filename
stringlengths
4
100
text
stringlengths
0
254k
iphone 3g.txt
iPhone 3G là một dòng điện thoại thông minh được hãng Apple Inc. thiết kế và đưa ra thị trường. Đây là thế hệ thứ hai của iPhone, và được giới thiệu vào ngày 9 tháng 6 năm 2008 tại WWDC 2008 tại Trung tâm Moscone ở San Francisco, Hoa Kỳ. Phiên bản này bên trong tương tự như phiên bản trước của nó, nhưng bao gồm một số tính năng phần cứng mới, chẳng hạn như hỗ trợ GPS, dữ liệu 3G và tri-band UMTS / HSDPA. Thiết bị này cũng được hưởng lợi từ cải tiến phần mềm được giới thiệu với hệ điều hành iPhone 2.0 đã được tung ra cùng một lúc. Cũng như các tính năng khác (bao gồm Push email và chuyển hướng turn-by-turn), hệ điều hành mới này đã giới thiệu nền tảng phân phối mới của App Store của Apple cho các ứng dụng của bên thứ ba == Lịch sử == Ngày 11 tháng 7 năm 2008, Apple đã đưa ra bán iPhone 3G trên hai mươi hai nước với hai phiên bản bộ nhớ 8GB và 16GB. Loại 16GB có hai màu đen hoặc trắng. Sau khi đưa ra bán dòng iPhone 3GS một năm sau đó, iPhone 3G vẫn được bán nhưng đã trở thành điện thoại rẻ tiền của Apple, với mức giảm giá một nửa. iPhone 3G giá 99 đô la Mỹ lúc đó chỉ có màu đen và có bộ nhớ 8 GB, nhưng đã đi kèm với cập nhật phần mềm iPhone OS 3.0. Ngày 07 tháng 6 năm 2010, iPhone 3G cuối cùng đã ngưng bán, và thay thế như điện thoại rẻ tiền của Apple bằng một 8 GB iPhone 3GS được bán với cùng một mức giá là 99 USD. == Phần mềm == 3G đã cài đặt sẵn với các phiên bản mới nhất của hệ điều hành iPhone OS để cung cấp cho người sử dụng phần mềm mới nhất và có khả năng nhất và để chống lại các nỗ lực iOS jailbreak. Thiết bị này tiếp tục nhận được bản cập nhật cho phần mềm của nó trong hơn hai năm, lặp đi lặp lớn được phát hành trên hàng năm. Tuy nhiên, dòng điện thoại được tiếp cận với một tỷ lệ giảm của các tính năng mới với mỗi lần cập nhật do phần cứng của nó đã bị thay thế bởi phiên bản sau. Lúc ra mắt vào tháng 7 năm 2008, iPhone 3G đã cài đặt sẵn với hệ điều hành iPhone 2.0 Hệ điều hành này giới thiệu App Store, Microsoft hỗ trợ Exchange ActiveSync, dịch vụ MobileMe của Apple, và thúc đẩy hỗ trợ email, cùng với các tính năng mới và sửa lỗi. Vào tháng 6 năm 2009, người dùng iPhone 3G nhận được bản cập nhật phần mềm hệ điều hành iPhone 3.0, trong đó giới thiệu dài chờ đợi MMS tính năng sao chép và dán, hỗ trợ cảnh quan cho nhiều ứng dụng, Bluetooth hỗ trợ âm thanh stereo, và cải tiến khác. == Tham khảo ==
cộng hòa dân chủ ả rập xarauy.txt
Cộng hòa Dân chủ Ả Rập Xarauy hay Xarauy (tiếng Ả Rập:'الجمهورية العربية الصحراوية الديمقراطية‎; tiếng Anh: Sahrawi Arab Democratic Republic, thường được viết tắt là SADR) là một quốc gia chưa hoàn toàn được công nhận. Quốc gia này tuyên bố chủ quyền toàn vùng Tây Sahara, vốn đang bị Maroc kiểm soát 80% lãnh thổ, còn chính phủ phải lưu vong. Mặt trận Polisario tuyên bố thành lập nhà nước vào năm 1976 và hiện nhà nước đó được Liên minh châu Phi cũng như 27 nước trên thế giới công nhận. == Lịch sử == === Tiền thuộc địa === Lịch sử vùng Tây Sahara ít được biết cho đến khi có những mối quan hệ buôn bán giữa vùng này với châu Âu vào thế kỉ thứ 4 TCN. Trong thời cổ đại, người Berber đến sinh sống sau đó là người Ả Rập. Các nhà hàng hải Bồ Đào Nha đến Cape Bojador (bờ biển phía Bắc Xarauy hiện nay) năm 1434. Tuy nhiên, chỉ có một vài cuộc tiếp xúc giữa châu Âu với vùng này vào thế kỉ 19. === Tây Ban Nha thiết lập chế độ bảo hộ === Vào năm 1884, Tây Ban Nha được thưởng một vùng đất ven biển là vùng đất Tây Sahara ngày nay tại Hội nghị Berlin, và bắt đầu thành lập các địa điểm thương mại và đưa quân đội vào. Biên giới của khu vực không được xác định rõ ràng cho đến khi có bản hiệp ước giữa Tây Ban Nha và Pháp vào đầu thế kỷ 20. Sahara thuộc Tây Ban Nha khi đó tạo thành từ lãnh thổ Río de Oro và Saguia el-Hamra thuộc Tây Ban Nha vào năm 1924. Nó không phải, và cũng có chính quyền riêng biệt, với khu vực được biết đến với tên Maroc thuộc Tây Ban Nha. Do đó, Tây Ban Nha đã cho thấy họ không thể mở rộng quyền điều hành lên những khu vực sâu trong đất liền cho tới năm 1934. Khi tiến gần đến độc lập vào năm 1956, Maroc đã tuyên bố Sahara thuộc Tây Ban Nha là một phần của lãnh thổ trước thuộc địa của họ, và vào năm 1957, Quân đội Giải phóng của Maroc gần như đã đánh đuổi được người Tây Ban Nha ra khỏi đất nước trong Chiến tranh Ifni. Người Tây Ban Nha chỉ có thể tái lập được quyền thống trị với sự hỗ trợ của Pháp vào năm 1958, và bắt tay vào một chiến thuật cứng rắn để trả thù hướng về vùng nông thôn, dùng vũ lực buộc định cư nhiều người du cư trước đây của Sahara thuộc Tây Ban Nha và tăng cường đô thị hóa, trong khi nhiều người khác bị buộc đi đày đến Maroc. Trong cùng năm đó, Tây Ban Nha trả tỉnh Tarfaya và Tantan cho Maroc. Vào thập niên 1960, Maroc tiếp tục tuyên bố chủ quyền ở Sahara thuộc Tây Ban Nha và thành công trong việc liệt vùng đất này vào danh sách các vùng lãnh thổ cần phải phá bỏ chế độ thuộc địa. Vào năm 1969, Tây Ban Nha trả cho Maroc vùng Ifni, điều này sẽ duy trì sự quản lý của Tây Ban Nha đối với Sahara thuộc Tây Ban Nha. Vào năm 1967, sự thuộc địa hóa của Tây Ban Nha lại bị thách thức lần nữa bởi một phong trào phản kháng ôn hòa, Harakat Tahrir, yêu cầu kết thúc sự chiếm đóng. Sau sự đàn áp bạo lực vào năm 1970 Zemla Intifada, chủ nghĩa quốc gia Xarauy quay trở về nguồn gốc quân sự của nó, với việc thành lập Mặt trận Polisario vào năm 1970. Các du kích của Mặt trận phát triển nhanh chóng, và Tây Ban Nha đã mất đi sự kiểm soát hiệu quả ở vùng nông thôn vào đầu năm 1975. Một nỗ lực phá hoại sức mạnh của Polisario bằng cách tạo ra đối thủ chính trị hiện đại với nó, Partido de Unión Nacional Saharaui (PUNS), đã có ít thành công. Tây Ban Nha tiếp tục kết nạp những thủ lĩnh bộ lạc bằng cách lập nên Djema'a, một cơ quan chính trị dựa rất thấp lên sự lãnh đạo của bộ lạc Sahrawi. === Yêu cầu độc lập === Tuy nhiên, ngay trước cái chết của nhà độc tài Tây Ban Nha Francisco Franco vào mùa đông năm 1975, Tây Ban Nha phải đương đầu với một chiến dịch đòi lãnh thổ mạnh mẽ của Maroc, và sự mở rộng ít hơn của Mauritanie, nổi lên tột cùng trong Cuộc Diễu hành Xanh. Tây Ban Nha khi đó đã rút quân đội và người định cư của mình ra khỏi lãnh thổ, sau khi đàm phán vào năm 1975, một thỏa thuận tay ba với Maroc và Mauritanie, từ đó cả hai nước sẽ cùng điều hành khu vực này. Mauritanie sau đó rút lại lời tuyên bố sau khi đánh nhau thất bại với Polisario. Maroc liên hệ đến cuộc chiến với Mặt trận Polisario do Algérie chống lưng, mặc dù một lệnh ngừng bắn đã được đưa ra vào năm 1991, và lãnh thổ vẫn nằm trong sự tranh chấp. === Cộng hòa Dân chủ Ả Rập Xarauy ngày nay === Trước việc rút quân của Tây Ban Nha, Maroc và Mauritanie tiến hành chia quyền kiểm soát vùng này. Maroc giữ 2/3 lãnh thổ phía Bắc, Mauritanie kiểm soát 1/3 lãnh thổ phía Nam. Phong trào đòi độc lập của Mặt trận Polisario được Algérie ủng hộ, tiến hành cuộc chiến tranh du kích chống lại hai nước xâm chiếm. Mặt trận Polisario tuyên bố thành lập chính phủ lưu vong có trụ sở tại Algérie và đặt tên vùng này là Cộng hòa Dân chủ Ả Rập Xarauy. Năm 1979, Mauritanie rút khỏi vùng này, Maroc tiến chiếm và giành quyền kiểm soát toàn bộ lãnh thổ. Mặt trận Polisario tiếp tục cuộc chiến chống lại Maroc. Cuộc chiến kéo dài gây ra làn sóng tị nạn của hàng ngàn người sang Algérie, và Maroc tiến hành xây dựng một bức tường phòng thủ vùng này. Cuộc chiến giữa Mặt trận Polisario với Maroc đi đến bế tắc và một thóa thuận ngừng bắn diễn ra năm 1991 để tiến hành cuộc trưng cầu ý dân và vấn đề độc lập cho vùng này. Trong một thập kỉ qua, Liên hiệp quốc thất bại trong cuộc tổ chức cuộc trưng cầu ý dân; những tranh cãi về tư cách cử tri là trở ngại chính và Maroc phản đối cuộc trưng cầu ý dân. Tháng 8 năm 2001, James A. Baker, đặc phái viên của Liên Hiệp Quốc ở Xarauy đề nghị thay vì tổ chức cuộc trưng cầu ý dân về vấn đề độc lập, Xarauy được xem như là vùng tự trị của Maroc. Chính quyền Xarauy phản đối và cho rằng đề nghị này trái ngược với lời hứa trước đây của Liên Hiệp Quốc là tổ chức một cuộc trưng cầu ý dân về quyền tự quyết. Sau khi tuyên bố thành lập, Cộng hòa Dân chủ Ả Rập Xarauy được trên 70 nước (trong đó có Việt Nam năm 1979), chủ yếu là các nước châu Phi và Mỹ Latinh công nhận (chưa có nước lớn nào công nhận Cộng hòa Dân chủ Ả Rập Xarauy). Nhưng những năm gần đây đã có trên 20 nước rút sự công nhận Cộng hòa Dân chủ Ả Rập Xarauy trong đó đáng chú ý là Ấn Độ vì Cộng hòa Dân chủ Ả Rập Xarauy thực sự yếu, nội bộ bị các lực lượng thân Maroc chia rẽ, phân hoá. Gần đây nhiều lãnh đạo cao cấp của Cộng hòa Dân chủ Ả Rập Xarauy đã chạy sang Maroc, ngoài ra Cộng hòa Dân chủ Ả Rập Xarauy lại thiếu sự hỗ trợ mạnh mẽ và hiệu quả của quốc tế, kể cả Liên Hiệp Quốc. Còn Algérie, nước đỡ đầu của Cộng hòa Dân chủ Ả Rập Xarauy, do tình hình trong nước khó khăn, lại chịu nhiều áp lực trong việc ủng hộ Cộng hòa Dân chủ Ả Rập Xarauy nên buộc phải điều chỉnh chính sách, không ủng hộ và giúp Cộng hòa Dân chủ Ả Rập Xarauy mạnh mẽ như trước. Liên Hiệp Quốc xem Sahara thuộc Tây Ban Nha cũ là một lãnh thổ phi thực dân, với Tây Ban Nha là quyền lực điều hành hình thức. Những nỗ lực hòa bình của Liên Hiệp Quốc đã nhắm tới tổ chức một cuộc trưng cầu ý dân về sự dộc lập trong dân cư Sahrawi, nhưng điều này vẫn chưa diễn ra. Liên minh châu Phi và trong lịch sử đã có ít nhất 41 chính phủ nhìn nhận lãnh thổ có chủ quyền, mặc dù bị chiếm đóng, là quốc gia dưới tên Cộng hòa Dân chủ Ả Rập Xarauy (SADR), với một chính phủ lưu vong do Mặt trận Polisario hỗ trợ. == Về giải pháp cho vấn đề Xarauy == Năm 1991, Liên Hiệp Quốc đưa ra Nghị quyết số 690, vạch kế hoạch tổ chức trưng cầu dân ý để nhân dân Tây Xarauy tự quyết định: độc lập hay sáp nhập vào Maroc. Nhưng hơn 10 năm nay, giải pháp này không thực hiện được do Maroc và Mặt trận Polisario bất đồng về thành phần cử tri và thể thức trưng cầu dân ý. Tháng 7 năm 2002, Tổng Thư ký Liên Hiệp Quốc đưa ra một số giải pháp: Giải pháp Con đường thứ ba, theo đó Xarauy sẽ được hưởng quyền tự trị, nhưng vẫn nằm trong Maroc. Giải pháp chia lãnh thổ Xarauy giữa Maroc và Polisario. Trường hợp những giải pháp trên không được chấp nhận, Liên Hiệp Quốc cảnh báo sẽ rút hoàn toàn sự tham gia của mình khỏi giải pháp Xarauy Ngày 31 tháng 7 năm 2003, Hội đồng bảo an Liên Hiệp Quốc đã thông qua Nghị quyết 1495 kêu gọi Maroc và Polisario thực hiện kế hoạch hoà bình cho Xarauy do James Baker, Đặc phái viên của Tổng Thư ký Liên Hiệp Quốc về Xarauy soạn thảo và chỉnh sửa, thực chất dung hoà giải pháp Con đường thứ ba (Maroc ủng hộ) và việc tổ chức trưng cầu dân ý (Polisario ủng hộ) với nội dung chính là thành lập một chính quyền tạm thời quản lý vùng này với một số quyền hạn chế (nắm hành chính địa phương, thuế, an ninh nội bộ) còn các quyền chủ quyền (ngoại giao, an ninh quốc gia, quốc phòng, nội vụ) do Maroc nắm với mục tiêu xây dựng quy chế vĩnh viễn cho Cộng hòa Dân chủ Ả Rập Xarauy bằng trưng cầu dân ý sau 5 năm. Kế hoạch này được Mặt trận Polisario, Algérie, Anh, Tây Ban Nha ủng hộ, nhưng bị Maroc, Pháp phản đối. Hoa Kỳ giữ thái độ trung lập, thực tế ủng hộ Maroc. Cộng hòa Dân chủ Ả Rập Xarauy (SADR) hiện đang gặp nhiều khó khăn: Hiện nay nước này chỉ kiểm soát được 35% lãnh thổ, còn Maroc kiểm soát 65%. Tháng 1 năm 2003, Campuchia tuyên bố không công nhận SADR. Ngày 26 tháng 10 năm 2004, Serbia và Montenegro rút sự công nhận SADR (Nam Tư cũ đã chính thức công nhận nước này năm 1984). Ngày 5 tháng 4 năm 2005, Tổng thống Madagascar tuyên bố ngừng việc công nhận SADR Ngày 17 tháng 3 năm 2006, Bộ trưởng Ngoại giao Tchad tuyên bố: Chính phủ Tchad đã quyết định rút công nhận SADR Trong khi đó ngày 15 tháng 9 năm 2004]], Nam Phi lại công nhận và đặt quan hệ ngoại giao với SADR (có thể do trụ sở Nghị viện Liên minh châu Phi nằm tại Nam Phi mà SADR vẫn là thành viên của AU). Kenya và SADR (ngày 25 tháng 6 năm 2005), Zambia và SADR (ngày 10 tháng 7 năm 2005) ra thông cáo chung thiết lập quan hệ ngoại giao cấp đại sứ. Ngày 19 tháng 10 năm 2006, Kenya lại ra thông cáo rút sự công nhận SADR Tháng 6 năm 2004, James Baker, đặc phái viên của Tổng Thư ký Liên Hiệp Quốc về Tây Sahara từ chức, ông Alvaro de Soto thay thế, tuy nhiên vào tháng 5 năm 2005, Alvaro được cử chức Đặc phái viên Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc tại Trung Đông và sau đó vị trí Đặc phái viên Tổng Thư ký Liên Hiệp Quốc về Tây Sahara bị bỏ lửng cho đến cuối tháng 7 năm 2005 thì Tổng Thư ký Liên Hiệp Quốc cử Francesco Bastagli làm đại biện. Ngày 1 tháng 10 năm 2005, ông Bastagli, sau khi gặp Ngoại trưởng Algérie, tuyên bố với giới báo chí: Kế hoạch Baker đã được Hội đồng bảo an Liên Hiệp Quốc nhất trí thông qua tháng 7 năm 2003 vẫn là tài liệu cơ bản để giải quyết vấn đề Tây Sahara, đồng thời khẳng định: Cuộc xung đột ở Tây Sahara là vấn đề phi thực dân hoá và nó thuộc về Uỷ ban phi thực dân hoá của Liên Hiệp Quốc (thực chất Nghị quyết ủng hộ kế hoạch Baker). Tháng 10 năm 2005, đặc phái viên mới của Tổng Thư ký Liên Hiệp Quốc là ông Peter Van Walsum trong chuyến thăm và làm việc tại Maroc, Algérie và Mauritanie đã nêu rõ: Giải pháp cho vấn đề này phải nằm trong chương trình nghị sự của Liên Hiệp Quốc, nó phụ thuộc vào ý chí của Tổng Thư ký Liên Hiệp Quốc cũng như sự quan tâm của các nhà lãnh đạo các nước trong việc đóng góp thiện chí tháo gỡ vấn đề này. Ngày 28 tháng 4 năm 2006, Hội đồng bảo an Liên Hiệp Quốc thông qua Nghị quyết 1675 về Tây Sahara khẳng định lại lập trường về quyền tự quyết của nhân dân Xarauy được bày tỏ ý nguyện thông qua tổng tuyển cử có sự giám sát của lực lượng bảo vệ hoà bình Liên hiệp quốc, đề nghị các bên (Maroc và Mặt trận Polisario) và các Nhà nước trong khu vực tiếp tục hợp tác chặt chẽ với LHQ để chấm dứt tình trạng bế tắc hiện nay và hướng tới một giải pháp chính trị bền vững, công bằng, được các bên đồng thuận, kéo dài thời gian hoạt động của Phái đoàn Liên Hiệp Quốc về trưng cầu dân ý tại Tây Sahara đến ngày 31 tháng 10 năm 2006. == Chính trị == Tư cách pháp lý của lãnh thổ Tây Sahara và câu hỏi về chủ quyền của nó vẫn chưa được giải quyết, Xarauy hiện vẫn là lãnh thổ đang tranh chấp giữa Maroc và Mặt trận Polisario. Theo luật pháp quốc tế nó được coi là lãnh thổ dưới quyền của Liên Hợp Quốc. Các bộ phận của Xarauy dưới quyền kiểm soát của Maroc được chia thành một số tỉnh được cai trị và được xem như các bộ phận tách rời của vương quốc Maroc Chính phủ lưu vong SADR là một hình thức của hệ thống nghị viện và cộng hòa tổng thống do Mặt trận Polisario lãnh đạo, nhưng theo hiến pháp, điều này sẽ được thay đổi thành một hệ thống chính trị đa đảng khi nào Mặt trận Polisario kiểm soát được toàn bộ lãnh thổ Tây Sahara. Hiện nay, các trại tị nạn Tindouf ở Algérie, dưới quyền điều khiển của Mặt trận Polisario. Mặt trận Polisario cũng kiểm soát một phần của Tây Sahara ở phía đông của Bức tường Maroc chia cắt lãnh thổ Tây Sahara, và nó được gọi là các vùng lãnh thổ giải phóng. Khu vực này có dân số rất nhỏ, ước tính khoảng 30.000 người du mục. == Địa lý == Tây Sahara là vùng lãnh thổ phía Tây của Bắc Phi, Bắc giáp Maroc, Đông giáp Algérie, Đông Nam giáp Mauritanie, Tây giáp Đại Tây Dương. Lãnh thổ phần lớn là hoang mạc bao phủ bởi đá, sỏi và cát. Các vùng cao nguyên (460 m) ở phía Đông Bắc xen giữa các Thung lũng khô. Khí hậu khô và nóng, mưa hầu như không có. Các luồng không khí lạnh ở ngoài khơi và tạo nên các đám sương mù. Nguồn nước khan hiếm và thiếu đất trồng trọt. == Kinh tế == Xarauy là vùng đất nghèo tài nguyên và thiếu các nguồn nước. Kinh tế phụ thuộc vào chăn nuôi du mục (dê, cừu, lạc đà), khai thác phosphat và quặng sắt, đánh bắt cá biển. Phần lớn thực phẩm phải nhập khẩu. Tất cả các hoạt động thương mại và kinh tế đều do chính phủ Maroc kiểm soát. Du lịch được khuyến khích phát triển. Phosphat và cá khô là hai mặt hàng xuất khẩu chính. == Xem thêm == Xung đột Tây Sahara == Chú thích == 25°20′0″B 13°00′0″T
titanic (phim 1997).txt
Titanic là một bộ phim thảm hoạ lãng mạn có yếu tố lịch sử của Mỹ phát hành năm 1997, do James Cameron làm đạo diễn, viết kịch bản, đồng sản xuất, đồng biên tập và hỗ trợ tài chính một phần. Phim lấy ý tưởng dựa trên vụ đắm tàu RMS Titanic nổi tiếng trong lịch sử vào năm 1912, với sự tham gia của các diễn viên chính Leonardo DiCaprio và Kate Winslet trong vai hai con người đến từ hai tầng lớp khác nhau trong xã hội, họ đem lòng yêu nhau trên chuyến ra khơi đầu tiên của con tàu xấu số. Cảm hứng của Cameron cho bộ phim đến từ sự say mê của ông với những xác tàu đắm (chính ông đã khẳng định như vậy); ông muốn truyền tải một thông điệp tình cảm từ thảm hoạ và thấy rằng một câu chuyện tình lãng mạn kết thúc bằng sự ra đi của một trong hai người sẽ giúp ông làm được điều này. Quá trình sản xuất phim bắt đầu từ năm 1995, khi Cameron bắt đầu quay cảnh xác chiếc Titanic đắm nằm dưới đáy đại dương. Các phân cảnh hiện tại được quay trên tàu Akademik Mstislav Keldysh, và đây cũng là nơi Cameron sử dụng làm chỗ ở và căn cứ cho đoàn làm phim khi quay cảnh xác tàu. Một con tàu Titanic mới cũng đã được dựng lại ở Playas de Rosarito thuộc Baja California; các mô hình thu nhỏ và công nghệ mô phỏng hình ảnh trên máy tính được sử dụng để tái tạo cảnh tàu chìm. Kinh phí thực hiện bộ phim do Paramount Pictures và 20th Century Fox cung cấp, và vào thời điểm đó, đây là bộ phim có kinh phí cao nhất trong lịch sử, với tổng mức đầu tư ước tính khoảng 200 triệu đô la Mỹ. Phát hành vào ngày 19 tháng 12 năm 1997, bộ phim đã giành được thành công vang dội cả về doanh thu và chuyên môn. Trong số mười bốn giải Oscar được đề cử, phim giành chiến thắng ở mười một hạng mục, trong đó có giải Phim hay nhất và Đạo diễn xuất sắc nhất, bằng với kỷ lục của Ben Hur (1959) về phim giành được nhiều giải Oscar nhất. Với doanh thu trên 1,84 tỷ đô la Mỹ trong lần phát hành đầu tiên, phim cũng trở thành bộ phim đầu tiên vượt qua mốc doanh thu 1 tỷ đô la Mỹ. Titanic giữ ngôi vị bộ phim có doanh thu cao nhất mọi thời đại, cho tới khi một bộ phim khác cũng của Cameron ra mắt năm 2009, Avatar vượt qua lợi nhuận của nó vào năm 2010. Một phiên bản 3D của bộ phim, phát hành ngày 4 tháng 4 năm 2012 (thường gọi là Titanic 3D) kỷ niệm một thế kỷ kể từ vụ đắm tàu, mang về thêm 343,6 triệu đô la Mỹ toàn cầu, đưa doanh thu trên toàn thế giới của Titanic lên mốc 2,18 tỷ đô la Mỹ. Đây là bộ phim thứ hai vượt mốc 2 tỷ đô la Mỹ trên toàn thế giới sau Avatar. == Tóm tắt cốt truyện == Năm 1996, nhà săn tìm kho báu Brock Lovett và đội của ông lên chiếc tàu nghiên cứu Keldysh đến vị trí xác tàu RMS Titanic huyền thoại nhằm tìm kiếm một chiếc vòng cổ có đính một viên kim cương rất hiếm, Trái tim của Đại dương. Họ vớt được một chiếc két, bên trong có bức tranh một người phụ nữ trẻ khỏa thân trên mình chỉ đeo chiếc vòng cổ đó thôi. Bức tranh đề ngày 14 tháng 4 năm 1912, ngày chiếc tàu Titanic va phải tảng băng trôi. Bà lão Rose Dawson Calvert, sau khi biết tin này qua truyền hình, nhận mình chính là người phụ nữ trong bức tranh, tới thăm Lovett và kể lại cho anh nghe những trải nghiệm của bà trên con tàu Titanic. Năm 1912 ở cảng Southampton, cô gái 17 tuổi Rose DeWitt Bukater, cùng với vị hôn phu của mình là Cal Hockley và mẹ mình, Ruth lên tàu Titanic ở khoang hạng nhất. Ruth nhấn mạnh rằng hôn lễ của Rose sẽ giải quyết được các vấn đề tài chính hiện tại của gia đình DeWitt Bukaters. Phẫn uất với sự sắp đặt này, Rose định tự tử bằng cách nhảy xuống biển từ phía đuôi tàu; nhưng được Jack Dawson, một hoạ sĩ nghèo không một xu trong túi, thuyết phục cô đừng làm vậy. Bị phát hiện đang ở cùng với Jack, Rose nói với Cal rằng cô đang vươn người ra ngoài thành tàu để xem chân vịt và được Jack cứu khỏi ngã xuống biển. Cal vẫn thờ ơ, nhưng khi được Rose nhắc cần phải có chút gì để cảm ơn, anh đã cho Jack một số tiền nhỏ. Khi Rose hỏi chẳng lẽ việc cứu mạng cô lại có ý nghĩa ít ỏi với anh như vậy, Cal đã mời Jack tới ăn tối với họ ở khoang hạng nhất vào đêm hôm sau. Jack và Rose dần gây dựng một mối quan hệ bạn bè thân thiết, dù cho Cal và Ruth khá lo ngại về anh. Trong bữa tối đêm hôm sau, Rose bí mật đi theo Jack tới một bữa tiệc ở khoang hạng ba. Biết rằng Cal và Ruth không bằng lòng, Rose chối từ những nỗ lực của Jack đến với cô, nhưng sau đó nhận ra rằng cô yêu anh hơn Cal. Sau buổi hẹn ở phía đuôi tàu, nơi họ nắm tay nhau "bay" trong ánh hoàng hôn trên biển, Rose đưa Jack về phòng riêng của mình và cho anh xem món quà đính hôn của Cal: Trái tim của Đại dương. Theo yêu cầu của cô, Jack vẽ bức tranh Rose khoả thân bằng chì đen, trên người chỉ đeo chiếc vòng cổ đó. Họ chạy trốn vệ sĩ của Cal đang đuổi theo và quan hệ tình dục trên chiếc ô tô nằm dưới khoang để hàng của con tàu. Hai người sau đó đã lên boong trước của con tàu, chứng kiến cảnh va chạm của nó với khối băng trôi và nghe được lời những người chỉ huy và nhà thiết kế con tàu bàn bạc về mức độ nghiêm trọng của nó. Nhưng chuyến tàu định mệnh đã thay đổi toàn bộ số phận hành khách trên con tàu cũng như những dự tính, ước vọng của đôi tình nhân Jack và Rose. Một thảm họa đã xảy ra khiến mọi chuyện lệch khỏi quỹ đạo không còn đi theo kế hoạch: Titanic va phải một tảng băng trôi. Người ta nháo nhào tranh nhau xuống thuyền cứu hộ, thậm chí dám cướp nhau một cái áo phao. Tồi tệ hơn, giới quý tộc đã khóa cửa không cho những người thuộc tầng lớp bình dân vào khoang tàu dưới chỉ vì sợ họ tranh mất cơ hội sống của họ. Lúc này Jack đang bị kẹt bên một đường ống dẫn nước vì vướng vào một vụ vu oan, người ta nghi ngờ anh ăn cắp chuỗi ngọc trang sức quý giá của Hockley tặng Rose. Nước đang tràn vào tàu, lạnh buốt xương. May sao vì tình yêu, Rose đã không xuống thuyền cùng mẹ mà chạy đi tìm Jack, kịp thời cứu anh thoát chết trước khi nước ngập vào. Hai người chạy trốn, thoát hiểm cùng nhau cho đến khi con tàu bị dựng đứng lên rồi gãy ra làm đôi. Chỉ có một số nhỏ thoát chết còn hàng ngàn hành khách, đa phần là người thuộc tầng lớp bình dân, đã thiệt mạng. Họ chết vì cái lạnh của nước biển, họ chết vì cái lạnh lùng tàn nhẫn của một số người ham sống sợ chết. Trong giờ phút lênh đênh giữa đại dương, Jack đã nhường người yêu một tấm phản khá to. Rose may mắn được nằm trên một tấm phản gỗ trôi dập dềnh trên mặt biển, còn Jack thì đã vĩnh viễn rời xa cô trong làn nước giá lạnh. Xung quanh cô toàn xác người chết cóng, bản thân cô cũng đã quá mệt mỏi nhưng vì lời hứa Jack, cô đã quyết tâm sống. Cô lăn mình xuống nước băng giá, vùng vẫy tới gần xác một thủy thủ để lấy cái còi. Cô thổi những hơi lạnh buốt vào chiếc còi lấy được với hy vọng sẽ gây được sự chú ý. Và rồi người chỉ huy của chiếc thuyền cứu hộ cuối cùng quay nhìn thấy cô và Rose sống sót. Sau khi đến Hoa Kỳ, cô đã trốn Cal và đổi tên thành Rose Dawson Calvert. Sau này cô được biết Cal đã cưới một cô gái khác và thừa hưởng một gia tài lớn nhưng mất hết tất cả trong cuộc khủng hoảng kinh tế lớn của Hoa Kỳ năm 1929 và Cal đã tự sát. Ký ức buồn vui về Jack đã đi theo Rose suốt cả cuộc đời, để bây giờ bà Rose đang sắp bước sang tuổi 101 ngồi kể chuyện cho những người thăm dò tàu Titanic về một người mà bà thực sự yêu, một người đã đem đến cho bà cuộc sống chân thực. Phim kết thúc với hình ảnh bà Rose đang ngủ và mơ về con tàu Titanic dưới đáy đại dương, nơi mà bà đến với Jack, và sự xuất hiện của họ ở sảnh khoang hạng nhất được sự tán thành nhiệt liệt từ rất nhiều người trên chuyến tàu đó. == Các nhân vật == === Nhân vật hư cấu === Leonardo DiCaprio trong vai Jack Dawson: Cameron nói rằng ông cần một dàn diễn viên (khi quay phim) có thể cảm thấy dường như chính họ đang thực sự đứng trên con tàu Titanic, làm sống lại được những hình ảnh sinh động nhất; và đồng thời "có thể nắm lấy nguồn sinh lực ấy và truyền nó cho Jack, [...] một nghệ sĩ với trái tim vút bay". Jack được tái hiện là một chàng trai nghèo, vô gia cư đến từ Chippewa Falls, Wisconsin, một người đã từng đặt chân tới nhiều nơi trên thế giới, chủ yếu là Paris. Anh thắng hai vé lên tàu RMS Titanic trong một ván bài poker và ở khoang hạng ba cùng với một người bạn, Fabrizio. Anh bị Rose cuốn hút ngay từ cái nhìn đầu tiên và gặp cô khi cô tìm cách nhảy xuống biển từ phía đuôi tàu. Nhờ thuyết phục được cô quay trở lại mà anh có cơ hội được làm quen với các vị khách hạng nhất trong một đêm. Khi tuyển diễn viên cho vai này, nhiều diễn viên nổi tiếng, trong đó có Matthew McConaughey, Chris O'Donnell, Billy Crudup và Stephen Dorff, đã được tính đến, nhưng Cameron cảm thấy rằng một vài diễn viên đã quá lớn tuổi cho vai diễn chàng trai 20 tuổi. "Tom Cruise tỏ ra thích thú với [vai diễn] nhân vật này, tuy vậy mức giá mời siêu sao này chưa bao giờ được bàn đến một cách nghiêm túc." Cameron cân nhắc Jared Leto cho vai diễn nhưng anh từ chối tới thử vai. DiCaprio, lúc bấy giờ mới 22 tuổi, lọt vào tầm ngắm của Cameron qua đạo diễn tuyển vai Mali Finn. Ban đầu, anh không muốn tham gia vai diễn này, và từ chối đọc kịch bản phân cảnh lãng mạn đầu tiên của mình trên trường quay (xem bên dưới). Cameron nói, "Anh ta đọc nó một lần, rồi bắt đầu làm loạn lên một cách ngu ngốc, và tôi không bao giờ có thể làm anh ta tập trung vào nó được nữa. Nhưng rồi trong nửa giây, một tia sáng loé lên từ thiên đường và đã làm bừng sáng khu rừng tối." Cameron hết sức tin tưởng vào khả năng diễn xuất của DiCaprio, và nói với anh, "Nhìn này, tôi không định biến anh chàng này thành một con người bí ẩn hay kích động. Tôi cũng không định cho anh ta [cơ bắp] co giật hay [cơ thể] ủ rũ, ì ạch hay bất cứ thứ gì anh muốn đâu." Cameron còn phần nào mường tượng nhân vật này theo hình mẫu của James Stewart. Kate Winslet trong vai Rose DeWitt Bukater: Cameron nói rằng Winslet "có thứ mà bạn đang tìm kiếm" và rằng có "một nét đặc biệt trên gương mặt, trong đôi mắt," mà ông "chỉ biết rằng mọi người sẽ đều sẵn sàng cùng cô đi đến hết chặng đường". Rose là một cô gái 17 tuổi, xuất thân từ Philadelphia, bị buộc đính hôn với một chàng trai 30 tuổi tên là Cal Hockley để từ đó cô và mẹ mình, Ruth, có thể giữ được địa vị cao trong xã hội sau khi người cha qua đời, để lại một khoản nợ lớn cho gia đình. Rose lên tàu RMS Titanic cùng Cal và Ruth, ở khoang hạng nhất, và tại đó cô đã gặp Jack. Winslet nói về nhân vật của mình, "Cô ấy có rất nhiều thứ để hiến dâng, và cô ấy có một trái tim rộng mở. Và cô ấy muốn được phiêu lưu và khám phá thế giới, nhưng cô ấy [cảm thấy] rằng điều đó khó có thể xảy ra." Gwyneth Paltrow, Claire Danes, và Gabrielle Anwar đã được cân nhắc cho vai diễn này. Khi họ từ chối, cô gái 22 tuổi Winslet đã phải trải qua một cuộc cạnh tranh quyết liệt để giành được vai diễn này. Cô gửi cho Cameron những bức thư ngắn từ nước Anh hàng ngày, và điều đó đã khiến Cameron quyết định mời cô tới Hollywood thử vai. Cũng như với DiCaprio, đạo diễn tuyển vai Mali Finn ban đầu chính là người đã đưa cô vào tầm ngắm của Cameron. Khi tìm kiếm một nàng Rose cho phim, Cameron miêu tả nhân vật này là "một hình mẫu của Audrey Hepburn" và ban đầu cũng không chắc chắn về việc chọn Winslet ngay cả sau khi bản diễn thử của cô đã gây ấn tượng với ông. Sau khi diễn thử với DiCaprio, Winslet đã vô cùng ấn tượng với anh, tới mức cô nói nhỏ với Cameron, "Anh ấy quá tuyệt vời. Kể cả nếu ông không chọn tôi, thì hãy chọn anh ấy." Winslet gửi cho Cameron một bông hoa hồng với một tấm thiệp ký tên "Từ nàng Rose của ông" và thuyết phục ông qua điện thoại. "Ông không hiểu đâu!" một hôm cô nài nỉ với Cameron khi gặp được đạo diễn trên chiếc xe Humvee của ông qua điện thoại di động. "Tôi chính là Rose! Tôi không hiểu vì sao ông vẫn còn cân nhắc bất kỳ một ai khác!" Sự kiên nhẫn, cùng với tài năng của cô, cuối cùng cũng thuyết phục được Cameron chọn cô cho vai diễn này. Billy Zane trong vai Caledon Nathan "Cal" Hockley: Cal là vị hôn phu 30 tuổi của Rose. Anh là một người đàn ông kiêu căng và tự phụ, và là người thừa kế một công ty thép ở Pittsburgh. Trong suốt chiều dài của phim, anh ngày càng trở nên ghen tuông và có những hành động độc ác để ngăn trở mối tình của Rose với Jack. Sau này anh đã tự tử vì khuynh gia bại sản sau Cuộc khủng hoảng phố Wall năm 1929. Vai diễn này ban đầu được dành cho Matthew McConaughey. Frances Fisher trong vai Ruth DeWitt Bukater: người mẹ goá của Rose, người sắp đặt lễ đính hôn giữa con gái với Cal nhằm giữ được địa vị xã hội cao của gia đình. Bà yêu con gái và tin rằng địa vị xã hội còn quan trọng hơn cả một cuộc hôn nhân có tình yêu. Bà tỏ ra khinh miệt Jack, kể cả khi anh đã cứu sống con gái bà. Gloria Stuart (4/7/1910 - 26/9/2010) trong vai Rose Dawson Calvert: Rose là người kể chuyện chính của bộ phim trong các phân cảnh hiện đại. Cameron từng nói, "Để giúp người xem có thể chứng kiến cả hiện tại và quá khứ, tôi quyết định tạo ra một nhân vật hư cấu sống sót sau thảm kịch, nay đã [gần] 101 tuổi, và bà đóng vai trò cầu nối giữa chúng ta với lịch sử." Bà Rose 100 tuổi này đã cho Lovett biết một số thông tin liên quan đến viên kim cương "Trái tim của Đại dương" sau khi anh tìm thấy một bức tranh khoả thân của bà trong xác con tàu đắm. Bà kể lại câu chuyện về những ngày bà ở trên tàu, và là người đầu tiên nhắc tới Jack kể từ sau thảm kịch. Ở tuổi 87, nữ diễn viên Stuart phải qua hoá trang để trông già hơn cho phù hợp với vai diễn. Nói về việc tuyển Stuart, Cameron nói, "Đạo diễn tuyển vai của tôi đã tìm ra bà ấy. Cô được cử đi làm nhiệm vụ tìm những nữ diễn viên đã nghỉ hưu từ thời kỳ Hoàng kim của Hollywood thập niên 30 và 40." Cameron cũng nói rằng ban đầu ông không biết Stuart là ai, và định cân nhắc Fay Wray cho vai diễn. "Nhưng [Stuart] đã quá nhập vai, và rất minh mẫn, ngoài ra bà còn có một tinh thần tuyệt vời. Và tôi còn thấy được sự liên kết giữa tinh thần của bà và của [Winslet]," Cameron cho biết. "Tôi thấy sự hân hoan trong tâm hồn cả hai người, và tôi nghĩ rằng các khán giả cũng sẽ có thể nhận ra rằng họ là một." Winslet và Stuart đều cho rằng nhân vật của họ đã qua đời ở cuối bộ phim, trong khi Cameron nói trong bài bình luận trên DVD phim rằng ông muốn để khán giả tự hiểu về kết thúc của câu chuyện. Stuart qua đời ngày 26 tháng 9 năm 2010, ở tuổi 100, gần bằng tuổi bà Rose già trong phim. Bill Paxton trong vai Brock Lovett: Một nhà săn tìm kho báu đi tìm kiếm "Trái tim của Đại dương" trong xác tàu Titanic ở hiện tại. Thời gian và quỹ tiền tài trợ cho chuyến thám hiểm của anh sắp kết thúc. Anh sau đó đã thú nhận trong đoạn kết của bộ phim rằng, mặc dù nghĩ về Titanic trong suốt ba năm trời, anh vẫn chưa bao giờ thực sự hiểu được nó cho tới khi nghe câu chuyện của Rose. Suzy Amis trong vai Lizzy Calvert: cháu gái của Rose, người cùng đi với bà khi bà tới chiếc tàu của Lovett. Danny Nucci trong vai Fabrizio De Rossi: Người bạn Ý thân nhất của Jack, người lên tàu RMS Titanic với anh sau khi Jack thắng hai chiếc vé tàu trong ván bài may rủi. Fabrizio không lên được thuyền cứu sinh khi Titanic chìm và chết khi một trong số những ống khói của tàu gãy và đổ sập xuống nước. David Warner trong vai Spicer Lovejoy: Một cựu cảnh sát của tổ chức gián điệp quốc gia Pinkerton, Lovejoy là người hầu và là người bảo vệ gốc Anh của Cal, người để mắt đến Rose và nghi ngờ về những chuyện xảy ra sau vụ Jack cứu cô. Hắn chết khi tàu Titanic gãy làm đôi, khiến hắn ngã vào giữa hai mảnh vỡ của tàu. Jason Barry trong vai Thomas "Tommy" Ryan: Một hành khách hạng ba người Ireland, kết bạn với Jack và Fabrizio. Tommy chết khi anh vô tình bị đẩy về phía trước và bị Sĩ quan thứ nhất Murdoch bắn trong lúc hoảng loạn. === Các nhân vật lịch sử === Mặc dù không phải—và cũng không có ý định—hoàn toàn tái hiện một cách chính xác hoàn toàn các sự kiện đã xảy ra, bộ phim có đưa lên màn ảnh một số nhân vật có thật trong lịch sử như sau: Kathy Bates trong vai Margaret "Molly" Brown: Brown bị một số nữ hành khách hạng nhất khác, kể cả Ruth, coi thường vì là một con người "thô tục" và là tầng lớp "tiền mới" do bất ngờ trở thành chủ sở hữu của khối tài sản khổng lồ. Bà tỏ ra khá thân thiện với Jack và cho anh mượn một chiếc áo vét mặc trong dạ tiệc (vốn được bà mua cho con trai) khi anh được mời ăn tối trên phòng ăn lớn ở khoang hạng nhất. Mặc dù Brown là một nhân vật có thật, Cameron quyết định không tái hiện lại những gì bà đã làm trong lịch sử. Molly Brown được các nhà sử học phong tặng danh hiệu "Bà Molly Brown không thể chìm" bởi bà, cùng với sự ủng hộ của những người phụ nữ khác, đã chiếm quyền chỉ huy chiếc thuyền cứu sinh số 6 từ tay hạ sĩ quan Robert Hichens. Tuy nhiên, một số chi tiết trong cuộc cãi nhau giữa hai người có xuất hiện trong bộ phim của Cameron. Victor Garber trong Thomas Andrews: Là người đóng chiếc tàu, Andrews được tái hiện là một người rất tốt và hiền hậu, ông tỏ ra khiêm tốn khi nói về những thành tựu lớn lao mình đã đạt được. Sau vụ va chạm, ông cố gắng thuyết phục mọi người, đặc biệt là Ismay, rằng đây là một "sự chắc chắn trong toán học" rằng con tàu sẽ chìm. Trong cảnh tàu chìm, ông đứng bên cạnh chiếc đồng hồ trong phòng hút thuốc ở khoang hạng nhất, đau đớn vì thất bại trong việc xây một con tàu mạnh mẽ và an toàn. Bernard Hill trong vai Thuyền trưởng Edward John Smith: Smith dự định Titanic sẽ là chuyến đi cuối cùng của ông trước khi nghỉ hưu. Khi tàu chìm, ông trở về đài chỉ huy, và chết đuối vì cửa sổ vỡ tung và nước tràn vào phòng, trong lúc ông đang tựa tay vào chiếc bánh lái. Hiện nay vẫn còn những cuộc tranh luận cho rằng liệu ông chết như vậy hay chết cóng sau đó, vì theo một số báo cáo, người ta nhìn thấy ông gần chiếc thuyền gập B bị lật. Một số người khác nói rằng ông bị đè lên khi ống khói số 1 đổ. Jonathan Hyde trong vai J. Bruce Ismay: Ismay được tái hiện là một người đàn ông hạng nhất giàu sang nhưng kém hiểu biết. Trong phim, ông lợi dụng chức vụ giám đốc quản lý của hãng White Star Line để buộc Thuyền trưởng Smith cho tàu chạy nhanh hơn với hy vọng sẽ tới New York sớm trước sự chứng kiến của báo giới; mặc dù việc làm này của ông xuất hiện khá nhiều trong những tác phẩm tái hiện lại thảm kịch, nhưng không có nhiều bằng chứng chứng minh. Sau vụ va chạm, ông cố tin rằng con tàu "không thể chìm" này chìm do định mệnh. Ismay sau đó đã lên chiếc thuyền gấp C (một trong số những thuyền cứu sinh cuối cùng rời tàu) ngay trước khi nó được hạ thuỷ. Báo chí và dư luận gọi ông là một con người hèn nhát vì đã sống sót sau tai nạn trong khi rất nhiều phụ nữ và trẻ em chết đuối. Eric Braeden trong vai John Jacob Astor IV: một hành khách khoang hạng nhất mà Rose gọi là người giàu nhất trên tàu (điều này được xác nhận là chính xác). Bộ phim tái hiện Astor và người vợ 18 tuổi của ông Madeleine trong cảnh Rose giới thiệu với Jack về ông trong bữa tối ở khoang hạng nhất. Sau phần chào hỏi, Astor hỏi liệu Jack có liên hệ gì với 'Boston Dawsons', một câu hỏi mà Jack đã khéo léo lái đi khi nói rằng thật ra anh có liên hệ với Chippewa Falls Dawsons. Lần cuối Astor xuất hiện trong phim là ở phân cảnh kính mái vòm trên Cầu thang lớn vỡ và nước dội vào. Trên thực tế, Astor chết khi bị chiếc ống khói số 1 của con tàu đổ đè lên. Bernard Fox trong vai Đại tá Archibald Gracie IV: Bộ phim tái hiện cảnh Gracie nói với Cal rằng "phụ nữ và máy móc không thể hoà hợp với nhau được", và khen Jack vì đã cứu Rose ngã khỏi tàu, mặc dù ông không biết rằng cô đang cố tự vẫn. Fox cũng đóng vai Frederick Fleet trong bộ phim năm 1958 Cái đêm đáng nhớ, một bộ phim khác cũng tái hiện thảm kịch này. Michael Ensign trong vai Benjamin Guggenheim: Trùm tư bản khai thác mỏ đi vé hạng nhất. Ông khoe cô tình nhân người Pháp Madame Aubert với những hành khách khác thì vợ và ba con gái đang đợi ở nhà. Khi Jack tham gia bữa tiệc ở khoang hạng nhất sau khi cứu Rose, Guggenheim gọi anh là một người "tự do phóng túng" (không theo các khuôn phép xã hội). Trong cảnh tàu chìm, ông từ chối không mặc áo phao, nói rằng ông đã sẵn sàng để ra đi như một người đàn ông. Jonathan Evans-Jones trong vai Wallace Hartley: Nhạc trưởng và người chơi violon trên tàu, người đã cùng các đồng nghiệp chơi những bản nhạc trấn an tinh thần trên boong khi tàu chìm. Khi con tàu bắt đầu lao xuống nước lần cuối cùng, ông đã chỉ huy ban nhạc chơi nhạc phẩm Nearer, My God, to Thee, theo giai điệu của Bethany, và chết khi tàu chìm. Ewan Stewart trong vai Sĩ quan thứ nhất William Murdoch: Đây là sĩ quan chịu trách nhiệm chỉ huy vào đêm tàu va phải băng trôi. Trong khi cố gắng lập lại trật tự khi mọi người ùa lên thuyền cứu sinh, Murdoch vô tình bắn chết Tommy Ryan và một hành khách khác trong một phút hoảng loạn, rồi tự sát vì cảm giác tội lỗi, và chi tiết hư cấu này đã vấp phải nhiều sự chỉ trích. Khi cháu trai của Murdoch, Scott xem bộ phim, ông đã phản đối việc tái hiện bác mình như vậy, cho rằng điều đó đã làm tổn hại tới danh tiếng vốn có của Murdoch như một vị anh hùng của thảm kịch. Vài tháng sau, phó giám đốc của hãng Fox, Scott Neeson, đã tới Dalbeattie, Scotland, nơi Murdoch từng sống, để nói lời xin lỗi cá nhân, và quyên góp 5.000 bảng Anh cho trường trung học Dalbeattie để thúc đẩy Giải thưởng Tưởng nhớ William Murdoch của trường này. Cameron cũng nói lời xin lỗi trên video bình luận trong bản DVD của phim, nhưng lưu ý rằng trên thực tế đã có một số sĩ quan bắn vào đám đông để đe doạ thực thi quy định "phụ nữ và trẻ em trước". Jonathan Phillips trong vai Sĩ quan thứ hai Charles Lightoller. Bộ phim tái hiện cảnh Lightoller nhắc thuyền trưởng Smith rằng sẽ khó khăn khi phát hiện băng trôi bởi không có nước lan ra bên dưới. Ông cũng xuất hiện trong tư thế chĩa súng vào đám đông hỗn loạn và đe doạ sẽ sử dụng nó để giữ trật tự. Trong cảnh ống khói đầu tiên của tàu đổ xuống, ông đứng trên nóc chiếc thuyền gấp B. Lightoller là sĩ quan cao cấp duy nhất của tàu sống sót sau thảm hoạ. Mark Lindsay Chapman trong vai Sĩ quan trưởng Henry Wilde: Là sĩ quan trưởng của con tàu, người để Cal lên thuyền cứu sinh bởi hắn đang ôm trong tay một đứa trẻ. Trước khi chết, ông cố thổi còi gọi các thuyền cứu sinh quay trở lại nơi tàu chìm để cứu những hành khách dưới nước. Sau khi ông bị chết cóng, Rose dùng cái còi của ông để thu hút sự chú ý của Sĩ quan thứ năm Lowe, và sau đó chiếc thuyền đã quay lại cứu cô. Ioan Gruffudd trong vai Sĩ quan thứ năm Harold Lowe: Sĩ quan duy nhất của con tàu đã chỉ huy một thuyền cứu sinh quay lại cứu những người sống sót sau vụ chìm tàu đang lênh đênh trên mặt nước lạnh như băng. Bộ phim tái hiện cảnh Lowe cứu sống Rose khỏi làn nước. Edward Fletcher trong vai Sĩ quan thứ sáu James Moody: Sĩ quan cấp thấp duy nhất của con tàu thiệt mạng trong vụ chìm tàu. Bộ phim tái hiện cảnh Moody đồng ý cho Jack và Fabrizio lên tàu chỉ vài giây trước khi nó rời cảng Southampton. Moody sau đó nghe lệnh ông Murdoch cho tàu chạy với vận tốc cực đại, và cho Sĩ quan thứ nhất Murdoch biết về tảng băng trôi trước mặt. James Lancaster trong vai Father Thomas Byles: Cha Byles, một linh mục Thiên Chúa giáo đến từ nước Anh, được tái hiện đang cầu nguyện và an ủi hành khách trong những phút cuối cùng của con tàu. Lew Palter và Elsa Raven trong các vai Isidor Straus và Ida Straus: Isidor là cựu chủ của công ty R.H. Macy and Company, cựu nghị sĩ New York, và là thành viên của Uỷ ban Cầu đường New York và New Jersey (New York and New Jersey Bridge Commission). Trong khi tàu chìm, vợ ông, bà Ida, được đề nghị xuống thuyền cứu sinh, nhưng bà từ chối và nói rằng bà sẽ giữ lời thề khi kết hôn là ở lại với Isidor. Lần cuối người xem nhìn thấy họ là khi họ đang nằm ôm nhau trên giường khi nước tràn vào phòng. Martin Jarvis trong vai Ngài Cosmo Duff-Gordon: Một nam tước người Scotland được cứu thoát trên thuyền cứu sinh số 1. Các thuyền cứu sinh số 1 và 2 là các thuyền khẩn cấp có thể chở được 40 người. Nằm ở phía trước boong tàu, các thuyền này luôn sẵn sàng được hạ thuỷ để phòng trường hợp có ai ngã xuống nước. Trong đêm xảy ra thảm hoạ, Thuyền cứu sinh số 1 là chiếc thuyền thứ tư được hạ thuỷ, với 12 người, trong đó có Duff-Gordon, vợ và thư ký của ông. Vị nam tước bị chỉ trích nặng nề về cách ứng xử trong vụ việc. Ông được cho là đã lên tàu cứu sinh, đi ngược lại với quy định "phụ nữ và trẻ em trước" và đã không quay trở lại cứu những người đang vật lộn dưới làn nước lạnh. Ông cho mỗi thuỷ thủ trên thuyền cứu sinh năm bảng, và số tiền này bị những người chỉ trích ông cho là một khoản hối lộ. Gia đình Duff-Gordon vào thời điểm đó (và thư ký của vợ ông trong một bức thư được viết khi đó và được tìm thấy năm 2007) tuyên bố rằng không có phụ nữ hay trẻ em nào đứng đợi quanh thuyền của họ, và có xác nhận rằng thuyền số 1 của tàu Titanic gần như trống không, do đó Sĩ quan thứ nhất William Murdoch đã mời Duff-Gordon, vợ và thư ký của ông lên (chỉ là để làm đầy nó) sau khi họ hỏi liệu họ có được lên không. Duff-Gordon phủ nhận việc ông đưa tiền cho thuỷ thủ là để hối lộ. Uỷ ban điều tra về thảm hoạ này (thuộc Hội đồng điều tra các vụ đắm tàu của Anh) chấp nhận lời phủ nhận này của Duff-Gordon, nhưng vẫn giữ quan điểm rằng, nếu chiếc thuyền cứu sinh của ông quay lại với những người đang ở dưới nước, thì chắc chắn đã có nhiều người được cứu sống hơn. Rosalind Ayres trong vai Bà Duff-Gordon: Nhà thiết kế thời trang nổi tiếng thế giới và là vợ của Ngài Cosmo. Bà được cứu sống trên thuyền cứu sinh số 1 cùng chồng. Bà và chồng chưa bao giờ ngừng phản đối những tin đồn rằng họ đã ngăn cản các thuỷ thủ trên thuyền cứu sinh trở lại khu vực tàu đắm bởi lo sợ họ sẽ bị hút xuống theo. Rochelle Rose trong vai Noël Leslie, Nữ bá tước của Rothes: Nữ bá tước tỏ ra khá thân thiện với Cal và gia đình DeWitt Bukater. Mặc dù có địa vị xã hội cao hơn Ngài Cosmo và Bà Duff-Gordon, bà khá tốt tính, tham gia chèo thuyền cứu sinh và chăm sóc những hành khách đi vé hạng thấp. Scott G. Anderson trong vai Frederick Fleet: Người gác đã phát hiện ra khối băng. Fleet thoát nạn trên chiếc thuyền cứu sinh số 6. Paul Brightwell trong vai Hạ sĩ quan Robert Hichens: Một trong số sáu hạ sĩ quan của con tàu và là người cầm lái khi xảy ra vụ va chạm. Ông chịu trách nhiệm chỉ huy chiếc thuyền cứu sinh số 6. Ông từ chối quay lại cứu vớt những người sống sót trên mặt nước sau khi tàu chìm và cuối cùng để Molly Brown cầm lái con thuyền. Martin East trong vai Reginald Lee: Người gác còn lại trên đài quan sát. Anh thoát nạn trong vụ chìm tàu. Simon Crane trong vai Sĩ quan thứ tư Joseph Boxhall: Sĩ quan phụ trách việc bắn pháo hiệu và chỉ huy thuyền cứu sinh số 2 trong vụ chìm tàu. Ông xuất hiện bên mạn đài chỉ huy giúp đỡ các thuỷ thủ đốt pháo. Gregory Cooke trong vai Jack Phillips: Người trực điện tín chính trên tàu Titanic, được thuyền trưởng Smith ra lệnh gửi tín hiệu kêu cứu. Craig Kelly trong vai Harold Bride: Người trực điện tín phụ trên tàu Titanic. Liam Tuohy trong vai Thợ làm bánh mì trưởng Charles Joughin: Người thợ làm bánh mì xuất hiện trong bộ phim trên nóc hàng rào chắn cùng với Jack và Rose khi tàu chìm, tay cầm bình rượu brandy uống. Theo những lời khai của Joughin ngoài đời thực, ông bám vào chiếc tàu và lao xuống nước mà không làm ướt tóc. Ông cũng nói rằng lúc đó ông ít cảm thấy lạnh, có lẽ bởi do uống nhiều rượu. Terry Forrestal trong vai Kỹ sư trưởng Joseph G. Bell: Bell và những người thợ của ông đã làm việc tới phút cuối cùng để giữ cho ánh sáng và nguồn điện trên tàu hoạt động, giúp tín hiệu kêu cứu liên tục được gửi đi. Bell và toàn bộ các kỹ sư thiệt mạng trong lòng tàu Titanic. Kevin De La Noy trong vai Sĩ quan thứ ba Herbert Pitman: Chỉ huy thuyền cứu sinh số 5. === Diễn viên khách mời === Một số thuỷ thủ của tàu Akademik Mstislav Keldysh xuất hiện trong bộ phim, trong đó có Anatoly Sagalevich, nhà thiết kế và người lái thiết bị lặn sâu tự hành của tàu MIR. Anders Falk, người quay bộ phim tài liệu về bối cảnh của bộ phim cho Cộng đồng lịch sử Titanic, xuất hiện trong phim với vai một người nhập cư Thuỵ Điển mà Jack Dawson gặp khi tới phòng ở của mình; Ed và Karen Kamuda, sau đó lần lượt là Chủ tịch và Phó chủ tịch của Cộng đồng này, là các diễn viên quần chúng trong phim. James Cameron và Barry Dennen xuất hiện trong vai những người đang cầu nguyện, Greg Ellis đảm nhận vai diễn khách mời là một người phục vụ trên tàu Carpathia, còn Oliver Page trong vai Steward Barnes. Con tàu đỗ bên cạnh Titanic là chiếc SS Nomadic (1911), tàu dẫn đường cho Titanic, vẫn còn tồn tại đến ngày nay. == Sản xuất tiền kỳ == === Kịch bản và ý tưởng === James Cameron có một niềm đam mê với những xác tàu đắm, và, với ông, RMS Titanic là "đỉnh Everest của những xác tàu." Ông đã qua cái tuổi để có thể tham gia một cuộc thám hiểm dưới nước, nhưng chia sẻ rằng ông vẫn không thôi nung nấu ý định theo đuổi một cuộc sống khác mà mình đã bỏ qua khi quyết định chuyển học đại học từ ngành khoa học sang nghệ thuật. Vậy nên khi một bộ phim định dạng IMAX được thực hiện từ chính những cảnh quay xác tàu đắm, ông quyết định đi tìm tài trợ ở Hollywood để "chi trả cho một chuyến thám hiểm và làm điều tương tự." Quyết định này "không phải chỉ vì tôi muốn làm phim," Cameron nói. "Tôi muốn được lặn xuống xác con tàu." Cameron viết kịch bản sơ lược (cùng với các giải pháp thực hiện) cho một bộ phim về Titanic, tới gặp các giám đốc điều hành của hãng 20th Century Fox trong đó có Peter Chernin, đưa kịch bản cho họ và gọi đây là "vở Romeo và Juliet trên tàu Titanic". Cameron nói, "Họ như kiểu, 'Thôi được rồi – một vở hùng ca lãng mạn dài ba tiếng ư? Được, đó đúng là những gì chúng tôi cần. Có chút gì của Kẻ huỷ diệt trong đó không? Có máy bay Harrier jet, những cảnh bắn nhau, hay rượt đuổi ô tô nào trong đó không?' Tôi nói, 'Không, không, không. Nó không phải như thế.'" Hãng phim tỏ ra nghi ngờ về viễn cảnh thương mại của dự án này, nhưng vì hy vọng giữ được mối quan hệ lâu dài với Cameron, họ bật đèn xanh cho ông. Cameron thuyết phục Fox quảng cáo cho bộ phim dựa trên sự quan tâm có được của công chúng bằng việc quay chính xác tàu Titanic thật, và lên kế hoạch tổ chức một vài lần lặn xuống đáy biển trong hai năm. "Đề xuất đó của tôi được yêu cầu làm rõ thêm một chút nữa," Cameron nói. "Vậy nên tôi bảo rằng, 'Đây này, chúng ta phải làm cả đoạn đầu phim, khi họ xuống thám hiểm con tàu Titanic và tìm thấy viên kim cương, do vậy chúng ta phải quay tất cả các cảnh xác tàu đó." Cameron phát biểu, "Bây giờ, hoặc chúng ta phải dựng những mô hình cụ thể và thực hiện những cảnh quay điều khiển chuyển động và đồ hoạ máy tính và tất cả những thứ đó, sẽ tốn một khoản tiền X nào đó – hoặc chúng ta vẫn dùng khoản tiền X đó và đầu tư thêm 30 phần trăm nữa rồi đi quay xác tàu thật." Nhóm làm phim thực hiện các cảnh quay xác tàu thật trên Đại Tây Dương tổng cộng mười một lần trong năm 1995 và trên thực tế, họ dành nhiều thời gian với con tàu hơn là với những hành khách của nó. Ở độ sâu này, với áp lực nước khoảng 6.000 pound trên một inch vuông (khoảng 2.721,5 kg/inch2), "một vết nứt nhỏ trên thân tàu ngầm sẽ giết chết tất cả mọi người trên tàu ngay tức khắc." Không chỉ có độ rủi ro cao, mà những điều kiện bất lợi dưới nước không cho phép Cameron có được những cảnh quay chất lượng cao như mong muốn. Trong một lần lặn, một trong số các tàu ngầm đã va chạm với thân tàu Titanic, gây thiệt hại cho cả thiết bị của họ lẫn xác tàu, và những mảnh vỡ từ tấm che chân vịt của chiếc tàu ngầm vung vãi khắp nơi quanh kiến trúc thượng tầng của Titanic. Vách ngăn bên ngoài phòng của thuyền trưởng Smith bị sập, để lộ phần nội thất ra ngoài. Khu vực xung quanh lối vào Cầu thang lớn cũng bị ảnh hưởng. Lặn xuống xác con tàu thực khiến cả Cameron và đoàn làm phim muốn "[làm một bộ phim] đạt được tới mức độ hiện thực đó.... Nhưng còn có một sự thay đổi khác trong nhận thức của chúng tôi đến từ chính xác tàu, và chúng tôi hiểu rằng đó không chỉ là một câu chuyện hay một vở kịch đơn thuần," ông nói. "Đó là một sự kiện xảy ra với những con người thực, những người đã thiệt mạng trong thảm kịch. Làm việc với xác tàu trong một khoảng thời gian lâu như vậy, bạn sẽ có một xúc cảm mạnh mẽ, – đó là một nỗi buồn vô hạn – và cảm nhận được sự bất công của nó, cùng với thông điệp mà nó gửi gắm." Cameron chia sẻ, "Bạn nghĩ rằng, 'Có lẽ sẽ không có nhiều nhà làm phim xuống tận xác tàu Titanic. Cũng có thể sẽ không bao giờ có một ai nữa – một nhà làm phim tài liệu chăng?." Vì vậy, ông cảm thấy "có một trách nhiệm lớn lao bao trùm quanh mình là phải chuyển tải được thông điệp tình cảm của nó – và phải làm cho nó thật đúng nữa". Sau khi quay các cảnh quay dưới biển, Cameron bắt tay vào việc viết kịch bản. Với mong muốn tôn vinh những người đã thiệt mạng trong vụ đắm tàu, ông dành sáu tháng nghiên cứu những tài liệu về các hành khách và thuỷ thủ đoàn trên tàu Titanic. "Tôi đọc tất cả những gì có thể. Tôi lập ra một dòng thời gian vô cùng chi tiết về những ngày ra khơi của con tàu và liệt kê tỉ mỉ những sự việc xảy ra trong cái đêm cuối cùng đó," ông nói. "Và từ những tư liệu ấy tôi viết kịch bản, và tôi có nhờ một số chuyên gia sử học tới phân tích những gì tôi viết và đưa ra nhận xét, rồi tôi chỉnh sửa lại theo những nhận xét ấy." Ông để ý tỉ mỉ tới từng chi tiết, đưa cả một cảnh quay tàu Californian phớt lờ tín hiệu kêu cứu của Titanic, mặc dù sau đó nó đã bị cắt (xem bên dưới). Ngay từ khi bắt đầu quay, họ đã có "một bức tranh rất rõ ràng" về những gì đã xảy ra với con tàu đêm đó. "Tôi có một thư viện toàn những thứ liên quan đến Titanic xếp kín một bức tường phòng làm việc của tôi, bởi tôi muốn nó phải chính xác, nhất là khi mình đã có ý định lặn xuống tận xác tàu," ông nói. "Theo một cách nào đó thì việc đã lặn xuống như vậy buộc chúng tôi phải tự đặt ra cho mình những yêu cầu cao hơn – điều đó phần nào nâng tầm cho bộ phim. Tôi muốn nó trở thành một tác phẩm minh hoạ hoàn chỉnh nhất những khoảnh khắc đã xảy ra trong lịch sử, như thể bạn đã dùng cỗ máy thời gian trở về thời điểm đó để quay phim vậy." Cameron cho rằng vụ chìm tàu Titanic "giống như một cuốn tiểu thuyết hoành tráng đã xảy ra trong thực tế", nhưng những sự kiện trong đó chỉ là một câu chuyện về đạo đức đơn thuần; bộ phim sẽ cho khán giả trải nghiệm như được sống lại lịch sử. Nhà săn tìm kho báu Brock Lovett là hiện thân của những người chưa từng biết đến yếu tố nhân văn trong thảm kịch, trong khi tình yêu đang nồng nàn nở rộ giữa Jack và Rose, được ông cho là phần hấp dẫn nhất của câu chuyện: khi cuối cùng tình yêu của họ bị chia lìa, người xem sẽ xót xa trước sự mất mát ấy. "Tất cả các bộ phim của tôi đều là những câu chuyện tình," Cameron nói, "nhưng trong Titanic tôi cuối cùng đã có được sự cân đối cần thiết. Đó không phải là một bộ phim thảm hoạ. Đó là một câu chuyện tình bên cạnh một sự tái hiện chính xác gần như tuyệt đối về sự thật lịch sử." Cameron sau đó sắp xếp để mối tình ấy được kể qua lời của bà Rose khi đã già nhằm khiến những năm tháng đã qua như hiện về một cách chân thực hơn, sâu sắc hơn. Với ông, đoạn kết của bộ phim để lại một câu hỏi mở, liệu bà Rose đang mơ một giấc mơ hay đã ra đi trong giấc ngủ. === Mô hình thu nhỏ === Harland and Wolff, công ty đóng tàu RMS Titanic, lật mở các tài liệu lưu trữ mật của họ và cung cấp cho đoàn làm phim các bản thiết kế con tàu tưởng chừng đã mất. Đội của nhà thiết kế sản xuất Peter Lamont đã đi sưu tầm các hiện vật từ thời bấy giờ để phục vụ cho phần nội thất của tàu. Đóng mới con tàu đồng nghĩa với việc tất cả các đạo cụ đều sẽ phải làm mới lại hoàn toàn. Hãng Fox mua một khoảng đất rộng 40 acrơ (khoảng 16 héc-ta) nằm sát biển ở vùng Playas de Rosarito thuộc Mexico, và khởi công xây dựng một trường quay mới tại đây vào ngày 31 tháng 5 năm 1996. Một bể nước có sức chứa mười bảy triệu ga-lông (tương đương khoảng 77.283 m3) được dựng lên để phục vụ cho các cảnh quay ngoại cảnh của con tàu, cho phép một góc nhìn trên đại dương rộng tới 270 độ. Con tàu được dựng lại với kích thước thật, nhưng Lamont đã loại bỏ một số phần thừa ở phần kiến trúc thượng tầng (superstructure) và đưa tầng hầm (well deck) ra phía trước để con tàu có thể nằm vừa vào bể chứa, những phần còn lại sau này được bổ sung bằng các mô hình kỹ thuật số (digital models). Các thuyền cứu sinh và ống khói được giảm xuống chỉ còn bằng mười phần trăm kích thước thật. Sàn tàu và boong A là những khu vực quay phim chính, còn những phần còn lại của tàu chỉ được bọc thép mà thôi. Bên trong tàu được lắp đặt một sàn nâng có thể nâng cao đến 50 foot (15 m) để nâng tàu nghiêng đi trong các phân cảnh tàu chìm. Phía trên là một cần cẩu lớn cao 162 foot (49 m) gắn với một đường ray dài 600 foot (180 m), đóng vai trò như một tổ hợp đa chức năng để lắp đặt hệ thống ánh sáng và máy quay phim. Bối cảnh dùng cho cảnh quay các phòng bên trong Titanic được dựng lại chính xác như con tàu gốc, sử dụng tư liệu là những bức ảnh và các bản thiết kế của hãng đóng tàu. "Cầu thang xuống khoang hạng nhất của con tàu, vốn được miêu tả kỹ lưỡng trong kịch bản, được dựng bằng gỗ thật và đã bị phá huỷ khi quay cảnh tàu chìm." Các phòng, hệ thống thảm, các chi tiết thiết kế và màu sắc, từng đồ nội thất, trang trí, ghế ngồi, giấy dán tường, dao dĩa và bát ăn với biểu tượng của hãng White Star Line, trần nhà hoàn chỉnh và trang phục là một vài trong số những thiết kế trung thực với nguyên mẫu. Cameron ngoài ra còn mời hai nhà sử học chuyên nghiên cứu về Titanic, Don Lynch và Ken Marschall, đến xác thực các chi tiết lịch sử trong bộ phim. == Sản xuất == Các phân cảnh của cuộc thám hiểm ngày nay được quay trên tàu Akademik Mstislav Keldysh vào tháng 7 năm 1996. Quá trình quay phim chính bắt đầu vào tháng 9 năm 1996 ở trường quay Fox Baja Studios mới dựng. Phần đuôi tàu (poop deck) được lắp đặt trên một sàn có gắn bản lề có thể nâng từ không đến chín mươi độ chỉ trong vài giây phục vụ cho cảnh tàu chìm, khi đuôi tàu bị nâng cao lên trời. Để đảm bảo an toàn cho các diễn viên đóng thế, nhiều đạo cụ chỉ được làm bằng cao su bọt biển. Đến ngày 15 tháng 11, đoàn làm phim bắt đầu quay cảnh hành khách lên tàu. Cameron chọn đặt con tàu RMS Titanic với mạn phải hướng về phía cảng bởi theo các dữ liệu thời tiết, hướng gió chính hướng bắc - nam sẽ khiến khói từ các ống khói con tàu thổi về phía sau. Điều này làm nảy sinh một vấn đề khi quay cảnh tàu rời Southampton, bởi nó được neo ở vị trí mạn trái hướng về cảng. Vì vậy toàn bộ các chi tiết liên quan đến đạo cụ hay phục trang trong kịch bản đều phải đảo ngược lại, và nếu theo kịch bản ai đó phải đi sang phải, thì khi quay người đó lại phải đi sang trái. Trong quá trình sản xuất hậu kỳ, hình ảnh được đảo ngược lại cho đúng hướng. Một biên đạo chuyên về các quy tắc xã giao và lễ nghi đã được thuê toàn thời gian để hướng dẫn diễn viên thực hiện các phép ứng xử của giới thượng lưu thời điểm năm 1912 cho đúng. Mặc dù vậy, một số nhà phê bình nhận xét rằng dáng điệu của những người này vẫn chưa chính xác, đặc biệt là hai nhân vật chính trong phim. Cameron ký hoạ bức chân dung khoả thân của Rose do nhân vật Jack vẽ cho một cảnh quay mà ông cảm thấy có một sự kìm nén lớn lao ở trong đó. "Bạn biết điều đó có ý nghĩa thế nào với cô ấy đấy, sự giải thoát mà hẳn cô ấy đang được hưởng. Cảnh quay này trở nên sống động là vì thế," ông nói. Cảnh khoả thân là cảnh quay đầu tiên mà DiCaprio và Winslet thực hiện cùng nhau. "Nó không theo một kiểu thiết kế nào cả, mặc dù vậy tôi thấy mình vẫn không thể làm tốt hơn thế. Có một sự e ngại, một luồng sức mạnh và một sự ngập ngừng giữa họ," Cameron chia sẻ. "Họ đã tập cùng nhau rồi, nhưng chưa quay cảnh nào với nhau cả. Nếu được làm lại, có lẽ tôi sẽ nhấn sâu hơn tới phần cơ thể trong cảnh quay." Ông nói ông và đoàn làm phim "chỉ cố tìm cái gì đó để quay" bởi lúc đó bối cảnh chính vẫn chưa hoàn thiện. "Nó chưa dựng xong trong suốt hàng tháng trời, vì vậy chúng tôi cố tìm cái gì đó để lấp vào, tìm tất cả những cảnh có thể quay được." Sau khi xem lại trên phim, Cameron cảm thấy cảnh quay này tương đối tốt. Nhưng thời gian làm việc trên trường quay thì không được suôn sẻ như vậy. Thời kỳ quay phim là một trải nghiệm vô cùng gian khổ đã "khẳng định tiếng tăm của Cameron là 'con người đáng sợ nhất ở Hollywood'. Ông được biết đến như một vị đạo diễn cầu toàn không bao giờ chịu nhượng bộ, luôn đưa ra những mệnh lệnh cứng rắn" và là một người "chuyên quát tháo với âm lượng 300 decibel, một Thuyền trưởng Bligh của thời nay với cái loa và điện đàm trên tay, đứng từ trên cái cần cẩu cao 162 foot mà hét xuống mọi người". Winslet bị gãy xương khuỷu tay trong khi quay phim, và lo ngại rằng mình sẽ chết đuối trong bể nước 17 triệu ga-lông xây lên để chứa con tàu ấy. "Có nhiều lúc tôi thực sự phát sợ vì ông ấy. Tính khí của Jim thì, bạn sẽ không thể tin được đâu," cô nói. "'Trời đánh nó đi!' ông ấy quát một thành viên đáng thương nào đó trong đoàn làm phim, 'đó chính là điều tôi không muốn!'" Đồng nghiệp của cô, Bill Paxton, đã quen với cách làm việc của Cameron vì trước đó đã từng làm việc với ông. "Có quá nhiều người trên trường quay. Jim không phải mẫu người dành thời gian để lấy lòng từng thành viên trong đoàn," ông nói. Mọi người trong đoàn làm phim thì cho rằng Cameron có một cái tôi kinh khủng khác thường, và gọi trêu ông là "Mij" (từ Jim đọc ngược lại). Đáp lại những lời chỉ trích này, Cameron nói, "Làm phim cũng như một trận chiến. Một cuộc chiến lớn giữa thương mại và nghệ thuật." Trong thời gian quay phim trên tàu Akademik Mstislav Keldysh, một thành viên nóng tính nào đó trong đoàn đã cho chất gây ảo giác PCP vào súp của Cameron và nhiều người khác, khiến hơn 50 người phải vào điều trị. "Một số người chỉ cảm thấy tròng trành và mất thăng bằng. Nhưng có một số người nói họ thấy trong mắt những đường sọc dài và ảo giác," diễn viên Lewis Abernathy nói. Cameron còn bị nôn trước khi thuốc hoàn toàn hết tác dụng. Abernathy thực sự sốc trước cái nhìn của vị đạo diễn. "Một mắt ông ấy đỏ rực, như con mắt của nhân vật Kẻ huỷ diệt. Một con ngươi, không thấy tròng, đỏ như cây củ cải đường. Con mắt kia thì trông như thể ông ấy đã hít keo dán từ khi lên bốn tuổi." Người ta không tìm ra được kẻ đứng sau vụ đầu độc này. Lịch quay phim được dự tính kéo dài 138 ngày nhưng sau đó lên tới 160. Nhiều diễn viên bị cảm lạnh, cúm hoặc mắc các bệnh liên quan đến thận sau hàng ngờ đồng hồ ngâm mình trong nước lạnh, trong đó có Winslet. Sau này, cô nói rằng cô sẽ không bao giờ làm việc với Cameron nữa trừ khi nhận được "rất nhiều tiền". Một số người rời đoàn làm phim và ba diễn viên đóng thế bị gãy xương, nhưng Hiệp hội Diễn viên Điện ảnh sau khi điều tra đã xác nhận bối cảnh và các đạo cụ ban đầu không có gì gây nguy hiểm. Thêm vào đó, diễn viên DiCaprio cũng khẳng định anh không hề thấy nguy hiểm trong quá trình quay phim. Cameron tin vào thái độ làm việc say mê và chưa bao giờ đưa ra lời xin lỗi về cách ông điều hành trường quay, mặc dù cũng đã công nhận rằng: Tôi đòi hỏi, và tôi đòi hỏi ở những nhân viên của tôi. Còn về chuyện làm việc kiểu thiết quân luật, tôi thừa nhận đã có lúc mình như thế trong khi điều khiển hàng nghìn diễn viên quần chúng mà vẫn phải duy trì tính lô-gic và đảm bảo an toàn cho mọi người. Tôi nghĩ bạn sẽ phải có phương pháp làm việc tương đối nghiêm khắc khi điều khiển nhiều người như thế. Kinh phí làm phim Titanic bắt đầu tăng cao, và cuối cùng đã chạm ngưỡng 200 triệu USD. Các giám đốc hãng Fox tỏ ra hoang mang, và đề nghị cắt đi khoảng một tiếng trong bộ phim dài ba giờ đồng hồ. Họ lập luận rằng phim càng dài thì sẽ càng có ít suất chiếu hơn, như thế thì lợi nhuận sẽ thấp hơn, mặc dù những bản anh hùng ca dài như vậy sẽ giúp các đạo diễn có cơ hội giành giải Oscar. Cameron phản đối, nói với Fox rằng, "Các ông muốn cắt phim của tôi ư? Vậy các ông sẽ phải đuổi việc tôi! Các ông muốn đuổi việc tôi ư? Các ông sẽ phải giết tôi!" Các giám đốc không muốn bắt đầu lại từ đầu, bởi thế sẽ khiến toàn bộ chi phí đầu tư của họ từ trước tới nay đổ xuống sông biển, nhưng ban đầu họ cũng từ chối lời đề nghị của Cameron không cần phải chia lợi nhuận cho vị đạo diễn nữa, cho rằng đó là một cử chỉ trống rỗng; thậm chí họ còn cảm thấy rằng phim sẽ khó mà thu lãi. Cameron giải thích hành động bồi thường này của ông là một vấn đề phức tạp. "...nói ngắn gọn là theo tỷ lệ, bộ phim tốn kinh phí hơn nhiều so với Kẻ huỷ diệt 2: Ngày phán xét và True Lies. Những phim đó tăng khoảng bảy đến tám phần trăm do với chi phí dự kiến ban đầu. Titanic cũng bắt đầu với một ngân sách lớn, nhưng sau đó nó còn tăng thêm rất nhiều," Cameron nói. "Là nhà sản xuất và đạo diễn, tôi chịu trách nhiệm viết hoá đơn cho hãng, nên tôi cố gắng làm mọi thứ trở nên đỡ hơn cho họ. Tôi làm thế hai lần. Họ không yêu cầu tôi làm vậy; nhưng họ tỏ ra cảm kích với việc làm này của tôi." == Sản xuất hậu kỳ == === Hiệu ứng === Cameron muốn đẩy xa giới hạn của hiệu ứng hình ảnh hơn nữa với bộ phim của mình, và thuê công ty Digital Domain tiếp tục phát triển các công nghệ kỹ thuật số mà vị đạo diễn này đã đi tiên phong khi thực hiện các phim The Abyss và Kẻ huỷ diệt 2: Ngày phán xét. Nhiều bộ phim trước đây về con tàu RMS Titanic tái hiện mặt nước bằng phương pháp quay chậm, khiến cho các cảnh quay trông không chân thực lắm. Ông đề nghị họ quay bằng một mô hình thu nhỏ của con tàu dài 45 foot (14 m) như thể "chúng ta đang làm một đoạn phim quảng cáo cho hãng White Star Line". Sau đó, nước và khói kỹ thuật số, và cả các hình ảnh các diễn viên quần chúng quay bằng công nghệ ghi hình chuyển động (motion capture) được thêm vào. Giám sát hiệu ứng hình ảnh Rob Legato quét hình khuôn mặt của rất nhiều diễn viên, kể cả chính bản thân ông và các con, để sử dụng cho các diễn viên quần chúng và diễn viên đóng thế tái tạo bằng kỹ thuật số. Ngoài ra còn có một mô hình đuôi tàu dài 65 foot (20 m) có thể gãy làm đôi một cách riêng biệt, và chúng là những mô hình thu nhỏ duy nhất được sử dụng dưới nước. Với các cảnh quay ở buồng đốt và động cơ của tàu, các nhà làm phim ghép các cảnh quay động cơ của tàu SS Jeremiah O'Brien với những mô hình thu nhỏ và các diễn viên diễn trước một màn hình xanh. Để tiết kiệm chi phí, hành lang đi dạo cho hành khách khoang hạng nhất cũng dùng các mô hình thu nhỏ ghép với các cảnh quay sử dụng màn hình xanh. Một bể chứa có dung tích 5.000.000 galông Mỹ (19.000.000 l) được sử dụng cho phân cảnh tàu chìm, giúp các nhà làm phim có thể nhấn chìm toàn bộ tổ hợp con tàu tái dựng xuống nước. Để quay cảnh nước tràn vào Cầu thang Lớn, 90.000 galông Mỹ (340.000 l) nước được xả vào bối cảnh trong khi nó được hạ xuống bể chứa. Không may thay, dòng nước xối từ trên xuống đã làm lật chiếc cầu thang khỏi phần nền được gia cố bằng thép của nó, tuy nhiên không có ai bị thương. Nửa trước phần ngoại thất dài 744 foot (227 m) của tàu RMS Titanic được nhấn chìm vào bể, nhưng vì là phần nặng nhất của con tàu nên nó có tác động giống như một chiếc lò xo chống xóc nổi trên mặt nước; và để nhấn chìm toàn bộ bối cảnh xuống nước, Cameron cho tháo dỡ toàn bộ nội thất trong lòng tàu và thậm chí còn tự tay đập vỡ các cửa sổ của hành lang đi dạo. Sau khi quay cảnh phòng ăn khoang hạng nhất chìm xong, đoàn làm phim dành ra ba ngày để quay cảnh thiết bị tự hành của Lovett tìm kiếm xác tàu ở hiện tại. Cảnh các hành khách nổi trên mặt nước Đại Tây Dương sau khi tàu chìm được quay trong một bể nước dung tích 350.000 galông Mỹ (1.300.000 l), với các xác chết đóng băng được tạo bằng cách rắc lên người diễn viên một loại bột có thể kết tinh khi gặp nước, và sáp được bôi lên tóc và quần áo. Phân cảnh cao trào của tác phẩm, đó là khi con tàu gãy làm đôi trước khi chìm hẳn, cũng như cảnh nó lao xuống đáy Đại Tây Dương có sự tham gia của con tàu tái dựng kích thước thật được nâng lên cao, 150 diễn viên quần chúng và 100 diễn viên đóng thế. Cameron chỉ trích các phim Titanic trước đó đã tái hiện cảnh con tàu lao xuống lần cuối cùng chỉ như một cú trượt nhẹ nhàng. Ông "muốn diễn tả sự hỗn loạn ghê sợ đúng như những gì đã xảy ra". Khi thực hiện cảnh này, mọi người cần phải ngã xuống từ trên boong tàu đang ngày một nghiêng đi, lao xuống dưới hàng trăm feet và va phải những lan can, thanh chắn và chân vịt. Một số lần thử nghiệm với diễn viên đóng thế đã khiến vài người bị thương nhẹ và Cameron cho ngừng thực hiện những cảnh quá nguy hiểm. Chúng được hạn chế đến mức tối đa "bằng cách sử dụng người tái tạo trên máy tính cho các cảnh rơi nguy hiểm". === Biên tập === Có một "sự thật lịch sử quan trọng" mà Cameron quyết định bỏ qua khi làm phim – đó là có một con tàu khác lúc đó đang ở khá gần Titanic, nhưng buổi đêm đã tắt điện đài và không nhận được tín hiệu cầu cứu SOS của họ. "Đúng, là chiếc [SS] Californian. Đó không phải là một sự thoả hiệp với cách làm phim truyền thống. Đó là cách nhấn mạnh, tạo nên một thực tế xúc động cho bộ phim," Cameron phát biểu. Ông cho rằng có một số khía cạnh trong việc tái hiện vụ chìm tàu tỏ ra cần thiết trong quá trình sản xuất tiền kỳ và hậu kỳ, nhưng cuối cùng khi thực hiện lại không còn quan trọng nữa. "Tình tiết về con tàu Californian có trong kịch bản; chúng tôi thậm chí đã quay một cảnh các nhân viên trên tàu tắt chiếc điện đài Marconi của họ đi," Cameron nói. "Nhưng sau tôi đã loại bỏ nó. Loại bỏ hoàn toàn, vì điều đó sẽ hướng sự chú ý của bạn về không gian chính [của tàu Titanic]. Nếu Titanic, trên một phương diện nào đó, là một hình ảnh mang tính biểu tượng mạnh mẽ, giống như một thế giới, một xã hội thu nhỏ trong hoàn cảnh ngày tận thế đang tới gần, thì đó phải là một thế giới cô lập tuyệt đối." Trong lần cắt đầu tiên, Cameron thay đổi đoạn kết đã dự tính nhằm giải quyết câu chuyện của Brock Lovett. Theo kịch bản ban đầu của đoạn kết, Brock và Lizzy trông thấy bà Rose già đứng ở đuôi tàu, và lo sợ bà định tự tử. Rose kể với họ rằng bà luôn mang viên kim cương "Trái tim của Đại dương" bên mình, nhưng không bán nó, để có thể trang trải cuộc sống một mình mà không cần tiền của Cal. Bà nói với Brock rằng cuộc đời là vô giá và thả viên kim cương xuống biển, sau khi cho Brock cầm thử nó. Sau khi công nhận rằng những kho báu chỉ là vô nghĩa, Brock cười trước sự ngu dốt của mình. Còn Rose quay lại phòng ngủ, và từ đó bộ phim kết thúc giống như bản phim cuối cùng. Trong quá trình biên tập, Cameron cho rằng với cách kết như vậy, khán giả sẽ không còn hứng thú với nhân vật Brock Lovett nữa và điều đó cũng sẽ không giúp giải quyết câu chuyện về anh, do đó cuối cùng khi thả viên kim cương Rose chỉ có một mình. Ông cũng không muốn ngắt quãng dòng cảm xúc buồn của khán giả sau cảnh chìm tàu Titanic với chi tiết đó. Bản phim dùng trong lần chiếu thử đầu tiên có một cảnh đánh nhau giữa Jack và Lovejoy diễn ra sau khi Jack và Rose chạy trốn Cal vào phòng ăn đã ngập nước, nhưng các khán giả đến tham dự không thích nó. Cảnh này được viết nhằm giảm nhịp độ và tăng sự gay cấn cho phim, trong đó Cal (giả vờ) đồng ý cho Lovejoy, người hầu của mình, viên "Trái tim của Đại dương" nếu hắn ta lấy lại được nó từ tay Jack và Rose. Lovejoy bám theo hai người trong phòng ăn hạng nhất đang chìm. Đúng lúc họ suýt thoát được hắn ta, thì Lovejoy để ý thấy tay Rose trượt khỏi chiếc bàn cô đang ẩn nấp và chạm xuống nước. Để trả thù việc Lovejoy dựng chuyện anh "ăn cắp" chiếc vòng cổ, Jack lao ra đánh hắn và đập đầu hắn vào một chiếc cửa sổ kính, điều này lý giải vết cắt trên đầu Lovejoy trong bản phim hoàn chỉnh. Nhận xét về cảnh này, các khán giả tới xem thử cho rằng việc một người liều mạng vì một món tài sản là không thực tế, và Cameron cắt bỏ nó vì lý do này, cũng như vì yêu cầu thời gian và nhịp độ tiến triển của phim. Nhiều cảnh khác cũng bị cắt bỏ với lý do tương tự. === Nhạc phim === Album nhạc phim Titanic do James Horner biên soạn. Về phần giọng hát xuất hiện xuyên suốt ở nền bộ phim, sau đó được Earle Hitchner của tờ The Wall Street Journal miêu tả là "đầy sức gợi", Horner chọn ca sĩ người Na Uy Sissel Kyrkjebø, được biết đến với tên gọi "Sissel". Horner biết tới Sissel qua album Innerst I Sjelen của cô, và ông đặc biệt thích cách cô thể hiện ca khúc "Eg veit i himmerik ei borg" ("Tôi biết ở nơi thiên đường có một toà lâu đài "). Ông đã thử giọng hai mươi nhăm đến ba mươi ca sĩ trước khi chọn Sissel để mang đến những cảm xúc đặc biệt cho bộ phim. Horner ngoài ra còn viết bài hát "My Heart Will Go On" cùng Will Jennings một cách bí mật bởi Cameron nói ông không muốn có ca khúc có lời nào trong phim. Céline Dion đồng ý thu âm một bản thu thử với sự thuyết phục của chồng, René Angélil. Horner đợi tới khi Cameron có tâm trạng thích hợp rồi mới cho ông nghe ca khúc. Sau khi thưởng thức vài lần, Cameron đồng ý chọn bài hát này, mặc dù lo ngại ông có thể sẽ bị chỉ trích vì đã cố "tìm cách kiếm lời ở cuối phim". Cameron cũng muốn trấn an các giám đốc hãng phim đang lo lắng và "nhận thấy rằng một bài hát thành công trong bộ phim của ông sẽ là một nhân tố tích cực góp phần khẳng định sự hoàn thiện của tác phẩm." == Phát hành == === Công chiếu lần đầu === 20th Century Fox và Paramount Pictures đồng hỗ trợ tài chính cho Titanic, trong đó Paramount phụ trách phát hành ở Bắc Mỹ và Fox phụ trách phát hành toàn cầu. Họ hy vọng Cameron hoàn thành bộ phim để phát hành vào ngày 2 tháng 7 năm 1997. Bộ phim được dự định ra mắt vào ngày này "để tận dụng thời kỳ doanh thu phòng vé dồi dào vào mùa hè, khi đó những bom tấn thường sinh lời nhiều hơn". Đến tháng tư, Cameron nói rằng những hiệu ứng hình ảnh của phim quá phức tạp và do đó việc phát hành phim vào mùa hè sẽ khó thực hiện được. Do chậm trễ trong sản xuất, Paramount quyết định lùi ngày phát hành sang 19 tháng 12 năm 1997. "Một số lời đồn thổi quá mức cho rằng bản thân bộ phim đã là một thảm hoạ." Một buổi chiếu thử ở Minneapolis ngày 14 tháng 7 "nhận được những phản hồi tích cực" và "những lời lan truyền trên mạng Internet sẽ là nhân tố thuận lợi khiến mọi người truyền tai nhau về bộ phim". Điều này sau đó đã dẫn đến những phản hồi tích cực bao trùm từ giới truyền thông. Bộ phim ra mắt lần đầu ngày 1 tháng 11 năm 1997, tại Liên hoan phim quốc tế Tokyo, phản hồi tại đây được báo The New York Times miêu tả là "thờ ơ". Những phản hồi tích cực chỉ quay trở lại tại Hoa Kỳ; ngày ra mắt chính thức ở Hollywood là 14 tháng 12 năm 1997, khi "những ngôi sao điện ảnh lớn tới tham dự buổi chiếu tỏ ra phấn khích và hăng hái khi nói về bộ phim với truyền thông thế giới". === Doanh thu phòng vé === Tính cả lợi nhuận từ lần phát hành lại năm 2012, Titanic thu về 658.672.302 USD ở khu vực Bắc Mỹ và 1.526.700.000 USD ở các quốc gia khác, tổng doanh thu toàn cầu của phim đạt 2.185.372.302 USD. Đây trở thành bộ phim có doanh thu toàn cầu cao nhất mọi thời đại vào năm 1998, và tiếp tục giữ ngôi vị này trong suốt mười hai năm, tới khi Avatar, một tác phẩm điện ảnh cũng do Cameron viết kịch bản và đạo diễn, vượt qua vào năm 2010. Vào ngày 1 tháng 3 năm 1998, đây trở thành bộ phim đầu tiên vượt qua mốc doanh thu một tỷ USD toàn cầu, và vào ba ngày cuối tuần từ 13–15 tháng 4 năm 2012 — đúng một thế kỷ kể từ khi con tàu chìm xuống đáy Đại Tây Dương—Titanic trở thành bộ phim thứ hai vượt mốc doanh thu 2 tỷ USD trong lần phát hành lại dưới định dạng 3D. Box Office Mojo ước tính rằng Titanic là phim có doanh thu cao thứ năm mọi thời đại ở khu vực Bắc Mỹ sau khi đã điều chỉnh cho phù hợp với tỷ lệ trượt giá theo thời gian. ==== Lần ra rạp đầu tiên ==== Bộ phim thu hút một lượng khán giả tới rạp khá đều đặn kể từ khi khởi chiếu ở Bắc Mỹ ngày thứ sáu, 19 tháng 12 năm 1997. Đến hết dịp cuối tuần đó, các rạp bắt đầu cháy vé. Phim thu về 8.658.814 USD trong ngày đầu tiên ra rạp và 28.638.131 USD trong dịp cuối tuần đầu tiên từ 2.674 rạp, trung bình doanh thu tại mỗi rạp là 10.710 USD, đứng thứ nhất trên bảng xếp hạng doanh thu phòng vé, vượt trên bộ phim thứ mười tám của loạt phim James Bond, Tomorrow Never Dies. Đến dịp năm mới, Titanic đem lại lợi nhuận 120 triệu USD, trở nên ngày càng nổi tiếng và các rạp tiếp tục cháy vé. Doanh thu phòng vé ngày cao nhất của phim là thứ bảy, 14 tháng 2 năm 1998 (Ngày lễ Tình nhân), thu về 13.048.711 USD, thời điểm đó đã là 6 tuần kể từ khi khởi chiếu ở Bắc Mỹ. Bộ phim đứng đầu về doanh thu phòng vé trong mười lăm tuần liên tiếp ở Bắc Mỹ, đây vẫn là một kỷ lục chưa phim nào phá được cho tới nay. Thời gian bộ phim được chiếu tại các rạp Bắc Mỹ lên đến gần mười tháng, trước khi kết thúc hoàn toàn vào thứ năm, 1 tháng 10 năm 1998 với tổng doanh thu nội địa (ở Mỹ) cuối cùng là 600.788.188 USD. Ngoài Bắc Mỹ, lợi nhuận phim mang về còn gấp đôi con số trên, ở mức 1.242.413.080 USD đưa tổng doanh thu toàn cầu trong lần ra rạp đầu tiên của phim lên mức 1.843.201.268 USD. ==== Phân tích thành công thương mại ==== Trước khi được phát hành, nhiều nhà phê bình nhận định bộ phim sẽ là một thất bại lớn về doanh thu phòng vé, nhất là do đây là bộ phim có kinh phí lớn nhất từng được thực hiện tới thời điểm đó. Khi được chiếu cho giới truyền thông vào mùa thu năm 1997, "đó là một điềm báo kinh khủng" bởi "những người chịu trách nhiệm chiếu phim hôm đó tin rằng họ đang trên bờ vực mất việc – do cái gai lớn của bộ phim này khiến cuối cùng phải có tới hai hãng phim cùng góp sức chi trả khoản kinh phí khổng lồ để thực hiện ". Đôi lúc khi làm phim, Cameron cũng nghĩ rằng ông đang "lao đầu vào thảm hoạ". "Sáu tháng cuối cùng làm việc với Titanic chúng tôi luôn tự nhủ rằng hãng phim sẽ thất thu khoảng 100 triệu USD. Đó dường như là điều chắc chắn," ông nói. Khi bộ phim chuẩn bị phát hành, "một số kẻ xấu miệng đã chỉ trích Cameron vì cái được coi là sự hoang phí vô độ và ngạo mạn của ông". Một nhà phê bình phim của tờ Los Angeles Times viết rằng "Sự kiêu căng quá mức của Cameron sắp đánh đắm cả dự án này" và rằng bộ phim "hoàn toàn là một bản sao đã quá phổ biến của chủ nghĩa lãng mạn xa xưa ở Hollywood". Khi bộ phim thành công vang dội, hơn nữa còn là một thành công chưa từng có về doanh thu phòng vé, nó được đánh giá là "một câu chuyện tình đã đánh cắp trái tim của cả thế giới ". "Đợt khán giả đầu tiên xem phim, họ bị choáng ngợp bởi quy mô và sự gần gũi của siêu phẩm. Họ rời rạp, nước mắt hằn trên mặt và cảm xúc như chết lặng vì kinh ngạc." Bộ phim được chiếu tại 3.200 rạp trong mười tuần kể từ khi khởi chiếu, và trong mười lăm tuần liên tiếp đứng đầu các bản xếp hạng, tổng doanh thu phim tăng tới 43% vào tuần thứ chín phát hành. Tính trung bình trong mười tuần, cứ mỗi tuần phim thu về hơn 20 triệu USD, và sau 14 tuần phim vẫn mang về hơn 1 triệu USD một tuần. Hãng 20th Century Fox ước tính rằng bảy phần trăm trong số các thiếu nữ Mỹ đã xem Titanic hai lần tính tới tuần thứ năm ra rạp. Mặc dù có những cô gái trẻ đã xem phim vài lần, sau đó tạo nên hiện tượng "Leo-Mania" (một trong những thời kỳ thành công nhất trong sự nghiệp của Leonardo DiCaprio), và họ được cho là những thành phần khán giả chủ yếu mang tới kỷ lục doanh thu phòng vé mọi thời đại của phim, một số báo cáo khác lại cho rằng thành công của phim là do "những lời kể tích cực về bộ phim giữa các khán giả với nhau và một số người đi xem phim nhiều lần" bởi sự hoà quyện giữa câu chuyện tình lãng mạn và hiệu ứng hình ảnh ngoạn mục. Tác động của bộ phim tới các khán giả nam cũng được đặc biệt chú ý. Được coi là một trong những bộ phim "khiến đàn ông rơi lệ", Phóng viên Ian Hodder của báo MSNBC viết rằng những người đàn ông khâm phục khao khát được khám phá của Jack, thắng bạc lấy một đôi vé lên tàu thuỷ sang Mỹ. "Chúng tôi ca ngợi anh đã dám đem lòng yêu một cô gái không thuộc về thế giới của anh. Chúng tôi khâm phục cách anh lấy cớ vẽ tranh khoả thân để được loã lồ. Vậy nên [khi cái kết bi thương ấy xảy ra], một dòng nước mắt không kiềm chế nổi đã nhấn chìm sự điềm tĩnh của chúng tôi," ông nói. Việc Titanic khiến các khán giả nam rơi lệ được nhắc lại trong bộ phim năm 2009, Zombieland, bởi nhân vật Tallahassee (Woody Harrelson thủ vai), khi nhắc lại cái chết của đứa con trai nhỏ, đã nói rằng: "Tôi chưa từng khóc nhiều như vậy kể từ khi xem phim Titanic." Cũng đề cập tới tính đa cảm của bộ phim, Benjamin Willcock của trang DVDActive.com nói rằng, khi còn là một chàng trai mười bốn tuổi, thực ra ông muốn được khi xem Starship Troopers, nhưng bị chú và những người bạn bắt đi xem phim này. "Lúc đó tôi sao có thể biết rằng mình sẽ được đi xem một sự kiện điện ảnh lớn nhất, thành công nhất mọi thời đại," ông nói. "Tôi cũng thật sự không biết rằng bộ phim có ý nghĩa hơn nhiều so với 'một câu chuyện tình mang hơi thở anh hùng ca' [đơn thuần]". Năm 2010, báo BBC phân tích các định kiến về việc các khán giả nam khóc khi xem Titanic và các phim nói chung. "Các nam khán giả trung niên không 'được cho' là sẽ khóc khi xem phim," tác giả Finlo Rohrer của website này nói, dẫn chứng đoạn kết của Titanic khiến nhiều người rơi nước mắt, và nói thêm rằng "đàn ông, nếu họ muốn khóc khi xem [phim này], thì thường sẽ cố làm điều đó một cách thầm kín." Giáo sư Mary Beth Oliver, của Đại học Tiểu bang Penn, phát biểu, "Với nhiều người đàn ông, họ phải chịu áp lực rất lớn để tránh để lộ ra ngoài những cảm xúc 'nữ tính' như nỗi buồn hay sự sợ hãi. Từ khi còn rất nhỏ, người ta đã dạy con trai rằng họ không nên khóc, và những bài học ấy thường đi kèm với sự chế giễu của mọi người nếu họ không nghe theo." Bà nói, "Thật vậy, những người đàn ông coi thường việc khóc khi xem Titanic sẽ sẵn sàng thú nhận họ như chết lặng khi xem Giải cứu binh nhì Ryan hay Platoon." Với đàn ông nói chung, "việc hy sinh bản thân vì 'một người anh em' thường là tình huống thích hợp [để khóc] hơn". Câu khẩu hiệu của Titanic, "Ta là vua của thế giới này!" trở thành một trong những câu nói nổi tiếng nhất trong ngành công nghiệp điện ảnh. Theo Richard Harris, một giáo sư tâm lý học của Đại học Tiểu bang Kansas, người đã tiến hành một số nghiên cứu tại sao mọi người thích trích dẫn các câu nói trong phim trong các tình huống giao tiếp xã hội, thì việc sử dụng các câu nói trong phim trong giao tiếp hàng ngày cũng giống như nói đùa và là một cách để gây dựng tình thân và sự đoàn kết giữa người với người. "Mọi người làm vậy vì họ thấy thoải mái với bản thân, để làm người khác cười, để làm chính mình cười", ông nói. Cameron giải thích thành công của bộ phim là do doanh thu đáng kể từ trải nghiệm chia sẻ của người xem. "Khi mọi người có một trải nghiệm thú vị và mạnh mẽ ở các rạp chiếu phim, thì họ thường muốn chia sẻ nó. Họ muốn đưa bạn bè đi cùng, để họ có thể cùng nhau thưởng thức," ông nói. "Họ muốn là người cho bạn bè biết rằng bộ phim là một điều gì đó đáng có trong cuộc sống của họ. Đó chính là cách làm của Titanic." Media Awareness Network viết, "Tỷ lệ người xem đi xem lại thông thường của một phim bom tấn chiếu rạp là khoảng 5%. Nhưng tỷ lệ này của Titanic là trên 20%." Doanh thu phòng vé của phim "thậm chí còn càng thêm ấn tượng" khi tính đến yếu tố "độ dài 3 tiếng 14 phút của bộ phim có nghĩa là phim chỉ có thể chiếu ba suất một ngày so với con số bốn suất của những phim thông thường khác". Để giải quyết vấn đề này, "nhiều rạp đã cho chiếu ca đêm và được đáp lại bằng những phòng chiếu kín chỗ đến gần 3:30 sáng". Titanic giữ kỷ lục doanh thu phòng vé trong suốt mười hai năm. Bộ phim mới đây nhất của Cameron, Avatar, được cho là bộ phim có cơ hội vượt qua doanh thu phòng vé toàn cầu của Titanic, và đã làm được điều đó vào năm 2010. Một số lời giải thích vì sao bộ phim này vượt qua Titanic đã được đưa ra. Một trong số đó là, "Hai phần doanh số của Titanic đến từ các thị trường ngoài nước (ngoài Mỹ), và Avatar cũng làm được điều tương tự... Avatar khởi chiếu tại 106 thị trường toàn cầu và đứng đầu doanh thu ở tất cả các quốc gia đó " và những thị trường "như Nga, nơi Titanic chỉ thu được lợi nhuận khiêm tốn vào năm 1997 và 1998, ngày nay lại trở thành những thị trường nóng" với "nhiều rạp và nhiều khán giả hơn" chưa từng thấy. Brandon Gray, Giám đốc Box Office Mojo, nói rằng mặc dù Avatar có thể đánh bại Titanic về kỷ lục doanh thu, bộ phim khó có khả năng vượt Titanic về lượng khán giả tới rạp. "Giá vé xem phim vào thời điểm cuối thập niên 1990 rẻ hơn hiện nay khoảng 3 USD." Vào tháng 12 năm 2009, Cameron phát biểu, "Tôi không nghĩ việc cố đánh bật Titanic khỏi vị trí đỉnh cao là một điều thực tế lắm. Trong vài năm qua đã có nhiều phim hay được ra mắt. Titanic chỉ là đã đánh đúng vào một thứ tình cảm nào đó của khán giả." Trong một buổi phỏng vấn vào tháng 1 năm 2010, ông đưa ra một quan điểm khác vì lúc này lợi nhuận của Avatar đã trở nên dễ đoán hơn. "Nó sẽ xảy ra. Chỉ là vấn đề thời gian thôi," ông nói. === Phản hồi từ giới chuyên môn === Titanic nhận được hầu hết là phản hồi tích cực từ các nhà phê bình điện ảnh. Trên trang tổng hợp kết quả đánh giá Rotten Tomatoes, bộ phim nhận được "Chứng nhận tươi" với 88% đánh giá tích cực được tổng hợp dựa trên 169 bài bình luận, với điểm số trung bình là 7,8 trên 10. Lời nhận xét chung của trang này viết rằng bộ phim "nói chung là một thành công toàn diện của Cameron, người mang tới một sự hoà quyện gây choáng ngợp giữa hình ảnh ngoạn mục và kịch cường điệu cổ xưa". Tại Metacritic, một trang chuyên cho điểm số trung bình dựa trên 100 đánh giá hàng đầu từ các nhà phê bình chính thống, bộ phim nhận được 74 điểm dựa trên 34 bài đánh giá, được xếp hạng "nhìn chung là ý kiến tán thành". Nói về thiết kế tổng thể của bộ phim, Roger Ebert nói, "Bộ phim được thực hiện mà không có sai sót, được kiến tạo một cách thông minh, với diễn xuất xuất sắc, và hoàn toàn cuốn hút... Các tác phẩm điện ảnh như vậy không chỉ khó làm, mà việc làm hay còn là điều không thể." Ông cũng cho rằng những "khó khăn về mặt kỹ thuật" "dễ gây nản lòng tới mức thật kỳ diệu khi các nhà làm phim có thể cân đối được giữa tính kịch và sự thật lịch sử" và "thấy mình hoàn toàn bị thuyết phục bởi cả cốt truyện và bản anh hùng ca buồn". Ông xếp hạng đây là bộ phim hay thứ chín của năm 1997. Trên chương trình truyền hình Siskel & Ebert, bộ phim nhận được "gấp đôi ý kiến tán thành" và được ca ngợi vì đã tái hiện chính xác vụ chìm tàu; Ebert miêu tả bộ phim là "một bản hùng ca huy hoàng của Hollywood, được thực hiện một cách xuất sắc và xứng đáng với sự chờ đợi của khán giả" còn Gene Siskel cho rằng Leonardo DiCaprio có một màn trình diễn rất "quyến rũ". James Berardinelli nhận xét, "Tỉ mỉ trong từng chi tiết, mà vẫn lớn lao về quy mô và ý tưởng, Titanic là một sự kiện điện ảnh về lịch sử hiếm có. Bạn sẽ không chỉ xem Titanic, mà còn trải nghiệm nó." Ông đánh giá đây là bộ phim hay thứ hai của năm 1997. Almar Haflidason của báo BBC viết rằng "vụ con tàu khổng lồ chìm xuống đáy đại dương không còn gì bí ẩn, tuy vậy với nhiều người quy mô và tấn thảm kịch xảy ra vẫn vượt quá sức tưởng tượng" và rằng "nếu [bộ phim] đã làm bạn chết lặng trên ghế trong suốt ba tiếng chiếu, thì bạn đã hoàn toàn cảm nhận được kỳ quan giải trí thực sự ấn tượng của Cameron". Joseph McBride của Tạp chí Boxoffice kết luận, "Miêu tả Titanic là một bộ phim về thảm hoạ xuất sắc nhất từng được thực hiện là chưa đánh giá hết giá trị của nó. Tác phẩm tái tạo vụ chìm con tàu 'không thể chìm' năm 1912 của James Cameron là một trong những tác phẩm lộng lẫy nhất của nền giải trí đại chúng nghiêm túc đến từ Hollywood." Cả hai khía cạnh lãng mạn và khơi gợi cảm xúc của bộ phim đều được ca ngợi tương đương nhau. Andrew L. Urban của báo Urban Cinefile nói, "Bạn sẽ bước ra khỏi phòng chiếu Titanic không phải nói về kinh phí hay độ dài, mà về sức mạnh khơi gợi cảm xúc khủng khiếp của nó, to lớn như chính động cơ con tàu, rắn chắc như chính những chân vịt khổng lồ càn quét tới tận trái tim bạn, và bền vững như chính câu chuyện tình đã đưa đẩy bộ phim." Owen Gleiberman của tạp chí Entertainment Weekly miêu tả bộ phim là, "Một màn trình diễn đầy đặn và đáng sợ về một mối tình định mệnh. Nhà biên kịch kiêm đạo diễn James Cameron đã đưa lên màn ảnh câu chuyện về một tấn thảm kịch đầu thế kỷ 20 vốn đơn giản nhưng dưới góc độ nhân bản của một khát khao thuần khiết và cả nỗi khiếp sợ, và ông đã chạm tới những tầng sâu nhất của điện ảnh đại chúng." Janet Maslin của báo The New York Times bình luận rằng "Bộ phim Titanic hoành tráng của Cameron là tác phẩm đầu tiên trong suốt nhiều thập niên thực sự có thể so sánh với Cuốn theo chiều gió." Richard Corliss của tạp chí Time, ngược lại, lại có nhận xét khá tiêu cực, chỉ trích bộ phim thiếu đi nhiều yếu tố cảm xúc hấp dẫn. Một số nhà phê bình nhận thấy rằng cốt truyện và các đoạn đối thoại của phim khá kém, trong khi phần hình ảnh lại rất ngoạn mục. Bài đánh giá của Kenneth Turan trên tờ Los Angeles Times đặc biệt gay gắt. Bỏ qua những chi tiết cảm động trong phim, ông nói, "Điều thực sự làm tôi rơi nước mắt là Cameron luôn khăng khăng rằng viết kịch bản cho thể loại phim này là việc nằm trong khả năng của ông ta. Không những không phải, mà là còn xa," và sau đó cho rằng lý do duy nhất bộ phim giành giải Oscar là bởi tổng doanh thu của nó. Barbara Shulgasser của tờ The San Francisco Examiner cho Titanic một trên bốn sao, trích dẫn lại lời nói của một người bạn, "Số lần hai [nhân vật chính] gọi nhau bằng tên trong xấp kịch bản viết dở đến mức không thể tưởng tượng này là một dấu hiệu chứng tỏ nó chẳng có cái gì hay ho hơn để các diễn viên nói." Cùng với đó, nhà làm phim Robert Altman gọi đây là "tác phẩm khủng khiếp nhất tôi từng xem trong đời". Trong công trình nghiên cứu về cuộc sống của những hành khách đi trên tàu Titanic công bố năm 2012, nhà sử học Richard Davenport-Hines nói "Phim của Cameron đã khắc hoạ những người Mỹ giàu sang và những người Anh có học như những kẻ độc ác, nguyền rủa sự kiềm chế cảm xúc, sự ăn vận chỉnh tề, cử chỉ tỉ mỉ và sự cầu kỳ trong cách nói, trong khi đó lại biến những người Ireland nghèo khổ và những kẻ mù chữ thành các anh hùng lãng mạn". Titanic cũng vấp phải nhiều sự chỉ trích bên cạnh những thành công. Năm 2003, bộ phim đứng đầu một cuộc thăm dò "Kết thúc phim hay nhất", đồng thời đứng thứ nhất trong một cuộc điều tra của The Film programme với danh hiệu "bộ phim tồi tệ nhất mọi thời đại". Tạp chí điện ảnh của Anh Empire hạ mức đánh giá từ năm sao tuyệt đối với những lời nhận xét phấn khích, xuống bốn sao với một bài đánh giá ít tích cực hơn trong một số ra sau đó, để phù hợp với suy nghĩ của độc giả của họ, những người không muốn dính dáng với những lời thổi phồng xung quanh bộ phim, và với các phản ứng của những người hâm mộ Titanic, thí dụ như những người ra rạp nhiều lần. Cùng với đó, những lời nhại lại (cả có ý tích cực lẫn tiêu cực) và nhiều trò đùa cợt khác nhan nhản trên truyền thông và được phát tán qua mạng Internet, và chúng là nguồn cảm hứng cho những bài bình luận quá khích của những người hâm mộ từ nhiều luồng quan điểm khác nhau. Tác giả Benjamin Willcock của trang DVDActive.com không thể hiểu được những lời chỉ trích hay sự căm ghét mạnh mẽ hướng tới bộ phim. "Điều thật sự làm tôi khó chịu...," ông nói, "là những kẻ thích công kích những người yêu thích bộ phim bằng những lời châm chọc nhơ bẩn." Willcock nói, "Tôi không phản đối việc có một số người ghét Titanic, mà là những kẻ làm những việc khiến bạn cảm thấy chúng thật nhỏ nhen và đáng thương hại (và những người như thế có thật, hãy tin tôi đi), họ nằm ngoài khả năng hiểu biết và thương cảm của tôi." Cameron đã đáp lại những lời chỉ trích trên, cụ thể là lời nhận xét của Kenneth Turan. "Titanic không phải là loại phim nhấn chìm người xem trong sự cường điệu loè loẹt và cuối cùng đuổi họ ra đường trong sự thất vọng và khiến họ có cảm giác như mình vừa bị lừa," ông nói. "Họ vẫn quay lại để trải nghiệm 3 tiếng 14 phút ấy một lần nữa, và còn kéo cả những người khác đi xem cùng, để cùng nhau chia sẻ cảm xúc đó." Cameron nhấn mạnh rằng người xem thuộc mọi lứa tuổi (trải từ 8 đến 80) và xuất thân từ mọi hoàn cảnh đang "ca tụng bản chất nhân văn trong chính con người họ" khi đi xem bộ phim này. Ông miêu tả đây là một kịch bản nghiêm chỉnh, chân thực và dễ hiểu, và nói rằng ông đã có ý "đưa vào đủ mọi cung bậc trải nghiệm và cảm xúc không bao giờ cũ – và rất quen thuộc bởi chúng phản ánh cấu trúc tình cảm cốt lõi của mỗi người" và rằng bộ phim đã thành công theo cách này bởi đã giải quyết tốt tính khuôn mẫu trong cốt truyện. "Turan đã nhầm lẫn giữa tính khuôn mẫu và sự sáo mòn," ông nói. "Tôi không đồng ý với quan điểm của anh ta rằng những kịch bản hay chỉ là những kịch bản vươn tới giới hạn của trải nghiệm con người, hay loè loẹt toàn những cuộc đối thoại tế nhị đầy thâm ý để chúng ta phải ngưỡng mộ." Empire cuối cùng đã khôi phục lại đánh giá năm sao ban đầu dành cho bộ phim và bình luận, "Không có gì đáng ngạc nhiên rằng sẽ thật thu hút nếu chê bai bộ phim Titanic của James Cameron gần như đúng lúc nó được xem là bộ phim yêu thích của cả hành tinh. Luôn luôn. Đó là sự thật." === Giải thưởng === Titanic bắt đầu đợt càn quét các giải thưởng với giải Quả cầu vàng, chiến thắng ở bốn hạng mục, gồm Phim chính kịch hay nhất, Đạo diễn xuất sắc nhất, Nhạc phim hay nhất, và Ca khúc trong phim hay nhất. Kate Winslet và Gloria Stuart cũng được đề cử nhưng không giành giải. Phim cũng giành chiến thắng tại các giải ACE "Eddie", giải ASC, giải Art Directors Guild, giải Cinema Audio Society, giải Screen Actors Guild (hạng mục Nữ diễn viên phụ xuất sắc nhất cho Gloria Stuart), Giải thưởng của Hội Đạo diễn Hoa Kỳ, và giải Broadcast Film Critics Association (hạng mục Đạo diễn xuất sắc nhất cho James Cameron), và giải Producer Guild of America. Phim dược đề cử cho mười hạng mục tại giải BAFTA, trong đó có Phim hay nhất và Đạo diễn xuất sắc nhất; nhưng không giành được giải nào. Bộ phim nhận được mười bốn đề cử giải Oscar, bằng với kỷ lục thiết lập năm 1950 của phim All About Eve và giành mười một giải: Phim hay nhất (bộ phim thứ hai về đề tài Titanic giành được giải này, sau phim Cavalcade năm 1933), Đạo diễn xuất sắc nhất, Chỉ đạo nghệ thuật xuất sắc nhất, Quay phim xuất sắc nhất, Hiệu ứng hình ảnh xuất sắc nhất, Biên tập phim xuất sắc nhất, Thiết kế phục trang xuất sắc nhất, Âm thanh xuất sắc nhất, Biên tập hiệu ứng âm thanh xuất sắc nhất, Nhạc phim hay nhất, Ca khúc trong phim hay nhất. Kate Winslet, Gloria Stuart và các hoạ sĩ hoá trang là những người còn lại được đề cử mà không giành giải. Kịch bản gốc của James Cameron và Leonardo DiCaprio không được đề cử. Đây là bộ phim thứ hai giành được mười một giải Oscar, sau Ben-Hur. The Lord of the Rings: The Return of the King cũng lặp lại kỷ lục này vào năm 2004, khi giành cả mười một giải trong tổng số mười một đề cử. Titanic giành giải Giải Oscar cho ca khúc trong phim hay nhất tại lễ trao giải Oscar lần thứ 70, cùng với ba giải Grammy cho Thu âm của năm, Bài hát của năm và Ca khúc hay nhất viết riêng cho phim điện ảnh hoặc truyền hình. Album nhạc phim trở thành album nhạc phim chủ yếu gồm nhạc giao hưởng bán chạy nhất mọi thời đại, đồng thời giành được những thành công toàn cầu, mười sáu tuần đứng đầu bảng xếp hạng ở Hoa Kỳ, và được chứng nhận kim cương với hơn mười một triệu bản bán ra chỉ riêng tại Hoa Kỳ. Album nhạc phim cũng là album bán chạy nhất năm 1998 tại Hoa Kỳ. Ca khúc "My Heart Will Go On" giành giải Grammy cho ca khúc viết riêng cho phim điện ảnh hoặc truyền hình. Phim cũng giành chiến thắng ở các hạng mục Nam diễn viên xuất sắc nhất (Leonardo DiCaprio) và Phim hay nhất tại giải MTV Movie Awards, Phim hay nhất tại giải People's Choice Awards, và Phim được yêu thích nhất tại lễ trao giải Kids' Choice Awards năm 1998. Titanic còn giành nhiều giải thưởng khác ngoài Hoa Kỳ, trong đó có giải thưởng của Viện hàn lâm Nhật Bản với hạng mục Phim nước ngoài hay nhất của năm. Bộ phim tổng cộng giành gần chín mươi giải thưởng cùng với bốn mươi bảy đề cử từ nhiều hội đồng trao giải trên toàn thế giới. Ngoài ra, cuốn sách viết về hậu trường làm phim còn đứng đầu danh sách bán chạy nhất của báo The New York Times trong nhiều tuần, "lần đầu tiên một cuốn sách viết về một tác phẩm điện ảnh giành được vị trí cao như vậy". Titanic được bầu chọn vào 6 danh sách thuộc Loạt danh sách 100 năm... của Viện phim Mỹ: === Giải trí tại gia === Titanic được phát hành toàn cầu dưới các định dạng màn ảnh rộng và pan và scan trên băng VHS và đĩa lade vào ngày 1 tháng 9 năm 1998. Băng VHS cũng được bán dưới dạng một bộ hộp quà sang trọng, kèm theo một cuộn phim được đóng khung và sáu bức ảnh từ bộ phim được in thạch bản. Phiên bản DVD của phim được phát hành vào ngày 31 tháng 8 năm 1999 trong đó bao gồm một đĩa DVD hỗ trợ định dạng màn ảnh rộng (không có phiên bản anamorphic) và không có tính năng đặc biệt nào ngoại trừ một đoạn trailer chiếu rạp. Cameron phát biểu rằng vào thời điểm đó ông đã có ý định sau này sẽ phát hành một phiên bản đặc biệt kèm theo các tính năng mở rộng. DVD Titanic sau đó đã trở thành đĩa DVD bán chạy nhất năm 1999 và đầu năm 2000, trở thành DVD đầu tiên trong lịch sử vượt mức doanh số một triệu bản. Thời bấy giờ, không tới 5% các hộ gia đình Mỹ có đầu đĩa DVD. "Khi chúng tôi ra mắt đĩa DVD Titanic lần đầu tiên, ngành công nghiệp này còn chưa phát triển, và các tính năng mở rộng chưa trở thành chuẩn mực cho các phiên bản phim phát hành trên DVD như bây giờ," Meagan Burrows, giám đốc bộ phận giải trí tại gia nội địa của hãng Paramount nói. Điều đó càng khiến doanh số DVD của phim càng thêm ấn tượng. Titanic được phát hành lại trên DVD vào ngày 25 tháng 10 năm 2005 dưới dạng một bộ ba đĩa Phiên bản đặc biệt dành cho người sưu tập (Special Collector's Edition) ở Hoa Kỳ và Canada. Phiên bản này bao gồm một bản phim mới được phục hồi lại, cùng với đó là một số tính năng đặc biệt khác. Một bộ hai và bốn đĩa phát hành toàn cầu được ra mắt tiếp sau đó vào ngày 7 tháng 11 năm 2005. Phiên bản hai đĩa được quảng cáo là Phiên bản đặc biệt (Special Edition), có nội dung giống hệt hai đĩa đầu của bộ ba đĩa đã ra mắt trước đây, và chỉ hỗ trợ hệ PAL. Phiên bản bốn đĩa, được quảng cáo là Phiên bản sang trọng dành cho người sưu tập (Deluxe Collector's Edition), cũng được phát hành vào ngày 7 tháng 11 năm 2005. Một bộ 5 đĩa có hạn được phát hành riêng tại thị trường Vương quốc Anh dưới tên gọi Phiên bản sang trọng phát hành hạn chế (Deluxe Limited Edition). Chỉ có 10.000 bản được sản xuất. Đĩa thứ năm là bộ phim tài liệu của Cameron, Ghosts of the Abyss, do Walt Disney Pictures phân phối. Khác với phiên bản phát hành riêng biệt của Ghosts of the Abyss, có hai đĩa, trong bộ này chỉ có đĩa thứ nhất mà thôi. Bộ phim thỉnh thoảng cũng được phát sóng trên truyền hình trên khắp nước Mỹ, ví dụ như kênh TNT. Để cảnh Jack vẽ Rose khoả thân được phép chiếu trên các hệ thống truyền hình và các kênh truyền hình cáp theo yêu cầu, cùng với việc cắt bỏ một số đoạn, thì chiếc áo choàng mỏng có thể nhìn thấu da của Winslet đã được tô đen lại bằng công nghệ kỹ thuật số. Turner Classic Movies cũng chiếu Titanic, đặc biệt là trong những ngày trước Lễ trao giải Oscar lần thứ 82. == Chuyển đổi sang 3D == Phiên bản phát hành lại năm 2012 của Titanic, được biết đến với tên gọi khác là Titanic in 3D, được sản xuất bằng cách master lại bản phim gốc sang định dạng độ phân giải 4K và chuyển đổi hậu kỳ sang định dạng 3D lập thể. Phiên bản 3D của Titanic tốn 60 tuần để thực hiện với kinh phí 18 triệu USD, bao gồm cả việc phục hồi sang độ phân giải 4K. Công đoạn chuyển đổi phim sang định dạng 3D do công ty Stereo D thực hiện còn Sony và Slam Content's Panther Records đảm nhận việc master lại phần âm thanh. Các phiên bản 2D kỹ thuật số và IMAX 2D cho lần phát hành 2012 cũng được sản xuất từ bản phim 4K master lại mới này. Với lần ra mắt ở định dạng 3D, Cameron sử dụng bản phim Super 35 gốc và thay đổi tỷ lệ khung hình từ 2:35:1 sang 1:78:1, cho phép khán giả xem được nhiều hình ảnh ở phía đỉnh và đáy màn hình hơn. Cảnh duy nhất được làm mới hoàn toàn cho lần phát hành này là hình ảnh bầu trời Rose nhìn thấy khi lênh đênh trên biển sau khi tàu chìm, vào rạng sáng ngày 15 tháng 4 năm 1912. Phân cảnh này được thay thế bằng cảnh bầu trời chính xác hơn, khớp với cách bố trí sao (và cả dải Ngân Hà) trên bầu trời Bắc Đại Tây Dương vào thời điểm tháng 4 năm 1912. Nhà vật lý thiên văn Neil deGrasse Tyson là người đề xuất sửa chữa cảnh này; ông chỉ trích rằng cách sắp xếp sao trong bộ phim 1997 là không thực tế. Ông đồng ý gửi cho đạo diễn Cameron một bức ảnh bầu trời chính xác vào thời điểm đó, và đạo diễn sử dụng bức ảnh làm cơ sở để dựng lại cảnh này. Phiên bản 3D của Titanic ra mắt tại Hội trường Royal Albert ở London vào ngày 27 tháng 3 năm 2012, với sự có mặt của James Cameron và Kate Winslet, và được phát hành rộng rãi vào ngày 4 tháng 4 năm 2012, sáu ngày trước ngày kỷ niệm 100 năm con tàu RMS Titanic khởi hành chuyến ra khơi đầu tiên. Buổi lễ ra mắt phim được truyền hình trực tiếp trên trang web live.titanicredcarpet.com, và ngoài ra, khán giả hâm mộ toàn thế giới có thể tham gia theo dõi, đặt câu hỏi và giao lưu với đoàn làm phim thông qua trang Facebook và Twitter chính thức. Nhà phê bình điện ảnh Peter Travers của tạp chí Rolling Stone cho Titanic 3D 3,5 trên 4 sao, viết rằng ông nhận thấy nó "gây ấn tượng khá là khủng khiếp". Ông nói, "Công nghệ 3D làm Titanic có chiều sâu hơn. Bạn được ở đó. Có một cảm giác chưa từng thấy trong một bản anh hùng ca quen thuộc đã giành được chỗ đứng trong tiến trình lịch sử của ngành điện ảnh." Biên tập viên của tạp chí Entertainment Weekly, Owen Gleiberman cho bộ phim điểm A. Ông viết, "Lần này, kỹ xảo hình ảnh trong phim 3-D không u ám hay làm người xem rối mắt. Chúng thật sinh động, có hồn và gây được nhiều cảm xúc." Còn Richard Corliss của tạp chí Time, người tỏ ra rất khắt khe với bộ phim năm 1997, vẫn giữ quan điểm tương tự, "Phản ứng của tôi cũng vẫn gần giống như lần trước: bộ phim đáng sợ thất thường, hầu như toàn nước." Nói về các hiệu ứng 3D, ông viết rằng "việc chuyển đổi sang 3D một cách cẩn trọng mang tới thêm "chất" và gây ấn tượng ở một số khoảnh khắc nhất định... [nhưng] để tách biệt các đối tượng xa gần trong mỗi phân cảnh, những người chuyển đổi đã khiến hình ảnh trở nên rời rạc, thiếu thống nhất." Ann Hornaday của báo The Washington Post tự hỏi bản thân mình rằng "liệu những giá trị về chủ nghĩa nhân đạo và hình ảnh hoành tráng của bộ phim có được nâng cao với phiên bản 3-D của Cameron hay không, và câu trả lời là: không." Cô còn nhận xét thêm rằng "việc chuyển đổi sang 3-D vô tình gây ra khoảng cách ở những chỗ đáng ra cần sự liền mạch, đó là chưa kể đến một số khoảnh khắc kỳ cục vì lỗi khung hình và ghép cảnh." Bộ phim thu về ước tính 4,7 triệu USD trong ngày đầu tiên ra rạp ở Bấc Mỹ (tính cả các suất chiếu thử vào lúc nửa đêm) và đạt doanh thu 17,3 triệu USD trong dịp cuối tuần đầu tiên, đứng vị trí thứ ba. Ở ngoài Bắc Mỹ phim mang về 35,2 triệu USD, đứng ở vị trí thứ hai về lợi nhuận, và tới dịp cuối tuần tiếp theo, phim nhảy lên đứng đầu bảng xếp hạng doanh thu phòng vé với 98,9 triệu USD lợi nhuận. Trung Quốc là thị trường thành công nhất của phim, nơi nó thu về 11,6 triệu USD trong ngày đầu tiên công chiếu, và lập kỷ lục về doanh thu tại đây với 67 triệu USD trong tuần đầu tiên ra mắt, nhiều hơn tổng doanh thu năm 1997 của phim tại quốc gia này. Phiên bản phát hành lại này cuối cùng đã mang về tổng cộng 343,4 triệu USD toàn cầu, trong đó 145 triệu USD đến từ Trung Quốc và 57,8 triệu USD đến từ Canada và Hoa Kỳ. Tại một số vùng lãnh thổ ngoài Bắc Mỹ, phiên bản 3D của Titanic còn được phát hành dưới định dạng 4DX, cho phép người xem trải nghiệm thực tế bối cảnh của phim với các hiệu ứng đặc biệt hỗ trợ như thiết bị chuyển động, gió, khói, ánh sáng và mùi. Ở Trung Quốc, Cục quản lý Phát thanh - Truyền hình - Điện ảnh nước này đã cho cắt bỏ phần hình ảnh từ ngực tới chân của Kate Winslet trong phân cảnh khoả thân của cô, và giải thích rằng, "Nhận thấy những hiệu ứng sống động của phim 3D, chúng tôi lo ngại người xem có thể đưa tay chạm vào hình ảnh, làm gián đoạn việc xem phim của người khác. Để tránh tranh luận và nhằm xây dựng một môi trường đạo đức xã hội lành mạnh, chúng tôi đã cắt bỏ những cảnh nhạy cảm trong phim." Hành động này bị nhiều người hâm mộ bộ phim tại Trung Quốc phản đối. Một khán giả nước này viết rằng, "Chúng tôi đợi chờ 15 năm để được xem những con người 3D chứ không phải để xem những tảng băng 3D." === Phát hành tại Việt Nam === Titanic 3D khởi chiếu tại Việt Nam vào ngày 18 tháng 5 năm 2012, bằng ngôn ngữ gốc là tiếng Anh cùng phụ đề tiếng Việt. Đây cũng là lần đầu tiên bộ phim được công chiếu tại các rạp ở Việt Nam. Nhìn chung, phiên bản 3D của Titanic nhận được những ý kiến phản hồi tích cực từ truyền thông Việt Nam. Cả chuyên trang Giải trí của báo điện tử VnExpress và chuyên mục iOne đều có bài bình luận về phim. Tác giả Nguyên Minh của chuyên trang Giải trí gọi đây là "một người bạn cũ lâu ngày không gặp của mỗi một khán giả từng biết đến và yêu mến bộ phim", viết rằng "Khi xem lại trên màn ảnh rộng, mỗi cảnh phim đều sẽ đem tới cho ta sự bồi hồi, thổn thức như khi lần đầu thưởng thức nó qua màn ảnh nhỏ." Ông ca ngợi khả năng bảo quản bản phim nhựa Titanic của đạo diễn Cameron, giúp cho phiên bản kỹ thuật số tái dựng "mượt mà, không có tì vết thời gian", và nhận xét rằng, "Hiệu ứng 3D của phim không tương tác với khán giả mà tập trung nhiều vào chiều sâu của hình ảnh." Và cuối cùng ông kết luận, "Titanic quả thực là bộ phim đem tới cho nhiều khán giả những cảm xúc mãnh liệt, dù ở thời đại nào đi chăng nữa." Tác giả 57 Bananas của iOne cũng có quan điểm tương tự, viết rằng "Dù là năm 1997, công nghệ kỹ thuật số chưa hiện đại như bây giờ nhưng đạo diễn James Cameron đã có thể tạo nên những cảnh quay hoành tráng, khiến người xem thực sự choáng ngợp. Cảnh hành khách hoảng loạn bỏ chạy khi nước ngập kín các khoang hay cảnh con tàu kiêu hãnh gãy làm đôi chìm xuống đáy đại dương quả thực là những thước phim vô giá đã đi vào lịch sử điện ảnh." Tác giả Thoa Nguyễn nhận xét rằng, "Bộ phim Titanic 3D xứng đáng là một hoài niệm bi tráng về quá khứ và đồng thời là tác phẩm nghệ thuật đương đại." Phóng viên Cobain P ca ngợi cách kể chuyện của bộ phim, cho rằng Cameron đã "kết hợp hài hòa giữa thể loại tình cảm với những thước phim như phim tài liệu khoa học, giữa lời dẫn chuyện của nhân vật Rose khi về già ở thời điểm hiện tại với câu chuyện đắm tàu trong quá khứ", đồng thời gọi bộ phim là "màn phô diễn kỹ xảo hoành tráng làm choáng ngợp thị giác lẫn thính giác [khán giả]" và "một tuyệt phẩm mà bạn phải xem". == Tham khảo == == Liên kết ngoài == Titanic trên Facebook Titanic, film by Cameron (1997) tại Encyclopædia Britannica (tiếng Anh) Titanic - Official Trailer [1997] trên YouTube xuất bản vào 18-04-2009 Titanic 3D - Official Trailer [HD] trên YouTube tải lên vào 16-11-2011 Titanic tại Internet Movie Database Titanic trên TCM Movie Database Titanic tại Allmovie Titanic tại Rotten Tomatoes Titanic tại Metacritic Titanic tại Box Office Mojo Titanic (phim 1997) tại Internet Movie Database
thành phố đặc biệt (nhật bản).txt
Thành phố đặc biệt (tiếng Nhật: 特例市, romaji: tokurei-shi, Hán-Việt: đặc lệ thị) chỉ các đơn vị hành chính cấp hạt của Nhật Bản ở khu vực thành thị có dân số từ 20 vạn trở lên. Các thành phố đặc biệt được phân cấp nhiều chức năng hơn so với các đơn vị hành chính cấp hạt khác, nhưng ít chức năng hơn so với Thành phố chính lệnh chỉ định và thành phố trung tâm. Thành phố đặc biệt thị đặc biệt cùng với thành phố chính lệnh và thành phố trung tâm được xếp vào nhóm các đô thị lớn. Thủ tướng Nhật Bản sẽ căn cứ vào năng lực của thành phố, Luật Tự trị Địa phương, vào nghị quyết của hội đồng đô đạo phủ huyện và hội đồng thành phố để ra quyết định công nhận thành phố là thành phố đặc biệt. Hiện tại, Nhật Bản có 41 thành phố được xếp hạng thành phố đặc biệt. Dưới đây là danh sách các thành phố đó. == Xem thêm == Đơn vị hành chính cấp hạt của Nhật Bản Thành phố chính lệnh chỉ định Thành phố trung tâm (Nhật Bản) == Tham khảo ==
minh thái tổ.txt
Minh Thái Tổ (chữ Hán: 明太祖, 21 tháng 10, 1328 – 24 tháng 6, 1398), tên thật là Chu Nguyên Chương (朱元璋), còn gọi là Hồng Vũ Đế (洪武帝), Hồng Vũ Quân (洪武君), hay Chu Hồng Vũ (朱洪武), thuở nhỏ tên là Trùng Bát (重八), về sau đổi tên thành Hưng Tông (興宗), tên chữ là Quốc Thụy (國瑞). Ông là vị hoàng đế khai quốc của vương triều nhà Minh trong lịch sử Trung Quốc, cai trị từ năm 1368 đến 1398. Các sử gia gọi thời kỳ cai trị của ông là "Hồng Vũ chi trị" (洪武之治). Ông được xem như là một trong các hoàng đế vĩ đại nhất của Trung Quốc nhờ các công trạng của mình với đất nước. Vào giữa thế kỷ 14, cùng với nạn đói, bệnh dịch và các cuộc khởi nghĩa nông dân diễn ra khắp nơi, Chu Nguyên Chương trở thành nhà lãnh đạo của một lực lượng đã chinh phục Trung Hoa và chấm dứt nhà Nguyên, buộc người Mông Cổ phải rút vào thảo nguyên Trung Á. Với việc chiếm được Đại Đô của nhà Nguyên, ông tuyên bố thiên mệnh thuộc về mình và lập ra nhà Minh vào năm 1368. Chỉ tin vào gia đình, ông phân phong đất đai cho các con trai thành các phiên quốc trấn thủ các vùng đầm lầy phía bắc và thung lũng sông Dương Tử. Người con cả của ông, thái tử Chu Tiêu chết sớm, việc này đã khiến ông chọn người cháu nội là Chu Doãn Văn làm người kế vị cùng với việc ban bố Hoàng Minh Tổ Huấn. Nhưng những việc này đều thất bại, khi Chu Doãn Văn quyết định ra tay với các ông chú đã dẫn đến cuộc nổi loạn thành công của Yên Vương Chu Đệ. Chu Nguyên Chương đặt niên hiệu là Hồng Vũ (洪武). Khi qua đời, ông được truy tôn miếu hiệu là Thái Tổ (太祖) và thụy hiệu là Cao Hoàng đế (高皇帝). Tiểu sử của ông được ghi tại Minh sử, quyển 1-3, Thái Tổ bản kỷ. Ông được táng ở Hiếu lăng, Nam Kinh. == Tiểu sử == Nguyên quán của Chu Nguyên Chương vốn thuộc huyện Bái, Từ Châu tỉnh Giang Tô, về sau dời về Tứ Châu, rồi lại dời về huyện Chung Ly, Hào Châu tức Phụng Dương. Cả gia đình ông trôi nổi nhiều nơi do sinh kế thúc bách. Cha mẹ ông có 8 người con, nhưng hai người đã chết yểu, còn lại sáu người, bốn trai hai gái. Chu Nguyên Chương là con út, thuở nhỏ gọi là Trùng Bát, ngay cả tên họ chính thức cũng không có, mãi đến sau khi gia nhập nghĩa quân Quách Tử Hưng, mới lấy tên là Chu Nguyên Chương, tên chữ là Quốc Thụy. Ông xuất thân từ tầng lớp tá điền nghèo khổ, từng giữ dê chăn bò cho địa chủ. Đời Nguyên năm Chí Chính thứ 4 (1344), vùng đất Hoài Bắc phát sinh hạn hán và châu chấu tàn hại cùng với dịch bệnh nên cha mẹ, các anh đều nối tiếp nhau chết cả. Chu Nguyên Chương không biết lấy gì để sống, tới chùa Hoàng Giác làm thầy tu, từng khất thực ba năm tới phía tây của tỉnh An Huy, phía đông tỉnh Hà Nam, trải qua gian khổ tôi luyện. Chu Nguyên Chương là người có tính quật cường, từ nhỏ chí khí đã chẳng tầm thường. Do sức ép của cuộc sống nên ông phải xuất gia đi tu, nhưng không muốn làm nhà sư nhỏ bé, vào chùa mới được 15 ngày thì đã làm nhà sư chu du khắp chốn. Trong lúc bôn ba bốn phương, ông đã bí mật tiếp xúc với Bạch Liên giáo đương thời, hiểu được tình thế trong thiên hạ, lòng người muốn đổi thay, khí vận triều Nguyên sắp hết. Năm Chí Chính thứ 12 (1352), Chu Nguyên Chương tham gia Hồng Cân quân (quân khăn đỏ) của Quách Tử Hưng, được Tử Hưng tin cậy, nhậm chức Tả phó Nguyên soái nghĩa quân. Năm Chí Chính thứ 16 (1356), Chu Nguyên Chương đánh chiếm Tập Khánh (Nam Kinh ngày nay), được Tiểu Minh vương Hàn Lâm Nhi tiến phong làm Ngô Quốc công. Ông lấy Ứng Thiên (Nam Kinh) làm trung tâm, phát triển rất nhanh. Từ năm 1363 đến 1367, lần lượt tiêu diệt tập đoàn Trần Hữu Lượng ở trung lưu Trường Giang và Trương Sĩ Thành ở hạ lưu Trường Giang, bao gồm cả hai bờ nam bắc. Cuối 1367, ông xuất quân Bắc phạt. Chu Nguyên Chương phong Từ Đạt làm đại tướng quân, Thường Ngộ Xuân làm phó tướng dẫn 25 vạn đại quân bắc phạt, đã nhanh chóng chiếm được Sơn Đông. Tháng giêng năm 1368, Chu Nguyên Chương xưng đế, đặt quốc hiệu là Minh, trở thành vua Minh Thái Tổ. Cùng năm đó, công phá Đại đô (Bắc Kinh), lật đổ ách thống trị của nhà Nguyên, từng bước thực hiện thống nhất đất nước. Năm Hồng Vũ thứ 31 (1398), Minh Thái Tổ bệnh mất, hưởng thọ 70 tuổi, ở ngôi 31 năm, chôn tại Hiếu lăng ở phía nam chân núi Chung Sơn thành phố Nam Kinh. == Thống nhất Trung Quốc == === Gia nhập nghĩa quân === Chùa Hoằng Giác nơi Chu Nguyên Chương trú thân chẳng mấy chốc bị phá hủy bởi chiến tranh. Năm 1352, ông tham gia một lực lượng nổi dậy ở địa phương chống lại triều đại Mông-Nguyên. Qua các chiến công trên chiến trường, ông rất nhanh trở thành một vị tướng với lực lượng riêng của mình. Lực lượng của ông gia nhập với quân Hồng Cân, một lực lượng bắt nguồn từ Bạch Liên Giáo, những người thờ Phật và thần Lửa. Cả lực lượng Bạch Liên Giáo và Chu Nguyên Chương đều cố gắng đánh đuổi người Mông Cổ để khôi phục lại Trung Hoa của người Hán. === Đánh bại các đối thủ === Năm 1356, Chu Nguyên Chương đánh hạ được Kim Lăng (Nam Kinh), nơi đây trở thành căn cứ địa của ông và là kinh đô nhà Minh trong suốt thời gian ông trị vì. Chính quyền của ông bắt đầu nổi tiếng và nạn dân khắp nơi bắt đầu đổ về đây, trong 10 năm tiếp theo dân số Nam Kinh tăng gấp 10 lần. Trong khoảng thời gian này, quân Hồng Cân bị chia năm xẻ bảy, Chu Nguyên Chương đứng đầu một nhánh nhỏ (gọi là Minh), còn Trần Hữu Lượng đứng đầu nhánh lớn, kiểm soát vùng trung tâm thung lũng sông Dương Tử. Năm 1360, Chu Nguyên Chương và Trần Hữu Lượng cùng đối đầu quyết chiến để giành được quyền kiểm soát toàn bộ lãnh thổ của quân Hồng Cân cũ. Thời khắc quan trọng nhất của cuộc chiến là trận hồ Bà Dương năm 1363. Trận đánh kéo dài 3 ngày, kết thúc với việc hạm đội hơn trăm chiến thuyền của Trần Hữu Lượng bị đốt sạch, lực lượng 60 vạn quân của Trần Hữu Lượng bị đánh tan tác buộc ông phải rút lui và chết trận một tháng sau đó. Trận đánh được xem như một trong hai trận thủy chiến lớn nhất lịch sử Trung Quốc, trận đánh còn lại là trận Xích Bích, cả hai trận đánh đều có điểm tương đồng là lực lượng phía nam yếu thế hơn đã thắng lực lượng phía bắc mạnh hơn và cả hai trận đánh đều có tính chất quyết định lịch sử Trung Quốc lúc đó. Chu Nguyên Chương khải hoàn về Nam Kinh, từ đó không trực tiếp thân chinh nữa mà chỉ đạo các tướng lĩnh từ kinh đô. Năm 1367, Chu Nguyên Chương đánh bại Trương Sĩ Thành, kẻ vốn chiếm giữ kinh đô nhà Tống ở Hàng Châu. Chiến thắng này giúp chính quyền Chu MInh giành quyền kiểm soát toàn bộ các vùng đất bắc và nam sông Dương Tử. Việc này khiến các thủ lĩnh nghĩa quân nhỏ nhanh chóng đầu hàng. Tháng 1 năm 1368, Chu Nguyên Chương xưng đế, lập ra nhà Minh, lấy niên hiệu là Hồng Vũ, định đô ở Nam Kinh. Nhiệm vụ của triều đại của ông là đánh đuổi người Mông Cổ, khôi phục giang sơn của người Hán. Năm 1368, Chu Nguyên Chương hạ lệnh cho Từ Đạt xuất quân bắc phạt đánh đuổi người Mông Cổ. Người Mông Cổ nhanh chóng bị đánh bại và buộc phải bỏ Đại Đô cùng toàn bộ phía bắc Trung Hoa và rút lui vào thảo nguyên vào tháng 9. Năm 1381, quân Minh dưới sự chỉ huy của Mộc Anh đánh chiếm vùng đất cuối cùng của nhà Nguyên là Vân Nam và Trung Hoa hoàn toàn được thống nhất dưới triều đại nhà Minh. === Kế sách === Đối với chính thể chuyên chế của phong kiến Trung Hoa, quân đội là trụ cột của triều đình. Cho nên hầu hết các vua khai quốc đều lập được nhiều chiến công hiển hách. Cũng có thể nói, chiến tranh đã tôi luyện nên trí dũng và tầm nhận thức của một vĩ nhân. Chu Nguyên Chương vạch ra chiến lược Bắc phạt, đã nói rõ ông là người thông minh tài trí hơn người. Đại tướng quân Từ Đạt, Thường Ngộ Xuân kiến nghị dùng đại quân đánh thẳng vào kinh đô triều Nguyên ngay từ đầu, Chu Nguyên Chương đã nhận thấy không thích hợp. Ông đã chỉ ra: Đạo quân đơn độc đánh sâu vào lòng địch thực tế là một điều cấm kỵ của nhà quân sự. Xem xét kỹ tình thế, ông đã vạch ra chiến lược cẩn thận mà tất thắng: Việc phân tích và bố trí chiến lược kiệt xuất này, hoàn toàn căn cứ theo dự liệu mà phát triển, việc Bắc phạt vì vậy đã thành công. === Nguyên nhân thắng lợi === Bất cứ sự thành công nào của một vĩ nhân, không phải chỉ ngồi đợi ơn ban, mà là nắm lấy vận mệnh của mình. Chu Nguyên Chương đã không có quyền thế, lại không có trình độ văn hóa, ông ta mượn quân đội của Quách Tử Hưng để thâu tóm thiên hạ, sự thành công của ông khái quát lên trong ba điểm chủ yếu: ==== Hoãn xưng vương ==== Nghĩa quân các lộ phá thành chiếm đất, chưa lập được căn cứ ổn định đã vội xưng vương. Chu Nguyên Chương đã sử dụng lời khuyên của nho sĩ Lý Thiện Trường: Năm 1359, ông đã sớm trở thành một trang hào kiệt ngất ngưởng binh hùng tướng mạnh, nhưng ông vẫn không xưng vương mà nhận sự thụ phong của Tiểu Minh vương Hàn Lâm Nhi chính quyền nhà Tống, làm Tả thừa tướng hành tỉnh Giang Tây, năm 1361 được tấn phong tước Ngô Quốc công. Năm 1363, ông rước Tiểu Minh vương về an trí ở Trừ Châu, mượn tay thiên tử ban lệnh cho chư hầu, nhưng vẫn không xưng vương. Năm 1364, Chu Nguyên Chương tiêu diệt tập đoàn quân sự lớn nhất ở lưu vực Trường Giang của Trần Hữu Lượng, lúc này mới xưng là Anh vương, nhưng vẫn tôn trọng Tiểu Minh vương nhà Tống. ==== Đợi thời cơ tránh mũi nhọn quân Nguyên ==== Trước kia, khi thực lực của Chu Nguyên Chương chưa lớn mạnh, ông luôn tránh chạm trán với quân chủ lực nhà Nguyên. Ông đã từng đánh bại quân Nguyên ở huyện Lục Hợp (tỉnh An Huy), nhưng đương thời lực lượng của ông rất yếu, không thể đánh nhau với quân chủ lực nhà Nguyên, thế là nộp lại chiến lợi phẩm thu được, hướng dẫn quân Nguyên đi tấn công quân Trương Sĩ Thành, ông luôn giữ mối giao hảo với nhà Nguyên, uyển chuyển tránh né các cánh quân hùng mạnh, sách lược này được vận dụng rất thành công. ==== Nắm chắc thời cơ để thôn tính dần Giang Nam ==== Chu Nguyên Chương lợi dụng các cánh quân lớn phản Nguyên ở các lộ làm yểm trợ, không để mất thời cơ phát triển ở vùng trung lưu Trường Giang. Ông mượn vây cánh của Đại Tống, cam chịu phận dưới của Tiểu Minh vương, không xuất đầu lộ diện, mà âm thầm tích lũy phát triển lương thực, mở rộng địa bàn. Ông chọn Tập Khánh làm trung tâm, phía Bắc có Lưu Phúc Thông chống trả quân Nguyên, phía Đông lại có Từ Thọ Huy che chắn. Chu Nguyên Chương lợi dụng thời cơ này để phát triển vùng Giang Nam trước, đánh chiếm những vùng bỏ trống. Trong lúc quân Nguyên đang bận truy quét quân Lưu Phúc Thông và Từ Thọ Huy thì Chu Nguyên Chương cũng đã thống nhất được Giang Nam. == Thiết lập sự cường thịnh của triều Minh == Khi nhà Minh mới thành lập, do hậu quả của chính sách cai trị của triều Nguyên và gần 20 năm chiến tranh, nền kinh tế Trung Quốc bị phá hoại nghiêm trọng, đời sống nhân dân rất khốn khổ. Trước tình hình ấy, mặc dầu từ lâu không còn là đại biểu của giai cấp nông dân nữa, nhưng Chu Nguyên Chương vẫn thông cảm được các nổi khổ của nhân dân đồng thời cũng hiểu rõ sức mạnh của quần chúng. Vì vậy ông nói: Quán triệt tư tưởng đó, Minh Thái Tổ đã thi hành những chính sách sau đây: Trả tự do cho những người bị biến thành nô tì trong thời gian loạn lạc, đồng thời cấm cưỡng bức hoặc mua bán dân tự do làm nô tì. Tạo mọi điều kiện thuận lợi cho việc khôi phục và phát triển sản xuất nông nghiệp như kêu gọi nhân dân khai khẩn đất hoang, cho họ có quyền sở hữu vĩnh viễn và không đánh thuế; kêu gọi dân lưu tán trở về quê quán, cấp cho họ ruộng hoang đồng thời cấp bò cày, nông cụ, thóc giống, lương thực để gíup họ vượt qua những khó khăn ban đầu. Triều đình còn chú ý đến vấn đề thủy lợi, giảm nhẹ thuế khóa, cứu tế cho dân những nơi bị mất mùa. Bỏ những hình phạt tàn khốc thời Nguyên như thích chữ vào mặt, cắt mũi, chặt chân, thiến v.v... đồng thời dùng nguyên tắc khoan hồng trong xét xử. Nghiêm trị những quan lại tham nhũng bằng các cực hình như chém bêu đầu, tùng xẻo, giết cả họ v.v... Nhờ những chính sách nói trên, trong vòng 30 năm đầu đời Minh, kinh tế được khôi phục nhanh chóng và bước đầu phát triển, tình hình chính trị được ổn định, đời sống nhân dân bước đầu được cải thiện. === Cải cách ruộng đất === Vì xuất thân từ một gia đình nông dân, Minh Thái Tổ đã biết được sự khốn khó của nông dân nghèo khi luôn bị bóc lột bởi bọn quan lại và cường hào. Bọn thổ hào địa phương luôn dựa vào mối quan hệ với quan viên triều đình mà chiếm đoạt ruộng đất của nông dân và hối lộ quan chức để chuyển gánh nặng thuế má sang cho người nghèo. Để ngăn ngừa những việc này, Hồng Vũ hoàng đế đã cho ban hành hai hệ thống để vừa bảo đảm thu nhập của triều đình từ tô thuế ruộng đất và xác nhận rằng nông dân không bị mất đất. Tuy nhiên, các cải cách đã không diệt được mối đe dọa cho nông dân đến từ bọn tham quan, thay vào đó, sự mở rộng và sự gia tăng uy tín của quan liêu đã được chuyển thành tài sản và sự miễn thuế cho những ai phục vụ trong bộ máy chính quyền. Các quan chức đạt được nhiều đặc quyền hơn và một số trở thành những kẻ cho vay nặng lãi bất hợp pháp và quản lý các sòng bạc. Bằng cách sử dụng quyền lực của mình, quan lại mở rộng điền sản của mình với chi phí là ruộng đất của nông dân thông qua việc mua đứt các khoảnh đất đó hoặc tịch thu đất đai dựa trên thế chấp của nông dân cứ mỗi khi chúng cần thêm đất đai. Nông dân bây giờ phải đi ở thuê hoặc làm lao dịch, hoặc đi tìm việc làm ở nơi khác. Vào những ngày đầu hình thành chính quyền nhà Minh vào năm 1357, Minh Thái Tổ đã đặt rất nhiều sự quan tâm của mình vào việc phân phát đất đai cho nông dân. Một cách để thực hiện việc đó là cưỡng ép di dân đến những vùng dân cư thưa thớt hơn, có người còn bị trói vào cây mà mang đi. Các công trình công cộng như hệ thống thủy lợi và đê điều đều được thực hiện để trợ giúp nông dân. Ngoài ra, Hồng Vũ hoàng đế còn cho giảm các loại lao dịch lên nông dân. Năm 1370, nhà vua hạ chiếu cho hai tỉnh An Huy và Hồ Nam phải giao đất cho nông dân trẻ đã đến tuổi trưởng thành để cày cấy. Chiếu lệnh này là để ngăn chặn địa chủ chiếm đất của nông dân, nó cũng bao gồm việc mảnh đất đó trên danh nghĩa là không thể thuyên chuyển. Vào giữa thời Hồng Vũ, nhà vua thông qua một đạo luật, cho phép những ai đi khai khẩn đất hoang để trồng trọt được giữ lại đất như tài sản mà không phải đóng thuế. Chính sách này được nhân dân hưởng ứng nhiệt liệt và vào năm 1393, đất canh tác tăng đến 8,804,623 khoảnh và 68 mẫu, điều này chưa hề có trong các triều đại trước. Hồng Vũ hoàng đế còn phát động việc trồng 50 triệu cây cối khắp phụ cận Nam Kinh, sửa sang lại kênh rạch thủy lợi, và cho di dân từ nam lên bắc để bổ sung dân số. Nhà vua đã thành công trong việc gia tăng dân số từ 60 triệu lên đến 100 triệu. === Quân sự === Minh Thái Tổ nhận ra rằng người Mông Cổ vẫn là một mối đe dọa thường trực cho Trung Hoa, dù rằng chúng đã bỏ chạy sau sự sụp đổ của nhà Nguyên. Nhà vua quyết định đánh giá lại quan điểm chính thống của Nho gia là giai cấp võ nhân luôn phải ở mức độ kém hơn giai cấp văn nhân bắt nguồn từ thời Tống. Minh Thái Tổ cho giữ vững một đội quân hùng mạnh mà vào năm 1384, nhà vua đã tổ chức lại theo hệ thống "vệ sở". Mỗi đơn vị quân sự bao gồm 5,600 người được chia vào 5 sở và 10 binh đoàn. Đến năm 1393, tổng quân số vệ sở đã đạt đến 1,200,000 người. Quân lính được phân phát đất đai để trồng trọt và chức vụ được thế tập. Loại hình vệ sở có thể được truy ngược lại chế độ phủ binh của thời Tùy Đường. Trong khi quân đội nhà Minh thời kì đầu cực kì thiện chiến, đội quân này đã mất khả năng thực hiện các chiến dịch tấn công sau cái chết của Minh Thành Tổ, cuối cùng quân Minh đã bị quân Mông Cổ đánh bại trong sự biến Thổ Mộc Bảo vào năm 1449 thời Chính Thống của Minh Anh Tông. Việc huấn luyện quân sự được thực hiện ngay tại địa phương. Vào thời chiến, quân lính được điều động từ khắp nơi trên đế quốc theo lệnh của Binh bộ, còn các chỉ huy thì được chỉ định để dẫn dắt quân lính ra trận. Sau khi kết thúc chiến tranh, quân đội được chia thành nhiều nhóm nhỏ và được điều về địa bàn quận huyện của mình, còn tướng lĩnh thì phải giao lại binh quyền cho triều đình. Việc này nhằm ngăn chặn tướng lĩnh nắm quyền lực quá lớn, khó mà khống chế. Tuy nhiên, nó cũng có hệ quả là quân đội lại nằm dưới sự chỉ huy của một quan viên dân sự chứ không phải một tướng lĩnh quân sự. === Luật pháp === Bộ luật được viết nên dưới thời Hồng Vũ được xem là một trong những thành tựu vĩ đại nhất của cả thời đại. Bộ Minh sử nói rằng vào những năm 1364 thì chính quyền Minh của Chu Nguyên Chương đã bắt đầu phác thảo một bộ luật pháp. Đây chính là Đại Minh luật (大明律). Nhà vua dành rất nhiều thời gian cho công trình này và huấn thị các thượng thư của mình rằng bộ luật phải thật toàn diện và dễ hiểu, tránh cho quan lại khai thác các lỗ hổng bằng cách cố ý hiểu sai nghĩa. Đại Minh luật đặt trọng tâm vào các mối quan hệ trong gia đình. Bộ luật cũng là một sự cải thiện to lớn so với luật pháp thời Đường Sơ về các vấn đề nô lệ. Theo luật pháp nhà Đường, nô tì bị đối xử như súc vật trong nhà, nếu lỡ có người dân nào giết đi thì người dân ấy không phải chịu sự trừng phạt của pháp luật. Còn Đại Minh luật bảo vệ cả người dân và nô tì. === Đối với Nho giáo === Được sự hỗ trợ bởi các Nho sĩ, Minh Thái Tổ chấp nhận ý kiến của Nho giáo rằng thương nhân chỉ giống như bọn ăn bám. Nhà vua tin rằng nông nghiệp mới là nguồn thu nhập chính của quốc gia, trong khi thương nghiệp chỉ dành cho bọn ti tiện. Như một hệ quả, nên kinh tế của nhà Minh đặt trọng tâm vào nông nghiệp, trái ngược với hệ thống kinh tế của nhà Tống, những người đi trước người Mông Cổ và chú trọng vào thương nhân và buôn bán để gia tăng thu nhập cho quốc gia. Minh Thái Tổ còn duy trì việc thành lập các cộng đồng nông nghiệp tự cung tự cấp. Tuy nhiên, định kiến của nhà vua đối với thương nghiệp không làm giảm số lượng thương nhân. Trái lại, số lượng thương nhân tăng vọt trong suốt thời Hồng Vũ cùng với sự phát triển về công nghiệp trên khắp đế quốc. Sự gia tăng trong buôn bán một phần là do điều kiện đất đai cằn cỗi và sự quá tải dân số ở một vài vùng đã buộc người dân phải tìm kiếm vận may trong buôn bán. === Đối với Hồi giáo === Minh Thái Tổ đã hạ chiếu cho xây dựng một số nhà thờ Hồi giáo ở Nam Kinh, Vân Nam, Quảng Đông và Phúc Kiến, và cho khắc những lời ca tụng nhà tiên tri Muhammed trong các nhà thờ. Nhà vua cho xây lại nhà thờ Jinjue ở Nam Kinh và một lượng lớn người Hồi chuyển vào thành phố trong thời Hồng Vũ. Một số tư liệu cho thấy Minh Thái Tổ giữ mối quan hệ thân cận với người Hồi, và có khoảng 10 vị tướng dưới trướng nhà vua là người Hồi giáo, trong đó có Lam Ngọc, Mộc Anh, Hồ Đại Hải,....Hoàng đế còn cho viết một bài văn 100 chữ ca ngợi đạo Hồi, thánh Allah và nhà tiên tri Muhammed. === Chính sách ngoại giao === Minh Thái Tổ là người không thích xen vào việc nội bộ của quốc gia khác và phản đối dùng quân sự đối với các nước láng giềng. Ngay từ năm 1369, quốc vương nhà Trần là Trần Nhật Khuê đã sai sứ sang triều cống Minh Thái Tổ, trở thành vị quốc vương đầu tiên cử sứ sang triều cống nhà Minh. Minh Thái Tổ từ chối can thiệp vào Chămpa khi Đại Việt tấn công người Chăm, chỉ thể hiện một sự trách cứ người Việt. Ông đặc biệt căn dặn các hoàng đế tương lai chỉ nên phòng thủ trước các bộ tộc phương bắc, không nên thực hiện việc tấn công nhằm mở rộng bờ cõi và tìm kiếm vinh quang. Trong Hoàng Minh Tổ Huấn viết vào năm 1395, Minh Thái Tổ viết rõ rằng nhà Minh không nên tấn công các quốc gia sau: Chămpa, Campuchia và An Nam (Việt Nam). Minh Thái Tổ khuyên rằng không nên tấn công Nhung Địch ở phía bắc mà chỉ nên tập trung vào việc phòng thủ. Thế nhưng Minh Thái Tổ có những phản ứng rất gay gắt đối với những kẻ cố gắng đe dọa Trung Hoa. Ông cho sứ thần đến Nhật Bản với lời cảnh cáo rằng quân đội của ông sẽ "bắt và diệt sạch bọn cướp các ngươi, tiến thẳng đến nước các ngươi và trói vua của các ngươi lại", do việc đánh phá liên tục của cướp biển Oa Khấu Nhật Bản. === Sự phát triển của nhà Minh === Mặc dù thời Hồng Vũ nhà Minh đã bắt đầu sử dụng tiền giấy, việc phát triển tiền giấy bị bóp nghẹt khi chưa bắt đầu. Do không hiểu về lạm phát, Minh Thái Tổ đã phát hành ra rất nhiều tiền giấy như những phần thưởng và vào năm 1425, triều đình phải cho thu hồi tiền giấy và áp dụng lại tiền đồng vì tiền giấy đã bị tụt giá chỉ còn 1/70 giá trị ban đầu. Trong suốt thời Hồng Vũ, nhà Minh sơ được đặc trưng bởi sự gia tăng dân số đều đặn và đáng kể, phần nhiều là do sự gia tăng lương thực nhờ vào những cải cách nông nghiệp của hoàng đế. Thời Minh mạt, dân số đã tăng tới 50%. Việc này được thúc đẩy bởi những cải tiến quan trọng trong kỹ thuật nông nghiệp, nhờ vào một nhà nước vốn chuyên về nông canh lên nắm quyền vào giữa lúc có một cuộc khởi nghĩa nông dân thân Nho giáo. Trong suốt thời cai trị của nhà vua, mức sống của người dân đã được cải thiện đáng kể. === Quan chế === Để cho vương triều Minh của họ Chu kế tục lâu dài, Minh Thái Tổ trước mắt tăng cường chế độ trung ương tập quyền. Năm Hồng Vũ thứ 9 (1376) bãi bỏ Hành trung thư tỉnh, thiết lập Bố chính sứ ty, Đề hình Án át sứ ty, Đô chỉ huy sứ ty phân ra để quản lý hành chính tư pháp, quân sự. Năm Hồng Vũ thứ 13 (1380) hủy bỏ chức Trung thư tỉnh ở trung ương, bãi bỏ chế độ Tể tướng, phân quyền cho sáu bộ Lại, Hộ, Lễ, Binh, Hình, Công. Thiết lập Đô sát viện giám sát trăm quan, lập Cẩm y vệ là những cơ cấu đặc vụ có nhiệm vụ khống chế thần dân. nhưng sau tể tướng Hồ Duy Dung làm phản, ông ban lệnh hành quyết, đồng thời bãi bỏ chức Tể tướng Trung Quốc, ông cho rằng tể tướng có quyền lực gần bằng hoàng đế, nên có thể tạo phản bất cứ lúc nào. Thái Tổ đã cố gắng và khá thành công trong việc tập trung quyền lực, kiểm soát hết mọi mặt của triều đình để không có đảng phái nào đủ mạnh để lật đổ ông. Ông còn cho củng cố sức mạnh phòng thủ chống lại người Mông Cổ và ngày càng tăng cường thu thập quyền lực vào trong tay. Nhà vua cho bỏ chức vụ tể tướng là vị trí đầu não trong triều đình đã có từ ngàn năm bằng cách vu cho tể tướng của mình mưu phản. Bằng cách bãi bỏ chức vụ tể tướng và thu hết quyền lực của triều đình vào trong tay một mình nguyên thủ, Hồng Vũ hoàng đế đã bỏ đi tấm lá chắn cuối cùng có thể chống lại những hoàng đế vô năng đời sau. Trong lịch sử, quân chủ nhà Minh là kém nhất, không hôn (Minh Thế Tông, Minh Thần Tông) thì bạo (Minh Thành Tổ), giỏi lắm cũng được cho là bình thường (Minh Tuyên Tông, Minh Hiếu Tông), còn lại là bọn lười biếng ham chơi (Minh Hiến Tông, Minh Vũ Tông), đến lúc có người muốn làm việc thì khí số đã hết (Minh Tư Tông). Tuy nhiên, Thái Tổ không thể nào điều hành cả một đế quốc Đại Minh rộng lớn chỉ bằng sức lực bản thân, vì thế ông phải thành lập thêm chế độ Đại học sĩ. Chế độ gần giống với nội các này từng bước thay thế quyền lực của chức vụ tể tướng đã bị bãi bỏ và dần dần trở nên có quyền thế không khác gì chế độ tể tướng. Nhìn vẻ bề ngoài không có thực quyền, các vị Đại học sĩ có thể có một số ảnh hưởng tác động tích cực lên ngai vàng. Bởi vì uy tín và niềm tin mà cộng đồng dành cho họ, các Đại học sĩ có thể hành động như cầu nối trung gian giữa hoàng đế và quan viên các bộ, vì thế tạo nên một lực lượng hòa giải trong triều. Dưới thời Hồng Vũ, hệ thống quan liêu của người Mông Cổ thống trị nhà Nguyên bị thay thế bằng các quan viên người Hán. Hồng Vũ hoàng đế đã cho cải tiến lại hệ thống khoa cử để tuyển dụng quan chức dựa trên các mô hình đạo đức Nho giáo và tài năng văn chương. Các ứng cử viên cho các chức vụ quản lý dân sự và chức vụ sĩ quan quản lý quân đội đều buộc phải thông qua kỳ thi sát hạch của triều đình, dựa trên các yêu cầu của Tứ thư Ngũ Kinh. Hệ thống quan liêu Nho giáo này, vốn bị gạt ra ngoài chính quyền vào thời Nguyên, nay đã được khôi phục lại vị thế của mình trong chính quyền. Minh Thái Tổ cũng rất chú ý đến vai trò của hoạn quan trong việc sụp đổ của các triều đại trước. Ông cho giảm mạnh số lượng hoạn quan, cấm tiệt việc hoạn quan xử lý tấu chương, nhấn mạnh rằng hoạn quan phải mù chữ và cho chém hết những hoạn quan dám có lời bàn về việc triều chính. Nhà vua có ác cảm rất mạnh với hoạn quan, tổng kết bằng câu nói ghi trên bảng sắt: "Hoạn quan không được can chính, kẻ phạm vào thì giết không tha". Tuy nhiên ác cảm này không được truyền lại cho những hoàng đế đời sau, khi việc hai vị hoàng đế Hồng Vũ và Kiến Văn đối xử tệ bạc với hoạn quan đã giúp cho Minh Thành Tổ thành công trong việc cướp ngôi nhờ các hoạn quan và Vĩnh Lạc đã sử dụng hoạn quan như là cơ sở quyền lực của mình. Minh Thái Tổ còn không chấp thuận việc cho họ hàng bên vợ của mình vào triều làm quan, chính sách này được giữ vững vào các triều đại tiếp theo. === Sát hại công thần === Giống như Lưu Bang nhà Hán, Minh Thái Tổ đã gây ra nhiều vụ án văn chương và gây ra nhiều án liên lụy đến nhiều người nhằm diệt trừ hậu họa cho con cháu. Ông nhận thấy Thái tử nhu nhược, khó mà điều khiển nổi những công thần bướng bỉnh không thuần, trước khi ông qua đời còn giúp cho con cháu diệt trừ tận gốc. Tống Liêm là thầy của Thái tử, từ những năm đầu đã theo làm tham mưu cho Thái Tổ vào sinh ra tử chốn quân trường, lập được nhiều công to, làm quan đến chức Học sĩ Thừa chỉ tri chế cáo. Thái Tổ cũng viện cớ để giết ông ta, Thái tử thấy thầy bị kết án chém, rơi lệ cầu xin cho thầy. Để dạy bảo Thái tử, ông cho mang một cây roi lớn có đầy gai nhọn quẳng xuống đất, bảo Thái tử nhặt lên. Thái tử có vẻ lúng túng, nhà vua liền dạy rằng: Thái tử thông minh hiểu được ý của cha, nhưng cũng không cho là đúng, liền khuyên giải vua cha một cách khéo léo rằng: Ngụ ý là làm vua không được tàn bạo. Thái Tổ rất giận dữ, liền tóm lấy ghế quẳng về hướng thái tử. Việc này cho thấy Hồng Vũ Đế sau khi đã ngồi trên ngai rồng đã xem công thần là những gai nhọn cần phải loại bỏ. Thống nhất thiên hạ rồi, không thể dùng võ tướng nữa, ông đã tính kỹ cho con cháu. Dùng quan văn để trị thiên hạ, Thái Tổ vẫn không an tâm, cho nên quyền lực từ trung ương đến địa phương hầu hết đều tập trung trong tay Hoàng đế, phát triển chế độ Trung ương tập quyền đến đỉnh cao, trở thành một trong những vị vua có quyền lực nhất trong lịch sử Trung Quốc. Minh Thái Tổ luôn cho rằng thần dân của ông nên tuân lệnh ông và cực kỳ khét tiếng với việc giết chóc trong các cuộc thanh trừng của mình. Các hình phạt ưa thích của ông là lăng trì và lột da. Một tướng lĩnh của ông là Thường Ngộ Xuân đã thực hiện các cuộc thảm sát ở Sơn Đông và Hồ Nam để trả thù cho việc quân đội của ông bị chống trả. Cùng với thời gian, Minh Thái Tổ trở nên ngày càng lo sợ sẽ bị mưu phản và lật đổ, thậm chí ông còn cho hành quyết các quan viên dám chỉ trích mình. Tương truyền chỉ vì nghe một người dân có lời bất kính với mình mà Hồng Vũ hoàng đế cho tàn sát hàng nghìn người ở Nam Kinh. Vào năm 1380, sau khi đã giết chóc rất nhiều, một tia sét đã đánh thẳng vào cung điện của nhà vua, Minh Thái Tổ cực kỳ sợ hãi và đã dừng các cuộc giết chóc lại một thời gian vì nhà vua sợ bị thiên khiển (trời phạt). Minh Thái Tổ tạo nên những vụ án lớn, văn thần võ tướng, tất cả đều bị càn quét triệt để. Năm Hồng Vũ thứ 13 (1380), Thừa tướng Hồ Duy Dung bị kết tội mưu phản, làm liên lụy đến hơn 3 vạn người vô tội. Năm Hồng Vũ thứ 26 (1393), Lam Ngọc cũng chịu chung số phận như vậy cùng với 2 vạn người. Minh Thái Tổ đã cuốn một loạt "gai góc" đến hơn 6, 7 vạn người. Ông còn để cho cơ quan đặc vụ Cẩm y vệ hoạt động công khai, từ sau bức rèm the lại nhảy lên tiền đài. Trong hơn 30 năm cai trị của Minh Thái Tổ, Cẩm Y vệ chịu trách nhiệm cho cái chết của hơn 10 vạn người. Những năm cuối đời, Minh Thái Tổ còn ban bố điều lệ Hoàng Minh tổ huấn, yêu cầu con cháu cùng các công thần phải tuân thủ "phép tắc của tổ tông", quy định đời sau kẻ nào sửa đổi điều tổ tông đặt ra thì giết không tha. Ông đã giữ chính sách bế quan tỏa cảng, trở thành "tổ huấn", dĩ nhiên là "tổ huấn" đó đã được giữ khư khư một cách tiêu cực, làm cho nền chính trị của vương triều Minh bị ảnh hưởng một cách lâu dài. === Mất === Vào ngày 24 tháng 6 dương lịch năm Hồng Vũ thứ 31 (1398), Minh Thái Tổ băng hà ở Nam Kinh, hưởng thọ 71 tuổi. Sau khi ông chết, các ngự y của ông đã bị lưu đày. Khi hai hoàng đế Hoằng Trị và Gia Tĩnh băng hà thì ngự y của họ đều bị xử tử. Ông được táng ở Hiếu lăng, miếu hiệu là Thái Tổ, thụy là Cao hoàng đế. Vì con trai trưởng của ông là thái tử Chu Tiêu mất sớm, Thái Tổ bỏ qua những người con trai đã trưởng thành của mình mà lập đứa cháu nội Chu Doãn Văn làm Hoàng thái tôn để lên kế vị, tức là vua Minh Huệ Đế. Thái Tổ trong tổ huấn đã viết rằng không phải con trai trưởng thì không được kế vị, đây là một trong những nguyên nhân chủ yếu gây nên sự yếu kém ở các quân chủ nhà Minh đời sau. === Hậu thế === Minh Thái Tổ đã vì giang sơn muôn đời của Đại Minh mà khổ tâm sắp đặt, trừ hậu họa cho con cháu, ban bố tổ huấn, nhưng sự việc cuối cùng lại không theo như ý muốn. Sau khi ông qua đời, mộ phần chưa ráo, thì chú cháu tranh đoạt quyền lực lẫn nhau, "tổ huấn" của ông đã bị người con thứ tư của ông là Chu Đệ phá hoại, chính là Thành Tổ sau này. Thành Tổ chiếm ngôi hoàng đế, dời đô từ Nam Kinh về Yên Kinh, dù trước đó Thái Tổ từng dặn dò con cháu phải đề phòng các rợ tộc phương Bắc xâm chiếm, không được đóng đô ở gần phương Bắc mà phải ở phương Nam. Minh Thái Tổ giết hại công thần, không còn ai để giao việc, tự mình chọn trưởng tôn Chu Doãn Văn làm người kế vị nhưng đã bị chết trong binh lửa. Ông còn dựng bảng sắt cấm chỉ hoạn quan can dự chính sự, mà đến đời Thành Tổ có đến 24 nha môn lọt vào tay hoạn quan, hoạn quan đã nắm giữ cơ quan đặc vụ, triều Minh đã trở thành triều đại mà hoạn quan gây họa kịch liệt nhất. Minh Thái Tổ đặt một cánh quân hùng mạnh trấn giữ Liêu Đông, dặn dò con cháu trấn thủ biên cương phía bắc, nhưng sau này triều Minh lại bị một dân tộc thiểu số ngoài quan ải tiến vào lật đổ là người Nữ Chân. == Vai trò lịch sử == Chu Nguyên Chương tay không dựng nghiệp lớn, đánh đuổi được người Mông Cổ, giành lại quyền tự chủ của người Hán. Bản thân không có một tấc đất nương thân, nhưng qua tự lực phấn đấu mà khai sáng được giang sơn Đại Minh gần 300 năm, vì vậy trong dân gian lưu truyền nhiều giai thoại lạ lùng về ông, chính là thuật lại một cách tôn kính về sự nghiệp và mức độ thông minh tài trí của ông. Thái Tổ lập nghiệp ở phía nam sông Trường Giang mà xuất quân bắc phạt đánh đuổi người Mông Cổ, lấy được thiên hạ là lần duy nhất mà một lực lượng phía nam có thể thống nhất được toàn bộ quốc gia. Các triều đại trước ông như Tần, Hán, Tấn, Tùy, Đường, Tống, Nguyên và sau ông như người con Chu Đệ từ Bắc Kinh đánh xuống phía nam và nhà Thanh đều xuất thân từ phía bắc. Trước và sau ông không ai có thể làm được như thế. Trong chùa Long Hưng huyện Phụng Dương tỉnh An Huy có một cặp đối khái quát khá thần tình cả cuộc đời mà Thái Tổ nếm trải : Tuy vậy, sự lạc hậu của Trung Quốc so với phương Tây bắt đầu từ đời Minh. Sự lạc hậu này thì có nhiều nguyên nhân, trong đó có biện pháp thống trị chuyên chế bảo thủ của Thái Tổ, đặc biệt là thể chế chính trị tập quyền cao độ, quyền lực về kinh tế nằm dưới cực quyền chính trị, mà các chế độ về cửa ải bến sông, chế độ cấm buôn bán trên biển, chế độ hộ làm nghề thủ công, chế độ lưu thông hàng hóa... là nguyên nhân chủ yếu kìm hãm sự phát triển của kinh tế. Những hạn chế này là do xuất thân của Thái Tổ. Ngoài ra, cách chọn nhân tài bằng lối văn bát cổ (một thể văn dùng trong các kỳ thi thời phong kiến, chỉ chuộng phô trương hình thức, ít chuộng giá trị đích thực của nội dung) và chủ trương văn hóa chuyên chế của triều Minh cũng là nguyên nhân chủ yếu để tạo nên sự đình trệ của xã hội Trung Quốc. Công và tội của Thái Tổ đối với lịch sử đều đáng được suy ngẫm. == Miếu và thuỵ hiệu == Hồng Vũ thứ 31, tháng 6, năm Giáp Thìn: Khâm minh Khải vận Tuấn đức Thành công Thống thiên Đại hiếu Cao hoàng đế, miếu hiệu Thái Tổ (欽明啟運俊德成功統天大孝高皇帝) Vĩnh Lạc nguyên niên, ngày 11 tháng 6, năm Đinh Tị: Thánh thần Văn vũ Khâm minh Khải vận Tuấn đức Thành công Thống thiên Đại hiếu Cao hoàng đế (聖神文武欽明啟運俊德成功統天大孝高皇帝) Gia Tĩnh thứ 17, tháng 11: Khai thiên Hành đạo Triệu kỉ Lập cực Đại thánh Chí thần Nhân văn Nghĩa vũ Tuấn đức Thành công Cao hoàng đế (開天行道肇紀立極大聖至神仁文義武俊德成功高皇帝) == Các tể tướng == Lý Thiện Trường Từ Đạt Lý Văn Trung Uông Quảng Dương Hồ Duy Dung == Các danh tướng == Chu Đệ Lưu Bá Ôn Thôi Tụ Trần Hiệp Lý Đằng Lý Lượng Đặng Dũ Thang Hòa Mộc Anh Hồ Đại Hải Du Thông Hải Phó Hữu Đức Lam Ngọc Cao Bân Trương Phụ Hạ Bình Lý Khánh Lương Minh Triệu Quân Dụng Vương Thông Mộc Thạnh Liễu Thăng == Gia đình == Thân phụ: Chu Thế Trân [朱世珍, 1281 - 1344], thụy phong Nhân Tổ Thuần hoàng đế (仁祖淳皇帝). Thân mẫu: Thuần hoàng hậu Trần thị [淳皇后陳氏, 1286 - 1344]. === Anh chị em === Nam Xương Vương Chu Hưng Long [朱興隆; 1344]. Con trai là Chu Văn Chính (朱文正). Hu Di Vương Chu Hưng Thịnh [朱興盛]. Lâm Hoài Vương Chu Hưng Tổ [朱興祖]. Thái Nguyên công chúa [太原公主], trưởng tỉ, lấy Vương Thất Nhất (王七一). Tào Quốc công chúa [曹國公主; 1317 - 1351], nhị tỉ, tên Chu Phật Nữ (朱佛女), lấy Lý Trinh (李贞), mẹ của Lý Văn Trung (李文忠). === Hậu phi === Hiếu Từ Cao hoàng hậu Mã thị (孝慈高皇后马氏, 1332 - 1382), người ở Túc Châu. Dã sử xưng Mã Tú Anh (马秀英), Mã Ngọc Hoàn (马玉环) hoặc Mã Đại Cước (马大脚). Sinh ra Ý Văn Thái tử Chu Tiêu, Tần Mẫn vương Chu Sảng (朱樉), Tấn Cung vương Chu Cương (朱棡), Minh Thành Tổ Vĩnh Lạc Đế, Chu Định vương Chu Túc (朱橚), Ninh Quốc Công chúa và An Khánh Công chúa. Thành Mục Quý phi Tôn thị (成穆貴妃孫氏, 1343 - 1374), người Trần Châu (Hoài Dương ngày nay), cha là Tôn Hòa Khanh (孫和卿). Hồng Vũ nguyên niên, sách phong Quý phi, đứng đầu chúng phi giúp Hoàng hậu quản lý sự vụ. Tôn Quý phi tính tình hiền thuận, tư sắc diễm mỹ, được Thái Tổ và Mã hoàng hậu coi trọng, gọi là Hiền phi (贤妃). Bà sinh ra Lâm An công chúa, Hoài Khánh công chúa và 2 Hoàng nữ chết yểu. Sau khi bà qua đời, Thái Tổ lấy Chu Định vương Chu Túc trở thành con của bà, phục tang 3 năm. Thục phi Lý thị (淑妃李氏), người Thọ Châu (Hoắc Khâu ngày nay), cha là Lý Kiệt (李傑). Năm Hồng Vũ thứ 17 (1384), sách phong Thục phi, chưởng quản hậu cung sự vụ, nhưng không lâu sau thì mất. Ninh phi Quách thị (寧妃郭氏), người Hào Châu; cha là Doanh Quốc công Quách Sơn Phủ (郭山甫); xuất thân danh môn Quách thị; bà là em gái của Đại tướng quân Quách Anh (郭英). Cai quản 6 cung sau khi Lý Thục phi qua đời. Không rõ năm mất, nhiều khả năng bị Minh Thái Tổ ban chết, sinh hạ Lỗ Hoang vương Chu Đàn, Nhữ Ninh Công chúa Triệu Quý phi (赵贵妃), sinh hạ Trầm Giản vương Chu Mô Giang Quý phi (江贵妃) Quách Huệ phi (郭惠妃), sinh hạ Thục Hiến vương Chu Xuân, Đại Giản vương Chu Quế, Dục vương Chu Huệ, Vĩnh Gia Trinh Ý Công chúa, Nhữ Dương Công chúa, Đại Danh Công chúa Trang Tĩnh An Vinh Huệ phi Thôi thị (莊靖安荣惠妃崔氏) Chiêu Kính Sung phi Hồ thị (昭敬充妃胡氏), sinh hạ Sở Chiêu vương Chu Trinh Trịnh An phi (郑安妃), sinh hạ Phúc Thanh Công chúa Đạt Định phi (达定妃), sinh hạ Tề Cung vương Chu Phù, Đàm vương Chu Tử Hồ Thuận phi (胡顺妃), sinh hạ Tương Hiến vương Chu Bách Nhậm Thuận phi (任顺妃), Triều Tiên tiến cống Lý Hiền phi (李贤妃), sinh hạ Đường Định vương Chu Kính Lưu Huệ phi (刘惠妃), sinh hạ Dĩnh Tĩnh vương Chu Đống Cát Lệ phi (葛丽妃), sinh hạ Y Lệ vương Chu Di Ngạc phi (碽妃), Triều Tiên tiến cống. Có sử gia coi là mẹ đẻ của Minh Thành Tổ Hàn phi (韩妃), Triều Tiên tiến cống, sinh hạ Liêu Giản vương Chu Thực Dư phi (余妃), sinh hạ Khánh Tĩnh vương Chu Chiên Dương phi (杨妃), sinh hạ Ninh Hiến vương Chu Quyền Chu phi (周妃), sinh hạ Dân Trang vương Chu Biền, Hàn Hiến vương Chu Tùng Lý Tiệp dư (李婕妤), Triều Tiên tiến cống Thôi Mỹ nhân (崔美人), Triều Tiên tiến cống Trương Mỹ nhân (张美人), sắc đẹp mỹ miều, đặc ân không bị tuẫn táng, sinh hạ Bảo Khánh Công chúa, được Từ Hoàng hậu nuôi dưỡng Cáo thị (郜氏), không phong hiệu, sinh hạ Túc Trang vương Chu Anh Lâm thị (林氏), không phong hiệu, sinh hạ Nam Khang Công chúa === Con cái === ==== Con trai ==== ==== Con gái ==== == Tiểu thuyết hoá == Minh Thái Tổ được tiểu thuyết hoá trở thành một nhân vật trong truyện Ỷ Thiên Đồ Long Ký của Kim Dung. Trong truyện này ông là một giáo chúng của Minh giáo, có quen biết sâu sắc với giáo chủ Trương Vô Kỵ và tham gia khởi nghĩa chống quân Mông Cổ. Khi khởi nghĩa sắp thắng lợi ông lập mưu lừa Trương Vô Kỵ từ bỏ ngôi vị giáo chủ, ép giáo chủ tiếp theo là Dương Tiêu từ chức, giết thủ lĩnh, lừa bạn bè. Cuối cùng khi khởi nghĩa thành công, Minh Thái Tổ tự mình lên ngôi hoàng đế, phản bội Minh giáo. Tên gọi "triều Minh" là để gợi nhớ tới xuất thân Minh giáo của ông. == Xem thêm == Nhà Nguyên Nhà Minh Danh sách Hoàng đế nhà Minh == Tham khảo == Tiêu Lê (2000), Những ông vua nổi tiếng trong lịch sử Trung Quốc, tập 3, Nhà xuất bản Đà Nẵng Nguyễn Hiến Lê (1997) Sử Trung Quốc, Chương VII: Nhà Minh (1368 - 1644) == Chú thích ==
giao thông bên phải và bên trái.txt
Quy tắc giao thông bên phải và giao thông bên trái là các quy tắc lưu thông cơ bản, trong đó xe cộ lưu thông nửa trái hoặc nửa phải của đường. Điều này góp phần giảm bớt lưu lượng giao thông, tránh bị va chạm. Ban đầu, hầu hết các quốc gia đều lưu thông bên trái, ngày nay, có khoảng 66,1% dân số thế giới sống ở các nước lưu thông bên phải và 33,9% ở các nước lưu thông bên trái. Khoảng 72% tuyến đường trên thế giới lưu thông bên phải, 28% lưu thông bên trái. == Thuật ngữ == == Giao thông == === Tính đồng nhất === === Quy tắc giao thông bên trái === Giao thông phải giữ hướng là bên trái, trừ khi vượt thì chuyển sang bên phải. Xe cộ đi ngược chiều được nhìn thấy từ bên phải. Phải cắt qua dòng xe đi ngược chiều khi rẽ phải. Hầu hết các biển báo giao thông được đặt ở bên trái đường. Giao thông trên đảo an toàn (vòng xuyến hay vòng tránh) theo chiều kim đồng hồ. Người đi bộ băng qua đường hai chiều phải chú ý từ bên phải trước tiên. Các làn đường được thiết kế cho xe có tốc độ bình thường và làn xe rẽ trái là bên trái. Hầu hết các làn đường kép (tách ra từ đường cao tốc) đều ra ở phía bên trái. Các loại xe đều phải vượt về bên phải, trừ một số trường hợp thì được phép vượt bên trái. Hầu hết các loại ô tô có chỗ ngồi của lái xe ở phía bên phải. Đèn đỏ có thể được phép rẽ trái. Trên đường không có lối dành riêng cho người đi bộ, được khuyến khích là đi bộ ở bên trái. === Quy tắc giao thông bên phải === Giao thông phải giữ hướng là bên phải, trừ khi vượt thì chuyển sang bên trái. Xe cộ đi ngược chiều được nhìn thấy từ bên trái. Phải cắt qua dòng xe đi ngược chiều khi rẽ trái. Hầu hết các biển báo giao thông được đặt ở bên phải đường. Giao thông trên đảo an toàn (vòng xuyến hay vòng tránh) ngược chiều kim đồng hồ. Người đi bộ băng qua đường hai chiều phải chú ý từ bên trái trước tiên. Các làn đường được thiết kế cho xe có tốc độ bình thường và làn xe rẽ phải là bên phải. Hầu hết các làn đường kép (tách ra từ đường cao tốc) đều ra ở phía bên phải. Các loại xe đều phải vượt về bên trái, trừ một số trường hợp thì được phép vượt bên phải. Hầu hết các loại ô tô có chỗ ngồi của lái xe ở phía bên trái. Đèn đỏ có thể được phép rẽ phải. Trên đường không có lối dành riêng cho người đi bộ, được khuyến khích là đi bộ ở bên phải. Tuy nhiên, tại một số nước quy định khi đi bộ thì đi lề bên trái. Khi đó, người đi bộ sẽ quan sát được xe dễ gây nguy hiểm là xe ngược chiều. Nếu quy định đi bộ bên phải, xe gây nguy hiềm thường là xe đi cùng chiều ở phía sau nên người đi bộ không biết để né tránh trong tình huống nguy hiểm. === Quốc gia lưu thông bên trái === Tổng cộng: 76 quốc gia, cả quốc gia độc lập và lãnh thổ phụ thuộc. Hiện nay, tại châu Âu có 7 quốc gia đang lưu thông ở bên trái: Vương quốc Anh, Ireland, Đảo Man, Guernsey, Jersey, Malta và Cộng hòa Síp. Các quốc gia nêu trên không có đường biên giới giáp với bất kỳ quốc gia nào lưu thông bên phải và tất cả đã từng là một phần của Đế quốc Anh. Một vài quốc gia thuộc Khối thịnh vượng chung Anh và từng là cựu thuộc địa của Anh khác, chẳng hạn như Úc, Barbados, Hồng Kông, Singapore, New Zealand, Bangladesh, Ấn Độ, Pakistan, Sri Lanka, Malaysia, Nam Phi và Trinidad & Tobago hiện đang lưu thông bên trái, nhưng một số khác chẳng hạn như Canada, Gambia, Ghana, Nigeria, Sierra Leone và Hoa Kỳ hiện đang lưu thông bên phải. Một số quốc gia khác đang lưu thông bên trái ở châu Á là Thái Lan, Indonesia, Bhutan, Nepal, Đông Timor và Nhật Bản. Tại Nam Mỹ, chỉ Guyana và Suriname là đang lưu thông bên trái. Nhiều quốc gia thuộc Thái Bình Dương đã chuyển sang lưu thông ở bên trái, sao cho giống với các nước láng giềng Úc và New Zealand, với Samoa thực hiện gần đây, vào 7 tháng 9 năm 2009, quốc gia đầu tiên trong vòng ba thập kỷ gần đây thay đổi hướng lưu thông. === Quốc gia lưu thông bên phải === Tổng cộng: 163 quốc gia và vùng lãnh thổ. == Việt Nam == Theo Gia Định Thành thông chí của Trịnh Hoài Đức thì thuyền bè đi lại trên sông, nhất là những nơi tụ tập đông đúc thì từ cuối thế kỷ 18 đã có lệ phải phải ép bên phải. Đó là theo lệnh của quan điều khiển tên là Nghi Biểu ở Gia Định vốn thấy ghe thuyền đi lại đông đúc, khi va chạm nhau làm hư hại thì kêu quan kiện cáo. Thấy vậy quan mới ra lệnh ép bên phải để dễ phân xử: Thuyền chỉ hô "cậy" (tức ép bên trái) nếu bị mắc cạn hoặc khi rẽ vào bến. Như vậy thì lệ giao thông bên phải cho tàu thuyền ở Việt Nam đã có từ trước thời Pháp thuộc. == Tham khảo == == Liên kết ngoài == (tiếng Anh) Tại sao có một vài quốc gia lưu thông bên trái?
tyneside amateur league.txt
Tyneside Amateur League là một giải bóng đá Anh, chỉ có một hạng đấu nằm ở Cấp độ 14 trong Hệ thống các giải bóng đá ở Anh, góp đội cho Northern Alliance. Năm 2009 giải đấu tròn 60 tuổi. Để ăn mừng sự kiện này giải đã tổ chức một bữa ăn tối với John Beresford là phát ngôn khách mời vào ngày 12 tháng 6 tại The Lancastrian Suite of the Dunston Federation Brewery. == Các câu lạc bộ mùa giải 2015–16 == Bedlington Juniors Blyth Town Dự bị Forest Hall YPC Gosforth Bohemians Dự bị Killingworth YPC Lindisfarne Custom Planet Dự bị Newbiggin Hall Newcastle Chemfica Independent Dự bị Newcastle East End Newcastle Medicals North Shields Athletic Dự bị Ponteland United Dự bị Ryton & Crawcrook Albion Dự bị Stobswood Welfare Wardley West Jesmond == Đội vô địch == == Tham khảo == == Liên kết ngoài == FA Full Time page Football Mitoo page Heaton Rifles Website
sơn tây (thị xã).txt
Sơn Tây là một thị xã trực thuộc thủ đô Hà Nội, Việt Nam. Do địa bàn sinh tụ nên địa danh này luôn là trung tâm kinh tế, văn hóa, chính trị, xã hội của khu vực phía Tây Bắc thủ đô Hà Nội. == Lịch sử == Theo thư tịch cổ thì tên Sơn Tây xuất hiện lần đầu tiên vào năm 1469, đó là trấn sở Sơn Tây đóng ở xã La Phẩm, huyện Tiên Phong, phủ Quảng Oai (nay thuộc, Tản Hồng, Ba Vì, Hà Nội), thời đó gọi là Sơn Tây Thừa Tuyên. Đến thời Lê Cảnh Hưng do bị ngập lụt, nước làm lở thành, trấn sở được dời về xã Mông Phụ, huyện Phúc Lộc, phủ Quảng Oai (nay thuộc xã Đường Lâm). Theo Đại Việt địa dư toàn biên của Nguyễn Văn Siêu thì: "Năm Minh Mệnh thứ 12 (1832), chia hạt gọi là tỉnh Sơn Tây. (Đặt chức Sơn Hưng Tuyên Tổng đốc, cai trị các hạt Sơn Tây, Hưng Hóa, Tuyên Quang; tỉnh lỵ trước ở xã Cam Giá (làng Mía) huyện Phúc Thọ, năm Minh Mệnh thứ 3 dời đến xã Thuần Nghệ, huyện Minh Nghĩa (nay (tức năm 1890) là huyện Tòng Thiện))." Phần đất thị xã Sơn Tây ngày nay vào đầu thế kỷ 19 tương ứng thuộc đất các tổng Cam Giá Thịnh (các làng xã: Cam Giá Thịnh (tức Cam Thịnh hay Yên Thịnh), Yên Mỹ, Cam Tuyền (Cam Lâm), Đông Sàng, Mông Phụ, Giáp Đoài Thượng (Đoài Giáp), Phú Nhi (Phú Nhi, Phú Mai, Phú Hậu), Tân Hội (Hà Tân),..), tổng Phù Sa (làng Phù Sa, Tiền Huân, Thiều Xuân,...),... của huyện Phúc Lộc (Phúc Thọ) phủ Quảng Oai và tổng Thanh Vị (các làng xã: Sơn Lộc, Vị Thủy, Thanh Vi, Tây Vị, Nghĩa Đảm (Nghĩa Phủ), Vân Gia, Thanh Trì, Kính Mỗ (Ái Mỗ), Khê Trai, Đạm Trai (Mai Trai), Thuần Nghệ,... của huyện Minh Nghĩa phủ Quảng Oai; các làng xã Sơn Đông, Triều Đông (Cổ Đông),... tổng Tường Phiêu huyện Thạch Thất phủ Quốc Oai. Năm 1831, Minh Mạng cải cách hành chính, giải thể Bắc Thành, đổi các trấn thành tỉnh, trấn Sơn Tây đổi thành tỉnh Sơn Tây. Thành trấn Sơn Tây cũ trở thành tỉnh lỵ của tỉnh Sơn Tây. Ngày 16 tháng 12 năm 1883, sau Hòa ước Quý Mùi 1883 nhà Nguyễn đầu hàng Pháp, quân đội Viễn chinh Pháp đã chiếm được thành Sơn Tây. Sau khi ổn định chính quyền cai trị tại Việt Nam, năm 1884, thực dân Pháp thành lập thị xã Sơn Tây, làm thủ phủ của tỉnh Sơn Tây mới, với các ranh giới phía tây, phía bắc và phía đông của tỉnh Sơn Tây là sông Đà, sông Hồng và sông Đáy. Đầu thế kỷ 20 (khoảng năm 1924), phần đất thị xã Sơn Tây ngày nay thuộc các tổng Cam Giá Thịnh (các xã Cam Giá Thịnh, Cam Lâm, Đoài Giáp, Đông Sàng, Mông Phụ, Phú Nhi, Yên Thịnh) và Phù Sa (các xã Phù Sa, Thiều Xuân, Tiền Huân) của huyện Phúc Thọ, các tổng Thanh Vị (các xã Ái Mỗ, Bảo vệ, Yên Vệ, Đạm Trai, Mai Trai, Nghĩa Phủ, Thuần Nghệ, Thanh Trì, Thanh Vị, Tây Vị, Vị Thủy, Sơn Lộc), Nhân Lý (xã Xuân Khanh), Tường Phiêu (Sơn Đông, Sơn Trung,..) của huyện Tùng Thiện, (Phúc Thọ và Tùng Thiện là các huyện của phủ Quốc Oai tỉnh Sơn Tây Bắc Kỳ thuộc Pháp). Sau Cách mạng tháng Tám 1945, thị xã Sơn Tây là tỉnh lị tỉnh Sơn Tây. Ngày 21 tháng 4 năm 1965 tỉnh Sơn Tây nhập với tỉnh Hà Đông thành tỉnh Hà Tây. Thị xã Sơn Tây mất vị trí tỉnh lị vào tay thị xã Hà Đông. Ngày 16 tháng 10 năm 1972, chuyển xã Trung Hưng thuộc huyện Ba Vì về thị xã Sơn Tây quản lý. Ngày 27 tháng 12 năm 1975, thị xã Sơn Tây trực thuộc tỉnh Hà Sơn Bình, gồm 3 phường: Lê Lợi, Ngô Quyền, Quang Trung và 2 xã: Trung Hưng, Viên Sơn. Ngày 29 tháng 12 năm 1978, thị xã Sơn Tây trực thuộc thành phố Hà Nội. Ngày 2 tháng 6 năm 1982, chuyển 7 xã: Thanh Mỹ, Kim Sơn, Xuân Sơn, Trung Sơn Trầm, Đường Lâm, Sơn Đông, Cổ Đông thuộc huyện Ba Vì về thị xã Sơn Tây quản lý. Ngày 14 tháng 3 năm 1984, thành lập 2 phường Sơn Lộc (tách ra từ 2 xã Trung Hưng và Trung Sơn Trầm) và Xuân Khanh (tách ra từ 2 xã Xuân Sơn và Thanh Mỹ. Ngày 12 tháng 8 năm 1991, thị xã lại trở về với tỉnh Hà Tây. Ngày 9 tháng 11 năm 2000, thành lập phường Phú Thịnh (tách ra từ xã Viên Sơn). Thị xã Sơn Tây được công nhận là đô thị loại III ngày 30 tháng 5 năm 2006 và đã được thủ tướng chính phủ ký quyết định nâng cấp lên thành phố Sơn Tây trực thuộc tỉnh Hà Tây ngày 2 tháng 8 năm 2007. Ngày 1 tháng 3 năm 2008, chuyển 3 xã Trung Hưng, Trung Sơn Trầm và Viên Sơn thành 3 phường tương ứng. Từ đó, thành phố Sơn Tây có 9 phường: Lê Lợi, Ngô Quyền, Phú Thịnh, Quang Trung, Sơn Lộc, Trung Hưng, Trung Sơn Trầm, Viên Sơn, Xuân Khanh và 6 xã: Cổ Đông, Đường Lâm, Kim Sơn, Sơn Đông, Thanh Mỹ, Xuân Sơn. Ngày 1 tháng 8 năm 2008, cùng với toàn bộ tỉnh Hà Tây, thành phố Sơn Tây được nhập về thủ đô Hà Nội. Ngày 8 tháng 5 năm 2009, Chính phủ ra nghị quyết chuyển thành phố Sơn Tây thành thị xã Sơn Tây trực thuộc Hà Nội.. == Diện tích-Dân số == Diện tích: 11.346,85 ha Nhân khẩu: 320.000người. == Hành chính-Đường phố == Sơn Tây gồm 9 phường, 6 xã: Địa giới hành chính thị xã Sơn Tây: Đông giáp huyện Phúc Thọ; Tây giáp huyện Ba Vì; Nam giáp huyện Thạch Thất của Hà Nội; Bắc giáp huyện Vĩnh Tường củaVĩnh Phúc. Đường phố chính: Đường Đinh Tiên Hoàng (trước là Hàng Đàn) Đường Đền Và (TP. Hà Nội đặt tên - trước đoạn Cầu Cộng có tên là Xã Tắc, nơi xảy ra vụ tập kích Sơn Tây) Đường Hữu Nghị (phường Xuân Khanh - TP. Hà Nội đặt tên) Đường La Thành Đường Phú Hà (từ số nhà 46-50 Đinh Tiên Hoàng giao cắt với đường Phú Nhi đến chân đê Đại Hà) Đường Phú Nhi (TP. Hà Nội đặt tên) Đường Phú Thịnh (TP. Hà Nội đặt tên - trước là Phố Hàng) Đường tránh Thị xã (từ ngã 4 Viện Quân y 105 đến Quốc lộ 32) Đường Trung Sơn Trầm (phường Trung Sơn Trầm - TP. Hà Nội đặt tên-từ ngã tư phố Tùng Thiện đến Cầu Quan) Đường Xuân Khanh (phường Xuân Khanh - TP. Hà Nội đặt tên - từ ngã ba Vị Thủy đến ngã ba Xuân Khanh) Đường Đá Bạc (Từ ngã 3 Chợ Xuân Khanh đến Ngã 3 Cây xăng Tản Lĩnh) Đường Tích Giang Đường Thuần Nghệ Phố Bùi Thị Xuân Phố Cầu Trì Phố Chùa Thông Phố Cổng Ô (từ ngã năm Cổng Ô qua Nhà máy nước Sơn Tây đến ngã tư thôn Thiều Xuân) Phố Đốc Ngữ Phố Hoàng Diệu Phố Lê Lai Phố Lê Lợi Phố Lê Quý Đôn Phố Ngô Quyền Phố Nguyễn Thái Học Phố Phạm Hồng Thái Phố Phạm Ngũ Lão Phố Phan Chu Trinh Phố Phó Đức Chính Phố Phù Sa (TP. Hà Nội đặt tên) Phố Phùng Hưng(phần đường từ số 1 đến chùa Linh Sơn Tự nơi có ngã ba tiếp giáp phố Đinh Tiên Hoàng có tên cũ là phố TÂN MỸ, phần còn lại của phố lên đến giáp ngã ba Trần Hưng Đạo & phố Ngô Quyền tên cũ là phố HÀNG NÓN) Phố Phó Đức Chính (tên cũ là vườn hoa Vạn Xuân nối từ số 2 phố Phùng Hưng đến trụ sở Công An thị xã Sơn Tây) Phố Phùng Khắc Khoan Phố Quang Trung Phố Sơn Lộc (Từ ngã 4 Trung Sơn Trầm qua Nhà thờ Sơn Lộc-Chính Tòa Giáo phận Hưng Hóa giao với Phố Thanh Vỵ) Phố Tiền Huân (TP. Hà Nội đặt tên-từ km42 + 170 quốc lộ 32 đến ngã tư cổng làng Tiền Huân) Phố Thanh Vị Phố Vị Thuỷ Phố Trần Hưng Đạo Phố Trạng Trình Phố Trưng Vương Phố Vân Gia (TP. Hà Nội đặt tên) Phố Tùng Thiện (trước là Đường 21A hay Đường Cuba nay trở thành đoạn tránh Đường Mòn Hồ Chí Minh xuyên Việt) Phố Cầu Hang (Từ Gốc Đa-Đền Bà Mát đến Đầu Cầu Hang vào Trường Cao đẳng Công nghệ và Kỹ thuật Ô tô do TP. Hà Nội đặt tên) Phố Chùa Mới (Từ đầu cầu treo vào nhà máy đường 19-05 rẽ vào) Phố Thiều Xuân ...... == Kinh tế == Công nghiệp: 48% Thương mại-Du lịch-Dịch vụ: 42% Nông nghiệp: 10% (năm 2010) == Địa danh nổi tiếng == Sơn Tây có nhiều danh lam thắng cảnh, di tích lịch sử - văn hóa nổi tiếng như hồ Đồng Mô, thành cổ Sơn Tây, làng Việt cổ đá ong Đường Lâm, Chùa Mía, lễ hội đền Và. Nổi tiếng với sự tích Sơn Tinh-Thủy Tinh. Thành cổ Sơn Tây: Nằm ở trung tâm thành phố, là một công trình quân sự kiến trúc theo kiểu Vauban được xây dựng từ năm Minh Mạng thứ 3 (năm 1822). Khu di tích lịch sử - văn hóa Đường Lâm (đất hai vua): cách thành phố khoảng 4 km và trung tâm Hà Nội 46 km về phía bắc, xưa kia Đường Lâm có tên gọi là Kẻ Mía. Là làng xã duy nhất trong cả nước cùng sinh ra hai vị vua: Phùng Hưng (761 - 802); Ngô Quyền (898-944) nên Đường Lâm được tôn vinh là "đất hai vua", đúng hơn là "làng hai vua". Thắng cảnh hồ Đồng Mô: Nằm trong vùng đồi và thung lũng phía đông núi Ba Vì, hồ Đồng Mô, Ngải Sơn với diện tích gần 2.000 ha, trong đó khu chứa nước 1.450 ha với 21 đảo lớn, nhỏ đã tạo cho cảnh quan vùng này những nét đặc sắc tạo ấn tượng cho khách du lịch. Khoang Xanh - Suối Tiên: Đền Và: thờ đức Thánh Tản, vị thần cai quản Tản Viên Sơn - một trong "Tứ bất tử" trên điện thần nước Việt Nam. Ngôi đình cổ kính có niên đại từ thời Lê Trung Hưng đến thời Nguyễn, nằm giữa rừng lim già đại thụ, tọa lạc trên gò đất rộng 5 ha hình con rùa, đầu quay về hướng bắc, nổi tiếng là nơi cầu đảo rất linh hiển. Đền Và nằm kề bên địa danh Xã Tắc (nay thuộc phường Trung Hưng), là nơi diễn ra vụ tập kích Sơn Tây của không lực Hoa Kỳ năm 1970. Làng Văn hoá du lịch các dân tộc Việt Nam đã được khởi công ở Đồng Mô với quy mô 54 dân tộc anh em sẽ trở thành một địa danh du lịch nghỉ dưỡng quan trọng của Hà Nội. == Kết nghĩa == Với Tỉnh Tây Ninh: Sông Tây Ninh là 'tình kết nghĩa' giữa đồng bào miền Bắc với đồng bào miền Nam trong những năm kháng chiến.Sông Tây Ninh là con sông đào, chảy qua đồng đất một số xã ở huyện Thạch Thất, tỉnh Sơn Tây và Hà Tây cũ, nay là ngoại thành Hà Nội. Ngày ấy mỗi tỉnh ở miền Bắc đăng tên kết nghĩa với một hoặc hai tỉnh ở miền Nam. Cả nước ta thành từng cặp tỉnh anh em kết nghĩa như: Sơn Tây - Tây Ninh, Hà Đông - Cần Thơ, Hà Nội - Huế - Sài Gòn, Hải Phòng - Đà Nẵng, Thái Nguyên - Nha Trang… == Nhân vật nổi tiếng == Phùng Hưng (761 - 802) Ngô Quyền (898-944) là vị vua đầu tiên của nhà Ngô trong lịch sử Việt Nam Giang Văn Minh (1573 - 1638) mệnh danh là vị sứ thần "Bất nhục quân mệnh" (Không để nhục mệnh vua). Sinh tại làng Kẻ Mía, Mông Phụ, xã Đường Lâm. Ở Hà Nội hiện nay có một con đường mang tên Giang Văn Minh, nối với phố Giảng Võ và phố Kim Mã, quận Ba Đình. Đức Huy-Nhạc sĩ (1947-...): Một số tác phẩm nổi tiếng Và tôi cũng yêu em Để quên con tim Đừng xa em đêm nay Đường xa ướt mưa Như đã dấu yêu Người tình trăm năm Và con tim đã vui trở lại Yêu em dài lâu Giống Như Tôi Lời yêu thương .......... Nguyễn Cao Kỳ (1930-2011) là một sĩ quan quân đội cao cấp và cựu chính khách Việt Nam Cộng hòa. Ông từng là Thủ tướng (1965-1967) và Phó Tổng thống (1967-1971) của Việt Nam Cộng hòa. Ông từng là đồng minh rồi đối thủ của cựu Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu; từng được coi là người có tư tưởng chống Cộng trong thời kỳ trước 1975 rồi sau đó, kể từ năm 2004, được Nhà nước Việt Nam coi là biểu tượng của sự hòa hợp hòa giải dân tộc == Làng nghề == Đặc sản: Bánh tẻ Phú Nhi: Chiếc bánh tẻ nhỏ nhỏ, thon thon, nhân thịt nạc, mộc nhĩ, ăn không biết ngán. Nghề làm gạch đá ong: Khác hẳn với gạch đất nung phải qua lò nung, gạch xỉ than phải trộn lẫn một số vật liệu như xỉ than và vôi bột, gạch đá ong chỉ việc đào từ khu đất đá ong lên. Ở Sơn Tây, nhiều vùng có đất đá ong, nhưng tập trung nhiều nhất và tốt nhất, phải nói tới đá ong ở vùng Thạch Thất. Gà Mía: "Đặc sản tiến vua" Có vẻ đẹp phảng phất như con công, thường được tả là "đầu công, mình cốc, cánh trai, ngắn quản, dài đùi, diều vịt, mã lĩnh"… chính là những chú gà Mía – một giống gà quý được người Đường Lâm dày công chăm bẵm và bảo tồn nguồn gen đến tận ngày nay. Làng nghề: Gạch đá ong: có vẻ đẹp tự nhiên và tiện ích cũng khá đặc biệt. Nhà xây tường gạch đá ong thì không khí trong nhà sẽ rất mát mẻ vào mùa hè, ấm áp vào mùa đông. Màu vàng nâu sậm của gạch đá ong dễ gợi tới vẻ đẹp thâm trầm mà ấm áp của đời sống tinh thần vùng trung du Bắc Bộ. Gạch này chịu lực tốt. Nhìn những ngôi nhà ở vùng Thạch Thất tường được xây bằng gạch đá ong, trần nhà bê tông, thấy được sự chắc chắn, vững vàng. Dấu tích chịu lực công phá còn thấy ở nhiều bức tường gạch đá ong Thạch Thất, Sài Sơn là những vết đạn từ thời chống Pháp lỗ chỗ trên tường, không xuyên được và không phá vỡ được bức tường tưởng chừng như rất thô sơ đó. Điều đặc biệt là tường gạch đá ong được xây không phải bằng vôi vữa, xi măng mà gắn mạch bằng đất màu hoặc đất trộn trấu nhào kĩ. Ấy thế mà sự liên kết lại vô cùng chắc chắn, không thua kém gạch nung xây bằng vữa ba-ta hoặc vữa xi-cát. == Giao thông == Quốc lộ 32 nối với Phú Thọ, Yên Bái. Là điểm xuất phát của Quốc lộ 21A (đoạn quốc lộ 21 từ Sơn Tây đi Xuân Mai, do Cuba giúp xây dựng năm 1976 nên còn gọi là đường Cu Ba, nối với Đại lộ Thăng Long-cửa ngõ thủ đô). Đường Hồ Chí Minh Quốc lộ 2C nối Vĩnh Phúc Đường thủy sông Hồng Cầu Vĩnh Thịnh (nối với Vĩnh Phúc; cao tốc Nội Bài - Lào Cai và Phi trường Quốc tế Nội Bài) là cầu vượt sông dài nhất Việt Nam-dài 5,4 km (phần cầu dài 4,4 km và đường dẫn hai đầu dài một km) == Trường đại học và cao đẳng == Thị xã Sơn Tây là nơi có nhiều trường đại học và cao đẳng, đặc biệt là các trường quân sự. Sơn Tây còn được gọi là "Thủ đô của lính" Học viện Quân y, cơ sở 2. Học viện Hậu cần, cơ sở 2. Trường Đại học Trần Quốc Tuấn (trước là Trường Sĩ quan Lục quân 1 hay Trường võ bị Trần Quốc Tuấn). Học viện Phòng không - Không quân. Học viện Biên phòng. Trường Sĩ quan Phòng hóa. Trường Sĩ quan Pháo binh. Trường Đại học Công nghiệp Việt-Hung. Học viện Ngân hàng, cơ sở 2. Trường Đại học Lao động Xã hội, cơ sở 2. Trường Cao đẳng Công nghệ và Kỹ thuật Ô tô-Tổng cục Kỹ thuật-Bộ Quốc phòng. Trường Trung cấp Trinh sát - Tổng cục 2 == Hạ tầng == Hiện nay, trên địa bàn thị xã Sơn Tây đã và đang hình thành một số khu đô thị cao cấp như: khu đô thị Mai Trai - Nghĩa Phủ (phường Trung Hưng), khu đô thị Phú Thịnh (phường Phú Thịnh), khu đô thị Đồi Dền (phường Trung Sơn Trầm), khu đô thị Thiên Mã (Xã Sơn Đông)... == Chú thích == == Liên kết ngoài == Phương tiện liên quan tới Sơn Tây, Hanoi tại Wikimedia Commons Trang thông tin điện tử Thị xã Sơn Tây
văn cao.txt
Văn Cao (15 tháng 11 năm 1923 – 10 tháng 7 năm 1995) là một nhạc sĩ huyền thoại của Việt Nam. Ông là tác giả của "Tiến quân ca" - quốc ca của nước Việt Nam, đồng thời cũng là một trong những gương mặt quan trọng nhất của tân nhạc. Bên cạnh tư cách là một nhạc sĩ, Văn Cao còn là một họa sĩ, nhà thơ với nhiều tác phẩm giá trị. Thuộc thế hệ nhạc sĩ tiên phong, Văn Cao tham gia nhóm Đồng Vọng, sáng tác các ca khúc lãng mạn "Bến xuân", "Suối mơ", "Thiên Thai", "Trương Chi",... ghi dấu ấn trong lịch sử tân nhạc Việt Nam. Sau khi gia nhập Việt Minh, Văn Cao viết "Tiến quân ca", "Trường ca Sông Lô", "Tiến về Hà Nội",... trở thành nhạc sĩ tiêu biểu của dòng nhạc kháng chiến. Sau vụ việc Nhân Văn - Giai Phẩm, Văn Cao phải đi học tập chính trị. Trừ "Tiến quân ca", tất cả những ca khúc của ông cũng giống như các nhạc phẩm tiền chiến khác không được lưu hành ở miền Bắc. Đến cuối thập niên 1980, những nhạc phẩm này mới được biểu diễn trở lại. Năm 1996, một năm sau khi mất, Văn Cao được tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh trong đợt trao giải đầu tiên. Ông cũng đã được Nhà nước Việt Nam trao tặng Huân chương Kháng chiến hạng nhất, Huân chương Độc lập hạng ba, Huân chương Độc lập hạng nhất, Huân chương Hồ Chí Minh Tên ông cũng được đặt cho nhiều con phố đẹp ở Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Huế, Đà Nẵng, Nam Định,... == Tiểu sử == === Thiếu thời === Văn Cao tên thật là Nguyễn Văn Cao, sinh ngày 15 tháng 11 năm 1923 tại Lạch Tray (nay là phường Lạch Tray, quận Ngô Quyền), thành phố Hải Phòng, nhưng quê gốc ở thôn An Lễ, xã Liên Minh, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định. Xuất thân trong một gia đình viên chức, cha của Văn Cao vốn là giám đốc nhà máy nước Hải Phòng. Thuở nhỏ, Văn Cao hoc ở trường tiểu học Bonnal, sau lên học trung học tại trường dòng Saint Josef, là nơi ông bắt đầu học âm nhạc. Năm 1938, khi mới 15 tuổi, vì gia đình sa sút, Văn Cao bỏ học sau khi kết thúc năm thứ hai bậc thành trung. Ông làm điện thoại viên ở sở Bưu điện tại Hải Phòng, nhưng được một tháng thì bỏ việc. Cuối những năm 1930, tân nhạc Việt Nam ra đời. Ở Hải Phòng khi đó tập trung nhiều nhạc sĩ tiên phong như Đinh Nhu, Lê Thương, Hoàng Quý... Văn Cao tham gia vào nhóm Đồng Vọng của Hoàng Quý cùng Tô Vũ, Canh Thân, Đỗ Nhuận... và bắt đầu sáng tác ca khúc đầu tay là "Buồn tàn thu" vào năm 16 tuổi. Cùng nhóm Đồng Vọng, Văn Cao còn sáng tác một số ca khúc hướng đạo vui tươi khác như "Gió núi", "Gò Đống Đa", "Anh em khá cầm tay". Cũng trong thời gian ở Hải Phòng, Văn Cao làm quen với Phạm Duy, khi đó là ca sĩ trong gánh hát Đức Huy. Phạm Duy chính là người đã hát "Buồn tàn thu", giúp ca khúc trở nên phổ biến. Năm 1940, Văn Cao có một chuyến đi vào miền Nam. Ở Huế, Văn Cao đã viết "Một đêm đàn lạnh trên sông Huế", được coi là bài thơ đầu tay. Năm 1942, nghe theo lời khuyên của Phạm Duy, Văn Cao rời Hải Phòng lên Hà Nội. Ông thuê căn gác nhỏ số 171 phố Mongrant - nay là 45 Nguyễn Thượng Hiền - và theo học dự thính tại Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương. Văn Cao còn làm thơ, viết truyện đăng trên Tiểu thuyết Thứ Bảy. Năm 1943 và 1944, Văn Cao hai lần xuất hiện trong triển lãm Salon Unique tổ chức tại nhà Khai trí Tiến Đức, Hà Nội với các bức tranh sơn dầu: "Cô gái dậy thì", "Sám hối", "Nửa đêm". Đặc biệt tác phẩm "Cuộc khiêu vũ những người tự tử" ("Le Bal aux suicidés") được đánh giá cao và gây chấn động dư luận. Tuy được báo chí khen ngợi, nhưng tranh của Văn Cao không bán được. Ông trải qua một thời gian dài ở Hà Nội trong thiếu thốn. Cùng bạn bè, Văn Cao thường phải đứng bán các tác phẩm của mình trên các đường phố Hà Nội, Hải Phòng. === Tham gia Việt Minh === Cuối năm 1944, Văn Cao gặp lại Vũ Quý, một cán bộ Việt Minh mà ông đã quen biết trước đó. Vũ Quý thuyết phục ông tham gia Việt Minh, với nhiệm vụ đầu tiên là sáng tác một hành khúc. Văn Cao đã sáng tác ca khúc đó trong nhiều ngày tại căn gác số 171 phố Mongrant (nay là phố Nguyễn Thượng Hiền, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội) và đặt tên cho tác phẩm là "Tiến quân ca". "Tiến quân ca" được in trên trang văn nghệ của báo Độc Lập tháng 11 năm 1944. Ngày 13 tháng 8 năm 1945, Hồ Chí Minh đã chính thức duyệt "Tiến quân ca" làm quốc ca của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, Văn Cao làm phóng viên và trình bày cho báo Lao động. Năm 1946, Văn Cao được cử cùng Hà Đăng Ấn chuyên chở vũ khí và tiền vào mặt trận Nam Bộ. Sau đó chính thức được mời tham gia Hội Văn hoá Cứu quốc và được bầu là Ủy viên Chấp hành, Văn Cao hoạt động ở liên khu III, phụ trách tổ điều tra của công an Liên khu và viết báo Độc Lập. Đầu năm 1947, ông được cử phụ trách một bộ phận điều tra đặc biệt của công an Liên khu 10 ở biên giới phía bắc. Tại đây ông được giao nhiệm vụ kết nghĩa với vua Mèo để lập ra một phòng tuyến bảo mật chống sự tràn sang của quân Trung Hoa Quốc dân Đảng khi thua trận. Ở Lào Cai, Văn Cao còn mở một quán bar để làm địa điểm theo dõi. Tháng 3 năm 1948, Văn Cao được kết nạp Đảng Cộng sản Đông Dương. Cuối năm 1949, Văn Cao thôi làm báo Văn Nghệ chuyển sang phụ trách Đoàn Nhạc sĩ Việt Nam. Thời kỳ này, ông tiếp túc sáng tác các ca khúc nổi tiếng khác như "Làng tôi" (1947), "Ngày mùa" (1948), "Tiến về Hà Nội" (1949)... và đặc biệt là "Trường ca Sông Lô" năm 1947. Năm 1952, Văn Cao sang Liên Xô nghiên cứu âm nhạc. Theo Hoàng Văn Chí thì chuyến đi này làm Văn Cao "thất vọng về chủ nghĩa cộng sản". Trần Gia Phụng thì miêu tả một cậu bé thổi sáo bằng hai mồm. Một cái được vẽ từ cách nhìn thẳng, một cái được vẽ bằng cách nhìn nghiêng. Làm nền, phía sau cậu bé là đông nghịt những con người trong một tiết tấu đầy chuyển động của nhịp chiến tranh. Bức tranh này cùng với bức Cây đàn đỏ vẽ một người bộ đội ôm "Cây đàn chủ nghĩa" mà Văn Cao gửi tham gia Triển lãm Hội họa ở Liên khu III, ông bị quy kết: hình thức lai căng, nội dung thì có vấn đề về tư tưởng. ==== Đội trưởng Đội danh dự Việt Minh ==== ===== Thành lập ===== Năm 1944, Văn Cao được Vũ Quý giao nhiệm vụ thành một lập đội vũ trang, nhiệm vụ của đội chủ yếu làm công tác ám sát và bảo vệ an toàn cho các đội viên tuyên truyền tại các nơi công cộng do Văn Cao làm đội trưởng với tên gọi Đội danh dự Việt Minh. Đội danh dự Việt Minh được thành lập vào cuối tháng 12/1944 tại căn gác nhỏ của Văn Cao ở 45 phố Nguyễn Thượng Hiền. Những đội viên trong đội đều do Văn Cao tuyển chọn. Đa số là những người bạn hoạt động với ông ở Hải Phòng. Văn Cao thường xuyên tổ chức những khóa huấn luyện ngắn ngày cho đồng đội của mình về võ thuật, sử dụng vũ khí và kỹ năng hóa trang... (Văn Cao học võ từ năm 9 tuổi. Thời trai trẻ ở Hải Phòng, Văn Cao đã nhiều lần lên võ đài thi đấu và biểu diễn võ thuật). ===== Chiến công ===== Đội danh dự Việt Minh của Văn Cao hoạt động rất hiệu quả ở Hà Nội và Hải Phòng. Nhiều cơ sở của Việt Minh tại Hà Nội và Hải Phòng bị lộ, nhiều cán bộ Việt Minh bị Nhật bắt đều do những người hợp tác với Nhật chỉ điểm. Để ngăn chặn tối đa những tổn thất, bằng nhiều biện pháp nghiệp vụ: viết thư cảnh cáo, gặp trực tiếp răn đe… Văn Cao cùng đồng đội đã khống chế, vô hiệu hóa và cảm hóa được nhiều người chỉ điểm. Trong đó, có hai vụ do chính Văn Cao thực hiện. Vụ Võ Văn Cầm tại Hà Nội Võ Văn Cầm cầm đầu tổ chức Thanh niên Đại Việt, có trụ sở đóng tại phố Nhà thờ. Cầm thường xuyên tập hợp cấp dưới cùng hiến binh Nhật vây bắt các cơ sở Việt Minh. Mặc dù đã bị cảnh cáo nhiều lần, nhưng Cầm vẫn tiếp tục hoạt động. Đầu tháng 4/1945, Văn Cao được giao nhiệm vụ ám sát Võ Văn Cầm. Do tính chất quan trọng, ông Lê Trọng Nghĩa (được Xứ ủy Bắc Kỳ cử về phụ trách đảng Dân chủ) điều đồng chí Phạm Văn Mẫn (sau này là Đại tá, Cục trưởng Cục Kỹ thuật Bộ Công an) về hỗ trợ. Võ Văn Cầm có một cô vợ bé ở chợ Mơ. Mỗi lần về thăm vợ, ông ta thường đi xe kéo, còn Ba Mai làm bảo vệ đạp xe đi cùng. Tuyến đường đi của ông ta từ trụ sở qua Hàng Trống về Bà Triệu đến Nguyễn Du rẽ lên Phố Huế rồi về chợ Mơ. Theo kế hoạch, Mẫn bám theo Cầm từ trụ sở, một đồng đội của Văn Cao là Đ.H.I đón ở góc phố Bà Triệu. Khi Cầm đi qua Đ.H.I cũng bám theo, còn Văn Cao sẽ đợi trước cửa hàng thuốc Phố Huế gần chợ Hôm. Khi nhận được tín hiệu của Mẫn, Văn Cao sẽ tiến lên trực tiếp bắn Cầm. Mẫn và Đ.H.I có nhiệm vụ hỗ trợ và bảo vệ Văn Cao rút lui. Tuy nhiên đã xảy ra một bất ngờ mà Văn Cao không lường trước được. Đ.H.I mới được Văn Cao đưa vào hoạt động nên khi cùng Mẫn bám theo Cầm đến đầu chợ Hôm, do muốn lập công, Đ.H.I đã tự ý vượt lên bắn Cầm bằng khẩu Browning khiến Mẫn không kịp trở tay. Đ.H.I bắn trượt, Cầm hoảng sợ chui xuống gầm xe. Đ.H.I đạp xe chạy. Ba Mai rút súng định đuổi theo bắn Đ.H.I nhưng Mẫn đã kịp thời bắn chết Ba Mai. Vụ Đỗ Đức Phin tại Hải Phòng Đỗ Đức Phin nguyên là giáo viên, giỏi tiếng Nhật nên thường mở lớp dạy tiếng Nhật tại nhà. Sau khi Nhật đảo chính Pháp, Đỗ Đức Phin ra làm thông ngôn cho Nhật. Cuối tháng 6/1945, được Phin chỉ điểm, Nhật tổ chức một chiến dịch truy quét các cơ sở cách mạng trong thành phố. Hàng loạt các cán bộ cách mạng bị bắt. Trần Liễn, một người bạn và là đồng đội của Văn Cao chạy thoát lên Hà Nội báo cáo tình hình ở Hải Phòng cho Văn Cao biết và đề nghị Văn Cao về Hải Phòng trừ khử Đỗ Đức Phin. Văn Cao giao nhiệm vụ cho Trần Liễn về Hải Phòng tổ chức theo dõi quy luật của Đỗ Đức Phin. Được phép của cấp trên, Văn Cao xuống Hải Phòng. Trước khi vào thành phố, Văn Cao vào một cơ sở cách mạng trong làng Do Nha, hóa trang thành một ông lão, mượn xe đạp vào thành phố. Ông về nhà Doãn Tòng ở Lạc Viên là nơi ông vẫn thường lui tới mỗi khi về Hải Phòng. Tại đây những người bạn cũng là đồng đội của Văn Cao đều đã có mặt. Trần Liễn báo cáo cho Văn Cao về địa điểm Đỗ Đức Phin thường lui tới hàng ngày. Đó là một tiệm hút thuốc phiện tại góc phố Phan Bội Châu, gần Vườn hoa đưa người. Văn Cao lên kế hoạch hành động và phân công việc cụ thể cho từng người. Hôm sau đến giờ hành động, Doãn Tòng lấy xe đạp đèo Văn Cao đến hết đường Cát Cụt, Văn Cao xuống xe bảo Doãn Tòng trở về. Văn Cao lách cửa vào, bình tĩnh lên gác. Đứng đầu cầu thang nhìn vào phòng, Văn Cao xác định được Đỗ Đức Phin nằm hút sát tường trên sập, mặt hướng ra cửa. Văn Cao rút khẩu Colt tiến vào tuyên bố xử tử Đỗ Đức Phin và bóp cò. Súng bị hóc đạn. Ông bình tĩnh nhét khẩu Colt vào bụng rồi móc túi áo măngtô rút khẩu Browning bắn 2 phát đạn găm vào ngực Đỗ Đức Phin. Bắn xong, Văn Cao bình tĩnh xuống gác lách cửa ra, nhảy lên xe đạp hòa vào dòng người đi ra thành phố. ===== Giải tán ===== Mấy ngày sau Quốc khánh năm 1945, theo chỉ thị của trên, Văn Cao bàn giao lại vũ khí, Đội danh dự Việt Minh giải thể. Văn Cao lại trở về với công việc làm báo. ==== Tham gia lực lượng Công an ==== Tháng 12 năm 1946, Lê Giản - Giám đốc Nha Công an Trung ương tìm gặp Văn Cao tại quán cà phê Thiên Thai ở phố Hàng Gai và đề nghị: "Tình hình Lào Cai hiện nay rất phức tạp, bọn Quốc dân đảng cấu kết với thổ phỉ chống phá chúng ta công khai, trong khi lực lượng ta lại yếu. Mình muốn cậu sang giúp ngành Công an. Cậu sẽ phụ trách Đội điều tra Công an Liên khu 10. Với kinh nghiệm hoạt động bí mật trước đây, lại có vỏ bọc là nhạc sĩ, chỉ có cậu mới đủ khả năng trong công việc khó khăn và phức tạp này". Tháng 3 năm 1947, Văn Cao cùng vợ lên Lào Cai. Một địa điểm gần chợ Cốc Lếu được Văn Cao chọn làm cơ sở hoạt động của Đội điều tra. Văn Cao mở quán cà phê ca nhạc lấy tên là quán Biên Thùy và giao cho ông Minh - một cán bộ của ngành Công an do ông Lê Giản điều lên cộng tác giúp ông làm quản lý. Tại đây, Văn Cao có điều kiện gặp gỡ, tiếp xúc và kết nghĩa với Vua Mèo Hoàng A Tưởng. Trung tuần tháng 7 năm 1947, lễ kết nghĩa được tổ chức long trọng tại dinh thự của Hoàng A Tưởng. Bên phía Văn Cao có Trần Huy Liệu - đại diện Chính phủ, cùng toàn bộ các nghệ sĩ của quán Biên Thùy tham dự. Hoàng A Tưởng và toàn thể gia đình họ hàng cùng rất đông bạn bè, quan khách. Bằng uy tín của mình, Văn Cao đã giác ngộ các thổ ty hiểu thêm về chính sách đoàn kết các dân tộc của Hồ Chủ tịch và Chính phủ. Theo lời khuyên của Văn Cao, Hoàng A Tưởng, Nông Vĩnh Xương, Vương Chí Sình, Đèo Văn Long có nhiều hành động thiết thực giúp đỡ và ủng hộ Chính phủ trong những năm đầu của cuộc kháng chiến. Để động viên tinh thần, Hồ Chủ tịch gửi thư khen, mời họ lên thăm chiến khu và gặp Bác. Hồ Chủ tịch đã tặng mỗi người một thanh kiếm và giao cho Hoàng A Tưởng giữ chức Chủ tịch Ủy ban Hành chính tỉnh Lào Cai, đồng thời cử Ngô Minh Loan làm đặc phái viên của Chính phủ trực tiếp làm việc cùng Hoàng A Tưởng. Tháng 8 năm 1947, Văn Cao hoàn thành nhiệm vụ, Đội điều tra giải tán và bàn giao lại công việc cho ông Lê Giản. Lê Giản muốn giữ Văn Cao ở lại công tác cho ngành Công an. Văn Cao từ chối và nói: "Công việc này không thích hợp với tôi". === Nhân Văn - Giai Phẩm === Sau hiệp định Genève 1954, Văn Cao hồi cư về Hà Nội, làm việc cho Đài Phát thanh, nhưng rất ít sáng tác. Năm 1955, ông cầm bút trở lại, viết bài cho đặc san Giai Phẩm. Tháng 2 năm 1956, bài thơ Anh có nghe không được đăng trên Giai phẩm mùa Xuân. Bài thơ này bị Xuân Diệu đánh giá là "lập lờ, ấp úng, bí hiểm, hai mặt, tuy nhiên công chúng cũng hiểu nó muốn nói gì". Văn Cao cùng các nghệ sĩ của hai tờ báo Nhân Văn và Giai Phẩm khi đó chủ trương đòi hỏi tự do văn nghệ, sáng tác. Đến tháng 12 năm 1956 thì cả hai tờ báo đều bị đình bản. Như những nghệ sĩ khác của nhóm Nhân Văn-Giai Phẩm, tuy có muộn hơn, đến tháng 7 năm 1958, Văn Cao phải đi học tập chính trị. Tên tuổi của Văn Cao hầu như không còn xuất hiện trên các tạp chí văn nghệ ở Hà Nội. Những năm sau đó, Văn Cao tiếp tục bằng nhiều công việc, như viết nhạc không lời cho các truyện phim và truyện kịch, trang trí sân khấu cho các đoàn kịch, vẽ quảng cáo các báo, vẽ nhãn diêm... Các tác phẩm của ông, cũng như các ca khúc lãng mạn tiền chiến khác, không được trình diễn ở miền Bắc, trừ bài quốc ca. Giai đoạn này, Văn Cao hầu như không còn sáng tác. Đến cuối năm 1975, Văn Cao viết Mùa xuân đầu tiên, nhưng ca khúc bị phê bình là không đi đúng đường lối của Đảng, không phục vụ cho Cách mạng, vì thế bản nhạc mới phát hành đã bị tịch thu. Chưa rõ điều này có đúng không nhưng theo VnExpress "ca khúc được đăng ngay lần đầu tiên trên báo Sài Gòn Giải Phóng số mừng xuân Bính Thìn, đồng thời lập tức được dịch lời và in ở Nga". Nhưng các chương trình Việt Ngữ tại Moskva vẫn cho trình bày bài hát, và nhờ vậy Mùa xuân đầu tiên đã không bị lãng quên. Văn Thao, người con trai của Văn Cao, tiết lộ tiếp rằng: "Nhưng cũng thật bất ngờ (không hiểu bằng con đường nào), trong cái năm 1976 ấy Mùa xuân đầu tiên được in ở nước Nga và được Liên Xô trả nhuận bút cho tác giả 100 Rúp. Văn Cao phải viết giấy uỷ quyền qua sứ quán để con gái ông đang học bên đó lĩnh hộ. Ông bảo con gái: "Con cứ lấy mà tiêu, ở nước mình bao lâu nay bố có được biết đến đồng nhuận bút tác phẩm nào đâu." Năm 1981, Việt Nam phát động phong trào cả nước thi sáng tác quốc ca nhưng sau đó không công bố kết quả, cuộc thi cũng không được nhắc lại. Bài Tiến quân ca vẫn là quốc ca của Việt Nam. Cho đến cuối thập niên 1980, nhờ chính sách Đổi mới của Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh, các tác phẩm của Văn Cao cùng những nhạc sĩ tiền chiến khác được biểu diễn trở lại. Năm 1989, tạp chí National Geographic đã đăng một bức ảnh của nhạc sĩ Văn Cao đang ngồi trầm tư bên chiếc đàn dương cầm của ông. Chính tấm hình này sau đó đã tạo cảm hứng để nhà soạn nhạc đương đại người Mỹ Robert Ashley sáng tác nên bản solo cho piano mang tên Van Cao's Meditation vào năm 1992, dù rằng cho đến tận khi Văn Cao qua đời (1995) thì Robert Ashley vẫn chưa một lần gặp mặt tác giả của Tiến quân ca. Ngày 10 tháng 7 năm 1995, sau một thời gian mắc bệnh ung thư phổi, Văn Cao mất tại bệnh viện Hữu Nghị, Hà Nội. == Sự nghiệp âm nhạc == So với hai nhạc sĩ Việt Nam nổi tiếng khác là Phạm Duy khoảng 1000 ca khúc và Trịnh Công Sơn với 600 ca khúc, Văn Cao sáng tác không nhiều. Sự nghiệp âm nhạc của Văn Cao được chia làm hai mảng chính: tình ca và hùng ca. Ngoài ca khúc, ông còn viết một số tác phẩm khí nhạc dành cho piano như Sông Tuyến, Biển đêm, Hàng dừa xa... tổ khúc giao hưởng Anh bộ đội cụ Hồ... === Tình ca === Trong giai đoạn sáng tác đầu tiên, giống như những nhạc sĩ tiền chiến khác, Văn Cao viết các nhạc phẩm trữ tình, nhưng ít ảnh hưởng bởi chủ nghĩa lãng mạn Pháp mà mang nặng âm hưởng phương Đông. Từ ca khúc đầu tay Buồn tàn thu, Văn Cao đã sử dụng ngũ cung để viết về một hình ảnh quen thuộc trong nghệ thuật châu Á: người phụ nữ đan áo ngồi chờ đợi. Sau Buồn tàn thu, ông còn viết hai ca khúc khác về mùa thu là Thu cô liêu và Suối mơ. Trong đó Suối mơ vốn là một đoạn của bản Trương Chi 1 được Văn Cao phát triển thêm và cùng Phạm Duy hoàn tất. Bản Trương Chi nổi tiếng sau là Trương Chi 2. Bên cạnh đề tài mùa thu, Văn Cao cũng viết hai ca khúc nổi tiếng khác về mùa xuân là Cung đàn xưa và Bến xuân. Nhạc phẩm Bến xuân có sự tham gia của Phạm Duy, nhưng về sau Văn Cao viết lại lời mới cho ca khúc này và đặt tên Đàn chim Việt. Ngay từ những ca khúc đầu tiên, Văn Cao đã giành được thành công. Buồn tàn thu được biểu diễn trên các sân khấu hát rong và trên Đài Phát thanh Sài Gòn trong những năm 1944-1945, lúc tân nhạc còn mới phôi thai nên trở nên phổ biến. Suối mơ, Bến xuân được Phạm Duy đánh giá là cực điểm của lãng mạn tính trong ca nhạc Việt Nam. Nhưng hai tình khúc của Văn Cao được đánh giá cao hơn cả là Thiên Thai và Trương Chi. Bản Thiên Thai được nhà xuất bản Tinh Hoa ở Huế in năm 1944, Văn Cao tự nhận mình là "Người sông Ngự", ghi: "Ảnh hưởng sông nước khúc Thiên Thai cổ trong khung cảnh huyền diệu của Đường Thi với hai truyện Thiên Thai và Đào Nguyên. Người sông Ngự đã lạc mất cảm xúc rồi!". Lời bài hát được đề là của Văn Cao, Hoàng Thoái và Phạm Duy cho rằng Hoàng Thoái là bí danh của Đỗ Hữu Ích, một người bạn của Văn Cao. Sử dụng ngũ cung để viết về một câu chuyện cổ, Thiên Thai có tới 94 khuông nhạc, vừa mang tính trường ca, vừa mang tính nhạc cảnh. Năm 2001, khi phim Người Mỹ trầm lặng được thực hiện, Thiên Thai được sử dụng làm nhạc nền của bộ phim. Giống như Thiên Thai, Trương Chi cũng dựa trên tích chuyện cổ nhưng không phải là một truyện ca mà manh tính tự sự. Ca khúc này còn một đoạn lời nữa mà các ca sĩ thưởng không trình diễn: Từ ngày trăng mơ nước in thành thơ, Lạc loài hương thu thoáng vương đường tơ.... Hình ảnh Trương Chi trong bài hát cũng thường được so sách với hình ảnh của chính Văn Cao. === Hùng ca === Ngay từ khi còn trong nhóm Đồng Vọng ở Hải Phòng, Văn Cao đã viết các ca khúc hướng đạo khoẻ khoắn. Cũng giống như các nhạc sĩ tiến chiến khác, Văn Cao sử dụng đề tài lịch sử để thể hiện tình ái quốc trong Gò Đống Đa, Hò kéo gỗ Bạch Đằng Giang... Ngoài Tiến quân ca, ông còn sáng tác các hành khúc khác như Tiến về Hà Nội, Thăng Long hành khúc ca. Tham gia Việt Minh, Văn Cao sáng tác các ca khúc Chiến sĩ Việt Nam, Công nhân Việt Nam, Không quân Việt Nam... Năm 1947, sau chiến thắng sông Lô, Văn Cao viết Trường ca Sông Lô, ca khúc ghi dấu ấn trong lịch sử tân nhạc. Phạm Duy viết: "Đó là tác phẩm vĩ đại... chẳng thua bất cứ một tuyệt phẩm nào của nhạc cổ điển Tây phương... Bài này đánh dấu sự trưởng thành của Tân nhạc". Cũng theo ý kiến của Phạm Duy, Trường ca sông Lô phải là đỉnh cao nhất của nhạc kháng chiến nói riêng, của tân nhạc Việt Nam nói chung và Văn Cao là "cha đẻ" của hùng ca, trường ca Việt Nam. Sau năm 1954, các ca khúc của Văn Cao, trừ Tiến quân ca, không được trình diễn ở miền Bắc. Nhưng ở miền Nam, các ca sĩ hàng đầu của Sài gòn như Thái Thanh, Khánh Ly, Hà Thành vẫn trình diễn và ghi âm nhạc phẩm của Văn Cao. Ca khúc Không quân Việt Nam được sử dụng làm bài hát chính thức của Không lực Việt Nam Cộng hòa. == Vinh danh == Một năm sau ngày nhạc sĩ Văn Cao mất, thành phố Hải Phòng đã đặt tên ông cho một con đường ở quận Ngô Quyền. Huế cũng đã có ngay đường "Văn Cao" ở phường Xuân Phú.Đà Nẵng đã có đường "Văn Cao" ở quận Thanh Khê. Thành phố Hồ Chí Minh và Nam Định cũng đều có đường mang tên ông. Năm 2005, mười năm sau ngày Văn Cao mất, Hà Nội lấy tên "Văn Cao" đặt cho một tuyến phố thuộc hàng đẹp nhất của thủ đô nối từ Liễu Giai đến đường Hoàng Hoa Thám. Ông Nguyễn Quốc Triệu, chủ tịch thành phố thời gian đó, đích thân tới nhà gia đình Văn Cao vào hôm trước ngày giỗ của nhạc sĩ để báo tin. Đường Văn Cao sau đó đã được kéo dài xuyên qua đường Hoàng Hoa Thám, ra tận sát Hồ Tây. Các con đường tỉnh mang tên ông: Phố Văn Cao, phường Liễu Giai, quận Ba Đình, Hà Nội Đường Văn Cao, phường Thạc Gián và Vĩnh Trung, quận Thanh Khê, Đà Nẵng Đường Văn Cao, phường Đằng Giang, quận Ngô Quyền, Hải Phòng Đường Văn Cao, phường Phú Thạnh và Phú Thọ Hòa, quận Tân Phú, TP. Hồ Chí Minh Đường Văn Cao, phường Tân Lợi, Buôn Ma Thuột, Đắk Lăk Đường Văn Cao, phường An Hoà, Rạch Giá, Kiên Giang Đường Văn Cao, Thị trấn Lạc Dương, huyện Lạc Dương, Lâm Đồng Phố Văn Cao, phường Chi Lăng, Lạng Sơn, Lạng Sơn Đường Văn Cao, phường Năng Tĩnh, phường Văn Miếu và xã Lộc An, Nam Định, Nam Định Đường Văn Cao, phường Xuân Phú, Huế, Thừa Thiên Huế. == Gia đình riêng == Văn Cao kết hôn cùng bà Nghiêm Thúy Băng năm 1947, có với nhau 5 người con, 3 trai đầu và 2 gái cuối. == Phát ngôn, bút tích == Ngồi đây ta gõ ván thuyền, ta ca trái đất còn riêng ta Con thuyền đi qua / để lại sóng / Đoàn tàu đi qua / để lại tiếng / Đoàn người đi qua / để lại bóng / Tôi không đi qua tôi / để lại gì? Giữa sự sống và sự chết / Tôi chọn sự sống / Để bảo vệ sự sống / Tôi chọn sự chết. (Chọn, 26.8.1957) Có lúc / một mình một dao trong rừng / không sợ hổ. / Có lúc / ban ngày nghe lá rụng sao / hoảng hốt. / Có lúc / nước mắt không thể chảy / ra ngoài được. (Có lúc, 1963) Tiếng kêu ở trong tôi / Có xót xa có cả vui mừng / Tiếng kêu của một khúc thép đỏ / Trong chậu nước (Cạn) Kỉ niệm trong tôi / Rơi / như tiếng sỏi / trong lòng giếng cạn (Thời gian) Tôi yêu Hải Phòng như Việt Nam nhỏ lại / Tôi yêu Việt Nam như tôi biết yêu tôi. (Những ngày báo hiệu mùa xuân) Những bó hoa mang tới / chúc tụng / Thành công một con người / Hàng ngày hàng ngày / Xây thành cái mồ chôn / Con người thành công ấy / Đôi khi người ta bị giết / bằng những bó hoa. (Những bó hoa, 17.3.1974) Tin tất cả và hoài nghi tất cả / Chúng ta là những kẻ chài quen biển / Thấy ngọn lửa quay đầu / Biết bão táp đang trở mình trên mặt sóng (Những ngày báo hiệu mùa xuân) Người ta yêu những người cố mở đường mà thất bại, yêu những người biết thất bại mà dám mở đường… Hôm nay, con đường lớn nhất của chúng ta là mở cho tất cả những giấc mơ, những khát vọng thuộc về sự sáng tạo của con người tự do phát triển bay đi xe mật về ổ. Mở cho những giấc mơ, những khát vọng tự do phát triển bao nhiêu là tập trung tất cả giấc mơ và khát vọng của con người làm thành mũi nhọn kéo lê đi phía sau cái thực tế chậm chạp. (Mấy ý nghĩ về thơ) Cái mới đâu phải là những cái không sẵn có. Sự làm mới những cái sẵn có cũng là một phương pháp sáng tạo. Một trong những hướng xây dựng nhân vật là đào tạo cho xã hội những người biết khai thác, khám phá, phân tích thực tế và mở đường cho tương lai. (Mấy ý nghĩ về thơ). Cuộc đời và nghệ thuật của nhà thơ phải là những dòng sông lớn càng trôi càng thay đổi, càng trôi càng mở rộng. Tôi gọi Trịnh Công Sơn là người thơ ca (Chantre) bởi ở Sơn, nhạc và thơ quyện vào nhau đến độ khó phân định cái nào là chính, cái nào là phụ... Trong âm nhạc của Sơn, ta không thấy dấu vết của âm nhạc cổ điển theo cấu trúc bác học phương Tây. Sơn viết hồn nhiên như thể cảm xúc nhạc thơ tự nó trào ra. == Nhận xét về Văn Cao == == Tác phẩm == === Nhạc === === Thơ === === Chú thích === == Liên kết ngoài == Phạm Duy viết về Văn Cao trên Vmdb Nguyễn Thanh Giang, Tản mạn về người viết Quốc ca Việt Nam, phần 1, phần 2. Trang web Văn Cao trên báo Tổ Quốc của Bộ Văn hoá và Thông tin Việt Nam Mùa xuân bí ẩn trong thơ Văn Cao
nhóm bo.txt
Trong hóa học, nhóm Bo được dùng để chỉ nhóm tuần hoàn thứ 13 (nhóm nguyên tố 13) trong bảng tuần hoàn các nguyên tố. Các nguyên tố trong nhóm có ba điện tử nằm ở mức năng lượng ngoài cùng. Bo được cho là phi-kim loại, còn tất cả các nguyên tố còn lại được coi là kim loại. Vì các thuộc tính mà nguyên tố Bo có nói chung gần giống như kim loại cho nên nó được coi là á kim. Nhóm Bo bao gồm các nguyên tố sau: Bo Nhôm Gali Indi Tali Nihoni (không bền) == Tham khảo ==
danh sách đảo theo tên (t).txt
Danh sách dưới đây liệt kê các đảo bắt đầu bằng ký tự T. A - B - C - D - Đ - E - F - G - H - I - J - K - L - M - N - O - P - Q - R - S - T - U - V - W - X - Y - Z == T == == Xem thêm == Danh sách đảo theo diện tích Danh sách đảo theo điểm cao nhất == Tham khảo ==
hệ điều hành.txt
Hệ điều hành là một phần mềm chạy trên máy tính, dùng để điều hành, quản lý các thiết bị phần cứng và các tài nguyên phần mềm trên máy tính. Hệ điều hành đóng vai trò trung gian trong việc giao tiếp giữa người sử dụng và phần cứng máy tính, cung cấp một môi trường cho phép người sử dụng phát triển và thực hiện các ứng dụng của họ một cách dễ dàng. == Giới thiệu == Các máy tính ban đầu không có hệ điều hành (xem Lịch sử hệ điều hành). Người điều hành sẽ tải và chạy chương trình một cách thủ công. Khi chương trình được thiết kế để tải và chạy chương trình khác, nó đã thay thế công việc của con người. Thuật ngữ "hệ điều hành" được dùng gần đây chỉ tới một phần mềm cần thiết để người dùng quản lý hệ thống và chạy các phần mềm ứng dụng khác trên hệ thống. Nó không chỉ có nghĩa là "phần lõi" tương tác trực tiếp với phần cứng mà còn cả các thư viện cần thiết để các chương trình quản lý và điều chỉnh hệ thống. Không có sự phân biệt rõ ràng giữa phần mềm ứng dụng và hệ điều hành. Tuy nhiên, đôi khi vấn đề này cũng được tranh cãi. Thí dụ trường hợp Bộ Tư pháp Mỹ và Microsoft tranh cãi Internet Explorer có phải là một phần của Windows không. Cấp thấp nhất của hệ điều hành là phần lõi (còn gọi là nhân), lớp phần mềm đầu tiên được tải vào hệ thống khi khởi động. Các phần mềm được tải tiếp theo phụ thuộc vào nó sẽ cung cấp các dịch vụ cốt lõi cho hệ thống. Những dịch vụ phổ biến là truy xuất đĩa, quản lý bộ nhớ, định thời, và truy xuất tới thiết bị phần cứng. Có nhiều tranh cãi về những thành phần nào tạo nên phần lõi, như hệ thống tập tin có được đưa vào phần lõi không. == Chức năng chủ yếu của hệ điều hành == Theo nguyên tắc, hệ điều hành cần thỏa mãn hai chức năng chính yếu sau: === Quản lý chia sẻ tài nguyên === Tài nguyên của hệ thống (CPU, bộ nhớ, thiết bị ngoại vi,...) vốn rất giới hạn, nhưng trong các hệ thống đa nhiệm, nhiều người sử dụng có thể đồng thời yêu cầu nhiều tài nguyên. Để thỏa mãn yêu cầu sử dụng chỉ với tài nguyên hữu hạn và nâng cao hiệu quả sử dụng tài nguyên, hệ điều hành cần phải có cơ chế và chiến lược thích hợp để quản lý việc phân phối tài nguyên. Ngoài yêu cầu dùng chung tài nguyên để tiết kiệm chi phí, người sử dụng còn cần phải chia sẻ thông tin (tài nguyên phần mềm) lẫn nhau, khi đó hệ điều hành cần đảm bảo việc truy xuất đến các tài nguyên này là hợp lệ, không xảy ra tranh chấp, mất đồng nhất,... === Giả lập một máy tính mở rộng === Hệ điều hành làm ẩn đi các chi tiết phần cứng, người sử dụng được cung cấp một giao diện đơn giản, dễ hiểu, dễ sử dụng và không phụ thuộc vào thiết bị phần cứng cụ thể. Thực tế, ta có thể xem Hệ điều hành như là một hệ thống bao gồm nhiều máy tính trừu tượng xếp thành nhiều lớp chồng lên nhau, máy tính mức dưới phục vụ cho máy tính mức trên. Lớp trên cùng là giao diện trực quan nhất để điều khiển. Ngoài ra có thể chia chức năng của Hệ điều hành theo bốn chức năng sau: Quản lý quá trình (process management) Quản lý bộ nhớ (memory management) Quản lý hệ thống lưu trữ Giao tiếp với người dùng (user interaction) == Nhiệm vụ của hệ điều hành == Điều khiển và quản lý trực tiếp các phần cứng như bo mạch chủ, bo mạch đồ họa và bo mạch âm thanh,... Thực hiện một số thao tác cơ bản trong máy tính như các thao tác đọc, viết tập tin, quản lý hệ thống tập tin (file system) và các kho dữ liệu. Cung ứng một hệ thống giao diện sơ khai cho các ứng dụng thường là thông qua một hệ thống thư viện các hàm chuẩn để điều hành các phần cứng mà từ đó các ứng dụng có thể gọi tới. Cung ứng một hệ thống lệnh cơ bản để điều hành máy. Các lệnh này gọi là lệnh hệ thống (system command). Ngoài ra hệ điều hành, trong vài trường hợp, cũng cung cấp các dịch vụ cơ bản cho các phần mềm ứng dụng thông thường như chương trình duyệt Web, chương trình soạn thảo văn bản.... == Các thành phần của hệ điều hành == Hệ thống quản lý tiến trình Hệ thống quản lý bộ nhớ Hệ thống quản lý nhập xuất Hệ thống quản lý tập tin Hệ thống bảo vệ Hệ thống dịch lệnh == Phân loại hệ điều hành == === Dưới góc độ loại máy tính === Hệ điều hành dành cho máy MainFrame Hệ điều hành dành cho máy Server Hệ điều hành dành cho máy nhiều CPU Hệ điều hành dành cho máy tính cá nhân (PC) Hệ điều hành dành cho máy PDA (Embedded OS - hệ điều hành nhúng) Hệ điều hành dành cho máy chuyên biệt Hệ điều hành dành cho thẻ chíp (SmartCard) === Dưới góc độ người sử dụng và số chương trình được sử dụng cùng lúc === Hệ điều hành đơn nhiệm một người dùng Hệ điều hành đa nhiệm một người dùng Hệ điều hành đa nhiệm nhiều người dùng Các từ: Đơn nhiệm: tức là mỗi lần chỉ thực hiện được một chương trình hay nói cách khác các chương trình phải được thực hiện lần lượt (vd: HĐH MS-DOS). Đa nhiệm: tức là có thể thực hiện đồng thời nhiều chương trình (VD: HĐH Windows và một số phiên bản mới sau này của MS-DOS). Một người dùng: chỉ cho phép một người đăng nhập vào hệ thống khi làm việc (VD: HĐH Windows 95 trở về trước). Nhiều người dùng: cho phép nhiều người đồng thời đăng nhập vào hệ thống. Việc này được quản lý thông qua tài khoản người dùng và mật khẩu tương ứng (VD: các phiên bản mới HĐH Windows như Win 2000, XP, 7, 8,10...). === Dưới góc độ người dùng (truy xuất tài nguyên cùng lúc) === Một người dùng Nhiều người dùng Mạng ngang hàng Mạng có máy chủ: LAN, WAN,... === Dưới góc độ hình thức xử lý === Hệ thống xử lý theo lô Hệ thống xử lý theo lô đa chương Hệ thống chia sẻ thời gian Hệ thống song song Hệ thống phân tán Hệ thống xử lý thời gian thực == Hàm hệ thống == System Call Hàm hệ thống là một tập giao diện của hạt nhân đến ứng dụng, thông qua hàm hệ thống ứng dụng thực hiện được các công việc của mình. Hạt nhân trừu tượng các chức năng của phần cứng thành hàm hệ thống, và quản lý điều phối cho ứng dụng thông qua hàm hệ thống. == Các dịch vụ cốt lõi == Giao tiếp với người sử dụng (User Interface – UI). Thực thi chương trình (Program execution). Tổ chức và quản lý xuất nhập (I/O operations). Quản lý hệ thống File (File-system manipulation). Truyền tin (Communications). Xác định và xử lý lỗi (Error detection). Các dịch vụ hệ thống (System Services). == Các hệ điều hành hiện đại == Các hệ điều hành được sử dụng ngày nay trên các máy tính đa chức năng (như máy tính cá nhân) chủ yếu gồm hai chủng loại: hệ điều hành họ Unix và hệ điều hành họ Microsoft Windows. Các máy tính mẹ (Mainframe computer) và các hệ thống nhúng dùng nhiều loại hệ điều hành khác nhau, không phải là Unix hay Windows, nhưng cũng tương tự như Unix hay Windows. Hệ điều hành họ Windows: Các phiên bản được liệt kê tại liên kết Microsoft Windows Các hệ điều hành khác == Phân loại và thuật ngữ == Khái niệm hệ điều hành được tách thành ba thành phần: giao diện người dùng (bao gồm giao diện đồ họa và/hoặc thông dịch dòng lệnh, còn gọi là "shell"), tiện ích hệ thống cấp thấp, và phần lõi—trái tim của hệ điều hành. Phần cứng <-> Phần lõi <-> Shell <-> Ứng dụng | | +-----------+ 1 2 3 Trong một số hệ điều hành, phần lõi và shell nằm tách rời hoàn toàn, do đó cho phép kết hợp nhiều phần lõi và shell với nhau (như hệ điều hành UNIX), trong hệ điều hành khác thì điều này chỉ là khái niệm. == Các hệ điều hành == Android AmigaOS BeOS Bada OS Linux Chrome OS Debian Fedora Ubuntu Mac OS và Mac OS X MS-DOS và Windows OS/2 iOS Palm OS Symbian OS UNIX Solaris FreeBSD Windows Phone Sailfish OS == Tham khảo == == Liên kết ngoài == Operating systems at dmoz.org Operating systems at TUNES - wiki with reviews of operating systems Multics History and the history of operating systems operating system at elook.org - explains what an operating system is and provides various examples The "Write Your Own Operating System" OS Developer FAQ How OSs Work Operating System Programming - tutorials and source code Operating Systems Technical Comparison BonaFide OS Development - resource for operating system developers Humor: If OS's Were Airlines
itunes store.txt
Cửa hàng iTunes (tên gốc: iTunes Store, tên ban đầu là iTunes Music Store) là một cửa hàng đa phương tiện kỹ thuật số được dựa trên phần mềm do hãng Apple Inc. sáng lập. Cửa hàng được mở cửa từ ngày 28 tháng 4 năm 2003 và là nhà cung cấp âm nhạc lớn nhất tại Hoa Kỳ kể từ tháng 4 năm 2008 và trên toàn cầu kể từ tháng 2 năm 2010. Hệ thống sở hữu 37 triệu bài hát, 700 nghìn ứng dụng, 190 nghìn tập chương trình truyền hình và 45 nghìn phim điện ảnh tính đến ngày 12 tháng 9 năm 2012. Tổng thu nhập của Cửa hàng trong quý đầu năm 2011 là gần 1.4 tỷ đô-la Mỹ, với 25 tỷ bài hát được bán ra trên toàn cầu. Tính đến tháng 6 năm 2013, Cửa hàng có 575 triệu tài khoản người dùng hoạt động và phục vụ hơn 315 triệu thiết bị di động, bao gồm Apple Watch, iPod, iPhone, Apple TV và iPad. == Xem thêm == ITunes Apple Music ITunes Festival Apple Inc. Apple TV == Tham khảo ==
godiva.txt
Godiva (Quý bà Godiva; khoảng 980 – 1067) là một nữ Bá tước, vợ của Bá tước Leofric, là một phụ nữ xinh đẹp đã dũng cảm khỏa thân cưỡi ngựa đi một vòng quanh thành phố Coventry, Anh để chồng giảm thuế nặng cho dân chúng. Godiva còn gọi là Godgifu, nghĩa là "quà tặng của Đức Chúa Trời". == Truyền thuyết == Theo truyền thuyết của Anh, Godiva là một phụ nữ tuyệt đẹp đã yêu cầu chồng giảm thuế nặng cho dân chúng Coventry. Leofric hứa sẽ giảm thuế cho dân nếu vợ ông khỏa thân cưỡi ngựa dạo quanh thành phố Coventry. Leofric tin chắc rằng Godiva không bao giờ chịu làm như vậy. Không ngờ Godiva đồng ý, mặc dù có một chút khôn vặt – nàng đề nghị dân chúng vào một ngày hẹn trước đóng hết cửa và không nhìn ra đường phố. Và thế là Godiva khỏa thân cưỡi ngựa đi hết một vòng quanh thành phố Coventry. Ngài bá tước vô cùng kinh ngạc trước tinh thần dám xả thân của phụ nữ nên giữ lời hứa của mình, đã giảm thuế nặng cho dân chúng. Cũng theo truyền thuyết thì trong ngày hôm đó chỉ có duy nhất một chàng Tom tò mò (Peeping Tom) đã lén lút ngó nhìn qua cửa sổ và chính ngay trong cái khoảnh khắc nhìn thấy đã bị mù cả hai mắt. == Nhân vật lịch sử == Cuộc đời của Bá tước Leofric và Godiva được ghi chép trong sử sách của Anh. Biên niên sử chép rằng năm 1043 Leofric, Bá tước xứ Mercia xây dựng tu viện dòng Benedictine ở Coventry, biến làng Coventry thành thành phố lớn thứ tư ở Anh thời bấy giờ. Leofric hiến cho tu viện rất nhiều đất đai, còn Godiva tặng rất nhiều vàng bạc mà không một tu viện nào thời đó có thể sánh bằng. Tuy vậy, không thấy sử sách ghi những truyền thuyết về Godiva và chàng Tom nhìn trộm. Câu chuyện về Quý bà khỏa thân cưỡi ngựa lần đầu tiên được nhà tu Roger Wendover nhắc đến năm 1188. Theo đó, sự kiện này xảy ra ngày 10 tháng 7 năm 1040. Còn sau đấy thì câu chuyện được kể với sự thêu dệt của người đời. Thế kỷ 13, vua Edward I, tìm hiểu sự thật của câu chuyện này, đã nghiên cứu những sự kiện chép trong sử sách và nhận thấy rằng năm 1057 dân Coventry chịu thuế rất nặng. Còn câu chuyện về "chàng Tom nhìn trộm", theo nhiều nguồn tin, chỉ xuất hiện vào năm 1586 khi Hội đồng thành phố Coventry đặt cho họa sĩ Adam van Noort vẽ bức hoạ về Lady Godiva theo truyền thuyết. Bức tranh này sau đấy được treo ở quảng trường thành phố nhưng dân chúng lại nhầm là ngài Bá tước Leofric đang ngó vào cửa sổ để xem một con dân đang nghe trộm. == Một số sự kiện liên quan == Câu chuyện về hành động quên mình vì nghĩa lớn của Lady Godiva cách đây gần 1000 năm đã trở thành đề tài của rất nhiều tác phẩm thơ, văn, hội họa, điện ảnh... Gần nhà thờ chính Coventry đặt bức tượng Lady Godiva ngồi trên ngựa, mái tóc buông xoã. Hình của bức tượng này khắc trong con dấu của Hội đồng thành phố Coventry. Từ năm 1678 dân chúng Coventry tổ chức ngày lễ hằng năm để tưởng nhớ Lady Godiva, ngày lễ này đến nay vẫn không thay đổi. Đây là ngày lễ như ngày hội Carnavan, người ta hát hò, biểu diễn âm nhạc còn buổi tối bắn pháo hoa. Những người tham dự mặc trang phục của thế kỷ 11 diễu hành từ nhà thờ cổ, theo con đường mà ngày xưa Lady Godiva đã cưỡi ngựa đi, rồi trở về tập trung ở tượng Lady Godiva để tổ chức nhiều cuộc thi, đặc sắc nhất cuộc thi bầu chọn Lady Godiva đẹp nhất. Tham dự cuộc thi này là những phụ nữ đẹp mặc đồ lót phụ nữ thế kỷ 11. Người thắng cuộc thường là người đẹp có mái tóc dài vàng óng. Có vẻ như ngược đời, nhưng ở Anh có nhiều cửa hàng bán quần áo mang tên Lady Godiva. Một nhà sản xuất sô-cô-la nổi tiếng có tên là Godiva (Lady Godiva). Bài hát "Don't Stop Me Now" của ban nhạc nổi tiếng Queen về Lady Godiva. Bài hát "My Girl" của Aerosmith có câu, "My girl's a Lady Godiva." Ban nhạc Boney M có bài hát "Lady Godiva". Nhà thơ Osip Mandelstam viết bài thơ "Lady Godiva" sau đây, lấy cảm hứng từ bức tranh Lady Godiva ngồi trên ngựa: LADY GODIVA Tôi với vẻ dại dột, ngây thơ thuở gắn mình vào thế giới hoàng gia, quý tộc Sợ những món hải vị sơn bào và chỉ dám liếc mắt nhìn ngó đội vệ binh Và tôi cũng không có trách nhiệm với họ dù chỉ một chút hồn mình Bởi thế tôi không tự hành hạ mình vì dáng hình kẻ khác. Với vẻ quan trọng ngô nghê tôi chau mày trong chiếc mũ như mũ nhà thờ Tôi không đứng một mình dưới cột đá hành lang của nhà băng Ai Cập Và trên sông Nê-va màu vàng chanh, sau tiếng xạc xào của tờ một trăm đồng rúp Cô gái Digan trước mặt tôi đã không còn nhảy múa nữa bao giờ. Cảm nhận thấy những trận tử hình, từ tiếng thét gào của thời loạn lạc Tôi chạy về phía biển Đen, để tìm đến những nàng tiên Và thế rồi vì những người đẹp thuở ấy, những cô gái châu Âu dịu dàng Tôi đã chịu đựng biết bao nhiêu là ngượng ngùng cùng đớn đau khó nhọc. Không hiểu tại vì sao đến tận bây giờ thành phố này vẫn còn thỏa mãn Với những ý nghĩ và tình cảm của tôi theo lề lối cổ xưa? Thành phố vì những cơn nóng lạnh trở nên càn rỡ hơn hết bao giờ Với vẻ tự ái đáng rủa nguyền, với vẻ trẻ trung và trống rỗng. Có phải tại vì tôi đã từng ngắm nhìn trong bức tranh từ thời tôi còn nhỏ Quý bà Godiva buông tuồng ngồi trên lưng ngựa màu hung Và tôi thầm vụng, lén lút tự nhắc nhở trong lòng: "Lady Godiva, vĩnh biệt! Tôi không còn nhớ Lady Godiva nữa…" Bản dịch của Nguyễn Viết Thắng == Tham khảo == == Liên kết ngoài == Countess Godiva Cecilia Parsons Lady Godiva: The naked truth BBC, 24 tháng 8 năm 2001, 15:31 GMT 16:31 UK Lady Godiva (Godgifu)
bức xạ điện từ.txt
Bức xạ điện từ (hay sóng điện từ) là sự kết hợp (nhân vector) của dao động điện trường và từ trường vuông góc với nhau, lan truyền trong không gian như sóng. Sóng điện từ cũng bị lượng tử hoá thành những "đợt sóng" có tính chất như các hạt chuyển động gọi là photon. Khi lan truyền, sóng điện từ mang theo năng lượng, động lượng và thông tin. Sóng điện từ với bước sóng nằm trong khoảng 400 nm và 700 nm có thể được quan sát bằng mắt người và gọi là ánh sáng. Môn vật lý nghiên cứu sóng điện từ là điện động lực học, một chuyên ngành của điện từ học. Nhà toán học người Scotland là James Clerk Maxwell (1831-1879) đã mở rộng các công trình của Michael Faraday và nhận thấy rằng chính mối liên hệ khăng khít giữa điện và từ đã làm cho loại sóng này trở nên có thể. Những tính toán của ông chứng tỏ rằng sóng điện từ có thể truyền với vận tốc ánh sáng và điều này khiến cho ông ngờ rằng chính ánh sáng cũng là một loại sóng điện từ. Năm 1888, Heinrich Hertz đã dùng điện phát ra các sóng có tính chất giống như ánh sáng và do đó đã xác nhận những ý tưởng của Faraday và Maxwell. Mọi vật thể đều phát ra bức xạ điện từ, do dao động nhiệt của các phân tử hay nguyên tử hoặc các hạt cấu tạo nên chúng, với năng lượng bức xạ và phân bố cường độ bức xạ theo tần số phụ thuộc vào ở nhiệt độ của vật thể, gần giống bức xạ vật đen. Sự bức xạ này lấy đi nhiệt năng của vật thể. Các vật thể cũng có thể hấp thụ bức xạ phát ra từ vật thể khác; và quá trình phát ra và hấp thụ bức xạ là một trong các quá trình trao đổi nhiệt. == Phân loại == Sóng điện từ được phân loại theo bước sóng, từ dài đến ngắn: == Tính chất == === Vận tốc trong chân không === Trong chân không, các thí nghiệm đã chứng tỏ các bức xạ điện từ đi với vận tốc không thay đổi, thường được ký hiệu là c=299.792.458 m/s, thậm chí không phụ thuộc vào hệ quy chiếu. Hiện tượng này đã thay đổi nhiều quan điểm về cơ học cổ điển của Isaac Newton và thúc đẩy Albert Einstein tìm ra lý thuyết tương đối. === Sóng ngang === Sóng điện từ là sóng ngang, nghĩa là nó là sự lan truyền của các dao động liên quan đến tính chất có hướng (cụ thể là cường độ điện trường và cường độ từ trường) của các phần tử mà hướng dao động vuông góc với hướng lan truyền sóng. Như nhiều sóng ngang, sóng điện từ có hiện tượng phân cực. === Năng lượng === Năng lượng của một hạt photon có bước sóng λ là hc/λ, với h là hằng số Planck và c là vận tốc ánh sáng trong chân không. Như vậy, bước sóng càng dài thì năng lượng photon càng nhỏ. === Tương tác với vật chất === Trong tương tác với các nguyên tử, phân tử và các hạt cơ bản, các tính chất sóng điện từ phụ thuộc ít nhiều vào bước sóng (hay năng lượng của các photon). Dưới đây là một vài ví dụ. Xin xem chi tiết thêm ở các trang dành cho các loại sóng điện từ riêng. ==== Radio ==== Radio có ít tương tác với vật chất vì năng lượng của photon nhỏ. Nó có thể đi vượt qua khoảng cách dài mà không mất năng lượng cho tương tác, do vậy được sử dụng để truyền thông tin, như trong kỹ thuật truyền thanh. Khi thu nạp radio bằng ăng-ten, người ta tận dụng tương tác giữa điện trường của sóng với các vật dẫn điện. Các dòng điện sẽ dao động qua lại trong vật dẫn điện dưới ảnh hưởng của dao động điện trong sóng radio. ==== Vi sóng ==== Tần số dao động của vi sóng trùng với tần số cộng hưởng của nhiều phân tử hữu cơ có trong sinh vật và trong thức ăn. Do vậy vi sóng bị hấp thụ mạnh bởi các phân tử hữu cơ và làm chúng nóng lên khi năng lượng sóng được chuyển sang năng lượng nhiệt của các phân tử. Tính chất này được sử dụng để làm lò vi sóng. Điều này cũng nói lên rằng sử dụng thiết bị hay lò vi sóng thì cần đứng xa vùng có tác động của sóng lúc phát sóng, cỡ 1 m trở lên, vì các màn chắn không chắn hết được sóng. Vi sóng dư tác động lên mô của ta theo hai mức độ: Mức nhẹ là làm biến tính một số phân tử protein trong tế bào, tức là gây sai lệch một chút cấu trúc phân tử, nó không "chết" và vẫn tham gia được vào hoạt động sống của tế bào. Nếu sai lệch này xảy ra trong phân tử ADN là nơi chứa mã di truyền, thì gọi là biến dị, và quá trình phân bào sau đó sẽ cho ra loạt các tế bào lỗi di truyền. Khi đó nếu hệ bạch huyết không đủ mạnh để loại bỏ được những tế bào lỗi này thì chúng phát triển thành ung thư. Mức nặng là biến tính mạnh, phân tử không còn tham dự được vào hoạt động sống. Nếu lượng phân tử bị biến tính lớn thì tế bào chết. Khi có nhiều tế bào chết thì được gọi là "bỏng vi sóng". Số tế bào chết nằm xen với tế bào sống, và giảm dần từ mặt da vào đến bề dày skin, của sóng 2450 MHz là đến 17 mm. Hiện tượng này có thể xảy ra khi đặt laptop làm việc lên đùi, do quá gần vi sóng dư do laptop phát ra. Tổn thương vi sóng không hiện ra thành vùng rõ như bỏng nhiệt truyền thống, và nhiều người không nhận ra. Thông thường thì bạch cầu dọn được các tế bào chết, nhưng việc dọn các tế bào lỗi di truyền thì tùy thuộc vào khả năng của hệ thống bạch huyết của từng cá thể, để lại nguy cơ phát sinh ung thư. ==== Ánh sáng ==== Các dao động của điện trường trong ánh sáng tác động mạnh đến các tế bào cảm thụ ánh sáng trong mắt người. Có 3 loại tế bào cảm thụ ánh sáng trong mắt người, cảm nhận 3 vùng quang phổ khác nhau (tức ba màu sắc khác nhau). Sự kết hợp cùng lúc 3 tín hiệu từ 3 loại tế bào này tạo nên những phổ màu sắc phong phú. Để tạo ra hình ảnh màu trên màn hình, người ta cũng sử dụng 3 loại đèn phát sáng ở 3 vùng quang phổ nhạy cảm của người. == Lý thuyết == Lý thuyết điện từ của James Clerk Maxwell đã giải thích sự xuất hiện của sóng điện từ như sau. Mọi điện tích khi thay đổi vận tốc (tăng tốc hay giảm tốc), hoặc mọi từ trường biến đổi, đều là nguồn sinh ra các sóng điện từ. Khi từ trường hay điện trường biến đổi tại một điểm trong không gian, theo hệ phương trình Maxwell, các từ trường hay điện trường ở các điểm xung quanh cũng bị biến đổi theo, và cứ như thế sự biến đổi này lan toả ra xung quanh với vận tốc ánh sáng. Biểu diễn toán học về từ trường và điện trường sinh ra từ một nguồn biến đổi chứa thêm các phần mô tả về dao động của nguồn, nhưng xảy ra sau một thời gian chậm hơn so với tại nguồn. Đó chính là mô tả toán học của bức xạ điện từ. Tuy trong các phương trình Maxwell, bức xạ điện từ hoàn toàn có tính chất sóng, đặc trưng bởi vận tốc, bước sóng (hoặc tần số), nhưng nó cũng có tính chất hạt, theo thuyết lượng tử, với năng lượng liên hệ với bước sóng như đã trình bày ở mục các tính chất. === Phương trình Maxwell === Có thể chứng minh dao động điện từ lan truyền trong không gian dưới dạng sóng bằng các phương trình Maxwell. Xét trường hợp điện trường và/hoặc từ trường biến đổi trong chân không và không có dòng điện hay điện tích tự do trong không gian đang xét; 4 phương trình Maxwell rút gọn thành: ∇ ⋅ E = 0 ( 1 ) {\displaystyle \nabla \cdot \mathbf {E} =0\qquad \qquad \qquad \ \ (1)} ∇ × E = − ∂ ∂ t B ( 2 ) {\displaystyle \nabla \times \mathbf {E} =-{\frac {\partial }{\partial t}}\mathbf {B} \qquad \qquad (2)} ∇ ⋅ B = 0 ( 3 ) {\displaystyle \nabla \cdot \mathbf {B} =0\qquad \qquad \qquad \ \ (3)} ∇ × B = μ 0 ϵ 0 ∂ ∂ t E ( 4 ) {\displaystyle \nabla \times \mathbf {B} =\mu _{0}\epsilon _{0}{\frac {\partial }{\partial t}}\mathbf {E} \qquad \ \ \ (4)} Nghiệm tầm thường của hệ phương trình trên là: E = B = 0 {\displaystyle \mathbf {E} =\mathbf {B} =\mathbf {0} } , Để tìm nghiệm không tầm thường, có thể sử dụng đẳng thức giải tích véc tơ: ∇ × ( ∇ × A ) = ∇ ( ∇ ⋅ A ) − ∇ 2 A {\displaystyle \nabla \times \left(\nabla \times \mathbf {A} \right)=\nabla \left(\nabla \cdot \mathbf {A} \right)-\nabla ^{2}\mathbf {A} } Bằng cách lấy rôta hai vế của phương trình (2): ∇ × ( ∇ × E ) = ∇ × ( − ∂ B ∂ t ) ( 5 ) {\displaystyle \nabla \times \left(\nabla \times \mathbf {E} \right)=\nabla \times \left(-{\frac {\partial \mathbf {B} }{\partial t}}\right)\qquad \qquad \qquad \quad \ \ \ (5)\,} Rồi đơn giản hóa vế trái (tận dụng phương trình (1) trong quá trình đơn giản hóa): ∇ × ( ∇ × E ) = ∇ ( ∇ ⋅ E ) − ∇ 2 E = − ∇ 2 E ( 6 ) {\displaystyle \nabla \times \left(\nabla \times \mathbf {E} \right)=\nabla \left(\nabla \cdot \mathbf {E} \right)-\nabla ^{2}\mathbf {E} =-\nabla ^{2}\mathbf {E} \qquad \quad \ (6)\,} Và đơn giản hóa vế phải (tận dụng phương trình (4) trong quá trình đơn giản hóa): ∇ × ( − ∂ B ∂ t ) = − ∂ ∂ t ( ∇ × B ) = − μ 0 ϵ 0 ∂ 2 ∂ 2 t E ( 7 ) {\displaystyle \nabla \times \left(-{\frac {\partial \mathbf {B} }{\partial t}}\right)=-{\frac {\partial }{\partial t}}\left(\nabla \times \mathbf {B} \right)=-\mu _{0}\epsilon _{0}{\frac {\partial ^{2}}{\partial ^{2}t}}\mathbf {E} \qquad (7)} Cân bằng 2 vế (6) và (7) để thu được phương trình vi phân cho điện trường: Có thể thực hiện các biến đổi tương tự như trên để thu được phương trình vi phân với từ trường: Hai phương trình vi phân trên chính là các phương trình sóng, dạng tổng quát: ∇ 2 f = 1 c 0 2 ∂ 2 f ∂ t 2 {\displaystyle \nabla ^{2}f={\frac {1}{{c_{0}}^{2}}}{\frac {\partial ^{2}f}{\partial t^{2}}}\,} với c0 là tốc độ lan truyền của sóng và f miêu tả cường độ dao động của sóng theo thời gian và vị trí trong không gian. Trong trường hợp của các phương trình sóng liên quan đến điện trường và từ trường nêu trên, ta thấy nghiệm của phương trình thể hiện điện trường và từ trường sẽ biến đổi trong không gian và thời gian như những sóng, với tốc độ: c 0 = 1 μ 0 ϵ 0 {\displaystyle c_{0}={\frac {1}{\sqrt {\mu _{0}\epsilon _{0}}}}} Đây chính là tốc độ ánh sáng trong chân không. Nghiệm của phương trình sóng cho điện trường là: E = E 0 f ( k ^ ⋅ x − c 0 t ) {\displaystyle \mathbf {E} =\mathbf {E} _{0}f\left({\hat {\mathbf {k} }}\cdot \mathbf {x} -c_{0}t\right)} Với E0 là một hằng số véc tơ đóng vai trò như biên độ của dao động điện trường, f là hàm khả vi bậc hai bất kỳ, k ^ {\displaystyle {\hat {\mathbf {k} }}} là véc tơ đơn vị theo phương lan truyền của sóng, và x là tọa độ của điểm đang xét. Tuy nghiệm này thỏa mãn phương trình sóng, để thỏa mãn tất cả các phương trình Maxwell, cần có thêm ràng buộc: ∇ ⋅ E = k ^ ⋅ E 0 f ′ ( k ^ ⋅ x − c 0 t ) = 0 {\displaystyle \nabla \cdot \mathbf {E} ={\hat {\mathbf {k} }}\cdot \mathbf {E} _{0}f'\left({\hat {\mathbf {k} }}\cdot \mathbf {x} -c_{0}t\right)=0} E ⋅ k ^ = 0 ( 8 ) {\displaystyle \mathbf {E} \cdot {\hat {\mathbf {k} }}=0\qquad \qquad \qquad \quad \ \ \ (8)\,} ∇ × E = k ^ × E 0 f ′ ( k ^ ⋅ x − c 0 t ) = − ∂ ∂ t B {\displaystyle \nabla \times \mathbf {E} ={\hat {\mathbf {k} }}\times \mathbf {E} _{0}f'\left({\hat {\mathbf {k} }}\cdot \mathbf {x} -c_{0}t\right)=-{\frac {\partial }{\partial t}}\mathbf {B} } B = 1 c 0 k ^ × E ( 9 ) {\displaystyle \mathbf {B} ={\frac {1}{c_{0}}}{\hat {\mathbf {k} }}\times \mathbf {E} \qquad \qquad \qquad \quad \ \ \ (9)\,} (8) suy ra điện trường phải luôn vuông góc với hướng lan truyền của sóng và (9) cho thấy từ trường thì vuông góc với cả điện trường và hướng lan truyền; đồng thời E0 = c0 B0. Nghiệm này của phương trình Maxwell chính là sóng điện từ phẳng. === Năng lượng và xung lượng === Mật độ năng lượng của trường điện từ nói chung: u = (E.D + B.H)/2 Trong chân không: u = (ε0|E|2 + μ0|H|2)/2 Với sóng điện từ phẳng tuân thủ phương trình (9) nêu trên, ta thấy năng lượng điện đúng bằng năng lượng từ, và: u = ε0|E|2 = μ0|H|2 == Xem thêm == Phương trình truyền xạ Phổ điện từ Nguy hiểm của sóng điện từ Ánh sáng == Tham khảo == == Liên kết ngoài == Dương Hiếu Ðấu. “Bài giảng các phương trình Maxwell và sóng điện từ”. Trường Đại học Cần Thơ. Bản gốc lưu trữ ngày 9 tháng 9 năm 2003.
long xuyên.txt
Long Xuyên là một thành phố và là tỉnh lỵ tỉnh An Giang, thuộc vùng Đồng bằng sông Cửu Long, Việt Nam. Thành phố Long Xuyên lớn thứ 2 ở ĐBSCL, chỉ sầm uất sau thành phố Cần Thơ. Long Xuyên cũng từng là tỉnh lỵ của tỉnh Long Xuyên cũ trước năm 1956.Dự kiến đến năm 2020, TP.Long Xuyên trở thành đô thị loại I trực thuộc tỉnh An Giang và tiến hành chia tách để thành lập thị xã Bình Đức. Năm 1999, Long Xuyên chính thức trở thành thành phố trực thuộc tỉnh An Giang. Năm 2009, Chính phủ Việt Nam đã công nhận thành phố Long Xuyên là đô thị loại II trực thuộc tỉnh An Giang. Định hướng đến năm 2020, Long Xuyên sẽ trở thành đô thị loại I trực thuộc tỉnh An Giang. Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân trong 5 năm gần đây đạt 10,31%; cơ cấu kinh tế chuyển dịch đúng hướng đã tác động tích cực đến sự phát triển của địa phương. Đến năm 2014, GDP bình quân đầu người ở thành phố đạt 96,8 triệu đồng/người hơn gấp 2 lần tỉnh. Hiện, thương mại - dịch vụ chiếm tỷ trọng gần 79%. == Vị trí địa lý == Thành phố Long Xuyên cách thủ đô Hà Nội 1950 km về phía Nam, cách Thành phố Hồ Chí Minh 189 km về phía Tây Nam, cách biên giới Campuchia 45 km đường chim bay. Long Xuyên là tỉnh lỵ, trung tâm, kinh tế, chính trị, văn hoá và khoa học kỹ thuật của tỉnh An Giang. Thành phố nằm bên bờ sông Hậu. Tây Bắc giáp huyện Châu Thành, đường ranh giới dài 12,446 km. Đông Bắc tiếp giáp với huyện Chợ Mới. Tây giáp huyện Thoại Sơn với chiều dài đường ranh giới là 10,054 km. Nam giáp quận Thốt Nốt của thành phố Cần Thơ. == Hành chính == Long Xuyên có 13 đơn vị hành chính trực thuộc gồm 11 phường và 02 xã: P. Mỹ Bình (phường trung tâm) P. Mỹ Long (phường trung tâm) P. Mỹ Xuyên (phường trung tâm) P. Bình Khánh (phường nội thành) P. Mỹ Phước (phường nội thành) P. Đông Xuyên (phường nội thành) P. Mỹ Quý (phường nội thành) P. Mỹ Thạnh (phường nội thành) P. Mỹ Thới (phường nội thành) P. Bình Đức (phường ngoại thành) P. Mỹ Hòa (phường ngoại thành) Xã Mỹ Hòa Hưng (xã ngoại thành) Xã Mỹ Khánh (xã ngoại thành). == Lịch sử == === Thời phong kiến === Năm Kỷ Dậu 1789, một đồn nhỏ được thành lập tại vàm rạch Tam Khê được gọi là thủ Đông Xuyên. Đại Nam nhất thống chí tỉnh An Giang chép: "Thủ Đông Xuyên cũ ở đường lạch bờ phía tây Hậu Giang thuộc địa phận huyện Tây Xuyên, đặt từ năm Kỷ Dậu, đầu thời trung hưng [Nguyễn Ánh dựng nghiệp], sau bỏ. Năm Minh Mạng thứ 18 [1837] đặt làm sở thuế quan, nay [năm Tự Đức] bỏ.". Tại vị trí thủ Đông Xuyên rồi sở Đông Xuyên huyện Tây Xuyên (trùng tên với một huyện Đông Xuyên đương thời cũng của tỉnh An Giang nhà Nguyễn), đến thời Tự Đức thành một phố thị với chợ Đông Xuyên năm tại ngã ba rạch Đông Xuyên với sông Hậu Giang. Đến thời Pháp xâm chiếm Nam Kỳ (tức khoảng năm 1863) cái tên chợ Đông Xuyên được biến đổi thành chợ Long Xuyên, trùng với tên một huyện Long Xuyên (nguyên là đất Cà Mau) của tỉnh Hà Tiên đã từng có trước đó. Từ khi Pháp chiếm An Giang năm 1867 đến 1876, họ chia An Giang thành khoảng 5 hạt tham biện, tên Long Xuyên của chợ này được lấy làm tên của hạt tham biện Long Xuyên. Trong khi đó, huyện Long Xuyên Hà Tiên (nay là tỉnh Cà Mau) thì kết thúc tồn tại. Năm Minh Mạng thứ 13 (1832) lấy đất Tầm Phong Long (được vua Chân Lạp là Nặc Tôn giao cho Việt Nam vào năm 1757 để đền ơn chúa Nguyễn đã trợ giúp lấy lại ngôi vua) cùng với huyện Vĩnh An tỉnh Vĩnh Long, đặt làm tỉnh An Giang với 2 phủ Tuy Biên và phủ Tân Thành. Lỵ sở của tỉnh An Giang đặt tại thành Châu Đốc. Lại cử chức An Hà Tổng đốc, thống lãnh hai tỉnh An Giang và Hà Tiên, lại thành lập hai ty Bố chánh, Án sát... Địa bàn thành phố Long Xuyên ngày nay thuộc huyện Tây Xuyên, phủ Tuy Biên, tỉnh An Giang thời ấy. thì thành phố Long Xuyên là đất thuộc phủ Tuy Biên. Cho nên sau này (1909), Nam kỳ phong tục nhơn vật diễn ca của Nguyễn Liên Phong có câu: Long Xuyên thuộc phủ Tuy Biên, Cựu trào có đặt Tây Xuyên huyện đường. === Thời Pháp thuộc === Năm 1876, hạt Long Xuyên được thành lập (chủ hạt là Briere), bắt đầu hình thành khu vực chợ Đông Xuyên tại thôn Mỹ Phước, trung tâm hành chính thuộc thôn Bình Đức. Năm 1900, tỉnh Long Xuyên được thành lập gồm 3 đơn vị hành chính cấp quận: quận Châu Thành (phần đất thuộc huyện Tây Xuyên cũ), quận Thốt Nốt (phần đất căn bản thuộc huyện Phong Phú, phủ Tuy Biên cũ) và quận Chợ Mới (phần đất căn bản thuộc huyên Đông Xuyên và Vĩnh An của phủ Tân Thành cũ), trong đó có 8 tổng với 54 làng xã. Năm 1917, địa bàn Long Xuyên hiện nay chỉ có hai làng là Bình Đức và Mỹ Phước, thuộc tổng Định Phước, quận Châu Thành, tỉnh Long Xuyên. Thời Pháp thuộc, làng Mỹ Phước vừa đóng vai trò là quận lỵ quận Châu Thành và là tỉnh lỵ tỉnh Long Xuyên. === Giai đoạn 1945-1956 === Về phía chính quyền Cách mạng, năm 1945 địa bàn thành phố Long Xuyên ngày nay thuộc huyện Châu Thành, tỉnh Long Xuyên. Năm 1947, thuộc tỉnh Long Châu Hậu. Đến năm 1950, thuộc tỉnh Long Châu Hà. Năm 1954, tỉnh Long Xuyên được tái lập, địa bàn thành phố Long Xuyên lúc đó trở lại thuộc tỉnh Long Xuyên. === Giai đoạn 1956-1976 === ==== Việt Nam Cộng hòa ==== Ngày 22 tháng 10 năm 1956, Tổng thống Việt Nam Cộng hòa Ngô Đình Diệm ký Sắc lệnh 143/VN để " thay đổi địa giới và tên Đô thành Sài Gòn – Chợ Lớn cùng các tỉnh và tỉnh lỵ tại Việt Nam". Địa giới và địa danh các tỉnh ở miền Nam thay đổi nhiều, một số tỉnh mới được thành lập. Theo Sắc lệnh này, địa phận Việt Nam Cộng Hoà gồm Đô thành Sài Gòn và 22 tỉnh. Lúc này tỉnh Châu Đốc và tỉnh Long Xuyên được sáp nhập để thành lập tỉnh mới có tên là tỉnh An Giang. Tỉnh lỵ tỉnh An Giang đặt tại Long Xuyên và vẫn giữ nguyên tên là "Long Xuyên", về mặt hành chánh thuộc xã Mỹ Phước, quận Châu Thành. Như vậy, vùng đất Long Xuyên được chọn làm tỉnh lỵ của tỉnh An Giang mới thay cho Châu Đốc trước đó. Thời Việt Nam Cộng hòa, xã Mỹ Phước vẫn tiếp tục vừa đóng vai trò là quận lỵ quận Châu Thành và là tỉnh lỵ tỉnh An Giang. Năm 1957, hai xã Bình Đức và Mỹ Phước được chia ra thành 5 xã là Bình Đức, Mỹ Hòa Hưng, Phước Đức (thuộc tổng Định Thành) và Mỹ Phước và Mỹ Thới (thuộc tổng Định Phước). Năm 1959, xã Phước Đức nhập vào xã Bình Đức và Mỹ Phước. Và Long Xuyên luôn là tỉnh lỵ của tỉnh An Giang cho đến năm 1975. ==== Chính quyền Cách mạng ==== Năm 1956, chính quyền Mặt trận dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam và sau này là Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam cũng quyết định đặt vùng đất Long Xuyên thuộc huyện Châu Thành, tỉnh An Giang. Năm 1957, tách một phần đất của huyện Châu Thành để thành lập thị xã Long Xuyên trực thuộc tỉnh An Giang. Năm 1971, sau khi tách đất tỉnh An Giang để thành lập tỉnh Châu Hà, thị xã Long Xuyên vẫn thuộc tỉnh An Giang. Tháng 5 năm 1974, thị xã Long Xuyên lại thuộc tỉnh Long Châu Hà theo Hội nghị thường trực của Trung ương Cục miền Nam. Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, chính quyền quân quản Cộng hòa miền Nam Việt Nam ban đầu vẫn đặt thị xã Long Xuyên trực thuộc tỉnh Long Châu Hà cho đến đầu năm 1976. === Từ năm 1976 đến nay === Tháng 2 năm 1976, thị xã Long Xuyên trở lại thuộc tỉnh An Giang, đồng thời vẫn tiếp tục đóng vai trò là tỉnh lỵ tỉnh An Giang. Thị xã Long Xuyên ban đầu gồm các xã: Bình Đức, Mỹ Bình, Phước Mỹ và Mỹ Phước. Ngày 27 tháng 01 năm 1977, nhập xã Mỹ Thới của huyện Châu Thành vào thị xã Long Xuyên. Ngày 1 tháng 3 năm 1977, theo Quyết định số 239/TCUB của Ủy ban nhân dân tỉnh An Giang, thị xã Long Xuyên gồm 4 phường là Bình Đức, Mỹ Bình, Mỹ Long, Mỹ Phước và 2 xã là Mỹ Hòa, Mỹ Thới. Ngày 25 tháng 04 năm 1979, Hội đồng Chính phủ ban hành Quyết định số 181-CP về việc điều chỉnh địa giới ở một số xã và thị trấn thuộc tỉnh An Giang. Theo đó, tách ấp Hòa Long, ấp Hòa Phú của xã Hòa Bình Thạnh, một phần ấp Bình Phú của xã Bình Hòa, một phần đất ấp Bình Thạnh (Xép Bà Lý trở lên phía bắc) của phường Bình Đức, thị xã Long Xuyên, lập thành một thị trấn lấy tên là thị trấn An Châu. Ngày 23 tháng 08 năm 1979, Hội đồng Bộ trưởng ban hành Quyết định số 300-CP về việc điều chỉnh địa giới một số huyện và thị xã thuộc tỉnh An Giang. Theo đó, sáp nhập xã Mỹ Hòa Hưng của huyện Châu Thành vào thị xã Long Xuyên. Ngày 12 tháng 01 năm 1984, Hội đồng Bộ trưởng ban hành Quyết định số 8-HĐBT về việc phân vạch địa giới phường, thị trấn và một số xã thuộc tỉnh An Giang như sau : Thành lập phường Mỹ Xuyên trên cơ sở tách khóm 4, khóm 7 của phường Mỹ Long và một phần ấp Tây Khánh A của xã Mỹ Hoà. Thành lập xã Mỹ Khánh trên cơ sở tách ấp Bình Hoà của xã Mỹ Hoà và một phần khóm Bình Khánh của phường Bình Đức. Thành lập xã Mỹ Thạnh trên cơ sở tách các ấp Thới Thạnh, Thới An, Đông Thạnh và 1/2 ấp Long Hưng của xã Mỹ Thới. Ngày 01 tháng 03 năm 1999, Chính phủ Việt Nam ban hành Nghị định số 09/1999/NĐ-CP về việc thành lập THÀNH PHỐ LONG XUYÊN, thuộc tỉnh An Giang: Thành lập thành phố Long Xuyên thuộc tỉnh An Giang trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của thị xã Long Xuyên. Thành phố Long Xuyên có 10.687 ha diện tích tự nhiên và 245.149 nhân khẩu, gồm 10 đơn vị hành chính cơ sở là các phường Bình Đức, Mỹ Bình, Mỹ Long, Mỹ Phước, Mỹ Xuyên và các xã Mỹ Hòa, Mỹ Hòa Hưng, Mỹ Khánh, Mỹ Thạnh, Mỹ Thới. Địa giới hành chính thành phố Long Xuyên: Đông giáp huyện Chợ Mới và huyện Lấp Vò (tỉnh Đồng Tháp); Tây giáp huyện Thoại Sơn; Nam giáp huyện Thốt Nốt (tỉnh Cần Thơ); Bắc giáp huyện Châu Thành. . Ngày 02 tháng 08 năm 1999, Chính phủ Việt Nam ban hành Nghị định số 64/1999/NĐ-CP về việc thành lập một số phường thuộc thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang: Thành lập phường Mỹ Thạnh trên cơ sở toàn bộ 1.389,82 ha diện tích tự nhiên và 24.881 nhân khẩu của xã Mỹ Thạnh. Thành lập phường Mỹ Thới trên cơ sở toàn bộ 2.000,31 ha diện tích tự nhiên và 19.875 nhân khẩu của xã Mỹ Thới. Thành lập phường Bình Khánh trên cơ sở 628,80 ha diện tích tự nhiên và 24. 820 nhân khẩu của phường Bình Đức (gồm khóm Bình Thới 1, 2, 3 và khóm Bình Chánh 1, 2, 3, 4, 5). Sau khi điều chỉnh địa giới hành chính, phường Bình Dức có 1.106,80 ha diện tích tự nhiên và 16.058 nhân khẩu. Thành lập phường Mỹ Quý trên cơ sở 472,22 ha diện tích tự nhiên và 9.983 nhân khẩu của phường Mỹ Phước(gồm các khóm Mỹ Phú, Mỹ Quới và Mỹ Thọ). Sau khi điều chỉnh địa giới hành chính, phường Mỹ Phước có 369,35 ha diện tích tự nhiên và 24.459 nhân khẩu. Ngày 12 tháng 04 năm 2005, Chính phủ Việt Nam ban hành Nghị định số 52/2005/NĐ-CP về việc điều chỉnh địa giới hành chính để thành lập phường, xã, thị trấn thuộc thành phố Long Xuyên và các huyện Tịnh Biên, An Phú, Thoại Sơn, Tân Châu, tỉnh An Giang: Thành lập phường Đông Xuyên trên cơ sở 89 ha diện tích tự nhiên và 10.149 nhân khẩu của phường Mỹ Xuyên. Phường Đông Xuyên có 89 ha diện tích tự nhiên và 10.149 nhân khẩu. Sau khi thành lập phường Đông Xuyên, phường Mỹ Xuyên còn lại 62 ha diện tích tự nhiên và 16.368 nhân khẩu. Thành lập phường Mỹ Hòa trên cơ sở toàn bộ 1.651 ha diện tích tự nhiên và 26.928 nhân khẩu của xã Mỹ Hòa. Ngày 14 tháng 04 năm 2009, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 474/QĐ-TTg về việc công nhận thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang là đô thị loại II trực thuộc tỉnh An Giang. Trải bao đổi dời, cũng chỉ ngần ấy diện tích (106,87 km), hiện nay thành phố Long Xuyên có 11 phường là Bình Đức, Bình Khánh, Đông Xuyên, Mỹ Bình, Mỹ Hòa, Mỹ Long, Mỹ Phước, Mỹ Quý, Mỹ Thạnh, Mỹ Thới, Mỹ Xuyên và 2 xã là Mỹ Hòa Hưng, Mỹ Khánh. == Giáo dục == Trước năm 1886, ở Long Xuyên chỉ có những trường làng dạy chữ Nho và trường tổng dạy chữ quốc ngữ. Năm 1886, mới có Trường tiểu học Pháp Việt (là trường xưa nhất của tỉnh, nay là Trường Tiểu học Nguyễn Du). Năm 1917, hình thành "Long Xuyên khuyến học hội" với vai trò tích cực của Hồ Biểu Chánh. Năm 1929, Ở Long Xuyên có 1 trường Nam, 1 trường Nữ với 1.144 học sinh. Ngoài ra, còn có trường nội trú Trần Minh (vị trí ở Trường THCS Nguyễn Trãi và Trường Tiểu học Châu Văn Liêm hiện nay) với 105 học sinh và một trường người Hoa (Bang Quảng Đông) với 30 học sinh. Sau 1930, trường nội trú Trần Minh có mở các lớp nội trú đầu lớp Cao đẳng Tiểu học. Ngày 12 tháng 11 năm 1948, với sự cho phép của Tỉnh trưởng Nguyễn Ngọc Thơ, trường Trung học mang tên Collège de Long Xuyên khai giảng khóa đầu tiên, gồm 76 học sinh. Tháng 2 năm 1952, trường được đổi tên thành Trường Trung học Thoại Ngọc Hầu. Khoảng cuối thập niên 50, đầu thập niên 60 Long Xuyên có Trường Trung học Tư thục Khuyến Học Từ năm 1962 cho đến 1975, ngoài hai trường công lập là Trường Trung học Tổng hợp Thoại Ngọc Hầu (nay là Trường PTTH chuyên Thoại Ngọc Hầu), Trường Trung học Tổng hợp Chưởng Binh Lễ (nay là một phần của Trường Đại học An Giang), các trường trung học tư dạy đến các lớp đệ nhị cấp (nay được gọi là cấp trung học phổ thông) cũng lần lượt ra đời, như: Trường Hoa Liên, Trường Bồ Đề, Trường Phụng Sự (nay là Trường PTTH Long Xuyên)... Về trung học chuyên nghiệp, có "Trường Trung học Kỹ thuật An Giang" (thành lập năm 1962), Trường Trung học Nông Lâm Súc (thành lập năm 1963), Trường Sư phạm Long Xuyên (thành lập năm 1969), Trường nữ hộ sinh quốc gia (thành lập năm 1970)... Năm 1972, Giáo hội Phật giáo Hòa Hảo mở Viện Đại học Hòa Hảo tại Long Xuyên, có khoảng 2.000 sinh viên theo học 5 phân khoa: Văn chương, Thương mại-Ngân hàng, Bang giao quốc tế, Khoa học quản trị và Sư phạm. Năm 1974, Giáo hội Thiên Chúa giáo nâng cấp Chủng viện Tê rê xa thành Đại chủng viện thánh Thomas để đào tạo cấp linh mục. Sau 30 tháng 4 năm 1975, chính quyền mới đã nhanh chóng tiếp quản, cho sửa chữa và thành lập thêm nhiều trường lớp ở khắp các phường xã trong thành phố. Tháng 12 năm 1999, Trường Đại Học An Giang được thành lập tại địa chỉ 25 Võ Thị Sáu, Long Xuyên, An Giang. Đây là trường đại học công lập thứ hai ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long. Năm 2008, trường có các khoa: Khoa Kinh tế - Quản trị Kinh doanh, Khoa Nông nghiệp & Tài nguyên Thiên Nhiên, Khoa Sư phạm, Khoa Kỹ thuật - Công nghệ - Môi trường. Bên cạnh việc đào tạo sinh viên bậc đại học, trường còn đào tạo các ngành cao đẳng và trung học mẫu giáo nhằm góp phần cung cấp nguồn nhân lực cho tỉnh An Giang và các tỉnh lân cận... Hiện Trường Đại học An Giang đang xây dựng thêm phòng lớp và ký túc xá... == Y tế == Xưa, như mọi vùng miền khác, ở Long Xuyên mỗi khi người dân bị bệnh thường được chữ trị bằng thuốc nam, thuốc bắc. Mãi đến năm 1910, bệnh viện Long Xuyên mới được xây dựng, nhưng vào năm 1929 cũng chỉ có 4 trại bệnh, 2 nhà bảo sanh với 1 bác sĩ, 5 y tá và vài ba dì phước. Trước năm 1975, cơ sở y tế của Long Xuyên có cả thảy khoảng 500 giường bệnh. Hiện nay, Long Xuyên là trung tâm y tế lớn nhất tỉnh, ngoài các phòng khám tư Đông y lẫn Tây y, Long Xuyên còn có hai bệnh viện tư là Hạnh Phúc và Bình Dân, cùng hai bệnh viện công mang tên Bệnh viện đa khoa trung tâm tỉnh An Giang và "Bệnh viện đa khoa thành phố Long Xuyên" nhằm phục vụ việc phòng và khám chữa bệnh cho người dân.. Hiện nay, Bệnh viện Đa khoa Trung tâm An Giang đang được xây dựng mới quy mô lớn với 10 tầng, 600 giường bệnh và là bệnh viện đầu tiên ở ĐBSCL có sân đỗ trực thăng. Khi xây dựng xong, toàn bộ bệnh viện cũ sẽ dời về đây, bệnh viện cũ sẽ trở thành bệnh viện sản nhi của tỉnh. Long Xuyên còn có Bệnh viện Tim mạch, khám chữa bệnh liên quan đến tim mạch cho người dân trong tỉnh và cả các tỉnh lân cận. Ngoài ra còn có Bệnh viện Mắt, Tai - mũi - họng, Răng - hàm - mặt. == Kinh tế == Năm 1818, quan trấn thủ trấn Vĩnh Thanh là Thoại Ngọc Hầu cho đào kênh nối rạch Đông Xuyên với rạch Giá, chợ Đông Xuyên (tức chợ Long Xuyên) đã sớm trở thành đầu mối giao lưu hàng hóa quan trọng của tỉnh. Hiện nay, cả 11 phường và 2 xã đều có chợ, riêng chợ Long Xuyên (thuộc phường Mỹ Long) là chợ chính và sầm uất nhất tỉnh. Nhìn chung, Long Xuyên là một thành phố khá phát triển về thương mại (chủ yếu là mua bán lúa gạo) và công nghiệp chế biến thủy sản (như cá basa), với hơn sáu nhà máy và hơn chục ngàn công nhân. Lược kê một vài thông tin: Năm 2008, tổng diện tích gieo trồng toàn TP. Long Xuyên gần 11.600 ha, đạt sản lượng lương thực 72.314 tấn; thủy sản có 527 bè cá và 229 ha mặt nước nuôi trồng thu hoạch 33.385 tấn; chăn nuôi gia súc, gia cầm cũng đạt sản lượng thịt 3.700 tấn... Ngành Công nghiệp chế biến lương thực - thực phẩm, thì: Ở TP. Long Xuyên có khoảng 90 nhà máy xay xát-lau bóng gạo, 8 nhà máy chế biến thủy sản, 1 nhà máy chế biến nông sản và rau quả xuất khẩu Bình Khánh và 1 Nhà máy thức ăn gia súc Afiex. Các cơ sở chế biến nước mắm và nước chấm có tiếng như: Vị Hương, Cửu Long, Miền Tây Mitaco, Hương Sen... Ngoài ra, nơi đây hiện có 14 ngành nghề truyền thống đang tồn tại, gồm: se nhang, làm bánh tráng, làm lưỡi câu, làm len, đồ sắt, làm dầm chèo, đan đát, chằm nón, dệt, đóng xuồng ghe, làm cẩm thạch v.v...đã hình thành từ hàng chục năm nay. Hiện nay, thành phố đang triển khai xây dựng khu đô thị Sao Mai Bình Khánh 5 nằm trên địa bàn phường Bình Khánh. == Văn hóa, xã hội == Nhà văn Sơn Nam nhận xét: Long Xuyên là một thị xã (nay đã là thành phố) mãi còn trẻ, theo kịp đà tiến triển của cả nước, tuy ở xa thủ đô. Được như thế, nhờ truyền thống yêu nước, nhờ nếp sống cởi mở, hiếu khách. Quanh thị xã, với sông sâu nước chảy, với cây xanh, ta gặp vài kiểu nhà sàn đẹp mắt, định hình để thích nghi với cơn lụt hàng năm. Kỹ thuật nấu ăn, bánh trái có thể bảo là không kém hoặc hơn hẳn nhiều vùng trong đồng bằng. Đáng kể nhứt là đội ngũ nhà văn, nhà thơ, nhà soạn nhạc khá hùng mạnh, tài hoa, nhiều người thuộc tầm cỡ lớn... Ông Lê Minh Tùng, Hiệu trưởng Trường Đại học An Giang đã cho biết: An Giang trong đó có Long Xuyên là một vùng đất mới, những cư dân lớp đầu phần lớn ở vùng Ngũ Quảng vào với hai bàn tay trắng. Trong tình cảnh đó, hành trang tinh thần, đó là đạo lý "trung-hiếu-tiết-nghĩa"; là ‘lá lành đùm lá rách", "một cây làm chẳng nên non"; là "ơn đền nghĩa trả", "ân oán phân minh", căm ghét kẻ bội phản. Về sau, khi công cuộc khai khẩn đi dần vào ổn định, người dân trở nên rộng rãi, phóng khoáng, trọng nhân nghĩa và có tính bao dung hơn. Ngày nay, ngoài những tính cách trên, tính năng động, ít bảo thủ, thích tiếp thu cái mới ngày càng thể hiện rõ nét trong quá trình làm ăn kinh tế và sản xuất nông nghiệp... Tính cách và lối sống của người dân An giang trong đó có Long Xuyên khá tiêu biểu cho một nền văn minh sông nước (như tập quán làm nhà sàn, nhóm chợ trên sông, nuôi cá trong lồng bè, dùng ghe xuồng để đi lại và mua bán…) mà nhà văn Sơn Nam đã gọi một cách nôm na là văn minh miệt vườn. Năm 1876, Châu Đốc và Long Xuyên mở nhà "dây thép" do người Pháp chỉ huy, người Việt vào tập sự, gọi là "điển sinh" (học sinh Bưu điện) Năm 1904, ông Phan Bội Châu vào Sài Gòn, ghé Mỹ Tho, Cao Lãnh, Sa Đéc rồi đến Bảy Núi, hy vọng tìm vài nhân vật của phong trào "trung quân ái quốc" còn sót lại...Tương truyền ông Phan cũng đã ghé chùa Minh Sư, ở chợ Long Xuyên. Năm 1927 nhà máy đầu tiên của tỉnh đặt tại Vàm Cống. Cuối năm 1930, chợ Long Xuyên bắt đầu có điện, do công ty Điện từ Cần Thơ tải sang. Tháng 7 năm 1917, kịch nghệ mới (hát cải lương) xuất hiện, thử nghiệm ở chợ Long Xuyên, do sáng kiến của Hồ Biểu Chánh, bấy giờ đang tích cực hoạt động trong "Hội Khuyến Học Long Xuyên". Buổi hát này cùng thời điểm với Gò Công và sớm hơn buổi ra mắt "Cải lương kịch xã" thử nghiệm tại rạp Eden Sài Gòn đến 2 tháng. Trong tình hình bấy giờ, quả là đi tiên phong. Năm 1919, tuồng Ô Thước do Tổng đốc An-Hà là Cao Hữu Dực sáng tác, được đem ra diễn tại Long Xuyên nhân dịp Phạm Quỳnh ghé thăm. Trong quyển "Nghệ thuật sân khấu Việt Nam", Trần Văn Khải ghi đoàn hát Sĩ Đồng Ban thành lập ở Long Xuyên, trong buổi đầu. Đồng thời với An Hà báo của Cần Thơ, vào tháng 1 năm 1918, Đại Việt tạp chí ra hàng tháng. Đây là tờ báo chính thức của Long Xuyên Hội Khuyến học Long Xuyên do Hồ Biểu Chánh, Đặng Thúc Liêng, Lê Thường Tiên phụ trách. Ngày đua xe đạp phát triển sớm ở Long Xuyên, tháng 7 năm 1925, bày cuộc đua xe Long Xuyên - Châu Đốc và ngược lại. Phụ nữ Long Xuyên theo nhịp sinh hoạt mới, đã mạnh dạn đi xe đạp như nam giới (năm 1927, ở chợ Long Xuyên có tổ chức cuộc đua xe đạp dành cho phụ nữ). Nên biết, năm 1916 vài cô gái ở Sài Gòn chạy đua xe đạp với nhau, bị dư luận cho là quá tân thời, có bài vè "Cô Ba, cô Sáu đua xe máy". Năm 1925, thi sĩ Tản Đà vào Nam. Trong khoảng thời gian này ông có ghé thăm Long Xuyên, và nhà thơ...đã "thương nhớ" mắm. Hà tươi cửa biển Tu Ran, Long Xuyên chén mắm, Nghệ An chén cà. (Thú ăn chơi) Xưa có câu: Trai Nhân Ái, gái Long Xuyên. Nhà văn Sơn Nam giải thích: Trai Nhân Ái (Phong Điền, thuộc Cần Thơ) giỏi nghề đóng tam bản, ghe hầu. Gái Long Xuyên giỏi khắp miền với bánh trái, thêu thùa, may vá. == Di tích - Thắng cảnh == Ở Long Xuyên có ba di tích được xếp hạng cấp quốc gia, đó là: Ngôi nhà lưu niệm thời niên thiếu của Chủ tịch Tôn Đức Thắng, Đình Mỹ Phước và Bắc Đế miếu (tức chùa Ông Bắc). Năm 2012, Khu lưu niệm chủ tịch Tôn Đức Thắng đã được xếp hạng là di tích quốc gia đặc biệt Ngoài ra, Long Xuyên còn có công viên Nguyễn Du, quảng trường Hai Bà Trưng, chợ nổi Long Xuyên...được nhiều du khách tìm đến tham quan. Công viên Nguyễn Du rộng khoảng 0,3 km² cận kề bên sông Hậu. Nơi trung tâm khuôn viên là một hồ nước nhân tạo, khiến phong cảnh nơi đây thêm đẹp và thoáng mát. Chợ nổi Long Xuyên là nơi tập trung hàng trăm xuồng, ghe từ khắp nơi đến để mua bán hàng hóa (chủ yếu là hàng nông sản). Ai bán loại nào sẽ treo hàng ("bẹo" hàng) trên cây sào cao để người mua dễ nhận biết. Chợ nổi chỉ hoạt động từ khoảng 5 giờ sáng đến 10 giờ mỗi ngày... == Thơ ca == Hò ơ...Long Xuyên nước ngọt gió hiền Tàu xuôi Nam Hải ngược miền Nam Vang. Thương hồ chiếc dọc chiếc ngang, Tiếng rao lãnh lót nhịp nhàng chèo khua... Chèo vô núi Sập lựa con khô sặc cho thiệt ngon, lựa trái xoài cho thiệt dòn, đem ra Long Xuyên lựa gạo cho thiệt trắng, thiệt thơm. Em về em dọn một bữa cơm, để người quân tử, hò ơ... Để người quân tử ăn còn nhớ quê... == Ảnh == == Chú thích == == Tham khảo == Địa chí An Giang tập I và II, UBND tỉnh tổ chức biên soạn & ấn hành vào năm 2003 và năm 2007. Sơn Nam, Lịch sử An Giang, Nhà xuất bản TH An Giang, 1988. An Giang xưa & nay, Người Long Xuyên biên soạn, sách in trước 1975, không thấy ghi tên nhà xuất bản và năm ấn hành.
nhóm thù ghét.txt
Nhóm thù ghét, hay nhóm thù hận, là một nhóm có tổ chức hoặc những người ủng hộ phong trào hay áp dụng thực hiện lòng căm ghét, thù hận hoặc bạo lực đối với các thành viên của một chủng tộc, sắc tộc, tôn giáo, giới tính, thiên hướng tình dục hoặc bất kỳ một đối tượng, lĩnh vực nào khác có thể định danh trong xã hội. Theo Cục Điều tra Liên bang Hoa Kỳ (FBI), "mục đích chính của một nhóm thù hận là thúc đẩy sự căm ghét, thù địch và ác ý đối với người thuộc một chủng tộc, tôn giáo, người khuyết tật, người thuộc các xu hướng tình dục, hay dân tộc/quốc gia khác nhau bởi các thành viên của nhóm. Trung tâm Nghiên cứu luật người nghèo miền Nam Hoa Kỳ (SPLC) định nghĩa một "Nhóm thù ghét" bao gồm những người có niềm tin hoặc các hành động tấn công hay phỉ báng toàn bộ một nhóm người trong xã hội, thường là lợi dụng đặc điểm không thể thay đổi được của họ. == Hoa Kỳ == Tại Hoa Kỳ, hai tổ chức giám sát các nhóm thù ghét bao gồm ''Liên đoàn chống phỉ báng'' (Anti-Defamation League, viết tắt: ADL) và Trung tâm nghiên cứu luật người nghèo miền Nam Hoa Kỳ (The Southern Poverty Law Center, viết tắt: SPLC). Các ADL và SPLC duy trì một danh sách xếp hạng những nhóm thù ghét. Theo SPLC, trong giai đoạn từ 2000 đến 2008, hoạt động nhóm thù ghét quan sát thấy tăng 50 phần trăm ở Mỹ, với tổng số 926 nhóm hoạt động, số lượng các nhóm thù ghét này có thể bao gồm một cá nhân duy nhất, không ám chỉ toàn bộ nhóm người ủng hộ hoặc tham gia vào các hoạt động bạo lực hoặc phạm tội khác. Trong bản Báo cáo hàng năm công bố đầu tháng 3 năm 2015, SPLC cho hay con số những nhóm thù ghét hoạt động ở Hoa Kỳ giảm 17% giữa năm 2013 và 2014. Hiện tại đang ở mức thấp nhất từ năm 2005. California và Florida có số các nhóm thù ghét cao nhất, với hơn 50 nhóm mỗi tiểu bang. Alaska và Hawaii là hai tiểu bang duy nhất không có nhóm thù ghét nào,. Các nhóm thù ghét cũng được theo dõi bởi FBI. FBI không công bố một danh sách của các nhóm thù ghét, và "nghiệp vụ điều tra chỉ được thực hiện khi có mối đe dọa hoặc hành động của lực lượng được thực hiện, khi nhóm có khả năng rõ ràng để thực hiện các hành động công bố; và khi hành động tạo ra nguy cơ vi phạm luật liên bang." == Tham khảo ==
thế vận hội mùa đông 1972.txt
Thế vận hội Mùa đông 1972, hay Thế vận hội Mùa đông XI, được tổ chức từ 3 tháng 2 đến 13 tháng 2 năm 1972 tại Sapporo (Nhật Bản). Tất cả có 35 quốc gia tham dự. == Các quốc gia tham dự == == Môn thi đấu == == Bảng tổng sắp huy chương == == Tham khảo == == Liên kết ngoài == Thế vận hội Mùa đông 1972 tại trang của IOC
bức tường berlin.txt
Bức tường Berlin (tiếng Đức: Berliner Mauer) từng được Chính phủ Cộng hòa Dân chủ Đức gọi là "Tường thành bảo vệ chống phát xít" (tiếng Đức: Antifaschistischer Schutzwall) và bị người dân Cộng hoà Liên bang Đức gọi là "Bức tường ô nhục" là một phần của biên giới nội địa nước Đức và đã chia cắt phần Tây Berlin với phần phía đông của thành phố và với lãnh thổ của nước Cộng hòa Dân chủ Đức bao bọc chung quanh Tây Berlin từ ngày 13 tháng 8 năm 1961 đến ngày 9 tháng 11 năm 1989. Bức tường này là một trong những biểu tượng nổi tiếng nhất của cuộc Chiến tranh Lạnh và của việc chia cắt nước Đức. Khoảng 5000 người đã tìm cách vượt qua bức tường để sang Tây Berlin. Số người bị thiệt mạng khi vượt tường nằm trong khoảng từ 86 đến 200 người. == Lịch sử == === Bối cảnh === Sau khi Chiến tranh thế giới thứ hai chấm dứt, nước Đức bị chia thành bốn vùng chiếm đóng theo Hội nghị Yalta, do các nước Đồng Minh (Mỹ, Liên Xô, Anh và Pháp) kiểm soát và quản lý. Berlin từng là thủ đô của Đức Quốc xã, cũng bị chia làm bốn khu vực tương tự như nước Đức. Cùng lúc đó cuộc Chiến tranh Lạnh giữa Đông và Tây cũng đã bắt đầu trên nhiều phương diện khác nhau. Berlin trở thành trung tâm của cuộc chiến giữa các cơ quan tình báo của cả hai phe. Trong năm 1948 Cuộc phong tỏa Berlin của Liên bang Xô Viết là một trong những cuộc khủng hoảng lớn đầu tiên trong Chiến tranh Lạnh. Trong năm 1949, khi nước Cộng hòa Liên bang Đức (Tây Đức) được thành lập trong ba vùng chiếm đóng ở phía tây và ngay sau đó là nước Cộng hòa Dân chủ Đức (Đông Đức) được thành lập trong vùng chiếm đóng của Liên bang Xô Viết, biên giới bắt đầu được cả hai bên tăng cường củng cố và canh phòng. Hai quốc gia được thành lập đã tạo nền tảng cho việc chia cắt nước Đức về chính trị. Đầu tiên, chỉ có cảnh sát biên phòng và lực lượng quân đội biên phòng được giao nhiệm vụ canh gác giữa Đông Đức và Tây Đức, sau đó Đông Đức bắt đầu xây dựng nhiều rào chắn. Về mặt hình thức, Berlin mang thể chế của một thành phố bao gồm bốn khu vực và là thành phố phi quân sự đối với quân đội Đức, đồng thời cũng là một thành phố độc lập so với cả hai quốc gia Đức – những điều này thật ra không còn giá trị trong thực tế. Trên nhiều phương diện, Tây Berlin gần như mang thể chế của một tiểu bang, thí dụ như việc có đại diện (nhưng không có quyền bỏ phiếu) trong Quốc hội Liên bang Đức (Bundestag). Đi ngược lại hiệp định đã được ký kết, Đông Berlin trở thành thủ đô của nước Đông Đức. Khi cuộc Chiến tranh Lạnh leo thang dẫn đến nhiều việc như cấm vận kỹ thuật cao COCOM cho khối Đông Âu, chiến tranh ngoại giao liên tục và đe dọa về quân sự, phía Đông đã tăng cường đóng kín biên giới. Vì thế biên giới này không đơn thuần là biên giới giữa hai phần nước Đức mà đã trở thành biên giới giữa Hội đồng Tương trợ Kinh tế và Cộng đồng châu Âu, giữa khối NATO và khối Warszawa, tức là giữa khối Tư bản Chủ nghĩa và khối Xã hội Chủ nghĩa. Từ khi Đông Đức được thành lập, người Đông Đức chạy sang Tây Đức ngày càng nhiều. Bắt đầu từ năm 1952 biên giới giữa hai nước Đức được bảo vệ bằng hàng rào và có lực lượng canh phòng. Một khu vực cấm dọc theo biên giới có chiều ngang 5 km được thành lập, người dân chỉ được phép đi vào khi có giấy phép đặc biệt – thông thường là chỉ cho những người dân cư trong vùng. Về hướng biên giới là một giải đất bảo vệ rộng 500 m và tiếp theo ngay sau đó, trực tiếp cạnh biên giới, là một giải đất canh phòng có chiều ngang 10 m. Ngược lại, ranh giới của các khu vực chiếm đóng giữa Tây Berlin và Đông Berlin lại vẫn còn bỏ ngỏ, vì thế mà gần như không thể kiểm soát được và trở thành một lỗ hổng để người dân chạy qua Tây Berlin. Từ 1949 cho đến 1961 khoảng 2,6 triệu người đã rời bỏ Đông Đức và Đông Berlin, trong số đó vẫn còn 47.433 người chạy trốn chỉ riêng trong hai tuần đầu của tháng 8 năm 1961. Ngoài ra Tây Berlin cũng là cửa ngỏ đi đến phương Tây cho nhiều người Ba Lan và Tiệp Khắc. Vì những người này thường là những người trẻ tuổi và được đào tạo tốt nên việc di dân này là mối đe dọa cho sức mạnh kinh tế của Đông Đức và cuối cùng là cho sự tồn tại của quốc gia này. Thêm vào đó khoảng 50.000 người dân Đông Berlin tuy hằng ngày làm việc ở Tây Berlin nhưng lại sinh sống và cư ngụ dưới những điều kiện rẻ tiền hơn ở Đông Berlin hay ở những vùng ngoại thành Berlin. Vào ngày 4 tháng 8 năm 1961 Hội đồng thành phố Berlin (Đông) ban quy định bắt buộc những người này phải đăng ký và phải trả tiền nhà cũng như những phí tổn phụ (điện, nước) bằng tiền Deutsche Mark của Tây Đức. Trước khi bức tường được xây dựng, lực lượng Công an Nhân dân của Đông Đức trong Đông Berlin cũng đã kiểm soát nghiêm ngặt các con đường và phương tiện giao thông đi qua phần phía tây của thành phố để ngăn chặn những người "chạy trốn cộng hòa" và "buôn lậu". Ngoài ra, nhiều người ở Tây Berlin và người Đông Berlin nhưng làm việc tại Tây Berlin đã dùng tiền Mark Đông Đức được đổi với giá rẻ trên thị trường ngoại tệ chợ đen – tỷ giá hối đoái thời điểm đấy là 1:4 – để mua lương thực thực phẩm tương đối rẻ và các hàng hóa tiêu dùng cao cấp ít ỏi ở Đông Berlin. Qua đó hệ thống kinh tế theo chế độ kinh tế kế hoạch của Đông Đức lại càng suy yếu đi. Bức tường được xây dựng để phục vụ cho ý định của những người cầm quyền Đông Đức, đóng kín cửa biên giới để chấm dứt cái được gọi một cách bình dân là "bỏ phiếu bằng chân" – rời bỏ "quốc gia công nông xã hội chủ nghĩa". === Xây dựng bức tường === Bức tường được xây dựng theo chỉ thị của lãnh đạo Đảng Xã hội Chủ nghĩa Thống nhất Đức (Sozialistische Einheitspartei Deutschlands - SED), dưới sự bảo vệ và canh phòng của lực lượng Công an Nhân dân và Quân đội Nhân dân Quốc gia – trái với những lời cam đoan của Chủ tịch Hội đồng Nhà nước của Đông Đức, Walter Ulbricht, người trong một cuộc họp báo quốc tế tại Đông Berlin vào ngày 15 tháng 6 năm 1961 đã trả lời câu hỏi của nữ nhà báo Tây Đức Annamarie Doherr: "Tôi hiểu câu hỏi của bà là có những người ở Tây Đức muốn chúng tôi huy động công nhân xây dựng của thủ đô nước Đông Đức để lập nên một bức tường. Tôi không biết có một ý định như thế vì những người công nhân xây dựng của thủ đô đã dốc toàn lực của họ để xây chủ yếu là nhà dân cư. Không một ai có ý định dựng lên một bức tường cả!" Vì thế mà Ulbricht chính là người đầu tiên sử dụng khái niệm bức tường trong việc này – hai tháng trước khi bức tường được dựng lên. Tuy quân đội Đồng Minh phía Tây đã có thông tin về kế hoạch của "những biện pháp cứng rắn" nhằm để phong tỏa Tây Berlin thông qua những người tin cậy, nhưng họ vẫn ngạc nhiên về thời điểm cụ thể và quy mô của rào cản này. Do quyền ra vào Tây Berlin không bị cắn xén nên phương Tây đã không can thiệp bằng quân sự. Cơ quan tình báo Liên bang Đức (Bundesnachrichtendienst - BND) cũng đã nhận được nhiều thông tin tương tự ngay từ giữa tháng 7. Sau khi Ulbricht viếng thăm Nikita Sergeyevich Khrushchyov trong thời gian của cuộc họp cấp cao các nước trong khối Warszawa tại Moskva từ 3 tháng 8 đến 5 tháng 8, báo cáo hằng tuần của BND vào ngày 9 tháng 8 đã ghi lại: "Thông tin cho thấy chế độ Pankow đang cố gắng đạt được sự đồng ý của Mátxcơva để tiến hành nhiều biện pháp ngăn cản có hiệu quả hơn – thuộc vào trong số đó đặc biệt là việc thắt chặt biên giới của các khu vực chiếm đóng ở Berlin và làm gián đoạn giao thông tàu điện ngầm và tàu nhanh ở Berlin. [...] còn phải chờ xem liệu Ulbricht [...] ở Moskva [...] có khả năng đạt được các yêu cầu về việc này hay không và đạt được đến đâu." Trong tuyên bố của các quốc gia thành viên trong hội nghị của khối Warszawa đã có lời đề nghị "phải chặn đứng các hoạt động phá hoại ngấm ngầm chống lại các nước phe xã hội chủ nghĩa tại biên giới Tây Berlin và phải đảm bảo canh gác và kiểm soát có hiệu quả vùng Tây Berlin." Vào ngày 11 tháng 8 Quốc hội của Đông Đức chấp thuận kết quả của hội nghị Moskva và ủy nhiệm cho Hội đồng Bộ trưởng tiến hành tất cả các biện pháp tương ứng. Vào ngày 12 tháng 8 Hội đồng Bộ trưởng quyết định sử dụng các "lực lượng vũ trang" để canh phòng biên giới với Tây Berlin và để xây dựng rào chắn biên giới. Trong ngày thứ Bảy 12 tháng 8 BND nhận được thông tin từ Đông Berlin, rằng "vào ngày 11 tháng 8 năm 1961 đã có cuộc họp các bí thư của các nhà xuất bản thuộc Đảng và các cán bộ Đảng khác tại Ủy ban Trung ương Đảng Xã hội Chủ nghĩa Thống nhất Đức. Tại đấy, ngoài những việc khác là tuyên bố: [...] Do tình hình dòng người di tản tăng liên tục, việc khóa kín phần phía đông của Berlin và khu vực chiếm đóng phía đông cần phải thực hiện trong những ngày sắp đến – một thời điểm cụ thể không được nêu ra – chứ không như theo kế hoạch là đến 14 ngày nữa." Trong đêm 12 rạng sáng ngày 13 tháng 8 năm 1961 Quân đội Nhân dân Quốc gia, 5.000 người của Cảnh sát biên phòng (tiền thân của Lực lượng Biên phòng sau này), 5.000 người thuộc Công an Nhân dân và 4.500 người thuộc lực lượng công nhân vũ trang bắt đầu phong tỏa các đường bộ và đường sắt dẫn đến Tây Berlin. Quân đội Xô Viết được đặt trong tình trạng báo động và hiện diện tại các cửa khẩu biên giới của Đồng Minh. Tất cả các liên kết giao thông còn tồn tại giữa hai phần Berlin đều bị gián đoạn. Erich Honecker vào thời điểm đó dưới cương vị là bí thư trung ương Đảng về an ninh đã nhân danh ban lãnh đạo Đảng chịu trách nhiệm chính trị về việc lên kế hoạch và thực hiện việc xây bức tường. Cho đến tháng 9 năm 1961, chỉ riêng từ lực lượng canh phòng đã có 85 người đào ngũ sang Tây Berlin, ngoài ra là 216 lần chạy trốn thành công của tổng cộng 400 người. Một số bức ảnh nổi tiếng chụp những người chạy trốn được thả xuống từ các ngôi nhà lân cận bằng dây làm từ tấm vải trải giường hay của người cảnh sát biên phòng trẻ tuổi Conrad Schumann đang chạy qua hàng rào kẽm gai trên đường Bernau (Bernauer Straße). === Phản ứng của Tây Đức === Ngay trong cùng ngày Thủ tướng Liên bang Konrad Adenauer đã kêu gọi qua đài phát thanh yêu cầu người dân hãy bình tĩnh và thận trọng, nhắc đến việc sẽ phối hợp cùng với lực lượng Đồng Minh để có phản ứng tiếp theo. Mãi hai tuần sau khi bức tường được xây dựng ông mới viếng thăm Tây Berlin. Chỉ riêng thị trưởng Berlin đương nhiệm Willy Brandt đã cực lực phản đối, nhưng cuối cùng ông cũng bất lực trước việc xây bức tường bao quanh Tây Berlin chia cắt thành phố. Ngay trong năm đó, các tiểu bang Tây Đức đã thành lập Trung tâm Thu thập của Hành chánh Tư pháp Tiểu bang (Zentrale Erfassungsstelle der Landesjustizverwaltungen) tại Salzgitter để ghi nhận lại các vi phạm về quyền con người trên lãnh thổ Đông Đức. Vào ngày 16 tháng 8 năm 1961 Willy Brandt và 300.000 người dân Tây Berlin đã biểu tình trước Tòa thị chính Schöneberg. === Phản ứng của Đồng Minh === Đồng Minh phía tây phản ứng rất chậm chạp: mãi 20 tiếng sau đó, lực lượng quân sự mới xuất hiện tại biên giới. Sau 40 tiếng một bức thư mới được gửi đến Ban chỉ huy quân sự Xô Viết Berlin, và mãi đến 72 tiếng sau đó, để cho đầy đủ về mặt hình thức, các phản đối mang tính ngoại giao của phe Đồng Minh phía tây mới được gửi đến Moskva. Có nhiều tin đồn cho rằng trước đó Liên bang Xô Viết đã bảo đảm với phe Đồng Minh phía tây là Liên bang Xô Viết sẽ không đụng chạm đến quyền lợi của họ ở Tây Berlin. Trên thực tế, từ kinh nghiệm của Cuộc phong tỏa Berlin, trong mắt của Đồng Minh phía Tây thể chế của Tây Berlin luôn luôn bị đe dọa – việc xây bức tường giờ đây chính là tuyên ngôn bằng hiện vật của nguyên trạng đương thời, cái mà giờ đây chỉ được xây nền tảng bằng bê tông theo đúng nghĩa đen của nó. Có thể thấy rõ rằng Liên bang Xô Viết đã từ bỏ yêu cầu về một thành phố Berlin "tự do", phi quân sự được thể hiện trong tối hậu thư của Khrushchyov năm 1958. Phản ứng quốc tế năm 1961: "Một giải pháp không hay lắm nhưng vẫn tốt hơn chiến tranh hằng ngàn lần." John F. Kennedy, Tổng thống Mỹ . "Người Đông Đức chặn dòng người tỵ nạn lại và cố thủ sau một bức màng sắt dày hơn. Điều đấy không có gì là phạm pháp cả." Harold Macmillan, Thủ tướng Anh. Tuy vậy Tổng thống John F. Kennedy cũng đã đứng sát cạnh với "thành phố tự do" Berlin. Ông gửi thêm lực lượng quân sự gồm 1.500 người đến Tây Berlin và tái động viên tướng Lucius D. Clay. Vào ngày 19 tháng 8 năm 1961 Clay và Phó Tổng thống Lyndon B. Johnson đến thăm Berlin. Một cuộc chạm trán trực tiếp có vẻ nguy hiểm giữa quân đội Mỹ và Xô Viết xảy ra vào ngày 27 tháng 10 năm 1961 tại Checkpoint Charlie trên đường Friedrich (Friedrichstraße) khi 10 chiếc tăng mỗi bên đã đỗ đối diện nhau ngay trước vạch ranh giới. Thế nhưng vào ngày hôm sau cả hai nhóm tăng đều được rút về. Cả hai phe đều không muốn vì Berlin mà cuộc Chiến tranh Lạnh sẽ leo thang hay cuối cùng là đi đến một cuộc chiến tranh hạt nhân. Ngày 26 tháng 6 năm 1963, Tổng thống Kennedy đã đến thăm và trong một bài phát biểu sôi nổi trước Bức tường Berlin, ông nói "Tây Berlin là một biểu tượng của tự do trong một thế giới bị đe dọa bởi chiến tranh lạnh", "Tất cả những người tự do, dù sống tại bất cứ nơi nào, đều là công dân của Berlin, và do đó, như là một người dân tự do, tôi tự hào trong (khi nói) các từ ngữ Ich bin ein Berliner (tôi là một người Berlin)" , và ông cũng nói: === Đất nước bị chia cắt === Từ ngày 1 tháng 6 năm 1952 dân cư trong Tây Berlin không còn được phép tự do vào Đông Đức. Sau nhiều cuộc thương lượng kéo dài Hiệp định giấy thông hành (Passierscheinabkommen) được ký kết năm 1963, tạo điều kiện cho hằng trăm ngàn người Tây Berlin thăm viếng họ hàng trong phần phía đông của thành phố vào dịp cuối năm. Bắt từ đầu thập niên 1970 với chính sách tiếp cận giữa Đông Đức và Tây Đức do Willy Brandt và Erich Honecker mở đầu, biên giới của hai quốc gia được mở rộng hơn một ít. Đông Đức bắt đầu cho phép đi du lịch dễ dàng hơn, đặc biệt là cho những nhóm người "phi sản xuất" như những người đang nghỉ hưu và cho phép công dân Tây Đức thăm viếng một cách đơn giản hơn từ những vùng gần biên giới. Một quyền tự do du lịch rộng rãi bị Đông Đức gắn liền với việc công nhận thể chế là một quốc gia độc lập và với yêu cầu trao trả các công dân Đông Đức đi du lịch nhưng không muốn trở về nữa. Tây Đức đã không muốn thỏa mãn các yêu cầu này vì hiến pháp không cho phép. Trong tuyên truyền, Đông Đức đã gọi bức tường này cũng như toàn bộ việc bảo vệ biên giới là "bức tường thành chống phát xít" (antifaschistischer Wall), bảo vệ nước Đông Đức chống lại việc "di dân, xâm nhập, gián điệp, phá hoại, buôn lậu, bán tống bán tháo và gây hấn từ phương Tây". Thực chất các hệ thống phòng thủ này chủ yếu là chống lại chính những người công dân của Đông Đức. === Bức tường sụp đổ === Bức tường sụp đổ trong đêm thứ Năm ngày 9 tháng 11, rạng sáng ngày thứ Sáu ngày 10 tháng 11 năm 1989, sau hơn 28 năm. Dẫn đến việc mở cửa bức tường về một mặt là các cuộc biểu tình tuần hành rộng lớn và yêu cầu tự do đi lại trong Đông Đức trước kia, về mặt khác là việc "bỏ trốn Cộng hòa" (Republikflucht) liên tục của một số lớn người dân từ Đông Đức sang Tây Đức đi vòng qua nước ngoài như Hungary, nước đã mở cửa biên giới với Áo từ ngày 11 tháng 9 hay trực tiếp từ Tiệp Khắc từ đầu tháng 11 hoặc qua các đại sứ quán Đức tại các thủ đô của các quốc gia ở Đông Âu (trong đó là các đại sứ quán tại Praha và Warszawa). Sau khi bản dự thảo cho Luật đi lại mới (Reisegesetz) được công bố vào ngày 6 tháng 11 vấp phải phản đối cực lực và lãnh đạo Tiệp Khắc bằng con đường ngoại giao ngày càng phản đối mạnh mẽ hơn việc công dân Đông Đức bỏ đi thông qua đất nước Tiệp Khắc, Bộ chính trị của Đảng Xã hội Chủ nghĩa Thống nhất Đức quyết định thay đạo luật mới bằng một quy định về việc ra nước ngoài. Một bản dự thảo cho quyết định này, có thêm phần về việc xuất ngoại để thăm viếng, được Bộ chính trị xác nhận và chuyển tiếp đến Hội đồng Bộ trưởng. Tại đấy, theo như dự tính thì bản dự thảo trình Hội đồng Bộ trưởng cần được hoàn thành và thông qua ngay trong ngày để có thể được công bố bắt đầu từ lúc 4 giờ ngày hôm sau thông qua hãng thông tấn xã nhà nước ADN. Thế nhưng trong quy trình thông qua đã có ý kiến phản đối từ Bộ Tư pháp. Song song với việc này, bản dự thảo trình Hội đồng Bộ trưởng được đưa ra bàn thảo vào buổi chiều ngày hôm đó trong Ủy ban Trung ương Đảng và được sửa đổi nhỏ. Phiên bản này của dự thảo được Egon Krenz trao cho thành viên của Bộ Chính trị Günter Schabowski, người vắng mặt trong các cuộc họp trước đó của Bộ chính trị và Ủy ban Trung ương Đảng, trước khi Schabowski tổ chức họp báo về kết quả của lần họp Ủy ban Trung ương Đảng. Cuộc họp báo với Günter Schabowski trong Sở Báo chí/Trung tâm Báo chí Quốc tế trên đường Mohren (Mohrenstraße) số 38 tại Đông Berlin (hiện nay là một phần của Bộ Tư pháp Liên bang) được truyền hình trực tiếp và được nhiều người theo dõi, và chính là ngòi nổ mở cửa bức tường. Vào cuối cuộc họp báo vào lúc 18 giờ 57, gần như là việc phụ, Schabowski đọc từ tờ giấy được đưa cho ông bản dự thảo dành cho Hội đồng Bộ trưởng: "Có thể làm đơn xin du lịch cá nhân ra nước ngoài mà không cần có điều kiện như lý do xuất ngoại hay quan hệ họ hàng. Giấy phép sẽ được cấp trong thời hạn ngắn. Các ban phòng có thẩm quyền về hộ chiếu và khai báo cư trú của các cơ quan Công an Nhân dân cấp huyện trong nước Đông Đức có thể nhanh chóng cấp giấy thông hành ra nước ngoài thường xuyên theo như chỉ thị. Có thể liên tục ra nước ngoài tại tất cả các cửa khẩu biên giới giữa nước Đông Đức và Tây Đức." "Khi nào? Ngay lập tức?" Một nhà báo, Peter Brinkmann phóng viên thường trực của báo Bild tại Đông Đức, hỏi. Schabowski (lục lọi trong chồng giấy tờ của ông): "Theo như tôi biết – thì ngay lập tức, không chậm trễ". (Trích dẫn theo Hans-Hermann Hertle, Katrin Elsner trong quyển "Mein 9. November", Nhà xuất bản Nicolai, Berlin,1999) Dựa trên thông tin từ các đài truyền thanh và truyền hình của Tây Đức và Tây Berlin dưới tựa đề được diễn giải một cách sai lầm là "Bức tường đã mở!" hằng ngàn người dân Đông Berlin đã kéo đến các cửa khẩu và yêu cầu mở cổng. Vào thời điểm này, không những lực lượng biên phòng mà ngay cả các đơn vị kiểm tra hộ chiếu chịu trách nhiệm về thủ tục thuộc Bộ An ninh Quốc gia cũng hoàn toàn không được thông báo gì về vấn đề này. Dưới áp lực của số đông quần chúng, ngay sau 23 giờ, cửa khẩu biên giới tại đường Bornholm (Bornholmer Straße) ở Berlin được mở đầu tiên mà không có lệnh hay chỉ đạo cụ thể, sau đấy là các cửa khẩu khác trong thành phố Berlin cũng như tại biên giới nội địa Đức. Ngay tối khuya đó, nhiều người đã theo dõi việc mở các cửa khẩu biên giới qua truyền hình và một phần đã bắt đầu ra đi. "Cơn bão" bắt đầu vào sáng ngày hôm sau, ngày 10 tháng 11 năm 1989, vì rất nhiều người vẫn còn đang ngủ khi biên giới được mở vào giữa đêm khuya. Ngày 22 tháng 12 năm 1989, toàn bộ những cổng ngăn cách giữa bức tường được chính thức mở cửa. Công dân Đông Đức đã được người dân Tây Berlin đón chào nồng nhiệt. Phần lớn các quán bia gần bức tường tự phát cho uống bia không phải trả tiền và trên đại lộ Kurfürstendamm là hằng đoàn ô tô bóp còi diễu hành, những người hoàn toàn xa lạ ôm choàng lấy nhau. Khi có thông tin về việc bức tường được mở cửa, Quốc hội Liên bang đã tạm ngừng phiên họp về ngân sách quốc gia và các nghị sĩ đã tự phát hát quốc ca. Mỗi người dân Đông Đức được chính phủ CHLB Đức tặng 100 DM khi qua cổng (lúc đó trị giá trên thị trường chợ đen là 1000 tiền Đông Đức, gần bằng 1 tháng lương trung bình), gọi là "tiền chào mừng". Tiếp theo sự sụp đổ của Bức tường Berlin ngày 9 tháng 11 năm 1989, Đảng Xã hội chủ nghĩa thống nhất Đức mất đi đa số trong Quốc hội tại cuộc bầu cử ngày 18 tháng 3 năm 1990. Ngày 23 tháng 8 cùng năm, Quốc hội Đông Đức quyết định rằng lãnh thổ quốc gia này sẽ được đặt dưới hệ thống pháp luật của Cộng hòa Liên bang Đức và nước Đức tái thống nhất kể từ ngày 3 tháng 10 năm 1990. === Di cư === Tổng cộng nửa triệu người Tây Đức sang Đông Đức, hầu hết trước khi bức tường Berlin được xây, con số này cũng bao gồm số người Đông Đức trở về xứ. Trong khi đó, 3,8 triệu người Đông Đức bỏ sang sống ở Tây Đức. Những người từ Tây sang Đông thường vì ý thức hệ, nghĩ là Đông Đức là một nước chống Phát Xít, và nhất là khi đảng Cộng sản bị cấm hoạt động ở Tây Đức 1956. Riêng năm 1954, 75.000 người sang Đông Đức, tuy nhiên hơn phân nửa là những người trở về, những người mà trước đó từ Đông Đức sang. 35% nói là vì lý do gia đình, và 25% vì thất nghiệp đã lâu. Trong thời gian này, Đông Đức đã chiêu dụ với những hứa hẹn như được ưu tiên cấp chỗ cư trú, bảo đảm việc làm, được dễ dàng mượn tiền. Có những người chuyên quảng cáo về việc này, để mà nhập khẩu người làm đang thiếu ở Đông Đức. Tuy nhiên khi bức tường được xây, thì hầu như không còn ai muốn sang Đông Đức hết, vì họ biết là ra đi thì sẽ không được phép trở lại. Theo thống kê 1968, 1.500 người sang Đông Đức, 2/3 là những người trở về – bởi vì không ai sang Tây Đức cũng thỏa mãn với đời sống mới, một số nhớ nhà, khó hội nhập và thất vọng vì mong đợi quá cao. Còn những người sang vào thập niên 1970-80, đa số là được đảng Cộng sản Đức (Tây Đức) (DKP), thành lập năm 1968, gởi sang nghiên cứu về những lợi điểm của chủ nghĩa xã hội, một số khác là thành viên của "Rote-Armee-Fraktion" (RAF), được cơ quan an ninh Đông Đức cho trú ẩn tránh sự truy nã của Tây Đức. Tuy nhiên cơ quan an ninh Đông Đức luôn nghi ngờ và theo dõi họ. Còn dân chúng thì lại không hiểu nổi, tại sao người Tây Đức lại sang bên này. Họ thường bị cho là có vấn đề trong xã hội hay là thân chế độ Cộng sản nắm quyền. Cho nên có sự cô lập về chính trị và xã hội dẫn đến sự di cư trở lại. Trước khi bức tường được xây, số trở về là hơn 50%. Nó chứng tỏ sự thất vọng về chính trị của những công dân mới ở Đông Đức. == Cấu trúc hệ thống bảo vệ biên giới tại Berlin == Bức tường Berlin được hoàn thiện bằng nhiều công trình rộng khắp ở cạnh biên giới với Tây Đức. Cũng như phần biên giới nội Đức còn lại, Bức tường Berlin được củng cố với nhiều hệ thống rộng lớn bao gồm hàng rào kẽm gai, hào, vật cản xe tăng, đường tuần tra và tháp canh. Chỉ riêng chó đặc nhiệm đã có khoảng 1.000 con đã được sử dụng cho đến đầu thập niên 1980. Các hệ thống này được liên tục mở rộng qua nhiều thập niên. Các ngôi nhà gần bức tường đều bị giật sập, dân cư trong các ngôi nhà đó đã bị bắt buộc di chuyển sang nơi khác trước đấy. Ngay cả Nhà thờ Hòa giải trên đường Bernau (Bernauer Straße) cũng bị giật sập vào ngày 28 tháng 1 năm 1985. Theo thông tin của Bộ An ninh Quốc gia trong mùa xuân 1989, hệ thống chung quanh Bức tường Berlin bao gồm: 41,91 km tường có chiều cao 3.60 m 58,95 km tường có chiều cao 3,40 m 68,42 km hàng rào bằng kim loại có chiều cao 2,90 m làm "vật cản trước" 161 km đường đi có hệ thống chiếu sáng 113,85 km hàng rào có hệ thống báo động 186 tháp canh 31 cơ sở chỉ huy Trong tổng số 156,4 km biên giới với Tây Berlin, 43,7 km nằm trong thành phố Berlin và 112,7 km nằm trong tỉnh Potsdam. Có 63,8 km chạy qua khu vực có công trình xây dựng, 32 km xuyên qua vùng có rừng, 22,65 km qua đồng trống và 37,95 km nằm cạnh sông hay hồ. === Cấu trúc === Vào thời gian cuối, hệ thống bảo vệ biên giới bao gồm (từ hướng của Đông Đức): Tường bê tông hay rào sắt cao khoảng từ 2 đến 3 mét Dưới đất là hệ thống phát tín hiệu báo động khi chạm vào Rào sắt cao hơn đầu người có gắn kẽm gai và dây báo động Ngoài ra nhiều đoạn còn có chó đặc nhiệm, hào cản xe cơ giới và cản xe tăng, chỉ được hủy bỏ sau khi Tây Đức cho vay hằng tỷ đồng DM. Đường đi có chiếu sáng về đêm cho lực lượng biên phòng Tháp canh (tổng cộng 302 tháp vào năm 1989) Bức tường Berlin Trước đấy là vài mét lãnh thổ của nước Đông Đức. Hệ thống bảo vệ biên giới này có chiều ngang tổng cộng khoảng từ 30 m đến khoảng 500 m (ở Quảng trường Potsdam) tùy thuộc vào địa hình. Mìn và hệ thống súng bắn tự động không được lắp đặt ở Bức tường Berlin nhưng được gắn dọc theo biên giới nội Đức. === Lực lượng bảo vệ === Theo thông tin của Bộ An ninh Quốc gia (Đông Đức), lực lượng biên phòng của khu vực biên giới với Tây Berlin bao gồm 11.500 quân nhân và 500 nhân viên dân sự. Ngoài bộ tham mưu đóng ở Berlin-Karlshorst lực lượng này bao gồm 7 trung đoàn đóng tại Berlin-Treptow, Berlin-Pankow, Berlin-Rummelsburg, Hennigsdorf, Groß-Glienicke, Potsdam-Babelsberg và Kleinmachnow cũng như là 2 trung đoàn tập huấn tại Wilhelmshagen và Oranienburg. Mỗi trung đoàn có 5 đại đội biên phòng, ngoài ra là mỗi một trung đội của các binh chủng công binh, truyền tin, vận tải, súng cối và pháo binh, súng phóng lửa và một đội chó đặc nhiệm. Ngoài ra còn có thể có một đại đội thuyền hải quân. Lực lượng canh phòng biên giới có hơn 567 xe bọc thép chở quân, 48 súng cối, 48 đại bác chống tăng, 114 súng phóng lửa cũng như là 156 xe bọc thép hay xe công binh và 2.295 xe cơ giới khác. Ngoài ra là 992 chó đặc nhiệm. Vào một ngày bình thường có khoảng 2.300 quân nhân nhận nhiệm vụ canh phòng trực tiếp tại biên giới và vùng cận biên giới. === Cửa khẩu === Tại Bức tường Berlin có 25 nơi qua biên giới, 13 cửa khẩu cho đường ô tô, 4 cho tàu hỏa và 8 cửa khẩu đường sông, chiếm 60% tất cả các cửa khẩu biên giới giữa Đông Đức và Tây Đức. Sau khi hai nước Đức thống nhất tiền tệ vào ngày 1 tháng 7 năm 1990, toàn bộ các cửa khẩu biên giới nội địa Đức được hủy bỏ. Một vài phần còn lại được giữ làm kỷ niệm. == Nạn nhân của Bức tường Berlin và những người bắn == === Nạn nhân === Thông tin về con số những người chết tại Bức tường Berlin chứa nhiều mâu thuẫn và cho đến ngày hôm nay vẫn chưa chắc chắn vì những vụ việc này đã được Đông Đức che đậy một cách có hệ thống. Vào năm 2000 Viện công tố Berlin cho biết con số có thể minh chứng được của những nạn nhân đã chết vì bạo lực tại Bức tường Berlin là 86 người. Theo tin tức ghi nhận của tổ chức 13 tháng 8 thì số người bị thiệt mạng lên đến 1135. Theo sự điều tra của Staatsanwaltschaft văn phòng tổng kiểm sát trưởng của Bá Linh thì có 270 trường hợp các nạn nhân bị nhà cầm quyền đông Đức hành hình rất dã man. 421 người vượt tường tìm tự do bị quân đội cộng sản Đức hạ sát. Từ tháng 8 năm 2005 một dự án được Hội Bức tường Berlin (Verein Berliner Mauer) cùng với Trung tâm nghiên cứu lịch sử đương đại Potsdam tiến hành với mục đích điều tra con số chính xác của những nạn nhân bức tường và lịch sử của những nạn nhân này.. Nạn nhân đầu tiên của Bức tường là Ida Siekmann, người đã tử nạn khi nhảy từ cửa sổ của một căn nhà trên đường Bernau (Bernauer Straße) xuống vào ngày 22 tháng 8 năm 1961. Vào ngày 24 tháng 8 năm 1961 các phát súng đầu tiên đã bắn chết Günter Litfin, 24 tuổi, trong khi anh cố chạy trốn ở gần Nhà ga trên đường Friedrich. Trong năm 1966 hai trẻ em 10 và 13 tuổi đã bị bắn chết bởi 40 phát súng. Nạn nhân cuối cùng bị bắn chết là Chris Gueffroy vào ngày 6 tháng 2 năm 1989. Theo nhiều dự tính, khoảng 75.000 người đã phải ra tòa án trong Đông Đức vì tội chạy trốn, tội mà theo điều 213 Bộ Luật hình sự nước Đông Đức có thể lãnh án đến 8 năm tù. Những ai giúp đỡ chạy trốn còn có thể bị án tù chung thân. === Xử án những người bắn === Các vụ án xử những người ra lệnh bắn kéo dài cho đến mùa thu năm 2004. Thuộc vào trong số những người chịu trách nhiệm bị xử án là Erich Honecker, Chủ tịch Hội đồng Nhà nước và người kế nhiệm Egon Krenz, các thành viên của Hội đồng Quốc phòng Erich Mielke, Willi Stoph, Heinz Keßler, Fritz Streletz và Hans Albrecht, bí thư tỉnh Suhl, cũng như là một vài tướng lãnh như cựu chỉ huy lực lượng biên phòng (1979-1990), đại tướng Klaus-Dieter Baumgarten. Tổng cộng có 35 người được trắng án, 44 người bị tù treo và 11 người lãnh án tù giam, trong đó Albrecht, Streletz và Kessler cũng như là Baumgarten đã lãnh án từ 4 năm 6 tháng đến 7 năm 6 tháng tù giam. Trong tháng 8 năm 2004 Hans-Joachim Böhme và Werner Lorenz, cựu thành viên của Bộ Chính trị, đã nhận án treo từ Tòa án Berlin (Landgericht Berlin). == Tưởng niệm == === Viện bảo tàng Bức tường Berlin tại Checkpoint Charlie === Viện bảo tàng Bức tường ở Checkppoint Charlie ngay tại biên giới nội địa Đức ngày trước được nhà sử học Rainer Hildebrandt khai trương trong năm 1963 và do Cộng đồng Ngày 13 tháng 8 chịu trách nhiệm vận hành. Viện bảo tàng là một trong những viện bảo tàng có du khách đến tham quan nhiều nhất của Berlin. Viện trưng bày hệ thống bảo vệ biên giới, tư liệu về các cuộc chạy trốn thành công và các phương tiện đã được sử dụng để bỏ trốn như khinh khí cầu, ô tô hay một tàu ngầm nhỏ. Giám đốc hiện nay là góa phụ của người sáng lập, bà Alexandra Hildebrandt. === Khu tưởng niệm Bức tường Berlin tại đường Bernau === Khu tưởng niệm Bức tường Berlin trên đường Bernau được hoàn thành vào cuối thập niên 1990 bao gồm đài tưởng niệm, Trung tâm tư liệu Bức tường Berlin và ngôi nhà thờ hòa giải. Đài tưởng niệm xuất phát từ một cuộc thi đua do Liên bang tổ chức và được khánh thành vào ngày 13 tháng 8 năm 1998 sau nhiều cuộc tranh cãi gay gắt kéo dài. Trung tâm tư liệu do một hiệp hội vận hành và được khai trương vào ngày 9 tháng 11 năm 1999. Nhà thờ hòa giải của Cộng đồng hòa giải Tin Lành được khánh thành vào ngày 9 tháng 11 năm 2000 và được xây dựng trên nền móng của Nhà thờ hòa giải đã bị giật sập trong năm 1985. === Đường mòn Bức tường Berlin === Bức tường Berlin ở Đức sau khi nó bị phá đổ năm 1989 đã không còn dấu vết. Để gợi nhớ di tích lịch sử này, năm 2007, người ta hoàn thành một tuyến đường cho xe đạp dọc theo bức tường dài 160 km xưa kia. Tuyến đường này có tên Đường mòn Bức tường Berlin trị giá 6 triệu USD, nó vừa là một vành đai xanh vừa là công trình gợi lại một thời kỳ lịch sử của nước Đức. Dọc tuyến đường này có chừng 30 biển báo chỉ dẫn các di tích lịch sử. Theo ông M.Cramer, một chính trị gia ở Berlin và cũng là người đưa ra ý tưởng trên xây dựng đường mòn: "Bức tường Berlin là một phần của quá khứ và chúng ta không thể xóa bỏ nó. Đó không chỉ là lời nhắc nhở về sự chia cắt mà còn là ký ức về chuyện bức tường đã bị phá đổ một cách hòa bình như thế nào". === Lễ kỷ niệm 20 năm === Ba vị cựu lãnh đạo của Chiến tranh Lạnh, George H. W. Bush, Helmut Kohl, và Mikhail Gorbachev, cùng có mặt tại Berlin ngày 31 tháng 10 năm 2009, để đánh dấu ngày đầu tiên cho một loạt lễ kỷ niệm sự sụp đổ của bức tường Berlin, mà cách đây 20 năm còn chia đôi thành phố này. Cả ba vị cựu lãnh đạo, vào khoảng thời gian đó đều là lãnh đạo của Hoa Kỳ, của Cộng hòa Liên bang Ðức và của Liên Xô, và mỗi người trong trách nhiệm của mình, đã đóng góp vào sự sụp đổ của bức tường Berlin và từ đó đã đưa đến sự tái thống nhất nước Ðức vào tháng 11 năm 1989, mà từ diễn tiến đó đã đưa đến sự kết thúc luôn của cuộc Chiến tranh Lạnh. Cựu Thủ tướng Kohl, từng lãnh đạo nước Ðức được tái thống nhất, trong các năm từ 1982 đến 1998, phải đi xe lăn, và phát biểu có phần khó khăn, tuyên bố: "Chúng tôi, người Ðức, không có bao nhiêu điều để hãnh diện về lịch sử của chúng tôi. Nhưng chúng tôi có tất cả các lý do để được hãnh diện về sự tái thống nhất nước Ðức." Cựu Tổng thống Bush, lãnh đạo Hoa Kỳ từ năm 1989-1993, cũng lên phát biểu trong buổi lễ đầy cảm động này, không quên nhắc lại hàng chục ngàn người dân Ðông Ðức đã không hề run sợ trước các sự đàn áp của chế độ Cộng sản Ðông Ðức, mà xuống đường trong nhiều tháng liền đòi hỏi sự đổi mới của đất nước, dẫn đến sự sụp đổ luôn của bức tường Berlin. Cựu Tổng thống Bush cũng nói tiếp: "Thật là một niềm vui khi được có mặt tại nơi đây cùng với các bạn lãnh đạo cũ của chúng tôi," và nhân đó ông đã nhiều lần ôm cựu Chủ tịch Gorbachev và cựu Thủ tướng Kohl, trong buổi lễ kéo dài hai tiếng đồng hồ, được tổ chức tại rạp hát Friedrich Strasse, nằm về phía Ðông của Bức Tường cũ. Ðiều đáng nhấn mạnh ở đây, là các diễn tiến lịch sử mà chúng ta đang kỷ niệm ở đây bằng sự hiện diện của chúng ta, đã không hề được dàn xếp tại Bonn, Moskva hay Washington DC, mà từ trong các trái tim và khối óc của các người đã bị mất các quyền thiêng liêng của họ quá lâu rồi." Cựu Tổng thống Bush, phải di chuyển bằng một chiếc gậy trống, tỏ ra vui mừng khi gặp lại được các nhà lãnh đạo cũ, phát biểu tiếp như sau: "Bức tường không thể nào xóa nhòa được giấc mơ của chúng ta, đó là một nước Ðức duy nhất, một nước Ðức tự do và một nước Ðức hiên ngang." Cựu Chủ tịch Liên Xô Gorbachev, từng được giải Nobel Hòa bình vì sự đóng góp của ông vào việc kết thúc cuộc Chiến tranh Lạnh cùng với năm Bức Tường sụp đổ, tuyên bố rằng hai sự kiện trên đã đứng đầu một thập niên của sự xích lại giữa hai khối "mà những người anh hùng chính là dân chúng." Vị chủ tịch cuối cùng của Liên Xô nhấn mạnh tiếp: "Không có ai trong ba chúng ta muốn giành lấy các thành quả của các thế hệ tiền nhiệm," sau khi ngợi khen việc Tổng thống Bush đã giữ vững tay chèo của đất nước Hoa Kỳ, trong suốt thời kỳ lịch sử đó. Khoảng 1.800 khách mời, trong đó có ba vị cựu lãnh đạo trên, còn có thủ tướng Ðức vừa tái cử Angela Merkel, các cựu thủ tướng Hungary Miklos Nemeth và Balan Tadeus Mazowiecki, cùng hàng chục vị đại sứ, tham dự lễ kỷ niệm sự sụp đổ của Bức tường Berlin này, nằm trong lễ kỷ niệm kéo dài một tuần lễ cho đến ngày 9 tháng 11 năm 2009. == Hình ảnh == == Đọc thêm == Hãy phá đổ bức tường này Peter Fechter Harald Jäger == Chú thích == == Tham khảo == Peter Feist: Die Berliner Mauer. Der historische Ort. Bd 38. Kai Homilius, Berlin 2004 (4. Aufl.). ISBN 3-931121-37-2 (Leseprobe) Thomas Flemming, Hagen Koch: Die Berliner Mauer. Geschichte eines politischen Bauwerks. Bebra, Berlin 2001. ISBN 3-930863-88-X Hertle, Jarausch, Kleßmann (Hrsg.): Mauerbau und Mauerfall. Berlin 2002. ISBN 3-86153-264-6 Andreas Hoffmann, Matthias Hoffmann: Die Mauer – Touren entlang der ehemaligen Grenze. Nicolai, Berlin 2003. ISBN 3-87584-968-X Axel Klausmeier, Leo Schmidt: Mauerreste – Mauerspuren. Westkreuz, Berlin/Bonn 2004. ISBN 3-929592-50-9 Klaus Liedtke (Hrsg.): Vier Tage im November. Mit Beiträgen von Walter Momper und Helfried Schreiter. Stern-Buch. Verlag Gruner + Jahr, Hamburg 1989 (mit einer persönlichen Betrachtung des Regierenden Bürgermeisters von Berlin Walter Momper unter dem Titel Diese Nacht war nicht zum Schlafen da, einer Fotochronik vom 9. bis 12. tháng 11 năm 1989, einem Beitrag des Schriftstellers, DDR-Oppositionellen und Publizisten Helfried Schreiter unter dem Titel Der lange Marsch in die November-Revolution, einer Fotochronik Wie es dazu kam, einer Zeittafel Opposition in der DDR: Die Chronik der Ereignisse und einem Fotonachweis). ISBN 3-570-00876-2 Joachim Mitdank: Berlin zwischen Ost und West. Erinnerungen eines Diplomaten. Edition Zeitgeschichte. Bd 14. Kai Homilius, Berlin 2004. ISBN 3-89706-880-X (Leseprobe) Jürgen Rühle, Gunter Holzweißig: 13. tháng 8 năm 1961 – Die Mauer von Berlin. Edition Deutschland Archiv. Köln 1988 (3.Aufl.). ISBN 3-8046-0315-7 Thomas Scholze, Falk Blask: Halt! Grenzgebiet! Leben im Schatten der Mauer. Berlin 1992. ISBN 3-86163-030-3 Hans-Hermann Hertle: Chronik des Mauerfalls. Die dramatischen Ereignisse um den 9. tháng 11 năm 1989. Ch. Links, Berlin 1996, 2006 (10.Aufl.). ISBN 3-86153-113-5 Peter Brinkmann: Schlagzeilenjagd. Bastei-Lübbe, Bergisch Gladbach 1993. ISBN 3-404-60358-3 == Liên kết ngoài == Biên niên sử Bức tường Berlin Bức tường Berlin online Trung tâm tư liệu về Bức tường Berlin Viện bảo tàng Bức từong Berlin
bắc cực.txt
:Bài này nói về điểm nằm ở tận cùng phía Bắc của Trái Đất. Xem các nghĩa khác tại Bắc Cực (định hướng) Bắc Cực hay cực Bắc của Trái Đất (Cực Bắc địa lý) là điểm có vĩ độ bằng +90 độ trên Trái Đất (hay là điểm xuất phát tất cả kinh tuyến). Tại Bắc Cực mọi hướng đều là hướng Nam. Bao phủ nó là Bắc Băng Dương. Điểm Cực Bắc nói trên là Cực Bắc địa lý, đây chỉ là điểm tưởng tượng và nó khác với cực từ Bắc của Trái Đất. Cực từ Bắc là một điểm có thật tại Bathurst Island, Canada và cách 1600 km so với Cực Bắc địa lý, có tọa độ là 82.7°B 114.4°T / 82.7; -114.4 (Magnetic North Pole 2005 est). == Định nghĩa == Cực Bắc địa lý là điểm giao nhau giữa trục tự quay của Trái Đất và bề mặt Trái Đất ở Bắc Bán Cầu, được chọn làm mốc vĩ độ. Tại đây, theo phương dây dọi hướng thẳng lên trên thì sẽ gặp điểm cố định của thiên cầu. Điểm cực bắc địa lý này có thể thay đổi, phụ thuộc sự di chuyển trục quay của Trái Đất. Bản thân Trái Đất không phải là một chất điểm, cũng không phải là một khối chất rắn lý tưởng; các chuyển động của nước biển trên bề mặt, chuyển động tương đối của các lớp nhân bên trong lòng quả đất so với bề mặt (tạo thành hiệu ứng kiến tạo mảng) cộng với tác động hấp dẫn của Mặt Trăng và các thiên thể khác làm cho chuyển động tự quay quanh trục của Trái Đất không phải là chuyển động quay tròn đều mà có biến đổi theo thời gian. Kết quả là các điểm cực địa lý của Trái Đất cũng thay đổi theo, dù là rất nhỏ. == Các cuộc thám hiểm == Xem thêm: Thám hiểm Bắc Cực, Xa nhất về phía Bắc, Danh sách các cuộc thám hiểm Bắc Cực và Danh sách những cái nhất === Trước 1900 === Ngay từ thế kỷ 16, nhiều người nổi tiếng tin rằng (chính xác) Bắc Cực ở trên biển, vào thế kỷ 19 nó được gọi là Polynia hay Biển Cực Mở. Vì thế mọi người hy vọng rằng con đường tới đó có thể được tìm thấy qua các tảng băng ở thời điểm thích hợp trong năm. Nhiều cuộc thám hiểm đã được tiến hành để tìm kiếm con đường, nói chung với các tàu săn cá voi, vốn thường được sử dụng trên các kinh độ bắc lạnh giá. Một trong những chuyến thám hiểm sớm nhất với mục tiêu cụ thể đi tới Bắc Cực là của sĩ quan hải quân Anh William Edward Parry, người vào năm 1827 đã tới kinh độ 82°45′ Bắc. Năm 1871 đoàn thám hiểm Polaris, một nỗ lực của người Mỹ, do Charles Francis Hall chỉ huy, đã chấm dứt trong thảm hoạ. Một cuộc thám hiểm năm 1879–1881 do sĩ quan hải quân Mỹ George Washington DeLong chỉ huy cũng chấm dứt một cách bất hạnh khi con tàu của họ, chiếc USS Jeanette, bị băng nghiền nát. Hơn nửa thuỷ thủ đoàn, gồm cả DeLong, thiệt mạng. Tháng 4 năm 1895 các nhà thám hiểm người Na Uy Fridtjof Nansen và Fredrik Hjalmar Johansen đề ra kế hoạch tới Bắc Cực bằng ván trượt tuyết sau khi rời con tàu đang bị kẹt trong băng của Nansen. Hai người tới kinh độ 86°14′ Bắc trước khi buộc phải quay về. Năm 1897 kỹ sư người Thuỵ Điển Salomon August Andrée và hai người bạn tìm cách tới Bắc Cực trên khí cầu hydro Örnen ("Eagle"), nhưng đã bị mắc kẹt 300 km phía bắc Kvitøya, điểm xa nhất về phía đông bắc của Quanf đảo Svalbard, và chết đói trên hòn đảo xa xôi này. Năm 1930 những dấu tích của đoàn thám hiểm được chuyến Thám hiểm Bratvaag của Na Uy phát hiện. Nhà thám hiểm người Italia Luigi Amedeo, Công tước Abruzzi và Đại uý Umberto Cagni thuộc Hải quân Hoàng gia Italia (Regia Marina) đã ra khơi trên chiếc tàu chuyển đổi từ tàu săn cá voi Stella Polare từ Na Uy năm 1899. Ngày 11 tháng 3 năm 1900 Cagni dẫn một đội đi trên băng tới kinh độ 86° 34’, ngày 25 tháng 4, lập một kỷ lục mới khi vượt quá kỷ lục cũ của Nansen năm 1895 từ 35 tới 40 kilômét. Cagni chỉ đơn giản tìm cách quay lại trại, ở đó cho tới ngày 23 tháng 6. Ngày 16 tháng 8 chiếc Stella Polare rời Đảo Rudolf đi về phía nam và đoàn thám hiểm quay về Na Uy. === 1900–1940 === Nhà thám hiểm người Mỹ Frederick Albert Cook tuyên bố đã tới Bắc Cực ngày 21 tháng 4 năm 1908 với hai người Inuit, Ahwelah và Etukishook, nhưng ông không thể đưa ra bằng chứng thuyết phục và tuyên bố này không được chấp nhận rộng rãi. Việc chinh phục Bắc Cực trong nhiều năm được gán cho kỹ sư hàng hải Mỹ Robert Peary, người tuyên bố đã tới Bắc Cực ngày 6 tháng 4 năm 1909, cùng với Matthew Henson người Mỹ và bốn người đàn ông Inuit tên là Ootah, Seeglo, Egingwah, và Ooqueah. Tuy nhiên, tuyên bố của Peary vẫn còn gây tranh cãi. Đội cùng đi với Peary ở chặng cuối cùng của cuộc hành trình không có ai được huấn luyện về hoa tiêu và có thể xác nhận một cách độc lập công việc hoa tiêu của mình, mà một số người cho là rất tuỳ tiện khi ông tới Cực. Các khoảng cách và tốc độ mà Peary tuyên bố đã vượt qua khi đội hỗ trợ cuối cùng quay trở về dường như không thể tin được với một số người, dù ông đã ba lần hoàn thành tới điểm đó. Lời kể của Peary về chuyến hành trình tới Bắc Cực và quay trở lại tuy đi theo một đường thẳng – các duy nhất phù hợp với sự thúc ép của thời gian mà ông phải đối mặt – trái ngược với lời kể của Henson về những đường đi ngoằn ngoèo để tránh các chỏm áp lực và những máng nước mở. Nhà thám hiểm người Anh Wally Herbert, ban đầu là một người ủng hộ Peary, đã nghiên cứu những ghi chép của Peary năm 1989 và kết luận rằng chúng đã bị giả mạo và rằng Peary chưa tới Cực. Tuy nhiên, sự ủng hộ cho Peary lại tới năm 2005, khi nhà thám hiểm người Anh Tom Avery và bốn đồng đội thử lại chuyến đi của Peary với các xe trượt gỗ tái tạo và các đội Chó Eskimo Canada, đã tới Bắc Cực trong 36 ngày, 22 giờ – nhanh hơn gần 5 giờ so với Peary. Avery viết trên website của mình rằng "Sự ngưỡng mộ và tôn trọng mà tôi có với Robert Peary, Matthew Henson và bốn người Inuit đã tới Bắc Cực năm 1909, đã tăng lên rất nhiều từ khi chúng tôi ra đi từ Mũi Columbia. Chúng tôi đã thấy bằng mắt mình cách ông làm thế nào để vượt qua các khối băng, tôi càng tin tưởng hơn lúc nào hết rằng Peary quả thực đã khám phá ra Bắc Cực." Tuyên bố về chuyến bay đầu tiên qua Bắc Cực được thực hiện ngày 9 tháng 5 năm 1926 bởi sĩ quan hải quân Hoa Kỳ Richard E. Byrd và phi công Floyd Bennett trên chiếc máy bay Fokker ba động cơ. Dù ở thời điểm đó đã được Hải quân và một uỷ ban của National Geographic Society xác nhận, tuyên bố này từ đó đã bị tranh cãi. Lần quan sát Bắc Cực đầu tiên không gây tranh cãi diễn ra ngày 12 tháng 5 năm 1926 bởi nhà thám hiểm Na Uy Roald Amundsen và nhà tài trợ người Mỹ Lincoln Ellsworth từ khí cẩu Norge. Norge, dù thuộc sở hữu của Na Uy, được thiết kế và điều khiển bởi Umberto Nobile người Ý. Chuyến bay bắt đầu từ Svalbard và vượt qua các núi băng tới Alaska. Nobile, cùng với nhiều nhà khoa học khác và phi đoàn chiếc Norge, đã bay qua Cực một lần nữa ngày 24 tháng 5 năm 1928 trên chiếc khí cầu Italia. Khí cầu Italia đâm xuống đất khi quay trở về, giết chết một nửa phi đoàn. === 1940–2000 === Tháng 5 năm 1945 một chiếc Lancaster của Không quân Hoàng gia thuộc đoàn thám hiểm Aries trở thành chiếc máy bay đầu tiên của Khối thịnh vượng chung bay qua Bắc Cực và Cực Bắc Địa lý. Chiếc máy bay do phi công David Cecil McKinley thuộc Không quân Hoàng gia điều khiển. Nó mang theo phi đoàn 11 người, với Kenneth C. Maclure thuộc Không quân Hoàng gia Canada chịu trách nhiệm về toàn bộ quan sát khoa học. Năm 2006, Maclure được vinh danh với một vị trí trên Canadian Aviation Hall Of Fame. Không tính tuyên bố gây tranh cãi của Peary, những người đầu tiên đặt chân tới Bắc Cực, theo một số nguồn tin, là một đội của Liên xô. Có rất nhiều miêu tả về số người trong đoàn gồm cả Pavel Gordiyenko (hay Geordiyenko) và ba hay năm người khác, hay Aleksandr Kuznetsov và 23 người khác, họ đã hạ cánh một chiếc máy bay (hay nhiều chiếc máy bay) xuống đó ngày 23 tháng 4 năm 1948. Theo Antarctica.org, ba chiếc Li-2 đã hạ cánh, mang theo tổng cộng 7 người. Ngày 3 tháng 5 năm 1952, Trung tá Không quân Hoa Kỳ Joseph O. Fletcher và trung uý William P. Benedict, cùng với nhà khoa học Albert P. Crary, đã hạ cánh trên một chiếc C-47 Skytrain đã được chuyển đổi xuống Bắc Cực. Một số nguồn coi đây là lần đầu tiên (ngoài phi vụ của Liên xô) một chiếc máy bay hạ cánh xuống Bắc Cực. Tàu ngầm của Hải quân Mỹ USS Nautilus (SSN-571) đã đi qua Bắc Cực ngày 3 tháng 8 năm 1958, và vào ngày 17 tháng 3 năm 1959, chiếc USS Skate (SSN-578) đã nổi lên ở Cực, trở thành chiếc tàu đầu tiên làm như vậy. Ngoài tuyên bố của Peary, cuộc chinh phục Bắc Cực đầu tiên bằng đường bộ là chuyến đi của Ralph Plaisted, Walt Pederson, Gerry Pitzl và Jean Luc Bombardier, họ đã đi trên băng bằng môtô trượt tuyết và tới nơi ngày 19 tháng 4 năm 1968. Không quân Hoa Kỳ độc lập xác nhận vị trí của họ. Ngày 6 tháng 4 năm 1969, Wally Herbert và các đồng đội Allan Gill, Roy Koerner và Kenneth Hedges thuộc Đoàn thám hiểm Xuyên Bắc Cực Anh trở thành những người đầu tiên tới Bắc Cực bằng cách đi bộ (dù với sự trợ giúp của các đội chó kéo và tiếp tế từ trên không). Họ tiếp tục hoàn thành chuyến đi đầu tiên vượt qua bề mặt Bắc Băng Dương – và theo trục dài nhất của nó, Barrow, Alaska tới Svalbard – một điều kỳ công chưa từng được lặp lại. Vì những đề nghị của Plaisted về việc sử dụng vận tải đường không, một số nguồn coi chuyến thám hiểm của Herbert là lần tới Bắc Cực được xác nhận đầu tiên trên mặt băng bằng bất kỳ phương tiện nào. Ngày 17 tháng 8 năm 1977, tàu phá băng nguyên tử Liên Xô Arktika đã hoàn thành chuyến đi trên mặt biển đầu tiên tới Bắc Cực. Năm 1982 Ngài Ranulph Fiennes và Charles Burton trở thành người đầu tiên vượt Bắc Băng Dương trong chỉ một mùa. Họ xuất phát từ Mũi Crozier, Đảo Ellesmere, này 17 tháng 2 năm 1982 và tới Cực Bắc Địa lý ngày 10 tháng 4 năm 1982. Họ đi bộ và dùng ván trượt. Từ Cực, họ đi về phía nam tới Svalbard, nhưng vì băng không ổn định, chuyến đi của họ đã kết thúc sau khi họ bị trôi dạt về phía nam trên một tảng băng trong 99 ngày. Cuối cùng họ họ có thể đi bộ tới chiếc tàu thám hiểm "MV Benjamin Bowring" của mình và lên boong ngày 4 tháng 8 năm 1982 ở 80:31Bắc 00:59Tây. Như một kết quả của chuyến đi này, là một phần của Cuộc thám hiểm Transglobe dài ba năm 1979–1982, Fiennes và Burton trở thành người đầu tiên hoàn thành một chuyến đi vòng quanh Trái Đất qua cả Bắc và Nam Cực, chỉ bằng di chuyển trên bề mặt. Kỳ công này vẫn chưa từng được lặp lại cho đến ngày nay. === Thế kỷ 21 === Những năm gần đây, các chuyến đi tới Bắc Cực bằng máy bay (hạ cánh bằng trực thăng hay trên một đường băng trên băng) hay bằng tàu phá băng đã trở nên thường xuyên, và thậm chí có thể với cả những nhóm khách du lịch nhỏ thông qua các công ty du lịch. Năm 2005, chiếc tàu ngầm của Hải quân Mỹ USS Charlotte (SSN-766) đã nổi lên qua lớp băng dày 155 cm (61 inches) ở Bắc Cực và ở đó trong 18 giờ. Ngày 23 tháng 4 năm 2007, y tá chuyên nghiệp đã nghỉ hưu Barbara Hillary đã hoàn thành một chuyến đi bằng xe chó kéo tới Bắc Cực. Bà là người phụ nữ Phi-Mỹ đầu tiên thực hiện điều này. Tháng 4 năm 2007, nghệ sĩ sắp đặt người Hà Lan Guido van der Werve đã thực hiện một tác phẩm tại Bắc Cực. Bằng các đứng đúng trên Cực trong 24 giờ và quay chậm theo chiều kim đồng hồ (Trái Đất quay ngược chiều kim đồng hồ), bằng cách theo bóng của chính ông, Van der Werve đã không quay cùng thế giới trong một ngày. Cuộc trình diễn này được gọi là: 'nummer negen [tiếng Hà Lan có nghĩa Số 9], ngày tôi không quay cùng thế giới'. Van der Werve đã rút gọn thời gian 24 giờ còn 9 phút. Tháng 7 năm 2007, vận động viên bơi đường dài người Anh Lewis Gordon Pugh đã hoàn thành một cuộc bơi 1 km tại Bắc Cực. Kỳ công của ông, được thực hiện để nhấn mạnh những hiệu ứng của sự thay đổi khí hậu, diễn ra trong vùng nước mở giữa các phiến băng. Sau này ông đã thử dùng một chiếc kayak tới Bắc Cực vào cuối năm 2008, sau dự đoán sai lần về rằng có vùng nước quang tới tận Cực, và đã phải dừng chuyến thám hiểm chỉ sau ba ngày khi bị kẹt trong băng. Chuyến thám hiểm này sau đó đã bị huỷ bỏ. Một phần năm 2007 của chương trình ô tô của BBC Top Gear, trong đó những người dẫn chương trình được miêu tả như đang đi tới "Bắc Cực," trên thực tế là một chuyến thám hiểm năm 1996 tới Cực Từ Bắc. ==== Vụ lặn xuống đáy biển Bắc Cực năm 2007 ==== Ngày 2 tháng 8 năm 2007, một chiếc VASU của NgaBản mẫu:Clarify me đã thực hiện chuyến lặn có điều khiển đầu tiên xuống đáy Bắc Cực, tới độ sâu 4.3 km, như một phần của một chương trình nghiên cứu hỗ trợ cho tuyên bố lãnh thổ của Nga năm 2001 xuống một thềm lớn của Bắc Băng Dương. Việc này diễn ra trong lần lặn của tàu ngầm MIR và được lãnh đạo bởi nhà thám hiểm cực Liên Xô và Nga Arthur Chilingarov. Trong mộthành động mang tính biểu tượng, cờ Nga đã được đặt trên đáy biển ở đúng vị trí Cực. Cuộc thám hiểm này là mới nhất trong một loạt những động thái kéo dài nhiều thập kỷ của Nga nhằm thể hiện rằng họ là quốc gia có ảnh hưởng vượt trội ở Bắc Cực. Sự ấm lên của khí hậu Bắc Cực và sự tan băng vào mùa hè ở đây đã bất ngờ lôi cuốn sự chú ý của các quốc gia từ Trung Quốc tới Hoa Kỳ, nơi có những nguồn tài nguyên và những tuyến đường thuỷ có thể nhanh chóng được khai thác. == Ngày và đêm == Xem thêm Mặt trời lúc nửa đêm và Đêm cực Ở Bắc Cực, Mặt Trời luôn ở trên chân trời trong các tháng mùa hè và luôn ở dưới chân trời vào mùa đông. Mặt trời mọc chỉ diễn ra trước xuân phân (khoảng 19 tháng 3); sau đó mặt trời mất ba tháng để lên tới cực điểm khoảng 23½° vào điểm chí mùa hè (khoảng 21 tháng 6), sau thời gian đó nó bắt đầu hạ thấp xuống, đạt tới mặt trời lặn ngay sau thu phân (khoảng 24 tháng 9). Khi mặt trời có thể được quan sát trên bầu trời cực, nó có vẻ chuyển động theo một hình tròn theo chiều kim đồng hồ trên chân trời. Vòng tròn này dần nâng lên từ gần chân trời ngay sau xuân phân tới cực điểm (theo độ) bên trên chân trời vào điểm chí mùa hè và sau đó lặn xuống dưới chân trời vào thu phân. Một giai đoạn civil-twilight khoảng hai tuần diễn ra trước khi mặt trời mọc và sau khi mặt trời lặn, một giai đoạn nautical twilight khoảng năm tuần diễn ra trước khi mặt trời mọc và sau khi mặt trời lặn và một giai đoạn astronomical twilight khoảng bảy tuần diễn ra trước khi mặt trời mọc và sau khi mặt trời lặn. Những hiệu ứng này do sự kết hợp của trục nghiêng của Trái Đất và chuyển động quanh Mặt trời của Trái Đất. Hướng trục nghiêng của Trái Đất, cũng như góc của nó so với mặt phẳng quỹ đạo của Trái Đất quanh Mặt trời, hầu như giữ nguyên trong cả năm (chúng đều thay đổi rất chậm và trong giai đoạn rất dài). Ở giữa mùa hè Bắc Cực đối diện với Mặt trời ở mức lớn nhất. Khi năm trôi qua và Trái Đất di chuyển quanh Mặt trời, Bắc Cực dần quay ngược hướng với Mặt trời cho tới giữa mùa đông là thời điểm lớn nhất. Một hậu quả tương tự cũng được quan sát thấy ở Nam Cực, với sự khác biệt sáu tháng. == Thời gian == Ở hầu hết mọi nơi trên Trái Đất, giờ địa phương hầu như đồng bộ với vị trí của mặt trời trên bầu trời. Vì thế, lúc giữa trưa mặt trời gần như ở vị trí cao nhất. Điều này không đúng ở Bắc Cực nơi mặt trời luôn ở trên bầu trời trong sáu tháng. Không có sự hiện diện thường xuyên của con người tại Bắc Cực, và không có múi giờ riêng biệt cho nó. Các đoàn thám hiểm Cực có thể sử dụng bất kỳ múi giờ nào thuận tiện, như GMT, hay múi giờ của quốc gia nơi họ xuất phát. == Khí hậu == Bắc Cực ấm hơn khá nhiều so với Nam Cực vì nó nằm ở mức nước biển ở giữa một đại dương (có vai trò như một bộ máy giữ nhiệt), chứ không phải ở một độ cao trên một lục địa. Nhiệt độ vào mùa đông (tháng 1) ở Bắc Cực có thể thay đổi trong khoảng từ −43 °C (−45 °F) tới −26 °C (−15 °F), có lẽ mức trung bình khoảng −34 °C (−30 °F). Nhiệt độ mùa hè (tháng 6, tháng 7 và 8) trung bình khoảng quanh mức đóng băng (0 °C, 32 °F). Băng biển tại Bắc Cực nói chung dày khoảng 2 đến 3 mét, dù có sự khác biệt rất lớn và sự di chuyển thỉnh thoảng của những khối băng khiến nước biển lộ ra. Những cuộc nghiên cứu cho thấy độ dày trung bình của băng đã giảm trong những năm gần đây. Nhiều người cho nó có lý do từ sự ấm lên toàn cầu, dù kết luận này vẫn bị một số người tranh cãi. Các báo cáo cũng đã dự đoán rằng trong vài thập kỷ Bắc Băng Dương sẽ hoàn toàn hết băng vào các tháng mùa hè. Điều này có thể mang lại sự thay đổi quan trọng trong vận tải thương mại; xem "Tuyên bố lãnh thổ," ở dưới. == Động thực vật == Gấu cực được cho là hiếm khi đi quá 82° Bắc vì sự khan hiếm thức ăn, dù những dấu vết đã được thấy ở vùng lân cận Bắc Cực, và một chuyến thám hiểm năm 2006 thông báo quan sát thấy một chú gấu cực chỉ cách Bắc Cực 1 dặm (1.6 km). Hải cẩu vòng cũng đã được quan sát thấy ở Cực, và những chú cáo Bắc Băng Dương cũng đã được quan sát thấy cách chưa tới 60 km từ 89°40′ Bắc. Những con chim đã được thấy ở hay ở rất gần Cực gồm Chim sẻ đất tuyết, Hải âu Fulmar Bắc và Mòng biển xira chân đen, dù một số lần quan sát có thể là không chính xác bởi những chú chim thường có xu hướng bay theo tàu và các đoàn thám hiểm. Cá đã được quan sát thấy trong những vùng nước Bắc Cực, nhưng chúng có thể rất hiếm. Một thành viên của một đội khảo sát Nga xuống đáy biển Bắc Cực tháng 8 năm 2007 thông báo không thấy một sinh vật biển nào sống ở đó. Tuy nhiên, sau này có thông báo rằng một con cò chân ngỗng biển đã được đội Nga moi lên từ lớp bùn đáy biển và rằng đoạn video từ chuyến lặn cho thấy có những con tôm và giáp xác chân hai loại chưa được xác định. == Các tuyên bố lãnh thổ với các vùng Bắc Cực == Theo luật quốc tế, không nước nào hiện sở hữu Bắc Cực hay vùng Bắc Băng Dương bao quanh nó. Năm nước quanh Bắc Cực, Nga, Canada, Na Uy, Đan Mạch (qua Greenland), và Hoa Kỳ (qua Alaska), bị hạn chế bởi một Vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý từ bờ biển nước mình, và vùng bên ngoài giới hạn này thuộc quyền quản lý hành chính của Cơ quan Quản lý Đáy biển Thế giới. Từ khi phê chuẩn Thoả ước Liên hiệp quốc về Luật Biển, một quốc gia có thời hạn mười năm để ra tuyên bố chủ quyền với vùng 200 hải lý. Na Uy (phê chuẩn thoả ước năm 1996), Nga (phê chuẩn năm 1997), Canada (phê chuẩn năm 2003) và Đan Mạch (phê chuẩn năm 2004) đều đã đưa ra các dự án dựa trên các tuyên bố của họ rằng một số khu vực của Bắc Cực phải thuộc lãnh thổ của họ. == Những sự liên tưởng văn hoá == Trong một số nền văn hoá phương Tây, Bắc Cực Địa lý là nơi sinh sống của Santa Claus. Bưu điện Canada đã quy định mã H0H 0H0 cho Bắc Cực (theo thán từ truyền thống của Santa "Ho-ho-ho!"). Điều dường như siêu thực này thực tế phản ánh một truyền thuyết bí truyền từ hàng thế kỷ về người Hyperborea từng sống ở Bắc Cực, trục thế giới của thế giới bên kia, như sự siêu thực của Chúa và những siêu nhân (xem Joscelyn Godwin, Arktos: The Polar Myth). Nhân vật theo truyền thuyết thường sống ở cực, Santa Claus, vì thế như một hình mẫu của sự tinh khiết đạo đức và siêu việt ([2]). Như Henry Corbin đã chứng minh, Bắc Cực đóng một vai trò quan trọng trong văn hoá thế giới về đạo Sufi siêu thực và đạo thần bí Iran, trans. N. Pearson, 1978</ref> Cực cũng được gắn liền với một ngọn núi bí ẩn ở Bắc Băng Dương, được gọi là Núi Qaf (cf. Rupes Nigra), việc trèo lên nó, giống như Dante trèo lên Núi Purgatory, thể hiện quá trình hành hương qua các trạng thái tinh thần. Trong thuyết thần trí Iran, Cực thiên đàng, điểm trung tâm của sự lên tới đỉnh tinh thần, như một nam châm hút mọi người về "các cung điện sáng chói với chất phi vật chất" của nó. Những chuyến bay tưởng tượng thường đề cập tới một chuyến bay tới Bắc Cực vì cùng những lý do đó. == Xem thêm == Nam Cực Thám hiểm Bắc Cực Bắc Băng Dương Cực quang Sao Bắc cực Danh sách những cái đầu tiên Inuit Circumpolar Council Hội đồng Bắc Cực Circumpolar arctic Quần xã sinh vật Bắc Cực, Alaska Ấm lên toàn cầu Santa Claus == Tham khảo == == Liên kết ngoài == Arctic Council The Northern Forum North Pole Web Cam The short Arctic summer of 2004 The puzzling Arctic summer of 2003 Review of surface melting from 2002 to the present revealed by the North Pole Web Cam FAQ on the Arctic and the North Pole Polar Controversies Still Rage article by Roderick Eime Magnetic Poles locations since 1600 Download the KMZ file. For Google Earth Users. The Polar Race a biennial race to the 1996 certified position of the Magnetic North Pole The Polar Challenge an annual race to the Magnetic North Pole Daylight, Darkness and Changing of the Seasons at the North Pole Video of scientists on sea ice at the North Pole as it begins to crack underfoot Experts warn North Pole will be 'ice free' by 2040 Goudarzi, Sara, "Meltdown: Ice Cracks at North Pole." Sept 2006, LiveScience, <Web Link>, Truy cập 29 tháng 1 năm 2007. "The North Pole Was Here: Puzzles and Perils at the Top of the World (first chapter)" Video of the Nuclear Icebreaker Yamal visiting the North Pole in 2001 Polar Discovery: North Pole Observatory Expedition
quốc giáo.txt
Bản mẫu:Religion by Country Quốc giáo (còn được gọi là một tôn giáo chính thức, hay tôn giáo quốc gia) là hệ thống tôn giáo hay tín ngưỡng chính thức của một quốc gia được nhà nước nước đó công nhận. Thực tế, một nhà nước mà không có một tôn giáo nhà nước được gọi là một nhà nước thế tục, trong khi một nhà nước được cai trị bởi các giáo sĩ hay tăng lữ là một chế độ thần quyền. == Tham khảo == The Journal of Ecclesiastical History – Page 268 by Cambridge University Press, Gale Group, C.W. Dugmore
sekondi-takoradi.txt
Sekondi-Takoradi là một thành phố Ghana, gồm hai thành phố Sekondi và Takoradi. Thành phố là thủ phủ vùng vùng Tây Ghana. Dân số ước tính năm 2007 là 260.651 người. Đây là thành phố lớn thứ 4 Ghana, sau thủ đô Accra, Kumasi, Tamale. Kinh tế thành phố gồm sản xuất gỗ, đóng tàu, sửa chữa đường sắt, Thành phố nằm trên tuyến đường sắt chính nối railway với Accra và Kumasi. Đây là thành phố có hải cảng lớn thứ nhì ở Ghana. Ngoài khơi của thành phố có trữ lượng dầu khí. == Tham khảo ==
auxerre.txt
Auxerre là tỉnh lỵ của tỉnh Yonne, thuộc vùng hành chính Bourgogne của nước Pháp, có dân số là 37.790 người (thời điểm 1999). == Nhân khẩu học == == Các thành phố kết nghĩa == Płock (Ba Lan) Worms (thành phố) (Đức) Roscoff (Pháp) Saint-Amarin (Pháp) Greve in Chianti (Ý) Redditch (Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland) == Những người con của thành phố == Germanus von Auxerre, lĩnh tụ quân đội và là giám mục Abbo von Auxerre, giám mục, đã được phong thánh Jacques Berthier, người chơi đàn ống, nhà soạn nhạc Jean Baptiste Joseph Fourier, nhà toán học và vật lý học Edme Charles Philippe Lepère, chính khách Jacques-Germain Soufflot, kiến trúc sư == Tham khảo ==
iso 4217.txt
ISO 4217 là tiêu chuẩn quốc tế gồm những mã ba ký tự (còn được gọi là mã tiền tệ) để định nghĩa cho tên của tiền tệ do Tổ chức Tiêu chuẩn hóa quốc tế (ISO) ban hành. Danh sách mã ISO 4217 là chuẩn hiện hành trong ngân hàng và kinh doanh trên toàn thế giới để xác định những loại tiền tệ khác nhau, và ở nhiều nước, những mã dùng cho những loại tiền tệ phổ biến thông dụng đến mức, tỷ giá được in trên báo hoặc niêm yết ở ngân hàng chỉ sử dụng những mã này để xác định những loại tiền tệ khác nhau, thay cho tên tiền tệ đã được dịch hoặc những ký hiệu tiền tệ nhập nhằng. Mã ISO 4217 được dùng trên vé máy bay và vé xe lửa quốc tế để tránh sự nhầm lẫn về giá cả. Hai ký tự đầu của mã là hai ký tự của mã quốc gia ISO 3166-1 alpha-2 (những mã tương tự với mã dùng cho tên miền quốc gia cấp cao nhất trên Internet) và ký tự thứ ba thường là ký tự đầu tiên của chính đồng tiền. Do đó mã tiền tệ của Việt Nam sẽ là VND—VN cho Việt Nam và D cho Đồng. Việc làm này giúp loại bỏ những vấn đề gây ra do việc sử dụng những tên như dollar, franc và bảng trong hàng tá quốc gia khác nhau, mỗi loại đồng tiền lại có giá trị khác biệt nhau. Tương tự, nếu một đồng tiền được định giá lại, ký tự cuối của mã tiền tệ sẽ được đổi để phân biệt nó với đồng tiền cũ. Trong một số trường hợp, ký tự thứ ba là ký tự đầu của chữ "mới" trong ngôn ngữ của nước đó, để phân biệt với đồng tiền cũ đã bị định giá lại; mã này thường được dùng lâu dài hơn cả chính chữ "mới" mà nó dùng. Một số ví dụ như Peso Mexico (MXN) và lira Thổ Nhĩ Kỳ (TRY). Tuy nhiên, cũng có những sự thay đổi theo cách khác, ví dụ, Rúp Nga đổi từ RUR thành RUB, trong đó B là ký tự thứ ba của từ "ruble". Cũng có mã số ba chữ số gán cho mỗi đơn vị tiền tệ, giống như cũng có mã số ba chữ số gán cho mỗi quốc gia trong mã ISO 3166. Mã số này thường giống như mã số ISO 3166. Ví dụ, USD (Dollar Mỹ) có mã 840 cũng là mã số dành cho US (Hoa Kỳ). Tiêu chuẩn cũng định nghĩa mối quan hệ giữa đơn vị tiền tệ lớn và đơn vị tiền tệ nhỏ. Thông thường, đơn vị tiền tệ nhỏ có giá trị bằng 1/100 đơn vị lớn, nhưng 1/10 hay 1/1000 cũng phổ biến. Một vài loại tiền tệ không có đơn bị tiền tệ nhỏ. Ở những nước khác, đơn vị tiền tệ lớn có giá trị quá nhỏ đến mức đơn vị tiền nhỏ không còn được dùng nữa (ví dụ như sen của Nhật, bằng 1/100 đồng yen). Mauritanie không sử dụng tỷ lệ thập phân, đặt 1 ouguiya (UM) = 5 khoums, và Madagascar có 1 ariary = 5 iraimbilanja. Điều này được chỉ ra trong tiêu chuẩn bằng số mũ tiền tệ. Ví dụ USD có số mũ 2, trong khi JPY có số mũ 0. Những mã ISO 4217 không chỉ dành cho tiền tệ, mà còn dành cho kim loại quý (vàng, bạc, paladi và bạch kim; bằng cách định nghĩa theo một troy ounce, giống như "1 USD") và những thứ khác dùng trong tài chính quốc tế, ví dụ Quyền rút vốn đặc biệt. Cũng có những mã đặc biệt dành cho mục đích thử nghiệm (XTS), và để ám chỉ giao dịch phi tiền tệ (XXX). Tất cả những mã này đều bắt đầu với ký tự "X". Kim loại quý sử dụng "X" cộng với ký hiệu hóa học của loại kim loại đó; ví dụ như bạc, là XAG. ISO 3166 không bao giờ gán mã quốc gia bắt đầu bằng ký tự "X", những mã này chỉ dùng cho những mục đích cá nhân tự điều chỉnh (được bảo lưu, không bao giờ dùng cho mã quốc gia), do đó ISO 4217 có thể dùng mã "X" dành cho loại tiền tệ không thuộc về quốc gia nào cụ thể mà không tạo ra nguy cơ xung đột với những mã quốc gia tương lai. Những tiền tệ siêu quốc gia, như dollar Đông Caribbean, france CFP, franc CFA BEAC và franc CFA BCEAO cũng thường được đại diện bằng mã bắt đầu bằng "X". Đồng euro được ký hiệu là EUR (Liên minh châu Âu cũng có trong danh sách mã bảo lưu của ISO 3166-1 để đại diện do Liên minh châu Âu). Đồng tiền trước của Euro, Đơn vị tiền tệ của châu Âu, có mã XEU. == Lịch sử == Vào năm 1973, Ủy bàn Kỹ thuật ISO 68 đã quyết định tạo ra những mã dùng để đại diện cho tiền tệ và công trái để dùng trong các giao dịch trao đổi, thương mại hoặc ngân hàng. Vào phiên thứ 17 (tháng 2 năm 1978) của UN/ECE Nhóm các chuyên gia đã đồng ý rằng mã ba ký tự cho Tiêu chuẩn Quốc tế ISO 4217, "Mã dùng để đại diện cho tiền tệ và công trái", sẽ phù hợp trong giao thương quốc tế. Qua thời gian, những loại tiền tệ mới xuất hiện và những tiền tệ cũ mất đi. Thông thường, những sự thay đổi này xảy ra do chính phủ mới (sau chiến tranh hoặc hiến pháp mới), hiệp ước giữa các quốc gia về chuẩn hóa tiền tệ, hoặc việc định giá lại đồng tiền do lạm phát phi mã. Kết quả là bảng mã này phải được cập nhật liên tục. Cục bảo trì ISO 4217, Hiệp hội Tiêu chuẩn Anh, chịu trách nhiệm bảo trì danh sách mã này. == Những mã đang hoạt động == Sau đây là danh sách các mã đang hoạt động của mã tiền tệ ISO 4217 chính thức. == Không có mã tiền tệ == Một số lãnh thổ không nằm trong ISO 4217, vì đồng tiền của họ không phải là tiền tệ độc lập per se, mà là biến thể của tiền tệ khác. Những tiền tệ đó là: Króna Faroe (tỷ lệ 1:1 với Krone Đan Mạch) Pound Guernsey (tỷ lệ 1:1 với bảng Anh) Pound Jersey (tỷ lệ 1:1 với bảng Anh) Pound Đảo Man (tỷ lệ 1:1 với bảng Anh) Dollar Tuvalu (tỷ lệ 1:1 với Dollar Úc). Dollar Quần đảo Cook (tỷ lệ 1:1 với Dollar New Zealand). Tuy nhiên, những mã không phải của ISO sau đôi khi được dùng thương mại: == Mã tiền tệ không còn dùng == Một số tiền tệ là mã tiền tệ ISO 4217 và tên tiền tệ chính thức cho đến khi nó bị thay bởi đồng euro. Chú ý rằng tên tiền tệ dùng ở dưới có thể không trùng với tên tiền tệ dùng trong mã ISO, nhưng mã thì trùng. == Xem thêm == Danh sách tiền tệ lưu hành Tiền tệ Bảng tỷ giá lịch sử Danh sách các chủ đề thương mại quốc tế SWIFT và mã SWIFT == Tham khảo == == Liên kết ngoài == Tiếng Anh The official list of ISO-4217 alphabetic and numeric codes ISO 4217 Maintenance Agency An older list of ISO-4217 alphabetic codes that contains some history of ISO-4217 (PDF file) Another list of numeric and alphabetic ISO 4217 currency codes === Chuyển đổi tiền tệ === XE.com Calculator for Currency Rate Exchange Travelex Country and Currency Guide Yahoo Currency Converter, also showing historical values
in offset.txt
In offset là một kỹ thuật in ấn trong đó, các hình ảnh dính mực in được ép lên các tấm cao su (còn gọi là các tấm offset) trước rồi mới ép từ miếng cao su này lên giấy. Khi sử dụng với in thạch bản, kỹ thuật này tránh được việc làm nước bị dính lên giấy theo mực in. Các ưu điểm của kỹ thuật in này là: Chất lượng hình ảnh cao – nét và sạch hơn in trực tiếp từ bản in lên giấy vì miếng cao su áp đều lên bề mặt cần in. Khả năng ứng dụng in ấn lên nhiều bề mặt, kể cả bề mặt không phẳng (như gỗ, vải, kim loại, da, giấy thô nhám). Việc chế tạo các bản in dễ dàng hơn. Các bản in có tuổi thọ lâu hơn – vì không phải trực tiếp tiếp xúc với bề mặt cần in. In offset ngày nay đã trở thành kỹ thuật in phổ biến nhất trong in ấn thương mại. Tuy vậy trong các in ấn dành cho thú vui cá nhân, người ta vẫn có thể tạo ra một số ít sách với chất lượng cao, sử dụng cách in trực tiếp. Một số người vẫn thích các đường nét chìm nổi để lại trên giấy từ việc in trực tiếp. Thậm chí một số sách kiểu này còn được in bằng các bản in được xếp từ các con chữ chì, đây là công nghệ in typo, một công nghệ khá cổ. == Lịch sử == Máy in dùng kỹ thuật offset và thạch bản đầu tiên ra đời ở Anh khoảng năm 1875 và đã được thiết kế để in lên kim loại. Trống offset làm bằng giấy các tông truyền hình ảnh cần in từ bản in thạch bản sang bề mặt kim loại. Khoảng 5 năm sau, giấy các tông được thay bằng cao su. Người đầu tiên áp dụng kỹ thuật in offset cho in ấn trên giấy có thể là Ira Washington Rubel năm 1903. Ông đã tình cờ nhận thấy mỗi khi một tờ giấy không được đưa vào máy in thạch bản của ông một cách đúng nhịp, bản in thạch bản in lên trống in được bọc bằng cao su, và tờ giấy cho vào tiếp theo bị dính 2 hình: bản in thạch bản ở mặt trên và bản in do dính từ trống in ở mặt dưới. Rubel cũng nhận thấy hình ảnh in từ trống in cao su nét và sạch hơn vì miếng cao su mềm áp đều lên giấy hơn là bản in bằng đá cứng. Ông đã quyết định in thông qua các tấm bằng cao su. Độc lập với Rubel, hai anh em Charles Harris và Albert Harris cũng đã phát hiện ra điều này và chế tạo máy in offset cho Công ty In ấn Tự động Harris. Các thiết kế của Harris, phát triển từ máy in gồm các trống quay, rất giống hình vẽ trong bài. Nó gồm một trống bản in tiếp xúc chặt với các cuộn mực in và nước. Một trống cao su tiếp xúc ngay bên dưới trống xếp chữ. Trống in ở bên dưới có nhiệm vụ ấn chặt tờ giấy vào trống cao su để truyền hình ảnh. Ngày nay, cơ chế cơ bản này vẫn được dùng, nhưng nhiều cải tiến đã được thực hiện, như thêm in hai mặt hay nạp giấy bằng cuộn giấy (thay vì các miếng giấy). Trong những năm 1950, in offset trở thành kỹ thuật in phổ biến nhất cho in ấn thương mại, sau khi nhiều cải tiến đã được thực hiện cho bản xếp chữ, mực in và giấy, tối ưu hóa tốc độ in và tuổi thọ các bản xếp chữ. Ngày nay, đa số in ấn, gồm cả in báo chí, sử dụng kỹ thuật này. == Công nghệ == === Đặc điểm in offset === === Cơ sở in offset === === Quá trình chế bản === ==== Các công nghệ chế bản ==== Trong chế bản in offset, người ta hay dùng film hoặc giấy can để chế tạo bản in (print plate) ==== Các dạng công nghệ dùng trong chế bản ==== 1. Công nghệ CTF Công nghệ CTF là công nghệ chế bản số trong đó dữ liệu số (Digital) từ máy tính được chuyển thành dữ liệu tương tự (Anolog) trên phim thông qua các máy ghi phim, phim được đem bình trước khi phơi để truyền hình ảnh lên bản in. Quy trình tổng quát của công nghệ CTF được mô tả theo sơ đồ sau: 1.1. Công nghệ CTF có sử dụng giấy scan 1.2. Công nghệ CTF ghi phim theo từng trang 1.3. Công nghệ CTF ghi phim khổ bản in 2. Computer to plate "Computer to plate" là cụm từ mô tả công nghệ chế bản, trong đó dữ liệu số từ máy tính được ghi trực tiếp lên bản in mà không qua khâu trung gian là phim. Bản in sau khi được ghi hình có thể được hiện ngay trên hệ thống máy ghi bản hoặc được đưa tới hiện ở máy hiện bản chuyên dụng. Sau đó, bản in được lắp lên máy in theo cách thông thường để tiến hành công việc in. 3. Công nghệ Computer to Press (CTPress) 3.1 Công nghệ Computer to press/direct imaging 3.2. Công nghệ Computer to Print === Nguyên lý in offset === In offset là phương pháp in phẳng, các thông tin hình ảnh được thể hiện trên bản in có tính quang hoá để tạo ra các phần tử in bắt mực và phần tử không in thì bắt nước. Ngoài ra hình ảnh trên khuôn in phải là hình ảnh thuận, tức là cùng phương với tờ in sẽ được in ra === Cấu tạo máy in offset === Một máy in offset tờ rời gồm có các bộ phận chủ yếu như: một bộ phận cung cấp giấy, một hay nhiều đơn vị in, các thiết bị trung chuyển để đưa giấy qua máy in, một bộ phận ra giấy và các bộ phận bổ trợ thêm như bàn điểu khiển máy in. Thông thường một đơn vị in trong máy in offset tờ rời có ba trục chính cùng hệ thống làm ẩm và hệ thống chà mực lên khuôn in: Ống bản: là một trục ống bằng kim loại, trên khuôn in phần tử in bắt mực còn phần tử không in bắt nước. Ống cao su: là một trục ống mang tấm cao su offset, có cấu tạo gồm một lớp vải bọc với cao su tổng hợp để truyền hình ảnh từ khuôn in lên bề mặt vật liệu in. Ống ép: là một trục khi quay luôn tiếp xúc với ống cao su, làm nhiệm vụ chuyển giấy và các vật liệu in khác. Hệ thống cấp ẩm: là hệ thống các lô làm ẩm bằng dung dịch làm ẩm có chứa các chất phụ gia như: axit, gôm arabic, cồn isopropyl hay các tác nhân làm ẩm khác. Hệ thống cấp mực: là hệ thống các lô chà mực cho bản in. Các thành phần quan trọng khác. Ngoài các đơn vị in ra, trong máy in offset một màu hay nhiều màu còn bao gồm các bộ phận sau: Bộ phận nạp giấy: làm nhiệm vụ hút giấy và các vật liệu in khác từ bàn cung cấp giấy lên và đưa xuống đơn vị in đầu tiên. Các bộ phận trung chuyển: (thông thường là các trục ống có nhíp kẹp giấy) có khả năng vận chuyển giấy đi qua máy in. Bộ phận ra giấy: là bộ phận nhận giấy ra và vỗ giấy đều thành cây giấy trên bàn ra giấy === Hệ thống làm ẩm === Hệ thống làm ẩm trong in offset tờ rời cung cấp dung dịch làm ẩm gốc nước, hoặc dung dịch máng nước lên bề mặt khuôn in trước khi nó được chà mực. Dung dịch làm ẩm giữ cho phần tử không in trên khuôn được ẩm ướt do đó nó không bắt mực. Nó được chà lên toàn bộ bản in. Tuy nhiên, các phần tử không in bắt nước và đẩy mực trên khuôn, chúng được tạo ra theo cách hút bám một lớp mỏng gôm arabic trong quá trình chế tạo khuôn in, đó là hydrophilic, hay chất ưa nước, trong khi các phần tử in là hydropho­bic, hay chất có khuynh hướng đẩy nước. Thực ra nước bản thân nó có thể được sử dụng để làm ẩm bản. Một vài máy in offset tờ rời có thể chọn sử dụng một mình nước để in các ấn phẩm số lượng ít. Tuy nhiên, lớp đẩy mực này dần dần lột ra khỏi khi khuôn in tiếp tục sử dụng trên máy. Các hoá chất trong dung dịch làm ẩm bổ sung thêm độ đẩy mực cho lớp này. === Hệ thống truyền mực === Hệ thống cung cấp mực in trong máy in offset tờ rời có 4 chức năng cơ bản sau: Dẫn mực từ lô máng mực đến khuông in. Tách lớp mực dày ra thành lớp mực mỏng đồng đều trên các lô truyền. Chà mực lên các phần tử in trên bản. Loại bỏ mực in tái lập trên lô chà từ các công việc in trước đó. Cấu tạo của bộ phận cấp mực Máng mực: chứa mực in cần cung cấp trong quá trình in. Lô chấm: là một lô chuyền luân phiên tiếp xúc giữa lô máng mực và lô đầu tiên của hệ thống cấp mực, thông thường là lô tán trong hệ thống cấp mực. Lô tán và lô sàn: là các lô chuyển động ăn khớp bằng bánh răng và dây sên không chỉ quay tròn được mà còn chuyển động qua lại theo phương ngang với trục ống từ trái qua phải Máng mực, hai thành bên hông máng mực, dao gạt và lô máng mực và làm nhiệm vụ chà dàn mỏng lớp mực in lên các lô và xoá các lớp mực in trước đó trên lô chà. [[ Các lô trung gian:]] là các lô chuyển động được dựa vào sự tiếp xúc với các lô chuyển động khác có nối kết với bộ phận truyền chuyển động, các lô trung gian nằm ở giữa lô chuyền và lô chà, làm nhiệm vụ và định lượng mực cấp cho quá trình in; thường được gọi là lô định lượng – khi chúng tiếp xúc với hai lô khác hoặc được gọi là lô dằn – khi chúng chà tiếp xúc với một lô khác; ví dụ: như lô tán. Các lô chà bản in: gồm 3-4 lô chà bản thường có đường kính khác nhau, tiếp xúc và chà mực lên bản in. === Hệ thống ép in === === Các bước làm trong in offset === Lắp khuôn in lên bộ phận lắp bản Đưa mực vào máng chứa, cho dàn đều lên hệ thống lô truyền mực Đưa giấy-vật liệu in vào nơi chứa của máy, căn chỉnh đường đi của giấy Đưa hệ thống nhận sản phẩm, gia công tờ in theo máy == Xem thêm == In ấn In màu == Tham khảo == (bằng tiếng Anh) "Offset Printing". Encyclopædia Britannica. Truy cập March 22, 2004, from Encyclopædia Britannica Premium Service.[1] "Graphic Communications Technology". The History of Lithography. University of Houston. History of Lithography. International Paper. HistoryWired: Rubel Offset Lithographic Press. Smithsonian National Museum of American History. == Liên kết ngoài == (bằng tiếng Anh) How Offset Printing Works (tiếng Việt)
truyện kể genji.txt
Truyện kể Genji (源氏物語 (Nguyên Thị vật ngữ), Genji monogatari), là một trường thiên tiểu thuyết của nữ sĩ cung đình Nhật Bản có biệt danh là Murasaki Shikibu (紫式部 (Tử Thức Bộ), Murasaki Shikibu, 978?-1016?) sống dưới trướng của thứ phi Akiko trong cung Fujitsubo, triều đại Thiên hoàng Nhất Điều (986-1011), không rõ tên thật của bà là gì. Truyện được sáng tác vào khoảng những năm 1010 thời đại Heian bằng chữ viết kana, theo thể loại monogatari (truyện) cổ điển đã có lịch sử phát triển từ 200 năm trước đó của Nhật Bản. Xoay quanh hình tượng nhân vật hoàng tử Genji trong phần chính và Kaoru, người con trai trên danh nghĩa của Genji trong phần thập thiếp cùng mối quan hệ của họ với những người phụ nữ, tác phẩm gồm 54 chương, thuộc một trong những truyện rất lớn về dung lượng, rất phức tạp về nội dung và rất quyến rũ về mặt hình thức trong lịch sử văn học thế giới. Trở thành một hiện tượng có một không hai đối với văn học nhân loại vào thời kỳ trung cổ tiền Phục Hưng: về mặt lịch sử truyện được đánh giá là tiểu thuyết theo nghĩa hiện đại đầu tiên của nhân loại, sớm hơn rất nhiều so với sự ra đời của tiểu thuyết ở châu Âu với tác phẩm Đôn Kihôtê của Miguel de Cervantes vào thế kỷ 16. == Thông tin chung == === Thời đại === Thời Trung cổ Nhật Bản kéo dài chừng 4 thế kỷ từ khi vương triều Nhật Bản thiên đô về Heian kyo (Bình An kinh) vào năm 794, cho đến khi Mạc phủ Kamakura được thiết lập năm 1183 (chính thức vào năm 1192). Đóng vai trò chủ yếu trong nền văn học trung cổ thời Heian là quý tộc triều đình Heian quây quần chung quanh dòng họ Fujiwara (Đằng Nguyên) nắm quyền bính thời bấy giờ. Cuối thời Nara (710-794), chính trị lâm vào chỗ bế tắc. Thiên hoàng cho thiên đô từ Nara về Heian (nay là Kyoto) nhằm xây dựng lại một trật tự chính trị và pháp độ mới, trước hết là mô phỏng Trung Quốc từ kiến trúc đô thành đến việc tiếp thu nghi thức của nhà Đường. Thơ văn chữ Hán trở thành văn học cửa công, đồng nghĩa với sinh hoạt cung đình. Tuy nhiên, từ hậu bán thế kỷ 9, khi trào lưu sáng tác bằng ngôn ngữ và các thể loại chịu ảnh hưởng từ Trung Hoa đã lắng xuống, giới quý tộc chú ý hơn đến văn học dân tộc. Một yếu tố quyết định sự phát triển của văn chương Nhật Bản đương thời là sự phát triển của chữ viết. Chữ manyogana được tạo ra từ chữ Hán trước đó đã phát triển thành hiragana và katakana, trở thành phương tiện tốt nhất cho sự biểu cảm văn tự đối với tầng lớp nữ lưu cung đình, những người vốn không mấy mặn mà với các thể loại cũng như ngôn ngữ văn chương Trung Quốc. Thời đại Heian chứng kiến sự thành công vang dội của các nhà văn, nhà thơ nữ, phần lớn trong họ thuộc tầng lớp thượng lưu và trung lưu cung đình. Sáng tác của họ thường là những ghi chép lại cuộc sống, kinh nghiệm của mình và nhất là những trải nghiệm trong chốn phồn hoa nơi đô hội. Dưới ngòi bút của nữ giới, sự nở rộ của các thể loại văn học quan trọng như nhật ký (nikki), tùy bút (zuihitsu) và tiểu thuyết (monogatari), tạo ra một nền văn học Heian trữ tình ngọt ngào nữ tính. === Tác gia và tác phẩm === Vào triều đại Thiên hoàng Nhất Điều (986-1011) cuối thời Heian, tiểu thuyết và tùy bút đạt đỉnh cao. Nếu dưới trướng của hoàng hậu Fujiwara Teishi (976-1000) đương thời có một Sei Shonagon với Sách gối đầu (枕草子 (Chẩm thảo tử), Makura no soshi) được coi là tùy bút đầu tiên của Nhật Bản, thì dưới trướng của thứ phi Akiko có một Murasaki Shikibu với Truyện kể Genji như một ngôi sao băng sáng chói trên bầu trời văn học Nhật Bản, là tiểu thuyết tả thực, tiểu thuyết tâm lý, tiểu thuyết trữ tình theo nghĩa hiện đại đầu tiên của nhân loại ra đời trước Đôn Kihôtê của Tây Ban Nha và Hồng Lâu Mộng của Trung Quốc tới 6 thế kỷ. Mặc dù Truyện kể Genji bản cổ ra đời khoảng năm 1008-1010 đã mất và bản còn biết ngày nay có niên đại thuộc thời Kamakura (200 năm sau khi tác phẩm ra đời), những nghiên cứu mới nhất từ giới học giả Nhật Bản vẫn cho thấy Truyện kể Genji là công trình của một người duy nhất, Murasaki Shikibu, với sự thêm thắt ở hai thế kỷ tiếp theo, tuy chúng không đủ tầm cỡ để làm thay đổi bản gốc. Ít ra cũng có chương 44, "Dòng sông trúc", được nhiều người cho là của một người khác viết, và hai chương ngắn ngủi trước đó cũng đáng ngờ. Đi xa hơn trong phán đoán, một số học giả còn cho rằng phần "Uji thập thiếp", 10 chương cuối Truyện kể Genji, rất có thể do một người khác viết và gán quyền tác giả cho con gái bà, Daini no Sammi, tuy rằng nhiều học giả khác chống lại sự gán ghép đó với quan điểm rằng khó mà hình dung nổi có một tài năng thứ hai không được chuẩn bị đầy đủ mà lại kế tục một cách xuất sắc như thế những gì mà Murasaki Shikibu đã triển khai. Bằng chứng khi nhìn lịch sử văn học Nhật Bản hậu Murasaki Shikibu, nhiều thế kỷ về sau những truyện tình lãng mạn khác, như Truyện kể Sagoromo (Sagoromo monogatari), Tẩm giác nửa đêm (Yowa no nezame), Truyện Hamamatsu Chūnagon (Hamamatsu Chūnagon monogatari), Truyện kể Torikaebaya (Torikaebaya monogatari), so với Genji monogatari vẫn còn khá nghèo nàn. === Tiếp nhận điển cố Trung Hoa === Tuy Truyện kể Genji được coi là một tác phẩm văn chương với đề tài và ngôn ngữ thuần Nhật nảy nở trong môi trường thời đại đang không ngừng hướng về những giá trị văn hóa truyền thống, Nghiêm Thiệu Sương, trong khi nghiên cứu thư tịch chữ Hán ở Nhật Bản, đã thống kê được trong 152 tình tiết phát triển của cốt truyện, Murasaki Shikibu vẫn dẫn dụng tới 131 đoạn văn thư tịch Trung Quốc. Điều đó chứng tỏ rằng đương thời, Hán tịch vẫn phổ biến rộng rãi tại Nhật Bản và hơn nữa, còn xâm nhập vào quan niệm văn hóa của các trí thức Nhật Bản, trở thành điểm tựa không thể thiếu trong tư duy của họ. == Nhân vật chính == Hoàng hậu Akashi: cũng được gọi là "cô gái Akashi" (Akashi-hina) hay "quận chúa Akashi", là con gái của Genji với nàng Akashi. Vợ vua đương quyền vào cuối tác phẩm. Phu nhân Akashi: mẹ của hoàng hậu Akashi, ở dinh Đông Bắc tại Rokujo. Akikonomu: con gái của hoàng tử kế vị quá cố với nàng Rokujo, vợ của vua Reisen, chị em họ với Genji và Asagao. Aoi: con quan tể tướng, vợ đầu của Genji hơn Genji 4 tuổi, là vợ sau của To no Chujo và là mẹ của Yugini. Asagao hay Hoa Bìm Bìm: chị em họ với Genji, con gái người anh em của cha Genji. Bonnokimi: là người hầu của Kashiwagi và về sau hầu hạ các quận chúa Uji. Công chúa Hai: có hai người cùng mang biệt hiệu này: 1. con gái của vua Suzaku và vợ của Kashiwaki; 2. con gái của vua đương quyền ở cuối truyện và là vợ của Kaoru. Công chúa Ba hay "công chúa San-no-miya" (Onnasan): con gái của vua Suzaku, vợ của Genji và là mẹ của Kaoru. Fujitsubo: con gái của hoàng đế cũ, vợ của cha Genji và là mẹ của vua Reidei. Genji, còn gọi là Hikaru Genji (Quang Nguyên Thị hay Genji sáng chói), hoàng tử. Higekuro: con một quan Hữu thừa tướng, chồng người chị Murasaki và Tamakatsura, và là cậu của vua đương quyền ở cuối truyện. Hataru: anh em với Genji, chồng của Makibashira. Hoàng tử thứ Tám hay "hoàng thân Hachi": anh Genji và là cha của các quận chúa Uji, Oigimi, Nakanokimi, Ukifune. Hoàng tử Niou: con vua đương quyền với hoàng hậu Akashi. Hyobu: hoàng thân, anh em với Fujitsubo và cha của Murasaki. Kaoru: được coi là con của Genji, nhưng thực ra là con của Kashiwaki và San-no-miya. Kashiwaki: con của To no Chujo và là cha của Kaoru, lấy Công chúa Hai con gái của vua Suzaku. Kobai: em của Kashiwaki. Kojiju: nữ tì hầu hạ Công chúa Ba. Kokiden hay "Thái hậu Kokiden": con quan Hữu thừa tướng, vợ của vua cha Genji, là chị của Oborodukiyo và là mẹ của vua Suzaku. Koremitsu: bộ hạ thân tín của Genji. Kumoinokari: con gái To no Chujo, vợ của Yugiri. Makibashira: coi gái Higekuro, vợ của Hotaru và Kobai. Murasaki: con gái Hoàng thân Hyobu, cháu Fujitsubo, cháu gái một vị vua trước đó. Nakanokimi: con gái thứ hai của Hoàng tử Tám. Nàng Lốt Ve hay Utsusumi: vợ một tỉnh trưởng Iyo, là người thiếp của Genji, ở tại dinh Nijo. Oborodukiyo: em gái Kokiden. Oigimi: con gái của Hoàng tử Tám. Omi: con gái bị thất lạc của To no Chujo. Omiya: quận chúa, là bà cô và mẹ vợ của Genji. Ono: ni cô, là người bảo trợ của Ukifune. Phu nhân Hoa Cam hay Hana Chiru Sato: chị người thiếp của cha Genji, được ở dinh Rokujo, khu Đông Bắc. Phu nhân Hoa Phấn hay "Yugao": một người phụ nữ dòng dõi thấp kém, lúc đầu là người tình của To no Chujo và sau đó quan hệ với Genji, là mẹ của Tamakatsura. Phu nhân Rokujo: vợ góa của một hoàng tử kế vị quá cố cậu của Genji, là mẹ của Akikonomu. Phu nhân Hoa Rum hay nàng Suetsumuhana: có dòng dõi hoàng gia nhưng bị thất thế, ở dinh Nujo. Quan Tả thừa tướng: chồng quận chúa Omiya, cha của Aoi và To no Chujo. Quan Hữu thừa tướng: cha của Kokiden và Oborodukiyo, ông ngoại vua Suzaku. Rokumokimi: con gái Yugiri, vợ Nion. Tamakatsura: con gái To no Chujo với nàng Hoa Phấn. To no Chujo hay còn gọi là Chujo: em quan Tả thừa tướng và Omiya, là cha của Kashiwaki, Kobai, Kumoinokari, Tamakatsura và nàng Omi, là bạn của Genji. Ukifune: con gái vợ chính thức của Hoàng tử Tám. Ukon: người hầu của Ukufune. Vua, gồm các vị vua và cựu hoàng: 1. vua cha Genji (chương 1); 2. vua Suzaku, anh của Genji nối ngôi cha (đầu chương 9) và thoái vị (chương 14); 3. vua Reisen, về danh nghĩa là em Genji nhưng thực ra là con của chàng với mẹ kế Fujitsubo, nối ngôi (chương 14) và thoái vị (chương 35); 4. một người con vua Suzaku nối ngôi (chương 35) và trị vì cho đến hết câu chuyện. Yokawa: hòa thượng em của ni cô Ono. Yugiri: con trai của Genji và Aoi. == Danh sách chương hồi == == Cấu trúc tác phẩm == Cấu trúc tác phẩm gồm 2 phần bao quát thời gian kéo dài ba phần tư thế kỷ. Phần chính gồm khoảng 44 chương với 41 chương đầu tiên đề cập đến thân phận và những cuộc phiêu lưu tình ái trong cung đình của hoàng tử Genji tại kinh đô, từ chương đầu tiên với sự ra đời của chàng cho đến chương cuối khi chàng đã 52 tuổi. Ba chương sau đó, những chương đáng ngờ nhất và được coi là những chương chuyển tiếp, viết về những sự kiện xảy ra sau khi Genji đã chết. Mười chương còn lại của tác phẩm là những chương tuyệt tác được gọi bằng tên Uji thập thiếp (Uji jujo), lấy bối cảnh ngoài kinh đô là miền Uji. Các chương này tập trung viết về người con trai trên danh nghĩa của Genji tên là Kaoru và đứa cháu ngoại của Genji là hoàng tử Niou. Tuy rõ ràng Truyện kể Genji đã bị ngắt làm hai với cái chết của Genji, nhưng trước đó trong tác phẩm cũng có một điểm ngắt quan trọng mà một số học giả về sau, căn cứ vào đó đã phân lập cấu trúc tác phẩm thành ba phần: Ba mươi ba chương đầu tập trung sự kiện trong thế kỷ 10, nói về một nhân vật hoàng tử được lý tưởng hóa, và mặc dù có thất bại nhưng sự nghiệp của chàng chủ yếu là một câu chuyện của sự thành công. Từ chương thứ 34 trở đi cho đến hết chương 41, 8 chương này cho thấy một hình ảnh hoàng tử Genji khác biệt, từ khi đã khoảng 40 tuổi cho đến khi chàng biến mất khỏi sân khấu một cách đột ngột. Sau khi hư cấu lãng mạn đã tạm đủ, Murasaki Shikibu như muốn nói rằng bà đang từ bỏ tuổi trẻ lại phía sau, rằng điều buồn bã nhất là thực tế. Bóng tối từ đây đã bao trùm lên cuộc sống của Genji, khiến cho câu chuyện kém bay bổng hơn nhưng thân mật hơn, và việc xây dựng nhân vật trở nên tinh tế hơn so với đoạn đầu. Sau 3 chương chuyển tiếp đến các chương Uji, cốt truyện đã đi theo hướng phát triển tính chất bi quan, không gian chuyển từ thủ đô tới làng Uji và tính cách cũng như hành động nhân vật trở nên loãng và yếu hơn. == Nội dung tóm tắt == === Phần chính === Truyện bắt đầu từ sự sủng ái của hoàng đế với một cung phi xinh đẹp, nàng Kiritsubo, một phụ nữ không xuất thân từ tầng lớp thượng lưu. Kết quả của tình yêu giữa nàng với hoàng đế là đứa con trai được đặt tên Genji. Cậu bé Genji, được tất cả mọi người yêu thương, kể cả những người trước kia ghen ghét mẹ cậu, bởi cậu rất khôi ngô, thông minh, tài ba và có sức quyến rũ lạ thường. Vì quá yêu con trai, không muốn con sa vào vòng thăng trầm của vận mệnh, vua cha đã quyết định không nhường ngôi cho chàng mà để chàng sống một cuộc sống tự do như những người bình thường. Khi Genji 12 tuổi, theo lệnh của triều đình, chàng làm lễ trưởng thành và lấy cô gái con tể tướng, tên là Aoi, hơn chàng 4 tuổi làm vợ. Nhưng cũng từ đây cuộc đời của chàng là hành trình không mệt mỏi trong nhu cầu "hầu hạ" những người đàn bà mang lại cho chàng khoái cảm và bỏ rơi vợ. Xúc cảm tình yêu đầu tiên của chàng lại với chính người mẹ kế Fujitsubo, người thiếp của vua cha. Nàng rất trẻ và xinh đẹp nhưng với Genji đó là một người không thể với tới. Sau đó chàng tình cờ làm quen nàng Utsusemi, vợ của một viên quan cấp tỉnh. Nhưng mọi nỗ lực của Genji đều bị tan vỡ trước sự cứng rắn và khéo léo của Utsusemi. Genji đã từng lẻn đến giường Utsusemi nhưng nàng chạy thoát và để con gái mình là Nokia-no-ogi thay thế. Trong năm này Genji cũng đã trải qua cú sốc đầu tiên trong đời do chuyện tình ái. Chàng yêu Yugao, người tình của người bạn tên là Chujo, và tận hưởng mối tình tại một căn nhà nhỏ nghèo nàn bên rìa thành phố. Tại đây, Rokujo, một cung phi 27 tuổi bị chàng đã bỏ rơi, đã thể hiện lòng ghen tuông dữ dội, dẫn tới cái chết của nàng Yugao. Genji cũng suy sụp tinh thần nặng nề. Trong cố gắng thoát khỏi bùa mê của Rokujo, chàng gặp một pháp sư nổi tiếng trên đất Trung Quốc và tại đây chàng tìm thấy một người con gái sau này đã trở thành tình yêu lâu bền và sâu sắc nhất cuộc đời chàng: cô bé Murasaki, tuy mới 10 tuổi, nhưng có một nhan sắc tuyệt mĩ và giống Fujitsubo như đúc, làm sống dậy trong lòng chàng mối tình vụng trộm đầu tiên với Fujitsubo. Khi trở về thủ đô cùng Murasaki, chàng đã quay lại với Fujitsubo khi biết nàng không còn ở bên quốc vương, cha của chàng nữa. Mối tình vụng trộm để lại hậu quả: Fujitsubo sinh một đứa con giống hệt Genji. Sau này đứa con trai đó lên ngôi với cái tên Reisen. Suốt những năm sau, Genji tiếp tục quan hệ với nhiều phụ nữ khác nhau; họ đều được hưởng thiện cảm lớn lao và ít nhiều bền lâu của chàng. Đó là Sue-tsumu-hona, cô gái hay ngượng ngùng và khiêm nhường, có chút nhược điểm về ngoại hình; Genji-no-naishi, người đàn bà quý phái đã cao tuổi có cặp lông mày trắng thôi miên người khác phái; Hanna-chiru-haso, một phụ nữ trầm tính, thiếu say đắm nhưng lại dễ chịu như một người bạn gái v.v... Khi Genji ngoài 20 tuổi, vua cha thoái vị nhường ngôi cho người con cả và Genji trở thành thái tử. Tại buổi lễ tấn phong công chúa San-no-miya làm tư tế một ngôi đền Thần đạo, tác giả mô tả cho chúng ta thấy sự xung đột giữa hai địch thủ: người vợ được luật pháp thừa nhận của Genji là nàng Aoi tuyệt sắc với người tình cũ Rokujo. Kết quả của cuộc đánh ghen ấy là sự đày đọa của dòng họ khiến Aoi phải đi đến cái chết, để lại đứa con trai của nàng với Genji tên là Yugiki. Genji cuối cùng đã đoán ra rằng Rokujo si tình là nguyên nhân cái chết bi thảm của cả Yugao và Aoi nên ra mặt lạnh nhạt. Rokujo cũng đoạn tuyệt với Genji để trở về tỉnh Ise, đồng thời gửi gắm con gái Akiyoshi cho Genji chăm sóc. Akiyoshi sau này đã trở thành nữ hoàng đệ nhị. Một thời gian ngắn sau khi Aoi chết, Genji đã chia sẻ tình cảm với Murasaki, vào lúc chàng 22 tuổi và Murasaki mới 15 tuổi. Tuy nhiên, dù rất yêu Murasaki, Genji cũng không thể lấy nàng vì nàng không thuộc tầng lớp đại quý tộc. Murasaki trở thành người vợ không chính thức, nhưng có ảnh hưởng sâu sắc đến chàng trong suốt những năm tháng về sau. Vua cha từ trần, Genji lâm vào hoàn cảnh khó khăn do triều đình rơi vào tay dòng họ thù địch của mẹ tân quốc vương, thái hậu Kokiden. Trong những năm tháng ấy Genji bất ngờ làm quen với nàng Oborotsuki của dòng họ này, nhưng do những người thân của nàng luôn muốn nàng được đương kim quốc vương sủng ái nên đã đày Genji ra Tsuma. Genji bị lưu đày ở đây từ năm 26 đến năm 27 tuổi và cũng trong thời gian này, Akashi, con gái một vị tu sĩ, trở thành người tình của chàng. Trong thời gian lưu đày, tại hoàng cung nhiều biến cố nghiêm trọng xảy ra dẫn tới cái chết của người đứng đầu dòng họ thù địch và mọi người giải thích do bắt Genji đi đày nên các thần linh trừng phạt. Genji lại được hồi cung trong trang trọng và danh dự. Hoàng đế Tsuraku thoái vị nhường ngôi cho Reisen, người được cho là con trai của Genji. Từ đây Genji bắt đầu có vị trí và quyền lực quan trọng trong giới quý tộc. Cũng trong những năm này, Akashi sinh con gái đặt tên là Akashi-hina, sau đó nàng trao con cho Genji nuôi dưỡng rồi bỏ vào núi. Genji xây cho mình một cung điện mới tráng lệ ở kinh đô, đặt tên là Rokujo-in và đưa tất cả những người phụ nữ thân thiết của chàng đến vui vầy. Trong những năm này có lúc chàng còn ngẫu nhiên gặp lại tình yêu thời trẻ, nàng Utsusemi, trong một chuyến du ngoạn và họ trao cho nhau những bài thơ tashi. Nàng Utsusemi sau đó cắt tóc đi tu và rời khỏi thế giới trần tục. Tại cung điện Rokujo-in, ngày nối ngày luân phiên như những ngày hội huy hoàng và vinh quang của Genji đã đạt tột đỉnh. Nhưng số phận bắt đầu rình rập chàng, những năm tháng cuối đời của chàng trôi qua trong sầu muộn, hạnh phúc lung lay, những tai họa ập đến nối tiếp nhau với ba biến cố chính: sự kiện thứ nhất là những câu chuyện xúc động quanh cô gái Tamakatsura, đó là đứa con của người tình cũ Yugao (đã chết trong vòng tay Genji vì sự ghen tuông của Rokujo) với bạn Genji là chàng Chujo. Tamakatsura là một cô gái cực kỳ sâu sắc và quyến rũ khiến Genji rất có cảm tình, và Genji đã vô cùng sầu não khi quanh Tamakatsura luôn rập rình những chàng trai kiệt xuất. Sự kiện thứ hai gây chấn động mạnh đến Genji đó là việc khám phá bí mật: vị hoàng đế Reisen chính là con trai ruột của chàng. Reisen sau khi biết chuyện đã phong cho Genji chức vụ cao nhất của quốc gia và lệnh cho tất cả phải tỏ lòng tôn kính với Genji như cha của hoàng đế. Điều này khiến mặc cảm phản bội vua cha hồi trẻ khi ngoại tình với người thiếp Fujitsubo của cha trở thành nỗi ám ảnh Genji khi về già. Sự kiện thứ ba hoàn toàn giết chết Genji. Nàng San-no-miya (Onnasan), con gái yêu của vị cựu hoàng Suzaku gửi gắm Genji nuôi nấng và bảo vệ, đã khiến Genji nảy nở mối tình sâu nặng cuối cùng lúc tuổi đã xế chiều. Tình yêu được thử thách từ lâu với nàng Murasaki bị nghiêng ngả và Murasaki qua đời trong tuyệt vọng vì bị bội bạc, để lại niềm tiếc thương vô hạn cho cả Genji và chàng thanh niên Yugiri, con của Genji với người vợ đầu Aoi. Còn San-no-miya ngây thơ và thùy mị tuy bề ngoài vẫn ngoan ngoãn với Genji chồng nàng, nhưng trái tim của nàng lại thuộc về một người trai trẻ quý tộc Kashiwaki con của Chujo, bạn thân và cũng là tình địch trong tình yêu của Genji. San-no-miya và Kashiwaki thực sự đã hưởng hạnh phúc trọn vẹn ngay chính trong ngôi nhà của Genji. Kết quả nàng San-no-miya sinh một đứa con giống hệt Kashiwaki và đặt tên là Kaoru. Nhân vật Kaoru cuối cùng bổ sung cho cuốn tiểu thuyết đã đẩy số phận Genji đến sự định đoạt có tính nhân quả: gieo gió ắt gặt bão, nghiệp chướng đã nói lời của mình. === Uji thập thiếp === Phần hai của tác phẩm mở đầu bằng câu: "Genji đã chết, và không ai có thể thay thế được chàng", nhưng tác phẩm vẫn tiếp tục bám theo số phận các nhân vật còn sống, tập trung vào quan hệ tay ba giữa Kaoru, hoàng tử Niou cháu trai Genji, và cô gái xinh đẹp Ukifune. Tóm tắt của phần này như sau: Hoàng thân Hachi em trai của Genji có hai cô con gái, Oigimi và Nakanokimi. Sau khi cung điện bị cháy, Hachi phải đưa gia đình chuyển về trang trại ở Uji sống. Hoàng tử Kaoru, trên danh nghĩa là con của Genji và San-no-miya, nhưng thực chất là con của Kashiwaki và San-no-miya, đến Uji theo học kinh Phật với hoàng thân. Mấy năm sau hoàng thân mất, Niou, cháu ngoại của Genji mới 14 tuổi, say mê cô em Nakanokimi và nhờ Kaoru làm mối. Còn Kaoru lại muốn cưới cô chị Oigimi. Nhưng Oigimi muốn Kaoru lấy cô em gái nàng nên đã tìm cách đẩy Kaoru đến giường của cô em. Oigimi lâm trọng bệnh chết, hai chàng trai thu xếp cho Nakanokimi về kinh đô. Có một cô gái giống Oigimi đến tìm gặp Nakanokimi. Đây là đứa con hoang của hoàng thân Hachi tên là Ukifune (Phù Châu, tức con thuyền trôi nổi), đang được quan tổng trấn ở Hitachi nuôi dưỡng. Khi Ukifune ghé lại Uji trong chuyến đi viếng mộ cha, nàng đã gặp Kaoru, và Kaoru ngỡ tưởng Oigimi tái thế, do hai nàng giống nhau như đúc và đều xinh đẹp, tài hoa. Để tránh hoàn cảnh khó chịu ở nhà cha nuôi, Ukifune phải tìm đến chỗ Nakanokimi trú tạm và tại đây nàng lại gặp Niou. Với sự giúp đỡ của Kaoru, mẹ Ukifune thu xếp cho nàng về Uji. Kaoru đã có những ngày gần gũi bên Ukifune khi dạy nàng học đàn. Thật trớ trêu khi cả Kaoru và Niou đều yêu mê mệt Ukifune, còn Ukifune ban đầu yêu Kaoru, nhưng sau đó lại bị cuốn vào mối tình cháy rực của chàng trai trẻ Niou. Cuối cùng, hầu như quẫn trí khi đối diện với sự lựa chọn, cân nhắc khó khăn trong tình cảm, Ukifune đã bỏ trốn và trầm mình xuống dòng sông ở Uji. Một gia đình tăng ni đã cứu nàng, đưa nàng về Ono và nàng đã xuống tóc quy y. Trong niềm thương nhớ Ukifune vô hạn, Kaoru đã nhận đứa em trai nàng (cùng cha khác mẹ) làm tiểu đồng. Khi biết Ukifune chưa chết mà đang ẩn tu, chàng đã đem theo cậu tiểu đồng đi tìm nàng. Đứa em trai cầm thư của Kaoru xin gặp người chị yêu, nhưng cậu vô cùng đau khổ khi Ukifune không ra gặp, ở sau bức màn lạnh lùng trả lại thư. Chàng sứ giả lủi thủi ra về. Câu chuyện dừng lại ở đây, khi con thuyền trôi nổi Ukifune đã ở bên kia bờ thế tục. Việc tóm tắt tác phẩm như trên là rất sơ sài, do nội dung truyện hết sức phức tạp với khoảng 400 nhân vật, trong đó tập hợp nhiều bối cảnh khác nhau và có tới trên 30 nhân vật chính. == Những luận điểm chính == Igarashi, một nhà viết sử hiện đại của văn hóa Nhật Bản đã hướng độc giả vào một vài lời nhận định trong Truyện kể Genji, ở một mức độ nào đó những điểm này giống như những tuyên ngôn nhân danh tác giả và từ đó truyền đạt lại chính xác quan điểm của Murasaki Shikibu về bản chất của tiểu thuyết nói chung và nguồn tài liệu làm cơ sở cho chủ đề của tác phẩm. Nói cụ thể hơn, các luận điểm trên xác định ba tọa độ: thể loại của tác phẩm là tiểu thuyết hiện thực, phong cách tác phẩm là wabun (和文, Hòa văn, văn Nhật thuần túy từ thể tài cho đến ngôn ngữ, khác biệt với 漢文, kambun, Hán văn), và đề tài là bạn tình và những người phụ nữ thời Heian. === Thể loại === Tại chương 15 nêu lên đại ý rằng những truyện (monogatari) do chúng tôi ghi chép, tất cả diễn ra trên Trái Đất, bắt đầu từ chính kỷ nguyên của các thần linh. "Biên niên sử Nhật Bản" (Nihongi) đề cập đến một mặt của sự vật, còn trong các "truyện" thì chứa đựng đủ mọi chi tiết. Murasaki Shikibu đặt những lời này vào miệng nhân vật chính của mình, dám thể hiện một tư tưởng hết sức dũng cảm, về bản chất là rất mới so với thời đại mà sử ký đang được tôn vinh và phát triển cực thịnh bấy giờ trong văn xuôi Trung Hoa cũng như Nhật Bản: tư tưởng ấy xác lập thể loại văn học tự sự bên cạnh thể loại trần thuật lịch sử mà đặc tính chung của chúng là đều kể về quá khứ. Tư tưởng đó còn mạo hiểm cho rằng tiểu thuyết đứng trên và cao hơn lịch sử. Có lẽ trước Murasaki chưa ai dám phát biểu rằng, những cuốn biên niên sử nổi tiếng của Nhật Bản như Nihongi (Nhật Bản kỷ, 720) và Kojiki (Cổ sự ký, 712) là thấp hơn tiểu thuyết, mang tính phiến diện vì không truyền đạt lại đầy đủ nội dung của quá khứ. === Phong cách === Chương 32 của tác phẩm kết thúc bằng những lời sau: Thế giới của chúng ta đã bị thu nhỏ lại. Nó về mọi mặt đều phải nhường bước cho cái cổ xưa. Thế kỷ của chúng ta quả là chưa có cái gì sánh được với chữ kana. Những chữ viết cổ dường như là chuẩn và sáng rõ, nhưng toàn bộ thực chất của cõi lòng thì không thể chứa đựng được. Tuyên bố này chỉ ra cho ta biết rằng ngôn ngữ Nhật Bản, ngôn ngữ thuần túy của bộ tộc Yamato thời đại Heian chưa bị Hán hóa một cách nặng nề hoặc mới chỉ tiếp nhận ngôn ngữ Hán ở mức độ tối thiểu. Ngôn ngữ Nhật Bản giữa thế kỷ 10-11 đã đạt đến sự phát triển của mình khác hẳn ngôn ngữ còn lại bây giờ. Thêm vào đó, nó chỉ ra rằng loại ngôn ngữ đã phát triển này là phương tiện biểu đạt tuyệt vời của văn học: trở thành vũ khí và vật liệu tốt nhất cho nền nghệ thuật ngôn từ đích thực. Điều này hiển hiện rõ rệt qua ngôn ngữ sử dụng trong Truyện kể Genji, là kiểu mẫu của ngôn ngữ Nhật Bản hoàn thiện trong thời kỳ cổ điển và bằng bàn tay Murasaki ngôn ngữ đó trở thành phương tiện tuyệt vời để truyền đạt tất cả các trạng thái. Về phương diện này tác phẩm dường như đứng trên đỉnh đèo: trước nó là sự lên dốc và sau nó là sự tụt dốc, wabun trong Truyện kể Genji đạt đến sự phát triển tột đỉnh của mình và sau nó là sự suy thoái của ngôn ngữ thuần Nhật nhường chỗ cho sự ứng dụng ngày càng sâu sắc của chữ Hán. === Chủ đề === Tại chương 25 đề cập đến một vấn đề hoàn toàn khác trong phát ngôn: Đúng! Người phụ nữ sinh ra trên thế gian chỉ để cho bọn đàn ông lừa bịp. Cần phải hiểu nhận định ấy như thế nào? Ở phương diện tác giả là một người phụ nữ; phải chăng người phụ nữ cảm nhận được lẽ công bằng hơn trong lời tuyên bố này; kết quả của sự quan sát xung quanh tác giả với những bối cảnh gần gũi; hay đó là đặc tính cơ bản của thời đại? N.I. Konrad đã suy đoán đúng hơn cả có lẽ là giả thiết sau cùng, tính chính xác và tính lịch sử của nó liên quan đến quan điểm chung của tác giả về chủ đề của tiểu thuyết. Murasaki Shikibu là một người phụ nữ Heian điển hình nhưng chưa hẳn là đối với bà có thể ứng dụng câu châm ngôn trên một cách đầy đủ: bà đã quá nghiêm túc và sâu sắc để suốt đời chống lại một cách khó khăn việc trở thành một thứ đồ chơi cho đàn ông, và thở phào nhẹ nhõm khi cho người khác nói ra nhận định đó. Cũng không nghi ngờ gì về hoàn cảnh xung quanh đã trở thành nguyên cớ khiến Murasaki Shikibu đưa ra kết luận trên, trong cuốn tiểu thuyết khắc họa không chỉ môi trường thân thuộc của bà mà còn cả cuộc sống của thời kỳ Heian nói chung, và chọn ra từ sinh hoạt của giới quý tộc các nét tiêu biểu nhất: tình yêu, quan hệ qua lại giữa đàn ông và đàn bà. Đây chính là đề tài tiêu biểu đối với toàn bộ văn học tự sự của giai đoạn tiền-Genji monogatari và sau đó, bắt đầu từ tác phẩm đầu tiên theo tuyến này là Ise Monogatari, mà nhân vật đàn bà cùng người bạn trai hâm mộ nàng luôn hiện diện trong các trang monotagari, và tiếp nối với Kokinshū (Cổ kim tập) phản ánh xuất sắc quan hệ nam-nữ trong những bài tanka mẫu mực mà đề tài tình yêu, trực tiếp hay gián tiếp, chiếm hơn một nửa tổng số các bài thơ của thi tuyển. Rõ ràng, giới quý tộc thời Heian, điển hình cho sự ăn không ngồi rồi đến mức bão hòa đầy nhục dục trong sự thanh bình và phồn vinh của đất nước, thì người phụ nữ tất nhiên đóng vai trò hàng đầu. Mối quan hệ qua lại giữa những người đàn ông và những người đàn bà trở thành trung tâm của toàn bộ cuộc sống sung sướng, an nhàn và phong lưu của thời đại. == Giá trị khác của tác phẩm == === Hệ thống đề tài === Tuy vậy, ý nghĩa đích thực của Truyện kể Genji vẫn khiến các học giả tranh cãi, người thì cho rằng tác phẩm có thể được hiểu như một sự truyền bá ngấm ngầm đạo Phật qua tư tưởng về nghiệp quả (karma); số khác lại thừa nhận Genji là một tác phẩm viết với mục đích giáo huấn; một số đánh giá truyện không hơn gì ý nghĩa là tiểu thuyết vô luân thậm chí là văn học khiêu dâm. Bên cạnh đó, nhiều người bám vào chủ đề chính của tác phẩm là quan hệ của những người đàn ông và những người đàn bà; nhưng cũng có ý kiến cho rằng có thể coi tác phẩm là một biên niên sử trá hình; và cuối cùng, một số nhà nghiên cứu xoay quanh nhận định rằng tác phẩm chuyên làm sáng tỏ nguyên tắc mono no aware (bi cảm) của mỹ học truyền thống Nhật Bản. === Nghệ thuật tự sự === Nhưng nếu tính đa nghĩa làm say lòng hàng triệu độc giả trên xứ sở Phù Tang, thì cốt truyện lại khiến tác phẩm có thể được đọc như một tiểu sử nhân vật: Genji sinh ra, lớn lên, những mối tình, cuộc lưu đày, sự hiển đạt, tuổi già và cái chết. Sự nối liền thân phận của Genji và con trai Kaoru cũng phản ánh được nhận thức về tính hiện thực của dòng chảy thời gian, thể hiện được lòng trung thành của tác giả với những nguyên tắc của lịch sử. Nhân vật chết nhưng cuộc sống không ngừng lại và Murasaki vẫn tiếp tục ghi lại sự tiếp diễn của nó. Bằng tác phẩm mang hơi thở trữ tình ngọt ngào nữ tính của thời đại, lần đầu tiên trong lịch sử văn học Nhật Bản, Murasaki đã khẳng định kiểu mẫu sáng chói và thuần túy nhất của nghệ thuật tiểu thuyết đích thực, hơn nữa, tác giả đã đặt tiểu thuyết tự sự ngang hàng và thậm chí cao hơn sử học: tiểu thuyết kể về tất cả, đụng chạm tới từng chi tiết, chuyển tải cái đã qua với toàn bộ sự trọn vẹn của nó. Nó không đơn thuần tuân thủ những nguyên tắc và nhiệm vụ của sử học, điều mà trước thời của Murasaki, được viết bởi các nhà biên sử qua Cổ sự ký hay Nhật Bản thư kỷ, nó còn sinh động hơn sử ký rất nhiều trong việc tái họa quá khứ cũng như những hư cấu lịch sử bởi khả năng vô hạn khắc họa tính cách và hành động của nhân vật, nói khác đi là một lịch sử đã được tái tạo nghệ thuật. Chính nguyên tắc dung hợp giữa tự sự và trữ tình, thực sự là một đột phá so với thời đại, đã tạo cho tác phẩm một chiều sâu cảm hứng đối với các văn sĩ hậu Murasaki, đem đến nhiều nhận thức khác nhau về ý nghĩa tác phẩm trong giới nghiên cứu văn học sử hiện đại. == Ảnh hưởng == Là một sáng tác đỉnh cao của văn xuôi Nhật Bản mọi thời đại, Truyện kể Genji có vị trí đặc biệt trong văn học thời kỳ Heian nói riêng và dòng chảy văn học Nhật Bản nói chung. Trước Truyện kể Genji, không có truyện nào có thể sánh bằng, mà văn học về sau đều chịu ảnh hưởng nhất định từ tác phẩm này. Kể từ khi xuất hiện Genji monogatari, văn học Nhật Bản bao giờ cũng hướng đến với nó và đã có nhiều tác phẩm bắt chước. Có thể tìm thấy sự ảnh hưởng đó trong trường hợp của các tiểu thuyết lịch sử như Truyện tướng Sagoromo (Sagoromo monogatari) miêu tả chuyện tình ái của võ quan Sagoromo Taishō; Truyện vinh hoa (Eiga monogatari) nói về dòng họ Fujiwara no Michinaga; tiểu thuyết Một đời trai đắm sắc (Kōshoku ichidai Otoko) của Ihara Saikaku (1642-1693); Genji giả, Murasaki ruộng (Nise Murasaki Inaka Genji) của Ryūtei Tanehiko (1783-1842) mô phỏng Truyện kể Genji với những nhân vật đóng vai quê mùa v.v. Ngay cả các nhà văn cận kim và hiện kim hàng đầu như Higuchi Ichiyo (1872-1896), Akutagawa Ryūnosuke (1892-1927), Tanizaki Jun'ichirō (1886-1965) đều ái mộ ngữ vựng, cách diễn tả và đề tài của Genji, đem nó vào tác phẩm của mình. Văn hào Nhật Bản đầu tiên nhận giải Nobel Văn học Kawabata Yasunari (1899-1972) là người chịu ảnh hưởng sâu sắc niềm bi cảm aware của Truyện kể Genji, trở thành một phần của hệ thống mỹ học thực hành Kawabata Yasunari và biểu hiện rõ rệt trong nhiều sáng tác của ông. Trong Diễn từ Nobel mang tên Sinh ra từ vẻ đẹp Nhật Bản (Utsukushi Nihon no watakushi, 1968) Kawabata đã viết: ...vào thế kỷ thứ X xuất hiện một tác phẩm tuyệt vời và mang tinh thần hiện đại như vậy là một điều kì diệu của cả thế giới. Thuở nhỏ tôi không giỏi tiếng Nhật cổ lắm, nhưng dù sao tôi cũng đã đọc văn học Heian, và tôi rất thích tác phẩm này. Những sáng tác từ hậu kỳ Heian cho tới ngày nay trong đủ các thể loại văn học và sân khấu như thi ca (các thể thơ waka); kịch nghệ (các bài ballad hay dao khúc tuồng Nō); thậm chí nhiều loại hình nghệ thuật từ nghệ thuật ứng dụng (tranh thủy mạc, tranh cuộn) đến nghệ thuật bài trí vườn cảnh, đều tìm thấy trong Genji cội nguồn của cảm hứng cái đẹp. == Dịch phẩm == Đầu thế kỷ 20, nhiều nhà văn, dịch giả Nhật Bản đã cố công dịch Truyện kể Genji từ tiếng Nhật cổ ra kim văn, trong đó có bản của văn hào Tanizaki Jun'ichirō và nữ sĩ Setouchi Jakuchō. Bản thông dụng nhất có lẽ là bản khổ bỏ túi của nhà xuất bản Kōdansha năm 1978 gồm 7 cuốn, tổng cộng 3500 trang khổ A6 với cỡ chữ rất nhỏ, do Giáo sư Imaizumi Tadayoshi (1910-1976) dịch toàn văn. Truyện kể Genji cũng được dịch ra nhiều thứ tiếng trên thế giới nhờ nỗ lực của các dịch giả như Arthur Waley (Anh), Edward Seidensticker (Mỹ), René Sieffert (Pháp) v.v. Bản dịch tiếng Anh Truyện kể Genji chủ yếu dựa vào văn bản trong loạt truyện Nikon koten bungaku taikei gồm các tác phẩm cổ điển Nhật Bản do Iwanami Tokuhei xuất bản. Người biên tập là giáo sư Yamajishi Tokuhei đã sử dụng một bản thảo chép tay thời Muromachi trong Aobyoshi (sách xanh) xuất phát từ công trình của Fujiwara Teika, nhà thơ và học giả lớn thế kỷ thứ 12 và đầu thế kỷ 13. Hai văn bản khác cũng được tham khảo đều đặn cho bản dịch tiếng Anh là Chàng Genji monogatari Hyoshaku của giáo sư Tamagami Takuya và bản văn Shogakkan mà chỉ hai phần ba đã được xuất bản. Cả hai bản tham khảo này đều dựa trên bản thảo chép tay Aobyoshi. Ba bản dịch ra tiếng Nhật hiện đại của nữ thi sĩ Yosano Akiko và nhà văn Tanizaki Jun'ichiro, Enji Fumiko cũng được tham khảo từng phần. Bản dịch tiếng Việt Truyện kể Genji của Murasaki Shikibu do Nhà xuất bản Khoa học Xã hội in vào năm 1991 tại Hà Nội. Đây là bản dịch không đề tên dịch giả và được dịch lại từ bản tiếng Anh. Chịu trách nhiệm xuất bản: Nguyễn Đức Diệu; biên tập: Nguyễn Cừ; vẽ bìa: Minh Phương. Trong bản Việt văn có lời giới thiệu được dịch từ lời giới thiệu trong dịch phẩm tiếng Anh do Edward Seidensticker viết vào tháng 1 năm 1976. == Bản thảo và minh họa == Bản thảo gốc Truyện kể Genji do Murasaki Shikibu viết không còn được lưu lại cho đến ngày nay, chỉ còn khoảng 300 bản sao của bản thảo gốc nhưng giữa các bản sao này cũng có những điểm khác biệt. Vào thế kỷ 13, hai học giả Minamoto no Chikayuki và Fujiwara Teika đã có những nỗ lực trong việc duyệt lại các điểm khác biệt giữa những bản sao để biên tập lại chúng sao cho gần với bản thảo gốc nhất. Các bản thảo do Chikayuki sửa lại từ năm 1236 đến 1255 được goi là Kawachibon (河内本, Kawachibon), các bản thảo do Teika sửa lại được gọi là Aobyōshibon (青表紙本, Aobyōshibon), các bản thảo không thuộc một trong hai dạng trên được phân vào loại Beppon (別本, Beppon). Trong số này, các aobyōshibon của Teika được cho là gần với bản gốc hơn cả, cả hai loại bản thảo do Teika và Chikayuki biên tập sau này thường được dùng cho những bản sao mới của Truyện kể Genji. Vào ngày 10 tháng 3 năm 2008, người ta đã tìm thấy ở Kyōto một bản sao của Truyện kể Genji có từ cuối giai đoạn Kamakura (1192–1333), bản sao này là chương 6 ("Suetsumuhana") của tác phẩm có độ dài 65 trang và không hề chịu ảnh hưởng của các aobyōshibon do Teika chỉnh sửa. Phát hiện này được đánh giá cao vì chúng chứng tỏ vào giai đoạn Kamakura vẫn có những bản sao không do Teika chỉnh sửa được sử dụng. Vào thế kỷ 12, các nhà quý tộc Nhật Bản đã đặt những nghệ sĩ cung đình ở Kyoto làm 12 cuộn Truyện kể Genji có kèm tranh minh họa. Sau khi hoàn thành, bộ tranh minh họa xuất sắc này được coi là kiệt tác của Hội họa Nhật Bản và là tác phẩm tiêu biểu nhất của phong cách vẽ yamato-e. Cho đến nay chỉ còn vài phần trong số các cuộn truyện này còn được lưu lại tại Bảo tàng Mỹ thuật Tokugawa (các cuộn tranh của gia đình Tokugawa Owari) và Bảo tàng Gotoh (các cuộn tranh của gia đình Hachisuka). Đây được coi là những bức hình minh họa sớm nhất về Truyện kể Genji còn được lưu giữ đến ngày nay, chúng được coi là Bảo vật quốc gia của Nhật Bản. Ngoài các bức tranh theo phong cách yamato-e, tác phẩm Truyện kể Genji còn là nguồn cảm hứng minh họa cho nhiều họa sĩ khác, trong đó có bộ tranh khắc gỗ của họa sĩ Yamamoto Harumasa (1610-1682). 227 bức minh họa được Yamamoto hoàn thành vào năm 1650. Tuy chịu ảnh hưởng của bộ tranh minh họa Truyện kể Ise (伊勢物語, Ise monogatari) ra đời trước đó vài chục năm nhưng tác phẩm của Yamamoto vẫn được đánh giá cao vì sự tinh tế của các chi tiết khắc vượt trội so với những bộ tranh minh họa ra đời trước đó. == Chuyển thể == Truyện kể Genji đã nhiều lần được chuyển thể thành tác phẩm điện ảnh. Đáng chú ý là hai bộ phim do đạo diễn Yoshimura Kōzaburō thực hiện năm 1951 và đạo diễn Ichikawa Kon thực hiện năm 1966. Năm 1987 đạo diễn Sugii Gisaburo đã làm một bộ phim hoạt hình dựa trên 12 chương đầu của tác phẩm. Năm 2011, bộ phim Genji Monogatari: Sennen no Nazo (Truyện Genji: điều bí ẩn ngàn năm) do Tsuruhashi Yasuo đạo diễn, Fujiishi Osamu bấm máy, Toho phát hành, đã hoàn tất với thời lượng 136 phút và được công chiếu trước đông đảo khán giả ngày 10 tháng 12 năm 2011. Năm 1999 nhà soạn nhạc Minoru Miki đã chuyển thể Truyện kể Genji thành một vở opera để trình diễn tại Nhà hát opera Saint Louis. Năm 2011 nữ họa sĩ truyện tranh Inaba Minori đã phát hành chap đầu tiên của bộ truyện tranh thể loại Comedy,Ecchi biết đến với cái tên Minamoto-kun Monogatari hay Truyện kể về Minamoto ngôn ngữ Nhật Bản. Vào ngày 17 tháng 1 năm 2011 chap đầu tiên của bộ truyện được dịch, phát hành bằng tiếng Anh sau đó nổi tiếng đã được đăng tải trên các trang mạng truyện tranh của Trung Quốc, Hoa Kỳ, một số nước châu Âu và gần đây là Việt Nam. Bộ truyện hiện nay vẫn chưa được hoàn thành. == Chú thích == == Tài liệu tham khảo chính == Khương Việt Hà (2006). “Truyện kể Genji”. 101 vẻ đẹp văn chương Việt Nam và thế giới. Hà Nội: Nhà xuất bản Văn hóa Thông tin. . Toàn bộ phần "Đề dẫn", "Nội dung/phần chính", "Giá trị tác phẩm" và một phần của "Cấu trúc tác phẩm" được lấy gần như nguyên văn từ mục từ này. Nhật Chiêu (2003). “Chương 4: Genji monogatari, thế giới của niềm bi cảm”. Văn học Nhật Bản từ khởi thủy đến 1868 2. Hà Nội: Nhà xuất bản Giáo dục. được tóm lược và bổ sung để viết phần "Nội dung/Uji thập thiếp". Nicolai Iosifovich Konrad (1999). “Chương 5: Genji-monogatari”. Văn học Nhật Bản từ cổ đến cận đại (Trịnh Bá Đĩnh dịch). Đà Nẵng: Nhà xuất bản Đà Nẵng. được tóm tắt cho phần "Những luận điểm chính" và bổ sung vài nhận định (có dẫn chứng) của mục từ Truyện kể Genji đăng trong cuốn sách 101 vẻ đẹp văn chương Việt Nam và thế giới nói trên. Bản dịch tiếng Việt Truyện kể Genji của Murasaki Shikibu do Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1991 ấn hành, được sử dụng cho phần liệt kê các "Nhân vật chính" sau khi đã sửa chữa sai sót và bổ sung. Những thông tin trong bản dịch này cũng được biên soạn để sử dụng tại mục "Bản dịch tiếng Anh và tiếng Việt". Một phần nội dung của "Lời giới thiệu" trong bản dịch được sử dụng để viết phần "Thời đại, Tác gia và Tác phẩm". Shuichi Kato (1979). “Genji monogatari and Konjaku monogatari”. History of Japanese Literature (Lịch sử văn học Nhật Bản) 1. Tokyo: Kodansha International. Nhiều tác giả (tháng 5 năm thứ 53 đời Shōwa). “Chương 6: Thế giới Genji monogatari”. Nhật Bản văn học toàn sử (日本文学前史, Nihonbungaku zenshi). Tập 2: Thời đại Trung cổ. Tokyo: Kodanshā. Yamagishi, Tokuhei (1958). Nihon Koten Bungaku Taikei 14: Genji Monogatari 1 (bằng tiếng Anh). Tōkyō: Iwanami Shoten. ISBN 4-000-60014-1. == Liên kết ngoài == Truyện kể Genji, di sản văn hóa phi vật thể trên website của UNESCO. Genji monogatari (bản tiếng Nhật cổ, tiếng Nhật hiện đại và bản Romanji). Tale of Genji, pictures, link. The tale of Genji, audio books.
.cn.txt
.cn là tên miền Internet cấp quốc gia (CcTLD) của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa do CNNIC quản lý. == Tham khảo ==
bào ngư.txt
Bào ngư (ốc cửu khổng) là tên gọi chung cho các loài thân mềm chân bụng trong chi Haliotis - chi duy nhất của họ Haliotidae, liên họ Haliotoidea. == Đặc điểm sinh học == === Hình dáng === Bào ngư có vỏ tầng thân phát triển lấn tầng xoắn ốc, khiến toàn thân bào ngư nom như một khối dẹt. Từ mép vỏ gần miệng có khoảng 7-9 gờ, xoắn tạo thành các lỗ (lý do tên gọi ốc cửu khổng) để thở với sự thoát nước từ mang. Vỏ bào ngư phía ngoài có nhiều vân tím, nâu, xanh xen kẽ nhau, phụ thuộc vào từng loài thích nghi với môi trường sống riêng có; mặt trong có lớp xà cừ óng ánh. Vỏ rất cứng làm chủ yếu từ canxi cacbonat gồm nhiều lớp xếp chồng lên nhau, có tác dụng phân tán lực khi bào ngư bị tấn công. Chân bào ngư rộng, có cơ bám chắc vào đá đáy biển, giúp cho nó có thể sống được ở các vùng nước chảy mạnh. === Sinh thái học === Bào ngư bám vào đá ở vùng nước biển có độ mặn cao 2.5-3%, hay có sóng gió, xa cửa sông, nước trong. Thức ăn của bào ngư gồm các loài rong tảo biên, mùn bã hữu cơ. Bào ngư sinh sản hữu tính, thụ tinh ngoài, đẻ trứng vào mùa nóng, nghỉ hoạt động sinh dục mùa lạnh. == Phân loài == Lớp Chân bụng Gastropoda Liên họ Haliotoidea Họ Bào ngư cổ †Temnotropidae đã tuyệt chủng Họ Bào ngư Haliotidae Chi Bào ngư Haliotis bao gồm == Phân bố == Việt Nam: vịnh Hạ Long, Bạch Long Vĩ, Cát Bà, Cô Tô, Khánh Hòa (hòn Nội, hòn Trà Là, hòn Tầm, hòn Tre Lớn, vịnh Vân Phong), quần đảo Trường Sa, Côn Đảo, đảo Phú Quốc, hòn Thơm, hòn Vang, hòn Mây Rút, mũi Ông Đội, mũi Đất Đỏ, đảo Thổ Chu. == Công năng == Thịt bào ngư là một nguyên liệu làm các món đặc hải sản; vỏ bào ngư được dùng làm đồ mỹ nghệ. === Thực phẩm === Bào ngư được sử dụng nhiều trong ẩm thực nhằm làm tăng cường canxi cho cơ thể. Một số phương pháp chế biến là: Hấp cách thủy Nấu cháo Gỏi sống Xào tỏi Hầm với bồ câu Nấu lẩu == Hình ảnh == == Tham khảo == == Liên kết ngoài == (tiếng Anh) “Abalone”. Encyclopædia Britannica (ấn bản 11). 1911. Abalone: Species Diversity ABMAP: The Abalone Mapping Project Abalone biology Conchology Hardy's Internet Guide to Marine Gastropods: Shell Catalog book on crafting with Abalone Shell Imagemap of worldwide abalone distribution Oman’s Abalone Harvest Pro abalone diver, Mallacoota, Victoria (1967) Tathra NSW(1961), Abalone (1963) Bào ngư tại trang Trung tâm Thông tin Công nghệ sinh học quốc gia Hoa Kỳ (NCBI). Bào ngư 69492 tại Hệ thống Thông tin Phân loại Tích hợp (ITIS). Bào ngư tại Encyclopedia of Life Haliotididae tại Encyclopedia of Life Leach (1814). “Haliotis cracherodii”. Sách đỏ IUCN các loài bị đe dọa. Phiên bản 2003. Liên minh Bảo tồn Thiên nhiên Quốc tế. Jonas (1845). “Haliotis kamtschatkana”. Sách đỏ IUCN các loài bị đe dọa. Phiên bản 2006. Liên minh Bảo tồn Thiên nhiên Quốc tế. (tiếng Việt) Bào ngư hình bầu dục Haliotis ovina Bào ngư hình vành tai Haliotis asinina
đội tuyển bóng đá quốc gia nigeria.txt
Đội tuyển bóng đá quốc gia Nigeria, còn có biệt danh là "Những chú siêu đại bàng", là đội tuyển của Liên đoàn bóng đá Nigeria và đại diện cho Nigeria trên bình diện quốc tế. Trận thi đấu quốc tế đầu tiên của đội tuyển Nigeria là trận gặp đội tuyển Sierra Leone vào năm 1949. Thành tích tốt nhất của đội cho đến nay là vị trí thứ tư của cúp Nhà vua Fahd 1995, tấm Huy chương vàng tại Thế vận hội Mùa hè 1996, tấm huy chương vàng tại đại hội Thể thao toàn Phi 1973 cùng ba chức vô địch châu lục vào các năm 1980, 1994 và 2013. == Danh hiệu == Cúp Liên đoàn các châu lục: 0 Hạng tư: 1995 Cúp bóng đá châu Phi: 3 Vô địch: 1980, 1994, 2013 Á quân: 1984; 1988; 1990; 2000 Hạng ba: 1976; 1978; 1992; 2002; 2004; 2006; 2010 Vô địch WAFU Cup: 1 Vô địch: 2010 Á quân: 2011 Bóng đá nam tại Olympic: 1996 2008 Bóng đá nam tại African Games: 1973 1978; 2003 1991; 1995 == Thành tích quốc tế == === Giải bóng đá vô địch thế giới === === Cúp Liên đoàn các châu lục === === Cúp bóng đá châu Phi === Nigeria là một đội bóng giàu thành tích ở giải đấu khu vực, với 17 lần tham dự vòng chung kết, 7 lần lọt vào chung kết Cúp bóng đá châu Phi, trong đó vô địch 3 lần vào các năm 1980, 1994 và 2013. == Kết quả thi đấu == === 2017 === == Đội hình hiện tại == Đội hình được triệu tập để tham dự trận giao hữu gặp Sénégal vào tháng 3 năm 2016. Số liệu thống kê tính đến 22 tháng 3 năm 2017 sau trận gặp Sénégal. === Triệu tập gần đây === INJ: Rút lui vì chấn thương. PRE: Đội hình sơ bộ. RET: Đã chia tay đội tuyển quốc gia. === Kỷ lục === Số liệu thống kê chính xác tới 22 tháng 3 năm 2017 == Chú thích == == Liên kết ngoài == Đội tuyển bóng đá quốc gia Nigeria trên trang chủ của FIFA
mary i của anh.txt
Mary I của Anh (tiếng Anh: Mary I of England; 18 tháng 2, 1516 – 17 tháng 11, 1558) là Nữ vương của nước Anh và Ireland từ tháng 7, 1553 đến khi qua đời. Những người chống đối gọi bà là Mary khát máu (Bloody Mary). Trong lịch sử quân chủ nước Anh, bà là vị Nữ vương đầu tiên chính thức nhận ngai vị trị vì nước Anh. Bà là con gái cả của Quốc vương Henry VIII, nằm trong danh sách kế vị chính thống. Nhưng khi cha bà hủy hôn với mẹ bà, Catherine xứ Aragon để cưới Anne Boleyn, Mary bị xem là con bất hợp pháp bà bị tước đi khả năng thừa kế Vương vị của cha. Sau khi xử tử Anne Boleyn và cưới Jane Seymour, nhà vua có người con trai tên Edward do Jane sinh ra, về cơ bản Mary hoàn toàn không còn khả năng kế vị, cùng với em gái Elizabeth Tudor. Năm 1547, em trai của Mary là Edward lên ngôi, tức Edward VI của Anh. Tuy vậy, nhà vua có sức khỏe không được tốt và không có khả năng sinh được người kế vị, quyền kế vị đột nhiên trở về tay của Mary. Năm 1553, khi lâm trọng bênh, Edward cố dời bỏ tên Mary khỏi danh sách kế vị do dị biệt tôn giáo giữa hai chị em, vì Mary sùng theo Công giáo Roma còn Edward theo phái Kháng Cách. Sau khi Edward qua đời, Công nương Jane Grey được tuyên xưng là Nữ vương. Công nương Mary liền chiêu tập binh mã trong vùng East Anglia để truất phế Jane Grey, sau đó Jane bị hành quyết. Năm 1554, Mary kết hôn với Philip II của Tây Ban Nha, và trở thành Vương hậu Tây Ban Nha khi chồng bà đăng quang năm 1556. Là vị quân chủ thứ tư của Nhà Tudor, Mary được nhớ đến vì việc khôi phục sự ảnh hưởng của Công giáo Roma tại nước Anh, đã bị đứt gãy vì cuộc hôn nhân giữa Henry VIII và Anne Boleyn. Trong suốt 5 năm trị vì, Mary ra sức càn quét những người theo Kháng Cách mà người ta gọi đó là Thời kỳ khủng bố Marian persecutions. Sau khi qua đời năm 1558, cục diện lại xoay chuyển lần nữa bởi người em gái cùng cha khác mẹ theo phái Kháng Cách, Elizabeth I của Anh. == Thiếu thời == Mary Tudor chào đời ngày 18 tháng 2, 1516 tại Cung điện Placentia ở Greenwich, Luân Đôn, là con duy nhất còn sống cho đến tuổi trưởng thành của Henry VIII với người vợ đầu, Vương hậu Catherine xứ Aragon. Vương hậu Catherine bị sẩy thai nhiều lần trước khi sinh Mary. Qua họ mẹ, Mary là cháu ngoại của Fernando II của Aragon và Nữ vương Isabella I của Castilla. Mary được rửa tội theo nghi thức Công giáo ở Greenwich ba ngày sau khi ra đời. Cha mẹ đỡ đầu của Mary gồm có Nữ Bá tước Devon, Tể tướng Thomas Wolsey, và Nữ Công tước Norfolk. Cháu họ của Henry VIII, Margaret Pole, Nữ Công tước Salisbury, đỡ đầu Mary trong lễ kiên tín, tổ chức ngay sau lễ rửa tội. Mary là cô bé thông minh trước tuổi. Tháng 7, 1520, khi chưa đủ 4 tuổi, Mary biểu diễn đàn virginals cho một phái đoàn Pháp đến viếng thăm. Mary thụ hưởng phần lớn nền giáo dục ban đầu từ mẹ, và Vương hậu đã nhờ một học giả người Tây Ban Nha, Juan Luis Vives, tư vấn, và yêu cầu ông viết quyển De Institutione Feminae Christianae, về phương pháp giáo dục dành cho các bé gái. Mới lên 9 tuổi, Mary biết đọc và viết bằng tiếng Latin. Mary học tiếng Pháp, Tây Ban Nha, âm nhạc, khiêu vũ, và có lẽ cả tiếng Hy Lạp. Quốc vương Henry VIII rất yêu con gái và khoe với sứ thần Venice, Sebastian Giustiniani, "Cô bé này chưa hề khóc bao giờ". Dù yêu con gái hết mực, Henry VIII vẫn thất vọng về cuộc hôn nhân vì Vương hậu không thể sinh con trai. Khi Mary lên chín, cơ may cho Henry và Catherine có con trai nối dõi đã tiêu tan. Năm 1525, Henry cử Mary đến biên giới xứ Wales để chủ tọa, chỉ trên danh nghĩa, Hội đồng xứ Wales. Mary khi đó có "triều đình" riêng đặt tại Lâu đài Ludlow cùng danh hiệu và các đặc quyền vương tộc dành cho Thân vương xứ Wales. Các phu nhân và những người khác gọi cô là Công nương xứ Wales (Princess of Wales), mặc dù Mary chưa bao giờ được phong tặng danh hiệu này. Trong 3 năm sống ở biên giới xứ Wales, Mary thường về thăm triều đình của phụ vương, trước khi về sống tại Luân Đôn từ giữa năm 1528. Suốt thời thơ ấu của Mary, Henry VIII nhiều lần sắp xếp hôn nhân cho con gái. Khi mới hai tuổi, cô đã được hứa gả cho Vương tử nước Pháp (khi ấy còn rất nhỏ), con trai của Quốc vương François I của Pháp, nhưng ba năm sau hôn ước bị hủy bỏ. Năm 1522, lúc sáu tuổi, Mary hứa hôn với người anh họ 22 tuổi, Charles V. Tuy nhiên, vài năm sau, Charles hủy hôn ước với sự đồng ý của Henry VIII. Hồng y Wolsey, cố vấn chính của Henry VIII, một lần nữa sắp xếp hôn nhân với người Pháp, lần này Henry muốn Mary kết hôn với chính Quốc vương Francis I của Pháp, người đang thiết tha muốn liên kết với Anh. Hợp đồng hôn nhân được ký kết, theo đó Mary sẽ kết hôn hoặc với Francis I, hoặc với con trai ông, Henry, Công tước xứ Orleans, nhưng Wolsey muốn bảo đảm sự liên minh với Pháp mà không cần kết ước hôn nhân. Theo nhận xét của Mario Savorgnano, sứ thần Venice, Mary là một thiếu nữ có vóc dáng cân đối với làn da đẹp. Trong khi đó, hôn nhân giữa Henry VIII và Vương hậu Catherine có nguy cơ đổ vỡ. Thất vọng vì không có con trai nối ngôi, và vì khao khát kết hôn lần nữa, Henry muốn hủy bỏ hôn nhân với Catherine, nhưng bị Giáo hoàng Clêmentê VII từ chối. Henry trích dẫn Kinh Thánh (Lê-vi ký 20: 21) để chứng minh rằng hôn phối giữa ông và Vương hậu Catherine là bất khiết bởi vì Catherine trước đó đã kết hôn với người anh trai quá cố của ông, Vương công Arthur, trong khi Vương hậu Catherine nói rằng hôn nhân giữa bà với Arthur là chưa hoàn chỉnh (hai người chưa nên vợ chồng trong khuê phòng). Dựa trên yếu tố ấy mà Giáo hoàng Giuliô II đã tuyên bố hủy bỏ cuộc hôn nhân. Clement miễn cưỡng từ khước yêu cầu của Henry VIII là do áp lực từ Charles V, cháu của Vương hậu Catherine, và từng là hôn phu của Mary. Trước đó, quân đội của Charles V đã chiếm đóng Rô-ma trong Chiến tranh Liên minh Cognac. Từ năm 1531, Mary thường xuyên mắc bệnh và bị trầm cảm, dù không rõ nguyên nhân. Cô không được phép gặp mẹ, lúc ấy bà đã rời khỏi cung. Đầu năm 1533, Henry kết hôn với Anne Boleyn, đến tháng 5, Thomas Cranmer, Tổng Giám mục Canterbury, chính thức tuyên bố cuộc hôn nhân với Vương hậu Catherine bị hủy bỏ, và hôn nhân với Anne là hợp lệ. Henry tách khỏi Giáo hội Công giáo Roma, tuyên bố đứng đầu Giáo hội Anh. Vương hậu Catherine trở thành Quả phụ Công nương xứ Wales (Dowager Princess of Wales), và Mary bị xem là con ngoại hôn. Cô chỉ còn là Lady Mary thay vì Princess Mary, và vị trí của cô trong danh sách kế vị được dành cho em gái cùng cha khác mẹ mới chào đời của cô, Elizabeth Tudor, con gái của Anne Boleyn. Lập trường của Mary cương quyết không chịu thừa nhận Anne Boleyn là Vương hậu, và Elizabeth là Công chúa khiến Henry tức giận. Bị căng thẳng và bị cấm đoán, Mary thường xuyên bệnh tật. Sứ thần của Hoàng đế Charles V trở thành người thân cận của Mary, thay cô khẩn khoản Henry VIII nhưng không thành. Mối quan hệ giữa Mary và phụ vương ngày càng tồi tệ; suốt ba năm, họ không chịu nói chuyện với nhau. Mặc dù Mary và mẹ đều mắc bệnh, cô từ chối khi được phép đến thăm mẹ. Khi Vương hậu Catherine từ trần năm 1536, Mary đau khổ "khôn nguôi". Khi Catherine được an táng tại Đại giáo đường Peterborough, Mary đau buồn ở một nơi vắng vẻ trong tòa nhà Hunsdon ở Hertfordshire. == Trưởng thành == Năm 1536, Vương hậu Anne Boleyn bị thất sủng rồi bị xử chém. Công chúa Elizabeth, giống Mary, trở thành Lady Elizabeth và bị tước quyền kế vị. Chỉ hai tuần sau khi hành quyết Anne, Henry kết hôn với Jane Seymour. Vương hậu Jane Seymour nài xin chồng giải hòa với Mary. Henry nhấn mạnh rằng Mary phải nhìn nhận ông là người đứng đầu Giáo hội Anh, bác bỏ thẩm quyền Giáo hoàng, công nhận hôn nhân của ông với mẹ cô là không hợp lệ, và chấp nhận mình là con bất hợp pháp. Mary cố giải hòa với cha bằng cách thuận phục thẩm quyền của ông đến mức "Chúa và lương tâm" cho phép, nhưng dần dà cô chịu ký một văn kiện thỏa thuận với những đòi hỏi của Henry. Mary được phục hồi địa vị trong triều. Henry ban cho cô gia nhân và người tùy tùng. Tòa nhà Hatfield, Cung Beaulie, Richmond và Hunsdon là những nơi ở chính của Mary, cùng các cung điện của Henry ở Greenwich như Westminster và Hampton Court. Cô có quỹ riêng để chi trả cho các loại trang phục đắt tiền cũng như giải trí bằng cách chơi bài, là thú vui cô ưa thích. Cuộc nổi dậy ở phía bắc nước Anh, gọi là Pilgrimage of Grace, có sự tham gia của Lord Hussey, từng là quan thị thần cho Mary, bị trấn áp dữ dội. Hussey, cùng những người khác, bị xử tử, nhưng không có chứng cứ Mary dính líu đến vụ việc. Năm sau, 1537, Jane từ trần sau khi sinh Vương tử Edward. Mary được chọn làm mẹ đỡ đầu cho em trai cùng cha khác mẹ của mình, và là người than khóc chính trong tang lễ của Vương hậu. Cuối năm 1539, Công tước Philip xứ Bavaria muốn tìm hiểu cô, nhưng Philip là tín hữu Lutheran nên việc không thành. Tể tướng của nhà vua, Thomas Cromwell, thương thuyết với đồng minh tiềm năng, Công tước Cleves, và muốn sắp xếp hôn nhân giữa Mary với Cleves, người cùng tuổi với Mary, nhưng lại không thành. Rốt cuộc, Henry đồng ý cưới Anne, chị gái của Công tước Cleves. Tháng 12, 1539, sau lần gặp mặt đầu tiên, Henry không thích cô dâu nhưng không thể từ hôn vì lý do ngoại giao. Song, Cromwell bị thất sủng, bị bắt giữ vì tội phản quốc, và một tội danh vô lý khác: ông mưu tính kết hôn với Mary. Anne vội vàng đồng ý hủy hôn, tuyên bố cuộc hôn nhân là chưa hoàn chỉnh, còn Cromwell bị chém đầu. Năm 1541, Henry xử tội chết Nữ Công tước Salisbury, từng là mẹ đỡ đầu và quản gia cho Mary, do một âm mưu của người Công giáo mà con trai của bà, Reginald Pole, có liên can. Năm 1542, sau khi hành quyết người vợ thứ năm của mình, Catherine Howard, Henry, đang sống đơn thân, cho mời Mary đến dự lễ Giáng sinh. Mary xuất hiện với cha trong các sự kiện trong triều với tư cách người phụ nữ chủ nhà. Năm 1543, Henry kết hôn với người vợ thứ sáu, Catherine Parr, người đã giúp hàn gắn gia đình chồng. Qua Đạo luật Kế vị 1544, Henry phục hồi quyền kế vị cho hai cô con gái, Mary và Elizabeth, kế tiếp Edward, mặc dù họ vẫn bị xem là con ngoại hôn. Năm 1547, Henry băng hà và Edward lên ngôi. Mary thừa hưởng các lãnh địa ở Norfolk, Sufolk, và Essex, còn được ban tặng tòa nhà Hunsdon và Cung Beaulieu. Edward và Hội đồng Nhiếp chính tiến hành các cải cách tôn giáo trên toàn quốc theo khuynh hướng Kháng Cách qua Đạo luật Đồng nhất năm 1549, áp dụng nghi thức Tin Lành trong các thánh lễ và sử dụng Sách Cầu nguyện chung của Thomas Cranmer. Mary vẫn kiên định với niềm tin Công giáo và cho cử hành lễ misa trong nguyện đường của bà. Bà cũng kêu gọi người anh họ, Charles V, sử dụng các biện pháp ngoại giao để bà có thể tiếp tục hành đạo theo niềm tin của bà. Trong thời trị vì của Edward, Mary ít khi xuất hiện tại triều đình. Giữa tháng 5 và 7, 1550, có một kế hoạch nhằm giúp Mary đào thoát khỏi nước Anh để đến một nơi an toàn trong lục địa châu Âu nhưng bất thành. Giáng sinh năm 1550, Mary họp mặt với Elizabeth và Edward, nhà vua công khai quở trách Mary vì xem thường các chuẩn tắc tôn giáo. Mary kiên quyết bác bỏ yêu cầu của Edward muốn cô từ bỏ Công giáo, trong khi Edward tiếp tục kiên trì với đòi hỏi của mình. == Đăng quang == Ngày 6 tháng 7, 1553, Edward VI băng hà khi mới 15 tuổi. Edward không muốn trao ngai vàng cho Mary bởi vì e ngại Mary sẽ phục hồi Công giáo và đảo ngược mọi nỗ lực cải cách của ông, cũng như của phụ vương Henry VIII, nhà vua tìm cách loại bỏ Mary khỏi danh sách kế vị. Các cố vấn cho biết không thể loại bỏ một mình Mary mà không làm như thế đối với Elizabeth, dù Elizabeth ủng hộ chương trình cải cách, Edward đồng ý tước bỏ quyền kế vị của cả hai người chị. Ngược với tinh thần Đạo luật Kế vị thứ ba, theo đó Mary và Elizabeth đã được phục hồi quyền kế vị, Edward chọn con dâu của Dudley, Lady Jane Grey, là người kế vị. Lady Jane là cháu ngoại của em gái Henry VIII, Mary Tudor, Vương hậu nước Pháp. Mẹ của Lady Jane, Frances Brandon, là em họ và là con đỡ đầu của Mary. Trước khi Edward băng hà, Mary được gọi về Luân Đôn để gặp nhà vua, nhưng bà được báo cho biết đó là cái cớ để bắt giữ bà rồi đưa Jane lên ngôi. Mary rời Hunsdon để đến vùng East Anglia; ở đây bà sở hữu những lãnh địa rộng lớn, năm 1549 tại đây bùng nổ một cơn bạo loạn đã bị Dudley đập tan. Nhiều người ủng hộ Công giáo cùng những người đối kháng với Dudley đang sống trong vùng. Ngày 9 tháng 7, từ Kenninghall, Norfolk, Mary viết thư gởi Hội đồng Cơ mật yêu cầu tuyên bố bà là người kế vị Edward. Ngày 10 tháng 7, 1553, Dudley và những người ủng hộ ông tuyên bố Lady Jane là Nữ vương. Cũng trong ngày này, thư của Mary đến Luân Đôn. Ngày 12 tháng 7, tại Lâu đài Framlingham, Suffolk, Mary chiêu tập binh mã. Phe Dudley càng suy yếu thì phe Mary càng vững mạnh. Ngày 19 tháng 7, Jane bị truất ngôi. Jane và Dudley bị tống giam trong Tháp Luân Đôn. Ngày 3 tháng 8, Mary khải hoàn tiến vào Luân Đôn trong sự chào đón của dân chúng. Cùng đi với Mary có em gái cùng cha khác mẹ, Elizabeth, trong đám rước có hơn 800 nhà quý tộc. Một trong những động thái đầu tiên của Mary trong cương vị Nữ vương là ra lệnh phóng thích những nhân vật Công giáo Rô-ma như Công tước Norfolk, Stephen Gardiner, và Edward Courtenay khỏi Tháp Luân Đôn. Mary biết cô gái trẻ Jane Grey chỉ là con tốt trong kế hoạch của Dudley, người bị xử tử vì tội phản quốc ngay sau vụ chính biến. Lady Jane Grey và chồng, Guildford Dudley, bị kết án, nhưng bị giam giữ tại Tháp Luân Đôn thay vì bị hành quyết, trong khi cha của Jane, Công tước Suffolk, được tha. Mary lâm vào tình huống khó xử bởi vì hầu hết thành viên Hội đồng Cơ mật đều có liên can đến kế hoạch lập Lady Jane làm Nữ vương. Mary bổ nhiệm Gardiner vào Hội đồng, và cho ông nắm giữ cùng lúc hai chức vụ, Giám mục Winchester và Tể tướng, Gardiner đảm nhiệm hai chức vụ này cho đến khi qua đời vào tháng 11, 1555. Ngày 1 tháng 10, 1553, Gardiner chính thức trao vương miện cho Mary tại Điện Westminster. == Trị vì == === Hôn nhân === Ở tuổi 37, Mary chú tâm đến việc lập gia đình và có con nối ngôi nhằm ngăn cản Elizabeth, một tín hữu Kháng Cách, lên ngôi (theo Đạo luật Kế vị 1554, và theo chúc thư của Henry VIII, Elizabeth vẫn là người kế vị). Dù Edward Courtenay và Reginald Pole được xem là những chàng trai có triển vọng, anh họ của Mary, Charles V, khuyên bà nên kết hôn với con trai duy nhất của ông, Hoàng tử Philip. Philip đã có một con trai từ cuộc hôn nhân trước; ông cũng là người thừa kế những lãnh thổ rộng lớn ở châu Âu và Tân Thế giới. Một bức chân dung của Philip được gởi đến Mary trong tháng 9, 1553. Quan Chưởng ấn Gardiner và Viện Thứ dân nài xin Nữ vương kết hôn với một người Anh vì e rằng nước Anh sẽ bị phụ thuộc Nhà Habsburg. Cuộc hôn nhân rất mất lòng dân; Gardiner và đồng minh của ông đề kháng vì muốn bảo vệ quyền lợi quốc gia, còn người Kháng Cách thì e sợ Công giáo. Khi Mary tỏ ý kiên quyết kết hôn với Philip liền bùng nổ các cuộc nổi dậy. Việc Thomas Wyatt lãnh đạo một lực lượng nổi dậy từ Kent nhằm lật đổ Mary để tôn vương Elizabeth là một phần trong cuộc bạo loạn liên quan đến Công tước Suffolk, cha của Lady Jane. Mary công khai tuyên bố sẽ triệu tập Quốc hội để xem xét vấn đề hôn nhân, nếu Quốc hội quyết định rằng cuộc hôn nhân đi ngược với quyền lợi của vương quốc, bà sẽ đổi ý. Trên đường đến Luân Đôn, Wyatt bị bắt giữ. Wyatt, Công tước Suffolk và con gái, Lady Jane, bị xử tử. Courtnay, có liên can đến vụ nổi dậy, bị tống giam, rồi đào thoát. Elizabeth, dù đã biện minh cho sự vô tội của mình, bị giam giữ tại Tháp Luân Đôn trong hai tháng rồi bị quản thúc trong Cung Woodstock. Trong lịch sử nước Anh, nếu không kể những ngày trị vì ngắn ngủi của Jane Grey và Hoàng hậu Matilda, Mary là Nữ vương đầu tiên của đất nước. Hơn nữa theo tập quán jure uxoris ở Anh, qua quan hệ hôn nhân, người chồng được hưởng tài sản và danh hiệu của vợ, người ta e rằng phu quân tương lai của Nữ vương sẽ trở thành Quốc vương nước Anh, cả trên danh nghĩa lẫn thực quyền. Theo các điều khoản của thỏa ước hôn nhân, Philip sẽ là "Vua Anh", mọi văn kiện chính thức (kể cả các đạo luật của Quốc hội) đều ghi tên cả hai, Quốc hội cũng sẽ được triệu tập dưới thẩm quyền chung của hai người, suốt trong lúc Mary còn sống. Nước Anh không có nghĩa vụ cung ứng hỗ trợ quân sự cho phụ vương của Philip trong bất cứ cuộc chiến nào, và mọi quyết định của Philip phải có sự đồng thuận của vợ, ông cũng không được bổ nhiệm người nước ngoài vào các chức vụ trong nước Anh. Dù không hài lòng, nhưng Philip sẵn sàng chấp nhận để có thể kết hôn với Mary. Đối với Mary, ông chẳng có chút xúc cảm nào, nhưng cưới vợ vì mưu cầu lợi ích chính trị và vì những mục tiêu chiến lược. Ruy Gómez de Silva, một tùy tùng của Philip, khi ở Bỉ đã viết trong một bức thư, "chẳng có chút ham muốn thể xác nào trong cuộc hôn nhân này, tất cả chỉ nhằm giải quyết những bất ổn của vương quốc này và để bảo toàn lãnh thổ ở vùng đất thấp".("vùng đất thấp": lãnh thổ ngày nay phần lớn là Bỉ và Hà Lan, lúc ấy thuộc Nhà Hapsburg). Để nâng tầm con trai mình ngang hàng với Mary, Hoàng đế Charles V nhượng quyền cai trị Naples và Vương quốc Jerusalem cho Philip. Do đó, Mary trở thành Vương hậu Naples và Jerusalem. Ngày 25 tháng 7, 1554, hôn lễ tổ chức tại Đại giáo đường Winchester, hai ngày sau khi họ gặp nhau lần đầu. Bởi vì Philip không biết tiếng Anh nên hai người nói chuyện với nhau bằng loại ngôn ngữ pha trộn giữa tiếng Tây Ban Nha, Pháp, và La-tinh. Tháng 9, 1554, Mary lên cân, và nôn ói vào buổi sáng. Toàn thể triều đình, kể cả các bác sĩ, đều tin Mary đang mang thai. Quốc hội thông qua luật bổ nhiệm Philip là Nhiếp chính trong trường hợp Mary chết khi sinh nở. Cuối tháng 4, 1555, Elizabeth được trả tự do để làm nhân chứng cho sự sinh nở của Mary, ai cũng tin là đang đến gần. Theo sứ thần Venice, Giovanni Michieli, Philip đã có kế hoạch cầu hôn với Elizabeth nếu Mary tử vong khi sinh. Dù vậy, trong một bức thư gởi anh rể, Maximilian của Áo, Philip không biết chắc vợ mình có mang thai hay không. Cuối tháng 4, giáo phận Luân Đôn cử hành lễ tạ ơn vì tin đồn thất thiệt Nữ vương đã sinh con trai được loan truyền khắp Âu châu. Từ tháng 5 và 6, người ta bắt đầu nghi ngờ khả năng mang thai của Nữ vương, đến tháng 7 thì mọi việc đã rõ. Có lẽ do sự khao khát quá mức của Mary. Tháng 8, trong thất vọng ê chề, Philip rời nước Anh dẫn quân đánh Pháp tại Flanders. Mary đau khổ đến nỗi trầm cảm. Michieli viết rằng Nữ vương "cực kỳ yêu chồng", và đau khổ khôn nguôi khi ông bỏ đi. Elizabeth được ở lại triều đình. Biết Mary không thể có con, Philip nài ép vợ gả Elizabeth cho anh họ của ông, Công tước Savoy, để nước Anh luôn có quân vương Công giáo, và để bảo toàn quyền lợi Nhà Habsburg ở nước Anh, nhưng Elizabeth từ chối mà Quốc hội cũng không muốn. === Chính sách tôn giáo === Sau khi đăng quang, Mary ra thông cáo sẽ không ép buộc thần dân phải theo tôn giáo của bà, nhưng đến cuối tháng 9, những giáo sĩ chủ trương cải cách như John Bradford, John Rogers, John Hooper, Hugh Latimer, và Thomas Cranmer đều bị tống giam. Quốc hội đầu tiên dưới triều Mary, họp vào đầu tháng 10, 1553, tuyên bố hôn nhân của song thân Nữ vương là hợp lệ, và hủy bỏ các luật lệ tôn giáo dưới triều Edward. Nền thần học của Giáo hội trở lại với thời kỳ trước cải cách, "Sáu Tín điều" năm 1539 được phục hồi với các điều khoản như tái xác nhận quy định độc thân cho giới tăng lữ. Những linh mục đã kết hôn bị trục xuất của giáo sở. Mary luôn chống lại quyết định của Henry VIII tách khỏi Rô-ma và nỗ lực của Edward VI thiết lập giáo hội Kháng Cách. Cùng với chồng, Mary muốn nước Anh hòa giải với Rô-ma. Philip thuyết phục Quốc hội hủy bỏ luật tôn giáo đã thông qua dưới triều Henry để đưa Giáo hội Anh trở lại thần phục Rô-ma. Mất vài tháng mới có được sự đồng thuận, và Mary cùng Giáo hoàng Julius III phải chấp nhận một số nhượng bộ: không thu hồi đất của các tu viện hiện đang ở trong tay những chủ đất mới là những người có nhiều ảnh hưởng. Đến cuối năm 1554, Giáo hoàng phê chuẩn thỏa thuận, và Đạo luật Dị giáo được phục hồi. Khi Đạo luật Dị giáo được áp dụng, nhiều người Kháng Cách bị hành quyết trong thời kỳ bách hại dưới triều Mary. Nhiều người Kháng Cách giàu có, như John Foxe, chọn sống lưu vong, có khoảng 800 người rời bỏ nước Anh. Những cuộc hành quyết đầu tiên diễn ra trong năm ngày vào đầu tháng 2, 1555: John Rogers bị hành hình ngày 4 tháng 2, Laurence Saunders ngày 8 tháng 2, Rowland Taylor và John Hooper ngày 9 tháng 2. Tổng Giám mục Canterbury đang bị cầm tù, Thomas Cranmer, bị buộc phải chứng kiến hai Giám mục Nicholas Ridley và Hug Latimer bị thiêu sống. Đến ngày ông bị hỏa thiêu, Cranmer chịu cải đạo. Theo quy trình thông thường của luật pháp, lẽ ra ông được xá tội vì đã hối cải. Song, Mary không chịu ân xá cho Cranmer. Khi lên giàn hỏa thiêu, trong một hành động gây nhiều xúc động, Cranmer rút lại lời chối bỏ đức tin Kháng Cách. Tổng cộng có 283 người bị hành hình, trong đó có 56 phụ nữ, hầu hết là bị hỏa thiêu. Các vụ hỏa thiêu đã gây nhiều bất bình đến nỗi Alfonso de Castro, một trong những tùy tùng của Philip, cũng lên án chúng. Cố vấn của Philip, Simon Renard, cảnh báo Philip rằng "sự thực thi luật pháp cách tàn bạo" như thế có thể "gây ra một cuộc cách mạng". Mary vẫn kiên trì theo đuổi chính sách này cho đến khi băng hà, đã góp phần làm gia tăng tinh thần chống Công giáo và chống Tây Ban Nha trong dân chúng Anh, trong khi các nạn nhân của cuộc bách hại được tán tụng như là những người tuẫn đạo. Tháng 11, 1554, Reginald Pole, người từng được kể tên trong số các ứng viên có thể trở thành phu quân của Mary, trở về như là sứ thần của Giáo hoàng. Pole được phong linh mục và bổ nhiệm làm Tổng Giám mục Canterbury ngay sau khi Cranmer bị hỏa thiêu trong tháng 3, 1556. === Chính sách Ngoại giao === Đẩy mạnh quyết sách chinh phục Ireland của Nhà Tudor, dưới triều Mary dân Anh được đưa đến định cư tại vùng Midlands nhằm giảm thiểu các cuộc tấn kích vào Pale (khu vực bao quanh Dublin đang dưới quyền kiểm soát của Anh). Hai quận Queen và King được thành lập, người ta bắt đầu khai hoang và lập đồn điền. Những thị trấn quan trọng trong vùng được đặt tên là Maryborough (nay là Portlaoise) và Philipstown (nay là Daingean). Tháng 1, 1556, cha của Phillip thoái vị, Phillip trở thành Quốc vương Tây Ban Nha với Mary là Vương hậu. Họ vẫn sống xa nhau; khi Philip được tuyên bố là vua ở Brussels, Mary vẫn ở Anh. Tháng 2, 1556, Philip thương thuyết để có cuộc hưu chiến ngắn ngủi với Pháp. Tháng sau, đại sứ Pháp tại Anh, Antoine de Noailles, có liên can đến một âm mưu chống lại Mary khi Sir Henry Dudley, cháu họ của Công tước Northumberland, mưu chiêu tập binh mã tại Pháp. Dudley bị phản bội, những người liên can đang ở Anh đều bị vây bắt. Dudley sống lưu vong tại Pháp, Noailles rời khỏi Anh. Từ tháng 3 đến tháng 7, 1557, Philip về Anh để thuyết phục Mary ủng hộ Tây Ban Nha trong cuộc chiến chống Pháp. Mary muốn tuyên chiến nhưng bị các cố vấn chống đối bởi vì sẽ tổn hại cho thương mại với Pháp. Vả lại, như thế là vi phạm thỏa ước hôn nhân; hơn nữa nền kinh tế èo uột thừa hưởng từ Edward đang bị tác động mạnh bởi thất mùa triền miên do thời tiết xấu đã khiến nước Anh thiếu hụt trầm trọng tài chính và nguồn tiếp liệu. Người Anh chỉ chịu tuyên chiến sau khi Thomas Stafford, cháu của Reginald Pole, đem quân đánh nước Anh với sự trợ giúp của Pháp nhằm phế truất Mary. Hệ quả của cuộc chiến là mối quan hệ giữa Anh và Giáo hoàng trở nên căng thẳng bởi vì Giáo hoàng Paul VI là đồng minh với Vua Henry II của Pháp. Tháng 1, 1558, quân Pháp chiếm Calais, lãnh thổ còn sót lại trên lục địa Âu châu thuộc chủ quyền của Anh. Mặc dù Calais là một gánh nặng tài chính cho đất nước, mất Calais lại là một tổn thất về ý thức hệ khiến uy tín của Mary bị sút giảm. === Thương mại và Tài chính === Nước Anh trong những năm trị vì của Mary luôn ẩm ướt do mưa triền miên cùng lũ lụt dẫn đến đói kém. Một khó khăn khác nữa là sự suy giảm trong buôn bán vải vóc với Antwerp. Dù Nữ vương kết hôn với Philip, nước Anh chẳng hưởng lợi gì từ nền thương mại khổng lồ có lợi tức lớn giữa Tây Ban Nha với Tân thế giới. Người Tây Ban Nha cẩn thận canh giữ lộ trình thương mại của họ, mà Mary không thể bỏ qua cho những thương vụ bất hợp pháp (thực chất là cướp biển) bởi vì bà là Vương hậu Tây Ban Nha. Cố gia tăng mậu dịch và cứu vãn nền kinh tế, các cố vấn của Mary tiếp nối chính sách của Northumberland nhằm tìm kiếm những cơ hội thương mại mới. Mary cho thành lập Công ty Muscovy buôn bán với Nga, ra lệnh Diogo Homem lập bản đồ thế giới. Những nhà thám hiểm như John Lok và William Towerson giong buồm đi về hướng nam nhằm kết nối với bờ biển châu Phi. Về tài chính, chính quyền của Mary chọn cách dung hòa giữa hình thái chính quyền hiện đại, với chi phí cao, và hệ thống thu thuế thời Trung cổ. Nữ vương duy trì chức Bộ trưởng Ngân khố từ thời Edward cho William Paulet, Hầu tước Winchester. Chính quyền cũng cho phát hành bộ mức thuế (1558) liệt kê các loại thuế cho mỗi mặt hàng nhập khẩu, được áp dụng cho đến năm 1604. == Băng hà == Sau chuyến viếng thăm của Philip trong năm 1557, Mary nghĩ rằng bà mang thai và sẽ sinh con vào tháng 3, 1558. Nữ vương viết di chúc rằng chồng bà sẽ là nhiếp chính nếu bà qua đời. Tuy nhiên, chẳng có đứa bé nào ra đời, và Mary buộc phải chấp nhận Elizabeth là người kế vị hợp pháp. Từ tháng 5, 1558, Mary bị suy nhược và bệnh tật, rồi băng hà tại Cung St James ở tuổi 42 do mắc bệnh cúm trong một cơn dịch đã cướp mạng sống của Reginald Pole sau đó cũng trong một ngày, 17 tháng 11, 1558. Bà bị đau đớn, có thể do ung thư buồng trứng hoặc ung thư niệu đạo. Em gái cùng cha khác mẹ với Mary nối ngôi trở thành Nữ vương Elizabeth. Phillip, lúc ấy đang ở Brussels, viết trong thư gởi em gái: "Anh cảm thấy hối tiếc vừa phải về cái chết của cô ấy". Theo di chúc, Mary muốn nằm cạnh mẹ, nhưng bà được an táng tại Điện Westminster trong một phần mộ sau này cũng an táng Elizabeth. Vua James I cho khắc dòng chữ tiếng La-tinh trên mộ, Regno consortes et urna, hic obdormimus Elizabetha et Maria sorores, in spe resurrectionis (Chia sẻ với nhau vương quyền và mộ phần, chúng tôi an nghỉ nơi đây, Elizabeth và Mary, là chị em, trong niềm hi vọng sẽ được phục sinh). == Di sản == Tại tang lễ, John White, Giám mục Winchester, tán tụng Mary, "Bà là con gái của một quân vương; là chị gái của một quân vương; là vợ của một quân vương. Bà là Nữ vương, cũng đồng tước vị với một Quân vương." Mặc dù những tranh cãi về quyền kế vị và những chống đối quyết liệt, Nữ vương Mary I của Anh quốc là người phụ nữ đầu tiên trị vì nước Anh một cách chính thức, giành được sự ủng hộ của dân chúng trong giai đoạn đầu, nhất là từ người dân theo Công giáo Rô-ma. Các sử gia Công giáo như John Lingard cho rằng các chính sách của Mary thất bại không phải vì sai lầm mà vì bà sống không đủ lâu để xác lập chúng, và cũng vì xảy ra thiên tai dồn dập vượt quá tầm kiểm soát của Nữ vương. Tuy nhiên, cuộc hôn nhân với Philip của Tây Ban Nha khiến Nữ vương mất lòng dân, lại thêm chính sách tôn giáo gây ra sự bất bình sâu đậm. Quân đội thất trận trên đất Pháp, thời tiết khắc nghiệt, mùa màng thất bát làm gia tăng sự bất mãn. Để vợ ở lại nước Anh, Philip dành phần lớn thời gian ở nước ngoài khiến vợ ông trở nên trầm cảm và suy giảm cơ may có con. Sau khi Mary qua đời, Philip muốn kết hôn với Elizabeth nhưng bà từ chối. Ba mươi năm sau, Philip cử lực lượng hải quân hùng mạnh, Armada Tây Ban Nha, sang đánh nước Anh để phế truất Elizabeth, nhưng bị thất bại. Đến thế kỷ 17, người ta gọi Nữ vương Mary bằng biệt danh Mary khát máu (Bloody Mary) do những cuộc bách hại người Kháng Cách. Trong cuốn The First Blast of the Trumpet Against the Monstrous Regimen of Women phát hành năm 1558, John Knox mạnh mẽ đả kích Mary. Bà cũng xuất hiện như là một nhân vật tiêu cực nổi bật trong quyển Actes and Monuments của John Foxe, xuất bản năm 1563, sáu năm sau khi bà mất. Trong các thế kỷ kế tiếp, nhiều tác phẩm phổ biến trong vòng người Kháng Cách giúp định hình khái niệm Mary là một bạo chúa khát máu. Đến giữa thế kỷ 20, H. F. M. Prescott cố điều chỉnh truyền thống cho rằng Mary là con người cố chấp và độc đoán với những nhận định khách quan hơn. Mặc dù thời trị vì của Mary rõ ràng là thiếu hiệu quả và mất lòng dân, các chính sách tài chính, sự phát triển hải quân, và công cuộc thám hiểm thuộc địa, được xem là những thành quả của triều Elizabeth, đã được khởi xướng dưới triều Mary. == Danh hiệu == Khi đăng đăng quang, Mary có cùng danh hiệu như Henry VIII và Edward VI: "Mary, bởi ân điển của Thiên Chúa, là Nữ vương nước Anh, nước Pháp, và Ireland, Người Bảo vệ Đức tin, và Lãnh đạo Tối cao trên đất của Giáo hội Anh". Là giáo dân Công giáo Roma sùng đạo, danh hiệu Lãnh đạo Tối cao của Giáo hội là điều không thể chấp nhận được đối với Mary, đến Giáng sinh năm 1553, bà hủy bỏ danh hiệu này. Theo thỏa ước hôn nhân, danh hiệu chính thức không chỉ có tên Mary mà còn có tên Philip, "Philip và Mary, bởi ân điển của Thiên Chúa, là Quốc vương và Nữ vương Anh, Pháp, Naples, Jerusalem, và Ireland, Những người Bảo vệ Đức tin, Hoàng thân Tây Ban Nha và Sicilia, Đại Công tước Áo, Công tước Milan, Công tước Burgundy, và Công tước Brabant, Công tước Flanders và Tyrol". Được sử dụng từ năm 1554, khi Philip kế vị ngai vàng Tây Ban Nha năm 1556, danh hiệu này bị thay thế bằng: "Philip và Mary, bởi ân điển của Thiên Chúa, là Quốc vương và Nữ vương Anh, Tây Ban Nha, Pháp, Sicilia, Jerusalem và Ireland, Những người Bảo vệ Đức tin, Đại Công tước Áo, Công tước Burgundy, Milan và Brabant, Công tước Habsburg, Flanders và Tyrol". == Phổ hệ == Cả Mary và Philip đều là hậu duệ của John of Gaunt, Công tước Lancaster, mối quan hệ này được sử dụng để miêu tả Philip là Vua Anh. == Mary trong văn học nghệ thuật == Mary I của Anh nhiều lần xuất hiện trong văn hóa phổ thông. == Văn chương == Marie Tudor (1833) của Victor Hugo. Tháp Luân Đôn (1840) của William Harrison Ainsworth. Queen Mary (1875) của Alfred, Lord Tennyson (kịch). The Prince and the Pauper (1881) by Mark Twain. Young Bess (1944), Elizabeth, Captive Princess (1948), và Elizabeth and the Prince of Spain (1953) của Margaret Irwin. Một bộ ba cuốn tập chú vào giai đoạn đầu của Elizabeth I của Anh, mối quan hệ của bà với Mary và Philip II của Tây Ban Nha. Daughter of Henry VIII (1971) của Rosemary Churchill. Mary bất đồng với cha, Henry VIII của Anh. The Ringed Castle (1971) của Dorothy Dunnett. I Am Mary Tudor (1971), Mary the Queen (1973), và Bloody Mary (1974) của Hilda Lewis. Queen's Lady (1981) của Patricia Parkes. In the Shadow of the Crown (1988) của Eleanor Hibbert. Tiểu thuyết lịch sử về các nữ hoàng Nhà Tudor. In the Garden of Iden (1997) của Kage Baker. In The Time Of The Poisoned Queen (1998) của Paul C. Doherty. Elizabeth I: Red Rose of the House of Tudor (1999) của Kathryn Lasky. Mary, Bloody Mary (1999) và Beware, Princess Elizabeth (2001) của Carolyn Meyer. Kissed by Shadows (2003) của Jane Feather (kịch lịch sử). The Queen's Fool (2004) của Philippa Gregory. Thuật lại việc Mary lên ngôi và trị vì với góc nhìn đồng cảm, cũng làm sống lại những hình ảnh kinh hoàng kéo dài trong cuộc đời Mary mà không che giấu sự khiếp đảm đối với việc bách hại tôn giáo. Innocent Traitor (2007) và The Lady Elizabeth (2008) của Alison Weir. Hai cuốn tiểu thuyết nói về mối quan hệ thù địch của Mary đối với Lady Jane Grey và Elizabeth I. The Queen's Sorrow (2008) của Suzannah Dunn. Dracula and the Bloody Mary: A Tragicomedy (đầu thế kỷ 21) của Santiago Sevilla. == Điện ảnh và Truyền hình == Những diễn viên đóng vai Mary: Jeanne Delvair trong Marie Tudor (1917). Chuyển thể từ tiểu thuyết của Victor Hugo. Gwen Ffrangcon Davies trong Tudor Rose (1936), về Lady Jane Grey Yvette Pienne trong Pearls of the Crown (1937). Ann Tyrrell trong Young Bess (1953) Sheila Allen trong The Prince and the Pauper (1962), Françoise Christophe trong Marie Tudor (1966). Chuyển thể từ tiều thuyết của Victor Hugo. Nicola Pagett trong Anne of the Thousand Days (1969). Verina Greenlaw trong loạt phim truyền hình của BBC The Six Wives of Henry VIII (1971). Daphne Slater trong loạt phim truyền hình của BBC Elizabeth R (1971). Inge Keller trong Die Liebe und die Königin (1977), chuyển thể từ tiểu thuyết của Victor Hugo. Jane Lapotaire trong Lady Jane (1986) Mary MacDonald trong Kings and Queens of England Volume I (1993) Kathy Burke trong Elizabeth (1998) Lara Belmont trong loạt phim truyền hình Henry VIII (2003). Joanne Whalley trong loạt phim truyền hình The Virgin Queen (2005) Bláthnaid McKeown trong loạt phim truyền hình The Tudors (2007) Constance Stride trong The Other Boleyn Girl (2008) Miranda French trong The Twisted Tale Of Bloody Mary (2008) == Xem thêm == Nhà Tudor == Chú thích == == Tham khảo == Duffy, Eamon (2009) Fires of Faith: Catholic England Under Mary Tudor. New Haven, CT: Yale University Press. ISBN 0-300-15216-7 Hoyle, R. W. (2001) The Pilgrimage of Grace and the Politics of the 1530s. Oxford: Oxford University Press. ISBN 0-19-925906-2 Loades, David M. (1989) Mary Tudor: A Life. Oxford: Basil Blackwell. ISBN 0-631-15453-1 Paget, Gerald (1977) The Lineage & Ancestry of HRH Prince Charles, Prince of Wales. Edinburgh & London: Charles Skilton. OCLC 79311835 Porter, Linda (2007) Mary Tudor: The First Queen. London: Little, Brown. ISBN 978-0-7499-0982-6 Tittler, Robert (1991) The Reign of Mary I. Second edition. London & New York: Longman. ISBN 0-582-06107-5 Waller, Maureen (2006) Sovereign Ladies: The Six Reigning Queens of England. New York: St. Martin's Press. ISBN 0-312-33801-5 Weikel, Ann (2004; online edition 2008) "Mary I (1516–1558)" in Oxford Dictionary of National Biography. Oxford University Press. (yêu cầu đăng ký hoặc có quyền thành viên của thư viện công cộng Anh) Weir, Alison (1996) Britain's Royal Families: The Complete Genealogy. London: Pimlico. ISBN 0-7126-7448-9 Whitelock, Anna (2009) Mary Tudor: England's First Queen. London: Bloomsbury. ISBN 978-0-7475-9018-7 == Đọc thêm == Erickson, Carolly (1978) Bloody Mary: The Life of Mary Tudor. Garden City, NY: Doubleday. ISBN 0-385-11663-2 Loades, David M. (1991) The Reign of Mary Tudor: Politics, Government and Religion in England, 1553–58. Second edition. London and New York: Longman. ISBN 0-582-05759-0 Prescott, H. F. M. (1952) Mary Tudor: The Spanish Tudor. Second edition. London: Eyre & Spottiswoode. Ridley, Jasper (2001) Bloody Mary's Martyrs: The Story of England's Terror. New York: Carroll & Graf. ISBN 0-7867-0854-9 Waldman, Milton (1972) The Lady Mary: a biography of Mary Tudor, 1516–1558. London: Collins. ISBN 0-00-211486-0 == Liên kết ngoài == “The Tudors: Mary I”. The Royal Household. Eakins, Lara E. “Mary I Queen of England”. Tudor History Web Ring. “Queen Mary I”. Historic Royal Palaces.
chelsea f.c. mùa giải 1964–65.txt
Mùa giải 1964-65 là mùa bóng thứ 51 của Chelsea Football Club, và là mùa thứ 38 của họ tại giải đấu cao nhất nước Anh. == Kết quả == === First Division === Tr = Trận đấu; T = Trận thắng; H = Trận hòa; B = Trận thua; BT = Bàn thắng; BB = Ban thua; TS = Tỉ số bàn thắng; Điểm = Điểm === FA Cup === === League Cup === == Tham khảo == Soccerbase Hockings, Ron. 100 Years of the Blues: A Statistical History of Chelsea Football Club. (2007)
gia tộc taira.txt
Đây là một tên người Nhật; họ tên được viết theo thứ tự Á Đông (họ trước tên sau): họ là Taira. Tuy nhiên, tên người Nhật hiện đại bằng ký tự La Tinh thường được viết theo thứ tự Tây phương (tên trước họ sau). Taira (平) (Bình) là tên của một gia tộc Nhật Bản. Trong lịch sử Nhật Bản, cùng với Minamoto, Taira là một gia tộc cha truyền con nối được Thiên hoàng ban tên từ thời Heian cho các cựu thành viên hoàng tộc khi họ trở thành dân thường. Gia tộc Taira thường được gọi là Heishi (平氏, "Bình thị") hay Heike (平家 (Bình gia), sử dụng cách đọc tiếng Trung của ký tự này, thành âm hei. Là hậu duệ của hoàng tộc, một vài người cháu nội của Thiên hoàng Kammu lần đầu được ban cái tên Taira năm 825 hay muộn hơn. Sau đó, con cháu của Thiên hoàng Nimmyō, Thiên hoàng Montoku, và Thiên hoàng Kōkō cũng được ban họ này. Đặc trưng các chi từ các Thiên hoàng này được thể hiện bằng thụy hiệu của Thiên hoàng trước chữ Heishi. Vd: Kammu Heishi. Nhà Taira là một trong bốn gia tộc quan trọng thống trị nền chính trị Nhật Bản suốt thời Heian (794-1185) – ba nhà còn lại là Fujiwara, Tachibana và Minamoto. Chi Kammu Heishi, ra đời năm 889 từ Taira no Takamochi (cháu gọi Thiên hoàng thứ 50 Kammu bằng cụ, trị vì 781-806), là chi mạnh nhất và giàu ảnh hưởng nhất vào cuối thời Heian với Taira no Kiyomori cuối cùng trở thành samurai đầu tiên chi phối việc triều chính trong lịch sử Nhật Bản. Chắt nội của Heishi Takamochi, Taira no Korihira, chuyển đến tỉnh Ise (giờ là một phần của tỉnh Mie) và lập ra một dòng daimyo lớn. Masamori, cháu nội ông; và Tadamori, chắt nội, theo thứ tự, trở thành những người ủng hộ trung thành với Pháp hoàng Shirakawa và Toba. Taira no Kiyomori, con trai và người thừa kế của Tadamori, lên đến chức daijō daijin (Thái Chính Đại Thần) sau chiến thắng của ông trong loạn Hōgen (1156) và loạn Heiji (1160). Kiyomori đưa đứa cháu con nhỏ của mình lên ngôi, tức Thiên hoàng Antoku năm 1180, một hành động dẫn đến Chiến tranh Genpei (1180-85), hay chiến tranh Taira-Minamoto. Các con trai của Kiyomori, những người cuối cùng của chi Kanmu Heishi cuối cùng bị quân đội của Minamoto no Yoritomo tiêu diệt trong trận Dan-no-Ura, trận đánh cuối cùng trong chiến tranh Genpei. Câu chuyện về sự hưng thịnh và suy vong của dòng họ Taira, hình tượng Kiyomori, cuộc chiến Dan-no-Ura bên bờ vịnh Shimonoseki được tái họa lại trong tác phẩm khuyết danh Heike Monogatari. Chi Kammu Heishi này có nhiều chi khác bao gồm Hōjō, Chiba, Miura và Hatakeyama. Một chi Kammu Heishi khác: Takamune-ō (804-867), con cả của Kazurahara-Shinnō (786-853) và cháu nội của Thiên hoàng Kammu, nhận kabane (họ) Taira no Ason năm 825. Do đó có 2 chi Kammu Heishi, một là hậu duệ của Takamune và một từ đứa cháu trai của ông, Takamochi (con cả Hoàng tử Takami). Gia tộc Oda dưới thời Oda Nobunaga (1534-1582) tuyên bố mình là hậu duệ của nhà Taira, qua Taira no Chikazane, cháu nội của Taira no Shigemori (1138-1179). == Xem thêm == Tên người Nhật == Tham khảo ==
giải thưởng điện ảnh.txt
Giải thưởng điện ảnh là giải thưởng của các hội nghề nghiệp có liên quan tới điện ảnh trao cho các bộ phim, các cá nhân hoặc tổ chức có đóng góp xuất sắc trong các lĩnh vực khác nhau của điện ảnh. Giải thưởng này thường được trao định kì với cách thức thông thường là bỏ phiếu kín để lựa chọn ra người chiến thắng có số phiếu cao nhất. Hội nghề nghiệp ở đây có thể là các viện hàn lâm điện ảnh các nước (như Viện Hàn lâm Khoa học và Nghệ thuật Điện ảnh của Hoa Kỳ), các hội điện ảnh (như Hội Điện ảnh Việt Nam) hoặc các hội nghề nghiệp có liên quan như các hội phê bình, hội diễn viên,... == Danh sách giải thưởng == === Giải thưởng quốc tế === Giải thưởng FIPRESCI (viết tắt của cụm từ Fédération Internationale de la Presse Cinématographique = Liên đoàn quốc tế báo chí điện ảnh) do Hiệp hội phê bình điện ảnh quốc tế trao tại các liên hoan phim. Giải Phim châu Âu (Giải Felix) === Giải thưởng quốc gia === Anh Giải thưởng của Viện Hàn lâm Nghệ thuật Điện ảnh và Truyền hình Anh quốc - Giải BAFTA Giải thưởng phim Anh của báo Evening Standard Argentina Giải thưởng của Hiệp hội phê bình phim Argentina - giải Cóndor de Plata (Kền kền bạc) Giải thưởng của Viện Hàn lâm Khoa học và Nghệ thuật Điện ảnh Argentina Giải thưởng Clarín Giải thưởng Konex Ba Lan Giải thưởng phim Ba Lan (Polskie Nagrody Filmowe: Orły - Giải Đại bàng) của Viện Hàn lâm Điện ảnh Ba Lan Canada Giải thưởng của Hiệp hội phê bình phim Toronto (TFCA) Giải thưởng của Hội phê bình phim Vancouver (VFCC) Giải Genie Giải thưởng phim Canada Giải thưởng của Viện Hàn lâm Điện ảnh và Truyền hình Canada Đài Loan Giải Kim Mã (臺北金馬影展) Đức Giải thưởng phim Đức Hàn Quốc Giải Chuông lớn (대종상 영화제) Hoa Kỳ Giải Oscar của Viện Hàn lâm Khoa học và Nghệ thuật Điện ảnh (Academy of Motion Picture Arts and Sciences - AMPAS) Giải Saturn của Viện Hàn lâm Phim thể loại Khoa học viễn tưởng, Giả tưởng và Kinh dị (Academy of Science Fiction, Fantasy & Horror Films) Giải Quả cầu vàng của Hiệp hội báo chí nước ngoài ở Hollywood (Hollywood Foreign Press Association) Giải Annie của Hiệp hội Phim hoạt hình Quốc tế (International Animated Film Society - ASIFA-Hollywood) Giải Satellite của Viện Hàn lâm Báo chí Quốc tế (International Press Academy) Giải thưởng của Viện phim Mỹ (AFIA) Giải Mâm xôi vàng (Golden Raspberry Awards hay Razzies) Giải thưởng của Hiệp hội phê bình phim quốc gia (NSFC) Giải thưởng của Ủy ban phê bình phim quốc gia (NBR) Giải Emmy của Viện Truyền hình Nghệ thuật & Khoa học Los Angeles (ATAS) Hồng Kông Giải thưởng Điện ảnh Hồng Kông (HKFA) Giải Kim Tử Kinh (金紫荆奖) của Hiệp hội phê bình phim Hồng Kông Israel Giải thưởng của Viện Hàn lâm Điện ảnh và Truyền hình Israel México Giải Ariel của Viện Hàn lâm Điện ảnh Mexico Nga Giải Nika của Viện Hàn lâm Khoa học và Nghệ thuật Điện ảnh Nga Giải Đại bàng vàng (премия Золотой Орел) của Viện Hàn lâm Khoa học và Nghệ thuật Điện ảnh Nga Nhật Bản Giải thưởng của Viện Hàn lâm Nhật Bản Giải Ruy băng xanh (ブルーリボン賞 ) Giải thưởng phim Mainichi (dành cho phim hoạt hình) Pháp Giải César của Viện Hàn lâm Kỹ thuật và Nghệ thuật Điện ảnh (Académie des Arts et Techniques du Cinema) Giải thưởng của Hiệp hội phê bình phim Pháp Giải Louis Delluc Tây Ban Nha Giải Goya của Viện Hàn lâm Khoa học và Nghệ thuật Điện ảnh Tây Ban Nha (Academia de las Artes y las Ciencias Cinematográficas de España) Thụy Điển Giải Guldbagge của Viện phim Thụy Điển Úc Giải thưởng của Hội phê bình phim Úc (FCCA) Giải thưởng của Viện phim Úc Giải AWGIE Việt Nam Giải Cánh diều vàng của Hội Điện ảnh Việt Nam Giải Bông sen vàng của Cục điện ảnh Ý Giải David di Donatello của Viện Hàn lâm Điện ảnh Ý (Accademia del Cinema Italiano) Giải Nastro d'Argento == Xem thêm == Liên hoan phim == Tham khảo == == Liên kết ngoài == Trang về giải thưởng điện ảnh và liên hoan phim trên IMDb
hệ thống định vị toàn cầu.txt
Hệ thống Định vị Toàn cầu (tiếng Anh: Global Positioning System - GPS) là hệ thống xác định vị trí dựa trên vị trí của các vệ tinh nhân tạo, do Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ thiết kế, xây dựng, vận hành và quản lý. Trong cùng một thời điểm, tọa độ của một điểm trên mặt đất sẽ được xác định nếu xác định được khoảng cách từ điểm đó đến ít nhất ba vệ tinh. Tuy được quản lý bởi Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ, chính phủ Hoa Kỳ cho phép mọi người trên thế giới sử dụng một số chức năng của GPS miễn phí, bất kể quốc tịch nào. Các nước trong Liên minh châu Âu đang xây dựng Hệ thống định vị Galileo, có tính năng giống như GPS của Hoa Kỳ, dự tính sẽ bắt đầu hoạt động năm 2014. == Phân loại == Hệ thống định vị toàn cầu của Mỹ là hệ dẫn đường dựa trên một mạng lưới 24 quả vệ tinh được Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ đặt trên quỹ đạo không gian. Các hệ thống dẫn đường truyền thống hoạt động dựa trên các trạm phát tín hiệu vô tuyến điện. Được biết đến nhiều nhất là các hệ thống sau: LORAN – (LOng RAnge Navigation) – hoạt động ở giải tần 90-100 kHz chủ yếu dùng cho hàng hải, hay TACAN – (TACtical Air Navigation) – dùng cho quân đội Mỹ và biến thể với độ chính xác thấp VOR/DME – VHF (Omnidirectional Range/Distance Measuring Equipment) – dùng cho hàng không dân dụng. Gần như đồng thời với lúc Mỹ phát triển GPS, Liên Xô cũng phát triển một hệ thống tương tự với tên gọi GLONASS. Hiện nay Liên minh châu Âu đang phát triển hệ dẫn đường vệ tinh của mình mang tên Galileo. Trung Quốc thì phát triển hệ thống định vị toàn cầu của mình mang tên Bắc Đẩu bao gồm 35 vệ tinh. Ban đầu, GPS và GLONASS đều được phát triển cho mục đích quân sự, nên mặc dù chúng dùng được cho dân sự nhưng không hệ nào đưa ra sự đảm bảo tồn tại liên tục và độ chính xác. Vì thế chúng không thỏa mãn được những yêu cầu an toàn cho dẫn đường dân sự hàng không và hàng hải, đặc biệt là tại những vùng và tại những thời điểm có hoạt động quân sự của những quốc gia sở hữu các hệ thống đó. Chỉ có hệ thống dẫn đường vệ tinh châu Âu Galileo (đang được xây dựng) ngay từ đầu đã đặt mục tiêu đáp ứng các yêu cầu nghiêm ngặt của dẫn đường và định vị dân sự. GPS ban đầu chỉ dành cho các mục đích quân sự, nhưng từ năm 1980 chính phủ Mỹ cho phép sử dụng trong dân sự. GPS hoạt động trong mọi điều kiện thời tiết, mọi nơi trên Trái Đất, 24 giờ một ngày. Không mất phí thuê bao hoặc mất tiền trả cho việc thiết lập sử dụng GPS nhưng phải tốn tiền không rẻ để mua thiết bị thu tín hiệu và phần mềm nhúng hỗ trợ. == Sự hoạt động của GPS == Các vệ tinh GPS bay vòng quanh Trái Đất hai lần trong một ngày theo một quỹ đạo rất chính xác và phát tín hiệu có thông tin xuống Trái Đất. Các máy thu GPS nhận thông tin này và bằng phép tính lượng giác tính được chính xác vị trí của người dùng. Về bản chất máy thu GPS so sánh thời gian tín hiệu được phát đi từ vệ tinh với thời gian nhận được chúng. Sai lệch về thời gian cho biết máy thu GPS ở cách vệ tinh bao xa. Rồi với nhiều quãng cách đo được tới nhiều vệ tinh máy thu có thể tính được vị trí của người dùng và hiển thị lên bản đồ điện tử của máy. Máy thu phải nhận được tín hiệu của ít nhất ba vệ tinh để tính ra vị trí hai chiều (kinh độ và vĩ độ) và để theo dõi được chuyển động. Khi nhận được tín hiệu của ít nhất 4 vệ tinh thì máy thu có thể tính được vị trí ba chiều (kinh độ, vĩ độ và độ cao). Một khi vị trí người dùng đã tính được thì máy thu GPS có thể tính các thông tin khác, như tốc độ, hướng chuyển động, bám sát di chuyển, khoảng hành trình, quãng cách tới điểm đến, thời gian Mặt Trời mọc, lặn và nhiều thứ khác nữa. == Độ chính xác của GPS == Các máy thu GPS ngày nay cực kì chính xác, nhờ vào thiết kế nhiều kênh hoạt động song song của chúng. Các máy thu 12 kênh song song (của Garmin) nhanh chóng khóa vào các quả vệ tinh khi mới bật lên và chúng duy trì kết nối bền vững, thậm chí trong tán lá rậm rạp hoặc thành phố với các toà nhà cao tầng. Trạng thái của khí quyển và các nguồn gây sai số khác có thể ảnh hưởng tới độ chính xác của máy thu GPS. Các máy thu GPS có độ chính xác trung bình trong vòng 15 mét. Các máy thu mới hơn với khả năng WAAS (Wide Area Augmentation System) có thể tăng độ chính xác trung bình tới dưới 3 mét. Không cần thêm thiết bị hay mất phí để có được lợi điểm của WAAS. Người dùng cũng có thể có độ chính xác tốt hơn với GPS vi sai (Differential GPS, DGPS) sửa lỗi các tín hiệu GPS để có độ chính xác trong khoảng 3 đến 5 mét. Cục Phòng vệ Bờ biển Mỹ vận hành dịch vụ sửa lỗi này. Hệ thống bao gồm một mạng các đài thu tín hiệu GPS và phát tín hiệu đã sửa lỗi bằng các máy phát hiệu. Để thu được tín hiệu đã sửa lỗi, người dùng phải có máy thu tín hiệu vi sai bao gồm cả ăn-ten để dùng với máy thu GPS của họ. == Các thành phần của GPS == GPS hiện tại gồm 3 phần chính: phần không gian, kiểm soát và sử dụng. Không quân Hoa Kỳ phát triển, bảo trì và vận hành các phần không gian và kiểm soát. Các vệ tinh GPS truyền tín hiệu từ không gian, và các máy thu GPS sử dụng các tín hiệu này để tính toán vị trí trong không gian 3 chiều (kinh độ, vĩ độ và độ cao) và thời gian hiện tại. === Phần không gian === Phần không gian gồm 27 vệ tinh (24 vệ tinh hoạt động và 3 vệ tinh dự phòng) nằm trên các quỹ đạo xoay quanh trái đất. Chúng cách mặt đất 20.200 km, bán kính quỹ đạo 26.600 km. Chúng chuyển động ổn định vá quay hai vòng quỹ đạo trong khoảng thời gian gần 24 giờ với vận tốc 7 nghìn dặm một giờ. Các vệ tinh trên quỹ đạo được bố trí sao cho các máy thu GPS trên mặt đất có thể nhìn thấy tối thiểu 4 vệ tinh vào bất kỳ thời điểm nào. Các vệ tinh được cung cấp bằng năng lượng Mặt Trời. Chúng có các nguồn pin dự phòng để duy trì hoạt động khi chạy khuất vào vùng không có ánh sáng Mặt Trời. Các tên lửa nhỏ gắn ở mỗi quả vệ tinh giữ chúng bay đúng quỹ đạo đã định. === Phần kiểm soát === Mục đích trong phần này là kiểm soát vệ tinh đi đúng hướng theo quỹ đạo và thông tin thời gian chính xác. Có 5 trạm kiểm soát đặt rải rác trên trái đất. Bốn trạm kiểm soát hoạt động một cách tự động, và một trạm kiểm soát là trung tâm. Bốn trạm này nhận tín hiệu liên tục từ những vệ tinh và gửi các thông tin này đến trạm kiểm soát trung tâm. Tại trạm kiểm soát trung tâm, nó sẽ sửa lại dữ liệu cho đúng và kết hợp với hai an-ten khác để gửi lại thông tin cho các vệ tinh. Ngoài ra, còn một trạm kiểm soát trung tâm dự phòng và sáu trạm quan sát chuyên biệt. Trạm trung tâm cũng có thể truy cập từ các ăng-ten mặt đất của U.S. Air Force Satellite Control Network (AFSCN) và các trạm quan sát NGA (National Geospatial-Intelligence Agency). Các đường bay của vệ tinh được ghi nhận bởi các trạm quan sát chuyên dụng của Không quân Hoa Kỳ đặt ở Hawaii, Kwajalein, Đảo Ascension, Diego Garcia, Colorado Springs, Colorado và Cape Canaveral, cùng với các trạm quan sát NGA được vận hành ở Anh, Argentina, Ecuador, Bahrain, Úc và Washington DC. Thông tin đường bay của vệ tinh đi được gởi đến Air Force Space Command's MCS ở Schriever Air Force Base 25 km đông đông nam của Colorado Springs, do 2nd Space Operations Squadron (2 SOPS) của U.S. Air Force vận hành. Sau đó 2 SOPS liên lạc thường xuyên với mỗi vệ tinh GPS thông qua việc cập nhật định vị sử dụng các ăng-ten mặt đất chuyên dụng hoặc dùng chung (AFSCN)(các ăng-ten GPS mặt đất chuyên dụng được đặt ở Kwajalein, đảo Ascension, Diego Garcia, và Cape Canaveral). Các thông tin cập nhật này đồng bộ hóa với các đồng hồ nguyên tử đặt trên vệ tinh trong vòng một vài phần tỉ giây cho mỗi vệ tinh, và hiệu chỉnh lịch thiên văn của mô hình quỹ đạo bên trong mỗi vệ tinh. Việc cập nhật được tạo ra bở bộ lọc Kalman sử dụng các tín hiệu/thông tin từ các trạm quan sát trên mặt đất, thông tin thời tiết không gian, và các dữ liệu khác. === Phần sử dụng === Phần sử dụng là thiết bị nhận tín hiệu vệ tinh GPS và người sử dụng thiết bị này. Dưới đây là một số thông tin đáng chú ý về các vệ tinh GPS (còn gọi là NAVSTAR, tên gọi chính thức của Bộ Quốc phòng Mỹ cho GPS): Vệ tinh GPS đầu tiên được phóng năm 1978. Hoàn chỉnh đầy đủ 24 vệ tinh vào năm 1994. Mỗi vệ tinh được làm để hoạt động tối đa là 15 năm. Vệ tinh GPS có trọng lượng khoảng 1500 kg và dài khoảng 17 feet (5 m) với các tấm năng lượng Mặt Trời mở (có độ rộng 7 m²). Công suất phát bằng hoặc dưới 50 watts. == Tín hiệu GPS == Các vệ tinh GPS phát hai tín hiệu vô tuyến công suất thấp dải L1 và L2. (dải L là phần sóng cực ngắn của phổ điện từ trải rộng từ 0,39 tới 1,55 GHz). GPS dân sự dùng tần số L1 1575.42 MHz trong dải UHF. Tín hiệu truyền trực thị, có nghĩa là chúng sẽ xuyên qua mây, thuỷ tinh và nhựa nhưng không qua phần lớn các đối tượng cứng như núi và nhà. L1 chứa hai mã "giả ngẫu nhiên"(pseudo random), đó là mã Protected (P) và mã Coarse/Acquisition (C/A). Mỗi một vệ tinh có một mã truyền dẫn nhất định, cho phép máy thu GPS nhận dạng được tín hiệu. Mục đích của các mã tín hiệu này là để tính toán khoảng cách từ vệ tinh đến máy thu GPS. Tín hiệu GPS chứa ba mẩu thông tin khác nhau – mã giả ngẫu nhiên, dữ liệu thiên văn và dữ liệu lịch. Mã giả ngẫu nhiên đơn giản chỉ là mã định danh để xác định được quả vệ tinh nào là phát thông tin nào. Có thể nhìn số hiệu của các quả vệ tinh trên trang vệ tinh của máy thu Garmin để biết nó nhận được tín hiệu của quả nào. Dữ liệu thiên văn cho máy thu GPS biết quả vệ tinh ở đâu trên quỹ đạo ở mỗi thời điểm trong ngày. Mỗi quả vệ tinh phát dữ liệu thiên văn chỉ ra thông tin quỹ đạo cho vệ tinh đó và mỗi vệ tinh khác trong hệ thống. Dữ liệu lịch được phát đều đặn bởi mỗi quả vệ tinh, chứa thông tin quan trọng về trạng thái của vệ tinh (lành mạnh hay không), ngày giờ hiện tại. Phần này của tín hiệu là cốt lõi để phát hiện ra vị trí. == Nguồn lỗi của tín hiệu GPS == Những yếu tố có thể làm giảm tín hiệu GPS và vì thế ảnh hưởng tới chính xác bao gồm: Giữ chậm của tầng đối lưu và tầng ion – Tín hiệu vệ tinh bị chậm đi khi xuyên qua tầng khí quyển. Tín hiệu đi nhiều đường – Điều này xảy ra khi tín hiệu phản xạ từ nhà hay các đối tượng khác trước khi tới máy thu. Lỗi đồng hồ máy thu – Đồng hồ có trong máy thu không chính xác như đồng hồ nguyên tử trên các vệ tinh GPS. Lỗi quỹ đạo – Cũng được biết như lỗi thiên văn, do vệ tinh thông báo vị trí không chính xác. Lỗi do ảnh hưởng của bão từ, đã được thử nghiệm nhiểu lần, tùy theo cường độ của bão từ mà sai số của GPS sẽ sai từ vài chục đến hơn 100 m. Số lượng vệ tinh nhìn thấy – Càng nhiều quả vệ tinh được máy thu GPS nhìn thấy thì càng chính xác. Nhà cao tầng, địa hình, nhiễu loạn điện tử hoặc đôi khi thậm chí tán lá dày có thể chặn thu nhận tín hiệu, gây lỗi định vị hoặc không định vị được. Nói chung máy thu GPS không làm việc trong nhà, dưới nước hoặc dưới đất. Che khuất về hình học – Điều này liên quan tới vị trí tương đối của các vệ tinh ở thời điểm bất kì. Phân bố vệ tinh lý tưởng là khi các quả vệ tinh ở vị trí tạo các góc rộng với nhau. Phân bố xấu xảy ra khi các quả vệ tinh ở trên một đường thẳng hoặc cụm thành nhóm. Sự giảm có chủ tâm tín hiệu vệ tinh – Là sự làm giảm tín hiệu cố ý do sự áp đặt của Bộ Quốc phòng Mỹ, nhằm chống lại việc đối thủ quân sự dùng tín hiệu GPS chính xác cao. Chính phủ Mỹ đã ngừng việc này từ tháng 5 năm 2000, làm tăng đáng kể độ chính xác của máy thu GPS dân sự. (Tuy nhiên biện pháp này hoàn toàn có thể được sử dụng lại trong những điều kiện cụ thể để đảm bảo gậy ông không đập lưng ông. Chính điều này là tiềm ẩn hạn chế an toàn cho dẫn đường và định vị dân sự.) == Ứng dụng GPS == === Dân dụng === Quản lý và điều hành xe 1. Giám sát quản lý vận tải, theo dõi vị trí, tốc độ, hướng di chuyển,… 2. Giám sát mại vụ, giám sát vận tải hành khách,.. 3. Chống trộm cho ứng dụng thuê xe tự lái, theo dõi lộ trình của đoàn xe 4. Liên lạc, theo dõi định vị cho các ứng dụng giao hàng GPS có nhiều ứng dụng mạnh mẽ trong quản lý xe ô tô, đặc biệt là các loại xe như: Xe taxi, xe tải, xe công trình, xe bus, xe khách, xe tự lái. Với nhiều tính năng như: Giám sát lộ trình đường đi của phương tiện theo thời gian thực: vận tốc, hướng di chuyển và trạng thái tắt/mở máy, quá tốc độ của xe…. Xác định vị trí xe chính xác ở từng góc đường (vị trí xe được thể hiện nháp nháy trên bản đồ), xác định vận tốc và thời gian xe dừng hay đang chạy, biết được lộ trình hiện tại xe đang đi (real time) Lưu trữ lộ trình từng xe và hiển thị lại lộ trình của từng xe trên cùng một màn hình Xem lại lộ trình xe theo thời gian và vận tốc tùy chọn Quản lý theo dõi một hay nhiều xe tại mỗi thời điểm Báo cáo cước phí và tổng số km của từng xe (ngày/tháng) Cảnh báo khi xe vượt quá tốc độ, vượt ra khỏi vùng giới hạn Chức năng chống trộm Khảo sát trắc địa, môi trường Dùng trong điều tra, khảo sát, thiết kế các công trình lâm sinh ==== Các hạn chế trong ứng dụng dân dụng ==== Chính phủ Hoa Kỳ kiểm soát vệc xuất khẩu một số máy thu dân dụng. Tất cả máy thu GPS có khả năng hoạt động ở độ cao trên 18 kilômét (11 mi) và 515 mét một giây (1.690 ft/s) được phân loại vào nhóm vũ khí theo đó cần phải có phép sử dụng của Bộ ngoại giao Hoa Kỳ. Những hạn chế này nhắm mục đích ngăn ngừa việc sử dụng các máy thu trong tên lửa đạn đạo, trừ việc sử dụng trong tên lửa hành trình do độ cao và tốc độ của các loại này tương tự như các máy bay. == Quy định pháp lý tại Việt Nam về GPS == Nghị định 91/2009/NĐ-CP về thiết bị giám sát hành trình xe. Thông tư 14/2010/TT-BGTGT về dùng GPS giám sát hoạt động vận tải. Thông tư số 69/2011/TT-BNNPTNT Hướng dẫn thực hiện một số nội dung Quy chế quản lý đầu tư xây dựng công trình lâm sinh ban hành kèm theo Quyết định số 73/2010/QĐ-TTg ngày 16 tháng 11 năm 2010 của Thủ tướng Chính phủ == Các thiết bị ứng dụng GPS == === Trong quân sự === Vũ khí hạt nhân Bom thông minh JDAM Tên lửa không đối đất Tên lửa tấn công đất liền Tên lửa hành trình Tên lửa đất đối đất Máy bay huấn luyện Mikoyan MiG-AT của Nga == Các hệ thống định vị khác == Các hệ thống định vị vệ tinh khác được sử dụng ở một số nơi bao gồm: Galileo – hệ thống toàn cầu do EU và các quốc gia đối tác khác phát triển, dự kiến đưa vào sử dụng năm 2014. Beidou (Bắc Đẩu) – là hệ thống riêng của CHDNND Trung Hoa phát triển, phủ ở châu Á và tây Thái Bình Dương COMPASS – Hệ thống toàn cầu của CHDNND Trung Hoa, dự kiến đưa vào sử dụng năm 2020 GLONASS – Hệ thống địa vị toàn cầu của Nga. IRNSS – Hệ thống định vị khu vực của Ấn Độ, dự kiến đưa vào sử dụng năm 2012, phủ Ấn Độ và bắc Ấn Độ Dương QZSS – Hệ thống định vị khu vực của Nhật Bản, phủ châu Á và châu Đại Dương. == Xem thêm == GNSS: Hệ thống vệ tinh định vị toàn cầu Định vị (định hướng) == Tham khảo == == Liên kết ngoài == Trang web chính thức
william s. logan.txt
William Stewart Logan (sinh năm 1942) là một học giả người Australia, giáo sư tiến sĩ tại Đại học New South Wales, Sydney, và từng là chủ tịch Quỹ Di sản và quy hoạch của UNESCO. William S. Logan là một chuyên gia có nhiều kinh nghiệm về lịch sử kiến trúc, quy hoạch đô thị và bảo tồn đô thị. Ông là tác giả của nhiều tác phẩm thuộc lĩnh vực này, trong đó đặc biệt về những đô thị ở những nước đang phát triển châu Á. William S. Logan từng giữ cương vị chuyên viên thuộc các cơ quan tài trợ văn hóa của UNESCO và Quỹ Viện trợ Australia, tham gia vào nhiều dự án quy hoạch và bảo tồn ở Hà Nội. Ông cũng là tác giả một cuốn sách viết về Hà Nội mang tên Hanoi, biography of a city (Hà Nội: Tiểu sử một đô thị). Cuốn sách được viết trong thập niên 1990, sau nhiều nghiên cứu của tác giả trên thực địa và các nguồn thư tịch tại Hà Nội, Paris, Aix-en-Provence, Melbourne và Moskva. == Tham khảo ==
ngữ tộc celt.txt
Ngữ tộc Celt là một nhóm ngôn ngữ trong hệ ngôn ngữ Ấn-Âu, là hậu thân của ngôn ngữ Tiền Celt. Thuật ngữ "Celtic" được sử dụng lần đầu để mô tả một nhóm ngôn ngữ vào năm 1707 bởi Edward Lhuyd, sau khi Paul-Yves Pezron chứng minh được sự liên hệ giữa người Celt trong lịch sử với ngôn ngữ của người Wales và người Breton. Các ngôn ngữ Celt hiện đại chủ yếu hiện diện tại miền tây bắc châu Âu, gồm Ireland, Scotland, Wales, Bretagne, Cornwall, và Đảo Man. Cũng có một lượng người nói tiếng Wales ở vùng Patagonia thuộc Argentina và một số người nói tiếng Gael Scotland trên Đảo Cape Breton của Nova Scotia. Vài người nói ngôn ngữ Celt sống trong các vùng kiều dân Celt tại Hoa Kỳ, Canada, Úc, và New Zealand. Trong toàn cầu, ngôn ngữ Celt luôn là ngôn ngữ thiểu số dù luôn có những dự án phục hồi. Tiếng Wales là ngôn ngữ Celt duy nhất không bị UNESCO phân loại là "bị đe dọa". == Tham khảo ==
la niña.txt
La Niña là một hiện tượng trái ngược lại với hiện tượng El Niño. Hiện tượng La Niña thường bắt đầu hình thành từ tháng ba đến tháng sáu hằng năm, và gây ảnh hưởng mạnh nhất vào cuối năm cho tới tháng 2 năm sau. La Niña sẽ xảy ra ngay sau khi hiện tượng El Niño kết thúc. Hiện tượng La Niña thuộc dòng biển lạnh làm lạnh nhiệt độ của những vùng mà nó đi qua.“La Nina” (hay còn gọi là bé Hài Đồng nữ) là hiện tượng lớp nước biển bề mặt ở khu vực nói trên lạnh đi dị thường, xảy ra với chu kỳ tương tự hoặc thưa hơn El Nino. Để thể hiện sự ngược nhau giữa hai hiện tượng này có khi người ta dùng khái niệm Anti-El Nino (đối El Nino). Hiện tượng La Nina có thể xuất hiện ngay khi hiện tượng El Nino suy yếu, nhưng có khi không phải như vậy. Nghiên cứu hiện tượng El Nino và La Nina để hiểu biết về cơ chế vật lý, đặc điểm và quy luật diễn biến cũng như những hậu quả tác động của chúng, chúng ta có thể cảnh báo trước sự xuất hiện của El Nino và La Nina, những ảnh hưởng có thể xảy ra đối với thời tiết, khí hậu và kinh tế - xã hội để có những biện pháp phòng, tránh hiệu quả, hạn chế và giảm nhẹ thiệt hại do El Nino và La Nina gây ra. == Tên gọi == Trong tiếng Tây Ban Nha, La Niña còn có nghĩa là "bé gái" để biểu thị sự trái ngược lại với hiện tượng El Niño. La Niña còn được gọi với cái tên El Viejo hay Anti-El Niño. == Dấu hiệu == Nhiệt độ nước biển tại khu vực Thái Bình Dương lạnh đi một cách bất thường cùng với các vùng lân cận khác, nhiệt độ cũng giảm đi một cách lạ thường. == Tác động == Hiện tượng La Niña sẽ gây nhiều bão tố trên Đại Tây Dương nhưng lại làm giảm nguy cơ bão ở Thái Bình Dương. Ở Mỹ, nhiệt độ mùa đông ấm hơn mức thông thường ở vùng Đông Nam và lạnh hơn ở vùng Tây Bắc. Nhiệt độ hạ xuống thấp đáng kể nên sẽ gây ra trận rét đậm rét hại cho khu vưc chịu ảnh hưởng. == Danh sách == Những đợt La Nina từ 1900-2017. == Xem thêm == Hiện tượng El Niño == Tham khảo == == Liên kết ngoài == Thuật ngữ El Nino và La Nina trên trang Trung tâm Khí tượng Thủy văn Quốc gia What is La Niña? at Tropical Atmosphere Ocean (TAO) project La Niña episodes in the Tropical Pacific at CPC El Niño–Southern Oscillation (ENSO) at CPC List of El Niño and La Niña events since 1950 at CPC
darius của pontos.txt
Darius của Pontos (thế kỷ thứ 1 TCN) là một hoàng thân của vương quốc Pontos. Ông là một vị vua mang huyết thống Iran và Hy Lạp Macedonia. Darius là người con trai đầu tiên của vua Pharnaces II xứ Pontos với người vợ Sarmatia của ông ta Ông có hai người em:. Một em gái tên là Dynamis và một người em trai tên là Arsaces Ông bà nội của ông là vị vua Pontos Mithridates VI và Laodice, người em gái và là người vợ đầu tiên của ông ta. Arsaces được sinh ra và lớn lên ở vương quốc Pontos và ở vương quốc Bosporos. Theo Strabo, Arsaces và Darius đã được bảo vệ bởi một thủ lĩnh nổi loạn được gọi là Arsaces trong suốt khoảng thời gian khi ông ta trấn giữ một pháo đài bị bao vây bởi Polemon I và Lycomedes của Comana. Darius đã được phong làm vua của Pontos bởi vị tam hùng La Mã Marcus Antonius vào năm 39 TCN. Triều đại của ông khá là ngắn và ông qua đời trong năm 37 TCN. Sau khi Darius qua đời, người em trai Arsaces lên kế vị ông. Mặt khác Antonius lại tước mất vùng đất Cilicia từ tay của Darius và ban nó cho Polemon I trong năm 37 TCN. == Chú thích == == Tham khảo == A. Mayor, The Poison King: the life and legend of Mithradates, Rome’s deadliest enemy, Princeton University Press, 2009 The Dynastic History of the Hellenistic Monarchies of Asia Minor According to Chronography of George Synkellos by Oleg L. Gabelko
west midlands (hạt).txt
West Midlands là một hạt đô thị ở vùng tây trung bộ Anh với dân số ước tính năm 2009 là 2.638.700 người. Hạt này được hình thành vào năm 1974 theo Đạo luật chính quyền địa phương 1972, hạt được tạo từ các khu vực của Staffordshire, Worcestershire và Warwickshire. Hạt này là một vùng NUTS với vùng NUTS 1 rộng hơn có cùng tên. Hạt bao gồm 7 quận đô thị: Thành phố Birmingham, Thành phố Coventry, và Thành phố Wolverhampton, cũng như Dudley, Sandwell, Solihull, and Walsall. Hội đồng hạt West Midlands bị giải thể ngày 31 tháng 3 năm 1986, và các quận (quận thành thị) nay là các chính quyền đơn nhất trên thực tế. Tuy nhiên, hạt đô thị tiếp tục tồn tại trong luạt và trong các khung tham khảo địa lý. Hạt này đôi khi được mô tả là "vùng đô thị West Midlands" dù có các ranh giới khác và ít được xác định rõ ràng. == Tham khảo == Bản mẫu:Hạt West Midlands
tiếng anh cổ.txt
Tiếng Anh cổ (Ænglisc, Anglisc, Englisc) hay tiếng Anglo-Saxon là một hình thức đầu của ngôn ngữ tiếng Anh được nói và được viết bởi người Anglo-Saxon và con cháu của họ trong các phần văn bản đang có tại nước Anh và miền nam và miền đông Scotland ít nhất là vào giữa thế kỷ thứ 5 và giữa thế kỉ 12. Tồn tại thông qua văn bản chủ yếu là trong văn học Anglo-Saxon. Tiếng Anh cổ là một thứ tiếng thuộc nhánh miền Tây của nhóm ngôn ngữ German và có liên quan chặt chẽ đến tiếng Frisian cổ. Tiếng Anh cổ có nhiều điểm tương đồng với tiếng Latin cổ điển, và gần gũi với tiếng Đức hiện đại và tiếng Iceland hơn tiếng Anh hiện đại ở hầu hết các khía cạnh bao gồm ngữ pháp của nó. Nó đã được thay đổi hình thức đầy đủ với năm trường hợp ngữ pháp (được bổ nhiệm, mục đích, thuộc cách, chỉ định, và công cụ), hai số ngữ pháp(số ít và số nhiều) và 3 giới tính ngữ pháp (nam tính, nữ tính, giống trung). Đại từ ngôi thứ nhất và thứ hai cũng có hai hình thức đề cập đến nhóm hai người, ngoài số ít thông thường và các hình thức số nhiều. Các trường hợp cụ thể là hơi hiếm và chỉ xảy ra ở số ít nam tính và giống trung lập, Nó thường có thể được thay thế bằng các chỉ định. Tính từ, đại từ và (đôi khi) phân từ đã đồng ý với của họ trong trường hợp số lượng, và giới tính. Động từ hữu hạn đã thoả thuận với chủ đề của họ trong người và số lượng. == Chú thích == == Tham khảo ==
south carolina.txt
Nam Carolina (phiên âm là Nam Ca-rô-li-na; South Carolina) là một bang thuộc phía nam của Hoa Kỳ. Nam Carolina là một trong 13 thuộc địa nổi dậy chống lại sự thống trị của Anh trong Cách mạng Hoa Kỳ. Nó là bang đầu tiên ly khai khỏi Union để thành lập Liên minh miền Nam. Bang này được đặt tên theo tên vua Charles I của Anh, bởi Carolus là tiếng Latin cho tên Charles. Vào năm 2004, dân số tiểu bang là 4.198.068. Nhiều chiến hạm của Hải quân Hoa Kỳ được đặt tên USS South Carolina để vinh danh tiểu bang này. Ðây là noi sinh của Tổng thống Andrew Jackson (tại Waxhaw). == Địa lý == South Carolina giáp với bang Bắc Carolina về phía bắc; Đại Tây Dương về phía đông; còn về phía nam và phía tây, sông Savannah ngăn cách South Carolina với bang Georgia. == Tham khảo ==
châu phi hạ sahara.txt
Châu Phi hạ Sahara là một thuật ngữ địa lý được dùng để miêu tả một vùng của lục địa Châu Phi nằm phía nam Sahara, hay các quốc gia châu Phi nằm hoàn toàn hay một phần ở phía nam Sahara. Nó đối nghịch với Bắc Phi, vốn được coi là một phần của Thế giới Ả Rập. Sahel là vùng chuyển tiến giữa Sahara và savanna nhiệt đới (vùng Sudan) và các forest-savanna mosaic ở phía nam. Sừng châu Phi và các vùng rộng lớn của Sudan về mặt địa lý là một phần của châu Phi Hạ Sahara, nhưng thực tế lại bị ảnh hưởng mạnh từ Trung Đông và cũng là một phần của thế giới Ả Rập. Vùng hạ Sahara cũng được gọi là Châu Phi Đen, vì những người dân "da đen" sống ở đó. Các nhà bình luận đáng chú ý người Ả Rập thời Trung Cổ cũng dùng một thuật ngữ tương tự, bilâd as-sûdân dịch nghĩa là "vùng đất của những người da đen" tương phải với dân cư của thế giới Hồi giáo cổ đại. == Địa lý == Châu Phi hạ Sahara có diện tích 24.3 triệu km². Từ khoảng 5,400 năm trước, các vùng Sahara và hạ Sahara của châu Phi đã bị chia tách bởi khí hậu rất khắc nghiệt và bởi dân cư thưa thớt của Sahara, hình thành nên một biên giới rõ nét chỉ bị cách quãng bởi Sông Nile tại Sudan, dù sông Nile cũng bị chia cách bởi các thác nước của nó. Lý thuyết Bơm Sahara giải thích tại sao thực vật và động vật (gồm cả loài người) rời bỏ Châu Phi tiến vào Trung Đông và qua nó tới Châu Âu và Châu Á. Các giai đoạn mưa của châu Phi gắn liền với một chu kỳ "Sahara ẩm" với sự tồn tại của các hồ lớn và nhiều con sông. === Các vùng khí hậu và sinh thái === Xem thêm thông tin: Vùng sinh thái nhiệt đới châu Phi, Đồng cỏ, savanna và vùng cây bụi nhiệt đới và cận nhiệt đới, và Danh sách các vùng sinh thái rừng cây lá rộng ẩm nhiệt đới và cận nhiệt đới Châu Phi hạ Sahara có rất nhiều vùng khí hậu hay quần xã sinh vật. Nam Phi và Cộng hoà Dân chủ Congo đặc biệt được coi là các quốc gia cực phong phú về sinh vật. Vùng Sahel cắt ngang toàn bộ châu Phi ở vĩ độ khoảng 10° tới 15° Bắc. Cắc quốc gia có một phần sa mạc Sahara ở lãnh thổ phía bắc của họ và một phần Sahel ở phía nam gồm Mali, Niger, Tchad và Sudan. Phía nam Sahel, có một vành đai savanna, (Guinean forest-savanna mosaic, Northern Congolian forest-savanna mosaic) mở rộng và bao gồm hầu hết miền Nam Sudan và Ethiopia ở phía đông (Savanna đông Sudan). Vùng Sừng châu Phi gồm các khu vực bán sa mạc khô cằn dọc bờ biển, tương phản với savanna và các rừng cây lá rộng ẩm bên trong nội địa Ethiopia. Rừng mưa nhiệt đới châu Phi trải dài dọc bờ biển phía nam Tây Phi và xuất hiện hầu như trên toàn bộ Trung Phi (Congo) phía tây Hồ Lớn châu Phi Vùng rừng Đông Miombo là một vùng sinh thái của Tanzania, Malawi, và Mozambique. Hệ sinh thái Serengeti nằm ở tây bắc Tanzania và trải dài tới phía tây nam Kenya. Lòng chảo Kalahari gồm Sa mạc Kalahari bao quanh bởi một vành đai bán sa mạc Bushveld là một vùng sinh thái savanna nhiệt đới của miền Nam châu Phi. Karoo là một bán sa mạc ở phía tây Nam Phi. == Lịch sử == === Tiền sử === Vùng Đường nứt Đông Phi là nơi được cho là nguồn gốc loài người. Người thông minh đã xuất hiện khoảng 250.000 năm trước, và bắt đầu di cư khắp châu Phi, tới Nam Phi (L1) và Tây Phi (L2), trước khi di cư ra khỏi châu Phi khoảng 70.000 năm trước (L3). Cuộc mở rộng Bantu là một cuộc di cư lớn bắt nguồn từ Tây Phi khoảng 2500 trước Công Nguyên, tới Đông và Trung Phi ở năm 1000 trước Công Nguyên và Nam Phi ở những thế kỷ đầu tiên sau Công Nguyên. Sau khi Sahara trở thành một sa mạc, nó không phải là một barrier ngăn cách hoàn toàn với các du khách giữa Bắc và Nam bởi con người đã biết từ sử dụng dè xẻn cho tới việc mang theo nước, lương thực và đồ hậu cần cho việc băng qua sa mạc. Trước khi lạc đà được xuất hiện, việc dùng bò để vượt sa mạc là điều thường thấy, và các con đường thương mại dọc theo các ốc đảo đã kéo dài qua sa mạc. Mọi người cho rằng lạc đà lần đầu tiên được đưa tới Ai Cập sau thời Đế chế Ba Tư chinh phục Ai Cập năm 525 trước Công Nguyên, dù các đàn gia súc lớn vẫn chưa phải là điều thường thấy ở Bắc Phi đủ để tạo nên một con đường thương mại xuyên Sahara cho tới thế kỷ thứ 8 sau Công Nguyên. === Đông Phi === Xem thêm thông tin: Lịch sử Ethiopia Sự phân bố của hệ ngôn ngữ Nilo-Sahara là bằng chứng của một sự liên hệ chắc chắn của trung Sahara, Sahel và Đông Phi từ những thời tiền sử. Nubia cổ có lẽ đã hoạt động như một cây cầu kết nối Ai Cập cổ đại với châu Phi hạ Sahara, dựa trên những dấu vết của dòng chảy gene từ nam lên bắc thời tiền sử. Kush, Nubia ở giai đoạn hùng mạnh nhất của mình được coi là nền văn minh đô thị cổ nhất của châu Phi hạ Sahara. Nubia là một nguồn cung cấp vàng lớn cho thế giới cổ đại. Vì thế, ngôn ngữ Nubia cổ chính nó là một thành viên của hệ Nilo-Sahara. Tiếng Nubia cổ (có thể cho rằng bên cạnh Meroitic) thể hiện ngôn ngữ châu Phi cổ nhất được chứng nhận bên ngoài nhóm Afro-Asiatic. Đế chế Axumite trải dài từ phía nam Sahara và Sahel dọc theo bờ biển phía tây của Hồng Hải. Nằm ở phía bắc Ethiopia và Eritrea, Aksum liên quan sâu vào mạng lưới thương mại giữa Ấn Độ và Địa Trung Hải. Xuất hiện từ khoảng thế kỷ thứ 4 trước Công Nguyên, nó phát triển hùng mạnh ở thế kỷ thứ nhất sau Công Nguyên. Kế tục nó là triều đại Zagwe ở thế kỷ thứ 10. Nhiều phần phía tây bắc Somalia nằm dưới sự kiểm soát của Đế chế Ethiopia ở thế kỷ thứ 14, cho tới năm 1527 một cuộc nổi dậy của Imam Ahmad ibn Ibrihim al-Ghazi đã dẫn tới cuộc xâm lược Ethiopia. Triều đại Ajuran đã cai trị nhiều vùng của Đông Phi từ thế kỷ 16 đến thế kỷ 20. Sự gần gũi của Kenya với Bán đảo Ả Rập đã tạo điều kiện cho quá trình thực dân hoá, và những khu vực định cư Ả Rập và Ba Tư đã xuất hiện dọc theo bờ biển ở thế kỷ thứ 8. Trong thiên niên kỷ đầu tiên sau Công Nguyên, những bộ tộc nói các ngôn ngữ Nilotic vàBantu đã di chuyển vào trong vùng, và người Bantu hiện đã chiếm ba phần tư dân số Kenya. Ở những thế kỷ trước quá trình thực dân hoá, bờ biển Swahili của Kenya là một phần của vùng Đông Phi có quan hệ thương mại với thế giới Ả Rập và Ấn Độ đặc biệt là buôn bán ngà voi và nô lệ. Swahili, một ngôn ngữ Bantu có nhiều từ mượn của tiếng Ả Rập, Ba Tư và các ngôn ngữ Trung Đông và Nam Á khác, đã phát triển như một ngôn ngữ chung cho thương mại giữa các tộc người khác nhau. Năm 1498, Vasco da Gama trở thành người Châu Âu đầu tiên tới bờ biển Đông Phi, và tới năm 1525 người Bồ Đào Nha đã chinh phục toàn bộ bờ biển. Sự cai trị của Bồ Đào Nha kéo dài tới tận đầu thế kỷ 18, khi người Ả Rập từ Oman đã thiết lập được cơ sở chắc chắn trong vùng. Với sự hỗ trợ của người Ả Rập Oman, các cư dân bản xứ dọc bờ biển đã thành công trong việc đánh đuổi người Bồ Đào Nha khỏi vùng phía bắc Sông Ruvuma hồi đầu thế kỷ 18. === Tây Phi === Xem thêm thông tin: Vương quốc Sahelian Văn hoá Nok được biết đến từ một kiểu hình trang trí đất nung được tìm thấy ở Nigeria, có niên đại trong khoảng năm 500 trước Công Nguyên tới năm 200 sau Công nguyên. Có một số vương quốc thời trung cổ ở phía nam Sahara và Sahel, dựa trên con đường thương mại xuyên Sahara, gồm Đế chế Ghana và Đế chế Mali, Đế chế Songhai, Đế chế Kanem và sau đó là Đế chế Bornu. Đế chế Benin là một nhà nước tiền thuộc địa của Nigeria (1440–1897). Các vương quốc Ifẹ và Oyo ở khối phía tây Nigeria trở nên hùng mạnh trong khoảng năm 700–900 và 1400. Một vương quốc mạnh khác ở phía tây nam Nigeria là Vương quốc Benin, thời kỳ hùng mạnh của họ kéo dài từ thế kỷ 15 đến thế kỷ 19. Tầm ảnh hưởng của chúng đạt tới tận thành phố Eko nổi tiếng và thành phố này đã được các thương nhân Bồ Đào Nha và những người châu Âu định cư đầu tiên đặt tên là Lagos. Ở thế kỷ 18, Oyo và liên minh Aro là đầu mối của hầu hết nô lệ được xuất khẩu từ Nigeria. Sau những cuộc chiến tranh Napoleon, người Anh đã mở rộng thương mại với phần nội địa Nigeria. Năm 1885, người Anh tuyên bố vùng Tây Phi thuộc ảnh hưởng của họ và nhận được sự công nhận quốc tế và vào năm sau đó Công ty Hoàng gia Niger được hưởng đặc quyền dưới sự lãnh đạo của Ngài George Taubman Goldie. Năm 1900 lãnh thổ của công ty thuộc quyền kiểm soát của Chính phủ Anh, và nước Anh sẽ củng cố quyền cai quản của mình trên một vùng lãnh thổ sẽ trở thành nước Nigeria hiện đại. Ngày 1 tháng 1 năm 1901 Nigeria trở thành một nhà nước bảo hộ thuộc Anh Quốc, một phần của Đế chế Anh, cường quốc mạnh nhất thế giới thời kỳ đó. === Trung Phi === Xem thêm thông tin: Mở rộng Bantu, Lịch sử Tiền Congo, Nhà nước Congo Tự do, và Lịch sử Cộng hoà Congo Cuộc mở rộng Bantu có những bộ phận trung tâm đầu tiên ở Tây Phi, được phân chia thành nhóm Tây và Đông Bantu ở khoảng năm 1500 trước Công Nguyên. Nhóm Đông có trung tâm tại Urewe, ở nửa đầu thiên niên kỷ thứ nhất trước Công Nguyên. Một loạt các cuộc mở rộng về phía nam sau đó, thành lập nên một hạt nhân của Congo ở cuối thiên niên kỷ thứ nhất trước Công Nguyên. Trong một động thái cuối cùng, cuộc mở rộng Bantu đạt tới miền nam châu Phi ở thiên niên kỷ thứ nhất sau Công Nguyên. === Miền Nam châu Phi === Những khu định cư đầu tiên của những người nói tiếng Bantu, là những người chăn nuôi và trồng trọt thời đồ sắt, đã hiện diện ở phía nam Sông Limpopo ở thế kỷ thứ 4 hay thứ 5 (xem Mở rộng Bantu) thay thế và hấp thu những bộ tộc nói tiếng Khoi-San nguyên thuỷ. Cuộc di cư chậm chạp về phía nam và những dụng cụ đồ sắt đầu tiên ở Tỉnh KwaZulu-Natal hiện nay được cho là có niên đại khoảng năm 1050. Nhóm ở xa nhất phía nam là người Xhosa, ngôn ngữ của họ có pha trộn một số nét ngôn ngữ của người Khoi-San trước đó, đạt tới Fish River, ở Tỉnh Eastern Cape ngày nay. Monomotapa là một vương quốc trung cổ (khoảng 1250–1629) thường trải dài giữa các con sông Zambezi và Limpopo ở miền Nam châu Phi tại các quốc gia Zimbabwe và Mozambique hiện này. Vương quốc này nổi tiếng về các tàn tích của thủ đô cũ của họ tại Great Zimbabwe. Năm 1487, Bartolomeu Dias trở thành người châu Âu đầu tiên đi tới mũi cực nam châu Phi. Năm 1652, một trạm tiếp tế được thành lập ở Mũi Hảo Vọng bởi Jan van Riebeeck thay mặt cho Công ty Đông Ấn Hà Lan. Trong hầu hết thế kỷ 17 và 18, các khu định cư thuộc Hà Lan dần mở rộng. Anh Quốc đã chiếm vùng Mũi Hảo Vọng năm 1795, bề ngoài là để ngăn nó rơi vào tay người Pháp nhưng cũng là để tìm cách sử dụng Cape Town như một điểm dừng trên con đường tới Australia và Ấn Độ. Sau này Anh trao trả lại nó cho Hà Lan năm 1803, nhưng ngay sau đó Công ty Đông Ấn Hà Lan đã tuyên bố phá sản, và người Anh sáp nhập Cape Colony năm 1806. Vương quốc Zulu (1817–79) là một nhà nước bộ tộc ở phía nam châu Phi ở nơi hiện là Kwa-Zulu ở phía đông nam Nam Phi. Vương quốc nhỏ này trở nên nổi tiếng thế giới sau cuộc Chiến tranh Anh-Zulu. == Nhân khẩu và Kinh tế == Châu Phi hạ Sahara là vùng nghèo nhất thế giới, nó phải nhiều chịu ảnh hưởng từ sự quản lý kinh tế yếu kém, tình trạng tham nhũng và những cuộc xung đột sắc tộc. Hầu hết các quốc gia ở đây là những nước kém phát triển của thế giới (Xem Kinh tế châu Phi.) Các quốc gia châu Phi hạ Sahara hình thành nên các quốc gia ACP. Bệnh sốt rét là căn bệnh kinh niên ảnh hưởng tới sự phát triển kinh tế. Bệnh dịch này phát triển chậm với tốc độ 1.3% mỗi năm trong thời gian qua vì sự ốm yếu và chi các chi phí chữa trị khiến nó không thể bị ngăn chặn. Theo Ngân hàng Thế giới, GDP của vùng đáng ra đã tăng 32% năm 2003 nếu bệnh dịch bị tiêu diệt năm 1960. Dân số của châu Phi hạ Sahara là 800 triệu người năm 2007. Tỷ lệ tăng hiện tại là 2.3%. Liên hiệp quốc dự báo dân số vùng này sẽ là gần 1.5 tỷ người năm 2050. Các quốc gia châu Phi hạ Sahara nằm đầu bảng trong danh sách các quốc gia và vùng lãnh thổ theo tỷ suất sinh với 40 trong 50 quốc gia đứng đầu, tất cả đều có TFR lớn hơn 4 năm 2008. Tất cả các quốc gia đều ở trên mức trung bình của thế giới ngoại trừ Nam Phi. Các con số về tuổi thọ, suy dinh dưỡng, tỷ lệ tử vong trẻ sơ sinh và HIV/AIDS đều ở mức báo động. Hơn 40% dân số tại các quốc gia châu Phi hạ Sahara trẻ hơn 15 tuổi, như tại Sudan ngoại trừ Nam Phi. Châu Phi hạ Sahara có tỷ lệ tử vong trẻ em rất cao. Trong năm 2002, một trong sáu trẻ em (17%) chết trước khi lên 5, tới năm 2007 tỷ lệ này đã giảm xuống 16%, ở mức một trên bảy (15%). Nguyên nhân tử vong hàng đầu là sốt rét. === Y tế === Năm 1987, Bamako là địa điểm tổ chức một hội nghị của WHO được gọi là Sáng kiến Bamako giúp tái lập chính sách y tế cho châu Phi hạ Sahara. Chính sách mới làm gia tăng mạnh khả năng tiếp cận dịch vụ y tế thông qua cải cách y tế dựa trên cộng đồng, mang lại các dịch vụ hiệu quả và hợp lý hơn. Một chiến lược tiếp cận toàn diện đã được mở rộng cho mọi khu vực trong lĩnh vực y tế, với sự cải thiện sau đó của các chỉ số chăm sóc sức khoẻ và sự cải thiện hiệu quả chăm sóc y tế và giá thành chữa trị. Tới tháng 10 năm 2006 nhiều chính phủ phải đối mặt với những khó khăn trong việc áp dụng các chính sách với mục tiêu giảm nhẹ các hậu quả của dịch bệnh AIDS vì thiếu sự hỗ trợ kỹ thuật dù một số biện pháp đã được đưa ra. === Các nhóm ngôn ngữ và sắc tộc === Xem thêm thông tin: Các ngôn ngữ châu Phi, người châu Phi, Danh sách các nhóm sắc tộc châu Phi, và Các nhóm sắc tộc Trung Đông Những người nói các ngôn ngữ Bantu (một phần của hệ Niger-Congo) chiếm đa số ở vùng nam, trung và đông Phi. Nhưng cũng có nhiều nhóm Nilotic ở Đông Phi, và một số thổ dân Khoisan ('San' hay 'Bushmen') và người Pygmy ở miền nam và trung Phi. Người châu Phi nói tiếng Bantu cũng chiếm đa số ở Gabon và Guinea xích đạo, và xuất hiện ở một số vùng phía nam Cameroon và nam Somalia. Tại Sa mạc Kalahari ở miền Nam châu Phi, một bộ tộc riêng biệt được gọi là Bushmen (cũng gọi là "San", có mối liên hệ gần, nhưng khác biệt với người "Hottentots") đã có mặt từ lâu. Người San về thể chất khác biệt với những sắc tộc châu Phi khác và là người thổ dân của miền Nam châu Phi. Người Pigmy là người thổ dân tiền Bantu tại Trung Phi. Nam Phi là nước có số dân da trắng, người Ấn Độ và người da màu đông nhất ở châu Phi. Thuật ngữ người da màu được dùng để miêu tả những người lai ở Nam Phi và Namibia. Những hậu duệ của người Châu Âu ở Nam Phi gồm Afrikaner và một số khá đông người Anglo-Africans và Portuguese Africans. Dân số Madagascar chủ yếu là người lai Austronesia (Pacific Islander) và Người Phi. Khu vực phía nam Sudan là nơi sinh sống của người Nilotic. Danh sách các ngôn ngữ chính của châu Phi hạ Sahara theo vùng, hệ và tổng số người sử dụng như ngôn ngữ mẹ đẻ theo triệu người: Đông Phi Afro-Asiatic Amharic: 35-42 Somali: 15 Tigrinya: 7 Oromo: 30-35 Niger-Congo, Narrow Bantu: Swahili: 5-10 Chichewa: 9 Gikuyu (Kenya): 5 Luhya: 4 Tây Phi Niger-Congo Volta-Congo Benue-Congo Yoruba: 25 Ibibio (Nigeria): 8-12 Igbo (Nigeria): 10-16 Akan (Ghana): 9 More: 5 Fula-Wolof Fula (Tây Phi): 10-16 Wolof: 3 Afro-Asiatic Hausa: 24 Nilo-Sahara Kanuri: 4 Miền Nam châu Phi Niger-Congo, Narrow Bantu Zulu: 10 Xhosa: 8 Shona: 7 Sotho: 5 Tswana: 4 Umbundu (Angola): 4 Bắc Sotho: 4 Afrikaans: 6-7 Trung Phi Niger-Congo, Narrow Bantu Kinyarwanda (Rwanda) 7 Kongo: 7 Tshiluba: 6 Kirundi: 5 === Tôn giáo === Xem thêm thông tin: Tôn giáo ở châu Phi Bắc Phi chủ yếu thuộc ảnh hưởng của Hồi giáo, trong khi châu Phi hạ Sahara, ngoại trừ vùng Sừng châu Phi, chủ yếu theo Thiên chúa giáo. Các tôn giáo lớn hoà trộn với các tôn giáo hay thần thoại truyền thống hay bộ tộc. Tây Phi Thần thoại Akan Thần thoại Ashanti (Ghana) Thần thoại Dahomey (Fon) Thần thoại Efik (Nigeria, Cameroon) Thần thoại Igbo (Nigeria, Cameroon) Thần thoại Isoko (Nigeria) Thần thoại Yoruba (Nigeria, Benin) Trung Phi Thần thoại Bushongo (Congo) Thần thoại Bambuti (Pygmy) (Congo) Thần thoại Lugbara (Congo) Đông Phi Thần thoại Akamba (Đông Kenya) Thần thoại Dinka (Sudan) Thần thoại Lotuko (Sudan) Thần thoại Masai (Kenya, Tanzania) Miền Nam châu Phi Thần thoại Khoikhoi Thần thoại Lozi (Zambia) Thần thoại Tumbuka (Malawi) Thần thoại Zulu (Nam Phi) == Danh sách quốc gia == Chỉ sáu nước châu Phi về địa lý không phải là một phần của châu Phi hạ Sahara: Algérie, Ai Cập, Libya, Maroc, Tunisia, Tây Sahara (Morocco tuyên bố chủ quyền). Cùng với Sudan, chúng hình thành nên Cận vùng Liên hiệp quốc của Bắc Phi. Mauritanie và Niger chỉ gồm một dải Sahel dọch theo biên giới phía nam của họ. Tất cả các quốc gia châu Phi khác ít nhất có một phần lãnh thổ quan trọng bên trong châu Phi hạ Sahara. === Trung Phi === ECCAS (Cộng đồng Kinh tế các Quốc gia Trung Phi) Angola (cũng trong SADC) Cộng hoà Dân chủ Congo (cũng trong SADC) Rwanda (cũng trong EAC) Burundi (cũng trong EAC) São Tomé và Príncipe CEMAC (Cộng đồng Kinh tế và Tiền tệ Trung Phi) Cộng hoà Congo Cộng hoà Trung Phi Cameroon Tchad Guinea xích đạo Gabon === Sudan === Miền Nam Sudan (vùng tự trị của Sudan với cuộc trưng cầu dân ý về độc lập năm 2011) === Đông Phi === ==== Cộng đồng Đông Phi ==== Kenya Tanzania (cũng trong SADC) Uganda Rwanda (cũng trong ECCAS) Burundi (cũng trong ECCAS) ==== Sừng châu Phi ==== Ethiopia Eritrea Djibouti Somalia === Miền Nam châu Phi / SADC === Angola (cũng trong ECCAS) Botswana Comoros Lesotho Madagascar (thỉnh thoảng được gồm vào, không phải một phần của lục địa châu Phi) Malawi Mozambique Mauritius Namibia Seychelles Nam Phi Swaziland Zambia Zimbabwe === Tây Phi === Mauritanie ECOWAS (Cộng đồng Kinh tế các Quốc gia Tây Phi) Gambia Ghana Guinea Liberia Nigeria Sierra Leone UEMOA (Liên minh Kinh tế và Tiền tệ Tây Phi) Bénin Burkina Faso Côte d'Ivoire Guinea-Bissau Mali Niger Senegal Togo == Xem thêm == Địa lý châu Phi Châu Phi xích đạo Người da đen == Tham khảo == == Nguồn == Taking Action to Reduce Poverty in Sub-Saharan Africa, World Bank Publications (1997), ISBN 0-8213-3698-3. == Liên kết ngoài == USAID UNFPA UNAIDS IMF World Bank USA State department travel tips
giáo hội công giáo rôma.txt
Giáo hội Công giáo (cụ thể hơn gọi là Giáo hội Công giáo Rôma) là một giáo hội thuộc Kitô giáo, hiệp thông hoàn toàn với vị Giám mục Giáo phận Rôma, hiện nay là Giáo hoàng Phanxicô. Giáo hội Công giáo hiện là nhánh Kitô giáo lớn nhất, với trên một tỉ thành viên, chiếm hơn một nửa số Kitô hữu và 1/6 dân số thế giới. Họ coi mình là giáo hội duy nhất do chính Chúa Giêsu Kitô (Kitô hay Cơ Đốc, trước đây phiên âm là Kirixitô đều mang nghĩa là "đấng được xức dầu") thiết lập dựa trên các tông đồ của Chúa Giêsu, giáo hoàng là người kế vị tông đồ trưởng Phêrô, còn các Giám mục là những người kế vị các tông đồ khác. Dưới sự lãnh đạo của Giáo hoàng, Giáo hội Công giáo xác định nhiệm vụ của họ là truyền bá Phúc Âm của Chúa Giêsu Kitô, cử hành các bí tích - đặc biệt là Bí tích Thánh Thể - và thực hành bác ái. Bà Maria cũng chiếm một vị trí quan trọng trong đức tin của người Công giáo. Họ tôn kính bà vì tin rằng bà nhận được những đặc ân của Thiên Chúa mà không người phụ nữ nào khác có được: vô nhiễm nguyên tội, làm Mẹ Chúa Giêsu, đồng trinh trọn đời và hồn xác được lên thiên đàng. Được xem là một trong những tổ chức lâu đời nhất trên thế giới, Giáo hội Công giáo đã đóng vai trò nổi bật trong lịch sử nền văn minh Phương Tây. Đây cũng là tôn giáo được tổ chức lớn và chặt chẽ. Ngày nay, Giáo hội Công giáo hoàn vũ được chia thành nhiều giáo phận ở nhiều quốc gia, thông thường là trên cơ sở lãnh thổ hành chính; lãnh đạo mỗi giáo phận là một vị giám mục chính tòa. == Thuật ngữ == Thuật ngữ Catholic - bắt nguồn từ chữ καθολικός (katholikos) trong tiếng Hy Lạp., có nghĩa là "phổ quát", "chung" - lần đầu tiên được sử dụng để mô tả về Giáo hội từ những năm đầu Thế kỷ thứ 2. Chữ Katholikos là biến thể từ chữ ‘’καθόλου’’ (katholou) do sự kết hợp giữa hai từ κατὰ ὅλου (kata holou), có nghĩa là "theo như toàn bộ". Từ nguyên nói trên được dịch sang tiếng Việt là "Công giáo". Như vậy tên gọi Giáo hội Công giáo có nghĩa là "Giáo hội phổ quát". Kể từ sau cuộc Ly giáo Đông - Tây năm 1054, một số giáo hội vẫn còn giữ lại sự hiệp thông với Tòa Rôma (gồm giáo phận Rôma, Giám mục của giáo phận này là Giáo hoàng, tức thượng phụ giáo chủ tối cao) và vẫn dùng danh xưng là "Công giáo". Trong khi đó, các giáo hội khác ở phía Đông bắt đầu từ chối thẩm quyền tối cao của Giáo hoàng và họ coi giáo hội của mình mới là giáo hội "chính thống" kế thừa nguyên thủy từ thời Chúa Giêsu, vì vậy mới xuất hiện danh xưng "Chính Thống giáo Đông Phương". Sau cuộc Cải cách Kháng Cách hồi Thế kỷ 16, các giáo hội "hiệp thông với Giám mục Rôma" vẫn tiếp tục để sử dụng từ "Công giáo" để chỉ chính mình, nhằm phân biệt với các giáo phái đã tách ra, mà thường được biết đến với tên gọi là Tin Lành. Có không ít sự bất đồng về cách dùng từ giữa "Giáo hội Công giáo Rôma" và "Giáo hội Công giáo", nguyên nhân là do một vài nhánh Kitô giáo khác cũng tuyên bố họ là "Công giáo" (nghĩa là tôn giáo phổ quát). Đặc biệt, Chính thống giáo Đông phương thích áp dụng thuật ngữ "Giáo hội Công giáo Rôma" để chỉ rõ trung tâm giáo hội này ở Rôma, nhằm phân biệt với các giáo hội Đông phương có trung tâm ở Constantinopolis (nay là Istanbul). Nhiều người Công giáo thích gọi ngắn gọn là "Công giáo" thay vì "Công giáo Rôma". Thuật từ "Giáo hội Công giáo" là cách gọi phổ biến nhất được dùng trong các văn kiện chính thức của Giáo hội, cũng là thuật từ mà Giáo hoàng Phaolô VI dùng khi ký các văn kiện của Công đồng Vatican II. Tuy nhiên, cả các văn kiện xuất bản bởi Tòa Thánh và một số Hội đồng Giám mục đôi khi cũng dùng cách gọi "Giáo hội Công giáo Rôma". == Tổ chức và quản trị == === Giáo huấn và Giáo Triều === Hệ thống phẩm trật của Giáo hội Công giáo đứng đầu là vị Giám mục Giáo phận Rôma, chức danh là giáo hoàng. Ông được tín hữu coi là đại diện cao nhất của Thiên Chúa ở trần gian, người có quyền uy, ảnh hưởng lớn nhất trong Giáo hội Công giáo toàn cầu (trong đó bao gồm cả giáo hội theo nghi lễ Latinh và những giáo hội Công giáo theo nghi lễ Đông phương nhưng có hiệp thông trọn vẹn với Rôma). Thuật ngữ "Đông Phương" và "Tây Phương" mà Giáo hội Công giáo sử dụng không hàm ý chỉ về châu Á hay châu Âu nhưng chỉ về khu vực lãnh thổ của giáo hội trong lịch sử và văn hóa, với hai trung tâm là Rôma (Tây Phương) và Constantinopolis (Đông Phương). Giáo hoàng hiện nay là Giáo hoàng Phanxicô, người được bầu trong một cuộc Mật nghị Hồng y vào ngày 13 tháng 3 năm 2013. Thẩm quyền của Giáo hoàng gọi là Giáo huấn (Papacy), nghĩa là quyền giảng dạy tín hữu. Cơ quan trung ương giáo huấn thường được gọi là "Tòa Thánh" (Sancta Sedes trong tiếng Latinh), hoặc "Tông Tòa" (Apostolic See) nghĩa là "ngai tòa của Thánh Phêrô Tông đồ". Trực tiếp cộng tác với Giáo hoàng là Giáo triều Rôma, tức cơ quan quản lý và điều hành hoạt động của Giáo hội Công giáo. Giáo hoàng cũng là nguyên thủ quốc gia của Thành Vatican, một quốc gia có chủ quyền đầy đủ trên một lãnh thổ nằm trong thành phố Rôma, thủ đô nước Ý. Sau khi một vị Giáo hoàng qua đời hoặc từ chức, chỉ có các thành viên dưới 80 tuổi trong Hồng y Đoàn mới có quyền họp tại Nhà nguyện Sistina ở Rôma để bầu ra Giáo hoàng mới. Mặc dù cuộc bầu chọn này, thực tế chỉ dành riêng cho các hồng y bầu chọn cho nhau, nhưng về mặt lý thuyết, bất kỳ người nam nào theo đạo Công giáo cũng có thể được chọn làm Giáo hoàng. Kể từ 1389, chỉ có hồng y mới được nâng lên vị trí đó. Hồng y là một tước hiệu danh dự mà Giáo hoàng ban cho một số giáo sĩ Công giáo, phần lớn là các vị lãnh đạo trong Giáo triều Rôma, các Giám mục của các thành phố lớn và các nhà thần học lỗi lạc, phụ giúp Giáo hoàng quản trị Giáo hội. === Các phương quản trị đặc biệt === Giáo hội Công giáo Hoàn vũ gồm có 23 phương quản trị (sui iuris). Lớn nhất trong số các phương quản trị này là Giáo hội Latinh, gồm hơn 1 tỷ giáo dân, phát triển ở Tây Âu trước khi lan rộng khắp thế giới. Vì thế, mỗi khi nhắc đến Giáo hội Công giáo, nhiều người thường đề cập đến giáo hội này. Giám mục thành Rôma (giáo hoàng) là thượng phụ của phương quản trị Giáo hội Latinh. Giáo hội Latinh coi mình là nhánh lâu đời nhất và lớn nhất của Kitô giáo Tây Phương. Nhỏ bé hơn so với Giáo hội Latinh là 22 phương tự trị giáo hội ở Đông Phương1 với 17,3 triệu giáo dân. Mỗi phương quản trị (hay "lễ chế") trong số đó đều chấp nhận thẩm quyền của vị Giám mục Rôma về các vấn đề giáo lý. Những lãnh thổ này sở dĩ gọi là "tự quản đặc biệt" là vì cộng đoàn Kitô hữu Công giáo ở đó có khác nhau về lịch sử, văn hóa, hình thức lễ nghi, thờ phượng chứ không khác biệt về giáo lý. Nói chung, đứng đầu mỗi phương quản trị thế này là một thượng phụ (patriarch) hay giám mục cao cấp, và họ được trao quyền quản trị đối với lãnh thổ của mình ở một mức độ tương đối về các nghi thức phụng vụ, lịch phụng vụ, và các khía cạnh thờ phượng khác. Các phương quản trị giáo hội Công giáo ở Đông Phương là những tín hữu vẫn theo các niềm tin và truyền thống của Kitô giáo Đông Phương nhưng vẫn luôn hiệp thông trọn vẹn với Giáo hội Công giáo; hoặc những tín hữu đã ly khai sau cuộc Ly giáo Đông - Tây nay trở về hiệp thông với Rôma. Thượng phụ của các phương quản trị Công giáo Đông Phương do Thượng hội đồng Giám mục (synod of the bishops) của giáo hội đó bầu lên, các chức vị khác lần lượt là: tổng giám mục miền, giám mục v.v.. Tuy nhiên, Giáo hội Latinh có Giáo triều Rôma được tổ chức cụ thể hơn, gồm có Thánh Bộ các Giáo hội Đông Phương, để duy trì mối quan hệ với họ. === Các giáo phận, giáo xứ và dòng tu === Giáo hội Công giáo tại từng quốc gia, khu vực, hoặc các thành phố lớn gọi là giáo hội địa phương, được tổ chức thành giáo phận (diocese hoặc eparchies, tùy văn cảnh là Đông phương hay Tây phương), mỗi giáo phận do một Giám mục Công giáo lãnh đạo. Tính đến năm 2012, toàn Giáo hội Công giáo (cả Đông phương và Tây phương) gồm 2.966 đơn vị hành chính tương đương giáo phận. Các Giám mục trong một quốc gia hoặc khu vực cụ thể thường được tổ chức thành một Hội đồng Giám mục. Hội đồng Giám mục là nơi quy tụ các vị lãnh đạo Giáo hội trong một quốc gia hay một lãnh thổ để hợp nhất với nhau thi hành mục vụ theo thể cách và phương thức thích hợp với hoàn cảnh. Các giáo phận lại được phân thành rất nhiều cộng đoàn nhỏ được gọi là giáo xứ (hay xứ đạo, họ đạo), mỗi giáo xứ có một hoặc nhiều linh mục, phó tế lãnh đạo dưới quyền của Giám mục. Giáo xứ là đơn vị có trách nhiệm trực tiếp cử hành Thánh lễ, các bí tích và mục vụ cho giáo dân Công giáo. Mọi giáo dân đều có thể gia nhập vào đời sống tu trì tại các dòng tu. Các giáo dân nam giới còn có quyền học tập để được thụ phong thành linh mục. Mọi tu sĩ Công giáo thường phải thực hiện theo ba lời khuyên trong Phúc Âm là: khó nghèo, khiết tịnh và vâng phục. Các dòng tu nổi tiếng là: Dòng Biển Đức, Dòng Cát Minh, Dòng Đa Minh, Dòng Phanxicô, Dòng Thừa Sai Bác Ái, Dòng Tên... === Hàng Giáo phẩm === Giáo hội Công giáo có tổ chức phẩm cấp, mỗi cấp có người trị sự được Giáo hội chỉ định với ba chức Thánh2 sau: Giám mục, linh mục và phó tế. Các chức danh giáo sĩ đó đều phải cam kết sống độc thân. Giám mục: là những người kế vị các Thánh Tông đồ, các vị này có đầy đủ quyền năng và uy phong như nhau, kể cả Giáo hoàng. Nhưng vì Giáo hoàng là vị tông đồ "trưởng" - là vị thủ lĩnh các tông đồ nên có quyền quyết định cao hơn mà thôi. Giám mục chính tòa là người lãnh đạo một giáo phận với lãnh thổ tương đương với cấp tỉnh, thành phố của một quốc gia. Các Giám mục được quyền tấn phong một linh mục làm Giám mục khi đã được Giáo hoàng ủy quyền, truyền chức linh mục cũng như phó tế và cử hành mọi bí tích. Các Giám mục lãnh đạo giáo phận lớn hoặc giữ chức vụ quan trọng thường được phong lên danh hiệu là tổng Giám mục. Thông thường, các Giám mục phải thực hiện chuyến đi visita ad limina3 theo định kỳ để trình bản báo cáo về giáo phận của mình lên Giáo hoàng. Linh mục: là những người phụ giúp cho Giám mục trong việc phục vụ và quản trị giáo hội địa phương. Các linh mục phải được xác định thuộc thẩm quyền của Giám mục nào. Linh mục Công giáo luôn luôn là nam giới, và chưa hề có ngoại lệ cho phụ nữ. Các linh mục được cử hành Thánh lễ cũng như các bí tích khác khi có chuẩn y của Giám mục. Nếu là linh mục triều thì thường cai quản một giáo xứ trong giáo phận, còn linh mục dòng thì sống trong nhà dòng hoặc làm công việc truyền giáo. Khi hội đủ những điều kiện cần và đủ thì một linh mục, qua sự đề cử của Giám mục trên quyền, có thể được Giáo hoàng chọn làm Giám mục. Các linh mục có công lao lớn cho giáo hội thường được phong danh hiệu đức ông. Phó tế: là những người dưới cấp linh mục và thông thường thì mọi phó tế sẽ được phong làm linh mục (ngoại trừ chức phó tế vĩnh viễn). Danh hiệu hồng y do Giáo hoàng phong cho những Giám mục (trường hợp đặc biệt là linh mục) có vai trò, vị trí hoặc đóng góp lớn cho Giáo hội Công giáo. Ngoài ra còn có các thừa tác viên phụng vụ. Từ Công đồng Vatican II, Giáo hội cho phép những người trưởng thành dù đã kết hôn được phong chức thừa tác viên vĩnh viễn. Họ có thể đảm nhận vai trò đọc Phúc âm, dạy giáo lý, phụ tá rửa tội, dẫn dắt phụng vụ, làm chứng hôn phối, hướng dẫn nghi thức tang lễ... == Thực hành tôn giáo == Giáo hội Công giáo có sự phân biệt giữa nghi thức phụng vụ chung của toàn cộng đoàn và việc cầu nguyện hoặc thực hành sống đạo riêng của từng cá nhân. Các nghi thức phụng vụ chung đều do Giáo hội quy định, gồm có Thánh lễ, các Bí tích và Các giờ kinh Phụng vụ. Tất cả tín hữu Công giáo được Giáo hội khuyến khích tham dự vào các nghi thức phụng, nhưng việc cầu nguyện và sống đạo là vấn đề cá nhân, không ai có thể can thiệp vào ai. === Thánh lễ === Trung tâm của việc thờ phượng là cử hành Bí Tích Thánh Thể. Theo giáo lý của Giáo hội Công giáo, mỗi lần cử hành Thánh lễ thì bánh mì và rượu nho trở thành Mình và Máu của Chúa Kitô, qua lời truyền phép của linh mục. Đó là sự biến đổi về bản thể (thần tính) chứ không phải về vật lý (lý tính). Những lời truyền phép này được trích ra từ Phúc âm Nhất lãm và một lá thư của Tông đồ Phaolô4. Giáo hội dạy rằng, Chúa Kitô đã thiết lập một Giao Ước Mới (Tân Ước) với nhân loại thông qua việc cử hành Bí tích Thánh Thể trong bữa Tiệc Ly, theo như Kinh Thánh đã chép. Bởi vì họ tin rằng Chúa Kitô hiện diện trong Thánh Thể, nên có những quy tắc nghiêm ngặt về việc lãnh nhận Bí tích Thánh Thể (rước lễ). Bí tích này chỉ có thể được cử hành bởi một linh mục hay Giám mục Công giáo. Những người cho rằng mình đang phạm tội trọng thì bị cấm không được lãnh nhận bí tích cho đến khi họ đã nhận được ơn tha thứ thông qua các Bí tích Hòa Giải. Người Công giáo thường phải nhịn ăn uống (ngoại trừ nước lã và thuốc trị bệnh) ít nhất một giờ trước khi rước lễ5. Người Công giáo không được phép lãnh nhận bánh và rượu được cử hành trong các nhà thờ Tin Lành, vì theo quan điểm của Giáo hội Công giáo, các nhánh Tin Lành đã thiếu đi Bí tích Truyền Chức Thánh, và do đó họ cũng không có Bí tích Thánh Thể hợp lệ. Còn tại các giáo hội Chính Thống giáo Đông phương, một tín hữu Công giáo vẫn có thể lãnh nhận Thánh Thể từ một nhà thờ thuộc giáo hội này trong hoàn cảnh đặc biệt có sự phê duyệt của giáo quyền địa phương, dù rằng việc đó là không được khuyến khích6. Tuy nhiên, đối với các Thánh lễ cử hành bởi giáo sĩ thuộc Hội Công giáo Yêu nước Trung Quốc (tổ chức không được Tòa Thánh công nhận), tín hữu vẫn có thể tham dự và rước lễ nếu không có sự lựa chọn nào khác. Cả 23 phương tự trị (sui iuris) của Giáo hội Công giáo đều có hình thức lễ nghi và truyền thống phụng vụ riêng của mình. Điều này phản ánh sự đa dạng về lịch sử và văn hóa chứ không phải là sự khác biệt trong đức tin. Các hình phụng vụ của lễ nghi Rôma được sử dụng phổ biến hơn cả, nhưng ngay cả trong giáo hội tại Latinh cũng chỉ sử dụng một vài lễ nghi khác nhau, còn các giáo hội tại Đông Phương thì có nghi thức riêng biệt cho từng giáo hội. Dù rằng có thể khác nhau về lễ nghi nhưng các giáo hội tự trị đều cử hành Bí tích Thánh Thể trong Thánh lễ và coi đó là trung tâm của tất cả các nghi thức phụng vụ Công giáo. ==== Lễ nghi Tây Phương ==== Lễ nghi Latinh (Rôma) là nghi thức thờ phượng được sử dụng phổ biến nhất của Giáo hội Công giáo. Lễ nghi này được sử dụng trên toàn thế giới, thông qua các hoạt động truyền giáo tích cực của các quốc gia Tây Âu (Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Pháp, Ý...) trong suốt chiều dài lịch sử Kitô giáo. Có hai ấn bản lễ nghi Rôma được sử phép sử dụng hiện nay: ấn bản sau năm 1969 của Sách Lễ Rôma (do Giáo hoàng Phaolô VI chuẩn nhận) hiện nay đang được sử dụng trong các ngôn ngữ bản địa trên khắp thế giới; và ấn bản năm 1962 (Thánh Lễ Tridentina). Kể từ năm 2007, nghi thức Thánh lễ bằng tiếng Latinh "Tridentina" được giáo hội bắt đầu sử dụng lại sau khi bị hủy bỏ từ Công đồng Vatican II năm 1963. Tại Hoa Kỳ, các giáo xứ lại sử dụng một lễ nghi riêng, là biến thể giữa lễ nghi Rôma nhưng vẫn giữ được một số từ ngữ trong phụng vụ Anh giáo. Dự kiến cũng sẽ có một lễ nghi riêng dành cho các cựu tín hữu Anh giáo nay gia nhập vào Giáo hội Công giáo. Ngoài ra còn có các lễ nghi Tây Phương khác (không phải Rôma) bao gồm Lễ nghi Ambrosian và Mozarabic. ==== Lễ nghi Đông Phương ==== Lễ nghi của cá giáo hội Công giáo ở Đông Phương thường tương tự với lễ nghi của Chính thống giáo và các giáo hội khác ở Đông Âu, Đông Bắc Phi, và Trung Đông không còn hiệp thông với Giám mục Rôma nữa. Giáo hội Công giáo Đông Phương là một trong hai nhóm tín hữu đã khôi phục hoàn toàn sự hiệp thông với Giám mục Rôma, nhưng vẫn giữ gìn bản sắc Kitô hữu Đông Phương độc đáo của họ. Các nghi lễ được sử dụng bởi giáo hội Công giáo Đông Phương bao gồm: lễ nghi Byzantine sử dụng ở Antiochian, Hy Lạp và Slave, lễ nghi Alexandria, lễ nghi Syria, lễ nghi Armenia, lễ nghi Maronite, và lễ nghi Chaldean. Trong những năm gần đây, giáo hội Công giáo Đông Phương đã quay trở lại với tập quán truyền thống phù hợp với Sắc lệnh về các Giáo hội Đông phương (Orientalium Ecclesiarum) của Công đồng Vatican II. Mỗi giáo hội có lịch phụng vụ riêng của mình. === Các Bí tích === Giáo hội Công giáo dạy rằng: các bí tích là những dấu hiệu thiêng liêng do Đấng Kitô lập ra và giao phó cho Giáo hội để ban lại cho chúng ta. Chúng mang lại hiệu quả Thánh thiện cho những ai thực tâm đón nhận chúng. Toàn bộ đời sống phụng vụ của Giáo hội xoay quanh việc cử hành Thánh lễ và các bí tích. Có bảy Bí tích được Giáo hội công nhận là: Thanh Tẩy (rửa tội), Thêm Sức, Thánh Thể, Bí tích Hòa Giải (giải tội), Truyền Chức Thánh, Xức Dầu Thánh và Hôn Phối. Những người bị vạ tuyệt thông thì mất quyền lãnh nhận các bí tích. === Các Giờ Kinh Phụng vụ === Các Giờ Kinh Phụng vụ (hay còn gọi là kinh nguyện) là những hoạt động sùng bái của các tín hữu ngoan đạo, đơn giản nhất là việc cầu nguyện vào buổi sáng và buổi tối, hình thức khác là một mình hay tụ họp lại để đọc Thánh Kinh và suy niệm. Ngoài nghi thức phụng vụ ra, Giáo hội Công giáo còn có một sự đa dạng về thực hành sống đạo mà cầu nguyện là hình thức rất được khuyến khích vì nó được coi là sự vận động để phát triển đời sống thiêng liêng của tín hữu, thắt chặt mối quan hệ giữa con người với Thiên Chúa. Các việc làm đạo đức rất được Giáo hội khuyến khích. Chúng có thể là việc tôn kính Thánh tượng, viếng nhà thờ, đi hành hương, rước kiệu, Đàng Thánh Giá, Chầu Thánh Thể và đọc Kinh Mân Côi. == Giáo lý Đức tin == Đức tin Công giáo được tóm lược trong Tín điều Nicea và thể hiện chi tiết trong Sách Giáo lý Công giáo. Căn cứ vào những lời hứa của Chúa Kitô trong Sách Phúc Âm, Giáo hội Công giáo tin rằng họ liên tục được hướng dẫn bởi Chúa Thánh Thần để bảo vệ họ không rơi vào những lạc giáo. Chúa Thánh Thần soi dẫn để tín hữu nhận biết Thiên Chúa qua Thánh Kinh, Thánh Truyền và Huấn Quyền của Giáo hội. Bà Maria cũng chiếm vị trí quan trọng trong đức tin của người Công giáo. Họ tin rằng vì bà là mẹ Chúa Giêsu nên bà có sức ảnh hưởng lớn đến việc Thiên Chúa ban ơn cho tín hữu. === Thiên Chúa Ba Ngôi === Giáo hội Công giáo dạy rằng Thiên Chúa là đấng duy nhất, vĩnh hằng, thượng quyền, thông suốt tất cả, công chính vẹn toàn và hiện diện mọi nơi. Tín hữu Công giáo tin thuyết Ba Ngôi: Thiên Chúa là tự nhiên mà có, bản thể và hiện thân là một Chúa nhưng lại tồn tại trong ba ngôi vị (tam vị nhất thể), từng ngôi vị đồng nhất với bản thể, không ngôi vị nào hơn ngôi vị nào và chỉ phân biệt về quan hệ giữa ba ngôi vị: giữa Chúa Cha và Chúa Con, giữa hai ngôi vị này với Chúa Thánh Thần, thành một Thiên Chúa Ba Ngôi. Chúa Cha thường được liên tưởng là đấng sáng tạo ra mọi vật mọi loài trong vũ trụ. Thiên Chúa cũng yêu thương và chăm sóc cho thụ tạo của mình, ngài trực tiếp tham gia vào thế giới và cuộc sống của con người, mong muốn con người kính thờ Chúa và yêu thương đồng loại. Công giáo còn tin rằng, con người là loài thụ tạo có thân xác (hữu hình) và linh hồn (vô hình) gắn bó mật thiết với nhau. Bên cạnh đó, còn có thụ tạo vô hình khác là thiên thần, làm nhiệm vụ tôn thờ và phục vụ Thiên Chúa. Một số thiên thần đã chọn chống lại Thiên Chúa, trở thành ma quỷ, và tìm cách gây hại cho nhân loại. Trong số đó, lãnh đạo thiên thần nổi loạn gọi là Satan hoặc Lucifer. Giáo hội Công giáo tin rằng Thiên Chúa chỉ mặc khải trọn vẹn qua người con duy nhất là Giêsu Kitô, Ngôi Hai Thiên Chúa nhập thể làm người. Giáng sinh xuống trần gian bởi Trinh nữ Maria nên Giêsu vừa mang bản tính Thiên Chúa vừa mang bản tính loài người. Qua cuộc đời và triết lý của mình, Giêsu đã dạy mọi người cung cách sống, nói về tình yêu của Thiên Chúa và ban tặng hồng ân, vinh quang cho những ai tin mình. Cuộc tử nạn và phục sinh của Chúa Giêsu là cái giá tột đỉnh mà Chúa phải gánh chịu để đền bù cho tội lỗi của loài người, để họ được thứ tha và hòa giải với Thiên Chúa. Chúa Thánh Thần được tin canh tân, Thánh hóa Giáo hội kể từ sau khi Chúa Giêsu về trời. Theo Công giáo, "mầu nhiệm" là những điều huyền bí về Thiên Chúa mà tài trí con người không thể hiểu và giải thích đầy đủ được nhưng tin đó là chân lý. Tóm lại, tín hữu Công giáo có thể tuyên xưng đức tin cơ bản qua câu nói: "Có ba mầu nhiệm chính trong Đạo: Thứ nhất là Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi, thứ hai là Mầu nhiệm Ngôi Hai xuống thế làm người, thứ ba là Mầu nhiệm Ngôi Hai cứu chuộc". === Tội nguyên tổ === Trong đức tin của người Công giáo, loài người trước đây được Thiên Chúa sáng tạo ra để hiệp thông với ngài nhưng vì không vâng lời Thiên Chúa khi ăn trái của "cây biết điều thiện điều ác" (trái cấm), Adam và Eve - tổ tiên loài người – đã làm mối quan hệ đó bị đổ vỡ khiến tội lỗi và sự chết lan tràn khắp thế giới. Vấp ngã này của con người được gọi là tội nguyên tổ (hay tội tổ tông). Từ đây, con người đánh mất đi tình trạng nguyên thủy của mình là được hiệp thông với Thiên Chúa, bị đưa vào tình trạng của sự chết nhưng qua ý tưởng con người có một linh hồn bất tử. Khi Giêsu đến với thế giới, giữa Thiên Chúa và loài người đã có sự hòa giải qua hiến tế bằng cái chết và sự sống lại của Giêsu, một lần nữa con người lấy lại được sự hiệp thông và dự phần vào vinh quang Thiên Chúa. === Cứu rỗi === Giáo hội dạy rằng Thiên Chúa dành cho tất cả mọi người sự cứu rỗi để hướng tới một cuộc sống vĩnh hằng và ngài coi đó như là một hồng ân, một vinh quang qua sự hiến tế của Đấng Kitô. "Với những nỗ lực để tỏ tường về Thiên Chúa, chẳng có câu trả lời chính xác nào hay tài trí nào của con người làm được. Giữa Thiên Chúa và chúng ta có một sự khác biệt vô tận khiến chúng ta phải thừa nhận về ngài, Thiên Chúa chúng ta". Thiên Chúa là đấng bào chữa, là đấng giải thoát chúng ta khỏi tội lỗi. Hoặc là chúng ta đón nhận hồng ân này Thiên Chúa ban cho ta thông qua đức tin vào Giêsu Kitô và phép rửa tội hoặc là khước từ nó. "Đức tin không hành động là đức tin chết". Giáo hội còn dạy rằng con người cần phải được thanh tẩy ngay từ lúc này, ngay trong thực tại này (tức cuộc sống trần thế) vì khi chết rồi thì không thể làm gì hơn được nữa. Thanh tẩy là khi nhận Phép rửa và nó bị mất đi khi linh hồn phạm tội chết (tội trọng). Tội trọng là sự cố ý vượt quá giới luật của Thiên Chúa cách nghiêm trọng. Nhưng con người có thể lại được sự Thánh tẩy khi người ấy thành thật thú nhận trong Bí tích Hòa giải. Nếu ai đó biết sám hối tội lỗi của họ trước khi chết mà không thể thông qua Bí tích Hòa Giải được vì lý do khách quan nào đó thì với lời khẩn cầu, tội của họ cũng tự nhiên được tha thứ. Qua hiến tế của Giêsu bằng cái chết trên thập giá, sự cứu rỗi thậm chí còn được ban ra bên ngoài ranh giới của Giáo hội, nghĩa là phổ biến cho mọi người. Do đó, các Kitô hữu lẫn dân ngoại, nếu ai nhiệt thành đáp lại chân lý này thì Thiên Chúa sẽ bày tỏ lòng xót thương của ngài đối với họ. Điều này đôi khi là một trách nhiệm để trở thành thành viên của Giáo hội. Phép Thanh Tẩy (rửa tội) là một nghi thức quan trọng của người Kitô hữu, qua lăng kính của Giáo hội Công giáo, nó được nâng lên hàng bí tích. Phép rửa không chỉ làm thanh tẩy tội lỗi của một người nào đó, nó cũng làm cho họ trở thành "con cái Thiên Chúa và được dự phần với ngài", trả lại cho con người trạng thái nguyên bản mà đã được hình thành giống như hình ảnh của Thiên Chúa. Phép rửa còn là cầu nối giữa người nào đó với đời sống cộng đoàn Giáo hội. Bởi vậy, khi chịu phép rửa trong Giáo hội, là thân thể Đức Kitô, người ta cũng sẻ chia cuộc khổ nạn và phục sinh với ngài. Sự cứu rỗi là phổ biến cho tất cả mà không loại trừ ai. Công giáo tin rằng Thiên Chúa không nỡ từ chối một khẩn cầu cứu rỗi của ai đó bên ngoài Giáo hội. Điều này là một trong những quan điểm bất đồng lớn giữa Công giáo và Kháng cách. === Thánh Kinh và Thánh Truyền === Những lời giảng dạy của Giáo hội Công giáo là những điều được trích dẫn ra từ hai nguồn: Thánh Kinh và Thánh Truyền. Họ cho rằng cả hai đều xuất phát từ Thiên Chúa và được giải thích bởi Huấn Quyền (Magisterium) của Giáo hội. Danh sách và nội dung chính thức về các sách Thánh kinh được Giáo hội Công giáo chấp nhận là những bản Thánh Kinh viết bằng tiếng Latin hồi thế kỷ thứ 4, cụ thể là 46 quyển của Cựu Ước và 27 quyển của Tân Ước. Năm 1943, trong bức thông điệp "Divino Afflante Spiritu" của ông, Giáo hoàng Piô XII đã khuyến khích những học giả Thánh Kinh hãy cần mẫn nghiên cứu về ngôn ngữ nguyên bản của các sách Thánh Kinh (tiếng Do Thái, Hy Lạp, Aram trong Cựu Ước và tiếng Hy Lạp trong Tân Ước) và những ngôn ngữ chung nguồn gốc khác để hiểu biết sâu rộng và đầy đủ hơn về những văn bản này, và cho rằng: "văn bản nguyên bản… được viết bằng ơn linh hứng của tác giả thì có thẩm quyền và giá trị hơn bất kỳ bản nào, thậm chí cả những bản đã được dịch rất hoàn hảo, dù đó là cổ xưa hay hiện đại". Thánh Truyền (gọi tắt của Truyền thống các Thánh Tông Đồ) mà Giáo hội Công giáo định nghĩa rằng: "mang lời của Thiên Chúa đã được Chúa Kitô và Chúa Thánh Thần ủy thác cho các Tông Đồ và truyền đạt lời Chúa cách nguyên vẹn cho những người kế vị các Tông Đồ để các vị này gìn giữ, trình bày và truyền bá lời đó cách trung thành khi giảng dạy". Nguồn gốc Thánh Truyền thì rất đa dạng và những giảng dạy của Giáo hội ngày nay thường là được truyền khẩu từ các tông đồ. Nhiều ghi chép của các cha đạo sơ khai đã phản ánh được Thánh Truyền. Huấn Quyền là thẩm quyền giáo huấn, giải thích Kinh Thánh và đức tin của các vị lãnh đạo giáo hội như Giáo hoàng, Giám mục, linh mục, nhằm giúp cho tín hữu hiểu rõ vấn đề. === Giáo hội Tông Truyền === Giáo hội là "thân thể Chúa Kitô"7 mà ngài là "đầu" và Công giáo dạy rằng đó là một thân thể được hiệp nhất bởi những người tin Chúa cả trên thiên đàng và trên địa cầu này. Theo Giáo Lý, Giáo hội Công giáo xưng mình là "Giáo hội duy nhất của Chúa Kitô". Giáo hội này dạy rằng người sáng lập ra họ là chính Chúa Giêsu Kitô, đã bổ nhiệm mười hai tông đồ tiếp tục công việc của Chúa Giêsu sau khi ông về trời. Các tông đồ đó là những vị Giám mục đầu tiên của Giáo hội. Giáo hội Công giáo diễn giải: tổ chức Giáo hội của họ là sự hiện diện liên tục của Chúa Giêsu trên Trái Đất, và tất cả các Giám mục được tấn phong hợp lệ là người kế thừa các tông đồ khi xưa (Tông Truyền). Trong đó, các Giám mục thành Rôma được coi là người kế vị tông đồ trưởng Simon Phêrô, có quyền tối thượng ở trần gian nên được gọi là Giáo hoàng. === Niềm tin về cái chết === Giáo hội Công giáo dạy rằng, con người gồm có thể xác và linh hồn. Cái chết chỉ là sự chấm dứt của thân xác nhưng linh hồn là bất diệt. Ngay sau khi chết, linh hồn của mỗi người sẽ nhận được một cuộc phán xét riêng của Thiên Chúa, nhưng vẫn còn một cuộc phán xét chung thẩm cho cả nhân loại trong ngày tận thế, khi mà Chúa Kitô quay lại trần gian làm thẩm phán. Theo đó, cuộc chung thẩm này sẽ chấm dứt tình trạng hiện tại của nhân loại và bắt đầu một Thiên Quốc (Nước Trời) mới và tốt đẹp hơn do Thiên Chúa cai trị. Theo Giáo lý Công giáo, vào ngày tận thế, linh hồn sẽ nhập lại thể xác (được tái sinh) và sau đó mỗi người sẽ phải chịu bản án thưởng hay phạt tùy theo những việc họ đã làm khi còn sống ở trần gian. Họ sẽ đi vào một trong ba tình trạng sau: Thiên đàng là tình trạng hạnh phúc tối thượng và vĩnh viễn. Ai chết trong ân sủng của Thiên Chúa và ai không cần bất cứ sự thanh luyện cuối cùng nào, sẽ được qui tụ quanh Chúa Giêsu và Đức Maria, các thiên thần và các Thánh … được chiêm ngắm Thiên Chúa "mặt giáp mặt" (1 Cr 13,12) … sống trong sự hiệp thông tình yêu với Chúa Ba Ngôi và chuyển cầu cho chúng ta (Toát Yếu Giáo Lý của Giáo hội Công giáo, số 209). Luyện ngục là tình trạng của những người chết trong tình thân với Thiên Chúa, nhưng dù đã được đảm bảo ơn cứu độ vĩnh cửu, họ còn cần thanh luyện trước khi được hưởng hạnh phúc thiên đàng (Toát Yếu Giáo Lý của Giáo hội Công giáo, số 210). Những linh hồn ở luyện ngục có thể nhận được sự cầu thay nguyện giúp của các Thánh trên thiên đàng và những người đang sống ở trần gian. Hỏa ngục: là tình trạng xa cách đời đời khỏi Thiên Chúa. (Toát Yếu Giáo Lý của Giáo hội Công giáo, số 212), phải chịu sự đau khổ vô cùng, dành cho những người phạm tội trọng và không chịu hối cải. Tình trạng ày kéo dài vô hạn. Trước đây, quan niệm hỏa ngục là nơi chịu sự tra tấn, thiêu đốt bằng lửa cực nóng của ma quỷ nhưng quan niệm hiện đại cho rằng, nơi nào mà không có sự hiện diện và tình yêu của Thiên Chúa thì cũng chịu đau khổ như hỏa ngục vậy. === Maria và các Thánh === Bà Maria - mẹ của Giêsu Nazareth - chiếm một vị trí quan trọng trong Giáo hội Công giáo. Các giáo phái Kháng Cách thường chỉ trích Công giáo về điều này vì họ cho rằng chỉ nên tôn thờ Thiên Chúa mà thôi, việc tín hữu Công giáo tôn thờ bà Maria là tôn thờ ngẫu tượng, trái với luật Chúa. Tuy nhiên, Giáo hội Công giáo lập luận rằng họ chỉ dành cho bà Maria sự tôn kính đặc biệt chứ đó không phải là sự tôn thờ. Giáo hội Công giáo thường xưng bà Maria với danh hiệu là Đức Mẹ, Nữ Vương, Thánh Mẫu... Họ tin rằng bà Maria đồng trinh vĩnh viễn và là Mẹ của Thiên Chúa. Ngoài ra, họ còn tin bà "Vô Nhiễm Nguyên Tội" và hồn và xác của bà đã được vào thiên đàng. Bốn luận điểm này đã được chế định thành tín điều (điều phải tin), hai điều sau do Giáo hoàng Piô IX và Giáo hoàng Piô XII công bố lần lượt trong các năm 1854 và 1950. Việc tôn kính bà Maria của Giáo hội Công giáo không chỉ trong các lời kinh, lời ca tụng về cuộc đời bà trong cuộc sống hàng ngày mà còn trong rất nhiều tác phẩm văn hóa nghệ thuật, âm nhạc, điêu khắc và kiến trúc. Giáo hội Công giáo xác nhận chính thức một số cuộc hiện ra của bà Maria, như tại Lộ Đức, Fatima, Guadalupe... Những nơi này cũng là địa điểm hành hương lớn thu hút nhiều tín đồ Công giáo. Kinh Mân Côi chiếm một vị trí quan trọng trong đời sống cầu nguyện của người Công giáo. Cùng với Trinh nữ Maria, các vị Thánh là những người nam hay nữ đã tuyên xưng niềm tin nơi Thiên Chúa, sống cuộc đời nêu gương sáng và chết trong ân nghĩa với Chúa, được tin là đang vinh hiển trên thiên đàng. Việc thờ phượng chỉ dành riêng cho Thiên Chúa; với các Thánh, tín hữu chỉ tôn kính. Các tín hữu cầu nguyện với bà Maria và các Thánh vì tin rằng nhờ lời chuyển cầu và trợ giúp của các vị, Thiên Chúa sẽ nhậm lời họ cầu xin. === Đời sống thường ngày === Người Công giáo phải nỗ lực để trở thành môn đồ thực sự của Giêsu. Họ mong đợi tìm kiếm được sự tha thứ cho những tội lỗi của mình qua tấm gương và lời giảng dạy của Giêsu. Họ tin rằng thông qua Giêsu, Thiên Chúa đã ban bảy phép bí tích cho mình như nhưng công cụ để trợ giúp họ thực hiện được điều này. Người Công giáo tin rằng Thiên Chúa luôn luôn tác động giữa loài người trên thế giới này. Người Công giáo được "Thánh hóa" là nhờ các phép bí tích của Giáo hội và qua cả những lời cầu nguyện, những công việc phúc đức, hành hương và ăn chay hãm mình. Cầu nguyện cho người khác, thậm chí cho kẻ thù và những người ngược đãi mình là một nhiệm vụ của Kitô hữu8. Người Công giáo cho rằng có bốn mục đích cầu nguyện: tôn thờ, tạ ơn, ăn năn và khẩn cầu. Người Công giáo cũng có thể cầu nguyện với Thiên Chúa xin tha tội cho những ai đã chết (cầu cho các linh hồn), và đặc biệt là họ cũng có thể cầu nguyện với Trinh nữ Maria - mẹ Thiên Chúa - và các Thánh nữa. == Nguồn gốc và lịch sử == Giáo hội Công giáo gắn liền với Chúa Giêsu và Mười hai Thánh Tông đồ và coi các Giám mục của Giáo hội là những người kế vị các tông đồ, Giáo hoàng là người kế vị Thánh Phêrô, lãnh đạo Giáo hội. "Giáo hội Công giáo" là thuật ngữ đầu tiên được sử dụng bởi Thánh Inhaxiô Antiôkhia (Ignatius Antioch) vào năm 107, [đại ý rằng]: nơi nào có Đấng Kitô ngự trị, nơi đó là Giáo hội Công giáo, như là sự tuyệt đối hóa vai trò của Giáo hội và Giáo hoàng. Đồng thời, những văn sĩ Công giáo cũng liệt kê một số trích ngôn từ những thầy giảng sơ khai để củng cố luận cứ này theo ngụ ý của Tòa Thánh, trong khi các văn sĩ Chính Thống giáo lại không chấp nhận điều này vì cho rằng, vị Giáo hoàng đầu tiên - Thánh Phêrô - chỉ là một chức vị đứng đầu mang tính danh dự. Ngoài ra, hầu hết các Kitô hữu Tây phương sử dụng một bản sửa đổi của Tín điều Nicea, theo đó, họ tin rằng Chúa Thánh Thần "xuất phát từ cả Chúa Cha lẫn Chúa Con". Nhưng các Kitô hữu Đông phương dùng nguyên bản Tín điều Nicea, theo đó, Chúa Thánh Thần được tin là chỉ "xuất phát từ Chúa Cha". Đây là những nguyên nhân chính dẫn đến sự chia rẽ giữa họ. Qua nhiều thế kỷ, sự khác biệt về giáo lý thần học, văn hóa và chính trị ngày càng lớn cho đến khi hai hệ thống giáo hội này chính thức tách rời (Đại Ly Giáo) vào năm 1054. Năm 1204, những đạo quân Thập tự chinh Công giáo bị đẩy khỏi Constantinople. Trung tâm học thuyết của Giáo hội Công giáo là sự kế vị liên tục các tông đồ mà giờ đây gọi là các Giám mục. Giáo hội Công giáo tuyên bố tiếp tục chung thủy với sự dẫn dắt của các Giám mục và bác bỏ hoàn toàn những lạc giáo. === Giáo hội Sơ khai trong bối cảnh đế quốc La Mã === Theo sử sách, các tông đồ đã đi truyền giảng ở Bắc Phi, Tiểu Á, Ả Rập, Hy Lạp và Rome để thành lập những cộng đoàn Kitô hữu đầu tiên. Năm 100, đã có hơn 40 cộng đoàn. Ngay từ thời sơ khai này, các Kitô hữu bị bắt bớ, đàn áp và hành hạ, thậm chí bị giết chết như trường hợp của Stêphanô (Stephenus) (Sách Công vụ Tông đồ 7:59) và Giacôbê (Iacobus) (12:2) qua bàn tay quyền lực của Đế quốc La Mã. Năm 64, dưới sự đàn áp của Hoàng đế Nero, tông đồ Phêrô và Phaolô tử đạo tại Rôma. Năm 96, Giáo hoàng Clêmentê I viết lá thư đầu tiên gửi giáo đoàn ở Côrintô (Corinthios), một năm sau cái chết của Thánh Gioan tại Êphêsô (Ephesios) – vị tông đồ cuối cùng, châm ngòi cho sự đàn áp Giáo hội qua tận chín đời hoàng đế La Mã gồm cả Domitian, Decius và Diocletian. Từ năm 150, những thầy giảng bắt đầu rao giảng thần học Kitô giáo để củng cố lòng tin trong tín hữu. Những người này đóng vai trò như những vị linh mục ngày nay. Đáng chú ý là Inhaxiô thành Antiokhia, Polycarp, Justin, Irenaeus, Tertullian, Clement thành Alexandria và Origen. Đạo Công giáo, chính xác hơn trong ngữ cảnh thời đại ấy gọi là Kitô giáo, được hợp pháp hóa vào Thế kỷ thứ 4 khi Constantinus I ban hành "Sắc lệnh Milano" năm 313, bãi bỏ các hình phạt bách hại dã man Kitô hữu. Constantinus I là nhân vật có ảnh hưởng trong Công đồng Nicaea I vào năm 325, nhờ ông mà giáo hội hướng được mũi tên vào phái tà giáo Aria và Nicea, khiến cho đến tận ngày nay, ông vẫn có vai trò quan trọng được Giáo hội Công giáo, Chính Thống giáo, Cộng đồng Anh giáo và các giáo hội Kháng Cách nhìn nhận. Vào năm 326, Giáo hoàng Sylvester I cung hiến Đại giáo đường Thánh Phêrô do Constantinus I xây dựng. Ngày 27 tháng 2 năm 380, Hoàng đế Theodosius I công nhận Công giáo là quốc giáo của Đế quốc La Mã. Thời kỳ lịch này đánh dấu sự khởi đầu cho việc thiết lập nền tảng thần học và giáo luật của Giáo hội. Năm 386, Công đồng Rôma thiết lập Quy điển Thánh Kinh, ra danh sách những quyển sách được Giáo hội chấp nhận từ Cựu Ước và Tân Ước. Năm 431, Công đồng Êphêsô công khai tín điều, khẳng định Đức Giêsu mang hai bản thể: Con Thiên Chúa và con người, minh bạch hóa tín điều về Ba Ngôi. === Thời Trung Cổ === Sự suy yếu của La Mã đã tạo tiền đề thuận lợi cho Công giáo phát triển. Trong thời đại loạn lạc này, những hành động nhân đạo, cứu giúp kẻ khó khăn của các giáo sĩ, tu sĩ Công giáo nhanh chóng được nhân dân ủng hộ và đi theo. Đặc biệt, năm 452, Giáo hoàng Lêô Cả gặp gỡ Attila để khuyên can ý định tôn tính thành Rôma. Năm 476, Romulus Augustus - hoàng đế La Mã cuối cùng - bị truất phế, kéo theo sau là sự sụp đổ của Đế quốc La Mã ở phương tây, Giáo hội bước vào thời kỳ truyền giáo lâu dài cho dân ngoại. Người Công giáo phát triển rồi hòa trộn vào trong cộng đồng người Đức (nhằm cạnh tranh với giáo phái Aria), người Celt, người Slav, người Viking, Scandinavia, Hungary, Baltic và Phần Lan. Sự xuất hiện của Hồi giáo năm 630 đã lấy đi những phần đất ở Bắc Phi vốn thuộc Tây Ban Nha ra khỏi sự kiểm soát của Công giáo. Năm 480, Thánh Biển Đức (Benedict) thiết lập hệ thống luật lệ cho việc ra đời các dòng tu. Sau đó, các dòng tu Công giáo phát triển mạnh mẽ ở châu Âu vào Thế kỷ thứ 9, nhất là ở Ireland, Scotland thời Phục Hưng. Thời Trung Cổ đã mang đến những biến đổi cơ bản bên trong Giáo hội. Giáo hoàng Grêgôriô I đã cải cách đáng kể cơ cấu quản trị của Giáo hội. Đầu Thế kỷ thứ 8, phong trào bài trừ Thánh tượng là vấn đề gây ra sự chia rẽ giữa Giáo hội với chính quyền khi nó được hoàng đế Byzantine hậu thuẫn. Giáo hoàng thách thức sức mạnh của chính quyền đế quốc này khi tiếp tục công khai bảo vệ các Thánh tượng. === Thượng Trung Cổ === Đầu thế kỷ thứ 10, các dòng tu phương tây lan rộng khắp nơi, dẫn đầu là Dòng Biển Đức. Đầu thế kỷ 11, các trường dòng phát triển thành các viện đại học như: Đại học Paris, Đại học Bologna, Đại học Oxford… trước đây chỉ dạy thần học, sau này dạy cả y học, luật pháp, triết học để rồi trở thành nền tảng cho giáo dục hiện đại của phương tây. Sự xuất hiện của Dòng Phanxicô và Dòng Đa Minh do Thánh Phanxicô và Thánh Đa Minh thành lập đã có những đóng góp hết sức quan trọng cho sự phát triển của các đại học lớn ở châu Âu. Thời kỳ này, các công trình kiến trúc của Giáo hội đạt đến những tầm cao mới, cực điểm là phong cách kiến trúc Roman, Gothic trong các đại giáo đường ở châu Âu. Tại Công đồng Clermont, Giáo hoàng Urbanô II đưa ra những bước chuẩn bị cho cuộc Thập Tự Chinh đầu tiên nhằm giành lại các vùng đất mà Hồi giáo đã chiếm đóng. Từ năm 1095, thời Giáo hoàng Urbanô II, những cuộc Thập Tự Chinh bùng phát. Đó là hàng loạt chiến dịch quân sự tại khu vực Đất Thánh (Jerusalem) và những nơi khác như một nỗ lực chống lại sự bành trướng của quân Thổ Nhĩ Kỳ đại diện cho Hồi giáo. Bên cạnh lý do đó là một ẩn ý của tham vọng bành trướng ngược lại bằng cách xâm lăng đất đai của người Hồi giáo. Trong giai đoạn này, Kitô giáo đã bị các thế lực phong kiến và thậm chí là các Giáo hoàng đương thời lợi dụng và diễn dịch theo nghĩa phục vụ cho cuộc chiến của họ. Điều đó đã trở thành một trong các nguyên nhân biến Thập Tự Chinh trở thành một trong những vết nhơ khủng khiếp nhất của lịch sử Kitô giáo. Trong suốt những cuộc viễn chinh, những đoàn quân Thập Tự đã thẳng tay tàn sát, cướp bóc, thậm chí cá biệt có nơi còn ăn thịt người Hồi giáo, hoặc cổ động cả trẻ em vào cuộc chiến, dẫn đến việc hàng ngàn trẻ em bị bắt bán làm nô lệ. Cuối cùng, những cuộc Thập Tự Chinh cũng không bóp ngạt được sự xâm lăng của Hồi giáo mà thậm chí lại góp phần làm sụp đổ và chiếm đóng Constantine trong cuộc Thập Tư Chinh thứ tư. Bắt đầu khoảng năm 1184, là những cuộc giao chiến với tà giáo Cathar nhằm giữ an toàn cho sự đồng nhất trong học thuyết Công giáo, bài trừ dị giáo. ==== Đại Ly Giáo ==== Qua một thời kỳ từ thế kỷ thứ 7 đến thế kỷ 14, Giáo hội Công giáo nguyên thủy dần dần bị phân tách thành hai cực: Tây phương (Latinh), thường được gọi là Giáo hội Công giáo; và Đông phương (Hy Lạp), sau này trở thành Chính Thống giáo. Hai giáo hội này bất đồng quan điểm về cách tổ chức, nghi thức và những học thuyết mà đặc biệt là địa vị của Giáo hoàng. Công đồng Lyon II (1274) và Công đồng Firenze (1439) thử tìm cách hiệp thông lại hai giáo hội nhưng tất cả đều bị Chính Thống giáo khước từ. Vài giáo hội Đông phương sau này hiệp thông trở lại với Giáo hội Công giáo Rôma, tuyên bố không bao giờ thoát ly khỏi Giáo hoàng. Tuy nhiên, hai nhánh giáo hội chủ chốt vẫn phân ly cho đến ngày nay mặc dù đã hóa giải việc rút phép thông công lẫn nhau giữa Rôma và Constantine vào năm 1965. ==== Cải cách Kháng Cách ==== Năm 1492, Christopher Columbus khám phá ra châu Mỹ dẫn đến làn sóng truyền giáo tích cực của Công giáo Rôma tại khắp lục địa này. Giáo hoàng Alexander VI trao "sứ mệnh" truyền giáo tại vùng đất mới khám phá cho Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha. Thời kỳ Phục Hưng thế kỷ 15 có một sự kiện đáng quan tâm trong cổ điển học đó là sự xét lại về học thuyết và đức tin của Công giáo. Ngày 31 tháng 10 năm 1517, Martin Luther đưa ra những bài luận văn mang nội dung bài trừ những học thuyết của Công giáo đương thời. Những bài tương tự được phát ra với những chi tiết căn bản thậm chí vượt bậc hơn cả những gì Công giáo thuyết giảng. Họ chĩa mũi nhọn vào Công đồng Trent, bản chất của Kháng Cách - như tên gọi của nó - là kháng cự đòi hỏi khôi phục những học thuyết và cách thực hành Công giáo truyền thống. Công đồng Trent sàng lọc và định nghĩa lại các học thuyết, ban bố các giáo điều. Năm 1534, Nghị viện Anh thông qua quyền tối cao của Vua nước Anh đối với Giáo hội tại Anh được hiểu là lời tuyên bố ly khai khỏi Giáo hội Rôma. Từ năm 1536, nhiều nhà dòng Công giáo tại xứ Anh, xứ Wales và Ireland bị giải thể. Giáo hoàng Phaolô III rút phép thông công vua Henry VIII vào năm 1538, như vậy Anh giáo chính thức phân ly khỏi Công giáo. Sự lan rộng khắp thế giới của Công giáo song hành cùng chủ nghĩa thực dân châu Âu vươn đến châu Mỹ, châu Á, châu Phi và châu Đại Dương. === Hậu kỳ Trung Cổ và Phục Hưng === Trong năm 1521, nhà thám hiểm Bồ Đào Nha Ferdinand Magellan thực hiện chuyến đi truyền giáo đầu tiên đến Philippines. Những năm sau, các giáo sĩ Dòng Anh Em Hèn Mọn đặt chân đến México, xây dựng trường học, mô hình trang trại và các bệnh viện. Hơn 150 năm tiếp theo, sứ vụ được mở rộng sang tây nam Bắc Mỹ. Người Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha theo nhà đồng sáng lập Dòng Tên là Phanxicô Xaviê đến Ấn Độ và Nhật Bản. Cuối thế kỷ 16, hàng chục ngàn người Nhật theo đạo Công giáo. Giáo hội tại Nhật Bản phát triển nhưng bị gián đoạn và đàn áp vào năm 1597, dưới thời Shogun (Tướng quân) Tokugawa Iemitsu. Iemitsu là vị tướng quân có nỗ lực cô lập Nhật Bản khỏi ảnh hưởng từ ngoại bang. === Baroque, Chấn hưng và Khai sáng === Công đồng Trent và cuộc Chấn hưng Công giáo thời kỳ này đã tạo ra một sự hồi sinh trong đời sống Giáo hội và cổ võ lòng sùng kính Maria trong Giáo hội Công giáo Rôma. Trong thời Cải cách Kháng Cách, Giáo hội đã chống lại quan điểm của Tin Lành về Maria. Đồng thời, Công giáo đã tham gia vào những cuộc chiến tranh Ottoman đang diễn ra ở châu Âu để chống lại Thổ Nhĩ Kỳ. Họ đã chiến thắng và tin rằng có sự bảo trợ của Maria. Đặc biệt, chiến thắng tại Trận Lepanto (1571) được coi là sự công nhận hồi sinh mạnh mẽ của lòng sùng kính Maria. Giáo hoàng Phaolô V và Giáo hoàng Grêgôriô XV cai trị năm 1617 và 1622 đã làm rõ hơn niềm tin về việc đồng trinh thụ thai của Đức Maria. Đến năm 1661, Giáo hoàng Alexander VII tuyên bố rằng Maria được ơn vô nhiễm nguyên tội từ khi sinh ra. Từ năm 1708, Giáo hoàng Clement XI đã ra sắc lệnh cử hành ngày Lễ Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội trong toàn thể giáo hội. Chủ nghĩa Khai sáng ra đời là một thách thức mới của giáo hội Công giáo. Không giống như cuộc Cải Cách Kháng Cách, những vấn đề về giáo lý Kitô giáo nói chung và Công giáo nói riêng đã được đưa ra bàn thảo dựa trên quan điểm khoa học. Cuối thế kỷ 17, Giáo hoàng Innocent XI lo ngại những đợt tấn công gia tăng của quân Thổ Nhĩ Kỳ vào châu Âu là mối đe dọa lớn đối với giáo hội. Ông đã thiết lập nên liên minh Ba Lan - Áo và đã đánh bại Thổ Nhĩ Kỳ tại Vienna năm 1683. === Hiện đại === Thế kỷ 18 và 19, Giáo hội phải đối mặt với làn sóng truyền giáo mạnh mẽ của Tin Lành, Chủ nghĩa Khai sáng và Chủ nghĩa Canh Tân. Chủ nghĩa Vô thần và phong trào bài trừ tôn giáo được đẩy mạnh lan rộng khiến giáo hội phải tự vận động để thích nghi với hoàn cảnh và chức năng. Nhiều thành phần của giáo hội trên thế giới bị đàn áp, công tác mục vụ bị gây cản trở, giáo dục, y tế vốn có của giáo hội bị chính phủ kiểm soát. ==== Công đồng Vatican II ==== Thời Công đồng Vatican II (1962-1965) do Giáo hoàng Gioan XXIII triệu tập, Giáo hội Công giáo trải qua một quá trình cải cách toàn diện nhất kể từ Công đồng Trent diễn ra bốn thế kỷ trước. Công đồng này nhấn mạnh phải nhìn thấy rõ vai trò của Giáo hội Công giáo trong cộng đồng Kitô hữu tin Chúa Giêsu và trong các tôn giáo khác. Công đồng được coi là mở ra thời kỳ lịch sử của Giáo hội Công giáo hiện đại. Công đồng phát hành nhiều tài liệu về tình trạng Giáo hội, sứ mạng các hội đoàn và tự do tôn giáo. Ngoài ra còn ban hành những phương hướng thích nghi dành cho các nghi lễ, trong đó cho phép sử dụng tiếng bản xứ thay vì phải dùng tiếng Latinh trong phụng vụ. Trong số 21 công đồng đã diễn ra trong lịch sử của Giáo hội Công giáo thì Công đồng Vatican II được đánh giá là đồ sộ nhất cả về quy mô, thời gian, số nghị phụ tham dự và nội dung làm việc. Có 16 văn kiện đã được thông qua gồm 4 Hiến chế, 9 Sắc lệnh và 3 Tuyên ngôn. Ban tổ chức đã phải in tới 46 triệu trang tài liệu (150 tấn giấy in) cho các đại biểu. Các buổi họp của Công đồng được ghi lại trong 712 cuốn băng dài tới 724.000 mét. Dù vậy, Công đồng Vatican II vẫn vấp phải sự tranh cãi, chỉ trích gay gắt từ những người bảo thủ, đặc biệt là tổng Giám mục Marcel Lefebvre, người lãnh đạo Huynh đoàn Thánh Piô X hiện không thần phục thẩm quyền Tòa Thánh. === Đương đại và tân Phúc Âm hóa === Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã công nhận sự cần thiết để tân phúc âm hóa (hay còn gọi là tái rao giảng Tin Mừng) cho một thế giới ngày càng trở nên thế tục hóa, đồng thời sử dụng các phương tiện tân tiến để tiếp cận với các tín hữu. Ông đã thành lập Đại hội Giới trẻ Thế giới, được tổ chức mỗi 2 hoặc 3 năm tại nhiều quốc gia khác nhau để người trẻ được củng cố đức tin Công giáo. Ông đi ra ngoài Thành Vatican nhiều hơn bất kỳ Giáo hoàng khác, và đã thực hiện 104 chuyến tông du đến thăm 129 quốc gia. Với việc đăng quang vào năm 2005, Giáo hoàng Biển Đức XVI hiện tại phần lớn vẫn tiếp nối các chính sách của người tiền nhiệm là Gioan Phaolô II, tuy cũng có một số trường hợp ngoại lệ đáng chú ý: trong năm 2007, Giáo hoàng Biển Đức XVI đã lập một kỷ lục trong Giáo hội khi phê chuẩn việc phong chân phước cho 498 vị tử đạo Tây Ban Nha. Gần đây, Giáo hoàng này đã ban hành Tông hiến thiết lập các giáo hạt tòng nhân để đón nhận các tín hữu Anh giáo trở về Công giáo. Hiện tại, Giáo hội Công giáo vẫn nỗ lực cải thiện quan hệ đại kết với các Giáo hội Kitô giáo khác như Chính Thống giáo Đông Phương, Tin Lành và mở các cuộc đối thoại lớn với Do Thái giáo và các tôn giáo khác. == Tu trì và đoàn thể == Tất cả thành viên của Giáo hội Công giáo khi đã được rửa tội theo nghi thức Công giáo thì được gọi là Kitô hữu hoặc người Công giáo, có đầy đủ quyền và trách nhiệm của tín hữu, được kêu gọi trở nên Thánh và đóng góp xây dựng Giáo hội. Mọi người cũng được kêu gọi để chia sẻ thừa tác ngôn sứ, tiên tri và vương đế của Đấng Kitô. Số ít trong số Kitô hữu thực hiện vai trò liên quan đến mục tử (giáo phẩm) và sống chứng nhân (tu trì) nhưng phần lớn là phải thực hiện ba bổn phận nói trên. === Tu trì === Đời sống tu trì còn gọi là đời sống Thánh Hiến thể hiện qua việc người nam hay người nữ hiến dâng cuộc đời cho Thiên Chúa với những ràng buộc được Giáo hội công nhận (đi tu). Họ không thuộc Hàng Giáo Phẩm (trừ khi người nam được thụ phong thành linh mục), phần lớn là thành viên của các hội dòng, hội đoàn (gọi chung là tu hội). Giáo hội Công giáo cũng ghi nhận những hình thức khác nhau về Đời sống Thánh hiến như: các giáo đoàn, ẩn tu, nữ tu, hoạt động tông đồ… Phần lớn hình thức của Đời sống Thánh hiến hiện hữu là yêu cầu các thành viên hiến dâng bản thân họ cho Thiên Chúa thông qua việc dự tu được định đoạt bởi một lời khấn (thề), sống tuân thủ ba tinh thần của Phúc Âm là khiết tịnh, khó nghèo và vâng phục. Ngày nay, những ai có "ơn gọi" theo Đấng Kitô muốn Thánh hiến bản thân cho Thiên Chúa thì có những đòi hỏi cao hơn khi họ phải sống trong các Tu viện, chịu sự quản lý của "bề trên", họ phải sống theo từng cộng đoàn, thỉnh thoảnng cho phép sống riêng lẻ trong thời gian ngắn, một số được phép đến những nơi khác để phục vụ (trong một giáo xứ chẳng hạn). === Đoàn thể === Nhiều phong trào, đoàn thể và tổ chức hoạt động trong lòng Giáo hội Công giáo và chúng thường gồm những nhóm người có "đức tin đặc biệt", hoạt động theo mục tiêu và phương hướng của người sáng lập hoặc người khai tâm và đặc biệt là phải phù hợp với Giáo huấn và Giáo luật. Có những phong trào, đoàn thể, tổ chức Công giáo được phân cấp và hoạt động gắn chặt với thẩm quyền Giám mục hay linh mục địa phương. Nói chung, những phong trào, đoàn thể, tổ chức Công giáo đã tỏ ra tính đại chúng của mình và phát triển mạnh mẽ trên khắp thế giới. == Thống kê thành viên == Theo quyển Niên giám Thống kê Giáo hội (Annuario Statisticum Ecclesiae) năm 2011, tổng số đơn vị hành chính của toàn Giáo hội Công giáo là 2.966. Thống kê này cho biết vào năm 2010, trên thế giới có gần 1,196 tỷ tín hữu Công giáo, chiếm khoảng 17,5% dân số thế giới. Tỷ lệ người Công giáo giảm tại Mỹ Latinh (từ 28,54% xuống 28,34%) và tại Châu Âu (từ 24,05% xuống 23,83%). Ngược lại, tỷ lệ người Công giáo tăng tại Châu Phi (từ 15,15 lên 15,55%) và Châu Á (từ 10,41 lên 10,87%). Cũng trong năm 2010, số Giám mục Công giáo là 5.104 vị, và linh mục là 412.236 vị. Đây là giáo hội lớn nhất của Kitô giáo, bao gồm hơn một nửa Kitô hữu. Ngoài ra, số lượng người có thực hành nghi thức Công giáo trên toàn thế giới chưa được thống kê hết, đặc biệt ở châu Phi và châu Á.9 === Phân bố === Với số lượng lớn người trưởng thành được rửa tội, giáo hội này tăng trưởng nhanh ở châu Phi hơn các nơi khác. Trong những năm gần đây, một vài nơi ở châu Âu và châu Mỹ thiếu thốn linh mục, số lượng linh mục không tăng theo tỷ lệ số lượng giáo dân. Chủ nghĩa thế tục tăng ổn định ở châu Âu, nhưng sự hiện diện của Công giáo vẫn còn mạnh nơi đây. Giáo hội tại châu Á chiếm thiểu số giữa các tôn giáo khác, bao gồm chỉ khoảng 3% dân số châu Á, nhưng tại đây lại chiếm một tỷ lệ lớn nữ tu, linh mục. Từ 1975 đến 2000, dân số châu Á tăng 61% nhưng giáo dân Công giáo ở châu Á tăng 104%. Tuy nhiên, giáo hội phải đối mặt với những thử thách trong truyền giáo, giáo dân bị đàn áp tại các quốc gia như Bắc Triều Tiên và Trung Quốc. Châu Đại Dương cũng là nơi truyền giáo khó khăn cho các giáo phái Kitô giáo bởi nơi đây có các nhóm sắc tộc với hơn 715 ngôn ngữ khác nhau. Trong giáo hội Công giáo trên toàn thế giới, 12% cư ngụ ở châu Phi, 50% ở châu Mỹ, 10% ở châu Á, 27% ở châu Âu và 1% ở châu Đại Dương. Brasil hiện là quốc gia có số lượng giáo dân Công giáo đông nhất. Phần lớn những quốc gia phát triển đều có sự hiện diện của Giáo hội, tuy có giảm vào cuối thế kỷ 19. Tại châu Âu, các quốc gia thuộc nhóm ngôn ngữ Rôman (Latinh) là cái nôi lịch sử phát triển của Công giáo, trong khi đó, các quốc gia nhóm ngôn ngữ gốc Đức nhiều Tin Lành và các quốc gia hệ tiếng Slav lại mang sự pha trộn giữa Công giáo và Chính Thống giáo. Phần còn lại của Công giáo trên thế giới là do nỗ lực truyền giáo của Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha và Pháp, bên cạnh đó còn do việc di cư từ những quốc gia này đi khắp châu Âu. Tại Mỹ Latinh - nơi từng được độc quyền - Công giáo đang chịu sự cạnh tranh ngày càng tăng của Kháng Cách (Tin Lành), đặc biệt là Trung Mỹ và khu vực Caribbean. Tại châu Phi, Công giáo hoạt động mạnh mẽ nhất ở trung tâm lục địa; trong khi ở châu Á, chỉ có hai quốc gia có tỷ lệ lớn người Công giáo trong dân số là Philippines, Đông Timo. === Gia nhập đạo === Theo Giáo luật Công giáo, một người sẽ trở thành một thành viên của Giáo hội Công giáo khi người đó lãnh nhận Bí tích Thanh Tẩy theo ghi thức Công giáo. Trường hợp tín hữu nào đó đã tuyên bố bỏ đạo Công giáo nay muốn gia nhập lại thì phải tái tuyên xưng đức tin Công giáo và lãnh nhận Bí tích Hòa Giải. Người Công giáo được phép sinh hoạt tôn giáo, lãnh nhận các nghi thức tôn giáo ở bất kỳ nhà thờ Công giáo nào trên toàn thế giới. == Một số học thuyết về xã hội == === Phẩm giá con người === Giáo hội Công giáo cho rằng không một ai có quyền xâm phạm đến sự sống của bản thân mình hay của người khác vì mỗi một người được Thiên Chúa tạo dựng giống với hình ảnh của ngài, có phẩm giá vượt trên các loài thụ tạo khác. Bởi vậy, Giáo hội Công giáo phản đối những hành vi mà họ cho rằng làm huỷ hoại giá trị sự sống: giết người, tự tử, phá thai, tránh thai, gây chết êm dịu (trợ tử), diệt chủng, chiến tranh, nhân bản người, sinh sản vô tính... Bản án tử hình, tuy không bị Giáo hội chính thức phản bác nhưng càng ngày nó càng bị các nhà thần học và lãnh đạo giáo hội chỉ trích. Theo Giáo hoàng Gioan Phaolô II, bản án tử hình không nên áp dụng trong mọi trường hợp, trừ những trường hợp nó cần thiết cho việc bảo vệ trật tự xã hội. Có thể thấy rằng, ở hầu hết các quốc gia phát triển có căn tính Công giáo, án tử hình đã bị loại bỏ. === Vấn đề giới tính, tình dục === Giáo hội Công giáo không chỉ trích tình dục nếu nó diễn ra trong một mối quan hệ vợ chồng hợp với tinh thần giáo luật Công giáo. Sinh sản con cái được Giáo hội Công giáo đề cao vì tin rằng việc sinh sản là cộng tác vào công trình sáng tạo của Thiên Chúa. Tuy nhiên, trong các Giáo huấn của mình, Giáo hội này vẫn nhấn mạnh việc sinh sản và trách nhiệm nuôi dạy với con cái. Đặc biệt, các biện pháp tránh thai nhân tạo (dùng thuốc tránh thai, dùng bao cao su), phá thai luôn bị họ kết án gay gắt vì họ chỉ chấp nhận tránh thai bằng biện pháp tình dục có trách nhiệm và tiết chế. Tuy nhiên, gần đây Giáo hoàng Biển Đức XVI nói rằng việc sử dụng bao cao su có thể là hợp lý trong những trường hợp đặc biệt. Đây là dấu hiệu cởi mở hơn về vấn đề sử dụng bao cao su. Ngoài ra, Giáo hội Công giáo cũng không chấp nhận vấn đề đồng tính luyến ái. === Vấn đề môi trường === Giáo hội Công giáo nhìn nhận rằng: Chúng ta đã thừa kế từ các thế hệ trước và chúng ta đã hưởng lợi từ lao động của những người đương thời. Chính vì thế, chúng ta phải có bổn phận đối với hết mọi người và không thể từ chối quan tâm tới những người sẽ sống sau chúng ta. Chúng ta là một gia đình nhân loại. Đây là một trách nhiệm mà các thế hệ hiện nay phải có đối với các thế hệ tương lai. Do đó, chăm sóc, bảo vệ thiên nhiên, môi trường là trách nhiệm của tất cả mọi người trên Trái Đất vì đó là tài sản chung của mọi thành viên trong gia đình nhân loại. Không ai được khai thác sử dụng một cách vô trách nhiệm các loại hữu thể khác nhau, bất kể là sinh vật hay loài vô tri vô giác như thú vật, thảo mộc, các yếu tố thiên nhiên, hoàn toàn theo ý mình, theo nhu cầu kinh tế riêng của mình. == Vai trò trên thế giới == === Đức tin và khoa học === Đức tin và khoa học luôn là đề tài gây tranh cãi về Giáo hội Công giáo. Thuở ban đầu, Giáo hội Công giáo chấp nhận thuyết sáng tạo như được chép trong Sách Sáng Thế (phần đầu của Cựu Ước). Sách này viết rằng, vũ trụ và vạn vật được Thiên Chúa tạo dựng bằng lời phán, con người là Adam và Eva được Thiên Chúa nặn ra từ bụi đất. Trong suốt chiều dài lịch sử của mình, có những khi Giáo hội Công giáo đã xung đột khắt khe với những nhà khoa học đi ngược với giáo thuyết kể trên. Tuy nhiên ngày nay, sự xung đột giữa Giáo hội và các nhà nghiên cứu khoa học không còn gay gắt. Từ Công đồng Vatican II, thái độ của giáo hội về khoa học đã thay đổi, văn kiện trong công đồng này viết: "Có hai lĩnh vực tri thức khác nhau: lĩnh vực đức tin và lĩnh vực lý trí. Giáo hội không cấm các kỹ thuật và các bộ môn văn hóa nhân loại dùng những nguyên lý và phương pháp riêng trong phạm vi của mình; do đó, giáo hội nhìn nhận sự tự do chính đáng này và xác nhận sự tự trị hợp pháp của văn hóa, nhất là khoa học". Giáo hội Công giáo đã nới lỏng sự chấp nhận những bước tiến của khoa học hiện đại nhưng quan niệm rằng các công trình khoa học đều có sự can thiệp của Thiên Chúa. Có lẽ quan điểm dễ chấp nhận nhất là "đức tin và khoa học củng cố cho nhau" (confirmation): Sự thật nào mà khoa học có thể làm sáng tỏ được thì trở thành một phần của cuốn Thánh kinh sống trong thiên nhiên, giúp con người hiểu thêm về Thiên Chúa và về chính mình, dù tự khoa học không thể đưa tới cái hiểu biết này được, mà chỉ là một phần chất liệu đưa tới sự hiểu biết này. Đồng thời, đức tin cũng có thể gợi ý và cảm hứng cho khoa học, cho dù thần học không thay thế cho khoa học được". Những giáo sĩ khoa học của Giáo hội (nhiều người trong số họ thuộc Dòng Tên) đã ảnh hưởng lớn đến nền thiên văn học, di truyền học, khí tượng học, địa chấn học và vũ trụ học. Các giáo sĩ đã đánh dấu tên tuổi của mình trong nền khoa học thế giới như là Gregor Mendel thuộc Dòng Augustine (đi tiên phong trong nghiên cứu di truyền học), Roger Bacon thuộc Dòng Phanxicô (nhà triết học kinh điển, người tiên đoán ra nhiều phát minh khoa học) và linh mục Georges Lemaître (đề xuất thuyết Vụ Nổ Lớn). Thậm chí nhiều giáo dân Công giáo cũng bị thu hút vào khoa học: Henri Becquerel khám phá ra chất phóng xạ; Luigi Galvani, Alessandro Volta, André-Marie Ampère, Guglielmo Marconi mở đường trong lĩnh vực điện năng và viễn thông; Antoine Lavoisier – "cha đẻ" của hoá học hiện đại; Andreas Vesalius khai sinh ra ngành giải phẫu học; Augustin Louis Cauchy là một trong những nhà toán học đặt nền tảng về đại số; Giáo hoàng Grêgôriô XIII được coi là tác giả loại lịch mà cả thế giới đang sử dụng phổ biến. Những vị trí này đã làm thay đổi cách nhìn của những người hay chỉ trích rằng những học thuyết của Giáo hội làm cho giáo dân và giáo sĩ mê muội và cản trở sự tiến bộ của nền văn minh nhân loại. Thế kỷ 20 đánh dấu sự phát triển nghiên cứu khoa học của Dòng Tên. Đối với trường hợp của Galileo Galilei, năm 1633, ông bị Giáo hội kết án vì khẳng định thuyết nhật tâm mà Nicolaus Copernicus đề xuất trước đó (cũng là một giáo sĩ Công giáo). Sau đó, Tòa án La Mã mở một cuộc xử án, Galileo bị nghi ngờ là rối đạo (tà giáo) nhưng sự thật là ông bị tố cáo oan và thuyết nhật tâm đến nay đã chứng minh là đúng. Galileo bị ép buộc chối bỏ thuyết nhật tâm và những năm cuối đời ông bị quản chế. Ngày 31 tháng 10 năm 1992, Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã công khai xin lỗi vì những hành xử của người Công giáo đối với Galileo trong cuộc xử án đó là sai lầm. Gần đây nhất, Giáo hoàng Biển Đức XVI phát biểu rằng: "Giữa đức tin và khoa học không có sự chống đối nhưng có tình bạn". Dù vậy hiện nay, Giáo hội Công giáo vẫn có lập trường bảo thủ trên một số vấn đề nghiên cứu khoa học như: nhân bản vô tính người, nghiên cứu tế bào gốc phôi thai người... === Nghệ thuật === Các nhà nghiên cứu cho rằng Giáo hội Công giáo đã góp công trong việc tạo ra sự xán lạng và huy hoàng của nền nghệ thuật ở châu Âu. Thần học Công giáo đã ảnh hưởng đến ý tưởng của các nhà văn như J. R. R. Tolkien, C. S. Lewis và William Shakespeare. Sau thời Phục Hưng, phong cách Baroque cho kiến trúc, hội họa và âm nhạc được Giáo hội Công giáo đặc biệt khuyến khích vì họ nhận thấy rằng nó kích thích thêm lòng mộ đạo. Về âm nhạc, tu sĩ Guido d'Arezzo (khoảng 991-1033), người Ý thuộc Dòng Biển Đức, là người phát minh ra hình thức bảy nốt nhạc và đặt tên là: Ut, Re, Mi, Fa, Sol, La và Si dựa trên chữ đầu của một bài ca tụng Thánh Gioan10; cùng năm dòng kẻ nhạc cho các bản Thánh ca trong nhà thờ, sau đó là tiêu chuẩn ký âm cho nền âm nhạc cổ điển châu Âu, đến nay khắp thế giới đang sử dụng. Nhiều nhạc sĩ châu Âu xuất thân từ Công giáo đã có những tác phẩm nổi tiếng, có thể kể đến Ode hoan ca của Ludwig van Beethoven, Kính mừng Thánh Thể của Wolfgang Amadeus Mozart, Ave Maria của Franz Schubert, Bánh Thiên Thần của César Franck và Vinh Danh của Antonio Vivaldi. === Giáo dục === Từ thời Trung Cổ, các tu sĩ Công giáo đã quan tâm đến việc giáo dục đức tin và giáo dục dân sự. Lịch sử cho thấy rằng ở các vùng đất truyền giáo, những người đầu tiên hoạt động về giáo dục là Công giáo. Ở một số quốc gia, Giáo hội Công giáo mở rất nhiều trường học ngoài công lập trở thành tổ chức sở hữu hệ thống trường ngoài công lập lớn nhất thế giới hiện nay. Trên quy mô toàn cầu, các trường đại học thuộc Giáo hội Công giáo và những trường thuộc các tôn giáo khác đã từ lâu là những thành viên chủ chốt, được coi như những trường có chất lượng, những lá cờ đầu trong đất nước của họ. Ví dụ, ở Hoa Kỳ, 217 trường đại học bốn năm của Giáo hội Công giáo chiếm 20% tổng số sinh viên vào đại học và cao đẳng hàng năm. Trên thế giới có gần 1900 trường đại học và cao đẳng của Giáo hội Công giáo. === Phát triển kinh tế === Francisco de Vitoria, nhà thần học, nhà tư tưởng thuộc Dòng Đa Minh, đệ tử của Tommaso d'Aquino đã có những nghiên cứu lớn về vấn đề liên quan đến nhân quyền của người thuộc địa, người bản địa, mà đã được Liên Hiệp Quốc công nhận như là người đặt nền tảng cho luật pháp quốc tế, lý tưởng cho nền dân chủ và sự phát triển kinh tế của phương Tây. Ngày nay, Giáo hội Công giáo, mà chính thể Vatican làm quan sát viên tại Liên Hiệp Quốc, luôn nhấn mạnh tầm quan trọng của việc phát triển là phục vụ sự phát triển toàn diện của nhân vị, chứ không phải ngược lại. === Bác ái và phúc lợi xã hội === Bác ái và phúc lợi xã hội là hoạt động trọng điểm và nổi bật của Giáo hội Công giáo. Thế kỷ thứ nhất, khi Giáo hội sơ khai được thành lập, các tông đồ đối diện với một thách đố đe dọa chia rẽ cộng đoàn Kitô giáo mới này. Vấn đề là các Kitô hữu gốc Hy Lạp than phiền rằng các bà góa trong nhóm của họ không nhận được phần chia sẻ của cải chung. Các vị tông đồ đã bổ nhiệm bảy phó tế với nhiệm vụ chuyên biệt là đảm bảo sự công bằng trong việc chia sẻ của cải. Đến thời Trung Cổ, việc chăm sóc cho những người khốn khổ đã được quan tâm trong những tu viện Công giáo lớn, các tu sĩ chăm sóc cho các trẻ mồ côi, người bệnh tật, già yếu, các du khách và người nghèo. Từ các tu viện, công việc này được lan tỏa đến các thành phố để thiết lập các viện tế bần, viện mồ côi, nhà dưỡng lão - dưỡng bệnh, trạm dừng nghỉ, nhiều trung tâm chăm sóc sức khỏe và phục vụ xã hội khác. Sau đó, các tổ chức giáo dân bắt đầu mở rộng và thực hiện trong công việc này, như Hiệp hội Bác ái Vinh Sơn của Vinh Sơn đệ Phaolô. Những công việc hiện nay của các tổ chức bác ái Công giáo trên toàn thế giới tiếp tục ưu tiên phục vụ những đối tượng: phụ nữ, trẻ em nghèo đói, các cá nhân bị loại trừ (vì là lao động nước ngoài, người di dân, tị nạn, khác chủng tộc, bị thiểu năng, HIV/AIDS, hoặc lý do nào đó) vì Giáo hội Công giáo quan niệm rằng tất cả mọi người đều là con của một Thiên Chúa. Ngày nay, Caritas Quốc tế là một trong những tổ chức Công giáo phục vụ bác ái, phúc lợi xã hội lớn trên thế giới. === Tác động xã hội đương đại === Năm 1978, Giáo hoàng Gioan Phaolô II, trước đây là Tổng Giám mục của giáo phận Kraków thời Ba Lan là nhà nước cộng sản, đã trị vì 27 năm - một trong những triều đại Giáo hoàng lâu nhất trong lịch sử. Chính Mikhail Gorbachev, chủ tịch của Liên Xô đã ghi nhận rằng Giáo hoàng người Ba Lan này là nhân tố đẩy nhanh sự sụp đổ của chủ nghĩa cộng sản ở châu Âu. Mẹ Teresa thành Calcutta được trao tặng Giải Nobel Hòa bình vào năm 1979 vì những công việc nhân đạo của bà dành cho người nghèo ở Ấn Độ. Giám mục Carlos Filipe Ximenes Belo cũng giành giải thưởng tương tự vào năm 1996 vì giải pháp hòa bình cho cuộc xung đột ở Đông Timor. Hiện nay, Tòa Thánh Vatican là một quốc gia trung lập, đại diện cho Giáo hội Công giáo giữ vị trí quan sát viên tại Liên Hiệp Quốc và thường nêu lên các quan điểm bảo vệ tự do tôn giáo, nhân quyền, chống đói nghèo và nền hòa bình của các quốc gia. === Các vụ bê bối === Trong thập niên 1990 và 2000, giới truyền thông trên thế giới đã phanh phui việc lạm dụng tình dục trẻ vị thành niên của giáo sĩ Công giáo tại nhiều quốc gia. Giáo hội Công giáo bị chỉ trích vì một vài Giám mục đã bao che cho các linh mục bị cáo buộc, không xử lý mà lại thuyên chuyển họ đến mục vụ nơi khác, để tình trạng này tiếp diễn. Hiện nay, Giáo hội Công giáo đã thiết lập thủ tục chính thức để giải quyết vấn đề này. Người phát ngôn của Vatican cho biết họ xử lý rất nghiêm chỉnh đối với vụ tai tiếng lạm dụng tình dục trẻ em. Ông cũng nói các nhà lãnh đạo giáo hội phải hợp tác với nhà chức trách dân sự về những trường hợp lạm dụng tình dục trẻ em. Theo văn phòng của Giáo hội đang phụ trách về sự việc, họ đã nhận được đơn tố cáo về hơn 4.000 vụ trong thập niên qua. Trước những chỉ trích của dư luận, Giáo hoàng Biển Đức XVI nói rằng dù trong bất cứ hoàn cảnh nào thì cũng không thể khăng khăng xem hành vi tội lỗi này như là một tội của chỉ riêng Công giáo. Kể từ đầu năm 2012, Tòa Thánh Vatican cũng trải qua cuộc khủng hoảng sau khi người quản gia của Giáo hoàng Biển Đức XVI bị bắt vì tình nghi làm rò rỉ tài liệu mật, còn chủ tịch ngân hàng của Tòa Thánh bị sa thải. Vụ rò rỉ tài liệu này được giới truyền thông gọi là VatiLeaks (chơi chữ của WikiLeaks), khiến Giáo hoàng phải chỉ đạo Giáo triều Rôma thành lập một hội đồng đặc biệt để điều tra vì nó làm ảnh hưởng đến uy tín của Tòa Thánh. == Xem thêm == Công giáo Tòa Thánh Thành Vatican == Chú thích == Chú giải 1: Tránh nhầm lẫn với các giáo hội Chính Thống giáo Đông phương. Chú giải 2: Cần phân biệt Chức Thánh (Holy Order) với Thánh nhân (Saint). Chức Thánh không có nghĩa rằng họ đã là "Thánh" nhưng mang nghĩa rằng họ được tuyển chọn, tách riêng ra để phục vụ Thiên Chúa. Chú giải 3: Chữ đầy đủ là quinquennial visita ad limina mang nghĩa là cuộc viếng thăm mộ Thánh Phêrô và Phaolô định kỳ 5 năm. Các quy định về chuyến thăm này được viết trong Giáo Luật Công giáo 1983 điều 399-400. Chú giải 4: Xin xem: Phúc âm Luca 22:19, Matthew 26:27–28, Mark 14:22–24, 1 Côrintô 11:24–25 Chú giải 5: Giáo Luật Công giáo, điều 919. Chú giải 6: Giáo Luật Công giáo, điều 844. Chú giải 7: Xin xem: Thư gửi tín hữu Êphêsô 1:22-23; Thư gửi tín hữu Rôma 12:4-5 Chú giải 8: Xin xem: Phúc âm Mátthêu 5:44 Chú giải 9: Người tuyên bố mình là người Công giáo không đồng nghĩa với việc họ có thực hành Công giáo hay không. Bởi vì một số người theo đạo Công giáo, theo điều kiện của một cuộc hôn phối chẳng hạn, nhưng từ lâu đã bỏ thực hành hoặc tham dự các nghi thức Công giáo. Chú giải 10: UT queant laxis REsonare fibris. MIra gestorum FAmuli tuorum. SOLve polluti LAbii reatum. Sancte Ioannes == Nguồn tham khảo == == Liên kết ngoài == Trang chủ của Tòa Thánh - 8 ngôn ngữ Đài phát thanh Vatican - tiếng Việt Hội đồng Giám mục Việt Nam Thông tấn xã Công giáo Việt Nam (đặt ở hải ngoại) Mạng lưới cầu nguyện - tiếng Việt Quyền Bính trong Giáo hội Công giáo Cơ cấu của Giáo triều Rôma Vietnamese Missionaries in Asia
điện bàn.txt
Điện Bàn là thị xã đồng bằng ven biển phía bắc của tỉnh Quảng Nam. Địa bàn thị xã Điện Bàn trải từ 15050' đến 15057' vĩ độ Bắc và từ 1080 đến 108020’ kinh độ Đông, cách tỉnh lỵ Tam Kỳ 48 km về phía bắc, cách thành phố Đà Nẵng 25 km về phía nam. phía bắc giáp huyện Hòa Vang và quận Ngũ Hành Sơn (thành phố Đà Nẵng), phía nam giáp huyện Duy Xuyên, phía đông nam giáp thành phố Hội An, phía đông giáp biển Đông, phía tây giáp huyện Đại Lộc. Với diện tích là 214,28 km2, dân số là 235.013 người(2015). Mật độ dân số đạt 1096 người/km2. Nhiệt độ trung bình 25,5 Oc; độ ẩm trung bình 82,3%; lượng mưa bình quân năm 2000-2500mm, tập trung các tháng 9,10,11. == Lịch sử == Vùng đất Điện Bàn xưa thuộc đất Việt Thường Thị của vua Hùng. Từ năm 214 đến năm 205 TCN, thời nhà Tần, thuộc Tượng Quận. Từ năm 206 TCN đến năm 192 SCN, thời nhà Hán, thuộc quận Tượng Lâm và từ năm 192 đến năm 1306 thuộc vương quốc Chăm Pa. Sau cuộc hôn nhân huyền thoại của công chúa Trần Huyền Trân vào năm 1306, vua Chăm là Chế Mân đã dâng hai châu Ô và Lý cho nhà Trần để làm sính lễ. Năm 1307, hai châu Ô và Lý được đổi thành Thuận Châu, Hóa Châu. Vùng đất Điện Bàn thuộc phần đất phía nam của Hóa Châu. Năm 1435, địa danh Điện Bàn được Nguyễn Trãi ghi vào "Dư địa chí" gồm 95 xã thuộc phủ Triệu Phong của lộ Thuận Hóa. Năm 1471, vua Lê Thánh Tông thành lập đạo thừa tuyên Quảng Nam. Năm 1520, vua Lê Chiêu Tông đổi thành trấn Quảng Nam. Điện Bàn bấy giờ là một huyện thuộc phủ Triệu Phong của trấn Thuận Hóa. Năm 1602, Nguyễn Hoàng đổi thành dinh Quảng Nam và năm 1604 tách huyện Điện Bàn ra khỏi trấn Thuận Hóa, thăng lên thành phủ và nhập về Quảng Nam. Dinh trấn Quảng Nam đóng tại xã Thanh Chiêm, huyện Diên Phước, phủ Điện Bàn, do các công tử của Chúa Nguyễn lần lượt đến trấn thủ. Năm 1803, vua Gia Long lập dinh Quảng Nam gồm 2 phủ: Thăng Hoa và Điện Bàn. Phủ Điện Bàn gồm 2 huyện: Diên Phước và Hòa Vang. Năm 1806, dinh Quảng Nam đổi thành trực lệ Quảng Nam dinh thuộc Kinh Sư. Năm 1827, vua Minh Mạng cho đổi thành trấn Quảng Nam. Năm 1832, đổi trấn Quảng Nam thành tỉnh Quảng Nam. Năm 1833, tỉnh đường Quảng Nam được xây dựng tại làng La Qua. Năm 1899, Điện Bàn có thêm huyện Đại Lộc. Sang đầu thế kỷ XX, khi huyện, phủ thành những đơn vị hành chính riêng thì huyện Điện Bàn hôm nay chính là phần đất của huyện Diên Phước trước đây. Sau năm 1975, huyện Điện Bàn thuộc tỉnh Quảng Nam-Đà Nẵng, gồm 15 xã: Điện An, Điện Dương, Điện Hòa, Điện Hồng, Điện Minh, Điện Nam, Điện Ngọc, Điện Phong, Điện Phước, Điện Phương, Điện Quang, Điện Thắng, Điện Thọ, Điện Tiến, Điện Trung. Ngày 23 tháng 9 năm 1981, Hội đồng Bộ trưởng ban hành Quyết định 79-HĐBT năm 1981 phân vạch địa giới một số xã và thị trấn thuộc các huyện Quế Sơn, Thăng Bình, Điện Bàn, Giằng, Trà My, Tiên Phước, Phước Sơn và Hòa Vang, tỉnh Quảng Nam-Đà Nẵng; theo đó, chia xã Điện Minh thành thị trấn Vĩnh Điện và xã Điện Minh. Ngày 6 tháng 11 năm 1996, huyện Điện Bàn thuộc tỉnh Quảng Nam vừa được tái lập. Ngày 7 tháng 7 năm 2005, Chính phủ ban hành Nghị định 85/2005/NĐ-CP về việc thành lập xã thuộc huyện Núi Thành và Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam; theo đó, chia xã Điện Nam thành 3 xã: Điện Nam Bắc, Điện Nam Trung và Điện Nam Đông, chia xã Điện Thắng thành 3 xã: Điện Thắng Bắc, Điện Thắng Trung và Điện Thắng Nam. Từ đó, huyện Điện Bàn có 20 đơn vị hành chính gồm thị trấn Vĩnh Điện và 19 xã: Điện An, Điện Dương, Điện Hòa, Điện Hồng, Điện Minh, Điện Nam Bắc, Điện Nam Đông, Điện Nam Trung, Điện Ngọc, Điện Phong, Điện Phước, Điện Phương, Điện Quang, Điện Thắng Bắc, Điện Thắng Nam, Điện Thắng Trung, Điện Thọ, Điện Tiến, Điện Trung. Ngày 11 tháng 3 năm 2015, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Quyết định số 889/NQ-UBTVQH13 chuyển huyện Điện Bàn thành thị xã Điện Bàn, đồng thời chuyển thị trấn Vĩnh Điện và 6 xã: Điện An, Điện Ngọc, Điện Nam Bắc, Điện Nam Trung, Điện Nam Đông, Điện Dương thành 7 phường có tên tương ứng. == Hành chính == Điện Bàn có 7 phường: Điện An, Điện Dương, Điện Nam Bắc, Điện Nam Đông, Điện Nam Trung, Điện Ngọc, Vĩnh Điện và 13 xã gồm: Điện Hòa, Điện Hồng, Điện Minh, Điện Phong, Điện Phước, Điện Phương, Điện Quang, Điện Thắng Bắc, Điện Thắng Nam, Điện Thắng Trung, Điện Thọ, Điện Tiến, Điện Trung. == Kinh tế == Điện Bàn là thị xã của tỉnh Quảng Nam, với khu vực phường Vĩnh Điện (trung tâm thị xã) sầm uất, với khu công nghiệp Điện Nam - Điện Ngọc. Trong những năm trở lại đây, kinh tế - xã hội Điện Bàn đã có những bước phát triển mạnh và vững chắc. Vì vậy, việc xây dựng Điện Bàn trở thành một trong những trung tâm kinh tế - văn hóa lớn với các chức năng cơ bản là một trung tâm công nghiệp, thương mại, du lịch và dịch vụ của Bắc Quảng Nam; trung tâm văn hóa - thể thao, giáo dục – đào tạo của khu vực là tất yếu khách quan nhằm tranh thủ thời cơ và khai thác lợi thế vốn có của huyện. Thị xã Điện Bàn có nhiều làng nghề nổi tiếng. Xã Điện Phương có nghề đúc đồng Phước Kiều, gỗ mỹ nghệ truyền thống Nguyễn Văn Tiếp, bánh tráng Phú Triêm... Nghề trồng dâu nuôi tằm cùng với việc trồng thuốc lá ở các xã thuộc khu vực Gò Nổi vì đất bồi rất phì nhiêu do lũ lụt đem đến. Tốc độ tăng trưởng kinh tế trong thời kỳ 2007-2009, Điện Bàn đã phát triển khá cao ở ngành công nghiệp và dịch vụ, làm cơ cấu kinh tế chuyển đổi nhanh theo hướng công nghiệp-dịch vụ-nông nghiệp (74-17-9%). Tổng vốn đầu tư xã hội trên địa bàn bình quân hằng năm lên đến hàng ngàn tỷ đồng phục vụ công tác giải phóng mặt bằng và tái định cư. Riêng vốn ngân sách thị xã đầu tư xây dựng cơ bản giai đoạn 2006- 2009 đã là 255 tỷ đồng. Nhiều khu đô thị mới như: Điện Nam - Điện Ngọc, Khu công nghiệp Điện Nam - Điện Ngọc, phường Vĩnh Điện (trung tâm thị xã) và các khu dân cư... được đầu tư đúng mức. Đặc biệt Điện Bàn đã phát triển được 10 cụm công nghiệp, thương mại và dịch vụ (Cụm công nghiệp Trảng Nhật 1 và 2, Cẩm Sơn, An Lưu, Thương Tín 1 và 2, Nam Dương, Bồ Mưng, Vân Ly, Bích Bắc). Hiện nay, hạ tầng kỹ thuật tại các cụm công nghiệp Trảng Nhật 2, An Lưu... cơ bản hoàn thành. Tính đến nay, đã có 50 doanh nghiệp đăng ký và hoạt động sản xuất kinh doanh với tổng mức vốn đầu tư hơn 650 tỷ đồng, trong đó 30 đơn vị đã đi vào sản xuất giải quyết được hơn 3.000 lao động tại địa phương có công ăn việc làm ổn định. Cùng với tuyến đường ĐT603A đã hoàn thành, các khu du lịch ven biển Điện Dương-Điện Ngọc, khu du lịch sinh thái Bồ Bồ, bãi tắm Hà My đã có 15 dự án đầu tư du lịch với tổng vốn đăng ký đầu tư là 550 tỷ đồng và 1.132 triệu USD. Tuy nhiên, chất lượng nguồn nhân lực của thị xã còn thấp, lao động được đào tạo nghề chiếm tỷ lệ nhỏ trong các doanh nghiệp. Đặc biệt là môi trường tự nhiên ngày càng ô nhiễm bởi rác thải từ các khu công nghiệp, du lịch, dân cư chưa được giải quyết triệt để. Cùng với đó là nạn khai thác trái phép cát lòng sông và tàn phá rừng đầu nguồn; tình trạng sạt lở, cuốn trôi, bồi cát tại khu vực ven sông làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến sản xuất và đời sống nhân dân các xã Điện Hồng, Điện Phước, Điện Thọ, Điện Quang, Điện Trung, Điện Phong... Kinh tế hộ sản xuất nhỏ, manh mún, không thích ứng được với sự cạnh tranh khốc liệt của cơ chế thị trường... Trong xu thế phát triển chung, tuy có nhiều khó khăn thách thức nhưng với vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên, nguồn lực, kết cấu hạ tầng kỹ thuật và xã hội thuận lợi, tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và ổn định, tình hình an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội luôn được giữ vững, vì vậy Điện Bàn vẫn tiếp tục giữ vai trò động lực của khu vực Bắc Quảng Nam. == Du lịch == Thị xã Điện Bàn còn có tháp Bằng An, một di tích văn hóa Chăm là tháp chăm duy nhất còn lại của Việt Nam có thân hình bát giác, được xem như là một Linga khổng lồ. Bãi biển Hà My phường Điện Dương, đã được xây dựng và phát triển nhanh chóng. Đây được xem là khu du lịch phát triển nhất của thị xã Điện Bàn hiện nay. Điện Phương nổi tiếng các làng nghề truyền thống như đúc đồng, gốm, gỗ mỹ nghệ Nguyễn Văn Tiếp, dệt chiếu, mỳ Quảng Phú Chiêm, bê thui Cầu Mống, khu du lịch Bồ Bồ.... == Tham khảo == == Liên kết ngoài == Trang web của thị xã Điện Bàn
guyane thuộc pháp.txt
Guyane thuộc Pháp (phiên âm: Guy-an, tiếng Pháp: Guyane française, tiếng Anh: French Guiana, tên chính thức là Guyane) là một tỉnh hải ngoại (tiếng Pháp: département d'outre-mer, hay DOM) của Pháp, nằm ở bờ bắc Nam Mỹ. Tiếng Việt vào cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20 còn phiên âm xứ này là Nguy Gian và Guy An. Giống như những tỉnh hải ngoại khác, Guyane thuộc Pháp cũng là một vùng hải ngoại của Pháp, một trong 27 vùng của Pháp. Là một thành phần của nước Pháp, Guyane thuộc Pháp là một lãnh thổ thuộc Liên minh châu Âu, và đơn vị tiền tệ hiện nay là euro. == Lịch sử == Guyane thuộc Pháp thuở trước chỉ có thổ dân châu Mỹ sinh sống. Sau khi người Pháp đặt chân đến đây vào thế kỷ 17 thì Guyane được dùng làm nơi lưu đày tội nhân. Chính quyền Pháp xây một hệ thống nhà ngục từ năm 1852 đến năm 1951 ở Guyane để thỏa mãn hai nhu cầu, vừa là một cách biệt giam phạm nhân, vừa là cách đưa dân sang khai phá đất hoang. Cuộc tranh chấp chủ quyền với Brasil vào cuối thế kỷ 19 tạo cơ sở cho một quốc gia mới ra đời ở vùng biên giới chưa phân định. Với thủ đô là Counani, cư dân vùng đó tự xưng là "Cộng hòa Guyane Độc lập" (tiếng Pháp: La République de la Guyane indépendante) và ủng hộ lập trường thân Pháp, chống lại Brasil. Counani tồn tại từ năm 1886 đến 1891 thì bị Brasil sáp nhập sau khi chính phủ Thụy Sĩ đứng làm trung gian hòa giải và phán quyết rằng vùng tranh chấp thuộc chủ quyền Brasil. Năm 1946, Guyane thuộc Pháp trở thành một tỉnh hải ngoại của Pháp. Thập niên 1970 chứng kiến hàng ngàn dân tỵ nạn H'Mông từ Lào sang định cư. Năm 1986, 800 người Thượng thuộc sắc tộc Stieng trốn khỏi Việt Nam cũng được chính phủ Pháp nhận cho định cư ở Guyane thuộc Pháp. Năm 1964, Tổng thống Pháp Charles de Gaulle đã quyết định xây dựng một căn cứ du hành vũ trụ tại Guyane thuộc Pháp. Căn cứ này được dự định sẽ thay thế căn cứ Sahara tại Algeria và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế ở Guyane thuộc Pháp. Tỉnh này được đánh giá là địa điểm đặc biệt thích hợp vì nằm gần đường xích đạo và có thể tiếp cận một khu vực đại dương rộng lớn để dùng làm làm vùng đệm. Trung tâm vũ trụ Guyane, nằm ven bờ biển gần Kourou, đã phát triển đáng kể từ sau những lần phóng tên lửa "Véronique" ban đầu. Trung tâm này nay là một phần của ngành công nghiệp không gian châu Âu và đã có các thành công mang tính thương mại như khi phóng Ariane 4 và Ariane 5. Phong trào đòi tự trị cho Guyane thuộc Pháp dấy lên vào thập niên 1970 và 1980 nhưng sau nguôi dần. == Địa lý == Mặc dù chia sẻ tương đồng văn hóa với các lãnh thổ nói tiếng Pháp ở Caribe, Guyane thuộc Pháp thường không được xem là một phần của khu vực địa lý này, lý do là vì biển Caribe nằm cách xa Guyane thuộc Pháp hàng trăm km về phía tây, ở sau cung đảo Tiểu Antilles. Tuy nhiên, ranh giới mà người ta định ra cho Caribe đã thay đổi theo thời gian. Về mặt lịch sử, ranh giới của Caribe ở mức độ lớn nhất của nó trong các thế kỷ 17 và 18 và lúc đó thì Guyane thuộc Pháp nằm ở rìa và trong một số giai đoạn nó có thể được cho là một phần của bản thân Caribe. Guyane thuộc Pháp nằm giữa 2° và 6° vĩ Bắc, và từ 51° đến 53° kinh Tây. Lãnh thổ này gồm có hai khu vực địa lý chính: một dải duyên hải nơi đa phần cư dân sinh sống, và vùng rừng mưa rậm rạp và gần như không thể tiếp cận dần cao lên đến các đỉnh khiêm tốn của dãy núi Tumuk Humak dọc theo biên giới với Brasil. Đỉnh cao nhất tại Guyane thuộc Pháp là Bellevue de l'Inini ở Maripasoula với cao độ 851 m (2.792 ft). Các ngọn núi khác bao gồm Mont Machalou (782 m (2.566 ft)), Pic Coudreau (711 m (2.333 ft)) và Mont St Marcel (635 m (2.083 ft)), Mont Favard (200 m (660 ft)) và Montagne du Mahury (156 m (512 ft)). Có một số hòn đảo nhỏ nằm gần bờ biển tại Guyane thuộc Pháp, ba hòn đảo Îles du Salut (quần đảo Cứu rỗi) bao gồm đảo Diable, và hòn đảo biệt lập Îles du Connétable nằm xa hơn về phía đông. Đập thủy điện ở phía bắc của Guyane thuộc Pháp đã hình thành nên một hồ nhân tạo. Guyane thuộc Pháp cũng có nhiều sông, trong đó có sông Waki. Tính đến năm 2007, rừng mưa Amazone, nằm ở phần xa xôi nhất của tỉnh, được bảo hộ trong khuôn khổ vườn Amazone Guyane, một trong mười vườn quốc gia của Pháp. Diện tích của vườn là 33.900 kilômét vuông (13.090 sq mi) thuộc các xã Camopi, Maripasoula, Papaïchton, Saint-Élie và Saül. == Kinh tế == Do là một bộ phận đầy đủ của nước Pháp, Guyane thuộc Pháp là một phần của Liên minh châu Âu và Eurozone; tiền tệ của tỉnh là euro. .gf là tên miền quốc gia (ccTLD) dành cho Guyane thuộc Pháp, song .fr thường được dùng thay thế. Năm 2008, GDP của Guyane thuộc Pháp theo tỷ giá hối đoái thị trường là US$4,72 tỉ (€3,21 tỉ), trở thành nền kinh tế lớn nhất Guyana, và là nền kinh tế lớn thứ 11 tại Nam Mỹ. Guyane phụ thuộc nặng vào Chính quốc Pháp trên các lĩnh vực trợ cấp, thương mại và hàng hóa. Các ngành công nghiệp chính là đánh cá (chiếm ba phần tư xuất khẩu), khai thác vàng và gỗ. Ngoài ra, Trung tâm vũ trụ Guyane tại Kourou chiếm 25% tổng GDP và tạo việc làm cho 1.700 người. Lĩnh vực chế tạo tại Guyane thuộc Pháp rất nhỏ. Nông nghiệp phần lớn vẫn chưa được phát triển và chủ yếu giới hạn tại khu vực gần bờ biển – mía và chuối là hai trong số các cây trồng chính. Du lịch, đặc biệt là du lịch sinh thái, đang được phát triển. Thất nghiệp là một vấn đề lớn của Guyane thuộc Pháp với tỷ lệ khoảng 20% đến 30%. Năm 2008, GDP bình quân đầu người của Guyane thuộc Pháp theo theo tỷ giá hối đoái thị trường, không theo sức mua tương đương, là US$20.904 (€14.204), cao nhất Nam Mỹ, song chỉ bằng 47% GDP bình quân đầu người của Mẫu quốc Pháp trong năm đó. == Nhân khẩu == Theo ước tính vào tháng 1 năm 2009, dân số Guyane thuộc Pháp là 229.000 người, hầu hết trong số họ sinh sống ở khu vực ven biển và rất đa dạng về sắc tộc. Theo điều tra năm 1999, 54,4% cư dân Guyane thuộc Pháp sinh ra tại Guyane thuộc Pháp, 11,8% sinh ra tại Chính quốc Pháp, 5,2% sinh ra tại các tỉnh Caribe (Guadeloupe và Martinique), và 28,6% sinh ra tại nước ngoài (chủ yếu là Brasil, Suriname, và Haiti). Ước tính về tỷ lệ thành phần dân tộc tại Guyane thuộc Pháp có sự khác biệt, điều này càng trở nên phức tạp do tỷ lệ người nhập cư lớn (khoảng 20.000, gần 10%). Người Mulatto (hợp chủng giữa người gốc Phi và gốc Pháp) là sắc tộc lớn nhất, mặc dù tỷ lệ chính xác của họ được ước tính khác nhau, tùy thuộc vào việc cộng đồng Haiti khá lớn có được tính gộp vào hay không. Nói chung người Creole được xét đoán chiếm từ 60% đến 70% tổng dân số nếu người Haiti được tính, và chiếm từ 30% đến 50% nếu không tính người Haiti. Khoảng 14% dân số Guyane thuộc Pháp là người gốc Âu. Phần lớn trong số họ có nguồn gốc Pháp, song cũng có những người gốc Hà Lan, Anh, Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha. Các cộng đồng gôc Á lớn nhất tại Guyane thuộc Pháp là người Hoa (3,2%, chủ yếu đến từ tỉnh Chiết Giang và người H'Mông đến từ Lào (1,5%). Guyane thuộc Pháp cũng có các cộng đồng dân cư nhỏ hơn có nguồn gốc từ các đảo tại Caribe, chủ yếu là Saint Lucia cũng như Dominica. Các nhóm gốc Á khác bao gồm người Đông Ấn, người Liban và người Việt. Các dân tộc sinh sống trong vùng nội địa là người Maroon có nguồn gốc Phi, và người da đỏ. Người Maroon là hậu duệ của những nô lệ gốc Phi đã trốn thoát, sinh sống chủ yếu dọc theo sông Maroni. Các nhóm người Maroon chính là Saramaca, Aucan (hai nhóm này cũng sinh sống tại Suriname), và Boni (Aluku). Các nhóm người da đỏ là người Arawak, người Carib, người Emerillon, người Kali'na, người Palikur, người Wayampi và người Wayana. Đến cuối thập niên 1990, đã có bằng chứng về một nhóm người Wayampi chưa tiếp xúc với thế giới bên ngoài. Tôn giáo chi phối tại Guyane thuộc Pháp là Công giáo La Mã; người Maroon và một số người da đỏ vẫn duy trì tôn giáo của họ. Người H'Mông tại Guyane thuộc Pháp chủ yếu theo Công giáo do ảnh hưởng của những nhà truyền giáo đã giúp đưa họ đến Guyane thuộc Pháp. Tổng tỷ suất sinh tại Guyane thuộc Pháp vẫn duy trì ở mức cao và ngày nay lớn hơn đáng kể so với tỷ lệ tại Chính quốc Pháp, và cũng lớn hơn tỷ lệ trung bình của năm tỉnh hải ngoại của Pháp. Nó góp phần lớn vào sự tăng trưởng dân số tại Guyane thuộc Pháp. == Chú thích == == Liên kết ngoài == Người Việt ở Guyana trước giờ G phóng VINASAT-1 Chùa Một Cột ở Guyane Nhà lao An Nam ở Guyane I Nhà lao An Nam ở Guyane II Conseil régional de Guyane Official website (tiếng Pháp) Préfecture de Guyane Official website (tiếng Pháp) Guyane thuộc Pháp tại DMOZ US Consular Information Sheet Khác Ethnologue French Guiana page Silvolab Guyanae - scientific interest group in French Guiana Article on separatism in French Guiana About.com French Guiana travel site Status of Forests in French Guiana French Guiana photo gallery French Guiana image gallery Photo gallery Map of French Guiana Officials reports, thesis, scientific papers about French Guiana (en|fr) The IRD's database AUBLET2 stores information about botanical specimens collected in the Guianas, mainly in French Guiana
lụt.txt
Lụt là hiện tượng nước trong sông, hồ tràn ngập một vùng đất. Lụt cũng có thể dùng để chỉ ngập do thủy triều, nước biển dâng do bão. Lụt có thể xuất hiện khi nước trong sông, hồ tràn qua đê hoặc gây vỡ đê làm cho nước tràn vào các vùng đất được đê bảo vệ. Trong khi kích thước của hồ hoặc các vực nước có thể thay đổi theo mùa phụ thuộc vào giáng thủy hoặc tuyết tan, nó không có nghĩa là lũ lụt trừ khi lượng nước này tràn ra gây nguy hiểm cho các vùng đất như làng, thành phố hoặc khu định cư khác. Lụt có thể xảy ra khi mực nước sông dâng cao do lũ lớn làm tràn ngập và phá hủy các công trình, nhà cửa dọc theo sông. Có thể giảm thiệt hai do lũ bằng cách di dời dân cư xa sông, tuy nhiên các hoạt động kinh tế, dân sinh thường gắn liền với sông. Do vậy, con người vẫn cứ định cư trong những khu vực có nhiều rủi ro bị thiệt hại do lũ, khi đó giá trị thu được do sống gần vực sông cao hơn là chi phí dự báo lũ định kỳ. == Các loại điển hình và nguyên nhân == === Lụt ven sông === Lụt chậm: do mưa kéo dài (thường gặp ở các vùng nhiệt đới) hay do tuyết tan nhanh (thường ở vùng ôn đới) làm lượng nước đổ xuống vượt mức chứa của kênh đào hay sông ngòi. Mưa rào, mưa bão, áp thấp nhiệt đới là những nguyên nhân khác của lụt loại này. Lụt nhanh: xảy ra nhanh chóng và thường do các cơn bão mạnh. === Lụt hạ lưu === Thường do ảnh hưởng kết hợp: sức gió mạnh của bão làm triều dâng cao. === Lụt ven biển === Do những cơn bão biển dữ dội hay thảm họa khác như sóng thần. === Lụt do thảm họa === Các nguyên nhân khác như vỡ đê, động đất, núi lửa,... cũng có thể dẫn đến lụt. === Lụt do con người === Tai nạn do con người gây ra với kênh đào và đường ống. === Khác === Lụt xảy ra do nước tích lại trên một bề mặt không có khả năng thấm nước. Ví dụ: mưa sẽ làm ẩm mặt đất nhưng mưa kéo dài làm giảm và làm mất khả năng thấm nước của đất nên nước sẽ đọng lại trên mặt đất. Nếu mưa kéo dài lượng nước sẽ tăng trong khi nước mất đi do bay hơi không đáng kể sẽ dần dần gây ra lụt. Hoặc có thể xảy ra lụt do nhiều cơn bão tràn qua. == Đối phó với lũ lụt == Ở phương Tây, đa phần đất đai đã được con người trải nhựa làm đường và tiến hành bê tông hóa đồng loạt. Dễ thấy là lớp phủ mặt đường này khiến cho hầu hết lượng mưa tích tụ lại đều biến thành dòng chảy. Trong một khu công nghiệp không có hệ thống tiêu thoát nước hữu hiệu, có lẽ không cần quá nhiều mưa cũng có thể gây ra lụt nặng. Nhiều thành phố đã xây dựng các cống dẫn nước bằng bê tông để phòng ngừa lũ lụt. Khi mưa nhiều, nước sẽ chảy vào trong các cống dẫn chạy quanh khu vực ngoại ô thành phố, nơi nước được hấp thụ tốt hơn. Song, biết đâu một lúc nào đó chính những cống dẫn nước này lại gây lũ lụt. Bản thân hoạt động rải bê tông, nhựa đường trên mặt đất cũng đã đồng nghĩa với việc chúng ta đang cắt đi một phần của miếng bọt biển tự nhiên và dồn thêm nước vào phần bọt biển còn lại. Tương tự, con người xây rất nhiều đê chống lũ. Có thể hình dung đây là những bức tường thành lớn được xây dựng dọc các bờ sông để ngăn sông tràn ra thành lũ. Trong suốt thời gian qua, những con đê này đã hoàn thành tương đối tốt sứ mệnh của mình, nhưng với những khu vực không có đê thì hoàn toàn ngược lại, sẽ phải hứng toàn bộ lượng nước lũ khi nước sông dâng lên. Hơn nữa, không khác đập là mấy, hệ thống đê có thể vỡ. Nếu điều này xảy ra thì việc những khu vực gần sông bị nước lũ nhấn chìm chỉ còn là vấn đề thời gian. Riêng đối với hoạt động kiểm soát lũ dọc bờ biển, loài người thực chất không đạt được nhiều thành tựu. Những con sóng lớn có khả năng phá hủy các công trình xây dựng bằng cách gâyxói mòn. Để kiểm soát xói mòn, chúng ta đã áp dụng phương pháp xây các hàng rào và đê chắn sóng. Song thực tế, chúng lại gây trở ngại cho tiến trình hình thành bãi biển bởi khi chúng ta ngăn nước di chuyển về phía bờ, biển không thể "chở" cát vào bờ tạo nên những bãi biển đẹp. Đối với nhiều khu vực [nội địa cũng vậy. Thoạt nhìn, người ta có thể tưởng rằng sông là một đặc trưng không đổi của cảnh quan nói chung, nhưng thật ra nó lại là một thực thể động, nhất là những con sông lớn như Mississippi (Hoa Kỳ), Dương Tử, Hoàng Hà (Trung Quốc)… Trải qua thời gian, sông dần dần mở rộng ra, rồi đột ngột chuyển hướng, thậm chí có thể biến đổi cả dòng chảy. Vì lý do này mà những vùng đất ven bờ sông thường có nguy cơ ngập lụt rất cao. Nguồn: Lũ lụt hoạt động như thế nào ? == Tác động == === Tác động trước mắt === Phá hủy vật chất: Lụt có thể làm hại, gây hư hỏng hay sập đổ hoàn toàn các công trình giao thông như cầu, cống, đường tàu, hệ thống thoát nước, nhà cửa,... Thương vong: người và động vật bị chết đuối hoặc bị thương do tai nạn do ngập nước gây ra. === Tác động thứ cấp === Ảnh hưởng đến nước sinh hoạt nói riêng và nguồn nước nói chung: nước bị ô nhiễm do nước mang theo các chất thải từ cống, rãnh, ao hồ tràn lên đường phố, nhà, khu vực các vòi nước công cộng,... Gây khan hiếm nước uống và nhiều tình trạng khác. Bệnh cho người và động vật: do vệ sinh kém, do các bệnh truyền nhiễm dựa vào nước để phán tán. Trong điều kiện ấy, bệnh dịch dễ dàng nảy sinh và lây lan, bởi đa số dịch bệnh đều truyền qua đường nước nhanh hơn là qua không khí, chẳng hạn dịch tả. Thiệt hại trong nông nghiệp: gây ngập các khu vực trồng trọt nên có thể làm giảm năng suất, là nguyên nhân gây ra mất mùa, gây khan hiếm lương thực. Nhiều loài thực vật không có khả năng chịu úng bị chết. === Tác động lâu dài === Gây khó khăn cho nền kinh tế: giảm "tức thời" các hoạt động du lịch, chi phí cho tái xây dựng, đồng thời đẩy mạnh việc tăng giá các mặt hàng lương thực thực phẩm,... == Những trận lũ lụt gây thiệt mạng nhiều nhất == Dưới đây là danh sách các trận lũ lụt gây thiệt mạng nhiều nhất trên thế giới, từ 100.000 trở lên. == Chú thích == == Tài liệu == O'Connor, Jim E. and John E. Costa. (2004). The World's Largest Floods, Past and Present: Their Causes and Magnitudes [Circular 1254]. Washington, D.C.: U.S. Department of the Interior, U.S. Geological Survey. Thompson, M.T. (1964). Historical Floods in New England [Geological Survey Water-Supply Paper 1779-M]. Washington, D.C.: United States Government Printing Office. Powell, W. Gabe. 2009. Identifying Land Use/Land Cover (LULC) Using National Agriculture Imagery Program (NAIP) Data as a Hydrologic Model Input for Local Flood Plain Management. Applied Research Project. Texas State University–San Marcos == Xem thêm == Sóng thần Triều cường == Liên kết ngoài == Các khái niệm về lụt trên trang Trung tâm dự báo khí tượng thủy văn Trung ương (tiếng Việt) "Vietnamese - King County Flood Safety Video." (Archive) King County Flood Control District, Quận King, Washington (YouTube)
giải vô địch bóng đá châu âu 2004.txt
Vòng chung kết Euro 2004 (Euro 2004) được tổ chức ở Bồ Đào Nha từ ngày 12 tháng 6 cho đến ngày 4 tháng 7 năm 2004. Đây là giải vô địch bóng đá châu Âu lần thứ 12, được tổ chức bốn năm một lần bởi UEFA. Đội tuyển Hy Lạp gây bất ngờ lớn khi đoạt chức vô địch châu Âu đầu tiên của mình, dù không được đánh giá cao trước khi vào giải. Người ghi bàn thắng duy nhất trong trận chung kết giữa Hy Lạp và Bồ Đào Nha là tiền đạo Angelos Charisteas. == Vòng loại == == Danh sách cầu thủ == == Các đội tham dự == Các quốc gia tham dự vòng chung kết lần này gồm: == Phân loại hạt giống == == Các sân vận động == == Trọng tài == Dưới đây là danh sách 12 trọng tài chính của Euro 2004: == Vòng chung kết == === Vòng đấu bảng === ==== Bảng A ==== ==== Bảng B ==== ==== Bảng C ==== ==== Bảng D ==== == Vòng đấu loại trực tiếp == === Tứ kết === === Bán kết === === Chung kết === == Cầu thủ ghi bàn == == Đội hình tiêu biểu của UEFA == == Bảng xếp hạng giải đấu == == Chú thích == == Liên kết ngoài ==
bbc.txt
BBC (viết tắt cụm từ tiếng Anh: British Broadcasting Corporation, phát âm như bi-bi-xi) là thông tấn xã quốc gia của Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland. BBC là đài truyền hình quốc gia lâu đời nhất trên thế giới cũng như là đài truyền hình lớn nhất thế giới theo số lượng nhân viên (hơn 20 nghìn nhân viên, hơn 35 nghìn nếu tính thêm các nhân viên bán thời gian và nhân viên hợp đồng ngắn hạn). Trụ sở của BBC nằm ở Broadcasting House ở Luân Đôn. Các sản phẩm của BBC bao gồm các chương trình và thông tin trên TV, trên đài phát thanh và trên Internet. Nhiệm vụ chính của BBC là đưa truyền thông đại chúng trung lập tại Anh Quốc, Channel Islands và Isle of Man. BBC được thành lập dưới Hiến chương Hoàng gia Anh và hoạt động dưới sự chấp thuận của Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Phương tiện và Thể thao Anh. Đài BBC thu lợi nhuận chủ yếu bằng một khoản lệ phí truyền hình được thu từ tất cả các hộ gia đình, các công ty và tổ chức sử dụng bất kì loại thiết bị nào để thu lại hoặc thu trực tiếp tín hiệu từ đài. Khoản phí này được đặt ra bởi Chính phủ Anh, được chấp thuận bởi Nghị viện Anh, và được sử dụng để gây quỹ cho các dịch vụ radio, TV và các dịch vụ trực tuyến khác của BBC mà bao trùm toàn bộ nước Anh. Từ 1/4/2014, khoản phí này cũng gây quỹ cho hệ thống tin tin tức thế giới (BBC World Service), thành lập năm 1932, mà cung cấp các hệ thống TV, radio và các dịch vụ trực tuyến khác bằng tiếng Ả Rập, tiếng Ba Tư và hơn 28 ngôn ngữ khác, bao gồm tiếng Việt. Khoảng một phần tư lợi nhuận của BBC đến từ lệ phí thương mại của BBC Worldwide Ltd., từ khoản tiền có được từ việc bán các chương trình truyền hình và các dịch vụ khác ra các nước khác, và từ hệ thống tin tức quốc tế 24/7 bằng tiếng Anh BBC World News và BBC.com, được cung cấp bởi BBC Global News Ltd. == Lịch sử == === Sự khai sinh của phát sóng quảng bá ở Anh, 1920 tới 1922 === Buổi phát sóng trực tiếp đầu tiên của Anh từ nhà máy Marconi ở Chelmsford diễn ra vào tháng 6 năm 1920. Nó được tài trợ bởi Ngài Northcliffe của tờ Daily Mail và có mặt ca sĩ giọng nhạc cao nổi tiếng của Úc Dame Nellie Melba. Buổi phát sóng của Melba thu hút nhiều người và đánh dấu một bước ngoặt trong thái độ của công chúng Anh với đài radio. Tuy nhiên sự nhiệt tình này của công chúng không lan sang phạm vi của chính phủ nơi mà các chương trình phát sóng như vậy được lập ra để can thiệp vào các phương tiện liên lạc dân sự và quân sự quan trọng của đối phương. Đến cuối năm 1920, áp lực từ các nguồn này và sự lo lắng đến từ các nhân viên của cơ quan cấp phép, Tổng cục Bưu điện (GPO), đủ để dẫn đến một lệnh cấm phát thanh từ Chelmsford. Nhưng vào năm 1922, GPO đã nhận được gần 100 yêu cầu giấy phép phát sóng và dẫn đến hủy bỏ lệnh cấm bởi một kiến ​​nghị của 63 tổ chức radio với hơn 3.000 thành viên. Để tránh sự mở rộng lộn xộn vốn đã xảy ra tại Hoa Kỳ, GPO đề xuất rằng sẽ cấp một giấy phép phát sóng duy nhất cho một công ty đồng sở hữu bởi một tập hợp của những nhà sản xuất thiết bị thu sóng không dây hàng đầu, được biết đến như British Broadcasting Company Ltd (Công ty trách nhiệm hữu hạn phát thanh (và truyền hình) Anh). John Reith, một người Scotland theo phái Calvin, được bổ nhiệm làm Tổng Giám đốc vào Tháng 12 năm 1922, một vài tuần sau khi Công ty đã có buổi phát sóng chính thức đầu tiên. Công ty đã được cấp vốn bằng tiền bán bản quyền bộ tiếp nhận không dây từ các nhà sản xuất đã được phê duyệt và lệ phí bản quyền. === Từ công ty tư nhân tới công ty cung cấp dịch vụ công cộng, 1923 tới 1926 === Việc sắp xếp tài chính sớm được chứng tỏ là không đầy đủ. Doanh thu bán hàng trở nên đáng thất vọng khi những người nghiệp dư đã làm riêng bộ thu và người nghe đã mua những bộ thu không được cấp phép từ đối thủ. Đến giữa năm 1923, các cuộc thảo luận giữa GPO và BBC đã trở nên bế tắc và Bưu Tổng ủy được ủy quyền để xem xét về việc phát sóng do Ủy ban Sykes. Ủy ban này đề nghị một sự tổ chức lại ngắn hạn về lệ phí cấp giấy phép với sự cải thiện tốt hơn để giải quyết khó khăn tài chính trước mắt của BBC, và một phần gia tăng sự phân chia doanh thu giấy phép giữa BBC và GPO. Điều này được theo sau bởi một lệ phí giấy phép giá 10 shilling (đơn vị tiền thời đó) và không có tiền bản quyền một khi sự bảo hộ của nhà sản xuất thiết bị không dây hết hạn. Sự phát sóng độc quyền của BBC đã được thực hiện một cách rõ ràng trong khoảng thời gian giấy phép phát sóng hiện tại của nó, như là việc cấm phát quảng cáo. BBC cũng đã bị cấm phát bản tin trước 19:00, và yêu cầu dẫn nguồn tất cả các tin tức từ các dịch vụ bên ngoài. Giữa năm 1925, nền móng cho tương lai của phát thanh truyền hình được xem xét thêm do Ủy ban Crawford. Cho tới lúc đó BBC dưới sự lãnh đạo của Reith đã giả mạo được một văn bản đồng thuận ủng hộ một sự tiếp nối của các dịch vụ truyền thông thống nhất (một cách độc quyền), nhưng cần nhiều tiền hơn để bỏ vốn cho việc mở rộng nhanh chóng. Các nhà sản xuất không dây lúc này rất nóng lòng để thoát khỏi liên minh gây thiệt hại này với việc Reith muốn rằng BBC được xem như là một dịch vụ công cộng chứ không phải là một doanh nghiệp thương mại. Các khuyến nghị của Ủy ban Crawford đã được công bố tháng 3 năm sau đó và vẫn đang được xem xét bởi GPO khi năm 1926 cuộc tổng đình công nổ ra vào tháng Năm. Cuộc đình công tạm thời gián đoạn việc sản xuất báo và những hạn chế về bản tin khiến BBC đột nhiên trở thành nguồn chính của tin tức trong thời gian khủng hoảng. Cuộc khủng hoảng đặt BBC ở một vị thế khó xử. Một mặt Reith đã nhận thức sâu sắc rằng chính phủ có thể thực hiện quyền của mình để trưng dụng BBC như một cơ quan ngôn luận của Chính phủ bất cứ lúc nào nếu BBC làm ngơ những quy định, nhưng mặt khác ông đã lo lắng để duy trì niềm tin của công chúng bằng cách hoạt động độc lập. Chính phủ đã bị chia thành hai phe về cách xử lý với BBC nhưng cuối cùng lại tin tưởng Reith. Do đó, BBC đã được giao cho đủ thời gian để theo đuổi mục tiêu của Chính phủ chủ yếu theo cách lựa chọn riêng của BBC. Phạm vi bao quát về quan điểm của cả những người đình công và chính phủ đã gây ấn tượng với hàng triệu thính giả, những người không hề biết rằng Thủ tướng đã phát sóng đến toàn đất nước từ nhà của Reith, sử dụng một trong những "sound bite" (một đoạn phát biểu hoặc nhạc được tách ra từ một đoạn âm thanh dài) của Reith chèn vào phút cuối. Reith đích thân công bố kết thúc cuộc đình công mà ông chỉ ra bằng cách đọc từ "Jerusalem" (nơi hạnh phúc) của Blake nghĩa rằng nước Anh đã được giải cứu. BBC đã thoát ra khỏi cuộc khủng hoảng và được theo sau bởi sự chấp nhận chính thức của Chính phủ về kiến ​​nghị của Ủy ban Crawford về việc chuyển giao các hoạt động của công ty cho British Broadcasting Corporation (Tổng công ty phát thanh truyền hình Anh), vốn được thành lập bởi Hiến chương Hoàng gia. Reith đã được phong tước hiệp sĩ và vào ngày 01 tháng 1 năm 1927 ông trở thành Tổng giám đốc đầu tiên của Tổng công ty phát thanh truyền hình Anh. Để đại diện cho mục đích của và giá trị (đã nêu), Tổng công ty đã thông qua huy hiệu (coat of arms), bao gồm cả câu khẩu hiệu "Nation shall speak peace unto Nation". === 1926 đến 1939 === Khán giả radio ở Anh có ít sự lựa chọn ngoài các chương trình dành cho giới thượng lưu của BBC. Reith, một tổng giám đốc theo chủ nghĩa đạo đức một cách mạnh mẽ, là người phụ trách hoàn toàn. Mục tiêu của ông là phát sóng "Tất cả những gì tốt nhất từ tất cả các bộ phận của tri thức nhân loại, các nỗ lực và thành tích.... Việc bảo tồn một phong thái đạo đức rõ ràng là hết sức quan trọng." Reith đã thành công trong việc chống lại một kiểu radio free-for-all (miễn phí cho tất cả) kiểu Mỹ, trong đó mục tiêu là để thu hút lượng khán giả lớn nhất và do đó đảm bảo doanh thu từ quảng cáo lớn nhất. Không có quảng cáo trả tiền trên đài BBC; tất cả các doanh thu đến từ một loại phí đánh vào bộ thu sóng.Những khán giả trí thức rất thích nó. Tại thời điểm khi các đài của Mỹ, Úc và Canada đã thu hút rất nhiều khán giả cổ vũ cho đội địa phương của họ với việc phát sóng bóng chày, bóng bầu dục và khúc côn cầu, BBC nhấn mạnh dịch vụ cho một quốc gia, chứ không phải là một đối tượng trong một khu vực. Đua thuyền cũng được tường thuật cùng với quần vợt và đua ngựa, nhưng BBC đã miễn cưỡng tiếu tốn một khoảng thời gian cực kì hạn chế của nó với các trận đấu bóng đá hay cricket thời gian dài, bất chấp sự phổ biến của nó. === BBC với các loại hình truyền thông khác === Sự thành công của phát thanh gây nên sự thù hằn giữa BBC và các loại hình truyền thông được thành lập trước như nhà hát, phòng hòa nhạc và ngành công nghiệp ghi âm. Đến năm 1929, BBC phàn nàn rằng các đại diện của nhiều nghệ sĩ hài từ chối ký hợp đồng phát sóng vì sợ nó sẽ tổn hại các nghệ sĩ "bằng việc làm giảm giá trị của các nghệ sĩ như một nghệ sĩ có thể thấy được trong phòng hòa nhạc". Mặt khác, đài BBC đã "quan tâm sâu sắc" đến sự hợp tác với các công ty thu âm mà "trong những năm gần đây đã không trì trệ trong việc làm các bản thu âm cho các ca sĩ, dàn nhạc, các ban nhạc khiêu vũ,... những người người đã chứng tỏ sức mạnh của việc đạt được sự nổi tiếng bởi phát thanh không dây". Kịch trên đài đã phổ biến đến mức BBC nhận được đến 6.000 bản thảo vào năm 1929, hầu hết trong số đó được viết cho sân khấu và ít có giá trị khi phát sóng: "Ngày này qua ngày khác, bản thảo đi vào, và gần như tất cả chúng đều đi ra một lần nữa qua đường bưu điện, với một lời nhắn rằng 'Chúng tôi rất tiếc,...' ". Vào năm 1930 chương trình âm nhạc cũng rất phổ biến, ví dụ như các chương trình phát sóng rộng khắp tại Hội trường St George, Langham Place, bởi Reginald Foort, người chính thức giữ chức vai trò Nghệ sĩ Organ của BBC từ 1936-1938; Foort tiếp tục làm việc cho đài BBC như một nghề tự do vào năm 1940 và đã có được một số người ủng hộ trên toàn quốc. Chương trình thử nghiệm phát sóng truyền hình được bắt đầu vào năm 1932, sử dụng một hệ thống cơ điện 30-dòng được phát triển bởi John Logie Baird. Chương trình phát sóng hạn chế sử dụng hệ thống này bắt đầu vào năm 1934, và một dịch vụ mở rộng (nay có tên là BBC Television Service) bắt đầu phát từ Alexandra Palace vào năm 1936, xen giữa một hệ thống dây chuyền Baird 240 dòng được cải thiện và hệ thống Marconi-EMI 405 dòng. Sự vượt trội của hệ thống điện tử này đã khiến cho hệ thống cơ khí bị loại bỏ vào đầu năm sau. === 1939 đến 2000 === == Sự quản lý của chính phủ và cấu trúc đoàn thể == BBC là một công ty theo luật định, độc lập khỏi sự can thiệp trực tiếp của chính phủ, với các hoạt động đang được giám sát bởi BBC Trust (trước đây là Hội đồng thống đốc). Ban quản lý chung của tổ chức này nằm trong tay của một Tổng giám đốc, người được bổ nhiệm bởi BBC Trust, ông là biên tập trưởng và chủ tịch Ban chấp hành của BBC. === Hiến chương === BBC hoạt động theo Hiến chương Hoàng gia. Điều lệ hiện hành có hiệu lực từ ngày 1 tháng 1 năm 2007 cho đến ngày 31 tháng 12 năm 2016. Mỗi Hiến chương Hoàng gia được lần lượt xem xét trước khi một hiến chương mới được cấp, nghĩa là mỗi 10 năm. Hiến chương 2007 quy định rằng nhiệm vụ của Tổng công ty là để "cung cấp tin tức, giáo dục và giải trí". Nó nói rằng Tổng công ty tồn tại để phục vụ lợi ích công cộng và để thúc đẩy các mục đích công cộng: duy trì quyền công dân và xã hội dân sự, thúc đẩy giáo dục và học tập, kích thích sự sáng tạo, đại diện cho Vương quốc Anh, các quốc gia, các vùng và cộng đồng nằm trong đó, đưa nước Anh ra thế giới và thế giới đến với Vương quốc Anh, giúp cung cấp cho công chúng những lợi ích của công nghệ và các dịch vụ thông tin liên lạc đang bùng nổ, và có vai trò lớn trong sự chuyển dịch từ truyền hình analog sang truyền hình số. Hiến chương 2007 đánh dấu sự thay đổi lớn nhất trong sự quản lý của Tổng công ty kể từ khi thành lập. Nó xóa bỏ các cơ quan quản lý gây tranh cãi là Hội đồng thống đốc, thay thế nó bằng BBC Trust và Ban chấp hành. Theo Hiến chương Hoàng gia, BBC phải xin giấy phép từ Bộ trưởng Bộ Nội vụ. Giấy phép này đi kèm với một thỏa thuận trong đó đặt các điều khoản và điều kiện mà BBC được phép phát sóng. Cũng vì Giấy phép và Thỏa thuận này (và Luật phát sóng 1981) mà lệnh cấm phát sóng Sinn Féin từ 1988 đến 1994 được đưa ra. == Trụ sở và các văn phòng == Broadcasting House ở Portland Place, London, là trụ sở chính thức của BBC. Đây là ngôi nhà của sáu trong mười mạng lưới phát thanh quốc gia BBC gồm BBC Radio 1, BBC Radio 1Xtra, Mạng BBC châu Á, BBC Radio 3, BBC Radio 4, và BBC Radio 4 Extra. Đó cũng là nhà của BBC News, vốn được chuyển từ BBC Television Centre vào năm 2013. Trên mặt trước của tòa nhà là bức tượng của Prospero và Ariel, nhân vật trong vở kịch The Tempest của William Shakespeare, chạm khắc bởi Eric Gill. Việc sửa chữa lại Broadcasting House đã bắt đầu vào năm 2002, và được hoàn thành vào năm 2013. Cho đến khi BBC Television Centre đóng cửa vào cuối tháng 3 năm 2013, trụ sở Truyền hình BBC đã được đặt tại BBC Television Centre. Cơ sở này đã tổ chức một số các chương trình nổi tiếng trong những năm qua, tên gọi và hình ảnh của nó rất quen thuộc với nhiều người dân Anh. Gần đó, khu phức hợp BBC White City chứa nhiều văn phòng chương trình, đặt trong Centre House, Trung tâm Truyền thông và Trung tâm phát sóng. Nó nằm trong khu vực xung quanh Bush Shepherd nơi mà phần lớn các nhân viên BBC làm việc. Là một phần của việc tái cấu trúc lại tài sản của BBC, toàn bộ hoạt động BBC News chuyển từ Trung tâm tin tức ở BBC Television Centre tới Broadcasting House đã được tân trang lại để tạo ra nơi được mô tả là "một trong những trung tâm phát sóng trực tiếp lớn nhất thế giới". BBC News Channel và BBC World News cũng chuyển đến cơ sở này vào đầu năm 2013. Broadcasting House tại cũng là nhà của hầu hết các đài phát thanh quốc gia của BBC và BBC World Service. Phần chính của kế hoạch này liên quan đến việc phá dỡ của hai phần mở rộng sau chiến tranh của tòa nhà và xây dựng lại một phần mở rộng được thiết kế bởi bởi Richard MacCormac của MJP Architects. Động thái này sẽ tập trung hoạt động ở BBC London, cho phép họ bán BBC Television Centre, dự kiến ​​sẽ hoàn thành vào năm 2016. Ngoài các kế hoạch trên, BBC đang trong quá trình xây dựng và sản xuất nhiều chương trình bên ngoài London, liên quan đến các trung tâm sản xuất như Belfast, Cardiff, Glasgow và Greater Manchester như một phần của chương trình 'Dự án BBC North' mà một số bộ phận chính, bao gồm BBC Tây Bắc, BBC Manchester, BBC Sport, BBC Children's, CBeebies, radio 5 Live, BBC radio 5 Live Sports Extra, BBC Ăn sáng, BBC Learning và BBC Philharmonic đều di chuyển từ địa điểm trước đó của chúng là London hoặc New Broadcasting House, Manchester chuyển tới cơ sở sản xuất MediaCityUK ở Salford rộng 200-acre (80 ha), từ đó sẽ trở thành hoạt động nhân sự lớn nhất ngoài London. Cùng với hai địa điểm chính tại London (Broadcasting House và White City), có bảy trung tâm sản xuất quan trọng khác của BBC ở Anh, chuyên sản xuất chương trình khác nhau. Broadcasting House Cardiff là nhà của BBC Cymru Wales, chuyên sản xuất phim truyền hình. Mở từ Tháng 10 năm 2011, và có 7 hãng phim mới, Roath Lock được chú ý như là nơi sản xuất Doctor Who và Casualty. Broadcasting House Belfast, nhà của BBC Northern Ireland, chuyên sản xuất phim kịch và phim hài, đã tham gia hợp tác sản xuất với các công ty độc lập và đáng chú ý nhất là với RTE tại Cộng hòa Ireland. BBC Scotland, nằm ở Pacific Quay, Glasgow là một nhà sản xuất lớn của chương trình, trong đó có nhiều chương trình đố vui. BBC cũng hoạt động một số trung tâm thu thập tin tức tại các địa điểm khác nhau trên thế giới, trong đó cung cấp tin tức về khu vực đó tới hoạt động tin tức quốc gia và quốc tế. == Các dịch vụ == === Truyền hình === BBC hoạt động một số kênh truyền hình ở Anh trong đó bao gồm BBC One và BBC Two là các kênh truyền hình hàng đầu. Ngoài hai kênh này, BBC hoạt động nhiều đài kỹ thuật số: BBC Four, BBC News, BBC Quốc hội (BBC Parliament), và hai kênh trẻ em, CBBC và CBeebies. Truyền hình kỹ thuật số hiện nay đang được sử dụng rộng rãi ở Anh, với tín hiệu truyền hình tương tự (analog) hoàn toàn loại bỏ vào tháng năm 2012. BBC cũng điều hành dịch vụ truyền hình internet BBC Three, vốn ngừng phát sóng như một kênh truyền hình tuyến tính vào tháng 2 năm 2016. BBC One là một dịch vụ truyền hình cung cấp tin tức địa phương và chương trình địa phương khác hằng ngày. Những biến thể rõ rệt hơn của BBC One là Bắc Ireland (Northern Ireland), Scotland và xứ Wales, nơi các chương trình chủ yếu được thực hiện tại địa phương trên BBC One và Two, và lịch chương trình có thể thay đổi theo địa phương. BBC Two là kênh đầu tiên được truyền tải trên đường dây 625 vào năm 1964, sau đó trở thành dịch vụ truyền hình màu có quy mô nhỏ từ năm 1967. BBC One theo sau vào tháng 11 năm 1969. Một kênh truyền hình tiếng Gaelic mới, BBC Alba, đã được ra mắt vào tháng 9 năm 2008. Đây cũng là lần đầu tiên một kênh đa thể loại đến hoàn toàn từ Scotland với gần như tất cả các chương trình của nó được thực hiện tại Scotland. Kênh này ban đầu chỉ có sẵn thông qua vệ tinh, nhưng kể từ tháng 6 năm 2011 đã có sẵn cho người xem ở Scotland trên hệ thống Freeview và truyền hình cáp. BBC hiện đang phát đồng thời tín hiệu HD cho tất cả các kênh truyền hình trên toàn quốc ngoại trừ BBC Quốc hội (BBC Parliament). Cho đến ngày 26 tháng 3 năm 2013, có một kênh riêng biệt gọi là BBC HD, sao đó bị BBC Two HD thay thế. BBC HD được ra mắt vào ngày 09 tháng 6 năm 2006, sau 12 tháng thử nghiệm các chương trình phát sóng. Nó đã trở thành một kênh riêng biệt vào năm 2007, và trình chiếu các chương trình HD đồng thời với mạng chính. BBC đã sản xuất các chương trình thuộc định dạng này trong nhiều năm, và nói rằng họ hy vọng sẽ sản xuất 100% các chương trình mới với định dạng HD vào năm 2010. Vào ngày 3 tháng 11 năm 2010, một phiên bản độ nét cao của BBC One đã được ra mắt tên là BBC One HD, và BBC Two HD ra mắt vào ngày 26 tháng 3 năm 2013 đã thay thế cho BBC HD. Tại Cộng hòa Ireland, Bỉ, Hà Lan và Thụy Sĩ, các kênh BBC có sẵn theo một số cách. Tại các quốc gia khai thác kỹ thuật số và truyền hình cáp sẽ có các kênh BBC bao gồm BBC One, BBC Two và BBC World News, mặc dù khán giả tại Cộng hòa Ireland có thể nhận được dịch vụ BBC qua "rò rỉ tín hiệu" từ các máy phát ở Bắc Ireland và xứ Wales (Cộng hòa Ireland không thuộc liên hiệp Anh), hoặc thông qua "thiết bị lệch sóng" mà phát lại chương trình phát sóng từ Anh. Từ năm 1975, đài BBC cũng đã cung cấp các chương trình truyền hình của họ cho British Force Broadcasting Service Anh (BFBS), cho phép các thành viên của quân đội Anh phục vụ ở nước ngoài được xem bốn kênh truyền hình. Từ 27 tháng 3 năm 2013, BFBS sẽ mang phiên bản của BBC One và BBC Two, bao gồm các chương trình cho trẻ em từ CBBC, cũng như các chương trình từ BBC Three trên một kênh mới gọi là BFBS Extra. Kể từ năm 2008, tất cả các kênh BBC có sẵn để xem trực tuyến thông qua dịch vụ BBC iPlayer. Tuy vậy dịch vụ này chỉ có sẵn tại nước Anh và không được phép xem tại nước ngoài. Vào tháng 2 năm 2014, Tổng giám đốc Tony Hall công bố rằng các công ty cần tiết kiệm 100 triệu Bảng Anh. Vậy là vào tháng 3 năm 2014, đài BBC khẳng định kế hoạch biến BBC Three để trở thành một kênh truyền hình Internet. === Radio === BBC có mười đài phát thanh phục vụ toàn bộ Vương quốc Anh, cùng với sáu đài nằm trong "vùng quốc gia" (Wales, Scotland và Bắc Ireland), và 40 đài phát thanh địa phương khác phục vụ khu vực của nước Anh. Trong số mười đài quốc gia, có 5 đài chính và có sẵn trên FM và/hoặc PM cũng như DAB và trực tuyến. Đó là BBC Radio 1, cung cấp âm nhạc mới và là được chú ý bởi bảng xếp hạng âm nhạc của BBC; BBC Radio 2 phát nhạc hiện đại cho người lớn, nhạc đương đại, nhạc đồng quê và nhạc soul cùng nhiều thể loại khác; BBC Radio 3 phát âm nhạc cổ điển và nhạc jazz cùng với một số chương trình trò chuyện có tính chất văn hóa vào buổi tối; BBC Radio 4, tập trung vào chương trình thời sự, cùng với các chương trình bao gồm kịch và hài kịch; và BBC Radio 5 Live phát sóng các chương trình tin tức 24 giờ, thể thao và đối thoại. Ngoài năm đài này, BBC cũng vận hành thêm năm trạm phát sóng trên DAB và trực tuyến. Những trạm này bổ sung và mở rộng cho năm trạm lớn và đã được đưa ra vào năm 2002. BBC Radio 1Xtra bắt cặp với Radio 1, phát các chương trình nhạc black mới và nhạc urban. BBC Radio 5 Live Sports bắt cặp với 5 Live và cung cấp thêm các phân tích về thể thao. BBC Radio 6 Music cung cấp các thể loại nhạc Alternative và được chú ý như là một bệ đỡ cho các nghệ sĩ mới. BBC Radio 7, sau này đổi tên BBC Radio 4 Extra, cung cấp các chương trình tài liệu, hài kịch và chương trình cho trẻ em. Ngoài ra, các chương trình mới để bổ sung cho chương trình của Radio 4 cũng đã được giới thiệu như Ambridge Extra và Desert Island Discs revisited. BBC Asian Network, cung cấp các chương trình âm nhạc, trò chuyện và tin tức cho khu vực châu Á. Cùng với các đài quốc gia, đài BBC cũng cung cấp 40 đài BBC Radio địa phương ở Anh và quần đảo Channel và được đặt tên bởi thành phố cụ thể và các khu vực xung quanh mà nó bao trùm (ví dụ như BBC Radio Bristol), quận hoặc khu vực (ví dụ như BBC Three Counties radio), hoặc khu vực địa lý (ví dụ như BBC Radio Solent bao gồm bờ biển trung tâm phía nam). Có thêm sáu trạm phát sóng ở những khu vực BBC gọi là "vùng quốc gia": Wales, Scotland và Bắc Ireland, bao gồm BBC Radio Wales (bằng tiếng Anh), BBC Radio Cymru (ở xứ Wales), BBC Radio Scotland (bằng tiếng Anh), BBC Radio nan Gaidheal (ở Scotland Gaelic), BBC Radio Ulster và BBC Radio Foyle. Đài quốc gia Anh của BBC cũng được phát sóng tại quần đảo Channel và Isle of Man (mặc dù những vùng này nằm ở bên ngoài Vương quốc Anh), và trước đó có hai đài địa phương - BBC Guernsey và BBC Radio Jersey. Không có đài phát thanh địa phương của BBC, tuy nhiên, tại Isle of Man, một phần vì đảo từ lâu đã được phục vụ bởi các đài độc lập thương mại, Manx Radio, mà ra đời trước BBC Radio địa phương. Dịch vụ BBC trong các vùng này được cấp vốn từ phí bản quyền truyền hình được thiết lập ở mức tương tự như những người dân phải nộp ở Anh, mặc dù được thu tại địa phương. Đây là chủ đề của một số tranh cãi tại Isle of Man. Đảo không có dịch vụ BBC Radio địa phương, cũng như thiếu một dịch vụ tin tức truyền hình địa phương được cung cấp bởi BBC Channel Islands. Đối với khán giả trên toàn thế giới, BBC World Service cung cấp tin tức, thời sự và thông tin bằng 28 ngôn ngữ, bao gồm cả tiếng Anh, trên toàn thế giới và có sẵn tại hơn 150 thành phố. BBC được phát sóng trên toàn thế giới bằng đài phát thanh sóng ngắn, DAB và trực tuyến và có một lượng khán giả hàng tuần ước tính là 192 triệu, và các trang web có một lượng khán giả là 38 triệu người mỗi tuần. Dịch vụ này được tài trợ bởi một khoản trợ cấp từ Quốc hội, quản lý bởi Bộ Ngoại giao, tuy nhiên sau khi Chính phủ xem xét chi tiêu trong năm 2011, nguồn kinh phí này sẽ bị cắt giảm, và nó sẽ được gây quỹ lần đầu tiên thông qua lệ phí truyền hình. Trong những năm gần đây, một số dịch vụ của BBC World bị cắt giảm; dịch vụ của Thái đã kết thúc vào năm 2006, cũng như các ngôn ngữ Đông Âu, với nguồn lực chuyển hướng vào hệ thống truyền hình tiếng Ả Rập của BBC. Các chương trình của BBC cũng có sẵn với các dịch vụ khác và ở các nước khác. Kể từ năm 1943, đài BBC đã cung cấp chương trình phát thanh cho British Forces Broadcasting Service, mà phát sóng ở các nước mà quân đội Anh đóng quân. BBC Radio 1 cũng được phát tại Hoa Kỳ và Canada trên Sirius XM Radio (chỉ phát trực tuyến). === Tin tức === BBC News là đài thu thập tin tức lớn nhất trên thế giới, cung cấp dịch vụ cho đài phát thanh trong nước cũng như mạng lưới truyền hình như BBC News, BBC Quốc hội (BBC Parliament) và BBC World News. Thêm vào đó, những tin tức này có sẵn trên các dịch vụ BBC Red Button và BBC News Online. Thêm vào đó, BBC đã phát triển những cách thức mới để truy cập BBC News, kết quả là đã đưa ra các dịch vụ trên BBC Mobile, khiến cho dễ tiếp cận với điện thoại di động và PDA, cũng như phát triển các thông báo bằng email, truyền hình kỹ thuật số, và trên các máy tính thông qua một thông báo trên máy tính === Internet === Sự hiện diện trực tuyến của BBC bao gồm một trang web tin tức và lưu trữ. Nó đã được ra mắt với tên BBC Online, trước khi được đổi tên thành BBCi, sau đó là bbc.co.uk, trước khi nó được đổi tên lại thành BBC Online. Trang web được tài trợ bởi Lệ phí giấy phép nhưng sử dụng công nghệ GeoIP, cho phép quảng cáo được xuất hiện trên trang web khi được truy cập từ bên ngoài của Vương quốc Anh. BBC tuyên bố trang web này là" trang web dựa trên nội dung phổ biến nhất châu Âu " và nói rằng 13,2 triệu người ở Anh truy cập trang web mỗi ngày. Theo hệ thống TrafficRank của Alexa, trong tháng 7 năm 2008 BBC Online là trang web bằng tiếng Anh phổ biến thứ 27 trên thế giới và thứ 46 trong danh sách tất cả các trang web phổ biến nhất. Trung tâm của trang web này là trang chủ, bố trí theo hình thức mô-đun. Người dùng có thể lựa chọn mô-đun nào và thông tin nào được hiển thị trên trang chủ, từ đó cho phép người dùng cá nhân hóa nó. Hệ thống này lần đầu tiên được bắt đầu thử nghiệm vào tháng 12 năm 2007, trở thành chính thức vào tháng 2 năm 2008 và đã trải qua một số thay đổi về mặt thẩm mỹ kể từ đó. Trang chủ sau đó đã liên kết với một số các trang web khác, chẳng hạn như BBC News Online, Thể thao (Sport), Thời tiết (Weather), truyền hình và radio. Là một phần của trang web, mỗi chương trình trên hệ thống truyền hình hoặc Radio của BBC đều có trang riêng của mình, với các chương trình lớn hơn sẽ có website riêng. Phần lớn các trang web cho phép người dùng xem và nghe lại phần lớn các chương trình truyền hình và phát thanh trong bảy ngày sau khi phát sóng sử dụng nền tảng BBC iPlayer. Nền tảng này được ra mắt vào ngày 27 tháng 7 năm 2007, và ban đầu sử dụng công nghệ ngang hàng (peer-to-peer) và công nghệ DRM để cung cấp nội dung phát thanh và truyền hình trong bảy ngày và cho phép sử dụng ngoại tuyến đến 30 ngày. Ngoài ra, thông qua việc tham gia vào nhóm Creative Archive Licence, bbc.co.uk cho phép tải một cách hợp pháp một số chương trình thông qua internet. BBC thường cho cách chương trình học tập như là một phần của dịch vụ trực tuyến, hoạt động các dịch vụ như BBC Jam, Learning Zone Class Clips và cũng hoạt động các dịch vụ như BBC Webwise và First Click được thiết kế để dạy mọi người làm thế nào để sử dụng internet. BBC Jam là một dịch vụ trực tuyến miễn phí, truyền qua kết nối băng thông rộng và hẹp, cung cấp nguồn tài nguyên tương tác chất lượng cao được thiết kế để khuyến khích việc học ở nhà và trường. Các nội dung ban đầu đã sẵn có vào tháng 1 năm 2006 tuy nhiên BBC Jam đã bị đình chỉ vào ngày 20 tháng năm 2007 do cáo buộc bởi Ủy ban châu Âu cho rằng nó đã làm tổn hại đến lợi ích của bộ phận thương mại của truyền hình Trong những năm gần đây một số công ty và các chính trị gia lớn đã phàn nàn rằng BBC Online nhận được quá nhiều sự tài trợ từ giấy phép truyền hình, có nghĩa là các trang web khác không thể cạnh tranh với một số lượng lớn các nội dung miễn phí không đi kèm quảng cáo có sẵn trên BBC Online. Một số học giả cho rằng số tiền lệ phí giấy phép cho BBC Online nên được giảm hoặc được thay thế bởi sự tài trợ từ quảng cáo hoặc đăng ký hàng tháng, hoặc giảm số lượng nội dung có sẵn trên trang web. Để đáp trả lại BBC đã thực hiện một cuộc điều tra, và bây giờ đã khởi động một kế hoạch để thay đổi cách thức cung cấp các dịch vụ trực tuyến. BBC Online bây giờ sẽ cố gắng để lấp đầy vào những khoảng trống trên thị trường, và sẽ hướng người dùng tới các trang web khác (Ví dụ, thay vì cung cấp thông tin về các sự kiện ở địa phương và thời gian biểu, người sử dụng sẽ được hướng tới các trang web bên ngoài đã cung cấp thông tin). Một phần của kế hoạch này bao gồm đóng một số trang web, và chuyển hướng nguồn tiền để phát triển các bộ phận khác. Vào ngày 26 tháng 2 năm 2010, tờ The Times rằng Mark Thompson, Tổng giám đốc BBC, đề xuất rằng thông tin web của BBC sẽ giảm 50%, với số lượng nhân viên bộ phận trực tuyến và ngân sách sẽ giảm 25% trong một nỗ lực để tái cấu trúc quy mô hoạt động của BBC và cho các đối thủ thương mại nhiều cơ hội hơn. Ngày 02 tháng 3 năm 2010, đài BBC thông báo sẽ cắt giảm chi tiêu cho trang web 25% và đóng cửa BBC 6 Music và Asian Network, như là một phần trong kế hoạch của Mark Thompson để làm cho BBC "nhỏ hơn, phù hợp với thời đại số hơn ". === Truyền hình tương tác === BBC Red Button là tên thương hiệu cho dịch vụ truyền hình kỹ thuật số tương tác của BBC, trong đó có sẵn thông qua Freeview (truyền hình số mặt đất), cũng như Freesat, Sky (vệ tinh), và Virgin Media (truyền hình cáp). Không như Ceefax, hệ thống đối tác của dịch vụ analog, BBC Red Button có khả năng hiển thị đầy đủ màu sắc hình ảnh, video, chương trình và có thể được truy cập từ bất kỳ kênh BBC nào. Dịch vụ này cung cấp tin tức, thời tiết và thể thao 24 giờ mỗi ngày, và còn cung cấp thêm các tính năng liên quan đến các chương trình cụ thể tại thời điểm đó. Ví dụ như người xem có thể chơi gameshow ở nhà, để đưa ra tiếng nói cũng như phiếu bầu về ý kiến ​​với các vấn đề, vốn thường được dùng bên cạnh các chương trình như Question Time. Tại một số thời điểm trong năm, khi nhiều sự kiện thể thao diễn ra, một số tin tức về các môn thể thao ít chính thống thường xuyên được đặt trên Red Button cho khán giả xem. Thông thường, các tính năng khác được bổ sung liên quan đến các chương trình đang được phát sóng vào lúc đó, chẳng hạn như việc phát sóng tập phim hoạt hình Dreamland của Doctor Who trong tháng 11 năm 2009. == Logo == == Tham khảo == == Liên kết ngoài == Trang chính của BBC (tiếng Anh) BBC tiếng Việt BBC News World Edition (Tin tức Quốc tế BBC) (tiếng Anh)
chittagong (phân khu).txt
Phân khu Chittagong (tiếng Bengal: চট্টগ্রাম) về mặt địa lý là phân khu lớn nhất của Bangladesh. Phân khu này bao gồm hầu hết khu vực đông nam của đất nước, với tổng diện tích 33.771,18 km² và dân số theo kết quả sơ bộ điều tra năm 2011 là 28.079.000 người. == Hành chính == Phân khu Chittagong được chia thành 11 huyện (zilas) và được chia tiếp thành 99 phó huyện (upazila). Sáu huyện đầu tiên trong danh sách dưới đây bao gồm phần tây bắc (37,6%) của phân khu, trong khi năm huyện còn lại tạo thành phần đông nam (62,4%), hai phần bị tách biệt bởi phần kéo dài hạ lưu của sông Feni; các huyện vùng cao như Khagrachhari, Rangamati và Bandarban tạo thành một khu vực mà trước đây được biết đến với cái tên Vùng đồi Chittagong. == Tham khảo ==
phân loại khí hậu köppen.txt
Phân loại khí hậu Köppen là một trong những hệ thống phân loại khí hậu được sử dụng rộng rãi nhất. Nó được Wladimir Köppen, một nhà khí hậu học người Đức phát triển vào khoảng năm 1900 (với vài sửa đổi sau này do chính ông thực hiện, đáng chú ý nhất là vào các năm 1918 và 1936). Nó dựa trên khái niệm cho rằng thảm thực vật bản địa là diễn giải tốt nhất cho khí hậu, vì thế ranh giới của các đới khí hậu phải được lựa chọn với sự phân bố thảm thực vật trong suy nghĩ và ý tưởng. Nó kết hợp các nhiệt độ trung bình hàng năm và hàng tháng cùng lượng giáng thủy, cũng như tính chất theo mùa của giáng thủy.[1] == Kiểu sắp xếp == Sơ đồ phân loại khí hậu Köppen phân chia các đới khí hậu ra thành 5 nhóm chính và vài kiểu cùng vài phụ kiểu. Mỗi kiểu khí hậu cụ thể được ký hiệu bằng 2 tới 4 chữ cái. === Nhóm A: Khí hậu nhiệt đới/đại nhiệt === Khí hậu nhiệt đới (xem nhiệt đới) được đặc trưng bằng nhiệt độ cao khá ổn định (ở mực nước biển và ở các cao độ thấp) — tất cả 12 tháng của năm có nhiệt độ trung bình là 16 °C (64,4 °F) hoặc cao hơn. Nó được chia thành: Khí hậu rừng mưa nhiệt đới (Af):[2] Tất cả 12 tháng có lượng giáng thủy trung bình ít nhất là 60 mm (2,36 inch). Khí hậu kiểu này thông thường diễn ra trong phạm vi 5-10° xung quanh xích đạo. Ở một số khu vực bờ biển phía đông, nó có thể mở rộng tới 25° từ đường xích đạo. Khí hậu kiểu này bị chi phối bởi hệ thống áp suất thấp đới lặng gió xích đạo quanh năm, và vì thế không có các mùa một cách rõ ràng. Các ví dụ là Singapore hay Belém (Brasil). Một số khu vực có kiểu khí hậu này trên thực tế là ẩm thấp đều đều và đơn điệu quanh năm (ví dụ, bờ biển phía Thái Bình Dương của tây bắc Nam Mỹ và Trung Mỹ, từ Ecuador tới Costa Rica, như ở Andagoya, Colombia), nhưng trong nhiều trường hợp thì trong khoảng thời gian mặt trời lên cao hơn và ngày dài hơn là ẩm thấp nhất (như tại Palembang, Indonesia) hoặc ngược lại khi trong khoảng thời gian mặt trời thấp hơn và ngày ngắn hơn lại có thể có nhiều mưa (như tại Sitiawan, Malaysia). Một vài khu vực với kiểu khí hậu này có thể thấy ngoài phạm vi nhiệt đới, gần như chỉ có ở Nam bán cầu; một ví dụ là Santos, Brasil. Lưu ý rằng thuật ngữ không mùa được hiểu như là sự thiếu hụt trong khu vực nhiệt đới các khác biệt lớn về khoảng thời gian ban ngày và nhiệt độ trung bình tháng (hay ngày) trong cả năm. Có các biến đổi mang tính chu kỳ hàng năm tại khu vực nhiệt đới, khó dự báo hơn như các biến đổi tại khu vực ôn đới, mặc dù không liên quan tới nhiệt độ nhưng liên quan tới khả năng cung cấp nước như mưa, sương mù, nước bề mặt và nước ngầm. Phản ứng của thực vật (ví dụ vật hậu học), động vật (ăn uống, di cư, sinh sản v.v) và các hoạt động của con người (gieo trồng, thu hoạch, săn bắn, đánh cá v.v) cũng tuân thủ theo tính chất mùa vụ này. Trên thực tế, tại khu vực nhiệt đới Nam Mỹ và Trung Mỹ, mùa mưa (hay mùa nước cao) được gọi là mùa mưa hay inverno, mặc dù nó xảy ra trong mùa hè của Bắc bán cầu; và tương tự, mùa khô (hay mùa nước thấp) được gọi là mùa khô hay verão và diễn ra vào mùa đông của Bắc bán cầu. Khí hậu nhiệt đới gió mùa (Am):[3] Kiểu khí hậu này, phổ biến nhất ở miền nam và đông nam châu Á, được tạo ra từ các luồng gió mùa thay đổi hướng phù hợp với các mùa. Khí hậu này có tháng khô nhất (diễn ra gần như ngay thời điểm hay chỉ ngay sau khi có đông chí cho nửa đó của đường xích đạo) với lượng giáng thủy ít hơn 60 mm/tháng, nhưng lớn hơn (100 − tổng lượng giáng thủy (mm)/25).Ví dụ như tại Conakry (Guinée), Chittagong (Bangladesh), Miami (Florida). Cũng tồn tại kịch bản khác mà theo đó một số khu vực là phù hợp với tiêu chí này; nó được nhắc tới như là khí hậu bờ biển duyên hải gió mậu dịch do các luồng gió từ hướng đông mang đủ lượng giáng thủy trong các tháng "mùa đông" để ngăn không cho khí hậu trở thành khí hậu ẩm và khô nhiệt đới. Huế (Việt Nam) và Viêng Chăn (Lào) là những ví dụ về các khu vực như vậy. Khí hậu ẩm và khô nhiệt đới hay khí hậu xavan (Aw):[4] Kiểu khí hậu này có mùa khô rõ rệt, với tháng khô nhất có lượng giáng thủy nhỏ hơn 60 mm và cũng nhỏ hơn (100 − tổng lượng giáng thủy (mm)/25).Các ví dụ: Bengaluru (Ấn Độ), Veracruz (México), Townsville, Queensland (Úc). Phần lớn các khu vực có kiểu khí hậu này đều nằm tại các ranh giới ngoài của miền nhiệt đới, nhưng đôi khi cũng nằm bên trong khu vực nhiệt đới (ví dụ San Marcos, Antioquia, Colombia). Trên thực tế, vùng bờ biển Caribe, về phía đông từ vịnh Urabá ở biên giới Colombia-Panamá tới vùng châu thổ sông Orinoco, trên Đại Tây Dương (khoảng 4.000 km), có thời kỳ khô hạn kéo dài (cực đại là khí hậu BSh (xem dưới đây), được đặc trưng bằng lượng giáng thủy rất thấp, không chắc chắn, tồn tại trong các khu vực rộng như ở bán đảo Guajira, Coro, miền tây Venezuela, các bán đảo ở xa về phía bắc nhất của Nam Mỹ, là các khu vực nhận được ít hơn 300 mm tổng lượng giáng thủy hàng năm, thực tế chỉ diễn ra trong 2-3 tháng). Điều kiện như vậy trải dài tới Tiểu Antilles và Đại Antilles tạo thành cái gọi là vành đai khô hạn vòng quanh Caribe. Độ dài và tính khắc nghiệt của mùa khô giảm dần về phía nội địa (phía nam); ở vĩ độ của sông Amazon (chảy theo hướng đông, ngay phía nam của đường xích đạo) thì khí hậu là Af (rừng mưa nhiệt đới). Về phía đông của dãy núi Andes, nằm giữa khu vực khô hạn Caribe và khu vực ẩm ướt Amazon là các llano (các đồng cỏ xavan) ven sông Orinocor, mà từ đó kiểu khí hậu này được đặt tên. Đôi khi As được sử dụng thay cho Aw nếu như mùa khô diễn ra trong thời gian mặt trời cao hơn và ngày dài hơn. Đây là trường hợp của Hawaii (Honolulu), Đông Phi (Mombasa, Kenya) và Sri Lanka (Trincomalee) v.v. Tuy nhiên, ở phần lớn các khu vực có kiểu khí hậu ẩm và khô nhiệt đới thì mùa khô diễn ra vào khoảng thời gian mặt trời thấp hơn và ngày ngắn hơn do các hiệu ứng bóng mưa diễn ra trong 'nửa mặt trời cao' của năm. === Nhóm B: Khí hậu khô (khô cằn và bán khô cằn) === Các kiểu khí hậu này được đặc trưng bằng một thực tế là lượng giáng thủy thấp hơn lượng bốc thoát hơi nước tiềm năng.[5] Ngưỡng giáng thủy (tính bằng mm) được xác định như sau: Nếu ở Bắc bán cầu, nó sẽ bằng nhiệt độ trung bình năm (°C) x 20 + 280 (nếu >=70% tổng lượng giáng thủy diễn ra trong thời gian mặt trời cao của năm (từ tháng 4 tới tháng 9), hay + 140 (nếu 30%-70% tổng lượng giáng thủy diễn ra trong thời gian mặt trời cao), hoặc + 0 (nếu ít hơn 30% tổng lượng giáng thủy diễn ra trong thời gian mặt trời cao). Ở Nam bán cầu tính toán tương tự, nhưng cho khoảng thời gian từ tháng 10 năm trước tới tháng 3 năm sau. Nếu lượng giáng thủy hàng năm thấp hơn một nửa ngưỡng giáng thủy cho nhóm B, thì nó được phân loại như là BW (khí hậu sa mạc); nếu thấp hơn ngưỡng giáng thủy nhưng cao hơn một nửa ngưỡng này thì được phân loại như là BS (khí hậu thảo nguyên). Một ký tự thứ ba có thể được thêm vào để chỉ nhiệt độ. Nguyên thủy, h là ký hiệu chỉ khí hậu vĩ độ thấp (nhiệt độ trung bình hàng năm trên 18 °C [64,4 °F]), k để chỉ khí hậu vĩ độ trung bình (nhiệt độ trung bình năm dưới 18 °C), nhưng hiện nay phổ biến hơn (đặc biệt tại Hoa Kỳ) là sử dụng h để chỉ tháng lạnh nhất có nhiệt độ trung bình trên 0 °C (32 °F), còn k để chỉ tháng lạnh nhất có nhiệt độ trung bình dưới 0 °C. Các ví dụ: Yuma (Arizona) với khí hậu BWh, Thổ Lỗ Phan (Tân Cương, Trung Quốc) với khí hậu BWk, Cobar (New South Wales, Australia) với khí hậu BSh, Murcia (Tây Ban Nha) với khí hậu BSh, Medicine Hat (Alberta, Canada) với khí hậu BSk. Một số khu vực sa mạc, nằm dọc theo các bờ phía tây của các châu lục tại các vị trí nhiệt đới hay gần-nhiệt đới, được đặc trưng bằng các nhiệt độ lạnh hơn so với các vị trí khác có vĩ độ tương tự (do sự hiện diện gần đó của các dòng hải lưu lạnh) và sương mù thường xuyên cũng như mây thấp, mặc thực tế là các vị trí đó được xếp vào dạng khô nhất trên Trái Đất khi xét theo lượng giáng thủy thực tế nhận được. Kiểu khí hậu này đôi khi gọi là BWn và các ví dụ bao gồm Lima (Peru) hay Walvis Bay (Namibia). Đôi khi, chữ cái thứ tư cũng được thêm vào để chỉ mùa đông hay mùa hè là "ẩm hơn" so với nửa kia của năm. Để xác định, tháng ẩm nhất phải có ít nhất 60 mm lượng giáng thủy trung bình nếu tất cả 12 tháng đều trên 18 °C, hay 30 mm (1,18 inch) nếu không phải vậy; cộng với ít nhất 70% của tổng lượng giáng thủy phải nằm trong cùng nửa của năm với tháng ẩm nhất; nhưng chữ cái này được sử dụng là để chỉ khi nào mùa khô diễn ra, chứ không phải "mùa ẩm". Ví dụ Khartoum (Sudan) được coi là có khí hậu BWhw, Niamey (Niger) là BShw, El Arish (Ai Cập) là BWhs, Asbi'ah (Libya) là BShs, tỉnh Ömnögovi (Mông Cổ) là BWkw, Tây Ninh (Trung Quốc) là BSkw (BWks và BSks không tồn tại nếu 0 °C trong tháng lạnh nhất được ghi nhận như là ranh giới của h/k). Nếu các tiêu chuẩn đối với w hay s đều không đạt thì không thêm chữ cái thứ tư. === Nhóm C: Khí hậu ôn đới/trung nhiệt === Các kiểu khí hậu này có nhiệt độ trung bình trên 10 °C (50 °F) trong các tháng ấm nhất, và tháng lạnh nhất trung bình nằm trong khoảng −3 °C tới 18 °C (Một số nhà khí hậu học, như tại Hoa Kỳ, lại thích chọn mốc 0 °C hơn là −3 °C cho tháng lạnh nhất như là ranh giới giữa nhóm này và nhóm D; điều này được chọn là để ngăn một số vị trí tại khu vực mũi biển ở New England — chủ yếu là Cape Cod — và các đảo cận kề như Nantucket và Martha's Vineyard, không cho chúng phù hợp với thể loại khí hậu ôn đới hải dương dưới đây; thể loại này còn được biết đến như là khí hậu hải dương bờ biển phía tây, và trên thực tế loại trừ các vị trí nói trên, hạn chế nó chỉ ở các khu vực được tìm thấy dọc theo các rìa phía tây của các châu lục, ít nhất là tại Bắc bán cầu). Điều này cũng chuyển một số khu vực có vĩ độ trung bình – như một phần của thung lũng Ohio và một số khu vực trong các bang giữa Đại Tây Dương – ra khỏi cận nhiệt đới ẩm sang lục địa ẩm. Chữ cái thứ hai chỉ kiểu giáng thủy — w chỉ ra mùa đông khô (lượng giáng thủy trung bình của tháng khô nhất mùa đông thấp hơn 1/10 lượng giáng thủy trung bình của tháng mùa hè ẩm nhất; một biến thể khác đòi hỏi tháng khô nhất mùa đông có ít hơn 30 mm lượng giáng thủy trung bình), s chỉ ra mùa hè khô (tháng khô nhất mùa hè có ít hơn 30 mm lượng giáng thủy trung bình và ít hơn 1/3 lượng giáng thủy của tháng ẩm nhất mùa đông) còn f nghĩa là lượng giáng thủy có ý nghĩa trong tất cả các mùa (nếu một trong hai tập hợp điều kiện nói trên không thỏa mãn). Chữ cái thứ ba chỉ ra cấp độ của nhiệt mùa hè — a là nhiệt độ trung bình tháng nóng nhất trên 22 °C (71,6 °F), b là nhiệt độ trung bình tháng nóng nhất dưới 22 °C, với ít nhất 4 tháng trung bình trên 10 °C, còn c là 3 hoặc ít hơn số tháng với nhiệt độ trung bình trên 10 °C. Trật tự của hai chữ cái này đôi khi được đảo nhau, đặc biệt là đối với các nhà khí hậu học Hoa Kỳ. Các khí hậu nhóm C được chia ra như sau: Khí hậu Địa Trung Hải (Csa, Csb):[6] Các kiểu khí hậu này thông thường diễn ra ở nửa phía tây của châu lục giữa các vĩ độ 30° và 45°, mặc dù ở bờ biền phía tây của Bắc Mỹ, chúng chỉ có dấu vết nhỏ xa về phía bắc tới tận vĩ độ 48°. Các khí hậu này nằm trong khu vực frông vùng cực về mùa đông, và vì thế có nhiệt độ vừa phải và có thể thay đổi, thời tiết mưa. Mùa hè nóng và khô, do sự chi phối của các hệ thống áp cao cận nhiệt đới, ngoại trừ tại các khu vực duyên hải gần cạnh, tại đó mùa hè mát hơn do sự hiện diện cận kề của các dòng hải lưu lạnh có thể đưa lại sương mù nhưng không đủ để gây mưa. Kiểu khí hậu này có mùa khô rõ rệt, với tháng khô nhất có lượng giáng thủy nhỏ hơn 40 mm và cũng nhỏ hơn. Các ví dụ là Palermo (Italia) Csa, Antalya (Thổ Nhĩ Kỳ) Csa, Madrid (Tây Ban Nha) Csa, Marseille (Pháp) Csa, Los Angeles (California) Csa, Perth (Australia) Csa, Risan (Montenegro) Csb, Porto (Bồ Đào Nha) Csb, San Francisco (California) Csb, Seattle (Washington) đôi khi xếp là Cfb. Khí hậu cận nhiệt đới ẩm (Cfa, Cwa):[7] Các kiểu khí hậu này thông thường xảy ra bên trong các châu lục, hoặc ở các bờ biển phía đông của chúng, giữa các vĩ độ 25° và 40° (46° vĩ bắc ở châu Âu). Không giống như khí hậu Địa Trung Hải, mùa hè là ẩm ướt do các luồng không khí nhiệt đới không ổn định, hay các luồng gió mậu dịch thổi về phía bờ. Tại miền đông châu Á, mùa đông có thể khô (và lạnh hơn so với các khu vực khác cùng vĩ độ) do hệ thống áp cao Siberi, và mùa hè rất ẩm ướt do ảnh hưởng của gió mùa. Các ví dụ là Houston (Texas Cfa, Brisbane (Queensland, Australia) Cfa, Atlanta (Georgia) Cfa, Yalta (Ukraina) Cfa, Porto Alegre (Brasil) Cfa, La Điền (Quý Châu, Trung Quốc) Cwa, Hà Nội, (Việt Nam) Cwa Khí hậu ôn đới hải dương hay khí hậu hải dương (Cfb, Cwb):[8] Các khí hậu Cfb thông thường diễn ra ở phía tây của châu lục giữa các vĩ độ 45° và 55°; thông thường chúng nằm cận kề nhưng về phía cực của khí hậu Địa Trung Hải, mặc dù tại Australia thì khí hậu kiểu này lại nằm cận kề về phía cực đối với khí hậu cận nhiệt đới ẩm, và ở một vĩ độ thấp hơn một chút. Tại miền tây châu Âu, khí hậu này diễn ra tại khu vực duyên hải tới vĩ độ 63°. Các khí hậu này bị chi phối quanh năm bởi frông vùng cực, dẫn tới kiểu thời tiết hay thay đổi, thường nằm ngoài dự báo. Mùa hè lạnh hơn do mây che phủ, nhưng mùa đông lại dịu hơn so với các kiểu khí hậu tại các khu vực khác có vĩ độ tương đương. Các ví dụ là Limoges (Pháp) Cfb, Langebaanweg (Nam Phi) Cfb, Curitiba (Brasil) Cfb, Prince Rupert (British Columbia, Canada) Cfb, Bergen (Na Uy) Cfb. Khí hậu Cfb cũng gặp ở các độ cao lớn tại một số khu vực nhiệt đới và cận nhiệt đới, tại đó khí hậu sẽ có thể là rừng mưa nhiệt đới hay rừng mưa cận nhiệt đới nếu như không ở độ cao như vậy. Bogotá (Colombia) và Crkvice (Montenegro) Cfsb, Crkvice tại Orjen giữ kỷ lục châu Âu về lượng giáng thủy – trung bình là 4.927 mm/m² (1931-1960) có lẽ là ví dụ tốt nhất. Cwb được tìm thấy chỉ ở các cao độ lớn hơn, mà nếu không phải vậy thì khí hậu sẽ có thể là nhiệt đới ẩm và khô. Các ví dụ là Addis Ababa (Ethiopia), Mexico City (México), Campos do Jordão (Brasil). Trong các phần ven Thái Bình Dương ở tây bắc Bắc Mỹ, khí hậu Cfb đôi khi là tương tự như khí hậu Địa Trung Hải ở chỗ mùa hè tương đối khô. Các ví dụ có Seattle (Washington) Cfb, đoi khi coi là Csb, Victoria (British Columbia, Canada) Cfb, đôi khi coi là Csb, Puerto Montt (Chile) Cfb, đôi khi coi là Csb. Khí hậu hải dương cận bắc cực hay khí hậu hải dương cận cực (Cfc):[9] Các kiểu khí hậu này diễn ra về phía cực so với khí hậu ôn đới hải dương, và bị hạn chế hoặc là chỉ ở các dải hẹp ven biển ở rìa phía tây về phía cực của các châu lục, hay (đặc biệt là ở Bắc bán cầu) ở các đảo ngoài khơi các vùng duyên hải đó. Các ví dụ có Punta Arenas (Chile) Cfc, Monte Dinero (Argentina) Cfc, Reykjavík (Iceland) Cfc, Tórshavn (quần đảo Faroe) Cfc, Harstad (Na Uy) Cfc. === Nhóm D: Khí hậu lục địa/tiểu nhiệt === Các kiểu khí hậu này có nhiệt độ trung bình trên 10 °C trong các tháng ấm nhất, và tháng lạnh nhất có nhiệt độ trung bình dưới −3 °C (hay 0 °C trong một vài phiên bản, như ở Mỹ). Kiểu khí hậu này thường diễn ra bên trong các châu lục, hay ở vùng duyên hải phía đông của chúng, về phía bắc của 40° vĩ bắc. Tại Nam bán cầu, khí hậu nhóm D là rất hiếm do các châu lục là nhỏ hơn ở các vĩ độ trung bình và gần như hoàn toàn không tồn tại các khối đất ở phía nam 40° vĩ nam, ngoại trừ chỉ một vài vị trí cao nguyên tại New Zealand với tuyết rơi nhiều về mùa đông. Các chữ cái thứ hai và thứ ba được sử dụng giống như cho các kiểu khí hậu nhóm C, trong khi chữ cái thứ ba d chỉ ra 3 hay ít hơn số tháng với nhiệt độ trung bình trên 10 °C và tháng lạnh nhất có nhiệt độ dưới −38 °C (−36,4 °F). Các khí hậu nhóm D được phân chia như sau: Khí hậu lục địa nóng mùa hè (Dfa, Dwa, Dsa):[10] Các khí hậu kiểu Dfa thường diễn ra tại các vĩ độ trong khoảng 30-40°, và tại miền đông châu Á thì khí hậu Dwa kéo dài xuống phía nam do ảnh hưởng của hệ thống áp cao Siberi, nó cũng làm cho mùa đông ở đây khô còn mùa hè có thể rất ẩm vì ảnh hưởng của sự lưu thông gió mùa. Các ví dụ có Boston (Massachusetts) Dfa, Chicago (Illinois) Dfa, Santaquin (Utah) Dfa, Seoul (Hàn Quốc Dwa. Khí hậu kiểu Dsa chỉ tồn tại ở các độ cao lớn hơn cận kề với các khu vực có khí hậu Địa Trung Hải, như tại Cambridge (Idaho) và Saqqez ở Kurdistan. Khí hậu lục địa mùa hè ấm hay khí hậu bán Bắc cực (Dfb, Dwb, Dsb):[11] Kiểu khí hậu Dfb và Dwb nằm ngay phía bắc của khí hậu lục địa mùa hè nóng, nói chung trong khoảng 40-50° vĩ bắc ở Bắc Mỹ, cũng như ở miền trung và đông châu Âu cùng Nga, giữa các khí hậu ôn đới hải dương và lục địa cận bắc cực, tại đó nó trải dài tới các vĩ độ lớn hơn 50 và nhỏ hơn 60°.<Các ví dụ có Moncton (New Brunswick, Canada) Dfb, Minsk (Belarus) Dfb, Revelstoke (British Columbia, Canada) Dfb, Fargo (Bắc Dakota) Dfb, Vladivostok (Nga) Dwb, Stockholm (Thụy Điển) Dfb. Khí hậu Dsb diễn ra theo kịch bản tương tự như Dsa, nhưng ở các cao độ lớn hơn, và chủ yếu tại Bắc Mỹ do tại đây khí hậu Địa Trung Hải kéo dài xa hơn về phía cực so với ở đại lục Á-Âu; Ví dụ là Mazama, Washington. Khí hậu lục địa cận Bắc cực hay khí hậu Boreal (taiga) (Dfc, Dwc, Dsc):[12] Kiểu khí hậu Dfc và Dwc diễn ra về phía cực so với các khí hạu nhóm D khác, chủ yếu trong khoảng 50° vĩ bắc, mặc dù nó có thể kéo dài tới 70° vĩ bắc. Các ví dụ Sept-Îles (Quebec, Canada) Dfc, Anchorage (Alaska) Dfc, Mount Robson (British Columbia, Canada) Dfc, Irkutsk (Nga) Dwc, Kirkenes (Finnmark, Na Uy) Dfc. Khí hậu Dsc, tương tự như Dsa và Dsb, bị hạn chế chỉ ở các vị trí cao nguyên gần khu vực có khí hậu Địa Trung Hải, và là hiếm nhất trong số 3 kiểu khí hậu cần có độ cao lớn để tạo ra. Hai ví dụ là Zubački kabao (Montenegro) Dfsc và Galena Summit (Idaho). Khí hậu lục địa cận bắc cực với mùa đông cực kỳ khắc nghiệt (Dfd, Dwd):[13] Các kiểu khí hậu này chỉ diễn ra ở miền đông Siberi. Tên gọi của một số địa danh có kiểu khí hậu này- chẳng hạn như Verkhoyansk và Oymyakon; đã trở thành từ đồng nghĩa có thể kiểm chứng cho sự lạnh giá mùa đông cực kỳ khắc nghiệt. === Nhóm E: Khí hậu vùng cực === Kiểu khí hậu này được đặc trưng bằng nhiệt độ trung bình thấp hơn 10 °C trong cả 12 tháng của năm: Khí hậu lãnh nguyên hay khí hậu tundra (ET):[14] Tháng ấm nhất có nhiệt độ trung bình trong khoảng 0 °C tới 10 °C. Các kiểu khí hậu này diễn ra ở rìa phía bắc của Bắc Mỹ và đại lục Á Âu cũng như trên các đảo cận kề; chúng cũng diễn ra dọc theo rìa ngoài châu Nam Cực (đặc biệt là bán đảo Palmer) cũng như các đảo cận kề. Các ví dụ có Iqaluit (Nunavut, Canada), Provideniya (Nga), đảo Deception (châu Nam Cực), Longyearbyen, Svalbard. Khí hậu kiểu ET cũng tổn tại trên các cao độ lớn ngoài khu vực vùng cực, phía trên đường cây thân gỗ — như tại đỉnh Washington (New Hampshire). Khí hậu chỏm băng (EF):[15] Tất cả 12 tháng có nhiệt độ trung bình dưới 0 °C. Kiểu khí hậu này là thịnh hành ở châu Nam Cực (như Scott Base) và trong phần bên trong của Greenland (như Eismitte hay North Ice). Đôi khi, chữ cái thứ ba viết thường cũng được thêm vào cho các kiểu khí hậu ET nếu như mùa hè hoặc mùa đông là khô hơn so với nửa còn lại của năm; vì thế đảo Herschel ('Qikiqtaruk', trong tiếng Inuvialuit) ngoài khơi của lãnh thổ Yukon (Canada), có khí hậu kiểu ETw, còn Pic du Midi de Bigorre (Pháp) trong dãy núi Pyrenees có khí hậu ETs. Nếu như giáng thủy là tương đối đồng đều trong cả năm, ETf có thể được sử dụng, chẳng hạn như cho Hebron, Labrador. Khi tùy chọn đưa vào những chữ cái này được thực hiện thì các quy tắc tương tự như cho các nhóm C và D được áp dụng, với yêu cầu bổ sung rằng tháng ẩm nhất phải có trung bình ít nhất là 30 mm giáng thủy (các kiểu khí hậu nhóm E có thể khô như hay khô hơn so với các khí hậu nhóm B, dựa trên lượng giáng thủy thực tế nhận được, nhưng tốc độ bay hơi của chúng là thấp hơn nhiều). Các chữ cái để chỉ giáng thủy theo mùa gần như không bao giờ gắn với các khí hậu kiểu EF, chủ yếu là do khó khăn trong việc phân biệt giữa tuyết đang rơi và tuyết đang bị thổi, do tuyết là nguồn duy nhất cung cấp hơi ẩm cho các khí hậu kiểu này. == Phê phán == Một số nhà khí hậu học cho rằng hệ thống Köppen có thể phải được hoàn thiện thêm nữa. Một trong những sự phản đối hay phát sinh nhất liên quan tới thể loại ôn đới nhóm C, được nhiều người coi là quá rộng (ví dụ, nó bao gồm cả Tampa (Florida) và Cape May (New Jersey)). Trong Applied Climatology (ấn bản lần đầu năm 1966), John Griffiths đã đề xuất một miền mới là cận nhiệt đới, bao gồm các khu vực với tháng lạnh nhất có nhiệt độ trong khoảng 6 °C (42,8 °F) và 18 °C (64,4 °F), nghĩa là phân chia nhóm C ra thành hai phần gần như bằng nhau (sơ đồ của ông gắn chữ B cho miền mới, và nhận biết các khí hậu khô với chữ cái bổ sung ngay sau chữ cái dựa trên cơ sở nhiệt độ). Một luận điểm gây bất đồng khác là các khí hậu khô nhóm B; luận cứ ở đây là cho rằng sự chia tách chúng theo Köppen thành chỉ hai tiểu thể loại theo nhiệt là không hợp lý. Những người giữ quan điểm này (trong đó có Griffiths) đã gợi ý rằng các khí hậu khô nên được đặt trong cùng một thể liên tục về nhiệt độ như các kiểu khí hậu khác, với chữ cái chỉ nhiệt nên được viết nối theo bằng các chữ cái viết hoa bổ sung — S cho thảo nguyên hay W (hoặc D) cho sa mạc — như có thể áp dụng được (Griffiths cũng đưa ra một công thức thay thế để sử dụng như là ngưỡng đo độ khô cằn: R = 160 + 9T, với R tương đương với ngưỡng giáng thủy trung bình hàng năm tính bằng mm, và T chỉ ra nhiệt độ trung bình hàng năm tính theo độ Celsius). Ý tưởng thứ ba là tạo ra miền hải dương vùng cực hay miền EM trong phạm vi nhóm E để chia tách các vị trí hải dương tương đối ôn hòa (như Ushuaia (Argentina) và khu vực phía ngoài khơi xa của quần đảo Aleut) ra khỏi các kiểu khí hậu lãnh nguyên lục địa lạnh lẽo hơn. Các đề xuất cụ thể là bất đồng với nhau; một số ủng hộ cho việc thiết lập thông số tháng lạnh nhất, như −7 °C (19,4 °F), trong khi số còn lại ủng hộ việc cấp tên gọi kiểu khí hậu mới cho các khu vực với nhiệt độ trung bình hàng năm trên 0 °C. Độ chính xác của đường đẳng nhiệt tháng ấm nhất 10 °C như là sự bắt đầu của khí hậu vùng cực cũng bị đặt câu hỏi; ví dụ Otto Nordenskiöld đã nghĩ ra công thức thay thế: W = 9 − 0,1 C, với W đại diện cho nhiệt độ trung bình của tháng ấm nhất và C là nhiệt độ trung bình của tháng lạnh nhất, cả hai đều tính bằng độ Celsius (ví dụ, nếu tháng lạnh nhất có nhiệt độ trung bình là −20 °C, còn tháng ấm nhất trung bình là 11 °C hoặc cao hơn sẽ ngăn không cho khí hậu được coi là khí hậu vùng cực). Ranh giới này dường như là tuân thủ gần gũi hơn với đường cây thân gỗ, hay vĩ độ về phía vùng cực mà cây thân gỗ không thể mọc, hơn là đường đẳng nhiệt 10 °C cho tháng ấm nhất; đường thứ nhất có xu hướng chạy về phía vùng cực của đường thứ hai khi gần với các rìa phía tây của châu lục, nhưng lại ở các vĩ độ thấp khi ở bên trong các khối đất lục địa, hai đường này giao nhau tại hay gần các bờ phía đông của cả châu Á và Bắc Mỹ. == Bản đồ thế giới theo phân loại khí hậu Köppen-Geiger giai đoạn 1951-2000 == Dựa trên các dữ liệu gần đây từ Climatic Research Unit (CRU) của Đại học East Anglia và của Global Precipitation Climatology Centre (GPCC) tại Cục dự báo thời tiết Đức, một bản đồ thế giới Köppen-Geiger số hóa mới về phân loại khí hậu cho nửa sau của thế kỷ 20 đã được biên soạn. [16] == Tham khảo == ^ McKnight Tom L; Hess Darrel (2000). “Climate Zones and Types: The Köppen System”. Physical Geography: A Landscape Appreciation. Upper Saddle River, NJ: Prentice Hall. tr. trang 200–1. ISBN 0-13-020263-0. ^ ibid, trang 205-8, "Climate Zones and Types: Tropical Wet Climate (Af)" ^ ibid, trang 208, "Climate Zones and Types: Tropical Monsoon Climate (Am)" ^ ibid, trang 208-11, "Climate Zones and Types: Tropical Savanna Climate (Aw)" ^ ibid, trang 212-1, "Climate Zones and Types: Dry Climates (Zone B)" ^ ibid, trang 221-3, "Climate Zones and Types: Mediterranean Climate (Csa, Csb)" ^ ibid, trang 223-6, "Climate Zones and Types: Dry Humid Subtropical Climate (Cfa, Cwa)" ^ ibid, trang 226-9, "Climate Zones and Types: Marine West Coast Climate (Cfb, Cfc)" ^ ibid ^ ibid, trang 231-2, "Climate Zones and Types: Humid Continental Climate (Dfa, Dfb, Dwa, Dwb)" ^ ibid ^ ibid, trang 232-5, "Climate Zones and Types: Subarctic Climate (Dfc, Dfd, Dwc, Dwd)" ^ ibid ^ ibid, trang 235-7, "Climate Zones and Types: Tundra Climate (ET)" ^ ibid, trang 237, "Climate Zones and Types: Ice Cap Climate (EF)" ^ ibid, trang 237-40, "Climate Zones and Types: Highland Climate (Zone H) " ^ Kottek M., J. Grieser, C. Beck, B. Rudolf và F. Rubel (2006). “World Map of the Köppen-Geiger climate classification updated”. Meteorol. Z. 15: 259–263. DOI 10.1127/0941-2948/2006/0130. ^ Akin Wallace E. (1991). Global Patterns: Climate, Vegetation, and Soils. Nhà in Đại học Oklahoma. tr. trang 52. ISBN 0-8061-2309-5. == Liên kết ngoài == Bản đồ thế giới theo phân loại khí hậu Köppen-Geiger cho giai đoạn 1951-2000 Phân loại khí hậu Köppen – bản đồ thế giới Bản đồ khí hậu thế giới – theo phân loại Köppen-Geiger (tiếng Bồ Đào Nha) Phân loại khí hậu Köppen - bản đồ tổng quan, miêu tả và dữ liệu tại bang São Paulo Các ghi chép khí hậu WorldClimate Weather Base
tuyên ngôn độc lập (việt nam dân chủ cộng hòa).txt
Bản tuyên ngôn độc lập của Việt Nam được Hồ Chí Minh soạn thảo, và đọc trước công chúng tại vườn hoa Ba Đình (nay là quảng trường Ba Đình) ngày 2 tháng 9 năm 1945. Đây được nhiều người xem là bản tuyên ngôn độc lập thứ ba của lịch sử Việt Nam, sau bài thơ thần Nam Quốc Sơn Hà của Lý Thường Kiệt ở thế kỷ X và Bình Ngô Đại Cáo của Nguyễn Trãi viết năm 1428. == Lịch sử == Việt Nam trở thành thuộc địa của thực dân Pháp từ giữa thế kỷ 19. Trong Chiến tranh thế giới thứ hai, Đế quốc Nhật Bản đã thay Pháp chiếm đóng Việt Nam từ năm 1940. Khi Nhật Bản đầu hàng quân Đồng Minh giữa năm 1945, Việt Minh có cơ hội lớn để chiến thắng. Cơ hội này đã được Việt Minh tận dụng. Sáng ngày 26 tháng 8 năm 1945, tại ngôi nhà số 48 Hàng Ngang, Hà Nội, Hồ Chí Minh đã triệu tập và chủ trì cuộc họp của Thường vụ Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam. Trong số các quyết định của cuộc họp này, Thường vụ nhất trí chuẩn bị Tuyên ngôn độc lập và tổ chức mít tinh lớn ở Hà Nội để Chính phủ Lâm thời ra mắt nhân dân, cũng là ngày nước Việt Nam chính thức công bố quyền độc lập và thiết lập chính thể Dân chủ Cộng hòa. Ngày 30 tháng 8 năm 1945, Hồ Chí Minh mời một số người đến góp ý cho bản Tuyên ngôn độc lập do ông soạn thảo.. 31 tháng 8 năm 1945, ông bổ sung thêm cho dự thảo Tuyên ngôn độc lập và đến 2 tháng 9 năm 1945, ông đọc bản Tuyên ngôn độc lập trong cuộc mít tinh trước hàng chục vạn quần chúng, tại Quảng trường Ba Đình, Hà Nội, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. == Nội dung bản tuyên ngôn == Bản tuyên ngôn gồm 3 phần: Phần 1: Cơ sở pháp lý của bản tuyên ngôn. Phần 2: Cơ sở thực tiễn của bản tuyên ngôn. Phần 3: Lời tuyên bố độc lập. === Toàn văn bản tuyên ngôn === Những người ký tên gồm: Hồ Chí Minh (chủ tịch), Trần Huy Liệu, Võ Nguyên Giáp, Chu Văn Tấn, Dương Đức Hiền, Nguyễn Văn Tố, Nguyễn Mạnh Hà, Cù Huy Cận, Phạm Ngọc Thạch, Nguyễn Văn Xuân, Vũ Trọng Khánh, Phạm Văn Đồng, Đào Trọng Kim, Vũ Đình Hòe, Lê Văn Hiến. == Tham khảo == == Liên kết ngoài == Đằng sau tuyên ngôn độc lập của Hồ Chí Minh David G. Marr Quốc kỳ, Quốc huy, Quốc ca, Tuyên ngôn tại trang web Chính phủ nước CHXHCN Việt Nam Âm thanh bản tuyên ngôn độc lập Tiến trình viết bản tuyên ngôn độc lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh Nguyễn Phúc Nghiệp, 12-8-2008
bắc ninh (thành phố).txt
Thành phố Bắc Ninh là một đơn vị hành chính cấp thành phố trực thuộc tỉnh và là tỉnh lỵ của tỉnh Bắc Ninh. Thành phố Bắc Ninh là một trong 10 đô thị sạch năm 2009. == Lịch sử == Thành phố Bắc Ninh ngày nay vốn dựa trên cơ sở thị xã Bắc Ninh ngày xưa làm trung tâm, phát triển thêm địa giới trên cơ sở các xã thuộc các huyện chung quanh. Năm 1948, do tình hình kháng chiến đòi hỏi, theo yêu cầu của bộ trưởng bộ Nội vụ lúc bấy giờ là ông Phan Kế Toại, chủ tịch chính phủ Liên hiệp Lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa Hồ Chí Minh đã ra sắc lệnh 162/SL ngày 14 tháng 4 năm 1948 giải tán thị xã Bắc Ninh, sáp nhập vào huyện Yên Phong và khu phố Kinh Bắc. Năm 1962, hai tỉnh Bắc Giang và Bắc Ninh hợp nhất thành tỉnh Hà Bắc, thị xã Bắc Ninh trực thuộc tỉnh Hà Bắc. Sau năm 1975, thị xã Bắc Ninh có 5 phường: Đáp Cầu, Ninh Xá, Thị Cầu, Tiền An, Vệ An và 2 xã: Kinh Bắc, Vũ Ninh. Ngày 3 tháng 5 năm 1985, xã Đại Phúc của huyện Quế Võ và xã Võ Cường của huyện Tiên Sơn (nay là huyện Tiên Du và thị xã Từ Sơn) được sáp nhập vào thị xã Bắc Ninh. Ngày 6 tháng 11 năm 1996, Quốc hội khóa IX kỳ họp thứ 10 phê chuẩn về việc tách và thành lập một số tỉnh. Theo đó, tỉnh Bắc Ninh được tái lập. Thị xã Bắc Ninh đóng vai trò thị xã tỉnh lị. Ngày 8 tháng 4 năm 2002, thành lập phường Suối Hoa trên cơ sở 48,87 ha diện tích đất tự nhiên và 1.405 người của xã Vũ Ninh; 16,98 ha diện tích đất tự nhiên và 2.649 người của xã Đại Phúc, 52,65 ha diện tích đất tự nhiên của xã Kinh Bắc. Ngày 25 tháng 8 năm 2003, thành lập 3 phường Vũ Ninh, Kinh Bắc và Đại Phúc trên cơ sở giữ nguyên trạng 3 xã tương ứng. Ngày 11 tháng 5 năm 2005, thị xã Bắc Ninh được công nhận là đô thị loại 3. Ngày 26 tháng 1 năm 2006, thủ tướng Chính phủ Việt Nam đã quyết định nâng cấp thị xã Bắc Ninh lên thành thành phố trực thuộc tỉnh với hệ thống hành chính lúc đó gồm 9 phường Đáp Cầu, Thị Cầu, Vũ Ninh, Suối Hoa, Tiền An, Ninh Xá, Vệ An, Kinh Bắc, Đại Phúc và 1 xã Võ Cường, tổng diện tích 23,34 km2 và dân số 121.028. Ngày 9 tháng 4 năm 2007, thủ tướng ra nghị định 60/2007/NĐ-CP điều chỉnh địa giới thành phố Bắc Ninh gồm 10 phường: Đáp Cầu, Thị Cầu, Vũ Ninh, Suối Hoa, Tiền An, Ninh Xá, Vệ An, Kinh Bắc, Đại Phúc, Võ Cường (thành lập từ xã Võ Cường) và 9 xã: Kim Chân, Vân Dương, Nam Sơn (thuộc huyện Quế Võ), Hạp Lĩnh, Khắc Niệm (thuộc huyện Tiên Du), Phong Khê, Khúc Xuyên, Vạn An, Hòa Long (thuộc huyện Yên Phong), với tổng diện tích tăng lên 80,28 km2, dân số 150.331. Ngày 5 tháng 2 năm 2010, nghị quyết số 06/NQ-CP đã thành lập các phường Vân Dương, Vạn An, Hạp Lĩnh từ các xã có tên tương ứng, điều chỉnh đơn vị hành chính thành phố Bắc Ninh thành 13 phường và 6 xã. Ngày 29 tháng 12 năm 2013, nghị quyết số 137/NQ-CP của Chính phủ thành lập các phường Khắc Niệm, Khúc Xuyên và Phong Khê từ các xã có tên tương ứng, điều chỉnh đơn vị hành chính thành phố Bắc Ninh thành 16 phường và 3 xã. Ngày 25 tháng 6 năm 2014, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 1044/QĐ-TTg công nhận thành phố Bắc Ninh là đô thị loại II trực thuộc tỉnh Bắc Ninh. == Địa lý, dân số == Vị trí địa lý: Phía tây giáp huyện Yên Phong, phía đông giáp huyện Quế Võ, phía nam giáp huyện Tiên Du, phía bắc giáp huyện Việt Yên (Bắc Giang). Dân số: 272.634 người (2014) Diện tích: 8.260,88 ha == Hành chính == Thành phố Bắc Ninh gồm 16 phường: Đại Phúc, Đáp Cầu, Hạp Lĩnh, Khắc Niệm, Khúc Xuyên, Kinh Bắc, Ninh Xá, Phong Khê, Suối Hoa, Thị Cầu, Tiền An, Vạn An, Vân Dương, Vệ An, Võ Cường, Vũ Ninh và 3 xã: Hòa Long, Kim Chân, Nam Sơn. == Giao thông == Đường bộ có quốc lộ 1A, quốc lộ 18, quốc lộ 38, đường cao tốc Hà Nội – Lạng Sơn, đường cao tốc Nội Bài - Hạ Long - Móng Cái chạy qua, đường sắt có đường sắt Hà Nội - Đồng Đăng chạy qua, đường thủy có sông Cầu chảy qua. == Hạ tầng == Hiện nay, trên địa bàn thành phố Bắc Ninh đã và đang hình thành một số khu đô thị mới như khu đô thị Dabaco - Vạn An, khu đô thị Đông Nam thành phố Bắc Ninh, khu đô thị Huyền Quang 2, khu đô thị Lý Thái Tổ, khu đô thị An Huy... == Hình ảnh == == Chú thích == == Liên kết ngoài == Thành phố Bắc Ninh tại Từ điển bách khoa Việt Nam Website chính thức Giới thiệu chung thị xã Bắc Ninh
đường cao tốc hà nội – hòa bình.txt
Đường cao tốc Hà Nội – Hòa Bình (ký hiệu toàn tuyến là CT 08) dài 56 km có điểm đầu giao cắt với đường vành đai 3 tại Trung Hòa, quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội, đi qua địa bàn các phường, xã, thị trấn: Trung Hòa (quận Cầu Giấy); Mễ Trì, Phú Đô, Đại Mỗ, Tây Mỗ (quận Nam Từ Liêm); An Khánh, An Thượng, Song Phương, Vân Côn (huyện Hoài Đức); Yên Sơn, thị trấn Quốc Oai, Ngọc Mỹ, Ngọc Liệp (huyện Quốc Oai); Đồng Trúc, Hạ Bằng, Thạch Hòa, Tiến Xuân, Yên Bình (huyện Thạch Thất) của thành phố Hà Nội; Yên Quang, Phúc Tiến, Mông Hóa, Dân Hạ (huyện Kỳ Sơn), Trung Minh (thành phố Hòa Bình) của tỉnh Hòa Bình; và điểm cuối là quốc lộ 6 thuộc xã Trung Minh, thành phố Hòa Bình, tỉnh Hòa Bình. == Đoạn Láng – Hòa Lạc == Tuyến cao tốc này có chiều dài gần 30 km được khởi công xây dựng năm 1996 và hoàn thành giai đoạn 1 vào năm 1998. Ngày 20 tháng 3 năm 2005, tuyến cao tốc được mở rộng lên thành 6 làn xe và được thông xe ngày 3 tháng 10 năm 2010. == Đoạn Hòa Lạc – Hòa Bình == Tuyến cao tốc này chính thức khởi công xây dựng ngày 3 tháng 10 năm 2010 và dự kiến thông xe vào cuối năm 2016. Tuyến đường cao tốc Hòa Lạc – Hòa Bình đoạn qua địa phận tỉnh Hòa Bình có chiều dài 26 km, trong đó: đoạn không qua đô thị (cao tốc loại B) có vận tốc thiết kế 100 km/h, 6 làn xe, mặt cắt ngang: 33 m (chưa kể đường gom); đoạn qua đô thị (đường phố chính) có vận tốc thiết kế 60 km/h, mặt cắt ngang: 42 m. Tuyến có 7 nút giao thông và 12 công trình cầu lớn, nhỏ. Diện tích đất sử dụng là 215 ha. Tổng mức đầu tư dự án là 6.745 tỷ đồng do công ty CP Xuất nhập khẩu Tổng hợp Hà Nội (Geleximco) làm chủ đầu tư kiêm đơn vị thị công. Dự án được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt cho phép đầu tư theo hình thức Xây dựng – Chuyển giao (hình thức BT), thể hiện chủ trương xã hội hóa và hợp tác công – tư trong đầu tư phát triển hạ tầng của Đảng và Nhà nước. Dự kiến tiến độ thi công của chủ đầu tư: phần đường: 30 tháng, cầu lớn: 42 tháng. Sau khi hoàn thành, tuyến đường cao tốc Hòa Lạc – Hòa Bình sẽ là cầu nối quan trọng giữa thủ đô Hà Nội với các tỉnh Tây Bắc nói chung và Hòa Bình nói riêng, góp phần thúc đẩy mạnh mẽ sự phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội vùng Tây Bắc. Khi hoàn thành, đường cao tốc sẽ rút ngắn thời gian di chuyển từ Hà Nội đến các tỉnh vùng Tây Bắc Bộ, cũng như giải quyết tình trạng quá tải cho quốc lộ 6 hiện tại. == Tham khảo ==
năng lượng hạt nhân tại nhật bản.txt
Năm 1954, Nhật Bản chi ngân sách mức 230 triệu ¥ cho năng lượng hạt nhân, đánh dấu sự khởi đầu của chương trình năng lượng hạt nhân. Luật Năng lượng nguyên tử cơ bản hạn chế hoạt động này trong mục đích hòa bình. Các lò phản ứng hạt nhân đầu tiên ở Nhật Bản do công ty GEC của Vương quốc Anh xây dựng. Trong thập niên 1970, các lò phản ứng nước nhẹ đầu tiên được xây dựng với sự hợp tác với các công ty Hoa Kỳ. Các nhà máy này đã được mua từ các nhà cung cấp Mỹ như General Electric hoặc Westinghouse với công tác xây lắp thực hiện bởi các công ty Nhật Bản, các công ty Nhật Bản nhận được một giấy phép tự thiết kế xây dựng nhà máy tương tự. Sự phát triển các nhà máy điện hạt nhân kể từ thời gian đó đã có những đóng góp từ các công ty Nhật Bản và các viện nghiên cứu ở cấp độ tương tự như những đơn vị sử dụng lớn điện hạt nhân. Từ năm 1973, năng lượng hạt nhân là một ưu tiên chiến lược quốc gia tại Nhật Bản, vốn là quốc gia phụ thuộc nhiều vào nguồn nhiên liệu nhập khẩu, với số lượng nhiên liệu nhập khẩu chiếm 61% trong tổng số nhiên liệu sử dụng cho sản xuất năng lượng. Trong năm 2008, Nhật Bản đã đưa vào vận hành 7 lò phản ứng hạt nhân mới (3 nhà máy nằm trên đảo Honshū, và mỗi một nhà máy lần lượt tọa lạc ở Hokkaido, Kyushu, Shikoku, và Tanegashima). Trước khi xảy ra sự cố nhà máy điện hạt nhân tại Nhật Bản năm 2011 vào tháng 3 năm 2011, Nhật Bản là quốc gia có số nhà máy điện hạt nhân lớn thứ 3 trên thế giới với 55 lò phản ứng hạt nhân. Ngành công nghiệp hạt nhân Nhật Bản không phải lâm vào tình trạng khó khăn do chịu ảnh hưởng của các tai nạn Three Mile Island (TMI) hoặc thảm họa Chernobyl như một số nước khác. Việc xây dựng nhà máy mới tiếp tục được mạnh mẽ trong suốt thập niên 1980 và thập niên 1990, và cho đến ngày nay. Sau một đợt động đất và sóng thần nghiêm trọng, và sự cố hỏng hóc hệ thống làm mát nhà máy điện hạt nhân Fukushima I vào ngày 11 tháng 3 năm 2011, Nhật Bản đã tuyên bố tình trạng khẩn cấp hạt nhân. Đây là lần đầu tiên tình trạng khẩn cấp hạt nhân đã được tuyên bố tại Nhật Bản, có 140.000 người dân trong phạm vi 20 km của nhà máy đã được sơ tán. Lượng bức xạ phát ra không rõ ràng, và cuộc khủng hoảng vẫn còn đang tiếp diễn. == Các nhà máy == Nhà máy điện hạt nhân Fukushima Daiichi (6 lò phản ứng nước sôi), ngừng hoạt động sau vụ sự cố hạt nhân nhà máy điện Fukushima Nhà máy điện hạt nhân Fukushima Daini (4 lò phản ứng nước sôi) Nhà máy điện hạt nhân Genkai (4 lò phản ứng nước áp lực) Nhà máy điện hạt nhân Hamaoka (5 lò phản ứng nước sôi) Nhà máy điện hạt nhân Higashidori (1 lò phản ứng nước sôi) Nhà máy điện hạt nhân Ikata (3 lò phản ứng nước áp lực) Nhà máy điện hạt nhân Kashiwazaki-Kariwa (7 lò phản ứng nước sôi) Nhà máy điện hạt nhân Mihama (3 lò phản ứng nước áp lực) Nhà máy điện hạt nhân Ohi (4 lò phản ứng nước áp lực) Nhà máy điện hạt nhân Onagawa (3 lò phản ứng nước sôi) Nhà máy điện hạt nhân Sendai, (2 lò phản ứng nước áp lực) Nhà máy điện hạt nhân Shika (2 lò phản ứng nước sôi) Nhà máy điện hạt nhân Shimane (2 lò phản ứng nước sôi) Nhà máy điện hạt nhân Takahama, (4 lò phản ứng nước áp lực) Nhà máy điện hạt nhân Tokai, Tokai-I (ngưng) Tokai-II (lò phản ứng nước sôi) Nhà máy điện hạt nhân Tomari (2 lò phản ứng nước áp lực) Nhà máy điện hạt nhân Tsuruga Tsuruga-1 (lò phản ứng nước sôi) Tsuruga-2 (lò phản ứng nước áp lực) == Tham khảo ==
anh giáo.txt
Anh giáo là một truyền thống thuộc Cơ Đốc giáo bao gồm những giáo hội có mối quan hệ lịch sử với Giáo hội Anh, phần lớn gia nhập Cộng đồng Anh giáo hay Khối Hiệp thông Anh giáo (Anglican Communion). Đức tin Anh giáo lập nền trên Kinh Thánh, truyền thống của giáo hội các sứ đồ, quyền kế thừa các sứ đồ, và các giáo phụ đầu tiên. Anh giáo là một trong những hệ phái thuộc Cơ Đốc giáo phương Tây, tuyên bố độc lập với Giáo hoàng Rô-ma vào thời điểm xác lập Định chế Tôn giáo thời Elizabeth. Trong số những bản tuyên tín của Anh giáo vào giữa thế kỷ 16 có nhiều điều khoản tương tự với những xác tín của cuộc Cải cách Kháng Cách. Những cải cách của Giáo hội Anh - định hướng bởi Tổng Giám mục Cantebury, Thomas Cranmer – theo lập trường trung dung giữa hai khuynh hướng cải cách khởi xướng bởi hai nhà cải cách Martin Luther và John Calvin. Đến cuối thế kỷ 16, việc giáo hội duy trì thể chế Giám mục cùng nhiều nghi thức truyền thống đã gây bất bình cho những người chủ trương xây dựng giáo hội trên nền thần học Kháng Cách. Trong nửa đầu thế kỷ 17, qua nỗ lực của những nhà thần học Anh giáo, Giáo hội Anh và các giáo hội liên quan ở Ireland và những khu định cư ở Mỹ thuộc Anh thể hiện một tín ngưỡng Cơ Đốc theo lập trường trung dung trong thần học, cơ cấu tổ chức, và nghi thức thờ phụng, giữa truyền thống Kháng Cách và truyền thống Công giáo – quan điểm này đã tạo ảnh hưởng sâu đậm trên bản sắc Anh giáo. Sau Cách mạng Mỹ, các giáo đoàn Anh giáo tại Hoa Kỳ và Canada thiết lập những giáo hội tự trị với các Giám mục của chính họ, và xây dựng một thể chế tự trị. Về sau, qua sự mở rộng của Đế chế Anh và qua các hoạt động truyền giáo, thể chế này đã trở thành hình mẫu cho các giáo hội tân lập ở châu Phi, châu Đại dương, New Guinea, và khu vực Thái Bình Dương. Cho đến nay, sự khác biệt giữa hai khuynh hướng Kháng Cách và Công giáo bên trong truyền thống Anh giáo vẫn tiếp tục là một vấn đề gây tranh luận trong các giáo hội thành viên và trên quy mô Cộng đồng Anh giáo. Tuy nhiên, có một truyền thống đặc trưng của Anh giáo đã giúp kết nối các tín hữu trong cộng đồng Anh giáo trải qua nhiều thế kỷ là Sách Cầu nguyện chung, tuyển tập giáo nghi được phổ biến trong hầu hết các giáo hội thuộc Anh giáo suốt nhiều thế kỷ. == Khởi nguồn == Trong khi tín hữu Anh giáo thừa nhận cuộc ly giáo dưới triều Henry VIII (1509-1547) là nhân tố khai sinh Giáo hội Anh như một thực thể độc lập, họ nhấn mạnh đến tính liên tục của giáo hội từ trước cuộc Cải cách Kháng Cách. Bộ máy tổ chức của giáo hội đã được thiết lập tại Hội nghị Herford năm 673, khi các Giám mục Anh lần đầu tiên cùng làm việc trong một thể chế, dưới quyền lãnh đạo của Tổng Giám mục thành Canterbury. Kể từ Định chế tôn giáo thời Elizabeth I (1558-1603), Giáo hội Anh thừa hưởng di sản từ cả Công giáo và Kháng Cách, với quân vương nước Anh được đặt vào vị trí đứng đầu giáo hội. Tuy nhiên, vua nước Anh không có vai trò nào trong các giáo hội thuộc cộng đồng Anh giáo tại các quốc gia khác trên thế giới. Cuộc cải cách tại Anh khởi đầu với những mục tiêu chính trị của vua Henry VIII. Nhà vua muốn "hủy bỏ hôn nhân" với vợ là Catherine của Aragon để kết hôn chính thức với Anne Boleyn, với lý do là hoàng hậu không có hoàng tử để thừa kế ngai vàng, nhưng Giáo hoàng Clement VII từ khước. Cùng lúc, nhà vua nhận thấy sự cần thiết và những lợi ích chính trị và kinh tế khi ly khai khỏi Công giáo Rô-ma và thành lập Giáo hội Anh mà nhà vua là người đứng đầu giáo hội. Đạo luật Quyền Tối thượng năm 1534 tuyên bố vua Henry VIII là "Lãnh đạo Tối cao duy nhất trên đất" của Giáo hội Anh. Các đạo luật khác như luật giải thể tu viện năm 1542 mang một số lượng lớn các loại tài sản của tu viện Công giáo vào tay nhà vua, rồi sau đó vào tay các nhà quý tộc. Điều này tạo nên các nguồn vật chất lớn lao hỗ trợ cho giáo hội mới vừa độc lập trên lãnh thổ nước Anh, dưới quyền cai trị của một quân vương. Tuy nhiên, người thiết lập nền thần học đặc thù cho Anh giáo là Tổng Giám mục Canterbury Thomas Cranmer với sự tiếp bước của Richard Hooker và Lancelot Andrewes. Cranmer được hưởng nền giáo dục tại Âu châu lục địa, chịu ảnh hưởng tư tưởng cải cách, và vì vậy, mặc dù là một linh mục, ông đã kết hôn. Bởi vì Cranmer và các nhà lãnh đạo khác của Giáo hội Anh được tấn phong bởi các Giám mục theo quyền kế thừa các sứ đồ, các vị này lại truyền chức cho những linh mục khác, Anh giáo được xem là vẫn duy trì quyền kế thừa các sứ đồ. Trong thời trị vì ngắn ngủi của vua Edward VI, con trai của Henry, Cranmer đã thành công đáng kể trong nỗ lực đem Giáo hội Anh đến gần với lập trường Thần học Calvin. "Sách Cầu nguyện chung" ra đời trong thời gian này. Tuy nhiên, cuộc Cải cách bị đảo ngược đột ngột khi Mary I lên ngôi nữ hoàng sau cái chết của em mình (Edward VI). Chỉ đến thời trị vì của Nữ hoàng Elizabeth I (1558-1603), Giáo hội Anh mới được xác lập như là một giáo hội cải cách. Trong thế kỷ 16, tôn giáo đóng vai trò quan trọng như là một nhân tố nối kết toàn thể xã hội. Những bất đồng tôn giáo chắc chắn sẽ dẫn đến những bất ổn xã hội, những âm mưu thông đồng và cầu viện binh lực nước ngoài để lũng đoạn triều chính hay lật đổ ngai vàng. Giải pháp của Elizabeth I nhằm giải quyết các bất đồng tôn giáo mà không cần đổ máu là xác lập một định chế giáo hội với nghi thức thờ phụng sao cho mọi người đều có thể dự phần, với một hệ thống thần học có thể bảo đảm sự đồng thuận của các khuynh hướng khác nhau về cung cách luận giải Kinh Thánh. Do đó, cần có sự bao dung cho nhiều quan điểm dị biệt và cần xem chúng là hợp pháp. Trong khi phần lớn dân chúng tỏ ra muốn đồng hành với thiết chế tôn giáo này, những nhóm cực đoan ở hai thái cực thần học không chấp nhận, và những rạn nứt bắt đầu xuất hiện bên trên bề mặt của sự hiệp nhất tôn giáo tại Anh. Trong thế kỷ kế tiếp, có những dịch chuyển quan trọng hoặc về phía phong trào Thanh giáo hoặc về phía các trào lưu thiên về Công giáo. Cần nên biết rằng vào thời ấy, khái niệm về quyền tự do tôn giáo là không thể chấp nhận, vì vậy, cũng dễ hiểu khi mục tiêu của các nhóm đấu tranh là làm thế nào để kiểm soát giáo hội chứ không phải để được hưởng quyền tự do tôn giáo. Theo tiêu chuẩn của Âu châu lục địa, mức độ bạo động tôn giáo tại Anh tuy không cao, nhưng cũng đủ làm mất mạng một quân vương (Charles I) và một Tổng Giám mục Canterbury (William Laud). Kết quả sau cùng của cuộc chính biến phục hồi vương quyền của Charles II là nỗ lực trở lại các lý tưởng thời kỳ Elizabeth I. Tóm lại, trong giai đoạn này, đa số cư dân tại Anh chọn lựa con đường trung dung, còn đứng tại hai cực đối nghịch nhau là các nhóm Công giáo Rô-ma và Thanh giáo, mỗi nhóm đều đủ mạnh để tự bảo vệ mình khỏi bị nuốt chửng bởi nhóm kia, và đủ khôn ngoan để có thể tồn tại bên ngoài giáo hội thay vì tìm cách kiểm soát giáo hội. Cuộc cải cách tại Anh được xem là hoàn tất vào thời điểm này. Mặc dù thiết chế Elizabeth I đã không giành được sự đồng thuận của toàn thể dân Anh thời đó, Anh giáo hiện nay đang phát triển tại nhiều nơi trên thế giới, một thành quả vượt quá mọi sự mong đợi của mọi tín hữu Anh giáo thế kỷ 16 và 17. == Thần học == === Trung dung === Quyết định của Henry VIII ly khai khỏi Công giáo Rô-ma khởi phát từ những tranh chấp về thẩm quyền và những lợi ích – nhất là do lập trường của Vương quyền tin rằng các giáo hội quốc gia phải có quyền tự trị - chứ không dính líu gì đến những bất đồng về thần học. Tuy nhiên, từ thời trị vì của Edward VI, và nhất là từ lúc Định chế Tôn giáo thời Elizabeth ra đời, nỗ lực kiến tạo một giáo hội quốc gia vẫn tiếp nối truyền thống đồng thời chấp nhận một số luận điểm thần học và giáo nghi của những nhà cải cách đã giúp hình thành Anh giáo, một cộng đồng các giáo hội với những nét đặc thù bên trong thế giới Cơ Đốc giáo. Sự phân biệt giữa Cải cách và Công giáo, cũng như sự chọn lựa giữa hai truyền thống luôn là vấn đề gây tranh cãi bên trong các giáo hội thành viên và giữa các giáo hội thuộc Cộng đồng Anh giáo. Kể từ khi Phong trào Oxford khởi phát giữa thế kỷ 19, nhiều giáo hội thuộc Cộng đồng Anh giáo khởi sự phục hồi các nghi thức và mục vụ tương tự với Công giáo Rô-ma. Suốt thế kỷ qua, trong khi những người Công giáo Anh có khuynh hướng chú trọng đến nghi lễ và nếp cũ, thì những người Anh giáo Tin Lành vẫn tiếp tục duy trì đức tin và sống đạo phù hợp với khuynh hướng Cải cách. === Nguyên tắc định hướng === Đối với nhóm "Thượng giáo hội" (Công giáo Anh), nền thần học của họ không được xác lập bởi Quyền Giáo huấn của giáo hội (như Công giáo Rô-ma), hoặc từ một nhà thần học khai sáng (như Thần học Calvin), cũng không lập nền trên những bản tín điều (như Giáo hội Luther). Đối với họ, văn kiện thần học Anh giáo nguyên thủy là "Sách Cầu nguyện chung", mà họ xem là sự thể hiện một tư duy thần học sâu sắc đi cùng với tinh thần hòa giải và bao dung. Lex orandi, lex credenda ("Luật của sự cầu nguyện chính là luật của đức tin"). Bao hàm trong sách cầu nguyện là những nguyên lý của thần học Anh giáo: Bản Tín điều các Sứ đồ, bản Tín điều Nicene, và bản Tín điều Athanasian (dù bản tín điều này không còn được sử dụng rộng rãi), Kinh Thánh (qua nghi thức đọc Kinh Thánh trong lễ thờ phượng), các thánh lễ, cầu nguyện hằng ngày, sách dạy giáo lý, và quyền kế thừa các sứ đồ. Trong khi đó, đối với những người "Hạ giáo hội" (Anh giáo Tin Lành), bản "Ba mươi chín Tín điều" theo khuynh hướng Cải cách là nền tảng hình thành nền thần học của họ. Trải qua nhiều thế kỷ, hai khuynh hướng này được chấp nhận trong tinh thần cộng sinh bên trong Cộng đồng Anh giáo. Ban đầu, bản "Ba mươi chín Tín điều" giữ vị trí quan trọng trong thần học và sống đạo Anh giáo. Từ năm 1604, tất cả chức sắc Anh giáo phải tuyên bố tuân giữ bản tín điều này. Ngày nay, bản tín điều chỉ còn được xem là một văn kiện lịch sử, dù từng có thời là nhân tố chủ chốt trong việc định hình bản sắc Anh giáo. Các tín điều được nhìn nhận từ những góc độ khác nhau. Lấy thí dụ, khi xem xét giáo lý xưng công chính, những người Công giáo Anh cho rằng cần có đức tin, việc lành, và các thánh lễ; còn người theo khuynh hướng Tin Lành tin rằng chỉ có đức tin vào Chúa Giê-xu chúng ta có thể nhận lãnh sự tha thứ của Thiên Chúa, và việc lành là hệ quả tất yếu của một con người đã được thay đổi bởi ân điển. Tuy nhiên, giáo huấn nổi bật nhất của bản tín điều thể hiện ở Điều VI về "sự trọn vẹn của Kinh Thánh", tuyên bố rằng Kinh Thánh chứa đựng mọi điều cần thiết cho sự cứu rỗi: vì vậy bất cứ điều gì không được viết, không được chứng thực trong Kinh Thánh, thì không ai có nghĩa vụ phải tin như là một phần của Đức tin, hoặc phải xem đó là cần thiết cho sự cứu rỗi. Điều VI đã có ảnh hưởng trên sự luận giải và giảng luận Kinh Thánh của Anh giáo từ lúc ban đầu cho đến nay. Anh giáo cũng công nhận thẩm quyền của "những nhà thần học chuẩn mực". Sau Thomas Cranmer, nhà thần học có nhiều ảnh hưởng nhất là Richard Hooker, từ sau năm 1660, ông được xem là "cha đẻ" của tinh thần Anh giáo. Theo Hooker, thẩm quyền của Anh giáo đến từ Kinh Thánh, được thông hiểu bởi lý trí (sự thông tuệ và trải nghiệm đối với Thiên Chúa), và truyền thống (những thông lệ và xác tín của giáo hội), đã tạo ảnh hưởng trên Anh giáo hơn bất cứ truyền thống nào khác. Cần nên biết giáo huấn "kiềng ba chân" (Kinh Thánh, lý trí, và truyền thống) thường gán cho Hooker là không đúng. Theo Hooker, Kinh Thánh là nền tảng và là đứng đầu trong trật tự thẩm quyền, rồi mới đến lý trí và truyền thống, hai điều này dù quan trọng nhưng chỉ là thứ yếu, nếu so với Kinh Thánh. Sự phát triển của Anh giáo đến nhiều xứ sở không nói tiếng Anh, sự đa dạng của sách cầu nguyện, và sự quan tâm ngày càng lớn trong nỗ lực đối thoại với các giáo hội khác, đã dẫn đến sự xem xét lại những giá trị của bản sắc Anh giáo. Nhiều tín hữu Anh giáo xem "Bốn Luận điểm" được thông qua tại Hội nghị Lambeth năm 1888 là "nền tảng và tối cần thiết" cho bản sắc Anh giáo. Nói tóm tắt, Bốn Luận điểm này là Kinh Thánh, chứa đựng mọi điều cần thiết cho sự cứu rỗi; các Tín điều (đặc biệt là Tín điều các Sứ đồ và Tín điều Nicene), là bản tuyên ngôn đầy đủ cho đức tin Cơ Đốc; hai thánh lễ Báp têm và Tiệc Thánh; và quyền kế thừa các Sứ đồ. == Thể chế == Trái với những gì người ta thường nghĩ, quân vương Anh không phải là "đầu" của giáo hội, mà theo luật là "Lãnh đạo tối cao" của Giáo hội Anh, vua Anh không có vị trí nào trong các giáo hội ngoài nước Anh. Vai trò của vương quyền Anh bị giới hạn vào việc bổ nhiệm các Giám mục, kể cả Tổng Giám mục Canterbury; ngay cả như thế, chính phủ cũng chỉ được giao cho một danh sách đã được chọn lọc trước. Quy trình này luôn cần có sự hợp tác và đồng thuận từ các đại diện của giáo hội. Một đặc điểm khác của Anh giáo là không có một thẩm quyền toàn cầu nào được công nhận. Toàn bộ ba mươi chín khu vực của Cộng đồng Anh giáo đều tự trị, mỗi khu vực tự chọn thể chế và giới lãnh đạo cho mình. Các khu vực này có thể chọn mô hình giáo hội quốc gia (như Canada, Uganda, hoặc Nhật Bản), hoặc một nhóm các quốc gia (như Tây Ấn, Trung Phi, hoặc Nam Á), hoặc theo đặc điểm địa dư (như Vanuatu và Quần đảo Solomon), v..v... Trong các khu vực này là những giáo phận đặt dưới quyền lãnh đạo của tổng Giám mục. Tất cả các khu vực của Cộng đồng Anh giáo đều thành lập các giáo phận do Giám mục lãnh đạo. Giám mục được tấn phong theo quyền kế thừa các sứ đồ. Ngoài chức Giám mục còn có linh mục (tư tế) hoặc mục sư (đối với người theo khuynh hướng Tin Lành), và chấp sự. Không có quy định nào đòi hỏi sống độc thân, mặc dù có nhiều linh mục Công giáo Anh tự nguyện sống độc thân. Kể từ giữa thế kỷ 20, tại hầu hết các khu vực, phụ nữ được phong chức chấp sự, trong một số khu vực phụ nữ được nhận chức linh mục, và Giám mục. Anh giáo thường được đồng nhất với Giáo hội Anh - giáo hội chính thức của xứ Anh Cát Lợi, nhưng trong thực tế Anh giáo có mặt tại nhiều quốc gia trên thế giới. Anh giáo tại một số nơi như Hoa Kỳ, Scotland được biết đến với tên là Giáo hội Giám nhiệm (Episcopal), từ tiếng La-tinh episcopus, có nghĩa là "Giám mục", có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp với ý nghĩa là "người quản lý". Tên gọi này ngụ ý giáo hội được quản trị theo thể chế Giám mục. Mỗi giáo hội cấp quốc gia được đặt dưới quyền lãnh đạo của một Tổng Giám mục, hoặc Giám mục chủ tịch (Presiding Bishop) như trong trường hợp của Giáo hội Giám nhiệm Hoa Kỳ. Giáo hội quốc gia được chia thành các giáo phận, giữa hai cấp bậc này có thể còn có bậc trung gian nữa là giáo tỉnh, thường tương ứng với địa giới hành chính của các tiểu bang hoặc các tỉnh. Các hội đồng của giáo hội được thiết lập trên ba cấp: hội đồng tín hữu (quy tụ những đại biểu từ các giáo sở), hội đồng chức sắc, và hội đồng Giám mục. Giáo phận, không phải giáo xứ, là đơn vị hạt nhân trong cấu trúc thẩm quyền của giáo hội. === Tổng Giám mục Canterbury === Tổng Giám mục Canterbury giữ vị trí danh dự trong Cộng đồng Anh giáo. Giữa giới lãnh đạo của Cộng đồng, ông được nhìn nhận là primus inter pares (đứng đầu giữa những người bình đẳng), và không có quyền hạn nào đối với các khu vực bên ngoài nước Anh. Justin Welby trở thành Tổng Giám mục Canterbury thứ 105 vào lễ nhậm chức cử hành tại Nhà thờ chính tòa Canterbury ngày 21 tháng 3 năm 2013. Tổng Giám mục Canterbury tổ chức và chủ tọa các Hội nghị Lambeth của Cộng đồng Anh giáo, ông là người quyết định danh sách các Giám mục được mời tham dự Hội nghị. Ông cũng chủ tọa những Tọa đàm Lãnh đạo Cộng đồng Anh giáo (những buổi gặp mặt giữa những người đứng đầu các giáo hội thành viên). Ông cũng đảm nhiệm chức vụ chủ tịch ban thư ký của Văn phòng Cộng đồng Anh giáo, và Hội đồng Tư vấn Anh giáo. === Các hội nghị === Cộng đồng Anh giáo (Anglican Communion) không có thẩm quyền toàn cầu. Tất cả các tổ chức quốc tế của cộng đồng chỉ có chức trách tư vấn và hợp tác, những nghị quyết của các tổ chức này không có giá trị ràng buộc pháp lý đối với các giáo hội thành viên. Hiện có ba tổ chức chính của Cộng đồng: Hội nghị Lambeth là tổ chức tư vấn quốc tế lâu đời nhất của Cộng đồng. Lần đầu tiên được Tổng Giám mục Longley triệu tập năm 1867 như là một diễn đàn để các Giám mục trong Cộng đồng "thảo luận về những lợi ích thiết thực, và công bố điều chúng tôi xem là những nghị quyết thích hợp định hướng cho những hoạt động của chúng ta trong tương lai." Từ đó, Hội nghị Lambeth được tổ chức mười năm một lần. Hội nghị Lambeth năm 1968 quyết định thành lập Hội đồng Tư vấn Anh giáo. Được triệu tập hai năm một lần, Hội đồng có các đại biểu là Giám mục, mục sư, và tín hữu được chọn lựa từ 38 khu vực. Hội đồng có ban thư ký thường trực, Văn phòng Cộng đồng Anh giáo, mà Tổng Giám mục Canterbury là chủ tịch. Tọa đàm Lãnh đạo Anh giáo là diễn đàn quốc tế dành cho những người đứng đầu các khu vực. Thành lập năm 1978 bởi Tổng Giám mục Donald Coggan như là một dịp tiện để "đàm đạo, cầu nguyện, và thảo luận sâu". == Truyền giáo == Đến năm 2011, số tín hữu Anh giáo trên thế giới ước tính khoảng 85 triệu người. Trong hai thập niên qua, 11 khu vực ở châu Phi chứng kiến sự tăng trưởng bộc phát. Hiện ở đây có 36, 7 triệu tín hữu Anh giáo, đông hơn ở nước Anh với 26 triệu thuộc viên. Tại hầu hết các quốc gia công nghiệp, số tín hữu liên tục sút giảm kể từ thế kỷ 19. Từ thế kỷ 17, Giáo hội Anh vẫn là một giáo hội hoạt động tích cực trong lĩnh vực truyền giáo khi họ tìm đến những khu định cư được thiết lập ở Mỹ, Úc, Canada, New Zealand, và Nam Phi để thành lập các giáo sở. Từ năm 1578, lễ Tiệc Thánh đã được cử hành ở Bắc Cực khi tuyên úy Anh giáo Robert Wolfall cùng đi với đoàn thám hiểm của Martin Frobisher đặt chân đến đây. Nhà thờ Anh giáo đầu tiên được xây dựng ở châu Mỹ là tại Jamestown,Virginia, năm 1607. Đến thế kỷ 18, những nhà thờ Anh giáo xuất hiện tại châu Á, châu Phi, và Mỹ La-tinh. Các tổ chức truyền giáo của Giáo hội Anh, đầu tiên là Hội Quảng bá Kiến thức Cơ Đốc (SPCK) thành lập năm 1698, trong năm 1701 là Hội Truyền bá Phúc âm ở hải ngoại (CCPAS), và Hội Truyền giáo Giáo hội (CMS) năm 1799. Thế kỷ 19 chứng kiến sự ra đời của Hội truyền giáo cho Thủy thủ (1856), Liên minh các bà mẹ (1876), và Đạo quân Hội thánh (1882) chủ trương truyền bá phúc âm bằng phương pháp cá nhân chứng đạo. Sang thế kỷ 20, Giáo hội Anh phát triển những hình thức truyền bá phúc âm mới như Alpha Course (1990) khởi phát từ Nhà thờ Trinity Brompton tại Luân Đôn. Đến thế kỷ 21, có những nỗ lực tiếp cận với giới thanh niên và thiếu nhi. == Giáo phận Sydney == Giáo phận Sydney thuộc Giáo hội Anh giáo Úc - khoảng 50% tín hữu Anh giáo ở Úc thuộc giáo phận này - thành lập năm 1836 với William Grant Broughton là Giám mục đầu tiên. Được xem là một hiện tượng đặc biệt trong Cộng đồng Anh giáo, Giáo phận Sydney chấp nhận truyền thống Cải cách và Thanh giáo, với niềm xác tín rằng họ đang bảo vệ những giá trị nguyên thủy của cuộc Cải cách Anh khởi phát từ thế kỷ 16. Anh giáo Sydney tin rằng thẩm quyền và sự soi dẫn của Kinh Thánh đã được thể hiện trong bản tuyên tín của Anh giáo gọi là bản "Ba mươi chín Tín điều". === Thể chế === Về thể chế, Anh giáo Sydney nhấn mạnh đến vị trí của các giáo đoàn địa phương. Họ tin rằng vâng theo lời Chúa dạy, con dân Ngài nhóm lại để lắng nghe, luận giải, suy gẫm, và đáp ứng đối với Lời Chúa. Tín hữu có quan hệ mật thiết với giáo đoàn địa phương thay vì quan tâm đến hệ phái hoặc các định chế. Họ cử hành lễ Tiệc Thánh, nhưng không chú trọng đến yếu tố thần bí như nhiều tín hữu Anh giáo khác. Ngoài ra, tín hữu Anh giáo Sydney còn có sự quan tâm đặc biệt đến trải nghiệm cá nhân trong đời sống đức tin, và sứ mạng truyền bá phúc âm, cũng như tin Kinh Thánh là sự mặc khải từ Chúa, vì vậy không sai lầm. Do đó, những người chống đối gọi họ là thuộc khuynh hướng bảo thủ. === Giáo nghi và Giáo phẩm === Dù hầu hết các giáo đoàn Anh giáo Sydney không còn sử dụng Sách Cầu nguyện chung trong lễ thờ phượng, họ chấp nhận bản Ba mươi chín Tín điều được chép trong Sách Cầu nguyện chung là bản tuyên tín căn bản, thể hiện niềm xác tín rằng tất cả giáo huấn và truyền thống của giáo hội phải đặt dưới thẩm quyền của Kinh Thánh. Mặc dù linh mục (priest: thầy tư tế) là chức vụ được công nhận rộng rãi trong Cộng đồng Anh giáo, Anh giáo Sydney bác bỏ chức vụ này vì cho rằng chức vụ tư tế chỉ có giá trị trong thời Cựu Ước khi trọng tâm của sự thờ phượng là nghi thức dâng tế lễ tại Đền thờ. Chức vụ tư tế đã được hoàn tất, một lần đủ cả, bởi sự chết và sự phục sinh của Chúa Giê-xu. Như vậy, mục sư chỉ đơn giản là viên chức của giáo hội, được giáo hội ủy nhiệm để giảng Lời Chúa, cử hành các thánh lễ, và quản trị các giáo đoàn. == Đặc điểm == Trong cộng đồng Cơ Đốc giáo, Anh giáo được biết đến với tính đa dạng về thần học và giáo nghi. Các cá nhân, hội đoàn, giáo xứ, giáo phận hay giáo hội quốc gia có thể chọn lựa hoặc nối kết với truyền thống và thần học Công giáo hoặc chọn hướng ngược lại, đồng hành với các nguyên tắc của cuộc Cải cách. Một số tín hữu Anh giáo tuân giữ các nghi thức sùng kính của Giáo hội Công giáo Rôma như lần hạt cầu kinh, cầu khấn với các thánh. Một số khác đặt tin tưởng vào các sách thứ kinh (deuterocanonical) trong Kinh Thánh, mặc dù giáo lý Anh giáo dạy rằng những sách này nên được đọc trong nhà thờ vì mục đích giáo huấn đạo đức, nhưng không nên dùng cho việc lập thuyết. Về phần mình, những tín hữu Anh giáo nhấn mạnh đến bản thể Kháng Cách của giáo hội, tập chú vào các tiêu chí của cuộc Cải cách về sự cứu rỗi bởi ân điển của Thiên Chúa qua đức tin của tín hữu, hai thánh lễ của Phúc Âm (Báp têm và Tiệc Thánh), và Kinh Thánh chứa đựng mọi điều cần thiết cho sự cứu rỗi. Sự phân hóa bên trong giáo hội lên đến đỉnh điểm trong thế kỷ 19 khi phong trào Công giáo Anh (Anglo-Catholic) nhấn mạnh vào khía cạnh Công giáo, và phong trào Tin Lành (Evangelical) tập chú vào phương diện Cải cách của giáo hội. Hai nhóm này thường được gọi là "Thượng giáo hội" và "Hạ giáo hội", ngụ ý về cung cách hành lễ của mỗi nhóm trong nghi thức thờ phụng ("Thượng giáo hội" quan tâm đến tính uy nghiêm, trang trọng của nghi thức, trong khi "Hạ giáo hội" thích chọn lựa các nghi thức đơn giản, và xem nghi thức là một cách biểu trưng cho tấm lòng). Tuy nhiên, hầu hết tín hữu Anh giáo quyết định tự giữ mình để không bị lôi cuốn vào hai cực này, họ thường nhấn mạnh rằng Anh giáo, cần được hiểu theo ý nghĩa chính xác, là con đường trung dung của Cơ Đốc giáo, đi giữa Công giáo và Kháng Cách. == Các dòng tu == Ngay sau thời kỳ phục hưng của phong trào Công giáo, là sự xuất hiện và phát triển của các dòng tu, được thành lập cho những hoạt động từ thiện. Khởi phát từ thập niên 1840 và kéo dài trong thế kỷ sau, các dòng tu có mặt tại Anh Quốc, Hoa Kỳ, Canada, Ấn Độ cũng như tại các quốc gia xa xôi khác ở Phi châu, Á châu và khu vực Thái Bình Dương. Các tu sĩ và nữ tu dâng hiến đời mình cho Thiên Chúa theo lời thề nguyện sống nghèo khổ, trinh bạch và vâng phục, dành trọn thì giờ cho các hoạt động tôn giáo và phục vụ người nghèo. Kể từ thập niên 1960, có sự suy giảm nghiêm trọng về số lượng và quy mô các dòng tu trên toàn thể Cộng đồng Anh giáo. Nhiều dòng tu lớn từng hoạt động tại nhiều nước nay chỉ còn lại một tu viện với một ít tu sĩ hay nữ tu già yếu. Số người xin gia nhập các dòng tu là rất ít, và một số dòng tu nay không còn hiện hữu. Dù vậy, ngày nay vẫn còn có vài ngàn tu sĩ đang hoạt động tại khoảng 200 tu viện trên khắp thế giới. Điều gây ngạc nhiên là sự phát triển số lượng tu sĩ và nữ tu tại những nơi như Quần đảo Solomon, Vanuatu và Papua Tân Guinea. Tại đây những tu sĩ và nữ tu thường ở độ tuổi từ 20 đến 25, trẻ hơn độ tuổi trung bình của các đồng lao của họ tại những nơi khác trên thế giới từ 40 đến 50 năm. == Chú thích == == Xem thêm == Cải cách Tin Lành Công giáo Thanh giáo Phong trào Tin Lành Phong trào Giám Lý
tòa án.txt
Tòa án là cơ quan thực hiện chức năng tư pháp và xét xử của một nhà nước. == Cơ cấu bộ máy == Đứng đầu tòa án là chánh án tiếp đến là phó chánh án và nhân viên (người giúp việc). Trong một phiên tòa xử thì có thẩm phán, kiểm sát và thư ký tóa. Thẩm phán là người có quyền quyết định chính trong một vụ án (theo sự phân công của chánh án). Quy trình xử án: gồm thụ lý hồ sơ, xem xét hồ sơ, sơ thẩm, phúc thẩm nếu không phải xét xử lại == Xem thêm == Tòa án binh Tòa án tối cao Tòa án nhân dân Tòa án Hình sự Quốc tế == Tham khảo == == Liên kết ngoài ==
okinawa.txt
Okinawa (Nhật: 沖縄県 (Xung Thằng Huyện), Okinawa-ken) là tỉnh cực Nam của Nhật Bản bao gồm hàng trăm đảo thuộc quần đảo Ryukyu. Trung tâm hành chính là thành phố Naha nằm trên đảo lớn nhất của quần đảo là đảo Okinawa. Quần đảo Senkaku cũng được Nhật Bản đặt vào phạm vi hành chính của tỉnh Okinawa. == Địa lý == Tỉnh Okinawa bao trùm quần đảo Ryukyu (thuộc quần đảo Nansei) chạy dài hơn 1000 km từ phía Tây Nam Kyushu đến tận Đài Loan và phân thành ba nhóm đảo chính. Đó là: Quần đảo Okinawa Ie-jima Kume Đảo Okinawa Quần đảo Kerama Quần đảo Daito Quần đảo Miyako Miyako-jima Quần đảo Yaeyama Iriomote Đảo Ishigaki Yonaguni Quần đảo Senkaku == Khí hậu == Khí hậu nhiệt đới và á nhiệt đới. == Lịch sử == Okinawa vốn không thuộc Nhật Bản mà là một phần của một nhà nước độc lập, đó là Vương quốc Lưu Cầu dù rằng người Okinawa và người Nhật khá gần gũi về mặt chủng tộc. Vương quốc này có quan hệ với Trung Quốc mật thiết hơn là với Nhật Bản. Năm 1609, daimyo của phiên Satsuma (nay là tỉnh Kagoshima) ở phía Nam đảo Kyushu đã tấn công Okinawa, buộc vương quốc Lưu Cầu phải cống nạp cho Satsuma giống như vẫn cống nạp cho Trung Quốc. Quan hệ giữa Okinawa và Nhật Bản bắt đầu một cách chính thức như thế. Tuy nhiên, vương quốc Lưu Cầu vẫn giữ được chủ quyền của mình với sự hậu thuẫn của Trung Quốc. Năm 1872, Nhật Bản biến vương quốc Lưu Cầu thành một thuộc địa của mình và gọi là phiên Okinawa bắt chấp sự phản đối của Trung Quốc. Năm 1874, lấy cớ thổ dân Đài Loan sát hại ngư dân của phiên Okinawa, Nhật Bản xuất binh đánh Đài Loan. Thất bại trong cuộc chiến tranh với Nhật Bản đã buộc Trung Quốc phải thừa nhận Okinawa là một phần của Nhật Bản đồng thời chịu để Đài Loan thành thuộc địa của Nhật. Năm 1879, Okinawa trở thành một tỉnh của Nhật Bản. Vương quốc Lưu Cầu hoàn toàn diệt vong. Sau Chiến tranh thế giới II, Okinawa được đặt dưới sự kiểm soát về hành chính của Mỹ. Người Nhật đến Okinawa vào thời gian này cần phải được chính phủ Mỹ cấp visa. Mỹ đã biến Okinawa thành căn cứ quân sự khổng lồ của mình ở Đông Á. Cho đến nay, tới 75% quân số Mỹ ở Nhật Bản đóng tại Okinawa. Ngày 15 tháng 5 năm 1972, Okinawa trở về với Nhật Bản. == Hành chính == Tỉnh Okinawa gồm 11 thành phố và 30 làng, thị trấn. Dân số toàn tỉnh là 1.366.854 người (năm 2005). Okinawa là tỉnh đông dân thứ 32 ở Nhật Bản. == Kinh tế == Okinawa chủ yếu phát triển dựa vào ngành du lịch và nông nghiệp. Thu nhập bình quân đầu người thấp nhất Nhật Bản. == Xem thêm == Đại học Ryukyu. Công viên tự nhiên quốc gia Iriomote ishigaki Thành Shuri == Chú thích == == Tham khảo == == Liên kết ngoài ==
người lào (việt nam).txt
Người Lào tại Việt Nam, còn gọi tên khác là Lào Bốc hoặc Lào Nọi, là một dân tộc thiểu số trong số 54 dân tộc tại Việt Nam. Người Lào nói tiếng Lào, một ngôn ngữ thuộc ngữ chi Thái trong hệ ngôn ngữ Tai-Kadai. == Dân số và địa bàn cư trú == Người Lào tại Việt Nam cư trú tập trung tại các huyện Điện Biên, Phong Thổ (tỉnh Điện Biên), Sông Mã (tỉnh Sơn La), Than Uyên (tỉnh Lào Cai). Theo Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009, người Lào ở Việt Nam có dân số 14.928 người, cư trú tại 42 trên tổng số 63 tỉnh, thành phố. Người Lào cư trú tập trung tại các tỉnh: Lai Châu (5.760 người, chiếm 38,6% tổng số người Lào tại Việt Nam), Điện Biên (4.564 người, chiếm 30,6% tổng số người Lào tại Việt Nam), Sơn La (3.380 người, chiếm 22,6% tổng số người Lào tại Việt Nam), Hà Tĩnh (433 người), Đắk Lắk (275 người). == Đặc điểm kinh tế == Phần đông người Lào làm ruộng nước là chính, với kỹ thuật canh tác dùng cày, bừa và làm thủy lợi. Nghề phụ gia đình của người Lào như: dệt, rèn, gốm, làm đồ bạc khá phát triển. == Hôn nhân gia đình == Người Lào thường mang các họ Lò, Lường, Vi... như người Thái, mỗi họ có kiêng kỵ riêng. Con cái lấy họ theo cha. Tàn dư gia đình lớn chỉ còn thấy ở một số nơi hẻo lánh. Phổ biến là hình thức gia đình nhỏ, một vợ một chồng. Theo tục cũ các chàng trai phải ở rể vài năm rồi mới được đưa vợ về nhà mình, hoặc ra ở riêng. Lâu nay thời hạn ở rể đã giảm dần. == Tục lệ ma chay == Trong phong tục ma chay, người chết được làm lễ và chôn cất chu đáo. Riêng người đứng đầu mường, bản dưới chế độ cũ khi chết thì thiêu xác. == Văn hóa == Trong xã hội người Lào, những ông Mo Lăm là lớp người giỏi chữ và biết nhiều truyện cổ, dân ca. Họ ghi chép lại truyện cổ và các điệu dân ca quen thuộc. Trong vốn văn nghệ dân gian Lào có cả ảnh hưởng văn nghệ dân gian Thái. Người Lào múa Lăm vông... trong các dịp liên hoan, lễ hội... == Nhà cửa == Người Lào sống định cư, có bản đông tới cả trăm nhà. Nhà ở thường rộng lòng, thoáng đãng, chắc chắn, cây cột chính ở cạnh bếp đun và các cột, kèo, được trạm khắc trang trí. Nóc nhà có mái cao, uốn khum hai đầu hồi, tạo dáng hình mai rùa. == Trang phục == Phong cách trang phục gần giống người Thái, ít cá tính tộc người (là tộc thiểu số ở Việt Nam, nhưng lại là đa số ở bên Lào) không tiêu biểu cho một phong cách về trang phục. Hoặc có những bộ trang phục mang phong cách khác lạ. Trang phục nam Đàn ông Lào thường xăm hình chữ "vạn" vào cổ tay và thường xăm hình con vật vào đùi. Trang phục nữ Phụ nữ Lào nổi tiếng là những người dệt vải khéo tay. Họ mặc váy đen quấn cao đến ngực, gấu váy thuê nhiều hoa văn sặc sỡ. Kiểu áo cánh ngắn bó thân với hàng khuy bạc phổ biến ở vùng Sông Mã. Ở vùng Điện Biên áo giống với áo cùng loại của người Khơ Mú láng giềng. Cô gái Lào chưa chồng thường búi tóc lệch về bên trái. Phụ nữ Lào dùng khăn Piêu. Khi không đội khăn, phụ nữ Lào thích cài nhiều trâm bạc và búi tóc. Phụ nữ đeo nhiều vòng ở cổ tay, xăm hình một loại cây rau ở mu bàn tay. == Tham khảo == == Xem thêm == Danh sách ngôn ngữ Danh sách các nước theo ngôn ngữ nói == Liên kết ngoài ==
tiểu văn hóa heavy metal.txt
Những người hâm mộ dòng nhạc heavy metal đã tạo ra một dạng văn hóa riêng của nhóm, nó không chỉ dừng lại ở sự nhận thức sâu sắc về thể loại nhạc này. Những người hâm mộ khẳng định tư cách hội viên của họ trong thế giới riêng này bằng cách tham gia các buổi trình diễn nhạc metal, mua các album, để tóc dài, và gần đây nhất là tích cực tham gia vào các website thể loại nhạc metal. == Tên gọi == Những người hâm mộ heavy metal được gọi bằng rất nhiều tên khác nhau thay đổi tùy theo thời gian và vị trí địa lý, như: Metalhead, Headbanger, Hessian và Thrasher. Không có một từ duy nhất nào được dùng để làm đại diện thay thế cho kiểu văn hóa này. == Nét văn hóa == Các fan của heavy metal đã tạo ra một dạng "văn hóa của sự tha hóa" với các tiêu chuẩn riêng để đạt được tính xác thực trong cộng đồng. Trong cuốn sách Heavy Metal: The Music And Its Culture của Deena Weinstein cho rằng heavy metal "đã tồn tại lâu hơn các thể loại nhạc rock khác" là do sự phát triển rất cao của "tiểu văn hóa đi kèm với thể loại nhạc này". Những người hâm mộ heavy metal đã thành lập một "cộng đồng các thanh niên bị loại trừ", tức là những người bị phân biệt và chịu thiệt thòi bởi những lối sống xã hội chính thống. Heavy metal đã phát triển một cộng đồng nam giới mạnh mẽ với những giá trị, quy tắc và hành vi chung. Một kiểu "quy tắc xác thực" là nòng cốt của tiểu văn hóa heavy metal, quy tắc này đòi hỏi các ban nhạc phải thờ ơ với những đề nghị về thương mại hay những giải thưởng, và cũng phải biết từ chối chuyện "sell out". Quy tắc này cũng bao gồm cả "sự đối lập với chính quyền sở tại và tách biệt khỏi những kỳ dư của xã hội". Những người hâm mộ mong đợi người chơi nhạc metal "phải hết lòng với âm nhạc và trung thành sâu sắc với nét văn hóa của thanh niên đang phát triển xung quanh họ"; một nghệ sĩ biểu diễn nhạc metal phải là "một đại diện lý tưởng cho tiểu văn hóa heavy metal". Các thính giả của heavy metal chủ yếu là nam giới, da trắng, thuộc tầng lớp trung/hạ lưu với những đặc điểm về hình thức bên ngoài như cách ăn mặc, diện mạo, và hành vi. Hoạt động của nhóm bao gồm việc tham dự các buổi biểu diễn, mua album, và gần đây nhất là đóng góp vào các trang web nhạc metal. Tham dự những buổi hòa nhạc để khẳng định tình đoàn kết của các thành viên, vì nó là một trong những hoạt động nghi thức mà những người hâm mộ tôn vinh thể loại âm nhạc của họ. Các tạp chí metal giúp đỡ các thành viên kết nối với nhau, tìm kiếm thông tin và đánh giá của các ban nhạc và album. Họ có thể nhận ra nhau bởi kiểu tóc dài, áo jacket da hay những miếng dán hình ban nhạc theo kiểu thời trang heavy metal. Tuy nhiên, không phải tất cả các fan của metal đều thể hiện phong cách bên ngoài. === Gạn đục khơi trong === Thuật ngữ "poseur" (hoặc "poser") là một từ khinh miệt dùng để chỉ những người luôn "giả vờ để bám theo những metalhead nhưng thực chất thì hắn chả biết cái quái gì về metal". Trong một tài liệu năm 1993 về nét văn hóa của người hâm mộ heavy metal, tác giả đã nhấn mạnh, trong trường hợp phân loại vài thành viên là "poseur", có nghĩa là những nhạc sĩ hoặc những người hâm mộ đó đã giả dạng để trở thành một phần của tiểu văn hóa nhưng lại thiếu tính xác thực và chân thành. Năm 1996 trong cuốn sách Metalheads: Heavy Metal Music and Adolescent Alienation, Jeffrey Arnett đã lập luận rằng, tiểu văn hóa heavy metal đã phân loại các thành viên thành 2 loại: một loại được chấp nhận như là metalhead chính hiệu, còn một loại là bọn giả tạo (fake) bị loại bỏ, tức là loại "poseur". Từ thập kỷ trước, những người hâm mộ heavy metal đã bắt đầu sử dụng thuật ngữ "sell out" để ám chỉ các ban nhạc cho phát nhạc heavy metal của họ trên làn sóng radio như là một kiểu "nhạc rock thân thiện". Thuật ngữ này dùng để chỉ một người nào đó đã không thực hiện một cách trung thực các quy định khắt khe hoặc những quan điểm và lối sống đã được khẳng định và phê chuẩn. Những ban nhạc heavy metal bị gán cho danh hiệu "sell out" là những ban nhạc đã "đáp ứng được yêu cầu chính thống về những khía cạnh hữu hình (như âm thanh, hình ảnh) nhưng không đóng góp vào hệ thống niềm tin cơ bản". Theo bài viết Lịch sử thời đầu của Metallica giải thích rằng khi Metallica đang cố gắng khẳng định vị trí của mình trong làng metal Los Angeles vào đầu thập niên 1980, thì tình trạng hard rock Mỹ lúc đó chủ yếu bị chi phối mạnh bởi các ban bóng bẩy ẻo lả như Styx, Journey và REO Speedwagon. Điều này làm cho Metallica gặp khó khăn trong việc chơi thứ nhạc heavy metal của họ và giành lấy cảm tình của khán giả ở vùng đất này, nơi mà chỉ toàn bọn poseur thống trị và bất cứ thứ nhạc nào nhanh và nặng đều bị từ chối. Trong bài phỏng vấn thành viên trụ cột của ban Ritual Carnage là Damian Montgomery năm 1999 do David Rocher thực hiện, David đã khen ngợi Montgomery như là loại đàn ông hấp dẫn, chân thật, không màu mè hoa lá cành, không poseur, là một metalhead chân chính trong lối sống mà anh ta theo đuổi và thực hiện một cách không nghi ngại. Vào năm 2002, bậc thầy metal Josh Wood tuyên bố rằng "sự tín nhiệm của heavy metal" ở Bắc Mỹ đang dần bị tàn phá bởi những thứ nhạc hạ đẳng chuyên làm nhạc nền cho phim kinh dị, cho những trận đấu vật, là thứ tồi tệ nhất trên đời, đó là những nhóm nhạc "Mall Core" kiểu như Limp Bizkit. Wood cũng cho rằng "con đường dẫn đến thánh địa metal đầy trắc trở và lúc nhúc những bọn poseur." Trong một bài viết về thủ lĩnh của dòng metal/hard rock Axl Rose với tựa đề Ex–‘White-Boy Poseur (Cựu nhóc tì poseur da trắng), Rose đã thừa nhận anh đã từng suy ngẫm về tình hình heavy metal trong vài thập kỷ vừa qua. Anh ta nhấn mạnh rằng "Chúng tôi đã nghĩ là chúng tôi rất cực đoan... [cho đến khi] ban nhạc rap N.W.A. ra đời để hát về thế giới này, nơi mà bạn ra khỏi nhà và bạn lãnh đạn." Về điểm này, Rose cho rằng "rõ ràng chúng tôi chỉ là những thằng nhóc poseur da trắng ngu ngốc". Các ban nhạc chơi thể loại Christian metal thường bị chỉ trích rất mạnh trong thế giới metal; khi sự thể hiện đức tin và lòng trung thành đối với nhà thờ Thiên Chúa giáo lại trở thành kim chỉ nam cho một thể loại extreme metal, vì vậy, các ban này bị gán nhãn "poser" và bị coi như là trái nghịch với mục đích của nhạc metal. Một số đề nghị không nên lôi các vấn đề về niềm tin cá nhân vào các tôn giáo cánh hữu (right-hand path) vào trong metal, và cũng không nên khuyến khích cái thể loại này. Một số nhỏ các ban nhạc Black metal Na Uy đã đe dọa sử dụng bạo lực (trong vài trường hợp hiếm hoi họ đã thể hiện điều này) để dạy cho những nghệ sĩ Christian metal một bài học bằng các vụ đốt nhà thờ trong suốt thập kỷ 1990 ở Scandinavia. == Phương diện xã hội == Người hâm mộ nhạc metal có kiểu nhảy múa riêng biệt, đó là khả năng Mosh hay headbang, là một kiểu giật lắc cái đầu theo điệu nhạc. Các fan heavy metal cũng thường dùng ngón tay út và trỏ để làm thành biểu tượng 2 cái sừng, được gọi bằng sign of the horns hoặc devil's horns. == Trang phục == Một khía cạnh khác của văn hóa heavy metal là thời trang. Cũng giống như nhạc heavy metal, thời trang heavy metal cũng thay đổi qua các thập kỷ tuy nhiên vẫn giữ được những yếu tố nòng cốt. Thời trang heavy metal ở khoảng cuối thập niên 1970 đến 1980 là quần jean hoặc khaki ôm, giày bốt chuyên dùng cho người lái xe mô tô và áo sơ mi đen, kèm theo một áo choàng không tay bằng vải jean hoặc bằng da có đính các miếng đắp bằng vải hoặc các mề đay có in hình của các ban nhạc heavy metal. Khoảng giữa những năm 2000, một sự phục hưng của các khán giả trẻ trở nên quan tâm đến thứ nhạc metal của thập kỷ 1980, với sự gia tăng số lượng các ban nhạc mới vẫn giữ những ý tưởng thời trang theo kiểu những năm 1980 trong cách ăn mặc. Một số trong đám thính giả này là giới trẻ, những gã hippie thành thị đã từng thầm ngưỡng mộ nhạc metal. == Các biến thể quốc tế == Heavy metal được phát triển lần đầu tiên ở nước Anh, cho đến những năm 2000 có thể thấy số lượng người hâm mộ có mặt khắp thế giới. Ngay cả ở một số nước Hồi giáo chính thống của thế giới Ả Rập vẫn tồn tại một mức thấp văn hóa heavy metal, mặc dù các nhà chức trách tư pháp và tôn giáo không bao giờ chấp nhận nó. Năm 2003, hơn một tá người hâm mộ và thành viên các ban nhạc metal ở Maroc đã bị cầm tù vì tội "phá hoại niềm tin Hồi giáo." == Dẫn chứng ==
kinh tế úc.txt
Kinh tế Úc là một nền kinh tế thị trường thịnh vượng, phát triển theo mô hình kinh tế phương Tây, chi phối bởi ngành dịch vụ (chiếm 68% GDP), sau đó là nông nghiệp và khai thác mỏ (chiếm 29.9% GDP,). Với nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú, Australia là nước xuất khẩu chính các sản phẩm nông nghiệp, đặc biệt là ngũ cốc và len, các khoáng sản, gồm nhiều kim loại, than đá và khí gas thiên nhiên. Cải cách ở Úc thường được coi là chìa khóa thành công và tiếp tục đưa đất nước phát triển về kinh tế. Trong những năm 1980, Đảng lao động Úc, dẫn đầu bởi Thủ tướng Bob Hawke và Paul Keating, đã mở đầu cho quá trình hiện đại hóa nền kinh tế Úc bằng việc thả nổi đồng Đô la Úc vào năm 1983. == Tổng quát == Úc là một trong những nước tư bản có nền kinh tế tự vận hành theo chỉ số tự do kinh tế. Úc có GDP trên đầu người là cao hơn một chút so với các quốc gia như Anh, Đức và Pháp trong điều kiện với sức mua tương đương. Úc được xếp hạng thứ tư trong Liên Hiệp Quốc năm 2008 về phát triển con người và đứng thứ sáu trong The Economist về chỉ số chất lượng của đời sống trên toàn thế giới năm 2005. Việc nhấn mạnh hơn về tầm quan trọng của xuất khẩu hàng hoá hơn là củng cố các nhà sản xuất đã gia tăng đáng kể về mặt thương mại của Úc trong thời kỳ tăng giá hàng hóa từ năm 2000. Ngân sách hiện tại của Úc là hơn 7% của GDP âm: Úc đã liên tục có những thâm hụt ngân sách hiện tại lớn trong hơn 50 năm. Australia đã tăng trưởng bình quân hàng năm là 3,6% trong hơn 15 năm, cũng ở trên mức trung bình của OECD là 2,5%. Trong tháng 1 năm 2007, đã có 10.033.480 người có việc làm , với một tỷ lệ thất nghiệp 4,6%. Trong những thập kỷ vừa qua, lạm phát đã thường được ở mức 2-3% và các mức lãi suất cơ bản là 5-6%. Các ngành dịch vụ của nền kinh tế, bao gồm du lịch, giáo dục và dịch vụ tài chính, đóng góp 69% trong GDP. Mặc dù ngành nông nghiệp và tài nguyên thiên nhiên chỉ đóng góp tương ứng là 3% và 5% trong GDP, nhưng chúng góp phần đáng kể vào hiệu suất xuất khẩu. Úc là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Nhật Bản, Trung Quốc, Hoa Kỳ, Hàn Quốc và New Zealand. Giàu tài nguyên thiên nhiên, Úc là một nước xuất khẩu lớn về sản phẩm nông nghiệp, đặc biệt là mì và len, những khoáng sản như quặng sắt và vàng, và năng lượng trong các hình thức khí thiên nhiên hóa lỏng và than. Australia có một lực lượng lao động khoảng mười triệu người. Trong thập kỷ vừa qua, một trong những xu hướng quan trọng nhất ngành kinh nghiệm của các nền kinh tế đã được sự tăng trưởng (trong điều kiện tương đối) của khu vực khai thác khoáng sản (bao gồm cả dầu mỏ). Trong điều kiện đóng góp vào GDP, khu vực này đã tăng từ khoảng 4,5% trong năm 1993-1994, đến gần 8% trong năm 2006-2007. Tăng trưởng trong lĩnh vực dịch vụ cũng đã tăng trưởng đáng kể, với bất động sản và kinh doanh các dịch vụ nói riêng ngày càng tăng từ 10% đến 14,5% GDP so với cùng kỳ, khiến nó trở thành phần lớn nhất trong GDP (trong điều kiện ngành). Sự tăng trưởng này có được phần lớn tại các chi phí của ngành sản xuất, mà trong năn 2006-2007 chiếm khoảng 12% GDP. Một thập kỷ trước đó, nó là thành phần kinh tế lớn nhất trong nền kinh tế, chiếm chỉ hơn 15% GDP. ==== Kinh tế tự do ==== Từ đầu những năm 1980 trở đi, kinh tế Úc đã tiếp tục thực hiện theo nền kinh tế tự do. Trong năm 1983, dưới thời thủ tướng Bob Hawke, đồng đô la Úc được thả nổi và chính sách tài chính khôn khéo bãi bỏ sự điều tiết được đưa vào thực hiện. Đầu những năm 1990 cho thấy nền kinh tế Úc lâm vào thoái trào và nợ của chính phủ tăng lên tới $96 tỷ dưới thời thủ tướng Paul Keating. Món nợ $96 tỷ của chính phủ đã được thanh toán đầy đủ vào giữa những năm 1996 và 2007 bởi chính phủ theo đường lối tự do của thủ tướng John Howard và giám đốc ngân hàng Peter Costello. Trong suốt thời kỳ lãnh đạo, giới thiệu thuế hàng hóa và dịch vụ (GST) tìm cách khuyến khích mức độ tiết kiệm giữa người có thu nhập thấp. Để chống lại những hậu quả trong giảm tiêu thụ cho người thu nhập thấp, thuế thu nhập đã được hạ xuống như là một sự đánh đổi cho việc giới thiệu GST. Tổng mức thuế tại Úc từ đó đã được giảm xuống một cách nhất quán để khuyến khích tiêu thụ tư nhân và đầu tư, trái với chi tiêu của chính phủ cao hơn. Hiện tại các khu vực quan tâm đến một số nhà kinh tế lớn của Úc bao gồm thâm hụt ngân sách hiện tại, thâm hụt ngân sách hiện tại của Úc trong năm 2007 - 2008 năm tài chính đã được lên 4% đến $ 19,49 tỷ đồng (theo Cục Thống kê), việc thiếu thành công trong xuất khẩu theo định hướng sản xuất công nghiệp, một bong bóng bất động sản, và các khoản nợ lớn từ nước ngoài của khu vực tư nhân. == Lịch sử == == Thuế == Thuế ở Úc là được trưng thu ở liên bang, nhà nước và chính quyền địa phương các cấp. Các loại thế là khác nhau tuỳ theo mỗi tiểu bang do những nhu cầu khác nhau của họ, nhóm dân cư, kinh tế và ngân sách các khu vực. Khối thịnh vượng chung tăng thu nhập từ thuế thu nhập cá nhân và thuế kinh doanh. Các loại thuế khác nhau bao gồm Thuế hàng hóa và dịch vụ (GST), thuế tiêu thụ và nhiệm vụ hải quan. Khối thịnh vượng chung là nguồn thu nhập chính cho các chính phủ tiểu bang. Là kết quả của sự phụ thuộc của Nhà nước về thu thuế liên bang để đáp ứng trách nhiệm chi phi tập trung, Úc bị nói đến là chịu thiệt hại từ một mất cân đối tài chính dọc. === Thuế nhà nước === Ngoài ra biên lai của các quỹ từ Khối thịnh vượng chung, tiểu bang và vùng lãnh thổ cũng có các loại thuế riêng của họ để kích hoạt chúng để tài trợ cho các dịch vụ mà họ cung cấp. Các loại và mức thuế suất khác nhau từ nhà nước/vùng lãnh thổ tới nhà nước/vùng lãnh thổ. Thuế của nhà nước bao gồm thuế theo lương đánh vào các doanh nghiệp, một máy xi đánh thuế trên các doanh nghiệp những người cung cấp dịch vụ đánh bạc, thuế đất được trưng thu về người dân và doanh nghiệp sở hữu đất đai và phần lớn đáng kể, thuế trước bạ được trưng thu trên doanh thu của đất (ở mỗi tiểu bang) và các hạng mục khác (những vật sở hữu ở một số tiểu bang, không công bố cổ phần trong những người khác, và thậm chí cả doanh thu của hợp đồng trong một số tiểu bang). === Chính phủ liên bang - sắp xếp tài chính nhà nước === Các tiểu bang bị mất quyền được trưng thu thuế thu nhập trong quá trình thế chiến thứ hai, sau đây là người đầu tiên Uniform Tax Case (South Australia v Commonwealth) của năm 1942. Trong khi các tiểu bang giữ lại khả năng hoạt động cơ quan thuế, Khối thịnh vượng chung cho rằng thành công sự kết hợp của các phần 51(ii) của Hiến pháp (thuế điện) và 109 (không thống nhất của pháp luật) được hiểu là Khối thịnh vượng chung có thể làm luật để có thể trưng thu thuế, để loại trừ việc các tiểu bang thực hiện việc đó. Phán quyết này đã được tôn trọng ở Ha vs. New South Wales trong trường hợp của năm 1987, và đã dẫn đến một trong những phát âm là hầu hết các sự mất cân bằng dọc tài chính trên thế giới, với các tiểu bang thu thập chỉ 18% của tất cả các nguồn thu của chính phủ chịu trách nhiệm về nhưng gần 50% tổng chi tiêu và các lĩnh vực chính sách. === Thuế đô thị === Chính quyền địa phương (gọi là hội đồng thành phố ở Úc) có thuế riêng của họ (called rates) cho phép họ cung cấp dịch vụ thu gom rác, các dịch vụ bảo trì công viên, thư viện và các viện bảo tàng,... == Thương mại và hiệu quả kinh tế == Trong nửa cuối thế kỷ 20, thương mại của Úc dịch chuyển từ Châu Âu và Bắc Mỹ sang Nhật Bản và các thị trường Đông Á khác. Khu vực doanh nghiệp nhượng quyền thương mại, bây giờ là $ 128 tỷ của khu vực, đã được điều hành co-branded sites ở nước ngoài trong nhiều năm qua, với các nhà đầu tư mới đến từ Tây Australia và Queensland. Kinh tế Úc đã thực hiện trên danh nghĩa tốt hơn so với các nền kinh tế của OECD và đã hỗ trợ tăng trưởng kinh tế trong 16 năm liên tiếp. Theo Reserve Bank of Australia, Úc có tăng trưởng GDP bình quân đầu người cao hơn của New Zealand, Hoa Kỳ, Canada và Hà Lan. Hiệu suất trước đây của nền kinh tế Úc đã bị ảnh hưởng nặng nề bởi tăng trưởng kinh tế của Hoa Kỳ, Nhật Bản và Trung Quốc. Mặc dù có nhu cầu cao trên toàn cầu với hàng hóa khoáng sản của Úc, tốc độ tăng trưởng xuất khẩu vẫn còn bằng lặng so với tốc độ tăng trưởng mạnh của nhập khẩu. Mặc dù Úc thích giá cả hàng hóa cao, các nhà kinh tế đã cảnh báo rằng thay đổi cấu trúc là cần thiết để tăng kích thước của khu vực kinh tế sản xuất. ==== Trung quốc đầu tư ==== Có một lượng đáng kể xuất khẩu sang Trung Quốc là quặng sắt, len, và các nguyên vật liệu và hơn 100,000 du học sinh Trung Quốc học tập tại trường học và đại học tại Úc. Trung Quốc là nước mua nợ chính của Úc. Trong năm 2009, cung cấp được thực hiện bởi doanh nghiệp nhà nước Trung Quốc để đầu tư 22 tỷ đô la trong ngành công nghiệp khai thác nguồn tài nguyên của Úc. == Cán cân thanh toán của Úc == Trong điều kiện thương mại, kinh tế Úc đã liên tục có những thâm hụt ngân sách hiện hành trong hơn 50 năm. Chỉ một yếu tố đó làm giảm cán cân thanh toán là thu hẹp xuất khẩu cơ sở của Úc. Phụ thuộc vào hàng hóa, chính phủ Úc lo toan để phát triển khu vực sản xuất của Australia. Sáng kiến này, còn được gọi là cải cách kinh tế vi mô, đã giúp Australia phát triển sản xuất từ 10.1% trong năm 1983-1984 tới 17.8% trong năm 2003-2004. Có nhiều yếu tố khác đóng góp vào sự thâm hụt tài khoản rất cao hiện nay mà Úc phải gánh chịu ngày hôm nay. Thiếu năng lực cạnh tranh quốc tế và sự phụ thuộc nặng về hàng hóa vốn từ nước ngoài có thể làm tăng thâm hụt tài khoản hiện tại của Úc trong tương lai. == Xem thêm == Ngân sách liên bang Úc Sở giao dịch chứng khoán Úc Hộ gia đình có thu nhập trung bình ở Úc và New Zealand Danh sách tiểu bang Úc và vùng lãnh thổ theo tổng sản phẩm quốc dân Các thực thể liên bang: Austrade Reserve Bank of Australia Productivity Commission Chuyên ngành lĩnh vực: Nông nghiệp ở Úc Phương tiện truyền thông của Úc Khai mỏ ở Úc Thị trường điện quốc gia Viễn thông ở Úc Giáo dục đại học xuất khẩu Du lịch ở Úc Giao thông ở Úc By state: Kinh tế Western Australia Kinh tế Tasmania Kinh tế New South Wales Kinh tế Queensland == Chú thích == == Tham khảo == Macfarlane, I. J. (1998). "Australian Monetary Policy in the Last Quarter of the Twentieth Century". Reserve Bank of Australia Bulletin, tháng 10 năm 1998 (Adobe Acrobat *.PDF document) Parham, Dean. (2002). "Microeconomic reforms and the revival in Australia’s growth in productivity and living standards". Assistant Commissioner - Productivity Commission, Canberra Conference of Economists Adelaide, 1 tháng 10 năm 2002 (Adobe Acrobat *.PDF document) Some statistics on this page have been drawn from publications of the Australian Bureau of Statistics. OCED Factbook 2006 (Gini coeffcients) OCED Factbook 2006 pdf == Liên kết ngoài == Australia page @ Organisation for Economic Co-Operation & Development (OECD) Economic Survey of Australia @ OECD Monthly Economic and Social Indicators (Australian Parliamentary Library) Quick Reference Tables for the World Bank's 2005 data Harcourt, Tim. (2005). "Introducing the twenty five billion dollar man: how the LNG deal was won". Chief Economist - Australian Trade Commission - Sydney - 26 tháng 3 năm 2003 - "Australian Country Information" @ the Australian Department of Foreign Affairs & Trade Invest in Australia
thời kỳ bắc thuộc lần thứ tư.txt
Thời kỳ Bắc thuộc lần thứ tư (ngắn gọn: Bắc thuộc lần 4) hay còn gọi thời thuộc Minh trong lịch sử Việt Nam bắt đầu từ năm 1407 khi nhà Minh đánh bại nhà Hồ và chấm dứt năm 1427 khi Lê Lợi đánh đuổi được quân Minh ra khỏi bờ cõi, giành thắng lợi hoàn toàn trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Thời kỳ thuộc Minh chỉ kéo dài 20 năm. == Nhà Minh xâm chiếm Đại Ngu == === Bối cảnh === Trong những năm đầu thành lập triều Minh, Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương đã công khai chinh sách hòa hoãn với các quốc gia nhỏ, giáp biên giới với Trung Quốc. Thậm chí, Minh Thái Tổ còn đặt ra danh sách các nước mà Trung Quốc không nên chinh phạt trong chính sách Bất chinh chư di quốc danh (不征諸夷國名 - Các nước man di không nên đánh). Nước An Nam được đặt đầu tiên trong các nước hướng tây nam Trung Quốc. Tại Việt Nam, cuối thế kỉ 14 nhà Trần sa sút, trọng thần trong tiều là Hồ Quý Ly dần dần kiểm soát cả triều đình, đưa ra nhiều biện pháp thanh trừng những người trung thành với triều Trần. Hồ Quý Ly soán ngôi nhà Trần, lên làm vua năm 1400, đặt tên nước là Đại Ngu, bắt đầu thực hiện nhiều cải tổ trong hệ thống chính trị và xã hội. Tuy nhiên, do thực hiện quá nhiều thay đổi trong thời gian ngắn, lại không được nhiều cựu thần nhà Trần cũng như dân chúng ủng hộ, lại thêm tình hình kinh tế và xã hội toàn suy yếu vì nhiều nguyên nhân, nên đất nước rơi vào khủng hoảng. === Quân Minh tấn công Đại Ngu === Nhân cơ hội An Nam xảy ra loạn, sau một loạt thăm dò tình hình, năm 1406, Minh Thành Tổ Chu Đệ dùng chiêu bài "phù Trần diệt Hồ" để mang quân sang xâm lược nước Đại Ngu. Nhà Hồ nhanh chóng thất bại hoàn toàn vào giữa năm 1407. Nước Đại Ngu bị tiêu diệt và bị sát nhập vào lãnh thổ Trung Quốc. Việt Nam bị Trung Quốc đô hộ trở lại sau 500 năm độc lập tự chủ. Tướng nhà Minh là Trương Phụ xui giục một số người Việt đến trước quân doanh xin được trở lại làm quận huyện của nhà Minh vì nhà Trần đã tuyệt tự. Minh Thành Tổ nhân đó đổi gọi An Nam thành quận Giao Chỉ với các bộ phận Giao Chỉ đô chỉ huy sử ti (交址都指揮使司), Giao Chỉ đẳng xử thừa tuyên bố chính sử ti (交址等處承宣布政使司), Giao Chỉ đẳng xử đề hình án sát sử ti (交址等處提刑按察使司). Kinh đô Thăng Long trước đây đổi gọi là thành Đông Quan. == Bộ máy cai trị == Quận Giao Chỉ được thiết lập bộ máy cai trị giống như các đơn vị hành chính của nhà Minh khi đó, gồm có 3 ty (Tam ty) trực tiếp thuộc vào triều đình Yên Kinh (sau này đổi thành Bắc Kinh): Giao Chỉ đô chỉ huy sử ti (交址都指揮使司) phụ trách quân chính Giao Chỉ đẳng xử thừa tuyên bố chính sử ti (交址等處承宣布政使司) phụ trách dân sự và tài chính Giao Chỉ đẳng xử đề hình án sát sử ti (交址等處提刑按察使司) phụ trách tư pháp Các quan chánh, phó các ty đều là người phương bắc sang. Một số người Việt được trọng dụng vì có công với nhà Minh như Nguyễn Huân, Mạc Thúy, Lương Nhữ Hốt, Trần Phong, Đỗ Duy Trung… Để duy trì bộ máy cai trị, năm 1407, nhà Minh thiết lập các vệ quân (5.000 quân) bản xứ, gồm Tả, Hữu, Trung đóng trong thành Đông Quan, Tiền quân đóng ở phía bắc sông Phú Lương, và các thiên hộ sở (1.000 quân), đóng đồn ở những nơi xung yếu, như Thị Cầu cần hai thiên hộ sở, Ải Lưu một thiên hộ sở. Đặt tại Xương Giang một vệ, và Qiu-wen(?) một vệ quân canh giữ. Trong đạo quân viễn chinh, 2.500 quân Quảng Tây, 4.750 quân Quảng Đông, 6.750 quân Hồ Quảng, 2.500 quân Triết Giang, 1.500 quân Giang Tây, 1.500 quân Phúc Kiến, hơn 4.000 quân Vân Nam được lệnh ở lại. Việc bắt lính bản địa được xúc tiến để hỗ trợ quân Minh đóng đồn giữ. == Dân số, hành chính == Năm 1408, nhà Minh kiểm soát được dân số 3.120.000 người, người "man" 2.087.500 người thì sau 10 năm chỉ còn quản lý được 162.558 hộ với 450.288 nhân khẩu. Cao Hùng Trưng, tác giả sách An Nam chí cho biết: Nhà Minh chia quận Giao Chỉ làm 17 phủ là: Dưới 17 phủ là 47 châu, 154 huyện, 1 vệ, 13 sở, 1 thuyền chợ. Trong 17 phủ trên, phủ Thăng Hoa thực chất chỉ đặt khống vì khi quân Minh tiến đến Hóa châu thì vua Chiêm Thành là Ba Đích Lại đã mang quân chiếm lại những vùng đất phải nộp cho nhà Hồ trước đây (năm 1402) là 4 châu Thăng, Hoa, Tư, Nghĩa. Do đó trên thực tế nhà Minh chỉ cai quản Giao Chỉ gồm 16 phủ, địa giới phía nam chỉ đến Hóa châu. Năm 1408, Trương Phụ tâu về nhà Minh: Giao Chỉ đông tây dài 1760 dặm, nam bắc dài 2700 dặm. Để tăng cường quản lý Giao Chỉ, năm 1419, theo đề nghị của Lý Bân, nhà Minh tổ chức lại hệ thống xã thôn thành lý và giáp. Cứ 10 hộ thành 1 giáp do Giáp trưởng đứng đầu; 110 hộ thành 1 lý do lý trưởng đứng đầu. Tương đương với lý, tại nội thành gọi là phường, tại ngoại thành gọi là sương. Chức năng chính của Lý trưởng và Giáp trưởng là thu thuế cho chính quyền đô hộ. Họ thường bị ép bức và đánh đập nên khi được giao chức đều rất lo sợ. Để đảm bảo giao thông liên lạc giữa các phủ, châu, huyện của Giao Chỉ với Trung Quốc, năm 1415, nhà Minh cho mở đường thủy Vĩnh An, Vạn Ninh, đặt trạm tiếp đón tận Khâm châu; đồng thời cho đặt trạm ngựa đến thẳng phủ Hoành châu. Trên toàn địa bàn Giao Chỉ có 374 nhà trạm, nhiều nhất là phủ Giao Châu có 51 nhà trạm. == Giáo dục == Năm 1407, khi mới chiếm được Giao Chỉ, nhà Minh sai lùng tìm người tài năng, có sức khỏe, các thợ giỏi bắt mang về Trung Quốc. Kết quả bắt được 7000 người về phục vụ cho triều đình nhà Minh. Nhiều người tài, nghệ nhân của Đại Việt bị bắt đem sang Trung Hoa phục dịch cho Minh triều, mà nổi bật nhất còn lưu lại trong sử sách nước này phải kể đến các vị Hồ Nguyên Trừng, Nguyễn An... Từ năm 1410, nhà Minh cho lập trường học ở các châu, phủ, huyện theo quy chế của Trung Quốc. Đến năm 1417 có 161 trường học. Tuy mở trường nhưng nhà Minh không tổ chức cho người Giao Chỉ thi mà chỉ để lựa chọn các nho sinh có học vấn để sung vào lệ tuyển cống cho triều đình hằng năm. Những người hợp tác với quân Minh được đưa sang Trung Quốc để học hành một thời gian rồi đưa về phục vụ trong bộ máy cai trị tại Giao Chỉ. Điều đó nằm trong chính sách dùng người Việt trị người Việt của nhà Minh. == Lao dịch và tô thuế == Năm 1407, sau khi đánh bại nhà Hồ, nhà Minh đã vơ vét mang về phương bắc 235.900 con voi, ngựa, trâu bò; thóc gạo 13,6 triệu thạch, thuyền bè 8670 chiếc, binh khí hơn 2,5 triệu chiếc. Nhằm thực hiện nền thống trị lâu dài, nhà Minh không ngừng xây thành lũy, cầu cống, đường sá. Hàng chục vạn dân đinh từ 16 đến 60 tuổi phải ra các công trường với chế độ lao dịch cưỡng bức và sinh hoạt rất thiếu thốn. Các công trường khai mỏ và mò ngọc trai cũng nhiều nhân công. Những người thợ phải làm việc trong điều kiện khắc nghiệt, nguy hiểm đến tính mạng. Chính sách thuế khóa nhà Minh áp dụng với Giao Chỉ rất nặng nề, trong đó có 2 ngạch chính là thuế ruộng đất và thuế công thương nghiệp. Nhà Minh cử nhiều hoạn quan sang Việt Nam để tiến hành thu thập thuế, cống gửi về kinh đô, đồng thời vơ vét thêm chừng ấy nữa cho riêng mình.. Các viên quan này tham lam đến độ chính bản thân Hoàng đế nhà Minh phải can thiệp vào việc chỉ định quan lại sang Giao Chỉ. Vua Minh Nhân Tông phải bác việc Mã Kỳ tiếp tục muốn được bổ nhiệm quản lý việc thu vàng, bạc, trầm hương, ngọc trai tại đây năm 1424. === Thuế ruộng === Do thường xuyên phải đối phó những cuộc chống đối của người Việt, phạm vi kiểm soát ruộng đất của nhà Minh chỉ chủ yếu ở miền xung quanh Đông Quan. Từ năm 1407 – 1413, nhà Minh không có khả năng quản lý ruộng đất, số ngạch khi tăng khi giảm không ổn định. Ruộng đất chỉ được trưng dụng một phần để ban cấp cho các thổ quan người Việt thay cho lương. Để cung ứng lương thực cho quân đội, nhà Minh không trông chờ vào nguồn tô thuế ruộng mà phải cho lính mở đồn điền tự sản xuất hoặc dùng hình thức trưng thu để vơ vét. Năm 1414, sau khi dẹp xong nhà Hậu Trần, nhà Minh bắt dân Việt kê khai số ruộng đất trồng rau, trưng thu lương thực, tơ tằm và bắt đầu định ngạch thuế ruộng. Trên danh nghĩa thì lấy mức thu 5 thăng trên 1 mẫu như thời nhà Hồ, nhưng bắt dân tự khai khống 1 mẫu thành 3 mẫu để thu 3 phần thuế. Do đó trên thực tế mức thu cao gấp 3 lần nhà Hồ. === Thuế công thương nghiệp và thổ sản === Ngoài thuế ruộng, còn nhiều loại thuế thủ công nghiệp và thương mại. Hàng loạt Ty Thuế khóa, Ty Hà bạc, Ty tuần kiểm được đặt ra để tận thu. Để tăng cường khai thác tài nguyên, năm 1415 nhà Minh tiến hành khám thu các mỏ vàng, mỏ bạc, mộ phu đãi vàng và mò trân châu. Năm 1418, nhà Minh mở trường mò ngọc trai, tìm kiếm hương liệu; bắt người Việt săn bắt những thú vật quý để nộp như rùa 9 đuôi, vượn bạc má, chồn trắng, hươu trắng, voi trắng. Đối với nghề nấu muối và bán muối, nhà Minh nắm quyền khai thác độc quyền. Người đi đường chỉ được đem 3 bát muối và 1 lọ nước mắm. Chính sách thuế khóa của nhà Minh làm người Việt kiệt quệ điêu đứng. Việc làm sai dịch và nộp lương liên miên khiến năm 1418 từ Diễn châu trở vào nam không được cày cấy. Tuy nhà Minh thực hiện chính sách thuế khóa nặng nề, trưng thu lương thực, nhưng các cuộc nổi dậy liên tiếp cùng tình hình loạn lạc tại Giao Chỉ khiến việc chiếm đóng của nhà Minh trở nên rất tốn kém. Lương thực thu được tại chỗ không đủ cung ứng cho số quan lại và binh lính. Từ khoảng những năm 1420, nhà Minh liên tục phải vận chuyển lương thực từ Lưỡng Quảng sang Giao Chỉ để cung cấp. Việc điều động người và của cho các đợt viễn chinh liên tục đòi hỏi cả miền nam Trung Quốc phải cung cấp, phục dịch. Năm 1424, khi khởi nghĩa Lam Sơn lớn mạnh, nhà Minh mới ra một số chính sách xoa dịu người Việt như đình chỉ khai thác vàng bạc, khoan giảm trưng thu thuế khóa… == Đồng hóa == === Tập quán, tôn giáo tín ngưỡng === Người Việt bị bắt phải theo những phong tục tập quán của Trung Quốc: phải để tóc dài, không được cắt tóc; phải để răng trắng không được nhuộm; phụ nữ phải mặc áo ngắn quần dài (nguyên văn tiếng Hán: 短衣長裙 (đoản y trường quần), từ "quần" ở đây cũng có nghĩa là chỉ "váy") giống Trung Quốc. Quan lại phải đội khăn đầu rìu, áo viền cổ tròn có vạt, áo dài vạt bằng tơ lụa, hài ống cao có dây thắt. Tục thờ cúng và sinh hoạt tín ngưỡng của người Việt cũng bị đàn áp thô bạo. Nhiều đàn tràng thờ kiểu Trung Quốc được lập. Đạo Phật tại Việt Nam phát triển cực thịnh vào thời Lý, Trần, có ảnh hưởng rất sâu rộng đến đời sống người dân Đại Việt. Số lượng trước tác về đạo Phật thời này rất nhiều, ngày nay chỉ còn lại Thiền uyển tập anh cũng là do chính sách hủy diệt của nhà Minh. Ðại Tạng Kinh thực hiện và ấn loát nhiều lần dưới triều Trần, mỗi lần in hàng ngàn cuốn; sách Thiền Tông Chỉ Nam, Bình Ðẳng Sám Hối Khoa Văn của Trần Thái Tông, Thạch Thất Mỵ Ngữ, Thiền Lâm Thiết Chủy Ngữ Lục, Ðại Hương Hải Ấn Thi Tập, Trúc Lâm Hậu Lục, Tăng Già Toái Sự của Trúc Lâm Ðiều Ngự (tức vua Trần Nhân Tông) và tám tác phẩm của Pháp Loa không tác phẩm nào còn lại. Nhà Minh đưa sang những tác phẩm Trung Hoa về Nho giáo, Phật giáo, Lão Giáo cho người Việt học. Chính quyền đô hộ lập Tăng Cương Ty và Ðạo Kỳ Ty để lo việc giáo dục Phật giáo và Lão Giáo theo mẫu mực Trung Hoa. === Văn hóa === Đại Việt từ khi chính thức độc lập vào thế kỷ 10, trải qua hơn 500 năm đã lớn mạnh nhanh chóng, giữ vững bờ cõi, xâm lấn về phía nam, tất cả các mặt đều phát triển mạnh mẽ, nhất là văn hóa đã trở thành quốc hồn quốc túy và có nhiều nét riêng biệt so với Bắc triều. Chẳng hạn vua Trần Nhân Tông xuất gia lập nên Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử là việc chưa hề thấy trong lịch sử Trung Hoa. Sự lớn mạnh và độc lập của Đại Việt là một hiểm họa cho Bắc triều đã được chứng minh qua các cuộc chiến tranh Việt - Tống, Việt - Nguyên; nên nhà Minh từ khi nắm quyền không thể không biết. Nhằm thủ tiêu nền văn hóa của người Việt, ngay năm 1406, khi phát binh đánh Đại Ngu, Minh Thành Tổ đã ban sắc viết: Khi binh lính vào nước Nam, trừ các kinh Nho gia, kinh Phật, đạo Lão không thiêu hủy. Ngoài ra, tất cả sách vở, văn tự cho đến các loại văn tự ghi chép ca lý dân gian, hay sách dạy trẻ con học… đều đốt hết. Phàm những văn bia do Trung Quốc dựng từ xưa thì đều phải giữ cẩn thận, còn các bia do An Nam dựng thì phá hủy tất cả, một chữ không để sót. Năm 1407, Minh Thành Tổ ra chiếu lệnh thứ hai nhằm hủy diệt văn hóa triệt để hơn.: Nhiều lần trẫm đã bảo các ngươi, phàm An Nam có văn tự gì, kể cả các câu hát dân gian,… các bia dù dựng lên một mảnh, hễ nom thấy là phá hủy hết. … Sách vở do quân lính bắt được phải ra lệnh đốt luôn, chớ được lưu lại Sự hủy diệt đó khiến Ngô Sĩ Liên, nhà sử học chứng kiến những sự kiện này than rằng: Giáo mác đầy đường đâu cũng thấy quân Minh cuồng bạo. Sách vở cả nước thành một đống tro tàn Năm 1418, nhà Minh sai Hạ Thanh và Hạ Thì sang thu các loại sách ghi chép về sự tích xưa của người Việt đưa về Trung Quốc. Các tác phẩm văn học, sử học, pháp luật, quân sự của đời trước đã bị tịch thu gồm: Hình thư của Lý Thái Tông: 3 quyển Quốc triều thông lễ của Trần Thái Tông: 10 quyển Hình luật của Trần Thái Tông: 1 quyển Khóa hư tập của Trần Thái Tông: 1 quyển Ngự thi của Trần Thái Tông: 1 quyển Di hậu lục của Trần Thánh Tông: 2 quyển Cơ cừu lục của Trần Thánh Tông: 1 quyển Trần Triều đại điển của Trần Dụ Tông: 1 quyển Trùng Hưng thực lục của Trần Nhân Tông: 1 quyển Thi tập của Trần Nhân Tông: 1 quyển Thủy vân tùy bút của Trần Anh Tông: 1 quyển Thi tập của Trần Minh Tông: 1 quyển Bảo Hòa điện dư bút của Trần Nghệ Tông: 8 quyển Thi tập của Trần Nghệ Tông: 1 quyển Việt điện u linh tập của Lý Tế Xuyên: 1 quyển Binh thư yếu lược của Trần Hưng Đạo: 1 quyển Vạn Kiếp bí truyền của Trần Hưng Đạo: 1 quyển Tứ thư thuyết ước của Chu Văn An: 1 quyển Tiều Ẩn thi của Chu Văn An: 1 quyển Sầm lâu tập của Trần Quốc Tụy: 1 quyển Lạc Đạo tập của Trần Quang Khải: 1 quyển Băng Hồ ngọc thác tập của Trần Nguyên Đán: 1 quyển Giới Hiên thi tập của Nguyễn Trung Ngạn: 1 quyển Hiệp thạch tập của Phạm Sư Mạnh: 1 quyển Cúc Đường di cảo của Trần Nguyên Đào: 2 quyển Thảo nhàn hiên tần của Hồ Tông Thốc: 1 quyển Việt Nam thế chí của Hồ Tông Thốc: 1 bộ Việt sử cương mục của Hồ Tông Thốc: 1 quyển Đại Việt sử ký của Lê Văn Hưu: 1 quyển Nhị Khê thi tập của Nguyễn Phi Khanh: 1 quyển Phi sa tập của Hàn Thuyên: 1 quyển Lấy đi sách vở của người Việt, nhà Minh mang sang những sách vở Trung Quốc phát cho các thôn, huyện để tuyên truyền văn hóa Trung Quốc. == Người Việt giành lại nước == Xem chi tiết: nhà Hậu Trần, Khởi nghĩa Lam Sơn Ngay khi nhà Hồ thất bại, đã có nhiều phong trào chống Minh bắt đầu nổi lên. Trong các phong trào chống Minh, lớn nhất là sự nổi dậy của nhà Hậu Trần và khởi nghĩa Lam Sơn của Lê Lợi. Giữa năm 1407, nhân dân huyện Đông Lan và Trà Thanh thuộc Diễn châu nổi dậy phá ngục, giết huyện quan. Trương Phụ và Trần Húc mang quân vào dẹp. Tại châu Thất Nguyên (Lạng Sơn), dân tộc bản địa lập căn cứ chống Minh. Trương Phụ sai Cao Sĩ Văn đi đánh, đến châu Quảng Nguyên (Cao Bằng) thì bị quân khởi nghĩa giết chết. Sau Trương Phụ phái Trình Dương tăng viện mới thắng được. Tháng 11 năm 1407, Phạm Chấn nổi dậy, lập Trần Nguyệt Hồ - một người tự xưng là tông thất nhà Trần - làm vua ở Bình Than. Tuy nhiên chỉ sau một thời gian ngắn, Trần Nguyệt Hồ bị bắt, Phạm Chấn trốn thoát và gia nhập cuộc khởi nghĩa của nhà Hậu Trần. Dù ban đầu lấy chiêu bài "Phù Trần diệt Hồ" nhưng thực chất sau đó nhà Minh lại sai lùng bắt con cháu nhà Trần. Sự nổi dậy của nhà Hậu Trần bắt dầu từ cuối năm 1407 với sự kiện Trần Giản Định Đế lên ngôi. Lực lượng này đã làm chủ từ Thuận Hóa trở ra, tiến ra bắc và đánh bại quân Minh một trận lớn ở Bô Cô cuối năm 1408. Nhưng sau đó hiềm khích trong nội bộ khiến lực lượng bị suy yếu nghiêm trọng. Cuối cùng đến năm 1413, vua Trùng Quang Đế và các tướng lĩnh bị bắt. Nhà Hậu Trần chấm dứt. Cùng thời gian nhà Hậu Trần nổi lên, trong năm 1407 - 1408 còn các phong trào nhỏ lẻ khác như Chu Sư Nhan ở An Định (Thái Nguyên), Trần Nguyên Khoáng, Nguyễn Đa Bí ở Thái Nguyên, Trần Nguyên Thôi ở Tam Đái (Phú Thọ), Trần Nguyệt Tôn ở Đồng Lợi... Do các cuộc khởi nghĩa này quy mô nhỏ, không liên kết được với nhau nên nhanh chóng bị dẹp. Từ cuối năm 1409, khi Trùng Quang Đế lên ngôi, có thêm nhiều cuộc khởi nghĩa khác. Hoàng Cự Liêm từng bị quân Minh đánh bại, bỏ trốn lại nổi dậy. Thiêm Hữu và Ông Nguyên dấy quân ở Lạng Giang. Bùi Quý Thăng, Nguyễn Khắc Chẩn, Nguyễn Trà, Dương Thế Chân và Ông Lão nổi lên ở Thái Nguyên. Ngoài ra ở Thái Nguyên còn có quân khởi nghĩa "áo đỏ" hoạt động mạnh trong vùng rừng núi và vào thượng du Thanh Hoá, Nghệ An. Đồng Mặc khởi nghĩa ở Thanh Hóa, bắt sống được tướng Minh là Tả Địch và buộc Vương Tuyên tự vẫn. Tại Thanh Oai (Hà Nội) có khởi nghĩa Lê Nhị. Lê Nhị bắt giết cha con tướng Lư Vượng và chiếm giữ Từ Liêm. Năm 1410, Nông Văn Lịch khởi nghĩa ở Lạng Sơn, giết được nhiều quân Minh. Hàng tướng người Việt là Mạc Thúy mang quân lên dẹp bị trúng tên tử trận. Sang năm 1411, Trương Phụ được lệnh mang quân sang tiếp viện cho Mộc Thạnh để dẹp các phong trào chống đối của người Việt một lần nữa. Nhà Minh huy động quân 6 Đô ty Tứ Xuyên, Quảng Tây, Giang Tây, Hồ Quảng, Vân Nam, Quý Châu và 14 vệ tiến sang. Sau khi dẹp được nhà Hậu Trần, quân Minh quay sang dẹp các cuộc khởi nghĩa nhỏ khác. Lúc này nhà Minh cho rằng sự bình định ở Giao Chỉ cơ bản đã hoàn thành, nên điều Trương Phụ cùng một phần lớn đạo quân viễn chinh về nước. Việc đánh dẹp và chiếm giữ được giao lại cho các đạo quân phần nhiều gồm binh lính mộ bản xứ và có các chỉ huy là người Việt. Đây có lẽ là lý do sự chiếm đóng của nhà Minh nhanh chóng sụp đổ khi các binh lính người Việt này nổi dậy hoặc hưởng ứng các cuộc nổi dậy sau này. Em Trùng Quang Đế là Trần Quý Tám thu thập tàn quân Hậu Trần khởi binh. Một tông thất khác cũng có tên là Trần Nguyệt Hồ (không phải Trần Nguyệt Hồ khởi nghĩa ở Bình Than năm 1407) cũng nổi dậy. Một vài cánh quân nhỏ khác hưởng ứng như Nguyễn Tông Biệt, Hoàng Thiêm Hữu. Tới năm 1415, hầu hết các cánh quân khởi nghĩa bị dẹp, chỉ còn vài phong trào với quy mô hẹp và không ảnh hưởng tới sự cai trị của nhà Minh như Trần Quý Tám ở Tĩnh An (Quảng Ninh), Nguyễn Tống Biệt ở Hạ Hồng,... Từ năm 1417 trở đi, một loạt các cuộc khởi nghĩa mới lại bùng lên, lần này cuốn hút cả các quan lại người Việt vốn cộng tác, hoặc đầu hàng nhà Minh trước kia. Năm 1417, tổng binh Lý Bân đánh dẹp hai cuộc khởi nghĩa lớn. Đến năm 1418, hai cuộc khởi nghĩa mới lại bùng phát. Theo Dreyer, đợt khởi nghĩa này trùng với thời kỳ nhà Minh mở rộng xây cất tại Bắc Kinh và phát triển hạm đội hải hành viễn chinh Nam Á. Việc xây cất và đóng thuyền đòi hỏi một lượng lớn nhân lực vật lực, đặc biệt là gỗ tốt, mà nguồn cung cấp từ nội địa Trung Quốc đã giảm sút. Việc quan lại nhà Minh, như hoạn quan Mã Kỳ, tăng sưu dịch, vơ vét nguyên liệu, dồn gánh nặng khai thác gỗ lên các tỉnh mới chiếm được như Giao Châu có lẽ đã làm bùng phát sự bất mãn của dân chúng, và cả quan lại người Việt, dẫn đến một làn sóng chống đối nữa. Năm 1418, Lê Lợi dấy binh, bắt đầu khởi nghĩa ở Lam Sơn. Thời gian đầu, quân Lam Sơn gặp nhiều khó khăn ở vùng núi Thanh Hóa. Từ năm 1424, quân Lam Sơn thay đổi chiến thuật: tiến vào Nghệ An, giải phóng toàn bộ vùng đất phía nam. Sau đó Lê Lợi tiến ra bắc, đánh bại các đạo quân sở tại và 4 đạo quân viện binh lần lượt sang từ năm 1426 đến 1427. Cuối cùng, tướng nhà Minh là Vương Thông phải xin giảng hòa, rút quân về nước. Người Việt giành lại quyền độc lập tự chủ sau 20 năm. Lê Lợi lên ngôi vua, lập ra nhà Hậu Lê. == Các tướng văn, võ nhà Minh ở Giao Chỉ == Người Minh: gồm có Trương Phụ, Mộc Thạnh, Lý Bân, Vương Thông, Trần Trí, Lý An, Phương Chính, Hoàng Phúc, Liễu Thăng Người Việt: gồm có Nguyễn Huân, Mạc Thúy, Lương Nhữ Hốt, Trần Phong, Đỗ Duy Trung, Phan Liêu == Xem thêm == Bắc thuộc Chiến tranh Minh-Đại Ngu Nhà Hậu Trần Khởi nghĩa Lam Sơn Giao Chỉ Chiến tranh Minh-Việt (1407-1414) == Chú thích == == Tham khảo == Tiếng Việt Viện sử học (2007), Lịch sử Việt Nam, tập 3, Nhà xuất bản Khoa học xã hội Đặng Huy Phúc (2005), Đặng Tất - Đặng Dung, Nhà xuất bản Trẻ Tiếng Anh Edward Dreyer (1982). Early Ming China: A political history 1355-1435. Stanford University Press. ISBN 9780804711050. Karl Hack (2006). Colonial Armies in Southeast Asia. New York: Routledge. ISBN 0-415-33413-6. John Whitmore (1985). Vietnam: Ho Qui Ly and the Ming. New Haven, CT.
bang (đức).txt
Nước Đức được thành lập từ 16 bang (tiếng Đức: Land (số ít) hoặc Länder (số nhiều)), vì thế có quốc hiệu đầy đủ là Cộng hòa Liên bang Đức. Mỗi bang là một thực thể có chủ quyền, có hiến pháp riêng, có nghị viện riêng, có chính quyền riêng, có tòa án riêng. Tuy nhiên theo điều 31 Hiến pháp Đức thì Luật liên bang có giá trị trước luật lệ tiểu bang. Bang chia làm 2 loại: thành bang gồm 3 đơn vị và bang gồm 13 đơn vị. == Phân cấp hành chính các bang == Thành bang (tiếng Đức: Stadtstaaten) là một bang đồng thời là một thành phố như Berlin hoặc Hamburg hoặc hai thành phố liên minh lại như ở bang Bremen. Thành bang không có các đơn vị hành chính địa phương nhỏ hơn, nhưng có thể phân thành các quận (Stadtbezirk) để quản lý. Trong số các bang có 5 bang mà mỗi bang được phân thành các vùng hành chính (Regierungsbezirk). Mỗi vùng hành chính lại được phân thành các huyện (Landkreis) hoặc các đô thị độc lập (Kreisfreie Stadt). 8 bang khác được phân chia thẳng thành các huyện và đô thị độc lập. Đô thị độc lập không có các đơn vị hành chính nhỏ hơn, còn huyện lại được phân thành các xã (Gemeinde). Ở một số nơi, vài xã có thể liên hợp thành một cụm (Kommunalverbände). === Các vùng hành chính === Từ tháng 3 năm 2012 chỉ còn có 19 vùng hành chính. Bang Baden-Württemberg có 4 vùng hành chính: Freiburg, Karlsruhe, Stuttgart, Tübingen. Bang Bayern có 7 vùng hành chính: Oberbayern, Niederbayern, Oberfranken, Mittelfranken, Unterfranken, Oberpfalz, Schwaben. Bang Hessen có 3 vùng hành chính: Darmstadt, Gießen, Kassel. Bang Nordrhein-Westfalen có 5 vùng hành chính: Arnsberg, Detmold, Düsseldorf, Köln, Münster. Bang Sachsen từ tháng 3 năm 2012 không còn vùng hành chính nữa. === Huyện và đô thị độc lập === Huyện (tiếng Đức: Landkreis) là đơn vị hành chính địa phương cấp trung gian. Huyện đứng dưới bang, hoặc ở những bang có vùng hành chính thì huyện đứng dưới vùng hành chính. Huyện đứng trên xã, hoặc ở những nơi có cụm xã liên hợp thì huyện đứng trên cụm. Những đô thị có quy mô dân số trên 100.000 người thì thường không thuộc huyện mà tương đương huyện - đó là các đô thị độc lập (Kreisfreie Stadt). Tuy nhiên, có một số đô thị ở Nordrhein-Westfalen mặc dù có dân số trên 100.000 người vẫn không được độc lập. Tùy theo quy mô của thành phố, phân cấp danh xưng sẽ khác nhau. Thông thường, nếu dân số chỉ trên 100.000 dân, thì gọi là Großstadt (thành phố lớn), trên 1 triệu dân gọi là Millionenstadt hay Metropole, trên 10 triệu thì gọi là Megastadt (siêu đô thị). Cả nước Đức hiện có 313 huyện và 116 đô thị độc lập. === Xã === Xã, hay chính xác hơn là Công xã (tiếng Đức: Gemeinde), là đơn vị độc lập nhỏ nhất. Trong nước Đức hiện thời có 12.320 xã và 248 vùng lãnh thổ không thuộc xã (Gemeindefreies Gebiet). Xã có những tổ chức công cộng mà được bầu trực tiếp. Một số xã được quyền mang tên thành phố (Stadt), có thể vì lý do lịch sử với nhiều quyền lợi đặc biệt (như tự lấy thuế) hoặc là những xã lớn, mà vì vị thế và vai trò của nó được gọi là thành phố (mỗi bang có quy luật khác nhau về điều này). Tùy theo quy mô của thành phố, phân cấp danh xưng sẽ khác nhau. Thông thường, nếu dân số dưới 10 vạn dân sẽ được gọi là Mittelstadt (thành phố vừa), dưới 2 vạn là Kleinstadt (thành phố nhỏ) và dưới 5.000 dân là Landstadt (thị trấn). == Danh sách các bang == == Sự hình thành các bang sau 1945 == Sau 1945 Đức bị 4 nước Mỹ, Anh, Pháp và Liên Xô chiếm đóng và chia ra làm 4 vùng. Vào tháng 8 năm 1946 theo quy định của chính quyền quân sự Anh, những vùng trước đây thuộc bang Phổ được tách ra và thành lập các bang mới như bang Hannover (sau này nhập với bang Braunschweig, Oldenburg, Schaumburg-Lippe thành bang Niedersachsen), Nordrhein-Westfalen và Schleswig-Holstein. Hamburg trở thành một thành bang riêng biệt. Bang Rheinland-Pfalz cũng được tạo ra vào năm 1946 theo quy định của chính quyền quân đội Pháp. 1947 Bang Lippe do thúc dục của chính quyền Anh từ bỏ sự độc lập, và sau khi đàm phán với cả 2 bang nằm bên cạnh, Niedersachsen và Nordrhein-Westfalen, đã chọn Nordrhein-Westfalen. Hiến pháp bang Hessen được người dân chấp nhận qua một cuộc bỏ phiếu đã có hiệu lực vào ngày 1 tháng 12 năm 1946. Đây là hiến pháp đầu tiên sau cuộc chiến. Cùng vào ngày đó người dân bang Bayern cũng chấp nhận hiến pháp mới. Vào ngày 25 tháng 2 năm 1947 ủy ban kiểm soát của đồng minh quyết định giải thể bang Phổ. Brandenburg và Sachsen-Anhalt trở thành độc lập mặc dù trong hiến pháp đầu tiên chỉ gọi là vùng chứ không phải là bang. Trong vùng chiếm đóng của Liên xô thì hiến pháp của bang độc lập Sachsen được ban hành vào tháng 2 năm 1947. Vào ngày 23 tháng 5 năm 1949 Hiến pháp (Grundgesetz) của nước Cộng hòa liên bang Đức được tuyên bố, với sự tham dự của các bang Schleswig-Holstein, Niedersachsen, Hamburg, Bremen, Nordrhein-Westfalen, Rheinland-Pfalz, Hessen, Württemberg-Baden, Baden, Württemberg-Hohenzollern và Bayern. Berlin (West) có một địa vị đặc biệt theo hiệp ước của 4 nước chiếm đóng, mặc dù theo hiến pháp mới đã được xem là một bang nước này. Sự thay đổi đầu tiên từ khi Cộng hòa liên bang Đức được thành lập, xảy ra vào ngày 25 tháng 4 năm 1952 khi Baden, Württemberg-Baden und Württemberg-Hohenzollern thống nhất thành bang Baden-Württemberg. Cùng vào năm đó mặc dù các bang của nước Cộng hòa dân chủ Đức không được chính thức bị giải thể, nhưng đã được chia ra thành 14 vùng hành chính. Đông Berlin (Ostsektor Berlin), không phải theo những luật lệ mới vì không thuộc nước này. Cho đến năm 1962 thì Đông Berlin mới trở thành thủ đô và như vậy có địa vị của một vùng hành chính của nước Cộng hòa dân chủ Đức. Bang Saarland mà độc lập từ năm 1947 trở thành một bang của Cộng hòa liên bang Đức vào ngày 1 tháng giêng 1957 sau một cuộc trưng cầu dân ý. === Năm bang mới === Vào tháng 7 năm 1990 các tỉnh thuộc Cộng hòa dân chủ Đức bị giải thể và 5 bang mà trước đây đã bị chia ra, được tái thiết lập. (Mecklenburg được mang lại tên Mecklenburg-Vorpommern, mà đã có từ năm 1945 tới năm 1947). Mecklenburg-Vorpommern, Brandenburg, Sachsen, Sachsen-Anhalt, Thüringen cũng như là Berlin (Đông và Tây Berlin nhập chung lại với nhau) vào ngày 3 tháng 10 năm 1990 theo như hợp đồng thống nhất (Einigungsvertrag) trở thành những bang mới của nước Cộng hòa liên bang Đức. == Bang kỳ của các bang nước Đức == Bên trên là bang kỳ của các bang. Mọi người dân đều có thể sử dụng nó nơi cộng cộng. Ngoài ra còn có bang kỳ hành chánh, chỉ có các cơ quan trực tiếp trực thuộc bang mới được phép treo. Bang Bayern có hai cờ có giá trị như nhau. Cờ vạch ngang đã thấy ở trên. Cờ hình thoi nằm bên tay phải. Trong những tiểu bang dưới đây thì không có sự khác biệt giữa bang kỳ và bang kỳ hành chánh: Bayern, Berlin, Brandenburg, Hamburg, Niedersachsen, Rheinland-Pfalz und Saarland. Bang kỳ bang Bremen với huy hiệu (hai kiểu khác nhau) người dân cũng được phép sử dụng. Bang kỳ hành chánh của các bang sau đây có thêm huy hiệu của bang: Baden-Württemberg, Hessen, Mecklenburg-Vorpommern, Nordrhein-Westfalen, Sachsen, Sachsen-Anhalt, Schleswig-Holstein, Thüringen. == Chú thích ==
bộ giáo dục tiểu bang hawaii.txt
Bộ giáo dục tiểu bang Hawaii (tiếng Anh: Hawaii Department of Education) là hệ thống giáo dục công lập toàn tiểu bang tập trung nhất và duy nhất ở Hoa Kỳ. Khu học chánh có thể được coi như là tương tự các khu học chánh của các thành phố và các cộng đồng khác tại Hoa Kỳ, nhưng trong một số khía canh cũng có thể được coi như là tương tự cho các cơ quan giáo dục tiểu bang ở các tiểu bang khác của Hoa Kỳ. Là cơ quan giáo dục chính thức của tiểu bang, Bộ giáo gục tiểu Bang Hawaii giám sát tất cả 283 trường công lập và trường điều lệ trường học và hơn 13.000 giáo viên ở tiểu bang Hawaii. Tổng cộng có khoảng 177.871 học sinh hàng năm. Bộ trưởng của HIDOE hiện là Kathryn Matayoshi (kể từ ngày 13 tháng 9 năm 2010). Trụ sở đóng tại Tòa nhà Queen Liliuokalani ở Honolulu CDP, Thành phố và quận Honolulu trên đảo Oahu. Kamehameha III thành lập hệ thống giáo dục công cộng đầu tiên của Hawaii vào ngày 15 tháng 10 năm 1840. Điều này khiến cho các Bộ giáo dục tiểu bang Hawaii là hệ thống trường dân lập lâu đời nhất phía tây của sông Mississippi,, và hệ thống duy nhất được thành lập bởi một vị vua có chủ quyền. == Tham khảo == == Liên kết ngoài == Bộ giáo dục tiểu bang Hawaii (tiếng Anh)
quả bóng vàng châu âu.txt
Quả bóng vàng châu Âu (tiếng Pháp: Ballon d'Or) là một giải thưởng bóng đá thường niên được trao cho cầu thủ xuất sắc nhất trong năm do tạp chí France Football tổ chức. Giải thưởng này xuất phát từ ý tưởng của phóng viên thể thao Gabriel Hanot, người đã đề nghị các đồng nghiệp của mình bình chọn cho cầu thủ chơi hay nhất tại châu Âu trong năm 1956. Người đầu tiên nhận danh hiệu này là Stanley Matthews, cầu thủ người Anh của câu lạc bộ Blackpool. Ban đầu, các phóng viên chỉ bình chọn cho những cầu thủ người châu Âu đang chơi tại các câu lạc bộ châu Âu, có nghĩa những cầu thủ như Diego Maradona hay Pelé sẽ không đủ tiêu chuẩn để được bình bầu. Từ năm 1995, luật bình chọn đã thay đổi, cho phép các cầu thủ ngoài châu Âu cũng có cơ hội nhận giải nếu họ đang chơi cho một câu lạc bộ tại châu Âu. Người ngoài châu Âu đầu tiên nhận được danh hiệu Quả bóng vàng ngay vào năm 1995 là George Weah, cầu thủ người Liberia thi đấu cho câu lạc bộ A.C. Milan. Năm 2007, luật bình chọn của giải thưởng lại một lần nữa thay đổi. Các cầu thủ từ tất cả các quốc gia, tất cả các câu lạc bộ đều có cơ hội nhận giải. Cùng với sự thay đổi này, số lượng phóng viên tham gia bình chọn cũng tăng lên, 96 nhà báo từ khắp thế giới đã chọn ra 5 cầu thủ xuất sắc nhất, so với con số 52 nhà báo châu Âu vào năm 2006. Từ khi Quả bóng vàng châu Âu được trao giải, đã có ba cầu thủ nhận được vinh dự này ba lần, đó là Johan Cruyff, Michel Platini và Marco van Basten. Platini là cầu thủ duy nhất nhận được giải thưởng trong ba năm liên tiếp, 1983, 1984 và 1985. Ronaldo trở thành cầu thủ người Brasil đầu tiên nhận Quả bóng vàng vào năm 1997. Trong suốt lịch sử của Quả bóng vàng châu Âu, chỉ có một thủ môn duy nhất nhận được giải thưởng này là Lev Yashin, thủ thành người Nga được trao giải vào năm 1963. Với 7 giải thưởng, Hà Lan và Đức là hai quốc gia có nhiều cầu thủ đạt danh hiệu này nhất. Trên phương diện câu lạc bộ, Juventus, A.C. Milan và Barcelona là những đội bóng sở hữu nhiều Quả bóng vàng nhất khi có tới 8 giải thưởng từng trao cho các cầu thủ khi họ đang chơi cho những câu lạc bộ này. Cầu thủ hiện giữ danh hiệu Quả bóng vàng châu Âu 2009 là Lionel Messi, người Argentina thứ ba nhận giải nhưng lại là người đầu tiên với tư cách công dân Argentina. Kể từ năm 2010, hai giải thưởng bóng đá danh giá Quả bóng vàng châu Âu và Cầu thủ xuất sắc nhất năm của FIFA được hợp nhất thành Quả bóng vàng FIFA và nam cầu thủ đầu tiên nhận danh hiệu này là Lionel Messi. Năm 2016, khi Gianni Infantino làm chủ tịch FIFA, ông đã tuyên bố trao trả Quả bóng vàng cho tạp chí France Football và tách trở lại thành hai giải thưởng phân biệt. == Danh sách == === Cầu thủ === === Quốc gia === === Câu lạc bộ === == Ghi chú == == Tham khảo == Tham khảo chung “European Footballer of the Year ("Ballon d'Or")”. Rec.Sport.Soccer Statistics Foundation. Ngày 9 tháng 10 năm 2008. Truy cập ngày 12 tháng 1 năm 2011. Chú thích == Liên kết ngoài == Quả bóng vàng Châu Âu trên trang của tạp chí France Football
họ cá quả.txt
Họ Cá quả (tên khác: Cá chuối, Cá lóc, Cá sộp, Cá xộp, Cá tràu,cá trõn, Cá đô, tùy theo từng vùng) là các loài cá thuộc họ Channidae. Họ này có hai chi là Channa hiện biết 34 loài và Parachanna hiện biết có 3 loài ở châu Phi. Ở Việt Nam chủ yếu là Channa maculata (có tài liệu gọi là Ophiocephalus maculatus / Bostrychus maculatus) và Channa argus (hay còn gọi là Ophiocephalus argus tức cá quả Trung Quốc). == Đặc điểm nhận dạng == Vây lưng có 40 - 46 tia vây; vây hậu môn có 28 - 30 tia vây, vảy đường bên 41 - 55 cái. Đầu cá quả Channa maculata có đường vân giống như chữ "nhất" và hai chữ "bát" còn đầu cá Channa argus tương đối nhọn và dài giống như đầu rắn. Đầu của chúng bẹt so với thân, vảy tạo vân màu nâu xám xen lẫn với những chỗ màu xám nhạt. Lưng có màu đen ánh nâu. == Phân bố == Chúng có thể sống trong các môi trường nước thiếu ôxy, là loài cá sống trong môi trường nước ngọt. Chúng tìm thấy ở các khu vực nhiệt đới như châu Phi và châu Á, đặc biệt là Trung Quốc, Triều Tiên, Sri Lanka, Việt Nam v.v, ở đó chúng được coi là loài cá đặc sản. Môi trường: Nước ngọt; độ sâu sinh sống từ 0 đến 30 m trong các sông, suối, ao, hồ và trong các ao nuôi nhân tạo. Chúng sinh sống ở tầng nước giữa và thấp, hay tìm thấy trong các ao hồ có nhiều rong cỏ và nước đục. Nhiệt độ: 7 - 35 °C Vĩ độ: 40°bắc - 10°bắc == Phân loại == Họ này theo truyền thống xếp trong bộ Perciformes, tuy nhiên gần đây người ta đã xem xét lại phát sinh chủng loài của cá và đề xuất tách họ này sang bộ Anabantiformes. Họ Cá quả (Channidae) Chi Channa Channa amphibeus Channa argus Channa asiatica Channa aurantimaculata Channa bankanensis Channa baramensis Channa barca Channa bleheri Channa burmanica Channa cyanospilos Channa diplogramma Channa gachua - cá chòi Channa harcourtbutleri Channa hoaluensis Channa longistomata - cá trẳng, pa cẳng Channa lucius Channa maculata Channa marulioides Channa marulius Channa melanoptera Channa melanostigma Channa melasoma Channa micropeltes Channa ninhbinhensis Channa nox Channa orientalis - cá chành dục Channa ornatipinnis Channa panaw Channa pleurophthalma Channa pulchra Channa punctata Channa stewartii Channa striata Chi †Eochanna: †Eochanna chorlakkiensis Chi Parachanna Parachanna africana † Parachanna fayumensis Parachanna insignis Parachanna obscura == Sinh trưởng và sinh sản == Cá quả lớn tương đối nhanh. Con lớn nhất dài đến 1 mét, nặng đến 20 kg, cá 1 tuổi thân dài khoảng 19 – 39 cm, nặng 95 - 760g; cá 2 tuổi thân dài 38,5–40 cm, nặng 625 - 1.395g; cá 3 tuổi thân dài 45–59 cm, nặng 1,5 - 2,0 kg (con đực và cái chênh lệch lớn); khi nhiệt độ trên 20 °C sinh trưởng nhanh, dưới 15 °C sinh trưởng chậm. Cá từ một năm tuổi trở lên đã có khả năng sinh sản. Mùa sinh sản là từ tháng 4-7 hàng năm. == Thức ăn == Cá quả là loại cá ăn thịt. Thức ăn khi nhỏ (thân dài 3 – 8 cm) là côn trùng, cá con và tôm con; khi thân dài trên 8 cm ăn cá con. Khi trọng lượng nặng 0,5 kg chúng có thể ăn tới 20% trọng lượng cơ thể mỗi ngày. Trong điều kiện nuôi nhân tạo, chúng cũng ăn thức ăn chế biến. == Xem thêm == Channa maculata Cá quả Trung Quốc == Ghi chú == == Liên kết ngoài == AP article about a second snakehead fish found in Potomac Overview of Northern Snakehead biology ITIS entry Student writes article on Snakehead problem in Florida Channa maculata
giải vô địch bóng đá bãi biển châu á.txt
Giải vô địch bóng đá bãi biển châu Á (Tên tiếng Anh: AFC Beach Soccer Championship là giải bóng đá bãi biển quốc tế được tổ chức tại Châu Á, gần giống như Cúp bóng đá châu Á trong Hiệp hội Bóng đá. Còn được gọi là Vòng loại giải vô địch bóng đá bãi biển thế giới thuộc liên đoàn AFC, mùa giải đầu tiên đã được thành lập vào năm 2006, sau khi FIFA đã yêu cầu cho tất cả các liên đoàn bắt đầu tổ chức một giải đấu để xác định thứ hạng các đội tuyển quốc gia tốt nhất trong khu vực và các đội tuyển đại diện cho lục địa của họ tham dự World Cup. Châu Á có ba suất tham dự Asia vòng chung kết giải vô địch bóng đá bãi biển do FIFA tổ chức. Các đội tuyển quốc gia đoạt chức vô địch, hạng nhì và hạng ba sẽ đại diện cho khu vực Châu Á tham dự vòng chung kết World Cup. Thành công nhất tại giải đấu đó là Các Tiểu Vương quốc Ả Rập và Nhật Bản, họ đều giành được hai chức vô trong 7 mùa giải. Tuy nhiên, Nhật Bản được xem là thành công nhất khi họ tham dự 7 mùa giải World Cup. Trong khi đó, Các Tiểu Vương quốc Ả Rập chỉ có tham dự 3 mùa giải World Cup. Bây giờ World Cup diễn ra 2 năm một lần cho nên giải đấu này cũng như vậy, bắt đầu từ vòng loại Giải vô địch bóng đá bãi biển thế giới 2011. == Các mùa giải == == Các quốc gia thành công == === Bảng xếp hạng tổng hợp === Lưu ý: Chiến thắng trong thời gian chính (W = 3 điểm/chiến thắng), trong thời gian hiệp phụ (WE = 2 điểm /chiến thắng), trong loạt sút Penalty (WP = 1 điểm/chiến thắng), bị thua (L = 0 điểm). === Performance === Sau đây là thời gian tham dự của các quốc gia châu Á đủ điều kiện tham dự vong chung kết giải vô địch bóng đá bãi biển thế giới kể từ năm 2006 khi vòng đấu vòng loại đã được đưa ra cho tất cả các liên đoàn. == Tham khảo == == Liên kết ngoài == Asian Football Confederation
sự kiện 11 tháng 9.txt
Sự kiện 11 tháng 9, thường được viết tắt 9/11 hoặc sự kiện 911 theo lối viết ngày tháng tại Mỹ, là một loạt tấn công khủng bố cảm tử có phối hợp tại Hoa Kỳ diễn ra vào sáng thứ ba, ngày 11 tháng 9 năm 2001, khi một nhóm không tặc gần như cùng một lúc cướp bốn máy bay hành khách hiệu Boeing đang trên đường bay nội địa trong nước Mỹ. Nhóm không tặc lái hai phi cơ lao thẳng vào Tòa Tháp Đôi của Trung tâm Thương mại Thế giới tại Manhattan, Thành phố New York – mỗi chiếc đâm vào một trong hai tòa tháp cao nhất, cách nhau khoảng 18 phút. Trong vòng hai tiếng đồng hồ, cả hai tòa tháp bị sụp đổ. Một nhóm không tặc khác lái chiếc phi cơ thứ ba đâm vào tổng hành dinh của Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ tại Lầu Năm Góc ở Quận Arlington, Virginia. Chiếc máy bay thứ tư rơi xuống một cánh đồng gần Shanksville thuộc Quận Somerset, Pennsylvania, cách Pittsburgh 129 km (80 dặm) về phía Đông, sau khi hành khách trên máy bay chống cự lại nhóm không tặc này. Tổng số đã có cả thảy 2.996 người thiệt mạng (tính cả 19 kẻ khủng bố) trong vụ tấn công, và 24 người liệt kê mất tích xem như đã chết, gây tổn thất ít nhất 10 tỷ USD giá trị nhà đất và cơ sở hạ tầng, và 3000 tỷ USD tổng thiệt hại. Theo phúc trình của Ủy ban Quốc gia về vụ Khủng bố tại Hoa Kỳ (Ủy ban 11/9), tất cả 19 không tặc tiến hành cuộc tấn công đều là những tay khủng bố liên quan đến tổ chức Hồi giáo Al-Qaeda. Bản phúc trình cho rằng Osama bin Laden, người Saudi, thủ lĩnh của Al-Qaeda, là người chịu trách nhiệm về vụ tấn công, trong khi Khalid Shaikh Mohammed là người trực tiếp đặt kế hoạch cho cuộc tấn công. Chính phủ của nhiều nước khác, cũng như nhiều nguồn tin tức, đã đi đến hoặc phát biểu kết luận tương tự. Osama bin Laden ban đầu quyết liệt bác bỏ mọi liên quan đến vụ tấn công trong hai lời tuyên bố vào năm 2001 nhưng về sau, trong một lời tuyên bố bằng video năm 2004, Osama thừa nhận là có liên quan trực tiếp đến những cuộc khủng bố. Theo phúc trình của Ủy ban 11/9, các không tặc đã biến những chiếc máy bay thành những quả bom tự sát lớn nhất trong lịch sử. Vụ khủng bố ngày 11 tháng 9 là một trong những sự kiện quan trọng đáng chú ý nhất trong thế kỷ 21, và là một trong những vụ khủng bố gây thiệt hại nhiều nhất về tất cả các mặt kinh tế, xã hội, chính trị, văn hóa, và quân sự của lịch sử Hoa Kỳ cũng như những nơi khác trên thế giới. == Tấn công == Vụ tấn công khởi phát là việc cướp bốn chiếc máy bay thương mại. Với sức chứa gần 91.000 lít (24.000 gallon) cho các động cơ phản lực của mỗi chiếc, những chiếc máy bay này được biến thành những quả bom lửa đang bay. Chuyến bay 11 của hãng hàng không American Airlines đâm vào mé bắc của toà Tháp Bắc WTC vào lúc 8:46:40 sáng giờ địa phương (12:46:40 UTC). Lúc 9:03:11 sáng giờ địa phương (13:03:11 UTC), chuyến bay 175 của hãng hàng không United Airlines đâm vào toà Tháp Nam, được truyền hình trực tiếp bởi các máy quay trước đó đang hướng ống kính về phía Tháp Bắc. Chuyến bay 77 của hãng American Airlines lao vào Lầu Năm Góc vào lúc 9:37:46 sáng giờ địa phương (13:37:46 UTC). Chiếc phi cơ thứ tư, chuyến bay 93 của hãng hàng không United Airlines, rơi xuống một cánh đồng gần Shanksville và thị trấn Stonycreek thuộc Quận Somerset, tiểu bang Pennsylvania vào lúc 10:03:11 sáng giờ địa phương (14:03:11 UTC), xác vụn của chiếc máy bay đã được tìm thấy cách đó tám dặm. Người ta tin rằng máy bay bị rơi có thể là do nhóm không tặc cố ý làm như thế, nhưng cũng có thể là do hành khách trên máy bay đánh trả lại làm nhóm không tặc không thể kiểm soát được chiếc máy bay. Trong số những người có mặt trên bốn chuyến bay định mệnh này, không ai còn sống sót. Một số hành khách và nhân viên phi hành đoàn đã cố liên lạc bằng điện thoại từ trên máy bay. Họ báo cho biết có nhiều không tặc đang có mặt trên máy bay. Sau này, FBI nhận diện được tổng cộng có 19 không tặc, bốn trên chuyến bay 93 của hãng United. Trên ba chuyến bay còn lại, mỗi chuyến có năm không tặc. Theo ước tính của Viện Tiêu chuẩn và Kỹ thuật Quốc gia (NIST) có khoảng 17 400 người có mặt trong Trung tâm Thương mại Thế giới vào lúc xảy ra vụ tấn công, trong khi cửa quay của Cảng New York và New Jersey cho thấy có 14 154 người ở trong tòa tháp đôi vào lúc 8:45 sáng. Đa số đều ở dưới điểm va chạm nên được cứu thoát an toàn, có 18 người cố xoay xở để thoát ra kịp lúc từ bên trên khu vực va chạm của tòa tháp phía nam trước khi nó đổ xuống. Có ít nhất 1 366 người bị kẹt ngay tại hoặc bên trên điểm va chạm của toà tháp phía bắc, không ai còn sống sót Theo phúc trình của Ủy ban 11/9, hàng trăm người chết ngay khi xảy ra vụ nổ, những người còn lại bị mắc kẹt trong tòa nhà, thiệt mạng khi tòa nhà sụp đổ. Có đến 600 người chết ngay lập tức hoặc bị kẹt trong các tầng lầu ngay tại điểm va chạm hoặc bên trên của tòa tháp Nam. Trong số những người có mặt trong Trung tâm Thương mại Thế giới vào lúc nơi này bị tấn công, ước tính có khoảng 200 người, tuyệt vọng vì bị nhấn chìm trong khói và sức nóng của nhiên liệu phản lực đang bốc cháy, liều mạng nhảy ra khỏi toà tháp đôi rực lửa để hứng chịu cái chết thảm khốc khi rơi xuống đường phố và trên mái của những toà cao ốc lân cận, hàng chục mét thấp hơn bên dưới. Phản ứng tương tự cũng được ghi nhận khi những nạn nhân của vụ cháy tàu General Slocum (xảy ra năm 1981 với hơn 1.000 người chết), và vụ hoả hoạn tại xưởng may Triangle Shirtwaist (năm 1911 với hơn 100 thương vong) tìm lấy cái chết khi cố tìm cách thoát khỏi tình thế nguy cấp. Nhiều người khác đang ở các tầng lầu cao hơn điểm va chạm (nơi máy bay đâm vào toà nhà) cố chạy ngược lên mái toà nhà với hy vọng sẽ được trực thăng đến cứu. Nhưng không có kế hoạch cứu hộ nào được lập ra cho một tình huống như thế. Những người khác bị chặn lại bởi cửa đã bị khoá chặt khi họ đang cố leo lên mái toà nhà. === Chiếc máy bay thứ tư === Có những suy đoán cho rằng chiếc máy bay thứ tư, chuyến bay 93 của hãng United Airlines, bị nhóm không tặc dự định cho đâm vào Điện Capitol (Trụ sở Quốc hội Hoa Kỳ) hoặc Nhà Trắng ở Washington, D.C.. Những gì được ghi lại trong hộp đen cho thấy những hành khách, do Todd Beamer, Jeremy Glick và Mark Bingham lãnh đạo, cố gắng giành quyền kiểm soát máy bay từ tay nhóm không tặc mặc dù những không tặc, trong một nỗ lực bất thành, cho phi cơ lắc mạnh nhằm khống chế nhóm hành khách. Theo băng ghi âm của dịch vụ khẩn cấp 911, một hành khách trên chuyến bay 93 yêu cầu người điện thoại viên cùng cầu nguyện với anh trước khi nhóm hành khách này xông lên tranh giành với nhóm khủng bố để chiếm lại quyền điều khiển chiếc phi cơ. Sau khi cầu nguyện xong, người hành khách chỉ thốt lên "let’s roll". "Let’s roll" sau này trở thành tiếng hô xung trận của binh sĩ chiến đấu chống Al Qaeda tại Afghanistan. Không lâu sau đó, chiếc phi cơ rơi xuống một cánh đồng gần Shanksville thuộc thị trấn Stonycreek, hạt Somerset, tiểu bang Pennsylvania vào lúc 10:30:11 sáng giờ địa phương (14:03:11UTC). Có những bất đồng về thời điểm chính xác máy bay rơi, dựa vào những chấn động được ghi nhận cho thấy có thể xảy ra lúc 10:06. Ủy ban 9/11 báo cáo rằng quân sư của al-Qaeda (đã bị bắt), Khalid Shikh Mohamed, khai rằng mục tiêu tấn công của chuyến bay 93 là Điện Capitol, trụ sở Quốc hội Hoa Kỳ, được dành cho bí danh "Khoa Luật". === Tử vong và Thiệt hại === Khi các khu ngoại ô chung quanh Thành phố New York biết tin thảm họa đang xảy ra quá gần, nhiều trường học đóng cửa, di tản hoặc tự phong toả. Những khu học chính khác ngăn không cho học sinh xem truyền hình bởi vì nhiều em có cha mẹ đang làm việc trong tòa tháp đôi. Ở các bang New Jersey và Connecticut, các trường tư đều được di tản. Trường học tại Scardale, tiểu bang New York bị đóng cửa. Tại Greenwich, tiểu bang Connecticut, khoảng 15 dặm phía bắc Thành phố New York, hàng trăm học sinh có quan hệ trực tiếp với những nạn nhân của vụ tấn công. Greenwich, một trong những thị trấn giàu nhất thế giới, có nhiều cư dân tử vong hơn bất cứ thị trấn nào trong vùng. Theo tường thuật của hãng thông tấn Associated Press, thành phố đã nhận diện hơn 1 600 tử thi, nhưng không thể xác định nhân thân cho số tử thi còn lại (khoảng 1 100 người). Bản tường thuật cũng nói rằng thành phố có "khoảng 10 000 mẩu xương và các phần mô chưa thể xác nhận là phù hợp với danh sách tử vong". Con số thương vong lên đến 2 975 người, trong đó có 19 không tặc, 246 người trên 4 chiếc máy bay (không ai sống sót), 2 603 người thiệt mạng tại Thành phố New York, trong tòa tháp đôi cũng như trên mặt đất, và 125 người trong Lầu Năm Góc. Thêm vào danh sách nạn nhân là 24 người bị liệt kê mất tích. Ngoại trừ 55 người thuộc các lực lượng vũ trang, tất cả đều là dân thường. Hơn 90 quốc gia có công dân thiệt mạng trong vụ tấn công vào Trung tâm Thương mại Thế giới. Các viên chức y tế Thành phố New York đưa tên Felicia Dunn-Jones vào danh sách nạn nhân. Năm tháng sau ngày xảy ra sự kiện 11/9, Dunn-Jones chết vì bệnh phổi do hít phải bụi khi tòa nhà WTC sụp đổ. Thêm vào đó, tòa Tháp đôi cao 110 tầng của Trung tâm Thương mại Thế giới, cùng với năm tòa nhà khác thuộc khu vực WTC, gồm có tòa nhà số 7 của WTC, tòa nhà chọc trời khung bằng thép cao 48 tầng cách đó một khu phố, các tòa nhà số 6, 5, 4, 3 của WTC, phức hợp Trung tâm Tài chính Thế giới, và Nhà thờ Chính Thống giáo St Nicholas, cùng bốn trạm tàu điện ngầm hoặc bị sụp đổ hoàn toàn hoặc bị thiệt hại nặng nề. Tính tổng cộng, trên Đảo Manhattan, có 45 tòa nhà bị thiệt hại. Các thiết bị truyền thông như tháp truyền hình, truyền thanh, radio hai chiều bị phá hủy nhưng các trạm truyền thông đã nhanh chóng phục hồi tín hiệu và phát sóng lại. Tại Arlington, một phần của tòa nhà Lầu Năm Góc bị hư hại nghiêm trọng do hỏa hoạn, một phần khác bị sụp đổ. == Trách nhiệm == Chính phủ Hoa Kỳ qui trách nhiệm cho tổ chức khủng bố al-Qaeda về vụ tấn công 11/9. Tổ chức này từng nhận đã tấn công các mục tiêu quân sự và dân chính của Hoa Kỳ tại châu Phi và Trung Đông. Osama bin Laden, bác bỏ mọi dính líu cũng không nhận mình đã biết trước cuộc tấn công. Trước đó, bin Laden đã tuyên bố thánh chiến chống lại Hoa Kỳ. Sau thảm hoạ này, chính phủ Hoa Kỳ công bố al-Qaeda và bin Laden là thủ phạm chính. Tháng 11 năm 2001, lực lượng Hoa Kỳ cho phục hồi một băng video tìm thấy trong một căn nhà bị phá huỷ tại Jalalabad, Afghanistan, cuộn băng cho thấy Osama bin Laden đang nói chuyện với Khaled al-Harbi. Trong cuộn băng, bin Laden thừa nhận đã lập kế hoạch cho cuộc tấn công. Trong thế giới Hồi giáo, người ta tỏ vẻ hoài nghi về tính xác thực của cuộn băng này: "Phóng viên tại Trung Đông của đài BBC, Frank Gardner, nói rằng trên đường phố trong thế giới Ả Rập, nhiều người tin rằng đây chỉ là một thủ thuật tuyên truyền của chính phủ Mỹ". Cuốn băng được phát sóng trên nhiều mạng tin tức khác nhau trong tháng 12 năm 2001. Ngày 16 tháng 9 năm 2001, Osama bin Laden đáp trả bằng cách đọc một bản tuyên bố, "Tôi nhấn mạnh rằng tôi không tiến hành điều này, nó được thực hiện bởi các cá nhân với mục tiêu riêng của họ". Bản tuyên bố được phát sóng trên kênh vệ tinh Al Jazeera của Qatar, cũng được phát sóng trên mạng lưới tin tức của Hoa Kỳ và thế giới. Phản ứng thứ hai của bin Laden xuất hiện vào ngày 28 tháng 11 trên Daily Ummat, một tờ nhật báo của Pakistan, "Tôi đã nói rằng tôi không dính líu đến các cuộc tấn công 11 tháng 9 tại Mỹ. Là một người Hồi giáo, tôi cố làm hết sức mình để khỏi phải nói dối. Tôi không biết gì về vụ tấn công, cũng không hề xem việc tàn sát phụ nữ và trẻ em vô tội, cùng những nhân mạng khác là một hành động thích đáng. Hồi giáo nghiêm cấm việc gây tổn hại cho phụ nữ, trẻ em vô tội và những người khác. Một hành vi như thế bị cấm đoán ngay cả khi đang ở trong thời chiến". Tuy nhiên, không lâu sau cuộc bầu cử tổng thống Hoa Kỳ năm 2004, trong một thông báo ghi âm sẵn, bin Laden công khai thừa nhận sự dính líu của al-Qaeda vào vụ tấn công, và nhận có quan hệ trực tiếp với vụ tấn công. Ông ta nói rằng cuộc tấn công được thực hiện bởi vì "chúng tôi là một dân tộc tự do không chịu chấp nhận bất công, và chúng tôi muốn giành lại tự do cho dân tộc chúng tôi". Ngày 27 tháng 9 năm 2001, FBI thông báo hình ảnh của 19 không tặc, cùng các thông tin liên quan đến quốc tịch và bí danh của nhiều nghi can. Mười lăm không tặc đến từ Ả Rập Saudi, hai từ Các Tiểu Vương quốc Ả Rập Thống nhất, một từ Ai Cập, và một từ Liban. Khác với nhân thân thường thấy của những kẻ đánh bom cảm tử, họ đều là những người trưởng thành và có học thức. Theo kết luận của Ủy ban 9/11 trong bản tường trình ngày 22 tháng 6 năm 2004, cuộc tấn công được lập kế hoạch và tiến hành bởi các đặc vụ của al-Qaeda. Ủy ban cho rằng al-Qaeda chi một khoản tiền từ 400.000 USD – 500.000 USD để lập kế hoạch và tiến hành vụ tấn công, nhưng nguồn gốc số tiền trên vẫn chưa được xác minh. == Động lực == Theo nguồn tin chính thức từ chính phủ Hoa Kỳ, vụ tấn công 11 tháng 9 là phù hợp với những gì Al-Qaeda tự nhận là sứ mạng của mình. Al-Qaeda bị nghi ngờ dính líu vào những vụ đánh bom các sứ quán Mỹ tại Kenya và Tanzania, tổ chức này cũng nhận trách nhiệm vụ tấn công khu trục hạm USS Cole của Hải quân Hoa Kỳ tại Yemen năm 2000. Theo Hoa Kỳ, sự kiện 11/9 là một phần trong kế hoạch "giết người Mỹ ở tất cả những nơi nào trên thế giới có thể" mà bin Laden đưa ra. Chiến dịch khủng bố này lợi dụng niềm tin tôn giáo và khởi phát từ một giáo lệnh (fatwa) ban hành năm 1998 bởi bin Laden, Ayman al-Zawahiri, Abu-Yasir Rifa’i Ahmad Taha, Shaykh Mir Hamzah, và Fazlur Rahman. Giáo lệnh này mở đầu với phần trích dẫn kinh Koran, "hãy giết những kẻ ngoại giáo bất cứ nơi nào ngươi tìm thấy chúng", và đi đến kết luận "nghĩa vụ của mỗi người Hồi giáo" là "giết người Mỹ ở khắp mọi nơi.". Họ cáo buộc Hoa Kỳ: Bóc lột nguồn tài nguyên vùng bán đảo Ả Rập. Lũng đoạn nền chính trị của các quốc gia trong vùng. Ủng hộ những chế độ và các vương triều bóc lột người dân trong khu vực Trung Đông, tức là áp bức nhân dân. Đặt các căn cứ quân sự tại bán đảo Ả Rập, tức là xâm phạm đất thánh của người Hồi giáo, nhằm mục tiêu đe doạ các nước Hồi giáo láng giềng. Âm mưu tạo mối bất hoà giữa các quốc gia Hồi giáo để làm suy yếu sức mạnh chính trị của khối này. Ủng hộ Israel và nỗ lực hướng sự quan tâm của quốc tế khỏi việc chiếm đóng Palestine. Cuộc chiến vùng vịnh, kế đó là lệnh cấm vận và các vụ oanh tạc Iraq thực hiện bởi Hoa Kỳ, gần đây được trích dẫn như là chứng cớ cho những cáo buộc của bản giáo lệnh. Ngược lại với thái độ bất đồng của những người Hồi giáo ôn hoà, giáo lệnh này sử dụng các văn bản Hồi giáo nhằm biện minh cho những hành động bạo lực chống lại quân đội và công dân Mỹ cho đến khi tình hình được thay đổi: tuyên bố rằng "toàn thể chức sắc suốt trong dòng lịch sử Hồi giáo hoàn toàn đồng ý rằng thánh chiến (jihad) là bổn phận của mỗi cá nhân khi kẻ thù tìm cách hủy diệt các quốc gia Hồi giáo". Những thông báo của Al-Qaeda ghi nhận được từ sau 11 tháng 9 hỗ trợ cho sự suy đoán này. Trong một băng video năm 2004, bin Laden rõ ràng là thừa nhận trách nhiệm trong vụ tấn công và nói rằng những hành động này là để "phục hồi sự tự do cho dân tộc chúng ta", để "trừng phạt kẻ xâm lược" và để phá hoại nền kinh tế nước Mỹ. bin Laden tuyên bố rằng mục tiêu kéo dài của cuộc thánh chiến là "làm chảy máu nước Mỹ đến khi nước này kiệt sức". Cả Hoa Kỳ và Al-Qaeda đều cố trình bày cuộc tranh chấp này là cuộc chiến giữa Thiện và Ác. Bản báo cáo của Ủy ban 9/11 khẳng định rằng thái độ thù nghịch của Khalid Shaikh Mohamed, người được xem là "kiến trúc sư trưởng" của vụ tấn công 9/11, xuất phát từ "sự bất đồng dữ dội với chính sách ngoại giao của Hoa Kỳ ủng hộ Israel". Động cơ tương tự cũng được quy cho tên không tặc lái máy bay đâm vào toà tháp đôi WTC: Mohamed Atta được miêu tả bởi Ralph Bodenstein – người từng du hành, làm việc và nói chuyện với anh ta – như là "hoàn toàn tin rằng Hoa Kỳ muốn bảo vệ Israel". Tuy nhiên, giáo lệnh năm 1998 của bin Laden được ban hành vào thời điểm ra đời thoả hiệp Oslo về Israel và Palestine, khi các bên tin rằng cuộc tranh chấp đang đến lúc chấm dứt bằng các thỏa hiệp. Ngược lại, chính phủ Bush cho rằng Al-Qaeda bị thúc đẩy bởi lòng căm thù tinh thần tự do và dân chủ thể hiện bởi nước Mỹ, trong khi những nhà phân tích độc lập cho rằng động cơ chính của Al-Qaeda là khuyến khích tinh thần đoàn kết Hồi giáo bằng cách tập chú vào một kẻ thù chung, như thế về lâu về dài giúp dọn đường cho sự hình thành một trật tự thế giới mới theo cung cách Hồi giáo quá khích. == Hậu quả == === Phản ứng của Quốc tế === Vụ tấn công tạo ra những phản ứng khác nhau trong nền chính trị toàn cầu. Phản ứng của các chính phủ và phương tiện truyền thông trên khắp thế giới là gay gắt lên án hành động khủng bố, với những hàng tít trên nhật báo Pháp Le Monde, tóm lược thái độ đồng cảm của quốc tế: "Ngày hôm nay Tất cả chúng ta đều là người Mỹ", và hàng triệu người trên thế giới tổ chức thắp nến tưởng niệm nạn nhân. Những nhà lãnh đạo của hầu hết các quốc gia Trung Đông đều lên tiếng kết án vụ tấn công, nhưng Iraq là một ngoại lệ, nước này đưa ra một thông báo chính thức, "những gã cao bồi Mỹ đang hứng chịu hậu quả tội ác của họ chống lại nhân loại" . Trong khi đó, có một số ít người Palestine ăn mừng sự kiện này. Chỉ khoảng một tháng sau vụ tấn công, Hoa Kỳ dẫn đầu một liên minh quân sự quốc tế tiến vào Afghanistan để săn đuổi các lực lượng vũ trang của al-Qaeda hầu đánh đổ chính phủ Taliban vì cớ chứa chấp bọn khủng bố . Chính quyền Pakistan quyết định đứng về phía Hoa Kỳ trong cuộc chiến chống Osama bin Laden và al-Qaeda. Nước này dành cho Hoa Kỳ một số phi trường và căn cứ quân sự làm hậu cứ cho chiến dịch tấn công vào Afghanistan, cùng lúc cho bắt giữ hơn 600 nghi can là thành viên al-Qaeda và giải giao những người này cho Hoa Kỳ . Hoa Kỳ cũng được sự ủng hộ của nhiều quốc gia trên thế giới, kể cả Nga và Trung Quốc, trong việc hợp tác chống khủng bố toàn cầu. === Công luận tại Hoa Kỳ === Vụ tấn công tác động mạnh mẽ bao trùm lên toàn thể dân chúng Mỹ. Người ta bày tỏ lòng biết ơn đối với những nhân viên duy trì an toàn công cộng, nhất là lính cứu hỏa. Những người này đã bày tỏ lòng dũng cảm khác thường giữa tình thế hiểm nghèo nơi hiện trường trong khi họ phải gánh chịu con số tử vong cao chưa từng có khi thi hành nhiệm vụ. Thị trưởng thành phố New York, Rudolph Giuliani, giành được sự ngưỡng mộ toàn quốc vì những hoạt động không mệt mỏi của ông trong lúc này. Giuliani được tạp chí TIME chọn làm Nhân vật của Năm 2001. Thành phố New York đã bị trọng thương bởi vụ tấn công và sẽ luôn luôn mang theo mình những vết sẹo vật chất và tâm sinh lý kể từ thảm họa này. Một làn sóng hiến máu tự nguyện đã dấy lên ngay sau ngày 11 tháng 9 để cứu sinh mạng người bị nạn. Theo một tường trình trên Tạp chí Hiệp hội Y khoa Mỹ ra ngày 7 tháng 5 năm 2003: "... lượng máu được hiến tặng trong những tuần lễ sau vụ tấn công 11/9 cao hơn nhiều so với cùng kỳ trong năm 2000 (2.5 lần trong tuần lễ đầu tiên sau vụ tấn công; 1.3 – 1.4 lần trong tuần thứ hai và tuần thứ tư sau vụ tấn công)". Xảy ra một số vụ quấy nhiễu và tấn công chống lại người Trung Đông và những người "trông giống người Trung Đông" , nhất là người Sikh. Tổng cộng có chín người thiệt mạng trên lãnh thổ Hoa Kỳ như là nạn nhân của những hành động trả đũa. Balbir Singh Sodhi, một trong số những nạn nhân, bị bắn chết ngày 15 tháng 9. Sodhi, giống những nạn nhân khác, là một người Sikh nhưng bị hiểu lầm là người Hồi giáo. === Kinh tế === Cuộc tấn công ngay lập tức gây ra những tác hại nghiêm trọng trên nền kinh tế của nước Mỹ và trên thị trường thế giới. Thị trường Chứng khoán New York (NYSE), Thị trường Chứng khoán Mỹ và NASDAQ đóng cửa trong ngày 11 tháng 9 và ngưng hoạt động cho đến ngày 17 tháng 9. Cơ sở vật chất và những trung tâm xử lý dữ liệu từ xa của NYSE không bị thiệt hại bởi vụ tấn công, nhưng các công ty thành viên, khách hàng và thị trường không thể liên lạc được vì những thiệt hại lớn mà các cuộc tấn công gây ra cho các phương tiện truyền thông gần WTC. Khi thị trường chứng khoán mở cửa trở lại vào ngày 17 tháng 9 năm 2001, sau thời gian đóng cửa lâu nhất kể từ Cuộc Đại Suy thoái (Great Depression) năm 1929, chỉ số Dow Jones (Dow Jones Industrial Average – DJIA) tuột xuống 684 điểm, tức 7,1%, chỉ còn 8920 điểm, sự tuột dốc chưa từng xảy ra chỉ trong vòng một ngày. Đến cuối tuần, chỉ số DJIA rơi tự do 1369,7 điểm (14,3%), lần tuột giảm lớn nhất trong vòng một tuần trong lịch sử của chỉ số này. Thị trường chứng khoán Hoa Kỳ mất 1, 4 ngàn tỉ USD trong tuần này. Đến năm 2005, Phố Wall và Phố Broadway gần Thị trường Chứng khoán New York vẫn được canh gác cẩn thận nhằm ngăn ngừa một vụ tấn công tương tự vào tòa nhà này. Hoạt động kinh tế khu Hạ Manhattan, khu vực kinh doanh lớn thứ ba tại Hoa Kỳ (sau Midtown Manhattan và Chicago Loop) bị tàn phá ngay sau đó. 31, 9 triệu ft. vuông của khu văn phòng quận Manhattan Hạ hoặc bị thiệt hại hoặc bị hủy diệt. Phần lớn những nơi bị hủy hoại là những khu xếp hạng A. Công cuộc tái thiết vẫn bị kìm hãm do thiếu sự đồng thuận về thứ tự ưu tiên. Điển hình, Thị trưởng Bloomberg xem cuộc vận động đăng cai Thế vận hội mùa hè 2012 của thành phố New York là trọng tâm cho kế hoạch phát triển của ông từ năm 2002 cho đến giữa năm 2005, trong khi Thống đốc Pataki ủng hộ Công ty Phát triển Hạ Manhattan, công ty này bị chỉ trích vì không làm được gì nhiều dù đã được cấp một ngân quỹ khổng lồ dành cho công cuộc tái thiết. Bầu trời khu vực Bắc Mỹ bị đóng cửa trong vài ngày sau vụ tấn công, các chuyến bay bị cắt giảm đáng kể cho đến khi có lệnh mới. Hệ quả của vụ tấn công là làm suy giảm các hoạt động hàng không đến gần 20%, tăng mức độ nghiêm trọng của các vấn đề tài chính cho ngành công nghiệp hàng không dân dụng vốn đã gặp nhiều khó khăn. Trong nhiều tiếng đồng hồ sau vụ tấn công, người ta phải cho di tản cư dân và người làm việc ở các tòa tháp cao trong các khu vực đô thị trên khắp nước Mỹ, kể cả Los Angeles, tại thành phố này lượng xe lưu thông giảm đến mức thấp nhất từ trước đến nay, trong khi những khu doanh nghiệp tại trung tâm các đô thị cũng trở nên hoang vắng. === Cứu hộ, phục hồi, bồi thường === Phải mất hàng tháng mới có thể hoàn tất các nỗ lực cứu hộ và phục hồi. Chỉ với công tác dập tắt những ngọn lửa đang cháy âm ỉ trong đống đổ nát của toà nhà WTC, người ta phải mất hàng tuần, còn việc dọn dẹp thì mãi đến tháng 5 năm 2002 mới xong. Những khán đài bằng gỗ được dựng tạm dành cho du khách đến thăm và quan sát những đội công nhân xây dựng đang miệt mài dọn dẹp những lỗ hổng khổng lồ trước đây là tòa tháp đôi. Ngày 30 tháng 5 năm 2002, các khán đài này cũng đã đóng cửa. Nhiều quỹ cứu trợ được thành lập cấp tốc nhằm trợ giúp nạn nhân vụ tấn công, cung cấp những hỗ trợ tài chính cho những người sống sót và gia đình nạn nhân. Sau hạn chót, ngày 11 tháng 9 năm 2003, có 2.833 đơn xin bồi thường đã được tiếp nhận trong số 2.986 nạn nhân được thống kê. ==== Di dời những chuyến bay ==== Trước tình hình này, nhằm đảm bảo an toàn cho nước Mỹ, toàn bộ đường bay ngang qua không phận nước Mỹ đều đã bị đóng cửa. Lệnh đóng cửa này áp dụng cho tất cả các chuyến bay thương mại của tất cả các hãng hàng không trên toàn thế giới. Sân bay Gander thuộc thị trấn Lewisporte, tỉnh Newfoundland của Canada được huy động khẩn cấp để tiếp nhận tất cả những chiếc máy bay quá cảnh bất đắc dĩ trong suốt hai ngày (từ 12 đến 14-09-2001). Tổng cộng có 53 chiếc đến từ khắp nơi trên thế giới, trong đó 27 chiếc là máy bay thương mại Mỹ. Dân số thị trấn Lewisporte năm 2001 vào khoảng 10.400 người nhưng phải lo cho 10.500 hành khách từ các máy bay đã hạ cánh khẩn cấp. Đến ngày 14-09-2001, trước khi chiếc máy bay Boeing 15 cất cánh, một hành khách là một bác sĩ ở bang Virginia đề nghị thành lập một quỹ lấy tên là Quỹ Delta 15 (là số hiệu chuyến bay). Mục đích của quỹ này là cấp học bổng cho các học sinh trung học ở Lewisporte. Ông cũng cho biết sẽ gửi bản đề xuất đến Hãng Hàng không Delta Airlines để mời họ đóng góp. Cho đến năm 2015, 14 năm sau vụ khủng bố cũng như sau khi chiếc Boeing 15 buộc phải hạ cánh khẩn cấp xuống sân bay Garder, Quỹ học bổng Delta 15 đã có hơn 1,5 triệu USD và đã tài trợ cho 134 sinh viên, là con em của thị trấn Lewisporte theo học đại học. === Ảnh hưởng sức khỏe === Trong hàng ngàn tấn vật liệu đổ nát từ sự sụp đổ toà tháp đôi có các độc chất amiăng, chì, thuỷ ngân, cũng như mức độ tăng cao chưa từng có của dioxin và PAH (Polycyclic aromatic hydrocarbon) sản sinh từ những đám lửa âm ỉ cháy suốt trong ba tháng, gây ra chứng bệnh suy nhược cho các nhân viên cứu hộ và công nhân tái thiết, chẳng hạn như Mark Marci thuộc Sở Cảnh sát New York (NYPD) chết vào ngày 3 tháng 9 năm 2007 do bệnh ung thư phổi di căn khắp thân thể. Cũng có tác hại đến sức khỏe một số cư dân, sinh viên học sinh và nhân viên văn phòng ở khu Manhattan Hạ và Phố Tàu kế cận. Một số lập luận khoa học cho rằng việc phát sinh các độc chất và các chất ô nhiễm trong không khí chung quanh toà tháp đôi sau khi sụp đổ có thể tạo ra ảnh hưởng tiêu cực trên sự phát triển bào thai. Lo sợ về hiểm hoạ tiềm ẩn này, một trung tâm sức khoẻ môi trường trẻ em danh tiếng tiến hành phân tích những trẻ em có mẹ mang thai trong thời gian xảy ra vụ tấn công và sinh sống hoặc làm việc gần tòa tháp đôi. Tuy nhiên ông Rudolph Giuliani, Thị trưởng New York, trấn an rằng mức độ ô nhiễm không đáng lo ngại. Bộ trưởng Môi trường Mỹ Christie Whiteman thông báo, Cơ quan Bảo vệ Môi trường (EPA) đã cử nhân viên đo kiểm tra không khí ở New York. Kết quả cho thấy nồng độ các chất độc hại, kể cả bột chì (được dùng để pha những hỗn hợp màu và chất dẻo trong quá trình xây dựng) và lượng dioxin, đều chưa vượt quá mức cho phép. == Sự sụp đổ của WTC == Có nhiều ý kiến chung quanh sự sụp đổ của toà tháp đôi, những cuộc tranh luận sôi nổi bàn về nguyên nhân của sự sụp đổ thu hút nhiều kỹ sư về cấu trúc, kiến trúc sư và các cơ quan hữu quan thuộc chính phủ liên bang. Thiết kế của toà tháp đôi chứa đựng nhiều phát kiến mới khác với các tòa nhà chọc trời được xây dựng trước đó. Mặc dù lực va chạm khi máy bay phản lực đâm vào và các đám cháy bùng phát sau đó là chưa từng xảy ra trong lịch sử thảm hoạ ngành xây dựng, một số kỹ sư tin quyết rằng những toà nhà chọc trời được xây dựng theo thiết kế truyền thống (như Empire State Building ở thành phố New York và toà tháp đôi Petronas của Malaysia) sẽ chịu đựng tốt hơn trong một tình huống như thế, có lẽ vẫn có thể tồn tại. Nếu lập luận trên là đúng, thì các toà nhà chọc trời khác có cùng một kiểu thiết kế với toà tháp đôi WTC (như Tháp Sears và Trung tâm John Hancock ở Chicago) đang bị nguy cơ sụp đổ hoàn toàn tự nhiên hoặc vì một vài đám cháy nho nhỏ như Trung tâm thương mại thế giới số 7 cao 186 mét (610 feet) sụp đổ vào 5 giờ 20 chiều ngày 11 tháng 9 năm 2001 trong không đầy 7 giây và được người dẫn chương trình của kênh CBS Dan Rather nhận xét trong chương trình truyền hình trực tiếp là lần thứ 3 ngày hôm nay, các vụ sụp đổ này (bao gồm 3 vụ ngày hôm đó, WTC1 và WTC2 vào buổi sáng và WTC7 vào buổi chiều) trông rất giống những vụ nổ có kiểm soát được thấy nhiều trên truyền hình khi người ta kích nổ những khối thuốc nổ được đặt chính xác từ trước để làm sập chúng. Một cuộc điều tra cấp liên bang về an toàn phòng cháy và kỹ thuật xây dựng được tiến hành bởi Học viện Định chuẩn và Kỹ thuật Quốc gia thuộc Bộ Thương mại Hoa Kỳ, hoàn tất ngày 6 tháng 4 năm 2005, thanh tra về công trình xây dựng, vật liệu và các điều kiện kỹ thuật đã góp phần gây ra thảm hoạ WTC. Cuộc thanh tra được tiến hành nhằm phục vụ các mục tiêu sau: Cải thiện phương pháp thiết kế, xây dựng, bảo dưỡng và sử dụng các toà nhà. Cải thiện dụng cụ và phương pháp hướng dẫn dành cho các viên chức thuộc các ngành chức năng về an toàn và công nghiệp. Chỉnh sửa và xây dựng bộ luật, định chuẩn và thực hành phòng cháy chữa cháy. Cải thiện An toàn công cộng. Bản tường trình kết luận rằng khả năng chịu lửa của cấu trúc thép tòa tháp đôi đã mất tác dụng ngay khi máy bay va chạm toà nhà, nếu điều này không xảy ra chắc chắn tòa nhà vẫn còn trụ được. Hơn nữa, bản tường trình cũng khẳng định cầu thang của toà nhà đã không được gia cố đúng mức hầu có thể cung ứng lối thoát cho những người ở bên trên điểm va chạm. == Cuộc chiến chống Khủng bố == Nhiều người Mỹ cho rằng vụ tấn công khủng bố 11/9 "đã vĩnh viễn làm thay đổi thế giới": nước Mỹ đang bị đặt trong nguy cơ bị tấn công khủng bố mà trước đây đất nước này chưa từng bị. Hoa Kỳ tuyên chiến chống khủng bố với mục tiêu đem Osama bin Laden ra trước công lý và ngăn chặn sự xuất hiện của những mạng lưới khủng bố khác. Các mục tiêu này sẽ được thực hiện bằng những phương tiện như cấm vận kinh tế và quân sự đối với các quốc gia được xem là dung dưỡng thành phần khủng bố, cùng lúc gia tăng các biện pháp giám sát toàn cầu và chia sẻ thông tin tình báo. Liên minh quân sự do Hoa Kỳ dẫn đầu tiến hành tấn công Taliban tại Afghanistan. Cùng với Hoa Kỳ, các quốc gia khác đang phải đối phó với các hoạt động khủng bố như Philippines và Indonesia cũng gia tăng sự chuẩn bị về mặt quân sự. Tổng thống Bush cũng nhận được sự ủng hộ lớn của nhiều quốc gia trên thế giới, kể cả Nga (cũng bị khủng bố bởi các nhóm Hồi giáo cực đoan) và Trung Quốc, trong việc hợp tác chống khủng bố toàn cầu. Nhiều nước khác, trong đó có Anh, Đức, Pháp, Trung Quốc, Nga, Indonesia, Pakistan, Jordan, Mauritius, Uganda và Zimbabwe thông qua luật "chống khủng bố" và cho đóng băng các tài khoản ngân hàng của các doanh nghiệp hoặc cá nhân bị tình nghi có liên quan đến al-Qaeda. Các cơ quan tình báo và thi hành pháp luật tại một số quốc gia như Ý, Malaysia, Indonesia và Philippines bắt giữ nhiều nghi can khủng bố với mục đích đập tan những nhóm vũ trang trên toàn thế giới. Chiến dịch này dấy lên nhiều tranh cãi khi những người chỉ trích như Ủy ban Bill of Rights Defense cho rằng những hạn chế truyền thống trên các hoạt động theo dõi của liên bang nay đã bị bãi bỏ bởi Đạo luật PATRIOT; các tổ chức quyền tự do công dân như American Civil Liberties Union (ACLU) và Liberty cho rằng một số quyền con người đang bị nguy cơ hủy bỏ. Hoa Kỳ cho thiết lập một trại giam tại vịnh Guantanamo, Cuba để cầm giữ những "binh sĩ thù địch bất hợp pháp". Tính hợp pháp của các trại giam này hiện đang bị tra vấn bởi một số quốc gia thành viên của Liên minh Âu châu, Tổ chức các quốc gia châu Mỹ và Tổ chức Ân xá Quốc tế. Bên trong nước Mỹ, Tổng thống Bush tiến hành một đợt tái cấu trúc cơ cấu chính phủ lớn nhất trong lịch sử đương đại của đất nước này với quyết định thành lập Bộ An ninh Nội địa. Quốc hội thông qua đạo luật USA PATRIOT (Uniting and Strengthening America by Providing Appropriate Tools Required to Intercept and Obstruct Terrorism – Thống nhất và Củng cố nước Mỹ bằng cách Cung ứng những Phương tiện Thích ứng Cần có để Ngăn chặn Khủng bố), giải thích rằng đạo luật này sẽ giúp dò tìm và truy tố những phần tử khủng bố và tội phạm khác trong tương lại. Các nhóm bảo vệ quyền tự do của công dân phê phán đạo luật PATRIOT, nói rằng đạo luật này cho phép các cơ quan thi hành pháp luật xâm phạm sự riêng tư của công dân và hạn chế quyền giám sát tư pháp trên các cơ quan thi hành pháp luật và trên công tác thu thập tin tình báo. Chính phủ Bush viện dẫn biến cố 11/9 như là lý do để tiến hành một chiến dịch bí mật của Cơ quan An ninh Quốc gia nhằm "theo dõi các liên lạc bằng điện thoại và thư điện tử giữa Hoa Kỳ và nước ngoài mà không cần sự cho phép của toà án". Biến cố 9/11 đã đem lại nhiều ủng hộ trong dư luận người Mỹ cho chính sách cứng rắn của Tổng thống Bush. Sau ngày vụ khủng bố xảy ra, sự ủng hộ của dân chúng Mỹ và uy tín của Tổng thống Bush, đang từ ở mức trung bình trên 50% dân chúng Mỹ ủng hộ, bỗng vọt lên ở mức cao trên 90%, đây là mức uy tín cao nhất trong lịch sử của dân chúng Mỹ dành cho một vị tổng thống. Tuy nhiên, chỉ số uy tín này đã giảm đáng kể, khi thu-chi ngân sách bị thâm hụt nghiêm trọng và quân đội Mỹ sa lầy và thất bại trong việc bình định tại Iraq, đến năm 2005, mức ủng hộ của dân chúng dành cho TT Bush có lúc xuống còn 34%. Chính sách cứng rắn của Mỹ, mặc dù vì lợi ích chung là chống khủng bố nhưng đã tạo hình ảnh xấu và đã gây mâu thuẫn với đồng minh. Lần đầu tiên các đồng minh then chốt của Mỹ trong khối NATO mâu thuẫn với Mỹ rất gay gắt và tìm cách tạo 1 thế đối trọng khác trong khu vực. Hoa Kỳ nhận thức rõ điều này và đã bắt đầu có những điều chỉnh trong các chính sách ngoại giao. == Tái thiết == Ngay sau khi xảy ra vụ tấn công, Thị trưởng New York, Rudy Giuliani, tuyên bố, "Chúng ta sẽ xây dựng lại. Từ biến cố này chúng ta sẽ trở nên mạnh mẽ hơn bao giờ hết, mạnh mẽ hơn về chính trị, mạnh mẽ hơn về kinh tế. Đường chân trời sẽ được hàn gắn lại " Đến tháng 5 năm 2002 đống đổ nát được dọn sạch, tuy vẫn có những lời chỉ trích rằng nỗ lực không tương xứng với ngân quỹ khổng lồ dành cho công tác này. Khu vực bị hư hại của Lầu Năm Góc đã được tái thiết chỉ một năm sau khi bị tấn công. Ngay tại địa điểm của những tòa nhà đổ nát, người ta xây dựng những kiến trúc mới. Tại địa điểm trước là tòa nhà số 7 của WTC nay là tòa cao ốc văn phòng hoàn tất năm 2006. One World Trade Center đang được xây dựng sẽ vươn dến độ cao 1 776 ft (541 m) tương ứng với năm nước Mỹ giành độc lập (năm 1776), dự trù hoàn tất vào năm 2013 để trở thành tòa nhà cao nhất Tây Bán Cầu, và là cao ốc cao thứ ba trên thế giới. == Tưởng niệm == Trong những ngày sau khi xảy ra vụ tấn công, nhiều buổi tưởng niệm và canh thức được tổ chức trên khắp thế giới. Còn ngay tại Bình địa, ảnh của các nạn nhân xuất hiện khắp mọi chỗ. Một người có mặt ở đó thuật lại rằng "không có cách nào tránh khỏi những khuôn mặt của các nạn nhân vô tội. Ảnh của họ hiện diện khắp mọi nơi, tại trạm điện thoại, đính vào trụ đèn đường, trên tường trạm xe điện ngầm. Mọi thứ ở đây khiến tôi liên tưởng đến một đám tang vĩ đại, mọi người buồn bã và lặng lẽ, nhưng rất thân ái với nhau. Trước đó, New York cho tôi cảm giác lạnh lẽo, nhưng bây giờ mọi người tìm đến giúp đỡ lẫn nhau." Tại Lầu Năm Góc, khu tưởng niệm được khánh thành ngày 11 tháng 9 năm 2008, với một công viên thoáng đãng có 184 chiếc ghế dài hướng về Lầu Năm Góc. Sau khi được sửa chữa trong năm 2001-2002, người ta xây dựng một nhà nguyện và một tượng đài ngay tại địa điểm chuyến bay 77 đâm xuống tòa nhà. Thiết kế cho Đài tưởng niệm Quốc gia Chuyến bay 93 được gọi là Crescent of Embrace gây ra tranh cãi vì thiết kế một hình trăng lưỡi liềm (crescent) lớn màu đỏ hướng đến Mecca. Do áp lực của công chúng, người ta cho biết đài tưởng niệm này sẽ được thiết kế lại để tránh sự nhầm lẫn với biểu trưng của Hồi giáo. Bản thiết kế của Michael Arad cho đài tưởng niệm Reflecting Absence được tuyển chọn vào tháng 8 năm 2006 qua một cuộc thi, với hai hồ phản chiếu đặt tại chân của hai tòa tháp, bao quanh bởi tên của các nạn nhân ghi chìm dưới đất. Bên cạnh việc xây dựng các đài tưởng niệm, một số người thân và bạn bè của những nạn nhân vụ tấn công ngày 11 tháng 9 thành lập quỹ tưởng niệm, quỹ học bổng và các chương trình từ thiện nhằm tôn vinh những người thân yêu đã mất. Hiện trường, nơi trước kia tọa lạc Tháp đôi tại New York nay được gọi là Ground Zero (Khu vực số không), nơi đây hiện đang xây cất tòa nhà One World Trade Center cao 541 m và 3 tòa nhà chọc trời được xây trên một hình bán nguyệt xung quanh khu tưởng niệm các nạn nhân trong vụ khủng bố, dự định hoàn thành trong năm 2012. == Kịch nghệ và Văn chương == Vở kịch "The Guys" của Anne Nelson hướng vào hồi ức và cảm xúc của một người sống sót, một sĩ quan thuộc lực lượng cứu hoả, một nhà văn đã tìm đến để giúp anh viết những bài điếu văn dành cho các đồng đội đã thiệt mạng trong thảm hoạ. Vở kịch được công diễn lần đầu vào ngày 4 tháng 12 năm 2001. Extremely Loud and Incredibly Close, tiểu thuyết của Jonathan Safran Foer xuất bản năm 2005, là một trong những tác phẩm đầu tiên viết về vụ khủng bố. Cuốn sách được dẫn dắt theo lời kể của một cậu bé chín tuổi, Oskar Schell, cha của cậu đang ở trên tầng cao của Trung tâm Thương mại Thế giới khi hai chiếc máy bay phản lực đâm vào toà tháp đôi. Để kìm chế nỗi buồn khôn nguôi và đè nén những tưởng tượng kinh hoàng về thảm họa mà cha cậu phải gánh chịu, Oskar dấn mình vào một cuộc phiêu lưu trong tâm trí để truy tìm ra điều mà cậu hy vọng là sự bí mật của cha cậu. Trong cuộc phiêu lưu của trí tưởng tượng này Oskar vượt qua những nỗi sợ hãi vô căn cứ và an ủi nhiều linh hồn đau thương. Tác phẩm điện ảnh của Oliver Stone, Trung tâm Thương mại Thế giới, là câu chuyện kể về hai nhân viên thuộc Cơ quan quản lý cảng biển, John McLoughlin (Nicolas Cage) và Will Jimeno (Michael Pena), là những người tham gia vào công tác cứu hộ sau cùng còn sống sót và được toán cứu hộ đem ra khỏi khu bình địa (ground zero). Cuốn phim được trình bày như là một câu chuyện cảm động về những cư dân bình thường của thành phố New York tìm cách giúp đỡ lẫn nhau ngay giữa một cơn thảm họa khủng khiếp. Cuốn phim được bắt đầu trình chiếu trên toàn quốc (Hoa Kỳ) ngày 9 tháng 8 năm 2006. == Hình ảnh == Vụ khủng bố 11/9 chụp từ trực thăng của cảnh sát New York, ảnh do Học viện Định chuẩn và Kỹ thuật Quốc gia của Mỹ công bố tháng 2 năm 2010, áp dụng luật tự do thông tin theo yêu cầu của ABCNews.. == Xem thêm == Bối cảnh Lịch sử Sự kiện 11 tháng 9 Chuyến bay số 93 của United Airlines Todd Beamer Khủng bố Tháp Tự do Ủy ban Quốc gia về vụ Khủng bố tại Hoa Kỳ (Ủy ban 11/9) Thomas Kean, chủ tịch của Ủy ban 11/9 Đài kỷ niệm Trung tâm Thương mại Quốc tế Trung tâm Thương mại Quốc tế số 7 Bản báo cáo của Ủy ban 11/9 Các giả thuyết về âm mưu 11 tháng 9 Phong trào đòi sự thật về vụ 11 tháng 9 == Chú thích == == Tham khảo == Wayne Barrett and Dan Collins, Grand Illusion: The Untold Story of Rudy Giuliani and 9/11. New York, Harper Collins, (2006). ISBN 0-06-053660-8 National Commission on Terrorist Attacks, The 9/11 Commission Report: Final Report of the National Commission on Terrorist Attacks Upon the United States, W.W. Norton and Company, (2004), ISBN 0-393-32671-3 === Phương tiện === == Liên kết ngoài == Mỹ công bố đoạn băng vụ tấn công ngày 11-9 Tường Vy, báo Tuổi Trẻ, 17/05/2006 10:39 (GMT + 7) Theo dòng sự kiện tại Vnexpress. Biến cố 9/11: 5 năm sau nhìn lại, 13, Tháng Chín 2006 World Trade Center Attacks trên YouTube ngày 11 tháng 9 năm 2001 Video trên YouTube
giải bóng đá vô địch thế giới 2014.txt
Giải bóng đá vô địch thế giới 2014 hay còn gọi là Cúp bóng đá thế giới 2014 (tên chính thức là 2014 FIFA World Cup - Brasil) được tổ chức tại Brasil là Giải bóng đá vô địch thế giới lần thứ 20. Linh vật của World Cup lần này là Fuleco, thuộc loài Tatu. Mùa giải này là lần thứ giải đấu được tổ chức tại Brasil (lần trước là 1950), là lần đầu tiên được tổ chức tại Nam Mỹ kể từ giải năm 1978 tại Argentina; đây cũng là lần đầu tiên hai giải liên tiếp được tổ chức tại Nam bán cầu. 32 đội tuyển quốc gia đã vượt qua vòng loại để giành vé tham dự giải đấu. Tổng cộng 64 trận đấu đã được diễn ra trên 12 sân vận động khác nhau rải rác trên khắp các thành phố lớn của Brazil. Lần đầu tiên trong lịch sử vòng chung kết, công nghệ goal-line được áp dụng cho tất cả các trận đấu. FIFA Fan Fest ở mỗi thành phố chủ nhà đã quy tụ được tổng cộng hơn 5 triệu người hâm mộ trong suốt khoảng thời gian diễn ra giải, trong khi đó cả nước đã đón nhận được hơn 1 triệu lượt du khách tới từ 202 quốc gia khác nhau. Cả 8 quốc gia đã từng lên ngôi vô địch trong các kì World Cup trước đây đều giành quyền tham dự giải đấu. Đương kim vô địch Tây Ban Nha bị loại ngay từ vòng bảng, trở thành đội đương kim vô địch thứ 5 bị loại ngay từ vòng bảng (sau Brasil năm 1966, Pháp năm 2002, Ý các năm 1950 và 2010). Chủ nhà Brasil, đội đã vô địch Cúp Liên đoàn các châu lục 2013, nhận thất bại không tưởng 1-7 trước Đức ở bán kết, sau đó thua 0-3 trước Hà Lan ở trận tranh hạng ba và kết thúc giải ở vị trí thứ tư. Đức đã giành chức vô địch lần thứ tư trong lịch sử, và lần đầu tiên kể từ khi nước Đức tái thống nhất vào năm 1990, sau khi đánh bại Argentina với tỉ số 1–0 bằng bàn thắng duy nhất của Mario Götze ở phút thứ 113 của hiệp phụ thứ 2 qua đó trở thành đội bóng châu Âu đầu tiên vô địch World Cup trên đất châu Mỹ. World Cup 2014 cũng là giải đấu thể thao nhận được sự quan tâm lớn nhất từ trước tới nay trên toàn thế giới, và được nhiều người đánh giá là một trong những kì World Cup hấp dẫn nhất trong lịch sử. == Chọn nước chủ nhà == Ngày 7 tháng 3 năm 2003, FIFA tuyên bố rằng giải đấu sẽ được tổ chức tại Nam Mỹ, theo chính sách luân phiên đăng cai vòng chung kết giải tại các châu lục. Ngày 3 tháng 6, CONMEBOL thông báo, 3 nước muốn tổ chức vòng chung kết giải là Argentina, Brasil và Colombia. Brasil chính thức tuyên bố ứng cử vào tháng 12 năm 2006, Colombia cũng tuyên bố sau đó vài ngày. Tuy nhiên vào tháng 4 năm 2007, quốc gia này rút lại tuyên bố vì sẽ tổ chức giải vô địch bóng đá nữ U-20 thế giới. Cuộc bầu chọn cho Argentina không được tổ chức. Vì những điều trên, Brasil nghiễm nhiên trở thành ứng cử viên duy nhất. Ngày 30 tháng 10 năm 2007, Brasil được Ủy ban điều hành FIFA chính thức trao quyền đăng cai tổ chức Giải vô địch bóng đá thế giới 2014. Mặc dù đã giành quyền đăng cai, nhưng đội chủ nhà vẫn phải đối mặt với nhiều sự cố đáng tiếc, như sập cầu hay những cuộc biểu tình rầm rộ của người dân phản đối chính phủ đã quá tốn kém cho kỳ World Cup này. == Sân vận động == 17 thành phố được chọn là chủ nhà của kỳ World Cup này, bao gồm có: São Paulo, Rio de Janeiro, Belo Horizonte, Porto Alegre, Brasília, Belém, Campo Grande, Cuiabá, Curitiba, Florianópolis, Fortaleza, Goiânia, Manaus, Natal, Recife/Olinda (sân vận động sẽ được chia sẻ bởi cả 2 thành phố), Rio Branco và Salvador. Maceió tự rút lui trong tháng 1 năm 2009. Theo thực hành FIFA hiện tại, không có nhiều hơn một thành phố có thể sử dụng hai sân vận động, và số lượng của các thành phố chủ nhà được giới hạn giữa 8 và 10. Liên bang Brasil yêu cầu được phép chỉ định 12 thành phố trực thuộc lưu trữ Chung kết World Cup. Ngày 26 tháng 12 năm 2008, FIFA đã đưa ra ánh sáng màu xanh lá cây với kế hoạch là 12 thành phố. Ngay cả trước khi 12 thành phố chủ nhà đã được lựa chọn, có vài nghi ngờ rằng các địa điểm được chọn cho trận chung kết sẽ là Maracanã ở Rio de Janeiro, đó cũng tổ chức các trận đấu quyết định của Giải bóng đá vô địch thế giới 1950. Ban đầu ý định của CBF là tổ chức trận đấu khai mạc tại Sân vận động Morumbi ở São Paulo, thành phố lớn nhất ở Brasil. Tuy nhiên, ngày 14 tháng 6 năm 2010, sân vận động này đã bị loại trừ ra khỏi danh sách các sân vận động của giải vì không đủ điều kiện tiêu chuẩn cho phép. Mặc dù CBF vẫn để São Paulo là một trong 12 thành phố đăng cai, nhưng chưa thấy một địa điểm nào thích hợp hơn trong thành phố. Các thành phố đăng cai World Cup 2014 đã được công bố vào ngày 31 tháng 5 năm 2009. Các thành phố như: Belém, Campo Grande, Florianópolis, Goiânia và Rio Branco bị từ chối. == Các trận đấu == === Vòng loại === Bên cạnh đội chủ nhà Brasil được đặc cách vào thẳng vòng chung kết, 207 quốc gia và vùng lãnh thổ còn lại phải tham dự vòng loại của 6 liên đoàn châu lục để chọn ra 31 đội còn lại được vào tham dự vòng chung kết cùng với chủ nhà. === Các đội giành quyền vào vòng chung kết === == Trọng tài == == Danh sách cầu thủ == == Vòng bảng == Giờ thi đấu tính theo giờ địa phương (UTC-3) === Bảng A === === Bảng B === === Bảng C === === Bảng D === === Bảng E === === Bảng F === === Bảng G === === Bảng H === == Vòng đấu loại trực tiếp == === Sơ đồ thi đấu === === Vòng 16 đội === === Tứ kết === === Bán kết === === Tranh hạng ba === === Chung kết === === Vô địch === === Cầu thủ ghi bàn === Hậu vệ người Brasil Marcelo là cầu thủ đầu tiên ghi bàn ở giải đấu đồng thời là cầu thủ đầu tiên đá phản lưới nhà trong trận khai mạc gặp đội tuyển Croatia. Trong trận khai mạc này, tiền đạo người Brasil Neymar cũng trở thành cầu thủ đầu tiên lập cú đúp và cũng là người đầu tiên thực hiện thành công một quả phạt đền tại giải đấu. Tiền vệ người Đức Thomas Müller là cầu thủ đầu tiên lập hat-trick trong trận Đức thắng Bồ Đào Nha 4 - 0 tại bảng G. Clint Dempsey là cầu thủ ghi bàn mở tỉ số nhanh nhất tại giải đấu, tại giây thứ 29 trận đấu Mỹ thắng Ghana 2 - 1 tại vòng loại bảng G. 6 bàn James Rodríguez 5 bàn 4 bàn 3 bàn 2 bàn 1 bàn phản lưới nhà Sead Kolašinac (trận gặp Argentina) Marcelo (trận gặp Croatia) John Boye (trận gặp Bồ Đào Nha) Noel Valladares (trận gặp Pháp) Joseph Yobo (trận gặp Pháp) === Đường kiến tạo === 4 đường kiến tạo 3 đường kiến tạo 2 đường kiến tạo 1 đường kiến tạo Tin nguồn: FIFA === Giải thưởng === Các giải thưởng đã được trao sau khi kết thúc giải đấu: === Tiền thưởng === Tổng tiền thưởng dành cho giải đấu đã được xác nhận bởi FIFA là 576 triệu USD (bao gồm chi phí 70 triệu USD cho các câu lạc bộ chủ nhà), nhiều hơn 37 phần trăm so với số tiền được phân bổ tại giải năm 2010. Trước giải đấu, mỗi đội trong số 32 đội tham dự sẽ được nhận 1.5 triệu USD chi phí chuẩn bị. Tiền thưởng sẽ được phân bổ như sau: 8 triệu USD – Cho mỗi đội bị loại tại vòng bảng (16 đội) 9 triệu USD – Cho mỗi đội bị loại trong vòng 16 đội (8 đội) 14 triệu USD – Cho mỗi đội bị loại trong tứ kết (4 đội) 20 triệu USD – Đội hạng tư 22 triệu USD – Đội hạng ba 25 triệu USD – Đội á quân 35 triệu USD – Đội vô địch === Bảng xếp hạng các đội giải đấu === 32 đội bóng lọt vào vòng chung kết được xếp hạng dựa theo tiêu chuẩn của FIFA và kết quả các trận đấu vừa qua. == Công nghệ == Lần đầu tiên trong lịch sử World Cup, công nghệ vạch cầu môn thông minh (Goal-line) được áp dụng trong các tình huống gây tranh cãi, cùng với đó là công nghệ vạch sơn tự hủy nhằm bảo đảm cự ly đá phạt của cầu thủ. Cả 2 đều đã được chứng minh là rất thành công và sẽ được sử dụng ở các kỳ World Cup sắp tới. == Tham khảo == == Liên kết ngoài == (tiếng Anh) The Official Website of the FIFA World Cup™ - FIFA.com Trang của chính phủ Brasil về WC 2014 Liên đoàn Bóng đá thế giới (FIFA) công bố quốc gia đăng cai Trang Web chính thức của Ban vận động đăng cai của Brasil Periodismo de fútbol internacional: ¡Brasil 2014! 18 sân vận động được tổ chức World Cup 2014
nambu yōichirō.txt
Đây là một tên người Nhật; họ tên được viết theo thứ tự Á Đông (họ trước tên sau): họ là Nambu. Tuy nhiên, tên người Nhật hiện đại bằng ký tự La Tinh thường được viết theo thứ tự Tây phương (tên trước họ sau). Nambu Yoichiro (南部 陽一郎, Nanbu Yōichirō, 18 tháng 1 năm 1921 – 5 tháng 7 năm 2015) là nhà vật lý lý thuyết người Mỹ sinh ở Nhật Bản, giáo sư trường Đại học Chicago. Là người nổi tiếng với những đóng góp trong ngành vật lý lý thuyết, ông đã được trao một nửa Giải Nobel Vật lý năm 2008 cho khám phá của ông vào năm 1960 về cơ chế phá vỡ đối xứng tự phát trong vật lý hạt hạ nguyên tử, lần đầu tiên liên hệ giữa tính đối xứng chiral của tương tác mạnh và sau đó của tương tác yếu với cơ chế Higgs. Một nửa giải còn lại được trao đều cho hai nhà vật lý Kobayashi Makoto và Maskawa Toshihide "cho sự khám phá ra nguồn gốc của phá vỡ đối xứng cho phép tiên đoán sự tồn tại của ít nhất ba thế hệ quark trong tự nhiên." == Tham khảo == == Liên kết ngoài == Yoichiro Nambu, Department of Physics faculty profile, University of Chicago Profile, Scientific American Magazine Yoichiro Nambu, Sc.D. Biographical Information Nambu's most-cited scientific papers Yoichiro Nambu's earliest book for the scientific layman Yoichiro Nambu's previously unpublished material, including an original article on spontaneously broken symmetry Interview at the AIP Oral History Transcript site (ngày 16 tháng 7 năm 2004) "A History of Nobel Physicists from Wartime Japan" Article published in the December 1998 issue of Scientific American, co-authored by Laurie Brown and Yoichiro Nambu Bản mẫu:Giải Wolf Vật lý
giải nobel hóa học.txt
Giải Nobel Hoá học (tiếng Thụy Điển: Nobelpriset i kemi) được trao hàng năm bởi Viện hàn lâm khoa học Thụy Điển cho các nhà khoa học trong lĩnh vực hoá học. Đây là một trong 5 giải thuộc Giải Nobel thiết lập theo di chúc của Alfred Nobel năm 1895, tặng thưởng cho các đóng góp xuất sắc trong ngành hoá học, vật lý học, văn chương, hoà bình, triết học và y khoa. Giải này do Quỹ Nobel quản lý và trao bởi Uỷ ban Nobel. == Tham khảo == == Liên kết ngoài == "Green Fluorescent Protein - 2008 Nobel Chemistry Award - A great description of the work done by the 2008 laureates. "Nobel Prize for Chemistry. Front and back images of the medal. 1954". "Source: Photo by Eric Arnold. Ava Helen and Linus Pauling Papers. Honors and Awards, 1954h2.1." "All Documents and Media: Pictures and Illustrations", Linus Pauling and The Nature of the Chemical Bond: A Documentary History, the Valley Library, Oregon State University. Accessed ngày 7 tháng 12 năm 2007. Graphics: National Chemistry Nobel Prize shares 1901-2009 by citizenship at the time of the award and by country of birth. From J. Schmidhuber (2010), Evolution of National Nobel Prize Shares in the 20th Century at arXiv:1009.2634v1 "The Nobel Prize in Chemistry" – Official site of the Nobel Foundation. "The Nobel Prize Medal for Physics and Chemistry" – Official webpage of the Nobel Foundation. "What the Nobel Laureates Receive" – Featured link in "The Nobel Prize Award Ceremonies".
1610.txt
Năm 1610 (số La Mã: MDCX) là một năm thường bắt đầu vào thứ Sáu trong lịch Gregory (hoặc một năm thường bắt đầu vào thứ hai [1] của lịch Julius chậm hơn 10 ngày). == Sự kiện == == Sinh == 13 tháng 1 - Anna Maria Maria Anna của Áo, Electress của Bayern (mất 1665) 1 tháng 3 - John Pell, toán học người Anh (mất 1685) 4 tháng 3 - William Dobson, tiếng Anh ve chân dung và họa sĩ (mất 1646) 1 tháng 4 - Charles de Saint-Évremond, người lính, nhà văn người Pháp (mất 1703) 22 tháng 4 - Đức Giáo hoàng Alexander VIII (mất 1691) 23 tháng 4 - Lettice Boyle, người Anh (mất 1657) 18 tháng 5 - Stefano della Bella, người Ý (mất 1664) 14 tháng 7 - Ferdinando II de 'Medici, Đại Công tước của Tuscany (mất 1670) 6 tháng 10 - Charles de Sainte, Maure, duc de Montausier, quân nhân Pháp (mất 1690) 19 tháng 10 - James Butler, 1 Công tước xứ Ormonde, người lính Anh (mất 1688) 9 tháng 12 - Baldassare Ferri, người Ý (mất 1680) 10 tháng 12 - Adriaen van Ostade, họa sĩ Hà Lan (mất 1685) 12 tháng 12 - Saint Vasilije (mất 1671) 15 tháng 12 - David Teniers Trẻ, nghệ sĩ Flemish (mất 1690) 18 tháng 12 - Charles du Fresne, sieur du Cange, nhà ngôn ngữ học (mất 1688) Ngày chưa biết' Dirck Rembrantsz van Nierop, nhà thiên văn và bản đồ Hà Lan (mất 4 tháng 11 năm 1682) Reinhold Curicke, luật gia và sử gia của Danzig (mất 1667) Richard Deane, người lính, thủy thủ (mất 1653) William Dobson, hoạ sĩ Anh (mất 1646) Huang Zongxi, nhà lý luận chính trị Trung Quốc (mất 1695) Jean de Labadie, người Pháp (mất 1674) Li Yu, nhà văn người Trung Quốc (mất 1680) Louis Maimbourg, sử học Dòng Tên Pháp (mất 1686) François-Eudes de Mézeray, sử gia người Pháp (mất 1683) Pierre Mignard, họa sĩ người Pháp (mất 1695) Philip Sherman, người sáng lập Rhode Island (mất 1687) Antonio de Solis y Ribadeneyra, nhà viết kịch Tây Ban Nha (mất 1686) Ngao Bái, Mãn Châu đệ nhất dũng sĩ dưới thời vua Thuận Trị và Khang Khi == Mất == == Tham khảo ==
1903.txt
1903 (số La Mã: MCMIII) là một năm thường bắt đầu vào thứ Năm trong lịch Gregory. Bản mẫu:Tháng trong năm 1903 == Sự kiện == 1-19 tháng 7 - Tour de France lần đầu tiên được tổ chức 4 tháng 8 - Pius X trở thành Giáo hoàng thứ 257. == Sinh == 25 tháng 4 - Andrey Nikolaevich Kolmogorov, nhà toán học Liên Xô (mất 1987) 28 tháng 12 - John von Neumann, nhà toán học người Hungary (mất 1957) == Mất == 1 tháng 2 - George Gabriel Stokes, nhà toán học và vật lý Ireland (sinh 1819) 13 tháng 11 - Camille Pissarro, họa sĩ Pháp (sinh 1830) Phùng Tử Tài, tướng nhà Thanh == Giải Nobel == Vật lý - Henri Becquerel, Pierre Curie, Marie Curie Hóa học - Svante Arrhenius Y học - Niels Ryberg Finsen Văn học - Bjørnstjerne Bjørnson Hòa bình - Sir William Randal Cremer == Xem thêm == == Tham khảo ==
intel hd và iris graphics.txt
Intel HD Graphics, được giới thiệu lần đầu vào năm 2010, là bộ xử lý đồ họa ̣̣̣(Graphics Processing Unit hay GPU) gắn liền với bộ xử lý trung tâm (Central Processing Unit hay CPU) của Intel, thay thế Intel GMA được gắn vào chipset. Do đó ở Việt Nam có một số nguồn gọi nó là card onboard để phân biệt với card rời là GPU của các hãng NVIDIA và ATI. Tuy nhiên nói một cách chính xác thì đây không phải là card đồ họa (Video Graphics Adapter hay VGA) mà là bộ xử lý đồ họa (GPU) nằm trên VGA. Hai phiên bản cao cấp của nó là Intel Iris Graphics và Intel Iris Pro Graphics được ra mắt vào đầu năm 2013 đi cùng vi kiến trúc Haswell. Intel HD và Iris Graphics không có bộ nhớ riêng mà khi làm việc nó sẽ lấy một phần bộ nhớ của RAM, còn Iris Pro Graphics thì đã được nhúng thêm bộ nhớ eDRAM. == Các thế hệ == Do Intel HD và Iris Graphics được gắn cứng vào CPU, vì vậy các thế hệ của nó đi kèm các thế hệ vi kiến trúc CPU của Intel. === Westmere === Thế hệ thứ nhất ra mắt tháng 1 năm 2010 dành cho kiến trúc Westmere. HD Graphics - 12 đơn vị xử lý, lên đến 43.2 GFLOPS tại 900 MHz. === Sandy Bridge === Thế hệ thứ hai ra mắt tháng 1 năm 2011 dành cho kiến trúc Sandy Bridge. Trong đó HD Graphics dành cho các vi xử lý Celeron và Pentium, còn HD Graphics 2000 và 3000 dành cho dòng Intel Core. === Ivy Bridge === Thế hệ thứ ba ra mắt ngày 24 tháng 4 năm 2012 dành cho kiến trúc Ivy Bridge. Trong đó HD Graphics dành cho các vi xử lý Celeron và Pentium, còn HD Graphics 2500 và 4000 dành cho dòng Intel Core. === Haswell === Thế hệ thứ tư ra mắt ngày 12 tháng 12 năm 2012 dành cho kiến trúc Haswell. === Broadwell === Thế hệ thứ năm ra mắt tháng 11 năm 2013 dành cho kiến trúc Broadwell. === Airmont / Braswell (Silvermont) === Silvermont, ra mắt tháng 5 năm 2013, là vi kiến trúc dành cho các vi xử lý cấp thấp của Intel là Atom, Celeron và Pentium. Airmont / Braswell là phiên bản rút gọn của Silvermont ra mắt đầu năm 2015 cho PC. HD Graphics 400/405 – GT1 – 12 EU (N30xx/N31xx) / 16 EU (N37xx) N30xx – 320-600 MHz N31xx – 320-640 MHz N37xx – 400-700 MHz === Skylake === Thế hệ thứ sáu ra mắt tháng 8 năm 2015 dành cho kiến trúc Skylake. == Tham khảo == == Liên kết ngoài ==
hopman cup.txt
Hopman Cup là một giải quần vợt quốc tế thi đấu trên sân cứng trong nhà, hàng năm được tổ chức tại Perth, miền tây nước Úc vào đầu tháng 1 (đôi khi bắt đầu vào cuối tháng). Giải đấu được đặt theo tên của Harry Hopman (1906–1985), một cựu tay vợt người Úc và là người đã dẫn dắt đội tuyển quốc gia giành được 15 danh hiệu Davis Cup trong những năm 1938 đến 1969. Giải đấu thuộc sự quản lý của Liên đoàn quần vợt Quốc tế (ITF), kết quả thi đấu của các tay vợt không gây ảnh hưởng đến điểm số/ xếp hạng của họ. Giải đấu được phủ sóng truyền hình rộng rãi tại Úc. Vào năm 2013, Hopman Cup lần đầu được tổ chức ở Perth Arena. == Thể thức thi đấu == Không giống như Davis Cup hay Fed Cup - 2 giải đấu đồng đội chỉ dành cho nam hoặc nữ, Hopman Cup là giải đấu đồng đội cho cả nam và nữ đại diện cho quốc gia của họ. Sau vòng loại sẽ có 8 đội chơi tham gia vào giải đấu. Mỗi đội gồm một tay vợt nam và một tay vợt nữ. Mỗi trận đấu giữa hai đội bao gồm: Một trận đấu đơn nữ Một trận đấu đơn nam Một trận đánh đôi nam, nữ Tám đội được chia thành hai bảng đấu, các đội trong 1 bảng sẽ thi đấu lần lượt với nhau. 2 đội mạnh nhất bảng sẽ gặp nhau trong trận chung kết để xác định nhà vô địch. == Quản lý == Năm 2014, giám đốc của Hopman Cup là Paul Kilderry sau khi Steve Ayles từ chức. Trước đây, cựu tay vợt người Úc Paul McNamee, người đóng vai trò quan trọng trong việc thành lập giải đấu là giám đốc của giải. == Kết quả thi đấu == === Các đội vô địch gần nhất === === Các trận chung kết gần nhất === == Xem thêm == Davis Cup Fed Cup International Tennis Federation == Chú thích == == Liên kết ngoài == Website chính thức
sao lùn nâu.txt
Sao lùn nâu là các thiên thể dưới sao, có khối lượng dưới mức đủ để duy trì các phản ứng tổng hợp hạt nhân đốt cháy hydro trong lõi, như các ngôi sao thuộc dãy chính, nhưng có bề mặt và phần bên trong hoàn toàn đối lưu, và không có sự khác biệt hóa học theo chiều sâu. Các ngôi sao lùn nâu có khối lượng trong khoảng khối lượng những hành tinh kiểu giữa hành tinh khí khổng lồ và những ngôi sao có khối lượng thấp nhất; giới hạn trên này ở giữa khoảng 75 và 80 lần khối lượng Sao Mộc ( M J {\displaystyle M_{J}} ). Hiện tại có một số tranh cãi về tiêu chí nào được sử dụng để định nghĩa sự khác biệt giữa sao lùn nâu với một hành tinh khổng lồ ở các khối lượng sao lùn nâu rất thấp (~13 M J {\displaystyle M_{J}} ), và liệu các ngôi sao lùn nâu ở một số thời điểm của mình có xảy ra phản ứng tổng hợp hạt nhân hay không. Trong bất kỳ trường hợp nào, những sao lùn nâu nặng hơn 13 M J {\displaystyle M_{J}} làm tan chảy deuterium và những ngôi sao trên ~65 M J {\displaystyle M_{J}} cũng làm tan chảy lithium. Những hành tinh duy nhất được phát hiện quay xung quanh các ngôi sao lùn nâu là 2M1207b và MOA-2007-BLG-192Lb. == Lịch sử == Sao lùn nâu (brown dwarf), một thuật ngữ do Jill Tarter đặt ra năm 1975, ban đầu được gọi là sao lùn đen, một kiểu xếp hạng các vật thể dưới sao có màu tối, trôi nổi tự do trong vũ trụ, có khối lượng quá thấp để duy trì phản ứng tổng hợp hydro ổn định (thuật ngữ sao lùn đen hiện chỉ một ngôi sao lùn trắng đã lạnh đi tới mức không còn phát xạ nhiệt độ hay ánh sáng). Những tên khác đã được đề xuất, gồm Planetar và Substar. Những lý thuyết ban đầu liên quan tới trạng thái của những ngôi sao có khối lượng thấp nhất và giới hạn đốt cháy hydro cho rằng các vật thể với khối lượng nhỏ hơn 0.07 khối lượng Mặt Trời đối với các vật thể thuộc Population I hay các vật thể với khối lượng nhỏ hơn 0.09 khối lượng Mặt Trời đối với các vật thể thuộc Population II sẽ không bao giờ đi theo quá trình tiến hóa sao thông thường mà sẽ trở thành một ngôi sao suy thoái hoàn toàn (Kumar 1963). Vai trò của việc đốt cháy deuterium đối với vật thể nhỏ tới 0.012 khối lượng Mặt Trời và sức nén của sự hình thành bụi trong các khí quyển lạnh bên ngoài các ngôi sao lùn nâu đã được biết đến ở cuối những năm 80. Tuy nhiên, rất khó để phát hiện ra chúng trên bầu trời đêm, bởi chúng không phát xạ ánh sáng. Những phát xạ mạnh nhất đều ở trong quang phổ hồng ngoại (IR), và những máy thám sát hồng ngoại trên Trái Đất quá thiếu chính xác ở thời điểm ấy để sẵn sàng xác định bất kỳ ngôi sao lùn nâu nào. Từ những bước đầu đó, nhiều nghiên cứu về các biện pháp khác nhau đã được tiến hành để tìm ra các vật thể đó. Một số biện pháp trong số đó gồm thám sát hình ảnh đa màu quanh các ngôi sao từ trường, thám sát chụp ảnh các sao đồng hành có ánh sáng yếu của những ngôi sao lùn thuộc dãy chính và các sao lùn trắng, thám sát các chùm sao trẻ và vận tốc quay kiểm tra cho các sao đồng hành cự ly gần. Trong nhiều năm, những nỗ lực nhằm phát hiện các ngôi sao lùn nâu không mang lại kết quả và các cuộc nghiên cứu để tìm chúng dường như là vô ích. Tuy nhiên, vào năm 1988, hai giáo sư Eric Becklin và Ben Zuckerman thuộc Đại học California, Los Angeles đã xác định một ngôi sao đồng hành mờ của GD 165 trong một cuộc thám sát hồng ngoại những ngôi sao lùn trắng. Quang phổ của GD 165B rất đỏ và khác thường, không hề có các đặc tính thường thấy của một ngôi sao lùn đỏ khối lượng thấp thông thường. Cuối cùng mọi việc trở nên rõ ràng rằng GD 165B phải được xếp hạng như một vật thể lạnh hơn nhiều so với những ngôi sao lùn kiểu M mới được biết đến gần nhất khi ấy. GD 165B tiếp tục là trường hợp duy nhất trong gần một thập kỷ cho tới khi chương trình Two Micron All Sky Survey (2MASS) được thực hiện khi Davy Kirkpatrick, trong Viện kỹ thuật California, cùng những người khác khám phá nhiều vật thể với màu sắc và đặc điểm quang phổ tương tự. Ngày nay, GD 165B được công nhận là nguyên mẫu của một lớp vật thể hiện được gọi là "sao lùn nâu L". Tuy việc khám phá ngôi sao lùn lạnh nhất có tầm quan trọng lớn ở thời điểm ấy, mọi người tranh cãi liệu GD 165B sẽ được xếp hạng là một sao lùn nâu hay đơn giản là một ngôi sao có khối lượng rất thấp, bởi theo quan sát, rất khó để phân biệt nó thuộc loại nào trong hai loại đó. Khá thú vị, ngay sau khi GD 165B được phát hiện các ứng cử viên khác để trở thành sao lùn nâu cũng được thông báo. Tuy nhiên, đa số đã không chính xác, và với những kiểm tra thêm về tình trạng dưới sao, như kiểm tra lithium, nhiều vật thể hóa ra là các vật thể sao chứ không phải những ngôi sao lùn nâu thực sự. Khi còn trẻ (lên tới một tỷ năm tuổi), các ngôi sao lùn nâu có thể có nhiệt độ và độ sáng tương tự như một số ngôi sao, vì thế các đặc tính phân biệt khác là cần thiết, như sự hiện diện của lithium. Đa số các ngôi sao sẽ đốt hết lithium trong vòng chưa tới 100 triệu năm, trong khi đa số những ngôi sao lùn nâu không bao giờ có nhiệt độ lõi đủ lớn để làm việc này. Vì thế, việc kiểm tra lithium trong khí quyển một vật thể ứng cử viên sẽ đảm bảo nó có phải là một sao lùn nâu không. Năm 1995 việc nghiên cứu sao lùn nâu đã thay đổi mạnh với swj phát hiện ba vật thể dưới sao rõ ràng, một số đã được xác định có sự hiện diện của dòng 6708 Li. Vật thể đáng chú ý nhất là Gliese 229B được phát hiện có nhiệt độ và độ sáng thấp hơn nhiều so với phạm vi của các ngôi sao. Đáng chú ý, quang phổ gần hồng ngoại của nó thể hiện rõ dải hấp thụ methane ở sóng 2 micrometre, một đặc điểm trước đó chỉ được quan sát thấy trong khí quyển của những hành tinh khí khổng lồ và trong khí quyển vệ tinh Titan của Sao Mộc. Sự hấp thụ methane không thể diễn ra ở những nhiệt độ của các ngôi sao dãy chính. Khám phá này giúp hình thành một lớp quang phổ khác thậm chí còn lạnh hơn các sao lùn nâu L, được gọi là "sao lùn nâu T" với Gl 229B là nguyên mẫu. Từ năm 1995, khi ngôi sao lùn nâu đầu tiên được xác định, hàng trăm sao khác đã được phát hiện. Những ngôi sao lùn nâu gần Trái Đất gồm Epsilon Indi Ba và Bb, một cặp sao lùn nâu liên kết trọng lực với một ngôi sao kiểu Mặt Trời, khoảng 12 năm ánh sáng từ Mặt Trời. == Lý thuyết == Quá trình sụp đổ hấp dẫn từ một đám mây liên sao lạnh gồm khí và bụi là cơ cấu tiêu chuẩn để hình thành một ngôi sao. Khi đám mây bị nén nóng lên. Sự giải phóng năng lượng hấp dẫn tiềm tàng là nguồn cung cấp năng lượng nhiệt này. Buổi đầu quá trình khí nén nhanh chóng bức xạ ra ngoài rất nhiều năng lượng, cho phép sự sụp đổ tiếp diễn. Cuối cùng vùng trung bâm trở nên đủ đặc để bắt giữ bức xạ. Vì thế, nhiệt độ và mật độ bên trong của đám mây sụp đổ tăng nhanh chóng theo thời gian, làm chậm quá trình nén, cho tới khi các điều kiện nóng và đặc đủ để các phản ứng hạt nhân xảy ra trong lõi của tiền sao. Đối với hầu hết các ngôi sao, khí và áp lực bức xạ sinh ra bởi các phản ứng tổng hợp nhiệt hạch bên trong lõi ngôi sao sẽ chống giữ nó chống lại sự nén hấp dẫn. Thăng bằng thủy tĩnh đạt tới ngưỡng và ngôi sao sẽ trải qua hầu hết cuộc sống tổng hợp hydro thành heli như một ngôi sao dãy chính. Tuy nhiên, nếu khối lượng tiền sao thấp hơn 0.08 khối lượng Mặt Trời, các phản ứng nhiệt hạch tổng hợp hydro sẽ không xảy ra trong lõi. Sự nén hấp dẫn không làm nóng tiền sao nhỏ một cách có hiệu quả, và trước khi nhiệt độ trong lõi đủ để kích hoạt phản ứng tổng hợp hạt nhân, mật độ đã đạt tới điểm để các electron trở nên đủ đặc để tạo ra áp lực thoái hóa electron lượng tử. Theo các mô hình cấu trúc bên trong sao lùn nâu, các điều kiện thông thường trong lõi về mật độ, nhiệt độ và áp lực được dự tính như sau: ρ c ∼ 10 − 10 3 g / c m 3 {\displaystyle \rho _{c}\sim 10-10^{3}g/cm^{3}} T c ≲ 3 × 10 6 K {\displaystyle T_{c}\lesssim 3\times 10^{6}K} P c ∼ 10 5 M b a r {\displaystyle P_{c}\sim 10^{5}Mbar} Sự nén hấp dẫn tiếp theo sẽ bị ngăn chặn và kết quả là một "sao hỏng", hay một ngôi sao lùn nâu đơn giản bị lạnh đi bởi sự bức xạ năng lượng nhiệt bên trong. === Phân biệt sao lùn nâu có khối lượng lớn và sao có khối lượng thấp === Lithium: Lithium nói chung hiện diện tại các sao lùn nâu và không có tại các ngôi sao có khối lượng thấp. Các ngôi sao, vốn đã có được nhiệt năng cần thiết cho phản ứng tổng hợp hydro, nhanh chóng tiêu thụ hết lithium. Điều này xảy ra bởi sự va chạm giữa một Lithium-7 và một proton tạo ra hai hạt nhân Helium-4. Nhiệt độ cần thiết cho phản ứng này ngay dưới mức nhiệt độ cần thiết cho phản ứng tổng hợp hydro. Sự đối lưu tại những ngôi sao có khối lượng thấp đảm bảo để toàn bộ lượng lithium trong sao bị tiêu thụ. Vì thế, sự hiện diện của lithium trong dòng quang phổ một vật thể bị nghi là sao lùn nâu là một đặc điểm chứng minh mạnh rằng nó là một vật thể dưới sao. Việc sử dụng lithium để phân biệt sao lùn nâu khỏi các sao có khối lượng nhỏ thường được gọi là thử nghiệm lithium, và đã được Rafael Rebolo cùng các đồng sự tiên phong áp dụng. Tuy nhiên, lithium cũng được quan sát thấy ở các ngôi sao rất trẻ, vẫn chưa tiêu thụ hết hoàn toàn chất này. Những ngôi sao nặng hơn như Mặt Trời của chúng ta có thể giữ lithium trong các tầng khí quyển bên ngoài, nơi không bao giờ đủ nóng để tiêu thụ lithium, nhưng chúng có thể được phân biệt với các ngôi sao lùn nâu bởi kích thước. Trái lại, các ngôi sao lùn nâu ở có khối lượng lớn nhất có thể đủ nóng để tiêu thụ hết lithium khi chúng đang còn trẻ. Những ngôi sao lùn có khối lượng lớn hơn 65 M J {\displaystyle M_{J}} có thể tiêu thụ toàn bộ lithium khi chúng mới được nửa tỉ năm tuổi[Kulkarni], vì thế cách thử nghiệm này không hoàn hảo. Methane: Không giống các ngôi sao, những sao lùn nâu già thỉnh thoảng đủ lạnh để sau những khoảng thời gian dài khí quyển của chúng thu thập đủ khối lượng methane có thể quan sát được. Những ngôi sao lùn được xác định theo cách này gồm Gliese 229B. Độ sáng: Những ngôi sao thuộc dãy chính nguội đi, nhưng cuối cùng xuống mức sáng tối thiểu mà chúng có thể duy trì qua các phản ứng tổng hợp hạt nhân ổn định. Điều này khác biệt tùy theo từng sao, nhưng nói chung ít nhất bằng 0.01% độ sáng của Mặt Trời. Những ngôi sao lùn nâu lạnh và tối đi liên tục trong đời chúng: những ngôi sao lùn nâu đủ già sẽ quá mờ nhạt để có thể phát hiện. === Phân biệt sao lùn nâu khối lượng thấp với hành tinh khối lượng lớn === Một đặc điểm đáng chú ý của các sao lùn nâu là chúng hầu như có cùng bán kính, hơn hoặc kém bán kính Sao Mộc. Với những sao có khối lượng lớn nhất (60-90 lần khối lượng Sao Mộc), thể tích của một sao lùn nâu được quyết định chủ yếu bởi áp suất thoái hóa electron, tương tự như với các sao lùn trắng; với những ngôi sao có khối lượng thấp nhất (1-10 lần khối lượng Sao Mộc), thể tích của chúng được quyết định chủ yếu bởi áp suất Coulomb, tương tự các hành tinh. Kết quả thực là bán kính của sao lùn nâu chỉ thay đổi khoảng 10-15% đối với mọi khối lượng. Điều này có thể khiến việc phân biệt chúng với các hành tinh khá khó khăn. Ngoài ra, nhiều sao lùn nâu không trải qua giai đoạn tổng hợp hạt nhân; những ngôi sao có khối lượng thấp (dưới 13 lần khối lượng Sao Mộc) không bao giờ đủ nóng để tổng hợp thậm chí là deuterium, và thậm chí các sao có khối lượng lớn nhất (hơn 60 lần khối lượng Sao Mộc) lạnh đi đủ nhanh để chúng không trải qua giai đoạn tổng hợp sau một khoảng thời gian khoảng 10 triệu năm. Tuy nhiên, có hai cách để phân biệt sao lùn nâu với các hành tinh: Mật độ là một cách phân biệt rõ. Các sao lùn nâu đều có cùng cỡ bán kính; vì thế bất kỳ vật thể nào với khối lượng gấp hơn 10 lần Sao Mộc đều có thể không phải là một hành tinh. Quang phổ tia X và hồng ngoại cũng là một dấu hiệu nhận biết. Một số sao lùn nâu phát ra tia X; và tất cả các sao lùn nâu "ấm" tiếp tục tiến về phía quang phổ đỏ và hồng ngoại cho tới khi chúng nguội đi tới nhiệt độ như các hành tinh (dưới 1000 K). Một số nhà thiên văn học tin rằng trên thực tế không có sự phân biệt rõ ràng giữa các sao lùn nâu và các hành tinh nặng, và rằng có sự tiếp nối giữa chúng. Ví dụ, Sao Mộc và Sao Thổ đều có cấu tạo chủ yếu từ hydro và helium, như Mặt Trời. Sao Thổ gần như lớn bằng Sao Mộc, dù chỉ có khối lượng bằng 30%. Ba hành tinh khí khổng lồ trong Hệ Mặt Trời của chúng ta (Sao Mộc, Sao Thổ, và Sao Hải Vương) bức xạ ra nhiều sức nóng hơn chúng nhận được từ Mặt Trời. Và tất cả bốn hành tinh khí khổng lồ đều có "các hệ hành tinh"—vệ tinh—của riêng chúng. Ngoài ra, người ta đã phát hiện rằng cả các hành tinh và các sao lùn nâu đều có quỹ đạo lệch tâm. Hiện nay, Liên đoàn Thiên văn Quốc tế coi các vật thể với khối lượng vượt trên giới hạn khối lượng cho các phản ứng nhiệt hạch deuterium (hiện được tính khoảng 13 lần khối lượng Sao Mộc với các vật thể Sao Kim loại) là một sao lùn nâu, trong khi đó những vật thể dưới mức khối lượng đó (và bay quanh mộo ngôi sao hay các tàn tích sao) được coi là các hành tinh. == Quan sát == === Xếp hạng sao lùn nâu === Các đặc tính định nghĩa của lớp quang phổ M, kiểu lạnh nhất trong dãy sao đã có từ lâu đời, là một quang phổ quang học được quyết định chủ yếu gồm các dải hấp thụ phân tử titanium oxide (TiO) và vanadium oxide (VO). Tuy nhiên, GD 165B, vật thể bạn đồng hành lạnh của sao lùn trắng GD 165 không có các đặc điểm xác nhận Tio của các sao lùn nâu M. Việc xác định nhiều bạn đồng hành sau đó của GD 165B đã buộc Kirkpatrick và những người khác phải đưa ra một lớp quang phổ mới, các sao lùn nâu kiểu L, được xác định trong vùng quang học đỏ không phải bởi các dải metal-oxide suy yếu (TiO, VO), mà bởi các dải kim loại hydride mạnh (FeH, CrH, MgH, CaH) và các dải alkali nổi bật (Na I, K I, Cs I, Rb I). Ở thời điểm tháng 4 năm 2005, hơn 400 sao lùn nâu kiểu L đã được xác định (xem link tham khảo bên dưới), đa số bởi các cuộc nghiên cứu phổ rộng: Two Micron All Sky Survey (2MASS), Deep Near Infrared Survey vùng bầu trời phía nam (DENIS), và Sloan Digital Sky Survey (SDSS). Bởi GD 165B là nguyên mẫu của các sao lùn nâu kiểu L, Gliese 229B là nguyên mẫu của một lớp quang phổ mới thứ hai, sao lùn nâu kiểu T. Theo đó quang phổ cận hồng ngoại (NIR) của các sao lùn nâu kiểu L có những dài hấp thụ H2O carbon monoxide (CO) mạnh, quang phổ cận hồng ngoại của Gliese 229B chủ yếu gồm các dài hấp thụ từ methane (CH4), các đặc điểm chỉ được tìm thấy trên các hành tinh khổng lồ của Hệ Mặt Trời và Titan. Hấp thụ do va chạm (CIA) CH4, H2O, và phân tử hydro (H2) khiến Gliese 229B có các màu sắc xanh cận hồng ngoại. Sự nghiêng mạnh về phía phổ quang học đỏ của nó cũng thiếu các dải FeH và CrH là đặc điểm phân biệt của các sao lùn nâu kiểu L và thay vào đó bị ảnh hưởng bởi dải hấp thụ rất lớn có đặc điểm từ các kim loại alkali Na và K. Những khác biệt đó khiến Kirkpatrick đề xuất lớp quang phổ T cho các vật thể có dải hấp thụ H- và K- CH4. Ở thời điểm tháng 4 năm 2005, 58 sao lùn nâu kiểu T đã được biết. Các biểu đồ xếp hạng cận hồng ngoại cho các sao lùn nâu kiểu T gần đây đã được Adam Burgasser và Tom Geballe phát triển. Lý thuyết cho rằng các sao lùn nâu kiểu L là sự pha trộn giữa những ngôi sao có khối lượng rất thấp và các vật thể dưới sao (các sao lùn nâu), trong khi các sao lùn nâu lớp T chiếm số đông trong cộng đồng sao lùn nâu. Đa số thông lượng do các sao lùn nâu kiểu L và T phát ra ở trong khoảng cận hồng ngoại 1 tới 2.5 micromét. Nhiệt độ thấp và giảm bớt ở cuối dãy sao M, L và T dẫn tới một quang phổ cận hồng ngoại phong phú chứa nhiều đặc điểm, từ các dòng khá nhỏ của các loại nguyên tử trung tính tới các dòng phân tử lớn, tất cả chúng đều có sự phụ thuộc khác nhau vào nhiệt độ, hấp dẫn, và độ kim loại. Hơn nữa, những điều kiện nhiệt độ thấp đó thích hợp cho sự cô đọng thành tình trạng khí và sự hình thành các hạt. Các áp suất đặc trưng của các ngôi sao lùn nâu đã biết trong khoảng nhiệt độ từ 2200 hạ xuống 750 K (Burrows et al. 2001). So với các ngôi sao, vốn tự làm nóng mình bằng phản ứng nhiệt hạch ổn định bên trong, các ngôi sao lùn nâu lạnh đi nhanh chóng theo thời gian; các sao lùn nâu càng lớn càng lạnh đi nhanh hơn. === Các kỹ thuật quan sát === Coronagraph gần đây đã được sử dụng để phát hiện các vật thể mờ quay quanh các ngôi sao sáng nhìn thấy được, gồm cả Gliese 229B. Các kính viễn vọng nhạy được trang bị cùng với các thiết bị charge-coupled (CCDs) đã được dùng để quan sát các bầy sao ở xa nhằm tìm ra các vật thể mờ, gồm cả Teide 1.Những cuộc tìm kiếm trường rộng đã xác định các vật thể mờ riêng biệt như Kelu-1 (cách xa 30 năm ánh sáng) === Những thời điểm quan trọng === 1995: Sao lùn nâu đầu tiên được xác định. Teide 1, một vật thể M8 trong cụm sao Pleiades, được phát hiện bởi một CCD trong Đài thiên văn Tây Ban Nha Roque de los Muchachos của Instituto de Astrofísica de Canarias. Sao lùn nâu methane đầu tiên được xác định. Gliese 229B được khám phá quay quanh sao lùn đỏ Gliese 229A (cách 20 năm ánh sáng) sử dụng một adaptive optics coronagraph để làm sắc nét ảnh từ kính viễn vọng phản xạ 60 inch (1.5 m) tại Đài thiên văn Palomar trên Núi Palomar phía nam California; nghiên cứu phổ quang học hồng ngoại sau đó bằng kính thiên văn Hale 200 inch (5 m) cho thấy sự hiện diện phong phú của methane. 1998: Sao lùn nâu phát xạ tia X đầu tiên được phát hiện. Cha Halpha 1, một vật thể M8 trong đám mây tối Chamaeleon I, được xác định là một nguồn phát xạ tia X, tương tự như các ngôi sao đối lưu kiểu muộn (late-type). 15 tháng 12 năm 1999: Vụ lóe bùng tia X đầu tiên được phát hiện từ một sao lùn nâu. Một đội thuộc Đại học California đang quan sát LP 944-20 (60 lần khối lượng Sao Mộc, cách 16 năm ánh sáng) qua đài thiên văn tia X Chandra, đã thấy được một vụ lóe bùng kéo dài 2 giờ. 27 tháng 7 năm 2000: Phát xạ sóng radiao (trong lóe bùng và yên lặng) được phát hiện từ một ngôi sao lùn nâu. Một đội sinh viên thuộc Very Large Array đã thông báo vụ quan sát vật thể LP 944-20 của họ ngày 15 tháng 3 năm 2001 trong số báo Nature của Anh. === Những phát triển gần đây === Những cuộc quan sát các ứng cử viên là sao lùn nâu đã biết gần đây cho thấy một mẫu hình sáng và tối của các phát xạ hồng ngoại kiểu các đám mây khá lạnh và mờ bên ngoài bao quanh một nhân nóng bên trong bị xáo trộn bởi những cơn gió rất mạnh. Thời tiết trên những vật thể đó được cho là rất mãnh liệt, bằng và vượt quá những cơn bão nổi tiếng trên Sao Mộc. Những vụ lóe bùng tia X được quan sát thấy từ các ngôi sao lùn nâu từ năm 1999 cho thấy có sự thay đổi từ trường bên trong chúng, tương tự như sự thay đổi trong những ngôi sao có khối lượng rất thấp. Một ngôi sao lùn nâu, Cha 110913-773444, nằm cách chòm sao Chamaeleon 500 năm ánh sáng có thể đang trong quá trình hình thành bên trong một hệ mặt trời nhỏ. Các nhà thiên văn học thuộc Đại học Bang Pennsylvania đã phát hiện cái mà họ tinh là một đĩa khí và bụi tương tự với đĩa theo giả thuyết đã hình thành nên hệ mặt trời của chúng ta. Cha 110913-773444 là ngôi sao lùn nâu nhỏ nhất được phát hiện cho tới thời điểm hiện tại (gấp 8 lần khối lượng Sao Mộc) và nếu nó tạo ra một hệ mặt trời thì đây có thể là vật thể nhỏ nhất đã biết có được một hệ riêng. Những phát hiện của họ đã được xuất bản trong số ngày 10 tháng 12 của Astrophysical Journal Letters == Một số sao lùn nâu nổi tiếng == Bản mẫu:Split-section 2M1207: sao lùn nâu đầu tiên được phát hiện với một vật thể có khối lượng cỡ hành tinh quay quanh nó WD0137-349 B: Sao lùn nâu đầu tiên được xác định đã trải qua giai đoạn sao đỏ khổng lồ đầu tiên (Maxted et al. 2006, Nature, 442, 543). Một số nhà thiên văn học cũng đã tiên đoán, rằng Mặt Trời (Sol) có thể có một bạn đồng hành là một ngôi sao lùn nâu (thỉnh thoảng được gọi là Nemesis) chưa được phát hiện, sao này tương tác với đám mây Oort (và có thể giúp tạo thành vị trí của các hành tinh lùn) . == Những ngôi sao lùn nâu trong tiểu thuyết == Một ngôi sao lùn nâu tưởng tượng, Hyundai +4904/-56, is the setting of the nearest router on the galactic Internet in Accelerando. Các ngôi sao lùn nâu xuất hiện nhiều trong tiểu thuyết Permanence của Karl Schroeder. Tiểu thuyết Seeker của Jack McDevitt đề cập tới ảnh hưởng của một sao lùn nâu khi đi qua một hệ hành tinh. Trong tiểu thuyết Nemesiscủa Isaac Asimov, Megas là một sao lùn nâu. == Xem thêm == Vật thể sao Sao lùn đen Sao tối Sao lùn cam Sao lùn đỏ Sao lùn trắng Sao lùn vàng Vật thể dưới sao Hành tinh ngoài hệ mặt trời Planetar Sao lùn dưới nâu Các danh sách Danh sách các sao lùn nâu Khác Vật chất tối Sa mạc sao lùn nâu Phân loại sao == Tham khảo == == Liên kết ngoài == === Tiếng Việt === Sao lùn nâu CHRX-73B Phát hiện chấn động về sao lùn nâu === Lịch sử === S. S. Kumar, Low-Luminosity Stars. Gordon and Breach, London, 1969—an early overview paper on brown dwarfs The Columbia Encyclopedia === Chi tiết === A current list of L and T dwarfs A geological definition of brown dwarfs, contrasted with stars and planets (via Berkeley) Neill Reid's pages at the Space Telescope Science Institute: On spectral analysis of M dwarfs, L dwarfs, and T dwarfs Temperature and mass characteristics of low-temperature dwarfs First X-ray from brown dwarf observed, Spaceref.com, 2000 Brown Dwarfs and ultracool dwarfs (late-M, L, T) - D. Montes, UCM Wild Weather: Iron Rain on Failed Stars - scientists are investigating astonishing weather patterns on brown dwarfs, Space.com, 2006 NASA Brown dwarf detectives - Detailed information in a simplified sense. === Sao === Cha Halpha 1 stats and history A census of observed brown dwarfs (not all confirmed), ca 1998 Epsilon Indi Ba and Bb, a pair of brown dwarfs 12 ly away Luhman et al., Discovery of a Planetary-Mass Brown Dwarf with a Circumstellar Disk Discovery Narrows the Gap Between Planets and Brown Dwarfs, 2007 Y-Spectral class for Ultra-Cool Dwarfs, N.R.Deacon and N.C.Hambly, 2006
giải quần vợt estoril mở rộng 2017.txt
Giải quần vợt Estoril Mở rộng 2017 (được hiểu là Millennium Estoril Open cho sponsorship purposes) là giải quần vợt sắp diễn ra chơi ở mặt sân đất nện. Nó lần lần thứ 3 tổ chức Giải quần vợt Estoril Mở rộng, và cũng là 1 phần của ATP World Tour 250 series thuộc ATP World Tour 2017. Sự kiễn diễn ra ở Clube de Ténis do Estoril tại Cascais, Bồ Đào Nha, từ ngày 1 – 7 tháng 5 năm 2017. == Vận động viên Đơn == === Hạt giống === Rankings are as of April 24, 2017. === Vận động viên khác === Wildcard: David Ferrer Frederico Ferreira Silva Pedro Sousa Vượt qua vòng loại: Salvatore Caruso João Domingues Bjorn Fratangelo Elias Ymer === Bỏ cuộc === Trước giải đấu Federico Delbonis →thay thế bởi Guillermo García López Nick Kyrgios →thay thế bởi Renzo Olivo Daniil Medvedev →thay thế bởi Evgeny Donskoy Juan Mónaco →thay thế bởi Gastão Elias Yoshihito Nishioka →thay thế bởi Kevin Anderson Albert Ramos Viñolas →thay thế bởi Yūichi Sugita Sau giải đấu Juan Martín del Potro == Vận động viên Đôi == === Hạt giống === Bảng xếp hạng được biết vào ngày 24 tháng 4 năm 2017. === Vận động viên khác === Wildcard(Đặc cách) Felipe Cunha-Silva / Fred Gil Gastão Elias / Frederico Ferreira Silva == Nha vô địch == === Đơn === Pablo Carreño Busta def. Gilles Müller, 6–2, 7–6(7–5) === Đôi === Ryan Harrison / Michael Venus def. David Marrero / Tommy Robredo, 7–5, 6–2 == Tham khảo == == Liên kết ngoài == Official website
ieee 802.11.txt
IEEE 802.11 là một tập các chuẩn của tổ chức IEEE (tiếng Anh: Institute of Electrical and Electronic Engineers) bao gồm các đặc tả kỹ thuật liên quan đến hệ thống mạng không dây. Chuẩn IEEE 802.11 mô tả một giao tiếp "truyền qua không khí" (tiếng Anh: over-the-air) sử dụng sóng vô tuyến để truyền nhận tín hiệu giữa một thiết bị không dây và tổng đài hoặc điểm truy cập (tiếng Anh: access point), hoặc giữa 2 hay nhiều thiết bị không dây với nhau (mô hình ad-hoc). == Lịch sử == Năm 1985, Ủy ban Liên lạc Liên bang Mỹ FCC (tiếng Anh: Federal Communications Commission) quyết định "mở cửa" một số băng tần của giải sóng không dây, cho phép sử dụng chúng mà không cần giấy phép của chính phủ. Các giải sóng này, gọi là các "băng tần rác" (900 MHz, 2.4 GHz, 5.8 GHz), được phân bổ cho các thiết bị sử dụng vào các mục đích ngoài liên lạc, chẳng hạn như lò vi sóng sử dụng các sóng vô tuyến để đun nóng thức ăn. FCC đã đưa các băng tần này vào phục vụ mục đích liên lạc dựa trên cơ sở: bất cứ thiết bị nào sử dụng những dải sóng đó đều phải đi vòng để tránh ảnh hưởng của việc truy cập từ các thiết bị khác. Điều này được thực hiện bằng công nghệ gọi là phổ rộng (vốn được phát triển cho quân đội Mỹ sử dụng), có khả năng phát tín hiệu vô tuyến qua một vùng nhiều tần số, khác với phương pháp truyền thống là truyền trên một tần số đơn lẻ được xác định rõ. Trước đó, các nhà cung cấp thiết bị không dây dùng cho mạng cục bộ LAN (tiếng Anh: Local Area Network) như Proxim và Symbol ở Mỹ đều phát triển những thiết sản phẩm độc quyền, tức là thiết bị của hãng này không thể giao tiếp được với của hãng khác. Nhờ sự thành công của mạng hữu tuyến Ethernet, một số công ty bắt đầu nhận ra rằng việc xác lập một chuẩn không dây chung là rất quan trọng. Vì người tiêu dùng khi đó sẽ dễ dàng chấp nhận công nghệ mới nếu họ không còn bị bó hẹp trong sản phẩm và dịch vụ của một hãng cụ thể. Năm 1988, công ty NCR, vì muốn sử dụng dải tần "rác" để liên thông các máy rút tiền qua kết nối không dây, đã yêu cầu một kỹ sư của họ có tên Victor Hayes tìm hiểu việc thiết lập chuẩn chung. Ông này cùng với chuyên gia Bruce Tuch của Trung tâm nghiên cứu Bell Labs đã tiếp cận với Tổ chức IEEE, nơi mà một tiểu ban có tên 802.3 đã xác lập ra chuẩn mạng cục bộ Ethernet phổ biến hiện nay. Một tiểu ban mới có tên 802.11 đã ra đời và quá trình thương lượng hợp nhất các chuẩn bắt đầu. Năm 1997, tiểu ban này đã phê chuẩn một bộ tiêu chí cơ bản, cho phép mức truyền dữ liệu 2Mbps, sử dụng một trong 2 công nghệ dải tần rộng là frequency hopping (tránh nhiễu bằng cách chuyển đổi liên tục giữa các tần số radio) hoặc direct-sequence transmission (phát tín hiệu trên một dải gồm nhiều tần số). Chuẩn mới chính thức được ban hành năm 1997 và các kỹ sư ngay lập tức bắt đầu nghiên cứu một thiết bị mẫu tương thích với nó. Sau đó có 2 phiên bản chuẩn, 802.11b (hoạt động trên băng tần 2,4 GHz) và 802.11a (hoạt động trên băng tần 5,8 GHz), lần lượt được phê duyệt tháng 12 năm 1999 và tháng 1 năm 2000. Sau khi có chuẩn 802.11b, các công ty bắt đầu phát triển những thiết bị tương thích với nó. Tuy nhiên, bộ tiêu chí này quá dài và phức tạp với 400 trang tài liệu và chuyện tương thích vẫn còn là vấn đề. Vì thế, vào tháng 8 năm 1999, có 6 công ty bao gồm Intersil, 3Com, Nokia, Aironet (về sau được Cisco sáp nhập), Symbol và Lucent liên kết với nhau để tạo ra Liên minh tương thích Ethernet không dây WECA (tếng Anh: Wireless Ethernet Compatibility Alliance). Mục tiêu của tổ chức này là xác nhận thiết bị không dây của những nhà cung cấp phải tương thích thực sự với nhau, đơn giản hóa những tiêu chí của IEEE 802. == Kiến trúc == Chuẩn 802.11 cũng như các chuẩn khác trong họ IEEE 802, nó tập trung vào 2 tầng thấp nhất trong mô hình OSI – là tầng vật lý (tiếng Anh: physical) và tầng liên kết dữ liệu (tiếng Anh: datalink). Do đó, tất cả hệ thống mạng theo chuẩn 802 đều có 2 thành phần chính là MAC (Media Access Control) và PHY (Physical). MAC là một tập hợp các luật định nghĩa việc truy xuất và gửi dữ liệu, còn chi tiết của việc truyền dẫn và thu nhận dữ liệu là nhiệm vụ của PHY. === Tầng MAC === Mạng wireless cho phép người truy cập mạng di động – và tầng MAC là nơi hiện thực tính năng này. Do đó, khác với đặc tả của chuẩn IEEE 802 về tầng MAC của các mạng có dây truyền thống – tầng MAC của chuẩn 802.11 sẽ có thêm nhiều tính năng phức tạp hơn nhiều. === Tầng PHY === Do tính đặc thù của mạng không dây là tầng PHY dựa trên sóng vô tuyến nên trong tầng PHY sẽ có nhiều vấn đề và kỹ thuật hiện thực khác hơn nhiều so với mạng có dây. == Các thiết bị dùng trong mạng không dây == === Access Point === Access Point (điểm truy cập) cung cấp 1 ngõ truy cập cho client khi muốn kết nối vào WLAN. Đây là 1 thiết bị thuộc dạng bán song công (tiếng Anh: half-duplex), hoạt động tương đương như một Switch Ethernet thông minh. === Wireless Bridge === Wireless bridge (birdge không dây) cung cấp 1 kết nối giữa 2 segment LAN có dây, và nó được sử dụng cả trong mô hình điểm-điểm lẫn điểm-đa điểm. Nó là một thiết bị hoạt động ở tầng 2 theo kiểu half-duplex. === Ăngten === Ăngten (antenna) là một thiết bị dùng để chuyển đổi tín hiệu cao tần trên đường truyền thành sóng truyền trong không khí. Dải sóng điện từ phát ra từ antenna được gọi là beam hay lobe. Có 3 loại RF antenna phổ biến là omni-directional (truyền tín hiệu theo mọi hướng), semi-directional (truyền tín hiệu theo một hướng), và highly-directional (truyền tín hiệu điểm-điểm). Mỗi loại lại có nhiều kiểu antenna khác nhau, mỗi kiểu có những tính chất và công dụng khác nhau. Các antenna có độ lợi lớn cho vùng phủ sóng rộng hơn antenna có độ lợi thấp với cùng một mức công suất. == Chú thích == == Tham khảo == Matthew S. Gast. 802.11® Wireless Networks: The Definitive Guide. O’Reilly. Janice Reynolds. Going Wi-Fi-A Practical Guide to Planning and Building an 802.11 Network. CMP Books. cwna. Certified Wireless Network Administrator - Official Study Guide. Planet3 Wireless, Inc.
19 tháng 7.txt
Ngày 19 tháng 7 là ngày thứ 200 (201 trong năm nhuận) trong lịch Gregory. Còn 165 ngày trong năm. == Sự kiện == 1333 – Thỏa Hoan Thiết Mộc Nhĩ đăng cơ hoàng đế triều Nguyên ở tuổi 13, là vị hoàng đế Mông Cổ cuối cùng cai trị Trung Hoa. 1553 – Chín ngày sau khi lên ngôi, Nữ vương Jane Grey của Anh và Ireland bị bắt giam, Mary I trở thành nữ vương mới của hai vương quốc. 1864 – Quân Thanh chiếm được Thiên Kinh của Thái Bình Thiên Quốc. 1883 – Tự Đức Đế của nhà Nguyễn ký di chúc truyền ngôi cho Hoàng tử Ưng Chân, song Ưng Chân chỉ tại vị trong vài ngày. 1870 – Pháp tuyên chiến với Phổ do những mâu thuẫn về kế vị ngai vàng ở Tây Ban Nha, Chiến tranh Pháp-Phổ bùng nổ. 1888 – Tổng thống Pháp Marie François Sadi Carnot ký sắc lệnh thành lập hai thành phố Hà Nội và Hải Phòng tại Liên bang Đông Dương. 1900 – Tuyến đầu tiên của hệ thống tàu điện ngầm Métro Paris bắt đầu hoạt động, kết nối nhiều địa điểm diễn ra triển lãm thế giới. 2007 – Taliban bắt giữ 23 tín hữu Cơ Đốc giáo người Hàn Quốc, bắt đầu một cuộc khủng hoảng con tin. == Sinh == 1893 - Maiacôpxki nhà thơ, nhà viết kịch Nga. == Mất == 1947 - Hoàng Thị Uyên, nữ doanh nhân và nhà từ thiện Việt Nam == Những ngày lễ và kỷ niệm == == Tham khảo ==
công lý.txt
Công lý là một khái niệm đúng đắn luân lý dựa trên nền tảng đạo đức, tính hợp lý, pháp luật, quy luật tự nhiên, tôn giáo, sự tương đối hay công bằng, cũng như việc quản lý của pháp luật, có tính đến quyền bất khả nhượng và bẩm sinh của tất cả mọi người và công dân, quyền của tất cả mọi người, cá nhân để bảo vệ bình đẳng trước pháp luật của các quyền dân sự của họ, mà không phân biệt đối xử dưa trên sắc tộc, giới tính, định hướng giới tính, nguồn gốc dân tộc, màu da, tôn giáo, tuổi tác, hoặc các đặc tính khác, và hơn nữa, coi như là bao gồm các luật công bằng xã hội. == Xem thêm == Pháp quyền Đạo đức Bộ luật Dân sự Pháp Tòa án Công lý Quốc tế Tòa án Hình sự Quốc tế Luân lý học == Chú thích ==
người ireland.txt
Người Ireland hay người Ai len (tiếng Ireland: Muintir na hÉireann hoặc na hÉireannaigh) là một nhóm dân tộc người có nguồn gốc từ Ireland, một hòn đảo ở tây bắc châu Âu. Ireland đã có dân cư khoảng 9.000 năm. Các nhóm dân tộc chính tương tác với người Ireland trong thời Trung Cổ bao gồm người Pict, người Scotland, và người Viking. Do tiếp xúc này, người Iceland được ghi nhận có gốc tích Ailen. Khoảng bốn mươi phần trăm dân số của Iceland đã định cư ở Gaels mà ban đầu đến từ Ai-len hoặc nơi ngày nay là Scotland. == Tham khảo ==
6 tháng 10.txt
Ngày 6 tháng 10 là ngày thứ 279 (280 trong năm nhuận) trong lịch Gregory. Còn 86 ngày trong năm. == Sự kiện == 105 TCN – Người Cimbri và Teuton đánh bại quân đội Cộng hòa La Mã trong trận Arausio diễn ra trên lãnh thổ nay thuộc Pháp. 69 TCN – Trận Tigranocerta: Quân La Mã dưới quyền Lucullus đánh bại quân Armenia dưới quyền quốc vương Tigranes. 1142 – Tần Cối được Tống Cao Tông phong làm thái sư, ông là lãnh đạo của phái chủ hòa trong chiến tranh Tống-Kim. 1913 – Viên Thế Khải trở thành đại tổng thống đầu tiên của Trung Hoa Dân Quốc, đánh dấu 'Chính phủ Bắc Dương chính thức thành lập. 1939 – Chiến tranh thế giới thứ hai: Cuộc tấn công Ba Lan của quân đội Đức kết thúc với việc đội quân Polesie đầu hàng. 1973 – Phối hợp với Syria, Ai Cập cho quân đội băng qua kênh đào Suez và tấn công tuyến Bar Lev của Israel, bắt đầu Chiến tranh Yom Kippur. 1976 – Thủ tướng Quốc vụ viện Trung Quốc Hoa Quốc Phong ra lệnh cho công an bắt giữ Tứ nhân bang cùng những người cộng tác. 1976 – Lực lượng vũ trang và cánh hữu Thái Lan tàn sát sinh viên tụ tập tại Đại học Thammasat để phản đối cựu độc tài Thanom Kittikachorn về nước. 1977 – Mẫu thử nghiệm của dòng Máy bay tiêm kích phản lực thế hệ thứ tư Mikoyan MiG-29 của Liên Xô tiến hành chuyến bay đầu tiên. 1981 – Tổng thống Ai Cập Anwar Al-Sadad bị ám sát trong một buổi lễ duyệt binh thường niên tại Cairo. == Sinh == 1887 - Phan Khôi, nhà báo, học giả Việt Nam (m. 1959) 1918 - Ngô Khánh Thụy, chính trị gia người Singapore (m. 2010) 1942 - Xuân Quỳnh, nữ thi sĩ Việt Nam (m. 1988) 1988- Horikita Maki, diễn viên người Nhật == Mất == 1981 – Anwar Sadat, tổng thống Ai cập, người có công sức tìm hòa bình với Do Thái, bị ám sát. Vụ bắn này được trực tiếp truyền hình. 1989 - Bette Davis, huyền thoại điện ảnh Mỹ. == Những ngày lễ và kỷ niệm == == Tham khảo ==
hiệp hội quần vợt nhà nghề.txt
Hiệp hội quần vợt nhà nghề hay Hiệp hội Quần vợt Chuyên nghiệp (tiếng Anh Association of Tennis Professionals, viết tắt ATP), được thành lập vào năm 1972, là Hiệp hội quần vợt của các tay vợt nam. Hiệp hội nữ tương tự là WTA, cả ATP và WTA được điều hành bởi Liên đoàn quần vợt Quốc tế. Hiệp hội quần vợt nhà nghề tổ chức hầu hết các giải thi đấu cho nam, ngoại trừ Grand Slam, Davis Cup bởi ITF; ATP World Tour Finals cùng với ITF. Ngoài ra còn có bảng xếp hạng ATP, bảng tổng số điểm các tay vợt giành được trong năm. Dựa vào bản xếp hạng này, nhà tổ chức các giải đấu có thể phân loại hạt giống cho các giải đấu. == Lịch sử == Hiệp hội quần vợt chuyên nghiệp hay ATP được hình thành vào năm 1972 để bảo vệ quyền lợi của người chơi quần vợt nam chuyên nghiệp. Kể từ năm 1990, Hội đã tổ chức các giải trên toàn thế giới về quần vợt dành cho nam giới, các ATP Tour, được đổi tên trong tháng 1 năm 2009 và hiện nay được gọi là ATP World Tour. ATP có văn phòng điều hành ở London, Anh. ATP châu Mỹ có trụ sở tại Ponte Vedra Beach, Florida, Hoa Kỳ; ATP châu Âu có trụ sở tại Monaco, và ATP quốc tế, bao gồm châu Phi, châu Á và Australasia, là trụ sở tại Sydney, Australia. Bắt đầu vào năm 1972 bởi một số tay vợt, nó lần đầu tiên được thành lập bởi Jack Kramer và Cliff Drysdale.. Từ 1974-1989 được quản lý bởi một Ủy ban phụ của nam giới được gọi là Hội đồng quần vợt. Nó được tạo thành từ các đại diện của Liên đoàn quần vợt Quốc tế (ITF), các ATP, và Giám đốc giải đấu trên khắp thế giới. Đến năm 1991, ATP đã có gói truyền hình đầu tiên của họ để phát sóng 19 giải thi đấu với thế giới Coming on-line với trang web đầu tiên của họ vào năm 1995. Đã nhanh chóng theo sau một thỏa thuận nhiều năm với Mercedes-Benz. Các vụ kiện trong năm 2008, xung quanh hầu như cùng một vấn đề, kết quả là tái cấu trúc ATP. == ATP Tour == Các giải ATP Tour bao gồm Grand Slam, ATP World Tour Masters 1000, ATP World Tour 500 series, ATP World Tour 250 series, ATP Challenger Series, và ITF Futures tennis tournaments. Nội dung đánh đơn và đánh đôi với hầu hết các điểm xếp hạng (thu thập trong năm dương lịch) chơi trong mùa với giải kết thúc bằng giải ATP World Tour Finals, được điều hành bởi ITF, tính điểm vào ATP Entry Ranking. === Các giải đấu === ATP World Tour giải đấu trong năm 2009 được phân loại là ATP World Tour Masters 1000, ATP World Tour 500, và ATP World Tour 250. Nói chung các giải đấu Masters Series Masters mới trở thành mức 1000 và hàng loạt các quốc tế (vàng) các giải đấu đã trở thành cấp giải đấu 500 và 250. Các giải đấu Masters 1000: tại Indian Wells, Miami, Monte Carlo, Rome, Madrid, Toronto / Montreal, Cincinnati, Thượng Hải và Paris. Giải đấu cuối cùng trong năm là ATP World Tour Finals được chuyển đến London từ năm 2009. Từ năm 2011, Rome và Cincinnati cũng sẽ được kết hợp các giải đấu. Áp dụng xử phạt nặng với tay vợt hàng đầu bỏ qua sự kiện Masters 1000 series, trừ khi được trình bày bằng chứng y tế. Mức 500 bao gồm các giải đấu tại Rotterdam, Dubai, Acapulco, Memphis, Barcelona, Hamburg, Washington, Bắc Kinh, Tokyo, Basel và Valencia. ATP & ITF đã tuyên bố rằng Davis Cup 2009 Group và trao giải World Group Playoffs sẽ được tổng cộng lên đến 500 điểm. Người chơi tích lũy điểm trong 4 lượt và playoffs và đây là những tính là một trong bốn cầu thủ của một kết quả tốt nhất từ những sự kiện 500 điểm. 125 điểm bổ sung được dành cho tay vợt người thắng tất cả 8 trận liền và giành được Cúp Davis. Các tên miền của trang web "www.atpworldtour.com". Danh sách các giải đấu, tiền thưởng và điểm thưởng như sau: == ATP Rankings (Bảng xếp hạng) == ATP công bố bảng xếp hạng hàng tuần của người chơi chuyên nghiệp, ATP Entry Ranking. Các Ranking Entry được sử dụng để xác định đủ điều kiện xét hạt giống trong tất cả các giải thi đấu cho cả đơn và đôi. Trong thời hạn Xếp hạng bao gồm đủ 52 tuần, các điểm được tích lũy, với ngoại lệ của những người của Tennis Masters Cup, có điểm đang bị bỏ sau sự kiện ATP cuối năm nay. Người chơi với những điểm nhất vào cuối mùa là số 1 thế giới của năm. Vào đầu mùa giải 2009, tất cả tích lũy điểm xếp hạng đã được tăng gấp đôi để mang lại cho họ phù hợp với hệ thống xếp hạng giải đấu mới. ATP Race là một cuộc chạy đua hàng năm từ đầu mùa giải kết thúc mùa giải nhưng đã ngưng từ năm 2009. Mỗi người chơi sẽ bắt đầu thu thập các điểm từ đầu mùa giải. Vào cuối mùa giải, các ATP Race xác định mà người chơi và các đôi (8 tay vợt đứng đầu và 4 đôi mạnh nhất) có thể cạnh tranh trong Tennis Masters Cup, bây giờ gọi là World Tour Finals. == Các kỉ lục ==
đội tuyển bóng đá quốc gia brasil.txt
Đội tuyển bóng đá quốc gia Brasil (tiếng Bồ Đào Nha: Seleção Brasileira de Futebol, SBF) là đội tuyển của Liên đoàn bóng đá Brasil và đại diện cho Brasil trên bình diện quốc tế. Trận thi đấu quốc tế đầu tiên của đội tuyển Brasil là trận gặp đội tuyển Argentina vào năm 1914. Brasil là đội bóng thành công nhất trên thế giới hiện nay, với năm lần chiến thắng tại Giải vô địch bóng đá thế giới của FIFA, gần đây nhất là vào năm 2002. Có một câu nói vui phổ biến trong bóng đá là: "Người Anh sáng tạo ra môn bóng đá, và người Brasil đã hoàn thiện nó". Đội bóng này thường được coi là đội bóng chơi tốt nhất hành tinh và là đội duy nhất tham dự tất cả các vòng chung kết bóng đá thế giới. == Biệt danh == Do tầm ảnh hưởng cao của mình, đội tuyển bóng đá quốc gia Brasil được biết đến với rất nhiều biệt danh. Một vài trong số đó là: == Lịch sử == Brasil là quốc gia độc nhất đã tham dự tất cả các Giải vô địch bóng đá thế giới và là quốc gia đầu tiên chiếm giải 5 lần (1958, 1962, 1970, 1994 và 2002). Với thành quả đó, người Brasil thường gọi đội tuyển quốc gia của họ là "Pentacampeão", có nghĩa là "5 lần vô địch" trong tiếng Bồ Đào Nha. Khi tính thêm 2 lần hạng nhì (1950 và 1998) và 2 lần hạng ba (1938 và 1978) tại giải vô địch thế giới, cũng như nhiều thành quả khác, quốc gia này được xem là thành công nhất thế giới về bóng đá. === Những năm đầu === Đội tuyển quốc gia của Brasil được thành lập vào năm 1914 và đã đấu trận đầu tiên với Exeter City F.C. ngay trong năm đó, thắng 2–0. Không như những chiến thắng trong tương lai, các lần thi đấu ban đầu của đội tuyển không có gì ngoạn mục, một phần vì các hiềm khích bên trong về vấn đề dùng các cầu thủ nhà nghề làm cho Liên đoàn bóng đá Brasil không thể có một đội tuyển hoàn hảo. Đặc biệt nhất là sự bất đồng ý kiến giữa hai hiệp hội bóng đá của bang São Paulo và bang Rio de Janeiro và hậu quả là đội tuyển bao gồm các cầu thủ của hai hiệp hội cãi cọ đó. Tại cả hai World Cup 1930 và World Cup 1934, Brasil bị loại ngay tại Vòng 1. Nhưng tại World Cup 1938 thì đã có hiện tượng mới cho tương lai, Brasil đã chiếm hạng ba thế giới với Leônidas da Silva trở thành cầu thủ đầu tiên ghi 4 bàn thắng trong một trận của giải. Brasil đăng cai World Cup 1950, lần giải đầu tiên sau Chiến tranh thế giới thứ hai. Giải này đặc biệt vì không có trận chung kết, thay vào đó là 4 đội vào Vòng chung kết và thi đấu vòng tròn một lượt. Tuy nhiên trận giữa Brasil và Uruguay đã được xem như "trận chung kết" của giải. Trận này xảy ra tại sân vận động Maracaña tại Rio de Janeiro trước 199.854 khán giả và Brasil chỉ cần hoà để đoạt giải vô địch. Brasil thua 1-2 sau khi đã dẫn đầu 1-0. Trận này được dân Nam Mỹ đặt tên là trận "Maracanazo". Sửa soạn cho World Cup 1954 tại Thụy Sĩ, đội tuyển của Brasil được thay đổi hoàn toàn, để xóa nhòa trận thua "Maracaña", nhưng vẫn còn các cầu thủ tốt như Nilton Santos, Djalma Santos và Didi. Tại trận tứ kết, Brasil đã bị thua Hungary 2-4. Đây là một trận "bẩn" nhất trong lịch sử bóng đá và đã được đặt tên là "Chiến trận Berne". === 2014 === == Danh hiệu == Vô địch thế giới: 5 Vô địch: 1958; 1962; 1970; 1994; 2002 Á quân: 1950; 1998 Hạng ba: 1938; 1978 Hạng tư: 1974; 2014 Vô địch Liên đoàn châu lục: 4 Vô địch: 1997; 2005; 2009; 2013 Á quân: 1999 Hạng tư: 2001 Vô địch Nam Mỹ: 8 Vô địch (8): 1919; 1922; 1949; 1989; 1997; 1999; 2004; 2007 Á quân (11): 1921; 1925; 1937; 1945; 1946; 1953; 1957; 1959; 1983; 1991; 1995 Hạng ba (7): 1916; 1917; 1920; 1942; 1959; 1975; 1979 Hạng tư (3): 1923; 1956; 1963 Vô địch CONCACAF Á quân: 1996; 2003 Hạng ba: 1998 Bóng đá nam tại Olympic: 2016 1984; 1988; 2012 1996; 2008 Hạng tư: 1976 Bóng đá nam tại Americas Games: 1963; 1975; 1979; 1987 1959; 2003 1983 == Thành tích == === Giải vô địch bóng đá thế giới === === Cúp Liên đoàn các châu lục === === Cúp bóng đá Nam Mỹ === == Lịch thi đấu == Thắng Hòa Thua === 2017 === == Cầu thủ == === Đội hình hiện tại === Đây là đội hình 23 cầu thủ được triệu tập tham dự vòng loại World Cup 2018 gặp Uruguay và Paraguay vào các ngày 23 và 28 tháng 3 năm 2017. Số liệu thống kê tính đến ngày 28 tháng 3 năm 2017, sau trận gặp Paraguay. === Triệu tập gần đây === INJ Cầu thủ rút lui vì chấn thương PRE Đội hình sơ bộ WD Cầu thủ rút lui do chấn thương không rõ ràng === Cầu thủ xuất sắc === Dưới đây là danh sách các cầu thủ xuất sắc từng khoác áo đội tuyển Brasil. == Các huấn luyện viên nổi tiếng == == Kỷ lục == === Số lần khoác áo đội tuyển quốc gia === Tính đến ngày 28 tháng 3 năm 2017 Cầu thủ in đậm vẫn còn thi đấu ở đội tuyển quốc gia. === Cầu thủ ghi nhiều bàn thắng nhất === Tính đến ngày 28 tháng 3 năm 2017 Cầu thủ in đậm vẫn còn thi đấu ở đội tuyển quốc gia. == Tham khảo == Ruy Castro, Andrew Downie (translator) (2005). Garrincha - The triumph and tragedy of Brazil's forgotten footballing hero. Yellow Jersey Press, London. ISBN 0-224-06433-9. == Chú thích == == Liên kết ngoài == Trang chủ Liên đoàn bóng đá Brasil Đội tuyển Brasil năm 1906- (tiếng Anh và tiếng Bồ Đào Nha) Đội tuyển Brasil năm 1914- (Chỉ tính các trận đấu hạng "A") Brasil ở các giải vô địch bóng đá thế giới Brasil: "Như thể họ đến từ một hành tinh khác..."
nguyễn vũ phong.txt
Nguyễn Vũ Phong (sinh ngày 6 tháng 2 năm 1985) tại Tam Bình, Vĩnh Long là một cầu thủ bóng đá Việt Nam, hiện đang chơi cho Câu lạc bộ bóng đá SHB Đà Nẵng. == Tiểu sử == Từ năm lên 7 tuổi, Nguyễn Vũ Phong đã theo anh trai là Nguyễn Vũ Phương - vốn là cựu tiền đạo tuyển huyện Tam Bình và tỉnh Vĩnh Long - tham gia thi đấu tại các trận đá phủi được tổ chức ngoài ruộng, sân trường và sau này là sân vận động xã. Tuy có vóc dáng nhỏ bé nhưng Vũ Phong lại có những cú đá "mu lai chân phải" rất mạnh và hiểm; kỹ thuật cá nhân rất tốt, có những pha đột phá, qua bóng "nhanh như gió" lại thi đấu rất "lỳ" và dai sức nên đội nào cũng muốn có mặt Phong trong đội hình khi "thi đấu". Năm lên 9 tuổi, Phong được một huấn luyện viên đội năng khiếu của Tam Bình chọn vào đội U11 và kể từ sau đó, dù là người nhỏ nhất đội - về thể hình lẫn số tuổi - nhưng Phong vẫn luôn có mặt ở thành phần các đội U13, U15 của huyện và tỉnh. Không phụ lòng mong đợi, Vũ Phong đã dẫn dắt đội U15 Tam Bình giành chức vô địch giải bóng đá toàn tỉnh, tranh cúp Hội Nhà báo Vĩnh Long trong 2 năm liên tiếp (1998 -1999); riêng bản thân Phong cũng được trao 2 giải thưởng cá nhân cao quý nhất: Vua phá lưới, Cầu thủ xuất sắc nhất giải. Đến kỳ thi tuyển vào Trường năng khiếu của tỉnh, Phong lại bị loại vì thiếu 1 cm chiều cao so với tiêu chuẩn 1m65 (chưa kể thiếu cân nặng).Tuy vậy, nhờ sự giới thiệu và bảo lãnh của các thầy, huấn luyện viên, quan chức ngành thể thao tỉnh-huyện, Vũ Phong vẫn được tuyển. Thời điểm ấy, đội bóng Vĩnh Long đã bị kỷ luật rớt hạng sau sự cố một cầu thủ đánh trọng tài trên sân nhà. Việc phải thi đấu ở giải hạng Nhì đã làm cho rất nhiều cầu thủ chuyển về đầu quân cho các địa phương khác hoặc từ giã bóng đá. Nhưng với tình yêu bóng đá, sự ủng hộ của cha mẹ, anh trai và lãnh đạo Sở Thể dục thể thao Vĩnh Long đã tiếp thêm nghị lực để Vũ Phong gắn bó với nghiệp quần đùi áo số. Để phát huy và nâng cao trình độ của tiền vệ tài năng này, lãnh đạo Sở và ban huấn luyện đã gửi Phong đi học hỏi tại các đội tuyển trẻ Quốc gia phía Nam. Tại Trung tâm Huấn luyện Quốc gia II, Vũ Phong được các thầy Hồ Thu, Đoàn Minh Xương kéo xuống thi đấu ở vị trí Tiền vệ phải. Và từ đó anh đã thể hiện một phong độ ấn tượng khi trở về thi đấu cho đội nhà ở giải hạng ba trong vai trò của một tiền vệ cánh. == Sự nghiệp cầu thủ == Vũ Phong bắt đầu sự nghiệp cầu thủ của mình ở đội Vĩnh Long. Năm 2002, Vũ Phong giành danh hiệu Vua phá lưới giải hạng ba và cùng Vĩnh Long lên chơi ở giải hạng nhì, Nguyễn Vũ Phong đã được triệu tập vào đội tuyển trẻ quốc gia Việt Nam và khoác áo đội tuyển U-18 Việt Nam dự giải vô địch Đông Nam Á năm 2003 và đội tuyển U-20 Việt Nam năm 2004. Năm 2005, Vũ Phong được gọi lên đội tuyển U-23 Việt Nam, trở thành cầu thủ đầu tiên từ hạng nhì lên thẳng đội tuyển. Anh cũng đã sang Philipines dự SEA Games 23 nhưng chỉ là dự bị. Năm 2006, Vũ Phong đã chuyển sang thi đấu cho Bình Dương và được gọi lên thi đấu cho đội tuyển quốc gia Việt Nam. Phong độ trồi sụt cùng những chấn thương của các tiền vệ Lê Tấn Tài, Thạch Bảo Khanh khiến Vũ Phong được xuất hiện nhiều hơn. Vị trí sở trường của Vũ Phong là tiền vệ cánh phải. Mùa bóng 2007 là một mùa bóng thành công của Vũ Phong. Ở vòng loại Olympic Bắc Kinh 2008, Vũ Phong chính là một trong hai nhân tố chính - cùng với Lê Công Vinh - đưa đội Việt Nam lần đầu tiên tiến vào đến vòng sơ loại thứ ba với 4 bàn thắng anh ghi được (cầu thủ ghi bàn nhiều nhất đội) và thành công nhất là cùng đội tuyển Việt Nam vào đến tứ kết Cúp bóng đá châu Á. Trong màu áo đội Becamex Bình Dương, dù chỉ ghi được 1 bàn thắng nhưng Vũ Phong đã đóng góp công sức rất lớn vào thành tích lần đầu tiên giành chức VĐQG V-League của đội bóng đất Thủ. Với nền tảng thể lực, tốc độ, kỹ thuật cao, khả năng sút phạt rất tốt, tinh thần thi đấu kiên cường, Vũ Phong được đánh giá là tiền vệ cánh hay nhất V-League. Năm 2008, anh lên đường cùng đội tuyển Việt Nam tham dự AFF Suzuki Cup 2008. Ở giải này anh đã thi đấu rất thành công, góp công lớn vào chức vô địch của đội tuyển Việt Nam. Ở trận gặp đội tuyển Malaysia, anh đóng vai người hùng khi ghi 2 bàn trong đó có một cú dứt điểm từ quá nửa sân để giúp đội tuyển Việt Nam thắng 3-2 . Trong trận chung kết lượt đi gặp đội tuyển Thái Lan, anh ghi bàn mở tỉ số từ một cú đánh đầu để giúp đội tuyển Việt Nam thắng trận 2-1 . Tại giải AFF Suzuki Cup 2010 trong trận đấu vòng loại với Singapore, anh đã ghi bàn thắng quý giá ấn định chiến thắng 1-0 để xếp đầu bảng B đi tiếp vào vòng trong cùng với Philippines. Ngày 4-8-2012, anh đã ghi được 4 bàn thắng trong trận gặp Vicem Hải Phòng trong chiến thắng 5-3 của Becamex Bình Dương. Sau kì AFF Cup 2014 không thành công của đội tuyển Việt Nam (thất bại trước Malaysia với tổng tỉ số 5-4 ở hai lượt trận bán kết), Nguyễn Vũ Phong quyết định chia tay đội tuyển quốc gia sau 8 năm gắn bó, tổng cộng anh đã thi đấu 46 trận và ghi được 7 bàn thắng. == Thành tích == === Với đội tuyển Việt Nam === Vô địch AFF Suzuki Cup 2008 === Becamex Bình Dương === Vô địch V-League: 2007, 2008 Vô địch Siêu cúp Việt Nam: 2007, 2008 Về nhì V-League: 2006, 2009 === Cá nhân === Quả bóng đồng Việt Nam: 2008,2010 Quả bóng bạc Việt Nam:2009 == Thống kê bàn thắng cho ĐTQG == == Chú thích == == Tham khảo ==
tên lửa.txt
Tên lửa (Hán-Việt: hỏa tiễn) là một khí cụ bay, có hoặc không có điều khiển, chỉ sử dụng một lần, chuyển động nhờ sức đẩy theo nguyên tắc phản lực do khí phụt ra từ động cơ tên lửa (xem thêm Định luật 3 Newton). Trong tiếng Anh, người ta phân biệt hai loại tên lửa. Loại thứ nhất là rocket (đôi khi được phiên sang tiếng Việt là "rốc két"), dùng nhiên liệu rắn và không có điều khiển. Loại thứ hai là missile, có thể dùng nhiên liệu rắn hoặc lỏng và có hệ điều khiển. Tuy nhiên, sự phân biệt này chỉ áp dụng đối với trường hợp các vũ khí chứ không áp dụng đối với các tên lửa dân sự hoặc tên lửa dùng để phóng tàu vũ trụ lên quỹ đạo. Có rất nhiều loại tên lửa và có nhiều kích cỡ khác nhau, từ loại rất nhỏ đến các loại tên lửa cực lớn như các tên lửa dùng để phóng các tàu vũ trụ. == Từ nguyên == Từ "tên lửa" xuất phát từ từ Hán-Việt "hỏa tiễn" ("hỏa" có nghĩa "lửa", "tiễn" có nghĩa "tên"). Hỏa tiễn ban đầu là những mũi tên buộc liều cháy. Mũi tên được phóng đi (chẳng hạn bằng cung) đem theo lửa để đốt mục tiêu. Loại "hỏa tiễn" này khác hoàn toàn với hỏa tiễn hiện đại: lấy "hỏa" đẩy "tiễn" đi. Người ta đã dùng từ "tên lửa" hay "hỏa tiễn" để chỉ thứ đạn phản lực chỉ vì chúng cũng để lại cái đuôi sáng rất ấn tượng như hỏa tiễn thời cổ. == Các thành phần cơ bản == Đầu đạn: là thành phần chứa chất nhồi (chất nổ, đầu đạn hạt nhân), hiệu quả của tên lửa phụ thuộc vào hiệu quả tiêu diệt mục tiêu của đầu đạn tại mục tiêu xác định. Thân có hình dạng khí động: Là hình dạng thiết kế tạo cho thân tên lửa có lực cản không khí nhỏ nhất để có thể bay xa. Hệ thống điều khiển: Là hệ thống giữ cho tên lửa ổn định trong khi bay (con quay, cánh tên lửa) và tác động làm thay đổi hướng và độ cao của tên lửa theo tín hiệu nhận được từ hệ thống chỉ huy để bay đến mục tiêu cần tiêu diệt. Hệ thống dẫn đường: lazer, ra đa, cảm ứng hồng ngoại Hệ thống đẩy: Là hệ thống cung cấp lực đẩy cho tên lửa, thông thường nó là các động cơ phản lực.... Cơ cấu bảo hiểm và điểm hỏa: Là bộ phận làm cho đầu đạn của tên lửa hoạt động tại một thời điểm nhất định theo yêu cầu. Hệ thống cung cấp điện: Là hệ thống tạo ra điện áp cung cấp cho các hệ thống trên boong làm việc như: hệ thống dẫn hướng, hệ thống điều khiển, cơ cấu bảo hiểm và điểm hỏa hoạt động, v.v.. Nhiên liệu: nhiên liệu rắn, hiđrô lỏng, oxi lỏng, cồn... == Phân loại tên lửa == Tên lửa có thể phân loại theo nhiều tiêu chuẩn phân loại: === Theo công dụng === Tên lửa chiến đấu Tên lửa huấn luyện Tên lửa nghiên cứu khoa học tên lửa vũ trụ để du hành vũ trụ (còn gọi là tên lửa mang, tên lửa đẩy hay tên lửa chuyển tải) === Theo hệ thống điều khiển === Tên lửa có điều khiển: quỹ đạo bay hoặc các tham số khác được hiệu chỉnh trong quá trình bay có thể được điều khiển theo nhiều phương thức như theo chương trình cài đặt sẵn (tự lập), điều khiển từ xa, tự dẫn... Tên lửa không điều khiển: không có tác động nào hiệu chỉnh quỹ đạo và các tham số khi bay. === Theo số tầng === tên lửa một tầng tên lửa nhiều tầng Khi tên lửa đang hoạt động, nhiên liệu (và do đó trọng lượng) nhiên liệu giảm dần, khiến cho trọng lượng vô ích (phần vỏ của bình chứa nhiên liệu) tăng dần lên. Vì thế càng về cuối hành trình, hiệu suất sức đẩy của tên lửa giảm đi. Vì thế khi thiết kế tên lửa, thùng nhiên liệu được ráp bởi nhiều phần (gọi là các tầng), và chúng được vứt khỏi tên lửa khi nhiên liệu trong phần đó vừa cạn Do vậy loại tên lửa này phần cánh dẫn hướng thường nằm ở phía trước, và trên mỗi tầng đều có các cánh ổn định để thay thế cho các cánh trên các tầng bị mất === Theo đầu đạn === tên lửa mang đầu đạn hạt nhân tên lửa mang đầu đạn thông thường === Theo tầm hoạt động === tên lửa tầm ngắn tên lửa tầm trung tên lửa tầm xa tên lửa vượt đại châu (còn gọi là tên lửa đạn đạo liên lục địa có thể bắn đến mọi điểm trên Trái Đất) SRBM - Short Range Ballistic Missile < 1,000 km MRBM - Medium Range Ballistic Missile 1,000-2,500 km IRBM - Intermediate Range Ballistic Missile 2,500-3,500 km LRICBM - Limited Range Intercontinental Ballistic Missile 3,500-8,000 km FRICBM - Full Range Intercontinental Ballistic Missile 8,000-12,000 km (Theo http://www.fas.org) === Theo quy mô nhiệm vụ === Tên lửa chiến lược: là loại tên lửa đạn đạo loại lớn mang đầu đạn hạt nhân sức huỷ diệt cực lớn dùng để huỷ diệt các thành phố, cơ sở hạ tầng... của đối phương, quy mô huỷ diệt của nó có vai trò quyết định kết cục chiến tranh. Đương lượng nổ của đầu đạn tên lửa chiến lược phải tính bằng megaton. Tên lửa chiến thuật: mang đầu đạn hạt nhân để tiêu diệt các lực lượng quân sự của đối phương trong một khoảng chiến trường nhỏ hẹp, đương lượng nổ chỉ tính bằng kiloton. === Theo đặc tính quỹ đạo và đặc điểm cấu tạo === Tên lửa đạn đạo (còn gọi là tên lửa đường đạn): là loại tên lửa có phần lớn quỹ đạo tuân theo phương trình của vật dưới tác động của trường trọng lực. Loại tên lửa này không bị tác động bởi lực nâng khí động học, thường được phóng thẳng đứng vượt ra khỏi tầng khí quyển đậm đặc và thâm nhập vũ trụ như một tên lửa vũ trụ. Tên lửa hành trình còn gọi là tên lửa cruise, tên lửa cruidơ, tên lửa có cánh hay tên lửa tuần kích: là loại tên lửa có độ cao trong phạm vi tầng khí quyển thấp, luôn chịu tác động của lực nâng khí động học, bay theo cao độ địa hình. === Theo nơi phóng và vị trí mục tiêu === tên lửa đất đối đất tên lửa đất đối không tên lửa đất đối hải tên lửa hàng không (gồm 3 loại: tên lửa không đối không, tên lửa không đối đất, tên lửa không đối hải) tên lửa hải đối không tên lửa hải đối hải tên lửa hải đối đất === Theo đối tượng tác chiến === tên lửa phòng không tên lửa chống tăng tên lửa chống ra-đa tên lửa chống tên lửa tên lửa chống ngầm (còn gọi là tên lửa - ngư lôi) == Xem thêm == Danh sách các tên lửa == Tham khảo == == Liên kết ngoài ==
nội các nhật bản.txt
Bài này viết về nhánh Hành pháp của chính quyền trung ương ở Nhật Bản. Về nhánh Lập pháp, xem bài Quốc hội Nhật Bản. Về nhánh Tư pháp, xem bài Tòa án Nhật Bản. Nội các Nhật Bản (tiếng Nhật: 内閣, Naikaku | Nội các) là nhánh hành pháp của chính quyền ở Nhật Bản. Đứng đầu nội các là Thủ tướng (総理大臣, Sori Daijin | Tổng Lý Đại Thần). Giúp việc cho Thủ tướng là các Bộ trưởng (大臣, Daijin | Đại Thần). Thủ tướng do Quốc hội bổ nhiệm. Còn bổ nhiệm và miễn nhiệm các bộ trưởng sẽ thuộc quyền của Thủ tướng. Tập thể Nội các chịu trách nhiệm trước Quốc hội và phải từ chức hoặc xin Thiên hoàng giải tán Hạ viện nếu bị Hạ viện mất tín nhiệm. Nội các Nhật Bản hiện đại được thành lập theo Hiến pháp năm 1946 của Nhật Bản. Trước đây, thời kỳ Đại Nhật Bản Đế quốc, Nội các được thành lập theo Hiến pháp Đại Nhật Bản Đế quốc và là một cơ quan dưới quyền của Nhật hoàng. == Bổ nhiệm == Theo Hiến pháp, các Bộ trưởng được Thủ tướng lựa chọn và bổ nhiệm. Phần lớn thành viên của Nội các, bao gồm cả Thủ tướng phải là đại biểu của một trong hai viện thuộc Quốc hội và tất cả thành viên đều phải là dân sự. Theo Luật Nội các năm 2001, số lượng Bộ trưởng không được quá 14 người, tuy nhiên, trong trường hợp đặc biệt, vẫn có thể lên đến 17 người. Trong trường hợp Nội các từ chức tập thể, Nội các vẫn phải điều hành công việc cho đến khi có một Thủ tướng mới được bổ nhiệm. Trong khi tại nhiệm, các hoạt động pháp lý vẫn có thể chống lại các Bộ trưởng mà không cần có sự đồng ý của Thủ tướng. Nội các phải từ chức tập thể trong những trường hợp sau: Khi bị Hạ viện bỏ phiếu quyết định bất tín nhiệm, trừ phi Hạ viện giải tán trong vòng 10 ngày; Tùy theo quyết định trong lần nhóm họp đầu tiên của Quốc hội khi Hạ viện mới được bầu ra qua tổng tuyển cử (ngay cả khi toàn bộ bộ trưởng sau đó được tái bổ nhiệm); Khi vị trí Thủ tướng bị bỏ trống, hoặc khi Thủ tướng tuyên bố ý định từ chức. == Quyền lực của Nội các == Nội các Nhật Bản có thể hành xử hai loại quyền lực. Một loại thực hiện thông qua Nhật hoàng theo thỉnh cầu và tư vấn của Nội các. Một loại nữa do Nội các trực tiếp thực hiện. Trái với nhiều nước theo chế độ quân chủ lập hiến khác, hoàng đế Nhật Bản không phải là nguyên thủ quốc gia về ngành hành pháp. Hiến pháp Nhật Bản đã trao toàn bộ công việc hành pháp cho Nội các. === Các quyền lực thực hiện qua Thiên hoàng === Triệu tập Quốc hội Giải tán Hạ viện Tuyên bố tổng tuyển cử Quốc hội Tiến hành các nghi lễ. === Các quyền lực tuyệt đối === Thực thi pháp luật Chính sách đối ngoại Ký kết các hiệp ước (với sự phê chuẩn của Quốc hội) Quản lý các dịch vụ công cộng Lập dự toán ngân sách trung ương (phải được Quốc hội phê chuẩn) Phê chuẩn các nghị định của Nội các Quyết định đại xá, đặc xá, phạt, giảm tội, khôi phục quyền Tất cả các luật và nghị định Nội các đều do Bộ trưởng liên quan ký == Nội các hiện tại == Nội các Abe == Nội các quá khứ == Nội các Noda == Tham khảo == == Liên kết ngoài == Website chính thức của Thủ tướng Nhật Bản và các bộ trưởng Danh sách các Nội các Nhật Bản theo thời gian (bằng tiếng Nhật)
bảo tàng lịch sử quân sự việt nam.txt
Bảo tàng Lịch sử Quân sự Việt Nam trực thuộc Tổng cục Chính trị là một các bảo tàng quốc gia và là bảo tàng đầu hệ của hệ thống bảo tàng quân đội. Bảo tàng hiện đang trưng bày và lưu giữ gần 16 vạn hiện vật, trong đó có nhiều hiện vật quý, đặc biệt là 4 bảo vật quốc gia (Máy bay MiG21 số hiệu 5121 và xe tăng T54B số hiệu 843, Bản đồ quyết tâm chiến dịch Hồ Chí Minh, Máy bay MiG21 số hiệu 4324). Trong khuôn viên Bảo tàng còn có di tích Cột cờ Hà Nội, đây là di tích kiến trúc cổ độc đáo, đã được xếp hạng di tích kiến trúc lịch sử quốc gia năm 1990. == Lịch sử hình thành == Cách mạng tháng 8 năm 1945 thành công, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ra đời. Trong muôn vàn khó khăn của một nhà nước mới thành lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn quan tâm đến việc khôi phục bảo vệ các di tích lịch sử, văn hóa và nghệ thuật của dân tộc. Ngày 23/11/1945, Người đã ký ban hành sắc lệnh số 65/SL-TN về bảo tồn di sản văn hóa. Đây là sắc lệnh đầu tiên về bảo tồn di sản văn hoá dân tộc. Thực hiện sắc lệnh này, trong kháng chiến chống Pháp, Bộ Quốc phòng đã chỉ đạo các cơ quan, đơn vị chú trọng thu thập, lưu giữ các tài liệu, hình ảnh, hiện vật phản ánh cuộc kháng chiến của nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhằm mục đích phục vụ sự nghiệp kháng chiến và kiến quốc. Trên cơ sở những hình ảnh, hiện vật thu thập được, nhiều cuộc triển lãm về thành tích chiến đấu và phục vụ chiến đấu được tổ chức tại căn cứ địa Việt Bắc đến chiến trường Nam bộ. Nhằm phát huy truyền thống đánh giặc giữ nước của dân tộc, phát huy bản chất tốt đẹp của "Bộ đội Cụ Hồ", cuối năm 1954, Tổng Quân ủy đã có chủ trương xây dựng Bảo tàng Quân đội. Đầu năm 1956, Đề án xây dựng Bảo tàng Quân đội được Tổng Quân ủy thông qua. Để thực hiện Đề án này, ngày 17/7/1956, Tổng cục Chính trị thành lập Ban Xây dựng Bảo tàng Quân đội trực thuộc Cục Tuyên huấn. Ngày 17/7/1956 trở thành ngày truyền thống của Bảo tàng Lịch sử Quân sự Việt Nam. Ngày 15/5/1964, Phòng Bảo tàng Quân đội được đổi tên thành Viện Bảo tàng Quân đội trực thuộc Tổng cục Chính trị với nhiệm vụ: Nghiên cứu, sưu tầm hiện vật và tuyên truyền giáo dục truyền thống, đồng thời tham mưu giúp Tổng cục Chính trị chỉ đạo hoạt động bảo tàng, nhà truyền thống toàn quân. Cuộc kháng chiến chống Mỹ kết thúc thắng lợi, đất nước thống nhất, cả nước bước vào thời mới thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Tổ chức, biên chế và nhiệm vụ của Viện Bảo tàng có nhiều thay đổi, một số cán bộ chuyển ngành, chuyển công tác và phục viên. Nhiệm vụ chính của Bảo tàng sau chiến tranh là thu hồi hiện vật sơ tán ở các địa phương tập trung về Hà Nội, tranh thủ sưu tầm hiện vật ở các chiến trường; củng cố, nâng cấp, sửa chữa hệ thống trưng bày phục vụ khách tham quan. Ngày 4/12/2002, Thủ tướng Chính phủ ra quyết định số 1155/QĐ-TTg đổi tên Viện Bảo tàng Quân đội thành Bảo tàng Lịch sử Quân sự Việt Nam == Lãnh đạo hiện nay == Giám đốc: Thiếu tướng Nguyễn Xuân Năng Phó Giám đốc: Trung tá Mai Thị Ngọc Phó Giám đốc: Thượng tá Phạm Văn Phi Phó Giám đốc: Đại tá Nguyễn Tiến Hải == Tổ chức == Phòng Hành chính Tổng hợp Phòng Nghiên cứu Sưu tầm, Quản lý Nghiệp vụ Phòng Kiểm kê, Bảo quản Phòng Trưng bày, Tuyên truyền Phòng Bán vé Ban Tài chính Bộ phận Mỹ thuật == Tầng một == Trong tầng một của khu bảo tàng có 3 gian phòng: Phòng đầu tiên nói về quân đội từ thời kỳ các vua Hùng đến khi Ngô Quyền đánh thắng quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng vào năm 938. Phòng ở giữa có tượng của Chủ tịch Hồ Chí Minh và các hình ảnh trong cuộc kháng chiến chống Pháp (1858-1945). Phòng cuối nói về các cuộc chiến đấu từ nhà Lý đến nhà Nguyễn. === Hiện vật trong phòng thứ nhất === Ở phòng thứ nhất, những hiện vật chủ yếu là: Dao, kiếm ở thời Đồ Đá, Trống đồng Heger 3. Các cuộc khởi nghĩa chủ yếu trong thời kỳ Bắc thuộc. Tượng Ngô Quyền. Lược đồ trận chiến trên sông Bạch Đằng. === Các hiện vật ở phòng cuối === Tại phòng cuối, có: Lược đồ trận đánh trên sông Như Nguyệt chống quân Tống lần 2. Ba cọc chông từ sông Bạch Đằng được sử dụng trong cuộc chiến chống quân Mông Cổ lần thứ 3 do Trần Hưng Đạo lãnh đạo. Tranh vẽ trận chiến chống quân Mông lần thứ 3. Mô hình pháo dùng trong chiến tranh Trịnh - Mạc. Tranh vua Quang Trung đại phá 29 vạn quân nhà Thanh. Mô hình pháo trong thế kỉ 16 - thế kỉ 18 được tìm thấy tại bến Hàm Rồng. == Cách trưng bày == Người tới thăm được dẫn dắt bởi lối "theo dòng lịch sử". Đầu tiên khách có thể theo dõi và cảm nhận được sự trưởng thành của Quân đội Nhân dân Việt Nam từ những đội Xích vệ (tự vệ đỏ) của phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh, tới khởi nghĩa Bắc Sơn, Nam Kỳ rồi đến cuộc kháng chiến chống Pháp với chiến thắng Điện Biên Phủ, và cuộc kháng chiến chống Mỹ với kết thúc là chiến dịch Hồ Chí Minh vào mùa xuân năm 1975. == Hiện vật trưng bày == Rất nhiều hiện vật có giá trị về lịch sử được trưng bày tại đây, có thể kể đến như: chiếc xe đạp thồ trong chiến dịch Điện Biên Phủ; máy bay MiG-19, MiG-21 và tên lửa Sam 2 và Sam 3 trong chiến dịch chống Mỹ, những chiếc chông tre bình dị mà hữu dụng cho tới chiếc xe tăng của binh đoàn cơ giới tiến vào Sài Gòn ngày 30 tháng 4 năm 1975, đặc biệt là chiếc xe tăng đã tiến vào Dinh Độc Lập ở chính giữa gian phòng. == Xem thêm == Cột cờ Hà Nội == Hình ảnh == == Tham khảo == == Liên kết ngoài == Website của Bảo tàng Lịch sử Quân sự Việt Nam
norfolk.txt
Norfolk là một hạt nằm ở vùng đất thấp của đông nước Anh. Hạt có diện tích 5371 km². Thủ phủ hạt đóng ở Norwich. Hạt này giáp với Lincolnshire về phía tây, Cambridgeshire về phía tây và phía tây nam và giáp Suffolk ở phía nam. Ranh giới phía bắc và phía đông là bờ biển Bắc và phía tây bắc giáp với the Wash. Trong số 34 hạt nông thôn của Anh, Norfolk là thứ hạt đông dân thứ bảy, với dân số 859.400 người. Tuy nhiên, đây là một hạt nông thôn rộng lớn có mật độ dân số thấp: 401 trên dặm vuông. == Tham khảo ==
câu lạc bộ bóng đá navibank sài gòn.txt
Câu lạc bộ bóng đá Navibank Sài Gòn là một câu lạc bộ bóng đá chuyên nghiệp đã giải thể tại Việt Nam. Tổng hành dinh của Câu lạc bộ đóng trụ sở tại Thành phố Hồ Chí Minh. == Lịch sử == === Tiền thân === Tiền thân của đội bóng là Câu lạc bộ bóng đá Quân khu 4, thành lập năm 1998, là một trong những đội bóng bán chuyên nghiệp của Quân đội Nhân dân Việt Nam, có nhiều thành tích thi đấu. Trụ sở chính của câu lạc bộ đó tại thành phố Vinh, Nghệ An. Ngày 27 tháng 10 năm 2009, Bộ Tư lệnh Quân khu 4 đã quyết định chuyển giao đội bóng cho Ngân hàng thương mại cổ phần Nam Việt(Navibank) do ông bầu Nguyễn Vĩnh Thọ quản lý. Đội bóng sẽ mang tên NaviBank Sài Gòn và tiếp tục thi đấu ở V-League 2010 . Các cầu thủ là quân nhân sẽ quyết định ra quân để khoác áo NaviBank hoặc tiếp tục ở lại trong quân đội, không theo đội bóng mới. Tổng hành dinh của Câu lạc bộ được chuyển từ thành phố Vinh, Nghệ An vào Thành phố Hồ Chí Minh vào tháng 11 năm 2009. === Thi đấu chuyên nghiệp === Trong mùa giải đầu tiên với tên mới, Navibank Sài Gòn chỉ trụ trạng sau khi giành chiến thắng trong trận play-off với đội đứng nhì Giải hạng nhất. Tuy vậy, do các tiêu chuẩn về chuyên nghiệp hóa các đội bóng sau mùa giải 2010, Navibank Sài Gòn không bị rớt hạng trực tiếp mà được thi đấu play-off với đội đứng thứ 2 Giải hạng nhất là Than Quảng Ninh. Với chiến thắng trong trận đấu tại sân Chi Lăng ngày 5 tháng 9 năm 2010, Navibank Sài Gòn trụ lại V-League. === Giải thể === Tháng 9 năm 2012 bầu Thọ quyết định bỏ bóng đá không tài trợ nữa. Ngày 5 tháng 12, ban lãnh đội Navibank Sài Gòn tuyên bố giải thể câu lạc bộ. == Thành tích == Cúp Quốc gia: Vô địch: 2011 == Đội hình == Đội hình đăng ký cho mùa giải cuối cùng năm 2012. Ghi chú: Quốc kỳ chỉ đội tuyển quốc gia được xác định rõ trong điều lệ tư cách FIFA. Các cầu thủ có thể giữ hơn một quốc tịch ngoài FIFA. == Thành viên nổi bật == === Vua phá lưới === Cầu thủ đoạt giải Vua phá lưới khi đang chơi cho đội: Lazaro de Souza – 2009 == Các huấn luyện viên trong lịch sử == == Thành tích tại V-League == == Thành tích tại các Cúp châu Á == == Tham khảo == == Liên kết ngoài == Trang chủ câu lạc bộ bóng đá Navibank Sài Gòn
dầu cọ.txt
Dầu cọ là một loại dầu thực vật được chiết xuất từ thịt (cùi) của quả cọ từ cây cọ dầu. Dầu cọ thô sau khi ép có màu vàng-đỏ sậm do chúng chứa nhiều hàm lượng Caroten và Vitamin E. Dầu cọ chứa khoảng 49 % chất béo no, khoảng 36 % chất béo chưa no đơn nhóm và 9 % chất béo chưa no đa nhóm. Dầu cọ được ví như món quà từ thiên nhiên dành tặng cho Malaysia và thế giới loài người. Malaysia là nước sản xuất dầu cọ lớn thứ hai trên thế giới, sau Indonesia. Năm 2011, kim ngạch xuất khẩu dầu cọ của Malaysia đạt khoảng 25,6 tỷ USD. == Nguyên nhân dầu bị đông == === Trạng thái vật lý (nhiệt độ môi trường) === Ở nhiệt độ thường, dầu cọ tồn tại ở dạng sáp với đặc trưng là chứa xấp xỉ 50% chất béo bão hòa. Khi nhiệt độ môi trường xuống dưới 20 độ C Dầu chuyển sang trạng thái đông đặc. Tính chất đặc trưng của dầu cọ có độ nóng chảy tương đối cao hơn so với dầu nành, dầu mè, dầu phộng….cho nên khi nhiệt độ môi trường xuống thấp nên dầu dẫn đến bị đông. Nguyên nhân là dầu cọ chứa nhiều axit béo no hơn các loại dầu khác. Theo PGS TS Phan Thị Sửu người tiêu dùng mua dầu thực vật nên chọn mua loại dầu lỏng, chứa nhiều axit béo không no theo thứ tự: dầu ôliu, dầu mè (vừng), dầu ngô, dầu hướng dương, dầu đậu nành, dầu cọ. Đối với sản phẩm Cooking oil sự chịu nhiệt từ 20 – 22oC, nếu nhiệt độ môi trường trên 30oC dầu sẽ tang chảy ngay và trở lại trạng thái bình thường lúc ban dầu. == Thành phần cấu tạo == Tính chất cấu tạo và thành phần dinh dưỡng không có gì thay đổi. cho nên khách hàng cứ yên tâm dùng sản phẩm. Hầu hết các gia đình đều có thói quen "trung thành" với một loại dầu ăn nào đó. Nếu dùng duy nhất một loại dầu để chế biến mọi loại thức ăn trong một thời dài thì vô hình trung đã hạn chế phần nào nguồn dinh dưỡng phong phú đồng thời sẽ làm giảm hứng thú ăn uống. Thực tế là hiếm có loại dầu ăn nào lại cung cấp đầy đủ mọi chất cần thiết cho cơ thể, mỗi loại dầu đều có những "sở trường" riêng, đáp ứng nhu cầu cần thiết cho cơ thể mỗi người. == Cách dùng đúng == Tốt nhất nên sử dụng dầu phù hợp với từng loại thực phẩm hoặc tối thiểu nên thay đổi loại dầu trong thời gian nhất định để đổi khẩu vị ăn uống cũng như làm phong phú thêm thành phần dinh dưỡng cho cơ thể. === Chiên rán === Dầu cọ (và các sản phẩm dầu cọ) có khả năng chịu nhiệt và chống ô xy hóa rất tốt; do vậy dầu cọ được xem là nguyên liệu lý tưởng trong sản xuất hỗn hợp dầu chiên. Các nhà sản xuất và tiêu dùng trên khắp thế giới đã ứng dụng dầu cọ với tỷ lệ cao trong dầu chiên vì hai mục đích: kinh tế và chất lượng tốt. Trong thực tế, dầu cọ đã dùng thay thế 100% các loại dầu chiết xuất từ các hạt truyền thống khác như đậu tương, hạt cải. Các sản phẩm dùng dầu chiên thường là khoai tây chiên, bánh donut, mỳ ăn liền và các loại hạt. Dù được chế biến từ nguồn gốc khác nhau: dầu cọ, dầu hướng dương, dầu lạc, dầu đậu nành, dầu vừng, dầu cải... nhưng các loại dầu thực vật đều có ưu điểm là không chứa cholesterol. Khi chiên (rán) ta nên chọn loại dầu (mỡ) nhiều acid béo no, ít acid béo thiết yếu. Vì khi chiên bất kể loại thực phẩm nào, trước tiên phải đun cho dầu (hoặc mỡ) nóng trên 100oC, rồi mới cho thực phẩm vào chiên cho đến khi có màu vàng. == Tham khảo ==
quốc oai.txt
Quốc Oai là một huyện phía Tây của thủ đô Hà Nội, cách trung tâm thành phố khoảng 20 km. == Địa lý == Vào năm 2009, huyện Quốc Oai có diện tích 147 km². Dân số 163.355 người. == Thay đổi hành chính == Trước đây là trấn, rồi phủ Quốc Oai, gồm các huyện Đan Phượng, Từ Liêm, Thạch Thất, Yên Sơn, Phúc Lộc (sau là Phúc Thọ). Năm 1831, tách huyện Từ Liêm về Tỉnh Hà Nội dưới thời nhà Nguyễn. Năm 1888, sau khi tách huyện Đan Phượng về phủ Hoài Đức thuộc tỉnh Hà Đông mới lập, phủ Quốc Oai chuyển thành huyện Quốc Oai thuộc tỉnh Sơn Tây. Từ năm 1965 thuộc tỉnh Hà Tây. Ngày 27 tháng 12 năm 1975 thuộc tỉnh Hà Sơn Bình, gồm 23 xã: Cấn Hữu, Cộng Hòa, Đại Thành, Đồng Quang, Đông Yên, Hiệp Thuận, Hòa Thạch, Hoàng Ngô, Liên Hiệp, Liệp Tuyết, Nghĩa Hương, Ngọc Liệp, Ngọc Mỹ, Phú Cát, Phú Mãn, Phượng Cách, Sài Sơn, Tam Hiệp, Tân Hòa, Tân Phú, Thạch Thán, Tuyết Nghĩa, Yên Sơn. Ngày 29 tháng 12 năm 1978, 7 xã của huyện Quốc Oai là Tam Hiệp, Liên Hiệp, Hiệp Thuận, Cộng Hòa, Tân Hòa, Tân Phú và Đại Thành nhập vào thủ đô Hà Nội, trong đó 4 xã (Cộng Hòa, Tân Hòa, Tân Phú, Đại Thành) nhập vào huyện Hoài Đức, 3 xã còn lại (Tam Hiệp, Liên Hiệp, Hiệp Thuận) nhập vào huyện Phúc Thọ, đều thuộc Hà Nội (Quyết định của Hội đồng Chính phủ ngày 17 tháng 2 năm 1979). Phần còn lại của huyện Quốc Oai vẫn ở lại tỉnh Hà Sơn Bình với tên gọi huyện Quốc Oai, gồm 16 xã: Cấn Hữu, Đồng Quang, Đông Yên, Hòa Thạch, Hoàng Ngô, Liệp Tuyết, Nghĩa Hương, Ngọc Liệp, Ngọc Mỹ, Phú Cát, Phú Mãn, Phượng Cách, Sài Sơn, Thạch Thán, Tuyết Nghĩa, Yên Sơn. Ngày 23 tháng 12 năm 1988, thành lập thị trấn Quốc Oai trên cơ sở giải thể xã Hoàng Ngô. Từ ngày 12 tháng 8 năm 1991 huyện Quốc Oai lại trở về với tỉnh Hà Tây. Các xã trước kia thuộc huyện Hoài Đức, Hà Nội cũng chuyển về huyện Quốc Oai. Riêng 3 xã Tam Hiệp, Liên Hiệp, Hiệp Thuận vẫn thuộc huyện Phúc Thọ. Như vậy, huyện Quốc Oai có 20 đơn vị hành chính gồm thị trấn Quốc Oai và 19 xã: Cấn Hữu, Cộng Hòa, Đại Thành, Đồng Quang, Đông Yên, Hòa Thạch, Liệp Tuyết, Nghĩa Hương, Ngọc Liệp, Ngọc Mỹ, Phú Cát, Phú Mãn, Phượng Cách, Sài Sơn, Tân Hòa, Tân Phú, Thạch Thán, Tuyết Nghĩa, Yên Sơn. Ngày 29 tháng 5 năm 2008, cùng với toàn bộ tỉnh Hà Tây, huyện Quốc Oai được nhập về thủ đô Hà Nội, và tiếp nhận thêm xã Đông Xuân từ huyện Lương Sơn tỉnh Hòa Bình về theo quyết định của HĐND Thành phố Hà Nội mới (mở rộng). Ngày 8 tháng 5 năm 2009, toàn bộ xã Đông Xuân được chuyển vào huyện Quốc Oai. Như vậy, huyện Quốc Oai có 1 thị trấn và 20 xã. == Đơn vị hành chính == Huyện Quốc Oai có 1 thị trấn Quốc Oai và 20 xã: Cấn Hữu, Cộng Hòa, Đại Thành, Đồng Quang, Đông Xuân, Đông Yên, Hòa Thạch, Liệp Tuyết, Nghĩa Hương, Ngọc Liệp, Ngọc Mỹ, Phú Cát, Phú Mãn, Phượng Cách, Sài Sơn, Tân Hòa, Tân Phú, Thạch Thán, Tuyết Nghĩa, Yên Sơn, Cộng Hòa. == Giao thông == Đại lộ Thăng Long Quốc lộ 21A cũ hay Đường Hồ Chí Minh == Đường phố == Hoàng Xá Đại lộ Thăng Long == Văn hóa, cảnh quan == Cảnh trí đẹp, bình yên và nên thơ, thể hiện trong thơ của nhà thơ quê hương xứ Đoài - Quang Dũng: Bao giờ trở lại đồng Bương, Cấn Về núi Sài Sơn ngó lúa vàng Sông Đáy chậm nguồn qua phủ Quốc Sáo diều vi vút thổi đêm trăng... Quốc Oai nổi tiếng với Chùa Thầy, nơi hàng năm có hàng ngàn du khách khắp mọi nơi tới vãn cảnh, với câu nói "Chuông Cấn, Bút Than,Gan Dương Cốc, Nón Mỹ" (Nghĩa là: Chuông lớn ở Chùa Cấn Hữu, học giỏi ở Ngọc Than, anh hùng lì lợm ở Dương Cốc và nơi làm nón đẹp phải kể đến Phú Mỹ). Ở thế kỷ X, Quốc Oai vốn thuộc căn cứ Đỗ Động giang của tướng quân Đỗ Cảnh Thạc thời 12 sứ quân trị vì. Hiện nay còn một số di tích thờ phụng ông như đình Cổ Hiền, đền Tam Xã,... Đình Cổ Hiền ở xã Tuyết Nghĩa, Quốc Oai. Đình nằm ở gần sông Tích, được coi là vị trí trung tâm thành Quèn xưa của Đỗ Tướng Công. Đình là nơi thờ thành hoàng làng Độc Nhĩ Vương Đỗ Cảnh Thạc, vị tướng nhà Ngô và một lãnh đạo nổi tiếng thời 12 sứ quân. Đỗ Cảnh Thạc là một vị tướng có tài, ngoài những chiến công hiển hách, ông còn là người giúp nhân dân trong "Nông – Trang – Canh – Cửi" nên khi mất được người dân trong lãnh địa suy tôn là thành hoàng làng. Đền Tam Xã còn được gọi là quán Tam Xã, đền Trình hay đền thờ Đỗ tướng công nằm ở trung tâm xã Sài Sơn. Xưa dân 3 làng Sài Khê, Thụy Khê, Đa Phúc là 3 xã cùng chung một đền thờ. Nay tam xã hợp nhất vào Sài Sơn nhưng mỗi làng đều xây dựng một ngôi đình để thờ vọng Đỗ tướng công. Vị trí xã Sài Sơn tương truyền là nơi sứ quân Cảnh Thạc hóa. == Hạ tầng == Hiện nay, trên địa bàn huyện Quốc Oai đã và đang hình thành một số khu đô thị cao cấp như khu đô thị Sunny Garden City (xã Sài Sơn), khu đô thị Tây Quốc Oai (xã Ngọc Mỹ)... == Tham khảo == == Liên kết ngoài == Quốc Oai trong Từ điển Bách khoa Việt Nam Diễn đàn của tuổi trẻ Quốc Oai
2016.txt
Năm 2016 là một năm nhuận bắt đầu bằng ngày thứ sáu trong lịch Gregory. == Sự kiện == === Tháng 1 === 3 tháng 1 – Sau tác động tiêu cực từ việc hành quyết Giáo sĩ Nimr al-Nimr, Iran đoạn tuyệt quan hệ ngoại giao với Ả Rập Xêút. 8 tháng 1 – Joaquín Guzmán, người được cho là trùm buôn bán ma túy có quyền lực nhất thế giới, bị bắt lại sau khi trốn thoát khỏi một nhà tù có an ninh cực nghiêm ngặt. 16 tháng 1 – Cơ quan Năng lượng Nguyên tử Quốc tế tuyên bố rằng Iran đã tháo dỡ thỏa đáng chương trình vũ khí hạt nhân của họ, cho phép Liên Hiệp Quốc lập tức dỡ bỏ các biện pháp trừng phạt. 28 tháng 1 – Tổ chức Y tế Thế giới công bố một đợt bùng phát virus Zika. === Tháng 2 === 7 tháng 2 – Triều Tiên phóng một tên lửa tầm xa vào không gian, vi phạm nhiều hiệp định của Liên Hiệp Quốc và khiến họ bị chỉ trích từ khắp thế giới. 12 tháng 2 – Giáo hoàng Phanxicô và Thượng phụ Kirill ký kết một tuyên bố đại kết trong lần hội kiến đầu tiên giữa các nhà lãnh đạo của Công giáo La Mã và Chính Thống giáo Nga kể từ khi hai bên ly giáo vào năm 1054. === Tháng 3 === 14 tháng 3 – ESA và Roscosmos phóng tàu ExoMars Trace Gas Orbiter chung trong một sứ mệnh lên Sao Hỏa. 21 tháng 3 – Tòa án Hình sự Quốc tế xác nhận Phó Tổng thống CHDC Congo Jean-Pierre Bemba phạm tội ác chiến tranh và tội ác chống nhân loại, lần đầu tiên toà án này kết tội một người vì bạo lực tình dục. 22 tháng 3 – Ba vụ đánh bom phối hợp tại Bruxelles, Bỉ khiến ít nhất 32 người thiệt mạng và làm bị thương ít nhất 250 người. Nhà nước Hồi giáo Iraq và Levant tuyên bố chịu trách nhiệm về các vụ tấn công. 24 tháng 3 – Cựu thủ lĩnh người Serb tại Bosnia Radovan Karadžić bị tuyên án 40 năm tù sau khi bị xác minh phạm tội diệt chủng và tội ác chống nhân loại trong Chiến tranh Bosnia. 27 tháng 3 – Một vụ đánh bom tự sát tại Công viên Gulshan-e-Iqbal, Lahore giết chết 75 người và làm bị thương khoảng 340 người khác, một tổ chức chiến binh Hồi giáo Sunni tuyên bố chịu trách nhiệm về cuộc tấn công. === Tháng 4 === 2 tháng 4 – Xung đột giữa quân đội Armenia và Azerbaijan tại Nagorno-Karabakh khiến ít nhất 193 người thiệt mạng, là vi phạm nghiêm trọng nhất Hiệp đình đình chiến năm 1994. 3 tháng 4 – Liên đoàn nhà báo điều tra quốc tế (ICIJ) và tờ báo Đức Süddeutsche Zeitung công bố một bộ gồm 11,5 triệu tài liệu mật từ công ty Mossack Fonseca tại Panama, cung cấp thông tin chi tiết về hơn 214.000 công ty ngoài khơi. === Tháng 5 === 19 tháng 4 – Chuyến bay 804 của EgyptAir gặp nạn cùng 66 người trên khoang tại Địa Trung Hải trên hành trình từ Paris đến Cairo. 30 tháng 5 – Cựu Tổng thống Chad Hissène Habré bị kết án tù chung thân vì các tội ác chống nhân loại trong nhiệm kỳ của ông từ năm 1982 đến năm 1990, lần đầu tiên một tòa án do Liên minh châu Phi ủng hộ kết án một cựu lãnh đạo quốc gia trong thẩm quyền của mình. === Tháng 6 === 1 tháng 6 – Hầm đường sắt dài nhất và sâu nhất thế giới là Đường hầm Gotthard được khánh thành sau hai thập niên xây dựng. 23 tháng 6 – Cử tri Anh Quốc tán thành rời khỏi Liên minh châu Âu trong một cuộc trưng cầu dân ý. 28 tháng 6 – Nhà nước Hồi giáo Iraq và Levant tuyên bố chịu trách nhiệm về cuộc tấn công Sân bay Atatürk tại Istanbul, giết chết 45 người và làm bị thương khoảng 230 người khác. === Tháng 7 === 1 tháng 7 – Latvia trở thành thành viên thứ 35 của Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD). 4 tháng 7 – Tàu vũ trụ Juno của NASA tiến vào quỹ đạo quanh Sao Mộc và bắt đầu một cuộc nghiên cứu hành tinh này trong 20 tháng. 12 tháng 7 – Philippines thắng vụ kiện trọng tài mà họ đệ trình tại Tòa án Trọng tài thường trực về tính hợp pháp của yêu sách "Đường chín đoạn" của Trung Quốc tại Biển Đông theo Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật biển. 22 tháng 7 – Công ty Nhật Bản Funai chế tạo chiếc đầu máy video VCR cuối cùng. 26 tháng 7 – Solar Impulse 2 trở thành máy bay chạy bằng năng lượng Mặt trời đầu tiên tiến hành chuyến bay vòng quanh Trái Đất. === Tháng 8 === 5–21 tháng 8 – Thế vận hội Mùa hè 2016 được tổ chức tại Rio de Janeiro, Brasil. 31 tháng 8 – Thượng nghị viện Brasil bỏ phiếu tán thành (61–20) luận tội Tổng thống Brasil Dilma Rousseff. Phó Tổng thống Brasil Michel Temer trở thành quyền tổng thống trong thời gian nhiệm kỳ còn lại của bà. === Tháng 9 === 3 tháng 9 – Hoa Kỳ và Trung Quốc, chịu trách nhiệm về 40% lượng phát thải carbon của thế giới, phê chuẩn Hiệp định khí hậu toàn cầu Paris. 8 tháng 9 – NASA phóng OSIRIS-REx, sứ mệnh mang mẫu thiên thạch trở về đầu tiên của họ. Máy thăm dò sẽ đến Bennu và được dự kiến trở về cùng các mẫu vật vào năm 2023. 9 tháng 9 – Chính phủ Triều Tiên tiến hành vụ thử hạt nhân lần thứ năm và được báo cáo là lớn nhất. Các nhà lãnh đạo thế giới chỉ trích động thái này, Hàn Quốc gọi đây là "sự liều lĩnh điên cuồng". 28 tháng 9 Các nhà điều tra quốc tế kết luận rằng Chuyến bay 17 của Malaysia Airlines bị bắn hạ bởi một tên lửa Buk đến từ khu vực do phiến quân thân Nga kiểm soát. Mức CO2 toàn cầu vượt 400 ppm tại thời điểm thường có mức tối thiểu trong năm. Mức độ 400 ppm được cho là cao hơn bất kỳ mức nào khác trong lịch sử nhân loại. 30 tháng 9 – Hai bức họa của Vincent Van Gogh, Seascape at Scheveningen và Congregation Leaving the Reformed Church in Nuenen, bị ăn trộm vào ngày 7 tháng 12 năm 2002 từ Bảo tàng Van Gogh tại Amsterdam được thu hồi, có giá trị tổng cộng là 100 triệu USD. === Tháng 10 === 13 tháng 10 – Maldives tuyên bố quyết định rút khỏi Thịnh vượng chung của các quốc gia. 15 tháng 10 – 150 quốc gia họp tại hội nghị thượng đỉnh UNEP tại Rwanda đồng ý giảm dần hydrofluorocarbons (HFCs), là một sửa đổi Nghị định thư Montreal. === Tháng 11 === 8 tháng 11 - Ứng cử viên Đảng Cộng hoà Donald Trump trở thành Tổng thống thứ 45 của Hoa Ki. 28 tháng 11 - Chuyến bay 2933 của LaMia Airlines từ Santa Cruz (Bolivia) đến Medellín (Colombia) chở CLB Chapecoense (Brazil) tham dự trận chung kết Copa Sudameriacana gặp nạn khiến 71 người thiệt mạng, trong đó có 19 thành viên của Chapecoense, 6 người sóng sót. === Tháng 12 === 19 tháng 12 – Đại sứ Nga tại Thổ Nhĩ Kỳ Andrei Karlov bị ám sát tại Ankara. 23 tháng 12 – Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc thông qua Nghị quyết 2334 chỉ trích "các khu định cư của Israel tại các các lãnh thổ Palestine bị chiếm đóng từ năm 1967". 25 tháng 12 – Một máy bay Tupolev Tu-154 rơi gần Sochi, Nga, làm toàn bộ 92 người trên khoang thiệt mạng, trong đó có 64 thành viên của Đoàn ca vũ Alexandrov thuộc Quân đội Nga. == Sinh == 2 tháng 3: Hoàng tử Oscar, Công tước xứ Skane của Thụy Điển == Mất == === Tháng 1 === 2 tháng 1: Nimr al-Nimr, thủ lĩnh tôn giáo Shia tại Ả Rập Saudi (s. 1959) 3 tháng 1: Peter Naur, nhà khoa học máy tính người Đan Mạch (s. 1928) 5 tháng 1: Pierre Boulez, nhà soạn nhạc, nhạc trưởng người Pháp (s. 1925) 10 tháng 1: David Bowie, ca sĩ, diễn viên người Anh (s. 1947) 14 tháng 1: Alan Rickman, diễn viên và đạo diễn người Anh (s. 1946) 24 tháng 1: Marvin Minsky, nhà khoa học máy tính người Mỹ (s. 1927) === Tháng 2 === 1 tháng 2: Viễn Châu (1924), "vua vọng cổ" chuyên viết lời và sáng tác các bài tân cổ và vọng cổ của cải lương Việt Nam. 13 tháng 2: Antonin Scalia, Thẩm phán Tối cao pháp viện Hoa Kỳ (s. 1936) 16 tháng 2: Boutros Boutros-Ghali, nhà chính trị và ngoại giao người Ai Cập, Tổng Thư ký Liên Hiệp Quốc (s. 1922) 19 tháng 2: Umberto Eco, nhà văn và nhà triết học người Ý (s. 1932) Harper Lee, nhà văn người Mỹ (s. 1926) === Tháng 3 === 5 tháng 3 – Ray Tomlinson, lập trình viên máy tính người Mỹ (s. 1941) 6 tháng 3 – Nancy Reagan, diễn viên người Mỹ, Đệ nhất phu nhân Hoa Kỳ (s. 1921) 8 tháng 3 – George Martin, nhà thu âm, nhà soạn nhạc, nhà cải biên và kỹ sư người Anh (s. 1926) 12 tháng 3 – Lloyd Shapley, nhà toán học người Mỹ, đoạt giải Nobel (s. 1923) 13 tháng 3 – Hilary Putnam, nhà triết học, toán học và khoa học máy tính người Mỹ (s. 1926) 18 tháng 3 Lothar Späth, chính trị gia người Đức (s. 1937) Guido Westerwelle, chính trị gia người Đức (s. 1961) 24 tháng 3 Johan Cruyff, cầu thủ và huấn luyện viên bóng đá người Hà Lan (s. 1947) Garry Shandling, diễn viên người Mỹ (b. 1949) 29 tháng 3 – Patty Duke, diễn viên người Mỹ (s. 1946) 31 tháng 3 Hans-Dietrich Genscher, chính trị gia người Đức (s. 1927) Zaha Hadid, kiến trúc sư người Anh gốc Iraq (s. 1950) Imre Kertész, tác gia người Hungary, đoạt giải Nobel (s. 1929) === Tháng 4 === 3 tháng 4 Cesare Maldini, cầu thủ và huấn luyện viên bóng đá người Ý (s. 1932) Wada Kouji, ca sĩ người Nhật Bản (s. 1974) 4 tháng 4 – Chus Lampreave, diễn viên người Tây Ban Nha (s. 1930) 19 tháng 4 – Walter Kohn, nhà vật lý và hóa học người Mỹ gốc Áo (s. 1923) 21 tháng 4 – Prince, ca sĩ người Mỹ (s. 1958) 23 tháng 4 – Banharn Silpa-archa, Thủ tướng Thái Lan thứ 21 (s. 1932) 30 tháng 4 – Harold Kroto, nhà hóa học người Anh, đoạt giải Nobel (s. 1939) === Tháng 5 === 19 tháng 5 – Alexandre Astruc, nhà phê bình và đạo diễn phim người Pháp (b. 1923) === Tháng 6 === 3 tháng 6 – Muhammad Ali, vận động viên quyền Anh người Mỹ (s. 1942) 6 tháng 6 – Viktor Korchnoi, đại kiện tướng cờ vua người Thụy Sĩ sinh tại Nga (s. 1931) 10 tháng 6 – Christina Grimmie, ca sĩ người Mỹ (s. 1994) 19 tháng 6 – Anton Yelchin, diễn viên người Mỹ sinh tại Nga (s. 1989) 27 tháng 6 Alvin Toffler, nhà văn và nhà tương lai học người Mỹ (s. 1928) === Tháng 7 === 2 tháng 7 Rudolf E. Kálmán, kỹ sư điện người Mỹ gốc Hungary (s. 1930) 4 tháng 7 – Abbas Kiarostami, đạo diễn phim người Iran (s. 1940) 12 tháng 7 – Goran Hadžić, chính trị gia người Serbia (s. 1958) 19 tháng 7 – Garry Marshall, đạo diễn phim, nhà sản xuất truyền hình và diễn viên người Mỹ (s. 1934) 31 tháng 7 Seymour Papert, nhà toán học và khoa học máy tính người Mỹ gốc Nam Phi (s. 1928) Chiyonofuji Mitsugu, đô vật sumo người Nhật Bản (s. 1955) === Tháng 8 === 2 tháng 8 – Ahmed Zewail, nhà hóa học người Ai Cập-Mỹ, đoạt giải Nobel (s. 1946) 16 tháng 8 – João Havelange, doanh nhân, vận động viên người Brasil, Chủ tịch FIFA (s. 1916) 22 tháng 8 – Sellapan Ramanathan, tổng thống thứ sáu của Singapore (s. 1924) 23 tháng 8 – Reinhard Selten, nhà kinh tế học người Đức, đoạt giải Nobel (s. 1930) 24 tháng 8 – Roger Y. Tsien, nhà sinh vật học người Mỹ, đoạt giải Nobel (s. 1952) 25 tháng 8 James Cronin, nhà vật lý học người Mỹ, đoạt giải Nobel (s. 1931) Sonia Rykiel, nhà thiết kế thời trang người Pháp (s. 1930) === Tháng 9 === 2 tháng 9 – Islam Karimov, Tổng thống Uzbekistan đầu tiên (s. 1938) 3 tháng 9 – Jean-Christophe Yoccoz, nhà toán học người Pháp (b. 1957) 18 tháng 9 - Minh Thuận, ca sĩ người Việt (s. 1969) 24 tháng 9 – Bill Mollison, nhà nghiên cứu, tác gia và nhà sinh vật học người Úc (b. 1928) 28 tháng 9 – Shimon Peres, Tổng thống và Thủ tướng Israel, đoạt giải Nobel (b. 1923) 30 tháng 9 – Trịnh Thị Ngọ, phát thanh viên người Việt Nam (s. 1931) === Tháng 10 === 13 tháng 10 Bhumibol Adulyadej, Quốc vương Thái Lan (s. 1927) Dario Fo, diễn viên và nhà biên kịch người Ý (s. 1926) 20 tháng 10 – Tabei Junko, nhà leo núi người Nhật Bản (s. 1939) 25 tháng 10 – Carlos Alberto Torres, cầu thủ bóng đá người Brasil (s. 1944) 29 tháng 10 – Pen Sovann, Thủ tướng Campuchia thứ 32 (s. 1936) === Tháng 11 === 7 tháng 11: Leonard Cohen, ca sĩ, người viết ca khúc và nhà thơ người Canada (s. 1934) Janet Reno, luật sư người Mỹ (s. 1938) 15 tháng 11: Mose Allison, nhạc sĩ người Mỹ (s. 1927) 20 tháng 11: Konstantinos Stephanopoulos (1926), Thủ tướng Hy Lạp thứ 5. 24 tháng 11: Pauline Oliveros, nhà soạn nhạc người Mỹ (b. 1932) 25 tháng 11: Fidel Castro, Chủ tịch Cuba (s. 1926) David Hamilton, nhà nhiếp ảnh người Anh (s. 1933) === Tháng 12 === 8 tháng 12: John Glenn, phi công, phi hành gia, chính trị gia người Mỹ (s. 1921) 13 tháng 12: Thomas Schelling, nhà kinh tế học người Mỹ, đoạt giải Nobel (s. 1921) Alan Thicke, diễn viên và người viết ca khúc người Canada (s. 1947) 18 tháng 12: Zsa Zsa Gabor, diễn viên người Hungary – Mỹ (s. 1917) 20 tháng 12: Michèle Morgan, diễn viên người Pháp (s. 1920) 25 tháng 12: George Michael, ca sĩ người Anh (s. 1963) 27 tháng 12: Carrie Fisher, diễn viên và nhà văn người Mỹ (s. 1956) Ratnasiri Wickremanayake, Thủ tướng Sri Lanka (s. 1933) 28 tháng 12: Debbie Reynolds, diễn viên người Mỹ (s. 1932) == Các giải Nobel == Y khoa: Ōsumi Yoshinori cho khám phá của ông về cơ chế tự thực ở tế bào. Vật lý: David J. Thouless, Duncan Haldane và John M. Kosterlitz cho khám phá về mặt lý thuyết của họ về hiện tượng chuyển pha tô pô và pha tô pô ở vật chất. Hóa học: Jean-Pierre Sauvage, Fraser Stoddart và Ben Feringa cho thiết kế và tổng hợp các cỗ máy phân tử. Hòa bình: Juan Manuel Santos cho các nỗ lực kiên định để kết thúc cuộc nội chiến kéo dài 50 năm ở Colombia. Kinh tế: Oliver Hart và Bengt Holmström cho các nghiên cứu lý thuyết hợp đồng. Văn học: Bob Dylan cho những phương thức biểu đạt đầy chất thơ trong truyền thống âm nhạc Hoa Kỳ. == Tham khảo == == Liên kết ngoài ==
tristan da cunha.txt
37°6.38′N 12°17.14′T Tristan da Cunha (phát âm tiếng Anh: /ˈtrɪstən də ˈkuːnə/) là một nhóm đảo ở xa về phía nam Đại Tây Dương, cách Nam Phi 2816 km (1750 dặm) và cách Nam Mỹ 3360 km (2088 dặm). Nó là lãnh thổ phụ thuộc của lãnh thổ hải ngoại của Anh Saint Helena, cách đó 2173 km (1350 dặm) về phía nam. Lãnh thổ bao gồm đảo chính, Tristan da Cunha (diện tích: 98 km², 38 sq mi), cũng như vài đảo không có người ở: Đảo Inaccessible và Quần đảo Nightingale. Đảo Gough, nằm cách 395 km (245 mi) về phía đông nam của đảo chính, cũng là một phần của lãnh thổ. Tristan da Cunha là quần đảo xa nhất trên thế giới. == Tham khảo == == Liên kết ngoài == Wikimedia Atlas của Tristan da Cunha, có một số bản đồ liên quan đến Tristan da Cunha. Tristan da Cunha Official Website Tristan Times “History”. Bản gốc lưu trữ ngày 30 tháng 6 năm 2012. Visiting information –DEAD LINK- Put together by the former British administrator “The Longboats of Tristan”. Bản gốc lưu trữ ngày 29 tháng 6 năm 2011. Photos Tristan da Cunha image gallery Contains bibliography First postcode for remote UK isle – BBC News The Utmost Parts of the Earth, by William F. Taylor – Account of the island from 1856 TristanDaCunha.co.uk Marooned on Tristan Information site on Tristan Da Cunha World's most remote island gets advanced medical support from team led by IBM and Beacon Equity Partners Tristan Times, ngày 14 tháng 11 năm 2007 World's Most Remote Island Gets Advanced Medical Support From Team Led by IBM and Beacon Equity Partners IBM press release, Armonk, NY - ngày 14 tháng 11 năm 2007
đội tuyển bóng đá quốc gia các tiểu vương quốc ả rập thống nhất.txt
Đội tuyển bóng đá quốc gia Các Tiểu Vương quốc Ả Rập Thống nhất là đội tuyển cấp quốc gia của Các Tiểu Vương quốc Ả Rập Thống nhất do Hiệp hội bóng đá Các Tiểu Vương quốc Ả Rập Thống nhất quản lý. Trận thi đấu quốc tế đầu tiên của đội tuyển Các Tiểu Vương quốc Ả Rập Thống nhất là trận gặp đội tuyển Qatar vào năm 1992. Đội đã một lần dự World Cup vào năm 1990. Tại giải năm đó, đội để thua cả 3 trận trước Tây Đức, Colombia và Nam Tư, do vậy đội dừng bước ngay ở vòng bảng. Các thành tích nổi bật khác của đội là vị trí á quân Cúp bóng đá châu Á 1996 khi giải tổ chức trên sân nhà và 2 chức vô địch vùng Vịnh giành được vào các năm 2007 và 2013. == Danh hiệu == Cúp bóng đá châu Á: 0 Á quân: 1996 Hạng ba: 2015 Hạng tư: 1992 Vô địch cúp vùng Vịnh: 2 Vô địch: 2007; 2013 Á quân: 1986; 1998; 1994 Hạng ba: 1972; 1974; 1982; 1998; 2014 Hạng tư: 1984; 1992; 1996 Vô địch cúp Ả Rập: 0 Hạng tư: 1998 Bóng đá nam tại Asiad: 2010 == Thành tích tại các giải đấu == === Giải vô địch thế giới === Tính đến nay, đội tuyển Các Tiểu Vương quốc Ả Rập Thống nhất mới có một lần duy nhất tham dự vòng chung kết Giải vô địch bóng đá thế giới (1990), bị loại từ vòng bảng. === Cúp bóng đá châu Á === === Cúp Liên đoàn các châu lục === === Giải vô địch bóng đá Tây Á === 2000 đến 2014 - Không tham dự === Cúp bóng đá vùng Vịnh === 1970 - Không tham dự 1972 - Hạng ba 1974 - Hạng ba 1976 - Hạng 6 1979 - Hạng 6 1982 - Hạng ba 1984 - Hạng tư 1986 - Á quân 1988 - Á quân 1990 - Hạng 5 1992 - Hạng tư 1994 - Á quân 1996 - Hạng tư 1998 - Hạng ba 2002 - Hạng 6 2003 - Hạng 5 2004 - Vòng bảng 2007 - Vô địch 2009 - Vòng bảng 2010 - Hạng ba 2013 - Vô địch 2014 - Hạng ba === Cúp bóng đá Ả Rập === 1963 đến 1992 - Không tham dự 1998 - Hạng tư 2002 đến 2012 - Không tham dự == Đội hình == Ngày thi đấu: 23 và 28 tháng 3 năm 2017 (Vòng loại World Cup 2018)Đối thủ: Nhật Bản và ÚcSố liệu thống kê tính đến ngày: 28 tháng 3 năm 2017 sau trận gặp Úc. === Triệu tập gần đây === Chú thích: SUS Cầu thủ bỏ cuộc INJ Cầu thủ rút lui vì chấn thương RET Đã chia tay đội tuyển quốc gia WD Chấn thương chưa rõ ràng == Tham khảo ==
tội phạm có tổ chức.txt
Tội phạm có tổ chức là tội phạm gây nguy hiểm cho xã hội khi có từ hai người trở lên cùng thực hiện tội phạm, được gọi là đồng phạm. == Định nghĩa == Mọi nhóm người hoặc các cá nhân biệt lập nhưng được tổ chức, tập hợp lại thường xuyên vì mục đích vụ lợi bằng phương pháp phi pháp (khái niệm về tội phạm có tổ chức được đưa ra tại hội thảo quốc tế của Liên Hợp Quốc về đấu tranh chống tội phạm vào năm 1991). Tại Mỹ tội phạm có tổ chức được định nghĩa là "tổ chức có từ hai người trở lên trong một thời gian dài thực hiện nhiều hành vi phạm tội có tính truyền thống như trộm, cướp, gây thương tích..." Tại Nga tội phạm có tổ chức được định nghĩa là "sự hình thành và hoạt động của các kết cấu phạm tội có tổ chức như các băng đảng, các hội; các tổ chức phạm tội có tổ chức và các hoạt động phạm tội của chúng" (có thể hiểu các hoạt động phạm tội ở các mức nghiêm trọng, rất nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng). Nhìn chung sự khác biệt cơ bản giữa tội phạm có tổ chức và các loại tội phạm khác là chúng hoạt động chuyên nghiệp hơn, có tổ chức chặt chẽ và ảnh hưởng đến chính trị, báo chí, kinh tế... Tại Đức tội phạm có tổ chức được định nghĩa như sau: Đối ngược với những hành động khủng bố hầu để đạt tới những mục đích chính trị, tội phạm có tổ chức được thực hiện nhằm mục đích làm giàu. Những tội phạm không để gây lợi (với mục tiệu chính trị, tôn giáo) không thuộc vào tội phạm có tổ chức. Luật hình sự Đức phân biệt giữa tội phạm có tổ chức và khủng bố (§ 129, Bildung einer kriminellen Vereinigung) và (§ 129a, Bildung einer terroristischen Vereinigung). Trên thực tế rất khó mà phân biệt, vì các nhóm khủng bố càng ngày cũng là các tổ chức tội phạm, để mà có tiền hoạt động và để liên lạc với các màng lưới tội phạm khác, chẳng hạn như để mua vũ khí. == Nguyên nhân == Nguyên nhân thứ nhất là tội phạm có tổ chức được hình thành một cách tự nhiên, ban đầu chỉ là một nhóm nhỏ chủ yếu là những người có quan hệ gần gũi với nhau. Tuy nhiên, do nhu cầu và hoàn cảnh xã hội mà nhóm đó phát triển, dần dần trở thành một nhóm tội phạm với các hoạt động phạm tội ban đầu chủ yếu chỉ để đáp ứng nhu cầu cần thiết của các thành viên. Nhưng sau một thời gian, bằng cách này hay cách khác mà nhóm gây được ảnh hưởng đến địa bàn mà mình hoạt động nên cần phải tổ chức chặt chẽ và tìm cách gây ảnh hưởng đến các cơ quan nhà nước ở đó, dần dẫn đến các hành vi phạm tội nhằm mục đích củng cố và mở rộng thế lực của mình. Nguyên nhân thứ hai do các nhóm tội phạm có tổ chức thành lập với mục đích ban đầu không phải để phạm tội mà do một số cá nhân đã biến nhóm trở thành một tổ chức tội phạm. Hoặc do buộc phải tự vệ nên phải có những hành động để phản ứng lại. Do có sẵn ảnh hưởng cùng lực lượng mà các nhóm này dễ dàng tạo thế lực, có thể thống trị thế giới ngầm ở nơi đó thậm chí là cả một quốc gia hay một vùng lãnh thổ. Nguyên nhân thứ ba bắt nguồn từ yếu tố chính trị, như các nhóm tội phạm dựa vào mâu thuẫn tôn giáo hay mâu thuẫn dân tộc để hoạt động, mục đích chính là chống lại các tổ chức, nhà nước bằng cách phá hoại an ninh ở nơi đó. Các nhóm tội phạm kiểu này có thể được sự giúp đỡ của các thế lực bên ngoài có cùng chung mục đích như chúng, họ mượn tay các nhóm tội phạm để làm rối loạn hay chống lại các tổ chức, nhà nước ảnh hưởng đến quyền lợi cho họ. == Những người tham gia vào tội phạm có tổ chức == Người tổ chức: là người chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy việc phạm tội. Người xúi giục: là người lôi kéo người khác phạm tội. Người giúp sức: là người tạo những vật chất để giúp phạm tội. Người thực hành: người trực tiếp thực hiện tội phạm. == Xem thêm == Lệch lạc Năm Cam == Chú thích ==
các nước có vũ khí hạt nhân.txt
Hiện nay trên thế giới có 9 quốc gia đã cho nổ hay đã dùng vũ khí hạt nhân; 5 quốc gia trong số đó được Hiệp ước không phổ biến vũ khí hạt nhân xem là "các quốc gia có vũ khí hạt nhân", bao gồm Mỹ, Nga (trước đó là Liên Xô), Anh, Pháp và Trung Quốc; 3 nước không ký vào hiệp định này thực hiện các thí nghiệm cho nổ vũ khí hạt nhân: Ấn Độ, Pakistan và Bắc Triều Tiên; quốc gia còn lại là Nam Phi, tuy nhiên quốc gia này đã bác bỏ. Nhiều người tin là Israel có vũ khí hạt nhân dù quốc gia này không phủ nhận hay xác nhận việc này. Iran và Syria đang bị nghi ngờ là có các chương trình sản xuất vũ khí hủy diệt hàng loạt, trong đó có chương trình hạt nhân. Có 4 quốc gia từng sở hữu vũ khí hạt nhân nhưng đã từ bỏ, đó là Kazakhstan, Belarus, Ukraina và Nam Phi. Kazakhstan, Belarus và Ukraina từng sở hữu một số lớn đầu đạn hạt nhân cũ từ thời Liên Xô, tuy nhiên cả 3 quốc gia đã giao nộp lại cho Nga và ký vào NPT. Nam Phi cũng từng sản xuất một số quả bom hạt nhân vào những năm 1980 và được cho là đã tiến hành một số vụ thử cùng với Israel nhưng đã phá hủy chúng vào đầu thập kỉ 90 của thế kỉ trước và tham gia NPT. Có 5 quốc gia không tự sở hữu và sản xuất vũ khí hạt nhân nhưng đang được chia sẻ bởi Hoa Kỳ, đó là Bỉ, Đức, Italia, Thổ Nhĩ Kỳ và Hà Lan. Trước đây, Canada và Hy Lạp cũng tham gia chương trình này. Các quốc gia này được Hoa Kỳ chia sẻ vũ khí hạt nhân (quyền sở hữu vẫn thuộc Hoa Kỳ) để sử dụng cho huấn luyện và tác chiến trong các chiến dịch của NATO. == Chú thích ==
loài điển hình.txt
Trong thuật ngữ sinh học, một loài điển hình là loài mà có tên của một chi được liên kết bền vững tới nó; nó là loài có đặc tính sinh học điển hình trong đơn vị phân loại. Một loài điển hình là một hệ thống khái niệm và thực tế được dùng trong phân loại sinh học và thuật ngữ về tên gọi của động vật và thực vật. Giá trị của "loài điển hình" nằm ở chỗ nó làm sáng tỏ ý nghĩa bởi một tên đặc trưng của chi. == Tham khảo == == Liên kết ngoài == Type Species, Reference.com What Is a Type Species?, About.com
các vụ bắt cóc công dân nhật bản của bắc triều tiên.txt
Các vụ bắt cóc công dân Nhật từ Nhật Bản của các điệp viên Bắc Triều Tiên đã xảy ra trong một khoảng thời gian sáu năm từ 1977 tới 1983. Mặc dù chỉ có 17 người Nhật Bản (8 đàn ông và 9 phụ nữ) được chính phủ Nhật Bản chính thức công nhận là đã bị bắt cóc, con số thực có thể lên đến hàng trăm. Chính phủ Bắc Triều Tiên đã chính thức thừa nhận bắt cóc 13 công dân Nhật Bản. Có các lời chứng rằng nhiều công dân không phải người Nhật, trong đó có chín công dân châu Âu, đã bị Bắc Triều Tiên bắt cóc. == Bối cảnh == Hầu hết những người mất tích là ở độ tuổi 20; người trẻ nhất, Megumi Yokota, mới 13 tuổi khi cô biến mất trong tháng 11 năm 1977 tại Niigata, thành phố bờ biển phía tây Nhật Bản. Chính phủ Bắc Triều Tiên tuyên bố rằng cô đã tự tử tháng 3 năm 1994. Người ta tin rằng các nạn nhân bị bắt cóc để dạy tiếng Nhật Bản và văn hóa Nhật Bản tại các trường điệp viên của Bắc Triều Tiên. Các nạn nhân lớn tuổi cũng bị bắt cóc với mục đích lấy danh tính của họ, nhưng những người bị bắt cóc này được cho là đã bị giết chết ngay lập tức. Có thể suy đoán rằng phụ nữ Nhật Bản bị bắt cóc để làm vợ cho một nhóm khủng bố người Nhật Bản tại Bắc Triều Tiên, sau khi một vụ không tặc năm 1970 trên máy bay Japan Airlines và một số có thể đã bị bắt cóc bởi vì họ vô tình chứng kiến hoạt động của các điệp viên Bắc Triều Tiên tại Nhật Bản. Điều này có thể giải thích lý do bắt cóc Yokota khi cô ấy đang còn trẻ như vậy. Trong một thời gian dài, những vụ bắt cóc đã bị từ chối bởi Bắc Triều Tiên và các tổ chức cảm tình với nước này (bao gồm cả Chongryon và Đảng Xã hội Dân chủ Nhật Bản) và thường được coi là một thuyết âm mưu. Bất chấp sức ép từ các nhóm phụ huynh Nhật Bản, chính phủ Nhật Bản đã không có hành động nào. Có những tuyên bố rằng vấn đề này hiện đang được chủ nghĩa dân tộc Nhật Bản, trong đó có Thủ tướng Shinzō Abe, lợi dụng để "tăng quân sự hóa", tạo điều kiện để sửa đổi Hiến pháp nhằm làm giảm các giới hạn của hiến pháp đối với quân đội, sửa đổi Luật Giáo dục cơ bản, và theo đuổi các mục tiêu chính trị khác. Các tuyên bố như vậy đã bị chỉ trích bởi Kyoko Nakayama, cố vấn đặc biệt tại Tokyo cho Thủ tướng Nhật Bản về vấn đề bắt cóc. Ông Nakayama đã nói: "Đây là về giải cứu công dân của chúng ta (không bị bắt cóc thêm nữa). Họ xứng đáng được tất cả hỗ trợ có thể để lấy lại tự do và phẩm giá của họ. Nhiệm vụ của chúng ta là đưa họ về. " == Cuộc đàm phán giữa Bắc Triều Tiên và Nhật Bản vào năm 2002 và sau đó == Ngày 17 tháng 9 năm 2002, Thủ tướng Nhật Bản Junichiro Koizumi đến thăm Bắc Triều Tiên gặp nhà lãnh đạo Bắc Triều Tiên Kim Jong-il. Để tạo thuận lợi cho việc bình thường hóa quan hệ với Nhật Bản, Kim thừa nhận Bắc Triều Tiên đã bắt cóc 13 công dân Nhật Bản và ban hành một lời xin lỗi miệng. Ông cho rằng việc bắt cóc là do "một số người muốn thể hiện chủ nghĩa anh hùng và phiêu lưu của họ", và tránh nhận lỗi về mình. Trong cuộc họp năm 2002, Bắc Triều Tiên cũng cung cấp giấy chứng tử cho tám người họ tuyên bố là đã chết, nhưng thừa nhận trong năm 2004 rằng các giấy chứng tử này đã được soạn thảo trong một thời gian ngắn trước đó. Vì một số lý do, chính phủ Nhật Bản và các tổ chức phi chính phủ đặt câu hỏi tám người này liệu đã chết hay không. === Trả lại năm nạn nhân === Sau đó, Bắc Triều Tiên cho phép năm nạn nhân mà nước này nói là còn sống được phép trở về Nhật Bản, với điều kiện là họ sẽ quay lại Bắc Triều Tiên sau đó. Các nạn nhân trở về Nhật Bản vào 15 tháng 10 năm 2002. Tuy nhiên, chính phủ Nhật Bản, sau khi lắng nghe những lời khẩn cầu của công chúng và gia đình các người bị bắt cóc, nói với Bắc Triều Tiên rằng các nạn nhân sẽ không quay trở về. Bắc Triều Tiên tuyên bố rằng đây là một sự vi phạm thỏa thuận và từ chối để tiếp tục đàm phán thêm nữa. Năm nạn nhân được hồi hương là Yasushi Chimura và vợ Fukie, Kaoru Hasuike và vợ Yukiko, và Hitomi Soga - vợ của Charles Robert Jenkins, người vẫn còn ở Bắc Triều Tiên. == Tham khảo == == Liên kết ngoài == Headquarters for the Abduction Issue, Government of Japan, requesting information to resolve the issue The abductions of Japanese citizens by North Korea, Prime Minister of Japan and his Cabinet — Symbolic North Korean Abduction Victims Worldwide, National Association for the Rescue of Japanese Kidnapped by North Korea Investigation Commission on Missing Japanese Probably Related to North Korea MEGUMI(Japanese animation) - English, animation short film about the abductee Megumi Yokota. Noel Paul Stookey: Song for Megumi THINK (Their Home Isn't North Korea) Abduction - The Megumi Yokota Story (film about the most famous abduction case) President George W. Bush meets with North Korean Defectors and Family Members of Japanese Abducted by North Korea Office of the Press Secretary, April 28, 2006, White House
mục lục thể thao.txt
Mục lục dưới đây được đưa ra nhằm cung cấp cái nhìn tổng quan và hướng dẫn chuyên đề về thể thao. == Định nghĩa thể thao == Một môn thể thao là một hoạt động thể chất chi phối bởi một hệ thống các luật lệ và quy tắc. Người ta thường tham gia thể thao với tính chất cạnh tranh. Các môn thể thao có thể diễn ra trên nhiều điều kiện địa hình như trên cạn, dưới nước hay trên không. Các môn thể thao cũng có thể được mô tả với các yếu tố: Giải trí – bất kỳ môn thể thao nào có khán giả tới xem, có thể miễn phí hoặc mất tiền, mà không có kịch bản được viết sẵn trước. Rèn luyện – một số môn thể thao là môn thể thao rèn luyện thể chất trong khi một số khác là môn rèn luyện tinh thần. == Loại hình == Đua Motorsport Thể thao biểu diễn Thể thao cá nhân Thể thao có khán giả Thể thao chuyên nghiệp Thể thao dưới mặt nước Thể thao điện tử Thể thao đồng đội Thể thao fantasy Thể thao mạo hiểm Thể thao ném Thể thao nghiệp dư Thể thao người khuyết tật Thể thao nữ Thể thao trẻ == Danh sách môn thể thao == == Thể thao theo khu vực == Châu Phi Tây Phi Burkina Faso • Bờ Biển Ngà • Ghana • Guinée • Mali • Nigeria • Sierra Leone Bắc Phi Algérie • Mauritanie • Maroc • Tunisia Trung Phi Burundi • Cameroon • Tchad • Rwanda Đông Phi Eritrea • Kenya • Madagascar • Malawi • Somalia • Tanzania • Uganda • Zimbabwe Nam Phi Botswana • Namibia • Nam Phi Châu Á Trung Á Kazakhstan • Turkmenistan • Uzbekistan Đông Á Trung Quốc Hồng Kông • Ma Cao Nhật Bản • CHDCND Triều Tiên • Hàn Quốc • Mông Cổ • Đài Loan Bắc Á Nga Đông Nam Á Brunei • Myanmar • Campuchia • Timor-Leste • Indonesia • Malaysia • Philippines • Singapore • Thái Lan • Việt Nam Nam Á Afghanistan • Bangladesh • Bhutan• Iran • Nepal • Pakistan • Sri Lanka Ấn Độ Delhi Tây Á Bahrain • Síp (trong đó có cả vùng tranh chấp Bắc Síp) • Iraq • Israel • Jordan • Kuwait • Liban • Palestine • Qatar • Ả Rập Saudi • Syria • Thổ Nhĩ Kỳ • Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất • Yemen Kavkaz Gruzia (trong đó có Abkhazia) • Armenia • Azerbaijan Châu Âu Albania • Armenia • Áo • Bỉ • Bulgaria • Croatia • Cộng hòa Séc • Đan Mạch • Estonia • Phần Lan • Pháp • Đức • Gibraltar • Hy Lạp • Guernsey • Iceland • CH Ireland • Đảo Man • Ý • Jersey • Kosovo • Latvia • Litva • Luxembourg • Malta • Moldova • Montenegro • Hà Lan • Ba Lan • Bồ Đào Nha • România • San Marino • Serbia • Slovakia • Slovenia • Tây Ban Nha • Thụy Điển • Thụy Sĩ • Ukraina Vương quốc Liên hiệp Anh Anh • Bắc Ireland • Scotland • Wales Liên minh châu Âu Bắc Mỹ Canada • Greenland • México Hoa Kỳ Alaska • California • Colorado • Georgia • Indiana • Louisiana • Maryland • Massachusetts • Minnesota • Missouri • New Jersey • New York • Bắc Carolina • Ohio • Pennsylvania • Nam Carolina • Texas • Wisconsin Washington, D.C. Nam Mỹ Argentina • Bolivia • Brasil • Chile • Colombia • Ecuador • Quần đảo Falkland • Guyana • Paraguay • Peru • Suriname • Uruguay • Venezuela Trung Mỹ Belize • El Salvador • Honduras Caribe Bahamas • Barbados • Bermuda • Cuba • Cộng hòa Dominica • Jamaica • Puerto Rico • Saint Lucia • Trinidad và Tobago Châu Đại Dương Úc • New Zealand Melanesia Fiji • Papua New Guinea • Quần đảo Solomon • Vanuatu Polynesia Samoa thuộc Mỹ • Quần đảo Cook • Samoa • Tonga == Lịch sử thể thao == Lịch sử bắn cung Lịch sử bóng bầu dục Mỹ Lịch sử bóng chày Lịch sử bóng đá Lịch sử bóng đá luật Úc Lịch sử bóng nước Lịch sử bóng lưới Lịch sử bóng rổ Lịch sử bóng vợt Lịch sử bơi lội Lịch sử chạy định hướng Lịch sử Công thức 1 Lịch sử cờ vua Lịch sử cricket Lịch sử dù lượn Lịch sử đấu vật Lịch sử đấu vật chuyên nghiệp Lịch sử đua xe đạp Lịch sử Gaelic Athletic Association Lịch sử hurling Lịch sử khúc côn cầu trên cỏ Lịch sử lướt sóng Lịch sử quần vợt Lịch sử rodeo Lịch sử roller derby Lịch sử rowing Lịch sử rugby league Lịch sử rugby union Lịch sử snooker Lịch sử trượt băng nghệ thuật Lịch sử trượt tuyết Lịch sử võ thuật == Quy định == Bàn thắng Cách tính điểm trong thể thao Cái chết bất ngờ Lỗi Mở Việt vị == Thể thao trong pháp lý == Chung Tòa án Trọng tài Thể thao Bóng bầu dục Mỹ American Needle, Inc. v. National Football League NCAA v. Ban quản trị Đại học Oklahoma Pro-Football, Inc. v. Harjo Bóng đá Fraser v. Major League Soccer Luật Bosman Luật Webster Bóng chày Federal Baseball Club v. National League Flood v. Kuhn Phán quyết Seitz Toolson v. New York Yankees, Inc. Trường hợp khai man của Barry Bonds Bóng rổ Haywood v. Hiệp hội Bóng rổ Quốc gia Robertson v. Hiệp hội Bóng rổ Quốc gia Khác Luật Kolpak == Sự kiện thể thao == Sự kiện thể thao đa môn == Y học thể thao == Chấn thương thể thao Doping trong thể thao Đồ uống thể thao == Truyền thông == Báo chí thể thao Kỷ lục thế giới Phát sóng các sự kiện thể thao Phát thanh thể thao Sports Emmy Award === Tạp chí thể thao === Sports Illustrated Tạp chí SportsEvents == Thành phần tham gia vào thể thao == Bình luận viên thể thao Động vật trong thể thao Ngựa thể thao Huấn luyện viên Người hâm mộ Tuyển trạch Vận động viên == Địa điểm thi đấu == Bể bơi kích thước Olympic Đấu trường Đường đua Dohyō Gymkhana Nhà thể dục (gym) Nhà thi đấu khúc côn cầu trên băng Phòng bi-a Sân băng Sân bóng chày Sân bóng đá Sân bóng đá luật Úc Sân golf Sân patin Sân quần vợt Sân rugby Sân trượt băng tốc độ Sân vận động === Các định nghĩa khác === Chăm sóc sân Chia sẻ sân Cung thể thao Đèn chiếu sáng Khán đài (grandstand) Medialuna Trường đấu vật (palaestra) == Trang bị thể thao == Trang bị thể thao Trang phục thể thao == Lối chơi == Power play == Quản lý thể thao == Marketing thể thao Tài trợ Tuyển trạch == Văn hóa thể thao == Câu lạc bộ thể thao Đội tuyển thể thao quốc gia Khỏa thân trong thể thao Lưu niệm thể thao Môn thể thao quốc gia Nghệ thuật hành vi == Thể thao và chính trị == Chủ nghĩa dân tộc và thể thao Phân biệt chủng tộc trong thể thao == Sự kiện thể thao == Sự kiện thể thao đa môn Giải thể thao Thế vận hội Thể thao quốc tế Giải vô địch quốc gia Giải vô địch thế giới Quy định thể thao Cơ quan điều hành thể thao == Cơ quan điều hành thể thao == Một số cơ quan thể thao nổi bật: Thế vận hội: Ủy ban Olympic Quốc tế (IOC) Bắn súng: Liên đoàn Thể thao Bắn súng Quốc tế (ISSF) Bóng chày: Liên đoàn Bóng chày Quốc tế (IBAF), nhưng nhiều quốc gia/khu vực có cơ quan chuyên nghiệp riêng với luật lệ khác nhau như Cuba, Hoa Kỳ/Canada, và Nhật Bản Bóng rổ: FIBA (Liên đoàn Bóng rổ Quốc tế), nhưng nhiều giải quốc gia có cơ quan riêng như Hoa Kỳ với NBA Bi-a: Liên đoàn Thể thao Bi-a Thế giới: Carom: Union Mondiale de Billard (UMB) Pool: World Pool-Billiard Association (WPA) Snooker và Bi-a Anh: Hiệp hội Bi-a và Snooker Chuyên nghiệp Thế giới (WPBSA) Cricket: Hội đồng Cricket Quốc tế (ICC) Các loại hình bóng đá: Bóng đá: FIFA Bóng bầu dục Mỹ: International Federation of American Football (IFAF) Bóng rugby: Bóng bầu dục liên minh: International Rugby Board (IRB) Golf: Liên đoàn Golf Quốc tế (IGF) Khúc côn cầu trên băng: Liên đoàn Khúc côn cầu trên băng Quốc tế (IIHF) Quần vợt: Liên đoàn quần vợt quốc tế (ITF) Motorsport: Đua ô tô: Liên đoàn Ô tô Quốc tế (FIA) Đua mô tô: Liên đoàn Đua mô tô Quốc tế (FIM) Thể thao dưới nước: FINA == Xã hội học thể thao == == Trò chơi điện tử == Thể thao fantasy Trò chơi điện tử thể thao == Tâm lý học thể thao == == Tham khảo == == Liên kết ngoài == Mục từ Merriam-Webster
bóng rổ 3x3 tại đại hội thể thao bãi biển châu á 2016.txt
Môn bóng rổ 3x3 thi đấu tranh tài (gọi tên là Bóng rổ bãi biển) tại Đại hội Thể thao Bãi biển châu Á 2016 diễn ra ở Đà Nẵng, Việt Nam từ ngày 26 đến ngày 29 tháng 9 năm 2016 tại công viên Biển Đông, Đà Nẵng, Việt Nam. == Danh sách huy chương == == Bảng huy chương == == Kết quả == === Nam === ==== Vòng sơ bộ ==== ===== Bảng A ===== ===== Bảng B ===== ==== Vòng đấu loại trực tiếp ==== ===== Tứ kết ===== ===== Bán kết ===== ===== Huy chương đồng ===== ===== Huy chương vàng ===== ==== Bảng xếp hạng chung cuộc ==== === Nữ === ==== Vòng sơ bộ ==== ===== Bảng A ===== ===== Bảng B ===== ==== Vòng đấu loại trực tiếp ==== ===== Tứ kết ===== ===== Bán kết ===== ===== Huy chương đồng ===== ===== Huy chương vàng ===== ==== Bảng xếp hạng chung cuộc ==== == Tham khảo == == Liên kết ngoài == Trang web chính thức Bản mẫu:Asian Beach Games Basketball