng 10.000 USD/tấn suốt trong giai đoạn từ năm 1997 tới năm 2002 và đạt đỉnh cao ở mức 103.000 USD/tấn vào tháng 6 năm 2005. == Đồng vị == Người ta đã biết 35 đồng vị của molypden với nguyên tử lượng trong khoảng từ 83 tới 117, cũng như bốn đồng phân hạt nhân. Bảy đồng vị có nguồn gốc tự nhiên, với nguyên tử lượng là 92, 94, 95, 96, 97, 98 và 100. Trong số này có 5 đồng vị ổn định (nguyên tử lượng từ 94 tới 98). Tất cả các đồng vị không ổn định của molypden phân rã thành các đồng vị của niobi, tecneti, rutheni. Mo92 và Mo100 là hai đồng vị tự nhiên không ổn định. Mo100 có chu kỳ bán rã khoảng 1×1019 năm và trải qua phân rã beta kép thành Ru100. Mo98 là đồng vị phổ biến nhất, chiếm 24,14% khối lượng tất cả các đồng vị molypden. Các đồng vị molypden với nguyên tử lượng từ 111 tới 117 đều có chu kỳ bán rã ở mức 15 μs. == Hợp chất == Xem thêm Hợp chất molypden. Molypden có một số trạng thái ôxi hóa phổ biến là +2, +3, +4, +5 và +6. Trạng thái ôxi hóa cao nhất là phổ biến trong ôxít molypden (VI) (MoO3) trong khi hợp chất với lưu huỳnh thông thường nhất là đisulfua molypden (MoS2). Khoảng rộng các trạng thái ôxi hóa thuộc về các clorua của molypden: Clorua molypden (II) MoCl2 (chất rắn màu vàng), Clorua molypden (III) MoCl3 (chất rắn màu đỏ sẫm), Clorua molypden (V) MoCl5 (chất rắn màu lục sẫm), Clorua molypden (VI) MoCl6 (chất rắn màu nâu), Giống như crom và một số kim loại chuyển tiếp khác, molypden có khả năng tạo ra các liên kết bậc bốn. == Vai trò sinh học == Vai trò quan trọng nhất của các nguyên tử molypden trong các sinh vật sống là các nguyên tử dị-kim loại trong khu vực hoạt hóa của một số enzym nhất định. Trong cố định nitơ ở một số loài vi khuẩn, enzym nitrogenaza tham gia vào bước cuối cùng để khử phân tử nitơ thường chứa molypden trong khu vực hoạt hóa (mặc dù thay thế Mo bằng sắt hay vanadi cũng có). Tháng Ba năm 2008, các nhà nghiên cứu đã thông báo rằng họ tìm thấy chứng cứ mạnh cho giả thiết rằng sự khan hiếm molypden trong lòng đại dương của Trái Đất thời kỳ đầu đã là yếu tố hạn chế sự tiến hóa tiếp theo của sinh vật nhân chuẩn (bao gồm toàn bộ động và thực vật) do các sinh vật nhân chuẩn không thể cố định nitơ và phải thu nhận nó từ các vi khuẩn nhân sơ. Sự khan hiếm molypden tạo ra do sự thiếu hụt tương đối của ôxy trong đại dương thời kỳ đầu. Ôxy hòa tan trong nước biển là cơ chế chính để hòa tan molypden từ các chất khoáng dưới đáy biển. Mặc dù molypden tạo ra một số hợp chất với một số phân tử hữu cơ, như các cacbohyđrat và axít amin, nhưng nó được vận chuyển trong cơ thể người dưới dạng MoO42-. Molypden có mặt trong khoảng 20 enzym ở động vật, bao gồm anđehyt oxidaza, sulfit oxidaza, xanthin oxidaza. Ở một số động vật, sự ôxi hóa xanthin thành axít uric, một quá trình dị hóa purin, được xúc tác bằng xanthin oxidaza, một enzym chứa molypden. Hoạt động của xanthin oxidaza tỷ lệ thuận với khối lượng molypden trong cơ thể. Tuy nhiên, nồng độ cực cao của molypden lại đảo ngược xu hướng này và có thể tác động như là tác nhân ức chế cả dị hóa purin lẫn các quy trình khác. Nồng độ molypden cũng ảnh hưởng tới tổng hợp protein, trao đổi chất, và sự phát triển. Các enzym này ở thực vật và động vật xúc tác phản ứng của ôxy trong các phân tử nhỏ, như là một phần của sự điều chỉnh các chu trình nitơ, lưu huỳnh và cacbon. Ở người nặng 70 kg có khoảng 9,3 mg molypden, chiếm 0,00001% trọng lượng cơ thể. Nó có nồng độ cao hơn ở gan và thận còn nồng độ thấp hơn ở xương sống. Molypden cũng tồn tại trong men răng của người và có thể hỗ trợ việc ngăn ngừa sâu răng. Gan lợn, cừu và bê chứa khoảng 1,5 phần triệu molypden. Các nguồn dinh dưỡng khác chứa đáng kể molypden là đậu xanh, trứng, hạt hướng dương, bột mì, đậu lăng và một vài loại lương thực khác. Nhu cầu hấp thụ trung bình mỗi ngày đối với molypden là khoảng 0,3 mg. Hấp thụ trên 0,4 mg có thể gây ngộ độc. Thiếu hụt molypden, gây ra do hấp thụ dưới 0,05 mg/ngày, có thể gây ra còi cọc, giảm ngon miệng và giảm khả năng sinh sản. Tungstat natri là tác nhân kìm hãm và ức chế molypden. Vonfram trong thức ăn làm giảm nồng độ molypden trong các mô của cơ thể. === Đối kháng đồng-molypden === Một lượng lớn molypden có thể gây cản trở sự hấp thụ đồng của cơ thể, bằng sự ngăn chặn các protein của huyết tương trong việc liên kết đồng cũng như gia tăng lượng đồng bị bài tiết theo đường nước tiểu. Các động vật nhai lại nếu tiêu thụ lượng lớn molypden sẽ phát sinh các triệu chứng như tiêu chảy, còi cọc, bệnh thiếu máu và mất sắc tố ở lông. Các triệu chứng này có thể giảm đi bằng cách chỉ định thêm đồng vào khẩu phần ăn cũng như bằng cách tiêm. Tình trạng này có thể trầm trọng thêm nếu dư thừa cả lưu huỳnh. == Ứng dụng == Khả năng của molypden trong việc chịu đựng được nhiệt độ cao mà không có sự giãn nở hay mềm đi đáng kể làm cho nó là hữu ích trong các ứng dụng có sức nóng mãnh liệt, bao gồm sản xuất các bộ phận của máy bay, tiếp điểm điện, động cơ công nghiệp và dây tóc đèn. Molypden cũng được sử dụng trong các hợp kim vì khả năng chống ăn mòn cũng như khả năng hàn được khá cao của nó. Phần lớn các hợp kim thép sức bền cao chứa khoảng 0,25% tới 8% molypden. Mặc dù chỉ sử dụng ở những tỷ lệ thấp như vậy, nhưng trên 43.000 tấn molypden đã được sử dụng như là tác nhân tạo hợp kim mỗi năm trong sản xuất thép không gỉ, thép công cụ, gang cùng các siêu hợp kim chịu nhiệt. Do có trọng lượng riêng nhỏ hơn cùng giá cả ổn định hơn so với vonfram, nên molypden được bổ sung vào vị trí của vonfram. Molypden có thể được bổ sung trong vai trò của cả tác nhân tạo hợp kim lẫn làm vật liệu phủ chịu nhiệt cho các kim loại khác. Mặc dù điểm nóng chảy của nó là 2.623 °C, nhưng molypden nhanh chónh bị ôxi hóa ở nhiệt độ trên 760 °C, làm cho nó phù hợp tốt hơn để sử dụng trong môi trường chân không. Mo99 được sử dụng như là đồng vị phóng xạ gốc để tạo ra đồng vị phóng xạ Tc99, được sử dụng trong nhiều ứng dụng y học. Disulfua molypden (MoS2) được sử dụng làm chất bôi trơn và tác nhân. Nó tạo thành các màng mỏng trên bề mặt kim loại có khả năng chịu được nhiệt độ và áp suất cao. Molypdat chì đồng ngưng tự cùng với cromat chì và sulfat chì là một chất màu vàng cam sáng, được sử dụng trong chế tạo gốm và chất dẻo. Triôxít molypden (MoO3) được dùng làm chất kết dính giữa men và kim loại. Bột molypden cũng đôi khi được dùng làm phân bón cho một số loài thực vật, chẳng hạn súp lơ. Nó cũng được sử dụng trong các thiết bị phân tích NO, NO2, NOx tại các nhà máy điện để kiểm soát ô nhiễm. Ở 350 °C, nó đóng vai trò của chất xúc tác cho NO2/NOx để tạo ra chỉ các phân tử NO để có thể đọc ổn định bằng tia hồng ngoại. == Phòng ngừa == Bụi và hơi molypden sinh ra do khai thác và chế biến là không độc hại. Người ta chưa thấy các tác động dài hạn gắn liền với phơi nhiễm molypden; tuy nhiên, phơi nhiễm kéo dài có thể gây ra kích thích mắt và da. Nên tránh việc hít thở hay nuốt trực tiếp molypden. Các quy định của OSHA Hoa Kỳ về giới hạn phơi nhiễm cho phép tối đa molypden trong 8 giờ mỗi ngày là 5 mg/m³. Phơi nhiễm kinh niên tới 60–600 mg Mo/m³ có thể gây ra các triệu chứng như mệt mỏi, đau đầu và đau khớp. == Cung và cầu == Mặc dù sản lượng hiện tại của molypden đáp ứng được nhu cầu, nhưng người ta dự báo sản lượng này sẽ không đáp ứng được nhu cầu trong giai đoạn 2009-2015. Các lò nung chế biến quặng molypden thành dạng bột mịn, viên nhỏ hay các dạng khác. Tổng năng lực các lò nung trên thế giới hiện tại khoảng 145.000 tấn (320 triệu pao) mỗi năm, vừa đủ cho nhu cầu. Hiện tại không còn công suất dư thừa trong khi chưa thấy có các lò nung mới nào được phép hoạt động. Với năng lực đã tới hạn có thể thấy dự báo về thiếu hụt trong tương lai là rõ nét. Các dữ liệu này dựa trên giả thiết là các mỏ còn có thể tăng công suất đầu ra. Nhu cầu về molypden tại phương Tây gia tăng mỗi năm khoảng 3% và nhu cầu của Trung Quốc cùng SNG tăng khoảng 10% mỗi năm, làm gia tăng tổng thể trong nhu cầu toàn cầu khoảng 4,5% mỗi năm. Nhu cầu gia tăng có thể là do hai yếu tố chính như sau. Thứ nhất, các chất xúc tác cho chế biến dầu thô bằng hiđrô càng ngày càng trở thành thiết yếu. Thứ hai là sự gia tăng trong việc xây dựng các lò phản ứng hạt nhân. Ước tính sẽ có thêm 48 lò phản ứng hạt nhân nữa được xây dựng cho tới năm 2013 và khoảng 100 lò vào năm 2020. Hiệp hội Molypden Quốc tế (IMOA) cho rằng trung bình mỗi lò phản ứng hạt nhân cần dùng khoảng 160.000 mét (520.000 ft) thép không gỉ. Một số lò lớn chứa trên 305.000 mét (1 triệu ft) thép không gỉ. Trừ khi sản xuất molypden có những bước tiến nhảy vọt còn không thì sự thiếu hụt trong cung cấp kim loại này được ước tính sẽ xảy ra vào năm 2009. == Tham khảo == == Liên kết ngoài == WebElements.com — Molypden International Hiệp hội Molypden — Trang chính
alaric i.txt
Alaric I (Alareiks trong tiếng Goth nghĩa là "vua của tất cả") được cho là sinh vào khoảng năm 370 CN ở một hòn đảo mang tên Peuce ở cửa sông Danube mà ngày nay thuộc địa phận România. Ông là vua của người Visigoth từ năm 395 đến 410, nổi tiếng vì cuộc công chiếm thành Roma năm 410, đánh dấu sự suy tàn của đế quốc Tây La Mã. Cha của ông là Athanaric, thuộc bộ tộc Balti thuộc nhánh Visigoth của dân tộc Goth. Lúc ông sinh ra thuộc giai đoạn cuộc thiên di của dân tộc Goth và các tộc người German khác vào bên trong biên giới đế quốc La Mã hòng chạy trốn khỏi người Hung Nô == Phục vụ cho Đế quốc == Ông vốn là người cầm đầu foederati(một hình thức quân đội không thường trực của đế chế La Mã, không tổ chức theo phiên hiệu quân đội La Mã mà là tập hợp những người lính của các bộ lạc German) của người Visigoth, dưới thời Hoàng đế Theodosius I từng tham gia vào cuộc chiến chống kẻ tiếm ngôi Eugenius. Khi Theodosius I mất vào năm 395, đế quốc được chia cho 2 người con trai, Arcadius phần phía Đông và Honorius. Arcadius không thiết việc triều chính và Honorius còn rất nhỏ nên quyền hành nằm trong tay hai người phụ chính kình địch lẫn nhau - Đại thống lĩnh(Praetorian Prefect) Flavius Rufinus ở Constantinopolis và Thống chế(magister militum) Flavius Stilicho ở Roma. Stilicho cũng tuyên bố là người giám hộ của Arcadius, gây ra sự tranh cãi lớn giữa triều đình phía Tây và phía Đông. == Cuộc chiến chống Roma == Theo Edward Gibbons, trong buổi đầu sự chia cắt ấy, Alaric còn đang trông đợi sẽ được phong chức trong quân đội thường trực của Đế chế. Tuy nhiên, mong muốn thăng tiến ấy đã không được chấp nhận. Khi ấy người Visigoth ở Hạ Moseia(nay là vùng Bắc România, Bulgaria và Moldova) nổi dậy với lý do họ đã mất mát quá nhiều ở Trận Fridigus mà không được trả xứng đáng, và dường như việc đẩy người Visigoth vào trận chiến là một phương cách thuận tiện mà đế quốc dùng để làm yếu đi bộ lạc này. Do những tiếng vang trong trận chiến vừa qua, Alaric được bầu làm vua của người Visigoth vào năm 395, bắt đầu cho một chiến đấu nhằm chiếm lấy một vùng đất định cư lâu dài. === Những trận chiến đầu tiên === Khởi hành từ Hạ Moseia, đội quân của Alaric tiến về phía Đông, tới gần thành Constantinopolis nhưng cảm thấy không thể công hãm được nên đã quay lại phía Tây, đột nhập vào Thermolya thuộc Hy Lạp. Rufinus, bận rộn với các cuộc chiến chống Attila ở Tiểu Á và Syria, đã thương thảo với Alaric mà chỉ làm dấy lên những nghi ngờ ở Constantinopolis rằng Rufinius đã tiến hành liên minh với những người Goth. Trong khi đó, Stilicho tiến quân về phía đông và theo nhà thơ Claudian, đã đánh bại quân Goth ở Illyricum. Một mệnh lệnh của Hoàng đế Arcadius buộc Stilicho rút quân, còn Rufinus bị quân lính dưới quyền bức tử ít lâu sau đó. Quyền lực ở Constantinopolis lúc này rơi vào tay thái giám Eutropius. Hai sự kiện này đã khiến cho Alaric có thể hành quân thành công trên đất Hy Lạp, càn quét qua các thành bang nổi tiếng như Sparta, Corinth, Argo, bắt nhiều tù binh làm nô lệ. Tuy nhiên trong trận đụng độ với Stilicho ở vịnh Corinth năm 397, quân đội Goths đã đại bại. Bản thân Alaric chỉ thoát chết nhờ việc Stilicho phải rút quân, một lần nữa dưới áp lực của triều đình Constantinopolis. Alaric tiếp tục việc cướp bóc của mình ở Hy Lạp, ngay cả khi Hoàng đế Arcadius phong cho ông tước Thống chế xứ Ilyrium(magister militium per Ilyrium) và cung cấp cho quân lính của ông. === Xâm lược Italy lần thứ nhất === Vào năm 401, quân đội Goths dưới sự chỉ huy của Alaric tiến vào Italy. Quyết định táo bạo này được cho là dưới ảnh hưởng của một lời tiên tri mà Alaric nhận được, rằng ông sẽ vượt qua dãy Alpine và công phá thành đô trong năm đó. Tuy nhiên, sau khi càn quét miền Bắc Italy, quân đội của Alaric đã lại chạm trán với quân đội La Mã do Stilicho chỉ huy ở Pollentia(nay thuộc Piedmont). Trận chiến diễn ra vào ngày Phục Sinh(6 tháng Tư) và quân đội chính quy một lần nữa chiến thắng. Về sau những kẻ thù Stilicho cáo buộc rằng ông đã lợi dụng sự buông bỏ của quân đội Goth vào ngày lễ thánh (Alaric là tín đồ Cơ đốc, dù không phải chính thống). Vợ của Alaric bị bắt làm tù binh trong trận này, và người ta có thêm một lý do nữa để giải thích thất bại của ông, đó là sự cản trở của số lượng lớn phụ nữ và trẻ em trong đoàn quân. Có thể nói cuộc viễn chinh này chủ yếu mang tính chất của một cuộc di cư dân tộc. Sau một thất bại nữa ở Verona, Alaric rút quân khỏi Italy. Dù đã không thể thâm nhập thành đô như lời tiên tri song ít nhất cuộc hành quân này đã khiến La Mã rung động, và buộc Hoàng đế Honorius phải rời nơi ở từ Milan tới Ravenna === Xâm lược Italy lần thứ hai === Sau đó, Alaric trở thành một người bạn và đồng minh của Stilicho. Bấy giờ, mâu thuẫn Đông-Tây đã trở nên gay gắt, đẩy đế quốc tới bờ vực của cuộc nội chiến. Năm 407, Stilicho sử dụng quân đội của Alaric để tăng sức ép lên tổng trấn xứ Illyrium. Cái chết của Arcadius vào tháng 5 năm 408 đã xoa dịu phần nào triều đình Roma nhưng Alaric, bấy giờ đã kéo quân tới mũi Epirus, đòi hỏi Roma phải trả một khoản chi phí huy động quân đội lên tới 4000 pound vàng. Dưới áp lực của Stilicho, nghị viện đã hứa trả khoản trên. ==== Vây hãm Roma lần thứ nhất ==== Tuy nhiên ba tháng sau, Stilicho và các thành viên chủ chốt của phe ông bị hạ sát dưới lệnh của Honorius. Tiếp đó, Honorius nghe lời khuyên của viên cận thần Olympius đã tiến hành một vụ thảm sát vợ và con của những người lính foederati. Do đó, hơn 3 vạn đàn ông Goth đã đổ về doanh trại của Alaric và kêu gọi ông lãnh đạo một chiến dịch trả thù. Đội quân này vượt dãy Alps, tháng 9 năm 408 đã đạt chân đến trước Roma và vây chặt thành phố. Bấy giờ Roma không còn một vị tướng nào khả dĩ chống cự được Alaric sau khi Stilicho đã chết. Tuy nhiên Alaric đã không ra lệnh đánh thành. Ông tin rằng với việc bao vây, thành phố buộc phải đầu hàng vì hết lương thực. Nạn đói thực sự xảy ra, Nghị viện buộc phải gửi cử đại diện tới đàm phán. Khi họ cố tìm cách dọa dẫm rằng 100 ngàn người Roma sẵn sàng cầm vũ khí kháng cự, Alaric đã cười và trả lời bằng một câu nói nổi tiếng: "Cỏ càng dày, càng dễ nhai!". Rốt cuộc người dân thành phố đồng ý trả một khoản tiền chuộc lớn, gồm 5000 pound vàng, 30000 pound bạc, 4000 áo lụa, 3000 bộ da nhuộm đỏ và 3000 pound hồ tiêu. Alaric đồng ý nới các vòng vây nhưng vẫn đóng quân cách Roma không xa. Nếu vàng là mục đích chính của đội quân người Goth, thì Alaric không dự định làm Roma lụn bại mà trước sau ông mong muốn một vị trí chính thức và được thừa nhận cho ông và dân tộc ông bên trong biên giới của đế quốc. Vì vậy, ông gửi yêu sách tới Honorius đòi nhượng lại một vùng lãnh thổ dài 200 dặm và rộng 150 dặm nằm giữa sông Danube và vịnh Venice và danh hiệu Tổng tư lệnh quân đội đế chế. Mong muốn một cam kết mạnh mẽ, Alaric muốn Hoàng đế ra mặt và trực tiếp trao cho danh hiệu trên. Nhưng Honorius lo ngại cho sự an toàn của chính ông ta, không chịu rời khỏi cung điện ở Ravenna, vốn được bảo vệ bởi các đập nước và đầm lầy. ==== Cuộc vây hãm lần thứ hai ==== Đàm phán kéo dài, Alaric hạ thấp các đề nghị của minh. Nghe lời Olympius, Honorius một mặt tuyên bố đồng ý với các đề nghị của Alaric, một mặt bí mật gửi 6000 quân từ các miền của đế chế về Roma. Đội quân này bị quân đội Goth mai phục và tiêu diệt hầu như toàn bộ. Sau khi tất cả những cố gắng nhằm tìm một thỏa thuận thỏa đáng với hoàng đế đều thất bại, năm 409 Alaric tiến hành vây hãm Roma lần thứ hai. Lần này ông trực tiếp đàm phán với nghị viện và sau đó, được sự tán thành của họ, đã tuyên bố một hoàng đế đối lập, một người Hy Lạp tên là Priscus Attalus. Sau mười một tháng, Alaric sa thải vị hoàng đế bù nhìn vô dụng này và bất chấp lời kêu gọi đánh chiếm thành Roma, cố gắng mở lại các cuộc đàm phán với Honorius. Honorius, bấy giờ đã sa thải Olympius, chấp thuận đàm phán. Để bày tỏ thiện chí, Alaric cho quân lính rút ra khỏi Roma và cùng với một đội cận vệ thân hành tới Ravenna. ==== Chiếm đóng thành Roma ==== Trên đường tới Ravenna, Alaric bị mai phục bởi Sarus, một vị tướng người Goth bất bình với quyết định hòa đàm của Honorius. Sarus là kẻ thù cũ của gia đình Alaric, từng cạnh tranh nhưng không được bầu làm vua Goth. Alaric thoát chết, và từ bỏ mọi tin tưởng vào kẻ thù. Quân đội Goth tiến về Roma lần thứ ba. Sự phòng ngự bấy giờ là không thể, tuy nhiên người ta còn tranh cãi quân Goth đã vào thành bằng cách nào, do sự phản bội hay do đột kích bất ngờ. Các ghi chép về thời điểm này rất nghèo nàn, và có lẽ vào ngày 24 tháng 8 năm 410, Alaric đã vượt cổng Porta Salaria phía tây bắc thành Roma. Chắc chắn sự đốt phá đã diễn ra, nhưng không phải quá khủng khiếp. Chẳng hạn, các chứng cớ khảo cổ và các ghi chép để lại cho thấy những khu vườn Gallust, vốn nằm rất gần chỗ đột kích của quân Goth, đã không bị tổn hại, cả Quảng trường La Mã cũng vậy. Người ta ghi nhận một sự khoan dung của quân đội Alaric, nhất là đối với các công trình Cơ đốc giáo. Trong khi đó, các ngôi mộ của những vị hoàng đế theo đa thần giáo ở Lăng Augustus và Castel Sant'Angelo đã bị quật lên, tro bị phân tán. == Cái chết và di sản == Chiếm được Roma trong cảnh tuyệt vọng vì không còn khả năng thương lượng với đế chế, Alaric dẫn quân về phía nam tới Calabria. Ông dự định xâm chiếm châu Phi và do đó nắm nguồn cung cấp lương thực cho đế chế, hòng một lần nữa đặt điều kiện với Honorius. Tuy nhiên một trận bão đã đánh tan tàu bè của ông. Ông mất sớm sau đó ở Cocenza, có lẽ do bệnh sốt. Nhiều huyền thoại để lại liên quan đến việc chôn cất vị vua Visigoth này. Sau khi Alaric mất, người anh rể Ataulf kế vị, sau này lấy Galla Placidia, em gái của Honorius bị bắt trong trận đánh thành Roma. Người Goth còn phải trải qua một hành trình dài và mệt mỏi tới thế kỷ VI để tìm được một chỗ trú chân ở xứ Gaul. Thành Roma sau đó còn bị cướp bóc vài lần nữa với mức độ tàn phá khủng khiếp hơn trước khi Hoàng đế cuối cùng, Romulus Augustus thoái vị vào năm 476, đánh dấu sự sụp đổ hoàn toàn của Đế quốc Tây La Mã. === Nguồn tư liệu === Các tư liệu về Alaric I chủ yếu bao gồm các ghi chép của nhà sử học Orsius và nhà thơ Claudian sống cùng thời, nhà sử học Zosimus sống sau Alaric chừng nửa thế kỷ, và từ Jordanes, người Goth đầu tiên viết lịch sử dân tộc mình vào năm 510. === Xem thêm === Alaric II Visigoth Ataulf == Tham khảo == == Liên kết ngoài == Alaric I Edward Gibbon, History of the Decline and Fall of the Roman Empire, Chapter 30 and Chapter 31. The Legend of Alaric's Burial
văn hóa sơn vi.txt
Văn hóa Sơn Vi là một nền văn hóa ở Việt Nam vào hậu kỳ thời đại đồ đá cũ cách ngày nay khoảng 30 ngàn đến 11 ngàn năm. Đây là nền văn hóa kế trước văn hóa Hòa Bình. Sơn Vi là tên một xã thuộc huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ, nơi đầu tiên tìm ra những di chỉ của nền văn hóa này. Đến nay đã có khoảng 160 địa điểm thuộc văn hóa Sơn Vi đã được phát hiện. Không gian của văn hóa Sơn Vi bao trùm các vùng thuộc Sơn La, Lai Châu, Lào Cai, Yên Bái, Bắc Giang, Thanh Hóa, Nghệ An, Quảng Trị. những người nguyên thủy chủ nhân của văn hóa Sơn Vi sống thành từng bộ lạc. Họ chủ yếu sống ngoài trời trên các đồi gò trung du ở trung lưu sông Hồng, thượng lưu sông Lục Nam, thượng lưu sông Hiếu. Chỉ một số ít sống trong hang động, mái đá. Công cụ lao động của người nguyên thủy trong văn hóa Sơn Vi làm từ đá cuội được ghè đẽo thô sơ. Họ sống bằng săn bắn và hái lượm, chưa có trồng trọt và chăn nuôi. == Tham khảo == Nguyễn Cảnh Minh (2007), "Thời đại nguyên thủy trên đất nước Việt Nam", trong Trương Hữu Quýnh chủ biên (2007), Đại cương lịch sử Việt Nam - Tập I, Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội.
bắc kinh.txt
Bắc Kinh (tiếng Trung: 北京; bính âm: Běijīng, Phát âm tiếng Trung: [peɪ˨˩ t͡ɕiŋ˥] ), là thủ đô của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa và là một trong số các thành phố đông dân nhất thế giới với dân số là 20.693.000 người vào năm 2012 Thành phố nằm ở miền Hoa Bắc, và là một trực hạt thị dưới quyền chính phủ Trung ương, với 14 quận nội thị và cận nội thị cùng hai huyện nông thôn. Bao quanh hầu hết Bắc Kinh là tỉnh Hà Bắc, trong khi Thiên Tân giáp với Bắc Kinh ở phía đông nam. Bắc Kinh là thành phố lớn thứ hai của Trung Quốc nếu xét theo dân số đô thị, xếp sau Thượng Hải; và là trung tâm chính trị, văn hóa và giáo dục của Trung Quốc. Thành phố là nơi đặt trụ sở của hầu hết các công ty quốc hữu lớn nhất Trung Quốc, và là một đầu mối giao thông chính của các hệ thống quốc lộ, đường cao tốc, đường sắt và đường sắt cao tốc tại Trung Quốc. Sân bay quốc tế Thủ đô Bắc Kinh là sân bay bận rộn thứ hai trên thế giới theo số lượng hành khách. Lịch sử của thành phố đã có từ ba thiên niên kỷ. Là kinh đô cuối cùng trong tứ đại cổ đô Trung Quốc, Bắc Kinh đã là trung tâm chính trị của quốc gia trong phần lớn thời gian suốt bảy thế kỷ qua. Thành phố nổi tiếng với các cung điện sang trọng, chùa miếu, hoa viên, lăng mộ, tường và cổng thành, cùng với đó, các kho tàng nghệ thuật và các trường đại học đã biến Bắc Kinh thành một trung tâm văn hóa và nghệ thuật tại Trung Quốc. Chỉ có vài thành phố trên thế giới từng là trung tâm chính trị và văn hóa của một khu vực rộng lớn trong thời gian lâu đến vậy. == Tên gọi == Bắc Kinh (北京) có nghĩa là "Kinh đô phía bắc", phù hợp với truyền thống chung của Đông Á khi kinh đô được dứt khoát đặt tên như chính nó. Các thành phố có kiểu tên tương tự là Nam Kinh (南京 Nánjīng, có nghĩa là "Kinh đô phía nam"), Tokyo (東京, "Đông Kinh" theo chữ Hán), Đông Kinh (東京 Dōngjīng, có nghĩa là "Kinh đô phía đông", ngày nay là Hà Nội); cũng như Kyoto (京都, "Kinh Đô") và Kinh Thành, (京城 - có nghĩa là "kinh đô", ngày nay là Seoul), Tây Kinh (西京 Xījīng, nghĩa là "Kinh đô phía tây", nay là Lạc Dương). Ở Trung Quốc, thành phố này có nhiều lần được đặt tên lại. Giữa thời gian từ 1368 đến 1405, và sau đó lại một lần nữa từ 1928 đến 1949, thành phố này có tên là Bắc Bình (北平; bính âm: Beiping; Wade-Giles: Pei-p'ing), có nghĩa "hòa bình phía bắc" hay "bình định phía bắc". Trong cả hai trường hợp, tên được đổi - bằng cách bỏ từ "kinh" - để phản ánh hiện thực là kinh đô đất nước đã chuyển đến Nam Kinh, lần đầu tiên dưới thời Hồng Vũ hoàng đế nhà Minh, và lần thứ hai dưới thời Chính phủ Quốc dân của Trung Hoa Dân Quốc, lúc đó Bắc Kinh không phải là kinh đô của Trung Hoa. Đảng Cộng sản Trung Quốc đã chuyển thủ đô về Bắc Kinh năm 1949 một lần nữa một phần để nhấn mạnh rằng Bắc Kinh đã trở lại vai trò thủ đô Trung Quốc của mình. Chính phủ Trung Hoa Dân Quốc ở Đài Loan chưa bao giờ công nhận chính thức việc đổi tên này và trong thập niên 1950 và thập niên 1960 phổ biến ở Đài Loan gọi Bắc Kinh là Bắc Bình để ám chỉ tính bất hợp pháp của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Ngày nay, phần lớn Đài Loan, kể cả chính phủ Đài Loan đều sử dụng tên gọi Bắc Kinh, dù một số bản đồ của Trung Quốc từ Đài Loan vẫn sử dụng tên gọi cũ cùng với biên giới chính trị cũ. Yên Kinh (燕京; Bính âm: Yānjīng; Wade-Giles: Yen-ching) cũng là một tên phổ biến khác không chính thức của Bắc Kinh, liên hệ đến nước Yên đã tồn tại ở đây từ thời nhà Chu. Tên này hiện được một số tổ chức sử dụng làm tên thương hiệu như bia Yên Kinh, Đại học Yên Kinh, một trường đại học đã bị sáp nhập vào Đại học Bắc Kinh. Trong thời nhà Nguyên, Bắc Kinh được gọi là Đại Đô. Giản xưng của Bắc Kinh là "Kinh" (京), chúng xuất hiện trong biển số xe của thành phố. Giản xưng chữ cái Latinh chính thức của Bắc Kinh là "BJ". == Lịch sử == === Lịch sử ban đầu === Đã phát hiện được các dấu vết có niên đại sớm nhất về sự định cư của con người tại Bắc Kinh trong các hang động ở Long Cốt Sơn (龙骨山) gần Chu Khẩu Điếm thuộc huyện Phòng Sơn, nơi người vượn Bắc Kinh từng sinh sống. Các hóa thạch người đứng thẳng (Homo erectus) từ các hang động này có niên đại từ 230.000 đến 250.000 năm trước. Người hiện đại (homo sapiens) thời đại đồ đá cũ cũng đã sinh sống tại khu vực Bắc Kinh, từ khoảng 27.000 năm trước. Các nhà khảo cổ học đã phát hiện những điểm định cư thời đại đồ đá mới trên khắp thành phố, bao gồm cả ở Vương Phủ Tỉnh tại trung tâm Bắc Kinh. Thành có tường bao bọc đầu tiên tại khu vực Bắc Kinh là Kế, một thành bang tồn tại từ thế kỷ 11 đến thế kỷ 7 TCN. Trên địa bàn Bắc Kinh hiện nay, Kế nằm ở phía nam của ga Bắc Kinh Tây. Nơi này sau đó đã bị nước Yên chinh phục và trở thành kinh đô của nước này với tên gọi Yên Kinh. === Thời kỳ phong kiến ban đầu === Sau khi nước Yên bị tiêu diệt trong thời Chiến Quốc, các triều đại phong kiến ban đầu tiếp tục để thành làm thủ phủ châu với các tên gọi khác nhau. Trong thời Tam Quốc, khu vực Bắc Kinh do Công Tôn Toản và Viên Thiệu chiếm giữ trước khi về tay Tào Ngụy. Triều Tây Tấn đã chuyển thủ phủ châu đến Phạm Dương, và các hoàng đế Ngũ Hồ của các nước "Yên" khác nhau trong thời Ngũ Hồ thập lục quốc cũng chọn những địa điểm khác để định đô. Thời nhà Tùy, khu vực đã hồi sinh khi người ta đào nhiều kênh mương để phục vụ cuộc xâm lược Cao Câu Ly của Tùy Dạng Đế. U châu là một sở chỉ huy chính vào thời nhà Đường, với tên gọi Phạm Dương, khu vực Bắc Kinh trong một thời gian ngắn đã là thủ đô của nước Đại Yên trong loạn An Sử vào thế kỷ 8. Năm 936, nhà Hậu Tấn đã buộc phải nhường lại toàn bộ khu vực Bắc Kinh cho nhà Liêu của người Khiết Đan. Hai năm sau, nhà Liêu lập bồi đô ở nơi này, và đặt tên là Nam Kinh. một số công trình cổ nhất còn tồn tại ở Bắc Kinh có niên đại từ thời Liêu, bao gồm Thiên Ninh tự. Nhà Liêu sụp đổ trước nhà Kim của người Nữ Chân vào thế kỷ 12 và nhà Kim đã chuyển thủ đô của họ đến Nam Kinh vào năm 1153, đổi tên thành Trung Đô. Thành bị quân Mông Cổ của Thành Cát Tư Hãn bao vây vào năm 1213 và bị san bằng hai năm sau đó. Sau này, Hốt Tất Liệt đã hạ lệnh xây dựng Đại Đô (Khanbaliq), tân đế đô cho triều Nguyên của ông, nằm gần kề các tàn tích từ thời Kim. Việc xây dựng được tiến hành từ 1264 đến 1293, và đã nâng cao rất nhiều vị thế của một thành nằm ở rìa phía bắc của Trung Quốc bản thổ. Thành có trung tâm là Cổ Lâu nằm hơi lệch về phía bắc của khu vực đô thị Bắc Kinh hiện nay và kéo dài từ đường Trường An đến tuyến số 10 ngày nay. Tàn dư của bức tường đắp bằng đất từ thời Nguyên vẫn còn và được gọi là Thổ Thành. === Nhà Minh === Năm 1368, một thời gian ngắn sau khi lập ra nhà Minh, Chu Nguyên Chương đã cử một đội quân đến Đại Đô và đốt cháy thành. Tuy nhiên do quân Nguyên tiếp tục chiếm giữ Thượng Đô và Mông Cổ, một thành mới đã được thiết lập để tiếp tế cho các đơn vị quân sự đồn trú trong khu vực. Thành này được gọi là Bắc Bình và theo chính sách tiến hành phong vương lập phiên của Chu Nguyên Chương thì thành được trao cho Yên vương Chu Đệ, hoàng tử thứ tư của ông ta. Việc người kế thừa của Chu Nguyên Chương mất sớm đã dẫn đến một cuộc đấu tranh kế vị khi bản thân ông ta qua đời, thắng lợi cuối cùng thuộc về Chu Đệ và người này trở thành Vĩnh Lạc Đế. Do kinh thành Ứng Thiên (Nam Kinh) đã bị cháy khi Chu Đệ tiến vào, ông đã lập phong ấp của mình làm đồng kinh thành. Thành Bắc Bình trở thành Thuận Thiên – tức Bắc Kinh ngày nay vào năm 1403. Việc xây dựng hoàng cung mới, Tử Cấm thành, được tiến hành từ năm 1406 đến 1420; đây cũng là khoảng thời gian xây dựng một số điểm đến chính của thành phố hiện nay, như Thiên Đàn và Thiên An Môn (song quảng trường trước nó đến năm 1651 mới được dọn quang). Khi mọi thứ hoàn tất vào năm 1421, Bắc Kinh trở thành kinh sư của đế quốc trong khi Ứng Thiên – mà nay gọi là Nam Kinh – thì để mất đi phần lớn tầm quan trọng của nó. (Hồng Hi hoàng đế đã ra một chiếu chỉ vào năm 1425 để dời đô về Nam Kinh, song ông đã băng hà ngay sau đó.) Trong thế kỷ 15, Bắc Kinh đã cơ bản có được khuôn mẫu như hiện nay. Tường thành thời Minh tiếp tục tồn tại cho đến thời hiện đại, khi nó bị kéo đổ và đường vành đai 2 được xây dựng trên vị trí của nó. Có quan điểm phổ biến rằng Bắc Kinh từng là thành phố lớn nhất thế giới trong hầu hết các thế kỷ 15, 16, 17, và 18. Nhà thờ Thiên Chúa giáo đầu tiên được biết đến tại Bắc Kinh đã được xây dựng vào năm 1652 tại đất có nhà nguyện của Matteo Ricci trước đó; nhà thờ Nam Đường được xây dựng sau này cũng trên địa điểm đó. Quân khởi nghĩa nông dân của Lý Tự Thành đã chiếm Bắc Kinh vào năm 1644 và kết thúc triều đại Minh, song ông ta và triều Đại Thuận đã từ bỏ thành sau khi thất bại trước đội quân Thanh dưới quyền Đa Nhĩ Cổn ở Sơn Hải quan. Quân Thanh sau đó tiến vào chiếm lĩnh Bắc Kinh. === Nhà Thanh === Đa Nhĩ Cổn xem triều Thanh là triều đại kế thừa trực tiếp của triều Minh (xem Đại Thuận là phi pháp) và Bắc Kinh trở thành kinh đô duy nhất của Trung Quốc. Các hoàng đế nhà Thanh đã cho sửa sang Hoàng cung, song phần lớn các công trình và cách bố trí chung từ thời Minh thì vẫn không thay đổi. Các thần thánh của người Mãn được thờ phụng, song nhà Thanh cũng tiếp tục duy trì các quốc lễ truyền thống. Các bảng hiệu được viết bằng song ngữ Mãn-Hán hoặc bằng chữ Hán. Trong chiến tranh Nha phiến lần hai, quân Anh-Pháp đã chiếm thành phố, cướp bóc và đốt phá Viên Minh Viên vào năm 1860. Theo Điều ước Bắc Kinh khi kết thúc cuộc chiến, các cường quốc phương Tây lần đầu tiên được đảm bảo quyền hiện diện ngoại giao thường trực trong thành phố. Năm 1900, "phong trào Nghĩa Hòa Đoàn" đã cố gắng tiệt trừ sự hiện diện này, cũng như việc người Trung Quốc cải sang Thiên Chúa giáo, khiến Bắc Kinh lại bị các cường quốc ngoại bang chiếm đóng. Trong giao tranh, một vài cấu trúc quan trọng đã bị phá hủy, bao gồm Hàn Lâm Viện và Di Hòa Viên. === Thời Dân Quốc === Cách mạng Tân Hợi đã diễn ra vào năm 1911 nhằm thay thế nhà Thanh bằng một cộng hòa và các lãnh đạo của cuộc cách mạng như Tôn Trung Sơn ban đầu đã dự định dời đô đến Nam Kinh. Khi đó, một đại thần của triều Thanh là Viên Thế Khải đã buộc hoàng đế cuối cùng của nhà Thanh thoái vị và những người cách mạng đã chấp thuận để ông làm đại tổng thống của Trung Hoa Dân Quốc. Viên Thế Khải vẫn giữ thủ đô tại Bắc Kinh và nhanh chóng củng cố quyền lực, rồi xưng đế vào năm 1915. Ông ta qua đời chưa đầy một năm sau đó khiến Trung Quốc bị phân liệt giữa các quân phiệt địa phương. Các phe phái mạnh nhất đã tiến hành các cuộc chiến tranh thường xuyên – chiến tranh Trực-Hoàn năm 1920 cùng chiến tranh Trực-Phụng lần thứ nhất và lần thứ hai vào các năm 1922 và 1924 – để kiểm soát thủ đô. Sau khi Quốc Dân đảng' tiến hành Bắc phạt thành công, thủ đô chính thức bị dời về Nam Kinh vào năm 1928. Ngày 28 tháng 6 cùng năm, Bắc Kinh được đổi tên thành Bắc Bình. Trong chiến tranh Trung-Nhật, Bắc Bình rơi vào tay Nhật Bản ngày 29 tháng 7 năm 1937 và trở thành nơi đặt trụ sở của chính phủ Lâm thời Trung Hoa Dân Quốc, một chính phủ bù nhìn quản lý các phần lãnh thổ của người Hán ở các khu vực do Nhật Bản chiếm đóng tại Hoa Bắc. Chính phủ này sau đó hợp nhất với chính quyền Uông Tinh Vệ đặt tại Nam Kinh. === Thời Cộng hòa Nhân dân === Trong giai đoạn cuối cùng của Nội chiến Trung Quốc, Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc đã chiếm được thành phố một cách yên bình vào ngày 31 tháng 1 năm 1949 trong chiến dịch Bình Tân. Ngày 1 tháng 10 cùng năm, Mao Trạch Đông đã tuyên bố thành lập Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa từ trên đỉnh Thiên An Môn. Ông đặt thủ đô tại thành phố, và phục hồi lại tên gọi Bắc Kinh, một quyết định được Chính hiệp Toàn quốc thông qua chỉ vài ngày trước đó. Trong thập niên 1950, thành phố bắt đầu phát triển ra ngoài thành cổ và các vùng lân cận xung quanh, với các cơ sở công nghiệp nặng ở phía tây và các khu dân cư ở phía bắc. Nhiều phần của tường thành Bắc Kinh đã bị giật đổ trong thập niên 1960 để xây dựng tàu điện ngầm Bắc Kinh và đường vành đai 2. Trong Cách mạng văn hóa từ năm 1966 đến 1976, phong trào Hồng vệ binh bắt đầu tại Bắc Kinh và chính quyền thành phố đã trở thành nạn nhân tại một trong các cuộc thanh trừng đầu tiên. Vào mùa thu năm 1966, toàn bộ các trường học của thành phố ngừng hoạt động và trên một triệu hồng vệ binh từ khắp đất nước đã tập hợp tại Bắc Kinh trong tám cuộc mittinh tại quảng trường Thiên An Môn với Mao Trạch Đông. Vào tháng 4 năm 1976, cư dân Bắc Kinh đã tiến hành một cuộc tập hợp quần chúng lớn chống lại Tứ nhân bang và Cách mạng Văn hóa tại quảng trường Thiên An Môn song đã bị đàn áp mạnh mẽ. Vào tháng 10 năm 1976, Tứ nhân bang đã bị bắt giữ tại Trung Nam Hải và cách mạng Văn hóa đi đến hồi kết. Vào tháng 12 năm 1978, Hội nghị Toàn thể lần thứ ba của Uỷ ban Trung ương Đảng khóa 11 tại Bắc Kinh dưới sự chỉ đạo của Đặng Tiểu Bình đã đảo nghịch những lời tuyên án chống lại các nạn nhân của Cách mạng Văn hóa và khởi đầu "chính sách cải cách và mở cửa." Từ đầu thập niên 1980, khu vực đô thị của Bắc Kinh đã mở rộng rất nhiều với việc hoàn thành đường vành đai 2 vào năm 1981 cũng như đường vành đai 3, 4, 5 và 6 vào sau này. Theo một tường thuật báo chí vào năm 2005, quy mô khu vực phát triển mới của Bắc Kinh rộng gấp rưỡi trước đó. Vương Phủ Tỉnh và Tây Đan (西单) đã thành triển thành những khu phố mua sắm hưng thịnh, trong khi Trung Quan Thôn trở thành một trung tâm điện tử lớn tại Trung Quốc. Trong những năm gần đây, sự phát triển của Bắc Kinh đã đem đến một số vấn đề như giao thông đông đúc, chất lượng không khí ở mức thấp, mất đi các khu vực lịch sử, và phái đón nhận một dòng nhập cư đáng kể đến từ các khu vực kém phát triển hơn trong nước. Bắc Kinh cũng là nơi đã diễn ra nhiều sự kiện quan trọng trong lịch sử Trung Quốc thời gian gần đây, đáng chú ý là các cuộc biểu tỉnh Thiên An Môn năm 1989 và Thế vận hội Mùa hè 2008. == Địa lý == === Địa hình === Thành phố Bắc Kinh nằm trên vùng đất thấp và bằng phẳng, với độ cao thường nằm trong khoảng 40-60m trên mực nước biển. Điểm cao nhất trong khu thành cổ là đỉnh của Cảnh Sơn với độ cao là 88,35 m, từ đây có thể nhìn toàn cảnh Tử Cấm thành. Đỉnh của Vạn Thọ Sơn (万寿山) thuộc Di Hòa Viên có độ cao 109 mét (358 ft). Vùng đồng bằng từ Bắc Kinh kéo dài xa về phía đông đến Sơn Hải quan bên bờ Bột Hải và xa về phía nam đến Nam Kinh. Ở phía tây bắc Kinh có Tây Sơn, có thể nhìn thấy núi này từ nội thị vào những ngày quang đãng. Tây Sơn tạo thành sườn núi phía đông của Thái Hành Sơn- dãy núi chạy theo chiều bắc-nam và tạo thành xương sống phía tây của Hà Bắc. Tây Sơn bao trùm gần như toàn bộ các quận Phòng Sơn và Môn Đầu Câu ở phía tây thành phố. Đông Linh Sơn (东灵山, cao 2,303 mét (7 ft 6,7 in)), một đỉnh núi của Tây Sơn nằm trên ranh giới với Hà Bắc, là đỉnh cao nhất tại Bắc Kinh. Đỉnh này nằm cách trung tâm thành phố 122 km (76 mi). Tây Sơn cũng được biết đến với các đồng cỏ núi cao và các hẻm núi sông, bao gồm Thập Độ (十渡). Vùng chân núi của Tây Sơn vươn đến tận vùng đô thị của thành phố, bao gồm Hương Sơn (香山)- một điểm đến du lịch lớn và Lão Sơn- nơi diễn ra thi đấu xe đạp leo núi trong Thế vận hội Mùa hè 2008. Các dãy núi ở bắc bộ của Bắc Kinh bao gồm Bát Đạt Lĩnh, Quân Đô Sơn (军都山) và Phượng Hoàng Lĩnh (凤凰岭) đều thuộc Yên Sơn, chạy theo hướng đông-tây, ngang qua bắc bộ tỉnh Hà Bắc. Yên Sơn chia tách bình nguyên Hoa Bắc với thảo nguyên và có ý nghĩa quân sự quan trọng trong lịch sử. Toàn bộ các đoạn Trường Thành thuộc Bắc Kinh đều được xây dựng trên dãy Yên Sơn, với cao độ lớn nhất là 2.241 m (7.352 ft) tại Hải Đà Sơn (海坨山) trên ranh giữa giữa huyện Diên Khánh và tỉnh Hà Bắc. Yên Sơn và Tây Sơn gặp nhau tại Nam Khẩu thuộc quận Xương Bình ở tây bắc của thành phố. Chỗ giao nhau tạo thành một đường đứt đoạn lớn và thung lũng sụt lún, và các tuyến đường bộ và đường sắt chính vượt sang phía tây bắc của thành phố đều đi qua chỗ này. === Thủy văn === Năm thủy hệ lớn nhất tại Bắc Kinh, chảy từ tây sang đông, gồm: Cự Mã Hà (拒马河), Vĩnh Định Hà, Bắc Vận Hà (北运河), Triều Bạch Hà (潮白河), Kế Vận Hà (蓟运河). Các sông hầu hết đều bắt nguồn từ Cao nguyên Nội Mông Cổ, chảy xuyên qua các dãy núi ở phía tây và bắc của thành phố, cuối cùng đổ vào Hải Hà- con sông đổ trực tiếp ra Bột Hải. Ngày nay, không có sông lớn nào chảy qua khu vực đô thị trung tâm của Bắc Kinh do qua hàng thế kỷ, con người đã điều hướng các con sông chảy vòng qua thành phố. Nhờ các hồ, kênh mương, hào, cống dẫn nước, các con sông này tiếp tục cung cấp nước, đồng thời là nơi thoát nước cho thành phố, song nội thị Bắc Kinh không còn bị đe dọa từ lũ lụt do sông này gây ra. Bắc Kinh cũng là điểm cuối phía bắc của Đại Vận Hà, được xây dựng xuyên qua bình nguyên Hoa Bắc đến Hàng Châu, đoạn Bắc Kinh-Thiên Tân được gọi là Bắc Vận Hà. Hồ chứa Mật Vân (密云水库), được xây dựng trên thượng du Triều Bạch Hà, là hồ chứa lớn nhất Bắc Kinh và cũng là một nguồn cung cấp nước chủ yếu cho thành phố. Khu nội thị Bắc Kinh có một vài hồ được gọi là hải. Vào thời nhà Nguyên, những người cai trị Mông Cổ đã cho mở rộng và xây dựng hoàng cung Đại Đô xung quanh chúng. Sau này, các hoàng đế nhà Minh và nhà Thanh đã sử dụng các hồ này làm ngự hoa viên. Ngày nay, ba hồ cực bắc trong nội thị là Tây Hải, Hậu Hải và Tiền Hải, được gọi chung là Thập Sát Hải (什刹海). Ở phía nam của chúng, Bắc Hải là một công viên của thành phố, còn Trung Hải và Nam Hải là một bộ phận của quần thể Trung Nam Hải. Chuỗi hồ này từng là lòng sông chính của Vĩnh Định Hà- cong sông mà ngày nay chảy cách đó 50–60 km (31–37 mi) về phía tây. Cách nay 1.800 năm, Vĩnh Định Hà chảy qua Tích Thủy Đàm (积水潭) và trung tâm đô thị của Bắc Kinh và sau đó chảy vào hồ Long Đàm và vào Thông Châu. === Khí hậu === Bắc Kinh có khí hậu lục địa ẩm chịu ảnh hưởng của gió mùa, khá khô hạn (phân loại khí hậu Köppen Dwa), có đặc trưng là mùa hè nóng và ẩm do ảnh hưởng của gió mùa Đông Á; và mùa đông thường lạnh, lộng gió và khô do ảnh hưởng của áp cao Siberi. Vào mùa xuân, Bắc Kinh có thể phải chịu các cơn gió cát thổi đến từ thảo nguyên Mông Cổ, kèm theo đó là nhiệt độ ấm lên nhanh chóng, song thường khô. Mùa thu cũng giống mùa xuân, Bắc Kinh được nhận một lượng mưa nhỏ, song mùa này có không khí khô và lạnh và kéo dài ngắn. Nhiệt độ trung bình tháng của Bắc Kinh vào tháng 1 là −3,7 °C (25,3 °F), trong khi vào tháng 7 là 26,2 °C (79,2 °F). Lượng giáng thủy bình quân hàng năm là khoảng 570 mm (22,4 in), với gần ba phần tư xuất hiện từ tháng 6 đến tháng 8. Nhiệt độ cực độ là từ −27,4 °C (−17 °F) đến 42,6 °C (109 °F). == Hành chính == Bắc Kinh hiện có 16 đơn vị hành chính cấp huyện. Ngày 1 tháng 7 năm 2010, các khu Sùng Văn và Tuyên Vũ đã được hợp nhất tương ứng vào các khu Đông Thành và Tây Thành. Chú thích Khu thành phố cổ, nguyên nằm trong tường thành, nay nằm trong đường vành đai 2 Các khu vực đô thị nằm giữa đường vành đai 2 và đường vành đai 5 Các khu vực ngoại ô gần, được nối liền bằng đường vành đai 6 Các khu vực ngoại ô xa và nông thôn. == Kinh tế == Bắc Kinh nằm trong số các thành phố phát triển nhất tại Trung Quốc, với ngành kinh tế thứ ba chiếm khoảng 73,2% tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của thành phố; Bắc Kinh là thành phố hậu công nghiệp đầu tiên tại Trung Quốc đại lục. Năm 2009, Bắc Kinh là nơi đặt trụ sở của 41 công ty trong Fortune Global 500, đứng thứ hai thế giới sau Tokyo, và có hơn 100 công ty nằm trong số các công ty lớn nhất tại Trung Quốc. Ảnh hưởng kinh tế tổng thể của Bắc Kinh được PwC xếp hạng thứ 1. Tài chính là một trong các ngành kinh tế quan trọng nhất của Bắc Kinh. Đến cuối năm 2007, đã có 751 tổ chức tài chính tại Bắc Kinh tạo ra thu nhập 128,6 tỉ NDT chiếm 11,6% tổng thu nhập ngành tài chính của toàn quốc. Thu nhập từ tài chính cũng chiếm 13,8% tổng GDP của Bắc Kinh, tỷ lệ cao nhất so với bất kỳ thành phố nào khác tại Trung Quốc. Các ngành bất động sản và ô tô tại Bắc Kinh tiếp tục bùng nổ trong những năm gần đây. Năm 2005, có tổng cộng 28.032.000 mét vuông (301.730.000 sq ft) bất động sản nhà ở đã được bán, với tổng giá trị đạt 175,88 tỷ NDT. Tổng số ô tô đăng ký tại Bắc Kinh vào năm 2004 là 2.146.000 chiếc, trong đó 1.540.000 chiếc thuộc sở hữu tư nhân (tăng 18,7% so với năm trước). Khu Trung tâm Thương vụ Bắc Kinh (北京商务中心区), tập trung tại khu vực Quốc Mậu (国贸), đã được xác định là khu trung tâm thương mại mới của thành phố, và là nơi đặt trụ sở chính của các công ty, có các khu mua sắm, và nhà ở cao cấp. Phố Tài chính Bắc Kinh (北京金融街) nằm trên hai khu vực Phục Hưng Môn (复兴门) và Phụ Thành Môn (阜成门), là một trung tâm tài chính truyền thống. Các khu vực Vương Phủ Tỉnh và Tây Đan là những phố mua sắm lớn. Trung Quan Thôn (中关村), được đặt biệt danh là "Thung lũng Silicon của Trung Quốc", tiếp tục là một trung tâm lớn của các ngành điện tử và các ngành công nghiệp liên quan đến máy tính, cũng như các nghiên cứu liên quan đến dược phẩm. Trong khi đó, Diệc Trang (亦庄), nằm ở đông nam khu vực đô thị của thành phố, đã trở thành một trung tâm mới đối với các ngành dược phẩm, công nghệ thông tin, và kỹ thuật vật liệu. Thạch Cảnh Sơn, nằm ở ngoại ô phía tây thành phố, nằm trong số các khu vực công nghiệp chính. Các khu công nghiệp được xác định có vị thế đặc biệt bao gồm Công viên Khoa học-Kỹ thuật Trung Quan Thôn (中关村科技园区), khu Phát triển Kinh tế Vĩnh Lạc (永乐经济开发区), Khu phát triển Kinh tế-Kỹ thuật Bắc Kinh (北京经济技术开发区), và Khu công nghiệp cảng hàng không Thiên Trúc (天竺空港工业区). Nông nghiệp phát triển ở bên ngoài khu vực đô thị, lúa mì và ngô là các cây trồng chính. Nông dân cũng trồng các loại rau xanh ở các khu vực gần nội thị để cung cấp cho thành phố. == Văn hóa == Kinh kịch là một thể loại kịch nghệ truyền thống được biết đến khắp Trung Quốc. Kinh kịch thường được tán dương là một trong các thành tựu lớn nhất của văn hóa Trung Quốc. Thể loại kịch nghệ này được biểu diễn với việc kết hợp điệu hát, đối thoại, và hành động theo quy luật liên quan đến cử chỉ, chuyển động, chiến đấu và nhào lộn. Kinh kịch phần lớn được biểu diễn bằng cổ ngữ, khá khác so với phương ngữ Bắc Kinh hiện nay. Ẩm thực Bắc Kinh tiếp thu các truyền thống nấu nướng trên khắp Trung Quốc, trong đó vịt quay Bắc Kinh có lẽ là món ăn được biết đến nhiều nhất. Phục linh giáp bính (茯苓夹饼) là một loại đồ ăn nhanh truyền thống của Bắc Kinh, nó là một cái bánh (bính) giống như một chiếc đĩa phẳng và được nhồi một thứ được làm từ phục linh, một loại nấm được sử dụng trong Trung y. Các trà quán khá phổ biển tại Bắc Kinh. Công nghệ và truyền thống làm Cảnh Thái lam (景泰蓝) là một đặc trưng nghệ thuật của Bắc Kinh, và là một trong những nghề thủ công được tôn kính nhất tại Trung Quốc. Muốn làm được Cảnh Thái lam phải có các quy trình tỉ mỉ và phức tạp. Sơn màu Bắc Kinh cũng nổi tiếng với các mẫu hình tinh tế và có hồn được khắc trên bề mặt. Trong những thập niên gần đây, các cư dân trẻ của Bắc Kinh đã bị thu hút vào cuộc sống về đêm, phá vỡ truyền thống văn hóa khi xưa là chỉ hạn chế trong tầng lớp thượng lưu. === Chỗ đến === Trung tâm lịch sử của Bắc Kinh tập trung tại Tử Cấm thành, tổ hợp cung điện khổng lồ đã từng là nơi ở của các hoàng đế nhà Minh và nhà Thanh; Tử Cấm thành có bảo tàng Cố cung, bao gồm các bộ sưu tập đế vương về nghệ thuật Trung Quốc. Xung quanh Tử Cấm thành là một vài ngự hoa viên, công viên, khu cảnh vật cũ, đáng chú ý là Bắc Hải, Thập Sát Hải, Trung Nam Hải, Cảnh Sơn và Trung Sơn. Những nơi này, đặc biệt là công viên Bắc Hải, được mô tả là kiệt tác của nghệ thuật viên lâm Trung Quốc, và là các điểm đến du lịch phổ biến do có tầm quan trọng to lớn về mặt lịch sử; trong kỷ nguyên hiện đại, Trung Nam Hải cũng là trung tâm chính trị của các chính quyền và chế độ khác nhau tại Trung Quốc và nay là trụ sở của Đảng Cộng sản Trung Quốc và Quốc vụ viện. Từ quảng trường Thiên An Môn, đối diện với Tử Cấm thành, có thể tiếp cận một số địa điểm nổi tiếng như Thiên An Môn, Tiền Môn (前门), Đại lễ đường Nhân dân, Bảo tàng Quốc gia Trung Quốc, bia Kỷ niệm Anh hùng Nhân dân, và Lăng Mao Trạch Đông. Di Hòa Viên và Viên Minh Viên đều nằm ở phần phía tây của thành phố; trong đó Di Hòa Viên là một di sản thế giới của UNESCO. Trong số các địa điểm tôn giáo được biết đến nhiều nhất trong thành phố, có Thiên Đàn nằm ở đông nam, và đây cũng là một di sản thế giới của UNESCO, đây là nơi các hoàng đế nhà Minh và nhà Thanh đến để thực hiện các buổi lễ hàng năm nhằm cầu thần linh phù hộ cho mùa màng bội thu. Ở phía bắc của thành phố là Địa Đàn, trong khi Nhật Đàn và Nguyệt Đàn nằm tương ứng ở phía đông và tây của khu vực đô thị. Các ngôi đền chùa nổi tiếng khác tại Bắc Kinh gồm có: miếu Đông Nhạc Bắc Kinh (东岳庙), chùa Đàm Chá (潭柘寺), chùa Diệu Ứng (妙应寺), Bạch Vân Quán, Ung Hòa cung, chùa Pháp Nguyên (法源寺), chùa Vạn Thọ (万寿寺), chùa Đại Chung (大钟寺;). Thành phố cũng có Bắc Kinh Khổng Miếu và Bắc Kinh Quốc Tử Giám. Nhà thờ Tuyên Vũ Môn (宣武门天主堂) được xây dựng vào năm 1605 và là nhà hờ Thiên chúa giáo cổ nhất tại Bắc Kinh. Thánh đường Ngưu Nhai Lễ (牛街礼拜寺) là thánh đường Hồi giáo cổ nhất tại Bắc Kinh, với lịch sử kéo dài trên một nghìn năm. Bắc Kinh có một số ngôi tháp được bảo quản tốt và các tháp bằng đá, như tháp Thiên Ninh tự (天宁寺塔), được xây từ thời Liêu trong khoảng năm 1100 đến năm 1120, và Tháp Từ Thọ tự (慈寿寺塔), được xây dựng năm 1576 vào thời Minh. Các cầu đá đáng chú ý mang tính lịch sử gồm cầu Lư Câu từ thế kỷ 12, cầu Bát Lý (八里桥) từ thế kỷ 17, cầu Ngọc Đới (玉带桥) từ thế kỷ 18. Đài quan sát cổ Bắc Kinh trưng bày các quả cầu tiền kính thiên văn có niên đại từ thời Minh và Thanh. Hương Sơn là một công viên công cộng nổi tiếng, nó có cả các khu phong cảnh tự nhiên cũng như các di tích truyền thống và văn hóa. Thực vật viên Bắc Kinh trưng bày trên 6.000 loài thực vật, bao gồm một loạt các loại cây thân gỗ, cây bụi và cây hoa, và một vườn mẫu đơn rộng lớn. Các công viên Đào Nhiên Đình (陶然亭), Long Đàm hồ (龙潭湖), Triều Dương (朝阳), Hải Điến (海淀), Mi Lộc Uyển (麋鹿苑) và Tử Trúc Viện (紫竹院) là một vài trong số các công viên tiêu khiển nổi tiếng của thành phố. Động vật viên Bắc Kinh là một trung tâm nghiên cứu động vật, nó cũng gồm có các loài động vật quý hiếm từ các châu lục khác nhau, bao gồm cả gấu trúc lớn. Có hơn một trăm bảo tàng tại Bắc Kinh. Ngoài Bảo tàng Cố cung tại Tử Cấm thành và Bảo tàng Quốc gia Trung Quốc, các bảo tàng lớn khác gồm: Bảo tàng Mỹ thuật Trung Quốc (中国美术馆), Bảo tàng Thủ đô (首都博物馆), Bảo tàng Nghệ thuật Bắc Kinh, Bảo tàng Quân sự Cách mạng Nhân dân Trung Quốc (中国人民革命军事博物馆), Bảo tàng Địa chất Trung Quốc (中国地质博物馆), Bảo tàng Tự nhiên Bắc Kinh (北京自然博物馆) và Bảo tàng Cổ động vật Trung Quốc (中国古动物馆). Ở khu ngoại ô Xương Bình của Bắc Kinh có Thập Tam Lăng, là nơi chôn cất mười ba vị hoàng đế nhà Minh xa hoa và tinh tế, chúng là một phần của quần thể Lăng tẩm hoàng gia Minh-Thanh- một di sản thế giới của UNESCO. Di tích khảo cổ người vượn Bắc Kinh tại Chu Khẩu Điếm là một di sản thế giới khác nằm trong địa giới của thành phố, tại đó đã có nhiều phát hiện, trong số đó có một trong những mẫu vật đầu tiên của người đứng thẳng (Homo erectus) và một bộ sưu tập xương cốt của loài linh cẩu khổng lồ Pachycrocuta brevirostris. Tại Bắc Kinh cũng có một số đoạn Vạn Lý Trường Thành- một di sản thế giới của UNESCO, những điểm được biết đến nhiều nhất trong số đó là Bát Đạt Lĩnh, Kim Sơn Lĩnh (金山岭), Tư Mã Đài (司马台) và Mộ Điền Dục (慕田峪). === Kiến trúc === Trong nội thị Bắc Kinh có ba phong cách kiến trúc thống trị các công trình xây dựng. Trước tiên là kiến trúc phong kiến Trung Hoa, có lẽ minh họa tốt nhất là Thiên An Môn, Tử Cấm thành, Thái Miếu và Thiên Đàn. Tiếp theo, là phong cách kiến trúc mà đôi khi được gọi là "Trung-Xô", với các công trình kiến trúc có khuynh hướng giống như hình hộp, được xây dựng trong thời kỳ từ thập niên 1950 đến thập niên 1970. Cuối cùng, thành phố có nhiều mẫu kiến trúc hiện dại, đáng chú ý nhất là tại khu Trung tâm Thương vụ Bắc Kinh và phố Tài chính Bắc Kinh. Bắc Kinh cũng nổi tiếng nhờ các tứ hợp viện (四合院), một kiểu dinh thự gồm các khối nhà bao quanh một khoảnh sân trong. Trong số chúng, có thể kể đến Cung Vương Phủ và Tống Khánh Linh cố cư (宋庆龄故居). Những sân trong này thường được kết nối bằng các ngõ nhỏ được gọi là hồ đồng (胡同). Các hồ đồng thường thẳng và chạy từ đông sang tây để các ô cửa phải đối mặt với hướng bắc và nam nhằm có Phong thủy tốt. Chúng khác nhau về chiều rộng; một số rất hẹp đến nỗi chỉ đủ cho một vài người đi bộ có thể qua cùng một lúc. Đã từng phổ biến khắp nơi tại Bắc Kinh, các tứ hợp viện và hồ đồng đang nhanh chóng biến mất, khi chúng bị các khu nhà cao tầng thay thế. Các cư dân trong các hồ đồng được quyền đến sống tại các tòa nhà mới tại những căn hộ có kích cỡ tối thiểu là tương đương nơi ở trước đây của họ. Tuy nhiên, nhiều người phàn nàn rằng không thể thay thế ý nghĩa truyền thống của lối sống cộng đồng và đường phố của các "hồ đồng", == Giao thông == Bắc Kinh là một trong các đầu mối lớn nhất trong mạng lưới đường sắt Trung Quốc. Tám tuyến đường sắt tỏa ra từ Bắc Kinh đến: Thượng Hải (tuyến Kinh-Hỗ), Quảng Châu (tuyến Kinh-Quảng), Cửu Long thuộc Hồng Kông (tuyến Kinh-Cửu), Cáp Nhĩ Tân (tuyến Kinh-Cáp), Bao Đầu (tuyến Kinh-Bao), Tần Hoàng Đảo (tuyến Kinh-Tần), Thừa Đức (tuyến Kinh-Thừa) và Nguyên Bình (Kinh-Nguyên). Thêm vào đó, Bắc Kinh còn là điểm đầu của các tuyến đường sắt cao tốc: đoạn Bắc Kinh-Thạch Gia Trang thông xe năm 2012 của đường sắt cao tốc Bắc Kinh - Quảng Châu - Thâm Quyến - Hồng Kông, đường sắt cao tốc Bắc Kinh - Thượng Hải thông xe vào năm 2011, đường sắt liên thành Bắc Kinh - Thiên Tân thông xe vào năm 2008. Các ga đường sắt chính của Bắc Kinh là ga Bắc Kinh- mở cửa từ năm 1959; ga Bắc Kinh Tây- mở cửa từ năm 1996; và ga Bắc Kinh Nam- được xây dựng lại thành một ga đường sắt cao tốc vào năm 2008. Bắc Kinh được kết nối bằng đường bộ đến mọi nơi tại Trung Quốc, 9 tuyến đường cao tốc quốc gia và 11 tuyến quốc lộ của Trung Quốc đi qua Bắc Kinh. Giao thông đô thị Bắc Kinh dựa vào 5 tuyến đường vành đai đồng tâm bao quanh thành phố, trong đó khu vực Tử Cấm thành được xác định là tâm điểm của các tuyến đường vành đai. Các tuyến đường vành đai của Bắc Kinh có hình dạng giống với hình chữ nhật hơn là vòng tròn. Không có đường vanh đai 1 chính thức, đường vành đai 2 nằm trong nội thị. Các tuyến đường vành đai có khuynh hướng trở nên tương như như đường cao tốc khi chúng mở rộng ra phía ngoài, trong đó đường vành đai 5 và đường vành đai 6 hoàn toàn là đường cao tốc quốc gia, chỉ có giao điểm với các đường khác. Hệ thống đường sá tương đối kém phát triển đã làm trầm trọng thêm vấn đề giao thông của Bắc Kinh. Bố trí đô thị của Bắc Kinh cũng góp phần vào điều này. Các nhà đương cục đã cho đưa vào hoạt động một vài làn đường xe buýt, chỉ có xe buýt công cộng mới có thể sử dụng chúng vào các giờ cao điểm. Đầu năm 2010, Bắc Kinh có 4 triệu ô tô đã đăng ký. Đến cuối năm 2010, chính quyền dự báo con số sẽ lên đến 5 triệu. Năm 2010, số xe đăng ký mới trung bình theo tuần tại Bắc Kinh là 15.500. Sân bay chính của Bắc Kinh là Sân bay quốc tế Thủ đô Bắc Kinh (IATA: PEK;), cách trung tâm thành phố 20 kilômét (12 mi) về phía đông bắc. Sân bay này hiện đang là sân bay bận rộn thứ hai trên thế giới (sau sân bay quốc tế Hartsfield-Jackson Atlanta) và là sân bay bận rộn nhất châu Á. Sau khi được nâng cấp để phục vụ cho Thế vận hội Mùa hè 2008, sân bay hiện có ba nhà ga, trong đó Nhà ga 3 là một trong số các nhà ga sân bay lớn nhất thế giới. Tàu điện ngầm Bắc Kinh mở cửa vào năm 1971, và chỉ có hai tuyến cho đến khi tuyến 13 bắt đầu hoạt động vào năm 2002. Từ đó, hệ thống tàu điện ngầm đã được mở rộng thành 6 tuyến. Tuyến 1 và tuyến Bát Thông, băng qua hầu như toàn bộ khu vực đô thị của Bắc Kinh từ đông sang tây. Tuyến 4 và tuyến 5 là hai tuyến bắc-nam. Thành phố có gần 700 tuyến xe buýt và xe ô tô điện, bao gồm ba tuyến xe buýt nhanh. Bắc Kinh từ lâu đã nổi tiếng với số lượng xe đạp trên các đường phố. Tuy vậy, với sự gia tăng của số lượng ô tô, việc sử dụng xe đạp đã suy giảm, song vẫn là một hình thức giao thông địa phương quan trọng. Có thể trông thấy một lượng lớn người đi xe đạp trên các đường phố Bắc Kinh, và hầu hết các tuyến đường chính đều có làn riêng cho xe đạp. Bắc Kinh có địa hình tương đối bằng phẳng, khiến cho việc đi xe đạp trở nên thuận tiện. Sự gia tăng việc sử dụng xe đạp điện và xe máy điện, có tốc độ tương đương và sử dụng chung một làn đường, có thể đem đến sự hồi sinh cho xe hai bánh tại Bắc Kinh. Do ùn tắc ngày càng tăng, nhà đương cục đã hơn một lần biểu thị rằng họ muốn khuyến khích đi xe đạp, song không rõ liệu nó có tác động trên quy mô đáng kể hay không. === Thành phố kết nghĩa === Bắc Kinh có nhiều thành phố kết nghĩa trên khắp thế giới, nhiều thành phố trong số này là thủ đô của các quốc gia tương ứng: == Xem thêm == Danh sách vùng đô thị châu Á == Tham khảo == == Liên kết ngoài == Thông tin tổng hợp về Trung Quốc Bắc Kinh -- Hình ảnh Khám phá Bắc Kinh Bắc kinh - Trung Quốc
đĩa blu-ray.txt
Đĩa Blu-ray hay đĩa quang DVD định dạng Blu-ray là một chuẩn DVD, tiếp theo chuẩn DVD+RW.1 Blu-ray và HD DVD là hai công nghệ DVD có công suất lưu trữ lớn khi ghi nội dung độ phân giải cao, gấp 6 lần so với chuẩn DVD trước đó. Loại đĩa này có 25 GB bộ nhớ ghi trên một mặt của một đĩa đơn 12 cm, cho phép thu hình tới 13 giờ (Ở độ phân giải chuẩn DVD, tức là khoảng 720*480) so với đĩa 4,7 GB trước đó chỉ thu được 2 giờ. Đĩa quang có tên Blu-ray bởi vì nó được áp dụng tia laser màu xanh lam để nạp thông tin vào đĩa. Chuẩn này do các nhà chế tạo thiết bị điện tử dân dụng như: Sony, Philips Electronics và Matsushita thống nhất và công bố. Những công ty cùng tham gia phát triển chuẩn đĩa này là Hitachi, Pioneer, Sharp, LG và hãng Thomson Multimédia của Pháp. == Lịch sử nghiên cứu và chế tạo == Năm 1998, HDTV bắt đầu xuất hiện trên thị trường nhưng không được tiêu thụ rộng rãi. Thực tế không có phương tiện lưu trữ nào phù hợp với định dạng HD, ngoại trừ Digital VHS của JVC and HDCAM. Tuy nhiên HDTV đã cho thấy việc sử dụng laser có bước sóng ngắn có thể tăng mật độ lưu trữ của thiết bị lưu trữ quang học. Sự kiện Shuji Nakamura phát minh ra diode laser ánh sáng xanh đã tạo ra bước đột phá bất chấp việc tranh chấp về bằng sáng chế làm chậm trễ quá trình thương mại hóa. === Cuộc chiến giữa Blu-ray và HD DVD === Vào năm 2000 Blu-ray Disc (công nghệ đĩa quang màu xanh chạy bằng tia laser màu xanh có bước sóng nhỏ hơn tia laser thường) lần đầu tiên được Sony giới thiệu và phát triển. Được quảng cáo với những tính năng ưu việt như độ bền và dung lượng, Blu-ray hứa hẹn mang đến cho người dùng nhiều bộ phim chất lượng cao với độ nét và độ phân giải cao. Năm 2002, chuẩn đĩa HD DVD được hãng điện tử Toshiba công bố với những tính năng ưu việt tương tự. Do Blu-ray mới được giới thiệu nên cùng tại một thời điểm HD DVD đang nhận được sự ưu ái của nhiều hãng điện tử và nhà sản xuất phim,việc được các nhà sản xuất phim hậu thuẫn có nghĩa là các sản phẩm (phim) sẽ được phát hành trên chuẩn mà họ hỗ trợ, Toshiba như mở cờ trong bụng và họ xúc tiến xây dựng những dây chuyển sản xuất đầu máy chuẩn HD DVD và tung chúng ra thị trường với số lượng lớn, cũng theo đó các hãng điện tử khác cũng sản xuất ăn theo dòng sản phẩm này. Trong khi hàng Toshiba phát hành và sản xuất HD DVD thì người khổng lồ Sony âm thầm tìm kiếm những đồng minh khác cho chuẩn Blu-ray của mình đồng mimh: Philips, Electronics và Matsushita (Panasonic). Hitachi, Pioneer, Sharp, LG và hãng Thomson Multimedia của Pháp cùng tham gia và phát triển định dạng Blu-ray. Blu-ray và HD DVD đều là hai công nghệ DVD là hai định dạng có khả năng lưu trử dung lượng cao về hình ảnh và chúng có dung lượng lơn gấp 6 loại DVD bình thường trước đó. loại sản phẩm này có dung lượng chứa lên đến 25Gb/1 layer 12 cm, nó có thể lưu trữ được 13 giờ phim thay vì 2 giờ phim như chuẩn DVD thông thường. Hãy cùng nhìn lại những cột mốc quan trọng trong "chiến sự" khốc liệt kéo dài tới 8 năm này. === 2000 === • Ngày 5 tháng 10: Sony và Pioneer công bố định dạng DVR Blue tại triển lãm CEATEC Nhật Bản. Đây chính là nền tảng cơ bản của chiếc đĩa Blu-ray BD-RE thế hệ đầu tiên. === 2002 === • Ngày 19 tháng 2: Với Sony trên tư cách "tiên phong phất cờ", 9 hãng điện tử thuộc loại lớn nhất thế giới cùng công bố kế hoạch phát triển đĩa Blu-ray thương mại. Sony cũng đồng thời là "thủ lĩnh tinh thần" của liên minh này. • Ngày 29 tháng 8: Toshiba và NEC công bố một định dạng đĩa quang thế hệ mới khác là HD DVD • Ngày 1 tháng 10: Mô hình mẫu của cả hai định dạng Blu-ray lẫn HD DVD đều được trưng bày tại Triển lãm CEATEC. Sony, Panasonic, Sharp, Pioneer và JVC trình làng đầu đĩa Blu-ray mô hình, trong khi Toshiba vén màn đĩa quang AOD. === 2003 === • Ngày 13 tháng 2: Bắt đầu bán giấy phép công nghệ Blu-ray. Các hãng sản xuất đầu đĩa phải trả 120.000 USD mỗi năm, cộng thêm mức phí 0,10 USD trên mỗi đầu đĩa Blu-ray bán ra. Các hãng truyền thông thì đóng phí cố định 8000 USD/năm, cộng với khoản phụ trội 0,02 USD cho mỗi chiếc đĩa bán được. Nguồn: Gizmodo • Ngày 7 tháng 4: Sony công bố định dạng đĩa Blu-ray Professional dành riêng cho các ứng dụng lưu trữ dữ liệu. • Ngày 10 tháng 4: Sony tung ra thị trường Nhật Bản chiếc đầu đĩa Blu-ray đầu tiên - BDZ S77. Tuy nhiên giá bán của nó thuộc loại khủng khiếp: 3815 USD.Đã thế, đĩa phim Blu-ray lại khan hiếm như lá mùa thu nên chỉ nhận được phản ứng hờ hững từ người dùng. • Ngày 28 tháng 5: Mitsubishi Electric gia nhập liên minh Blu-ray. === 2004 === • Ngày 7 tháng 1: Toshiba công bố mô hình đầu đĩa HD DVD đầu tiên trên thế giới tại Triển lãm điện tử CES. Đầu đĩa này có một ưu điểm là xem được cả đĩa DVD chứ không "lạc lõng" như BDZ S77. • Ngày 12 tháng 1: Cả hai gã khổng lồ máy tính cá nhân là HP và Dell đều công khai ủng hộ Blu-ray. • Ngày 10 tháng 6: Diễn đàn DVD thông qua phiên bản thương mại đầu tiên của HD DVD-ROM. • Ngày 21 tháng 9: Sony cho biết chiếc máy chơi game rất được chờ đợi PlayStation 3 sẽ tích hợp đầu đĩa Blu-ray. • Ngày 29 tháng 11: Một loạt các hãng phim lớn như Paramount Pictures, Universal Pictures, Warner Bros Pictures, HBO và New Line Cinema tuyên bố hậu thuẫn cho HD DVD. • Ngày 9 tháng 12: Hãng phim Disney ra mặt ủng hộ Blu-ray. === 2005 === • Chiếc máy chơi game Sony PlayStation 3 đã giúp ích đắc lực cho thắng lợi của định dạng Blu-ray. Nguồn: Gizmodo Ngày 7 tháng 1: Cả hai phe Blu-ray lẫn HD DVD đều hứa hẹn tung ra đầu đĩa và tựa phim DVD thế hệ mới tại thị trường Bắc Mỹ trước cuối năm - tuy nhiên thực tế đã chứng minh đây chỉ là một lời "hứa lèo". • Ngày 24 tháng 3: Nhen nhóm thắp lên hy vọng về một định dạng chung, khi cựu Chủ tịch Ryoji Chubachi của Sony nói rằng: "Lắng nghe tiếng nói từ người tiêu dùng, chúng tôi nhận thấy việc hai định dạng song song tồn tại thật đáng thất vọng. Sony không hoàn toàn loại trừ khả năng tích hợp hoặc nhượng bộ". • Ngày 21 tháng 4: Toshiba và Sony bắt đầu thương thảo về một định dạng duy nhất, tuy nhiên các cuộc đàm phán đã chẳng dẫn tới đâu. • Ngày 18 tháng 8: Hãng phim Lions Gate Home Entertainment và hãng đĩa Universal Music quyết định đứng về phe Blu-ray. • Ngày 27 tháng 9: Hai gã khổng lồ công nghệ Microsoft và Intel đặt gạch cho HD DVD. • Ngày 3 tháng 10: Paramount Home Entertainment cho biết sẽ bán phim bằng cả hai định dạng HD DVD lẫn Blu-ray. • Ngày 16 tháng 12: Đến lượt HP quyết định không hỗ trợ duy nhất một định dạng Blu-ray nữa mà ủng hộ cả hai định dạng. === 2006 === • Ngày 4 tháng 1: Ngài Chủ tịch Bill Gates của Microsoft phát biểu tại CES là chiếc máy chơi game Xbox 360 sẽ hỗ trợ đầu đĩa HD DVD. • Ngày 10 tháng 3: LG Electronics, một thành viên kỳ cựu của hiệp hội Blu-ray, gây bất ngờ khi tuyên bố đang phát triển một đầu đĩa HD DVD. • Ngày 31 tháng 3: Toshiba tung ra thị trường đầu đĩa HD DVD đầu tiên, chiếc HD-XA1 với giá bán rẻ hơn nhiều so với sản phẩm của Sony: 936 USD. • Ngày 11 tháng 11: Chiếc máy chơi game Sony PlayStation 3 chính thức đáp xuống thị trường Nhật Bản, với đầu đĩa Blu-ray tích hợp bên trong. • Ngày 29 tháng 12: Hacker cho biết đã đột nhập thành công cơ chế chống sao chép AACS mà cả hai định dạng HD DVD lẫn Blu-ray đang sử dụng. === 2007 === • Ngày 7 tháng 1: Trong nỗ lực tìm kiếm hồi kết cho cuộc chiến dai dẳng, LG Electronics công bố một đầu đĩa "hai mang", xem được cả HD DVD lẫn Blu-ray. Warner Bros thì trình làng một đĩa mô hình với mặt trên là HD DVD, mặt dưới là Blu-ray, tức là xem được trên cả hai loại đầu đĩa. • Ngày 17 tháng 4: Lần đầu tiên, doanh số tiêu thụ của đầu đĩa HD DVD tại Bắc Mỹ vượt mốc 100.000 máy. • Ngày 1 tháng 8: Microsoft giảm giá đầu đĩa HD DVD dành cho Xbox 360, từ 199 USD xuống còn 179 USD. Ngoài ra, hãng còn tặng kèm 5 bộ phim HD DVD miễn phí. • Ngày 20 tháng 8: Paramount và Dreamworks Animation đều bỏ Blu-ray để toàn tâm toàn ý hỗ trợ cho HD DVD. • Ngày 13 tháng 9: Sony cho biết sẽ sử dụng đĩa Blu-ray cho tất cả đầu video phân giải cao tại Nhật. • Tháng 11: Giá đầu đĩa HD DVD của Toshiba giảm xuống còn 100 USD khi mùa mua sắm Giáng sinh mở màn. • Ngày 11 tháng 11: Sony bắt đầu bán phiên bản PS3 giá rẻ. === 2008 === • Ngày 4 tháng 1: Warner Bros đột ngột thả một quả bom giữa ban ngày khi tuyên bố: Sẽ ngừng bán phim HD DVD trong tương lai và chỉ ủng hộ cho duy nhất định dạng Blu-ray. Phản ứng trước quyết định này, liên minh Quảng bá HD DVD đã huỷ cuộc họp báo tại CES. • Ngày 6 tháng 1: Ông Akio Ozaka, Chủ tịch Toshiba tại Mỹ vẫn tin tưởng rằng "HD DVD là định dạng phù hợp nhất với nhu cầu và sở nguyện của người dùng". • Ngày 14 tháng 1: Toshiba giảm giá một loạt đầu đĩa HD DVD. Giá bán lẻ của chiếc HD-A3, một sản phẩm tầm trung, giờ chỉ còn 150 USD. • Ngày 11 tháng 2: NetFlix và BestBuy tuyên bố sẽ loại HD DVD ra khỏi các cửa hàng của mình. • Ngày 15 tháng 2: Wal-mart, hãng bán lẻ lớn nhất thế giới, cho biết sẽ ngừng bán sản phẩm HD DVD kể từ tháng 6 tới. • Ngày 16 tháng 2: Cho đến khi các hãng điện tử và hãng phim nghiêng về Blu-ray thì HD DVD thực sự bị lung lay. Tháng 2/2008 Toshiba quyết định tuyên bố ngưng sản xuất dòng máy HD DVD khi các hãng lớn của Mỹ tuyên bố sẽ phát triển và bán sản phấm chuẩn Blu-ray, sự bỏ cuộc của Toshiba kéo theo những hãng lớn như Microsoft, Intel, hãng phim Universal Home Studios và Paramount Home Entertainment cũng bị ảnh hưởng vì họ cũng đã ủng hộ và kì vọng rất nhiều vào chuẩn HD DVD của Toshiba. == Cấu tạo chung == Đĩa Blu-ray gồm có lớp phủ polyme, lớp bảo vệ mỏng hơn so với lớp của HD DVD, đầu đọc Blu-ray có 2 loại diode laser là loại có bước sóng 405 nm, tuy nhiên hầu hết các đầu Blu-ray trên thị trường đều có loại laser 630-650 nm thậm chí cả 780 nm để đọc được cả định dạng DVD, CD... == Các định dạng đĩa thông dụng == Đã có định dạng Blu-ray chất lượng 4k vào tháng 7 năm 2015 == Xem thêm == DVD Đĩa quang Đĩa == Tham khảo == == Liên kết ngoài == The Authoritative Blu-ray Disc (BD) FAQ by Hugh Bennett Đĩa quang: Quá khứ, hiện tại và tương lai Tổng hợp về Blu-ray trên sohoa.net http://www.blu-raydisc.com/ Hiệp hội Blu-ray [1] Nguồn
giang trạch dân.txt
Giang Trạch Dân (chữ Hán phồn thể: 江澤民, giản thể: 江泽民, bính âm: Jiāng Zémín; sinh ngày 17 tháng 8 năm 1926) là "hạt nhân của thế hệ lãnh đạo thứ 3" của Đảng Cộng sản Trung Quốc, ông giữ chức Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Trung Quốc từ năm 1989 tới năm 2002, Chủ tịch nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa từ năm 1993 tới năm 2003, và là Chủ tịch Quân ủy Trung ương từ năm 1989 tới năm 2004. Giang Trạch Dân lên nắm quyền lãnh đạo sau sự kiện những cuộc phản kháng trên Quảng trường Thiên An Môn năm 1989, thay thế Triệu Tử Dương, người bị thanh trừng vì quá khoan dung với những người phản kháng, với chức vụ Tổng bí thư. Với ảnh hưởng ngày càng suy giảm của Đặng Tiểu Bình vì tuổi tác, Giang Trạch Dân đã thực sự trở thành "lãnh đạo tối cao" trong thập niên 1990. Dưới sự lãnh đạo của ông, Trung Quốc đã trải qua một giai đoạn phát triển bền vững với các cải cách, thu hồi một cách hoà bình Hồng Kông từ Anh Quốc và Ma Cao từ Bồ Đào Nha, và cải thiện các quan hệ với thế giới bên ngoài trong khi Đảng Cộng sản vẫn duy trì được sự kiểm soát chặt chẽ với chính phủ. Được biết đến là một trong những khuôn mặt chính trị lôi cuốn của Trung Quốc, Giang Trạch Dân bị chỉ trích vì quá cẩn thận với hình ảnh đời sống cá nhân, và quá nhún nhường trước Nga và Hoa Kỳ. Những lời chỉ trích cũng tập trung vào sự bất lực của Giang Trạch Dân trong việc duy trì kiểm soát trên nhiều vấn đề và sự bất công xã hội trong nhiệm kỳ của ông. Các thành viên Đảng Cộng sản theo đường lối cứng rắn Trung Quốc buộc tội Giang Trạch Dân là một lãnh đạo quá thiên cải cách, người đã hợp pháp hoá hoàn toàn cho chủ nghĩa tư bản. Đóng góp của ông vào học thuyết Mác xít, một danh sách các lý luận mang tính chỉ đạo theo đó Đảng Cộng sản Trung Quốc lãnh đạo nhà nước, được gọi là lý thuyết Ba đại diện, đã được đưa vào điều lệ đảng và hiến pháp nhà nước. == Tiểu sử và sự thăng tiến == Dòng họ ông, một khái niệm quan trọng trong xã hội truyền thống Trung Quốc, nằm tại thôn Giang (江村), huyện Tinh Đức (旌德县) Huy Châu (徽州) cũ, phía nam tỉnh An Huy, đây cũng là quê hương của một số học giả và trí thức nổi tiếng Trung Quốc. Giang Trạch Dân lớn lên trong những năm chiếm đóng của Nhật Bản. Chú ông, Giang Thế Hầu, một cán bộ của Đảng Cộng sản Trung Quốc hy sinh trong khi chiến đấu với quân Nhật, và được coi là một người tử vì đạo. Giang Trạch Dân vào Đại học Trung ương Quốc gia (国立中央大学) tại vùng Nam Kinh dưới sự chiếm đóng của quân Nhật trước khi chuyển sang Đại học Giao thông Thượng Hải. Ông tốt nghiệp năm 1947 với tấm bằng kỹ sư điện. Ông gia nhập Đảng Cộng sản Trung Quốc khi còn đang là sinh viên. Sau khi nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa được thành lập, Giang Trạch Dân được đi học tại Nhà máy Ô tô Stalin ở Moskva trong thập niên 1950. Ông làm việc tại Xưởng ô tô thứ nhất tại Trường Xuân. Cuối cùng ông chuyển sang làm các công việc quản lý của chính phủ và bắt đầu thăng tiến, trở thành một thành viên Uỷ ban Trung ương Đảng Cộng sản, Bộ trưởng Công nghiệp Điện năm 1983. Năm 1985 ông trở thành Chủ tịch thành phố Thượng Hải, và sau đó là Bí thư thành uỷ Thượng Hải. Khi còn là chủ tịch thành phố Giang Trạch Dân nhận được nhiều lời khen chê khác nhau. Nhiều lời chỉ trích cho rằng ông là một "bình hoa", một thuật ngữ Trung Quốc được dùng để miêu tả người chỉ có chức vụ nhưng vô tích sự. Nhiều người cho rằng sự phát triển của Thượng Hải trong thời gian này là công của Chu Dung Cơ . Giang Trạch Dân là người tuyệt đối trung thành với Đảng, trong giai đoạn này, giữa các cuộc cải cách kinh tế của Đặng Tiểu Bình. Trong một nỗ lực nhằm kiềm chế những sinh viên bất bình năm 1986, Giang Trạch Dân đã viện dẫn Bài diễn văn Gettysburg bằng tiếng Anh trước một nhóm sinh viên phản kháng. Giang Trạch Dân được miêu tả là người có khả năng nói tạm đủ nhiều ngoại ngữ, gồm tiếng Rumani, tiếng Nga, và tiếng Anh. Một trong những sở thích của ông là tiếp đón các vị khách nước ngoài với những cuộc nói chuyện nhỏ về văn học và nghệ thuật bằng ngôn ngữ của họ, ngoài ra còn hát những bài hát ngoại quốc bằng nguyên ngữ. Ông trở nên thân thiết với Allen Broussard, vị thẩm phán người Mỹ gốc Phi tới thăm Thượng Hải năm 1987. Giang bắt đầu thăng tiến trong hệ thống chính trị quốc gia năm 1987, tự động trở thành một thành viên Bộ chính trị Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc vì theo truyền thống vị Bí thư thành uỷ Thượng Hải đương nhiên có chân trong Bộ chính trị. Năm 1989, Trung Quốc đối mặt với cuộc khủng hoảng vì những cuộc phản kháng trên Quảng trường Thiên An Môn, và Chính phủ Trung ương đang bối rối trước việc giải quyết cuộc khủng hoảng đó. (Chính sách mở cửa, do Đặng Tiểu Bình đưa ra, đã chứng tỏ là một điểm quan trọng và khôn ngoan trong lịch sử hiện đại Trung Quốc, giúp kinh tế phát triển ở mức độ đáng kinh ngạc trong nhiều thập kỷ.) Tháng 6, Đặng Tiểu Bình bãi chức nhân vật theo đường lối tự do Triệu Tử Dương, người bị cho là có đường lối quá ôn hoà trước các sinh viên phản kháng. Ở thời điểm đó, Giang Trạch Dân là Bí thư thành uỷ Thượng Hải, khu vực hàng đầu của trung tâm kinh tế mới Trung Quốc. Trong một vụ việc với World Economic Herald, Giang Trạch Dân đã cho đóng cửa tờ báo này, lên án nó gây nguy hại. Việc xử lý vụ khủng hoảng ở Thượng Hải đã được Bắc Kinh chú ý, và vị lãnh đạo tối cao khi ấy là Đặng Tiểu Bình. Khi các cuộc phản kháng leo thang và vị Tổng thư ký Đảng cộng sản khi ấy là Triệu Tử Dương bị cách chức, Giang Trạch Dân được giới lãnh đạo Đảng chọn làm ứng cử viên thay cho Lý Thụy Hoàn ở Thiên Tân, Thủ tướng Lý Bằng, Trần Vân, và những vị lãnh đạo già cả khác để trở thành Tổng bí thư. Ở thời điểm đó ông bị coi là ứng cử viên không thích hợp. Trong vòng ba năm, Đặng Tiểu Bình đã chuyển hầu hết quyền lực trong Đảng, Nhà nước và quân đội vào tay Giang Trạch Dân. == Những năm đầu nắm quyền lãnh đạo == Giang Trạch Dân leo lên chức vụ cao nhất nước năm 1989 với một căn cứ quyền lực hậu thuẫn khá nhỏ trong Đảng, và vì thế, có ít quyền hành thực sự. Ông chỉ đơn giản được cho là một nhân vật chuyển tiếp tạm thời trước khi một chính phủ kế tục và ổn định hơn của Đặng Tiểu Bình xuất hiện. Các nhân vật nổi bật khác trong Đảng và Quân đội như Dương Thượng Côn và người em trai Dương Bạch Băng được cho là đang lên kế hoạch một cuộc đảo chính. Giang Trạch Dân đã dùng Đặng Tiểu Bình làm hậu thuẫn cho mình trong những năm đầu cầm quyền. Vốn được coi là người có quan điểm tân bảo thủ, Giang Trạch Dân đã cảnh báo chống lại "tự do hoá tư sản". Tuy nhiên, Đặng Tiểu Bình cho rằng phương pháp duy nhất để Đảng Cộng sản tiếp tục nắm quyền cai trị trên toàn Trung Quốc là tiếp tục con đường cải cách kinh tế và hiện đại hoá, và vì thế có quan điểm trái ngược Giang Trạch Dân. Đặng Tiểu Bình đã làm gia tăng lời chỉ trích sự lãnh đạo của Giang Trạch Dân năm 1992. Trong chuyến đi thăm phương nam, ông đã khôn khéo gợi ý rằng tốc độ cải cách còn chưa đủ nhanh, và giới "lãnh đạo trung ương" (như Giang Trạch Dân) phải chịu trách nhiệm chính. Giang Trạch Dân trở nên cẩn thận hơn và hoàn toàn tuân thủ các cải cách của Đặng Tiểu Bình. Năm 1993, Giang Trạch Dân đưa ra thuật ngữ mới "Kinh tế Thị trường Xã hội chủ nghĩa", một tuyên bố bề ngoài có vẻ nghịch lý, để chuyển nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung của Trung Quốc sang một nền kinh tế thị trường tư bản có sự quản lý của nhà nước. Đây là một bước tiến vĩ đại của chủ trương "Chủ nghĩa xã hội mang màu sắc Trung Quốc" của Đặng Tiểu Bình. Cùng lúc ấy, sau khi đã lấy được lòng tin của Đặng Tiểu Bình, Giang Trạch Dân bổ nhiệm nhiều người thân tín ở Thượng Hải vào các chức vụ trong chính phủ. Ông xoá bỏ Uỷ ban Cố vấn Trung ương, một cơ quan cố vấn gồm các vị lãnh đạo cách mạng già cả nhằm tập trung quyền lực. Giang Trạch Dân nắm chức Chủ tịch Quân uỷ Trung ương năm 1989, sau khi đã được bầu làm Chủ tịch nước tháng 3 năm 1993. == Chức Chủ tịch nước == === Đặng Tiểu Bình mất === Đặng Tiểu Bình mất đầu năm 1997, và Trung Quốc, dần phát triển từ các cuộc cải cách từ thời Đặng Tiểu Bình với sự ổn định khá vững chắc trong thập niên 1990, phải đối mặt với các vấn đề kinh tế và xã hội. Tại lễ tang Đặng Tiểu Bình, Giang Trạch Dân đọc bài ca ngợi chính thức, với cả những giọt nước mắt mà nhiều người Trung Quốc coi là giả dối. Giang Trạch Dân đã thừa hưởng một đất nước Trung Quốc với tình trạng tham nhũng nặng nề, các nền kinh tế địa phương phát triển quá nhanh cho sự ổn định của toàn thể đất nước. Ý tưởng của Đặng rằng "một số vùng có thể trở nên giàu có trước các vùng khác" đã khiến hố sâu ngăn cách giàu nghèo giữa các vùng ven biển và vùng nội địa càng rộng. Sự phát triển kinh tế thần kỳ đương nhiên dẫn tới tình trạng nhiều doanh nghiệp nhà nước (SOE) phải bị đóng cửa, tỷ lệ thất nghiệp lên tới 40% tại một số vùng thành thị. Các thị trường chứng khoán lên xuống bất thường. Tỷ lệ di cư từ nông thôn tới các vùng thành thị lớn chưa từng thấy và chính phủ không làm được gì nhiều để giảm hố sâu ngăn cách về kinh tế giữa thành thị và nông thôn. Các báo cáo chính thức về phần trăm GDP của Trung Quốc bị mất đi do các quan chức tham nhũng lên tới 10%. Một môi trường hỗn loạn các phiếu nợ bất hợp pháp do các quan chức dân sự và quân sự phát hành đã khiến đa số các tài sản bị tham nhũng được chuyển ra nước ngoài. Mức độ tham nhũng đã quay trở lại, nếu không nói là vượt quá so với tình trạng thời kỳ Quốc dân Đảng cầm quyền hồi thập niên 1940. Tỷ lệ tội phạm tăng vọt và sự tái xuất hiện của tội phạm có tổ chức bắt đầu trở thành tai hoạ tại các thành phố. Tình trạng phá hoại môi trường tự do càng khiến giới trí thức lo ngại và lên tiếng cảnh báo. Mục tiêu lớn nhất của Giang Trạch Dân trong điều hành kinh tế là sự ổn định, và ông tin rằng một chính phủ ổn định với quyền lực tập trung trung ương cao độ là điều kiện tiên quyết, chấp nhận trì hoãn cải cách chính trị, vốn là nguyên nhân gây ra rất nhiều vấn đề. Giang Trạch Dân tiếp tục rót vốn để phát triển các Vùng Kinh tế Đặc biệt và các vùng ven biển. Giang Trạch Dân được cho là vị lãnh đạo Trung Quốc đầu tiên thực sự biết sử dụng truyền hình để tăng cường hình ảnh cá nhân, giành được tiếng là người có sức lôi cuốn, dù không phải tuyệt đối. Bắt đầu từ năm 1996, Giang đưa ra một loạt các biện pháp cải cách với giới truyền thông đang thuộc quyền quản lý của nhà nước, với mục đích tăng cường "hạt nhân lãnh đạo" dưới quyền mình, và cùng lúc ấy đàn áp một số đối thủ chính trị. Việc tăng cường hình ảnh cá nhân trên các phương tiện truyền thông không được tán thành ở thời Đặng Tiểu Bình, và cũng không hề có ở thời Mao Trạch Đông và Hoa Quốc Phong hồi cuối thập niên 1970. Trên tờ Nhân dân Nhật Báo và bản tin lúc 7 giờ sáng của CCTV-1 đều có các sự kiện liên quan tới Giang, việc này kéo dài cho tới khi Hồ Cẩm Đào đưa ra những thay đổi trong quản lý truyền thông năm 2006. Ông xuất hiện bất ngờ trước truyền thông phương Tây và có một cuộc phỏng vấn chưa từng có tiền lệ với nhà báo Mike Wallace của kênh CBS năm 2000 tại Beidaihe. Giang Trạch Dân thường sử dụng tiếng nước ngoài trước các ống kính truyền thông phương tây, dù không phải lúc nào cũng trôi chảy. Trong một cuộc gặp với một phóng viên Hồng Kông năm 2000 về hành động rõ ràng kiểu "mệnh lệnh triều đình" của chính phủ trong việc ủng hộ Đổng Kiến Hoa tranh cử chức Chủ tịch Hành pháp Hồng Kông, Giang Trạch Dân đã gọi các nhà báo Hồng Kông một cách bất lịch sự là "too simple, sometimes naive" (quá đơn giản, thỉnh thoảng ngờ nghệch) bằng tiếng Anh. Sự kiện này đã được phát trên truyền hình Hồng Kông buổi tối hôm đó, và bị coi là một scandal ở bên ngoài Trung Quốc. Từ năm 1999, truyền thông cũng đóng một vai trò trung gian trong việc khủng bố Pháp Luân Công, được cho là một hành động dưới sự chỉ đạo trực tiếp của chính Giang, và bị chỉ trích mạnh mẽ ở phương Tây. Giang Trạch Dân được cho là đã xung đột với vị thủ tướng khi ấy là Chu Dung Cơ về việc xử lý phong trào tinh thần phát triển nhanh chóng này. Giang cũng cho bắt giữ những người điều phối và dẹp tan các vụ biểu tình, dù có nhiều hành động phản kháng từ các nhóm nhân quyền. Ông cũng là bị đơn của nhiều cuộc kiện tụng liên quan tới vấn đề này. === Chính sách đối ngoại === Giang Trạch Dân cũng đã bị chỉ trích bên trong Trung Quốc vì quá khoan nhượng với Hoa Kỳ và Nga. Ông đã tiến hành một chuyến Viếng thăm cấp nhà nước bất ngờ tới Hoa Kỳ năm 1997, có nhiều người đã phản đối từ Phong trào Độc lập Tây Tạng cho tới những người thực hành Pháp Luân Công. Giang Trạch Dân đã đọc một bài diễn văn tại Đại học Harvard, một phần bằng tiếng Anh, nhưng vẫn không tránh khỏi các câu hỏi về dân chủ và tự do. Trong cuộc gặp thượng đỉnh chính thức với Tổng thống Hoa Kỳ Bill Clinton, giọng điệu ngoại giao đã mềm mỏng hơn khi Giang Trạch Dân và Clinton cùng đề cập tới những lập trường chung và tránh đi các bất đồng. Clinton tới thăm Trung Quốc tháng 2 năm 1999, và nói rằng Trung Quốc cùng Hoa Kỳ là các đồng minh chứ không phải hai đối thủ. Khi khối NATO do Hoa Kỳ đứng đầu ném bom đại sứ quán Trung Quốc tại Belgrade năm 1999, Giang Trạch Dân dường như đã chuẩn bị một lập trường cứng rắn để thể hiện trong nước nhưng trên thực tế ông chỉ đưa ra những hành động phản kháng mang tính biểu tượng. Một hành động tương tự diễn ra khi một chiếc máy bay do thám của Mỹ va chạm với một chiếc máy bay phản lực Trung Quốc, khiến viên phi công Trung Quốc thiệt mạng. Giang Trạch Dân đã cho phép phi hành đoàn chiếc máy bay Mỹ ở tại một khách sạn sang trọng tại Hải Nam, và thả họ ba ngày sau đó mà không yêu cầu bất kỳ khoản bồi thường thiệt hại nào. Đa phần chính sách đối ngoại của Giang Trạch Dân chú trọng tới thương mại quốc tế chứ không phải hội nhập kinh tế. Là một người bạn của cựu Thủ tướng Canada Jean Chretien Giang Trạch Dân đã tăng cường vị thế kinh tế của Trung Quốc ở nước ngoài, tìm cách thiết lập quan hệ thân thiện với các quốc gia có nền thương mại tiếp giáp với nền kinh tế Mỹ. === Phát triển kinh tế === Giang Trạch Dân không có chuyên môn về kinh tế, và vào năm 1997 đã giao nhiệm vụ điều hành kinh tế đất nước cho Chu Dung Cơ, người đã trở thành Thủ tướng, và tiếp tục giữ chức này trong suốt cuộc Khủng hoảng Tài chính châu Á. Dưới sự lãnh đạo chung của họ, Lục địa Trung Quốc đã duy trì được mức tăng trường GDP 8% mỗi năm, đạt được mức tăng trưởng kinh tế trên đầu người cao nhất so với các nền kinh tế lớn trên thế giới, khiến thế giới phải kinh ngạc về tốc độ tăng trưởng này. Điều này có được chủ yếu nhờ sự tiếp nỗi quá trình chuyển tiếp sang một nền kinh tế thị trường. Tuy nhiên, các nhà kinh tế, buộc tội Giang đã tạo ra một nền kinh tế bong bóng có thể bùng nổ bất kỳ lúc nào. Tuy nhiên, việc kiểm soát chặt chẽ kinh tế của chính phủ vẫn tiếp diễn, khi Giang Trạch Dân không ngừng tập trung quyền lực. Thành quả trong thời kỳ cầm quyền của Giang càng tăng với việc Trung Quốc gia nhập thành công vào Tổ chức Thương mại Thế giới và Bắc Kinh giành quyền đăng cai Olympics Mùa hè năm 2008. === Thuyết Ba Đại Diện === Nội dung Thuyết Ba đại điện: Đảng cộng sản Trung Quốc đại diện cho lực lượng sản xuất tiên tiến, đại diện nền văn hóa tiên tiến và đại diện lợi ích của đông đảo nhân dân Trung Quốc. Trước khi chuyển giao quyền lực cho thế hệ lãnh đạo trẻ hơn, Giang Trạch Dân đã đưa Thuyết Ba Đại Diện của mình vào trong Điều lệ Đảng, cùng với Chủ nghĩa Mác Lênin, Tư tưởng Mao Trạch Đông, và Học thuyết Đặng Tiểu Bình Tại đại hội thứ 16 Đảng Cộng sản Trung Quốc năm 2002. Dù trái ngược với Chủ nghĩa Mao và Chủ nghĩa Mác ở một số khía cạnh, nó cũng được đưa vào trong Hiến pháp Trung Quốc. Những người chỉ trích tin rằng đây chỉ là một phần trong sự thần thánh hoá cá nhân Giang, những người khác coi việc áp dụng học thuyết là tư tưởng dẫn đường trong việc lãnh đạo tương lai của Đảng Cộng sản Trung Quốc. Học thuyết Ba Đại diện được nhiều nhà phân tích chính trị coi là nỗ lực của Giang Trạch Dân nhằm mở rộng các Nguyên tắc Mác xít Lêninít, và vì thế đưa ông lên ngang tầm với những triết gia Mác xít Trung Quốc thời trước như Mao Trạch Đông và Đặng Tiểu Bình. Giang Trạch Dân cũng bị nhiều nhóm chỉ trích, đáng chú ý nhất là bởi Pháp Luân Công, một tổ chức tinh thần tố cáo Giang và Đảng Cộng sản Trung Quốc dưới sự lãnh đạo của ông đã đàn áp các thành viên của họ. Tờ Epoch Times đã xuất bản một cuốn sách chỉ trích mạnh mẽ Giang với tựa đề Anything for Power: The Real Story of China’s Jiang Zemin (Tất cả cho Quyền lực: Câu chuyện thực về Giang Trạch Dân của Trung Quốc), nêu ra nhiều vụ scandal và những hành động tàn bạo của Giang Trạch Dân trong thời kỳ nắm quyền, gồm cả lý lịch gia đình mơ hồ, hành động đàn áp dã man Pháp Luân Công, và cái gọi là mối quan hệ của ông với ca sĩ Song Zuying. == Dần rút lui khỏi quyền lực == Năm 2002, Giang Trạch Dân rời khỏi Ban Thường trực Bộ chính trị Đảng Cộng sản Trung Quốc nhường đường cho một "thế hệ lãnh đạo thứ tư" đứng đầu là Hồ Cẩm Đào, đánh dấu sự khởi đầu quá trình chuyển tiếp quyền lực kéo dài trong vài năm. Hồ Cẩm Đào lên nắm chức vụ lãnh đạo Đảng, trở thành Tổng bí thư Đảng Cộng sản. Sáu trong số chín thành viên mới Ban Thường trực ở thời điểm ấy được coi là một phần trong cái gọi là "Nhóm Thượng Hải" của Giang, đáng chú ý nhất là vị Phó Chủ tịch Tăng Khánh Hồng và Phó Thủ tướng Hoàng Cúc. Dù vậy Giang Trạch Dân vẫn giữ chức chủ tịch cơ quan đầy quyền lực là Quân uỷ Trung ương, đa số các thành viên cơ quan này là các sĩ quan quân đội chuyên nghiệp. Liberation Army Daily (Nhật Báo Quân đội Giải phóng), một tờ báo được cho là đại diện cho các quan điểm của đa số quân đội Trung Quốc, ngày 11 tháng 3 năm 2003 đã có một bài trích dẫn hai đại biểu quân đội nói, "Có một trung tâm được gọi là 'trung thành', trong khi hai trung tâm sẽ dẫn tới 'các vấn đề.'" [1] Điều này được hiểu là một lời chỉ trích nỗ lực của Giang nhằm thực hiện quyền lãnh đạo đối với Hồ Cẩm Đào theo mô hình của Đặng Tiểu Bình. Hồ Cẩm Đào kế tục Giang Trạch Dân làm Chủ tịch nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa ngày 15 tháng 3 năm 2003. Trước sự ngạc nhiên của nhiều nhà quan sát, bằng chứng về sự ảnh hưởng kéo dài của Giang Trạch Dân trên chính sách bỗng biến mất khỏi truyền thông. Giang Trạch Dân rõ ràng đã giữ im lặng trong cuộc khủng hoảng dịch SARS, đặc biệt rõ khi so sánh với Hồ Cẩm Đào và Ôn Gia Bảo. Đã có những tranh luận cho rằng các thoả thuận về định chế được đưa ra sau Đại hội đảng lần thứ 16 khiến Giang chỉ có một vị trí không còn nhiều ảnh hưởng nữa. Dù nhiều thành viên Ban Thường trực Bộ chính trị là đồng minh của ông, Ban Thường trực không có chức năng lãnh đạo với bộ máy quản lý dân sự. Ngày 19 tháng 9 năm 2004, sau một cuộc gặp bốn ngày với 198 thành viên Ban chấp hành Trung ương, Giang Trạch Dân đã từ chức Chủ tịch Quân uỷ Trung ương, vị trí cuối cùng trong Đảng của ông. Sáu tháng sau ông từ chức vụ cuối cùng, chủ tịch Quân ủy Trung ương (CMC). Điều này đã khiến trong nhiều tuần tiếp theo đã có những lời đồn rằng những người ủng hộ Hồ Cẩm Đào trong giới lãnh đạo Đảng Cộng sản đã gây sức ép buộc Giang Trạch Dân rút lui. Theo đúng quy định, Giang Trạch Dân chỉ hết nhiệm kỳ vào năm 2007. Hồ Cẩm Đào lên nắm chức chủ tịch CMC, nhưng, trong một thất bại chính trị rõ ràng của Giang Trạch Dân, Từ Tài Hậu, chứ không phải Tăng Khánh Hồng được chỉ định làm vị phó của Hồ Cẩm Đào. Cuộc chuyển tiếp quyền lực này chính thức đánh dấu sự kết thúc kỷ nguyên của Giang tại Trung Quốc, khoảng từ năm 1993 tới năm 2004. Dù Giang ít khi xuất hiện trước công chúng từ sau khi từ bỏ chức vụ chính thức cuối cùng hồi năm 2004, ông đã xuất hiện cùng Hồ Cẩm Đào trong lễ kỷ niệm lần thứ 80 ngày thành lập Quân đội Giải phóng Nhân dân , và đi thăm Bảo tàng Quân đội của Cách mạng Nhân dân Trung Quốc với Lý Bằng, Chu Dung Cơ, và các quan chức cao cấp khác. == Di sản == Các nhà sử học và tác gia tiểu sử đã tranh luận về điều có thể được coi là "di sản Giang Trạch Dân". Giang muốn đó là Thuyết Ba Đại diện, gọi nó là một "tư tưởng quan trọng" trên lục địa, trở thành di sản tư tưởng của ông. Dù thuyết này đã được đưa vào cả trong Điều lệ Đảng và Hiến pháp cùng với Tư tưởng Mao Trạch Đông và Học thuyết Đặng Tiểu Bình, hiệu quả thực tế của nó còn chưa được xác nhận, và dường như nó đang mất ảnh hưởng trước các tư tưởng Viễn cảnh Khoa học và Xã hội hài hoà của Hồ Cẩm Đào bên trong Đảng. Giang đã gặp phải sự chỉ trích lặng lẽ bên trong Đảng Cộng sản Trung Quốc vì chú trọng vào phát triển kinh tế bằng mọi giá mà bỏ qua sự trả giá về môi trường, khiến khoảng cách rất lớn giữa người giàu và người nghèo ở Trung Quốc càng tăng và khiến những người không được hưởng mấy từ thành quả phát triển kinh tế trở thành những người gánh chịu những hậu quả xã hội. Trái ngược lại, các chính sách của người kế nhiệm ông, Hồ Cẩm Đào và Ôn Gia Bảo được nhiều người coi là những nỗ lực nhằm giải quyết những bất bình đẳng đó và chuyển từ chỉ chú trọng vào phát triển kinh tế sang nhãn quan phát triển rộng hơn bao gồm cả các lĩnh vực phi kinh tế như sức khoẻ và môi trường. Ở trong nước, di sản và tiếng tăm của Giang cũng có nhiều tranh luận. Trong khi một số người coi giai đoạn tương đối ổn định và phát triển trong thập niên 1990 là công của Giang, một số người khác lại cho rằng ông đã không hành động nhiều để sửa chữa các sai lầm từ những cuộc cải cách kinh tế của Đặng Tiểu Bình, khiến thế hệ lãnh đạo tiếp sau phải đối mặt với rất nhiều vấn đề, một số trong đó đã quá muộn để có thể giải quyết. Sự ám ảnh của Giang Trạch Dân với hình ảnh bên ngoài cũng đã gây ra một khuynh hướng các dự án hoành tráng khắp đất nước, các quan chức địa phương đã chi những số tiền khổng lồ vào các dự án xây dựng lớn và không cần thiết. Thuyết Ba Đại diện của Giang hợp thức hoá việc kết hợp tầng lớp kinh doanh tư bản mới vào Đảng, và thay đối lý thuyết nền tảng của Đảng Cộng sản Trung Quốc là bảo vệ người nông dân và công nhân những người chiếm "đại đa số nhân dân", một uyển ngữ với mục đích gộp cả tầng lớp doanh nhân đang ngày càng phát triển. Những người chỉ trích mang tư tưởng bảo thủ bên trong đảng đã lặng lẽ phản đối hành động này, coi đó là sự phản bội tư tưởng cộng sản, trong khi những người cải cách ca ngợi Giang là một người có tầm nhìn xa trông rộng. Tuy nhiên, một hành động như vậy đã hợp thức hoá cho một tầng lớp trung gian giữa những nhà kinh doanh và tầng lớp lãnh đạo, vì thế kết nối một cách hữu hiệu giới lãnh đạo và những lợi ích tài chính, mà những người chỉ trích cho rằng làm tăng tình trạng lạm phát. Một số người đã cho rằng đây là phần di sản sẽ còn tồn tại lâu của Giang, ít nhất là về mặt hình thức, khi những người cộng sản còn nắm quyền lực. Nhiều nhà viết tiểu sử Giang Trạch Dân đã lưu ý rằng chính phủ của ông giống với một chính thể đầu sỏ trái ngược với một chính thể độc tài. Rất nhiều chính sách của ông đã được gán cho các nhân vật khác trong chính phủ, chủ yếu là Chu Dung Cơ, người có quan hệ mật thiết với Giang, đặc biệt đã tuân theo quyết định của Giang đàn áp phong trào Pháp Luân Công. Giang thường được cho là nguyên nhâncủa những thắng lợi đối ngoại trong nhiệm kỳ của ông, nhưng cùng lúc ấy nhiều người Trung Quốc chỉ trích ông vì quá khoan nhượng trước Hoa Kỳ và Nga. Vấn đề thống nhất Trung Quốc giữa lục địa và Đài Loan đã được bàn luận nhiều trong nhiệm kỳ của ông, và những cuộc đàm phán giữa hai bờ eo biển cuối cùng đã dẫn tới một thoả thuận Ba Liên Kết sau khi ông kết thúc nhiệm kỳ. Đường sắt Thanh Hải - Tây Tạng bắt đầu được xây dựng ở thời cầm quyền của Giang, và đã được nhiều người dân Tây Tạng ca ngợi, dù một số người coi đó chỉ đơn thuần là một hành động chính trị. Giang Trạch Dân cũng bị cáo buộc nhân nhượng trước Nhật Bản và Hoa Kỳ trong vấn đề ngoại giao. == Gia đình == Tháng 12 năm 1949 ông kết hôn với Vương Dã Bình, hai người có hai đứa con trai, con trưởng là Giang Miên Hằng, hiện giữ chức Phó Viện trưởng Viện khoa học Trung Quốc. Kiêm nhiệm Viện trưởng Phân Viện Thượng Hải, đồng thời còn đảm nhiệm chức giám đốc Công ty Trách nhiệm Hữu hạn Tập đoàn Xe điện Thượng Hải, giám đốc Công ty Trách nhiệm Hữu hạn Tập đoàn Liên lạc Viễn thông Thượng Hải, giám đốc Công ty Trách nhiệm Hữu hạn Tập đoàn Sân bay Thượng Hải, con thứ hai là Giang Miên Khang nhậm chức tại một Trung tâm Nghiên cứu ở Thượng Hải, đồng thời còn giữ chức Tổng giám đốc Công ty Trách nhiệm Hữu hạn Địa lý thành phố Thượng Hải. == Sự kiện đàn áp Pháp Luân Công == Giang Trạch Dân được xem là người chủ trương và trực tiếp lãnh đạo tổ chức đàn áp những người đi theo học môn khí công này do ông Lý Hồng Chí sáng lập. == Sơ lược lý lịch == Năm 1937 - Nhập học trường Trung học Dương Châu. Năm 1943 - Nhập học trường Đại học Trung ương Nam Kinh. Tháng 10 năm 1945 - Chuyển hộ khẩu sang trường Đại học Giao thông Thượng Hải. Tháng 4 năm 1946 - Gia nhập Đảng Cộng sản Trung Quốc. Tháng 9 năm 1982 - Được bầu làm Ủy viên Trung ương Đảng tại đại hội Đảng lần 12. Tháng 6 năm 1983 - Nhậm chức Bộ trưởng Công nghiệp Điện tử. Tháng 6 năm 1985 - Nhậm chức Phó Thư ký Ủy ban Đảng thành phố Thượng Hải. Tháng 7 năm 1985 - Nhậm chức Thị trưởng Thượng Hải. Tháng 11 năm 1987 - Được bầu làm Bí thư thành ủy Thượng Hải. Ủy viên Cục Chính trị Trung ương Đảng tại đại hội toàn Đảng kỳ 1 khoá 13. Tháng 4 năm 1988 – Thôi giữ chức vụ Thị trưởng Thượng Hải. Tháng 6 năm 1989 - Được bầu làm Ủy viên Thường vụ Cục Chính trị Trung ương Đảng. Tổng thư ký Ủy ban Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc tại đại hội toàn Đảng kỳ 4 khoá 13. Tháng 11 năm 1989 - Được bầu làm Chủ tịch Ủy viên Quân sự Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc tại đại hội toàn Đảng kỳ 5 khoá 13. Tháng 3 năm 1990 - Được bầu làm Chủ tịch Ủy viên Quân sự nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa tại hội nghị lần 3 đại hội Đại biểu Nhân dân toàn quốc kỳ 7. Tháng 3 năm 1993 - Được bầu làm Chủ tịch nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa tại hội nghị lần 1 Đại biểu Nhân dân toàn quốc kỳ 8. Tháng 11 năm 1998 - Là vị Chủ tịch nước Trung Quốc đầu tiên viếng thăm Nhật Bản. Tháng 2 năm 2000 - Thâu tóm chính quyền Đảng Cộng sản Trung Quốc nhằm kết thúc cuộc đấu tranh giai cấp, là một trong 3 đại biểu đề xuất tư tưởng phủ định cuộc đấu tranh giai cấp vẫn còn đang tiếp diễn. Tháng 11 năm 2002 - Thôi giữ chức vụ Ủy viên Thường vụ Cục Chính trị. Tổng thư ký Đảng tại đại hội toàn Đảng kỳ 1 lần 16. Tháng 3 năm 2003 - Thôi giữ chức vụ Chủ tịch nước tại hội nghị lần 1 Đại biểu Nhân dân toàn quốc kỳ 10. Tháng 9 năm 2004 - Từ chức Chủ tịch Ủy viên Quân sự Trung ương Đảng tại đại hội toàn Đảng kỳ 4 lần 16. Tháng 3 năm 2005 - Từ chức Chủ tịch Ủy viên Quân sự Trung ương Quốc gia tại hội nghị lần 3 Đại biểu Nhân dân toàn quốc kỳ 10. Bây giờ ở nhà nghỉ hưu == Xem thêm == Phòng 610 Chính trị Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa Lịch sử Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa (1989-2002) Người đàn ông đã thay đổi Trung Quốc: Cuộc đời và Di sản Giang Trạch Dân, tiểu sử gây tranh cãi về Giang Trạch Dân của Robert Lawrence Kuhn Chu Vĩnh Khang Bạc Hy Lai == Tham khảo và đọc thêm == Gilley, Bruce. "Tiger on the Brink: Jiang Zemin and China's New Elite." Berkeley: University of California Press, 1998. 395pp. This was the first biography of Jiang to appear in the West. A comprehensive and highly readable journalistic account of Jiang's early years, his ascendancy within the Party bureaucracy, and his ultimate rise to power as Deng Xiaoping's successor in the wake of Tiananmen. Kuhn, Robert Lawrence = The Man Who Changed China: The Life and Legacy of Jiang Zemin, Random House (English edition) 2005. Century Publishing Group, Shanghai (Chinese edition) 2005. The book is a general biography of Jiang with a more favorable stance towards him. China Daily = English language review of biography by Dr. Kuhn. The Real Story of Jiang Zemin, The Epoch Times newspaper. http://www.theepochtimes.com This article is largely critical of Jiang. (Authorship remains anonymous for safety reasons) Lam, Willy Wo-Lap. "The Era of Jiang Zemin"; Prentice Hall, Singapore: 1999. General Jiang-era background information and analysis, not comprehensive biography. == Liên kết ngoài == Biography at People's Daily Biography at China Vitae, the web's largest online database of China VIPs Caricature of Jiang Zemin Reviews of Jiang Zemin biographies by cosmopolis.ch
kẹo dừa.txt
Kẹo dừa là một loại kẹo được chế biến từ nguyên liệu chính là cơm dừa và đường mạch nha. Đây là loại kẹo đặc sản và là một nghề thủ công truyền thống mang đậm văn hóa xứ sở. Việt Nam có nhiều vùng trồng dừa nhưng Bến Tre chính là nơi ra đời và phát triển nghệ thuật chế biến kẹo dừa. == Lịch sử == Kẹo dừa Bến Tre có nguồn gốc từ huyện Mỏ Cày. Theo các tư liệu sưu tầm được thì người đầu tiên làm ra kẹo là bà Nguyễn Thị Ngọc, sinh năm 1914, cư ngụ tại khu phố 1, thị trấn Mỏ Cày. Kẹo dừa lúc đó có tên là kẹo Mỏ Cày. Vào năm 1970, bà Nguyễn Thị Vinh, sinh năm 1945, cư ngụ tại thị xả Bến Tre, thay đổi mới cách chế biến kẹo. Bà thành lập cơ sở sản xuất kẹo dừa Thanh Long, cơ sở đầu tiên ở thị xả Bến Tre, và từ đó tạo ra tên kẹo dừa Bến Tre. Nguyên liệu làm kẹo dừa gồm: nước cốt dừa, mạch nha, đường (trước kia người ta dùng đường thùng nhưng ngày nay dùng đường cát). Mạch nha được chắt lọc từ chất đường của hạt nếp khi được ủ cho lên mầm. == Quy trình làm kẹo dừa == Làm đường mạch nha Muốn làm kẹo ngon, khâu chọn nguyên liệu rất quan trọng. Thóc nếp dùng để nấu mạch nha phải là nếp tốt, hạt to chín đều. Để nảy mầm thóc phải được tưới bằng nước mưa sạch rồi đem nấu lấy mạch nha. Thợ nấu mạch nha phải là thợ lành nghề điêu luyện. Dừa khô lựa trái "rám vàng" mới vừa hái xuống. Vì trái dừa mới bắt đầu khô này có hương vị đặc trưng, nước cốt có độ ngọt thanh. Đường nấu kẹo phải chọn loại đường mới, có màu vàng tươi. == Quy trình làm kẹo dừa qua ảnh == Sên Nguyên liệu làm kẹo dừa phải là dừa khô, loại dừa hầu như còn nước dừa bên trong rất ít và hầu như không còn, cơm dừa phải dày, có độ béo cao và màu trắng, không lên mọng dừa hay bị "trăng ăn". Tiếp theo dùng một dụng cụ lột vỏ dừa, lấy cơm dừa và cho vào máy xay nhỏ. Cho tất cả cơm dừa xay nhuyễn vào một cái bao và dùng máy ép lấy nước cốt dừa. Phần nước cốt dừa sau khi ép ra có thể cho thêm nguyên liệu phụ vào như: sầu riêng, lá dứa, sôcôla, dâu và nhất thiết phải cho mạch nha vào. Tất cả cho vào một cái chảo rồi cho lên bếp, khuấy liên tục đều tay. Ngày xưa, khi làm kẹo dừa, người dân Nam Bộ phải dùng tay khuấy liên tục bên bếp lửa, nếu không khuấy, phần nước dừa khi sên sẽ đặc lại và "chết". Ngày nay, máy móc đã hỗ trợ họ trong khâu này. Họ đỡ mất sức hơn, nhưng phần giữ lửa cho phần sên kẹo cũng rất công phu, vì lửa lớn:sên kẹo sẽ khó khăn, lửa nhỏ: kẹo sẽ rất lỏng. Khi phần nước cốt cô đặc và chuyển màu, người ta sẽ cho lên giàn khuôn mà khuôn đã được bôi trơn một lớp dầu dừa để chống dính. Dùng dao cắt ra làm nhiều phần theo kích thước định sẵn. Tại khâu này, người ta có thể phối trộn hoặc cho thêm nguyên liệu lần cuối vào để kẹo có nhiều mùi vị khác nhau như: đậu phộng giã nhuyễn, phối màu xanh là kẹo dừa lá dứa rồi hòa vào kẹo sầu riêng. Hay cho thanh kẹo nửa màu trắng, nửa màu đen là kẹo dừa sầu riêng sôcôla, v..v..Đây là hiện tượng giao lưu và tiếp biến văn hóa trong nghệ thuật ẩm thực rất sáng tạo để đáp ứng sở thích của nhiều đối tượng khách hàng, để có thể mở rộng thị trường. Phần cuối cùng là gói kẹo trong một lớp bánh tráng mỏng phía bên ngoài. Bánh tráng này ăn được và có tác dụng rút ẩm cho kẹo. Gói bao bì bằng bánh giấy và cho vào hộp là hoàn tất công đoạn làm kẹo dừa. == Giá trị truyền thống == Từ nguồn nguyên liệu dừa rất phong phú của Bến Tre, cộng thêm tài khéo léo của người chế biến, người xứ dừa đã biết tăng thêm giá trị văn hóa, giá trị của lao động thủ công truyền thống vào sản phẩm để làm cho trái dừa không chỉ là nguồn nguyên liệu thô mà nó đã được nâng giá trị lên nhiều lần. Ở đây yếu tố văn hóa trong sản phẩm thủ công đã làm nên giá trị kinh tế, góp phần cải thiện và nâng cao đời sống cho người dân xứ dừa. Mặt khác, chính nhờ có sự phát triển kinh tế như vậy mà nghệ thuật thủ công truyền thống lại được trân trọng, gìn giữ và không ngừng phát triển. == Giá trị kinh tế == Các cơ sở sản xuất kẹo dừa đã không ngần ngại đầu tư bạc tỷ để đổi mới công nghệ sản xuất kẹo truyền thống, tạo nên nhiều mẫu mã, kiểu dáng ngày càng hấp dẫn khách hàng. Theo truyền thống sản xuất xưa nay các cơ sở sản xuất kẹo dừa luôn xem trọng chất lượng, chữ tín, không sử dụng chất bảo quản, đường hóa học và các chất cấm khác nhằm khẳng định thương hiệu của mình. Nhờ vậy kẹo dừa Bến Tre đã có mặt ở các thị trường trong cả nước và còn xuất khẩu sang nhiều quốc gia Châu Á, Châu Âu và Châu Mỹ. == Kẹo dừa trên thế giới == Không riêng gì Việt Nam, tại Trung Quốc và Thái Lan cũng có kẹo dừa. Thế nhưng, theo các nhà kinh tế, kẹo dừa của Trung Quốc và Thái lan là hàng nhái. , quy trình chế biến và hương vị hoàn toàn khác Việt Nam. Vụ việc tranh chấp bản quyền và thương hiệu kẹo dừa nổi tiếng nhất là sự kiện năm 1998, doanh nghiệp Hai Tỏ (Phạm Thị Tỏ - Bến Tre) sang Trung Quốc kiện một cơ sở sản xuất đã nhái kẹo dừa "Bến Tre" tại đảo Hải Nam và đã thắng kiện. == Kẹo dừa trong ca dao == Bến Tre dừa ngọt sông dài Nơi chợ Mỏ Cày có kẹo nổi danh Kẹo Mỏ Cày vừa thơm vừa béo Gái Mỏ Cày vừa khéo vừa ngoan Anh đây hỏi thiệt cùng nàng Là trai Thạnh Phú cưới nàng được chăng? == Chú thích == == Tham khảo == Việt Nam nơi chốn bình yên - 1001 địa danh - Tỉnh Bến Tre - Nhà xuất bản Công nghiệp năm 1998. Thăng trầm kẹo dừa Bến Tre
liên đoàn các hiệp hội bóng đá độc lập.txt
Liên đoàn các Hiệp hội bóng đá độc lập (ConIFA) là liên đoàn của các hiệp hội bóng đá được thành lập năm 2013. Nơi đây tạo nên các đội tuyển đại diện cho các quốc gia, các vùng phụ thuộc, các quốc gia không được công nhận, dân tộc thiểu số, các dân tộc không quốc tịch, khu vực, và vi quốc gia không liên kết với FIFA. ConIFA tổ chức ConIFA World Football Cup, giải đấu lần đầu diễn ra năm 2014 tại Östersund, Thụy Điển. ConIFA European Football Cup lần đầu diễn ra vào tháng 6 năm 2015 tại Székely Land. Trong tương lai họ hy vọng tổ chức các giải vô địch dành cho nữ, giải đấu cup và siêu cúp dành cho các câu lạc bộ, và giải vô địch bóng đá bãi biển. == Thành viên == Tính đến ngày 21 tháng 9 năm 2016 Chỉ ít tháng sau khi gia nhập ConIFA, tuyển Quebec gia nhập Fédération de soccer du Québec, với mục tiêu FSQ nộp đơn xin gia nhập CONCACAF. Để đạt được điều này, đội tuyển sẽ chỉ được thi đấu với các đội tuyển quốc gia là thành viên đầy đủ của CONCACAF hay FIFA, và không còn tham dự bóng đá ngoài FIFA. == Xem thêm == NF-Board (New Football Federations-Board) ConIFA World Football Cup ConIFA World Football Cup 2016 == Chú thích == == Liên kết ngoài == Website chính thức (tiếng Anh) Liên đoàn các Hiệp hội bóng đá độc lập trên Facebook (tiếng Anh) Liên đoàn các Hiệp hội bóng đá độc lập trên Twitter (tiếng Anh) Bản mẫu:Confederation of Independent Football Associations members
kuwait.txt
Kuwait (phát âm tiếng Việt: Cô-oét tiếng Ả Rập: الكويت al-Kuwait), tên chính thức là Nhà nước Kuwait (tiếng Ả Rập: دولة الكويت ), là một quốc gia tại Tây Á. Kuwait nằm tại rìa phía bắc của miền đông bán đảo Ả Rập, và tại đầu vịnh Ba Tư, có biên giới với Iraq và Ả Rập Saudi. Tính đến năm 2016, dân số Kuwait đạt 4,2 triệu; trong đó 1,3 triệu người là công dân Kuwait còn 2,9 triệu người là ngoại kiều. Phát hiện dầu mỏ tại Kuwait từ năm 1938. Từ năm 1946 đến năm 1982, Kuwait trải qua hiện đại hoá quy mô lớn. Trong thập niên 1980, Kuwait trải qua một giai đoạn bất ổn địa chính trị và một cuộc khủng hoảng kinh tế sau khi thị trường chứng khoán sụp đổ. Năm 1990, Kuwati bị Iraq xâm lược. Thời kỳ Iraq chiếm đóng kết thúc vào năm 1991 sau khi lực lượng liên quân can thiệp quân sự. Sau đó, diễn ra các nỗ lực quy mô lớn nhằm khôi phục kinh tế và tái thiết cơ sở hạ tầng quốc gia. Kuwait là một tiểu vương quốc lập hiến, có hệ thống chính trị bán dân chủ. Đây là một quốc gia thu nhập cao nhờ có trữ lượng dầu mỏ lớn thứ sáu thế giới. Đồng dinar Kuwait là tiền tệ có giá trị cao nhất thế giới. Hiến pháp Kuwait được ban hành vào năm 1962, khiến Kuwait trở thành quốc gia dân chủ nhất trong khu vực. Kuwait có nhà hát nhạc kịch lớn nhất tại Trung Đông. Trong thế giới Ả Rập, Kuwait thường được mệnh danh là "Hollywood vùng Vịnh" do tính phổ biến của các phim truyền hình dài tập và sân khấu. == Lịch sử == === Lịch sử sơ khởi === Trong giai đoạn Ubaid (6500 TCN), Kuwait là trung tâm tương tác giữa cư dân Lưỡng Hà và cư dân miền đông bán đảo Ả Rập vẫn trong thời đồ đá mới, chủ yếu tập trung tại As-Subiya thuộc miền bắc Kuwait. Bằng chứng sớm nhất về việc loài người cư trú tại Kuwait có niên đại từ 8000 TCN, là các công cụ thời kỳ đồ đá giữa phát hiện tại Burgan. As-Subiya là chứng cứ sớm nhất về đô thị hoá tại toàn bộ khu vực bồn địa vịnh Ba Tư. Cư dân Lưỡng Hà lần đầu định cư trên đảo Failaka của Kuwait vào năm 2000 TCN. Thương nhân từ thành phố Ur của Sumer cư trú tại Failaka và điều hành kinh doanh hàng hoá. Trên đảo có nhiều toà nhà theo phong cách đặc trưng giống như các phát hiện có niên đại khoảng 2000 TCN tại Iraq. Cư dân đồ đá mới tại Kuwait nằm trong số các thương nhân hàng hải sớm nhất trên thế giới. Trong thế kỷ 3 TCN, người Hy Lạp cổ đại thuộc địa hoá vịnh Kuwait dưới quyền Alexandros Đại đế, người Hy Lạp cổ đại đặt tên cho Kuwait đại lục là Larissa còn Failaka được đặt tên là Ikaros. Năm 224, Kuwait trở thành bộ phận của đế quốc Sassanid Ba Tư. Trong thời kỳ Sassanid cai trị, Kuwait mang tên Meshan, Akkaz là một di chỉ Parthia-Sassanid; phát hiện tháp điểu táng của Hoả giáo tại miền bắc Akkaz. Năm 1521, Kuwait nằm dưới quyền cai trị của người Bồ Đào Nha. Đến cuối thế kỷ 16, người Bồ Đào Nha cho xây dựng một khu định cư phòng thủ tại Kuwait. Năm 1613, thị trấn Kuwait được thành lập tại địa điểm mà nay là thành phố Kuwait. Năm 1716, liên minh thị tộc Bani Utub định cư tại Kuwait, khi đó lãnh thổ có một số ngư dân và hoạt động chủ yếu là một làng chài. Trong thế kỷ 18, Kuwait thịnh vượng và nhanh chóng trở thành trung tâm thương nghiệp chủ yếu đối với trung chuyển hàng hoá giữa Ấn Độ, Muscat, Baghdad và bán đảo Ả Rập. Khi quân Ba Tư bao vây Basra (nay thuộc Iraq) vào năm 1775–79, các thương nhân Iraq đến tị nạn tại Kuwait và góp phần vào việc phát triển hoạt động đóng tàu và mậu dịch của Kuwait. Nhờ đó, thương nghiệp hàng hải của Kuwait bùng nổ. Trong giai đoạn từ 1775 đến 1779, các tuyến đường mậu dịch Ấn Độ với Baghdad, Aleppo, Smyrna và Constantinople được chuyển hướng đến Kuwait. Công ty Đông Ấn Anh chuyển hướng đến Kuwait vào năm 1792. Công ty Đông Ấn Anh đảm bảo tuyến hải hành giữa Kuwait, Ấn Độ và duyên hải phía đông châu Phi. Sau khi người Ba Tư triệt thoái khỏi Basra vào năm 1779, Kuwait tiếp tục thu hút hoạt động mậu dịch rời khỏi Basra. Kuwait là trung tâm ngành đóng tàu trong khu vực vịnh Ba Tư. Vào cuối thế kỷ 18 và đầu thế kỷ 19, tàu đóng tại Kuwait chuyên chở hàng hoá giữa các cảng của Ấn Độ, Đông Phi và biển Đỏ. Thuyền của Kuwait nổi danh khắp Ấn Độ Dương. Quốc gia Kuwait trở thành một lãnh thổ bảo hộ thuộc Anh từ năm 1899 sau thoả ước giữa Sheikh Mubarak Al Sabah và chính phủ Ấn Độ thuộc Anh, do các đe doạ nghiêm trọng từ Ottoman đến nền độc lập của Kuwait. Sau chiến tranh Kuwait–Najd năm 1919–20, Ibn Saud áp đặt phong toả mậu dịch chống Kuwait từ năm 1923 đến năm 1937. Mục tiêu của triều đình Saudi trong cuộc tấn công kinh tế và quân sự lên Kuwait là nhằm thôn tính lãnh thổ Kuwait nhiều nhất có thể. Tại hội nghị Uqair năm 1922, biên giới giữa Kuwait và Najd được định đoạt, song Kuwait không có đại biểu trong hội nghị. Ibn Saud thuyết phục Percy Cox trao cho mình hai phần ba lãnh thổ Kuwait, kết quả là hơn một nửa lãnh thổ Kuwait bị mất sau hội nghị Uqair. Sau hội nghị Uqair, Kuwait vẫn phải chịu phong toả kinh tế và các cuộc tập kích gián đoạn từ triều đình Saudi. The Đại khủng hoảng làm tổn hại đến kinh tế Kuwait, bắt đầu từ cuối thập niên 1920. Mậu dịch quốc tế là một trong các nguồn thu nhập chủ yếu của Kuwait trước khi phát hiện dầu mỏ. Các thương nhân Kuwait hầu hết là thương nhân trung gian. Do đó, kinh tế Kuwait chịu tổn thất khi châu Âu suy giảm nhu cầu đối với hàng hoá từ Ấn Độ và châu Phi. Suy thoái trong mậu dịch quốc tế dẫn đến gia tăng buôn lậu vàng trên các tàu Kuwait đến Ấn Độ. Một số gia đình thương nhân Kuwait trở nên giàu có từ việc buôn lậu này. Ngành ngọc trai của Kuwait cũng sụp đổ do khủng hoảng kinh tế toàn cầu. Việc Nhật Bản phát minh ngọc trai nuôi cấy cũng góp phần khiến ngành ngọc trai của Kuwait sụp đổ. === Thời kỳ 1946–82 === Từ năm 1946 đến năm 1982, Kuwait trải qua một giai đoạn thịnh vượng nhờ giàu mỏ và môi trường tự do. Năm 1950, một chương trinh công trình công cộng lớn bắt đầu khiến cho người Kuwait được hưởng tiêu chuẩn sinh hoạt hiện đại. Đến năm 1952, Kuwait trở thành quốc gia xuất khẩu dầu mỏ lớn nhất trong khu vực vịnh Ba Tư. Sự tăng trưởng to lớn này thu hút nhiều công nhân ngoại quốc, đặc biệt là từ Palestine, Ấn Độ và Ai Cập, trong đó Ai Cập đặc biệt là tính chính trị trong bối cảnh Chiến tranh Lạnh Ả Rập. Trong tháng 6 năm 1961, Kuwait độc lập khi kết thúc chế độ bảo hộ của Anh và sheikh Abdullah Al-Salim Al-Sabah trở thành một emir.Theo các điều khoản của hiến pháp mới phê chuẩn, Kuwait tổ chức bầu cử nghị viện lần thứ nhất vào năm 1963. Kuwait là quốc gia đầu tiên trong số các quốc gia Ả Rập ven vịnh Ba Tư lập ra hiến pháp và nghị viện. Vào thập niên 1960 và 1970, Kuwait là quốc gia phát triển nhất trong khu vực. Kuwait đi tiên phong tại Trung Đông về đa dạng hoá thu nhập khỏi xuất khẩu dầu mỏ. Cơ quan Đầu tư Kuwait là quỹ tài sản quốc gia đầu tiên trên thế giới. Từ thập niên 1970 trở đi, Kuwait có thành tích cao nhất trong các quốc gia Ả Rập về chỉ số phát triển con người HDI. Đại học Kuwait được thành lập vào năm 1966. ngành sân khấu của Kuwait nổi tiếng khắp thế giới Ả Rập. Trong thập niên 1960 và 1970, báo chí Kuwait được mô tả là nằm vào hàng tự do nhất thế giới. Kuwait đi tiên phong trong phục hưng văn văn học tại khu vực Ả Rập Năm 1958, tạp chí Al Arabi được phát hành lần đầu tiên, sau đó nó trở thành tạp chí phổ biến nhất trong thế giới Ả Rập. Nhiều nhà văn Ả Rập chuyển đến Kuwait vì tại đây họ được hưởng quyền tự do biểu đạt lớn hơn các nơi khác trong thế giới Ả Rập. Xã hội Kuwait đi theo quan điểm tự do và Tây phương trong suốt thập niên 1960 và 1970. Hầu hết nữ giới Kuwait không đeo khăm trùm đầu hijab trong hai thập niên này. === 1982 đến nay === Vào đầu thập niên 1980, Kuwait trải qua khủng hoảng kinh tế sau khi sụp đổ thị trường chứng khoán Souk Al-Manakh và giả dầu mỏ giảm. Trong chiến tranh Iran-Iraq, Kuwait ủng hộ Iraq. Trong suốt thập niên 1980, có một số cuộc tấn công khủng bố tại Kuwait. Kuwait là một trung tâm của khu vực về khoa học và công nghệ từ thập niên 1960 cho đến đầu thập niên 1980, lĩnh vực nghiên cứu khoa học chịu tổn thất đáng kể do các vụ tấn công khủng bố. Sau khi chiến tranh Iran-Iraq kết thúc, Kuwait từ chối yêu cầu của Iraq về việc miễn khoản nợ 65 tỷ USD. Hai quốc gia cạnh tranh về kinh tế sau khi Kuwait tăng sản lượng dầu mỏ lên 40%. Căng thẳng giữa hai bên tăng lên hơn nữa trong tháng 7 năm 1990, sau khi Iraq thưa kiện lên OPEC cho rằng Kuwait ăn trộm dầu mỏ từ một mỏ gần biên giới bằng cách khoan nghiêng. Trong tháng 8 năm 1990, quân đội Iraq xâm chiếm và sáp nhập Kuwait. Sau một loạt điều đình ngoại giao thất bại, Hoa Kỳ lãnh đạo một liên minh nhằm loại bỏ quân đội Iraq khỏi Kuwait trong Chiến tranh vùng Vịnh. Ngày 26 tháng 2 năm 1991, liên quân đẩy lui thành công quân đội Iraq. Khi triệt thoái, quân đội Iraq tiến hành chính sách tiêu thổ bằng việc đốt các giếng dầu. Trong thời kỳ Iraq chiếm đóng, có trên 1.000 công dân Kuwait tử nạn. Ngoài ra, còn có trên 600 người Kuwait mất tích, Trong tháng 3 năm 2003, Kuwait trở thành bàn đạp cho cuộc xâm chiếm Iraq do Hoa Kỳ lãnh đạo. Đến khi Tiểu vương Jaber từ trần vào tháng 1 năm 2006, Saad Al-Sabah kế vị song bị nghị viện Kuwait phế truất chín ngày sau đó do có sức khoẻ yếu. Sabah Al-Sabah tuyên thệ làm tiểu vương. Từ năm 2001 đến năm 2009, Kuwait có chỉ số phát triển con người HDI cao nhất trong thế giới Ả Rập. Năm 2005, nữ giới Kuwait giành được quyền bỏ phiếu và tranh cử trong các cuộc tuyển cử. Năm 2014 và 2015, Kuwait xếp hạng nhất trong các quốc gia Ả Rập theo Báo cáo khoảng cách giới tính toàn cầu. Trong tháng 6 năm 2015, một vụ đánh bom tự sát diễn ra tại Thánh đường Al Sadiq. Trong tháng 10 năm 2016, Trung tâm Văn hoá Sheikh Jaber Al-Ahmad được khai trương. Đây là trung tâm văn hoá lớn nhất tại Trung Đông. == Văn hoá == Văn hoá đại chúng Kuwait phát triển và thậm chí xuất khẩu sang các quốc gia lân cận, với các thể loại sân khấu, phát thanh, âm nhạc và phim truyền hình dài tập. Trong các quốc gia Ả Rập vùng Vịnh, văn hoá Kuwait gần gũi nhất với văn hoá Bahrain; được chứng thực trong liên kết mật thiết giữa hai quốc gia trong tác phẩm sân khấu và phim truyền hình dài tập. Trong thế giới Ả Rập, Kuwait thường được mệnh danh là "Hollywood vùng Vịnh" do tính phổ biến của các phim truyền hình và sân khấu của quốc gia này. Ngành phim truyền hình của Kuwait đứng đầu tại vùng Vịnh, sản xuất tối thiểu 15 bộ mỗi năm. Hầu hết các phim truyền hình vùng Vịnh được quay phim tại Kuwait. Phim truyền hình dài tập Kuwait được xem nhiều nhất tại vùng Vịnh. Phim truyền hình dài tập phổ biến nhất trong thời kỳ Ramadan, khi các gia đình tụ tập ăn sáng. Mặc dù thường diễn đạt bằng phương ngữ Kuwait, song chúng giành được thành công xa đến tận Tunisia. Kuwait là quốc gia duy nhất tại vùng Vịnh có truyền thống sân khấu. Phong trào sân khấu tại Kuwait là một bộ phận lớn trong sinh hoạt văn hoá quốc gia. Các hoạt động sân khấu tại Kuwait bắt đầu từ thập niên 1920 khi vở kịch nói đầu tiên được công diễn. Các hoạt động sân khấu vẫn phổ biến cho đến nay. Kuwait là trung tâm đào tạo sân khấu và phối cảnh chính tại khu vực vùng Vịnh. Năm 1973, Học viện cao cấp về Nghệ thuật Sân khấu được chính phủ thành lập. Chính phủ Kuwait trợ cấp cho sân khấu, trước đây thông qua Bộ Công tác Xã hội và nay là qua Hội đồng Quốc gia về Văn hoá, Nghệ thuật và Văn học (NCCAL). Kuwait có phong trào nghệ thuật đương đại lâu năm nhất trên bán đảo Ả Rập. Năm 1936, Kuwait là quốc gia vùng Vịnh đầu tiên cấp học bổng về nghệ thuật. Bảo tàng Nghệ thuật Đương đại Kuwait được khánh thành vào năm 2003. Kuwait có hơn 20 nhà triển lãm nghệ thuật. Nhà triển lãm Sultan là nhà triển lãm Ả Rập chuyên nghiệp đầu tiên tại vùng Vịnh. Kuwait International Biennial được khởi đầu vào năm 1967, thu hút trên 20 quốc gia Ả Rập và bên ngoài tham dự hai năm một lần.. Âm nhạc Kuwait truyền thống phản ánh di sản hàng hải của quốc gia, được biết đến với các thể loại như "fijiri" và "sawt". Kuwait đi tiên phong trong âm nhạc đương đại tại vùng Vịnh, Saleh và Daoud Al-Kuwaity là các nhạc sĩ tiên phong, họ từng viết hơn 650 bài hát, nhiều trong số đó được nhìn nhận là truyền thống và vẫn được phát hàng ngày trên sóng phát thanh tại Kuwait cũng như thế giới Ả Rập. Âm nhạc Kuwait có ảnh hưởng đáng kể đến âm nhạc các quốc gia Ả Rập vùng Vịnh khác. Kuwait có một số thể chế hàn lâm chuyên về giáo dục âm nhạc. Học viện cao cấp về Nghệ thuật Âm nhạc được chính phủ Kuwait thành lập, ngoài ra Học viện Giáo dục Cơ bản cung cấp đào tạo cử nhân về giáo dục âm nhạc. Kuwait tổ chức một số lễ hội âm nhạc, trong đó có Lễ hội Âm nhạc Quốc tế Liên hoan Âm nhạc vùng Vịnh được tổ chức hai năm một lần, có sự tham gia của các nhạc sĩ jazz nổi danh quốc tế và nhạc sĩ địa phương. Bait Al-Othman là bảo tàng lớn nhất chuyên về lịch sử Kuwait. Một số bảo tàng Kuwait được dành cho nghệ thuật, nổi tiếng nhất là Bảo tàng Nghệ thuật Hiện đại tại thủ đô. Bảo tàng Quốc gia Kuwait được thành lập vào năm 1983, được mô tả là "không được tận dụng và chú ý". Nhiều bảo tàng tại Kuwait là cơ sở tư nhân. Tương phản với cách tiếp cận từ trên xuống dưới tại các quốc gia vùng Vịnh khác, phát triển bảo tàng tại Kuwait phản ánh nhận thức lớn hơn về bản sắc công dân và biểu thị sức mạnh của xã hội dân sự tại Kuwait, vốn sản sinh nhiều doanh nghiệp văn hoá độc lập thay cho các nỗ lực của chính phủ. Bóng đá là môn thể thao phổ biến nhất tại Kuwait. Hiệp hội bóng đá Kuwait (KFA) điều hành các đội tuyển nam, nữ và futsal quốc gia. Giải Ngoại hạng Kuwait là giải đấu cao nhất của bóng đá Kuwait, với 18 đội tham gia. Kuwait từng vô địch Cúp bóng đá châu Á 1980, giành vị trí á quân trong Cúp bóng đá châu Á 1976, và đứng thứ ba tại Cúp bóng đá châu Á 1984. Kuwait từng tham dự Giải bóng đá vô địch thế giới 1982. Bóng rổ là một trong các môn thể thao phổ biến nhất, quốc gia này tham gia thi đấu bóng rổ quốc tế từ năm 1959. Đội tuyển quốc gia từng nhiều lần tham gia Giải vô địch bóng rổ châu Á. Giải bóng rổ hạng I Kuwait là giải bóng rổ chuyên nghiệp cao nhất tại Kuwait. Cricket và rugby liên hiệp là các môn thể thao đang phát triển. Bóng ném được nhìn nhận phổ biến là biểu tượng quốc gia của Kuwait. Truyền thông Kuwait được phân loại là "tự do một phần" trong nghiên cứu về tự do báo chí của Freedom House. Truyền thông Kuwait được đánh giá là tự do nhất tại khu vực vịnh Ba Tư. Kuwait liên tục được xếp hạng là có truyền thông tự do nhất trong thế giới Ả Rập. Khi xét theo bình quân đầu người, Kuwait sản xuất nhiều báo chí hơn các quốc gia láng giềng. Tồn tại giới hạn cho tự do báo chí tại Kuwait; dù được phép chỉ trích chính phủ và thành viên hoàng gia, song nhiều người bị giam cầm vì tội phỉ báng tiểu vương. Thông tấn xã Kuwait (KUNA) là cơ quan truyền thông lớn nhất Kuwait. Kuwait có 15 kênh truyền hình vệ tinh, có bốn kênh trong đó do Bộ Thông tin kiểm soát. Đài Truyền hình Kuwait (KTV) của nhà nước phát sóng màu vào năm 1974 và vận hành 5 kênh truyền hình (2010). Đài Phát thanh Kuwait cung cấp chương trình tin tức hàng ngày bằng một số ngôn ngữ gồm Ả Rập, Ba Tư, Urdu và Anh. == Chính trị == Kuwait là một tiểu vương quốc lập hiến, có hệ thống chính trị bán dân chủ. Emir (tiểu vương) là nguyên thủ quốc gia. Hệ thống chính trị được phân chia giữa nghị viện tuyển cử và chính phủ được bổ nhiệm. Hiến pháp Kuwait được ban hành vào năm 1962. Kuwait nằm trong số các quốc gia tự do nhất tại Trung Đông xét theo tự do dân sự và quyền lợi chính trị. Freedom House xếp hạng quốc gia này là "tự do một phần" trong nghiên cứu Tự do trên Thế giới. Kuwait là quốc gia dân chủ nhất trong khu vực, có khu vực công mạnh và xã hội dân sự tích cực, với các tổ chức chính trị và xã hội đóng vai trò là đảng phái trên thực tế. Các tổ chức chuyên nghiệp như Phòng Thương mại duy trì tự quản đối với chính phủ. Hiến pháp Kuwait là hiến pháp tự do nhất trong Hội đồng Hợp tác vùng Vịnh. Quốc hội Kuwait là cơ quan lập pháp và có quyền giám sát, gồm 50 thành viên được bầu ra bốn năm một lần. Do Quốc hội có thể tiến hành điều tra hành động của chính phủ và thông qua nghị quyết bất tín nhiệm, hoạt động kiểm tra và cân bằng diễn ra mạnh mẽ tại Kuwait. Quốc hội có thể bị giải tán theo một loạt các điều kiện dựa theo hiến pháp. Toà án hiến pháp và tiểu vương đều có quyền giải tán quốc hội, song toà án hiến pháp có thể vô hiệu hoá quyết định giải tán của tiểu vương. Quyền lực hành pháp thuộc về chính phủ, tiểu vương bổ nhiệm thủ tướng, thủ tướng chọn các bộ trưởng. Theo hiến pháp, có ít nhất một bộ trưởng là nghị viên quốc hội. Quốc hội thường nghiêm khắc về trách nhiệm của chính phủ, các bộ trưởng thường xuyên bị chất vấn và buộc phải từ chức. Kuwait có chính phủ trách nhiệm và minh bạch hơn các quốc gia vùng Vịnh khác. Hệ thống tư pháp trên danh nghĩa độc lập với hành pháp và tư pháp, và toà án hiến pháp chịu trách nhiệm phân xử về tính phù hợp của các luật lệnh với hiến pháp. Độc lập tư pháp bị nghi vấn, dù cho toà án hiến pháp được nhận định phổ biến là một trong các toà án độc lập về tư pháp nhất trong thế giới Ả Rập. Toà án hiến pháp có quyền giải tán quốc hội và vô hiệu hoá các sắc lệnh của tiểu vương. Nữ giới Kuwait bị hạn chế tham gia chính trị, song họ nằm trong những nữ giới được giải phóng nhất tại Trung Đông. Trong năm 2014 và 2015, Kuwait xếp hạng nhất trong các quốc gia Ả Rập theo Báo cáo khoảng cách giới tính toàn cầu. Năm 2013, 53% nữ giới Kuwait tham gia thị trường lao động. Nữ giới Kuwait tham gia thị trường lao động nhiều hơn so với các quốc gia Ả Rập vùng Vịnh khác. Các tổ chức chính trị và khối bầu cử nghị viện được tồn tại, song hầu hết ứng cử viên tranh cử với tư cách độc lập. Đến khi đắc cử, nhiều đại biểu lập các khối bỏ phiếu trong Quốc hội. Pháp luật Kuwait không công nhận các chính đảng. Tuy nhiên, một số tổ chức chính trị hoạt động như chính đảng, và tồn tại các khối trong quốc hội. Các chính đảng thực tế lớn gồm có Liên minh Dân chủ Quốc gia, Khối Hành động Nhân dân, Hadas (Anh em Hồi giáo Kuwait), Liên minh Hồi giáo Quốc gia và Liên minh Công lý và Hoà bình. Kuwait theo hệ thống dân luật phỏng theo hệ thống tư pháp của Pháp, Hệ thống tư pháp của Kuwait phần lớn là thế tục. Luật Sharia chỉ chi phối luật gia đình cho cư dân Hồi giáo, người phi Hồi giáo tại Kuwait theo luật gia đình thế tục. Đối với việc áp dụng luật gia đình, tồn tại ba loại toà án tiêng biệt là Sunni, Shia và phi Hồi giáo. Theo Liên Hiệp Quốc, hệ thống tư pháp Kuwait pha trộn giữa thông luật Anh, dân luật Pháp, dân luật Ai Cập và luật Hồi giáo. Nhân quyền tại Kuwait chịu các chỉ trích, đặc biệt là liên quan đến quyền lợi của công nhân ngoại quốc. Ngoại kiều chiếm khoảng 70% tổng dân số Kuwait, hệ thống kafala khiến cho công nhân ngoại quốc dễ bị lợi dụng. Kuwait có pháp luật lao động tự do nhất trong số các quốc gia Ả Rập vùng Vịnh. Do đó, Tổ chức Lao động Quốc tế loại bỏ Kuwait khỏi danh sách quốc gia vi phạm quyền lợi công nhân. Kuwait trở thành thành viên thứ 111 của Liên Hiệp Quốc vào tháng 5 năm 1963. Đây là một thành viên lâu năm của Liên đoàn Ả Rập và Hội đồng Hợp tác vùng Vịnh. Trước chiến tranh vùng Vịnh, Kuwait là quốc gia "thân Liên Xô" duy nhất tại khu vực vịnh Ba Tư. Kuwait đóng vai trò trung gian cho Liên Xô với các quốc gia Ả Rập vùng Vịnh khác, và Kuwait được sử dụng để chứng tỏ lợi ích của lập trường thân Xô. Trong tháng 7 năm 1987, Kuwait từ chối cho phép đặt căn cứ quân sự Hoa Kỳ trên lãnh thổ của mình. Do chiến tranh vùng Vịnh, quan hệ giữa Kuwait với Hoa Kỳ được cải thiện và hiện có hàng nghìn nhân viên quân sự và nhà thầu Hoa Kỳ trong các hạ tầng quân sự của Hoa Kỳ. Quân đội Kuwait có nguồn gốc từ kỵ binh và bộ binh phòng vệ từ đầu thế kỷ 20, các kỵ binh và bộ binh này hình thành lực lượng phòng thủ và an ninh tại các khu vực đô thị, chịu trách nhiệm bảo vệ các tiền đồn bên ngoài tường thành Kuwait. Quân đội Kuwait có một số lực lượng phòng thủ chung, các thể chế quản lý là Bộ Quốc phòng, Bộ Nội vụ, Vệ binh Quốc gia, và Ban Cứu hỏa. Tiểu vương là tổng tư lệnh các lực lượng phòng thủ. Ngay cả trong tình huống bất lợi nhất như chiến tranh, quân đội cũng cần phải được tiểu vương đồng ý để di chuyển. Kuwait được chia thành sáu tỉnh, các tỉnh được chia tiếp thành các khu vực. == Địa lý == Kuwait nằm tại góc đông bắc của bán đảo Ả Rập, là một trong các quốc gia nhỏ nhất thế giới về diện tích. Kuwait nằm giữa vĩ tuyến 28° và 31° Bắc, và giữa kinh tuyến 46° và 49° Đông. Hoang mạc Ả Rập bằng phẳng và nhiều cát bao phủ hầu hết Kuwait. Kuwait thường có độ cao thấp, với điểm cao nhất đạt 306 m trên mực nước biển. Kuwait có chín đảo, ngoại trừ đảo Failaka thì các đảo còn lại đều không có người ở. Đảo Bubiyan có diện tích 860 km², là đảo lớn nhất Kuwait và liên kết với đại lục qua một cầu dài 2380 m. 0,6% diện tích đất của Kuwaiti được cho là có thể canh tác cùng với thảm thực vật thưa thớt dọc theo 499 km bờ biển. Thành phố Kuwait nằm ven vịnh Kuwait, là một bến cảng nước sâu tự nhiên. Mỏ dầu Burgan của Kuwait có trữ lượng dầu chứng minh là khoảng 70 tỷ thùng. Trong sự kiện đốt mỏ dầu Kuwait năm 1991, trên 500 hồ dầu được tạo ra, bao phủ diện tích bề mặt tổng cộng là 35,7 km². Đất bị nhiễm bẩn do dầu và muội tích tụ khiến phần phía đông và đông nam của Kuwait không thể ở được. Cát và bã dầu biến đổi các khu vực lớn của Kuwait từ hoang mạc sang bề mặt nửa nhựa đường. Tràn dầu trong chiến tranh vùng Vịnh cũng tác động trầm trọng đến tài nguyên hải dương của Kuwait. Mùa xuân vào tháng 3 ấm và thỉnh thoảng có bão tố. Gió thường xuyên từ hướng tây bắc có đặc điểm lạnh vào mùa đông và nóng vào mùa hè. Gió ẩm đông nam xuất hiện từ tháng 7 đến tháng 10. Gió nam nóng khô chiếm ưu thế vào cuối xuân và đầu hè. Một loại gió tây bắc thường xuất hiện trong tháng 6 và 7 là shamal gây ra bão cát mạnh. Mùa hè tại Kuwait đôi khi ở mức nóng nhất thế giới, nhiệt độ cao nhất từng ghi nhận được là 54,4°C, là nhiệt độ cao nhất từng ghi nhận được tại châu Á. Kuwait có mùa đông lạnh hơn so với các quốc gia GCC khác do có vị trí nằm tại phía bắc gần Iraq và Iran. Iraq có năm khu vực bảo tồn được IUCN công nhận. Khi Kuwait ký kết Công ước Ramsar, khu dự trữ Mubarak al-Kabeer trên đảo Bubyan được xác định là vùng đất ngập nước quan trọng quốc tế. Khu dự trữ rộng 50.948 ha gồm các phá và đầm lầy mặn nông quy mô nhỏ và quan trọng do là nơi dừng chân của chim di cư. Khu dự trữ là nơi sinh sản lớn nhất thế giới của loài Dromas ardeola. Có trên 363 loài chim được ghi nhận tại Kuwait, 18 loài trong số đó sinh sản tại đây. Kuwait nằm tại nơi giao nhau của một số tuyến đường chim di cư lớn và có từ hai đến ba triệu con chim bay qua mỗi năm. Các đầm lầy tại miền bắc Kuwait và Jahra ngày càng trở nên quan trọng với vai trò là nơi trú ẩn cho di cư qua lại. Các đảo của Kuwaiti là các khu vực sinh sản quan trọng đối với bốn loài nhàn và chim cốc Socotra. Hệ sinh thái hải dương và duyên hải của Kuwait chứa phần lớn di sản đa dạng sinh học của quốc gia. 18 loài thú được tìm thấy tại Kuwait; các loài động vật như Linh dương Gazelle, thỏ sa mạc và nhím gai phổ biến trong hoang dã. Các loài ăn thịt cỡ lớn như sói, linh miêu, chó rừng hiện cực kỳ hiếm gặp. Trong số các loài thú gặp nguy hiểm có cáo đỏ và mèo hoang. Nguyên nhân khiến động vật hoang dã tuyệt chủng là môi trường bị tàn phá và săn bắn không kiểm soát quy mô lớn. Bốn mươi loài bò sát được ghi nhận song không có loài nào là đặc hữu của Kuwait. === Nước và khử muối === Kuwait không có sông chảy thường xuyên, chỉ có một số wadi (thung lũng sông thường cạn), nổi tiếng nhất là al Batin tạo thành biên giới giữa Kuwait và Iraq. Kuwait dựa vào nước khử muối làm nguồn nước sạch chính để uống và mục đích dân dụng. Kuwait có hơn sáu nhà máy khử muối. Kuwait là quốc gia đầu tiên trên thế giới sử dụng khử muối để cung cấp nước cho nhu cầu dân dụng quy mô lớn. Lịch sử khử muối tại Kuwait có từ năm 1951. Năm 1965, chính phủ Kuwait uỷ quyền cho một công ty Thuỵ Điển phát triển và thi hành một kế hoạch về hệ thống cung cấp nước hiện đại cho thành phố Kuwait. Công ty xây dựng năm nhóm tháp nước, tổng cộng có 31 tháp. Địa điểm thứ sáu được Sheikh Jaber Al-Ahmed yêu cầu có thiết kế ngoạn mục hơn. Nhóm cuối cùng này mang tên Tháp Kuwait, gồm có ba tháp và hai trong số đó là tháp nước. Nước từ nơi khử muối được bơm vào tháp. 33 tháp có dung tích tiêu chuẩn là 102.000 m³ nước. Các tháp nước được tặng giải Aga Khan về kiến trúc năm 1980. Tài nguyên nước sạch của Kuwait hạn chế trong nước ngầm, nước biển khử muối, và nước thải được xử lý. Có ba nhà máy xử lý nước thải lớn tại Kuwait. Hầu hết nhu cầu về nước hiện được đáp ứng thông qua các nhà máy lọc nước biển. Hệ thống xử lý nước thải quốc gia bảo phủ 98% hạ tầng trong nước. == Kinh tế == Kuwait có kinh tế phụ thuộc vào dầu mỏ, dầu mỏ là sản phẩm xuất khẩu chính. Đồng dinar Kuwait là tiền tệ có giá trị cao nhất thế giới. Theo Ngân hàng Thế giới, Kuwait nằm trong số các quốc gia giàu nhất xét theo GDP (PPP) bình quân. Kuwait là quốc gia giàu có thứ nhì trong Hội đồng Hợp tác vùng Vịnh xét theo GDP bình quân (sau Qatar). Dầu mỏ chiếm một nửa GDP và 90% thu nhập chính phủ. Trong những năm gần đây, xuất hiện gia tăng đáng kể trong khai sáng sự nghiệp và khởi nghiệp kinh doanh nhỏ tại Kuwait. Khu vực kinh tế phi chính thức cũng gia tăng, chủ yếu do tính phổ biến của kinh doanh qua mạng. Kuwait là quốc gia viện trợ kinh tế nhiều cho quốc tế thông qua Quỹ Kuwait về Phát triển Kinh tế Ả Rập, một thể chế tự quản của nhà nước được tạo ra vào năm 1961 theo mô hình các cơ quan phát triển quốc tế. Năm 1974 nhiệm vụ cho vay của quỹ được mở rộng ra toàn bộ các quốc gia đang phát triển. Kuwait có trữ lượng dầu thô chứng minh là 104 tỷ thùng, ước tính chiếm 10% trữ lượng thế giới. Theo hiến pháp, toàn bộ tài nguyên thiên nhiên trong nước là tài sản quốc gia. Kuwait có hệ thống y tế được nhà nước tài trợ, theo đó công dân Kuwait được điều trị miễn phí. Tồn tại các phòng khám ngoại trú trong mỗi khu vực dân cư Kuwait. Một chương trình bảo hiểm công cộng tồn tại nhằm cung cấp chăm sóc y tế chi phí thấp cho ngoại kiều. Các nhà cung cấp dịch vụ y tế tư nhân cũng điều hành các hạ tầng y tế tại nước này, khả dụng đối với thành viên của chương trình bảo hiểm tương ứng. Kuwait có 29 bệnh viện công. Nhiều bệnh viện mới đang được xây dựng. Bệnh viện Sheikh Jaber Al-Ahmad là bệnh viện lớn nhất Trung Đông. Lĩnh vực nghiên cứu khoa học của Kuwait đang phát triển. Đến năm 2017, Kuwait đã đăng ký 284 bằng sáng chế, cao thứ nhì trong thế giới Ả Rập, sau Ả Rập Saudi. === Tài chính === Cơ quan Phát triển Kuwait (KIA) là quỹ tài sản quốc gia của Kuwait chuyên về đầu tư nước ngoài. KIA là quỹ tài sản quốc gia lâu năm nhất thế giới. Kể từ năm 1953, chính phủ Kuwait đã đầu tư trực tiếp đến châu Âu, Hoa Kỳ và châu Á-Thái Bình Dương. Tính đến năm 2015, số cổ phần họ nắm giữ trị giá 592 tỷ USD. Đây là quỹ tài sản quốc gia lớn thứ 5 thế giới. Kuwait ở vị trí dẫn đầu về ngành tài chính trong Hội đồng Hợp tác vùng Vịnh. Tiểu vương đề xướng ý tưởng rằng Kuwait sẽ tập trung vào năng lực tài chính trong phát triển kinh tế. Ưu thế lịch sử của Kuwait (trong các nền quân chủ vùng Vịnh) về tài chính bắt nguồn từ khi thành lập Ngân hàng Quốc gia Kuwait vào năm 1952. Đây là công ty mậu dịch công cộng địa phương đầu tiên tại khu vực vịnh Ba Tư. Vào cuối thập niên 1970 và đầu thập niên 1980, thị trường chứng khoán Souk Al-Manakh xuất hiện tại Kuwait, giao dịch cổ phần của các công ty vùng Vịnh. Vào thời đỉnh cao, vốn hoá thị trường của nó đứng thứ ba thế giới, chỉ sau Hoa Kỳ và Nhật Bản. Kuwait có ngành quản lý tài sản lớn và nổi bật trong khu vực. Các công ty đầu tư của Kuwait quản lý nhiều tài sản nhất trong Hội đồng Hợp tác vùng Vịnh, lớn hơn nhiều Ả Rập Saudi. Trung tâm Tài chính Kuwait tính toán thô rằng các hãng Kuwait chiếm hơn một phần ba tổng số tài sản được quản lý trong Hội đồng Hợp tác vùng Vịnh. Sức mạnh tương đối của Kuwait trong ngành tài chính kéo dài nhờ thị trường chứng khoán. Trong nhiều năm, tổng giá trị của toàn bộ các công ty niêm yết trên sàn chứng khoán Kuwait vượt xa giá trị của các thị trường GCC khác, ngoại trừ Ả Rập Saudi. Năm 2011, các công ty tài chính và ngân hàng chiếm hơn một nửa vốn hoá thị trường của thị trường chứng khoán Kuwait; trong các quốc gia vùng Vịnh, vốn hoá thị trường của các hãng tài chính Kuwait chỉ sau Ả Rập Saudi. Trong thời gian gần đây, các công ty đầu tư Kuwait tiến hành đầu tư tỷ lệ lớn tài sản của họ ra nước ngoài, và tài sản của họ tại nước ngoài trở nên lớn hơn đáng kể so với tài sản của họ trong nước. === Du lịch === Du lịch đóng góp 1,5% cho GDP (2015). Năm 2015, ngành du lịch tạo ra gần 500 triệu USD doanh thu. Hầu hết du khách là công dân các quốc gia GCC, đặc biệt là Ả Rập Saudi và Các tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất. Lễ hội "Hala Febrayer" thường niên thu hút nhiều du khách từ các quốc gia GCC láng giềng, và gồm có nhiều thể loại sự kiện như hoà nhạc, diễu hành, và carnival. Lễ hội kéo dài trong một tháng nhằm kỷ niệm giải phóng Kuwait, kéo dài trong tháng 2, ngày Giải phóng là ngày 26 tháng 2. Thành phố biển Sabah Al-Ahmad là một dự án du lịch quy mô lớn tại Khiran. Một khu vực văn hoá dân tộc mới đang được xây dựng. Trung tâm Văn hoá Sheikh Jaber Al-Ahmad là trung tâm văn hoá lớn nhất tại Trung Đông. Du thuyền là một hoạt động phổ biến, Kuwait là thị trường tàu thư giãn lớn nhất tại vùng Vịnh. === Giao thông === Kuwait có mạng lưới xa lộ rộng khắp và hiện đại, đường bộ kéo dài 5.749 km, trong đó 4.887 được trải bề mặt. Kuwait có trên 2 triệu xe chở khách, và 500.000 taxi, bus và xe tải được sử dụng. Trên nhiều xa lộ, tốc độ tối đa là 120 km/h. Do không có hệ thống đường sắt tại Kuwait, hầu hết người dân đi lại bằng ô tô. Mạng lưới giao thông công cộng của Kuwait gần như hoàn toàn là các tuyến xe buýt. Công ty Giao thông công cộng Kuwait quốc doanh được thành lập vào năm 1962. Công ty vận hành các tuyến buýt địa phương trên khắp Kuwait cũng như có dịch vụ đường dài đến các quốc gia vùng Vịnh khác. Công ty buýt tư nhân chủ yếu là CityBus, họ điều hành khoảng 20 tuyến trên toàn quốc. Một công ty buýt tư nhân khác là Kuwait Gulf Link Public Transport Services, khai trương vào năm 2006. Họ điều hành các tuyến buýt địa phương khắp Kuwait và dịch vụ đường dài đến các quốc gia Ả Rập khác. Kuwait có hai sân bay, sân bay quốc tế Kuwait có vai trò là trung tâm chính về lữ hành hàng không quốc tế. Kuwait Airways là hãng quốc doanh, và là công ty hàng không lớn nhất Kuwait. Một phần tổ hợp sân bay được xác định là căn cứ không quân Al Mubarak, gồm trụ sở của Không quân Kuwait và Bảo tàng Không quân Kuwait. Năm 2004, hãng hàng không tư nhân đầu tiên của Kuwait là Jazeera Airways được khai trương. Năm 2005, hãng hàng không tư nhân thứ hai là Wataniya Airways được thành lập. Kuwait có ngành đóng tàu vào hàng lớn nhất trong khu vực. Cơ quan công cộng cảng Kuwait quản lý và điều hành các cảng khắp Kuwait. Hải cảng thương mại chủ yếu của Kuwair là Shuwaikh và Shuaiba, lượng xử lý hàng hoá tổng cộng đạt 753.334 TEU vào năm 2006. Mina Al-Ahmadi là cảng lớn nhất quốc gia, chuyên chở hầu hết xuất khẩu dầu mỏ của Kuwait. == Giáo dục == Kuwait có tỷ lệ biết chữ cao nhất trong thế giới Ả Rập. Hệ thống giáo dục phổ thông gồm có bốn cấp: mầm non (2 năm), tiểu học (5 năm), sơ trung (4 năm) và trung học (3 năm). Giáo dục tại cấp tiểu học và sơ trung là bắt buộc đối với trẻ 6-14 tuổi. Tất cả các cấp giáo dục đều miễn phí, bao gồm đại học. Lính lưu động quốc tế của sinh viên Kuwait nằm gần mức kỷ lục. Hệ thống trường công đang được cải tạo theo một dự án liên kết với Ngân hàng Thế giới. Năm 2013, chính phủ Kuwait phát động một dự án thí điểm tại 48 trường học mang tên Khung chương trình Quốc gia. == Nhân khẩu == Dân số Kuwait vào năm 2014 đạt 4,1 triệu, trong đó 1,2 triệu người là công dân Kuwait, 1,1 triệu người Ả Rập khác, 1,4 triệu ngoại kiều châu Á, và 76.698 người châu Phi. Ngoại kiều chiếm 70% tổng dân số, 60% tổng dân số Kuwait là người Ả Rập (bao gồm ngoại kiều Ả Rập). Người Ấn Độ và người Ai Cập là các cộng đồng ngoại kiều lớn nhất. Xã hội Kuwait có đặc điểm là đa dạng và khoan dung. Đa số cư dân theo Hồi giáo Sunni, cùng một thiểu số đáng kể theo Hồi giáo Shia. Kuwait có một cộng đồng Cơ Đốc giáo bản địa, ước tính bao gồm 259-400 công dân Kuwait. Kuwait cùng Bahrain là hai quốc gia GCC có cộng đồng Cơ Đốc giáo bản địa có quyền công dân. Ngoài ra, còn có các công dân Kuwait theo Bahá'í. Kuwait còn có các cộng đồng ngoại kiều lớn tin theo Cơ Đốc giáo, Ấn Độ giáo, Phật giáo, Sikh giáo. Ngôn ngữ chính thức của Kuwait là tiếng Ả Rập tiêu chuẩn hiện đại, song nó chỉ được sử dụng hàng ngày trong báo chí và giáo dục. Tiếng Ả Rập Kuwait là biến thể tiếng Ả Rập sử dụng trong sinh hoạt thường nhật. Tiếng Anh được thông hiểu phổ biến và thường được sử dụng làm ngôn ngữ kinh doanh. Ngoài tiếng Anh, tiếng Pháp được dạy trong trường học làm ngôn ngữ thứ ba cho học sinh phân ban nhân văn trong các trường học, song chỉ học hai năm. Do lịch sử nhập cư, tiếng Ba Tư được sử dụng trong cộng đồng người Kuwait Ajam. Tiếng Ả Rập Kuwait tương đồng với phương ngôn của các khu vực duyên hải miền đông bán đảo Ả Rập. Do nhập cư và giao dịch, tiếng Ả Rập Kuwait vay mượn nhiều từ vựng từ tiếng Ba Tư, Ấn Độ, Thổ Nhĩ Kỳ, Anh. == Tham khảo == == Đọc thêm == == Liên kết ngoài == Bản mẫu:GovPubs Kuwait tại DMOZ Wikimedia Atlas của Kuwait, có một số bản đồ liên quan đến Kuwait.
in màu.txt
In màu là một kiểu in ấn tạo ra hình ảnh và chữ có màu sắc (đối lập với in đen trắng). Kỹ thuật phổ biến là in bốn màu sử dụng hệ màu CMYK. Một kỹ thuật đang phát triển khác là in sáu màu, thêm màu gốc da cam và xanh lá cây vào hệ CMYK để tạo phổ màu rộng hơn. Các bước chính trong in bốn màu được miêu tả sau đây. == Tách màu == Trong bước này, hình ảnh màu ban đầu được số hóa (ví dụ như thu qua máy quét ảnh) và tách ra thành 3 phần đỏ, xanh lá cây, và xanh lam. Trước khi kỹ thuật ảnh số ra đời, phương pháp truyền thống là chụp ảnh hình ảnh màu 3 lần, sử dụng 3 kính lọc màu tương ứng. Khi thu được 3 thành phần ảnh này, mỗi bức ảnh riêng rẽ chỉ có độ sáng tối, thể hiện các mức độ đỏ, lục và lam trong ảnh ban đầu: Bước tiếp theo là nghịch đảo các ảnh này để thu các âm bản. Âm bản của thành phần đỏ thể hiện mức độ màu hồ thủy của ảnh ban đầu. Tương tự âm bản của lục và lam tương ứng với thành phận màu cánh sen và màu vàng. Các màu hồ thủy, cánh sen và vàng tạo nên các màu gốc in ấn. Khi các màu này trộn với nhau trên bản in, hình ảnh sẽ có màu sắc giống như nguyên bản, theo nguyên lý của phối màu hấp thụ. Tuy nhiên, các mực màu có hạn chế là không tạo ra màu đen thực sự. Để tăng độ nét, người ta thêm quy trình tách thành phần màu đen, và in thêm mực đen lên bản cần in. Có nhiều cách để thu được thành phần màu đen từ nguyên bản như: kỹ thuật thay màu xám, kỹ thuật thay màu dưới, kỹ thuật cộng màu dưới. Kỹ thuật in này do vậy được gọi là in bốn màu hay in CMYK. Kỹ thuật ảnh số ngày nay có thể không bị giới hạn về không gian màu như các phương pháp CMYK truyền thống. Người ta có thể xử lý dữ liệu màu từ các ảnh theo chế độ RGB hay CMYK. Khả năng tái tạo màu trung thực thay đổi tùy theo các không gian màu của kỹ thuật in. Để đảm bảo có được màu chuẩn xác so với một mẫu màu, người ta dùng kỹ thuật so màu. == Lồng màu == Trên thực tế, mực in không thể trộn với nhau hoặc in đè lên nhau. Tại một điểm trên tờ giấy, chỉ có thể in một màu. Do đó các màu được in thành các điểm nhỏ nằm sát nhau, để khi nhìn, ta không trông rõ các điểm màu và ta cảm thấy như có màu sắc tự nhiên trên ảnh. Việc lồng các điểm màu như này gọi là kỹ thuật lồng màu hay lưới màu. Trong phương pháp lồng màu truyền thống, người ta tạo ra các điểm lưới màu trên các phim bằng cách đặt trước các phim này một tấm lưới ca-rô khi chụp ảnh. Tấm lưới ca-rô có thể được chế tạo bằng cách in các đường mực đen song song lên 2 tấm thủy tinh, rồi dán 2 tấm này vào nhau sao cho các đường mực đen trên 2 tấm vuông góc với nhau. Sau khi chụp, trên phim sẽ có các chấm nằm rải rác, do ánh sáng lọt qua lưới để lại. Đường kính chấm thể hiện cường độ sáng: cường độ sáng càng mạnh thì đường kính của chấm càng lớn. Khi đem in theo ảnh thu được, đường kính các chấm sẽ điều khiển mức độ sáng tối của màu mực tại điểm in. Lưới màu của các màu khác nhau nằm hơi lệch nhau một góc nghiêng, để khi in, các điểm lưới màu không chồng lên nhau mà chỉ nằm sát nhau. Thông thường, trong các báo chí, người ta dùng độ phân giải cho các tấm lưới ca-rô là từ 60 đến 120 đường kẻ trên một inch (còn gọi là lpi). Độ phân giải này không cao, nhưng kinh tế và phù hợp với giấy báo, có độ thấm hút lớn và không thể in được các chấm màu nhỏ hơn thế. Theo từ chuyên môn, các giấy báo có cỡ điểm ?? (dot gain) lớn. Lưới có độ phân giải 133 đến 175 lpi được dùng cho họa báo và in ấn thương mại. Có thể nhìn rõ các chấm lưới màu khi dùng kính lúp để xem báo. Các tấm lưới trong kỹ thuật chụp âm bản khi tách màu đã được thay thế việc sử dụng laser để tạo lưới màu trực tiếp trên phim. Kỹ thuật gần đây nhất áp dụng xử lý ảnh kỹ thuật số, xếp chữ máy tính (CTP), cho phép bỏ qua giai đoạn chụp phim âm bản, và xếp chữ thẳng từ tín hiệu số của máy tính. Tín hiệu máy tính điều khiển laser chiếu các lưới màu trực tiếp lên bản xếp chữ. Phương pháp này kinh tế, tăng chất lượng (chất lượng ảnh không bị mất qua khâu trung gian), tiết kiệm thời gian, và giảm lượng chất thải hóa học độc hại ra môi trường do việc rửa phim gây nên. == Lồng màu ngẫu nhiên == Xử lý ảnh kỹ thuật số cho phép lồng màu theo nhiều phân bố khác với lưới ca-rô. Phương pháp được biết đến nhiều nhất là lồng màu ngẫu nhiên. Các điểm màu lúc này đều có cùng đường kính, nhưng mật độ phân bố tăng giảm theo cường độ sáng của màu, và vị trí của từng điểm riêng biệt được rải ra ngẫu nhiên. Phương pháp này loại bỏ hiệu ứng moiré vốn gây khó chịu khi xem ảnh với lưới màu ca-rô truyền thống. Phương pháp cũng này cho độ phân giải tối ưu. Khi sử dụng thêm các màu gốc mới như da cam hay xanh lục, phổ màu sẽ được tăng thêm. Hầu hết các máy in phun hiện nay dùng phương pháp lồng màu ngẫu nhiên này. Dùng kính lúp, mọi người có thể quan sát các điểm màu ngẫu nhiên trên bản in của máy in phun ở nhà họ. Lồng màu ngẫu nhiên, đôi khi kết hợp với lồng màu ca-rô truyền thống, là tiêu chuẩn hiện nay cho nhiều in ấn bao bì sản phẩm. == Xem thêm == In ấn In offset == Tham khảo == (bằng tiếng Anh) Bruno, Michael H. (Ed.) (1995). Pocket Pal: A Graphic Arts Production Handbook (16th ed.). Memphis: International Paper (tiếng Việt)
john atta mills.txt
John Evans Fifii Atta Mills (21 tháng 7 năm 1944 21 - 24 tháng 7 năm 2012) là một chính trị gia Ghana, Tổng thống Ghana giai đoạn 2009-2012. Ông đã nhậm chức tổng thống vào ngày 07 Tháng 1 2009, đã đánh bại ứng cử viên đảng cầm quyền Nana Akufo-Addo trong cuộc bầu cử năm 2008. Ông là Phó tổng thống giai đoạn 1997-2001 dưới thời Tổng thống Jerry Rawlings, và thất bại trong các cuộc bầu cử tổng thống năm 2000 và 2004 dưới danh nghĩa ứng cử viên của Đại hội Dân chủ Quốc gia (NDC). Ông mất vào ngày 24 tháng 7 năm 2012 tại Bệnh viện Quân y 37 tại Accra. Ông là nguyên thủ quốc gia Ghana đầu tiên qua đời khi đương nhiệm. == Tiểu sử == Ông sinh ra ở Tarkwa ngày 21 tháng 7 năm 1944 ở vùng Tây. Ông học tại trường Achimota, nơi ông tốt nghiệp vào năm 1963, và Đại học Ghana, Legon, nơi ông tốt nghiệp đại học luật trong năm 1967. Mills nghiên cứu tại Trường Kinh tế và Khoa học Chính trị London, và nhận bằng tiến sĩ luật tại Trường Nghiên cứu Phương Đông và châu Phi tại Đại học London. Sau khi hoàn thành luận án tiến sĩ của ông trong lĩnh vực thuế và phát triển kinh tế. Ông chính thức làm giảng viên lần đầu tại Khoa Luật trường Đại học của Ghana. Ông đã dành gần 25 năm giảng dạy tại Legon và các tổ chức giáo dục đại học khác. Trong năm 1971, ông được chọn cho chương trình học bổng Fulbright tại Trường Luật Stanford ở Mỹ. Ông trở lại Ghana sau khi nhận được bằng tiến sĩ, làm việc tại trường cũ của mình, trường Đại học của Ghana, trong 25 năm. == Tham khảo ==
súng.txt
Súng 銃là một loại vũ khí dùng sức đẩy của thuốc phóng để phóng/bắn đạn tới mục tiêu; được trang bị cho cá nhân hoặc một nhóm sử dụng. Loại vũ khí có nguyên tắc cấu tạo như súng nhưng lớn hơn về kích thước nòng súng, đạn, tầm bắn, phương pháp xạ kích... được gọi là pháo, theo quy ước trong kỹ thuật vũ khí, cỡ nòng nhỏ hơn 20 mm gọi là súng, còn lớn hơn gọi là pháo, tuy nhiên có các trường hợp ngoại lệ, ví dụ B40, B41 cỡ nòng 30 mm, cối 60 mm... vẫn gọi là súng... Súng được phân loại theo kích thước (ngắn, dài, lớn, vừa, nhỏ); số lượng nòng; kết cấu nòng; đặc tính cấu tạo; mức độ tự động hoá; tính năng tác dụng.... Trước đây, người ta dùng nỏ và cung để bắn tên hay đạn đến mục tiêu, tuy nhiên, ngày nay nhiều thứ nỏ vẫn được gọi là súng, như "súng cao su", hay các ống phụt dùng làm công cụ cũng được gọi là súng, như "súng bắn đinh". Loại dùng trong quân sự như súng phun lửa có lúc cũng không phải là súng đúng nghĩa. Tuy có nhiều loại súng, nhưng nhiều hơn cả là loại súng dùng thuốc phóng phóng đạn từ một cái ống, gọi là "nòng". Nòng súng có tác dụng chắn khí áp cao và định hướng đạn đi chính xác. == Định nghĩa và Phân loại == Theo nguồn năng lượng sinh công khi bắn, có súng hỏa khí, súng hơi, súng cơ và súng điện tử. Theo đặc điểm kết cấu và tính năng hoạt động, có: Súng ngắn, súng trường, cácbin, tiểu liên, súng máy (bao gồm trung liên, trọng liên, đại liên), súng phóng lựu... Theo kết cấu lòng nòng, có: Súng nòng trơn và súng nòng có rãnh xoắn. Theo đối tượng trang bị, có: Súng bộ binh, súng trên máy bay, súng trên xe chiến đấu... Theo biên chế sử dụng, có: Súng cá nhân và súng tập thể. Theo phương pháp sử dụng, có Súng cầm tay và súng có giá. Theo đối tượng tác chiến, có: Súng chống bộ binh, súng chống tăng, súng máy phòng không... Theo mức độ tự động hóa, có: Súng không tự động, súng bán tự động (tự động nạp đạn) và súng tự động. Theo số nòng, có: Súng một nòng, súng hai nòng và súng nhiều nòng... Súng có thể bắn bằng các loại đạn (đạn súng thông thường, đạn chì, đạn ghém, đạn lựu phóng, đạn chống tăng...) hoặc phương tiện sát thương khác (như chất cháy, mũi tên...). Đạn có thể nạp từ đuôi hay đầu nòng, từng viên hay nhiều viên chứa trong các hộp, băng... Các kiểu súng đầu tiên xuất hiện từ thế kỷ 13 - 14 ở nhiều nước, trong đó có Việt Nam. Từ giữa thế kỷ 16 về trước chủ yếu sử dụng súng hỏa mai, Súng kíp ra đời cuối thế kỷ 15 và được dùng rộng rãi đến giữa thế kỷ 19. Sau đó xuất hiện súng có rãnh xoắn, phát hỏa bằng kim hỏa. Cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20 xuất hiện súng tự động - loại súng phổ biến nhất hiện nay. == Nguồn gốc vũ khí nóng == Thuốc phóng xuất xứ từ Trung Á, nơi sa mạc có nhiều mỏ diêm sinh tự nhiên, sau đó truyền vào Trung Quốc vào khoảng đầu Công nguyên, cùng với kỹ thuật chế những chất dễ cháy. Trong thiên niên kỷ thứ nhất người ta đã dùng "hỏa hổ", là một thứ súng phun lửa. Đến thời nhà Tống cũng xuất hiện những giàn tên lửa đầu tiên. Đến cuối đời Nam Tống, vào năm 1259, ở phủ Thọ Xuân, huyện Thọ, tỉnh An Huy (Trung Quốc), người ta đã chế tạo ra "đột hỏa thương", sử dụng thuốc phóng nhồi vào ống tre và nhồi tiếp một viên đạn hình cầu; đốt cháy thuốc nổ, viên đạn được bắn đi. Từ đầu thiên niên kỷ thứ 2, kỹ thuật luyện kim và trộn thuốc phóng hoàn thiện, người ta dần dần chế ra súng sát thương bằng đạn, thay cho lửa. Từ đó, ở phương Đông, súng có tên là "bác" (tức "súng"), "thần công" (công phá như thần), "thần cơ" (có nguyên lý hay máy móc của thần), "hỏa thương" (thương lửa), "hỏa mai" (mồi bằng lửa)... Từ thời nhà Tống, tiếng súng còn được dùng làm hiệu lệnh, nên còn có tên là "pháo", loại súng chuyên để làm việc này còn gọi là "súng lệnh", để phân biệt với "pháo lệnh" là ống tre nhồi thuốc phóng không nòng. Ngày nay trong tiếng Việt, "pháo" chỉ "súng lớn", nghĩa đó cũng thường được gọi bằng từ Hán-Việt "đại bác". Đồng thời, chữ "pháo" hiện đại cũng chỉ những liều nổ giải trí, như "pháo hoa", "băng pháo"..., vậy đó là hai từ khác nhau cùng nguồn gốc và đồng âm. "Súng" trong ngôn ngữ thường nói hay dùng để chỉ súng cầm tay. Trong khoa học quân sự, hiện có rất nhiều môn nghiên cứu về súng như: Nguyên lý kết cấu Vũ khí có nòng, nguyên lý máy tự động vũ khí.... Khoa học nghiên cứu về chuyển động của đạn, gọi là "thuật phóng", bao gồm các môn nhỏ hơn là "thuật phóng trong" mô tả chuyển động của đạn trong nòng và "thuật phóng ngoài" mô tả chuyển động của đạn ngoài nòng, thuật phóng trung gian nghiên cứu chuyển động từ khi đạn ra khỏi nòng đến khi nó đạt vận tốc lớn nhất, có thể coi thuật phóng trung gian là một phần của thuật phóng ngoài. Súng trong hệ Nato cũng được chia thành rất nhiều loại, ví dụ Assault Rifles (Súng trường tiến công), Pistols (Súng ngắn), Machineguns (súng máy)... == Thuật phóng == Trong lịch sử, thuật phóng trong được xây dựng qua ba giai đoạn, theo khả năng tính toán tăng lên, người ta tăng khối lượng tính. Ban đầu, các nhà bác học coi tốc độ cháy của thuốc phóng là nhanh tức thời, khí cháy không có tỷ khối, áp suất trong nòng luôn đồng đều. Điều này có thể mô tả gần đúng những súng yếu thời cổ nhồi thuốc nổ đen, chỉ cần tính toán đơn giản. Tiếp theo, đầu thế kỷ 20, người ta đã biết cắt lớp khối khí thuốc và mô tả dược tốc độ cháy, điều này chứng minh được áp suất và tốc độ khí thuốc không đồng đều trong nòng, đặc biệt quan trọng khi lượng thuốc nhồi tăng, lớn gấp nhiều lần khối lượng đầu đạn. Mức thuật phóng này cũng đã mô tả được gần đúng ống phóng không giật và cho ra đời các súng chống tăng phản lực như B41, ĐKZ, mô tả được biến đổi áp suất và tốc độ khí thuốc không đồng đều ở các đoạn khác nhau trong nòng. Ban đầu, thuật phóng được mô tả thành các bài toán song song, cho hàng nhiều người tính thủ công một lúc, người Nga có nhưng đơn vị tính toán lớn. Giai đoạn 3, hiện nay chạy được trên máy tính, băm nhỏ khí thuốc ra thành những phần tử nhỏ. Điều này mô tả được các hiện tượng cuộn, thắt dòng và những hiện tượng khác liên quan đến áp suất và tốc độ không đồng đều trên mặt cắt nòng, chứng minh được ảnh hưởng của kết cấu buồng nổ, đưa ra những phương án nòng hay ống phóng ưu việt nhất. (Đoạn mang tính chất tham khảo) Hiện nay (2016), khoa học về súng, pháo tại Việt Nam đã gần như hoàn thiện, các bộ môn đã nghiên cứu khá toàn diện các vấn đề vũ khí nói chung và súng pháo nói riêng. Hoàn toàn có thể tính toán thiết kế các loại súng khác nhau, tuy nhiên do hạn chế về công nghệ luyện kim nên việc sản xuất chế tạo còn nhiều hạn chế. Trong lịch sử, ngoài việc Hồ Nguyên Trừng làm rạng danh đại bác Việt Nam thì năm 1947, ông Trần Đại Nghĩa cũng chế dược bazooka kiểu 1944 Mỹ, góp phần quan trọng vào chiến công thắng Pháp. Trong Khởi nghĩa Hương Khê cuối thế kỷ 19, lãnh tụ Cao Thắng cũng chế được súng trường kiểu Pháp, tuy nhiên chưa có khương tuyến (rãnh xoắn). == Thế kỷ 19 == == Thế kỷ 20 == === Pháo (đại bác) === Pháo (còn gọi là đại bác) là loại súng/vũ khí cộng đồng có cỡ nòng lớn từ 20 mm trở lên để phóng hoặc bắn các loại đạn nhằm tiêu diệt sinh lực và phương tiện của đối phương. Ngoài ra, nó cũng được dùng cho các nhiệm vụ khác (tạo khói, chiếu sáng...). Trong lịch sử, đại bác có sự phát triển đi trước các loại súng cá nhân và cộng đồng khác. Ở phương Đông, bản thân từ đại bác dùng để chỉ loại pháo cỡ lớn. Từ pháo trong thuật ngữ quân sự cũng khác với từ pháo trong dân gian dùng để chỉ các loại quả nổ bằng giấy quấn quanh một liều thuốc nổ (hoặc thuốc cháy) nhỏ để sử dụng cho mục đích giải trí. Pháo là vũ khí cơ bản của binh chủng pháo binh, có mặt trong các quân chủng: Hải quân (pháo binh hải quân), lục quân (pháo mặt đất, pháo bờ biển), phòng không (pháo cao xạ), binh chủng đặc biệt (pháo laser). Pháo được chia làm nhiều loại: Theo môi trường và đối tượng tác chiến có pháo mặt đất, pháo bờ biển, pháo phòng không (cao xạ), pháo hạm, pháo tăng, pháo chống tăng. Theo tính năng: pháo lựu, pháo nòng dài, pháo cối, pháo không giật Theo cách thức dẫn đạn: Pháo có nòng, pháo phản lực Theo cấu tạo mặt trong của nòng: pháo có nòng rãnh xoắn, pháo nòng trơn. Theo khả năng cơ động: pháo cố định (thường đặt trong pháo đài), pháo xe kéo, pháo tự hành, pháo mang vác (pháo nhẹ, sơn pháo). ==== Cơ cấu hãm lùi, đẩy lên ==== Khi bắn, tỷ lệ khối lượng giữa nòng pháo và đạn càng cao thì càng ít giật, do tỷ lệ động năng tác động vào pháo giảm. Do giá pháo của Thần cơ thương pháo còn tồi nên đúc nòng rất nặng, ví dụ Hải pháo Thế kỷ 19 trên, thừa kế các pháo nòng dày cổ đại. Điều này làm pháo thì nặng mà bắn đạn thì nhẹ. Điều này được cải tiến trong Thế kỷ 20, cùng với việc dùng những hợp kim mới cho phép nòng mỏng, dài mà chịu được áp lực lớn. Pháo nhẹ mà ít giật. Pháo bắn thẳng và lựu pháo có thêm khối lùi, nhờ đó lực tác dụng lên đất giảm đi, ít thay đổi vị trí giá súng, ảnh hưởng đến độ chính xác. Giá súng có bánh xe và càng, đầu càng có cày chống giật. Hoặc súng được đặt trên giá ba chân. Nòng súng đặt trong máng súng, máng súng đặt trên bộ ngõng ngáng. Bộ ngõng ngáng lắp vào giá súng, cho phép thay đổi góc bắn, quay và ngỏng lên xuống. Nòng súng trượt trong máng súng được bôi trơn bằng mỡ súng. Mỗi phát bắn, nòng thụt về sau, tốc độ được hãm bằng hãm lùi thủy lực, nòng trở về vị trí cũ sau khi lùi bằng đẩy về. Đẩy về làm bằng lò xo hay khí nén. Tuy là máng nhưng của Nga và Đức là ống tròn, đến giờ thì các pháo hầu như ống tròn. Thông thường có ba loại máy đẩy về và hãm lùi. Các lựu pháo dùng máy hỗn hợp, dùng khoang chứa dầu không đầy hoặc piston trôi, một máy chung hai chức năng. Các pháo bắn chính xác như pháo chống tăng dùng máy lùi và máy đẩy về riêng, có cơ chế lùi tự do khi đang bắn. Pháo trên xe tăng trước đây là pháo giá cứng, dùng toàn bộ khối lượng xe hãm pháo. Các xe tăng hiện đại dùng lùi ngắn (T-80, T-90 lùi 300mm). ==== Đạn, liều và khóa nòng. ==== Thuốc phóng đựng trong vỏ đạn chống bắt lửa gọi là liều, đạn và liều của đại bác bắn thẳng nhồi ở sau, một số loại súng cối đơn giản nhồi miệng nòng. Sau khi nạp đạn và liều vào nòng, người ta đậy đáy nòng lại bằng khóa nòng. Đến đầu thế kỷ 20 vẫn dùng chủ yếu khóa nòng quay gờ nhỏ (tương tự như vặn bu lông vào ốc ren), khóa nòng ren cắt. Sau này, súng dùng khoá nòng xoay gờ lớn hay khóa nòng then xoay. Ở tâm đáy vỏ đạn, có hạt nổ. Đây là khối thuốc dễ phát nổ được đặt giữa một tấm mỏng để che và một tấm dày làm đe, kim hỏa từ khóa nòng đập qua tấm mỏng vào, ép hạt nổ lên đe kích nổ đạn. Những súng nhỏ dùng đạn liền khối vỏ đạn-đầu đạn-liều phóng-hạt nổ, còn súng lớn một số dùng liều rời, nhiều liều. Hệ thống cơ khí nạp đạn, quay tầm hướng, tháo vỏ đạn... và hệ thống điện tử đóng vai trò quan trọng, đặc biệt trong các hệ thống đối kháng dùng súng như xe tăng hay thiết giáp hạm (đúng hơn là "tàu chiến đấu"). Các hệ thống đối kháng dùng súng này chuyên để diệt nhau, có hai nhiệm vụ lớn nhất là bắn loại súng diệt nhau và chống lại đạn. ==== Nòng xoắn, thuốc phóng ổn định và đạn xuyên phá ==== Ba cải tiến quan trọng trong thế kỷ 19 là: nòng xoắn, thuốc cháy chậm và đạn xuyên phá. Nhờ nòng xoắn có các rãnh xoắn trong thành nòng, viên đạn xoáy như con quay trong không khí, luôn chống lại các lệch lạc, viên đạn quay tác dụng với không khí luôn hướng tâm khí động về phía trước tâm khối lượng. (Có thể hình dung như con quay đồ chơi, luôn lộn ngược trên đinh). Nhờ đó, giảm tản mát đạn, có thể làm đạn dài nặng mà vẫn hẹp, ít lực cản, thay cho đạn cầu. Những nòng xoắn đầu tiên có từ thế kỷ 15, nhưng nhồi thuốc miệng nòng dùng nòng xoắn rất khó. Các thuốc phóng mới có độ bền cơ học cao, không vỡ khi phóng đạn, được đúc thành các ống trụ rỗng. Khi cháy, các ống này ít thay đổi diện tích mặt ngoài nên cháy ổn định hơn, cháy lâu hơn. Nhờ điều khiển được phản ứng cháy, người ta nhồi được nhiều thuốc phóng hơn trong pháo nòng dài, tăng tầm bắn mà giảm khối lượng lựu pháo, nòng dày của pháo hạm vì thế dần được thay bằng nòng mỏng như M-46. Đạn xuyên phá được đúc bằng thép tốt, nhồi thuốc nổ ổn định, khi đập vào giáp không kích nổ mà xuyên vào trong. Thuốc nổ cháy chậm và ổn định cùng đạn xuyên được người Đức phát triển ứng dụng đầu thế kỷ 20 (khoảng năm 1902). Đến giữa thế kỷ 20, súng lớn cũng được đặt trên các xe cơ giới bọc thép, trở thành "pháo tự hành" và "xe tăng". Súng cũng được đặt trên các tàu biển bọc thép lớn, hệ thống diệt tàu trên biển này được gọi là tàu chiến đấu (battle ship), tuy nhiên, dịch theo Hán-Việt là thiết giáp hạm hơi khác. === Súng ngắn === Các súng cầm tay nhỏ gọn nòng ngắn gọi chung là "súng ngắn", tiếng Anh là pistol. Những súng cầm tay nòng ngắn mạnh thường sử dụng đạn ngắn nhưng đường kính lớn, giảm hạn chế do chiều dài nòng gây ra. Súng ngắn có ổ xoay còn được gọi trong tiếng Anh là revolver. ==== Súng ngắn bắn phát một ==== Tuy từ "súng ngắn" trong khoa học quân sự chỉ chung các loại súng cầm tay nòng ngắn nhưng dùng trong ngôn ngữ thông thường hơi khác, loại súng cầm tay nòng ngắn gọn nhỏ bắn phát một được gọi là súng ngắn. "Súng ngắn" gọn nhỏ chứa ít đạn, bắn phát một dùng cho sĩ quan hay cảnh sát. Súng này còn hay được gọi là "súng lục", "súng sáu". Súng ngắn có từ thời súng kíp, để tăng số lượng đạn nạp sẵn, người ta làm 2 nòng. Khẩu Colt-1851 Mỹ hồi giữa thế kỷ 19 dùng ổ quay 6 buồng đốt, đạn vỏ giấy, có lẽ là súng dùng đạn có vỏ đầu tiên, vì nó mà có tên "súng lục". Đến đầu thế kỷ 20 các súng ngắn phát một dùng băng xoay vẫn phổ biến, như Browning, Nagant M1895. Ví dụ về súng ngắn ngày nay (còn gọi là súng ngắn tự động) như Fedor Tokarev TT-33 thế chỗ Nagant M1895. (Tokarev-Tula kiểu 33, Tokarev ở Tula, hay được gọi tên tiếng Việt là K-54), khẩu này ban đầu bắn đạn 7,63 x 25mm, các phiên bản hiện đại (vẫn sản xuất) dùng cỡ đạn 9mm. M1911 Colt cũng thay thế cho các súng ổ xoay. Thời đó hàng là FN M1900 John Browning (1896). Makarov là đời thay thế cho TT-33. Thay cho ổ xoay là khóa nòng lùi. Trong hồ sơ thuế, hải quan của Việt Nam phân biệt súng ngắn và súng ổ xoay-để tương thích với tài liệu tư pháp nước ngoài. Nhưng trong ngôn ngữ dùng chung vẫn thường gọi là súng ngắn. ==== Súng máy nhỏ ==== Loại súng máy dùng chung đạn với các súng ngắn gọi là "súng máy nhỏ", ví dụ PPSh-41 hồi thế chiến 2 (tên Việt Nam là K-50). Khẩu súng máy nhỏ nổi tiếng ngày nay là Uzi của Israel, thiết kế đầu những năm 1950, đến năm 1951 được chấp nhận trang bị, năm 1956 tham chiến lần đầu tạo thành công lớn. Súng Uzi dùng cỡ đạn 9x19mm NATO Parabellum, cải tiến từ khẩu CZ Model 25 của Tiệp Khắc. Các súng trường và súng liên thanh nhỏ đều có những ưu thế riêng. Súng liên thanh nhỏ có uy lực rất mạnh ở tầm gần. Tuy nhiên, cũng rất khó sử dụng chúng ở tầm 200 mét như các thông báo. MP7 mang đạn đường kính nhỏ 4,6x30mm nên gọn hơn, nặng 2 kg đầy đủ băng 40 viên. Một số súng cạc bin tính năng không khác nhiều súng ngắn bắn nhanh, như AK-74U (AK-74 nòng ngắn) nặng 2,71 kg. Các súng ngắn bắn liên thanh có thể dùng khóa nòng lùi với trích khí thẳng hoặc trích khí ngang (MP7). Nhiều người hay nhầm submachine gun (súng máy cỡ nhỏ) là tiểu liên. === Vũ khí cá nhân chính === Súng trường, đọc tiếng Việt đúng là súng dài, tuy nhiên trong tiếng châu Âu ngày nay, súng trường được gọi là rifle, tức là nòng xoắn, đây là thói quen nói tắt súng dài nòng xoắn. Thực ra các súng hỏa mai, súng kíp nòng trơn đã phân ra súng nòng dài làm vũ khí chính của bộ binh, súng nòng ngắn dắt lưng cho gọn, súng trung bình là cạc bin (súng kỵ sĩ). Khác với đại bác, súng trường được thiết kế sao cho gọn nhẹ, tin cậy, chính xác nhưng tầm bắn hiệu quả thấp. Những súng trường nòng xoắn đầu tiên xuất hiện trước thế kỷ 19, nhưng đến hết thế kỷ này mới phổ biến súng trường có vỏ đạn và nòng xoắn. Do lượng thuốc nổ nhỏ nên không dùng viên trụ rỗng và dùng miếng thuốc dẹt. Người ta cũng thấm các chất làm chậm tốc độ cháy lên bề mặt thuốc, để khi giảm diện tích bề mặt, tốc độ thuốc cháy ăn sâu nhanh lên, điều hòa tốc độ cháy. Vỏ đạn có gờ hay khe phía sau cùng để một cái móc trên khóa nòng móc vào, kéo vỏ đạn ra khỏi nòng. Gờ dần thay bằng khe tin cậy hơn. ==== Súng trường trợ chiến ==== Đầu thế kỷ 19, trong khi châu Á vẫn mải mê với đại bác thì châu Âu đã phát triển và trang bị nhiều súng trường, từ đó, súng này trở thành vũ khí chính. Cuối thế kỷ 19, súng trường bắn phát một có các loại khóa nòng then xoay, đòn bẩy, bơm, khối quay. Tên gọi súng trường trợ chiến do tính năng ban đầu của nó chưa ưu việt, thời gian nạp thuốc đạn, đạn, ngắm bắn, khai hỏa tương đối dài, tốc độ bắn rất chậm (như pháo), nên chỉ được dùng để hỗ trợ cho các loại vũ khí lạnh khác đang thòn dụng như đao, kiếm, lưỡi lê. Để thống nhất, người ta chọn ra một mẫu súng trường, lấy làm tiêu chuẩn cho quân đội mỗi nước trong một thời kỳ. Súng đó sẽ được gọi là "súng trường trợ chiến". Điều này làm thuận tiện việc huấn luyện, hậu cần, trang bị...đảm bảo huy động sức mạnh tối đa của đất nước khi có chiến tranh. Loại súng được chọn sẽ được chế tạp và đưa vào sử dụng hàng loạt sau khi đăng ký bản quyền. Từ bản quyền được cấp, các hãng sẽ duyệt mẫu súng riêng với chủ bản quyền như quân đội, từ đó nhận hợp đồng chế tạo và súng sẽ hơi khác ở mỗi hãng. Sau Nga và Đức, mãi đến gần Thế chiến 2 các nước khác mới đặt ra yêu cầu trang bị súng trường trợ chiến nhưng ở mức độ phổ cập hơn. Ví dụ như Mỹ, họ chỉ đặt ra yêu cầu trang bị lại cho quân đội từ kiếm và súng ngắn sang trang bị phổ biến là súng trường. (trừ cấp chỉ hưy vẫn giữ kiếm và súng ngắn như cũ) ==== Gewehr 1888 (G88), Mosin và Mauser ==== Đây là tên thường gọi của hai loại súng trường phục vụ của Nga và Đức. Chúng ra đời thập niên 189x. Các súng này ra đời cùng với việc xuất hiện đạn có vỏ, đáy vỏ dày, có gờ hay rãnh móc, đầu đạn có vỏ mềm. Mosin và Mauser đều là tên hai nhà thiết kế, sản xuất súng. Mosin thường được phương Tây gắn chữ Mosin Nagant để kể công, nhưng thật ra cái bộ phận Nagant trong đó đã biến mất từ lâu. Mosin và Mauser là hai súng trường được sản xuất nhiều và dùng lâu nhất thế giới. Hàng trăm triệu các súng này đã được làm và dùng cho đến nay, gấp hàng chục lần các súng trường hạng nặng khác. Chúng đều không phải là một khẩu cụ thể, mà là một tập hợp các tiêu chuẩn về hình học, vật liệu, công nghệ, tính năng, sử dụng...được sản xuất ở nhiều nước, nhiều hãng khác nhau trong các điều kiện rất khác nhau. Mosin và Mauser là những súng trường trợ chiến điển hình, trong khi đó, ở các nước Anh-Mỹ-Pháp không có khái niệm súng trường trợ chiến hoàn chỉnh như chúng. Khác với các súng khác, bản quyền Mosin và Mauser được nhà nước nắm giữ và đặt hàng rộng rãi. Chúng được thiết kế để sản xuất ở nhiều điều kiện khác nhau. Trong khi đó, các súng trường Mỹ chỉ sản xuất trong điều kiện của một hãng nào đó. Phần công cộng duy nhất là trang bị, chứ không phải thiết kế và sản xuất. Các súng Mosin và Mauser đều được ra đời trong một cuộc thi tuyển thiết kế rộng và lâu, rồi một quá trình cải tiến cũng lâu dài. Kết quả của những cuộc thiết kế đó là hai khẩu súng có chất lượng, số lượng sản xuất, thời gian và khu vục sử dụng vượt xa so với tất cả các loại súng trường cùng thời khác. Thời gian và không gian sản xuất các súng này cũng vậy, những cải tiến Mauser mới nhất được Trung Hoa Dân quốc sản xuất dập theo mẫu có sẵn trong các công xưởng được trang bị rất thô sơ. Cả hai khẩu ban đầu đều được thiết kế trên hai phiên bản súng trường và cạc-bin, nhưng sau những năm 1930, chỉ còn phiên bản cạc-bin của chúng được sản xuất. Mauser là súng trường trang bị chính trong quân chủ lực Việt Minh thời trước Cách mạng tháng Tám. Nguồn cung chủ yếu là chiến lợi phẩm lấy từ Pháp và Trung Hoa Dân quốc, sau đó là từ viện trợ. Thời đầu kháng chiến chống Pháp, cũng có một ít súng Mosin đến tay Việt Minh từ người Nhật, nhưng lại là phiên bản rất cổ do quân đội Nhật thu được từ chiến tranh Nga - Nhật (1904-1905). Cuối cuộc kháng chiến, người ta nhận được một số phiên bản Mosin chính hãng từ nguồn viện trợ. Nhưng do không thống nhất về loại đạn có thể sử dụng nên QĐNDVN chuyển giao cho các đơn vị quân địa phương và dân quân du kích. Đến thời kỳ kháng chiến chống Mỹ thì kiểu súng Mauser được loại bỏ khỏi biên chế vũ khí bọ binh của QĐNDVN sau Kế hoạch Z. Phần lớn số súng còn được dùng để huấn luyện tân binh, dân quan du kích hoặc cho vào lò luyện thép. Vào năm 1882, người Nga đã đặt ra yêu cầu thiết kế súng có hộp đạn trong. Ban đầu là những cải tiến của khẩu súng Berdan cũ đang dùng. Tuy nhiên, người Nga nhanh chóng phát hiện ra rằng, cần phải thay đổi hoàn toàn bằng một loại súng mới. Họ tổ chức một cuộc thi tuyển thiết kế súng trên quy mô toàn châu Âu trong nhiều năm, năm 1888, thành lập Hội đồng thử nghiệm súng có băng đạn. Sergei Ivanovich Mosin thiết kế một khẩu súng năm 1889. Đến năm 1891, trong cuộc chọn chung kết, Mosin thắng với một điều kiện là sử dụng tay kéo khóa nòng của Nagant. Tiền bản quyền được Hội đồng trả tiền cho Nagant và Mosin được tổ chức sản xuất súng. Ban đầu, có 3 phiên bản, phiên bản dành cho bộ binh nặng, phiên bản dành cho long kỵ binh và phiên bản dành cho kỵ binh nhẹ (còn gọi là Kỵ binh Cosack) ngắn hơn, phù hợp với việc tác chiến trên lưng ngựa. Đến năm 1930, phiên bản Mosin 1891/30 ngắn theo các bản dành cho kỵ binh Cosack được gọi là cạc-bin. Phiên bản Mosin 1891/44 ra đời năm 1944 khá hoàn thiện và được dùng nhiều ở Việt Nam (tên Việt Nam là K-44. Tromng cơ chế nạp đạn, hất vỏ đạn cũ ra, người Nga chọn loại đạn gờ móc, lạc hậu nhưng thích hợp với công nghệ bậc thấp của Nga lúc đó. Điều này về sau cản trở việc phát triển súng máy Nga mà rất khó bỏ. Mauser hoạt động êm, dỡ giật hơn nhưng Mosin khỏe hơn, kích thước và trọng lượng của nó thích hợp với người Nga nhưng lại nặng và dài so với các tộc người khác. Mosin có khả năng sản xuất hàng loạt hơn do cấu tạo đơn giản, nguyên vật liệu phổ biến gồm chủ yếu là thép và gỗ thông. Mauser ra đời dần dần. Tiến bộ hơn Nga, từ những năm 1870 Đức đã có những súng trường tiên tiến nội địa, Mauser đã dẫn đầu về thiết kế súng và ông hoàn thiện nó liên tục. Cũng như Nga, cuối những năm 1880 Đức đặt ra Hội đồng Súng cầm tay. Không hiểu sao, Mauser đã không tham gia hội đồng. Hội đồng nhanh chóng tiếp cận hàng loạt những tiến bộ kỹ thuật mới: công nghệ dập vỏ đạn, công nghệ bọc đầu đạn, sản xuất súng... đặc biệt là chấm dứt việc sử dụng thuốc nổ đen. Gewehr 1888 (bộ binh 1888, G88) là khẩu súng trường trợ chiến đầu tiên được chấp nhận. G88 cũng có bản cạc bin, nó được sản xuất ít vì phiên bản Mauser ra liền theo. Khẩu này thiết kế không có đóng góp của Mauser và được gọi là Súng theo kiểu 88. Tuy vậy, G-88 thừa kế rất nhiều đặc điểm của các khẩu Mauser trước đó. Xem thêm G88. Mauser nhanh chóng nhận thấy vai trò của Hội đồng và đem kỹ thuật của mình đóng góp, hãng hoàn thiện G88 và cho ra các Model 1889/90/91, đã hình thành nên cấu tạo súng Mauser. Nhưng chỉ đến năm 1898, khi loại đạn mới hoàn chỉnh, Mauser 1891/98 mới giống các súng sau này. Khoảng những năm 1930, phiên bản cạc bin mới được hoàn thiện và được sản xuất lớn ở rất nhiều nước. Đạn hoàn toàn không có gờ móc, hết sức tiên tiến lúc đó và thuận lợi sau này. Năm 1898, hình thành Mauser báng cải tiến ngắn Model 98k (k=kurz ngắn). Phiên bản cạc bin báng ngắn có ký hiệu Karabiner 98k K98k. Cũng có người viết G98, nội bộ Đức hay dùng cách viết súng bộ binh 98. Trung Hoa Dân quốc đã copy mấy khẩu Mauser để sản xuất ngay từ những ngày đầu tiên lập quốc ở Quảng Đông. Không thể thống kê được, nhưng chỉ tính trước Thế chiến II đã có hàng chục triệu Mauser chỉ tính riêng loại do Trung Hoa Dân quốc sản xuất theo mẫu. Tốc độ sản xuất của Mosin cũng đáng kinh ngạc không kém, trong điều kiện công nghiệp-kỹ thuật rất thấp kém mà đến 1904, Nga đã có gần 4 triệu khẩu. Ví dụ về các súng trường không đạt hoàn toàn khái niệm phục vụ là Springfield Model 1903. Mỹ thuê Mauser thiết kế Springfield Model 1903 để thay thế Springfield Model 1892 (sao chép súng trường Krag. Tuy nhiên, Springfield Model 1903 không có khóa an toàn kim hỏa đặc trưng của Mauser. Springfield Model 1903 có đạn giống Mauser, cỡ đạn 0,308inch (hơi to hơn đạn Mosin 7,62mm do quy định rãnh xoắn), nhưng đạn sùng thuốc súng Cordic Mỹ. Loại đạn 30-03 đầu tù được thay bởi 30-06 năm 1907 với kiểu đầu đạn nhọn nặng đuôi (giống đạn Mauser và Mosin năm 1898). Việc chọn kích thước viên đạn không hợp lý (thuốc phóng ít, đầu đạn nặng) và Springfield Model 1903 trở nên yếu kém hơn Mauser và Mosin. Springfield Model 1903 cũng không bao giờ được chấp nhận trong biên chế vũ khí của quân Hoa Kỳ và được rút ra khỏi vai trò súng trường chủ lực vào những năm 1930. Mauser Mauser Mauser Mauser ==== Súng trường không tự động ==== Đầu thế kỷ 20, thường người ta sử dụng súng trường có khóa nòng then xoay điều khiển tay. Mỗi lần bắn phải nạp đạn lại. Để nạp đạn, người bắn xoay cần gạt để mở hãm khóa nòng, kéo cần gạt về sau, vỏ đạn va phải một gờ nhô ra, bật ra khỏi súng. Sau đó, người ta chế ra băng đạn trong súng, đạn dự trữ sẵn trong súng 5-10 viên, mỗi lần bắn xong chỉ cần kéo cần gạt là tháo vỏ và nạp đạn lại được. Khóa nòng có mấu gạt móc đạn từ trong băng. Các viên đạn còn lại được lò xo đẩy vào khoảng trống. Các khẩu Mosin và Mauser đều là Súng trường không tự động. ==== Súng trường hạng nặng ==== Khẩu Winchester Model 70, bắt đầu sản xuất từ 1936, nay vẫn được cải tiến và sản xuất, đây là loại súng trường hạng nặng. Đầu thế kỷ 20, những súng trường hạng nặng còn dược gọi là "súng trường chiến đấu", có nòng dài nhất và đường kính đạn cũng lớn. "Súng trường hạng nặng" đầu thế kỷ 20 là vũ khí chính của bộ binh, nay hay dùng cho mục đích đặc biệt, như bắn tầm xa, bắn tỉa, bắn chính xác... ví như VSSK Vychlop 12,7mm KSVK 12,7mm Hai khẩu Mosin và Mauser đều nằm trong nhóm Súng trường hạng nặng. Lúc đó, cỡ súng này là vũ khí chính. Ban đầu Mosin và Mauser đều có phiên bản cạc bin, sau 1930, chúng đều được cải tiến làm ngắn gọn tiếp và đầu Thế chiến II, vẫn là súng chủ lực. ==== Súng trường bán tự động ==== Sau những súng trường không tự động còn lại của thế kỷ 19, đến đầu thế kỷ 20 xuất hiện súng trường bán tự động. Có nhiều cơ chế vận hành súng tự động, lấy năng lượng từ phát đạn. Ví dụ: lùi dài, lùi ngắn, lùi dùng khối quán tính, trích khí hành trình, trích khí xung. Súng trường bán tự động dùng năng lượng phát nổ để tháo vỏ, nạp viên khác và lên cò, nhưng chỉ bắn phát một. Khẩu Fedorov Avtomat bắn đạn 8,5 g đi 860 m/s, thiết kế năm 1911, đến thế chiến 1 dùng băng đạn tháo được, nhưng sản xuất rất ít (25 ngàn khẩu) do những khó khăn về đạn, tuy vậy, nó vẫn là khẩu súng trường tự động đầu tiên được chấp nhận quy mô lớn. Fedorov Avtomat dùng cơ chế lùi ngắn. Sau này, súng trường tự động thường dùng trích khí, khóa nòng xoay. Hồi đầu Thế chiến 2 có SVT-38, SVT-40. Phía Mỹ có khẩu M1 Garand khóa dùng nòng trích khí then xoay, nhưng vẫn dùng kẹp đạn, thiết kế đầu những năm 1930, đưa vào trang bị 1937. Phần lớn các Súng trường bán tự động sau Thế chiến II đều có cấu tạo và tính năng lai súng trường cỡ lớn-trung liên và thường có trong biên chế cấp tiểu đội. Nhưng trong Chechnya-1999, Nga có xun hướng tách riêng các chức năng này. Nguyên nhân chính là do súng cá nhân AK-74 có cỡ đạn quá nhỏ (5,54 mm) khó thống nhất với Tiểu liên cỡ lớn (còn được NATO gọi là "súng trường tấn công") như AK-47 và AKM, trong khi chức năng bắn tỉa hiện đại lại yêu cầu tăng kích thức đạn lên đến cỡ trọng liên 12,7mm. Ví dụ: VSSK Vychlop 12,7mm và KSVK 12,7mm ==== Súng cạc-bin, súng trường nòng ngắn ==== Khẩu súng trường nòng ngắn đầu tiên là khẩu Remington, xuất hiện trong Chiến tranh miền Tây Hoa Kỳ, được trang bị cho quân đội (trong đó, kỵ binh được trang bị nhiều nhất), cảnh sát và cả dân thường. Tuy nhiên, nó vẫn chưa có được tính ưu việt của các khẩu cạc-bin sau này do vẫn phải lên đạn bằng tay, mặc dù cơ cấu kéo khóa nòng đã được nhất thể hoá với vòng cò, làm cho xạ thủ lên đạn nhanh và dễ dàng hơn. Súng cạc-bin ra đời đầu thế kỷ 20 có chiều dài nhỏ súng trường, có thể dùng cùng loại đạn với súng trường gọi là cạc-bin, trong tiếng Việt từ này xuất xứ tiếng Pháp. Sau "súng trường cỡ lớn" thì cạc-bin lên ngôi làm vũ khí chính của bộ binh do nó gọn nhẹ hơn, người lính mang được nhiều đạn hơn và đặc biệt là bắn nhanh hơn nhời cơ cấu nạp đạn và điểm hỏa bán tự động. Hồi đầu thế chiến 2, những súng trường tự động và súng máy nhỏ xuất hiện nhiều, tỏ ra ưu thế. Khẩu Cạc-bin M1, sau được cải tiến thành Cạc-bin M2 và Cạc-bin M3. Khẩu Cạc-bin M4, phiên bản nhỏ gọn của súng trường M16A2) là những ví dụ về súng cạc-bin. === Tiểu liên, trung liên === ==== Tiểu liên ==== Có tên tiếng Anh là: Sub-machine gun (Súng máy cỡ nhỏ - SMG); là vũ khí cá nhân tầm gần, thuộc họ súng máy; tầm bắn lý thuyết có thể đến 500 m (K-50, Thompson, M3, Tull) nhưng cự li sát thương có hiệu quả không quá 300 m, có loại chỉ 100 m (M3); cỡ nòng từ 5,56 mm (M16) đến 12 mm (M3), phổ biến nhất là hai cỡ nòng 5,56 mm (tiêu chuẩn NATO) và 7,62 mm (tiêu chuẩn khối Vacsava). Do cấu tạo trích khí gián tiếp hoặc trực tiếp để lùi khóa nòng phối hợp với lò xo đẩy đạn, lò xo hồi khóa nòng để nạp đạn tự động, tiểu liên có thể bắn từng phát hoặc bắn liên tục. Tốc độ bắn trong thử nghiệm súng có thể đạt 600 phát/phút. Tốc độ bắn trong thực tế chiến đấu khoảng 100 phát/phút. Hộp tiếp đạn có thể chứa từ 20 đến 40 viên. Một số loại tiểu liên cỡ lớn (AK-47) có thể lắp lưỡi lê để có thể giáp lá cà. Trong chiến đấu, tiểu liên tạo mật độ hỏa lực cao khi tấn công bằng cách bắn rải, bắn quét. Trong phòng ngự, tiểu liên phát huy độ chính xác khá cao khi bắn điểm xạ (2 đến 3 phát liên tục). ==== Tiểu liên cỡ lớn ==== Có tên tiếng Anh: Light Machine Gun (Súng máy hạng nhẹ - LMG), là vũ khí cá nhân chủ yếu của bộ binh, được NATO gọi là "Súng trường tấn công" (do tên lóng bằng tiếng Anh là assault rifle). Tên này được nước Đức đặt ra, yêu cầu của họ là người bộ binh có hỏa lực mạnh. Do có uy lực gần bằng súng trường và sử dụng được đạn súng trường nên người ta còn gọi nó là súng trường tự động. Trong các súng bộ binh thì súng này có nòng dài, chỉ ngắn hơn súng trường bán tự động và súng trường hạng nặng một chút, kết hợp các ưu thế của súng trường và súng máy nhỏ, tầm bắn hiệu quả đến 400 mét. Những súng trường trước đây có thể sát thương ở rất xa, nhưng hiệu quả xạ kích thấp, ngay cả ở tầm bắn gần do tốc độ bắn chậm. Đến sau thế chiến 2, tiểu liên cỡ lớn đã hoàn thiện. Lúc này đã có vỏ đạn hình côn chống tắc, dùng khe móc thay cho gờ móc với băng đạn cong tháo lắp nhanh, khóa nòng then xoay và lên đạn tự động bằng trích khí (trích một dòng khí từ nòng đẩy piston máy nạp đạn). Để phát bắn đầu tiên chính xác, các súng trường tấn công đều bắn khi nòng đã khóa, người thiết kế phải tính cân bằng súng để ổn định khi bắn. Để tiết kiệm đạn, súng cho phép chọn giữa các chế độ bắn: AK có hai chế độ chọn bắn từng phát và liên thanh, M16 có chế độ chọn bắn 3 viên và liên thanh. Do điều kiện tác chiến, bộ binh Việt Nam đã hoàn thiện chế độ bắn hai viên liên tiếp cho súng AK, được gọi là kỹ năng điểm xạ, dựa vào kỹ thuật bóp và nhả cò nhanh và vừa đủ của xạ thủ. Các tiểu liên cỡ lớn đều có thể thay băng đạn nhanh chóng. Bằng kinh nghiệm chiến tranh, người Đức chế ra MP44, còn gọi là STG44 (súng bão 44). Năm 1943, người thợ làm súng ba đời Kalashnikov kết hợp với kinh nghiệm chiến trường chế ra hai mẫu AK-1 và AK-2 khi ông bị thương và đang nằm viện. Đến năm 1947, ông hoàn thiện và trình làng khẩu Avtomat Kalashnikov 1947 (AK-47). Khẩu súng đã được Hội đồng quốc phòng Liên Xô duyệt và trang bị cho Quân đội Xô Viết từ năm 1949. Sau đó, người Mỹ đưa ra M16. Sau này, M16 có nhiều cải tiến cho ra đời khẩu AR-15 (tiểu liên cực nhanh), có một số chế độ làm việc giống với ưu thế của AK-47, như bắn tiết kiệm đạn, ổn định, tin cậy. Thời điểm diễn ra những cải tiến này khoảng 1970. Tuy nhiên, không khẩu súng nào thành công như AK-47. Người Đức đã thiết kế STG45 ngay trong Thế chiến 2 nhưng không kịp trang bị, sau này Tây Ban Nha mua bản quyền STG45 chế ra khẩu CETME những năm 1950, khẩu SIG 510 Thụy Sĩ cũng theo mẫu này nhưng dùng vật liệu mới. Các súng này dùng cơ chế làm chậm lùi hãm cho khóa nòng. Cơ chế lùi khóa nòng này dùng đòn bẩy tăng tốc dộ khối lùi, giảm khối lượng. Kỹ sư Youriy Alexandrov người Nga đưa ra mẫu khóa nòng mới là Balanced Automatics Recoil System (BARS, hệ thống lùi tự động cân bằng) đầu những năm 1970. Hệ thống này gọn nhẹ, bắn nhanh, êm, ít thay đổi hướng súng khi bắn liên thanh, dần dần thay cho kiểu khóa nòng trích khí ngang của AK-47. Khẩu súng đầu tiên dùng kiểu này là AL-7 nhưng không được duyệt sử dụng, AK-107 dùng khóa nòng lùi này. Ngày nay, tiểu liên cỡ lớn phát triển theo xu hướng dùng đạn đường kính nhỏ, tăng sơ tốc, tăng tốc độ bắn vừa phải, hoạt động cân bằng ổn định. Nhờ đó tăng khả năng sát thương và bắn trúng, tăng uy lực súng mà giảm được khối lượng súng đạn bộ binh mang theo. Cỡ đạn hay dùng là 5,45x39 mm Nga; 5,8×42 Trung Quốc; 5,56x45 mm NATO. Những đại diện của súng trường tấn công ngày nay là AK-107 đạn Nga, AK-108 đạn NATO (giống hệt AK-107), M16 Mỹ, câc phiên bản M16A2 M16A3 M16A4, SIG 510 Thụy Sĩ xuất xứ từ STG45, FAMAS của Pháp (dùng khối lùi đòn bẩy làm chậm cũng làm cho súng nhẹ hơn như khối lùi then ngang làm chậm) và QBZ-95 Trung Quốc, sao chép FAMAS Pháp, bắn đạn Trung Quốc. M4 cạc bin Mỹ, tức M16A2 nhỏ gọn, là loại cạc bin dùng như súng trường tấn công. Trong các súng trường tấn công hiện đại đó, ngày nay chỉ còn người Mỹ giữ khóa nòng xoay trích khí. Các tiêu chuẩn đặt ra cho tiểu liên cỡ lớn ngày nay là: Tầm bắn hiệu quả từ 300 mét trở lên. Chọn 2 đến 3 chế độ bắn. Tiết kiệm đạn ở chế độ bắn chậm. Uy lực mạnh ở chế độ bắn nhanh. Xạ thủ mang được nhiều đạn. Độ tin cậy cao, bên, dễ sử dụng, khi chiến đấu. ==== Trung liên ==== Có tên tiếng Anh là Medium Machine Gun (Súng máy hạng trung - MMG); là vũ khí cá nhân tầm trung, thuộc họ súng máy, có chân chống đỡ nòng súng hình chữ A có thể gập lại dọc thân súng; cự li sát thương có hiệu quả đến 1000 m, tầm bắn lý thuyết có thể đạt 3000 m; cỡ nòng từ 5,56 mm đến 8 mm. Trọng lượng trung liên lớn hơn tiểu liên, thông thường từ 6 đến 10 kg. Khi trang bị cho bộ binh, trung liên chỉ cần một người sử dụng. Nó cũng có thể được gắn trên mô tô, ô tô, xe bọc thép, máy bay, trực tăng chiến đấu nhưng không phổ biến vì tầm hỏa lực hạn chế. Trung liên chỉ bắn liên thanh, không thể bắn từng phát (trừ trường hợp người bắn nạp đạn từng viên bằng tay). Riêng loại RPK có chế độ bắn giống như AK-47. Tốc độ bắn tối đa trong thử nghiệm đạt 750 phát/phút. Tốc độ bắn trong thực tế chiến đấu từ 150 đến 250 phát/phút. Với mật độ hỏa lực cao, trung liên được sử dụng phổ biến tạo hỏa lực yểm hộ cấp tiểu đội, trung đội. Mẫu súng trung liên M1918 (thường gọi là V-3) là một trong các mẫu đầu tiên. Nó được trang bị cho quân đội Hoa Kỳ trong chiến tranh thế giới thứ hai để dùng làm súng hỏa lực cấp trung đội. Khi mới ra đời, các mẫu súng trung liên đều có loại đạn riêng. Từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai, để nhất thể hóa các cỡ đạn dùng cho các loại súng bộ binh cá nhân, các loại trung liên dùng chung đạn với súng trường và súng tiểu liên lần lượt ra đời. Khẩu M60 của Hoa Kỳ dùng chung đạn với khẩu M16 và AR-15. Các loại RPD, RPK của Liên Xô dùng chung đạn với AK-47, CKC và K-63. Đặc biệt, RPK và AK-47 có thể dùng chung hộp đạn (cả tròn và dài) mà không càn chuyển đạn do cấu tạo của cụm gắn kết hộp đạn - thân súng giống hệt nhau. ==== Súng bắn tỉa ==== Súng bắn tỉa được chế tạo công phu, chính xác. Vì kỹ thuật phát triển mà ngày nay súng trường và súng bắn tỉa đi theo hai hướng ngược nhau, súng bắn tỉa thì đạn to, súng trường ngược lại đạn nhỏ. Trước đây, thường hay lấy súng trường chiến đấu làm súng bắn tỉa. Ví dụ là khẩu súng nổi tiếng của Thế chiến II SVD, bất kể là ta hay địch, đều quý khẩu này như vàng và vồ lấy mỗi khi gặp. SVD bắn đạn 7,63x54mmR. Mộ ưu thế nổi bật của SVD là nó duy trì độ chính xác rất cao kể cả trong điều kiện dã chiến lâu ngày, cũng như việc hiệu chỉnh súng dễ dàng. SVD trong thực tế cho thấy một hiện tượng lạ, nữ bắn tỉa tốt hơn nam. Sau này, các LMG trung liên có chức năng bắn phát một kiêm chức súng trường chiến đấu, súng bắn tỉa cấp tiểu đội. Súng trường chiến đấu, súng bắn tỉa kiểu này còn được gọi là súng trường tầm xa (viễn tân bộ thương). Ví dụ như trung liên RPK, hiểu chính xác hơn đây là súng đa năng kiêm chức hỏa lực tiểu đội+súng trường tầm xa+súng trường chiến đấu. Tuy nhiên, khi cải tiến dùng đạn nhỏ như AK-74 Súng bắn tỉa SVD cải tiến Phiên bản SVDK bắn đạn 9,3x64mm Cỡ nòng 9,3mm KSVK 12,7 mm SVDK 12,7mm. Đây là loại súng chứng minh ưu thế và được dùng rất nhiều ở Chechnya. Nó cũng chứng minh chức năng súng trường cỡ lớn ngày nay dân dần được tách ra khỏi chức năng của trung liên LMG Cuộc chiến đấu của súng bắn tỉa là cuộc chiến đấu cuối của những súng trường chiến đấu. Các xạ thủ tránh bị phát hiện trong khi đó lại ra sức phát hiện trước đối thủ, ngắm bắn cẩn thận và trang bị súng tầm xa. Một hướng nữa là thiết kế các súng bắn tỉa tàng hình, không phát âm thanh và hồng ngoại. Sau Chechnya 1999, Nga phát triển kiểu súng bắn tỉa công nghệ cao, súng bắn tỉa VSSK Vychlop 12,7mm không phát âm thanh và hồng ngoại, tốc độ đầu đạn dưới âm 290/s, đầu đạn rất nặng (56gram và 76gram-1170grain) xuyên 16mm thép ở 200 mét, xuyên qua giáp bảo vệ bộ binh cấp 5 Nga ở 100 mét. Súng chỉ dùng cho FSB vì quân khủng bố săn lùng nó gắt gao. Súng bắn tỉa VSSK Vychlop === Vũ khí của nhóm bộ binh, súng máy. === Hồi thế kỷ 19 người ta cũng đưa ra nhiều loại súng máy. Loại súng máy Gatling có nhiều nòng, động cơ quay các nòng chuyển giữa các máy nạp đạn, nổ đạn, tháo vỏ (ban đầu quay tay). Một loại súng máy thả đáy nòng lùi tự do làm thành khối lùi, dùng năng lượng này chạy máy nạp đạn. Một số súng máy lại dùng khóa nòng hoạt động bằng trích khí, khóa nòng xoay thay then chống. Loại súng máy này cỡ nhỏ, bán đạn súng trường, dùng cho bộ binh hay được gọi là "tiểu liên", thường được dùng cùng chức năng với súng trường tấn công, sau này bỏ đi. Loại súng máy nữa có cấu tạo như súng trường tấn công liên thanh như khẩu đại liên PKMS, trung liên RPK của Nga (cơ cấu khóa nòng xoay giống AK-47). Một loại súng máy trích khí dùng khóa nòng then chống như trung liên RPD, ngày nay dần dần bỏ. Gatling là súng máy dùng động cơ ngoài, ngày nay được cải tiến dùng trích khí, nhiều nòng. Gatling có hậu duệ là khẩu GAU-8 30mm, có thể bắn đạn xuyên giáp mật độ cao, được trang bị cho máy bay chống tăng A-10 (trang bị năm 1975, 1976) nhưng sau đó được thay bởi tên lửa có điều khiển. Trong Chiến tranh Việt Nam có khẩu M61 Vulcan 20mm và M134 7.62mm lắp trên trực thăng. Loại Gatling đặt trên phương tiện vận chuyển còn được gọi là Minigun, do cỡ đạn quá nhỏ so với cỡ súng. Ví dụ, khẩu cối 82mm chỉ nặng bằng khẩu Galing 20mm. Xem thêm về súng máy Gatling. 1862, Gatling ở Mỹ đưa ra mẫu súng Gatling, nhưng chỉ đến 1890, khi vỏ đạn hoàn thiện thì súng máy Gatling thực sự là khẩu súng máy. Hiram Maxim đưa ra súng máy dùng năng lượng phát bắn cuối thế kỷ 19. Cơ chế hoạt động của các loại súng máy ==== Đại liên, Trọng liên ==== Đại liên: có tên tiếng Anh là Heavy Machine Gun (Súng máy hạng nặng), là vũ khí cộng đồng tầm xa, thuộc họ súng máy, được đặt trên giá đỡ ba chân, giá đỡ có bánh xe hoặc gắn trên các phương tiện chiến đấu như mô tô, ô tô, xe bọc thép, xe tăng, trực thăng, máy bay chiến đấu. Trọng lượng toàn bộ từ 20 đến dưới 50 kg, cỡ nòng từ 7,62 mm đến 12,7 mm. Tầm bắn tối đa đến 5000 m, cực ly sát thương có hiệu quả từ 1500m đến 3000 m tùy theo loại súng. Súng chỉ bắn liên tục, không bắn được từng phát một. Tốc độ bắn tối đa trong thử nghiệm đạt 800 phát phút, tốc độ bắn trong thực tế chiến đấu từ 150 đến 300 phát phút. Khi sử dụng cho bộ binh, mỗi khẩu đại liên thường cần ít nhất 2 người vận hành. Khi gắn trên các phương tiện chiến đấu, chỉ cần một người vận hành hoặc được tự động hoá vận hành bởi người điều khiển phương tiện. Do có hỏa lực mạnh ở mật độ cao, đại liên thường được dùng làm vũ khí hỏa lực yểm hộ từ cấp trung đội đến cấp tiểu đoàn. Trọng liên: Vũ khí cộng đồng tầm xa, cỡ lớn, thuộc họ súng máy; thường gắn trên giá đỡ ba chân, giá đỡ có bánh xe, trên xe kéo (rơ moóc) hoặc trên các phương tiện chiến đấu cơ giới trên bộ, trên mặt nước hoặc phương tiện bay. Trọng lượng toàn bộ từ 28 đến trên 50 kg. Mỗi khẩu có từ 1 đến 4 nòng có thể phát hỏa cùng lúc. Riêng loại M61 Vulcan của Hoa Kỳ có 6 nòng xoay tròn quanh trục thay nhau phát hoả. Cỡ nòng từ 12,7 mm đến 23 mm (trên 23 mm được coi là pháo). Tầm bắn xa nhất có thể đạt 5000m, tầm bắn có hiệu quả từ 2000 đến 4000 m. Tốc độ bắn trong thử nghiệm đạt 550 đến 1000 phát/phút mỗi nòng. Tốc độ bắn trong thực tế từ 100 đến 300 phát/phút mỗi nòng. ==== Đại liên cơ động. Súng máy gọn nhẹ. ==== Gọi là súng máy lớn tiếng Anh General purpose machine gun (súng máy đa chức năng) vì đây có lẽ là súng máy lớn mà bộ binh mang được khi đi bộ. Trang bị cho tiểu đội hay trung đội khi đi xe, trang bị cho đại đội khi đi bộ. Súng đại liên PKMS được mang vác bởi một người nhưng vẫn trang bị cho tổ 3 người, mang thêm đạn, nòng thay thế và cảnh giới. Súng này cũng hạn chế tốc độ bắn 1200 phát phút vì bộ binh đi bộ không mang được nhiều đạn. Súng được lắp trên một số xe như hỏa lực chống bộ binh. Ứng dụng rộng rãi trên vai lính đi bộ. Một đại đội bộ binh di bộ Việt Nam trang bị 2 khẩu, do hai tổ 3 người sử dụng. Trước đây người ta phân ra hai loại LMG và HMG (súng máy nhẹ và súng máy nặng). LMG là các trung liên như trung liên RPKvà trung liên RPD, súng máy nặng như đại liên M1910 Maxim, đại liên DS-38, hay trọng liên DShK 1938 12,7mm. Từ Thế chiến I, người ta thường làm chức năng trung liên LMG chung với súng trường mạnh. Các đơn vị mạnh của Việt Nam những năm 199x hiện đại hóa dần theo hướng Nga. Trung liên RPD trước đây dùng ở trung đội nay bỏ đi, thay vào mỗi tiểu đội một RPK, kiêm chức năng súng trường tấn công tầm xa và trung liên. Tuy nhiên, RPK-74 mang đạn nhỏ và gây ra cuộc tranh cãi bên Nga về chức năng súng trường tấn công, nhất là với bộ binh đi bộ. Ở Chechnya 1999, thấy Nga dùng nhiều súng bắn tỉa KSVK 12,7mm. Tuy nhiên, ở đây là bộ binh cơ giới, vấn đề mỗi lính mang một vài súng không quan trọng. VSSK Vychlop 12,7mm được chế tạo trên kinh nghiệm Chechnya, một súng trường chiến đấu điển hình, giảm âm giảm nhiệt, có vẻ như Nga đã tách chức năng súng máy ra hoàn toàn. VSSK Vychlop 12,7mm KSVK 12,7mm Xem thêm về các loại súng kiểu AK. Xem thêm về PKMS. ==== Minigun. Súng máy hạng nặng. Trọng liên HMG. ==== HMG viết tắt của Heavy Machine Gun, súng máy hạng nặng, trọng liên. ===== Trọng liên cơ giới-Minigun ===== Là súng máy đặt giá cố định. Súng này thoải mái tăng khối lượng súng và tốc độ bắn. M61 Vulcan bắn hỏng được xe cộ nhỏ, tầm xa, bắn nhanh có thể xuyên qua giáp thép dày 2 cm. Súng này chỉ được lắp trên xe, thường sử dụng động cơ điện. Súng Gatling cồng kềnh phức tạp cần chăm sóc nhiều, lực giật rất mạnh do nhịp bắn quá cao không dùng được cho bộ binh. Nó có cỡ nòng quá nhỏ so với khối lượng súng. Súng cũng không có khả năng xạ kích điểm vì 0,5 giây đầu nó bắn rất chậm cho dù tốc độ chung 4000 phát/phút. Ưu thế của kiểu máy này là động cơ điện và nhiều nòng, tốc độ bắn cao, có thể áp dụng làm mát cưỡng bức, bắn nhiều cỡ đạn... thích hợp cho phương tiện cơ giới. Nga sản xuất các loại bắn đạn 7,62mmx54R và 12,7mm tốc độ bắn lên đến 10000 phát/phút. Tuy vậy, các kiểu máy trích khí vấn được áp dụng cho bộ nòng xoay, gọi là Gatling lai, cho khả năng hoạt động tin cậy và tốc độ khởi động tức thời, khắc phục những nhược điểm của máy Gatling. Kiểu súng này cũng hay được áp dụng cho các pháo phòng không nhỏ bắn nhanh như AK-130 30mm. GSh-6-23M là loại pháo bắn nhanh nhất thế giới, 23mm, một vạn phát phút, máy trích khí. Những súng này được dùng trê các hệ thống phòng không tầm ngắn và cực ngắn, ngày nay có vai trò quan trọng trong chống đạn tự hành, tạo thành giáp điện tử của tàu chiến và đội hình bộ binh. Nhiều khẩu G-8 đặt trên máy bay hạng nặng C-130, được hỗ trợ bởi các phương tiện định vị dẫn đường điện tử, có tác dụng như pháo hạm (cũng được gọi là gun ship). Hệ thống này mang được hàng chục tấn đạn dược từ hậu phương trút dữ dội vào mục tiêu. Đây là hệ thống sử dụng trọng liên lớn nhất được chế tạo. Tuy nhiên, số lượng chế tạo không được nhiều và lịch sử tham chiến không mấy vinh quang. Súng có biệt danh Minigun vì cỡ đạn quá nhỏ so với khối lượng súng. Ví dụ, khẩu Gatling 20mm có khối lượng bằng cối 120mm. ===== Trọng liên bộ binh, 12,7mm ===== Ví dụ về 12,7mm: Degtyarev DP-27 LMG 1929, DShK, DShKM-46, NSV-12,7 "Utes", Kord 12,7, Browning M2HB, General Dynamics 12.7mm /.50 XM312. Các súng 12,7mm thường dùng khóa nòng trích khí hay lùi có làm chậm, một số dùng lùi tự do. Khác với Galing, những khẩu này chỉ có một nòng, tuy khá nặng, cần có tổ 2 đến 3 người mang vác khi hành quân và tác chiến trên bộ. Uư điểm của nó là có thể tháo nòng súng và thay nòng dự bị rất nhanh chóng. Trọng liên 12,7mm có tầm bắn tối đa đến 7–8 km, tầm bắn hiệu quả đến 5 km, bắn được xuyên qua các vỏ xe, kể cả một số loại xe có giáp ở tầm hàng km. Súng cũng bắn xuyên qua vỏ nhiều loại công sự. các loại trọng liên dòng Degtyarev thường được sử dung để bắn máy bay tầm thấp. Trọng liên 12,7mm thường được dùng làm hỏa lực cấp đại đội và tiểu đoàn bộ binh và lính thủy đánh bộ. Khi súng được lắp trên các xe cơ giới, nó cần ít phương tiện bảo đảm. Đây là mặt ưu việt hơn nhiều so với Gatling có cấu tạo phức tạp và phải có nguồn điện để điểm hoả. Các xe tăng Liên Xô, Nga và phương Tây đa phần sử dụng 12,7mm làm súng phụ gắn trên tháp pháo hoặc súng đồng trục với pháo tăng được bắn từ trong tháp pháo. Khẩu DShK (bên phải) và các hậu duệ của nó được dùng nhiều ở Việt Nam. Ngoài ra, người Việt Nam còn sử dụng nhiều súng Browning chiến lợi phẩm. Về cuối cuộc chiến, người Việt Nam còn được viện trợ và sử dụng khẩu Degtyarov - Shpagin DShKM 12,7 mm có khóa nòng kiểu trống xoay, phần khóa nòng giống Gatling nhưng dùng chung một nòng cho nhẹ. ==== Một số loại súng nhỏ thông dụng. Súng ngắn bắn nhanh SMG, tiểu liên, trung liên LMG. ==== Súng ngắn gọn nhẹ nhưng năng lực yếu, thường dùng cho sĩ quan hay cảnh sát. Hiện nay, loại súng ngắn phản lực đã thay thế súng ổ quay. Súng máy nhỏ SMG, Sub-Machine gun, súng ngắn bắn nhanh, có kích thước nhỏ, uy lực tầm gần lớn, hay dùng cho đặc nhiệm. Nó hay bị nhầm với tiểu liên, là súng máy cá nhân trước đây biên chế trong tiểu đội, khi mà các súng chủ lực là súng trường bắn phát một hoặc cạc bin, ví dụ về tiểu liên là AR-16 và M-16. Tiểu liên ngày nay thường được chỉ các súng trường tấn công. Súng máy nhẹ LMG, Light Sub Machine gun, thường được dùng như là súng hỏa lực cấp trung đội trước đây, này được dùng ở cấp tiểu đội và tổ. Súng này thường được dùng với tên cũ súng liên thanh trung đội, trung liên. SMG dùng đạn súng ngắn còn LMG dùng đạn súng trường. Nhiều khẩu cạc bin của súng trường như AK-74U, cạc bin của AK-74, tác dụng rất giống SMG. ==== Cơ cấu dạng súng trong bom nguyên tử ==== Bom nguyên tử có cấu tạo cơ bản gồm 2 khối kim loại phóng xạ được làm giàu có khối lượng mỗi khối thấp hơn khối lượng tới hạn. Để kích nổ bom nguyên tử, người ta dùng hai cơ cấu có dạng như súng để bắn một trong hai khối này nhập làm một với khối kia, làm cho khối lượng toàn bộ kim loại phóng xạ đó lớn hơn khối lượng tới hạn, phản ứng hạt nhân bắt đầu diễn ra và bom nguyên tử phát nổ. == Vai trò == Đến nay, súng vẫn là vũ khí chính trên chiến trường. Súng giành được điều đó từ đầu Thế kỷ 19, thay thế vai trò của thương, giáo. Ngày nay, tên lửa và đạn tự hành xuất hiện nhiều. Có những vị trí đạn tự hành hoàn toàn ưu thế so với súng như chống tàu biển, chống máy bay, mang đầu đạn chiến lược, bắn từ máy bay... Nhưng vũ khí chủ yếu hiện nay vẫn là súng. == Xem thêm == Súng lục Súng ngắn phản lực Súng trường Súng tay Súng tiểu liên Súng trung liên Súng đại liên Súng máy Phản ứng hạt nhân Bom nguyên tử Danh sách các loại súng == Vấn đề luật pháp và xã hội. == Việt Nam không cho phép công dân sở hữu súng. Hoa Kỳ cho phép công dân được sở hữu súng ngắn, súng săn nhưng kiểm soát chặt chẽ về chỉ số an sinh của người sử dụng, quy định rõ các trường hợp được phép sử dụng và hạn chế cơ số đạn được sở hữu. Các loại súng tự động và súng trường cỡ lớn đã bị cấm bán cho thường dân tại Hoa Kỳ từ năm 1996 dưới thời tổng thống Bill Clinton. Anh quốc từng cho phép công dân sở hữu và sử dụng súng có đăng ký như Hoa Kỳ, tuy nhiên sau cuộc thảm sát trường tiểu học ở Dunblane (Scotland) vào năm 1996, các loại súng ngắn dần bị cấm sở hữu. Nhiều nước cho phép mua bán súng tự do hoặc gần như tự do. Đó là các xã hội bất ổn nhất, ví dụ, các xã hội đang có chiến tranh, xã hội vô chính phủ. == Tham khảo ==
múi giờ.txt
Một múi giờ là một vùng trên Trái Đất mà người ta quy ước sử dụng cùng một thời gian tiêu chuẩn, thông thường được nói đến như là giờ địa phương. Về lý thuyết, các đồng hồ tại vùng này luôn chỉ cùng một thời gian. Trên Trái Đất, thời gian biến đổi dần dần từ Tây sang Đông. Tại một thời điểm xác định, có vùng đang là buổi sáng, có vùng khác lại đang là buổi tối. Trong lịch sử, người ta dùng vị trí Mặt Trời để xác định thời gian trong ngày (gọi là giờ Mặt Trời), và các thành phố nằm ở các kinh tuyến khác nhau có thời gian trên đồng hồ khác nhau. Khi ngành đường sắt và viễn thông phát triển, sự biến đổi liên tục về giờ giấc giữa các kinh tuyến gây trở ngại đáng kể. Các múi giờ được sinh ra để giải quyết phần nào vấn đề này. Các đồng hồ của từng vùng được lấy đồng bộ bằng thời gian tại kinh tuyến trung bình đi qua vùng. Mỗi vùng như vậy là một múi giờ. Có thể dùng 24 đường kinh tuyến chia bề mặt Trái Đất ra làm 24 phần bằng nhau, giúp cho chênh lệch giờ giữa các múi giờ là 1 giờ, một con số thuận tiện. Tuy nhiên, việc phân chia trên chỉ là cơ sở chung; các múi giờ cụ thể được xây dựng dựa trên các thỏa ước địa phương, có yếu tố quan trọng của việc thống nhất lãnh thổ quốc gia. Do vậy trên bản đồ thế giới, có thể thấy rất nhiều ngoại lệ, và chênh lệch giờ giữa một số múi giờ có thể không bằng 1 giờ. Mọi múi giờ trên Trái Đất đều lấy tương đối so với giờ UTC (xấp xỉ bằng giờ GMT trong lịch sử) là giờ tại kinh tuyến số 0, đi qua Đài thiên văn Hoàng gia Greenwich, Greenwich, Luân Đôn, Anh. Một số địa phương có thể thay đổi múi giờ theo mùa. Ví dụ như, vào mùa hè, một số nước ôn đới hoặc gần vùng cực thực hiện quy ước giờ mùa hè, chỉnh giờ sớm lên một giờ. Điều này khiến chênh lệch giờ giữa các địa phương thêm phức tạp. == Lịch sử == Múi giờ đầu tiên trong lịch sử được ngành đường sắt Anh đặt ra vào ngày 1 tháng 12 năm 1847, gọi là múi giờ GMT. Các đồng hồ trong vùng này đều chỉ cùng giờ với đồng hồ đặt tại đường kinh tuyến đi qua Đài thiên văn Hoàng gia Greenwich. Ngày 23 tháng 8 năm 1852, tín hiệu thời gian được truyền lần đầu bằng điện tín từ Đài thiên văn Greenwich. Đến năm 1855, 98% các đồng hồ công cộng tại nước Anh có cùng giờ GMT, tuy nhiên phải đến ngày 2 tháng 8 năm 1880 thì giờ này mới được chính thức đưa vào luật. Đến năm 1929, đa số các nước áp dụng các múi giờ chênh nhau 1 giờ. Năm 1950, các múi giờ được ghi kèm thêm chữ cái viết hoa: Z cho múi giờ số không, A đến M (trừ J) cho các múi giờ phía Đông, N đến Y cho các múi giờ phía Tây. Trước năm 1967, Việt Nam lấy giờ Bắc Kinh làm chuẩn cho âm lịch. Ngày 8 tháng 8 năm 1967, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ban hành đổi lịch dùng múi giờ GMT +7 làm chuẩn. Vì thế hai miền nam bắc Việt Nam đón Tết Mậu Thân hai ngày khác nhau (miền bắc ngày 29 tháng 1 trong khi miền nam thì ngày 30 tháng 1). Ngày 1 tháng 1 năm 1972, một hội nghị quốc tế về thời gian đã thay GMT bằng Giờ Phối hợp Quốc tế (UTC), được giữ bởi nhiều đồng hồ nguyên tử quanh thế giới. UT1 được dùng, thay GMT, để tượng trưng cho "thời gian Trái Đất quay". Giây nhuận được thêm hay bớt vào UTC để giữ nó không khác UT1 nhiều quá 0,9 giây. Hiện nay, Việt Nam dùng múi giờ UTC +7. == Bảng các múi giờ trên Trái Đất == Trong bảng dưới đây, chênh giờ so với UTC được thể hiện qua con số ở giữa ký hiệu múi giờ. Ví dụ: UTC - 9:30 Y muộn giờ hơn so với UTC là 9 giờ 30 phút UTC + 8:45 H sớm giờ hơn so với UTC là 8 giờ 45 phút == Xem thêm == UTC GMT == Tham khảo == (bằng tiếng Anh) Howse, Derek. Greenwich Time and the Discovery of the Longitude. Oxford: Oxford University Press, 1980. ISBN 0-19-215948-8. == Liên kết ngoài == (bằng tiếng Anh) World Time Server
người pà thẻn.txt
Người Pà Thẻn là một dân tộc trong số 54 dân tộc tại Việt Nam. Người Pà Thẻn tự gọi mình là Tống nhân hoặc Bát Tiên (phát âm: Pá-hưng). == Ngôn ngữ == Tiếng Pà Thẻn thuộc Hệ ngôn ngữ H'Mông-Miền. == Dân số và địa bàn cư trú == Dân số người Pà Thẻn theo tổng điều tra dân số năm 1999 là 5.500 người, sống tập trung tại một số xã của tỉnh Hà Giang và tỉnh Tuyên Quang. Theo Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009, người Pà Thẻn ở Việt Nam có dân số 6.811 người, có mặt tại 32 trên tổng số 63 tỉnh, thành phố. Người Pà Thẻn cư trú tập trung tại các tỉnh: Hà Giang (5.771 người, chiếm 84,7% tổng số người Pà Thẻn tại Việt Nam), Tuyên Quang (877 người), Đồng Nai (27 người), Thái Nguyên (25 người), Hà Nội (20 người)... == Đặc điểm kinh tế == Người Pà Thẻn sống chủ yếu bằng nghề làm nương rẫy. Lúa, ngô là cây lương thực chính. == Tổ chức cộng đồng == Các bản của người Pà Thẻn thường tập trung ven suối, thung Lũng hoặc triền núi thấp. Có làng đông tới 30-40 nóc nhà. == Hôn nhân gia đình == Dân tộc Pà Thẻn có nhiều dòng họ. Những người cùng họ coi nhau như những người thân thích có chung một tổ tiên, không được lấy nhau. Người Pà Thẻn có tục ở rể tạm thời, nếu gia đình không có con trai mới lấy rể về ở hẳn. Người ở rể phải thờ ma họ vợ, con cái một nửa theo họ bố, một nửa theo họ mẹ. == Văn hóa == Sinh hoạt văn hóa dân gian của dân tộc Pà Thẻn khá phong phú, thể hiện qua kho tàng truyện cổ tích, các làn điệu dân ca, hát ru, các điệu nhảy múa, các loại nhạc cụ (khèn bè, đàn tầy nhậy, sáo trúc...). == Nhà cửa == Nhà ở của người Pà Thẻn có 3 loại: nhà sàn, nhà nền, nhà đất và nhà nửa sàn nửa đất. == Trang phục == Có đặc điểm tộc người đậm nét khác phong cách các dân tộc cùng nhóm ngôn ngữ hay khu vực. Cái độc đáo của trang phục Pà thẻn là ở trang phục nữ, được biểu hiện ở lối tạo dáng áo dài, cách dùng màu và lối mặc, tạo nên một phong cách riêng. Trang phục nam: Nam thường mặc áo quần màu chàm. Đó là loại áo cánh ngắn xẻ ngực, quần lá tọa, giống phong cách trang phục các dân tộc Tày,... Trang phục nữ: Phụ nữ Pà thẻn đội khăn màu chàm quấn thành nhiều vòng trên đầu. Đó là lối đội khăn chữ nhất quấn thành mái xòe rộng như mũ, hoặc lối đội khăn hình chữ nhân giản đơn hơn cũng tạo thành mái nhơ ra hai bên mang tai. Áo có hai loại cơ bản là áo ngắn và áo dài. Áo ngắn xẻ ngực, cổ thấp, màu chàm, cổ làm liền với hai vạt trước. Áo này thường mặc với váy rộng nhiều nếp gấp, màu chàm. Áo dài là loại xẻ ngực, có thể gọi là áo lửng, cổ thấp liền hai vạt trước, khi mặc vạt phải đè chéo lên vạt trái, phía dưới của vạt phải nhọn xuống tạo thành vạt chính của thân trước. Ông tay và toàn bộ thân áo được trang trí với lối dùng màu nóng sặc sỡ. Áo này mặc với váy hở dệt thuê hoa văn đa dạng (hình thập ngoặc, hình quả trám...). Giữa eo thân áo được thắt dây lưng là loại được dệt thuê hoa văn. Phụ nữ ưa mang nhiều đồ trang sức vòng cổ, vòng tay,... Cùng với áo và váy, phụ nữ có a thứ (vừa giống cái yếm vừa giống tạp dề). Nó được mang như mang tạp dề nhưng không có công dụng như tạp dề. Màu sắc chủ yếu trên phụ nữ là đỏ, đen, trắng. Hoa văn chủ yếu được tạo ra bằng dệt. == Tham khảo == == Xem thêm == Danh sách ngôn ngữ Danh sách các nước theo ngôn ngữ nói == Liên kết ngoài ==
fukui.txt
Fukui (Nhật: 福井県 (Phúc Tỉnh Huyện), Fukui-ken) là một tỉnh của Nhật Bản nằm ở tiểu vùng Hokuriku, vùng Chūbu trên đảo Honshu. Trung tâm hành chính của tỉnh là thành phố Fukui. == Địa lý == Fukui phía Tây trông ra vịnh Wakasa (biển Nhật Bản), phía Bắc giáp tỉnh Ishikawa, phía Đông giáp tỉnh Gifu, phía Đông Nam giáp tỉnh Shiga, phía Nam giáp tỉnh Kyoto. == Lịch sử == Xưa kia, trên địa bàn tỉnh Fukui là các xứ Wakasa và Echizen. == Hành chính == Fukui gồm 18 đơn vị hành chính cấp hạt, trong đó có 10 thành phố. Làng và thị trấn: == Kinh tế == == Văn hóa == Fukui có thành Maruoka, thành lập năm 1576, một trong những thành quách cổ nhất Nhật Bản vẫn còn đứng vững. Chùa Eihei thành lập từ năm 1244 là một trong những trung tâm đào tạo sư sãi Phật giáo của Nhật Bản. Trên địa phận của tỉnh Fukui, người ta đã khai quật được nhiều hóa thạch khủng long và đem trưng bày tại Bảo tàng Khủng long Fukui. == Kinh tế == == Văn hóa == == Giáo dục == Đại học Fukui == Du lịch == Bảo tàng Khủng long Fukui Bờ biển của Fukui có nhiều cảnh đẹp. == Tham khảo == == Liên kết ngoài == Website chính thức của tỉnh (tiếng Nhật) Website giới thiệu giấy truyền thống Echizen của vùng này.
guadeloupe.txt
Guadeloupe (phát âm tiếng Việt: Goa-đê-lốp; phát âm tiếng Pháp: [ɡwadəlup]; tiếng Creole Antilles: Gwadloup) là một nhóm đảo Caribe thuộc quần đảo Leeward, tại Tiểu Antilles, với diện tích 1.628 km² (629 sq. mi) và dân số 400.000 người. Guadeluope và một số hòn đảo nhỏ xung quanh là một vùng hải ngoại của Pháp, với một tỉnh hải ngoại duy nhất. Guadeloupe là một phần hợp thành của nước Pháp, giống như các tỉnh hải ngoại khác. Các đảo khác ngoài đảo chính Guadeloupe là Marie-Galante, La Désirade, và Îles des Saintes. Do là một phần của Pháp, Guadeloupe cũng là một bộ phận của Liên minh châu Âu và Khu vực đồng Euro; do vậy đơn vị tiền tệ ở đây là euro. Tuy nhiên, do là một tỉnh hải ngoại, Guadeloupe không phải là một phần của khu vực Schengen. Lỵ sở và thủ phủ của Guadeloupe là Basse-Terre. Ngôn ngữ chính thức của Guadeloupe là tiếng Pháp, mặc dù nhiều cư dân của tỉnh cũng nói tiếng Creole Antilles (Créole Guadeloupéen). == Lịch sử == Trong chuyến đi thứ hai đến châu Mỹ, Christopher Columbus trở thành người châu Âu đầu tiên đặt chân lên quần đảo Guadeloupe vào tháng 11 năm 1493 để tìm kiếm nước sạch. Ông gọi nó là Santa María de Guadalupe de Extremadura. == Địa lý == Guadeloupe gồm có 5 hòn đảo: Basse-Terre, Grande-Terre, La Désirade, Les Saintes và Marie-Galante. == Dân cư == Số liệu năm 2006 == Chú thích == == Liên kết ngoài == Préfecture de la région Guadeloupe - Official site of the prefecture of Guadeloupe (bằng tiếng Pháp) Guadeloupe - Official site of the Council of Guadeloupe Les Iles de Guadeloupe - Official site of the Guadeloupe Islands Tourism Board Office du Tourisme de Marie-Galante - Official site of the Tourist Board of Marie-Galante Office Municipal du Tourisme de Terre de Haut, Les Saintes - Official site of the Tourist Board of Les Saintes Office du Tourisme du Moule - Official site of the Tourist Board of Le Moule
saint lucia.txt
Saint Lucia (phiên âm IPA: [seɪnt ˈluːʃɪə]) là một đảo quốc nằm trong lòng Đại Tây Dương, phía đông vùng biển Caribe. Với một phần nằm trên Lesser Antilles, vùng lãnh thổ này toạ lạc phía bắc của quần đảo Saint Vincent và Grenadines, tây bắc Barbados và phía nam Martinique. Nơi đây còn được biết đến với tên gọi khác là "Helen của vùng tây Ấn" bởi sự tranh chấp giữa hai nước Anh - Pháp, tựa như cuộc chiến giành lấy Helen của thành Troy trong sử thi Iliad. Saint Lucia là một trong số những đảo quốc có khí hậu gió mùa, được mệnh danh là Thánh Lucia thành Syracuse. Người châu Âu đầu tiên đặt chân đến nơi đây từ những năm 1500 và sau đó người Pháp biến vùng đất này thành thuộc địa của họ bằng Hiệp ước năm 1600 với người Carib. Nhưng trong suốt một thời gian dài (1663-1667), Saint Lucia lại rơi vào tay người Anh. Không dưới 14 lần, hai nước Anh - Pháp phải lao vào chiến trận để giành lấy mảnh đất màu mỡ này. Mãi đến năm 1814, cuộc tranh chấp mới kết thúc với phần thắng nghiêng về người Anh. Năm 1924, chính quyền đại diện Saint Lucia được thành lập và từ năm 1954 - 1962, đảo quốc này là thành viên của Liên đoàn Tây Ấn (Federation of the West Indies). Ngày 22 tháng 2 năm 1979, Saint Lucia chính thức trở thành quốc gia độc lập, thành viên của Khối Thịnh Vượng chung Anh == Lịch sử == Theo một truyền thống sai lệch cho rằng đảo này do Colombo phát hiện ra nhằm ngày lễ kính Thánh Lucia thành Syracuse ngày 13 tháng 12 năm 1498 hoặc năm 1502. Suốt hai thế kỉ kể từ khám phá ra đảo này, lịch sử đảo Saint Lucia phản ánh một quá trình đấu tranh lâu đài giữa thực dân Anh và thực dân Pháp để giành quyền sở hữu. Vào thế kỉ 17, cả người Pháp và người Anh đến định cư ở đảo này. Những người nô lệ được đem đến để khai khẩn các đồn điền mía và người bản xứ Carib ở đây bị tuyệt chủng. Cuộc tranh giành quyền sở hữu kéo dài cho đến khi Pháp nhượng lại cho Anh năm 1814. Saint Lucia trở thảnh quốc gia độc lập thuộc Khối Liên hiệp Anh năm 1979. Sau một thời kì xáo trộn, John Compton trở thành Thủ tướng từ năm 1982. Năm 1997, Tiến sĩ Kenny Anthony trở thành Thủ tướng sau khi đảng Lao động St.Lucia (SLP) giành 16 trên tổng số 17 ghế trong Quốc hội. Trong năm 2006, Đảng UWP một lần nữa được dẫn đầu bởi Compton, giành quyền kiểm soát Quốc hội. Trong tháng 5 năm 2007, sau khi Compton bị một loạt các cơn đột quỵ nhỏ, Bộ trưởng Tài chính kiêm Ngoại giao Stephenson King trở thành thủ tướng. Ông đã thành công làm thủ tướng sau khi Compton chết trong tháng 9 năm 2007. Trong tháng 11 năm 2011, Tiến sĩ danh dự Kenny D. Anthony được bầu lại làm Thủ tướng lần thứ hai. == Chính trị == Saint Lucia là một đảo quốc nằm trong Khối Thịnh vượng chung Anh, Nữ hoàng Elizabeth II là nguyên thủ quốc gia Saint Lucia, đại diện trên hòn đảo này bởi một Toàn quyền. Quyền hành pháp nằm trong tay của Thủ tướng Chính phủ và nội các. Thủ tướng thường là người đứng đầu của một đảng có đa số thành viên ở Hạ viện có 17 ghế. Thượng viện, có 11 thành viên được chỉ định. Saint Lucia là một nền dân chủ nghị viện. Có năm đảng phái chính trị tham gia vào cuộc tổng tuyển cử bầu thủ tướng ngày 28 tháng 11 năm 2011. Tiến sĩ David Anthony của Đảng Lao động đã giành thắng với mười một trong số mười bảy ghế ở hạ viện. Saint Lucia là thành viên chính thức của Cộng đồng Caribe (CARICOM), Tổ chức Đông Caribê (OECS) và Cộng đồng Pháp ngữ. == Địa lý == Đảo quốc Saint Lucia nằm ở quần đảo Tiểu Antilles, thuộc khu vực Trung Mỹ; ở phía Nam đảo Martinique của Pháp. Saint Lucia là một đảo núi lửa, địa hình gồ ghề: một chuỗi các dãy núi trải dài từ Bắc đến Nam, phân nhánh thành các mỏm núi đổ dốc về phía biển. Các đường bờ biển bị khoét sâu vào đất liền. Cảng Castries được xây dựng bên một bờ vịnh nhỏ và sâu, đảo Bồ câu nằm ở phía Bắc cảng Castries, nối liền với bãi biển thuộc đảo Saint Lucia bằng một con đê. Đảo này trở thành công viên thiên nhiên từ năm 1979. Vịnh Marigot ở phía Nam cảng Castries là một trong những vịnh đẹp ở vùng biển Antilles. Thủ đô của Saint Lucia là Castries (dân số 60.263 người), trong đó 32,4% dân số sống ở nội ô. Thành phố lớn khác bao gồm Gros Islet, Soufrière và Vieux Fort. Khí hậu Saint Lucia thường là nhiệt đới, một mùa khô từ ngày 1 tháng 12 đến ngày 31 tháng 5, và một mùa mưa từ ngày 1 tháng 6 đến ngày 30 tháng 11. Saint Lucia cũng thường xuyên bị ảnh hưởng bởi các cơn bão nhiệt đới và hoạt động núi lửa. Hòn đảo này đã bị ảnh hưởng nặng nề bởi cơn bão Allen vào năm 1980 và cơn bão Tomas trong năm 2010, gây thiệt hại nặng cho nông nghiệp và giảm lượng khách du lịch đến đảo quốc này, nhưng Saint Lucia nói chung có bão ít hơn so với nhiều hòn đảo Caribe khác, do vị trí phía nam của nó. == Kinh tế == Kinh tế Saint Lucia chủ yếu dựa vào phát triển các đồn điền chuối, ca cao và dừa. Đây cũng là hai loại nông sản xuất khẩu chính. Ngoài ngư nghiệp, ngành du lịch đang được chú trọng và phát triển. Việc đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, hệ thống đường bộ và khách sạn đầy đủ tiện nghi đã thu hút du khách đến bờ biển phía Tây, nơi có những bờ biển tuyệt đẹp và những phong cảnh núi non đầy ấn tượng. Quốc đảo này đã thu hút sự kinh doanh và đầu tư, đặc biệt là các ngân hàng nước ngoài vào các ngành công nghiệp du lịch, đó là nguồn doanh thu nước ngoài chính của hòn đảo. Lĩnh vực sản xuất của Saint Lucia là đa dạng nhất trong khu vực Đông Caribbean, và chính phủ đang cố gắng để khôi phục ngành công nghiệp chuối. Mặc dù tăng trưởng âm trong năm 2011, nhưng nền tảng kinh tế vẫn vững chắc, và dự đoán tăng trưởng GDP sẽ phục hồi trong tương lai. Lạm phát là tương đối thấp, trung bình 5,5% giữa năm 2006 và 2008. Ngân hàng Trung ương Đông Caribbean phát hành bộ tiền tệ Đô la Đông Caribe, quản lý chính sách tiền tệ, điều chỉnh và giám sát hoạt động ngân hàng thương mại ở các nước thành viên. Năm 2003, chính phủ bắt đầu tái cơ cấu toàn diện nền kinh tế, bao gồm cả loại bỏ kiểm soát giá cả và tư nhân hóa các công ty chuối nhà nước. Tính đến năm 2016, GDP của Saint Lucia đạt 1.439 USD, đứng thứ 172 thế giới và đứng thứ 6 khu vực Caribe. == Giáo dục == Luật giáo dục quy định về giáo dục miễn phí và bắt buộc ở trẻ em trong độ tuổi từ 5 đến 15, chi tiêu công cho giáo dục là 5,8% GDP trong giai đoạn 2002-2005. Saint Lucia có một trường đại học là chi nhánh của trường Đại học mở Tây Ấn, và một số trường học y tế là chi nhánh của các trường như Đại học Quốc tế Mỹ, Đại học Y khoa, Đại học Y và Khoa học Y tế, và lâu đời nhất trong số đó là Đại học Khoa học Y tế. Các trường trung học hàng đầu cho trẻ em trai là trường Cao đẳng St Mary. == Hành chính == Saint Lucia có 11 quận, hay khu giáo xứ trên đảo, vốn được hình thành khi nằm dưới quyền kiểm soát của người Pháp và được người Anh tiếp tục sử dụng: Anse la Raye (quận) 31.0 km² Castries (quận) 79.5 km² Choiseul (quận) 31.3 km² Dauphin (quận) 78.3 km² Dennery (quận) 69.7 km² Gros Islet (quận) 101.5 km² Laborie (quận) 37.8 km² Micoud (quận) 77.7 km² Praslin (quận) 15.9 km² Soufrière (quận) 50.5 km² Vieux Fort (quận) 43.8 km² stlucia villa 15.9 km² == Hình ảnh == == Xem thêm == Communications in Saint Lucia Foreign relations of Saint Lucia List of cities in Saint Lucia Military of Saint Lucia National Emergency Management Organisation (NEMO) Tourism in Saint Lucia Transport in Saint Lucia The Saint Lucia Scout Association Saint Lucian diplomatic missions Sports in Saint Lucia == Tham khảo == == Liên kết ngoài == Official website of the Government of Saint Lucia Compendium of Environmental StatisticsPDF (3.95 MiB) Official Home of the Saint Lucia Solid Waste Management Authority 2001 Population and Housing Census ReportPDF (10.1 MiB) Official Website of Saint Lucia Met. Service Portal of the Saint Lucia Tourist Board St. Lucia Forums / Message Board Saint Lucia - Simply Beautiful St. Lucia Pictures Pictures & Images of St. Lucia Teaching Resources on St Lucia Map of St. Lucia
luteti.txt
Luteti là một nguyên tố hóa học có ký hiệu Lu và số nguyên tử 71. Nó nằm trong lớp d của bảng tuần hoàn chứ không thuộc lớp f, nhưng IUPAC xếp nó vào nhóm Lantan. Nó là một trong các nguyên tố đã được xếp vào nhóm "đất hiếm". Một trong các đồng vị phóng xạ của nó (176Lu) được dùng trong công nghệ hạt nhân để các định tuổi của các thiên thạch. Luteti luôn cộng sinh với nguyên tố yttri và đôi khi được dùng trong các hợp kim và chất xúc tác trong các phản ứng hóa học khác nhau. == Tính chất == === Tính chất vật lý === Luteti là một kim loại hóa trị 3 chống ăn mòn màu trắng bạc. Nó có bán kính nguyên tử nhỏ nhất và là nguyên tố đất hiếm nặng và cứng nhất. Luteti có điểm nóng chảy cao nhất trong nhóm Lantan, có thể liên quan đến Lanthanide contraction. === Tính chất hóa học === Kim loại luteti xỉ chậm trong không khí và dễ cháy ở 150 °C tạo thành luteti(III) ôxit: 4 Lu + 3 O2 → 2 Lu2O3 Luteti có khả năng cho điện tử và phản ứng chậm với nước lạnh và khá nhanh với nước nóng tạo thành luteti hydroxit: 2 Lu (r) + 6 H2O (l) → 2 Lu(OH)3 (dd) + 3 H2 (k) Kim loại luteti phản ứng với các halogen tạo muối halugenua: 2 Lu (r) + 3 F2 (k) → 2 LuF3 (r) [trắng] 2 Lu (r) + 3 Cl2 (k) → 2 LuCl3 (r) [trắng] 2 Lu (r) + 3 Br2 (k) → 2 LuBr3 (r)[trắng] 2 Lu (r) + 3 I2 (k) → 2 LuI3 (r)nâu Luteti dễ hoà tan trong axit sulfuric loãng tạo thành dung dịch chứa các ion luteti(III) không màu, tồn tại ở dạng phức [Lu(OH2)9]3+: 2 Lu (r) + 3 H2SO4 (dd) → 2 Lu3+ (dd) + 3 SO2–4 (dd) + 3 H2 (k) === Các hợp chất === Trong tất cả các hợp chất của nó, luteti có số ôxy hóa +3. Các dung dịch của hầu hết các muối Lu đều không màu và hình thành các tinh thể màu trắng khi khô. Các muối hòa tan như clorua (LuCl3), bromua (LuBr3), iodua (LuI3), nitrat, sulfat và axetat tạo thành các hydrat khi kết tinh. Ôxit (Lu2O3), hydroxit, florua (LuF3), cacbonat, phosphat và oxalat không hòa tan trong nước. Luteti tantalat (LuTaO4) là vật liệu đặc nhất có màu trắng và không phóng xạ (mật độ 9,81 g/cm3) và cũng có ý tưởng dùng làm tia X phốtpho. Thoria thì đặc hơn (10 g/cm3) và cũng có màu trắng nhưng có tính phóng xạ. === Đồng vị === Luteti tự nhiên gồm 1 đồng vị ổn định 175Lu (chiếm 97,41%) và một đồng vị phóng xạ beta 176Lu có chu kỳ bán rã 3,78×1010 năm (2,59%). Đồng vị phóng xạ này được sử dụng để định tuổi. 33 đồng vị phóng xạ đã được nhận biết, trong đó đồng vị tự nhiên ổn định nhất là 176Lu, và các đồng vị tổng hợp 174Lu có chu kỳ bán rã 3,31 năm, và 173Lu là 1,37 năm. Tất cả các đồng vị phóng xạ còn lại có chu kỳ bán rã nhỏ hơn 9 ngày, và đa số trong đó có chu kỳ bán rã nhỏ 30 phút.Nguyên tố này có 18 meta state, với trạng thái ổn định nhất là 177mLu (T½=160,4 ngày), 174mLu (T½=142 ngày) và 178mLu (T½=23,1 phút). Các đồng vị đã được biết đến của luteti có khối lượng nguyên tử nằm trong khoảng từ 149,973 (150Lu) đến 183,961 (184Lu). Cơ chế phân rã chủ yếu trước đồng vị ổn định phổ biến nhất, 175Lu, là bắt điện tử (với vài alpha và positron), và cơ chế chủ yếu sau là phân rã beta. Các sản phẩm phân rã chủ yếu trước 175Lu là các đồng vị của nguyên tố 70 (ytterbi) và các sản phẩm phân rã sau là các đồng vị của nguyên tố 72 (hafni). == Lịch sử == Luteti (Latin Lutetia nghĩa là Paris) được phát hiện một cách độc lập vào năm 1907 bởi nhà khoa học Pháp Georges Urbain, nhà khoáng vật học Úc, Nam tước Carl Auer von Welsbach, và nhà hóa học Hoa Kỳ Charles James. Các nhà khoa học này tìm thấy luteti ở dạng không tinh khiết trong khoáng vật ytterbia, loại khoáng vật mà nhà hóa học Thụy Điển Jean Charles Galissard de Marignac (và hầu hết các nhà khoa học khác) cho rằng nó hoàn toàn chứa nguyên tố ytterbi. Việc tách luteti từ ytterbi của Marignac được miêu tả lần đầu tiên bởi Urbain và được đặt cách gọi của ông. Ông chọn các tên neoytterbi (ytterbi mới) và luteci cho cho nguyên tố mới nhưng tên neoytterbi cuối cùng đã được đổi lại cho nguyên tố ytterbi và năm 1949 nguyên tố thứ 71 được đổi thành luteti. Tranh cãi về người đầu tiên phát hiện đã được viết trong hai bài báo theo đó Urbain và von Welsbach cáo buộc lẫn nhau về các kết quả công bố chịu ảnh hưởng từ các nghiên cứu được công bố của nhau. Hội đồng Khối lượng nguyên tử (The Commission on Atomic Mass), tổ chức có trách nhiệm đặt tên cho các nguyên tố mới, đã giải quyết tranh chấp vào năm 1909 chấp nhận việc phát hiện đầu tiên của Urbain và các tên của ông ấy đặt làm tên chính thức. Vấn đề liên quan đến quyết định này là Urbain là một trong bốn thành viên của Hội đồng này. Welsbach đã đề xuất các tên cassiopeium cho nguyên tố 71 (theo tên của chòm sao Cassiopeia) và aldebaranium cho nguyên tố mới ytterbium nhưng các đề xuất này đã bị từ chối (mặc dù một số nhà khoa học Đức trong thập niên 1950 đã gọi nguyên tố thứ 71 là cassiopium). Trong khi đó, Charles James, người đã khiêm tốn đứng ngoài các cuộc tranh cãi đó, đã làm việc nhiều hơn những người khác, và chắc chắn sở hữu nguồn cung cấp luteti lớn nhất vào thời điểm đó. == Ứng dụng == Do hiếm và giá cao, luteti có rất ít ứng dụng thương mại. Tuy nhiên, luteti không phóng xạ có thể được dùng làm chất xúc tác trong cracking dầu mỏ trong lọc dầu và cũng có thể được sử dụng trong alkyl hóa, hydro hóa, và polymer hóa. Các ứng dụng khác như: Luteti-176 (176Lu) đã được dùng để định tuổi thiên thạch. Luteti nhôm garnet (Al5Lu3O12) được đề xuất làm vật liệu thấu kính ngâm in thạch bản (immersion lithography) chiết suất cao. Luteti-177 (177Lu) được dùng làm hạt nhân phóng xạ bị bắn phá trong thí nghiệm điều trị các khối u thần kinh nội tiết. Luteti oxyorthosilicat chứa tạp chất Ceri (LSO) hiện tại là hợp chất thích hợp cho các máy dò trong chụp cắt lớp positron (positron emission tomography - PET.) Ứng dụng làm nguồn phát tia beta, dùng luteti để kích hoạt neutron. Một lượng nhỏ luteti được cho thêm vào gadolini galli garnet (GGG) ở dạng tạp chất, chất này được dùng trong các bộ nhớ bọt từ. == Tham khảo == Guide to the Elements - Revised Edition, Albert Stwertka, (Oxford University Press; 1998) ISBN 0-19-508083-1 == Liên kết ngoài == WebElements.com - Lutetium (also used as a reference) It's Elemental - Lutetium pure Lutetium >99,9% picture in the element collection from Heinrich Pniok
đại luân đôn.txt
Đại Luân Đôn (tiếng Anh: Greater London) là phân cấp hành chính cao nhất của Anh bao trùm Luân Đôn. Đại Luân Đôn được thành lập năm 1965, với địa giới phủ lên toàn Thành phố Luân Đôn: gồm Middle Temple, Inner Temple và 32 khu tự quản Luân Đôn. Lãnh thổ này cũng gồm Khu vực văn phòng chính quyền Luân Đôn và Khu vực bầu cử Nghị viện Luân Đôn. Đại Luân Đôn có GVA bình quân đầu người cao nhất ở Vương quốc Anh, tổng diện tích là 1.572 km2 (607 dặm vuông) và có dân số giữa năm 2009 ước tính khoảng 7.753.600 người. Trước năm 1965, thuật ngữ Đại Luân Đôn được sử dụng để chỉ một khu vực có phạm vi khác, lớn hơn so với Hạt Luân Đôn và thường tương tự như khu vực cảnh sát thủ đô. Ngoài chức năng hành chính, thống kê, Đại Luân Đôn (không bao gồm Thành phố Luân Đôn) là một trong 48 hạt nghi lễ của Anh. == Tham khảo ==
cole porter.txt
Cole Albert Porter (1891-1964) là nhà soạn nhạc người Mỹ. == Cuộc đời và sự nghiệp == Cole Porter tốt nghiệp Đại học Yale và Đại học Harvard. Năm 1919, ông học âm nhạc ở Vincent d'Indy tại Paris. Trở về nước, ông chủ yếu sáng tác opera hài, thành công đầu tiên là vở opera Thức dậy và mơ mộng. Tiếp sau ông viết hàng loạt tác phẩm cho Nhà hát Broadway và nhạc cho phim, tiêu biểu là vở opera hài tạp kỹ Cuộc ly hôn vui vẻ, Hôn anh đi, Kate, Cái gì cũng xong,...Những ca khúc của ông như Ngày và đêm, Cô Otis nuối tiếc, Đừng vây quanh tôi,... được nhiều người ưa thích. == Chú thích ==
thư viện anh.txt
Thư viện Anh (British Library, BL) là thư viện quốc gia của Liên hiệp Vương quốc Anh và Bắc Ireland. Có trụ sở ở London, Thư viện Anh hiện lưu trữ 150 triệu tài liệu gồm đủ các dạng sách, báo, tạp chí, bản ghi âm, bản đồ, bản vẽ... Bộ sưu tập sách của Thư viện Anh đứng thư hai thế giới, sau Thư viện quốc hội của Mỹ. Giám đốc hiện nay của thư viện là bà Lynne Brindley. == Tham khảo == == Liên kết ngoài == Phương tiện liên quan tới British Library tại Wikimedia Commons The British Library homepage The British Library Catalogue The King's Library contained within The British Library The 'Bibliotheca Universalis' homepage The World's Earliest Dated Printed Book Virtual books (Turning the Pages), digitised versions of a few important books, with commentary The British Library Act, 1972 The Business & IP Centre homepage Blog on entrepreneurship, innovation and business information by Neil Infield, Business & Ip Centre Manager at the British Library
thế vận hội mùa hè 1900.txt
Thế vận hội Mùa hè năm 1900, với tên gọi chính thức Games of the II Olympiad, được tổ chức tại thành phố Paris, nước Pháp. Không có lễ khai mạc cũng như bế mạc chính thức, các cuộc tranh tài diễn ra từ 14 tháng 5 tới 28 tháng 10 năm 1900. Cùng năm đó, triển lãm thế giới được tổ chức tại Paris và Thế vận hội trở thành một phần của hội chợ này. Gần một ngàn vận động viên tham gia thi đấu ở 19 môn thể thao. Khác với Athena 1896, các phụ nữ cũng tranh tài tại Paris 1900 và vận động viên quần vợt người Anh Charlotte Cooper trở thành nữ vô địch Olympic đầu tiên của thế giới hiện đại. == Các quốc gia tham dự == == Huy chương == Danh sách 10 nước đạt số huy chương cao nhất == Chú thích == == Liên kết ngoài == Thế vận hội Mùa hè 1900 trên trang chính thức của Ủy ban Thế vận hội Quốc tế
transocean.txt
Transocean Ltd. (NYSE: RIG) là một trong những nhà thầu khoan ngoài khơi lớn trên thế giới. Công ty này cho các công ty dầu lửa và khí đốt thuê giàn khoan dầu (:en:oil platform|oil platform), trang thiết bị và nhân lực với chi phí bình quân một ngày khoảng US$142.000 (2006). Và chi phí tới US$650.000 cho các tàu khoan thăm dò nước sâu drillship, với tháp khoan derrick có thể khoan đến độ sâu 10.000 ft (3.000 m) tính từ đáy biển. Hiện tại, Transocean đang phải chịu trách nhiệm của vụ tràn dầu Deepwater Horizon do nguyên nhân nổ một giàn khoan dầu của công ty này ở vịnh Mexico. Transocean có trên 25.000 nhân viên trên toàn thế giới, với 139 giàn khoan dầu và ba tổ hợp khoan với độ sâu cực lớn đang được xây dựng. Trụ sở của công ty ở Vernier, Thụy Sĩ, gần Geneva, và chi nhánh ở 20 nước, gồm các trụ sở chính ở Thụy Sĩ, Hoa Kỳ, Na Uy, Scotland, Brasil, Indonesia và Malaysia. Khẩu hiệu của công ty là, "We’re never out of our depth" với trang chủ "deepwater.com", nhấn mạnh vào năng lực khoan thăm dò với độ sâu lớn của họ. == Tham khảo == == Liên kết ngoài == Transocean official website Wikinvest:Transocean How BlueDog Boys kept Obama's boot off neck of BP's U.S. partner
gmt.txt
Giờ GMT (viết tắt từ tiếng Anh Greenwich Mean Time nghĩa là "Giờ Trung bình tại Greenwich") là giờ Mặt Trời tại Đài thiên văn Hoàng Gia Greenwich tại Greenwich gần Luân Đôn, Anh. Nơi đây được quy ước nằm trên kinh tuyến số 0. Trên lý thuyết, vào giữa trưa theo GMT, vị trí của Mặt Trời, quan sát tại Greenwich, nằm ở đường kinh tuyến Greenwich. Thực tế, chuyển động của Trái Đất trên quỹ đạo quanh Mặt Trời không thực sự tròn mà theo hình elíp gần tròn, với tốc độ thay đổi trong năm, dẫn đến chênh lệch giờ Mặt Trời trong một năm lên đến 16 phút (có thể tính được theo phương trình thời gian quỹ đạo). Một cách khắc phục là lấy trung bình quanh năm và giờ GMT là giờ Mặt Trời trung bình của năm. Trái Đất tự quay quanh mình cũng không đều, và có xu hướng quay chậm dần vì lực thủy triều của Mặt Trăng. Các đồng hồ nguyên tử cho ta thời gian chính xác hơn sự tự quay của Trái Đất. Ngày 1 tháng 1 năm 1972, một hội nghị quốc tế về thời gian đã thay GMT bằng Giờ Phối hợp Quốc tế (UTC), được giữ bởi nhiều đồng hồ nguyên tử quanh thế giới. UT1 được dùng, thay GMT, để tượng trưng cho "thời gian Trái Đất quay". Giây nhuận được thêm hay bớt vào UTC để giữ nó không khác UT1 nhiều quá 0,9 giây. Trong ứng dụng dân dụng, ngay cả Tín hiệu Giờ Greenwich phát từ Vương quốc Anh cũng dùng UTC; tuy nhiên nó vẫn hay bị gọi nhầm là GMT. == Lịch sử == Tín hiệu đồng hồ được gửi từ Đài thiên văn Hoàng gia Greenwich mỗi giờ một lần bắt đầu từ 5 tháng 2 năm 1924. Với sự lớn mạnh của ngành hàng hải Anh, những người so sánh giờ Mặt Trời của họ với giờ GMT để suy ra kinh độ, giờ GMT bắt đầu được truyền bá trong hàng hải thế giới. Các múi giờ của hàng hải cũng được hình thành dựa trên số giờ hay số "nửa giờ" sớm hơn hay muộn hơn GMT. == Xem thêm == Múi giờ == Tham khảo == == Liên kết ngoài == (bằng tiếng Anh) NIST - World Time Scales (bằng tiếng Pháp) Dịch vụ Thời gian của Đài thiên văn Paris
.gov.txt
.gov (government - chính quyền) là một tên miền cấp cao nhất dùng chung, thường chỉ được cấp cho các cơ quan, tổ chức nhà nước. == Tham khảo == == Liên kết ngoài == Quy định chặt chẽ hơn khi đăng ký tên miền gov.vn Tên miền gov bị động trước hacker
hồng bàng.txt
Hồng Bàng thị (chữ Hán: 鴻龐氏) hay Thời đại Hồng Bàng là một giai đoạn lịch sử thuộc thời đại thượng cổ của lịch sử Việt Nam. Nó dựa nhiều trên các truyền thuyết truyện kể và một số ít bằng chứng khảo cổ học và ghi chép lịch sử. == Niên đại == Thời kỳ Hồng Bàng theo truyền thuyết và dã sử cho rằng bắt đầu từ năm 2879 TCN, là niên đại vua Kinh Dương Vương, với quốc hiệu Xích Quỷ. Lãnh thổ của quốc gia dưới thời vua Kinh Dương rộng lớn, phía bắc tới sông Dương Tử (cả vùng hồ Động Đình), phía nam tới nước Hồ Tôn (Chiêm Thành), phía đông là Đông Hải (một phần của Thái Bình Dương), phía tây là Ba Thục (Tứ Xuyên, Trung Hoa ngày nay). Về sau người Việt chỉ thấy có ở miền Bắc Việt Nam ngày nay, có thể một phần do sự lấn áp của các tộc người Hoa Hạ từ phương Bắc. Theo Đại Việt sử ký toàn thư: Đế Minh là cháu ba đời của vua Thần Nông, đi tuần thú phương Nam, đến núi Ngũ Lĩnh (nay thuộc tỉnh Hồ Nam, Trung Hoa), gặp một nàng tiên, lấy nhau đẻ ra người con tên là Lộc Tục. Sau Đế Minh truyền ngôi lại cho con trưởng là Đế Nghi làm vua phương Bắc (từ núi Ngũ Lĩnh về phía Bắc), phong cho Lộc Tục làm vua phương Nam (từ núi Ngũ Lĩnh về phía Nam), xưng là Kinh Dương Vương, quốc hiệu là Xích Quỷ. Kinh Dương Vương làm vua Xích Quỷ vào năm Nhâm Tuất 2879 TCN, lấy con gái Động Đình Hồ quân (còn có tên là Thần Long) là Long nữ sinh ra Sùng Lãm, nối ngôi làm vua, xưng là Lạc Long Quân. Lạc Long Quân lấy con gái vua Đế Lai (con của Đế Nghi), tên là Âu Cơ, sinh một lần trăm người con trai. Một hôm, Lạc Long Quân bảo Âu Cơ rằng: "Ta là giống rồng, nàng là giống tiên, thủy hỏa khắc nhau, chung hợp thật khó". Bèn từ biệt nhau, chia 50 con theo mẹ về núi, 50 con theo cha về ở miền biển (có bản chép là về Nam Hải), phong cho con trưởng làm Hùng Vương, nối ngôi vua. Theo thuyết này, người ta cho rằng từ Lạc Long Quân về sau, nước Xích Quỷ được chia ra thành những nước nhỏ, gọi là Bách Việt, dù điều này không có ghi chép lịch sử xác nhận. Đầu thời kỳ đồ đồng, người Việt gồm khoảng 15 nhóm Lạc Việt khác nhau sống trên vùng núi miền Bắc và miền châu thổ sông Hồng và hơn 12 nhóm Âu Việt sống ở vùng Đông Bắc, ngoài ra còn có một số nhóm người sinh sống trên các lưu vực sông thuộc khu vực Thanh Nghệ Tĩnh ngày nay. Để tiện việc trao đổi buôn bán, phòng chống lụt lội, chống lại kẻ thù... những bộ lạc Lạc Việt dần được gom lại thành một nước lấy tên Văn Lang và người đứng đầu tự xưng là Hùng Vương. Có ít nhất 18 đời Hùng Vương cai trị trong thời đại Hồng Bàng, cho đến năm 258 TCN. Các thông tin về các đời vua Hùng dựa nhiều trên các truyền thuyết. Cũng có nhiều bằng chứng khảo cổ học như trống đồng Đông Sơn được tìm thấy ở miền bắc Việt Nam có cùng niên đại với thời kỳ Hồng Bàng, thể hiện một nền văn hóa đồ đồng rất phát triển (văn hoá Đông Sơn). == Hình thái xã hội == Xem thêm: Hành chính Việt Nam thời Hồng Bàng Văn Lang, được coi là quốc hiệu đầu tiên cho Việt Nam, có kinh đô đặt ở Phong Châu (nay thuộc tỉnh Phú Thọ). Lãnh thổ gồm Bắc Bộ và ba tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh bây giờ. Theo Lĩnh Nam chích quái, quyển 1, Hồng Bàng thị truyện (鴻龐氏傳) thì nước Văn Lang: đông giáp Nam Hải (南海), tức biển Đông tây tới Ba Thục (巴蜀) bắc tới hồ Động Đình (洞庭) nam tới nước Hồ Tôn Tinh (狐猻精), còn gọi là nước Hồ Tôn (胡孫). Hồ Tôn Tinh về sau trở thành nước Chiêm Thành (占城). Cả nước được chia thành 15 bộ (部), còn gọi là quận (郡): Việt Thường (越裳) Giao Chỉ (交趾) Chu Diên (朱鳶) Vũ Ninh (武寧) Phúc Lộc (福祿) Ninh Hải (寧海) Dương Tuyền (陽泉) Lục Hải (陸海) Hoài Hoan (懷驩) Cửu Chân (九真) Nhật Nam (日南) Chân Định (真定) Văn Lang (文郎) Quế Lâm (桂林) Tượng Quận (象郡) Theo "Việt sử lược" (越史略), quyển thượng, Quốc sơ duyên cách (國初沿革) thì nước Văn Lang gồm 15 bộ lạc (部落) là: Giao Chỉ (交趾) Việt Thường Thị (越裳氏) Vũ Ninh (武寧) Quân Ninh (軍寧) Gia Ninh (嘉寧) Ninh Hải (寧海) Lục Hải (陸海) Thang Tuyền (湯泉) Tân Xương (新昌) Bình Văn (平文) Văn Lang (文郎) Cửu Chân (九真) Nhật Nam (日南) Hoài Hoan (懷驩) Cửu Đức (九德) Kinh đô đặt tại Văn Lang. Trong Đại Việt sử ký toàn thư (大越史記全書), Ngoại kỉ (外紀), quyển 1, Hồng Bàng thị kỉ (鴻厖氏紀), cương vực và tên gọi 15 bộ của nước Văn Lang được chép gần như tương tự với Lĩnh Nam chích quái chỉ khác là không có bốn bộ Nhật Nam, Chân Định, Quế Lâm và Tượng Quận mà thay vào đó là bốn bộ Vũ Định (武定), Bình Văn (平文), Tân Hưng (新興) và Cửu Đức (九德). Bộ Văn Lang là nơi vua đóng đô. 15 bộ của nước Văn Lang theo "Đại Việt sử ký toàn thư" bao gồm: Giao Chỉ (交趾) Chu Diên (朱鳶) Vũ Ninh (武寧) Phúc Lộc (福祿) Việt Thường (越裳) Ninh Hải (寧海) Dương Tuyền (陽泉) Lục Hải (陸海) Vũ Định (武定) Hoài Hoan (懷驩) Cửu Chân (九真) Bình Văn (平文) Tân Hưng (新興) Cửu Đức (九德) Văn Lang (文郎) Trong triều đình có các quan lạc hầu (駱侯) giúp việc, đứng đầu các bộ là các quan lạc tướng (駱將), đều có thái ấp riêng, các quan nhỏ ở địa phương gọi là "bồ chính" (蒲正). Con trai vua gọi là "quan lang" (官郎), con gái vua gọi là "mị nương" (媢娘), nữ lệ gọi là "xảo xứng" (稍稱) [còn gọi là "nô tỳ" (奴婢)]. Xã hội phân làm ba tầng lớp là vua quan, dân, nô tỳ (nô lệ). Sinh hoạt về vật chất còn thô sơ, dùng gỗ làm nhà sàn để ở, dệt cỏ làm chiếu, vỏ cây làm áo. Ngày thường đàn ông để trần mặc khố, vua quan thì có thêm áo hai mảnh, đàn bà thì mặc váy. Về sản xuất có trồng lúa nước, thuần hóa gia súc, dụng cụ có lưỡi cày, đồ dùng có thạp, vũ khí có rìu, đi lại có thuyền. Sinh hoạt tinh thần có những tục xăm mình, nhuộm răng đen, ăn trầu, thờ cúng tổ tiên, tôn thờ các sức mạnh thiên nhiên như thần núi, thần sông, thần gió... Vào các ngày lễ hội thường đội trên đầu mũ lông chim, thổi kèn, đánh trống, nhảy múa, bơi chải. Trích Thủy kinh chú (水經注): "Giao Chỉ có ruộng Lạc, trông nước triều lên xuống mà làm. Người ăn ruộng là Lạc Vương (Lạc Hầu). Các huyện gọi là Lạc Tướng (quan cai quản), có ấn đồng dãi xanh, tức quan lệnh ngày nay." Trích Lĩnh Nam chích quái: "Hồi quốc sơ, dân không đủ đồ dùng, phải lấy vỏ cây làm áo, dệt cỏ gianh làm chiếu, lấy cốt gạo làm rượu, lấy cây quang lang, cây tung lư làm cơm (có chỗ viết là uống), lấy cầm thú, cá, ba ba làm mắm, lấy rễ gừng làm muối, cầy bằng dao, trồng bằng lửa. Đất sản xuất được nhiều gạo nếp, lấy ống tre mà thổi cơm. Bắc gỗ làm nhà để tránh hổ sói. Cắt tóc ngắn để dễ đi lại trong rừng rú. Đẻ con ra lấy lá chuối lót cho nằm, có người chết thì giã cối làm lệnh, người lân cận nghe tiếng đến cứu. Chưa có trầu cau, việc hôn thú giữa nam nữ lấy gói đất làm đầu, sau đó mới giết trâu dê làm đồ lễ, lấy cơm nếp để nhập phòng cùng ăn, sau đó mới thành thân." == Các truyền thuyết == Thời Hồng Bàng được gắn với nhiều truyền thuyết. Dù có thể độ chính xác không cao do được truyền miệng qua nhiều thế hệ, các truyền thuyết cho thấy nhiều khía cạnh đời sống văn hóa và chính trị ở Việt Nam thời kỳ này. Truyền thuyết bánh chưng bánh dày gợi ý, về chính trị, các vua Hùng đã có thể công khai tổ chức các cuộc thi để tìm người kế vị; về nông nghiệp, người Việt thời này đã phát triển trồng lúa nước (có thể bao gồm cả lúa nếp) và chăn nuôi (có thể bao gồm lợn/heo,...); về triết học, bánh chưng và bánh giầy có thể tượng trưng cho quan niệm vũ trụ gồm có mặt đất hình vuông màu xanh lá cây và bầu trời hình tròn màu trắng. Tuy nhiên có học giả, như Trần Quốc Vượng nói rằng bánh chưng nguyên thủy có hình tròn và dài, giống như bánh tét; đồng thời bánh chưng và bánh dày tượng trưng cho dương vật và âm hộ trong tín ngưỡng phồn thực Việt Nam. Bánh tét, dùng thay cho bánh chưng vào các dịp Tết trong cộng đồng người Việt ở miền nam Việt Nam (theo Trần Quốc Vượng là dạng nguyên thủy của bánh chưng). Truyền thuyết Sơn Tinh - Thủy Tinh cho thấy thiên tai mà người Việt cổ phải chống chọi thiên về thuỷ tai, thể hiện ở mong muốn Thủy Tinh thua cuộc. Đó là thời rừng già nhiệt đới chưa bị phá hủy. Tại vùng trung du hay miền núi người cổ dễ dàng chống lại thú dữ và còn săn bắt chúng (loài ăn thịt như sư tử, hổ báo, đại bàng... có thể rình bắt các linh trưởng khác, nhưng thường phải chừa ra loài Homo sapiens). Ở rừng đồng bằng thì di chuyển khó khăn, mùa mưa lụt lội, thủy quái không sợ người và ẩn dưới sông nước khó lường, nên chinh phục sông nước và đồng bằng khó hơn và diễn ra muộn hơn. Nó cũng cho thấy những nhân vật quan trọng giúp người dân chống chọi với thiên nhiên được thần tượng hoá. Các vị thần này vẫn có thể có tình cảm qua hôn nhân với các công chúa của vua Hùng, vốn là những người bình thường. Thông lệ cống nạp sản vật quý hiếm như là một thước đo cho giá trị đã thịnh hành vào thời các vua Hùng, theo lời kể của truyền thuyết này. Các truyền thuyết khác như Phù Đổng Thiên Vương miêu tả một cuộc xâm lấn của giặc Thương Ân vào thời Hùng Vương thứ 6, Mai An Tiêm miêu tả sự khai phá vùng đất phía nam (Thanh Hoá) với giống hoa quả mới (dưa hấu), sự tích trầu cau giải thích về phong tục ăn trầu... == Nguyên nhân chấm dứt == Đến đời Hùng Vương thứ 18, Thục Phán ở phía đông bắc Văn Lang hợp nhất nước Văn Lang của người Lạc Việt với vùng đất của người Âu Việt (Tây Âu) (năm 258 TCN), kết thúc thời kỳ nhà nước Văn Lang. Ngày nay ở vùng cao nguyên Đà Lạt, vẫn còn một tộc người thiểu số tự xưng là con cháu loài chim Lạc, có thể giả định là di dân của các bộ lạc Lạc Việt cổ sau nhiều thời kỳ chiến tranh loạn lạc. == Nghi vấn lịch sử == Trong sách giáo khoa bậc phổ thông, đời Hồng Bàng được dạy đầy đủ từ Kinh Dương Vương cho tới 18 vua Hùng như một sự thật hiển nhiên. Tuy nhiên, trong giới sử học, một số nghi vấn vẫn được đặt ra về đời Hồng Bàng. === Quốc gia === Có đời Hồng Bàng hay không? Có người cho rằng di tích lịch sử chưa chứng minh được sự hiện hữu của một chế độ cai trị như sử vẫn chép về đời Hồng Bàng. Người khác cho rằng sự hiện diện của trống đồng có tuổi vào những năm 200-300 TCN, nếu chưa chứng minh được đời Hồng Bàng, cũng đủ để không bác bỏ những điều sử cũ chép về đời Hồng Bàng. Hồng Bàng là sản phẩm tưởng tượng của các sử gia thế kỷ 14. Nghi vấn này dựa trên việc sử cổ không viết về đời Hồng Bàng: Đại Việt Sử Ký (1272) của Lê Văn Hưu không chép gì về đời Hồng Bàng mà bắt đầu từ đời Triệu Vũ Vương. An Nam Chí Lược của Lê Tắc, viết tại Trung Hoa khoảng 1335, cũng không viết gì về đời Hồng Bàng mặc dù có nói nước An Nam đã giao thiệp với Trung Hoa từ thời Nghiêu Thuấn. Phải đến khoảng 1377, trong Đại Việt Sử Lược, một cuốn sách không rõ tác giả, mới có nhắc sơ qua đến đời Hồng Bàng: "Đến đời Trang Vương nhà Chu (696-682 trước Công nguyên), ở bộ Gia Ninh có người lạ, dùng ảo thuật áp phục được các bộ lạc, tự xưng là Hùng Vương, đóng đô ở Văn Lang, hiệu là nước Văn Lang". Truyền thuyết Kinh Dương Vương được ghi lại lần đầu là do Ngô Sĩ Liên trong Đại Việt Sử Ký Toàn Thư năm 1479. Trong Việt Sử Tiêu Án (1775), Ngô Thì Sĩ đặt nghi vấn về Kinh Dương Vương, Xích Quỷ, và nhiều truyền thuyết liên quan. Niên đại của đời Hồng Bàng có bắt đầu từ 2879 trước Tây lịch là không chính xác. Sử gia đặt nghi vấn này (như Trần Trọng Kim) tính từ con số truyền thuyết về vua Kinh Dương Vương (2879 trước CN), qua Lạc Long Quân và 18 vua Hùng (kết thúc 257 TCN), tính ra 2622 năm cho 20 ông vua, trung bình mỗi người 121 năm. Nhiều người chấp nhận niên đại khoảng 600 TCN là năm bắt đầu đời Hồng Bàng vì Việt Sử Lược ghi rằng nước Văn Lang bắt đầu từ đời vua Chu Trang Vương (696-682 TCN). Tuy nhiên cũng có những giả thuyết nghi vấn về một quốc gia cổ là Việt Thường, Cổ sử Trung Hoa có chép: vào thời Chu Thành Vương (1042 TCN-1021 TCN) có người ở Việt Thường đến dâng chim trĩ Trắng. Có thể đặt ra giả thiết Văn Lang là nhà nước kế tục Việt Thường, khi Văn Lang thay thế Việt Thường đã đặt tên Việt Thường làm một trong 15 bộ của mình. Cả Văn Lang và Việt Thường đều thuộc thời đại Hồng Bàng, tên nước thì có thể đặt từ khi thành lập để gọi nhưng tên thời đại Hồng Bàng thì chắc chắn sau này các sử gia tự đặt cho dễ sắp xếp và theo dõi. Nói về niên đại đầu đời Hồng Bàng (2879 TCN) ở Việt Nam cũng giống như giả thuyết về quốc gia cổ Gojoseon trong lịch sử Triều Tiên (Triều Tiên này không phải là Bắc Hàn ngay nay, mà là bán đảo Triều Tiên) được Dangun thành lập năm 2333 TCN và suy tàn vào khoảng thế kỷ 3 TCN và vương quốc này hiện nay cũng được chứng minh chỉ thực sự hình thành ở thế kỷ 5 TCN (tương tự Văn Lang). Một vấn đề khác là họ Hùng: Các sử gia cho rằng, người Việt cổ tới tận thời Hai Bà Trưng vẫn chưa có họ. Theo sách Lịch sử Việt Nam, tập 1 của Viện Sử học Việt Nam, chữ "Hùng" trong "Hùng Vương" thực ra là lấy từ tên các vua nước Sở, một nước chư hầu thời nhà Chu của Trung Hoa. Các vua Sở đều có tên mang chữ Hùng như: Hùng Thông (Sở Vũ vương), Hùng Vận (Sở Thành vương), Hùng Hòe (Sở Hoài vương)... Tổ tiên nước Sở vốn có tên là Hùng Dịch. Bởi Bách Việt ở gần nước Sở của Trung Hoa nhất nên những người Việt đã lấy theo tên các vua nước này. Mặt khác, người Việt ở Việt Nam còn tự gọi là người Kinh, mà chữ "Kinh" vốn xuất phát từ vùng Kinh Châu, sông Kinh mà nước Sở cai quản. Như vậy Hùng Vương nói riêng và Hồng Bàng nói chung, với nhiều tình tiết lịch sử pha lẫn truyền thuyết, có thể còn là sản phẩm pha trộn của người Việt gốc và người Việt lai Hán - người Kinh sau này. Giả thiết khác đặt ra về họ của các vua Hùng là họ Lạc theo họ của Lạc Long Quân và Hùng Vương chỉ là họ. Biểu hiện là những chức danh-tên gọi như Lạc Hầu, Lạc Tướng (quan giúp việc), Lạc Dân (dân đen), Lạc Điền (đất ruộng)... Một số thần phả còn ghi chép rõ thụy hiệu của các vua Hùng (như Hùng Hy vương, Hùng Duệ vương...) nhưng các nhà nghiên cứu không cho rằng đó là đáng tin. Mặt khác, lại có thuyết tính Kinh Dương Vương là Hùng Vương đầu tiên và Lạc Long Quân là Hùng vương thứ hai, sau đó chỉ có 16 Hùng Vương là hết thời Hồng Bàng. === Lãnh thổ === Theo Đại Việt Sử Ký Toàn Thư và Lĩnh Nam Chích Quái, tên 15 bộ của Văn Lang không được thuyết phục vì tên các bộ trên phần lớn là tên Hán-Việt chỉ có sau khi lệ thuộc nhà Hán. Chỉ có tên 2 bộ được sử cũ Trung Hoa ghi chép có trước khi văn hóa Hán xâm nhập là Việt Thường (thời vua Chu Thành Vương) và Gia Ninh (thời vua Chu Trang Vương). Theo như nhận định thì bộ Việt Thường ở cực nam Văn Lang tức vùng Hà Tĩnh ngày nay, còn bộ Gia Ninh ở Phú Thọ ngày nay Về dân số đến đầu CN trên khu vực Giao Chỉ, Cửu Chân chưa đến 1 triệu người. Vậy trước đó hàng trăm năm thời Hùng Vương dân số còn ít hơn nữa, chắc chỉ vài trăm nghìn người là tối đa, chỉ tương đương với dân số tỉnh Điện Biên (500 nghìn) hoặc Lào Cai (560 nghìn) ngày nay, với dân cư như trên thì Văn Lang không thể là một quốc gia rộng như miêu tả của Lĩnh Nam Chích Quái được. (Tuy nhiên trước đây vùng Bắc Mỹ có nhiều bộ lạc của người da đỏ, mà mỗi bộ lạc chỉ có vài chục người cho đến hai, ba trăm người là nhiều. Vậy thuyết "ít dân số không thể tản mác trên một diện tích rộng lớn" cũng không có được tính thuyết phục.) Về lãnh thổ, phía bắc thì không biết ở đâu nhưng chắc chắn ở phía nam lãnh thổ Văn Lang chỉ đến đèo Ngang vì khi An Dương Vương chiếm Văn Lang chia đất của Vua Hùng ra làm 2 bộ tương ứng với đất Giao Chỉ và Cửu Chân thời Hán. Và bộ Việt Thường chính là phần đất cực Nam của Văn Lang - tương ứng với Hà Tĩnh ngày nay == Đặc điểm, dị hình == Theo vài sử sách ở Trung Quốc thì họ mặc áo đỏ, xăm mình. Một số nghi vấn về vấn đề nhân chủng học, các bằng chứng khai quật ở miền nam Trung Quốc có thể như mắt to, mồm bẹp và rộng, lông mày rậm, họ có thể nói ngôn ngữ Nam Đảo, những đặc điểm này có thể thấy ở một vài người bản địa Đài Loan hay Nam Hải. Quá trình này biến đổi cùng với sự di dân của các dân tộc phương Bắc, dần dần đồng hóa với người Việt cổ, cùng với đó diễn ra các cuộc xâm lược và Hán hóa của các triều đại đế quốc phương bắc trở nên sâu sắc hơn sau này. == Chú giải == == Xem thêm == Hùng Vương Thời kỳ đồ đá Văn hóa Đông Sơn Trống đồng Đông Sơn Truyền thuyết Trăm trứng nở trăm con == Tham khảo == == Tham khảo == Lĩnh Nam chích quái Nhiều tác giả, Đại cương lịch sử Việt Nam tập I (Từ thời nguyên thuỷ đến năm 1858), Nhà xuất bản Giáo dục, 2001] Phạm Minh Huyền. 1996. Văn hóa Đông Sơn. Hà Nội: Nhà Xuất Bản Khoa Học Xã hội == Liên kết ngoài == Văn minh Đông Sơn
robin söderling.txt
Robin Bo Carl Söderling (sinh ngày 14 tháng 8 năm 1984 tại Tibro, Thuỵ Điển) là cựu vận động viên quần vợt chuyên nghiệp người Thụy Điển, người hiện xếp thứ 4 trong bảng xếp hạng ATP (tính đến tháng 1 năm 2011). Söderling là tay vợt đầu tiên và duy nhất cho đến nay đánh bại Rafael Nadal tại Giải Pháp mở rộng. Mặc dù vậy anh bị thất bại tại trận chung kết trước Roger Federer, anh đã hoàn thành tốt nhất một Grand Slam trong sự nghiệp của mình. Một năm sau giải đó, anh đã kết thúc kỷ lục 23 trận bán kết Grand Slam liên tiếp của Roger Federer ở trận tứ kết. Anh là vận động viên quần vợt người Thụy Điển duy nhất nằm trong top 200 của bảng xếp hạng ATP. Anh cũng đã giành được 1 danh hiệu Master.Vào ngày 23 tháng 12 năm 2015,Soderling chính thức nói lời giã từ sự nghiệp quần vợt chuyên nghiệp == Đời sống riêng == Söderling nói được tiếng Anh, tiếng Thụy Điển và tiếng Đức. Cha của anh là một luật sư và mẹ của anh Britt-Inger là một người nội trợ. Chị của Söderling, Sandra, là một giáo viên. Những lúc không chơi quần vợt, Söderling thích chơi đánh bóng bàn, xem phim, đi câu cá, xem thể thao và lái xe đi dạo trên chiếc xe ô tô của mình. Anh đã đính hôn với Jenni Moström. === Thời niên thiếu === Söderling bắt đầu chơi quần vợt khi lên 5 tuổi. Robin Söderling đã có những bước đi đầu tiên trong sự nghiệp quần vợt quốc tế vào tháng 11 năm 1998 ở Luxembourg. Khi 14 tuổi anh đã chơi trận thi đấu chính thức đầu tiên của mình trong giải đấu thuộc lứa thiếu niên, thất bại trong trận mở màn gặp Fred Hemmes, Jr. Lần đầu tiên tham gia đầy đủ các giải đấu thuộc lứa thiếu niên (2000), anh đã giành chiến thắng trong bốn giải đấu và 2001 anh giành hơn ba danh hiệu bao gồm cả Orange Bowl. == Sự nghiệp chuyên nghiệp == === Những năm đầu === Söderling gia nhập làng quần vợt nam thế giới vào năm 2002, anh chơi 5 giải đấu ATP và vào vòng thứ hai ở giả trẻ Mỹ mở rộng. Trong những Challenger anh đạt được thành tích là 16 trận thắng và 8 trận thua, và anh chơi ở giải trẻ Mỹ mở rộng nơi anh đến trận chung kết. Năm 2003, anh chuyển lên thi đấu chuyên nghiệp của ATP, anh lọt đến vòng 3 Wimbledon (từ vòng loại) và đã kết thúc năm với xếp hạng thứ 86. Robin lần đầu tiên trong năm 2004 tại giải Grand Prix de Tennis de Lyon, nơi anh đã đánh bại tay vợt người Bỉ Xavier Malisse trong trận chung kết. Robin cũng lọt vào trận đấu cuối cùng tại Marseille Open. Đến cuối năm, Söderling đã leo lên top 50 thế giới trong bảng xếp hạng. Robin đã có chấn thương nghiêm trọng đầu tiên trong sự nghiệp của anh vào năm 2005, cuối cùng dẫn đến một hậu quả là anh bị chấn thương đầu gối vào thang 3. Nhưng mặc dù không chơi nhiều giải đấu, anh tham dự giải đấu ở Milan (thua Radek Stepanek trong trận chung kết). Sau một mùa giải khó khăn và chấn thương liên miên, Robin đạt được kết quả tốt nhất là vào vòng 3 Mỹ mở rộng. Quay trở lại năm 2006, anh bị trả lại ngoài top 100 vào top 50 trong vòng ba tháng, mặc dù chấn thương đầu gối và vai vẫn còn ngăn cản anh chơi tốt nhất. Anh phải giúp đội tuyển Thụy Điển thắng 2 trận để giữ cúp Davis nếu không nó sẽ ở lại Brazil. Trong mùa giải này phần lớn thời gian anh không dính chấn thương, mặc dù anh đã thất bại nhưng gây ấn tượng tại Grand Slams. Nhưng cuối năm, anh kiếm được nhiều điểm và kết thúc mùa giải tại vị trí 25. Năm 2007 là một năm không tệ của Soderling. Anh lọt vào vòng 32 tay vợt tại Wimbledon, nơi anh bị thua trước Rafael Nadal trong một trận 5 set đấu. Söderling đã lọt vào một trận chung kết ATP lần đầu tiên trong 5 năm trong năm 2007, nhưng anh bị loại. Tuy nhiên, anh mất 3 tháng cuối do chấn thương cổ tay trái. === Trở lại từ chấn thương === Söderling không thi đấu Úc mở rộng do chấn thương. Giải đấu đầu tiên của anh vào năm 2008 là Open 13 Marseille, nơi anh đến tứ kết. Sau đó anh đến chung kết của ABN AMRO World Tennis Tournament (Rotterdam), thắng Michaël Llodra trong trận chung kết, 6-7,6-3,7-6. Tuần tiếp theo, anh thi đấu tại giải Morgan Keegan Championships ở Memphis, Hoa Kỳ. Anh đánh bại hạt giống hàng đầu Andy Roddick. Nhưng anh bị thua Steve Darcis, 6-3,7-6. Tại World Cup Team 2008 ở Düsseldorf sân đất nện, anh bất khả chiến bại trong 4 trận đơn và 4 trận đôi. Anh đã trở thành tay vợt thứ ba chỉ trong lịch sử khi thắng tất cả các trận với John McEnroe năm 1984 và Fernando González vào năm 2003. Vì vậy, chiến thắng tất cả các trận đấu của mình ở đó, anh đã chỉ đạo đội Thụy Điển chiến thắng. Vào cuối tháng, anh đến vòng 3 ở giải Pháp mở rộng, nơi anh bị thua Julien Bennetau. Tại Wimbledon, anh thua Roger Federer trong vòng 64 tay vợt. Sau khi có kết quả đáng thất vọng ở cả hai giải ở Thế vận hội Bắc Kinh và Mỹ mở rộng, Söderling đã quyết định chia tay với huấn luyện viên Peter Carlsson của mình. Anh được huấn luyện bởi cựu số 2 thế giới người Thụy Điển Magnus Norman. Với sự giúp đỡ của Norman, Robin là tay vợt thứ ba cuối cúng của Thụy Điển tại Stockholm Open, nhưng bị thua David Nalbandian trong một trận đấu khó khăn (2-6,7-5, 3-6). Ba tuần sau đó Söderling cuối cùng cũng giành danh hiệu đầu tiên của mình sau 3 năm tại Grand Prix de Tennis de Lyon, đánh bại Julien Benneteau trong ba set (6-3,6-7,6-1). Trên đường đến trận chung kết anh thắng hạt giống hàng đầu Andy Roddick ở tứ kết, và gặp tay vợt người Pháp Gilles Simon trong bán kết, cả hai đều được xếp hạng trong top 10 thế giới. Vị trí 18 trong bảng xếp hạng, một sự nghiệp tốt đẹp của Soderling. Anh kết thúc năm với thứ hạng 17. Ngày 04 tháng mười một, anh công bố rằng Magnus Norman sẽ là huấn luyện viên của anh bắt đầu ngay sau khi kỳ nghỉ của mình. === Tiếp cận top 10 === Với huấn luyện viên mới của anh ở bên cạnh, Söderling bắt đầu năm 2009 ở giải Brisbane International. Anh thua ở tứ kết trước Radek Stepanek. Söderling sau đó tham gia vào giải Heineken Open, nơi anh bị thua trong trận bán kết trước Juan Martín del Potro. Anh là hạt giống số 16 tại Úc Mở rộng và thua trước Marcos Baghdatis ở vòng thứ hai. Anh sau đó tham gia giải Indian Wells Masters 1000, nhưng anh thua Nicolas Lapentti 4-6, 6-7 (7) ở vòng thứ hai. Mặc dù đang chơi tốt và nhưng thách thức của anh tại giải BMW Tennis Championship, Söderling bị chấn thương và nghỉ thi đấu trong hai tháng. Cuối cùng anh đã giành liên tiếp các trận thắng đầu tiên kể từ khi Úc Mở rộng tại Rome Masters, trước khi thua tay vợt số 1 thế giới Rafael Nadal trong một trận đấu với các tỉ số 1-6, 0-6 ở vòng thứ ba. Sau vòng thứ ba bị loại ở Madrid Masters trước Roger Federer, Söderling tới thi đấu tại ARAG World Team Cup ở Düsseldorf, anh là một phần của đội tuyển Thụy Điển. Mặc dù Thụy Điển đã không thắng, đánh bại Söderling bởi Gilles Simon và Rainer Schüttler 6-0, 6-0. Tại Pháp mở rộng, Söderling là hạt giống số 23, đến vòng thứ tư của một giải Grand Slam lần đầu tiên sau khi đánh bại Kevin Kim, Denis Istomin, và David Ferrer. Điều này cho thấy anh sẽ gặp đương kim vô địch Rafael Nadalở vòng 4. Anh là sự khó chịu lớn nhất Nadal khi đánh bại kỷ lục 31 trận thắng của "Vua đất nện" tại Roland Garros. Martina Navratilova nhận xét trận đấu là một cơn địa chấn lớn nhất trong lịch sử quần vợt 6-2, 6-7 (2), 6-4, 7-6 (2) chiến thắng tay vợt số 1 thế giới lần đầu tiên của Robin Soderling và là trận đấu của năm, chưa có người nào đánh bại Nadal trên đất nện. Hai ngày sau, anh đối mặt với hạt giống số 10 Nicolay Davydenko và nếu thăng anh sẽ vào chung bán kết, Söderling thắng 6-1, 6-3, 6-1 để vào bán kết lần đầu tiên. Söderling lần đầu tiên vào bán kết Grand Slam, đánh bại Fernando González 6-3, 7-5, 5-7, 4-6, 6-4. Söderling cuối cùng để thua Federer 1-6, 6-7 (1), 4-6, tuy nhiên, thứ hạng của anh được nâng lên thứ 12 trên thế giới. Söderling là hạt giông số 13 tại Giải quần vợt Wimbledon 2009, giải đấu tiếp theo của anh. Anh đến vòng thứ tư lần đầu tiên trong sự nghiệp của mình, đánh bại Gilles Müller, Marcel Granollers, và Nicolas Almagro trên con đường vào vòng 4. Söderling đối mặt với Federer, một người vô địch năm lần tại Wimbledon, Federer đánh bại anh một lần nữa, 6-4, 7-6 (5), 7-6 (5). Sau Wimbledon, Söderling trở về quê hương của mình để chơi tại Thụy Điển mở rộng Collector. Anh là hạt giống số hai, anh đã dược miễn vòng đầu. Anh đánh bại Kristof Vliegen 6-2, 6-3 ở vòng thứ hai, và chiến thắng trận tứ kết trước Nicolas Almagro 7-5, 6-3. Söderling đến trận cuối cùng bằng cách đánh bại đồng hương, Andreas Vinciguerra, 6-1, 7-6 (6). Ở đó, anh đánh bại Juan Monaco 6-3, 7-6 (4) đẻ chiến thắng, trở thành tay vợt người Thụy Điển đầu tiên kể từ Magnus Norman (năm 2000) để giành danh hiệu đĩa đơn ở Thụy Điển Mở rộng. Đây lá lần đầu tiên Soderling có một chức vô địch ngoài sân đất nện ngoài trời. Sau khi giành chức vô địch anh được lên thứ hạng thứ 11. Söderling sau đó tham gia giaỉ Germany International Open nhưng thua ở vòng thứ ba trước Nicolas Almagro. Sau trận đấu, Söderling đã đẽ mất chuỗi thành tích bất bại kể từ Rome Masters vào cuối tháng tư, nơi anh thua Nadal Đến sang mùa sân cứng tại Mỹ, Söderling tham dự giải Legg Mason Tennis Classic nhưng đã phải rút khỏi ở tứ kết do một chấn thương khuỷu tay buộc Söderling rút lui khỏi Rogers Cup. Quay trở lại Cincinnati Masters, anh thua ở vòng đầu tiên trước Lleyton Hewitt. Söderling là hạt giống số 12 tại Mỹ mở rộng và tiến vào tứ kết lần đầu tiên tại sau khi đánh bại đối thủ đáng chú ý như Albert Montañés, Marcel Granollers, hạt giống số 22 người Mỹ Sam Querrey và hạt giống 8 Nikolay Davydenko. Trên đường đến tứ kết, Söderling đã có một chút may mắn trên thực tế là hai trong số những đối thủ của anh đã bị chấn thương, trong đó có tay vợt người Nga, tay vợt Nikolay Davydenko chấn thương khi Söderling dẫn 7-5, 3-6, 6-2. Söderling đối đầu với đương kim vô địch và hạt giống số 1 Roger Federer lần thứ tư trong năm nay (ba trong số họ trong một giải Grand Slam). Federer đã đánh bại Soderling trong 2 set đầu tiên đầu tiên, nhưng Soderling cho thấy sau khi mất hai set đầu tiên (Federer thắng) và thắng trong set 3. Anh sau đó đã ghi những điểm những điểm trong tiebreak mặc dù cuối cùng thua set thứ tư 0-6, 3-6, 7-6 (6), 6-7 (6). Tại vòng Playoffs Davis Cup, anh đã giúp Thụy Điển chiến thắng 3-2 trước Romania và một cơ hội cho Thụy Điển để cạnh tranh trong năm Davis Cup 2010. Sau Mỹ mở rộng, anh đến bán kết ở cả hai giải Malaysia Open và China Open trước Shanghai Masters, nơi anh chính thức lọt vào top 10 lần đầu tiên, đặc biệt là đánh bại hạt giống số năm Jo-Wilfried Tsonga 6-3, 6-3. Tuy nhiên, anh thua ở tứ kết trước Feliciano López 6-7 (4), 3-6. Söderling là hạt giống số 1 ở Stockholm Open nhưng do một chấn thương khuỷu tay anh đã phải bỏ cuộc ở trận bán kết. Mặc dù không phải một chấn thương nghiêm trọng, Söderling đã bỏ cuộc từ Valencia Open 500. Lúc đó vị trí số 9 thế giới, Söderling cần một số điểm lớn tại 2.009 BNP Paribas Masters để được tham gia ATP World Tour Finals. Anh đối mặt với Ivo Karlović, chiến thắng trong 2 set, 6-4, 7-6 (6), và Davydenko đánh bại hạt giống thứ sáu ở vòng thứ ba, 6-3, 3-6, 6-4. Söderling mất cơ hội đến vòng loại ATP World Tour Finals khi hạt giống số 3 Novak Djokovic quá mạnh ở tứ kết và giành chiến thắng trong ba set, 6-4, 1-6, 6-3. Tuy nhiên, Söderling đủ điều kiện dự ATP World Tour Finals khi tay vợt người Mỹ Andy Roddick rút lui vì một chấn thương ở Thượng Hải. Söderling được bốc thăm vào bảng có gồm Rafael Nadal, Novak Djokovic và Nikolay Davydenko. Anh có một khởi đầu ấn tượng, khi đánh bại Rafael Nadal trong trận đấu đầu tiên của anh 6-4 6-4. Anh tiếp tục dễ dàng Dè bẹp Novak Djokovic 7-6 (5) 6-1. Sau đó anh được vào vòng bán kết của giải vô địch này cuối năm. Tuy nhiên, anh thua trước Nikolay Davydenko 6-7 (4) 6-4 3-6 ở set thứ ba và cuối cùng trận đấu kết thúc. Mặc dù vậy, anh trở thành người chiến thắng của bảng mình (bảng B), và đụng độ ở bán kết với Juan Martín del Potro, anh gác vợt sau 3 set với các tỉ số, 6-7 (1), 6-3, 7-6 (3). Söderling hoàn thành năm với xếp hạng # 8, một năm thi đấu tốt. == Chú thích ==
đại hội thể thao khối thịnh vượng chung.txt
Đại hội thể thao Thịnh vượng chung (tiếng Anh: Commonwealth Games), trước đây gọi là Đại hội thể thao Đế quốc Anh (British Empire Games, 1930-1950), Đại hội thể thao Đế quốc Anh và Thịnh vượng chung (British Empire and Commonwealth Games, 1954-1966), và Đại hội thể thao Thịnh vượng chung Anh (British Commonwealth Games, 1970-1974)) là một sự kiện thể thao tổng hợp quốc tế với sự tham gia của các vận động viên đến từ Thịnh vượng chung các quốc gia. Sự kiện được tổ chức lần đầu tiên vào năm 1930, và từ đó được tổ chức 4 năm một lần (ngoại trừ lần vào năm 1942 và 1946 do chiến tranh). Đây được cho là sự kiện thể thao tổng hợp lớn thứ ba trên thế giới, sau Thế vận hội và Á vận hội. Liên đoàn Đại hội thể thao Thịnh vượng chung (CGF) giám sát các đại hội, thể chế này cũng kiểm soát chương trình thi đấu và lựa chọn thành phố đăng cai. Mỗi kỳ đại hội có một thành phố đăng cai được lựa chọn, và có 18 thành phố tại bảy quốc gia từng tổ chức sự kiện này. Bên cạnh nhiều môn thể thao Thế vận hội, đại hội cũng bao gồm một số môn thể thao được chơi phần lớn tại các quốc gia Thịnh vượng chung, như bóng gỗ trên cỏ và bóng lưới. Có sáu đội tuyển tham dự tất cả các kỳ Đại hội là Anh, Canada, New Zealand, Scotland, Úc và Wales. Mặc dù Thịnh vượng chung các quốc gia có 53 thành viên, song có 70 đội tuyển tham gia Đại hội thể thao Thịnh vượng chung do một số lãnh thổ hải ngoại thuộc Anh, thuộc địa vương thất, và các đảo quốc cạnh tranh dưới quốc kỳ riêng của họ. Bốn quốc gia thuộc Anh Quốc là Anh, Scotland, Wales, và Bắc Ireland cũng cử các đội tuyển riêng tham dự. == Lịch sử == Năm 1891, Nam tước Astley Cooper là người đầu tiên đề xuất một cuộc tranh tài thể thao giữa các thành viên của Đế quốc Anh, ông viết một bài trên The Times đề nghị một cuộc thi và liên hoan liên Anh Quốc liên Anh giáo tổ chức mỗi bốn năm như một cách để tăng cường thiện chí và thông hiểu tốt đẹp trong Đế quốc Anh. Năm 1911, Lễ hội Đế quốc được tổ chức tại Cung điện Thủy tinh tại Luân Đông nhằm chào mứng lễ đăng quang của Quốc vương George V. Trong thành phần của lễ hội, một giải vộ địch toàn đế quốc được tổ chức với các đội tuyển đến từ Anh Quốc, Canada, Nam Phi, Úc, trong các cuộc thi quyền Anh, đấu vật, bơi và điền kinh. Năm 1928, một người Canada là Melville Marks Robinson thỉnh cầu tổ chức Đại hội thể thao Đế quốc Anh đầu tiên; và nó được tổ chức vào năm 1930 tại Hamilton, Ontario, và nữ giới chỉ tham gia trong các cuộc thi bơi. Từ năm 1934, nữ giới cũng được tham gia một số cuộc thi điền kinh. Đại hội thể thao liệt hai chi Thịnh vượng chung được tổ chức cùng với Đại hội thể thao Thịnh vượng chung từ năm 1962 đến 1974. Các vạn động viên khuyết tật Kỳ Đại hội thể thao Đế quốc Anh đầu tiên có 11 đội tuyển tham dự. Chu kỳ bốn năm tổ chức một lần của đại hội bị gián đoạn do Chiến tranh thế giới thứ hai khi các kỳ đại hội vào năm 1942 và 1946 bị bãi bỏ. Đại hội phục hồi vào năm 1950 và trong kỳ năm 1954 thì bắt đầu mang tên Đại hội thể thao Đế quốc Anh và Thịnh vượng chung. Trên 1000 vận động viên tham gia kỳ đại hội năm 1958 với trên 30 đội tuyển lần đầu tiên tham dự. Nigeria là quốc gia đầu tiên tẩy chay Đại hội Thể thao Thịnh vượng chung vào năm 1978 để phản đối New Zealand có tiếp xúc thể thao với Nam Phi. Kỳ đại hội năm 1986 bị 32 quốc gia châu Phi và Caribe tẩy chay để phản đối Thủ tướng Anh Quốc Margaret Thatcher từ chối lên án các tiếp xúc thể thao đối với Nam Phi vào năm 1985, sau Đại hội phục hồi và tiếp tục phát triển sau đó. Đại hội Thể thao Thịnh vượng chung 1998 tại Kuala Lumpur, Malaysia chứng kiến số môn thể thao tăng từ 10 lên 15 khi các môn thể thao đồng đội được cho phép lần đầu tiên. Sự tham gia cũng lập kỷ lục mới với trên 3500 vận động viên đại diện cho 70 đội tuyển. Tại Đại hội tổ chức tại Melbourne vào năm 2006, trên 4000 vận động viên tham gia thi đấu. === Kỳ đại hội theo quốc gia đăng cai === == Môn thể thao được chấp thuận == Liên đoàn Đại hội thể thao Thịnh vượng chung chấp thuận tổng cộng 21 môn thể thao và thêm 7 môn thể thao người khuyết tật. Chúng được phân vào ba thể loại, các môn thể thao cốt yếu phải có mặt ở mỗi kỳ đại hội. Một số môn thể thao tùy chọn có thể được nước đăng cai lựa chọn. Các môn thể thao được công nhận là những môn được Liên đoàn chấp thuận song được xem là cần mở rộng; các nước đăng cai có thể không lựa chọn các môn này cho cho đến khi các yêu cầu của Liên đoàn được đáp ứng. == Tham gia == Chỉ sáu đội tuyển tham gia mọi kỳ Đại hội: Úc, Canada, Anh, New Zealand, Scotland và Wales. Úc giành vị trí cao nhất trong 11 kỳ đại hội, Anh bảy kỳ và Canada một kỳ. == Tham khảo == == Liên kết ngoài == Trang thông tin chính thức của Đại hội thể thao Thịnh vượng chung Thống kê từ năm 1911 đến năm 2006
thần chết.txt
Phép nhân cách hóa cái chết thành một thực thể sống, có khả năng hiểu biết và nhận thức (còn gọi là tử thần hoặc thần chết) là một khái niệm đã tồn tại trong các xã hội của loài người từ khi chúng ta mới biết dùng ngôn ngữ để ghi lại lịch sử. == Văn hóa phương Tây == Người Tây phương thường miêu tả thần chết (có tên là "The Grim Reaper" trong tiếng Anh) như một bộ xương người cầm một lưỡi hái lớn, mặc áo choàng đêm; hay áo chùng; hay áo choàng không tay đen gắn với mũ trùm đầu; hoặc đôi khi một bộ trang phục bằng vải liệm trắng. Khi tử thần được miêu tả trong áo choàng đen với mũ trùm đầu, người ta thường chỉ có thể nhìn thấy mắt "ông ta". == Văn hóa phương Đông == === Trung Quốc === === Nhật Bản === === Ấn Độ === === Việt Nam === == Ai Cập == Theo thần thoại Ai Cập, vị thần chết là Osiris và thần ướp xác là Anubis == Xem thêm == Địa Tạng Vương Bồ tát Cuộc sống sau khi chết Thiên thần Kinh Thánh Chết Khải huyền tứ mã Chúa Danse Macabre Mort Psychopomp Đầu lâu (biểu tượng) Tử thánh Linh hồn Địa ngục Âm phủ == Tham khảo == == Liên kết ngoài ==
florida.txt
Florida (phát âm tiếng Anh: /ˈflɒrɪdə/) là một tiểu bang ở đông nam bộ của Hợp chúng quốc Hoa Kỳ, giáp vịnh Mexico ở phía tây, giáp Alabama và Georgia ở phía bắc, giáp Đại Tây Dương ở phía đông, và ở phía nam là eo biển Florida. Florida là tiểu bang rộng lớn thứ 22, đông dân thứ 4, và có mật độ dân số đứng thứ 8 trong số 50 tiểu bang của Hoa Kỳ. Thủ phủ là Tallahassee, thành phố lớn nhất là Jacksonville, và vùng đô thị Miami là vùng đô thị lớn nhất. Về mặt địa thế, phần lớn lãnh thổ Florida là một bán đảo nằm giữa vịnh Mexico, Đại Tây Dương, và eo biển Florida. Florida có đường bờ biển dài nhất trong số 48 bang liền kề của Hoa Kỳ, với xấp xỉ 1.350 dặm (2.170 km), và là tiểu bang duy nhất tiếp giáp vịnh Mexico lẫn Đại Tây Dương. Địa hình Florida không có núi non, đất đai trũng thấp không cao hơn mực nước biển là bao, cấu tạo bởi đất trầm tích. Khí hậu Florida gồm vùng cận nhiệt đới ở phía bắc; còn phía nam có khí hậu nhiệt đới. Muông thú trong vườn quốc gia Everglades có những loài tiêu biểu của Florida như cá sấu Mỹ, báo, lợn biển. Năm 1513, nhà thám hiểm người Tây Ban Nha Juan Ponce de León trở thành người châu Âu đầu tiên tiếp xúc với lãnh thổ Florida ngày nay, ông đặt tên cho lãnh thổ này là La Florida ([la floˈɾiða] "đất nhiều hoa") khi đổ bộ lên bờ vào mùa Phục Sinh. Florida từ đó trở thành thách thức đối với các cường quốc thực dân châu Âu cho đến khi trở thành một bang của Hoa Kỳ vào năm 1845. Đây là một địa điểm chính trong các cuộc chiến tranh Seminole chống lại người da đỏ, và cách ly chủng tộc sau Nội chiến Mỹ. Ngày nay, Florida đáng chú ý với cộng đồng nói tiếng Tây Ban Nha lớn, tăng trưởng dân số cao, cũng như các mối quan tâm ngày càng tăng lên về môi trường. Kinh tế Florida dựa chủ yếu vào du lịch, nông nghiệp, và vận tải. Florida cũng được biết đến với các công viên giải trí, sản xuất cam, và Trung tâm vũ trụ Kennedy. Văn hóa Florida phản ánh các ảnh hưởng và kế thừa đa dạng; có thể nhận thấy các di sản của người da đỏ, người Mỹ gốc Âu, người gốc Mỹ Latinh, và người Mỹ gốc Phi trên các công trình kiến trúc và ẩm thực. == Lịch sử == Nghiên cứu khảo cổ học cho thấy rằng người da đỏ cổ là giống người đầu tiên cư trú tại Florida, có lẽ sớm nhất là từ 14 nghìn năm trước. Khu vực liên tục có người cư trú trong suốt thời kỳ cổ đại. Sau năm 500 TCN, văn hóa cổ xưa tương đối bất biến trước đó bắt đầu hợp lại thành các văn hóa bản địa đặc biệt. Đến khoảng thế kỷ 16, tức lần đầu tiên có ghi chép lịch sử về Flordia, các nhóm người da đỏ lớn là Apalachee (Florida Cán xoong), Timucua (bắc bộ và trung bộ Florida), Ais (trung bộ duyên hải Đại Tây Dương), Tocobaga (khu vực vịnh Tampa), Calusa (tây nam bộ Florida) và Tequesta (duyên hải đông nam bộ). Florida là nơi đầu tiên tại Hoa Kỳ liền kề có người châu Âu đến. Conquistador người Tây Ban Nha Juan Ponce de León phát hiện bán đảo vào ngày 2 tháng 4 năm 1513. Theo biên niên sử của ông, ông đặt tên cho khu vực là La Florida ("đất nhiều hoa") vì khi đó là mùa Phục Sinh, trong tiếng Tây Ban Nha gọi là Pascua Florida, và do thực vật trong khu vực nở hoa. Loài ngựa bị cư dân bản địa dùng làm thực phẩm đến mức tuyệt chủng vào khoảng 10.000 năm trước, và đến năm 1538 những nhà thám hiểm người châu Âu lại đưa chúng đến Bắc Mỹ và đến Florida. Trong thế kỷ sau đó, cả người Tây Ban Nha và người Pháp đều thiết lập các khu định cư tại Florida với mức độ thành công khác nhau. Năm 1559,Tristán de Luna y Arellano thiết lập một thuộc địa tại Pensacola ngày nay, đây là một trong những nỗ lực đầu tiên của người châu Âu nhằm định cư tại Hoa Kỳ lục địa. Những người Huguenot từ Pháp thành lập pháo đài Caroline tại Jacksonville ngày nay vào năm 1564. Diện tích của Florida thuộc Tây Ban Nha bị thu nhỏ do Anh thiết lập các thuộc địa ở phía bắc và Pháp thiết lập các thuộc địa ở phía tây. Người Anh làm suy yếu quyền lực của người Tây Ban Nha trong khu vực bằng cách cung cấp vũ khí cho các đồng minh Creek và Yamasee, thúc giục họ tấn công các bộ lạc đối tác của người Tây Ban Nha là Timucuan và Apalachee. Florida thu hút nhiều người da đen đến từ các thuộc địa phía nam của Anh tại Bắc Mỹ nhằm thoát khỏi thân phận nô lệ. Khi họ đến Florida, người Tây Ban Nha cải đạo cho họ sang Công giáo La Mã và ban cho họ quyền tự do. Anh Quốc giành quyền kiểm soát Florida và các lãnh thổ khác bằng phương thức ngoại giao vào năm 1763 theo Hòa ước Paris trong Chiến tranh Bảy năm. Anh Quốc chia lãnh thổ họ mới thu được thành Đông Florida với thủ phủ tại St. Augustine, và Tây Florida với thủ phủ tại Pensacola. Anh Quốc cố gắng phát triển hai thuộc địa Florida thông qua nhập di dân để có thêm lao động, song dự án này cuối cùng thất bại. Tây Ban Nha nhận lại hai thuộc địa Florida sau khi Anh Quốc bị các 13 thuộc địa Bắc Mỹ đánh bại và theo Hòa ước Versailles năm 1783, và vẫn tiếp tục được phân thành Đông và Tây Florida. Tây Ban Nha cấp đất cho những ai đến định cư tại thuộc địa, và nhiều người Mỹ chuyển đến đây. Sau khi những người định cư tấn công các đô thị của người da đỏ, người da đỏ Seminole tại Đông Florida bắt đầu tấn công các khu định cư tại Georgia, tuyên bố là theo mệnh lệnh của người Tây Ban Nha. Quân đội Hoa Kỳ dẫn đầu các cuộc xâm nhập ngày càng sâu vào lãnh thổ Tây Ban Nha, bao gồm chiến dịch chống người Seminole vào năm 1817-1818. Sau chiến tranh, Hoa Kỳ kiểm soát Đông Florida trên thực tế. Năm 1819, theo các điều khoản của Hiệp định Adams-Onís, Tây Ban Nha nhượng Florida cho Hoa Kỳ để đổi lấy 5 triệu USD và Hoa Kỳ từ bỏ mọi tuyên bố chủ quyền tại Texas mà họ có thể từ Thương vụ Louisiana. Người da đen tự do và các nô lệ người da đỏ, người Seminole Đen, sống gần St. Augustine, chạy sang La Habana của Cuba để tránh phải chịu sự quản lý của Hoa Kỳ. Một số người Seminole cũng bỏ các khu định cư của họ và di chuyển xa hơn về phía nam. Hàng trăm người Seminole Đen và nô lệ bỏ trốn đã chạy thoát vào đầu thế kỷ 19 từ mũi Florida sang Bahamas, định cư trên đảo Andros. Năm 1830, do Đạo luật người da đỏ Di dời được thông qua và do định cư tăng lên, chính phủ Hoa Kỳ chịu áp lực lớn hơn trong việc di dời người da đỏ khỏi các vùng đất của họ tại Florida. Để cản trở các địa chủ Georgia, người Seminole chứa chấp và tích hợp những người da đen chạy trốn, gọi là người Seminole da đen, và xung đột giữa người da trắng và người da đỏ tăng lên cùng với dòng người đến định cư. Năm 1832, chính phủ Hoa Kỳ ký kết Hiệp định Payne's Landing với một số tù trưởng người Seminole, hứa hẹn với họ về các vùng đất phía tây sông Mississippi nếu họ chấp thuận tự nguyện dời khỏi Florida. Khi đó, một số người Seminole dời đi, song một số còn lại vẫn chuẩn bị phòng phủ bảo vệ đất đai mà họ tuyên bố. Quân đội Hoa Kỳ đến vào năm 1835 và bắt người Seminole phải thi hành hiệp ước trước áp lực từ những người định cư da trắng. Chiến tranh Seminole lần thứ hai kết thúc khi Hoa Kỳ từ bỏ việc chiến đấu do chi phí quá lớn. Ngày 3 tháng 3 năm 1845, Florida trở thành bang thứ 27 của Hoa Kỳ, là bang duy trì chế độ nô lệ, song ban đầu dân số tăng trưởng chậm. Những người định cư da trắng tiếp tục xâm phạm các vùng đất mà người Seminole đang sử dụng, và chính phủ Hoa Kỳ quyết định tiến hành nỗ lực khác nhằm chuyển những người Seminole còn lại về phía tây. Chiến tranh Seminole lần thứ ba kéo dài từ năm 1855 đến năm 1858, kết quả là di dời hầu hết những người Seminole còn lại. Song sau ba cuộc chiến, Hoa Kỳ vẫn thất bại trong việc buộc toàn bộ người da đỏ Seminole tại Florida dời về phía tây. Hàng trăm người Seminole vẫn ở lại và hậu duệ của họ vẫn sinh sống tại bang, hai bộ lạc tại Florida được công nhận ở cấp liên bang. Những người định cư da trắng bắt đầu lập các đồn điền trồng bông tại Florida, do đây là lĩnh vực đòi hỏi nhiều lao động nên họ mua nô lệ trong thị trường nội địa. Ngày 10 tháng 1 năm 1861, trước khi nổ ra Nội chiến Hoa Kỳ, Florida tuyên bố ly khai khỏi Liên bang; mười ngày sau, bang trở thành một thành viên sáng lập của Liên minh quốc châu Mỹ. Sau Nội chiến, ngày 25 tháng 6 năm 1868, Florida phục hồi đại diện trong quốc hội liên bang. Sau thời kỳ Tái thiết, các đảng viên Dân chủ giành được quyền lực trong quốc hội bang vào thập niên 1870. Năm 1885, họ tạo ra một hiến pháp mới, sau đó là các điều luật mà trên thực tế tước quyền bầu cử của hầu hết người da đen và nhiều người da trắng nghèo khổ trong vài năm sau đó, với các yêu cầu về thuế khoán, kiểm tra việc biết chữ, và đòi hỏi về cư trú. Việc tước quyền bầu cử đối với hầu hết người da đen trong bang kéo dài cho đến Phong trào dân quyền vào thập niên 1960. Cho đến giữa thế kỷ 20, Florida vẫn là bang miền Nam ít dân nhất, với chỉ 528.542 người vào năm 1900, trong đó 44% là người Mỹ gốc Phi. Mọt bông tàn phá các vụ mùa bông, các tư hình và bạo lực sắc tộc vào đầu thế kỷ 20 dẫn đến một số lượng kỷ lục người Mỹ gốc Phi rời khỏi bang trong Đại di cư để đến các thành thị công nghiệp ở phía bắc và trung tây. Bốn mươi nghìn người da đen, chiếm khoảng 1/5 dân số của họ vào năm 1900, dời đi để tìm các cơ hội tốt hơn. Về mặt lịch sử, kinh tế Florida dựa trên các nông sản như chăn nuôi gia súc, đường, cam, cà chua, dâu tây. Thịnh vượng kinh tế trong thập niên 1920 tại Hoa Kỳ thúc đẩy du lịch đến Florida và các phát triển liên quan về khách sạn và cộng đồng nghỉ dưỡng. Cuộc bùng nổ đất đai tại Florida trong thập niên 1920 khiến bất động sản phát triển mãnh liệt trong một giai đoạn ngắn. Florida bị tàn phá trong các trận bão năm 1926 và 1928, tiếp theo là thị trường chứng khoán sụp đổ và Đại suy thoái. Kinh tế Florida không phục hồi hoàn toàn cho đến khi Hoa Kỳ tiến hành tăng cường quân sự trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Khí hậu được điều hòa và mức phí sinh hoạt thấp khiến Florida trở thành một nơi cư trú lý tưởng. Di dân từ Rust Belt và đông bắc khiến dân số bang tăng mạnh sau chiến tranh. Trong các thập niên gần đây, có thêm nhiều di dân đến Florida để tìm việc làm trong nền kinh tế đang phát triển của bang. == Địa lý == === Địa hình === Phần lớn bang Florida nằm trên một bán đảo giữa vịnh Mexico, Đại Tây Dương và eo biển Florida. Florida trải dài trên hai múi giờ, duỗi thẳng về tây bắc tạo thành một cán xoong, dọc theo phía bắc của vịnh Mexico. Ở phía bắc, Florida giáp với các bang Georgia và Alabama, và ở cực tây, cũng là phần cuối của cán xoong, là Alabama. Florida lân cận với hai quốc gia Bahamas và Cuba. Florida là một trong các bang lớn nhất ở phía đông của sông Mississippi, và chỉ xếp sau Alaska và Michigan về diện tích nội thủy. Đồi Britton là điểm cao nhất tại Florida với cao độ 345 foot (105 m), cao độ thấp nhất trong các điểm cao nhất bang tại Hoa Kỳ. Phần lớn diện tích nằm ở phía nam của Orlando thấp và bằng phẳng; phần lớn Florida có cao độ dưới 12 foot (4 m), bao gồm nhiều khu vực dân cư như Miami. Miami và những nơi khác tại nam Florida là những khu vực dễ bị tổn thương nhất trên thế giới do mực nước biển dâng có liên hệ với sự ấm lên toàn cầu. Tuy nhiên, tại một số nơi như Clearwater có các cảnh quan cao 50 đến 100 ft (15 đến 30 m) so với mực nước biển. Phần lớn Trung và Bắc Florida, đặc biệt là những nơi cách đường bờ biển 25 mi (40 km) hoặc hơn, có các đồi lượn sóng với cao độ biến đổi từ 100 đến 250 ft (30 đến 76 m). Điểm cao nhất trên bán đảo Florida (đông và nam sông Suwanee) là núi Sugarloaf với một đỉnh cao 312 foot (95 m) tại quận Lake. === Khí hậu === Khí hậu tại Florida được điều hòa phần nào vì mọi nơi tại bang đều năm không quá xa biển. Ở phía bắc hồ Okeechobee, kiểu khí hậu thường thấy là cận nhiệt đới ẩm (Köppen: Cfa), trong khi các khu vực duyên hải ở phía nam của hồ có khí hậu nhiệt đới (Köppen: Aw). Nhiệt độ tối cao trung bình vào cuối tháng 7 là khoảng 90 °F (32–34 °C). Nhiệt độ tối thấp trung bình từ đầu đến giữa tháng 1 dao động từ khoảng 40 °F (4–7 °C) tại bắc bộ Florida đến trên 60 °F (16 °C) từ Miami về phía nam. Với nhiệt độ trung bình ngày là 70,7 °F (21,5 °C), Florida là bang ấm nhất tại Hoa Kỳ. Biệt danh của Florida là "bang ánh nắng", song thời tiết khắc nghiệt là điều diễn ra phổ biến trong bang. Trung Florida được gọi là thủ đô tia sét của Hoa Kỳ do là nơi bị sét đánh nhiều nhất quốc gia. Florida nằm trong số các bang có lượng mưa bình quân cao nhất, phần lớn là do dông vào buổi chiều là hiện tượng phổ biến, chúng diễn ra tại bang từ cuối mùa xuân đến đầu mùa thu. Một phần nhỏ ở phía đông của Florida, gồm có Orlando và Jacksonville, có số giờ nắng hàng năm từ 2.400 đến 2.800. Phần còn lại của bang, gồm có Miami, nhận được từ 2.800 đến 3.200 giờ nắng mỗi năm. Xoáy thuận nhiệt đới là một mối đe dọa nghiêm trọng trong mùa bão, vốn kéo dài từ tháng 6 đến hết tháng 11, song một số cơn bão xuất hiện ngoài mùa này. Florida là bang chịu nhiều bão nhất, với vùng nước cận nhiệt đới và nhiệt đới và một đường bờ biển dài. Từ năm 1851 đến năm 2006, Florida bị 114 cơn bão tấn công, 37 trong số đó ở cấp 3 hoặc lớn hơn theo thang bão tại Hoa Kỳ. == Môi trường và tài nguyên == Florida có tiêu thụ năng lượng bình quân ở mức thấp. Có ước tính rằng khoảng 4% năng lượng của bang được phát từ các nguồn tài nguyên tái tạo. Sản xuất năng lượng của Florida chiếm 6% tổng sản phẩm năng lượng quốc gia, trong khi sản sinh các chất gây ô nhiễm ở mức thấp hơn, với 5.6% đối với nitơ ôxít, 5,1% với các bon dioxit, và 3,5% đối với sunphua dioxit. Các nguồn tài nguyên dầu khí quan trọng được cho là nằm ngoài khơi bờ biển phía tây của Florida trong vịnh Mexico, song khu vực này đóng cửa đối với thăm dò kể từ năm 1981. == Nhân khẩu == Cục Thống kê Hoa Kỳ ước tính dân số Florida vào ngày 1 tháng 7 năm 2013 là 19.552.860, tăng 4,0% kể từ cuộc điều tra nhân khẩu Hoa Kỳ năm 2010. Dân số Florida trong cuộc điều tra nhân khẩu năm 2010 là 18.801.310. Năm 2010, trung tâm dân số của Florida nằm giữa Fort Meade và Frostproof. Trung tâm dân số dời ít hơn 5 dặm về phía đông và xấp xỉ 1 dặm về phía bắc từ năm 1980 đến 2010 và nằm trong quận Polk kể từ điều tra nhân khẩu năm 1960. Khoảng hai phần ba dân số Florida sinh ra tại bang khác, đây là tỷ lệ cao thứ hai tại Hoa Kỳ. Năm 2010, di dân bất hợp pháp chiếm khoảng 5,7% dân số Florida, đây là tỷ lệ cao thứ sáu tại Hoa Kỳ. Có khoảng 675.000 di dân bất hợp pháp tại bang trong năm 2010. Năm 2008, có 186.102 người hưu trí từng là nhân viên quân sự tại bang. Một thăm dò của Gallup vào năm 2013 cho thấy 47% cư dân Florida chấp thuận rằng bang nhà là bang tốt nhất để sống. Theo điều tra nhân khẩu Hoa Kỳ năm 2010, Florida có thành phần dân tộc: 75,0% người Mỹ da trắng (57,9% người da trắng phi Mỹ Latinh và Iberia, 17,1% người Mỹ Latinh và Iberia da trắng) 16,0% người da đen hay người Mỹ gốc Phi 0,4% người da đỏ và thổ dân Alaska 2,4% người Mỹ gốc Á 0,1% thổ dân Hawaii và dân đảo Thái Bình Dương khác 3,6% từ một vài sắc tộc khác 2,5% người Mỹ đa chủng Trong cùng năm, người gốc Mỹ Latinh và Iberia chiếm 22,5% dân số. Các nguồn gốc được thuật lại lớn nhất trong cuộc điều tra nhân khẩu năm 2000 là người Đức (11,8%), người Ireland (10,3%), người Anh (9,2%), người Mỹ (8%), người Ý (6,3%), người Cuba (5,2%), người Puerto Rico (3,0%), người Pháp (2,8%), người Ba Lan (2,7%) và người Scotland (1,8%). Trong cuộc điều tra này, 1.278.586 người tại Florida tự xác định có tổ tiên "người Mỹ"; hầu hết những người này có nguồn gốc người Anh, một số có nguồn gốc Scotland-Ireland; tuy nhiên gia đình họ sống tại Hoa Kỳ từ rất lâu, có trường hợp là từ thời kỳ thuộc địa, do vậy họ chọn tự xác định đơn giản là có tổ tiên "người Mỹ" hoặc không biết rõ về tổ tiên họ. Trong điều tra nhân khẩu Hoa Kỳ năm 1980, nhóm dân tộc lớn nhất ghi nhận tại Florida là người Anh với 2.232.514 người Florida tuyên bố rằng họ là người Anh hoặc hầu hết tổ tiên là người Anh. Trước Nội chiến Mỹ, khi chế độ nô lệ còn hợp pháp, và trong thời kỳ Tái thiết sau đó, người da đen chiếm gần một nửa dân số của bang. Thành phần của họ suy giảm trong thế kỷ sau đó, do nhiều người da đen tại Florida chuyển đến phía bắc trong Đại di cư, trong khi có một lượng lớn người da trắng chuyển đến bang từ phía bắc. Vào năm 1970, người da trắng phi Hispanic chiếm gần 80% dân số của Florida. Gần đây, thành phần cư dân de đen tại Florida lại tăng lên, hiện những nơi tập trung đông người da đen là bắc bộ Florida, vùng vịnh Tampa, khu vực Orlando. Người gốc Mỹ Latinh và Iberia (Hispanic) tại Floria gồm có các cộng đồng lớn của người Mỹ gốc Cuba tại Miami và Tampa, của người Puerto Rico tại Orlando và Tampa, và của các công nhân di cư người Trung Mỹ tại nội địa Tây-Trung và Nam Florida. Cộng đồng Hispanic tiếp tục phát triển đông hơn và lưu động hơn. Năm 2011, 57% trẻ em Florida dưới 1 tuổi thuộc các nhóm dân thiểu số. Năm 2012, 75% dân cư Florida sống cách bờ biển dưới 10 dặm (16 km). Do có số lượng lớn người nhập cư và công dân Hoa Kỳ chuyển đến Florida từ toàn quốc (đặc biệt là từ đông bắc), có nhiều phương ngôn của tiếng Anh được nói tại Florida. Có thể nghe thấy phương ngữ khu vực thành phố New York và nhiều loại tiếng Anh New England dọc theo vùng bờ biển Đại Tây Dương, đặc biệt la dọc theo Gold Coast và Nam Florida. Vùng bờ biển phía tây dọc theo vịnh Mexico có nhiều người nói tiếng Anh Mỹ nội địa đông bắc hơn, họ có nguồn gốc từ Trung Tây và Đại Hồ và chuyển đến Tây Nam Florida hay vịnh Tampa Bay. Trung Florida có xu hướng hiện diện tất cả các phương ngôn chiếm ưu thế. Giọng Miami có xu hướng được nói bởi những người sinh ra và/hoặc lớn lên tại hoặc quanh quận Miami-Dade và một vài nơi khác tại Nam Florida, không phân biệt bối cảnh chủng tộc hay dân tộc, song nổi bật hơn trong cộng đồng người Hispanic. Tại Trung Florida và vùng vịnh Tampa, tiếng Anh Latinh New York có thể phổ biến hơn với các thế hệ người Puerto Rico tại Hoa Kỳ, người Mỹ gốc Dominica, người Mỹ gốc Colombia, và những người Mỹ gốc Hispanic khác tiếp tục chuyển khỏi vùng đô thị New York với số lượng lớn. Năm 2010, 73,36% cư dân Florida 5 tuổi hoặc lớn hơn nói tiếng Anh tại nhà như ngôn ngữ chính, trong khi 19,54% nói tiếng Tây Ban Nha, 1,84% nói tiếng Pháp bồi (hầu như toàn bộ là tiếng Haiti bồi), 0,60% nói tiếng Pháp, và tiếng Bồ Đào Nha được 0,50% dân số nói. Tổng cộng, 26,64% dân số Florida 5 tuổi hoặc lớn hơn có ngôn ngữ mẹ đẻ không phải là tiếng Anh. Năm 2010, ba giáo phái chi phối tại Florida là Giáo hội Công giáo Rôma, Hội Báp-tít phương Nam, và Giám hội Giám Lý Thống nhất. Tại Florida có một cộng đồng Do Thái đáng kể, tập trung chủ yếu tại nam Florida; đây là cộng đồng Do Thái lớn nhất tại miền Nam Hoa Kỳ và lớn thứ ba toàn quốc sau New York và California. Tín đồ các tôn giáo hiện nay tại Florida gồm Tin Lành với 48%, Công giáo La Mã với 26%, Do Thái với 3%, Nhân Chứng Giê-hô-va với 1%, Hồi giáo với 1%, Chính Thống giáo với 1%, Phật giáo với 0,5% và Ấn Độ giáo với 0,5%. Người vô thần, thần luận tự nhiên và không tôn giáo khác chiếm 16% dân số của Florida. == Quản trị == Cấu trúc, nhiệm vụ, chức năng và hoạt động cơ bản của chính phủ bang Florida được xác định thông qua Hiến pháp Florida, văn kiện này thiết lập các luật cơ bản của bang và đảm bảo nhiều quyền lợi và tự do khác nhau của nhân dân. Chính phủ bang gồm ba nhánh riêng biệt là tư pháp, hành pháp, và lập pháp. Các dự luật do cơ quan lập pháp ban hành sẽ trở thành luật khi được thống đốc ký. Cơ quan lập pháp Florida gồm có Tham nghị viện tức Thượng viện Florida với 40 thành viên, và Chúng nghị viện tức Hạ viện Flordia với 120 thành viên. Tòa án Tối cao Florida gồm một chánh án và sáu thẩm phán. Florida gồm có 67 quận, một số tài liệu chỉ ghi 66 do Duval County được đồng nhất với Thành phố Jacksonville. Florida có 379 thành phố (trong tổng số 411) báo cáo thường xuyên đến Bộ Thuế Florida, song nhiều khu tự quản hợp nhất khác không thực hiện. Nguồn thu chính của chính phủ bang là thuế tiêu thụ, nguồn thu chính của các thành phố và quận là thuế tài sản. Mặc dù hầu hết cử tri đăng ký theo Đảng Dân chủ, song từ năm 1952 thì bang bỏ phiếu cho các ứng cử viên tổng thống của Đảng Cộng hòa ngoại trừ vào năm 1964, 1976, 1996, 2008 và 2012. 2008 đánh dấu lần đầu tiên kể từ thời Franklin D. Roosevelt mà Florida bỏ phiếu cho một ứng cử viên Dân chủ miền Bắc. Đại biểu quốc hội đầu tiên thuộc Đảng Cộng hòa tại Florida thời hậu Thái thiết đắc cử vào năm 1954. Thượng nghị sĩ Cộng hòa đầu tiên đắc cử thời hậu Tái thiết là vào năm 1968, hai năm sau khi thống đốc Cộng hòa đầu tiên thời hậu Tái thiết đắc cử. Năm 1972, Florida thực hiện bảo hộ thiệt hại cá nhân bảo hiểm ô tô bắt buộc đối với các lái xe, trở thành bang thứ nhì trong toàn quốc ban hành một luật bảo hiểm không kể bên có lỗi. Việc dễ dàng được nhận tiền theo luật này được cho là dẫn đến gia tăng gian lận bảo hiểm. Florida được xếp hạng bang nguy hiểm thứ năm vào năm 2009, xếp hạng này dựa trên báo cáo các tội ác nghiêm trọng trong năm 2008. Florida xếp hạng sáu về lừa đảo vào năm 2010. Bang xếp hạng nhất về lừa đảo thế chấp vào năm 2009. Năm 2009, 44% tai nạn trên xa lộ liên quan đến đồ uống có cồn. Florida là một trong bảy bang cấm mang súng ngắn công khai (tức không để người khác trông thấy), luật này được ban hành vào năm 1987. == Kinh tế == Trong thế kỷ 20, du lịch, công nghiệp, xây dựng, ngân hàng quốc tế, y sinh học và khoa học sinh mệnh, nghiên cứu y tế, đào tạo mô phỏng, không gian và phòng thủ, và du hành không gian thương mại đóng góp cho sự phát triển kinh tế của bang. Tổng sản phẩm nội địa (GDP) của Florida trong năm 2010 là $748 tỷ. GDP của bang cao thứ tư tại hoa Kỳ. Năm 2010, Florida trở thành bang xuất khẩu hàng hóa thương mại lớn thứ tư. Đóng góp chính cho tổng sản phẩm của bang trong năm 2007 là dịch vụ tổng hợp, dịch vụ tài chính, mậu dịch, giao thông vận tải và tiện ích công cộng, chế tạo và xây dựng. Trong năm 2010–11, ngân sách của bang là $70,5 tỷ, từng đạt đến $73,8 tỷ trong năm 2006–07. Chief Executive Magazine cho rằng Florida là bang tốt thứ ba để kinh doanh vào năm 2011. Kinh tế được thúc đẩy hầu như hoàn toàn nhờ 19 khu vực đô thị trong bang, vào năm 2004 chúng chiếm tổng cộng 95,7% tổng sản phẩm nội địa của bang. Năm 2011, thu nhập bình quân đầu người của Florida là $39.563, xếp thứ 27 toàn quốc. Trong tháng 2 năm 2011, tỷ lệ thất nghiệp của bang là 11,5%. Florida là một trong bảy bang không áp đặt thuế thu nhập cá nhân. Hiến pháp Florida thiết lập một mức lương tối thiểu cấp bang, nó được điều chỉnh theo lạm phát thường niên. Tính đến 1 tháng 1 năm 2012, mức lương tối thiểu của Florida là $4,65 đối với vị trí "được tip"', và $7,67 cho vị trí "không được tip"- cao hơn mức của liên bang là $7,25. Florida có 4 thành phố trong 25 thành phố đứng đầu toàn quốc về nợ thẻ tín dụng (2011). Bang cũng có tỷ lệ nợ quá hạn thẻ tín dụng cao thứ hai. Có 2,4 triệu người Florida sống trong nghèo khổ vào năm 2008. 18,4% trẻ 18 tuổi và nhỏ hơn sống trong nghèo khổ. Miami là thành phố lớn nghèo thứ sáu tại Hoa Kỳ (2010). Năm 2010, trên 2,5 triệu người Florida dựa vào tem thực phẩm, tăng từ 1,2 triệu vào năm 2007. Để đủ điều kiện, người Florida cần có thu nhập ít hơn 133% mức nghèo liên bang, tức là dưới $29.000 cho một gia đình bốn người. Đầu thế kỷ 20, các nhà đầu cơ đất chú ý đến Florida, và các doanh nhân như Henry Plant và Henry Flagler phát triển các hệ thống đường sắt, điều này khiến dân chúng chuyển đến do hấp dẫn từ khí hậu và kinh tế địa phương. Từ đó trở đi, du lịch bùng nổ, thúc đẩy một chu kỳ chôn vùi một phần lớn đất nông nghiệp. Bùng nổ xây dựng đầu thế kỷ 21 để lại cho Florida 300.000 nhà trống vào năm 2009, theo số liệu của bang. Năm 2009, Cục điều tra nhân khẩu Hoa Kỳ ước tính rằng người Florida dành trung bình 49,1% thu nhập cá nhân cho các phí tổn liên quan đến nhà ở, một tỷ lệ cao thứ ba toàn quốc. Du lịch là lĩnh vực lớn nhất trong kinh tế Florida. Thời tiết ấm, ánh nắng mặt trời và hàng trăm dặm bãi biển thu hút khoảng 60 triệu du khách đến bang mỗi năm. Florida là địa điểm đứng đầu trong năm 2011. Nhiều đô thị bãi biển là các địa điểm du lịch phổ biến, đặc biệt là trong mùa đông và nghỉ xuân. 23 triệu du khách đến các bãi biển của Florida vào năm 2000, chi tiêu $22 tỷ. Công chúng có quyền tiếp cận bãi biển theo thuyết tín thác công cộng, song một số khu vực thực tế có thể bị chủ sở hữu tư nhân ngăn tiếp cận trong một khoảng cách dài. Nông nghiệp là ngành kinh tế lớn thứ hai tại Florida. Các loại quả thuộc chi Cam chanh, đặc biệt là cam, là một phần quan trọng trong kinh tế, và Florida sản xuất phần lớn các loại quả thuộc chi Cam chanh trồng tại Hoa Kỳ. Năm 2006, 67% quả thuộc chi Cam chanh, 75% quả cam, 58% quả quýt, và 54% quả bưởi chùm được trồng tại Florida. Khoảng 95% số cam thương mại sản xuất trong bang là dành cho chế biến (hầu hết là nước cam ép, đồ uống chính thức của bang). Các nông sản khác gồm có mía, dâu tây, cà chua và cần tây. Bang đứng đầu Hoa Kỳ về sản xuất ngô ngọt và đậu cô ve. Năm 2009, giá trị ngư nghiệp tại Florida là $6 tỷ, tạo 60.000 việc làm cho các mục đích thể thao và thương mại. Khai mỏ Phosphat tập trung tại Thung lũng Bone, đây là ngành kinh tế lớn thứ ba tại Florida. Bang sản xuất khoảng 74% nhu cầu phosphat của các nông dân tại Hoa Kỳ và chiếm 25% nguồn cung thế giới, với khoảng 95% sử dụng cho nông nghiệp. Từ khi NASA cho lập các địa điểm phóng Merritt Island trên mũi Canaveral (nổi tiếng nhất là Trung tâm vũ trụ Kennedy) vào năm 1962, Florida phát triển một ngành công nghiệp không gian đáng kể. Lĩnh vực kinh tế chính khác tại Florida là quân sự, có 24 căn cứ quân sự trong bang, Bộ Tư lệnh Trung ương Hoa Kỳ nằm tại Tampa, Bộ Tư lệnh miền Nam Hoa Kỳ nằm tại Doral, và Bộ Tư lệnh các hoạt động đặc biệt Hoa Kỳ nằm tại Tampa. Có khoảng 100 nghìn nhân viên quân sự Hoa Kỳ đóng tại Florida, đóng góp trực tiếp và gián tiếp $52 tỷ mỗi năm cho kinh tế bang. == Địa phương kết nghĩa == == Tham khảo == == Liên kết ngoài == Du lịch Florida MyFlorida.com – chính phủ tiểu bang Florida
edward iii của anh.txt
Edward III (tiếng Anh: Edward III of England; 13 tháng 11, 1312 – 21 tháng 6, 1377) là một trong những Quốc vương nổi tiếng nhất nước Anh vào thời kỳ Trung Cổ ở Anh. Ông đã phục hồi được quyền lực của vương tộc sau thời gian trị vì tai hại của cha ông -Edward II, sau đó Edward III tiếp tục chuyển đổi Vương quốc Anh thành một trong những quốc gia có lực lượng quân sự hiệu quả nhất ở châu Âu. Trong triều đại của ông đã có sự phát triển quan trọng trong cơ quan lập pháp và chính phủ đặc biệt là sự phát triển của Quốc hội Anh, cũng như sự tàn phá của bệnh dịch mà sử học gọi là cái. Ông là một trong năm nhà Quân chủ Anh, những người đã cai trị Anh hay những vương quốc kế tiếp ở trên ngôi vị 50 năm. Edward lên ngôi ở tuổi mười bốn, sau khi cha ông bị truất ngôi bởi mẹ ông Vương hậu Isabella và tình nhân của bà là Nhiếp chính quan Roger Mortimer. Vào năm 1330, khi chỉ mới 17 tuổi, Edward đã cầm đầu một cuộc đảo chính để lật đổ Mortimer và bắt đầu cai trị với tư cách cá nhân của ông. Sau khi đánh bại, nhưng không chinh phục nổi Vương quốc Scotland, ông tuyên bố mình là người thừa kế hợp pháp ngôi Quốc vương nước Pháp trong năm 1338, bắt đầu từ những gì sẽ trở thành Chiến tranh Trăm năm. Sau một số trở ngại ban đầu, cuộc chiến đã trở nên đặc biệt thuận lợi với nước Anh, những chiến thắng ở Trận Crécy và Trận Poitiers đã dẫn đến Hiệp ước Brétigny rất thuận lợi. Tuy nhiên, những năm sau của Edward lại được đánh dấu bằng thất bại trên chính trường quốc tế và những xung đột trong nước, chủ yếu là do tính cách bảo thủ và sức khỏe tồi tệ của ông. Edward III là một con người có tính khí thất thường nhưng cũng có lòng khoan hồng lớn. Ông cũng giống như hầu hết các vị Quân chủ bình thường khác, chủ yếu là quan tâm đến chiến tranh. Trong nhiều thế kỷ sau, Edward đã bị tố cáo như là một con người phiêu lưu vô trách nhiệm bởi các nhà sử gia thuộc Whig. Nhưng hiện nay quan điểm này đã thay đổi và các nhà sử gia hiện đại đã tin rằng ông ta đã tạo ra rất nhiều thành tích. == Tuổi trẻ == Edward được sinh ra tại Lâu đài Windsor ngày 13 tháng 11 năm 1312, và được gọi là Edward Windsor trong những năm đầu đời của ông. Khi đó, triều đại của cha ông, Edward II của Anh, đã tràn ngập với những thất bại quân sự, các đại quý tộc nổi loạn và cận thần tham nhũng, nhưng sự ra đời của một người thừa kế nam vào năm 1312 đã tạm thời cải thiện vị trí của Edward II trên ngôi báu. Trong những gì có lẽ là một nỗ lực của cha ông để kéo lại ưu thế của hoàng gia sau nhiều năm bị bất mãn, Edward con đã được phong làm Bá tước của Chester ở lúc chỉ mới mười hai ngày tuổi và chỉ không đến hai tháng sau đó, cha ông đã lập ra cho con mình một triều đình với đầy đủ các cận thần, để ông có thể sống độc lập như thể ông là một nhà quý tộc đã trưởng thành. Bất mãn với Edward II đã tăng lên một lần nữa khi ông trở nên mê muội vì Hugh Despenser Trẻ. Sự tham lam và bạo lực của ông đã không được nhà vua kiểm soát và ông này có rất nhiều kẻ thù. Sợ rằng phải để lại một mình Despenser ở lại Anh với rất nhiều những người muốn giết ông này, nhà vua với vợ là Nữ hoàng Isabella đến Pháp để đàm phán với ông anh vợ là,Charles IV của Pháp. Sau đó Charles yêu cầu có sự quy phục từ Edward II hoặc từ con trai ông. Nhà vua đã bị thuyết phục bởi Despenser và cha ông đã để cho Edward sang Pháp. Ở Pháp rất nhiều kẻ thù của Despenser đã tụ tập quanh Isabella và họ đã lợi dụng Edward chống lại nhà vua. Để tăng cường liên minh giữa Isabella và Hainault, ông đã đính hôn với Philippa của Hainault. Từ đó một cuộc xâm lược đã được tiến hành và quân đội của Edward II hoàn toàn bỏ rơi ông ta. Ngày 20 tháng 1 năm 1327, khi Edward con được mười bốn tuổi, mẹ của ông và tình nhân của bà là Roger Mortimer đã lật đổ nhà vua. Edward lúc này đã trở thành Edward III và đăng quang vào ngày 01 tháng 2, với Isabella và Mortimer là các nhiếp chính. trên thực tế Mortimer là người cai trị Anh, nhưng ông này bị nhà vua trẻ tuổi căm gét và luôn bị làm nhục. Vào ngày 24 tháng 1 năm 1328 nhà vua mười lăm tuổi, kết hôn với Philippa của Hainault mới mười ba tuổi tại York Minster. Mortimer biết rằng vị trí của ông là rất bấp bênh, đặc biệt là sau khi Philippa có một con trai vào ngày 15 tháng 6 năm 1330. Ông đã sử dụng quyền lực của mình để có được danh hiệu cao quý và chiếm nhiều bất động sản, rất nhiều trong số đó thuộc về Edmund FitzAlan, Bá tước đời thứ 9 của Arundel. Fitz Alan, người vốn vẫn trung thành với Edward II trong cuộc đấu tranh của ông với Isabella và Mortimer, đã bị hành hình vào ngày 17 tháng 11 năm 1326. Tuy nhiên Mortimer vốn rất kiêu ngạo và có lòng tham vô đáy nên rất nhiều các quý tộc khác rất căm ghét ông ta, tất cả điều này là không qua được mắt vị vua trẻ. Vị vua trẻ tuổi và cứng đầu đã không quên số phận của cha mình, tại sao ông đã bị đối xử như một đứa trẻ. Vào lúc gần 18 tuổi, Edward đã sẵn sàng để trả mối thù của mình. Ngày 19 tháng 10 năm 1330, Mortimer và Isabella đang ngủ tại lâu đài Nottingham. Ẩn náu trong bóng đêm, một nhóm trung thành với Edward bước vào pháo đài qua một lối đi bí mật và xông vào phòng của Mortimer. Phe đảo chính tiến hành bắt giữ Mortimer nhân danh nhà vua, và ông này được đưa đến nhà Ngục tháp London. Bị tước đoạt hết đất đai và tước vị, ông đã bị kéo lê trước mặt nhà vua mới 17 tuổi và bị cáo buộc là giả mạo quyền lực của hoàng gia của Anh quốc. Mẹ của Edward có lẽ đã mang thai với Mortimer và bà cầu xin cho lòng thương xót một cách vô ích. Không có xét xử, Edward kết án tử hình Mortimer một tháng sau cuộc đảo chính. Sau khi Mortimer bị hành hình, mẹ của Edward đã bị lưu đày tại lâu đài Rising nơi có báo cáo là bà đã bị sảy thai. Vào ngày sinh nhật thứ 18 của ông, Edward đã hoàn tất việc trả thù và ông đã trở thành người cai trị duy nhất ở Anh quốc. == Những năm đầu của triều đại Edward III == Edward đã lựa chọn nối lại cuộc xung đột quân sự với Vương quốc Scotland nơi mà cha và ông nội của ông đã tham chiến với những thành công khác nhau. Edward đã bác bỏ Hiệp ước Northampton vốn được ký kết trong thời gian nhiếp chính, do đó đổi mới tuyên bố về chủ quyền của Anh với Scotland và kết quả là nổ ra cuộc chiến tranh giành độc lập lần Thứ hai của Scotland. Có ý định lấy lại những gì mà người Anh cho là của họ, ông đã giành lại quyền kiểm soát Berwick và có được một chiến thắng quyết định Anh tại Trận Hill Halidon trong năm 1333 khi chống lại lực lượng của David II, nhà vua trẻ tuổi của Scotland. Edward III lúc này đặt Edward Balliol trên ngai vàng của Scotland và yêu cầu bồi thường một khoản tiền tương đương 2.000 librates đất tại các quận phía nam – Lothians, Roxburghshire, Berwickshire, Dumfriesshire, Lanarkshire và Peebleshire. Bất chấp những chiến thắng của ông ở trận Dupplin và Halidon, phe nhà Bruce đã sớm bắt đầu khôi phục và vào cuối năm 1335 sau Trận Culblean thì sự chiếm đóng của nhà Plantagenet ngày càng trở nên khó khăn và phe nhà Balliol đã nhanh chóng sụp đổ. Tại thời điểm này, năm 1336, John của Eltham, Bá tước xứ Cornwall-em trai của Edward III chết. John Fordun trong quấn Gesta AnnaliaPerth. đã tuyên bố rằng Edward đã giết chết em trai của ông trong một cuộc tranh cãi tại Mặc dù Edward III đã phải dùng đến một đội quân rất lớn để chiến đấu ở Scotland, bởi vào năm 1337 phần lớn lãnh thổ Scotland đã được phục hồi bằng lực lượng của David II, chỉ để lại một vài lâu đài như Edinburgh, Roxburgh và Stirling thuộc sở hữu của nhà Plantagenet. Những vị trí cỏn con này không đủ để áp đặt sự cai trị của Edward và năm 1338/9, Edward đã chuyển từ một chính sách chinh phục sang chính sách ngăn chặn. Edward phải đối mặt với các vấn đề quân sự trên hai mặt trận; những thách thức từ chế độ quân chủ Pháp. Người Pháp tạo ra ba vấn đề: đầu tiên, họ đã cung cấp hỗ trợ liên tục cho người Scotland qua liên minh Pháp-Scotland. Philip VI bảo vệ cho David II sống lưu vong và hỗ trợ các cuộc tấn của Scotland vào phía Bắc nước Anh. Thứ hai, Pháp tấn công một số thị trấn ven biển Anh, dẫn đến tin đồn ở Anh về một cuộc xâm lược toàn diện. Cuối cùng, của tài sản nhà vua Anh ở Pháp đã bị đe dọa, trong 1337, Philip VI tịch thu công quốc Aquitaine và hạt Ponthieu. Thay vì tìm kiếm một giải pháp hòa bình cho cuộc xung đột bằng cách tỏ lòng tôn kính nhà vua Pháp, Edward tuyên bố chủ quyền với vương miện của nước Pháp như là hậu duệ nam duy nhất còn sống của ông ngoại đã chết của ông, Philippe IV. Tuy nhiên người Pháp viện dẫn luật Salic và bác bỏ yêu cầu này và cho rằng Philip VI-cháu trai của Philip IV mới là người thừa kế thực sự, và qua đó làm bùng nổ chiến tranh Trăm năm. Edward đã cho kết hợp biểu tượng tam sư của nước Anh và hoa huệ của nước Pháp thành gia huy trên áo choàng của mình và tự xưng làm vua của cả Anh và Pháp. Trong cuộc chiến chống lại nước Pháp, Edward đã xây dựng liên minh với một thiểu số các hoàng thân ở Pháp. Năm 1338, Hoàng đế Ludwig IV đại diện của Đế quốc La Mã Thần thánh đã hứa hỗ trợ ông. Tuy nhiên biện pháp này tạo ra những kết quả ít ỏi, chỉ có chiến dịch quân sự chính được thực hiện trong giai đoạn này của cuộc chiến là chiến thắng của hải quân Anh tại Sluys ngày 24 tháng 6 năm 1340, làm 16.000 binh lính và thủy thủ Pháp đã thiệt mạng. Trong khi đó, áp lực tài chính vào vương quốc bị gây ra bởi các liên minh đắt tiền của Edward đã dẫn đến sự bất mãn ở quê nhà. Đáp lại, ông trở về mà không báo trước vào ngày 30 tháng 11 năm 1340. Để xóa bỏ sự rối loạn, ông đã quyết định thanh trừng chính quyền hoàng gia và phớt lờ về khoản nợ nước ngoài của Anh quốc (người đầu tiên trong số hai nhà vua không trả nợ trong lịch sử Anh quốc) và có thể ông đã góp phần vào sự sụp đổ của ngân hàng Compagnia dei Bardi. Những biện pháp này đã không mang lại sự ổn định trong nước và sau đó một bế tắc xảy ra giữa nhà vua và John de Stratford-Tổng.giám.mục Canterbury. Edward, tại Nghị viện Anh của Tháng Tư năm 1341, đã buộc phải chấp nhận hạn chế nghiêm trọng đến đặc quyền của mình về tài chính và hành chính. Tuy nhiên, vào tháng 10 năm đó, nhà vua bác bỏ đạo luật này và đã bị Đức Tổng giám mục Stratford tẩy chay về mặt chính trị. Các trường hợp bất thường của Quốc.hội năm 1341 đã buộc nhà vua vào trình, nhưng trong những hoàn cảnh bình thường các quyền hạn của nhà vua trong thời Trung cổ Anh đã hầu như không giới hạn, và Edward đã lợi dụng điều này. == Vận may của chiến tranh == Sau nhiều chiến dich không có kết quả tại Lục địa châu Âu, Edward đã quyết định tiến hành một cuộc tấn công lớn trong năm 1346 và căng buồm đi Normandy với một lực lượng là 15.000 người. Quân đội của ông chiếm thành phố Caen và hành quân trên toàn miền Bắc nước Pháp. Ngày 26 tháng 8 ông đã gặp lực lượng vua của Pháp trong trận chiến Crécy và giành được một chiến thắng quyết định. Trong khi đó khi trở về nhà, William Zouche-Tổng.giám.mục York đã huy động được một đội quân để chống lại David II, người đã quay trở lại và đánh bại rồi bắt tù binh ông này (David II) tại Trận Cross of Neville vào ngày 17 tháng 10. Với biên giới phía bắc của ông đã được bảo đảm, Edward cảm thấy tự do để tiếp tục cuộc tấn công lớn của ông vào nước Pháp và tiến hành bao vây thành phố Calais, thành phố này đã thất thủ sau gần một năm bị bao vây vào tháng 8 năm 1347. Cũng trong năm 1348, bệnh dịch Black Death đã lan vào châu Âu và đã giết chết một phần ba hoặc hơn nữa dân số nước Anh. Điều này có nghĩa là không đủ nhân lực để tiến hành một chiến dịch lớn. Các chủ đất lớn phải vật lộn với tình trạng thiếu nhân lực và tình trạng lạm phát đã dẫn đến chi phí lao động cao vọt. Cố gắng để khắc phục tình huống này, nhà vua và Quốc hội đã ban hành Pháp lệnh về người làm công (1349) và Điều lệ về người làm công (1351). Tuy nhiên bệnh dịch hạch đã không dẫn đến một sự cố toàn diện cho chính phủ và xã hội và số nhân khẩu được nhanh chóng phục hồi một cách đáng kể. Năm 1356, con trai của Edward, Edward, Hoàng tử đen, đã giành một chiến thắng tuyệt vời tại trận Poitiers. Lực lượng Anh ít hơn rất nhiều không chỉ đẩy lui người Pháp mà còn bắt tù binh vua Pháp, John II. Sau khi một loạt các chiến thắng, người Anh đã nắm giữ số tài sản lớn ở Pháp, vua Pháp bị giam ở Anh và chính phủ trung ương Pháp đã gần như hoàn toàn sụp đổ. Cho dù yêu cầu bồi thường của Edward đến vương miện của Pháp ban đầu thật ra chỉ là một mánh khóe chính trị, nó bây giờ dường như là trong tầm tay. Tuy nhiên, một chiến dịch trong năm 1359 với mục đích để hoàn tất các cam kết nhưng lại không thành công. Do đó năm 1360, Edward chấp nhận Hiệp ước Brétigny, theo hiệp ước này ông từ bỏ tuyên bố của mình về ngôi vua nước Pháp nhưng được bảo đảm rằng chủ quyền của tài sản của ông ở Pháp là đầy đủ. == Những năm cuối == Trong thời gian đầu của triều đại của ông, Edward đã tỏ ra năng động và thành công, trong những năm sau ông đã trở nên ỳ vì những thất bại quân sự và xung đột chính trị. Các công việc hằng ngày của quốc gia đã thu hút hơn Edward hơn những chiến dịch quân sự, do đó, trong thập kỷ 1360 Edward ngày càng dựa vào sự giúp đỡ của các thuộc hạ của mình, đặc biệt là William Wykeham. Là một kẻ mới phất, Wykeham đã được bổ nhiệm làm Quan chưởng ấn trong năm 1363 và Đại Pháp quan vào năm 1367, mặc dù những khó khăn trong sự kết nối chính trị cùng với thiếu kinh nghiệm của ông ta, Quốc.hội đã buộc ông này phải từ chức chưởng ấn trong năm 1371. Càng tạo thêm các khó khăn cho Edward là những cái chết của người mà ông tin cậy nhất, một số do sự tái phát của bệnh dịch hạch từ năm 1361-1362. William Montacute- đồng hành của Edward III trong cuộc đảo chính 1330, đã chết năm 1344. William de Clinton, Người đã ở cùng với nhà vua tại Nottingham đã qua đời năm 1354. Một trong những Bá tước của năm 1337, William de Bohun, đã qua đời năm 1360 và năm tiếp theo là Henry Grosmont, có lẽ là viên đại úy ưa thích nhất của Edward đã chết vì dịch hạch. Cái chết của họ để lại phần lớn các Thành viên Quốc.hội trẻ hơn và tự nhiên là phù hợp với các hoàng tử hơn là với nhà vua. Người con trai thứ hai của nhà vua, Lionel Antwerp, cố gắng để quy phục lực lượng tự trị của các lãnh chúa người Anglo-Ailen ở Ireland. Nhưng chiến dịch đã không thành công, và nó chỉ kéo dài sự chiếm đóng của người Anh theo Điều luật Kilkenny trong năm 1366. Tại Pháp, trong khi đó, trong thập kỷ sau Hiệp ước Brétigny là một trong yên bình tương đối, nhưng trên 8 tháng 4 năm 1364, Jean II đã chết trong giam cầm ở Anh, sau khi không thành công cố gắng để nâng cao tiền chuộc của riêng mình tại nhà. Ông đã được thừa kế bởi nhà vua Charles V mạnh mẽ, người đã tranh thủ được năng lực của vị Nguyên soái đầy tài năng Bertrand du Guesclin. Năm 1369, chiến tranh ở Pháp lại bắt đầu với một chiều hướng và John của xứ Gaunt-người con trai trẻ tuổi của Edward đã được trao trách nhiệm chỉ huy một chiến dịch quân sự. Những nỗ lực này đã không thành công và với Hiệp ước Bruges trong năm 1375 các tài sản lớn của Anh ở Pháp đã bị giảm xuống chỉ còn là các thị trấn ven biển Calais, Bordeaux và Bayonne. Thất bại quân sự ở nước ngoài và áp lực liên quan đến tài chính của chiến dịch quân sự đã dẫn đến sự bất mãn chính trị tại quê nhà. Vấn đề này đã lên đến đỉnh cao ở nghị viện vào năm 1376 và trở thành cái gọi là "Good Parliament". Quốc hội được triệu tập để ban hành sắc thuế mới, nhưng Hạ viên nắm lấy cơ hội để giải quyết những khiếu nại cụ thể. Đặc biệt, những lời chỉ trích đã được nhắm vào một số các cố vấn thân cận nhất của nhà vua, William Latimer và John Neville, 3 Baron de Raby Neville. Alice Perrers, người tình của Edward, người đến lúc đó được coi như nắm quá nhiều quyền lực so với vị vua già, đã bị đuổi khỏi triều đình. đã bị miễn nhiệm khỏi vị trí của họ. Tuy nhiên đối thủ thực sự của Quốc hội, người vốn được hỗ trợ bởi những Đại quý tộc hùng mạnh như Wykeham và Edmund de Mortimer, Bá tước thứ 3 Earl của Max, lại là John của Gaunt. Cả nhà vua và Hoàng tử đen vào thời gian này mất khả năng điều hành Triều chính do bệnh tật, Gaunt đã nắm quyền kiểm soát chính phủ Anh, nhưng rồi ông này cũng đã buộc phải nhượng bộ những đòi hỏi của Quốc.hội, nhưng sau cuộc họp Quốc-hội trong năm 1377, hầu hết các thành tựu của nó đã bị đảo ngược. Tuy nhiên bản thân Edward đã không làm gì nhiều trong thời kỳ này, sau khoảng năm 1375, ông đóng một vai trò hạn chế trong chính phủ. Khoảng 29 tháng 9, 1376 ông bị bệnh và bị áp xe (có tin đồn là ông bị bệnh lậu). Sau một thời gian ngắn hồi phục vào tháng Hai, nhà vua đã chết vì một cơn đột quỵ tại Sheen, ngày 21 tháng Sáu. Ông được kế tục bởi cháu trai mười tuổi của mình, Vua Richard II-con trai của Hoàng tử đen vì ông này cũng đã qua đời vào ngày 8 tháng 6 năm 1376. == Phả hệ == Edward tự nhận mình có quyền thừa kế ngôi vua Pháp vì là hậu duệ của vua Philippe IV của Pháp, và qua người mẹ người Pháp Isabella: == Tham khảo == == Tham khảo == == Liên kết ngoài == Edward III tại trang chính của Hoàng gia Anh Edward III tại BBC History The Medieval Sourcebook has some sources relating to the reign of Edward III: The Ordinance of Labourers, 1349 The Statute of Labourers, 1351 Thomas Walsingham’s account of the Good Parliament of 1376
ngôn ngữ tại indonesia.txt
Có hơn 700 thứ tiếng đang được nói ở Indonesia. Hầu hết chúng thuộc ngữ hệ Austronesia, một ít tiếng Papua cũng được nói ở đây. Ngôn ngữ chính thức là tiếng Indonesia (trong tiếng Indonesia là Bahasa Indonesia), một phiên bản bị biến đổi của tiếng Malay,, được sử dụng trong thương mại, hành chính, giáo dục và truyền thông, nhưng hầu hết người Indonesia nói các thứ tiếng địa phương, như tiếng Java, như là tiếng mẹ đẻ của họ. Cũng như hầu hết các hệ thống viết trong lịch sử loài người, hệ thống viết của tiếng Indonesia không được tạo ra trong các hệ thống phát minh bản địa, mà do những người nói tiếng Sanskrit, tiếng Ả Rập, và tiếng Latin tạo ra. Ví dụ như Tiếng Mã Lai có một lịch sử lâu dài là ngôn ngữ viết và đã được tạo ra trong hệ thống viết của Indic, Arabic, và bảng chữ cái Roman. Tiếng Java được viết trong các hệ thống viết Nagari và Pallava của Ấn Độ, cũng như các hệ thống nguyên thủy của chúng (nổi tiếng là Kawi script và Javanese script), trong một hệ thống Arabic bị biến đổi được gọi là pegon liên kết các âm Javanese, và trong bảng chữ cái Roman. Các ký tự tiếng Trung Quốc không bao giờ được sử dụng để biểu hiện trong các ngôn ngữ tại Indonesia,mặc dù các địa danh ở Indonesia, tên người và tên hàng hóa thương mại xuất hiện trong các báo cáo và lịch sử được viết cho các triều đại Trung Quốc. == Các thứ tiếng được nói ở Indonesia == Graph of Indonesian ethnolinguistics == Tham khảo ==
trung học phổ thông (việt nam).txt
Trung học phổ thông là một bậc trong hệ thống giáo dục ở Việt Nam hiện nay, cao hơn tiểu học, trung học cơ sở và thấp hơn cao đẳng hoặc đại học. Trung học phổ thông kéo dài 3 năm (từ lớp 10 đến lớp 12). Để tốt nghiệp bậc học này, học sinh phải vượt qua kì thi tốt nghiệp Trung học phổ thông vào cuối năm học lớp 12 (trước đây thường gọi là Thi tú tài). (Thi tốt nghiệp cấp 3) == Khái niệm == Trường phổ thông trung học hay còn được gọi là trường trung học phổ thông, là một loại hình đào tạo chính quy ở Việt Nam, dành cho lứa tuổi từ 15 tới 18 không kể một số trường hợp đặc biệt. Nó gồm các khối học: lớp 10, lớp 11, lớp 12. Sau khi tốt nghiệp hệ giáo dục này, học sinh được nhận bằng Tốt nghiệp Phổ thông trung học, có một tên gọi khác cho loại bằng này là "Bằng Tú Tài". Trường phổ thông được lập tại các địa phương trên cả nước. Người đứng đầu một ngôi trường được gọi là "Hiệu Trưởng". Trường được sự quản lý trực tiếp của Sở Giáo dục và Đào tạo (tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương), tức là Trường Trung học phổ thông ngang với Phòng Giáo dục quận huyện. Quy chế hoạt động do Bộ Giáo dục và Đào Tạo ban hành. == Các môn học == Toán học: Chương trình học năm 2006 (Hình học vector (lớp 10). Hình học không gian (lớp 11, lớp 12). Lượng giác (lớp 11). Tích phân, Vi phân (lớp 12), Giới hạn (lớp 11)... Ngữ văn Sinh học Vật lý Hóa học Lịch sử Địa lý Ngoại ngữ: Ngoài Tiếng Anh học đa số ở Trung học phổ thông còn có các thứ tiếng khác như Tiếng Nga, Tiếng Pháp, Tiếng Trung Quốc, Tiếng Nhật, Tiếng Đức... Giáo dục công dân Giáo dục quốc phòng - an Ninh Thể dục Công nghệ Tin học Môn tự chọn: ngoài ra học sinh lớp 11 còn có thể đăng ký học thêm một nghề nào đó như Tin học, dinh dưỡng, kĩ thuật điện, nhiếp ảnh...). Học sinh có chứng chỉ nghề được cộng điểm khi xét Tốt nghiệp Trung học phổ thông. == Về Mô hình hoạt động == Trường Phổ thông trung học dạy các môn học mang tính phổ thông, cơ bản nhưng ngày nay bên trong trường còn tổ chức các lớp chọn, lớp chuyên. Một số trường trung học là Trường Chuyên, chỉ đào tạo các học sinh năng khiếu. Giáo viên của trường này phải tốt nghiệp các trường Đại học Sư phạm, hoặc tương đương. Ở trường chuyên tỉ lệ giáo viên trình độ thạc sĩ, tiến sĩ đều cao hơn 20% Học kỳ được chia làm hai, học kỳ đầu thường bắt đầu vào đầu tháng chín kéo dài tới trước tết âm lịch; học kỳ hai bắt đầu từ sau tết âm lịch cho tới tháng 5 năm sau. Sau khi kết thúc lớp 9, học sinh sẽ ôn thi tuyển vào loại hình trường này. Một số trường không tổ chức thi mà dựa vào kết quả học tập 4 năm cấp Trung học Cơ sở - hình thức này thường được áp dụng cho một số trường vùng sâu, chất lượng đào tạo thấp hơn những trường khác trên cùng địa bàn tỉnh thành. Sau khi sắp kết thúc cấp ba, học sinh sẽ được tập trung ôn tập cho kì thi tốt nghiệp với 6 môn gồm 3 môn chính: Toán, Văn, Ngoại ngữ và 3 môn tự chọn sẽ do Bộ Giáo dục và Đào Tạo công bố và kì thi tuyển sinh Đại học, Cao đẳng. Tỉ lệ đậu Đại học, Cao đẳng là 40% == Tham khảo ==
sgml.txt
SGML (Viết tắt của Standard Generalized Markup Language), một hệ thống tổ chức và gắn thẻ yếu tố của một tài liệu. SGML được phát triển và tiêu chuẩn hóa bởi Tổ chức Tiêu chuẩn quốc tế (ISO) vào năm 1986. SGML chính nó không chỉ định bất kỳ đặc biệt là định dạng mà nó quy định cụ thể các quy tắc cho các yếu tố gắn thẻ. Các thẻ sau đó có thể được giải thích để các yếu tố định dạng theo nhiều cách khác nhau. SGML được sử dụng rộng rãi để quản lý các văn bản lớn mà có thể bản sửa đổi thường xuyên và cần phải được in trong các định dạng khác nhau. Bởi vì nó là một hệ thống lớn và phức tạp, đó là chưa sử dụng rộng rãi trên máy tính cá nhân.Tuy nhiên, sự phát triển của Internet, và đặc biệt là World Wide Web, đang tạo ra đổi mới quan tâm đến SGML vì World Wide Web sử dụng HTML, mà là một cách để xác định và thông dịch thẻ theo các quy tắc SGML Nó là một tập hợp bao gồm các thẻ (tag) đánh dấu, các phần tử, và nhãn. Các thẻ đánh dấu được giới hạn bằng hai ký tự “<” và “>” để phân biệt với phần dữ liệu. Ngôn ngữ này sử dụng DTD (Document Type Definition), nó là một dạng tài liệu có cú pháp đặc biệt, được dùng để định nghĩa các phần tử có thể sẽ xuất hiện trong một tài liệu và trật tự sắp xếp của chúng. HTML là một ngôn ngữ đánh dấu dựa trên SGML được dùng để tạo ra các tài liệu hiển thị trên các trình duyệt Web. Tuy được xây dựng dựa trên SGML nhưng ngôn ngữ được sử dụng rộng rãi này lại không hoàn toàn tuân theo SGML do không cần dùng DTD cũng như nó không đòi hỏi phải tuân theo các qui luật sử dụng các phần tử trong tài liệu. Ví dụ HTML cho phép sử dụng một thẻ mở (<p>) mà không cần phải có một thẻ đóng (</p>). Do nhu cầu sử dụng ngôn ngữ đánh dấu cho những mục đích khác chứ không chỉ là hiển thị đơn thuần (như HTML), ngôn ngữ XML đã ra đời. Do XML có cấu trúc rất nghiêm ngặt và rất uyển chuyển, nên có thể được sử dụng cho nhiều mục đích khác như: thương mại điện tử, xử lý cơ sở dữ liệu v.v.. XHTML đại diện cho sự cách mạng của HTML, nó gần như giống với HTML nhưng lại tuân theo cú pháp nghiêm ngặt của XML. XHTML được sử dụng để trình bày nội dung trên các trình duyệt Web giống như HTML đã làm. WML là một ngôn ngữ XML dùng một DTD riêng của nó. WML được sử dụng để soạn thảo các nội dung được sử dụng để hiển thị trên các thiết bị di động. == Tham khảo ==
galaxy nexus.txt
Galaxy Nexus (GT-I9250) là một điện thoại thông minh có màn hình cảm ứng chạy hệ điều hành Android được đồng phát triển Google và Samsung Electronics. Nó là chiếc điện thoại thông minh thứ ba thuộc dòng Google Nexus, là một nhóm các thiết bị điện tử tiêu dùng Android được sản xuất bởi các đối tác nhà sản xuất phụ tùng gốc. Nó là thiết bị kế nhiệm hai chiếc điện thoại chủ lực của Google, Nexus One và Nexus S. Galaxy Nexus có màn hình Super AMOLED độ nét cao (1280 × 720) với bề mặt kính cong Dragontrail, một máy ảnh cái tiến, và là thiết bị đầu tiên chạy hệ điều hành Android phiên bản 4.0 Ice Cream Sandwich. Tên gọi của nó là kết quả của sự hợp tác thương hiệu giữa Samsung Galaxy và thương hiệu điện thoại thông minh Google Nexus. Tuy nhiên nó được gọi là Galaxy X ở Brazil do vấn đề nhãn hiệu trên thương hiệu "Nexus". Galaxy Nexus được Google và Samsung công bố cùng nhau vào ngày 19 tháng 10 năm 2011 ở Hồng Kông. Nó được phát hành ở thị trường châu Âu vào ngày 11 tháng 11 năm 2011. Nó là một trong số ít các điện thoại được Android Open Source Project khuyến cáo sử dụng để xây dựng Android từ mã nguồn. Từ ngày 29 tháng 10 năm 2012, Galaxy Nexus không còn có mặt để bán trên gian hàng của Google Play nữa theo sự ra mắt của thiết bị kế nhiệm nó, LG Nexus 4. == Lịch sử == Kế hoạch của Google để tiếp tục dòng sản phẩm Nexus và mang thế hệ Nexus thứ ba ra thị trường đã được xác nhận bởi phó chủ tịch cấp cao phụ trách nền tảng di động của Google Andy Rubin vào tháng 5 năm 2011. Samsung mobile đưa ra một video quảng cáo cho phần "Google Episode" của sự kiện Unpacked vào ngày 11 tháng 10 nhưng sau đó hoãn ngày công bố sản phẩm lại (tới ngày 19 tháng 10) để tỏ lòng tôn trọng khi Steve Jobs qua đời vào ngày 5 tháng 10. Trước khi có thông cáo chính thức, nó còn được gọi là Google "Nexus Prime" bởi công chúng và phương tiện truyền thông. Đã có tin tức rò rỉ lặp lại về các chi tiết gần như chính xác của thiết bị này. Chiếc điện thoại được công bố chính thức vào ngày 19 tháng 10 năm 2011 ở Hong Kong, với tên chính thức là "Galaxy Nexus". == Phần cứng == == Phần mềm == === Google Wallet === Galaxy Nexus là một trong số ít các thiết bị chính thức hỗ trợ Google Wallet. Biến thể cho nhà mạng Verizon là phiên bản duy nhất không hỗ trợ Google Wallet một cách chính thức. Tính năng không được hỗ trợ này đã gây ra một cuộc tranh cãi giữa người dùng Hoa Kỳ. Verizon bảo vệ cho hành động của họ với lời giải thích rằng Galaxy Nexus sử dụng một "yếu tố bảo mật." Tuy nhiên, có thể side load Google Wallet, cài đặt và nó hoạt động tốt. Cần phải cẩn thận khi sử dụng pin chính hãng có tích hợp với NFC, bởi vì ăng-ten NFC nằm ở trong viên pin. == Sự có mặt == === Châu Âu === === Nam Mĩ === ==== Vụ kiện cấm bán ==== === Asia-Pacific === == Biến thể == == Phụ kiện == == Sự đón nhận == == Xem thêm == So sánh các điện thoại thông minh == Tham khảo == == Liên kết ngoài == Video giới thiệu chính thức trên YouTube
danh sách ký hiệu toán học.txt
Danh sách này bao gồm những ký hiệu thông thường trong toán học. Các ký hiệu này thường được sử dụng để biểu thị các công thức toán học hoặc để thay thế cho các hằng số toán học. == Ký hiệu thường gặp == == Ký hiệu phương trình == == Ký hiệu chỉ hướng == == Dấu ngoặc == == Các ký hiệu phi chữ cái == == Các ký hiệu chữ cái == === Chữ cái kèm dấu phụ === === Ký hiệu dựa trên chữ cái Latin === === Ký hiệu dựa trên chữ cái Do Thái và Hy Lạp === == Liên kết ngoài == The complete set of mathematics Unicode characters Jeff Miller: Earliest Uses of Various Mathematical Symbols Numericana: Scientific Symbols and Icons TCAEP - Institute of Physics
uiryeong.txt
Uiryeong (Uiryeong-gun, âm Hán Việt: Nghi Ninh quận) là một huyện ở tỉnh Gyeongsangnam-do, Hàn Quốc. Huyện này có diện tích 482,95 km², dân số năm 2004 là 32.371 người. == Tham khảo == == Liên kết ngoài == Trang mạng chính quyền huyện
tập cận bình.txt
Tập Cận Bình (giản thể: 习近平; phồn thể: 習近平; bính âm: Xí Jìnpíng; phát âm: [ɕǐ tɕînpʰǐŋ], sinh ngày 1 tháng 6 năm 1953) là nhà lãnh đạo quốc gia tối cao của Trung Quốc. Ông hiện là Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc khóa 18, Chủ tịch Ủy ban Quân sự Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, Chủ tịch nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, Chủ tịch Ủy ban Quân sự Trung ương Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa và là nhân vật số một trong Ban Thường vụ Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Trung Quốc, cơ quan thực quyền cao nhất Trung Quốc. Ông Tập Cận Bình thuộc thế hệ lãnh đạo thứ 5, thế hệ Tập-Lý sau thế hệ Hồ-Ôn của Trung Quốc. == Sự nghiệp == Tập Cận Bình, sinh ngày 1 tháng 6 năm 1953 tại Bắc Kinh, là con trai cựu Phó Thủ tướng Trung Quốc Tập Trọng Huân, gia đình gốc ở Phú Bình, tỉnh Thiểm Tây, Trung Quốc. Khi Bình được 10 tuổi, cha ông bị thanh trừng và gởi đi làm việc tại một hãng xưởng ở Lạc Dương, Hà Nam. Vào năm 1968 khi ông được 15 tuổi thì cha ông bị giam tù trong thời kỳ Cách mạng Văn hóa. Không có được sự bảo vệ của cha ông, tháng 1 năm 1969, ông tham gia đại đội Lương Gia Hà, xã Văn An Dịch, huyện Diên Xuyên, tỉnh Thiểm Tây Tháng 1 năm 1974, ông gia nhập Đảng Cộng sản Trung Quốc, sau đó được phong làm Bí thư Chi bộ Đảng của nhóm sản xuất (1969-1975). Từ năm 1975 đến 1979, ông là sinh viên học tập tại Trường Đại học Thanh Hoa, Bắc Kinh. Từ năm 1979 đến 1982, làm Thư ký Văn phòng Quốc vụ viện và Thư ký Văn phòng Quân ủy Trung ương. Năm 1982-1983, Phó Bí thư Huyện ủy huyện Chính Định, tỉnh Hà Bắc. Từ năm 1983 đến năm 2007, ông đã trải qua các chức vụ như: Bí thư Huyện ủy huyện Chính Định, tỉnh Hà Bắc (1983-1985). Ủy viên Thường vụ Thành ủy, Phó Chủ tịch Ủy ban Nhân dân thành phố Hạ Môn, tỉnh Phúc Kiến (1985-1988). Bí thư Thị ủy Ninh Đức, tỉnh Phúc Kiến (1988-1990). Ủy viên Thường vụ Thành ủy thành phố Phúc Châu, Chủ tịch Hội đồng Nhân dân Thành phố Phúc Châu, tỉnh Phúc Kiến (1990-1993). Ủy viên Thường vụ Tỉnh ủy tỉnh Phúc Kiến, Bí thư thành phố Phúc Châu, Chủ tịch Hội đồng Nhân dân thành phố Phúc Châu (1993-1995). Phó Bí thư Tỉnh ủy Phúc Kiến, Bí thư thành phố Phúc Châu, Chủ tịch HĐND Thành phố Phúc Châu (1995-1996). Phó Bí thư Tỉnh ủy tỉnh Phúc Kiến (1996-1999); Phó Bí thư Tỉnh ủy tỉnh Phúc Kiến, Chủ tịch lâm thời tỉnh Phúc Kiến (1999-2000). Phó Bí thư Tỉnh ủy, Tỉnh trưởng Phúc Kiến (2000-2002). Phó Bí thư Tỉnh ủy, Tỉnh trưởng Triết Giang (2002-2003). Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch Hội đồng Nhân dân tỉnh Triết Giang (2003-2007) Bí thư Thành ủy Thành phố Thượng Hải (2007). Năm 1998-2002, ông tiếp tục học tại Đại học Thanh Hoa và lấy bằng Tiến sĩ Luật. Ông là Ủy viên Dự khuyết Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc khóa 15, Ủy viên Chính thức Trung ương Đảng các khoá 16, 17. Tháng 10 năm 2007, tại Đại hội 17 Đảng Cộng sản Trung Quốc, được bầu làm Ủy viên Thường vụ Bộ Chính trị, Bí thư Ban Bí thư Trung ương; được phân công kiêm nhiệm Hiệu trưởng Trường Đảng Trung ương. Ngày 15 tháng 3 năm 2008, được Đại hội Đại biểu nhân dân toàn quốc bầu làm Phó Chủ tịch nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Ông được phân công làm Tổng Chỉ huy công tác tổ chức Olympic Bắc Kinh khai mạc lúc 8 giờ 8 phút tối ngày 8 tháng 8 năm 2008. Ngày 18 tháng 10 năm 2010, Hội nghị Toàn thể Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 5, khóa 17, Đảng Cộng sản Trung Quốc tại Bắc Kinh đã bầu Tập Cận Bình giữ chức Phó Chủ tịch Quân Ủy Trung ương - đây là cơ quan chỉ đạo và quyết định mọi hướng đi của Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc. Ngày 15 tháng 11 năm 2012, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc khóa 18 đã tiến hành phiên họp đầu tiên sau Đại hội Đảng Cộng sản lần thứ 18 và quyết định bầu ông làm Tổng Bí thư Ủy ban Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, Chủ tịch Ủy ban Quân sự Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc. Ngày 14 tháng 3 năm 2013, ông được bầu làm Chủ tịch nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, Chủ tịch Ủy ban Quân sự Trung ương Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa kết thúc quá trình chuyển giao quyền lực ở quốc gia đông dân nhất thế giới. == Quan điểm == Tập Cận Bình là người ủng hộ phát triển kinh tế thị trường, nhưng khá thận trọng về cải cách chính trị; phát triển Trung Quốc với việc duy trì sự lãnh đạo của đảng cộng sản và việc cần thiết duy trì ổn định xã hội. Quan điểm chung của Tập Cận Bình về người làm "quan" là: "Mỗi cán bộ chính quyền cần phải luôn luôn ghi nhớ: quyền lực của chính quyền nhân dân bắt nguồn từ nhân dân, phải đại biểu cho lợi ích của nhân dân, phải vì nhân dân mưu lợi ích". Về đối ngoại, khi sang thăm México, ông có bình luận: "Có một số người nước ngoài buồn tẻ, với cái bụng căng tròn, những người chẳng có gì hay ho hơn là chỉ ngón tay vào chúng tôi Trung Quốc. Thứ nhất, Trung Quốc không xuất khẩu Cách mạng; thứ 2 Trung Quốc cũng không xuất khẩu đói nghèo; và thứ 3, Trung Quốc không đến để gây ra những cơn nhức đầu, có gì phải nói thêm hay không?". Và nhiều người đã nhận định, nếu ông trở thành người đứng đầu Trung Quốc, hẳn ông cũng sẽ cứng rắn trong các vấn đề quan hệ quốc tế không kém gì người tiền nhiệm. == Dấu ấn chính trường == Sự nghiệp chính trị của ông Tập khi làm lãnh đạo tối cao của Trung Quốc là chiến dịch chống tham nhũng quy mô quốc gia mang tên "Đả Hổ Đập Ruồi " nhằm điều tra, xử lý các quan chức, đảng viên vi phạm nghiêm trọng nguyên tắc đảng, tham nhũng, lãng phí... Đây là một tâm điểm trong sự nghiệp chính trị của ông == Đánh giá == == Tuyên bố == Về tinh thần yêu chuộng hòa bình của người Trung Quốc (ngày 15 tháng 5 năm 2014): Về chủ quyền Hoàng Sa, Trường Sa, ông Tập nói trong bài phát biểu tại Đại học Quốc gia Singapore, nhân chuyến thăm Singapore ngày 7.11.2015, theo AFP : == Gia đình == Ông Tập Cận Bình là con trai cựu Phó Thủ tướng Trung Quốc Tập Trọng Huân (1913-2002), là hạt giống đỏ, được quy hoạch từ nhỏ. Ông Bình là con của vợ hai. Phu nhân là ca sĩ Bành Lệ Viện, một ca sĩ, mang hàm thiếu tướng của lực lượng văn công Quân Giải phóng Nhân dân Trung Hoa. Hai ông bà có một con gái là Tập Minh Trạch. Tháng 6 năm 2012 cơ quan báo chí kinh tế Bloomberg cho phổ biến, gia đình Tập Cận Bình có những thu nhập rất lớn, tuy nhiên không có gì liên quan giữa chúng và chức vụ hiện nay của ông. Trang mạng của Bloomberg sau khi công bố tin này không còn truy cập được ở Trung Quốc nữa. Khi Tập Cận Bình chuẩn bị mở chiến dịch chống tham nhũng, báo New York Times cho là có bằng chứng cho thấy Tập Cận Bình hối thúc gia đình bán bớt cổ phiếu và bất động sản của chính họ đã có được từ năm 2012 nhằm giảm đi điều tiếng cho ông. == Chú thích == == Liên kết ngoài == Tin tức về Tập Cận Bình tại China Digital Times China Vitae: Biography of Xi Jinping Tiểu sử tại www.chinavitae.com Internet video in Chinese:Xi Jinping's attacks foreigners on interference of China's affairs U.S. Embassy Beijing, Portrait of Xi Jinping, tại Wikileaks Năm quan trọng cho ông Tập Cận Bình, BBC, 24/1/2012 Một năm cầm quyền của Tập Cận Bình , BBC, 16/3/2014
あ.txt
あ (phát âm:) trong hiragana hay ア trong katakana (Rōmaji a) là một chữ cái đơn âm trong tiếng Nhật. あ là biến thể của thảo thư của chữ 安 ("an"), còn ア bắt nguồn từ bộ "phụ" 阝trong chữ 阿 ("a"). Trong hệ thứ tự bảng mẫu tự tiếng Nhật hiện đại, đây là chữ cái đầu tiên trong bảng, ngay trước い. Hơn nữa, nó là chữ thứ 36 trong bảng Iroha, sau て, trước さ. Chữ hiragana あ tương tự như chữ の (no) có thêm một sọc chéo. Mã Unicode của あ là U+3041, còn của ア là U+30A2. Các ký tự này biểu thị âm [a]. == Biến thể == Dạng thu nhỏ của chữ (ぁ, ァ) được dùng để diễn tả các âm nước ngoài trong tiếng Nhật, như ファ (fa). == Thứ tự các nét == Chữ Hiragana あ được cấu thành bởi ba nét: Trên đầu, một nét ngang từ trái sang phải. Một nét sổ từ phía trên đi qua trung tâm nét đầu tiên. Ở cuối, nét cong giống như chữ Hiragana の. Chữ Katakana ア được cấu thành từ hai nét: Trên đầu, một nét bao gồm một ngang dài và đường phết đánh xuống dưới sang trái. Bắt đầu từ cuối nét trước, một đường cong đi thẳng xuống phía trái. == Các cách thể hiện khác == Trong Chữ Braille tiếng Nhật, あ hay ア được ký hiệu là: Mã Morse của あ hay ア, là --・--. Trong bảng mẫu tự ký âm tiếng Nhật, người ta sẽ nói "朝日のア" (Asahi no A.) (tức là A trong chữ Asahi (buổi sáng)) == Nguồn tham khảo == == Đọc thêm == Gilhooly, Helen (2003) [1999]. Beginner's Japanese Script. Teach Yourself. London: Hodder Headline. ISBN 0340860243. OCLC 56469680.
chàng trai năm ấy.txt
Chàng trai năm ấy là một bộ phim chiếu rạp Việt Nam năm 2014 do Nguyễn Quang Huy làm đạo diễn, với sự tham gia của các diễn viên chính Sơn Tùng M-TP, Hari Won, Phạm Quỳnh Anh, Ngô Kiến Huy, Hứa Vĩ Văn. Phim dựa trên cuốn tự truyện Bắt đầu từ một kết thúc nói về cuộc đời của nam ca sĩ bạc mệnh Wanbi Tuấn Anh. Ca khúc nhạc phim Chắc ai đó sẽ về, do Sơn Tùng M-TP thể hiện đã được phát hành trực tuyến vào ngày 24 tháng 10 năm 2014. Tuy nhiên nghi vấn bài hát này đạo nhạc với một ca khúc nhạc phim Hàn Quốc khác đã kéo theo việc ngày phát hành của bộ phim bị dời từ 14 tháng 11 năm 2014 sang ngày 31 tháng 12 năm 2014 ở Việt Nam. Phim nhận được phản hồi tích cực và có doanh thu thương mại tốt tại thị trường Việt Nam. Sau 4 ngày công chiếu, bộ phim đã đạt doanh thu 30 tỷ đồng (khoảng 1,41 triệu USD). Sau này phim thu về 60 tỷ đồng. == Cốt truyện == Câu chuyện kể về Đình Phong (Sơn Tùng M-TP) và những người bạn có một không hai: Ngô Kiến Hà (Ngô Kiến Huy) nhí nhố, ngây ngô, Phạm Quỳnh Băng (Phạm Quỳnh Anh) điệu đà với slogan "Chả sợ gì, chỉ sợ già", Sky (Hari Won) - một cô gái xứ Hàn vui nhộn, quản lý Lâm (Hứa Vĩ Văn) - một người tham tiền vô cùng. Bố của Đình Phong (danh hài Quang Thắng thủ vai) lâm bệnh nặng và qua đời sau một thời gian nhập viện. Ước muốn của ông là đến khi chết vẫn cười, và ăn thịt chó trước khi lìa đời vì "đến lúc chết không có thịt chó mà ăn đâu". Đình Phong vẫn tiếp tục sự nghiệp ca hát sau khi bố qua đời, và ước mơ làm một liveshow của riêng mình, nhưng ước mơ đó bị quản lý Lâm ngăn cản và Lâm ép Đình Phong làm diễn viên. Trong buổi casting, Đình Phong bị đau mắt. Đến bệnh viện, anh được chẩn đoán u lành trong tuyến yên và phải nhập viện một thời gian. Mẹ của Đình Phong (Khánh Huyền thủ vai) cấm không cho đi hát nữa nhưng Đình Phong vì đam mê ca hát vẫn cố tình trốn ra khỏi bệnh viện và tham gia các buổi liveshow. Sau khi Đình Phong xuất viện, Lâm nhận được thông báo của bác sĩ về bệnh tình của Phong. Phong bị ung thư tuyến yên, chỉ còn sống được tối đa là 5 năm. Biết về bệnh tình, Phong mặc dù rất tuyệt vọng nhưng vẫn cố gắng sống cuộc đời tươi trẻ. Trong liveshow cuối cùng, Phong tiết lộ với khán giả rằng chính Lâm là người cất giấu mọi số tiền của anh và che giấu bệnh tình để anh được đi hát, nhưng làm vì ý nguyện của anh. Kiến Hà đánh Lâm, và họ khóc. Trước đó, Phong và Lâm gặp nhau trên cầu, Phong đã nói: "Em không quan tâm mình sống được bao lâu nữa, nhưng khi nào em còn sống, hãy cho em sống vui nhất có thể, hạnh phúc nhất có thể, và được nhìn thấy người thân của em lâu nhất có thể và cho em hát lâu nhất có thể". Phong đã không chữa bệnh, vì không hề muốn nhìn người thân đau khổ vì mình. Chi tiết này có thể tương đồng với hành động trong ngày cuối đời của Wanbi Tuấn Anh khi quyết định xuất viện. Sau một thời gian chống chọi với căn bệnh ung thư tuyến yên, Đình Phong qua đời trong sự luyến tiếc của bạn bè và người hâm mộ. Một thời gian sau, bạn bè Phong viếng anh tại chùa. Mẹ Phong mở quán lẩu cua như ý muốn, Lâm để lại tiền của Phong cho trẻ em gặp khó khăn, Hà và Băng có con, và nhiều năm sau Sky cưới chồng. Trong đoạn credits, Don Nguyễn giới thiệu Harry Lu cho bố mẹ như lời Phong đã khuyên, nói với họ Harry Lu là bạn trai của anh và đã yêu nhau 3 năm. Cô gái bán trà sữa bị câm kể lại cảm nghĩ của bản thân về Phong, rằng anh là người hiểu cô và giúp cô xóa đi khoảng cách. == Diễn viên == Sơn Tùng M-TP vai Đình Phong Hari Won vai Sky Phạm Quỳnh Anh vai Phạm Quỳnh Băng Ngô Kiến Huy vai Ngô Kiến Hà Hứa Vĩ Văn vai Lâm Quang Thắng vai bố của Phong Khánh Huyền vai mẹ của Phong Will 365 vai Tuấn Kiệt Thành Lộc vai đạo diễn phim Nguyễn Hồng Ân vai nữ diễn viên Gee Trương vai cô gái bán trà sữa Hà Linh vai bác sĩ Jayvee Mai Thế Hiệp vai bác sĩ Petey Majik Nguyễn vai bác sĩ bên Singapore Don Nguyễn vai Quang Huy Harry Lu vai bạn trai của Quang Huy Tấn Thi vai ba của Quang Huy Hoài An vai mẹ của Quang Huy Ngọc Tưởng vai chồng của Sky Các khách mời khác Trịnh Thăng Bình Nguyên Khang Bảo Anh Trung Quân Idol Khổng Tú Quỳnh Hoàng Tôn Phạm Hồng Phước Quốc Thiên Minh Hằng == Sản xuất == Ngày 12 tháng 6 năm 2014, hãng sản xuất phim WePro công bố dự án thực hiện bộ phim Chàng trai năm ấy lấy cảm hứng từ cuộc đời của cố nam ca sĩ trẻ Wanbi Tuấn Anh. Sau khi hoàn tất phần kịch bản, chọn diễn viên, đồng thời nhận được sự đồng ý của gia đình Wanbi Tuấn Anh, đoàn làm phim Chàng trai năm ấy mới chính thức tiết lộ về bộ phim này. Bộ phim bắt đầu bấm máy vào ngày 15 tháng 6, được quay trong 8 tuần tại các bối cảnh ở TP.HCM, Nha Trang và Singapore. Sau khi đóng máy, phim sẽ bước vào giai đoạn hậu kỳ và dự kiến ra mắt khán giả vào tháng 11 năm 2014. Lần đầu tiên tham gia một bộ phim, Sơn Tùng cho biết sẽ thể hiện nhân vật bằng chính những cảm nhận, sự trân trọng của mình với người đã mất. Nói về bộ phim, đạo diễn Nguyễn Quang Huy cho biết: "Chàng trai năm ấy hướng đến một góc nhìn đa chiều và hài hước về cuộc sống của những người trẻ hiện đại với màu sắc gần gũi. Tác phẩm này là dành cho tất cả mọi người, đặc biệt là những con người trẻ căng tràn sức sống cùng ước mơ, hoài bão, nhiệt huyết và đam mê". Lý Minh Tùng - cựu quản lý của nam ca sĩ Wanbi Tuấn Anh chia sẻ: "Tôi hi vọng các khán giả xem phim đừng quá bận tâm rằng nhân vật chính giống Wanbi nhiều hay ít, mà hãy cảm nhận được tinh thần của nhân vật, hay chính xác là quan niệm sống lạc quan, vượt trên số phận của Wanbi, đó mới là điều quan trọng nhất". Chia sẻ về quá trình quay phim, Sơn Tùng M-TP nói rằng: "Những cảnh khóc gần rút cạn năng lượng của tôi, đặc biệt là cảnh quay trên cầu Mống, tôi phải quay từ 6 giờ sáng đến 6 giờ tối chỉ đúng một cảnh, mà quay một ngày vẫn chưa được nên ngày hôm sau lại tiếp tục quay từ 6 giờ sáng đến 3 giờ chiều. Rồi cảnh quay ở Nha Trang, có đoạn mọi người diễn và tôi ngồi thấp thoáng phía xa. Tôi ngồi đó một mình, quay 18 take nhé, và tôi phải ngồi một chỗ đúng 18 take luôn. Tham gia Chàng trai năm ấy xong rồi gầy guộc hết cả người và đen thui như một con ma". == Âm nhạc == Ca khúc chủ đề của phim, "Chắc ai đó sẽ về" là ca khúc nhạc phim đầu tay của Sơn Tùng M-TP do chính anh sáng tác và thể hiện. Ca khúc được giới thiệu là: "Một bản nhạc mang bầu tâm sự da diết với chất liệu cảm xúc hồi tưởng, lôi kéo người xem vào những khung cảnh tươi đẹp của nhân vật Đình Phong cùng nhóm bạn và gia đình trước khi bi kịch cuộc đời ập đến". Ca khúc thứ hai của phim mang tên "Không Phải Dạng Vừa Đâu" dựa trên câu nói cửa miệng của nhân vật Đình Phong nhưng nội dung bài hát lại nói về sự khởi đầu của Sơn Tùng M-TP khi ở underground. Ca khúc thứ ba của phim, "Hạnh phúc mới" do Phạm Quỳnh Anh & Hari Won thể hiện bằng hai thứ tiếng Việt và Hàn. Ca khúc thứ tư, "Nụ cười còn mãi" là sáng tác cuối cùng của Wanbi Tuấn Anh trước khi qua đời, bài hát được phát trong đoạn credits của phim. == Phát hành == Áp phích và trailer chính thức của bộ phim được ra mắt vào ngày 8 tháng 9 năm 2014. Ban đầu, phim được dự kiến phát hành vào ngày 14 tháng 11 năm 2014. Tuy nhiên, ngày 11 tháng 11, Galaxy Studio và WePro Entertainment, hai hãng sản xuất phim, đã quyết định lùi ngày công chiếu nhưng không cho biết rõ ngày cụ thể. Thông cáo báo chí được đưa ra cho biết lý do của việc hoãn này là "vì vấn đề liên quan đến bài hát trong phim Chắc ai đó sẽ về do ca sĩ Sơn Tùng thể hiện". Nhà sản xuất cũng cho biết: "Chúng tôi sẽ tổ chức họp báo sớm nhất có thể và sẽ trả lời thẳng thắng, không né tránh mọi câu hỏi liên quan đến sự cố này". Sáng ngày 5 tháng 12 năm 2014, Hội đồng thẩm định của Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch Việt Nam thống nhất rằng ca sĩ Sơn Tùng M-TP phải thay phần beat ca khúc "Chắc ai đó sẽ về" thì bộ phim mới được phát hành vì có sự giống nhau nhất định với ca khúc "Because I miss you". Ngay sau đó, hãng sản xuất Galaxy Studio đã công bố ngày phát hành mới cho phim là 31 tháng 12 năm 2014. Ca khúc nhạc phim thứ hai "Hạnh phúc mới" do Phạm Quỳnh Anh và Hari Won thể hiện được phát hành ngày 9 tháng 1 năm 2015. Cùng lúc, bộ phim được dự kiến tiếp tục chiếu đến dịp Tết Nguyên Đán 2015 để đáp ứng lượng khán giả đông đảo. == Phản hồi == === Doanh thu phòng vé === Chỉ trong ngày đầu ra mắt, Chàng trai năm ấy đạt mức doanh thu 6 tỷ đồng - con số khá cao với các phim Việt. Đến hết ngày 4/1, phim đón khoảng 400.000 lượt khán giả tại các cụm rạp toàn quốc. Với hơn 3.000 suất chiếu, Chàng trai năm ấy đạt doanh thu hơn 30 tỷ đồng. Hầu như các hệ thống rạp chiếu lớn trên khắp cả nước đều dành đa số suất chiếu và phòng chiếu lớn trong ngày. Ở những rạp chiếu đông khách, lịch chiếu Chàng trai năm ấy rất dày đặc, gần như cách 30 phút là có một suất chiếu bộ phim. Theo thông tin từ các rạp chiếu, Chàng trai năm ấy trở thành lựa chọn hàng đầu của khán giả trong dịp Tết Dương Lịch 2015, khi các suất chiếu của phim đều đầy rạp. Ghi nhận về phản hồi của khán giả, hầu hết đều bất ngờ, thích thú và rơi nước mắt khi theo dõi bộ phim. Đạo diễn Quang Huy trực tiếp đi xem bộ phim ở nhiều rạp để cảm nhận hiệu ứng khán giả và nhận xét: "Điều khiến tôi hài lòng nhất là hầu như toàn bộ những phản hồi của khán giả đều khen ngợi dàn diễn viên". Đến thứ 6, ngày 9 tháng 1 năm 2015, đạo diễn Quang Huy xác nhận tổng doanh thu phim đã đạt hơn 42 tỷ đồng, sau một tuần ra rạp. Sau này phim thu về 60 tỷ đồng. === Phản hồi chuyên môn === Nhìn chung, Chàng trai năm ấy nhận được phần lớn lời khen ngợi, đặc biệt là từ lứa tuổi teen, trong đó nhiều người dành lời khen cho phần nhạc phim. Tuy nhiên, một bộ phận khán giả vẫn không đánh giá cao chất lượng bộ phim và chờ đợi một điều gì đó mới hơn, hấp dẫn hơn ở đạo diễn Quang Huy trong những tác phẩm sau. Sau khi bộ phim được phát hành, một số khán giả nhận xét bộ phim đã khắc họa có phần khác biệt, thậm chí sai lệch hình tượng của Wanbi Tuấn Anh. Lý Minh Tùng, quản lý và cũng là người chắp bút cuốn tự truyện của nam ca sĩ cũng cho rằng đạo diễn "không dành trọn vẹn "cái tình" cho Wanbi như những gì đã hứa khi bắt tay chuyển thể cuốn tự truyện về Wanbi". Ông cho rằng "Cách lý giải "chỉ lấy cảm hứng" hay tuyên bố "Chàng trai năm ấy không phải là phim về Wanbi Tuấn Anh", theo tôi là lời bào chữa vô cùng thông minh của đạo diễn Quang Huy, nhưng lại thiếu trách nhiệm, thiếu tôn trọng Wanbi". Trong dòng giới thiệu và trên áp phích phim đã cho thấy phim được chuyển thể từ cuốn tự truyện, nhân vật Đình Phong được đạo diễn “sao chép” đến 80% những chi tiết có thật từ cuộc đời Wanbi nên không thể nói phim chỉ lấy cảm hứng được. Phim có nhiều chi tiết hư cấu xúc phạm người đã khuất, như việc bố của Đình Phong ăn và có câu “tuyên ngôn” về thịt chó ngay trên giường bệnh, hay việc Đình Phong có thái độ xấc xược với đàn anh, cầu xin lòng hảo tâm và sự thương hại của khán giả, đồng nghiệp trong đêm nhạc tự tổ chức để quyên góp tiền trị bệnh. Ông Tùng cho biết ngay từ đầu, ông đã thống nhất với đạo diễn có thể sáng tạo các nhân vật, tình tiết, nhưng phải tôn trọng mọi chi tiết liên quan đến nhân vật Đình Phong và gia đình của nhân vật. Cuối cùng, ông cho rằng đạo diễn phải lên tiếng xin lỗi chính thức những hư cấu gây ảnh hưởng hình ảnh nam ca sĩ. Tuy nhiên, với "tư cách khán giả", ông Tùng cho rằng đây là một bộ phim giàu cảm xúc và có nhiều điểm cộng. Ông cũng dành lời khen cho dàn diễn viên của phim. Báo Giáo dục Việt Nam nhận xét bộ phim đưa nguyên câu chuyện cuộc đời của ca sĩ Wanbi Tuấn Anh mà thiếu sáng tạo khiến phim thiếu hấp dẫn, cách xây dựng nhân vật không thuyết phục, nhiều nhân vật thừa, diễn xuất "kịch", duy chỉ có Sơn Tùng M-TP có diễn xuất ổn nhất, góc quay không hợp lý mà "đậm chất ca nhạc", dựng phim gây cảm giác chắp vá... Tác giả bài báo chỉ ca ngợi duy nhất việc sử dụng ca khúc "Chắc ai đó sẽ về" một cách hợp lý và xuyên suốt trong phim. Trái ngược, một tác giả của báo Tiin ca ngợi diễn xuất của dàn diễn viên trong phim, đặc biệt là sự "có hồn" của Sơn Tùng M-TP, vốn là ca sĩ, có nhiều chi tiết hài hước, phần hình ảnh tốt, có những góc quay đủ sáng đủ sâu, ngoại cảnh đẹp. Phim có sự mạch lạc, "đủ hài đủ bi", có kịch bản tuyến tính và dễ đoán, cách kể nhẹ nhàng, tinh tế, lắng đọng, buồn nhưng không quá bi lụy. Tác giả bài báo cũng ca ngợi loạt ca khúc xuất hiện trong phim ngoài "Chắc ai đó sẽ về". Tuy nhiên, cũng như bài báo trên, cây bút này cho rằng phim có mở đầu chậm chạp, lan man, một số nhân vật phụ hoàn toàn không có vai trò gì. Trước những phản hồi trên, Sơn Tùng M-TP cho biết: "Tôi chấp nhận, vì tôi cũng có fan nên tôi hiểu được cảm giác fan dành cho thần tượng là thế nào. Khi nghe người khác vào một vai diễn lấy cảm hứng từ câu chuyện có thật của thần tượng mình, người ta có quyền hi vọng, kiểu như nhân vật đó sẽ giống anh Wanbi, có nụ cười như anh Wanbi, rồi vóc dáng, tinh thần... đều giống anh Wanbi cả. Tôi hiểu, nên khi nghe những lời ấy, tôi đã nói với anh Quang Huy rằng tôi chấp nhận, và anh Huy cũng bảo tôi nên chấp nhận, bởi tôi không thể nào là anh Wanbi được". == Tham khảo == == Liên kết ngoài == Chàng trai năm ấy tại Internet Movie Database Fanpage chính thức của phim trên Facebook Chàng Trai Năm Ấy P1 - (Bản chính thức WEPRO) trên YouTube (P2 trên YouTube)
saint-martin.txt
Saint-Martin, tên chính thức là Cộng đồng Saint-Martin (tiếng Pháp: Collectivité de Saint-Martin), là một cộng đồng hải ngoại của Pháp nằm ở Caribe. Nó trở nên một cộng đồng vào ngày 22 tháng 2 năm 2007, bao gồm phần phía bắc của đảo Saint Martin và những tiểu đảo lân cận, lớn nhất trong số đó là Tintamarre. Phần phía nam của đảo, Sint Maarten, là một quốc gia cấu thành của Vương quốc Hà Lan. == Chính trị và chính phủ == Saint Martin trong nhiều năm đã là một xã, một phần của Guadeloupe, tỉnh hải ngoại của Pháp và do đó nằm trong Liên minh châu Âu. Vào năm 2003 dân số của phần thuộc Pháp bỏ phiếu tách ra khỏi Guadeloupe để hình thành nên một cộng đồng hải ngoại (COM) của Pháp. Vào ngày 9 tháng 2 năm 2007, Quốc hội Pháp đã thông qua một dự luật cho phép tình trạng COM cho cả phần Saint-Martin của Pháp và Saint-Barthélemy láng giềng. Địa vị mới có tác dụng khi bộ luật được ban hành trong Tờ báo chính thức vào ngày 22 tháng 2 năm 2007. Saint-Martin vẫn là một phần của Liên minh châu Âu. Tiền tệ chính thức ở Saint-Martin là euro (mặc dù dollar Mỹ cũng được sử dụng rộng rãi). Những lợi điểm của cấu trúc cai trị như một cộng đồng hải ngoại có hiệu lực vào ngày 15 tháng 7 năm 2007 với phiên đầu tiên của Hội đồng Lãnh thổ (tiếng Pháp: Conseil territorial) và cuộc bầu cử Louis-Constant Fleming là chủ tịch của Hội đồng Lãnh thổ. Trước năm 2007, Saint-Martin được ghi mã là GP (Guadeloupe) trong ISO 3166-1. Vào tháng 10 năm 2007, nó nhận được mã ISO 3166-1 MF (mã alpha-2), MAF (mã alpha-3), và 663 (mã số hiệu). == Dân cư == Phần thuộc Pháp của đảo có diện tích là 53,20 km² (20,5 dặm vuông). Tại cuộc điều tra bổ sung của Pháp vào tháng 10 năm 2004, dân số của phần thuộc Pháp của đảo là 33.102 (đã tăng nhiều từ chỉ 8.072 cư dân vào cuộc điều tra năm 1982), có nghĩa là mật độ dân số là 622 người trên một km² vào năm 2004. == Bản đồ == == Xem thêm == Văn hóa St. Martin Lịch sử St. Martin Saint Martin, chính hòn đảo O sweet Saint-Martin's Land (bài hát/quốc ca của cả Saint-Martin/Sint-Maarten) Danh sách thủ hiến Sint Maarten == Tham khảo == == Xem thêm == Mục “Saint Martin” trên trang của CIA World Factbook. Bản mẫu:West Indies
tanzanit.txt
Tanzanit là một khoáng vật silicat đảo kép, là một biến thể màu tím/lam của khoáng vật zoisit, được phát hiện ở vùng đồi Meralani (Merelani) miền Bắc Tanzania năm 1967, gần thành phố Arusha. Tanzanit ở trạng thái tự nhiên luôn có màu nâu đỏ, khi xử lý nhiệt ở 600 °C nó đổi thành màu tím lam.. Khoáng vật này là một loại đá quý hiếm.. == Tham khảo ==
microsoft lumia 540.txt
Microsoft Lumia 540 là một chiếc điện thoại thông minh Microsoft Lumia chạy Windows Phone 8.1 với 1 GB RAM được ra mắt tại thị trường Ấn Độ, Trung Đông, châu Phi và châu Á Thái Bình Dương. Các thông số kỹ thuật khác tương tự như các thiết bị trong dòng Lumia 5xx. Do sản phẩm này quá mới, nó hiện là thiết bị Lumia tương thích duy nhất (chạy Windows Phone 8 hoặc 8.1, vì các thiết bị Windows Phone 7 không tương thích) chưa hỗ trợ Windows 10 Mobile Insider Preview (không bao gồm các biến thể của các nhà mạng), nhưng các bản xem trước tiếp theo dự kiến sẽ được hỗ trợ. == Sự đón nhận == Chiếc Microsoft Lumia 540 Hai SIM nhận được phản hồi tích cực nhưng lại bị chỉ trích vì không đưa ra một bản nâng cấp trên các thiết bị dòng Lumia 5xx trước. == Xem thêm == Microsoft Lumia Microsoft Lumia 535 Microsoft Lumia 640 == Tham khảo == == Liên kết ngoài == Microsoft Lumia 540
hệ chữ viết.txt
Hệ chữ viết là là một phương pháp lưu trữ thông tin và chuyển giao tin nhắn (thể hiện suy nghĩ hoặc ý tưởng) được tổ chức (thông thường được chuẩn hóa) trong một ngôn ngữ bằng cách mã hóa và giải mã theo cách trực quan (hoặc có thể gián tiếp). Quá trình mã hóa và giải mã này được gọi là viết và đọc, bao gồm một tập hợp các dấu hiệu hoặc chữ tượng hình, cả hai được biết đến như là các ký tự. Các ký tự này bao gồm cả chữ và số, thường được ghi vào một vật lưu trữ như giấy hoặc thiết bị lưu trữ điện tử. Các phương pháp không bền cũng có thể được sử dụng, chẳng hạn như viết trên cát hoặc vẽ lên trời bằng khói máy bay. Các thuộc tính chung của hệ thống chữ viết có thể được phân loại thành 3 thể loại: dựa trên bảng chữ cái, bảng âm tiết, hoặc bảng chữ tượng hình. Bất kỳ hệ thống cụ thể có thể có các thuộc tính của một hay nhiều thể loại trên. Trong các loại hệ thống dựa trên chữ cái, có một bộ tiêu chuẩn của các chữ cái (ký hiệu văn bản hoặc đồ hình cơ bản) của các phụ âm và nguyên âm mã hoá dựa trên các nguyên tắc chung là các chữ cái (hoặc cặp/nhóm chữ cái) đại diện cho âm vị (âm thanh đáng kể cơ bản) của văn nói. Trong các loại hệ thống dựa trên âm tiết, thường liên kết một chữ tượng hình cho một âm tiết (có thể là một cặp đôi hoặc nhóm âm vị, và được coi là các cấu thành để xây dựng một từ). Trong một hệ thống dựa trên chữ tượng hình, mỗi chữ tượng hình đại diện cho một từ, hoặc một đơn vị ngữ nghĩa (mà bản thân nó bao gồm một hoặc nhiều âm tiết). Các hệ chữ viết khác bao gồm abjads (là một bảng chữ cái mà không có nguyên âm) và abugidas, còn được gọi là alphasyllabaries, ở đó nguyên âm được thể hiện bởi dấu hoặc các sửa đổi khác của phụ âm). Phân loại của hệ thống chữ viết có thể được xác định bằng số các chữ tượng hình được sử dụng trong hệ thống. Bảng chữ cái thường sử dụng một bộ từ 20 đến 35 chữ cái để thể hiện đầy đủ một ngôn ngữ, trong khi bảng âm tiết có thể có 80 đến 100 âm tiết, và bảng chữ tượng hình có thể có hàng trăm đến hàng trăm nghìn chữ tượng hình. == Hệ chữ viết tiếng Việt == Tại Việt Nam, tiếng Việt được viết bằng hai loại chữ là Chữ Nôm và chữ Quốc ngữ. Hiện nay chữ Quốc ngữ là chữ viết chính thức của tiếng Việt. == Sách tham khảo == Cisse, Mamadou. 2006. "Ecrits et écritures en Afrique de l'Ouest". Sudlangues n°6, http://www.sudlangues.sn/spip.php?article101 Coulmas, Florian. 1996. The Blackwell encyclopedia of writing systems. Oxford: Blackwell. Daniels, Peter T., and William Bright, eds. 1996. The World's Writing Systems. Oxford University Press. ISBN 0-19-507993-0. DeFrancis, John. 1990. The Chinese Language: Fact and Fantasy. Honolulu: University of Hawaii Press. ISBN 0-8248-1068-6 Haarmann, Harald (2004), Geschichte der Schrift (ấn bản 2), München: C. H. Beck, ISBN 3-406-47998-7 Hannas, William. C. 1997. Asia's Orthographic Dilemma. University of Hawaii Press. ISBN 0-8248-1892-X (paperback); ISBN 0-8248-1842-3 (hardcover) Millard, A. R. (1986), “The Infancy of the Alphabet”, World Archaeology 17 (3): 390–398, doi:10.1080/00438243.1986.9979978 Rogers, Henry. 2005. Writing Systems: A Linguistic Approach. Oxford: Blackwell. ISBN 0-631-23463-2 (hardcover); ISBN 0-631-23464-0 (paperback) Sampson, Geoffrey. 1985. Writing Systems. Stanford, California: Stanford University Press. ISBN 0-8047-1756-7 (paper), ISBN 0-8047-1254-9 (cloth). Smalley, W. A. (ed.) 1964. Orthography studies: articles on new writing systems. London: United Bible Society. == Liên kết ngoài == Writing Systems Research Free first issue of a journal devoted to research on writing systems Arch Chinese (Traditional & Simplified) Chinese character writing animations and native speaker pronunciations decodeunicode Unicode Wiki with all 98,884 Unicode 5.0 characters as gifs in three sizes African writing systems Omniglot A concise guide to the writing systems and languages of the world. (tiếng Hungary) Ultraweb.hu - főoldal Ancient Scripts Introduction to different writing systems Michael Everson's Alphabets of Europe The Unicode Consortium Elian script a writing system that combines the linearity of spelling with the free-form aspects of drawing. (tiếng Nga) Written of the World == Tham khảo ==
thập tự chinh.txt
Thập tự chinh là một loạt các cuộc chiến tranh tôn giáo, được kêu gọi bởi Giáo hoàng và tiến hành bởi các vị vua và quý tộc là những người tình nguyện cầm lấy cây thập giá với mục tiêu chính là phục hồi sự kiểm soát của Kitô giáo với vùng Đất Thánh. Quân thập tự đến từ khắp Tây Âu, và đã có một loạt các chiến dịch không liên tục giữa năm 1095 và 1291. Các chiến dịch tương tự ở Tây Ban Nha và Đông Âu tiếp tục vào thế kỷ 15. Các cuộc Thập Tự Chinh được chiến đấu chủ yếu giữa người Giáo hội Công giáo Rôma chống lại người Hồi giáo và các tín hữu Kitô giáo theo Chính Thống giáo Đông phương trong Byzantium, với các chiến dịch nhỏ hơn tiến hành chống lại người Slav ngoại giáo, Balts ngoại giáo, Mông Cổ, và người Kitô giáo ngoại đạo . Chính Thống giáo Đông phương cũng tham gia chiến đấu chống lại lực lượng Hồi giáo trong một số cuộc Thập Tự Chinh. Thập tự chinh được thề và đã được cấp một ơn toàn xá bởi Đức Giáo hoàng . Các cuộc Thập Tự Chinh ban đầu có mục tiêu thu hồi lại Jerusalem và Đất Thánh khỏi ách thống trị của Hồi giáo và các chiến dịch của họ đã được xuất phát từ lời kêu gọi của các nhà lãnh đạo đế chế Byzantine để được sự giúp đỡ nhằm chống lại sự mở rộng của người Thổ Seljuk theo đạo Hồi tới Anatolia. Thuật ngữ này cũng được sử dụng để mô tả các chiến dịch đương thời và sau đó được thực hiện ở thế kỷ 16 ở vùng lãnh thổ bên ngoài Levant , thường là để chống lại ngoại giáo, và nhân dân bị khai trừ giáo tịch, cho một hỗn hợp của các lý do tôn giáo, kinh tế, và chính trị . Sự kình địch giữa các quốc gia Kitô giáo và Hồi giáo đã dẫn liên minh giữa các phe phái tôn giáo chống lại đối thủ của họ, chẳng hạn như liên minh Kitô giáo với Vương quốc Hồi giáo của Rûm trong cuộc Thập Tự Chinh thứ năm. Các cuộc Thập Tự Chinh đã có một số thành công tạm thời, nhưng quân Thập tự cuối cùng bị buộc phải rời khỏi Đất Thánh. Tuy nhiên các cuộc Thập Tự Chinh đều tác động từ chính trị, kinh tế và xã hội sâu rộng ở châu Âu. Bởi vì các cuộc xung đột nội bộ giữa các vương quốc Thiên chúa giáo và quyền lực chính trị, một số cuộc thám hiểm thập tự chinh đã chuyển hướng từ mục tiêu ban đầu của họ, chẳng hạn như cuộc Thập Tự Chinh thứ tư, dẫn đến sự chia cắt của Constantinopolis Thiên chúa giáo và sự phân vùng của đế chế Byzantine giữa Venice và quân Thập tự. Cuộc Thập tự chinh thứ sáu là cuộc thập tự chinh đầu tiên xuất phát mà không có sự cho phép chính thức của Đức Giáo hoàng . Các cuộc Thập Tự Chinh thứ bảy, thứ tám và thứ chín đã dẫn đến kết quả là chiến thắng của Mamluk và triều đại Hafsid, như cuộc Thập Tự Chinh thứ chín đã đánh dấu sự kết thúc của cuộc Thập Tự Chinh ở Trung Đông . == Bối cảnh, nguyên nhân, động cơ == Khoảng thế kỷ thứ 7, những người đứng đầu đạo Hồi tiến hành các cuộc trường chinh xâm chiếm các vùng đất mới. Từ năm 660 đến năm 710, các giáo sĩ Hồi giáo đã chiếm được một lãnh thổ rộng lớn ở Bắc Phi, Thổ Nhĩ Kỳ. Đến năm 720, những kỵ binh Hồi giáo chiếm Tây Ban Nha rồi thọc sâu vào đến tận lãnh thổ Pháp; từ năm 830 đến năm 976 Sicilia và miền nam Ý rơi vào tay người Hồi giáo. Lúc này, những đoàn hành hương của tín đồ Kitô giáo về các miền Đất Thánh mà trong đó Palestine là nơi thiêng liêng nhất bắt đầu phổ biến từ thế kỷ 4 và đến thế kỷ 11 đã trở nên rất thịnh hành. Người Thổ Seljuk Hồi giáo không cố ý ngăn cản những đoàn hành hương nhưng họ thu rất nhiều loại thuế, phí gây ra làn sóng phẫn nộ trong cộng đồng Kitô giáo. Cũng sang thế kỷ 11, Đế quốc Byzantine (Đế quốc Đông La Mã) chỉ còn lại một vài vùng đất ở châu Âu. Lúc này, nguy cơ người Hồi giáo tràn sang phía Tây đã hiện hữu đối với người Kitô giáo đặc biệt là sau khi quân đội Seljuk đánh bại quân Byzantine trong trận Manzikert năm 1071 và bắt được cả hoàng đế Romanus IV thì con đường tiến về Constantinopolis đã được khai thông. Suleyman, một thủ lĩnh người Thổ Nhĩ Kỳ và các chiến binh của ông thậm chí còn định cư ngay tại Niacea, chỉ cách Constantinopolis vài dặm. Để giành lại các vùng đất đã mất ở Tiểu Á, Hoàng đế Byzantine kêu gọi sự giúp đỡ từ phía Tây nhưng không có kết quả. Sau đó, họ kêu gọi sự giúp đỡ từ Giáo hoàng và để đổi lại, họ hứa sẽ xóa bỏ sự phân ly giữa Chính thống giáo Đông phương và Giáo hội Công giáo Rôma xảy ra năm 1054. Ngày 27 tháng 11 năm 1095 tại Hội nghị giám mục, Giáo hoàng Urban II (tại vị 1088-1099) kêu gọi các hiệp sĩ, hoàng tử phương Tây và tín đồ Kitô giáo đến giúp đỡ tín hữu Kitô giáo phương Đông đồng thời giành lại những vùng Đất Thánh đã mất. Mặc dù những cuộc thánh chiến mang đậm màu sắc tôn giáo, nhưng giới sử học cho rằng bên trong nó còn có các động cơ kinh tế, chính trị, xã hội: Tôn giáo: việc thánh chiến để bảo vệ và lấy lại những vùng đất của người Kitô giáo được hậu thuẫn bởi thay đổi quan trọng trong phong trào cải cách Giáo hội đang diễn ra. Trước khi Giáo hoàng Urban II phát ra lời kêu gọi, quan niệm Chúa sẽ thưởng công cho những ai chiến đấu vì chính nghĩa đã rất thịnh hành. Công cuộc cải cách của Giáo hội đã dẫn đến một thay đổi quan trọng: chính nghĩa là không chỉ là chịu đựng tội lỗi trong thế giới mà phải là cố gắng chỉnh sửa chúng.. Các đạo quân thập tự chinh là tiêu biểu cho tinh thần ấy trong giai đoạn Giáo hội đang cải tổ mạnh mẽ. Kinh tế, chính trị: những cuộc thập tự chinh diễn ra trong thời kỳ mà dân số châu Âu phát triển mạnh mẽ và các học giả cho rằng trên khía cạnh này nó có động cơ tương tự như cuộc tấn công của người Đức vào phương Đông cũng như cuộc xâm chiếm của người Tây Ban Nha. Những cuộc thập tự chinh nhằm mục đích chiếm giữ những vùng đất mới để mở rộng sự bành trướng của phương Tây với các quốc gia Địa Trung Hải. Tuy nhiên thập tự chinh khác với những cuộc tấn công, xâm chiếm của người Đức và người Tây Ban Nha ở chỗ nó chủ yếu dành cho tầng lớp hiệp sĩ và nông dân du cư ở Palestine. Xã hội: tầng lớp hiệp sĩ đặc biệt nhạy cảm với sự tăng trưởng nhanh chóng của dân số châu Âu trong giai đoạn này. Họ được đào tạo, huấn luyện để tiến hành chiến tranh và trong bối cảnh dân số phát triển mạnh mẽ, những cuộc xung đột để giành đất đai đã xảy ra. Giáo hoàng Urban II đã nói với các hiệp sĩ của nước Pháp như sau: "Đất đai mà các bạn cư ngụ thì quá hẹp đối với một dân số lớn; nó cũng không thừa của cải; và nó khó lòng cung cấp đủ thực phẩm cho những người trồng trọt trên nó. Đây là lý do vì sao các bạn phải tàn sát và tàn phá lẫn nhau." Như vậy, họ được khuyến khích đi viễn chinh để giành đất và trên góc độ nào đó các cuộc thập tự chinh là phương tiện bạo lực nhằm rút bạo lực ra khỏi đời sống thời Trung Cổ. cũng như đem lại lợi ích kép như lời Thánh Bernard thành Clairvaux đã nói: "Sự ra đi của họ làm cho dân chúng hạnh phúc, và sự đến của họ làm phấn khởi những người đang thúc giục họ giúp đỡ. Họ giúp cả hai nhóm, không những bảo vệ nhóm này mà còn không áp bức nhóm kia.". == Các cuộc Thập tự chinh == Về danh sách các cuộc thập tự chinh, chưa có sự thống nhất cao trên thế giới, danh sách này có thể lên đến 9 cuộc tùy quan điểm. === Thập tự chinh thứ nhất (1095 - 1099) === Tháng 9 năm 1095, Giáo hoàng Urban II đã có một bài thuyết giảng tại Clermont, miền nam nước Pháp kêu gọi giới quý tộc đảm nhiệm cuộc viễn chinh vào Đất Thánh. Lời kêu gọi này đã gây tác động đến mọi tầng lớp trong xã hội phương Tây và dẫn đến một cuộc thập tự chinh mang tính đại chúng với sự tham gia đông đảo của nông dân và người nghèo ở miền bắc Pháp và châu thổ sông Rhine cùng với một số hiệp sĩ và tu sỹ vào tháng 2 năm 1096, được lãnh đạo bởi một thầy tu ẩn dật người Pháp tên là Piere l'Ermite. Đội quân đông đảo nhưng trang bị thô sơ và không được tổ chức tốt này tấn công người Do Thái, từ Cologne (Đức) vượt qua Bulgaria, Hungary rồi kéo đến Constantinople. Sau khi được hoàng đế Alexios I của Byzantine đưa qua eo Bosphorus, họ nhanh chóng bị quân đội Thổ Nhĩ Kỳ đánh tan. Ngay sau đó, một đội quân thực sự được tổ chức tốt do giới quý tộc lãnh đạo đã lên đường tiến hành cuộc thập tự chinh chính thức lần thứ nhất. Những chỉ huy gồm có: Robert xứ Normandy (con trai của William the Conqueror); Godfrey xứ Bouillon cùng hai anh trai là Baldwin xứ Boulogne và Robert xứ Flanders; Raymon IV xứ Toulouse; Bohemond I xứ Antioch, Tancred xứ Taranto,... Họ dẫn đầu 4 đạo quân theo nhiều hành trình đường bộ và đường biển đến Constantinople năm 1096 và 1097 để từ đó tấn công nhà Seljuk ở Rum. Cuối tháng 4 năm 1097, đội quân thập tự chinh tiến vào lãnh thổ của người Seljuk và giành được thắng lợi đầu tiên trong trận Dorylaeum ngày 1 tháng 7 năm 1097. Chiến thắng có tính chất bước ngoặt của thập tự quân là việc đánh chiếm thành phố cảng Antioch và đã giành được thắng lợi sau cuộc vây hãm kéo dài 8 tháng, mở thông đường tiến về Jerusalem. Ngày 7 tháng 6 năm 1099, Thập tự quân tới Jerusalem và bắt đầu vây hãm thành phố. Ngày 15 tháng 7 năm 1099, thập tự quân đột kích chiếm Jerusalem và tàn sát các tín đồ Hồi giáo, Do Thái giáo cũng như cả Chính thống giáo Đông phương. Trong khi đoàn quân chủ yếu tiến đến Antiochia và Jerusalem thì Baldwin xứ Boulogne tách đội quân của mình ra để chiếm Edessa, nơi ông thiết lập Công quốc thập tự quân đầu tiên ở phương Đông. Sau đó với sự giúp đỡ của hạm đội của Venice và Genoa, Thập tự quân chiếm được toàn bộ bờ Đông Địa Trung Hải và thiết lập bá quốc Tripoli và một số tiểu quốc khác. Kết quả của Thập tự chinh thứ nhất là đã lập ra một loạt những Công quốc Thập tự quân: Edessa, Antioch, Tripoli... và đặc biệt là Jerusalem trải rộng trên khắp vùng Cận Đông. === Thập tự chinh thứ hai (1147 - 1149) === Năm 1144, việc quân Hồi giáo tái chiếm Edessa và uy hiếp Jerusalem đã dẫn đến cuộc thập tự chinh thứ hai do Bernard thành Clairvaux tích cực phát động. Đoàn thập tự chinh gồm hai đội quân, một do vua Louis VII của Pháp, một do vua Konrad III (Hohenstaufen) của Đức chỉ huy lên đường chiếm Damascus (Syria) để tạo tiền đồn phòng thủ tốt hơn cho Jerusalem. Cuộc đột chiếm Damascus thất bại, thành phố này rơi vào tay vua Nur ad-Din Zangi, vị tiểu vương Hồi giáo đã dẫn quân đến cứu viện theo đề nghị của Damascus. Đội quân thập tự chinh phải rút về nước mà không giành được một thành quả nào ngoại trừ việc Thập tự quân Bắc Âu dừng lại ở Lisboa và cùng với người Bồ Đào Nha chiếm lại thành phố này từ người Hồi giáo. === Thập tự chinh thứ ba (1189 - 1192) === Sau khi Saladin chiếm được Ai Cập, trở thành Sultan ở đây và thống nhất các tín đồ Hồi giáo, Syria bị đe dọa nghiêm trọng, lãnh thổ của người Kitô giáo có thể bị xâm lấn bất cứ lúc nào. Năm 1187, Saladin đánh bại quân Thập tự và chiếm lại Jerusalem nên nguy cơ công quốc thập tự quân này bị xóa sổ đã hiện hữu. Trước tình hình đó, hoàng đế Friedrich I Barbarossa của đế quốc La Mã thần thánh, vua Philippe II Auguste của Pháp cùng vua Richard I Sư tử tâm của Anh đồng loạt tiến quân về phương Đông, tiến hành cuộc Thập tự chinh thứ ba. Ngày 10 tháng 6 năm 1190, Friedrich I Barbarossa chết đuối khi đang vượt sông Saleph (nay là sông Goksu) ở xứ Tiểu Á, Thổ Nhĩ Kỳ và hầu hết quân đội của ông quay trở về nước. Đội quân của Richard Sư tử tâm và Philippe II Auguste đã vây hãm và chiếm được Acre, đây là thắng lợi quan trọng nhất của cuộc thập tự chinh này, nhưng do mâu thuẫn vốn có giữa 2 vương quốc nên Philippe II Auguste bỏ về nước để thực hiện các kế hoạch thiết thân hơn ở Tây Âu. Mặc dù vậy, thập tự chinh thứ ba kết thúc trong bế tắc, Richard phải ký hòa ước với Saladin vào ngày 2 tháng 9 năm 1192, theo đó lãnh thổ của công quốc Jerusalem vẫn nằm trong một phạm vi hẹp từ Acre đến Jaffa và việc người Kitô giáo hành hương được quyền viếng thăm Jerusalem trong 3 năm là kết quả của cuộc viễn chinh tốn kém này. Trên đường về nước năm 1192, con tàu của Richard Sư tử tâm bị hỏng ở Aquileia (Ý), ngay trước Giáng Sinh năm ấy, ông bị Leopold V (Công tước Áo) bắt giữ rồi trao cho hoàng đế Heinrich VI (Đế quốc La Mã thần thánh). Richard Sư tử tâm bị cầm tù cho đến 4 tháng 2 năm 1194 mới được giải phóng sau khi đã trả tiền chuộc. === Thập tự chinh thứ tư (1202 - 1204) === Cuộc Thập tự chinh thứ tư bắt đầu năm 1202 do Giáo hoàng Innocent III phát động với mục tiêu chiếm Ai Cập để từ đó tấn công Jerusalem. Thế nhưng do thiếu nguồn lực tài chính nên những người chỉ huy thập tự quân đã thỏa thuận với Venezia nhằm có được phương tiện và hậu cần đảm bảo cho cuộc hành quân sang Ai Cập, để đổi lại, người Venezia sẽ nhận một nửa đất chiếm được và Thập tự quân phải trả 85000 đồng mác bằng bạc . Sau đó, Venezia đề nghị đội quân thập tự chinh đánh chiếm Zara, địch thủ thương nghiệp của Venezia , một thành phố cũng của người Kitô giáo. Bởi còn thiếu 34000 mác, thập tự quân đã tấn công và đánh chiếm Zara vào tháng 11 năm 1202. Kế tiếp, người Venezia lại thuyết phục thập tự quân tấn công Constantinople, thủ đô của Đế quốc Byzantine theo Chính thống giáo Đông phương. Thành phố vốn đang bị chia rẽ bởi mối bất hòa giữa các phe phái này nhanh chóng thất thủ ngày 12 tháng 4 năm 1204. Mặc dù Giáo hoàng Innocent III cố gắng ngăn chặn các đạo quân thập tự, song chúng cũng cướp bóc và đốt cháy hết một phần thành phố. Sau đó người Venezia và Thập tự quân phân chia đế quốc Byzantine thành các công quốc và thống trị cho đến năm 1261. Cuộc Thập tự chinh chấm dứt mà Thập tự quân không tiếp tục tiến về Đất Thánh. === Thập tự chinh thứ năm (1217 - 1219) === Thập tự chinh thứ năm do Giáo hoàng Honorius III tổ chức, Thập tự quân năm 1217 gồm các đạo quân do Leopold VI (Công tước Áo) và András II của Hungary dẫn đầu, đến năm 1218, quân đội của Oliver thành Cologne và một đội quân hỗn hợp của vua Hà Lan Willem I cũng tham gia. Mục tiêu của Thập tự quân lần này là tấn công Ai Cập. Năm 1218, John thành Brienne, vua Jerusalem bị thay thế. Năm 1219, Thập tư quân công chiếm Damietta và Giáo hoàng cử đại diện là Pelagius thống lĩnh cuộc Thập tự chinh. Người Hồi giáo đã đề nghị đổi quyền kiểm soát giữa Damietta và Jerusalem nhưng Pelagius từ chối. Năm 1219, Thập tự quân định tấn công Cairo nhưng không vượt qua được sông Nin đang trong mùa nước lũ và buộc phải rút lui do hậu cần không đảm bảo. Trên đường rút lui, những cuộc tấn công vào ban đêm của quân đội Hồi giáo đã gây nhiều thiệt hại cho Thập tự quân và Damietta bị tái chiếm. === Thập tự chinh thứ sáu (1228 - 1229) === Đoàn quân do hoàng đế Friedrich II (Đế quốc La Mã thần thánh) đứng đầu tiến hành Thập tự chinh thứ sáu năm 1228 nhưng nhanh chóng quay trở về và Friedrich II đã bị Giáo hoàng rút phép thông công. Sau đó Friedrich II quay sang đàm phán, năm 1229 ông đạt được với người Hồi giáo một hiệp ước hòa bình trong mười năm, khôi phục lại quyền kiểm soát Jerusalem, Nazareth và Bethlehem cùng với một hành lang từ Jerusalem ra biển cho những người Kitô giáo. Trước sự chống đối của các giáo trưởng ở Jerusalem, Friedrich II đã tự phong mình làm vua ở đây năm 1229. Năm 1244, Jerusalem thất thủ trước sự tấn công ồ ạt của lính đánh thuê Hồi giáo và người Kitô giáo chỉ trở lại kiểm soát được thành phố này vào năm 1917. === Thập tự chinh thứ bảy (1248 - 1254) === Sau khi Jerusalem bị chiếm, vua Pháp Louis IX (Thánh Louis) đã chuẩn bị một cuộc Thập tự chinh vào năm 1247, mục tiêu lần này vẫn là Ai Cập. Mặc dù đội quân không được tổ chức tốt, năm 1248, ông vẫn chiếm được Damietta một cách dễ dàng và tiến quân về Cairo năm 1249. Tuy nhiên, Thập tự quân nhanh chóng bị quân Hồi giáo của Baybars I và Emir Fakr ed-Din đánh bại trong trận Mansoura ngày 8 tháng 2 năm 1250, Damietta lại rơi vào tay người Hồi giáo. Vua Louis IX của Pháp bị bắt làm tù binh và được thả sau khi đã trả tiền chuộc. === Thập tự chinh thứ tám (1270) === Các sự kiện Jaffa và Antioch bị người Hồi giáo chiếm lại đã dẫn đến cuộc Thập tự chinh do Vua Louis IX tiến hành. Cuộc viễn chinh lần này nhằm đến Tunisia, Thập tự quân tấn công Tunis nhưng ngày 25 tháng 8 năm 1270, Louis IX chết ở gần Tunis vì bệnh dịch hạch. Sau đó đội quân của Louis IX cùng với đoàn Thập tự quân do hoàng tử Anh Edward tiếp tục tiến hành cuộc Thập tự chinh nhưng không đạt kết quả nào. Cuộc tấn công Tunis ngừng lại còn hoàng tử Edward dẫn quân tới Acre. Những hoạt động của đội quân do hoàng tử Edward chỉ huy trong những năm 1271 - 1272 có tài liệu gọi là Thập tự chinh thứ chín, có tài liệu lại ghép vào cùng với Thập tự chinh thứ tám. Trong hai năm này, hoàng tử Edward cũng không đạt được kết quả nào đáng kể cho đến khi ông đình chiến và quay trở về Anh để kế thừa ngôi báu sau cái chết của nhà vua Henry III. Đây cũng là cuộc viễn chinh cuối cùng trong thời Trung Cổ của người Kitô giáo tới miền Đất Thánh. Năm 1289, Tripoli bị người Hồi giáo chiếm và tới năm 1291, khi Acre cũng rơi vào tay họ thì giai đoạn của các cuộc Thập tự chinh thời trung cổ kết thúc. === Thập tự chinh thứ chín 1271–1272 === === Thập tự chinh phía Bắc (Baltic và Đức) === === Các cuộc thập tự chinh khác === Ngoài những cuộc thập tự chinh tới miền Đất Thánh, một số hoạt động quân sự khác trong giai đoạn này cũng được gọi là Thập tự chinh như: chiến dịch quân sự chống lại giáo phái Albi ở vùng Languedoc, Pháp từ năm 1209 đến năm 1229; sự kiện thực hư lẫn lộn xảy ra năm 1212 khi hàng loạt trẻ em kéo tới Ý được gọi là Thập tự chinh của trẻ em; hay các hoạt động quân sự chống lại người Tarta, những cuộc hành binh đến Thụy Điển, vùng Balkan... cũng được coi là Thập tự chinh. == Các hiệp sĩ tham gia thập tự chinh == Ngay sau cuộc Thập tự chinh thứ nhất, các hiệp sĩ đã hình thành nên một tầng lớp mới, tầng lớp quân đội-tôn giáo. Những phẩm chất như sự cống hiến, kỷ luật và kinh nghiệm tu hành của họ được kết hợp vào mục đích quân sự của các cuộc thập tự chinh. Tầng lớp này cung cấp các đội bảo vệ vũ trang cho những đoàn hành hương về Đất Thánh, bảo vệ dân cư và trở nên rất cần thiết cho các vương triều phương Tây cũng như đóng vai trò quan trọng trong xã hội châu Âu thời kỳ đó. Hiệp sĩ dòng Đền (hay Hiệp sĩ Đền thờ; Tiếng Pháp: Ordre du Temple) do các hiệp sĩ Pháp thành lập đầu thế kỷ 12. Họ sống chung với nhau trong các khu nhà hoặc cộng đồng riêng và tôn chỉ là 3 lời thề tu sỹ: nghèo khó, thanh khiết và phục tùng. Họ tự ý thức trách nhiệm của mình trong việc bảo vệ Công quốc Jerusalem, đảm bảo sự an toàn cho các tuyến đường nối tây Âu với các Công quốc Thập tự quân. Các Hiệp sĩ Đền thờ cũng đảm nhận việc vận chuyển, bảo vệ tiền bạc rất cần thiết cho những cuộc thập tự chinh diễn ra liên tục và do vậy trở thành thể chế ngân hàng quan trọng nhất của thời đại. Năm 1321, các hoạt động của Hiệp sĩ Đền thờ bị Giáo hoàng ra lệnh cấm. Hiệp sĩ Cứu tế Thánh Gioan hay gọi ngắn gọn là Hiệp sĩ Cứu tế (Anh ngữ:Knights Hospitaller): do các hiệp sĩ ở Jerusalem thành lập vào khoảng năm 1103. Tuy quân số không đông bằng Hiệp sĩ Đền thờ nhưng họ đã giữ vai trò quan trọng trong công cuộc bảo vệ Công quốc Jerusalem trong suốt thời gian xảy ra những cuộc Thập tự chinh. Năm 1291, sau khi thành Acre thất thủ, tổng hành dinh của Hiệp sĩ Cứu tế dời đến Cộng hòa Síp rồi sau đó đến đảo Rhodes và cuối cùng là đảo Malta. Cùng với các hiệp sĩ ở Malta, họ cai trị hòn đảo này cho đến năm 1798 khi Napoléon Bonaparte chiếm Malta trên con đường chinh phục Ai Cập. Các hiệp sĩ trở thành Giai cấp tối cao (sovereign order) ở Malta và còn tồn tại đến ngày nay như một nhóm chuyên làm các công việc bác ái. Hiệp sĩ Giéc-man (tiếng Đức: Deutscher Orden): được thành lập vào khoảng năm 1190 ở Acre để bảo vệ các đoàn hành hương người Đức đến Palestine. Tổng hành dinh của họ sau được dời đến Venezia, rồi Transynvania năm 1211 và cuối cùng là đến Phổ năm 1299. Các Hiệp sĩ Giécman đã trở thành đội quân tiên phong của Đức mở rộng lãnh thổ về phía đông và chiếm được một vùng đất dọc theo biển Baltic. Năm 1525, trong phong trào cải cách tôn giáo ở châu Âu, Albert thành Brandenburg, một đại địa chủ theo học thuyết của Martin Luther đã nắm quyền kiểm soát ở đây và giải trừ quyền hành của tầng lớp Hiệp sĩ Giécman. == Dấu ấn của Thập tự chinh == Hai lực lượng chính đối đầu nhau trong những cuộc thập tự chinh là những người Kitô giáo và Hồi giáo có quan điểm đánh giá rất khác nhau về những cuộc Thập tự chinh. Đối với phương Tây, Thập tự chinh là những cuộc viễn chinh mạo hiểm nhưng anh hùng, những người tham gia thập tự chinh, dù rất nhiều trong số họ đã bỏ mình nơi chiến địa được xem là tiêu biểu cho sự dũng cảm và tinh thần hiệp sĩ. Richard Sư tử tâm được xem là vị vua đắc thủ tất cả những đức tính của một hiệp sĩ kiểu mẫu - gan dạ, thiện chiến, phong độ uy nghi, ngay cả sự nhạy bén để soạn những bài ca trữ tình của giới ca sĩ hát rong.. Louis IX, vị vua đã băng hà trong cuộc Thập tự chinh ở Tunisia, với đức tính ngoan đạo, khổ hạnh cũng như công lý mà ông đem lại cho nền quân chủ Pháp thậm chí trong suốt cuộc đời mình, vua Louis đã được xem là bậc thánh.. Cao lớn, đẹp trai, lịch thiệp và quả cảm, vua Friedrich I Barbarossa, cũng giống như vị vua trước đó là Charlemagne, đã giành được vị trí lâu dài trong ký ức và huyền thoại của thần dân.. Godfrey xứ Bouillon, với chiến công cùng với một nhóm hiệp sĩ của mình là những người đầu tiên vượt qua tường thành để xâm nhập Jerusalem và chiếm lại Đất Thánh trong cuộc vây hãm ở Thập tự chinh thứ nhất đã trở thành huyền thoại. Ông được người châu Âu thời ấy xếp vào một trong số Chín biểu tượng của tinh thần hiệp sĩ trong mọi thời đại, được ca ngợi trong những bản trường ca, một thể loại vốn phổ biến ở Pháp thời trung cổ. Cuộc tấn công Antioch cũng là chủ đề của bản Trường ca Antioch dài hơn 9.000 câu thơ. Những bài hát của ca sĩ hát rong ở khắp châu Âu ca ngợi những thủ lĩnh, những hiệp sĩ thập tự chinh và những mối tình lãng mạn của họ. Dấu ấn lịch sử của Thập tự chinh trong thế giới Hồi giáo không đậm nét bằng ở phương Tây mặc dù những vị vua Hồi giáo chống lại người Kitô giáo như Nur ad-Din,...đặc biệt là Saladin cũng rất được ngưỡng mộ và kính trọng. Đối với người Hồi giáo, Thập tự chinh là những sự kiện đầy tàn bạo và dã man và những cuộc chiến đấu của họ chống lại Thập tự quân được gọi là Thánh chiến. == Ảnh hưởng của Thập tự chinh == Mặc dù các cuộc Thập tự chinh không tạo ra sự hiện diện thường xuyên và vững chắc của phương Tây tại Tiểu Á nhưng sự tiếp xúc giữa văn hóa phương Đông và phương Tây đã có ảnh hưởng mạnh mẽ đến hai nền văn hóa này. Kỹ thuật quân sự: sau những cuộc Thập tự chinh đầu tiên, Thập tự quân đã phải tiến hành các chiến dịch phòng thủ quy mô lớn ở những tiền đồn xa xôi và điều này khiến cho kỹ thuật phòng vệ, đặc biệt là kỹ thuật xây dựng lâu đài phát triển. Các lâu đài có thiết kế công sự tháp treo để thuận lợi cho việc bắn vũ khí, ném gỗ, đá, dầu... vào những người tấn công; lối vào lâu đài được bố trí các góc, tường ngăn không cho đối phương công phá trực tiếp. Các lâu đài Hồi giáo cũng có bước phát triển tương tự. Cùng với kỹ thuật phòng thủ, các phương tiện công thành như máy bắn đá, máy phá thành bằng những khúc gỗ lớn...trở nên tinh vi và hiệu quả hơn; các kỹ thuật đào đất, đặt chất nổ...cũng có bước phát triển. Kinh tế: mặc dù không có số liệu thống kê tin cậy về thu nhập cũng như phí tổn của các cuộc Thập tự chinh nhưng chắc chắn rằng chúng rất tốn kém, đặc biệt là đối với phương Tây do họ phải tiến hành viễn chinh. Chiến tranh đã làm cạn kiệt dần nguồn lực của phương Tây dẫn đến phải áp dụng thuế ở mức độ cao. Để tài trợ cho Thập tự chinh thứ ba, năm 1188, với sự cho phép của Giáo hoàng, các vương công đã đánh thuế trực thu 10% trên thu nhập của tất cả tu sỹ và người dân có thu nhập gọi là Thuế thập phân Saladin. Thuế cũng kéo theo sự phát triển của các kỹ thuật quản lý, thu thuế, chuyển tiền...Mặt khác, Thập tự chinh kích thích thương mại giữa phương Đông và phương Tây: các sản phẩm như đường, gia vị,... từ phương Đông được buôn bán rất mạnh; các mặt hàng xa xỉ như vải lụa...cũng được phát triển sản xuất ngay tại châu Âu. Các cuộc thăm dò: Thập tự chinh đã kích thích những cuộc thăm dò của người phương Tây đến những nền văn hóa phương Đông. Khởi phát là các công quốc có Thập tự quân, các tu sỹ rồi đến thương gia; họ đã thâm nhập sâu vào lục địa châu Á và đầu thế kỷ 13 đã đến Trung Hoa. Những chuyến đi của họ, đặc biệt là của Marco Polo đã cung cấp cho châu Âu nguồn thông tin đa dạng và quý báu về Đông Á, tạo tiền đề cho những nhà hàng hải tìm kiếm các lộ trình mới để buôn bán với Trung Hoa vào cuối thế kỷ 15 và thế kỷ 16. Khát vọng thăm dò, chiếm đoạt các nền văn hóa khác, và mở rộng Kitô giáo là một phần mà các cuộc Thập tự chinh đã truyền cảm hứng cho chủ nghĩa đế quốc sau này.. Chính trị: Văn hóa: == Chú thích == == Tham khảo == Mortinmer Chambers, Barbara Hanawalt, David Herlihy, Theodore Rabb K., Isser Woloch, Raymond Grew - Lịch sử văn minh phương Tây, Nhà xuất bản Văn hóa - Thông tin (2004) Atwood, Christopher P. (2004). The Encyclopedia of Mongolia and the Mongol Empire. Facts on File, Inc. ISBN 0-8160-4671-9. Erdmann, Carl, The Origin of the Idea of Crusade, trans. M. W. Baldwin & Walter Goffart, in English (Princeton, 1977). Original work in German, Die Enstehung des Kreuzzugsgedanken, Forschungen zur Kirchen- und Geistesgeschichte 6 (Stuttgart, 1935). The Encyclopedia of World History. 2001 The Crusades == Xem thêm == Jerusalem Đế quốc Byzantine == Liên kết ngoài == Biên niên về các cuộc Thập tự chinh (tiếng Anh) E.L. Skip Knox, The Crusades, a virtual college course through Boise State University. Crusades: A Guide to Online Resources, Paul Crawford, 1999. The Society for the Study of the Crusades and the Latin East—an international organization of professional Crusade scholars De Re Militari: The Society for Medieval Military History—contains articles and primary sources related to the Crusades Resources > Medieval Jewish History > The Crusades The Jewish History Resource Center - Project of the Dinur Center for Research in Jewish History, The Hebrew University of Jerusalem The Crusades Encyclopedia - articles, primary and secondary sources, and bibliographies An Islamic View of the Battlefield an article that provides indepth analysis of the theological basis of human wars A History of the Crusades A History Of The Crusades by Terry Jones The Crusades Wiki
bóng bàn.txt
Bóng bàn, tiếng Anh là table tennis còn được gọi là ping pong, là một trong những môn thể thao phổ biến nhất trên thế giới. == Giới thiệu == Bóng bàn là một thể thao có 2 bên chơi; 1 hoặc 2 người bên này đánh một trái banh trên bàn bóng qua lại với 1 hoặc 2 người phía bên kia, mỗi người dùng một cây vợt, gần giống như chơi quần vợt. Luật chơi bóng bàn khác với quần vợt nhưng những khái niệm cơ bản thì giống nhau. Bóng bàn là môn thi đấu tại Thế vận hội. Cách xoáy bóng, tốc độ và chiến thuật khi chơi là những yếu tố quan trọng khi thi đấu bóng bàn. Tốc độ của trái banh có thể khác nhau, từ đi chậm nhưng xoáy nhiều đến rất nhanh có khi hơn 110 km/h. Kích thước bàn bóng cỡ 2,7 m × 1,5 m × 0,762 m (9 ft × 5 ft × 30 in), mặt bàn hình chữ nhật cứng, bề mặt có thể có màu xanh lá cây, xanh nước biển, hoặc đen. Một cái lưới ở giữa chia mặt bàn ra thành hai phần bằng nhau (rất giống sân quần vợt) và được căng để đạt tới 15,2 cm (6 in) trên mặt bàn. Bóng bàn đòi hỏi phải có một căn phòng đủ rộng để người chơi có thể di chuyển thoải mái. Trong những cuộc thi đấu quốc tế, Liên đoàn Bóng bàn Thế giới yêu cầu một diện tích không ít hơn 14 m (46 ft) chiều dài, 7 m (23 ft) chiều rộng và 5 m (16 ft) chiều cao. Bốn góc thì có thể được che phủ bởi bề mặt không dài quá 1,5 m (5 ft). Cây vợt thì thường dài khoảng 10 in, với bề mặt dùng để đánh bóng xấp xỉ 15,8 cm × 15,8 cm (6 in × 6 in), mặc dù luật thi đấu không giới hạn kích thước hay hình dạng. Những cây vợt hiện đại thường có một lớp cao su mỏng phủ lên bề mặt cây vợt. Lớp cao su này có thể có những điểm lấm chấm và những điểm này có thể ở mặt trước hay mặt sau, làm cho lớp mỏng đó trở thành một miếng hút mỏng giữa miếng gỗ ở giữa và cao su ở bề mặt. Đánh xoáy bóng đóng một vai trò quan trọng trong bóng bàn hiện đại, miếng cao su và sự kết hợp giữa miếng hút và cao su được thiết kế để tăng khả năng xoáy và vận tốc mà người chơi có thể truyền cho trái bóng lên cao nhất. Quả bóng được dùng trong môn bóng bàn có đường kính 40+ mm, làm từ xen-lu-lô (cellulose),(trước năm 2015 là dùng loại bóng 40mm) hoàn toàn rỗng ruột và nhẹ bỗng, không mối nối. Số lượng ngôi sao trên trái banh thường có ý nói lên chất lượng của nó, về độ nảy cũng như độ tròn. Xoáy bóng kết hợp với tốc độ đã làm cho bóng bàn trở thành một thể thao thú vị kể cả để chơi và để xem. Sự khác nhau giữa trình độ Olympic và những người chơi tiêu khiển gia đình là rất lớn. Người chiến thắng là người đầu tiên đạt 11 điểm, và mỗi tay vợt luân phiên giao bóng sau mỗi 2 điểm. Khi điểm số là 10-10 thì sau mỗi điểm lại đổi giao bóng. Người thắng cuộc sẽ là người đầu tiên vượt hơn đối thủ của mình 2 điểm. Ván đấu 11 điểm là một sự thay đổi của Liên đoàn Bóng bàn Thế giới (ITTF) vào năm 2001. Ván đấu 21 điểm vẫn tồn tại rộng rãi trong những cuộc thi đấu giải trí. Tất cả các ván đấu ở cấp quốc gia và quốc tế đều là ván đấu 11 điểm. == Lịch sử == Bóng bàn có nguồn gốc từ nước Anh, vốn là một trò giải trí sau giờ ăn tối của giới thượng lưu dưới thời Nữ hoàng Victoria của thập niên 1880. Môn bóng bàn gắn liên với tên tuổi Kỹ sư Giêm Ghibơ (James Gibb). Từ năm 1889, ông đã cùng với những người trong gia đình dùng bàn ăn và những chiếc vợt bằng gỗ, quả bóng bằng lie để giải trí. Trò chơi này đã thu hút sự chú ý của công chúng nước Anh và Hãng Xenluloit (Celluloid) đã cùng tác giả hợp tác để sản xuất ra những quả bóng... Từ đó trò chơi đã có hiệu quả hơn. Việc sản xuất bóng bàn được thương mại hóa nhanh chóng và nó trở thành một môn thể thao được nhiều người ưa thích vì rẻ tiền mà tác dụng rèn luyện thì rất hiệu quả. Sự phổ biến của trò chơi này đã đưa đến việc các nhà sản xuất trò chơi điện tử (electronic game) bán những dụng cụ thi đấu nhằm mục đích thương mại. Âm thanh tạo ra trong lúc chơi các trò này được đặt cho các tên như "whiff whaff" và "ping pong". Cái tên Ping pong được sử dụng rộng rãi trước khi công ty J. Jaques & Son Ltd của Anh đăng ký bản quyền vào năm 1901. Cái tên ping pong từ đó được dùng cho những trận đấu sử dụng dụng cụ thi đấu Jaques rất đắt tiền. Một tình trạng tương tự xảy ra ở Hoa Kỳ nơi mà Jaques đã bán quyền sử dụng tên ping pong. Bóng bàn bắt đầu phát triển và phổ biến từ năm 1901 khi những cuộc đấu bóng bàn được tổ chức, những cuốn sách viết về bóng bàn bắt đầu xuất hiện, và một giải vô địch thế giới không chính thức được tổ chức vào năm 1902. Năm 1921 Tổ chức Bóng bàn được thành lập ở Anh, và Liên đoàn Bóng bàn Thế giới (ITTF) được thành lập tiếp theo năm 1926. London là chủ nhà đầu tiên của giải vô địch thế giới năm 1927. Bóng bàn được chính thức trở thành môn thi đấu ở Thế vận hội 1988. Đến cuối năm 2000, ITTF đã thay đổi một vài luật thi đấu. Đầu tiên, quả bóng cũ, đường kính 38 mm, được chính thức thay thế bằng quả bóng 40 mm. Điều này làm mở rộng sức cản không khí của quả bóng và giảm tốc độ trận đấu. Vào thời điểm đó, các tay vợt bắt đầu mở rộng độ dày của lớp cao sau dưới cây vợt, làm cho trận đấu sẽ trở nên nhanh hơn, và rất khó có thể coi được trên TV. Thứ hai, ITTF thay đổi từ hệ thống ván đấu 21 điểm xuống 11. ITTF cũng đổi luật giao bóng để tránh việc vận động viện giấu bóng trong khi giao để kéo dài độ dài đường bóng, và cũng để giảm bớt sự phụ thuộc vào việc giao bóng. == Thi đấu == === Bắt đầu một trận đấu === Ở những trận thi đấu cao, việc giao bóng được quyết định bằng tung đồng tiền cắc. Ở những trận đấu đẳng cấp thấp hơn, thì thường một vận động viên (hoặc trọng tài) giấu quả bóng vào một bàn tay nào đó (thường giấu dưới bàn) và để vận động viên kia đoán thử quả bóng ở trong tay nào, nếu đoán đúng sẽ được chọn quyền giao bóng trước, hoặc chọn bên bàn để thi đấu. Nếu một người thắng và chọn bên, thì người kia sẽ được quyền giao bóng. === Giao bóng === Khi thi đấu, 1 điểm được tính cho người đang giao bóng. Đứng sau cạnh bàn, với trái banh trong một tay và cây vợt trong tay kia, người giao bóng tung trái bóng lên, không được xoáy, tung thẳng đứng ít nhất 16 cm. Hoặc 5 giây mới chạm bóng Người giao bóng phải đánh vào trái bóng để nó nảy một lần ở nửa bàn của mình, và nảy ít nhất một lần ở nửa bàn của đối thủ. Nếu trái banh đụng lưới nhưng không không đập bên nửa bàn đối phương, 1 điểm sẽ thuộc về đối phương. Tuy nhiên, nếu trái banh đụng lưới, nhưng vẫn đi qua và nảy bên nửa bàn kia, trái banh sẽ phải giao lại. Từ khi bắt đầu quả giao bóng đến khi bóng được đánh đi, quả bóng phải ở phía trên mặt bàn và đằng sau đường biên cuối bàn của người giao bóng và bóng không được che khuất tầm nhìn của người đỡ giao bóng bằng bất kỳ một bộ phận nào trên cơ thể hoặc áo quần của người giao bóng hoặc của người cùng đánh đôi với đấu thủ này. Ngay sau khi quả bóng đã được đánh đi, cánh tay tự do của người giao bóng phải rời khỏi khoảng không gian giữa cơ thể của người giao bóng và lưới. Nếu giao bóng tốt, đối thủ sẽ phải trả lại bằng cách đánh trả lại quả bóng trước khi nó nảy thêm lần thứ hai. Đánh trả cú giao bóng là một trong những phần khó nhất của cuộc chơi, vì cú giao bóng đầu tiên rất khó đoán trước được. === Đổi giao bóng === Nếu phạm lỗi trong lúc giao bóng sẽ làm cho đối thủ kia được thưởng điểm. Đổi giao bóng sẽ diễn ra sau mỗi 2 điểm cho tới khi một tay vợt chiến thắng với 2 điểm cách biệt, hoặc tới khi đạt 10-10 ("deuce"), giao bóng sẽ đổi sau mỗi điểm. Trận đấu kéo dài đến 11 điểm và người chơi phải thắng với ít nhất 2 điểm cách biệt. Nếu đã đến "deuce", đổi giao bóng sau mỗi điểm cho đến khi trận đấu kết thúc khi có người chơi dẫn trước người kia 2 điểm. Khi gia đấu đôi, đổi giao bóng xảy ra sau mỗi 2 điểm giữa hai bên, nhưng cũng thay đổi giữa những tay vợt cùng bên. Ví dụ, tay vợt A giao bóng 2 lần sau đó đổi giao bóng cho đội đối phương, và tay vợt B (cùng đội với A) bước lên vị trí nhận banh đội kia giao. Sau 2 điểm ghi được do đội đối phương giao, B trở thành người giao bóng. Giao bóng tiếp tục xoay vòng giữa từng thành viên như thế cho đến hết trận. Việc giao bóng cũng thay đổi những người đỡ bóng giữa mỗi hiệp. Nếu tay vợt A của đội 1 giao bóng hiệp đầu cho tay vợt A trong đội 2 (A1-A2), hiệp tiếp theo tay vợt A của đội 1 giao cho tay vợt B của đội 2 (A1-B2). Trong ván đấu cũ 21 điểm, giao bóng được đổi sau 5 điểm. Nếu cả hai bên đều đạt tới 20 điểm, giao bóng lại đổi sau mỗi điểm cho đến khi một bên có 2 điểm vượt hơn bên kia. === Thi đấu === Thi đấu bóng bàn rất phổ biến ở châu Á và châu Âu và đang phát triển mạnh của Hoa Kỳ. Trong khi Trung Quốc đang tiếp tục vượt trội trong những danh hiệu quốc tế gần đây, Hồng Kông, Đài Loan, Nhật Bản, Hàn Quốc, Thuỵ Điển, Đức và Pháp cũng đang sản sinh ra nhiều lứa vận động viên đẳng cấp quốc tế. == Những tay vợt nổi tiếng == Một bảng những tay vợt nổi tiếng đã có ở trang web của ITTF (Lưu ý: thắng Grand Slam là thắng huy chương vàng Thế vận hội, trở thành vô địch thế giới và đoạt Cúp Thế giới - Hiện nay trên thế giới chỉ mới có ba người đạt danh hiệu Grand Slam). A. K. Vint (Anh) Angelica Rozeanu (România), vô địch thế giới 6 lần liên tiếp từ 1950-1955 Anna Sipos (Hungary) Bettine Vriesekoop (Hà Lan), vô địch châu Âu 1982 và 1992 Bohumil Vana (Tiệp Khắc) Cao Yanhua (Trung Hoa) Trang Trí Uyên (Đài Loan) Đặng Á Bình (Trung Quốc), 2 lần vô địch Thế vận hội đơn và đôi (1992 và 1996), 3 lần vô địch thế giới, 3 lần vô địch thế giới đôi Trần Cảnh Được (Việt Nam Cộng hòa) Desmond Douglas (Anh), tay vợt công nổi tiếng với những cú đập Ella Zeller (România) Ferenc Sido (Hungary) Frantisek Tokar (Tiệp Khắc) Eguchi Fujie (Nhật Bản) Fukuhara Ai(Nhật Bản) Ge Xinai (Trung Quốc) Gizi Farkas (Hungary) Guo Yuehua (Trung Quốc) H. Roy Evans (Wales) Ogimura Ichiro (Nhật Bản) Ivan Andreadis (Tiệp Khắc) Ivor Montagu (Anh) Jan-Ove Waldner (Thuỵ Điển), thắng grand slam đầu tiên năm 1992, vô địch thế giới 1997 và 1989, á quân thế giới 1987 và 1991, huy chương vàng đơn nam Thế vận hội 1992 tại Barcelona, huy chương bạc Thế vận hội 2000 tại Sydney, đứng vị trí thứ 4 Thế vận hội 2004 tại Athena (đánh bại Mã Lâm và Timo Boll), đoạt Cúp Thế giới 1990 Jean-Philippe Gatien (Pháp), huy chương bạc đơn nam Thế vận hội 1992, vô địch thế giới 1993 Jean-Michel Saive (Bỉ), á quân thế giới 1993, 12 tay vợt mạnh nhất châu Âu 1994, vô địch châu Âu 1994, á quân thế giới 1994 Jörgen Persson (Thuỵ Điển), vô địch thế giới 1991 Joo Se Hyuk (Hàn Quốc), á quân thế giới 2003 Kalinikos Kreanga (Hy Lạp) Khổng Lệnh Huy (Trung Quốc), (Kong Linghui), người thứ ba thắng Grand Slam năm 2000, vô địch thế giới 1995, á quân thế giới 2001, huy chương vàng đôi nam Thế vận hội 1996, huy chương bạc đôi nam Thế vận hội 2000, huy chưong vàng đơn nam Thế vận hội 2000, Cúp Thế giới 1995, á quân Cúp Thế giới 2002; Khổng Lệnh Huy có lối di chuyển chân tuyệt vời và độ dài trận đấu ngắn đi đã làm anh trở thành một trong những tay vợt giỏi nhất. Jiang Jialiang (Trung Quốc) Jimmy McClure (Hoa Kỳ) Johnny Leach (Anh) Matzusaki Kimiyo (Nhật Bản) Ladislav Stipek (Tiệp Khắc) Laszlo Bellak (Hungary) Lưu Quốc Lượng (Trung Quốc), (Liu Guoliang) người thứ hai thắng Grand Slam năm 1999, vô địch thế giới 1999, huy chương vàng đôi và đơn Thế vận hội 1996 Maria Mednyanszky (Hungary) Marie Kettnerova (Tiệp Khắc) Matthew Syed (Anh), một chuyên gia về phòng thủ, 3 lần vô địch Commonwealth Games Mã Long (Trung Quốc). (Ma Long), tay vợt số 1 thế giới Mã Lâm (Trung Quốc), (Ma Lin), á quân thế giới 1999 và 2005, huy chương vàng đôi nam Thế vận hội 2004, Cúp Thế giơí trong các năm 2000, 2003, 2004 và 2006. Người duy nhất giành nhiều hơn 2 cup đơn thế giới (4 cup). Michael Maze (Đan Mạch), hạng 3 thế giới 2005, huy chương đồng đôi nam Thế vận hội 2004, thắng Euro Top 12 năm 2004 Miklos Szabados (Hungary) Hasegawa Nobuhiko (Nhật Bản) Peter Karlsson (Thuỵ Điển) Richard Bergmann (Áo) Stephen Kelen (Hungary) Timo Boll (Đức), vô địch thế giới 2002 và 2005, thắng Euro Top 12 2002 và 2003, vô địch châu Âu 2002 Vladimir Samsonov (Belarus), 3 lần vô địch châu Âu, 2 lần vô địch thế giới, 3 lần thắng Euro Top 12 Toshiaki Tanaka (Nhật Bản) Vera Votrubcova (Tiệp Khắc) Victor Barna (Hungary và Anh), 5 lần vô địch đơn và 7 lần vô địch đôi vào thập niên 1930 Vương Lệ Cần (Trung Quốc), (Wang Liqin), vô địch thế giới 2001 và 2005, huy chương vàng đôi nam Thế vận hội 2000, huy chương đồng Thế vận hội 2004, á quân Cúp Thế giới 2001 Vương Nam (Trung Quốc), vô địch đơn nữ Thế vận hội 2000, 3 lần vô địch thế giới Wang Tao (Trung Hoa) Werner Schlager (Áo), vô địch thế giới 2003, hạng 3 thế giới 1999, á quân Cúp Thế giới 1999, vô địch châu Âu 2000 Zhang Xielin (Trung Hoa) Trương Di Ninh (Trung Quốc) Zoltan Mechlovitz (Hungary) Zoran Primorac (Croatia), vô địch thế giới 1993 và 1997, á quân châu Âu 1998 và 2000 == Tổ chức == Liên đoàn bóng bàn thế giới (ITTF): http://ittf.com Liên đoàn bóng bàn Hoa Kỳ Tổ chức bóng bàn các trường đại học quốc gia Hoa Kỳ (NCTTA) Liên đoàn bóng bàn châu Á (ATTU) == Bóng bàn Việt Nam == Trước năm 1975, bóng bàn Việt Nam Cộng hoà đã từng giành giải vô địch châu Á năm 1957 (tại Manila, Philippines) và 1958 (tại Tokyo) với Mai Văn Hòa, Lê Văn Tiết, Trần Cảnh Được, Trần Văn Liệu.., và luôn đứng đầu khu vực Đông Nam Á trong những năm 1960-1969. Năm 1953 tại Tokyo, Nhật Bản, đội tuyển của Quốc gia Việt Nam gồm Trần Cảnh Được, Mai Văn Hòa và Nguyễn Kim Hằng đoạt giải đơn nam (huy chương vàng Mai Văn Hòa), đôi nam (huy chương vàng Trần Cảnh Được và Mai Văn Hòa), và toàn đội (huy chương bạc). Năm 1955 tại Singapore Giải Á châu Trần Cảnh Được và Mai Văn Hòa thắng huy chương bạc đôi nam. Năm 1957 tại Manila, Philippines tranh giải Á châu, đội tuyển của Việt Nam Cộng hòa thắng huy chương vàng toàn đội (Trần Cảnh Được, Mai Văn Hòa, Trần Văn Liễu) và huy chương vàng đôi nam (Trần Cảnh Được và Mai Văn Hòa). Năm 1958 trong Á Vận Hội tại Nhật Bản, đội tuyển Việt Nam Cộng hòa đoạt huy chương vàng toàn đội (Trần Cảnh Được, Mai Văn Hòa, Lê Văn Tiết). Năm 1959, tại Giải vô địch thế giới ở Dortmund, Tây Đức, đội tuyển nam Việt Nam Cộng hoà xếp hạng 3 thế giới, đồng hạng với Trung Quốc. Cũng năm này tại Đông Nam Á Vận Hội đầu tiên tại Vọng Các, Thái Lan, đội tuyển Việt Nam Cộng hòa đoạt huy chương vàng toàn đội (Trần Cảnh Được, Trần Cảnh Đến, Huỳnh Văn Ngọc). Sau năm 1975, do chịu ảnh hưởng từ nhiều yếu tố mà bóng bàn Việt Nam không còn được quan tâm đào tạo như trước, nên đã trở nên yếu hơn rất nhiều và đang dần tụt hậu. Năm 1993, Việt Nam trở lại đấu trường khu vực, SEA Games 17 với mục tiêu học hỏi và đã giành được chiếc huy chương vàng đồng đội nữ (Trần Thu Hà và Nhan Vị Quân). Năm 1995, 1997, 1999, 2001 và 2003, bóng bàn Việt Nam giữ chức vô địch đơn nam Đông Nam Á tại các kì SEA Games, với lứa vận động viên Vũ Mạnh Cường, Trần Tuấn Quỳnh. Từ năm 2002 đến nay, với sự tiến bộ ngày càng mạnh mẽ của các tay vợt Indonesia, Philippines, Thái Lan, đồng thời với trào lưu nhập quốc tịch cho các vận động viên Trung Quốc - một cường quốc bóng bàn thế giới - của Singapore, Malaysia đã khiến cho bóng bàn Việt Nam gần như mất dần vị thế ngay cả ở đấu trường khu vực nhỏ nhất. Tại SEA Games 23 (Bacalod, Philippines), Singapore đã thống trị và Việt Nam ra về trắng tay. Năm 2004, khi Liên đoàn Bóng bàn Thế giới quyết định cấp cho vùng Đông Nam Á một suất tham dự Thế vận hội 2004 tại Athena, Đoàn Kiến Quốc đã xuất sắc vượt qua vòng loại khu vực để đặt chân lên đấu trường lớn nhất thế giới. Tuy nhiên đây là sân chơi quá tầm, Quốc đã thua ngay trận đầu tiên trước Yang Min (của Ý) 1-4. Hàng năm, khoảng tháng 7-8, luôn có giải bóng bàn Cây vợt vàng (Golden Racket) thu hút nhiều vận động viên tham dự. Tuy chưa đến tầm cỡ một giải Pro Tour của ITTF, nhưng nhiều tay vợt nổi tiếng cũng đã từng đến với Cây vợt vàng như Mã Lâm, Joo Se Hyuk... Đáng tiếc là các tay vợt Việt Nam hầu như chưa bao giờ giành được chiếc huy chương vàng đơn cả. Đây là giải đấu với mục đích học tập. Năm 1992, Cúp bóng bàn Thế giới cũng được tổ chức ở Thành phố Hồ Chí Minh. == Bên lề == Vận động viên thể thao đa tài Maxwell Woosnam, nhà vô địch quần vợt Olympic và Wimbledon, đã một lần khoác áo đội trưởng đội bóng quốc gia Anh, đã từng đánh bại diễn viên, đạo diễn phim Charlie Chaplin trong môn bóng bàn, khi họ chơi với một cái dao cắt bơ và không có lưới thi đấu. Trò chơi điện tử thương mại đầu tiên về bóng bàn, Pong, đã rất thành công. Vào đầu thập niên 1970, Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa đã mời nhiều tay vợt bóng bàn người Mỹ đến thi đấu ở Trung Quốc. Việc này đã làm tan băng mối quan hệ với Mỹ và sau đó Tổng thống Hoa Kỳ Richard Nixon đã qua thăm Trung Quốc. Các phương tiện thông tin đại chúng cũng vì thế mà gọi cuộc viếng thăm này là "Ngoại giao bóng bàn" (Ping Pong Diplomacy). Năm 1936 tại Giải vô địch Thế giới ở Praha, hai tay vợt đã thi đấu hơn 1 tiếng đồng hồ chỉ để giành 1 điểm. Luật pháp Liên Xô đã từng cấm môn thể thao này vì cho rằng nó sẽ làm hư mắt. Các vận động viên bóng bàn đẳng cấp thế giới có thể tạo ra sức xoáy 9000 vòng/phút trên quả bóng. == Chú thích == == Tham khảo == == Liên kết ngoài == Bóng bàn tại Từ điển bách khoa Việt Nam Table tennis (Sport) tại Encyclopædia Britannica (tiếng Anh) Luật bóng bàn do Uỷ ban Thể dục thể thao Việt Nam công bố năm 2005 Luật bóng bàn bằng tiếng Anh do ITTF công bố
triều đại tudor.txt
Triều đại Tudor hoặc Nhà Tudor là một hoàng tộc châu Âu có nguồn gốc từ xứ Wales. Từ năm 1485 đến 1603, Nhà Tudor cai trị Vương quốc Anh và các lãnh thổ, trong đó có Lãnh địa Ireland, về sau là Vương quốc Ireland. Quân vương khởi nghiệp của Triều đại Tudor là Henry VII, một hậu duệ (về phía mẹ) của hoàng tộc Anh, Nhà Lancaster. Sau Chiến tranh Hoa Hồng, Nhà Lancaster không còn người kế vị, quyền lực chuyển sang Nhà Tudor. Henry xác lập uy tín của ông không chỉ là một ứng viên cho những người ủng hộ truyền thống Lancaster, mà còn cho những người bất đồng thuộc phe đối nghịch, Nhà York. Qua chiến trận, ông chiếm được ngai vàng, trở thành Vua Henry VII. Chiến thắng càng vững chắc hơn sau khi ông kết hôn với Elizabeth xứ York, cuộc hôn nhân được xem như là biểu tượng của sự thống nhất giữa các phe phái tranh chấp nay sống chung dưới triều đại mới. Nhà Tudor mở rộng lãnh thổ bằng cách sáp nhập xứ Wales và củng cố quyền cai trị trên Vương quốc Ireland. Họ cũng công bố danh hiệu truyền thống Vua nước Pháp dù không ai trong số họ thực thi quyền này, và dù Henry VIII từng gây chiến với Pháp để cố đòi lại danh hiệu ấy. Con gái ông, Mary I, đánh mất danh hiệu này vĩnh viễn sau khi để mất Calais về tay người Pháp trong năm 1558. Tổng cộng, Triều đại Tudor kéo dài hơn một thế kỷ với năm quân vương (nếu không kể Jane Grey thoái vị sau chín ngày). Henry VIII nối ngôi Henry VII, là người kế vị nam giới duy nhất còn sống đến tuổi trưởng thành. Năm 1603, Nhà Stuart nắm quyền khi quân vương sau cùng của Nhà Tudor, Elizabeth I, băng hà mà không có con. Chính những người thuộc Nhà Tudor lại không thích tên Tudor (bởi vì người Tudor đầu tiên có xuất thân thấp hèn), do đó tên Tudor không được sử dụng nhiều mãi cho đến cuối thế kỷ 18. Trong thời trị vì của triều đại Tudor, nước Anh chứng kiến những biến động chưa từng xảy ra trước đó. Năm quân vương thuộc Nhà Tudor đã đem đến những thay đổi triệt để mà ảnh hưởng của chúng trên đất nước này vẫn còn kéo dài cho đến ngày nay. Kể từ lúc Henry VII đăng quang năm 1485 cho đến khi Elizabeth băng hà năm 1603, định chế tôn giáo cũ đã bị xóa bỏ, những khu định cư ở Tân Thế giới được thiết lập, Lực lượng Hải quân Hoàng gia được hình thành và các cường quốc truyền thống ở Âu châu bị thách thức. == Xuất thân == Henry VII của Nhà Tudor, về họ mẹ, là hậu duệ của John Beaufort, một trong những con ngoại hôn của Hoàng tử John xứ Gaunt, Công tước Lancaster (con của Edward III của Anh) với người tình lâu năm của ông, Katherine Swynford. Chính thức thì hậu duệ con ngoại hôn của hoàng tộc Anh không có quyền kế vị, nhưng tình hình trở nên phức tạp khi Gaunt và Swynford sau cùng cũng kết hôn với nhau vào năm 1396, lúc ấy John Beaufort đã 25 tuổi. Bởi một chỉ dụ của Giáo hoàng, giáo hội công bố Beaufort là con chính thức nhưng vẫn không được quyền kế vị. Tuy nhiên, nhà Beaufort là đồng minh thân cận với các hậu duệ chính thức của Gaunt trong cuộc hôn nhân đầu tiên, Hoàng tộc Lancaster. Cháu gái John Beaufort, Lady Margaret Beaufort, người có quyền kế vị, kết hôn với Edmund Tudor, Bá tước Richmond. Tudor là con trai quan cận thần Owen Tudor với Katherine Valois, Hoàng hậu của Vua Henry V thuộc nhà Lancaster (sau khi nhà vua băng hà). Edumund Tudor là con ngoại hôn, dù vậy nhờ thiện ý của Vua Henry VI mà họ được hưởng tài sản. Ngày 15 tháng 12 năm 1449, Edmund trở thành Bá tước Richmond rồi kết hôn với Margaret Beaufort, chắt của John of Gaunt, tổ tiên của dòng họ Lancaster. Edmund mất ngày 3 tháng 11 năm 1456. Ngày 28 tháng 11 năm 1457, vợ góa của Edmund, Margaret Beaufort, chỉ mới 14 tuổi, sinh một con trai, Henry Tudor, tại lâu đài Pembroke. Henry Tudor trải qua thời thơ ấu tại Lâu đài Raglan của Bá tước Pembroke, một nhân vật có nhiều ảnh hưởng ở York. Sau khi Henry VI và con trai, Edward, bị giết trong năm 1471, Henry trở thành trụ cột của nhà Lancaster. Henry được đưa đến sống ở Brittany thuộc Pháp vì lý do an ninh. Margaret ở lại Anh và tái hôn. Trong lúc thanh danh của Vua Richard III bị suy giảm, Margaret liên kết với những cư dân York bất mãn nhằm thành lập một liên minh ủng hộ con trai của bà. Hai năm sau khi Richard III đăng quang, Henry và Jasper dẫn quân đến Thủy lộ Milford Haven đánh bại Richard III trong trận Bosworth Field. Henry xưng vương trở thành Vua Henry VII. == Henry VII == Henry VII chấm dứt cuộc nội chiến tranh giành quyền lực, thành lập Vương triều Tudor, hiện đại hóa chính quyền và luật pháp nước Anh. Mối quan tâm hàng đầu của Henry VII là củng cố quyền lực. Ngày 18 tháng 1 năm 1486 tại Điện Westminster, nhà vua làm lễ cưới với Elizabeth xứ York. Hai người là anh em họ đời thứ ba, đều là chắt của John of Gaunt. Cuộc hôn phối đoàn kết hai gia tộc đang tranh chấp với nhau: Lancaster và York. Gia huy của Nhà Tudor là hoa hồng Tudor, một sự kết hợp giữa hoa hồng trắng của Nhà York với hoa hồng đỏ của Nhà Lancaster. Bốn người con của Henry và Elizabeth còn sống đến tuổi trưởng thành là Arthur, Hoàng tử xứ Wales; Henry, Công tước Richmond; Margaret, kết hôn với James IV của Scotland; và Mary, kết hôn với Louis XII của Pháp. Một trong những mục tiêu của Henry VII trong ngoại giao là củng cố vương triều thông qua các cuộc hôn nhân. Năm 1503, Ông gả Margaret cho James IV của Tô Cách Lan. Một trăm năm sau, hai vương quốc Anh và Tô Cách Lan thống nhất khi Elizabeth I, quân vương cuối cùng của Nhà Tudor băng hà mà không có con nối ngôi, James VI của Tô Cách Lan, hậu duệ của James IV và Margaret, là người thừa kế chính thức trở thành James I của vương quốc Anh thống nhất. Năm 1501, Henry VII cưới Catherine Aragon cho con trai cả Arthur để lập liên minh với hoàng tộc Tây Ban Nha. Song, chỉ bốn tháng sau đám cưới, Arthur qua đời, Henry trở thành người nối ngôi. Dù đã có được phép miễn trừ của giáo hoàng để Henry được phép cưới góa phụ của anh trai, Henry VII vẫn chần chừ. Henry VII không muốn dấn sâu vào chính trường châu Âu. Ông chỉ để mình vướng vào hai cuộc chiến, một là vào năm 1489 trong đợt khủng hoảng Breton và cuộc xâm lăng Brittany, lần kia từ năm 1496-97 nhằm trả đũa Scotland khi nước này ủng hộ Perkin Warbeck và xâm lấn phía bắc nước Anh. Năm 1492, Henry VII ký hòa ước với Pháp và, do cuộc nổi loạn năm 1497, ông quyết định chấm dứt chiến tranh với Scotland. Năm 1502, Henry ký hòa ước với James IV dọn đường cho cuộc hôn nhân của James với con gái ông, Margaret. Một mối quan tâm khác của Henry VII là tìm cách gia tăng ngân sách hoàng gia. Trong thời trị vì của Henry VII, Anh trở thành một trong những quốc gia giàu có nhất Âu châu. Ngày 21 tháng 4 năm 1509, Henry VII mất vì bệnh lao phổi, để lại cho con trai, Henry VIII, một triều chính ổn định, một chính phủ linh hoạt, một đất nước phồn vinh và đoàn kết. == Henry VIII == Là một trong những quân vương nổi tiếng nhất trong lịch sử nước Anh, Henry VIII kết hôn sáu lần, cắt đứt quan hệ với giáo hoàng ở Rô-ma, thành lập Giáo hội Anh, và khởi xướng cuộc cải cách tôn giáo. Ngày 11 tháng 6 năm 1509, Tân vương Henry VIII kết hôn với Catherine of Aragon; ngày 24 tháng 6 cùng năm, vua và hoàng hậu đăng quang tại Điện Westminster. Yếu tố Catherine, vợ góa của anh trai nhà vua, là điềm báo cho một cuộc hôn nhân đầy sóng gió ngay từ lúc khởi đầu. Lúc đầu, Henry chẳng mấy quan tâm đến chính sự nhưng buông mình chìm đắm trong cuộc sống xa hoa và dành đam mê cho các môn thể thao. Song, hai năm sau nhà vua khởi quan tâm đến các chiến lược quân sự, rồi chăm chú vào triều chính. Thời trẻ tuổi, Henry là người lịch thiệp, nhã nhặn trong các cuộc tranh luận, và thường tìm kiếm sự đồng thuận hơn là thích ra lệnh, được nhiều người xem như là một quân vương hào phóng, nhân hậu, và dễ gần. Tuy nhiên, hình ảnh của nhà vua lúc về già lại khác hẳn: béo phì, xốc nổi, và tàn độc. Catherine không thể có con trai như Henry mong đợi: con gái đầu chết lưu thai, kế tiếp là một con trai chết chỉ 52 ngày sau khi chào đời. Lại thêm một đứa bé chết lưu thai trước khi Mary ra đời năm 1516. Không có con trai để nối ngôi và sự chênh lệch tuổi tác, hoàng hậu lớn hơn nhà vua sáu tuổi, Henry sai Hồng y Thomas Wolsey đến Rô-ma để thuyết phục giáo hoàng cho phép hủy hôn – thời ấy ly dị đồng nghĩa với hủy hôn. Song, do áp lực dữ dội từ cháu của Catherine - Charles V, Hoàng đế Thánh chế La Mã, nhân vật quyền lực nhất châu Âu thời bấy giờ - giáo hoàng từ chối. Quốc hội Anh ban hành luật cắt đứt quan hệ với Rô-ma, tuyên bố nhà vua là Lãnh đạo Tối cao của Giáo hội Anh. Tân Tổng Giám mục Canterbury, Thomas Cranmer, tuyên bố hủy bỏ cuộc hôn nhân của Henry với Catherine. Henry cưới Anne Boleyn. Ngày 7 tháng 9 năm 1533, Anne hạ sinh một con gái, Elizabeth, đặt theo tên của bà nội. Tháng 5 năm 1536, Anne bị bắt giam, bị gán cho những tội danh như phản quốc, phép thuật, và loạn luân, rồi bị xử tử. Henry kết hôn lần thứ ba, lần này với Jane Seymour. Năm 1537, Jane sinh một con trai, người kế vị Henry VIII năm 1547 để trở thành Vua Edward VI. Vài ngày sau khi sinh, Jane qua đời, Henry bị suy sụp. Cromwell thành công trong nỗ lực thống nhất Anh và xứ Wales. Năm 1540, do sự sắp đặt của Cromwell, Henry kết hôn với Anne of Cleves, con gái của một công tước Tin Lành người Đức. Cuộc hôn nhân chỉ kéo dài 7 tháng. Với sự đồng ý của Anne, Henry quyết định hủy hôn. Ngày 28 tháng 7 năm 1540, Cromwell bị chém đầu. Ngay sau đó Henry lại tái hôn. Lần cưới vợ thứ năm của Henry là với Catherine Howard, cháu gái của Thomas Howard, Công tước Norfolk. Howard hi vọng Catherine sẽ thuyết phục Henry đem nước Anh trở lại với Công giáo. Henry gọi Catherine là “bông hồng không gai”, nhưng hôn nhân này là một thất bại. Catherine dan díu với Thomas Culpeper, một cận thần của Henry. Catherine bị xử tử ngày 13 tháng 2 năm 1542. Năm 1543, Henry kết hôn với Catherine Parr, một tín hữu Kháng Cách. Bà suýt bị cầm tù vì cố giới thiệu với Henry giáo lý Lutheran khi chăm sóc nhà vua trên giường bệnh. Catherine Parr giúp Henry hòa giải với hai cô con gái, Mary và Elizabeth. Bà cũng tạo lập một mối quan hệ tốt đẹp với thái tử Edward. Trong khi đó, Edward hấp thụ nền giáo dục Kháng Cách từ những giáo thụ như Giám mục Richard Cox, John Belmain, và Sir John Cheke. Những phụ nữ có nhiệm vụ chăm sóc Edward như Blanche Herbert, Lady Troy, đều là tín hữu Kháng Cách. Mặc dù động lực chính thúc đẩy mọi hoạt động của Henry là vì quyền lợi của vương triều và những tham vọng cá nhân, và dù chưa bao giờ chối bỏ các giáo lý căn bản của Giáo hội Công giáo, thời trị vì của Henry đã tạo nên bước ngoặt quan trọng trong lịch sử vương quyền Anh. Quyết định của Henry tách khỏi Rô-ma trong những năm 1533 – 1534 đã có hệ quả lâu dài trên dòng chảy lịch sử, và không chỉ giới hạn trong những năm trị vì của triều đại Tudor, không chỉ là yếu tố thúc đẩy tiến trình chuyển đổi nước Anh trở thành một cường quốc mà còn tước bỏ quyền lực chính trị và kinh tế khỏi giáo hội để trao cho giới cầm quyền nước Anh thông qua việc truất hữu tài sản và đất đai của các tu viện – một biện pháp ngắn hạn nhưng có hiệu quả xã hội lâu dài. Từ 15 tàu chiến thừa kế từ vua cha, Henry VIII xây dựng lực lượng hải quân tới năm 1540 được 45 chiếc để có thể đối đầu với hải lực của Pháp và Tây Ban Nha. Henry VIII có công thiết lập mạng lưới bưu điện quốc gia phục vụ hoàng gia. Tất cả thị trấn trong nước đều phải dự bị ngựa để chuyển phát thư tín của triều đình. Đến năm 1635, vua Charles I mở rộng hệ thống này cho toàn dân – là sự khởi đầu của mạng lưới bưu chính cho đến ngày nay. Trong thời trị vì của Henry, quyền lợi quốc gia phát triển đáng kể, và nhà vua đã khá thành công trong nỗ lực biến nước Anh trở thành một thế lực quan trọng ở châu Âu dù phải chịu hao tốn nhiều tiền của. Henry VIII băng hà ngày 28 tháng 1 năm 1547, được an táng cạnh Jane Seymour trong Nhà nguyện St George tại Lâu đài Windsor. == Edward VI == Lên ngôi lúc chín tuổi và băng hà ở tuổi mười lăm, nhưng thời trị vì ngắn ngủi của Edward VI chứng kiến một giai đoạn khai mở trọn vẹn nền thần học Tin Lành ở nước Anh. Edward là con của Henry VIII với người vợ thứ ba, Jane Seymour, bà mất chỉ vài ngày sau khi sinh Edward. Là con hợp pháp duy nhất của Henry VIII (con của những bà vợ đã ly dị không được xem là hợp pháp), Edward nối ngôi cha khi mới chín tuổi. Mặc dù thông mình trước tuổi và được hưởng một nền giáo dục tinh hoa, Edward không có thể chất tốt. Henry VIII đã sắp đặt một hội đồng nhiếp chính, nhưng Edward Seymour, Công tước Somerset – bác của Edward – tiếm quyền và tự phong Lord Protector. Somerset và Thomas Cranmer muốn biến Anh Quốc trở thành một đất nước Kháng Cách. Mùa hè năm 1549 bùng nổ cuộc nổi dậy của nông dân tại West Country chống lại Sách Cầu nguyện chung mới vừa ban hành; trong khi đó, cuộc nổi dậy ở Norfolk chỉ nhằm phản kháng những bất công. Cùng lúc, Pháp tuyên chiến với Anh. Sau khi trấn áp cuộc nổi dậy ở Norfolk, John Dudley, Bá tước Warwick, hạ bệ, cầm tù rồi xử tử Somerset. Dudley, trở thành Công tước Northumberland, cai trị đất nước. Cuộc cải cách tôn giáo được đẩy mạnh. Thomas Cranmer, Tổng Giám mục Canterbury, là người thiết kế cuộc cải cách tôn giáo, quảng bá nền thần học Kháng Cách, và ban hành Sách Cầu nguyện chung năm 1552, vẫn còn sử dụng cho đến ngày nay. Edward trở bệnh, Northumberland thuyết phục nhà vua ban hành luật kế vị mới, tuyên bố Mary là bất hợp pháp và truyền ngôi cho Lady Jane Grey, con dâu của Northumberland. Jane Grey là chắt của Henry VII. Chín ngày sau khi lên ngôi, Jane Grey bị lật đổ, rồi bị hành quyết sau bốn tháng giam giữ. Mary, con gái của Henry VIII với người vợ đầu, Catherine of Aragon, trở thành nữ hoàng nước Anh. == Mary I == Là nữ hoàng đầu tiên của nước Anh, Mary I bị gọi là “Mary khát máu” vì đã bách hại người Kháng Cách trong nỗ lực không thành cố phục hồi Công giáo trên đất nước này. Mary là con gái của Henry VIII và Catherine of Aragon. Sau khi Henry hủy hôn với Catherine, Mary bị tước bỏ danh hiệu công chúa và không được phép gặp cha mẹ. Năm 1553, Edward VI băng hà, Jane Grey nối ngôi. Song, với sự ủng hộ của dân chúng, Mary tiến vào Luân Đôn và phế truất Jane. Năm 1554, sau khi dẹp cuộc nổi dậy của Sir Thomas Wyatt, Mary kết hôn với Philip II của Tây Ban Nha, dụng tâm đem nước Anh trở lại với Công giáo, và phục hồi luật chống tà giáo. Những động thái này của nữ hoàng đều không được lòng dân. Dân Anh không tin cậy Philip vì ông là vua Tây Ban Nha, hơn nữa nhiều người ở Anh đang hưởng lợi nhờ chính sách của Henry VIII giải thể các tu viện cũng như thu hồi đất đai và tài sản của giáo hội. Trong vòng ba năm, hàng trăm người Kháng Cách bị đem lên giàn thiêu. Lại thêm thất bại trong chiến tranh khiến nước Anh mất Calais về tay người Pháp trong tháng 1 năm 1558. Không con cái, bệnh tật, và bị Philip bỏ rơi, Mary băng hà ngày 17 tháng 11 năm 1558. == Elizabeth I == Elizabeth I là một trong những quân vương vĩ đại nhất của nước Anh – có lẽ là người vĩ đại nhất. Hải quân của nữ hoàng đánh bại Armada của Tây Ban Nha và cứu nước Anh khỏi họa xâm lăng. Nữ hoàng củng cố đức tin Tin Lành và xây dựng đất nước trở thành một quốc gia độc lập và hùng cường. Sau khi Mary băng hà, em gái cùng cha khác mẹ của bà,Elizabeth, con gái của Anne Boleyn, trở thành nữ hoàng. Elizabeth đem nước Anh trở lại với đức tin Kháng Cách, nhưng nữ hoàng không áp đặt một chính sách tôn giáo nghiêm nhặt, tuyên bố rằng bà không muốn “săm soi vào linh hồn của thần dân”. Nữ hoàng quyết định không kết hôn bởi vì bà muốn nước Anh không bị các hoàng tộc nước ngoài chi phối cũng như muốn tránh sự phân hóa nội bộ vì những tranh chấp có thể xảy ra liên quan đến cuộc hôn nhân của nữ hoàng. Elizabeth có một tuổi thơ đầy khó khăn. Khi còn bé, mẹ cô bị xử tử theo lệnh của cha, cô bị tước bỏ quyền kế vị. Henry VIII thất vọng khi nghe tin con gái chào đời. Nhà vua khao khát có một con trai để duy trì dòng tộc Tudor. Khi mới hai tuổi rưỡi, mẹ của Elizabeth bị chém đầu theo lệnh của Henry. Sau khi cưới Jane Seymour, Henry tước bỏ danh hiệu công chúa của Elizabeth. Cô bị bỏ rơi cho đến khi người vợ cuối cùng của Henry, Catherine Parr nhận chăm sóc cô. Elizabeth được hưởng một nền giáo dục tốt nhất cũng như được học giả Cambridge, Roger Ascham, huấn luyện kỹ năng nói trước công chúng. Mười ba tuổi, Elizabeth đến sống với mẹ kế, Catherine Parr. Sau khi Henry mất, em trai cô, Edward, kế vị. Đến khi Edward VI băng hà năm 1553, chị cô, Mary I, lên ngôi. Mary tiến hành một cuộc thanh trừng đẫm máu nhằm loại bỏ người Kháng Cách. Sau một cuộc nổi dậy chống lại dự tính của Mary kết hôn với Philip của Tây Ban Nha, Elizabeth bị nghi ngờ có dính líu, giam giữ trong Tháp Luân Đôn rồi đưa về quản thúc ở Woodstock, Oxfordshire. Sau khi Mary mất, Elizabeth, 25 tuổi, lên ngôi. Thừa hưởng một đất nước tan tác vì tranh chấp tôn giáo, nữ hoàng biết rằng cần phải có sự ủng hộ của thần dân. Bà củng cố Giáo hội Anh, trở thành người lãnh đạo tối cao của giáo hội, ban hành Sách Cầu nguyện chung, và phổ biến Kinh Thánh bản tiếng Anh. Chống lại áp lực của Quốc hội, Elizabeth không chịu kết hôn, nói rằng phúc lợi của đất nước chứ không phải hôn nhân, là ưu tiên của bà. Thời trị vì của Elizabeth cũng là thời kỳ hoàng kim của nền kịch nghệ Anh. Luật được ban hành nhằm khuyến khích nghệ sĩ tham gia các đoàn lưu diễn, lúc đầu trong các kho vựa, về sau trong những hí viện. Nữ hoàng thích xem kịch. Đoàn kịch của Lord Chamberlain rất được yêu thích trong thập niên 1590 có sự tham gia của Shakespeare. Viễn kiến của nữ hoàng vượt quá biên giới châu Âu nhằm mở rộng giao thương và gia tăng ngân khố quốc gia. Năm 15809, Francis Drake là người Anh đầu tiên đi vòng quanh thế giới bằng thuyền. Tám năm sau, Sir Walter Raleigh, với 100 thủy thủ, thiết lập một khu thuộc địa ở bờ biển phía đông Bắc Mỹ, đặt tên Virginia nhằm vinh danh Elizabeth, “Nữ hoàng Đồng trinh”. Mary Stuart, em họ của Elizabeth, một giáo dân Công giáo, âm mưu lật đổ nữ hoàng. Sau nhiều tháng chần chừ vì không muốn xử tử một người thuộc hoàng tộc, Elizabeth buộc phải đồng ý để Mary bị xử chém đầu. Giáo hoàng thúc giục Philip của Tây Ban Nha cất quân xâm lấn nước Anh. Philip cử hạm đội lừng danh, Armada Tây Ban Nha, tấn công Anh. Tin quyết sẽ bảo vệ được vương quyền cùng gìn giữ nước Anh khỏi ảnh hưởng của Rô-ma, nữ hoàng nói với binh lính rằng bà sẽ chiến đấu bên cạnh họ. Đụng độ với hải lực Anh tại eo biển Manche rồi bị gió mạnh đánh dạt lên Bắc Hải, Armada rút về Tây Ban Nha, chỉ còn một nửa trong số 130 tàu chiến lúc xuất quân. Elizabeth băng hà năm 69 tuổi. Thần dân than khóc nữ hoàng, hàng ngàn người đổ ra đường phố Luân Đôn tiễn đưa bà trên lộ trình đến nơi an táng trong Điện Westminster. Elizabeth là quân vương cuối cùng của Nhà Tudor. James VI của Scotland được tôn làm vua, thống nhất Scotland với nước Anh. Nhà Tudor cai trị nước Anh được 118 năm. == Các Quân vương Triều đại Tudor == Có sáu quân vương thuộc Nhà Tudor: == Xem thêm == Nhà Bourbon == Chú thích == === Tham khảo === The Wars of the Roses: peace and conflict in fifteenth-century England This realm of England, 1399 to 1688 == Đọc thêm == Black, J. B. The Reign of Elizabeth: 1558-1603 (2nd ed. 1958) survey by leading scholar online edition Bridgen, Susan (2001). New Worlds, Lost Worlds: The Rule of the Tudors, 1485–1603. Cunningham, Sean. Henry VII (2007) Garvin, Katharine (ed). The Great Tudors. E.P. Dutton and Co. Inc., 1935. ISBN 0-8414-4503-6 Edwards, Philip. The Making of the Modern English State: 1460–1660 (2004) Guy, John. The Tudors: A Very Short Introduction (2010) Guy, John. Tudor England (1990) Kinney, Arthur F. and David W. Swain. Tudor England: An Encyclopedia. Garland, 2001. ISBN 0-8153-0793-4. Loades, David. Intrigue and Treason: The Tudor Court 1547–1558. Pearson Education Limited, 2004. ISBN 0-631-17163-0. Loades, David M. The Reign of Mary Tudor: Politics, Government & Religion in England, 1553–58 (1991) MacCaffrey Wallace T. Elizabeth I (1993) Mackie, J. D. The Earlier Tudors, 1485–1558 (1952) Neale, J. E. Queen Elizabeth I: A Biography (1934) Scarisbrick, J. J. Henry VIII (1968) Tittler, Robert and Norman Jones. A Companion to Tudor Britain. Blackwell Publishing, 2004. ISBN 0-631-23618-X. Wagner, John A. Historical Dictionary of the Elizabethan World: Britain, Ireland, Europe, and America (1999) online edition == Liên kết ngoài == Tudor Dynasty World History Database History lectures, essays and lectures by John Guy Tudor treasures from The National Archives Tudor Place Tudor History The Tudors on the official website of the British monarchy Tudor and Stuart family tree PDF ( 13.4 KiB) on the official website of the British monarchy Tudor History "The Tudor delusion": an article in The Times Literary Supplement by Clifford S. L. Davies, arguing that we are wrong even to talk about "the Tudors", ngày 11 tháng 6 năm 2008. The Family Tree of the Tudors and the Stuarts in Pictures
1801.txt
Năm 1801 (MDCCCI) là một năm thường bắt đầu vào thứ Năm trong lịch Gregory hay một năm thường bắt đầu vào thứ Ba của lịch Julius chậm hơn 12 ngày. == Sự kiện == === Tháng 1 === 1 tháng 1 - liên hiệp lập pháp của Đảo Anh và Ireland đã hoàn tất theo Đạo luật liên hiệp năm 1800, dẫn đến Vương quốc liên hiệp Anh và Bắc Ireland. === Tháng 2 === 27 tháng 2: trận Thi Nại. === Tháng 5 === 3 tháng 5: Nguyễn Ánh đánh chiếm Phú Xuân. == Sinh == == Mất == Laurent André Barisy Nguyễn Phúc Cảnh Võ Tánh == Chú thích ==
iowa.txt
Iowa (có thể phát âm như "Ai-ô-òa" ) là một tiểu bang thuộc miền Trung Tây Hoa Kỳ. Iowa giáp với Minnesota về phía bắc, Nebraska và Nam Dakota về phía tây, Missouri về phía nam, và Wisconsin và Illinois về phía đông. Nó có hai tên hiệu là "Tiểu bang Ngô cao" (The Tall Corn State) và "Tiểu bang Hawkeye" (The Hawkeye State) theo tên Black Hawk. Ðây là nơi sinh của Tổng thống Herbert Hoover (tại West Branch). == Địa lý == Sông Mississippi là đường biên giới phía đông của tiểu bang. Ranh giới bên tây gồm sông Missouri từ Thành phố Sioux trở về phía nam và sông Big Sioux trở về phía bắc. Có vài hồ tự nhiên ở tiểu bang này, nổi tiếng nhất là hồ Linh hồn (Spirit Lake), hồ Tây Okoboji, và hồ Đông Okoboji vào miền tây bắc của Iowa (xem Iowa Great Lakes). Các hồ nhân tạo bao gồm hồ Odessa, hồ Saylorville, hồ Đá đỏ (Lake Red Rock), và hồ Rathbun. Địa hình của tiểu bang là đồng bằng đồi nhỏ. Những đồi hoàng thổ nằm trên đường biên giới tây của tiểu bang. Vài trong những đồi này dày đến vài trăm foot. Vào miền đông bắc theo sông Mississippi có một phần của Đới Phi đất bồi, ở đấy đất có những đồi gồ ghề thấp có cây tùng bách – loại đất bất thường trong Idaho. Nơi thấp nhất là Keokuk ở miền đông nam Iowa, có độ cao 146 mét (480 foot). Nơi cao nhất, cao 509 m (1.670 foot), là đỉnh Hawkeye, nằm ở trại nuôi súc vật về phía bắc của Sibley vào miền tây bắc của Iowa. Độ cao trung bình của tiểu bang là 335 m (1.099 foot). Tiểu bang trải qua 145.743 km² (56.271 dặm vuông), tức là độ cao chỉ thay đổi tí. Iowa có 99 quận. Thủ đô là Des Moines, thuộc về Quận Polk. Các vùng dưới quyền Dịch vụ Vườn Quốc gia bao gồm: Khu kỷ niệm Quốc gia Effigy Mounds (Effigy Mounds National Monument) gần Harpers Ferry Khu lưu niệm Quốc gia Herbert Hoover tại West Branch Đường lịch sử Quốc gia Lewis và Clark Đường lịch sử Quốc gia Nhà thám hiểm Mormon (Mormon Pioneer National Historic Trail) === Các thành phố quan trọng === Các thống kê dân số trong ngoặc đơn dựa trên số ước lược năm 2004, trừ các số có dấu *, những con số đó được lấy từ cuộc điều tra dân số đặc biệt năm 2005. Các số khu vực thống kê đô thị được ước lượng năm 2005. Các khu vực đô thị hơn 100.000 người: Des Moines (194.311 / MSA 522.454), thủ phủ Cedar Rapids (122.206 / MSA 246.412) Davenport (98.355 / MSA 376.309), vị trí của Đại học Thánh Ambrose và thành phố lớn nhất của nhóm Quad Cities Thành phố Sioux (Sioux City; 83.680 / MSA 142.571) Waterloo (66.767 / MSA 161.897) Thành phố Iowa (63.027 / MSA 138.524), vị trí của Đại học Iowa Council Bluffs (59.347 / MSA 813.170), thuộc về khu vực đô thị Omaha, Nebraska Các thành phố hơn 10.000 người: Dubuque (57.504 / MSA 91.631), thị trấn đại học, trung tâm sản xuất, và cảng trên sông Ames (52.319 / MSA 79.952), vị trí của Đại học Tiểu bang Iowa Tây Des Moines (*51.744), ngoại ô Des Moines và trung tâm bảo hiểm Cedar Falls (36.343), vị trí của Đại học Bắc Iowa và thuộc khu vực đô thị Waterloo Ankeny (*36.161), ngoại ô Des Moines Urbandale (*35.904), ngoại ô Des Moines Bettendorf (31.615), thuộc nhóm Quad Cities Marion (29.825), ngoại ô Cedar Rapids Thành phố Mason (28.177), thành phố nổi tiếng về sản xuất xi măng Clinton (27.319), thị trấn công nghiệp trên bờ sông Marshalltown (26.057), vị trí của Nhà Cựu chiến binh Iowa (Iowa Veterans Home) và nổi tiếng về sản xuất lò sưởi và van Fort Dodge (25.723), nổi tiếng về thuốc cho thợ mỏ và thú vật Burlington (25.579), thị trấn công nghiệp trên bờ sông Ottumwa (24.680), thị trấn công nghiệp trên bờ sông Muscatine (22.713), vị trí của nhiều nhà máy hóa học Coralville (17.528), ngoại ô Thành phố Iowa Newton (15.696), vị trí của tổng hành dinh Công ty Maytag Clive (13.598), ngoại ô Des Moines Johnston (*13.596), ngoại ô Des Moines Boone (12.856), trung tâm quan trọng của Đường sắt Union Pacific Altoona (12.107), ngoại ô Des Moines Spencer (11.063) Oskaloosa (10.945), vị trí của Đại học William Penn Fort Madison (10.944), vị trí của Nhà tù Tiểu bang Iowa Keokuk (10.845), cảng trên sông ở miền xa đông nam Pella (10.182), vị trí của tổng hành dinh Pella Windows, Đại học Trung ương (Central College), nhà của Wyatt Earp khi còn nhỏ, và Tulip Fest == Chú thích == == Liên kết ngoài == Website chính thức của Tiểu bang Iowa (tám ngôn ngữ) Bộ luật Iowa – Đại hội đồng Iowa (tiếng Anh)
york.txt
York () là một thành phố ở North Yorkshire, Anh Quốc, nằm trên hợp lưu của các sông Ouse và Foss, Anh. Thành phố nổi tiếng về các di tích lịch sử phong phú như thành cổ, phố cổ và nhà thờ lớn York. Thành phố được người La Mã thành lập với tên Eboracum vào năm 71 trước Công nguyên và họ đã chọn đây làm thủ phủ của Britannia Inferior. Trong thời kỳ La Mã, nhiều nhân vật có ảnh hưởng lịch sử như Constantine Đại đế có mối liên hệ với thành phố này. Toàn bộ đế quốc La Mã được Septimius Severus cai trị từ thành phố York khi ông đóng quân ở đây trong vòng hai năm. Sau khi người Angles tiến vào thành phố, tên nó được đổi thành Eoforwic và được chọn làm kinh đô của vương quốc Northumbria. Những người Viking chiếm thành phố năm 866 và đổi tên thành Jórvík, kinh đô của một vương quốc rộng lớn hơn có cùng tên, với lãnh thổ ở phần lớn khu vực Bắc Anh. Sau khi người Norman xâm chiếm, tên dần dần chuyển thành "York", tên gọi được sử dụng lần đầu tiên vào thế kỷ 13. Vua Richard II mong muốn chọn York làm kinh đô nước Anh nhưng trước khi ông thực hiện ý tưởng này thì đã bị phế truất. Sau Chiến tranh các hoa hồng, York là nơi đóng trụ sở của Hội đồng phương Bắc. Chỉ sau khi nền quân chủ được khôi phục thì tầm quan trọng của thành phố bắt đầu suy giảm. Tỉnh York là một trong hai tỉnh Giáo hội tại Anh cùng với Canterbury. Từ năm 1996, thuật ngữ Thành phố York mô tả một Chính quyền đơn nhất của Anh bao gồm cả khu vực nông thôn bên ngoài ranh giới thành phố cũ. Khu vực đô thị có dân số 137.505 người còn toàn bộ khu vực thẩm quyền thống nhất có dân số 193.300 người. == Tham khảo ==
sông benue.txt
Sông Benue (tiếng Anh: Benue River, tiếng Pháp: la Bénoué), trước đây gọi là sông Chadda hay Tchadda, là một chi lưu chính của sông Niger. Sông Benue dài xấp xỉ 1.400 kilômét (870 mi) và tàu thuyền gần như đều có thể đi trên sông trong những tháng mùa hè. Do vậy, sông là một tuyến đường giao thông quan trọng tại những khu vực mà nó chảy qua. Sông Benue bắt nguồn từ cao nguyên Adamawa ở bắc bộ Cameroon, từ đây sông chảy về phía tây, qua đô thị Garoua và hồ chừa Lagdo, tiến vào Nigeria ở phía nam dãy núi Mandara, và qua Jimeta, Ibi và Makurdi trước khi gặp sông Niger tại Lokoja. Các chi lưu lớn nhất của sông Benue là sông Gongola và Mayo Kébbi- hết nối Benue với sông Logone (thuộc hệ thống sông đổ vào hồ Chad) trong các trận lũ. Các chi lưu khác là sông Taraba và sông Katsina Ala. Tại điểm hợp lưu, Benue vượt quá Niger nếu xét về dung tích (lưu lượng trung bình trước 1960: 3400 m³/s vs. 2500 m³/s). Trong các thập kỷ sau đó, lưu lượng của cả hai sông suy giảm đáng kể do các công trình thủy lợi. == Tham khảo == == Liên kết ngoài == Chisholm, Hugh biên tập (1911). “Benue”. Encyclopædia Britannica 3 (ấn bản 11). Nhà in Đại học Cambridge. \Bản mẫu:Cameroon-geo-stub Bản mẫu:Nigeria-geo-stub
tranh đông hồ.txt
Tranh Đông Hồ, hay tên đầy đủ là tranh khắc gỗ dân gian Đông Hồ, là một dòng tranh dân gian Việt Nam với xuất xứ từ làng Đông Hồ (xã Song Hồ, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh). Trước kia tranh được bán ra chủ yếu phục vụ cho dịp Tết Nguyên Đán, người dân nông thôn mua tranh về dán trên tường, hết năm lại lột bỏ, dùng tranh mới. Nghề làm tranh dân gian Đông Hồ là Di sản văn hóa phi vật thể cấp Quốc gia. Được sự đồng ý của Thủ tướng Chính phủ, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã phối hợp với Ủy ban Nhân dân tỉnh Bắc Ninh và các cơ quan chuyên môn tiến hành nghiên cứu, lập hồ sơ khoa học cho Nghề làm tranh dân gian Đông Hồ để đệ trình UNESCO đề nghị công nhận Di sản văn hóa phi vật thể. Thơ Tú Xương về tranh Đông Hồ ngày Tết có câu: Đì đoẹt ngoài sân tràng pháo chuột Loẹt lòe trên vách bức tranh gà == Giấy in và màu sắc của tranh Đông Hồ == Ngoài các đặc điểm về đường nét và bố cục, nét dân gian của tranh Đông Hồ còn nằm ở màu sắc và chất liệu giấy in. Giấy in tranh Đông Hồ được gọi là giấy điệp: người ta nghiền nát vỏ con điệp, một loại sò vỏ mỏng ở biển, trộn với hồ (hồ được nấu từ bột gạo tẻ, hoặc gạo nếp, có khi nấu bằng bột sắn - hồ dùng để quét nền tranh thường được nấu loãng từ bột gạo tẻ hoặc bột sắn, hồ nấu từ bột nếp thường dùng để dán) rồi dùng chổi lá thông quét lên mặt giấy dó. Chổi lá thông tạo nên những ganh chạy theo đường quét và vỏ điệp tự nhiên cho màu trắng với ánh lấp lánh những mảnh điệp nhỏ dưới ánh sáng, có thể pha thêm màu khác vào hồ trong quá trình làm giấy điệp. Màu sắc sử dụng trong tranh là màu tự nhiên từ cây cỏ như đen (than xoan hay than lá tre), xanh (gỉ đồng, lá chàm), vàng (hoa hòe), đỏ (sỏi son, gỗ vang), v.v. Đây là những màu khá cơ bản, không pha trộn và vì số lượng màu tương ứng với số bản khắc gỗ, nên thường thường tranh Đông Hồ chỉ dùng tới 4 màu mà thôi. == Những thay đổi đối với thời xưa == Tranh Đông Hồ khá gần gũi với đại đa số dân chúng Việt Nam, nhắc tới hầu như ai cũng đều biết cả. Tranh gần gũi còn vì hình ảnh của nó đã đi vào thơ, văn trong chương trình giáo dục phổ thông. Ngày nay lệ mua tranh Đông Hồ treo ngày Tết đã mai một, làng tranh cũng thay đổi nhiều: làng Đông Hồ ngày nay có thêm nghề làm vàng mã. Nghề giấy dó ở làng Yên Thái (Bưởi, Tây Hồ) cũng đã không còn. Tuy vậy, tranh Đông Hồ vẫn đóng vai trò như một di sản văn hóa, một dòng tranh dân gian không thể thiếu. Theo đánh giá của một số họa sĩ, tranh Đông Hồ in ở thời điểm hiện tại thường không có màu sắc thắm như tranh cổ, nguyên nhân là người ta trộn màu trắng vào điệp quét giấy để bớt lượng điệp khiến giấy mất độ óng ánh và trở nên "thường", màu sắc sử dụng cũng chuyển sang loại màu công nghiệp, các bản khắc mới có bản không được tinh tế như bản cổ. Một điểm đáng lưu ý khác nữa là một số bản khắc đã đục bỏ phần chữ Hán (hoặc chữ Nôm) bên cạnh phần hình của tranh khiến tranh ít nhiều bị què cụt về mặt ý nghĩa. Nguyên nhân dẫn tới tình trạng này ước đoán là: Thời sau năm 1945, chữ Hán và chữ Nôm bị chính quyền coi là phong kiến lạc hậu, liệt vào danh mục bài xích nên thợ in đục bỏ cho đỡ phiền nhiễu. Thế hệ sau này không phải ai cũng đọc và hiểu được các ký tự ấy nên tự ý bỏ đi. Cũng do không đọc hiểu được nên các ván khắc truyền lại "tam sao thất bản", đến mức còn lại các ký tự nhưng không đọc được ra chữ gì. Về nội dung tranh, lưu ý rằng có sự gần gũi nhất định giữa nội dung tranh khắc gỗ màu của Việt Nam với của Trung Quốc, có những tranh mà cả hai nước đều có, song tranh Đông Hồ phát triển thành một hướng riêng tồn tại nhiều thế kỷ và được thừa nhận như dòng tranh dân gian được biết đến nhiều nhất ở Việt Nam. == Làng tranh Đông Hồ == Làng tranh Đông Hồ xưa là làng nghề nổi tiếng về tranh dân gian, thuộc xã Song Hồ, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh cách Hà Nội chừng trên 35 km. Làng Đông Hồ (đôi khi dân địa phương chỉ gọi là làng Hồ) nằm trên bờ nam sông Đuống, cạnh bến đò Hồ, nay là cầu Hồ. Quanh năm rất nhiều khách du lịch trong ngoài nước đến làng tranh Đông Hồ thăm và mua tranh Đông Hồ làm kỷ niệm. Một số khách sạn, nhà hàng từ Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh cũng về đây đặt những bức tranh khổ lớn để trang trí cho cách phòng khách, hoặc phòng ăn lớn. Từ Hà Nội muốn đi Đông Hồ đường gần nhất du khách thường đi là xuôi theo đường Quốc lộ số 5 (đường đi Hải Phòng) đến ga Phú Thụy, cách Hà Nội chừng 15 km thì rẽ trái, đi chừng 18 km nữa, qua các địa danh khá nổi tiếng của huyện Gia Lâm (Hà Nội) như phố Sủi, chợ Keo, chợ Dâu (Thuận Thành-Bắc Ninh) là đến phố Hồ-huyện lỵ Thuận Thành. Rẽ trái thêm 2 km là đến làng Hồ. Cũng có thể đi hết phố Hồ, lên đê rẽ trái, gặp điếm canh đê thứ hai sẽ có biển chỉ dẫn đường xuống làng Đông Hồ. Làng Đông Hồ xưa còn gọi là làng Mái. Các cụ làng Đông Hồ vẫn truyền lại mấy câu ca rằng: Hỡi cô thắt lưng bao xanh Có về làng Mái với anh thì về Làng Mái có lịch có lề Có sông tắm mát có nghề làm tranh. Làng Đông Hồ nằm ngay sát bờ sông Đuống, ngày xưa chỉ cách sông một con đê, đó là ý trong câu "Có sông tắm mát có nghề làm tranh". Ngày nay, do sự bồi lấp của dòng sông nên từ đê ra đến mép nước giờ khá xa. Còn "làng Mái có lịch có lề" thì nghĩa là gì? Tục ngữ Việt Nam có câu: giấy rách phải giữ lấy lề. Chữ "lề" ở đây tượng trưng cho những quy tắc đạo đức của người xưa, rất trọng danh dự, khí tiết. Còn dân làng Mái, dân nghệ thuật rất trọng lời ăn tiếng nói. Không như nhiều làng quê khác, người dân làng Hồ, nhất là phụ nữ, ăn nói rất lịch lãm, trên dưới thưa gửi rất rõ ràng. Người làng kể rằng kể cả từ xưa, rất hiếm khi trong làng có tiếng người mắng chửi nhau. Do công nghệ phát triển, tranh dân gian làng Hồ bây giờ không tiêu thụ nhiều như trước. Qua nhiều thế kỷ, 17 dòng họ đã quy tụ về làng, vốn xưa tất cả đều làm tranh. Nhưng đến nay, dân làng Hồ hiện chủ yếu sống bằng nghề làm vàng mã. Hiện nay chỉ còn hai gia đình nghệ nhân Nguyễn Đăng Chế và Nguyễn Hữu Sam cùng con cháu là theo nghề tranh, gìn giữ di sản tranh Đông Hồ. Hàng năm làng Hồ có hội làng vào rằm tháng vào 3 âm lịch. Trong hội làng có những nghi thức truyền thống như tế thần, thi mã, thi tranh rất vui vẻ. Làng còn có các làn điệu dân ca như: Hỡi anh đi đường cái quan Dừng chân ngắm cảnh mà tan nỗi sầu Mua tờ tranh điệp tươi màu Mua đàn gà lợn thi nhau đẻ nhiều. == Hình ảnh == == Xem thêm == Tranh Hàng Trống Tranh thờ Đạo Giáo Mỹ thuật dân gian Việt Nam Khắc gỗ Tranh ghép Tranh ghép gốm, đá Tranh khắc gỗ Tranh Kim Hoàng Tranh làng Sình Tranh lụa == Tham khảo == == Liên kết ngoài == Tranh Đông Hồ Nghề làm tranh Đông Hồ là di sản quốc gia Tranh Đông Hồ đôi khi vẫn cần cho con người hiện đại Lập hồ sơ cho Nghề làm tranh Đông Hồ Tranh Đông Hồ trở thành di sản văn hóa phi vật thể quốc gia Chùm ảnh: Hồn Tết xưa trong tranh Đông Hồ, báo Giáo dục Việt Nam, 03/01/12
lịch sử campuchia.txt
== Các vương quốc đầu tiên == Người ta biết về nước Phù Nam trước hết là nhờ những ghi chép của thư tịch cổ Trung Hoa như Lương thư (sử nhà Lương 502-556) là đầy đủ hơn cả. "Nước Phù Nam ở phía Nam quận Nhật Nam, trong một vịnh lớn ở phía Tây biển. Nước cách Nhật Nam chừng 7.000 lý và cách Lâm Ấp hơn 3.000 lý về phía Tây Nam. Đô thành cách biển 500 lý. Một con sông lớn từ Tây Bắc chảy về phía Đông và đổ ra biển. Nước rộng hơn 3.000 lý. Đất thấp và bằng phẳng. Khí hậu và phong tục đại để giống Lâm Ấp". Tấn thư còn cho biết thêm: "Đất rộng 3.000 lý, có những thành phố xây tường, có lâu đài và nhà ở. Đàn ông Phù Nam xấu và đen, quấn tóc, ở truồng và đi chân không. Tính đơn giản và không trộm cắp. Họ chăm công việc nhà nông, gieo 1 năm gặt 3 năm. Họ thích trang trí bằng điêu khắc, chạm trổ; nộp thuế bằng vàng, bạc, hạt châu, hương liệu. Họ có sách vở, thư viện và nhiều vật khác. Chữ viết giống người Hồ. Ma chay cưới hỏi đại để giống Lâm Ấp". Theo truyền thuyết cổ được ghi chép lại bởi Khang Thái (Kang Tai), một quan lại Trung Hoa đã từng tới Phù Nam giữa thế kỷ thứ 3 thì xứ này do một người phụ nữ tên Liễu Diệp (Liu Yeh) cai trị. Sau đó một người nước ngoài tên là Hỗn Điền (Hun Tien), có thể là từ Ấn Độ, sang đã cưới Liễu Diệp và lập ra một triều đại tại đây. Theo các truyền thuyết địa phương thì vị ẩn sĩ Ấn Độ này tên là Kambu đã kết hôn với nữ thần Mera và con cháu của họ được gọi là Kambuja (con cháu của Kambu) và tên ghép của hai vợ chồng trở thành tên dân tộc là Kambu-Mera, Kmer hay Khmer. Thực sự thì Phù Nam là một quốc gia hỗn hợp gồm nhiều tộc người khác nhau, do một xứ Phù Nam chánh tông nắm địa vị tôn chủ và các tiểu quốc kia phải thần phục và cống nạp cho nó. Triều đại Phù Nam đầu tiên có 4 đời vua kế tiếp nhau là: Hỗn Điền Con Hỗn Điền (chưa rõ tên họ) Hỗn Bàn Huống Hỗn Bàn Bàn Tiếp đó một viên tướng khác lên ngôi, lập một triều đại khác bắt đầu là Phạm Sư Man (khoảng 220-280) Phạm Sư Man Phạm Chiêu Phạm Tràng Phạm Tầm Vào thế kỷ thứ 5 tài liệu Trung Hoa có nói tới một ông vua tên là Trì Lê Đà Bạt Ma ở ngôi từ 424-438 rồi tới Đồ Da Bạt Ma và Lưu Đà Bạt Ma. Thư tịch cổ còn nói tiếp sau đó nước Phù Nam bị một nước khác ở phía Bắc đánh bại (cuối thế kỷ thứ 6, giữa thế kỷ thứ 7). Phù Nam tới đây là dứt. == Vương quốc Chân Lạp == Nước đã đánh bại Phù Nam là Chân Lạp, một quốc gia do người Khmer sáng lập. Trung tâm của họ nằm ở Sae Mun (nay thuộc Thái Lan) và Champasack (nay thuộc Nam Lào). Quốc gia này do Bhavavarman sáng lập trong thế kỷ thứ 6, gọi là nước Bhavapura, tức Chân Lạp. Bhavavarman đã chấm dứt sự lệ thuộc Phù Nam. Sau khi ông mất, con ông là Mahendravarman lên kế ngôi và tấn công Phù Nam, buộc vua Phù Nam phải chạy trốn tới Naravana tức nước Chí Tôn (nay là Ba Thê, xã Vọng Thê, An Giang). Isanavarman kế ngôi Mahendravarman, tiếp tục tấn công "Với sức mạnh của mình đã vượt qua ranh giới lãnh thổ của Tổ tiên". Các vua thất trận đã bỏ chạy ra vùng hải đảo. Jayavarman I lật đổ Isanavarman để cai trị một lãnh thổ rộng lớn. Bia ký của ông được tìm thấy trên một vùng lãnh thổ bao gồm cả Sae Mun, Battambang, Seam Reap, Kompong Thom, Takeo, Prey Veng và Kampot. Sau khi đánh thắng Phù Nam, người Chân Lạp đã ồ ạt di cư xuống phía Nam. Họ đã dừng lại ở Takeo (cụm di tích Angkor Borey) và Prey Veng (cụm di tích Ba Phnom), trung lưu sông Mekong và Đông Bắc biển Hồ. Isanavarman đã xây dựng kinh đô Isanapura ở gần Kompong Thom. Theo Tùy thư của Trung Hoa thì nơi đây có tới 20.000 gia đình sinh sống. Ngoài ra vương quốc còn có 30 thành thị do các tổng đốc cai quản và quan tước cũng tựa như Lâm Ấp. == Thời kỳ khủng hoảng của Chân Lạp == Jayavarman qua đời năm 680. Hoàng hậu Jayadevi, nắm quyền trong khoảng 681-713, đã gây bất bình trong giới quý tộc và quan lại. Do những mâu thuẫn này mà năm 713, Puskaraksa đã truất phế bà và tự lên ngôi, lập kinh đô mới là Sambhupura ở gần Sambaur. Do sự biến này mà phần phía Bắc của vương quốc (tức nước Bhavapura cũ) tách ra khỏi Chân Lạp, lập lại nước riêng. Tài liệu Trung Hoa ghi lại là nước này chia làm hai: Thủy Chân Lạp và Lục Chân Lạp. Biên giới nằm ở dãy núi Dângrêk (nay là biên giới Thái Lan-Campuchia). Ở miền Nam, Puskaraksa không thể kiểm soát nổi lãnh thổ của mình. Nhiều nơi nổi lên, tự lập nước riêng. Trong lúc đó vương triều Sailendra của nước Kalinga ở đảo Java, Indonesia mạnh lên đã tấn công vương quốc của Puskaraksa năm 774, chiếm được kinh đô Sambhupura và đẩy đất nước này tới hồi diệt vong. == Thời kỳ Angkor (802-1432) == === Phục quốc (802-944) === Đầu thế kỷ thứ 9, nhân khi vương triều Sailendra suy yếu, một người trong hoàng tộc Chân Lạp bị bắt làm tù binh đã trốn về nước, tập hợp lực lượng đấu tranh để thoát ra khỏi ảnh hưởng của Sailendra và thống nhất lại Campuchia, khởi đầu một đế chế hùng mạnh ở Đông Nam Á - đế quốc Khmer (802-1434). Ông lên ngôi vua, lấy hiệu là Jayavarman II. Jayavarman II đã cố công tìm kiếm một địa điểm mới để đặt kinh đô. Trong thời của ông, vương quốc đã dời đô nhiều lần, từ Indrapura cho tới Hariharalaya và Mahendrapura ở núi Kulen rồi cuối cùng là quay trở lại Hariharayala. Thời kỳ Jayavarman II tại vị, sự sùng bái thần Shiva có khuynh hướng biến thành sự sùng bái nhà vua (Devaraja). Do đó mà ông cũng được tôn sùng như một vị thần. Khi ông qua đời năm 854, người ta đã phong tặng cho ông danh hiệu Paramesvara tức "Chúa tể". Cháu của Jayavarman II là Yasovarman I cai trị từ 889-900 lại tiếp tục dời đô thêm 50 km, tại một nơi mà ông gọi là Yasohadrapura tức là Angkor. Đây là biến âm từ chữ Phạn Nagara, tức "Quốc đô". Đế quốc Khmer vì thế còn được gọi là vương quốc Angkor, đế quốc Angkor. === Phát triển (944-1181) === Rajendravarman II lên ngôi năm 944 được thừa kế cả hai dòng Khmer Nam và Bắc. Ông là con Mahendravarman thuộc hoàng tộc Bhavapura (phía Bắc) và Mahendradevi, dì ruột của Harsavarman II (942-944), vua của dòng Nam. Do sự kiện này mà hai dòng tộc Thủy Chân Lạp và Lục Chân Lạp đã lập lại được sự thống nhất. Các văn bia thời kỳ này đều nhấn mạnh về nguồn gốc tộc Mặt trời (Suryavamsa) phía Bắc và tộc Mặt trăng (Somavamsa) phía Nam của vương triều. Tên nước được xác định là Kambuja và vua là Kambujaraja. Tuy đã tái thống nhất nhưng giữa hai dòng tộc vẫn có sự mâu thuẫn. Năm 1002, Jayaviravarman II lên ngôi ở Angkor tại miền Nam thì một hoàng thân khác cũng tự lên ngôi ở Sae Mun phía Bắc là Suryavarman I. Năm 1010, Suryavarman I đã lật đổ vua phía Nam rồi làm vua cả hai miền. Năm 1082, Jayavarman VI tự lên ngôi ở Sae Mun cũng đem quân đi lật đổ vua ở Angkor và cai trị vương quốc từ 1082 đến 1107. Tuy nhiên về sau thế lực của nhóm phía Bắc tập trung ở Sae Mun dần suy yếu và không còn là đối trọng với phía Nam được nữa. Cuối thế kỷ 12, các văn bia chỉ còn nhắc tới một tộc Kambu Mặt trời nhưng đã di cư xuống phía Nam mà thôi. Do sự thống nhất và ổn định, Rajendravarman II (944 – 968) vừa lên ngôi đã đem quân sang đánh Champa. Suryavarman I (1002-1050) còn tiến xa hơn, chinh phục được trung và hạ lưu sông Chao Phraya (sông Mê Nam nay thuộc Thái Lan) và cao nguyên Khorat. Harsavarman II (1066-1080) đã đánh Champa và Đại Việt. Tới thời Suryavarman II (1113-1150) thì vương quốc đã chinh phục được Champa trong khoảng 1145-1149 và thậm chí 5 lần đem quân đánh Đại Việt (1128, 1129, 1132, 1138, 1150). Sau cuộc tranh ngôi năm 1010, kinh đô bị hư hại nặng nên Suryavarman II đã cho tiến hành xây dựng Angkor Wat như là một biểu tượng cho sức mạnh của vương triều. === Cực thịnh (1181-1201) === Sau khi Suryavarman II qua đời, ngôi vua bị một người lạ tự xưng là Tribhuvanadi, tức Tyavarman, đánh cướp năm 1165 khiến quốc gia suy yếu. Năm 1177, Jaya Indravarman IV của Champa thừa cơ tấn công Angkor. Một hoàng thân trẻ của Angkor phải chờ đợi trong 16 năm mới tập hợp được lực lượng để đánh bại Champa và lên ngôi vua năm 1181, tức Jayavarman VII. Trong thời kỳ cai trị của Jayavarman VII, vương quốc Angkor đã đạt tới đỉnh cao của sự phát triển. Sau vài năm để khôi phục vương quốc, Jayavarman VII đã tính tới chuyện trả thù Champa. Năm 1190, Jayavarman VII đã cử một đạo binh lớn sang tấn công Champa và đánh bại hoàn toàn người Chăm. Một hoàng thân người Chăm thân Khmer được cử tới cai trị và Champa trở thành một tỉnh của Chân Lạp trong một thời gian dài. Ngoài việc đánh Champa, ông còn thôn tính luôn cả Haripunjaya gần biên giới Miến Điện-Thái Lan và bán đảo Malaya. Có thể quân Chân Lạp đã tới được cả Luang Prabang ở Lào nữa. Vương quốc Chân Lạp dưới thời Jayavarman VII có 23 tỉnh. Để cai trị đất nước rộng lớn, ông đã cho xây dựng 121 trạm nghỉ (Dharmasala) dọc theo các tuyến giao thông quan trọng mà ngày nay vẫn còn tồn tại dấu tích trên tuyến đường nối Angkor với Pimai ở Thái Lan và từ Sambor cho tới Vi Jaya của Champa (kinh đô Phật Thệ, nay ở Bình Định). Jayavarman VII cũng đã cho xây dựng kinh đo mới là Angkor Thom. === Suy thoái === Không rõ Jayavarman VII qua đời năm nào nhưng con trai ông là Indravarman II đã lên thay thế ông sau năm 1201 và cai trị tới 1243. Trong những năm cai trị đầu tiên của Indravarman II, đế quốc Khmer từng 3 lần giao chiến với quân Đại Việt trong các năm 1207, 1216 và 1218. Tuy nhiên, sau năm 1218, không còn thấy Đế quốc Khmer có chiến tranh với các quốc gia khác trong khu vực nữa. Không những vậy, năm 1220, Đế quốc Khmer còn cho lui quân khỏi Champa mà không có bất kỳ sự đấu tranh hay biến động nào từ Champa. Ở phía tây, những tộc người Thái nổi dậy, thành lập vương quốc Sukhothai, đẩy lui người Khmer. Trong khoảng 200 năm tiếp theo, người Thái trở thành đối thủ chính của người Khmer. Nối ngôi Indravarman II là Jayavarman VIII (trị vì từ 1243-1295). Không như các vua trước theo đạo Phật Đại thừa và có ảnh hưởng của đạo Hindu, Jayavarman VIII theo đạo Hindu và rất quá khích chống lại đạo Phật. Ông cho phá hủy phần lớn các tượng Phật trong vương quốc (các nhà khảo cổ ước tính trên 10 ngàn tượng Phật bị phá hủy, chỉ để lại rất ít dấu tích) và biến chùa chiền thành đền thờ của đạo Hindu. Từ bên ngoài, đế quốc này bị đe dọa bởi quân Mông Cổ dưới quyền chỉ huy của tướng Sagatu. Nhà vua tìm cách tránh nạn binh đao bằng cách triều cống cho người Mông Cổ, lúc này đang làm chủ Trung Quốc. Triều đại của Jayavarman VIII kết thúc năm 1295 khi ông bị con rể là Srindravarman (còn gọi là Indravarman III) (trị vì từ 1295-1309) lật đổ. Tân vương là người theo Phật giáo Theravada, là trường phái Phật giáo đến từ Sri Lanka, rồi lan tỏa khắp khu vực Đông Nam Á. Sau thời kỳ trị vì của Srindravarman, có rất ít tư liệu ghi lại lịch sử vương quốc thời kỳ này. Cột đá cuối cùng mang văn khắc được biết đến là từ năm 1327. Không có đền đài lớn nào được xây dựng thêm. Các nhà sử học ngờ rằng điều này gắn liền với tín ngưỡng Phật giáo Theravada vốn không đòi hỏi việc xây cất các công trình vĩ đại để thờ phụng. Tuy nhiên, việc vắng bóng các công trình lăng tẩm lớn cũng có thể do việc quyền uy của triều đình sút giảm và do đó thiếu nhân công xây dựng. Các công trình thủy lợi cũng dần đổ nát, mùa màng do đó cũng bị thất bát khi có lũ lụt hoặc hạn hán, làm đế quốc càng suy yếu. Quốc gia Thái láng giềng, vương quốc Sukhothai, sau khi đẩy lùi đế quốc Angkor, bị một vương quốc Thái khác, vương quốc Ayutthaya, chinh phục năm 1350. Từ sau năm 1352, Ayutthaya trở thành đối thủ chính của Angkor. Họ mở nhiều chiến dịch tấn công Khmer, nhưng đều bị đẩy lùi. Tuy nhiên tới năm 1431, cuối cùng thì sức mạnh áp đảo của Ayutthaya cũng trở nên quá lớn để chống lại, và Angkor thất thủ trước quân Thái. == Thời kỳ hậu Angkor == Từ thế kỷ 15 đến thế kỷ 19 là giai đoạn suy tàn liên tục và thu hẹp đất đai. Từ giữa thế kỷ 15, Campuchia liên tục bị các cuộc xâm lăng của vương quốc Ayutthaya (Thái Lan cổ) tàn phá. Angkor liên tục bị chiếm đóng và tàn phá. Để duy trì sự tồn tại của vương quốc Khmer, vua Ang Chan I (1516–1567) phải chuyển kinh đô từ Angkor về Longvek . Campuchia có được một giai đoạn thịnh vượng ngắn, trong khoảng giữa thế kỷ 16 sau khi đã xây dựng thủ đô Longvek mới ở vùng đông nam Tonle Sap. Dọc theo lưu vực Sông Cửu Long, Chân Lạp mở rộng buôn bán với các vùng khác ở châu Á. Đây là giai đoạn khi những nhà thám hiểm người Tây Ban Nha, là Blas Ruiz de Hernan Gonzales và Diogo Veloso, lần đầu tiên tới nước này và bắt đầu mở rộng ảnh hưởng của Phương tây tại đây. Nhưng năm 1594, vương quốc Ayutthaya của người Thái một lần nữa lại tấn công Chân Lạp, tàn phá Longvek. Vua Satha I của Campuchia phải chạy trốn. Sự sụp đổ của Lovek như bắt đầu một thảm họa mà Campuchia không bao giờ gượng lại được nữa, đồng thời việc này cũng tạo cơ hội can thiệp cho người Tây Ban Nha. Năm 1596, Blas Ruiz de Hernan Gonzales và Diogo Veloso giúp vua Satha quay về Campuchia lấy lại Lovek. Tuy nhiên, năm 1598, sự can thiệp của người Tây Ban Nha cũng chấm dứt, do đoàn quân này bị sát hại cùng với vua Satha trong nội chiến giữa những người Khmer với nhau. Sang đầu thế kỷ 17, Campuchia có sự gắng gượng ổn định đôi chút dưới thời vua Chey Chettha II, tuy không thể bằng các thời kỳ trước đặc biệt là thời Angkor, với việc thành lập một thủ đô mới tại Oudong năm 1618. Vua Chey Chettha II đã mở rộng quan hệ với chúa Nguyễn ở Đàng Trong của Việt Nam, để cân bằng ảnh hưởng từ vương quốc Ayutthaya của Thái Lan. Đồng thời Chey Chettha II cũng giao thương với người Hà Lan, cho họ mở một nhà máy ở Oudong năm 1620 . Từ giữa thế kỷ 17 trở đi, Campuchia trở nên suy yếu trầm trọng trước hai láng giềng hùng mạnh và tham vọng bành trướng là Xiêm và Đàng Trong (Việt Nam). Sự định cư của người Việt ở châu thổ sông Cửu Long từ đầu thế kỷ 17 dẫn tới việc họ sáp nhập hoàn toàn vùng đó vào năm 1757, vì thế Campuchia mất một trong những vùng lãnh thổ trù phú nhất của họ và bị ngăn đường tiến ra biển Đông. ở phía tây người Thái tiếp tục xâm lấn và sát nhập các tỉnh Battambang, Siem Reap vào lãnh thổ của họ. Khi người Pháp tới Đông Dương bảo hộ Campuchia từ năm 1863 đã dần lấy lại phần lãnh thổ Battambang, Siem Reap từ Xiêm La. == Giai đoạn thuộc địa Pháp == Năm 1863 vua Norodom ký một hiệp ước với Pháp để thành lập một chính quyền bảo hộ trên toàn vương quốc. Dần dần đất nước này rơi vào quyền cai trị thuộc địa của Pháp. Năm 1906, Pháp gây chiến với Xiêm và giành lại 4 tỉnh vùng tây bắc từng bị người Xiêm chiếm trong thế kỷ 18,19 là Battambang, Siem Reap, Meanchey, Oddar. Trong Chiến tranh thế giới thứ hai, người Nhật cho phép chính phủ Pháp (chính phủ Vichy) đang hợp tác với Đức Phát xít tiếp tục cai quản Campuchia và các lãnh thổ Đông Dương khác, nhưng họ cũng nuôi dưỡng chủ nghĩa quốc gia Khmer. Campuchia lại được hưởng một thời kỳ độc lập ngắn năm 1945 trước khi quân Đồng Minh tái lập quyền kiểm soát của Pháp. Vua Norodom Sihanouk, người từng được Pháp lựa chọn để kế vị Sisowath Monivong năm 1941, nhanh chóng chiếm lấy vị trí chính trị trung tâm khi ông tìm cách trung lập hóa những người cánh tả và những đối thủ cộng hòa và cố gắng đàm phán những điều kiện có thể chấp nhận được để giành lấy độc lập từ tay người Pháp. "Cuộc thập tự chinh giành độc lập" của Sihanouk dẫn tới việc người Pháp miễn cưỡng bằng lòng trao lại chủ quyền cho ông. Một thoả thuận từng phần được đưa ra tháng 10 năm 1953. Sau đó Sihanouk tuyên bố rằng công việc đòi độc lập đã hoàn thành và thắng lợi trở về Phnom Penh. == Chính phủ đầu tiên của Sihanouk == Những nỗ lực của Việt Minh trong Kháng chiến chống Pháp đã đem lại kết quả. Theo Hiệp ước Geneva về Đông Dương, Việt Minh đang đóng trên lãnh thổ của Campuchia tập kết ra Bắc Việt Nam, quân Pháp phải rút khỏi Đông Dương. Chính quyền do Sihanouk xây dựng một Campuchia độc lập, thân thiện với Bắc Việt Nam và các đồng minh. Trung lập là yếu tố cơ bản của chính sách đối ngoại Campuchia trong các thập kỷ 1950 và 1960. Tuy nhiên, chính phủ Campuchia xây dựng quan hệ tốt đẹp với khối Xã Hội Chủ nghĩa, nhận viện trợ to lớn từ Liên Xô và Trung Quốc, giúp đỡ to lớn quân Giải Phóng Việt Nam. Tới giữa thập kỷ 1960, nhiều phần tại các tỉnh phía đông Campuchia được dùng làm những căn cứ cho quân đội Bắc Việt Nam và các lực lượng Việt Cộng (NVA/VC) hoạt động chống lại Nam Việt Nam, cảng Sihanoukville được xây dựng và sử dụng để tiếp tế cho họ. Song song với việc đó là hàng hóa từ Hạ Lào qua đông bắc Campuchia vào Việt Nam. Campuchia trở thành mắt xích quan trọng của các tuyến Đường Hồ Chí Minh, trước năm 1970, phần lớn hàng hóa được chuyển qua đây. Khi các hoạt động của NVA/VC tăng lên, Hoa Kỳ và Nam Việt Nam bắt đầu lo ngại, và vào năm 1969, Hoa Kỳ bắt đầu một chiến dịch ném bom rải thảm dài mười bốn tháng nhắm vào các cơ sở của NVA/VC khiến nước này rơi vào tình trạng bất ổn định. Hoa Kỳ tuyên bố rằng chiến dịch ném bom chỉ diễn ra ở vùng không lớn hơn mười, và sau này là hai mươi dặm bên trong biên giới Campuchia, các vùng nơi có dân Campuchia sinh sống đã được NVA di tản. Những cuộc ném bom này gây ra thương vong rất lớn cho dân Campuchia, vốn không quen với chiến tranh như dân Việt Nam. Hoàn toàn không có việc sơ tán dân như tuyên bố, đơn giản vì quân Mỹ và Nam Việt Nam không đến những vùng bị ném bom, được cho là còn quân Bắc Việt Nam và các lực lượng Việt Cộng (NVA/VC). Từ vị thế trung lập Campuchia bị lôi kéo vào cuộc Chiến tranh Việt Nam. Trong suốt thập kỷ 1960, chính trị trong nước Campuchia bị chia rẽ. Chống đối nổi lên bên trong tầng lớp trung lưu và cánh tả gồm cả những lãnh đạo từng được đào tạo ở Pháp như Son Sen, Ieng Sary, và Saloth Sar (sau này được gọi là Pol Pot), những người này đã lãnh đạo một cuộc nổi dậy dưới sự lãnh đạo bí mật của Đảng cộng sản Campuchia (CPK). Sihanouk gọi những người nổi dậy đó là Khmer Rouge, dịch chính xác là "Khmer đỏ." Nhưng cuộc bầu cử quốc hội năm 1966 cho thấy cánh tả được ủng hộ nhiều hơn, và tướng Lon Nol đã lập ra một chính phủ, tồn tại tới tận năm 1967. Trong giai đoạn 1968 và 1969, cuộc nổi dậy ngày càng tồi tệ. Tháng 8, 1969, tướng Lon Nol lập ra một chính phủ mới. Hoàng tử Sihanouk đi ra nước ngoài để chăm sóc sức khoẻ từ tháng 1 năm 1970. == Cộng hòa Khmer và cuộc chiến == Tháng 3, 1970, khi hoàng tử Sihanouk đang vắng mặt, tướng Lon Nol lật đổ hoàng tử Sihanouk và nắm lấy quyền lực. Sơn Ngọc Thành tuyên bố ủng hộ chính phủ mới. Ngày 9 tháng 10, chế độ quân chủ ở Campuchia bị bãi bỏ, và đất nước được đổi tên thành Cộng hòa Khmer. Hà Nội từ chối yêu cầu của chính phủ mới đòi họ rút quân. Khoảng từ 2.000-4.000 người Campuchia từng tới Bắc Việt Nam năm 1954 trở về Campuchia, được các binh sĩ Bắc Việt Nam hỗ trợ. Để đáp lại, Hoa Kỳ cung cấp viện trợ vũ khí cho các lực lượng của chính phủ mới, và họ lao vào cuộc chiến chống lại cả những kẻ nổi loạn bên trong và cả những lực lượng Bắc Việt Nam. Tháng 4 năm 1970, Tổng thống Mỹ Nixon tuyên bố với công chúng rằng các lực lượng trên bộ của Mỹ và Nam Việt Nam đã tiến vào Campuchia trong một chiến dịch nhằm tiêu diệt các vùng căn cứ của NVA tại Campuchia (xem Cuộc xâm nhập Campuchia). Người Mỹ ném bom Campuchia trong hơn một năm. Những cuộc phản đối diễn ra tại các trường đại học Mỹ, dẫn tới cái chết của bốn sinh viên tại Kent State, ủng hộ việc rút quân Mỹ khỏi Việt Nam. Dù một số lượng lớn trang thiết bị đã bị Hoa Kỳ và các lực lượng Nam Việt Nam chiếm được và phá huỷ, chính sách ngăn chặn các lực lượng Bắc Việt vẫn tỏ ra không thành công. Quân Bắc Việt di chuyển sâu hơn vào bên trong Campuchia để tránh các cuộc hành quân của Hoa Kỳ và Nam Việt Nam. Các đơn vị NVA tràn qua các vị trí quân sự của Campuchia trong khi CPK mở rộng các cuộc tấn công quy mô nhỏ vào những đường thông tin liên lạc. Trong ban lãnh đạo Cộng hòa Khmer có tình trạng không thống nhất giữa ba thành viên chính: Lon Nol, Sirik Matak anh em họ của Sihanouk, và lãnh đạo Quốc hội In Tam. Lon Nol vẫn nắm quyền lực một phần nhờ bởi không có ai đã được chuẩn bị để thế chỗ ông. Năm 1972, một hiến pháp ra đời, nghị viện được bầu ra, và Lon Nol trở thành tổng thống. Nhưng tình trạng không thống nhất, những vấn đề về việc nâng lực lượng quân đội 30.000 người lên hơn 200.000, và tình trạng tham nhũng tràn lan làm suy yếu chính quyền hành chính và quân đội. Cuộc nổi dậy của những người cộng sản bên trong Campuchia tiếp tục lớn mạnh, và được cung cấp trang bị cũng như ủng hộ quân sự từ phía Bắc Việt Nam. Pol Pot và Ieng Sary nắm được quyền lãnh đạo lực lượng cộng sản do người Việt Nam đào tạo, nhiều người trong số đó đã bị thanh lọc. Cùng lúc đó các lực lượng của Đảng cộng sản Campuchia trở nên mạnh hơn và độc lập hơn khỏi quyền kiểm soát của người Việt Nam. Tới năm 1973, CPK đã đánh những trận lớn chống lại các lực lượng chính phủ mà không cần hoặc có rất ít sự hỗ trợ từ phía quân Bắc Việt Nam, họ kiểm soát gần 60% lãnh thổ Campuchia và 25% dân số. Chính phủ đã ba lần nỗ lực đàm phán với những người nổi dậy nhưng không mang lại kết quả, nhưng tới năm 1974, CPK đã hoạt động thành những nhóm tách biệt với nhau và một số lực lượng Bắc Việt Nam đã chuyển vào trong Nam Việt Nam. Quyền kiểm soát của Lon Nol bị giảm xuống chỉ còn những vùng bao quanh thành phố và những đường vận chuyển chính. Hơn hai triệu người tị nạn chiến tranh sống ở Phnom Penh và các thành phố khác. Vào ngày đầu năm 1975, quân cộng sản tung ra một cuộc tấn công kéo dài 117 ngày và vô cùng ác liệt làm sụp đổ chính quyền Cộng hòa Khmer. Những cuộc tấn công đồng thời xung quanh vành đai Phnom Penh ghìm chặt các lực lượng cộng hòa, trong khi các đơn vị của CPK vượt qua và chiếm quyền kiểm soát vùng tiếp tế chiến lược là hạ lưu sông Cửu Long. Chiến dịch không vận cung cấp vũ khí và lương thực do Hoa Kỳ thực hiện đã chấm dứt khi Quốc hội nước này từ chối viện trợ thêm cho Campuchia. Phnom Penh và các thành phố khác bị tấn công bằng rocket hàng ngày gây ra thương vong cho hàng nghìn thường dân. Chính phủ Lon Nol đầu hàng ngày 17 tháng 4, 5 ngày sau khi phái đoàn Hoa Kỳ rời khỏi Campuchia. == Campuchia dân chủ (1975-1979) == Ngay sau khi giành chiến thắng, CPK ra lệnh sơ tán dân ra khỏi tất cả các thành phố và thị trấn, đưa những người dân thành thị tới những vùng nông thôn để làm việc như những nông dân, bởi vì CPK đang muốn tái lập lại xã hội thành một hình thức mà Pol Pot đang thai nghén. Hàng ngàn người đã chết đói và chết vì bệnh tật trước khi CPK giành được chính quyền. Hàng ngàn người chết đói hay chết vì bệnh tật trong thời gian tản cư sau đó và vì những hậu quả của nó. Nhiều người trong số đó bị buộc phải rời khỏi các thành phố và định cư tại những ngôi làng mới được lập nên, thiếu lương thực, dụng cụ lao động và chăm sóc y tế. Nhiều người từng sống trong các thành phố nên đã đánh mất khả năng tự kiếm sống để tồn tại trong môi trường nông nghiệp. Hàng ngàn người chết đói trước khi mùa màng được thu hoạch. Thiếu ăn và suy dinh dưỡng - ở bờ vực của nạn đói – là điều xảy ra liên tục trong nhiều năm. Đa số các lãnh đạo quân sự và dân sự của chế độ cũ, những người không thể che giấu được nhân thân của mình đã bị hành quyết. Bên trong CPK, những lãnh đạo từng được đào tạo tại Pháp -Pol Pot, Ieng Sary, Nuon Chea, và Son Sen— nắm quyền lực. Một hiến pháp mới vào tháng 1 năm 1976 biến nước Campuchia dân chủ thành một nước Dân chủ nhân dân cộng sản, và một quốc hội gồm 250 thành viên đại diện cho Nhân dân Campuchia (PRA) được chọn ra vào tháng 3 để lựa chọn một kiểu lãnh đạo nhà nước tập thể, chủ tịch của ban lãnh đạo đó trở thành nguyên thủ quốc gia. Hoàng tử Sihanouk từ chức nguyên thủ quốc gia ngày 4 tháng 4. Vào ngày 14 tháng 4, sau khoá họp đầu tiên, PRA thông báo rằng Khieu Samphan sẽ làm chủ tịch hội đồng lãnh đạo quốc gia trong nhiệm kỳ 5 năm. Nó cũng lựa chọn ra 15 thành viên chính phủ do Pol Pot lãnh đạo với chức vụ Thủ tướng. Hoàng tử Sihanouk bị quản thúc tại gia. Chính phủ mới tìm cách tái cơ cấu hoàn toàn lại xã hội Campuchia. Những tàn tích của xã hội cũ bị xoá bỏ và tôn giáo, đặc biệt là Phật giáo và Thiên chúa giáo, bị đàn áp. Nông nghiệp được hợp tác hóa, và những gì còn sót lại của các cơ sở công nghiệp đều bị vứt bỏ hay bị đưa vào dưới quyền kiểm soát của nhà nước. Campuchia không có hệ thống tiền tệ cũng như hệ thống ngân hàng. Cuộc sống dưới chính quyền Campuchia dân chủ rất ngặt nghèo và bạo tàn. Ở nhiều vùng trong nước, người dân bị bố ráp và bị hành quyết vì tội nói tiếng nước ngoài, đeo kính, bới rác kiếm thức ăn, và thậm chí là than khóc khi có người thân qua đời. Những doanh nghiệp và các quan chức thời trước bị săn đuổi một cách tàn nhẫn và bị giết chết cùng toàn bộ gia đình họ. Khmer đỏ sợ rằng những người đó có lòng tin là họ có thể sẽ đứng lên phản đối lại chế độ của chúng. Một số kẻ trung thành với Khmer đỏ thậm chí còn bị giết vì tội không thể kiếm đủ số "phản cách mạng" để hành quyết. Chưa có những ước tính chính xác về số lượng người đã chết trong giai đoạn 1975 và 1979, nhưng có lẽ hàng trăm ngàn người đã bị hành quyết một cách tàn nhẫn bởi chính quyền Khmer đỏ. Hàng trăm ngàn người chết vì đói và bệnh tật (cả dưới thời Khmer đỏ và thời cai trị của Việt Nam từ năm 1978). Một số ước tính về số người chết nằm trong khoảng từ 1 đến 3 triệu người, trong tổng số dân năm 1975 của nước này là 7,3 triệu. Theo ước tính của CIA, có chừng 50.000-100.000 đã bị hành quyết, cùng với khoảng 1,2 triệu người bị chết từ năm 1975 đến năm 1979. Quan hệ của nước Campuchia dân chủ với Việt Nam và Thái Lan trở nên xấu đi nhanh chóng vì các cuộc xung đột biên giới và khác biệt về ý thức hệ. Mặc dù theo chủ nghĩa cộng sản, CPK có tư tưởng dân tộc rất nặng, và thanh trừng đa số các thành viên của họ từng sống tại Việt Nam. Campuchia dân chủ thiết lập những mối quan hệ chặt chẽ với Trung Quốc, và cuộc xung đột Campuchia-Việt Nam đã trở thành một phần của sự đối đầu giữa Trung Quốc và Liên Xô trong đó Moskva hỗ trợ Việt Nam. Các cuộc xung đột biên giới ngày càng tệ hại khi Campuchia dân chủ tấn công quân sự vào các làng mạc nằm sâu trong lãnh thổ Việt Nam. Tháng 12 năm 1977, Campuchia chấm dứt quan hệ ngoại giao với Hà Nội, buộc tội Việt Nam có mưu đồ thành lập một Liên bang Đông Dương. Giữa năm 1978, các lực lượng Việt Nam tấn công Campuchia, tiến sâu khoảng 30 km rồi rút lui trước khi mùa mưa diễn ra. Lý do để Trung Quốc ủng hộ CPK là vì họ muốn ngăn chặn phong trào liên kết toàn thể Đông Dương nhằm giữ vững ưu thế quân sự của mình trong vùng. Liên Xô ủng hộ mạnh mẽ cho Việt Nam để giữ một mặt trận thứ hai chống lại Trung Quốc trong trường hợp xảy ra xung đột giữa họ với Trung Quốc và ngăn chặn sự bành trướng của Trung Quốc. Từ khi Stalin qua đời, các quan hệ giữa nước Trung Quốc của Mao Trạch Đông và Liên Xô trở nên lạnh nhạt hơn bao giờ hết. Cuối thập niên 1970 và đầu 1980, giữa Trung Quốc và Việt Nam đã xảy ra một cuộc chiến tranh ngắn về vấn đề này. == Cộng hòa Nhân dân Campuchia (1979 - 1993) == Tháng 12, 1978, Việt Nam thông báo thành lập Mặt trận Campuchea thống nhất bảo vệ quốc gia (KUFNS) dưới sự lãnh đạo của Heng Samrin, một cựu chỉ huy trong quân đội Campuchia dân chủ. Nó bao gồm những người Khmer cộng sản còn ở lại Việt Nam sau năm 1975 và các viên chức ở khu vực phía đông – như Heng Samrin và Hun Sen – người từng chạy sang Việt Nam từ Campuchia năm 1978. Cuối tháng 12 năm 1978, các lực lượng Việt Nam tấn công tổng lực vào Campuchia, chiếm Phnom Penh vào ngày 7 tháng 1, đuổi những tàn quân của nước Campuchia dân chủ chạy về phía tây sang Thái Lan. Được Việt Nam hậu thuẫn, ngày 8 tháng 1 năm 1979 Hội đồng Nhân dân Cách mạng nước Cộng hòa Nhân dân Campuchia do Heng Samrin làm Chủ tịch đã được thành lập. Tuy vậy chính quyền này chỉ được một số nước cộng sản công nhận và chưa tự bảo vệ được mà vẫn cần đến sự có mặt của quân đội Việt Nam. Năm 1981, Cộng hòa Nhân dân Campuchia tổ chức bầu quốc hội và ban hành hiến pháp. Trong thời gian này, Campuchia dân chủ của Khmer Đỏ vẫn giữ được ghế đại diện cho Campuchia ở Liên Hiệp Quốc. Năm 1989, Việt Nam hoàn thành việc rút quân khỏi Campuchia. Các nỗ lực khôi phục hòa bình diễn ra sôi động trong thời gian 1989 và 1991 với hai hội nghị quốc tế ở Paris, và một phái đoàn gìn giữ hòa bình Liên Hiệp Quốc giúp đỡ duy trì ngừng bắn. Ngày 23 tháng 10 năm 1991, Hội nghị Paris tái họp để ký kết một thỏa ước tổng thể, trao cho Liên Hiệp Quốc quyền giám sát ngừng bắn, hồi hương người tị nạn Khmer dọc theo biên giới Thái Lan, giải giáp và giải ngũ các phe xung đột, chuẩn bị tiến hành bầu cử tự do. Hoàng thân Sihanouk, Chủ tịch Hội đồng Quốc gia Tối cao Campuchia (SNC), và các thành viên khác của SNC trở về Phnom Penh tháng 11 năm 1991, bắt đầu quá trình hòa giải tại Campuchia. Phái đoàn Tối cao Liên Hiệp Quốc về Campuchia (UNAMIC) được triển khai cùng thời gian đó để duy trì liên lạc giữa các phe phái, bắt đầu các chiến dịch tháo mìn và đưa người tị nạn, khoảng 370 ngàn người, trở về từ Thái Lan. Trong cuộc bầu cử do Liên Hiệp Quốc tổ chức năm 1993, có hơn 4 triệu người Campuchia (chừng 90% số người trong độ tuổi bầu cử) bỏ phiếu, mặc dù Khmer Đỏ, vốn không chịu giải giáp và giải ngũ, tìm cách đe dọa và ngăn chặn một số người tham gia bầu cử. Đảng FUNCINPEC của hoàng thân Ranariddh nhận được nhiều phiếu nhất, khoảng 45,5% số phiếu, tiếp theo là đảng Nhân dân của Hun Sen, rồi đến đảng Dân chủ Tự do Phật giáo. Đảng FUNCINPEC tiếp đó thành lập chính phủ liên minh với các đảng phái tham gia bầu cử, với quốc hội gồm 120 thành viên. Quốc hội thông qua hiến pháp mới ngày 24 tháng 9, theo đó Campuchia sẽ là một quốc gia quân chủ lập hiến, đa đảng, tự do, với cựu hoàng thân Sihanouk được đưa lên làm vua trở lại. Hoàng thân Ranariddh và Hun Sen trở thành Thủ tướng thứ nhất và thứ hai, trong chính phủ Hoàng gia Campuchia (RGC). == Vương quốc Campuchia (1993 - hiện tại) == Đảng Nhân dân Campuchia - CPP dần dần dẹp yên Khmer đỏ và thanh trừng các thành phần Hoàng Gia chống đối. Các lực lượng Khmer đỏ cuối cùng phải đầu hàng năm 1998. Sau các cuộc xung đột vũ trang giữa các đảng kình địch nhau khiến hơn 100 người chết, Hun Sen tiến hành đảo chính giành chính quyền, hoàng thân Norodom Ranarit bị phế truất, và Hun Sen trở thành Thủ tướng duy nhất. Giới lãnh đạo đảng FUNCINPEC quay trở lại Cambodia sau cuộc bầu cử Quốc hội năm 1998. Trong cuộc bầu cử đó, đảng CPP giành được 41% số phiếu, đảng FUNCINPEC được 32%, và đảng của Sam Rainsy (SRP) được 13%. Do tình hình bạo lực chính trị và việc thiếu tiếp cận từ giới truyền thông, nhiều quan sát viên quốc tế cho rằng có nhiều sai phạm nghiêm trọng trong cuộc bầu cử. Đảng CPP và FUNCINPEC lập một chính phủ liên hiệp mới, trong đó CPP đóng vai trò đối tác chính. Do tình hình sức khỏe ngày càng kém đi, năm 2004, vua Sihanouk tuyên bố thoái vị, ở lại Bắc Kinh và Bình Nhưỡng để chữa bệnh. Hoàng thân Norodom Sihamoni được truyền ngôi và trở thành vua mới của Campuchia. Ngày 4 tháng 10 năm 2004, Quốc hội Campuchia phê chuẩn thỏa thuận với Liên Hiệp Quốc về việc thiết lập một tòa án xét xử tội ác của các quan chức cao cấp Khmer đỏ. Các quốc gia bảo trợ cam kết tài trợ 43 triệu USD tài chính cho tòa án, dự kiến kéo dài trong 3 năm, trong khi chính quyền Campuchia cũng đóng góp phần của mình là 13,3 triệu USD. Tòa án dự kiến sẽ bắt đầu xét xử các quan chức cấp cao của Khmer đỏ vào năm 2008. == Xem thêm == Lịch sử Đông Nam Á Lịch sử châu Á Lịch sử các nước hiện nay == Ghi chú == == Tham khảo == Lịch sử các nước Asean, Nhà xuất bản Trẻ 2003 Tìm hiểu lịch sử các nước Đông Nam Á, Nhà xuất bản Hà Nội 2008 State Department Background Note: Cambodia Summary of UNTAC mission [1] Bài viết này kết hợp các tài liệu thuộc phạm vi công cộng từ website hay thư mục thuộc Library of Congress Country Studies. Mekong Network
miami open 2017 - đơn nam.txt
Novak Djokovic là nhà vô địch bảo vệ ba lần nhưng đã rút trước giải đấu bắt đầu vì chấn thương khuỷu tay phải. Đứng vị trí số 1 Andy Murray cũng rút lui trước khi bắt đầu giải đấu do chấn thương khuỷu tay phải. Đây là lần đầu tiên kể từ năm 1990, khi các giải Masters Series / 1000 được thành lập, cả vị trí số 1 lẫn số 2 đều không tham dự Miami Open. ‘’’Roger Federer’’’ đã giành danh hiệu thứ ba tại Miami, đánh bại Rafael Nadal trong trận chung kết với tỉ số 6-3, 6-4. Đây là danh hiệu đơn Masters 1000 của Federer lần thứ 26 trong sự nghiệp của anh ta và toàn bộ giải đơn thứ 91. Đây là năm thứ tư liên tiếp, trong đó cùng một tay vợt đã giành được cả giải Indian Wells và Miami (Djokovic đã giành được những danh hiệu trở lại từ năm 2014 đến năm 2016). == Hạt giống == Tất cả các hạt giống được đặc cách vào vòng hai. === Chung kết === == Kết quả == === Chú giải === === Nửa trên === ==== Bảng 1 ==== ==== Bảng 2 ==== ==== Bảng 3 ==== ==== Bảng 4 ==== === Nửa dưới === ==== Bảng 5 ==== ==== Bảng 6 ==== ==== Bảng 7 ==== ==== Bảng 8 ==== == Vòng loại == === Hạt giống === === Vòng loại === === Lucky Losers === Mikhail Youzhny == Kết quả Vòng loại == ==== First qualifier ==== ==== Second qualifier ==== ==== Third qualifier ==== ==== Fourth qualifier ==== ==== Fifth qualifier ==== ==== Sixth qualifier ==== ==== Seventh qualifier ==== ==== Eighth qualifier ==== ==== Ninth qualifier ==== ==== Tenth qualifier ==== ==== Eleventh qualifier ==== ==== Twelfth qualifier ==== == Liên kết ngoài == Main Draw Qualifying Draw
wendelin werner.txt
Wendelin Werner (sinh 23 tháng 9 năm 1968 ở Köln, Đức) là một nhà toán học người Pháp sinh ở Đức nghiên cứu về các lĩnh vực bước ngẫu nhiên tự hủy, tiến hóa Schramm-Loewner, và các lý thuyết liên quan đến lý thuyết xác suất và vật lý toán. Năm 2006, tại Hội nghị Toán học Thế giới lần thứ 25 tổ chức tại Madrid, Tây Ban Nha ông được trao Huy chương Fields. Hiện tại ông là giáo sư tại Trường Đại học Paris XI và giáo sư thỉnh giảng tại École Normale Supérieure. Werner mang quốc tịch Pháp vào năm 1977. Sau khi học lớp dự bị ở Lycée Hoche, ông tiếp tục học tại École Normale Supérieure từ 1987 đến 1991. Luận án tiến sĩ ông thực hiện tại Université Pierre-et-Marie-Curie năm 1993 dưới sự hướng dẫn của giáo sư Jean-François Le Gall. Werner tham gia công tác chính thức tại CNRS từ 1991 đến 1997, trong thời gian này ông cũng là thành viên hai năm của Hội Leibniz tại Đại học Cambridge. Ông đã nhận được nhiều giải thưởng bao gồm: Giải Fermat năm 2001, Giải Loève năm 2005, và Giải George Pólya SIAM năm 2006 cùng với các cộng sự của ông là Gregory Lawler và Oded Schramm. Ông trở thành thành viên của Viện hàn lâm Khoa học Pháp năm 2008. Ông cũng từng là một diễn viên, đóng một bộ phim của Pháp với tựa đề La Passante du Sans-Souci. == Tham khảo == == Liên kết ngoài == Bản mẫu:Mathgenealogy Trang cá nhân ở Orsay CV page Citation for 2006 Pólya Prize Wendelin Werner, 2006 Fields Medal Winner CNRS press release (tiếng Pháp) News story BBC story W. W. presenting on hungarian "TV University" - April 2007 streaming video La Passante du Sans-Souci on imdb.org Wendelin Werner filmography on imdb.org
kiểm soát sinh sản.txt
Kiểm soát sinh sản là một chế độ gồm việc tuân theo một hay nhiều hành động, cách thức, các thực hiện tình dục, hay sử dụng dược phẩm nhằm ngăn chặn hay làm giảm một cách có chủ đích khả năng mang thai hay sinh đẻ. Có ba cách chính để ngăn chặn hay làm chấm dứt việc mang thai: ngăn thụ tinh của trứng bởi các tế bào tinh trùng ("contraception"), ngăn trứng đã thụ tinh được cấy vào dạ con ("contragestion"), và kích thích hoá học hay phẫu thuật để bỏ phôi hay, ở giai đoạn sau, bào thai. Theo cách sử dụng thông thường, thuật ngữ "ngừa thai" thường được dùng cho cả contraception và contragestion. Kiểm soát sinh sản thường được coi như một phần của kế hoạch hoá gia đình. Lịch sử kiểm soát sinh sản bắt đầu với việc khám phá mối liên hệ giữa hành vi giao cấu và sự mang thai. Các hình thức kiểm soát sinh sản cổ nhất gồm ngừng giao cấu, vòng tránh thai, và ăn các loại cỏ từng được cho là có tác dụng tránh thai hay làm sẩy thai. Ghi chép sớm nhất về sự kiểm soát sinh sản là một bộ hướng dẫn từ thời Ai Cập cổ đại về việc tạo ra một vòng có tác dụng tránh thai. Các biện pháp kiểm soát sinh sản khác nhau các đặc điểm rất khác nhau. Ví dụ, bao cao su, là những biện pháp duy nhất cung cấp sự bảo vệ khỏi việc lây truyền bệnh qua đường tình dục. Thái độ văn hoá và tôn giáo về kiểm soát sinh sản cũng rất khác biệt. == Lịch sử == Có lẽ các biện pháp tránh thai cổ nhất (bên cạnh việc tránh quan hệ tình dục âm đạo) là ngừng giao cấu, một số biện pháp chướng ngại vật, và các biện pháp sử dụng thảo mộc (các loại thuốc điều kinh và làm sẩy thai). Tại Nga, để tạo ra sự cân bằng xã hội giữa nam và nữ, việc kiểm soát sinh sản hoàn toàn có thể tiếp cận. Aleksandra Kollontai (1872-1952) là dân uỷ xã hội ở thời của bà, bà cũng khuyến khích giáo dục kiểm soát sinh sản cho người trưởng thành. Về kiểm soát sinh sản tại Pháp, phụ nữ đã đấu tranh vì các quyền sinh sản và họ đã khiến nhà nước phải chấm dứt lệnh cấm việc kiểm soát sinh sản năm 1965. Cuối cùng vào năm 1970, tại nước Italia Cơ đốc giáo, những người bênh vực nữ quyền đã có quyền tiếp cận với thông tin kiểm soát sinh sản. Sớm hơn trước, tác gia hài hước Anh Daniel Defoe đã viết Conjugal Lewdness (Tính dâm dật vợ chồng). Tên đầy đủ ban đầu của cuốn tiểu luận năm 1727 này là "Conjugal Lewdness or, Matrimonial Whoredom" (Tính dâm dật vợ chồng hay, Nghề làm đĩ hôn nhân) dù sau này ông đã bị yêu cầu phải đổi lại tên vì lý do nghiêm túc. Tên được sửa đổi trở thành "A Treatise Concerning the Use and Abuse of the Marriage Bed" (Một chuyên luận về việc sử dụng và lạm dụng chiếc giường hôn nhân). Cuốn tiểu luận chủ yếu đề cập tới việc tránh thai, so sánh trực tiếp nó với hành động giết trẻ sơ sinh. Defoe đã kết thúc cuốn sách bằng những chuyện giai thoại, như cuộc trò chuyện giữa hai phụ nữ trong đó người có ý nghĩ đúng khiển trách người kia vì đã hỏi về "những cách thức" ngăn có thai. Trong cuốn tiểu luận, ông còn đi xa hơn nữa khi gọi việc tránh thai là "các thực hiện ma quỷ để tránh có thai bằng những chuẩn bị về thể xác." Ngừng giao cấu (rút dương vật khỏi âm đạo trước khi xuất tinh) có thể có trước mọi hình thức kiểm soát sinh sản khác. Đây không phải là một biện pháp tránh thai đáng tin cậy, bởi ít có người đàn ông tự chủ được để thực hiện biện pháp tại mọi lần quan hệ tình dục. Dù mọi người thường tin rằng dịch trước xuất tinh có thể gây có thai, nghiên cứu hiện đại đã cho thấy dịch không chứa tinh trùng có thể tồn tại. Có những ghi chép lịch sử về phụ nữ Ai Cập sử dụng một vòng tránh thai (một thuốc đạn âm đạo) được làm bằng nhiều chất có tính acid và được bôi trơn bằng mật ong hay dầu, có thể tiêu diệt tinh trùng hiệu quả. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng tế bào tinh trùng không được phát hiện cho tới khi Anton van Leeuwenhoek phát minh ra kính hiển vi hồi cuối thế kỷ 17, vì thế các biện pháp tránh thai bằng vật chướng ngại được sử dụng trước thời gain này không thể biết về các chi tiết về việc thụ thai. Phụ nữ châu Á có thể đã sử dụng giấy bôi dầu như một cervical cap, và người châu Âu có thể đã sử dụng sáp ong cho mục đích này. Bao cao su xuất hiện ở thế kỷ 17, ban đầu được làm bằng ruột động vật. Nó không đặc biệt phổ biến, cũng không có hiệu quả cao như các loại bao cao su latex hiện đại, nhưng đã được sử dụng như cả một biện pháp tránh thai và cả cho hy vọng tránh giang mai, từng là một chứng bệnh ghê gớm trước khi các loại thuốc kháng sinh được tìm ra. Nhiều các làm sẩy thai đã được sử dụng trong suốt lịch sử nhân loại trong nỗ lực kết thúc một lần mang thai không mong muốn. Một số cách có hiệu quả, một số không, những cách hiệu quả nhất cũng có phản ứng phụ. Một cách làm sẩy thai được thông báo là có tỷ lệ phản ứng phụ thấp —silphium— đã biến mất từ khoảng thế kỷ thứ 1. Việc ăn một số loại chất độc bởi người phụ nữ có thể phá vỡ hệ thống sinh sản; phụ nữ đã từng uống các dung dịch chứa thuỷ ngân, asen, hay các chất độc khác cho mục đích này. Bác sĩ phụ khoa Hy Lạp Soranus ở thế kỷ thứ 2 đề nghị phụ nữ uống loại nước mà những người thợ rèn đã dùng để làm nguội kim loại. Cúc ngải và bạc hà băng là những cây được dân gian cho là có khả năng phá thai, nhưng cũng có phương pháp là đầu độc người phụ nữ. Những mức độ của các hoá chất hoạt động trong các loại thảo một đó để kích thích sẩy thai đủ mạnh để làm tổn thương một cách nguy hiểm tới gan, thận và các cơ quan khác của cơ thể người phụ nữ. Tuy nhiên, ở thời điểm đó khi nguy cơ tử vong bà mẹ vì postpartum còn cao, các nguy cơ từ các tác dụng phụ của các loại thuốc độc có thể ít gây chú ý. Một số nhà nghiên cứu thảo mộc cho rằng chè black cohosh cũng sẽ có tác dụng làm sẩy thai trong một số trường hợp. Bên cạnh việc làm sẩy thai, các biện pháp tránh thai bằng thảo mộc trong dân gian cũng gồm một số biện pháp ngăn chặn. Hibiscus rosa-sinensis, được biết đến trong Ayurveda như một loại thuốc tránh thai, có thể có các tính chất antiestrogenic. Hạt đu đủ, được đồn đại là một loại thuốc tránh thai của nam giới, gần đây đã được nghiên cứu về tác dụng azoospermic của chúng trên những con khỉ. Trong giai đoạn trung cổ, các bác sĩ của thế giới Hồi giáo liệt kê nhiều chất có tác dụng kiểm soát sinh sản trong các cuốn bách khoa toàn thư y khoa của họ. Avicenna liệt kê 20 chất trong The Canon of Medicine (1025) và Muhammad ibn Zakariya ar-Razi liệt kê 176 chất trong cuốn Hawi (thế kỷ thứ 10) của ông. Y học châu Âu mãi tới thế kỷ 19 mới biết tới điều này. Thực tế rằng nhiều biện pháp kiểm soát sinh sản có hiệu quả đã được biết tới trong thế giới cổ đại hoàn toàn trái ngược với một sự dường như không quan tâm tới các biện pháp đó trong nhiều thành phần dân cư châu Âu đầu thời Thiên chúa giáo hiện đại. Sự thờ ơ tiếp tục kéo dài đến tận thế kỷ 20, và rõ ràng song hành với tỷ lệ sinh sản cao ở các quốc gia châu Âu trong thế kỷ 18 và 19. Một số sử gia đã gắn điều này với một loạt các biện pháp cưỡng bức do quốc gia mới thành lập tiến hành nhằm phục hồi dân số châu Âu sau sự suy giảm nghiêm trọng từ Tử thần Đen, bắt đầu năm 1348. Theo quan điểm này, những vụ săn phù thuỷ là biện pháp đầu tiên mà nhà nước hiện đại tiến hành trong nỗ lực ngăn chặn sự hiểu biết về kiểm soát sinh sản trong dân cư, và độc quyền hoá nó trong bàn tay những chuyên gia y tế của nhà nước (gynecologists). Trước những cuộc săn lùng phù thuỷ, không có các chuyên gia nam giới, bởi việc kiểm soát sinh sản theo tự nhiên thuộc phần công việc của phụ nữ. Những người thuyết trình tại một hội thảo kế hoạch hoá gia đình đã kể một câu chuyện về các thương gia Ả Rập nhét những viên đá nhỏ vào trong tử cung của những con lạc đà để chúng không thể mang thai, một ý tưởng rất giống với IUD (thiết bị tử cung) hiện đại. Dù câu chuyện đã được kể lại nhiều lần như một sự thực, nó không hề có cơ sở trong lịch sử và chỉ mang ý nghĩa giải trí. Thiết bị tử cung đầu tiên (chiếm không gian cả trong âm đạo và tử cung) được đưa ra thị trường lần đầu khoảng năm 1900. Thiết bị tử cung hiện đại đầu tiên (chỉ trong tử cung) được miêu tả trong một cuốn sách xuất bản ở Đức năm 1909. Vòng Gräfenberg, thiết bị tử cung được sử dụng bởi khá nhiều phụ nữ, ra đời năm 1928. Biện pháp chu kỳ được phát triển đầu thế kỷ 20, khi các nhà nghiên cứu phát hiện ra một phụ nữ chỉ rụng trứng một lần trên mỗi chu kỳ kinh nguyệt. Mãi tới thập niên 1950, khi các nhà khoa học hiểu sâu hơn về hoạt động của chu kỳ kinh nguyệt và các hormone kiểm soát nó, các biện pháp tránh thai bằng hormon và các biện pháp nhận thức khả năng sinh sản (cũng được gọi là kế hoạch hoá gia đình tự nhiên) hiện đại mới được phát triển. Margaret Sanger (1879-1966) một nhà hoạt động vì sự kiểm soát sinh sản người Mỹ và người sáng lập Liên đoàn Kiểm soát Sinh sản Mỹ (cuối cùng trở thành Planned Parenthood). Bà là người mở đường cho việc tiếp cận kiểm soát sinh sản. Năm 1960 FDA thông qua hình thức kiểm soát sinh sản bằng hormon đầu tiên, viên thuốc tránh thai uống kết hợp. == Các biện pháp == === Các biện pháp tự nhiên === Các biện pháp tự nhiên có thể hoạt động theo nhiều cách, trong đó có: ngăn cản một cách tự nhiên tinh trùng xâm nhập hệ thống sinh sản nữ; về hormon ngăn cản rụng trứng; khiến hệ thống sinh sản nữ thành nơi không thể trú ngụ với tinh trùng; hay bằng phẫu thuật thay đổi hệ thống sinh sản nữ thành vô sinh. Một số biện pháp sử dụng nhiều hơn một cách thức. Các biện pháp tự nhiên khác biệt về mức độ đơn giản, tính dễ áp dụng và hiệu quả. ==== Các biện pháp vật chướng ngại ==== Các biện pháp vật chướng ngại đặt một vật ngăn cản trên đường di chuyển của tinh trùng vào hệ thống sinh sản nữ. Biện pháp chướng ngại phổ biến nhất là bao cao su nam, một bao bằng latex hay polyurethane phủ ngoài dương vật. Bao cao su cũng có loại cho nữ, được làm bằng polyurethane. Bao cao su nữ có một vòng co giãn ở hai đầu — một vòng phía sau pubic bone để giữ bao ở đúng vị trí, vòng còn lại ở bên ngoài âm đạo. Cervical barrier là các thiết bị hoàn toàn ở trong âm đạo. Xốp tránh thai có một chỗ lõm để giữ nó ở vị trí trên cổ tử cung. Mũ tử cung là dụng cụ tử dung nhỏ nhất. Dựa trên kiểu mũ, nó nằm ở vị trí bằng cách mút vào tử cung hay vào thành âm đạo. Màng chắn khớp vào chỗ phía sau pubic bone người phụ nữ và có một vòng chắc nhưng co giãn được, giúp nó ép vào thành âm đạo. Chất diệt tinh trùng có thể được đặt vào âm đạo trước khi quan hệ tình dục và tạo ra một màng chắn bằng hoá chất. Chất diệt tinh trùng có thể được sử dụng độc lập hay phối hợp với một chướng ngại tự nhiên. ==== Các biện pháp hormon ==== Có nhiều cách sử dụng tránh thai hormon. Các hình thức tổng hợp oestrogen và progestin (tổng hợp progestogen) phối hợp thường được dùng gồm thuốc viên tránh thai phối hợp ("Thuốc viên"), Miếng dán, và vòng tránh thai âm đạo ("Vòng Nuva"). Một hình thức có thể tiêm hàng tháng, Lunelle, hiện không được bán tại Hoa Kỳ. Các biện pháp khác chỉ chứa một progestin (một progestogen tổng hợp). Chúng gồm thuốc viên chỉ gồm progesterone (POP hay 'minipill'), các loại thuốc có thể tiêm Depo Provera (một công thức dạng cấy của medroxyprogesterone acetate được tiêm vào bắp mỗi ba tháng) và Noristerat (Norethindrone acetate được tiêm vào bắp mỗi 8 tuần), và implant tránh thai. Viên thuốc chỉ chứa progestin phải được sử dụng ở khoảng thời gian chính xác mỗi ngày hơn so với các viên thuốc phối hợp. Viên thuốc tránh thai dạng cấy đầu tiên, Norplant 6 viên nguyên bản, đã bị loại bỏ khỏi thị trường Hoa Kỳ năm 1999, dù một loại thuốc cấy một viên duy nhất mới hơn được gọi là Implanon đã được cho phép bán tại Hoa Kỳ ngày 17 tháng 7 năm 2006. Các biện pháp chỉ sử dụng progestin khác nhau có thể gây ra chảy máu bất thường khi sử dụng. ==== Ormeloxifene (Centchroman) ==== Ormeloxifene (Centchroman) là một selective estrogen receptor modulator, hay SERM. Nó khiến việc rụng trứng xảy ra không đồng thời việc thành tạo màng tử cung, ngăn cản hợp tử cấy vào tử cung. Nó đã được chấp nhận rộng rãi như một biện pháp kiểm soát sinh sản tại Ấn Độ từ đầu thập niên 1990, được đưa ra thị trường dưới thương hiệu Saheli. Centchroman chỉ được sử dụng hợp pháp tại Ấn Độ. ==== Tránh thai khẩn cấp ==== Một số loại thuốc phối hợp và POPs có thể được dùng với liều cao để tránh có thai sau khi một biện pháp kiểm soát sinh sản đã không thành công (ví dụ rách bao cao su) hay sau một lần quan hệ không có bảo vệ. Thuốc tránh thai khẩn cấp kiểu hormon cũng được gọi là "viên thuốc buổi sáng hôm sau," dù nó được phép sử dụng trong ba ngày sau khi quan hệ. Các thiết bị trong tử cung cũng có thể được dùng như biện pháp tránh thai khẩn cấp. Để thực hiện mục đích này, chúng phải được đặt vào trong vòng năm ngày từ khi biện pháp kiểm soát sinh sản trước không thành công hay từ khi quan hệ tình dục không bảo vệ. Tránh thai khẩn cấp hoạt động bằng cách ngăn trứng rụng. Tuy nhiên, bởi nó ngăn một quả trứng đã thụ tinh không cấy được vào dưới da, một số người coi nó là một hình thức phá thai. Các chi tiết về các biện pháp hành động có thể hiện vẫn đang được nghiên cứu. ==== Các biện pháp trong tử cung ==== Có các thiết bị trong tử cung được đặt vào trong tử cung. Chúng thường có hình như một chữ "T" — các nhánh của chữ T giữ thiết bị ở đúng chỗ. Có hai kiểu tránh thai trong tử cung chính: kiểu có chứa đồng (có khả năng diệt tinh trùng), và kiểu giải phóng một progestogen (ở Hoa Kỳ thuật ngữ progestin được sử dụng). Các thuật ngữ cho các thiết bị này khác biệt nhau giữa Anh Quốc và Hoa Kỳ. Tại Hoa Kỳ, mọi thiết bị được đặt trong tử cung để ngăn có thai đều được gọi là các thiết bị trong tử cung (IUDs) hay thiết bị tránh thai trong tử cung (IUCDs). Tại Anh Quốc, chỉ các thiết bị có chứa đồng mới được gọi là IUDs (hay IUCDs), và các loại thuốc tránh thai hormon trong tử cung được gọi là Hệ thống trong tử cung (IUS). Điều này có thể bởi vì có mười kiểu IUDs đồng ở Anh Quốc, compared to only one in the US. ==== Triệt sản ==== Triệt sản có thể có dưới hình thức thắt ống dẫn trứng cho nữ và thắt ống dẫn tinh cho nam. Triệt sản phải được coi là một biện pháp vĩnh viễn. Với phụ nữ, quá trình này có thể được gọi là "thắt ống dẫn" (tying the tubes), nhưng các ống dẫn trứng có thể được thắt, cắt, kẹp hay chặn lại. Nó giúp ngăn tình trùng không thể gặp trứng chưa thụ tinh. Quá trình Essure không phẫu thuật, là một cách chặn các ống dẫn, trong đó các thiết bị nhỏ được đặt vào trong các ống dẫn trưng bởi một ống thông xuyên qua âm đạo vào cổ tử cung và tử cung. Dù thắt ống dẫn trứng phải được coi là một quá trình vĩnh viễn, vẫn có thể đảo ngược nó bằng cách nối lại các ống dẫn trứng. Tỷ lệ thành công phụ thuộc vào kiểu tiến hành đã được thực hiện trước đó và những tổn hại đã có với ống dẫn cũng như độ tuổi của người phụ nữ. === Các biện pháp bằng cách cư xử === Các biện pháp theo cách cư xử là kiểm soát thời gian hay biện pháp quan hệ để tránh đưa tinh trùng vào trong hệ sinh sản nữ. ==== Nhận thức khả năng sinh sản ==== Các biện pháp dựa trên triệu chứng của nhận thức sinh sản liên quan tới việc người phụ nữ quan sát và lập biểu đồ các dấu hiệu tăng khả năng sinh sản của cơ thể mình, để xác định những chu kỳ dễ có thai và không thể có thai của mình. Việc lập biểu đồ có thể được thực hiện bằng tay hay với sự giúp đỡ của phần mềm. Hầu hết các biện pháp đều theo dõi một hay nhiều hơn trong ba dấu hiệu sinh sản chủ yếu dưới đây: những thay đổi trong nhiệt độ trung bình của cơ thể, trong dịch nhầy cổ tư cung và trong vị trí cổ tử cung. Nếu một phụ nữ theo dõi cả nhiệt độ trung bình cơ thể và một dấu hiệu khác, biện pháp này có thể được gọi là triệu chứng nhiệt. Các dấu hiệu khác của cơ thể như mittelschmerz được coi là dấu hiệu phụ thứ hai. Các máy giám sát sinh sản là các thiết bị máy tính hoá quyết định khả năng sinh sản hay không sinh sản dựa trên, ví dụ, các thử nghiệm nhiệt độ hay nước tiểu. Các biện pháp dựa theo lịch như biện pháp chu kỳ và Biện pháp Ngày Tiêu chuẩn ước tính khả năng mang thai dựa trên độ dài của các chu kỳ kinh nguyệt cuối cùng. Để tranh mang thai với nhận thức khả năng sinh sản, việc quan hệ tình dục chỉ giới hạn ở những giai đoạn ít có khả năng mang thai nhất. Trong giai đoạn dễ thụ thai, các biện pháp ngăn chặn cần được áp dụng, hay người phụ nữ phải kiêng quan hệ. Thuật ngữ kế hoạch hoá gia đình tự nhiên (NFP) thỉnh thoảng được sử dụng để chỉ bất kỳ hình thức sử dụng nào với nhận thức khả năng sinh sản. Tuy nhiên, thuật ngữ này chỉ riêng tới những việc áp dụng được Nhà thờ Cơ đốc giáo La Mã cho phép — không thể mang thai khi cho bú, và kiêng khem theo chu kỳ trong những thời gian dễ mang thai. Các biện pháp FA có thể được sử dụng bởi những người dùng NFP để xác định khoảng thời gian dễ mang thai. ==== Ngừng quan hệ ==== Coitus interruptus (dịch nghĩa "quan hệ tình dục ngắt quãng"), cũng được gọi là biện pháp xuất tinh ngoài, là việc chấm dứt quan hệ ("rút ra") trước khi phóng tinh. Nguy cơ lớn nhất của việc ngừng quan hệ là người nam có thể không thực hiện chính xác, hay có thể là không đúng thời điểm. Dù có những lo ngại về nguy cơ mang thai do tinh trùng trong dịch tiền xuất tinh, nhiều nghiên cứu nhỏ đx không thể tìm thấy tinh trùng trong dung dịch đó. ==== Tránh quan hệ đường âm đạo ==== Nguy cơ mang thai từ quan hệ tình dục ngoài âm đạo, như quan hệ tình dục qua đường hậu môn, khẩu dâm, hay quan hệ tình dục không xâm nhập rõ ràng là bằng không. Một nguy cơ rất nhỏ có từ khả năng tinh trùng thẩm thấu vào âm đạo (với khẩu dâm) hay dính vào một vật, như tay, và sau đó tiếp xúc với âm đạo. ==== Kiêng hoàn toàn ==== Các nhóm khác nhau định nghĩa thuật ngữ kiêng khem tình dục khác nhau. Khi được sử dụng trong các cuộc thảo luận về kiểm soát sinh sản, thường việc né tránh mọi hoạt động tình dục – hoàn toàn kiêng tình dục – là nghĩa của nó. Thỉnh thoảng mọi người lựa chọn kiêng khem tình dục để giảm nguy cơ mang thai, và việc kiêng khem tình dục có thể được cho vào danh sách các biện pháp kiểm soát sinh sản. Những người kiêng khem tình dục không mang thai ngoài ý muốn. Các nguồn khác thay vào đó lại không coi kiêng khem tình dục là một hình thức kiểm soát sinh sản. Kiêng khem tình dục như một biện pháp lâu dài không có hiệu quả ngăn có thai 100%: không phải mọi người dự định kiêng kem đều có thể tự ngăn mình khỏi hoạt động tình dục, và trong nhiều nhóm dân số có một nguy cơ mang thai rất lớn từ hoạt động tình dục không liên ứng. Nếu là một biện pháp y tế công cộng, ước tính hiệu quả của biện pháp kiêng khem ngang với việc sử dụng bao cao su. Một số cơ quan khuyên rằng những người coi kiêng khem là biện pháp tránh thai chính nên có những biện pháp dự phòng thêm khác (như bao cao su hay thuốc tránh thai khẩn cấp). ==== Cho bú ==== Hầu hết phụ nữ đang cho con bú có một giai đoạn không thể mang thai sau khi sinh con. Biện pháp mất kinh khi cho bú, hay LAM, đưa ra những hướng dẫn để xác định độ dài giai đoạn không thể mang thai của một phụ nữ đang cho con bú. === Gây sẩy thai === Ở một số vùng, phụ nữ coi nạo thai là một biện pháp chính yếu để kiểm soát sinh sản. Việc này thường thấy ở Nga, Turkey, và Ukraina. Mặt khác, phụ nữ Canada, và những nơi khác nói chung không sử dụng phá thai như biện pháp quản lý sinh sản chính. Phá thai là chủ đề của cuộc tranh cãi đạo đức. Các biện pháp phá thai bằng phẫu thuật gồm hút thai (được sử dụng ở ba tháng đầu) hay dilation and evacuation (được dùng ở ba tháng tiếp theo). Các biện pháp phá thai y tế liên quan tới việc sử dụng thuốc được uống hay đưa vào theo đường âm đạo để gây ra phá thai. Phá thai y tế có thể được sử dụng nếu thời kỳ mang thai chưa quá 8 tuần. Một số loại thảo mộc được cho là có khả năng phá thai, và một số cuộc nghiên cứu trên động vật đã thấy rằng nhiều loại thảo mộc có hiệu quả trong việc gây sẩy thai với những động vật không phải loài người. Nói chung con người không sử dụng thảo mộc khi có thể sử dụng biện pháp khác, bởi hiệu quả chưa biết và nguy cơ bị ngộ độc. === Các biện pháp đang được phát triển === ==== Cho nữ giới ==== Praneem là một viên âm đạo đa thảo mộc đang được nghiên cứu như một chất diệt tinh trùng, và một chất diệt vi trùng chống HIV. BufferGel is a spermicidal gel being studied as a microbicide active against HIV. Duet là một màng chắn dùng một lần đang được phát triển có thể được cho vào trước với BufferGel. Nó được thiết kế để đưa chất diệt vi trùng vào cả cổ tử cung và âm đạo. Không giống các loại màng chắn đang có hiện nay, Duet sẽ được sản xuất chỉ với một kích thước và không cần phải kê đơn, điều chỉnh, hay tới gặp bác sĩ. Màng chắn SILCS là một màng ngăn bằng silicone vẫn đang được thử nghiệm y tế. Nó có một tay nắm kiểu quai chén ở một đầu để dễ dàng bỏ đi sau khi sử dụng. Giống như Duet, SILCS cũng có một điểm mới là nó chỉ có một kích thước. Một vòng âm đạo đang được phát triển để giải phóng cả estrogen và progesterone, và nó có tác dụng trong thời gian hơn 12 tháng. Hai kiểu vòng âm đạo chỉ progestogen đang được phát triển. Các sản phẩm chỉ Progestogen có thể đặc biệt hữu dụng cho phụ nữ đang cho con bú. Các vòng có thể được sử dụng trong 4 tháng trong một lần. Một biện pháp tránh thai chỉ progesterone đang được phát triển và có thể được xịt lên da mỗi lần một ngày. Triệt sản quinacrine và quá trình Adiana là hai biện pháp kiểm soát sinh sản thường xuyên đang được phát triển. ==== Cho nam giới ==== Ngoài bao cao su và xuất tinh ngoài, hiện không có biện pháp tránh thai có thể đảo ngược mà nam giới có thể sử dụng hay kiểm soát. Nhiều biện pháp đang được nghiên cứu và phát triển: Ở thời điểm năm 2007, một hoá chất gọi là Adjudin hiện đang được thử nghiệm trên người ở Giai đoạn II như một loại thuốc tránh thai đường uống cho nam giới. RISUG (Kiềm chế tinh trùng có thể đảo ngược theo hướng dẫn), là một biện pháp tiêm thực nghiệm vào ống dẫn phủ các thành ống dẫn với một chất diệt tinh trùng. Biện pháp này có thể đảo ngược bằng cách rửa thành ống dẫn với một hoá chất thứ hai. Những cuộc thực nghiệm trong tránh thai kiểu làm nghẽn ống dẫn là việc cấy một mô trong ống dẫn. Những cuộc thực nghiệm trong tránh thai dựa trên nhiệt là việc làm nóng tinh hoàn của người đàn ông tới một nhiệt độ trong một khoảng thời gian ngắn. == Quan niệm sai == Những quan niệm và các lời đồn đoán hiện đại đã khiến xuất hiện nhiều quan niệm sai: Việc thụt rửa bằng bất kỳ dung dịch nào ngay sau khi quan hệ là một biện pháp tránh thai là không chính xác. Tuy dường như nó là một ý tưởng khá hay để rửa tinh trùng ra khỏi âm đạo, nó vẫn thường không có hiệu quả. Bởi tính chất của dung dịch chứa tinh trùng và cơ cấu bộ máy sinh sản nữ, việc thụt rửa có vẻ sẽ làm tinh trùng đi sâu hơn nữa vào tử cung. Một số hiệu quả diệt tinh trùng có thể diễn ra nếu dung dịch rửa có tính acid cao, nhưng nói chung về mặt khoa học vẫn không phải là một biện pháp thực sự tin cậy. Thụt rửa không phải là một biện pháp tránh thai cũng không phải là biện pháp ngăn bệnh lây truyền qua đường tình dục hay nhiễm trùng. Phụ nữ không thể có thai ở lần quan hệ tình dục đầu tiên cũng là một quan niệm không chính xác. Tuy một số phụ nữ ít có khả năng có thai ở vài ngày đầu kỳ kinh nguyệt, nó vẫn là một câu chuyện hoang đường nếu cho rằng một phụ nữ hoàn toàn không thể có thai nếu có quan hệ tình dục trong khi có kinh. Quan hệ tình dục trong một bồn tắm nước nóng không ngăn việc có thai, nhưng có thể khiến bị nhiễm trùng âm đạo. Dù một số tư thế quan hệ tình dục có thể giúp dễ thụ thai hơn, không có vị trí nào có thể ngăn cản có thai. Quan hệ tình dục khi đứng hay với người phụ nữ ở bên trên không thể ngăn tinh trùng đi vào tử cung bởi lực phun ra khi xuất tinh, sự co bóp tử cung do prostaglandins trong tinh trùng, cũng như khả năng bơi ngược trọng lực của tinh trùng. Đi tiểu sau khi quan hệ tình dục không có khả năng ngăn có thai và không phải là một hình thức kiểm soát sinh sản dù vẫn được tư vấn để giúp ngăn nhiễm trùng đường tiểu. Thuốc đánh răng không thể được sử dụng như một loại thuốc tránh thai có hiệu quả. == Hiệu quả == See also the table at: So sánh các biện pháp kiểm soát sinh sản Hiệu quả được tính bằng cách xem xét bao nhiêu phụ nữ có thai khi sử dụng một biện pháp kiểm soát sinh sản riêng biệt trong năm sử dụng đầu tiên. Vì thế, nếu 100 phụ nữ sử dụng một biện pháp với tỷ lệ không thành công 12% trong năm đầu sử dụng, thì thỉnh thoảng trong năm sử dụng đầu tiên, 12 người trong số đó sẽ có thai. Các biện pháp có hiệu quả nhất trong sử dụng riêng biệt là các biện pháp không phụ thuộc vào hoạt động thông thường của người sử dụng. Phẫu thuật làm vô sinh, Depo-Provera, cấy, các biện pháp đặt thiết bị trong tử cung (IUDs) đều có tỷ lệ không thành công chưa tới 1% trong năm sử dụng đầu tiên. Tuy nhiên, trên thực tế, việc sử dụng hoàn hảo có thể không phải là nguyên nhân, nhưng phẫu thuật làm vô sinh, cấy các thiết bị trong tử cung đều có tỷ lệ thất bại thông thường dưới 1%. Tỷ lệ thất bại của Depo-Provera không được như trên, với các con số trong khoảng chưa tới 1% cho tới 3%. Các biện pháp có thể có hiệu quả rất cao nếu được sử dụng phù hợp và chính xác, nhưng có thể có các tỷ lệ thất bại trong năm sử dụng đầu tiên khá cao vì việc người sử dụng sử dụng không chính xác hay không hiệu quả. Các viên tránh thai hormon, miếng dán, hay vòng tránh thai, các biện pháp nhận thức sinh sản, và biện pháp mất kinh khi cho bú (LAM), nếu được sử dụng chính xác (hay với LAM, 6 tháng đầu tiên) các tỷ lệ thất bại chưa tới 1%. Trong một cuộc điều tra, các tỷ lệ thất bại khi sử dụng trong năm đầu tiên với viên thuốc tránh thai hormon (và theo ngoại suy là miếng dán hay vòng tránh thai) cao tới mức 5% mỗi năm. Các biện pháp nhận thức sinh sản như một tổng thể có tỷ lệ thất bại khi sử dụng trong năm đầu tiên lên tới 25%, tuy nhiên, như đã được nói ở trên, việc sử dụng chính xác sẽ làm giảm tỷ lệ thất bại xuống chưa tới 1%. Bao cao su và thiết bị ngăn cổ tử cung như màng chắn có tỷ lệ thất bại phổ biến trong năm đầu như nhau (14 và 20 phần trăm), nhưng việc sử dụng chính xác bao cao su có hiệu quả lớn hơn (3% trong năm đầu tiên và 6%) và bao cao su có tác dụng khác nữa là ngăn sự lây truyền của các bệnh lây truyền qua đường tình dục như HIV virus. Biện pháp xuất tinh ngoài, nếu được sử dụng hợp lý và chính xác, có tỷ lệ thất bại là 4%. Vì sự khó khăn khi áp dụng biện pháp xuất tinh ngoài, nó có tỷ lệ thất bại năm đầu tiên thông thường là 19%, và không được một số chuyên gia y tế đề nghị. Việc kết hợp hai biện pháp kiểm soát sinh sản, có thể làm tăng hiệu quả của chúng lên 95% hay nhiều hơn nữa với những biện pháp ít hiệu quả. Sử dụng bao cao su cùng với một biện pháp kiểm soát sinh sản khác cũng là một trong những biện pháp giúp làm giảm nguy cơ mắc các bệnh lây truyền qua đường tình dục, gồm cả HIV. Cách thực hiện này là một trong các Chiến lược Bảo vệ Kép. === Bảo vệ chống các bệnh lây truyền qua đường tình dục === Một số biện pháp kiểm soát sinh sản cũng có tác dụng bảo vệ chống lại các bệnh lây truyền qua đường tình dục (STIs). Bao cao su nam có tác dụng chống lại một số bệnh lây truyền qua đường tình dục nếu được sử dụng hợp lý và đúng cách, bao cao su nữ cũng có tác dụng tương tự, dù bao cao su nữ chỉ sử dụng được với quan hệ âm đạo. Bao cao su nữ có thể có tác dụng bảo vệ chống các bệnh lây truyền qua đường tình dục lớn hơn nếu đó là bệnh lây truyền qua tiếp xúc da, bởi vòng bên ngoài của nó bao phủ diện tích da lớn hơn bao cao su nam. Một số biện pháp liên quan tới việc tránh quan hệ tình dục âm đạo cũng có thể làm giảm nguy cơ: các màng chắn bằng cao su hay polyurethane có thể được sử dụng khi quan hệ bằng đường miệng, và việc thủ dâm một mình hay thủ dâm lẫn nhau có nguy cơ rất thấp. Các biện pháp kiểm soát sinh sản còn lại không có nhiều khả năng bảo vệ chống các loại bệnh lây truyền qua đường tình dục. Nhiều bệnh lây truyền qua đường tình dục có thể lây truyền không qua quan hệ tình dục; đây là một lý do tại sao việc kiêng khem hoạt động tình dục không đảm bảo 100% bảo vệ chống lại các bệnh lây truyền qua đường tình dục. Ví dụ, HIV có thể lây truyền qua kim tiêm bẩn đã được sử dụng trong tiêm chích ma tuý, xăm, đeo khuyên vào cơ thể, hay tiêm. Một số nhân viên y tế đã bị phơi nhiễm nghề nghiệp khi chẳng may bị thương bởi kim tiêm. == Thái độ văn hoá và tôn giáo == === Các quan điểm tôn giáo về kiểm soát sinh sản === Các tôn giáo có quan điểm rất khác biệt về đạo đức trong việc kiểm soát sinh sản. Giáo hội Công giáo chỉ chấp nhận phương pháp Kế hoạch hoá gia đình tự nhiên, trong khi đó các nhóm Tin Lành có nhiều kiểu quan điểm khác nhau, từ hoàn toàn không cho phép tới chấp nhận rất thoải mái. Quan điểm trong Do Thái giáo cũng đa dạng, từ nghiêm ngặt trong phái Chính thống tới thoải mái hơn trong phái Cải cách. Với Hồi giáo, các biện pháp tránh thai chỉ được cho phép nếu chung không gây hại tới sức khoẻ, dù việc sử dụng nó không được một số người khuyến khích. Các tín đồ Hindu giáo có thể sử dụng cả biện pháp tránh thai tự nhiên và tránh thai nhân tạo. Một quan điểm thường thấy của Phật giáo về kiểm soát sinh sản là việc ngăn thụ thai là có thể chấp nhận được về đạo đức, trong khi can thiệp sau khi việc thụ thai đã diễn ra hay có thể đã diễn ra thì không được chấp nhận. === Giáo dục kiểm soát sinh sản === Nhiều thanh niên, thường là tại các nước phát triển, nhận được một số hình thức giáo dục giới tính tại trường. Thông tin nào cần được cung cấp trong các chương trình như vậy bị tranh cãi dữ dội, đặc biệt tại Hoa Kỳ và Anh Quốc. Các chủ đề có thể đề cập gồm giải phẫu sinh sản, thái độ tình dục loài người, thông tin về các bệnh lây truyền qua đường tình dục (STDs), các quan điểm xã hội về quan hệ tình dục, các kỹ năng đàm phán nhằm giúp đối tượng tuổi teen thực hiện với một quyết định về việc kiêng khem hay sử dụng biện pháp kiểm soát sinh sản khi quan hệ tình dục, và thông tin về các biện pháp kiểm soát sinh sản. Một kiểu chương trình giáo dục giới tính được sử dụng chủ yếu tại Hoa Kỳ được gọi là chỉ giáo dục kiêng khem, và nó khuyến khích kiêng khem tình dục cho tới hôn nhân. Các chương trình không khuyến khích kiểm soát sinh sản, thường cung cấp thông tin không chính xác về các biện pháp tránh thai và hoạt động tình dục, nhấn mạnh các tỷ lệ không thành công của bao cao su và các biện pháp tránh thai khác, và dạy các cách để tránh các tình huống dễ dẫn đến quan hệ tình dục. Những người ủng hộ chỉ giáo dục kiêng khem tin rằng các chương trình sẽ giúp làm giảm tỷ lệ mang thai ở tuổi teen và lây truyền bệnh qua đường tình dục. Trong một cuộc điều tra trên mạng Internet với 1,400 phụ nữ những người tìm và hoàn thành một bảng câu hỏi trên mạng kéo dài 10 phút được liệt kê trên các công cụ tìm kiếm, những phụ nữ được giáo dục giới tính tại trường học với chỉ các thông tin về kiêng khem, hay lượng thông tin về kiêng khem và tránh thai ngang nhau, cho thấy ít có lần mang thai ngoài kế hoạch hơn những người chủ yếu nhận được thông tin về tránh thai, những người này cũng ít có lần mang thai ngoài ý muốn hơn những người không được giáo dục chút nào. Tuy nhiên, những cuộc thử nghiệm ngẫu nhiên cho thấy giáo dục giới tính với chỉ thông tin về kiêng khem làm tăng tỷ lệ mang thai và lây truyền bệnh qua đường tình dục cho teen. Các tổ chức y tế chuyên nghiệp, gồm cả AMA, AAP, ACOG, APHA, APA, và Cơ quan Y tế cho Thanh niên, ủng hộ việc giáo dục giới tính toàn diện (cung cấp cả thông tin về kiêng khem và tránh thai) và phản đối việc áp dụng chỉ giáo dục giới tính một phía. == Xem thêm == Tỷ lệ sinh Kiếm soát dân số Chính sách một con Natalism, khuyến khích sinh đẻ Liên đoàn Kiểm soát Sinh sản Quốc gia == Tham khảo == == Liên kết ngoài == Ingenious: an archive of historical images related to obstetrics, gynaecology, and contraception. Family Planning: A Global Handbook for Providers USAID, WHO, Johns Hopkins INFO Project, 2007
thụ tinh nhân tạo.txt
Thụ tinh nhân tạo (artificial insemination, intrauterine insemination - IUI), còn gọi là phối giống nhân tạo, gieo tinh nhân tạo, là một phương pháp hỗ trợ sinh sản, thông qua một số biện pháp kỹ thuật, con người lấy tinh trùng từ con đực để pha chế, bảo quản và bơm vào đường sinh dục (tử cung) của con cái. Hay nói khác đi, phối giống nhân tạo là phối giống không có sự tiếp xúc giữa hai cá thể đực cái; con người lấy tinh dịch cá thể đực pha chế và dẫn vào đường sinh dục cá thể cái. Trên người, thụ tinh nhân tạo bao gồm cả thụ tinh trong ống nghiệm (là sự kết hợp của tinh trùng và trứng ở trong ống nghiệm). == Trong chăn nuôi == === Lịch sử === Trong chăn nuôi, công nghệ thụ tinh nhân tạo được ứng dụng từ lâu với mục đích nhằm tăng số lượng quần thể nhanh. Theo truyền thuyết, thụ tinh nhân tạo bắt đầu từ thế kỷ XIV, vào năm 1322, một vị tù trưởng (người Ả Rập) của bộ lạc nọ muốn có giống ngựa tốt, đã sai người đi hứng tinh dịch của một con ngựa đực tốt ở bộ lạc láng riềng vào một nắm bông và mang về nhét vào âm hộ ngựa cái. Cũng có tài liệu cho rằng, người chăn ngựa lấy khăn nhét vào âm đạo của con ngựa cái vừa giao phối xong, sau đó rút ra và mang về nhét vào âm đạo của con ngựa đang động dục. Về sau, ngựa của vị tù trưởng mang thai và sinh ra một con ngựa như ông mong muốn, con ngựa này giống hệt con ngựa đực của bộ lạc láng riềng. Từ thế kỷ thứ 17, thụ tinh nhân tạo mới được nghiên cứu và thực nghiệm rộng rãi trên nhiều đối tượng: I.I. Ivanov (Nga), L. Spallanzani (Italia), Bibbiena là những người đầu tiên thí nghiệm thụ tinh nhân tạo trên tằm; năm 1670, Malpighi nghiên cứu tằm; năm 1763, Lacobi nghiên cứu trên cá; năm 1677, các nhà khoa học Hà Lan phát hiện ra tinh trùng trong tinh dịch; năm 1779-1780, Lazzaro Spallanzani thực hiện thành công trên chó với tinh dịch thu được bằng phương pháp xoa bóp dương vật của chó đực. Năm 1898 Heape, nhà bác học người Anh đã phát hiện ra chu kỳ sinh dục ở gia súc, đây là nền tảng khoa học cho kỹ thuật thụ tinh nhân tạo. Cùng thời điểm này, hai nhà khoa học người Mỹ là Pearson và Harrison đã phát hiện ra phương pháp dẫn tinh ngựa và bò. Năm 1900, thụ tinh nhân tạo được thực hiện trên bò ở Nga (bởi nhà khoa học Ivanov) nhưng chưa phổ biến do gặp khó khăn trong việc khai thách tinh trùng của bò đực. Cùng thời gian này, thụ tinh nhân tạo được áp dụng rộng rãi trên chó ở Anh, Pháp. Thụ tinh nhân tạo được phát triển sau khi Joseppe Amantea, nhà bác học người Italia, đã phát minh ra âm đạo giả để khai thác tinh trùng của chó đực vào năm 1914. Từ phát minh này, lần lượt âm đạo gia để khai thác tinh trùng của các loài gia súc khác được ra đời khắc phục hàng loạt những khó khăn trong việc khai thác tinh, nhất là trên ngựa, các loài dạ cỏ (bò). Ở Việt Nam, thụ tinh nhân tạo trên vật nuôi được ứng dụng đầu tiên vào năm 1957 tại Học viện Nông - Lâm, nay là Học viện Nông nghiệp Việt Nam. Thụ tịnh nhân tạo được áp dụng trên lợn vào năm 1958, trên bò vào năm 1960, trên trâu vào năm 1961, trên ngựa vào năm 1964. Năm 1970, cơ sở đông lạnh tinh dịch bò dạng viên được xây dựng tại Moncada thuộc huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội. Năm 1986, Viện Chăn nuôi đã ứng dụng thành công thụ tinh nhân tạo trên gà, năm 1990 trên ngỗng, năm 1991 ứng dụng cho lai xa giữa ngan và vịt, năm 1995 ứng dụng trên cho dê, năm 1997 ứng dụng trên chó nghiệp vụ. Đến nay, thụ tinh nhân tạo được áp dụng rộng rãi trong chăn nuôi lợn và bò. === Những lợi ích và hạn chế của thụ tinh nhân tạo trên vật nuôi === Thụ tinh nhân tạo giúp nâng cao khả năng truyền giống của con đực, một con lợn đực giống tốt có thể phụ trách được từ hàng trăm đến hàng nghìn con lợn cái; một con bò đực giống tốt có thể phụ trách hàng vạn bò cái. Mỗi lần xuất tinh, có thể pha chế thành 30 – 40 liều tinh đối với lợn, trên 200 liều tinh đối với bò. Thụ tinh nhân tạo giúp nâng cao phẩm chất đàn gia súc. Người chăn nuôi Việt Nam thường có câu “Đực tốt thì tốt cả đàn; nái (cái) tốt chỉ tốt một ổ”. Với chỉ một số ít đực giống tốt, được tuyển kỹ càng sẽ tạo ra một số lượng lớn liều tinh trùng có chất tốt, khi dẫn tinh cho gia súc cái thì các đặc điểm tốt của con sẽ được truyền cho đời sau. Việc khai thác tinh trùng, pha chế bằng dung môi hoặc làm đông lạnh có thể bảo quản được trong thời gian dài ở nhiệt độ thích hợp. Tinh dịch của lợn sau pha chế có thể bảo quản ở nhiệt độ 16 – 180C được 1 – 4 ngày (tùy theo giống), tinh dịch trâu bò (dạng tinh đông lạnh) có thể bảo quản trong môi trường nitơ lỏng được 8 – 10 năm, thậm chí lên đến 40 năm. Bên cạnh đó, tinh trùng sau khi pha loãng gọn, nhẹ có thể vận chuyển đi xa trong những điều kiện khó khăn mà được giống khó có thể vận chuyển được. Ngoài những ưu điểm trên, thụ tinh nhân tạo trên vật nuôi còn giúp tránh được những bệnh lây lan qua đường sinh sản thông qua giao phối trực tiếp; khắc phục sự chênh lệch về tầm vóc giữa con đực và con cái (ví dụ bò đực giống 1.000 kg rất khó phối giống cho bò cái tầm vóc khoảng 200 kg); đáp ứng nhu cầu số lượng cái động dục lớn trong điều kiện ít đực giống; kéo dài thời gian sử dụng đực giống và tăng hiệu quả kinh tế gấp từ 5-6 lần so với nhảy trực tiếp đối với lợn và hàng trăm lần đối với bò. Tuy nhiên, để thụ tinh nhân tạo thành công đòi hỏi người thực hiện phải có kiến thức chắc về đặc điểm sinh lý, sinh sản của vật nuôi; có kinh nghiệm thực tiễn; hăng say với nghề. Thông thường, tỷ lệ thụ thai khi thụ tinh nhân tạo thấp hơn so với giao phối tự nhiên. === Quy trình chung === Để thụ tinh nhân tạo trên vật nuôi cần triển khai các hoạt động cơ bản: khai thác tinh của con đực (hoặc con trống đối với gia cầm); đánh giá chất lượng tinh dịch và pha chế, bảo quản; thụ tinh cho con cái bằng việc sử dụng súng bắn tinh để bơm tinh trung vào tận tử cung. === Thụ tinh nhân tạo cho gà === ==== Lấy tinh của gà trống ==== Gà trống dùng để thụ tinh nhân tạo là gà trưởng thành, mạnh khỏe (nhất là không bị nhiễm ký sinh ngoài da, ký sinh khu trú xung quanh khu vực huyệt, khiến bộ phận sinh dục đực khó phát hiện), thể chất tốt. Đã được qua huấn luyện khai thác tinh, phải thuần thục, không hoảng sợ trong điều kiện căng thẳng hay bị nắm giữ (khi lấy tinh), được nuôi cách ly nhưng vẫn có khả năng khi gặp gà mái. Nơi nuôi nhốt gà trống không được quá nóng, nhiệt độ chuồng nuôi tương dối ổn định. Có nhiều cách lấy tinh, phương pháp phổ biến và hiệu quả nhất là người công nhân dùn tay trái luồn bên dưới lườn gà trống, hướng đầu gà vào bên trong người, dùng ngón tay nắm cẳng chân phải (gà trống lớn, ngón tay nắm cẳng trái). Tay phải vuốt giữa lưng xuống đến đuôi, ngón tay trái xoa bóp dưới bụng. Sau nhiều lần gà vỗ cánh, chuyển tay phải từ lưng qua huyệt (vent), dùng ngón cái và ngón trỏ day hai bên huyệt, đồng thời, bàn tay trái bóp vào vùng bụng cho đến khi một dòng dịch nhỏ như sữa chảy ra. Hứng tinh dịch bằng chén (thủy tinh, men, xứ). Một số trường hợp đặc biệt như vịt trời, bộ phận sinh dục không nhô hẳn ra ngoài, khi xuất tinh, một phần chảy lên một phần của bề mặt huyệt. Mỗi lần xuất tinh, gà rống tiết từ 0,1 – 0,44 cc tinh trùng. Cường độ khai thác 2 – 4 ngày/lần. Tinh có thể lưu từ 2 đến 4 giờ trong điều kiện thường (không nên để tinh bị khô, giữ trong điều kiện nhiệt độ thấp hơn thân nhiệt của gà trống) mà không ảnh hưởng gì đến khả năng thụ tinh, có thể giữ lâu hơn trong điều kiện bảo quản. ==== Gieo tinh cho gà mái ==== Gà mái dùng để thụ tinh nhân tạo phải đảm bảo đang giai đoạn động dục, không có trứng đã có vỏ ở phần dưới của vòi trứng để tinh trùng di chuyển dễ dàng đến nơi thụ tinh với trứng. Khi thụ tinh, nhẹ nhàng ôm gà mái lên, giữ và kích thích gà mái tương tự khi lấy tinh gà trống. Day sau khi vỗ và xoa bóp, huyệt chuyển động và một vòi (là đầu cuối của vòi trứng) xuất hiện ở bên trái, có thể hình tỏa tròn (rosette) hoặc một nếp hoặc kẽ da. Khi đó, dùng súng bắn tinh, ống hút hoặc xilanh gieo tinh vào sâu từ 0.6 đến 2.5 cm tính từ đầu vòi. Cuối cùng, nới lỏng cơ thể gà mái ngay sau khi gieo tinh để ống dẫn trứng trở về vị trí bình thường, rút tinh trùng vào trong. Cường độ gieo tinh thông thường một lần/tuần là đủ để duy trì sự thụ tinh (tinh trùng của gà trống có thể sống và thụ tinh cho trứng của gà mái trong vòng một tuần). === Thụ tinh nhân tạo giữa ngan đực và vịt cái === ==== Tạo đàn bố mẹ và huấn luyện ==== Đối với ngan đực: Chọn những con có ngoại hình cân đối, thân hình vạm vỡ, ngực sâu rộng, mắt sáng, mào đỏ, nhanh nhẹn, lông bóng mượt, hăng hái về tính dục (khi thả con mái vào có hiện tượng đuổi theo, dựng lông đầu, đánh những con đực khác). Nhốt riêng ngan đực mỗi ô một con, đồng thời nhốt gần đó 1-2 ngan cái có ngoại hình cân đối và đã thành thục về tính (26 tuần tuổi) để kích thích ngan đực và sử dụng làm mái thí tình khi khai thác tinh của ngan đực. Người chăn nuôi, người lấy tinh tiếp xúc hàng ngày với ngan đực để làm quen, huấn luyện cho ngan đực có phản xạ sinh dục bằng cách vuốt dọc sống lưng ngan đực. Công việc này được làm từ ngay ngày đầu bằng cách mở ô cửa ra dùng tay vuốt lưng ngan đực từ vai xuống đề hõm đuôi. Thao tác này được thực hiện trên 2 lần/ngày, thời gian vuốt trên 2-3 phút, thực hiện trong 10-14 ngày; trong quá trình chăm sóc, nuôi dưỡng và huấn luyện đều cố định người và trang phục. Vào ngày thứ 10 - 14, khi người nuôi tiếp xúc thấy ngan đực đứng yên, không né tránh, dùng hai tay bắt ngan cái thí tình bằng cách giữ hai cánh và nhẹ nhàng đặt vào ô ngan đực sau đó quan sát phản ứng giao tiếp của chúng. Những con có phản ứng đạp mái sẽ có hiện tượng rỉa lông đầu, lông cổ, trèo lên lưng ngan cái, vào thời điểm này cần bắt ngan mái sang ô ngan trống khác. Thao tác này cũng tiến hành mỗi lần 2-3 phút, thực hiện 2 lần/ngày kéo dài 10-14 ngày. Sau giai đoạn huấn luyện, ngan đực sẽ có phản xạ đạp mái với biểu hiện khi mở ô ngan mái ra (để bắt ra ngoài) thì con đực đã nháo nhác về phía ngan mái, quay sang ô đực khác để đánh nhau. Thời điểm này, chúng tôi tiến hành lấy tinh thử để xác định lượng tinh của từng con đực và đánh dấu những con cho tinh kém để thay bằng những con khác. Khu vực chuồng ngan đảm bảo khô, thoáng, ấm. Nuôi dư­ỡng ngan đực được tuân theo đúng quy trình chăn nuôi, thú y. Quá trình huấn luyện ngan được tiến hành nhẹ nhàng, không nóng vội. ==== Khai thác, pha loãng tinh của ngan đực ==== Thời gian lấy tinh và thụ tinh được tiến hành từ 6h00’ – 9h00’ để đảm bảo yêu cầu kỹ thuật. Các dụng cụ lấy tinh: cốc hứng tinh (cốc thủy tinh trung tính có chiều cao 12–15 cm, miệng rộng 4–5 cm), pipet hút tinh có vạch chia ml, ống pha loãng tinh dịch (ống nghiệm có chia vạch ml), dung môi pha loãng tinh, phích bảo quản tinh dịch. Khi lấy tinh, nhẹ nhàng bắt ngan cái bằng hai tay đặt vào ô ngan đực cần lấy tinh. Sau khi cho ngan cái vào ô, con đực có phản xạ đạp ngan cái như làm quen, trèo lên lưng con cái, lấy thăng bằng bằng hai chân bấu chặt lấy 2 âu cánh con cái, mỏ ngậm chặt lông đầu cổ. Lúc này, nhẹ nhàng kéo con mái ra phía cửa để dễ thực hiện thao tác hứng tinh. Để đuôi ngan cái quay về phía cửa (phía người lấy tinh). Khi ngan đực đạp ngan cái, người lấy tinh chuẩn bị sẵn cốc chứa tinh trên tay, khi ngan đực có phản xạ thò gai giao cấu để giao phối nhanh chóng đưa miệng cốc về phía gai giao cấu (hậu môn) để chuẩn bị hứng tinh. Khi hứng tinh, đưa cốc sát vào hậu môn con đực, dùng ngón cái và trỏ của tay trái giữ nhẹ phần hõm đuôi ngan đực, sau đó dùng ngón trỏ tay phải kiểm tra lỗ huyệt con đực, nếu thấy nổi cục và rắn lại, đuôi ngoáy nhanh (là lúc chuẩn bị xuất tinh) thì nhanh chóng ấn miệng cốc và ấn nhẹ phao câu con mái xuống để cho gai giao cấu của ngan đực bật vào lòng cốc, chờ cho ngan đực phóng hết tinh vào trong lòng cốc thì bỏ ra và nhẹ nhàng bắt ngan cái ra. Trung bình mỗi con ngan đực lấy được 1-2 ml tinh dịch. Sau khi lấy được tinh, kiểm tra, đánh gia sơ bộ chất lượng tinh dịch bằng mắt thường. Bình thường tinh dịch có màu từ trắng đục đến ghi, những trường hợp tinh dịch có màu khác như­ trong vắt, đen, màu nâu, màu đỏ hoặc vẩn đục thì chúng tôi loại bỏ. Sau khi kiểm tra cảm quan đánh giá sơ bộ chất lượng tinh, dùng pipet hút nhẹ nhàng tinh dịch từ cốc, đọc số lượng ml của từng con và cho sang ống pha loãng. Pha loãng tinh dịch: Dùng dung môi pha loãng để pha; tỷ lệ pha loãng là 3ml tinh dịch + 1ml dung môi. Khi pha loãng nghiêng ống nghiệm nhẹ nhàng đưa dung môi cho chảy xuống theo thành ống pha loãng và quay nhẹ nhàng ống để trộn đều tinh dịch với dung môi. Hút tinh dịch đã đ­ược pha loãng vào các ống dẫn tinh (cọng rạ) và đư­a vào thùng bảo quản, duy trì nhiệt độ 37oC. Thời gian bảo quản và sử dụng tối đa 45 phút. ==== Thụ tinh cho vịt cái ==== Vịt mái sinh sản đang trong giai đoạn khai thác trứng. Hàng ngày, người chăn nuôi tiến hành vệ sinh chuồng nuôi và sân chơi sạch sẽ, bổ sung thêm độn chuồng và thu nhặt trứng vào 6 - 7 giờ sáng. Thời gian phối tinh cho vịt mái là từ 6 - 9 giờ, được tiến hành ngay khi khai thác, pha loãng tinh dịch của ngan đực. Lắp ỗng dẫn tinh vào súng bắn tinh, nâng súng lên để bọt khí nổi lên trên đầu ống và bóp cò súng để đẩy hết bọt khí ra ngoài. Bắt vịt cái, cầm hai chân dốc đầu xuống d­ưới. Sau đó bộc lộ lỗ huyệt của vịt bằng cách dùng 2 ngón cái và 2 ngón trỏ ấn nhẹ xung quanh lỗ huyệt, đồng thời dùng hai đùi kẹp sẽ tạo ra áp lực cho âm đạo lộn ra. Đến khi xuất hiện một lỗ tròn nhỏ, cầm súng bắn tinh nhẹ nhàng đư­a đầu ống dẫn tinh vào tử cung và khi có cảm giác hẫng tay tức là ống dẫn tinh đã qua đư­ợc cơ vòng âm đạo, nhanh chóng bóp cò súng để đẩy một lượng tinh dịch vào tử cung của vịt mái. Sau đó, nhẹ nhàng rút súng ra và kéo nhẹ hậu môn lên, mở hai đùi ra để trả tử cung về vị trí cũ và thả vịt xuống nền. Việc thụ tinh nhõn tạo được tiến hành lặp lại sau 4 ngày. == Trên người == === Tổng quan === Trên người, thụ tinh nhân tạo chủ yếu nhằm mục đích hỗ trợ sinh sản cho những cặp vợ chồng hiếm muộn, vô sinh, vì lý do nào đó mà tinh trùng không thể thụ tinh cho trứng bằng phương pháp tự nhiên. Thụ tinh nhân tạo được áp dụng cho cặp vợ chồng vô sinh mong muốn có con; cụ thể như vô sinh do: tinh trùng người chồng yếu, rối loạn phóng noãn, lạc nội mạc tử cung, yếu tố cổ tử cung. Một số trường hợp khác như: người chồng không có tinh trùng, cần xin mẫu tinh trùng để thực hiện thụ tinh nhân tạo cho người vợ; lưu giữ tinh trùng; một số phụ nữ đơn thân, chưa (hoặc không) lập gia đình mong muốn có con; một số trường hợp người chồng qua đời khi chưa có con và nguyện vọng người vợ mong muốn có con với người chồng đã khuất… Để thực hiện được thụ tinh nhân tạo, người phụ nữ phải có ít nhất một vòi tử cung thông. === Quy trình thụ tinh nhân tạo === Lấy tinh dịch: trước khi lấy tinh trùng, người chồng (hay người đàn ông) cần kiêng quan hệ tình dục trong khoảng một tuần; khi lấy tinh dịch toàn bộ bộ phận sinh dục và tay người chồng được vệ sinh sạch sẽ, sau đó người chồng xuất tinh bằng phương pháp thủ dâm. Lọc, rửa tinh trùng: đây là kỹ thuật nhằm mục đích loại bỏ tinh trùng chết, tinh tương để thu được mẫu có nhiều tinh trùng khoẻ mạnh để sử dụng trong thụ tinh nhân tạo (bơm vào buồng tử cung của phụ nữ) hoặc thụ tinh trong ống nghiệm. Bơm tinh trùng vào buồng tử cung: đây là kỹ thuật sử dụng catheter được đưa qua cổ tử cung để bơm trực tiếp tinh trùng đã lọc rửa vào buồng tử cung. Phương pháp bơm tinh trùng vào buồng tử cung sẽ làm tăng tỷ lệ có thai. == Tham khảo ==
xuân thu.txt
Xuân Thu (chữ Trung Quốc: 春秋時代; Hán Việt: Xuân Thu thời đại, bính âm: Chūnqiū Shídài) là tên gọi một giai đoạn lịch sử từ 722 đến 481 TCN trong lịch sử Trung Quốc. Tên của nó bắt nguồn từ cuốn Kinh Xuân Thu (Biên niên sử Xuân Thu), một cuốn sử mà theo truyền thống thường được coi là của Khổng Tử. Ở giai đoạn Xuân Thu, quyền lực được tập trung hoá. Giai đoạn này xảy ra rất nhiều các trận chiến và sự sáp nhập khoảng 170 nước nhỏ. Sự sụp đổ dần dần của giới thượng lưu dẫn tới sự mở rộng học hành; trí thức gia tăng lại thúc đẩy tự do tư tưởng và tiến bộ kỹ thuật. Tiếp sau giai đoạn này là thời Chiến Quốc. Ở thời điểm đó Trung Quốc vẫn chưa được coi là một đế quốc. Và tới tận khi vị hoàng đế đầu tiên của nhà Tần (秦), và cũng là vị hoàng đế đầu tiên của Trung Quốc lên ngôi thì nước này mới bắt đầu giai đoạn phong kiến tập quyền. Dưới thời nhà Chu, trung tâm của quyền lực nằm trong tay (hay được cho là như vậy) vị vua nhà Chu dưới hình thức phong kiến phân quyền. Cần lưu ý rằng vua và hoàng đế không phải hoàn toàn như nhau. Vị vua nhà Chu nhận được đồ cống nạp từ các quý tộc cai trị tại những vùng đất mà họ được thừa kế từ tổ tiên. Các vị tổ tiên được phong làm quý tộc hay công tước tại các nước chư hầu thường là các quan chức có công lao lớn đối với nhà vua và triều đình cai trị, trong trường hợp này là nhà Chu. Vị vua nhà Chu không trực tiếp kiểm soát các tiểu quốc chư hầu của mình. Thay vào đó, sự trung thành chung của các quận công và quý tộc tạo nên quyền lực cho ông ta. Khi lòng trung thành giảm đi, quyền lực của nhà vua cũng giảm sút. Vị hoàng đế đầu tiên của Trung Quốc thấy rằng hệ thống phong kiến cuối cùng sẽ dẫn tới một vị vua ít quyền lực và một tình thế hỗn loạn. Vì vậy, ông đã dựng lên một Trung Quốc với một thể chế tập trung mạnh mẽ không dựa vào lòng trung thành của các quận công địa phương. == Giai đoạn Xuân Thu == Sau khi kinh đô (Cảo) bị các bộ tộc rợ phía tây cướp bóc, Chu Bình Vương (Cơ Nghi Cữu) chạy sang phía Đông. Trong khi rút chạy từ thủ đô phía tây về phía đông, vị vua Chu nhờ các vị vương hầu ở gần đó là Tần (秦), Trịnh (鄭) và Tấn (晉) bảo vệ khỏi các rợ và các vị vương hầu phản loạn. Ông dời đô thành của Chu từ Cảo Kinh (nay thuộc Thiểm Tây) đến Lạc Ấp (nay thuộc Lạc Dương) ở châu thổ sông Hoàng Hà. Vị vua trốn chạy nhà Chu không có được vị trí chắc chắn trên vùng lãnh thổ phía đông; thậm chí cả lễ lên ngôi của thế tử cũng phải nhờ sự trợ giúp của các vị vương hầu trên mới diễn ra được. Với sự sút giảm lớn về đất đai, chỉ còn giới hạn ở Lạc Dương và các vùng xung quanh, triều đình Chu không còn có thể duy trì sáu đội quân thường trực (lục quân). Các vị vua nhà Chu tiếp sau cần sự trợ giúp của các chư hầu hùng mạnh xung quanh để bảo vệ họ khỏi các cuộc cướp bóc và để giải quyết các cuộc tranh giành quyền lực bên trong. Triều đình nhà Chu không bao giờ còn lấy lại được quyền lực trước đó của họ; họ chỉ còn đơn thuần là một triều đình bù nhìn của các chư hầu phong kiến. Mặc dù nhà Chu trên danh nghĩa vẫn đang nắm Thiên Mệnh, danh hiệu không hề có quyền lực. == Sự nổi lên của các bá chủ == Vị quý tộc đầu tiên giúp đỡ các vua nhà Chu là Trịnh Trang Công (鄭莊公) (ở ngôi 743 TCN - 701 TCN). Ông là người đầu tiên lập lên ngôi vị bá chủ, với ý định giữ lại hệ thống cai trị cũ. Các nhà sử học xưa biện hộ rằng hệ thống mới là một phương tiện để bảo vệ các chư hầu văn minh yếu hơn và triều đình nhà Chu khỏi phải chịu sự cướp phá của các bộ tộc nằm bao quanh (mà người Trung Hoa thường gọi miệt thị là Bắc Địch (北狄); Nam Man (南蠻), Tây Nhung (西戎), Đông Di (東夷)). (Xem thêm Dân tộc ngoài Trung Nguyên cổ đại). Tuy nhiên, tất cả các chư hầu được cho là "văn minh" thực tế gồm một phần pha trộn đáng kể các tộc người; vì thế không có đường biên giới rõ ràng giữa các chư hầu "văn minh" và các "rợ". Tuy nhiên các bộ tộc với sự khác biệt về dân tộc và văn hoá đó lại có một nền văn minh duy nhất của họ ở một số vùng. Một số nhóm dân tộc về thực chất lại có sức mạnh và được văn minh hoá theo các tiêu chuẩn Trung Quốc tới mức những thực thể chính trị của họ, gồm cả Ngô và Việt, thậm chí được gộp trong một số liên minh của Ngũ Bá. Các chư hầu hùng mạnh mới nổi lên thực lòng muốn giữ sự ưu tiên dòng dõi quý tộc hơn hệ tư tưởng truyền thống là giúp đỡ các nước yếu hơn ở thời hỗn loạn (匡扶社稷 khuông phù xã tắc), điều này vốn đã từng được truyền bá rộng rãi ở thời đế quốc Trung Quốc để củng cố quyền lực vào tay gia đình cai trị. Các vị chư hầu Tề Hoàn Công (ở ngôi 685 TCN -643 TCN) và Tấn Văn Công (ở ngôi 636 TCN - 628 TCN) còn đi xa hơn trong việc thiết lập hệ thống cai trị lãnh chúa, nó mang lại sự ổn định nhưng chỉ trong những khoảng thời gian ngắn so với trước kia. Các vụ sáp nhập tăng lên, mang lại lợi ích cho những chư hầu hùng mạnh nhất gồm Tần, Tấn, Tề và Sở. Vai trò của lãnh chúa ngày càng có chiều hướng rời xa khỏi mục đích ban đầu là bảo vệ các chư hầu nhỏ hơn; cuối cùng lãnh chúa đã trở thành một hệ thống quyền bá chủ của các chư hầu lớn đối với các nước vệ tinh yếu hơn ở Trung Quốc và đối với cả những vùng có nguồn gốc "rợ". Các chư hầu lớn thường lợi dụng lý do giúp đỡ và bảo vệ để can thiệp và kiếm lợi từ các nước chư hầu nhỏ khi xảy ra xung đột nội bộ ở các nước đó. Đa phần các vị bá thời sau này đều bắt nguồn từ các chư hầu lớn thời đó. Họ tự tuyên bố mình là vị chúa tể trên lãnh thổ của họ, thậm chí còn không cần công nhận tính tượng trưng nhỏ mọn của nhà Chu. Việc thiết lập hệ thống hành chính địa phương (châu và quận), với các quan chức được chỉ định bởi chính phủ, tạo cho các chư hầu khả năng kiểm soát lớn hơn với lãnh địa của mình. Việc thu thuế nông nghiệp và thương mại cũng dễ dàng hơn so với kiểu phong kiến trước đó. Ba nước Tần, Tấn và Tề không chỉ tự tăng cường sức mạnh của mình mà còn đẩy lùi chư hầu ở phía nam là Sở, các vị lãnh chúa ở đó tự phong mình làm vua. Quân đội Sở dần dần xâm nhập vào lưu vực sông Hoàng Hà. Việc coi Sở như là "rợ phương nam" (Sở Man), đơn giản là một lý do để cảnh báo Sở không được can thiệp vào tầm ảnh hưởng riêng của họ. Những sự xâm nhập của Sở nhiều lần bị chống trả với ba trận đánh lớn ngày càng tăng về mức độ bạo lực - trận Thành Bộc (632 TCN), trận Bi (595 TCN) và trận Yên Lăng (575 TCN); điều này dẫn tới sự hồi phục của các chư hầu Trần và Thái (còn gọi là Sái). == Quan hệ giữa các chư hầu == Ở thời này một hệ thống quan hệ phức tạp giữa các chư hầu được phát triển. Một phần nó được cấu trúc theo hệ thống phong kiến của Tây Chu nhưng các yếu tố thực dụng được tăng cường. Một sự tập hợp các tiêu chuẩn và giá trị thông thường của các chư hầu, có thể gọi một cách không chính xác lắm là Luật quốc tế đã xuất hiện. Khi các vùng ảnh hưởng và vùng văn hoá của các chư hầu mở rộng và giao nhau, các cuộc chạm trán ngoại giao cũng tăng lên. == Thay đổi nhịp độ chiến tranh == Sau một giai đoạn tăng trưởng chiến tranh ở mọi góc độ, Tề, Tần, Tấn và Sở cuối cùng đã gặp gỡ ở một hội nghị giải giáp vũ khí năm 579 TCN, các nước khác hầu như trở thành các nước vệ tinh (nước phụ dung). Năm 546 TCN, Tấn và Sở đồng ý ngừng chiến với nhau. Sau một thời gian tương đối yên ổn trong thế kỷ thứ 6 TCN, hai nước chư hầu ven biển ở vùng Triết Giang ngày nay là Ngô và Việt, dần dần mạnh lên. Sau khi đánh bại và trục xuất vua Phù Sai nước Ngô, vua Câu Tiễn nước Việt (496 TCN - 465 TCN) trở thành vị bá chủ cuối cùng được công nhận. Thời kỳ hoà bình này chỉ là một sự mở đầu cho một tình trạng rối loạn của Thời Chiến Quốc. Bốn chư hầu mạnh đang ở giữa cuộc tranh giành quyền lực. Sáu họ chiếm hữu đất đai lớn ở nước Tấn tiến hành đánh lẫn nhau. Họ Trần đang loại trừ các đối thủ chính trị ở Tề. Tính chính thống của những vị vua cai trị thường không được thừa nhận trong các cuộc nội chiến với sự tham gia của nhiều thành viên thuộc gia đình hoàng gia ở Tần và Sở. Một lần nữa những người tranh giành đó lại củng cố vững chắc vị trí của mình tại lãnh thổ riêng, sự chém giết giữa các nước tiếp tục trong thời Chiến Quốc. Thời Chiến Quốc chính thức bắt đầu vào năm 403 TCN khi ba họ lớn nhất ở Tấn là Triệu, Ngụy và Hàn phân chia đất nước; triều đình bất lực nhà Chu bắt buộc phải công nhận quyền lực của họ. Chế tác đồ sắt đã làm nông, công, thương phát đạt, thì cũng làm đổi thay quân sự. Khí giới bằng sắt bén hơn, giết được nhiều hơn, mau hơn. Ai cũng thấy chỉ chiến tranh mới giải quyết được mọi mâu thuẫn. Ngay từ thời Mạnh Tử, chiến tranh đã khốc liệt rồi, người ta "đánh nhau để tranh đất, giết người đầy đồng; đánh nhau để tranh thành, giết người đầy thành." Nước nào cũng có vài trăm ngàn quân. Nước Tần, thế kỷ thứ IV TCN, bắt tất cả đàn ông từ 15 hay 20 tuổi tới 60 tuổi phải nhập ngũ, như vậy là chỉ còn đàn bà con nít là khỏi phải ra trận. Chính sách ngụ binh ư nông được phổ biến: người dân nào cũng thời bình thì làm ruộng, tập võ nghệ, thời chiến thì thành lính. Có khi đàn bà người già cũng không được ở yên, phải đi xây trường thành để ngăn xâm lăng. Sở xây trường thành ở Hà Nam, Tề ở Sơn Đông, các nước khác như Ngụy, Tần cũng bắt chước. Những trường thành đó chỉ bằng đất, có khi chỉ là một con đê được đắp cao hơn, rất ít khi bằng đá, nhưng cũng có những đồn nhỏ do một số lính giữ, thấy địch tới thì đốt khói ban ngày, đốt lửa ban đêm báo cho các đồn khác biết. Triệu xây một trường thành ở phía Bắc, Yên cũng vậy, để chống lại các rợ phương Bắc; các thành đó sau này Tần Thuỷ Hoàng sửa sang lại, nối liền với nhau thành Vạn Lý trường thành. Về khí giới, người ta chế tạo nỏ và nỗ pháo (catapult) để bắn đá (thế kỷ V TCN). Nỏ mạnh hơn và bắn xa hơn cung, có thể được non 500 mét theo sách thời đó chép. Các tòa thành cũng ngày một cao hơn, kiên cố hơn. Thời Mặc Tử, Công Thâu Ban đã chế tạo được thang mây để đánh thành. Sở dĩ có tên đó vì thang rất cao mới đủ leo lên đánh thành. Chiến xa trở nên lỗi thời, người ta dùng bộ binh, rồi kỵ binh. Hai nước Ngô, Việt có nhiều hồ, đầm lầy, không dùng chiến xa được, cho nên đã đầu tiên dùng bộ binh. Tấn mới đầu chê chiến tranh dùng bộ binh không có vẻ "lễ nghĩa quý tộc" nhưng rồi Trịnh theo, và dần dần các nước khác cũng theo. Để điều khiển một đoàn bộ binh thì phải có thứ tự, kỷ luật, mà những quy tắc, chiến thuật mới xuất hiện. Bộ binh lại chia làm nhiều hạng (như binh chủng ngày nay), hạng chuyên dùng cung, hạng chuyên dùng nỏ, dùng giáo. Về kỵ binh, Trung Hoa bắt chước các rợ phương Bắc và phương Tây. Năm 307 TCN, Triệu là nước đầu tiên dùng kỵ binh, nhờ vậy mà mạnh lên được một thời. Họ phải thay đổi nhung phục cho gọn gàng (bận quần, bỏ áo giáp dài đi), và phải tập bắn cung trong khi ngựa phi y như Hung Nô. == Danh sách các Bá chủ == Theo truyền thống, năm vị Bá (Ngũ Bá) ở thời Xuân Thu (春秋五霸 Chūn Tềū Wǔ Bà) gồm: Tề Hoàn Công (齊桓公) Tấn Văn Công (晉文公) Sở Trang Vương (楚莊王) Tần Mục Công (秦穆公) Tống Tương Công (宋襄公) Một số nhà sử học lại đưa ra danh sách Ngũ Bá khác: Tề Hoàn Công (齊桓公) Tấn Văn Công (晉文公) Sở Trang Vương (楚莊王) Ngô Vương Phù Sai (吳王夫差) Việt Vương Câu Tiễn (越王句踐) Thứ tự ngẫu nhiên. == Danh sách các chư hầu lớn == Tên theo sau tên nước là tên thủ đô (theo thứ tự Hán Việt, phồn thể, giản thể). Tề 齊 - Lâm Truy 臨淄 临淄 Sở 楚 - Dĩnh Ấp 郢 郢 Tần 秦 – Ung (sau dời về Hàm Dương 咸陽 咸阳) Tấn 晉 - Tấn Dương Lỗ 魯 - Khúc Phụ 曲阜 曲阜 Trần 陳; - Uyển 宛; Uyển Khâu 宛丘 宛丘 Sái 蔡 - Thượng Thái 上蔡 上蔡 Tào 曹 Tống 宋 - Thương Khâu 商丘 商丘 Ngô 吳 - Cô Tô 姑蘇 姑苏 Việt 越 - Cối Kê 會稽 会稽 Hoạt 滑 Trịnh 鄭 - Tân Trịnh 新鄭 Yên 燕 - Yên Ấp == Danh sách những gương mặt quan trọng == === Các quan lại, mưu sĩ === Quản Trọng (管仲), chính khách và quân sư của Tề Hoàn Công và được một số học giả thời nay cho là người Pháp gia đầu tiên. Bách Lý Hề (百里奚), biệt hiệu Ngũ Cổ đại phu (Đại phu Năm tấm da dê), tể tướng nổi tiếng của Tần. Bá Hi, vị tham quan dưới thời vua Hạp Lư và đóng vai trò ngoại giao quan trọng trong quan hệ Ngô-Việt. Văn Chủng 文種 và Phạm Lãi 范蠡, hai vị quân sư và giúp vua Việt Câu Tiễn trong cuộc chiến chống Ngô của ông. Tử Sản (子產), lãnh đạo phong trào tự cường ở nước Trịnh === Những học giả có ảnh hưởng === Khổng Tử (Confucius), triết gia, người sáng lập Khổng giáo. Lão Tử (Laozi hay Lao tse), người sáng lập Đạo giáo Mặc Tử (墨子) ("Mozi", "Motse", "Mocius", hay "Micius" đối với các học giả phương Tây), người sáng lập Đạo Mặc === Các nhà sử học === Khổng Tử, tác giả bộ sử Kinh Xuân Thu === Các kỹ sư === Mặc Tử (墨子) Lỗ Ban (鲁班) === Nhà luyện vũ khí === Âu Dã Tử 歐冶子, có nghĩa Âu người luyện vũ khí và là thầy của hai vợ chồng Can Tương và Mạc Tà === Nhà buôn và thương mại cá nhân === Huyền Cao, nhà buôn nước Trịnh Phạm Lãi === Các tướng lĩnh, lãnh đạo quân đội và các tác gia === Ngũ Tử Tư, hay Ngũ Viên, người giúp nước Ngô đánh phá nước Sở, đưa nước Ngô lên hàng Bá chủ Tôn Tử, hay Tôn Vũ, tác giả Binh pháp Tôn Tử Tư Mã Nhương Thư, hay Điền Nhương Thư, tác giả bộ Tư Mã Nhương Thư binh pháp. === Các thích khách === Tào Mạt, tướng nước Lỗ, không hành thích mà chỉ giơ gươm doạ Tề Hoàn công, buộc Hoàn công trả lại đất đã chiếm cho nước Lỗ. Tuy Tào Mạt không sát thương vua Tề nhưng Sử ký cũng liệt ông vào hàng thích khách. Chuyên Chư, được Công tử Quang nước Ngô cử đi ám sát Ngô vương Liêu, tạo điều kiện để Công tử Quang lên là Ngô vương Hạp Lư. Yêu Ly (Yao Li), được Hạp Lư cử đi giết Khánh Kỵ, con của Ngô vương Liêu. Dự Nhượng, môn khách của Trí Bá, nhiều lần mưu sát không thành Triệu Tương Tử để trả thù cho Trí Bá. Xem thêm: Bách gia chư tử == Các sự kiện nổi bật == 770 TCN – các quý tộc nhà Chu ủng hộ Chu Bình Vương (周平王) lên làm vua mới nhà Chu. Bình vương dời đô đến Lạc Ấp (雒邑). Giai đoạn Đông Chu hay Xuân Thu bắt đầu. Bình vương phong cho con của nhà quý tộc Doanh Kỳ (贏其) làm chủ thêm vùng tây bắc của nhà Chu (đất Phong và đất Kỳ). Ông được gọi là Tần Tương công (秦襄公). Nước Tần (秦) từ đó trở thành nước lớn. 766 TCN Tần Tương công qua đời, con là Tần Văn công lên kế vị. 763 TCN - Trịnh Trang Công (鄭莊公) sáp nhập và tiêu diệt vương quốc rợ Hồ (Hồ Quốc) (胡國). Ông tin cậy vào vị quan nổi tiếng của mình là Sái Trọng (祭仲). 750 TCN - Tấn Văn hầu (晉文侯) Cơ Cừu (姬仇) sáp nhập và tiêu diệt vương quốc Dư Thần Chu (余臣周) 717 TCN Trịnh Trang công vào triều kiến Chu Hoàn Vương nhưng ông không tiếp đãi theo đúng lễ tiếp đãi chư hầu. 715 TCN Trịnh Trang công tự ý cùng nước Lỗ trao đổi hứa điền. 711 TCN Trịnh Trang công đưa binh đánh nước Tống. Nước Tống đại bại, Tống Thương công Vi Tử Dữ Di bị phế, công tử Bằng (Vi Tử Bằng) được Trịnh Trang công tôn lên làm vua, gọi là Tống Trang công 707 TCN, Chu Hoàn Vương bèn mang quân các nước chư hầu đánh nước Trịnh để trả thù. Hoàn Vương bại trận, bản thân ông bị quân Trịnh bắn bị thương, phải lui binh. 704 TCN - Lãnh chúa nước Sở (楚) Hùng Thông (羋熊通), lợi dụng sự yếu kém của vua Chu để thoát khỏi sự ràng buộc như một chư hầu của nhà Chu và tự phong mình làm vua. Ông tuyên bố lập ra nước Sở (楚國) và tự gọi là Sở Vũ Vương (楚武王). 701 TCN - Trịnh Trang Công (鄭莊公) chết. Con ông là Cơ Hốt (姬忽) kế vị và được gọi là Trịnh Chiêu Công (鄭昭公). Vì công chúa Ung Thị (雍氏) nước Tống (宋國) lấy Trịnh Trang Công và có một con trai tên là Cơ Đột (姬突), vua Tống nghĩ rằng ông có thể mở rộng ảnh hưởng của mình tới Trịnh bằng cách giúp đưa lên ngôi một vị vua mới có quan hệ với nước Tống. Tế Túc (祭仲), người được kính trọng và có ảnh hưởng ở Trịnh, đã bị Tống lừa bắt và buộc phải ủng hộ Công tử Đột lên làm người kế vị ngôi báu nước Trịnh. Trịnh Chiêu Công bị giáng tước và phải chạy trốn. Công tử Đột lên nối ngôi và được gọi là Trịnh Lệ Công (鄭厲公). 697 TCN Chu Hoàn Vương mất, con là Cơ Đà lên nối ngôi, tức là Chu Trang Vương. Trịnh Lệ công bị phế, Trịnh Chiêu công được về ngôi cũ. 695 TCN Trịnh Chiêu công mất, Cơ Tử Vĩ lên ngôi tức Trịnh Tử Vĩ. 694 TCN - Tề Tương Công (齊襄公) Khương Chư Nhi (姜諸兒) tập hợp chư hầu ở Thủ Chỉ (首止) và ám sát Lỗ Hoàn Công (魯桓公). Tế Túc nước Trịnh giết Trịnh Tử Vĩ, Cơ Tử Anh lên ngôi tức Trịnh Tử Anh. 690 TCN Sở Vũ Vương mất, con là Hùng Ti lên ngôi tức Sở Văn Vương. 686 TCN - Tề Tương Công (齊襄公) bị Khương Vô Tri (姜無知) ám sát để giành ngôi vua nước Tề. Hai công tử Khương Củ do Quản Trọng phò tá sang Lỗ và Khương Tiểu Bạch do Bão Thúc Nha phò tá chạy đi. 685 TCN – Vua Tề Khương Vô Tri (姜無知) bị Ung Lẫm ám sát. Khương Tiểu Bạch (姜小白) trở về và thành người nối ngôi và trở thành Tề Hoàn Công (齊桓公) nổi tiếng. Tề Hoàn Công hội chiến Lỗ Trang công ở Kiền Thời. Lỗ Trang Công thua trận, giết Khương Củ, Quản Trọng được Thấp Bằng hi sinh cứu về Tề. 684 TCN Tề Hoàn Công (齊桓公) đưa Quản Trọng (管仲) lên làm Tướng (相), hay tể tướng. 681 TCN Tề Hoàn Công (齊桓公) và Lỗ Trang Công (魯莊公) Cơ Đồng (姬同) gặp mặt và thương lượng ở đất Kha (柯). 680 TCN Trịnh Tử Anh bị phế, Trịnh Lệ công quay về ngôi báu nước Trịnh. 679 TCN Tề Hoàn Công (齊桓公) mời và tập hợp tất cả các chư hầu ở Trung Nguyên vào liên minh của mình và bắt đầu trở thành vị Bá chủ chư hầu huyền thoại. Cùng năm đó, vị chư hầu ở Khúc Ốc (曲沃) nước Tấn (晉), Cơ Đại (姬代), giết vua nước Tấn, Cơ Mẫn (姬湣). Cơ Đại đút lót cho Chu Ly Vương (周釐王), Cơ Hồ (姬胡), và được triều đình hoàng gia chính thức chỉ định làm vua mới ở nước Tấn. Ông được gọi là Tấn Vũ Công (晉武公). 676 TCN Chu Ly Vương mất, con là thái tử Cơ Lãng lên ngôi tức Chu Huệ Vương. 675 TCN Chu Huệ vương chiếm đoạt vườn tược của các đại thần làm chỗ thả thú. Đại thần Biên Bá bất mãn, cùng 4 đại thần khác ngầm mượn quân chư hầu của Yên Trang Công và Vệ Huệ Công về đánh Chu Huệ vương. Huệ vương bỏ chạy về đất Ôn rồi sang nương nhờ nước Trịnh. Biên Bá lập vương tử Đồi lên ngôi. 673 TCN, Trịnh Lệ Công cùng Quắc công liên minh giúp Huệ vương, mang quân đánh Lạc ấp, giết chết vương tử Đồi và dựng lại Huệ vương. Trịnh Lệ công muốn được Huệ vương ban chén ngọc nhưng Huệ vương không nghe theo, do đó nước Trịnh giận thiên tử nhà Chu. 672 TCN, Sở Đồ Ngao mất. Con là Hùng Uẩn lên ngôi tức Sở Thành Vương. 668 TCN Tấn Hiến Công (晉獻公), người kế tục Tấn Vũ Công (晉武公), dời thủ đô của Tấn đến Giáng (絳). 667 TCN Chu Huệ Vương (周惠王), Cơ Lãng (姬閬), trao tước Bá (霸), cho Tề Hoàn Công (齊桓公). Ông tiếp tục lãnh đạo liên minh các chư hầu để phục vụ và bảo vệ Vương quốc Chu. 663 TCN, nước Sơn Nhung ở phía bắc đánh nước Yên. Yên Trang công cầu cứu nước Tề. Tề Hoàn công mang quân đi cứu Yên. Ông đánh bại quân Sơn Nhung, diệt Sơn Nhung và nước Cô Trúc. 660 TCN Tần Thành Công (秦成公) chết. Doanh Nhâm Hảo (嬴任好) trở thành lãnh chúa mới ở Tần và được gọi là Tần Mục Công (秦穆公). 659 TCN nước Vệ bị nước Xích Địch xâm lấn, Vệ Ý công bị giết. Tề Hoàn công điều quân sang cứu nước Vệ và xây thành Sở Khâu, lập Vệ Đái công và Vệ Văn công. 658 TCN Tấn Hiến công dùng kế "Môi hở răng lạnh" mà diệt nước Ngu và nước Quắc. 657 TCN, Tề Hoàn Công hội chư hầu chống Thái vì vợ mình là Thái Cơ trốn về nước. 656 TCN Vì nước Thái (蔡) quyết định nộp cống cho nhà Chu thay vì liên minh với Tề (齊), (Tề Hoàn Công (齊桓公) dẫn quân liên minh chư hầu vào Thái. Thái mất nước và liên minh lại dự định tấn công nước Sở. Dưới chiến lược khôn khéo của tể tướng Quản Trọng nước Tề (管仲), Sở buộc phải thề liên minh với Tề. Tề Hoàn Công chiến thắng trở về và lại tổ chức một cuộc gặp chư hầu ở Quỳ Khâu (葵丘). 652 TCN Chu Huệ Vương mất, con là Cơ Trịnh lên ngôi tức Chu Tương Vương. 651 TCN Chu Tương Vương lên ngôi, sai người mang cung tên, thịt tế tặng Tề Hoàn Công ở Quỳ Khâu, Tề Hoàn Công làm lễ đón nhận. Tề Hoàn Công còn hội chư hầu lần nữa, lần này Tấn Hiến công (晉獻公) đến muộn, hội tan, ông trở về và bệnh chết. Bà Ly Cơ (驢姬)(một người vợ thứ được sủng ái nhất của Tấn Hiến công) lập mưu giết Cơ Thân Sinh (con lớn của Tấn Hiến công), cho người đuổi giết Cơ Di Ngô và Cơ Trùng Nhĩ đi nơi khác. Một trong những người con của bà tên là Cơ Hề Tề (姬奚齊), lên nối ngôi. Một vị đại phu nước Tấn là Lý Khắc (里克) giết ông ngay sau đó. Cơ Trác Tử (姬卓子) trở thành vua mới của Tấn nhưng cũng lại bị Lý Khắc giết, Ly Cơ bị giết nốt. Tề Hoàn Công dẫn quân liên minh chư hầu của mình vào nước Tấn và muốn ngăn chặn cuộc chém giết. Tuy nhiên, ông đã tới muộn, vì Tần Mục Công (秦穆公) đã làm việc đó bằng cách đưa một người mới lên ngôi ở Tấn với đội quân do vị tướng của ông là Bách Lý Hề (百里奚) chỉ huy. Vị công tử này là Cơ Di Ngô (姬夷吾), và sau khi lên ngôi tức là Tấn Huệ công (晉惠公). Cùng năm đó, Tống Hoàn Công (宋桓公) chết. Con ông là Tử Tư Phủ (子茲甫) nối vị và được gọi là Tống Tương Công (宋襄公). 648 TCN em Chu Tương vương là Cơ Đái mượn quân các nước Nhung, Địch định cướp ngôi vua. Tề Hoàn công sai Quản Trọng đi dẹp các nước Nhung, Địch. 647 TCN vương tử Đái chạy sang tị nạn ở nước Tề. Tề Hoàn công xin Chu Tương vương tha tội cho Đái. 644 TCN, người Nhung lại mang quân đánh nhà Chu. Tề Hoàn công đã già yếu, ra lệnh cho các chư hầu đi cứu thiên tử, đánh đuổi người Nhung. 643 TCN (Tề Hoàn Công (齊桓公) chết. Trong những năm cuối đời, sau cái chết của tể tướng Quản Trọng (管仲), Tề Hoàn Công đã sử dụng những kẻ bất tài (Khai Phương, Thụ Điêu, Dịch Nha) vào những vị trí cao trong triều. Và kết quả là những kẻ đó nắm lấy quyền lực quốc gia khi ông sắp chết bằng cách giết hại các vị quan trung thành và tài giỏi trong triều. Tề Hoàn Công dự định đưa con út nối ngôi. Tuy nhiên, những kẻ nắm quyền đã thay đổi ý định của ông và đưa con cả của ông là Khương Vô Khuy (姜無虧), lên nối ngôi. 642 TCN Khương Vô Khuy (姜無虧), người nối ngôi Tề Hoàn Công (齊桓公), bị giết. 641 TCN Sau cái chết của Tề Hoàn Công (齊桓公), không ai thực sự nắm quyền làm bá, và cơ hội lại dành cho tất cả moi người. Tống Tương Công (宋襄公) tuyên bố thành lập liên minh chư hầu mới trong một nỗ lực để lên làm Bá chư hầu. Tuy nhiên nước Tống không mạnh và rộng lớn như Tề và Tống Tương Công cũng không tài giỏi như Tề Hoàn Công. Hơn nữa, Tề Hoàn Công có sự giúp đỡ của Quản Trọng (管仲) người điều hành đất nước tới vị trí là chư hầu mạnh nhất và thành công nhất trong giai đoạn Xuân Thu. Tề Hoàn Công mất, nước Tề phát sinh nội loạn vì cuộc tranh giành ngôi quốc quân, Tống Tương Công bèn đứng ra thống lĩnh liên minh Tống, Vệ, Tào và Chu tiến vào nước Tề hợp sức với lực lượng của người Tề để đưa Khương Chiêu (姜昭) Tề Hiếu Công(齊孝公) lên ngôi. Để bắt đầu thời cai trị của mình, Tống Tương Công bắt vua nước Đằng và giết vua nước Tắng mà không có lý do cụ thể. Lưu ý rằng đây là một sai lầm lớn chứ không phải là một dấu hiệu của quyền lực bởi vì một vị Bá phải nhân đức, mạnh mẽ, ủng hộ vua nhà Chu, và là người đáng kính. Mọi hành động của vị Bá chủ phải đúng đắn và quả cảm như những hành động của Tề Hoàn Công. 638 TCN Tống Tương Công cầm quân nước Tống đối đầu với quân nước Sở tại trận Hoằng Thủy (nay nằm ở phía Tây Bắc Chá Thành, Hà Nam). Lúc đó khi chứng kiến binh lực mạnh mẽ của quân Sở, đại tư mã nước Tống là Tử Ngư khuyên Tương công chờ quân Sở đi tới giữa sông thì tung quân tấn công, Tương công từ chối vì cho rằng quân Tống là quân nhân nghĩa nên không thể làm như vậy. Tới khi quân Sở đã sang sông và đang bày thế trận, Tử Ngư lại khuyên Tương công tấn công vì cho rằng quân Sở chưa kịp ổn định đội ngũ, tấn công ngay thì may ra mới có cơ hội thắng lợi, Tống Tương Công lại đem bài nhân nghĩa ra để cự tuyệt, rốt cục quân Sở đánh cho quân Tống đại bại, bản thân Tương công cũng bị trúng tên trọng thương. 637 TCN, Tống Tương Công qua đời, con trai Tương công lên nối ngôi quốc quân tức Tống Thành Công. Tấn Huệ Công nhiều lần cho người ám sát Cơ Trùng Nhĩ lưu vong bên ngoài không thành, bị dân oán. Ông gây chiến với Tần và qua đời. Con ông là Cơ Ngữ đang làm con tin ở Tần trốn về đăng cơ, tức Tấn Hoài công. Tấn Hoài công lo Trùng Nhĩ sẽ về tranh ngôi, bèn ra lệnh cho những đại phu theo giúp Trùng Nhĩ phải trở về theo kỳ hạn, nếu không sẽ giết cả nhà. Con Hồ Đột là Hồ Mao đang theo Trùng Nhĩ ở nước Sở, Tấn Hoài công bắt Hồ Đột giam lại. Hồ Đột cự lệnh Hoài công không gọi con về. Tấn Hoài công bèn giết chết Hồ Đột. 636 TCN, Tần Mục công diệt hai tiểu quốc Lương và Nhuế, sai quân đưa Trùng Nhĩ về nước. Trùng Nhĩ sai người về báo cho vây cánh các đại phu Loan Chi, Khước Bốc làm nội ứng ở Giáng đô đón quân Tần. Tấn Hoài công điều quân ra chống quân Tần, do thế cô, bèn bỏ chạy sang đất Cao Lương. Trùng Nhĩ vào Giáng đô, trở thành vua Tấn Văn Công. Ngày mậu thân tháng đó, Tấn Văn công sai người đến đất Cao Lương giết Tấn Hoài công. Vây cánh những người chống lại Tấn Văn công còn khá đông, cầm đầu là Lã Sảnh và Khước Nhuế. Hai người mưu đốt cung điện để ám sát ông và lập vua khác. Hoạn quan Bột Đề vốn từng 2 lần được cử đi giết ông không thành trước đây, báo với Tấn Văn công. Văn công bèn vi hành bí mật sang nước Tần một lần nữa để tránh. Tần Mục công đón tiếp ông ở Vương Thành. Trong nước Tấn chỉ có mấy cận thần biết vua đã ra ngoài. Quân họ Lã và họ Khước đánh bại bỏ chạy. Tần Mục công sai sứ đến dụ Lã Sảnh và Khước Nhuế đến gặp để bàn lập người khác làm vua. Lã Sảnh và Khước Nhuế đến liền bị vua Tần bắt giết trên sông Hoàng Hà. Sau đó Tần Mục công sai 3000 quân hộ vệ Tấn Văn công trở về nước Tấn. Từ đó nước Tấn tạm yên ổn. Chu Tương Vương bị vương tử Đái cướp ngôi, chạy sang lưu vong ở nước Trịnh và cầu cứu Tấn Văn công. 635 TCN, Tấn Văn Công mang quân đến đất Dương Phàn, bao vây ấp Ôn của vương tử Đái. Đồng thời ông đón Chu Tương vương về đất nhà Chu. Tháng 4 năm đó, ông tiến quân vào diệt vương tử Đái. Chu Tương vương được phục ngôi, ban cho Tấn Văn công ngọc khuê và cung tên, rồi cắt đất Dương Phàn và Hà Nội cho Tấn Văn công. 633 TCN, Sở Thành vương mang quân bao vây nước Tống. Tống Thành công cầu viện nước Tấn. Cuối năm đó, Tấn Văn công bèn lập 3 đạo quân, ra trận đánh quân Sở. 632 TCN, Tấn Văn công đánh nước Tào là chư hầu của Sở, Tấn Văn công định mượn đường nước Vệ nhưng Vệ Thành công không cho, vì vậy ông chuyển sang đánh nước Vệ, đánh chiếm thành Ngũ Lộc. Vệ Thành công cầu Sở Thành vương cứu nhưng người trong nước không ủng hộ, bị đuổi phải chạy ra đất Tương Ngưu. Công tử Mãi chiếm giữ nước Vệ xin hòa với nước Tấn. Tấn Văn công cho nước Vệ giảng hòa rồi mang quân đánh nước Tào. Quân Tấn vây hãm nước Tào trong 3 tháng, cuối cùng chiếm được thành, bắt sống Tào Cung công. Quân Sở đang vây hãm nước Tống. Tấn Văn công có ơn với cả vua Tống và vua Sở trên đường lưu lạc nên phân vân khó xử chưa biết ủng hộ bên nào. Tiên Chẩn hiến kế bắt nước Tào và nước Vệ cắt đất cho nước Tống khiến Sở Thành vương phải giải vây Tống sang cứu Tào và Vệ. Quả nhiên Sở Thành vương rút quân khỏi nước Tống, muốn rút về nước và giảng hòa với Tấn. Tướng Sở là Thành Đắc Thần không đồng tình, nhất định đòi giao tranh với quân Tấn. Sở Thành vương giận Đắc Thần, chỉ cấp cho ít quân. Thành Đắc Thần sai sứ là Uyển Xuân đến gặp Tấn Văn công, Tấn Văn công bắt giữ Uyển Xuân, không đàm phán với Đắc Thần. Mặt khác, ông sai người ngầm giao hẹn với Vệ Thành công và Tào Cung công sẽ phục ngôi cho hai người nếu họ tuyệt giao với nước Sở. Vua Tào và vua Vệ chấp nhận làm theo Tấn Văn công. Thành Đắc Thần thấy hai chư hầu Tào, Vệ tuyệt giao Sở để theo Tấn, nổi giận thúc quân đánh Tấn. Tấn Văn công giữ đúng giao ước với Sở Thành vương khi nương nhờ ở nước Sở, bèn hạ lệnh quân Tấn lui 3 xá là 90 dặm để nhường quân Sở, tới Thành Bộc. Tuy nhiên Thành Đắc Thần đang hăng hái không chịu lui binh, tiếp tục thúc quân Sở tiến lên truy kích. Tấn Văn công đóng quân ở Thành Bộc, có Tống Thành công cùng tướng các nước Tề, Trần hội binh hỗ trợ. Phía quân Sở có quân Trịnh theo giúp. Ngày Kỷ Tị, hai bên đánh nhau to ở Thành Bộc. Quân Tấn đại thắng quân Sở. Thành Đắc Thần mang tàn quân tháo chạy. Trịnh Văn công giảng hòa với Tấn. Tấn Văn công về đất Hành Ung, làm cung điện cho Chu Tương Vương ở đất Tiễn Thổ. Ông dâng tù binh Sở dâng Chu Tương vương. Vua Chu sai vương tử Hồ đến hội, phong ông làm bá chủ chư hầu. Từ đó Tấn Văn công chính thức trở thành bá chủ. Sở Thành vương trách tội khiến Thành Đắc Thần phải tự tử, Tấn Văn công mới hết lo việc chiến tranh với nước Sở. Ông phục ngôi cho vua Vệ và vua Tào. Mùa đông năm đó, Tấn Văn công lại hội chư hầu ở đất Ôn và sai sứ mời Chu Tương vương tới hội chư hầu ở Hà Dương. Vì thiên tử đã suy yếu, Tương vương phải đến theo triệu tập của nước Tấn. Sử ký nói về sự kiện này rằng: "Sử sách tránh việc bề tôi triệu kiến quân chủ, nên chỉ ghi: Thiên tử đi tuần thú ở Hà Dương". 630 TCN, Tấn Văn công vì nước Trịnh có thù với mình khi lưu lạc, lại giúp Sở chống Tấn nên cùng Tần Mục công mang quân đánh Trịnh. Nước Trịnh bị vây hãm. Đại phu nước Trịnh là Thúc Thiêm phải tự sát để lấy lòng nước Tấn nhưng Văn công vẫn đòi bắt vua Trịnh. Trịnh Văn công bèn sai sứ đến gặp Tần Mục công, phân tích lợi hại: đánh Trịnh chỉ làm tăng uy thế của Tấn, không lợi gì cho Tần. Tần Mục công bèn tự mình rút quân. Tấn Văn công vây Trịnh không hạ được cũng bãi binh về nước. 628 TCN, Tấn Văn công mất. Thế tử Cơ Hoan lên nối ngôi, tức là Tấn Tương công. Tương công kế tục được ngôi bá chủ của Văn công để lại. 627 TCN Tần và Tấn lại ở vào thế xung đột ở trận Hào Sơn(nay nằm ở Đông Nam Tam Môn Hiệp, Hà Nam, Tần bại. 626 TCN Hùng Thương Thần giết cha là Sở Thành Vương trong cung, lên ngôi tức Sở Mục Vương. 625 TCN Tần đánh Tấn tại trận Bành Nha (nay nằm ở Đông Bắc Bạch Thủy, Thiểm Tây), quân Tần thất bại nặng nề. Năm 624 TCN, Tần Mục công thân dẫn quân đi đánh nước Tấn, sau khi vượt Hoàng Hà, Mục công thể hiện ý chí quyết thắng bằng việc ra lệnh thiêu hủy thuyền vượt sông. Quân Tần nhanh chóng chiếm được Vương Quan (nay ở phía Tây Văn Hỷ, Sơn Tây) khiến quân Tấn sợ hãi chỉ dám cố thủ trong thành không ra giao chiến, Mục công bèn dẫn quân Tần đi thu nhặt hài cốt của lính Tần tử trận trước kia rồi quay về nước để chuẩn bị mở mang bờ cõi sang phía Tây. 623 TCN Tần Mục công cử đại binh tấn công Tây Nhung và giành thắng lợi lớn khiến cho 20 tiểu quốc ở đây quay sang quy phục nước Tần khiến cho biên giới nước Tần được mở rộng chưa từng có, phía Nam giáp Tây Lĩnh, phía Tây vươn tới Địch Đạo (nay thuộc Lâm Thao, Cam Túc), phía Bắc đến Cù Diễn Nhung (nay thuộc Diêm Trì, Ninh Hạ), phía Đông giáp với Hoàng Hà. Danh tiếng bá chủ Tây Nhung của Tần Mục công làm vang dội chư hầu và ông được coi là một trong Ngũ Bá thời Xuân Thu. 621 TCN Tần Mục công qua đời. 619 TCN Chu Tương Vương qua đời, con là Cơ Nhâm Thần lên ngôi tức Chu Khoảnh Vương. 614 TCN Sở Mục Vương mất, con là Hùng Lữ lên ngôi tức Sở Trang Vương. Đây là vị bá chủ cuối cùng của Xuân Thu Ngũ Bá. 613 TCN Chu Khoảnh Vương mất, con là Cơ Ban lên ngôi tức Chu Khuông Vương. 607 TCN Chu Khuông Vương mất, con là Cơ Du lên ngôi tức Chu Định Vương. 586 TCN Chu Định Vương mất, con là Cơ Di lên ngôi tức Chu Giản Vương. 572 TCN Chu Giản Vương mất, con là Cơ Tiết Tâm lên ngôi tức Chu Linh Vương. 551 TCN đức Khổng Tử ra đời. 548 TCN cha của Khổng Tử là Thúc Lương Ngột qua đời, từ đó hai mẹ con làm lụng kiếm sống. 545 TCN Chu Linh Vương mất, con là Cơ Quý lên ngôi tức Chu Cảnh Vương. 532 TCN, Khổng Tử lấy vợ và làm một chức quan nhỏ coi kho chuyên quản lý kho tàng, xuất nạp tiền lương công bằng chuẩn xác ở nước Lỗ. 529 TCN, Khổng Tử mở lớp dạy học, học trò của ông có 72 người là thành đạt, nổi danh. 522 TCN, Khổng Tử nhờ Lỗ Chiêu công giúp đỡ phương tiện để đi đến Lạc Ấp (kinh sư của nhà Chu) để học hỏi. 521 TCN Chu Cảnh Vương mất, con là Cơ Mãnh lên ngôi tức Chu Điệu Vương. 520 TCN Chu Điệu Vương bị vương tử Triều binh biến giết chết, lập Cơ Cái lên ngôi, tức Chu Kính Vương. 517 TCN, nước Lỗ qua cơn hoạn nạn, Khổng Tử cùng các đệ tử rời Lỗ đi khắp các nước để thuyết giảng Nho học. Khổng Tử sang Tề một thời gian. 511 TCN, Khổng Tử về Lỗ tiếp tục dạy học và viết sách. 510 TCN, Lỗ Chiêu công qua đời, con là Cơ Tống lên ngôi tức Lỗ Định công. 506 TCN Khổng Tử dẫn 30 học trò qua nước Thái. 501 TCN, Công Tôn Thất Nhiễu làm loạn ở ấp Phi, gia thần họ Quý sai người đến triệu Khổng Tử ra giúp. Khổng Tử từ chối. 500 TCN, Khổng Tử về Lỗ, được giao coi thành Trung Đô (Trung Đô Tể). 499 TCN, Khổng Tử được thăng chức Đại tư khấu (coi việc hình pháp), kiêm quyền tể tướng. Sau ba tháng, nước Lỗ trở nên thịnh trị. 495 TCN, Lỗ Định công qua đời, con là Cơ Tương lên ngôi tức Lỗ Ai công. Khổng Tử được thăng chức Đại Tư Khấu. 491 TCN, Khổng Tử giết tham quan Thiếu Chính Mão, nước Lỗ hưng thịnh. Tề Cảnh công thấy vậy thì trả đất khi trước chiếm được cho Lỗ, còn ban nhiều mỹ nữ cho Lỗ Ai công. Lỗ Ai công đắm chìm tửu sắc. Kẻ gian hãm hại Khổng Tử nên Khổng Tử từ quan, cùng các học trò rời Lỗ mà đi. 490 TCN, Khổng Tử sang Vệ. 489 TCN Khổng Tử sang Thái. 483 TCN, Khổng Tử về Lỗ, tiếp tục dạy học và bắt tay vào soạn sách Ngũ Kinh: Kinh Thư, Kinh Thi, Kinh Lễ, Kinh Dịch, Kinh Xuân Thu. 479 TCN Khổng Tử qua đời, thọ 73 tuổi. == Tham khảo == == Liên kết ngoài ==
ghostscript.txt
Ghostscript là một thư viện phần mềm để thao tác với các file Postscript và PDF. Bản quyền của Ghostscript thuộc về Artiflex Software Inc., tuy vậy vẫn có GPL Ghostscript là phần mềm tự do phát hành với giấy phép GPL của GNU. Ngoài ra còn có AFPL Ghostscript phát hành dưới giấy phép AFPL (hạn chế hơn giấy phép GPL). == Thành phần == Ghostscript bao gồm: Một trình thông dịch ngôn ngữ Postscript và định dạng PDF Một bộ thư viện viết bằng ngôn ngữ C thực hiện các nhiệm vụ cơ bản (hiển thị, nén/giải nén,...) của các định dạng PS và PDF. Các thủ tục chuyển đổi qua lại giữa PS và PDF. == GSview == GSview là giao diện của Ghostscript, thường được dùng như phần mềm xem file PS và PDF trong môi trường Windows. Phiên bản hiện hành của GSview (tính đến 18 tháng 11 năm 2007) là 4.9. Ta cần cài đặt Ghostscript trước GSview. == Chú thích ==
di chỉ người bắc kinh tại chu khẩu điếm.txt
Di chỉ người Bắc Kinh tại Chu Khẩu Điếm nằm ở núi Long Cốt, Chu Khẩu Điếm cách trung tâm thành phố Bắc Kinh khoảng 48 km về phía Tây Nam. Đây là di chỉ hóa thạch của người vượn Bắc Kinh và là di chỉ văn hóa cổ đại nổi tiếng thế giới. Trên ngọn núi này người ta phát hiện được 24 địa điểm di chỉ văn hóa cổ, ngoài ra còn có 118 loại động vật hóa thạch và hơn 10 vạn đồ đá cũng như các dụng cụ tạo ra lửa của người tối cổ. Đây là nơi cung cấp tư liệu nhiều nhất về người cổ hóa thạch cùng các chứng cứ nói về việc dùng lửa của họ và là nơi có nhiều di chỉ văn hóa cổ nhất trên thế giới cho đến thời điểm hiện nay. Việc phát hiện ra Chu Khẩu Điếm đã làm cho lịch sử của Bắc Kinh kéo dài từ 3000 năm đến hơn 60 vạn năm. Hiện nay, di chỉ người Bắc Kinh ở Châu Khẩu Điếm đã trở thành nơi nghiên cứu quan trọng nguồn gốc của nhân loại. Với ý nghĩa to lớn như vậy, năm 1987 UNESCO đã công nhận di chỉ này là Di sản văn hóa thế giới. Phương tiện liên quan tới Zhoukoudian tại Wikimedia Commons == Tham khảo == == Xem thêm == Danh sách các hóa thạch tiến hóa của con người Tiến trình tiến hóa loài người == Liên kết ngoài ==
lực lượng lao động.txt
Trong kinh tế học những người trong lực lượng lao động là những người cung cấp lao động. Năm 2005, lực lượng lao động của toàn thế giới là trên 3 tỉ người. Thông thường, lực lượng lao động bao gồm tất cả những người đang ở trong độ tuổi lao động (thường là lớn hơn một độ tuổi nhất định (trong khoảng từ 14 đến 16 tuổi) và chưa đến tuổi nghỉ hưu (thường trong khoảng 65 tuổi) đang tham gia lao động. Những người không được tính vào lực lượng lao động là những sinh viên, người nghỉ hưu, những cha mẹ ở nhà, những người trong tù, những người không có ý định tìm kiếm việc làm. Ở Hoa Kỳ, lực lượng lao động được xác định là những người từ 16 tuổi trở lên, đã có việc làm hoặc đang tìm kiếm việc làm. Các Luật lao động trẻ em ở Hoa Kỳ cấm việc thuê người dưới 18 tuổi trong các nghề nguy hiểm. Một phần nhỏ trong lực lượng lao động đang tìm kiếm việc làm nhưng không thể tìm được việc làm tạo thành đội quân thất nghiệp. == Tỷ lệ tham gia lực lượng lao động == Tỷ lệ tham gia lực lượng lao động là tỷ lệ giữa lực lượng lao động và toàn bộ những người trong độ tuổi lao động (dân số một quốc gia trong độ tuổi lao động). Ở phương Tây, trong nửa cuối thế kỷ 20, tỉ lệ tham gia lực lượng lao động tăng đáng kể, phần lớn do sự tăng lên của số phụ nữ vào các vị trí việc làm. Ở Hoa Kỳ, tỷ lệ tham gia lực lượng lao động tăng từ khoảng 59% vào năm 1948 đến 66% vào năm 2005. [3], trong đó tỷ lệ tăng của phụ nữ vào trong đó từ 32% lên 59% [4] và tỷ lệ tham gia của nam giới vào trong đó giảm từ 78% xuống 73%[5]. Tỷ lệ tham gia lực lượng lao động là chìa khóa, nhân tố quan trọng cho sự tăng trưởng kinh tế, tương tự như yếu tố năng xuất hay hiệu quả trong sản xuất. Pop = Dân số tổng cộng LF = Lực lượng lao động = U + E LFpop = Dân số trong độ tuổi lao động p = Tỉ lệ tham gia lực lượng lao động = LF / LFpop E = Số người có việc làm e = Tỷ lệ có việc làm = E / LF U = Số người thất nghiệp u = Tỷ lệ thất nghiệp = U / LF Việc tăng tỷ lệ thất nghiệp có thể xảy ra cùng với sự tăng tổng số người có việc làm. == Xem thêm == Lao động (kinh tế học) Nhân lực == Liên kết ngoài == U.S. Bureau of Labor Statistics page on the Labor Force Participation Rate == Ghi chú và tham khảo ==
samsung b7610.txt
Samsung B7610 (còn được gọi là Samsung Omnia Pro B7610) là điện thoại thông minh sản xuất bởi Samsung một phần của dòng sản phẩm Omnia Series. B7610 OmniaPRO chạy Windows Mobile 6.1 hoặc 6.5 Professional, với giao diện người dùng TouchWiz 2.0. Điện thoại có bàn phím vật lý và bàn phím QWERTY ảo. Tính năng của nó bao gồm: bộ phu thiết bị định vị toàn cầu cho bản đồ và tùy chỉnh turn-by-turn navigation; máy ảnh kỹ thuật số tự động lấy nét 5-megapixel với LED flash, quay video; kết nối wireless thông qua HSDPA, DLNA, Wi-Fi 802.11 b/g và Bluetooth; trình duyệt nhạc đa phương tiện với tải dữ liệu qua không trung, xuất tổng hợp Video thông qua cáp tùy chọn; đa tác vụ cho phép chạy nhiều ứng dụng đồng thời; trình duyệt web hỗ trợ HTML, JavaScript và Adobe Flash; tin nhắn thông qua SMS, MMS và e-mail; Office suite và chức năng tổ chức; và khả năng cài đặt và chạy trên ứng dụng thứ ba Java ME hoặc ứng dụng Windows Mobile. == Lịch sử == Samsung B7610 OmniaPRO là đặc trưng của Samsung tại sử kiện tổ chức ở CommunicAsia 2009 vào tháng 6 và được thông báo sẽ có sẵn vào tháng 7. == Bảng thông số kỹ thuật == == Tham khảo ==
richard i của anh.txt
Richard I (8 tháng 9 1157 – 6 tháng 4, 1199) là Vua nước Anh từ 6 tháng 7, 1189 cho tới khi mất. Ông cũng là Công tước của Normandy, Aquitaine, Gascony, Lãnh chúa của Cyprus, Bá tước của Anjou, Maine, Nantes, và Lãnh chúa của Brittany vào nhiều thời điểm khác nhau trong cùng khoảng thời gian đó. Ông còn được biết đến với biệt danh Richard Tim Sư Tử hay Richard Sư Tử Tâm (Richard the Lionheart), thậm chí trước khi lên ngôi bởi lòng dũng cảm và tài năng lãnh đạo quân sự kiệt xuất. Người Saracen gọi ông là Melek-Ric hay Malek al-Inkitar – Vua nước Anh. Khi mới 16 tuổi, Richard đã nắm quyền chỉ huy đội quân của riêng mình, đàn áp cuộc nổi loạn ở Poitou chống lại cha ông, Vua Henry II. Richard còn là một trong những tổng tư lệnh Kitô giáo trong Cuộc thập tự chinh thứ ba, và lãnh đạo chiến dịch sau sự ra đi của Vua Philip II của Pháp và giành được nhiều thắng lợi quan trọng trước đối thủ Hồi giáo Saladin, mặc dù ông không tái chiếm được Jerusalem. Mặc dù chỉ nói tiếng Pháp và dành ít thời gian ở Anh (ông sống ở lãnh địa của mình Aquitaine ở miền tây nam nước Pháp, dùng vương quốc của mình như là nguồn lợi để củng cố quân đội), ông được thần dân xem như một anh hùng sùng đạo. Ông là một trong số ít vua Anh được nhớ đến với biệt hiệu của mình hơn là thứ tự triều đại và là một hình tượng trường tồn tại Anh và Pháp. == Đầu đời và lên ngôi Công tước Aquitaine == === Gia đình và tuổi trẻ === Richard sinh ngày 8 tháng 9, 1157, tại Cung điện Beaumont, Oxford, Vương quốc Anh. Là người con trai thứ 3 trong số 8 người con của vua Henry II và nữ hoàng Eleanor, Richard là em trai của William IX, Bá tước của Poitiers; Henry, nhà Vua trẻ; và Matilda, Công nương xứ Saxony. Đồng thời Richard còn là anh trai của Geoffrey II, Công tước xứ Brittany; Leonora, Nữ hoàng của Castile; Joan, Nữ hoàng của Sicilia; và John, Bá tước xứ Mortain, người sau này sẽ nối ngôi ông. Ngoài ra, Richard cũng là em cùng mẹ khác cha với Marie, Nữ bá tước Champagne và Alix của Pháp. Vì chỉ là con trai thứ ba của vua Henry II nên Richard không được nghĩ là sẽ thừa kế ngai vàng. William IX, con trai cả của Henry II và Eleanor mất năm 1156, trước khi Richard ra đời. Richard thường được xem như người con mà Eleanor yêu thương nhất. Cha ông, Henry, là người gốc Norman-Angevin và là cháu cố của William Kẻ chinh phục. Người thân thuộc gốc Anh gần nhất trong phả hệ của gia đình Richard là Edith, vợ của Henry I của Anh. Nhà sử học đương thời Ralph de Diceto tra gốc gác gia đình ông từ Edith đến tận các vị vua Anglo-Saxon của Anh và Alfred Đại đế, và từ đó cho thấy họ có gốc gác với Noah và Woden. Theo như truyền thuyết Angevin, thậm chí có cả dòng máu ác quỷ trong gia đình. Trong khi cha mình đi tuần du lãnh địa của mình từ Scotland cho đến Pháp, Richard có lẽ đã ở lại Anh. Ông được chăm sóc bởi vú nuôi tên là Hodierna, và khi lên ngôi ông đã cho bà một khoản tiền thưởng lớn. Người ta biết rất ít về học vấn của ông. Mặc dù sinh ra ở Oxford nhưng Richard không biết nói tiếng Anh; ông là một người được dạy dỗ tốt và có thể làm thơ bằng tiếng Limousin (lenga d’òc) và tiếng Pháp. Ông được mô tả là rất quyến rũ với mái tóc đỏ vàng và đôi mắt xanh nhạt. Và có lẽ ông cao hơn mức trung bình: Theo như Clifford Brewer, Richard cao khoảng 1m96 nhưng vì di hài ông đã mất vào khoảng Cuộc cách mạng Pháp nên người ta không bao giờ biết được chiều cao chính xác của ông. Từ nhỏ ông đã thể hiện năng lực quân sự và chính trị xuất chúng, được chú ý bởi tinh thần hiệp sĩ và lòng dũng cảm khi ông đàn áp những người quý tộc nổi loạn trong lãnh thổ của mình. Anh trai ông Henry được tôn làm vua nước Anh trong khi cha ông còn sống. Vào tháng 3, 1159, một cuộc hôn nhân chính trị đã được sắp xếp giữa Richard và một người con gái của Ramon Berenguer IV, Bá tước Barcelona. Tuy nhiên, hôn ước bất thành và cuộc hôn nhân đã không diễn ra. Anh trai Henry của ông cưới Margaret, con gái Louis VII của Pháp, vào ngày 2 tháng 11, 1160. Mặc cho liên minh giữa nhà Plantagenet và nhà Capetian, gia đình nắm ngai vàng nước Pháp, hai nhà thỉnh thoảng vẫn có xung đột. Vào năm 1168, Giáo hoàng Alexander III buộc phải can thiệp để có được một hòa ước giữa hai gia đình. Henry II đã xâm chiếm Brittany, kiểm soát xứ Gisors và xứ Vexin, vốn là của hồi môn cho Margaret. Đầu những năm 1160, đã có những lời đề nghị rằng Richard nên cưới Alys (Alice), con gái thứ tư của Louis VII; nhưng vì sự đối đầu giữa vua Pháp và vua Anh nên Louis cản trở cuộc hôn nhân. Một hòa ước được ký vào tháng 1, 1169 và Richard được hứa hôn với Alys. Henry II dự định sẽ phân chia lãnh thổ của mình và vợ cho các con: Henry sẽ là vua nước Anh và xứ Anjou, Maine và Normandy trong khi Richard sẽ thừa kế Aquitaine từ mẹ mình và trở thành Bá tước xứ Poitiers, và Geoffrey sẽ được hưởng Brittany thông qua hôn nhân với Constance, người được thừa kế vùng đất này. Tại buổi lễ mà hôn ước giữa Richard và Alys được xác nhận, Henry thể hiện sự thần phục vua nước Pháp, và vì vậy đảm bảo một mối ràng buộc giữa hai người. Sau khi lâm bệnh nặng vào 1170, Henry II bắt đầu thực hiện kế hoạch phân chia vương quốc, mặc dù ông vẫn sẽ có toàn quyền với lãnh địa của các con mình. Vào năm 1171, Richard khởi hành đến Aquitaine với mẹ mình và Henry phong ông là Công tước xứ Aquitaine theo yêu cầu của Eleanor. Richard và mẹ ông du ngoạn quanh xứ Aquitaine vào năm 1171 nhằm giành được tình cảm của người dân. Họ cùng nhau đặt tảng đá tưởng niệm của Tu viện thánh Augustine ở Limoges. Vào tháng 6, 1172, Richard được chính thức công nhận là Công tước xứ Aquitaine khi ông được trao cây thương và huy hiệu Công tước; buổi lễ diễn ra ở Poitiers và được lặp lại tại Limoges, nơi ông đeo chiếc nhẫn của thánh Valerie, hiện thân của Aquitaine. === Nổi loạn chống lại Henry II === Theo như Ralph của Coggeshall, Henry the Young King là kẻ chủ mưu của cuộc nổi loạn chống lại Henry II; ông muốn thống trị một cách độc lập ít nhất một phần lãnh thổ mà cha ông đã hứa, và muốn thoát li khỏi Henry II, người nắm giữ tài chính của vương quốc. Jean Flori, một nhà sử học chuyên về lịch sử Trung Cổ, tin rằng Eleanor đã xúi giục các con mình nổi loạn chống lại cha. Henry the Young King bỏ cha mình và đến triều đình Pháp hy vọng nhận được sự bảo hộ của Louis VII; Richard và rồi Geoffrey cũng nhanh chóng đi theo anh mình, trong khi John – lúc này mới 5 tuổi – ở bên Henry II. Louis trợ giúp ba người con của Henry II và thậm chí còn phong tước hiệp sĩ cho Richard, nhận họ làm chư hầu của mình. Trong một bài thơ của mình, Jordan Fantosme miêu tả cuộc nổi loạn là một "cuộc chiến không tình yêu". Ba người anh em cùng thề trước triều đình Pháp là họ sẽ không đàm phán với Henry nếu không nhận được sự ưng thuận của Louis VII và các nam tước Pháp. Với sự hỗ trợ của Louis, Henry the Young King kêu gọi nhiều nam tước về phía mình nhờ hứa hẹn họ lãnh thổ và tiền bạc; trong đó có Philip, Bá tước xứ Flanders, người được hứa sẽ nhận được 1000 bảng Anh và một vài tòa lâu đài. Ba anh em cũng nhận được vài sự ủng hộ ở Anh, và sẵn sàng nổi dậy; chỉ huy bởi Robert de Beaumont, Bá tước thứ ba của Leicester, những người tham gia cuộc nổi loạn ở Anh bao gồm Hugh Bigod, Bá tước thứ nhất của Norfolk, Hugh de Kevelioc, Bá tước thứ năm của Chester và William I của Scotland. Liên minh này ban đầu khá thành công, và vào tháng 7, 1173 họ đã bao vây được Aumale, Neuf-Marché và Verneuil; Hugh de Kevelioc đã chiếm được Dol (thuộc Brittany). Richard đến Poitou và kêu gọi các nam tước trung thành với ông và mẹ chống lại Henry II. Eleanor bị bắt, nên Richard phải tự mình dẫn dắt chiến dịch chống lại những người ủng hộ Henry ở Aquitaine. Ông tiến chiếm La Rochelle, nhưng bị chống cự bởi người dân tại đó; sau đó ông rút quân về thành Saintes, lập căn cứ chỉ huy tại đây. Trong khi đó Henry II đã huy động một đạo quân tốn kém với hơn 20000 lính đánh thuê để đàn áp cuộc nổi loạn. Ông hành quân đến Verneuil, và Louis rút lui. Đội quân tiếp tục giành lại Dol và chiếm toàn bộ xứ Brittany. Đến lúc này Henry II đưa ra lời cầu hòa với các con mình; nhưng theo lời khuyên của Louis, hòa ước bị từ chối. Lực lượng của Henry II bất ngờ chiếm Saintes và bắt giữ phần lớn quân đồn trú tại đây, dù Richard đã thoát được với một toán lính nhỏ. Ông ẩn náu tại Château de Taillebourg cho đến khi cuộc chiến kết thúc. Henry the Young King và Công tước xứ Flanders dự định sẽ đổ bộ lên nước Anh để hỗ trợ cuộc nổi loạn dẫn đầu bởi Bá tước xứ Leicester. Thấy trước được điều này, Henry II trở về Anh với 500 quân và tù binh (bao gồm Eleanor cùng với vợ và hôn thê của các con mình), nhưng khi đến nơi ông mới phát hiện ra cuộc nổi loạn đã bị dập tắt. William I của Scotland và Hugh Bigod bị bắt vào ngày 13 và 25 tháng 7. Henry II về lại Pháp và bao vây Rouen, nơi Henry the Young King hợp quân với Louis VII sau khi ông từ bỏ kế hoạch xâm chiếm nước Anh. Louis bị đánh bại và một hòa ước được ký kết vào tháng 9, 1174, Hòa ước Montlouis. Khi Henry II và Louis VII ký hòa ước vào ngày 8 tháng 9, 1174, Richard bị loại trừ. Bị bỏ rơi bởi Louis và sợ phải đối đầu với quân đội của cha mình, Richard đến triều đình của Henry II tại Poitiers vào ngày 23 tháng 9 và cầu xin được tha thứ, than khóc và ngã xuống chân của Henry, người sau đó trao cho Richard nụ hôn hòa bình. Vài ngày sau, anh em của Richard cũng đến và mong muốn giảng hòa với cha họ. Điều khoản mà ba anh em chấp nhận ít hào phóng hơn những gì họ được để nghị trước đó trong cuộc xung đột (lúc đó Richard được đề nghị sẽ nhận được bốn tòa lâu đài tại Aquitaine và một nửa thu nhập từ lãnh địa đó) và Richard cuối cùng nhận được hai tòa lâu đài tại Poitou và một nửa thu nhập của Aquitaine; Henry the Young King nhận được hai tòa lâu đài ở Normandy; và Geoffrey nhận được một nửa xứ Brittany. Eleanor trở thành con tin của Henry II cho đến khi ông mất, phần nhiều là để đảm bảo sự ngoan ngoãn của Richard. === Dưới triều đại của Henry II === Sau cuộc chiến, công tác bình định các vùng đã nổi loạn chống lại Henry II bắt đầu. Ông du hành đến Anjou với mục đích này còn Geoffrey bình định xứ Brittany. Vào tháng 1, 1175, Richard được phái đến Aquitaine để trừng phạt những nam tước đã chiến đấu cho ông. Theo như biên niên sử về triều đại của Henry viết bởi Roger Hoveden thì phần lớn lâu đài thuộc sở hữu của những người nổi loạn phải được trả lại trạng thái ban đầu 15 ngày trước khi cuộc chiến nổ ra, trong khi những tòa lâu đài khác sẽ bị san bằng. Nếu xét trên việc lâu đài thời bấy giờ thường được xây bằng đá và nhiều nam tước đã mở rộng hoặc củng cố lại lâu đài của mình, đây không phải là điều dễ dàng. Gillingham ghi nhận rằng biên niên sử của Roger Hoveden là nguồn tư liệu chính về các hoạt động của Richard trong thời kỳ này, mặc dù ông cũng nói rằng nó chỉ ghi nhận các thành công của chiến dịch này; chính trong chiến dịch này mà Richard có được cái tên "Sư Tử Tâm". Thành công đầu tiên là cuộc vây hãm Castillon-sur-Agen. Tòa lâu đài này "vững chắc đến khủng khiếp", nhưng chỉ trong 2 tháng vây hãm những người phòng thủ đã buộc phải đầu hàng trước vũ khí công thành của ông. Henry có vẻ không mong muốn giao tài sản cho bất kỳ người con nào của mình vì lo sợ rằng họ có thể dùng nó để chống lại ông. Người ta nghi ngờ rằng Henry đã chiếm đoạt Công chúa Alys, hôn thê của Richard, con gái của Louis VII của Pháp với người vợ thứ hai. Điều này khiến cho một cuộc hôn nhân giữa Richard và Alys là bất khả thi dưới con mắt của nhà thờ, nhưng Henry thoái thác vì của hồi môn của Alys, xứ Vexin, rất có giá trị. Richard không dám từ bỏ Alys bởi vì bà là chị của Vua Pháp Philip II, một đồng minh thân cận. Sau thất bại trong việc lật đổ cha mình, Richard tập trung vào việc dập tắt các cuộc nội loạn của quý tộc xứ Aquitaine, đặc biệt là lãnh địa Gascony. Sự độc ác ngày càng tăng dưới sự thống trị của ông dẫn đến một cuộc nổi dậy lớn tại đó vào năm 1179. Với hy vọng lật đổ Richard, những người nổi loạn tìm sự trợ giúp của anh em ông Henry và Geoffrey. Một bước ngoặt xảy ra tại thung lung Charente vào mùa xuân 1179. Pháo đài Taillebourg vốn được phòng thủ rất tốt và gần như không thể công phá được. Pháo đài này ba mặt là vách đá và mặt thứ tư đối diện một thị trấn với tường ba lớp. Richard đầu tiên tàn phá và cướp bóc các trang trại và đất đai xung quanh pháo đài, khiến cho quân phòng thủ bên trong không nhận được tiếp viện cũng như không có đường lui. Quân đồn trú xông ra phá vây và tấn công Richard; ông đã có thể khuất phục được họ và theo họ vào thành với cánh cửa rộng mở, ông tiếp quản pháo đài trong vòng hai ngày. Chiến thắng của Richard tại Taillebourg làm nhụt chí nhiều nam tước đang nghĩ đến việc nổi loạn và bắt họ phải thề trung thành với ông. Chiến thắng còn đem lại danh tiếng cho ông với tư cách là một chỉ huy quân sự tài ba. Vào khoảng 1181-1182, Richard đối mặt với một cuộc nổi dậy giành quyền thừa kế hạt Angoulême. Đối thủ của ông kêu gọi trợ giúp từ Phillip II của Pháp, và chiến tranh lan đến xứ Limousin và Périgord. Richard bị tố cáo với nhiều tội ác chống lại người dân của mình, bao gồm hãm hiếp. Tuy nhiên, với sự hỗ trợ từ cha mình và Henry the Young King, Richard đã buộc Tử tước Aimar V của Limoges và Bá tước Elie của Périgord phải đồng ý với các điều khoản của mình. Sau khi khuất phục được các nam tước của mình, Richard một lần nữa thách thức cha mình để giành lấy ngai vàng. Từ 1180 – 1183, căng thẳng giữa Henry và Richard gia tăng vì Vua Henry ra lệnh cho Richard phải thể hiện sự thần phục đối với Henry the Young King, nhưng Richard từ chối. Cuối cùng, vào năm 1183 Henry the Young King và Geoffrey, Công tước xứ Brittany xâm lược Aquitaine trong nỗ lực khuất phục Richard. Các nam tước của ông tham gia cuộc xung đột và chống lại Công tước của họ. Tuy nhiên, Richard và quân đội của ông đã ngăn được quân xâm lược, và họ hành quyết bất kỳ tù binh nào. Cuộc xung đột ngừng lại trong một khoảng thời gian ngắn vào tháng 6, 1183 khi Henry the Young King qua đời. Với cái chết của Henry the Young King, Richard trở thành người con lớn nhất và vì vậy: người thừa kế ngai vàng nước Anh. Vua Henry yêu cầu Richard từ bỏ Aquitaine (lãnh địa ông dự định sẽ trao cho người con út John như là tài sản thừa kế). Richard từ chối, và cuộc xung đột tiếp diễn. Henry II sau đó nhanh chóng cho phép John xâm lược Aquitaine. Để củng cố vị trí của mình, vào năm 1187, Richard liên minh với P hilip II, con trai của chồng cũ của Eleanor, Louis VII với Adele xứ Champagne. Roger Hoveden viết: " Vua nước Anh đã vô cùng kinh ngạc, và tự hỏi liệu liên minh này có ý nghĩa gì, và cẩn trọng trong hành động của mình, ông thường xuyên gởi sứ giả đến Pháp với mục đích triệu hồi con mình, nhưng Richard, giả vờ rằng ông mong muốn hòa bình và sẵn sàng đến với cha mình, tìm đường đến Chinon và mặc cho sự canh gác cẩn mật, lấy đi hầu hết kho báu của vua cha, và rồi củng cố các lâu đài ở Poitou, từ chối đến bên cha mình." Nói chung, Hoveden chủ yếu quan ngại về yếu tố chính trị trong mối quan hệ giữa Richard và Philip. Nhà sử học John Gillingham đã gợi ý rằng giả thuyết về việc Richard bị đồng tính có lẽ bắt nguồn từ một văn kiện chính thức tuyên bố rằng: như là một biểu tượng cho sự hợp tác giữa hai quốc gia, vua Anh và Pháp đã ngủ qua đêm trong cùng một chiếc giường. Ông cho rằng điều này là "một hành động chính trị được chấp nhận, không có gì nhục dục trong chuyện này; … đại loại giống như một buổi chụp hình ngày nay vậy". Để đổi lấy sự ủng hộ của Philip, Richard hứa sẽ nhượng lại cho ông cả Normandy và Anjou. Richard thể hiện sự thần phục Philip vào tháng 11 năm đó. Với tin tức về trận đại bại ở Hattin, Richard tuyên thệ tại Tours cùng với các quý tộc Pháp. Vào năm 1188, Henry II dự định nhượng lại Aquitaine cho con trai út của mình, John. Năm sau, Richard dự định giành lấy ngai vàng nước Anh trong cuộc viễn chinh với Philip chống lại cha ông. Vào ngày 4 tháng 7, 1189, lực lượng của Richard và Philip đánh bại Henry tại Ballans. Henry, với sự ưng thuận của John, đồng ý phong Richard làm Thái tử. Hai ngày sau Henry II mất tại Chinon và Richard nối ngôi ông là Vua nước Anh, Công tước Normandy và Bá tước Anjou. Roger Hoveden khẳng định rằng xác của Henry chảy máu từ mũi khi Richard có mặt tại đó, một dấu hiệu cho thấy Richard đã gây ra cái chết. == Vua và Thập tự chinh == === Lễ đăng quang và bạo lực chống người Do Thái === Richard chính thức được tôn làm công tước vào ngày 20 tháng 7, 1189 và vua vào ngày 3 tháng 9, 1189 tại Tu viện Westminster. Khi lên ngôi, Richard cấm tất cả người Do Thái và phụ nữ tham dự buổi lễ, nhưng có vài nhà lãnh đạo Do Thái đến để dâng quà cho đức vua. Theo như Ralph Diceto, cận thần của Richard đã lột đồ và đánh đập những người Do Thái, rồi quẳng họ ra ngoài. Khi mà tin đồn về việc Richard ra lệnh giết chết tất cả những người Do Thái lan truyền, người dân London đã bắt đầu một cuộc thảm sát. Nhiều người Do Thái đã bị đánh đập đến chết, bị cướp bóc và bị thiêu sống. Nhiều nhà cửa của người Do Thái bị đốt và nhiều người Do Thái bị buộc phải rửa tội. Vài người tìm chỗ trú trong Tháp Luân Đôn trong khi một số người khác thì trốn thoát được. Trong số những người bị giết có Jacob Orléans, một học giả Do Thái đáng kính. Roger Hoveden, trong quyển Gesta Regis Ricardi, khẳng định rằng cuộc nổi loạn xuất phát từ những kẻ ghen ghét và cố chấp và rằng Richard đã trừng trị những kẻ chủ mưu, cho những người Do Thái bị buộc cải đạo được phép quay lại tôn giáo cũ. Baldwin xứ Forde, Tổng giám mục xứ Canterbury nhận xét, "Nếu nhà vua không phải là người của Chúa, thì tốt hơn nên làm người của quỷ". Nhận thấy rằng những cuộc nổi loạn có thể làm sụp đổ triều đại của mình ngay khi ông lên đường trong cuộc Thập tự chinh, Richard ra lệnh hành quyết những kẻ chịu trách nhiệm cho những vụ giết người và khủng bố tàn bạo nhất, bao gồm cả những người nổi loạn đã vô tình đốt nhà của người Cơ đốc giáo. Ông ban hành đạo luật yêu cầu đảm bảo an toàn cho người Do Thái. Tuy nhiên, sắc lệnh này đã không được tuân thủ nghiêm ngặt, và tháng 3 năm đó bạo lực tiếp tục gia tăng, bao gồm một cuộc thảm sát tại York. === Kế hoạch Thập tự chinh === Richard đã tuyên thệ với tư cách là Bá tước Poitou vào năm 1187. Cha ông và Philip II cũng đã làm vậy tại Gisors vào ngày 21 tháng 1, 1188 sau khi nghe tin Jerusalem thất thủ, rơi vào tay của Saladin. Richard, cùng với Philip, đồng ý lên đường trong cuộc Thập tự chinh thứ ba, bởi vì mỗi người đều sợ rằng trong khi mình vắng mặt, người kia có thể xâm chiếm lãnh thổ của mình. Richard thề sẽ từ bỏ sự độc ác trong quá khứ để chứng tỏ mình đủ tư cách để tuyên thệ. Ông bắt đầu huy động và vũ trang một đạo quân Thập tự mới. Ông tiêu gần hết kho báu của cha mình (vốn rất nhiều của cải thu được từ thuế Saladin), tăng thuế và thậm chí đồng ý cho William I của Scotland từ bỏ lời thề trung thành với Richard để đổi lấy 10000 mác. Để có thêm tiền ông bán cả chức vụ, đặc quyền và đất đai cho những kẻ muốn mua. Những người đã có chức tước thì bị buộc phải trả những khoản tiền lớn để duy trì chức vụ của mình. William Longchamp, giám mục xứ Ely và Đại Chưởng ấn của nhà vua, ra giá 3000 bảng để tiếp tục giữ chức Đại Chưởng ấn. Reginald người Ý ra giá cao hơn, nhưng lại bị từ chối. Richard thu xếp vài việc cuối cùng tại châu Âu. Ông tái khẳng định việc bổ nhiệm William Fitz Ralph vào chức vụ quản gia của Normandy. Tại Anjou, Stephen xứ Tours bị tước quyền quản gia và bị tạm giam vì quản lý tài chính yếu kém. Payn de Rochefort, một hiệp sĩ Angevin, được thăng chức quản gia Anjou. Tại Poitou cựu mục sư trưởng của Benon, Peter Bertin, được phong chức quản gia, và cuối cùng ở Gascony quan chức nội vụ Helie de La Celle được chọn làm quản gia. Sau khi tái bố trí phần quân đội mà ông để lại nhằm bảo vệ các lãnh thổ ở Pháp, Richard cuối cùng lên đường trong cuộc Thập tự chinh vào mùa hè năm 1190. (Sự trì hoãn của ông bị phê bình bởi những người hát rong như Bertran de Born.) Ông trao quyền nhiếp chính cho Hugh de Puiset, giám mục của Durham, và William de Mandeville, Bá tước thứ ba của Essex – người này sau đó sớm qua đời và được thay thế bởi Đại Chưởng ấn của Richard William Longchamp. Em trai của Richard, John không hài lòng trước quyết định này và bắt đầu âm mưu chống lại William. Vài nhà văn đã phê bình Richard vì chỉ dành 6 tháng trong triều đại của mình ở Anh và rút trích tài nguyên của vương quốc để phục vụ cho cuộc Thập tự chinh. Theo như William Stubbs: Richard đã nói rằng nước Anh "rất lạnh và luôn đổ mưa," và khi ông đang gây quỹ cho cuộc Thập tự chinh, ông được cho là đã nói, "Ta đã có thể bán luôn London nếu ta có thể tìm được người mua." Tuy nhiên, dù nước Anh là phần lãnh thổ chính của ông – đặc biệt quan trọng khi nó cho ông một tước hiệu hoàng gia để có thể đứng ngang hàng với các vị vua khác – nó không đối mặt với cả thù trong lẫn giặc ngoài trong suốt triều đại của ông, không giống nhưng phần lãnh thổ ở đại lục, và vì vậy không cần ông phải luôn có mặt tại đây. Giống như phần lớn vua Plantagenet trước thế kỷ 14, ông không cần phải học tiếng Anh. Bỏ lại quê hương trong tay nhiều quan chức khác nhau mà ông bổ nhiệm (bao gồm cả mẹ ông), Richard quan tâm tới lãnh thổ rộng lớn tại Pháp nhiều hơn. Sau khi chuẩn bị xong, ông có một đạo quân 4000 kị binh, 4000 bộ binh và một hạm đội 100 tàu. === Chiếm đóng Sicilia === Vào tháng 9, 1190, Richard và Philip đến Sicilia. Sau cái chết của vua William II của Sicilia, em họ ông Tancred xứ Lecce nắm quyền và được tôn làm vua vào đầu năm 1190, mặc dù người thừa kế hợp pháp là dì của William, Constance, vợ của Hoàng đế La Mã Thần thánh Henry VI. Tancred bắt giam góa phụ của William, hoàng hậu Joan, em gái của Richard và không trao cho bà số tiền mà William để lại trong di chúc. Khi Richard đến nơi ông yêu cầu Tancred giải thoát Joan và trao cho bà tài sản thừa kế; bà được trả tự do vào ngày 28 tháng 9 nhưng không được hưởng thừa kế. Sự hiện diện của quân đội nước ngoài cũng gây ra bất an: vào tháng 10, người dân Messina nổi dậy, yêu cầu quân đội nước ngoài ra đi. Richard tấn công Messina, chiếm được nơi này vào ngày 4 tháng 10, 1190. Sau khi cướp phá và đốt cháy thành phố, Richard thành lập căn cứ tại đây, nhưng điều này lại gây căng thẳng giữa Richard và Philip Augustus. Ông ở lại đó cho đến khi Tancred đồng ý ký hiệp ước vào ngày 4 tháng 3 năm 1191. Hiệp ước được ký bởi Richard, Philip và Tancred. Các điều khoản chính bao gồm: Joan sẽ được nhận 20.000 ounce vàng tiền bồi thường mà Tancred giữ. Richard chính thức công nhận cháu mình, Arthur xứ Brittany, con của Geoffrey, là người thừa kế của mình, và Tancred hứa sẽ gả một người con gái của mình cho Authur khi cậu trưởng thành, và trao thêm 20000 ounce vàng, số tiền này sẽ được Richard trao trả lại nếu Arthur không cưới con gái của Tancred. Hai vị vua ở lại Sicilia một thời gian, nhưng điều này dẫn đến căng thẳng gia tăng giữa họ và binh lính của nhau, với Philip Agustus và Tancred âm mưu chống lại Richard. Hai vị vua cuối cùng gặp nhau để giải tỏa căng thẳng và đi đến một thỏa thuận, bao gồm việc chấm dứt hôn ước của Richard với em gái của Philip, Alys (vốn bị cho là người yêu của cha Richard, Henry II). === Chinh phục đảo Síp === Vào tháng 4, 1191, Richard, với một hạm đội lớn, rời Messina để đến Acre. Nhưng một cơn bão làm phân tán hạm đội. Sau khi tìm kiếm, người ta phát hiện con tàu chở chị và hôn thê của ông Berengaria đang neo đậu ở bờ biển phía nam đảo Síp cùng với xác của vài con tàu khác, bao gồm tàu chở kho báu. Những người sống sót đã bị bắt làm tù nhân bởi bạo chúa của hòn đảo: Isaac Komnenos. Vào ngày 1 tháng 5 năm 1191, hạm đội của Richard cập cảng Lemesos (Limassol) ở Síp. Ông yêu cầu Isaac giải thoát các tù nhân và trả lại kho báu. Isaac từ chối, Richard sau đó đổ quân lên đảo và chiếm Limassol. Nhiều hoàng tử của Vùng đất thánh cũng đến Limassol vào lúc đó, đặc biệt là Guy Lusignan. Tất cả đều tuyên bố ủng hộ Richard nếu ông hỗ trợ Guy chống lại đối thủ là Conrad xứ Montferrat. Các nam tước địa phương bỏ rơi Isaac, vốn dự định giảng hòa với Richard, hợp quân với ông trong cuộc Thập tự chinh và gả con gái của mình cho một người được lựa chọn bởi Richard. Nhưng Isaac đổi ý và cố gắng trốn thoát. Richard sau đó tiến hành chiếm đóng toàn bộ hòn đảo với quân đội của mình, chỉ huy bởi Guy de Lusignan. Isaac đầu hàng và bị trói bằng xích bạc vì Richard đã hứa là ông sẽ không bắt giam Isaac bằng xích sắt. Đến ngày 1 tháng 6 Richard đã chiếm được toàn bộ hòn đảo. Ông giao cho Richard de Camville và Robert xứ Thornham chức vụ thống đốc. Ông sau đó đã bán lại hòn đảo cho các Hiệp sĩ dòng Đền và cuối cùng rơi vào tay Guy Lusignan vào năm 1192 và hòn đảo trở thành một vương quốc phong kiến ổn định. Cuộc xâm lược chớp nhoáng của Richard quan trọng hơn ta nghĩ. Hòn đảo nắm giữ một vị trí chiến lược quan trọng trên tuyến đường biển đến Vùng đất thánh, nơi mà sự chiếm đóng của những người Cơ đốc giáo không thể tiếp tục nếu không có viện trợ từ biển. Đảo Síp vẫn là căn cứ của người Cơ đốc giáo cho đến trận Lepanto (1571). Chiến công của Richard được lan truyền rộng rãi và góp phần tạo dựng danh tiếng cho ông. Richard cũng nhận được một nguồn tài quan trọng từ việc chinh phục đảo. Richard khởi hành về Acre vào ngày 5 tháng 6 cùng với đồng minh của mình. === Hôn nhân và giới tính === Trước khi rời Cyprus Richard kết hôn với Berengaria của Navarre, con gái đầu của Vua Sancho VI của Navarre. Richard trở nên gần gũi với bà tại Cuộc đấu thương ở quê nhà Navarre của Berengaria. Đám cưới được tổ chức ở Limassol vào ngày 12 tháng 5, 1191 tại Nhà thờ thánh George. Đám cưới có sự tham dự của Joan, người đã rời Sicilia cùng Richard. Hôn lễ được tổ chức xa hoa và lộng lẫy với nhiều buổi yến tiệc và tiêu khiển, diễu hành và ăn mừng để đánh dấu sự kiện. Trong các buổi lễ lớn khác còn có sự đăng quang của Vua và Hoàng hậu. Richard phong mình làm Vua của Cyprus, và Berengaria làm Hoàng hậu của cả Anh và Cyprus. Khi Richard kết hôn với Berengaria ông vẫn đang chính thức đính hôn với Alys, và Richard thực hiện cuộc hôn nhân nhằm giành lấy Navarre như cha mình đã làm với Aquitaine. Hơn nữa, Eleanor cũng ủng hộ cuộc hôn nhân vì Navarre giáp với Aquitaine, qua đó bảo vệ biên giới phía nam của vùng đất của bà. Trong một thời gian ngắn, Richard đưa vợ theo cùng trong cuộc Thập tự chinh. Tuy nhiên, họ trở về riêng biệt. Berengaria gặp khó khăn trên đường về nhà cũng nhiều như Richard, và bà không nhìn thấy nước Anh cho đến sau khi chồng mình qua đời. Sau khi ông được người Đức giải thoát, Richard cảm thấy hối tiếc vì đã đưa bà về trước, nhưng ông lại không được đoàn tụ với vợ mình, và cả hai cuối cùng không có con. Rộng hơn, từ những năm 1950, giới tính của Richard đã trở thành một mối quan tâm và tranh cãi. Các nhà sử học thời Victoria và Edward hiếm khi đề cập vấn đề này, nhưng vào năm 1948 nhà sử học John Harvey nêu ra rằng ông nhận thấy một "âm mưu che giấu" quanh sự đồng tính của Richard. Luận điểm này được rút ra chủ yếu từ văn kiện có sẵn của các nhà chép sử về hành vi của Richard, các ghi nhận về hai lần thú nhận và sám hối công khai, và cuộc hôn nhân không con của Richard. Roger Hoveden kể lại về một ẩn sĩ đã cảnh báo rằng: "Ngươi sẽ bận tâm đến sự hủy diệt của Sodom, kiềm chế trước những điều trái với đạo lý", và Richard vì thế "nhận được sự ân xá, lấy lại vợ mình, người mà lâu rồi ông không gặp, và từ bỏ mọi mối quan hệ bất chính, ông chung thủy với vợ mình và cả hai trở thành một". Tài liệu này khá phức tạp xét trên việc Richard có ít nhất một người con hoang (Philip xứ Cognac), và việc Richard đã quan hệ với phụ nữ địa phương trong chiến dich của mình. Các nhà sử học hàng đầu chia rẽ trong câu trả lời về giới tính của Richard. Luận điểm của Harvey nhận được nhiều sự đồng tình; tuy nhiên, quan điểm này bị các nhà sử học khác bác bỏ, đáng chú ý nhất là John Gillingham. Rút ra từ các văn kiện lịch sử khác, ông tranh luận rằng có lẽ Richard là người dị tính luyến ái. Nhà sử học Jean Flori nói rằng các nhà sử học thời đó nói chung đều công nhận rằng Richard có xu hướng đồng tính luyến ái. Flori cũng đã phân tích các tài liệu đương thời; ông bác bỏ luận điểm của Gillingham và kết luận rằng hai lần thú nhận và sám hối công khai (vào năm 1191 và 1195) nhắc đến tội kê gian. Flori trích dẫn các tài liệu đương thời về việc Richard chiếm đoạt phụ nữ bằng vũ lực và cho rằng Richard có lẽ đã quan hệ với cả đàn ông và đàn bà ở nhiều giai đoạn khác nhau. Tuy nhiên, Flori và Gillingham đồng ý rằng các tài liệu đương thời không ủng hộ giả thuyết rằng Richard có quan hệ với vua Philip II của Pháp, như đã được nêu ra bởi các tác giả hiện đại. === Tại Vùng đất thánh === Vua Richard đổ bộ lên Acre vào ngày 8 tháng 6, 1191. Ông hỗ trợ chư hầu Poitou của mình Guy Lusignan, người đã đưa quân tới giúp ông ở Cyprus. Guy là một người góa vợ (vợ ông là em họ của cha ông, Sibylla của Jerusalem) và đang nhắm đến ngai vàng Jerusalem, mặc dù vợ ông đã mất trong Cuộc vây hãm Acre năm ngoái. Quyền thừa kế của ông bị thách thức bởi Conrad xứ Montferrat, chồng thứ hai của Isabella (em gái cùng cha khác mẹ của Sibylla). Conrad, người đã bảo vệ vương quốc vào năm 1187 bằng việc phòng thủ Týros, được hỗ trợ bởi Philip của Pháp, con của anh họ của ông Louis VII của Pháp và là anh họ của Công tước Leopold V của Áo. Richard đồng thời còn liên minh với Humphrey IV của Toron, chồng trước của Isabella, người đã bị buộc phải ly hôn với bà vào năm 1190. Humphrey trung thành với Guy và nói thành thạo tiếng Ả rập, thế nên Richard dùng ông làm phiên dịch và đàm phán viên. Richard và lực lượng của ông hỗ trợ trong cuộc xâm chiến thành Acre, mặc dù lúc này ông lâm bệnh nặng. Một mặt, khi đang bị bệnh Scobat, Richard được kể rằng đã dùng nỏ hạ gục lính gác trên tường thành trong khi đang được khiêng trên cáng. Cuối cùng Conrad xứ Montferrat đàm phán về việc đầu hàng của người Hồi giáo với Saladin và giương cờ hiệu của các vị vua trong thành phố. Richard tranh cãi với Leopold V của Áo về việc phế truất Isaac Komnenos (có họ hàng với người mẹ gốc Byzantine của Leopold) và vị trí của ông trong cuộc Thập tự chinh. Cờ hiệu của Leopold được giương lên cùng với cờ hiệu của Pháp và Anh. Điều này được giải thích là do sự ngạo mạn của cả Richard và Philip, vì Leopold chỉ là chư hầu của Hoàng đế La Mã Thần thánh (dù ông là nhà lãnh đạo còn sống sót cao nhất của lực lượng Đế quốc La Mã Thần thánh). Người của Richard giật lá cờ xuống và ném nó vào con hào của Acre. Leopold ngay sau đó từ bỏ cuộc Thập tự chinh, Philip sau đó cũng sớm ra đi với sức khỏe kém sau khi tranh chấp với Richard, đòi một nửa đảo Cyprus và ngai vàng Jerusalem. Richard, đột nhiên, thấy mình mất hết đồng minh. Richard giữ 2700 tù binh Hồi giáo làm con tin để đảm bảo Saladin sẽ thực hiện các điều khoản về việc giao nộp các vùng đất quanh Acre. Philip, trước khi đi, đã giao tù binh của mình cho Conrad, nhưng Richard buộc Conrad phải giao nộp họ cho ông. Richard sợ rằng lực lượng của mình sẽ bị tiêu diệt ở Acre và sẽ không thể tiếp tục chiến dịch với tù binh trong tay. Ông vì thế đã ra lệnh hành quyết tất cả tù binh. Sau đó ông tiến về phía nam, đập tan lực lượng của Saladin tại Trận Arsuf vào ngày 7 tháng 9, 1191. Ông muốn đàm phán với Saladin nhưng bất thành, Trong nửa đầu năm 1192 ông củng cố lại thành Ascalon. Một cuộc bầu cử buộc Richard phải công nhận Conrad xứ Montferrat là Vua của Jerusalem, và ông bán Cyprus lại cho Guy, người thất bại trong cuộc bầu cử. Chỉ vài ngày sau, vào ngày 28 tháng 4, 1192, Conrad bị đâm chết bởi một Hashshashin (kẻ ám sát) trước khi ông lên ngôi. Tám ngày sau cháu của Richard, Henry II của Champagne được kết hôn với Isabella, mặc dù bà đang mang thai con của Conrad. Vụ ám sát không bao giờ được giải quyết thỏa đáng. Người đương thời cho rằng Richard đã nhúng tay vào việc này. Nhận ra rằng ông không thể nào giữ được Jerusalem cho dù ông có chiếm được nó, Richard ra lệnh rút lui. Có vài vụ xung đột nhỏ đã nổ ra giữa quân của Richard và Saladin khi hai người đàm phán để giải quyết cuộc xung đột, vì cả hai đều nhận ra rằng họ khó giữ vững được vị trí của mình nếu xung đột tiếp diễn. Richard biết rằng cả Philip và chính em trai ông John đều đang âm mưu chống lại mình. Tuy nhiên, Saladin buộc Richard phải san bằng các công sự mà ông đã xây dựng tại Ascalon và vài việc khác. Richard thực hiện một nỗ lực cuối cùng để giành thế thượng phong trên bàn đàm phán bằng việc xâm lược Ai Cập – nguồn tiếp vận chính của Saladin – nhưng thất bại. Cuối cùng, thời gian không còn nữa. Việc trở về không thể trì hoãn được nữa vì cả Philip và John đều đang lợi dụng sự vắng mặt của ông. Ông và Saladin đi đến một thỏa thuận vào ngày 2 tháng 9, 1192; bao gồm việc phá hủy các công sự của Ascalon, cùng với việc cho phép người hành hương và thương nhân Cơ đốc đến Jerusalem. Nó cũng bao gồm một hòa ước ba năm. === Bị bắt giữ và trở về === Thời tiết xấu buộc thuyền của Richard phải cập cảng ở Corfu, vùng đất của Hoàng đế Byzantine, Isaac II Angelos, người đã phản đối việc Richard thôn tính đảo Cyprus, vốn trước đây là lãnh thổ của Byzantine. Cải trang thành một Hiệp sĩ dòng Đền, Richard dong thuyền khỏi Corfu với bốn người hầu, nhưng thuyền ông bị đắm gần Aquileia, buộc nhóm của Richard phải di chuyển trên một tuyến đường nguy hiểm băng ngang trung tâm châu Âu. Trên đường đến lãnh địa của anh vợ mình, Heinrich xứ Sachsen, Richard bị bắt vài ngày trước Giáng sinh năm 1192 gần Viên bởi Leopold V, Công tước của Áo. Leopold sau đó buộc tội Richard trong vụ ám sát em họ ông Conrad xứ Montferrat. Hơn nữa cá nhân Richard cũng đã xúc phạm Leopold bằng việc ném cờ hiệu của ông khỏi bờ tường thành Acre. Richard và những người tùy tùng đã cải trang thành thường dân đi hành hương, nhưng ông bị nhận dạng do đeo một chiếc nhẫn đáng giá, cũng có thể là do ông đã khăng khăng đòi ăn gà quay, một món ăn của quý tộc thời bấy giờ. Công tước Leopold giữ ông làm tù binh tại Lâu đài Dürnstein dưới sự chăm sóc của Hadmar xứ Kuenring. Sự cố của Richard nhanh chóng lan tới nước Anh, nhưng trong nhiều tuần liền các quan nhiếp chính không xác định được nơi ở của ông. Trong tù, Richard đã viết Ja nus hons pris hay còn có tên là Ja nuls om pres ("Không ai bị cầm tù") để gởi đến chị gái cùng mẹ khác cha Marie de Champagne. Ông viết bài ca bằng tiếng Pháp và Occitan để diễn tả cảm xúc khi bị bỏ rơi bởi người dân và chị gái của mình. Việc bắt giam một Thập tự quân là trái với luật, và vì vậy mà Giáo hoàng Celestine III đã rút phép thông công của Công tước Leopold. Vào ngày 28 tháng 3, 1193 Richard được đưa đến Speyer và được giao cho Henry VI, Hoàng đế La Mã Thần thánh, vốn không hài lòng cả về sự hỗ trợ của nhà Plantagenet cho gia đình của Henry Sư Tử, và việc Richard công nhận Tancred ở Sicilia, đã giam giữ ông tại Lâu đài Trifels. Henry VI, vốn cần tiền để xây dựng quân đội và khẳng định quyền thống trị của mình với miền nam Italy, tiếp tục giữ ông để đòi tiền chuộc. Đáp lại Giáo hoàng Celestine III rút phép thông công của Henry VI, giống như ông đã làm với Công tước Leopold, vì giam giữ Richard một cách sai trái. Richard đã nổi tiếng từ chối thể hiện sự tôn trọng Hoàng đế La Mã Thần thánh và tuyên bố với Henry VI: "Ta được sinh ra với một địa vị mà không phải thể hiện sự thần phục với bất kỳ ai ngoại trừ Chúa". Dù ông đã than phiền rất nhiều về điều kiện sống của mình lúc bị bắt, nó thực sự không quá khắc nghiệt. Hoàng đế La Mã Thần thánh đòi 150.000 mác (65.000 pound bạc) tiền chuộc để giải phóng Richard, tương ứng với số tiền thu được qua thuế Saladin chỉ vài năm trước, Nhà sử học David Boyle ước tính số tiền này tương đương với khoảng 2 tỷ bảng Anh theo thời giá năm 2011. Eleanor xứ Aquitaine vận động để quyên tiền chuộc. Cả tăng lữ và thường dân đều bị đánh thuế tới ¼ giá trị tài sản của họ, kho vàng và bạc của nhà thờ bị tịch thu, và tiền được thu từ thuế Scutage và Carucage. Cùng lúc đó, John, em trai Richard và Vua Philip của Pháp đề nghị 80000 bảng để Hoàng đế giam giữ Richard cho đến lễ thánh Mi-sen 1194. Hoàng đế từ chối lời đề nghị. Món tiền để giải thoát nhà vua được chuyển đến Đức bởi các đại sứ của Hoàng đế, nhưng "là vì an nguy của nhà vua" (nếu nó bị mất dọc đường, Richard sẽ bị quy trách nhiệm), và cuối cùng, vào ngày 4 tháng 2, 1194, Richard được giải thoát. Philip gởi một thông điệp cho John: "Hãy coi chừng, con ác quỷ đã được tự do". Vụ việc này để lại một ảnh hưởng lâu dài tại Áo, vì một phần từ tiền chuộc Richard được dùng bởi Công tước Leopold V để xây dựng một thành phố mới, Wiener Neustadt, vốn có vai trò quan trọng đối với lịch sử Áo cho đến tận bây giờ. === Những năm cuối đời === Khi Richard vắng mặt, em trai ông John đã nổi dậy với sự trợ giúp của Philip; trong các vùng đất mà Philip chiếm được khi Richard bị giam cầm có Normandy. Richard tha thứ cho John khi hai người gặp lại và, thuận theo các tất yếu chính trị, chọn ông là người thừa kế ngai vàng thay cho Arthur, vì mẹ Arthur, Constance xứ Brittany có lẽ đã chấp nhận thương lượng với Philip II. Richard bắt đầu cuộc tái chiếm Normandy. Việc Château de Gisors rơi vào tay người Pháp vào năm 1196 tạo ra sơ hở trong việc phòng phủ Normandy. Một cuộc tìm kiếm đã bắt đầu để tìm ra một vị trí tốt cho một lâu đài mới nhằm bảo vệ lãnh địa Normandy và làm căn cứ để từ đó Richard giành lại Vexin từ tay người Pháp. Một vị trí đắc địa cho việc phòng thủ được tìm ra tại thượng lưu sông Seine, một tuyến vận chuyển quan trọng, tại thái ấp Andeli. Chiếu theo các điều khoản của Hòa ước Louviers (tháng 12, 1195) giữa Richard và Philip II, không vị vua nào được phép củng cố vị trí này; mặc cho điều đó, Richard dự định xây dựng pháo đài rộng lớn Château Gaillard. Richard cố gắng giành được thái ấp qua đàm phán. Walter de Coutances, Tổng giám mục xứ Rouen, miễn cưỡng trong việc bán lại thái ấp vì nó là một trong những vùng trù phú nhất của giáo khu, và các vùng đất khác thuộc về giáo khu hiện đã bị tàn phá bởi chiến tranh. Khi Philip vây hãm thành Aumale ở Normandy, Richard chán phải chờ đợi và chiếm khu thái ấp, dù hành động này bị nhà thờ phản đối. Walter de Coutances ban hành một bản huyền chức chống lại lãnh địa Normandy, theo đó cấm chỉ việc hành lễ của nhà thờ trong khu vực. Roger Hoveden mô tả chi tiết "những xác người không được chôn cất nằm la liệt trên các con đường và quảng trường của các thành phố ở Normandy". Công trình xây dựng bắt đầu với lệnh huyền chức ban bố tại Normandy, nhưng sau đó nó được bãi bỏ vào tháng 4, 1197 bởi Giáo hoàng Celestine III, sau khi Richard phong đất cho Walter de Coutances và giáo khu Rouen, bao gồm hai thái ấp và cảng Dieppe sầm uất. Dưới triều đại của Richard, chi tiêu hoàng gia cho việc xây dựng lâu đài suy giảm so với mức chi tiêu dưới thời Henry II, cha ông. Điều này được cho là do việc tập trung tiềm lực vào chiến tranh với vua Pháp. Tuy nhiên, Château Gaillard là một trong những công trình đắt tiền nhất thời đó và tốn khoảng từ 15000 đến 20000 bảng trong những năm 1196 – 1198. Số tiền này gấp hơn hai lần chi tiêu của Richard lên các lâu đài tại Anh, với khoảng 7000 bảng. Với tiến độ thi công chưa có tiền lệ trong lịch sử, lâu đài này được hoàn thành chỉ trong khoảng hai năm, trong khi hầu hết công trình với quy mô như vậy đã có thể mất đến gần một thập niên để hoàn thành. Theo như William xứ Newburgh, vào tháng 5, 1198, Richard và những nhân công làm việc trong lâu đài bị ngập trong một "cơn mưa máu". Trong khi vài cố vấn cho rằng cơn mưa là một điềm gở, Richard không hề nao núng: nhà vua không hề sợ hãi bởi điều này để mà giảm dù chỉ một chút tiến độ thi công, ông rất hài lòng vì điều này đến nỗi, trừ khi tôi lầm, cho dù một thiên thần có giáng xuống trần gian và kêu gọi ngừng việc xây dựng, thiên thần đó cũng sẽ bị nhà vua nguyền rủa. Vì không có nhà kiến trúc nào được nhắc đến trong văn kiện chi tiết về công trình này, nhà sử học quân sự Allen Brown đã gợi ý rằng chính Richard là kiến trúc sư trưởng của công trình; điều này được hỗ trợ bởi niềm đam mê mà Richard dành cho công trình qua sự hiện diện thường xuyên của ông. Trong những năm cuối đời, lâu đài này trở thành dinh thự yêu thích của Richard, và các mệnh lệnh và biên bản được viết ở Château Gaillard đều ghi "tại lâu đài tráng lệ trên vách đá" (at the Fair Castle of the Rock). Château Gaillard đã đi trước thời đại, mang nhiều đổi mới mà cho tới gần một thế kỷ sau vẫn được sử dụng. Richard sau này khoe khoang rằng ông vẫn có thể giữ lâu đài "dù cho tường thành có làm bằng bơ". Allen Brown mô tả Château Gaillard như là "một trong những lâu đài vững chắc nhất châu Âu", còn nhà sử học quân sự Charles Oman viết: Château Gaillard… được xem là kiệt tác của thời đại. danh tiếng của người xây nên nó, Coeur de Lion, với tư cách là một kỹ sư quân sự vĩ đại sẽ đứng vững trên công trình này. Ông không chỉ đơn thuần là kẻ sao chép các mẫu kiến trúc mà ông đã thấy ở miền Đông, mà đã thể hiện nhiều chi tiết độc đáo trong sự sáng tạo của chính ông vào lâu đài này. Quyết tâm chống lại mưu đồ của Philip ở các vùng đất Angevin như Vexin và Berry, Richard đổ toàn bộ khả năng quân sự và tiềm lực lớn lao vào chiến tranh với vua Pháp. Ông dựng lên một liên minh chống Philip, bao gồm Baldwin IX của Flanders, Renaud, Công tước xứ Boulogne, và cha vợ mình Vua Sancho VI của Navarre, người tấn công lãnh thổ của Philip từ phía nam. Quan trọng nhất, ông giành được tài sản thừa kế của nhà Welf ở Saxony cho cháu của mình, con của Henry Sư Tử, Otto xứ Poitou, người trở thành Otto IV của Đức vào năm 1198. Một phần nhờ các mưu đồ này mà Richard giành được nhiều thắng lợi trước Philip. Ở Freteval năm 1194, khi Richard trở về sau vụ bắt giữ và sau việc thu tiền ở Anh cho Pháp, Philip bỏ chạy, để lại toàn bộ tài liệu về kiểm toán tài chính rơi vào tay Richard. Trong trận Gisors (đôi khi được gọi là Courcelles) vào năm 1198, Richard chọn khẩu hiệu của mình là "Dieu et mon Droit" – "Chúa và Quyền của ta" (vẫn được Hoàng gia Anh ngày nay sử dụng), thể hiện niềm kiêu hãnh trước đây của ông với Hoàng đế Henry rằng địa vị của ông không thể hiện sự thần phục với bất kỳ ai trừ Chúa. Vào tháng 3, 1199, Richard đang ở Limousin đàn áp một cuộc nổi dậy của Tử tước Aimar V xứ Limoges. Mặc dù đang là Mùa Chay của Cơ đốc giáo, ông "tàn phà lãnh địa của tử tước với lửa và gươm". Ông bao vây lâu đài Chalus-Chabrol (vốn khá nhỏ và gần như không được vũ trang). Vài nhà chép sử khẳng định rằng đó là do nông dân địa phương đã khám phá ra một bộ sưu tập kho báu bằng vàng La Mã, thứ mà Richard giành lấy từ Aimar với tư cách nhà vua. Vào sớm chiều ngày 25 tháng 3, 1199, Richard đi dạo quanh vòng ngoài của lâu đài mà không mặc áo lưới sắt, kiểm tra tiến độ của công binh trên tường thành. Tên thỉnh thoảng được phóng đi từ trên tường thành, nhưng việc này lại ít được chú ý. Một người phòng thủ đặc biệt làm nhà vua cảm thấy thích thú – người này đứng trên bờ tường, một tay cầm nỏ, tay kia nắm chặt một chiếc chảo rán mà anh ta đã dùng cả ngày để làm khiên chắn tên. Anh ta chủ tâm nhắm vào nhà vua, khiến cho Richard vỗ tay; tuy nhiên, một tay nỏ khác sau đó bắn tên vào ông, trúng vào vai trái ngay gần cổ. Ông cố kéo nó ra trong lều của mình nhưng không được; một cuộc giải phẫu, được gọi là "mổ bò" bởi Hoveden, đã lấy được nó ra, "một cách bất cẩn, làm hỏng" cánh tay của nhà vua. Vết thương nhanh chóng bị hoại tử. Vì vậy, Richard yêu cầu đưa tay nỏ đó đến gặp ông; những nhà chép sử ghi nhận tên người đó khác nhau: Pierre (hay Peter) Basile, John Sabroz, Dudo, và Bertrand de Gurdon, người đó (theo vài nguồn, nhưng không phải tất cả) hóa ra là một cậu bé. Cậu bé này nói rằng Richard đã giết chết cha và hai người anh của cậu, và cậu muốn giết Richard để trả thù. Cậu bé chắc rằng mình sẽ bị xử tử; nhưng Richard đã tha thứ cậu bé như là hành động nhân từ cuối cùng, nói rằng: "Sống tiếp đi, và dưới ân huệ của ta hãy tận hưởng ánh nắng ban mai," sau đó ông trả tự do cho cậu cùng với 100 shilling. Richard sau đó thu xếp công việc của mình, truyền lại toàn bộ lãnh thổ cho em trai mình và toàn bộ trang sức cho người cháu Otto. Richard qua đời ngày 6 tháng 4, 1199 trong vòng tay của mẹ mình; sử sách chép lại rằng: "Khi ngày cuối sắp tàn, ông chấm dứt quãng đời trần thế của mình." Do cái chết của mình mà sau này ông được nhắc tới như là "con sư tử bị giết chết bởi con kiến". Theo như một nhà chép sử, hành động thượng võ cuối cùng của Richard đã trở nên vô ích: trong sự điên rồ của thời Trung cổ tàn bạo, tay lính đánh thuê khét tiếng Mercadier đã cho tay nỏ giết chết Richard bị lột da sống và treo cổ ngay khi Richard mất. Trái tim của ông được chôn tại Rouen thuộc Normandy, nội tạng thì chôn ở Châlus (nơi ông mất), còn xác thì được chôn dưới chân cha ông tại Tu viện Fontevraud thuộc Anjou. Một giám mục của Rochester vào thế kỉ 13 đã viết rằng Richard dành 33 năm trong Sự hối lỗi vì những tội của mình, cuối cùng được lên Thiên đàng vào tháng 3, 1232. === Diện mạo === Cuốn ‘’Itinerarium peregrinorum et gesta regis Ricardi’’ bởi Richard de Templo khẳng định rằng "Ông khá cao, dáng người thanh lịch; màu tóc ông là sự pha trộn giữa đỏ và vàng; tay chân ông thẳng và dẻo dai. Ông có đôi tay dài, rất phù hợp để nắm một thanh gươm. Đôi chân dài của ông hợp với toàn bộ dáng người." == Di sản == Danh tiếng của Richard qua năm tháng đã "thăng trầm dữ dội", theo như nhà sử học John Gillingham. Hình ảnh của Richard thời bấy giờ là một vị vua vừa là một hiệp sĩ, và hiển nhiên ông là ví dụ điển hình nhất về sự kết hợp đó. Ông được biết đến như một chiến binh can đảm, một nhà lãnh đạo quân sự kiệt xuất: anh dũng và hào hiệp. Danh tiếng đó đã khắc sâu qua thời gian và định hình hình tượng của Richard. Ông đã để lại một ảnh hưởng sâu sắc về hình tượng đó cho đến tận bây giờ, phần nhiều nhờ các chiến công vang dội. Điều này được phản ánh trong nhận định cuối cùng của Steven Runciman về Richard I: "ông là một đứa con bất hiếu, một người chồng tệ bạc và một vị vua tồi, nhưng là một chiến binh xuất sắc và hào hiệp." ("Lịch sử các cuộc Thập tự chinh" Quyển III). Trong khi đó, các nhà văn Hồi giáo trong thời Thập tự chinh và sau này viết về ông: "Chúng ta chưa bao giờ phải đối đầu với một đối thủ táo bạo và quỷ quyệt hơn." Richard, tuy vậy, cũng nhận được những đánh giá tiêu cực. Trong suốt cuộc đời, ông bị chỉ trích bởi các nhà viết sử vì đã đánh thuế giới tăng lữ nhằm quyên tiền cho cuộc Thập tự chinh và trả tiền chuộc cho ông, trong khi nhà thờ và giới tăng lữ thường được miễn thuế. Nước Anh thời Victoria chia rẽ trong cách nhìn nhận về Richard: "Nhiều người trong số đó ngưỡng mộ ông vì cuộc Thập tự chinh và lòng mộ đạo của ông, dựng nên một tượng đài anh hùng về ông bên ngoài các tòa nhà Nghị viện; Stubbs, mặt khác, lại cho rằng ông là "một người con bất hiếu, một người chồng tồi, một kẻ chuyên quyền độc đoán và một con người xấu xa". Mặc dù sinh ra ở Oxford, ông không biết nói tiếng Anh. Trong triều đại 10 năm của mình, ông ở Anh không quá 6 tháng, và hoàn toàn vắng mặt trong 5 năm cuối cùng. Richard không sinh ra một người thừa kế hợp pháp và chỉ công nhận duy nhất một người con hoang, Philip xứ Cognac. Vì vậy mà ông được nối ngôi bởi em trai của mình John làm Vua nước Anh. Tuy nhiên, lãnh thổ tại Pháp của ông lúc đầu không chấp nhận John làm vua, thay vào đó công nhận cháu ông Arthur xứ Brittany, con trai của người em trai quá cố của ông Geoffrey, người có quyền thừa kế lớn hơn John theo luật đương thời. Quan trọng hơn, việc thiếu một người thừa kế trực tiếp từ Richard là bước đầu tiên trong sự tan rã của Đế chế Angevin. Trong khi các vị vua nước Anh tiếp tục tuyên bố chủ quyền với các lãnh thổ ở đại lục, họ đã không bao giờ có thể kiểm soát các lãnh địa mà Richard đã thừa hưởng. === Văn học dân gian thời Trung cổ === Khoảng giữa thế kỷ 13, nhiều truyền thuyết rộ lên rằng: sau khi bị bắt, người hát rong của ông Blondel du ngoạn khắp châu Âu qua hết lâu đài này đến lâu đài khác, hát vang lên một bài hát mà chỉ họ mới biết (họ đã cùng sáng tác nó). Cuối cùng, Blondel đến được nơi mà Richard bị giam giữ, Richard nghe thấy bài hát và trả lời bằng điệp khúc tương ứng, qua đó để lộ ra nơi nhà vua bị giam giữ. Câu chuyện đó là cơ sở cho vở opera của André Ernest Modeste Grétry, Richard Coeur-de-Lion và có vẻ là cảm hứng cho đoạn mở đầu của bộ phim Ivanhoe đạo diễn bởi Richard Thorpe. Câu chuyện dường như không liên quan đến Jean ‘Blondel’ de Nesle, một người hát rong quý tộc. Nó cũng không tương ứng với thực tế lịch sử, bởi vì những người cầm tù nhà vua không che giấu sự thật; mà ngược lại, họ công khai điều đó. Vào một thời điểm nào đó khoảng thế kỷ 16, câu chuyện về Robin Hood bắt đầu đề cập rằng Robin là người cùng thời và là người ủng hộ Vua Richard Sư Tử Tâm, Robin sau đó bị đặt ngoài vòng pháp luật dưới sự thống trị của người em trai xấu xa của Richard, John, khi Richard ra đi trong cuộc Thập tự chinh. Dù cách nhìn nhận này trở nên phổ biến, chắc chắn một điều rằng nó không được ủng hộ bởi những khúc balat đầu tiên. === Văn hóa đại chúng hiện đại === Richard xuất hiện với vai chính hoặc phụ trong nhiều tác phẩm giả tưởng, cả trong văn học lẫn phim ảnh. Như đã đề cập ở trên, Richard xuất hiện trong mối liên hệ với Robin Hood trong cuốn tiểu thuyết của Walter Scott: Ivanhoe và trong nhiều tác phẩm khác bắt nguồn từ quyển sách, và trong nhiều bộ phim về Robin Hood. Vở opera Riccardo Primo bởi George Frideric Handel dựa trên cuộc xâm chiếm đảo Cyprus của Richard. Ông là một trong những nhân vật chính trong tiểu thuyết The Talisman của Scott, lấy bối cảnh cuộc Thập tự chinh thứ ba. Ông xuất hiện trong nhiều tiểu thuyết lịch sử giả tưởng về cuộc Thập tự chinh thứ ba, ví dụ như hai cuốn tiểu thuyết The Kings of Vain Intent và The Devil is Loose của Graham Shelby. Ông là một nhân vật trong quyển The Lute Player của Norah Loft (tập trung vào mối quan hệ của ông với Berengaria xứ Navarre). Richard được đóng bởi Henry Wilcoxon trong tuyệt tác năm 1935 của Cecil B. DeMille: "The Crusades". Richard là một nhân vật chính trong quyển The Lion in Winter của James Goldman, trong đó có nhắc về mối quan hệ đồng tính giữa Richard và Philip của Pháp. James Rado thể hiện vai diễn Richard trên sân khấu Broadway năm 1966 dựa theo The Lion in Winter, Anthony Hopkins đóng vai đó trong bộ phim 1968 của Anthony Harvey và Andrew Howard đóng vai đó trong phiên bản làm lại năm 2003 đạo diễn bởi Andrey Konchalovskiy. Thêm nữa, Richard cũng xuất hiện trong trò chơi Assassin’s Creed của Ubisolf. == Tổ tiên == == Tham khảo == Ghi chú Mục == Đọc thêm == == Liên kết ngoài == Richard I "Lionheart" BY JACOB ABBOTT in "btm" format Roger of Hoveden on Richard the Lion-Hearted and King Philip II of France Richard and Saladin: Warriors of the Third Crusade Rich Lawson Richard I, Ja nuls om pres non dira sa razon (Occitan version of lyric) Richard I, Ja nus hons pris ne dira sa reson (French version of lyric, with English translation by James H. Donalson) The Lion roars in France tại Wayback Machine (lưu trữ ngày 10 tháng 11 năm 2014) King Richard tại Wayback Machine (lưu trữ ngày 27 tháng 9 năm 2007) a Middle English metrical romance from the Auchinleck manuscript (edited by David Burnley and Alison Wiggins) at the National Library of Scotland “Richard I, King Of England”. Catholic Encyclopedia. New York: Robert Appleton Company. 1913. Chisholm, Hugh biên tập (1911). “Richard I”. Encyclopædia Britannica (ấn bản 11). Nhà in Đại học Cambridge.
sushi.txt
Sushi (すし, 寿司, 鮨, 鮓, 寿斗, 寿し, 壽司, Sushi) là một món ăn Nhật Bản gồm cơm trộn giấm (shari) kết hợp với các nguyên liệu khác (neta). Neta và hình thức trình bày sushi rất đa dạng, nhưng nguyên liệu chính mà tất cả các loại sushi đều có là shari. Neta phổ biến nhất là hải sản. Thịt sống cắt lát gọi riêng là sashimi. == Nguồn gốc == Từ xưa, người Nhật đã biết cách ủ cá, tôm, hải sản vào nắm cơm để giữ được mùi vị thơm ngon. Khi ủ, cơm thường được trộn với một chút giấm cho chua chua ngọt ngọt. Mà cũng chính vì thế mà cá ủ trong cơm được chuyển hóa thành sushi. Ngoài nắm cơm bên ngoài còn có rong biển, tảo biển hoặc rau để bổ sung thêm vị ngọt của rau. Có nhiều loại sushi như california roll, salmon sushi,... == Một số thuật ngữ == Loại cơm trộn giấm để làm sushi (Sushi rice) được gọi là sumeshi hoặc sushimeshi. Loại giấm để nấu cơm này không phải giấm thông thường mà là giấm có pha muối, đường, rượu ngọt Mirin, vì thế gọi là giấm hỗn hợp awasesu. Giấm này được chuyên dùng để chế biến sushi, nên còn được gọi là sushisu. Cơm sau khi được nấu xong (nấu không chín hoàn toàn như cơm bình thường) sẽ được cho vào một chậu gỗ gọi là tarai và trộn với giấm. Cơm vừa được trộn vừa được nghệ nhân sushi dùng quạt tay để quạt cho hơi nóng thoát ra ngoài, giúp cho giấm giữ được hương vị. Các loại hải sản dùng để làm sushi gọi là Neta. Neta có thể là cá ngừ, cá hồi, cá chình, cá cóc, cá thu, tôm (nhất là loại tôm mà người Nhật gọi là sakura ebi), mực, bạch tuộc, các loại ốc biển, cua biển, v.v. == Các loại sushi == Có nhiều loại sushi, tùy theo cách chế biến. Loại thứ nhất là sushi nắm, gọi là nigirizushi. Cơm sumeshi được đắp lên bằng một miếng Neta. Ở giữa thường có một chút wasabi. Phía trên miếng neta có thể có một chút gừng xay nhuyễn hoặc vài hạt hành xanh bào nhỏ. Loại này phổ biến nhất. Loại thứ hai là sushi cuộn, gọi là makizushi được cuốn như các đồ ăn cuốn của Việt Nam, nhưng bên ngoài là lớp rong biển sấy khô; được tẩm muối và dầu mè.Thành phần bao gồm cơm, dầu vừng, muối, hạt vừng, một lượng nhỏ giấm và đường thường được thêm vào làm gia vị. Nguyên liệu được đặt trên một miếng rong biển khô. Cơm tẩm gia vị được phết lên miếng rong biển. Các thành phần khác như trứng chiên, cà-rốt, jăm-bông, thịt bò băm viên tẩm gia vị hoặc bánh cá (loại bánh làm từ cá và rau quả, phổ biến nhất là khoai tây) tẩm gia vị, củ cải ngâm, rau bina tẩm gia vị,cá ngừ,tôm hấp và dưa leo được đặt lên cơm, sau đó cuộn lại. Có lúc, người ta còn cho cuộn makizushi lăn qua trứng, bột chiên xù cho giòn. Khi ăn chấm nước tương, cũng có thể là mayonnaise hay nước sốt cà chua.Makizushi xưa được cắt đều làm 6 khoanh, ngày nay người ta có thể được cắt thành 12 khoanh hoặc hơn. Loại thứ ba là sushi gói như bánh, gọi là oshisushi. Loại thứ tư là sushi lên men, gọi là narezushi. Sushi ủ trong một thời gian dài cho lên men. Loại thứ năm là sushi rán, gọi là inarizushi. Sushi tẩm xì dầu rồi rán trong dầu sôi. Ở Hàn Quốc gọi là món Yubu chobap Mỗi địa phương ở Nhật Bản lại có những nét riêng trong chế biến sushi. Có loại sushi không được làm từ hải sản và cũng không có sumeshi, mà lại là trứng trộn đường rán lên. Có loại sushi cuộn mà bên trong có natto, một loại đậu tương ủ lên men nổi tiếng của Nhật Bản. Sushi thường được chấm với mù tạt (wasabi) hoặc nước tương Nhật Bản rồi thưởng thức.. == Sushi trên băng chuyền == Kaitensushi là loại sushi đặt trên băng chuyền chạy vòng tròn để thực khách tự chọn. Người Nhật thích kaitensushi vì giá cả thường rẻ. Người nước ngoài thích kaitensushi còn vì có thể lựa chọn được thứ mình thích mà không cần biết tiếng Nhật. == Ảnh về sushi == == Xem thêm == Sashimi Soba == Tham khảo ==
apulia.txt
Apulia (tiếng Ý: Puglia [ˈpuʎʎa]; tiếng Napoli: Pùglia [ˈpuʝːə]; tiếng Albania: Pulia; tiếng Hy Lạp cổ đại: Ἀπουλία, Apoulia) là một vùng nằm ở Nam Ý giáp với biển Adriatic về phía đông, biển Ionia về phía đông nam, eo biển Òtranto và vịnh Taranto về phía nam. Phần bán đảo miền nam, gọi là bán đảo Salento, tạo thành phần gót của chiếc "ủng" Ý. Vùng này rộng 19.345 kilômét vuông (7.469 sq mi), và dân số là 4 triệu người. Nó giáp với vùng Molise về phía bắc, Campania về phía tây, và Basilicata về phía tây nam. Qua các biển Adriatic và Ionia, nó đối diện với Albania, Bosna và Hercegovina, Croatia, Hy Lạp, và Montenegro. Thủ phủ vùng là Bari. == Địa lý == Đường bờ biển của Apulia dài hơn bất kỳ vùng nào ở nước Ý lục địa, mũi đất Gargano hướng về biển Adriatic còn ở miền nam, bán đảo Salento bằng phẳng và khô cằn tạo nên phần "gót" của chiến "ủng" Ý. Tại Apulia có vườn quốc gia, Alta Murgia và Gargano. == Chính phủ và chính trị == Từ 1 tháng 6, 2015, cựu thẩm phán và cựu thị trưởng Bari Michele Emiliano của Đảng Dân chủ đảm nhận nhiệm vụ thủ hiến. === Hành chính === Apulia được chia thành năm tỉnh và một thành phố đô thị: == Chú thích == == Tham khảo == Dữ liệu liên quan tới Apulia tại Wikispecies
issn.txt
Mã số tiêu chuẩn quốc tế cho xuất bản phẩm nhiều kỳ hay viết tắt là ISSN (tiếng Anh: International Standard Serial Number) là một dãy số độc nhất gồm tám chữ số, được dùng để nhận dạng một xuất bản phẩm nhiều kỳ dạng giấy in hoặc điện tử như tạp chí định kỳ, tạp chí chuyên khảo, báo, bản tin, xuất bản phẩm thông tin, niên giám, báo cáo thường niên, kỷ yếu hội nghị hay hội thảo, phụ trương hay phụ bản của các xuất bản phẩm nhiều kỳ. Nhiều xuất bản phẩm có ở cả hai dạng in và điện tử nên được ISSN xếp vào hai loại là: ISSN in (p-ISSN) và ISSN điện tử (e-ISSN hay eISSN). Hệ thống ISSN được phác thảo như một tiêu chuẩn quốc tế ISO vào năm 1971 và được ấn hành với tên gọi ISO 3297 vào năm 1975. Tiểu ban ISO TC 46/SC 9 là cơ quan quản lý tiêu chuẩn này. == Định dạng == ISSN gồm tám chữ số, được phân cách làm hai phần (mỗi phần gồm bốn chữ số) bởi một dấu gạch nối. Chữ số cuối (có thể là một trong các chữ số từ 0 đến 9 hoặc chữ cái X) là chữ số kiểm tra. Ví dụ, ISSN của báo Tuổi Trẻ là 0868-3999, trong đó chữ số kiểm tra là 9. Có thể dùng thuật toán sau để tính ra chữ số kiểm tra: Lấy mỗi chữ số trong bảy chữ số đầu của ISSN nhân với số chỉ vị trí của nó trong dãy số (tính từ bên phải sang), sau đó tính tổng các tích này. Trong ví dụ ISSN nêu trên, bảy chữ số đầu là 0, 8, 6, 8, 3, 9 và 9. Số chỉ vị trí của chúng (tính từ bên phải sang) lần lượt là 8, 7, 6, 5, 4, 3, và 2. Như vậy: 0 ⋅ 8 + 8 ⋅ 7 + 6 ⋅ 6 + 8 ⋅ 5 + 3 ⋅ 4 + 9 ⋅ 3 + 9 ⋅ 2 {\displaystyle 0\cdot 8+8\cdot 7+6\cdot 6+8\cdot 5+3\cdot 4+9\cdot 3+9\cdot 2} = 0 + 56 + 36 + 40 + 12 + 27 + 18 {\displaystyle =0+56+36+40+12+27+18} = 189 {\displaystyle =189} . Tiếp theo, lấy mô-đun 11 của tổng này, tức là lấy tổng này chia cho 11 để tìm số dư. 189 11 = 17 {\displaystyle {\frac {189}{11}}=17} dư 2 Nếu là phép chia hết (số dư bằng 0) thì chữ số kiểm tra sẽ là 0. Nếu phép chia có dư thì lấy 11 trừ đi số dư để tính ra chữ số kiểm tra, trong ví dụ này là: 11 − 2 = 9 {\displaystyle 11-2=9} 9 là chữ số kiểm tra. Chữ X in hoa dùng trong trường hợp chữ số kiểm tra được tính ra là 10. Để xác nhận chữ số kiểm tra, lấy từng chữ số trong cả tám chữ số của ISSN rồi nhân với số chỉ vị trí của nó (vẫn tính từ bên phải sang; X tương ứng với giá trị 10). Mô-đun 11 của tổng sẽ bằng 0 nếu tính đúng. == Cấp mã == Mã ISSN được cấp phát bởi một hệ thống các Trung tâm Quốc gia ISSN, thường là đóng tại các thư viện quốc gia và được phối hợp bởi Trung tâm Quốc tế ISSN ở Paris, Pháp. Trung tâm này là một tổ chức quốc tế thành lập năm 1974 qua một thỏa thuận giữa UNESCO và chính phủ Pháp. Trung tâm có một cơ sở dữ liệu gọi là ISDS Register (International Serials Data System) hay ISSN Register, chứa tất cả ISSN được cấp trên thế giới. Đầu năm 2011, cơ sở dữ liệu này lưu trữ 1.623.566 ISSN. == So sánh với các mã nhận dạng khác == ISSN và ISBN giống nhau về mặt ý tưởng, chỉ khác ở chỗ ISBN là dành để nhận diện sách. Đi kèm với ISSN áp dụng cho toàn bộ xuất bản phẩm nhiều kỳ thì ISBN cũng có thể được cấp cho một kỳ cụ thể của xuất bản phẩm đó. Không giống như ISBN, ISSN là mã nhận dạng gắn liền với nhan đề của một xuất bản phẩm nhiều kỳ và không chứa thông tin về nhà xuất bản hay nơi xuất bản. Vì lý do này mà số ISSN phải được cấp mới mỗi khi xuất bản phẩm có sự thay đổi lớn trong nhan đề. Do ISSN áp dụng cho toàn bộ xuất bản phẩm nên người ta xây dựng thêm mã SICI (Serial Item and Contribution Identifier) để tham chiếu một tập, một bài viết cụ thể hay một thành phần nhận dạng (ví dụ mục lục). == Tính sẵn có == Muốn tra cứu ISSN Register thì phải đăng ký do cơ sở dữ liệu này không có sẵn trên mạng Internet. Có một số cách để công chúng nhận dạng và xác nhận mã ISSN. Bản in của một xuất bản phẩm nhiều kỳ sẽ in kèm mã ISSN trong phần thông tin về xuất bản phẩm. Đa số các website của các xuất bản phẩm nhiều kỳ đều có kèm thông tin về ISSN Các trang web không chính thức trên mạng có thể cung cấp mã ISSN. Có thể tìm trực tuyến trên mạng mã ISSN hoặc nhan đề xuất bản phẩm. WorldCat cho phép tìm kiếm catalog của họ bằng mã ISSN thông qua cú pháp "issn:"+ mã ISSN trong ô tìm kiếm. Có thể truy cập trực tiếp một bản ghi về ISSN trên WorldCat bằng cách vào web http://www.worldcat.org/ISSN/, ví dụ http://www.worldcat.org/ISSN/1021-9749. Kết quả sẽ cho biết liệu có thư viện WorldCat nào trên thế giới có xuất bản phẩm với số ISSN do người dùng cung cấp hay là không. == Sử dụng URN == Một mã ISSN có thể mã hóa thành Tên gọi Tài nguyên Đồng nhất (Uniform Resource Name - URN) bằng cách thêm tiếp đầu ngữ urn vào, tức là "urn:ISSN:". Ví dụ tạp chí Rail có thể được tham chiếu là "urn:ISSN:1534-0481". Không gian tên URN có sự phân biệt VIẾT HOA-viết thường, và không gian tên ISSN thì đều viết in hoa. Nếu chữ số kiểm tra là "X" thì vẫn viết hoa khi mã hóa thành URN. == Chú thích == == Liên kết ngoài == Tìm kiếm xuất bản phẩm theo ISSN Danh sách 63800 ISSN và nhan đề tương ứng Trung tâm Quốc tế ISSN Trang web của một số Trung tâm Quốc gia ISSN How U.S. publishers can obtain an ISSN (bằng tiếng Anh), United States: Library of Congress ISSN in Canada (bằng tiếng Anh), Library and Archives Canada Đăng ký ISSN ở Anh (bằng tiếng Anh), British Library Đăng ký ISSN ở Pháp (bằng tiếng Pháp), Bibliothèque nationale de France Đăng ký ISSN ở Đức (bằng tiếng Đức), Deutsche Nationalbibliothek Đăng ký và cấp mã số chuẩn quốc tế cho xuất bản phẩm nhiều kỳ (ISSN), Cục Thông tin Khoa học và Công nghệ Quốc gia, Bộ Khoa học và Công nghệ (Việt Nam)
bang.txt
Bang hoặc tiểu bang (tiếng Anh: federated state nhưng state được dùng thường xuyên hơn) là một cộng đồng lãnh thổ có hiến pháp riêng và hình thành nên một phần của một liên bang. Những bang như thế khác biệt với các quốc gia có chủ quyền (sovereign state) ở chỗ các bang đã chuyển nhượng một phần chủ quyền của mình cho một chính phủ liên bang. Một bang nắm giữ thẩm quyền hành chính trên một lãnh thổ địa lý nhất định và là một thể thức chính quyền vùng. Trong một số trường hợp, liên bang được tạo ra từ một liên minh gồm những thực thể chính trị, có thể là độc lập hay là lãnh thổ phụ thuộc của một thực thể có chủ quyền khác (thông thường nhất là một cường quốc thực dân). Trong những trường hợp khác, các bang từ từ được tạo ra bởi một chính phủ nhất thể theo hướng phân quyền để tạo điều kiện cho việc lập ra hiến pháp liên bang. Một khi hiến pháp liên bang được hình thành thì những luật lệ chi phối quan hệ giữa quyền lực vùng và quyền lực liên bang sẽ trở thành một phần của luật quốc nội. Tại các quốc gia có hiến pháp liên bang, chủ quyền được chia sẻ giữa chính phủ liên bang và chính quyền bang. Các bang này tự trị một phần và thường thường được hưởng một cấp độ tự trị đáng kể. Trong đa số trường hợp, bên trong lãnh thổ riêng của mình, quyền và quyền lực hành chính của một bang không bị chính phủ liên bang lật ngược hay phủ quyết. Tuy nhiên, các luật lệ chi phối quan hệ giữa quyền lực vùng và liên bang có thể được tu chính qua hiến pháp liên bang hay hiến pháp bang. == Danh sách các bang theo từng liên bang == === Hiện tại === "Các đơn vị liên bang" trong bảng dưới đây có quyền lực chính quyền gắn liền trong hệ thống hiến pháp liên bang trong khi đó "các đơn vị khác" được chính phủ liên bang trao cho quyền lực hay được chính phủ liên bang điều hành trực tiếp. Ghi chú == Xem thêm == Danh sách các quốc gia có chủ quyền Danh sách các vùng tự trị theo từng quốc gia Liên bang Quốc gia liên kết == Tham khảo ==
phi tiêu.txt
Phi tiêu (Hoa ngữ: 飛俏 "phi tiêu", Nhật ngữ: 手裏剣 shuriken "thủ lý kiếm") là một loại ám khí thường làm bằng thép mỏng, sử dụng bằng cách ném. Phi tiêu thường có nhiều cạnh (4, 5 hoặc nhiều hơn), đầu mỗi cạnh là các mũi được mài giũa rất bén, thuộc loại vũ khí trong võ thuật. Tùy người sử dụng mà phi tiêu được tẩm thêm hoặc không tẩm chất độc vào các mũi tiêu. Cách sử dụng giống như phi đao, người dùng phi tiêu vận dụng kỹ thuật để phóng phi tiêu vào mục tiêu mà mình muốn, trong các phim và truyện tiểu thuyết võ hiệp miêu tả: khác với phi đao, độ chính xác và khả năng sát thương kẻ địch mạnh hay yếu của phi tiêu hầu hết phụ thuộc vào tài nghệ phóng tiêu của người sử dụng chứ ít ảnh hưởng bởi độ sắc bén của chiếc phi tiêu đó. == Ai là người sử dụng phi tiêu == Phi tiêu là một trong những loại ám khí xuất hiện cùng lúc với các loại vũ khí bằng kim loại như kiếm, đao, gậy sắt. Phi tiêu được phần lớn các võ sĩ Châu Á (đặc biệt là các nhẫn giả Nhật Bản) trang bị cho mục đích chiến đấu với kẻ địch của mình. == Tham khảo ==
maroc.txt
Maroc (مراكش), hay Vương quốc Maroc (được đọc là Ma Rốc; tiếng Ả Rập: المملكة المغربية, Al Mamlakah al Maghribīyah) là một quốc gia tại miền Bắc Phi. Quốc gia này nằm ở tây bắc châu Phi, Maroc có biên giới quốc tế với Algérie về phía đông, đối diện với Tây Ban Nha qua eo biển Gibraltar, khoảng cách 13 km và biên giới đất liền với hai thành phố tự trị của Tây Ban Nha là Ceuta và Melilla. Maroc giáp Địa Trung Hải và Đại Tây Dương về phía bắc và đông và giáp Mauritanie về phía nam. Maroc là quốc gia châu Phi duy nhất hiện không là thành viên của Liên minh châu Phi nhưng lại là thành viên của Liên đoàn Ả Rập, Liên minh Maghreb Ả Rập, Cộng đồng Pháp ngữ, Tổ chức Hội nghị Hồi giáo, nhóm Đối thoại Địa Trung Hải,Nhóm 77 và đồng minh lớn không phải NATO của Mỹ. Trong vòng 44 năm, từ năm 1912 đến năm 1956, Maroc là xứ bảo hộ của Pháp và Tây Ban Nha. Người dân Maroc chủ yếu là người Ả Rập và người Berber hoặc người lai hai dân tộc này. Tiếng Ả Rập là ngôn ngữ chính thức của quốc gia này nhưng nhiều người nói một thứ tiếng Berber, đặc biệt là ở nông thôn. Tiếng Pháp cũng được nói ở các thành phố. Nền kinh tế Maroc chủ yếu dựa vào nông nghiệp nhưng hai ngành du lịch và công nghiệp cũng đóng vai trò quan trọng. Maroc là một nước quân chủ lập hiến, nhà vua là nguyên thủ quốc gia, thủ tướng là người đứng đầu chính phủ. Rabat là thủ đô của Maroc, còn Casablanca là thành phố lớn nhất quốc gia này. == Tên gọi == Tên Ả Rập đầy đủ là Al-Mamlaka al-Maghribiya dịch nghĩa là "Vương quốc phía Tây". Al-Maghrib (có nghĩa "phía Tây") được sử dụng phổ biến. Đối với tài liệu lịch sử, các sử gia và các nhà địa lý Ả Rập Trung cổ thường gọi Maroc là Al-Maghrib al Aqşá ("Tối Viễn Tây"), để phân biệt với các khu vực lịch sử láng giềng gọi là al-Maghrib al Awsat ("Trung Tây", Algérie) và al-Maghrib al Adna ("Tối Cận Tây", Tunisia). Tên Latin hóa "Morocco" trong tiếng Anh xuất phát từ tiếng Latin trung cổ "Morroch," liên quan đến tên của cựu Almoravid và kinh đô Almohad, Marrakech. Người Ba Tư gọi tên xứ này một cách đơn giản là "Marrakech". Từ "Marrakech" được cho là có nguồn gốc từ Mur-Akush trong tiếng Berber có nghĩa là "Vùng đất của Thượng đế". Từ "Ma-rốc" trong tiếng Việt được lấy từ tiếng Pháp. == Quốc ca == == Lịch sử == === Maroc thời Berber === Khu vực Maroc ngày nay đã có người ở từ Thời kỳ Đồ đá mới (ít nhất năm 8000 trước Công nguyên như được chứng thực bằng các dấu hiệu của văn hóa Capsia), một giai đọan khi Maghreb còn ít khô cằn như ngày nay. Nhiều nhà lý luận cho rằng, người Amazigh, thường gọi là Berber hoặc theo nhận diện tôn giáo của họ (ví dụ như Chleuh), có lẽ đã đến đây vào khoảng cùng thời với thời kỳ bắt đầu ngành canh nông ở khu vực này. Thời xưa, Maroc đã được gọi là Mauretania, dù tên này không nên nhầm lẫn với quốc gia Mauritanie ngày nay. === La Mã và Maroc tiền La Mã === Từ thế kỉ thứ 9 TCN, người Phoenicia đến định cư ở các vùng ven biển (Melilla, Tangiet, Larache). Người La Mã sáp nhập vương quốc của người Moor và thành lập vùng Đông Bắc Maroc thành tỉnh Mauritania Tingitana. === Maroc thời Trung cổ === Vào đầu thế kỉ thứ 8, người Ả Rập chinh phục xứ sở này và truyền bá Hồi giáo cho các bộ tộc Berber. Từ năm 1064 đến năm 1269, hai dòng họ lớn của người Berber là Almoravid và Almohad, đã thống nhất vương quốc, cai trị cả vùng Bắc Phi, vùng lãnh thổ phía Đông và phía Nam Tây Ban Nha. Các vua của Maroc trung cổ: Triều Idrisd: Idriss I (789-791) Idriss II (791-828) Muhammad ibn Idris (828-836) Ali ibn Idris (836-848) Yahya ibn Muhammad (848-864) Yahya ibn Yahya (864-874) Ali ibn Umar (874-883) Yahya ibn Al-Qassim (883-904) Yahya ibn Umar ibn Idris (904 - 922) Vua Fatimid (Ai Cập) Ubayd Allah 922-925. Hassan al-tôi Hajam (925-927) Giai đoạn thứ hai của Fatimid (Ai Cập) kéo dài 927-937: Ubayd Allah (927 - 934); Muhammad bi-Amrillah (934 - 937) Al Qasim Gannum (937-948) Abu l-Aish Ahmad (948-954) Al-Hasan ben Kannun (954-974) Năm 974, vua nhà Idrisd bị Đế quốc Cordoba đánh bại và thống trị gần 300 năm. Về sau, vua nhà Almoravid là Abu ibn Umar đánh tan Cordoba và lập vương triều mới. Triều Amoravid: Abu Bakr ibn Umar (c.1060-1072) Yusuf ibn Tashfin (1072-1106) Ali ibn Yusuf (1106-1142) Tashfin ibn Ali (1142-1146) Ibrahim ibn Tashfin (1146) Ishaq ibn Ali (1146-1147) Năm 1145, một tướng của Amoravid là Mu'min nổi loạn lật đổ vương triều và lập triều đại mới - triều Almohad: 'Abdul-Mu'min (1145-1163) Abu Yusuf Yaqub tôi (1163-1184) Aby Yusuf al-Mansur Yaqub (1184-1199) Muhammad một-Nasir (1199-1213) Abu Yusuf Yaqub II (1213-1224) Abdul-Wahid tôi (1224) Abdallah al-Adil (1224-1227) Yahya (1227-1235) Idris I (1227-1232) Abdul-Wahid II (1232-1242) Ali (1242-1248) Umar (1248-1266) - đóng đô ở Marrakech Idris II (1266-1269) Năm 1244, tướng al-Haqq nổi loạn lập vương triều trên, về sau đánh bại Idris II để thống trị toàn Maroc với tên vương triều Marinid: Abu Yahya ibn Abd al-Haqq (1244-1258) Umar (1258-1259) Abu Yusuf ibn Abd Yaqub Al-Haqq (1259-1286) Abu Yusuf Yaqub một-Nasr (1286-1306) Abu Thabit Amir (1307-1308) Abu al-Rabi Sulayman (1308-1310) Abu Sa'id Uthman II (1310-1331) Abu al-Hasan Ali ibn Othman (1331-1348) Abu Inan Faris (1348-1358) Muhammad II. như Said (1359) Abu Salim Ali II. (1359-1361) Abu Umar Taschufin (1361) Abu Zayyan Muhammad III. (1362-1366) Abu l-Fariz Abdul Aziz I. (1366-1372) Abu l-Abbas Ahmad (1372-1384) Musa ibn Faris (1384-1386) Al-Wathiq (1386-1387) Abu l-Abbas Ahmad (1387-1393) Abu Faris Abdul Aziz II. (1393-1396) Abdullah (1396-1399) Abu Said Uthman III. (1399-1420) Abdalhaqq II (1420-1465) Muhammad ibn Ali Idrisi-Joutey (1465-1471) - tiếm ngôi Năm 1472, Abu Zakariya lật đổ Joutey và lập triều Wattasid Abu Zakariya Muhammad al-Saih al-Mahdi (1472-1505) Abu Abdallah Muhammad I (1505-1524) Abul Abbas Ahmad (1524-1545) Nasir ad-Din al-Qasri (1545-1547) Abul Abbas Ahmad (lần thứ hai, 1547-1549) Ali Abu Hassun (1554) Năm 1549, nhà Saadian lật đổ Wattasid, lập vương triều: Mohammed tro-Sheikh (1549-1554, 1554-1557) Abdallah al-Ghalib (1557-1574) Abu Abdallah Mohammed II (1574-1576) Abu Marwan Abd al-Malik I (1576-1578) Ahmad al-Mansur (1578-1603) Chiến tranh kế vị: 1603-1627 1627-1659: Saadian thống nhất: Abu Marwan Abd al-Malik II (r. 1628-1631) Al Walid ibn Zidan (r. 1631-1636) Mohammed esh Sheikh es Seghir (r. 1636-1655) Ahmad Abbas el (r. 1655-1659) Năm 1415, Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha xâm chiếm các thành phố ven biển (Ceuta, Tanger, Melilla). === Triều đại Alawite 1660–1912 === Năm 1660, Mulay al-Rachid thành lập triều đại Alawite trị vì vương quốc Maroc cho đến ngày nay. Trong hai thế kỉ 17-18, đất nước bị xâu xé và phân chia do tranh giành quyền thừa kế, kinh tế suy tàn. Trước áp lực của các cường quốc châu Âu (Anh, Pháp, Tây Ban Nha). Maroc buộc phải mở cửa thông thương từ năm 1864. Dưới sự trị vì của các Quốc vương Hasan I (1873- 1894), Abd al-Aziz (1900-1908) và Mulay Hafiz (1908-1912), Maroc vẫn bảo vệ được nền độc lập nhờ sự kình địch giữa các cường quốc. Tình trạng nợ nước ngoài dẫn đến việc Maroc bị dặt dưới quyền giám hộ của các cường quốc châu Âu theo hiệp ước Algeciras (1906). Theo hiệp ước Fès (1912), Pháp thành lập chế độ bảo hộ ở Maroc, trong khi Tây Ban Nha giành quyền kiểm soát vùng lãnh thổ phía Bắc (Rif) và vùng lãnh thổ phía Nam (Ifni). Các quốc vương Alawite (1660 - 1912): Al-Rashid Ismail Ibn Sharif: === Ảnh hưởng của châu Âu === Abdelkrim al-Khattabi, thủ lĩnh người Berber trong vùng Rif, lãnh đạo cuộc kháng chiến chống lại sự chiếm đóng của Pháp và Tây Ban Nha (1912-1926). Khattabi bị đánh bại, nhưng cuộc kháng chiến du kích trong vùng núi Atlas kéo dài đến năm 1934. Sau Chiến tranh thế giới thứ II, phong trào dân tộc phát triển (đảng Istiglal, 1944; đảng Dân chủ Độc lập, 1946). Quốc vương Sidi Muhammad đòi trao trả độc lập cho Maroc. Sidi bị Pháp truất phế năm 1953 và được phục hồi năm 1955. Năm 1956, Maroc giành được độc lập. Sidi Muhammad trở thành Quốc vương Muhammad V. === Maroc hiện đại === Sau khi nhà vua qua đời (1961), Thái tử Hassan II lên nối ngôi. Hassan II tiến hành dân chủ hóa đời sống chính trị trong nước một cách thận trọng sau khi đè bẹp các nhóm đối lập cấp tiến và tiến hành thực hiện chính sách ngoại giao một cách tích cực. Từ năm 1975, nhà vua thành công trong việc đạt được sự đồng thuận của nhân dân trong nước nhờ chính sách về Sahara: cuộc "Hành quân xanh" với sự tham gia của 350.000 người tình nguyện (1975) đã chiếm lại toàn bộ lãnh thổ vùng Tây Sahara nhưng cũng tạo ra cuộc xung đột với các chiến binh thuộc Mặt trận Polisario. Mặc dầu hai bên thực hiện lệnh ngừng bắn và chấp nhận cuộc trưng cầu ý dân về quyền tự quyết do Liên Hiệp Quốc và Tổ chức Thống nhất châu Phi đề nghị, nhưng việc giải quyết xung đột vẫn bế tắc. Năm 1988, Maroc thành lập lại quan hệ ngoại giao với Algérie. Bị chỉ trích là chuyên chế, Quốc vương Hassan II đã cố gắng tăng cường hòa giải dân tộc: phóng thích tù nhân chính trị gỡ bỏ lệnh kiểm duyệt, thừa nhận các đảng đối lập. Việc sửa đổi hiến pháp năm 1996 nhằm hướng tới quân bình hóa giữa quyền hành pháp và quyền lập pháp. Năm 1998, Abd al-Rahman Yusufi được bổ nhiệm làm Thủ tướng. Năm 1999, Quốc vương Hassan II qua đời, người con trưởng lên kế vị, lấy danh hiệu là Muhammad VI. Maroc thông qua chế độ đa đảng chính trị, với khoảng 30 đảng phái hợp pháp. Đảng đối lập trước đây gồm hai đảng kế tục Phong trào độc lập dân tộc Maroc là đảng Istiglal (PI) và Liên minh các lực lượng nhân dân xã hội chủ nghĩa (USFP). Từ năm 1998 đến 2002, đảng đối lập đứng đầu Liên minh Chính phủ, còn gọi là Chính phủ đan xen. Sau cuộc bầu cử tháng 9 năm 2002, một liên minh mới được hình thành bao gồm các đảng USFP, PI, RNI (đảng trung hữu), đảng MP và đảng MNP (các đảng của người Berber), đứng đầu là Thủ tướng Driss Jettou, người không thuộc đảng phái nào. Theo công luận, Thủ tướng Jettou có một hình ảnh tốt (liêm khiết, có năng lực) và đã nỗ lực phát động những cuộc cải cách căn bản (bảo hiểm bệnh tật bắt buộc, lương hưu, đầu tư cải thiện cơ cấu kinh tế). Các đảng chính của phe đối lập là PJD (Đảng Hồi giáo), UC, PND (đảng cánh hữu) và GSU (đảng cánh tả cấp tiến). Cuộc bầu cử tối sẽ diễn ra vào tháng 9 năm 2007. Từ vài năm nay, Maroc thực hiện mục tiêu thiết lập một chế độ dân chủ hơn và xây dựng một Nhà nước pháp quyền (ban hành Bộ luật gia đình mới, Luật về các đảng phái chính trị, Luật chống tra tấn…). Tình hình Maroc hiện nay nhìn chung ổn định. Tuy nhiên vấn đề Tây Sahara vẫn đang là một điểm nóng chính trị của Maroc. Giải pháp do Liên Hiệp Quốc đưa ra từ hơn 10 năm nay nhằm tổ chức trưng cầu dân ý để nhân dân Tây Sahara tự quyết định tương lai của mình vẫn không thực hiện được. Trong khi đó chính quyền ở đây đã tuyên bố thành lập nước Cộng hòa Dân chủ Ả Rập Xarauy, tuy chưa được Liên Hiệp Quốc và nhiều nước trên thế giới công nhận. == Chính trị == Maroc theo chế độ Quân chủ lập hiến và đa nguyên chính trị; Vua có thực quyền. Quốc hội lưỡng viện gồm: Thượng viện 270 ghế (nhiệm kỳ 9 năm, trong đó 1/3 được bầu lại sau 3 năm), Hạ viện 325 ghế (nhiệm kỳ 5 năm). Bầu cử Hạ viện ngày 7 tháng 9 năm 2007 với kết quả các Đảng: Istiqhal (PI) (Đảng độc lập- một trong 2 đảng cầm quyền) 49 ghế, Đảng Công lý và Phát triển (PJD) 40, Phong trào Nhân dân (MP) 36, Tập hợp Quốc gia của những người Độc lập (RNI) 34, Liên minh XHCN các lực lượng bình dân (USFP- một trong 2 đảng cầm quyền) 33. Số ghế còn lại thuộc về 18 chính đảng khác và các ứng viên không đảng phái. Bầu cử Hội đồng tư vấn (Thượng viện) ngày 3 tháng 10 năm 2009 có kết quả các Đảng: PI 52, PJD 46, MP 41, RNI 39, USFP 38, Liên minh hợp hiến (UC) 27, PPS 17, FFD 9, Phong trào Dân chủ và Xã hội (MDS) 9, Al Ahd 8 và 39 ghế còn lại thuộc về các đảng khác. Ngày 19 tháng 9 năm 2007, Vua Mohamed VI đã cử ông Abbas El Fassi (nguyên là Bộ trưởng Nhà nước trong Chính phủ mãn nhiệm) làm Thủ tướng thay ông Driss Jettou. Ngày 15 tháng 10 năm 2007, Vua phê chuẩn Chính phủ mới gồm 33 Bộ trưởng và Quốc Vụ khanh, trong đó có 5 Bộ trưởng và 2 Quốc vụ khanh là nữ. === Đối ngoại === Maroc là thành viên của Liên Hợp Quốc và nhiều Tổ chức quốc tế, khu vực như Khối Maghreb (UMA), Phong trào không liên kết (NAM), Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), Nhóm G77, Liên đoàn Ả Rập (ACL), Tổ chức Hội nghị Hồi giáo (OIC)...vv. === Quyền con người và những cải cách === == Hành chính == Maroc được chia làm 6 vùng và được chia tiếp thành 62 châu và tỉnh. Theo luật phi tập trung hóa và khu vực hóa được Quốc hội Maroc thông qua năm 1997, đã có 16 vùng mới được thiết lập: == Tình trạng phía Tây Sahara == Do xung đột về Tây Sahara, vị thế của cả hai vùng Saguia el-Hamra và Río de Oro đang bị tranh chấp. Chính phủ Maroc một tổ chức tự trị, dù thông qua Hội đồng cố vấn hoàng gia về các vấn đề Sahara (CORCAS) cần phải quản lý với một mức độ nhất định xứ tự trị Tây Sahara. Đề án này đã được trình cho Hội đồng bảo an Liên Hiệp Quốc giữa tháng 4 năm 2007. Sự bế tắc trong việc xử lý các kiến nghị của Maroc đã khiến Liên Hiệp Quốc trong "Báo cáo Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc" gần đây yêu cầu các bên thực hiện thương thảo vô điều kiện và trực tiếp để đạt được một thỏa thuận chính trị được hai bên chấp thuận. Quyền tự trị bị Mặt trận Polisario, một nhóm chống lại sự cai trị của thực dân Tây Ban Nha phản đối và hiện nay đang đấu tranh phi thực dân hóa Tây Sahara với tên Cộng hòa Dân chủ Ả Rập Sahrawi. == Địa lý == Xem thêm danh mục các thành phố của Maroc và Tây Sahara Với diện tích 446,550 km² (172,402 dặm vuông), Maroc là quốc gia có diện tích lớn thứ 57 trên thế giới (nhỏ hơn Uzbekistan). Lớn hơn Iraq và tiểu bang California của Mỹ. Biên giới phía đông và đông nam với Algérie đã đóng cửa từ năm 1994. Có 4 vùng đất của Tây Ban Nha dọc theo bờ biển Địa Trung Hải lọt trong lãnh thổ của Maroc là: Ceuta, Melilla, Peñón de Vélez de la Gomera, Peñón de Alhucemas và quần đảo Chafarinas, cũng như đảo còn tranh chấp Perejil. Đảo Canary ngoài khơi bờ biển Đại Tây Dương thuộc về Tây Ban Nha, trong khi Madeira ở phía Bắc thuộc về Bồ Đào Nha. Về phía Bắc, Maroc có biên giới với Strait of Gibraltar và quản lý một phần đường thủy ra vào Địa Trung Hải. Dãy núi Rif có vai trò là biên giới với Địa Trung Hải từ Tây Bắc đến Đông Bắc. Dãi núi Atlas như là xương sống chạy từ tây nam đến đông bắc. Hầu hết phần phía Đông là sa mạc Sahara và ít có dân cư sinh sống cũng như các hoạt động kinh tế. Hầu hết dân cư tập trung ở phía Bắc của các dãy núi. Phía nam của Maroc là phần phía tây của sa mạc Sahara, cũng là thuộc địa trước đây của Tây Ban Nha và được sáp nhập vào Maroc năm 1975 (xem thêm Green March). Maroc tuyên bố rằng phía tây Sahara là một phần lãnh thổ của họ và gọi là các tỉnh phía Nam. Thủ đô của Maroc là Rabat; và thành phố lớn nhất cũng là cảng chính của Maroc là Casablanca. Các thành phố khác gồm: Agadir, Essaouira, Fes, Marrakech, Meknes, Mohammadia, Oujda, Ouarzazat, Safi, Salè, Tangier và Tétouan. === Khí hậu === Do vị trí địa lý nên vùng phía Tây và phía Bắc nằm trong miền khí hậu Địa Trung Hải, mùa hè nóng và khô, mùa đông ấm và ẩm ướt. Vùng phía Đông và phía Nam chịu ảnh hưởng khí hậu sa mạc khô cằn và khí hậu nhiệt đới. Vào mùa đông, khí hậu các vùng miền núi phía Nam thường lạnh và ẩm ướt, tuyết rơi nhiều ở vùng núi Atlas. Tuy nhiên ở vùng Agadir, Fès, Marrakech và Ouarzazate thường có nắng 8h mỗi ngày. Nhiệt độ trung bình trong những thành phố này là trên 17 °C. Đôi khi có gió Xirôcô loại gió đến từ hướng Đông mang theo không khí khô và nóng làm nhiệt độ tăng cao. Bên cạnh sa mạc Sahara luôn có những trận gió khô và nóng bỏng, nhiệt độ đôi khi lên đến 45 °C vào tháng 8. === Cuộc sống hoang dã === == Kinh tế == Tuy thuộc nhóm các nước đang phát triển, Maroc có nền tảng kinh tế đa dạng. Nông nghiệp sử dụng 50% lực lượng lao động và chỉ đóng góp dưới 20% giá trị vào tổng sản phẩm quốc nội. Các quá trình khai thác quy mô và hiện đại các vùng đồng bằng ven Đại Tây Dương cung cấp các mặt hàng nông sản (nho, rau quả, đặc biệt là cam, quýt) xuất khẩu sang châu Âu. Nông nghiệp truyền thống (ngũ cốc, chăn nuôi cừu) tập trung ở vùng nội địa và vùng núi. Phosphat là nguồn khoáng sản lớn (Maroc là nước xuất khẩu đứng đầu thế giới) với 54,5 tỷ tấn, chiếm 3/4 trữ lượng thế giới, sản xuất khoảng 20 triệu tấn/năm, trong đó xuất khẩu 10 triệu tấn, tạo điều kiện cho ngành công nghiệp hóa học phát triển. Ngoài ra còn có một số ngành công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp khác. Trục Casablanca - Rabat - Kemtra tạo nên vùng công nghiệp hàng đầu của quốc gia. Du lịch (2,4 triệu du khách mỗi năm) và đánh bắt cá biển cũng đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế. Cán cân thương mại thâm hụt vì Maroc phải nhập khẩu dầu mỏ, ngũ cốc và hàng hóa sản xuất. Thêm vào đó, tình trạng hạn hán hoành hành trong hai năm 1999 và 2000, 20% lực lượng 1ao động thất nghiệp. Tuy nhiên, chính phủ đã kiểm soát được tình trạng lạm phát và thâm hụt ngân sách. Hiện nay Maroc đang nằm trong số những nước đang nổi lên giống như Ấn Độ và Thổ Nhĩ Kỳ, là một trong số ít các quốc gia Ả Rập (Liban và Palestine) không có nguồn tài nguyên dầu khí. Ngược lại nước này lại có trữ lượng phốt phát là 5,7 tỷ tấn (năm 2005) đứng thứ 2 sau Trung Quốc và là xuất khẩu số 1 trên thế giới về sản phẩm này. Maroc có nền kinh tế thị trường tự do được luật cung cầu điều tiết mặc dù hiện tại một số lĩnh vực kinh tế vẫn còn do Chính phủ nắm giữ. Trong mấy năm gần đây, kinh tế Maroc cũng đạt được những thành tựu đáng khích lệ: ổn định vĩ mô được giữ vững, tỷ lệ lạm phát ở mức thấp, dự trữ ngoại hối khá cao, nợ nước ngoài giảm… Cải cách kinh tế mà [Chính phủ Maroc đã và đang tiến hành thu được nhiều tiến bộ. Đối với nền kinh tế Maroc, thập kỷ 90 được đánh dấu bằng một sự tăng trưởng không cao. Tốc độ tăng trưởng kinh tế trung bình chỉ đạt 1,8%/năm giai đoạn 1995-2000. Giai đoạn 2001-2006 con số này đã khả quan hơn với tốc độ tăng trưởng 4,7%/năm. Riêng năm 2006, tăng trưởng GDP của Maroc lên tới 8,1% đạt 52,3 tỷ USD, chủ yếu do tăng trưởng nông nghiệp đạt thu nhập bình quân đầu người là 1.730 USD/người, thấp hơn mức trung bình của khu vực Bắc Phi (2.241 USD). Tỷ lệ thất nghiệp đã giảm từ 16% năm 1999 xuống còn 9,7% năm 2006. Tuy nhiên tỷ lệ này vẫn còn cao và trong những năm tới số lượng người thất nghiệp sẽ không giảm nếu tỷ lệ tăng trưởng kinh tế dưới mức 6%. Tỷ lệ lạm phát được giữ ở mức 1,7% giai đoạn 1996-2000 và 1,4% giai đoạn 2001-2005 nhờ thực hiện chính sách ngân sách và tiền tệ thích hợp. Tỷ lệ nghèo đói đã giảm từ 16,5% năm 1997 xuống còn 14% năm 2005. Chênh lệch thu nhập giữa các vùng giảm nhờ thực hiện Sáng kiến quốc gia về phát triển con người. Tổng kim ngạch xuất khẩu của Maroc năm 2006 đạt 12,8 tỷ USD tăng 11,2% so với năm 2005, nhập khẩu đạt 23,7 tỷ USD tăng 11% (nhập siêu 10,9 tỷ USD). Tỷ lệ thâm hụt ngân sách giảm xuống còn 2,7% GDP năm 2006 trong khi tỷ lệ thâm hụt trung bình trong 7 năm gần đây là 3,2% GDP. Dự trữ ngoại hối khoảng 21 tỷ USD. Nợ nước ngoài giảm từ 20 tỷ USD năm 1997 xuống còn 11 tỷ USD năm 2006. Những kết quả đó có được phần lớn nhờ vào việc Maroc tiến hành những cuộc cải cách trong nhiều lĩnh vực và thông qua chính sách tự do hoá nền kinh tế dựa trên sự năng động của khu vực kinh tế tư nhân, sự minh bạch hoá, tôn trọng Nhà nước pháp quyền và mở cửa ra thế giới bên ngoài. === Tài chính === Maroc đã thiết lập một khung kế toán mới cho các tổ chức tín dụng, tự do hoá lãi suất, dỡ bỏ những hạn chế về tín dụng, loại bỏ những khoản đầu tư bắt buộc (từ năm 1993 đến 1999). Củng cố lĩnh vực bảo hiểm với việc ban hành Bộ luật bảo hiểm năm 2002. Cơ cấu lại các ngân hàng quốc doanh. Bán 20% ngân hàng quốc doanh lớn nhất (BCP) cho tư nhân với giá trị 70,5 triệu euro (2004). Sửa đổi lại Luật ngân hàng và ban hành quy chế mới cho Ngân hàng Trung ương Bank Al Maghrib (2004-2005)… Năm 2010: GDP đạt 91,7 tỷ USD, Tăng trưởng bình quân GDP 4,2%; Bình quân thu nhập đầu người]] 2800 USD/năm. === Tự do hoá giá cả === Năm 2000, Maroc đã tiến hành tự do hoá kinh doanh các mặt hàng nông sản (ngũ cốc, đường, hạt cây có dầu) giúp giảm giá sản phẩm và nâng cao chất lượng. Thực hiện tự do định giá và ban hành Luật cạnh tranh năm 2001: Giá cả được tự do ấn định trừ trường hợp thiên tai quy mô lớn, thị trường biến động không bình thường và trừ 3 mặt hàng là bột lúa mì, đường và thuốc lá phải chờ đến năm 2006. Tự do hoá việc chuyển chở hàng hoá bằng đường bộ. === Tư hữu hóa === Lĩnh vực viễn thông đã được hoàn toàn tư hữu hoá với việc cấp giấy phép thứ hai về kinh doanh điện thoại di động cho công ty Meditel, nhờ đó giá cước viễn thông đã giảm. Xoá bỏ sự độc quyền về sản xuất năng lượng (1997), các doanh nghiệp tư nhân được sản xuất điện trong khuôn khổ các thoả thuận nhượng quyền. Vì vậy người tiêu dùng được hưởng giá điện thấp. Việc sửa đổi luật Tư hữu hoá năm 1999 đã tạo tính linh hoạt trong quá trình tư hữu hoá và bán các doanh nghiệp quốc doanh trên thị trường chứng khoán trong và ngoài nước và trong khuôn khổ mời thầu. Các thoả thuận nhượng quyền cung ứng dịch vụ tư nhân (2000) cho phép nâng cao chất lượng dịch vụ điện, nước, thu gom chất thải. Trong lĩnh vực hàng không, việc mở cửa thị trường cho tự do cạnh tranh (2001-2004) đã tạo điều kiện có thêm nhiều hãng hàng không đến khai thác, tăng chuyến bay và giảm giá vé, giúp tăng lượng khách du lịch đến Maroc. === Cải cách môi trường thương mại và đầu tư === Luật đầu tư năm 1995 đã giúp cải thiện khung pháp lý về đầu tư, loại bỏ những chồng chéo trong các lĩnh vực. Luật Toà án thương mại năm 1998 đã đơn giản hoá quá trình thẩm tra các tranh chấp thương mại và quyền sở hữu trí tuệ. Việc thành lập 16 trung tâm đầu tư khu vực năm 2003 với chế độ một cửa chủ trương phi tập trung hoá cấp quyết định tạo điều kiện thành lập doanh nghiệp ở các khu vực khác nhau. === Cải cách hành chính công === Việc ban hành Quy định về ký kết hợp đồng công năm 1999 đã giúp công khai việc đấu thầu Nhà nước, đảm bảo tự do cạnh tranh, bảo vệ quyền của những người dự thầu và đơn giản hoá các thủ tục. Nâng cao hiệu quả và chất lượng của đội ngũ công chức bằng chương trình tuyển chọn lại và về hưu sớm. === Tự do hoá thương mại quốc tế === Maroc gia nhập WTO ngày 1 tháng 1 năm 1995, sửa đổi Bộ luật thương mại năm 1996, tiến hành loại bỏ những hạn chế về số lượng và sử dụng thuế quan là phương tiện chính để bảo vệ sản xuất trong nước. Xoá bỏ sự độc quyền về nhập khẩu (năm 1996) những sản phẩm cơ bản trừ lúa mỳ để sản xuất bột mỳ trong nước. Năm 1997, Maroc đã tiến hành cải cách thuế quan, thời gian làm thủ tục thông quan đã giảm từ trên 5 ngày trước năm 1997 xuống còn dưới 1h. Thủ tục hải quan rõ ràng, công khai và dễ nhận thấy. Maroc đã ký một loạt hiệp định tự do mậu dịch với EU, các nước Ả Rập, Mỹ, Thổ Nhĩ Kỳ… Công tác điều hành vĩ mô và hệ thống pháp lý ngày càng hiệu quả và minh bạch. Trong cơ cấu kinh tế, lĩnh vực nông nghiệp của Maroc sử dụng 40% lực lượng lao động, nhưng trình độ kỹ thuật chưa cao, phụ thuộc rất nhiều vào thời tiết. Trong thập kỷ 1995-2005, do thời tiết không thuận, nông nghiệp Maroc đã sụt giảm với tốc độ tăng trưởng chỉ đạt 3,4%/năm. Riêng năm 2005, do hạn hán nên tỷ lệ tăng trưởng nông nghiệp giảm 15,2%. Đến năm 2006, tăng trưởng nông nghiệp đạt 21% do có mưa vào đầu năm. Một số nông sản chính là ngũ cốc (lúa mì, đại mạch và ngô), củ cải đường, cam quýt, nho, rau, cà chua, ôliu và chăn nuôi. Maroc đứng thứ 3 trên thế giới về sản xuất ôliu và đứng thứ 2 về xuất khẩu dầu ô liu. Nước này cũng xếp thứ 2 trên thế giới về xuất khẩu cam quýt và đứng thứ 7 về xuất khẩu rau. Maroc đang cố gắng giảm sự phụ thuộc vào lượng mưa bằng cách xây dựng những con đập và hồ chứa nước. Trong cơ cấu kinh tế, nông nghiệp và đánh bắt thuỷ sản chiếm 13,3% GDP năm 2005. Trong lĩnh vực đánh bắt hải sản, Maroc là một trong những nhà sản xuất cá lớn nhất trên thế giới với 17 cảng đánh bắt cá, sản lượng đạt 593.966 tấn năm 2004 trong đó xuất khẩu đạt 267 336 tấn. Năm 2005, xuất khẩu hải sản của Maroc đạt 333 174 tấn mang lại nguồn thu 937 triệu euro. Maroc nổi tiếng về xuất khẩu cá xác-đin, cá mực, bạch tuộc… Lĩnh vực này hiện sử dụng 400.000 lao động và đảm bảo 16% xuất khẩu cả nước. Hiệp ước mới về đánh bắt cá ký giữa Maroc và Liên minh châu Âu thay cho Hiệp ước hết hạn vào tháng 11 năm 1999 đã có hiệu lực vào tháng 3 năm 2006. Theo đó, Maroc sẽ cho phép tàu có lưới rê của EU vào đánh bắt trên lãnh hải Maroc vùng bờ biển Đại Tây Dương với thời gian 4 năm. Đổi lại EU sẽ phải trả cho Maroc mỗi năm 36 triệu Euro. Mỗi năm sẽ có 14 triệu euro dành cho việc đầu tư hiện đại hoá và tổ chức lại lĩnh vực đánh bắt của Maroc. Công nghiệp của Maroc tăng trưởng với tốc độ trung bình 3,5%/năm giai đoạn 1995-2005, chiếm 31,2% GDP năm 2005. Năm 2005 tỷ lệ tăng tưởng công nghiệp đạt 3,9%. Là một nước nghèo tài nguyên năng lượng, Maroc chỉ có thế mạnh là phốtphát. Maroc đứng thứ 3 thế giới về sản xuất phốtphát và đứng đầu thế giới về xuất khẩu mặt hàng này. Maroc cũng là nước sản xuất kim loại màu quan trọng trong khu vực Bắc Phi. Do vậy, ngay từ khi độc lập, Maroc đã dành những khoản đầu tư lớn để phát triển cơ sở hạ tầng công nghiệp cơ bản. Công nghiệp chế tạo chiếm tỷ trọng khoảng 16,4% trong kinh tế Maroc. Các ngành công nghiệp chính là vật liệu xây dựng, hóa chất, dệt may, giày dép, chế biến thực phẩm, hóa dầu, hàng không. Riêng về dệt may, phần lớn sản xuất được thực hiện theo hợp đồng với các công ty Châu Âu. Kể từ đầu năm 2005, sau khi xoá bỏ Hiệp định da sợi, ngành dệt may của Maroc đã phải đối mặt với sự cạnh tranh khốc liệt của các nước sản xuất dệt may như Trung Quốc, Pakistan, Ba Lan. Lĩnh vực dịch vụ của Maroc tăng trưởng với tốc độ 3,7% thời kỳ 1995-2005 và 5% năm 2005, đóng góp 55,5% vào GDP cả nước, là một trong những nước có khu vực dịch vụ phát triển nhất Bắc Phi. Một số ngành quan trọng là du lịch, giao thông vận tải, viễn thông, ngân hàng, tài chính… Về du lịch, sau một thời gian dài (1990-1997) tăng trưởng chậm, từ năm 1998, du lịch Maroc đã đạt tốc độ tăng trưởng trung bình trên 10%/năm. Năm 2005, tổng doanh thu du lịch của Maroc đã đạt 5 tỷ USD. Năm 2006, Maroc thu hút được 6,2 triệu lượt du khách, mang lại doanh thu khoảng 6,1 tỷ USD. Maroc phấn đấu đón 10 triệu khách năm 2010. Trong số khách du lịch nước ngoài có một nửa là kiều dân Maroc. Maroc cũng có một hệ thống giao thông vận tải thuộc diện phát triển nhất khu vực Bắc Phi. Năm 2005, lĩnh vực giao thông và vận tải đã đạt mức tăng trưởng là 4,9 và 5,3%. Sau khi tự do hoá ngành vận tải hàng không, Hãng hàng không hoàng gia Royal Air Maroc đã quyết định tăng quy mô đội bay và tháng 6 năm 2005 đã tiến hành gọi thầu đối với 4 máy bay đường dài. Hiện nay Maroc có 19 sân bay quốc tế trong đó lớn nhất là sân bay Casablanca. Đây cũng là một trong những cảng hàng không lớn nhất châu Phi. Về đường bộ, từ năm 2000 đến 2006 Maroc đã tăng xây dựng thêm 160 km đường cao tốc. Hiện nay Maroc có 65.000 km đường có chất lượng khá tốt. Nước này cũng có hệ thống đường cao tốc lớn nhất khối Maghreb và đứng thứ hai châu Phi sau Nam Phi. Mạng lưới đường sắt của Maroc cũng nằm trong số những hệ thống đường sắt phát triển nhất châu Phi, nối liền tất cả các thành phố chính của Vương quốc. Năm 2005, số khách du lịch bằng đường đường sắt cũng lên tới 21 triệu người. Về thông tin liên lạc, bước khởi đầu quá trình tự do hoá ngành viễn thông được đánh dấu bằng việc Nhà nước cấp phép lần thứ hai cho công ty điện thoại di động Méditel trong đó 61% vốn do các nhà đầu tư nước ngoài nắm giữ (Telefonica và Portugal Telecom). Nhiều giấy phép đầu tư khác cũng đã được cấp trong thời gian từ năm 2000-2003, trong đó có 7 dự án đầu tư xây dựng và khai thác hệ thống viễn thông công cộng qua vệ tinh (satellites). Các trung tâm gọi điện thoại quốc tế đặt tại Maroc đã thực hiện doanh thu xuất khẩu trên 81,4 triệu USD, đem lại công ăn việc làm cho hơn 4000 người. Đây là hoạt động xuất khẩu dịch vụ góp phần tạo công ăn việc làm chất lượng cao với đòi hỏi tỷ lệ đầu tư và nhân công thấp. Ngày nay, Thành phố Casablanca là trung tâm tài chính và công nghiệp lớn nhất Maroc và khối Maghreb (Tunisia, Algérie, Maroc, Libya và Mauritanie). Nhiều công ty đa quốc gia có trụ sở tại đây. Thị trường chứng khoán Casablanca được xem là lớn thứ 4 ở châu Phi sau Johannesburg (Nam Phi), Cairo (Ai Cập) và Gaborone (Botswana). Ngoại hối do kiều dân Maroc gửi về, tính đến cuối tháng 12 năm 2006, lượng kiều hối do người Maroc ở nước ngoài gửi về nước đã đạt gần 5,5 tỷ USD tăng 17,2% so với cùng kỳ năm trước (4,1 tỷ USD). So với mức trung bình từ 2001 đến 2005, các khoản thu kiều hối đã tăng 31,7% năm 2006. Cùng với du lịch, ngoại hối do kiều dân Maroc gửi về là nguồn thu ngoại tệ thứ hai của nước này. Maroc là nước lớn thứ tư trong số các nước đang phát triển nhận được nhiều kiều hối nhất (sau Ấn Độ, México và Pakistan). Ước tính có khoảng 2,5 triệu người Maroc sống ở nước ngoài, chiếm 8% dân số. Có đến 50% gia đình ở Maroc có người thân sống ở nước ngoài, chủ yếu ở châu Âu và Mỹ. Về đầu tư và cho vay của nước ngoài, theo Bộ Kinh tế Maroc, đầu tư nước ngoài vào Maroc đã đạt 3,2 tỷ USD năm 2006. So với mức trung bình từ năm 2001 đến 2005 tổng số vốn đầu tư năm 2006 đã tăng 30,1%. Năm 2005 tổng số FDI vào Maroc đạt 2,9 tỷ USD đưa nước này đứng vị trí thứ 4 tại châu Phi về thu hút đầu tư sau Nam Phi, Ai Cập và Nigeria. Năm lĩnh vực được đầu tư nhiều nhất là viễn thông (59%) sau khi tập đoàn Vivendi mua 16% công ty viễn thông quốc gia Maroc Telecom, du lịch (11,7%), bất động sản (9,1%), công nghiệp (8,7%) và bảo hiểm (4,4%). Các nhà đầu tư chính vẫn là Pháp, Tây Ban Nha, Đức và Thuỵ Sĩ. Kết quả này phản ánh chính sách hiện nay của Maroc. Nước này đã cam kết tăng tính hấp dẫn đối với các nhà đầu tư và đặt việc thu hút nguồn vốn nước ngoài vào trọng tâm chiến lược phát triển kinh tế, biến các nhà đầu tư nước ngoài thành các đối tác ưu tiên thực sự phục vụ phát triển đất nước. Với những tiềm năng và với vị trí địa lý được thiên nhiên ưu đãi, Maroc có thể trở thành sân sau để các nước đầu tư, sản xuất xuất khẩu bởi Maroc đã ký các Hiệp định tự do mậu dịch với những đối tác thương mại chính, điều này cho phép hàng hoá sản xuất tại Maroc có thể thâm nhập những thị trường lớn như Liên minh châu Âu, Mỹ và các nước Ả Rập. Mặc dù có những kết quả đáng khích lệ như trên nhưng Chính phủ Maroc vẫn còn nhiều việc phải làm để phát triển nền kinh tế một cách bền vững. Hiện tại nước này đang phải đối phó với nhiều thách thức nhất là vấn đề dân số, thất nghiệp, tình trạng mù chữ (vẫn chiếm 20% năm 2005), chăm sóc y tế, nước sạch và điện cho người dân nông thôn. == Dân số == === Ngôn ngữ chính thức và ngôn ngữ thương mại === Tiếng Ả Rập, tiếng Pháp và trong một phạm vi hẹp hơn tiếng Anh và tiếng Tây Ban Nha cũng được sử dụng ở Maroc, nhất là ở các tầng lớp trí thức và thương gia. Hai ngôn ngữ cùng tồn tại trong nhân dân là tiếng Ả Rập địa phương và tiếng berber. Tiếng Ả Rập văn học là ngôn ngữ chính thức của đất nước, được dùng trong tất cả các văn bản pháp lý. === Những người Maroc Do Thái === == Văn hóa == === Ẩm thực === Ẩm thực Maroc là sự kết hợp tinh tế giữa rau, quả, những gia vị hiếm và thơm, các loại cá và thịt rất ngon… Được xem là ngon nhất trong số ẩm thực ở phương Đông và nổi tiếng trên thế giới, các món ăn đồ uống Maroc sẽ làm cho người uống thích thú. Sau đây là một số món chính tiêu biểu trong nền ẩm thực của Maroc. Món thịt xiên: Ở lối vào của mỗi khu chợ, trên một ô đất trống trên đường, có thể nhìn thấy người ta làm món thịt xiên: một bữa ăn nhanh vừa rẻ vừa ngon. Món cútcút: Đó là món ăn trưa truyền thống trong gia đình vào thứ sáu hàng tuần của người Maroc nhưng cũng tìm thấy món này trong các cửa hàng mở cửa tất cả các ngày trong tuần. Trong cuộc hành trình, có thể thưởng thức cả nghìn loại bánh cútcút tuỳ theo các vùng và tuỳ theo tính sáng tạo của người đầu bếp. Bạn thử ăn bằng ngón tay theo kiểu Maroc xem sao. Món Méchoui: là món cừu thui trên que xiên hoặc nướng trên lò. Có cảm giác thịt đang nóng chảy trong miệng. Món Pastilla: Là một loại bột mịn được nhào thành từng lớp nhồi thịt chim bồ câu và hạnh nhân: Đây là món bánh ngọt có tra muối theo kiểu Maroc. Còn có các món khác có cùng nguồn gốc nhưng nhồi cá, thịt gà thậm chí thêm sữa để làm món tráng miệng. Những món ăn của tháng chay Ramadan: Khi mặt trời lặn, người ta kết thúc việc nhịn ăn với việc thưởng thức món harira - một loại xúp làm từ thịt, đậu lăng, đậu Hà Lan, món beghrir, loại bánh xèo nhỏ làm từ tổ ong ăn với bơ nấu chảy và mật ong và bánh shebbakia, loại bánh rán trong dầu và bọc mật ong. Bữa ăn nhẹ này giúp mọi người có thời gian chờ đợi bữa tối thực sự diễn ra muộn hơn vào ban đêm. Món Tajine: Từ này vừa chỉ dụng cụ để đựng (là cái đĩa bằng đất nung được trang trí với chiếc vung hình nón điển hình) vừa chỉ thức ăn bên trong đó (món ragu gồm có thịt, gia cầm, cá và rau nướng chín). Hãy thưởng thức và sẽ hiểu tại sao tajine lại là món ăn dân tộc của người Maroc. Nước chè bạc hà: Có tác dụng giải khát, làm ấm cơ thể, giúp lấy lại sức thường uống vào buổi sáng hoặc sau các bữa ăn vào bất cứ giờ nào. Được thưởng thức chè bạc hà là một thú vui không nên từ chối. Bánh ngọt: Bánh mật ong, sừng linh dương, bánh feqqas có hạnh nhân, nho khô, bánh ghoriba làm từ hạnh nhân, vừng... cũng là các loại bánh rất ngon của Maroc. === Nghệ thuật === == Giáo dục == Sau những năm 1980, hệ thống giáo dục của Maroc đã có nhiều tiến triển. Giáo dục tiểu học và trung học được tổ chức theo mô hình của Pháp. Giáo dục tiền học đường chủ yếu tập trung vào giáo dục tôn giáo và lòng yêu nước. == Thể thao == == Tham khảo ==