english
stringlengths
0
58.5k
non_english
stringlengths
0
28.4k
“ Jehovah your God you should fear, him you should serve, to him you should cling. ” ​ — DEUT.
10: 20.
“ Anh em phải kính sợ Giê - hô - va Đức Chúa Trời mình, hầu việc ngài, gắn bó với ngài ”. — PHỤC 10: 20.
SONGS: 28, 32
BÀI HÁT: 28, 32
While professing to worship Jehovah, how did Cain and Solomon lose Jehovah’s favor?
Dù nhận mình thờ phượng Đức Giê - hô - va, Ca - in và Sa - lô - môn đã đánh mất ân huệ của ngài như thế nào?
How did Moses and Aaron seize opportunities to show that they were on Jehovah’s side?
Môi - se và A - rôn đã nắm bắt cơ hội để cho thấy họ đứng về phía Đức Giê - hô - va như thế nào?
How can we fully benefit from Jehovah’s mercy and forgiveness?
Làm thế nào chúng ta có thể nhận lợi ích trọn vẹn từ lòng thương xót và sự tha thứ của Đức Giê - hô - va?
1, 2. (a) Why is it wise to be on Jehovah’s side?
1, 2. (a) Tại sao đứng về phía Đức Giê - hô - va là điều khôn ngoan?
( b) What will we consider in this article?
( b) Chúng ta sẽ xem xét điều gì trong bài này?
IT MAKES sense to cling to Jehovah.
Thật khôn ngoan khi gắn bó với Đức Giê - hô - va!
No one is more powerful, wise, or loving than our God!
Không ai quyền năng, khôn ngoan và yêu thương hơn Đức Chúa Trời.
Who of us would not want to be on his side?
Dĩ nhiên, chúng ta luôn muốn đứng về phía ngài.
Still, some of God’s worshippers have wavered when a situation called for them to take sides with Jehovah.
Nhưng một số người thờ phượng Đức Chúa Trời đã lưỡng lự trong tình huống đòi hỏi họ đứng về phía ngài.
In this article, we will consider examples of individuals who claimed to be on Jehovah’s side while at the same time following a course that offended him.
Trong bài này, chúng ta sẽ xem trường hợp của một số người vừa nhận mình đứng về phía Đức Giê - hô - va vừa đi theo đường lối mà ngài ghét.
These accounts contain vital lessons that can help us remain fully loyal to Jehovah.
Những bài học quan trọng rút ra từ các lời tường thuật này có thể giúp chúng ta tiếp tục giữ trung thành với Đức Giê - hô - va.
Why did Jehovah reach out to Cain, and what did He tell him?
Tại sao Đức Giê - hô - va chủ động cảnh báo Ca - in, và ngài nói gì với ông?
Consider the case of Cain.
Hãy xem trường hợp của Ca - in.
He did not profess to worship any other god but Jehovah.
Ông nhận mình thờ Đức Giê - hô - va, không thờ bất cứ thần nào khác.
Cain’s worship, however, was not acceptable to God. There were seeds of wickedness growing deep within his heart.
Tuy nhiên, Đức Giê - hô - va không chấp nhận sự thờ phượng của Ca - in, vì ngài nhìn thấy khuynh hướng gian ác trong lòng ông.
Jehovah reached out to Cain and told him: “If you turn to doing good, will you not be restored to favor?
Đức Giê - hô - va chủ động cảnh báo Ca - in: “Nếu trở lại làm điều lành, lẽ nào con không được lại ơn sao?
But if you do not turn to doing good, sin is crouching at the door, and its craving is to dominate you; but will you get the mastery over it? ”
Nhưng nếu con không trở lại làm điều lành thì tội lỗi rình rập trước cửa và thèm khống chế con lắm, nhưng con phải chế ngự nó ”.
Jehovah was, in effect, telling Cain, “If you repent and take a firm stand on my side, I will, in turn, be on your side. ”
Như thể Đức Giê - hô - va nói với Ca - in: “Nếu con ăn năn và quyết tâm đứng về phía ta, ta sẽ đứng về phía con ”.
Given the opportunity to be on Jehovah’s side, what did Cain do?
Dù có cơ hội đứng về phía Đức Giê - hô - va, Ca - in đã làm gì?
If only Cain would correct his thinking, Jehovah would restore him to favor.
Nếu Ca - in điều chỉnh lối suy nghĩ, Đức Giê - hô - va sẽ ban ơn lại cho ông.
But Cain did not listen to the counsel.
Tuy nhiên, Ca - in không nghe theo lời khuyên.
Wrong thinking and selfish desire led him to wrong actions.
Lối suy nghĩ sai trái và ham muốn ích kỷ đã dẫn đến việc ông phạm tội.
In his youth, Cain may never have imagined that he would take a stand against Jehovah.
Khi còn trẻ, hẳn Ca - in không bao giờ hình dung là mình sẽ chống lại Đức Giê - hô - va.
In time, however, he did the unimaginable ​ — he rebelled against God and killed his own brother!
Nhưng cuối cùng ông đã làm điều mà ông không tưởng tượng nổi: Đó là phản nghịch Đức Chúa Trời và giết chính em mình!
What kind of thinking could cause us to lose Jehovah’s favor?
Lối suy nghĩ nào có thể khiến chúng ta đánh mất ân huệ của Đức Giê - hô - va?
Like Cain, a Christian today could be following the wrong path even while professing to worship Jehovah.
Như Ca - in, có lẽ một tín đồ ngày nay vừa nhận mình thờ phượng Đức Giê - hô - va vừa đi theo đường lối sai trái.
For instance, one could nurture immoral fantasies, greedy thoughts, or hateful feelings toward a fellow Christian. This thinking can lead to sinful actions.
Chẳng hạn, một người hoạt động tích cực trong thánh chức và đều đặn tham dự buổi nhóm họp nhưng đồng thời cũng nuôi dưỡng tư tưởng đồi bại, tham lam hoặc căm ghét anh em mình.
All the while, one could be active in the ministry and regular at congregation meetings.
Lối suy nghĩ đó có thể dẫn đến việc phạm tội.
Other humans may not be aware of our thoughts and conduct, but Jehovah sees all things and knows if we are not wholeheartedly on his side. ​ — Read Jeremiah 17: 9, 10.
Có lẽ người khác không biết suy nghĩ và hạnh kiểm của chúng ta, nhưng Đức Giê - hô - va thấy mọi sự và biết chúng ta có hết lòng đứng về phía ngài hay không. — Đọc Giê - rê - mi 17: 9, 10.
How does Jehovah help us to “get the mastery over ” sinful inclinations when we take a firm stand on his side?
Đức Giê - hô - va giúp chúng ta “chế ngự ” khuynh hướng tội lỗi như thế nào?
Even so, Jehovah is not quick to give up on us.
Tuy nhiên, Đức Giê - hô - va không vội vàng từ bỏ chúng ta.
When a person’s steps lead him away from God, Jehovah urges him: “Return to me, and I will return to you. ”
Khi một người có dấu hiệu từ bỏ ngài, Đức Chúa Trời kêu gọi người đó: ‘ Hãy trở lại cùng ta thì ta sẽ trở lại cùng con ’.
Especially when we struggle with weaknesses, Jehovah wants us to take a stand against badness.
Đặc biệt khi chúng ta phải tranh đấu với những yếu kém của bản thân, Đức Giê - hô - va muốn chúng ta đứng vững và kháng cự điều xấu.
If we do, he will in turn prove to be on our side by giving us the spiritual, emotional, and physical strength needed to “get the mastery over ” our sinful inclinations. ​ — Gen. 4: 7.
Nếu chúng ta làm thế, Đức Giê - hô - va sẽ đứng về phía chúng ta bằng cách ban sức mạnh về thiêng liêng, cảm xúc và thể chất mà chúng ta cần để “chế ngự ” khuynh hướng tội lỗi. — Sáng 4: 7.
How did Solomon lose his good standing with Jehovah?
Điều gì khiến Sa - lô - môn đánh mất tình bạn với Đức Giê - hô - va?
We can learn much from the example of King Solomon.
Chúng ta có thể học được nhiều điều từ trường hợp của vua Sa - lô - môn.
During his younger years, Solomon looked to Jehovah for guidance.
Thời còn trẻ, Sa - lô - môn hướng đến Đức Giê - hô - va để được chỉ dẫn.
God gave him great wisdom and entrusted him with the building of a magnificent temple in Jerusalem.
Đức Chúa Trời ban sự khôn ngoan vượt trội và giao cho ông công việc xây dựng đền thờ nguy nga ở Giê - ru - sa - lem.
But Solomon lost his friendship with Jehovah.
Nhưng Sa - lô - môn đã đánh mất tình bạn với Đức Giê - hô - va.
God’s Law specifically prohibited a Hebrew king from taking “many wives for himself, so that his heart [might] not go astray. ”
Luật pháp cho biết rõ rằng vua không được phép “lấy nhiều vợ, hầu cho lòng mình không đi lạc lối ”.
Solomon disobeyed, eventually marrying 700 women.
Sa - lô - môn đã không vâng lời.
He brought into his household an additional 300 concubines.
Ông cưới 700 vợ và 300 cung phi.
Many of his wives were non - Israelites, who worshipped false gods.
Hence, Solomon also disobeyed God’s law against marrying foreign women. ​ — Deut.
Nhiều người vợ của ông không phải là người Y - sơ - ra - ên và thờ thần giả.
7: 3, 4.
Vì thế, Sa - lô - môn cũng vi phạm luật về việc cưới phụ nữ ngoại quốc. — Phục 7: 3, 4.
To what extreme did Solomon offend Jehovah?
Sa - lô - môn xúc phạm Đức Giê - hô - va đến mức nào?
Solomon’s gradual departure from Jehovah’s requirements led him in time to extreme wrongdoing.
Dần dần Sa - lô - môn không còn vâng theo đòi hỏi của Đức Giê - hô - va và cuối cùng phạm tội trọng.
Solomon built an altar to the idol goddess Ashtoreth and at least one other altar to the false god Chemosh.
Sa - lô - môn xây một bàn thờ cho nữ thần Át - tô - rét và ít nhất một bàn thờ khác cho thần giả Kê - móc.
There he joined his wives in pagan worship.
Tại đó, ông đã cùng những người vợ thờ thần giả.
He built those altars on, of all places, a mountain located directly in front of Jerusalem, where he had built Jehovah’s temple!
Thậm chí ông xây các bàn thờ ấy trên ngọn núi ngay phía trước Giê - ru - sa - lem, nơi ông đã xây đền thờ cho Đức Giê - hô - va!.
Perhaps Solomon fooled himself into thinking that Jehovah would overlook his disobedience as long as he also continued to offer sacrifices at the temple.
Có lẽ Sa - lô - môn tự lừa mình bằng cách lý luận rằng miễn là vẫn dâng vật tế lễ tại đền thờ thì Đức Giê - hô - va sẽ lờ đi việc ông không vâng lời.
What resulted from Solomon’s disregard for God’s warnings?
Hậu quả là gì khi Sa - lô - môn không nghe lời cảnh báo của Đức Chúa Trời?
But Jehovah never overlooks wrongdoing.
Đức Giê - hô - va không bao giờ lờ đi tội lỗi.
The Bible reports: “Jehovah became furious at Solomon, because his heart had inclined away from Jehovah..., who had appeared to him twice and had warned him about this very thing, that he should not go after other gods.
Kinh Thánh cho biết: “Đức Giê - hô - va nổi giận với Sa - lô - môn, vì lòng vua đã lìa khỏi Giê - hô - va Đức Chúa Trời... là đấng đã hai lần hiện ra với vua và cảnh báo về chính điều ấy, rằng vua không được theo các thần khác.
But he did not obey what Jehovah had commanded. ”
Nhưng vua không vâng lời Đức Giê - hô - va truyền dặn ”.
As a result, God withdrew his approval and support.
Hậu quả là Sa - lô - môn không còn được Đức Chúa Trời chấp nhận và ủng hộ.
Solomon’s heirs lost the unified kingdom of Israel and suffered many calamities for generations to come. ​ — 1 Ki. 11: 9 - 13.
Con cháu kế vị Sa - lô - môn đã không được cai trị cả vương quốc Y - sơ - ra - ên và chịu nhiều tai họa trong hàng trăm năm. — 1 Vua 11: 9 - 13.
What can threaten our good standing with Jehovah?
Điều gì có thể gây nguy hại cho mối quan hệ của chúng ta với Đức Giê - hô - va?
As in Solomon’s case, one of the greatest threats to spirituality is friendship with those who do not understand or respect Jehovah’s standards.
Như trong trường hợp của Sa - lô - môn, một trong những điều gây nguy hại nhất về thiêng liêng là việc kết bạn với những người không hiểu hoặc không tôn trọng tiêu chuẩn của Đức Giê - hô - va.
Some may be associated with the congregation but may be spiritually weak.
Có lẽ đó là một số người kết hợp với hội thánh nhưng yếu về thiêng liêng.
Others could be relatives, neighbors, coworkers, or schoolmates who are not worshippers of Jehovah.
Hoặc có thể là bà con, hàng xóm, đồng nghiệp hay bạn học không thờ phượng Đức Giê - hô - va.
In any case, if our close associates do not show a high regard for Jehovah’s standards, they can in time destroy our good standing with God.
Dù là trường hợp nào, nếu kết thân với người không quý trọng sâu xa tiêu chuẩn của ngài thì cuối cùng chúng ta có thể đánh mất mối quan hệ với ngài.
What effect are your associates having on your relationship with Jehovah?
Những người anh chị đang kết hợp ảnh hưởng thế nào đến mối quan hệ của anh chị với Đức Giê - hô - va?
( See paragraph 11)
( Xem đoạn 11)
What can help us to determine whether an associate should be avoided?
Điều gì có thể giúp chúng ta biết nên tránh kết hợp với những người nào?
Read 1 Corinthians 15: 33.
Đọc 1 Cô - rinh - tô 15: 33.
Most people have some good qualities, and many outside the congregation do not engage in blatant misconduct.
Hầu hết mọi người đều có điểm tốt, và nhiều người trong thế gian không làm điều sai trái trắng trợn.
Có lẽ anh chị quen biết một số người như thế ở trong và ngoài hội thánh.
If that is true of your acquaintances, can you assume that they are good associations?
Nhưng có phải vì thế mà họ là bạn tốt không?
Ask yourself what effect their companionship will have on your relationship with Jehovah.
Hãy tự hỏi: Những người mình đang kết hợp ảnh hưởng thế nào đến mối quan hệ của mình với Đức Giê - hô - va?
Will they improve it?
Họ có giúp mình đến gần ngài hơn không?
What is in their heart?
Trong lòng họ có gì?
For example, are their conversations almost exclusively about fashion, money, gadgets, entertainment, or other material pursuits?
Có phải hầu như mỗi cuộc trò chuyện của họ đều xoay quanh thời trang, tiền bạc, thiết bị điện tử, giải trí hay những điều tương tự không?
Does their speech often include disparaging comments about others or obscene jesting?
Họ có thường bình phẩm tiêu cực về người khác hoặc nói đùa tục tĩu không?
Jesus aptly warned: “Out of the abundance of the heart the mouth speaks. ”
Chúa Giê - su cảnh báo: “Lòng đầy tràn thì miệng mới nói ra ”.
If you realize that your associates pose a threat to your good standing with Jehovah, act decisively by limiting and if necessary ending such friendships. ​ — Prov. 13: 20.
Nếu nhận ra những người mình đang kết hợp gây nguy hại cho mối quan hệ của mình với Đức Giê - hô - va, hãy hành động dứt khoát bằng cách hạn chế tiếp xúc hoặc chấm dứt tình bạn, nếu cần. — Châm 13: 20.
( a) What did Jehovah make clear to the Israelites shortly after they left Egypt?
( a) Sau khi dân Y - sơ - ra - ên rời khỏi Ai Cập, Đức Giê - hô - va cho họ biết rõ điều gì?
( b) How did the Israelites respond to God’s requirement for exclusive devotion?
( b) Dân Y - sơ - ra - ên phản ứng thế nào về việc Đức Chúa Trời đòi hỏi lòng sùng kính chuyên độc?
Additional lessons can be learned from what took place shortly after the Israelites were freed from Egypt.
Chúng ta cũng có thể rút ra bài học từ câu chuyện của dân Y - sơ - ra - ên sau khi họ rời khỏi Ai Cập.
The people gathered in front of Mount Sinai.
Dân chúng tập hợp trước núi Si - nai.
There Jehovah made his presence strikingly real.
Tại đấy, Đức Giê - hô - va hiện diện theo cách vô cùng ấn tượng.
A miraculous dark cloud formed. Jehovah produced thunder, lightning, smoke, and what seemed to be the loud and constant sound of a horn.
Họ thấy một đám mây dày đặc, sấm sét, khói và nghe một tiếng rất lớn như tiếng của tù và.
In this setting, Jehovah revealed himself to the Israelites as “a God who requires exclusive devotion. ”
Lúc đó, Đức Giê - hô - va tiết lộ cho dân Y - sơ - ra - ên rằng ngài “là Đức Chúa Trời đòi hỏi lòng sùng kính chuyên độc ”.
He assured them that he would be loyal to those who love him and keep his commandments.
Đức Giê - hô - va cũng hứa là ngài sẽ thành tín với ai yêu thương ngài và gìn giữ điều răn của ngài.
( Read Exodus 20: 1 - 6.)
( Đọc Xuất Ai Cập 20: 1 - 6).
In effect, Jehovah was telling his people, “If you prove to be on my side, I will prove to be on your side. ”
Như thể ngài nói: “Nếu các con đứng về phía ta, ta sẽ đứng về phía các con ”.
How would you respond to such a promise of loyalty from Jehovah God?
Anh chị sẽ phản ứng thế nào nếu nghe lời hứa ấy của Đức Giê - hô - va?
You would surely do as the Israelites did.
Hẳn anh chị sẽ hành động như dân Y - sơ - ra - ên.
They “answered with one voice: ‘ All the words that Jehovah has spoken, we are willing to do. ’ ”
Họ “đồng thanh đáp: ‘ Chúng tôi sẵn lòng làm theo mọi lời Đức Giê - hô - va đã phán dặn ’ ”.
Soon, however, something unexpected put the Israelites ’ loyalty to the test.
Nhưng không lâu sau, một chuyện bất ngờ xảy ra đã thử thách lòng trung thành của dân Y - sơ - ra - ên.
What circumstances put the loyalty of the Israelites to the test?
Hoàn cảnh nào thử thách lòng trung thành của dân Y - sơ - ra - ên?
The Israelites had been frightened by the dark cloud, the lightning, and the other awe - inspiring signs from God.
Dân Y - sơ - ra - ên run sợ khi thấy đám mây dày đặc, sấm sét và những dấu hiệu đáng kinh ngạc khác từ Đức Chúa Trời.
At their request, Moses agreed to be their spokesperson for all communication with Jehovah on Mount Sinai.
Theo lời thỉnh cầu của họ, Môi - se đồng ý làm người đại diện để lên núi Si - nai thưa chuyện với Đức Giê - hô - va.
Moses was on the mountaintop for a long time.
Môi - se ở trên núi trong thời gian khá lâu.
Were the Israelites now stranded in the wilderness without their trustworthy leader?
Dân Y - sơ - ra - ên cảm thấy như bị kẹt trong hoang mạc và không có người lãnh đạo.
Apparently, the people’s faith was too dependent on Moses ’ visible presence.
Dường như đức tin của dân chúng quá phụ thuộc vào sự hiện diện của Môi - se.
They became anxious and told Aaron: “Make for us a god who will go ahead of us, because we do not know what has happened to this Moses, the man who led us up out of the land of Egypt. ” ​ — Ex. 32: 1, 2.
Họ lo lắng và bảo A - rôn: “Hãy làm một thần cho chúng tôi, đấng sẽ đi trước chúng tôi, vì chúng tôi không biết chuyện gì đã xảy ra với cái ông Môi - se này, là người đã dẫn chúng tôi ra khỏi xứ Ai Cập ”. — Xuất 32: 1, 2.