text
stringlengths
1
809k
Cuối cùng, người viết đề nghị: “So here’s a suggestion for our depressed winners: Shoot even higher into space”. Câu này được dùng theo nghĩa đen “The current price for a trip aboard the shuttle is $35 million, spacewalk included!”. Đó là bài báo viết theo kiểu nói đùa. Thế nhưng đã có những nghiên cứu nghiêm túc cho thấy trúng số độc đắc chưa hẳn đã là chuyện hạnh phúc. Giáo sư tâm lý học Steve Danish nhận xét: “The dream you have about winning may be better than the actuality of winning. There have been families that have just been torn apart by this process”. Ông liệt kê hàng loạt vụ trong đó người trúng số độc đắc sau đó gặp nhiều chuyện bất hạnh, gia đình tan vỡ vì chuyện tiền bạc. Số liệu thống kê cũng cho thấy: “Seventy percent of those who become suddenly wealthy squander it within a few short years, according to the National Endowment for Financial Education”. Động từ squander là phung phí, tiêu hoang. Điều có thể thấy ngay là sau ngày trúng số, người may mắn ấy sẽ đột nhiên thấy số lượng bạn bè, bà con tăng lên đột ngột. “I think it’d be scary to be that person. Because you’ve got all your friends and family coming out of the woodwork and wanting a little piece of that lottery themselves”. Thành ngữ come out of the woodwork là ở đâu ra không biết. Ví dụ, sau khi có tin giải thưởng kỳ này lên đến 330 triệu đô la, có người nói: “If I know them, I’m going to hit them up for a loan”. To hit them up ở đây là đến hỏi vay tiền. Trong khi đó, các công ty xổ số lại bàn đến mốc trúng thưởng mới: “Could half a billion dollars become the new benchmark for lottery winnings?”.
Benchmark ở đây là mức chuẩn. Một lottery toàn cầu hàng tháng “could mint up to 100 brand new millionaires worldwide every drawing”. Mint vừa dùng theo nghĩa sản sinh vừa gợi nhớ đến nghĩa đúc tiền. (TBKTSG, ngày 6 9 2007) Cách khoảng mươi ngày, một ngân hàng gửi đi một thông cáo báo chí về chuyện phát hành chứng chỉ tiền gửi nhưng hầu như không thấy báo nào đưa tin. Ấy có lẽ là vì ngân hàng này sử dụng tiếng Anh (phải mấy ngày sau mới có bản dịch tiếng Việt) và là loại tiếng Anh chuyên ngành khó hiểu đối với người ngoài ngành. Thông tin chính của bản thông báo nằm ở câu: “The issue, which will help expand and develop Vietnam’s local long term debt market, marks the debut [of] long term negotiable certificates of deposit to be issued in Vietnamese dong”. Có lẽ người sử dụng các dịch vụ của ngân hàng hiện đã quen với công cụ “chứng chỉ tiền gửi” (certificate of deposit hay được gọi tắt là CD) cũng là một cách gửi tiền tiết kiệm có kỳ hạn cụ thể. Negotiable trong câu này là một từ dễ gây hiểu nhầm vì nghĩa thường dùng của nó là “có thể thương lượng”. Thật ra, negotiable đối với các CD có nghĩa sau khi mua về có thể bán lại, hay nói cho văn vẻ là có thể giao dịch trên thị trường thứ cấp. Ít nhất, người mua có thể đem tới ngân hàng để bán lại trước khi đáo hạn, mà tiếng Việt thường gọi là chiết khấu. Bản thông báo giải thích: “The coupon resets every six months and will pay at a specified spread over a benchmark rate set by the bank”. Đây chính là câu gây khó khăn nhiều nhất vì nó chứa nhiều từ khó. Chúng ta thường quen với từ interest rate (lãi suất) trong khi đối với trái phiếu, từ thường dùng là coupon. Ngày trước, tờ trái phiếu có kèm các coupon ghi rõ số tiền trả cho trái chủ và vì trái phiếu thường dài hạn nên một tờ trái phiếu có in kèm nhiều coupon để mỗi sáu tháng, chẳng hạn, trái chủ cắt và đi lãnh lãi. Thật ra với các CD, dùng interest rate cũng được.
Spread cũng là một từ hay vì nó được dùng trong nhiều lĩnh vực. Ví dụ giá mua vàng là 13 triệu/lượng giá bán là 13,2 triệu/lượng thì spread ở đây là 0,2 triệu. Khác biệt giữa giá mua, giá bán ngoại tệ cũng là spread. Còn spread trong câu trên ý nói lãi suất sẽ được thả nổi và sẽ bằng mức lãi suất liên ngân hàng (bản dịch tiếng Việt) cộng thêm một mức nào đó do ngân hàng ấn định sáu tháng một lần. Từ “benchmark rate” dùng trong câu này là lãi suất tham chiếu (còn gọi là reference rate), lãi suất liên ngân hàng thường được gọi là inter bank rate. Trước đó, bản thông báo cho biết: “The inaugural issue was a VND400bn (US$22m) floating rate issue with a tenor of two years and one day”. Để cho văn vẻ, người viết sử dụng khá nhiều từ để chỉ lần phát hành đầu tiên (inaugural issue, maiden issue, debut.). Kỳ hạn của chứng chỉ tiền gửi hay trái phiếu thường được gọi là term, hay tenor. Còn kỳ hạn hai năm cộng một ngày là vì lý do cho dễ tính (tròn hai năm). Câu khó tiêu hóa nhất trong thông báo này là: “The CD can be sold back to XXX Hanoi branch on each coupon payment date after a certain holding period at the benchmark one year government bond rate plus a certain spread but the issue when bought back cannot be less than the coupon rate for the previous fixing period”. Xin đối chiếu với bản dịch của ngân hàng này mấy ngày sau: “Chứng chỉ tiền gửi này có thể chiết khấu tại XXX Hà Nội trong mỗi kỳ trả lãi sau một thời hạn nhất định, với lãi suất trái phiếu chính phủ kỳ hạn một năm cộng với một chênh lệch lãi suất nhất định, nhưng không quá lãi suất ấn định của kỳ lãi trước”.
Phần sau của bản dịch này có vấn đề vì tiếng Anh là “cannot be less than” tức là không thấp hơn trong khi tiếng Việt là “không quá” tức là phải thấp hơn. Không biết bản nào chính xác đây? Ở trên là nói chuyện tiếng Anh. Bây giờ xin nói sơ qua nội dung. Bản dịch dùng cụm từ lãi suất liên ngân hàng (tiếng Anh: benchmark rate) có thể gây hiểu nhầm. Vì lãi suất liên ngân hàng là loại lãi suất các ngân hàng áp dụng cho nhau như khi cho vay qua đêm để bảo đảm tỷ lệ dự trữ hay trạng thái ngoại hối. Còn ở đây, thực chất người ta muốn nói đến lãi suất huy động tiền gửi bình quân của bốn ngân hàng thương mại quốc doanh; mức cộng thêm là 10 điểm (0,1%). Và sau khi kiểm chứng lại thì ở phần chiết khấu, đúng là sau khi giữ chứng chỉ tiền gửi một năm, người mua có thể bán lại cho ngân hàng này, khi đó lãi suất bằng lãi suất trái phiếu chính phủ loại một năm cộng 1 điểm phần trăm. Mức này không thấp hơn mức lãi suất đã được ấn định cho kỳ sáu tháng trước đó. Nhân đây xin giới thiệu thêm một số từ liên quan đến “certificate of deposit”. Ở Mỹ có loại “jumbo CD” tức là các chứng chỉ trị giá lớn, mức tối thiểu cũng phải chừng 100.000 đô la. Callable CD là loại chứng chỉ mà ngân hàng phát hành có thể mua lại, nhằm phòng hờ trường hợp lãi suất trên thị trường thay đổi mạnh. (TBKTSG, ngày 13 9 2007) Chuyện hãng Apple quyết định giảm giá bán điện thoại iPhone đến 33% sau chưa đầy hai tháng đã trở thành một bài học về quản trị kinh doanh, được bàn tán sôi nổi trong các trường đào tạo MBA.
Trong quản trị kinh doanh, định giá sản phẩm một cách linh hoạt, dựa vào nhiều yếu tố gọi là dynamic pricing. Tờ New York Times nhận xét: “There were wrinkles created by all the dynamic pricing”. Wrinkle ở đây không phải là nếp nhăn mà là tác động xấu. Đầu tiên: “Customers who paid $599 when the iPhone came out two months ago saw their status drop from early adopter to, well, sucker”. Đối với các sản phẩm công nghệ, có mấy loại khách hàng: Innovators (2,5% toàn là dân trong nghề, chuyên thử sản phẩm), Early Adopters (13,5% những người ham thích đồ chơi kỹ thuật), Early Majority (34% đa số khách hàng biết thích ứng theo xu hướng), Late Majority (34% đa số khách hàng loại kỹ tính) và Laggards (16% những người chậm chân). Vì dưới hạng Early Adopters không phải là “sucker” (kẻ bị lợi dụng, bị lừa) nên bài báo phải ngưng giữa câu và thêm từ “well” (theo nghĩa, biết nói sao nhỉ). Thứ đến, “You could speculate that Apple slashed the price on the iPhone to gain additional leverage in peddling songs and episodes of “Heroes”. Bài báo lập luận, giảm giá iPhone tức là Apple hy vọng có thêm lợi thế để bán nhạc hay phim qua iTunes nhưng sản phẩm chính của Apple là máy móc chứ không phải là nội dung. Bài báo cho biết: “ITunes, for all its ubiquity, is not a big profit center”. Ubiquity là sự có mặt khắp nơi (vì iTunes bán nhạc qua mạng); và cụm từ for all its. mang nghĩa “cho dù. đi nữa”. Cũng trong kinh doanh, người ta thường phân biệt profit center với cost center: từ trước là bộ phận làm ra tiền, từ sau là nơi chỉ chuyên tiêu tiền.
Thực tế là khách hàng lỡ mua iPhone với giá đắt đùng đùng nổi giận (“I guess I paid an extra $200 for the privilege of waiting in line for a few hours”), giá cổ phiếu Apple giảm mạnh (Its shares closed at $136.76, down $7.40, on news of the price cut). Steve Jobs, ông chủ Apple đã nhanh chóng chữa sai bằng cách tặng phiếu mua hàng trị giá 100 đô la cho khách hàng cũ. Ngược lại với những lời chê bai chiến lược kinh doanh của Apple, nhiều nhà quản trị nhận xét: “Fundamentally, the iPhone price cut was a shrewd business move”. Shrewd ở đây là khôn khéo, tinh ranh. “Retail analysts have found that prior to the dramatic drop in price roughly 9,000 iPhone units were sold per day, whereas now the cut has hit stores it is estimated that Apple now sells 27,000 units per day”. Tăng số lượng hàng bán ra gấp ba lần là phần thưởng đáng giá cho quyết định giảm giá liều lĩnh và sau đó một tuần Apple tuyên bố đã bán được 1 triệu chiếc iPhone, “almost three weeks ahead of schedule”. Điều này đúng với nhận định của nhiều nhà phân tích thị trường trước đó: “I surmise Apple had intended an iPhone price cut before Christmas, but saw slowing sales numbers and decided that taking action sooner would spur more holiday sales”. Từ surmise là phỏng đoán còn spur là thúc đẩy. Một người khác nhận xét: “I don’t think Apple is sacrificing as much on its profit margins as Wall Street at first feared”. Như chúng ta đã biết trước đó, một chiếc iPhone có giá thành chỉ khoảng 250 đô la; bán với giá 399 đô la thì profit margin vẫn còn rất lớn. Còn nữa: “Jobs hinted last week that economies of scale and falling component prices had helped bring down the cost of manufacturing the iPhone”. Economies of scale là từ rất thường gặp trong quản trị: đại khái là sản xuất số lượng càng nhiều thì giá thành mỗi đơn vị sản xuất càng giảm.
Từ economies of scope có nghĩa tương tự nhưng để chỉ việc can thiệp vào bên cầu chứ không phải bên cung. Đôi lúc người ta chỉ dùng scale là đủ: If Apple sold more than it hoped, then it would achieve scale faster and would be able to drop prices sooner. Thực ra, nếu đặt việc giảm giá iPhone vào bối cảnh giới thiệu các dòng máy nghe nhạc iPod mới như iPod Touch, chúng ta sẽ thấy Steve Jobs làm đúng bài bản quản trị kinh doanh. “At $399 for a 16GB iPod Touch, sales of the 8GB iPhone would have been cannibalized if the iPhone had remained $200 more expensive”. Cannibalize bình thường là tháo để lấy phụ tùng, là làm thịt một cái máy nào đó nhưng ở đây là bị bóp chết. iPod Touch giống y iPhone trừ mỗi một chuyện là không có chức năng điện thoại. Nói gì thì nói, các nhà quản trị của các hãng điện thoại lớn khác đang vò đầu bứt tai vì các tay lãnh đạo Apple: “They are doing their best to suck out all the oxygen in the room from the other guys before the holidays”. Dân mua bán kỳ vọng vào mùa mua sắm cuối năm, nay bị Apple hút hết khách thì lấy gì để sống? Có lẽ chính vì vậy nghề quản trị kinh doanh là nghề mà trường lớp chỉ dạy được cách bắt chước chứ không dạy cách sáng tạo. Và cũng vì thế, chính tờ New York Times kết luận: “So any MBA would add all this up and say that the rational strategy would be to lower the price as quickly as component economics allows in order to maximize market share”. (TBKTSG, ngày 20 9 2007) Mỗi lần cuốn từ điển Oxford ra ấn bản mới là mỗi lần giới ngôn ngữ học bàn tán xôn xao. Ấn bản Oxford kỳ này gây chú ý vì, ngoài một số từ mới thêm vào, cuốn từ điển này đã làm một “cuộc cách mạng” khi bỏ hẳn dấu gạch nối trong khoảng 16.000 từ tiếng Anh. Ví dụ, “ice cream” bây giờ viết thành hai từ “ice cream”; “leap frog” thành một từ “leapfrog”. Lý do cuốn từ điển này đưa ra: “This particular punctuation mark has fallen victim to the increasing popularity of the text message and the email”. Như vậy nhóm biên soạn đã thừa nhận cuộc sống làm biến đổi ngôn ngữ như thế nào thì họ phải ghi nhận như thế ấy chứ không có chuyện định ra quy chuẩn để buộc mọi người làm theo.
Một phóng viên đưa tin đã viết rất dí dỏm: “So, good bye, good bye, goodbye, hyphen”. Không biết cách nào là phổ thông nhất nên anh chàng này dùng luôn ba cách để chào từ biệt dấu gạch nối quen thuộc ngày trước. Dĩ nhiên, những người “chiến đấu” cho sự trong sáng của tiếng Anh đã lên tiếng phản đối và Angus Stevenson, chủ biên cuốn Shorter Oxford English Dictionary (gọi là Shorter chứ cuốn này gồm hai tập dày 3.800 trang), ấn bản thứ sáu mới phát hành tuần trước khẳng định dấu gạch nối vẫn còn rất cần thiết trong nhiều trường hợp. Ông ta đưa ví dụ: “Twenty odd people came to the party. Or was it twenty odd people?”. Twenty odd people là khoảng chừng 20 người; còn twenty odd people là 20 người quái dị! Một số từ có gạch nối biến thành hai từ: hobby horse (con ngựa gỗ), pin money (tiền tiêu vặt), test tube (ống nghiệm); một số từ bỏ gạch nối nhưng viết thành một từ: crybaby (người hay than phiền), pigeonhole (ngăn kéo, chuồng chim bồ câu), touchline (đường biên sân bóng). Sự thay đổi này đòi hỏi một nghiên cứu công phu của Oxford. “Researchers examined a corpus of more than 2 billion words, consisting of full sentences that appeared in newspapers, books, Web sites and blogs from 2000 onwards”. Trong nghề làm từ điển có từ corpus là tập hợp những câu văn dùng trong cuộc sống để dựa vào đó các nhà biên soạn từ điển nhặt ra từ mới hay quy tắc ngữ pháp mới. Thật ra, chúng ta đang nói về tiếng Anh của người Anh, từ điển tiếng Mỹ đã viết như thế từ lâu rồi. Nhận xét về việc bỏ gạch nối kiểu này trong văn phong của nhiều người, BBC viết: “The blame, as is so often the case, has been put at least in part on electronic communication. In our time poor lifestyles, dominated by the dashed off [or should that be dashed off or dashedoff] e mail, we no longer have time to reach over to the hyphen key”. Time poor vẫn được tác giả viết có gạch nối là thiếu thời gian; dashed off (được tác giả viết theo cả ba kiểu) có nghĩa viết vội, viết vàng. Và tác giả dẫn chứng: “One battleground is the word e mail itself. The likes of the BBC and the New York Times are fighting a valiant defence of the hyphen. But to much of the rest of the world, it’s email”. Có lẽ người Việt chúng ta đều viết email không có dấu gạch nối.
Một điểm mới khác của ấn bản Oxford lần này là việc chính thức đưa vào nhiều từ mới. Những từ này đã được sử dụng trong cuộc sống thực tế lâu rồi chứ không phải do những nhà làm từ điển tự tiện thêm vào. Ví dụ: webinar (hội thảo qua mạng), addy (địa chỉ email), manbag (ví xách của đàn ông), hay pur leeze (cố ý nói trại chữ please để mỉa mai hay nhấn mạnh). Các nhà biên soạn giải thích từ cuối: “The respelling of ‘please’ to indicate an emphatic or sarcastic pronunciation has become sufficiently well established to warrant inclusion”. To warrant inclusion là đáng để đưa vào. Có những từ mới nghe rất lạ như “Chelsea tractor” (xe SUV uống xăng, đắt tiền), “green audit” (kiểm tra xem một xí nghiệp có tuân thủ chuyện bảo vệ môi trường không), “carbon neutral” (đạt mức phát khí thải CO2 bằng không). Giải thích việc đưa vào nhiều từ liên quan đến môi trường, ông Stevenson nói: “It’s trendy to be green, and that has made the vocabulary of green issues much more widespread”. So với ấn bản năm 2002, lần này có thêm 2.500 từ mới được đưa vào, trong đó có từ phở của Việt Nam. Quy luật bổ sung từ mới cũng có thay đổi: “The influx of new phrases has followed the scrapping of a rule that a word must appear five times in five published sources over five years”. Đây là bỏ luật cũ chứ không phải giữ nguyên luật này như có báo đưa tin sai. Phần lớn các từ mới thuộc hai nhóm chính: các từ kỹ thuật mới nảy sinh và các từ kiểu tiếng lóng ngày càng có nhiều người sử dụng hơn. Nhóm sau có những cụm từ nên biết như “take a chill pill” (calm down, relax), WAGs (tức là wives and girlfriends cái này báo chí Anh thích dùng để chỉ bầu đoàn thê tử của các tuyển thủ bóng đá) hay nanny state (chỉ sự can thiệp của chính phủ vào các vấn đề xã hội, chính khách theo phong cách này được gọi là nannycrat). Có những từ gồm các từ quen thuộc nhưng được dùng theo nghĩa mới, như biosecurity “protection of the human population against harmful biological agents” xuất phát từ việc chống khủng bố sinh học và ngừa các chứng bệnh mới bùng phát.
(TBKTSG, ngày 27 9 2007) Một cuốn sách về kinh tế học lại đang thu hút sự quan tâm của nhiều độc giả bình thường. Tựa sách cũng phần nào giải thích chuyện này: “Discover Your Inner Economist: Use Incentives to Fall in Love, Survive Your Next Meeting, and Motivate Your Dentist”. Tức là hiểu và sử dụng các lý thuyết kinh tế trong cuộc sống thường ngày để sống cho hạnh phúc hơn, thoải mái hơn. Các cụm từ “next meeting”, “your dentist” được sử dụng theo kiểu metaphor để chỉ những điều khó chịu phải vượt qua. Tác giả, Tyler Cowen, là giáo sư kinh tế tại trường Đại học George Mason University nhưng lại dùng một giọng văn dí dỏm để nói về kinh tế học và nghệ thuật sống. Tờ Economist điểm: “The dust jacket of his book promises tips on love, work and dentistry, and that's only the start”. Sách in bìa cứng thường có thêm một bìa bọc ngoài, gọi là dust jacket hay dust cover, có in những lời quảng cáo nội dung sách ở đây toàn là những chuyện thiết thân hằng ngày. Tâm điểm của các lời khuyên này không phải dựa vào các quy luật kinh tế như lãi suất, hay cung cầu mà là “logic of choice”. Ví dụ: “A teenage child might balk at washing dishes at home to qualify for pocket money but would willingly do the same thing in the café down the road, where a job and a wage signalled independence”. To balk at là không chịu (rửa chén bát), down the road là dưới phố. Tâm lý này do con người không thích bị thao túng hay sai khiến. Vì lối viết này nên tờ Economist nhận xét: “If you didn’t know that Mr Cowen was an economist, you might take him for a psychologist”. To take for ở đây là tưởng nhầm.
Loại sách “phổ thông hóa” kinh tế học như thế này cũng đã có nhiều người viết, từ cuốn “Armchair Economist” của Steven Landsburg năm 1993 đến cuốn sách bán rất chạy năm 2005 của Steven Levitt và Stephen Dubner, cuốn “Freakonomics”. Freak là kẻ lập dị; freakonomics là cách chơi chữ để nói về loại kinh tế học không giống ai. Các cuốn này thường dừng ở mức dùng các quy luật kinh tế để giải thích các hiện tượng trong cuộc sống trong khi cuốn “Discover Your Inner Economist” thì khác: “It stands apart from its predecessors by making its revelations not so much about the way the world works as about the way we ourselves work (and play) and how we can take practical steps to do both better”. To stand apart là nổi bật, khác biệt với; còn cấu trúc not so much [about]. as [about] cũng rất đáng chú ý: không hẳn về cách vận hành của thế giới quanh ta mà về cách chúng ta làm việc (và giải trí). Đi vào cụ thể, các bạn có biết cách tác giả khuyên chúng ta tổ chức các cuộc họp tốt hơn là sao không? “Put in place a system (he suggests body sensors) that enables participants to signal their boredom anonymously. When everyone is known to be bored, the meeting halts”. Nếu áp dụng cách này có lẽ không bao giờ tổ chức được cuộc họp nào cho đến hết giờ! Còn với việc ăn ở đâu là ngon nhất, Cowen khuyên nên tìm các “contrary indicators”; cụ thể: “Iron bars on the windows and barbed wire on the fences, however bad for the residents or your own safety, are both good signs for the food”. Ấy là vì tác giả lập luận nơi nào có bất bình đẳng nhiều về thu nhập, nơi đó sẽ có lao động rẻ, cạnh tranh để nấu thức ăn ngon hơn cũng như sẽ có nhiều khách hàng nhà giàu đòi ăn sơn hào mỹ vị.
Ở bình diện nghiêm túc hơn, Cowen viết: “The critical economic problem is scarcity. Money is scarce, but in most things the scarcity of time, attention, and caring is more important”. Có lẽ chúng ta đều biết định nghĩa về kinh tế học của Lionel Robbins: “The science which studies human behaviour as a relationship between ends and scarce means which have alternative uses” tức một bên là nhu cầu không giới hạn của xã hội và một bên là sự hạn chế của các nguồn cung có nhiều cách sử dụng khác nhau. Nhưng ở đây Cowen nhắc đến sự thiếu hụt thời gian, sự quan tâm và chăm sóc chứ không phải là thiếu tiền bạc hay tài nguyên. Ví dụ, nếu bà vợ cứ đòi mua bảo hiểm cho một món đồ gì đó, ông này bày: “Sound economics is on your side, but the cost to marital harmony is likely to exceed the cost of the warranty; so in other words, don’t fight over peanuts”. Peanut ở đây là chuyện vặt vãnh, những khoản tiền không đáng kể. Tuy nhiên, người đọc bị thu hút bởi tựa sách ở phần “Motivate Your Dentist” ắt sẽ thất vọng như một bài điểm sách nhận xét: “It’s a pity, however, that Mr. Cowen doesn’t really arrive at any useful advice for keeping the dentist in line”. (TBKTSG, ngày 4 10 2007) Đối với nhiều người, nghĩa của từ audit bị dính cứng là kiểm toán. Cho nên gặp một câu như vầy họ có thể hơi lúng túng không biết nó nói gì: “You may audit courses during the fall and spring terms, but summer term courses are not available to auditors”. Audit ở đây dùng theo nghĩa học dự thính, học mà không lấy tín chỉ, không được cho điểm. Người học theo kiểu này gọi là auditor (không phải kiểm toán viên). Lý do, mục “Tiếng Anh theo dòng thời sự” tuần này bàn chỉ một chữ audit là vì thấy một câu dịch sai nặng: “An audit course is charged at the same rate as a credit course” được dịch thành “Khóa học kiểm toán được tính bằng giá với khóa học tín dụng”.
Nếu biết nghĩa ở trên của từ audit, chúng ta hiểu ngay ở đây người ta muốn nói đến hai cách học: học dự thính và học lấy tín chỉ. Đến câu này, audit lại có nghĩa khác: “Like the Sun Times, both the Daily Southtown and Star remain under censure from the Audit Bureau of Circulations because of earlier misstatements of circulation figures”. Có lẽ xin nói hơi dài dòng một chút về chuyện bếp núc nghề báo trước khi tìm hiểu nghĩa của câu này. Ở các nước, các tờ báo không thể tự dưng khai khống số lượng phát hành để “hù” các nhà quảng cáo được. Ngày trước, đúng là “A practice of inflating circulation figures to win advertising dollars was common” (inflating ở đây là thổi phồng). Không có phương tiện kiểm tra nên các nhà quảng cáo nghe thông báo số lượng phát hành bao nhiêu thì biết vậy và cứ tự an ủi đồng tiền quảng cáo của mình tiêu rất xứng đáng vì có đến từng ấy độc giả xem quảng cáo. Nhưng vì ai cũng tranh nhau “hét” con số phát hành ngày càng cao nên không còn ai tin ai được nữa. “Determined to end deceptive industry practices, advertisers, advertising agencies and responsible publishers banded together to establish an industry organization to independently verify circulation”. Tổ chức như vậy chính là Audit Bureau of Circulations (ABC) nói ở câu trên. Như vậy audit ở đây là kiểm tra, xác minh, chứng thực. Nhiều tờ báo in trang trọng số lượng phát hành kèm với từ audited ở ngay bên cạnh măng sét. Nhờ có ABC thỉnh thoảng các báo có tin mà đưa: “Newspaper Circulation in Steep Slide Across Nation” (New York Times ngày 1 5 2007). Có số liệu đã audit rồi, vẫn có nhiều báo “khoe” sai. Phổ biến nhất là dùng từ readership (số lượng người đọc khác với circulation là số lượng phát hành). Ví dụ một tờ báo in chỉ 100.000 bản mỗi ngày nhưng chủ báo cứ nghĩ ít ra mỗi tờ báo của mình có năm người đọc. Vậy là ông này sẽ khoe: “Readership of the XXX reached an all time high for a second consecutive year, growing 8 percent over the past year to well over half a million readers”. Một tờ báo khác “chọc quê”: “While calculating readership is an inexact science, most papers multiply their circulation by two or three and call it a readership”. Tờ này lại nhân cho 5,14 lần. “Unless they’ve got a distribution strategy built around dropping copies at orphanages or something, that number’s more than a little hard to swallow”. Câu này rất độc vì ví von chỉ có phát báo cho các cô nhi viện mới có số lượng người đọc trên mỗi tờ cao như vậy. Có khá nhiều cách diễn giải số liệu audit gây hiểu nhầm gọi chung là misstatements of circulation figures. Phát hiện ra thì Audit Bureau of Circulations sẽ cảnh cáo. Và đấy chính là ý chính của câu nãy giờ chúng ta tìm hiểu.
Audit cũng thường được dùng với nghĩa kiểm tra, thanh tra toàn diện một tổ chức, xem xét một quy trình hay đánh giá một con người nào đó để xem thử thông tin được đưa ra có chính xác không tức là kiểm định. Ví dụ cuối tuần trước có tin: “South Africa plans a maintenance audit at its mines after 3,200 trapped miners had to be rescued from a gold shaft, the Minister of Minerals and Energy Buyelwa Sonjica said on Friday”. Như vậy audit ở đây không mang nghĩa kiểm toán mà là kiểm tra quy trình khai thác, bảo quản các hầm mỏ. Computer security audit, chẳng hạn, là quy trình xác minh xem an ninh máy tính có được tuân thủ không; hoặc trong các quy trình chứng nhận ISO, HACCP, người ta thường phải tiến hành conformity assessment audit, tức là kiểm định việc đánh giá sự phù hợp [các chuẩn mực]. Có một loạt từ thường dùng như audit client (cơ quan muốn được kiểm định); audit findings (kết quả kiểm định); auditor (kiểm định viên), quality audit (kiểm định chất lượng). Trở lại nghĩa “kiểm toán” của từ audit mà chúng ta thường dùng, xin giới thiệu một số câu có thêm những từ chúng ta đã quen với nghĩa hay gặp nên không chịu nghĩ đến nghĩa khác. Ví dụ: “An auditor found a problem with the bank reconciliation”. Trong câu này reconciliation thường được hiểu theo nghĩa “hòa giải” lại được dùng theo nghĩa “đối chiếu” [số dư ngân hàng]. Hoặc câu này: “Audits are procedures performed on the financial statements of a company to see if they include any material misstatements” có từ material thường được hiểu là vật chất, vật liệu, tài liệu nhưng ở đây là tính từ mang nghĩa quan trọng, nghiêm trọng.
(TBKTSG, ngày 11 10 2007) Tuần rồi, có một số báo khai thác yếu tố trái ngược để thu hút sự chú ý. Tờ Washington Post chạy tít: A Tale of War (Bush) and Peace (Gore). Đấy là vì Al Gore mới nhận được giải Nobel Hòa bình năm nay, còn tên tuổi của George Bush bị gắn với cuộc chiến tranh Iraq. Sau khi nhắc lại kỳ bầu cử tổng thống Mỹ năm 2000 khi Bush và Gore tranh nhau từng lá phiếu, tờ báo viết: “The winner of that struggle went on to capture the White House and to become a wartime leader now heading toward the final year of a struggling presidency”. Chú ý từ struggling mặc dù xuất phát từ động từ struggle (đấu tranh, vật lộn, cố gắng) nhưng lại có nghĩa chật vật, không suôn sẻ. Còn Gore thì sao: “The loser went on to reinvent himself from cautious politician to hero of the activist left now honored as a man of peace”. Gặp các câu dùng nhiều danh từ liền nhau như vậy, cần tách chúng ra thành cụm để dễ hiểu: “from cautious politician” và “to hero of the activist left” (left ở đây là cánh tả). Không phải chỉ có văn cổ mới có điển cố! Ví dụ, câu sau, điển cố nằm ở từ Florida: “For the Gore camp, it was a day of resurrection, a day to salve the wounds of history and to write another narrative that they hope will be as enduring as Florida”. Cuộc tranh cử tổng thống Mỹ năm 2000 cuối cùng được quyết định ở bang Florida, nơi Bush chỉ hơn Gore 500 phiếu (trong tổng số 5,8 triệu phiếu!). Gore yêu cầu kiểm phiếu lại bằng tay và sau nhiều diễn biến đầy kịch tính, Tòa án Tối cao Hoa Kỳ quyết định ngưng kiểm phiếu lại và giao cho Florida xác nhận số phiếu bầu của từng ứng cử viên. Thống đốc bang Florida lúc đó là em trai Bush! Đấy là một “enduring narrative” mà bây giờ nhiều người ủng hộ Gore hy vọng sẽ được lập lại với sự nghiệp mới của Gore. Chú ý một từ cũng hay “salve the wounds of history” “xoa dầu”, xoa dịu vết thương lịch sử. Vì thế, ở một câu khác: “Who knew Al Gore would one day thank the Supreme Court for their judgment?” là muốn nhắc lại phán quyết nói trên.
Phóng viên tờ báo này cũng rất tinh mắt, tìm ra thêm một điểm trái ngược ngay hôm viết tin: “Just half an hour after Gore appeared before cameras to acknowledge the Nobel and to promote the cause of fighting climate change, Bush took the stage here for a speech on free trade the yin and yang of the global warming argument, protecting the environment or protecting the economy”. Như vậy, một bên chủ trương ngăn chặn biến đổi khí hậu để bảo vệ môi trường bên kia ưu tiên cho tự do hóa thương mại để bảo vệ nền kinh tế. Dù sao với giải Nobel Hòa bình, Al Gore sẽ buộc nhiều người Mỹ tự hỏi: “It’s hard to look at the disaster of the past seven years and not believe that America would be better off if he had been president”. To be better off là “in a better or more prosperous condition”. Câu này mà đưa cho một số thầy cô dạy tiếng Anh, chắc sẽ bị sửa lại thành “would have been better.” để hợp với “had been president”! Thật ra viết would be better đúng hơn vì vẫn đang nói chuyện hiện tại. Một chuyện trái ngược khác được nhấn mạnh là hố cách biệt giàu nghèo cũng ở Mỹ. “New data from the Internal Revenue Service shows that in 2005, the richest 1% of tax filers earned 21.2% of all income”. Có lẽ ai từng làm việc ở Mỹ đều biết Internal Revenue Service, nổi danh hơn dưới dạng viết tắt IRS (Sở Thuế vụ Liên bang). Số liệu của cơ quan này cho thấy 1% người giàu nhất nước Mỹ chiếm đến 21,2% toàn bộ thu nhập. Ngược lại, “The bottom 50% earned 12.8% of all income”. Đáng chú ý, khi viết “Inequality’s Roots: Wall Street, Not Board Rooms”, người ta muốn chứng minh đa số người giàu không phải là doanh nhân (board room là phòng họp hội đồng quản trị mang nghĩa bóng là giới doanh nhân) mà là những nhà đầu tư hay kinh doanh chứng khoán (Wall Street dùng theo nghĩa bóng). Có người nhận xét: “It’s hard to escape the notion that the rising share of income going to the very richest is, in part, a Wall Street, financial industry based story”. To escape the notion ở đây chỉ là [thật khó lòng] xua đi cái cảm nhận.
Nhân đây xin giới thiệu một khái niệm thường được nhắc đến khi nói đến thu nhập: Easterlin Paradox (Nghịch lý Easterlin) do nhà kinh tế học Richard Easterlin đưa ra rằng hạnh phúc không tăng theo mức tăng thu nhập sau khi con người đã thỏa mãn những nhu cầu cơ bản. Nghịch lý này thường được tóm tắt: “It has been found that once wealth reaches a subsistence level, its effectiveness as a generator of wellbeing is greatly diminished”. Hiện nay nghiên cứu kinh tế học và hạnh phúc con người là một môn thời thượng (happiness economics), và cũng từ đó mới xuất hiện những chỉ số mới như Happy Planet Index (Chỉ số Hành tinh hạnh phúc) trong đó Việt Nam được xếp thứ 12 (so sánh với Singapore thứ 131), hay Gross National Happiness (bắt chước GNP hay GDP) để đo lường chất lượng cuộc sống dựa trên nhiều yếu tố tâm lý hơn là dựa vào thu nhập đầu người. (TBKTSG, ngày 18 10 2007) Các tờ báo kinh tế chuyên ngành thường khó đọc vì chúng sử dụng khá nhiều khái niệm kinh tế với giả định ai nấy đều hiểu. Chính vì vậy bài “Fed Policy and Moral Hazard” của tờ Wall Street Journal là một ngoại lệ lý thú vì ngay đầu bài, tác giả đã cất công giải thích cụm từ moral hazard dùng ở tựa báo. “Moral hazard occurs when investors or property owners are protected from the downside risks of bad investment decisions, thus encouraging them to take still more unwise risks in the future”. Downside trái nghĩa với beneficial. Từ moral hazard phổ biến nhất là trong ngành bảo hiểm. Ví dụ một người đã mua bảo hiểm xe hơi rồi thì cứ ỷ y không chịu trông coi xe cho cẩn thận vì nếu lỡ bị đánh cắp thì đã có bảo hiểm đền bù. Tình huống đó gọi là “ỷ thế làm liều” tức là một dạng moral hazard (rủi ro đạo đức). Trong ngành ngân hàng, nếu các chủ nhà băng cứ yên chí lớn có nhà nước đứng đằng sau vì nhà nước không thể để ngân hàng sụp tiệm, có thể họ sẽ cho vay liều lĩnh hơn, đầu tư thiếu cân nhắc hơn đấy cũng là những biểu hiện của moral hazard.
Lý do có chuyện moral hazard ở đây là vì: “Accusations of moral hazard have been tossed around quite a bit since the Federal Reserve lowered the federal funds rate by half a percentage point a month ago today”. Chú ý cách nói “tính đến hôm nay đã là một tháng a month ago today”. Để diễn tả mức giảm từ 5,25% xuống còn 4,75%, người ta dùng “half a percentage point”, nếu dịch 0,5% là không chính xác (vì từ 5,25% giảm 0,5% sẽ còn 5,22%). Nên dịch là 0,5 điểm phần trăm hay 50 điểm (A basis point is 0.01 percentage point). Fed funds rate là lãi suất các ngân hàng cho vay với nhau qua đêm để bảo đảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc. Thế nhưng đến ngang đây, tác giả bài báo cũng chưa chịu đi ngay vào đề tài chính vì sao chính sách của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (FED) tạo ra sự “ỷ lại” mà bỏ công giải thích thêm một khái niệm nữa: “As entertaining as this discussion of the nexus between the Federal Reserve and moral hazard has been, the analysis is incomplete because it lacks one key element something called the Taylor Rule”. Nexus là mối quan hệ nhân quả. Nói một cách đơn giản, Quy luật Taylor xác định nên tăng lãi suất đến mức nào khi lạm phát đạt một ngưỡng nào đó hay ngược lại, nên giảm lãi suất đến đâu khi lạm phát giảm đến mức nào đó. Và “When these goals are in conflict the Rule provides guidance on how to adjust rates accordingly”. Đến đây, tác giả mới chịu nói thẳng: “If the FOMC decision has provided an insurance policy that protects investor portfolios against damage, and if investor behavior takes this insurance into account in advance, then the FOMC, I will argue, does create a moral hazard each and every time it makes a monetary policy decision”. FOMC là Federal Open Market Committee (Ủy ban Thị trường mở liên bang) chính là nơi quyết định tăng giảm lãi suất ở Mỹ. Còn nhớ lúc thị trường chứng khoán sụt giảm mạnh vì khủng hoảng tài chính do vấn nạn tín dụng xấu xảy ra, FED đã đổ vào thị trường hàng chục tỉ đô la để chống đỡ cho thị trường. Nếu nhà đầu tư tin chắc có FED đứng đằng sau lưng để cứu nguy, đấy chính là một dạng moral hazard. Như vậy sự ỷ y do chính sách của FED không phải là lần cắt giảm lãi suất vừa rồi tác giả nhấn mạnh: “This proposition is equally true whether the FOMC lowers rates, raises rates, or leaves them unchanged”.
Cũng tuần trước, nhân lúc bộ trưởng tài chính các nước G 7 họp tại Washington để bàn về cách đối phó tình hình khủng hoảng tài chính toàn cầu, đã có nhiều ý kiến đòi xem xét lại vai trò của Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF). Tờ Washington Post mở đầu bằng cách trích dẫn Shakespeare: “Neither a borrower nor a lender be” (Đừng đi vay mà cũng đừng cho mượn) để nhận xét lẽ ra IMF phải ở trong tình trạng tốt nhất. Vì hiện IMF có trong tay 252 tỉ đô la chưa dùng đến, dư nợ cho vay chỉ 11 tỉ đô la. Thế nhưng IMF đã tỏ ra lỗi thời trong thế giới tài chính ngày nay: “Born in an age of fixed exchange rates and limited international capital flows, the IMF must adapt to a new world of floating currencies and massive crossborder trade and investment”. Hơn nữa vì dư tiền trong quỹ nên IMF làm ra không đủ tiêu. “The fund is supposed to finance its $1 billion administrative budget only out of its earnings from lending”. Năm 2004 trở về trước, tiền lãi hằng năm của IMF lên đến 1,2 tỉ đô la nhưng nay khi các nước con nợ đã trả các khoản vay trước thời hạn, các khoản thu của IMF cạn kiệt dần. Các nhà kinh tế “chọc quê” bằng cách khuyên IMF nên áp dụng “liều thuốc” đã từng kê đơn cho các nước thâm hụt ngân sách như thế bằng hai từ: Cut costs, còn dùng từ IMF hay “khuyên dùng” trước đây là “thắt lưng buộc bụng”. (TBKTSG, ngày 25 10 2007) Thứ Bảy hằng tuần, tạp chí Financial Times có cột báo “The Undercover Economist” được rất nhiều người đọc. Tác giả, Tim Harford, đã kết hợp kiến thức kinh tế cơ bản và chuyện thời sự để viết những bài nhẹ nhàng, dí dỏm nhưng sâu sắc, giải thích các hiện tượng xã hội dưới con mắt nhà kinh tế. Loạt bài này cũng được đăng trên tạp chí trực tuyến Slate.
Trong bài “If Life Gives You Lemons.”, Harford lý giải vì sao khó lòng mua xe cũ ưng ý. Lemon ở đây là tiếng lóng chỉ xe có hỏng hóc ngầm, đặc biệt là xe đã qua sử dụng, không biết vì sao nhiều người cứ dịch nhầm là trái chanh. Nhà kinh tế học George Akerlof lập luận: “If somebody who has plenty of experience driving a particular car is keen to sell it to you, why should you be so keen to buy it?”. Người bán hăm hở bán, tức là xe có vấn đề; thế nên người mua không dại gì hăm hở mua. Tình trạng này gọi là information asymmetry (sự bất đối xứng trong thông tin) và nhờ nghiên cứu kỹ đề tài này mà Akerlof, Michael Spence, và Joseph Stiglitz đoạt giải Nobel Kinh tế năm 2001. Thế nhưng khi Akerlof viết tiểu luận “The Market for Lemons: Quality Uncertainty and the Market Mechanism” vào năm 1970, “his neat little paper was turned down by two top journals because they couldn’t see past the trivia of his example”. Trivia là chuyện vặt vãnh (vì ông lấy chuyện xe làm ví dụ chính). Tạp chí thứ ba cũng từ chối nhưng vì lý do khác: The paper couldn’t be true, because if it were true then economics would be turned on its head. To turn on its head là đảo lộn, tức ý nói, nếu lập luận của Akerlof là đúng thì thị trường mua bán xe cũ đã không tồn tại. Nếu cứ dựa vào lập luận ở trên, “There would be no price that a rational seller would offer that was low enough to make the sale”. Cụm từ to make the sale ở đây là giao dịch thành công. Ra giá càng thấp, người mua càng nghi ngờ xe có vấn đề, nên càng mặc cả để kéo giá xuống nữa. Ngược lại, “A person with a good car would hold onto it because he couldn't prove it was good and so wouldn't expect an attractive offer for it”.
Thật ra, lemons chỉ là vật đem ra làm ví dụ. “Akerlof did turn economics on its head—and eventually received the Nobel Prize for doing so—not by documenting the travails of used car buyers and sellers, but by showing how corrosive a little bit of inside information can be to all sorts of markets”. Travail ở đây là sự vất vả, nỗi khổ; còn corrosive nghĩa chính là ăn mòn, nghĩa ở câu này là hủy hoại, phá hủy dần dần. Đúng là vấn đề thông tin đặc quyền, thông tin riêng, thông tin nội gián đang gây khó khăn cho nhiều ngành kinh tế như thị trường bảo hiểm, thị trường chứng khoán. Nghiên cứu của Akerlof vì thế đâu bày cho người ta cách bán xe cũ mà đưa ra những mô hình để dựa vào đó, người ta có thể xây dựng những cơ chế xóa bỏ tình trạng bất đối xứng trong thông tin nhằm thúc đẩy thị trường. Ở khía cạnh tiếng Anh, hãy quan sát câu này: How many of your colleagues are lemons? Lemons trong câu này chỉ loại nhân viên lười biếng, hay làm hỏng việc. Ở câu khác, nó sẽ có nghĩa khác, tùy vào đối tượng được đưa ra làm ví dụ. Trong một bài khác, “nhà thám tử kinh tế” Tim Harford lại cố lý giải vì sao thị trường chứng khoán cứ trồi sụt bất thường. Đầu tiên, ông giới thiệu “Greater Fool Theory”: Dù biết cổ phiếu mình mua đang có giá quá cao nhưng vì giá đang lên nên người ta cứ mua và đợi. “When the time comes, you will find a Greater Fool to take it off your hands. Until, of course, the music stops, and the Greater Fool turns out to be you”. Thành ngữ “the music stops” ý nói khi mọi việc không còn hoàn hảo như mong muốn, kẻ khờ khạo hơn đấy chính là mình và phải “ôm” cổ phiếu không còn ai chịu mua với giá cao nữa.
Tuy nhiên, Harford thừa nhận: “Economics is the study of rational behavior and does not easily accommodate Greater Fools”. Động từ accommodate trong câu này có nghĩa chấp nhận, thừa nhận. Từ “rational behavior” chúng ta có “behavioral economics” kinh tế học hành vi. Trong thị trường chứng khoán, quan sát những người khác mua bán như thế nào để làm theo là một hành vi hoàn toàn hợp lý. Và khi nhiều người cùng mua, giá sẽ vọt lên; và nhiều người cùng bán, giá sẽ sụp đổ nhanh chóng. “Since rational investors will still look at what other investors are doing, the result will sometimes be price drops and spikes that seem whimsical”. Spike là đỉnh giá tăng và whimsical là bất bình thường. Những bài của Tim Harford dùng tiếng Anh đơn giản, lý thuyết kinh tế được làm cho mềm đi nên dễ đọc. Các bạn hãy thử đọc những bài có tựa rất lôi cuốn như “Beauty and the Geek: Maybe good looks do make you smarter” (chơi chữ Beauty and the Beast); “The $10,000 Light Bulb.Or, why it’s so hard to measure inflation”; “The Mystery of the Rude Waiter: Why my favorite restaurant employs such a churlish lout” (churlish lout là kẻ cáu kỉnh, thô lỗ). (TBKTSG, ngày 1 11 2007) Tuần này chúng ta thử quan sát tiếng Anh được sử dụng trong lời các bài hát bằng tiếng Anh. Đây là loại tiếng Anh đơn giản, dễ hiểu lại dễ nhớ. Tuy nhiên thường mỗi bài có đôi chỗ khó hiểu, không phải vì từ vựng mà vì cách diễn đạt lạ. Lấy ví dụ bài “Careless Whisper”, câu đầu trong điệp khúc “Time can never mend/the careless whispers of a good friend/to the heart and mind/ ignorance is kind”. Người ta thường nói không hay, không biết gì cả đôi lúc là điều hạnh phúc, điều hay câu diễn tả ý này thường là “Ignorance is bliss”. Nói ignorance is kind cũng tương tự như vậy. Ở đoạn “cao trào” có câu: “Tonight the music seems so loud/I wish that we could lose this crowd”. Trong phim hành động chúng ta thường nghe các nhân vật nói với nhau: “Làm sao để cắt đuôi gã này” “lose this crowd” ở đây cũng có nghĩa ước gì bỏ đám đông này mà đi nơi khác.
Trong bài “The Winner Takes It All”, chuyện đánh bài được đưa ra để ví von với chuyện tranh giành tình cảm. Vì thế mới có câu: “I’ve played all my cards/And that's what you've done too/Nothing more to say/No more ace to play”. Ace là con ách, được dùng theo nghĩa lá bài tốt nhất, nên khi không còn con ách nào trong tay là xem như thua rồi. “She aced the exam” có nghĩa em này thi được điểm A; “ace in the hole” là lợi thế còn giấu để dành; nhưng “within an ace of” chỉ là suýt nữa (He came within an ace of losing the election). Vì dùng hình ảnh cờ bạc may rủi nên bài hát có câu: “The gods may throw a dice/Their minds as cold as ice/And someone way down here/Loses someone dear”. Dice là những hột xúc xắc, số ít của từ này là die, động từ thường dùng kèm là throw a die hay cast a die. Vì thế thành ngữ “The die is cast” chính là số phận đã an bài. Một số bài dùng biện pháp nhấn mạnh nên cả bài nói đủ thứ chuyện chỉ để đưa đến một kết luận bất ngờ. Chẳng hạn, bài “I just call to say I love you”, phần đầu tác giả dùng rất nhiều dẫn chứng để nói rằng hôm nay không phải là ngày đặc biệt. Những dẫn chứng này có thể gây khó hiểu. “No April rain/no flowers bloom” là vì mưa tháng 4 được xem là dịp đặc biệt April showers bring May flowers. “No Libra sun/No Halloween” là bởi theo tử vi phương Tây, mặt trời vào cung Thiên Bình (Libra) từ 23 9 đến 23 10, một thời điểm mà “Many modern astrologers regard as the most desirable of zodiacal types because it represents the zenith of the year, the high point of the seasons”.
Cái hay của tác giả là liệt kê hết các ngày đặc biệt trong năm từ “No New Year’s Day to celebrate.” cho đến “No giving thanks to all the Christmas joy you bring” và nói rằng hôm nay không phải là các ngày đó. Chỉ đơn giản I just called to say I love you/And I mean it from the bottom of my heart. Có lẽ nhiều người đã từng nghe qua bài “Hotel California”, bị cuốn hút bởi đoạn intro dài bằng guitar mượt mà nhưng không hiểu lời bài hát nói gì. Đại khái tác giả lái xe lang thang trong đêm trên xa lộ hoang vắng, ghé lại một khách sạn kỳ bí, chứng kiến những hình ảnh lạ lùng, tác giả cố gắng thoát ra nhưng không được. Đã có đủ loại đồn đãi, lý giải chung quanh lời bài hát, từ chuyện cho rằng tác giả muốn miêu tả một giáo phái thờ cúng Satan, đến chuyện đây là hình ảnh ẩn dụ của một nhà thương điên. Tuy nhiên, ban nhạc Eagle, qua nhiều phỏng vấn, cho rằng họ muốn nói đến lối sống hưởng thụ, trụy lạc, sử dụng ma túy không lối thoát của miền Nam California thập niên 1970, đặc biệt là trong ngành công nghệ âm nhạc. “And she said we are all just prisoners here, of our own device” Device ngoài nghĩa bình thường là thiết bị, còn dùng trong các thành ngữ “to leave someone to his own device” để mặc ai tự xoay xở, tự ý muốn làm gì thì làm; “of our own device” ở đây là do lỗi của chính ta thôi, không ai bắt ta giam làm tù nhân cả. Cho nên mới có câu cuối cùng, là lời của người trực đêm: You can checkout any time you like/But you can never leave!
Trong bài này có những câu dùng ẩn dụ: “Her mind is Tiffany twisted, she got the Mercedes bends.”. Thông thường người ta chỉ cần nói “Her mind is twisted” (đầu óc của ả bị chạm mạch) là đủ nhưng ở đây dùng thêm Tiffany (tên một chuỗi cửa hàng nữ trang nổi tiếng). Ý của tác giả muốn nói đến sự đam mê vật chất, đầu óc quay cuồng vì những thứ như nữ trang Tiffany, xe Mercedes Benz. Wikipedia cho rằng: “The lyrics “her mind is Tiffany twisted, she’s got the Mercedes bends” (bends rather than the typically used “Benz”) both associate physical discomforts with expensive merchandise”. Có lẽ đến đây, khi nghe lại bản nhạc này chúng ta không còn thắc mắc vì sao có câu: “So I called up the captain/please bring me my wine/He said, we haven’t had that spirit here since nineteen sixty nine”. Spirit vừa có nghĩa là rượu vừa mang nghĩa tinh thần, ý nói đến tinh thần của thanh niên Mỹ thập niên 1960. (TBKTSG, ngày 8 11 2007) Nền kinh tế thế giới mấy tháng này cứ xoay quanh chuyện đồng đô la Mỹ sụt giá trong khi vàng và dầu thô ngày càng tăng giá. Tuy nhiên, dường như để trấn an mọi người, BusinessWeek tuần rồi mới có bài phân tích “The Upshot of the Dollar’s Fall” với câu dẫn: “The dollar’s descent to record lows has many market players fretting, but there are positives, too”. Upshot là kết quả, hệ quả; chú ý ở câu trên, low và positive được dùng như danh từ chứ không phải tính từ như thường thấy. Cấu trúc have someone sau đó là verb ING mang nghĩa làm cho ai phải. (trong câu này là phiền bực, lo lắng). Tuần trước, “The U.S. dollar fell to an all time low Nov. 7, pushed over the edge by some off the cuff comments from Chinese officials”. Người ta thường dùng từ all time để nhấn mạnh trước nay chưa từng có (ví dụ an all time speed record một kỷ lục tốc độ vô tiền khoáng hậu) còn off the cuff là bất ngờ, không chuẩn bị trước (có một số cụm từ off the thường dùng cũng nên biết như off the record không chính thức, không để đăng báo; off the shelf, off the rack, off the peg [quần áo] may sẵn; off the wall quái đản, quái dị).
Có câu này là do các quan chức Trung Quốc cho biết họ sẽ chuyển một phần dự trữ ngoại tệ (hiện đã lên đến 1.400 tỉ) từ đồng đô la Mỹ sang các ngoại tệ khác. Thế nhưng BusinessWeek bình luận về thông tin này: “It would be like the mayor of Milwaukee making comments on the war in Iraq”. Milwaukee là một thành phố ở bang Wisconsin, ý nói nếu Thị trưởng Milwaukee bình luận về chiến tranh Iraq thì cũng chẳng có tác động gì đến chính sách đối ngoại của Mỹ thì bình luận của các quan chức này cũng không phải là từ cấp cao nhất trong chính quyền Trung Quốc. Theo phân tích của các nhà kinh tế mà BusinessWeek phỏng vấn, đô la Mỹ đã ở mức quá thấp rồi, không thể nào xuống thấp nữa. “There is a lot of bad news that’s already priced into the market” chúng ta thấy tác giả dùng từ price theo nghĩa đã tính vào giá trị, tức là các tin tức xấu đã được phản ánh qua mức giá giảm bấy lâu rồi. Câu tiếp đó làm rõ ý này: “In other words, expectations in the bond market are already so low for the U.S. economy that they’re unlikely to fall all that much further”. Thế nhưng đồng đô la yếu đang tác động đến giá dầu thô, đang tăng gần đến ngưỡng 100 đô la/thùng. Chúng ta thử đọc phần mở đầu một bài phân tích tác động của ngưỡng này: “People facing alarming birthdays often say things like: “Forty is just a number.” You could say the same about “$100 oil”. But such benchmarks concentrate minds”. Khi người ta về già, sinh nhật là dịp bừng tỉnh về tuổi tác nên mới có cụm từ “alarming birthdays” thật khó dịch cho ngắn gọn mà hết ý. Câu cuối có từ concentrate thường dùng với nghĩa tập trung nhưng ở đây mang nghĩa làm cho ai nấy đều phải chú ý. Khủng hoảng giá dầu làm nảy sinh những từ mới như petrocracy (là cách đặt từ bắt chước cách hình thành các từ như democracy, aristocracy ở đây là chế độ dựa vào sức mạnh của dầu lửa). Giá dầu cao đang làm thay đổi cán cân lực lượng theo hướng: “Oil producers become richer and more powerful. The biggest oil consumers the US, China and the European Union become increasingly anxious”.
Đây cũng là ý kiến phân tích của nhiều người khác: “The prospect of triple digit oil prices has redrawn the economic and political map of the world, challenging some old notions of power”. Chúng ta thường nghe cụm từ double digit inflation (lạm phát hai chữ số, tức 10% trở lên) nay có thêm từ triple digit oil prices (giá dầu ba chữ số, từ 100 đô la trở lên). Và như thế hiện nay nền chính trị của thế giới xoay quanh mối tương quan mới này. “Countries that need oil are clawing at each other to lock up scarce supplies, and are willing to deal with any government, no matter how unsavory, to do it”. Chúng ta thấy, để câu văn có ấn tượng với người đọc, tác giả đã dùng những từ rất hình tượng như clawing (giương nanh, múa vuốt); unsavory (nhơ nhuốc). Cuối cùng là chuyện giá vàng. Chuyện vàng tăng giá liên tục không có gì mới, vấn đề là tương lai của nó như thế nào: Tờ Times của Anh tiên đoán: “Three factors will dominate up to Christmas. First, the speculators, many of whom leapt on the bandwagon in the past few months, are keen to see gold break through $850 an ounce”. Thành ngữ leap/get/jump on the bandwagon thường dùng trong chính trị, mang nghĩa nhảy vào ăn có, tham gia theo phong trào (bandwagon là xe chở ban nhạc trong đoàn diễu hành). “Second, banks and traders who are shorting the dollar and going long on gold are keen to take profit ahead of the year end”. Chúng ta đã tìm hiểu từ long và short trên thị trường tài chính và mua bán hàng hóa. Ở đây mọi người đang kỳ vọng giá đô la sẽ giảm và giá vàng sẽ tiếp tục tăng. “Third, pension funds are putting more money into commodities”. Vì thế, tác giả bài báo này khuyên: “Our advice? Buy an umbrella”, tức là phải tìm cách phòng vệ trước những ngày giông bão sắp tới.
(TBKTSG, ngày 15 11 2007) Tiếng Anh rất dễ học nếu mục đích học chỉ là để giao tiếp thông thường hay đọc hiểu những văn bản đơn giản. Nhưng để hiểu hết những tinh tế trong tiếng Anh, để sử dụng được tiếng Anh như người bản ngữ, người học phải vật lộn với muôn vàn khó khăn. Xin trích một câu nói lên sự phức tạp của tiếng Anh trên tờ Financial Times: There is, however, plenty that is difficult about English. Try explaining its phrasal verbs the difference, for example, between “I stood up to him” and “I stood him up”. Phrasal verbs đúng là món khó nuốt nhất trong tiếng Anh vì chúng thường gồm các từ quen thuộc nhưng khi đi kèm với nhau lại mang nghĩa mới, hoàn toàn không liên quan gì đến nghĩa gốc. Trong ví dụ trên, to stand up to someone là đương đầu, đối đầu với ai còn to stand someone up lại là cho ai leo cây. Đấy là tác giả chưa thử nêu thêm vài nghĩa của các phrasal verbs có động từ stand, như stand up for là bảo vệ, đứng về phe; stand up with là làm phụ dâu hay phụ rể; chưa kể stand không thôi cũng có nghĩa lạ như câu My offer stands (Đề nghị của tôi vẫn còn giá trị). Tuần này chúng ta thử đọc các bài báo kinh tế xem phrasal verbs và các cụm từ mang tính đặc ngữ khác có khả năng làm người đọc mất “cảnh giác”, dẫn đến chỗ hiểu sai, hiểu sót như thế nào. Trong bài “The Consumer Crunch” trên tờ BusinessWeek có câu: “In the dotcom bust of 2001, for example, tech companies and stocks took it on the chin, while consumer spending and borrowing sailed through without a pause”. To take it on the chin ở đây là chịu thiệt hại nặng nề, trực tiếp nhất; còn sail through là dễ dàng vượt qua. Một câu khác cũng trong bài này: The latest retail sales numbers, which showed a soft 0.2% gain in October, suggest that spending may hold up through this holiday season. Hold up ở đây là duy trì [mức cũ]. Cái khó là nếu hold up dùng trong câu khác ở một văn cảnh khác, lại phải hiểu theo văn cảnh mới (trong khi nghĩa gốc vẫn giữ nguyên): He managed to hold up under the daily stress vẫn bình chân, vẫn duy trì phong độ. Cái khó hơn nữa là bản thân hold up lại có nhiều nghĩa khác: The plane’s departure was held up because of the storm (bị trễ); Robbers held up that shop last month (cướp); The teacher held the essay up as a model for the students (đưa ra làm minh họa).
Sau khi dẫn chứng một vài số liệu, bài báo viết: Those numbers aren’t dead on accurate với nghĩa của dead on là [chính xác] tuyệt đối. Với câu này, dead on mang nghĩa ngắn gọn, súc tích, đi thẳng vào vấn đề: “She avoids big scenes. preferring to rely on small gestures and dead on dialogue”. Đến phần tiên đoán tác động của sự sụt giảm chi tiêu vào nền kinh tế nói chung, tác giả viết: Conventional wisdom is that consumer spending makes up 70% of gross domestic product. Có lẽ make up trong câu này đã quen thuộc với nhiều người (cấu thành, chiếm) nhưng cũng từ make up này trong câu He made up the difference in the bill các bạn có đoán được nó có nghĩa gì không? Anh chàng này chơi đẹp, đã trả bù cho khoản còn thiếu trên hóa đơn tính tiền. Một cuốn từ điển tốt sẽ liệt kê vài chục nghĩa của cụm động từ make up. Ở một bài khác, có tựa: Microsoft Sales Are Up, and Gates Is Off, rõ ràng phải hiểu các phrasal verbs, mới hiểu nghĩa của tựa bài, muốn đề cập hai ý chính doanh số của Microsoft đang tăng và Bill Gates không còn tham gia điều hành hãng này nữa. Tổng kết tình hình chứng khoán trong ngày, tờ New York Times trích lời một nhà phân tích: You can certainly come up with a list of the top 10 reasons why we should be down. Cụm từ be down (sụt giá) tương đối dễ; cụm từ come up with (nghĩ ra, phát hiện) cũng thường thấy. Nhưng come down on dễ bị hiểu sai: “A district attorney who came down hard on drug dealers” là một người quyết tâm truy quét, trừng phạt bọn buôn bán ma túy. Và chỉ cần thay chữ on bằng to hay with là nghĩa biến đổi khác hẳn. It comes down to this: the man is a cheat come down to ở đây là thực chất của vấn đề; và come down with là bị ngã bệnh.
Đôi lúc các dạng phrasal verb này chuyển thành danh từ ghép thì nghĩa của chúng cũng khác xa với các từ riêng lẻ tạo ra chúng. Cũng tờ New York Times trong một bài nói về tâm lý chọn bạn đời của nam giới, đã viết: “It isn’t exactly that smarts were a complete turnoff for men”. (Xin mở ngoặc nói thêm smarts trong câu này dùng như danh từ chỉ sự thông minh, đầu óc thông minh). Xuất phát từ phrasal verb “turn off”, mang nghĩa ghét, dị ứng (That song really turns me off), chúng ta có từ “turnoff” một điều, một vật, một người gây dị ứng, không ưa được. Có thể kể và giới thiệu mãi về các phrasal verbs xuất hiện thường xuyên trong tiếng Anh. Vấn đề là người học nên chú ý, gặp câu nào hơi khó hiểu, phải tra cứu nghĩa của cả cụm từ chứ đừng bị “lạc hướng” vì nghĩa đơn giản của từng từ. Đấy là cái khó của tiếng Anh. (TBKTSG, ngày 22 11 2007) Tờ Economist vừa có một bài bàn về chuyện từ ngữ “đặc trưng” của giới quản trị kinh doanh, mở đầu bằng từ “offshoring”: The term “offshoring”, for instance, gained ground at the start of the decade to describe the process of sending business processes overseas. Offshoring trong ngữ cảnh này chính là từ outsourcing mà chúng ta thường dùng. Thật ra outsourcing là một quy trình được nhiều doanh nghiệp và tổ chức áp dụng từ lâu. Một công ty sản xuất nhỏ không thể nào bảo nhân viên mình tự thiết kế, in ấn bao bì, bèn thuê một công ty dịch vụ bên ngoài làm thay cái đó chính là outsourcing. Trong mấy năm qua, outsourcing được dùng theo nghĩa chuyển một số công đoạn sản xuất hay dịch vụ ra nước ngoài, thuê công ty khác thực hiện vì vậy từ offshoring nói ở trên là chính xác hơn.
Tờ báo nhận xét: “Offshoring, an ugly parent, fathered even uglier children”. Đấy là vì người ta đẻ ra những từ kỳ dị hơn như “farshoring” (chuyển sang địa bàn xa), “nearshoring” (chuyển đến những nơi gần), “onshoring” (làm ngược lại, tức là chuyển về chính quốc thực hiện). Thậm chí, có thêm từ “rightshoring” (cơ cấu lại lực lượng lao động để quyết định tỷ lệ “chuyển đi” và “giữ lại” sao cho hợp lý nhất). Đây là một trong những bài mà tờ Economist thực hiện vào dịp tổng kết năm 2007 và dự báo năm 2008. Cho nên sau đó bài báo đưa ra một số dự báo về từ ngữ của giới quản trị kinh doanh cho những năm tới, theo kiểu nửa đùa nửa thật. Ví dụ, từ thời thượng trong mấy năm qua là “globalization” (toàn cầu hóa); rồi người ta thấy cần phải thích nghi với từng địa bàn, từng thị trường (localization) và xu hướng là kết hợp cả hai (glocalization), kiểu như câu “thiệu” HSBC thường dùng the world’s local bank. Vì thế bài báo mới phân tích: “Some of these ideas have geometric echoes: inspired by Thomas Friedman’s bestseller, executives pontificate about whether the world is flat or spiky”. Cụm từ geometric echoes ở đây chỉ là cách chơi chữ ý tưởng gắn với các hình kỷ hà học phẳng, tròn hay mấp mô đầy gai nhọn theo cách diễn đạt của Thomas Friedman trong cuốn “Thế giới phẳng”. Thế giới năm 2008 sẽ như thế nào? Theo tờ báo này, “Business leaders of 2008 will think it insightful to say that the world is round”! Một cụm từ viết tắt cũng được giới quản trị kinh doanh ưa dùng là BRIC. Đây là từ xuất hiện từ năm 2003 để chỉ bốn nền kinh tế (viết theo tiếng Anh) Brazil, Russia, India và China. Sau đó mới có các biến thể như BRICET (thêm châu Âu và Thổ Nhĩ Kỳ), BRICS (thêm Nam Phi). Năm rồi cũng có nhiều người áp dụng cách viết gọn này để đẻ ra từ Chindia (gộp hai nền kinh tế Trung Quốc và Ấn Độ) vì thế bài báo mới “tiên đoán”: “Watch for more elision in 2008: with luck, growing links between Spain and Latin America will go Splat”. Ở đây chúng ta biết thêm từ “elision” thường dùng trong ngôn ngữ học để chỉ lối nuốt bớt âm trong từ hay cụm từ khi phát âm. Ví dụ từ laboratory hay temperature thường được đọc gọn lại.
Một từ khác được bàn tán khá nhiều trong năm rồi là “long tail”, được bài báo giải thích ngắn gọn: “A theory on how the web can make lots of niche products more important than a few blockbusters (the short head)”. Ý nói nhờ Internet, người ta có thể “cá nhân hóa” sản phẩm để đáp ứng nhu cầu riêng biệt của nhiều thị trường nhỏ và nhờ thế bán được nhiều sản phẩm hơn là dồn sức cho một loại sản phẩm đồng nhất dù bán chạy nhưng tính gộp chưa chắc đã bằng. Nhân đó, bài báo dự báo một từ “ăn khách” trong năm 2008: “References to black swans, code for something that is wholly unexpected, are to be wholly expected throughout 2008”. Chúng ta chờ xem, không biết cụm từ “black swan” với nghĩa một sự kiện hoàn toàn bất ngờ có phổ biến trong năm tới không. Có lẽ trong năm rồi chúng ta đã bắt gặp từ Web 2.0 mà không hiểu nó là cái gì. Tờ Economist có thể định nghĩa chính xác nhất khi viết: “Web 2.0 is a dull piece of jargon to describe the internet becoming a platform for interaction and collaboration”. Internet một chiều, vào để xem là chính, là Web cổ điển. Web 2.0 là có sự tương tác như kiểu các blog, diễn đàn hay các mạng xã hội. Đây là một dạng jargon rất “tẻ”, rất “nhạt”, không biết sao lại lây lan sang nhiều lĩnh vực khác. Khi Internet và truyền hình hòa thành một, ta có Television 2.0; Với Lunch 2.0, các bạn có đoán nó là gì không? Đó là xu hướng cung cấp bữa ăn miễn phí tại nhiều công ty tin học như Google chẳng hạn. Dự báo của Economist? “People have been talking about Web 3.0 for a while now and the term will gather momentum in 2008”. Gather momentum là ngày càng được dùng nhiều.
Cuối cùng, lĩnh vực môi trường cũng sản sinh một từ mới. Chúng ta thường dùng từ “whitewash” để nói đến chuyện “thanh minh, biện minh để che giấu sai lầm”, nay có thêm từ “greenwash” chỉ chuyện nói một đường, làm một nẻo trong bảo vệ môi trường. Ví dụ, một công ty, thay vì đầu tư vào dây chuyền công nghệ để bảo vệ môi trường, lại chỉ thay nhãn sản phẩm cho ra vẻ quan tâm đến môi trường. (TBKTSG, ngày 29 11 2007) Các cây bút “lão luyện” thường áp dụng một cách gây ấn tượng cho bài viết của mình: dùng nghĩa đen để tô đậm nghĩa bóng, hay đúng ra, cùng một từ, dùng các nghĩa khác nhau để bổ sung cho nhau. Chẳng hạn, tạp chí “The Banker” trong số báo tháng 12 2007 đã giới thiệu chân dung của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Nguyễn Văn Giàu. Câu kết của bài viết: “From next year, helmets will be obligatory on motorbikes, a law that will save many lives. Mr Giau, however, may be well advised to purchase one immediately as he negotiates the application traffic”. Để hiểu câu sau, cần biết theo thông tin của báo này, hiện đang có 46 đơn xin thành lập ngân hàng nộp tại Ngân hàng Nhà nước. Động từ negotiate thường dùng theo nghĩa thương lượng, thương thảo; dùng với traffic thì có nghĩa len lỏi trong dòng xe cộ. “To negotiate a sharp curve” là ôm một khúc đường cong ngặt rất ngọt. Câu đầu nói chuyện đội nón bảo hiểm nên traffic hiểu theo nghĩa xe cộ lưu thông; câu sau nói hồ sơ xin thành lập ngân hàng nên application traffic là dòng hồ sơ, chồng hồ sơ phải giải quyết. Ai cũng muốn đơn mình được giải quyết nên cần helmet để có thể chịu áp lực từ nhiều phía. Văn ngắn gọn nhưng chuyển tải nhiều ý là nhờ cách dùng từ, vừa theo nghĩa đen, vừa theo nghĩa bóng của tác giả.
Trong bài nói về đồng đô la Mỹ, tờ Economist cũng bắt đầu theo cách này: “The weather may be cold and wet, but in the rich world’s financial markets it is beginning to feel like August all over again”. Khi viết “feel like August”, ý tác giả muốn nói đến cảm giác “sunny, warm, dry.” để đối chọi với “cold and wet” ở trên theo kiểu “phấn khởi, hồ hởi”! Ở đây dùng chuyện thời tiết để nói đến tâm lý của giới tài chính hiện nay. Hình như loại văn này gây khó khăn cho người học tiếng Anh nhất vì muốn hiểu hết ý tác giả thì cần hiểu dòng liên tưởng mà tác giả muốn gởi gắm. Một bài rất ngắn viết về chuyện Nhật Bản bắt đầu lấy dấu vân tay của người nước ngoài nhập cảnh vào Nhật có tít “Giving you the finger”. Nếu chỉ chú ý đến từ fingerprint, chúng ta sẽ bỏ qua nghĩa thường dùng của thành ngữ “to give someone the finger” (một cách ra dấu thay cho câu chửi thề thường thấy trong phim Mỹ), ở đây mang nghĩa phản đối chủ trương lấy dấu tay. Hoặc câu này: “What many dreamed would be a gilded carriage carrying the Israeli and Palestinian leaders to a grand ball of peacemaking has turned back into a pumpkin before their eyes”. Để hiểu nó, chúng ta phải biết tác giả đang dùng “điển tích” Cô bé Lọ Lem, đang nhắc đến chuyện bà tiên từng biến trái bí ngô thành cỗ xe dát vàng lộng lẫy để đưa cô đi dự tiệc. Ở đây mọi chuyện xảy ra ngược lại. Vì thế các tít phụ của bài này đều nhắc đến điển tích này để nói chuyện hiện tại như “Close to midnight”, “What about the ugly sisters”.
Xin giới thiệu một bài trên tờ Vietnam News, giới thiệu tiệm ăn “Oh My God” (tên tiếng Việt: Ối Giời Ơi) ở Hà Nội của Jacob O Gold đã sử dụng được một số cách liên tưởng như vậy. “If you suddenly find yourself on a motorbike plying along the busy boulevard of Giang Vo. your stomach is a rumble with a painful hunger, you may, à la David Byrne, ask yourself, How did I get here?”. “À la David Byrne” là muốn nhắc đến bài hát khá nổi tiếng của nhạc sĩ này, “Once in a Lifetime”, trong đó nhắc đi nhắc lại nhiều câu hỏi tự vấn. Ở một câu khác, “. an enormous orange sign reads your mind and echoes back, Oh My God! This is actually the name of the restaurant. Maybe the owner was an enormous fan of Rob Reiners 1989 film When Harry Met Sally” thì việc dùng cách liên tưởng phim When Harry Met Sally là trực tiếp. Tuy nhiên kỹ thuật dùng chuyện này để nhấn mạnh chuyện kia ở đây chưa được nhuần nhuyễn vì khá lộ và dùng ví dụ ít người biết. Sử dụng lối văn này thường xuyên nhất có lẽ là giới quảng cáo. Vì cần viết ngắn gọn nhưng chuyển tải nhiều thông tin, những tay viết quảng cáo giỏi phải cân nhắc để sử dụng từ hay hình ảnh khơi gợi nhiều liên tưởng nhất ở người đọc. Quảng cáo thành công hay không tùy thuộc vào sự lựa chọn có đắt hay nhạt. Ví dụ một quảng cáo cần tuyển giám đốc điều hành viết: “The cheese has moved. Got what it takes?” Người đã đọc cuốn sách nổi tiếng “Who moved my cheese.” của Spencer Johnson khi đọc câu đầu “The cheese has moved” đều hiểu theo nghĩa “Thử thách đang ở phía trước”. Còn câu “Got what it takes?” thường dùng hơn, có nghĩa “Có đủ năng lực, đủ dũng cảm, đủ khôn ngoan để đương đầu với các thử thách đó không?” Với những ai chưa đọc cuốn sách, có lẽ quảng cáo sẽ không thành công. Nhưng ở đây đang tuyển giám đốc điều hành nên quảng cáo giả định các ứng viên đã đọc nó rồi.
(TBKTSG, ngày 6 12 2007) Giới vay tiền mua nhà ở Mỹ nay đã có thể thở phào nhẹ nhõm phần nào vì Tổng thống Bush đã thỏa thuận với ngành cho vay mua nhà đồng ý “đóng băng” lãi suất trong năm năm tới để giúp giải quyết khủng hoảng tín dụng mua nhà ở Mỹ. Chúng ta hãy quan sát khía cạnh tiếng Anh của tin, bài viết về vụ này. Các tin dùng tít rất “chân phương” như “Bush Announces Mortgage Agreement”, “White House subprime rescue plan”. Trong khi đó các bài bình luận thì đa dạng hơn nhiều. Wall Street Journal dùng “A Marshall Plan for Mortgages” để nhắc lại chương trình Marshall sau chiến tranh thế giới lần 2 nhằm tái thiết châu Âu. CNNMoney thì nhận định “No Free Ride for Subprimers” free ride ở đây dùng theo nghĩa “ăn theo” vì giới mua nhà trả đàng hoàng cho rằng làm như chính quyền Mỹ là không công bằng, có lợi cho người mua nhà vay liều và có hại cho họ. Nội dung chính của thỏa thuận giữa Bộ Tài chính Mỹ, giới cho vay và các công ty chứng khoán: “The agreement would allow distressed borrowers who are current on their payments to keep their low introductory rates and escape an increase of 30 percent or more in their monthly payments when those rates expire”. Khi đi vay mà vẫn trả đều gọi là “to be current on their payments” còn chậm trả gọi là fall behind; còn vay mua nhà ở Mỹ thường dùng lãi suất thả nổi (ARM Adjustable Rate Mortgage) nên lãi suất khởi điểm thường thấp để hấp dẫn người vay lãi suất này gọi là introductory rate hay teaser rate. Nay lãi suất này được giữ nguyên chứ không tăng chừng 30% hay hơn như trước nữa.
Tuy vậy, thỏa thuận “exclude those who are delinquent on their payments about 22 percent of all subprime borrowers” tức là ai chây ì không chịu trả nợ đúng hạn thì không được ưu đãi. Còn không trả nợ nữa gọi là in default. Cũng có nhiều điều kiện khác để được hưởng ưu đãi “lãi suất đóng băng” này. Báo chí bình luận có việc giải cứu này là vì: “The plan is emerging as fallout from the mortgage crisis is seeping into the political sphere”. Fallout bình thường là bụi phóng xạ nhưng bây giờ thường dùng với nghĩa hậu quả, hệ quả từ một chuyện gì đó. Vì thế cuối câu là cụm từ “political sphere” không phải bầu khí quyển như trong một vụ nổ bom hạt nhân mà là bầu không khí chính trị vì gần đến ngày bầu cử tổng thống Mỹ. Chính vì thế mà các ứng cử viên đảng Dân chủ ngay lập tức phê phán kế hoạch của Nhà Trắng là quá dè dặt. Ví dụ, bà Clinton đề nghị “a 90 day moratorium on subprime foreclosures and a rate freeze that would apply to all borrowers current on payments and some who have fallen behind”. Mua nhà mà không trả góp nổi thì nơi cho vay sẽ tịch biên nhà để bán gọi là foreclosure; còn moratorium là tạm ngưng. Thật vậy, chương trình của Tổng thống Bush chỉ hỗ trợ chưa đến 10% những người mua nhà đang không trả nổi: The “freezerteaser” plan applies to just 240,000 subprime loans. The Mortgage Bankers Association reports the number of subprime adjustable rate mortgages at 2.9 million. Chúng ta thấy các cụm từ mới được chế ra ngay mà nếu không theo dõi khó tìm nghĩa của chúng ở bất kỳ cuốn tự điển nào như từ “freezer teaser” plan ở câu trên. Một giáo sư kinh tế bình luận: “President Bush’s plan may make good politics, but it is terrible economics”. Đây là cách nói rất gọn để diễn đạt ý. về mặt chính trị thì. nhưng về mặt kinh tế thì. Ông giải thích: “It punishes those who have acted prudently and rewards bad decisions by homeowners who bought what they could not afford. It gives incentives for future homebuyers to act rashly, because they may believe Washington will rescue them from error and greed”. Cái này chúng ta cũng đã có lần bàn đến dưới khái niệm moral hazard.
Một giáo sư khác nhận định: “The Treasury seems obsessed with what investment bankers do best in a pinch short term workouts that punt difficulties into the high grass”. Treasury ở đây là Bộ Tài chính; in a pinch là lúc nguy nan, lúc cấp bách. Ấy là vì giải pháp này sẽ chuyền quả bóng khó khăn cho tổng thống mới của Mỹ sẽ nhậm chức đầu năm 2009 phải giải quyết. Chính vì thế một bài báo khác dùng hình ảnh sóng thần bị làm chậm lại chứ chưa ngăn được để diễn tả hiệu ứng của chương trình này: “Unfortunately, the remedies to the subprime crisis that have emerged will only slow the threatened economic tsunami, not prevent it”. Thậm chí nhiều bài báo cho rằng người hưởng lợi trong vụ này là các hãng cho vay vô tội vạ, bây giờ được cứu khỏi cảnh phá sản: “The rate freeze is a bailout for the irresponsible borrowers and lenders alike”. Một người vay tiền mua nhà trả góp đàng hoàng than: “If I’m expected to live up to the terms of my agreements, why is someone else who failed, or will fail, deserve special consideration?” to live up to là thực hiện đúng theo [điều khoản của hợp đồng]. Còn tờ Time thì nói thẳng chính sách của Bush là “mainly about buying some time for mortgage servicers, Wall Street firms and investors around the world”. (TBKTSG, ngày 13 12 2007) Kết thúc năm 2007, đã xuất hiện khá nhiều chuyện thú vị về tiếng Anh. Từ điển Merriam Webster (M W) vừa mới công bố kết quả bầu chọn các “từ trong năm”, hạng nhất thuộc về từ “w00t”. Đây là một tán thán từ, để diễn tả niềm vui (M W định nghĩa: expressing joy (it could be after a triumph, or for no reason at all); similar in use to the word “yay”). Ví dụ: W00t! I won the contest! Mặc dù hai mẫu tự ở giữa là hai số không, M W cho rằng xuất xứ của từ này là viết gọn cụm từ “we owned the other team” thường dùng trên cộng đồng chơi game trực tuyến (own ở đây là thắng, chế ngự). Đưa tin về chuyện này, có tờ viết tít rất hay: “Let’s have a hearty “w00t” for Merriam Websters Word of the Year” vừa đưa tin về từ này vừa sử dụng nó như một danh từ trong tít.
Những từ khác lọt vào danh sách top ten năm nay còn có từ facebook. Có lẽ chúng ta đã nghe về mạng Facebook, một mạng nối kết xã hội phát triển rất nhanh, hiện có gần 60 triệu thành viên. Động từ facebook được dùng với nghĩa vào mạng Facebook (Did you facebook today?) như kiểu google nay đã thành một động từ quen thuộc. Từ này còn được dùng với nhiều nghĩa đa dạng hơn, như tìm thông tin về một người nào đó trên Facebook (I facebooked Lauren yesterday to see where she goes to college); đưa tên một người nào đó vào danh sách bạn bè trên Facebook. Một từ khác là “blamestorm” cũng khá dễ đoán nghĩa nếu chúng ta đã biết từ brainstorm (động não; cùng nhau suy nghĩ tìm giải pháp). M W định nghĩa: a meeting in which mistakes are aired, fingers are pointed and discomfort is felt by all. Thật là một cảm giác déjà vu với nhiều người có sếp ưa chạy tội! All the managers were locked up in a meeting for the all day blamestorming about the lost contract. Trước đó, từ điển New Oxford American Dictionary tuyên bố từ “locavore” là từ trong năm. Từ điển đã sẵn có những từ như carnivore (động vật ăn thịt), frugivore (động vật ăn trái cây); herbivore (động vật ăn cỏ). Nay locavore có nghĩa là người ăn thức ăn trồng ở địa phương hay thức ăn do chính họ trồng. Thật ra công bố từ trong năm cũng là một chiêu thức tiếp thị của các hãng biên soạn từ điển. Vì thế, sau khi đưa tin về sự chọn lựa của Oxford, tờ New York Times viết: “Other publishers are also milking such gimmicks” gimmick ở đây là một trò, một chiêu; còn milking được dùng theo nghĩa bóng. Tờ này cho biết Webster là nơi đầu tiên công bố từ trong năm của năm 2007. Đó là “grass station” a theoretical place where cars could fill up with ethanol someday. Các trạm xăng có bán xăng pha ethanol đã xuất hiện nhiều nơi khi phong trào sản xuất nhiên liệu sinh học phát triển.
Cuối năm cũng là dịp các tờ báo bình chọn câu nói trong năm. Ví dụ, tờ Financial Times, chuẩn bị cho việc này đã bình câu nói của Chuck Prince, cựu Tổng giám đốc CitiGroup: “When the music stops, in terms of liquidity, things will be complicated. But as long as the music is playing, you’ve got to get up and dance. We’re still dancing”. Thành ngữ “when the music stops” được dùng trong nhiều tình huống để chỉ khi mọi chuyện không còn tốt đẹp; ở đây ý ông này nói dù tình hình tài chính khó khăn, đặc biệt ở tính thanh khoản của ngân hàng, ngân hàng của ông vẫn “gắng gượng” cho vay, vẫn hoạt động. Hay nói cách khác, dù thị trường có nhiều rủi ro nhưng vì mọi người đang chạy đua nhau để đầu tư, để giành miếng bánh lợi nhuận thì ngân hàng ông vẫn phải “get up and dance”. Sau đó một thời gian ngắn, Chuck Prince phải ra đi, và bị chê trách vì so sánh chuyện ngân hàng với chuyện khiêu vũ. Có nguyên một giải thưởng, gọi là “Foot in Mouth” trao cho những câu nói ngớ ngẩn nhất trong năm. Nói lỡ lời, người ta thường diễn đạt bằng “slip of the tongue”, còn nói loanh quanh, không đâu ra đâu, có từ gobbledegook. Giải nhất năm nay được trao cho Steve McClaren, cựu Trưởng đoàn bóng đá Anh với câu: “He is inexperienced but he’s experienced in terms of what he's been through” khi được yêu cầu nhận xét về cầu thủ Wayne Rooney. Thiệt tình không hiểu ý ông này muốn nói cái gì nữa. Tổng thống Bush về nhì với câu: “All I can tell you is that when the governor calls, I answer his phone”. Một câu thoạt đầu tưởng không báo nào trích đăng vì không có thông tin gì cả thì nay tràn ngập nhiều báo nhờ giải này. Phát ngôn viên của giải này cho nhận xét đau hơn: “We thought it was a bit obvious to honour Bush as he comes up with them every day”.
Giải này do phong trào Plain English tổ chức nhằm cổ súy cho việc “giữ gìn sự trong sáng” của tiếng Anh. Hằng ngày, người ta gởi cho Plain English năm sáu chục câu dài dòng, tối nghĩa, hay chỉ đơn giản là ngớ ngẩn như câu này trên sân bay Gatwich: “Passenger shoe repatriation area only” dịch sang tiếng Anh đơn giản là: Get your shoes back here. (TBKTSG, ngày 20 12 2007) ### Đón đọc: Chuyện chữ và nghĩa trong tiếng Anh Tiếng Anh lý thú
GIỚI THIỆU Các nhân vật chính ĐỊCH NHÂN KIỆT, Huyện lệnh của Phổ Dương, một trấn huyện thuộc địa phận phủ Kim Hoa. Ông thường được gọi là “Địch Công” hay “Huyện lệnh”. HỒNG LƯỢNG, quân sư thân cận của Địch Nhân Kiệt, cũng là Sư gia của nha phủ, thường được gọi là “lão Hồng” hay “Hồng Sư gia”. Các nhân vật khác BIỆN GIA, một vị đại phu. ĐỔNG MAI, một nho sinh sống lang bạt. HẠ QUẢNG, bằng hữu của Đổng Mai, cũng là một nho sinh sống nay đây mai đó. KHA NGUYÊN LƯƠNG, một tay sưu tập đồ cổ giàu có. KIM LIÊN, đại phu nhân của Kha gia. HỔ PHÁCH, nhị phu nhân của Kha gia, nguyên là một nô tỳ. HỌ DƯƠNG, chủ một cửa hiệu đồ cổ lớn. QUÁCH MINH, một thương nhân buôn bán dược phẩm đến từ kinh thành. THẨM BÁT, bang chủ phường khất cái. LƯƠNG TỬ LAN, chủ nhân một võ đường, tên nguyên quán Mông Cổ là Altan Tsetseg Khatun*. Altan Tsetseg Khatun trong tiếng Mông Cổ có nghĩa là Kim Hoa tiểu thư. Các vụ án trong truyện Vụ án Trống thủ tử nạn. Vụ án Quý phu nhân bị sát hại. Vụ án Viên ngự minh châu. HỒI 1 Ôm tình hận, buông lời suồng sã Sợ thần linh, vội trả lại tiền Một nam nhân cao lớn sừng sững đang thắp hương lên ban thờ thủy thần. Sau khi cắm nén hương trầm vào lư đồng, hắn ngước nhìn khuôn mặt bình thản tạc như người thật của bức tượng dưới ánh sáng chập choạng của ngọn đèn dầu treo dưới xà nhà đen kịt khói của cái miếu nhỏ. Thủy thần dường như đang khẽ mỉm cười. Hắn buông lời chua chát, “Đúng rồi, Ngài có thể hài lòng! Trong khu rừng ấy, Ngài đã cướp nữ nhân kia khỏi vòng tay ta, ngay trước khi ta dâng máu của nàng cho Ngài. Nhưng tối nay, ta đã có một mục tiêu mới, xứng đáng dâng lên cho Ngài. Lần này, ta sẽ…”
Hắn khựng lại, liếc nhìn đầy ái ngại về phía ông từ già cả đang khoác chiếc áo nâu sồng rách nát. Ngồi thất thểu trên băng ghế ở lối vào ngôi miếu, ông lão phóng tầm mắt về phía xa bờ sông, nơi đang trang hoàng rực rỡ những ngọn đèn lồng đầy màu sắc, rồi lại cúi xuống đọc kinh. Ông chẳng buồn chú tâm tới vị khách cô độc. Hắn lại ngẩng lên ngắm nghía tượng thủy thần thêm lần nữa. Bức tượng gỗ trơn không sơn phết được bàn tay nghệ nhân khéo léo khắc theo thớ gỗ để tạo những nếp gấp của chiếc áo choàng đang rủ xuống bờ vai tròn. Thủy thần tĩnh tọa trên đài sen, tay trái đặt trong lòng, tay phải giơ lên ban phúc lành, cứu độ chúng sinh. “Ngài mới đẹp làm sao,” hắn thều thào, giọng khàn khàn. Ngó đăm đăm lên khuôn mặt an nhiên đang ngự ở phía trên mình, hắn tiếp tục, “Hãy nói cho ta biết, tại sao mọi vẻ đẹp đều ẩn tàng sự xấu xa? Ôi, những bóng dáng hồng nhan! Tại sao lại cám dỗ một nam nhân, quyến rũ gã bằng nụ cười e lệ và khóe thu ba, để rồi cự tuyệt gã? Xua đuổi gã bằng vẻ khinh khi ghẻ lạnh, bóp nát trái tim gã, rồi ám ảnh gã từ đó mãi về sau…?” Hắn bấu chặt vào mép án thờ, một tia si mê điên cuồng lóe lên trong ánh mắt. “Chúng phải bị trừng trị thích đáng!” Hắn lầm bầm giận dữ. “Phải đâm dao vào trái tim xảo trá khi chúng buông câu dối lừa, để bọn nữ nhân ấy nằm bất lực và trần trụi trước Ngài! Phải như thế…” Bất chợt hắn ngừng huyên thuyên, giật nảy người. Hắn nghĩ mình đã trông thấy một nếp nhăn khó chịu gợn trên vầng trán phẳng lặng của thủy thần, quanh viên minh châu đang tỏa sáng ở chính diện? Buông tiếng thở phào nhẹ nhõm, hắn lau mồ hôi lấm tấm trên mặt. Đó chỉ là bóng của một con bướm đang lượn lờ quanh đèn dầu!
Hắn mím chặt môi, hồ nghi liếc nhìn pho tượng rồi bỏ đi. Tới gần ông lão đang mê mải lầm bầm kinh nguyện, hắn chạm vào bờ vai xương xẩu của ông già. “Tối nay ông vẫn không thể để thủy thần một mình được à?” Hắn hỏi với vẻ hồ hởi đầy gượng gạo. “Một lần thì có sá gì! Sắp đua thuyền rồng rồi kìa. Nhìn kìa, bọn họ đang xếp thuyền thành hàng dưới chân cầu Thạch Kiều.” Lấy ra một nắm tiền đồng từ ống tay áo, hắn tiếp tục, “Đây, ông cầm lấy chỗ này, đi ra tửu điếm chén một bữa tử tế đi!” Ông lão ngước lên nhìn hắn với viền mắt đỏ ngầu đầy mệt mỏi. Lão từ chối nhận số tiền. “Thưa thí chủ, ta không thể rời bỏ thủy thần. Ngài sẽ quở trách ngay.” Ông lại cúi mái đầu bạc xuống quyển kinh. Vị khách bất giác rùng mình. Miệng buột ra một câu chửi thề, hắn bỏ mặc ông lão và bước nhanh xuống các bậc đá dẫn ra con đường ven sông. Hắn sẽ phải giục ngựa phi nhanh về trấn để có mặt kịp lúc cuộc đua thuyền kết thúc. HỒI 2 Chơi bài cẩu, Địch thua nương tử Đua thuyền rồng, kẻ tử thác oan “Đúng là con lục mà ta đợi từ nãy!” Địch Nhân Kiệt phấn khích nói với đại phu nhân. Ông thêm một thẻ vào hàng thẻ bài đang mỗi lúc một dài thêm trên mặt bàn hình vuông. Ba vị phu nhân của huyện lệnh chẳng bình phẩm gì, các nàng đang nghiên cứu thẻ bài của mình. Trong lúc nhá nhem tối, thật khó nhìn rõ hết các đốm đỏ trên những quân bài bằng tre. Địch huyện lệnh và ba nương tử đang ngồi trên bệ cao phía đuôi thuyền của nha phủ, nằm tách biệt với những con thuyền đang rồng rắn neo dọc bờ kênh.
Hôm nay là ngày mồng 5 tháng Năm, là ngày hội đua thuyền rồng thường niên. Từ đầu buổi chiều, dân chúng Phổ Dương đã nô nức trẩy hội từ Nam môn hướng về khán đài bên bờ kênh, đích đến của các thuyền rồng vào tối nay. Đó cũng là địa điểm mà Địch huyện lệnh trao phần thưởng cho các đội đua. Huyện lệnh chỉ được vời đến để trao giải ấy, nhưng bản thân ông luôn háo hức tham gia vào các lễ hội của bách tính. Ông muốn có mặt tại cuộc đua ngay từ lúc bắt đầu. Vì thế Địch huyện lệnh đã rời trấn nửa canh giờ trước khi hoàng hôn buông xuống, đi cùng đoàn tùy tùng của mình, được hộ tống trên ba cỗ kiệu. Họ lên chiếc thuyền lớn của nha phủ, thả neo đối diện khán đài. Ba đoàn kiệu đã dùng bữa chiều với cơm canh thanh đạm, giống như mấy ngàn bách tính lê dân đang tụ tập trên chiếc phà nhỏ hơn kết nối hai bờ. Dùng bữa xong, Địch gia yên vị chơi bài cẩu*, chờ cho đến khi mặt trăng ló dạng trên trời cao và cuộc đua thuyền bắt đầu. Giờ thì tiết trời đã trở nên thanh mát hơn, giọng ca tiếng hát và những tràng cười đùa vang vọng khắp mặt nước. Những vòm đèn lồng trang hoàng khắp các tàu bè và thuyền hoa đã được thắp sáng, mặt nước đen tuyền êm ả phản chiếu lại màu sắc sặc sỡ của chúng. bài cẩu là trò chơi giống như domino. Thật là một cảnh đẹp tựa chốn bồng lai tiên cảnh, nhưng bốn người Địch gia đang ngồi quanh bàn, mê mải chơi bài cẩu, nên ít chú ý đến cảnh vật xung quanh. Bài cẩu là trò yêu thích của cả Địch gia, họ nghiêm túc chơi theo một lối vô cùng phức tạp. Giờ họ đang đi đến hồi phân thắng bại tại ván bài. Tam phu nhân chọn một trong số thẻ quân còn lại trước mặt mình.
Vừa đặt thẻ bài vào các miếng ghép trên bàn, nàng vừa nói với hai tỳ nữ đang ngồi xổm bên bếp chè, “Hai ngươi hãy thắp đèn lồng lên. Ta thấy khó nhìn rõ mọi thứ rồi!” “Cho qua!” Địch Nhân Kiệt thông báo. Ông ngước lên vẻ khó chịu khi lão quản gia xuất hiện trên boong thuyền và tiến lại bàn. “Giờ lại là chuyện gì nữa đây? Phải chăng vị khách lạ lùng kia quay lại?” Khoảng hai khắc trước, khi Địch Nhân Kiệt và các phu nhân tạm dừng cuộc chơi để đứng tựa lan can ngắm cảnh vật, một kẻ lạ mặt đã tiếp cận thuyền. Nhưng khi viên quản gia sắp quay vào thông báo, khách lạ lại nói rằng mình không muốn quấy quả huyện lệnh. “Bẩm đại nhân, không phải ạ! Là Biện đại phu và Kha tiên sinh,” lão quản gia cung kính thưa. “Cho họ vào!” Địch Nhân Kiệt thở dài rồi đáp. Biện Gia và Kha Nguyên Lương là đồng chủ trì cuộc đua thuyền rồng. Địch Nhân Kiệt chỉ loáng thoáng biết mặt hai người, vì họ không nằm trong số các thân hào nhân sĩ mà ông thường xuyên gặp gỡ vì công vụ. Họ Biện là một danh y và là chủ một dược phòng lớn. Còn họ Kha là một người sưu tầm đồ mỹ nghệ giàu có. “Bọn họ sẽ không lưu lại lâu đâu!” Ông mỉm cười trấn an ba vị nương tử. “Miễn là lão gia không làm xáo trộn dây bài!” Đại phu nhân bĩu môi. Nàng và hai phu nhân còn lại úp mặt các thẻ bài trên tay xuống, rồi họ đứng dậy, lui ra phía sau tấm bình phong dựng bên bệ. Theo phép tắc thông thường, các vị phu nhân không được phép gặp gỡ những nam nhân không thuộc gia môn.
Huyện lệnh cũng đứng dậy. Ông gật đầu đáp lại lời chào của hai nam nhân cao lớn, nghiêm trang vừa xuất hiện trên boong thuyền. Họ vận áo dài mỏng nhẹ bằng lụa trắng, đầu đội mũ the đen.👁‍ Địch Công tiếp hai vị khách “Mời quý vị an tọa!” Địch Nhân Kiệt niềm nở nói. “Bản quan chắc là hai vị đến báo tin là mọi sự chuẩn bị đã chu toàn để cuộc đua bắt đầu.” “Bẩm đại nhân, quả là vậy!” Biện đại phu đáp với âm giọng rõ ràng và khô khốc. “Ban nãy, khi Kha tiên sinh và thảo dân rời Thạch Kiều thì cả chín thuyền đều đã dàn hàng tại điểm xuất phát.” “Các vị đã tuyển được những đội chèo giỏi chứ?” Địch Nhân Kiệt hỏi. Bỗng ông nạt mấy tỳ nữ đang thu dọn các chén trà trên bàn, “Đừng làm xáo trộn dây bài!” Trong khi huyện lệnh mau tay lật úp các thẻ bài trên bàn xuống thì Biện đại phu đáp lời, “Thưa, năm nay dân tình có vẻ quan tâm hơn thường lệ. Mỗi thuyền có mười hai tay chèo, tất cả đều được tuyển chọn rất nhanh chóng. Cuộc thi năm nay sẽ rất gay cấn, thưa đại nhân, vì đội thuyền Nhị tập hợp toàn tay chèo ở kênh đào, họ quyết tâm đánh bại dân trong thành. Kha tiên sinh và thảo dân đã thết đãi họ ăn uống no say tại tửu điếm trong thôn Thạch Kiều. Giờ thì tất cả bọn họ đang háo hức chờ bắt đầu cuộc đua!” Họ Kha vui vẻ nhận xét, “Thưa, thuyền của Biện tiên sinh được khán giả vô cùng ưa thích! Còn thuyền của thảo dân thì chẳng có cơ hội gì đâu vì nó nặng nề quá!”
“Nhưng con thuyền đó lại là một bằng chứng lịch sử, Kha tiên sinh à,” Địch tri huyện tiếp lời. “Ta có nghe phong thanh rằng thuyền của ngươi là một bản sao con thuyền từng được các vị tiền bối sử dụng.” Một nụ cười hài lòng nở trên khuôn mặt tuấn tú đầy sức sống của họ Kha. Y nói, “Bẩm, thảo dân tham gia cuộc tranh tài cũng là để giúp giữ gìn truyền thống cổ xưa.” Huyện lệnh gật gù. Ông biết họ Kha đã dành cả đời để nghiên cứu cổ vật và là một người sưu tập đầy đam mê các bảo vật. Địch Nhân Kiệt ngẫm rằng một ngày nào đó, ông phải yêu cầu họ Kha cho xem bộ sưu tập họa phẩm. Ông nói, “Bản quan mừng vì được nghe như vậy, Kha tiên sinh. Hội đua thuyền rồng đã được tổ chức thường niên kể từ thời xa xưa, ở khắp mọi miền trong vương triều, tại những vùng có sông hồ hay kênh đào. Các lễ hội theo mùa cũng là dịp để dân chúng, vốn làm lụng vất vả quanh năm, được nghỉ ngơi khỏi những cực nhọc thường nhật!” Biện đại phu nhận xét, “Dân địa phương tin là đua thuyền rồng sẽ làm vui lòng thủy thần, được Ngài phù hộ cho mưa thuận gió hòa cho nông phu và mang lại nhiều tôm cá cho ngư dân.” Ông ta vuốt bộ râu đen nhánh, khiến cho bộ mặt lưỡi cày điềm tĩnh dường như trở nên nhợt nhạt hơn. “Dạ bẩm, thuở xa xưa,” họ Kha kể chuyện, “lễ hội này cũng khá man rợ. Mùa hội nào dân làng cũng phải hiến một mạng người sau đua một đồng nam dâng vào miếu thủy thần. Người đó được gọi là ‘hôn phu của thủy thần’ và gia đình nạn nhân coi đó là một vinh dự lớn lao.”
Địch Nhân Kiệt bình phẩm, “May thay, triều đình đã bãi bỏ tất cả các hủ tục như thế trong nhiều năm rồi!” “Thưa đại nhân, tín ngưỡng đâu có chết dễ dàng như vậy,” Biện đại phu chậm rãi phân trần. “Dân chúng nơi này vẫn còn sùng kính thủy thần, mặc dù giờ đây kênh đào có vai trò quan trọng đối với ngư nghiệp và vận chuyển hơn là con sông. Thảo dân còn nhớ bốn năm về trước, trong cuộc đua có một thuyền bị lật úp, khiến một nhân phu chết đuối. Vậy mà bách tính địa phương coi chuyện đó như điềm lành, hứa hẹn một vụ gặt dồi dào vào mùa thu.” Kha Nguyên Lương băn khoăn nhìn vị đại phu. Đặt chén trà xuống, y nhổm dậy và thưa, “Bẩm đại nhân, xin phép cho bọn thảo dân cáo lui để trở về khán đài, xem công đoạn chuẩn bị cho lễ trao giải đã chu toàn chưa.” Biện đại phu cũng đứng dậy theo. Cả hai cúi thấp người thi lễ rồi rời đi. Các vị phu nhân mau chóng từ tấm bình phong bước ra và an tọa trên ghế để tiếp tục ván bài. Liếc nhìn các thẻ bài còn lại trên bàn, tam phu nhân hào hứng nói, “Chẳng còn nhiều quân lắm. Giờ thì chơi nốt nào!” Các tỳ nữ mang chè tươi lên. Bốn người nhanh chóng chú tâm vào ván bài cẩu. Chậm rãi vuốt râu, Địch Nhân Kiệt nhẩm tính các cơ hội của mình. Quân bài chốt của ông là con tam linh. Cả ba phu nhân đều đã ra bài, nhưng chắc chắn phải có một con linh linh* còn sót lại. Nếu nó được đánh ra, ông nắm chắc phần thắng. Ngắm nhìn gương mặt phấn khởi của các nương tử, ông băn khoăn không biết nàng nào đang giữ quân bài đặc biệt đó.
linh linh là quân hai đầu đều trắng. Chợt có một tiếng nổ vang rền, theo sau là chuỗi âm thanh lốp bốp vọng đến. “Nàng mau ra bài đi!” Địch Nhân Kiệt sốt ruột nói với nhị phu nhân đang ngồi bên phải. “Người ta bắt đầu bắn pháo hoa rồi đấy.” Vị phu nhân ngần ngừ, nhẹ nhàng vuốt mái tóc đen óng ả, rồi đặt quân tứ tứ lên bàn. “Cho qua!” Địch Nhân Kiệt nói, vẻ thất vọng. “Thiếp thắng!” Tam phu nhân reo lên đầy phấn khích. Nàng chìa thẻ bài cuối cùng của mình ra, quân tứ ngũ. “Cung hỷ!” Địch Nhân Kiệt thốt lên. Rồi ông cất tiếng hỏi, “Ai trong các nàng giữ con linh linh vậy? Ta đã chờ quân bài ấy nãy giờ!” “Không phải thiếp,” hai phu nhân còn lại đáp, tay ngửa thẻ bài của mình ra. Địch Nhân Kiệt nhíu mày nói, “Quái lạ! Chỉ có một con linh linh, trên bàn cũng không còn quân nào cả. Quân đó biến đi đâu mất rồi?” “Có lẽ nó rớt xuống sàn,” đại phu nhân phỏng đoán. Họ cúi xuống tìm dưới bàn, đoạn cầm tay áo giũ nhiều lần. Nhưng vẫn chẳng thấy tăm hơi thẻ bài đó đâu cả. “Có thể đám tỳ nữ đã quên cất vào hộp,” nhị phu nhân nói. “Không thể nào!” Địch tri huyện lẩm bẩm. “Lúc lấy các thẻ bài ra khỏi hộp trước khi chơi, ta đã đếm đủ quân rồi. Lúc nào chẳng vậy.” Có một tiếng xì, tiếp theo là tiếng nổ lớn lanh lảnh vang lên. Con kênh được thắp sáng bởi cơn mưa màu sắc rực rỡ tỏa ra từ pháo hoa. “Nhìn xem!” Đại phu nhân trầm trồ. “Thật là đẹp mắt!” Mọi người nhanh chóng đứng dậy và đi về phía lan can. Từ tứ phương tám hướng, pháo hoa được bắn lên cao, tiếng nổ lốp bốp liên tục vang vọng. Rồi tiếng gầm rú ầm ầm rộ lên từ đám đông khán giả. Mảnh trăng lưỡi liềm bàng bạc xuất hiện trên bầu trời. Đã đến lúc các thuyền đua rời thôn Thạch Kiều cách đây vài dặm xuôi theo hướng kênh đào. Chỉ còn vài tiếng nổ lẻ tẻ vang lên rồi im bặt, nhường chỗ cho những âm thanh rì rầm lộn xộn. Dân chúng đang hào hứng bàn tán chọn thuyền cá cược.
“Chúng ta cũng đặt cược nào!” Địch Nhân Kiệt vui vẻ nói. “Tất cả dân chúng trấn này, ngay cả những con dân nghèo nhất, cũng cược ít đồng đấy.” Tam phu nhân vỗ tay và reo lên, “Thiếp sẽ đặt năm mươi đồng vào thuyền Tam! Để thần may mắn biết là bấy lâu nay thiếp vẫn chưa quên mất mặt ngài.” Đại phu nhân nói, “Thiếp đặt năm mươi đồng cho thuyền của Biện đại phu, chiếc thuyền đó được nhiều người thích lắm.” “Ta cược năm mươi đồng vào thuyền họ Kha,” Địch Nhân Kiệt thêm lời. “Ta thích những thứ thuộc về truyền thống!” Bốn người cười ầm lên và tán chuyện đùa vui một lúc, sau đó từ tốn nhâm nhi vài chén trà. Bất chợt, họ thấy dân chúng đứng trên các thuyền đều nghển cổ hướng về phía khúc cua của kênh đào, chờ các thuyền rồng xuất hiện ở vòng cuối trước khi lao về đích. Địch Nhân Kiệt và ba nương tử lại tới bên lan can. Không khí bồn chồn háo hức bắt đầu cuốn họ vào. Hai chiếc thuyền tam bản tách khỏi nhóm đông các thuyền đang neo đậu. Những tay chèo đưa chúng đến giữa kênh, đối diện với khán đài. Thuyền nhân neo chúng ở đó và phất cao đại hồng kỳ. Họ là trọng tài cuộc đua. Bất chợt tiếng chiêng trống từ xa vọng lại. Các thuyền rồng, bóng dáng vẫn còn lờ mờ, đang tiến đến khúc quanh. Đám đông bùng lên những tiếng la hét lộn xộn. Thuyền Cửu đang vòng qua khúc cua. Con thuyền mảnh và dài được mười hai thuyền phu, vai kề vai, chèo băng băng tiến về phía trước. Họ mạnh mẽ vung tay chèo theo nhịp trống vang rền ở giữa thuyền. Một nam nhân cường tráng, thân trên để trần, đang vận sức giáng dùi gỗ liên hồi vào trống. Người lái thuyền, cúi rạp mình nắm mái chèo dài ở phía cuối, ráng hết sức la hét các tay chèo. Bọt nước trắng bắn tung tóe lên mũi thuyền nhô cao, chạm trổ hình đầu rồng có cặp sừng dài và đôi mắt trợn tròn. 👁‍
Cuộc đua thuyền rồng Đại phu nhân reo to, “Đó là thuyền của Biện tiên sinh! Thiếp thắng!” Nhưng rồi đuôi thuyền của họ Biện, được đẽo hình đuôi rồng uốn lượn, bị mũi con thuyền sau áp sát ngay nhanh chóng. Đầu rồng phía sau nhô cao với bộ hàm há to dường như muốn cắn nát đuôi thuyền Cửu. “Đó là thuyền Nhị, là thuyền của đám phu kênh đào,” Địch Nhân Kiệt bình phẩm. “Trông như bọn họ đang vận hết sức.” Tay trống trên thuyền Nhị, một nam nhân nhỏ thó nhưng dẻo dai, đang điên cuồng thúc trống, miệng không ngừng la hét cổ động đám phu chèo. Khi hai thuyền tiến gần đến đích, thuyền Nhị kè sát thuyền Cửu, đầu thuyền sau áp sát đuôi thuyền trước. Tiếng chiêng trống gần như chìm nghỉm trong tiếng la hét đinh tai nhức óc của đám khán giả. Thêm bốn thuyền khác xuất hiện quanh khúc cua, nhưng chả ai chú ý đến chúng, mọi cặp mắt đều chết dính vào thuyền Cửu và thuyền Nhị. Những cánh tay vạm vỡ của các tay chèo trên thuyền Nhị vung ra với tốc độ kinh hồn, nhưng họ vẫn chẳng bắt kịp được thuyền Cửu. Hai thuyền giờ đã tiến sát đến đích, Địch tri huyện có thể nhìn thấy nụ cười sung sướng trên gương mặt của tay trống thuyền Cửu. Bọn họ chỉ còn cách đích độ trăm thước. Các trọng tài đã hạ thấp cờ đỏ để đánh dấu đích đến. Bất thình lình, tay trống thuyền Cửu đờ người ra, dùi trống bên phải vẫn giơ lên giữa không trung. Trong thoáng chốc, nam nhân dường như ngơ ngác trơ mắt nhìn nó, rồi y đổ nhào xuống trống. Các thuyền phu sau lưng y ngẩng lên nhìn, mái chèo hai thuyền va nhau chan chát. Con thuyền tròng trành và di chuyển chậm lại. Hai thuyền đua cùng vượt qua các lá cờ đỏ, nhưng thuyền Nhị nhỉnh hơn nửa thân thuyền.
“Tội nghiệp tay trống,” Địch Nhân Kiệt lên tiếng. “Họ không nên quá chén trước…” Giọng của ông bị át đi bởi tiếng reo hò ngất trời của đám đông. Trong khi thuyền Nhị và thuyền Cửu đậu dọc theo bến trước khán đài, thì bảy chiếc thuyền rồng còn lại cũng lần lượt về đích, mỗi chiếc đều được những tràng pháo tay vang dội của đám đông khán giả phấn khích đón chào. Pháo hoa lại tiếp tục bắn lên từ mọi phía. Huyện lệnh nhìn thấy một chiếc thuyền lớn của nha phủ chèo vượt qua đám đông và hướng về phía thuyền mình. Quay sang các nương tử, ông nói, “Họ đang đến đón ta đi trao giải. Quản gia sẽ hộ tống các nàng về phủ trước. Ta sẽ về ngay khi lễ hội kết thúc!” Ba vị phu nhân cúi đầu chào, rồi Địch Nhân Kiệt đi xuống boong tàu phía dưới. Biện đại phu và Kha tiên sinh đang đợi ông ở cầu thang mạn. Khi đã bước xuống thuyền, ông nói với họ Biện, “Bản quan lấy làm tiếc là thuyền của ông đã thua. Mong rằng trống thủ không lâm trọng bệnh.” “Bẩm, thảo dân sẽ đi thăm hỏi xem y thế nào. Y vốn khoẻ mạnh nên bọn thảo dân sẽ giúp y hồi tỉnh nhanh thôi. Cuộc đua đã diễn ra tốt đẹp!” Kha Nguyên Lương lặng thinh, bồn chồn vân vê hàm râu mỏng dính. Y định nói điều gì đó, nhưng rồi lại thôi. Khi họ đến bến tàu, viên bộ đầu cùng sáu thuộc hạ cung kính nghênh tiếp huyện lệnh. Họ Biện và họ Kha mời ông lên khán đài. Hồng sư gia, lão phụ tá tận tụy, đón chào chủ nhân lên bục và dẫn ông đi thay y phục trong một tiểu phòng do các tấm bình phong bằng tre quây thành.
Khi lão Hồng giúp Địch Nhân Kiệt khoác quan phục bằng gấm xanh thêu kim tuyến, ông nói vẻ hài lòng, “Đây là cuộc vui thú vị nhất, lão Hồng à!” Đội chiếc mũ ô sa nhung đen lên đầu, ông hỏi, “Không có chuyện gì xảy ra ở nha phủ chứ?” Lão Hồng đáp lời, “Bẩm đại nhân, chỉ có vài sự vụ thường nhật thôi. Lão phu đã cho các lục sự về nhà trước giờ Dậu. Bọn họ rất vui sướng vì có thể kịp đến đây xem đua thuyền.” “Tốt lắm! Trong khi ta đang huấn thị đám đông, lão hãy đến bến tàu tìm hiểu tình hình của trống thủ thuyền Cửu. Lúc gần đến đích thì hắn lăn ra bất tỉnh đấy. Tội nghiệp, kẻ khốn khổ ấy đã đổ gục xuống ngay trước khi thuyền chạm đích.” Địch Nhân Kiệt nhanh chóng bước ra ngoài rồi đi lên bục. Một rừng người đang tụ tập đông đảo bên dưới. Các bộ khoái đã xếp các đội chèo đứng thành hàng chỉnh tề phía cuối bậc thang. Viên bộ đầu dẫn đội trưởng của mỗi thuyền đua bước lên bục, để huyện lệnh tán dương đôi câu hoa mỹ và trao các gói phần thưởng bọc trong giấy hồng điều. Mỗi phần có một chiếc bánh gạo nhỏ và chút ít ngân lượng. Sau đó, Địch tri huyện trình bày một bài huấn thị ngắn, cầu chúc mọi người may mắn và cơm no áo ấm. Ông vào lại phòng thay y phục trong những tràng pháo tay của đám đông dân chúng. Hồng sư gia đang chờ ông với vẻ lo lắng. “Bẩm đại nhân, tay trống chết rồi. Ngỗ tác nói rằng y bị đầu độc.” HỒI 3 Trúng kỳ độc, nhận lời khen tặng
Thẩm án oan, Địch lặng lẽ đi Địch huyện lệnh im lặng nhìn xuống thi thể bất động của trống thủ. Tử thi đã được chuyển đến phòng thay y phục, đặt trên một chiếc chiếu cói trải dưới đất. Ngỗ tác đang ngồi xổm bên cạnh. Ông ta đã đứng lẫn trong đám đông khán giả theo xem thuyền về đích nên đã sơ bộ nghiệm thi ngay sau khi tay trống được đưa lên bờ. Giờ đây, ông ta tiến hành khám nghiệm kỹ càng hơn. Ngỗ tác cho một chiếc que bạc vào miệng nạn nhân. Biện đại phu, đang đứng một góc với Kha Nguyên Lương, tiến tới nói giọng hằn học, “Bẩm đại nhân, thế này chỉ mất thời gian! Thảo dân đoan chắc là y đã lên cơn đau tim. Mọi triệu chứng đều chỉ ra như vậy.” “Ngươi hãy để cho ngỗ tác hoàn thành phận sự!” Địch huyện lệnh đáp cộc lốc. Ông quan sát kỹ thi thể lực lưỡng, thân mình chỉ quấn độc một cái khố. Gương mặt bị biến dạng bởi cái chết đau đớn, nhưng các đặc điểm thông thường và vầng trán rộng cạo nhẵn chỉ ra y là con nhà gia giáo. Thường thì các thuyền phu được tuyển chọn từ đám tiểu nhị bán quán hay những kẻ bần phu. Khi ngỗ tác đã đứng thẳng người dậy, huyện lệnh hỏi ông ta, “Điều gì khiến cho ngươi nghĩ rằng người này đã bị đầu độc? Biện đại phu lại tin là y chết vì bệnh tim.” “Bẩm đại nhân, ngoài các triệu chứng chứng suy tim, nạn nhân còn có những chấm nhỏ màu đỏ tía ở đầu các ngón tay ngón chân. Thuộc hạ vừa kiểm tra thì thấy lưỡi rộp lên và có nhiều mảng đen che phủ. Thuộc hạ là người phương Nam nên biết dân miền núi ở đó biết cách pha chế ra một loại độc dược tác dụng chậm, để lại những vết tích như vậy. Ngay khi nhìn thấy các chấm đỏ trên đầu ngón tay của thi thể, thuộc hạ đã biết chắc rằng nam tử đó đã bị hạ sát bằng loại kỳ độc này.”
Biện Gia cúi xuống tử thi. Viên ngỗ tác dùng que bạc cạy mồm nạn nhân để vị đại phu nhìn vào bên trong. Họ Biện gật gù, ông ta tỏ vẻ ăn năn, “Thưa, quả là ngỗ tác đã đúng. Thảo dân đã sai rồi. Thảo dân nhớ mình đã đọc ở đâu đó về loại độc dược này. Nếu bắt đầu trúng độc khi bao tử trống rỗng, nó sẽ phát tác sau mấy khắc. Nhưng nếu nạn nhân đã ăn no bụng, độc dược có thể hạ sát y trong vòng hai khắc.” “Do nạn nhân là trống thủ trên thuyền Cửu, ta cho rằng y là nô bộc của ngươi?” “Dạ không, thưa đại nhân. Y là nho sinh sống lang thang, tên gọi Đổng Mai. Thỉnh thoảng, trong mùa bận rộn, y làm cối kê giúp thảo dân trong dược phòng.” “Kẻ xấu số có gia đình ở đây không?” “Thưa, một vài năm trước, thân nhân của y đã chuyển đi cả. Y sống với cha mẹ trong một trang viên khá đường hoàng ở ngoại thành. Rồi phụ thân y buôn bán đen đủi, thua lỗ hết, đành phải bán gia trang, trở về quê nhà ở phương Bắc. Đổng Mai quyết ở lại Phổ Dương, hi vọng có thể xoay xở đủ tiền để sinh sống, cho đến khi học xong cổ văn trong Văn miếu. Sau đó, y sẽ quay về đoàn tụ với song thân. Tiểu tử này là người vui tính, sống phóng túng và cũng là một tay có nghề võ. Một quyền thủ hạng khá, thật sự là thế. Nô bộc của thảo dân đều ưa y, thế nên bọn chúng yêu cầu y làm trống thủ trên thuyền.” Ông ta ném một cái nhìn nuối tiếc vào thi thể đang nằm sấp trên chiếu.
Họ Kha lên tiếng, “Bẩm, Đổng Mai là nam tử hữu dụng. Cha y có hiểu biết rộng về đồ cổ, bản thân y cũng có con mắt khá tinh đời trong việc phát hiện ra những món hay ho.” “Kha tiên sinh, làm thế nào mà ngươi quen biết y?” Địch Nhân Kiệt dò hỏi. “Dạ bẩm, thỉnh thoảng họ Đổng có tới gặp thảo dân, mang đến một vài món đồ sứ đẹp hoặc một món đồng khí cổ mà y mua được với giá rẻ. Thảo dân đồng ý với Biện đại phu rằng y là kẻ dễ mến.” “Điều đó cũng không ngăn được kẻ khác ám hại y,” huyện lệnh bình phẩm lãnh đạm. “Liệu có kẻ nào nuôi giữ mối thâm thù huyết hận với y chăng?” Biện đại phu nhìn họ Kha đầy dò xét. Khi y nhún vai, vị đại phu đáp lời, “Bẩm, chuyện đó thì bọn thảo dân khó biết. Tuy nhiên, thảo dân phải nói thêm rằng Đổng Mai từng giao du với những kẻ đáng ngờ, bọn lang thang đầu đường xó chợ và lũ a dua thường xuyên lui tới các võ đường rẻ tiền. Có lẽ y đã có va chạm với những tên côn đồ đó chăng…” Ông ta bỏ lửng câu nói. Sắc mặt họ Biện trông nhợt nhạt và căng thẳng. Địch Nhân Kiệt ngẫm rằng dường như cái chết đột ngột của tên người làm thời vụ có lẽ đã giáng cho ông ta một cú sốc. Hoặc có thể việc chẩn đoán sai đã khiến đại phu cảm thấy bứt rứt. Ông hỏi Kha tiên sinh, “Họ Đổng sinh sống ở đâu?” “Bẩm, y sống ở đâu đó gần phố Bán Nguyệt, phía tây nam trấn. Thảo dân không biết đích xác địa chỉ, nhưng ngài có thể hỏi bằng hữu của y là Hạ Quảng. Họ Hạ cũng là một nho sinh lang thang, một võ sĩ không chuyên, cũng học đòi buôn bán đồ cổ như nghề tay trái. Có lần hắn từng tiết lộ là hắn và Đổng Mai cùng ở trên gác mái một cửa hiệu buôn bán y phục cũ. Hạ Quảng đã hứa là sẽ giúp đưa thuyền của thảo dân đi bảo quản, nên chắc chắn hắn chỉ đang quanh quẩn đâu đây thôi.”
“Hãy đưa kẻ đó đến đây!” huyện lệnh bảo ngỗ tác. “Thưa, hắn đã trở lại trấn mất rồi,” Biện đại phu nhanh nhảu nói. “Ngay trước khi đến đây, thảo dân tình cờ trông thấy hắn đi bộ về phía Nam môn. Thảo dân không nhầm được, hắn có một vết sẹo xấu xí chạy dọc theo má trái.” “Tiếc thật!” Địch Nhân Kiệt cảm thán. Ông nhận ra Kha Nguyên Lương dường như cứ nhấp nha nhấp nhổm muốn rời đi, liên tục đứng chuyển chân vẻ nóng vội. Ông tiếp tục nói, “Được rồi, bản quan sẽ cẩn trọng điều tra vụ án này. Hiện giờ, hai vị không được để lộ tin họ Đổng bị sát hại, cứ bảo là y suy tim mà chết. Ta mong hai vị có mặt tại phiên thăng đường sáng mai. Lão Hồng, khi tiễn hai vị đây, lão hãy gọi bộ đầu vào đây cho ta.” Khi họ Biện và họ Kha đã lui bước, huyện lệnh nói với ngỗ tác, “Ta mừng vì thấy ngươi am tường công vụ. Nếu ngươi không có mặt ở đây, có lẽ ta đã gạt bỏ ý nghĩ đây là vụ mưu sát, mà coi như vụ tai nạn theo như lý luận của Biện đại phu. Ngươi có thể hồi phủ bây giờ, và thảo báo cáo nghiệm thi.” Ngỗ tác rời đi, mỉm cười đầy hài lòng. Địch Nhân Kiệt bắt đầu đi tới đi lui, hai tay chắp lại sau lưng. Khi bộ đầu đi vào cùng với Hồng sư gia, ông ra lệnh cho y, “Mang cho ta y phục của kẻ quá cố!” “Thưa đại nhân, chúng ở ngay đây.” Viên bộ đầu lấy ra một gói đồ ở bên dưới bàn và mở ra. “Đây là quần và dải thắt lưng y mang trên người lúc tử nạn, cùng đôi giày dạ y đi. Còn đây là áo ngoài của y, đã được gấp gọn và đặt dưới trống trên chiếc thuyền đua.”
Địch Nhân Kiệt thò tay vào ống tay áo rộng thùng thình bên trái, rút ra cuốn sổ hộ tịch của Đổng Mai, một văn bằng cho thấy y đã đỗ kì thi Hương, và hai đĩnh bạc bọc trong giấy lụa. Đặt mọi thứ lại chỗ cũ, ông bảo lão Hồng mang tất cả về nha phủ. Đoạn ông quay sang nói với bộ đầu, “Cho người bọc thi thể bằng chiếc chiếu đó, mang tới một buồng giam trống trong nhà lao. Đích thân ngươi phải tới nơi ở của Đổng Mai và dẫn giải Hạ Quảng về nha phủ. Ta sẽ thẩm cung hắn ngay tối nay.” Viên bộ đầu rời đi để tập hợp các bộ khoái. Khi giúp huyện lệnh cởi bỏ quan phục, Hồng sư gia hỏi, “Ai có thể là kẻ sát hại nho sinh ấy? Mọi người sẽ nghĩ là…” “Sát hại ư?” Một giọng nói trầm trầm vang lên sau lưng họ. “Thảo dân nghe nói đó là tai nạn mà!” Địch Nhân Kiệt quay người lại, định mắng kẻ vô lễ kia. Nhưng ông lập tức kiềm chế khi thấy một nam nhân hộ pháp đang đứng ở ngưỡng cửa mở toang. Đó là Dương tiên sinh, thương gia buôn cổ vật. Gã sở hữu một thương điếm lớn ở đối diện Văn miếu. Huyện lệnh thường đến đó để ngắm những món đồ cổ của gã. Ông nói, giọng hậm hực, “Quả thật nó là một vụ án mạng. Nhưng bản quan yêu cầu ngươi giữ kín chuyện đó.” Nam nhân hộ pháp nhướng hàng lông mày sâu róm. Gã có một khuôn mặt góc cạnh và rám nắng, với bộ ria chổi xể và hàm râu ngắn. Gã đáp lại huyện lệnh bằng nụ cười nhạt nhẽo để lộ hàm răng đều và trắng, “Xin vâng mệnh đại nhân! Thảo dân đến đây để tìm hiểu sự việc, dân chài ở dưới bến tàu đang kháo nhau rằng Bạch Nương đã bắt nam tử kia đi.”
“Họ nói thế nghĩa là gì?” Địch Nhân Kiệt gắt gỏng hỏi. “Bẩm, đó là cách mà dân quê gọi thủy thần. Dân chài hoan hỉ cho rằng việc nam nhân tử nạn trong cuộc đua nghĩa là thủy thần đã tiếp nhận cống phẩm, cá tôm sẽ đề huề trong cả năm nay.” Địch Nhân Kiệt nhún vai. “Ngay lúc này, chúng ta hãy cứ để hung thủ tin rằng nha phủ có chung tín ngưỡng với bách tính.” “Thưa đại nhân, kẻ đó bị sát hại như thế nào?” Dương chưởng quỹ liếc nhanh vào thi thể đang nằm sấp. “Thảo dân chẳng thấy vết máu nào cả!” “Nếu muốn rõ chi tiết, ngươi có thể dự phiên thăng đường sáng mai,” Địch tri huyện đanh giọng. “Tiện thể, cho bản quan hỏi, do Đổng Mai từng học đòi giao thương cổ vật, ta cho rằng ngươi cũng biết rõ y?” Họ Dương lắc đầu. “Bẩm, thảo dân chỉ nghe loáng thoáng danh tính của họ Đổng mà chưa hề chạm mặt y lần nào. Thảo dân có đầu mối cung cấp riêng mà bản thân vất vả lắm mới có được! Ngược xuôi khắp các ngõ ngách ở miền thôn quê, dù nắng ráo hay mưa rào, thảo dân luôn kiếm tìm những nông phu khai quật được cổ vật trên đồng ruộng. Việc đó giúp thảo dân giữ cho thân thể khỏe mạnh và kiếm được các món hàng tốt, nguyên bản. Có lần…” “Ngươi từng gặp bằng hữu của họ Đổng, một gã tên Hạ Quảng, rồi chứ?” “Dạ bẩm, không ạ. Tiếc là thảo dân chẳng thể giúp được gì ngài.” Vầng trán nhăn nheo của họ Dương lại gợn sóng. “Không hiểu sao, danh tính thì nghe quen quen, nhưng nó chẳng gợi lên chút dấu ấn nào. À, như đã bẩm, bữa kia thảo dân vớ được một bức cổ họa trong ngôi chùa phía đông trấn. Thảo dân dám chắc là đại nhân sẽ thấy thích thú, nó còn tốt…”
“Một ngày gần đây, bản quan sẽ quá bộ đến cửa hiệu của ngươi, Dương chưởng quỹ à. Còn bây giờ, ta có việc gấp phải quay về nha phủ ngay.” Vị thương gia đồ cổ cúi đầu thi lễ và cáo lui. “Ta thích nói chuyện với họ Dương,” Địch Nhân Kiệt nói với lão Hồng. “Gã có kiến thức phi phàm về đồ cổ cùng tình yêu nồng cháy với chúng. Nhưng thời khắc này mà gã đến thì thật chẳng hợp lẽ chút nào.” Đội lên đầu chiếc mũ nhỏ đen tuyền, ông tiếp tục nói với một nụ cười uể oải, “Do ba trợ thủ của ta sẽ chẳng về kịp Phổ Dương trước ngày kia, chúng ta sẽ phải tự mình giải quyết vụ án mạng này. Chỉ có lão và ta, lão Hồng à!” Lão sư gia đáp với vẻ tiếc nuối, “Vâng, thật tiếc là Mã Vinh và Kiều Thái lại dẫn Đào Cam cùng đi nghỉ phép! Thiếu cái gã ranh ma ấy, chúng ta chẳng còn ai thích hợp để mổ xẻ các vụ án đầu độc!” “Đừng lo lắng, chúng ta sẽ tra án được thôi, lão Hồng à! Giờ ta sẽ lấy ngựa và đi tới thôn Thạch Kiều. Rõ ràng là độc dược đã bị bỏ vào thức ăn hoặc rượu của Đổng Mai trong lúc các thuyền phu đang được khoản đãi trước cuộc đua. Ta sẽ đến đó để xem xét. Còn lão hãy đến Văn miếu để bái kiến lão sư Âu Dương và hỏi về Đổng Mai cùng Hạ Quảng. Lão sư là một người sắc sảo, ta muốn biết ý kiến của ông ấy về tâm tính của hai kẻ kia. Lão không cần thức chờ cửa, ta sẽ gặp lão vào sớm mai tại thư phòng.”
Khi hai người cùng xuống cầu thang, Địch Nhân Kiệt nói thêm, “À, đúng rồi, lão hãy tạt qua nội trạch của ta, báo viên quản gia bẩm lại với các phu nhân rằng ta sẽ về khuya.” HỒI 4 Kẻ bí hiểm gặp người giả mạo Xác giai nhân, rùa dạo nhà hoang Địch huyện lệnh lấy ngựa của một Bộ khoái, nhanh chóng lên yên rồi giục ngựa về hướng nam. Cái quan nhộn nhịp những khách bộ hành từ nội thành trở về tư gia, họ chẳng hề chú ý gì đến kỵ sĩ cô độc đang phi nước đại băng qua. Cái quan xuôi theo kênh đào ước chừng một dặm đường. Nhiều nhóm nhỏ nam thanh nữ tú vẫn đang ngồi nguyên tại vị trí theo dõi cuộc đua thuyền bên bờ kênh. Rồi Địch huyện lệnh tiến vào khu vực đồi núi. Nơi đó, rừng rậm đen kịt âm u hiện lên dọc hai bên đường. Khi đã xuống tới vùng đồng bằng, ông nhìn thấy ánh đèn rực rỡ sắc màu của những quầy hàng ven đường đánh dấu lối vào thôn Thạch Kiều. Băng qua cây cầu đá cao cong cong, vốn là nguồn cảm hứng đặt tên cho ngôi làng, ông trông thấy cột buồm của các chiếc thuyền mành đi biển đồ sộ được neo đậu tại bến tàu phía xa, tại ngã ba giữa dòng sông với con kênh đào Đại Vận Hà. Nơi họp chợ phía bên kia Thạch Kiều lung linh hàng trăm ánh đèn dầu và đèn lồng xen kẽ. Một đám đông dày đặc đang thơ thẩn dạo quanh các quầy hàng. Địch Nhân Kiệt xuống ngựa và dẫn cương đến một xưởng rèn. Nhân lúc rỗi việc, gã đồng ý trông nom con ngựa đổi lấy vài đồng. Ông có vẻ hài lòng khi tay thợ rèn không nhận ra mình là huyện lệnh.
Địch Nhân Kiệt thẩn thơ tản bộ xuôi theo dòng người, tìm một nơi thích hợp để thu thập thông tin. Phía dưới hàng cây cao bên bờ sông, ông trông thấy các cột trụ sơn thiếp đỏ của một miếu thờ nhỏ. Ông hòa vào dòng người lần lượt đi ngang qua nó. Người đi qua ai nấy đều bỏ vài xu vào thùng công đức nằm ở đầu bậc thềm đá dẫn vào miếu. Trong khi bỏ tiền công đức, Địch Nhân Kiệt tò mò nhìn vào phía trong. Một lão tăng, đầu đội mũ sòng tơi tả, đang châm dầu vào chiếc đèn duy nhất treo lủng lẳng trên bàn. Ở đó, ông thấy bức tượng thủy thần, có kích cỡ y như người thật, đang tĩnh tọa trên đài sen. Đôi mắt khép hờ dường như đang ngó xuống huyện lệnh, môi cong khẽ lên một nụ cười mơ hồ. Là một môn đồ trung thành của Nho giáo, Địch Nhân Kiệt ít để tâm tới tín ngưỡng dân gian. Tuy nhiên, khuôn mặt xinh đẹp đang mỉm cười của thủy thần tạo cho ông một cảm giác bất an kỳ lạ. Ông nhún vai, bực bội quay xuống bậc tam cấp và tiếp tục đi về hướng ban đầu dự định. Cuốc bộ một quãng, ông trông thấy một hiệu cắt tóc quay mặt thẳng ra phía bến tàu. Lúc bước vào, ngồi xuống ghế đẩu, huyện lệnh chợt thấy một thiếu phụ mảnh mai tách mình khỏi đám đông và tiến về phía quầy. Nàng vận áo khoác ngoài dệt từ vải hoa đen bóng, đầu quấn một tấm khăn choàng đen che kín nửa dưới khuôn mặt. Hẳn nàng không phải là kỹ nữ, bởi cách phục sức trang nhã và phong thái đường hoàng đã chỉ ra đây là một nữ nhân có địa vị. Trong lúc tháo bỏ mũ chỏm, Địch huyện lệnh thoáng có chút băn khoăn. Điều gì có thể khiến một vị phu nhân thân hành đến khu chợ ồn ã lúc trễ tràng thế này, mà không có ai hộ tống?
Rồi ông quay sang chỉ dẫn tỉ mỉ cho người thợ cách cắt tỉa tóc mai và râu theo ý mình. “Lão gia từ đâu đến vậy?” tay thợ cắt tóc bắt chuyện trong lúc bắt đầu chải râu cho Địch Nhân Kiệt. “Ta là võ sư ở huyện bên,” huyện lệnh đáp. Nghiệp võ sư đòi hỏi người trong giới phải sống theo một cung cách khổ hạnh, nó là nghề được bách tính kính nể và họ thường rất cởi mở với các võ sư. Ông tiếp lời, “Ta đang trên đường về kinh để thăm thân bằng quyến thuộc. Chắc hẳn tối nay ông kiếm chác khá ngon lành, tất cả dân chúng vùng này đều đến đây xem đua thuyền mà.” “Chẳng quá thơm tho gì đâu, nói thật với lão gia! Dân chúng có ối chuyện hay ho để làm hơn là cắt tóc. Lão gia thấy tửu lâu ở bờ bên kia đó không? Trước khi các thuyền khởi hành, hai vị đại gia họ Biện và họ Kha đã khoản đãi những tay chèo ở đấy, thêm cả các bằng hữu lẫn gia quyến của họ nữa. Giờ tiểu nhân hỏi lão gia nhé, ai mà lại đi bỏ tiền chăm sóc tóc tai trong khi có thể được ăn uống no say miễn phí chứ?” Địch Nhân Kiệt đồng tình với y. Qua khóe mắt, ông nhận thấy thiếu phụ áo đen đang đứng gần hàng lan can ngăn cách hiệu cắt tóc với con lộ. Cũng không chừng ả là một kỹ nữ, đang chờ ở đó để mồi chài khi ông đi ra. Huyện lệnh nói với tay thợ cắt tóc, “Ta chỉ thấy bốn tiểu nhị ở tửu lâu đằng kia. Chắc hẳn họ đã phải bận bù đầu bù cổ thì mới phục vụ được các tay chèo! Ta nghe chừng là năm nay có chín thuyền cơ mà.”
“Họ không bận bịu gì đâu. Lão gia có thấy cái bàn ở phía sau không? Ôi, họ đã phải đặt đến sáu chum rượu lớn ở đó. Ai muốn uống thì cứ lấy bát tự múc thoải mái. Còn hai cái bàn nhỏ ở góc phòng chất đầy đồ nhắm mát lạnh. Thực khách cứ tự nhiên mà thưởng thức. Xem nào, tiểu nhân cũng có hai vị khách là thuyền phu. Bụng dạ nghĩ ít nhiều gì mình cũng được phép tham gia, tiểu nhân bèn lẻn vào giữa đám thực khách đó. Nói cho lão gia biết, họ chỉ toàn phục vụ rượu ngon với cao lương mĩ vị thôi! Khi cao hứng, hai vị đại gia kia chẳng biết tiếc ngân lượng đâu! Không hề tỏ chút thái độ hợm hĩnh trịch thượng gì cả, họ liên tục đi lại khắp phòng tiệc, luôn ăn nói hòa nhã với mọi người. Lão gia có muốn gội đầu không?” Thấy Địch Nhân Kiệt lắc đầu, tay thợ tóc nói tiếp, “Dân làng sẽ tiếp tục uống đến tận nửa đêm, tiểu nhân cược thế, mặc dù giờ này thì họ sẽ phải tự bỏ tiền ra mà trả! Có một tai nạn trong cuộc đua, lão gia biết đó, một gã đã toi đời. Thế nên dân ở đây đều hồ hởi. Lúc này, Bạch Nương đã có cống phẩm, rồi vụ thu tới đây sẽ đầy ắp thóc lúa cho coi.” “Ông tin chuyện Bạch Nương à?” “Ôi lão gia ơi, tiểu nhân tin hay không thì cũng thế. Việc làm ăn của tiểu nhân đâu có phụ thuộc vào sông nước hay đồng ruộng. Thế nên tiểu nhân muốn giữ đầu óc thông thoáng với mọi vấn đề. Nhưng tiểu nhân sẽ không bao giờ tự mình lai vãng đến gần rừng Mạn Đà La ở phía trên kia đâu.”
Tay thợ huơ chiếc kéo chỉ và tiếp lời, “Vì khu rừng đó thuộc về Ngài. Cẩn tắc vô ưu, tiểu nhân muốn tránh chuyện phiền phức!” “Ta cũng thế, thôi ông ngừng múa kéo quanh đầu ta đi! Thế được rồi, xin đa tạ. Ta thiếu ông bao nhiêu vậy?” Địch Nhân Kiệt trả cho người thợ vài đồng, đội lại mũ rồi đi ra. Thiếu phụ kia tới gần ông và buông câu nhát gừng, “Ta có đôi lời muốn nói với ông.” Huyện lệnh khựng lại và đưa ánh mắt dò xét nhìn nữ nhân. Chất giọng danh môn khuê các và khẩu khí tự tin của nàng khiến cho ông có ấn tượng ban đầu rằng đây thực sự là một quý phu nhân.👁‍ Địch Công gặp giai nhân bên bến nước Nàng tiếp lời, “Vừa rồi ta có nghe ông xưng là võ sư. Có lẽ ta có một sự vụ cần ông tối nay.” Địch Nhân Kiệt tò mò muốn biết ý đồ của nữ nhân lạ lùng này. Ông đáp, “Ta thường ngao du bốn bể, tứ hải giai huynh đệ, mà chu du thiên hạ thì tiêu tốn ngân lượng. Ta có thể làm thêm vài việc khác cũng được.” “Vậy theo ta!” Nữ nhân rảo bước về phía hàng ghế đá nhám dưới những tán cây liễu rủ dọc theo bờ sông. Đoạn nàng ngồi xuống, Địch Nhân Kiệt ngồi đối diện. Nữ nhân bỏ tấm khăn che mặt, đôi mắt long lanh nhìn thẳng vào ông. Đó là một thiếu phụ có nhan sắc khuynh thành. Khuôn mặt trái xoan không son phấn, bờ môi chúm chím ánh lên sắc hồng đào tự nhiên, gò má mịn màng thoáng ửng hồng. Ông đoán chừng nàng khoảng hai mươi lăm tuổi.
Thoáng thăm dò qua đi, nữ nhân mở lời, “Ông có vẻ là hảo hán, hẳn sẽ không lạm dụng tình huống này để vòi vĩnh thái quá. À, thật ra sự vụ cũng giản đơn thôi! Ta nhận lời hẹn gặp tại một gia trang bỏ hoang gần rừng Mạn Đà La để bàn về một giao dịch quan trọng, cách đây hai khắc đi bộ. Nhưng khi hẹn, ta lại ngớ ngẩn không lưu tâm rằng vào đêm hội đua thuyền, sẽ có đủ loại tiện dân lảng vảng quanh đây. Ta muốn ông hộ tống đến gia trang đó, bảo vệ ta khỏi bọn cướp và các loại đạo tặc khác. Ông chỉ cần đưa ta đến cửa gia trang là được.” Thiếu phụ cho tay vào ống áo, rút ra một đĩnh bạc sáng loáng, rồi tiếp lời, “Ta sẵn sàng trả công hậu hĩnh cho sự vụ nhẹ nhàng này.” Huyện lệnh thầm nghĩ ông nhất định phải biết thêm về chuyện này. Thế nên ông đột ngột nhổm dậy, lạnh lùng buông lời, “Ta chả ham gì việc đánh đổi danh tiếng võ sư gây dựng bao năm qua bằng thứ ngân lượng dễ kiếm kia. Ta từ chối thông đồng với những cuộc gặp gỡ ám muội.” “Sao ông dám cuồng ngôn!” Nữ nhân giận dữ thốt lên. “Đây hoàn toàn là việc đường hoàng, ta nói cho ông hay!” “Trước tiên nàng phải chứng minh điều đó, nếu muốn ta tương trợ.” “Ông ngồi xuống đi! Giờ khắc thì gấp rút, nhưng ta sẽ chiều ý ông. Sự miễn cưỡng của ông đã khẳng định thiện cảm ban đầu của ta là đúng. Ôi dào, ta được giao phó mua một bảo vật vào tối nay. Giá cả đã được dàn xếp xong xuôi, nhưng sự vụ đặc biệt này cần phải được giữ bí mật tuyệt đối. Những kẻ khác cũng muốn mua vật này và chủ nhân của nó cũng không muốn cho đám người đó biết y bán lại cho ta. Thiên hạ sẽ đại loạn, giang hồ sẽ dậy sóng! Y đang chờ ta ở gia trang đấy. Một gian nhà hoang lạnh nhiều năm, không ai có thể mường tượng ra đấy là nơi an toàn cho một giao dịch tín cẩn liên quan đến nhiều ngân lượng thế này.”
Địch Nhân Kiệt nhìn vào tay áo trái nặng trĩu của nữ nhân. “Ý nàng là,” ông hỏi, “một nữ nhân độc lai độc vãng, lại đang mang theo một số ngân lượng lớn để mua hàng à?” Thiếu phụ rút ra một gói vuông vắn từ ống tay áo và lặng lẽ trao cho huyện lệnh. Sau khi đoan chắc không có ai quan sát, ông nới lỏng một góc giấy dày. Ông há hốc miệng đầy kinh ngạc. Trong gói có đến mười nén vàng ròng sáng ngời, được lèn chặt và gói ghém chắc chắn. Trao lại gói vàng, Địch Nhân Kiệt hỏi, “Nàng là ai?” “Ông thấy đấy, ta hoàn toàn tin tưởng ông,” thiếu phụ bình thản trả lời trong khi cất lại gói vàng vào ống tay áo. “Ta mong chờ điều tương tự từ ông.” Lại lấy ra đĩnh bạc, nàng hỏi, “Thỏa thuận thế nhé?” Huyện lệnh gật đầu và nhận đĩnh bạc. Câu chuyện với tay thợ cắt tóc đã khiến ông ngộ ra, việc lần ra dấu vết của vụ đầu độc Đổng Mai là một công vụ khó khăn. Ngày mai, ông sẽ phải thẩm tra kỹ lưỡng những địa bàn mà nạn nhân hay lui tới cũng như các mối quan hệ của y, nhằm khám phá ra manh mối về động cơ thủ ác. Khảo cung sẽ chẳng mang lại lợi ích gì, vì kẻ nào cũng có thể bỏ độc vào rượu hay đồ ăn của Đổng Mai trong suốt bữa thiết yến tại tửu lâu. Đang lúc bức bí giữa biển khơi luận chứng như thế này, ông có thể bỏ thời gian xem nữ nhân lạ mặt này định làm những gì. Khi hai người di chuyển, ông nói, “Tốt hơn là nên mua một cái đèn ở đây.”
“Ta thuộc mọi ngõ ngách của gia trang đó trong lòng bàn tay rồi,” thiếu phụ sốt ruột nói. “Nhưng ta thì không, ta sẽ phải tìm đường về một mình,” Địch Nhân Kiệt bình phẩm. Ông dừng lại trước một hàng xén và mua một đèn lồng nhỏ bằng giấy dầu căng trên khung tre. Khi cả hai tiếp tục lên đường, huyện lệnh hỏi với vẻ hiếu kỳ, “Làm thế nào mà cái gã nàng sắp gặp tìm được đường đến nơi hẹn?” “Y từng sống ở đó. Và y sẽ đưa ta về làng, trong trường hợp ông lo lắng về chuyện đó!” Họ tiếp tục rảo bước trong im lặng. Sau khi bước vào con đường tối như mực dẫn đến khu rừng, họ đi ngang qua một toán lưu manh non choẹt đang đùa ghẹo với ba ả kỹ nữ. Bọn chúng định buông lời bình phẩm tục tĩu với hai người, nhưng thoáng thấy dáng người lừng lững của Địch Nhân Kiệt, chúng chợt im bặt. Đi xa hơn một chút, thiếu phụ rẽ trái vào một con đường mòn dẫn tới khu rừng. Họ chạm mặt hai tên đầu trâu mặt ngựa đang lảng vảng dưới những rặng cây. Chúng sấn tới định vây ráp họ, nhưng vừa thấy ông xắn tay áo với tấn pháp của một võ sư lão luyện, chúng liền nhanh chóng lủi mất. Địch Nhân Kiệt nghĩ thầm, ‘Hoá ra mình cũng đáng đồng tiền bát gạo đấy chứ. Một nữ nhân lẻ loi sẽ chẳng bao giờ có thể đi đến nơi mà không bị quấy rầy.’ Rồi ông không còn nghe thấy những âm thanh ồn ào của khu chợ nữa. Không gian tĩnh mịch chỉ bị phá vỡ bởi tiếng kêu kỳ quái của lũ cú muỗi. Con đường mòn quanh co dẫn lối xuyên qua một mảnh rừng rậm rạp đầy những cây cổ thụ sừng sững, đến nỗi chỉ có vài mảnh ánh trăng lọt xuống mặt đất bị bao phủ bởi tầng lá khô dày.
Thiếu phụ quay người lại và chỉ vào một cây thông cao có nhiều mấu. “Hãy nhớ cái cây này,” nàng nói. “Trên đường về, ông rẽ bên trái ở đây và cứ men theo bên trái mà đi tiếp.” Nữ nhân đi vào một con lộ nhỏ, cỏ dại mọc cao kín lối. Dường như nàng quen thuộc mọi đường đi lối bước, còn Địch Nhân Kiệt phải rất vất vả mới theo kịp, vì chân ông cứ va vấp trên con đường đất gồ ghề. Để có chút thời gian nghỉ chân, ông hỏi, “Sao gia trang ấy bị bỏ hoang vậy?” “Vì dân tình nghĩ là nơi đó bị ma ám. Gia trang tiếp giáp rừng Mạn Đà La và ông đã nghe những gì gã thợ cắt tóc ngu ngốc nói rồi chứ. Liệu ông có phải một kẻ hèn nhát?” “Ta thấy bản thân gan dạ hơn kha khá người.” “Tốt. Giờ hãy giữ yên lặng, chúng ta gần tới nơi rồi.” Sau khi cuốc bộ một quãng đường mà Địch Nhân Kiệt cảm thấy dài dằng dặc, nữ nhân dừng lại. Nàng đặt tay lên cánh tay ông và chỉ về phía trước. Nơi đó, các ngọn cây thưa thớt dần, ông thấy bên dưới ánh trăng ảm đạm một chòi gác cũ kĩ, lớp gạch vữa đã bị bào mòn vì gió mưa. Phía bên kia là bức tường cao. Thiếu phụ bước lên bậc tam cấp dẫn tới một cánh cổng gỗ nặng nề đã xuống nước, đẩy mở nó và thì thầm, “Vô cùng cảm tạ ông đã hộ tống. Xin cáo từ!” Nữ nhân lẩn nhanh vào trong. Địch Nhân Kiệt quay người lại và bước đi. Nhưng ngay khi vừa khuất dạng sau hàng cây, ông dừng lại, đặt đèn lồng xuống đất, vén tà áo giắt vào thắt lưng và xắn tay áo. Đoạn, ông cầm đèn lên và tiếp cận chòi gác. Huyện lệnh định vị nơi diễn ra cuộc hẹn của cặp đôi thần bí kia và tìm một góc thuận lợi để theo dõi bọn họ. Nếu đây thật sự là một thương vụ đường hoàng thì ông sẽ quay về ngay. Bằng không, nếu có bất cứ điểm khả nghi nào, ông sẽ lộ diện, thông báo danh tính và yêu cầu họ giải trình đầy đủ.
Tuy nhiên, ngay khi bước chân vào bên trong, ông nhận ra nhiệm vụ không dễ dàng như mường tượng, vì gia trang này không được xây dựng theo cấu trúc thông thường. Thay vì băng qua khoảng sân trước khoáng đãng, ông lại đang dò dẫm trong một đường hầm mờ tối. Không muốn thắp đèn, ông dựa vào cảm quan để lần mò dọc theo bức tường đá phủ đầy rong rêu, tiến về phía ánh sáng leo lét tỏa ra phía trước. Xuyên qua đường hầm, Địch Nhân Kiệt bước ra một sân rộng bị bỏ hoang, cỏ dại mọc um tùm giữa các phiến đá lát vỡ vụn. Ở phía bên kia, khối nhà chính lờ mờ hiện ra, phần mái ngói bị lún hằn lên nền trời sáng trăng. Ông băng qua khoảng sân, rồi dừng lại. Ông nghĩ mình đã nghe thấy tiếng ồn đâu đó phía bên phải, nơi có một cánh cửa hẹp có lẽ dẫn đến chái nhà phía đông. Ông nhanh chóng đi qua cửa và nghe ngóng. Những giọng nói xuất phát từ phương lầu trên nền đất cao chừng bốn thước, nằm phía bên kia một hoa viên nhỏ có tường bao quanh, cỏ dại mọc đầy. Tường và mái của ngôi lầu trông như đã được sửa chữa so với phần còn lại của khu nhà. Cửa ra vào đóng chặt và cánh cửa sổ cũng khép im lìm. Giọng nói vọng ra từ ô cửa sổ nhỏ trổ phía trên cửa chính. Huyện lệnh nhanh chóng cân nhắc tình hình. Bờ tường bao bên trái chỉ cao hơn bốn thước, phía bên kia là các thân cây cao vút của khu rừng tối đen. Tường bao bên phải thì cao hơn. Nếu ông trèo lên đỉnh tường thì có thể mắt thấy tai nghe chuyện đang xảy ra bên trong lầu, thông qua ô cửa sổ kia.
Ông chọn một vị trí lở gạch trên bờ tường để tạo thế phi lên dễ dàng. Thế nhưng, khi ông đang trèo lên đỉnh tường thì mặt trăng bị mây che khuất, khiến cho không gian trở nên tối đen như mực. Ông khẽ khàng bò nhanh về phía phương lầu. Địch Nhân Kiệt nghe tiếng nữ nhân nói, “Ta sẽ chẳng tiết lộ nửa lời, cho đến khi ta biết được vì sao ngươi lại ở đây?” Có một tiếng chửi thề, rồi âm thanh của một vụ tranh giành. Nữ nhân hét lên, “Buông bàn tay dơ bẩn của ngươi ra. Ta nói ngươi không được sờ vào đó.” Đúng lúc ấy, một mảng tường sụt xuống dưới sức nặng của Địch Nhân Kiệt. Khi ông đang ngả nghiêng cố giữ thăng bằng, một mảng gạch lớn đổ sầm xuống đám đá vụn bên dưới. Lúc đang dò dẫm giữa mép gạch nát để trèo xuống, ông chợt nghe tiếng la thất thanh của thiếu phụ. Rồi tiếng cánh cửa mở bung ra, sau đó là những bước chân vội vã. Ông thả mình xuống giữa đám cây bụi dưới chân tường và lớn tiếng, “Tất cả ở yên tại chỗ, người của ta đã giăng thiên la địa võng bao quanh gia trang!” Đó là kế hay nhất ông có thể nghĩ ra, nhưng rõ là nó chẳng đủ trọng lượng. Trong lúc xoay trở bò dậy, ông lại nghe thấy từ xa vọng lại tiếng cành cây răng rắc gãy gần chòi gác. Kẻ bôn tẩu đang trốn thoát vào rừng. Địch Nhân Kiệt nhìn vào khu lầu. Qua cánh cửa khép hờ, ông có thể thấy phần nào nội tình bên trong, nhờ ánh sáng từ ngọn nến duy nhất. Thiếu phụ đang nằm sóng soài trên nền nhà. Ông loạng choạng vấp vào đám cỏ dại, vội vã phóng nhanh lên các bậc đá, rồi khựng lại trước ngưỡng cửa mở. Nữ nhân nằm ngửa, một con dao găm cắm phập vào ngực nàng. Ông nhanh chóng ngồi xổm xuống cạnh thiếu phụ và đau đáu ngắm nhìn khuôn mặt giai nhân. Nàng đã trút hơi thở cuối cùng.
“Nữ nhân đã trả công cho ta để bảo vệ nàng, vậy mà ta lại để nàng bị hạ sát!” Ông lẩm bẩm, giận run người. Rõ là nàng đã cố gắng tự vệ, bàn tay phải còn siết chặt một thanh chủy thủ lưỡi mỏng vấy máu. Những chấm máu đỏ tươi kéo dài trên sàn nhà đến tận cửa ra vào. Ông lần vào trong ống tay áo của nữ nhân. Gói vàng biến mất. Chỉ còn hai chiếc khăn tay và một tờ chi phiếu có đóng triện đã chi trả, đề là ‘Hổ Phách phu nhân, ở biệt phủ của tiên sinh Kha Nguyên Lương’. Địch Nhân Kiệt nhìn lại gương mặt xanh xao bất động của người xấu số. Ông từng loáng thoáng nghe bách tính rỉ tai nhau, rằng đại phu nhân của Kha gia đã đau yếu suốt nhiều năm do bị bệnh nan y, rồi họ Kha đã cưới một thiếu phụ trẻ trung và ban tặng danh phận nhị phu nhân. Đó chắc chắn là nàng. Lão Kha ngu ngốc đó đã để cho nương tử chường mặt đến chốn này mua một món đồ cổ giá trị cho bộ sưu tập của mình! Nhưng đây lại là một cái bẫy được dựng lên để cướp đoạt ngân lượng. Huyện lệnh đứng dậy, thở dài và thẩm tra gian phòng trống trải. Ông nhăn mày, vầng trán hằn nếp nhăn đầy vẻ tư lự. Ngoài một cái ghế thì thứ vật dụng duy nhất còn lại trong phòng là chiếc phản bằng tre ghép. Chẳng có tủ hay hốc tường gì cả, không có nơi để cất trữ bất cứ món đồ nào. Trần và tường mới được sơn sửa lại, cửa sổ được lắp thêm các chấn song sắt. Cánh cửa bằng ván dày còn mới tinh, có treo một ổ khóa lớn. Lắc đầu vẻ khó hiểu, ông với lấy cây nến và thắp sáng đèn lồng. Rồi ông bước xuống hoa viên nằm lọt thỏm giữa các bức tường và thả bộ về phía khu nhà chính.
Chẳng còn thứ gì giá trị sót lại trong các căn phòng ẩm thấp và tối đen. Ở sảnh chính xập xệ đã hư hỏng hoàn toàn, mắt ông chạm phải những chữ chạm khắc trên lớp vữa tường chắn. Hai hàng chữ lớn hiện ra, ‘Thủy Trang viên, Đổng Nhất Quán lão chủ đề bút’. “Hảo thư pháp!” Địch Nhân Kiệt khẽ trầm trồ trong lúc tiếp tục xem xét gian nhà. Trong các hành lang trống huơ trống hoác, vài con dơi vỗ cánh bay xung quanh đầu ông, dường như bị cuốn vào ánh sáng của ngọn đèn lồng. Ngoài đám dơi và một số con vật đang nháo nhào lẩn trốn khi ông đến gần, không gian còn lại lặng im như một khu nhà mồ. Ông thoái bộ trở lại phương lầu để thu lại con dao găm và thanh chủy thủ. Sau đó, ông sẽ trở lại Thạch Kiều và lệnh cho trưởng thôn cùng các tuần đinh* đến nơi đây để mang thi thể của nữ nhân xấu số về lại trấn. Chẳng còn việc gì để làm ở cái chốn ma quái ảm đạm này nữa cả. Khi vào hoa viên có tường rào kín, ông thấy mặt trăng trên cao lại ló dạng lần nữa, lần này Hằng Nga đã tươi tỉnh và rạng rỡ hơn. tuần đinh là trai tráng được cắt cử làm công việc tuần phòng ở xã thôn. Bất chợt ông chết sững người, kẻ nào đó đang lén lút bước đi dọc phía bên kia bờ tường thấp ngăn cách hoa viên với cánh rừng. Ông chỉ kịp thấy cái đầu bù xù tổ quạ của kẻ thâm nhập đang dịch chuyển ra xa khỏi phương lầu. Rõ là kẻ lạ mặt chưa nhận ra sự có mặt của ông, hắn tiếp tục thong thả đi men theo bờ tường.
Huyện lệnh thu mình, bước êm ru về phía bờ tường thấp. Tay nắm chắc đỉnh tường, ông tung người qua và đáp xuống một con rãnh phủ đầy cây cỏ dại. Lóng ngóng đứng dậy, ông nhận thấy ở phía bên này, bờ tường cao hơn sáu thước phía trên bờ rãnh hẹp. Không có bóng dáng kẻ nào cả. Ông ngước lên nhìn bờ tường, toàn thân đông cứng trong nỗi kinh hoàng không tên. Chỉ duy nhất một cái đầu tổ quạ đang rón rén bò dọc đỉnh tường, với những bước đi xóc nảy kỳ quái. Địch Nhân Kiệt đứng lặng người, nín thở trong thoáng chốc, mắt nhìn xoáy vào cái thứ quái gở ấy. Thế rồi, ông chợt mỉm cười, thở phào, tưởng như đã trút được gánh nặng ngàn cân. Ánh trăng đã đánh lừa mắt người. Đó chỉ là một túm cỏ rối được một con vật nhỏ cõng trên lưng. Ông vươn tay về phía trước, túm lấy đám cỏ dại rồi giật sang bên. Một con rùa nhỏ bên dưới đang rướn đôi mắt mờ đục nhìn ông đầy trách móc, rồi nó mau mắn rụt đầu và co chân vào trong mai. “Khôn khéo đấy, tiểu bằng hữu!” Địch Nhân Kiệt thầm thì. “Giá mà ta có thể làm được như ngươi!” Thật thoải mái khi nói thế. Không khí gớm ghiếc của chốn ma quái này bắt đầu đè nặng lên huyện lệnh. Ông đưa mắt nhìn mông lung vào cánh rừng tối đen, đang vươn cao từ tầng cây thấp rắn rỏi ở bờ bên kia của rãnh hào. Rõ ràng đó là khu rừng Mạn Đà La, nơi bất khả xâm phạm của thủy thần. Chẳng có nổi một chiếc lá dám phất phơ lay động dưới ánh trăng bạc.
“Nơi đây không dành cho chúng ta,” Địch Nhân Kiệt nói với chú rùa. “Tốt hơn là ngươi nên đi với ta về khuấy động hòn non bộ nhỏ ở phủ. Bạch Nương sẽ chẳng nhớ nhung gì ngươi đâu!” Ông lấy khăn tay ra, đặt chú rùa lên đó, thắt nút khăn lại rồi bỏ vào tay áo. Đoạn ông leo qua bức tường lần nữa, trở vào trong hoa viên. Huyện lệnh tiếp tục quay lại phương lầu và cẩn thận rút con dao găm từ ngực nữ nhân ra. Nó đã xuyên thẳng vào tim nàng, khiến mặt trước của tà áo đen đẫm trong máu tanh. Rồi ông lấy thanh chủy thủ từ bàn tay vô hồn của thiếu phụ, bọc cả hai thứ vũ khí vào một trong hai chiếc khăn tay của nữ nhân. Nhìn gian phòng lần cuối, ông quay người bước đi. Đến chòi gác, Địch Nhân Kiệt tra xét đường hầm. Bây giờ, ông thấy một hàng lan can chạy dọc theo đỉnh của bờ tường ngoại vi. Rõ ràng chủ nhân của trang viên hiu quạnh này đã gia cố đường ngang lối dọc, có lẽ vì lo sợ đạo tặc tấn công. Ông nhún vai và rời khỏi trang viên. Có chiếc đèn lồng trên tay, ông tìm đường trở lại Thạch Kiều chẳng mấy khó khăn. Chợ hãy còn đông vui, dân làng chẳng thiết đến chuyện hồi gia. Địch Nhân Kiệt lệnh cho một kẻ gần đó dẫn mình đến gặp trưởng thôn. Sau khi xưng danh, ông diễn giải cho kẻ đang khiếp sợ ấy về tử thi. Ông cũng ra lệnh cho y cử mười hai tuần đinh đến trang viên, đứng đó canh phòng cho đến sáng. Sau đó, ông lấy ngựa từ chỗ tay thợ rèn, đặt hai món vũ khí và chú rùa vào túi bên yên, rồi phi nước đại về phủ.
HỒI 5 Thương thay thân phận của nàng Dọa ma nhát quỷ, ngỡ ngàng ngự châu Lính gác Nam môn đang khép dần cánh cổng thành bọc sắt khổng lồ. Những nhóm nhỏ thường dân vẫn lũ lượt tiến vào thành, dù đã vào giờ giới nghiêm. Mỗi người trao cho vệ úy một thẻ bài thuôn nhỏ bằng tre có ghi số hiệu. Người nào muốn vào thành sau giờ đóng cổng đều phải hỏi xin một thẻ bài như vậy khi xuất thành. Những ai không có thẻ sẽ chỉ được vào sau khi trả khoản phạt năm đồng, đồng thời phải để lại danh tính, phẩm tước và địa chỉ. Khi viên vệ úy nhận ra huyện lệnh, y quát lính canh mở rộng cổng thành ngay lập tức. Địch Nhân Kiệt dừng ngựa. Ông hỏi, “Có nam nhân nào thân mang thương tích vừa mới đi qua cổng thành không?” Viên vệ úy kéo ngược chiếc mũ sắt ra khỏi vầng trán ẩm thấp và rầu rĩ đáp lời, “Bẩm đại nhân, thuộc hạ chẳng thể nào biết được! Bọn thuộc hạ không có thời gian để tra soát kỹ càng từng nam nhân, đám đông…” “Thôi được rồi. Từ giờ trở đi, ngươi sẽ phải kiểm soát kỹ lưỡng mọi nam nhân để tìm ra một kẻ mang thương tích do chủy thủ gây nên. Nếu ngươi phát hiện ra, lập tức bắt giữ hắn và giải đến nha phủ. Cử một binh sĩ ở đây cưỡi ngựa tới ngay ba cổng thành kia, truyền khẩu lệnh của ta cho các đồng cấp của ngươi đang trực ở đó.” Rồi huyện lệnh tiếp tục phóng ngựa đi. Phố xá vẫn đầy ắp đám đông hân hoan hồ hởi, các tửu điếm và quầy hàng ven đường vẫn đang giao thương tấp nập. Ông giục ngựa đi về hướng khu phía đông. Ông từng nghe là Kha gia trú ngụ ở đó. Tại đại quân doanh của lính đồn trú, ông báo tin cho viên Lãnh đội vệ binh. Một thám quân liền dẫn ông đến một biệt phủ rộng lớn nằm ở khu vực dân sinh yên ắng, cách Đông môn không xa lắm. Khi ông xuống ngựa, thám quân gõ lên cánh cửa kép phủ sơn thếp đỏ trước trang viên.
Ngay khi người gác cổng già nua nhận ra Địch Nhân Kiệt, lão hấp tấp vào trong bẩm báo với chủ nhân về chuyến viếng thăm của vị khách cao quý. Họ Kha vội vã ra sân trước nghênh tiếp ông với bộ dạng sửng sốt. Quên hết lễ nghi phép tắc, y hỏi vẻ kích động, “Bẩm, đã xảy ra chuyện chẳng lành sao?” “Có đấy. Chúng ta vào nhà đã chứ?” “Thưa, dĩ nhiên là được! Mong đại nhân thứ lỗi, thảo dân quá hàm hồ.” Kha Nguyên Lương lắc đầu vẻ ăn năn, rồi y dẫn huyện lệnh đi xuyên qua hành lang quanh co đến một thư viện lớn, chỉ được trang hoàng bằng vài món đồ cổ thuần chất. Khi họ đã ngồi xuống quanh một bàn trà đặt ở góc phòng, Địch Nhân Kiệt cất tiếng hỏi, “Nhị phu nhân của ngươi tên là Hổ Phách phải không?” “Dạ đúng, thưa đại nhân! Chuyện gì đã xảy ra với Hổ Phách? Nàng đi ra ngoài để giải quyết việc riêng ngay sau bữa tối, đến giờ vẫn chưa về. Có chuyện gì…” Y im bặt khi thấy viên quản gia bưng khay trà vào. Trong lúc họ Kha đứng dậy châm trà ra hai chén, Địch tri huyện vừa quan sát khuôn mặt của gia chủ, vừa chậm rãi vuốt lọn tóc mai dài. Sau khi Kha Nguyên Lương đã an tọa, ông nói vẻ nghiêm trọng, “Bản quan rất lấy làm tiếc phải báo hung tin, Kha tiên sinh. Phu nhân Hổ Phách đã bị sát hại.” Sắc mặt trở nên nhợt nhạt, họ Kha ngồi trơ ra đó, hai mắt mở to kinh hãi dán vào khách nhân. Y bất ngờ la lên, “Bị sát hại! Sao lại có chuyện tày trời đó? Kẻ nào xuống tay? Nàng ấy đã ở đâu khi…?”
Địch Nhân Kiệt giơ tay lên. “Về câu hỏi cuối, ngươi đã biết câu trả lời rồi mà. Chính ngươi đã cử thê tử đến nơi vắng vẻ ấy!” “Bẩm, nơi vắng vẻ ư? Nơi vắng vẻ nào? Trời đất thiên địa ơi, tại sao nàng không nghe lời thảo dân! Thảo dân đã van nài nương tử tiết lộ là nàng định đi đến đâu, nhưng…” “Tốt hơn hết là ngươi nên kể đầu đuôi câu chuyện đi, Kha tiên sinh.” Huyện lệnh ngắt lời y lần nữa. “Đây, hãy nhấp một ngụm trà đi đã. Chuyện này hẳn là một cú sốc kinh khủng đối với ngươi, tất nhiên rồi. Nhưng trước mắt, nếu không biết tường tận các chi tiết, bản quan sẽ không bao giờ bắt được kẻ hung thủ sát hại lệnh phu nhân.” Họ Kha nuốt ừng ực mấy ngụm trà liền, đoạn hỏi với giọng bình tĩnh hơn, “Bẩm, là kẻ nào ra tay?” “Một kẻ mà ta chưa rõ danh tính.” “Nàng bị sát hại như thế nào?” “Phu nhân bị một con dao găm đâm thẳng vào tim. Phu nhân không kịp cảm thấy đau đớn mà chết ngay lập tức.” Kha Nguyên Lương chậm rãi gật đầu. Y tiếp lời, giọng êm hơn, “Thưa đại nhân, Hổ Phách là một người khác thường. Nàng có tài năng kỳ lạ trong việc đánh giá cổ vật, nhất là những viên trân châu. Nàng luôn trợ giúp thảo dân nghiên cứu cổ vật, là người đầu ấp tay gối mỹ lệ đáng yêu…” Y khổ sở ngó sang các giá kệ bằng gỗ hắc tùng chạm khắc dựng sát vách, về phía bên phải cửa ra vào, trên đó bày rất trang nhã các món đồ men sứ và ngọc bích. “Bẩm, tất cả là do một tay Hổ Phách sắp xếp,” y tiếp tục, “và nàng cũng soạn thảo danh mục. Lúc thảo dân chuộc về cách đây bốn năm, nàng hãy còn chưa biết đọc. Nhưng chỉ sau một, hai năm, nương tử đã học được cách họa chữ.”
Y đột ngột nghẹn lời, lấy tay ôm mặt. “Ngươi chuộc thân cho phu nhân từ đâu?” Địch Nhân Kiệt nhã nhặn hỏi. “Thưa, nương tử vốn là nô tỳ của Đổng Nhất Quán. Thảo dân…” “Đổng Nhất Quán?” Địch Nhân Kiệt thốt lên. Đó là thiêm danh được thêm vào những hàng chữ khắc ở sảnh chính của gia trang ma quái kia! Và thiếu phụ đã nói rằng mình và nam nhân sắp gặp đều hiểu biết tất thảy về gia trang đó! Ông tiếp lời, “Phải chăng Đổng Nhất Quán là thân phụ của Đổng Mai, nho sinh bị sát hại?” “Dạ thưa, quả thật như vậy. Hổ Phách vốn là trẻ mồ côi được Đổng lão phu nhân nuôi dưỡng và yêu quý. Bốn năm trước, khi Đổng Nhất Quán buộc phải bán hết gia sản, lão muốn thu xếp cho Hổ Phách vào một nhà tử tế, nên đã chào bán nàng cho thảo dân. Vì Kha gia chẳng có mụn con cái nào nên thảo dân đã mua thiếu nữ bằng bốn nén vàng, định bụng nhận nàng làm nhi nữ. Nhưng nàng mỗi ngày lại càng kiều diễm. Nàng có một vẻ yêu kiều khiến người ta mê mẩn, đẹp tựa một pho tượng ngọc bích. Nàng…” Họ Kha chà tay lau mắt. Một hồi sau, y thêm lời, “Do đại phu nhân nhà thảo dân mắc bệnh nan y, nên hai năm sau, thảo dân cưới Hổ Phách làm nhị phu nhân. Lẽ dĩ nhiên là thảo dân có phần già hơn nàng, nhưng bọn thảo dân tâm đầu ý hợp…” “Bản quan hiểu rồi. Giờ thì ngươi hãy cho ta biết đã giao nhiệm vụ gì cho thê tử?” Kha Nguyên Lương chậm rãi uống cạn chén trà trước khi hồi đáp, “Bẩm đại nhân, chuyện là thế này. Hổ Phách đã tiến cử Đổng Mai, một tay giỏi săn tìm và thâu tóm cổ vật, cho thảo dân. Dĩ nhiên nàng hiểu y rất rõ, vì từng lớn lên cùng nhau. Cách đây hai hôm, nàng nói rằng Đổng Mai tình cờ tìm thấy một món cổ vật có giá trị vô song và cực kỳ hiếm có, một… lộc bình. Đó là một trong những cái bình nguyên bản còn tồn tại trên dương gian này và giá của nó là mười nén vàng ròng. Theo nương tử thì thật sự nó đáng giá gấp đôi số đó, thậm chí còn hơn.
“Vì cái bình là món đồ có tiếng, được nhiều nhà sưu tầm thèm khát, nên Đổng Mai không muốn chuyện mình rao bán nó lộ ra. Nàng nói y đã hứa sẽ trao tay vật đó cho nàng ở một địa điểm an toàn mà cả hai đều biết. Phu nhân nhà thảo dân sẽ đi đến đó vào tối nay, sau cuộc đua thuyền. Thảo dân đã cố thuyết phục nàng tiết lộ địa điểm. Một thiếu phụ trẻ trung đi một mình, trên người mang ngần ấy ngân lượng… Nhưng nàng khăng khăng sẽ tuyệt đối an toàn… Thế rồi, đêm nay, khi thấy Đổng Mai tử nạn, thảo dân biết là nương tử sẽ uổng công chờ đợi. Thảo dân hi vọng sẽ thấy Hổ Phách ở nhà khi về gia trang. Lúc không thấy tăm hơi nàng đâu, lòng thảo dân nóng như lửa đốt nhưng chẳng thể làm được gì, vì còn chẳng biết nơi hẹn gặp…” “Ta có thể nói cho ngươi biết nơi đó,” Địch tri huyện nói. “Chỗ hẹn của bọn họ là trang viên bỏ hoang của Đổng gia, trong khu rừng gần thôn Thạch Kiều. Nhị phu nhân không biết Đổng Mai đã chết. Một kẻ khác biết được vụ giao dịch đã đến thế chỗ y. Tên ác nhân này đã giết Hổ Phách và cướp đi số vàng và cả, à… cái bình nữa! Ngươi đã nói là lộc bình phải không?” “Gia trang bỏ hoang! Trời đất ơi, tại sao nàng… Ôi, nơi ấy quen thuộc với nàng thật, dĩ nhiên rồi, nhưng…” Họ Kha cúi xuống, mắt dán xuống đất. Địch Nhân Kiệt nhìn cung cách của gia chủ đầy dò xét. Rồi ông hỏi, “Tại sao dân tình lại nói gia trang đó bị ma ám?”
Y ngẩng lên nhìn, thảng thốt. “Bẩm đại nhân, nơi đó bị ma ám sao? Ồ, đó là bởi khu rừng Mạn Đà La. Nhiều thế kỷ trước, khu vực này còn là một vùng đầm lầy, rừng già âm u, có một dòng sông còn rộng hơn cả bây giờ. Huyện này là trung tâm thờ bái thủy thần, dân chài và thuyền nhân khắp chốn đều đổ về đây đi lễ. Vào thời điểm đó, Mạn Đà La là một khu rừng rậm rạp, giữa rừng già sừng sững một miếu thờ nguy nga với một bức tượng cẩm thạch to lớn khác thường. Đều đặn mỗi năm, một nam tử bị tế sống trước án thờ. “Tuy nhiên, sau đó, kênh đào Đại Vận Hà được mở rộng xuyên qua vùng này và rừng rậm được phát quang. Chỉ còn lại khu rừng nhỏ bao quanh miếu thờ là không bị đụng đến, chiều theo đức tin của bách tính địa phương. Nhưng rồi triều đình ra lệnh chấm dứt việc tế mạng người. Năm sau đó, một trận động đất kinh hoàng đã phá hủy một phần miếu và giết chết vị từ chúc già cùng hai thị đồng. Dân chúng đều nói là do thủy thần nổi giận, bèn bỏ miếu thờ để xây một cái mới bên bờ sông thôn Thạch Kiều. Các đường mòn cắt qua rừng Mạn Đà La nhanh chóng bị cỏ dại phủ kín. Kể từ đó, không ai dám cả gan đặt chân vào khu rừng. Ngay cả những người hái thảo dược cũng vậy, mặc dù cây mạn đà la*, vốn đã tạo nên tên tuổi cho khu rừng, được cho là có dược tính cao và bán rất được giá trên thị trường.” mạn đà la, còn gọi là cà độc dược, là một loại thực vật thân thảo thuộc họ cà. Kha Nguyên Lương chau mày, dường như nhận ra mình đã lạc đề. Y hắng giọng vài lần, lại châm đầy các chén trà, rồi tiếp lời, “Thưa, mười năm trước, Đổng lão gia bắt đầu xây trang viên gần rừng Mạn Đà La. Bách tính địa phương liền cảnh báo lão đó là chuyện cực kỳ điên rồ, làm xáo trộn vùng lân cận của chốn linh thiêng. Họ từ chối làm việc cho Đổng gia, nói rằng Bạch Nương sẽ phẫn nộ vì bị xâm lấn, Ngài sẽ giáng hạn hán và các loại thiên tai khác xuống nếu lão không từ bỏ ý định. Nhưng Đổng Nhất Quán là một kẻ cứng đầu cứng cổ, là người phương Bắc nên lão không mấy tin chuyện thánh thần.
“Lão tuyển phu dịch từ huyện khác về xây trang viên, rồi chuyển cả gia đình đến ở, và cất trữ bộ sưu tập cổ vật bằng đồng ở đó. Thảo dân từng đến thăm Đổng lão vài lần và phát hiện ra bộ sưu tầm đó có chất lượng hảo hạng. Tìm được đồ đồng tốt như vậy, đại nhân biết đấy, quả là rất khó khăn. Thật đáng tiếc rằng…” Họ Kha bỏ lửng câu nói giữa chừng. Y buồn bã lắc đầu, sau đó trấn tĩnh lại và tiếp tục, “Mùa hè bốn năm trước, sau một ngày nóng nực và oi bức, Đổng lão gia đang tận hưởng không khí chiều tà mát mẻ cùng gia đình, trong hoa viên ở trước khu lầu đông, thì thình lình, Bạch Nương xuất hiện từ giữa rừng Mạn Đà La, đến ngay trước mặt họ. Sau này lão có kể lại cho thảo dân nghe chuyện đó. Thật kinh hoàng, thủy thần khoác độc một tấm áo trắng vấy máu, mái tóc dài và ướt đẫm rủ khắp mặt. Giơ cao bàn tay có móng vuốt nhuộm đầy máu tanh, Ngài tiến đến gần bọn họ, cất lên tiếng rú lanh lảnh. “Lão Đổng và những người khác liền nháo nhào bỏ chạy. Cơn giông hung bạo bất ngờ ập xuống, vần vũ cả ngày hôm đó. Chớp rạch ngang bầu trời, sấm vang rền tứ phương, theo sau là cơn mưa ào ào như thác lũ. Khi Đổng lão gia cùng bầu đoàn thê tử dắt díu nhau, tất tả chạy vào thôn, người ngợm ướt sũng, trang phục tả tơi vì gai góc cây cối, trông họ sống chẳng bằng chết. “Tất nhiên là lão Đổng đã bỏ ngay trang viên đó. Chưa hết, ngày kế, lão nghe tin hãng buôn của mình ở kinh thành bị phá sản. Họ Đổng phải bán gia trang và điền viên cho một phú thương thảo dược chốn kinh kì và bỏ xứ ra đi.”
Họ Kha đột ngột ngắt lời. Địch Nhân Kiệt chăm chú lắng nghe, từ tốn vuốt bộ râu dài đen nhánh. Sau một lúc, ông hỏi, “Tại sao Hổ Phách, dù biết tất thảy điều đó, vẫn ngang nhiên viếng thăm gia trang ma ám ấy vào buổi tối?” “Thưa đại nhân, Hổ Phách không tin là trang viên thực sự bị ma ám. Nàng từng nói chẳng hề có chuyện ma quỷ hiện hình, mà tất cả chỉ là trò do dân địa phương dựng lên để dọa Đổng lão mà thôi. Hơn nữa, là phận nữ nhi, nàng không nhất thiết phải e sợ, thật đấy ạ. Thủy thần tượng trưng cho sáng tạo và sinh sản, Ngài luôn phù hộ cho nữ nhân. Do đó, chỉ các nam nhân mới bị cúng cho Ngài, không bao giờ là nữ cả.” Địch Nhân Kiệt gật đầu rồi nhấp vài ngụm trà. Đặt chén xuống, ông bất ngờ đanh giọng hỏi, “Ngươi đã để cho phu nhân Hổ Phách đi ra ngoài thực hiện một thương vụ nguy hiểm cho mình và phu nhân đã bị sát hại tàn nhẫn. Ngươi phải gánh chịu một phần trách nhiệm cho tội ác này! Vậy mà ngươi dám kể lể dông dài cho bản quan nghe câu chuyện tầm phào về lộc bình cổ! Không, không được ngắt lời ta. Ngươi thật sự tưởng ta ngu ngốc đến mức tin rằng trần đời này có một bình cổ đáng giá mười nén vàng? Mau khai ra chân tướng sự việc! Hổ Phách đi mua vật gì cho ngươi?” Kha Nguyên Lương đứng bật dậy. Y đi đi lại lại trên sàn, dáng vẻ cực kỳ bối rối. Sau cùng, dường như đã đưa ra quyết định, y khựng người lại trước mặt huyện lệnh.
Ngập ngừng liếc mắt về phía cánh cửa đã đóng chặt, y rướn người về phía Địch Nhân Kiệt và khàn giọng thì thầm, “Bẩm, đó là viên ngự châu đã thất lạc!” HỒI 6 Địch Công lắng nghe chuyện ngự châu Kha gia kể về người cung nữ Địch huyện lệnh kinh ngạc trước vẻ kích động của gia chủ. Rồi ông đập bàn quát, “Điêu dân to gan, còn không mau nói sự thật? Ngươi dám cả gan bịa đặt một câu chuyện hoang đường về viên ngự minh châu! Có trời đất chứng giám, khi ta còn bé, nhũ mẫu từng kể câu chuyện đó để dỗ ta ngủ. Viên ngự châu ư? Thực là vớ vẩn!” Ông giận dữ kéo mạnh chòm râu. Kha Nguyên Lương lại ngồi xuống ghế. Y lau vầng trán đẫm mồ hôi bằng ống tay áo, đoạn sốt sắng nói, “Bẩm đại nhân, thảo dân xin thề đó là sự thật! Hổ Phách đã nhìn tận mắt viên ngự châu. Nó to bằng quả trứng chim câu, hình bầu dục, và có độ trắng sáng vô song như người đời thường ca tụng.” “Đổng Mai đã thêu dệt câu chuyện hoang đường! Làm sao mà báu vật hoàng cung cực phẩm kia lại chui vào tay y?” Nghiêng mình trên ghế, họ Kha mau lẹ đáp, “Thưa, Đổng Mai có nó từ một bà lão gần nơi y sống. Y từng giúp đỡ bà ta lúc túng quẫn. Lúc lâm chung, bà lão đã trao tặng y viên ngọc để trả ơn. Do chẳng còn thân quyến, cuối cùng bà lão đã tiết lộ bí mật khủng khiếp mà gia đình mình đã giữ kín qua hai thế hệ.” “Vậy là bây giờ chúng ta lại có một bí mật gia truyền!” Huyện lệnh thở dài. “Thôi được, cứ nghe tiếp vậy!”
“Thưa, đó thực là một câu chuyện ly kỳ, nhưng hoàn toàn chân thật, không có nửa lời dối trá. Bà ngoại của bà lão đó từng là thị nữ trong cung. Khi mẫu thân của bà ta còn là đứa trẻ lên ba, sứ thần Ba Tư đã tặng viên minh châu danh tiếng ấy cho Đương Kim Thánh Thượng, tổ phụ của Thái Tông Hoàng đế. Đấng chí tôn bèn ban ngọc quý cho Hoàng hậu nương nương nhân dịp sinh thần của bà. Món quà cực phẩm này đã khiến hậu cung một phen náo động. Tất cả các phi tần và nữ quan đều tụ tập quanh Hoàng hậu ở phượng cung, xun xoe chúc tụng lệnh nương nương về vật chứng thể hiện tình yêu của Hoàng đế bệ hạ. “Bé gái nhỏ lúc ấy đang chơi đùa bên ngoài mái hiên. Nghe thấy âm thanh huyên náo, bé gái lẩn vào trong phòng và nhìn thấy viên ngọc đặt trên một tấm đệm gấm thêu kim tuyến, nằm trên chiếc bàn nhỏ ở góc phòng. Bé gái với tay lấy ngọc, bỏ tọt vào miệng rồi đi ra ngoài, định là sẽ chơi với nó trong vườn. “Khi Hoàng hậu phát hiện ra viên minh châu đã biến mất, liền truyền lệnh cho tất cả các thái giám và thị vệ hậu cung. Mọi cửa ngõ ra vào hậu cung đều bị khóa lại, nội bất xuất ngoại bất nhập. Mọi người trong cung đều bị lục soát, nhưng chẳng ai buồn để ý đến đứa trẻ ba tuổi đang rong chơi ngoài ngự hoa viên. Bốn vị quý phi, do bị Hoàng hậu nghi ngờ, đã chịu tra tấn đến chết, nhiều cung nữ ở tam cung lục viện bị đòn roi tàn nhẫn, nhưng viên ngự châu vẫn biệt tăm biệt tích. Cùng tối hôm đó, hai viên ngự sử nhận lệnh mở một cuộc tra xét kỹ lưỡng đến từng chân tơ kẽ tóc.”
Hai má họ Kha đã đỏ ửng. Trong lúc cao hứng kể lại câu chuyện kỳ lạ xa xưa này, dường như y tạm quên nỗi sầu khổ trong chốc lát. Y hớp vội một ngụm trà, đoạn tiếp lời, “Sáng hôm sau, người thị nữ nhận thấy con gái đang mút một vật gì đó. Khi bà định quở trách tiểu nhi tội mò vào hũ kẹo lần nữa, đứa bé ngây thơ giơ ra cho thân mẫu mình xem viên ngọc. Thiếu phụ vô cùng kinh hãi. Nếu đem trả lại ngự châu và nói ra sự thật, bà và cả gia đình sẽ bị hành hình, phải chịu trách nhiệm về cái chết của bốn con người vô tội. Để giữ lấy sự bình yên, bà giấu viên minh châu đi. “Cuộc tra xét kéo dài qua nhiều ngày. Các pháp quan Hình bộ được lệnh hỗ trợ cho hai ngự sử. Hoàng thượng hứa trao thưởng hậu hĩnh cho bất cứ ai có thể giải được bí ẩn đó. Cứ thế, sự vụ rắc rối này lan truyền khắp hang cùng ngõ hẻm trong thiên hạ. Hậu cung đã dậy sóng, giờ thì thiên hạ được một phen lao đao. Vô số giả thuyết được đưa ra luận giải, nhưng dĩ nhiên viên minh châu vẫn biệt vô âm tín. “Người thị nữ giấu kỹ viên ngọc. Cho đến tận phút lâm chung, bà mới giao lại nó cho nhi nữ, bắt con thề phải im lặng suốt đời suốt kiếp. Nữ nhân đó lấy một người thợ mộc vốn đang lâm cảnh nợ nần và sống trong đói nghèo cho đến hết đời. Chắc đại nhân có thể tưởng tượng được tình cảnh bi thảm mà những thường dân đó lâm vào! Trong tay họ nắm giữ một báu vật vô giá mà dân gian ngỡ chỉ có trong truyền thuyết, nhưng nó chẳng mang lại lợi ích gì cả, vì họ chẳng bao giờ có thể chuyển được nó thành ngân lượng. Không thương lái nào có gan sờ đến nó, y sẽ bẩm báo ngay với triều đình và bao hậu quả thảm khốc sẽ xảy ra. Ngoài việc gây ra cái chết của bốn nữ nhân vô tội, họ còn mang trọng tội đánh cắp báu vật hoàng cung. Tội khi quân phạm thượng sẽ là tru di tam tộc. Mặt khác, họ cũng chẳng dám vứt viên ngọc xuống giếng, hay từ bỏ nó theo một cách nào khác. Ngự châu chắc hẳn đã dẫn lối ma quỷ đến với chủ nhân của nó!
“Phu quân của bà lão lìa đời khi bà ta hãy còn trẻ. Mặc dù phải kiếm sống qua ngày bằng việc giặt giũ thuê, bà ta không bao giờ dám kể cho bất cứ ai về báu vật mà mình sở hữu. Chỉ khi toàn bộ gia quyến đã qua đời, bản thân lại lâm trọng bệnh, bà lão mới tiết lộ về viên minh châu và trao nó cho Đổng Mai.” Kha Nguyên Lương ngừng nói, mắt liếc nhìn khách nhân với vẻ mong chờ. Địch Nhân Kiệt không buồn bình phẩm. Câu chuyện này có thể là lời giải hết sức đơn giản cho một bí ẩn lâu đời đã khiến các bộ óc đa mưu tức trí phải hoang mang. Hoàng hậu nương nương được vây quanh bởi đám phi tần cung nữ chốn hậu cung, tất cả đều vận những bộ xiêm y thướt tha bồng bềnh. Đúng là chẳng ai trong số đó để ý đến một đứa bé gái đang nô đùa quanh ngự hoa viên. Mặt khác, đây cũng có thể là một câu chuyện cổ tích được thêu dệt rất tài tình. Sau một hồi lâu im lặng, ông điềm đạm hỏi, “Tại sao Đổng Mai không mang viên ngọc đến hoàng cung? Các pháp quan có thể dễ dàng kiểm tra dòng dõi của bà lão. Nếu bà ta thật sự là hậu duệ của người thị nữ năm xưa, họ sẽ trao thưởng hậu hĩnh cho y, lớn hơn rất nhiều mười nén vàng của ngươi.” “Bẩm đại nhân, rốt cuộc Đổng Mai cũng chỉ là một nho sinh lang thang phiêu bạt. Y sợ triều đình sẽ không tin, mà sẽ dụng hình tra khảo. Do vậy, chỉ cần một vụ dàn xếp hợp lý là y sẽ có mười nén vàng, còn thảo dân sẽ có vinh hạnh trao lại báu vật thất truyền lâu đời này về đúng cho chủ nhân đích thực là hoàng cung.”
Địch Nhân Kiệt quan sát vẻ cao đạo của gia chủ với sự hoài nghi. Ông cảm thấy ngờ vực phần nào câu nói cuối của y. Các tay đam mê sưu tầm cổ vật thường chả có chút gì gọi là đạo lý cả. Ông nghĩ nhiều khả năng là họ Kha sẽ giữ lại viên ngự châu làm của riêng, mãn nguyện ngắm nghía nó trong bí mật suốt phần đời còn lại. Ông lạnh lùng nói, “Ngươi cho thế là một vụ dàn xếp hợp lý. Ta gọi việc không bẩm báo tức khắc các thông tin quan trọng liên quan đến một vụ trộm bảo vật từ hoàng cung là khinh nhờn vương pháp. Đáng lý ra ngươi phải trình báo cho ta ngay những gì mà phu nhân Hổ Phách đã nói. Giờ thì ngươi đã gây ra tổn thất cho kho tàng quốc khố. Ngươi nên hi vọng rằng đó chỉ là mất mát tạm thời thôi. Ta sẽ làm mọi việc có thể để truy ra dấu vết của tên sát nhân và giành lại ngự châu. Nếu viên ngọc là đồ giả và câu chuyện chỉ là trò bịp bợm thì ngươi gặp may đấy!” Chặn họng câu hỏi lắp bắp của Kha Nguyên Lương, huyện lệnh đột ngột đứng dậy và tiếp lời, “Câu hỏi cuối. Đổng Mai có từng kể rằng y đã sửa sang phương lầu của gia trang hoang vu kia và dùng nó để cất giấu các bảo vật mà mình đã mua bán được hay không?” “Dạ bẩm, chưa bao giờ thảo dân được nghe! Hổ Phách còn chẳng biết nữa là, thảo dân cam đoan!” “Ta hiểu rồi.” Khi đang quay ra phía cửa chính thì Địch Nhân Kiệt chợt khựng lại. Một thiếu phụ đoan trang, dáng thanh cao đang đứng ở ngưỡng cửa mở rộng.
Họ Kha vội tiến về phía nữ nhân. Đặt tay lên cánh tay của nàng, y dịu dàng nói, “Kim Liên, nàng mau quay về buồng đi! Nàng vẫn chưa khỏe lại mà, ái thê à!” Dường như thiếu phụ chẳng nghe thấy gì. Khi Địch Nhân Kiệt tiến lại gần, ông nhận ra nàng trạc ba mươi tuổi và thực sự là một trang quốc sắc thiên hương. Nàng có chiếc mũi dọc dừa mảnh mai, đôi môi chúm chím thanh tao và hàng lông mày cong vút vẻ yêu kiều. Nhưng khuôn mặt nàng vô hồn, biểu cảm trống rỗng lạ kỳ, đôi mắt to tròn nhưng đờ đẫn nhìn vô định về phía trước. Thiếu phụ vận xiêm y bằng lụa đen, ống tay áo dài thướt tha, dải khăn rộng chít ngang tôn lên vòng eo thon thả và bờ ngực căng đầy quyến rũ. Mái tóc huyền óng ả chải ngược và buông lơi sau lưng, được tô điểm duy chỉ một bông hoa sen nhỏ bằng vàng chạm lộng lẫy. “Bẩm, tâm trí đại nương tử có chút rối loạn,” họ Kha buồn bã nói thầm. “Nàng đánh mất lý trí sau một cơn sốt cao vài năm trước. Phần lớn thời gian, nàng ở trong khuê phòng. Nếu ra ngoài một mình, nàng có thể làm tổn thương bản thân. Chắc hẳn các tỳ nữ đã để nàng lẻn ra ngoài. Tất cả gia nhân đều lo lắng về sự biến mất của Hổ Phách tối nay…” Cúi người về phía nương tử, y thầm thì vài lời hết sức âu yếm. Nhưng có vẻ thiếu phụ chẳng nhận thức được sự hiện diện của phu quân. Nhìn thẳng về phía trước, nàng giơ bàn tay thon thả trắng ngần lên và chậm rãi vuốt tóc.
Địch Nhân Kiệt nhìn nữ nhân lạ lùng ấy, lòng đầy thương xót. Rồi ông nói với gia chủ, “Ngươi cứ chăm sóc phu nhân, ta sẽ tự tìm được đường ra ngoài.” HỒI 7 Địch Công lập hai giả thuyết Hồng Lượng tính nhờ Cái Bang Khi Địch huyện lệnh dừng ngựa trước cổng nha phủ thì trống canh đã điểm, còn chừng nửa canh giờ là đến nửa đêm. Trên lưng tuấn mã, ông chúi người về phía trước và gõ cán roi lên cánh cửa bọc sắt nặng nề. Hai lính gác nhanh chóng mở cửa ra. Huyện lệnh phóng ngựa qua khung vòm bằng đá dẫn đến sân giữa. Trong lúc trao ngựa cho một giám mã đang ngái ngủ, ông để ý thấy ô cửa sổ dán giấy ở thư phòng hãy còn sáng. Ông mang theo túi yên ngựa bước về phía đó. Hồng sư gia đang ngồi trên chiếc ghế đẩu phía trước án thư rộng rãi, chăm chú đọc một tập văn thư dưới quầng sáng của một ngọn nến duy nhất. Trông thấy chủ nhân bước vào, lão vội đứng lên thi lễ và vồn vã hỏi, “Bẩm đại nhân, chuyện gì đã xảy ra ở Thạch Kiều vậy? Mới hai khắc trước, trưởng thôn mang xác của một nữ nhân tới nha phủ. Lão phu đã lệnh cho ngỗ tác tiến hành nghiệm thi. Đây là báo cáo của ông ta.” Lão đưa tập văn thư mình đang đọc cho huyện lệnh. Đứng cạnh án thư, ông liếc nhanh đọc qua. Thi thể được mô tả là của một nữ nhân trẻ tuổi đã lập gia thất, bị giết bằng một nhát dao xuyên tim. Không có khuyết tật nào trên cơ thể, nhưng hai bờ vai có những vết sẹo lâu ngày không rõ nguồn gốc. Nữ nhân này đã hoài thai được ba tháng.
Đưa lại báo cáo cho lão Hồng, Địch Nhân Kiệt thả người xuống chiếc ghế bành lớn đằng sau án thư. Ông đặt túi yên ngựa lên mặt án, khom người trên ghế và hỏi, “Bộ đầu đã đưa Hạ Quảng về đây chưa?” “Dạ chưa, thưa đại nhân. Nửa canh giờ trước, bộ đầu đã đến báo với thuộc hạ rằng Hạ Quảng vẫn chưa về nơi ở. Gã buôn y phục cũ, chủ nhà của hắn, nói rằng chỉ phí công đợi mà thôi. Họ Hạ toàn lai vãng vào những giờ khắc bất thường và hay biến mất một vài ngày gì đó. Bộ đầu đã lục soát căn gác mái mà bọn Đổng, Hạ thuê cùng nhau, rồi quay về đây. Y đã lưu hai bộ khoái ở đấy cho đến sáng mai, ra lệnh tóm ngay Hạ Quảng khi hắn xuất hiện.” Sư gia hắng giọng và tiếp lời, “Lão phu cũng đã hỏi chuyện hồi lâu với lão sư Âu Dương. Lão sư không đồng tình với các ý kiến đề cao Đổng Mai của Biện đại phu và Kha tiên sinh, nói rằng bọn Đổng, Hạ hai người, mặc dù thông minh đấy, nhưng chỉ ham ăn chơi trụy lạc, mê đắm tửu sắc và không ngại nhúng tay vào các thương vụ mờ ám. Bọn họ lúc nào cũng đi học thất thường và mấy tháng gần đây còn không hề lộ diện ở Văn miếu. Lão sư chẳng hề tiếc nuối gì hai nho sinh đó, ông bảo bọn họ chỉ tổ làm gương xấu cho các môn sinh khác. Ông bày tỏ lòng thương tiếc với Đổng lão gia, một vị tiên sinh uyên bác nho nhã. Còn về Hạ Quảng, lão sư nghĩ rằng song thân hắn đang sống ở kinh thành. Dường như họ đã đoạn tuyệt quan hệ với hắn vì tư cách đạo đức thối tha đó.”
Địch Nhân Kiệt gật đầu. Ông đứng dậy, nhấc túi yên ngựa lên và lắc cho đồ vật bên trong rớt xuống án thư. Đặt hai thứ vũ khí đã được bọc lại sang một bên, ông tháo khăn tay và lấy chú rùa ra. Nó bò về phía trước, chớp mắt khoan thai trước ngọn nến, rồi rụt cổ vào trong mai. Lão Hồng ngắm nghía sinh vật bé nhỏ, ngạc nhiên không thốt nên lời. “Lão rót cho ta một chén lớn trà nóng,” huyện lệnh nói với một nụ cười ảm đạm, “rồi ta sẽ kể chuyện mình làm quen tiểu bằng hữu này cho nghe.” Trong khi sư gia đang bận rộn ở bên bàn trà trong góc phòng, Địch Nhân Kiệt cầm chú rùa trên tay, đứng dậy và bước đến cửa sổ phía sau. Nghiêng người ra ngoài, ông đặt sinh linh nhỏ bé này vào giữa những tảng đá trong hoa viên. Sau khi trở lại ghế, ông thuật kể chi tiết cho lão Hồng nghe những việc xảy ra ở gia trang bị ma ám. Ông chỉ bị cắt ngang một lần, khi viên vệ úy Nam môn đến báo cáo rằng y và cả đồng sự tại bốn cổng thành đều không phát hiện ra nam nhân nào mới bị thương vì chủy thủ. Khi y đã đi ra, ông kể tiếp cho lão Hồng nghe về cuộc trò chuyện với Kha Nguyên Lương. “Vậy thì rõ rồi, lão Hồng,” ông kết luận, “giờ ta có hai giả thuyết hoàn toàn khác nhau. Ta sẽ phác thảo chung chung cho lão nghe, chủ yếu để định hình kế hoạch điều tra. Dùng một chén trà nào, lão Hồng.” Địch Nhân Kiệt uống cạn chén trà và tiếp lời, “Trước tiên, chúng ta hãy cứ giả định rằng Kha Nguyên Lương đã kể toàn bộ sự thật. Trong trường hợp này, Đổng Mai đã bị đầu độc bởi một kẻ giấu mặt, tên này bằng cách nào đấy đã biết vụ mua bán viên ngự châu. Hắn bèn thay thế họ Đổng đến chỗ hẹn gặp phu nhân Hổ Phách cướp đi viên ngọc cùng số vàng. Hắn thẳng tay hạ sát Hổ Phách, vì phu nhân đã dùng chủy thủ tấn công hắn, hoặc vì muốn giết người bịt đầu mối. Nhưng cũng có thể, dù ít khả năng hơn, là kẻ đến chỗ hẹn không phải là tay đã đầu độc Đổng Mai. Tuy nhiên, hắn thực sự tường tận về vụ giao dịch ở gia trang bỏ hoang đó. Khi biết tin họ Đổng tử nạn, hắn ngay lập tức tương kế tựu kế thế chân y đến chỗ hẹn, đoạt kim lượng và minh châu. Trong trường hợp đó, Hổ Phách hẳn đã bị ngộ sát, vì ban đầu tên cướp không có ý định giết người.”
Ông tạm ngừng lời, vuốt lọn tóc mai một hồi, đoạn nói tiếp, “Giả thuyết thứ hai của ta dựa vào giả định là khẩu cung của họ Kha chỉ có một phần sự thật. Y đã nói dối rằng mình không biết địa điểm hẹn gặp của nhị phu nhân và Đổng Mai. Trong trường hợp này, cả Đổng Mai và Hổ Phách đều đã bị hạ sát theo lệnh của Kha Nguyên Lương.” “Bẩm, làm sao mà chuyện đó có thể xảy ra?” Lão Hồng la lên. “Nên nhớ là Đổng Mai và Hổ Phách là thanh mai trúc mã cùng lớn lên dưới một mái nhà! Họ Đổng là nam nhi khôi ngô tuấn tú và dễ mến. Còn Hổ Phách là thiếu nữ thông minh, nhan sắc tựa đóa hoa thu hút ong bướm vây quanh. Rất có thể hai kẻ trẻ trung ấy là tình nhân của nhau. Chẳng may là có không ít gia chủ đã nhắm mắt làm ngơ cho mối quan hệ thân mật quá mức giữa nhi tử với nô tỳ trong nhà mình, Đổng lão gia cũng không phải ngoại lệ. Nếu thế thì rất có thể đôi nam nữ ấy vẫn tiếp tục mối quan hệ bất chính trong bóng tối, sau khi Hổ Phách đã trở thành người của Kha gia.” “Bẩm đại nhân, nếu vậy thì nàng Hổ Phách quả thực vong ân bội nghĩa!” “Khó mà hiểu thấu hành động của một thiếu phụ đang chìm đắm trong hương lửa yêu đương, lão Hồng à. Kha Nguyên Lương là một nam nhân bảnh bao còn khá trai tráng, nhưng y già hơn Hổ Phách phải đến hai chục tuổi. Và báo cáo nghiệm thi cho thấy Hổ Phách đang mang thai. Có thể Đổng Mai mới là cha của hài nhi chưa ra đời đó.
“Khám phá ra sự thiếu chung thủy của nhị phu nhân, họ Kha chỉ im lặng, chờ thời cơ trả thù. Thời cơ đến khi Hổ Phách kể với chồng về viên ngọc của Đổng Mai. Y nhận ra đã đến lúc có thể giải quyết cặp tình nhân đó, thu hồi kim lượng và chiếm đoạt viên ngự châu mà bao kẻ thèm thuồng. Thật là nhất tiễn song điêu, đạt được tất cả mục tiêu cùng một lúc. Y có khối cơ hội để đầu độc tình địch khi thết đãi các đoàn thuyền phu trong tửu lâu ở Thạch Kiều. Hạ thủ họ Đổng xong, y thuê một tên lưu manh đến chỗ hẹn trong gia trang bỏ hoang, lệnh cho gã này thủ tiêu luôn Hổ Phách, đoạt lấy vàng và tìm ra viên minh châu được cất giấu trong phương lầu. “Đó là hai giả thuyết của ta. Tuy nhiên, tất cả đều chỉ là phỏng đoán mà thôi. Chúng ta cần tìm hiểu thêm về hoàn cảnh của những kẻ có liên quan trước khi thực thi bất cứ hành động nào.” Sư gia chậm rãi gật đầu. Đoạn, lão nói vẻ lo lắng, “Thưa, dù thế nào đi nữa thì chúng ta cũng phải làm điều gì đó về viên ngọc. Chuyến viếng thăm bất ngờ của đại nhân đã ngăn hung thủ tìm kiếm nó, ngự châu chắc hẳn vẫn còn ở trong khu lầu. Nên chăng chúng ta trở lại gia trang bỏ hoang ấy ngay bây giờ để lục soát?” “Không, việc đó không cần thiết. Ta đã lệnh cho trưởng thôn cắt cử tuần đinh gác ở đấy. Sáng mai, chúng ta sẽ đến đó tra soát giữa thanh thiên bạch nhật. Tuy nhiên, cũng có khả năng Đổng Mai xem ngự châu là vật bất ly thân nên mang nó bên người. Chúng ta có trang phục của y ở đây không?”
Hồng sư gia lấy gói đồ lớn đã được niêm phong đặt ở cái bàn sát tường. Địch Nhân Kiệt tháo dấu niêm và cùng với lão cẩn thận kiểm tra bộ y phục. Họ xét kỹ từng đường kim mối chỉ, lão Hồng còn cắt cả phần đế giày. Nhưng chẳng có dấu vết gì. Trong lúc lão sư gia gói ghém lại đống y phục, huyện lệnh trầm ngâm dùng một chén trà khác. Ông chậm rãi nói, “Chuyện án mạng này có liên quan tới một vụ trộm tại hoàng cung sẽ càng khiến sự vụ trở nên hệ trọng, lão Hồng à. Việc đánh giá tính cách của Kha Nguyên Lương khá khó khăn. Ta muốn hiểu tường tận hơn về con người này. Tiếc là chúng ta lại không thể tham vấn nguồn thông tin tốt nhất, là đại phu nhân của Kha gia, do bà ấy tâm thần bất định. Lão có biết gì về chuyện bà ấy ngã bệnh không?” “Bẩm, lão phu có nghe thiên hạ lưu truyền, chuyện này dường như đã gây xôn xao bách tính trong thành. Một tối bốn năm trước, Kha phu nhân là Kim Liên, ra ngoài để viếng thăm một vị phu nhân khác ở phố bên. Nhưng bà ta không bao giờ đến nơi. Chắc là đã bị viêm não cấp trên đường đi hay sao đó mà bà ta mất trí nhớ. Có vẻ là nữ nhân ấy đã lang thang vạ vật và ra khỏi thành qua Đông môn, suốt đêm rong ruổi trên những cánh đồng. Sáng hôm sau, một số nông phu tìm thấy bà ta nằm bất tỉnh trên đồng cỏ. Trong mấy tuần liền, phu nhân Kim Liên ốm thập tử nhất sinh. Khi tỉnh lại thì đã bị loạn trí vĩnh viễn.”
Hồng sư gia chìm vào thinh lặng. Lão trầm ngâm vuốt bộ râu bạc mỏng manh, đoạn tiếp tục, “Bẩm, khi diễn giải giả thuyết thứ nhất, đại nhân đã đề cập đến khả năng Đổng Mai bị ám hại vì một lý do chẳng dính dáng gì đến vụ mua bán ngự châu. Giờ thì lão nhớ lại Đào Cam có lần từng nói, mặc dù trong các cuộc đua thuyền, thường dân chỉ đặt cược không đáng kể, nhưng các tay phú thương và chưởng quỹ giàu có thường đánh cược vô vàn kim ngân với nhau. Đào Cam còn kể thêm rằng thi thoảng bọn lừa đảo bày ra đủ trò gian lận và bịp bợm trong những vụ cược lớn đó. Năm nay, bách tính ai cũng cho rằng thuyền của Biện đại phu sẽ giật giải. Nếu một tên lừa bịp sớm biết là trống thủ trên thuyền Cửu sẽ gặp tai nạn, hắn có thể chơi tất tay, kiếm được kha khá. Cũng có thể đó là kẻ đã hạ độc Đổng Mai.” “Hừm, đó cũng là một khả năng mà chúng ta sẽ phải thẩm tra,” Địch Nhân Kiệt đồng tình. Có tiếng gõ cửa. Viên bộ đầu bước vào, kính cẩn thi lễ. Y đặt một phong bì dơ dáy lên án thư và bẩm báo, “Bẩm đại nhân, khi đang tra soát buồng gác mái của hai gã nho sinh kia, thuộc hạ đã phát hiện ra phong bì này trong hòm trang phục của Hạ Quảng. Còn hòm của Đổng Mai chỉ có một đống y phục cũ nát, trong đó chẳng có đến một mẩu giấy vụn!” “Được rồi, ngươi có thể lui.” Huyện lệnh xé phong bì và lấy ra ba tờ giấy được gấp lại. Tờ đầu tiên là văn bằng của Cổ Thư quán chứng nhận Hạ Quảng đã đỗ kỳ thi Hương, tờ thứ hai cho phép hắn cư trú ở Phổ Dương. Khi lật sang tờ thứ ba, ông nhíu mày rồi cẩn trọng vuốt phẳng tờ giấy ra trên án thư.
Đẩy ngọn nến lại gần hơn, Địch Nhân Kiệt nói, “Nhìn xem chúng ta có gì ở đây, lão Hồng!” Sư gia nhìn thấy đó là một bản phác họa nguệch ngoạc khu vực phía nam trấn. Trỏ ngón tay vào bản vẽ, Địch Nhân Kiệt nhận xét, “Ở đây chúng ta có rừng Mạn Đà La và hình chữ nhật đó là trang viên của Đổng gia. Chỉ có phương lầu phía đông là được đánh dấu. Vậy là Hạ Quảng hẳn có liên quan, theo cách này hay cách khác, đến vụ mua bán ngự châu! Trời đất ơi, chúng ta phải tìm được gã đó! Càng sớm càng tốt!” “Bẩm, có lẽ hắn đang lang thang đâu đó ở khu tửu điếm mà thôi. Bằng hữu lâu năm của chúng ta, Thẩm Bát, là đại ca trong giới giang hồ, chắc chắn gã sẽ biết được nơi tìm ra Hạ Quảng!” “Đúng, chúng ta có thể hỏi gã. Từ khi ta trao tặng cho gã danh xưng Bang chủ cái bang, Thẩm Bát đã tỏ ra rất hợp tác.” “Tiếc nỗi đây lại là một kẻ thoắt ẩn thoắt hiện, không dễ lần ra hành tung. Thời điểm duy nhất mà chắc chắn Thẩm Bát mò về hang ổ là ban đêm. Đó là khi giới khất cái tụ tập, cống nạp cho gã. Có lẽ lão phu nên đi ngay bây giờ!” “Không nên thế! Hẳn lão đã mệt lắm rồi. Lão nên lên giường nghỉ ngơi, lão Hồng, đấy là nơi lão nên đến bây giờ!” “Thưa, thế thì lỡ cả công vụ một ngày mất! Hơn nữa, lão phu có mối giao hảo thân tình với Thẩm Bát. Lão cũng biết cách nói chuyện với tên già đời ranh ma ấy. Lão phu nghĩ gã cũng thích, dù rằng gã chẳng có thiện cảm gì mấy với ba trợ thủ còn lại của đại nhân. Thẩm Bát từng nói với lão rằng gã xem hai huynh đệ Mã, Kiều là một cặp đôi bất hảo, lỗ mãng, còn Đào Cam là một kẻ lừa đảo ti tiện!”
“Nói hay đấy, nhất là khi những ngôn từ ấy lại từ miệng Thẩm Bát mà ra!” Huyện lệnh mỉm cười. “Ôi, nếu lão cứ khăng khăng thế, thì giờ đi cũng được. Nhưng hãy đến đó bằng kiệu che của nha phủ và dẫn theo bốn bộ khoái. Thẩm Bát đang sống trong một khu vực coi thường vương pháp lắm đấy.” Sau khi Hồng sư gia lên đường, Địch huyện lệnh lại uống thêm một chén trà. Ông lo lắng nhiều về các diễn biến sự việc hơn là những gì bản thân đã thổ lộ với lão quân sư. Án mạng của một nho sinh nghèo hèn bỗng chốc biến thành vụ trọng án triều đình, liên quan đến vụ trộm bảo vật trong hoàng cung. Ông sẽ phải nhanh chóng thu được kết quả, vì không thể nào trì hoãn bản báo cáo dài dằng dặc gửi lên quan trên, bẩm báo về viên ngự minh châu, trong khi vẫn phải hành xử cẩn trọng. Địch Nhân Kiệt buông một tiếng thở dài và đứng dậy. Chìm trong suy nghĩ miên man, ông tản bộ dọc theo khoảnh sân giữa đến nội trạch ở phía sau nha phủ. Tưởng các phu nhân đã lên giường nghỉ từ lâu rồi, Địch Nhân Kiệt đang định qua đêm trên trường kỷ trong thư phòng. Nhưng khi viên quản gia mở cửa dẫn ông vào trong, huyện lệnh nghe thấy những tràng cười nói rôm rả đến từ khu nữ quyến. Nhận ra vẻ mặt ngạc nhiên quá đỗi của chủ nhân, lão quản gia vội giải thích, “Thưa, hai vị phu nhân của Bào tướng quân và Vạn tri phủ đã qua chơi từ đầu giờ chiều. Các phu nhân cùng nhau làm lễ tạ ơn Vương Mẫu nương nương theo truyền thống. Sau đó, đại phu nhân nhà ta mời họ ở lại chơi bài. Phu nhân có căn dặn tiểu nhân báo lại ngay khi đại nhân hồi phủ, để bà có thể giải tán khách khứa và diện kiến ngài.”
“Ngươi chỉ cần nói phu nhân đến thư phòng phía trước một lát.” Khi đại phu nhân bước vào gian phòng nhỏ bé ấy, huyện lệnh hài lòng nhận ra nương tử của mình trông diễm lệ dường nào trong bộ xiêm y ưa thích bằng gấm tím thêu kim tuyến, điểm xuyết những nụ hoa vàng. Sau khi cúi chào phu quân, đại phu nhân băn khoăn hỏi, “Thiếp hi vọng không có gì bất hạnh xảy ra sau cuộc đua ạ?” “Có một sự vụ bất ngờ khiến cho ta phải bận tâm ngay. Ta chỉ muốn nói rằng nàng không việc gì phải giải tán bữa tiệc vui vì ta cả. Buổi chiều nay đã thật là mệt nhọc rồi, ta muốn yên giấc bây giờ. Ta sẽ nghỉ trong thư phòng và viên quản gia sẽ phục dịch ta.” Khi đại phu nhân sắp sửa chúc ông ngon giấc, Địch Nhân Kiệt thình lình hỏi, “Mà này, nàng có tìm thấy quân bài cẩu bị mất không?” “Không, thiếp chẳng tìm được. Bọn thiếp đều cho rằng nó hẳn đã rơi xuống mạn thuyền.” “Không thể nào! Chiếc bàn nằm ở giữa sàn. Quân bài đó văng đi đâu được nhỉ?” Phu nhân giơ ngón tay trỏ lên và nói, nửa đùa nửa thật, “Đã bao năm cùng chung sống, thiếp chưa bao giờ biết lão gia lại có thể cáu kỉnh vì một chuyện nhỏ như thế đấy. Giờ lão gia đừng như thế nữa nhé, thiếp hi vọng!” “Không, ta chẳng thế đâu!” Địch Nhân Kiệt đáp với một nụ cười uể oải. Ông gật đầu với phu nhân rồi đi đến thư phòng. HỒI 8 Thẩm Bát giả vờ say rượu Sư gia nhận giúp chuyển lời Tửu điếm nơi Bang chủ Cái bang thiết lập tổng hành dinh nằm trong khu hạ lưu cạnh Võ miếu. Tửu quầy đang đầy ắp đám hành khất và bọn vô công rồi nghề, sặc sụa mùi mồ hôi dơ dáy và rượu cặn rẻ tiền. Hồng sư gia phải chật vật chen lấn mới có lối tiến về quầy ở phía sau.