text
stringlengths
1
809k
Để phân tích dài hạn, các báo cáo này thường cung cấp các con số dưới dạng tỷ lệ phần trăm mà thỉnh thoảng các báo trong nước đã bắt đầu thấy có dùng. Chúng gồm ROA (Return on Assets suất sinh lợi trên tài sản); ROE (Return on Equity suất sinh lợi trên vốn). Hai cái này khác nhau vì trên bảng cân đối kế toán, chúng ta thường thấy hai cột luôn có giá trị bằng nhau bên trái là assets (tài sản), bên phải là liabilities + equity (nợ + vốn), cho nên vốn chỉ là một phần của tài sản. Ở bảng báo cáo kết quả kinh doanh, ta lại thường thấy các từ viết tắt khác như EBIT (earnings before interest and tax lợi tức trước khi trả lãi vay và thuế), hay thậm chí dùng luôn cụm từ dài ngoằng earnings before interest, taxes, depreciation and amortization EBITDA! Có lẽ, đọc xong câu sau với hàng loạt từ viết tắt như thế, ít ai dám nhảy vào lĩnh vực chứng khoán nữa: “We are looking at standard metrics like ROE, PBV, P/E, CAR and NPL before making any purchasing decisions into local banks”. Ngoài những từ đã giới thiệu, câu trên còn có PBV là price book value (tức lấy giá cổ phiếu chia cho giá trị trên sổ sách của công ty); CAR là capital assets ratio (tỷ lệ an toàn vốn, tức lấy vốn tự có chia cho tổng tài sản); NPL là non performing loans (nợ khó đòi). Cuối cùng, xin giới thiệu một cách giải thích theo kiểu “trà dư tửu hậu” từ APEC mà ông Thomas Vallely, Giám đốc Chương trình Việt Nam tại trường John F. Kennedy thuộc Đại học Harvard, khi trả lời phỏng vấn của Vietnamnet có nhắc đến “A Perfect Excuse to Chat”.
Nghĩ lại cũng đúng, diễn đàn APEC là nơi các nhà lãnh đạo trao đổi thoải mái về nhiều vấn đề cả đa phương lẫn song phương, không có giá trị ràng buộc. (TBKTSG, ngày 23 11 2006) Theo dõi các bản tin thời sự bằng tiếng Anh, đôi lúc chúng ta gặp những từ hay cụm từ, đọc trong văn cảnh thì hiểu nhưng giải thích hay diễn đạt cho gọn và chính xác bằng tiếng Việt thì khó. Lấy một ví dụ đơn giản nhất: Với câu “the $4 generic drug prescription has arrived at Target stores nationwide”, chúng ta có thể hiểu generic drug là dược phẩm có cùng công thức với thuốc có bản quyền (biệt dược), được sản xuất và bán với giá rẻ sau khi bản quyền biệt dược ấy đã hết hạn. Nhưng dịch bằng “thuốc nhái” thì không chính xác; “thuốc gốc” không ai hiểu; “thuốc không nhãn hiệu” lại càng dễ gây hiểu nhầm. Hiện đã xuất hiện một số từ có thể chấp nhận được như “thuốc thế phẩm”, “thuốc phiên bản”. Tờ New York Times vừa có một bài hay về chính sách đối ngoại của Mỹ và Trung Quốc mang tựa đề: China vs. U.S.: Democracy Confronts Harmony. Stay Tuned. Cụm từ stay tuned thường được dùng trong các chương trình phát thanh, đại khái muốn nói còn nhiều cái hay nữa xin mời quý vị thính giả giữ nguyên tần số này, đừng chuyển sang đài khác. Ở đây ý của tựa đề muốn nói sự đối chọi giữa chính sách “dân chủ” của Mỹ và “hài hòa” của Trung Quốc sẽ còn nhiều chuyển biến và tác động trong thời gian tới, nên theo dõi. Việc diễn đạt cụm từ stay tuned này sang tiếng Việt cho ngắn gọn là điều khó.
Tuần này hãy thử lấy một bài trên tờ Wall Street Journal để phân tích cái quen mà lạ này một yếu tố gây khó cho những người học tiếng Anh ở nước ta vì đã quen lối văn của sách giáo khoa. Bài báo “Textile Fiasco” bắt đầu bằng cách nhắc lại chuyện PNTR với Việt Nam chưa được Hạ viện Mỹ thông qua để tô đậm thêm: “But this failure is an even bigger fiasco than it appears because of the White House’s pandering to the U.S. textile industry”. Pander là cố thỏa mãn, chiều theo một ai đó; ở đây tác giả chuẩn bị trước cho người đọc thấy cách Nhà Trắng chiều chuộng ngành dệt của Mỹ. Trong câu tiếp theo It’s a case study in how protectionists never stay bought chú ý cách dùng cụm từ stay bought. Bought ở đây là bị mua chuộc, đã dàn xếp có qua có lại, stay bought là đã thỏa mãn nên bây giờ ngồi yên, không phản đối nữa. Nhưng qua vụ PNTR vừa rồi, rõ ràng những người vận động hành lang cho xu hướng bảo hộ không chịu ngồi yên nên mới có câu “how protectionists never stay bought”. Nguyên do là trước đó, Chính phủ Mỹ đã nhượng bộ ngành dệt nội địa, cụ thể, “it agreed to allow quotas to be reimposed if there are import surges in Vietnam textiles to the U.S. once the deal is implemented”. Reimpose là tái áp đặt [hạn ngạch] và import surges là có sự gia tăng đột biến trong lượng hàng nhập khẩu. Thấy thế chưa đủ, Nhà Trắng còn đồng ý “self initiate anti dumping investigations” against Vietnamese apparel under certain circumstances. Trong các vụ kiện bán phá giá, thông thường các nhà sản xuất đứng ra khởi kiện, động từ thường dùng là initiate an action, nhưng trong trường hợp này, Chính phủ Mỹ sẽ là người khởi xướng các vụ điều tra chống bán phá giá đối với hàng may mặc từ Việt Nam trong một số trường hợp, nên mới có cụm từ self initiate. Cả hai từ “initiate” và “action” trông quen thuộc nhưng ở đây dùng theo nghĩa khác nên thành lạ.
Tờ Wall Street Journal phán: The government declared that it will serve as the textile lobby’s protectionist front man. Từ một tiếng lóng trong âm nhạc, chỉ người ca sĩ chính của một ban nhạc, front man nay mang nghĩa “kẻ đưa đầu chịu báng”, người đại diện theo nghĩa xấu. Tờ báo phê phán ai đời nhà nước đi làm thay doanh nghiệp chuyện kỳ lạ thế và còn bổ sung: More amazing still, the U.S. textile industry doesn't compete with apparel that American retailers import from Vietnam. Chú ý: chúng ta thường dùng từ garment (đếm được) để chỉ quần áo nhưng từ này thường đi kèm với từ khác chứ ít khi đi một mình (ví dụ: a garment factory); ở đây họ dùng từ chung hơn là apparel (không đếm được). Đúng là một bên ngành dệt một bên ngành may, cớ gì lại sợ cạnh tranh nhau. Bài báo so sánh: It would be as if the U.S. agreed to protect U.S. car makers against a surge in foreign automobile tires. Bảo hộ như thế tạo ra một tiền lệ nguy hiểm và trái với quy định của WTO. Nguyên nhân do đâu? Theo bài báo, What’s going on is that the U.S. textile industry is trying to protect its interests not in the U.S. but in Central America. Hóa ra khách hàng của ngành dệt ở Mỹ là các nhà sản xuất quần áo ở Trung Mỹ, nếu họ không cạnh tranh nổi với hàng nhập từ Việt Nam thì ngành dệt làm sao bán sản phẩm cho họ. Thật ra, hàng may mặc từ Việt Nam cũng mua vải dệt của Mỹ đấy chứ. Một từ được nhắc đến trong bài này và trong hàng loạt các bài báo gần đây là từ “lame duck”. Một ông tổng thống đã thất cử nhưng vẫn điều hành chính phủ trong lúc chờ ông tổng thống mới lên nhậm chức gọi là “a lame duck President”. Một quốc hội có nhiều nghị sĩ sẽ phải ra đi nhường chỗ cho những nghị sĩ mới đắc cử sẽ bắt đầu từ nhiệm kỳ mới sắp tới gọi là “lame duck Congress”. Nghĩa bóng là vậy nhưng gọi là vịt què theo nghĩa đen e rằng chưa chính xác lắm.
(TBKTSG, ngày 30 11 2006) Thật là một ngạc nhiên thú vị khi biết Ngân hàng Thế giới (WB) vừa công bố một công trình nghiên cứu của hai nhà khoa học người Việt về. tử vi và số mệnh con người. Trong tài liệu dài 37 trang mang tựa đề “Superstition, Family Planning, and Human Development” của hai ông, TS. Đỗ Quý Toàn (WB) và ThS. Phùng Đức Tùng (Tổng cục Thống kê), các tác giả đã nghiên cứu tác động của tâm lý mê tín của người dân Việt Nam lên chuyện sinh con và rút ra kết luận những đứa sinh vào “năm tốt” hóa ra vừa có sức khỏe tốt hơn, lại được học hành đến nơi đến chốn hơn. Xin nói ngay, đây không phải là chuyện đoán số tử vi vì hai tác giả, trong phần abstract (tóm tắt) đã nhận xét: “In a society in which superstition is widespread, children born in auspicious years are more likely to have been planned by their parents, thus benefiting from more favorable financial, psychological, or emotional conditions for better human development”. Như vậy yếu tố kế hoạch hóa gia đình (nhân đó, chọn năm tốt để sinh con) dẫn đến sự chuẩn bị tốt về điều kiện tài chính, tâm lý, tình cảm nên trẻ có cơ hội tốt hơn để phát triển cả về thể chất lẫn tinh thần. Ở đây, chúng ta chỉ lấy công trình nghiên cứu rất công phu này để tìm hiểu xem những khái niệm chấm số tử vi thường nghe được diễn đạt như thế nào bằng tiếng Anh mà thôi. Trước hết, “năm tốt” là auspicious years: “We find that birth cohorts in auspicious years are significantly larger than in other years” (cohort là từ trong ngành thống kê, chỉ nhóm người, quần thể, đoàn hệ). Theo các tác giả, số trẻ sinh vào năm tốt cao hơn các năm khác bình quân đến 7% Years that are believed to bring good luck to either boys or girls have birth cohorts on average 7 percent larger than other years.
Hai khái niệm cơ bản trong tướng số là Yin và Yang (Âm Dương): “Yang is as positive, masculine, left, high and tough as Yin is negative, feminine, right, low and soft”. Chú ý cấu trúc so sánh trong câu trên, mang nghĩa trong khi. còn. Ví dụ: Alice is as beautiful as Mary is smart. Ngoài ra còn có ngũ hành: Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ the tension between Yin and Yang was related to the five elements: Metal, Wood, Water, Fire and Earth. Năm Âm lịch thường có hai yếu tố: Can (Gan a celestial prefix) và Chi (Zhi a terrestrial appellation). There are 12 terrestrial appellations also known as zodiac animals (Rat, Ox, Tiger,.), while a celestial prefix is a combination of Yin or Yang and one of the five elements, yielding a total of 10 prefixes. Có các từ terrestrial và celestial là vì từ chính thức người ta dùng Thiên Can và Địa Chi. Đáng chú ý là tử vi của Tàu gán năm Mão là con thỏ trong khi người Việt cho nó là con mèo. Ghép 10 Thiên Can và 12 Địa Chi, chúng ta sẽ có chu kỳ 60 năm, như Giáp Tý, Ất Sửu. Tử vi, tướng số là xem giới tính của trẻ có hợp với năm sinh không, dựa vào nhiều yếu tố. For example, a year characterized by Yin is on average more compatible with girls than with boys, while the reverse holds for Yang years. Compatible ở đây là hợp, còn hold for ở đây là trong trường hợp. Thực tế thì phức tạp hơn nhiều, như các tác giả nhận xét: A complete astral theme would also look at parents dates and times of birth and their compatibility with their childs to refine the horoscope. A complete astral theme ở đây là chấm số tử vi đầy đủ.
Trong nghiên cứu này, có những từ tiếng Anh không liên quan đến tướng số nhưng cũng đáng chú ý. Các tác giả dùng từ marginal child defined as the child who would be born in the absence of an abortion ban tức là đứa con “vỡ kế hoạch” để đối chiếu với đứa con “nằm trong kế hoạch” planned child và đặt câu hỏi: Are “wanted” and “unwanted” children treated equally by their parents? Câu hỏi này cũng chính là đề tài của công trình nghiên cứu. Phương Tây cũng có horoscope, nhưng dựa vào vị trí của mặt trời (sun sign astrology) nên ta thường nghe hỏi: “Hey, what’s your sign?”. Một người nói: “I’m a Leo” có nghĩa anh ta sinh trong khoảng thời gian từ 24 7 đến 23 8. Hàng ngày, có hàng ngàn tờ báo hay website chuyên đoán số tử vi loại này và những tờ nào “dí dỏm” đoán theo kiểu hài hước tự đặt tên mục này là humorscope. Ví dụ: Capricorn (December 22 January 20): You will accidentally step on someone's foot, and they will say “Ow!.” That's when I usually say “No pain, no gain”. Thật ra, ở những tờ báo lớn, những website có uy tín như Yahoo! các mục tử vi đoán số này do những chuyên gia tâm lý đảm trách. Họ viết sao cho ai đọc vô cũng thấy đúng cho mình. Một cây bút kỳ cựu mục này từng viết: “People are looking at the horoscope like they would a weather report or a stock report. What's up today? Basically is it a good day or a bad day? If it's a bad day, what do I need to know to get around it?”. Thỏa mãn được tâm lý tò mò này phải nói là đại giỏi.
(TBKTSG, ngày 7 12 2006) Một trong những khó khăn cho người học tiếng Anh ngày nay là tình trạng thiếu từ điển Anh Việt đầy đủ, có cập nhật từ mới hay nghĩa mới. Sử dụng các cuốn từ điển được biên soạn dù công phu đến đâu nhưng đã cũ trên chục năm thì chắc chắn sẽ không tìm ra nhiều từ được sử dụng thường xuyên trên báo chí Anh Mỹ. Xin lấy các tạp chí quen thuộc ra vào tuần trước để minh họa. Tờ Time có bài mang tựa đề: “How Abe lost his groove”. Các từ điển chỉ ghi groove là đường rãnh nòng súng, đường rãnh đĩa hát. chứ chưa bổ sung nghĩa mới của từ này là “A situation or an activity that one enjoys or to which one is especially well suited”. Vì thế nghĩa của tựa đề trên có thể hiểu thành: “Vì sao thời kỳ trăng mật của [Thủ tướng] Abe [với dân Nhật] lại chóng qua”. Ngay cả cụm từ in the groove được các từ điển giải nghĩa là trơn tru nhưng trong câu sau, hiểu như thế không chính xác: “If you want to be in the groove this summer, you’ll need a bikini”. In the groove trong câu này là in the popular fashion (hợp thời trang, đúng mốt). Hoặc lấy câu này: “To become a player in the search world, Technorati focused on the growing blogosphere”, chắc chắn chưa có cuốn từ điển nào cập nhật nghĩa của một từ mới xuất hiện “blog” (nhật ký trên mạng), nói gì đến cách ghép chữ blogosphere (thế giới các blog). Khi viết về chuyện đồng đô la Mỹ mất giá, tờ này viết: “American Christmas shoppers in Paris aren’t the only ones suffering from sticker shock”. Các từ điển cùng lắm cũng chỉ giải thích sticker là miếng dán, nhãn dính. nhưng sticker shock ở đây phải hiểu là cú sốc vì giá [tăng].
Nhân dịp tuần rồi có nhiều tin bài liên quan đến Việt Nam, chúng ta thử xem có câu nào không thể chỉ dựa vào từ điển Anh Việt để hiểu cho thấu đáo không. Phát biểu nhân dịp lưỡng viện Quốc hội Mỹ thông qua quy chế PNTR với Việt Nam, Tổng thống Bush nói: “This designation will advance our trade and investment relations with Vietnam and ensure that the United States shares in the economic benefits [of Vietnam's entry to the WTO]. Nghĩa của câu này không có gì đặc biệt ngoài từ designation ở đây là sự thừa nhận, công nhận [tình trạng quan hệ thương mại bình thường vĩnh viễn]. Chú ý trong các bản tin, người ta thường dùng cụm từ Vietnam trade measure để thay cho từ bill (dự luật). Measure có nghĩa chung hơn vì có thể là bill và cũng có thể là resolution (nghị quyết) hay một memorial (kiến nghị). Nghĩa này không tìm thấy trong các từ điển Anh Việt. Xin nhắc lại một dự luật được Tổng thống Mỹ ký ban hành thì mới gọi là Act (đạo luật). Tuần qua, Liên hiệp quốc cũng tuyên bố sẽ chọn Việt Nam làm nơi thí điểm “cải cách hành chính” bản thân tổ chức này. Điều này là bởi ở Việt Nam có đến 11 tổ chức của LHQ đóng trong 10 trụ sở khác nhau. Bản tin viết về quyết định này bình luận: “The announcement follows renewed efforts globally by the U.N. to cut duplication and turf battles that waste money and resources for the poor, refugees, victims of natural disasters, food, health and environmental programs”. Turf là lãnh địa turf battles là các cuộc đấu đá giành quyền lực, ảnh hưởng. Cũng trong dịp này, tạp chí Far Eastern Economic Review có một bài dài về chiến lược phát triển của Việt Nam. Trong câu: The country has taken the much traveled road of allowing foreign direct investment to flow in and drive exports thì taken the much traveled road là đi theo con đường nhiều nước khác đã đi. Còn với câu “This strategy, coupled with strong government infrastructure spending has produced very good outcomes in the past 20 years of doi moi”, chính sách kích cầu đầu tư được diễn đạt thành strong government infrastructure spending (đầu tư ngân sách mạnh cho cơ sở hạ tầng). Một trong những đặc điểm trong một flight plan (chiến lược cất cánh) cho Việt Nam theo tờ tạp chí này là: Vietnam should make sure that its comparative advantages in a market economy are in specific areas that do not target mass markets in the way Chinese comparative advantage does”. Câu này ý nói Việt Nam phải phát huy lợi thế so sánh ở các lĩnh vực cụ thể (phân khúc thị trường riêng) chứ đừng nhắm đến thị trường đại chúng như kiểu Trung Quốc.
Mặc dù đưa ra những dự báo tốt cho nền kinh tế Việt Nam trong vài ba năm tới, tác giả cũng có lời cảnh báo: Of course, there is always the possibility of Vietnam being beset by hubris”. To be beset by hubris là “ngủ quên trên chiến thắng”. In this scenario Vietnam does little to try to exert itself but instead sits proudly on its current achievements and becomes a hard toplease player in the globalized world. Trong các dự báo, người ta thường dùng từ scenario (kịch bản) để đưa ra những giả định. Cái kịch bản “tự mãn” này có thể làm nảy sinh tâm lý “nhà đầu tư cần mình, chứ mình cần gì nhà đầu tư” mà tác giả diễn đạt thành “a hard toplease player”. (TBKTSG, ngày 14 12 2006) Đã vào mùa tuyển sinh của các trường đại học Anh Mỹ và báo chí ở các nước này cũng bắt đầu đề cập đến những vấn đề muôn thuở của giáo dục đại học, năm nay nổi lên chuyện “chất lượng” hay “công bằng”. Về mặt ngôn ngữ, có lẽ nên bắt đầu bằng cụm từ “affirmative action” như trong câu: “When elite colleges began practicing affirmative action in the late 1960s and 1970s, they gave an admissions boost to Asian American applicants as well as blacks and Hispanics”. Dưới áp lực của các phong trào đòi bình đẳng, bỏ kỳ thị chủng tộc, các trường học, cơ quan, doanh nghiệp chủ trương ưu tiên cho người da màu trong tuyển sinh, tuyển dụng. với sự châm chước về mặt chất lượng gọi là affirmative action. Sau một thời gian, chủ trương này lại bị phê phán là một hình thức kỳ thị khác nên bị bãi bỏ, thậm chí còn quay sang hướng ngược lại. Thế là “mèo lại hoàn mèo”, nhiều sinh viên gốc Á kiện các trường đại học Mỹ không công bằng trong tuyển sinh. Một trong những vụ kiện như thế do anh Jian Li, một người Mỹ gốc Hoa, khởi xướng đang thu hút sự chú ý của báo chí Mỹ.
Despite racking up the maximum 2400 score on the SAT and 2390 10 points below the ceiling on SAT2 subject tests in physics, chemistry and calculus, Mr. Li was spurned by three Ivy League universities, Stanford University and Massachusetts Institute of Technology. Như vậy, anh chàng này học rất giỏi nhưng vẫn bị các trường từ chối (từ thường dùng là reject, báo chí dùng từ spurn cho ấn tượng hơn). Ivy League là từ để chỉ tám trường đại học nổi tiếng ở vùng Đông Bắc nước Mỹ, bao gồm các trường Brown, Columbia, Cornell, Dartmouth, Harvard, Princeton, the University of Pennsylvania, và Yale. Câu này còn thêm từ SAT cũng nên biết. Trước đây, người ta nói nó viết tắt từ Scholastic Aptitude Test rồi Scholastic Assessment Test (kỳ thi kiểm tra khả năng, năng khiếu học tập) nhưng bây giờ nơi tổ chức các kỳ thi này bảo nó là SAT chứ không viết tắt từ chữ gì cả! SAT giống như kỳ thi tuyển sinh đại học vì kết quả thi thường được các trường sử dụng để cân nhắc việc tuyển sinh; trường bình thường chỉ cần thi SAT (toán, tiếng Anh), trường “xịn” đòi thêm SAT II (nhiều môn). Điểm như anh chàng này mà bị từ chối thì cũng hơi lạ. Jian Li chọn trường Princeton để kiện với mục đích: His complaint seeks to suspend federal financial assistance to Princeton until the university “discontinues discrimination against Asian Americans in all forms by eliminating race preferences, legacy preferences, and athlete preferences”. Race preferences thì đã rõ, legacy preferences là chủ trương của một số trường ưu tiên cho con em cựu sinh viên, còn athlete preferences là ưu tiên cho học sinh có năng khiếu thể thao, để nhờ đó mà “vinh danh màu cờ sắc áo” của trường. Vụ kiện đang được thụ lý nhưng dù sao, hiện nay Li vẫn đang học ở một trường danh tiếng không kém Yale.
Nhân vụ này, người ta công bố khảo sát xem thử học sinh Mỹ gốc Á có bị kỳ thị không và phát hiện: Asian applicants admitted to the University of Michigan in 2005 had a median SAT score of 1400 on the 4001600 scale then in use. That was 50 points higher than the median score of white students who were accepted, 140 points higher than that of Hispanics and 240 points higher than that of blacks. Câu này có từ median đáng chú ý, nên phân biệt với từ mean. Có một dãy số 2, 3, 3, 3, 4, 6, 7, 8, 9, chẳng hạn thì số nằm ở giữa dãy này (số 4) gọi là median; cộng chúng lại chia bình quân (5) thì ta có từ mean; và số xuất hiện nhiều lần nhất (số 3) gọi là mode. Tranh luận giữa chất lượng với công bằng cũng thường thấy ở giáo dục đại học các nước khác. “Last week, when a German government committee anointed three institutions as elite universities a sort of Teutonic Ivy League Karlsruhe made the cut while Heidelberg did not”. Từ elite (đẳng cấp cao, tinh hoa) thường bị “dị ứng” đến nỗi người ta hay nói: “Elite is a dirty word”. Nay vì cạnh tranh, Đức phải thừa nhận khái niệm này, xếp hạng ba trường thuộc diện Ivy League của Đức. Ở đây thành ngữ make the cut (được chọn, được giữ lại) thường được dùng trong việc chọn vào đội tuyển thể thao. Quyết định này đã “sent spirits soaring at Karlsruhe and swooning at Heidelberg” (một trường phấn khởi một trường xịu xuống) và cũng đã “set off a national discussion about the nature of excellence, the necessity of focusing on science and technology and the wisdom of culling the great from the merely good”. Chúng ta thấy người ta vẫn tranh luận về bản chất của “chất lượng cao”, về ưu tiên cho khoa học, kỹ thuật. Ở phần cuối câu trên có từ culling, thường gặp trong mùa cúm gà vừa qua vì nó được dùng để miêu tả chuyện “tiêu hủy đàn gia cầm”; ở đây cull được dùng theo nghĩa bình thường là chọn lọc.
Kết quả của việc “Seeking quality, German universities scrap equality” là trước mắt, các trường, trước đây hoàn toàn miễn học phí, sẽ “charge tuition of 500 euros, or $630, per semester”. Mức học phí này xem ra vẫn còn quá rẻ so với các trường ở Mỹ. (TBKTSG, ngày 21 12 2006) Chuyện thị trường chứng khoán Thái Lan xảy ra vào đầu tuần trước nhưng tuần này vẫn còn nhiều bài báo phân tích đủ góc cạnh vì nó gợi nhớ cuộc khủng hoảng tài chính Đông Nam Á cách đây gần 10 năm. Có báo so sánh sự khác biệt: “Instead of being provoked by a strong U.S. currency, Thailand is reacting to a weak dollar. That speaks volumes about just how far the once mighty greenback has fallen”. Như vậy, cả hai lần đều do đồng đô la Mỹ, ngày xưa mạnh, hôm nay yếu. Để tránh lập lại, người viết dùng ba từ U.S. currency, dollar, greenback và nếu cần có thể dùng hàng chục từ khác để chỉ đồng tiền của Mỹ. Các mệnh giá cụ thể cũng có nhiều từ lóng như 1.000 đô la được gọi là grand, 100 đô la gọi là C note hay large (twenty large tức là 2.000 đô la). Trong câu trên có cụm từ speak volume là một minh chứng hùng hồn, một bằng chứng rõ ràng. Có cả 10 năm để nhìn lại nên bây giờ người ta viết về cuộc khủng hoảng 1997 rất gọn. “In the 1990s, Thailand ran a large current account deficit for years. with few, if any, consequences”. Trong cán cân thanh toán (balance of payments) có hai khoản chính là current account (tài khoản vãng lai) và capital account (financial account) (tài khoản vốn); lúc đó Thái Lan bị thâm hụt tài khoản vãng lai nhưng không hề hấn gì vì tiền nước ngoài đổ vào không ngớt. Có tiền không biết làm gì, người ta đổ vào thị trường địa ốc, thị trường chứng khoán, làm cho đồng baht lẽ ra phải mất giá mạnh. “Yet Thailand stubbornly kept the baht fixed to a basket of currencies, of which the dollar was the biggest component”. Để diễn tả chủ trương gắn đồng tiền một nước vào đồng tiền một nước khác, ngoài từ fix như trên, người ta còn thường dùng từ peg. Câu “Pegged renminbi an effective subsidy” phải hiểu thành đồng nhân dân tệ được gắn chặt với đồng đô la Mỹ thực tế là một dạng trợ cấp.
Khủng hoảng nổ ra khi “Speculators saw opportunity and pounced. They placed massive bets that Thailand wouldn’t be able to maintain the value of its currency”. Từ pounce thường dùng để chỉ chuyện “mãnh thú vồ mồi” ở đây rất ấn tượng nhưng chuyện cá cược phải hiểu theo nghĩa bóng: Khi đoán trước đồng baht sẽ mất giá, giới đầu cơ “cược” bằng cách vay tiền baht rồi đổi ra tiền đô. Ví dụ vay 40 triệu baht mua 1 triệu đô la Mỹ, khi đồng baht mất giá, họ bán 1 triệu đô được 50 triệu baht, chẳng hạn, và bỏ túi gần 10 triệu baht tiền “thắng cược” sau khi trả lại 40 triệu baht và một ít chi phí. Rất dễ đoán hậu quả: “The country’s central bank watched its currency reserves plummet”. Sau khi dự trữ ngoại tệ cạn kiệt, Thái Lan lúc đó đành tuyên bố thả nổi đồng baht. Đồng tiền này ngay lập tức sụt mất 20% còn thị trường chứng khoán đến cuối năm đó, sụt mất hơn một nửa. Lần này, tiền nước ngoài cũng đổ vào Thái Lan nhưng đó là do đồng đô la Mỹ suy yếu nên đồng baht tăng giá quá mức chịu đựng của nhà xuất khẩu. Chính quyền Thái Lan đã có một quyết định mà tờ The Nation gọi là “The 820 Billion Baht Blunder”: “30 percent of foreign exchange brought into the country, excluding funds from exports, would have to be put in a non interest bearing account for one year”. Có biện pháp này, gọi là capital controls, là vì trong một tuần đầu tháng 12, có đến 950 triệu đô la đổ vào thị trường chứng khoán so với mức 300 triệu đô la mỗi tuần trong tháng 11. Tờ The Nation đặt tít như vậy là bởi ngay sau đó, “Thailand’s SET index shed 15 percent of its value, or $22.9 billion, equal to 820 billion baht”.
Ở đây cần lưu ý, báo chí nói sau đó Chính phủ Thái Lan đành phải hủy bỏ lệnh hôm trước nhưng thật ra chỉ bỏ một phần: “Finance Minister Pridiyathorn Devakula said curbs on foreign investment in bonds and other debt instruments would remain”. Debt intruments là các loại giấy nợ như bills, bonds, notes, CDs, commercial paper, and banker's acceptances. Trái phiếu (bond) là từ nói chung, ngắn hạn dưới một năm gọi là bill, trung hạn gọi là note, kỳ hạn dài hơn 10 năm gọi là bond, CD là chứng chỉ tiền gửi (Certificate of Deposit). Như vậy đưa tiền vào Thái Lan mua bán cổ phiếu thì được nhưng mua bán trái phiếu và các loại giấy nợ khác thì vẫn phải giữ lại 30% trong tài khoản không tính lãi. Mặc dù sau đó thị trường chứng khoán Thái Lan có phục hồi nhưng cái mất lớn hơn nằm ở chỗ khác. Đại diện một ngân hàng nhận xét: “Policy decision making seems to be at odds with the workings of capital market”. To be at odds with là chỏi với; còn workings ở đây là cơ chế vận hành. Một nhận xét khác: “The fact that a lot of portfolio money has come to Asia makes them that much more vulnerable to any sudden policy changes”. Portfolio money là tiền đầu tư gián tiếp. Đây là những góc nhìn từ nhà đầu tư, đồng tiền liền khúc ruột; còn hiện tượng các nước châu Á hiện nay bị trở thành con tin của đồng đô la yếu và dòng chảy vốn đầu tư toàn cầu như thế nào xin trở lại vào dịp khác. (TBKTSG, ngày 28 12 2006) Nhiều người cứ tưởng cách hiểu tiếng Anh nhanh nhất là dịch sang tiếng Việt trước đã. Chính sai lầm này là trở ngại lớn nhất cho người Việt học tiếng Anh vì hiểu không liên quan đến dịch và dịch là một kỹ năng khó, hầu như không cần thiết nếu chỉ học một ngoại ngữ để sử dụng chứ không phải đi làm phiên dịch viên.
Xin lấy chương đầu tiên của cuốn Eat the Rich nổi tiếng của P. J. O’Rourke làm ví dụ. Đây là một cuốn sách về kinh tế nhưng được viết với giọng văn dí dỏm, châm biếm rất có duyên nên đọc rất lôi cuốn, dù đồng tình hay phản đối những lập luận của người viết. Tác giả mở đầu bằng thắc mắc: “Why do some places prosper and thrive while others just suck?”. Nếu gắng dịch câu này, đến từ suck, chắc ta sẽ bị khựng lại liền. Suck là một từ dạng thông tục, trong khi nghĩa chính thức là bú, mút thì nghĩa thông tục của nó rất đa dạng. Thức ăn dở quá it sucks; bộ phim quá tệ hại it sucks. nói chung chê cái gì, người ta thường nói it sucks. Như vậy, đâu cần dịch câu trên làm gì cho mệt, chỉ cần hiểu tác giả tự hỏi vì sao có nước, có vùng ngon lành, có nơi lại lụn bại, không ngóc đầu lên nổi là đủ. Khi đã nhận ra cách đặt vấn đề của tác giả, chúng ta sẽ dễ dàng nhận ra nghĩa của các câu sau đó chỉ để làm rõ ý trên. It’s not a matter of brains. No part of the earth is dumber than Beverly Hills, and the residents are wading in gravy. Nếu cố gắng, ta sẽ dịch được câu: “Đấy không phải là vấn đề trí khôn. Không có nơi nào trên trái đất này ngu ngốc hơn Beverly Hills nhưng dân ở đấy đang sống trong nhung lụa”. Dịch như vậy cũng không giúp gì cho việc hiểu câu văn mà còn có nguy cơ làm ý tác giả bị hiểu sai. O’Rourke muốn chọc quê dân nhà giàu ở khu Beverly Hills sang trọng gần kinh đô điện ảnh Hollywood, nơi ở của các minh tinh màn bạc, rằng họ chỉ là những con búp bê xinh đẹp mà không có đầu óc. Gravy nghĩa đen là nước xốt thịt nhưng nghĩa bóng là tiền bạc, của cải, có đôi chút hàm ý phi pháp.
Thử đọc tiếp, chúng ta sẽ thấy các câu sau vẫn tiếp tục mạch văn châm biếm này: “In Russia, meanwhile, where chess is a spectator sport, they’re boiling stones for soup”. Cả hai lối so sánh hàm hồ này chỉ để minh họa ý tưởng: chỉ số thông minh của một dân tộc không quyết định dân tộc đó phát triển mạnh hay không. Khi nhận ra mạch văn, chúng ta cũng dễ đoán nghĩa của các cụm từ mơ hồ: “Maybe culture is the key, but wealthy regions such as the local mall are famous for lacking it”. Ở đây ý tác giả muốn “khều” nhẹ rằng các trung tâm mua sắm, dù bề ngoài rất hào nhoáng, lại là nơi thiếu văn hóa! Một câu khác: “In 1000 B.C., when Europeans were barely using metal to hit each other over the head, the Zhou dynasty Chinese were casting ornate wine vessels big enough to take a bath in. Yet, today, China stinks”. Để bác bỏ yếu tố văn minh trong việc giúp một đất nước trở nên thịnh vượng hay không, tác giả so sánh dân châu Âu cách đây khoảng 3.000 năm còn bận đâm chém nhau với vũ khí thô sơ thì người Trung Hoa dưới triều nhà Chu đã biết làm các vại rượu khổng lồ có hoa văn công phu. Chữ stink vừa dùng theo nghĩa đen để nối với cái ý “take a bath” vừa dùng theo nghĩa bóng để chê Trung Quốc ngày nay. Câu này làm sao dịch cho hết ý! Ngay cả tựa sách Eat the Rich cũng rất khó dịch vì nó là một dạng “đồng dao”: Eat the rich, kill the poor, screw every other sonofabitch. Nếu chúng ta đã đồng ý với nhau, dịch là công đoạn không cần thiết khi đọc để hiểu tiếng Anh, hãy thử đọc một bài báo ngắn trên tờ The Economist số ra tuần rồi về dự báo thị trường chứng khoán năm 2007. “Investors are enthusiastic about buying fixed income assets, even though yields are low by historical standards”. Vì thị trường chứng khoán nước ta mới hoạt động cách đây mấy năm nên nhiều khái niệm chưa có tiếng Việt tương đương, càng tốt cho lời khuyên không cần dịch. Chẳng hạn fixed income assets phải hiểu là các công cụ đầu tư đem lại tiền lãi ổn định, ở đây muốn nói chủ yếu đến các loại trái phiếu. Như vậy câu trên có thể hiểu là nhà đầu tư hiện thích mua trái phiếu [hơn cổ phiếu] cho dù lợi suất thấp hơn so với trước đây.
Một câu khác: “Emerging market bond spread are close to all time lows”. Lợi suất (yield) của trái phiếu ở những thị trường mới nổi lúc nào cũng cao hơn lợi suất của trái phiếu Chính phủ Mỹ chênh lệch giữa chúng gọi là spread. Hiểu được khái niệm này rồi, chúng ta sẽ thấy phần đầu câu trên có nghĩa mức chênh lệch này hiện đang ở mức rất thấp tức là trái phiếu của các nước đang phát triển cũng không hấp dẫn gì lắm. Nhưng “pension funds and insurance companies in the developed world have become more cautious and are increasingly buying bonds in an attempt to match their liabilities”. Đương nhiên rồi, cẩn thận thì mua trái phiếu an toàn hơn cổ phiếu, để có gì vẫn còn những khoản chắc ăn, bù cho các khoản phải chi trả. (TBKTSG, ngày 4 1 2007) Chuyện tỷ giá giữa các đồng tiền không chỉ là đề tài của báo chí ở Việt Nam mà còn nóng ở nhiều nước khác. Thật ra, vấn đề không phải là tỷ giá mà như tờ Economist viết: “Worldwide, an abundance of liquidity has lured investors into riskier assets in search of higher returns”. Thông thường, liquidity được hiểu là tính thanh khoản, tức là mức độ dễ dàng chuyển các loại tài sản thành tiền mặt, ở đây là sự dồi dào đồng tiền “nhàn rỗi”. Và hệ lụy của việc thế giới dư thừa tiền, cụ thể ở đây là đô la Mỹ, là việc các nước châu Á phải đối diện một tình thế tiến thoái lưỡng nan: how to curb domestic liquidity when foreign capital is flooding in. Tiền ở ngoài đưa vào phải chuyển thành nội tệ nên sẽ xảy ra tình trạng cung nội tệ tăng lên tức là domestic liquidity.
Về lý thuyết, có những biện pháp “chống đỡ” tình trạng này. Một là để cho đồng tiền trong nước tăng giá như đã xảy ra ở Thái Lan. Nhưng, tờ Economist bình luận: “Thailand could have allowed the baht to rise further, but it had already gained against all other Asian currencies last year, raising concerns about exporters’ competitiveness”. Tiền tăng giá có thể diễn đạt bằng các từ rise, gain, strengthen, appreciate; mất giá là depreciate. Một cách khác, “Some economists argue that Thailand should simply have cut interest rates to stem capital inflows, making bonds less attractive to foreign investors”. Argue ở đây không phải là tranh cãi mà chỉ là lập luận, cho rằng, nhận định rằng. Cắt giảm lãi suất tức là triệt tiêu cái “higher returns” nói ở đoạn đầu. Nhưng cả hai cách trên đều không ổn vì: “Lower interest rates would simply add to the problem, generating higher credit growth, inflation and asset prices. Similarly, central bank intervention to hold the baht down by buying dollars would also boost the money supply”. Lãi suất thấp, người ta sẽ vay tiền nhiều hơn (higher credit growth), cuối cùng tiền trong lưu thông sẽ tăng thêm (boost the money supply). Chẳng lạ gì khi tờ báo này cho biết: “Other Asian countries are also looking for ways to discourage foreign capital inflows”. Thật là chuyện trái ngược, trước đây các nước trải thảm đỏ mời mọc, nay tìm cách ngăn chặn dòng vốn nước ngoài chảy vào. Ví dụ, “In December South Korea raised reserve requirements on foreign currency debt to make it harder for banks to borrow from abroad”. Câu này ý nói Hàn Quốc nâng tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với các khoản tiền gửi bằng ngoại tệ (chú ý từ debt ở đây là tiền gửi). Họ còn làm mạnh hơn bằng cách khuyến khích các ngân hàng và doanh nghiệp vay đô la từ Ngân hàng Trung ương để đầu tư ra nước ngoài. “Banks can exchange up to $5 billion worth of Korean currency into dollars at the central bank and invest the money in overseas securities markets”. Cho nên nếu ta thấy có một số quỹ đầu tư Hàn Quốc nhảy vào thị trường chứng khoán Việt Nam thì cũng đừng lấy làm lạ. Còn, “China has kept its restrictions on portfolio capital inflows, helping it to hold down its exchange rate”. Trong khi đó, giới đầu tư tài chính vẫn còn đủ “ngón nghề”, như hình thức “carry trade” tức là vay bằng loại tiền có lãi suất thấp như đồng yen, chuyển sang tiền có lãi suất cao để đầu tư.
Vì những diễn tiến này cho nên chúng ta sẽ thường đọc thấy những mẩu tin như: Government mulls issue of US$1 billion in currency stabilization bonds (tính chuyện phát hành các loại trái phiếu chính phủ nhằm ổn định tỷ giá); Countries with large holdings of dollars in their foreign exchange reserves are showing a new willingness to dump the dollar in favor of the rising euro (chuyển dự trữ ngoại tệ bằng đô la sang euro). Buồn cười là một số báo đưa tin: “Anecdotal evidence suggests that drug dealers and money launderers now prefer euros to dollars”. Anecdotal evidence là các bằng chứng riêng lẻ, rải rác theo kiểu “giai thoại” chứ không phải dựa trên khảo sát khoa học. Ở thế giới ngầm, giới giang hồ chọn loại tiền nào chứng tỏ tiền đó ổn định nhất. Riêng ở Việt Nam, tờ Wall Street Journal đưa tin: “Vietnam widened the trading band for its currency, a move observers said is part of a long term effort by the country to liberalize its currency regime but that won’t lead to strengthening in the dong”. Trading band là biên độ giao dịch, được nới lỏng từ cộng trừ 0,25% lên 0,5%. Tuy nhiên, tờ báo này cũng nhận định, về ngắn hạn, “the latest move may be tied more to short term shortages in the supply of dong than longer term goals”. Thiếu tiền đồng là vì dòng vốn trực tiếp, gián tiếp đổ vào nhiều, Ngân hàng Nhà nước mua không hết nên có động thái nới lỏng biên độ giao dịch. Về dài hạn, tờ báo này cho rằng: “The central bank is expected to continue to push its daily parity rate lower to weaken the dong over the long term”. Daily parity rate ở đây chính là tỷ giá bình quân liên ngân hàng hàng ngày; to push.
lower đôi lúc được diễn đạt ngược lại trong tiếng Việt nên chú ý kẻo nhầm. (TBKTSG, ngày 11 1 2007) Chưa từng thấy chuyện một hãng giới thiệu một chiếc điện thoại di động mới mà báo chí khắp thế giới lại tranh nhau đưa tin, viết bài bình luận sôi nổi, kể cả các tờ báo lớn, chuyên bàn chuyện “đại sự”. Ấy là chuyện “Apple drops a bombshell with iPhone” như tít rất chân phương của CNN hay tít rất độc đáo của International Herald Tribune: “The thingamabob that does the job is Apple's new iPhone”. Bombshell ngoài nghĩa quả bom ra còn có nghĩa một cú ngạc nhiên gây choáng váng. Còn thingamabob hay thingamajig được dùng khi ta không biết dùng từ gì để diễn tả nó theo kiểu “cái đó đó”. Trước hết, cần nhớ chiếc điện thoại này đến tháng 6 2007 mới bán ở Mỹ, dân châu Á phải đợi đến đầu năm 2008 mới có mà mua. Từ để diễn tả một vật chỉ mới ở dạng phiên bản mẫu, chưa sản xuất đại trà là prototype: “The iPhone is still in an advanced prototype stage”. Khi viết: “The name iPhone could be doing Apple a disservice”, ý của tác giả muốn nói hai chuyện tranh chấp tên iPhone mà hãng Cisco cũng đang sử dụng cho sản phẩm của họ và, ý này mạnh hơn, tên iPhone chưa nói lên hết tính năng của thiết bị này. (Nếu tra cứu từ điển và thấy họ giải thích to do somebody a disservice là báo hại ai, chơi khăm ai một vố, thì chính cuốn từ điển này báo hại bạn vì có thể làm bạn hiểu sai). Những người được sử dụng thử chiếc iPhone không tiếc lời khen ngợi: “The iPhone’s beauty alone would be enough to prompt certain members of the iPod cult to dig for their credit cards”. Đấy là nói về hình thức bên ngoài; trong câu này có cụm từ iPod cult là những người say mê iPod và dig for their credit cards là dốc tiền ra mua (kể cũng lạ, thành ngữ thông dụng thời trước là dig [deep] into their pockets). Quan trọng hơn là chức năng bên trong: “But its Mac OS X based software makes it not so much a smart phone as something out of the film Minority Report”. Hệ điều hành của máy Mac là OS X, cả câu ý nói nhờ các phần mềm chạy trên nền OS X, iPhone không chỉ đơn thuần là một chiếc điện thoại thông minh mà còn là một thiết bị như từ trong bộ phim khoa học viễn tưởng Minority Report đi ra. Trong bộ phim này của đạo diễn Steven Spielberg, nhân vật chính do Tom Cruise đóng, điều khiển các màn hình ảo bằng các ngón tay. BBC trích lời một chuyên gia rằng: “Steve Jobs is right when he says that no one wants a stylus”.
Chắc các bạn đã từng thấy nhiều người sử dụng cây bút chọt lên màn hình cảm ứng của loại điện thoại PDA, cái đó gọi là stylus. Một người khác có ấn tượng mạnh về chức năng “automatically detects when the user has rotated the device from portrait to landscape and changes the contents of the display accordingly”. Các từ portrait (màn hình đứng) landscape (màn hình ngang) chắc đã quá quen thuộc với dân yêu thích tin học nhưng những người thuộc thế hệ cũ ắt vẫn còn quen với nghĩa bình thường của chúng hơn (chân dung và phong cảnh). Thấy các báo khác khen quá nên một tác giả sốt ruột tự hỏi: “So is this iPhone hoopla only evidence of Apple's public relations panache, or does it signal a seismic shift in the mobile communications market?”. Trong câu này có mấy từ đáng lưu ý: hoopla là quảng cáo rùm beng; panache là sự phô trương; và seismic shift ở đây là sự dịch chuyển gây chấn động, một sự chuyển hướng căn cơ. Chính tác giả này cũng phải trả lời: “Both, analysts say”. Bây giờ chúng ta hãy xem một tờ báo chuyên nghiệp bình luận như thế nào. Tạp chí PC World trong bài “20 Things We Don't Know About the iPhone” đặt vấn đề về giá. “Prices quoted by Jobs $599 for the 8GB model and $499 for the 4GB phone are the discounted prices that require a twoyear Cingular contract”. Ở các nước như Mỹ, giá chiếc điện thoại di động rẻ như cho không vì người mua phải ký hợp đồng một hay hai năm với hãng cung cấp dịch vụ và hàng tháng phải trả tiền thuê bao ở mức nào đó. Cho nên giá iPhone qua nhà cung cấp độc quyền Cingular chưa phải là giá thật. Từ đó, ta mới thường thấy các từ unlocked phone, tức là loại điện thoại “có trợ giá” này thường bị khóa mã, phải bẻ khóa mới dùng ở thị trường khác được.
Một vấn đề khác PC World đặt ra là “How well will the iPhone sync with Windows applications?”. Các loại điện thoại thông minh thường kết nối để “đồng bộ hóa” với máy tính động từ là sync, danh từ là synchronization. Có chuyện này vì Apple với Microsoft như mặt trời với mặt trăng từ lâu. Một câu hỏi thú vị khác là: “Will the iPhone kill sales of iPods?”. Ấy là vì Apple đang ăn nên làm ra nhờ doanh thu từ máy iPod nên nếu người dùng ngưng mua iPod để chờ iPhone thì liệu “Will investors conclude that Jobs's keynote was a big mistake if iPod profits go down the drain for two quarters?”. Keynote ở đây là nói gọn cụm từ keynote address; go down the drain là trôi sông, đổ biển. Hãy chờ xem. (TBKTSG, ngày 18 1 2007) Tạp chí Fortune vừa bình chọn doanh nhân trong năm của châu Á trên số báo ghi ngày 22 1 2007. Đó là Tổng giám đốc Sunil Mittal của hãng điện thoại di động lớn nhất Ấn Độ Bharti Airtel. Câu chuyện lập nghiệp của ông này rất thú vị nhưng ở đây chúng ta chỉ chú ý đến tiếng Anh dùng trong bài này. Trong câu dẫn vào bài, tác giả viết: “India’s Sunil Mittal has built a mobile phone empire by turning outsourcing on its head”. Cụm từ to turn something on its head là thay đổi hoàn toàn, làm chuyện ngược lại. Từ outsourcing là một từ thời thượng, thường hiểu theo nghĩa các công ty phương Tây chuyển một số công đoạn sản xuất hay dịch vụ sang các nước đang phát triển như Ấn Độ để tiết kiệm chi phí. Nhưng Mittal làm ngược, outsourcing công việc của mình cho các hãng phương Tây! Hai câu sau sẽ làm rõ ý đó: “In 2004 he signed contracts worth $400 million to hand over operation of Bharti’s entire phone network to Sweden’s Ericsson, Germany's Siemens and Finland’s Nokia”. Như vậy ông ta giao việc điều hành mạng điện thoại di động cho các công ty này và trả phí dựa trên lưu lượng cuộc gọi. “That same year, Mittal signed a ten year, $750 million contract with IBM, farming out the bulk of Bharti’s informationtechnology services, including billing, management of customer accounts and even operation of the Bharti intranet”. Động từ to farm out ở đây tương tự như outsource.
Thoạt tiên, chiến lược này bị mọi người trong công ty phản đối dữ dội. “In the telecom world, turning your network over to another firm is heresy”. Heresy có nghĩa nguyên thủy là dị giáo, ở đây là một ý tưởng điên rồ, dị biệt. Thế nhưng, chính cách làm này đã “free Bharti to do what it does best marketing, devising new services for its customers, and searching for new business opportunities”. Cái này trong ngôn ngữ quản trị gọi là tập trung vào core competencies (năng lực lõi). Kết quả là, “[Bharti Airtels] wireless subscriptions have shot past the 30 million mark. For the fiscal year ending this March, the company is expected to report revenue of more than $4 billion, up from $509 million in 2003”. To shoot past the 30 million mark là nhanh chóng vượt qua mốc 30 triệu thuê bao. Ở nhiều nước, năm tài chính (fiscal year) khác với năm theo lịch (calendar year), như ở đây tính từ đầu tháng 4 năm này đến cuối tháng 3 năm sau. “Analysts expect earnings to exceed $800 million this year as major rivals bleed red ink”. Lạ một điều bản báo cáo kết quả kinh doanh của các công ty tránh tối đa việc dùng từ profit, họ dùng income hay earnings, nghe có vẻ ít “lý tài” hơn chăng? Và có lẽ chúng ta đã biết in the red là thua lỗ, in the black là làm ăn có lãi nhưng ở đây dùng động từ bleed red ink rất hình tượng. Thật ra ngày xưa trong sổ sách kế toán người ta hay dùng mực đỏ để chỉ những khoản lỗ chứ không có máu me gì ở đây cả. Phần lớn bài viết dành để kể những chặng đường khởi nghiệp lúc Mittal còn trẻ, đáng chú ý nhất là giai đoạn ông nhảy vào ngành điện thoại di động. “When the government invited bids for mobile licenses in cities across India, Bharti sat on the sidelines, unwilling to match the sky high offers of competitors”. Nên nhớ hầu như ở nước nào cũng tổ chức đấu thầu quyền khai thác mạng điện thoại di động với giá phải trả cho chính phủ rất cao. Nói Bharti “sat on the sidelines” có nghĩa đứng ngoài cuộc đua tranh này (tiếng Anh ngồi; tiếng Việt lại đứng!). On the sidelines cũng thường được dùng trong văn báo chí khi phóng viên tường thuật một việc gì đó “bên lề” một sự kiện chính. “Later, when rivals who overpaid went bust, it picked up assets on the cheap”. To go bust là vỡ nợ; trong chơi bài xì dách, là khi rút bài lố, cộng lại quá 21 điểm. Cũng nên để ý cụm từ on the cheap [mua lại] với giá rẻ mạt. Đây là đặc ngữ có nghĩa chính là bằng phương tiện rẻ (to travel to Europe on the cheap). Đặc ngữ cheap at twice the price cũng là cực kỳ rẻ.
Bây giờ Mittal đang chuẩn bị nhảy vào một lĩnh vực mới bán lẻ, lần này liên doanh với một tên tuổi nổi tiếng khác là hãng Wal Mart của Mỹ. Dự án này không dễ thành công vì “India’s restrictions on foreign retailers reflect fears that global giants will run roughshod over mom and pop stores”. To run roughshod over là chèn ép, đè bẹp; còn mom and pop stores là các cửa hàng tạp hóa nhỏ, kiểu kinh doanh gia đình. Hơn nữa, theo Fortune, “Wal Mart, a lightning rod for criticism in its home market, has stumbled in several efforts to expand overseas”. Người viết dùng hình tượng cột thu lôi (lightning rod) rất hay vì ở đây hiểu theo nghĩa Wal Mart liên tục chịu điều tiếng dư luận ở ngay tại Mỹ vì quan hệ với nhân viên rất xấu và cũng đã thất bại ở nhiều thị trường nước ngoài. Tuy nhiên, Mittal xem đây là một thách thức mới khi nói: “As an entrepreneur, I need to scale a few more peaks before I hang it up”. Đặc ngữ hang it up là give up, quit, còn scale a few more peaks là đạt thêm một ít đỉnh cao nữa. Âu đó cũng là phẩm chất của một doanh nhân hàng đầu. (TBKTSG, ngày 25 1 2007) Chỉ còn mấy tuần nữa, chúng ta sẽ bước vào năm Đinh Hợi mà tiếng Anh gọi là “the Year of the Pig”. Trang web “The Entrepreneurial Mind” nhân dịp này đã cất công sưu tầm các câu nói của các nhân vật nổi tiếng có liên quan đến con heo và bình luận, gắn kết chúng với chuyện kinh doanh khá thú vị với tựa đề “Entrepreneurship and the Year of the Pig”. Đầu tiên là một câu nói dí dỏm của nhà viết kịch nổi tiếng George Bernard Shaw: “I learned long ago never to wrestle with a pig. You get dirty, and besides, the pig likes it”. To wrestle là vật lộn. Ông này có rất nhiều câu nói được trích dẫn vì chúng biểu lộ một óc khôi hài, biết kết nối những chuyện nhỏ nhưng với một hàm ý sâu sắc. Ví dụ: “Alcohol is the anesthesia by which we endure the operation of life”. Anesthesia là thuốc gây mê; còn operation ở đây hiểu theo cả hai nghĩa: cuộc phẫu thuật và sự vận động của cuộc đời, những thăng trầm của cuộc sống.
Với câu trên, trang web này bình luận: “The next time you are tempted to follow the lead of a less than scrupulous competitor, especially when it comes to an issue of ethics and your integrity, remember this saying. And also remember that if you wrestle with too many pigs in the mud, you might start to like it as much as they do”. Bernard Shaw nói chung chung, người bình luận nói cụ thể vào chuyện đạo đức kinh doanh. To follow the lead là bắt chước; scrupulous là trung thực (chú ý cách nói a less than scrupulous competitor nhằm nhấn mạnh theo kiểu một đối thủ không lấy gì làm lương thiện cho lắm). Ambrose Bierce là một nhà văn nổi tiếng nhờ cuốn từ điển Devil’s Dictionary, là một dạng “từ điển tra ngược”. Ví dụ ông ta định nghĩa từ cat (con mèo): “A soft indestructible automaton provided by Nature to be kicked when things go wrong in the domestic circle”. In the domestic circle là cách nói trang trọng hóa một cách khôi hài từ “family”. “Congratulation”, theo ông này là “The civility of envy” hay “Corporation” chỉ là “An ingenious device for obtaining individual profit without individual responsibility”. Hay nhất là định nghĩa của từ “Love” “A temporary insanity curable by marriage”. Trên trang web này định nghĩa của Bierce về một cuộc kiện tụng (Lawsuit) được sử dụng: “A machine which you go into as a pig and come out of as a sausage”. Hoàn toàn bất ngờ! Thật ra trang The Entrepreneurial Mind lấy chuyện này để cảnh báo doanh nghiệp nên phòng tránh chuyện “đáo tụng đình” “Avoiding litigation is never completely possible, but there are some common sense ways to avoid becoming someone’s sausage”. Litigation chính là việc kiện tụng, tranh chấp; phần sau nói về một số cách thức để tránh bị “làm thịt” trong tranh chấp. Trang web khuyên: “Develop a strong shareholder agreement before you start your business.
Continue to develop your personnel systems, and spend a little money on an employment attorney along the way to improve your litigation protection”. Các câu này về mặt tiếng Anh không có gì đặc biệt trừ cụm từ along the way dễ bị hiểu sót, ở đây là cùng lúc đó, nhân tiện, nhân thể thì. Câu trích thứ ba thuộc loại khuyết danh: “The difference between involvement and commitment is like an eggs and ham breakfast: the chicken was involved the pig was committed”. Mặc dù khuyết danh (anonymous), đây là một câu so sánh vừa hình tượng, vừa sâu sắc về hai tâm thái “involvement” (có tham gia, có dính líu) như câu “I’m involved in his project” và commitment (cam kết gắn bó, tận tâm tận lực). Hai từ này khác nhau xa như trong món trứng chiên thịt nguội con gà chỉ tham gia gián tiếp bằng quả trứng còn con heo hy sinh thân mình làm món thịt một dạng commitment 100%! Ở đây, người bình luận cho rằng làm doanh nhân phải dấn thân chứ không thể chỉ get involved được: “In the world of entrepreneurship, at some time you have to accept that you are like the pig when it comes to breakfast!”. Các câu trích dẫn thường dùng từ dễ nhưng hơi khó hiểu vì hàm ý của chúng. Với câu trích của John Howard (Thủ tướng Úc): You can’t fatten the pig on market day, chúng ta phải hiểu market day là ngày đem heo ra chợ bán và lúc làm sao vỗ béo heo để bán được giá cho kịp. Trong trường hợp này trang web bình: “There is no magic that can make your business more valuable at the time you are ready to move on”. Doanh nhân thường xây dựng doanh nghiệp lớn mạnh để đến lúc nào đó, bán doanh nghiệp đi để chuyển sang dự án khác cái đó gọi là exit strategy hay exit planning, thường chiếm một phần cụ thể trong kế hoạch khởi nghiệp. Nhưng đúng là “Building value in your business is a long term process that takes consistent commitment” nên mới có câu “You can't fatten the pig on market day”. Trong câu bình luận nên chú ý cụm từ “to move on” là chuyển sang làm việc khác, chuyển sang hướng mới như câu: “He wrote popular songs in the 1920s but moved on to become a producer of musicals in the 1940s”.
(TBKTSG, ngày 1 2 2007) Những tưởng chỉ có khách hàng Việt Nam than phiền nhân viên các ngành dịch vụ như khách sạn, nhà hàng. coi trọng khách nước ngoài hơn khách trong nước. Ngờ đâu đầu tuần này tờ Straits Times của Singapore cũng có một bài sâu sắc về tâm lý tương tự với nhan đề “Of Singapore Girls and white men”. Có lẽ người đưa giới từ of vào đầu tựa sách, không phải mang tính hàn lâm như những tác phẩm nghiên cứu nặng nề ngày xưa, mà tạo được một phong cách văn học đặc trưng là John Steinbeck với tác phẩm “Of Mice and Men” (chúng ta thường quen với lối dịch “Của chuột và người” trong khi đúng ra phải nói “Về chuột và người”). Tựa bài báo nói trên cũng là một dạng bắt chước Steinbeck. Bài báo bắt đầu bằng câu: “It is time to get over our colonial hang ups and give the Singapore Girl a break”. Khá dễ nhầm hai từ hangover (đêm hôm trước uống rượu nhiều, hôm sau sẽ bị hangover) và hang up (trở ngại về mặt tâm lý). Ở đây ý tác giả nói đã đến lúc cần vượt qua mặc cảm là dân thuộc địa. Còn Singapore Girl là hình ảnh các cô tiếp viên hãng hàng không Singapore Airlines sử dụng để quảng bá cho mình từ hàng chục năm nay. Dù đây là chiến dịch quảng cáo thành công, theo Reuters, “critics complain the Singapore Girl concept is sexist, outmoded and largely intended to serve male passengers’ fantasies of desirable, subservient Oriental women”. Nên nhớ sexist ở đây không có gì là sex cả, nó chỉ có nghĩa phân biệt giới tính. Vì sao tác giả đề nghị “give the Singapore Girl a break”? (To give someone a break là tha cho ai, đừng quấy rầy nữa, đừng chê bai nữa). Đầu tiên tác giả nhắc lại cảm giác chung của nhiều người: “The coup de grace was the observation that on flights to the United States and Britain, Singaporean attendants would give good service to only Caucasians but not to Singaporeans”. Coup de grace ở đây dùng theo ý “giọt nước làm tràn ly”; để miêu tả người da trắng phương Tây có từ Caucasian.
Sau đó, tác giả mở rộng ra với nhận xét: “It is practically a knee jerk reaction these days to blame the white man for many of Singapore’s ills”. Có lẽ chúng ta đều nhớ hình ảnh người bác sĩ dùng cây búa nhỏ gõ vào đầu gối để đo lường phản xạ của người bệnh knee jerk reaction do đó là phản xạ ngay tức khắc, phản ứng tự động. Cái hay là từ này được dùng kèm từ ills, vừa là bệnh tật vừa là điều xấu, tệ nạn. Chính những phản ứng, những nhận xét trên là một phần của tâm lý người dân thuộc địa mà theo tác giả, dân Singapore cần vượt qua. Hiện nay hãng Singapore Airlines đang cân nhắc thiết kế lại hình ảnh Singapore Girl như thông tin trên bài báo: The news broke that the fate of the Singapore Girl was hanging in the balance. To hang in the balance là đang chờ được quyết định có tiếp tục tồn tại hay không. Tác giả đề nghị: Following current practice, let’s not put her out to pasture. To put someone out to pasture cũng là một thành ngữ mang nghĩa cho ai về hưu vì đã hết thời như trong câu: He felt he was still too young to be put out to pasture. Tốt nhất là, “let’s upgrade her skills and teach her new things” vì “As someone who has contributed to Singapore’s success for 35 years, she deserves to be heard”. Cũng là chuyện thay đổi hình ảnh, diễn viên điện ảnh Daniel Radcliffe nổi tiếng trong vai Harry Potter tuần trước đã làm nhiều bậc phụ huynh lên tiếng: “Harry Potter star Daniel Radcliffe has got some parents steaming over his racy new stage play role”. Steam ngoài nghĩa bốc hơi nước còn có nghĩa nổi giận; người viết sử dụng từ racy ở mức độ nhẹ nhất của nghĩa “sỗ sàng, không đứng đắn” vì racy còn có nghĩa đặc sắc, hấp dẫn. Cậu bé Harry Potter ngày nào năm nay đã 17 tuổi, có tham gia đóng kịch trong một vở diễn sẽ công diễn vào tháng sau ở London. Kịch người lớn nên các tấm ảnh giới thiệu quảng cáo trước khá gây sốc, dù thật ra cũng chẳng có gì đáng làm ầm ĩ: “One of the publicity photos for the play shows a topless and buffed Radcliffe being hugged by a naked woman. Another shows him leaning against bales of hay as he stares up at the topless woman. A third has him posing in front of a white horse”. Cũng lạ, topless thường dùng cho phụ nữ, ai lại dùng để miêu tả đàn ông!
Thật ra Radcliffe chỉ muốn thoát khỏi hình ảnh Harry Potter để trở thành một diễn viên có nhiều vai diễn. Trả lời phỏng vấn tờ Newsweek, cậu nói: “Part of me wants to shake up people’s perception of me, just shove me in a blender”. Ý nói mọi người cứ nhét cậu vào máy xay sinh tố, buộc cậu chết cứng với vai Potter. “It’s a really challenging play, and if I can pull it off, I hope people will stop and think, Maybe he can do something other than Harry”. To pull off là làm được chuyện gì đấy mặc dù gặp nhiều khó khăn như trong câu: “He pulled off a last minute victory”. (TBKTSG, ngày 8 2 2007) Dân trong ngành quản trị kinh doanh nói riêng và kinh tế nói chung có những từ ngữ đặc biệt, có thể gây khó hiểu do người “ngoại đạo”. Ví dụ, từ “rent seeking” nghe qua tưởng đâu là tìm kiếm tiền thuê nhà! “Rent seeking” có thể hiểu nôm na là “chạy chọt”, tức là lợi dụng quan hệ, tìm cách vận động hành lang để doanh nghiệp mình hưởng lợi, doanh nghiệp đối thủ bị thua thiệt. Khi phê phán chính sách khuyến khích các vụ kiện bán phá giá của Mỹ, một nghiên cứu kết luận: “By increasing the total benefits accruing to industries filing successful petitions, the law subsidizes rent seeking”. Subsidize ở đây là khuyến khích. Một từ khác cũng dễ gây hiểu nhầm free rider, là người ngồi không hưởng lợi. Trong ví dụ về kiện bán phá giá nói trên, giả thử có chín công ty chung sức hợp tác, gánh chịu chi phí để thúc đẩy vụ kiện, một công ty không chịu làm gì cả. Nếu vụ kiện có kết quả, cả 10 được hưởng lợi và công ty thứ 10 chính là một free rider. Chỉ có thể loại trừ vấn nạn “ăn theo” này bằng luật pháp “By awarding these subsidies only to those firms that actively support the petition, it mitigates the free rider problem traditionally associated with collective actions”. Mitigate là giảm bớt, giảm nhẹ còn collective actions là các vụ kiện tập thể.
Tuần này chúng ta hãy tập trung vào một khái niệm giá để đọc một số bài báo kinh tế liên quan. Trong bài báo mang tựa đề “Match me if you can” trên tờ Financial Times, tác giả Tim Harford cho rằng: “Price transparency is a double edged sword”. Chắc các bạn còn nhớ bộ phim Catch me if you can của Steven Spielberg do Tom Hanks và Leonardo DiCaprio đóng. Tựa đề là một cách nhại tên bộ phim, mang nghĩa “Có giỏi thử giảm giá theo tôi”. Vì sao tác giả cho rằng công khai giá cả là con dao hai lưỡi? Lưỡi thứ nhất: “If customers can easily compare lots of prices, then they will seek out the best deal”. Nhờ Internet, chuyện tìm ra nơi chào giá tốt nhất là rất dễ dàng, nhờ thế cạnh tranh bằng giá rất dễ thu hút khách hàng. Nhưng lưỡi dao thứ hai: “But if customers can easily compare lots of prices, so can competitors, and if they quickly cut prices in response, they will also win back customers very quickly”. Vì thế, tác giả kết luận: “Companies will realise that cutting prices to win market share is a mug’s game”. A mug’s game là chuyện vô vọng. Tờ The Economist cũng vừa có một bài báo giải thích vì sao các hãng hàng không giá rẻ có thể chào giá vé rẻ như cho không. Tựa đề bài báo: “Low cost airlines Fare game” cũng là một cách chơi chữ. Người ta thường dùng từ fair game để diễn đạt ý kẻ bị săn đuổi (Everyone is fair game); ở đây fare game là cạnh tranh bằng giá vé nhưng vẫn có hàm ý ai cũng bị ảnh hưởng vì trò giảm giá của các hãng này.
Trong ngành hàng không có các từ short haul, medium haul và long haul để chỉ các loại tuyến bay: ngắn, trung và dài. Các hãng hàng không giá rẻ thường chỉ bay các tuyến ngắn nhưng nay “Budget airlines take on long haul routes”. Take on là “to fight or compete against someone”. Tuy nhiên, cạnh tranh bằng giá ở phân khúc thị trường này là điều không dễ và người ta tiên đoán “The best that low cost airlines can hope for on an all economy long haul service is a slender 20% price advantage over the established carriers”. Như vậy so với các hãng hàng không truyền thống, giá vé các hãng giá rẻ có giảm cũng chỉ tối đa đến mức 20% mà thôi. Tờ New York Times cũng có bài về giá nhưng ở đây là “congestion pricing”, được bài báo giải thích: “The concept of charging higher fees to consumers for a good or a service at times of heavy use”. Loại định giá theo thời điểm, nhiều khách giá cao, vắng khách giá rẻ như vậy đã được sử dụng trong các ngành như khách sạn, điện thoại đường dài, hàng không. Bài báo nói về chuyện áp dụng “congestion pricing” vào quản lý đô thị để giảm nạn kẹt xe. “Congestion pricing in theory encourages people to car pool, or to drive at different times of the day, or to take the train or bus”. Ở California, chẳng hạn, nếu chú ý ta sẽ thấy trên xa lộ có một làn đường ưu tiên nằm trong cùng, dành riêng cho “carpool”, tức là những người đi chung xe, vì giảm lượng xe lưu thông nên được ưu tiên. Tờ New York Times nhận xét: “While London and Stockholm have successfully enacted plans that levy fees on drivers who want to enter traffic clogged city streets, the United States has been slow to apply the concept on the roads”. Levy fees là đánh phí; traffic clogged city streets là đường phố đông nghẹt xe. Hiện nay ở Mỹ, việc tính phí giao thông như kiểu Singapore, Stockholm chỉ mới được thí điểm như ở San Diego, “on an eight mile stretch of Interstate 15, high occupancy toll, or H.O.T., lanes can be used by individual motorists willing to pay fees that vary throughout the day, depending on traffic conditions”. Nên ghi nhớ từ viết tắt mới này để khỏi nhầm vì H.O.T. chính là lệ phí giao thông trên đường nhiều người sử dụng.
(TBKTSG, ngày 1 3 2007) Tuần rồi tờ Asia Times có bài về Việt Nam với nhan đề: “Vietnam has second thoughts about WTO”. Second thought là “thinking again about a choice previously made” nên có thể dịch nôm na là “hối tiếc”, “ân hận” như trong câu “He had second thoughts about his purchase” biết vậy khoan mua món đó đã. Ấy là vì tác giả chủ quan suy diễn khi có tin đồn Việt Nam sẽ kiểm soát dòng vốn đầu tư gián tiếp. Kể ra cũng lạ, trước và sau khi Việt Nam vào WTO, dư luận trong và ngoài nước rất hăm hở, kỳ vọng vào sự “cất cánh” của nền kinh tế Việt Nam. Nay một phần kỳ vọng này chuyển vào thị trường chứng khoán, dư luận lại tỏ ra lo lắng cho sự phát triển đột biến này. Trở lại bài báo của Asia Times, tác giả lý giải: “The market euphoria has local financial authorities in a funk”. Euphoria là sự hưng phấn còn to have someone in a funk là tình trạng ngược lại a nervous depression. Hai lý do chính: “That’s partly because huge capital inflows have limited the central bank’s monetary policy options to manage inflation and is also starting to put severe strains on its local currency peg”. Câu này ý nói tiền đổ vào quá nhiều làm Ngân hàng Nhà nước không có nhiều lựa chọn khi muốn kiểm soát lạm phát bằng các chính sách tiền tệ và cũng làm cho việc gắn kết tiền đồng với các ngoại tệ hao tổn nguồn lực nhiều hơn. Trong khi đó, tạp chí Time cũng có một bài dài về thị trường chứng khoán Việt Nam ở dạng phóng sự, theo chân những người chơi cổ phiếu chưa niêm yết. Để diễn tả sự sôi động của thị trường phi chính thức, tác giả viết: “Think of it as an amorphous eBay for speculators, an ad hoc gray market that sprouted spontaneously from the pent up desire among the Vietnamese to cash in on the country's economic boom”. eBay là trang web chuyên về bán đấu giá lớn nhất thế giới ở đây là một eBay vô định hình; pent up desire là sự khao khát bị dồn nén. Nên chú ý đến cụm từ cash in on the country’s economic boom chính là kỳ vọng tận dụng cơ hội “kiếm chác” nói ở trên.
Nhận xét về tình hình này, một nhà kinh tế của Ngân hàng Thế giới ở Hà Nội phải thốt lên: “It’s the Wild West”. Nửa cuối thế kỷ thứ 19, dân Mỹ háo hức đổ về miền Tây để tìm cơ hội làm giàu, cụm từ “miền Tây hoang dã” từ đó được dùng để chỉ tình trạng tranh nhau làm giàu trong sự hỗn loạn, tranh tối tranh sáng. Rủi ro ở thị trường này, như tác giả nhận xét, “not just because of the potential for fraud and theft”. Nó còn bởi “unlisted companies were under no obligation to disclose financial information, so investors had few ways to gauge company performance or whether an investment was sound”. Under no obligation to disclose là không có nghĩa vụ phải tiết lộ còn sound ở cuối câu là đúng đắn. Buồn cười nhất là nhận xét của một chuyên gia đầu tư nước ngoài: “Basically, the way stocks are researched is ‘My grandfather’s uncle’s cousin’s wife works at this company and says it’s a good buy’”. Đừng cố gắng dịch cho chính xác cụm từ “my grandfather’s uncle’s cousin’s wife” làm gì cho mệt, chỉ cần hiểu đó là người bà con xa lắc xa lơ, bắn súng đại bác ba ngày chưa tới, bảo cổ phiếu ấy mua được đấy. Thật ra ở thị trường chứng khoán nước ngoài, theo tường thuật của báo giới quốc tế, cũng bị tác động bởi những điều tưởng chừng phi lý. Tờ International Herald Tribune tiết lộ: “Greenspan, in retirement, upsets the markets” và cho rằng đợt giảm giá chứng khoán khắp thế giới trong tuần qua là do phát biểu của Alan Greenspan, cựu Thống đốc Cục Dự trữ Liên bang Mỹ. Trong các buổi trò chuyện thân mật (intimate conversations) với ông này mà các nhà đầu tư phải trả 150.000 đô la để tham dự, Greenspan chỉ cần thốt lên từ “suy thoái” là thị trường chao đảo ngay. “First on Monday and then again Thursday, Greenspan upset stock markets merely by uttering the word “recession” and saying that one might but probably would not occur by the end of this year”.
Có thể phần sau của câu trích trên làm chúng ta lúng túng: might occur nhưng probably would not occur là sao? Nguyên văn câu nói của Greenspan là “By the end of the year, there is a possibility, but not a probability, of the U.S. moving into a recession”. Cả hai từ possibility lẫn probability đều có nghĩa có khả năng xảy ra nhưng possibility là nói về cảm giác mơ hồ đến từ trực giác còn probability nói đến thông tin dựa vào dữ liệu chính xác. Mọi người khá ngạc nhiên vì “For a man who had worked assiduously to keep markets calm while he ran the Fed, why was Greenspan now using an incendiary word bomb?”. Work assiduously cũng như work hard; còn an incendiary word bomb (quả bom lời nói kích động) ở đây chính là từ “recession” nói trên. Thật ra, như sự khác biệt giữa hai từ possibility và probability đã cho thấy, Greenspan chỉ “caution that the United States appeared to be at the end of a long expansion and that such times usually brought with them the seeds of a recession” tức là sự phát triển kinh tế theo chu kỳ, hết thịnh đến suy mà thôi. (TBKTSG, ngày 8 3 2007) Để chuẩn bị cho Olympic 2008 tại Bắc Kinh, chính quyền Trung Quốc đang có chiến dịch dọn dẹp các bảng biểu viết bằng tiếng Anh “bồi” từng là nguồn cảm hứng cho nhiều bài viết chọc quê cũng như tán thưởng. Loại tiếng Anh “thiếu chuẩn” này rất đa dạng, như nhận xét của tờ Wall Street Journal They range from the offensive (“Deformed Man,” outside toilets for the handicapped) to the sublime (on park lawns, “Show Mercy to the Slender Grass”). Trước khi nói vào chuyện chính, xin nhắc sơ qua xu hướng dùng uyển ngữ ở Anh, Mỹ. Trong tiếng Anh có một thể loại nói khéo gọi là euphemism được dùng để tránh gây đụng chạm; ví dụ để nói đến những người khuyết tật, các từ được dùng biến đổi từ chỗ nói thẳng thừng đến chỗ ngày càng khéo: crippled handicapped disabled differently abled. Vì thế tấm biển ghi ngoài toilet dành riêng cho người khuyết tật mà ghi “Deformed Man” như câu trích ở trên thì thiệt là chướng tai.
Tuy nhiên, euphemism bị giới chính khách và giới quảng cáo lạm dụng nên đôi lúc cũng buồn cười không kém tiếng Anh bồi. Thay vì miêu tả một người có chiều cao khiêm tốn bằng từ short đơn giản, người ta phát minh ra từ “height challenged” (“chiều cao khiêm tốn” cũng là một cách nói khéo trong tiếng Việt!); người mù được gọi là “visually impaired”; xe đã qua sử dụng là “pre owned vehicles”; nghề thu gom rác biến thành “sanitation engineer”. Trong chiến tranh, đôi lúc thường dân bị thương vong, thay vì nói thẳng, người ta thích dùng từ “collateral damage” từng được dùng làm tựa đề một phim do Arnold Schwarzenegger thủ vai chính. Nếu chú ý, chúng ta sẽ thấy người Mỹ dùng các từ khác nhau để miêu tả trục trặc sức khỏe tâm thần của người lính sau các cuộc chiến: Shell shock (Thế chiến I) " Battle fatigue (Thế chiến II) " Operational exhaustion (Cuộc chiến Triều Tiên) " Post traumatic stress disorder (Cuộc chiến ở Việt Nam). Từ được dùng ngày càng tinh vi hơn. Trở lại đề tài chính, tiếng Anh ở Trung Quốc có nhiều lúc “quái đản” đến nỗi nhiều trang web được lập nên chỉ để sưu tầm các bảng hiệu, bảng thông báo loại này. Ví dụ tấm bảng cảnh báo người đi đường coi chừng dễ té vì đường trơn đã ghi: “Slip carefully” (Hãy trượt té một cách cẩn thận!). Các sai sót cũng đa dạng: sai từ (câu ghi trên thùng hàng: “Do not open with sharp instruction”); sai chính tả (phòng vệ sinh công cộng “Pubic Toilet”); Sai vì diễn đạt (“Please don’t throw rubbish away”). Có lẽ chúng ta cũng đã có dịp thưởng thức tiếng Anh Trung Quốc khi mua loại đĩa DVD phim nói tiếng Anh, có phụ đề tiếng Anh nhưng hoàn toàn không dính líu gì đến lời đối thoại đang diễn ra vì loại phụ đề này được dịch lại từ tiếng Hoa. Ví dụ lúc phim Mr.
& Mrs. Smith mới ra, bản DVD lậu có những câu phụ đề như: “Jane, stop the car!” bị biến thành “Jean, parking, Jean!”; khi nhân vật chính tự giới thiệu: “I was an art history major”, phụ đề ghi: “I make a history for elephant time”; còn lúc hai người xưng tên rất bình thường “I’m Jane” và “I’m John” đã bị phụ đề chuyển hóa thành “I call Chien”, “I call John”. Thiệt hết biết. Vì lẽ đó, tờ Wall Street Journal cho biết: “For the next eight months, 10 teams of linguistic monitors will patrol the city's parks, museums, subway stations and other public places searching for gaffes to fix”. Gaffe là các câu hớ hênh như đã trích. Ví dụ bảng hiệu trước bệnh viện, trước ghi rất “bình dân”: “Hospital for Anus and Intestine Disease” đã được sửa thành “Hospital of Proctology”. Coi chừng! Vì ở Việt Nam cũng có tình hình dùng tiếng Anh đầy sai sót tương tự, hy vọng có dịp sẽ đề cập sâu hơn. Cách làm của chính quyền Bắc Kinh cũng rất hay: kêu gọi mọi người phát hiện và chỉnh sửa qua một trang web rất thành công, thu hút sự tham gia của rất nhiều người. Chỉ có những người sưu tầm các câu Chinglish này là buồn. “[They] lament the loss of a source of amusement”. Kiểm tra trình độ hiểu “uyển ngữ” Hãy kiểm tra xem trình độ hiểu nghĩa đen của các uyển ngữ được dùng trong tiếng Anh bằng cách chọn từ ở cột bên trái phù hợp nghĩa của cụm từ bên phải. Đây là tiếng Anh thiệt trên văn bản chính thức đàng hoàng, chứ không phải “tiếng Anh ở Trung Quốc”. 1. Sufferer from fictitious disorder syndrome A. Stolen goods 2. Sub optimal B. Bribe 3. Temporarily displaced inventory C. Liar 4. Negative gain in test scores D. Failed 5. Normal gratitude E. Lower test scores Đáp án: 1. C; 2.D; 3.A; 4.E; 5.B
(TBKTSG, ngày 15 3 2007) Nhiều người học MBA thích nói đùa MBA là Married But Available. Có lẽ do đa phần học viên MBA đã ra đời làm việc nhiều năm, đã lập gia đình nhưng còn ham vui nên tự cho mình “vẫn còn son”. Cũng có người muốn giải thích, married ở đây là đã gắn bó với một cơ quan, doanh nghiệp rồi nhưng vẫn sẵn sàng đầu quân nơi khác nên tự giới thiệu là vẫn còn available! Là nói đùa vậy thôi; MBA Master of Business Administration (Thạc sĩ quản trị kinh doanh) có nhiều loại. Xét theo phương thức học, nhiều trường đại học khắp thế giới chủ yếu nhắm đến người học “tại chức” theo đúng nghĩa vừa đi làm, vừa học. Nhưng từ dùng của họ nghe rất kêu như executive (dành cho người đang quản lý doanh nghiệp), hoặc modular part time (học theo học phần). Xét theo ngành học, thì bản thân các ngành được gọi bằng một từ khá lạ: concentration (hay focus). Ví dụ International Management Concentration tức là ngành chuẩn bị cho học viên vào làm tại các công ty đa quốc gia. Chương trình học như thế gồm hai phần gọi là core curriculum (phần chính) và phần chuyên ngành (electives) hay course options. Hiện có ba xu hướng chính trong đào tạo MBA. Một là rút ngắn thời gian, học chính quy thì khoảng một năm thay vì hai năm như trước, hai là chương trình đa dạng đáp ứng nhiều loại học viên với nhiều nhu cầu khác nhau; ba là sự quốc tế hóa chương trình để thu hút thêm nhiều học viên được gọi là intakes. Vì vậy nhiều trường khuyên: “Programs differ enormously in what they offer, the type of experience they provide, their cost, accessibility, duration etc so careful research will be needed in order to make the right choice”. Cost thì dễ hiểu rồi, còn accessibility trong trường hợp này là địa điểm học có thích hợp không, giờ học có phù hợp không.
Tài liệu hướng dẫn chọn trường có những thủ thuật thú vị. Ví dụ, người ta viết: “You can compare the number of places available on a program as identified in the entries in the database with the actual number that entered the program last year”. Một bên là con số “chỉ tiêu tuyển” và một bên là con số thực tuyển. “If the actual is less than the number of places made available it may indicate that the demand for the program was not as high as had been hoped by the School”. Dĩ nhiên nếu số sau thấp hơn số trước chứng tỏ nhu cầu vào học trường đó không cao lắm. Họ cũng khuyên nên chọn trường có “established program” tức là có bề dày kinh nghiệm, tổ chức chương trình đã lâu. Một yếu tố quan trọng nữa là vị thứ xếp hạng của một chương trình gọi là rankings. Người ta cảnh báo: “The information on rankings must be used with some caution”. Vì xếp hạng có nhiều cách, theo nhiều tiêu chí, và nhiều đối tượng nên chúng chỉ có giá trị tham khảo. Nhiều trường quảng cáo cho việc họ được một tổ chức có uy tín nào đó công nhận gọi là accreditation. Tuy nhiên từ này cũng mang nhiều nghĩa tùy theo mỗi nơi. Có khi nó chỉ đơn thuần có nghĩa chính quyền cấp phép cho trường hoạt động; hay một trường đại học bảo trợ cho một viện nào đó đào tạo MBA. Nếu nói rõ được các tổ chức độc lập như AACSB (ở Mỹ và các nơi khác) hay AMBA (Anh và châu Âu) công nhận thì chương trình đó có uy tín. AACSB là The International Association for Management Education còn AMBA là Association of MBAs thường chỉ công nhận chương trình chứ không phải công nhận trường. Lưu ý nữa là nếu trường nói họ là hội viên các tổ chức này không có nghĩa chương trình của họ đã được accredited.
Nếu bạn nghĩ, sao dạo này đi đâu cũng nghe quảng cáo chương trình MBA mới, bạn không phải là người duy nhất. Hãy nghe một nhà giáo than: “Many people believe that too many educational institutions are offering too many MBA programs, and too many would be managers are lapping them up in an effort to get themselves on the fast track”. Lap là vòng đua, lapping up ở câu trên là nhảy vào vòng đua nhưng chạy tắt (fast track). Trong bài này, để chỉ sự ra đời hàng loạt chương trình MBA, tác giả dùng hết từ proliferation, đến plethora. Ông này ví von: “The so called fast track will simply become a main highway, clogged up with people going slow in the right hand lane”. Vì đơn giản một điều: “If everyone has an MBA, then what’s the point?”. Đúng là “An MBA does not guarantee you career success, because it does not guarantee you can perform. It may give you the potential to perform, but it says no more about you than that”. Bằng MBA không bảo đảm cho bạn thành công trong sự nghiệp vì nó không bảo đảm bạn sẽ làm việc tốt. Câu sau ý nói đến người xét tuyển nhân sự khi nhìn bạn có bằng MBA, họ có thể nghĩ bạn có tiềm năng nhưng ngoài ra không cung cấp thêm thông tin gì về bản thân bạn. MBA phải kèm với track record (kinh nghiệm thực tiễn) mới được tin dùng. Còn nếu bạn vẫn thất nghiệp sau khi nhận bằng MBA, cứ tự an ủi nó là Married But Available. (TBKTSG, ngày 22 3 2007) Tin Bill Gates, Chủ tịch hãng Microsoft sẽ nhận bằng tiến sĩ danh dự của Harvard được nhiều báo đưa và vì tin thuộc dạng đơn giản nên các báo này viết theo kiểu “thêm muối thêm mắm” rất đáng nghiên cứu về mặt tiếng Anh.
Bản tin CNET News viết: “Some of us do the whole four years. For others, a college degree just isn’t a ticket they need to punch before setting out to build an empire and change the world”. Ý của câu này tỏ vẻ ghen tỵ vì có người phải học đủ bốn năm trong khi những người khác đâu cần lấy bằng đại học mà vẫn xây dựng được một đại công ty, làm thay đổi cả thế giới. Số là: “Gates dropped out of Harvard in 1975 (his junior year) to concentrate on developing Microsoft, the company he founded with Paul Allen”. Đang học mà bỏ giữa chừng gọi là drop out, người học hành dang dở gọi là một dropout. Sinh viên mới vào năm nhất là freshman, năm hai: sophomore; năm ba: junior và năm tư: senior. Cách gọi này cũng áp dụng cho học sinh trung học ở Mỹ (từ lớp 9 đến lớp 12). Ngay cả Tổng giám đốc hãng Apple, Steve Jobs cũng bỏ học giữa chừng. Ông nói: “I dropped out of Reed College after the first 6 months, but then stayed around as a drop in for another 18 months or so before I really quit”. Câu này có thêm từ “drop in”, tức là đã bỏ học nhưng vẫn đi học dạng “dự khán”, “dự thính”, không lấy điểm. Dạng đi học này được miêu tả bằng từ audit, nghe rất dễ nhầm với nghĩa “kiểm toán”. Nay Harvard thông báo Bill Gates sẽ là “the principal speaker at this year’s commencement ceremony on June 7”. Lễ tốt nghiệp chính là commencement ceremony bởi người ta xem tốt nghiệp đại học như bước khởi đầu chứ không phải là sự kết thúc. Còn lễ khai giảng nhận sinh viên mới là matriculation ceremony. Chú ý câu này: “The Daily Pennsylvanian reports that Penn's matriculation rate skyrocketed this year to 66%, a record”. Mỗi học sinh Mỹ thường nộp đơn dự tuyển vào nhiều trường đại học. Sau khi được nhận, học sinh cân nhắc chọn trường để ghi danh vì thế matriculation rate skyrocketed this year to 66% tức là trường này chấp nhận 100 em thì có 66 em cuối cùng thật sự ghi danh theo học, đây là một tỷ lệ cao kỷ lục.
Trở lại chuyện Bill Gates, “like all commencement speakers [he] will receive an honorary degree from the institution”. Các trường đại học ở nhiều nước có lệ cấp bằng danh dự cho những nhân vật nổi tiếng, thường là bằng tiến sĩ, mang ý nghĩa tượng trưng cho dù người nhận có thể chưa học giờ nào. Bởi thế, đa số người nhận bằng sau đó không ai thèm ghi trước tên mình từ “tiến sĩ” cho oai. Về lý thuyết, người nhận bằng có thể ghi cụm từ Dr. h.c. hay Hon. D. sau tên mình (h.c. viết tắt cụm từ Latinh: honoris causa tức là honorary. Ở đây có lẽ cũng nên biết bằng tiến sĩ danh dự ngành luật gọi là Doctor of Law, trong khi bằng tiến sĩ luật chính hiệu gọi là Doctor of Juridical Science; tương tự có hai từ phân biệt dành cho ngành giáo dục: Doctor of Pedagogy và Doctor of Education. Cựu sinh viên của một trường gọi là alumni (số nhiều) cho nên báo mới viết: “Gates is a semi alum that Harvard can be proud of” vì “the university still considers Gates “a member of the Harvard College Class of 1977”, and this spring that class will celebrate its 30th reunion”. Tên khóa học lấy năm tốt nghiệp làm mốc nên khi nói Class of 1977 tức là khóa tốt nghiệp năm 1977 chứ không phải nhập học vào năm 1977. Một tờ khác viết: “It’s not like he needs it to beef up his resume, but the world's richest college dropout is finally getting his degree”. Cụm từ to beef up là tăng cường, ở đây là làm đẹp lý lịch. Cấu trúc it’s not like. but cũng là cách diễn đạt thường thấy khi muốn nói, nói vậy không hẳn là. “It’s not like we are ashamed, but we just can’t stand that sort of behavior”.
Đáng tiếc là một số trường đại học trên mạng dùng bằng tiến sĩ danh dự để mua bán rất kỳ cục. Ví dụ trường “University of Berkley Online” (cái tên nghe gần giống tên trường Berkeley nổi tiếng ở California) quảng cáo “An honorary doctorate is entirely legitimate and the title conferred may be used like any other” và chào mời “For a small “support honorarium” (donation) you may participate in our Honorary Doctorate Program”. Cái hay là trường này sợ người đọc không hiểu tiếng Latinh nên sau từ honorarium (tiền thù lao) phải chú thích ngay là donation! Phần dưới trang web “bán bằng” này (berkley u.edu/hon_deg.html) ghi rõ giá cả và loại bằng, ai mua cứ chọn, trả bằng thẻ tín dụng và bằng sẽ gửi về tận nhà. (TBKTSG, ngày 29 3 2007) Tờ BusinessWeek số ra tuần này mở đầu một bài với câu: “Give it up for NBC Universal and News Corp., because in late March the two old media titans made the biggest splash for a nonexistent product since the iPhone”. Khoan chú ý đến phần sau của câu này (ý nói hai gã khổng lồ trong làng truyền thông kiểu cũ làm rùm beng về một sản phẩm chưa hề tồn tại chẳng kém gì vụ rùm beng về chiếc điện thoại iPhone mới đây). Phần đầu câu có cụm từ “give it up for” có nghĩa là. hoan hô, rất đáng chú ý. Những câu thường nói như “Xin cho một tràng pháo tay, chào đón.” nên ghi ra để khi cần có sẵn mà dùng. Ngoài cụm từ trên, người ta cũng có thể nói: “Give a big hand to” Let’s give a big hand to our guest speaker tonight, Mr. XZY. Để thay đổi không khí cũng có thể nói: “Let’s put our hands together for.”. Còn để giới thiệu một diễn giả, người ta thường nói: “Please join me in welcoming.”; “Please help me welcome.”. Còn muốn cho hoành tráng, có thể bắt chước mấy MC chuyên nghiệp: “H e r e 's Johnny!”; “Ladies and Gentlemen, I present to you (ngưng một chút) MS. CATHERINE STONE”.
Đầu tuần này có ngày Cá tháng Tư (April Fool’s Day), nhân đó nhiều báo đăng lại các vụ nói dối nổi tiếng nhân ngày 1 4 hàng năm. Một vụ điển hình: “In 1957, a BBC television show announced that thanks to a mild winter and the virtual elimination of the spaghetti weevil, Swiss farmers were enjoying a bumper spaghetti crop. Footage of Swiss farmers pulling strands of spaghetti from trees prompted a barrage of calls from people wanting to know how to grow their own spaghetti at home”. Trong các câu này, chú ý các cụm từ thường dùng như “a bumper crop” (một vụ mùa bội thu); “a barrage of calls” (hàng loạt các cú điện thoại). Còn footage là các đoạn phim. BBC vừa có bài báo điểm lại truyền thống Cá tháng Tư, cho biết vụ spaghetti mọc trên cây này được nhiều người xếp hạng nhất: “The hoax repeatedly tops lists of April Fool’s gags, which typically include the one about moving Stonehenge to the base of Mount Fuji in Japan, plans to make the whole M25 run clockwise and anti clockwise on alternate days, the internet being shut down for cleaning for 24 hours, whistling carrots, left handed hamburgers and Big Ben going digital”. Như thế người ta đã từng nói đùa về việc dời di tích Stonehenge sang chân núi Phú Sĩ, kế hoạch cho xe cộ trên xa lộ M25 chạy theo chiều kim đồng hồ ngày chẵn và ngược chiều kim đồng hồ vào ngày lẻ, tạm ngưng Internet trong 24 tiếng để dọn dẹp, loại cà rốt khi nấu phát ra tiếng huýt sáo, bánh mì kẹp thịt dành cho người thuận tay trái và đồng hồ Big Ben chuyển sang kỹ thuật số. Trong đợt sụt giá chứng khoán ở thị trường nhiều nước vừa rồi, người ta thường đỗ lỗi cho thị trường cho vay mua nhà ở Mỹ với những tít báo như: “Mortgage market trouble generates stock sell off”. Vay tiền để mua nhà là chuyện thường thấy; bên cạnh đó, có người thế chấp nhà (chưa trả hết nợ) để vay thêm một khoản tiền nữa gọi là second mortgage. Vì thế mới có chuyện: “The number of borrowers who fell behind on payments hit a 3 1/2 year high, driven by an increase in delinquencies among high risk, or subprime, borrowers”. Fall behind on payments là cách nói khéo chuyện đến hạn mà không trả được nợ; còn các vụ chây ỳ như thế gọi là delinquencies. Ở đây, dân tài chính Mỹ có một từ mới “subprime borrowers” chỉ những người có tiền sử “vay không trả”, tức thuộc loại tín dụng xấu.
Ngược lại những “subprime lenders” là dân cho vay liều lĩnh, sẵn sàng cấp tín dụng xấu để tính lãi suất cao. Chẳng lạ gì, “the delinquency rate for subprime borrowers rose to 13.33 percent in the fourth quarter from 12.56 percent a year earlier”. Ở đây chú ý đến cách so sánh “cùng kỳ năm trước” tức là so quí 4 năm này với quí 4 năm trước nhưng họ chỉ dùng gọn cụm từ “from. a year earlier”. Sau khi đọc đoạn trên đây, chúng ta có thể kết luận không thể dịch ngắn gọn các câu loại này khi nền kinh tế Việt Nam chưa có khái niệm tương đương. Lấy ví dụ câu này: “Subprime loans account for only about 14 percent of the total number of outstanding mortgages”, chỉ có thể tạm dịch là “Các khoản vay đầy rủi ro chỉ chiếm chừng 14% tổng số dư nợ vay tiền mua nhà” nhưng cũng không làm rõ hết ý của các từ “subprime loans” hay “mortgages”. Đó là chưa kể thị trường địa ốc ở Mỹ có những từ như ARM (adjustable rate mortgage lãi suất thả nổi) hay FRM (fixed rate mortgage lãi suất cố định). Ngay cả hiểu subprime theo nghĩa quá xấu cũng không chính xác vì “subprime borrowers bet on rising home prices, which allowed them to build equity quickly and refinance their loans or sell if they needed to”. Những người này thuộc loại “liều lĩnh”, tiên đoán giá nhà sẽ tăng, như thế dù có vay ngoài khả năng trả hàng tháng cũng không sợ. Nếu cần thì bán nhà hay “đảo nợ bằng một khoản vay khác” “refinance their loans”. Rủi thay lãi suất chưa giảm, giá nhà lại không còn tăng! (TBKTSG, ngày 5 4 2007)
Tạp chí Atlantic vừa có một bài bình luận về tương lai đồng đô la Mỹ rất đơn giản, được viết với giọng văn khá dí dỏm. Tác giả viết về một chuyện tưởng chừng ai cũng biết để bắt đầu lập luận của mình: “There is a difference known as seigniorage between what dollar bills cost to manufacture and what those same dollar bills can buy once they’re in circulation”. Thì đúng rồi, chi phí in một tờ 100 đô la Mỹ, chẳng hạn và những gì tờ giấy bạc này mua được là quá khác biệt (đấy chính là nghĩa của từ seigniorage). Nhưng nghĩ kỹ lại, căn bản của vấn đề là chỗ đó: “The dollar’s popularity has moved real resources from the rest of the world to the United States”. Vì ai cũng thích đô la (dù nó chỉ là tờ giấy) nên Mỹ mới có thể phát hành tiền để mua hàng hóa, dịch vụ (real resources) về tiêu xài. Điều có lẽ ít ai biết, rằng “Altogether some $750 billion in paper money and coins is in circulation today, and most of that is reckoned to be held abroad”. Nhiều nguồn tài liệu cho rằng đến hai phần ba khoản tiền mặt 750 tỉ đô la đang lưu hành này nằm bên ngoài nước Mỹ! Ngay chính EU cũng cạnh tranh, muốn thiên hạ xài tiền euro theo kiểu này: “The European Union clearly wants a share of the international seigniorage business for its currency, and it has issued 500 euro notes (worth around $660 each) to secure its competitive advantage in the sector”. Các bạn có đồng ý, rằng sau khi đọc định nghĩa từ seigniorage nói ở đầu bài và các câu kế tiếp, chúng ta hiểu được ý tác giả muốn nói gì khi dùng cụm từ “a share of the international seigniorage business for its currency” nhưng chắc là không thể nào dịch được cho trọn ý.
Tuy nhiên, sức mạnh của đồng đô la không chỉ ở chỗ đó. Tác giả đưa chúng ta đến một thực tế khác: “The United States, to draw an admittedly imperfect analogy with households, is adding to its overdraft each year, to the tune of more than 6 percent of its income”. To draw an analogy là so sánh, còn phần chêm vào admittedly imperfect là phải thừa nhận [sự so sánh đó] còn quá khập khiễng. Overdraft nay đã khá quen thuộc với từ tiếng Việt tương đương thấu chi; to the tune of ở đây cũng giống như to the extent of. Vì sao dân Mỹ vay tiền quá thể như vậy mà vẫn vay được, không hề gặp khủng hoảng như những nước nợ nước ngoài khác ở châu Mỹ Latinh khi đồng tiền mất giá thê thảm? Tác giả giải thích: “Should the dollar collapse, the domesticcurrency burden of U.S. foreign debts will hardly change, because the United States has borrowed in dollars, not in its creditor’s currencies”. Đó là vì nước Mỹ vay bằng tiền đô la nên nếu đồng đô la sụp đổ, người cho vay sẽ chết trước, được tác giả diễn đạt rất thẳng thừng: “If the dollar does crash, the foreign creditors will get screwed first”. Sức mạnh của đồng đô la còn ở chỗ này nữa: “America’s net debt is barely rising in relation to national income, despite the massive borrowing”. Câu này có nghĩa dù thu nhập quốc dân của Mỹ tăng, nợ vay nước ngoài vượt trên 6% thu nhập này, thế nhưng nợ ròng của Mỹ lại hầu như không tăng theo đúng tỷ lệ tăng thu nhập. Vì sao lạ thế? “One reason is that while America pays a very low rate of interest on its debts, which are mostly in the form of Treasury securities, it receives a very high rate of return on its foreign assets, which mostly represent ownership stakes in foreign companies”. Nước Mỹ vay nợ chủ yếu thông qua việc phát hành trái phiếu chính phủ, lãi suất rất thấp. Ngược lại, các khoản đầu tư, mua cổ phần các công ty nước ngoài lại có mức lợi nhuận cao. “This return offsets some of the borrowing” offset ở đây là bù qua, sớt lại. Đến đây, chắc chúng ta đã “thông” được vì sao đồng đô la mấy năm rồi cứ liên tục mất giá. Giá càng giảm thì nợ giảm theo trong khi tài sản lại tăng giá (tác giả giải thích thêm: selling America’s foreign assets would now yield more dollars). Và tác giả kết luận: “Call this the alchemy of finance: The United States has found a way to borrow that adds almost nothing to its debts”. The alchemy of finance có thể tạm dịch là “thuật giả kim trong tài chính” tức một cách biến không thành có trong tài chính.
Dĩ nhiên, giới tài chính thế giới không phải không hiểu điều này. Cho nên tác giả mới nhận xét: “All kinds of economic forces are nibbling at the dollar’s reserve currency status”. Nib ở đây là chọc ngoáy, là tấn công vào trạng thái đồng đô la đang được nhiều nước cất giữ làm ngoại tệ dự trữ. Một trong những kịch bản mà tác giả tiên đoán: “If the People’s Bank dumps its dollars, and the dollar collapses, America itself might not become insolvent but it would have a serious inflation problem to deal with, its interest rates would have to rise, and a lot of overindebted American families might go bust”. Ở đây có hai từ gần giống nhau là become insolvent, cũng giống go bust, hay từ chúng ta đã quen thuộc: bankrupt. (TBKTSG, ngày 12 4 2007) Nói người Pháp chuyển sang dùng tiếng Anh cũng “hoang đường” như nói nước Pháp tháo tháp Eiffel ra bán sắt vụn. Thế nhưng chuyện đó đang xảy ra ở các trường đại học Pháp, đặc biệt là các trường doanh thương. Tờ International Herald Tribune viết: “Bienvenue, or make that welcome, to the shifting universe of academia, where English is becoming as commonplace as creeping ivy and mortarboards”. Dùng “bienvenue” rồi chuyển ngay sang “welcome” là có ý chọc rằng thế giới học thuật đã thay đổi; creeping ivy, giàn cây thường xuân leo tường; mortarboard, mũ vuông của giáo sư và sinh viên ngày lễ là những hình ảnh đặc trưng cho thế giới đại học. Tờ này cho biết: “At the Lille School of Management in France, English stopped being considered a foreign language in 1999, and now half of the postgraduate programs are taught in English to accommodate a rising number of international students”. Câu này có từ accommodate mà chúng ta thường quen với nghĩa cung cấp chỗ ở; trong câu này được dùng với nghĩa phục vụ.
Giáo dục là một trong những lĩnh vực vẫn còn áp dụng hai giá ở nhiều nơi, người trong nước, trong tiểu bang giá rẻ nước ngoài, giá cao. “At Essec and the Lille School of Management in France, for example, the tuition for a two year master’s degree in business administration is €19,800, or more than $26,000, for European Union citizens and €34,000 for non EU citizens”. Vì thế các trường này mới chuyển sang dạy bằng tiếng Anh để thu hút sinh viên quốc tế và thu tiền nhiều hơn. Họ trả lời phỏng vấn rất khéo: “The French market for local students is not unlimited”. Hai lần phủ định cũng bằng câu xác định nhưng dùng not unlimited nghe vẫn “ngoại giao” hơn theo nghĩa “chúng tôi không phải là không chú ý đến thị trường trong nước nhưng.”. Vì thế sinh viên kinh tế trường hàng đầu của Pháp École Normale Supérieure đã phản đối, cho rằng “it is unacceptable for a native French professor to teach standard courses to French speaking students in the adopted tongue of English”. Nhân đây, có lẽ cũng nên nhắc lại các từ first language, native language, mother tongue thường được dùng với nghĩa tiếng mẹ đẻ; còn tiếng nước ngoài khi dùng ở nước không sử dụng thứ tiếng đó một cách chính thức thì có từ foreign language, ở nước nó được dùng chính thức có từ second language (ví dụ tiếng Anh ở Việt Nam được xem là foreign language nhưng ở Ấn Độ, nó là second language). Hiện tượng dùng tiếng Anh làm “language of instruction” ở đại học cũng đang diễn ra ở nhiều nước khác, kể cả ở Hàn Quốc, Nhật Bản. Chúng ta thử đọc nhận xét này: “Santiago Iíiguez, dean of the Instituto de Empresa, argues that the trend is a natural consequence of globalization, with English functioning as Latin did in the 13th century as the lingua franca most used by universities”. Lingua franca là ngôn ngữ chung được sử dụng rộng rãi, không nhất thiết là tiếng Anh ví dụ: tiếng Hy Lạp và Latinh một thời là lingua franca của châu Âu hoặc tiếng Pháp là lingua franca cho giới ngoại giao trong những thế kỷ trước.
Trong việc học tiếng Anh, có một yếu tố ít ai để ý. Theo tờ IHT, thì “the entertainment industry has given an unlikely advantage to smaller countries like Portugal or Greece where most original English language films and television shows appear in subtitled form unlike Italy, France and Spain, which have a dubbing tradition”. Như vậy nước nào thích nhập phim tiếng Anh có phụ đề (subtitled) sẽ thuận lợi hơn nước lồng tiếng (dubbing). Và đấy là kết luận của nơi chuyên tổ chức các kỳ thi kiểm tra trình độ tiếng Anh Cambridge ESO. Tiếng Anh phổ biến trong thế giới kinh doanh đến nỗi sau tám năm làm Thủ tướng Đức, ông Gerhard Schrôeder bây giờ lại đi học tiếng Anh với mức học phí không thể ngờ nổi. “With courses at Park House starting at £1,240, or $2,450, per week for tuition and board, it is easy to see how English language training contributes more than £1.3 billion per year to the British economy alone”. Với doanh thu lớn như thế, người ta nghĩ ra đủ phương pháp dạy tiếng Anh để cạnh tranh nhau, từ phương pháp học thuộc lòng (rote memorization) xưa cũ đến kỹ thuật “suggestopedia” mới toanh. Đây là từ kết hợp giữa “suggestion” và “pedagogy”, thầy giáo hát thì thầm, học viên đọc theo thật to những kịch bản dựng lại các tình huống đời thường. Thật ra, phương pháp nào cũng tốt, miễn sao giúp người học tự vượt qua mình là chính như nhận xét của Gena Netten, thuộc tổ chức khảo thí ETS: “If shouting English helps people to learn, then it is a good idea,” Netten said, referring to Crazy English, a method developed in China to help students overcome shyness. “Teaching often needs to break down internal learning barriers”. Câu này có nhắc đến phương pháp Crazy English của anh chàng người Trung Quốc Li Yang nghĩ ra. Hiện nay có khoảng 20 triệu người đang theo học tiếng Anh bằng phương pháp này hét thật lớn những câu tiếng Anh và nếu đứng trên mái nhà lại càng tốt.
(TBKTSG, ngày 19 4 2007) Quan sát cách các tờ báo chuyên về kinh tế như BusinessWeek hay The Economist viết về chứng khoán có thể có ích cho giới báo chí Việt Nam đang tập làm quen với lĩnh vực này. Khi đọc tít “A Positive Prognosis for Pharmaceuticals” trên tờ BusinessWeek, người ta dễ nghĩ nhầm là báo nhận định chủ quan: prognosis là từ thường dùng trong y tế, có nghĩa là tiên lượng, ở đây là hậu vận [lạc quan] cho các công ty dược phẩm. Thật ra, ngay sau đó, bài báo nói liền: S&P says the group’s stock price momentum–and solid fundamentals–add up to a healthy future. Như vậy nhận định ở trên là của S&P (Standard & Poor’s) một hãng phân tích, đánh giá chứng khoán chứ không phải của phóng viên. Còn hậu vận tốt là vì giá cổ phiếu của các công ty dược phẩm đang trên đà gia tăng (stock price momentum) và các thông số cơ bản rất tốt (solid fundamentals). Sau đó, bài báo phải trích tiếp các con số cụ thể của S&P để minh họa cho hai nhận định này. Phân tích của báo cũng dùng nhiều từ chuyên môn để người trong cuộc có thể hiểu ngay: “EPS of many companies should also get a boost from common share buyback programs”. EPS là earnings per share (thu nhập của mỗi cổ phiếu); khi công ty bỏ tiền mua lại cổ phiếu trên thị trường đem về hủy (cancel) hay làm cổ phiếu ngân quỹ (treasury share), tổng số cổ phiếu sẽ giảm nên EPS sẽ tăng. Khi phân tích cổ phiếu của cả một ngành như thế, thông thường người ta dựa vào các con số thống kê tổng quát. [S&P] sees longer term prospects being enhanced by demographic growth in the elderly (which account for about 33% of industry sales). Như vậy đến 33% doanh số của ngành dược đến từ người già, và vì số người già đang tăng nên triển vọng làm ăn của ngành này cũng tăng theo!
Cái khó cho người viết báo là mặc dù viết về chứng khoán nhưng cũng phải rành về ngành dược để viết cho chính xác. Ví dụ: “[S&P] favors companies with rich generic pipelines, especially those with first to file generics with the potential for 180 days of marketing exclusivity, and competence in litigating complex patent issues”. Theo lời khuyên của chuyên gia chứng khoán, nên chọn mua cổ phiếu công ty nào có sẵn trong tay nhiều dược phẩm loại “tương tự” tức là loại đã hết bản quyền hay loại mà bản quyền đang bị tranh chấp. Trong trường hợp sau, công ty dược khác có quyền đăng ký sản xuất và được hưởng độc quyền tiếp thị thuốc trong vòng 180 ngày. Và dĩ nhiên họ phải sẵn sàng để ra tranh tụng trước tòa. Mấy chuyện này nhà đầu tư ngành dược rất rành nên tiếng Anh chỉ cần viết ngắn gọn như thế. Lúc phân tích vào một công ty cụ thể, người viết phải tìm hiểu và nhìn tổng thể hoạt động của công ty chứ không chỉ chăm chăm vào giá cổ phiếu của nó. Ví dụ BusinessWeek có bài dài về Wal Mart với tựa đề: “Wal Mart’s Midlife Crisis” midlife crisis là cụm từ thường dùng để miêu tả chuyện khủng hoảng lứa tuổi trung niên, lúc con người ý thức mình đã đi hết nửa đời người và chưa thấy mình làm được gì ra trò, ra trống. Ở đây tác giả dùng cụm từ này để nói Wal Mart, sau nhiều năm dài thành công nay tốc độ phát triển đã chựng lại ở tuổi 45 và phải đối diện nhiều vấn đề mới. Một lần nữa, người viết lại phải rành về quản trị kinh doanh, ví dụ câu: “The issue with apparel is long lead times”. Lead time là một khái niệm trong quản trị, là thời gian từ lúc đặt hàng đến lúc giao hàng càng dài, càng dở. Hoặc câu: “In 2006, its U.S. division eked out a 1.9% gain in same store sales its worst performance ever and this year has begun no better” có cụm từ same store sales cũng là từ chuyên ngành quản trị, có nghĩa doanh số ở một cửa hàng cụ thể so với cùng kỳ năm ngoái.
Đến khi đi vào phân tích giá cổ phiếu, tác giả viết: “Wall Street does not share Scott’s bullishness, to put it mildly”. H. Lee Scott là Tổng giám đốc Wal Mart, vì vẫn lạc quan, cứ đòi bành trướng chuỗi siêu thị của mình nên mới có từ bullishness; to put it mildly là nói một cách nhẹ nhàng, đi kèm với từ share (chia sẻ sự lạc quan ấy). Chắc nói nặng lời thì phải dùng từ phản đối hay chê trách chăng? Như thường lệ, đưa ra một nhận định như thế phải có bằng chứng: “Wal Mart shares are trading well below their 2004 high and have dropped 30% in total since Scott was named CEO in 2000, even as the Morgan Stanley retail index has risen 180%”. Các bằng chứng gồm: giá cổ phiếu Wal Mart hiện thấp hơn mức 2004 nhiều, lại giảm 30% từ lúc Scott lên làm tổng giám đốc trong khi chỉ số chứng khoán ngành bán lẻ của Morgan Stanley tăng 180%. Đưa dẫn chứng cụ thể như thế thì Scott sẽ không kiện tụng hay chê trách gì BusinessWeek được. Có lẽ chúng ta cũng nên học theo cách này, giảm bớt việc nói về chỉ số P/E chung chung mà nên lập ra các chỉ số chứng khoán cho các ngành cụ thể mới dễ so sánh. (TBKTSG, ngày 26 4 2007) Tuần rồi có mấy vụ xì căng đan đáng lưu ý. Đầu tiên là vụ ở hãng Siemens mà có báo rút tít rất cô đọng: “Siemens loses its CEO, gains an SEC probe”. Tổng giám đốc Klaus Kleinfeld từ chức nên xem như “mất” CEO, còn “được” ở đây là được SEC (Ủy ban Giao dịch chứng khoán Mỹ) “sờ gáy” (probe). Vụ việc thật ra bắt đầu từ lâu: “Siemens trouble started in November 2006 as reports began to emerge that the company used a $265 million network of “black accounts” for bribery around the world”. “Black account” là một cách nói chỉ các tài khoản mật (quỹ đen) dùng để hối lộ nhằm giúp tập đoàn này trúng thầu các công trình lớn. Một từ khác thường dùng là “slush fund” tiền bôi trơn.
Sau đó, “The company went into “spin control” in December, in an attempt to save its sullied reputation”. Spin control là một từ của ngành PR, mang nghĩa thanh minh, biện minh, giải thích khác đi cho một sự kiện trước đó. Như Edward Kennedy từng phát biểu: “Frequently events matter less than. spin control who in which campaign can explain why something doesn’t mean what it seems”. Spin control hàm ý xấu còn dân PR dùng từ trung dung hơn message management. Mặc dù sau đó Siemens đã có nhiều biện pháp như thuê công ty luật độc lập điều tra. tổng giám đốc phải quyết định ra đi: “Siemens Chief Executive Klaus Kleinfeld said Wednesday that he will leave the company when his contract expires in September”. Trước đó, chủ tịch hội đồng quản trị cũng từ chức: “His exit follows the resignation last week of Siemens Chairman Heinrich von Pierer”. Ở đây, cần lưu ý là cả hai ông này đều khẳng định không biết gì về chuyện hối lộ cả và cho đến nay không bị cáo buộc liên quan đến xì căng đan này. Điều đáng nói là quí này Siemens đang ăn nên làm ra: “On Wednesday, it reported that its latest quarterly profits had risen 36% from a year earlier to 1.26 billion euros”. Vì thế trong một thông báo chính thức, “Siemens has warned that the ongoing investigations could lead to what it called “substantial uncertainties”, but added that, to date, the scandal had not affected its bottom line”. Chú ý từ bottom line trong báo cáo kết quả kinh doanh, là dòng cuối cùng chỉ mức lời (lỗ) nên bottom line thường được dùng với ý “net profit”. Nó cũng thường được dùng theo nghĩa “điều cốt yếu” “The bottom line, however, is that he has escaped”.
Trước đó, tại hãng Apple danh tiếng không kém nổi lên chuyện gian dối cổ phiếu: “The investigation into the practice of backdating stock options at Apple resulted in the U.S. Securities and Exchange Commission filing charges against one former Apple executive while reaching a settlement with another”. Stock option là quyền mua cổ phiếu, thường được dùng để thưởng cho nhân viên, lãnh đạo công ty. Khi thưởng, giá cổ phiếu được ấn định, có thể là theo giá thị trường ngày thưởng (exercise price hay strike price); người được thưởng phải giữ cổ phiếu trong một thời gian nào đó, vừa phải nỗ lực hết lòng vì công ty để giá cổ phiếu tăng, vừa không thể bỏ đi công ty khác nên thường được mệnh danh là “golden handcuffs”. Đến ngày được bán, phần đông bán với giá cao gấp nhiều lần nên nhiều người trở thành triệu phú. Chuyện backdating là ghi ngày thưởng lùi lại để người được thưởng hưởng giá thấp hơn. Thật ra, chuyện này được xem là hợp lệ nếu thông báo công khai cho cổ đông và thị trường. Còn mấy ông giám đốc im im xem ngày nào giá cổ phiếu thấp nhất để ghi thưởng cho mình mà không báo cho ai biết là phạm pháp. Chính Apple thừa nhận: “The company has acknowledged irregularities in some of the stock option grants it issued between 1997 and 2001”. Vụ việc xảy ra đã lâu mà SEC, đại diện cho nhà đầu tư, vẫn khởi kiện như thường. Một vụ khác cũng gây bất ngờ không kém là giám đốc tuyển sinh trường đại học danh tiếng MIT (Massachusetts Institute of Technology) thú nhận bà đã nói dối về bằng cấp và quyết định từ chức. “Marilee Jones, the dean of admissions at the Massachusetts Institute of Technology, admitted that she had fabricated her own educational credentials and resigned after nearly three decades at MIT”. Bà này chưa học đầy một năm đại học mà dám khai đã có bằng đại học và bằng thạc sĩ. Điều “bi kịch” là năm ngoái bà đi diễn thuyết khắp nơi để quảng bá cho cuốn sách hướng dẫn tuyển sinh đại học: “Less Stress, More Success: A New Approach to Guiding Your Teen Through College Admissions and Beyond”. Sách viết: “Holding integrity is sometimes very hard to do because the temptation may be to cheat or cut corners”. Integrity là sự liêm chính, còn cut corners là đi ngang, về tắt. Hình như bà cũng tiên đoán hậu vận của mình khi viết: “But just remember that 'what goes around comes around,' meaning that life has a funny way of giving back what you put out”. Đúng là “gieo gió thì gặt bão”. Một giáo sư nhận xét: “She’s really been a leader in the profession. Very creative. Obviously, too creative”. Phần đầu khen thật vì bà này làm việc rất sáng tạo nhưng phần sau khi dùng từ “too creative” là hàm ý “biến không thành có”.
(TBKTSG, ngày 3 5 2007) Mấy tuần rồi từ “slam dunk” có tần số xuất hiện nhiều nhất trên báo chí tiếng Anh. Trong môn bóng rổ, thỉnh thoảng có màn biểu diễn ngoạn mục khi cầu thủ cầm bóng, nhảy lên cao, đập mạnh trái bóng vào rổ, tay cầm vòng lưới và đung đưa người cả mấy giây trong tiếng vỗ tay cổ vũ của khán giả. Động tác này gọi là slam dunk. Nghĩa bóng của nó như thế có nghĩa là không trật đi đâu cả, là một cú thành công ăn chắc. Từ này xuất hiện nhiều là bởi cựu Giám đốc CIA của Mỹ. Ngày trước,“CIA Director George J. Tenet assured President George W. Bush in December 2002 that the existence of Iraqi WMD was a slam dunk case”. Lúc đó, theo diễn giải của mọi người, ý Tenet muốn nói bằng chứng về loại vũ khí giết người hàng loạt (weapons of mass destruction) của Iraq là không thể chối cãi được. Sau này các quan chức Mỹ cứ lấy câu nói “slam dunk” của ông này ra để biện minh, đấy trùm tình báo của chúng tôi nói chắc ăn thế thì phải tin thôi. Nay Tenet viết hồi ký, “In his new book, George Tenet says, among other things, he didn't mean what everyone thought he meant when he said the evidence for Iraqi WMD was a slam dunk”. Phải nói ngôn ngữ, văn phong các bài báo chính trị là khá khó vì dùng nhiều dạng “điển cố”. Ví dụ, cũng vụ trên, đến câu này, các bạn có đoán được vì sao có tên diễn viên điện ảnh Tom Cruise ở đây không “Tenet explains that he never Tom Cruise'd the couch”. Anh chàng Tom Cruise trong một lần trả lời phỏng vấn trên chương trình của Oprah Winfrey đã nhảy dựng lên chiếc ghế bành như một gã điên khi diễn tả tình yêu với cô vợ mới. Từ đó, từ Tom Cruise đôi lúc được dùng như động từ để chỉ hành động phấn kích tương tự. Một từ khác cũng đã trở thành tiếng lóng jumping the couch một vụ làm xấu mặt giữa bàn dân thiên hạ.
Hay một ví dụ khác, tựa “GOP hopefuls face off” buộc chúng ta phải biết từ GOP là Grand Old Party, một cách gọi đảng Cộng hòa, hopefuls là những ứng cử viên triển vọng và face off là bắt đầu cuộc đua tranh. Đấy là một bài báo miêu tả cuộc tranh luận của 10 ứng cử viên sáng giá của đảng Cộng hòa trong cuộc đua vào Nhà trắng sang năm. Tuy nhiên, “This was an opening sparring session, featuring a few light jabs but no hard hooks”. Người viết đã dùng những từ trong môn quyền Anh để cho bài viết thêm màu sắc như spar (múa may chứ chưa đánh thật); light jab (cú đánh thẳng nhẹ); hard hook (cú đấm móc thẳng cánh). Trong cuộc bầu cử giữa kỳ tại Philippines vào ngày 14 5 tuần sau, tờ The Economist ghi nhận: “Both the government coalition and the opposition have filled their slates with the offspring of statesmen, the leaders of unsuccessful but attention grabbing military coups, film stars and the occasional career politician”. Slates ở đây là danh sách ứng cử viên, còn lý do đề cử toàn những người nổi tiếng là vì người dân Philippines phải “memorise the names of up to 18 candidates for various positions. and enter these by hands on a blank ballot paper”. Kể ra trao cho cử tri lá phiếu chưa điền tên rồi bắt người dân phải điền tay một danh sách dài là chuyện hiếm thấy. Tờ The Economist nổi tiếng thích chơi chữ và với những bài báo chính trị, họ càng chơi chữ hết mức. Ví dụ, khi viết về người có khả năng kế nhiệm Tony Blair làm thủ tướng Anh là Bộ trưởng Tài chính Gordon Brown, tờ này chạy tít: “Will Brown have Balls?” kèm hình minh họa hai chính khách đang thụt bida. Mới đọc qua dễ hiểu tít theo nghĩa liệu ông Brown có đủ cam đảm không bởi balls, ngoài nghĩa trái banh thông thường còn có nghĩa courage. Thế nhưng đọc vào bài mới thấy một nhân vật tên Ed Balls có khả năng được ông Brown chọn làm phó cho mình! Vì thế tít này mang nghĩa “Liệu ông Brown có chọn ông Balls?”.
Với cuộc bầu cử Tổng thống Mỹ năm tới, có lẽ chúng ta sẽ đọc nhiều tít như thế này: “Telecom leaders open wallets for Clinton”. Clinton ở đây không phải là Bill Clinton mà là Hillary Rodham Clinton. Phụ nữ Mỹ lập gia đình xong thường lấy họ của chồng vì thế trước đây có nhiều lời đồn đoán bà Clinton có thể sẽ đổi họ cho khỏi bị nhầm lẫn. Thật ra, động thái mới nhất của bà là bỏ chữ lót Rodham: “Her presidential campaign press releases and campaign website refer to her as Hillary Clinton, making no mention of her maiden name Rodham”. Tít trên đi liền với câu giải thích: “Clinton’s fundraising machine is working its magic among employees of the nation’s biggest telecommunications companies, despite her support for an industry unfriendly legislative initiative”. To work magic là đạt kết quả tốt, thành công còn legislative initiative là dịch sát là sáng kiến lập pháp, tức là nỗ lực đưa ra một dự thảo luật. Ở đây mặc dù bà Clinton ủng hộ một dự thảo luật bất lợi cho ngành viễn thông, nhân viên các tập đoàn viễn thông lớn vẫn đang quyên tiền ủng hộ cho chiến dịch tranh cử của bà nhiều nhất. (TBKTSG, ngày 10 5 2007) Giải ô chữ (crossword puzzle) là một trò chơi phổ biến, thế mà tuần trước cũng trở thành tin vì cựu Tổng thống Bill Clinton đồng ý soạn giúp tờ New York Times các câu gợi ý nhân dịp tờ báo này ra số đặc biệt. “Puzzler in Chief: Bill Clinton Provides Clues for NYT Crossword”, tít một bài báo chơi chữ “Puzzler in Chief” là nhại từ “Commanderin Chief” vì Tổng thống Mỹ đồng thời là tổng tư lệnh lực lượng quân đội Mỹ. Vì ô chữ tiếng Anh hơi khác ô chữ tiếng Việt nên trước tiên chúng ta hãy làm quen với một số từ dùng trong ô chữ tiếng Anh. “A crossword is a word puzzle that normally takes the form of a square grid of black and white squares”. Ô chữ tiếng Anh thường không soạn theo các hình đa dạng như ô chữ tiếng Việt mà chỉ là các ô vuông màu trắng (để điền từ) và ô đen (để tách từ). “The goal is to fill the white squares with letters, forming words or phrases, by solving clues which lead to the answers”.
Như vậy, công việc của người chơi là dùng câu gợi ý (clue) để tìm từ điền vào ô cho đúng. “The clues are then referred to by these numbers and a direction, for example, “4 Across” or “20 Down”. Thấy 4 Across, ta sẽ tìm ô ghi số 4, ngang; còn 20 Down là ô ghi số 20, dọc. At the end of the clue the total number of letters is sometimes given, depending on the style of puzzle and country of publication”. Trong ô chữ thường có các con số để hướng dẫn cho người chơi biết một clue dùng cho ô nào và cuối các clue thường có thêm con số cho biết từ cần tìm có bao nhiêu mẫu tự. Đọc các clue và tìm cách giải cũng là một cách học tiếng Anh, nhất là với các straight clues hay quick clues tức là loại gợi ý trực tiếp. Ví dụ: traveled on horseback = rode; family members = aunts. Ở đây chỉ cần chú ý câu trả lời phải đúng theo yêu cầu của gợi ý (về tense rode chứ không phải ride; về number aunts chứ không phải aunt). Với clue Washington bigwig: Abbr., câu trả lời là Sen vì người ta yêu cầu viết tắt senator (dĩ nhiên bigwig ở Washington, tức là các VIPs có nhiều loại lắm nhưng phải chọn từ sao cho phù hợp với số ô và đúng cho cả ngang lẫn dọc). Nhưng ô chữ tiếng Anh phần lớn không dành cho người mới học tiếng Anh vì các clue thường dùng cách chơi chữ chứ không dễ theo kiểu định nghĩa ở trên. Ví dụ với câu gợi ý: Grateful các bạn có đoán lời giải là gì không? Thậm chí khi đọc kết quả là từ ashes, cũng cần phải giải thích, grateful không phải là hàm ơn, biết ơn mà là a grate (lò sưởi) full of [ashes]. Các ô chữ của người Anh còn khó hơn, như với gợi ý: “Cat’s tongue”, lời giải là Persian vì nó vừa là một loại mèo vừa là một thứ tiếng (tongue). Một ví dụ khác: “Returned beer fit for a king” có lời giải là regal vì returned beer là lager (tên một loại bia) viết ngược lại và regal còn có nghĩa vương giả.
Trở lại ô chữ Bill Clinton soạn cho tờ NYT, “Famed Times’ puzzle chief, Wil Shortz, warns in an intro, “The clues in this puzzle are a little more playful and involve more wordplay than in a typical crossword”. Wil Shortz là biên tập viên nổi tiếng chuyên đứng trang ô chữ cho tờ NYT cảnh giác người chơi là ô chữ lần này chơi chữ nhiều hơn thường lệ. Thông thường người ta soạn sẵn ô chữ có lời giải rồi mới nghĩ ra các clue và lần này cũng vậy: “Jim Schachter, deputy editor of the magazine, said that Clinton was given the grid with the letters and asked to provide clues for the words”. Và ở đây, các bản tin của Mỹ nhấn mạnh sự dí dỏm trong suy nghĩ của Clinton, như với từ “cent”, ông nghĩ ra lời nhắc: “What you might get for your thoughts”. Với từ “arbs” (tức là từ viết tắt arbitrageurs người chuyên tìm chênh lệch giá trên thị trường chứng khoán để mua bán kiếm lời), Clinton “định nghĩa”: “They’re almost a food group on Wall St.” Một từ gồm bốn ô bắt đầu bằng chữ C với lời gợi ý: “Ageless diva” chắc chắn là Cher. Thế nhưng báo Anh nhân dịp này lại chê ô chữ của Mỹ: “The Americans never got used to the kind of cryptic crossword so popular in England” cryptic là khó, nhiều ẩn ý, tức muốn nói đến các loại chơi chữ nêu trên. Tờ Guardian viết: “British compilers would certainly turn their noses up at clues such as “Modernize” (Remodel) and “Fall month” (OCT)”. Turn their noses up ở đây là coi thường mà nếu soạn theo kiểu modernize là remodel hay fall month là oct(ober) thì dễ quá. Và dù có khen ô chữ của Clinton có nhiều câu khá hơn, báo cũng viết như thế này: “It’s one of their more cryptic ones, appearing in the Sunday edition of the paper, which makes it a little more interesting than the average American crossword”.
Nhân đây, chúng ta hãy thử giải một số câu gợi ý loại dễ của Clinton: A party I don’t attend (3 ô); Religious post (4 ô); 1997 sci fi spoof, in brief (3 ô); Air or fish again (6 ô). (TBKTSG, ngày 17 5 2007) Thật là một ngạc nhiên đầy thú vị khi tình cờ đọc trên tờ Star (ấn bản online) của Malaysia một bài báo vào tuần trước kể chuyện sử dụng tiếng Anh ở Malaysia. Tác giả bài báo bắt đầu: “Cut the cackle and get on with your work!” Ever heard your teacher call for quiet and concentration in this way? Dùng cụm từ “cut the cackle” (đừng có mà quang quác thế), tác giả hỏi xem độc giả có nghe thầy cô giáo biểu học sinh im lặng làm bài theo kiểu này chưa để rồi tự trả lời luôn: “The truth is, formal or informal use of idiomatic expression is rarely heard in the Malaysian classroom today”. Đây là một nhận xét cũng có thể xem là đúng ở Việt Nam vì người nói hay viết tiếng Anh thường ít dùng đặc ngữ mà cứ “tuồn tuột” dùng loại tiếng Anh càng gần tiếng Việt chừng nào tốt chừng đó. Và ngược lại, vì tâm lý này nên người học tiếng Anh thấy văn người Anh, người Mỹ viết sao mà rắc rối khó hiểu hơn tiếng Anh của người Việt viết! Ví dụ nói nhân vật nào đó từ chức, chúng ta quen dùng từ resign hơn là step down; tin làm mọi người sững sờ thì dùng surprised chứ ít khi viết taken aback. Và vì thế đọc tin có tít phụ “The odd man out”, chúng ta sẽ lúng túng không biết tít muốn nói cái gì. Tác giả đã tóm tắt tình hình ở Malaysia bằng câu: “Schoolroom English today is more literal than literary, more lean and mean than meaningfully luxuriant”. Vì thế tác giả ca ngợi việc tập dùng đặc ngữ cách người Anh thường nói để tiếng Anh hay hơn, có màu sắc hơn: “Idiomatic use of language evokes emotion, imagination and creativity. Stripped of it, the English language becomes largely pedestrian”. Pedestrian thường dùng theo nghĩa khách bộ hành nhưng ở đây nó mang nghĩa “buồn tẻ”.
Sau đó, tác giả minh họa bằng một loạt các đặc ngữ bắt đầu bằng từ “cut” đơn giản, cái hay là mọi câu nối với nhau và đều có nghĩa. “You can, of course, appear elegant in well cut branded wear, but you might still be cut down to size by critics despite all the external finery” well cut branded wear là quần áo hàng hiệu cắt may khéo; cut down to size là kéo về thực tế (to make someone less important or less proud). “You will, however, always cut a dash with the way you speak, and no one can rob you of that! For example, when you use choice expressions, people immediately recognise you as a cut above the average person”. Hai câu này có hai đặc ngữ cut a dash gây ấn tượng tốt và a cut above the average person không phải loại người tầm thường. Tác giả “biểu diễn” tiếp: “While some people think they can cut corners and secure a job with their impressive grades and good looks, their efforts will actually cut little ice with discerning employers”. Trong khi “cut corners” là đi ngang, về tắt thì “cut little ice with” hay “cut no ice with” là không thuyết phục được ai, không làm ai thay đổi ý định. Tác giả khuyên: “Most employers are able to assess if you will cut the mustard or not during the interview. In their eyes, you cut a fine or sorry figure by your ability or inability to communicate in an engaging and coherent manner. You will be cut to the quick when you learn that an academically less brilliant candidate got the job”. Ba câu là ba đặc ngữ có từ “cut”, gồm not cut the mustard (thường dùng ở dạng phủ định) không thỏa đáng, không xứng đáng; cut a fine or sorry figure (thường dùng cut a fine figure) đẹp mẽ, xấu mẽ (ở đây tác giả dùng theo nghĩa tạo ấn tượng tốt hay xấu); cut to the quick bối rối, khó chịu.
Bài báo còn khá dài với những đặc ngữ cut khác như “cut your teeth” học những điều sơ đẳng; “cut out” phù hợp; “cut into” bắt đầu; “cut off jeans” quần jean ống cắt ngắn. Tuy nhiên, có lẽ thấy như thế đã đủ, tác giả viết: “Well, I could go on. but to cut a long story short, isn’t it intriguing and refreshing to learn that a simple three letter word can so cleverly cleave to other units of language and reinvent itself?” ngay trong câu này cũng có cụm từ “to cut a long story short” nói tóm lại. Và, như chúng ta cũng đoán ra, câu kết luận “Let’s just cut the crap and start doing things right. You don’t want to continue to cut off your nose to spite your face, do you?” có thêm hai idiomatic expressions, một rất phổ biến và một ít thấy dùng: “cut the crap” (thôi, không dông dài nữa, không ba hoa nữa) và “cut off your nose to spite your face” đại khái hiểu theo nghĩa đừng ngửa mặt lên trời mà phun nước bọt! Sau khi nghe giới thiệu một loạt nghĩa của từ cut đơn giản như thế, chúng ta hãy thử đọc một số bài báo xem thử nó được sử dụng ra sao. Tờ Washington Post có bài mang tựa đề: “Six Barbershops That Make the Cut”. Make the cut trong thể thao có nghĩa là lọt vào vòng trong, ở đây là đạt yêu cầu, thuộc loại tốt. Và đúng là loại văn meaningfully luxuriant như thế được dùng nhiều trong tiếng Anh hiện đại, không chú ý sẽ không hiểu hết vì cứ tưởng “cut” là “cắt” có gì đâu phải học cho kỹ. (TBKTSG, ngày 24 5 2007) Trong một bài viết về thị trường chứng khoán Trung Quốc, tờ Wall Street Journal nhìn từ góc độ ít người để ý: sự mê tín của nhà đầu tư. “When a friend whispered several stock tips to Yan Caigen last year, the investor snapped up 30,000 shares in one of them, a cement company. The reason: the stock's auspicious ticker code, 600881, which contains a doubleeight”. Như vậy, anh chàng Yan Caigen chộp mua ngay cổ phiếu của công ty xi măng này chỉ vì mã cổ phiếu có hai số 8. Chính vì người Hoa thích số 8, nên tít bài báo mới viết: Chinese crunching numbers are glad to see 8s. Crunching numbers ở đây mang nghĩa tính toán [đầu tư], còn số 8 được xem là may mắn vì “the pronunciation of number eight ba in both Mandarin and Cantonese sounds similar to words for wealth or fortune”. Ngược lại, “investors get nervous when they see the numeral 4 since its pronunciation si can mean death”. Số 8 đọc gần như “phát” trong phát tài và số 4 như “tử”! Cho đến nay chưa thấy dân Việt Nam chơi chứng khoán theo kiểu chọn số đẹp như vậy!
Chưa hết, theo tác giả bài báo, nhà đầu tư ở Trung Quốc hiện đang mua bán chứng khoán dựa vào những điều mê tín khác mà tác giả gọi một cách nhẹ nhàng là “unusual trading theories”. Ví dụ, “They often make do with folksy trading tips such as those now circulating among investors advising people to wear red clothes, which are representative of a hot market, and to eat beef to sustain the bull run, while avoiding references to dad, since the word in Chinese is a homonym for drop”. Trong câu trên chú ý cụm từ “make do” có nghĩa là “xoay xở tạm” (To manage to get along with the means available She had to make do on less income); còn folksy là dân gian, truyền miệng. Những lời khuyên kiểu này gồm nên mặc áo quần màu đỏ, tượng trưng cho thị trường đang nóng, ăn thịt bò để duy trì hướng đi lên của thị trường. Đấy là bởi trong tiếng Anh thị trường lạc quan là bull market; thị trường đang đi xuống là bear market. Nhà đầu tư cũng tránh từ “đa” (với nghĩa là bố) vì nó đồng âm với một từ mang nghĩa “rớt xuống” (điệt). Trong tình hình thị trường đang nóng, mê tín như anh chàng Yan Caigen nói trên hóa ra lại đúng: “Indeed, shares in Jilin Yatai (Group) Co., the cement company he bought, promptly tripled, earning him about $50,000”. Đến phần khái quát hóa tình hình, bài báo viết: “Investors’ zeal to base decisions in numerology also helps explain why Beijing has been unable to temper enthusiasm in the stock market through conventional measures, like credit tightening last week”. Ở đây numerology là môn đoán ý nghĩa các con số như kiểu chơi số đề; và một khi thị trường bị chi phối bởi những yếu tố bất thường như thế thì không thể dùng các biện pháp truyền thống như thắt chặt tín dụng để kiểm soát. Vì thế, “Economists worry a burst could sap the spending power of China’s nascent consumer class and reverberate through global commodity and stock markets”. Sap the spending power ở đây là làm suy yếu sức mua và reverberate là tác động lan truyền.
Điều lạ là yếu tố mê tín và coi trọng các con số cũng xảy ra ở các hoạt động chính thức. Ví dụ: “Consider the kickoff time for next year’s Beijing Olympic Games: 8 p.m. on 8 8 2008” kickoff time là giờ khai mạc. Phải công nhận tác giả bài viết đã cất công lục lọi những chi tiết về con số rất thuyết phục. “Bank of China Ltd. puts its trading rooms on the eighth floor of its buildings. China’s tallest skyscraper, the Jin Mao Tower, is 88 floors high”. Chưa hết “China scales its banking calendar and interest rates to numbers in unique ways. Interest is calculated according to a year with only 360 days, and interest rate changes are made by margins of 0.18 and 0.27 percentage points, numbers that all can be divided by 9”. Như vậy năm tính lãi suất ở Trung Quốc chỉ có 360 ngày, còn các mức lãi suất được ấn định theo biên độ 0,18 và 0,27 điểm phần trăm vì các con số này đều chia hết cho 9 trong khi tập quán quốc tế là dùng biên độ 0,25 điểm phần trăm. Tình hình phổ biến đến nỗi tác giả cho rằng: “Today in China, letting numbers guide the way through geomancy, basing architectural decisions on feng shui principles and otherwise employing ancient traditions is standard practice”. Geomancy là thuật phong thủy, là một từ tiếng Anh nhưng sau này người ta thích dùng từ feng shui cho sát với tiếng Hoa hơn. Ngoài “ý nghĩa” của các con số chúng ta đã đề cập, có lẽ cũng nên biết những con số còn lại: “The number two usually suggests germination and harmony” vì thế trong đám cưới người ta thường dùng cặp như biểu tượng song hỉ. “Six, pronounced as ‘Liu’, conveys indirectly its homophony's meaning Do everything smoothly”. Homophony là sự đồng âm, còn từ đồng âm là homonym. Nhìn chung, người Hoa xem số chẵn “tốt” (auspicious) hơn số lẻ. Ví dụ: “For odd numbers, seven implies anger and abandon, but nine, sometimes means longevity and eternality”.
Như vậy ngoại lệ là số 9, được xem là trường cửu. (TBKTSG, ngày 31 5 2007) Tuần rồi, kỳ thi đánh vần nổi tiếng ở Mỹ đã tìm ra nhà vô địch, em Evan O’Dorney: “The home schooled eighth grader easily aced “serrefine” a noun describing small forceps to become the last youngster standing at the 80th annual bee”. Vì sao tên kỳ thi đánh vần này là spelling bee thì không ai rõ, mặc dù từ bee (con ong) còn có nghĩa một cuộc tụ tập đông người. Đáng chú ý em học sinh lớp 8 này thuộc loại home schooled, tức là học ở nhà chứ không đến trường lớp chính quy. Đây là kỳ thi cho các em học sinh lứa tuổi phổ thông cơ sở nhưng đối với chúng ta thì toàn là từ khó ví dụ từ serrefine (một loại kẹp y khoa nhỏ) tìm ở các cuốn từ điển thông thường không thấy. Đọc những dòng miêu tả vòng chung kết, hầu như chúng ta không thể nhận ra từ nào và chính những tờ báo đưa tin cũng phải mở ngoặc chú thích nghĩa của những từ này. Ví dụ, đây là câu nhắc những từ các em ở vòng chung kết bị loại vì không đánh vần được chúng: “Joseph faltered on “aniseikonia” (a visual defect), while Prateek missed “oberek” (a Polish folk dance) and Isabel was out on “cyanophycean” (a kind of algae)”. Có lẽ chúng ta chỉ cần học các từ falter (ấp úng), miss (đánh vần sót) và out on (bị loại vì). Đây là kỳ thi đầy kịch tính, cũng có tuyên bố trước khi thi như câu của em này: Samir, who last week likened the prospect of not winning to Dan Marino not winning the Super Bowl, had the audience gasping in disbelief when he misspelled clevis. Dan Marino là một cầu thủ bóng chày nổi tiếng nhưng chưa bao giờ đoạt giải Super Bowl là giải vô địch quốc gia môn bóng chày ở Mỹ. Cấu trúc câu had the audience gasping in disbelief là đã làm cho khán giả há hốc không tin nổi (ở đây là vì từ clevis tương đối dễ). Samir đã thi đến lần thứ năm và được nhiều người tiên đoán sẽ vô địch vì thế mới có câu này: Like Hall of Fame quarterback Marino, Samir will go down as one of the greatest at his craft never to win the big prize. Hall of Fame quarterback là anh chàng tiền vệ từng được đưa vào tòa nhà vinh danh những cầu thủ xuất sắc nhất mọi thời; còn go down ở đây là đi vào lịch sử.
Lọt vào chung kết là Evan và Nate Gartke, một học sinh từ Canada được miêu tả như sau: “Until then, Nate had been quite the showman, waving celebrity like to the audience after each word and basking in the cheers from a row that waved red and white maple leaf flags”. Chú ý cách diễn đạt rất nhẹ nhàng waving celebrity like (vẫy tay như dân nổi tiếng), hay rất idiomatic basking in the cheers (đắm mình trong tiếng cổ vũ). Evan thắng nhưng không khoái lắm. Em nói: “My favorite things to do were math and music. and the spelling is just a bunch of memorization”. Chú ý môn toán trong tiếng Anh của người Anh là maths còn của người Mỹ là math. Phần thưởng không phải là nhỏ: “Evan, who tied for 14th last year, won $35,000 cash, plus a $5,000 scholarship, a $2,500 savings bond and a set of reference works”. Như vậy năm ngoái em này cũng thi và đứng thứ 14 đồng hạng. Có một vài bài tường thuật theo dạng chuyện bên lề như câu của phóng viên hãng tin AP: “At one point a cameraman said to the spellers, “Everybody laugh,” as he lined up a particular shot, and much of the competition was spent idly waiting for long commercial breaks to end”. Hóa ra đây là lần thứ nhì, kỳ thi này được đài ABC trực tiếp vào “giờ vàng” (prime time), nên mới có chuyện nhà đài bắt các em thí sinh diễn kịch. To line up a particular shot ở đây là lấy một góc quay, còn spent idly waiting. là phải ngồi không, chờ hết giờ quảng cáo. Và cũng vì thi đấu có truyền hình trực tiếp, các hãng cá cược đã nhảy vào làm ăn. “If it’s a competition, and it's on TV, people want to bet on it,” says Mike Staley, spokesman for Sportsbook.com, an Internet site that handicapped the finalists for the Scripps National Spelling Bee. Trong câu này có từ handicap rất lạ. Bình thường nó có nghĩa là khuyết tật nhưng trong cá cược nó có nghĩa “chấp”, tức là xếp hạng các thí sinh trong vòng chung kết để người chơi đặt cược. Ví dụ: “He’s at 5 2 to win” có nghĩa là cược 2 ăn 5 nếu em này vô địch.
Mấy hãng cá cược Internet này không chừa một thứ gì, ví dụ gần đây nhất là vòng chung kết Hoa hậu Hoàn vũ: “In fact, some of them are still stinging from the upset win by Miss Japan in the Miss Universe contest”. Lần ấy họ thua đau (stinging) vì Hoa hậu Nhật Bản đăng quang trong bất ngờ. “I think she was 22 1. Only Miss Ukraine had better odds” câu này có nghĩa dân cá cược nghĩ cô Riyo Mori rất ít cơ may nên mới “chấp” đặt 1 ăn 22. Từ odds ở câu này cũng là một từ trong cá cược, có nghĩa là tỷ lệ đặt cược had better odds không phải là có cơ may cao hơn mà là có tỷ lệ cược lớn hơn tức là được dự đoán khó lòng đoạt vương miện. (TBKTSG, ngày 7 6 2007) Thế là gần nửa năm sau khi lần đầu tiên được giới thiệu, chiếc iPhone của Apple sắp được bán ra thị trường, ngày ấn định là 29 6 sắp tới. Tờ BusinessWeek nhân đó nhận xét: “Few stocks trade on emotion the way Apple Inc. does”. Mua bán chứng khoán mà dựa vào yếu tố tâm lý gọi là trade on emotion. Sở dĩ tờ báo này nhận xét như vậy vì “Now, with the launch of the hugely hyped iPhone in a few weeks, momentum investors are driving Apple shares to unexplored territory”. Được quảng cáo rùm beng, được mọi người bán tán sôi nổi gọi là “hugely hyped”. Ăn theo trào lưu thời thượng iPhone này, nhà đầu tư đang đẩy giá cổ phiếu của Apple lên cao, ở mức tác giả gọi là “unexplored territory”, tức là mức giá trước đây chưa từng có. Chú ý từ momentum investors, là những nhà đầu tư theo trường phái mua cổ phiếu nào 3 12 tháng gần nhất đem lại lợi nhuận cao và bán ra loại thua lỗ trong cùng thời gian đó. Hiện nay, giá cổ phiếu Apple ở mức 122 đô la, tăng gấp đôi trong vòng một năm qua. “Apple’s market cap recently topped $100 billion for the first time”. Từ market capitalization thường được viết gọn, nói gọi thành market cap tổng giá trị vốn hóa.
Tuy vậy, tờ BusinessWeek lại nhận định: “If Apple can expand so called smartphones from a luxury carried by corporate road warriors into an everyday tool for the masses combining the functions of a BlackBerry and an iPod Apple could soon see a new growth tear”. Trong câu này, tác giả đã dùng hai hình ảnh rất ấn tượng “corporate road warriors” những doanh nhân phải di chuyển nhiều và “growth tear” tăng trưởng mạnh đến nỗi chiếc áo cũ quá chật, rách tung. Nếu Apple làm được điều đó, dự báo giá cổ phiếu của nó sẽ lên mức trên 160 đô la. Nhận định này không phải là cảm tính vì ngay sau đó, bài báo trích lời các chuyên gia tính toán cụ thể: “JMP Securities. used conservative price earnings ratio projections for 2008 to calculate that the Mac business, with revenues of $11.7 billion and net margins of 11%, would be worth $42.70 on its own”. Phân tích này cũng dùng hệ số P/E nhưng có thêm từ conservative, ý nói hệ số P/E mà áp dụng cho các công ty công nghệ thông tin thì dè dặt quá. Ở đây, người ta dùng từ net margin với nghĩa biên lợi nhuận thuần, tức là lấy lợi nhuận thuần chia cho doanh thu thuần (còn gọi là net profit margin hay net profit ratio). Apple có nhiều mảng kinh doanh, tính riêng mảng máy Mac, giá cổ phiếu ở mức 42,7 đô la. Cộng hết các mảng, gồm iPod, nhạc số. kể cả tiền mặt có sẵn, giá cổ phiếu Apple đâu chừng 114,78 đô la, chưa tính iPhone. Nhận định khả năng người tiêu dùng bình thường chịu mua iPhone, bài báo viết: “Apple is trying to use its design and software expertise to win consumers who mostly buy Plain Jane phone models from entrenched players”. Câu này có một cụm từ khá lạ “Plain Jane phone models” những kiểu máy điện thoại đơn giản; còn entrenched players chính là các hãng sản xuất điện thoại cựu trào, đã ổn định.
Tờ BusinessWeek chuyên về kinh tế nên phân tích theo hướng giá cổ phiếu, còn rất nhiều bài báo khác nhắc đến sự hăm hở của dân mê máy móc, chờ ngày sử dụng thử iPhone. Thật ra, mọi chuyện nằm trong chiến dịch tiếp thị rất tinh vi của Apple như vụ này: “Last week, during an appearance at a technology industry conference in Southern California, Mr. Jobs teased the audience by briefly pulling an iPhone out of his jeans pocket and immediately slipping it back out of sight”. Steve Jobs là Tổng giám đốc Apple, trêu ngươi bằng cách lấp ló chiếc iPhone cho báo chí đưa tin. Một hãng đối thủ nhận xét: “It’s very media centric. It will hit one sweet spot, but not necessarily all of the sweet spots we hope”. Media centric ở đây không dính dáng gì đến báo chí mà là đặc điểm của iPhone, theo nhận xét của hãng này, quá chú trọng đến chuyện xem hình, video, nghe nhạc. Cho nên sweet spot (nghĩa nguyên thủy là điểm đánh hiệu quả nhất trên chiếc vợt) là thu hút người tiêu dùng nhờ một đặc tính nào đó, chứ không phải tất cả. Vì thế, một nhà bình luận thị trường của hãng Dow Jones mới phán: “Time to short Apple?” diễn nghĩa dài dòng là “Liệu đã đến lúc bán khống cổ phiếu Apple?” (tức ông này đặt câu hỏi có nên vay cổ phiếu Apple bán ra, đợi đến lúc nó giảm giá vì iPhone không thành công như mong đợi thì mua vào để hưởng chênh lệch). Ông này tiên đoán: “The phone is hugely successful for a couple of quarters until the fashion goes stale. By then, the functionality will be duplicated by others and Apple will be treading water”. Goes stale là hết mốt, còn treading water là dẫm chân tại chỗ.
Giả thử chiếc iPhone ra đời mà có trục trặt kỹ thuật thì ông này khuyên: “If a production catastrophe does occur, call your broker”. Call your broker là cách nói khéo về chuyện phải bán ngay cổ phiếu Apple. Nói gì thì nói, một số nơi ở Việt Nam đã chào mời đặt mua iPhone với giá 1.000 đô la Mỹ! (TBKTSG, ngày 14 6 2007) Nói đến một bài báo, hầu như 99% người bình thường sẽ dùng từ “article” trong khi dân làm báo sẽ dùng từ “story”. Đấy chỉ là một trong những “jargon” (từ trong nghề) của nghề báo. Ví dụ, dòng ghi tên tác giả được gọi là “byline”, câu dẫn vào bài là “lead”, một đoạn trong bài báo là “graph” và đoạn mở đầu bài, giới thiệu nội dung chính của bài báo là “nutgraph”. Ở đây nên phân biệt, câu nằm ngay dưới tít (headline hay head) co chữ nhỏ hơn tít nhưng lớn hơn co chữ trong bài, làm rõ hơn nội dung của tít gọi là “deck”, ở nước ta vẫn còn bị ảnh hưởng bởi tiếng Pháp nên có thể độc giả thường nghe từ sa pô (chapeau) hơn. Có lẽ với từ “quote” (câu trích dẫn) thì không có gì khác với tiếng Anh thông thường nhưng từ “pull quote” (câu trích được in riêng, chữ to để thu hút sự chú ý của người đọc) là một jargon. Và cuối bài, đôi lúc người ta ghi thêm địa chỉ liên lạc của người viết, gọi là “tagline”. Câu “xem tiếp trang.” được dân trong nghề gọi là “jump line”, còn câu rao quảng cáo cho một bài “không thể bỏ qua” ở trang khác gọi là “teaser”. Chú thích cho ảnh hay minh họa thông thường là “caption” nhưng dân trong nghề lại thích dùng từ “cutline” hơn. Tên của tờ báo được gọi là “flag”, cho nên tờ báo chính trong một cơ quan báo chí có nhiều ấn phẩm là flagship publication. Thông thường ở trang trong có một ô ghi tên các nhân vật chính của tờ báo kèm theo các thông tin quan trọng khác gọi là “masthead”.
Những từ nói trên dù sao cũng là jargon nên người bình thường gặp chúng phải tra cứu để hiểu nghĩa. Khó hơn là các từ thông thường nhưng được dân làm báo dùng theo nghĩa khác. Ví dụ, tờ The Economist thường dùng cách đăng một bài dài, đầy đủ chi tiết ở trang trong nhưng trước đó thường tóm tắt nội dung rồi bày tỏ ý kiến của tờ báo về vấn đề đó ở những trang đầu cái này họ gọi là “leader”. Tờ báo nổi tiếng này cũng có một cách làm không giống ai các bài không bao giờ ghi byline, tờ báo không ghi tên tổng biên tập và ông này chỉ được xuất hiện danh chính ngôn thuận trong bài báo chia tay với độc giả khi hết làm cho The Economist. Họ quan niệm tổng thể nội dung tờ báo quan trọng hơn từng cá nhân người viết. Dĩ nhiên khi mời những nhân vật nổi tiếng như Tony Blair viết thì báo phải ghi tên tác giả. Ở đây xin mở ngoặc nói thêm một chút về chức danh tổng biên tập và từ editor. Các báo Việt Nam khi dịch sang tiếng Anh thích dùng từ editor in chief trong khi báo Anh, báo Mỹ ngày nay thường dùng đơn giản là editor. Đôi lúc họ cũng dùng editor in chief nhưng đó là tờ báo có nhiều ấn bản, mỗi ấn bản có một editor phụ trách. Biên tập viên là copy editor (tiếng Anh của người Anh dùng sub editor); trưởng ban thời sự là news editor, thư ký tòa soạn là managing editor, các cộng tác viên thân thiết, là người nổi tiếng được gọi là editor at large. Một số ví dụ khác, với đa số mọi người “art” là nghệ thuật nhưng khi dùng trong hoạt động của một tòa soạn nó mang nghĩa mọi thứ minh họa như ảnh, bản đồ, biểu đồ, tranh biếm. Nghĩa thông thường của beat là đánh nhưng với phóng viên, đó là lĩnh vực được phân công phụ trách (như education beat); copy là sao chép nhưng với tòa soạn, chúng là toàn bộ bài vở cho tờ báo; dummy là người ngu ngốc nhưng với dân trình bày báo, nó là bản vẽ phác thảo hình thù tờ báo sẽ dàn trang mà nhiều người đã quen với từ tiếng Pháp ma két (maquette).
Trong nghề báo, phóng viên ghét nhất là khi bài của mình được xếp vào loại filler tức là tin bài không hay ho gì, đăng cũng được, không đăng cũng chẳng chết ai, chủ yếu dùng để trám vào chỗ trống. Ngược lại khi săn được tin chưa báo nào biết, họ đã giành được một scoop. Trên trang báo, bên cạnh bài chính, có những thông tin bổ sung thường nhìn ở góc độ khác gọi là sidebar. Với sự phổ biến rộng các trang blog, một từ mới xuất hiện để chỉ các “nhà báo nhân dân” tức người viết báo không chuyên, sử dụng blog để đăng tải bài viết của mình: “citizen journalist”. Cuối cùng xin giới thiệu các từ nói về các loại báo. Nếu xét về khổ báo, có từ broadsheet để chỉ báo khổ lớn; báo khổ vừa (như nhiều tờ báo ngày ở nước ta hiện nay) “bị” gọi là tabloid. Dùng từ “bị” vì từ tabloid hàm ý xấu, chỉ loại báo chuyên đăng chuyện giật gân, câu khách. Vì thế một số tờ khổ vừa đã phải quảng bá: “broadsheet quality in a tabloid format”! Hiện nay dân Anh đã phát minh một từ để tránh hàm ý xấu của tabloid bằng cách gọi báo khổ vừa là compact newspaper. Về nội dung, các tờ báo tuần như Time, Newsweek vừa là newspaper, vừa có hình thức như một magazine nên được xếp vào loại newsmagazine. (TBKTSG, ngày 21 6 2007) Dạo gần đây thấy nhiều trường dạy tiếng Anh đăng quảng cáo hình ảnh học sinh trường mình nhận bằng của Cambridge rất hoành tráng. Người viết không có ý chê trách gì chuyện này nhưng thiết nghĩ quảng cáo cũng phải nói cho chính xác kẻo phụ huynh hiểu nhầm.
Cambridge có các kỳ thi gọi chung là ESOL Examinations (viết tắt cụm từ English for Speakers of Other Languages), trong đó có các kỳ thi cho học sinh nhỏ tuổi (7 12 tuổi) gồm Starters, Movers và Flyers. Điểm đặc biệt là em nào đi thi cũng đều được nhận giấy chứng nhận hết, cho dù không làm được gì cả! Cambridge nói rất rõ: “There is no pass or fail”. Cho nên nếu quảng cáo thi đỗ kỳ thi Starters, Movers hay Flyers là không chính xác. Đơn giản là “Every child who attempts all three components will receive an Award showing a number of shields (Cambridge crests) up to five for each component”. Component ở đây là các kỹ năng được kiểm tra gồm: đọc viết, nghe và nói. Shield giống như ngôi sao thưởng cho thí sinh. Em nào yếu lắm cũng được một sao: “The minimum Award for children who have attempted all three components is an Award with one shield for each component”. Cho nên phụ huynh muốn biết con mình thi có kết quả tốt hay không, phải xem giấy chứng nhận có bao nhiêu sao: “For example, a child may obtain three shields for Reading and Writing, four shields for Listening and five shields for Speaking”. Đây là cách làm rất hay để các em còn nhỏ tuổi không bị áp lực bởi chuyện đậu, rớt, không bị mặc cảm thấy bạn mình lên nhận “bằng” còn mình thì không. Ngay cả các kỳ thi của học sinh lớn như SAT, điểm tối thiểu cũng là con số dương (SAT là 200; TOEFL kiểu cũ là 310 điểm). Sau các kỳ thi nói trên, còn nhiều kỳ thi mà mức độ khó cao hơn nhiều, lần lượt là KET (Key English Test tương đương với Flyers), PET (Preliminary English Test), FCE (First Certificate in English), CAE (Certificate in Advanced English) và CPE (Certificate of Proficiency in English).
Một số trường khác quảng cáo rằng họ dạy theo chương trình quốc tế, học sinh sau khi tốt nghiệp có bằng quốc tế! Đúng là có bằng tú tài quốc tế, gọi là International Baccalaureate (IB) nhưng ở ngay chính các trường quốc tế thứ thiệt không phải học sinh nào cũng theo học chương trình này và không phải trường nào cũng được tổ chức dạy theo chương trình IB mà phải được IB Organisation ở Geneva công nhận. Theo hệ thống Mỹ có chương trình AP (Advanced Placement), ở Anh có chương trình A Levels. Chúng gần giống như các lớp chuyên ở Việt Nam, tức là yêu cầu cao, thi khó nhưng đổi lại học sinh có nhiều cơ hội được các đại học danh tiếng nhận và được chuyển đổi chương trình đã học thành tín chỉ đại học. Nhân đây cũng xin giới thiệu một số từ trong lĩnh vực giáo dục thường gây nhầm lẫn. Ví dụ, cấp hai ở Mỹ gọi là Middle School (Junior High) gồm ba lớp 6, 7, 8. Cấp ba gọi là High School (Senior High) có đến bốn lớp, từ 9 12. Ngược lại, ở Úc, cấp ba chỉ có hai lớp là 11 và 12; trong khi cấp 2 là từ lớp 7 10. Phức tạp nhất là ở Anh, nếu nghe một em học Sixth Form rất dễ hiểu nhầm em này học lớp 6! Cấp 3 ở Anh thường gồm năm lớp (từ 12 16 tuổi), sau đó các em có thể ra trường. Em nào muốn có thể học thêm hai năm cuối trung học (tức lớp 12 và lớp 13) gọi chung là Sixth Form, tức là các em theo học chương trình A Levels nói ở trên. Cho nên nếu một em giới thiệu mình là học sinh lớp 13 (!) và cho biết từ tiếng Anh là Sixth Form thì đừng vội nghĩ em này nói sai.
Các từ certificate, diploma cũng thường được dùng mà không chú ý nghĩa chính xác của chúng. Ví dụ, ở Úc, học một, hai năm ở các trường dạy nghề (TAFE Technical And Further Education) được cấp (theo thứ tự) certificate, diploma hay associate degree. Tốt nghiệp đại học được cấp bằng Bachelor Degree. Có trường tổ chức các khóa chuyên sâu, kiểu như chương trình đào tạo kỹ sư tài năng của Việt Nam, gọi là Honours (thường phải làm khóa luận khi tốt nghiệp). Nhưng các bằng đầu tiên của hệ cao học cũng gọi là certificate, diploma (chính xác là Graduate Certificate hay Graduate Diploma) nên dễ nhầm. Ví dụ, một giáo viên tiếng Anh, qua Úc học một năm để lấy diploma thì cái này cao hơn bằng cử nhân và thấp hơn bằng thạc sĩ. Cuối cùng, gần đây ở TPHCM nảy ra vấn đề thế nào là một trường quốc tế. Lãnh đạo ngành giáo dục phân loại và giải thích dựa vào tiêu chí nhà đầu tư (trong nước hay nước ngoài) là chưa chính xác. Cách xác định thường dùng nhất là xem trường đó có được một tổ chức các trường quốc tế nào chứng nhận chưa (accreditation), có tham gia hay làm thành viên của một tổ chức nào như thế chưa. Các tổ chức phổ biến nhất gồm Council of International School (CIS), European Council of International Schools (ECIS), East Asia Regional Council of Overseas Schools (EARCOS), Western Association of Schools and Colleges (WASC). Tên trường có từ International hay không, nhà đầu tư là nước ngoài hay trong nước không quan trọng bằng tiêu chí được accredited bởi một tổ chức có uy tín. (TBKTSG, ngày 28 6 2007 Lương bổng giám đốc Chuyện lương thưởng của giới giám đốc bao giờ cũng thu hút sự chú ý của chúng ta có lẽ vì những con số cao vòi vọi. Tuy nhiên trước hết nên xem lại một số từ thường gây nhầm lẫn. Từ compensation thường dùng với nghĩa lương thưởng nói chung nhưng hay bị hiểu nhầm là chỉ có nghĩa tiền bồi thường. Ví dụ khi quảng cáo tìm người, người ta thường viết: “Attractive compensation package” tức là mức lương thưởng hấp dẫn. Hoặc khi dùng cụm từ “Compensation policy and salary structure”, phòng nhân sự của một công ty hay cơ quan muốn giải thích “chính sách lương thưởng và cơ cấu tiền lương”.
Đi vào chi tiết, cũng nên phân biệt salary là tiền lương cố định, tính theo năm, trả hàng tháng hay nửa tháng còn wage là tiền lương tính theo ngày hay tuần. Các món phụ cấp nói chung là fringe benefits như xe công (company car), tiền ăn trưa (lunch allowances), bảo hiểm (insurance), bảo hiểm nha khoa (dental plan). Hiện nay, chuyện trả lương cho giới giám đốc ở Mỹ và châu Âu đang gây bất bình trong công luận vì mức lương giới này hưởng quá cao. “The CEO of a Standard & Poor’s 500 company made on average $14.78 million in total compensation in 2006”. Tổng lương thưởng bình quân một năm mà lên đến 14,78 triệu đô la thì cao thiệt. Nên nhớ: “The President of the United States earns $400,000 a year; the vice president's annual salary is $186,300”. Nhưng dư luận phản đối là do mức lương cao này lại không gắn với hiệu suất làm việc. “Problems with executive compensation came to a head in 2006 with large severance packages given to departing CEOs who performed poorly”. Trong câu này có cụm từ severance packages là những thỏa thuận phụ cấp thôi việc. Thường khi mời một người về làm CEO một công ty lớn, HĐQT phải ký hợp đồng trong đó có những điều khoản hậu hĩnh nếu phải chấm dứt công việc trước thời hạn cái này gọi là golden handshake. Phân biệt từ này với golden hello là tiền thưởng ngay cho người được tuyển dụng, thường là được dụ dỗ từ công ty đối thủ về đầu quân. Ngoài ra, còn có từ golden parachute (nghe như kiểu dùng từ “hạ cánh an toàn” ở nước ta) cũng giống như golden handshake. Có nhiều ông CEO nhận lương bình thường hay thậm chí chỉ nhận 1 đô la tiền lương tượng trưng nhưng đổi lại được nhận stock options tức là quyền mua cổ phiếu với mức giá đã ấn định trước. Ai cũng nghĩ với quyền mua cổ phiếu như vậy, các ông giám đốc sẽ nỗ lực hết lòng để giá cổ phiếu công ty tăng và ông ta cũng hưởng lợi theo. Thế nhưng cách chi trả lương này kéo theo các xì căng đan ghi lùi ngày hưởng quyền mua cổ phiếu đang âm ỉ trong giới doanh nhân Mỹ. Executive PayWatch nhận xét: “The stock options backdating scandal reveals a flawed compensation system in which CEOs can take what they want from their companies and their shareholders with impunity”.
Dưới áp lực của công luận, Sở Giao dịch chứng khoán Hoa Kỳ quy định công ty niêm yết phải công khai tiền lương thưởng trả cho giám đốc và các con số công bố càng làm mọi người giật mình. “Top of the heap so far is Ken Lewis, boss of Bank of America, with total pay in 2006 valued at $114.4m”. Cứ đi làm một ngày được trả chừng nửa triệu đô la thì thiệt là quá khỏe. Ở trên chúng ta đã biết từ fringe benefits nhưng văn báo chí thường thích dùng từ perks hơn. “The new rules require the disclosure of all perks worth $10,000 or more, whereas the old rules allowed firms to keep quiet about anything worth less than $50,000”. Một loại perk bị lạm dụng nhiều nhất là máy bay riêng của công ty. “No company wants a repeat of the battering suffered by Tyson Foods after revelations that “friends and family” of Donald Tyson, a former boss, made undisclosed use of the corporate jet—valued at over $1m—without his even being on board”. Như vậy sếp cũ của hãng Tyson Foods dùng máy bay riêng của công ty chở bạn bè và người thân đi chơi (có lúc không có ông này đi cùng), các chuyến bay trị giá trên 1 triệu đô la, làm sao cổ đông của công ty này không bực cho được. Sở Giao dịch chứng khoán New York có một quy định rất hay: ủy ban tiền lương của HĐQT của các công ty muốn niêm yết phải gồm toàn các ủy viên độc lập để khỏi bị tác động hay khỏi làm theo cách có qua có lại. Dù sao chuyện tiền lương cho giới giám đốc là chuyện dài khó có kết thúc sớm. Tờ Economist viết: “Even being tough on new chief executives is not proving easy, however. Private equity is on the prowl, offering packages with incentives that a public company can find hard to match amid all the denunciation of fat cats”. Trong câu cuối, người viết so sánh hai loại hình “private equity” là các quỹ đầu tư tư nhân và “public company” là các công ty niêm yết. Vì là quỹ tư nhân nên họ không có nghĩa vụ công khai tiền lương của giới giám đốc và đủ sức để đưa ra những lời mời chào hấp dẫn. Và bên kia, là công ty niêm yết nên khó lòng cạnh tranh nhất là trong bối cảnh đang bị lên án trả lương cho giám đốc thành các “fat cats”.
(TBKTSG, ngày 5 7 2007) Ai làm ra chiếc iPod? Thật ra trả lời câu hỏi xem chừng quá dễ này lại không đơn giản. Tờ New York Times dựa vào đề tài này để viết một bài dài về thực tế câu chuyện toàn cầu hóa. Đầu tiên, tờ báo nhắc khéo: “Here’s a hint: It is not Apple” và giải thích liền: “The company outsources the entire manufacture of the device to a number of Asian enterprises, among them Asustek, Inventec Appliances and Foxconn”. Outsource là một từ rất thông dụng trong những năm gần đây, đến nỗi nhiều người dùng nguyên văn tiếng Anh sau khi giải thích một lần ở đầu bài viết (gia công, chuyển một số công đoạn sản xuất hay khâu dịch vụ ra nước ngoài). Ở đây Apple outsource toàn bộ việc sản xuất cho các công ty nước ngoài, chủ yếu ở châu Á. Thế nhưng các công ty này cũng chỉ làm động tác lắp ráp chiếc iPod “But this list of companies isn’t a satisfactory answer either: They only do final assembly” nên họ cũng không phải là nhà sản xuất chính chiếc máy nghe nhạc nổi tiếng có đến 451 linh kiện này. Tờ New York Times đã sử dụng nghiên cứu của trường Đại học University of California để kết luận: “Their study offers a fascinating illustration of the complexity of the global economy, and how difficult it is to understand that complexity by using only conventional trade statistics”. Quan trọng là phần sau: không thể hiểu được tính phức tạp của nền kinh tế toàn cầu nếu chỉ sử dụng số liệu thống kê thương mại truyền thống. Chiếc iPod video dung lượng 30 GB có giá 299 đô la, trong đó “The most expensive component was the hard drive, which was manufactured by Toshiba and costs about $73”. Như vậy ổ cứng 30 GB này do Toshiba sản xuất, là đắt nhất; các linh kiện chính khác gồm màn hình (20 đô la), con chip video (8 đô la), con chip điều khiển (5 đô la). Có lẽ ít người biết rằng “the final assembly, done in China, cost only about $4 a unit”. Điều đáng ngạc nhiên là khi tính toán cán cân thương mại Mỹ Trung, trị giá chiếc iPod xuất từ Trung Quốc đi ngược vào Mỹ được tính lên đến 150 đô la, góp phần đáng kể vào thâm hụt mậu dịch giữa Mỹ với Trung Quốc.
Theo logic thông thường, “$73 of the cost of the iPod would be attributed to Japan since Toshiba is a Japanese company”. Nhưng khổ nỗi trong thời đại sản xuất toàn cầu hóa ngày nay, “Toshiba may be a Japanese company, but it makes most of its hard drives in the Philippines and China”. Tương tự hai con chip video và chip điều khiển mới đầu tưởng phải tính cho Mỹ vì do các công ty Mỹ cung cấp nhưng thực tế họ sản xuất chúng tại Đài Loan! Các nhà nghiên cứu vò đầu bứt tai mà than rằng: “How can one distribute the costs of the iPod components across the countries where they are manufactured in a meaningful way?”. Distribute ở đây là phân bổ. Thật ra, ngày nay việc tính toán số liệu thống kê thương mại dựa vào cái gọi là “giá trị gia tăng” ở mỗi công đoạn sản xuất bằng cách xác định giá trị đầu vào và giá trị đầu ra của mỗi công đoạn. Khi đó, “The difference between the cost of the inputs and the value of the outputs is the “value added” at that step, which can then be attributed to the country where that value was added”. Theo tính toán của các tác giả, “The $73 Toshiba hard drive in the iPod contains about $54 in parts and labor. So the value that Toshiba added to the hard drive was $19 plus its own direct labor costs”. Như vậy nếu trừ đi 54 đô la đầu vào (là linh kiện và công lao động của khâu trước) thì Toshiba chỉ tạo ra giá trị gia tăng 19 đô la, được tính cho Nhật Bản. Những tưởng kết quả tính toán sẽ cho thấy người hưởng lợi nhiều nhất từ iPod là các công ty nằm khắp toàn cầu có tham gia vào các công đoạn sản xuất nhưng, bất ngờ thay, “The researchers estimated that $163 of the iPods $299 retail value in the United States was captured by American companies and workers, breaking it down to $75 for distribution and retail costs, $80 to Apple, and $8 to various domestic component makers”. Ngoài phần tính cho khâu phân phối, bán lẻ, Apple vẫn là công ty hưởng giá trị gia tăng cao nhất đến 80 đô la vì “The bulk of the iPods value is in the conception and design of the iPod. That is why Apple gets $80 for each of these video iPods it sells, which is by far the largest piece of value added in the entire supply chain”. Apple hầu như không đụng tay vào khâu sản xuất nào nhưng vẫn hưởng phần bánh lớn nhất nhờ công nghĩ ra và thiết kế chiếc iPod. Và đó chính là “bí mật” của quá trình toàn cầu hóa ngày nay.
Tác giả bài báo kết luận: “Ultimately, there is no simple answer to who makes the iPod or where it is made”. iPod không phải là sản phẩm duy nhất, hàng loạt sản phẩm khác, như chiếc iPhone vừa mới ra mắt hay ngay cả món đồ chơi của con bạn cũng phải tuân theo quy luật: “The real value of the iPod doesn’t lie in its parts or even in putting those parts together”. Vấn đề ở chỗ làm sao nghĩ ra cách “kết nối” 451 linh kiện sản xuất khắp nơi với giá rẻ để thành một sản phẩm bán với giá cao hơn. Cho nên “[Apple] may not make the iPod, but they created it. In the end, that’s what really matters”. (TBKTSG, ngày 12 7 2007) Quảng cáo ngày nay xuất hiện ở rất nhiều hình thức dạng mới nhất: branded entertainment. “There is a buzz in the ad world over a new concept called branded entertainment. In a nutshell it means an advertisement that poses as stand alone programming”. Buzz ở câu đầu có nghĩa lời đồn, lời bàn tán còn in a nutshell ở câu sau là nói ngắn gọn. Theo cách giải thích này thì branded entertainment là quảng cáo nhưng nấp đằng sau một chương trình độc lập ví dụ một bộ phim nhiều tập về gia đình một anh chàng lái xe tải chở bia Tiger với nhiều tình tiết chung quanh nghề của anh này. Cái này khác với lối quảng cáo sản phẩm bên trong bộ phim, điển hình là loại phim James Bond với đủ loại sản phẩm ăn theo, gọi là product placement. Vì thế mới có nhận xét: “This [branded entertainment] essentially takes product placement to a new level”. Xin nói thêm về bộ phim James Bond “Die Another Day” được mệnh danh là “a giant advert”. Từ quảng cáo advertisement thường được viết tắt là ad (tiếng Mỹ) hay advert (tiếng Anh). Theo BBC, “Twenty companies will see their products on the big screen, having paid between them $70m for the privilege”. Privilege ở đây là quyền quảng cáo sản phẩm lồng trong phim này, với giá không phải rẻ: 20 công ty trả tổng cộng 70 triệu đô la. Bộ phim này đạt kỷ lục quảng cáo kiểu product placement nên được giới marketing gọi đùa là “Buy Another Day”. Giới phê bình thì chê: “But critics say some of the authentic Bond characteristics have been sacrificed on the altar of advertising”. Chú ý cách dùng từ theo kiểu liên tưởng mà khi dịch sang tiếng Việt thường bị đánh mất: sacrifice là hy sinh theo nghĩa tế thần cho nên mới có từ altar (bệ thờ, án thờ).
Nhân nói chuyện quảng cáo, xin nhắc lại hai từ thường bị dùng sai: trademark (nhãn hiệu) và brand name (thương hiệu) cho dù đôi lúc chúng được dùng thay cho nhau, trademark nhắm đến khía cạnh pháp lý, như chuyện đăng ký, chuyện bảo vệ. còn brand name là nói đến khía cạnh quan hệ với khách hàng, như chuyện xây dựng, củng cố, phát triển. và quảng cáo! Tuy nhiên, trong bài viết “The Future of Advertising Is Here”, tạp chí Inc.com cho rằng: “It’s becoming increasingly possible to target “smart ads” specifically to people who want them. And best of all, you can do this for a fraction of the price of mass market”. Như vậy, quảng cáo của tương lai là quảng cáo thông minh nhắm đến những đối tượng khách hàng cụ thể với chi phí bằng một phần nhỏ của loại quảng cáo đại trà. Các dạng quảng cáo của Google là một ví dụ. Mới tuần trước, CNN Money đăng bài “Google Web Search Is A GameChanger In Advertising Field” để phân tích xu hướng quảng cáo mới trong đó Google đang đóng vai trò tiên phong. Game changer là người thay đổi diện mạo, thay đổi cách chơi. Sau khi mô tả một trường hợp điển hình khi một doanh nghiệp nhỏ chuyển sang quảng cáo trên Google và thành công, CNN Money viết: “The scenario is repeating itself again and again as businesses large and small move their ads from print, TV and radio to the Internet”. Scenario trong câu này là câu chuyện tương tự như thế và print là báo in nói chung. Một dạng quảng cáo khác nữa là giả vờ làm dân nghiệp dư đưa thông tin lên các blog. “Corporate megaliths like Nike and the beverage giant Diageo have gotten in on the game as well, the former with a grainy online clip of Brazilian soccer star Ronaldinho performing a series of literally unbelievable feats with a soccer ball, the latter with a parody music video, released straight to YouTube”. Corporate megaliths là các doanh nghiệp khổng lồ, các “đại gia”; như Nike tung lên mạng đoạn băng chất lượng xấu cảnh Ronaldinho làm xiếc với quả bóng còn hãng Diageo đưa lên YouTube một clip ca nhạc hát nhái để quảng cáo cho loại rượu vodka Smirnoff của họ. Dân trên mạng ngây thơ tải về và gửi cho nhau, đâu ngờ đấy là quảng cáo!
Ít ai ngờ có lần “Sony Ericsson dispatched 60 actors to tourist attractions to pose as sightseers and ask people to take their picture with a new camera phone before going on to extol its virtues all without disclosing their connection to the company”. Quảng cáo theo lối truyền miệng như thế không biết có hiệu quả đến đâu nhưng Sony Ericsson bị cáo buộc là “misleading the consumers”. Vì thế, xu hướng chung của quảng cáo là stealth advertising, tức là quảng cáo mà không nói đấy là quảng cáo. Người ta thường nói “advertising relies on its ability to take certain liberties with the truth” to take liberty with là không màng đến, không chú ý đến. Cho nên khi người xem không biết đấy là quảng cáo, họ càng dễ bị tác động bởi nội dung chào mời. Từng đã có quy định “an infomercial is required to announce itself as a paid advertisement at its beginning, its end, and each time the viewer is exhorted to buy anything”. Infomercial là cách kết hợp giữa information với commercial (quảng cáo theo kiểu tự giới thiệu trên ti vi), cũng như advertorial là cộng advertisement với editorial (hình thức tương tự trên báo in). Với các hình thức mới, quảng cáo đang len vào cuộc sống mà có thể chúng ta không nhận ra. (TBKTSG, ngày 19 7 2007) Tuần này chúng ta tạm thời quên tiếng Anh thời sự để quay về những câu chuyện tiếng Anh thú vị. Trên Internet có khá nhiều trang sưu tầm các câu chuyện, những nhận xét dí dỏm về tiếng Anh rất bổ ích cho người học tiếng Anh. Xin giới thiệu một bài viết vừa đọc được, trong đó tác giả so sánh các cụm thành ngữ tiếng Anh rất quen thuộc nhưng trái ngược nhau. Tác giả nhận xét: “We regard these words of wisdom with reverence, but some of these sayings look specious when weighed against each other”. Trong câu này có từ specious mang nghĩa mới nghe qua thấy hay nhưng đọc kỹ thấy không ổn như kiểu paradoxical.
Ví dụ, chúng ta thường nghe một “cổ nhân” nhận xét “Knowledge is power” nhưng ngay sau đó lại thấy một nhà “hiền triết” khác phán “Ignorance is bliss”. Ở đây nên phân biệt hai từ “ignorant” và “stupid” một bên đơn giản là không biết còn bên kia là dốt. “He was ignorant of the hidden dangers” vì thiếu thông tin chẳng hạn. Còn tiếp nhận thông tin rồi mà vẫn không chịu hiểu thì chắc chắn là “stupid” rồi. Có một câu tổng kết hay: “Nothing in all the world is more dangerous than sincere ignorance and conscientious stupidity”. Conscientious là thorough. Nói “Ignorance is bliss” nhiều lúc cũng đúng vì không biết gì thì không lo lắng, không băn khoăn nên trở thành “vô ưu”. Một cặp thành ngữ chỏi nhau khác: “Action speaks louder than words” và “The pen is mightier than the sword”. Hai câu này dường như đại diện cho hai tính cách, một bên chọn hành động và một bên chọn thuyết phục, thuyết giảng. Nói đúng ra, các cặp thành ngữ này bổ sung cho nhau chứ không hẳn là đối chọi nhau nhưng ở đây chúng ta chỉ nghiên cứu chúng về mặt tiếng Anh. Rất nhiều thành ngữ tiếng Anh có ý nghĩa giống thành ngữ tiếng Việt, chỉ khác nhau ở cách diễn đạt và hình ảnh chuyển tải. Ví dụ, chúng ta nói: “Đừng trông mặt mà bắt hình dong” người Anh nói: “Don’t judge a book by its cover” (cover ở đây là cái bìa sách). Nhưng đối lại người Anh có câu: “Clothes make the man” và người Việt cũng nói: “Người sang nhờ lụa”. Giả thử bạn muốn làm giàu nhanh chóng bằng cách chơi chứng khoán. Một ông khuyên: “Look before you leap” và bạn nghe lời, chưa dám chơi để nghe ngóng, tìm hiểu thị trường trước đã. Bỗng bạn gặp một ông khác, bảo: “He who hesitates is lost”. Bạn thấy cũng đúng vì đã bỏ qua nhiều cơ hội nên vội vàng mua cổ phiếu của một ngân hàng. Ông thứ ba tư vấn nên mua trái phiếu chính phủ cho chắc ăn vì, theo ông, “Better safe than sorry”. Ông thứ tư bĩu môi: “Nothing ventured, nothing gained”. (Venture là chấp nhận rủi ro để đạt được điều gì đó câu này cũng giống “Không vào hang hùm làm sao bắt được cọp”).
Loại thành ngữ khuyên răn trái ngược này khá nhiều. Ví dụ sự trái ngược giữa hai trường phái “đông tay vỗ nên kêu” và “nhiều thầy thối ma” được diễn đạt bởi các cặp: “Many hands make light work” “Too many cooks spoil the broth”; “The more, the merrier” “Two’s company; three’s a crowd”; “Two heads are better than one” “If you want something done right, do it yourself”. Trong các cặp này có từ company, ở đây có nghĩa là bạn đồng hành. Có những cặp mới nghe qua tưởng mâu thuẫn nhưng thật ra chúng giống nhau hoàn toàn: “Great minds think alike” “Fools seldom differ” vì “trí lớn” gặp nhau thì “trí nhỏ” cũng gặp nhau chứ sao. Có những cặp chỉ đối chọi nhau vì từ dùng nhưng nghĩa thì không liên quan: “Money talks” “Talk is cheap” (câu trước mang nghĩa mạnh vì gạo bạo vì tiền; còn câu sau là nói không ăn thua gì, tranh cãi chẳng đi tới đâu chứ không phải lời nói không mất tiền mua). Có lẽ chúng ta cũng nên trang bị một số cặp thành ngữ trái ngược kiểu này để “tùy nghi ứng biến”. Ví dụ với người bạn ít nói, mình khen: “A silent man is a wise one”; với người nói nhiều, mình tán thưởng: “A man without words is a man without thoughts”. Gặp người yên phận, mình tán đồng: “What will be, will be”; nhưng gặp người nhiều tham vọng, vẫn có thể khuyến khích: “Life is what you make it”. Cứ nghĩ đây là luyện tập ngôn ngữ chứ không phải chuyện ba phải. Hoặc có lúc phải dùng chúng để tự vệ. Giả thử cô bạn gái đi công tác dài ngày, ông bạn chọc: “Out of sight, out of mind” (coi chừng, xa mặt cách lòng), bạn hãy đáp lại: “Absence makes the heart grow fonder”. Fond ở đây là affectionate.
Cuối cùng, hãy cùng tìm hiểu một cặp thành ngữ trái ngược khá lạ, liên quan đến ngựa: “Beware of Greeks bearing gifts” và “Don’t look a gift horse in the mouth”. Thành ngữ sau có nghĩa đừng xét nét khi nhận được quà hay một quyền lợi nào đó (được voi đòi tiên). Người ta thường nhìn vào miệng con ngựa xem hàm răng để định tuổi nó, cho nên có ai tặng ngựa thì đừng nhìn vào miệng nó, dễ bị phật ý. Câu trước là cảnh giác với những ai mang quà tới tặng, câu này xuất phát từ câu chuyện con ngựa thành Troy. (TBKTSG, ngày 26 7 2007) Nếu để ý, các bạn sẽ thấy báo chí khi giới thiệu tập truyện Harry Potter mới nhất đều không dịch tựa đề mà để nguyên tiếng Anh “Harry Potter and the Deadly Hallows”. Ấy là vì người viết đã rút kinh nghiệm. Khi tập năm “Harry Potter and the Order of Phoenix” ra mắt, nhiều người dịch thành “Harry Potter và Mệnh lệnh Phượng hoàng” và. bị sai. Order là lệnh, là huân chương. nhưng còn có nghĩa là hội. Vì thế sau này tựa sách được dịch chính xác thành “Harry Potter và Hội Phượng hoàng”. Trở lại tập truyện vừa mới được giới thiệu ầm ĩ, ngay chính tác giả cũng thừa nhận tựa sách rất khó dịch nếu chưa đọc hết sách nên đã đồng ý đặt thêm một tựa “Harry Potter and the Relics of Death”. Relics là di vật, thánh tích nên tựa đề tiếng Việt có thể sẽ là “Harry Potter và tử thần tích”, ý nói về các thánh tích của tử thần. Tựa sách ở Nhật Bản lại là “Harry Potter and the Secret Treasure of Death”. Hallow trong tựa nguyên gốc thường dùng như động từ, có nghĩa “to make holy”. Nhưng trong sách nó là danh từ chỉ ba vật gồm “Elder Wand” (chiếc đũa thần), “Resurrection Stone” (viên đá hồi sinh) và “Invisibility Cloak” (áo khoác tàng hình) the three legendary objects that conquer death. Tựa sách với ý nghĩa như thế thì khó dịch thật.
Một tập sách khác “Harry Potter and the Philosopher’s Stone” khi in ở Mỹ được chuyển thành “Harry Potter and the Sorcerer’s Stone”. Philosopher’s stone là viên đá biến kim loại bình thường thành vàng, dùng trong thuật giả kim nhưng trong truyện nó là viên đá làm cho con người bất tử nên biên tập viên bản tiếng Mỹ đổi lại để độc giả người Mỹ khỏi hiểu nhầm. Quyết định biên tập “dịch từ tiếng Anh sang tiếng Mỹ” của cuốn này bị nhiều người Mỹ chê trách. Một người viết: “I like to think that our society would not collapse if our children started calling their mothers Mum instead of Mom. And I would hate to think that today’s children would be frightened away from an otherwise thrilling book by reading that the hero is wearing a jumper instead of a sweater”. Chú ý người viết minh họa bằng hai cặp từ tiếng Mỹ và tiếng Anh (Mom Mum; sweater jumper). “Dịch từ tiếng Anh sang tiếng Mỹ” bao gồm những công đoạn: “The first are spelling differences: gray for grey, color for colour, flavor for flavour, pajamas for pyjamas, recognize for recognise and the like”. Cái này những người học tiếng Anh đều biết nhưng đôi lúc trong cùng một văn bản, dùng lẫn lộn cả hai loại chính tả. “The second are differences in common words or phrases: pitch turns to field, fortnight to two weeks, post to mail, boot of car to trunk of car, lorry to truck”. Đa phần văn bản chúng ta tiếp cận thường xuyên là tiếng Mỹ cho nên dù đôi lúc cố ý dùng tiếng Anh nhưng chúng ta vẫn dùng truck (xe tải) chứ ít khi dùng lorry. Thử tưởng tượng bây giờ các nhà xuất bản Mỹ phải “dịch” như thế đối với các tác phẩm kinh điển của Charles Dickens hay Shakespeare mới thấy họ phê bình đúng. Ví dụ không lẽ biến tựa sách quen thuộc “A Christmas Carol” thành “A Christmas Song” hay “The Merchant of Venice” thành “The Salesman of Venice”!
Sách của bà J. K. Rowling khó dịch vì nhiều lẽ, trong đó lý do chính là bà sáng tạo ra nhiều từ mới và tên nhân vật đều có ý nghĩa riêng của nó. Những yếu tố này khi dịch thường bị mất đi. Ví dụ, tên nhân vật Tom Marvolo Riddle nếu sắp xếp lại sẽ biến thành “I am Lord Voldemort” (cảnh trong cuốn Harry Potter and the Chamber of Secrets khi Tom Riddle tiết lộ thân phận cho Harry) và bản thân từ riddle cũng có nghĩa là câu đố vì thế bản tiếng Pháp tên nhân vật này được dịch thành Tom Elvis Jedusor để khi sắp xếp mới thành “Je suis Voldemort”. Chỗ này tiếng Việt chịu nên người dịch phải dùng chú thích. Vì người dịch không được trao bản tiếng Anh trước lúc sách chính thức phát hành nên phải mất mấy tháng sau bản dịch các thứ tiếng mới xuất hiện. Từ đó mới có những câu chuyện “khó tin nhưng có thật”. Bản dịch lậu tiếng Tây Ban Nha cuốn Harry Potter và Hội Phượng hoàng vì dịch vội nên người dịch bí chỗ nào bèn xin lỗi chỗ đó. Bản tin BBC cho biết: On one page the translator warns: “Here comes something that I’m unable to translate, sorry”. Một chỗ khác: “You gave him ‘the old one two’ (I’m sorry, I didn’t understand what that meant)”. Như thế cũng khá trung thực rồi. Ở Trung Quốc, thậm chí có sách giả với tựa đề: “Harry Potter and Leopard Walk Up to Dragon” cũng khét tiếng một thời. Có một trang web cất công so sánh các bản dịch tiếng Hoa, tiếng Nhật và tiếng Việt về nhiều khía cạnh, trong đó có phần nêu một số lỗi của các bản dịch. Ví dụ, tên một cuốn sách “Magical Draughts and Potions” trong ấn bản tiếng Mỹ đã chuyển thành “Drafts” nên bị dịch sai thành “Đề cương phép lạ và độc dược” trong khi draught hay draft ở đây mang nghĩa thức uống, liều thuốc.
(TBKTSG, ngày 2 8 2007) Mấy tuần qua, chứng khoán thế giới đảo chiều liên tục và ngay cả người bình thường nếu đọc các bản tin chứng khoán của các hãng thông tấn cũng thấy được sự sôi động của thị trường, thậm chí mang mùi “khói lửa”. Xin chú ý các cụm từ liên tưởng đến chiến tranh mà người viết sử dụng: “The bruised US stock market slid further Friday as investors retrenched amid fears of a housing slump and a potential credit crunch that led to a massive rout a day earlier”. Danh từ trench là chiến hào, động từ là lui về chiến hào. Retrench có nghĩa riêng là giảm bớt, cắt bớt [lượng mua bán] nhưng ở đây vẫn tạo hình ảnh các nhà đầu tư lui về cố thủ, không tấn công nữa. Thêm vào đó, từ bruised (thâm mình, tím mẩy) cho thấy trước đó thị trường đã bị bầm dập. Các từ khác cũng mang theo chúng nhiều hình ảnh sống động: slid further (sụt thêm), housing slump (thị trường địa ốc đóng băng), credit crunch (thắt chặt tín dụng), massive rout (tháo chạy tán loạn). Dường như hào hứng với cách dùng từ như thế, tác giả bản tin của hãng AFP viết tiếp: “Wall Street was still licking its wounds from Thursday's massacre amid concerns over rising borrowing costs”. Massacre là vụ thảm sát, ở đây dùng theo nghĩa hôm thứ Năm, thị trường đã gây đổ máu cho nhiều nhà đầu tư; vì thế Wall Street mới ngồi “chăm sóc” thương tích theo kiểu của các bầy thú. Tổng kết thiệt hại, bản tin viết: “The latest losses closed a horrific week for US and global markets as investors scurried to dump riskier assets”. Hai động từ scurry (vội vàng, nhốn nháo) và dump (bán tống bán tháo) cũng đầy hình ảnh. Dĩ nhiên, trong một bản tin về chứng khoán, không thể không dùng các từ chuyên ngành. Ví dụ assets (tài sản) phải hiểu là đủ loại chứng khoán, như cổ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ quỹ, các quyền mua bán. Hay trong câu trích nhận định của Bộ trưởng Tài chính Mỹ: “US Treasury Secretary Henry Paulson said Friday the turmoil on financial markets is the result of “risk being repriced” which can be painful for some but is “healthy” in the long run”, có khái niệm “định giá lại rủi ro” “risk being repriced”. Trong câu này có thành ngữ “in the long run” có nghĩa về lâu về dài.
Bản tin còn thích dùng các từ miêu tả tâm trạng nhà đầu tư rất gợi hình. Khi nói đến mức sụt điểm của chỉ số Dow Jones Industrial Average, tác giả dùng cụm từ “a stomach churning 300 plus point decline” mức sụt trên 300 điểm làm thót ruột hay hình ảnh các nhà đầu tư đang hoang mang, chân tay bủn rủn được diễn tả bằng cụm từ weak kneed investors. Ngay cả các câu trích cũng dùng từ rất kêu, không biết người viết ghi nguyên văn hay “chế biến” lại: “There is little doubt that this week's tumultuous events officially sound the death knell for cheap money”, said Douglas Porter at BMO Capital Markets. Cụm từ sound the dead knell là rung hồi chuông báo tử, ở đây là cho loại tiền giá rẻ, tức là chi phí đồng vốn thấp. Đấy là bản tin cách đây hai tuần. Đến cuối tuần trước, khi sự ảm đạm của thị trường kéo dài, các bản tin dùng từ càng bi quan hơn. BusinessWeek viết: “There was plenty of bad news to go around”. Bình thường go around là có đủ cho mọi người She believes there’s plenty of hope to go around. Cách dùng từ theo lối mỉa mai là khá thông dụng trong tiếng Anh, làm cho câu trên có nghĩa: Nhìn đâu cũng thấy tin xấu. Lý do chính cho đợt sụt giảm giá chứng khoán ở Mỹ, kéo theo sự sụt giảm ở các thị trường khác là do hậu quả của sự đổ vỡ thị trường cho vay mua nhà trả góp ở Mỹ: “Volatility in the major indexes escalated over the past week as investors haven't seen reassuring signs that the subprime credit mess has run its course”. Trong một bài trước, chúng ta đã làm quen với từ subprime credit (tín dụng chất lượng xấu chỉ các hãng liều lĩnh cho những người có tiền sử “chạy nợ” mua nhà trả góp). Vụ này lình xình đã mấy tháng nay vẫn chưa xong nên mới có chuyện has [not] run its course.
Tiên đoán tình hình thị trường trong thời gian tới, BusinessWeek cho rằng: “Earnings season will be winding down, and even though profits have come in ahead of expectations, the market is focused more on subprime worries”. Thông thường vào thời điểm các công ty niêm yết công bố lợi nhuận hàng quí, giá cổ phiếu sẽ tăng giảm mạnh những thời điểm còn lại giá sẽ bị tác động bởi các yếu tố khác. Cho nên câu trên mang ý giá cả thị trường trong thời gian sắp tới không còn bị chi phối bởi báo cáo tài chính nữa mà vẫn tập trung vào hậu quả của vụ cho vay theo kiểu “subprime”. Và, ở đây, lối văn hình ảnh vẫn không thiếu: “The biggest worry out there is whether or not there are more shoes to drop, so to speak”. Có lẽ chúng ta đã từng nghe thành ngữ “to wait for the other shoe to drop” mang nghĩa chờ đợi tin xấu xảy ra. Câu trên không dùng the other shoe mà là more shoes to drop, ý nói để coi thử còn thêm những tin nào xấu nữa không. Vì thế người viết phải thêm vào cụm từ so to speak vì đã chế biến một thành ngữ thông dụng. (TBKTSG, ngày 9 8 2007) Tuần trước chúng ta đã quan sát sự ngổn ngang của thị trường chứng khoán, tưởng đâu là chuyện chóng qua. Không ngờ tuần này tình hình ngày càng có vẻ trầm trọng. Một tít báo chạy dòng chữ: Et tu, Paribas? Chắc chúng ta đã quen với câu nói nổi tiếng sau cùng của Julius Caesar Et tu, Brute? (You too, Brutus), tỏ ý bất ngờ và thất vọng khi thấy viên cận thần của mình cũng theo phe muốn sát hại vị hoàng đế nổi tiếng của La Mã này. Nay báo chạy tít như thế vì: “The first jolt came from French bank BNP Paribas, which said early in the day that it was freezing three investment funds once worth a combined $2.17 billion because of losses related to U.S. housing loans”. Như vậy hậu quả cho vay mua nhà bất kể uy tín tín dụng ở Mỹ đã lan sang Pháp khi ngân hàng lớn nhất nước này tuyên bố đóng cửa ba quỹ đầu tư lớn.
Ảnh hưởng dây chuyền kiểu này có thể tóm tắt: (1) hedge funds borrowed increasing amounts of money in recent years to boost returns amid placid markets; (2) subprime credit problems; (3) hedge funds were in the red and selling off assets; (4) stock market scrambled to sell holdings and cut their borrowings. Trong những câu trên có một số từ đáng chú ý, như placid market là thị trường trầm lắng; holdings là những khoản đầu tư của các quỹ. Xoay quanh các khâu trong dây chuyền này là vô số câu chuyện mà báo chí tài chính nước ngoài đang khai thác. Ví dụ khi đại diện Ngân hàng BNP Paribas giải thích lý do tạm ngưng hoạt động của ba quỹ đầu tư, ông ta nói: “The market for the assets has just disappeared”, said Alain Papiasse, head of BNP Paribas’s asset management services division. “Since the start of this week, there are no prices for instruments that carry, directly or indirectly, some types of U.S. assets”. Chúng ta sẽ thấy nếu ai nấy đều thi nhau bán ra, chắc chắn thị trường sẽ ngưng trệ vì không ai dám mua vào. Từ instrument ở câu thứ nhì là công cụ đầu tư, tức là các dạng tài sản mua bán trên thị trường chứng khoán. Chúng ta hãy quan sát tờ Wall Street Journal cụ thể hóa bóng ma khủng hoảng tài chính toàn cầu hiện nay bằng một minh họa. Many market neutral funds have been wagering on high quality stocks, and betting against stocks that look expensive. Market neutral funds là các quỹ hoạt động theo kiểu thị trường lên hay xuống gì họ cũng có lãi. Khi họ mua vào loại chứng khoán chất lượng cao, giữ đấy để đợi giá lên gọi là long position. Còn khi họ vay chứng khoán theo họ giá đang quá cao, bán đi lấy tiền, đợi giá giảm mới mua vào lại gọi là short position. Trong câu này, người viết dùng các từ mang nghĩa cá cược như wager, bet against. Vì dùng chiến thuật chắc ăn như thế, các quỹ tha hồ đi vay tiền ngân hàng để cược cho cao, hòng lời cho nhiều.
Nhưng bất ngờ xảy ra vụ subprime credit mà chúng ta đã đề cập ở số trước, các ngân hàng buộc các quỹ phải đóng thêm tiền thế chân. Thế là: “The funds sold some of their holdings of high quality stocks to raise the cash, and closed out “short” trades, or bets against companies, by buying back shares of companies seen as expensive”. Bán cổ phiếu giá tốt khi giá chưa lên như kỳ vọng và phải mua vào cổ phiếu xấu khi giá của chúng vẫn chưa giảm như mong đợi (mà câu trên diễn giải bằng cụm từ “closed out short trades”), các quỹ chỉ còn biết chịu lỗ, mà lỗ nặng. Nắm được chiến thuật này, chúng ta sẽ hiểu người viết muốn nói gì khi thêm: “Others sold positions simply to become more conservative, in a rocky market”. Đấy là những quỹ thận trọng, long position hay short position gì đều bán hết. Mức lỗ nhiều lúc cao khủng khiếp The Equity Opportunities fund lost more than 11% between July 1 and 27. Nên nhớ quỹ này là của tập đoàn Goldman Sachs nổi tiếng. Và thế là thị trường tài chính và chứng khoán thế giới chao đảo trong nhiều tuần liền. Điều nguy hiểm là thị trường không có ai tài trợ đổ tiền vào để mua chứng khoán thì sẽ dẫn đến tình trạng mà tờ New York Times miêu tả: With the worth of those securities now being questioned, some who financed the securities want their money out, a fact that has created the 21stcentury equivalent of a run on a bank. Run on a bank (hay bank run) là cảnh mọi người hoảng hốt đến ngân hàng rút tiền về làm ngân hàng sụp đổ (ở đây là rút tiền ra khỏi thị trường chứng khoán).
Vì thế, mới có chuyện: “In total on Friday, the Fed injected $38 billion into the banking system, liquidity aimed exclusively at the credit market’s Achilles’ heel, mortgage backed securities”. Ngân hàng Trung ương Mỹ (Fed) ra tay trước và sau đó: “Overnight, central banks in Europe, Japan and Australia, joined the Fed by adding liquidity to their respective banking systems to try to alleviate any credit crunch”. Hãy đợi xem động thái bơm tiền để nâng tính thanh khoản của thị trường như thế này sẽ có tác dụng tới đâu trong tuần này. (TBKTSG, ngày 16 8 2007) Báo chí tiếng Anh đôi lúc cũng bị độc giả “hỏi thăm sức khỏe” vì sử dụng tiếng Anh không chuẩn xác. Câu này được tờ Chicago Tribune diễn đạt thành: “More often than you might expect, readers hold the newspaper’s feet to the fire about how we handle, and sometimes mangle, the English language”. Cụm từ “hold someone’s feet to the fire” là gây áp lực cho ai đó, còn mangle là phá hỏng, kiểu như ta thường nói “làm mất sự trong sáng” của tiếng Anh. Số là tuần trước tờ báo này chạy một trang quảng cáo, có câu: “Education is priceless. But what if it was free?”. Nhiều độc giả gọi điện bảo phải dùng were mới đúng ngữ pháp! Lạ một điều người Anh, người Mỹ hay sai những chỗ người nước ngoài học tiếng Anh ít sai. Ví dụ, đối với họ, rất dễ nhầm giữa it’s và its; affect và effect. Bài báo trên tờ Chicago Tribune dẫn chứng: “People say disinterested when they really mean uninterested and confuse bemused with amused”. Cái này những ai học tiếng Anh kha khá rồi thì đều biết disinterest là khách quan, vô tư còn uninterested là không quan tâm; bemused là sửng sốt còn amused là buồn cười, lấy làm thú vị.
Tuy nhiên tờ báo này cho rằng ngôn ngữ luôn luôn biến đổi nên quy luật ngữ pháp phải linh hoạt theo. Ví dụ trước đây, học sinh được dạy không bao giờ kết thúc một câu bằng một giới từ. Nay có nhiều câu viết theo lối đúng ngữ pháp như thế trông gượng gạo không chịu nổi. “He is a tough candidate to run against” nghe bình thường, còn đổi lại “He is a tough candidate against whom to run” nghe rất chỏi tai. Người ta hay kể chuyện tiếu lâm rằng các nhà ngữ pháp “dạy”: “Preposition is something you should never end a sentence with”. Đích thị đây là một câu kết thúc bằng giới từ. Một giai thoại kể lại Winston Churchill viết thư trong đó có câu kết thúc bằng giới từ. Khi được khuyên nên sửa lại cho đúng, vị Thủ tướng nước Anh nổi tiếng trong thời Thế chiến II nói: That’s the sort of pedantry up with which I will not put. Ông này chê cười thói thông thái dỏm (pedantry) bằng một câu rất đúng ngữ pháp! Cuối cùng tác giả bài báo trích một câu vừa đăng trên số báo trước do một phóng viên viết: “Many folks will even tell you about a guy they know who knows a girl who worked with some dude who was killed by a flying Asian carp, but don’t listen to them; that story is bogus”. Đây là một câu dùng nhiều mệnh đề phụ, về mặt ngữ pháp là rất rối rắm nhưng lại rất hay và chính xác để diễn đạt một câu chuyện đồn từ người này sang người khác. Trong lúc đó, tờ China Daily lại có một bài nhận xét rằng tiếng Anh đang tấn công, tràn ngập tiếng Hoa, nhất là trong lĩnh vực công nghệ. Thật ra đây là một khảo sát: “A dozen abbreviations including GDP, NBA, IT, MP3, QQ, DVD and CEO are among the 5,000 most frequently used words in the Chinese language media last year, according to a report on the 2006 Language Situation in China, which was released yesterday in Beijing”. Như vậy báo chí tiếng Hoa cũng xài những từ tiếng Anh viết tắt thoải mái như CEO, GDP. Đến nỗi có một đôi sinh con, đòi đặt tên con là @. Hãy nghe tờ báo này giải thích rõ hơn nhiều bài báo tiếng Anh khác: “While the “@” is obviously familiar to Chinese e mail users, they often use the English word “at” to pronounce it which with a drawn out “T” sounds something like ai ta, or love him”. Như vậy người Trung Quốc không có từ tương đương như a vòng hay a còng mà phát âm ký hiệu @ thành at như người Anh nhưng kéo dài âm T nghe thành “ái tử”.
Ở Philippines, nơi tiếng Anh được xem là ngôn ngữ chính thức bên cạnh tiếng Tagalog, người ta lại than phiền sách giáo khoa được viết quá cẩu thả, bằng một thứ tiếng Anh “dưới chuẩn”. Ví dụ: “We grow our hogs in our own farms so you’re sure to get meat that is grown” hay “He seemed to be waiting for someone, not a blood relation, much less a bad blood”. Tờ International Herald Tribune sau khi trích một số câu như vậy bèn nhận xét: “Such phrases, lifted from government approved textbooks used in Filipino public schools, are reinforcing fears that crucial language skills are degenerating in a country that has long prided itself on having some of the world's best English speakers”. Một nhà giáo, bức xúc trước tình hình này, đã mua nguyên một trang quảng cáo, liệt kê các lỗi tiếng Anh trong sách giáo khoa. Và để thu hút sự chú ý của mọi người, ông này đặt tít cho quảng cáo bằng một câu tiếng Anh theo kiểu Phi: “Learnings for make benefit glorious nation of Philippines”. Thật ra đã mấy năm nay, các hiệp hội doanh nghiệp nước ngoài ở Philippines nhận xét sự sút giảm kỹ năng tiếng Anh chuẩn của người Phi đang làm nhân lực nước này mất tính cạnh tranh. Cuối cùng, nếu bạn có iPod và muốn học thêm tiếng Anh, hãy tận dụng các Podcast của BBC chuyên dạy tiếng Anh: “The BBC says the weekly programs, “How to .,” “Grammar Challenge” and “Talk About English,” come in bite size formats and show students how to tackle tricky aspects of the English language, and are now available for downloading on demand”. Đây là các chương trình ghi âm sẵn, chỉ việc vào www.bbcworldservice.com/podcasts để tải về và chuyển vào iPod để nghe.
(TBKTSG, ngày 23 8 2007) Đôi lúc chúng ta gặp những câu tiếng Anh mà cho dù người đọc có giỏi tiếng Anh đi mấy chăng nữa cũng vò đầu bứt tai vì không hiểu gì cả. Tờ Wall Street Journal minh họa hiện tượng này bằng một sa pô khó hiểu: “Leetspeak Is Hot Button With Gamers, Scholars; One Campus Isn’t LOL”. Đấy là câu mở đầu cho một bài báo về hiện tượng tiếng Anh bị biến tướng bởi cư dân trên mạng, trong đó “leetspeak” là biến thể của “elite speak” ngôn ngữ thời thượng của giới này; còn LOL hay lawl là viết tắt cụm từ “laughing out loud” thường dùng để diễn đạt sự thú vị. Vấn đề nằm ở chỗ loại ngôn ngữ này hiện lan rộng trong giới trẻ, không còn hạn chế trong các cộng đồng chơi game trực tuyến hay những người thích chat nữa. Chúng tấn công vào các loại tin nhắn và nhảy sang ngôn ngữ nói, làm đau đầu các nhà ngôn ngữ và các bậc phụ huynh. Ví dụ từ “the” thoạt đầu bị biến thành “teh” vì gõ sai chính tả nhưng hiện nay mang nghĩa “very” khi dùng trước tính từ, ví dụ “tehcool” rất tuyệt. Chẳng có sách “ngữ pháp” nào dạy giới trẻ loại ngôn ngữ này nhưng nó được tiếp thu một cách nhanh chóng. Ví dụ, đối với họ, “u” là “you”, “r” là “are”, “2” là “too”. Phổ biến nhất là các cụm từ viết tắt: “ttyl” thay cho “talk to you later”, “bbl” thay cho “be back later”, “cu” thay cho “see you”. Một từ khá thông dụng trong giới chơi game và đã lan ra ngôn ngữ thường ngày là “pwned” đánh bại đối thủ một cách dễ dàng. Câu “pwned like a noob” nếu dịch sang tiếng Anh bình thường là “destroyed with the quickness and ease with which one would destroy a new player”. Các con số cũng được dùng rất bí hiểm, ví dụ 10q là “thank you”, 10x là “thanks”, 2L8 là “too late” và 404 là “I haven’t a clue”.
Wall Street Journal dùng cụm từ “One Campus isn’t LOL” ở đầu bài là vì: “Lake Superior State University this year included “pwn” on its annual list of banned words and phrases”. Trong khi đó một số nhà ngôn ngữ học khác cho rằng hiện tượng này là bình thường, thời gian sẽ sàng lọc và cuối cùng chỉ có một số từ tồn tại trong ngôn ngữ chính thức. Tờ này đưa ra ví dụ: “Some of those words, like SOS, the popular call for help, have survived from their telegraph era origins”. Một xu thế khác là khi leetspeak trở nên quá phổ biến, đến bố mẹ cũng dùng thì giới trẻ không thèm dùng nữa. “But leetspeak's growing appeal, and use among the un cool, could undermine it. Now moms are saying, “LOL,” so that takes away from it”. Một khó khăn khác cho người đọc sách báo tiếng Anh là việc sử dụng các từ lóng ngày càng nhiều, nhất là trong các bài về chính trị. Lấy ví dụ câu này trên tờ Chicago Tribune: If a spin doctor’s reputation is only as good as his or her last victory, Rove’s rep slipped into meltdown with the collapse of Bush’s Social Security reforms, immigration reforms, the “thumpin’” that Democrats gave Bush in last year’s midterm elections and, of course, the deepening mess in Iraq. Karl Rove, Phó chánh văn phòng Nhà trắng, cố vấn chính trị cao cấp của Tổng thống Bush vừa tuyên bố từ chức. Thế là khi đưa tin này, hầu như báo nào cũng dùng kèm với từ spin doctor, một tiếng lóng mang nghĩa A representative for a person, especially a politician, who publicizes favorable interpretations of that person’s words or actions. Từ rep cũng là cách viết “bình dân” từ reputation và “thumpin’” cần giải thích kỹ hơn một chút. Năm ngoái khi Đảng Dân chủ Mỹ thắng thế trong kỳ bầu cử Quốc hội giữa nhiệm kỳ của Bush, ông này họp báo và tuyên bố: “It’s a thumping” một cú xiểng liểng (ông Bush lại phát âm gọn thành thumpin’). Ngay cuộc họp báo phóng viên tờ New York Times hỏi đi hỏi lại có phải ông Bush dùng từ này không. Và ngay sau đó nhiều báo bình luận về cách dùng từ “thô thiển” như thế: “Thumpin’” might be a word he’d use regarding a loss by his favorite football team while he chokes down a dry pretzel. But it's hardly fitting coming from the President after members of his own party had just drowned in the floodwaters of his incompetence.
Khi tờ Slate dùng từ Zoo Plane trong một bài báo tuần trước, các bạn có biết nó là gì không đó là: “An airplane carrying journalists accompanying a traveling politician”. Hay khi một tờ báo ở Canada chê trách chính khách nước này dùng toàn bafflegab, ý tờ này muốn nói đến “confusing or unintelligible speech, doublespeak”. Xin liệt kê một số từ thường gặp trên báo chí Anh, Mỹ: Turkey Farm (một cơ quan công quyền dùng toàn con ông cháu cha); Velcroid (người dựa hơi chính khách); Doubledome (một trí thức bị ảo tưởng); Flush Bottom (người đóng góp nhiều tiền cho các chiến dịch tranh cử); Politainer (chính khách xuất thân là diễn viên, nghệ sĩ biểu diễn). (TBKTSG, ngày 30 8 2007) Chuyện trúng số độc đắc luôn thu hút sự chú ý của mọi người, các báo đăng tin “hoành tráng” nhưng thường tô đậm khía cạnh “nói vậy chứ không phải vậy” có lẽ để những người không may mắn đỡ tủi thân chăng. Ví dụ, tít “$330M Jackpot Split Not Quite as Mega” nhắc đến khá nhiều chuyện: Vụ giải độc đắc 330 triệu đô la vào cuối tuần trước ở Mỹ có đến bốn người trúng nên mới có từ “jackpot split”; đây là giải Mega Million, một trong hai loại xổ số lớn nhất nước Mỹ (giải kia là Powerball), nhưng ý định của người viết tin là chứng minh, tính ra nó cũng chẳng mega gì lắm. Đầu tiên là cách nhận tiền trúng số. “A one quarter share of the jackpot is $82.5 million. If the winner elects a lump sum payment, which financial analysts suggest, they’re down to $48.6 million after taxes”. Một giải xổ số thường quảng cáo kỳ này lô độc đắc lên đến 100 triệu đô la nhưng đó là nếu người trúng giải chọn cách nhận một khoản tiền hàng năm trong vòng vài ba chục năm. Còn nếu chọn cách nhận một lần (lump sum payment) thì số tiền thật nhận chỉ còn trên dưới một nửa. Cái này là do tác động của lãi suất kép (compound interest), ví dụ, hàng năm nhận 25.000 đô la trong vòng 40 năm, nếu tính nhẩm, tổng số tiền lên đến 1 triệu đô la. Còn dùng lãi suất chiết khấu 8%/năm thì giá trị hiện tại của 1 triệu đô la này thật ra chỉ vào khoảng 300.000 đô la mà thôi. Ở câu trên có cụm từ “which financial analysts suggest” là vì cách nhận one time payment thay vì annuity payment theo các nhà phân tích tài chính có lợi hơn nhiều. Bài báo giải thích: “Many winners choose to take the lump sum payment, since they believe they can get a better rate of return on their investment elsewhere”.
Sau đó, tác giả bài báo thử tính xem với gần 50 triệu đô la, các triệu phú may mắn này sẽ làm được gì. “Forget those dreams of living in the Beverly Hills mansion William Randolph Hearst built for his mistress. It's listed at $165 million”. Ông trùm báo chí Mỹ Hearst mua một căn nhà trên đồi Beverly nổi tiếng với giá 120.000 đô la vào năm 1947; bây giờ tòa nhà này có giá đắt nhất nước Mỹ 165 triệu đô la. “But suppose our winners just want to live a modest millionaire’s life in an apartment on New York’s Fifth Avenue. Sadly, this address, too, is out of their league”. Giả thử người trúng số muốn mua một căn hộ trên đại lộ số 5 nổi tiếng ở New York cũng không mua nổi. Thành ngữ “out of their league” có nghĩa “không với tới”. Ấy là vì giá nhà ở đây có căn dưới 50 triệu đô la nhưng người mua phải có trong tài khoản ít nhất gấp đôi số tiền đó. Các căn hộ sang trọng ở New York có phương thức mua bán khác lạ. Cả tòa nhà được tổ chức như một hợp tác xã, người mua tham gia làm thành viên và được quyền sở hữu căn hộ với điều kiện trả tiền mặt, nguyên một lần. Tác giả khuyên: “They might just swing the purchase price of a private Gulf Stream jet (if it’s used the new ones list for $54 million), but there would be nothing left for airport fees and a pilot”. Động từ swing ở câu này là manage (xoay xở). Như vậy giá một chiếc phản lực tư nhân mới là 54 triệu nhưng còn tiền xăng nhớt, lệ phí sân bay, thuê phi công nữa.