Phiên âm
stringlengths
2
728
Dịch nghĩa
stringlengths
2
731
__index_level_0__
int64
0
13.7k
Dĩ Thế quận công Ngô Cảnh Hựu binh già đạo tiên hồi, biếm nhị tư.
Thế quận công Ngô Cảnh Hựu vì để quân nửa đường về trước nên bị biếm 2 tư.
11,973
Sơ, Cối hàng Mạc, tứ tước Trung Lương hầu, hậu thăng Trung quận công.
Trước đây, Cối đầu hàng họ Mạc, được ban tước Trung Lương hầu, sau được thăng lên Trung quận công.
11,975
Mạc dĩ Lại bộ Thượng thư chưởng bộ sự kiêm Đông các đại học sĩ tri kinh diên sự tham dự triều chính Thái bảo Luân quận công Giáp Trừng vi Sách quốc công; Yên Lạc huyện trung quan Hào quận công vi An quốc công; Tây đạo tướng Ngạn quận công Mạc Ngọc Liễn vi Đà quốc công; Nam đạo tướng Thạch quận công Nguyễn Quyện vi Thường quốc công; Trung Nghĩa Miện quận công vi Tây quân đô đốc phủ Tả đô đốc Hoằng quận công.
Họ Mạc lấy Lại bộ thượng thư chưởng bộ sự kiêm Đông các đại học sĩ tri kinh diên sư tham dự triều chính Thái bảo Luân quận công Giáp Trừng làm Sách quốc công; viên trung quan người huyện Yên Lạc là Hào quận công làm An quốc công, tướng Tây đạo là Ngạn quận công Mạc Ngọc Liễn làm Đà quốc công, tướng Nam đạo là Thạch quận công Nguyễn Quyện làm Thường quốc công, Trung Nghĩa Miện quận công làm Tây quân đô đốc phủ tả đô đốc Hoàng quận công.
11,977
Mạc Nam đạo tướng Nam Dương hầu Trần lai quy, tứ tước Bàn quận công.
Tướng Nam đạo của họ Mạc là Nam Dương hầu Trần theo về, được ban tước Bàn quận công.
11,979
Ất Dậu, bát niên [Mạc Diên Thành bát niên
Ất Dậu, năm thứ 8 , .
11,981
Binh chí Sài Sơn nhi hoàn, lưu tì tướng Chiêu quận công tại Quảng Xá thị.
Quân tiến tới núi Sài Sơn thì rút về, để lại viên tỳ tướng là Chiêu quận công ở chợ Quảng Xá .
11,982
Mạc Sách quốc công Giáp Trừng tốt.
Sách quốc công của họ Mạc là Giáp Trừng chết.
11,988
Nguyễn Giáo Phương Tiến sĩ cập đệ, Phạm Minh Nghĩa đẳng thất nhân Tiến sĩ xuất thân, Nguyễn Văn Tảo đẳng thập thất nhân đồng Tiến sĩ xuất thân.
Cho Nguyễn Giáo Phương đỗ tiến sĩ cập đệ, bọn Phạm Minh Nghĩa 3 người đỗ tiến sĩ xuất thân; bọn Nguyễn Văn Tảo 17 người đỗ đồng tiến sĩ xuất thân.
11,990
Chiêm vân: "Kì biến ứng phi hậu vong".
Các nhà chiêm tinh đoán là tai biến ấy ứng vào điềm bậc phi hậu chết.
11,998
Nhất niên chi trung, thuỷ lạo phàm thất thứ.
Trong 1 năm, lụt đến 7 lần.
12,000
nguyệt, Mạc lệnh tu lí Thăng Long thành ngoại tằng cập chỉnh trị nhai cù.
Tháng giêng, họ Mạc sai sửa chữa tầng ngoài thành Thăng Long và sửa sang các đường phố.
12,014
Nhị nguyệt, Mạc lệnh thiên hạ các xứ vụ trúc thổ luỹ cập chủng do can, thượng tự Hát giang, hạ chí Sơn Minh, Hoa Đình giang, diên mậu sổ bách lí dĩ phòng binh chí.
Tháng 2, họ Mạc hạ lệnh cho các xứ trong nước phải đắp luỹ đất và trồng tre, trên từ sông Hát, xuống tới sông Hoa Đình huyện Sơn Minh, kéo dài đến vài trăm dặm để đề phòng quân đến.
12,015
Thời, Vĩnh Phúc huyện, Trác Bút sơn, hữu đại thạch cao nhất trượng, kì thạch cốt thâm nhập địa trung tứ xích dư, vô cố tự bạt xuất địa thượng, di tha xứ nhi chỉ.
Bấy giờ núi Trác Bút ở huyện Vĩnh Phúc có tảng đá lớn cao 1 trượng, chân đá ăn sâu vào lòng đất đến hơn 4 thước, vô cớ trồi lên trên mặt đất rồi dời đến chỗ khác.
12,017
Chiêm giả vân, ứng chiết nhất đại tướng quân.
Những nhà chiêm tinh đoán rằng ứng vào điềm chết một viên đại tướng.
12,019
Bách hoạch tội thường hữu bất túc chi tâm, âm dưỡng yêu thuật vu nhân, hựu đồ táng kì phụ vu cấm địa.
Bách được tha tội nhưng vẫn có lòng bất mãn, nuôi ngầm những người yêu thuật, phù thuỷ, lại mưu chôn mộ cha vào đất cấm.
12,023
Lệnh các huyện nguyên đầu thảo mộc ngũ bách điều vi mộc tra, phân thực các hải môn dĩ phòng tặc khấu thuyền cập vi cự khiêu chi kế.
Hạ lệnh cho xứ đầu nguồn ở các huyện lấy 500 cây gỗ làm cọc, chia cắm ở các cửa biển để phòng thuyền giặc vào cướp và làm kế chống giữ.
12,028
Thị nguyệt, Tiết chế Trịnh Tùng thống binh công phá Trường Yên, Thiên Quan đẳng phủ Gia Viễn, Yên Hoá, Phụng Hoá các huyện, công lược chí Rịa thị, lệnh tu tác phù kiều, đại phá Mạc Tân quận công dinh.
Tháng ấy, Tiết chế Trịnh Tùng đem quân đánh phá các huyện Gia Viễn, Yên Hoá, Phụng Hoá thuộc các phủ Trường Yên, Thiên Quan, đánh dẹp đến chợ Rịa , sai làm cầu phao, cả phá dinh của Tân quận công của họ Mạc.
12,030
Mạc sử Tây đạo tướng Mạc Ngọc Liễn lĩnh binh xuất Ninh Sơn dĩ công vu tả; Hựu sử Nam đạo tướng Nguyễn Quyện lĩnh binh xuất Chương Đức, độ Do Lễ giang dĩ công vu hữu.
Họ Mạc sai tướng Tây đạo là Mạc Ngọc Liễn đem quân ra huyện Ninh Sơn để đánh vào phía tả; lại sai tướng Nam đạo là Nguyễn Quyện đem quân ra huyện Chương Đức, vượt sông Do Lễ đánh vào bên hữu.
12,032
Cập Quyện chí Do Lễ giang, phân binh thiết phục sơn cước tiểu lộ dĩ đãi quan quân chí, dục đoạn hậu binh lương đạo.
Khi Quyện đến sông Do Lễ thì chia quân phục sẵn ở con đường nhỏ dưới chân núi để đợi quan quân tới, định cắt đứt con đường chở lương của cánh quân sau.
12,033
Tiên sai đại tướng Vinh quốc công Hoàng Đình Ái lĩnh binh tiềm địa trì hồi dĩ thủ Thanh Hoa Hựu, sử Thái phó Dương quận công Nguyễn Hữu Liêu, Thái bảo Trịnh Đỗ dữ Thiếu bảo Trịnh Đồng, Trịnh Ninh đẳng các lĩnh binh tòng tả lộ xuất, dữ Mạc Ngọc Liễn binh tương trì.
Trước hết, sai Đại tướng Vinh quốc công Hoàng Đình Ái đem quân ngầm rút nhanh về để giữ Thanh Hoa, lại sai Thái phó Dương quốc công Nguyễn Hữu Lưu, Thái bảo Trịnh Đỗ cùng bọn thiếu bảo Trịnh Đồng, Trịnh Ninh mỗi người đều đem quân ra đường phía tả để cầm cự với quân của Mạc Ngọc Liễn,
12,035
Tiết chế Trịnh Tùng đốc đại binh xuất hữu lộ tiến công Nguyễn Quyện.
Tiết chế Trịnh Tùng đốc suất đại quân ra đường phía hữu để tiến đánh Nguyễn Quyện.
12,037
Sở quá, thu hào vô phạm.
Quân đi đến đâu, không mảy may xâm phạm của dân.
12,045
nguyệt, Mạc kiến quan binh nhật cường, nãi mưu định công thủ chi kế.
Tháng 2, họ Mạc thấy quan quân mỗi ngày một mạnh, liền bàn định kế đánh giữ.
12,048
Lệnh tứ trấn các huyện binh dân, tăng trúc Thăng Long Đại La thành ngoại tam trùng luỹ, khởi tự Nhật Chiêu, việt Tây Hồ, kinh Gia kiều, chí Triền kiều, thấu tự Thanh Trì, sấn Nhị Hà chi Tây Bắc, cao quá Thăng Long thành sổ trượng, khoát nhị thập ngũ trượng, quật vi tam trùng hào, câu chủng do nha, diên mậu sổ thập lí dĩ bao thành ngoại.
Hạ lệnh cho quân dân các huyện trong bốn trấn đắp thêm ba lớp luỹ ngoài thành Đại La ở Thăng Long, bắt đầu từ phường Nhật Chiều vượt qua Hồ Tây, qua cầu Dừa đến cầu Dền suốt đến Thanh Trì, giáp phía tây bắc sông Nhị Hà, cao hơn thành Thăng Long đến vài trượng, rộng 25 trượng, đào 3 lớp hào, đều trồng tre, dài tới mấy mươi dặm để bọc lấy phía ngoài thành.
12,049
Sơ, Mạc Tứ Kì huyện nhân Đông quận công Phạm Viết Kính quy mệnh triều đình, nãi hứa.
Trước đây, Đông quận công của họ Mạc là Phạm Viết Kính người huyện Tứ Kỳ theo về triều đình, được cấp cho
12,050
cấp Hoằng Hoá huyện, Châu Xuyết tổng binh dân, tuỳ quân thảo tặc.
binh dân tổng Châu Xuyết, huyện Hoằng Hoá và cho theo quân đi đánh giặc.
12,051
Viết Kính vi chính nghiêm tuấn, dân giai uý đạn, đa hữu ta thán, thổ nhân thượng biểu dĩ tố chi.
Viết Kính cai trị rất nghiêm khắc, dân đều sợ hãi, nhiều người ca thán.
12,052
Binh chí Yên Mô, Yên Khang, thu đắc tặc ngưu súc tài vật thậm đa,.
Quân tới Yên Mô, Yên Khang, thu được rất nhiều trâu bò, gia súc và của cải của giặc
12,057
Kỉ Sửu, thập nhị niên [Mạc Hưng Trị nhị niên
Kỷ Sửu, năm thứ 12 , .
12,064
nguyệt, nhị nhật, hữu đại viên xuất vu Vĩnh Phúc, Bạch Thạch thôn nhân hoạch chi.
Tháng giêng, ngày mồng 2, có con vượn lớn xuất hiện ở huyện Vĩnh Phúc, người thôn Bạch Thạch bắt được.
12,065
Thất nguyệt, thập lục nhật, Sửu thì, nguyệt thực tại Bắc phương quá bán phục viên.
Tháng 6, ngày mồng 7, giờ Dậu, rất nhiều sao băng Tháng 7, ngày 16, giờ Sửu, có nguyệt thực ở phương bắc trăng bị ăn quá nửa rồi lại tròn.
12,071
Đông, thập nguyệt, Tiết chế Trịnh Tùng thân đốc đại binh công lược Yên Khang các huyện.
Mùa đông, Tiết chế Trịnh Tùng đích thân đốc suất đại quân đi đánh dẹp các huyện Yên Khang.
12,073
Ngã dĩ trọng binh tập kích phá chi, tất.
Ta dùng trọng binh đánh úp, ắt sẽ phá được.
12,084
Thị dạ tam canh, Tiết chế Trịnh Tùng sai Nguyễn Hữu Liêu lĩnh duệ tốt nhất vạn ngũ thiên nhân, cập khinh kị nhị bách thất, ám dạ tiềm hành chí sơn cước trung tầm động tuyền lô vi tạp xứ, mai phục dĩ đãi chi, ước thính đại pháo tam hưởng phục binh tất khởi.
Canh ba đêm ấy, Tiết chế Trịnh Tùng sai Nguyễn Hữu Liêu đem 1 vạn 5 nghìn quân tinh nhuệ và 200 cỗ khinh kỵ, đi ngầm trong đêm tối tới vùng chân núi tìm các hang động, khe suối và những nơi có lau sậy mà mai phục để đợi giặc, hẹn nghe thấy ba tiếng súng lệnh thì quân phục nổi dậy hết.
12,085
Hạ lệnh các y đồ thứ nhi thoái.
Hạ lệnh các quân cứ theo như trận đồ mà lần lượt rút lui.
12,086
Như kiến tặc binh truy cập, thả chiến thả tẩu chí phục binh, sở văn đại pháo tam hưởng, chuyển hậu vi tiền, các phân tả hữu tinh kì đội ngũ y như đồ thứ.
Đến chỗ quân mai phục, nghe thấy ba tiếng súng lệnh thì chuyển quân hậu thành quân tiền, mỗi cánh quân chia đội ngũ, cờ xí ra hai bên tả, hữu, theo đúng thứ tự trong trận đồ.
12,087
Ngã chư tướng sĩ, hữu năng đĩnh thân xuất lực truy cập địch nhân, hoặc phu tặc tướng, hoặc bổ hoạch tượng chích dĩ vi thượng công, hồi triều tấu thăng trật trọng thưởng".
Các tướng sĩ của ta, người nào có thể dấn mình ra sức đuổi kịp quân địch, nếu bắt sống tướng giặc hoặc bắt được voi là công hạng nhất, khi về triều ta sẽ tâu cho thăng trật và trọng thưởng".
12,094
Mạc tướng tự thị binh chúng, phấn lực tranh tiên, bất cố niếp hậu, khoan truy cập Tam Điệp sơn hiểm địa.
Tướng Mạc tự cậy quân nhiều, hăng hái tranh nhau tiến trước, không nghĩ gì đến người theo sau, đua nhau đuổi đến chỗ hiểm ở núi Tam Điệp.
12,095
Phu tốt thân thích văn chi, ngưỡng đức như thiên địa, cảm ân như phụ mẫu.
Họ hàng của quân lính bị bắt nghe thấy thế, đều đội công đức như trời đất, cảm ơn sâu như cha mẹ.
12,104
Mạc Trung Nghĩa tướng Hoằng quận công gia nặc tàng Đường An Vương Mạc Kính Chỉ phu nhân.
Bấy giờ, nhà Trung nghĩa tướng Hoằng quận công của họ Mạc chứa giấu phu nhân của Đường An Vương Mạc Kính Chỉ.
12,106
Tân Mão, thập tứ niên Ninh sơ niên.
Tân Mão, năm thứ 14 , .
12,111
Nãi sử Diễn quận công Trịnh Văn Hải, Thái quận công Nguyễn Thất Lí đẳng lĩnh thuỷ bộ binh trấn thủ các hải môn hiểm yếu xứ, Thọ quận công Lê Hoà kiêm tri tứ vệ nội ngoại vũ sĩ thị tòng thủ.
Bèn sai bọn Diễn quận công Trịnh Văn Hải, Thái quận công Nguyễn Thất Lý đem quân thuỷ, bộ đi trấn giữ những nơi hiểm yếu ở các cửa biển, Thọ quận công Lê Hoà kiêm coi võ sĩ trong ngoài bốn vệ theo hầu canh
12,117
Đệ nhất đội tả khu dinh, Thái phó Dương quận công Nguyễn Hữu Liêu, Kì quận công Trịnh Ninh đẳng lĩnh duệ binh cập Trung nghĩa các dinh, kì tướng sĩ binh nhất vạn vi tiên phong tiền tiến.
Đội thứ nhất là dinh tả khu, bọn Thái phó Dương quận công Nguyễn Hữu Liêu và Kỳ quận công Trịnh Ninh đem quân tinh nhuệ cùng tướng sĩ các dinh cơ Trung nghĩa, gồm 1 vạn người làm tiên phong đi trước.
12,120
Đệ ngũ đội Lân quận công Hà Thọ Lộc, Thế quận công Ngô Cảnh Hựu đẳng đồng tổng đốc lương binh vi hậu quân.
Đội thứ năm gồm bọn Lân quận công Hà Thọ Lộc và Thế quận công Ngô Cảnh Hựu cùng đốc suất quân chở lương làm hậu quân.
12,124
Bất phân thời khắc, binh xuất Tây Đô tuần Quảng Bình, quá Thiên Quan, tạc sơn khai lộ,.
Không chia thời khắc, quân từ Tây Đô đi ra theo đường huyện Quảng Bình , qua phủ Thiên quan, đào núi, mở đường,
12,125
Binh chi sở lâm tặc giai phong mị, bất tuần nhật lược định Yên Sơn, Thạch Thất, Phúc Lộc, Tân Phong đẳng huyện, nãi trú dinh Tốt Lâm.
Quân đi đến đâu, giặc đều như cỏ bị gió lướt, không đến mười ngày đã dẹp yên các huyện Yên Sơn, Thạch Thất, Phúc Lộc , Tân Phong , rồi đóng dinh ở Tốt Lâm .
12,130
Chí Phấn Thượng địa phương, lưỡng tương đối trận, liệt trần binh mã.
Đến địa phận xã Phấn Thượng , hai bên đối trận với nhau, dàn bày binh mã.
12,137
Mạc sử Khuông Định công, Tân quận công đẳng đốc áp tứ vệ binh mã vi tiền đội tiên phong, Tây đạo dinh tướng vi hữu dực binh mã, Nam đạo dinh tướng vi tả dực binh mã, Đông Bắc nhị đạo dinh tướng vi hậu đội binh mã.
Họ Mạc sai bọn Khuông Định công và Tân quận công đốc thúc binh mã bốn vệ làm tiền đội đi tiên phong, dinh tướng Tây đạo làm binh mã cánh hữu, dinh tướng Nam đạo làm binh mã cánh tả; dinh tướng hai đạo Đông và Bắc làm binh mã hậu đội.
12,138
Hạ lệnh các dinh kì y như Tiết chế.
Hạ lệnh cho các dinh cơ phải theo đúng sự chỉ huy.
12,144
Lưỡng binh tương nghênh, giáp công tự Mão chí Tị, duệ khí tăng bội.
Quân hai bên đón đánh nhau giáp lá cà suốt từ giờ Mão đến giờ Tỵ , nhuệ khí tăng bội phần.
12,145
Thân thì, Tiết chế Trịnh Tùng thân tự đốc chiến, chỉ huy tam quân, tả công vu tả, hữu công vu hữu, hàm hữu kỷ luật.
Giờ Thân Tiết chế Trịnh Tùng đích thân đốc chiến, chỉ huy ba quân, quân bên tả đánh vào cánh tả của giặc, quân bên hữu đánh vào cánh hữu, rất có kỷ luật.
12,148
Tướng sĩ dũng dược, kiếm kích liên thiên, phấn lực tề thanh, hàm dĩ phá địch vi thệ.
Tướng sĩ hăng hái, gươm giáo rợp trời, đồng thanh gắng sức, thề phá tan giặc.
12,149
Tàn tốt tương tranh thượng thuyền, thuyền trung nhân khủng phúc, dĩ kiếm đoạn thủ lạc thuỷ, tử giả quá bán dư, các tự đào sinh.
Tàn quân tranh nhau xuống thuyền, người trong thuyền sợ thuyền đắm, lấy gươm chặt đứt tay rơi xuống sông chết đến quá nửa, còn lại thì đứa nào đứa nấy đều chạy trốn.
12,155
Dần thì, trực tiến trú Thăng Long thành Tây Bắc giác Cao kiều, đại phóng hoả hiệu, liên phát thất hưởng, thiêu phần lư xá, hoả diễm liên thiên.
Bèn tiến quân, sai Nguyễn Hữu Liêu đem 5000 quân tinh nhuệ và voi khoẻ cùng ngựa bọc sắt, đến giờ Dần, thẳng tiến đến đóng ở cầu Cao tại góc tây bắc thành Thăng Long, phóng lửa hiệu, bắn liền bảy phát, thiêu đốt nhà cửa, khói lửa khắp trời.
12,162
Bình minh, Hữu Liêu phục thu binh hồi hành dinh.
Hữu Liêu lại thu quân về hành dinh.
12,166
Hội Chính đán tiết, hưởng lạo tướng sĩ, kì dĩ thu phục kinh thành.
Gặp ngày tết Nguyên đán, uý lạo tướng sĩ, hẹn phải thu phục kinh thành.
12,167
cổ kim chư danh tướng toạ tiền cáo viết: "Thần Trịnh Tùng thao thừa quốc gia trọng nhậm, lạm đổng chinh phạt đại quyền, phụng từ thảo nghịch phạt bạn điếu dân, niệm Lê triều xã tắc sinh linh tao Mạc nghịch gian thần phản mệnh, thí quân soán quốc, tội ác dũ thâm, ngược dân khi thần, hoạ doanh oán tích.
Khấn rằng: "Thần là Trịnh Tùng gượng gánh trọng trách của nước nhà, lạm cầm quyền lớn đánh dẹp, vâng mệnh đánh kẻ phản nghịch để cứu dân, nghĩ rằng sinh linh xã tắc triều Lê bị kẻ gian thần phản nghịch là họ Mạc giết vua, cướp nước, tội ác rất sâu, ngược dân, dối thần, hoạ đầy oán chứa.
12,172
Trí sinh linh chi đồ thán giả, cơ thất thập niên, nhẫm hoạ loạn chi nguyên do giả, phi nhất nhị nhật.
Để sinh linh phải lầm than đã gần 70 năm, mà nguyên do gây hoạ loạn, đâu phải một hai buổi.
12,173
Nguyện tiên triều liệt thánh hoàng đế giám chiếu thần tâm, diệt nghịch tặc dĩ an dân, phục Lê triều chi cảnh thổ".
Xin các thánh hoàng đế tiên triều, soi xét lòng thần, diệt bọn giặc phản nghịch cho dân được yên, để khôi phục cõi đất của triều Lê".
12,175
Chư tướng nghi giới tập tướng sĩ, nghiêm thân quân ước, chỉnh sức bộ ngũ, hiệu lệnh minh tín.
Các tướng nên răn cấm tướng sĩ, nghiêm ngặt nhắc lại ước thúc, chấn chỉnh đội ngũ, hiệu lệnh rõ ràng, tin thực.
12,179
Phàm binh sở chí, thu hào vô phạm, bất đắc lỗ lược lương dân, phi tặc chi tài vật giả, bất đắc lạm thủ.
Quân đi đến đâu, không được mảy may xâm phạm của dân, không được cướp bóc dân lành, của cải không phải của giặc thì không được lấy bậy.
12,180
Phàm binh sở chí, thu hào vô phạm, thị bất dịch tứ, nhân giai án đổ như cố, tranh trì ngưu dương tửu thực hương hoa mãn đạo, lão thiểu nam nữ nghênh tiếp vương sư hàng phục quân môn viết" "Tích tao ê vụ, kim.
Quân đi đến đâu, không mảy may xâm phạm của dân, chợ không thay đổi quầy hàng, mọi người đều yên ổn như cũ, già trẻ, trai gái tranh nhau đem trâu dê, cơm rượu, hương hoa đầy đường, đón tiếp vương sư, hàng phục trước cửa quân mà nói: "Trước kia bị sương mù che khuất, ngày nay
12,183
Như vi giả, trảm dĩ thị chúng".
Nếu ai vi phạm thì chém rao cho mọi người biết.
12,186
Bách tính duyệt tòng, hàm xưng: Tam đại dĩ hạ, phục kiến nhân nghĩa chi binh. 㱕
Trăm họ vui theo, đều nói rằng từ đời Tam đại về sau, nay mới lại thấy quân nhân nghĩa như thế.
12,188
Sai Tây đạo tướng Mạc Ngọc Liễn lĩnh bản đạo binh cố thủ Bảo Khánh môn dĩ Tây chí Nhật Chiêu; Bùi Văn Khuê, Trần Bách Niên đẳng lĩnh tứ vệ binh cứ Gia kiều môn quá Mộng kiều môn, trực chí Triền kiều môn, phân vi dinh thứ, nhật dạ bế môn cố thủ Đại La thành nội các tương cự thủ.
Sai tướng Tây đạo Mạc Ngọc Liễn đem quân bản đạo cố thủ từ cửa Bảo Khánh về phía tây đến phường Nhật Chiêu; bọn Bùi Văn Khuê, Trần Bách Niên đem quân bốn vệ giữ cửa Cầu Dừa, qua cửa Cầu Muống đến thẳng cửa Cầu Dền, chia dinh thứ, ngày đêm đóng cửa cố thủ trong thành Đại La để chống giữ.
12,202
Đông Bắc nhị đạo quân giai thuộc yên.
Quân hai đạo Đông và Bắc đều thuộc quyền Quyện.
12,204
Nguyễn Quyện lĩnh binh chí dinh, thiết phục vu Triền kiều môn ngoại dĩ đãi, trần đại súng Bách Tử hoả khí dĩ bị chi.
Nguyễn Quyện đem quân đến dinh, đặt quân phục ở ngoài cửa Cầu Dền để đợi, dàn súng lớn Bách Tử và các thứ hoả khí để phòng bị.
12,207
Tiết chế Trịnh Tùng kiến lưỡng quân đại chiến, điệt tương khoa dũng tranh hùng, xạ đảo bách tử, cánh kiêm nhật sắc thảm đạm, vân vụ tán ngưng, phong lãnh thiên hàn, quân binh hỗn chiến, súng pháo chấn thiên, chinh cổ động địa, tinh kì tế dã, kiếm kích như vân.
Tiết chế Trịnh Tùng thấy quân hai bên đánh nhau to, người người cùng khoe mạnh đua hùng, bắn ngã sĩ tốt, lại thêm sắc trời thảm đạm, mây mù lúc đọng lúc tan, gió lạnh trời rét, quân lính xô xát, tiếng súng rung trời, trống chiêng dậy đất, bóng cờ kín nội, giáo mác như mây.
12,210
Quyện kế cùng dục xá mệnh đào sinh, tiến thoái vô lộ, nội ngoại giai thị quan binh, luỹ môn hựu tắc.
Quyện cùng kế, định liều mạng chạy trốn, nhưng tiến, lui đều không còn đường nào, trong ngoài đều là quan quân mà cửa luỹ lại bị lấp.
12,218
Tiết chế Trịnh tùng binh chí giang hội nhật mộ, thả viết: "Binh pháp viết: Cùng khấu vật truy".
Tiết chế Trịnh Tùng đem quân đến bờ sông, gặp khi trời đã về chiều, liền nói rằng: Binh pháp có nói: Giặc cùng chớ đuổi.
12,229
Toại thu binh đồn trú an doanh y như đồ thứ.
Bèn thu quân dừng lại đóng doanh trại theo như trận đồ.
12,230
Thời, quan quân đại chấn, Tây Nam chi dân giai tuỳ phong mĩ.
Bấy giờ quan quân lừng lẫy, dân chúng miền tây nam đều thu về.
12,234
Phàm lược định sở chí câu hàng phục.
Hễ đánh dẹp đến đâu, đều hàng phục được cả.
12,235
Mạc Mậu Hợp tự thử kinh lật, thực bất hạ yết, ngoạ bất an chẩm, bất cảm cố hễ ư Nhĩ Hà chi Tây hĩ.
Mạc Mậu Hợp từ đấy rất sợ hãi, ăn không nuốt trôi, nằm không yên gối, không dám ngó đến phía tây sông Nhị nữa.
12,238
Thất nguyệt, lục nhật, hồng thuỷ sậu chí, hà thuỷ hoành lưu, khâu lăng trướng dật, Thanh Hoa đạo hoà cốc bất đăng.
Tháng 7, ngày mồng 6, lụt thình lình, nước sông chảy tràn, gò đống bị ngập, đạo Thanh Hoa lúa má mất mùa.
12,250
Bát nguyệt, Mậu Tí sóc, Nhâm Tuất thì, Lưu tinh đại tác, xích sắc, trường ngũ trượng, mang như quyên điện, ánh nhập nhân ốc, hạ vu địa thanh như cự lôi.
Tháng 8, ngày Mậu Tý mồng 1, giờ Nhâm Tuất, có nhiều sao băng sắc đỏ, dài 5 trượng, sáng như luồng điện, chiếu vào nhà người rồi sa xuống đất; có tiếng kêu như sấm lớn.
12,253
Văn Khuê giác chi, nãi suất bản bộ binh tự hồi Trường Yên, Gia Viễn ủng binh bất xuất.
Văn Khuê biết chuyện, liền đem quân bản bộ tự động bỏ về huyện Gia Viễn, phủ Trường Yên, đóng quân ở đấy không ra nữa.
12,257
Mậu Hiệp triệu chi tái tam bất năng đắc, nãi sai tướng lĩnh binh bức vấn chi.
Mậu Hợp cho gọi hai, ba lần không được, bèn sai tướng đem quân đến hỏi tội Khuê .
12,258
Quyện Thập nguyệt, Bùi Văn Khuê nhất diện trưng binh cự Mạc binh, nhất diện sử tử bôn chí Thanh Hoa hành dinh, nhập bái bẩm khất quy mệnh đầu hàng, quỵ khấp viết: Thần phụ Bùi.
Tháng 10, Bùi Văn Khuê một mặt lấy quân để chống quân Mạc, một mặt sai con chạy đến hành dinh Thanh Hoa, vào lạy bẩm xin theo mệnh đầu hàng, quỳ khóc nói: Cha thần là Bùi
12,259
Văn Khuê bị Mạc thị âm sai binh bức hại, nhân sử thần đại thần phụ mạo tội quy mệnh triều đình, uỷ thân hàng phục nguyện cầu sinh lộ, khắc cốt bất vong chung thân cảm đức.
Văn Khuê bị họ Mạc ngầm sai quân đến bức hại, sai thần thay mặt cha thần đến mạo tội xin theo về triều đình, cúi mình hàng phục xin cầu đường sống, ghi xương khắc cốt không quên, trọn đời cảm phục ân đức.
12,260
Thiên uy như chỉ thiên phương, thần phụ nguyện vi hướng đạo, vạn tử bất từ, thốn công nguyện báo.
Nếu oai trời rủ đến phương xa thì cha thần xin làm kẻ dẫn đường, muốn chết cũng không dám chối, để báo đáp tấc công.
12,262
Bản triều thổ địa chỉ nhật khả phục".
Đất đai của bản triều có thể định ngày mà thu phục".
12,264
Cập binh chí Gia Viễn, Bái, Đính, Văn Khuê kiến hữu cứu binh chí, nãi suất bản bộ tử đệ binh tam thiên nhân nghênh tiếp, bái phục vu quân tiền.
Khi quân đến xứ Bái, Đính , huyện Gia Viễn, Văn Khuê thấy có quân đến cứu, liền đem quân tử đệ bản bộ 3 nghìn người ra đón tiếp, lạy rạp ở trước quân.
12,267
Binh chí Đàm Xá giang độ, Tiết chế Trịnh tùng sai tả hữu súng cơ phục binh duyên hà kì xạ sát chi.
Khi quân đến bến đò sông Đàm Xá thì Tiết chế Trịnh Tùng sai cơ Tả hữu súng phục quân ở ven sông để bắn giết.
12,275
Hựu lệnh chư quân tạo phù kiều quá Đàm Giang độ, bị phong ba chiết phá, nhị nhật vị thành, nhân hạ lệnh tam quân tranh độ Hoàng Xá giang, chí Yên Quyết, Kiềm Cổ sơn trú dinh.
Lại sai các quân làm cầu phao qua bến đò Đàm Giang, nhưng bị sóng gió phá gãy, hai ngày chưa xong, vì thế mới hạ lệnh cho ba quân tranh thủ qua sông Hoàng Xá đến núi Kiềm Cổ ở Yên Quyết mà đóng dinh.
12,276
Nam đạo tướng Nghĩa quốc công đồn binh Thiên Phái giang, cứ thủ Đoan Vĩ độ, lệnh thôi Đại Yên, Ý Yên binh dân trúc thổ luỹ giang biên cự chi, phóng trúc tiêm hà ngạn lưỡng biên dĩ phòng quan binh độ giang.
Tướng Nam đạo của Mạc là Nghĩa quốc công đóng quân ở sông Thiên Phái, giữbến đò Đoan Vĩ, lệnh thúc binh dân các huyện Đại Yên, Ý Yên đắp luỹ đất ở bờ sông chống cự, thả chông tre hai bên bờ sông để phòng giữ quan quân qua sông.
12,277
Tiết chế Trịnh Tùng sai Bùi Văn Khuê tiềm duệ thuyền xuất giang khẩu dĩ kích kì thượng lưu, sai tả hữu súng cơ lai xạ duyên hà dĩ công kì hạ lưu, sử tượng mã binh tốt độ hà phấn công vu trung lưu thu giang trung tặc thuyền.
Tiết chế Trịnh Tùng sai Văn Khuê ngầm kéo theo thuyền ra cửa sông để đánh ở thượng lưu, sai cơ Tả hữu súng đến bắn ở ven sông để đánh ở hạ lưu, sai voi ngựa, quân lính qua sông đánh mạnh vào trung lưu để thu lấy thuyền giặc trên sông.
12,278
Quan binh tạo phù kiều độ giang, trú dinh Ý Yên huyện, hậu tiến binh Bình Lục, trú dinh Tắc kiều.
Quan quân làm cầu phao qua sông, đóng dinh ở huyện Ý Yên, sau tiến quân đến huyện Bình Lục, đóng quân ở cầu Lấp .
12,282
Mạc Trần Bách Niên.
Tướng Mạc là Trần Bách Niên
12,283
Nhân hạ lệnh quân trung thu hào vô phạm, dân gian thôn hạng vô cố bất đắc triếp nhập, vi giả, dĩ quân pháp luận.
Nhân đó, hạ lệnh trong quân không được mảy may xâm phạm của dân, các xóm ngõ ở dân gian nếu không có việc không được tự tiện vào, ai vi phạm thì trị theo quân pháp.
12,286
Hiểu dụ: "Tây Nam các xứ nhân dân giai ngã triều chi dân, cửu li Mạc chính tàn ngược.
Hiểu dụ rằng: Nhân dân các xứ tây nam đều là dân của triều ta, từ lâu mắc phải chính lệnh tàn ngược của họ Mạc.
12,289
ngã dữ nhữ đẳng các nghi tự tân, cách kì tiền tệ.
Từ nay về sau, ta cho các ngươi đều được đổi mới, sửa bỏ tệ cũ.
12,290
Nhữ đẳng an cư án đổ, bất đắc kinh bố.
Bọn các ngươi cứ yên ở làm ăn, không được sợ hãi.
12,291
Sư hành kỷ luật, dĩ điếu dân vi niệm".
Quân đi có kỷ luật, một lòng thương dân.
12,292
Thảo tân.
Thảo.
12,305
Cập chí Phù Dung huyện, trú dinh Liễu Kinh, sử Tả thuỷ dinh Thái quận công Nguyễn Thất Lí đốc Tiền thuỷ quân dinh Định quận công Trần Bách Niên, Tả thuỷ quân dinh Mĩ quận công Bùi Văn Khuê cập Đường quận công, Trực quận công khuyết đẳng, đồng Nội thuỷ các.
Phù Dung , đóng quân ở Liễu Kinh, sai Tả thuỷ dinh là Thái quận công Nguyễn Thất Lý đốc suất bọn Tiền thuỷ quân dinh Định quận công Trần Bách Niên, Tả thuỷ quân dinh Mĩ quận công Bùi Văn Khuê và Đường quận công, Trực quận công cùng với các cơ Nội thuỷ,
12,312
cơ, chiến thuyền tam bách chích, công phá Kim Thành huyện.
300 chiến thuyền đánh phá huyện Kim Thành.
12,313
Mạc lập kì tử Toàn vi vương, sử giám quốc sự, cải hiệu Vũ An sơ niên, tự vi tướng đốc binh cự mệnh.
Mạc lập con là Toàn làm vương, sai coi việc nước, đổi niên hiệu là Vũ An năm thứ 1, rồi tự làm tướng đốc quân chống lại triều đình.
12,319
Thời, Mạc dư đảng Phố quận công, Thuỷ quận công, Miện quận công, Lũng quận công, Hào quận công, Thuỵ quận công, Lương quận công, Nghĩa quận công, cập Lại bộ Thượng thư Phúc quận công Đỗ Uông, Lễ bộ Thượng thư Hồng Khê hầu Nhữ Tông, Công bộ Thượng thư Đồng Hàng, Lại bộ Tả thị lang Vĩnh Sơn hầu Ngô Vĩ, Hộ bộ Tả thị lang Ngô Tháo, Đông các học sĩ Ngô Cung, Tự khanh Nguyễn Cẩn, Sơn Nam thừa chính sứ Đàm Văn Tiết, Hải Dương thừa chính sứ Phạm Như Dao đẳng tịnh nghệ quân môn hàng phục.
Bấy giờ dư đảng của Mạc là Phố quận công, Thuỷ quận công, Miện quận công, Lũng quận công, Hào quận công, Thuỵ quận công, Lương quận công, Nghĩa quận công và bọn Lại bộ thượng thư Phúc quận công Đỗ Uông , Lễ bộ thượng thư Hồng Khê hầu Nhữ Tông, Công bộ thượng thư Đồng Hàng , Lại bộ tả thị lang Vĩnh Sơn hầu Ngô Vĩ, Hộ bộ tả thị lang Ngô Tháo , Đông Các học sĩ Ngô Cung, Tự khanh Nguyễn Cận, Sơn Nam thừa chính sứ Đàm Văn Tiết , Hải Dương thừa chính sứ Phạm Như Dao đều đến cửa quân hàng phục.
12,324
Quan quân chí Phượng Nhãn, hữu thôn nhân hướng đạo dẫn quan quân nhập tự trung, hoạch Mạc Mậu Hiệp tương tựu trú dinh.
Quan quân đến huyện Phượng Nhỡn, có người trong thôn dẫn đường đưa quan quân vào chùa bắt được Mạc Mậu Hợp đem đến dinh quân.
12,330