text
stringlengths
1
809k
Hai tên lưu manh ăn vận bẩn thỉu đứng ở đó, mặt đối mặt, lớn tiếng văng tục vào nhau. Chúng đều là những kẻ cao lớn, thế nhưng gã hộ pháp đang nghiêng người đứng dựa vào tửu quầy còn cao hơn chúng một đến hai thốn. Vận một tấm áo đen xác xơ và chiếc quần rộng thùng thình vá chằng đụp, gã khoanh đôi tay to như cột buồm lại trên cái bụng phệ đồ sộ. Đầu gã để trần, mớ tóc dài được cột chặt bằng miếng giẻ rách, bộ râu bết mỡ lòng thòng rũ xuống. Cặp mắt bên dưới hàng lông mày rậm đang đăm chiêu ngó nhìn hai thuộc hạ tranh cãi chí chóe. Bất thình lình, gã vén tay áo, xắn quần lên cao và tóm gáy bọn chúng. Chả cần vận sức gì nhiều, hơi thở vẫn điều hòa, gã xoay tay nhấc bổng hai tên kia lên khỏi sàn nhà. Rồi hai cái đầu lao thẳng vào nhau côm cốp hai lần. Khi gã thả bọn chúng rơi xuống sàn, Hồng sư gia khẽ khàng đến gần và nói, “Ta không muốn làm phiền Thẩm đệ, ta hiểu đệ đang ngập đầu giải quyết các vấn đề trật tự trong trấn.” Liếc nhanh về phía hai nam nhân đang lồm cồm ngồi dậy, bàn tay xoa xoa đầu mà vẫn chưa hết sững sờ, lão tiếp lời, “Tuy nhiên, đệ cũng phải thông cảm rằng ta đang có việc khẩn.” Gã hộ pháp nhìn lão Hồng đầy vẻ nghi ngờ. “Ta là người hay đau yếu, thưa sư gia,” gã lầm bầm, “rất yếu là khác. Nhưng ta không thể để thiên hạ chê bai là mình không biết phép tắc lịch sự là gì. Mời lão ngồi kia với ta để cùng luận tửu nào.”👁‍
Hồng Lượng hỏi chuyện Thẩm Bát Khi họ đã ngồi bên cái bàn góc cạnh ọp ẹp với bát rượu cặn bốc mùi nồng nặc đặt trước mặt, Hồng sư gia niềm nở mở lời, “Ta sẽ không làm mất thì giờ quý báu của Thẩm đệ đâu. Ta chỉ hỏi đệ vài thông tin về hai nho sinh lang thang tên là Đổng Mai và Hạ Quảng. Tên sau thường được gọi là Hạ mặt sẹo.” Thẩm Bát lặng lẽ gãi cái bụng để trần. Sau một hồi, gã chậm rãi đáp, “Bọn nho sinh tiểu tử, cái giống văn biền phiêu bạt rày đâu mai đó hử? Không, thưa ngài, ta mù tịt về chúng. Cũng chả muốn biết làm gì. Bọn lừa đảo thất học đã đủ xấu xa rồi, còn cái bọn xuất thân cửa Khổng sân Trình, học đòi thêm được nhiều chiêu trò bịp bợm từ sách vở thánh hiền, lại càng tệ hơn. Đừng thắc mắc khi chúng tự chui đầu vào đủ những thể loại rắc rối trên đời này. Ta không có bất cứ vụ mua bán đổi chác nào với chúng cả. Không bao giờ.” “Một trong hai tên đã xuống suối vàng rồi. Tử nạn trong cuộc đua thuyền.” “Cầu cho linh hồn y yên nghỉ nơi chín suối!” Thẩm Bát nói với vẻ mèo khóc chuột. “Hiền đệ có đi xem đua thuyền chứ?” “Ta ư? Không. Ta chẳng dính dáng gì đến cá cược cả. Không có ngân lượng để theo.” “Chơi đi, vài đồng bạc cắc thôi mà.” “Vài đồng, lão nói thế mà được à? Để ta nói cho lão huynh biết, rất nhiều kẻ đã mất kha khá kim ngân vào thuyền Cửu! Có lẽ gồm cả tay họ Biện phóng đãng, chủ thuyền. Rất xui xẻo cho tay đại phu ấy nếu hắn thua cược. Tay chân của ta báo rằng gần đây hắn đang hơi thiếu trước hụt sau.”
Gã cẩn trọng ngắm nhìn bát rượu, đoạn tiếp lời vẻ ám muội, “Nếu liên đới nhiều kim ngân, tai nạn xảy ra cũng là thường.” “Kẻ nào sẽ hưởng lợi khi thuyền của đại phu thua cuộc?” Thẩm Bát nhìn lên và chậm rãi đáp lời, “Một câu hỏi cao thâm, lão sư gia à, thăm thẳm như trời xanh! Chi phối cá cược là nghề của những kẻ bất lương ranh mãnh chẳng bao giờ phạm sai lầm! Chúng hành sự thông qua hàng đống tay phe vé và kẻ trung gian. Ai mà biết kim ngân cuối cùng sẽ chui vào túi kẻ nào! Không phải ta, thưa ngài!” “Huyện thái gia của chúng ta lại muốn biết, hiền đệ thấy đấy! Chuyện ấy có thể liên quan đến một vụ án mà ngài đang điều tra.” “Có lẽ liên quan đến một tên văn biền non choẹt.” Gã hộ pháp buồn bã lắc đầu, rồi lặp lại chắc chắn, “Rất tiếc là ta không thể ra tay tương trợ.” Lão Hồng vẫn không nao núng, tiếp tục, “Lão sẽ không ngạc nhiên nếu huyện lệnh đại nhân trao thưởng một đĩnh bạc cho ai báo tin về hắn.” Đôi mắt cú vọ to tướng của Thẩm Bát trợn tròn. “Đa tạ đại nhân!” Gã la lên đầy phấn khích. “Đại quan Địch Nhân Kiệt! Sao lão huynh không nói ra ngay người muốn biết là ngài ấy! Lão có bao giờ thấy ta từ chối hợp tác với các mệnh quan triều đình không? Ngày mai, lão hãy tạt qua đây, có lẽ ta sẽ tìm ra một hoặc hai chuyện để kể.” Hồng sư gia gật đầu, định đứng lên thì Thẩm Bát đã vươn bàn tay to bè nắm lấy cánh tay lão và hỏi đầy trách móc, “Vội gì thế, lão sư gia?”
Khi lão Hồng miễn cưỡng ngồi xuống lần nữa thì Thẩm Bát sốt sắng tiếp lời, “Ta rất quý lão huynh! Theo thiển ý của ta thì lão là một người chân thật. Mọi người trong thành, ý ta là những ai để ý đến, đều rất kính trọng lão.” Lão sư gia buồn bã ngẫm ra đây là tiền đề để gã đòi một khoản ứng trước từ phần treo thưởng của Địch Nhân Kiệt. Thò vào ống tay áo lấy ngân lượng, lão lầm bầm đôi lời bình phẩm tự chê trách bản thân. Thẩm Bát nhanh chóng cắt ngang, “Đừng để sự nhún nhường che mờ sự thật! Lão là người từng trải bao phen sóng gió và thấu hiểu cái thế thái nhân tình, thâm niên đã ban tặng cho lão huynh sự khôn ngoan chín chắn. Do vậy, ta muốn cậy nhờ lão một phi vụ tế nhị.” Trông thấy khuôn mặt đờ đẫn của Hồng sư gia, gã thêm lời, “Lão huynh không thể từ chối ban cho kẻ vô dụng này, hiền lành đến mức không gây tổn hại ngay đến cả một con ruồi, một ân huệ nhỏ! Một võ phu đau ốm thường xuyên.” “Trông Thẩm đệ chẳng có vẻ đau ốm gì!” Lão Hồng nhận xét, vừa mới hoàn hồn sau khi quá đỗi ngạc nhiên. “Bệnh không thể hiện ra ngoài, lão sư gia. Nó ở đây, ngay trong dạ dày ta.” Có âm thanh lọc cọc phát ra từ bụng Thẩm Bát, rồi gã ợ to đến nỗi mấy tên ăn mày đều ngừng nói chuyện để nhìn đại ca của chúng đầy vẻ khâm phục. “Lão thấy đấy! Trong dạ dày của ta. Bộ phận quan trọng nhất!” “Hiền đệ có việc gì cần giúp?” Thẩm Bát nghiêng người về phía lão Hồng, thầm thì bằng giọng khàn khàn, “Liên quan đến nữ nhân!”
Gã hộ pháp này thốt lên đầy đau khổ, đến nỗi lão Hồng phải cố nén tiếng phì cười buột khỏi miệng. Thay vào đó, lão hỏi, “Vị tiểu thư nào may mắn vậy?” “Nàng đúng là tiểu thư!” Thẩm Bát nói vẻ thỏa mãn. “Đã có thời, nàng chết dính với hoàng cung. Sống ở kinh thành. Nàng là một sinh linh trang nhã và đài các. Nhạy cảm nữa. Do thế, phải tiếp cận nàng với, à, sự cẩn trọng cao độ nhất.” Lão Hồng trân trối nhìn Thẩm Bát. “Một nữ nhân từng phục vụ trong cung?” Bất thình lình, lão đứng bật dậy và hồ hởi hỏi, “Viên minh châu?” “Tuyệt! Lão dường như luôn biết dùng ngay những ngôn từ cẩm tú rất thích hợp! Một viên minh châu, nàng quả là viên trân châu sáng chói. Một viên ngọc quý giữa đám nữ nhân thường tình. Hãy đến gặp nàng và nói đôi lời vàng ngọc giùm ta. Nhưng phiền lão huynh cẩn trọng, không được làm vấy bẩn sự thanh khiết của nàng.” Giờ thì Hồng sư gia hố to rồi. Rốt cuộc chuyện chả có liên can gì đâu đến viên ngự châu bị đánh cắp! Sau một thoáng chần chừ, lão hỏi, “Đệ muốn ta đến gặp cô nương ấy để mai mối tác thành giai ngẫu và thay mặt đệ cầu hôn đính ước, thề non hẹn biển?” “Hơ hơ, không thể nhanh ào ào thế được!” Thẩm Bát kinh hãi la toáng lên. “Giờ nghe đây! Là chức lại triều đình, lão sẽ hiểu rằng, ở vị thế của mình thì ta chẳng thể chấp nhận được một… ờ, một lời cự tuyệt. Đại khái là thế, đúng không nào? Ta phải giữ nguyên tắc, lão huynh biết đấy.”
“Ta chả hiểu gì sất cả!” Lão Hồng cáu kỉnh nói. “Rốt cuộc, đệ muốn ta làm gì?” “Ta muốn lão huynh đến gặp nàng và nói tốt về Thẩm Bát này. Ta chỉ mong thế thôi! Nói đôi lời tốt đẹp cho ta. Chỉ thế, phiền lão. Không hơn không kém!” “Ta rất vui lòng làm điều đó. Nhưng phải tìm cô nương này ở đâu?” “Lão hãy đến Võ miếu và hỏi thăm cơ ngơi của Lương cô nương. Tiểu thư Lương Tử Lan. Ai ở đó cũng có thể nói cho lão biết.” Hồng sư gia đứng dậy. “Lúc này, ta đang khá bận, Thẩm Bát. Nhưng ta sẽ đến đó ngay khi sắp xếp được thời gian, nhanh nhất có thể. Có lẽ là một, hai ngày nữa.” “Tốt hơn là lão huynh nên có thời gian vào sáng mai!” Gã hộ pháp cười toe toét nhăn nhở. “Ta vừa nhớ ra là hai nho sinh ấy có ghé thăm chỗ của Lương tiểu thư. Khá thường xuyên đấy, ta nghĩ thế. Lão cứ hỏi nàng về bọn chúng! Nhưng nhẹ nhàng thôi đấy, phiền lão. Nàng là một nữ nhân mỏng manh yếu đuối, nàng từng gắn bó với…” “Ta biết, với hoàng cung. Tốt rồi, Thẩm Bát, ngày mai ta sẽ quay lại đây vào lúc nào đó.” HỒI 9 Thẩm cổ thư, Địch Công nghĩ về chuyện lạ Tra hiện trường, tri huyện gặp xác nho sinh Sớm tinh mơ, ngay sau bữa điểm tâm, Hồng sư gia tìm thấy Địch huyện lệnh đứng bên án thư trong thư phòng, đang cho chú rùa nhỏ ăn rau xanh. “Giác quan của những loài vật này thật đáng nể!” Huyện lệnh bình phẩm. “Đối với chúng ta, thứ lá này chả có chút mùi nào, nhưng hãy nhìn sinh vật bé nhỏ này!”
Địch Nhân Kiệt đặt vài lá rau lên trên ghế. Chú rùa, vốn đang leo qua một quyển sách nằm trên án thư, nhanh chóng ngẩng đầu và tiến về phía ghế. Ông để những chiếc lá trước mặt nó. Khi rùa ta nhai nuốt hết ráo đám lá, ông mở cửa sổ và đặt con vật nhỏ bé trở lại vào hòn non bộ. Rồi ông ngồi xuống đằng sau án thư, hồ hởi hỏi, “Tình hình tối qua thế nào, lão Hồng?” Sư gia thuật lại chi tiết cuộc chuyện trò khi gặp Thẩm Bát. Cuối cùng lão thêm vào, “Bẩm, Thẩm Bát rõ ràng đã nghe chuyện gì đó bất thường về cái chết của Đổng Mai. Giang hồ cũng đồn đại rằng việc cá cược đã bị thao túng. Gã thậm chí còn ám chỉ do Biện đại phu đang túng thiếu, ông ta có thể chi phối cá cược và kiếm lời bằng cách dàn xếp cho thuyền của chính mình thua cuộc.” Huyện lệnh nhướng mày. “Gã nói vậy phải không?” Ông giật phắt hàm ria. “Điều đó khiến ta tò mò về vị đại phu kia. Ta từng có ấn tượng rằng ông ta là phú gia ở vùng này, một lương dân có phẩm giá, một nam nhân chính trực không có điều tiếng gì. Một nam tử hán đại trượng phu, có khuôn mặt nhợt nhạt uy nghiêm cùng bộ râu đen nhánh. Tuy nhiên, ta thừa nhận ông ta khá hăng hái muốn ghi nhận cái chết của Đổng là do suy tim. Lão có nghe thấy bất cứ điều gì chống lại ông ta không?” “Không, thưa đại nhân. Nhìn chung, ông ta được đánh giá là một trong những đại phu lành nghề nhất trấn này. Tiếc là Thẩm Bát bày tỏ ý kiến về Biện Gia quá ám muội. Lão phu cược rằng tên cái bang đó biết về Đổng Mai và Hạ Quảng nhiều hơn những gì gã thừa nhận. Nhưng gã thà chết còn hơn là cung khai hết chân tướng vụ việc!”
Địch Nhân Kiệt gật đầu và đáp, “Ta rõ rồi. Thẩm Bát muốn chúng ta nghe thông tin về bọn Đổng Hạ trực tiếp từ nữ nhân mà gã đã đề cập. Chúng ta sẽ đến gặp Lương cô nương sáng nay. Hạ Quảng đã về chưa? Ta muốn gặp hắn trước tất thảy các đối tượng khác, sau đó mới nghe tình nương của Thẩm Bát kể chuyện.” “Thưa, không may là Hạ Quảng vẫn chưa về. Bộ đầu nói với lão rằng mới đây thôi, bộ khoái đang canh giữ nơi ở của hắn đã hồi phủ và bẩm báo rằng họ Hạ vẫn chưa lộ diện.” Lão Hồng ngừng lại. Một lát sau, lão rụt rè tiếp lời, “Bẩm đại nhân, lại nói về tình nương của Thẩm Bát. Có thể là tên vô lại già đời ấy đã nghe ngóng được về vụ mua bán viên ngự châu. Gã muốn cho lão phu hiểu rằng nữ nhân kia biết đôi điều về thương vụ đó, bằng cách ra sức nhấn mạnh là nàng ta từng gắn bó với hoàng cung, một điều dĩ nhiên là hoàn toàn vô nghĩa!” Huyện lệnh nhún vai. “Lão nên nhớ là có hàng nghìn nữ nhân phục vụ trong cung cấm, bao gồm cả các tỳ nữ giúp việc dọn dẹp và bếp núc. Còn chuyện viên ngự minh châu, lão có thể không cần để ý đến nữa! Vì ta đã đi đến kết luận rằng toàn bộ nội dung câu chuyện là một trò bịp bợm, lão Hồng à! Một câu chuyện hoang đường, từ đầu đến cuối đều là hoang báo cả!” Lão sư gia ngạc nhiên định mở miệng nói gì đó, nhưng Địch Nhân Kiệt đã tiếp lời luôn, “Một trò bịp thôi, lão Hồng à. Thêm nữa, ta tin rằng họ Kha kia biết điều đó. Ta đã không thể yên giấc, ta chẳng thể loại bỏ câu chuyện thêu dệt về viên minh châu kia ra khỏi đầu mình. Ta ngẫm đi ngẫm lại câu chuyện không biết bao nhiêu lần, về cách viên ngọc biến mất và làm thế nào mà Đổng Mai chiếm hữu được nó. Rồi ta đi đến kết luận rằng ngự châu không tồn tại!
“Lão cẩn trọng lắng nghe nhé! Như ta đã nói tối qua, rất có thể là Đổng Mai và Hổ Phách có tư tình vụng trộm. Hai tháng trước, Hổ Phách thông báo với tình nhân là nàng đã có thai với y. Bọn họ nhận ra chẳng thể giữ bí mật được lâu hơn nữa và quyết định cùng nhau bỏ trốn. Nhưng làm thế nào để có ngân lượng? Thế là cả hai dựng lên câu chuyện viên ngự minh châu. Hổ Phách nói cho phu quân biết là Đổng Mai đang cất giấu viên ngọc đó ở một nơi an toàn và nàng muốn đi đến đó để hoàn thành giao dịch. Thế là đôi tình nhân sẽ gặp nhau ở phương lầu và cùng trốn đi xây tổ uyên ương, với mười nén vàng làm lưng vốn. Một kế hoạch khôn ngoan! “Tuy nhiên, bọn họ đâu biết Kha Nguyên Lương đã phát hiện ra mối quan hệ ám muội của cả hai rồi. Y chỉ chờ cơ hội để báo thù. Chẳng khó khăn gì để khám phá ra chốn an toàn mà Hổ Phách đều nhắc đến chính là trang viên bỏ hoang. Y giả vờ tin vào câu chuyện về ngự châu. Sau khi hạ độc Đổng Mai, họ Kha thuê một tên lưu manh hạ sát Hổ Phách trong khu lầu rồi mang ngân lượng về cho y. Lão nghĩ thế nào về giả thuyết này?” Trông Hồng sư gia hãy còn hoài nghi. Lão chậm rãi đáp lời, “Thưa, tối qua, lão phu cố gắng không phản bác giả thuyết về tội lỗi của Kha tiên sinh, bởi vì khi ấy chúng ta mới chỉ đặt ra các khả năng. Nhưng giờ đây, đã có một cáo trạng chống lại y. Lão phải thú nhận là mình không hề nhận ra một nam nhân trầm tĩnh, với phong thái đường hoàng chính nhân quân tử như họ Kha, lại phạm một tội ác ghê gớm như vậy. Vẫn còn nhiều khả năng khác nên được cân nhắc. Vừa mới đây, chúng ta đã thảo luận về Biện đại phu và…”
“Sự ghen tuông thậm chí có thể thúc đẩy một nam nhân hòa nhã, ôn nhu phạm tội!” Địch Nhân Kiệt ngắt lời. “Dù giả thuyết đó đúng hay sai đi chăng nữa, chúng ta cũng vẫn tới trang viên bỏ hoang và xem xét khu lầu lần nữa. Ta tin là ngự châu không tồn tại, nhưng ta muốn trông thấy hiện trường án mạng giữa thanh thiên bạch nhật. Và một chuyến đi lúc sớm tinh mơ sẽ giúp cho tinh thần thêm phần sảng khoái! Nếu lúc quay lại thành mà Hạ Quảng vẫn chưa xuất đầu lộ diện, chúng ta sẽ đến gặp tình nương của Thẩm Bát và xem nàng ta có thể chỉ chỗ nam nhân thoắt ẩn thoắt hiện kia hay không. Ta nhất định phải trò chuyện với hắn trước khi mở phiên thăng đường buổi sáng.” Lúc đứng dậy, mắt huyện lệnh chạm phải quyển sách mà con rùa nhỏ đã bò lên. “Ồ, đúng rồi,” ông thốt lên, “Ta quên không kể cho lão nghe! Đêm hôm qua ngủ không được ngon, ta tỉnh giấc khoảng nửa canh giờ trước lúc bình minh. Ta bèn giở quyển sách thú vị mượn ở văn khố cách đây vài ngày ra đọc một chút.” Ông lấy quyển sách, lật sang trang đã đánh dấu và nói tiếp, “Đây là tập hợp những ghi chú về Phổ Dương, được phổ biến nội bộ khoảng năm mươi năm về trước. Một vị huyện lệnh có tâm huyết lớn với lịch sử miền này đã viết nó. Ngày nọ, ông ấy du ngoạn tới miếu thờ thủy thần đã đổ nát ở rừng Mạn Đà La. Vào thời đó, vẫn còn một con đường dẫn thẳng đến ngôi miếu. Đây là những gì ông ấy viết.”
Tường phía ngoài và chòi gác bị hư hại đáng kể sau trận động đất, nhưng sảnh chính và bức tượng nổi tiếng vẫn đứng uy nghiêm nơi ấy. Tượng thể hiện hình ảnh một nữ nhân, cao hơn mười thước, đứng thẳng trên bệ đá. Tất cả đường nét đều được chạm khắc từ cẩm thạch nguyên khối. Án thờ vuông vức đặt phía trước bức tượng cũng được cắt ra từ cùng khối đá ấy. Một công trình nghệ thuật quả thật phi thường! Địch Nhân Kiệt đưa quyển sách lại gần mắt hơn và nói, “Một độc giả đã ghi chú bằng mực đỏ bên lề: Vị đồng liêu yêu quý đã nhầm rồi. Ta đã viếng thăm ngôi miếu mười năm sau và phát hiện ra án thờ thực chất được tạc từ một khối cẩm thạch khác. Ta đã cho gỡ lớp vữa gắn bệ đá với án thờ, vì từng nghe rằng thuở xưa các từ chúc đã làm một cái hốc bên trong án thờ để cất giấu các bình lễ bằng vàng. Ta nghĩ những thứ giá trị đó nên được di dời sang một một nơi an toàn, chẳng hạn như kho lưu trữ của Bộ Lễ. Nhưng rồi ta phát hiện ra bên trong án thờ hoàn toàn trống rỗng. Đoàn huyện lệnh của Phổ Dương. “Đoàn đại nhân là một vị quan mẫn cán,” Địch Nhân Kiệt bình phẩm. “Giờ ta tiếp tục với dòng chữ in: Có một chiếc nhẫn vàng đính viên đại hồng ngọc tuyệt đẹp trên ngón tay trỏ của bàn tay trái bức tượng. Trưởng thôn nói cho ta biết viên hồng ngọc đó được cho là Quỷ Nhãn, do đó chẳng ai dám cả gan đánh cắp nó. Án thờ vuông vức có lỗ hổng ở bốn góc, dùng để xiết chặt dây thừng khi trói một nam tử để tế hàng năm vào ngày mồng 5 tháng Năm. Nam tử này được chọn bằng cách rút thăm. Viên từ chúc cắt mạch máu của nạn nhân bằng một con dao ngọc bích, rồi tưới máu lên bức tượng. Sau đó, người ta dùng kiệu rước thi thể ra đến bờ sông và long trọng thả nạn nhân theo dòng nước mênh mông. Một tục lệ thực sự man rợ. May thay, cách đây mấy năm, triều đình sáng suốt đã ra lệnh bãi bỏ.
Thiên hạ đồn rằng bức tượng lúc nào cũng ẩm ướt. Quả thật bề mặt nhẵn mịn của nó phủ đầy hơi ẩm, nhưng hiện tượng ấy là do sương lạnh hay một nguyên nhân siêu nhiên, câu hỏi ấy xin dành lại cho người đời sau quyết định. Ta bị choáng ngợp trước bầu không khí huyền bí ở chốn lạ lùng đó và ra về sớm hơn dự tính, mang theo một viên gạch cũ kĩ của bức tường đổ nát để khảo cứu sau này. “Chỉ có thế. Sự việc thật lạ lùng!” Địch Nhân Kiệt đặt sách lên án thư và ra hiệu cho Hồng sư gia cùng mình ra ngoài. Ra đến sân, ông lệnh cho bộ đầu dắt ra hai con tuấn mã từ chuồng tới. Họ rời thành theo hướng Nam môn. Màn sương mù mát mẻ buổi sớm mai vắt ngang qua kênh đào khiến cả hai có một chuyến đi dễ chịu. Đến Thạch Kiều, họ tìm gặp trưởng thôn trước tiên. Ông ta bẩm với huyện lệnh rằng tuần đinh mới trở về lúc tảng sáng, sau một đêm chẳng thoải mái gì. Một gã còn xác nhận là đã nghe những tiếng thì thầm ma quái trong rừng Mạn Đà La, kẻ khác thì nói đã thấy một cái bóng trắng lơ lửng giữa các ngọn cây. Bọn họ đã phải đứng gác nguyên đêm, túm tụm với nhau trong hoa viên ở trước phương lầu. Trưởng thôn nói thêm là đã niêm phong cánh cửa ra vào khu lầu sau khi chuyển thi thể của nữ nhân đi. Địch Nhân Kiệt gật đầu hài lòng và họ tiếp tục lên đường. Họ đi ngang qua khu phố, nơi các tiểu thương đang bận rộn dựng quầy hàng, rồi bắt đầu tiến vào con đường dẫn tới khu rừng. Đến cây thông già đánh dấu địa phận của Đổng gia, ông xuống ngựa và cột chặt dây cương vào thân cây khẳng khiu. Lão Hồng cũng làm thế. Họ tiếp tục cuốc bộ tiến về phía trước.
Ông nhận ra vào ban ngày, đi bộ về phía trang viên bỏ hoang không mất nhiều thời gian cho lắm. Rất nhanh chóng, họ đã thấy căn chòi gác rách nát vì gió mưa và các bức tường phủ kín dây thường xuân. Khi đang băng qua khung cửa vòm dẫn đến hoa viên, Địch Nhân Kiệt chợt khựng lại và nắm lấy tay lão Hồng. Một nam nhân cao lớn khoác trường bào đen bóng, đầu đội mũ the đen, đang đứng trước khu lầu, quay lưng về phía họ. Cánh cửa ra vào phương lầu khép hờ, mảnh giấy niêm phong đã bị xé toạc đang phất phơ trước gió ban mai nhè nhẹ. “Này, kẻ kia!” Huyện lệnh nói to. “Ngươi là ai và đang làm gì ở chốn đây?” Nam nhân quay lại, lặng lẽ nheo mắt nhìn những người mới đến với vẻ dò xét. Gã có gương mặt tròn trịa và bình thản, bộ ria ngắn và hàm râu được cắt tỉa cẩn thận. Sau khi đã ngừng săm soi, gã cất giọng nho nhã, “Xưng hô đột ngột kiểu đó thường sẽ kích động một sự đáp trả tương xứng. Tuy nhiên, trông ngài có dáng đi và phong thái của quan lại triều đình, thảo dân sẽ hạ mình nói rằng chính mình mới là người nên hỏi các câu trên. Vì ngài đang xâm nhập địa sản của thảo dân.” Chẳng muốn phí lời, Địch Nhân Kiệt xuất ngôn, tiếng vang vọng lanh lảnh, “Bản quan là huyện lệnh vùng này, đang tiến hành điều tra công vụ. Hãy trả lời các câu hỏi của ta!” Kẻ kia cúi thấp người thi lễ, đoạn nhã nhặn đáp lời, “Bẩm đại nhân, thảo dân rất hân hạnh được báo danh là Quách Minh. Thảo dân là thương gia bán thuốc nhỏ lẻ đến từ kinh thành. Cách đây bốn năm, thảo dân đã mua điền trang này của chủ nhân trước là Đổng Nhất Quán.”
“Ở đây đã có nhiều chuyện lạ kỳ xảy ra. Bản quan muốn thẩm tra nhân thân của ngươi.” Nam nhân lại cúi đầu, rồi lấy từ ống tay áo ra hai mảnh giấy trình huyện lệnh. Tờ đầu là giấy thông hành do đương cục ở kinh thành cấp, tờ thứ hai là một bản đồ chi tiết toàn bộ điền trang Đổng gia, được nha phủ Phổ Dương cấp bốn năm về trước cho chủ nhân mới là Quách Minh. Trao trả lại giấy tờ, Địch Nhân Kiệt nói, “Được rồi. Bây giờ hãy cho ta biết tại sao ngươi xé tờ niêm phong mà nha phủ đã gắn lên cửa khu lầu đằng kia. Đó là vi phạm vương pháp, ngươi biết đó!” “Bẩm, thảo dân không làm!” Họ Quách phẫn nộ đáp. “Lúc đến thảo dân đã thấy cánh cửa hé mở sẵn rồi.” “Tại sao ngươi lại đến đây vào giờ giấc bất thường này?” “Nếu đại nhân không phản đối một câu chuyện khá dài, thảo dân sẽ…” “Ta chẳng thích thế chút nào. Vì vậy hãy kể ngắn gọn thôi!” “Chân tướng sự việc,” họ Quách bình thản tiếp lời, “có lẽ nên tóm lược như sau. Bốn năm về trước, bạn hàng của thảo dân là Biện đại phu đã thông báo qua thư là điền trang này đang được bán lại với giá rẻ. Ông ta khuyên thảo dân nên mua, do khu rừng sát bên mọc nhiều cây mạn đà la. Thương điếm của thảo dân luôn muốn tìm mua những mảnh đất như vậy vì, như đại nhân đã biết, mạn đà la rất có giá trị về dược phẩm. Bởi thế, thảo dân đã mua điền trang này. Tuy nhiên, do lúc đó thương điếm vẫn có nguồn cung dồi dào, nên mãi hai năm sau thảo dân mới quyết định cử người đến thẩm tra nơi đây. Khi đó, Biện đại phu viết thư cho thảo dân nói rằng vùng này đang bị hạn hán. Ông ta cảnh báo rằng bách tính địa phương có thể phẫn nộ khi thấy ngoại nhân tiến hành thẩm tra ở khu vực này, vốn là chốn địa linh dành riêng cho thủy thần…”
“Ta biết, ta biết,” Địch Nhân Kiệt mất kiên nhẫn và ngắt ngang lời gã. “Nội dung chính thôi!” “Xin tuân lệnh! Trong suốt hai năm sau đó, thảo dân hoàn toàn bận rộn với các vấn đề khác. Chỉ đến sáng hôm qua, khi thuyền của thảo dân cập bến Thạch Kiều, thảo dân mới nhớ là mình có sở hữu một mảnh đất gần đây, và…” “Điều gì đã mang ngươi đến Thạch Kiều? Một chuyến du sơn ngoạn thủy?” “Bẩm, ngược lại là khác,” họ Quách cứng rắn đáp lời, “do thảo dân có thương vụ khẩn cấp, liên quan đến một chi nhánh ở phía thượng nguồn kênh đào. Ba ngày trước, thảo dân thuê một chiếc thuyền mành đi trên kênh, cùng với bằng hữu và cũng là đồng sự là Tôn tiên sinh, dự định tiến về phương bắc nhanh nhất có thể. Tuy nhiên, khi cập bến Thạch Kiều, các thuyền phu nghe nói là sẽ có một cuộc đua thuyền rồng lớn sắp được tổ chức. Thế là mấy tên lười biếng ấy cứ khăng khăng đòi ở lại đây qua đêm. Nghĩ rằng mình có thể tận dụng việc nghỉ chân cực chẳng đã này, thảo dân đã gửi tin cho Biện đại phu, yêu cầu ông ta đến Thạch Kiều vào buổi chiều và dẫn thảo dân đi xem điền trang cũ của Đổng gia. Ông ta hồi đáp rằng quá bận rộn chuẩn bị cho cuộc đua, nhưng sẽ ghé thăm thảo dân vào cuối buổi chiều. Sau đó ông ta lên thuyền mành thưởng trà với thảo dân. Cả hai đã đồng ý gặp nhau ở gia trang này vào ngày hôm nay, ngay sau bữa sáng. Thảo dân chọn giờ khắc sớm sủa bởi vì công việc vẫn còn dang dở, thảo dân dự tính sẽ hạ thủy khởi hành càng sớm càng tốt. Giờ thảo dân đang chờ Biện đại phu. Thảo dân rất vui mừng khi cơ duyên đã đưa đại nhân đến đây. Tối qua, sự e ngại đã ngăn thảo dân xin diện kiến ngài.”
Nhận thấy ánh nhìn dò xét của Địch Nhân Kiệt, họ Quách ôn tồn giải thích, “Bẩm, tối hôm qua, Biện đại phu đã mời thảo dân đến tửu lâu ở Thạch Kiều, nơi ông ta đang thết đãi các đội thuyền đua, rồi đi xuôi theo kênh đào để tới điểm đích. Sau đó, ông ta bận chuẩn bị cho cuộc đua. Khi thảo dân đang bâng quơ dạo bộ trên bờ sông, một khách bộ hành đã chỉ ra thuyền của nha phủ và thảo dân mạo muội cả gan lên thuyền. Vì thảo dân có nhiều mối quan hệ giao thương ở Phổ Dương và tự cảm thấy mình nên thể hiện sự kính trọng đối với huyện lệnh. Không có ai ở boong thuyền bên dưới để chuyển lời giúp thảo dân cả. Khi thảo dân đi lên thì thấy đại nhân và các phu nhân đang đứng tựa lan can thuyền, cùng thưởng thức phong cảnh. Rõ là Địch gia đang tụ họp. Không muốn bản thân đường đột xen vào giữa lúc ấy, thảo dân liền thoái lui. Xuống đến boong thuyền, thảo dân gặp viên quản gia ở đó và dặn lão đừng làm phiền ngài. Tuy nhiên, giờ thảo dân thấy mình nên đề cập đến chuyện đó, để chứng tỏ bản thân không dám khinh suất chuyện lễ nghi…” “Thôi được rồi! Ngươi quả là biết trọng lễ nghĩa.” Địch Nhân Kiệt điềm tĩnh nhìn gã. Vậy hóa ra đây là vị khách bí ẩn mà quản gia đã nhắc đến. Ông hỏi, “Lúc ấy, vị đồng sự họ Tôn có đi cùng ngươi không?” “Thưa đại nhân, không ạ. Do cảm thấy khó ở nên nên ông ấy đã sớm lui về khoang thuyền để nghỉ ngơi, về phần mình, thảo dân đã xem đến hết cuộc đua thuyền, rồi thuê một con ngựa phóng về Thạch Kiều. Chưa thuyền phu nào về cả, toàn những gã lang bạt phóng đãng, vì thế thảo dân tự pha một chén trà và đi nghỉ.”
“Được rồi, cảm tạ Quách tiên sinh. Giờ hãy kể cho ta nghe, tại sao ngươi lại cho sửa chữa khu lầu đằng kia.” Quách Minh rướn hàng lông mày mỏng, tỏ vẻ ngạc nhiên. “Thưa đại nhân, sửa chữa nào cơ? Ý ngài là cho phá bỏ?” Địch Nhân Kiệt đi lướt qua gã và bước lên bậc đá, theo sau là lão Hồng và họ Quách. Đứng ngay phía trong cánh cửa, ông trân trối nhìn quanh gian phòng đầy ngờ vực. Vữa từ các bức vách rơi thành từng mảng, làm lộ ra những viên gạch đỏ bên trong. Một phần trần nhà đã sập xuống, gạch lát sàn đã bong tróc, ngay cả bốn chân sập tre cũng nứt toạc ra. “Chuyện gì đang xảy ra ở đây?” Một giọng nói ngạc nhiên vang lên sau lưng họ. Địch Nhân Kiệt xoay người lại. Ông cáu kỉnh trả lời, “Có những kẻ không hề được phép nhưng lại làm trò xằng bậy ở chốn này, Biện đại phu à. Bọn ta chỉ đang xem xét tình hình thiệt hại.” “Ta đã tưởng,” Quách Minh lạnh lùng nói, “ông từng viết thư đồng ý trông coi điền trang cho ta mà.” “Mới một tháng trước, ta đã cắt cử một nam nhân ở đây, Quách tiên sinh à,” Biện đại phu phật ý đáp. “Y báo cáo rằng mọi thứ đâu vẫn ra đấy. Và y biết rõ mọi ngóc ngách ở nơi này. Người đó chính là Đổng Mai, trưởng tử của chủ nhân cũ nơi này… Thật chẳng hiểu ra sao nữa, ta…” “Ta sẽ trở lại sau,” Địch Nhân Kiệt cắt ngang. Ông ra dấu cho sư gia đi theo mình. Khi họ đang băng qua khu vườn, huyện lệnh nói nhỏ, “Hung thủ đã quay lại rất sớm vào sáng nay, ngay khi các tuần đinh vừa rời đi. Chắc chắn hắn tin rằng viên ngự minh châu là có thật, nên đến để tìm kiếm. Chúng ta hãy xem liệu hắn có xâm nhập khu nhà chính không.”
Ông cáu kỉnh đập vài con nhặng đang kêu vo vo xung quanh đầu. Một chuyến đi nhanh xuyên suốt các gian sảnh hoang tàn chẳng cho thấy dấu hiệu xáo trộn nào. Ông chỉ nhận ra dấu chân của chính mình trên sàn nhà phủ đầy bụi. Lúc họ quay về phương lầu, lão Hồng bình phẩm, “Khu lầu đã bị lục tung toàn bộ. Dường như tên sát nhân đã không tìm thấy thứ khiến hắn phải cất công đến đây.” Địch Nhân Kiệt gật đầu. Ông cố xua tay đập loạn xạ một đàn ruồi nhặng. “Quỷ tha ma bắt đám ruồi này! Nhìn kìa, lão Hồng! Chính ở đây, trên đỉnh tường này, ta đã tìm thấy con rùa.” Đặt tay lên bờ tường thấp, ông tiếp tục kể, “Nó bò dọc theo…” Bất chợt huyện lệnh dừng lời, nghiêng người qua bờ tường và nhìn xuống phía bên kia. Lão Hồng cũng làm theo. Lão buột miệng rủa. Thi thể một nam nhân vận trang phục màu lam đang nằm sóng soài giữa đám cỏ dại trong con rãnh thấp. Vô số ruồi nhặng lượn lờ quanh đỉnh đầu bê bết máu khô của kẻ xấu số. 👁‍ Địch Nhân Kiệt và Hồng Lượng phát hiện ra thi thể Ông quay lại và đi nhanh vào trong phương lầu. Biện đại phu và Quách Minh đang đứng ở một xó, bận rộn thảo luận. Địch tri huyện tới gần và thản nhiên hỏi họ Quách, “Ngươi đã ở đây bao lâu trước khi ta đến, hả Quách tiên sinh?” “Bẩm, thảo dân đến đây chỉ một chốc trước đại nhân,” gã đáp. “Thảo dân thậm chí còn chưa kịp đi khảo sát khu nhà chính. Thảo dân đến ngay hoa viên này để nhìn rừng Mạn Đà La phía bên kia tường, bởi vì…”
“Mau đi theo ta, cả hai ngươi!” Địch Nhân Kiệt quát. Vừa ngó qua bờ tường, họ Quách liền ngoảnh mặt đi, cúi người nôn mửa và trông như phát ốm. “Thưa đại nhân, đó chính là Hạ Quảng!” Biện đại phu kêu lên. “Ngài có thể thấy vết sẹo trên má trái hắn.” Địch Nhân Kiệt vén tà áo, trèo lên đỉnh tường rồi thả mình xuống phía bên kia. Biện Gia và lão Hồng cũng bò vượt qua tường ngay sau đó. Ngồi xổm cạnh bên nạn nhân, ông tỉ mẩn xem xét mái tóc vấy máu. Rồi ông nhìn ngó xung quanh, tìm kiếm giữa những đám cỏ dại trong con rãnh. Địch Nhân Kiệt nhặt một viên gạch lên và trao cho Hồng sư gia. Đoạn ông nói, “Đỉnh hộp sọ của hắn bị đập mạnh từ phía sau bằng viên gạch này. Lão có thể thấy cạnh còn dính máu.” Ông đứng dậy và thêm lời, “Hãy giúp ta lục soát các bụi cây, có thể còn những manh mối khác!” “Thưa đại nhân, vật này trông giống như hộp đồ nghề của thợ mộc!” Sư gia kêu lên. Lão Hồng đưa ra một chiếc hộp trầy xước hình chữ nhật tìm thấy dưới bụi cây. Địch Nhân Kiệt ra dấu cho lão tháo bỏ sợi dây da. Trong hộp có hai lưỡi cưa, một cây búa và vài cái đục. “Mang nó về nha phủ,” huyện lệnh nói. Rồi ông quay sang bảo với Biện đại phu, “Hãy giúp ta cởi áo của Hạ Quảng!” Sau khi lột trần phần thân trên vạm vỡ của nạn nhân, họ trông thấy một miếng giẻ được quấn chặt quanh bắp tay trái. Biện đại phu tháo ra và xem xét tỉ mỉ vết cắt sâu. “Bẩm đại nhân, vết thương này hãy còn mới,” ông ta nhận xét. “Hung khí là một lưỡi mỏng và sắc. Thi thể vẫn còn ấm, chứng tỏ nạn nhân bị hạ sát cách đây khoảng hai khắc!”
Địch Nhân Kiệt im lặng. Ông lục lọi hai ống tay áo nhưng không thấy gì. Cũng chẳng có vật gì trong các nếp gấp của dải khăn quấn quanh thắt lưng nam nhân, ngay cả một chiếc khăn tay cũng không có. Huyện lệnh nói cộc lốc, “Chúng ta đã xong việc ở đây rồi. Ngỗ tác sẽ làm nốt phần còn lại.” HỒI 10 Tôn, Quách, Biện không được rời trấn Huyện đại nhân cải dạng điều tra Khi ba người leo trở lại hoa viên, Địch huyện lệnh đột ngột cắt ngang những câu hỏi hồ hởi của Quách Minh và nói với lão Hồng, “Lão hãy cưỡi ngựa về chợ và bảo trưởng thôn tới đây cùng một tá tuần đinh.” Ông bắt đầu đi đi lại lại trong hoa viên, đôi lúc lại bực bội giũ mạnh tay áo. Biện đại phu kéo họ Quách sang một bên và họ bắt đầu thì thầm to nhỏ với nhau. Hồng sư gia nhanh chóng quay trở lại. Lão dẫn theo vị trưởng thôn đang hoang mang và một nhóm trai tráng bặm trợn, vũ trang bằng gậy gộc tre nứa. Địch Nhân Kiệt ra lệnh cho trưởng thôn đặt tử thi lên cáng và mang về nha phủ. Đám tuần đinh sẽ ở lại canh gác gia trang cho đến khi các bộ khoái đến kiểm soát tình hình. Trông thấy vẻ mặt nhăn nhó đau khổ của đám tuần đinh, ông gắt ầm vào mặt họ, “Đang thanh thiên bạch nhật thế này, các ngươi còn sợ gì?” Ông quay lại nói với Biện Gia và Quách Minh, “Chúng ta sẽ cùng trở về thôn. Hai ngươi có thể mượn ngựa của tuần đinh ở đây.” Khi đoàn người ngựa tới thôn Thạch Kiều, Địch Nhân Kiệt bảo họ Quách dẫn lên thuyền mành.
Hóa ra đó là một con thuyền khá lớn, choán gần hết không gian bến tàu phía bên kia cầu. Bốn thuyền phu trông mệt mỏi bơ phờ đang tháo tung cánh buồm làm bằng cói tre. Huyện lệnh yêu cầu họ Quách và hai người kia đợi ở cầu tàu, rồi ông bước lên tấm ván hẹp dùng làm lối đi lên thuyền. Đứng ở khoang trước, ông la lớn gọi trưởng thuyền. Mất một lúc lâu, một mái đầu bù xù mới thò lên từ dưới hầm chứa hàng. Tay trưởng thuyền bước lên boong, xốc lại chiếc quần xộc xệch và nhìn chằm chằm Địch Nhân Kiệt bằng đôi mắt lờ đờ còn đỏ ngầu. Rõ là gã và đội thuyền phu đã tiệc tùng đàn đúm thâu đêm. “Hãy đưa ta đến gặp Tôn tiên sinh!” Địch Nhân Kiệt ra lệnh. Tay trưởng thuyền lê bước về phía đuôi thuyền, nơi có một khoang thuyền kép. Sau nhiều lần gõ lên cánh cửa hẹp, cửa sổ bên cạnh mới tung mở ra. Một nam nhân mảnh khảnh, có cái cổ cò và một hàm râu ngắn tua tủa, ló đầu ra. Một băng vải trắng đang quấn chặt quanh đầu y. “Có phải ngươi đã gây ồn hay không?” Y cáu kỉnh hỏi. “Ta đang bị đau đầu hành hạ đây. Ta không muốn bị làm phiền!” “Bản quan là huyện lệnh. Không, ở yên tại đó! Ta chỉ muốn hỏi ngươi đã làm gì vào chiều hôm qua, họ Tôn kia.” “Thưa đại nhân, thảo dân nằm bẹp trên giường cả ngày, thậm chí chẳng nuốt nổi miếng cơm tối nào. Những cơn nhức đầu thường xuyên gây phiền toái cho thảo dân, ngài thấy đấy. Khó chịu đến phát điên lên được.” Y chống khuỷu tay lên ngưỡng cửa sổ rồi nói tiếp, “Mà đâu phải có mỗi thế. Đầu tiên là cảm giác sốt nóng và chả thiết ăn uống gì. Sau đó là buồn nôn nhẹ, kèm theo là miệng có vị đắng ngắt và rồi…”
“Quả là chẳng dễ chịu gì. Quách tiên sinh có đến gặp ngươi không?” “Dạ thưa, quả là ông ấy có đến trước bữa tối, để thông báo là mình sẽ ra ngoài xem đua thuyền với một vị bằng hữu. Thảo dân chưa nghe thấy tiếng ông ấy quay về. Nhưng chắc ngài sẽ thấy tìm thấy Quách tiên sinh ở khoang thuyền bên cạnh. Đã có tai nạn gì chăng?” “Ta đang tìm kiếm nhân chứng của một vụ án mạng.” Họ Tôn cáu kỉnh lườm gã trưởng thuyền lôi thôi lếch thếch. “Rõ là nạn nhân không phải trưởng thuyền của bọn thảo dân rồi!” Y bình phẩm với một tiếng thở dài. “Thật quá đáng tiếc. Thảo dân chưa bao giờ ở trên một con thuyền chạy cẩu thả như thế này!” Tay trưởng thuyền phẫn nộ định càu nhàu, nhưng huyện lệnh đã quay qua gã và ra lệnh, “Ngươi hãy hạ buồm, giong thuyền này đến bến tàu gần Tây môn và ở yên đó cho đến khi có thông cáo mới!” Rồi ông quay sang họ Tôn, “Ta e là ngươi sẽ phải lưu lại đây một, hai ngày. Ngươi có thể tận dụng việc trì hoãn để đi gặp đại phu thăm bệnh. Chúc ngươi mau chóng bình phục.” Họ Tôn bắt đầu phản đối rằng đang rất vội, nhưng Địch tri huyện đã quay lưng về phía y và đi lên bờ. “Ngươi là nhân chứng quan trọng,” ông nói với Quách Minh. “Do đó, lịch trình chuyến đi của ngươi sẽ phải gián đoạn tại đây. Ta đã nói trưởng thuyền đưa thuyền đến bến tàu, ngươi có thể ở trên thuyền hoặc thuê lấy một gian phòng trong khách điếm, tùy ý. Nhưng phải báo ngay nơi trú ngụ cho nha phủ, để ta có thể triệu tập ngươi khi cần.”
Họ Quách chau mày định nói gì đó, nhưng huyện lệnh đã quay sang phía Biện đại phu, “Ta sẽ cần cả ngươi nữa. Trong lúc này, ngươi không được rời khỏi trấn Phổ Dương. Xin cáo biệt.” Đoạn ông nhảy lên lưng ngựa và khởi hành cùng Hồng sư gia. Khi hai người phi dọc theo cái quan, mặt trời đã lên cao hơn, cái nắng như đổ lửa thiêu cháy da họ. “Lẽ ra chúng ta nên mang theo mũ rơm!” Địch Nhân Kiệt càu nhàu. “Thưa, trời sẽ chỉ oi thêm mà thôi! Không có lấy một cơn gió nhẹ lay động và lão không thích những cụm mây đen đang vần vũ đằng xa. Có khi đến cuối ngày, ta lại vướng mưa giông cũng nên.” Huyện lệnh chẳng nói chẳng rằng. Họ tiếp tục lên đường trong im lặng. Khi Nam môn hiện ra trong tầm mắt, ông bỗng thốt lên, “Đây là vụ án mạng thứ ba trong hai ngày qua! Mà Hạ Quảng là kẻ duy nhất có thể tháo gỡ chút ít mớ bòng bong này!” Rồi ông trầm giọng tiếp lời, “Phải thẳng thắn thừa nhận rằng ta đang lo lắng, lão Hồng à. Có một tên tội nhân nguy hiểm, xuống tay hung bạo, đang ung dung tự tại trong trấn huyện của chúng ta.” Viên vệ úy giữ cổng thành đã trông thấy họ. Y thẳng người đứng nghiêm trang phía trước trạm gác bên trong cổng thành. Tiếng lách cách vọng ra qua cửa sổ. Hai lính gác đang sắp xếp lại đống thẻ bài bằng tre trên một chiếc bàn cao. Địch huyện lệnh dừng ngựa, từ trên yên cúi người xuống và nhìn qua cửa sổ. Một lúc sau, ông chỉnh lại tư thế và trầm ngâm vung vẩy qua lại chiếc roi ngựa. Ông mơ hồ cảm giác các thẻ bài rơi lạch cạch kia đang gợi nhớ cho mình một điều gì đó, nhưng mối liên hệ vẫn còn mơ hồ. Địch Nhân Kiệt nhíu mày.
Viên vệ úy ngạc nhiên nhìn huyện lệnh, lúng túng nói, “Bẩm đại nhân, hôm nay, à… thật là một ngày oi bức.” Chìm sâu trong suy nghĩ, Địch Nhân Kiệt chẳng nghe y nói gì. Bất thình lình ông cười lớn. Quay sang lão Hồng đang ngồi trên lưng ngựa phía sau, ông kêu lên, “Trời đất ơi, ra là thế, dĩ nhiên rồi!” Đoạn Địch Nhân Kiệt hùng hồn bảo viên vệ úy, “Hãy cho hai thuộc hạ của ngươi sắp xếp lại tất cả các thẻ bài đó theo số. Nếu họ thấy hai thẻ nào có cùng số, thì hãy mang chúng đến nha phủ ngay lập tức!” Ông thúc tuấn mã lên đường. Lão Hồng muốn hỏi huyện lệnh xem có chuyện gì với những tấm thẻ bài, nhưng ông đã nói nhanh, “Ta sẽ đến gặp tình nương của Thẩm Bát một mình. Lão hãy đến Kha gia và tìm hiểu từ đám gia nhân xem họ Kha có ra ngoài vào sáng nay không. Ta không quan tâm lão đe dọa hay mua chuộc bọn họ, miễn là lão tìm hiểu được thông tin đó!” “Bẩm, thế còn phiên thăng đường sáng nay thì sao ạ?” Sư gia lo lắng hỏi. “Tin tức về vụ sát hại phu nhân Hổ Phách có thể đã lan truyền khắp trấn và chẳng mấy chốc thì bách tính cũng sẽ biết về vụ án mạng của Hạ Quảng. Nếu chúng ta không đưa ra thông cáo chính thức, tin đồn thất thiệt sẽ được bàn tán khắp nơi và đủ thể loại chuyện hay ho sẽ được thêu dệt trên bàn rượu!” Địch Nhân Kiệt đẩy ngược mũ ra khỏi vầng trán đẫm mồ hôi. “Dĩ nhiên là lão nói đúng! Hãy thông báo là sáng nay sẽ không có phiên thăng đường nào, nhưng công đường sẽ mở cửa vào buổi trưa. Khi đó, ta sẽ chỉ nói qua các sự việc và tuyên bố rằng việc điều tra đang được tiến hành. Chúng ta hãy đổi mũ cho nhau. Ta chẳng biết Lương cô nương là ai hay thuộc loại người nào, tốt hơn là nên che giấu thân phận của mình khi đến đó.”
Sau khi ông đội chiếc mũ chỏm của lão Hồng, họ chia tay. Địch Nhân Kiệt lên đường nhằm hướng Võ miếu. Mang chiếc mũ đó cùng với bụi đường và mồ hôi nhếch nhác, ông hi vọng sẽ không bị người khác nhận ra. HỒI 11 Lương gặp Địch, phân trần câu chuyện Thẩm với Lương, hai kẻ hữu duyên? Gặp một tiểu tử bụi đời, Địch tri huyện hỏi thăm tung tích của Lương cô nương. Chẳng buồn nhìn ông thêm lần nữa, thằng bé lặng lẽ giơ ngón tay bẩn thỉu chỉ về phía một khu nhà gỗ lớn, gần ngay góc đường. Lúc xuống ngựa và cột chặt dây cương vào móc treo trên tường, mắt ông chạm phải một tấm biển sơn đỏ treo kế bên cửa sổ. Trên đó có khắc bốn chữ đen được viết lối thảo thư, ‘Vũ Đức đạo trường*’. Dấu triện vuông đóng phía trên chỉ ra câu khắc trên đã được một trong các hoàng tử của Đường triều ban cho. Lắc đầu đầy nghi ngại, Địch Nhân Kiệt bước vào bên trong. Vũ Đức đạo trường nghĩa là Võ đường có tinh thần mã thượng. Đó là một sảnh đường rộng rãi và mờ tối, với không khí khá mát mẻ. Chính giữa là một tấm chiếu dày màu đỏ được trải rộng ra. Sáu nam nhân lực lưỡng để mình trần đang từng cặp luyện các thế vật. Xa hơn là hai gã bặm trợn, đầu tóc rối bù, đang mím môi mím lợi dùng gậy tre để rèn kiếm pháp với nhau. Nửa tá nam nhân còn lại đang ngồi trên các băng ghế gỗ kê sát vách bên, chăm chú theo dõi toàn bộ buổi tập. Chẳng ai bận tâm tới kẻ mới đến. Một kiếm thủ bị đối phương phạt trúng tay. Y buông gậy tre xuống và bắt đầu chửi rủa liến thoắng.
“Họ Mao kia, ăn nói cho cẩn thận!” Một giọng nói chói tai vang lên từ hậu sảnh. Tay kiếm vội nhìn quanh với khuôn mặt kinh sợ. “Vâng, thưa Lương nữ chủ,” y đáp với vẻ phải phép. “Xin nữ chủ thứ lỗi!” Y thổi phù phù vào những ngón tay đau, rồi cầm gậy lên và tiếp tục trận tỉ thí. Địch Nhân Kiệt vòng qua các võ sinh đấu vật và hướng về phía quầy. Đến nơi, ông đứng như trời trồng, sững sờ không dám tin vào mắt mình. Một nữ nhân hộ pháp đang ngồi tựa vào chiếc ghế bành ở đó. Một núi thịt khổng lồ được ních vào cái áo ngắn tay, quần ống rộng bằng vải bông nâu nhám, thị ăn vận như dân vật chuyên nghiệp. Một tấm vải đỏ quấn chặt quanh chiếc bụng to như chiếc thúng bên dưới bộ ngực đồ sộ. Tấm thứ hai quấn quanh thắt lưng, nâng đỡ cho cái bụng quá khổ. Ngẩng khuôn mặt tròn vo vô cảm lên nhìn, thị cất giọng chua ngoa hỏi, “Ngươi muốn gì, kẻ lạ kia?” Huyện lệnh kiềm chế bản thân, cất giọng khàn khàn thưa, “Tại hạ họ Nhâm, là võ sư từ kinh thành đến. Tại hạ phải trú lại chốn đây một vài tuần. Thẩm Bát đại hiệp đã chỉ lối cho tại hạ đến đây, để xin cô nương cho lời khuyên nhằm kiếm được vài môn sinh. Để tại hạ có thể kiếm cơm qua ngày, tỷ biết đấy?” Lương nữ chủ không buồn trả lời. Thị giơ cánh tay phải nặng nề lên, vỗ nhẹ mái tóc được chải thẳng ngược thành búi nhỏ sau gáy, mắt ngó chăm chăm Địch Nhân Kiệt trong chốc lát. Đột nhiên nữ nhân lên tiếng, “Đưa bàn tay của ngươi cho ta xem!”
Bàn tay của ông nằm gọn trong nắm tay to bản và chai sạn của thị. Thân là một nam nhân mạnh mẽ nhưng ông cũng phải nhăn mặt, tập trung vận sức để kháng lại lực đè siết mạnh như gọng kìm. Bất thình lình, thị buông tay. “Được rồi,” nữ nhân nói. “Vậy ra huynh đài là võ sư. Có vẻ giới võ biền bây giờ toàn để râu ria xồm xoàm.” Lương thị đứng lên, thân pháp nhanh nhẹn đáng ngạc nhiên, sải bước quanh quầy, lấy ra một vò rượu đá và rót đầy hai bát. “Uống nào, bằng hữu giang hồ!” Thị nói nhẹ như không. Địch Nhân Kiệt nhận thấy Lương Tử Lan cao ngang tầm mình, cái đầu dường như mọc thẳng lên từ bờ vai rộng và tròn quay. Nhấm nháp rượu ngon, ông tò mò hỏi, “Cô nương học nghệ ở đâu vậy?” “Ở phương bắc xa xôi. Ta từng dẫn đầu một đoàn nữ đô vật Mông Cổ đấy. Vài năm trước, khi bọn này đến Trường An biểu diễn, Tam thái tử đã đón đoàn vào cung. Cả triều đình, nam nữ đủ cả, đều đến xem bọn ta ở trần đấu vật. Nói là vậy, nhưng bọn ta đều quấn một miếng vải gấm thêu che hạ thể. Bọn ta là những nữ nhi e lệ!” Thị nốc cạn bát rượu chỉ trong một hớp, nhổ xuống sàn rồi tiếp tục, “Năm ngoái, Thượng thư Bộ Lễ có trình tấu lên Thánh thượng rằng trò đấu vật của bọn ta không đoan chính. Lẳng lơ cái mặt chúng nó! Ông biết ai đứng sau trò mèo đó không? Chính là mấy mụ trong cung! Các mụ ghen với bọn ta, không chịu được cảnh các đức phu quân của mình trân trối ngó nhìn những gì mà tạo hóa đã ban tặng cho một nữ nhi thường tình! Đám quần thoa gầy trơ xương đó trước sau cứ như một, vừa đáng khinh vừa tội nghiệp! Dù sao đi nữa thì hoàng thượng đã lệnh cho thái tử giải tán đám bọn ta.”
“Các cô nương khác trong đoàn đâu rồi?” “Họ về quê chứ ở đây làm gì. Ta thì vẫn trụ lại chốn này. Ta thích Đại Đường. Tam thái tử đã ban cho nữ nhân này một nén vàng lúc chia tay. ‘Tử nhi, khi nào nàng xuất giá, đừng quên báo cho ta biết!’ Thái tử nói. ‘Ta sẽ ban tặng phu quân của nàng một cái thang bằng bạc, vì kẻ đó sẽ cần đến thang mới đứng ngang hàng với nàng!’ Thái tử hay có những câu đùa dí dỏm như thế đấy!” Lương nữ chủ lắc chiếc đầu to tướng của mình, mỉm cười hồi tưởng. Địch Nhân Kiệt biết rằng thị không hề khoe khoang khoác lác. Các Thượng thư đều phải khom lưng khi yết kiến các thái tử, nhưng bản thân hoàng gia lại có thói quen cư xử suồng sã với các nghệ nhân tạp kĩ mà mình bảo trợ. “Võ nghệ là thứ duy nhất mà ta thấy hứng thú,” Lương thị tiếp lời, “vì thế ta mở võ đường ở đây, chỉ lấy của các môn sinh tiền nước, còn truyền thụ võ học thì ta miễn phí. Một số võ sinh trong đám đó tỏ ra có triển vọng.” “Tại hạ nghe nói có hai kẻ đặc biệt xuất chúng. Cặp nho sinh sống lang bạt họ Đổng và họ Hạ, tại hạ nhớ là thế.” “Ông đã chậm chân rồi, huynh đài à! Họ Đổng ngỏm rồi. Một sự giải thoát tốt đẹp cho tên hạ lưu đấy.” “Sao lại thế? Tại hạ nghe nói họ Đổng đi quyền rất khá và là một kẻ dễ mến mà.” “Y không quá tệ về mặt võ nghệ, nhưng còn dễ mến thì…” Thị quay lại và gọi to, “Hồng Hoa!”
Một thiếu nữ gầy gò, khoảng mười sáu tuổi, xuất hiện sau tấm màn cửa phía vách sau. Nữ nhân đang dùng một cái giẻ để lau đĩa. “Bỏ đĩa xuống, quay mặt vào tường và trưng phần lưng của ngươi ra!” Lương thị ra lệnh. Thiếu nữ ngoan ngoãn quay lưng về phía họ. Nàng nới lỏng phần y phục bên trên và thả cánh tay ra ngoài ống tay áo, để lộ tấm lưng gầy chằng chịt những vết sẹo trắng. Khi Hồng Hoa sắp tháo lỏng dải thắt lưng thì Lương thị gầm gừ, “Thế là đủ rồi! Chỉnh trang lại áo xống rồi lau đĩa tiếp đi.” “Là Đổng Mai gây ra ư?” Địch Nhân Kiệt hỏi. “Cũng không hoàn toàn như thế. Họ Đổng rất hay lảng vảng ở đây, cho đến một vài tuần trước. Nha đầu ngu ngốc này yêu mến Đổng Mai và để y dắt mình ra ngoài chơi vào tối nọ, đến một nơi nào đó ở khu bắc. Trong cảnh tranh tối tranh sáng, nó chỉ thấy đó là một khu nhà khá lớn. Y đưa nó vào một buồng tối om. Hồng Hoa không thấy được ai ở đó, nhưng trước khi hiểu ra chuyện thì nha đầu này đã bị lột trần, bị giữ úp mặt xuống một trường kỷ và bị đánh đập liên hồi. Ông đã thấy rồi đấy. Sau đó, họ Đổng quay lại, cởi trói rồi dẫn nó về phố này. Y cho Hồng Hoa một đĩnh bạc, dặn nó giữ mồm giữ miệng, rồi biến mất. Con nha đầu đần độn này chỉ kể cho ta đôi ngày trước, khi ta tình cờ đi vào lúc nó đang tắm và thấy những lằn roi sưng tấy. Tiếc là Đổng Mai tiêu rồi, chứ ta dự định sẽ quất một trận y chang để y biết mùi lợi hại. Ôi, dù gì thì cái thứ nữ nhi hay đi hoang này cũng nhận được một bài học nhớ đời.”
“Cô nương ấy có bị cưỡng đoạt không?” “Không, giờ Hồng Hoa vẫn còn trong trắng. Không thì ta đã trình báo sự vụ lên nha phủ rồi, tất phải thế. Lương Tử Lan này biết bổn phận của mình. Nhưng nha đầu này lại tự nguyện đi ra ngoài và đồng ý nhận ngân lượng trả công. Vậy thì ta có thể làm gì?” “Đổng Mai có thường dắt mối nữ nhi cho những kẻ phóng đãng, suy đồi không?” “Rõ ràng là có, nhưng chỉ cho một gã thôi. Cũng cái gã mà y săn tìm cổ vật cho, ta tin vậy. Gần đây họ Đổng gặp rắc rối với vị khách tử tế của y, chắc vì tên vô lại đầy tham vọng ấy muốn vơ vét nhiều kim ngân hơn. Nhưng ta nghĩ họ Hạ, tên bằng hữu ngu xuẩn của y, đã tiếp quản công việc dắt gái rồi.” “Hạ Quảng ư? Sao cô nương lại nghĩ như thế?” “Hắn không lanh lợi như họ Đổng, còn lâu mới được. Sáng hôm qua, hắn đến đây, hơi chếnh choáng men rượu, điều này thì bình thường thôi. Nhưng điều bất thường ở đây là hắn thanh toán khoản tiền rượu còn thiếu. Ta hỏi luôn, ‘Ngươi đụng trúng cây kim ngân à?’ Hắn đáp, ‘Chưa đâu, nhưng tối nay đệ sẽ vớ bẫm. Tiểu đệ đã hứa lùa một con gà mái tơ vào chuồng cho gã kia.’ Ta bảo, ‘Tốt hơn là ngươi nên cẩn trọng, kẻo chính bản thân sẽ chui đầu vào rọ đấy.’ Hắn cười toe toét, miệng xếch đến tận mang tai, ‘Khỏi lo! Đó là một nơi vắng vẻ, sẽ chẳng ai nghe thấy tiếng cục ta cục tác đâu! Đổng Mai còn bảo là tay chơi này luôn trả ngân lượng đúng hẹn!’ Ta đặt tay lên vai hắn đầy thân tình và nói, ‘Cút ngay, Hạ Quảng! Đừng bao giờ để ta nhìn thấy bản bộ sứt sẹo xấu xa của ngươi lần nữa!’ Rồi hắn bay dọc sảnh đường đến tận ngưỡng cửa đằng kia. Ra tới đó, tên khốn ấy luống cuống đứng dậy, không quên la hét những ngôn từ khiếm nhã vào mặt ta. Thế là ta ghim chặt tay áo của hắn vào khung cửa, như thế này.”
Trong khi nữ nhân đang nói, một phi đao đột ngột xuất hiện trên tay thị. Nó bay vút dọc theo sảnh và cắm phập vào khung cửa. Một sự im lặng bao trùm khắp sảnh đường. Hai kiếm thủ đi về phía cửa. Khó khăn lắm họ mới rút được phi đao khỏi thớ gỗ và mang lại cho Lương nữ chủ, đầu cúi xuống đầy kính phục. Miệng cười đầy vẻ thỏa mãn, thị bình phẩm, “Mỗi khi nổi điên lên, ta có thể xạ tiễn mọi thứ kiểu như thế này!” “Nếu không cẩn thận, có ngày cô nương sẽ gặp rắc rối đấy!” Địch Nhân Kiệt cảnh báo. “Ta à? Ta chả ngán kẻ nào, ngay cả quan quân triều đình! Lúc ta rời hoàng cung, thái tử đã trao cho ta một tờ giấy có dấu triện to như cái đầu ông đấy. Nó chứng nhận ta là người của hoàng gia, chỉ có pháp đình ở kinh mới có quyền xét xử. À thôi, ông đã hỏi về bọn Đổng Hạ. Giờ thì ông biết rồi đấy. Còn bất cứ thứ gì khác mà ta có thể làm cho ông không, thưa huyện lệnh đại nhân?” Trông thấy ánh mắt sững sờ của Địch Nhân Kiệt, thị chế giễu, “Ngài nghĩ mình có thể xỏ mũi một nữ nhân đã kề vai sát má với các đại quan triều đình trong nhiều năm sao? Mới nhìn là ta nhận ra ngay! Không thì ta chẳng dại gì ba hoa với ngài như nãy giờ. Hãy ghi nhớ những lời của Lương Tử Lan này, thưa huyện lệnh. Đổng Mai chẳng đàng hoàng gì, và Hạ Quảng cũng thế, toàn hạng lưu manh thôi.” “Hạ Quảng đã ra người thiên cổ rồi, Lương nữ hiệp à. Sáng nay, hắn đã bị sát hại, nhiều khả năng là do chính tên vô lại đã từng thuê hắn làm tay sai. Ngươi có biết kẻ đó là ai không?”
“Thưa đại nhân, ta chẳng biết. Ta đã hỏi Hồng Hoa nhưng nha đầu đó cũng chịu. Nó bị bắt cắm mặt xuống cái trường kỷ và kẻ hành hung chẳng thèm thốt nên một lời. Hắn chỉ cười mà thôi. Nếu ta biết được tên ấy là ai, rất có thể bộ khoái của ngài sẽ phải đến thu dọn những phần còn lại của hắn. Lương Tử Lan này ghét cay ghét đắng loại người như vậy.” “À, ngươi đã cho ta biết những thông tin hữu ích nhất. Tiện đây, Thẩm Bát nhờ ta nói đôi lời tốt đẹp về gã với ngươi.” Gương mặt to bản của thị chợt sáng lên. “Thật sao? Có thật là y đã làm vậy?” Lương thị e lệ hỏi. Rồi thị cau mày và hỏi với giọng nghiêm trang, “Y có định gửi ông mai bà mối đến gặp ta để ngỏ lời kết duyên?” “À, không hẳn là thế. Gã chỉ nhờ…” “Nói đôi lời tốt đẹp về mình với ta? Một kẻ bướng bỉnh đáng ghét! Dạo gần đây, y đã nhờ đủ loại người trong vùng đến chốn này, chỉ để nói đôi lời tốt đẹp! Chẳng đời nào cọc lại đi tìm trâu, y sẽ phải tự kiếm lấy cơ hội cho mình. Thẩm Bát là một người khỏe mạnh và đáng mến mộ, ta thừa nhận. Nhưng Lương thị cũng có nguyên tắc bất xuất chốn khuê môn, dù sao ta cũng có danh phận chốn hoàng triều Đại Đường.” “Dường như Thẩm Bát cũng có nguyên tắc của riêng mình,” Địch Nhân Kiệt nhận xét. “Nhưng ta có thể nói cho ngươi biết là gã có thu nhập ổn định. Ta thấy Thẩm Bát là một nam tử hán hữu dụng và đáng tin cậy, theo kiểu cách khác người của gã.”
Nghĩ rằng mình đã làm đủ chừng mực để giữ trọn lời hứa với Hồng sư gia, ông đặt bát rượu xuống và nói, “Vô cùng đa tạ cô nương. Giờ bản quan tiếp tục công vụ của mình đây.” Lương nữ chủ tiễn huyện lệnh ra tận cửa. Lúc đi ngang qua, thị nói với một gã mập lùn đang ngồi trên băng ghế, “Kha đệ, giờ chúng ta sẽ chuyển qua đòn Trảo thủ tỏa hầu triệt hạ đối phương.” Khuôn mặt sạm nắng của nam nhân bỗng trở nên trắng bệch, nhưng gã vẫn ngoan ngoãn đứng dậy. Con phố bên ngoài nóng như lò bát quái. Địch Nhân Kiệt nhanh chóng lên ngựa, gật đầu chào Lương cô nương đang đứng ở ngưỡng cửa, rồi giục ngựa đi.👁‍ Địch Công cáo biệt Lương Tử Lan HỒI 12 Địch huyện lệnh trò chuyện với thương buôn Dương chưởng quỹ gợi ra nhiều ý tưởng Huyện lệnh hướng ngựa về phía tây. Tử Lan đã đưa ra một đầu mối hoàn toàn mới cho các vụ án mạng. Do đó, ông quyết định đến thăm thêm một người trước khi hồi phủ. Đến Văn miếu, Địch Nhân Kiệt dừng ngựa trước một gia trang hai lầu trang nhã ở bên phố. Cửa sổ lầu trệt được gia cố bằng song sắt, cửa sổ lầu trên thì cắm một hàng đinh dài nhọn hoắt dọc theo bệ cửa để đề phòng bọn đạo chích leo lên. Một tấm bảng nhỏ gắn kín đáo ở cửa ra vào, ‘Tàng kinh cổ vật’. Ông xuống ngựa và buộc dây cương vào một cột đá ở hàng hiên để tránh nắng cho tuấn mã. Một tiểu nhị trẻ, mặt tươi như hoa, mau mắn chạy ra và niềm nở đón khách. “Thưa đại nhân, Dương lão gia vừa mới về! Lão gia đã phóng ngựa đến một nông trang, nghe nói người ta mới đào được một tấm bia đá cổ có khắc chữ. Hiện lão gia đang ở thư phòng trên lầu.”
Y dẫn huyện lệnh đi dọc theo các giá tủ bày đầy những món đồ cổ to nhỏ đủ thể loại, tới cầu thang ở phía trong. Gian phòng lầu trên rộng rãi và mát mẻ, nhờ hai chậu đồng chất đầy các tảng nước đá đặt trên sàn. Ánh sáng được lọc bớt qua các màn giấy của hai cánh cửa sổ cao. Những cuộn tranh bạc màu treo trên bức vách giữa hai cửa sổ, dựa vào vách tường bên là một giá gác chất kín những quyển sách quăn mép. Vị thương gia đồ cổ đang ngồi sau một cái bàn gỗ mun bóng loáng. Ngả thân hình hộ pháp vào lưng ghế, ông ta đang ngắm nghía một chiếc bình gốm men đỏ thanh nhã. Khi tiểu nhị thông báo chuyến viếng thăm của huyện lệnh, họ Dương cẩn thận đặt chiếc bình xuống bàn, rồi nhanh chóng đứng dậy. Ông ta kính cẩn thi lễ, kéo một chiếc ghế khác đến bên bàn và sang sảng cất lời, “Chắc hẳn đại nhân tới để xem họa phẩm mà thảo dân đã đề cập đến tối qua! Ngài sẽ thấy bức tranh quả đáng để chiêm ngưỡng, thảo dân cam đoan là vậy! Nhưng trước tiên, xin mời ngài dùng một chén trà đã!” Địch Nhân Kiệt ngồi xuống và nhận chiếc quạt lụa tròn từ tay tiểu nhị. “Đa tạ chén trà của ngươi,” ông nói, tay phe phẩy quạt, “nhưng hãy chờ lúc khác để bàn đến bức tranh. Ta ghé thăm Dương tiên sinh để tìm hiểu một vài thông tin. Chuyện hệ trọng.” Vị chưởng quỹ ra hiệu cho tiểu nhị lui ra. Ông ta tự tay châm trà mời khách, rồi lại ngồi xuống ghế, cặp mắt sắc sảo nhìn huyện lệnh với vẻ chờ đợi.👁‍
Địch Công dùng trà trong hiệu đồ cổ Ông bắt đầu mở lời, “Bản quan đang đối mặt với ba vụ án mạng, Dương tiên sinh à. Ngươi đã biết về Đổng Mai và Kha phu nhân rồi, và có lẽ cũng nghe được là Hạ Quảng đã bị sát hại vào sáng nay.” “Bẩm, Hạ Quảng ư? Thảo dân chưa nghe tin đó. Thảo dân chỉ mới hồi gia thôi. Giờ thảo dân nhớ ra cái tên ấy rồi! Có người từng đề cập đến một tay lang bạt tên là Hạ Quảng, chuyên giao du với đủ loại tiện dân để mua bán cổ vật, và cảnh báo thảo dân đừng giao dịch với hắn. Vậy là dân lưu manh đã đâm chết hắn ạ?” “Vụ án mạng của hắn chắc chắn có liên hệ với hai tội ác kia. Bản quan phải thừa nhận đang rơi vào ngõ cụt. Nếu biết thêm chút ít về những người có quan hệ với nạn nhân, để ta nảy ra được ý niệm nào đó về kẻ đứng sau những tội ác khủng khiếp ấy, thì tốt biết bao.” Ông nhấp một ngụm trà, rồi cười mỉm nói tiếp, “Dương tiên sinh không chỉ sở hữu kho kiến thức phong phú về đồ cổ, mà còn có con mắt nhìn người tinh tường. Do vậy mà bản quan đến gặp ngươi.” Họ Dương cúi đầu. “Thưa, đại nhân đã quá đề cao thảo dân rồi! Tiếc là ngoài khách hàng của mình ra, thảo dân không gặp gỡ nhiều bách tính ở Phổ Dương, cũng ít khi để tai những chuyện ngồi lê đôi mách. Kể từ khi tiện nội qua đời sáu năm trước, hai nhi tử lại lập nghiệp ở phương nam, thảo dân chỉ sống với nghề thương buôn và khảo cứu cổ vật, ít nhiều trải nghiệm đời sống khổ hạnh! Thảo dân tự lo liệu những việc đơn giản thường nhật, chẳng muốn bọn gia nhân vụng về đi quẩn đi quanh để rồi đánh vỡ mấy bình cổ trân quý! Ban đêm không có ai làm phiền thảo dân, vì đứa tiểu nhị chỉ đến vào ban ngày. Đó là đời sống mà thảo dân hằng mong ước, thưa ngài. Nhưng nó cũng khiến thảo dân trở nên xa lạ với thế thái nhân tình bên ngoài!”
“Bản quan chỉ quan tâm đến những khách hàng của ngươi, Dương tiên sinh à. Chẳng hạn, ngươi thấy Biện Gia là người thế nào?” Dương chưởng quỹ uống cạn chén trà, khoanh hai tay lại rồi đáp, “Thưa, Biện đại phu chuyên sưu tầm ngọc. Trên thế gian này, chuyện gì cũng có lý do của nó. Cổ ngọc được cho là có giá trị liên thành trong chữa bệnh, vì thế hầu hết các đại phu và dược sư đều quan tâm đến trân châu. Vị đại phu này có một bộ sưu tập khiêm tốn mà tinh túy. Ông ta khảo cứu các miếng ngọc, chứ chẳng để tâm đến việc bán lại kiếm lời. Về điểm này, Biện đại phu trái ngược hẳn với vị đồng sự là Quách Minh. Họ Quách thường mua các hạt châu quý, nhưng đơn thuần chỉ để đầu tư ngân lượng, có cơ hội là bán lại ngay với giá cắt cổ. Bản tính con buôn đã ăn sâu vào máu gã. Thỉnh thoảng Kha tiên sinh có mua ngọc của họ Quách. Còn thảo dân thì chẳng bao giờ, giá cao quá.” “Ta từng gặp Quách Minh. Hình như gã sống ở kinh thành,” Địch Nhân Kiệt bình phẩm. “Bẩm, đúng là thế. Nhưng họ Quách chu du rất nhiều nơi và cứ khoảng hai tháng là gã lại tới Phổ Dương. Nhưng chuyện này ta bàn kín đáo thôi, thưa ngài!” “Tại sao?” Dương chưởng quỹ đáp lại với nụ cười ranh mãnh, “Thưa đại nhân, bởi vì họ Quách cũng cung cấp thảo dược cho các đối thủ cạnh tranh của Biện đại phu ở huyện này. Ngoài ra, gã đề nghị thảo dân giữ bí mật vì một lý do khác nữa. Quách Minh giải thích rằng cách đây vài năm đã mua được một mảnh đất tiếp giáp rừng Mạn Đà La với giá rẻ, nhờ Biện đại phu làm người trung gian. Ông ta tin là gã mua địa sản chủ yếu để đầu tư. Nhưng thực ra, gã láu cá ấy thường xuyên cử thuộc hạ đến thu thập dược thảo ở bìa rừng. Nếu biết việc đó, dĩ nhiên Biện đại phu sẽ đòi gã một khoản tiền thưởng. Như thảo dân đã nói ban nãy, Quách Minh là một con buôn xảo trá đích thực!”
“Quả đúng là vậy,” huyện lệnh nói. Ông nhận ra Quách Minh, tuy không thực sự nói dối, nhưng đã thành công trong việc gây cho ông ấn tượng sai lầm về các hoạt động của gã. Và vì gã gian thương lịch lãm ấy chuyên thu thập cổ vật nhằm kiếm chác ngân lượng, gã hoàn toàn có thể thuê bọn Đổng Hạ đi dò la tìm kiếm các món hời, cũng như phục vụ các mục đích khác. Ông hỏi, “Ngươi có tình cờ biết nơi họ Quách thường xuyên trú ngụ khi gã tới Phổ Dương này không?” “Thưa, khi không ở trên thuyền mành thì gã thuê một buồng nghỉ ở khách điếm Bát Tiên.” Họ Dương thêm lời với một nụ cười khinh khỉnh, “Một khách điếm bé tẹo và rẻ tiền.” “Ta biết nơi đó. Quách Minh rõ là kẻ keo kiệt.” “Bẩm đại nhân, kim ngân là tất cả lẽ sống của họ Quách. Gã chả quan tâm chút gì đến cổ vật, chẳng qua nó chỉ là một món sinh lời. Kha tiên sinh mới là nhà sưu tầm đồ cổ đích thực! Miễn là sở hữu được cực phẩm quý hiếm nhất, Kha Nguyên Lương chẳng bận tâm mình phải trả bao nhiêu! Mà con người may mắn đó lúc nào cũng rủng rỉnh tiền!” Họ Dương trầm tư xoa cằm, đoạn rụt rè tiếp lời, “Còn thảo dân là sự pha trộn giữa hai người đó, ít nhiều là vậy. Công việc của thảo dân là giao thương cổ vật, dĩ nhiên rồi. Nhưng thỉnh thoảng thảo dân vẫn phải lòng một món đồ cổ nào đó và giữ riêng nó cho mình, quyết không nhượng lại với bất cứ giá nào. Và khi thảo dân già đi, điểm yếu này ngày càng tệ hơn. Trước kia, thảo dân ham mê thẩm định tất cả những tuyệt phẩm bảo vật trong bộ sưu tập của Kha tiên sinh, thường thăm viếng Kha gia ít nhất một lần mỗi tuần. Nhưng độ bốn, năm năm trở lại đây, thảo dân chỉ đến đó khi được mời và chẳng bao giờ đi xa hơn khách sảnh. Thảo dân từ chối thưởng lãm bộ sưu tập của gia chủ. Chỉ vì lòng ghen tỵ, tất cả chỉ có thế thôi!”
Dương chưởng quỹ lắc đầu với một nụ cười uể oải. Đột nhiên ông ta hỏi, “Thưa, tiện đây cho kẻ hèn này hỏi, đại nhân đã khám phá ra manh mối nào về vụ mưu sát Đổng Mai, trống thủ trên thuyền của Biện đại phu chưa?” “Vẫn chưa. Như bản quan vừa nói, đây là một vụ án mơ hồ khó tường tận được chân tơ kẽ tóc. Trở lại với Kha tiên sinh, ta thường được nghe rằng y sở hữu một bộ sưu tập vô cùng tinh tế. Nam nhân này cũng có con mắt nghệ thuật tinh đời, cứ nhìn cách y chọn thê tử là thấy. Mặc dù đau ốm suốt một thời gian dài, đại phu nhân Kim Liên vẫn là một trang tuyệt sắc. Tối qua, ta đã tình cờ gặp phu nhân. Còn về nhị phu nhân Hổ Phách, phải nói rằng cũng có dung mạo mỹ miều, thế gian này ít đóa hoa nào bì kịp.” Họ Dương nhấp nhổm vẻ khó chịu trên ghế. Một hồi sau, ông ta lên tiếng, cứ như thể đang độc thoại với chính mình, “Đôi mắt của Kha Nguyên Lương không bao giờ đánh lừa chủ. Thảo dân nhớ hồi phu nhân Hổ Phách còn là một nô tỳ nhỏ lóng ngóng vụng về ở Đổng gia. Nhưng Kha tiên sinh đã mua lại Hổ Phách, dạy bảo nàng nên vận xiêm y nào, tô son điểm phấn ra sao, cả cách sửa soạn đầu tóc và xức dầu thơm. Chính tay tiên sinh đã lựa chọn cho nàng nào hoa tai, nào vòng xuyến và các món nữ trang lộng lẫy khác. Chỉ sau một năm, nàng đã lột xác trở thành một mỹ nhân tuyệt sắc. Nhưng tạo hóa trớ trêu, thiên mệnh đã định đoạt rằng họ Kha không xứng đáng sở hữu cả hai giai nhân ấy. Giờ thì phu nhân Kim Liên bệnh tật triền miên, còn phu nhân Hổ Phách đã về nơi chín suối.”
Họ Dương mơ hồ nhìn về phía trước, trầm ngâm giật hàm râu ngắn. “Cũng không phải không có lý do,” Địch Nhân Kiệt nói, “tiền nhân đã nói rằng những người như Kha Nguyên Lương, vì ra sức sở hữu cái đẹp không tì vết, nên đã kích động ngọn lửa giận dữ của các vị thần.” Dương chưởng quỹ dường như không nghe thấy lời bình phẩm. Bất chợt ông ta nhìn thẳng vào huyện lệnh và cất cao giọng, “Không, thưa đại nhân, Kha Nguyên Lương không hề xứng đáng với giai nhân! Vì chúng ta đang trò chuyện thân mật, thảo dân tiết lộ rằng họ Kha là kẻ trái tính trái nết. Để thảo dân kể một chuyện. Có lần, tiên sinh đưa ra một cực phẩm vô giá đến từ Ba Tư, đó là một cái bát pha lê trong như nước. Trong khi đang ngưỡng mộ xoay nó trên tay để ngắm nghía, thảo dân chỉ để ý thấy một vết bạc màu gần đáy bát. Vừa chỉ ra cho họ Kha, thảo dân vừa bình phẩm với một nụ cười, ‘Đây, một nét chấm phá cho một vẻ đẹp hoàn mỹ!’ Tiên sinh liền giật phắt chiếc bát từ tay thảo dân, nhìn vào tì vết ấy, rồi đập nó xuống sàn vỡ tan tành. Quả là một tội ác, thưa đại nhân!” “Quách Minh sẽ không bao giờ hành xử như vậy!” Địch Nhân Kiệt nói khô khan. “Ngay cả Biện đại phu cũng không làm thế, bản quan dám chắc như vậy. Nhân nói đến Biện Gia, ta nghe ai đó nói rằng vị đại phu này, tuy cung cách bề ngoài đường hoàng nghiêm nghị là thế, nhưng thật ra là một kẻ phóng đãng, dĩ nhiên là trong vòng cương tỏa bí mật thôi.”
“Thưa, thảo dân chưa bao giờ nghe nói về việc Biện đại phu lui tới những chốn thanh lâu kĩ viện. Mà nếu ông ta có đến đó đi chăng nữa, cũng chẳng ai trách cứ gì đâu. Dân tình đều biết Biện phu nhân là một nữ nhân ác nghiệt có tiếng ở trấn Phổ Dương. Mặc dù chẳng thể rặn nổi mụn con nào, bà ta cấm không cho phu quân lập nhị thất hay nạp tiểu thiếp.” Dương chưởng quỹ lắc đầu, đoạn ngước lên và mau mắn nói thêm, “Nhưng họ Biện là người chung thủy và chân thành. Ông ta chịu đựng những nỗi đau đó trong âm thầm.” “Bản quan cũng nghe bách tính đồn thổi là Biện đại phu đang lâm vào cảnh túng thiếu.” Vị thương gia đồ cổ quắc mắt nhìn ông. “Bẩm, túng thiếu sao? Thảo dân mong là không phải! Biện đại phu nợ thảo dân khá nhiều ngân lượng. Không, thảo dân không tin. Biện Gia là một vị đại phu có tiếng, y quán của ông ta làm ăn rất phát đạt, tất cả thân hào nhân sĩ ở Phổ Dương đều lui đến đó khám chữa bệnh. Ông ta còn thường xuyên cắt thuốc cho đại phu nhân của Kha gia nữa.” Huyện lệnh gật đầu, uống cạn trà, rồi cẩn thận đặt cái chén mỏng manh như vỏ trứng xuống bàn. Ông lặng lẽ vuốt bộ râu đen nhánh trong một lúc. Cuối cùng, Địch Nhân Kiệt ướm hỏi, “Bây giờ, bản quan muốn hỏi ý kiến ngươi về một vấn đề hoàn toàn khác. Dĩ nhiên ngươi quá quen thuộc với câu chuyện nổi tiếng về viên ngự châu bị đánh cắp gần trăm năm trước rồi. Vậy ngươi có bất cứ giả thuyết nào về bí ẩn cổ xưa ấy không?”
“Bẩm, cấm quân đã xới tung cả hoàng cung lên rồi mà minh châu vẫn biệt tăm biệt tích. Thảo dân tin rằng thủ phạm không phải ai khác ngoài hoàng hậu nương nương. Bậc mẫu nghi thiên hạ ấy đã lén giấu ngự châu đi, chỉ để tạo cớ thanh trừng một vài tình địch, những cung phi đang được tiên hoàng sủng ái, đem họ ra tra khảo cho đến chết! Đạt được mục đích, nương nương bèn ném viên ngọc đi, xuống giếng sâu chẳng hạn. Biết bao thảm kịch đã xảy ra đằng sau những cánh cổng vàng của tam cung lục viện! Với lại, ai lại đi ăn trộm một thứ mà mình chẳng bao giờ có thể bán lại?” “Dương tiên sinh cứ giả định là viên ngọc đã thực sự bị đánh cắp đi. Chả lẽ hoàn toàn không có cách nào chuyển minh châu thành ngân lượng được à?” “Thưa, chuyện đó là vô phương, chừng nào ngự châu vẫn ở trong thiên hạ của Đại Đường. Nhưng nếu tên đạo chích đó có quan hệ tốt với các lái thương Uy Mã Á* hoặc Ba Tư ở Quảng Châu, hắn có thể bán minh châu với giá rẻ chỉ bằng một phần giá trị thực, để rồi sau đó viên ngọc sẽ được bán lại ở một man quốc xa xôi nào đấy. Đó là cách duy nhất. Chỉ có cách đó mới có thể kiếm lời từ ngự châu mà không chịu cảnh máu chảy đầu rơi.” Uy Mã Á (661 750) là một vương triều Hồi giáo Ả Rập do các khalip, vua Hồi, cai trị. “Bản quan rõ rồi. À, giờ ta phải lên đường để chuẩn bị cho phiên thăng đường trưa nay. Tiện thể đây cho hỏi, ngươi đã bao giờ đến thăm ngôi miếu đổ nát ở rừng Mạn Đà La chưa?”
Dương chưởng quỹ xịu mặt, “Bẩm đại nhân, tiếc là thảo dân chưa có cơ hội. Không có nổi một con đường tử tế đi xuyên qua rừng rậm, chưa kể dân địa phương rất căm ghét việc ngoại nhân thâm nhập. Dù thế, thảo dân vẫn có một cuốn chỉ dẫn về ngôi miếu này.” Ông ta đứng dậy, đi về phía giá sách để lấy xuống một quyển, rồi trao nó cho huyện lệnh. “Thưa, quyển sách này được một vị tiền nhiệm của ngài xuất bản nội bộ.” Địch Nhân Kiệt đọc lướt qua quyển sách rồi trả lại. “Bản quan cũng có quyển này ở nha phủ. Sách này khá thú vị. Nó miêu tả rất chính xác về bức tượng thủy thần bằng đá cẩm thạch.” “Thưa, giá mà thảo dân có thể ngắm nhìn bức tượng một lần!” Vị thương gia đồ cổ nói vẻ khao khát. “Thiên hạ đồn rằng pho tượng có từ thời nhà Hán. Nó cùng bệ đá được điêu khắc từ một khối cẩm thạch duy nhất. Án thờ vuông vức trước pho tượng cũng được tạc bằng cẩm thạch, đó là nơi người ta hạ sát một nam tử để tế thần. Một thánh tích quan trọng của lịch sử! Liệu đại nhân có thể đệ trình lên Bộ Lễ để họ cho phát quang khu rừng và trùng tu ngôi miếu? Nếu Bộ Lễ giải thích rằng các điềm gở là dấu hiệu cho thấy thủy thần đang nổi giận về việc bỏ bê miếu thờ, bách tính địa phương sẽ không phản đối kế hoạch ấy đâu. Ngôi miếu ấy có thể trở thành một di tích lịch sử trong huyện chúng ta, thưa ngài!” “Quả là một đề xuất tuyệt vời. Bản quan sẽ ghi nhớ. Ta không muốn trong địa hạt của mình có một khu vực giới nghiêm bị tấm màn mông lung thần bí che phủ. Chỉ có trời mới biết chuyện gì có thể xảy ra trong đó!”
Ông đứng dậy và thêm lời, “Xin đa tạ tấm thịnh tình của Dương tiên sinh!” Trong lúc dẫn đường cho huyện lệnh xuống dưới nhà, họ Dương nói, “Thưa, chốc nữa thảo dân cũng sẽ tới nha phủ. Tất cả những người có liên quan đến nạn nhân đều là khách hàng của cửa hiệu này, vì thế thảo dân cảm thấy mình có bổn phận tham dự phiên xử!” HỒI 13 Cảnh bất bình, Lương ra tay nghĩa hiệp Án lầu xanh, ai uy hiếp nữ nhi? Trở lại nha phủ, Địch huyện lệnh đi thẳng đến nội trạch. Cảm thấy nóng bức và mệt mỏi, ông giội nước tắm nhanh, thay y phục mùa hè bằng vải bông trắng, đội mũ the mỏng lên đầu. Chỉnh tề phục trang xong, ông tản bộ về phía thư phòng, nơi Hồng sư gia đang đợi. Huyện lệnh với tay lấy chiếc quạt lông treo trên vách và ngồi xuống đằng sau án thư, tay quạt phần phật. Ngay cả đoạn đường ngắn từ nội trạch xuyên qua khu chánh đường nha phủ cũng khiến ông đổ mồ hôi như tắm. Ông hồ hởi hỏi sư gia, “Lão có tin tức gì mới không?” “Thưa đại nhân, lão phu đã gặp may. Lão gặp được một nô tỳ trẻ mau mồm mau miệng của Kha gia, ở một quầy rau quả gần đó. Chẳng mấy khó khăn để lão hỏi được rằng Kha tiên sinh đã thực sự cưỡi ngựa ra ngoài từ lúc tờ mờ sáng.” “Y có hay ra ngoài buổi sớm không?” Địch tri huyện mau mắn hỏi. “Thưa, họ Kha chưa bao giờ làm thế! Đứa tỳ nữ nói rằng, tất thảy gia nhân đều cho là Kha lão gia ra ngoài để lòng vơi bớt phiền muộn về cái chết của nhị phu nhân. Nha đầu nói thêm, mặc dù cách biệt về tuổi tác, nhưng lão gia và phu nhân Hổ Phách hương lửa rất mặn nồng. Nàng còn giúp phu quân trông nom đại phu nhân nữa. Đó là gia môn hòa hợp và viên mãn, nha đầu khẳng định thế.”
Lão Hồng chờ đợi chủ nhân bình phẩm, nhưng Địch Nhân Kiệt vẫn miên man suy tư. Bất chợt, ông đứng dậy và chỉ vào hai thẻ bài nằm chỏng chơ trên án thư. “Các thẻ bài được chuyển đến đây khi nào?” ông hỏi. “Bẩm, chúng chỉ vừa được vệ úy Nam môn mang đến thôi.” Huyện lệnh hăm hở xem xét. Cả hai đều có cùng kích cỡ và được viết nguệch ngoạc ‘nhị bách linh thất*' dọc bề mặt. Nhưng trong khi số trên một thẻ được tỉ mẩn viết bởi bàn tay lóng ngóng của một kẻ không được học hành, số trên thẻ còn lại để lộ nét bút tài hoa của một người có học vấn. Có một vết rãnh mỏng chạy ngang ngăn đôi thẻ tre sau, mắt thường khó mà phát hiện ra. Ông thấm ướt ngón tay rồi quệt bỏ chữ số đi. nhị bách linh thất là 207. Cho thẻ bài vào vào tay áo, ông mỉm cười hài lòng và nói, “Ta sẽ giữ lại thẻ bài này. Cái kia có thể trả lại cho Nam môn. À, để ta kể cho lão nghe về chuyến viếng thăm vị cô nương trong mộng của Thẩm Bát, nàng Tử Lan.” “Thưa, nàng ta trông thế nào? Có thật đó là một nữ nhân liễu yếu đào tơ không?” Lão sư gia hăm hở hỏi. “Sao lão lại nghĩ đến liễu yếu đào tơ ngay nhỉ?” Địch Nhân Kiệt nhăn nhở đáp. “Nàng ta là một đô vật người Mông Cổ, cũng là một nữ nhân khá ghê gớm!” Sau khi thuật lại cho lão Hồng nội dung chính của cuộc trò chuyện, ông kết luận, “Giờ chúng ta đã biết, có một nam nhân điên loạn và thú tính đang hành xử phóng túng trong trấn này. Đầu tiên hắn thuê Đổng Mai, rồi đến Hạ Quảng để chăn dắt nữ nhân nhằm thỏa mãn dục vọng. Dĩ nhiên, đó cũng chính là kẻ thủ ác của cả ba vụ án mạng.”
“Bẩm đại nhân, vậy chúng ta có thể loại trừ nghi phạm đầu tiên là Kha Nguyên Lương. Lão có thể mường tượng ra việc y mưu sát thê tử cùng tình địch vì ghen tuông. Nhưng chắc chắn họ Kha không phải loại nam nhân dung túng cho bản thân ngược đãi các nữ tử, chỉ để thỏa mãn dục vọng!” “Ta không chắc về chuyện đó, lão Hồng à. Đối với ngoại nhân, thậm chí với cả gia nhân trong nhà, Kha Nguyên Lương tỏ ra là một người có học thức, biết thương hoa tiếc ngọc và là một vị phu quân tận tụy. Nhưng rất có thể bên trong y ẩn chứa một nhân cách đồi bại. Loại người đó thường rất giỏi che giấu thiên hướng sa đọa của mình. Đấy là lý do tại sao các vụ án liên quan đến những kẻ lệch lạc tình dục lại cực kỳ khó giải quyết. “Những người biết được bản chất thật sự của họ Kha đương nhiên chỉ có hai vị phu nhân. Nhìn nhận từ góc độ mới mẻ này, câu chuyện Kha phu nhân ra ngoài thăm bằng hữu và đột nhiên mất trí nghe chẳng thuyết phục cho lắm. “Nhỡ sự thật là nàng định trốn chạy khỏi vị phu quân thường xuyên bạc đãi mình thì sao? Và nỗi tuyệt vọng do bị giày vò đã giáng đòn trí mạng lên thiếu phụ, khiến cho nàng rối loạn tâm can mà lâm trọng bệnh. Những vết sẹo trên thi thể Hổ Phách cũng là một minh chứng. Phải nói rằng trong trường hợp ấy, sẽ có tình tiết giảm nhẹ cho tội thông dâm của nàng cùng kế hoạch bỏ trốn với Đổng Mai.” Địch Nhân Kiệt chậm rãi phẩy quạt một lúc, đoạn tiếp lời, “Sau chuyến viếng thăm Lương cô nương, ta ghé vào gặp Dương chưởng quỹ tại cửa hiệu đồ cổ. Do Tử Lan đã nói tên tội nhân là một kẻ sưu tập cổ vật, ta muốn thu thập thêm thông tin về các khách hàng của họ Dương. Ông ta đã phác nên một bức tranh khá thú vị về tính cách của Kha Nguyên Lương.”
Kể cho Hồng sư gia nghe về số phận của cái bát Ba Tư xong, ông nói tiếp, “Họ Kha đã hủy hoại một cổ vật giá trị chỉ vì nó lộ ra một khiếm khuyết nhỏ. Thật dễ mường tượng phản ứng của y khi phát hiện ra một báu vật khác của mình, cụ thể là phu nhân Hổ Phách, đã phạm phải vết nhơ khủng khiếp nhất mà thê tử có thể gây ra: không chung thủy.” Ông cau mày và suy nghĩ một lúc. “Nhưng lại có một trở ngại ở đây. Giả dụ Kha Nguyên Lương là một dạng nam nhân đồi trụy như đã đề cập, thì lúc đó y có để cho Hổ Phách chết dưới một thuộc hạ hèn kém như Hạ Quảng không? Lẽ nào y lại từ bỏ thú vui bệnh hoạn là chính tay hạ sát nàng?” Địch Nhân Kiệt lắc đầu. “Bẩm đại nhân, Kha Nguyên Lương có một điểm đáng nghi. Y đã thuê cả Đổng Mai và Hạ Quảng săn lùng cổ vật cho mình.” “Theo lời Dương chưởng quỹ, cả Biện Gia và Quách Minh đều sưu tập đồ cổ.” Tiếng cồng trầm đục rền vang khắp nha phủ, báo hiệu phiên thăng đường ban trưa sắp sửa bắt đầu. Huyện lệnh đứng dậy khỏi ghế, cố nén tiếng thở dài. Hồng sư gia giúp ông thay bộ quan phục bằng gấm lục thêu kim tuyến, rồi lão trao cho chủ chiếc mũ ô sa cánh chuồn bằng nhung đen. Trong lúc sửa sang lại áo mão trước gương, Địch Nhân Kiệt nói, “Ta sẽ kết thúc phiên thăng đường sớm nhất có thể, lão Hồng à! Sau đó, ta muốn lão đến ngay chỗ Thẩm Bát, xem gã đã dò la được gì về các vụ cá cược chưa. Tiện đấy, lão có thể bảo Thẩm Bát là ta đã nói riêng với nàng Lương đôi lời tốt đẹp về gã rồi. Rồi lão hãy qua khách điếm Bát Tiên, hỏi viên chưởng quỹ về Quách Minh. Y có hay thuê buồng ở đấy không? Trong thời gian bao lâu? Thường tiếp những vị khách nào? Ngoài ra, họ Quách có qua lại với kỹ nữ không? Nếu có thì lão dò xem trong bọn nữ nhi đó, có bất cứ ai đã từng than thở về y chưa. Ta muốn có càng nhiều càng tốt thông tin về tay thương gia nho nhã đấy.”
Hồng sư gia tỏ vẻ ngạc nhiên, nhưng chẳng còn thì giờ để hỏi thêm. Lão vén bức rèm sang một bên để huyện lệnh băng qua lối đó vào công đường. Khi ông đã bước lên bục và ngồi sau bàn xử án, tiếng lao xao trong sảnh đường đầy ắp người nhỏ dần rồi im bặt. Lão Hồng đứng bên phải Địch huyện lệnh như thường lệ. Lão khom người về phía chủ và thì thầm, “Thưa đại nhân, bách tính Phổ Dương đang nóng lòng muốn nghe chi tiết về các vụ án mạng!” Ông gật đầu và đưa mắt nhìn lướt qua công đường. Bộ đầu và các bộ khoái đã đứng ở vị trí đã định bên dưới bục, đối diện với bàn xử án. Họ cầm roi, trượng, xích sắt và các hình cụ đáng sợ khác. Ở cả hai phía của bàn xử án có các bàn thấp hơn, mỗi cái có hai lục sự ngồi. Họ đang nhúng bút vào mực để ghi lại lại toàn bộ quá trình xử án. Ở hàng đầu cử tọa, Địch Nhân Kiệt nhận ra Kha Nguyên Lương và Biện đại phu đứng sát cạnh nhau. Quách Minh đứng ở hàng sau cùng với Dương chưởng quỹ. Ông gõ nhẹ kinh đường mộc và tuyên bố thăng đường. Sau đó, huyện lệnh thông báo về vụ án mạng của Hổ Phách và Hạ Quảng mà không đi nhiều vào chi tiết. Ông nói do cả hai vụ án đều xảy ra ở cùng một địa điểm, nên nha phủ tin rằng có mối liên hệ giữa chúng và một cuộc điều tra toàn diện đang được tiến hành. Khi ông nói xong, Quách Minh tiến bước về phía trước. Y cúi lạy và bắt đầu thưa, “Thảo dân…”
“Quỳ xuống!” viên bộ đầu quát vào mặt y, tay giơ cao trượng. Họ Quách nhìn bộ đầu với vẻ phẫn nộ, nhưng rồi y ngoan ngoãn quỳ xuống nền đá và tiếp lời, “Thảo dân là thương gia Quách Minh, xin bẩm báo rằng đã quyết định cư trú trên con thuyền mành đang neo tạm tại bến tàu gần Tây môn.”👁‍ Quách Minh thưa chuyện trên công đường “Điều này sẽ được ghi nhận,” Địch huyện lệnh nói. Lúc họ Quách đứng dậy, ông bất chợt nói thêm, “Ngươi đã không nói hết khi bản quan chất vấn vào sáng nay, Quách tiên sinh.” Y nhìn thẳng vào huyện lệnh và nghiêm trang đáp, “Bẩm đại nhân, ngài đã ra lệnh rõ ràng là thảo dân hãy kiệm lời thôi.” “Ngươi có thể nói ngắn gọn mà vẫn đi vào trọng tâm. Bản quan đã biết nơi tìm ra ngươi. Cho lui.” Sau khi Quách Minh về lại chỗ, Địch huyện lệnh thông báo một luật mới liên quan đến việc phát sổ hộ tịch. Trong khi đang diễn giải, ông nhận ra không khí oi bức đến ngột ngạt, bộ quan phục dày ướt sũng mồ hôi. Lúc ông sắp sửa giơ kinh đường mộc lên để bãi đường, thì có hai nam nhân ăn vận tươm tất đến quỳ trước bàn xử án. Họ xưng danh tính và thưa rằng mình là các tiểu thương. Hiện họ đang vướng vào một vụ tranh chấp địa sản. Lác đác vài người đã ra về. Trong số đó, ông trông thấy có Dương chưởng quỹ. Huyện lệnh nhẫn nại lắng nghe phần trình bày dông dài đến phát ngán của cả hai bên. Cuối cùng, ông giải tán tất cả với lời hứa sẽ cho người kiểm tra sổ đăng ký địa chính. Sau đó, vị chưởng quỹ già nua của một tiệm cầm đồ tiến về phía trước. Lão phàn nàn về hai tên lưu manh đã hăm dọa mình.
Theo sau lão chưởng quỹ là những bách tính khác. Rõ là dân chúng Phổ Dương đã để dành đủ loại vấn đề cho đến tận hôm nay, sau năm ngày lễ hội đầu tiên của tháng. Thời gian lừ đừ trôi qua, vượt quá dự kiến của ông. Nhiều người tiếp tục rời công đường, gồm cả Biện đại phu, họ Kha và họ Quách. Giờ ăn trưa đang đến gần. Địch Nhân Kiệt quay sang lão Hồng, thấp giọng nói, “Có trời mới biết khi nào ta giải quyết xong hết mấy vụ phán xử lằng nhằng này! Tốt hơn là lão hãy lên đường ngay để hoàn thành những công vụ mà ta giao phó. Ta sẽ gặp lão trong thư phòng sau.” Khi huyện lệnh đang chốt sổ vụ án cuối cùng thì chợt có tiếng huyên náo ở cửa sảnh đường. Ông khó chịu ngó lên, rồi nhanh chóng ngồi thẳng người trên ghế. Một đám diễu kỳ quặc đang lũ lượt tiến đến trước bàn xử án. Đi đầu là ba nam nhân vạm vỡ với y phục rách tả tơi, rõ là chúng đã bị đánh cho bầm giập. Một gã đang áp hai bàn tay lên hai bên đầu, bờ vai đẫm máu. Tên kia phải dùng tay trái để đỡ tay phải, khuôn mặt nhợt nhạt méo xệch vì đau đớn. Còn kẻ thứ ba đi đứng loạng choạng, tay bóp chặt bụng. Dường như y sắp đổ ụp xuống đến nơi nhưng vẫn phải ráng lết đi, do bị Lương Tử Lan dùng ô thúc những cú đầy ác ý vào lưng. Nai nịt gọn gàng trong bộ trang phục màu nâu, thị đang sải bước đi đường hoàng, khuôn mặt to như cái mâm đồng tỏ vẻ thản nhiên. Phía sau thị là một thiếu nữ tròn trịa, mình vận bộ xiêm y diêm dúa màu xanh in những đóa hồng thắm to bè. Phần mặt bên trái của cô tím bầm, một mắt nhắm tịt.
Đến trước bàn xử án, Tử Lan quát ba nam nhân quỳ xuống. Viên bộ đầu bật ra một câu rủa rồi tiến lại gần, nhưng Lương thị đã gạt phăng y lại và cáu kỉnh gắt, “Ta biết mọi lễ nghi chuẩn mực trên công đường. Lão đệ xê ra!” Đoạn thị nói với nữ nhi, “Tiểu nữ yêu dấu, mau quỳ xuống đi, đó là luật rồi. Muội không phải người của hoàng gia như ta.” Rồi Lương Tử Lan ngẩng lên nhìn huyện lệnh, điềm đạm bẩm báo, “Xin cung kính bẩm báo, kẻ hèn đang diện kiến quan nhân có tên phụ mẫu đặt là Altan Tsetseg Khatun. Hoàng thượng có chiếu ban cho tiểu nữ họ Lương, tên riêng là Tử Lan. Nghề nghiệp đô vật. Đây là ba tên đào ngũ của đội phòng vệ kênh đào, hiện đang làm đạo tặc. Tên chúng lần lượt là Phương Bưu, Vương Đăng Cao và Liêu Kiệt. Nữ nhân đang quỳ bên trái họ Lý, tên là Mẫu Đơn, là kỹ nữ.” Quay sang phía chánh lục sự, thị hỏi, “Ông đã ghi lại hết chưa?” Ông ta gật đầu, kinh ngạc không thốt nên lời. Lương thị lại tiếp tục thưa chuyện, “Kẻ hèn này xin phép được đệ trình một cáo buộc đối với ba nam nhân họ Phương, họ Vương và họ Liêu kia.” Địch Nhân Kiệt nhìn chằm chằm vào nữ nhân đang đứng trước mặt. Rồi ông đáp cộc lốc, “Lời thỉnh cầu được chấp thuận.” “Bẩm đại nhân, ta đang ngồi cùng tỳ nữ Hồng Hoa, dùng bữa trưa ở sân sau nhà mình, thì nghe thấy tiếng nữ nhân kêu cứu trong ngõ hẻm phía đằng sau. Ta bèn phi thân lên tường và trông thấy ba nam nhân kia đang dùng vũ lực kéo lê nữ nhi đây. Khi nàng lại mở miệng la hét thì bị họ Phương thoi ngay một quả đấm gần mắt trái. Ngay sau đó, gã rút chủy thủ ra. Những kẻ đứng chứng kiến quanh đó đều chạy mất sạch.
“Thấy chướng mắt, ta liền tiến lại gần và nhã nhặn hỏi thăm. Ban đầu chúng từ chối trả lời, nhưng ta cứ nhất quyết tra hỏi. Cuối cùng chúng bảo là ngày hôm kia, một nho sinh lang thang tên Hạ Quảng đã cho chúng một đĩnh bạc để bắt cóc Lý thị từ lầu xanh, đem đến chỗ Mạnh bà bà ở ngôi nhà thứ ba, phố thứ hai đằng sau đạo quán cũ. Nhân buổi trưa vắng người qua lại, chúng tranh thủ tiến hành bắt người, lại cẩn thận buộc một miếng vải đen quanh đầu cô gái. Lúc đi ngang qua Lương gia, kỹ nữ đã giật được miếng vải xuống để la lên kêu cứu. “Ba tên hạ lưu này đã nhận tội dùng vũ lực bắt cóc nữ nhân. Ta tình cờ được biết nha phủ đang quan tâm đến gã Hạ Quảng kia, bèn sửa soạn giải ba tội nhân lên công đường, mời theo cả Lý thị làm nhân chứng. Kính mong đại nhân suy xét định liệu.” Tử Lan cúi đầu rồi đứng chình ình ra đấy, hai chân giạng ra, người tựa vào cái ô. Ngay khi nghe đến địa chỉ mà bọn vô lại định áp tải kỹ nữ đến, Địch Nhân Kiệt liền ra hiệu cho viên bộ đầu bước lên bục xử án. Ông khẽ căn dặn y dẫn theo sáu bộ khoái vũ trang đầy đủ, đến nơi đó ngay lập tức để tóm cả ổ ác tặc và tống chúng vào nhà lao. Giờ huyện lệnh nói với Lương thị, “Nha phủ có lời tán thưởng về hành động cứu người của ngươi! Là lương dân thượng tôn vương pháp, Lương nữ chủ đã ra tay hiệp nghĩa đúng nơi đúng lúc. Ngươi nên tường trình đầy đủ hơn để lục sự hoàn thành bản cáo trạng.”
“Xin vâng lệnh đại nhân. Như đã trình báo, khi ta đang tra hỏi, chút nữa là Vương Cao Đăng tấn công vào đầu. May mà ta kịp thời né tránh, tóm lấy cánh tay hắn, vặn trật khớp, hạ bộ trụ vững rồi quét chân làm hắn ngã sóng soài. Tuy nhiên, ta vẫn cẩn trọng, ra đòn chỉ đủ làm họ Vương choáng váng mà không đánh gãy sống lưng, để hắn còn toàn mạng mà cung khai sau này. “Sau đó, tên Phương Bưu định dùng chủy thủ đâm. Ta dùng hai ngón tay kẹp chặt cán chủy thủ, xoay ngược mũi dao mà ghim vành tai trái của gã vào trụ cửa gần nhất. Họ Phương vùng vẫy dữ dội khiến tai rách toạc, thế nên ta lại phải găm nốt tai bên kia của gã cho đủ bộ. Vì gã ăn nói tục tĩu và không chịu trả lời cho tử tế, ta đành phải chọc chỗ này đâm chỗ kia một chút. Nhưng ta đã ngừng ngay khi họ Phương đồng ý thú nhận toàn bộ tội trạng. Tất cả chỉ có vậy, thưa đại nhân.” Địch huyện lệnh nhổm đứng dậy, chúi người về phía trước để quan sát ba tội nhân đang rên rỉ dưới sàn. Tên bên phải ngẩng đầu lên và cố gắng nói gì đó. Nhưng y chỉ có thể thốt ra mấy âm thanh khàn đặc. “Chuyện gì đã xảy ra với tên kia?” ông hỏi. “Bẩm, tên kia ư? Ta đứng lên người y trong lúc tra hỏi Phương Bưu. Là vì trong lúc ta bận để mắt khống chế họ Phương, thì tên Liêu Kiệt định đá vào bụng ta. Ô hay, toàn một lũ gà mờ võ học thối tha! Ta chỉ cần xoay sang một bên là né được, đoạn co bàn tay phải và nhằm vào yết hầu để dụ y ngửa đầu né tránh. Chỉ đợi có thể, ta xòe rộng bàn tay trái rồi chém thẳng vào cổ họng đối phương. Họ Liêu toan bỏ chạy, ta liền tóm lấy lưng y, quăng xuống ngay bên cạnh họ Vương, rồi cứ thế mà đứng lên người y, một chân đạp vào háng, chân kia nện lên trán. Tuy vậy, ta cũng phải kiềm chế không giậm chân, tránh cho miếng giẻ phía dưới không bị tàn phế suốt đời.”
“Bản quan hiểu rồi,” Địch Nhân Kiệt nói. Ông vuốt lọn tóc mai dài một chốc, đoạn nghiêng người về phía trước, hỏi họ Phương, “Khai mau, ngươi đã gặp Hạ Quảng khi nào và ở đâu?” Nam nhân bỏ tay che tai xuống, máu lại bắt đầu rỉ ra. Gã rên rỉ, “Bẩm, ở tửu điếm ngoài chợ! Ngày hôm kia thì phải. Trước đó chưa gặp bao giờ. Hạ Quảng cho một đĩnh bạc, nói là sẽ còn thưởng thêm sau khi hoàn thành công việc. Bọn thảo dân…” “Hạ Quảng có nói ai là lão đại không?” Huyện lệnh cắt ngang. Nam nhân hoang mang nhìn ông. “Bẩm, lão đại nào cơ? Chả có lão đại nào cả. Chỉ có hắn trả tiền thôi. Tối đó, bọn thảo dân định tóm a đầu kia, nhưng lầu xanh đầy khách, nên chẳng thể động thủ. Tối qua cũng vậy. Sáng nay, bọn thảo dân đến tửu điếm để đòi hắn trả thêm, vì công việc khó nhai. Nhưng Hạ Quảng không ở đó. Vì thế, cả bọn bàn lại là sẽ thử bắt người vào buổi trưa. Tóm được ả ngon lành, nhưng trên đường thì tông trúng mụ…” “Cô nương!” Tử Lan rít lên, chồm người lại gần gã kia. “Mau kéo con quái thú ấy ra xa khỏi thảo dân!” Gã hoảng loạn la lên đầy thống thiết. “Có ai biết mụ đã làm gì sau khi cắm chủy thủ xuyên qua tai thảo dân không? Mụ… mụ…” Gã suy sụp hoàn toàn và bật khóc nức nở. Địch Nhân Kiệt gõ mạnh kinh đường mộc lên bàn. “Trả lời các câu hỏi của ta!” ông ra lệnh. “Ngươi có thú nhận tội lỗi mà Lương cô nương cáo buộc không?” Ôm đôi tai đang chảy máu, Phương Bưu hổn hển đáp, “Thảo dân nhận tội!”
Vương Đăng Cao cũng xin nhận tội, giọng run rẩy đầy sợ hãi. Liêu Kiệt chỉ kịp gật đầu một cái rồi ngã sấp mặt xuống đất. Huyện lệnh nói với gã bộ khoái đang thay thế vị trí của viên bộ đầu, “Giải ba tội nhân này vào nhà lao. Nhớ vời cả ngỗ tác đến chăm sóc vết thương cho chúng. Bản quan sẽ nghe cung khai tiếp sau khi chúng đã hồi phục.” Trong khi các bộ khoái kéo lê ba nam nhân đi mất, ông nói với kỹ nữ, “Lý cô nương, giờ bản quan sẽ nghe lời khai của ngươi.” Thiếu nữ tròn trịa lau khuôn mặt bầm tím bằng ống tay áo. Ả nhẹ nhàng đáp lời, “Bẩm đại nhân, tiểu nữ cùng ba tỷ muội khác chỉ mới ngồi xuống dùng bữa trưa, thì ba tên kia bất ngờ xông vào và đánh gục người gác cửa. Tú ông hỏi chúng muốn gì. Một tên liền đấm thẳng vào mặt ông ấy. Chúng nói là muốn mượn tiểu nữ một ngày và đến khuya sẽ trả lại. Chúng tóm lấy tiểu nữ, quấn một miếng vải đen quanh đầu rồi kéo lê ra ngoài, liên tục đấm đá tiểu nữ suốt quãng đường. Sau một lúc im lặng đi theo chúng, tiểu nữ lén nới lỏng được một bên tay ra, liền kéo miếng vải xuống và kêu cứu. Rồi Lương nữ hiệp xuất hiện…” “Có ai từng định bắt cóc ngươi trước đây hay chưa?” “Dạ thưa, chưa bao giờ ạ.” “Liệu có vị khách làng chơi nào có thể nhúng tay vào vụ việc này không?” Nữ nhân bối rối nhìn Địch Nhân Kiệt. Sau một hồi suy nghĩ, ả lắc đầu và trả lời, “Bẩm, thực sự thì tiểu nữ không biết! Tiểu nữ mới bước chân vào thanh lâu có một năm. Tiểu nữ vốn là nhi nữ của một thuyền phu họ Lý ở phía thượng lưu con sông. Gia phụ lâm cảnh nợ nần, đến nỗi buộc phải bán thuyền hoặc nhi nữ. Khách làng chơi đều là các vị chưởng quỹ và tiểu nhị sống lân cận. Tất cả đều dễ mến, tiểu nữ biết rõ về họ. Sao lại phải thuê người bắt cóc tiểu nữ khi mà họ có thể đến thăm tiểu nữ theo cung cách thông thường?”
“Cũng đúng,” huyện lệnh nói. “Ngoài việc tiếp khách ở thanh lâu, có bao giờ ngươi ra ngoài tham dự dạ tiệc ở các khách điếm hay tửu lâu không?” “Dạ không, thưa đại nhân! Tiểu nữ không biết múa hát, nên chẳng bao giờ được gọi đến mua vui cho những bữa tiệc. Nhưng đôi lúc tú ông cũng gửi tiểu nữ ra ngoài, để góp sức bưng bê hay giúp các vũ nữ thay xiêm y.” “Hãy trình báo về các buổi yến tiệc mà ngươi đã tham dự trong vòng khoảng hai tháng vừa qua.” Khi kỹ nữ bắt đầu kể ra một danh sách dài, Địch Nhân Kiệt nhận thấy việc này cũng chẳng dẫn đến đâu. Các buổi chiêu đãi thường rất lớn, Kha Nguyên Lương, Biện đại phu và các thân hào nhân sĩ đều hiện diện không ít lần, ngay cả Dương chưởng quỹ cũng thế. Nữ nhân cũng nhớ ra rằng Quách Minh từng là khách mời tới một bữa tối nho nhỏ, được một tay buôn thảo dược ở địa phương tổ chức. Ông hỏi, “Có vị khách nào quan tâm đặc biệt tới ngươi không?” “Bẩm, không có ai cả. Tiểu nữ chỉ là một đứa bưng bê thôi. Các khách nhân chỉ thích trò chuyện với những kỹ nữ tài sắc vẹn toàn đến từ những thanh lâu hạng sang. Dù thế, họ vẫn hay thưởng cho tiểu nữ, đôi lúc cũng khá hậu.” “Những cái tên Đổng Mai và Hạ Quảng có quen thuộc với ngươi không?” Thiếu nữ lắc đầu. Địch Nhân Kiệt ra lệnh cho chánh lục sự đọc to lời khai được ghi chép. Cả hai nữ nhân đều xác nhận tất cả nội dung là chính xác và điểm chỉ. Ông nói vài lời tử tế với hai nàng, đoạn gõ kinh đường mộc xuống để bãi đường.
Lương thị đưa cái ô cho nữ nhi kia. “Khi nào ra đến bên ngoài, hiền muội hãy che ô cho ta,” thị nói. “Ta rất mẫn cảm với ánh mặt trời. Với lại một người ở địa vị của ta không nên rong ruổi ngoài đường một mình.” Lương nữ hiệp thong thả bước đi, thiếu nữ ngoan ngoãn rảo bước theo sau. HỒI 14 Gây tứ án, ai là thủ phạm? Tam luận bàn, đâu kẻ ra tay? Trong thư phòng của huyện lệnh, chánh lục sự giúp ông cởi bỏ quan phục để thay sang một bào y mỏng bằng sợi bông xám. Địch tri huyện bảo ông ta cho dọn cơm trưa ngay trong phòng này, sau đó mang tới cho ông một chậu khăn mát. Khi viên bộ đầu quay lại, ông sẽ nghe trình báo ngay lập tức. Ra lệnh xong, Địch Nhân Kiệt bắt đầu đi tới đi lui trên sàn, đầu cúi xuống, cân nhắc về những tiến triển mới nhất. Rõ là Hạ Quảng đã thuê ba tên lưu manh theo mệnh lệnh của một kẻ giấu mặt nào đấy. Liệu mụ tú bà ngụ phía sau đạo quán có biết danh tính kẻ đó? Nếu đúng thế thì tình hình có vẻ tốt rồi! Đôi khi nhờ may mắn mà một nan đề bất chợt được phá giải. Có tiếng gõ cửa. Ông nhanh chóng nhìn lên, chờ đợi viên bộ đầu xuất hiện. Nhưng thay vào đó, một lục sự bước vào, mang theo cái khay đựng cơm canh và một đĩa dưa chua. Địch Nhân Kiệt ngồi dùng bữa tại án thư, nhưng chẳng cảm nhận được mùi vị gì, đầu óc ông vẫn còn bận rộn với ba vụ án mạng. Ông cảm nhận được việc điều tra đang đi đến bước ngoặt, vì cuối cùng đã tường tỏ được động cơ của hung thủ.
Đầu tiên, ông cho rằng động cơ là lòng tham, mục tiêu của hung thủ là ăn cắp ngự châu và đoạt lấy kim ngân. Nhưng rồi ông bác bỏ giả thuyết ấy. Rồi giả định ghen tuông là động cơ, ông quyết định rằng câu chuyện về viên ngự minh châu chỉ là trò bịp bợm. Giờ thì ông phải gạt bỏ luôn cả sự ghen tuông, chí ít nó chẳng phải động cơ chính. Không còn nghi ngờ gì nữa, động cơ chủ yếu là để thỏa mãn một ham muốn quái ác: hành hạ nữ nhân, dù là bất cứ ai. Dĩ nhiên, yếu tố lòng tham thì vẫn còn đấy, thể hiện qua vụ cướp vàng và chi phối cá cược, và ông vẫn phải cân nhắc yếu tố ghen tuông. Nhưng chúng đều xuống hàng thứ yếu, nguyên nhân chi phối chính vẫn là thói dâm ô bệnh hoạn. Thật tệ hại, những kẻ đang bị ham muốn đó làm chủ tâm thần, khi phát hiện ra kế hoạch của mình bị ngăn trở, sẽ có xu hướng hành động tàn ác bất chấp hậu quả. Số lượng nghi phạm giờ chỉ còn lại ba người mà huyện lệnh đã biết, cùng với một kẻ giấu mặt. Ông thở hắt ra. Nếu hung thủ bị thúc đẩy bởi lòng tham, sự ghen tuông, ham muốn báo thù hay bất cứ lý do thông thường nào khác, thì cách thức phá án của ông sẽ rất rành mạch: một cuộc điều tra chu đáo và mang tính hệ thống về lý lịch của ba nghi phạm kia, bao gồm gia phả dòng họ, gia đình, tình trạng kim ngân và nhiều chi tiết khác. Tuy nhiên, do đang phải đương đầu với một gã điên thú tính, Địch Nhân Kiệt chẳng có thời gian cho một cuộc điều tra kéo dài như vậy. Vì hung thủ có thể tiếp tục ra tay thêm lần nữa, vào bất cứ khi nào, nhắm vào bất kỳ ai. Ông sẽ phải hành động ngay lập tức. Nhưng hành động gì và chống lại ai cơ chứ?
Sau khi đặt đũa xuống, Địch Nhân Kiệt vẫn ngồi thừ ra, chìm trong suy nghĩ miên man, chẳng màng đến cái oi bức ngột ngạt xung quanh. Lục sự trở lại, mang vào một thau đồng to đựng đầy khăn thơm thấm đẫm nước lạnh. Ông đang lau mặt thì viên bộ đầu bước vào. Nhìn vẻ mặt chán nản của y, huyện lệnh lo ngại hỏi, “Chuyện gì đã xảy ra?” “Bẩm đại nhân, bọn thuộc hạ tìm thấy ngôi nhà đó chẳng chút khó khăn. Đó vốn là gian buồng nhỏ của một người làm vườn, nằm trong một dinh cơ cũ kĩ bị bỏ hoang từ nhiều năm trước. Khu nhà chính đã đổ nát, nhưng gian buồng của người thợ làm vườn, nằm ở nền đất phía sau, đã được sửa chữa, gia cố. Bà lão họ Mạnh là người duy nhất cư ngụ ở đó. Sáng nào cũng có một nữ nhân giúp việc đến làm mấy việc chân tay nặng nhọc. Hàng xóm láng giêng ngờ rằng gian buồng được dùng cho các mục đích ám muội, xúc phạm đến đạo lý thánh hiền. Họ thường trông thấy cả nam lẫn nữ ra vào chốn ấy lúc đêm hôm khuya khoắt. Nhưng vì nó nằm tách biệt trong điền viên bỏ hoang đó, nên không ai nghe hay thấy chính xác những gì diễn ra. Do thế, chẳng ai biết kẻ nào đã hạ sát bà lão.” “Bị hạ sát ư? Đồ ngốc, sao ngươi không nói ra ngay? Bà ta bị giết thế nào?” “Bẩm, bà lão bị siết cổ,” viên bộ đầu rầu rầu đáp. “Chắc hẳn bà ta có khách viếng thăm ngay trước khi bọn thuộc hạ đến, vì trên bàn có hai chén trà hãy còn ấm. Mạnh bà bà nằm chết dưới sàn, cạnh chiếc ghế bị lật nhào, một chiếc khăn lụa siết chặt quanh cổ. Thuộc hạ vội tháo khăn nhưng bà ta đã ra đi vĩnh viễn. Thuộc hạ đã cho chuyển thi thể về đây. Giờ ngỗ tác đang nghiệm thi.”
Địch Nhân Kiệt mím chặt môi. Đây đã là vụ án mạng thứ tư! Dằn lòng lại, ông nói bằng giọng dứt khoát, “Được rồi, ngươi đã làm rất tốt. Giờ ngươi có thể lui.” Ở cửa ra vào, bộ đầu suýt va phải lão Hồng. Lính gác nha môn đã báo với sư gia về vụ án mạng mới và lão đang nóng lòng muốn nghe chuyện gì đã xảy ra. Lão Hồng nhanh chóng an tọa và hỏi, “Bẩm đại nhân, chuyện này là sao?” “Chúng ta đang phải đối đầu với một kẻ quyết đoán và khôn ngoan khác thường, lão Hồng à. Ta sẽ thuật lại chuyện đã xảy ra tại công đường sau khi lão rời đi.” Sau khi kể chi tiết về kỳ công của Lương Tử Lan, Địch huyện lệnh nói, “Hẳn hung thủ đã nhìn thấy Lương nữ hiệp dẫn giải ba tên côn đồ cùng kỹ nữ lên công đường. Dĩ nhiên hắn không biết mặt ba tên kia, vì đã giao khoán cho tay sai Hạ Quảng dàn xếp vụ bắt cóc. Nhưng chắc hắn đã nhận ra Lý cô nương, người hắn chọn làm nạn nhân khi gặp nữ nhi này trong một buổi tiệc nào đấy. Hắn liền cho rằng Lương cô nương đã đột kích tại trận bọn bắt cóc, do thế chúng sẽ khai hết về nơi nạn nhân bị đưa tới. Tiên hạ thủ vi cường, hắn lập tức đến đó trước và ra tay giết người bịt đầu mối.” Ông giận dữ giật mạnh chòm râu, rồi lại thở hắt ra và hỏi, “À, cuộc điều tra của lão có làm sáng tỏ được điều gì không?” “Thưa, tiếc là không nhiều lắm. Lão phu đã nói chuyện nhiều với Thẩm Bát. Dù đã cố gắng hết sức, gã chỉ khám phá được rằng kẻ đứng đằng sau thao túng các vụ cá cược có liên quan đến việc giao thương cổ vật.”
“Lại là giao thương cổ vật! Có trời đất linh thiêng chứng giám, từng kẻ một có can dự đến vụ án này dường như đều nhúng tay vào đồ cổ!” “Bẩm đại nhân, còn về Quách Minh, vị chưởng quỹ của khách điếm mô tả gã là một nam nhân trầm lặng, chẳng bao giờ gây ra bất cứ phiền hà nào và luôn thanh toán đúng hạn. Lão phu và ông ta cùng kiểm tra sổ đăng ký lưu trú, phát hiện ra họ Quách đã ở đó tám lần trong năm ngoái. Gã luôn xuất hiện bất thình lình và không bao giờ lưu lại quá hai, ba ngày. Sau bữa sáng, gã thường một mình lai vãng bên ngoài và chỉ về lại khách điếm khi đã rất khuya. Họ Quách chưa bao giờ tiếp bất cứ vị khách nào.” “Lần cuối gã ngụ ở đó là khi nào?” “Dạ thưa, khoảng ba tuần trước ạ. Thỉnh thoảng Quách Minh nhờ vị chưởng quỹ gọi một nữ nhân đến, luôn nói rõ rằng mình muốn một kỹ nữ bình dân chứ không phải những cô nương nổi tiếng chốn thanh lâu. Rằng nữ nhi đó không cần phải có dung nhan diễm lệ, miễn là nàng ta sạch sẽ và khỏe mạnh, giá cả cũng ở mức vừa phải thôi.” Vị sư gia nhăn mặt, đoạn miễn cưỡng tiếp lời, “Lão phu đến thanh lâu gần đó, nơi mà vị chưởng quỹ thường gọi nữ nhân cho Quách Minh. Lão cũng đã hỏi chuyện những kỹ nữ từng đến buồng họ Quách. Các nàng ấy không có gì nhiều để trình báo cả. Họ mô tả họ Quách chẳng thượng đẳng phong lưu hơn, hay tồi tệ ghê gớm hơn hầu hết các khách làng chơi khác. Quách Minh chưa bao giờ đòi hỏi điều gì đặc biệt, các kỹ nữ cũng chẳng cần nỗ lực chiều chuộng gì hơn, bởi chẳng đời nào gã thưởng thêm cho họ. Tất cả chỉ có vậy.”
Hồng sư gia ngừng lời và tò mò hỏi, “Thưa đại nhân, sao ngài lại quan tâm tới các tiểu tiết đó về họ Quách? Lão phu cho là…” Lời lão bị cắt ngang bởi một tiếng gõ cửa. Viên ngỗ tác tiến vào phòng, nghiêng mình thi lễ và trao cho huyện lệnh một tờ giấy. “Bẩm đại nhân, theo báo cáo nghiệm thi, nữ nhân họ Mạnh khoảng chừng ngũ tuần. Ngoại trừ chỗ sưng quanh cổ, thuộc hạ không tìm ra bất cứ vết tích bạo lực nào khác trên thi thể. Thuộc hạ đoán chừng khi đang dùng trà với gia chủ, hung thủ đã kiếm cớ rời khỏi ghế và đi vòng ra sau bà lão, thình lình quấn chiếc khăn quanh cổ nạn nhân. Hung thủ ra tay mạnh đến nỗi dải lụa siết sâu vào da thịt, gần như xiết đứt khí quản bà ta.” “Cám ơn ngươi. Hãy đặt thi thể vào một quan tài tạm và thông báo cho thân nhân của bà lão. Bảo họ đến càng sớm càng tốt, vì không thể nào giữ thi thể quá lâu trong tiết trời nóng bức kinh khủng này. Còn Kha Nguyên Lương đã đem thi hài phu nhân Hổ Phách đi chưa? Rồi à? Tốt! Cũng cần thông báo cho gia đình Hạ Quảng biết. Ta nghe rằng phụ mẫu của hắn đang sống ở kinh thành.” Địch Nhân Kiệt đưa tay vuốt mặt, đoạn hỏi tiếp, “Ba tên tù nhân thế nào rồi?” Ngỗ tác mím môi đáp, “Thưa, tên có đôi tai rách cũng bị gãy vài cái xương sườn và chịu nội thương. Thuộc hạ đã nắn lại khớp xương vai cho một tên khác rồi cho hắn uống một viên thuốc an thần, vì hắn bị chấn động tinh thần. Đại nhân có thể hỏi cung hai kẻ này trong một vài ngày tới. Còn về tên bị chém vào cổ, phải mất nhiều tuần điều trị trước khi y có thể phát ngôn bình thường trở lại, nếu y may mắn!”
Khi ngỗ tác rời đi rồi, Địch Nhân Kiệt mới nói với lão sư gia, “Dường như bộ ba bất hảo đó đã bị trừng trị đích đáng! Tử Lan không phải là một nữ nhân có thể xem thường được. Cô nương đó đúng là một vị nữ hiệp! Trời ạ, sao càng ngày càng nóng thế này? Mở cửa sổ ra đi, lão Hồng!” Lão thò đầu nhìn ra ngoài, rồi nhanh chóng quay vào và đóng cửa sổ lại. “Thưa, ngoài kia còn nóng hơn ở trong phòng! Bầu trời xám xịt đầy mây đen và chẳng có nổi một cơn gió nhẹ nào. Lão sợ là sắp có một cơn giông rất lớn.” Huyện lệnh lấy một chiếc khăn ướt từ thau đồng, lau gương mặt đẫm mồ hôi rồi quấn khăn quanh cổ. Đẩy chiếc thau dọc theo án thư về phía lão Hồng, ông nói, “Lão cứ dùng tự nhiên. À, trong lúc dùng cơm trưa, ta đã xem xét tỉ mỉ ba vụ án mạng. Vụ thứ tư, mà nạn nhân là tú bà họ Mạnh, cũng chẳng mảy may thay đổi kết luận của ta. Ta sẽ cố gắng tổng kết lại cho lão tường tận về tình hình hiện nay.” “Thưa đại nhân, trước hết lão phu muốn biết tại sao ngài lại quá quan tâm đến hành tung của Quách Minh?” “Chẳng mấy chốc ta sẽ đề cập đến họ Quách. Gã đóng vai trò quan trọng trong một giả thuyết của ta. Nhưng chúng ta sẽ tháo gỡ từng mối trong mớ bòng bong này theo trình tự. Giờ thì xem nào, ba vụ án mạng đều chỉ ra rằng hung thủ là một kẻ điên loạn và vô nhân tính. Không có manh mối trực tiếp vạch trần nhân dạng của hung thủ và hắn đã cẩn trọng loại bỏ tất cả những ai có thể đứng ra làm chứng chống lại mình. Hổ Phách, Đổng Mai, Hạ Quảng và Mạnh bà bà, tất cả đều đã chết! Vì thế chúng ta không có nhân chứng hay bằng chứng nào cả.
“Thêm vào đó, chủ đề xuyên suốt được lặp đi lặp lại là việc buôn bán cổ vật, câu chuyện về viên ngự châu, và bối cảnh ma mị về thủy thần trong khu rừng địa linh. Tập hợp tất cả lại là chúng ta có mọi nhân tố để tạo nên một vụ án vô cùng hấp dẫn và thú vị! Là nội dung cho các buổi đàm đạo với một vài vị bằng hữu tâm ý tương thông, trong lúc nhâm nhi thưởng trà sau một bữa ăn ngon! Nhưng thôi, quên điều đó đi, chúng ta phải nhanh chóng phá giải vụ án này, lão Hồng à! Nếu cứ chần chừ thêm, chắc chắn lão đại đứng sau tất cả mọi chuyện sẽ xóa sổ hết thảy những gì liên quan, ngay cả chút ít manh mối gián tiếp mà chúng ta có. Thậm chí hắn có thể gây án lần nữa!” Địch Nhân Kiệt uống một hơi hết sạch chén trà mà sư gia vừa châm. Ông thay một chiếc khăn mới quanh cổ, rồi nghiêm giọng nói tiếp, “Về kẻ điên loạn ẩn mặt đó, danh sách nghi phạm của ta có ba người. Kẻ nào cũng có cơ hội, và ta thấy kẻ nào cũng đều có động cơ thuyết phục. “Kha Nguyên Lương vẫn là nghi can chính. Giả thuyết chống lại y về cơ bản vẫn giống như những gì ta từng phác thảo cho lão. Giờ hãy thử tái hiện lại những gì đã xảy ra nếu họ Kha quả đúng là kẻ mà chúng ta đang truy tìm. Y thuê Đổng Mai săn lùng cổ vật và các nạn nhân cho dục vọng thú tính của mình. Đêm xuống, họ Đổng đưa các nữ nhân theo một lộ trình vòng vèo đến chỗ Mạnh bà bà. Chính họ Kha cũng đến đó cùng, mang mặt nạ hoặc cải trang để không bị nhận ra. Y hào phóng chi trả ngân lượng cho các nạn nhân, nhờ đó rủi ro bọn họ gây rối là rất ít. Nhược điểm duy nhất trong phương pháp giảo hoạt đó là y phải thuê một phụ tá là Đổng Mai. Với bản tính ranh ma, họ Đổng ngày càng muốn có nhiều ngân lượng hơn, nên có thể y đã đe dọa tống tiền. Chưa kể Kha Nguyên Lương lại phát hiện ra Đổng Mai qua lại vụng trộm với phu nhân Hổ Phách và là cha của hài nhi chưa chào đời. Tuy quyết định thủ tiêu cả đôi gian phu dâm phụ, họ Kha vẫn kiên nhẫn chờ đợi thời cơ thích hợp để ra tay. Bước đầu, con cáo già không dùng Đổng Mai nữa, tất nhiên là với một khoản thưởng hào phóng và thuê Hạ Quảng thế vai. Lương cô nương nói rằng họ Hạ không bì được với Đổng Mai về sự lanh lợi và liều lĩnh, do đó hắn ít có khả năng gây rắc rối cho chủ hơn.
“Kha Nguyên Lương biết thời cơ rửa hận đã đến khi Hổ Phách kể về viên minh châu. Là một tay sưu tập đồ cổ uyên thâm, y nhận ra ngay đó chỉ là một câu chuyện bịa đặt, một mưu kế để đôi tình nhân moi ngân lượng nhằm cao chạy xa bay cùng nhau. Đúng là thời cơ ngàn năm có một cho y! “Họ Kha liền triệu Hạ Quảng đến để hủy bỏ kế hoạch bắt cóc kỹ nữ. Hành hạ Lý cô nương vốn chỉ là trò tiêu khiển thường ngày, bây giờ tâm trí y đang hướng đến điều to tát hơn. Họ Hạ hứa sẽ báo lại cho ba tên lưu manh. Giờ thì chúng ta đã may mắn biết được, hắn đã không kịp làm như dự định kia, nhưng điều đó chẳng còn quan trọng nữa. Kha Nguyên Lương giao cho Hạ Quảng sơ đồ gia trang bỏ hoang và phương lầu. Y cũng kể lại kế hoạch tẩu thoát của đôi tình nhân, bảo họ Hạ thay thế Đổng Mai đến đó để thủ tiêu Hổ Phách, rồi mang vàng về cho mình. Họ Kha hứa sẽ trọng thưởng cho Hạ Quảng, vì đằng nào y cũng tính thủ tiêu tên thuộc hạ sau đó.” Địch huyện lệnh cầm quạt lên. Dựa lưng vào ghế, ông vừa phe phẩy quạt vừa chậm rãi nói tiếp, “Chuyện gì xảy ra vào tối qua? Kha Nguyên Lương đã đầu độc Đổng Mai lúc khoản đãi các đội đua thuyền tại Thạch Kiều. Bằng cách ấy, họ Kha đã nhất tiễn hạ tam điêu. Thứ nhất, y trả thù bị thê tử phản bội. Thứ đến, y khử được một tên tay sai lắm trò mưu ma chước quỷ. Thứ ba, y kiếm được một khoản kha khá nhờ chi phối cá cược đua thuyền. Hạ Quảng đến chỗ hẹn trong gia trang bỏ hoang, hạ sát Hổ Phách và mang vàng về cho chủ. Sau đó họ Kha tiết lộ cho hắn, rằng số ngân lượng ấy định dùng để trả cho viên minh châu, vốn được Đổng Mai cất giấu trong khu lầu. Y nói thêm là lúc trước, mình chủ đích không cho Hạ Quảng biết vì không muốn hắn nấn ná tại khu lầu để lục soát. Y nhấn mạnh rằng đó là sự phòng ngừa khôn ngoan, chẳng hiểu vì sao mà Hổ Phách bị một đương chức triều đình theo dõi đến tận gia trang, tay này suýt nữa đã tóm cổ được họ Hạ. Kha Nguyên Lương tiếp lời là sáng hôm sau, chúng sẽ cùng nhau đến lục soát khu lầu để tìm ngọc.
“Tờ mờ sáng hôm nay, ngay khi cổng thành được mở, cả hai đi đến gia trang bỏ hoang theo lối riêng. Kha Nguyên Lương cưỡi ngựa dạo chơi từ sớm, lấy là cho khuây khỏa đầu óc. Hạ Quảng cải trang thành một thợ mộc phải làm việc ngoài trấn. Họ Kha để Hạ Quảng tìm kiếm ở khu lầu, như thế sẽ cho y cơ hội hạ sát Hạ Quảng khi hắn chẳng mảy may đề phòng. Đồng thời, việc khu lầu bị lục soát sẽ minh chứng cho câu chuyện dông dài về ngự châu mà y kể cho ta nghe. Vào thời điểm thích hợp, Kha Nguyên Lương dùng gạch đập mạnh vào sọ họ Quảng, vứt xác ra phía ngoài rãnh, rồi cưỡi ngựa về trấn. “Sau đó thì Kha Nguyên Lương tham dự phiên thăng đường buổi trưa. Lúc trở ra, y tình cờ bắt gặp đám rước của Lương cô nương. Tuy chẳng biết mặt Tử Lan hay ba tên lưu manh kia, nhưng rõ ràng là y nhận ra Lý cô nương. Họ Kha hiểu rằng chân tướng sự việc rồi sẽ bại lộ, nha phủ sẽ cạy được miệng những tên bắt cóc, bắt chúng phun ra địa điểm bí mật mà y hay lui tới. Đương nhiên là Mạnh bà bà biết rõ danh tính y. Thế là Kha Nguyên Lương nhanh chân đến đó trước để siết cổ bà ta. “Bây giờ mọi thứ đã ổn thỏa cả. Y đã rửa được mối hận bị phụ tình, trả thù nhị phu nhân bội bạc cùng nhân tình của nàng, lấy lại được mười nén vàng và chiến thắng trong cuộc đua thuyền rồng. Đổng Mai, Hạ Quảng và Mạnh bà bà, những nhân chứng có thể đứng ra tố giác y, đều đã chết. Kịch hay hạ màn.”
Huyện lệnh ngừng lời. Lão Hồng lẳng lặng châm một chén trà mới cho chủ. Ông nhấp một ngụm, lại lau mặt bằng khăn lạnh và tiếp tục, “Còn nếu Kha Nguyên Lương vô tội, thì y thực là một kẻ khốn khổ. Trong trường hợp đó, phu nhân Kim Liên thật sự đã mất trí sau một cơn sốt ác tính, còn các vết sẹo của phu nhân Hổ Phách hẳn đã có từ thời nàng còn ở Đổng gia. Ở một số gia môn, những nô tỳ bất hạnh thường bị đối xử ác nghiệt. Cũng có khả năng là họ Kha tin vào câu chuyện về viên minh châu. Chuyện nghe khá thuyết phục, lúc đầu ta cũng nghĩ rằng nó có thật. Thôi, từ giờ khắc này, chúng ta hãy quên hết mọi thứ từng nói về Kha tiên sinh, để tập trung vào nghi phạm thứ hai là Biện đại phu.” “Trước tiên, động cơ của vị đại phu này có thể là gì? Ta nghĩ tâm trạng thất vọng đã biến Biện Gia thành kẻ ăn chơi trác táng, đó cũng là cách ông ta gián tiếp phản đối vị thê tử đành hanh không cho mình nạp thiếp. Con người này chẳng có phương tiện nào khác để thỏa mãn tâm tính, chính thất ghen tuông cũng như những chuẩn mực nghề nghiệp đã ngăn ông ta thoải mái phóng đãng với bọn kỹ nữ. Và có lẽ trong con người Biện Gia cũng ẩn giấu một khía cạnh tàn bạo. Chúng ta biết quá ít về những thứ đó, lão Hồng à. “Tuy nhiên, lúc đầu Biện đại phu chỉ trút đam mê lệch lạc của mình lên các nữ nhân tầm thường do thuộc hạ cung cấp. Ông ta chuyển từ Đổng Mai sang Hạ Quảng cũng vì những lý do đã được đề cập đến trong giả thuyết về Kha Nguyên Lương. Điều tồi tệ về những kẻ đồi trụy là chúng luôn khao khát những kích thích mạnh mẽ hơn. Chẳng mấy chốc, những nữ nhân vô học kia không còn có thể thỏa mãn họ Biện được nữa, ông ta muốn làm nhục các vị phu nhân đài các thanh cao kia. Thế là nhị phu nhân của Kha gia, nàng Hổ Phách tài sắc vẹn toàn, trở thành mục tiêu mới cho thói dâm ô hèn hạ đó. Dương chưởng quỹ từng bảo Biện Gia là người bốc thuốc cho phu nhân Kim Liên, do đó ông ta thường xuyên được diện kiến dung nhan của Hổ Phách. Tuy nhiên, hành hạ thê tử của một cự phú trong trấn nào phải là chuyện nhỏ, cho nên họ Biện phải nén nhịn chờ thời. Ông ta dặn Hạ Quảng theo dõi sự vụ trong Kha gia, nếu hắn có thể dụ dỗ được phu nhân Hổ Phách, dù chỉ một đêm, thì sẽ được trọng thưởng.”
Địch Nhân Kiệt đứng dậy nhấp vài ngụm trà. Sau khi ngồi lại xuống ghế, ông tiếp lời, “Trong giả thuyết thứ hai này, chúng ta phải gán các vai trò khá khác nhau cho Đổng Mai và Hạ Quảng. Ở giả thuyết đầu tiên, họ Hạ không hay biết gì kế hoạch của Đổng Mai và Hổ Phách cho đến khi Kha Nguyên Lương báo cho hắn biết. Giờ đây, ngược lại, chúng ta phải cho là hắn đã được nghe từ chính miệng họ Đổng, về cuộc gặp gỡ với Hổ Phách trong gia trang bỏ hoang để trao đổi một viên minh châu lấy số vàng lớn. Nhưng Đổng Mai vốn thận trọng, y không kể chuyện viên ngự châu chỉ là trò bịp bợm, cũng như tiết lộ việc mình đang lên kế hoạch đào tẩu với tình nương. Hạ Quảng nhận ra đó là cơ hội có được khoản tiền thưởng mà Biện đại phu hứa hẹn. Hắn chuẩn bị bản đồ phác thảo gia trang và khu lầu dựa trên thông tin moi được từ Đổng Mai, rồi đến tìm Biện đại phu để thông báo kế hoạch. Nếu ông ta có thể giữ chân họ Đổng lên đường đến chỗ hẹn, hắn sẵn sàng đi thế chỗ và nhốt Hổ Phách vào phương lầu. Sau đấy, Biện Gia có thể đường hoàng đến đó hưởng thụ. Hạ Quảng sẽ lấy vàng và ngự châu để cả hai phân chia chiến lợi phẩm. Chúng sẽ dàn xếp để thiên hạ phát hiện xác phu nhân Hổ Phách trong khu lầu vào sáng hôm sau. Khi đó mọi người, bao gồm cả Kha Nguyên Lương, sẽ quy kết rằng nhị phu nhân đã bị những gã du côn lang bạt bức hại. “Biện đại phu đồng tình với đề nghị này. Không chỉ tóm được Hổ Phách, họ Biện còn lấy được mười nén vàng, giúp giải quyết tốt đẹp các vấn đề tài chính của ông ta. Ta nghi ngờ việc Biện Gia tin vào câu chuyện về viên ngự châu. Ông ta đủ ma mãnh để đi đến kết luận là Đổng Mai đã sáng tác ra câu chuyện nhằm lên kế hoạch xây tổ uyên ương cùng Hổ Phách. Nhưng điều đó chẳng liên đới gì đến ông ta.
“Đại phu bỏ độc vào chén rượu của Đổng Mai trong buổi tiệc chiêu đãi tại Thạch Kiều. Điều đó giải thoát cho ông ta khỏi một tên tay sai rắc rối và kiếm được kha khá ngân lượng bằng cách đặt cược chống lại thuyền đua của mình. “Sau đó, phu nhân Hổ Phách phát hiện ra Hạ Quảng đang chờ mình trong khu lầu. Hắn cố gắng khuất phục nàng, nhưng Hổ Phách ra sức kháng cự và bất ngờ rút ra một thanh chủy thủ. Trong cuộc ẩu đả sau đó, tuy bị thương nhưng họ Hạ đã hạ sát Hổ Phách, một cách tình cờ hoặc là có chủ đích. Dù sao đi nữa, vụ giết người này cũng mang lại cho hắn thêm nhiều quyền lực đối với họ Biện. Hạ Quảng đoạt được vàng, nhưng sự xuất hiện bất ngờ của ta đã ngăn cản hắn tìm kiếm viên ngọc. Hắn liền trở về trấn và báo tin thất bại cho Biện đại phu. Hắn nói là muốn phần nhiều hơn số đã thỏa thuận ban đầu, do họ Biện phải chịu trách nhiệm về cái chết của Hổ Phách. Tuy nhiên, Hạ Quảng không nhận ra mình đang giao dịch với một kẻ thú tính và tàn độc. Biện Gia giả vờ đồng ý và đánh vào lòng tham của thuộc hạ, bằng cách bình phẩm rằng sẽ thật đáng tiếc nếu để vuột mất ngọc quý. Không nhận ra ngự châu là thứ chẳng bao giờ có thể giao dịch trong Đại Đường, Hạ Quảng đã bị dắt mũi, đồng ý đến gia trang bỏ hoang vào sáng nay nhằm tìm kiếm viên ngọc. Biện đại phu giao cho họ Hạ lục soát khu lầu, rồi ra tay hạ sát hắn. Lão Hồng, hãy rót cho ta chén trà khác, ta khô rát cả cổ rồi!”
Trong khi đang châm trà, lão sư gia hỏi, “Thưa đại nhân, Biện đại phu đã làm gì vào sáng nay, sau khi hạ sát Hạ Quảng?” “Có lẽ ông ta đã lẩn trốn trong những hàng cây dọc theo con đường mòn dẫn đến trang viên, chờ đợi Quách Minh đến Đổng gia trang. Đại phu để cho họ Quách đủ thời gian phát hiện ra khu lầu đã bị tra soát, sau đó ông ta mới rảo bước đến nơi hẹn. Tuy nhiên, trước khi rời chỗ ẩn nấp, Biện Gia đã trông thấy ta và lão đi bộ dọc nơi đó. Thế thì còn gì tốt bằng, giờ ông ta có đến hai nhân chứng! Thế là Biện đại phu bám theo chúng ta đến khu lầu. “À, phần còn lại của câu chuyện sẽ giống như ta diễn giải trong giả thuyết thứ nhất. Biện đại phu cũng có cơ hội như Kha Nguyên Lương để nhận ra Lý cô nương trên phố, vì ông ta cũng sớm rời khỏi công đường. Ông ta phi nhanh đến khu bắc trấn và siết cổ Mạnh bà bà. Tổng kết lại, Biện đại phu phải từ bỏ trò tiêu khiển quái đản với phu nhân Hổ Phách, nhưng ông ta đã rũ bỏ được hai tên thuộc hạ lắm chiêu trò đã khiến ông ta hao tài tốn của, tất cả rắc rối về tiền bạc cũng được giải quyết nhờ mười nén vàng lấy được, ngoài ra còn kha khá ngân lượng thắng cược tại cuộc đua thuyền. Một giả thuyết gọn ghẽ, chẳng còn mối nối lỏng lẻo nào để phải băn khoăn.” Huyện lệnh dừng lại, lắng nghe tiếng sấm rền vang từ ngoài xa vọng tới. Khi ông thay chiếc khăn ướt quanh cổ thêm lần nữa, Hồng sư gia cất lời, “Thưa, theo lão phu nhận định, giả thuyết thứ hai dường như xác đáng hơn thứ nhất. Nó đơn giản hơn, ấy là một lẽ. Và còn hai điểm chống lại Biện đại phu. Đó là ông ta cứ khăng khăng cho rằng Đổng Mai đột tử, và ông ta đã cố tình nói dối ngài là từng nhìn thấy Hạ Quảng hồi trấn sau cuộc đua thuyền.”
“Luận điểm quan trọng đấy, nhưng chưa phải mấu chốt để kết luận,” Địch Nhân Kiệt đáp. “Các triệu chứng của Đổng Mai rất giống với bị suy tim. Và vì mặt Hạ Quảng bị có một vết sẹo, Biện đại phu có thể đã nhầm lẫn người nào đó có vết sẹo tương tự với hắn. Đấy là nếu Biện đại phu vô tội!” “Bẩm, ai là người đã đã sửa chữa phương lâu?” “Ta tin đấy là Đổng Mai. Y đã sống ở đó và hiểu rõ khu vực ấy như lòng bàn tay. Tuy nhiên, y không gia cố khu lầu để cất trữ các cổ vật mà mình trao đổi mua bán, như lúc đầu ta đã giả định. Cửa sổ có chấn song, cửa ra vào nặng trịch, ổ khóa mới tinh, mọi sự đề phòng cẩn trọng này không phải để ngăn cản ngoại nhân xâm nhập, mà nhằm giữ không cho người ở trong trốn ra! Phương lầu đó thậm chí còn phù hợp cho những trò trác táng bí mật cùng các nạn nhân bất đắc dĩ hơn cả cái ổ của Mạnh bà bà. ‘Sẽ chẳng ai nghe thấy tiếng cục ta cục tác đâu!’, như Hạ Quảng từng nói.” Hồng sư gia gật đầu, vừa suy ngẫm vừa chậm rãi vuốt chòm râu mỏng. Chợt lão nhíu mày hỏi, “Bẩm, đại nhân nói có ba nghi phạm dẫn đầu danh sách. Có phải Quách Minh là kẻ thứ ba? Lão phu phải thú thật là…” Lão đột ngột ngừng lời. Từ ngoài hành hành lang vang lên tiếng giày đinh ống nện rầm rập. Cánh cửa phòng bật mở và viên bộ đầu sầm sập xông vào. “Bẩm đại nhân, Biện đại phu đã bị tấn công và thoát chết trong gang tấc!” Y hổn hển thưa. “Ngay trên con phố trước Văn miếu!”
HỒI 15 Quân bài cẩu, lần ra manh mối Một bàn tay, gỡ rối lạ lùng Địch huyện lệnh trân trân ngó sang Hồng sư gia. Ông ngồi thẳng người dậy, bàng hoàng hỏi viên bộ đầu, “Là kẻ nào gây ra?” “Bẩm đại nhân, hắn chạy mất rồi! Biện đại phu vẫn còn nằm lăn lóc bên đường, ngay tại nơi ông ta bị đánh.” “Chuyện xảy ra như thế nào?” “Thưa, Biện đại phu bị tấn công khi đang tản bộ dọc theo phố về phía cây cầu bắc qua kênh. Tên vô lại đã đấm gục ông ta. Nhưng Dương chưởng quỹ đã nghe thấy tiếng kêu cứu, vội từ tiệm chạy ra, đúng lúc hung thủ sắp sửa đoạt lấy ngân lượng của nạn nhân. Thấy có người, hung thủ liền buông đại phu ra và tháo chạy. Họ Dương đuổi theo. Không may là tên vô lại đã biến mất trong các ngõ hẻm quanh co chằng chịt phía bên kia kênh đào trước khi ông ta tóm được hắn. Dương chưởng quỹ kiểm tra thấy Biện đại phu vẫn còn sống và tỉnh táo, bèn gọi người gác Văn miếu đến trông coi giùm và tới đây cấp báo cho nha phủ.” Viên bộ đầu hít một hơi thật sâu và tiếp lời, “Biện Gia khăng khăng không muốn bị động chạm vào người, cho đến khi một đại phu khác đến xác nhận xương khớp không có chỗ nứt gãy nào nguy hiểm.” Địch Nhân Kiệt nhổm dậy. “Chúng ta sẽ đi tới đó ngay lập tức. Bộ đầu, mau gọi ngỗ tác và cho thuộc hạ của ngươi mang theo cáng. Còn lão Hồng sẽ tháp tùng ta!” Bầu trời vẫn còn bị những đám mây đen vần vũ che khuất. Họ rảo bước nhanh xuống con phố nóng hầm hập, men theo bức tường ngoại vi của nha phủ. Đến Văn miếu, họ trông thấy một đám người đang lố nhố tụ tập gần cổng gác. Viên bộ đầu mạnh tay đẩy dạt đám người xem hiếu kỳ sang một bên để lấy lối cho huyện lệnh vào.
Biện đại phu đang nằm duỗi dài ngay sát chân tường. Dương chưởng quỹ đang đặt một chiếc áo được gấp lại dưới đầu nạn nhân. Chiếc mũ văng lăn lóc, búi tóc ông ta xổ ra, mái tóc muối tiêu dính bết vào gương mặt nhợt nhạt. Có một vết sưng to phía trên tai trái, cả bên mặt trái đều bị bầm tím. Trang phục bám đầy bụi đường và rách toạc từ vai đến thắt lưng. Khi ngỗ tác ngồi xổm xuống bên cạnh, Biện đại phu thì thào, “Hãy kiểm tra ngực, hông, tay phải và chân phải. Đầu ta không sao. Vết bầm đau nhức nhối, nhưng ta nghĩ thái dương không bị tổn thương.” Trong khi ngỗ tác bắt đầu kiểm tra tỉ mỉ phần ngực của Biện đại phu thì Địch Nhân Kiệt khom người hỏi, “Chuyện xảy ra như thế nào?” “Bẩm, thảo dân đang trên đường đến khám cho một nữ nhân trở dạ ở phố Bán Nguyệt, phía bên kia cầu. Không có ai xung quanh cả. Thảo dân…” Ông ta chợt dừng lời, môi co giật đau đớn khi ngỗ tác chạm đến sườn. “Tên ác ôn đã tấn công đại phu từ phía sau!” Vị thương gia đồ cổ giận dữ thốt lên. “Hắn lén lút sau lưng,” Biện đại phu thều thào. “Khi định quay lại nhìn, thảo dân nhận ngay một cú đấm vào phía bên trái đầu, khiến thảo dân văng mạnh vào tường. Thảo dân ngã xuống, sa sẩm mặt mày, nửa tỉnh nửa mê. Thảo dân ngờ ngợ trông thấy một tên vô lại cao lớn lù lù hiện ra trước mặt mình. Thảo dân bèn la to lên cầu cứu, nhưng hắn đã chặn họng thảo dân bằng một cú đá trời giáng. Rồi hắn cúi xuống, xé toạc áo thảo dân ra. Chợt hắn ngừng lại và bỏ chạy về phía cây cầu, Dương tiên sinh đuổi theo.”
“Bẩm, hắn khá cao lớn, khoác trang phục nâu xám từ đầu đến chân!” Họ Dương phấn khích nói. “Hắn búi tóc cao bằng một miếng giẻ rách.” “Dương tiên sinh, ngươi có thể nhận diện được hắn không?” Địch Nhân Kiệt hỏi. “Thưa, thảo dân chỉ thoáng thấy hắn thôi. Hung thủ có gương mặt tròn, râu ria cụt ngủn, phải không hả đại phu?” Biện Gia gật đầu. “Ngươi có thường mang nhiều ngân lượng trong người không?” ông hỏi. Khi nạn nhân lắc đầu, huyện lệnh lại hỏi, “Không có văn thư gì quan trọng à?” “Bẩm, chỉ có vài đơn thuốc và mấy tờ chi phiếu,” Biện đại phu lẩm bẩm. Ngỗ tác đứng dậy và phấn khởi nói, “Không cần phải lo lắng, đại phu à! Tuy ngực ông bị bầm tím nhưng không có cái xương sườn nào gãy cả, ta đã xem xét kỹ lưỡng rồi. Khuỷu tay phải bị trật khớp, đầu gối phải cũng thế. Ta sẽ khám cho ông cẩn thận hơn ở y đường của nha môn.” “Đặt đại phu lên cáng,” Địch Nhân Kiệt nói với ngỗ tác. Đoạn ông quay sang viên bộ đầu, “Cho bốn thuộc hạ của ngươi đến phố Bán Nguyệt, lệnh cho họ tra soát kỹ càng nhằm tìm cho ra tên vô lại giống như mô tả của Dương chưởng quỹ. Hắn thuận tay trái.” Ngay sau đó, huyện lệnh quay sang người gác cổng và quát nạt, “Ngươi không nghe, không thấy bất cứ thứ gì sao? Ngươi đang làm gì chứ? Chẳng phải ngươi được giao canh gác ngôi miếu?” “Bẩm, lúc đó… thảo dân chỉ mới chợp mắt thôi!” Nam nhân lắp bắp đáp. “Thảo dân nghỉ ở gian buồng kế bên cổng miếu và bị tiếng gõ cửa của Dương tiên sinh đánh thức.”
“Bẩm, thảo dân cũng đang ngả lưng chốc lát vào ban trưa,” Dương chưởng quỹ thưa. “Tình cờ là lúc đó đứa tiểu nhị đang sắp xếp bộ sưu tập các món đồ ngọc bích khá giá trị, nên thảo dân đã đi xuống để xem liệu tiểu tử đã cất mọi thứ vào rương rồi khóa lại trước khi đi ăn chưa. Khi xuống đến lầu dưới thì thảo dân nghe thấy tiếng kêu la cầu cứu, liền vội vàng phóng ngay ra phố. Thảo dân trông thấy một tên côn đồ đang xé áo Biện đại phu. Hắn nghe thấy tiếng thảo dân và bỏ chạy. Thảo dân đuổi thục mạng theo hắn nhưng lực bất tòng tâm, đôi chân già nua này không sao đọ được tên ác ôn,” ông ta nói với nụ cười tiếc nuối. “Dương tiên sinh, ngươi đã cứu mạng đại phu,” Địch Nhân Kiệt nói. “Bây giờ ngươi có thể đi cùng ta đến nha phủ để viết bản cung khai chính thức. Bộ khoái, hạ cáng xuống! Đừng đụng vào người đại phu!” Ông quan sát ngỗ tác và Dương chưởng quỹ đưa Biện đại phu lên cáng. Hồng sư gia cùng bọn họ giúp Biện Gia nằm thoải mái trên đó. Khi hai bộ khoái đang cẩn thận nâng cáng lên, Địch Nhân Kiệt khẽ nói với lão Hồng, “Hung thủ đã lựa chọn đúng thời điểm ra tay. Trong giờ nghỉ trưa nóng bức này, sẽ có ít người bước chân ra ngoài phố. Mà khu vực bên kia cầu chẳng khác gì tổ mối, một nơi tuyệt vời để lẩn trốn.” Ông ra hiệu cho lão sư gia và bộ đầu tháp tùng mình. Ba người cùng đi bộ về phủ, theo sau là những bộ khoái khiêng cáng, ngỗ tác cùng Dương chưởng quỹ đi cuối đoàn.
Địch Nhân Kiệt nói với viên bộ đầu, “Hãy lấy một con ngựa tốt, phi tới bến tàu. Công vụ hỏa tốc, ngươi hãy gắng hết sức đi thật nhanh. Lên thuyền của Quách Minh và triệu gã tới nha phủ. Nếu họ Quách không có ở đó thì ngươi ngồi lại đợi gã! Nhanh lên nào!” Khi bộ đầu lao như phi tiễn về phía trước, ông thì thầm với Hồng sư gia, “Lão hãy tới Kha gia ngay lập tức và kiểm tra xem có đúng là y đang an giấc trong tiết trời nóng bức này không!” Quay lại thư phòng, Địch Nhân Kiệt ngồi xuống sau án thư và châm cho mình một chén trà. Ông uống cạn trong một hớp, rồi tỳ khuỷu tay lên án. Vừa cau mày suy tư, ông vừa cố gắng sắp xếp lại các ý nghĩ đang tràn ngập trong đầu. Có điều không ổn với tiến triển mới nhất, điều gì đó về vụ án này mà trực giác ông từng lờ mờ cảm nhận được. Trường bào xám ướt đẫm mồ hôi, lưng và vai áo dính bết vào người, nhưng ông thậm chí còn chẳng nhận ra. Sau hồi lâu, huyện lệnh bất chợt đứng bật dậy, miệng lầm bầm, “Đúng! Đó chính là lời giải! Mọi thứ đều khớp, ngoại trừ động cơ!” Ông ngồi lại xuống, cố gắng quyết định xem hành động thế nào cho khôn ngoan. Lập luận mà ông đưa ra không hẳn là bất khả thi, nhưng liệu có chí công vô tư khi buộc tội kẻ khác dựa trên trực giác của bản thân không? Nên ưu tiên giả thuyết đến từ một suy luận cẩn trọng và hợp lý hơn một trực giác chăng? Liệu ông có thể tiến hành kiểm tra trực giác và lập luận của mình cùng một lúc? Vuốt chòm râu dài, một lần nữa ông lại chìm vào những suy nghĩ miên man.
Mãi sau đó huyện lệnh mới trở về thực tại khi viên ngỗ tác đến báo cáo. “Bẩm đại nhân, Biện đại phu đã ổn cả rồi,” ông ta thưa với vẻ hài lòng. “Thuộc hạ đã tra thuốc mỡ vào ngực của họ Biện trước khi băng vết thương lại, rồi đặt tay phải ông ta trong một cái băng đeo. Ông ta đã có thể chống gậy đi lại. Đại phu hỏi là liệu bây giờ mình có thể hồi gia để nghỉ ngơi cho thoải mái được chưa.” “Bảo với Biện đại phu là ông ta có thể nghỉ ngơi tại nha phủ này,” Địch Nhân Kiệt nói cộc lốc. Nhận ra vẻ ngạc nhiên của ngỗ tác, ông thêm lời, “Ta còn muốn hỏi Biện Gia thêm vài câu.” Không lâu sau khi ngỗ tác thoái lui, Hồng sư gia bước vào. Địch Nhân Kiệt ra dấu cho lão ngồi xuống chiếc ghế đẩu phía trước án thư và hào hứng hỏi, “Lão có thấy họ Kha ở nhà không?” “Dạ không, thưa đại nhân. Viên quản gia báo rằng Kha Nguyên Lương nói trời quá nóng, không ngủ trưa trong nhà được, nên y đã đến miếu Thành hoàng thắp nén hương. Áo quan của phu nhân Hổ Phách đang được đặt tạm ở đó, chờ ngày tốt để an táng. Họ Kha chỉ vừa mới về tư gia thôi. Lão phu đã bảo họ Kha chờ ở nhà, vì có thể đại nhân sẽ muốn triệu tập y đến nha phủ.” Trao cho chủ một ánh nhìn băn khoăn, lão Hồng hỏi, “Bẩm, việc tấn công Biện đại phu có nghĩa là sao?” “Có thể chuyện đúng y như vẻ bề ngoài,” Địch Nhân Kiệt chậm rãi trả lời, “chỉ là một vụ hành hung cướp của. Nếu thế thì sự vụ bất ngờ này chẳng ảnh hưởng gì đến giả thuyết của ta về tội ác của Biện đại phu. Ngược lại, nếu đó là một vụ mưu sát, thì Biện Gia chắc chắn vô tội. Dù không chủ tâm nhưng hẳn ông ta đã biết được điều gì đó có thể giúp chúng ta lần ra hung thủ đích thực, do đó mà hắn muốn bịt miệng vị đại phu.
“Trong trường hợp này, chúng ta phải tập trung vào giả thuyết về Kha Nguyên Lương. Chuyến đi đậm mùi thương hoa tiếc ngọc chỉ là cái cớ để y có cơ hội thuê một tên côn đồ hạ sát vị đại phu. Tiện đây, Biện Gia muốn trở về nhà, nhưng ta đã lệnh cho ông ta ở lại đây, nhằm ngăn ngừa nỗ lực giết người đoạt mạng thứ hai. May là lão đã lệnh cho họ Kha ở nhà đến khi có thông cáo mới. Chúng ta chỉ cần phải bận tâm đến nghi can thứ ba là Quách Minh.” “Vậy ra họ Quách đúng là kẻ thứ ba!” Hồng sư gia kêu lên. “Bẩm đại nhân, tại sao ngài thêm gã vào danh sách nghi phạm? Dĩ nhiên là nhân dạng của Quách Minh giống như mô tả của Dương chưởng quỹ về kẻ tấn công, nhưng ngài đã liệt gã vào diện nghi vấn trước cả khi vụ tấn công này xảy ra.” Địch Nhân Kiệt uể oải mỉm cười. “Ta phải tính cả họ Quách vào, lão Hồng à! Ngay khi ta khám phá ra ý nghĩa của việc một thẻ bài cẩu bị mất.” “Thưa, một thẻ bài cẩu?” “Đúng thế. Chính xác là quân linh linh. Tối qua, một kẻ nào đó đã thủ mất con bài cẩu đó từ dây bài mà ta chơi cùng các phu nhân trên boong thuyền. Những kẻ có cơ hội lấy nó chỉ có Kha Nguyên Lương, Biện Gia và Quách Minh. Họ Biện và họ Kha đã lên thuyền để báo cáo với ta về cuộc đua thuyền, khi ấy các tỳ nữ đang dẹp các thẻ bài cẩu sang một bên và lật ngửa một số con lên để phục vụ trà nước. Họ Quách đã lên thuyền trong lúc ta cùng các phu nhân tạm ngừng chơi bài để ngắm nhìn quang cảnh lễ hội.”
“Nhưng vì sao tên tội nhân lại muốn một thẻ bài cẩu?” “Bởi vì hắn là một kẻ nhanh trí,” ông trả lời với một nụ cười ảm đạm, “nhạy bén hơn ta nhiều, thực là thế! Khi thấy quân linh linh nằm chỏng chơ trên bàn, hắn chợt nhận ra nó rất giống thẻ bài ra vào cổng thành. Chỉ cần nhìn thoáng là hắn nảy sinh tà ý ngay, còn ta phải mất kha khá thời gian mới nhận ra điều đó. Quân bài làm lóe lên trong đầu hắn việc thuộc hạ sẽ gặp khó khăn khi trở về thành sau giờ đóng cổng, Hạ Quảng sẽ phải chứng minh danh tính cho lính gác Nam môn. Nếu sau đó có bất cứ cuộc thẩm tra nào về những người nhập thành quá muộn, dù là liên đới đến vụ Đổng Mai bị hạ sát hay việc Hổ Phách bị hành hạ ở gia trang bỏ hoang, rất có thể lính canh sẽ nhớ ra Hạ Quảng, đặc biệt là vì vết sẹo trên mặt hắn. Do đó kẻ chủ mưu đã nhanh tay ăn trộm quân bài cẩu. Sau đó, hắn viết nguệch ngoạc một số bất kỳ lên thẻ bài trước khi đưa nó cho tên tay sai. Quả thực Hạ Quảng đã sử dụng nó lúc vào trấn để báo cáo cho chủ về chuyện xảy ra trong khu lầu. Viên vệ úy Nam môn đã chuyển lại thẻ bài giả mạo cho ta.” “Bẩm, hung thủ đã phạm phải một sai lầm tồi tệ,” lão sư gia bình phẩm. “Không quá tệ. Hắn không thể biết là ta theo dõi sát sao các thẻ bài cẩu, đến mức một quân bị thiếu cũng đủ để ta nghĩ đến ẩn tình bên trong. Thôi, đưa ra giả thuyết thế là đủ rồi! Bây giờ chúng ta phải bắt tay vào việc ngay, còn quá nhiều thứ phải làm mà thời gian lại hạn hẹp. Đáng lẽ chúng ta phải khởi xướng một cuộc điều tra diện rộng về thân thế của mọi nghi phạm, dĩ nhiên rồi, nhưng không may là chẳng còn thời gian để làm thế nữa. Không thể để vụ án mạng thứ năm xảy ra! Chúng ta cần hành động ngay, nhưng ta phải định vị được Quách Minh trước đã. Lão hãy đi xem liệu viên bộ đầu đã trở lại nha phủ hay chưa!”
Hồng sư gia nhanh chóng đi hỏi chuyện lính gác cổng. Địch Nhân Kiệt đứng dậy và bước về phía cửa sổ, mở cánh cửa rồi rướn mình ra ngoài. Ông cảm thấy thư thái, dường như có một làn gió dìu dịu thổi qua. Rồi ông trầm ngâm lướt nhìn hòn non bộ. Chú rùa đang khoan thai lê bước giữa đám cây cối bao quanh hồ cá nhỏ. Nó ì ạch di chuyển những cái chân cứng cáp, đầu hăm hở vươn dài. Nghe thấy tiếng Hồng sư gia bước vào, ông quay người lại. “Bẩm đại nhân, viên bộ đầu vẫn chưa quay lại từ bến tàu.” “Ta hi vọng Quách Minh chưa cao chạy xa bay!” Địch Nhân Kiệt lo lắng nói. Đoạn ông lắc đầu và thêm lời, “Không, gã sẽ chẳng bỏ trốn đâu. Gã khôn ngoan hơn thế nhiều.” Ông nhấc cây quạt lông lên, ngồi lại xuống ghế và tiếp tục, “Trong khi đợi họ Quách, ta sẽ diễn giải giả thuyết chống lại gã. Rồi lão sẽ biết chính xác chúng ta đang đứng ở vị thế nào đối với ba nghi phạm đứng đầu danh sách kia.” Huyện lệnh thay một chiếc khăn ướt mới quanh cổ mình rồi bắt đầu, “Ta cho là ở chốn kinh kỳ, Quách Minh sống một cuộc đời mẫu mực. Chỉ trong những chuyến giao thương thường xuyên, gã mới bộc lộ thói dâm ô thú tính của mình ra. Là một kẻ khôn ngoan hiếm có, họ Quách có thể che giấu những khoái lạc bệnh hoạn kia một cách kín đáo, rất kín đáo. Thậm chí gã không quản khó nhọc xây dựng danh tiếng một thương gia đường hoàng với các khách điếm mình trú ngụ, một nam nhân thỉnh thoảng lại qua đêm với kỹ nữ thanh lâu, được chưởng quỹ gọi đến theo lối thông thường, rất lành mạnh và rẻ tiền.
“Thông qua sở thích buôn bán cổ vật, trong những chuyến du hành đến Phổ Dương, Quách Minh lại quen biết bọn nho sinh Đổng Hạ. Gã lần lượt thuê Đổng Mai rồi Hạ Quảng để phục vụ cho những khoái lạc thực sự của bản thân, không hề lành mạnh và rẻ tiền chút nào. Nhờ chung chí hướng về đồ cổ mà Quách Minh và Kha Nguyên Lương kết nối với nhau, Dương chưởng quỹ từng nói với ta là thỉnh thoảng họ Kha có mua hàng của gã. Chúng ta biết rằng Hổ Phách sắm vai trợ thủ của phu quân mình, sắp xếp và lên danh mục các cổ vật, vì thế chắc hẳn họ Quách đã gặp Hổ Phách một vài lần khi thăm viếng Kha gia. Gã thèm muốn Hổ Phách với cùng một lý do mà ta đã đề cập trong giả thuyết về Biện đại phu: ham muốn hành hạ và làm nhục một quý phu nhân đài các. Gã ra lệnh cho Hạ Quảng cấp báo ngay khi thấy có cơ hội giăng bẫy nhị phu nhân. “Vài ngày trước, hẳn Quách Minh đã thông báo cho Hạ Quảng qua thư tín rằng sẽ đến Thạch Kiều vào sáng hôm qua. Đoán biết trước mong muốn của ông chủ, họ Hạ đã thuê ba tên lưu manh bắt cóc Lý cô nương. Kỹ nữ là nữ nhi mà họ Quách từng lựa chọn làm nạn nhân tương lai, khi gã gặp nàng ở một bữa tiệc trong một lần viếng thăm Phổ Dương. Buổi sáng hôm qua, Hạ Quảng hối hả đến Thạch Kiều, báo với Quách Minh rằng mình đã dàn xếp vụ bắt cóc Lý cô nương. Hắn cũng cung cấp một tin mới: họ Quách có thể đoạt được Hổ Phách ngay tối hôm ấy. Sau đó hắn kể về cuộc hẹn đã được trù tính trong gia trang bỏ hoang, và thêm rằng đã sẵn sàng đến đó thế thân cho Đổng Mai.
“Quách Minh nhiệt tình đồng ý. Cùng với việc thỏa mãn thói ác dâm của bản thân, gã lại còn có thêm được mười nén vàng. Có lẽ gã không tin câu chuyện về viên ngự châu và giữ mối nghi ngờ đó trong lòng. Mối bận tâm đầu tiên là làm cách nào loại bỏ được Đổng Mai. Hạ Quảng kể rằng trước cuộc đua, các đội thuyền phu sẽ được thết đãi tại Thạch Kiều và Đổng Mai cũng sẽ đến vì là trống thủ của đội Biện đại phu. Chuyện đó giải quyết được vấn đề của họ Quách. Gã gửi một bức thư ngắn vời vị đại phu đến gặp mình trên thuyền mành. Ông ta hồi đáp là hiện mình bận mất rồi, nhưng sẽ đến vào buổi ban trưa. Thế thì càng tốt. Họ Quách để Biện đại phu đưa mình đến buổi yến tiệc, ở đó gã đã hạ độc vào chén rượu của Đổng Mai. Hạ Quảng sẽ tới chỗ hẹn, Quách Minh sẽ đến đó ngay khi thuộc hạ báo rằng Hổ Phách đã bị giam chân tại phương lầu. Gã sẽ hành hạ nữ nhân đau khổ kia vào sáng hôm sau, lúc gặp Biện đại phu để xem xét điền sản. “Là một kẻ tham lam, Quách Minh đưa cho Hạ Quảng những chỉ dẫn cần thiết để chi phối các vụ cá cược. Cuối cùng, gã lệnh cho thuộc hạ hủy bỏ thỏa thuận với ba tên lưu manh kia. Giờ đây tâm trí gã đang hướng đến thứ hấp dẫn hơn việc hành hạ một kỹ nữ tầm thường.” Địch Nhân Kiệt chìm vào im lặng, lắng nghe tiếng sấm vang rền hồi lâu. Dường như cơn giông đang đến rất gần. “Thưa đại nhân, tại sao họ Quách ghé thăm thuyền của ngài vào tối qua?” Lão sư gia hỏi.
“Bản thân ta cũng tự hỏi mình câu đó, lão Hồng à! Hẳn là Quách Minh muốn tạo ra chứng cứ ngoại phạm, rằng mình ở đó trong suốt cuộc đua thuyền và không trở lại Thạch Kiều cho tới tận buổi đêm. Các thuyền phu đã say sưa, còn họ Tôn thì lăn đùng ra ốm, vì thế họ sẽ khó mà theo dấu được hành tung của Quách Minh. Tuy nhiên, gã đã thó được thẻ bài cẩu, trao nó cho Hạ Quảng, rồi vội vàng trở lại Thạch Kiều. Đến khuya, gã gặp thuộc hạ ở đó và được thông báo là mọi chuyện đã hỏng bét: Hạ Quảng buộc phải ra tay kết liễu Hổ Phách và chỉ lấy được vàng, do sự xuất hiện của ta đã ngăn cản hắn tìm kiếm viên ngọc. Họ Quách tiếc nuối vì đánh mất những giờ khắc vàng ngọc với Hổ Phách, bù lại gã đã có được mười nén vàng, có lẽ việc này còn quan trọng với gã hơn. Sau đó thì diễn tiến câu chuyện cũng như những gì ta từng phác thảo ra trong giả thuyết về họ Kha và họ Biện. Tất cả là vậy.” Huyện lệnh lau sạch mặt với một cái khăn mới, lão Hồng cũng làm như vậy. Sức nóng ngột ngạt vẫn bao trùm khắp thư phòng nhỏ. Sau một lúc, Hồng sư gia nhận xét, “Thưa, có một điểm nhỏ bênh vực cho họ Quách. Gã đã phát bệnh dữ dội và nôn mửa, khi trông thấy tử thi của Hạ Quảng. Điều đó không dễ giả vờ.” “Quách Minh đã lịch sự quay lưng lại, còn ta với lão thì đang tập trung vào phát hiện khủng khiếp của mình. Gã có thể nhét ngón tay vào cổ họng mình để diễn cho chúng ta xem.”
Có một tiếng gõ cửa và viên bộ đầu bước vào phòng. Y bắt đầu với một nụ cười thỏa mãn, “Bẩm đại nhân, thuộc hạ đã phải chờ rất lâu mới chộp được Quách Minh! Viên trưởng thuyền nói là ngay sau bữa cơm trưa, họ Quách và họ Tôn đã vào trấn để đi mua sắm. Họ Tôn trở về một mình trước, cho biết là đồng sự có chút việc nên nán lại ở khu ven sông. Thuộc hạ liền đến đó luôn, tìm ra dấu vết Quách Minh ở một dược phòng nhỏ và tóm cổ gã ở đó. Bây giờ, họ Quách đang chờ trong buồng gác.” “Tốt! Thế Biện đại phu đâu rồi?” “Bẩm, đại phu đang dùng trà với ngỗ tác trong thư phòng của các lục sự. Ông ta đã đọc xong báo cáo của mình về vụ hành hung. Thuộc hạ cũng có ở đây tờ cung khai do Dương chưởng quỹ viết ra. Họ Dương đã trở về cửa hiệu đồ cổ rồi.” Địch Nhân Kiệt liếc nhanh qua hai tờ khai. Ông trao chúng cho sư gia rồi hỏi bộ đầu, “Thuộc hạ của ngươi đã bắt được tên đạo tặc rồi chứ?” Mặt viên bộ đầu thất thần. “Bẩm đại nhân, chưa ạ. Họ đã tra hỏi nhiều người ở phố Bán Nguyệt và lục soát mọi nơi có thể, nhưng chẳng tìm thấy dấu vết nào của tên côn đồ.” Y lo lắng nhìn huyện lệnh, chờ đợi một trận lôi đình. Nhưng Địch Nhân Kiệt chẳng trách mắng gì, ông chỉ lặng lẽ giật tóc mai. Rồi ông nói, “Bảo với Quách Minh là bản quan chưa tiếp gã được, bởi ta muốn Kha Nguyên Lương và Biện Gia cùng có mặt để nói chuyện. Ta quyết định tổ chức một cuộc thảo luận thân mật, không có nghi thức quan cách gì cả, ở biệt phủ của Kha gia. Nơi đó tốt hơn nhiều ở đây, trong nha phủ này. Giờ ngươi có thể dẫn họ Quách và Biện đại phu đến đó trong kiệu kín. Nói với họ Kha là ta muốn tổ chức cuộc gặp trong thư viện, một gian phòng yên tĩnh nằm cách biệt với nhà chính. Ngươi có thể thông báo với gia chủ là đích thân huyện lệnh sẽ đến đó, ngay khi đã giải quyết xong một vài công vụ thường nhật. Ngươi nắm hết rồi chứ?”
Thấy viên bộ đầu khúm núm cúi đầu, Địch Nhân Kiệt tiếp lời, “Sau khi đã đưa hai nam nhân kia đến nơi, ngươi hãy quay về đây ngay lập tức để nhận thêm chỉ dẫn.” Khi bộ đầu đã rời đi, Hồng sư gia hồ hởi hỏi, “Bẩm, có phải ngài kỳ vọng rằng nếu diễn ra cuộc xét đoán ba bên, tên tội nhân sẽ để lộ thân phận?” “Đó là những gì ta hi vọng, ít ra là thế! Giờ ta có một việc vặt nhờ lão đây. Ta cần một bàn tay gỗ.” “Bẩm, một bàn tay gỗ ư?” “Đúng thế. Hãy tới cửa hiệu đồ cổ của Dương chưởng quỹ để hỏi. Dứt khoát ông ta phải có vài bàn tay còn dư từ các bức tượng Phật đang nằm lăn lóc đâu đó. Theo lẽ thường, chúng được chạm khắc từ một khúc gỗ riêng rẽ rồi được gắn vào bức tượng, sau khi thân tượng đã hoàn thành. Ta muốn có một bàn tay trái, cỡ như tay thật hoặc lớn hơn. Lão hãy bảo họ Dương sơn nó màu trắng và lồng vào ngón trỏ một cái nhẫn đồng có đính vài viên đá đỏ rẻ tiền. Lão sẽ giải thích rằng chúng ta cần bàn tay đó làm tang vật, trong một cuộc gặp gỡ với Biện đại phu và Quách Minh mà ta đã sắp xếp ở thư viện của Kha gia.” Một ánh chớp lóe lên sau khung cửa sổ dán giấy, liền sau đó là tiếng sấm đinh tai nhức óc. Địch Nhân Kiệt nhanh chóng tiếp lời, “Lão Hồng à, tốt hơn là lão nên đi kiệu, phòng khi cơn mưa bắt đầu đổ xuống. Khi lão quay về, ta sẽ giải thích những gì mình đang trù tính. Khởi hành nào, thời giờ có hạn!”
HỒI 16 Vào Kha phủ, Địch Công luận án Bày trò ma, huyện lệnh gặp ma Hoàng hôn buông dần khi đám phu ướt đẫm mồ hôi hạ kiệu xuống sân trước của Kha phủ. Sáu chiếc đèn lồng lớn bằng giấy dầu treo lủng lẳng ở mái hiên bao quanh dinh cơ, mỗi chiếc đều dán những dòng chữ lớn màu đỏ, ‘Kha gia phủ’. Ánh đèn rọi lên gương mặt lo âu của Kha Nguyên Lương khi y vội vã chạy đến bên chiếc kiệu, đi cùng là tay quản gia. Hai nam nhân đã đứng trong sân một hồi lâu, chờ đợi để nghênh tiếp huyện lệnh ghé thăm. Địch Nhân Kiệt xuống kiệu, Hồng sư gia nối bước. Họ Kha cúi rạp mình thi lễ. Huyện lệnh gật đầu, đoạn niềm nở gửi lời đến y, “Cáo lỗi với Kha tiên sinh. Công vụ bận rộn đã giữ chân ta ở nha phủ đến tận giờ! Hẳn Quách tiên sinh và Biện đại phu đã đến rồi chứ?” “Bẩm đại nhân, quả là thế. Bọn thảo dân đang e rằng bão đến khi đại nhân vẫn còn đang trên kiệu đến đây thì vất vả quá.” Vừa khi ấy, một tia chớp sáng lóe rạch xé bầu trời, theo sau là tiếng sấm nổ đùng đùng, y nhanh chóng tiếp lời, “Mời đi lối này, thưa các vị!” Rồi họ Kha vội vàng dẫn đường cho họ vào bên trong. Y dẫn Địch Nhân Kiệt và lão Hồng xuyên qua một dãy hành lang quanh co đến thư viện ở phía sau khu nhà. Khi bước chân vào bên trong, huyện lệnh hài lòng nhìn thấy thư viện vẫn bài trí nguyên vẹn như trong ký ức. Gian phòng lớn chỉ bày biện ít đồ đạc, được thắp sáng nhờ sáu giá nến, sắp làm ba cặp đặt trước bốn cái cửa sổ ở vách tường trong. Bên trái cửa ra vào là một tủ lớn trưng các món đồ cổ ngoại quốc bằng sứ và pha lê bày đẹp mắt. Bức vách bên phải được che kín hoàn toàn bằng những cái giá cao, chất đầy sách và các cuộn bản thảo. Một tấm thảm dày màu xanh lam phủ trên sàn nhà. Chính giữa phòng kê một cái bàn vuông nặng trịch bằng gỗ mun bóng loáng cùng bốn chiếc ghế cùng chất liệu. Biện đại phu và Quách Minh đang ngồi quanh bàn trà ở phía góc xa, cạnh cửa sổ bên phải.
Cả hai hấp tấp đứng dậy và bước tới yết kiến huyện lệnh. Biện đại phu nặng nề chống vào một cây gậy tre. Địch Nhân Kiệt hài lòng khi thấy việc chờ đợi trong gian phòng kín mít, nóng nực đã làm hai nam nhân kia mệt lừ đừ. Gương mặt họ phờ phạc dưới ánh nến, bộ y phục mỏng mặc mùa hè đang bết chặt vào bờ vai ẩm ướt. Địch Nhân Kiệt hồ hởi mở lời, “Mời các vị an tọa! Ta rất mừng khi thấy ngươi vẫn mạnh khỏe, đại phu à. Dù vậy, ngươi nên cẩn thận, đừng di chuyển tới lui quá nhiều!” Ông ngồi xuống bên bàn, rồi tiếp tục, “Ta vô cùng áy náy vì đã để mấy vị phải chờ đợi, nhưng chắc các ngươi cũng biết công vụ trong nha phủ như thế nào…” Cắt ngang lời thì thầm nho nhã của họ Kha, ông bảo, “Phụ tá của ta sẽ giúp viên quản gia châm trà, Kha tiên sinh à. Nơi đây hơi nóng nực, ta phải thừa nhận thế, nhưng ngươi đã đúng khi đóng cửa sổ lại. Sắp có giông lớn ngoài kia. Nhưng nhìn tới nhìn lui thì chúng ta cũng không nên than phiền gì về thời tiết nơi đây, mỗi khi ta nghĩ đến mùa đông khắc nghiệt ở phương bắc…” Mọi người trao đổi những câu bình phẩm nhã nhặn trong khi viên quản gia và lão Hồng phục vụ trà nước. Nhấp một ngụm trà, huyện lệnh nở nụ cười phóng khoáng và tấm tắc khen, “Cực phẩm! Trà ngon lắm, Kha tiên sinh! Đúng như thiên hạ kỳ vọng về một nam nhân có khẩu vị tao nhã như ngươi!” Trông thấy Địch Nhân Kiệt đang cao hứng, hiển nhiên những vị khách khác cũng tươi tắn hẳn lên.
Biện đại phu lau mồ hôi đọng trên vầng trán và hỏi, “Bẩm đại nhân, đã có tin gì mới về tên côn đồ đã tấn công thảo dân chưa ạ?” “Vẫn chưa, Biện đại phu à, nhưng thuộc hạ của ta đang theo dấu hắn. Đừng lo lắng, chúng ta sẽ sớm tóm được tên côn đồ đó!” “Bẩm, thảo dân vô cùng hối tiếc đã gây thêm rắc rối,” vị đại phu nói với vẻ hối lỗi. “Chắc hẳn đại nhân đang cực kỳ bận rộn với những vụ án mạ…” Ông ta ngắt lời giữa chừng, liếc nhanh về phía gia chủ và tự sửa lại ngôn từ, “… với những vấn đề hệ trọng khác.” “Đúng thế, quả thật ta đang vô cùng bận rộn. Cũng vì những vấn đề ấy mà ta triệu tập cuộc hội kiến này. Bản quan đã yêu cầu các vị thân chinh tới đây, bởi vì ta cần những lời khuyên.” Quay sang phía Kha Nguyên Lương, ông tiếp lời, “Bản quan tin là ngươi sẽ tha lỗi cho ta vì đã chọn Kha gia phủ làm nơi gặp mặt, trong những ngày tang tóc buồn thương này. Nhưng vì ngươi liên đới trực tiếp tới bi kịch này, nên ta hi vọng…” Địch Nhân Kiệt không kết trọn câu. Khi thấy y cúi đầu vẻ tổn thương sâu sắc, ông nói, “Kha tiên sinh, ngươi có thể cho quản gia lui ra ngoài. Ta đã thấy trà bánh nằm sẵn sàng trên bàn trà ở góc phòng. Phụ tá của ta sẽ túc trực phục vụ.” Chờ cho viên quản gia khuất dạng, ông ngả người về phía trước và tiếp tục câu chuyện, “Bản quan luôn ngẫm, thân là huyện lệnh, mình cần phải sẻ chia những lo toan với các thân hào nhân sĩ địa phương, để có thể tiếp nhận ích lợi từ kho tàng kiến thức và kinh nghiệm của họ, đồng thời thỉnh nguyện những lời khuyên vàng ngọc từ chư vị đáng kính.”
Ông mỉm cười với Quách Minh, “Thực ra ngươi không thuộc bách tính Phổ Dương, Quách tiên sinh, nhưng do thường xuyên lui tới nơi này, nên ta mạn phép vời ngươi tham gia chung.” Phớt lờ vẻ mặt ngỡ ngàng của Biện đại phu, ông tiếp lời, “Bản quan không ngại thẳng thắn với các vị, rằng ta đang rất mong mỏi được nhận lời khuyên từ mọi người. Bốn vụ án mạng đã xảy ra trong trấn này mà ta vẫn mù mờ về nhân dạng của kẻ thủ ác. Nha phủ đương trong sáng, còn hắn ẩn trong tối. Một cuộc điều tra đang được tiến hành, thiên la địa võng đang được giăng ra. Mục đích của cuộc gặp này là chúng ta cùng nhau phác thảo ra hướng đi đúng đắn nhất cho cuộc điều tra. Chắc sẽ mất nhiều ngày trước khi chúng ta thu được kết quả, nhưng chuyện đó không thành vấn đề. Chậm mà chắc, như tiền nhân đã dạy.” Quách Minh rướn đôi mày mỏng lên. “Thưa đại nhân, vậy có nghĩa là thảo dân sẽ phải lưu lại Phổ Dương trong suốt thời gian nha phủ tra án?” “Không nhất thiết, Quách tiên sinh à. Đôi lúc, một vụ án tưởng như nan giải nhất lại bất ngờ được phá giải, nhờ một vận may từ trên trời rơi xuống, ai mà biết được! À, chúng ta hãy dùng một ít hoa quả mát lạnh đã nào! Không bàn về công vụ trong khi đang thưởng thức, xin mời quý vị!” Trong khi họ đang nếm hương vị tươi ngon của những lát trái cây ướp đá, do Hồng sư gia phục vụ trong những chén sứ cổ sặc sỡ, Kha Nguyên Lương có phần dạn dĩ hơn trước. Sau khi uống cạn chén trà, y kể một câu chuyện thú vị về một bức tranh giả mạo. Sau đó, Địch Nhân Kiệt lại bàn về một vụ án vui mà ông từng phá giải ở nhiệm sở cũ. Ông kể chuyện tếu táo đến nỗi tất cả cùng cười ầm lên vui vẻ. Bất chấp cái nóng ngột ngạt, không khí giờ đây rất thoải mái và thân tình.
Khi lão Hồng sắp chuẩn bị rót tuần trà mới, Địch Nhân Kiệt đột ngột đứng dậy và hào sảng nói, “Giờ thì chúng ta bắt tay vào việc cần làm thôi!” Ông bước về phía cái bàn ở giữa phòng, rồi ngồi xuống chiếc ghế bành ở phía cuối, nằm bên phải cửa sổ và bên trái cửa ra vào. Ông ra hiệu cho những người còn lại an vị tại ba chiếc ghế mà Hồng sư gia xếp ở phía đối diện cái bàn. Biện đại phu ngồi ghế giữa, đối mặt với huyện lệnh. Quách Minh ngồi bên phải ông ta, trong khi Kha Nguyên Lương ngồi ở bên trái. 👁‍ Sơ đồ thư viện Huyện lệnh đẩy giá nến lớn bằng bạc sang phía bên trái mình. Ông nói vẻ bực bội, “Trời đất ơi, thật là nóng bức! Hãy tắt các ngọn nến dọc trên tường đằng kia đi, lão Hồng! Chúng chỉ khiến gian phòng ngày càng ngột ngạt! Ánh sáng của chúng cũng làm ta chói mắt. Dạo gần đây, bản quan gặp chút vấn đề về thị giác, ta cho là do ánh nắng mặt trời chói chang. Để xem ta có mang vành che mắt theo không.” Ông lục ống tay áo và lấy ra lại là một phong thư. “Chao ôi!” Địch Nhân Kiệt thốt lên, “Ta thậm chí còn chưa mở lá thư này ra! Nó được chuyển tới nha phủ ngay trước khi ta đi ra ngoài. Phong bì có ghi mấy chữ ‘hỏa cấp’ với ‘tuyệt mật’ cơ à? Xin các vị chờ một chút.” Ông xé phong bì và rút ra một tờ giấy được gấp gọn ghẽ. Đó là một lá thư dài với nét chữ nhỏ li ti. Liếc nhanh phần đầu, Huyện lệnh lẩm nhẩm đọc, “Kẻ này nói là cháu gái của mình, vốn là thị tỳ ở một nhà nào đó, đã bị bắt cóc và hành hạ dã man. Ôi, chắc cô nương đáng thương đó đã rơi vào tay của một tên tâm thần.”
Địch Nhân Kiệt tiếp tục đọc một lúc trong thinh lặng. “Ông ta còn nói rằng nữ nhi đã thoáng nhìn thấy kẻ hành hạ mình. Hình như hắn là một nhân vật cũng có danh tiếng ở huyện này. Do thế, ông ta đã ngần ngại rất lâu trước khi báo cáo vụ việc, trì hoãn hết lần này đến lần khác. Tuy nhiên, vì cảm thấy những việc đồi bại như thế không được phép xảy ra ở một trấn được trị an rất tốt, nên ông ta yêu cầu một cuộc điều tra khẩn cấp, với các biện pháp phù hợp để ngăn chặn… Rồi, rồi, phần đó thì bản quan tự biết. Đáng ra ông ta nên trình báo ngay lập tức. Giờ thì danh tính của tên tội nhân đó được đề cập ở đâu nhỉ?” Ông đưa lá thư lại gần mắt hơn, rồi lắc đầu và nói, “Không thể tìm ra nổi, chưa bao giờ ta thấy nét chữ xấu như thế này!” Đoạn ông ngước lên và thêm lời, “Đây, Kha tiên sinh, ngươi đọc to phần còn lại lên giúp ta với!” Huyện lệnh chuyền tay lá thư cho họ Kha, rồi bất chợt ngừng lại. Ông nói với một nụ cười hối lỗi, “Không, bản quan không nên tiết lộ thư từ công vụ cho ngoại nhân mới phải! Ta sẽ nghiên cứu nó sau vậy.” Ông gấp lá thư lại và cho vào ống tay áo. “Bẩm đại nhân, thiên hạ nên suy nghĩ cẩn thận hơn trước khi đưa ra những cáo buộc ngớ ngẩn thế này!” Họ Quách bực tức nhận xét. “Chưa chắc đây đã là chuyện ngớ ngẩn được,” Địch Nhân Kiệt bỗng nghiêm giọng nói. “Bản quan có những lý do xác đáng để nghi ngờ kẻ thủ ác mà chúng ta đang truy tìm có tâm tính và nhân dạng giống như tên tội nhân mà lá thư này đề cập đến.”
Ngả người ra phía sau, Địch Nhân Kiệt quan sát ba nam nhân đang ngồi đối diện bên kia bàn. Gương mặt của họ, mờ mờ hiện lên nhờ ánh sáng lập lòe hắt ra từ ngọn nến, đã trở nên căng thẳng. Tâm trạng thoải mái dễ chịu dần lụi tàn và rời xa mọi người. Ông lặng lẽ quan sát gian phòng. Lão Hồng đã lui về bàn trà ở góc phòng, nhìn chằm chằm vào ngọn nến leo lét trên khay trà. Phần còn lại của gian phòng chìm trong bóng tối đen ngòm. Những ngọn nến đang dần lụi tắt để lại mùi khói nặng nề trong không gian ngột ngạt. Địch Nhân Kiệt để mặc bầu không khí trầm mặc khó chịu ấy kéo dài một hồi lâu. Tình cờ ông quay đầu nhìn về phía cửa ra vào. Nơi đó rất tối, ông chỉ có thể nhận tia sáng mảnh lọt khe cửa, được hắt ra từ ngọn đèn ngoài hành lang. Nếu có kẻ nào đang đứng bên ngoài nghe trộm, hẳn hắn đã mở hé cửa ra vào rồi. Ông đã cho hắn vô khối thời gian để làm điều đó. Huyện lệnh nghĩ thầm, rốt cuộc thì trực giác của mình đã sai rồi. Nghĩa là bây giờ ông có thể tập trung tâm ý vào ba nam nhân ngồi trước mặt. “Bản quan vừa nói rằng,” ông tiếp lời, “hung thủ có thể là một tên tâm thần bất ổn, và là một tên tâm thần nguy hiểm. Ta đi đến kết luận này vì…” Địch Nhân Kiệt đột ngột khựng lại, bỏ lửng câu nói. Ông nghĩ rằng mình vừa nghe thấy tiếng đóng cửa nhẹ nhàng. Nhanh chóng đưa mắt về phía bên phải, ông chẳng thấy gì ngoài tia sáng leo lét nơi khe cửa. Chắc hẳn tai ông đã nghe nhầm rồi.
Huyện lệnh hắng giọng và tiếp tục, “Bản quan nghĩ rằng mình đã có được một phác họa rõ nét về tính cách của hung thủ. Chủ yếu là nhờ hắn đã phạm phải một sai lầm kỳ quặc.” Ông nhận ra Kha Nguyên Lương đang ngọ nguậy đầy bứt rứt trên ghế. Biện đại phu chăm chú nhìn huyện lệnh, đôi môi mỏng mím chặt. Bên mặt trái tím xanh của ông ta tương phản rõ rệt với nước da nhợt nhạt. Còn Quách Minh đã hồi tâm lại, gã tỏ vẻ quan tâm nhã nhặn tới những gì ông nói. “Để có thể gây ra chuỗi liên hoàn án như vậy,” Định huyện lệnh điềm đạm giải trình, “hung thủ phải là một nam nhân có tâm tính bất thường. Nếu động cơ là thú tính đồi bại, thì hắn lúc nào cũng ở trên bờ vực loạn trí và sống một cuộc đời tồi tệ. Hắn phải đeo một lớp mặt nạ trong lúc nếm trải cuộc sống thường nhật, lúc nào cũng phải cố gắng kiểm soát những ham muốn bức bối cứ giày vò tâm trí mình. Những tên sát nhân dâm dục, sau khi bị nha môn tróc nã về quy án, đều đã thuật lại như thế trong bản cung khai thú tội. Chúng mô tả chi tiết cuộc đấu tranh vô vọng với bản ngã của mình để giữ cho tâm trí được bình yên. Chúng nói rằng thường xuyên bị những ảo cảnh ám ảnh. Rằng các thế lực hắc ám luôn nằm lẩn khuất đâu đó, chờ đợi để vồ lấy chúng, cấu xé chúng. Rằng vong hồn của các nạn nhân vẫn luôn quấy rầy hành hạ chúng. Nhớ lại một vụ án ta từng thụ lý ở…” Huyện lệnh ngừng lại và chăm chú lắng nghe. Giờ đây, ông chắc chắn mình đã nghe tiếng cửa đóng lại. Qua khóe mắt, ông trông thấy thứ gì đó đang di chuyển trong bóng tối, ở phía góc xa, giữa cửa ra vào và tủ đồ cổ. Ai đó đã thâm nhập vào bên trong. Có khả năng là ông đã bỏ sót bóng dáng kẻ xâm nhập. Ông đã tưởng hắn sẽ mở hé cánh cửa để nghe trộm cuộc nói chuyện bên trong. Và hắn sẽ tự để lộ tung tích bản thân ngay sau đó, chứ không phải sau một lúc lâu thế này. Sự đã rồi, phải chấp nhận tình huống không dễ chịu này và tùy cơ ứng biến thôi. Địch Nhân Kiệt phải tiếp tục.
“Khi ta thẩm vấn tên sát nhân, y xác nhận là hằng đêm đều thấy bàn tay gớm ghiếc của nữ nhân bị hạ sát lần bò lên ngực mình, cố bóp nghẹt cổ…” “Chắc chắn đó chỉ là giấc chiêm bao!” Biện đại phu bất chợt buột miệng. “Ai mà biết được!” huyện lệnh đáp. “Ta xin nói thêm là kẻ đó đã bị siết cổ chết trong buồng giam của mình, vào buổi sáng trước khi bị hành hình. Dĩ nhiên ta phải viết báo cáo gửi quan trên là y đã tự vẫn, trong trạng thái nửa mê nửa tỉnh vì sợ hãi và ăn năn. Có lẽ chuyện đúng như thế. Mặt khác…” Địch Nhân Kiệt lắc đầu đầy nghi ngại và cân nhắc trong vài khắc, tay vuốt bộ râu dài. Đoạn ông tiếp tục, “Dù sao đi nữa, điều đó giải thích tại sao, trong vụ án hiện nay, tên sát nhân lại phạm phải sai lầm đó. Đáng lý ra nên nói là hắn bị cưỡng bách làm vậy, do đã liều lĩnh đụng chạm tới các thế lực bất khả xâm phạm. Vụ sát hại Đổng Mai có thể làm vừa lòng thủy thần. Nó nhắc nhở Bạch Nương về tục cúng tế nhân mạng cổ xưa, khi tĩnh mạch của một nam tử trẻ tuổi bị cắt trên án thờ trước mặt Ngài và máu văng lên bức tượng cẩm thạch. Nhưng vụ sát hại phu nhân Hổ Phách, một nữ nhân như Ngài, lại xảy ra ngay sát khu rừng thiêng của thủy thần. Dường như đó là một hành vi báng bổ với các thế lực mà chúng ta hiểu biết rất ít ỏi, thực sự là thế.” Ông dừng lại, nhún vai rồi tiếp tục, “Ta có bằng chứng cho thấy hắn đã phạm phải một sai lầm, chỉ có thể là do một khắc mất trí lạ lùng gây ra. Cực kỳ khôn ngoan là thế, vậy mà hắn hoàn toàn quên mất rằng ở hiện trường tội ác, mình đã…”
“Tội ác nào cơ?” Kha Nguyên Lương khàn giọng hỏi. Y nhanh chóng nhìn sang hai người kia, rồi lắp bắp thưa với huyện lệnh, “Xin đại nhân thứ lỗi cho… sự cắt ngang vô lễ của thảo dân. Nhưng… ý thảo dân muốn nói, có đến bốn vụ án mạng đúng không ạ?” “Quả đúng là thế,” ông đáp cụt ngủn. Ngoài xa, một tiếng sấm rền vọng lại, văng vẳng bên tai. “Không nên để thời tiết xấu ảnh hưởng đến sự an nhiên của bản thân, Kha tiên sinh à.” Quách Minh cất lời động viên, nhưng giọng gã nghe rất chói tai trong gian phòng tĩnh mịch. “Thưa, hình như lão phu trông thấy cánh cửa chuyển động!” Một giọng nói lo lắng bất chợt vang lên. “Lão xin phép ra ngó một chút.” Đó là Hồng sư gia. Lão đã rời khỏi ghế và tiến lại gần ba vị nam nhân đang ngồi bên bàn. Trong một khắc, Địch Nhân Kiệt bối rối không biết nên làm gì. Vì lý do đặc biệt, nên ông chưa nói với vị sư gia về kế hoạch giăng mồi của mình, bao gồm cả sự xuất hiện của một kẻ nghe trộm bí mật. Rõ là lão Hồng đã thấy tên xâm nhập đang rời bước và tưởng nhầm là hắn đang lẻn vào trong phòng. Nhưng ông không thể để đại cục mà mình hao tâm tổn sức bày ra bị phá hỏng. Nếu kẻ kia vẫn còn trong thư viện, hắn không được nhận ra ông đã biết về sự hiện diện của hắn, bằng không thì mọi thứ đều đổ sông đổ bể cả. Ông đanh giọng nói với Hồng sư gia, “Ánh sáng đã đánh lừa mắt lão rồi! Lão hãy trở lại vị trí của mình và đừng ngắt lời ta!”
Huyện lệnh nghe thấy tiếng sột soạt phát ra từ chiếc áo vải bông mà sư gia đang mặc khi lão trở lại chỗ ngồi. Không, đó không phải do phục trang của lão Hồng! Tiếng động đến từ phía sau Địch Nhân Kiệt, giờ thì ông đã nghe thấy nó rõ ràng. Một âm thanh trơn tuột như là tơ lụa. Ai đó đang tiếp cận ông từ phía sau. Nhanh chóng lướt nhìn gương mặt của ba nam nhân ngồi đối diện mình, ông nhận ra họ không thấy gì cả. Khuôn mặt ông nằm trong quầng sáng, nhưng những phần còn lại đều bị bóng đen bao trùm. Ông sẽ phải hành động mau lẹ. “Ôi,” huyện lệnh tiếp lời, “giờ bản quan sẽ không sa đà vào sơ suất lạ lùng của tên sát nhân, mà đề cập đến một chuyện thậm chí còn quan trọng hơn. Kẻ thủ ác đã thuê gã nho sinh đầu đường xó chợ là Hạ Quảng làm thuộc hạ. Nhưng họ Hạ không phải kẻ biết giữ mồm giữ miệng, hắn cứ rượu vào là lời ra. Ta đã truy ra được một tên du thủ du thực từng chén chú chén anh với hắn. Y nói ông chủ của Hạ Quảng cũng có một tay sai nữa. Nhưng khác với họ Hạ, kẻ kia…” Địch Nhân Kiệt lại nghe thấy tiếng vải lụa, giờ đã gần lắm rồi. Từng cơ bắp thớ thịt của ông trở nên căng cứng. Ông đã tưởng mối hiểm nguy sẽ đến từ phía bên phải, nơi ông có thể lờ mờ trông thấy bóng dáng kẻ tấn công và kịp thời tự vệ. Nhưng hiện tại, ai đó đang nhẹ nhàng thở phía sau lưng ông. Ba nam nhân đã nhận ra sự biến sắc đột ngột trên nét mặt huyện lệnh. Biện đại phu nghẹn giọng buông lời, “Thưa đại nhân, có chuyện gì vậy ạ? Tại sao…”
Tiếng sấm nổ ầm ầm khiến ông ta giật mình kinh hãi. Một ý nghĩ vụt chạy qua tâm trí Địch Nhân Kiệt. Ông nên bật dậy ngay bây giờ và tóm lấy kẻ đang đứng sau lưng. Nhưng không, chỉ sự hiện diện thôi thì chưa thể là bằng chứng chống lại hắn. Hắn có thể bào chữa là mình không muốn gây trở ngại cho cuộc họp nên… Thứ gì đó đang động đậy trong ống tay áo của ông. Không, ông quyết định tiếp tục kế hoạch như đã dự tính. Mồ hôi đang tuôn ra đầm đìa khắp khuôn mặt nhưng ông không bận tâm. Địch Nhân Kiệt lạc giọng, “Tên thứ ba là một kẻ có danh tiếng. Nhưng gã không chỉ liên đới đến vụ án mạng của Đổng Mai, mà còn trực tiếp chịu trách nhiệm về cái chết của một tú bà. Mạnh bà bà bị siết cổ từ phía sau, bàn tay trắng bệch và yếu ớt của mụ bấu víu vô vọng vào dải lụa thít ngang cổ họng mình. Bà lão chết trong đau đớn, chỉ vài canh giờ trước đây. Nếu hồn ma của bà ta còn đang lảng vảng đâu đó quanh đây…” Bất thình lình, huyện lệnh bật ra một tiếng kêu nghẹn ngào. Đứng thẳng dậy khỏi ghế, ông trừng mắt nhìn qua đầu ba nam nhân ngồi đối diện và quát lên hỏi lão sư gia, “Ai đang đứng đằng sau lão vậy?” Biện đại phu đột ngột quay ngoắt người lại, Kha Nguyên Lương và Quách Minh cũng ngoái về phía sau, tiếng kêu nghẹn lại trong cổ họng. Hồng sư gia nhảy dựng lên và chạy thục mạng về phía họ, tay vẫy man dại. Địch Nhân Kiệt nhanh chóng lấy ra một vật kềnh càng từ ống tay áo trái. Ông đặt nó lên mép bàn rồi la lên hãi hùng, “Nhìn kìa! Trời ơi, cứu ta với!”
Ba nam nhân lại quay ngoắt lại về phía huyện lệnh, lão Hồng đứng ngay sau bọn họ, mò mẫm vào ống tay áo của mình. Kha Nguyên Lương và Biện Gia đồng thanh thét lên kinh hoàng. Quách Minh mấp máy môi không thốt nên lời. Cả ba kinh hãi nhìn trừng trừng vào một bàn tay trắng nhợt dường như đang dính chặt vào mép bàn. Viên đá màu đỏ trên ngón tay trỏ tỏa ra thứ ánh sáng ma mị khi bàn tay chậm rãi trườn về phía ngọn nến. Đó là một bàn tay bị cắt cụt, phần cổ tay chỉ còn là một khối thịt đỏ gớm ghiếc. Chợt nó đổi hướng và bắt đầu tiếp cận ba nam nhân kia. Địch Nhân Kiệt hơi nhổm dậy. Biện đại phu bật lùi lại, chiếc ghế sau lưng đổ xuống sàn. Gương mặt ông ta méo xệch, mắt dính chặt vào bàn tay đang chuyển động. Ông ta la hét thất thanh, “Ta không giết bà lão!” Biện Gia quay người lại và đổ nhào vào cánh tay lão Hồng. “Cứu với!” ông ta la lên. “Ta không giết bà lão. Chuyện của Đổng Mai chỉ là ngộ sát. Ta không cố ý! Là hắn bảo ta…” Ông ta bất chợt tuôn trào những lời nức nở quàng xiên không kìm nén được. Địch Nhân Kiệt chẳng buồn nghe. Nhổm dậy nửa người khỏi ghế, ông xoay đầu lại, tay phải giơ cao đề phòng bất cứ mối nguy hiểm nào đến từ phía sau. Bỗng nhiên ông đờ người ra, mắt trợn trừng trong một nỗi kinh sợ không tên. Một bàn tay trắng bệch khác vươn ra từ bóng tối phía sau, ngay sát đầu ông. HỒI 17 Chữ tình, chữ ái, chữ gian
Cay nồng thảm án giai nhân loạn thần Trong thời khắc kinh hoàng đó, Địch huyện lệnh tưởng mình đã vô tình mạo phạm mà đánh động vong linh kẻ đã khuất. Rồi bàn tay trắng giơ lên. Ông nhẹ nhõm cả người khi bắt gặp một ống tay áo màu đen. Bàn tay chỉ về phía cửa ra vào hãy còn hé mở, nhờ đó mà ánh sáng từ ngọn đèn ngoài hành lang hắt vào, soi rọi một nam nhân cao lớn đang đứng dựa vào cửa. Một giọng nói mềm mại mà đanh thép vang lên gần huyện lệnh, “Ngươi không thể lẩn trốn ta. Lại gần đây!” Giọng nói thu hút sự chú ý của họ Kha và họ Quách khỏi bàn tay đang lần mò trên bàn. Biện đại phu buông lão Hồng ra và quay người lại. Cả ba kinh ngạc không thốt nên lời, mắt dán vào một nữ nhân vận xiêm y đen đang đứng kế bên Địch Nhân Kiệt. Trong lúc họ khắc khoải nhìn gương mặt xanh xao nhưng xinh đẹp lạ kỳ, ông nghiêng người về phía trước, mau mắn chụp lấy bàn tay gỗ và cất nó vào ống tay áo. Sau đó, ông đứng dậy, cầm giá nến rồi giơ cao quá đầu. Họ nhìn thấy một nam nhân hộ pháp đang đứng nép vào bức vách ở góc gần tủ đồ. Bờ vai dày của hắn rụt về phía trước, cánh tay giơ lên nửa vời, nắm tay siết chặt như thể đang cố bảo vệ bản thân khỏi một thế lực vô hình. Hắn không hề rời mắt khỏi gương mặt nữ nhân. Bàn tay trắng nõn vẫy hắn lại gần. Nam nhân đứng thẳng người lên và tiến về phía nàng, lê từng bước nặng nhọc với dáng điệu cứng nhắc.
Cửa ra vào mở tung, viên bộ đầu xuất hiện, các bộ khoái đứng chật cả hành lang. Bộ đầu dợm chân định bước vào, nhưng huyện lệnh đã ngăn y lại bằng một điệu bộ dứt khoát. Nam nhân cao lớn vẫn tiếp tục tiến về phía thiếu phụ, chăm chăm nhìn vào mặt nàng bằng đôi mắt hõm sâu vô hồn, như thể đang bị thôi miên. “Ta không làm chuyện đó!” Biện đại phu gào lên lần nữa. Ông ta như thể sắp ngã quỵ đến nơi. Lão Hồng nhanh chóng đưa tay đỡ Biện gia. Kha Nguyên Lương và Quách Minh đã đứng dậy. Họ Kha ngập ngừng nói với nữ nhân, “Đáng ra nàng phải… Làm sao mà nàng…?” Thiếu phụ không để ý đến phu quân. Đôi mắt rừng rực một ngọn lửa lạ kỳ, nàng ghim chặt ánh nhìn vào kẻ hộ pháp đang đứng chết sững trước mặt mình, đôi cánh tay dài của hắn ép chặt vào hai bên sườn. Rồi nàng cất giọng lạnh băng, “Tối nay, ngươi đã vạch ra một âm mưu chu toàn. Ngươi đợi ta ở phố bên cùng hai con ngựa, như chúng ta đã thỏa thuận. Chúng ta cùng rời trấn qua Nam môn. Ngươi đã hứa hẹn sẽ đưa ta theo lối tắt đến rừng Mạn Đà La. Để ta có thể tự tay hái lượm thứ dược thảo kỳ diệu sẽ chữa trị chứng vô sinh của ta, giúp ta và lão gia có được mụn con trai nối dõi tông đường, như Kha gia hằng ao ước.” Nàng thở dài, đoạn tiếp tục với chất giọng gần như là vô cảm, “Khi chúng ta đến bìa rừng, ngươi nói là cây thuốc mọc ở phía trong, gần miếu thủy thần. Ta e ngại khi phải băng qua cánh rừng đen tối và càng e sợ hơn khi ngươi gài đuốc giữa bức tường gạch đổ nát, để cho ta thấy bức tượng cẩm thạch to lớn. Nhưng chính tên khốn nạn nhà ngươi mới là kẻ ta nên dè chùng, họ Dương kia! Chứ không phải Bạch Nương!”
Đôi môi của tên thương gia đồ cổ mấp máy, nhưng nàng vẫn tiếp tục đay nghiến, không lộ vẻ động tâm, “Đầu tiên, ngươi trơ trẽn tỏ tình, khen ngợi ta là nữ nhân xinh đẹp nhất tự cổ chí kim. Ngươi bảo chúng ta sẽ cao chạy xa bay cùng nhau, chẳng cần thứ gì khác ngoài tình yêu của đôi ta. Khi ta bộc lộ sự ghê sợ trước thứ tình yêu và kế hoạch xấu xa ấy, ngươi lại quỳ phục dưới chân ta, van nài ta cân nhắc lại. Ngươi muốn hôn chân ta, nhưng ta đã nhanh chóng lùi lại, mắng ngươi là một kẻ dâm đãng xảo trá. Thế rồi, ngươi đột ngột biến thành một con quái vật khủng khiếp.” Thân hình hộ pháp của họ Dương dường như co rúm lại. Hắn muốn lảng tránh, nhưng không thể dứt ánh nhìn của mình khỏi ánh mắt rực lửa kia. Cúi người về phía trước, nữ nhân cay nghiệt buông lời, “Trước mặt đức phu quân của mình, ta cáo buộc tội ác của ngươi ở đây, chính ngươi đã cưỡng gian ta ở nơi đó. Ngươi đã trói ta lõa thể vào án thờ cẩm thạch, ngươi dọa sẽ kết liễu ta từ từ, cắt đứt từng tĩnh mạch của ta và vấy máu ta lên pho tượng thủy thần. Ngươi bảo sẽ chẳng ai tới cứu ta đâu, sẽ không ai biết được chuyện xảy ra với ta. ‘Cầu nguyện! Hãy cầu nguyện Bạch Nương đi!’ Ngươi gầm lên nhạo báng. Rồi ngươi bỏ đi kiếm thêm những cành cây con cho ngọn đuốc sắp tàn. “Ta nằm đó, lưng duỗi dài dưới chân thần linh, vô dụng và bất lực. Ta nhìn thấy ở phía trên là viên hồng ngọc trên bàn tay thủy thần, lấp lánh trong ánh đuốc bập bùng. Những tia sáng đỏ au dường như sưởi ấm thân thể trần trụi đang bị trói trên phiến đá cẩm thạch lạnh cóng. Ta bèn cầu nguyện Bạch Nương, xin Ngài hãy cứu giúp một nữ nhân sắp sửa bị hành hạ đến chết. Rồi ta cảm nhận sợi dây thừng trói cổ tay phải mình như được nới lỏng ra. Trong một nỗ lực tuyệt vọng, ta kéo mạnh nó và nút trói tuột ra. Ta giải thoát được bàn tay phải, rồi cởi bỏ toàn bộ dây trói. Đứng thẳng người lên, ta cung kính ngước nhìn bức tượng và tạ ơn thủy thần. Trong ánh đuốc bập bùng, dường như đôi môi Ngài cong lên thành một nụ cười xoa dịu khiến ta vững tâm.👁‍