Phiên âm
stringlengths
2
728
Dịch nghĩa
stringlengths
2
731
__index_level_0__
int64
0
13.7k
Chí thị, Đông tuần hạnh Trãi gia, nhân đắc hổ tật băng, cố hữu thị tội.
Đến đây, vua đi tuần về miền đông, đến chơi nhà Trãi rồi bị bạo bệnh mà mất, cho nên Trãi bị tội ấy.
11,727
Luận viết: "Nữ sắc chi vị nhân hại dã thậm hĩ.
Lời bàn: Nữ sắc làm hại người ta quá lắm.
11,728
Nguyễn Thị Lộ nhất phụ nhân nhĩ, Thái Tông bế chi nhi thân băng, Nguyễn Trãi thú chi nhi tộc diệt, khả bất giới tai?.
Thị Lộ chỉ là một nười đàn bà thôi, Thái Tông yêu nó mà thân phải chết, Nguyễn Trãi lấy nó mà cả họ bị diệt, không đề phòng mà được ư?.
11,729
viết hối bất dụng Thắng Phúc chi ngôn cố dã.
có nói là hối không nghe lời của Thắng và Phúc.
11,730
Đông thập nguyệt, khiển sứ như Minh: Hải Tây đạo đồng tri Nguyễn Thúc Huệ, Thẩm hình viện thiêm tri Đỗ Thì Việp tạ tứ quan phục.
Mùa đông, tháng 10, sai sứ sang nhà Minh: Hải Tây đạo đồng tri Nguyễn Thúc Huệ và Thẩm hình viện thiêm tri Đỗ Thì Việp sang tạ ơn cho áo mũ.
11,731
Thị ngự sử Triệu Thái tấu Khâm châu địa phương sự.
Thị ngự sử Triệu Thái tâu việc địa phương Khâm Châu.
11,732
Tham tri Nguyễn Đình Lịch, Phạm Du đẳng cáo ai.
Bọn Tham tri Nguyễn Đình Lịch, Phạm Du sang báo tang.
11,733
Tham tri Lê Truyền, Đô sự Nguyễn Văn Kiệt, Ngự tiền học sinh cục trưởng Nguyễn Hữu Phu cầu phong.
Tham tri Lê Truyền, Đô sự Nguyễn Văn Kiệt, Ngự tiền học sinh cục trưởng Nguyễn Hữu Phu sang cầu phong.
11,734
Mệnh Hàn lâm viện thị độc học sĩ kiêm tri ngự tiền học sinh cục cận thị chi hầu Nguyễn Thiên Tích soạn Hựu Lăng bi văn.
Sai hàn Lâm viện thị độc học sĩ kiêm tri ngự tiền học sinh cục cận thị chi hậu Nguyễn Thiên Tích soạn bài văn bia Hựu Lăng .
11,735
Thập lục nhật, táng Đại Hành Hoàng Đế vu Lam Sơn Vĩnh Lăng chi tả viết Hựu Lăng.
Ngày 16, táng Đại Hành Hoàng đế phía bên tả Vĩnh Lăng ở Lam Sơn gọi là Hựu Lăng.
11,736
Thượng tôn hiệu viết Kế Thiên Thể Đạo hiển Đức Thánh Công Khâm Minh Văn Tư Anh Duệ Nhân Triết Chiêu Hiển Kiến Trung Văn Hoàng Đế, miếu hiệu.
Dâng tôn hiệu là Kế Thiên Thể Đạo Hiển Đức Thánh Công Khâm Minh Văn Tư Anh Duệ Triết Chiêu Hiến Kiến Trung Văn Hoàng Đế, miếu hiệu
11,737
Thái Tông.
là Thái Tông.
11,738
Luận viết: Đế hùng tài đại lược, cương đoán hữu vi.
Lời bàn: Vua là bậc hùng tài đại lược, quyết đoán chủ động.
11,739
Tức vị chi sơ, lệ tinh cầu trị, định chế độ, ban kinh tịch, chế lễ tác nhạc, minh chính, thận hình, thử cập sổ niên điển chương văn vật sán nhiên, đại bị hải nội phỉ biến.
Khi mới lên ngôi, nghiền ngẫm tìm phương trị nước, đặt chế độ, ban sách vở, chế tác lễ nhạc, sáng suốt trong chính sự, thận trọng việc hình ngục, mới có mấy năm mà điển chương văn vật rực rỡ đầy đủ, đất nước đã đổi thay tốt đẹp.
11,740
Trảo Oa, Tiêm La, Tam Phật Tề, Chiêm Thành, Mãn Lạt Gia đẳng quốc hàng hải tu cống.
Các nước Trảo Oa, Xiêm La, Tam Phật Tề , Chiêm Thành, Mãn Lạt Gia vượt biển sang cống.
11,741
Hậu hữu bô thần Tông Lai chiêu tập vong phản, nguỵ hiệu kỷ niên Thuận Mỗi châu thổ tù danh Nghiễm viễn giáp Ai Lao cảm hành xưng loạn.
Sau có tên bề tôi trốn tránh là Tông Lai chiêu tập bọn đi trốn làm phản, đặt niên hiệu nguỵ là đứa thổ tù Nghiễm ở châu Thuận Mổi dựa vào AI Lao dám gây biến loạn.
11,742
Đế thân xuất lục sư trí thiên chi phạt.
Vua thân chỉ huy sáu quân đi giáng đòn trời phạt.
11,743
Nhất tuần nhi Tông Lai thụ thủ, tái giá nhi danh Nghiễm tựu cầm, chân khả vị Anh hùng chi chủ dã.
Chỉ một tuần mà Tông Lai nộp đầu, hai lần mà tên Nghiễm bị bắt, thực xứng đáng là bậc vua anh hùng.
11,744
Vũ Quỳnh tán viết: Đế tức vị thời niên phương thập nhất, bất giả thuỳ liêm thính chính nhi thiên hạ chi sự giai tự dĩ xuất, nội chế cường thần, ngoại nhương Di Địch.
Vũ Quỳnh khen: Khi vua lên ngôi mới có 11 tuổi, không phải nhờ buông rèm coi chính sự mà mọi việc trong nước đều tự mình quyết định, bên trong chế ngự quyền thần, bên ngoài đánh dẹp di địch.
11,745
Kì thông minh dũng trí, cao xuất long cổ anh minh chi chủ.
Ngài thông minh trí dũng, còn vượt lên trên cả những vua anh minh đời xưa.
11,746
Huống hựu thể thiên địa sinh vật chi tâm, hành đế vương bất nhẫn chi chính, nghiện ngục tấn tù suất đa khoan thứ.
Huống chi, ngài lại thể theo lòng trời đất nuôi sống muôn loài, ban hành chính sách xót thương bất nhẫn của bậc đế vương, xử kiện xét tù phần nhiều khoan thứ.
11,747
Kì hiếu sinh chi đức tức đế Thuấn chi đức dã.
Đức hiếu sinh của ngài là cái đức của vua Thuấn xưa.
11,748
Đế đốc chí hiếu học, thân hiền, lạc thiện, túc vi thừa bình chi lương chủ, bất hạnh tảo một tích tai!
Vua dốc chí hiếu học, thân người hiền, vui việc thiện, xứng đáng là vị vua giỏi giữ cơ nghiệp thái bình, không may mất sớm, tiếc thay!
11,749
tích tai!] Kì mẫu Trang Thuận hoàng thái hậu Nguyễn Thị, huý Hoàn, Thiên Thi, Bình Lăng nhân dã.
Mẹ ngài là Trang Thuận hoàng thái hậu Nguyễn thị, huý là Hoàn, người làng Bình Lăng, huyện Thiên Thi.
11,750
Dĩ Hồng Đức thập cửu niên, bát nguyệt, sơ nhất nhật, nhi sinh đế.
Năm Hồng Đức thứ 19 tháng 8, ngày mồng 1 sinh vua.
11,751
Cảnh Thống nhị niên, tam nguyệt lập vi hoàng thái tử.
Năm Cảnh Thống thứ 2 , tháng 3 được lập làm Hoàng thái tử.
11,752
Cập Hiến Tông băng, toại tức hoàng đế vị, cải nguyên Thái Trinh, dĩ sinh nhật vi Thiên minh thánh tiết, xưng Tự Hoàng, hậu truy thượng tôn thuỵ, miếu hiệu Túc Tông.
Đến khi Hiến Tông băng, liền lên ngôi hoàng đế, đổi niên hiệu là Thái Trinh, lấy ngày sinh làm Thiên minh thánh tiết, tự xưng là Tự Hoàng, sau được truy dâng tôn thuỵ, miếu hiệu là Túc Tông.
11,753
Đế ký tức vị, xưng Tự Hoàng, cáo thiên địa tông miếu.
Vua lên ngôi, xưng là Tự Hoàng, làm lễ cáo trời đất tông miếu.
11,754
Tôn tổ mẫu Trường Lạc hoàng thái hậu vi thái hoàng thái hậu.
Tôn tổ mẫu Trường lạc hoàng thái hậu là Thái hoàng thái hậu.
11,755
Thu, thất nguyệt, Quách Hữu Nghiêm đẳng phụng sứ hoàn tự Minh.
Mùa thu, tháng 7, bọn Quách Hữu Nghiêm vâng mệnh đi sứ nhà Minh trở về.
11,756
Bát nguyệt, sơ nhất nhật,.
Tháng 8, ngày mồng 1,
11,757
dĩ sinh nhật vi Thiên minh thánh tiết.
lấy ngày sinh làm Thiên minh thánh tiết.
11,758
Thị nguyệt, hữu trường tinh hiện Tây Bắc.
Tháng này, có sao Chổi mọc ở phương tây bắc.
11,759
Cửu nguyệt, sơ bát nhật, phụng bảo sách thượng Đại Hành hoàng đế, tôn thuỵ viết: Thể Thiên Ngưng Đạo Mậu Đức Chí Nhân Chiêu Văn Thiệu Vũ Tuyên Triết Khâm Thánh Chương Hiếu Duệ Hoàng Đế, miếu hiệu Hiến Tông.
Tháng 9, ngày mồng 8, kính mang bảo sách dâng tên thuỵ cho Đại Hành Hoàng Đế là Thể Thiên Ngưng Đạo Mậu Đức Chí Chiêu Văn Thiệu Vũ Tuyên Triết Khâm Thánh Chương Hiếu Duệ Hoàng Đế, miếu hiệu là Hiến Tông.
11,760
Mẫu quý phi vi Trang Thuận Minh Ý Hoàng thái hậu.
Tôn bà quý phi sinh ra vua làm Trang Thuận Minh Ý Hoàng Thái Hậu .
11,761
Nghịch nhân Đoàn Thế Nùng đẳng phục tru.
Bọn phản nghịch Đoàn Thế Nùng bị giết.
11,762
Thời, Thế Nùng phản ư Cao Bằng, bổ hoạch chi cập kì đảng ngũ bách dư nhân, giai phục tru.
Bấy giờ, Thế Nùng làm phản ở Cao Bằng, bị bắt cùng với bè đảng hơn 500 người, đều bị giết.
11,763
Đông, thập nguyệt, thập bát nhật, Giáp Thìn, Hiến Tông hoàng đế tử cung phát dẫn hồi Tây Kinh.
Mùa đông, tháng 10, ngày Giáp Thìn 18, đưa linh cữu của Hiến Tông về Tây Kinh.
11,764
Thập nhất nguyệt, sơ bát nhật, thiên táng Dụ Lăng.
Tháng 11, ngày mồng 8, đưa táng Hiến Tông ở Dụ Lăng.
11,765
Lễ quan án cố sự, tấu thỉnh lập bi.
Lễ bộ xét lệ cũ, tâu xin dựng bia.
11,766
Đế khả kì tấu, nãi mệnh văn thần Nguyễn Nhân Thiếp, Phạm Thịnh, Trình Chí.
Vua y lời tâu, bèn sai văn thần là bọn Nguyễn Nhân Thiếp, Phạm Thịnh, Trình Chí
11,767
Sâm đẳng tuyển bi văn.
Sâm soạn văn bia.
11,768
Khiển sứ như Minh.
Sai sứ sang nhà Minh.
11,769
Lại bộ Tả thị lang Đặng Tán, Kiểm thảo Khuất Quỳnh Cửu, Hộ khoa đô cấp sự trung Lưu Quang Phụ đẳng tuế cống; Binh bộ Hữu thị lang Nguyễn Lân, Giám sát ngự sử Nguyễn Kính Nghiêm đẳng cáo ai; Lễ bộ Hữu thị lang Nguyễn Bảo Khuê, Đông các hiệu thư Trần Viết Lương, Hiệu lí Vũ Châu đẳng cầu phong.
Bọn Lại bộ thị lang Đặng Tán, Kiểm thảo Khuất Quỳnh Cửu, Hộ khoa đô cấp sự trung Lưu Quang Phụ đi tuế cống; bọn Binh bộ hữu thị lang Nguyễn Lân, Giám sát ngự sử Nguyễn Kính Nghiêm đi báo tang; bọn Lễ bộ hữu thị lang Nguyễn Bảo Khuê, Đông các hiệu thư Trần Viết Lương, Hiệu thư Vũ Châu đi cầu phong .
11,770
Thị nguyệt, sơ bát nhật, đế phất dự.
Tháng này, ngày mồng 8, vua không khoẻ.
11,771
Sơ đế tức vị, xuất tù nhân, phóng cung nữ, đình bất cấp chi vụ, giảm thiên trọng chi dịch, ức cống hiến tỉnh lực dịch, nhiệm huân cựu, toản uy quyền, ức giới ngoại thích, phát đốc thân phiên; phàm kinh luân đại kinh, kiến lập đại bản, vô sở bất dụng kì cực.
Khi vua mới lên ngôi, tha tù nhân, thả cung nữ, ngừng những việc không cần kíp, giảm những việc nặng nhọc, bớt đồ dâng cống, giảm nhẹ lực dịch, dùng bề tôi cũ có công, nắm giữ mọi uy quyền; hạn chế, răn đe thế lực họ ngoại, dốc lòng thương yêu các vị thân vương, mọi việc sửa sang nghiệp lớn, dựng đặt gốc lớn, không điều gì không đến nơi đến chốn.
11,772
Tiên hoàng đế đệ nhị tử Tuấn, hiền minh nhân hiếu, khả tự chính thống, dĩ thừa tổ tông, dĩ phủ thần dân.
Con thứ hai của Tiên hoàng đế là Tuấn, là người hiền minh, nhân hiếu, có thể nối được ngôi chính thống, để thừa kế tổ tông, vỗ về thần dân.
11,773
Đại thần bách quan, tận kì trung trinh dĩ phụ thành đại nghiệp; kì thân vương tiếm vu thiên vị, thiên hạ cộng tru chi.
Đại thần và các quan hãy hết lòng trung trinh để giúp nên nghiệp lớn; thân vương nào dám tiếm vượt ngôi trời thì người trong nước cùng nhau giết đi.
11,774
Sơ thất nhật Quý Hợi, đế tật đại tiệm; bát nhật Giáp Tí, băng vu Hoàng Cực điện, di chiếu bách quan tang phục nhất tuần cổ lễ.
Ngày Quý Hợi, mồng 7, vua ốm nặng; ngày Giáp Tý mồng 8, vua băng ở điện Hoàng Cực, có di chiếu cho các quan để tang theo đúng lễ cổ.
11,775
Thập bát nhật Giáp Tuất, Trung quân Đô đốc phủ Tả đô đốc Bình Sơn hầu Lê Quảng Độ, Tông nhân lệnh Tự ân sứ Lê Năng Nhượng,.
Ngày Giáp Tuất 18, Trung quân đô đốc phủ tả đô đốc Bình Sơn hầu Lê Quảng Độ, Tông nhân lệnh Tự ân sứ Lê Năng Nhượng
11,776
kị công, hầu, bá, phò mã, đô uý, Ngũ phủ, Lục bộ, Ngự sử đài, Đông các, Hàn lâm, Lục tự, lục khoa, đề hình thập tam đạo đẳng quan, nghệ Hưng Minh điện phụng nghênh Hiến Tông đệ nhị tử Tuấn tức hoàng đế vị.
cùng các công, hầu, bá, phò mã, đô uý, các quan năm phủ, sáu bộ, Ngự sử đài, Đông các, Hàn lâm, Lục tự, Lục khoa, đề hình các quan 13 đạo, đến điện Hưng Minh kính đón con thứ hai của Hiến Tông là Tuấn lên ngôi Hoàng đế.
11,777
Đại xá, cải nguyên dĩ minh niên vi Đoan Khánh nguyên niên.
Đại xá, đổi niên hiệu lấy sang năm là năm Đoan Khánh thứ 1.
11,778
Thời, Nguyễn Bảo Khuê như Minh vị quá quan, tái cải phong biểu văn tống dữ Bảo Khuê phụng hành.
Bấy giờ, Nguyễn Bảo Khuê sang sứ nhà Minh chưa qua cửa ải, lại sửa đổi tờ biểu cầu phong khác giao cho Bảo Khuê mang đi.
11,779
Thị thời, ban đại xá chiếu.
Bấy giờ, ban chiếu đại xá cả nước.
11,780
Điều vu thiên hạ kì nhất trung Tiến sĩ khoa vị hữu trừ dụng nhi bệnh cố giả, hứa tử tôn ấm như quan viên lệ, tịnh nhập lưu thí quan hứa nhiêu nhất nam, tuyển đinh tráng nhất nam.
Trong chiếu có một điều là người đỗ khoa tiến sĩ chưa được bổ dụng mà ốm chết thì cho con cháu được tập ấm như lệ của các quan viên, và các thí quan nhập lưu thì cho 1 con trai được nhiêu miễn, chỉ tuyển 1 con trai làm tráng đinh thôi.
11,781
Nhị thập ngũ nhật, định Ngũ Thành môn ngoại tác trực điếm lệ.
Ngày 25, định lệ làm điếm trực canh ngoài cửa Ngũ Thành.
11,782
Sắc chỉ: Ngũ Thành môn ngoại, Hiệu lực, Thần.
Có sắc chỉ rằng: Ở ngoài cửa Ngũ Thành, các vệ Hiệu lực, Thần
11,783
vũ, Điện tiền, cấu tác ngoã ốc nhị liên, mỗi liên thất gian.
vũ, Điện tiền, phải làm hai dãy nhà ngói, mỗi dãy 7 gian.
11,784
Mỗi nhật, cai bả môn dụng nhất nhân xuất trực điếm cơ sát, tịnh Cẩm y túc thanh viên nhân diệc tại.
Hàng ngày, đơn vị giữ cửa dùng 1 người ra điếm trực để xét hỏi người qua lại, các nhân viên túc thanh của vệ Cẩm y cũng phải ở đó.
11,785
Dạ gian, nội thần tức tại đài môn nội.
Ban đêm, nội thần phải ở trong cửa đài.
11,786
Nhược nhất liên Thần vũ, Điện tiền, Hiệu lực, dụng nhị viên quân, nhị thập nhân, thuẫn ngũ thập diện, thủ tiễn ngũ chi, túc trực như pháp.
Còn mỗi dãy nhà thì dùng 2 viên quan, 20 lính, 50 chiếc mộc, 5 cây thủ tiễn của các vệ Thần vũ, Điện tiền, Hiệu lực để túc trực theo như pháp lệnh.
11,787
Nhị thập lục nhật, sắc chỉ ngũ phủ quân điếm ngoại tác mộc củ lệ.
Ngày 26, có sắc chỉ định lệ làm gióng gỗ ở ngoài điếm quân của năm phủ.
11,788
Hệ ngoại điếm, mỗi điếm tương cách tịnh trước mộc củ, trụ yếu đại, mỗi điếm dụng câu ngũ bính hữu tiêm đầu, đầu diệc hữu câu, trí tại điếm lưỡng đầu thủ bả.
Nếu điếm ở ngoài thì ở chỗ các điếm cách nhau đều phải làm gióng gỗ, cột gióng phải to, mỗi điếm dùng 5 câu liêm có đầu nhọn, trên đầu cũng có nóc, để ở hai đầu điếm để canh giữ.
11,789
Quý Dậu, Gia Thái nguyên niên.
Quý Dậu, năm thứ 1 , .
11,792
Nhất tổ triệu chi ư tiền, liệt thánh kế chi ư hậu, tương truyền chính thống bách hữu dư niên. 󰟸
Một tổ khai sáng đầu tiên, các thánh kế nối sau mãi, truyền nhau chính thống đã hơn một trăm năm.
11,795
Khoảnh tao hán ách, trí vặn chu cương.
Vừa rồi, gặp cơn vận ách, giềng mối rối tung.
11,796
Thánh phụ hoàng thượng dĩ đế thất chi trụ, thiệu tổ tông chi cơ quy, khôi đại nghiệp thập bát niên dư.
Thánh phụ hoàng thương ta là dòng dõi nhà vua, nối cơ đồ của tông tổ, khôi phục nghiệp lớn, trải hơn mười tám năm.
11,798
Dư hoàng phụ đệ ngũ tử, dĩ ấu xung chi tư, tự gian đại.
Ta là con thứ năm của hoàng phụ, đương tuổi thơ non nớt, nối nghiệp lớn khó khăn,
11,800
Nhiên thượng thừa từ mệnh, hạ tuân dư tình, hữu phất khắc vu từ giả, nãi ư kim niên chính nguyệt sơ nhất nhật, tức vị kiến nguyên vi Gia Thái nguyên niên, thực lại đại thần Tả tướng thái uý Trường quốc công Trịnh Tùng kị văn vũ thần liêu đồng tâm tu phụ cộng an xã tắc.
Nhưng trên vâng mệnh trời yêu mến, dưới theo lòng người suy tôn, từ chối không được, nên vào ngày mồng một tháng giêng năm nay, ta đã lên ngôi, đặt niên hiệu là Gia Thái năm thứ 1 , thực là nhờ được đại thần Tả tướng thái uý Trường quốc công Trịnh Tùng và các quan văn võ đồng lòng giúp sức để dẹp yên xã tắc.
11,801
Thời, Tả tướng Trịnh Tùng sử Tống Đức Vị âm bức, dương ngôn tự ải.
Bấy giờ Tả tướng Trịnh Tùng sai Tống Đức Vi ngầm bức hại vua rồi nói phao là vua tự thắt cổ.
11,811
vi đế thất chi trụ, lại Tả tướng Trịnh tùng cập chư thần liêu tôn lập chi, quân lâm thiên hạ đồ tế quyết gian.
là dòng dõi của nhà vua, nhờ được Tả tướng Trịnh Tùng và các quan tôn lập làm vua thiên hạ, lo việc khôi phục gian nan.
11,814
Hựu khiển sứ tê sắc vãng Thuận Hoá dĩ Đoan quận công Nguyễn Hoàng vi Thái phó, lệnh trữ túc dĩ thực biên.
Lại sai sứ mang sắc thư vào Thuận Hoá phong Đoan quận công Nguyễn Hoàng làm thái phó, sai chứa thóc để sẵn dùng nơi biên ải.
11,819
Giáp Tuất nhị niên [Mạc, Sùng Khang cửu niên
Giáp Tuất, năm thứ 2 , .
11,827
Tứ Vũ Văn Khuê Tiến sĩ cập đệ; Mạc Đình Dự đẳng thập nhân Tiến sĩ xuất thân; Vũ Duy Hàn đẳng thập tam nhân đồng Tiến sĩ xuất thân.
Vũ Văn Khuê đỗ tiến sĩ cập đệ; bọn Mạc Đình Dự 10 người đỗ tiến sĩ xuất thân; bọn Vũ Duy Hàn 13 người đỗ đồng tiến sĩ xuất thân.
11,829
Đại hà dĩ Bắc giai hãm vu Mạc.
Từ sông Cả trở về Bắc đều mất về họ Mạc.
11,831
Tự thị, Nguyễn Quyện uy thanh nhật chấn, vi Mạc chi danh tướng.
Từ đấy, oai thanh của Nguyễn Quyện ngày một lừng lẫy, trở thành viên tướng danh tướng của họ Mạc.
11,861
Giang Đông hùng tướng năng thần giai dĩ vi bất cập dã.
Các tướng hùng, tôi giỏi cả miền Giang đông đều cho là mình không bằng.
11,862
Tứ Lê Trạc Tú đẳng tam nhân đệ nhất giáp Chế khoa xuất thân, Hồ Bỉnh Quốc đẳng nhị nhân đệ nhị giáp đồng Chế khoa xuất thân.
Cho bọn Lê Trạc Tú 3 người đỗ đệ nhất giáp Chế khoa xuất thân; bọn Hồ Bỉnh Quốc 2 người đỗ đệ nhị giáp đồng Chế khoa xuất thân.
11,865
Thất nguyệt, lệnh Thanh Hoa duyên hà các huyện cư dân, thu tài súc gia tiểu nhập sơn cước hiểm địa tị cư dĩ phòng tặc chí.
Tháng 7, hạ lệnh cho dân cư các huyện dọc sông xứ Thanh Hoa , thu xếp của cải, gia súc, đưa vợ con vào lánh ở nơi hiểm yếu dưới chân núi để phòng quân giặc đến.
11,869
Như kiến tặc binh sở chí, tức phát nhất thanh vu bản hải môn, hậu duyên đồ truyền phát vi tín, sử cư dân thính lệnh, chuẩn bị tiện đồ hành chi, vô vi tặc binh sở hại.
Nếu thấy quân giặc tới thì lập tức bắn một tiếng pháo hiệu ở cửa biển đó, rồi dọc đường truyền nhau bắn pháo hiệu làm tin, để cho cư dân nghe lệnh, sẵn sàng lánh đi chỗ khác, không để quân giặc giết hại.
11,871
xã dân cập ngưu súc đồ cư bản xã, ưng nghiêm gia tuần bị, nhược hữu đạo kiếp suất tương phó cứu.
dân xã ven sông đưa trâu bò gia súc chạy đến với xã mình thì phải nghiêm ngặt tuần phòng, nếu có trộm cướp phải đem người đến cứu.
11,873
Thưởng công tất.
Thưởng công.
11,890
Thất nguyệt, Mạc Kính Điển lĩnh binh xâm Thanh Hoa duyên hà các huyện.
Mạc Kính Điển đem quân vào lấn các huyện ven sông xứ Thanh Hoa.
11,902
Kỉ Mão, nhị niên Thất nguyệt, Mạc Kính Điển phục lĩnh binh xâm Thanh Hoa, khấu nhiễu duyên giang, cập chí Hà Trung, Tống Sơn giang, phạm Chương Các.
Tháng 7, Mạc Kính Điển lại đem quân vào xâm lấn Thanh Hoa, cướp phá vùng ven sông, đến sông Tống Sơn, phủ Hà Trung, đánh vào xã Chương Các.
11,909
Đặng Huấn đốc binh tiềm tiến Tống Sơn địa phương, xuất Bình Hoà giang Mục Sơn tiệt kì hậu.
Đặng Huấn thúc quân tiến ngầm đến địa phương Tống Sơn, ra Mục Sơn ở sông Bình Hoà chặn phía sau quân Mạc.
11,911
Mạc binh đại bại nhi hoàn.
Quân Mạc thua to phải rút về.
11,912
Đức Vị Yên Định, Khoái Lạc nhân.
Đức Vị người xã Khoái Lạc, huyện Yên Định.
11,918
Kính Điển nhân hậu dũng lược, thông tuệ mẫn đạt, lí lịch gian hiểm, cần lao trung thành, sinh tử cửu nhân: Trưởng Kính Chỉ phong Đường An Vương phó tổng soái, thứ Kính Trực phong Trung Cẩn công Cẩm y vệ chưởng vệ sự, Kính Phu phong Đoan Lượng công Hưng quốc vệ chưởng vệ sự, Kính Giản phong Huệ Thành công Chiêu vũ vệ chưởng vệ sự, Kính Tuân phong Dũng Nghĩa công Triều đông vệ chưởng vệ sự, Kính Thận phong Đạt Lễ công, Kính Cung phong Đôn Hậu công, Kính Thể phong Khuông Phụ công, Kính Bang vị đắc phong.
Kính Điển là người nhân hậu, dũng lược, thông minh, tài trí, nhạy bén, hiểu đời, từng trải nhiều gian nan nguy hiểm, cần lao, trung thành, sinh được 9 người con trai: con trưởng là Kính Chỉ phong Đường An Vương phó tổng soái, con thứ là Kính Trực phong Trung Cẩn công Cẩm y vệ chưởng vệ sự, Kính Phu phong Đoan Lượng công Hưng quốc vệ chưởng vệ sự, Kính Giản phong Huệ Thành công Chiêu vũ vệ chưởng vệ sự, Kính Tuân phong Dũng Nghĩa công, Triều đông vệ chưởng vệ sự, Kính Thận phong Đạt Lễ công, Kính Cung phong Đôn Hậu công, Kính Thể phong Khuông Phụ công, Kính Bang chưa được phong.
11,926
Thập nhị nguyệt, sơ tam nhật, Mạc khiển Lương Phùng Thìn, Nguyễn Nhân An, Nguyễn Uyên, Nguyễn Khắc Tuy, Trần Đạo Vịnh, Nguyễn Kính, Đỗ Uông, Vũ Cẩn, Nhữ Tông, Lê Đĩnh Tú, Vũ Cẩn, Vũ Tĩnh đẳng như Minh tuế cống.
Tháng 12, ngày mồng 3, họ Mạc sai bọn Lương Phùng Thìn, Nguyễn Nhân An, Nguyễn Uyên, Nguyễn Khắc Tuy, Trần Đạo Vịnh, Nguyễn Kính, Đỗ Uông, Vũ Cẩn, Nhữ Tông, Lê Đĩnh Tú, Vũ Cẩn, Vũ Tĩnh sang nước Minh cống hàng năm.
11,930
Thu, Mạc nghị thụ kì phụ chính Ứng Vương Mạc Đôn Nhượng thống lĩnh binh quyền, sử trưng các đạo binh xâm lược Thanh Hoa duyên hà các huyện. 󰦛
Mùa thu, họ Mạc nghị bàn, trao cho viên phụ chính là Ứng Vương Mạc Đôn Nhượng thống lĩnh binh quyền, sai gọi quân các đạo vào xâm lược các huyện ven sông ở Thanh Hoa.
11,932
Quan quân duệ khí ích tráng, vô bất nhất đương bách, trảm lục bách dư cấp, phù hoạch tặc tướng Chấn quận công Nguyễn Công, Phù Bang hầu đẳng vu trận tiền.
Quan quân nhuệ khí rất mạnh, người nào cũng một mình địch nổi trăm người, chém hơn 600 thủ cấp giặc, bắt sống tướng giặc là bọn Chấn quận công Nguyễn Công và Phù Bang hầu ở trận tiền.
11,936
Tặc binh đại bại bôn hội. 󰦛
Quân giặc đại bại, tan vỡ tháo chạy.
11,937
Dĩ Hoàng Đình Ái vi Thái uý, Nguyễn Hữu Liêu vi Tây quân Đô đốc phủ chưởng phủ sự, Trịnh Bách vi Nam quân Đô đốc phủ chưởng phủ sự, Trịnh Đỗ vi Nam quân Đô đốc phủ Tả đô đốc, Hùng quận công vi Thái bảo, Trịnh Đồng, Trịnh Ninh đẳng câu vi Đô đốc thiêm sự, Diễn quận công vi Tây quân Đô đốc phủ Hữu đô đốc, Ngô Cảnh Hựu vi Bắc quân Đô đốc phủ Hữu đô đốc, kì dư thụ phong hữu sai.
Lấy Hoàng Đình Ái làm thiếu uý, Nguyễn Hữu Liêu làm Tây quân đô đốc phủ chưởng phụ sự, Trịnh Bách làm Nam quân đô đốc phủ chưởng phủ sự, Trịnh Đỗ làm Nam quân đô đốc phủ tả đô đốc, Hùng quận công làm thái bảo, bọn Trịnh Đồng, Trịnh Ninh đều làm đô đốc thiêm sự, Diễn quận công làm Tây quân đô đốc phủ hữu đô đốc, Ngô Cảnh Hựu làm Bắc quân đô đốc phủ hữu đô đốc, còn những người khác đều được phong theo thứ bậc khác nhau.
11,952
Giang Đông chư Nho thần thượng biểu vu Mạc thị, thả ngôn thỉnh khử cường thần dĩ tôn vương thất, kì lược viết: "Thời phương chửng hoán, nghĩa hiệu tòng khôn, đán tịch phất li ư vương sở, thuỷ chung bất phụ ư chủ ân.
Các nho thần ở Giang Đông dâng biểu lên họ Mạc, nói xin bỏ cường thần để tôn họ vua, đại ý nói: "Hiện nay, đương lúc cứu vớt kẻ lìa tan, bề tôi nghĩa phải thuận theo , sớm tối không rời chỗ vua ở, trước sau không phụ ơn chúa.
11,957
Vi kim chi kế, cố đương vũ hiệp ư văn, tướng mưu ư tướng, Bắc hiệp Kế Khê hầu dữ chi tham mưu, Tây thụ Ngạn quận công dữ chi đồng lực.
Kế sách hiện nay, cố nhiên phải võ gắn với văn, tướng võ cùng mưu với tướng văn, miền bắc thì cùng bàn mưu lược với Kế Khê hầu, phía tây thì chung tâm sức với Ngạn quận công.
11,958
Dĩ thử nhị tam hào kiệt, tâm đức du đồng, bảo tư bách nhị sơn hà phú quý cộng hưởng, tương kiến hoàng cương phục chính, đế toạ phục an, vương thất tử tôn bách thế kì lượng hĩ".
Dựa vào hai, ba bậc hào kiệt ấy, đồng lòng nhất trí, giữ lấy giang sơn hiểm yếu này mà cùng hưởng phú quý, thì sẽ thấy kỷ cương triều đình lại được chỉnh đốn, ngôi báu đế vương lại được vững vàng, con cháu nhà vua trăm đời nối truyền mãi mãi.
11,959
Tiết chế Trịnh Tùng sai binh đại kích vu hải môn ngoại, trục chi nhi hoàn.
Tiết chế Trịnh Tùng sai quân đánh lớn ở ngoài cửa biển, đuổi quân Mạc đi rồi trở về.
11,967
Tự thị, Mạc binh bất cảm phục xâm, nhi Thanh Hoa, Nghệ An các xứ nhân dân thuỷ đắc hưu tức hĩ.
Từ đó, quân Mạc không dám vào xâm phạm nữa, nhân dân các xứ Thanh Hoa và Nghệ An mới được nghỉ ngơi.
11,968
Mạc Đông đạo tướng Kì quận công Nguyễn Viết Kính quy mệnh triều đình, tứ tước Đông quận công.
Tướng Đông đạo của họ Mạc là Kỳ quận công Nguyễn Viết Kính theo về triều đình, được ban tước Đông quận công.
11,971
Giáp Thân, thất niên [Mạc Diên Thành thất niên
Giáp Thân, năm thứ 7 , .
11,972