Phiên âm
stringlengths
2
728
Dịch nghĩa
stringlengths
2
731
__index_level_0__
int64
0
13.7k
Vũ quận công lệnh nhân dĩ tượng tải chi cập nhị kĩ nữ hoàn chí kinh sư hiến phu, sinh kiêu tam nhật, trảm vu Bồ Đề, truyền thủ nghệ Thanh Hoa, Vạn Lại hành tại, đính kì lưỡng nhãn trí vu thị.
Vũ quận công sai người lấy voi chở cùng với hai kỹ nữ về Kinh sư dâng tù, bêu sống 3 ngày rồi chém ở bến Bồ Đề, gửi đầu về hành tại Vạn Lại ở Thanh Hoa, đóng đinh vào hai mắt bỏ ở chợ.
12,331
Chí thị, phục thu tàn tốt cứ Thanh Lâm, tiếm vị vu Chí Linh, Nam Gián xưng hiệu Bảo Định, hựu cải.
Đến đây, lại thu nhặt tàn quân chiếm cứ huyện Thanh Lâm , tiếm ngôi ở xã Nam Gián, huyện Chí Linh, đặt niên hiệu là Bảo Định, lại đổi là
12,333
Hô hấp chi gian, chư huyện hưởng ứng, binh chí thất vạn nhân.
Chỉ trong chốc lát các huyện đều hưởng ứng, quân có đến 7 vạn người.
12,338
vu trận trung. 䏓
tại trận.
12,346
Thập thất nhật, Tiết chế Trịnh Tùng mệnh Thái uý Hoàng Đình Ái, Thái bảo Trịnh Đỗ, Trịnh Đồng, Trịnh Ninh đẳng đốc chư dinh bộ binh tượng mã tiến thảo Mạc Kính Chỉ, trú binh vu Cẩm Giàng, duyên hà liệt đồn dữ chi tương cự.
Ngày 27, Tiết chế Trịnh Tùng sai bọn Thái uý Hoàng Đình Ái, Thái bảo Trịnh Đỗ, Trịnh Đồng, Trịnh Ninh đốc suất bộ binh và voi ngựa các dinh tiến đánh Mạc Kính Chỉ, đóng quân ở huyện Cẩm Giàng, đặt đồn ở dọc sông để chống cự.
12,351
Hựu phân mệnh Thái uý Nguyễn Hữu Liêu tổng đốc thuỷ quân tiến chí Thanh Lâm, dữ Đình Ái tương vi biểu lí cứu viện quan quân tại Cẩm Giàng.
Lại sai Thái uý Nguyễn Hữu Liêu tổng đốc thuỷ quân, tiến đến huyện Thanh Lâm, cùng với Đình Ái trong ngoài dựa nhau để cứu viện quan quân ở Cầm Giàng.
12,352
Hữu bản kỷ phụ Mạc tiếm, khởi tự Đinh Hợi, Mạc Đăng Dung tiếm vị, kỷ nguyên Minh Đức nguyên niên; truyền ngũ thế, chí Nhâm Thìn, Hồng Ninh tam niên, Mạc Mậu Hợp bị phu.
Trở lên, kỷ này phụ chép họ Mạc tiếm ngôi, bắt đầu từ năm Đinh Hợi , Mạc Đăng Dung tiếm ngôi, đặt niên hiệu là Minh Đức năm thứ 1; truyền 5 đời, đến năm Nhâm Thìn , Hồng Ninh năm thứ 3, Mạc Mậu Hợp bị bắt.
12,358
Thập nhị nhật, trú dinh Cẩm Giàng, dữ chư tướng đại hội nghị phân binh thuỷ lục tịnh tiến, độ giang cấp chiến.
Ngày 12, đóng dinh ở Cẩm Giàng, đại hội các tướng bàn chia quân tiến theo cả hai đường thuỷ bộ, vượt sông, đánh gấp.
12,364
Khiển Thận Nghĩa dinh phó đô tướng, hữu tướng, Thái uý Vinh quận công Hoàng Đình Ái, Tráng Nghĩa dinh phó đô tướng, Thái uý Dương quận công Nguyễn Hữu Liêu thống lĩnh thuỷ bộ chư dinh cơ tướng sĩ, tiến chí Thanh Lâm địa phương.
Sai Thận nghĩa dinh phó đô tướng, hữu tướng, Thái uý Vinh quận công Hoàng Đình Ái và Tráng nghĩa dinh phó đô tướng, thái uý Dương quận công Nguyễn Hữu Liêu thống lĩnh tướng sĩ các dinh cơ thuỷ bộ tiến đến huyện Thanh Lâm.
12,365
Thị thời, Mạc Kính Chỉ binh bất hạ lục thất vạn nhân, tất chúng cứ Thanh Lâm, cách ngạn ỷ xuyên trở thuỷ dĩ vi cố, đồn dinh kết trại, liệt cổ trương kì.
Bấy giờ, quân của Mạc Kính Chỉ không dưới 6, 7 vạn người, đem hết ra giữ huyện Thanh Lâm, cách bờ nhờ sông làm thế hiểm cố, đóng dinh, đặt trại, dàn trống giăng cờ.
12,366
Kì dư trảm đắc tặc quắc, thu đắc tặc thuyền khí giới bất khả thăng sổ.
Còn thì chém thủ cấp giặc, thu được thuyền ghe khí giới nhiều không kể xiết.
12,375
Thập tứ nhật, cầm đắc Kính Chỉ ư Yên Quảng xứ, Hoành Bồ huyện, Tân Manh thôn, cập Mạc Kính Phu, Mạc Kính Thận, Mạc Kính Giản, Mạc Kính Tuân, Phù Ninh Vương, Hoành Lễ công, Hùng Lượng công, tịnh Vũ An Mạc.
Ngày 14, bắt được Kính Chỉ ở thôn Tân Manh, huyện Hoành Bồ, xứ Yên Quảng và bọn Mạc Kính Phu, Mạc Kính Thận, Mạc Kính Giản, Mạc Kính Tuần, Phù Nịnh Vương, Hoành Lễ công, Hùng Lượng công , cả bọn Vũ An Vương Mạc
12,378
Hựu sáo đắc Thượng thư Mai Công, Nguyễn Doãn Khâm, Nguyễn Khắc Kính, Lại Mẫn, Nguyễn Khắc Tuy, Nguyễn Triệt, Nguyễn Minh Bích, Nguyễn Lễ; Đô ngự sử Trịnh Quang Tán; Tả thị lang Vương Văn Hội, Hoa Hữu Mô, Vương Bạt Tuỵ, Nguyễn Hiển Tích, Nguyễn Nhữ Tiếp, Phạm Cung; Hữu thị lang Phạm Tri Chỉ, Đặng Hài, Nguyễn Diễn, Phan Phạm, Lê Viết Thảng; Thừa chính sứ Đoàn Thế Bạt, Nguyễn Phong Quắc, Đỗ Hiển; Tự khanh Ngô Áng; Đông các Đỗ Trực, Phan Tông; Tham chính Trần Khánh Khuê; Phủ doãn Nguyễn Tránh; Đô cấp sự trung Hoàng Kì, Nguyễn Tuấn Ngạn, Nguyễn Hằng; Giám sát ngự sử Lê Thế Lộc, Phạm Điền Tuấn, Vũ Sâm, Phạm Tòng Mệnh, Đỗ Diễn, Lê Kim Bảng, Hoàng Vụ Bản, Nguyễn Nhân Phức; Cấp sự trung Trịnh Khắc Thận, Vương Thì Trung, Nguyễn.
Lại dò được bọn thượng thư Mai Công, Nguyễn Doãn Khâm, Nguyễn Khắc Kính, Lại Mẫn, Nguyễn Khắc Tuy, Nguyễn Triệt, Nguyễn Minh Bích, Nguyễn Lễ, Đô ngự sử Trịnh Quang Tán, Tả thị lang Vương Văn Hội, Hoa Hữu Mô, Vương Bạt Tuỵ, Nguyễn Hiển Tích, Nguyễn Nhữ Tiếp, Phạm Cung, Hữu thị lang Phạm Tri Chỉ, Đặng Hài, Nguyễn Diễn, Phạn Phạm, Lê Viết Thảng, Thừa chính sứ Đoàn Thế Bạt, Nguyễn Phong Quắc, Đỗ Hiển, Tự khanh Ngô Áng, Đông các Đỗ Trực, Phan Tông, Tham chính Trần Khánh Khuê, Phủ doãn Nguyễn Tránh, Đô cấp sự trung Hoàng Kỳ, Nguyễn Tuấn Ngạn, Nguyễn Hằng, Giám sát ngự sử Lê Thế Lộc, Phạm Điểm Tuần, Vũ Sâm, Phạm Tòng Mệnh, Đỗ Diễn, Lê Kim Bảng, Hoàng Vụ Bản, Nguyễn Nhân Phúc, Cấp sự trung Trịnh Khắc Thận, Vương Thì Trung, Nguyễn
12,380
Sơ, Mạc Ứng Vương Mạc Đôn Nhượng độn tẩu chí An Bác, kinh lật bệnh phát nhi tử, thổ nhân táng chi vu tự trắc.
Trước đây, Ứng Vương của họ Mạc là Mạc Đôn Nhượng chạy trốn đến huyện An Bác, sợ hãi quá thành bệnh mà chết, người nơi ấy chôn tại cạnh chùa.
12,388
Tam nguyệt, Mạc Ngọc Liễn đào thoán Bắc phương, âm cầu Mạc thị tông thất, đắc Mạc Kính Điển chi tử Đôn Hậu Vương Mạc Kính Cung ư Văn Lan châu, lập vi Mạc hậu, tự hiệu Càn Thống sơ niên.
Tháng 3, Mạc Ngọc Liễn trốn lên phương bắc, ngầm tìm người tông thất họ Mạc, tìm được người con của Mạc Kính Điển là Đôn Hậu Vương Mạc Kính Cung ở châu Văn Lan, lập làm người nối nghiệp họ Mạc, đặt niên hiệu là Càn Thống năm thứ 1.
12,389
Nhĩ Hà dĩ bắc, can qua điệt khởi, yên hoả bất tức, quần hùng thoán phục,.
Từ sông Nhị trở lên bắc, binh đao hết nơi này đến nơi khác, khói lửa không lúc nào ngớt, quần hùng ẩn náu,
12,392
Đại giả, kết thành tam thập đảng, tiểu giả, diệc bất hạ sổ thập dư quần.
Bọn lớn kết thành ba chục đảng, bọn nhỏ cũng không dưới mấy chục nhóm.
12,394
Chân Định, Đô Ninh, danh tự xưng Kiến quốc công, cứ Kiến Xương; Ất Kĩ tự xưng Cường quốc công, cứ Cẩm Giàng; Thái quốc công cứ Gia Phúc; Hoa quốc công cứ Khoái châu; Nghiêm quốc công cứ Tứ Kì; Khánh quốc công cứ Sơn Dương; Đức quốc công cứ Hạ Hoa; Mĩ Thọ hầu cứ Thanh Ba; Uy Vương Mạc Kính Dụng cứ Thái Nguyên; Tráng Vương Mạc Kính Chương cứ Thiên Thi; Nghĩa quốc công cứ Tân Hưng; Văn quốc công cứ Tam Dương; Cẩm quốc công cứ Thanh Trì; Trung quốc công cứ Phổ Yên; Phúc quốc công cứ Hữu Lũng.
Đô Ninh ở Chân Định , tự xưng là Kiến quốc công, chiếm giữ phủ Kiến Xương ; Ất Kỹ tự xưng là Cương quốc công, chiếm giữ huyện Cẩm Giàng; Thái quốc công chiếm giữ huyện Gia Phúc; Hoa quốc công chiếm giữ phủ Khoái Châu; Nghiêm quốc công chiếm giữ huyện Tứ Kỳ; Khánh quốc công chiếm giữ huyện Sơn Dương ; Đức quốc công chiếm giữ huyện Hạ Hoa ; Mỹ Thọ hầu chiếm giữ huyện Thanh Ba; Uy Vương Mạc Kính Dụng chiếm giữ Thái Nguyên, Tráng Vương Mạc Kính Chương chiếm giữ huyện Thiên Thi; Nghĩa quốc công chiếm giữ phủ Tân Hưng ; Văn quốc công chiếm giữ huyện Tam Dương; Cẩm quốc công chiếm giữ huyện Thanh Trì; Trung quốc công chiếm giữ huyện Phổ Yên; Phúc quốc công chiếm giữ huyện Hữu Lũng.
12,395
Nhị thập ngũ nhật, Đại Đồng thổ quan Hoà Thắng hầu Vũ Đức Cung suất bản bộ binh tam thiên phó kinh thú phục, quy thuận triều đình, hiến kim ngân bảo vật thập bàn, đại thân ngân nhân nhất toạ, ngân hoa bình nhị kiện, ngân hương lư nhất bổng, ngân hạc nhất chích, lương mã tam thập sất, chí dinh môn bái yết.
Ngày 25, viên thổ quan ở Đại Đồng là Hoà Thắng hầu Vũ Đức Cung đem hơn 3.000 quân bản bộ về Kinh thú tội, quy phục triều đình, dâng 10 mâm vàng bạc châu báu, một pho tượng bằng bạc thay mình, 2 bình hoa bạc, 1 lư hương bạc, 1 đôi hạc bằng bạc, 30 con ngựa tốt, đến cửa dinh lạy chào.
12,402
Thị thời, đế tại Vạn Lại hành tại, tam nguyệt khởi trình, độ Tây Đô thành trực tiến Quảng Bình đạo, xuất Thiên Quan quá Mĩ Lương, Chương Đức, nhất cá nguyệt chí Thanh Oai huyện trú quân.
Lúc ấy, vua từ hành tại Vạn Lại, tháng 3 thì khởi hành, qua thành Tây Đô, tiến thẳng theo đường Quảng Bình ra Thiên Quan, qua các huyện Mỹ Lương, Chương Đức, đi 1 tháng đến huyện Thanh Oai thì đóng quân.
12,404
Ngã quốc gia, Thái Tổ Cao Hoàng Đế, ứng thiên thuận nhân, thừa thời khải vận, hành đại nghị bình tàn, đắc thiên hạ thậm chính, kì lập quốc chi quy mô, hoành thả viễn hĩ.
Nhà nước ta, Thái Tổ Cao Hoàng Đế ứng mệnh trời, thuận lòng người, thừa thời cơ mở vận, theo nghĩa lớn dẹp hung tàn, được thiên hạ rất chính đáng, quy mô dựng nước đã rộng lớn lại lâu dài.
12,411
Hiến Tông Duệ Hoàng Đế, kê thức điển chương, chính tứ phương cương kỷ chi tắc.
Mọi điển chương pháp độ để giữ cơ nghiệp đã tường tận và đầy đủ cả rồi.
12,412
Thánh thánh tương thừa, mô liệt khải hựu hàm chính, hậu nhân túc dĩ thế thủ.
Các đời truyền nối, mưu lớn công to, mở mang, phò tá, đều theo lẽ chính, người sau có thể giữ mãi đời đời.
12,413
Tự Quang Thiệu, Thống Nguyên niên gian, vận tao trung phủ, vi nghịch thần Mạc Đăng Dung sở tiếm.
Từ khoảng năm Quang Thiệu, Thống Nguyên, nửa đường gặp phải vận bĩ, bị nghịch thần Mạc Đăng Dung cướp ngôi.
12,414
Thiết nhiên, Tiên vương chi chính thống thượng tồn, tại nhân tâm.
Nhưng chính thống của Tiên vương hãy còn, ơn sâu ở lòng người
12,415
Kì dực phù nhật nguyệt, chỉnh đốn càn khôn, thực lại Minh Khang Thái Vương chi huân chi đức, trung hưng công nghiệp thực thuỷ ư thử.
Còn việc dực phù nhật nguyệt, chỉnh đốn càn khôn thì nhờ ở công đức của Minh Khang Thái Vương, công nghiệp trung hưng thực bắt đầu từ đó.
12,419
Trẫm thiệu khôi tiền liệt, tổng toản đại quyền, mỗi dĩ diệt cừu địch phục trung nguyên vi niệm, đặc mệnh Đô tướng Tiết chế các xứ thuỷ bộ chư dinh, kiêm tổng nội ngoại bình chương quân quốc trọng sự, Tả tướng Thái uý Trường quốc công Trịnh Tùng, tổng thống đại binh, công tiễu Mạc đảng.
Trẫm nối theo công xưa, tóm giữ quyền lớn, lúc nào cũng nghĩ đến việc tiêu diệt kẻ thù, khôi phục trung nguyên, mới đặc sai Đô tướng tiết chế các xứ thuỷ bộ chư dinh, kiêm tổng nội ngoại bình chương quân quốc trọng sự tả tướng thái uý Trường quốc công Trịnh Tùng, nắm cả đại binh, đánh giết đảng Mạc.
12,420
Thượng niên thập nhị nguyệt, cầm đắc nghịch Đăng Dung tôn nguỵ Hồng Ninh Mạc Mậu Hợp, tức chính dĩ pháp.
Tháng 12 năm ngoái, bắt được cháu của tên nghịch tặc Đăng Dung là nguỵ Hồng Ninh Mạc Mậu Hợp, đã xử theo quân pháp.
12,421
Kì dư nghiệt như nguỵ Đường An Vương, nguỵ Hùng Lượng Công, nguỵ Huệ Thành công, nguỵ An Sơn vương, nguỵ Phù Ninh vương, nguỵ Dũng Nghĩa công đẳng bối, tất giai tựu lục.
Còn dư nghiệt như bọn nguỵ Đường An Vương, nguỵ Hùng Lượng Công, nguỵ Huệ Thành Công, nguỵ An Sơn Vương, nguỵ Phù Ninh Vương, nguỵ Dũng Nghĩa công đều đã giết cả.
12,424
Thị tuy liệt thánh tại thiên mặc tương chi linh, diệc Đô soái khuông quốc tái tạo chi công, nhi tướng sĩ dụng mệnh tuyên cần chi lực, cố năng trăn tư đại nghiệp, phục thử cựu đô.
Việc đó dẫu là do anh linh của tiên tổ trên trời ngầm giúp, cũng là nhờ công lao của đô soái khuông phò dựng lại và công sức của tướng sĩ vâng mệnh siêng cần, cho nên mới làm nên nghiệp lớn, lấy lại được đô thành xưa này.
12,426
Phàm kì thần thứ hàm tất văn tri".
Quan lại và dân chúng các ngươi, thảy đều nghe cho biết.
12,432
Thị thời, luận công hành thưởng, gia Hoàng Đình Ái vi Hữu tướng Thái uý Vinh quốc công; Nguyễn Hữu Liêu vi Thái uý Dương quốc công; Trịnh Đỗ vi vi Thái phó; Trịnh Đồng, Trịnh Ninh câu vi Thái bảo; Lê Bách vi Thiếu uý Bản quận công; Hà Thọ Lộc vi Thiếu uý; Ngô Cảnh Hựu, Trịnh Văn Hải câu vi Thiếu bảo; Lại bộ Thượng thư Nguyễn Mậu Tuyên vi Thiếu phó Quỳnh quận công.
Khi ấy, xét công ban thưởng, gia phong Hoàng Đình Ái làm hữu tướng thái uý Vinh quốc công; Nguyễn Hữu Liêu là thái uý Dương quốc công; Trịnh Đỗ làm thái phó; Trịnh Đồng, Trịnh Ninh đều làm thái bảo; Lê Bách làm thiếu uý Bản quận công; Hà Thọ Lộc làm thiếu uý; Ngô Cảnh Hựu, Trịnh Văn Hải đều làm thiếu bảo; Lại bộ thượng thư Nguyễn Mậu Tuyên làm thiếu phó Quỳnh quận công.
12,433
Kì dư gia thăng chức tước hữu sai.
Những người còn lại đều được gia thăng chức tước theo thứ bậc khác nhau.
12,434
Cập chí, Hoàng sử dĩ hoả khí đại súng nhất tề xạ chi, đại phá tặc luỹ.
Khi đến nơi, Hoàng sai lấy hoả khí và súng lớn bắn đồng loạt, phá tan luỹ giặc.
12,444
Tiên Hưng, Kiến Xương tất bình.
Các phủ Tiên Hưng, Kiến Xương bình được cả.
12,447
Hậu nguỵ Tráng Vương Mạc Kính Chương, Thái quốc công, Hoa quốc công, Nghiêm quốc công, Cẩm quốc công, Cường quốc công, Đông quốc công đẳng câu tương binh chiếm cứ Hải Dương địa phương.
Sau bọn nguỵ Tráng Vương Mạc Kính Chương, Thái quốc công, Hoa quốc công, Nghiên quốc công, Cẩm quốc công, Cường quốc công, Đông quốc công đều chiếm giữ vùng Hải Dương.
12,448
Duy dư nguỵ Càn Thống Mạc Kính Cung, Mạc Ngọc Liễn cập Thứ vương, Khánh vương Mạc Kính Khoan, Yên Dũng vương, Đường quốc công, Đức quốc công, Đông quốc công, Văn quốc công, Trung quốc công, Phúc quốc công đẳng nguỵ tặc nhi dĩ.
Chỉ còn nguỵ Càn Thống Mạc Kính Cung và Mạc Ngọc Liễn cùng bọn giặc nguỵ Thứ vương , Khánh Vương Mạc Kính Khoan, Yên Dũng Vương, Đường quốc công, Đức quốc công, Đông quốc công, Văn quốc công, Trung quốc công, Phúc quốc công mà thôi.
12,454
Sơ, Quyện tử Nhuệ quận công Nguyễn Tín, Thọ Nham hầu Nguyễn Trù, cập Phù Hưng hầu Nguyễn Phủ tử Đô Mĩ, Vân Bảng, Nam Dương, An Nghĩa, Nhân Trí khuyết đẳng kiến Mạc chủ tao cầm nãi khuất thân hiệu thuận.
Trước đây, con Quyện là Nhuệ quận công Nguyễn Tín, Thọ Nham hầu Nguyễn Trù và con của Phù Hưng hầu Nguyễn Phủ là bọn Đô Mỹ, Văn Bảng, Nam Dương, An Nghĩa, Nhân Trí thấy vua Mạc bị bắt, bèn chịu khuất quy thuận.
12,463
Khánh vương Mạc Kính Khoan cứ Đại Từ, Thứ vương cứ Thái Nguyên, An quận công cứ Phổ Yên, Đông quận công cứ Lục Ngạn, Yên Dũng vương cứ Vũ Nhai, Việt quốc công cứ Sơn Dương đẳng xứ.
Khánh Vương Mạc Kính Khoan chiếm giữ huyện Đại Từ, Thứ vương chiếm giữ Thái Nguyên, An quận công chiếm giữ huyện Phổ Yên, Đông quốc công chiếm giữ huyện Lục Ngạn, Yên Dũng Vương chiếm giữ huyện Vũ Nhai, Việt quốc công chiếm giữ huyện Sơn Dương.
12,473
Thời, Minh quốc đa sử nhân lai thám phỏng sự tình, đãi vô hư nhật.
Bấy giờ nhà Minh hay sai người sang dò la sự tình, hầu như không ngày nào là không có.
12,475
Hải Dương, Sơn Nam hạ bạn, đạo tặc quần khởi, phương dân nhật dạ bất an.
Miền dưới Hải Dương và Sơn Nam, giặc cướp nổi lên nhiều, dân địa phương ngày đêm không yên.
12,476
Mĩ Thọ tiềm thông sứ vãng lai, âm sử nhân xâm lược Sơn Tây nguyên đầu các huyện, công phá Thanh Ba, Hạ Hoa.
ngầm thông tin đi lại với Mỹ Thọ của giặc, bí mật sai người xâm lược các huyện ở đầu nguồn trấn Sơn Tây, đánh phá các huyện Thanh Ba, Hạ Hoa.
12,478
Tứ ban quyên cốc chi du, đồng nghi tái lũ kim chi khổng diệu.
Đã chọn ngày tốt ban ra, lại tạc sách vàng rực rỡ.
12,484
Thôi trung dực vận hiệp mưu đồng đức phụ quốc kiệt tiết đôn hậu minh nghĩa công thần đặc tiến khai phủ kim tử.
Nay Suy trung dực vận hiệp mưu đồng đức phụ quốc kiệt tiết đôn hậu minh nghĩa công thần đặc tiến khai phủ kim tử
12,485
Sơ ứng nghĩa kì, hanh truân chính kinh luân thời tiết trùng khôi cựu cảnh, khuông tế định hưng phục quy mô.
Buổi đầu ứng theo cờ nghĩa, sửa kinh luân giềng mối buổi gian truân; một phen thu lại cõi xưa, định hưng phục quy mô khi phò tá.
12,487
Gia tích đa vu Tiên vương, thịnh nghiệp trưng chi hậu tự.
Đối với Tiên vương, công tốt có nhiều; xét đến con nối, nghiệp lớn càng rõ.
12,488
Đặc mệnh Suy trung dực vận đồng đức công thần, đặc tiến phụ quốc thượng tướng quân, Trung quân đô đốc phủ Tả đô đốc chưởng phủ sự, Thái uý Đoan quốc công thượng trụ quốc Nguyễn Hoàng tê bổng kim sách tiến phong: Suy trung dực vận hiệp mưu đồng đức phụ quốc kiệt tiết đôn hậu minh nghĩa.
Đặc sai Suy trung dực vận đồng đức công thần đặc tiến phụ quốc thượng tướng quân Trung đô đốc phủ tả đô đốc chưởng phủ sự thái uý Đoan quận công thượng trụ quốc Nguyễn Hoàng mang kim sách tiến phong làm Suy trung dực vận hiệp mưu đồng đức phụ quốc kiệt tiết đôn hậu minh nghĩa
12,491
Nhưng khâm tai".
Hãy kính theo đó.
12,493
Ngã dân thị vô tội chi dân nhi sử tự li phong nhận chi trung, hà nhẫn dã! Ngã đẳng nghi tị cư tha quốc, dưỡng thành uy lực, khuất tiết đãi thời, tứ kì thiên mệnh hữu sở quy nhi hậu khả vưu.
Bọn ta nên tránh ra ở nước khác, chứa nuôi uy sức, chịu khuất đợi thời, xem khi nào mệnh trời trở lại mới có thể làm được.
12,518
Hựu thiết vật yêu thỉnh Minh nhân nhập ngã.
Lại chớ nên mời người Minh vào
12,521
Bát nguyệt Hữu tướng Hoàng Đình Ái suất binh công phá Lạng Sơn, nguỵ Nghiêm quốc xuất hàng, cánh sát chi. Bát nguyệt, Hữu tướng Hoàng Đình Ái suất binh công phá Lạng Sơn
Tháng 8, Hữu tướng Hoàng Đình Ái đem quân đánh phá Lạng Sơn.
12,527
Thập nguyệt, Tiết chế Trịnh Tùng sai Thái uý Nguyễn Hoàng thống lĩnh thuỷ binh, Thái uý Nguyễn Hữu Liêu đốc suất bộ binh, nhị đạo tịnh tiến trực chí Đại Đồng, công phá Hoà quận công Vũ Đức Cung dinh, phân binh tiền hậu giáp công.
Tháng 10, Tiết chế Trịnh Tùng sai Thái uý Nguyễn Hoàng thống lĩnh thuỷ quân, Thái uý Nguyễn Hữu Liêu đốc suất bộ binh, hai đường tiến thẳng đến Đại Đồng, đánh phá dinh của Hoà quận công Vũ Đức Cung, chia quân đằng trước, đằng sau đánh ập lại.
12,533
Thời, Thái Nguyên chư huyện do vi nguỵ Uy vương Mạc Kính Dụng đẳng sở chiếm; Lạng Sơn do vi Mạc Kính Cung, Mạc Kính Khoan đẳng sở cứ, sở tại kiếp lược địa phương, nhân dân thái bán bất đắc quy nông, điền dã hoang phế.
Bấy giờ, các huyện ở Thái Nguyên vẫn bị bọn Uy Vương nguỵ Mạc Kính Dụng chiếm giữ, Lạng Sơn vẫn bị bọn Mạc Kính Cung, Mạc Kính Khoan chiếm giữ, những nơi chúng chiếm bị cướp bóc, nhân dân địa phương quá nửa không được về làm ruộng, đồng ruộng bị bỏ hoang.
12,541
Chiếu miễn triều cập yết giao tự lễ.
Xuống chiếu miễn chầu cùng các lễ yết, lễ giao tự.
12,544
Thanh Hoa trấn thủ quan Hà Thọ Lộc, Trịnh Văn Hải đẳng trưng binh kích phá chi, phù hoạch đồ đảng, tận sát chi.
Quân trấn thủ Thanh Hoa là bọn Hà Thọ Lộc, Trịnh Văn Hải gọi quân đi đánh phá được, bắt được đồ đảng của giặc, đều giết hết.
12,560
Lệnh xuất tái tam hựu tẩm bất hành.
Lệnh ra hai ba lần, rồi lại ỉm đi không thi hành.
12,562
Thập tam nhật Giáp Thân, thiên vô vân nhi lôi hốt chấn cung trụ.
Ngày Giáp Ngọ 13, trời không mây mà có sấm, bỗng sét đánh vào cột cung điện.
12,570
Hậu tái trí tam viên vi chi, giai bất năng thủ pháp, kì chức toại phế.
Sau lại đặt thêm 3 viên nữa, nhưng đều không giữ được đúng luật pháp, nên lại bãi bỏ chức ấy.
12,579
Vương khởi binh cứ Lục Ngạn, yêu tiệt Lạng Sơn yếu lộ, sát bản xứ Tổng binh Lan quận công, cập đoạt thủ tượng nhất chích tịnh tài vật.
Vương, dấy quân chiếm giữ huyện Lục Ngạn, đón chặn đường hiểm yếu ở Lạng Sơn giết viên tổng binh bản xứ là Lang quận công , cướp đoạt 1 con voi và tài vật.
12,582
Thập nhất nguyệt, Tiết chế Trịnh Tùng sai Kế quận công Phan Ngạn lĩnh chư thuỷ cơ, chiến thuyền tam bách sưu, tượng nhất chích trấn thủ Hải Dương, Thanh Lâm; Trịnh Văn Chương thủ Vĩnh Lại; Nguyễn Đình Luân thủ Cẩm Giang; Hải quận công thủ Đường An; Vương Trân thủ Siêu Loại.
Tháng 11, Tiết chế Trịnh Tùng sai Kế quận công Phan Ngạn đem các cơ thuỷ quân, 300 chiến thuyền và 1 con voi đến trấn giữ huyện Thanh Lâm trấn Hải Dương, Trịnh Văn Chương giữ huyện Vĩnh Lại, Nguyễn Đình Luân giữ huyện Cẩm Giàng, Hải quận công giữ huyện Đường An, Vương Trân giữ huyện Siêu Loại.
12,583
Tam nhật, chí Thanh Lâm, Thanh Hà giang, dữ Phan Ngạn binh chiến tự Dần chí Ngọ, đại kích vu giang trung.
Ngày mồng 3, đến sông ở các huyện Thanh Lâm, Thanh Hà, đánh nhau với quân của Phan Ngạn từ giờ tý đến giờ ngọ, kịch chiến trên sông.
12,584
Thời, Phan Ngạn mã vị cập yên, binh vị cập giáp, tặc thuyền dĩ đáo dinh môn, quân giai thất thố, Phan Ngạn xuất cự tài tứ thập ngũ nhân nhi dĩ.
Bấy giờ Phan Ngạn ngựa chưa kịp đóng yên, quân chưa kịp mặc giáp mà thuyền giặc đã đến cửa dinh, quân lính đều luống cuống, cùng ra với Phan Ngạn để chống cự chỉ có 45 người thôi.
12,585
Giao Thuỷ tướng Lễ quận công kiến tặc thế đại, tự độ quân thiểu lực bất năng chi, tự suất bản thuyền quân nhân tiên thoái.
Viên tướng người Giao Thuỷ là Lễ quận công thấy thế giặc mạnh, tự liệu quân ít, sức không chống nổi, tự đem quân của thuyền mình lui trước.
12,586
Tặc tướng nghi cứu binh chí, nãi đại hội, khí thuyền hạ thuỷ đào sinh.
Tướng giặc ngờ có quân cứu viện đến, liền tự tan vỡ, bỏ thuyền nhảy xuống sông trốn chạy.
12,590
quốc công, Thái quốc công, An quận công, Thuỵ quận công, cập tì tướng nhị thập dư nhân, trảm hoạch tặc quắc nhị thiên nhị bách cửu thập bát khoả, thu hoạch thuyền sưu khí giới bất khả thăng sổ, phu hoạch tặc tướng Hào quận công đẳng sổ nhân.
quốc công, Thái quốc công, An quận công, Thuỵ quận công và hơn 20 viên tỳ tướng, chém được 2298 thủ cấp giặc, thu được thuyền bè khí giới nhiều không kể xiết, bắt sống được mấy viên tướng giặc là bọn Hào quận công .
12,592
Phan Ngạn thân giải kì phược, uý chi viết: "Nhữ dục sinh hồ? cạnh dục tử hồ? Nhược dục sinh tắc ngô dụng nhữ vi hướng đạo, cầm đắc Tráng Vương tắc ngã nhiêu nhữ tử tội".
Nếu muốn sống thì ta dùng ngươi làm hướng đạo, bắt được Tráng Vương thì ta tha tội chết cho ngươi".
12,595
Hào quận công nãi khất hướng đạo, dẫn binh kiêm hành hải đạo xuất Yên Quảng cầm Tráng Vương dĩ đồ báo hiệu.
Hào quận công bèn xin đưa đường, dẫn quân đi gấp theo đường biển ra Quảng Yên bắt Tráng Vương để lo báo đáp.
12,596
Phan Ngạn thính bãi, lệnh tuyển khinh thuyền duệ tốt sổ bách nhân, chiến thuyền ngũ sưu, tự toàn thân khải giáp, nội tàng nguỵ Hào quận công vu chu trung.
Phan Ngạn nghe xong, sai chọn thuyền nhẹ và mấy trăm quân tinh nhuệ, cùng 5 chiếc thuyền chiến, tự mặc áo giáp khắp mình, giấu Hào quận công ở trong thuyền.
12,597
Ngã dĩ thủ thắng chi binh, thừa phá trúc chi thế, cẩu nhất chiến lưỡng thắng, thị thiên sử ngã đẳng thành đại công, khả giác cổ chi danh tướng nhĩ.
Ta lấy quân chiến thắng, thừa thế chẻ tre, nếu một trận đánh hai lần thắng, thì đó là trời giúp cho ta thành công lớn, có thể so cùng các danh tướng đời xưa.
12,599
Ngạn quân ký hoạch toàn tiệp, nhất cử liên thắng lưỡng trận, quân sĩ hoan hỉ khải hoàn Kinh sư, giải nộp Mạc Kính Chương vu khuyết hạ.
Quân Ngạn đã thu được toàn thắng, một lần đánh thắng hai trận liền, quân lính vui mừng, khải hoàn về Kinh giải nộp Mạc Kính Chương ở dưới cửa khuyết.
12,612
Thị thời, Mạc thần đa quỷ kế, cáo vu Minh nhân viết: Lê binh giả, nãi Trịnh thị tranh cường, khởi binh công sát thượng quốc cống thần cập Mạc thị tử tôn, thực phi Lê thị tử tôn trùng hưng chi binh.
Bấy giờ bề tôi họ Mạc lắm quỷ kế, tố cáo với nhà Minh rằng: Quân nhà Lê chính là họ Trịnh tranh cường, dấy binh đánh giết bề tôi thần phục của thượng quốc cùng con cháu họ Mạc, thực không phải là quân trung hưng của con cháu nhà Lê.
12,614
Do thị, Minh nhân đa khiển sứ quá Trấn Nam Giao quan, tương điệp văn lai ngã quốc mỗi kì đại hội khám Lê thị tử tôn quả hữu thị phủ kì chí giao quan vi ước.
Vì thế, nhà Minh nhiều lần sai sứ qua cửa Trấn Nam Giao , mang điệp văn sang nước ta hẹn đến cửa quan hội khám xem có thực là con cháu nhà Lê hay không.
12,615
Nhị thập cửu nhật, mệnh Hộ bộ Thượng thư kiêm Đông các học sĩ Thông quận công Đỗ Uông, Ngự sử đài Đô ngự sử Nguyễn Văn Giai đẳng, hậu mệnh tiên chí Trấn Nam Giao quan, dữ Minh quốc Tả giang binh tuần đạo Trần Đôn Lâm thông giản điệp, từ đa khiêm tốn.
Ngày 29, sai bọn Hộ bộ thượng thư kiếm Đông các học sĩ Thông quận công Đỗ Uông và Ngự sử đài đô ngự sử Nguyễn Văn Giai làm quan hầu mệnh đến cửa Trấn Nam Giao trước, trao đổi điệp văn thư từ với viên Tả giang binh tuần đạo Trần Đôn Lâm, lời lẽ phần nhiều khiêm tốn.
12,616
Khiển tộc mục hoàng huynh Lê Ngạnh, Lê Lựu cập Công bộ Tả thị lang Phùng Khắc Khoan đẳng đồng tê An Nam đô thống sứ ti ấn, cập tiền An Nam quốc vương ấn mặc dạng nhị kiện, kim tử nhất bách cân, ngân tử nhất thiên lạng, dữ quốc kì lão sổ thập nhân đồng phó Trấn Nam Giao quan hậu hành hội khám.
Sai tộc mục là hoàng huynh Lê Ngạnh, Lê Lựu và bọn Công bộ thị lang Phùng Khắc Khoan cùng mang con ấn của An Nam đô thống sứ ty và hai tờ kiểu ấn mực của quốc vương An Nam trước, 100 cân vàng, 1000 lạng bạc cùng mấy chục kỳ lão lên cửa Trấn Nam Giao để chờ hội khám.
12,619
Ngũ nhật, đế thân đốc Hữu tướng Hoàng Đình Ái; Thái uý Nguyễn Hoàng, Nguyễn Hữu Liêu; Thái phó Trịnh Đỗ đẳng cập chư tướng sĩ, binh tượng vạn dư đáo Trấn Nam Giao quan ước kì hội khám.
Ngày mồng 5, vua đích thân đốc suất bọn Hữu tướng Hoàng Đình Ái, Thái uý Nguyễn Hoàng, Nguyễn Hữu Liêu, Thái phó Trịnh Đỗ và các tướng sĩ, binh tướng gồm hơn 1 vạn đến cửa Trấn Nam Giao hẹn ngày hội khám.
12,621
Nhiên sở quản đa xâm nhiễu, vụ hành hà ngược, dân hoặc chí lưu tán, vị an kì nghiệp.
Nhưng quan địa phương phần nhiều nhũng nhiễu, hà khắc bạo ngược, dân nhiều người vẫn phải xiêu tán, chưa được an cư lạc nghiệp.
12,624
Như hữu công dĩ thụ chức tước, niên lão nhược giả nhiêu thải chi, thân tài cường kiện giả, sung bổ chi dĩ thành binh ngạch.
Người nào có công đã được trao chức tước thì miễn, người nào tuổi già sức yếu thì sa thải, người nào sức vóc mạnh khoẻ thì bổ sung cho đủ ngạch binh.
12,626
Nhuận nguyệt, sóc, nhật hữu thực chi.
Tháng 8 nhuận, ngày mồng 1, nhật thực.
12,637
Thời, lệnh công tượng chú tạo kim ngân nhân nhị khu, các cao nhất xích nhị thốn, tịnh trọng thập cân, hựu chú ngân hoa bình nhị song, tiểu ngân hương bình ngũ kiện, hựu bị dụng thổ quyến cập chư cống hiến chi vật dĩ phòng Bắc sứ.
Bấy giờ sai thợ đúc 2 tượng người vàng và bạc, đều cao 1 thước 2 tấc, nặng 10 cân, lại đúc 2 đôi bình hoa bạc, 5 chiếc bình hương nhỏ bằng bạc, lại sắm sẵn lụa thổ quyến và các vật cống để phòng sang sứ phương bắc.
12,638
vi Thiên Nam chiêu thảo đô nguyên soái, nhị thập thất nhật nhập cứ Yên Mô, Đam Khê sơn, công phá phụ cận xã dân, sở chí nhân giai hướng phục, nguyệt dư chúng đắc vạn dư nhân.
Thiên Nam chiêu thảo đô nguyên suý, ngày 27 vào chiếm giữ núi Đam Khê, huyện Yên Mô, đánh phá các xã gần đấy, đến đâu mọi người đều theo phục, hơn 1 tháng đã được hơn 1 vạn quân.
12,640
Tự thử, Trường Yên, Lị Nhân đẳng phủ đạo tặc quần khởi, đa trở hành nhân vãng lai, nhi Đồi Thượng các xã dân binh đa tòng tặc đảng.
Từ đó các phủ Trường Yên, Lỵ Nhân, giặc cướp đều nổi dậy, trở ngại nhiều cho người qua lại mà dân binh các xã Đồi Thượng phần nhiều theo đảng giặc.
12,641
hầu mệnh, dữ Quảng quận công Trịnh Vĩnh Lộc tê kim ngân nhân nhị khu cập chư cống vật tựu Lạng Sơn thành dĩ hậu Minh nhân hội khám.
làm quan hầu mệnh, cùng với Quảng quận công Trịnh Vĩnh Lộc mang hai người vàng người bạc và các vật cống tới thành Lạng Sơn để đợi nhà Minh hội khám.
12,647
Thời, Minh Long Châu thổ quan đa thụ Mạc đảng hối lộ, nhân dữ kết liên thoái thác, sự vị quả tựu, cánh trị Chính đán tiết, Đỗ Uông, Trịnh Vĩnh Lộc đẳng phục hoàn Kinh.
Bấy giờ viên thổ quan Long Châu của nhà Minh nhận nhiều của đút lót của bọn họ Mạc, vì thế vào bè với chúng mà thoái thác, nên việc không xong, lại vừa gặp tết Nguyên đán, bọn Đỗ Uông, Vĩnh Lộc lại trở về Kinh.
12,648
Tam nguyệt, Yên Phong nhân Nguyễn Đương Minh nguỵ xưng Phúc Đức nhị niên, suất bản huyện nhân khởi binh kiếp lược bàng huyện.
Tháng 3, Nguyễn Đương Minh người huyện Yên Phong tự xưng là Phúc Đức năm thứ hai đem người trong huyện dấy quân đánh cướp các huyện bên.
12,656
Thị nhật, Hữu tướng Hoàng Đình Ái sai thuộc tướng thu bổ trảm chi, cập đồ đảng tứ nhân phu tống dinh môn diệc trảm chi.
Hôm ấy, Hữu tướng Hoàng Đình Ái sai thuộc tướng đánh bắt được, đem chém, bắt được 4 tên đồ đảng giải đến cửa dinh, cũng chém cả.
12,657
Đình Ái, Thái uý Nguyễn Hoàng, Nguyễn Hữu Liêu, Thái phó Trịnh Đỗ cập tả hữu đô đốc thất bát viên, binh tượng ngũ vạn, đái Minh uỷ quan Vương Kiến Lập đồng hành, chí Lạng Sơn Trấn Nam Giao quan.
Đình Ái, Thái uý Nguyễn Hoàng, Nguyễn Hữu Liêu, Thái phó Trịnh Đỗ cùng 7, 8 viên tả hữu đô đốc và 5 vạn binh tướng, đem theo cả viên quan uỷ nhiệm của nhà Minh Vương Kiến Lập cùng đi, lên cửa Trấn Nam Giao ở Lạng Sơn.
12,662
Giao tiếp lễ, các tương hỉ hạ.
Trong lễ giao tiếp, hai bên đều vui vẻ mừng nhau.
12,664
Sự giác, quan quân bổ đắc Khắc Khoan phụ tử tam nhân cập đồ đảng nhị thập tứ nhân vu Thăng Long thành Nam môn ngoại, tịnh duệ đắc mộc ấn, kì chinh, khí giới cập.
Việc phát giác, quan quân bắt được 3 cha con Khắc Khoan và 24 tên đồ đảng ở ngoài cửa Nam thành Thăng Long, tìm được ấn gỗ, cờ chiêng, khí giới và
12,675
Lệnh duyệt lánh binh. 󰱇
Hạ lệnh duyệt tuyển binh lính.
12,683
Tuyển tráng kiện giả bổ binh ngạch, lão nhược giả giảm thải.
Chọn người khoẻ mạnh bổ vào ngạch lính, những người già yếu thì lựa thải ra.
12,684
Nhiên duyệt dĩ kinh sổ niên vị tằng kiến thải giả, trí lão nhược đa một vu quân trung.
Nhưng xét duyệt đã được mấy năm mà chưa từng thấy thải người nào, đến nỗi kẻ già yếu người người chết trong quân ngũ.
12,685
Thời, hữu Từ Liêm, Ngải Kiều xã nhân Nguyễn Minh Trí, tiền dữ nguỵ Khắc Khoan tương hữu, phụ tử khởi binh cứ Minh Nghĩa địa phương, nguỵ xưng Đại Đức tam niên.
Bấy giờ, có người xã Ngải Cầu, huyện Từ Liêm, là Nguyễn Minh Trí, trước cùng bạn với nguỵ Khắc Khoan, cha con dấy binh chiếm giữ vùng Minh Nghĩa, nguỵ xưng là Đại Đức năm thứ 3.
12,688
Hữu Lực vi chính nhật vụ khoan bình, dân giai ái mộ, tặc bất cảm xâm, cảnh nội vô sự, dân an kì nghiệp.
Hữu Lực cai trị chú trọng khoan thư, công bằng, dân đều kính phục, giặc không dám xâm phạm, trong cõi được yên, dân được an cư lạc nghiệp.
12,691
Lệnh thiên hạ, phàm chư khí dụng tuỳ dĩ chức phẩm cao hạ, bất đắc tiếm việt.
Ra lệnh trong cả nước, mọi vật dụng đều phải tuỳ theo chức phẩm cao hay thấp mà dùng, không được tiếm vượt.
12,700
Bát nguyệt, Đông Ngàn thổ tướng Thuần quận công Trần Đức Huệ cập tử Trần Đức Trạch xưng Sầm quận công mưu phản, dữ Yên Thế thổ tướng Thế quận công Dương Văn Cán phụ tử câu suất đệ tử dạ độn tòng nguỵ đảng khứ.
Tháng 8, viên tướng địa phương huyện Đông Ngàn là Thuần quận công Trần Đức Huệ và con là Trần Đức Trạch tự xưng là Sầm quận công, mưu làm phản, cùng với viên tướng địa phương ở Yên Thế là cha con Thế quận công Dương Văn Cán đều đem con em đang đêm trốn đi theo đảng nguỵ.
12,703
Hựu hữu Tân Minh huyện nguỵ Quỳnh quận công, Thuỵ quận công khuyết huynh đệ, tụ tập đồ đảng, sở chí hiếp lược nhân dân, dữ Thuỷ quận công, Lễ quận công đẳng tương kết, chúng chí sổ thiên.
Lại có anh em Quỳnh quận công và Thuỵ quận công ở huyện Tân Minh, tụ tập đồ đảng, đi đến đâu cũng ức hiếp cướp bóc dân chúng, cùng liên kết với bọn Thuỷ quận công, Lễ quận công, có đến vài nghìn quân.
12,708
Thập nhất nguyệt, nhị thập nhật, Tiết chế Trịnh Tùng sai Đô đốc đồng tri Hào quận công Nguyễn Miện, Mĩ quận công Bùi Văn Khuê, Kế quận công Phan Ngạn đẳng lĩnh thuỷ binh ngũ thập sưu vãng Hải Dương công phá nguỵ đảng, tức nhật tiến phát.
Tháng 11, ngày 20, Tiết chế Trịnh Tùng sai bọn Đô đốc đồng tri Hào quận công Nguyễn Miện, Mỹ quận công Bùi Văn Khuê, Kế quận công Phan Ngạn đem thuỷ quân gồm 50 chiếc thuyền ra Hải Dương đánh phá đảng nguỵ, khởi ành ngay hôm ấy.
12,711
Nguyễn Miện độc tự kiêu binh khinh địch, tự vị tàn tặc bất túc lự, bất dữ chư tướng kế nghị, nãi thân suất bản bộ nội binh thuyền tứ chích, khinh tiến đột nhập chiến trận trung, chí tặc phục binh xứ, ngộ tặc nhân thuyền.
Nguyễn Miện một mình tự kiêu khinh địch, tự cho là bọn giặc tàn chẳng đáng lo, không bàn bạc với các tướng, tự mình đem 4 chiếc binh thuyền bản bộ, khinh suất xông thẳng vào trong trận, đến chỗ giặc mai phục, gặp thuyền giặc.
12,712
Chu trung tặc đại trước Lễ quận công y thôi binh loạn chiến, phục lạt sát Hào quận công tử ư chiến trận trung.
Giặc ở trong thuyền mặc áo của Lễ quận công thúc quân đánh bừa, lại đâm chết Hào quận công tại trận.
12,715
Ngộ Bùi Văn Khuê binh kế chí, tặc chúng khí thuyền đăng ngạn tẩu tán.
Gặp quân của Bùi Văn Khuê tiếp đến, quân giặc bỏ thuyền lên bờ chạy tan.
12,718