text
stringlengths
1
809k
Kim Liên cầu Bồ tát “Rồi ta nhảy xuống đất, cuống cuồng vơ vội xiêm y và lách qua một khe hở trên bức tường đằng sau bức tượng. Ta ngã nhào vào những bụi cây rậm rạp. Khi vùng vẫy bò về phía trước, ta nghe tiếng ngươi la hét gọi tên ta. Ta cứ thế mà lao đi trong nỗi kinh hoàng mụ mị đầu óc, không để tâm đến gai góc đang cào xé tay chân. Rồi…” Bất chợt thiếu phụ ngừng lời. Hơi xoay người lại, nàng ngó nhìn phu quân với vẻ hoang mang và khe khẽ thêm lời, “Không, ta không biết chuyện gì xảy ra sau đó. Nhưng giờ ta đã trở về, ở ngay trong chính tư gia của mình. Ta…” Đôi chân nàng loạng choạng. Họ Kha vội vàng đi vòng qua bàn để đỡ lấy cánh tay nương tử. Ngó nhìn huyện lệnh, y lắp bắp, “Thảo dân không hiểu chuyện này là sao! Nàng đâu có ra ngoài tối nay, làm sao nàng lại…” “Phu nhân của ngươi vừa kể lại chuyện đã xảy ra bốn năm về trước, Kha tiên sinh à,” Địch Nhân Kiệt nghiêm nghị nói. HỒI 18 Tâm thân liệt, ác ma thú tội Ngỡ ngàng thay một nỗi thương tâm Kha Nguyên Lương dịu dàng đỡ phu nhân ra ngoài. Huyện lệnh vẫy tay ra hiệu cho thuộc hạ tiến vào phòng. Bốn vị bộ khoái nhanh chóng đứng vây xung quanh Dương chưởng quỹ. Ông lệnh cho viên bộ đầu, “Hãy thắp nến trên tường lên!” Lại một tiếng sấm nổ vang trời khác. Rồi một cơn mưa cuồn cuộn như thác lũ trút ào ào lên mái ngói. Một trận gió mạnh giật tung những cánh cửa chớp. Cơn giông tố cuối cùng cũng đã đến. Biện đại phu chỉ vào họ Dương.
“Hắn… hắn đã đưa cho thảo dân thuốc bột!” Ông ta run rẩy thốt lời. “Hắn nói đó là thuốc mê, làm thế nào mà thảo dân có thể biết…” “Chính ngươi đã ăn cắp thẻ bài cẩu của ta!” Địch Nhân Kiệt lạnh lùng cắt ngang. “Bẩm, thảo dân có thể giải thích tường tận mọi thứ! Họ Dương nói rằng hắn muốn Hạ Quảng thế thân Đổng Mai để tới gia trang bỏ hoang vào tối hôm đó. Đó là một sự vụ vô cùng hệ trọng. Hạ Quảng đã lên kế hoạch đến đó sau cuộc đua thuyền. Buổi trưa, thảo dân hỏi họ Hạ xem hắn đã lấy thẻ bài khi ra ngoài trấn theo lối Nam môn chưa. Hắn đáp chưa. Do thế, khi chạm mắt phải thẻ bài linh linh, thảo dân đã lấy nó và sau đó trao cho Hạ Quảng.” Trao cho huyện lệnh ánh nhìn van nài, ông ta rên rỉ kể lể, “Thưa, họ Dương đã buộc thảo dân phải giúp hắn, thảo dân xin thề! Thảo dân đã mượn hắn quá nhiều ngân lượng… Vận đen đã đeo bám thảo dân trong kinh tài, bọn chủ nợ thì đang thúc ép, nương tử lại cứ quấy rầy liên miên, từ sáng sớm cho đến mịt tối. Họ Dương có thể hủy hoại sự nghiệp của thảo dân… Hắn trao cho thảo dân một gói nhỏ, bảo rằng trong đó là một thứ thuốc mê vô hại. Đúng là nhìn bề ngoài thì nó giống y như hắn bảo, thảo dân thề là mình nói thật! Sau khi nhận ra mình đã đầu độc Đổng Mai, thảo dân không biết mình nên làm gì…” Biện Gia vùi mặt trong lòng bàn tay. “Họ Biện kia, ngươi đã biết chân tướng tên sát nhân!” Địch Nhân Kiệt nghiêm khắc nói. “Vậy mà ngươi không chịu đứng ra tố giác, khiến bản thân trở thành đồng phạm của hắn. Ta sẽ đánh giá chi tiết tội trạng ngươi sau. Bộ đầu, cho hai thuộc hạ đưa Biện đại phu lên kiệu và giam ông ta vào nhà lao.”
Hồng sư gia nhặt chiếc gậy dưới sàn lên và trao nó cho họ Biện. Vị đại phu khập khễnh bước về phía cửa, hai bộ khoái đi theo áp giải. Nãy giờ, tên thương gia đồ cổ vẫn đứng thừ người ra, theo dõi toàn bộ sự việc với khuôn mặt đờ đẫn và biểu cảm trống rỗng. Giờ huyện lệnh mới quay sang hắn. Khoanh hai tay vào ống tay áo, ông nói, “Họ Dương kia, ngươi đã bắt cóc và làm nhục Kha phu nhân. Ngươi sẽ bị kết tội và hứng chịu hình phạt tàn khốc nhất theo vương pháp Đường triều là lăng trì. Bây giờ ngươi hãy cung khai đầy đủ, từ việc đầu độc Đổng Mai và đâm chết phu nhân Hổ Phách, cho đến việc tự tay hạ sát Hạ Quảng và Mạnh bà bà, rồi cả chuyện cố gắng thủ tiêu Biện đại phu nữa. Nếu ngươi khai hết chân tướng mọi việc, bản quan có thể bẩm tấu lên triều đình để ban cho ngươi một án tử đỡ tàn khốc hơn.” Dường như Dương chưởng quỹ không nghe thấy lời ông. Hắn nhìn chăm chăm về phía trước với ánh mắt vô hồn. “Ngươi cũng có thể tự thú,” ông tiếp lời, “về tội trộm cắp ở miếu thủy thần, lấy đi đồ cúng bằng vàng mà các từ chúc đã cất trữ ở đó.” “Ngài sẽ tìm thấy các bình vàng trong ngăn tủ mật trên vách tường của ta,” hắn cất giọng yếu ớt, “tất cả có chín cái, được một trong các nghệ nhân vĩ đại nhất của Hán triều chế tác. Ta cần ngân lượng, nhưng cũng không nỡ đem các công trình nghệ thuật cao quý đó đi nấu chảy. Chúng đều ở đó, tất cả. Kể cả viên hồng ngọc.”
Họ Dương ngừng lại, trân trối ngó nhìn Địch Nhân Kiệt và cay nghiệt hỏi, “Làm thế nào ngài phát hiện ra chuyện đó?” “Khi bản quan ghé thăm cửa hiệu đồ cổ sáng nay, ngươi nói rằng chưa bao giờ lai vãng đến miếu thờ. Nhưng ngươi lại miêu tả án thờ tách rời với bệ tượng. Quyển sách mà ngươi cho ta xem lại khẳng định rõ ràng rằng bức tượng, bệ tượng và án thờ được tạc từ cùng một khối cẩm thạch. Tuy nhiên, qua một ghi chú viết bên lề sách của ta, ta biết được rằng án thờ và bệ tượng được gắn với nhau bằng vữa. Do đó, ta giả định là ngươi đã gian trá về chuyện chưa bao giờ đặt chân đến miếu thờ. Trong khi mô tả bức tượng cho ta, ngươi đã vô tình nhầm lẫn giữa những gì mình từng đọc với những thứ tận mắt trông thấy. Dĩ nhiên, đó chỉ là giả định. Ngươi hoàn toàn có thể đã đọc về việc gỡ bỏ lớp vữa, trong một quyển sách khác hoặc một bản thảo viết tay mà ta không biết. Nhưng ngươi đã tự khẳng định tội lỗi ấy khi sa vào cái bẫy mà ta dày công sắp đặt tối nay!” “Vậy là rốt cuộc, ngài mới chỉ có những nghi ngờ mơ hồ!” Họ Dương nói vẻ chua chát. “Ôi, việc ngài cử sư gia đến chỗ ta để mượn một bàn tay sơn trắng, có đeo nhẫn hồng ngọc, là một bước đi khôn ngoan. Nó khiến ta tự hỏi bản thân nhiều điều. Liệu ngài có bằng chứng gì về việc ta ăn cắp kho đồ của miếu thờ hay không? Hay bàn tay đó chẳng liên can gì đến ta, ngài thật sự dùng nó cho một cuộc thử nghiệm nào đó? Liệu ngài còn có mưu đồ nào khác chăng? Ta cảm thấy bị thôi thúc phải biết chuyện gì sẽ được đem ra luận bàn vào tối nay. Ta đã đến, sẵn sàng chặn họng ngài hay họ Biện chết nhát kia nếu cần.”
Hắn rút ra một phi đao lưỡi mỏng từ ngực áo mình. Viên bộ đầu vội nhảy bổ vào, nhưng họ Dương đã vứt nó lên trên bàn. “Đừng lo!” Hắn ngạo nghễ chế nhạo bộ đầu với một ánh nhìn khinh bỉ. Rồi hắn tiếp tục nói với huyện lệnh. “Ta biết mình đã thua dưới tay đại nhân. Nhưng ta cũng có thể vỗ ngực tự nhận mình là một tay phi đao lão luyện và một khi đã ra tay thì không bao giờ trượt đích. Nhưng ban nãy, nàng đã ở đó… đã đứng ngáng giữa đường bay của mũi phi đao.” Họ Dương cau mày. Bất chợt hắn hỏi, “Làm thế nào ngài khám phá ra ta xém chút nữa đã hạ sát được con chuột nhắt Biện Gia vào trưa nay?” “Bản quan cũng hiểu biết chút ít về nghề y,” Địch Nhân Kiệt đáp. “Nếu chỉ nhận một cú đấm vào đầu cùng vài cú đá khác, chẳng cớ gì mà Biện đại phu lại yêu cầu kiểm tra nội thương trước. Ông ta chỉ cẩn trọng như thế khi bị thương tổn nặng nề do ngã từ trên cao xuống. Hơn nữa, một tên đạo tặc không cần xé toạc áo của nạn nhân để cướp đi hầu bao. Ta phỏng đoán rằng ngươi đã ném Biện đại phu ra khỏi cửa sổ phòng khảo cứu đồ cổ tại lầu trên. Áo của họ Biện đã mắc vào đinh sắt bên bệ cửa, nhờ đó ông ta mới không gãy cổ…” “Ta không ném gã ra ngoài cửa sổ,” Dương chưởng quỹ cộc cằn cắt ngang. “Họ Biện đến gặp ta, than vãn về vụ siết cổ Mạnh bà bà quỷ tha ma bắt kia. Khi gã nói mình sẽ không câm miệng lâu hơn nữa, ta đã đấm một quả trời giáng vào bản mặt hắn. Không ngờ họ Biện lại yếu đuối như vậy. Gã đâm sầm vào bức bình phong và ngã nhào ra khỏi cửa sổ trước khi ta kịp tóm lấy gã. Ta phóng xuống dưới nhà và chạy ra ngoài, nhận thấy áo họ Biện đã mắc vào đinh sắt trước khi gã rơi xuống đất. Gã chẳng chịu thương tích nặng nề gì cả và vẫn tỉnh táo. Ta phải nhanh chóng ra tay, không thì một khách bộ hành nào đó có thể trông thấy cả hai bất cứ lúc nào. Vì thế ta nói với họ Biện là sự vụ nho nhỏ này là để dạy cho gã một bài học, gã khôn hồn thì đừng có bán đứng ta. Ta bảo gã giả vờ là bị một tên cướp tấn công. Trong lúc ta kéo lê họ Biện đến phía bên kia đường, gã rên rỉ xin ta tha thứ! Dĩ nhiên ta đã có thể kết liễu gã ngay tại chỗ. Nhưng gã nợ ta rất nhiều ngân lượng, đồng thời câu chuyện về một kẻ tấn công vô danh sẽ giúp đánh lạc hướng điều tra.”
Địch Nhân Kiệt gật đầu. “Sáng mai, bản quan sẽ nghe bản cung khai đầy đủ của ngươi ở nha phủ. Giờ thì ta chỉ muốn kiểm tra những điểm thiết yếu. Biện đại phu đã nói thật về việc mình không chủ tâm đầu độc Đổng Mai?” “Tất nhiên! Ngài nghĩ sao mà ta tin tưởng giao cho cái gã yếu bóng vía và hay làm hỏng việc ấy nhiệm vụ đầu độc kẻ khác chứ? Ta chỉ bảo họ Biện là mình muốn Đổng nằm im trong tối nay, để Hạ Quảng thế chân y đến chỗ hẹn. Ta nói thêm là cũng muốn thuyền Cửu thua cuộc, nhằm gỡ gạc chút ngân lượng từ cá cược. Ta đưa cho Biện gói thuốc bột và nói, ‘Ông bỏ thuốc mê này vào chén rượu của Đổng Mai trong buổi thiết đãi tại Thạch Kiều!’ Họ Biện sợ ta một phép, gã nợ ta kim ngân, như ta đã nói trước đấy, nên phải làm theo những gì ta dặn dò. Nhưng đó nào phải là thuốc mê gì, nó là một loại độc dược chết người! Dù vậy, ta đã gặp xui xẻo. Nếu tên ngỗ tác chết tiệt không tình cờ có mặt khi thi thể của Đổng Mai được mang lên bờ, họ Biện sẽ tưởng rằng thuốc mê đã ảnh hưởng đến tim của Đổng Mai, cái chết của y sẽ được quy là tai nạn. Đến lúc đó, chẳng ai có thể vỗ ngực nói mình là kẻ khôn ngoan hơn ta!” “Ngươi muốn Hạ Quảng đến cuộc hẹn của Đổng Mai để lấy vàng và ngự châu,” Địch Nhân Kiệt nói cộc lốc. “Ngài sai rồi! Nói cho ngài biết, ta hoàn toàn mù tịt về vàng cũng như ngọc! Ta chỉ muốn có Hổ Phách, ả kỹ nữ tự phụ ấy! Ngài có biết rằng ả đã từ chối ta khi vẫn còn là một tiểu nô tỳ xấu xí? Ta đã nói với Đổng lão gia là ả đã cố gắng mồi chài mình trong khi ta viếng thăm nơi đó. Ta đã tận mắt chứng kiến ả nhận đòn roi. Nhưng trừng phạt thế vẫn là chưa đủ với đứa nữ nhi lẳng lơ ấy! Ta đoan chắc là Hổ Phách còn lén lút tình tự với Đổng Mai, thậm chí cả sau khi tên họ Kha ngu ngốc đã lập ả làm nhị phu nhân. Đổng Mai chối bay chối biến khi ta tra hỏi y chuyện đó, nhưng y chỉ là một tên tống tiền hèn hạ và ả kia… Ta biết thừa hạng người như ả! Ta sẽ dạy dỗ ả, khiến ả phải van xin ta khoan dung tha thứ, như Kim Liên từng làm ở miếu thủy thần trước… trước khi ta…”
Họ Dương đột ngột chìm trong im lặng, đôi mắt lộ vẻ đau buồn trước khi hắn nhẹ nhàng tiếp lời, “Không, ta không nên xếp thứ nô tỳ bẩn thỉu ấy ngang hàng với Kim Liên. Ta đã không thể kết liễu nàng ở nơi đó, trên án thờ. Làm sao ta có thể làm vấy bẩn tấm thân ngà ngọc không tì vết ấy bằng máu tươi? Ta chỉ muốn dọa nạt nàng, để sở hữu được vẻ đẹp tột bậc ấy, gìn giữ nó mãi mãi, chỉ thuộc về mình ta… Khắp thiên hạ này, không ai có thể hủy hoại một nhan sắc như vậy, chẳng kẻ nào đang tâm phạm phải một tội ác thiên địa bất dung như vậy! Vừa nãy, ta không thể đang tâm hạ sát Kim Liên khi nàng đứng chắn mũi đao, y hệt như cách đây bốn năm…” Hắn vùi bản mặt vào lòng bàn tay. Một khoảng lặng dài dằng dặc. Âm thanh duy nhất vang lên là tiếng mưa rơi rào rào. Quách Minh đang quan sát Dương chưởng quỹ, hàng lông mày mỏng rướn lên. Gã muốn nói gì đó, nhưng huyện lệnh đã nhanh chóng phẩy tay ra hiệu cho gã im lặng. Rồi họ Dương nhìn lên. Hắn tiếp tục với tông giọng vô cảm, “Ta đã lệnh cho Đổng Mai sửa chữa phương lầu. Gian buồng tồi tàn của mụ tú bà gớm ghiếc kia đã không còn an toàn nữa. Lúc nào mụ ta cũng vòi vĩnh thêm ngân lượng, còn Đổng Mai cứ suốt ngày đòi thêm ngân lượng cho lũ nữ nhân ngu ngốc mà y săn tìm cho ta. Toàn là những ả ngu ngốc và dơ bẩn, nhưng ta cần chúng. Cần bọn nữ nhân ti tiện ấy để trả thù tội ác mà Kim Liên đã gây ra cho mình.
“Ta không dùng Đổng Mai nữa, hứa hẹn trả một khoản trợ cấp hàng tháng để mua lấy sự im lặng của y. Thay vào đó, ta thuê Hạ Quảng, một tên cướp vặt nghèo nàn và ngu xuẩn. Nhưng ta cần thông tin về những gì đang diễn ra trong phủ này. Tên đại phu kém cỏi kia cứ quả quyết với ta rằng Kim Liên sẽ không bao giờ hồi phục lại. Nhưng ta phải kiểm chứng điều đó, phải biết mọi thứ về nàng, nàng đang sống ra sao…” Họ Dương dừng nói. Sau khi đã tĩnh tâm lại, hắn tiếp tục với âm giọng đều đều, “Hạ Quảng tỏ ra rất hữu dụng, giỏi moi móc mọi loại thông tin từ miệng Đổng Mai. Vài ngày trước, hắn nói với ta rằng có bằng chứng về việc Hổ Phách ăn nằm với Đổng Mai, vì họ sắp có một cuộc hẹn bí mật trong phương lầu, sau cuộc đua. Cặp đôi ấy sẽ sử dụng tấm phản mà ta vẫn thường trói bọn nữ nhân vào! Nhưng ta sẽ ngăn chuyện đó lại. Hạ Quảng sẽ thế chân Đổng Mai đến chỗ hẹn. Thay vì âu yếm tình nhân của mình, Hổ Phách sẽ thấy mình bị trói nghiến trên tấm phản kia!” Mặt họ Dương chùng xuống. Hắn làu bàu nguyền rủa rồi nói tiếp, “Thế mà tên ngốc ấy làm hỏng đại sự! Khi Hạ Quảng quay lại trấn, đến nơi bọn ta hẹn gặp là gia trang ở gần Nam môn, thằng ranh con ấy lại bị thương. Họ Hạ lắp bắp về chuyện Hổ Phách đâm mình bằng chủy thủ khi hắn cố gắng lột trần ả. Hắn hoảng loạn đến mức hạ sát luôn tiện nữ này trong lúc tự vệ. Hình như vấn đề chưa đủ tồi tệ hay sao, hắn còn bị đương chức phủ nha theo dõi đến tận gia trang bỏ hoang mới ghê chứ! Ta đưa cho hắn một chén rượu và bảo hắn nằm xuống nghỉ ngơi. Ta cần thời gian để suy tính thêm.
“Khi đỡ Hạ Quảng nằm xuống, ta nhận thấy có thứ gì đó nằng nặng trong tay áo hắn. Ta lấy nó ra và thấy một gói giấy bọc mười nén vàng! Từ trên trường kỷ, Hạ Quảng cố tình lăn xuống sàn, mưu toan chạy ra khỏi phòng. Nhưng ta đã tóm cổ hắn lại và siết tay quanh yết hầu hắn. Khi đó tên vô lại này mới phun ra là hắn đã biết Hổ Phách sẽ mang từng ấy vàng đến chỗ hẹn hò. Hắn đã lên kế hoạch cướp kim ngân làm của riêng. Ta bèn tra hỏi Hạ Quảng là tại sao Hổ Phách mang số vàng đó theo người. Tên ngốc trẻ người non dạ ấy đáp rằng vàng ấy dùng để mua viên ngự minh châu từ chỗ Đổng Mai! Hắn không lường được câu chuyện về viên ngọc chẳng qua chỉ là một trò bịp bợm của Đổng Mai và nhân tình, nhằm đoạt lấy ngân lượng của họ Kha và cùng nhau trốn đi! Nhưng dĩ nhiên là ta chẳng hơi đâu khai sáng cho cái đầu ngu si của Hạ Quảng làm gì. “Lúc đó ta đã có vàng và Hổ Phách cũng đã chết. Hạ Quảng cũng sẽ phải biến mất. Ta nói rằng sẽ rộng lòng bỏ qua cho họ Hạ, thậm chí còn để cho hắn giữ lại một nén vàng, với điều kiện hắn giúp ta lấy được ngự châu. Ta còn nói thêm rằng hắn có thể qua đêm ngay tại chỗ ta và đi đến Đổng gia trang vào sớm hôm sau, cải trang thành một thợ mộc. “Ta cũng đến đó, sau khi nói với tiểu nhị là phải đi gặp một nông phu để bàn về tấm bia khắc chữ cổ mà ông ta đào lên được. Ta biết lối đi tắt đến Đổng gia trang. Sau nửa dặm đường đi trên cái quan, ta rẽ vào một con đường bùn lầy nằm kế một nông trang lớn ở đó, đoạn cưỡi ngựa phóng xuyên qua những cánh đồng để đến rìa phía đông của rừng Mạn Đà La. Nơi ấy có ba cây du trắng đánh dấu lối vào một con đường mòn hẹp xuyên thẳng qua rừng rậm đến miếu thờ. Nơi này cũng là khởi điểm cho một con lộ khác chạy vòng qua khu rừng, kết thúc ngay cạnh Đổng gia trang. Ta cột ngựa gần chỗ cây du, rồi tiếp tục đi đến trang viên.
“Ôi, Hạ Quảng đã làm hết sức mình. Hắn là một tên trộm láu cá, ta phải nói như vậy! Đầu tiên hắn tìm ở mái khu lầu và săm soi bên dưới mái hiên, vì Đổng Mai từng bảo là y giấu viên ngọc ở một nơi chẳng ai có thể nghĩ tới. Dĩ nhiên là Hạ Quảng chẳng tìm thấy gì ở đó ngoại trừ mấy tổ chim, vì câu chuyện về ngự châu vốn chỉ là trò lừa gạt. Rồi ta sai hắn phá tung buồng trong của phương lầu, chỉ để ngài có cái mà suy nghĩ. Ta đã quen biết ngài hơn một năm nay, Địch đại nhân à, và ta phải công nhận ngài quả là một huyện lệnh lỗi lạc! Khi Hạ Quảng đang sục sạo xung quanh, ta lấy một viên gạch và đập mạnh vào thái dương hắn. Sau khi đã ném tử thi xuống rãnh, ta quay trở lại trấn bằng con đường mình đã đi tới. Ngay trước khi rời đi, ta thoáng trông thấy tên bủn xỉn tự phụ kia đang vênh váo đi tới.” Quách Minh bắt đầu lẩm bẩm giận dữ, nhưng Địch Nhân Kiệt đã nhanh chóng quay sang nói với họ Dương, “Hẳn ngươi đã nhận ra Lý cô nương khi nữ nhân được đưa đến công đường vào trưa nay?” “Làm sao ta quên được gương mặt tròn trĩnh ngốc nghếch ấy?” Hắn hỏi với vẻ khinh bỉ. “Mới tuần trước, ta còn bảo Hạ Quảng là mình muốn có ả, chỉ vì ả thuộc dạng nữ nhân ngu ngốc cứ la hét ầm ĩ và rên rỉ lê thê. Khi nhìn thấy nữ nhân ấy đến nha phủ cùng ba tên lưu manh kia, ta mới biết là Hạ Quảng chưa hủy bỏ giao kèo. Chúng đã bị bắt tại trận nên sẽ mau chóng phun ra địa chỉ của của mụ dạ xoa họ Mạnh kia. Và lẽ dĩ nhiên là mụ tú bà sẽ tố giác ta ngay tức khắc, hòng giảm nhẹ tội cho chính mụ! Thế là ta hộc tốc phóng đến đó. Lần này, ta đã gặp may vì mụ chỉ có một mình!”
“Dừng lại!” Địch Nhân Kiệt nói lãnh đạm. “Thế là đủ rồi.” Ông ra hiệu cho bộ đầu, lặng yên nhìn các bộ khoái xiềng gã hộ pháp kia lại. Bất chợt, ông lên tiếng hỏi, “Ta suy đoán rằng ngươi nuôi dưỡng hận thù với đại phu nhân Kim Liên và nhị phu nhân Hổ Phách vì họ đã từ chối những lời tán tỉnh đường mật của ngươi. Nhưng tại sao ngươi lại hành hạ những nữ nhân khác? Ngay cả những nhi nữ ngươi chẳng hề quen biết?” Xiềng xích trên người họ Dương rung liểng xiểng khi hắn dựng thẳng người lên. “Ta không nghĩ là ngài sẽ hiểu,” hắn bình tĩnh đáp, “nhưng dù sao thì cứ để ta giải thích cho Địch đại nhân nghe. Trong một khắc, quả thật ta đã đắm đuối Hổ Phách. Cũng như họ Kha, ta nhận ra bên trong nữ nhi bẩn thỉu ấy là một sắc đẹp đang đâm chồi nảy lộc. Nhưng Hổ Phách chỉ có cái mã ngoài rỗng tuếch, bản chất ả cũng chỉ là một nô tỳ dâm đãng mà thôi. Còn Kim Liên tao nhã như một đóa hương sen, nhan sắc của nàng đẹp không tì vết, phản chiếu ánh sáng nội tâm rực rỡ, sự kết hợp hài hòa của xuất thân khuê các danh môn và sự dưỡng dục đường hoàng. Kim Liên là hiện thân của vẻ đẹp toàn mỹ, thứ duy nhất trên thế gian này mang lại lẽ sống cho ta, chỉ nó mới khiến cuộc đời trần tục này đáng sống!” Hắn nói ngày càng gấp gáp, “Vẻ đẹp được tạc nên từ gỗ hay đá, bạc hay sứ, đồng hay vàng, không bao giờ có thể so bì được với vẻ đẹp đang căng tràn trong huyết mạch một thân thể ấm nóng, khắc họa nên hình bóng một giai nhân. Và nhan sắc nghiêng nước nghiêng thành ấy phải được thưởng thức bởi một nam nhân có thể sở hữu được nàng, cả về thể xác lẫn tâm hồn, để hàng ngày đóa sen ngát hương đó được đắm đuối và ngưỡng mộ, vuốt ve và mơn trớn, để tỏa ra những đường nét quyến rũ mới mẻ, những khoái cảm tươi mới. Sở hữu Kim Liên là mục tiêu tối thượng của đời ta, niềm hạnh phúc lớn lao nhất mà ta hưởng thụ sau nhiều năm đằng đẵng tôn thờ, nâng niu gìn giữ và khảo nghiệm về cái đẹp.
“Đêm đó, trong miếu thờ, nàng đã hạ sát ta, đã giết chết khả năng thưởng thức cái đẹp của ta, để lại một tâm hồn tàn phế và trống rỗng, chẳng còn gì ngoài khát khao trả thù. Ta phải trả thù tội ác bất nhân và tàn nhẫn mà nàng đã gây ra!” Cặp mắt họ Dương lóe một tia điên cuồng khi hắn ré lên đắc chí, “Ta đã báo thù được! Ta đã trỗi dậy từ nấm mồ! Ta đã tra tấn nàng, nữ sát thủ máu lạnh. Nàng quyến rũ và cám dỗ nam nhân rơi vào bẫy tình bằng nụ cười bẽn lẽn và ánh mắt thơ ngây, rồi cự tuyệt hắn với nụ cười khinh khi, bỏ rơi nam nhân này khiến hắn trở thành kẻ tàn phế đáng thương, què quặt cả thân xác lẫn tâm hồn. Tất cả nữ nhân khác, ta đều đã bắt phải khom lưng quỳ gối, van xin ta dung thứ bằng âm giọng của nàng, chính là da thịt của nàng mà ta đã cứa sâu vào, là máu huyết của nàng mà ta thấy đã tuôn chảy thành dòng, tất cả đều của nàng…” Hắn đột ngột dừng lại, liếm nước dãi trên đôi môi đang gầm gừ của mình, gương mặt méo xệch bỗng giãn ra. Họ Dương khẽ khàng nói, “Ta đã làm những gì phải làm. Giờ ta sẽ gánh chịu hậu quả.” Địch Nhân Kiệt gật đầu với viên bộ đầu. Dương chưởng quỹ được dẫn giải đi. Ông ngồi xuống và lau mồ hôi rịn trên trán. Quách Minh húng hắng giọng và hỏi, “Bẩm đại nhân, ngài có thể giải đáp một thắc mắc cho thảo dân không ạ?” Thấy huyện lệnh lừ đừ gật đầu, gã tiếp tục, “Bẩm, họ Dương đang nợ thảo dân một số ngân lượng kha khá cho hai món đồ đồng cổ. Không biết thảo dân có phải phép không khi cho rằng nha phủ sẽ thanh toán lại số đó cho thảo dân vào thời điểm thích hợp, trích ra từ tài sản bị tịch thu sung công của kẻ bị kết án tử?”
“Hẳn rồi, Quách tiên sinh,” Địch Nhân Kiệt đáp. Đoạn ông thêm lời, “Bản quan cần ngươi có mặt tại nha phủ vào sáng mai, với tư cách nhân chứng. Sau đó, ngươi được tự do tiếp tục chuyến du ngoạn, tùy ý ngươi.” “Xin đa tạ đại nhân.” Họ Quách buồn bã lắc đầu rồi tiếp lời, “Thảo dân lúc nào cũng coi Dương tiên sinh và Biện đại phu như các thương gia chính trực! Kinh nghiệm thương trường cho thấy việc chọn dân buôn mà giao dịch chẳng bao giờ thừa! Thảo dân vô cùng biết ơn ngài đã cho phép mình được tham dự vào phiên thăng đường tối nay, thật là một trải nghiệm để đời, đáng để khắc cốt ghi tâm. Phải chăng ngài đã lường trước rằng họ Dương và họ Biện có tội?” “Phải,” Địch Nhân Kiệt đáp lời, cố thoát khỏi gã dai như đỉa đói này. “Đại nhân quả là cao minh! Ngài có tin nổi không, thực sự thảo dân đã mơ hồ tưởng rằng ngài cũng nghi ngờ cả thảo dân nữa? Chán thật, chán thật, làm sao mà một thương buôn ngu dốt như thảo dân lại hiểu được sự khôn ngoan tinh tế trong trí tuệ của một đại quan nhân!” “Giờ ngươi có thể lui, Quách tiên sinh,” ông cáu kỉnh nói. “Cho ta gửi lời hỏi thăm đến Tôn tiên sinh.” “Đa tạ đại nhân. Dĩ nhiên Tôn tiên sinh sẽ tri ân điều này.” Gã mím môi và lo lắng tiếp lời, “Thưa, thảo dân e là Tôn tiên sinh đang dính vào một cơn bệnh khác. Thảo dân đã quá quen thuộc các triệu chứng. Ngay sau bữa trưa hôm nay, tiên sinh bắt đầu ợ to và phàn nàn về những chuyện chẳng hay ho gì…”
“Lão Hồng, lão còn không mau tiễn Quách tiên sinh ra về?” Địch Nhân Kiệt ngắt lời. Quách Minh cúi thấp mình cáo từ. Lão sư gia tống tiễn gã đi về phía hành lang. “Một gã ngớ ngẩn phiền phức!” Huyện lệnh lẩm bẩm với vẻ ngán đến tận cổ. Ông mò vào tay áo và lấy ra bàn tay gỗ, cẩn thận tháo nó ra khỏi lưng của chú rùa. Con vật nằm bất động trên bàn, đầu và tứ chi tụt hết vào mai như đề phòng bất trắc. Hồng sư gia quay lại. Lão yên lặng đi đến bàn trà trong góc, xem chừng ấm trà còn nóng hay không, đoạn châm trà ra chén. “Lão Hồng à, hãy thưởng cho bằng hữu tí hon đây những lá rau mà lão đã giơ cao đằng sau ba vị khách!” Vị sư gia tiến lại gần bàn và đặt chén trà xuống trước mặt huyện lệnh. Sau đó, lão lấy ra từ ống tay áo một nắm lá xanh. Ngay khi lão đặt chúng lên bàn, chú rùa thò ngay đầu ra, chớp mắt trước ánh nến, đoạn hào hứng bò tới các lá rau. HỒI 19 Đêm phá án, giãi bày tâm sự Mưu tại nhân, thành sự tại thiên Hồng sư gia ngồi thừ ra, im lặng nhìn Địch Nhân Kiệt chậm rãi uống cạn chén trà. Vẻ tổn thương hằn rõ trên khuôn mặt già nua của lão. Khi huyện lệnh đã dùng trà xong, lão Hồng thất vọng nói, “Bẩm đại nhân, chiều nay ngài đã nói cho lão nghe về việc giăng bẫy họ Kha, họ Biện và họ Quách. Nhưng ngài không buông một lời nào về họ Dương cả.” “Ngồi xuống nào, lão Hồng,” Địch Nhân Kiệt khẽ khàng nói. Ông nới lỏng vạt áo ngực của bộ quan phục và đẩy mũ ô sa khỏi trán.
Tỳ khuỷu tay xuống bàn, ông bắt đầu phân trần, “Đầu mối từ thẻ bài cẩu bị mất đã cho ta gợi ý rằng các nghi phạm chỉ gói gọn trong ba người họ Kha, họ Biện và họ Quách. Có một khả năng ẩn tàng khác là một trong ba nam nhân này đã hành động theo mệnh lệnh của một kẻ thứ tư. Ta giữ kín khả năng này vì đây chỉ là một trực giác mơ hồ, rằng cung cách xuống tay trong hai vụ án sau có gì đó không ổn. Hạ Quảng và Mạnh bà bà đều bị hạ sát một cách man rợ. Ta không thể ngăn suy nghĩ là Kha Nguyên Lương, Biện Gia hoặc Quách Minh sẽ đâm Hạ Quảng từ phía sau, thay vì hung bạo đập gạch vào đầu hắn. Rất có thể họ sẽ bỏ độc vào trà của Mạnh bà bà hơn là siết cổ bà ta đến chết.” “Thêm nữa, việc các vụ án mạng xảy ra liên hoàn trong khoảng thời gian ngắn, lại ở những địa điểm cách xa nhau, cho thấy kẻ thủ ác phải là một nam nhân cường tráng, nhanh nhẹn, quen rong ruổi ngược xuôi trên lưng ngựa. Cả họ Kha và họ Biện đều không phù hợp với đặc điểm đó, họ Quách càng không. Đúng là gã thương gia khó chịu ấy chu du khắp thiên hạ, nhưng gã luôn ở trên một con thuyền mành tiện nghi. “Vì tên sát nhân có liên đới đến việc buôn bán cổ vật, nên ta nghĩ dĩ nhiên đó là Dương chưởng quỹ, nghi can thứ tư. Hắn phù hợp với hình dung trong trực giác của ta và có cơ hội gây án như ba nghi phạm kia. Họ Dương hiện diện tại cuộc đua thuyền và đặc biệt quan tâm đến chẩn đoán của ngỗ tác. Sáng nay, hắn đã cưỡi ngựa ra ngoài, vì thế hắn có thể xuống tay với Hạ Quảng. Hắn cũng ở quanh công đường khi Lương nữ hiệp đến trình báo về vụ bắt cóc kỹ nữ.
“Hơn thế nữa, có ba điểm chống lại họ Dương. Đầu tiên, mặc dù họ Dương cam đoan là chưa bao giờ lai vãng đến miếu thờ đổ nát, nhưng hắn biết rõ án thờ tách rời với bệ tượng. Điều này chỉ ra hắn quả thật đã viếng thăm ngôi miếu, có lẽ là để ăn cắp. Thứ hai, họ Dương vờ vịt không quen biết gì bọn Đổng Hạ, một điều bất khả thi vì cả hai tên kia đều tham gia buôn bán cùng một loại hàng với hắn. Thứ ba, thông tin của họ Dương mâu thuẫn với Thẩm Bát về việc Biện đại phu thiếu thốn ngân lượng. Chuyện này cho thấy Biện Gia là tay chân của họ Dương, là người mà hắn muốn bảo vệ khỏi các nghi ngờ.” Ông chờ Hồng sư gia châm đầy chén trà, đoạn tiếp tục, “Tuy nhiên, mỗi luận điểm trong ba điều trên đều có một giả thuyết khác thay thế. Có thể họ Dương đã đọc trong một khảo cứu cổ vật nào đó về ngôi miếu. Có thể bọn Đổng Hạ cố tình tránh né Dương chưởng quỹ vì hắn là một đối thủ nguy hiểm trên thương trường. Và có thể Biện đại phu đã che đậy tình hình tài chính nan giải của mình, khéo đến mức chỉ có đám cái bang tai mắt của Thẩm Bát mới hay biết. “Điều quan trọng nhất là họ Dương không có động cơ nào cả. Ta quen biết Dương chưởng quỹ và cũng thông hiểu các lề lối của hắn. Nếu có một động cơ, nó phải nằm lẩn khuất đâu đó trong bóng tối của quá khứ. Nhưng chẳng có thời gian cho một cuộc điều tra chi tiết, giờ khắc đáng giá ngàn vàng, ta phải triển khai cấp tốc, kiểm tra các suy luận hợp lý cũng như khẳng định lại trực giác mơ hồ.
“Do thế, ta đã dày công sắp đặt cái bẫy tối nay, dự định cùng lúc giăng ra cho tất cả bốn nghi phạm, nhất tiễn xạ tứ thử. Vì thế mà ta đọc to lá thư giả mạo, nói bóng gió về sai lầm của tên sát nhân, kể câu chuyện rùng rợn về hồn ma báo thù, rồi đẩy mọi thứ lên đến cực điểm bằng sự xuất hiện bất thình lình của bàn tay trắng ma quái. Nếu một trong ba nam nhân kia là hung thủ, hẳn hắn sẽ bị dọa cho khiếp vía và để lộ chân tướng, như ta đã diễn giải chi tiết cho lão trước khi chúng ta đến đây. Điều ta không nói khi đó là ta đã mong chờ họ Dương bộc lộ bản chất. Nếu đúng là hung thủ thì hắn sẽ đến để do thám chúng ta. “Trước khi rời khỏi nha phủ, ta đã ra lệnh cho bộ đầu tháp tùng chúng ta đến đây. Ngay khi ta cho quản gia của họ Kha lui, y và các thuộc hạ sẽ phải lùa tất cả gia nhân vào hậu sảnh, ngoại trừ người gác cổng. Sau đó, họ sẽ mai phục kín kẽ ở các góc hành lang. Họ được lệnh phải bắt giữ bất cứ kẻ nào rời khỏi thư viện, nhưng không được ngăn trở bất kỳ ai thâm nhập vào. Chỉ lệnh này nhằm đảm bảo Kha Nguyên Lương, Biện Gia hay Quách Minh sẽ không thể tẩu thoát nếu một trong số họ là hung thủ. Cùng lúc ấy, nó sẽ dẫn dụ họ Dương thám thính chúng ta, nếu hắn đúng là tên sát nhân. À thì, hóa ra dự cảm của ta lại đúng. Họ Dương đã rơi vào bẫy mà ta giăng ra. Chính lão cũng đã nghe thấy hắn thú nhận là đang chuẩn bị ra tay với ta hoặc Biện đại phu. Điều càng chứng minh hắn là hung thủ kia.”
“Thưa, ngài đã quá sức liều lĩnh, coi thường sinh tử an nguy! Nếu biết trước, không đời nào lão phu đồng ý với kế hoạch đó, không bao giờ!” Địch Nhân Kiệt trìu mến nhìn lão sư gia và nhã nhặn nói, “Giờ thì lão biết lý do tại sao ta không kể về phần đặc biệt trong kế hoạch rung cây nhát khỉ rồi chứ, lão Hồng.” “Bẩm đại nhân, ngài đã đúng khi làm vậy! Thực tình lão phu vô cùng e sợ chuyện đã diễn ra! Khi tình thế ngày một căng thẳng, lão cứ sợ rằng một trong ba nam nhân kia sẽ có thể tấn công ngài bất cứ lúc nào!” “Chính ta cũng không cảm thấy tốt lành gì!” Ông buông lời với một nụ cười yếu ớt. “Mới chỉ trông thấy gian phòng này một lần, ta đã giả định sai lầm rằng khi các giá nến dọc vách trong được thổi tắt, ngọn nến lớn trên bàn vẫn sẽ cho phép ta trông chừng cửa ra vào và ba nam nhân cùng một lúc. Nếu họ Dương đến để thám thính, ta nghĩ mình sẽ nhận ra cánh cửa bị mở hé. Nếu sau đó hắn lẻn vào trong để ám toán ta hay gã đồng phạm, ta vẫn có nhiều thời gian để giải quyết hắn và thét gọi bộ khoái. “Tuy nhiên, lúc nhìn sang bên phải, ta chỉ thấy được bóng tối. Ta cũng nhận ra mình không thể vừa nói vừa trông chừng cửa ra vào cũng như ba tên nghi phạm cùng một lúc. Khi biết đã có ai đó đột nhập phòng và nghe được tiếng hơi thở sát ngay sau mình, ta ngộ ra rằng mình đã toan tính quá liều lĩnh!” Ông giơ tay che mắt, đoạn tiếp tục với giọng mệt mỏi, “Giờ thì ta đã nghe lời thú tội của họ Dương và hiểu rằng mọi chuyện đều khởi nguồn từ tình yêu hắn dành cho Kim Liên. Sự mê đắm này bắt đầu xoắn quyện với tình yêu tha thiết của hắn đối với cái đẹp. Cuối cùng hai thứ tình cảm ấy hòa trộn vào nhau, tạo thành một sự thèm khát điên cuồng ẩn khuất trong nội thể một nam nhân cô đơn và già cỗi, khao khát được sở hữu và tận hưởng những gì mình sắp đánh mất mãi mãi. Việc chiếm đoạt được Kim Liên trong ngôi miếu đổ nát, để rồi đánh mất nàng, đã đánh gục họ Dương cả về tâm hồn lẫn thể xác. Tâm trí bị thiêu đốt bởi một cơn cuồng nộ thất điên bát đảo, hắn buộc phải giải khuây bằng cách hành hạ các nữ nhân khác.”
Ông thở hắt một hơi dài, đoạn tiếp lời, “Về phần Biện đại phu, chiếu theo vương pháp thì ông ta phải chịu tội bêu đầu. Nhưng do có những tình tiết giảm nhẹ cho vị đại phu lầm đường lạc lối ấy, nên ta sẽ xin giảm án tử thành giam giữ dài hạn trong nhà lao. Sau khi vụ án khép lại, lão hãy nhắc ta thu xếp cho Lý cô nương. Chúng ta sẽ trích từ số tài sản bị sung công của họ Dương một ít ngân lượng, để thân phụ của nàng có thể chuộc thân cho nhi nữ. Lý cô nương có vẻ là một nữ nhân trung thành, có trước có sau. Nàng xứng đáng với một cuộc sống tốt đẹp hơn là chôn vùi đời mình trong chốn lầu xanh nhơ nhớp đấy.” Trong một chốc, Địch Nhân Kiệt yên lặng ngắm nhìn chú rùa nhỏ đang khoái trá nhấm nháp rau xanh. Rồi ông nói, “Sinh linh nhỏ bé này đã làm tròn nhiệm vụ của mình, lão Hồng à. Nhưng mọi thứ hóa ra lại diễn tiến khác với ta nghĩ. Dĩ nhiên bây giờ chuyện đã rõ ràng. Khi ra lệnh tập hợp tất cả gia nhân lại, ta đã quên khuấy mất Kha phu nhân. Viên bộ đầu mẫn cán của chúng ta có đầu óc thật thiển cận, y tóm luôn cả các tỳ nữ đảm nhận việc trông coi vị phu nhân đáng thương đó. Còn trơ trọi một mình trong buồng, Kim Liên đi ra ngoài và bắt đầu lang thang khắp biệt phủ vắng ngắt. Chắc thiếu phụ đã bắt gặp họ Dương tiến vào gian phòng này, nhưng hắn thì không hề thấy nàng. Họ Dương đã tránh chạm mặt Kim Liên kể từ khi hắn làm ô uế tiết hạnh của nàng trong ngôi miếu hoang. Dương chưởng quỹ từng nói là mỗi lần đến thăm nơi đây, hắn không bao giờ đi quá khách sảnh, vì không muốn nhìn vào bộ sưu tập cổ vật tuyệt phẩm của họ Kha. Dĩ nhiên, lý do thật sự là bởi hắn không có lòng dạ nào chạm mặt Kim Liên. Nàng có thể sẽ nhận ra tên dâm tặc ấy rồi nhớ lại mọi chuyện.
“Tối nay, lúc đầu thiếu phụ không nhận ra họ Dương, nhưng chắc chắn hình bóng hắn đã khuấy động những ký ức đang ngủ sâu trong tâm tưởng rối loạn ấy. Thế là nàng đi theo hắn vào thư viện này. Lão đã nhìn thấy Kim Liên mở cửa bước vào, lão Hồng à. Nàng băng qua họ Dương đang đứng nép trong góc bên trái cửa ra vào, tiến về phía ánh nến và đứng bên cạnh ghế của ta. Đúng lúc đó, tình cờ cơn bão đêm ầm ầm ập đến, tái tạo bầu không khí ngột ngạt và căng thẳng như buổi tối định mệnh bốn năm trước, lúc họ Dương bắt cóc nàng. Những người bị loạn trí lại đặc biệt nhạy cảm với các điều kiện thời tiết. Bầu không khí tương tự năm xưa đã mở lối tới những gì xảy ra tiếp theo. Khi ta đặt bàn tay trắng đeo viên đá đỏ lên bàn, Kim Liên như thấy lại bàn tay cẩm thạch của thủy thần, bàn tay mà nàng đã ngước nhìn lên trong khoảnh khắc kinh hoàng xưa kia, khi nàng đang nằm bất lực trên án thờ. Bất chợt, nàng liên tưởng cánh tay giả với kẻ mình vừa trông thấy. Trong chớp mắt, mọi thứ ùa về và quá khứ sống dậy. Kha phu nhân đã hồi tâm tỉnh trí nhờ cú sốc đó.” Hồng sư gia gật đầu. “Thưa, trời cao đã mở lượng hải hà cứu giúp cho Kha gia,” lão bình phẩm. “Ngọc Hoàng đã lấy mạng nhị phu nhân Hổ Phách can tội thông dâm, và thức tỉnh tâm trí đại phu nhân Kim Liên thủy chung son sắt, để nàng hoàn toàn hồi phục.” Lão Hồng nhíu mày, đoạn hỏi vẻ hiếu kỳ, “Bẩm, làm thế nào mà đại nhân biết có một cơn bão vào buổi tối Dương chưởng quỹ bắt cóc Kha phu nhân? Lão không nhớ là phu nhân Kim Liên từng đề cập đến điều này.”
“Chẳng ai nói ra chuyện đó. Nhưng lão không nhớ chuyện cách đây bốn năm, Bạch Nương hiển linh và dọa Đổng gia một phen khiếp vía à? Thật ra đó chính là đại phu nhân Kim Liên. Trong lúc quẫn trí bởi những trải nghiệm kinh khủng trong ngôi miếu, thiếu phụ đã xoay xở tìm được đường ra đến bìa rừng. Mọi thứ đều ăn khớp! Nàng chỉ khoác độc một manh áo mỏng, mái tóc buông xõa, tay và chân bị những nhánh cây gai cào chảy máu. Đó là hình ảnh mà Đổng gia đã tận mắt trông thấy. Rồi cơn giông lớn bắt đầu nổi lên. Nữ nhân loạn trí ấy thẫn thờ đi quanh khu rừng, lang thang suốt đêm trên những cánh đồng, cho đến khi nàng quỵ ngã vì kiệt sức ở ngoài Đông môn. Đó cũng là nơi mà sáng hôm sau, các nông phu đã tìm thấy nàng. Ta sẽ kiểm tra lại ngày tháng chính xác, tất nhiên rồi. Nhưng không mảy may nghi ngờ gì nữa, vụ bắt cóc Kim Liên và việc thủy thần hiện hình trong Đổng gia trang đều xảy ra vào cùng một tối!” Chỉ còn hai người ngồi trong gian phòng rộng lớn, lặng lẽ lắng nghe tiếng mưa rơi. Cuối cùng, Hồng sư gia nở một nụ cười hài lòng và lên tiếng, “Xin chúc mừng đại nhân. Vậy là ngài đã giải quyết xong hai nan đề chỉ trong một buổi tối! Một cái liên đới đến bốn vụ án mạng, chưa kể đến bí ẩn ngày trước về thủy thần.” Địch Nhân Kiệt nhấp một ngụm trà. Đặt chén xuống, ông trầm ngâm nhìn lão Hồng rồi chậm rãi nói, “Các vụ án mạng, đúng, ta đã phá giải chúng. Nhưng còn việc Bạch Nương hiển linh bốn năm về trước…”
Khẽ lắc đầu, ông tiếp lời, “Liệu Ngài có can dự vào những chuyện đã xảy ra ở đây hay không… Đáng tiếc là ta chẳng thể lý giải nổi, lão Hồng à.” Huyện lệnh đứng dậy khỏi ghế và đặt chú rùa nhỏ vào trong ống tay áo. Chỉnh sửa lại quan phục, ông nói, “Dường như mưa ngớt. Chúng ta hồi phủ nào.” HỒI 20 Trăm năm thiên mệnh sắp bày Ngỡ ngàng thiên cổ, bỗng cay mắt người Sáng hôm sau, ngay khi bình minh vừa ló dạng, Địch Nhân Kiệt và lão Hồng đã rời thành theo lối Nam môn, giục ngựa buông cương tiến về miền thôn dã. Sau cơn bão đêm hôm trước, bầu không khí đã trở nên thoáng đãng, hứa hẹn một ngày đẹp trời và mát mẻ. Huyện lệnh ngồi suy tư đến tận đêm khuya, soạn thảo tấu chương tường tận về các vụ án mạng để chuyển lên các quan trên ở chốn kinh kỳ. Ông thao thức cả đêm, cảm thấy khó mà gạt khỏi tâm trí những khoảnh khắc căng thẳng trong thư viện của Kha gia. Ông cũng chẳng hào hứng với viễn cảnh phải nghe họ Dương cung khai một lần nữa trong phiên thăng đường xử án buổi sáng. Thức dậy sau một giấc ngủ chập chờn, Địch Nhân Kiệt quyết định cùng lão Hồng du hành sớm đến rừng Mạn Đà La để xem xét khả năng phát quang. Ông dự tính viết thêm một đề nghị tóm lược vào tấu sớ, nói rằng sự tồn tại của một nơi như vậy chỉ tổ tạo điều kiện cho bọn vô lại xây dựng hang ổ mà thôi. Họ đi theo lối tắt mà gã thương gia đồ cổ chỉ ra. Băng qua các cánh đồng lúa, những tán cây cao lớn nhanh chóng hiện ra trong tầm mắt.
Hai người dễ dàng xác định được những cây du trắng đánh dấu con đường mòn dẫn vào ngôi miếu đổ nát. Tuy nhiên, họ phát hiện thấy cơn giông tố đã tàn phá tan hoang nơi này. Dọc theo lối mòn nằm giữa những cây leo dày đặc xen lẫn các cây bụi đầy gai, cây cối bị nhổ bật rễ và đổ rạp xuống, ngăn trở họ tiến vào. Họ đi vòng quanh khu rừng, liên tục tìm kiếm các lối vào khác, nhưng chẳng tìm thấy gì ngoài một bức tường dày đặc những cây cổ thụ già cỗi và các bụi cây con mọc kín mít. Cuối cùng, hai người cũng phát hiện được đường đi ra phía sau trang viên bỏ hoang. Họ cưỡi ngựa men theo lớp tường ngoài và tiến đến cổng vào. Địch Nhân Kiệt xuống ngựa ở đó. Ông nói với sư gia, “Chúng ta hãy đến hoa viên để nhìn sang khu rừng. Bốn năm trước, Kha phu nhân đã xuất hiện ở đó, giữa những hàng cây. Đây là cơ hội cuối cùng để chúng ta tìm ra một lối dẫn vào trong rừng!” Họ băng qua thông đạo như một đường hầm, bước sang hoa viên bên cạnh để tiến tới phía đông khu nhà chính. Đứng cạnh bờ tường thấp, họ dõi mắt nhìn rừng cây rậm rạp và âm u. Không có lấy một chiếc lá lay động trong không gian lặng gió buổi sớm mai. Chim chóc ríu rít bay qua bay lại từ dưới hàng hiên, nhưng chúng lại né xa khu rừng. Ở đó, mọi thứ đều lặng thinh như tờ. Một bầu không khí im ắng lạ lùng dường như đang bám víu vào những tán lá tối tăm. Sau một hồi lâu, huyện lệnh khẽ lắc đầu. Ông lên tiếng, “Không, chúng ta không nên quấy rầy nơi cư ngụ của thủy thần. Chúng ta nên để Ngài sống trong yên bình, tại miếu thờ đổ nát tọa lạc giữa khu rừng linh thiêng. Có những điều chúng ta không nên đụng chạm tới, lão Hồng à. Thôi ta và lão hãy quay về trấn!”
Lúc quay người lại, ông bắt gặp một chú chim non đang bất lực vùng vẫy giữa đám cỏ, gần bức tường của phương lầu. Nó điên cuồng vỗ đôi cánh non tơ trần trụi. Ông khum hai bàn tay lại và cẩn thận nâng nó lên. “Chú chim non tội nghiệp bị rơi ra khỏi tổ! Nhưng có vẻ như nó không bị thương gì cả.” Ngẩng đầu lên, ông nói tiếp, “Nhìn này, tổ của nó ở trên đó, bên dưới mái hiên của khu lầu, chim mẹ đang bay vòng vòng xung quanh. Ta sẽ đặt nó trở lại tổ.” Địch Nhân Kiệt leo lên bờ tường thấp và đặt chú chim non vào lại tổ. Nhưng thay vì hạ mình bước xuống, ông cứ đứng im trên đó. Nhón chân lên, ông quan sát kỹ càng hơn, không bận tâm đến chim mẹ đang bồn chồn bay lượn quanh đầu mình. Ở chính giữa những vỏ trứng vỡ, ba chú chim non đang rúc vào nhau, há mỏ kêu chiêm chiếp. Cạnh bên chúng là một vật hình quả trứng, bụi bẩn cũng không thể che mờ đi sắc trắng sáng ngời. Ông nhón vật đó lên, nhẹ nhàng đáp xuống mặt đất, rồi rút khăn tay chùi sạch nó. Địch Nhân Kiệt cùng Hồng sư gia lặng lẽ ngắm nhìn vật nằm trong lòng bàn tay trái của ông. sắc ngọc trắng tinh khiết tỏa sáng lung linh. Sau một hồi, ông khẽ khàng nói, “Đây chính là viên ngự minh châu, lão Hồng à!” Vị sư gia thở gấp. Cúi mình về phía bàn tay của huyện lệnh, lão Hồng chăm chăm ngó nhìn viên ngọc. Rồi lão cất tiếng hỏi, âm giọng bỗng nhiên hạ thấp, “Bẩm, có thể nào nó là giả châu không?”
“Không đâu, lão Hồng. Trên thế gian, không cao nhân nào có thể giả mạo được hình dáng hoàn mỹ và ánh sáng tinh nguyên của cực phẩm minh châu này, nhân gian không thể có được viên ngự châu thứ hai. Câu chuyện của Đổng Mai là thật, đây quả đúng là báu vật của hoàng cung đã thất lạc bao đời. Là một kẻ túc trí đa mưu, quả thật y đã cất giấu viên ngọc trong phương lầu, nhưng ở một nơi mà không ai có thể tìm ra được. Khi Hạ Quảng lục soát các mái hiên, chắc hắn cũng nhìn thấy tổ chim, nhưng khi đó minh châu vẫn đang nằm lẫn với các quả trứng chim chưa nở. Và chúng ta sẽ chẳng bao giờ tìm ra báu vật nếu không có dịp may tình cờ này, một cơ hội mà thiên mệnh đã sắp bày trao tặng.” Để viên minh châu sáng ngời lăn chầm chậm trong lòng bàn tay, ông thở dài và tiếp lời, “Vậy là sau bao tháng năm đằng đẵng, sau biết bao đau khổ của nhân tình thế thái, sau khi thấm đẫm máu của bao nhiêu người vô tội, viên dạ lý minh châu này cũng trở về với hoàng thượng bệ hạ.” Huyện lệnh cung kính bọc kín viên ngọc trong tấm khăn tay rồi cho vào ngực áo. Đoạn ông tiếp lời, “Ta sẽ trao tận tay viên ngọc cho Kha tiên sinh, cùng với một thông cáo chính thức do chính tay ta đóng triện, nội dung rằng một vụ án mạng đã ngăn họ Kha bẩm báo ngay về tung tích của báu vật đã thất lạc này. Nhờ thế, Kha tiên sinh có thể đến kinh thành mà chẳng phải âu lo gì cả, cứ thế mà dâng nộp ngự châu triều đình. Ta hi vọng hoàng thượng sẽ ban thưởng cho Kha Nguyên Lương. Cùng với sự hồi phục của phu nhân Kim Liên, có lẽ tiên sinh sẽ nguôi ngoai nỗi đau mất đi người đầu ấp tay gối là phu nhân Hổ Phách.
“Ta đã vô cùng bất công với Hổ Phách, lão Hồng à. Nàng chưa bao giờ có chút tư tình với Đổng Mai, cũng như chẳng đời nào lên kế hoạch bỏ trốn cùng y. Nàng chỉ muốn kiếm được thứ báu vật quý hiếm ấy cho phu quân, là cha của hài nhi trong bụng mình. Ngự châu là món quà để nàng tỏ lòng tri ân với người đã đưa cuộc đời mình sang trang mới, người đã ra tay cứu vớt phận thuyền quyên bạc mệnh, từ chỗ một nô tỳ bất hạnh trở thành nhị phu nhân của Kha gia. Đổng Mai mà Hổ Phách quen biết chỉ là trưởng tử của chủ nhân cũ, là người thi thoảng mua cổ vật cho phu quân của nàng. Nàng không hề hay biết những vụ giao thương bẩn thỉu giữa y và họ Dương. Giả thuyết của ta về khía cạnh này của vụ án đã sai hoàn toàn rồi. Ta đã phạm một sai lầm cực lớn mà chẳng thể làm gì để sửa chữa. Ta chỉ có thể nghiêng mình tạ lỗi trước hương hồn của phu nhân mà thôi.” Địch Nhân Kiệt đứng lặng lẽ trong một chốc, đôi mắt dán vào tầng tầng lớp lớp những tán cây đen kịt của rừng Mạn Đà La, phía sau bờ tường thấp của hoa viên. Rồi ông đột ngột quay lưng, ra dấu cho Hồng sư gia nối gót theo mình. Họ bước trở lại chòi gác, lên ngựa và phi nước kiệu về thôn Thạch Kiều. Trong khu chợ, các tiểu thương đang bận rộn dựng quầy hàng. Không có khách bộ hành nào thơ thẩn xung quanh vào lúc sớm sủa này. Một làn sương mỏng vắt ngang trên làn nước nhuốm bùn nâu của kênh đào, những giọt sương sớm lấm tấm trên những hàng cây phủ bóng lên miếu thờ thủy thần nằm bên bờ sông. Ông từ già đang cầm chổi tre quét chỗ lá vàng vương vãi trên thềm.
Lão thờ ơ ngước nhìn khi Địch Nhân Kiệt xuống ngựa và bước lên bậc tam cấp. Rõ ràng, lão không nhận ra ông chính là huyện lệnh. Làn khói xanh uốn mình bay lên từ lư hương trên án thờ, hương trầm thơm ngát phảng phất khắp ngôi miếu. Qua màn khói, ông thấp thoáng trông thấy gương mặt của Bạch Nương, bờ môi khẽ uốn lên thành một nụ cười mơ hồ. Đứng đó với đôi tay khoanh lại trong ống tay áo rộng, ông ngước nhìn khuôn mặt an nhiên của thủy thần. Những sự kiện xảy ra trong hai ngày qua lướt qua trước tâm nhãn của ông. Đã có những sự trùng hợp lạ lùng. Nhưng liệu trên đời có tồn tại những điều ngẫu nhiên như vậy? Thực sự ông biết quá ít về tâm tưởng và động cơ xử sự của thế thái nhân tình! Liệu có bao giờ ông dám thử thấu hiểu sức mạnh vô hình của thiên mệnh, đấng tối cao sắp đặt nên số phận chúng sinh? Ông nhẹ nhàng buông lời, “Ngài chỉ là tượng thần do bàn tay bách tính tạc nên, nhưng Ngài sừng sững đứng đó như biểu tượng của điều mà không người trần mắt thịt nào có thể hiểu thấu. Thiên mệnh không ưu ái ban cho phàm nhân chúng ta khả năng tường tri những điều như vậy. Do thế, ta, Địch Nhân Kiệt, xin kính cẩn nghiêng mình trước Ngài”. Sau khi đứng thẳng dậy và xoay người định bước đi, Địch Nhân Kiệt nhận ra ông từ già đang đứng ngay sau mình. Ông thò tay vào ống tay áo tìm vài đồng cắc. Bất chợt, ngón tay ông chạm phải một đĩnh bạc. Ông lấy nó ra và ngắm nghía một hồi, tâm tưởng lại chìm sâu trong những suy tưởng ủ dột. Đó chính là đĩnh bạc mà phu nhân Hổ Phách đã trao cho ông.
Huyện lệnh trao nó tận tay ông từ và nói, “Vào mùng 5 hàng tháng, lão hãy thắp một nén hương trầm và cầu nguyện cho hương hồn của Kha phu nhân, tên húy là Hổ Phách, được an nghỉ.” Nam nhân già cỗi cúi đầu kính cẩn và nhận bạc. Lão đi đến cái bàn nhỏ và mở cuốn sổ công đức dày cộm ra. Sau khi nhúng mực cây bút lông đã mòn vẹt, lão nắn nót ghi lại cúng phẩm vào sổ, mái đầu bạc ghé sát trang giấy vàng úa. Địch Nhân Kiệt đi ra ngoài và bước dần xuống các bậc tam cấp. Ông nhận dây cương từ Hồng sư gia, đoạn quăng mình lên tuấn mã. Thình lình, ông từ già xuất hiện ngay ở đầu thềm, bàn tay nhăn nheo vẫn cầm cọ viết. Lão hỏi với giọng run run, “Tên của người quyên góp là gì, thưa tiên sinh? Và cả danh phận của tiên sinh nữa?” Tựa mình trên yên ngựa, Địch Nhân Kiệt quay lại và đáp lời ngắn gọn, “Chỉ cần viết là: Họ Địch đến từ Phổ Dương.” Rồi thở dài đầy phiền muộn, ông thêm lời, “Một nho sinh.” Cover
Robert van Gulik ĐỊCH CÔNG KỲ ÁN #11 THI NHÂN VÀ SÁT Poets and Murder (1968) Tùng Vũ dịch Giới thiệu Nhân vật chính ĐỊCH NHÂN KIỆT: huyện lệnh Phổ Dương, một trấn huyện thuộc địa phận phủ Kim Hoa. Ông thường được gọi là “Địch Công” hay “Huyện lệnh”. Các nhân vật khác LỖ QUAN TÙNG: tri huyện Quyên Thành, một thi sĩ hạng xoàng. CAO PHONG: Sư gia của nha phủ Quyên Thành. THIỆU PHÀN VIÊN: cựu đại học sĩ Hàn lâm viện. TRƯƠNG LAM BA: thi sĩ cung đình. NGỌC LAN: một nữ sĩ danh tiếng. NHƯ Ý: một thiền sư. MẠNH TÔ HẢI: một thương gia buôn trà. TỐNG NHẤT VĂN: một cống sỹ nghiên cứu lịch sử. TIỂU PHƯỢNG: một vũ nữ. CHU HÔNG: vệ nữ miếu Hắc Hồ. Các vụ án trong truyện Vụ án CỐNG SĨ BỊ CỨA CỔ. Vụ án NỮ THI SĨ SÁT NHÂN. Vụ án VŨ NỮ BỊ ÁM HẠI. HỒI 1 Cao sư gia đến chùa thỉnh khách Khổ đại sư tọa thiền hỏi tin Một nhà sư béo phục phịch, ngồi khoanh chân trong góc tấm phản rộng, lặng lẽ ngắm nhìn khách nhân, mắt không hề chớp. Sau một hồi, sư đáp lời, giọng khàn khàn chối tai, “Ta không đến đâu. Sau giờ Ngọ là ta phải rời thành rồi.” Những ngón tay trái rậm lông thô kệch của nhà sư kẹp quanh quyển sách đã quăn mép đặt trên đầu gối. Nam nhân kia, dáng cao lớn, mình vận áo lam, ngoài khoác hắc bào bằng lụa thâm, trầm ngâm trong giây lát chẳng biết nói gì. Y đang mệt mỏi vì phải đi bộ suốt một quãng đường dài dọc theo phố Tự Miếu. Thế mà kẻ khiếm nhã kia còn chẳng thèm mời khách ngồi. Y thấy sẽ tốt hơn nếu vị hòa thượng xấu xí, thô lỗ này không tham gia cùng chúng thi nhân thanh cao… Y khó chịu trước cái đầu to tướng cạo trọc, chìm nghỉm giữa hai bờ vai ngồn ngộn, gương mặt ngăm đen, cặp má chảy xệ, râu ria lởm chởm, chiếc mũi núc ních thịt phía trên đôi môi dày. Hai con mắt ốc nhồi của ông ta mở thao láo một cách kỳ lạ. Mùi mồ hôi lưu cữu bốc lên từ bộ áo cà sa vá chằng vá đụp quyện lẫn hương trầm thơm Thiên Trúc, luẩn quẩn trong không gian tù túng của gian phòng trống trải.
Vị khách lắng nghe trong thoáng chốc tiếng tụng kinh đều đều vọng tới từ chùa Thông Tuệ. Đoạn y cố nén tiếng thở dài và tiếp tục, “Nếu thế thì Lỗ tri huyện sẽ phiền lòng lắm. Tối nay sẽ có một bữa tiệc chiêu đãi trong dinh. Lão gia còn tính thết yến mừng Trung thu vào tối mai, tại vách đá Thúy Ngọc.” Nhà sư khụt khịt mũi. “Lỗ tri huyện cần phải biết điều hơn! Thết đãi dạ yến, thật là ghê gớm! Tại sao ông ta lại cử sư gia tới đây thay vì đích thân đến gặp ta, hử?” “Tri phủ đại nhân đang tuần du ngang qua nơi đây. Mới sáng sớm tinh mơ, tri phủ đại nhân đã triệu tập lão gia đến dịch trạm phía tây thành để dự cuộc họp gồm mười bốn vị huyện quan trong phủ này. Sau đó, lão gia còn phải dự bữa cơm trưa do tri phủ đại nhân chiêu đãi.” Nam nhân đằng hắng lấy giọng và tiếp lời, vẻ như muốn thanh minh, “Các buổi dạ yến mà tiểu nhân vừa đề cập, chỉ là những cuộc gặp mặt khiêm tốn và thân mật. Những buổi ngâm thơ, thực ra là vậy. Vì thầy…” “Hôm nay có những khách nào?” Nhà sư cộc lốc cắt ngang. “À, trước hết có vị học sĩ Thiệu Phàn Viên. Rồi có ngài Trương Lam Ba, thi sĩ của Hoàng triều. Cả hai vừa đến vào sáng nay…” “Ta biết bọn họ nhiều năm rồi, cả thi phẩm của họ nữa. Thế nên ta chẳng cần gặp gỡ các thi nhân ấy. Còn những bài thơ tầm thường của Lỗ tri huyện…” Nhà sư ném về phía vị khách một cái nhìn vẻ khinh miệt, rồi đột ngột hỏi, “Còn ai khác không?”
“Địch đại nhân cũng sẽ có mặt. Ngài ấy là quan phụ mẫu của huyện Phổ Dương kế bên. Ngài ấy được tri phủ đại nhân triệu tập và đã đến đây từ ngày hôm qua.” Nhà sư xấu xí giật mình. “Địch Nhân Kiệt, huyện lệnh Phổ Dương sao? Quỷ tha ma bắt, thế nào mà… ?” Đoạn ông ta gắt gỏng hỏi, “Nhà ngươi định nói là họ Địch sẽ tham dự buổi ngâm thơ? Nghe nói ông ta có kiểu tư duy cứng nhắc và trò chuyện nhàm chán cơ mà.” Viên sư gia cẩn thận vuốt hàm ria đen nhánh trước khi nghiêm nghị hồi đáp, “Địch đại nhân là bằng hữu và đồng liêu với Lỗ đại nhân. Lão gia cũng xem ngài ấy như chỗ thân tình. Ngài ấy tham dự tiệc tại tư gia là chuyện bình thường.” “Nhà ngươi cũng là người cẩn trọng đó nhỉ?” Nhà sư chế giễu. Ông ta suy nghĩ trong một chốc, hai má phồng lên, rồi đôi môi nở ra một nụ cười lớn, một bên mép nhếch lên đầy khinh khỉnh, để lộ hàm răng nâu khấp khểnh. “Địch Nhân Kiệt?” Nhà sư nhìn chằm chằm vị khách bằng đôi mắt lồi, trầm ngâm xoa hai gò má râu ria lởm chởm. Tiếng rào rạo khiến viên sư gia gai người. Hạ thấp tầm mắt, nhà sư lẩm bẩm, “Rốt cuộc đây có thể là một dịp hay. Không biết ông ta nghĩ gì về loài cáo! Đấy là một nam nhân khôn ngoan hơn người, thiên hạ đồn đại như thế.” Bất chợt ông ta lại nhìn lên, khàn giọng hỏi, “Ngươi vừa xưng danh là gì, hở Sư gia? Họ Bao hay Hầu nhỉ?” "Tiểu nhân họ Cao. Tên họ đầy đủ là Cao Phong.”👁
Cao sư gia thăm thiền sư Như Ý Nhà sư săm soi vào khoảng không phía sau vị khách. Viên sư gia ngoái đầu lại nhìn, nhưng chẳng thấy ai trên ngưỡng cửa phía sau cả. Bất chợt nhà sư cất tiếng, “Được rồi, Cao tiên sinh, ta đã đổi ý. Ngươi có thể báo với tri huyện đại nhân rằng ta chấp nhận lời mời.” Ông ta liếc nhìn đầy nghi ngờ vào khuôn mặt bình thản của người đối diện, gay gắt hỏi, “Tiện thể ta muốn hỏi, làm thế nào mà Lỗ đại nhân biết được ta đang ở trong ngôi chùa này?” “Có lời đồn là thầy đã nhập thành vào hai ngày trước. Lão gia lệnh cho tiểu nhân dò hỏi khắp phố Tự Miếu. Tiểu nhân được chỉ dẫn đến chốn này…” “Ta hiểu rồi. Đúng vậy, kế hoạch ban đầu của ta là tới đây hai ngày trước. Nhưng thực ra, ta chỉ mới đến trấn vào sáng nay. Có chút trở ngại trên đường đi. Nhưng thôi, việc đó chẳng can hệ gì đến nhà ngươi. Ta sẽ tới dinh của Lỗ tri huyện đúng giờ cơm trưa. Hãy chuẩn bị cho ta một bữa chay thanh tịnh và một căn buồng yên ắng. Nhỏ thôi nhưng phải sạch sẽ, ngươi nhớ đấy. Ngươi có thể trở về được rồi, Cao sư gia. Ta có việc cần làm ở chốn này. Ngay cả một sư quản tự già cũng có những nhiệm vụ nhất định, mai táng thi hài và bộn bề những chuyện khác nữa. Của quá khứ và cả thực tại!” Một tràng cười lớn khiến hai bờ vai nặng nề của nhà sư rung lên bần bật. Nhưng rồi nó liền tắt ngấm, đột ngột như khi bắt đầu.
“Vạn sự tùy duyên!” ông ta cất giọng khàn khàn. Cao sư gia khom người thi lễ, hai tay kính cẩn khoanh lại trong ống tà dài. Đoạn y quay lưng và rảo bước đi. Nhà sư lật mở cổ thư đặt trong lòng mình. Đó là một quyển sấm vĩ. Ngón tay trỏ lần theo hàng chữ ghi trên đầu chương sách, nhà sư đọc to, “Hắc hồ rời hang. Cần đề phòng!” Ông ta gập sách lại, nhìn đăm đăm về phía cửa ra vào, đôi mắt mở to bất động. HỒI 2 Tiệc Trung thu, Lỗ tri huyện bàn chuyện Án ban trưa, tri huyện ngẩn người "Món vịt quay thật là khoái khẩu!” Lỗ tri huyện tấm tắc khen, hai bàn tay khoanh lại trước bụng. “Nhưng món chân giờ cho nhiều giấm quá. Hơi chua so với khẩu vị của đệ, ít ra là vậy.” Địch huyện lệnh ngả lưng vào tấm đệm ghế mềm mại. Cỗ kiệu thoải mái của vị đồng liêu đang đưa cả hai từ dịch trạm về nha phủ. Vuốt chòm râu dài đen nhánh, ông nói, “Đệ có thể đúng về món chân giờ, nhưng những thức khác quả là cao lương mỹ vị, thật sự là một đại yến xa hoa. Ta thấy Tri phủ đại nhân thật ra dáng một vị đại quan có năng lực và nhạy bén trước thời thế. Bài tóm lược nội dung cuộc họp bàn của ngài thật hàm súc và hữu ích.” Lỗ tri huyện nén lại một tiếng ợ nhỏ, dùng bàn tay chuối mắn của mình tế nhị che miệng. Đoạn ông ta vân vê hàng ria mép mỏng dính cho nó vênh lên, tạo ra nét nhấn nhá trên khuôn mặt tròn quay. “Bài văn hữu ích đấy, nhưng nhàm chán vô cùng. Trời đất ơi, trong này nóng đến chảy mỡ!”
Ông ta đẩy chiếc mũ ô sa cánh chuồn bằng nhung đen khỏi vầng trán ẩm ướt. Cả hai vị quan đều vận quan phục bằng gấm lục theo đúng lễ nghi để diện kiến quan tri phủ. Trước đó hãy còn là một sớm mùa thu mát mẻ, nhưng giờ thì ánh nắng ban trưa gay gắt đang thiêu đốt hầm hập lên mái kiệu. Lỗ tri huyện vừa ngáp vừa nói, “Ôi, bây giờ cuộc họp đã kết thúc và không còn gì để hao tâm tổn trí nữa rồi, Địch huynh à. Chúng ta có thể hướng tâm trí sang những chủ đề dễ chịu hơn! Đệ đã thảo ra một lịch trình chi tiết trong hai ngày. Nếu hiền huynh hạ cố tham dự thì sẽ thật hân hạnh cho Lỗ đệ này lắm! Một lịch trình đặc sắc, đệ có thể tán dương nó như vậy.” “Ta chẳng thích lợi dụng lòng hiếu khách của Lỗ đệ! Xin đừng để tâm đến ta. Giá mà ta được đọc chút gì đó trong thư viện trác tuyệt của đệ, thì ta…” “Huynh sẽ không có nhiều thời gian để đọc sách đâu!” Lỗ tri huyện vén rèm cửa sổ lên. cỗ kiệu đang băng ngang con phố chính. Lỗ tri huyện trỏ tay vào dãy cửa hiệu, được trang hoàng rực rỡ với vô số đèn lồng đủ màu sắc sặc sỡ, muôn hình vạn trạng. “Ngày mai là tết Trung thu! Chúng ta sẽ bắt đầu bày tiệc ngay tối nay! Khách nhân ít nhưng tinh hoa!” Địch huyện lệnh lịch sự mỉm cười, nhưng khi nghe vị đồng liêu nhắc đến tết Trung thu, ông chợt nhói lòng tiếc nuối. hơn bất cứ ngày hội nào trong năm. Trung thu là dịp gia đình đoàn viên, nữ quyến sẽ đứng ra tổ chức chu toàn, on cái sẽ háo hức tham gia. Ông đã trông dợi dịp này để được quây quần đầm ấm bên gia đình ở Phổ Dương. Nhưng tri phủ đã lệnh cho ông phải tiếp tục lưu lại Quyên Thành trong hai ngày nữa, để tiện bề triệu tập nếu cần, trước khi ngài quay về châu phủ vào tuần sau. Địch huyện lệnh thở dài. Ông muốn về Phổ Dương ngay lập tức hơn là nán lại chốn đây, không chỉ vì ngày lễ, mà do nha phủ còn một vụ án lừa đảo phức tạp vẫn chưa được xử lý rốt ráo và ông muốn chu toàn việc ấy. Do vụ án đó mà Địch huyện lệnh đã quyết định độc hành đến Quyên Thành, để vị gia sư tín cẩn là Hồng Lượng và ba trợ thủ ở lại Phổ Dương để thu thập đầy đủ dữ kiện cho bản cáo trạng cuối cùng.
“Ơ, đệ nói về ai thế?” “Là Thiệu Phàn Viên, hảo bằng hữu của đệ! Thiệu đã đồng ý hạ cố đến thăm tệ xá của đệ!” “Đó chẳng phải cựu đại học sĩ của triều đình sao? Mới gần đây, ngài ấy vẫn còn giúp phác thảo ra tất cả các thánh dụ tối quan trọng.” Lỗ tri huyện ngoác miệng cười toe toét. “Vâng, đúng là ngài ấy! Một trong các văn sĩ lỗi lạc nhất của Đại Đường, cả thi phú lẫn tản văn đều trác tuyệt. Khách nhân còn có cả Trương Lam Ba, vị thi sĩ cung đình.” “Lại thêm một vì sao khuê khác! Sao đệ lại khiêm tốn nhận mình là một thi sĩ xoàng xĩnh? Chỉ riêng việc những thi nhân vang danh thiên hạ ấy đến dự tiệc cũng đủ chứng tỏ tầm vóc của đệ…” Vị đồng liêu béo tốt nhanh chóng giơ tay lên. “Ồ không, Địch huynh à, đệ không có cái diễm phúc ấy đâu! Chỉ là ngẫu nhiên mà thôi! Trên đường xuôi về kinh kỳ, Thiệu đại nhân tình cờ đi ngang nơi đây. Còn Trương Lam Ba sinh ra và lớn lên ở đất Quyên Thành, nên về quê lễ gia tiên. Như huynh biết đấy, phủ đệ này, bao gồm cả nội trạch của đệ, từng là cung điện thuộc về vị Cửu Hoàng tử ngỗ nghịch. Hai mươi năm về trước, ông ta đã tính kế thoán nghịch, ở đấy có nhiều viện tử riêng biệt cùng những hoa viên xinh xắn. Hai danh sĩ cao quý nhận lời mời của đệ chỉ vì họ nghĩ rằng mình được tiếp đón chu đáo hơn là ở khách điếm!” “Đệ quá khiêm tốn rồi! Những nam nhân quan cách ấy sẽ không bao giờ nhận lời nếu họ không bị ấn tượng bởi thơ phú tao nhã của đệ. Chừng nào thì họ đến?”
“Hẳn họ đã đến nơi rồi! Đệ đã dặn lão quản gia phục vụ bữa trưa ở đại sảnh, viên sư gia sẽ thay mặt đệ tiếp kiến quan khách. Chúng ta cũng sắp về tới phủ rồi.” Lỗ tri huyện vén tấm rèm cửa sổ sang một bên. “Trời ạ, họ Cao đang làm gì ở đó?” Ló đầu qua cửa sổ, ông ta thét bảo trưởng quản của đội phu kiệu, “Dừng lại!” Trong khi kiệu được hạ xuống trước cổng nha phủ, Địch huyện lệnh nhìn qua cửa sổ và thấy một đám người chộn rộn đang tụ tập sát nhau trên bậc thềm rộng, ông nhận ra Cao Sư gia, một nam nhân mặc trường phục xanh và khoác áo đen. Một nam nhân có vóc người mảnh dẻ, mình vận y phục nâu viền đen, đầu đội mũ phủ son đen bóng gắn chùm lông đỏ, hẳn là viên bộ đầu của nha phủ. Hai người khác có vẻ là thường dân áo vải. Ba vị bộ khoái đứng riêng ra. Họ mặc đồng phục giống bộ đầu nhưng mũ không gắn chùm lông hồng, một sợi xích mỏng quấn quanh thắt lưng, cùm tay và kìm kẹp treo lắc lư trên đó. Họ Cao mau lẹ bước xuống và cúi mình thi lễ trước kiệu. Lỗ tri huyện hỏi xẵng, “Chuyện gì xảy ra vậy?” “Bẩm đại nhân, hai khắc trước, viên quản gia của thương gia buôn trà họ Mạnh đã đến báo án. Có một vị cống sĩ Tống Nhất Văn đã thuê hậu viện phía sau nhà họ Mạnh. Người ta phát hiện y đã bị cứa cổ, tất cả ngân lượng đều bị cướp mất. Có vẻ vụ giết người cướp của đã xảy ra lúc trời mới tờ mờ sáng.”
“Một vụ án mạng vào hôm trước lễ hội! Thật xúi quẩy!” Lỗ tri huyện thì thầm với Địch huyện lệnh. Đoạn ông ta lo âu hỏi Cao Sư gia, “Khách khứa của ta thì thế nào?” “Bẩm, ngài vừa rời phủ thì Thiệu đại nhân đến, Trương tiên sinh cũng tới ngay sau đó. Thuộc hạ đã đưa các vị ấy đi xem nơi ăn chốn ở và ngỏ lời cáo lỗi về sự vắng mặt của ngài. Họ mới ngồi xuống dùng bữa thì đại sư Như Ý xuất hiện. Sau bữa ăn, cả ba khách nhân đều đã đi nghỉ trưa.” “Tốt. Vậy là ta có thể đến kiểm tra nơi xảy ra tội ác ngay lập tức. Còn nhiều thời gian để chào đón quý khách sau giấc trưa. Ngươi hãy cử Bộ đầu và hai Bộ khoái phi ngựa đến đó trước, lệnh cho họ không được để bất cứ kẻ nào làm xáo trộn hiện trường, thế nhé. Ngươi đã gọi Ngỗ tác chưa?” “Rồi ạ, thưa đại nhân. Thuộc hạ cũng đã lấy từ tàng thư của nha phủ những giấy tờ liên quan đến nạn nhân và vị gia chủ của y, Mạnh chưởng quỹ.” Họ Cao rút từ ống tay áo ra một xấp văn thư và kính cẩn trao lại cho Lỗ tri huyện. “Làm tốt lắm! Ngươi hãy ở lại nha phủ, xem xét các văn thư quan trọng được gửi đến và giải quyết những công vụ thường nhật!” Đoạn, Lỗ tri huyện quát tháo tay trưởng quản vẫn đang chăm chú lắng nghe nãy giờ, “Nhà ngươi biết tư gia của Mạnh chưởng quỹ chứ? Ở gần Đông môn à? Được rồi, nhanh chóng khởi kiệu thôi!” Khi cỗ kiệu được công kênh đi, Lỗ tri huyện đặt tay mình lên cánh tay Địch huyện lệnh và nhanh nhảu nói, “Hi vọng huynh không phiền vì bị mất giấc nghỉ trưa, Địch huynh à! Đệ cần có sự tương trợ và lời khuyên của huynh. Đệ khó có thể đơn thương độc mã giải quyết một vụ án mạng sau khi đã tống cả đống thức ăn vào bao tử. Lẽ ra đệ nên uống ít rượu thôi. Chỉ một chén rượu tiêu dao mà say cả đất trời!”
Ông ta lau mồ hôi trên mặt và hỏi tiếp với vẻ lo lắng, “Thật là huynh không phiền chứ?” “Dĩ nhiên là không. Ta rất vui lòng giúp đỡ hiền đệ.” Địch huyện lệnh vuốt hàm râu, đoạn thêm lời, “Lần này ta với đệ ở cùng một chỗ, đệ đừng hòng giở trò che mắt ta như hồi ở đảo Bồng Lai!” “Hiền huynh cũng đâu quá hoạt ngôn! Huynh nhớ hồi năm ngoái chứ? Cái lần huynh tới thu nạp hai nữ nhi xinh đẹp từ nơi này ấy?” Địch huyện lệnh mỉm cười chán nản. “Được rồi, coi như chúng ta chẳng nợ nần gì nhau! Dù gì ta cũng nghĩ đây chỉ là một vụ cướp của giết người thông thường. Chúng ta hãy xem xét danh tính nạn nhân.” Lỗ tri huyện nhanh chóng dúi xấp giấy tờ vào tay vị đồng liêu. “Huynh cứ xem trước nhé! Đệ sẽ chợp mắt trong chốc lát thôi. Để tĩnh tâm tập trung mà suy nghĩ, huynh à. Còn một quãng đường khá dài mới đến Đông môn.” Lỗ tri huyện kéo sụp chiếc mũ ô sa xuống che mắt rồi ngả người lên đệm, thở ra một hơi dài khoan khoái. Huyện lệnh mở tấm rèm che cửa sổ ở phía mình để đón ánh sáng. Tuy nhiên, trước khi bắt đầu đọc, ông trầm ngâm hướng ánh nhìn vào bộ mặt đỏ gay của vị đồng liêu. Sẽ thật thú vị nếu được quan sát Lỗ tri huyện tiến hành điều tra một án mạng, ở cương vị một huyện lệnh, ông không được phép rời bỏ công đường trừ khi nhận được mệnh lệnh hỏa tốc từ tri phủ. Nay có cơ hội xem vị đồng liêu làm việc, cũng là một dịp hiếm có.
Hơn nữa, Lỗ tri huyện là một nam nhân khác thường, ông có gia sản dư dả. Thiên hạ đồn đại, sở dĩ Lỗ tri huyện bằng lòng trị nhậm ở Quyên Thành vì phẩm hàm này cho ông ta một vị thế độc lập, ung dung tự tại, cũng như cơ hội thỏa mãn sở thích về tửu sắc và thơ ca. Quyên Thành xưa nay vẫn là vị trí khó bổ nhiệm, chỉ một viên quan có tư sản đồ sộ, thu nhập dồi dào mới có thể duy trì thỏa đáng được nha môn tráng lệ nơi đây. Và giới quan trường kháo nhau, đấy chính là lý do Lỗ tri huyện cứ được ngồi mòn cái ghế tri huyện này. Nhưng Địch huyện lệnh thường hay ngờ rằng cái cung cách bề ngoài của một tay sành sỏi mỹ tửu và ẩm thực, chẳng hề thích thú gì công vụ nha môn, chủ yếu là do ông ta cố tình làm ra vẻ như thế. Cái mặt nạ ấy đã được ông ta dày công vun đắp một cách cẩn trọng. Còn sự thật thì Lỗ tri huyện đã cai quản địa hạt huyện mình khá chu toàn. Mới ban nãy thôi, Địch huyện lệnh đã có ấn tượng tốt khi vị đồng liêu quyết định vi hành đến hiện trường tội ác. Nhiều huyện quan khác có lẽ đã giao phó ngay việc khảo xét thông lệ cho thuộc hạ rồi. Địch Nhân Kiệt trải xấp văn thư ra. ở trên cùng là tờ giấy ghi chép đầy đủ thông tin về vị cống sĩ bị sát hại. Y tên là Tống Nhất Văn, hai mươi ba tuổi, chưa lập gia thất. Nhờ đỗ đến Hội nguyên* mà họ Tổng được đặc cách tham gia hiệu chỉnh một tiết đoạn trong cổ thư về lịch sử của một triều đại xa xưa. Sau khi đến Quyên Thành hai tuần trước, y ngay lập tức tới nha phủ trình diện, xin phép được lưu trú tại trấn trong một tháng. Y giải thích với Cao sư gia rằng mục tiêu chuyến viếng thăm là đế tham vấn các tư liệu lịch sử địa phương. Một vài thế kỷ trước, giai đoạn Nam triều* mà y đang nghiên cứu, đã diễn ra một cuộc khởi nghĩa nông dân ở Quyên Thành. Tống Nhất Văn tỏ ý muốn tìm thêm các ghi chép về sự kiện đó trong tàng thư lưu trữ cổ xưa. Viên sư gia đã cho phép y tham khảo tư liệu ở văn khố. Căn cứ vào danh sách các chuyến viếng thăm đã được đóng triện, dường như Tống Nhất Văn chiều nào cũng ở thư viện của nha phủ. Tất cả chỉ có thế.
Hội nguyên là kết quả đỗ cao nhất trong khoa thi Hội. Nam triều gồm các vương triều Lưu, Tống, Nam Tề, Lương, Trần. Các giấy tờ còn lại liên quan đến vị gia chủ của cống sĩ, thương gia buôn trà Mạnh Tô Hải. Mạnh chưởng quỹ đã tiếp quản hiệu buôn trà lâu đời từ thân phụ. Mười tám năm trước, gã cưới nhi nữ của một người đồng nghiệp họ Hoàng. Mạnh Phu nhân sinh hạ được một nam một nữ, nữ mười sáu tuổi, nam mười bốn tuổi. Gã cũng nạp thêm một người thiếp chính thức. Giấy hôn thú và giấy khai sinh đều được lưu trữ trong văn thư. Địch huyện lệnh gật gù vẻ hài lòng, viên Sư gia họ Cao rõ là một quan viên mẫn cán. Mạnh chưởng quỹ đã ngoài bốn mươi, đóng thuế đúng hạn và thường xuyên làm công đức. Họ Mạnh là một Phật tử thành tín hết mực, vì gã là thí chủ hào phóng của chùa Thông Tuệ, một trong những nơi thờ tự tôn nghiêm ở phố Tự Miếu. Suy nghĩ về Phật giáo gợi nhớ cho Địch Nhân Kiệt điều gì đó. Ông huých nhẹ khuỷu tay vào vị đồng liêu đang ngáy êm ái và hỏi, “Hiền đệ, Cao sư gia từng nói gì đó về một vị sư phải không?” “Sư ư?” Lỗ tri huyện nhìn Địch huyện lệnh bằng đôi mắt ngái ngủ. “Chẳng phải họ Cao vừa đề cập đến một vị sư tham gia bữa ăn trưa hôm nay ở tư dinh của đệ?” “Đúng vậy! Chắc hẳn huynh đã được nghe kể về đại sư Như Ý, đúng không nào?” “Ta chưa hề được nghe. Địch mỗ không hòa hợp lắm với giới Phật tử.” Là tín đồ trung thành của Khổng giáo, ông không tán thành Phật giáo. Hành vi bỉ ổi của các hòa thượng trong chùa Phổ Độ ở Phổ Dương càng hun đúc thêm thái độ phản kháng ấy ở Địch huyện lệnh.
Lỗ tri huyện cười khùng khục. “Đại sư Như Ý không thuộc về bất cứ đám đông hỗn tạp xô bồ nào cả. Huynh sẽ thích thú khi gặp đại sư, hiền huynh à! Huynh sẽ thích đàm đạo cùng ông ta cho mà coi. Đầu óc đệ giờ đã tỉnh táo hơn chút rồi. Để đệ xem tập văn thư đó nào!” Địch huyện lệnh trao cho ông ta đống giấy tờ rồi lặng lẽ tĩnh tọa trong suốt hành trình còn lại. HỒI 3 Thương nhân làm chuyện bao đồng Đau đầu án tử lòng vòng chưa thông Nhà của vị thương gia buôn trà nằm ở một ngõ hẻm chật hẹp, khiến cho kiệu quan gặp nhiều khó khăn mới đi vào được. Các bức tường gạch cao vút hai bên được tô điểm bằng lớp ngói xanh dày dạn phong sương, cho thấy đây là khu dân cư lâu đời của những nhà giàu có. Phu kiệu dừng lại trước một cánh cổng sơn đen, được trang hoàng bởi những hình chạm trổ bằng kim loại. Viên bộ đầu đang đứng chờ sẵn tại đó, hươ roi lên khiến cho đám đông hiếu kỳ tản mác đi chỗ khác. Cánh cửa kép được đẩy mở tung. Mái kiệu cao gần như chạm vào những thanh xà đã sạm màu theo năm tháng. Tiếp sau Lỗ tri huyện, Địch Nhân Kiệt lệnh bước xuống kiệu, ông nhanh chóng nhìn một lượt khoảng sân trước được chăm nom kĩ càng, không gian yên ắng và mát mẻ dưới bóng râm của hai cây tùng cao đang nghiêng mình bên những bậc thềm đá dẫn lối lên sảnh chính với hai hàng cột sơn son oai nghiêm. Một nam nhân mảnh khảnh vận trường y hoàng lục, đầu đội mũ sa đen, vội vã đi xuống bậc thềm để cung nghênh các vị khách. Lỗ tri huyện mau mắn tiến về phía đối phương.
“Bản quan đoán chừng ngươi là Mạnh Tô Hải, chủ hiệu buôn trà nổi tiếng nhất huyện này? Tệ làm sao, một vụ cướp của giết người lại xảy ra trong tư gia lâu đời cao quý của ngươi! Mà lại ngay trước tết Trung thu nữa chứ!” Mạnh chưởng quỹ cúi thấp đầu thi lễ và tạ lỗi vì đã phiền nhiễu đến nha phủ. Lỗ tri huyện liền ngắt lời, “Việc của bản quan là phục vụ bách tính lê dân, Mạnh tiên sinh! Bất kể ngày đêm mưa nắng! Vị này là đồng liêu của ta, tình cờ đi chung với ta khi vụ án mạng được bẩm báo.” Lỗ tri huyện chỉnh chiếc mũ ô sa trên đầu lại cho ngay ngắn. “À, ngươi mau dẫn chúng ta đến hiện trường vụ án. Nếu bản quan nhớ không nhầm thì nơi đó là viện tử phía sau nhà.” “Bẩm đại nhân, quả đúng là thế. Nhưng trước tiên, thảo dân xin mạn phép mời hai vị quan nhân vào sảnh chính dùng một chút trà bánh. Rồi thảo dân sẽ giải trình chính xác cho ngài về…” “Không, người không cần phải câu nệ lễ nghi phiền phức làm gì! Cứ dẫn đường cho chúng ta đến viện tử phía sau.”👁 Mạnh Tô Hải nghênh đón quan nhân Vị chưởng quỹ thất vọng ra mặt, nhưng gã chỉ cúi mình rồi dẫn họ theo một hành lang có mái che chạy vòng qua sảnh chính, đến một hoa viên có tường bao quanh ở phía sau nhà, những chậu hoa được đặt ở hai bên lối đi. Vừa thấy lão gia cùng với hai quan viên rảo bước đến khúc quanh, hai thị nữ vội vã lùi ra xa. Viên bộ đầu đi sau cùng, xiềng xích và khóa sắt treo ở thắt lưng va vào nhau loảng xoảng theo từng bước chân.
Mạnh Tô Hải chỉ vào khu nhà trải dài phía đối diện. “Thưa đại nhân, đó là nơi sinh sống của gia quyến thảo dân. Chúng ta sẽ đi vòng qua các gian nhà theo lối bên trái đây.” Bước dọc theo con đường hẹp lát đá chạy dưới hàng mái hiên, sát bên những cánh cửa sổ mắt cáo sơn đỏ, Địch Nhân Kiệt thoáng thấy một gương mặt xanh xao phía trong, ông nghĩ đó là một cô gái trẻ trung và ưa nhìn, thuộc dạng danh môn khuê các. Họ đi đến một khu vườn rộng lớn, nơi có nhiều loại cây ăn quả mọc chen với những bụi cây thấp. “Thưa, thân mẫu quá cố của thảo dân rất thích trồng cây, ” vị chưởng quỹ phân trần. “Bà đã đích thân giám sát đám người làm vườn. Sau khi thân mẫu quy tiên năm ngoái, thảo dân chẳng thể thu xếp đủ thời gian để…” “Quả đúng là vậy,” Lỗ tri huyện vừa nói vừa nâng vạt áo lên. Con đường nhỏ quanh co xuyên qua vườn cây ăn quả, hai bên mọc đầy những bụi gai dại. “Mấy quả lê phía xa kia trông thơm ngon thật.” “Bẩm đại nhân, đó là loại lê đặc biệt. Quả to, vị ngọt. À, viện tử nơi Tống Nhất Văn thuê nằm ở phía bên kia, các ngài mới chỉ nhìn thấy mái nhà. Rồi các ngài sẽ hiểu vì sao bọn thảo dân không nghe thấy bất cứ tiếng la hét hay xô xát nào vào lúc nửa đêm. Bọn thảo dân…” Lỗ tri huyện dừng bước. “Đêm qua? Tại sao đến trưa nay ngươi mới báo án?” “Thưa, đấy lúc ấy mọi người mới phát hiện ra thi thể. Tống Nhất Văn luôn dùng điểm tâm bằng vài cái bánh khô dầu mua từ quầy hàng ở góc phố, và tự tay pha trà buổi sáng. Còn bữa trưa và bữa tối là do người nhà thảo dân phục vụ. Trưa nay, thị nữ mang cơm đến nhưng không thấy Tống Nhất Văn ra mở cửa, nó vội đi báo cho thảo dân. Thảo dân đến gõ cửa nhiều lần và gọi tên Tống Nhất Văn. Khi không thấy động tĩnh gì, thảo dân sợ là y đã lâm trọng bệnh, liền lệnh cho quản gia phá cửa xông vào và…”
“Ta hiểu. Thôi, chúng ta đi tiếp nào!” Một viên bộ khoái đang đứng canh cửa ra vào của gian nhà thấp bằng gạch nằm phía sau vườn cây. Y cẩn thận mở cửa, vì tấm ván cửa đã gãy, bản lề đều đã long hết ra. Khi họ bước vào thư phòng nhỏ, Mạnh chưởng quỹ nói vẻ phật ý, “Bẩm đại nhân, các ngài hãy nhìn xem hung thủ đã lục tung nơi này như thế nào! Đây chính là gian phòng mà thân mẫu quá cố của thảo dân ưa thích nhất. Sau khi gia phụ qua đời, hầu như trưa nào gia mẫu cũng đến gian phòng yên tĩnh này, để có thể ngắm nhìn cây cối mọc ngay trước khung cửa sổ. Bà ngồi tại án thư, đọc và viết. Thế mà, giờ đây…” Gã ném một cái nhìn chán ngán vào án thư bằng gỗ tử đàn kê sát cửa sổ. Các ngăn kéo đều bị lôi ra ngoài, mọi thứ bên trong rơi vãi trên sàn đá: giấy tờ, bái thiếp, bút nghiên. Bên cạnh chiếc ghế bành lót đệm là một cái tráp bạc bọc da đỏ đang nằm lăn lóc, nắp bị nạy một nửa. Cái tráp rỗng không. “Bản quan thấy lão mẫu của ngươi rất yêu thích thi phú,” Lỗ tri huyện vui vẻ nói. Ông ta quan sát những quyển sách chất chồng trên các ngăn kệ dựa lưng vào vách bên, tiêu đề được đánh dấu bằng những cái nhãn đỏ gọn gàng. Những quyển sách dày cộp lên với các thẻ nằm kẹp giữa các trang giấy. Lỗ tri huyện đi tới bên kệ, với tay định lấy xuống một quyển nhưng rồi lại thôi, ông ta hỏi cộc lốc, “Sau tấm màn đằng kia là cửa vào buồng ngủ phải không?”
Khi họ Mạnh gật đầu, Lỗ tri huyện nhanh chóng vén tấm màn sang một bên. Buồng ngủ có phần rộng rãi hơn thư phòng. Kê sát bức vách trong cùng là một khung giường gỗ, trên đó tấm mền bông đã được lật xuống. Cạnh đầu giường có một cái bàn nhỏ, trên mặt bàn là một ngọn nến đã cháy lụi. Một cây tiêu trúc được móc vào cái đinh đóng trên vách. Phía đối diện là một cái bàn trang điểm bằng gỗ mun. Chiếc rương y phục bọc da thuộc đỏ bị lôi ra từ dưới gầm giường, nắp mở tung để lộ một đống phục trang nam nhân nhàu nhĩ. Trên vách tường phía trong là một cánh cửa rắn chắc với then cài lớn. Một nam nhân béo lùn mặc áo lam đang khuỵu gối quỳ bên tử thi nằm trên sàn nhà. Địch Nhân Kiệt nhìn qua vai của Lỗ tri huyện, thấy người chết là một thư sinh gầy gò, gương mặt thông thường được nhấn nhá bởi hàm ria bé và ít râu cằm. Búi tóc của y xổ tung ra, tóc dính bết vào vũng máu khô trên tấm thảm. Cái mũ đen vấy máu nằm chỏng chơ cạnh bên đầu. Y mặc đồ trắng, chân mang giày nỉ, phần đế dính vết bùn khô. Nạn nhân có một vết cứa dài gớm ghiếc bên dưới mang tai phải. Viên ngỗ tác vội vã đứng dậy và cúi đầu thi lễ. “Bẩm đại nhân, động mạch phía bên phải cổ nạn nhân bị cứa đứt bằng một đường rạch ác hiểm. Một con dao lớn hoặc dao bầu, thuộc hạ dám nói như vậy. Thời gian tử vong vào khoảng nửa đêm, căn cứ vào tình trạng của thi thể. Nạn nhân đang nằm đúng chỗ này, mặt úp xuống đất. Thuộc hạ đã lật xác lên để tìm kiếm thêm dấu vết bạo lực nhưng chẳng phát hiện được gì cả.”
Lỗ tri huyện lẩm bẩm điều gì đó, rồi chuyển hướng sự chú ý sang gia chủ, người vẫn còn đứng chờ bên cửa ra vào. Ông ta vân vê hàm ria, trầm ngâm ngó nhìn Mạnh chưởng quỹ. Địch Nhân Kiệt nghĩ rằng gã có vẻ ngoài của một học giả. Khuôn mặt dài tai tái, hàm ria rủ và chòm râu dê lo thơ càng làm cho nó như dài thêm ra. “Mạnh tiên sinh, tại sao ngươi đề cập đến thời điểm nửa đêm?” Lỗ tri huyện đột nhiên lên tiếng. “Bẩm đại nhân, thảo dân đã nhận ra,” vị chưởng quỹ chậm rãi đáp lời, “mặc dù Tống Nhất Văn mặc đồ ngủ, nhưng chiếc giường kia chẳng có vẻ gì là từng có người nằm trên đó cả. Bọn thảo dân đều biết y hay thức khuya, thường có ánh đèn từ cửa sổ phòng cho đến tận canh ba. Do đó, thảo dân cho là tên sát nhân ra tay bất ngờ với Tống Nhất Văn khi y sắp sửa lên giường nằm nghỉ.” Lỗ tri huyện gật đầu. “Vậy làm cách nào mà hắn lẻn vào bên trong được, Mạnh tiên sinh?” Mạnh Tô Hải thở dài. Gã lắc đầu rồi hồi đáp, “Thưa, có vẻ như vị cống sĩ này hơi đãng trí một chút. Đám thị nữ kể với nương tử của thảo dân rằng y thường ngồi thừ ra đó, ủ ê suy nghĩ khi chúng nó bày biện bàn ăn, còn chẳng buồn đáp lời khi được bắt chuyện. Đêm qua, y đã quên không cài chốt khóa cửa hậu, cũng lơ đễnh không cài then cổng vườn. Lối này, mời quý đại nhân.” Một viên bộ khoái đang ngồi trên băng ghế tre xiêu vẹo trong hoa viên nhỏ. Y nhanh chóng đứng bật dậy và chỉnh trang tư thế để thi lễ. Địch Nhân Kiệt nhận ra Lỗ tri huyện huấn luyện thuộc hạ rất tốt. Việc cắt cử nha dịch đứng canh gác tại tất cả đường ra lối vào dẫn đến hiện trường thường bị nhiều huyện quan làm chiếu lệ. Ông nhìn lướt qua gian nhà dùng làm bếp và nhà tiêu, rồi nhập bọn cùng Lỗ, Mạnh đi ra ngoài, qua cánh cổng trổ qua bức tường cao bao bọc hoa viên. Viên bộ đầu theo sau họ đến con hẻm nhỏ nằm giữa bức tường nhà họ Mạnh và con phố song song với nó.
Trỏ tay vào những đống phế thải làm tắc nghẽn cả lối đi vốn đã chật hẹp, vị chưởng quỹ bình phẩm, “Bẩm đại nhân, lúc đêm khuya, bọn lang thang và đám khất cái thường lảng vảng quanh đây để đào bới đống rác ấy. Thảo dân từng cảnh báo Tống Nhất Văn lúc nào cũng phải cửa khóa then cài mỗi khi tối trời. Tối qua, chắc hẳn y đã ra ngoài tản bộ và quên chốt cổng sau khi quay về. Hoặc là y đã lơ đãng không cài then cửa buồng ngủ, vì khi thảo dân tìm thấy thi thể, cánh cửa hãy còn khép hờ. Cổng sau đã đóng nhưng không cài chốt. Thảo dân sẽ chỉ cho các ngài thấy chính xác những gì mình đã phát hiện ra.” Vị chưởng quỹ dẫn họ quay trở lại khu vườn. Một thanh giằng ngang bằng gỗ nặng nề được dựng dựa vào bức tường, bên cạnh cánh cổng. Mạnh Tô Hải tiếp lời, “Bẩm đại nhân, thật dễ tái hiện lại những gì đã xảy ra. Trong lúc băng qua hẻm, một tên côn đồ đã nhận ra cổng vườn chỉ khép hờ. Hắn lẻn vào vườn, đột nhập gia trang, cho rằng người trong nhà đang say ngủ. Nhưng Tống Nhất Văn, lúc ấy chỉ mới chuẩn bị lên giường, đã phát hiện ra hắn. Khi thấy Tống chỉ có một mình không ai tương trợ, tên lưu manh liền hạ sát y ngay lập tức. Rồi hắn lục soát buồng ngủ và thư phòng. Sau khi phát hiện ra tráp bạc, hắn cướp lấy ngân lượng và rời đi theo lối mình đã vào.” Lỗ tri huyện gật đầu chậm rãi. “Tống Nhất Văn có hay giữ nhiều tiền trong tráp không?” “Thưa, thảo dân cũng không rõ. Tống Nhất Văn đã trả trước một tháng tiền trọ, nhưng chắc chắn y phải giữ đủ tiền làm lộ phí hồi kinh. Cũng có thể y cất một số món đồ vặt vãnh trong rương y phục.”
“Bẩm đại nhân, chúng thuộc hạ sẽ sớm tóm cô tên vô lại đó!” Viên bộ đầu thưa. “Bọn lưu manh ấy luôn phóng tay tiêu xài ngay khi đánh được quả lớn. Xin đại nhân cho phép thuộc hạ cử người đi dò la tin tức ở các tửu điếm và sòng bạc.” “Được, làm vậy đi. Bảo bọn họ kín đáo điều tra cả các hiệu cầm đồ. Hãy cho đặt thi hài vào trong một quan tài tạm, rồi chuyển nó đến nhà xác trong nha phủ. Chúng ta cũng phải thông báo cho gia quyến của Tống Nhất Văn nữa.” Ông ta quay sang hỏi Mạnh chưởng quỹ, “Tống Nhất Vân có bằng hữu hay họ hàng trong trấn này chứ?” “Bẩm đại nhân, hình như là y không có. Chẳng có ai từng đến tư gia của thảo dân để thăm hỏi y cả. Theo thảo dân được biết thì y cũng chưa bao giờ đón tiếp khách khứa gì cả. Tống Nhất Văn là một nam nhân trẻ trung, hiếu học, nghiêm trang và đứng đắn, ít giao du với thiên hạ. Ngay lần gặp mặt đầu tiên, thảo dân đã bảo mình luôn hoan nghênh y ghé qua dùng một chén trà hay nói chuyện sau bữa tối. Thế nhưng đã hai tuần trôi qua, y chưa từng nhận lời mời của thảo dân. Điều đó làm thảo dân có chút ngạc nhiên, thưa ngài, vì Tống Nhất Văn vốn là một thanh niên lịch sự và giỏi ăn nói. Chỉ là một cử chỉ giao tế nhã nhặn đối với gia chủ, thảo dân cứ nghĩ…” “Được rồi, Mạnh tiên sinh. Bản quan sẽ nói sư gia của mình thảo một lá thư gửi đến Bộ Lễ, yêu cầu họ báo hung tin cho Tống gia. Chúng ta cùng quay lại thư phòng nào.”
Lỗ tri huyện mời Địch Nhân Kiệt ngồi xuống ghế bành trước án thư, còn mình thì kéo một cái đôn đến bên cạnh kệ sách, ông ta lấy một vài quyển sách xuống và bắt đầu lật nhanh các trang. “Chà chà!” Lỗ tri huyện xuýt xoa. “Mẫu thân của ngươi quả là một quý phu nhân có sở thích văn chương trác tuyệt, Mạnh tiên sinh à! Ta nhận thấy bà cũng đọc cả các thi sĩ vô danh. Vô danh theo tiêu chuẩn chính thống của Đường triều, ít ra là vậy.” Ông ta đưa mắt nhìn nhanh Địch Nhân Kiệt rồi mỉm cười thêm lời, “Mạnh tiên sinh à, Địch bằng hữu của ta khá là bảo thủ, có thể ông ấy sẽ không tán đồng. Nhưng cá nhân ta nhận thấy các thi sĩ vô danh ấy còn độc đáo hơn cả những kẻ được triều đình ban danh vị.” Lỗ tri huyện đặt những quyển sách cũ về chỗ rồi lấy một vài quyển mới. Trong khi đọc lướt chúng mà không hề ngẩng mặt lên, ông ta tiếp lời, “Nếu Tống Nhất Văn không có bằng hữu hay họ hàng nào ở Quyên Thành này, làm thế nào mà y biết đirợc ngươi muốn cho thuê viện tử phía sau?” “Bẩm đại nhân, hai tuần trước, thảo dân tình cờ viếng thăm Cao sư gia, cùng lúc vị cống sĩ đến trình diện. Cao tiên sinh biết thảo dân định cho thuê nơi này sau khi mẫu thân qua đời, nên ông ấv đã giới thiệu cho y. Thảo dân đã dẫn Tống Nhất Văn về nhà để cho y xem sân sau. Y rất hài lòng, nói rằng đó chính xác là nơi trọ yên tĩnh mà y đang tìm kiếm. Tống Nhất Văn còn nói thêm là nếu việc nghiên cứu cổ thư tiêu tốn nhiều thời gian hơn dự tính, thì y muốn gia hạn thời gian thuê. Thảo dân nghe thế cũng rất mừng, vì thật chẳng dễ gì…”
Gã đột ngột dừng lại, bởi vị tri huyện dường như chẳng màng lắng nghe, ông ta đang say mê đọc một trong những tấm thẻ được kẹp vào quyển sách để trên đùi. Lỗ tri huyện ngẩng mặt lên. “Những lời bình của mẫu thân ngươi thật thích đáng, Mạnh tiên sinh à. Lão bà có nét chữ rất đẹp!” “Thưa, gia mẫu thường luyện thư pháp mỗi buổi sáng, thậm chí ngay cả sau khi thị lực của bà kém đi. Gia phụ cũng là người ham mê thơ phú, nên họ thường thảo luận cùng nhau về…” “Tuyệt!” Lỗ tri huyện thốt lên. “Mạnh gia có thể tự hào về di sản văn chương mà mình được thừa hưởng. Ngươi sẽ tiếp tục truyền thống cao quý đó chứ?” Vị chưởng quỹ mỉm cười buồn bã. “Thưa đại nhân, thật không may là thảo dân không được trời phú cho điều đó. Thảo dân không hề có tài văn chương thi phú gì cả, nhưng có vẻ như hai đứa con của thảo dân được thừa hưởng.” “Rất tốt! Ôi, Mạnh tiên sinh, chúng ta sẽ không làm phiền ngươi lâu hơn nữa. Chắc chắn ngươi đang mong được đi đến cửa hiệu của mình. Có phải nó nằm ở góc đường, nơi con phố chính của trấn ta cắt ngang phố Tự Miếu không? Ngươi còn thứ trà đắng của Giang Nam chứ? Còn hả? Tốt! Ta sẽ nói quản gia của mình đặt mua hàng ở chỗ ngươi. Nó là thứ trà tuyệt phẩm để dùng sau một bữa tối! Ta sẽ cố hết sức tróc nã tên vô lại đã gây ra vụ án mạng tàn bạo này sớm nhất có thể. Hãy báo ngay cho ta biết nếu ngươi có tin tức mới. Xin cáo biệt.”
Mạnh chưởng quỹ cúi đầu thi lễ trước hai vị huyện quan. Viên bộ đầu dẫn gã ra ngoài. Khi còn một mình với Địch Nhân Kiệt, Lỗ tri huyện chậm rãi thay đổi các quyển sách trên kệ. Ông ta cẩn thận xếp chúng vào đúng vị trí, đoạn đan tay lại trên bụng. Lỗ tri huyện trợn tròn mắt và thốt lên, “Thánh thần trời phật, thật xui quá mạng, hiền huynh à! Đệ phải gánh một vụ mưu sát phức tạp ngay lúc cần thết đãi các vị khách danh tiếng! Rồi đệ sẽ phải lao tâm khổ trí để phá vụ án này, vì tên sát nhân là một kẻ ma mãnh. Huynh có đồng ý rằng chiếc mũ là sai lầm duy nhất mà hắn phạm phải không, Địch huynh?” HỒI 4 Ngọn tiêu lạ, thổi lên lạc điệu Chuyện hồ ly ảo diệu khôn lường Địch Nhân Kiệt nhìn vị đồng liêu bằng ánh mắt sắc sảo. Ngả người trên ghế bành, ông vuốt bộ râu dài và lên tiếng, “Đúng vậy, Lỗ đệ à. Ta hoàn toàn đồng ý rằng đây không phải một vụ cướp của giết người do một tên lưu manh gây ra. Cứ cho rằng Tống Nhất Văn đã vô tâm không cài then cổng vườn cũng như buồng ngủ. Nhưng dù nửa đêm thấy cổng nhà thiên hạ hớ hênh như thế, thì tên đạo tặc cũng phải dò la nội tình rồi mới dám xâm nhập. Chẳng hạn, hắn chọc thủng một lỗ nhỏ trên giấy dán cửa sổ để nhòm trộm bên trong. Thấy Tống Nhất Văn chuẩn bị đi nằm, hắn sẽ chờ chừng nửa canh giờ, cho đến khi chắc chắn y đã ngủ say rồi mới lẻn vào.” Thấy Lỗ tri huyện gật gù tán thành, Địch Nhân Kiệt tiếp lời, “Ta thiên về ý nghĩ cho rằng Tống Nhất Văn đã tháo mũ và cởi bỏ áo ngoài, thay đồ ngủ, sửa soạn chăn gối để chuẩn bị đi nằm thì nghe ngoài vườn có tiếng gõ cổng. Y lại đội mũ vào để ra xem ai đang ở ngoài đó.”
“Kiến giải hay!” Lỗ tri huyện thốt lên. “Hóa ra huynh cũng để ý đến những vết bùn dính trên đôi giày nỉ của nạn nhân.” “Đúng vậy. Vị khách viếng thăm lúc nửa đêm rất có thể là người quen của Tống Nhất Văn. Vì thế y đã mở cổng, mời khách đợi ở ngoài thư phòng trong lúc mình vào buồng để khoác thêm tấm áo. Nhưng khi Tống Nhất Văn vừa quay lưng đi, tên sát nhân đã bất ngờ tấn công y từ phía sau. Căn cứ là vết thương nằm dưới mang tai phải của nạn nhân. Dù sao thì kẻ thủ ác đã phạm một sai lầm nghiêm trọng. Hắn đã để nguyên cái mũ ở chỗ nó rơi xuống. Lẽ ra hắn phải chùi sạch các vết máu dính trên mũ và đặt nó vào đúng nơi cần phải đặt, trên cái bàn đầu giường kia, bên cạnh ngọn nến. Không nam nhân nào lại đội mũ trong lúc thay đồ.” “Tất nhiên rồi!” Lỗ tri huyện lại thốt lên. “Tuy nhiên, tạm thời đệ sẽ ra thông cáo đây là một vụ cướp của giết người, để tránh rút dây động rừng. Còn về động cơ gây án, đệ thấy hung thủ ra tay vì e sợ bị tống tiền, Địch huynh à.” “Tống tiền ư?” Địch huyện lệnh ngồi thẳng người dậy. “Điều gì khiến Lỗ đệ dụng tâm suy nghĩ như vậy?” Lỗ tri huyện lấy một quyển sách trên kệ và mở đến chỗ được đánh dấu bằng một tấm thẻ có chữ viết. “Đây, huynh xem, thân mẫu của họ Mạnh là một lão phu nhân tính tình cẩn thận, đã xếp đặt kệ sách của mình rất ngăn nắp. Nhưng giờ thì thứ tự bộ sách bị xáo trộn nhiều chỗ. Ngoài ra, mỗi lần ngẫm một bài thơ tâm đắc, lão bà thường ghi chú vào một tấm thẻ như thế này, rồi kẹp vào trang có bài thơ. Trong lúc nói chuyện với Mạnh chưởng quỹ, đệ có mở một vài quyển ra xem thì thấy rất nhiều tấm thẻ bị đặt cẩu thả hoặc không đúng chỗ. Đệ nghĩ có thể chính Tống Nhất Văn đã làm việc đó! Nhưng rồi đệ lại thấy có nhiều vết tay mới trên lớp bụi phủ lên tấm ngăn đằng sau những quyển sách. Theo đệ, kẻ thủ ác bới tung thư phòng chẳng qua là cố ý ra vẻ đang sục sạo vơ vét kim ngân. Thực ra, thứ hắn trù định tìm kiếm là một văn thư quan trọng nào đó. Một kệ sách đồ sộ thế này mà dùng làm chỗ giấu mật thư thì không đâu tốt bằng, chỉ cần kẹp nó vào một quyển sách là được! Một kẻ nào đó, vì cần tìm văn thư ấy mà dùng thủ đoạn sát nhân, thì hoàn toàn có thể suy ra đó là thứ văn thư nguy hiểm cho hắn! Đệ nói hắn e sợ bị tống tiền là vì như thế.”
Địch huyện lệnh vừa gõ tay vào chồng giấy mỏng trên án thư vừa nói, “Lỗ đệ giải thích thật chí lý. Chồng giấy này đã khẳng định giả thuyết của đệ về việc tên sát nhân đang kiếm tìm một văn thư quan trọng. Đây là những ghi chú nghiên cứu lịch sử của vị cống sĩ. Sáu trang đầu viết chi chít với nét chữ nhỏ của kẻ có học vấn, khoảng năm chục trang cuối vẫn còn để trắng. Đệ sẽ thấy Tống Nhất Văn là một nam nhân cẩn trọng, y đã đánh số cho từng trang giấy. Thế nhưng, thứ tự các trang đã bị đảo lộn, một số trang giấy trắng còn in cả những dấu tay bám bụi. Điều này chỉ ra rằng kẻ sát nhân đã cẩn thận xem qua cả chồng giấy. Một tên lưu manh thì bỏ công đọc một chồng ghi chú viết tay làm gì?” Lỗ tri huyện đứng dậy, thở một hơi thật dài. “Do kẻ thủ ác đã có nguyên một đêm để tìm kiếm thứ giấy tờ báo hại ấy, có thể hắn đã tìm ra nó rồi cũng nên. Nhưng dù gì đi nữa, đệ e là chúng ta sẽ phải thẩm tra kĩ lưỡng lại hiện trường, Địch huynh à. Cẩn tắc vô ưu.” Địch huyện lệnh cũng nhổm dậy. Họ cùng nhau tra soát tỉ mẩn thư phòng. Sau khi đã sắp xếp đống giấy vương vãi trên sàn nhà và xếp chúng vào ngăn kéo, ông bình phẩm, “Tất cả chỗ văn thư này là ngân phiếu, chi phiếu và những giấy tờ khác của Mạnh gia. Thứ duy nhất thuộc về Tống Nhất Văn là quyển sách nhỏ có nhan đề ‘Ngọc tiêu phổ’ do chính y biên soạn và đóng triện riêng. Đối với ta mà nói, đây là một bản tổng phổ nhạc âm phức tạp, toàn gồm những ký hiệu vắn tắt. Có đến khoảng một tá các giai điệu như vậy, nhưng đầu đề và lời nhạc đã bị lược bỏ.”
Lỗ tri huyện đang nhìn xuống phía dưới tấm thảm. Ông ta đứng thẳng dậy và nói, “Đúng thế, Tống Nhất Văn biết thổi tiêu. Có một cây tiêu trúc được treo trong buồng ngủ của y. Đệ để ý đến nó vì thưở xa xưa, bản thân cũng từng thổi tiêu ngân khúc tiêu dao mây trời.” “Đệ đã bao giờ trông thấy cách ghi nhạc này bao giờ chưa?” Lỗ tri huyện kiêu hãnh đáp lời, “Chưa. Đệ luôn chơi theo cảm hứng, cảm nhận thế giới quan mà thổi hồn vào khúc tiêu. Thôi, tốt hơn là chúng ta nên tiếp tục tra soát ở buồng ngủ. Chẳng còn gì ở đây cả.” Địch huyện lệnh cho quyển nhạc phổ vào ống tay áo, rồi họ đi sang phòng còn lại. Đứng ngay cạnh bàn trang điểm, bộ bút ký kẹp ở khuỷu tay, viên ngỗ tác đang cần mẫn viết báo cáo nghiệm thi. Lỗ tri huyện với tay lấy cây tiêu đang buộc vào một dải lụa treo trên vách, ông ta quả quyết vén tay áo, đưa cây tiêu lên môi mình, nhưng chỉ thổi được mấy âm chói tai. Vội hạ thấp cây tiêu, Lỗ tri huyện phân trần với vẻ phiền não, “Đệ từng thổi tiêu khá hay, nhưng gần đây không thường xuyên rèn luyện ngón nghề. Dù thế nào thì đây đúng là chỗ kín đáo để giấu mật thư. Cứ cuộn chặt lại là được.” Ông ta săm soi cây trúc tiêu, đoạn lắc đầu thất vọng. Sau đó họ xem xét tỉ mỉ rương y phục, nhưng chỉ tìm thấy giấy thông hành và mấy tấm văn bằng của Tống Nhất Văn. Chẳng hề có một lá thư riêng hay ghi chép cá nhân nào. Phủi lớp bụi vương trên quan phục, Địch Nhân Kiệt nói, “Theo lời của vị gia chủ, Tống Nhất Văn không quen biết ai ở trấn này. Nhưng Mạnh chưởng quỹ cũng thừa nhận mình ít khi gặp gỡ người khách trọ. Chúng ta phải hỏi thăm những thị nữ từng mang thức ăn đến cho y thôi.”
“Chuyện đó phải phiền đến hiền huynh rồi! Bây giờ, quả thật đệ phải quay về tư gia đón tiếp các vị thượng khách. Sáng nay, đại nương tử, thất nương tử và bát nương tử bảo là muốn tham khảo ý đệ về việc sắm sửa cho tết Trung thu.” “Được rồi, ta sẽ làm công việc thẩm vấn.” Trong lúc tiễn vị đồng liêu ra cửa, Địch huyện lệnh tò mò hỏi, “Bọn trẻ sẽ rất sung sướng khi được phá cỗ Trung thu. Đệ có bao nhiêu thiên kim, công tử rồi?” Lỗ tri huyện ngoác miệng cười và tự hào thông báo, “Mười một nam và sáu nữ!” Thế nhưng, sau đó, mặt ông ta xịu xuống. “Huynh biết không, đệ có đến tám vị phu nhân. Quả là một gánh nặng, Địch huynh à, về mặt cảm xúc ấy. Thưở mới bước chân vào chốn quan trường, đệ chỉ có ba vị nương tử thôi, nhưng giờ thì huynh thấy dòng đời xô đẩy thế nào rồi đấy. Một khi đã kết tâm giao tri kỷ với một nữ nhân ở đâu đó ngoài kia, thì việc ươm hoa vào chậu sau đó thật dễ dàng xiết bao. Và điều tiếp theo thì huynh cũng đã biết rồi, nàng chính thức được lập làm thiếp của đệ! Thật buồn khi nhận ra sự thay đổi địa vị sẽ ảnh hưởng đến tâm tính của nữ nhân. Đệ cứ nhớ như in, bát nương tử từng gần gũi và hiền hòa biết bao nhiêu khi nàng còn là vũ nữ ở Lam Ngọc phường.” Bất chợt ông ta đập mạnh tay vào trán. “Thánh thần thiên địa, suýt chút nữa thì đệ quên mất! Trên đường về, đệ còn phải ghé qua Lam Ngọc phường để chọn vũ nữ cho bữa tiệc tối nay. Luôn phải chú tâm lựa chọn từng nữ nhi một, bổn phận của đệ là đảm bảo cho các vị khách nhận được những gì tuyệt nhất. Ôi, cũng may là Lam Ngọc phường chỉ cách đây hai con phố mà thôi.”
“Đó có phải là kỹ viện?” Lỗ tri huyện trao cho Địch huyện lệnh một cái nhìn đầy vẻ trách móc. “Hiền huynh, dĩ nhiên là không phải! Cứ gọi nó là một quần anh hội tụ họp các nữ nhân tài địa phương, hay là một vũ đường cống hiến cho nghệ thuật.” “Vũ đường hoặc là quần anh hội,” Địch huyện lệnh khô khan nói. “Do Tống Nhất Văn cô đơn lẻ bóng ở chốn đây, có lẽ y đã ghé thăm nơi đó vào đêm khuya để giải khuây. Tốt hơn là đệ nên hỏi thăm xem đám người ở đấy có nhớ ra một nam nhân nào giống chàng cống sĩ kia hay không.” “Đệ sẽ làm vậy.” Bất chợt, Lỗ tri huyện cười khùng khục. “Sẽ có một bất ngờ vào tối nay. Huynh sẽ thấy thích thú lắm cho mà xem!” “Đệ không cần nhọc công làm gì!” Địch Nhân Kiệt gay gắt nói. “Ta chẳng thể nào hiểu được làm sao mà đệ có thể nghĩ đến chuyện đùa cợt với nữ nhân trong khi vụ án mạng này…” Lỗ tri huyện giơ tay lên. “Huynh hiếu sai lời đệ rồi, hiền huynh! Điều bất ngờ của đệ liên quan đến một nan đề thú vị về vương pháp.” “À, ra vậy. Ta… hiểu rồi, ” Địch huyện lệnh nói vẻ hối lỗi. Ông nhanh chóng tiếp lời, “Dù sao, chúng ta cũng không cần thêm một nan đề nào nữa cả. Vụ án mạng của Tống Nhất Văn đã đủ thú vị lắm rồi! Nếu chàng cống sĩ xấu số ấy là dân địa phương, ít ra chúng ta còn biết đi đâu để tìm kiếm manh mối. Nhưng y lại đến đây hoàn toàn bất ngờ, nên ta e là…” “Đệ không bao giờ lẫn lộn công vụ với các thú vui, Địch huynh,” Lỗ tri huyện nghiêm nghị nói. “Vụ án mạng này là công vụ. Còn bất ngờ đệ dành cho huynh chỉ là một nan đề giả thuyết đơn thuần, những hậu quả pháp lý của nó chẳng mảy may động chạm gì đến chúng ta. Huynh sẽ gặp gỡ nhân vật chính trong bữa tiệc tối nay! Đó là một câu đố rất đáng chú ý. Nó sẽ làm huynh thích thú không dứt cho coi!”
Địch huyện lệnh ngờ vực nhìn vị đồng liêu và nói dứt khoát, “Đệ hãy lệnh cho viên quản gia dẫn các thị nữ từng phục vụ Tống Nhất Văn tới đây gặp ta. Đừng quên gửi một cỗ kiệu đến cho ta nhé.” Thấy Lỗ tri huyện băng qua vườn cây, hai nha dịch đang khiêng một cái cáng tre liền dạt sang bên nhường đường. Địch huyện lệnh dẫn họ vào buồng ngủ. Trong khi họ cuộn tử thi trong chiếu cói rồi đặt lên cáng, Địch huyện lệnh đọc bản báo cáo mà ngỗ tác trao cho. Luồn nó vào ống tay áo, ông nói, “Ngươi chỉ đề cập là một công cụ sắc bén đã gây nên cú đánh chí mạng. Ta nhận thấy đó không phải một vết cứa ngọt, đúng hơn là một vết rạch dài và sâu, miệng lởm chởm. Liệu có phải cái đục, cái giũa, hay một thứ dụng cụ nào khác của thợ mộc không?” Viên ngỗ tác mím môi lại. “Bẩm đại nhân, hoàn toàn có thể. Do chưa tìm thấy hung khí gây án nên tiểu nhân không dám khẳng định chuyện đó.” “Ta hiểu. Nhà ngươi có thể đi được rồi. Ta sẽ đưa báo cáo của ngươi cho Lỗ tri huyện.” Vừa lúc đó, một ông lão lưng còng dẫn hai nữ nhân tiến vào. Cả hai đều mặc thanh y đơn giản với dải khăn đen quấn quanh thắt lưng. Nữ nhi trẻ tuổi hơn có vóc dáng nhỏ nhắn và dung mạo tầm thường, nhrmg nữ nhi thứ hai có khuôn mặt tròn rất lôi cuốn, dáng đi yểu điệu thể hiện nàng ta rất có ý thức về vóc dáng xinh đẹp của mình. Địch huyện lệnh ra hiệu cho họ theo ông đến thư phòng.
Khi ông ngồi xuống ghế bành, lão quản gia đẩy nữ nhi nhỏ bé lên phía trước, cúi mình bẩm trình, “Thưa đại nhân, đây là Mẫu Đơn. Nó phục vụ bữa cơm trưa, dọn dẹp nhà cửa và sắp xếp giường chiếu ở đây. Con bé kia là Thu Cúc, nó bưng cơm tối đến cho Tống công tử.” “À, Mẫu Đơn,” Địch huyện lệnh nhã nhặn hỏi chuyện nữ nhi bình dị ấy, “chắc hẳn ngươi lúc nào cũng phải làm việc luôn chân luôn tay, nhất là khi Tống công tử có bằng hữu ghé thăm.” “Bẩm đại nhân, tiểu nữ không bận rộn đến vậy đâu ạ. Tống công tử chưa bao giờ tiếp khách cả. Tiểu nữ cũng chẳng nề hà gì chuyện làm thêm một chút, vì việc nhà ở đây cũng đơn giản thôi, kể từ khi lão phu nhân qua đời. Nhà chỉ còn lão gia và hai vị phu nhân, cùng công tử và tiểu thư. Họ toàn là những người tử tế, thưa ngài. Tống công tử cũng rộng rãi, luôn thưởng tiền cho mỗi lần tiểu nữ giặt y phục.” “Tống công tử thường hay nói chuyện với ngươi, ta cho là thế?” “Dạ thưa, chỉ vào những buổi sáng đẹp trời thôi ạ. Tống công tử là người uyên bác, thưa đại nhân. Thật kinh khủng khi nghĩ đến việc giờ đây công tử đã…” “Tốt lắm. Lão quản gia, giờ hãy dẫn Mẫu Đơn ra ngoài.” Khi chỉ còn một mình với thị nữ còn lại, ông mở lời, “Mẫu Đơn là một thôn nữ nhỏ bé, chất phác. Còn ngươi, Thu Cúc, trông giống một nữ nhi sinh trưởng chốn thành thị phồn hoa, có vẻ thấu hiểu sự đời và biết đánh giá thế nhân…”
Địch huyện lệnh chờ đợi một nụ cười, nhưng thiếu nữ chỉ nhìn trừng trừng vào ông, đôi mắt mở to vẻ sự hãi. Bất thình lình, nàng ta hỏi, “Bẩm đại nhân, những gì lão quản gia nói có đúng không ạ? Có phải cổ họng Tống công tử đã bị cắn nát không?” Huyện lệnh nhướn mày. “Cắn nát, sao ngươi lại nói vậy? Chuyện vớ vẩn gì thế? Cổ của Tống Nhất Văn đã bị cứa bởi một…” Ông khựng lại giữa chừng, nhớ đến vết thương lởm chởm, rồi gắt gỏng, “Nói mau! Nhà người bảo cắn nát là có ý gì?” Ngó xuống hai bàn tay đang siết chặt vào nhau, Thu Cúc dằn dỗi đáp, “Bẩm đại nhân, Tống công tử có nhân tình bên ngoài. Tiểu nữ đang hẹn hò với tiểu nhị của một quán trà lớn ở phố bên. Đêm hôm nọ, khi đang đứng tâm sự trong góc khuất của con hẻm nhỏ phía sau, bọn tiểu nữ bắt gặp Tống công tử lén lút lẻn ra ngoài, toàn thân mặc hắc phục.” “Ngươi có tận mắt nhìn thấy Tống Nhất Văn gặp gỡ nhân tình không?” “Dạ thưa, không ạ. Nhưng đôi ngày trước, công tử có hỏi tiểu nữ liệu tiệm kim hoàn đằng sau Văn Miếu có bán trâm cài đầu hay không. Công tử muốn mua quà cho người trong mộng, dĩ nhiên rồi. Và ả… chính ả đã giết tình lang!” Địch huyện lệnh hồ nghi nhìn nữ nhân trước mặt. Ông trầm ngâm hỏi, “Ý ngươi là gì?” “Bẩm đại nhân, ả là hồ ly! Một con hồ ly tinh đội lốt giai nhân để mê hoặc nam tử. Và khi đã khống chế hoàn toàn được Tống công tử thì ả cắn cổ họng tình lang xấu số.”
Nhìn thấy nụ cười khinh khinh của Huyện lệnh, nàng mau lẹ nói tiếp, “Công tử bị bỏ bùa đến thất điên bát đảo, tiểu nữ dám thề như thế! Tống công tử cũng biết điều đó, vì có lần công tử đã hỏi tiểu nữ là liệu vùng này có nhiều cáo không, chúng hay trú ở đâu…” Ông ngắt lời thiếu nữ, “Một nữ nhân trẻ trung điềm đạm như ngươi lẽ ra không nên tin mấy câu chuyện hoang đường về hồ ly tinh. Cáo chỉ là một loài vật thông minh, hiền lành, chẳng làm tổn hại đến ai.” “Thưa đại nhân, bách tính vùng này không nghĩ thế đâu,” cô nàng bướng bỉnh nói. “Để tiểu nữ kể cho ngài nghe, Tống công tử đã bị một con hồ ly tinh mê hoặc. Giá mà ngài nghe được những giai điệu bí ẩn mà công tử thổi tiêu vào ban đêm! Thứ âm thanh lạ lùng đó vang vọng khắp khu vườn. Tiểu nữ có thể nghe thấy mỗi khi chải tóc cho tiểu thư.” “Khi đi ngang khu nhà Mạnh gia cư ngụ, bản quan có trông thấy qua khung cửa sổ một nữ nhi trẻ trung mang dáng dấp khuê môn đài các. Nàng ấy là ái nữ của Mạnh chưởng quỹ?” ‘Thưa, đó chắc là Mạnh tiểu thư. Tiểu thư không chỉ đẹp người mà còn đẹp nết, mới mười sáu tuổi mà đã giỏi thi từ ca phú, mọi người ai cũng phải ca ngợi.” “Thu Cúc này, Tống công tử đã bao giờ ghé vào quán trà nơi tình lang của ngươi làm việc chưa? Ngươi vừa bảo quán cũng khá gần đây mà.” “Dạ thưa, chưa bao giờ ạ. Ngoài lần trong ngõ, chàng chưa từng gặp Tống công tử ở đâu khác, dù chàng tỏ tường tất cả các quán trà và tửu điếm trong vùng! Xin ngài đừng nói gì với lão gia về chàng. Lão gia là người rất nghiêm khắc…”
“Đừng lo lắng, ta sẽ không nói gì.” Địch huyện lệnh nhổm dậy. “Ngươi có thể lui.” Ra bên ngoài, Địch Nhân Kiệt nói lão quản gia đưa mình đến cổng chính, nơi có một cỗ kiệu nhỏ chờ sẵn. Trên đường hồi phủ, Địch huyện lệnh ngẫm rằng vụ sát hại chàng cống sĩ sẽ không thể phá giải trước khi ông quay về Phổ Dương. Dường như vụ án ngày càng rắc rối và tiêu tốn thời gian. Nhưng thế nào thì Lỗ tri huyện cũng sẽ biết cách xử lý. Vị đồng liêu ấy đã lập tức tiến hành điều tra tại chỗ theo cung cách mau lẹ và thực tế. Ông ta cũng có con mắt quan sát sắc sảo. Chắc chắn Lỗ tri huyện sẽ nhận ra chân tướng vụ án này. Vị chưởng quỹ tỏ ra quá hăng hái. Gã cố thuyết phục họ rằng một tên vô lại từ bên ngoài đã gây ra tội ác. Xem ra vụ án này ẩn chứa nhiều khả năng lý thú. Địch huyện lệnh kéo ra từ tay áo sáu trang ghi chú của Tống Nhất Văn và cẩn thận đọc. Rồi ông ngả người ra sau, trầm ngâm giật giật chòm râu. Các ghi chép đều rất tỉ mỉ. Danh tính những người cầm đầu nghĩa quân và dữ liệu về sinh kế trong huyện, vào thời kỳ nổ ra cuộc khởi nghĩa nông dân hai trăm năm về trước, chắc không được đề cập đến trong chính sử. Nhưng so với việc y đã dành mọi buổi chiều vùi đầu ở văn khố trong suốt hai tuần qua, đây dường như là một kết quả quá sơ sài. Ông sẽ hướng sự chú ý của Lỗ tri huyện vào khả năng việc nghiên cứu lịch sử của Tống Nhất Văn chỉ là cái cớ, y cất công đến tận Quyên Thành này vì một lý do hoàn toàn khác.
Điều lạ lùng là dân tình ở đây rất tin chuyện mê tín dị đoan về hồ ly tinh. Người ta thường cho là loài cáo biết phép thuật, những kẻ ngồi lê đôi mách ngoài chợ rất thích thêm mắm dặm muối vào những câu chuyện cổ kể về hồ ly tinh. Chúng đội lốt những tuyệt sắc giai nhân để mê hoặc các thanh niên, hoặc hóa thân thành những bậc danh sĩ đức cao vọng trọng để lừa gạt các nữ nhi nhẹ dạ cả tin vào tròng, khiến họ lầm đường lạc lối. Trái lại, văn chương cổ điển chính thống lại khẳng định loài cáo mang trong mình sức mạnh thần bí, có khả năng chống lại linh hồn hắc ám. Vì lẽ đó mà trong những cung điện cổ và các phủ đệ, người ta thường tìm thấy một miếu thờ nhỏ để thờ hồ ly, nhằm xua đuổi tà ma và đặc biệt bảo vệ cho ấn ngọc, biểu tượng của quyền lực. Địch huyện lệnh nhớ là mình từng trông thấy một miếu thờ nhỏ như vậy trong tư dinh của vị đồng liêu. Ông tự hỏi Lỗ tri huyện đã chuẩn bị sẵn điều bất ngờ gì cho mình tại bữa tiệc tối nay. Ông hết sức ngờ vực cái kiểu hài hước tinh quái chẳng giống ai của Lỗ tri huyện. Chỉ có trời mới biết ông ta tính bày sẵn trò ma mãnh gì! Vị đồng liêu đã ngỏ ý rằng một trong các vị khách đang gặp rắc rối với vương pháp. Nhân vật liên đới ấy khó có thể là ngài đại học sĩ hay vị thi sĩ cung đình. Cả hai đều có phẩm vị cao trong triều và là các văn sĩ lẫy lừng, đương nhiên họ có thừa khả năng dàn xếp ổn thỏa mọi vấn đề cá nhân, dù liên quan đến vương pháp hay không! Hẳn vị đại sư kì bí kia mới là người gặp rắc rối. Ôi, rồi ông sẽ sớm tỏ tường thôi. Địch huyện lệnh nhắm mắt lại.
HỒI 5 Trà hoa lài thanh tao, khí chất Văn nhân tài tử thong thả bình thơ Đi dọc theo hành lang rộng rãi của văn khố ở phía đối diện tư dinh Lỗ gia, Địch huyện lệnh ngó thấy khoảng một tá lục sự đang bận rộn viết lách trên các án thư cao chất đống văn thư án quyển. Do nha phủ đảm nhận trách nhiệm quản lý trị an của toàn huyện, nên đây không chỉ là chỗ xét xử tội nhân, mà còn là nơi đăng ký khai sinh, hôn thú và khai tử, cũng như kê khai các giao dịch mua bán điền sản. Ngoài ra, nha phủ còn chịu trách nhiệm thu các loại thuế, bao gồm cả địa tô. Khi băng qua cánh cửa chấn song của đại sảnh phía cuối hành lang, nhìn qua khung cửa hé mở, ông bắt gặp vị sư gia đang lom khom trên án thư. Trước đó, ông mới chỉ trông thấy họ Cao chứ chưa hề tiếp xúc gì với y cả. Trong một khắc nổi hứng, ông đẩy cửa ra và bước vào một gian phòng cực kì ngăn nắp sạch sẽ. Cao sư gia ngẩng đầu lên và nhanh chóng đứng dậy. “Mời đại nhân an tọa! Liệu tiểu nhân có thể mời ngài dùng một chén trà?” “Không cần câu nệ, Cao tiên sinh. Ta không có thời gian ngồi uống trà đâu, vì mọi người đang chờ ta trong dinh. Lỗ đại nhân đã nói với ngươi về kết quả khám nghiệm hiện trường vụ sát hại Tống Nhất Văn chưa?” “Bẩm, lúc ấy Lỗ đại nhân đang vội đi nghênh tiếp khách quý. Đại nhân chỉ ghé qua đây trong chốc lát, lệnh cho tiểu nhân gửi thông cáo về Bộ Lễ về việc Tống Nhất Văn bị sát hại và nhờ họ báo tin tới gia đình y!”
Trao cho Địch huyện lệnh một văn bản, vị sư gia thêm lời, “Tiểu nhân cũng cậy nhờ họ tìm hiểu nguyện vọng của Tống gia về việc an táng.” “Làm tốt lắm. Ngươi nên yêu cầu thêm từ họ thông tin lai lịch của vị cống sĩ để hoàn chỉnh án quyển.” Trả lại văn bản cho họ Cao, ông tiếp lời, “Mạnh chưởng quỹ nói rằng ngươi đã giới thiệu Tống Nhất Văn với ông ta. Ngươi biết từng tận về vị thương gia buôn trà đó chứ?” “Dạ thưa, quả đúng thế. Năm năm về trước, khi được điều chuyển từ châu phủ đến đây, tiểu nhân đã làm quen với Mạnh tiên sinh tại một kỳ hội quán địa phương. Hiện bọn thảo dân đều gặp nhau ở đó hàng tuần để đánh cờ. Tiểu nhân dần nhận ra Mạnh tiên sinh là người có cốt cách cao thượng, hơi bảo thủ nhưng không thiển cận. Tiên sinh còn là một kỳ thủ cự phách!” “Nhờ tôn trọng các giá trị truyền thống, Mạnh tiên sinh đã gìn giữ được nề nếp gia phong, đúng không? Chưa bao giờ có điều tiếng gì về các mối quan hệ mờ ám…” “Bẩm đại nhân, chưa bao giờ có chuyện ấy! Mạnh gia là một gia môn kiểu mẫu, tiểu nhân dám nói thế! Tiểu nhân từng viếng thăm Mạnh gia và có hân hạnh được gặp lão phu nhân lúc bà còn tại thế. Lão bà là một nữ sĩ nổi tiếng trong vùng này. Nhi tử của Mạnh tiên sinh cũng là một thiếu niên thông minh, chỉ mới mười bốn tuổi mà dã học đến bậc cao nhất ở trường huyện!” “Phải rồi, ta cũng có ấn tượng khá tốt đẹp về Mạnh chưởng quỹ. Xin đa tạ Cao tiên sinh.”
Vị sư gia tiễn Địch huyện lệnh đến tận cánh cổng đồ sộ dẫn vào tư dinh của Lỗ tri huyện. Ngay khi ông sắp bước vào thì một quan sai có bờ vai to bè từ trong bước ra. Y mặc áo đen viền đỏ, lưng đeo một thanh đao lớn, đầu đội mũ sắt gắn chùm lông đỏ, rõ là thuộc hạ của quan tri phủ. Địch Nhân Kiệt dợm bước định đến hỏi thăm, xem có phải y đến để chuyển lời nhắn của tri phủ đại nhân không, nhưng rồi ông khựng lại khi thấy tấm thẻ bài tròn bằng đồng mà vị quan sai đeo trên cổ. Điều đó chứng tỏ y đang trên đường thi hành một công vụ đặc biệt, áp giải tội nhân về kinh kỳ. Viên quan cao lớn ấy vội vã băng qua sân để bắt kịp Cao sư gia. Địch huyện lệnh lơ đãng nghĩ, không biết tội nhân quan trọng nào đang bị dẫn giải qua Quyên Thành về Trường An. Ông đi sang chái nhà bên phải của viện tử đầu tiên, mở toang cánh cửa hẹp được sơn son, tiến vào khoảnh sân mà Lỗ tri huyện để ông tùy nghi sử dụng. Nó nhỏ bé nhưng hài hòa, những bức tường cao bao bọc xung quanh tạo ra một khoảnh không gian yên ắng và riêng tư. Phía trước gian phòng rộng rãi của ông là một hàng hiên chạy dài, với hai bậc thềm dẫn xuống khoảng sân vuông vức được lát đá màu. Chính giữa sân có một hồ cá vàng nho nhỏ, tòa giả sơn tọa lạc phía sau. Địch huyện lệnh tạm dừng một chút trên hành lang, bên dưới những thanh xà sơn đỏ của hàng mái hiên nhô ra, và thưởng ngoạn cảnh quan hữu tình này. Từ những khe nứt phủ rêu của tòa giả sơn, mọc lên những khóm trúc mảnh dẻ và một bụi quả mọng chín đỏ. Qua mép tường, ông có thể thấy những ngọn phong cao được trồng quanh tư dinh. Cơn gió nhẹ lay các tán lá xào xạc, phô bày những sắc màu rực rỡ của mùa thu: đỏ, nâu và vàng, ông ước chừng đã vào khoảng giờ Thân.
Địch huyện lệnh quay lại, đẩy cánh cửa sơn son ra và bước vào trong, tiến thẳng đến chỗ ấm trà đặt trên bàn, ông đang khát khô cả cổ. Ông thất vọng ra mặt khi thấy ấm trống không. Chà, cũng chẳng thành vấn đề, hẳn hai vị thượng khách kia sẽ mời trà khi ông đến tiếp kiến họ. Vấn đề mới phát sinh là liệu ông có nên thay y phục hay không. Cả ngài đại học sĩ và thi nhân cung đình đều hơn ông về tuổi tác và phẩm hàm, Địch huyện lệnh nên đến vấn an họ trong một bộ lễ phục tươm tất mới phải phép. Nhưng hiện giờ cả hai đều không còn đảm nhận các chức vụ trong triều nữa. Thiệu tiên sinh đã hồi hưu từ năm ngoái, còn Trương tiên sinh đã từ quan để dành trọn phần đời còn lại cho việc hoàn thành tuyển tập phẩm thi ca của bản thân. Nếu Địch huyện lệnh mặc lễ phục, họ có thể coi đó là một hành vi xấc xược nhằm nhấn mạnh hàm ý rằng ông, một huyện lệnh, đang còn đương chức trong khi họ thì không. Thở dài một tiếng, ông nhớ đến câu cổ ngữ ‘Thà chui vào hang hùm còn hơn tiếp cận một vị đại quan’. Cuối cùng, sau một hồi suy tính, Địch huyện lệnh quyết định chọn một trường bào tím có tay áo thụng, dải thắt lưng đen rộng bản, cùng chiếc mũ the đen vuông vức có chóp cao. Ông hi vọng bộ y phục nhã nhặn mà vẫn toát lên phẩm giá này sẽ được họ chấp nhận. Rồi ông bước ra ngoài. Mặc dù các tòa nhà ở sân trước, bao gồm khu vực ông đang ở, đều chỉ có một lầu, các viện tử phía trong lại có đến hai lầu, thẳng tắp với những hàng mái hiên rộng rãi. Ông thấy nhiều gia nhân đang tất tả qua lại bên hàng hiên của tòa nhà cao ở viện tử chính. Rõ là bọn họ đang chuẩn bị cho buổi dạ yến ở nơi đó. Địch huyện lệnh áng chừng tư gia của vị đồng liêu phải có ít nhất một trăm gia nhân, ông chợt rùng mình khi nhẩm tính khoản phí để duy trì một dinh thự nguy nga tráng lệ như thế này.
Địch huyện lệnh gọi một gia nhân. Hắn thông báo rằng Lỗ tri huyện đã nhường lại thư phòng riêng cho vị đại học sĩ, tọa lạc ở chái nhà bên trái của nhị viện tử, và bố trí gian nhà góc bên phải cho thi sĩ cung đình, ông lệnh cho tiểu tử ấy đưa mình đến thư phòng trước tiên. Khi ông gõ lên cánh cửa được chạm trổ lộng lẫy, một giọng nói thâm trầm vang lên, “Vào đi!” Địch huyện lệnh thoáng nhìn nhanh, rõ là Lỗ tri huyện đã sắp đặt thư phòng thành một buồng nghỉ thoải mái và bắt mắt. Đó là một gian phòng rộng rãi có trần cao, các cửa sổ mắt cáo lớn được trổ họa tiết cầu kỳ, nổi bật trên những ô giấy nền sạch sẽ tinh tươm. Các kệ đầy ắp sách kê thành hàng sát hai bên vách tường, đâu đó bày biện xen kẽ một vài chiếc bát và bình cổ tinh lọc. Những món nội thất bằng gỗ hắc tùng được chạm trổ công phu, mặt bàn lát đá hoa cương màu, mặt ghế được bọc lụa hồng điều. Hai bên chiếc sập gỗ đồ sộ kê phía trước kệ sách là những bình hoa lớn đặt trên bệ gỗ mun, cắm đầy cúc đại đóa trắng và vàng. Một nam nhân hộ pháp, có bờ vai rộng đang ngồi đọc sách, ông ta đặt quyển sách xuống, rướn một bên lông mày rậm, tò mò ngó nhìn Địch huyện lệnh. Người này vận trường bào màu lam ngọc rộng thùng thình, cổ để hở, đầu đội mũ lụa đen, phía trước mũ điểm một mảnh ngọc bích tròn. Dải thắt lưng quấn quanh eo buông dài tới tận sàn. Khuôn mặt lớn, quai hàm vuông vức đóng khung trong hàng tóc mai ngắn, bộ râu quai nón được cắt tỉa gọn ghẽ, theo đúng xu hướng đang thịnh hành trong triều. Vị học sĩ đã gần lục tuần mà chòm râu và tóc mai vẫn còn đen nhánh.
Địch huyện lệnh bước tới gần, cúi thấp mình thi lễ, hai tay kính cẩn trao tấm bái thiếp đỏ. 👁 Địch Công thăm Thiệu học sĩ Vị học sĩ nhìn lướt qua, cho tấm thiếp vào ống tay áo, rồi buông lời bằng chất giọng âm trầm, “Vậy ra ông là Địch Nhân Kiệt bên huyện Phổ Dương. Đúng rồi, Lỗ tiên sinh đã nói với ta là ông cũng đang ở chốn này. Một nơi khang trang, tốt hơn nhiều gian phòng chật hẹp trong dịch trạm mà ta từng qua đêm. Thật vinh dự gặp Địch huyện lệnh. Ông đã đem lại sự thanh tịnh cho ngôi chùa ở Phổ Dương. Nhưng như thế lại đem đến cho ông nhiều kẻ thù ở trong triều, đồng thời cũng tạo ra không ít bằng hữu. Nam tử chính trực nào cũng có cả bạn lẫn thù, Địch huyện lệnh à. Chẳng cần phải cưỡng cầu tình bằng hữu của cả nhân gian, đó là chuyện không thể, chỉ tổ tốn công vô ích mà thôi.” Ông ta nhổm dậy và đi về phía án thư. Ngồi xuống chiếc ghế bành, học sĩ trỏ tay vào một cái ghế đẩu và nói, “Mời an tọa!” Địch huyện lệnh ngồi xuống và nhã nhặn mở lời, “Hạ quan từ lâu đã trông đợi một cơ hội để bày tỏ lòng cung kính của mình đối với đại nhân. Giờ thì…” Vị học sĩ phẩy tay. “Chúng ta hãy bỏ qua thứ lễ nghi rườm rà, ngôn từ sáo rỗng ấy đi, được chứ? Ta và ông có ở triều đình đâu. Đây chỉ là cuộc tụ họp thân mật của các văn nhân tài tử mà thôi, ông cũng làm thơ gieo vần chứ?” Ông ta nhìn chằm chằm vào Địch huyện lệnh, hai tròng trắng đen tương phản rõ rệt nhau.
“Ít thôi ạ, thưa đại nhân,” Địch huyện lệnh dè dặt đáp. “Khi còn là nho sinh học chữ thánh hiền, dĩ nhiên vãn bối đã học thơ ca thi pháp. Vãn bối cũng được đọc những hợp tuyển thi phú nổi tiếng do chính tay đại nhân hiệu chỉnh. Nhưng bản thân vãn bối thì chỉ viết ra được có mỗi một bài thơ.” “Nhiều thi nhân lừng lẫy chỉ dựa vào mỗi một bài thơ mà vang danh muôn đời, Địch huyện lệnh à!” Ông ta kéo ấm trà sứ lam về phía mình. “Hẳn ông đã uống không ít trà từ trước rồi.” Khi học sĩ châm cho bản thân một chén trà, Địch Nhân Kiệt cảm nhận được hương hoa lài thoang thoảng, đầy thanh tao khí chất. Sau khi nhấp một vài ngụm, Thiệu Phàn Viên tiếp lời, “À, kể cho ta nghe bài thơ của ông nói về chủ đề gì nào.” Húng hắng cổ họng khô rát, Địch huyện lệnh đáp lời, “Đó là một bài trường ca khuyến nông, thưa đại nhân. Vãn bối đã cố gắng cô đọng lại trong một trăm câu thơ có vần điệu, hướng dẫn việc đồng áng theo mùa cho nông dân.” Học sĩ ném về phía ông một ánh nhìn ngờ vực. “Ông đã làm thế thật à? Tại sao ông lại chọn, ờ…, cái chủ đề khá là khác thường đấy?” “Vãn bối hi vọng rằng nếu những chỉ dẫn đó được đặt thành thơ, có vần và nhịp điệu hẳn hoi, thì nông phu thôn dã có thể dễ dàng ghi nhớ hơn, thưa đại nhân.” Thiệu Phàn Viên mỉm cười. “Hầu hết mọi người sẽ xem đó là một câu trả lời ngớ ngẩn, Địch huyện lệnh à. Ta thì không. Thơ ca quả thật dễ ghi nhớ và dễ đi vào lòng người. Không chỉ vì nó có vần, mà chủ yếu còn vì nó rung động cùng một nhịp với huyết mạch và hơi thở của chúng ta. Nhịp điệu là xương sống của tất cả những bài thơ trác tuyệt và của cả văn xuôi nữa. Hãy ngâm vài câu trong bài trường ca đó đi!”
Địch Nhân Kiệt nhấp nhổm không thoải mái lắm trên ghế. “Thật tình là vãn bối đã viết bài thơ ấy cách đây hơn mười năm rồi, e rằng hiện giờ không còn nhớ được câu thơ nào cả. Nhưng nếu được phép, vãn bối sẽ gửi một bản sao đến cho đại nhân để…” “Thôi, không cần ông nhọc sức! Thứ lỗi cho ta nói thẳng, đó chắc chắn là bài thơ tệ. Nếu có được một vài câu hay ho trong đó, sẽ chẳng bao giờ ông quên được chúng. Nói cho ta nghe, ông đã từng bao giờ đọc bài ‘Cáo chinh Tây quân thánh dụ’ của hoàng thượng chưa?” “Vãn bối thuộc nằm lòng bài đó, thưa đại nhân!” Địch huyện lệnh thốt lên. “Bài hịch kích động nhân tâm ấy đã cổ vũ cho một đoàn quân đang tháo chạy, để rồi nó làm đảo ngược cả thế trận, thưa đại nhân! Những dòng mở đầu oai hùng, bi tráng đấy…” “Chính xác, Địch huyện lệnh! Ông sẽ không bao giờ quên được từng câu, từng chữ trong đó, bởi vì đấy là một áng văn tuyệt vời. Nhịp điệu của nó rung động, thấm vào huyết quản của mỗi binh sĩ thân mang trọng giáp, tay cầm vũ khí, giục vó buông cương, thúc giục nghĩa đảm từ các đại tướng quân đang lướt đi trên yên ngựa cho đến hàng hàng lớp lính bộ binh đang quần thảo sa trường. Vì lẽ đó, bách tính khắp nơi vẫn còn đọc thuộc lòng. Tiện đây cũng nói cho ông biết, chính ta đã thảo cho hoàng thượng. À, Địch huyện lệnh này, ông phải cho ta biết quan điểm về việc cai trị ở địa phương. Ta luôn thích hàn huyên với các quan viên trẻ tuổi. Làm quan trong triều, bọn ta ở cách quá xa quan lại địa phương, bàn tay không thể chạm đến mọi ngóc ngách của cái vương triều này. Bản thân ta luôn đau đáu xem đó là một trong nhiều hạn chế của một thượng quan triều đình. Ta cũng đặc biệt quan tâm đến các vấn đề cấp huyện. Dĩ nhiên đó là cấp bậc thấp nhất, nhưng lại là gốc rễ quan trọng.”
Vị học sĩ chậm rãi cạn chén trà trước ánh mắt thèm muốn của Địch huyện lệnh, cẩn thận chùi ria mép và tiếp lời với một nụ cười hồi tưởng, “Bản thân ta đã bắt đầu sự nghiệp ở vị trí huyện quan, ông biết đấy! Dù thế, ta chỉ phụng sự ở vị trí đó một lần. Sau đó nhờ viết bản luận về cải cách vương pháp, ta đã được thăng cấp làm tuần phủ miền nam, rồi được chuyển về đây, ngay chính khu vực này! Đó là thời kỳ đao binh biến loạn, khi Cửu Hoàng tử gây binh biến, hai mươi năm về trước. Giờ đây, chúng ta đang ở trong chính dinh của ông ấy! Phải, thời gian gió thổi mây trôi, Địch huyện lệnh à. Ôi, sau đó ta công bố thiên hạ những ghi chép bình phẩm về cổ học tinh hoa và được hoàng thượng bổ nhiệm chức Thị độc học sĩ tại Hàn lâm viện. Ta được phép tháp tùng hoàng thượng trong cuộc tuần du thị sát tối quan trọng đến các vùng miền phía tây. Trong hành trình đó, ta đã sáng tác bài thơ Thục Trung sơn xuyên tụng niệm*. Đến giờ ta vẫn xem đó là thi phẩm ưng ý nhất của mình!” Nghĩa là: Tụng ca núi Tứ Xuyên. Ông ta nới lỏng bào phục, để lộ ra cái cổ to nổi gân guốc. Địch huyện lệnh nhớ ra học sĩ cũng là một đô vật có tiếng và một cao thủ kiếm pháp thời trai trẻ. Thiệu Phàn Viên cầm lên quyển sách mở sẵn đang nằm trên án thư. “Ta đã tìm thấy thứ này trên kệ sách của Lỗ đại nhân, đây là tập thơ chọn lọc của Hoàng sư gia viết về phong cảnh Tứ Xuyên, ông ta cũng từng ghé thăm những nơi ta đã đặt dấu chân đến. Thật thú vị khi so sánh những cảm quan ấn tượng của chúng ta. Đoạn thơ này rất hay, nhưng…” Học sĩ cúi xuống trang sách, đoạn lắc đầu. “Không, phép ẩn dụ được ngân lên ở đây không đúng lắm…”
Chợt nhớ đến vị khách của mình, ông ta ngẩng lên, mỉm cười và nói, “Ta không nên làm phiền ông bằng tất cả những chuyện này! Chắc chắn ông còn nhiều việc phải làm trước khi đến tham dự buổi dạ yến.” Địch huyện lệnh đứng dậy. Thiệu học sĩ cũng đứng lên theo, và bất chấp lời phản đối, ông ta vẫn khăng khăng tiễn khách ra đến tận cửa. “Ta rất ưa thích buổi nói chuyện này! Ta luôn mong mỏi được lắng nghe quan điểm của các quan viên trẻ tuổi. Điều này mang lại cho ta cách nhìn mới mẻ về mọi thứ, có thể nói là vậy. Chúng ta sẽ gặp nhau ở buổi yến tiệc tối nay!” Địch Nhân Kiệt vội vã bước về phía chái nhà phải, vì cái cổ họng khô khốc hồi lâu nãy giờ đang thực sự khiến ông muốn uống một chén trà. Có nhiều cánh cửa mở dọc theo hành lang, nhưng ông chẳng thể tìm thấy nổi một gia nhân nào để hỏi thăm gian phòng của vị thi sĩ cung đình. Rồi ông để ý thấy một nam nhân mảnh khảnh vận bào phục xám đã bạc màu đang cho cá vàng ăn trong một bồn đá hoa cương ở phía cuối hành lang. Gã đội một chiếc mũ đen có đường viền đỏ. Chắc hẳn đó là một trong số các viên quản gia của Lỗ tri huyện. Địch huyện lệnh đi về phía nam nhân ấy và hỏi, “Ngươi có thể nói cho ta biết phòng của Trương tiên sinh không?” Nam nhân kia ngẩng đẩu lên, mắt ngó trân trối Địch huyện lệnh từ đầu đến chân. Rồi một nụ cười bẽn lẽn cong lên trên đôi môi mỏng nằm phía trên một chòm râu dê xám mọc lơ thơ. Gã đáp với vẻ bàng quan, “Ở ngay đây. Ta chính là Trương Lam Ba.”
“Ngàn lời xin tạ lỗi, thưa ngài!” Đầu cúi thấp, Địch Nhân Kiệt nhanh chóng lấy bái thiếp từ trong ống tay áo và trao nó cho thi sĩ. “Vãn bối đến đây để bày tỏ lòng kính trọng của mình đối với ngài.” Trương Lam Ba dửng dưng nhìn vào tấm bái thiếp, cầm nó trong bàn tay mảnh khảnh nổi gân xanh. “Địch huyện lệnh, ông quả là chu đáo!” Thi sĩ nói vẻ dửng dưng. Chỉ tay vào bể nước, gã tiếp lời, giọng sôi nổi hơn, “Hãy nhìn chú cá nhỏ nấp bên dưới đám rong lá liễu trong góc đằng kia! Ông có nhận ra cái nhìn bối rối của nó trong đôi mắt to lồi hay không? Nó gợi nhắc ta về chính chúng ta… những kẻ quan sát hoang mang, ngơ ngác…” Rồi Trương Lam Ba mở to đôi mắt sụp mí. “Xin thứ lỗi. Nuôi cá vàng là một trong các sở thích của ta, ông biết đấy. Nó khiến ta quên hết phép xã giao thông thường, ông lưu lại chốn này được bao lâu rồi, Địch huyện lệnh?” “Vãn bối đến đây vào ngày hôm kia, thưa ngài.” “Ồ, đúng rồi, tri phủ đại nhân đã tổ chức một cuộc họp với các huyện quan ở nơi này, ta có nghe. Hi vọng ông vui thích tận hưởng chuyến lưu trú tại Quyên Thành. Ta là người gốc ở huyện này, ông biết đấy.” “Quyên Thành quả là một trấn huyện xinh đẹp, thưa ngài. Vãn bối cảm thấy thật vinh dự khi mình có cơ hội gặp gỡ danh sĩ xuất chúng và tài hoa bậc nhất của huyện…” Vị thi sĩ lắc đầu. “Không, chẳng tài hoa gì đâu, Địch huyện lệnh à. Ta không còn như xưa nữa, không may là thế.”
Gã bỏ chiếc hộp ngà nhỏ đựng thức ăn cho cá vàng trở lại vào trong tay áo. “Xin thứ lỗi, Địch Huyện lệnh, nhưng hôm nay ta cảm thấy hơi khó chịu trong người, nội thể bất an. Cuộc viếng thăm từ đường lại khiến ta đắm chìm vào quá khứ…” Trương Lam Ba đột ngột dừng lại và dè dặt nhìn vê phía vị khách. “Tối nay, tại dạ tiệc, ta sẽ vui lên một chút. Phải thế thôi, bởi Thiệu tiên sinh luôn lôi kéo ta vào những cuộc khẩu chiến văn chương, ông ấy vô cùng uyên bác về văn chương, cao sâu như trời biển, và sở hữu sự tinh thông ngôn ngữ ít ai bì kịp. Có chút gì đó hơi cao ngạo nhưng…” Đột nhiên, thi sĩ lộ vẻ băn khoăn hỏi, “Ông đã ghé thăm Thiệu tiên sinh trước khi đến gặp ta phải không?” “Vãn bối đã tới diện kiến Thiệu đại nhân.” “Tuyệt. Ta nói trước với ông rằng dù phong thái bề ngoài phóng túng, nhưng Thiệu tiên sinh vẫn nhận thức rất rõ về vị trí cao quý của mình và dễ bị mếch lòng vì những chuyện không đáng. Ta đoan chắc ông sẽ thích buổi gặp mặt tối nay. Với sự hiện diện của đại sư Như Ý, sẽ chẳng thể có bất cứ khoảnh khắc nhạt nhẽo nào cả! Và chúng ta cũng có một đặc ân hiếm thấy là được gặp gỡ một thi nhân nổi tiếng, người đã bất chợt trở nên quá tai tiếng. Chúng ta phải…” Thi sĩ vỗ tay lên miệng mình. “Thiếu chút nữa là ta nói những điều không nên nói! Lỗ đại nhân, bằng hữu của chúng ta đã bắt ta hứa là sẽ không kể gì cho ông nghe cả! Ông ta thích những trò bất ngờ nho nhỏ, chắc ông biết rồi đấy.”
Trương Lam Ba đưa tay lên vuốt mặt. “Ôi, xin thứ lỗi vì đã không mời ông vào bên trong dùng một chén trà. Ta thực sự khá mệt, Địch huyện lệnh à. Có lẽ nên chợp mắt một chút trước bữa dạ yến. Tối qua ta không thể yên giấc được. Khách điếm ồn ào quá…” “Dĩ nhiên rồi, thưa ngài. Vãn bối rất hiểu điều đó!” Địch huyện lệnh cúi chào thoái lui, hai tay kính cẩn khoanh lại trong ống tay áo dài. Lúc đi theo hành lang, ông quyết định rằng sau hai cuộc thăm viếng theo đúng nghi thức, giờ mình phải tìm Lỗ tri huyện để thông báo những gì đã tìm hiểu được từ chỗ thị nữ của Mạnh gia. Ông cũng cần một chén trà, sau khi đã chờ quá lâu nãy giờ! HỒI 6 Địch Nhân Kiệt hỏi chuyện hồ ly Lỗ Quan Tùng nhờ giúp giai nhân Địch huyện lệnh đến thư phòng của Cao sư gia và nhờ y hỏi thăm xem liệu Lỗ tri huyện có thể tiếp ông được hay không. Sau đó một chốc, y trở lại. “Lỗ đại nhân rất vui mừng chào đón ngài tại thư phòng riêng.” Trao cho ông một cái nhìn rụt rè, y thêm lời, “Tiểu nhân thực sự hi vọng ngài có thể giúp cho Lỗ đại nhân có thêm chút hoan hỉ!” Vị tri huyện đang ngồi trên một cái ghế bành lót đệm phía sau án thư gỗ mun. Ông ta đang ủ rũ nhìn chằm chằm đống văn thư trước mặt mình. Trông thấy Địch huyện lệnh, Lỗ tri huyện đứng bật dậy và la toáng lên, “Tất cả những kẻ dương dương tự đắc cho mình là giỏi về niên vận tại Bộ Lễ nên bị tống cổ về quê hết, Địch huynh à. Ngay lập tức! Bọn họ chẳng am tường công vụ. Cái lũ ngu xuẩn ấy đánh dấu hôm nay là ngày Hoàng đạo, đặc biệt cát tường. Thế mà từ trưa đến giờ, hầu như chuyện gì cũng hỏng bét!”
Ông ta hạ mình xuống ghế lần nữa, giận dữ phùng đôi má tròn, thở hổn hển. Địch Nhân Kiệt ngồi xuống ghế bên cạnh án thư và châm cho mình một chén trà từ cái ấm đặt trong giỏ độn. Sau khi uống một hơi cạn sạch, ông rót đầy chén rồi ngả người ra, thở một hơi dài khoan khoái, lặng lẽ lắng nghe vị đồng liêu than vãn kể khổ. “Trước tiên, chúng ta vớ phải vụ sát hại Tống Nhất Văn ngay sau một bữa ăn no nê, có khi làm đệ khó tiêu. Sau đó, lão bà cai quản Lam Ngọc phường lại thông báo rằng vũ nữ giỏi nhất của họ vừa lăn ra ốm. Đệ phải liệu cơm gắp mắm, chấp nhận dùng hai vũ nữ nhị phẩm và chọn một vũ nữ tên Tiểu Phượng cho tiết mục chính. Đệ không thể ưa nổi gương mặt của ả, đã ngờ nghệch lại còn mỏng như lá lúa! Huynh đẩy cho đệ cái ấm trà đi!” Lỗ tri huyện rót đầy chén trà của Địch huyện lệnh và của mình, nhấp một ngụm, đoạn tiếp lời, “Rốt cuộc, sự bất ngờ thú vị mà đệ đã sắp đặt cho huynh chẳng đi đến đâu cả. Ngài học sĩ và thi sĩ cung đình sẽ thất vọng ghê gớm cho mà xem. Vậy nghĩa là chúng ta sẽ có năm người tại buổi dạ yến. Ngoài huynh đệ ta ra, còn có Thiệu tiên sinh, Trương tiên sinh và đại sư Như Ý! Số lẻ mang đến điềm xúi quẩy! Vậy mà lịch vạn sự cứ phán hôm nay là ngày cát tường. Hừ!” Ông ta dằn mạnh chén trà xuống và cáu kỉnh hỏi, “À, tin tức mới về vụ án mạng là gì vậy? Bộ đầu mới ghé qua đây báo cáo. Y chưa nghe ngóng được gì về tên lưu manh địa phương nào đang vung tay tiêu xài cả, đúng như chúng ta đã dự tính.”
Địch huyện lệnh uống cạn chén trà thứ ba của mình. “Theo như lời một thị nữ từng phục vụ cơm nước cho Tống Nhất Văn thì trước đây y từng đến Quyên Thành rồi. Và rõ ràng là y có nhân tình ở trấn này.” Lỗ tri huyện đứng dậy. “Quỷ tha ma bắt tên cống sĩ ấy! Nhưng đệ cũng đoan chắc nàng ta không phải là người của Lam Ngọc phường. Đệ đã miêu tả nhân dạng Tống Nhất Văn cho các nữ nhi ở đó nghe, họ đều chưa bao giờ thấy ai giống vậy cả.” “Thứ nữa,” Địch Nhân Kiệt tiếp lời, “ta ngờ rằng Tống Nhất Văn đến chốn này vì một lý do đặc biệt mà y muốn giữ bí mật. Cuộc khảo cứu lịch sử chỉ là một cái cớ mà thôi.” Ông lấy các ghi chú của cống sĩ từ trong tay áo ra và trao nó cho đồng liêu. “Sáu trang này là những ghi chú y viết ra trong suốt hai tuần!” Lỗ tri huyện liếc nhanh chỗ giấy tờ ấy. Khi thấy ông ta gật gù, Địch Nhân Kiệt tiếp tục, “Trưa nào, Tống Nhất Văn cũng đều ghé thăm văn khố để duy trì vỏ bọc. Khi đêm xuống, y mới đi ra ngoài giải quyết sự vụ của mình. Đứa thị nữ đã nhìn thấy y mặc đồ đen, lẻn ra ngoài.” “Huynh có manh mối nào dẫn đến nơi Tống Nhất Văn đã lai vãng hay việc y đã làm chứ?” “Tiếc là không. Đứa thị nữ quen một tiểu nhị trong quán trà ở gần đấy. Hắn có vẻ cũng hoạt bát mà chưa từng bắt gặp Tống Nhất Văn ở bất cứ đâu trong trấn cả.” Địch Nhân Kiệt hắng giọng, “Thị nữ đó rất tin vào chuyện hồ ly tinh. Nó cứ dinh ninh rằng tình nương của Tống Nhất Văn thực ra là một con cáo và chính ả hồ ly này đã giết y!”
“Ồ vâng, hồ ly đóng vai trò quan trọng trong tín ngưỡng dân gian ở đây, Địch huynh à. Tư gia của đệ cũng có một miếu thờ hồ ly, là quyền năng bảo vệ khu này. Còn có một cái miếu lớn nằm ở bãi đất hoang gần Nam môn. Thiên hạ đồn rằng nơi đó bị ám. Ôi, bỏ qua mấy chuyện ma quỷ đi, vụ án này đã đủ rắc rối lắm rồi!” “Ta hoàn toàn đồng ý. Đệ cũng không gạt bỏ khả năng hung thủ là người trong tư gia chứ?” “Vâng, quả là thế. Mạnh Tô Hải là một người có tiếng tốt ở vùng này, nhưng điều đó chẳng nói lên gì cả, dĩ nhiên rồi. Có thể là gã đã quen biết Tống Nhất Văn khi y viếng thăm Quyên Thành trước đây. Mạnh Tô Hải đã tự mình điều tra ngay sau khi phát hiện ra tử thi. Gã cũng rất hăng hái truyền tải giả thuyết của mình cho chúng ta. Việc đi vòng quanh tư gia và gõ lên chính cổng vườn nhà mình chẳng phải là để làm thế sao! Đệ hoàn toàn không thích việc tay cống sĩ có nhân tình ở đây. Nữ nhi đồng nghĩa với rắc rối.” Ông ta thở dài. “Dù sao đi nữa, mai cũng không phải thăng đường vì là tết Trung thu. Ít ra thì chúng ta sẽ có thêm chút ít thời gian thư thái, tạm thoát khỏi những điều phiền toái.” Lỗ tri huyện rót cho mình một chén trà nữa và chìm đắm vào sự im lặng ủ ê. Địch huyện lệnh nhìn đồng liêu với vẻ chờ đợi, mong chờ ông ta diễn giải kế hoạch điều tra sẽ như thế nào. Nếu vụ án xảy ra ở Phổ Dương thì ông sẽ lập tức ra lệnh cho ba trợ thủ thân tín là Mã Vinh, Kiều Thái và Đào Cam đi dò hỏi xung quanh cửa hiệu trà nhà họ Mạnh, tìm kiếm tin tức về vị chưởng quỹ, Mạnh gia và khách trọ của gã. Lượng thông tin mà các thuộc hạ dày dạn kinh nghiệm có thể thu thập được từ các tiểu thương bán thịt cá, rau quả nhiều đến đáng ngạc nhiên. Không nên bỏ qua các quầy hàng rẻ tiền ven đường, nơi tụ tập của đám phu dịch và phu khiêng kiệu.
Khi thấy Lỗ Quan Tùng vẫn im lặng, ông liền nói, “Tối nay thì chúng ta không thể điều tra thêm bất cứ chuyện gì nữa rồi, vì còn vướng buổi dạ yến. Đệ sẽ cử một số thuộc hạ đi tra xét thêm chứ?” “Không, hiền huynh. Cách của đệ là chỉ sai người của nha phủ đi làm các công vụ thường ngày, còn tất cả các cuộc điều tra cơ mật đều giao cho lão quản gia dàn xếp.” Trông thấy vẻ ngạc nhiên hiện rõ trên gương mặt Địch Nhân Kiệt, ông ta nhanh chóng tiếp lời, “Lão nhân lõi đời đó sinh ra, lớn lên ở nơi này. Huynh biết không, lão nắm rõ trấn này như lòng bàn tay. Lão có ba người bà con xa, đều là những kẻ khôn khéo, trong đó một người làm tiểu nhị cho hiệu cầm đồ, một người làm tại tiệm kim hoàn, còn người kia đang làm trong một tửu điếm có tiếng ngoài chợ. Đệ dùng tiền túi trả công hậu hĩnh cho ba người, để bọn họ làm chỉ điểm và do thám. Việc này vận hành khá trơn tru, giúp đệ kiểm soát nhất cử nhất động của viên sư gia cũng như đám thuộc hạ của nha phủ nữa.” Địch huyện lệnh chậm rãi gật đầu. Bản thân ông đặt trọn niềm tin vào Hồng sư gia và ba trợ thủ của mình, chẳng chút mảy may nghi ngờ. Thế nhưng, mỗi huyện quan được tự do thực thi công vụ theo cách riêng của mình. Vả lại, dường như cách làm của Lỗ tri huyện cũng không phải là tệ. Từ lần viếng thăm Quyên Thành trước đây, ông đã nhận ra rằng viên quản gia của Lỗ tri huyện là một lão nhân khôn ranh, ông cất tiếng hỏi, “Đệ có nói với quản gia của mình là…”
Đúng lúc đó có tiếng gõ cửa cắt ngang. Viên bộ đầu tiến vào phòng, bẩm báo, “Thưa đại nhân, nữ sĩ Ngọc Lan xin được cầu kiến.” Gương mặt Lỗ Quan Tùng sáng lên, kèm theo một nụ cười rộng ngoác. Ông ta nện nắm đấm xuống án thư và kêu lên, “Vậy là nàng đã nghĩ lại! Có lẽ hôm nay thực sự là ngày đẹp! Người đâu, mau dẫn nàng vào! Ngay lập tức!” Xoa hai bàn tay vào nhau, ông ta nói với Địch huyện lệnh, “Đệ không nằm mơ giữa ban ngày, điều chúng ta thấy là sự thật. Bất ngờ nho nhỏ mà đệ dành tặng huynh đã tới rồi, hiền huynh à!” Địch Nhân Kiệt khẽ nhướn mày. “Nữ sĩ Ngọc Lan là ai vậy?” “Hiền huynh! Chẳng lẽ Địch Nhân Kiệt, một trong những thần thám của Đại Đường, mà lại chưa bao giờ nghe nói về vụ án mạng xảy ra trong đạo quán Bạch Hạc ư?” Địch Nhân Kiệt bật dậy, miệng há hốc.“Thiên địa ơi! Đệ đang nhắc đến vụ án khủng khiếp mà một đạo cô đã dùng roi đánh tỳ nữ đến chết?” Lỗ tri huyện hớn hở gật đầu. “Chính là nữ nhân ấy, hiền huynh! Là Ngọc Lan, kỹ nữ, nữ sĩ, đạo cô nổi tiếng…” Gương mặt Địch huyện lệnh ửng đỏ. ông giận dữ lên tiếng, “Một nữ sát nhân hèn hạ!” Lỗ tri huyện giơ tay lên đấu dịu. “Xin hiền huynh hãy bình tĩnh, kìm lại cơn nóng giận! Trước tiên, đệ xin phép được nhắc huynh, giới học giả uyên thâm đã đồng thuận rằng Ngọc Lan bị cáo oan. Vụ án của nàng đã qua xét xử ở bản huyện, rồi tới chỗ tri phủ và tuần phủ, mà rốt cuộc vẫn chưa ai đưa ra được bản luận tội cuối cùng. Do đó, nàng bị dẫn giải về kinh để Bộ Hình thẩm vấn và xét xử. Thứ đến, không nghi ngờ gì, nàng là nữ sĩ hoàn mỹ nhất của Đại Đường. Cả hai vị đại học sĩ và thi sĩ cung đình đều biết rõ nàng. Họ tỏ ra rất vui mừng khi biết đệ yêu cầu đoàn áp giải để cho nàng được nán lại đây trong hai ngày.”
Ông ta ngừng lời và đột ngột giật hàm ria. “Tuy nhiên, lúc trưa nay, khi đệ đến gặp nàng nơi khách điếm đằng sau Lam Ngọc phường, nữ sĩ đã thẳng thừng từ chối lời mời. Ngọc Lan nói rằng mình không muốn gặp lại bằng hữu ngày xưa cho đến khi chứng tỏ được sự trong sạch của bản thân. Hãy mường tượng xem đệ đã xấu hổ đến thế nào! Đệ từng hi vọng có thể dành cho huynh cơ hội luận bàn về vụ án với chính Ngọc Lan. Đây là vụ án mạng đang gây náo động khắp nơi, một nan đề mà ba cuộc điều tra pháp đình vẫn chưa giải nổi. Đệ biết huynh không ham thơ phú, nhưng đệ cũng mong huynh có khoảng thời gian vui vẻ nơi đây như mọi người!” Địch Nhân Kiệt vuốt chòm râu dài, cố vắt óc hồi tưởng lại các tình tiết của vụ án mạng. Đoạn ông cười rồi nói, “Thật tình ta rất cảm kích thiện chí của hiền đệ, nhưng nữ nhân ấy không đến thì hơn. Về phần án mạng khó giải, chúng ta đã có…” Đúng lúc ấy, cánh cửa bật mở. Viên bộ đầu dẫn vào một nữ nhân cao dong dỏng vận y phục đen. Nàng ta phớt lờ Địch huyện lệnh, sải bước đến bên án thư, rồi thưa với Lỗ tri huyện bằng một âm giọng trầm và êm ả, “Bẩm đại nhân, tiểu nữ đã đổi ý, nên chấp nhận lời mời tử tế của ngài.” “Thật tốt quá, cô nương, tốt quá! Thiệu tiên sinh và Trương tiên sinh đều trông đợi được gặp lại cô nương. Đại sư Như Ý cũng đang ở đây nữa. Để ta giới thiệu một nhân vật khác cũng ngưỡng mộ tiếng tăm của cô nương! Đây là bằng hữu của ta, Địch Nhân Kiệt, huyện lệnh Phổ Dương. Đệ xin giới thiệu với huynh nữ sĩ trác tuyệt Ngọc Lan!”
Nữ nhân trao cho Địch huyện lệnh một cái nhìn thờ ơ thoáng qua, rồi cúi mình thi lễ với vẻ chiếu lệ. Khi ông tiếp nhận cử chỉ xã giao ấy bằng một cái gật đầu, Ngọc Lan chuyển sự chú ý sang Lỗ tri huyện đang bắt đầu mô tả tỉ mỉ viện tử mà ông ta đã chuẩn bị cho nàng, ngay sát bên khu nữ quyến của Lỗ gia, ở hậu phần của khu dinh thự này. Ông áng chừng Ngọc Lan khoảng ba mươi tuổi. Trước kia, hẳn nữ nhân này phải là một mỹ nữ khuynh thành. Khuôn mặt nàng vẫn đầy đặn, còn vương nét gợi cảm đắm say, nhưng đôi mắt đã có bọng, một nếp nhăn hằn sâu giữa cặp lông mày lá liễu, những nếp nhăn mỏng bắt đầu xuất hiện xung quanh khóe miệng giai nhân. Cặp môi đỏ mọng trên nền một gương mặt xanh xao, hoàn toàn không tô son điểm phấn. Mái tóc nàng chải cao thành ba búi đen tuyền, được gài chặt bằng hai cây trâm ngà đơn giản. Xiêm y đen tuyền ôm sát thân thể ngà ngọc làm nổi bật đường cong của bờ hông nở nang, phần eo thơn thả, tôn lên bộ ngực hơi đồ sộ. Khi Ngọc Lan cúi xuống án thư để rót cho mình một chén trà, ông nhìn thấy bàn tay trắng muốt chẳng điểm tô bởi bất cứ chiếc nhẫn hay xuyến ngọc nào. “Ngàn lời cảm tạ vì tất cả những phiền toái ngài đã phải chịu để mời dân nữ,” nữ sĩ cắt ngang bài diễn thuyết của gia chủ. Nở một nụ cười dịu dàng làm sáng cả khuôn mặt thanh tao, nàng tiếp lời, “Và vạn lời đa tạ vì đã cho tôi thấy mình vẫn còn bằng hữu! Dân nữ đang bắt đầu nghĩ rằng bản thân chẳng còn ai nữa, sau chuyện xảy ra mấy tuần trước. Hình như là sẽ có đại yến vào tối nay?”
“Dĩ nhiên rồi, nhưng chỉ là một bữa tiệc nhỏ trong tư gia của ta. Tối mai, tất cả chúng ta sẽ lên vách đá Thúy Ngọc, cùng nhau uống rượu ngâm thơ và thưởng trăng rằm!” “Nghe thật hấp dẫn quá, nhất là sau khi vừa trải qua sáu tuần lễ vạ vật tại các nhà lao khác nhau. Họ đối xử đàng hoàng với tôi, phải thừa nhận như vậy, nhưng… À, xin đại nhân cho bộ đầu dẫn dân nữ đến tư dinh của ngài và giới thiệu dân nữ với nữ tổng quản. Dân nữ cần phải nghỉ ngơi và thay xiêm y trước khi đến dự dạ yến. Nữ nhân dù đã bước qua thời xuân sắc cũng đều muốn xuất hiện trong những dịp như thế này với diện mạo hoàn mỹ nhất.” “Dĩ nhiên rồi!” Lỗ tri huyện kêu lên. “Cứ tùy nghi sửa soạn theo ý muốn của cô nương! Chúng ta sẽ bắt đầu bữa tiệc muộn và tiếp tục thưởng ngoạn cho đến khuya, giống như các bậc tiền nhân!” Khi Lỗ tri huyện vỗ tay ra dấu cho viên bộ đầu, nữ sĩ nói, “À, dân nữ có dẫn theo Tiểu Phượng. Muội ấy muốn xem qua sảnh đường sẽ biểu diễn tối nay. Ngài đã chọn được một vũ nữ giỏi cho tối nay rồi đó.” Đoạn Ngọc Lan quay sang phía viên Bộ đầu, “Hãy đưa cô gái ấy vào đây!” Một nữ nhi mảnh khảnh, tuổi ước chừng mười tám, bước vào và khẽ nhún gối cúi chào. Nàng vận xiêm y xanh sẫm, một dải thắt lưng đỏ chít chặt quanh vòng eo thắt đáy lưng ong. Lỗ tri huyện nhìn nữ nhi ấy đầy xét nét, hàng lông mày mỏng cau lại. “Ừ, phải rồi.” Ông ta đáp chiếu lệ. “Bản quan không nghĩ nàng sẽ tìm thấy bất cứ điều gì đáng chê trách ở sảnh đâu.”
“Xin đại nhân đừng phật ý!” Ngọc Lan cộc lốc xen vào. “Cô gái ấy thật sự rất chú tâm theo đuổi vũ nghệ và muốn khớp thử vũ điệu trong sảnh. Tối nay, muội ấy sẽ trình diễn vũ khúc quyến rũ Tử vân phượng hoàng. Đó là vũ phẩm nổi tiếng nhất của Tiểu Phượng, đến nỗi nhan đề của điệu múa đã gắn liền với tên tuổi của muội ấy. Lại đây nào, đừng bẽn lẽn như thế, tiểu muội! Hãy nhớ: đã là nữ nhi trẻ trung xinh xắn thì không cần phải e sợ bất cứ nam nhân nào, dù là đại quan hay thường dân cũng vậy.” Vũ nữ ngẩng đầu lên. Địch huyện lệnh bị khuôn mặt kỳ lạ ấy làm cho sửng sốt. Sống mũi dài và nhọn, đôi mắt xếch ngược không thần sắc làm cho khuôn mặt nữ nhi giống như một cái mặt nạ. Vầng trán cao và mịn màng, mái tóc chải ngược thành một búi giản đơn phía sau gáy, cần cổ dài và thanh tú. Nữ nhi có bờ vai góc cạnh, đôi cánh tay dài và mảnh. Từ vóc dáng ấy phát tiết ra một vẻ lạ lùng và thoát tục. Ông đồ rằng là vị đồng liêu không bị ấn tượng với nhan sắc ấy, vì Lỗ tri huyện chỉ để tâm bởi những nữ nhân có sắc đẹp rực rỡ và tràn đầy nữ tính. “Bẩm, tiểu nữ biết mình tài hèn sức mọn,” vũ nữ khẽ khàng buông lời, nhỏ đến mức người bên cạnh cũng khó mà nghe rõ. “Tiểu nữ có phúc mới được trình diễn vũ khúc trước những nhân vật lỗi lạc như thế này.” Nữ sĩ vỗ nhẹ vào vai Tiểu Phượng.“Thưa gửi vậy là đủ rồi, tiểu muội yêu quý. Dân nữ sẽ gặp lại các ngài vào tối nay, tại buổi dạ yến. Giờ bọn dân nữ xin lui!”
Ngọc Lan lại cúi mình thi lễ một cách chiếu lệ, rồi thoăn thoắt sải những bước dài ra ngoài, nàng vũ nữ nhút nhát cúc cung bước theo. Lỗ tri huyện giơ cả hai tay lên và hét ầm, “Mọi thứ ở nữ nhân đó đều tuyệt! Một nhan sắc khuynh thành, một tài năng xuất chúng và cả một cá tính mạnh mẽ. Số mệnh quá hẩm hiu, trời xanh quá trớ trêu, không cho ta được gặp nàng mười năm trước!” Buồn bã lắc đầu, ông ta mở ngăn kéo và lấy ra một tập văn thư đồ sộ, đoạn hùng hồn nói tiếp, “Đệ đã thu thập bản sao của tất cả những gì liên quan đến vụ án mạng cho hiền huynh. Hẳn là huynh muốn biết mọi lẽ của vụ án mạng ở Bạch Hạc quán. Đệ cũng thêm vào một bản tóm lược thân thế của nữ nhân ấy, để huynh có được định hướng tổng thể. Chúng đây, huynh nên xem xét hết đống này trước bữa tối.” Địch huyện lệnh cảm thấy xúc động. Vị đồng liêu đã chẳng nề hà phiền toái chỉ để ông không phải buồn chán, ông nói vẻ cảm kích, “Hiền đệ quả là chu đáo!” “Hiền huynh không cần bận lòng! Có gì đâu chứ!” Lỗ tri huyện nhìn nhanh về phía ông rồi tiếp lời, giọng điệu có chút ăn năn, “À, đệ phải thú nhận là cũng có chút động cơ cá nhân ở đây. Sự thật là đệ đang định lúc nào đó sẽ công bố rộng rãi một tập thơ đầy đủ của Ngọc Lan, kèm theo phần chú giải nữa. Lời đề tựa đã thảo ra xong xuôi. Vụ án đó phá hỏng kế hoạch đã trù tính, dĩ nhiên rồi. Đệ hi vọng hiền huynh sẽ giúp Ngọc Lan chuẩn bị một lời bào chữa có sức nặng để chứng minh nàng vô tội. Huynh có rất nhiều kinh nghiệm soạn thảo những thứ văn thư pháp lý. Huynh hiểu ý đệ chứ?”
“Quả đúng vậy!” Địch huyện lệnh đáp lời vẻ gay gắt. Trao cho vị đồng liêu một cái nhìn lãnh đạm, ông đứng dậy và kẹp đống văn thư vào dưới cánh tay. “Chà, tốt hơn là ta nên bắt tay vào việc ngay lập tức.” HỒI 7 Nhà sư buông chuyện lạ kỳ Tiệc kia chẳng thiết chỉ vì án oan Bước qua cổng chính vào tư dinh, Địch huyện lệnh chợt dừng bước và ngạc nhiên nhìn về phía nhân vật lôi thôi lếch thếch đang đứng tại cửa ra vào của gian nhà ông ở. Đó là một nam nhân béo lùn, mình khoác chiếc áo cà sa vá chằng vá đụp, đầu tròn cạo nhẵn. Chân ông ta mang đôi dép rơm đã mòn vẹt. Băn khoăn làm thế nào mà một kẻ hành khất có thể vào đến tận nội phủ, Địch Nhân Kiệt rảo bước tới, cất giọng hỏi xẵng, “Nhà ngươi muốn gì ở đây?” Nam nhân kia quay người lại, cặp mắt lồi nhìn chằm chằm vào Địch Nhân Kiệt, ông ta càu nhàu đáp, “Ha, Địch huyện lệnh! Ta đến để viếng thăm ông trong chốc lát, nhưng gõ cửa mãi mà không có ai trả lời.” Giọng ông ta khàn khàn, nhưng cách ăn nói ra chiều là người có giáo dưỡng và uy quyền, ông chợt hiểu ra. “Ta rất vui mừng được gặp thầy. Lỗ tri huyện nói với ta rằng…” “Ngài đừng mừng vội!” Đại sư Như Ý cắt lời. Rồi ông ta nhìn chòng chọc vào thứ gì đó đằng sau Địch huyện lệnh, mắt không hề chớp mắt. Địch Nhân Kiệt bất giác ngó ra phía sau. Viện tử trống trải không bóng người. “Không, ngài không thể thấy họ đâu. vẫn chưa. Nhưng ngài đừng để tâm, du hồn luôn lảng vảng quanh chúng ta. Khắp mọi nơi.”
Địch huyện lệnh nhìn nhà sư hồi lâu. Nam nhân này làm ông mơ hồ cảm thấy bất an. Tại sao Lỗ tri huyện lại… “Ngài đang băn khoăn vì nguyên cớ gì mà Lỗ đại nhân lại mời ta đến đây chứ gì? Phải, ta là thi sĩ, chuyên viết những câu thơ đối ngẫu. Thơ của ta không bao giờ dài quá hai dòng. Chắc là ngài chưa bao giờ đọc chúng. Ngài chỉ ham thích án quyển mà thôi!” Nhà sư trỏ vào đống văn thư mà Địch huyện lệnh đang mang theo. “Thưa thầy, chúng ta hãy vào bên trong dùng một chén trà.” Địch huyện lệnh đề nghị, lịch sự mở cửa cho nhà sư. “Không, xin cảm tạ. Ta còn phải về phòng lấy vài món đồ, để chút nữa xuống phố bán buôn làm mấy việc.” “Thầy đang ngụ ở khu nào trong dinh này?” “Ta ở khu miếu thờ hồ ly, góc bên phải của trung viện tử.” “Vâng, Lỗ đại nhân có kể là phủ có một miếu thờ như vậy,” Địch huyện lệnh nói với một nụ cười yếu ớt. “Tại sao ngài ấy lại không nên thờ hồ ly nhỉ?” Nhà sư tỏ vẻ bất bình. “Hồ ly là một phần không thể thiếu giữa vạn vật sinh linh. Thế giới của chúng cũng tương tự như nhân sinh, ta quan trọng thì chúng quan trọng, ta nhỏ mọn thì chúng nhỏ mọn. Giống như người với người gắn kết nhau bằng nhân duyên, một số người lại có sợi dây liên hệ với một loài vật đặc biệt. Ngài đừng quên là các loài vật trong hệ can chi ảnh hưởng lên số mệnh của chúng ta.” Nhà sư vừa chăm chú quan sát gương mặt của Địch huyện lệnh, vừa xoa hai bên má râu ria lởm chởm. Bất chợt, ông ta hỏi, “Ngài sinh năm Canh Dần phải không?”
Khi ông gật đầu, đôi môi dày của nhà sư cong lên thành một nụ cười mãn nguyện. “Lão hổ và hồ ly! Không thể tốt hơn thế!” Chợt nét mặt nhà sư bỗng nhiên sa sầm, những nếp nhăn sâu xuất hiện hai bên cánh mũi. Ông ta cất giọng ảm đạm, “Tốt hơn là ngài nên hành động thần tốc! Một vụ án mạng đã xảy ra ở trấn vào tối qua, ta nghe mọi người bàn tán vậy, và cơ sự đang xoay vần để hình thành vụ sát nhân thứ hai. Văn thư ngài mang có đề tên Ngọc Lan, án tử đang treo lơ lửng trên đầu nữ nhân ấy. Chẳng mấy chốc sẽ có thêm nhiều du hồn bám theo ngài, Địch huyện lệnh à!” Đại sư Như Ý ngẩng đầu lên và lại nhìn ra phía sau Địch Nhân Kiệt, một tia kỳ lạ ánh lên trong mắt ông ta. Địch huyện lệnh bất giác rùng mình, ông muốn nói gì đó, nhưng nhà sư đã tiếp lời bằng tông giọng cáu kỉnh ban nãy, “Ngài đừng trông mong bất cứ sự giúp đỡ nào từ ta. Vương pháp chốn nhân gian chỉ là sự trừng phạt tạm bợ và tầm thường, ta sẽ không nhấc dù chỉ một ngón tay để tóm cổ tên sát nhân nào đâu! Chúng sẽ tự đưa mình vào tròng, loay hoay trong một vòng kiềm tỏa còn chật hẹp hơn nhiều những sự trói buộc khác trên thế gian, không bao giờ có thể thoát ra được. Xin tái ngộ ngài tối nay!” Ông ta rời đi, đôi dép rơm giậm xuống mặt nền. Địch huyện lệnh nhìn theo nhà sư rồi nhanh chóng bước vào gian phòng, bực bội vì sự bối rối của bản thân.
Các gia nhân đã kéo tấm màn che giường. Ông hài lòng khi thấy một giỏ lớn đựng ấm trà đặt trên mặt bàn, bên cạnh chân cắm nến bằng thiếc. Đứng trước bàn trang điểm, ông lau mặt và cổ bằng cái khăn thơm mà gia nhân đã chuẩn bị trong chiếc chậu đồng thau, ông cảm thấy sảng khoái hơn hẳn. Đại sư Như Ý chỉ là một nam nhân lập dị, những người như ông ta ưa thích cách nói khoa trương. Địch huyện lệnh đẩy bàn lại sát cửa và ngồi xuống ngắm tòa giả sơn ngoài hoa viên. Rồi ông mở tập văn thư ra. Phía trên cùng là tập giấy hai chục trang về tiểu sử của nữ sĩ do chính tay Lỗ tri huyện viết. Đó là một bản viết tay rất tài tình, diễn đạt cẩn thận đến độ Địch huyện lệnh ngờ rằng ông ta đã trù tính cho in nó trong tập thơ của Ngọc Lan. Nó đề cập đến tất cả những sự vụ có liên quan, ngôn từ đầy ẩn ý nhằm tránh làm phật ý người khác, nhưng vẫn thể hiện rõ nội hàm. Sau khi đọc một cách cẩn thận, ông ngả người dựa vào ghế, tay khoanh lại, đầu mường tượng lại toàn bộ thân thế của Ngọc Lan. Nữ sĩ này là con duy nhất của chủ một dược phòng nhỏ ở Trường An. Ông ta tự mình mài giữa văn chương, rồi dạy Ngọc Lan biết đọc biết viết khi nàng chỉ mới năm tuổi. Tiếc thay, ông ta lại là một thương gia tồi. Khi nàng mười lăm tuổi, ông ta lâm vào cảnh nợ nần cùng quẫn, đến mức phải bán con gái cho một thanh lâu có tiếng. Trong suốt bốn năm ở đó, Ngọc Lan năng qua lại giao thiệp với các nhân vật trong giới văn nhân, cả già lẫn trẻ. Thông qua những mối quan hệ này, nàng đã tiến bộ nhanh chóng, biết đủ bốn món cầm kì thi họa, thể hiện tài năng đặc biệt đối với thơ phú. Năm mười chín tuổi, chú chim non ngày nào giờ đã đủ lông đủ cánh, trở thành một kỹ nữ nức tiếng gần xa, để rồi một ngày nọ đột nhiên bay mất. Vì Ngọc Lan là một món đầu tư có giá trị, phường hội chuyên bảo kê cho các kỹ viện liền phái những tay lưu manh bậc nhất đi lùng sục khắp nơi. Nhưng bóng chim tăm cá, chúng vẫn không thể bắt được nàng.
Hai năm sau, có một người tình cờ tìm thấy nàng trong tình trạng bần hàn và đau ốm, trú ở một khách điếm tồi tàn vùng ngoại ô. Nam nhân đó là Ôn Đông Dương, một thi sĩ trẻ trung khôn ngoan, nổi tiếng với những dòng thơ châm biếm sâu cay. Họ Ôn không chỉ khôi ngô tuấn tú mà còn được thừa kế một gia sản kếch xù. Từng có duyên gặp gỡ Ngọc Lan ở chốn kinh thành, chàng vẫn ôm mối tình xưa trong ảo mộng. Chàng đã trả hết nợ nần cho nàng, còn nàng trở thành tri kỷ như hình với bóng của chàng. Không cuộc tụ họp tao nhã nào ở kinh kỳ mà lại thiếu sự hiện diện của đôi uyên ương. Ôn công tử cho in và lưu hành rộng rãi một tuyển tập thơ mà hai người đã cùng nhau họa vần. Những vần thơ khí chất ấy được giới văn nhân cả nước trích dẫn lại. Đôi uyên ương cùng nhau du sơn ngoạn thủy, thăm thú tất cả những cảnh quan nổi tiếng của Đại Đường, được các danh sĩ có tiếng chào đón ở mọi nơi. Họ thường Iưu trú hàng tháng trời tại những địa điểm yêu thích. Mối thâm tình của cả hai kéo dài trong bốn năm trời. Rồi Ôn Đông Dương bất ngờ bỏ rơi Ngọc Lan, vì đã trót đem lòng say mê một ả đào trong đoàn hát tạp kĩ. Nữ sĩ rời kinh đô đến Tứ Xuyên, dùng món quà chia tay hậu hĩnh của Ôn công tử để mua lại một điền trang đẹp đẽ. Tại đó, nàng sinh sống cùng một nhóm tỳ nữ và đào hát. Trang viên của nàng trở thành nơi tụ họp của những kẻ trí thức và yêu thích nghệ thuật tại chốn xa xôi hẻo lánh ấy. Ngọc Lan ban đặc ân cho một nhóm những kẻ si tình được chọn lọc cẩn thận, gồm các danh sĩ và đại quan triều đình, và nhận lại những món quà đắt giá.
Viết đến đây, rõ là Lỗ tri huyện không thể kìm lòng mà thêm vào một câu rất sáo, ‘Mỗi bài thơ của nàng đáng giá ngàn vàng’, ông ta cũng đề cập đến việc Ngọc Lan có một số nữ bằng hữu thân thiết và đã đề tặng cho họ vài bài thơ hay nhất của mình. Cũng vì những mối quan hệ kiểu ấy mà chỉ hai năm sau, nàng đột ngột rời khỏi Tứ Xuyên do ‘gặp rắc rối’ với một môn sinh của mình, vốn là ái nữ của tri phủ địa phương. Hàm ý ở đây đã rõ ràng. Sau khi rời Tứ Xuyên, Ngọc Lan thay đổi hoàn toàn lối sống. Nàng mua lại đạo quán Bạch Hạc, một đạo quán nhỏ trong vùng Hồ Tương xinh đẹp, và tự xung là đạo cô. Nàng chỉ giữ lại bên mình một tỳ nữ, không cho phép bất cứ nam nhân nào bén mảng vào, và chỉ làm thơ về tôn giáo. Nàng vẫn tiêu xài một cách rộng rãi. Trước khi rời khỏi Tứ Xuyên, nàng đã trả công hậu hĩnh cho số gia nhân đông đảo. Phần gia sản còn lại, Ngọc Lan đổ hết vào việc mua lại Bạch Hạc quán. Nhưng nàng vẫn sống khá dư dả, nhờ các thân hào nhân sĩ trong vùng đã trả khá hậu để nàng dạy nhi nữ của họ làm thơ. Cuối bản tiểu sử, Lỗ tri huyện viết, ‘Xin tham khảo thêm án quyển’. Địch huyện lệnh ngồi thẳng người, nhanh chóng lật qua và đọc lướt án quyển. Con mắt từng trải của ông chỉ mất chút thời gian để lọc ra những sự vụ chính. Hai tháng trước, khi tiết trời vào cuối xuân, các bộ khoái của nha phủ bất ngờ ập vào đạo quán Bạch Hạc và đào bới quanh gốc cây đào ở vườn sau. Họ tìm thấy thi hài lõa thể của đứa tỳ nữ mới mười bảy tuổi. Kết quả nghiệm thi cho thấy thiếu nữ ấy đã chết từ ba ngày trước, sau một trận đòn roi ác nghiệt. Ngọc Lan bị khép vào tội cố sát. Nàng khăng khăng phủ nhận lời buộc tội với vẻ ngạo mạn. Nàng nói rằng vào ba ngày trước, nạn nhân xin nghỉ một tuần để viếng thăm phụ mẫu đã cao niên, rồi lên đường sau khi đã chuẩn bị cơm chiều cho chủ nhân. Đấy là lần cuối cùng Ngọc Lan chạm mặt tỳ nữ của mình. Sau khi dùng cơm, nàng ra ngoài tản bộ ven bờ hồ, chỉ đi một mình. Đầu giờ Tý, nàng về nhà và phát hiện cổng vườn đã bị bẻ khóa, hai chân nến bạc trong chính điện cũng không cánh mà bay. Ngay sáng hôm sau, nàng liền lên nha phủ bẩm báo vụ trộm. Nàng cho là đứa tỳ nữ, trên đường quay về đạo quán do bỏ quên thứ gì đó, đã chạm mặt đám đạo chích. Chúng cố gắng bắt nữ nhi ấy khai ra nơi chủ nhân để tiền. Nữ nhi không thể chịu được trận đòn roi mà lìa trần.
Sau đó, tri huyện lại nghe một số nhân chứng khai báo rằng nữ sĩ thường tranh cãi dữ dội với tỳ nữ, thỉnh thoảng họ lại nghe tiếng nạn nhân la hét trong đêm. Đạo quán tọa lạc ở một nơi biệt lập ít người lai vãng, nhưng vài người bán rong đi qua đó vào đêm ấy đều không nhìn thấy dấu vết gì của đám trộm cướp. Tri huyện tuyên bố lời biện hộ của Ngọc Lan hoàn toàn là dối trá và ngụy tạo, rằng chính nàng đã tự phá khóa cổng vườn và ném hai chân nến bạc xuống giếng. Tham chiếu đến quá khứ bất hảo của nữ sĩ, ông ta toan khép nàng vào án tử. Đúng lúc đó, một toán đạo tặc đã tấn công một nông trang ở vùng lân cận và giết hại đôi phu thê ở đó rất dã man. Tri huyện bèn hoãn việc luận tội và cắt cử thuộc hạ tróc nã bọn tội nhân, chỉ chúng mới có thể chứng minh câu chuyện của Ngọc Lan là sự thật. Trong lúc đó, việc nữ sĩ bị bắt giữ đã lan truyền khắp nơi và đến tai tri phủ đại nhân. Ngài đã lệnh chuyển vụ án lên phủ để xét xử. Cuộc điều tra hăng hái của tri phủ, vốn là một người hâm mộ thơ phú của Ngọc Lan, đã đưa ra hai điểm có lợi cho nàng. Hóa ra một năm trước, viên tri huyện từng cố gắng lấy lòng Ngọc Lan nhưng bị nàng cự tuyệt, ông ta thừa nhận chuyện này nhưng phủ nhận việc nó ảnh hưởng đến quyết định của mình. Sau khi nhận được một lá thư vô danh tố cáo rằng có một tử thi được chôn dưới gốc cây đào, ông ta cho rằng bản thân có nghĩa vụ phải xác minh cáo buộc đó. Tri phủ đại nhân phán quyết rằng viên tri huyện đã bị thành kiến làm mờ mắt nên đã hồ đồ xét đoán tội trạng của Ngọc Lan. Ông ta tạm thời bị đình chỉ các chức trách. Thứ nữa, các bộ khoái đã tóm được một tên tội nhân từng tham gia tấn công nông trang. Hắn khai rằng đại ca của mình đã nói về chuyện nữ sĩ giấu một kho vàng trong đạo quán, rất đáng để cả bọn mò đến đấy xem xét vào lúc nào đó. Lời cung khai này dường như đã chứng minh cho giả thuyết của Ngọc Lan về vụ án mạng. Trên cơ sở đó, tri phủ đại nhân quyết định chuyển vụ án sang cho nha môn đốc phủ, đề xuất tuyên nàng vô tội.
Tổng đốc đại nhân bị ngập trong những lá thư của các nhân vật có phẩm hàm cao gửi đến từ khắp mọi miền của Đại Đường, tất thảy đều ủng hộ nữ sĩ. Ngài sắp sửa đưa ra phán quyết vô tội, thì một người gánh nước thuê trẻ tuổi đến từ Hồ Tương xin vào thưa chuyện. Nam nhân này đã vắng mặt trong nhiều tuần vì phải hộ tống thúc thúc đến thắp hương trước mồ mả gia tiên. Y chính là tình nhân của đứa tỳ nữ. Y khai là nữ nhi ấy thường kể rằng nữ chủ nhân thường quấy rối mình, khi bị nàng ta từ chối thì ra tay đánh đập. Nỗi ngờ vực của tổng đốc càng được củng cố bởi nghiệm thi cho thấy nạn nhân vẫn còn trong trắng. Ngài lý giải rằng nếu bọn cướp đã hạ sát tỳ nữ thì hiển nhiên chúng sẽ cưỡng gian nàng ta ngay từ đầu. Ngài bèn cho lính lùng sục khắp cả vùng để truy bắt toán đạo tặc, vì lời khai của chúng là bằng chứng tối quan trọng. Thế nhưng, mọi nỗ lực truy tìm đều tốn công vô ích. Tác giả của bức thư tố cáo cũng ẩn danh không xuất hiện. Tổng đốc nghĩ mình không nên nhúng tay vào vụ án gai góc này nữa và chuyển nó lên Bộ Hình. Địch huyện lệnh đặt tập văn thư xuống, đứng dậy và đi ra ngoài hiên. Gió mùa thu thổi xào xạc qua những khóm trúc trên tòa giả sơn, dấu hiệu cho thấy một buổi tối mát mẻ đang tới. Vị đồng liêu của ông đã đúng. Đây quả là một vụ án thú vị. Đúng hơn là nó khiến người ta bối rối. Ông trầm ngâm giật hàm râu. Lỗ tri huyện đã mô tả đây đơn thuần chỉ là một nan đề. Nhưng dĩ nhiên là vị đồng liêu ma mãnh biết rất rõ rằng vụ án sẽ đưa đến cho ông một thử thách cá nhân. Hiện tại, cuộc gặp gỡ nữ sĩ đã trực tiếp lôi kéo ông vào vụ án mạng, khiến ông phải đương đầu với một câu hỏi dứt khoát: Ngọc Lan vô tội hay có tội?
Địch huyện lệnh lững thững bước dọc theo hàng hiên, hai tay chắp lại sau lưng. Tất cả những gì ông có trong vụ án rối rắm này là các thông tin gián tiếp. Bất chợt, gương mặt xấu xí của thiền sư hiện ra trong tâm tưởng ông. Nhà sư lạ lùng ấy đã nhắc Địch huyện lệnh rằng đây là vấn đề sinh tử đối với nữ sĩ. Ông lờ mờ ý thức được một cảm giác bứt rứt, một linh cảm không sao lý giải được về tai họa sắp xảy đến. Rất có thể ông sẽ thoát khỏi sự bối rối mơ hồ này nếu xem xét tập văn thư một lần nữa, thẩm định từng câu từng chữ trong lời khai của các nhân chứng. Mới đến giờ Thân, ông còn khoảng một canh giờ nữa trước khi bữa tối bắt đầu. Tuy nhiên, Địch huyện lệnh chẳng có hứng thú tiếp tục thẩm tra án quyển nữa. Ông sẽ gác công việc đó lại cho đến buổi dạ yến, sau khi trò chuyện lâu hơn với nữ sĩ xem thế nào. Ông cũng sẽ lắng nghe ý kiến từ đại học sĩ và thi sĩ cung đình, cố gắng đánh giá thái độ của họ đối với tội trạng của Ngọc Lan. Đột nhiên, bữa tiệc vui vẻ mà vị đồng liêu hứa hẹn lại trở thành một phiên xét xử ghê gớm nhằm cân nhắc án tử cho một nữ nhân. Giờ thì linh cảm đã trở nên rõ rệt, mách bảo ông về một mối hiểm nguy đang lơ lửng trên đầu. Cố gắng xua đi những suy nghĩ bất an, Địch huyện lệnh thầm đánh giá lại vụ án mạng Tống Nhất Văn. Đó là một vụ án dễ làm người ta thoái chí. Tuy đã đích thân thẩm tra hiện trường, nhưng giờ ông chẳng thể làm được gì. Toàn bộ xét đoán sẽ phải dựa vào những gì mà thuộc hạ của Lỗ tri huyện tìm hiểu được. Lại một lần nữa, ông sẽ phải làm việc với những thông tin gián tiếp.
Địch huyện lệnh chợt dừng bước, hàng lông mày rậm nhíu lại đầy tư lự. Ông ngẫm suy một lúc rồi trở vào phòng, cầm cuốn thư phổ trên bàn lên. Ngoài các ghi chú lịch sử, đây là sợi dây liên hệ duy nhất của kẻ quá cố. Địch huyện lệnh xem xét kĩ càng những trang giấy thêm một lần nữa. Bất chợt ông mỉm cười. Việc điều tra có thể hoài công vô ích nhưng cũng đáng để thử! Dù sao, ra ngoài hành động vẫn tốt hơn là ngồi ủ rũ trong gian phòng này, miệt mài đọc bản cung khai của những người ông chưa bao giờ gặp mặt. Địch huyện lệnh nhanh chóng thay sang bộ bào phục màu lam đơn giản. Đặt chiếc mũ chỏm nhỏ màu đen lên đầu, ông đi ra ngoài, cuốn tập cặp dưới cánh tay. HỒI 8 Dò nhạc phổ, Địch Lưu gặp gỡ Tích hồ ly, ai ngỡ sắp bày Trời bắt đầu nhá nhem tối. Ở sân trước của dinh, hai thị nữ đang thắp sáng những chiếc đèn lồng treo trên mái hiên của các dãy nhà bao xung quanh. Gia nhập đám đông đang chen chúc nhau trong con phố rộng trước cổng nha phủ, Địch huyện lệnh thở hắt một hơi dài mãn nguyện. Tâm trạng bực bội của ông chủ yếu là do bị giam hãm trong dinh thự nguy nga của vị đồng liêu, biệt lập hẳn với cuộc sống nhộn nhịp của thị trấn, nơi thực tình ông hoàn toàn mù tịt. Bây giờ được tự do vùng vẫy theo ý mình, lập tức Địch huyện lệnh cảm thấy tâm trạng khá hơn nhiều. Ông thả mình thong dong, mặc cho đám đông cuốn đi, quan sát các cửa hiệu được trang trí rực rỡ. Nhìn thấy tấm biển một cửa hiệu bán nhạc cụ, ông rẽ đám đông tiến thẳng đến cửa ra vào.
Ông chứng kiến một khung cảnh huyên náo, nửa tá khách nhân đang cùng lúc chơi thử trống, sáo và đàn nguyệt. Vào buổi tối trước tết Trung thu, tất cả những kẻ biết chút đàn hát sáo nhị đều nô nức chuẩn bị cho các cuộc hội họp vui vẻ ngày hôm sau. Định huyện lệnh đi đến gian phòng ở phía sau, nơi chủ cửa hiệu vừa ngấu nghiến một bát mì bên án thư, vừa để mắt quan sát đám tiểu nhị. Rõ là bị ấn tượng bởi phong thái học giả của ông, vị chưởng quỹ lập tức đứng dậy và đon đả hỏi xem mình có thể giúp gì. Địch huyện lệnh trao cho y tập nhạc phổ. “Tất cả những bản nhạc này đều dành cho tiêu. Không rõ ông có thể giúp ta nhận dạng chúng được không?” Liếc nhanh qua các ký hiệu, vị chưởng quỹ trao lại cuốn tập cho Địch huyện lệnh với một nụ cười tạ lỗi. “Bản hiệu chỉ biết loại nhạc phổ đơn giản gồm mười ký hiệu thôi, thưa ngài. Đây hẳn là một hệ thống ký hiệu cổ. Vì thế, ngài cần tham vấn một nhạc công lão làng. Lưu Liễu là người thổi tiêu giỏi nhất trấn, chơi được bất cứ giai điệu nào mà gã thấy trong nhạc phổ, dù là ký hiệu cổ hay mới mẻ. Họ Lưu cũng sống gần đây thôi.” Y lau sạch cái cằm vấy mỡ của mình. “Vấn đề ở chỗ Lưu Liễu là một kẻ nát rượu. Gã bắt đầu uống say quắc cần câu vào ban trưa, sau khi đã dạy nhạc xong, đến chiều muộn thì tỉnh rượu để chơi nhạc tại các dạ tiệc. Họ Lưu kiếm được kha khá ngân lượng, nhưng lại nướng hết vào tửu sắc.”
Địch huyện lệnh đặt một nắm tiền đồng lên bàn. “Bảo người của ông dẫn ta đến gặp họ Lưu.” “Tất nhiên rồi, thưa ngài. Xin đa tạ! Này, đằng này, Vương tiểu tử kia! Mau đưa vị khách này đến nhà Lưu Liễu rồi quay về đây ngay, nghe chứ!” Khi đang dẫn Địch huyện lệnh xuôi theo con phố, tiểu nhị bất thình lình kéo tay áo của ông rồi chỉ vào tửu điếm đối diện, miệng nở một nụ cười ranh mãnh. “Nếu ngài thực sự muốn làm việc với Lưu Liễu, tốt hơn là nên mua cho gã một món quà nhỏ. Dù có say sưa đến thế nào, họ Lưu cũng sẽ tỉnh dậy khi ngài để một vò rượu dưới mũi của gã!” Huyện lệnh mua một vò rượu trắng dùng để uống lạnh. Tiểu nhị dẫn ông theo một lối đi hẹp dẫn tới con ngõ sau tối tăm và hôi thối, nằm giữa những dãy nhà gỗ xiêu vẹo, được chiếu sáng bởi ánh đèn le lói lọt qua các ô cửa sổ dán giấy nhem nhuốc ở đâu đó. “Gian nhà thứ tư bên tay trái, thưa ngài!” Địch huyện lệnh cho tiểu nhị ít tiền thưởng và hắn nhanh chóng lủi đi mất. Cánh cửa căn nhà tay nghệ nhân thổi tiêu bị lún xuống. Từ bên trong vang lên những tiếng chửi rủa, rồi tiếng cười cười lanh lảnh của nữ nhân, ông vừa đưa tay đẩy nhẹ thì cánh cửa đã mau chóng mở toang. Căn buồng bé tẹo, trống hoác, thắp sáng bằng một ngọn đèn dầu ám khói, sặc sụa mùi rượu rẻ tiền. Một nam nhân béo phị, khuôn mặt tròn đỏ ủng, đang ngồi trên tấm phản tre kê sát vách trong. Gã mặc một cái quần nâu rộng thùng thình, một tấm áo cánh ngắn cũn cỡn mở phanh phía trước, để lộ cái bụng phệ bóng nhẫy. Một nữ nhi đang ngồi trên đùi gã. Đó chính là Tiểu Phượng. Lưu Liễu ngước cặp mắt lờ đò lên nhìn Địch huyện lệnh. Vũ nữ vội vàng kéo váy áo xuống che cặp đùi trắng nõn, rồi lẩn vào xó nhà, khuôn mặt ửng đỏ vì e thẹn.👁
Lưu Liễu tranh cãi với vũ nữ “Ông là thằng cha nào vậy?” Lưu Liễu lè nhè hỏi. Phớt lờ nữ nhi, Địch huyện lệnh ngồi xuống tấm phản tre và đặt vò rượu lên. Đôi mắt đỏ ngầu của họ Lưu mở to. “Đích thực một vò rượu Hồng Đào, trời ơi!” Gã bắt đầu run rẩy đứng lên. “Ông được hoan nghênh, cho dù có là Diêm Vương hiện hình với bộ râu rậm kia đi chăng nữa! Mở nắp ra nào, bằng hữu!” Địch huyện lệnh đặt tay lên nắp vò. “Hãy hành xử sao cho xứng đáng với vò rượu trác tuyệt này, Lưu Liễu à!” Ông ném tập nhạc phổ lên bàn. “Nói cho ta biết những giai điệu này là gì.” Họ Lưu mở cuốn tập bằng những ngón tay múp míp nhưng lại lanh lẹ đến lạ kỳ, miệng lẩm bẩm, “Dễ mà! Dù thế, ta cũng phải rửa ráy cho sạch sẽ cái đã.” Đoạn gã loạng choạng đi đến giá rửa mặt ở góc phòng, bắt đầu lau mặt và ngực bằng chiếc khăn cáu bẩn. Địch huyện lệnh quan sát gã trong yên lặng, vẫn ngó lơ vũ nữ. Chuyện nàng ta làm ở đây không phải việc của ông. Tiểu Phượng ngần ngừ, rồi tiến đến bên bàn và rụt rè nói, “Thưa… tiểu nữ đã cố gắng thuyết phục Lưu Liễu biểu diễn tại bữa dạ yến tối nay. Ông ta trông hung bạo thế thôi nhưng lại là một nhạc công tuyệt vời. Khi họ Lưu từ chối, tiểu nữ đã để ông ta vuốt ve mình một chút…” “Ta sẽ không chơi điệu ‘Hắc hồ khúc’ trời đánh đó dù cho nàng có nằm tơ hơ với ta đến tận sáng!” Nam nhân béo phị gầm gừ. Gã dò dẫm lần tìm trong một tá tiêu trúc được treo trên vách tường trát vữa loang lổ.
“Ta nghĩ ngươi sắp sửa biểu diễn vũ điệu ‘Tử vân phượng hoàng’ chứ?” Địch huyện lệnh lơ đãng hỏi. Ông nghĩ vũ nữ trông khá đáng thương, với gương mặt cứng đơ cùng bờ vai góc cạnh. “Dạ thưa, quả thật là thế. Nhưng sau khi… trông thấy khuôn viên sảnh đường rộng rãi… lại được giới thiệu với hai vị đại quan đến từ kinh thành, cả với đại sư Như Ý nổi tiếng nữa, tiểu nữ nghĩ đây là một cơ hội chỉ đến một lần trong đời. Do thế, tiểu nữ cho là mình có thể thử một vũ điệu khác chăng. Một vũ điệu có động tác nhanh và xoay vòng…” “Cứ ngoáy cái hông bé tẹo của nàng theo những bản nhạc tao nhã đi!” Lưu Liễu ngắt lời. “‘Hắc hồ khúc’ là một giai điệu tồi.” Gã ngồi xuống một cái ghế thấp và lật mở tập thư phổ trên đầu gối. “Hừm, bản đầu tiên thì không cần nghe dĩ. ‘Vân tưởng y thường, hoa tưởng dung’*. Mọi người đều biết bản tình ca này. Bài thứ hai trông giống như…” Gã đặt ngọn tiêu lên môi và thổi một vài nhịp du dương say đắm lòng người. “Ồ, phải, đây là ‘Thu nguyệt ngâm’, khá nổi tiếng ở kinh thành vào năm ngoái.” Nghĩa là: Nhìn mây trắng nhớ đến xiêm y người đẹp, ngắm hoa sơm tưởng đến dung nhan xinh tươi. Lưu Liễu đọc lướt tập nhạc phổ, thỉnh thoảng lại thổi lên vài nốt để xác định giai điệu. Địch huyện lệnh chẳng buồn lắng nghe các kiến giải của gã. Tuy thất vọng vì giả thuyết của mình chẳng đi đến đâu, ông cũng phải thừa nhận đó là một ý tưởng không khả thi. Vì các giai điệu không có tiêu đề lẫn chú giải, lại được viết theo lối ký hiệu phức tạp mà ông chưa từng thấy trước đây, ông đã suy tưởng đến khả năng đây không phải nhạc phổ mà là những ghi chú bí mật được mã hóa. Một câu rủa tục tĩu cắt ngang dòng suy nghĩ miên man của huyện lệnh.
“Cái quái gì đây!” Lưu Liễu dán mắt vào giai điệu cuối cùng trong tập nhạc phổ, miệng lầm bầm, “Các nhịp đầu tiên trông thật lạ.” Gã đặt cây tiêu lên môi. Những nốt thấp cất lên theo một nhịp điệu chậm chạp và thê lương. Vũ nữ đứng dậy với vẻ thảng thốt. Nhịp tiêu nhanh hơn, những nốt nhạc cao vang lên tạo thành một giai điệu huyền bí. Lưu Liễu hạ ngọn tiêu xuống, nói vẻ chán ghét, “Đây là bản ‘Hắc hồ khúc’ trời đánh thánh vật ấy!” Vũ nữ liền với qua bàn. “Làm ơn trao cho tiểu nữ tập nhạc phổ đó!” Có một tia sáng kích động ánh lên trong đôi mắt xếch của nàng ta. “Với nhạc phổ này, bất cứ người thổi tiêu nào cũng có thể đệm cho tiểu nữ múa được!” “Miễn không phải là ta!” Lưu Liễu càu nhàu rồi ném cuốn tập lên bàn. “Ta thích tận hưởng thái bình hơn!” “Ta sẵn lòng cho ngươi mượn tập thư phổ,” Địch huyện lệnh nói với Tiểu Phượng, “nhưng ngươi phải kể cho nghe thêm một chút về ‘Hắc hồ khúc’. Ta vốn ham thích âm nhạc mà.” “Bẩm, đó là một giai điệu cổ xưa được ít người biết đến, không được ghi lại trong bất cứ cuốn nhạc phổ nào cả. Chu Hồng, vệ nữ của miếu Hắc hồ ở phía nam huyện, luôn hát nó. Tiểu nữ đã nài nỉ muội ấy chép lại nó cho mình, nhưng Chu Hồng còn không biết đọc biết viết, chứ đừng nói đến việc chép lại một nhạc phổ khó. Thế nhưng, ‘Hắc hồ khúc’ là thứ âm nhạc tuyệt diệu để múa theo…” Địch huyện lệnh đưa cho nàng cuốn tập. “Ngươi trả lại cho ta vào tối nay, tại buổi dạ yến.”