text
stringlengths
1
809k
“Ồ, tiểu nữ vô cùng đa tạ đại nhân! Giờ tiểu nữ phải lên đường ngay để tập dượt một chút cùng đội nhạc khí.” Đến ngưỡng cửa, Tiểu Phượng ngoảnh lại. “Xin đừng kể cho các vị khách khác biết tiểu nữ sắp biểu diễn vũ điệu này, thưa đại nhân. Tiểu nữ muốn tạo ra sự ngạc nhiên!” Địch huyện lệnh gật đầu rồi quay sang nói với Lưu Liễu, “Lấy ra đây hai cái bát lớn.” Gã lấy từ giá xuống hai cái bát đất nung trong khi huyện lệnh tháo nút vò rượu, ông rót đầy miệng bát của họ Lưu. “Quả là rượu thượng phẩm!” Gã kêu lên, hít hà bát rượu thơm nồng, đoạn một hơi nốc cạn. Địch huyện lệnh cẩn trọng nhấp từng ngụm nhỏ, hờ hững bình phẩm, “Vũ nữ đấy quả là người lạ lùng.” “Nếu nàng ta đúng là người! Ta sẽ chẳng ngạc nhiên nếu nàng ta hóa ra lại là hồ ly tinh, với một cái đuôi giấu dưới vạt váy. Ta đang định xem thử thì ngài tiến vào!” Gã nhe răng cười, rót đầy bát rượu và lại uống một hơi hết sạch. Lưu Liễu chép môi rồi tiếp tục, “Dù là hồ ly hay không, nàng ta vẫn rất giỏi vắt kiệt đám nam nhân ham mê nữ sắc! Nhận quà của họ, để cho họ ôm hôn và vuốt ve đôi chút, nhưng không bao giờ cho họ đi xa hơn! Chưa có khách nào đặt chân vào buồng riêng của nàng ta! Ta đã quen biết Tiểu Phượng hơn một năm trời. Phải công nhận nàng ta là một vũ nữ có tài.” Gã nhún bờ vai rộng. “Chà, có lẽ nàng ta cũng là một nhi nữ khôn ngoan nữa. Giờ nhớ lại, ta từng trông thấy biết bao vũ nữ tài giỏi vì nhảy nhót quá nhiều trên chiếu đệm mà đánh mất vũ nghệ của mình!”
“Sao ông lại biết ‘Hắc hồ khúc’?” “Ta từng nghe hai lão bà hát cách đây nhiều năm. Các bà mụ kiếm thêm mấy đồng bằng cách xua đuổi tà ma ra khỏi nhà của những thiếu phụ đang bụng mang dạ chửa. Nói thật, ta cũng không rành rẽ về bản nhạc ấy, nhưng nữ vu* sống trong miếu thờ đằng kia thì tường tận lắm.” Nữ vu là đồng cốt, thầy pháp. “Ai kia?” “Một nữ vu trời đánh! Một hồ ly tinh đích thực! Năm xưa, một bà hành khất thấy bên đường có một đứa trẻ đỏ hỏn đáng yêu. Dường như thuở ban đầu nữ nhân ấy cũng như bao hài nhi khác! Chẳng may nàng ta lại bị ngớ ngẩn, mãi đến năm mười lăm tuổi mới biết nói. Sau đó, nàng ta hay bất ngờ lên cơn loạn thần, mắt trợn tròn, miệng lảm nhảm toàn những thứ lạ lùng, kinh dị. Lão bà kinh hãi nên đã bán tiểu nữ cho một kỹ viện, nghe chừng nàng ta cũng có chút nhan sắc. À, tên tú ông đã kiếm một khoản kha khá từ một lão già ăn chơi, để lão lấy đi sự trong trắng của nữ nhi. Lẽ ra lão ta nên biết điều mà tránh xa nữ hồ ly. Chúng ta hãy uống thêm một chén nào, đây là vò rượu ngon đầu tiên của ta trong hôm nay!” Đặt bát rượu xuống, gã buồn bã lắc đầu. “Khi lão ta cố hôn nữ nhi, nàng ta đã cắn đứt lìa đầu lưỡi của lão, rồi nhảy qua cửa sổ và trốn biệt vào ngôi miếu hoang gần Nam môn. Rồi nàng ta cứ ở tiệt trong miếu. Ngay cả những kẻ đầu trâu mặt ngựa nhất cũng không dám bén mảng đến nơi bị ám đó. Hàng trăm người từng bị tàn sát ở đó, nam phụ lão ấu đủ cả. Đêm đến, người ta có thể nghe thấy vong hồn của họ khóc than trên bãi đất hoang mà ngôi miếu tọa lạc. Những kẻ mê tín để lại thức ăn trước cái cổng xiêu vẹo, nữ nhi kia sẽ chia sẻ với mấy con cáo hoang. Chúng tụ tập thành bầy ở đó. Nữ nhi nhảy múa với chúng dưới ánh trăng, vừa nhảy vừa ca lên… giai điệu ma quỷ ấy.”
Giọng gã líu lại, “Vũ… vũ nữ kia cũng là loài hồ ly. Chỉ nàng ta mới dám đi đến đấy. Đều cùng một giuộc…” Địch huyện lệnh đứng dậy. “Nếu ông phải biểu diễn tối nay, tốt hơn là ông nên uống vừa phải thôi. Xin cáo biệt.” Ông tản bộ đến con phố chính và hỏi một người bán rong đường đến Nam môn. “Còn khá xa đấy. Ông phải đi hết đường này, băng qua một khu chợ sầm uất, đến tận cuối phố Tự Miếu. Từ đó đi thẳng là sẽ thấy cổng thành phía trước.” Địch huyện lệnh vẫy một cỗ kiệu nhỏ và bảo hai phu kiệu đưa mình đến ngôi chùa ở cuối phố Tự Miếu. Ông nghĩ tốt hơn là mình nên xuống kiệu ở đó và đi bộ quãng đường còn lại. Các phu kiệu là những kẻ đưa chuyện có tiếng. “Lão gia muốn đến chùa Thông Tuệ ạ?” “Đúng vậy. Ta sẽ thưởng thêm nếu các ngươi đi nhanh.” Hai nam nhân đặt đòn kiệu lên bờ vai chai sạn và sải bước chạy đi, cất tiếng hây hô đinh tai để cảnh báo đám đông dẹp đường. HỒI 9 Địch huyện lệnh lặng ghé miếu hoang Nữ hồ ly kể về gia thế Địch Nhân Kiệt kéo sát áo vào người. Trong cỗ kiệu mở toang, ông cảm nhận cái lạnh của buổi chiều tà đang thấm vào da thịt. Tâm trạng ông tràn đầy hưng phấn, bản ‘Hắc hồ khúc’ có thể là manh mối thực sự đầu tiên đối với vụ án mạng cống sĩ. Khu chợ hôm nay đông đúc người qua lại, các quầy hàng buôn bán rất phát đạt. Nhưng khi kiệu quẹo vào một con phố rộng và tối thì khách bộ hành thưa thớt dần. Hai bên đường là các cổng tam quan sừng sững, xen kẽ với những dãy tường gạch rêu phong kéo dài ngút tầm mắt. Từ câu chữ trên những đèn lồng lớn treo bên cổng tam quan, Địch huyện lệnh ngộ ra rằng các tông phái Phật giáo đều có mặt đầy đủ ở phố Tự Miếu. Các tay phu hạ kiệu trước một tòa gác hai lầu. Chiếc đèn lồng treo trên cánh cổng kép sơn đen đề ba chữ lớn ‘Thông Tuệ tự’.
Địch huyện lệnh bước ra khỏi kiệu. Hai phu kiệu lập tức lau khô phần thân mình đẫm mồ hôi. Ông nói với người phu lớn tuổi hơn, “Các ngươi có thể ngồi chờ ở đây. Ta sẽ đi không quá hai khắc đâu.” Trao cho y chút tiền thưởng, ông hỏi, “Mất bao lâu để đi từ đây đến Đông môn?” “Nếu lão gia đi bằng kiệu thì sẽ mất chừng hai khắc. Nhưng nếu biết đi tắt qua các ngõ hẻm quanh co, lão gia đi bộ đến đó còn nhanh hơn.” Huyện lệnh gật đầu. Điều này nghĩa là cống sĩ có thể dễ dàng viếng thăm miếu thờ hồ ly gần Nam môn. Bước qua một cánh cửa hẹp bên cạnh cổng chính, ông nhận ra khoảnh sân lát đá của ngôi chùa hoàn toàn hoang vắng, vẫn có ánh sáng hắt ra từ những ô cửa sổ của tòa chánh điện hai lầu vững chãi nằm ở phía sau. Bên phải tòa nhà là một hành lang chạy dọc theo bức tường ngoại vi của chùa, ông đi xuôi hành lang đó, trù tính sẽ rời ngôi chùa qua lối cửa sau, từ đó thẳng đường đến Nam môn. Như thế thì những phu kiệu sẽ không biết được điểm đến thật sự của ông. Hành lang dẫn tới một thông đạo hẹp ở phía sau tòa chánh điện, nằm giữa hai dãy nhà một lầu tối đen như mực, hẳn là chỗ ở của các tăng ni. Thông đạo được soi sáng lờ mờ bởi vài ngọn đèn lồng treo dọc mái hiên, ông nhanh chóng bước đến cánh cửa ở phía cuối. Trong lúc băng ngang qua một cửa sổ của dãy nhà phía bên phải, ông vô tình nhìn vào khoảng tối bên trong. Địch huyện lệnh đứng sững như trời trồng, ông nghĩ mình đã trông thấy đại sư Như Ý đang ngồi xếp bằng trên chiếc trường kỷ kê sát phía trong của gian phòng trống, trừng mắt nhìn vào ông. Địch huyện lệnh đặt tay lên bậu cửa sổ và ngó vào bên trong, ông đã lầm. Trong quầng sáng yếu ớt tỏa ra từ ngọn đèn lồng treo bên dãy nhà đối diện, ông chỉ thấy một đống áo cà sa nằm ngổn ngang trên trường kỷ, một cái mõ cầu kinh bằng gỗ đặt lên trên. Huyện lệnh tiếp tục đi, bực bội với chính mình. Rõ là ông đã không thể gột bỏ hình ảnh của nhà sư kì quái kia.
Ông băng qua rừng thông thưa thớt ở phía sau chùa, vẫn hướng về phía bên phải. Chẳng mấy chốc, ông đã ra tới một con đường lát đá rộng thênh thang. Phía xa xa, bóng dáng Nam môn ẩn trên nền trời đầy sao. Hào hứng vì thấy mưu mẹo của mình đã thành công, Địch huyện lệnh rảo bước nhanh qua con phố được thắp sáng bởi mấy ngọn đèn dầu lập lòe trên các quầy hàng rong. Bên trái là một vài gian nhà hoang tối om, phía đối diện là những bụi cây dày đặc. Một cổng đá đổ nát hiện ra. Ngay khi ông sắp sửa băng qua, thì thấy một đoàn người bước xuống phố, lưng oằn xuống dưới sức nặng của những bao hàng, nhưng họ vẫn mải mê trò chuyện vui vẻ. Rõ là đoàn người này đang rời thành để tham dự tết Trung thu cùng gia đình ở ngoại ô. Đứng chờ cho đoàn người đi qua, Địch huyện lệnh băn khoăn không biết vách đá Thúy Ngọc ở đâu. Có lẽ là đâu đó ở trong dãy núi phía tây thành. Ngẩng đầu lên, Địch huyện lệnh chiêm ngưỡng bầu trời không một gợn mây, trăng thu sáng vằng vặc. Tuy nhiên, trái ngược với cảnh sắc lung linh huyền ảo ấy, khu rừng ở phía bên kia con đường trông thật tăm tối và ma mị. Ông ghé vào quầy hàng ven đường để mua một chiếc đèn lồng, rồi băng qua đường. Vòm cổng cũ chỉ còn trơ lại hai cột trụ. Đưa ngọn đèn vào gần máng xối đá dưới chân cột trụ bên trái, ông thấy một đống quả tươi và một bát đất nung đựng cơm được che phủ phần nào bởi lá chuối. Những thứ đồ cúng này chứng tỏ đây quả thực là cổng vào bãi đất hoang.
Địch huyện lệnh mau lẹ gạt chỗ nhánh cây chĩa ra từ những bụi thấp phủ kín con đường mòn nhỏ hẹp. Qua ngã rẽ đầu tiên, ông dắt vạt áo vào trong dải thắt lưng và xắn ống tay áo thụng lên. Ông tìm một cái gậy cứng từ bụi cây và dùng nó để gạt các nhánh gai mọc ra khỏi lối đi, rồi cứ thế lần dọc theo con đường mòn quanh co. Khung cảnh hoang vu này tĩnh lặng đến kỳ lạ, không một tiếng cú đêm. Âm thanh duy nhất là tiếng ve sầu râm ran dai dẳng, đâu đó vang lên tiếng xào xạc lẩn khuất trong các bụi cây dày đặc. “Vũ nữ ấy đúng là một cô nương can đảm!” Ông lẩm bẩm. “Thậm chí ngay giữa ban ngày ban mặt thì chỗ này cũng là một nơi ảm đạm!” Địch huyện lệnh bất thình lình khựng lại, bàn tay siết chặt cây gậy. Có tiếng phì phò phát ra từ bụi cây tối đen ngay trước mặt. Cách mặt đất chừng hai thước, một cặp mắt xanh lè trừng trừng nhìn vào ông. Huyện lệnh vội nhặt một hòn đá và ném mạnh vào nó. Cặp mắt biến mất. Có tiếng lá cây xao động trước khi mọi thứ yên ắng trở lại. Quả thật có những con cáo đang lảng vảng quanh đây. Chúng vốn không bao giờ cắn người. Thế nhưng, ông lại chột dạ bởi một ý nghĩ, ông từng nghe nói những con cáo hoang và chó lạc đàn thường xuyên mắc bệnh dại. Một con cáo lên cơn dại sẽ tấn công bất cứ thứ gì xuất hiện trong tầm mắt nó. Đẩy chiếc mũ chỏm ngược ra sau, ông buồn rầu ngẫm rằng có lẽ mình đã hành động hơi hấp tấp khi đến đây mà không đem theo tấc sắc nào trong tay. Một thanh kiếm hay đoản giáo sẽ hữu dụng biết bao. Nhưng ống quần của ông rất dày và cây gậy cũng khá tiện lợi, vì vậy ông quyết định dấn bước đi tiếp.
Chẳng mấy chốc, lối mòn quang đãng dần. Qua rừng cây thưa thớt, ông nhìn thấy một dải đất hoang mênh mông dưới ánh trăng bàng bạc. Một con dốc thoai thoải bị bao phủ bởi cỏ dại mọc cao, rải rác những tảng đá lớn phủ rong rêu, dẫn lối lên một ngôi miếu hoang tàn. Bức tường ngoại vi đã đổ nát ở nhiều chỗ, mái nhà cong của dãy nhà phía trong đang sụt lún thảm hại. Ông đi được nửa con dốc thì một bóng đen uyển chuyển nhảy lên một tảng đá rồi ngồi trên hai chân sau. Địch huyện lệnh trông thấy rõ đôi tai nhọn và cái đuôi xù của nó. Con vật dài một cách lạ thường. Huyện lệnh chăm chú quan sát ngôi miếu âm u trong thoáng chốc, nhưng không thấy chút ánh sáng hay dấu hiệu nào cho thấy có người sống ở đó. Ông thở dài và đi lên con đường mòn ngoằn ngoèo có những tảng đá hình thù kì lạ. Khi đến gần con cáo, ông giơ gậy lên. Con vật nhẹ nhàng đáp xuống đất rồi thoắt một cái đã biến mất vào trong bóng đêm. Những sóng cỏ xung quanh cho thấy còn có nhiều cáo đang lởn vởn quanh đó. Đến cổng miếu, Địch huyện lệnh dừng lại, quan sát mảnh sân nhỏ bừa bộn phía trước. Những cây xà nhà đổ nát nằm chỏng chơ dưới chân tường, mùi thối rữa phảng phất trong không khí. Phía trong xó là pho tượng đá hình một con cáo ngồi trên chân sau, to như thật, được đặt lên một bệ đá hoa cương cao. Mảnh vải rách màu đỏ quấn quanh cổ nó là dấu hiệu duy nhất về sự có mặt của con người. Bản thân ngôi miếu chỉ là tòa nhà gạch một lầu được xây vuông vức, đã nhuốm màu thời gian và bị dây thường xuân phủ kín. Góc bên phải đã vỡ thành nhiều mảnh vương vãi, phần mái xập xệ trĩu xuống một cách nguy hiểm. Đâu đó, mái ngói rơi lả tả làm lộ ra những thanh xà đen của bộ khung mái. Địch huyện lệnh bước lên ba bậc đá hoa cương rồi gõ chiếc gậy lên cánh cửa trổ lưới. Một mảnh gỗ mục rụng ra, tiếng rơi vang dội trong đêm tối cô tịch. Ông chờ đợi, nhưng không có ai đáp lời.
Địch huyện lệnh đẩy mở cánh cửa và bước vào trong. Một thứ ánh sáng lờ mờ hắt sang từ sảnh đường nhỏ bên trái, ông bước vòng qua góc rồi đột ngột dừng lại. Dưới quầng sáng leo lét của một cây nến trong hốc tường, một bóng hình cao gầy được quấn trong mảnh vải liệm nhem nhuốc hiện ra. Một cái sọ người đang nhìn chòng chọc vào ông bằng hai hốc mắt sâu hoắm và trống rỗng. “Thôi cái trò lố lăng ấy đi!” ông lạnh lùng nói. “Lẽ ra ông phải hét ầm lên và bỏ chạy ra bên ngoài chứ.” Một giọng nói nhỏ nhẹ cất lên ngay sau lưng huyện lệnh. “Rồi sau đó ông sẽ ngã gãy chân.” Từ từ quay người lại, ông nhận thấy mình đang đối mặt với một thiếu nữ có dáng người mảnh khảnh, chỉ mặc phong phanh một tấm áo thô màu nâu rộng thùng thình, cùng một cái quần dài xác xơ. Nàng ta có một khuôn mặt ưa nhìn nhưng ngây ngô, cùng đôi mắt to đầy vẻ khiếp sợ. Tuy nhiên, một mũi dao nhọn đang ấn sát sườn ông, mà người cầm dao chẳng có chút gì là run tay. “Giờ thì ta phải giết ông ngay tại đây,” cô gái vẫn nói với giọng nhỏ nhẹ. “Thật là một con dao trác tuyệt!” Địch huyện lệnh chậm rãi nói. “Nước thép xanh đẹp lắm!” Ngay khi cô ta vừa hạ tầm mắt nhìn thì nhanh như cắt, ông đã buông gậy ra và tóm lấy cổ tay. “Đừng ngốc nghếch thế, Chu Hồng!” Ông gầm lên. “Tiểu Phượng nhờ ta tới chốn này. Ta đã gặp cả Tống Nhất Văn.” Nữ nhi gật đầu, cắn nhẹ vào bờ môi dưới. “Khi những con cáo nhộn nhạo không yên, ta cứ tưởng là Nhất Văn,” thiếu nữ nói, mắt nhìn vào hình nộm đằng sau Địch huyện lệnh. “Lúc thấy ông đi lên con dốc, ta đã thắp nến phía trên tình lang.”
Huyện lệnh buông cổ tay nàng ta ra. “Liệu chúng ta có thể ngồi xuống ở đâu được không, Chu Hồng? Ta muốn nói chuyện với ngươi.” “Nói chuyện thôi thì được, không giở trò gì cả,” nữ nhi nói vẻ nghiêm túc. “Tình lang của ta rất hay ghen.” Chu Hồng nhét con dao vào ống tay áo và đi về phía hình nộm. Vuốt thẳng tấm vải liệm vá chằng vá đụp, nàng ta thầm thì, “Thiếp sẽ không để ông ta vui đùa với mình đâu! Thiếp hứa đấy.” Thiếu nữ nhẹ nhàng vỗ một bên má của đầu lâu, đoạn cầm lấy ngọn nến trong hốc tường và băng qua vòm cửa trên bức tường đối diện. Địch huyện lệnh đi theo cô gái vào một gian phòng bé sặc nồng mùi ẩm mốc. Cô ta đặt cây nến lên trên một cái bàn cũ ghép từ mấy mảnh ván thô, rồi ngồi xuống một cái ghế tre thấp. Trong phòng, ngoại trừ một cái ghế mây nữa thì không còn thứ đồ đạc nào khác cả. Ở góc phòng có một đống giẻ rách chắc là nơi cô ta dùng làm chỗ ngủ. Nửa trên của bức tường trong đã đổ xuống, phần mái chỗ đó cũng hư hỏng, để lộ ra một khoảng trời. Đám dây thường xuân rậm rạp mọc leo qua khe hở và rủ dọc theo những viên gạch thô. Lá khô rụng đầy xuống sàn nhà phủ bụi. “Ở đây rất nóng bức,” Chu Hồng lẩm bẩm. Nàng cởi tấm áo cánh rồi ném lên đống giẻ ở góc phòng. Bờ vai tròn lẳn và bộ ngực đầy đặn cáu bẩn bụi bặm. Địch huyện lệnh kiểm tra chiếc ghế mây lung lay trước khi ngồi xuống. Đôi mắt đờ đẫn của nữ nhi nhìn với qua ông. Mặc dù gian phòng khá lạnh, ông để ý thấy một dòng mồ hôi đang chảy qua ngực thiếu nữ, tạo ra một vệt đen dọc xuống phần bụng phẳng lỳ. Mái tóc bù xù của nàng được buộc túm lại bằng một miếng giẻ đỏ.👁
Địch Công tại miếu Hắc Hồ “Tình lang của ta trông rất kinh khủng, đúng không?” Chu Hồng chợt hỏi. “Nhưng chàng rất tốt bụng, không bao giờ bỏ rơi ta và luôn kiên nhẫn lắng nghe ta kể lể. Nam nhân tội nghiệp không có đầu, vì thế ta đã chọn cái đầu lâu lớn nhất mà mình có thể tìm thấy để thay thế. Mỗi tuần, ta đều thay y phục mới cho chàng. Ta đào chúng lên ở sân sau đấy. Có nhiều đầu lâu và xương người ở đó lắm, cả những mảnh vải đẹp nữa. Sao tối nay Tống Nhất Văn không đến nhỉ? “Y rất bận rộn. Y nhờ ta nói với ngươi như vậy.” Nữ nhi chậm rãi lắc đầu. “Ta biết chứ. Huynh ấy luôn bận rộn tìm hiểu mọi thứ. Sự tình đã xảy ra quá lâu rồi, những mười tám năm trước, chàng nói thế. Nhưng kẻ đã giết cha huynh ấy vẫn còn ở chốn đây. Khi tìm được hắn, Nhất Văn sẽ khiến hắn đầu rơi máu chảy. Trên pháp trường.” “Ta cũng đang cố tìm ra tên ấy. Nói ta nghe, tên hắn là gì nhỉ?” “Tên hắn ư? Nhất Văn không biết, nhưng rồi huynh ấy sẽ tìm ra. Nếu có kẻ giết phụ thân ta, ta cũng sẽ…” “Ta nghĩ ngươi là cô nhi?” “Không phải! Gia phụ thỉnh thoảng vẫn đến đây thăm ta. Ông ấy là người tốt.” Thình lình, Chu Hồng hỏi vẻ xót xa, “Vậy tại sao ông ấy lại lừa dối ta?” Nhìn đôi mắt nảy lửa của thiếu nữ, Địch huyện lệnh dỗ dành nàng ta, “Chắc là ngươi lầm rồi. Ta chắc là phụ thân ngươi sẽ không bao giờ lừa dối ngươi.” “Có đấy! Gia phụ bảo luôn quàng khăn quanh đầu vì dung nhan xấu xí. Nhưng có một tối, Tiểu Phượng đã bắp gặp gia phụ sau khi ông ấy rời khỏi đây. Tỷ ấy nói gia phụ không xấu xí chút nào. Tại sao ông ấy lại không muốn ta thấy mặt?”
“Mẫu thân của ngươi đâu hả Chu Hồng?” “Bà ấy chết rồi.” “Ra là thế. Vậy ai đã nuôi dưỡng ngươi? Thân phụ ngươi à?” “Không, là lão bá mẫu của ta. Bà ấy cũng chẳng tốt lành gì, đang tâm giao ta cho kẻ xấu. Ta phải bỏ trốn, nhưng bọn chúng đuổi theo ta đến tận đây. Hai kẻ đầu tiên đến vào ban ngày. Ta đã trèo lên mái nhà, mang theo một đống đầu lâu và xương người để thả xuống đầu những tên kia, chúng liền chạy mất. Đến đêm, lại có ba kẻ quay lại. Vừa thấy tình lang của ta, chúng hét toáng lên và chạy ra bên ngoài. Một gã vấp phải đá và bị gãy chân! Lẽ ra ông nên thấy cảnh những tên khác kéo lê gã đi như thế nào!” Thiếu nữ bật cười khanh khách, tiếng cười vang vọng khắp gian phòng trống. Có gì đó sột soạt trong đám dây thường xuân. Địch huyện lệnh ngó quanh. Từ bên ngoài, bốn hay năm con cáo đã nhảy phóc lên mép bức tường vỡ nát. Chúng giương những cặp mắt xanh kì lạ nhìn chăm chăm vào ông. Khi huyện lệnh ngó lại phía cô gái, nàng ta đang gục mặt vào hai bàn tay. Thân hình mỏng manh run lên, nhưng hai bò vai lại đổ mồ hôi. Ông nói nhanh, “Tống Nhất Văn kể với ta là y thường đến đây cùng với Mạnh chưởng quỹ, một thương gia buôn trà.” Chu Hông buông thõng hai bàn tay. “Một thương gia buôn trà. Ta chưa bao giờ uống trà, chỉ uống nước giếng thôi. Giờ thì ta không thích uống nó nữa… Phải rồi! Nhất Văn có kể là đang sống trong nhà của một thương gia buôn trà.”
Cô gái suy nghĩ một lúc rồi tiếp lời, một nụ cười nở chầm chậm trên môi, “Nhất Văn tối hay đến đây, mang theo cây tiêu. Lũ cáo của ta thích nghe nhạc của huynh ấy, còn huynh ấy thì rất thích ta. Nhất Văn nói sẽ đưa ta rời khỏi đây để đến một nơi tốt đẹp, nơi chúng ta có thể nghe nhạc mỗi ngày. Nhưng huynh ấy dặn ta không được kể cho ai, vì huynh ấy không bao giờ có thể cưới ta. Ta đáp rằng mình sẽ không bao giờ rời khỏi đây hay cưới bất kì ai. Chu Hồng đã có tình lang rồi, ta sẽ không bao giờ lìa xa chàng. Mãi mãi không!” “Tống Nhất Văn không kể cho ta nghe về phụ thân của ngươi.” “Dĩ nhiên là không! Gia phụ dặn ta không được kể cho ai nghe về ông ấy. Vậy mà bây giờ ta lại kể cho ông mất rồi!” Thiếu nữ ném cho Địch huyện lệnh một cái nhìn hoảng hốt, hai tay nắm chặt lấy cổ họng. “Sao họng ta khó nuốt… đầu nhức kinh khủng, cổ cũng bị cơn đau hành hạ. Càng ngày càng tệ hơn…” Răng nàng ta bắt đầu va vào nhau lập cập. Huyện lệnh đứng lên. Cô gái này cần được đưa khỏi nơi này càng sớm càng tốt. Nàng ta đang bị ốm nặng. “Ta sẽ kể với Tiểu Phượng là ngươi cảm thấy không khỏe và chúng ta sẽ đến thăm ngươi vào sáng mai. Phụ thân không bao giờ bảo ngươi rời khỏi đây để sống cùng ông ấy à?” “Tại sao gia phụ lại làm vậy? Ông ấy bảo ta chẳng thể ở đâu tốt hơn nơi đây, chăm sóc được cả tình lang lẫn lũ cáo.”
“Ngươi nên cẩn thận với lũ cáo đó. Khi chúng cắn ngươi…” “Sao ông dám nói xấu chúng?” Nữ nhi giận dữ ngắt lời. “Bầy cáo không bao giờ cắn ta! Vài con còn đến ngủ với ta ở góc đằng kia, còn liếm cả mặt ta. Đi chỗ khác đi, ta không thích ông nữa!” “Ta yêu quý động vật lắm, Chu Hồng à. Nhưng thú vật thỉnh thoảng cũng đau ốm như chúng ta. Khi bị chúng cắn, ngươi cũng sẽ ốm theo. Ta sẽ quay lại đây vào sáng mai. Cáo biệt!” Chu Hồng theo chân Địch huyện lệnh đến tận sân trước. Chỉ tay vào pho tượng cáo, nàng ta bẽn lẽn hỏi, “Ta muốn tặng chiếc khăn màu đỏ xinh đẹp kia cho tình lang, ông có nghĩ là hồ ly đá sẽ nổi giận không?” Huyện lệnh ngẫm nghĩ về chuyện đó. Vì sự an toàn của Chu Hồng, tốt hơn là hình nộm nên giữ nguyên vẻ kinh hãi của nó. Ông đáp lời, “Ta e là hồ ly đá sẽ khó chịu về việc đó. Ngươi không nên lấy cái khăn thì hơn.” “Đa tạ. Ta sẽ làm móc cài áo cho tình lang vậy, bằng những cây trâm bạc mà Tống Nhất Văn hứa tặng ta. Ông nhắc chàng mang chúng đến đây vào sáng mai nhé?” Địch huyện lệnh gật đầu và đi qua cánh cổng cũ kĩ. Quan sát dải đất hoang dưới ánh trăng soi. Ông không nhận ra nổi một con cáo nào cả. HỒI 10 Khách quan thưởng thức dạ yến ngoạn Thi nhân gặp họa sát nhân Trở lại rừng thông đằng sau chùa Thông Tuệ, Địch huyện lệnh để lại đèn lồng dưới gốc cây. Sau khi cố rũ sạch bụi bẩn trên người, ông tiến vào hậu đường bằng cổng sau. Cửa sổ ở căn phòng ông tưởng đã trông thấy đại sư giờ đã đóng im ỉm.
Hai hòa thượng đang đứng chuyện trò trên những bậc thang dẫn lên chánh điện. Địch huyện lệnh tiến lại gần họ. “Ta đến thăm đại sư Như Ý, nhưng rõ là thầy ấy đã đi ra ngoài rồi.” “Đại sư tôn kính đã đến đây vào ngày hôm trước, thưa ngài. Nhưng sáng nay, thầy ấy đã chuyển qua tư dinh của Tri huyện đại nhân rồi ạ.” Địch huyện lệnh cảm tạ họ rồi đi ra cổng chính. Hai người phu kiệu đang ngồi xổm ven đường, đánh bạc bằng những viên đá cuội đen trắng. Họ vội vàng đứng dậy khi Địch huyện lệnh tới. Ông bảo họ đưa mình về nha phủ. Ngay khi về đến dinh, Địch Nhân Kiệt thẳng tiến vào trung viện tử. Ông muốn nói chuyện với Lỗ tri huyện trước khi khách khứa kéo đến, sau đó ông có thể nhanh chóng thay sang lễ phục tề chỉnh hơn cho buổi dạ yến. Trong hoa viên tao nhã, phảng phất không khí thi phú ở trước đại sảnh, nửa tá thị nữ đang hối hả ngược xuôi, treo những chiếc đèn lồng rực rỡ lên những bụi cây đang đơm hoa. Hai gia nhân trẻ trung dùng tre nứa làm giàn giáo để dựng lên một đài bắn pháo hoa ở bên kia hồ sen. Ngó lên bao lơn tầng hai, Địch huyện lệnh trông thấy Lỗ tri huyện đang chuyện trò cùng Cao sư gia bên hàng lan can sơn son. Lỗ tri huyện vận trường bào lịch lãm màu thiên thanh thêu kim tuyến, đầu đội mũ ô sa cánh chuồn bằng the đen. Mừng vì bữa tiệc vẫn chưa bắt đầu, Địch Nhân Kiệt vội vàng bước lên những bậc cầu thang gỗ rộng rãi. Trông thấy Địch Nhân Kiệt đi dọc theo bao lơn, Lỗ Quan Tùng kêu lên kinh ngạc, “Hiền huynh đáng mến của ta! Cớ chi mà huynh vẫn chưa thay y phục? Các quan khách khác sẽ tề tụ bất cứ lúc nào!”
“Ta có tin khẩn cấp dành cho đệ. Chuyện cơ mật.” Lỗ Quan Tùng nói với sư gia, “Ngươi hãy đi và xem xét liệu lão quản gia có trông nom mọi việc ổn thỏa ở phòng tiệc hay không!”Khi sư gia đã đi vào bên trong, ông ta hỏi cộc lốc, “À, chuyện gì vậy?” Dựa lưng vào lan can, Địch huyện lệnh kể cho vị đồng liêu nghe câu chuyện làm sự việc bản nhạc ‘Hắc hồ khúc’ dẫn dắt ông đến ngôi miếu hoang, và nội dung chính yếu trong những cuộc đối thoại của ông ở nơi đó. Khi ông kết thúc, Lỗ tri huyện hồ hởi kêu lên, “Tuyệt lắm, hiền huynh à, không thể nào tốt hơn! Chuyện này có nghĩa là chúng ta đã đi được phân nửa chặng đường, vì giờ đây chúng ta đã thấu hiểu động cơ vụ án mạng! Tống Nhất Văn đến chốn này để truy tìm hành tung của kẻ đã sát hại thân phụ, nhưng hung thủ đánh hơi được rằng vị cống sĩ đang lần theo dấu vết của mình. Thế là hắn đã ra tay triệt hạ chàng thanh niên tội nghiệp kia. Tiên hạ thủ vi cường! Hung thủ sục sạo khắp phòng trọ của Tống Nhất Văn chính là để tìm những ghi chú về vụ án mạng mười tám năm về trước. Và rốt cuộc hắn cũng đã tìm thấy!” Thấy Địch huyện lệnh gật gù, ông ta tiếp lời, “Cống sĩ đã tham vấn văn khố nha phủ để khảo cứu các chi tiết về vụ án của thân phụ y. Bây giờ, chúng ta phải thẩm tra kĩ lưỡng tất cả án quyển trong năm Giáp Tuất nhằm tìm kiếm một vụ án chưa được phá giải, một vụ giết người, mất tích, bắt cóc hay đại loại như thế, có liên quan đến một gia đình Tống Nhất Văn.”
“Trong trường hợp đó,” Địch Nhân Kiệt chỉnh lời, “do muốn giữ bí mật việc điều tra, nên Tống Nhất Văn có thể chỉ là một cái họ giả mà thôi. Y trù tính sẽ tiết lộ danh tính và chính thức nộp cáo trạng tố cáo, ngay khi tìm ra tung tích của kẻ thù và thu thập được đầy đủ bằng chứng, ôi, chính hắn đã kết liễu chàng thanh niên, nhưng vẫn còn chúng ta truy tìm hắn!” Giật mạnh chòm râu, Địch huyện lệnh tiếp tục, “Một nam nhân khác mà huynh muốn gặp là phụ thân của Chu Hồng. Thật đáng hổ thẹn, kẻ vô lại ấy đang tâm để con gái mình sống trong nơi nhơ nhớp bẩn thỉu! Hơn nữa cô gái ấy còn đang ốm đau. Chúng ta phải hỏi chuyện vũ nữ Tiểu Phượng. Nàng ta có thể nhận ra thân phụ của Chu Hồng, hay chí ít cũng cho chúng ta biết một vài đặc điểm nhân dạng của gã, vì nàng từng thấy gã rời khỏi miếu hoang và tháo bỏ khăn che mặt. Sau khi tóm cổ được kẻ ấy, chúng ta sẽ buộc gã phải cung khai mình đã dụ dỗ nữ nhân nào, rồi xem xét có thể làm được gì cho cô gái tội nghiệp kia. Tiểu Phượng đã tới chưa?” “Ồ, vâng, nàng ta đang ở trong gian phòng nghỉ được dựng tạm đằng sau phòng tiệc. Ngọc Lan ở cùng nàng, giúp trang điếm và sửa soạn xiêm y. Chúng ta hãy cho gọi Tiểu Phượng đến đây. Hai vũ nữ khác cũng đang trong phòng nghỉ, mà chúng ta chỉ muốn nói chuyện với mình kỹ nữ ấy thôi.” Lỗ tri huyện ngó qua lan can. “Trời ơi, Thiệu học sĩ và Trương tiên sinh đến rồi! Đệ phải chạy xuống để nghênh tiếp họ. Huynh nên đi lối cầu thang nhỏ ở đằng kia và mau chóng thay đổi y phục đi!”
Địch huyện lệnh đi xuống cầu thang hẹp ở cuối bao lơn, bước nhanh về khu cư ngụ của mình. Trong lúc thay sang trường bào lam sẫm có hoa văn thêu chìm, ông tiếc nuối ngẫm rằng khi phải rời đây đi thì sẽ không có dịp biết vụ án này sẽ diễn tiến thế nào nữa. Sau khi xác định được phụ thân chàng cống sĩ, người bị sát hại mười tám năm về trước, Lỗ tri huyện sẽ thăm dò kĩ lưỡng về vụ án ấy, điều tra triệt để tất cả những người có liên quan còn sống ở Quyên Thành. Việc này sẽ mất nhiều ngày, thậm chí là nhiều tuần. Cá nhân ông sẽ thu xếp chuyện Chu Hồng được chuyển đến nơi ở phù hợp. Sau đó, khi được chăm sóc thuốc thang, cô gái có thể kể lại cho Lỗ tri huyện những cuộc trò chuyện của mình với chàng cống sĩ. Địch huyện lệnh băn khoăn tự hỏi tại sao Tống Nhất Văn lại tìm đến Chu Hồng? Chỉ vì sở thích của y đối với thứ âm nhạc lạ tai? Không thể nào. Dù vậy, Tống Nhất Văn có vẻ thực sự đã phải lòng cô gái này. Thị nữ của Mạnh gia đã đề cập đến việc y yêu thích những bản tình ca, và những cây trâm bạc mà y hỏi về hóa ra lại là quà dành tặng Chu Hồng. Đủ loại khả năng thú vị trong chuyện này. Địch huyện lệnh chỉnh lại chiếc mũ nhưng cánh chuồn trước tấm gương đặt tại bàn trang điểm, rồi vội vàng quay trở lại trung viện tử. Ông trông thấy những bộ trường bào gấm thêu kim tuyến lấp lánh trên bao lơn sáng rực ánh đèn. Rõ là khách khứa đang chiêm ngưỡng hoa viên được giăng đèn kết hoa trước khi nhập tiệc. Điều này tránh cho ông sự bối rối khi bước vào phòng tiệc lúc các vị khách cao quý đều đã an tọa tại chỗ ngồi.
Trên bao lơn, trước tiên Địch huyện lệnh cúi mình thi lễ với ngài đại học sĩ, rực rỡ trong bộ trường bào gấm thêu chỉ vàng, đầu đội mũ vuông chỏm cao của Hàn lâm viện, với hai dải băng đen dài thả xuống phía sau tấm lưng rộng. Đại sư Như Ý vận trường y màu huyết dụ viền đen, tạo cho ông ta một vẻ trang nghiêm đĩnh đạc. Còn thi sĩ cung đình chọn một trường bào lụa nâu được thêu gấm dệt hoa để khoác lên mình, đầu đội mũ chỏm cao viền vàng. Giờ đây, trong lúc trò chuyện sôi nổi với Lỗ tri huyện, Trương Lam Ba có vẻ vui tươi hơn hẳn. “Địch huynh có công nhận rằng,” Lỗ tri huyện mau lẹ hỏi, “sức truyền cảm là một trong những đặc điểm nổi bật trong thơ phú của vị bằng hữu đây không?” Trương Lam Ba nhanh chóng lắc đầu.“Chúng ta đừng phí phạm thời gian quý báu vào những lời ca tụng sáo rỗng. Suốt từ dạo từ quan xa rời chốn triều đình, ta đã dành hầu hết thời gian để hiệu chỉnh các bài thơ mình làm trong vòng ba chục năm qua. Sức truyền cảm chính là điều mà thơ ca của ta còn thiếu sót!” Lỗ tri huyện định phản đối, nhưng vị thi sĩ đã giơ tay lên. “Ta sẽ kể cho ngài nghe lý do. Ta luôn muốn sống một cuộc đời an nhiên, xa lánh thế tục thị phi. Nương tử của ta, có lẽ ngài đã biết, cũng làm thơ. Chúng ta không có con cái gì cả. Cả hai sống trong một ngôi nhà thôn quê đẹp đẽ ở ngoại vi Trường An. Ta lấy việc chăm đàn cá vàng và đắp hòn non bộ làm thú điền viên, còn nương tử thì trông nom vườn hoa. Thỉnh thoảng, các bằng hữu trong thành ghé thăm, cùng chúng ta dùng bữa cơm đạm bạc, nói chuyện tâm tình và làm thơ đến tận đêm khuya. Ta luôn nghĩ mình hạnh phúc cho đến gần đây, khi ta rốt cuộc đã nhận ra thơ của mình chỉ phản chiếu một thế giới hư vô, vốn được dựng xây lên trong tâm tưởng bản thân. Do thiếu đi sợi dây liên hệ với đời thực, thơ phú của ta luôn thiếu sinh khí và vô tình, chỉ là những bài thơ chết. Hôm nay, sau khi viếng thăm từ đường, ta vẫn tự vấn bản thân liệu vài tập thơ vô hồn đã đủ để minh chứng cho năm mươi năm sống trong trời đất của mình hay chưa.”
“Cái mà ngài gọi là thế giới hư vô,” Lỗ tri huyện sốt sắng nói, “thực ra còn thực tế hơn nhiều so với cuộc sống mạo xưng. Thế giới bên ngoài thật là phù du, còn ngài đã nắm giữ được điểm cốt lõi vĩnh cửu của thế giới nội tâm.” “Cảm tạ những lời tử tế của ngài, Lỗ đại nhân. Thế nhưng ta vẫn cảm thấy, nếu mình có thể một lần trải nghiệm thứ cảm xúc đau đớn khôn cùng, thậm chí một tấn bi kịch, thứ gì đó đảo lộn hoàn toàn cuộc đời phang lặng của bản thân, ta sẽ…” “Ngài lầm hoàn toàn rồi!” Giọng nói trầm vang của học sĩ ngắt lời. “Đại sư Như Ý, thầy cũng lại đây nào, ta muốn cầu thị ý kiến của thầy! Nghe đây, Trương tiên sinh, ta sắp sửa bước vào cái ngưỡng lục tuần, hơn ngài gần chục tuổi. Trong vòng bốn mươi năm, ta đã xông xáo khắp chốn quan trường, phụng sự ở các vị trí quan trọng trong lục bộ, gây dựng một gia đình lớn, nếm trải mọi cảm xúc thăng trầm mà nam nhân có thể trải nghiệm trong đời. Cảm nhận nhân tình thế thái sao quá đỗi vô thường! Để ta kể cho ngài nghe, chỉ sau khi cáo lão từ quan vào năm ngoái, ta mới có thể nhàn tản thăm thú lại tất cả những nơi ưa thích. Chỉ đến bây giờ, ta mới bắt đầu nhìn thấu được diện mạo của nhân sinh, nhận ra các giá trị vĩnh cửu bên ngoài cuộc sống trần tục này. Ngài, trái lại, đã bỏ qua hoàn toàn giai đoạn dẫn nhập. Bằng hữu của ta ơi, ngài đã nhìn thấy con đường tới cõi Niết Bàn mà không cần ngó ra ngoài cửa sổ nhà mình!”
“Vậy ra ngài vừa trích dẫn kinh kệ đạo Lão!” Thiền sư bình phẩm. “Tổ sư gia sáng lập ra đạo Lão là một lão già ngốc nghếch ba hoa. Ông ta khẳng định sự im lặng tốt đẹp hơn lời nói, rồi công bố thiên hạ một quyển sách năm ngàn chữ!” “Ta không đồng ý chút nào cả,” thi sĩ phản đối. “Đức Phật…” “Đức Phật từng là một gã ăn mày xơ xác. Còn đức Khổng Tử là một thầy đồ tọc mạch, thích can dự vào chuyện của người khác,” thiền sư ngắt lời. Địch huyện lệnh, choáng váng bởi những lời lẽ đó, nhìn sang đại học sĩ để chờ một sự phản đối nảy lửa. Nhưng Thiệu Phàn Viên chỉ mỉm cười và hỏi, “Nếu thầy đã khinh miệt cả ba thứ tôn giáo của chúng ta, vậy thầy thuộc về tín ngưỡng nào?” “Vô thần, ta thuộc về hư không,” nhà sư lập tức đáp lời. “Ô hô! Không đúng. Thầy thuộc về nghệ thuật thư pháp!” Học sĩ la lớn. “Lỗ đại nhân, nói cho ngài biết những gì chúng ta sẽ làm sau bữa tối! Chúng ta sẽ cho hạ tấm trướng lụa ở phòng tiệc xuống và đại sư sẽ viết một câu đối lên đó. Bằng một cái chổi, hay bất cứ thứ gì thầy có thể trưng dụng!” ‘Tuyệt!” Lỗ tri huyện bình phẩm. “Tấm trướng sẽ được gìn giữ cho đời sau noi theo!” Giờ thì Địch huyện lệnh mới nhớ ra, thỉnh thoảng ông thấy trên bức tường ngoài của nhiều đền chùa những câu chữ uy nghi cao hơn sáu thước, bên dưới đề thiêm danh ‘Như Ý lão sư’, ông bắt đầu nhìn nhận nhà sư ấy với thái độ kính trọng hơn. “Làm thế nào mà thầy có thể viết được những Hán tự kì vĩ khác thường như thế?” ông hỏi.
“Ta đứng trên một giàn giáo, vận lực múa một cây bút cọ dài năm thước. Và khi họa chữ lên tấm trướng, ta cũng làm như thế, đứng trên một cái thang bắc ở giữa. Lỗ đại nhân, ngài hãy kêu gia nhân chuẩn bị một chậu mực đi nào!” “Ai cần một chậu mực vậy?” Giọng nói du dương của nữ sĩ vang lên. Giờ đây, khi dung nhan đã được trang điểm công phu, Ngọc Lan quả thật là một nhan sắc khuynh thành. Xiêm y màu hoàng lục được may cắt rất khéo để che đậy thân hình có phần đẫy đà. Địch huyện lệnh quan sát những cử chỉ tự nhiên như không khi Ngọc Lan gia nhập vào cuộc trò chuyện chung. Nàng mau chóng bắt nhịp với tông giọng của Thiệu học sĩ và Trương Lam Ba: sự thân mật của những văn nhân đồng bệnh, nhưng giọng điệu thâm trầm hàm ý tôn kính lẫn nhau. Phải trải qua nhiều năm làm kỹ nữ, một nữ nhân mới có thể dễ dàng kết giao một cách đồng đẳng với các nam nhân khác. Lão quản gia đẩy mở cửa và Lỗ tri huyện mời quan khách tiến vào phòng tiệc. Bốn cây cột trụ đỏ son chống đỡ cho các thanh xà nhà được sơn sáng màu, mỗi cột đều mang một dòng đại tự thiếp vàng. Cột bên phải đề Hạnh phùng thánh minh chủ* còn cột bên trái đề Cộng nhạc thái bình niên*. Vòm cửa ở hai bên đều có khung gỗ chạm khắc cầu kỳ. Cửa bên trái dẫn sang sảnh bên, nơi các gia nhân đang hâm nóng rượu, ở sảnh bên phải là đội nhạc khí gồm sáu nhạc công, hai nghệ nhân thổi tiêu, hai nghệ nhân kéo đàn nhị, một thiếu nữ thổi khẩu cầm và một người ngồi đằng sau cây đàn tam thập lục.
Hạnh phùng thánh minh chủ nghĩa là Vui vì có đấng minh quân Cộng nhạc thái bình niên nghĩa là Cả năm đều hưởng thái bình Trong khi đội nhạc khí bắt đầu tấu lên giai điệu vui tươi Đáo nghênh thượng khách, vị tri huyện trịnh trọng dẫn Thiệu Phàn Viên và Trương Lam Ba đến chỗ ngồi danh dự ngay phía trước tấm trướng lụa trắng tinh treo ở vách tường phía trong. Cả hai khiêm nhường phản đối là mình không xứng với vinh hạnh ấy, nhưng cuối cùng vẫn thuận theo sự thuyết phục của Lỗ tri huyện. Ông ta mời Địch huyện lệnh ngồi tại bàn bên trái, gần chỗ của thi sĩ, rồi sắp xếp thiền sư ngồi ở đầu bàn bên phải. Sau khi nữ sĩ yên vị ở bên phải Địch huyện lệnh, Lỗ tri huyện ngồi xuống vị trí kế bên đại sư Như Ý. Mỗi bàn đều được phủ một mảnh gấm đào với mép thêu chỉ vàng, bát đĩa đều làm từ sứ màu thượng phẩm, các chén rượu bằng vàng, còn đũa thì làm bằng bạc. Trên đĩa đầy ắp thịt cá ướp gia vị, những khoanh giò heo, trứng vịt bắc thảo và những món cao lương mỹ vị ướp lạnh khác. Dù đại sảnh được thắp sáng bởi những cây đèn đứng dọc theo vách tường, cứ mỗi ba bàn lại có thêm hai cây nến đỏ đặt trên đế bạc. Sau khi các thị nữ đã rót rượu, Lỗ tri huyện nâng chén uống mừng và chúc tất cả các quan khách được an khang và hồng vận. Rồi tất thảy họ đều cầm đũa lên để khai vị. Thiệu Phàn Viên liền bắt đầu trò chuyện với Trương Lam Ba về những bằng hữu mà cả hai cùng quen biết ở chốn kinh thành. Nhờ thế Địch huyện lệnh được rảnh rỗi để tiếp cận nữ sĩ. Ông nhã nhặn thăm hỏi nàng đã đến Quyên Thành từ khi nào. Hóa ra Ngọc Lan đã đến đây từ hai ngày trước, cùng với đội áp giải gồm một viên hiệu úy và hai người lính. Họ đang ngụ tại một gian phòng trong tửu điếm nhỏ nằm phía sau Lam Ngọc phường. Không chút bối rối, Ngọc Lan thêm lời rằng lão bà cai quản nơi ấy từng làm cho một kỹ viện có tiếng ở Trường An, bản thân nàng cũng xuất thân từ chốn đó. Nữ sĩ đã viếng thăm cố nhân để hàn huyên về những ngày xa xưa.
“Dân nữ đã gặp Tiểu Phượng ở Lam Ngọc phường,” nàng thêm lời. “Một vũ nữ xuất chúng và một nữ nhi sáng dạ, nhạy bén trong học nghệ.” “Theo ta, cô gái đó hơi quá tham vọng,” Địch huyện lệnh bình phẩm. “Nam nhân các ngài không bao giờ hiểu được giới quần thoa,” nữ sĩ nói. “Điều đó có lẽ rất may mắn cho bọn dân nữ!” Ngọc Lan ném một cái nhìn phật ý vào ngài học sĩ, người đã bắt đầu một bài diễn thuyết cầu kỳ. “Do thế, ta xin nhân danh các vị ở đây chính thức gửi lời cảm tạ chân thành đến Lỗ tri huyện, một thi nhân tài ba, một vị quan cai trị tuyệt vời, một vị gia chủ hiếu khách! Xin đa tạ Lỗ đại nhân đã tập hợp được quần anh hội vào tối trước ngày tết Trung Thu, để nhóm nhỏ các bằng hữu lâu năm, các tâm hồn hòa hợp được đoàn viên trong buổi dạ tiệc long trọng này!” Hướng đôi mắt sáng về phía nữ sĩ, Thiệu Phàn Viên nói, “Ngọc Lan cô nương, nàng hãy cho chúng ta nghe một bài thơ để chào mừng dịp này nhé! Chủ đề là ‘Thú đoàn viên’!” Nữ sĩ nâng chén rượu và xoay nó trong vài khắc. Đoạn nàng ngâm nga với một giọng điệu trong trẻo: “Rượu hổ phách ấm nồng trong chén vàng; Thịt cừu nai hương bao phủ quanh đây; Sơn hào hải vị chất đầy đĩa bạc; Nến đỏ lấp lánh cháy bay giữa trời.” Khi nàng ngừng lại, Lỗ tri huyện gật đầu với nụ cười hài lòng. Nhưng Địch huyện lệnh nhận ra thiền sư đang đăm chiêu quan sát nữ sĩ. Rồi Ngọc Lan ngâm tiếp những câu thơ đối ngẫu:
“Rượu tuôn đậm vị huyết lệ dân nghèo; Mồ hôi xương máu thấm theo thịt hồng; Trên đế bạc cặp nến đỏ cháy nồng; Giọt rơi uất hận lệ chồng chất thêm.” Tất cả đều im lặng bàng hoàng. Trương Lam Ba mặt mày đỏ gay. Giận dữ ngó nhìn nữ sĩ, gã buông lời, khó nhọc kìm nén trận lôi đình trong giọng nói, “Nàng quy kết thi ca cho những hoàn cảnh khó khăn nhất thời, Ngọc Lan. Những gì nàng hàm ý chỉ xảy ra ở những vùng bị hạn hán hay lũ lụt hoành hành.” “Chúng xảy ra mọi lúc mọi nơi, ngài biết điều đó mà!” Ngọc Lan xẵng giọng đáp. Lỗ tri huyện nhanh chóng vỗ tay. Các nhạc công bắt đầu tấu lên một giai điệu vui tươi và hai vũ nữ chầm chậm lướt ra. Cả hai đều còn rất trẻ. Một nàng mặc bạch y thướt tha bằng sa mỏng, nàng còn lại vận thanh y. Sau khi khẽ nhún gối cúi chào trước bàn chủ tọa, họ nâng đôi cánh tay vút lên qua đầu và xoay tròn một cách chậm rãi, tay áo dài xoay tròn trong không trung, chấp chói như én liệng trời cao. Trong lúc một nàng thi triển vũ điệu trên mũi chân nhỏ nhắn, nàng còn lại nhún một bên chân, họ cứ thế luân phiên nhau thực hiện các động tác uyển chuyển, mau lẹ trong điệu vũ nổi tiếng Song yến xuân. Mặc dù đã cố gắng hết sức nhưng dường như họ vẫn ý thức được vẻ hớ hênh của mình dưới lớp sa mỏng, bởi thế hai nàng không có được sự phóng túng của những vũ nữ dày dạn kinh nghiệm. Các vị khách không chú ý nhiều đến điệu vũ vì đang mải bàn luận về thế thái nhân tình, trong khi gia nhân mang lên những đĩa thức ăn nóng hổi.👁
Dạ tiệc của thi nhân Địch huyện lệnh kín đáo quan sát gương mặt u sầu của nữ nhân đang chểnh mảng gắp thức ăn. Qua tiểu sử của Ngọc Lan, ông biết nàng thực sự đã trải qua cảnh nghèo đói bần cùng, ông cũng đánh giá cao sự ngay thẳng của nữ sĩ. Nhưng đối với một gia chủ nồng hậu như Lỗ tri huyện, bài thơ của nàng quả là bất nhẫn, thậm chí còn rất thô lỗ là đằng khác. Ông nghiêng người về phía Ngọc Lan và hỏi, “Cô nương không nghĩ là bài thơ của mình có phần bất nhẫn à? Tuy cung cách bề ngoài phong lưu tài tử, nhưng Lỗ tri huyện là một quan viên tận tâm tận lực vì giang sơn xã tắc. Ông ấy không chỉ sử dụng tiền tài của mình đế thết đãi chúng ta, mà còn đóng góp hào phóng cho các phường hội từ thiện.” “Ai cần của bố thí nào?” Nữ sĩ hỏi vẻ khinh khi. “Dù muốn hay không, điều đó vẫn giúp ích được cho nhiều kẻ nghèo khó,” Địch Nhân Kiệt bình phẩm, ông thấy khó hiểu được tâm can của nữ nhân lạ lùng này. Âm nhạc ngừng và hai vũ nữ trẻ cúi mình chào cử tọa. Tiếng vỗ tay chiếu lệ vang lên. Các đĩa thức ăn được đặt lên bàn và những bình rượu mới được bưng ra. Lỗ tri huyện đứng dậy, ngoác miệng cười và nói, “Màn trình diễn mà quý vị vừa chứng kiến chỉ là khúc dạo đầu khiêm tốn! Sau khi món cá chép hầm được đưa lên, sẽ có một khoảng nghỉ ngắn để chúng ta ra bao lơn ngắm pháo hoa. Sau nữa, các ngài sẽ tận mắt thưởng lãm một vũ điệu cổ hiếm thấy của đất Quyên Thành này, được đệm tấu bởi hai ngọn tiêu và một trống cơm. Vũ nữ Tiểu Phượng sẽ múa điệu ‘Hắc hồ khúc’.”
Ông ta ngồi xuống chỗ của mình trong tiếng thì thầm bàn tán đầy ngạc nhiên của khách khứa. “Hay lắm!” Đại học sĩ nói to. “Rốt cuộc ta cũng được thưởng thức một điệu vũ mà mình chưa từng chứng kiến!” “Rất thú vị!” Vị thi sĩ bình luận. “Là con dân sinh ra ở huyện này, ta biết những truyền thuyết cổ xưa về loài cáo, nhưng chưa bao giờ được nghe về vũ khúc đặc biệt ấy!” Đại sư Như Ý hỏi Lỗ tri huyện, “Liệu có hợp lẽ khi đưa một vũ điệu ma mị vào trong sự kiện này…” Câu nói còn lại của nhà sư lạc mất trong giai điệu sôi nổi mà đội nhạc khí vừa tấu lên. Địch huyện lệnh muốn khai mào một cuộc trò chuyện khác với nữ sĩ, nhưng nàng đã xẵng giọng nói, “Xin để sau vậy, phiền ngài! Dân nữ thích điệu nhạc này. Dân nữ trước đây đã từng xoay mình múa theo.” Ông đành để tâm vào món cá chép hầm với nước xốt chua ngọt khoái khẩu. Bỗng một âm thanh cao vút rộ vang từ bên ngoài. Một quả pháo thăng thiên được phóng lên, để lại dải ánh sáng rực rỡ trên nền trời thăm thẳm. “Xin mời mọi người lên bao lơn!” Lỗ tri huyện hô to. Rồi ông ta quay sang nói với lão quản gia đang đứng cạnh tấm trướng, “Tắt hết nến đi!” Tất cả bọn họ cùng đứng dậy và đi ra ngoài hiên. Địch huyện lệnh đứng tựa vào hàng lan can sơn son, bên cạnh Ngọc Lan. Lỗ tri huyện đứng ở phía bên kia. Họ Cao cùng lão quản gia đứng xa hơn một chút. Ngó qua vai đồng liêu, huyện lệnh ngờ ngợ trông thấy thân hình cao lớn của Thiệu Phàn Viên. Hẳn Trương Lam Ba và thiền sư cũng đang đứng ở đấy, nhưng ông không thể thấy họ vì tất cả đèn nến đã bị dập tắt khiến phòng tiệc chìm trong bóng tối mờ mờ.
Một bánh xe lớn nhét đầy pháo hoa đang xoay tròn trên cái giàn giáo trong hoa viên phía bên dưới, tia lửa tóe ra từ những ống tre gắn với vòng tròn xoay tít ấy. Nó quay mỗi lúc một nhanh, bất thình lình nổ tung thành một trận mưa sao băng rực rỡ sắc màu. “Đẹp quá!” Thiệu Phàn Viên bình phẩm phía sau Địch huyện lệnh. Lại một chùm hoa lửa được bắn lên, chốc sau bùng nổ thành một đàn bướm ánh sáng. Tiếp theo là chuỗi dài các hình ảnh biểu tượng có màu sắc chói lòa. Địch huyện lệnh muốn bắt đầu trò chuyện với nữ sĩ, nhưng rồi lại thôi khi ông trông thấy gương mặt xanh xao và sầu não của nàng ta. Bất thình lình, Ngọc Lan quay về phía Lỗ tri huyện và nói, “Ngài tiếp đãi bọn tiểu nữ rất thịnh tình, Lỗ đại nhân à. Thật là một quang cảnh tráng lệ, nguy nga!” Những lời biện giải nhún nhường của Lỗ tri huyện chìm nghỉm trong một loạt tiếng nổ đinh tai nhức óc. Địch huyện lệnh hài lòng ngửi thấy mùi bột pháo hăng hắc bốc lên từ hoa viên. Nó làm đầu óc ông tỉnh táo đôi chút sau nhiều chén rượu liên tiếp. Giờ đây, trên không trung xuất hiện bộ ba Hán tự: Phúc, Lộc, Thọ. Một tràng pháo hoa cuối cùng nổ giòn tan, rồi cả hoa viên chìm trong bóng tối. “Vô cùng đa tạ Lỗ đại nhân,” thi sĩ cung đình nói. Gã đã lên bao lơn, đứng cùng với học sĩ và nhà sư. Trong lúc họ mải ca tụng gia chủ, Ngọc Lan thấp giọng nói với Địch huyện lệnh, “Bộ ba chữ ấy thật ngớ ngẩn. Nếu ngài hạnh phúc thì giàu sang sẽ làm ngài đau khổ, còn kiếp sống dai dẳng sẽ khiến ngài sống lâu hơn quãng thời gian hạnh phúc mà trời ban cho. Thôi, chúng ta hãy vào trong đi, ngoài này bắt đầu trở lạnh rồi, gia nhân cũng đã thắp nến trở lại.”
Khi các vị khách đã trở về chỗ ngồi của mình, sáu gia nhân tiến vào cùng những đĩa bánh bao hấp nóng hổi. Riêng nữ sĩ vẫn chưa ngồi xuống. “Tiểu nữ sẽ đi coi liệu Tiểu Phượng đã sẵn sàng cho vũ điệu hay chưa,” nàng nói với huyện lệnh. “Muội ấy vẫn hi vọng sẽ tạo dựng được tiếng tăm bằng cách trình diễn trước những danh sĩ như thế này. Hẳn là muội ấy mơ ước được mời đến kinh!” Nói xong, nữ sĩ đi vào cánh cửa vòm đằng sau bàn của họ. “Hãy nâng chén chúc mừng vị gia chủ hào phóng của chúng ta!” Học sĩ la to, lôi kéo sự chú ý của quan khách. Tất cả mọi người đều nâng chén. Địch huyện lệnh cầm lên một cái bánh bao. Nó được nhồi thịt lợn băm và hành, kèm theo chút gừng làm gia vị. Ông nhận thấy thiền sư được phục vụ một đĩa thức ăn chay nấu bằng đậu phụ rán, nhưng ông ta chẳng đả động đến. Đại sư Như Ý đang bóp một miếng mứt trái cây giữa những ngón tay, đôi mắt dán chặt vào vòm cửa nơi nữ sĩ vừa khuất dạng. Đột nhiên, Lỗ tri huyện đánh rơi đôi đũa loảng xoảng xuống bàn. Miệng kêu ú ớ, ông ta chỉ tay về phía cửa. Địch huyện lệnh quay người lại. Ngọc Lan đang đứng bên vòm cửa. Mặt nàng tái nhợt, cắt không còn giọt máu, mắt sững sờ nhìn xuống đôi bàn tay – chúng vấy đầy máu tươi. HỒI 11 Địch huyện lệnh chủ tọa tiệc thơ Như Ý đại sư buông thư pháp Khi Ngọc Lan bắt đầu bước loạng choạng như sắp ngã, Địch huyện lệnh đang ở gần nàng nhất, ông liền đứng bật dậy và đỡ lấy tay nữ nhân. “Cô nương bị thương ở đâu?”
Nữ sĩ ngước lên nhìn ông với đôi mắt trống rỗng vô hồn. “Tiểu Phượng… chết rồi!” Ngọc Lan ấp úng. “Trong phòng nghỉ. Một vết thương… ở cổ họng muội ấy. Tay dân nữ…” “Nàng ta nói gì vậy?” Học sĩ la toáng lên. “Nàng ta cắt phải tay mình à?” “Không, có vẻ như vũ nữ gặp tai nạn,” Địch huyện lệnh nhã nhặn đáp. “Bọn vãn bối sẽ đi xem thế nào.” Ông gật đầu ra hiệu với Lỗ tri huyện và dẫn nữ sĩ ra ngoài, nàng dựa gần như toàn bộ sức nặng thân thể lên cánh tay ông. Ở sảnh bên, Cao sư gia và viên quản gia đang ra các chỉ thị cho một thị nữ. Trong lúc khách nhân ngây người ngó nhìn nữ sĩ đầy thảng thốt, đứa thị nữ đánh rơi cái khay đang cầm xuống sàn, gây nên một tiếng động lớn. Khi Lỗ tri huyện hối hả chạy ra ngoài, Địch huyện lệnh thầm thì với ông ta, “Vũ nữ đã bị sát hại.” Lỗ tri huyện giận dữ nói với viên sư gia, “Chạy đến cổng chính và bảo bọn lính canh chặn cửa không cho bất cứ ai ra vào! Lệnh cho một lục sự chạy đi gọi ngỗ tác!” Đoạn ông ta quay sang nói với lão quản gia, “Hãy sai người khóa tất cả các cổng lập tức, rồi gọi nữ tổng quản đến đây!” Đi vòng quanh đứa thị nữ vẫn còn chưa hoàn hồn, Lỗ tri huyện quát tháo, “Dẫn nữ sĩ Ngọc Lan đến phòng chờ ở cuối bao lơn, để nàng ngồi nghỉ trên ghế, rồi cùng nàng chờ ở đấy cho đến khi nữ tổng quản tới!” Địch huyện lệnh kéo chiếc khăn giắt ở thắt lưng của đứa thị nữ ra và nhanh chóng lau đôi bàn tay của Ngọc Lan. Không có vết thương nào trên đó cả.
“Làm thế nào chúng ta đến được phòng nghỉ?” Địch huyện lệnh hỏi vị đồng liêu, trong lúc trao nữ nhân đang choáng váng cho thị nữ. “Đi cùng đệ!” Lỗ tri huyện nói đầy mạnh mẽ và tiến xuống một thông đạo hẹp bên trái phòng tiệc. Ông ta đẩy mở cánh cửa ở phía cuối rồi đứng sững lại. Liếc nhanh vào dãy bậc thang tối om dẫn xuống dưới, Địch huyện lệnh bước theo sau Lỗ tri huyện để tiến vào một căn phòng nhỏ, sặc mùi mồ hôi và dầu thơm. Không có ai ở đây cả. Ánh sáng của chiếc đèn bọc lụa trắng soi rọi thi thể Tiểu Phượng đang nằm ngửa trên trường kỷ gỗ mun. Nữ nhi chỉ vận nội y, hai cẳng chân trắng và rắn rỏi buông thõng xuống sàn. Đôi cánh tay mảnh dẻ vung quá đầu, đôi mắt thất thần ngó trân trối lên trần nhà. Bên trái cổ họng Tiểu Phượng là một vũng máu đang từ từ ứa ra tấm chiếu cói trải trên trường kỷ. Những dấu tay vấy máu nổi bật trên đôi vai gầy. Dưới lớp son phấn dày cộp, sống mũi dài và khuôn miệng hé mở, để lộ một hàng răng nhỏ sắc nhọn, gợi lên trong đầu Địch huyện lệnh hình ảnh của một cái mõm cáo. Lỗ tri huyện đặt tay lên ngực vũ nữ. “Sự vụ chắc chắn chỉ xảy ra mới đây thôi!” Ông ta lẩm bẩm trong lúc đứng thẳng người dậy, rồi chỉ tay vào chiếc kéo vấy máu nằm trên sàn. “Và đó là hung khí gây án!” Trong lúc Lỗ tri huyện cúi xuống xem xét cái kéo, Địch huyện lệnh liếc mắt nhìn chỗ xiêm y của nữ nhân được gấp gọn gàng trên cái ghế kê trước bàn trang điểm. Trên giá treo y phục trong góc phòng là một bộ trường bào lụa màu xanh lục với ống tay áo dài, một dải thắt lưng đỏ và hai dải lụa dài trong suốt. Quay sang vị đồng liêu, ông nói, “Nàng ta bị giết khi sắp thay y phục múa.”
Ông cầm quyển nhạc phổ trên bàn và bỏ nó vào trong ống tay áo. Mắt Địch huyện lệnh chạm phải một cánh cửa nhỏ nằm vuông góc với khuôn cửa mà họ vừa đi qua. “Nó dẫn đến đâu vậy?” “Đến phòng tiệc. Nó ở ngay phía sau tấm trướng.” Huyện lệnh xoay núm cửa. Khi cánh cửa hé mở, ông nghe thấy giọng nói của thi sĩ cung đình, “… Lỗ đại nhân có hẳn một đại phu riêng trong dinh. Bởi vì…” Nhẹ nhàng khép cánh cửa lại, ông nói, “Đệ sẽ cần xem xét xung quanh một lượt. Liệu ta có nên trở lại phòng tiệc và thay mặt gia chủ nghênh tiếp quan khách?” “Đành phải nhờ hiền huynh vậy! May là huynh đã nói đây chỉ là một tai nạn. Chúng ta không làm buồn lòng khách khứa. Huynh cứ nói là vũ nữ đã tự cắt phải mình lúc dùng kéo. Sau khi thẩm vấn hết mọi người, đệ sẽ quay lại gặp huynh.” Địch huyện lệnh gật đầu và đi ra. Ông bảo đám gia nhân đang kinh sợ ở sảnh bên quay trở lại làm việc, rồi ông bước vào phòng tiệc, về lại chỗ ngồi cũ, ông thông báo, “Một cây kéo đã rơi trúng chân phải của vũ nữ và cứa đứt mạch máu. Nữ sĩ đã cố gắng cầm máu nhưng bị choáng, liền chạy vội về đây nhờ chúng ta trợ giúp. Ta xin thay mặt Lỗ tri huyện tiếp đãi các vị.” “Nữ nhân rất dễ hoảng loạn khi nhìn thấy máu.” Thiệu học sĩ lên tiếng. “Ta mừng vì Ngọc Lan không phải người bị thương. Tuy lấy làm tiếc cho nữ nhi Tiểu Phượng, ta cũng chẳng phiền lòng nếu không được chiêm ngưỡng vũ điệu đó. Chúng ta tụ họp tại đây vì một mục đích cao quý hơn nhiều, chứ không phải để xem các vũ nữ trình diễn!”
“Bất hạnh thay cho một vũ nữ tự làm tổn thương chân mình,” thi sĩ bình phẩm. “Nào, giờ chỉ còn lại bốn người, chúng ta không cần chấp nhất lễ nghi khuôn sáo làm gì. Tại sao chúng ta không nhập ba bàn tiệc này vào làm một nhỉ? Nếu Ngọc Lan trở lại, chúng ta sẽ thu xếp một chỗ cho nàng.” “Hảo ý!” Địch huyện lệnh thốt lên. Ông vỗ tay và lệnh cho các gia nhân đẩy hai cái bàn bên cạnh lại. Địch huyện lệnh và vị đại sư đẩy ghế của mình lên, giờ thì họ đang ngồi đối diện với Thiệu Phàn Viên và Trương Lam Ba. Ông ra hiệu cho các thị nữ rót đầy chén rượu. Sau khi họ đồng loạt nâng chén để chúc cho nàng vũ nữ mau chóng bình phục, hai gia nhân bưng vào một mâm vịt quay, đội nhạc khí bắt đầu tấu lên một giai điệu khác. Học sĩ xua tay và la to, “Hãy bảo họ đem mâm thịt ấy vào trong! Và lệnh cho đội nhạc khí biến đi luôn. Cao lương mỹ vị và nhạc khúc thế là đủ rồi! Bây giờ chúng ta có thể bắt đầu cạn chén ra trò!” Thi sĩ cung đình đề nghị một tuần rượu khác, rồi đến đại sư Như Ý, Địch huyện lệnh cũng nhân danh vị gia chủ vắng mặt để nâng chén cung hỷ ba thượng khách. Học sĩ lôi kéo Trương Lam Ba vào một cuộc tranh luận rắc rối về giá trị của văn chương cổ điển so với các tác phẩm mới. Điều này cho phép ông thu hút đại sư Như Ý vào một cuộc đàm đạo. Thiền sư đã uống kha khá, rõ là những điều kiêng kị của ông ta không bao gồm rượu! Một lớp mồ hôi bao phủ gương mặt xấu xí.
Địch huyện lệnh mở đầu câu chuyện, “Trước bữa tối, thầy đã nói mình không phải Phật tử. Vậy sao thầy giữ lại danh xưng như nhà sư quản tự?” “Danh hiệu ấy được ban tặng cho ta lúc còn trẻ và dính từ đó đến giờ.” Nhà sư cộc cằn đáp. “Ta thừa nhận là không hề xứng đáng. Bản thân ta chẳng quản nổi thứ gì cả.” Nhà sư uống một hơi cạn chén rượu. “Dường như có nhiều Phật tử ở huyện này. Ta để ý thấy một con phố có đến nửa tá đền chùa nằm gần nhau, nhưng ta chỉ có thời giờ trông vào Thông Tuệ tự. Nó thuộc tông phái nào, thưa thầy?” Vị đại sư lướt nhìn Địch huyện lệnh.“Nó không thuộc tông giáo nào cả. Các tăng ni ở đó đã nhận ra con đường ngắn nhất đến chính đạo nằm ngay trong bản thân. Chúng ta không cần Đức Phật chỉ bảo nơi và cách tìm ra nữa. Không án thờ khoa trương, không kinh kệ, không nghi lễ thờ cúng. Chốn hiền hòa ấy là nơi ta nương náu mỗi lần đến Quyên Thành.” “Này, đại sư Như Ý!” Giọng nói sang sảng của Thiệu học sĩ vang lên. “Trương tiên sinh vừa kể là các bài thơ của mình đang ngày càng ngắn đi! Cuối cùng tiên sinh sẽ viết toàn thơ hai dòng giống thầy đấy!” “Ước gì được như thế!” Thi sĩ nói vẻ tiếc nuối, đôi má đỏ bừng. Địch huyện lệnh nghĩ tửu lượng Trương Lam Ba không được bằng Thiệu học sĩ. Khuôn mặt chữ điền của ông ta vẫn điềm tĩnh như không. Trương Lam Ba vừa lắc đầu vừa nói, “Thoạt nhìn, những dòng thơ của đại sư có vẻ như vô nghĩa. Thế nhưng, các ngài không thể đẩy chúng ra khỏi đầu. Rồi một ngày nọ, các ngài chợt ngộ ra chân lý của bài thơ. Thêm một tuần rượu để cung hỷ thi sĩ đối ngẫu trác tuyệt của chúng ta nào!”
Sau khi tất cả cạn chén, Trương Lam Ba tiếp lời, “Giờ đã đến lúc thích hợp, sao thầy còn chưa múa bút viết tặng cho gia chủ? Thư pháp thiên hạ vô song của thầy sẽ bù đắp cho Lỗ đại nhân tất cả những tuần rượu mà ngài ấy bỏ lỡ!” Nhà sư đặt chén rượu xuống và lạnh lùng nói, “Ta sẽ bỏ qua cho thói khinh suất của ngài, Trương tiên sinh à. Ta luôn cẩn trọng với những tác phẩm của mình.” “Hô hô, đại sư Như Ý!” Học sĩ la toáng lên. “Chúng ta sẽ không chấp nhận bất cứ lý do thoái thác nào của thầy đâu. Thầy không dám viết là bởi thầy uống quá nhiều rồi. Ta cược là chân thầy đã không còn đứng vững! Thôi nào, nếu không hạ bút bây giờ, thầy sẽ chẳng còn cơ hội nào như thế này!” Thi sĩ cung đình phá ra cười. Mặc kệ gã, thiền sư lặng lẽ bảo Địch huyện lệnh, “Để hạ tấm trướng xuống cũng khá mất công, trong khi đám gia nhân đều đang luống cuống. Nếu ngài lấy cho ta một tờ giấy, ta sẽ hạ bút đề một bài thơ gửi tặng gia chủ ngay tại bàn này.” “Được rồi!” Học sĩ nói. “Chúng ta là những nam nhân hào hiệp! Do thầy đã quá chén, khó viết được những dòng đại tự, chúng ta sẽ không phiền trách gì nếu thầy viết mấy chữ nhỏ thay thế. Hãy gọi người mang bút mực và giấy đến đây nào!” Hai gia nhân dọn dẹp gọn ghẽ cái bàn, rồi thị nữ mang ra một cuộn giấy đen cùng khay bút nghiên. Địch huyện lệnh chọn một tờ giấy trắng dày dặn, một chiều bốn thước và một chiều hai thước, rồi trải phẳng ra mặt bàn. Trong lúc đó, nhà sư vừa mài mực vừa lầm bầm điều gì đó. Khi nhà sư cầm bút cọ lên, ông xòe bàn tay chặn đầu tờ giấy đế giữ nó nằm yên trên bàn.
Đại sư Như Ý nhổm dậy, ngắm nghía tờ giấy trong một khoảnh khắc tĩnh lặng. Rồi ông ta tay phóng bút đề thơ, họa ra hai câu chữ, mỗi dòng chỉ cần một nhát cọ quét qua, nhanh và chính xác như một làn roi quất. “Ngọc Hoàng thượng đế ơi!” Vị học sĩ kêu lên. “Đây đích thị là những gì mà cổ nhân gọi là nét chữ lay động lòng người! Chưa biết nội dung câu chữ thế nào, nhưng chỉ riêng thư pháp đã xứng đáng để tạc vào bia đá, lưu truyền cho hậu thế!” Thi sĩ cung đình cất cao giọng đọc những dòng thơ: “Lai lai khứ khứ khứ lai lai, Tâm đăng minh diệt thiên đăng tại.”* Nghĩa bài thơ: Ai rồi cũng trở về nơi rời bước Nơi ngọn nến đỏ dần dần tắt đi. “Phiền thầy diễn giải hàm nghĩa được không?” “Ta không muốn.” Thiền sư chọn một cây cọ nhỏ hơn để ghi lời đề tặng cho Lỗ tri huyện, rồi đề thiêm danh bằng nét chữ bay bướm, ‘Như Ý lão sư’. Địch huyện lệnh bảo các thị nữ đem dán tờ giấy lên chính giữa tấm trướng. Lúc này, ông mới giật mình nhận ra đấy là một bài văn bia dành cho nàng vũ nữ trẻ tuổi mà thi thể còn đang nằm tại gian phòng phía sau. Cao Sư gia bước vào phòng, nhoài người về phía trước và thầm thì điều gì đó vào tai huyện lệnh. Ông gật gù nói, “Vị đồng liêu nhờ ta thông báo rằng ông ấy vô cùng hối tiếc phải từ bỏ vinh hạnh được tham gia bữa tiệc cùng các ngài. Nữ sĩ Ngọc Lan cũng gửi lời cáo lỗi vì bị một cơn đau đầu hành hạ. Hi vọng các vị thượng khách sẽ vui lòng tiếp tục tham dự buổi dạ yến này và ban cho ta đặc ân được thay mặt gia chủ.”
Thiệu Phàn Viên uống cạn chén rượu, chùi sạch hàm ria mép rồi nói, “Ngài đang làm rất tốt, nhưng ta nghĩ chúng ta nên ngừng ở đây thôi.” Ông ta đứng dậy. “Sáng mai, chúng ta sẽ cảm tạ Lỗ đại nhân lúc thưởng cỗ Trung thu.” Địch huyện lệnh tiễn Thiệu Phàn Viên đến cầu thang, vị sư gia tiếp bước theo sau cùng với thi sĩ và thiền sư. Trước khi bước xuống, học sĩ tươi cười nói, “Lần sau, hai chúng ta nhất định phải hàn huyên lâu hơn! Ta muốn nghe quan điểm của ông về việc tề gia trị quốc bình thiên hạ. Ta luôn hứng thú lắng nghe những quan viên trẻ tuổi nói về…” Ông ta bỗng ngó nhìn Địch huyện lệnh đầy vẻ bối rối, cứ như thể đang cân nhắc xem mình đã nói chuyện này hay chưa. Rồi ông ta giải quyết khúc mắc ấy bằng cách giả tảng, kết thúc câu chuyện, “Dù sao đi nữa, ta sẽ gặp lại ông vào sáng mai! Chúc ông an giấc!” Sau khi cùng Cao Sư gia cúi thấp mình tiễn ba vị khách ra về, ông hỏi, “Tri huyện đại nhân đang ở đâu vậy?” “Bẩm, Lỗ đại nhân đang ở trong phòng chờ bên dưới, tại sảnh chính ạ. Tiểu nhân sẽ dẫn đường.” Vị đồng liêu đang ngồi thu lu bên bàn trà, khuỷu tay chống lên mặt bàn, đầu cúi gục. Nghe tiếng bước chân của Địch huyện lệnh, ông ta ngẩng đầu lên nhìn, đôi mắt lộ vẻ bơ phờ, khuôn mặt tròn trịa trông thật ủ dột, thậm chí cả bộ ria mép cũng rũ xuống. “Đệ đang cực kỳ bối rối, hiền huynh à.” Lỗ tri huyện khàn giọng nói. “Sụp đổ hoàn toàn. Không thể cứu vãn!”
HỒI 12 Trong đêm vắng, Tri huyện sầu não Chuyện nữ nhân khuynh đảo giang san Địch huyện lệnh kéo một chiếc ghế khác và ngồi xuống đối diện đồng liêu. “Khó mà còn chuyện gì khác tệ hơn,” ông trấn an. “Chẳng bao giờ dễ chịu khi có một tên sát nhân ẩn nấp ngay tại tư gia của mình. Nhưng dù sao thì việc cũng đã rồi. Còn về động cơ của vụ án mạng táo tợn này, theo lời nghệ nhân thổi tiêu sống gần chợ, người mà ta tham vấn về quyển nhạc phổ của Tống Nhất Văn, thì Tiểu Phượng chuyên dụ dỗ khách nhân để móc hầu bao. Nàng ta hay khêu gợi nam nhân rồi đến khoảnh khắc cuối cùng lại từ chối họ. Người như vậy thường tạo ra nhiều cừu nhân nhớ lâu. Ta cho rằng một trong những kẻ đó đã lợi dụng sự lộn xộn của đám người chuẩn bị tiệc để trà trộn vào bên trong mà không bị phát hiện. Hắn đã tiếp cận phòng nghỉ theo lối cầu thang nằm đối diện cửa ra vào.” Lỗ tri huyện hầu như không để tâm nghe. Tuy nhiên, giờ đây, ông ta ngẩng lên và nói bằng giọng mệt mỏi, “Cánh cửa tại chân cầu thang đó bị khóa từ trước khi đệ sống ở đây. Thê thiếp của đệ không phải lúc nào cũng ngoan ngoãn như mong muốn, nhưng đệ không bao giờ cho họ bén mảng đến Chính phi lâu thê.” “Cầu thang của chính phi ư? Là thứ gì thế?” “À, ra là huynh ít đọc thơ ca đương thời. Vị Cửu Hoàng tử từng cư trú ở đây hai mươi năm trước không chỉ chịu tiếng xấu là kẻ phản quốc, mà còn mang danh râu quặp. Người ta cho rằng chính vị chính phi hay cằn nhằn, xúi giục đã khiến ông ta mưu toan nổi loạn. Bà ta chính là người thao túng phía sau mọi hành động của phu quân mình. Nhân gian hay nói ‘Hậu cung làm loạn chính sự’ là vậy. Bà ta cho xây gian phòng phía sau phòng tiệc và cả cầu thang nối xuống một hành lang dẫn thẳng đến khu nữ quyến. Có một tấm trướng lớn ở cuối sảnh đường mà chúng ta tổ chức tiệc, y như bây giờ. Khi hoàng tử ngồi trước tấm trướng để chủ trì đại cuộc, chính phi của ông ta đi đến gian phòng đó, ngồi ngay sau tấm trướng và lắng nghe tất cả. Nếu bà ta gõ lên trướng một cái, hoàng tử biết mình phải từ chối, nếu gõ hai cái thì ông ta có thể đồng thuận. Câu chuyện đã trở thành một giai thoại nổi tiếng, đến mức thành ngữ ‘Chính phi lâu thê’ giờ được sử dụng rộng rãi như một phép ẩn dụ, hàm ý là một đức phu quân bị thê tử hà hiếp.”
Địch huyện lệnh gật đầu. “Ôi, nếu kẻ sát nhân không thể vào phòng nghỉ bằng cầu thang phía sau, vậy thì làm thế nào hắn xoay xở để…” Lỗ tri huyện thở hắt ra một hơi dài, buồn bã lắc đầu. “Huynh vẫn chưa hiểu ra à? Chính nữ sĩ kia đã gây ra hung án, tất nhiên rồi!” Địch Nhân Kiệt rướn người trên ghế. “Không thể nào! Ý đệ là Ngọc Lan đã vào phòng nghỉ khi vũ nữ…” Ông đột ngột bỏ lửng câu nói. “Trời xanh soi xét!” ông lẩm bẩm. “Đúng, nàng ta có thể làm chuyện ấy lắm chứ, dĩ nhiên rồi. Nhưng tại sao?” “Huynh đã đọc bản tiểu sử rồi chứ? Trong đó, đệ tin là mình đã vạch trần mọi chuyện rõ ràng rồi. Ngọc Lan đã chán ghét nam nhân, nên khi gặp gỡ Tiếu Phượng, nàng ta đã mê đắm ngay. Đệ nghĩ thật lạ khi đích thân nàng ta đưa vũ nữ đến thư phòng của đệ, cứ nói ‘tiểu muội yêu quý này’ và ‘tiểu muội yêu quý kia’! Tối nay, nàng ta đến phòng: tiệc từ rất sớm để giúp vũ nữ sửa soạn cho buổi trình diễn. Sửa soạn cái nỗi gì chứ! Nàng ta lảng vảng trong phòng nghỉ đến hơn hai khắc! Cố gắng trang điểm cho một kỹ nữ ư, tất nhiên rồi. Vũ nữ đã đe dọa tố giác trò mèo của Ngọc Lan. Do thế, trong suốt nửa đầu bữa tiệc, nữ sĩ đã sắp bày một kế hoạch để bịt miệng Tiểu Phượng.” “Chỉ vì vũ nữ đe dọa tố giác ư?” Địch huyện lệnh hỏi, vẻ ngờ vực. “Ngọc Lan đã bàng quan với thế thái nhân tình, còn tha thiết gì đến điều tiếng! Trong quá khứ, nàng ta từng có nhiều…” Ông vỗ tay lên trán. “Mong đệ nhận lời tạ lỗi của kẻ tài hèn sức mọn này! Tối nay, đầu óc ta hoàn toàn mụ mẫm! Trời đất ơi, lời tố giác của vũ nữ có thể đẩy Ngọc Lan ra pháp trường! Nó sẽ củng cố lời cung khai từ tình nhân của nữ tỳ bị hạ sát và đảo ngược cán cân vụ án, chĩa ngàn đao vạn giáo bất lợi về phía Ngọc Lan!”
“Chính là thế. Nguồn cơn sự vụ khiến Ngọc Lan rời bỏ Tứ Xuyên đã bị bưng bít. Môn sinh kia là ái nữ nhà quan tuần phủ, chẳng đời nào tiểu thư lại lên tiếng. Nhưng một vũ nữ xuất hiện ở pháp đình, đưa ra lời cung khai với những chi tiết gây choáng váng, đề cập đến một hành vi xấu xa xảy ra ngay tại đây, kế bên sảnh đường nơi buổi thết yến được tổ chức! Điều này sẽ hạ gục Ngọc Lan mãi mãi. Tình cảnh nữ sĩ phải nói là tuyệt vọng.” Tri huyện xoa bàn tay mũm mĩm lên khuôn mặt nhớp nháp mồ hôi. “Nhưng cũng không thể thảm bằng đệ hiện giờ! Là quan tri huyện, đệ được trao quyền câu lưu một bị cáo đang bị dẫn giải qua địa phận của mình. Nhưng đệ phải viết giấy cam đoan cho viên hiệu úy áp giải, xác nhận một cách đường hoàng, bằng ngọc triện và chữ ký, rằng đệ hoàn toàn chịu trách nhiệm về phạm nhân trong lúc nàng lưu lại Lỗ gia trang. Giờ nàng lại gây án ở đây, một vụ án mạng có cùng bản chất với vụ chính nàng đang bị cáo buộc! Thật là đại nghịch bất đạo! Ngọc Lan đang trông chờ đệ bao che, dĩ nhiên rồi, bằng cách quy kết tội ác đó cho một kẻ đột nhập, giúp cả nàng ta lẫn đệ thoát khỏi tình thế nguy nan! Nhưng nàng ta đã hiểu sai về đệ rồi!” Ông ta trút một tiếng thở dài rồi tiếp lời bằng giọng ảm đạm, “Ngày đẹp đấy, Địch huynh à! Ngay khi đệ trình báo sự vụ đáng hổ thẹn này, Bộ Hình sẽ treo mũ ô sa của đệ lên vì tội lơ là chức trách. Nếu được tổ tiên phù hộ thì đệ sẽ chỉ bị kết án lao động khổ sai và đày lên vùng biên ải! Nghĩ mà xem, đệ đã mời nữ nhân ấy đến đây vì mong nhận được sự tán thưởng của các đại quan chốn kinh thành, một cử chỉ tử tế dành cho nữ sĩ nổi tiếng đang trong cảnh khốn cùng!”
Lỗ tri huyện rút trong ống tay áo ra một chiếc khăn lụa lớn và lau mặt. Địch Nhân Kiệt ngả lưng dựa vào ghế, hàng lông mày rậm rạp khẽ chau. Bằng hữu của ông quả thật đang lâm vào một tình thế nguy hiểm. Đại học sĩ có thể âm thầm dùng ảnh hưởng của mình tại triều đình để tương trợ cho Lỗ tri huyện, cố gắng tác động để vụ án được xử lý một cách kín đáo ở kinh thành, không gây xáo trộn bách tính hay kinh động đến Thiên tử. Công khai nghi án giữa thanh thiên bạch nhật cũng chẳng hay ho gì cho danh tiếng của học sĩ. Mặt khác… Không, ông đang vẽ ra viễn cảnh quá xa rồi. Trấn tĩnh lại, ông lặng lẽ hỏi, “Nữ sĩ đã nói gì?” “Ngọc Lan ư? Nàng ta khai là khi mình vào phòng nghỉ đã thấy vũ nữ đang nằm đó, máu chảy đầm đìa. Nàng ta vội chạy đến và cố gắng kéo vai Tiểu Phượng dậy để xem có chuyện gì! Khi nhận thấy nữ nhi đã chết, nữ sĩ chạy đến chỗ chúng ta cầu cứu. Hiện giờ, Ngọc Lan đang nằm héo hon trên chiếc trường kỷ trong phòng đại phu nhân, được chăm nom chu đáo và đắp khăn lạnh, đại loại như thế!” “Nàng ta không hé miệng nói gì về kẻ có thể gây ra tội ác à?” “Ồ, có chứ! Ngọc Lan cũng nói giống như tay nghệ nhân thổi tiêu thôi, chỉ khác đi một chút mà thôi. Nàng ta khăng khăng cho rằng Tiểu Phượng là một nữ nhi trong sạch, bị nhiều nam nhân xấu xa và dâm đãng căm ghét vì điều đó! Nàng ta cho rằng một kẻ bị từ chối đã lẻn vào bên trong và ra tay hạ sát vũ nữ. Rõ là nữ sĩ đang gợi ý một lối thoát dễ dàng cho cả mình và đệ! Thế là đệ từ giã mà không bình phẩm gì, chỉ yêu cầu nàng ta giữ kín câu chuyện về vụ án mạng.”
“Thế còn báo cáo nghiệm thi của ngỗ tác?” “Y như những gì chúng ta đã biết hoặc có thể phán đoán. Nạn nhân mới bị giết ngay trước khi được tìm thấy, chừng nửa khắc là cùng. Ngỗ tác còn nói thêm là Tiểu Phượng vẫn còn trong trắng, nhưng điều ấy chẳng làm đệ mảy may ngạc nhiên. Dung mạo thì xấu xí, ngực thì phẳng lỳ! À, những người cuối cùng nhìn thấy nạn nhân lúc còn sống là hai vũ nữ trẻ tuổi. Họ mang trà bánh vào cho nàng ta rồi thu dọn tư trang để trở về Lam Ngọc phường. Khi đó, Tiểu Phượng trông vẫn rất tươi tỉnh.” “Thế đám gia nhân nói gì? Còn các nhạc công nữa?” “Huynh vẫn nghĩ là có kẻ lạ đột nhập sao? Không may mắn được thế đâu! Đệ cùng với sư gia đã thẩm vấn mọi người. Các nhạc công xem pháo hoa ở sảnh bên, không ai rời khỏi gian phòng. Trong suốt thời gian đó, có một số gia nhân đi lại khắp nơi, ở các cầu thang chính và cầu thang gác tại mỗi đầu bao lơn. Không kẻ lạ mặt nào có thể lên đến lầu hai mà không bị phát hiện. Đệ đã tra hỏi xem có ai trong số gia nhân có mối liên hệ với vũ nữ không. Chẳng thu được gì cả. Nữ nhi ấy vẫn còn trong trắng cơ mà! Hơn nữa, cái kéo là thứ vũ khí thông dụng. Tốt rồi, xong vụ án! Cực kỳ đơn giản.” Ông ta đấm mạnh nắm tay xuống bàn. “Trời đất thiên địa ơi, đến khi thăng đường xử án thì sẽ phải thế nào! Cả thiên hạ sẽ bàn tán! Còn đệ sẽ quỳ phía bên kia bàn xử án! Một bước sai chân để hối tiếc cả đời nam tử! Cái kết nhục nhã cho một sự nghiệp đầy hứa hẹn!”
Địch huyện lệnh vẫn im lặng, trầm ngâm vuốt chòm tóc mai dài. Cuối cùng, ông lắc đầu đầy vẻ hoài nghi. “Còn có một cách giải quyết khả dĩ khác, nhưng ta e là đệ cũng sẽ không thích!” “Huynh thật biết cách an ủi kẻ khác, hiền huynh à. Nhưng huynh cứ nói xem sao. Một nam nhân ở vị thế tuyệt vọng như đệ cứ như kẻ chết đuối cần một cái cọc để bám vào!” Ông chống khuỷu tay lên mặt bàn. “Có ba nghi can khác cần phải xem xét. Cụ thể là ba vị khách quý tham gia buổi dạ yến của đệ!” Lỗ tri huyện nhảy dựng lên, “Huynh đã uống quá chén rồi đấy!” “Cũng có thể. Nếu không ta đã nghĩ ra khả năng này sớm hơn rồi. Hãy nhớ lại lúc chúng ta đứng xem pháo hoa ở bao lơn. Nữ sĩ đứng bên trái ta, còn đệ đứng cạnh nàng ta. Xa hơn một chút là viên sư gia và lão quản gia của đệ. Lúc bấy giờ, mặc dù màn trình diễn pháo hoa rất thú vị, ta vẫn để ý quan sát xung quanh và biết không ai trong ba người chúng ta rời khỏi chỗ đứng cả. Nhưng ta không nhìn được ba vị khách đang đứng sau lưng. Ta thoáng thấy đại học sĩ lúc bắt đầu và lúc gần cuối màn trình diễn pháo hoa, khi ngài ấy tiến về phía trước cùng thi sĩ và nhà sư. Đệ có nhìn thấy bất cứ ai trong số họ trong lúc bắn pháo hoa không?” Lỗ tri huyện đang đi đi lại lại trong phòng liền dừng lại, ngồi xuống ghế. “Khi màn pháo hoa bắt đầu, thi sĩ đứng ngay sau lưng đệ. Đệ đã mời Trương tiên sinh thế chỗ nhưng ngài ấy nói có thể thấy rất rõ qua vai đệ. Đệ cũng thoáng thấy đại sư Như Ý đứng gần ngài ấy. Giữa buổi trình diễn, đệ muốn gửi lời tạ lỗi đến đại sư về việc thiếu mất những tư tưởng chủ đạo của Phật giáo trong các hình tượng mang tính biểu trưng, nhưng khi đệ nhìn quanh thì chẳng thấy ai. Phòng tiệc tối đen như mực, còn mắt đệ bị lóa vì pháo hoa.”
“Đúng như ta e ngại! Mới đây, chính đệ đã nói rằng mọi thi sĩ đều biết câu chuyện về Chính phi lâu thê, về gian phòng phía sau phòng tiệc cùng cánh cửa ra vào đằng sau tấm trướng. Ai trong số ba vị khách cũng đều có cơ hội tuyệt vời ám hại vũ nữ tại phòng nghỉ. Họ biết cô gái ở đó, do đệ đã thông báo Tiểu Phượng sẽ thi triển vũ điệu ngay sau khi màn pháo hoa kết thúc. Có nhiều thời gian cho một kế hoạch giản đơn và hiệu quả. Khi gia nhân đã tắt hết đèn nến và mọi người đều đang ngắm nhìn hoa viên, tên sát nhân đã bước trở lại phòng tiệc, lẻn vào đằng sau tấm trướng để vào phòng nghỉ. Vừa giả vờ nói vài lời tử tế, hắn vừa cầm lấy cây kéo và ra tay hạ sát vũ nữ. Sau đó hắn thản nhiên trở ra bao lơn theo lối cũ. Chẳng tốn quá nhiều thời gian.” “Thế nếu hắn phát hiện cửa ra vào đã bị khóa?” “Trong trường hợp ấy, hắn hoàn toàn có thể gõ cửa, vì lúc đó pháo hoa đang tạo ra rất nhiều tiếng ồn. Nếu trông thấy có một thị nữ đang ở cùng Tiểu Phượng, hắn chỉ cần nói là mình đã chán xem pháo hoa nên ghé qua để hàn huyên thân tình. Tên sát nhân sẽ tạm gác mưu đồ giết người, chờ một dịp thuận lợi khác để ra tay. Một sự dàn xếp hoàn hảo để giết người.” “Hẳn là thế, nếu xét về khả năng đó,” Lỗ tri huyện trầm ngâm nói, đưa tay vuốt chòm râu ngắn ngủn. “Có trời xanh chứng giám, thật nực cười nếu một trong những người đó…”
“Đệ biết về họ như thế nào?” “Ôi… huynh biết giao du với các danh sĩ như thế nào mà. Đệ chỉ gặp bọn họ đôi ba lần, nhưng chưa bao giờ gặp gỡ riêng tư, luôn trò chuyện về văn chương nghệ thuật hay những chủ đề như thế. Không, đệ biết rất ít về nhân cách thực sự của họ. Nhưng hiền huynh ơi, sự nghiệp của họ là quốc bảo của Đại Đường! Nếu đời tư của bất cứ ai trong số ấy có vết chàm, thiên hạ có lẽ sẽ… Ngoại trừ thiền sư ra, dĩ nhiên rồi. Ông ta không hề dính dáng tới quan lộ! Nhưng không phải lúc nào Như Ý cũng hành xử thoát tục như bây giờ. Trước đây, ông ta cai quản một điền sản lớn của tông giáo ở Hồ Tương, từng bòn rút mồ hôi xương máu của những tá điền thuê đất. Sau đó, ông ta ăn năn sám hối, lẽ dĩ nhiên rồi, nhưng…” Lỗ tri huyện uể oải mỉm cười. “Nói thật với huynh, đệ vẫn chưa lĩnh hội thấu đáo giả thuyết mới này đâu!” “Ta hiểu mà. Quả có chút choáng váng khi phải cân nhắc liệu ba nhân vật lẫy lừng ấy có phải là nghi can giết người hay không, về phía thiền sư, ông ta đã múa bút ngay tại bàn ăn và viết tặng đệ một cuộn giấy rất đẹp. Ta đã cho dán lên trướng. Thôi, hãy bỏ qua tài năng và địa vị cao quý của họ đi, để nhìn nhận ba người bọn họ như nghi phạm thông thường trong một vụ án mạng. Chúng ta biết cả ba đều có cơ hội. Câu hỏi tiếp theo là động cơ. Đầu tiên cần thẩm tra về vũ nữ ở Lam Ngọc phường. Tất cả các vị khách dường như đều đã ở Quyên Thành một, hai ngày, nghĩa là có thể họ từng gặp gỡ Tiểu Phượng trước khi cô gái được giới thiệu với chúng ta vào trưa nay. Tiện đây cho ta hỏi, làm thế nào vũ nữ quen biết bọn họ?”
“Ồ, đệ đã lên lầu trên cùng Thiệu Phàn Viên và Trương Lam Ba để chỉ cho họ thấy phòng tiệc, vừa lúc ấy Ngọc Lan và vũ nữ đi xuống, thế là đệ giới thiệu luôn Tiểu Phượng. Sau đó, đệ đứng nhìn từ bao lơn thì thấy vũ nữ tình cờ chạm mặt đại sư Như Ý, ngay trước miếu hồ ly của Lỗ gia. Ông ta ở trong gian phòng nhỏ đằng sau miếu thờ.” “Ta hiểu rồi. À, khi đệ trở lại từ Lam Ngọc phường, chúng ta vẫn phải tìm kiếm trong văn khố xem Tống Nhất Văn từng nghiên cứu án quyển nào…” “Trời đất ơi! Còn vụ cống sĩ bị sát hại! Hai vụ án mạng phải giải quyết! Đợi đã, lão quản gia đã kể gì về gia chủ của Tống Nhất Văn nhỉ? À, đúng rồi, người của lão đã sục sạo trong khu vực đó, nhưng Mạnh chưởng quỹ là người có danh, không hề có điều tiếng về quan hệ ám muội nào cả. Đệ nghĩ gã sốt sắng đưa ra giả thuyết về tên lưu manh lang thang chỉ để thể hiện sự sáng suốt của bản thân. Khối kẻ trong thiên hạ thích tự mình điều tra phá án, huynh biết đấy!” “Đúng, chúng ta có thể loại họ Mạnh ra khỏi danh sách nghi can. Ta đã cân nhắc ý tưởng lạ lùng là Tống Nhất Văn bí mật qua lại với Mạnh tiểu thư, một nữ nhi trẻ trung và ưa nhìn. Một thị nữ cũng kể là từ phòng nàng có thể nghe thấy những giai điệu đa sầu đa cảm mà cống sĩ thổi vào ban đêm. Nếu Mạnh chưởng quỹ phát hiện ra mối tư tình ấy… Tuy nhiên, giờ chúng ta đã biết Chu Hồng mới là người mà y say mê, đến mức y muốn mua trâm bạc tặng nàng ta. Tống Nhất Văn từng kể cho Chu Hồng về gia chủ, nhưng không hề tỏ ý nghi ngờ họ Mạnh là kẻ đã hạ sát thân phụ mình. Vì vậy, chúng ta không có bất cứ thứ gì chống lại Mạnh chưởng quỹ cả.”
Địch huyện lệnh vuốt bộ râu dài đen bóng. “Trở lại với Tiểu Phượng. Chúng ta định dò hỏi nàng ta về diện mạo của thân phụ Chu Hồng, nhưng giờ đã muộn mất rồi. Đệ có thể đến Lam Ngọc phường hỏi thăm xem vũ nữ có từng nhắc gì về chuyện Chu Hồng là đứa con hoang và phụ thân cô ta vẫn còn lảng vảng quanh Quyên Thành hay không. Chúng ta hãy phác thảo kế hoạch cho ngày mai. Đầu tiên, đệ ghé thăm Lam Ngọc phường. Thứ đến, tra soát trong tàng văn khố nhằm tìm một vụ án mười tám năm trước. Thứ ba…” “Hiền huynh sẽ phải lưu tâm đến Lam Ngọc phường giùm đệ! Đệ đã hứa với thê nhi là sẽ đưa khách đến thưởng lãm mâm cỗ Trung thu mà họ bày biện ở đệ tứ viện tử vào sáng mai. Nếu lão mẫu thân cảm thấy khỏe, bà cũng sẽ đến đó tham dự.” “Thôi được, ta sẽ đến Lam Ngọc phường ngay sau bữa điểm tâm. Đệ hãy gửi một lá thư giới thiệu để ta đưa cho lão bà cai quản nơi ấy. Xong xuôi ta sẽ gia nhập cùng mọi người để thưởng cỗ Trung thu. Sau đấy, ngay khi có thể, chúng ta sẽ đi đến tàng văn khố để cùng tham vấn án quyển ở đó. Về việc thứ ba, ta sẽ phải làm một mình. Ta cần đi đến miếu Hắc Hồ, thuyết phục Chu Hồng rời khỏi cái nơi kinh khủng đấy. Đệ có căn buồng kín đáo nào cho cô gái đó trú tạm không?” Sau khi vị đồng liêu gật đầu, Địch huyện lệnh chậm rãi tiếp tục, “Thật chẳng dễ bảo cô ta dứt bỏ đàn cáo và gã nhân tình rùng rợn, nhưng ta hi vọng có thể thuyết phục được. Tiện nói về Chu Hồng, đệ có biết là đại sư Như Ý đang ngụ trong một ngôi chùa rất gần bãi đất hoang? Ông ta có một luận điệu kỳ lạ về việc một số người có sự đồng cảm đặc biệt với loài cáo.” Ông vuốt mạnh râu. “Thật đáng tiếc, ta không hỏi Chu Hồng xem thân phụ của cô ta gầy hay béo.”
“Vô nghĩa thôi, Địch huynh à.” Lỗ tri huyện nói vẻ nôn nóng. “Chu Hồng đã nói với huynh là theo đánh giá của Tiểu Phượng thì ông ta rất khôi ngô mà!” Địch huyện lệnh gật gù ra vẻ đồng ý. Bất kể dáng điệu dửng dưng, đồng liêu của ông vẫn là một thính giả rất chăm chú lắng nghe. “Tiểu Phượng quả thật đã nói thế. Nhưng có lẽ nàng ta nói vậy chỉ để làm cho cô gái tội nghiệp kia vui lòng. Sau bữa trưa, ta sẽ đi đến ngôi miếu hoang để gặp Chu Hồng, như thế thì ta mới có cả buổi chiều giải quyết sự vụ nhạy cảm này, trừ khi tri phủ đại nhân triệu tập ta.” “Trời cao anh minh, xin đừng để chuyện đó xảy ra!” Lỗ tri huyện kinh hãi kêu lên. “Không thể kể hết là đệ biết ơn huynh đến thế nào! Huynh đã đem đến cho đệ một tia hi vọng!” “Không may đó chỉ là một tia hi vọng rất mong manh. Tiện đây cho ta hỏi, bao giờ thì đệ cho bắt đầu bữa tiệc ở vách đá Thúy Ngọc? Nơi đó nằm ngoài thành phải không?” “Đúng thế. Đó là một điểm ngắm cảnh nổi tiếng của bản huyện! Nó nằm tít trên dãy núi gần đây nhất, mất khoảng hai khắc đi kiệu từ Tây môn. Vào dịp tết Trung thu, mọi người đều mong đợi được thưởng trăng ở một nơi cao mà! Có một ngôi đình ở đó, bên bìa khu rừng thông cả trăm năm tuổi. Huynh sẽ thích chỗ đó cho mà xem! Gia nhân sẽ tới trước vào ban trưa dể chuẩn bị mọi thứ. Chúng ta sẽ phải bắt đầu đi vào giờ Dậu để kịp đến đó chiêm ngưỡng cảnh hoàng hôn.”
Lỗ tri huyện đứng dậy. “Giờ đã quá nửa đêm, đệ cũng mệt nhoài rồi. Tốt hơn là chúng ta nên đi nghỉ. Dù vậy, đệ sẽ đi nhanh lên lầu trên một chút để ngắm qua bức thư pháp mà đại sư Như Ý viết tặng.” Địch huyện lệnh nhổm dậy. “Đệ sẽ thấy bút pháp trác tuyệt, uốn lượn như rồng bay phượng múa. Nhưng nội dung trong đó lại ám chỉ rằng ông ta biết nàng vũ nữ đã chết.” HỒI 13 Nơi vũ phường, Địch Huyện lệnh tìm thân thế Trong thế cùng, Lỗ tri huyện chịu rủi ro Địch huyện lệnh thức dậy sớm. Ông mở toang cánh cửa và ra đứng bên hàng hiên, trên người vẫn mặc nguyên bộ đồ ngủ, thưởng thức không khí sớm mai trong lành. Tòa giả sơn chìm trong bóng tối, sương sớm vẫn còn đọng lên lá trúc. Sau lưng ông, cả dinh thự vẫn chìm trong thinh lặng. Dường như mọi người vẫn chưa tỉnh giấc. Hẳn đám gia nhân đã phải dọn dẹp đến quá canh ba. Tuy nhiên, phía trước nha phủ vẫn vọng ra tiếng hô quân lệnh và tiếng vũ khí loảng xoảng. Lính gác đang tiến hành thao luyện thường nhật vào buổi sáng. Sau khi nhàn tản rửa mặt mũi, Địch huyện lệnh vận trường bào lụa xanh khá rộng rãi rồi đội chiếc mũ the màu đen. Ông vỗ tay và bảo một gia nhân còn đang ngái ngủ mang cho mình một ấm trà và bát cháo với ít dưa chưa. Y quay trở lại với một khay chất đầy đồ ăn: cơm trắng dẻo, rau dưa, gà lạnh, trứng tráng cua, canh đậu phụ, một rổ tre đựng chả rán và một đĩa hoa quả tươi. Rõ là bữa lót dạ xa hoa thế này đã thành lệ của Lỗ gia. Ông bảo gia nhân kéo bàn ra dưới hàng mái hiên. Ngay khi ông bắt đầu dùng điểm tâm, viên lục sự mang đến một bức thư được dán niêm phong. Đó là một bức thư ngắn từ vị đồng liêu:
Hiền huynh, Viên quản gia đang chuyển thi thể vũ nữ đến Lam Ngọc phường. Lão sẽ nói khéo để họ giữ bí mật cho đến sáng mai, khi đệ thăng đường xử án ở nha phủ. Kèm đây là bức thư giới thiệu để huynh gửi cho lão phu nhân cai quản Lam Ngọc phường. Ngu đệ Lỗ Quan Tùng. Địch huyện lệnh nhét thư giới thiệu vào ống tay áo, rồi bảo lục sự đưa ông đến cửa ngách của nha phủ, giải thích rằng mình muốn tản bộ buổi sớm. Đến góc phố, ông thuê một cỗ kiệu nhỏ và lệnh cho phu kiệu đưa mình đến Lam Ngọc phường. Ngồi trên kiệu, băng qua các phố tấp nập người đi chợ sớm, ông tự hỏi làm thế nào vị đồng liêu xoay xở không cho đám gia nhân của mình biết được nàng vũ nữ đã chết. Có lẽ lão quản gia ma mãnh đã dàn xếp ổn thỏa. Các phu kiệu dừng lại trước một cánh cổng sơn đen giản dị trong một khu dân cư yên tĩnh. Vừa toan nói họ đã đưa mình đến sai địa chỉ thì ông kịp nhận ra mấy chữ ‘Lam Ngọc phường’ được khắc trên một tấm biển nhỏ bằng đồng treo kín đáo bên cổng. Khi người gác cổng cáu kỉnh cho Địch huyện lệnh vào, ông thấy một khoảng sân lát đá được chăm nom tươm tất và được trang hoàng bởi mấy cây hoa đang trổ bông, trồng trong chậu đá cẩm thạch chạm trổ tinh xảo. Phía trên cánh cửa đôi sơn đỏ ở cuối sân, một tấm biển trắng đề mấy chữ lớn màu xanh lam, Bách hoa thiện đệ xuân thường tại*. Không thấy thiêm danh người viết, nhưng thư pháp rất giống của Lỗ tri huyện.
Nghĩa là: Mùa xuân trường cửu giữa trăm hoa đua sắc. Một gã bặm trợn vai rộng, mặt rỗ nhận bức thư của huyện lệnh với vẻ hoài nghi, nhưng khi thấy dấu triện đỏ của nha phủ ở mặt sau, gã vội khúm núm cúi chào. Gã dẫn ông đi dọc theo hành lang mở với hàng lan can được chạm trổ và sơn son, bao quanh hoa viên diễm lệ, dẫn tới một tiền sảnh nhỏ. Địch huyện lệnh ngồi xuống bên cạnh bàn trà bóng loáng đóng từ gỗ đàn hương. Tấm thảm dày màu lam mềm mịn dưới chân ông, trên tường phủ gấm thêu cùng màu. Khói long diên hương bốc lên từ một lư hương làm bằng sứ trắng, đặt trên chiếc bàn gỗ tử đàn kê sát tường. Qua các ô mắt cáo trên cánh cửa, ông thấy được một góc khu nhà hai lầu nhìn ra hoa viên. Từ những tấm bình phong thếp vàng đặt dọc theo bao lơn vọng ra tiếng đàn tam thập lục. Rõ là những người trong nhà đang tập chơi đàn. Một nữ nhân đồ sộ mặc đồ đen thêu hoa bước vào, theo sau là một tỳ nữ ra dáng bẽn lẽn bưng một khay trà. Chắp tay lại trong ống áo rộng, bà ta tuôn ra một bài nghênh đón lịch thiệp. Trực diện ngắm nhìn gương mặt xanh xao, bờ má chảy xệ cùng đôi mắt tròn, nhỏ và sáng quắc, ông thầm nghĩ rằng mình chẳng ưa nổi cái nhân dạng ấy. “Viên quản gia ở tư dinh quan tri huyện đã đến đây chưa?” Ông cắt ngang nữ nhân đang nói không ngừng. Lão bà kêu tỳ nữ đặt khay trà lên bàn và lui ra đế hai người đàm luận riêng. Đưa bàn tay sửa lại xống áo cho ngay ngắn, bà ta nói, “Bẩm đại nhân, dân phụ hết mực thương tiếc trước tai ương đen đủi này. Có ai ngờ cuộc đời lại đang tâm vùi hoa dập liễu như vậy. Dân phụ hết lòng mong mỏi sự việc không làm phiền lòng các thượng khách.”
“Vị đồng liêu của ta đã thông báo cho họ là vũ nữ chỉ bị thương ở chân. Ngươi có thể trao cho ta giấy tờ của Tiểu Phượng không?” “Dân phụ biết là ngài sẽ cần chúng, thưa đại nhân,” lão bà đáp lời với một nụ cười thỏa mãn. Bà ta lấy ra từ ống tay áo một tập giấy rồi trao lại cho Địch huyện lệnh, ông thấy chúng chẳng có gì đặc biệt để phải lưu tâm. Tiểu Phượng là con út của một tiểu thương bán rau. Ba năm trước, nàng bị bán đi vì một lý do đơn giản: nàng có đến bốn người chị và thân phụ không thể chu toàn của hồi môn thêm nữa. Vũ đường đã thuê một người thầy nổi tiếng dạy Tiểu Phượng múa hát. Nàng cũng được kèm cặp để biết đọc, biết viết những chữ đơn giản. “Tiểu Phượng có thân thiết với người nào trong số khách phong lưu hoặc đám tỷ muội ở đây không?” Địch huyện lệnh hỏi. Lão bà trịnh trọng châm cho ông một chén trà rồi lặng lẽ đáp, “Đối với các khách bảo trợ cho cơ ngơi này, hầu như ai cũng biết đến Tiểu Phượng. Là một nhất đẳng vũ nữ, nàng ta được nhiều yến tiệc chào mời. Do không có nhan sắc, nên Tiểu Phượng chỉ được vài khách cao niên gạ gẫm ơn huệ đặc biệt, chắc hẳn họ bị thu hút bởi dáng vẻ trẻ con của Tiểu Phượng. Nàng ta luôn luôn từ chối, còn dân phụ cũng không ép uổng chi. Chỉ riêng việc nhảy múa, vũ nữ cũng mang lại kha khá ngân lượng cho vũ đường rồi.” Một cái nhíu mày khẽ xuất hiện trên vầng trán phẳng khi bà ta tiếp tục, “Tiểu Phượng là người lặng lẽ, không bao giờ cần phải chỉnh sửa, uốn nắn và rất mẫn cán học hỏi vũ nghệ. Nhưng các tỷ muội khác trong Lam Ngọc phường lại ghét, họ nói là Tiểu Phượng… có mùi cáo và thật ra là hồ ly tinh đột lốt người. Thật phiền toái khi phải duy trì trật tự giữa đám nữ nhân trẻ trung ấy… việc này đòi hỏi nhiều kiên nhẫn và cả sự quan tâm tử tế của…”
“Tiểu Phượng có bao giờ gạ gẫm, tống tiền khách không?” Lão bà giơ tay lên phản đối. “Không hề có chuyện ấy, thưa đại nhân!” Bà ta la lên, ngó nhìn ông đầy trách móc. “Tất cả các cô nương của dân phụ đều biết rõ, nếu đứa nào dám cả gan giở trò thì sẽ phải chịu phạt roi ngay lập tức! Nơi này có danh tiếng từ lâu đời rồi! Dĩ nhiên Tiểu Phượng có nhận những món tiền thưởng từ khách và… à, có vẻ khá khôn khéo kiếm thêm tiền theo… à, nhiều phương cách khác nhau, nhưng vẫn chấp nhận được. Do Tiểu Phượng là một đứa dễ bảo, nên dân phụ cho phép nàng ta được thỉnh thoảng ghé thăm vệ nữ của miếu Hắc Hồ. Chỉ vì nữ nhân ấy dạy cho Tiểu Phượng những bài hát thú vị được nhiều khách nhân ưa chuộng.” Bà ta mím chặt bờ môi mỏng của mình. “Bọn du côn thường hay lảng vảng quanh khu vực Nam môn. Chắc Tiểu Phượng đã qua lại với một kẻ bất hảo ở đấy và chính hắn đã gây ra tội ác tày đình này. Đáng ra dân phụ không nên thả lỏng đám nữ nhi ra khỏi tầm mắt. Cứ nghĩ đến khoản ngân lượng mà dân phụ đã bỏ ra để dạy múa cho nàng ta…” “Về người canh giữ miếu Hắc Hồ, có phải trước đây cô nương đó đã chạy khỏi nơi này không?” Lần thứ hai, lão bà nhìn ông đầy trách móc. “Dĩ nhiên là không, thưa ngài! Cô nương đó đã bị bán cho một chốn nhỏ tẹo gần Đông môn. Một thanh lâu mạt hạng cho đám phu dịch và những phường hạ lưu khác. Một… một nhà thổ, nếu ngài cho phép dân phụ nói thẳng ra.”
“Ta hiểu rồi. Tiểu Phượng có bao giờ đề cập đến việc vệ nữ không phải là trẻ mồ côi và phụ thân của cô nương ấy sống đâu đó trong thành này?” “Chưa bao giờ, thưa ngài. Dân phụ có lần từng hỏi Tiểu Phượng xem liệu cô nương kia có bao giờ tiếp đón… nam nhân hay không, nhưng nó nói mình là người duy nhất ghé thăm ngôi miếu.” “Nữ sĩ Ngọc Lan rất đau đớn trước cái chết của Tiểu Phượng. Giữa họ có tồn tại tình cảm đặc biệt nào không?” Lão bà hạ thấp tầm mắt. “Thưa, rõ là nữ sĩ cao quý đã bị ấn tượng bởi cung cách e thẹn và trẻ trung của Tiểu Phượng,” bà ta nghiêm nghị đáp rồi nhanh chóng tiếp lời, “và cả tài năng múa nữa, dĩ nhiên rồi. Dân phụ là người rất rộng lượng với những mối quan hệ nữ ái. Và trước đây lão bà này từng có vinh hạnh được biết nữ sĩ ở chốn kinh đô.” Bà ta nhún đôi vai. Địch huyện lệnh đứng dậy. Trong lúc lão phu nhân tiễn khách ra đến cổng, ông hờ hững bình phẩm, “Đại học sĩ Thiệu Phàn Viên, thi sĩ cung đình Trương Lam Ba và đại sư Như Ý, tất cả đều thất vọng vì không được tận mắt thưởng thức vũ điệu của Tiểu Phượng. Hẳn họ từng xem cô ấy biểu diễn trước đây.” “Dường như là không thể, thưa đại nhân! Hai vị đại quan ấy làm rạng danh huyện này bằng đôi lần viếng thăm, nhưng họ chưa bao giờ dự phần vào bất cứ bữa yến tiệc nào. Bởi thế mà dân tình xôn xao bàn tán khi họ chấp thuận lời mời của tri huyện đại nhân! Lỗ đại nhân quả là người tuyệt vời, luôn hành xử tử tế và thấu tình đạt lý! Tên của vị đại sư mà đại nhân vừa nhắc tới là gì ạ?”
“Điều đó không quan trọng. Xin cáo biệt.” Trở về nha phủ, Địch huyện lệnh nhờ một lục sự đánh tiếng với Lỗ tri huyện, ông tìm thấy vị đồng liêu trong thư phòng riêng, đứng trước cửa sổ, hai tay chắp sau lưng. Lỗ tri huyện quay lại và nói với vẻ bơ phờ, “Hi vọng hiền huynh được ngon giấc. Đệ đã có một đêm thật tồi tệ! Nửa canh giờ sau nửa đêm, đệ rón rén vào buồng ngủ chính, nghĩ rằng đó là nơi tuyệt nhất để có một đêm nghỉ ngơi như ý, vì đại nương tử luôn đi ngủ sớm. Nhưng đệ lại thấy nàng thức giấc, cùng với tam nương tử và tứ nương tử đứng ngay trước giường, cãi cọ um sùm! Đại nương nói đệ phải giải quyết trận cãi vã ấy. Cuối cùng, đệ phải tháp tùng tứ nương tử, để rồi nàng ta giữ đệ thức trắng nửa canh giờ nữa, kể lể chi tiết làm thế nào mà trận khẩu chiến bắt đầu.” Chỉ tay vào phong thư công vụ to tướng để trên bàn, ông ta thống thiết thêm lời, “Lá thư là của tri phủ đại nhân gửi đến cho huynh. Nếu đó là lệnh triệu tập thì đệ sẽ nhảy xuống sông mất thôi!” Ông mở phong thư. Đấy là một thông cáo ngắn gọn về việc huyện lệnh phải trở về nhiệm sở ngay, không được trì hoãn. “Không, ta được lệnh phải quay về Phổ Dương, chậm nhất là sáng mai phải khởi hành!” “Trời cao hãy cứu vớt! Ôi, chúng ta chỉ còn mỗi hôm nay thôi. Huynh đã biết được chuyện gì từ chỗ lão phu nhân?” “Chỉ toàn là những chuyện bất lợi cho Ngọc Lan. Trước hết, nữ sĩ tỏ rõ là mình ưa thích Tiểu Phượng. Thứ nữa, không ai trong số ba vị khách của chúng ta từng ghé thăm Lam Ngọc phường. Lão bà nghĩ là hầu như không thể có chuyện bọn họ từng gặp gỡ vũ nữ trước đây.”
Khi vị Tri huyện ủ rũ gật đầu, ông hỏi, “Đệ có biết dự định của các vị khách cho buổi chiều nay không?” “Vào giờ Thân tất cả sẽ tập hợp tại thư phòng để cùng nhau đọc, thảo luận về tập thơ mới nhất của đệ. Không thể tin được, đệ đã háo hức trông chờ buổi bình thơ này biết bao!” Lỗ tri huyện buồn bã lắc đầu. “Đệ có nghĩ đám thuộc hạ của lão quản gia đủ tinh thông để theo dõi các vị khách, xem họ có ra ngoài sau bữa cơm trưa không?” “Trời ơi, Địch huynh! Ý huynh là phải theo dõi họ ư?” Rồi ông ta nhún vai vẻ cam chịu. “Ôi, đằng nào thì sự nghiệp chốn quan trường của đệ cũng tan rồi. Đệ nghĩ mình có thể đương đầu với rủi ro.” “Được rồi. Ta cũng muốn đệ ra lệnh cho viên vệ úy ở Nam môn bố trí hai lính gác có vũ trang ở một quầy hàng đối diện lối vào bãi đất hoang, theo dõi sát sao vòm cổng. Hãy cho phép họ bắt giữ tất cả những ai muốn ghé thăm miếu Hắc Hồ. Ta không muốn bất cứ rủi ro gì xảy đến với cô gái tội nghiệp ở nơi ấy. Ta cũng có thể cần người hỗ trợ khi đến đó vào trưa nay. Hiện giờ các vị khách của chúng ta đang ở đâu?” “Họ đang dùng bữa sáng. Ngọc Lan ở cùng với đại phu nhân. Nhờ đó đệ mới có thời gian đưa huynh đến tàng văn khố!” Ông ta vỗ tay. Khi bộ đầu xuất hiện, ông ta lệnh cho y đích thân đến Nam môn và chuyển chỉ thị cho viên vệ úy, trước đó thì y hãy báo với sư gia rằng tri huyện muốn họ Cao có mặt ở văn khố.
Lỗ tri huyện dẫn Địch huyện lệnh đi qua một hành lang ngoằn ngoèo như mê cung đến một gian phòng rộng rãi và mát mẻ. Những vách tường xung quanh kê kín giá kệ cao ngất, chất đầy các thùng văn thư bọc da son đỏ. Mùi sáp đánh bóng cùng mùi long não rắc giữa đám giấy tờ để chống sâu mọt tỏa ra dễ chịu. Phía cuối chiếc bàn đồ sộ ở chính giữa sàn nhà lát gạch đỏ, một viên lục sự già nua đang sắp xếp giấy tờ. Đầu bàn kia, đại sư Như Ý đang cắm cúi xem văn thư. HỒI 14 Thù gia phụ, mười tám năm oan báo Mộng đế vương, ai điên đảo trời xanh Thiền sư mặc áo sợi gai nâu sòng, vạt áo vắt chéo sang vai trái được cài một chiếc móc sắt han gỉ. Ông ta nghiêm trang tiếp nhận lời chào hỏi của hai vị huyện quan, rồi lặng lẽ lắng nghe Lỗ tri huyện đa tạ vì bức thư pháp mà nhà sư đã họa bút đề tặng vào tối hôm trước. Sau đó, đại sư dùng ngón tay trỏ thô kệch gõ nhẹ vào đống văn thư trước mặt và nói bằng giọng khàn khàn, “Ta ghé qua đây để đọc và nghiền ngẫm về cuộc khởi nghĩa nông dân hai trăm năm trước. Thời đó, có một cuộc tắm máu ở Nam môn. Nếu tất cả những người bị hạ sát khi ấy vẫn còn đang quanh quẩn ở đó, thì dù có chen, ngài cũng chẳng thể nào ra khỏi cổng thành. Ngài cần văn thư này ư?” “Không phải, ta đến để tìm kiếm thứ khác.” Thiền sư chằm chằm nhìn Lỗ tri huyện. “Thật à? Này, nếu ngài không thể tìm thấy thứ mình cần, chỉ cần niêm phong gian phòng này lại và thắp một nén hương ở miếu hồ ly trong phủ. Khi quay trở lại đây, ngài sẽ thấy văn thư ấy nằm chình ình trên kệ sách. Thi thoảng, hồ ly vẫn giúp đỡ quan viên triều đình.”
Ông ta đóng tập văn thư lại và đứng dậy. “À, không phải đã đến giờ thưởng lãm mâm cỗ Trung thu của ngài rồi chứ?” “Ta sẽ đưa thầy đến đó bây giờ! Huynh sẽ gia nhập với bọn đệ sau nhé. À, đây là sư gia của đệ! Hãy trợ giúp đồng liêu của ta tìm văn thư, Cao sư gia!” Lỗ tri huyện đi ra ngoài, kính cẩn mở cửa cho thiền sư. “Thưa đại nhân, tiểu nhân có thể giúp gì cho ngài ạ?” Giọng họ Cao rõ ràng, rành mạch. “Ta nghe nói vào năm Giáp Tuất, tại đây đã xảy ra một vụ án mạng chưa thể nào phá giải được. Ta muốn xem án quyển của vụ án đó.” “Thưa, năm Giáp Tuất ghi lại một vết nhơ tai tiếng với mưu đồ soán đế đoạt ngôi của Cửu Hoàng tử! Nhưng còn về vụ án mạng chưa tìm ra hung thủ thì… tiểu nhân không nhớ mình từng đọc về chuyện đó. Có lẽ lão nhân đằng kia sẽ biết. Lão vốn sinh ra và lớn lên ở vùng này mà! Liễu tiên sinh, lão có nhớ ra vụ án mạng nào chưa được xử lý rốt ráo vào năm Giáp Tuất không?” Viên lục sự già ngẫm nghĩ, tay vuốt chòm râu lơ thơ. “Dạ không, thưa ngài. Đấy là một năm xấu ở chốn Quyên Thành này, phải rồi, vì cuộc mưu phản của đại tướng quân Mạc Đức Linh. Nhưng không có vụ án mạng dở dang nào cả.” “Ta đã đọc về vụ án của Mạc tướng quân,” Địch huyện lệnh bình luận, “ông ta là kẻ đồng mưu làm phản với Cửu Hoàng tử phải không?” “Ồ vâng, thưa đại nhân. Tất cả văn thư về việc ấy nằm trong thùng lớn màu đỏ kia, trên tầng giá thứ năm ở bên phải. Còn các tập án quyển bọc giấy bên cạnh là của những vụ án khác trong cùng năm đấy.”
“Chúng ta sẽ lấy hết tất cả rồi đặt xuống bàn ở đây, Cao tiên sinh!” Lão lục sự dựng cái thang gấp tựa vào kệ sách, lấy từng văn thư xuống và trao cho viên sư gia. Họ Cao đặt chúng lên bàn, sắp xếp theo thứ tự thời gian. Khi hàng văn thư cứ dài và dài ra mãi, Địch huyện lệnh nhận ra phạm vi rộng lớn của công việc mình đang đảm nhiệm. Không nhất thiết là một vụ án mạng chưa được phá giải, nó có thể là một vụ án đã xử lý xong, với một nam nhân vô tội bị kết án oan. Nếu vậy thì chính kẻ cáo buộc đã đẩy người kia vào chỗ chết. “Ông đã cất giữ văn thư thật cẩn thận, Cao tiên sinh à,” Địch huyện lệnh bình phẩm. “Không có một hạt bụi nào vương trên chúng!” “Thưa, hàng tháng, tiểu nhân đều yêu cầu các lục sự mang tất cả văn thư xuống.” Viên sư gia đáp với nụ cười hài lòng. “Các thùng được đánh bóng và văn thư được phơi thoáng, như thế sẽ chống được cả mối mọt!” Ông nghĩ rằng trong vụ án này, thật đáng tiếc là tàng thư khố lại sạch sẽ và gọn gàng đến vậy. Nếu những văn thư cũ kĩ kia phủ đầy bụi, thì các vết tay gần đây có thể chỉ ra những án quyển mà chàng cống sĩ đã tham vấn. “Tống Nhất Văn từng xem xét thư tịch ngay tại bàn này chăng?” “Vâng, thưa ngài. Các văn thư chất ở kệ thấp bên dưới là những gì liên quan đến cuộc khởi nghĩa nông dân mà Tống Nhất Văn nghiên cứu. Đó là một anh chàng rất thông minh, có niềm ham thích vô bờ bến đối với các vấn đề trị quốc. Khi đến chốn này, tiểu nhân thường thấy y đọc văn thư của giai đoạn gần đây hơn. Y là một nho sĩ chuyên tâm nghiên cứu, không bao giờ giữ tiểu nhân lại để hàn huyên. À, đây là tất cả văn thư ngài yêu cầu.”
“Đa tạ. Ta sẽ không ngăn ngươi làm việc nữa. Nếu cần gì, ta sẽ hỏi lão lục sự.” Khi viên sư gia đã rời đi, Địch huyện lệnh ngồi xuống bên bàn và mở án quyển thứ nhất ra. Lão Lục sự quay lại với đống giấy tờ mà mình đang sắp xếp ở đầu bàn đằng kia. Chẳng mấy chốc, ông đã bị ngập trong rất nhiều vụ án khác nhau. Một hoặc hai vụ nảy sinh thêm những vấn đề thú vị, nhưng không có vụ nào cho thấy có oan sai. Tống Nhất Văn chỉ xuất hiện duy nhất một lần, là bị cáo trong một vụ lừa gạt nhỏ. Khi viên lục sự trẻ tuổi mang trà đến, ông kinh ngạc nhận thấy lúc này đã là giờ Tỵ. Y thông báo cho ông biết Lỗ tri huyện vẫn còn ở đệ tứ viện tử cùng với khách khứa. Có vẻ như bữa cơm trưa sẽ được phục vụ ở đó. Trút một hơi thở dài, Địch huyện lệnh quyết định xem đến chỗ giấy tờ liên quan đến tội tạo phản của đại tướng quân Mạc Đức Linh, người đã bị hành quyết cùng với những kẻ đồng lõa, sau khi bị quy kết trọng tội đại nghịch bất đạo chống lại triều đình. Có khả năng là một trong số họ đã bị cáo buộc oan sai.👁 Địch Công tham vấn tàng văn khố Ngay khi mở thùng ra, ông mỉm cười, vành môi cong lên vẻ hài lòng. Các văn thư trong thùng được xếp rất cẩu thả và lộn xộn. Đối với một tàng văn khố được lưu trữ ngăn nắp thì đây là một dấu hiệu bất thường, chứng tỏ ông đang đi đúng hướng. Rõ ràng là cống sĩ đã tham khảo những văn thư này và hấp tấp xếp trả chúng lại vào chỗ cũ khi có ai đó bước vào phòng. Địch huyện lệnh cẩn trọng sắp đặt các tập văn thư lên bàn theo thứ tự số hiệu của chúng.
Tập thứ nhất tóm tắt nội dung vụ án Cửu Hoàng tử, thận trọng đề cập rằng Hoàng tử là một người có đầu óc bất ổn: đa nghi đến mức bệnh hoạn, mắc chứng trầm uất nặng nề, đố kỵ và hay gây gổ. Sau khi suýt giết chết một viên cận thần trong cơn thịnh nộ, Cửu Hoàng tử bị Hoàng đế đày đến cung điện ở Quyên Thành. Hoàng đế hi vọng cuộc sống yên tĩnh nơi đây sẽ có ảnh hưởng tích cực lên hoàng tử. Tuy nhiên, hoàng tử bắt đầu lo lắng về những điều sai trái hoang đường. Đám nịnh thần xung quanh cứ ra rả tâng bốc ông ta, lại thêm vị chính phi chuyên quyền và đầy tham vọng giật dây, cuối cùng hoàng tử đã hình thành trong tâm tưởng một kế hoạch ngông cuồng là dấy binh làm phản nhằm tiếm ngôi cửu ngũ. Khi ông ta đang cố gắng mua chuộc đám văn quan và võ tướng bất mãn, thì cái mưu đồ vĩ cuồng ấy bị rò rỉ ra bên ngoài. Hoàng đế đặc phái quan ngự sử làm khâm sai đại thần, đến Quyên Thành để toàn quyền xử lý vụ việc. Tháp tùng vị quan này là ba ngàn cấm vệ quân. Binh lính bao vây cung điện, quan ngự sử triệu tập Cửu Hoàng tử cùng chính phi đến để thẩm vấn. Ngài ấy nói với Hoàng tử rằng Hoàng Thùy Bệ hạ đã biết rõ nguồn cơn sự việc nhưng vẫn sẵn sàng tha thứ, miễn là hoàng tử ra lệnh cho các thủ hạ nộp mình chịu trói, còn ông ta cùng thê tử phải lập tức hồi kinh. Cùng với tâm trạng “thắng làm vua, thua làm ma thiên cổ,” Cửu Hoàng tử liền rút gươm giết chết chính phi rồi xoay lưỡi gươm cắt cổ tự vẫn. Cấm vệ quân tràn vào cung điện và bắt giữ tất cả mọi người trong khi quan ngự sử tịch thu mọi văn thư. Chuyện này xảy ra ngày mùng 4 tháng Hai, mười tám năm về trước.
Cùng ngày hôm ấy, quan ngự sử cho mở cuộc điều tra. Tất cả các cận thần biết rõ kế hoạch và mọi kẻ tòng phạm khác đều chịu cảnh tiền trảm hậu tấu ngay lập tức. Mặc dù Hoàng đế sẵn sàng miễn tội cho vị Hoàng tử đầu óc không được tỉnh táo, nhưng những kẻ dự phần đều bị hành quyết không tha. Trong suốt những ngày đảo điên thế sự ấy, một số cáo trạng sai lầm đã được đệ trình, nhiều kẻ xấu xa đã lợi dụng cơ hội để trả thù cá nhân và triệt hạ các đối thủ. Chuyện như thế vẫn thường xảy ra trong những vụ trọng án có ảnh hưởng rộng khắp xã tắc. Quan ngự sử xem xét hết sức cẩn trọng mọi cáo trạng, hầu hết là thư ẩn danh, nhằm phân rõ trắng đen. Trong số ấy, có một lá thư dài khẳng định Mạc Đức Linh, vị đại tướng quân đã hồi hưu, có tham gia vào mưu đồ tạo phản, và bằng chứng buộc tội là thư từ qua lại với Cửu Hoàng tử đang được cất giấu ở một nơi bí mật trong khu nữ quyến của Mạc gia. Quan ngự sử liền cho lục soát và thư từ thông mưu quả thật đã được phát hiện tại chỗ chỉ điểm. Tuy bị bắt và khép vào tội tạo phản, đại tướng quân chối bỏ tất cả, một mực khẳng định những lá thư là giả mạo và kẻ thù đã lén bỏ chúng vào phủ của ông ta. Nhưng bấy giờ, quan ngự sử đã biết rằng Mạc Đức Linh bất mãn do triều đình không những chẳng thăng cấp cho mình lên phẩm hàm cao hơn, mà còn thay thế vào vị trí đó một kẻ thua kém ông ta cả về thâm niên quan trường lẫn kinh nghiệm xông pha trận mạc. Quan ngự sử luận ra vì thế mà họ Mạc đã cáo lão từ quan trước tuổi, về an dưỡng hưu trí tại quê nhà là huyện Quyên Thành, lo lắng băn khoăn về sự đời sai lầm ấy. Các vị đồng liêu trước đây làm chứng rằng ông ta thường nói với họ về một sự đổi thay sắp xảy ra, rằng tất cả các nam nhân hữu dũng sẽ có cơ hội để ngẩng mặt với đời. Quan ngự sử khảo nghiệm các lá thư và thấy chúng hoàn toàn xác thực. Mạc tướng quân bị tuyên có tội và bị hành hình cùng với hai lệnh lang đã trưởng thành, chiếu theo đúng luật trừng trị tội tạo phản đã ban hành. Tất cả gia sản của Mạc gia đều bị tịch thu sung công.
Địch huyện lệnh ngả người dựa lưng vào ghế. Thật là một câu chuyện hấp dẫn. Khi nghiên cứu về nó ở đây, trong cùng nha phủ diễn ra phiên thăng đường xử án gây chấn động thiên hạ ngày ấy, ông cảm nhận được sự gần gũi mà các vụ cổ án thường thiếu vắng, ông chọn một văn thư liệt kê các thành viên của Mạc gia và khối tài sản bị sung quốc khố của họ Mạc. Thình lình, ông nghẹn thở. Đại tướng quân có ba thê tử và hai người thiếp. Nàng thiếp thứ hai mang họ Tống. Không có thêm chi tiết nào về nàng, do nàng không hề bị thẩm vấn lấy khẩu cung. Thiếu phụ đã treo cổ quyên sinh vào đêm mùng 3 tháng Hai, một ngày trước khi quan ngự sử về đến Quyên Thành. Người thiếp ấy từng hạ sinh cho đại tướng quân một nhi tử, đặt tên là Nhất Văn. Khi tai họa giáng xuống đầu Mạc gia, tiểu tử mới chỉ năm tuổi. Mọi thứ đều trùng khớp! Rốt cuộc, sau nhiều chờ đợi, manh mối mà ông đang kiếm tìm đã lộ diện! Địch huyện lệnh tựa lưng vào ghế, mỉm cười hài lòng. Chợt nụ cười tê cứng trên gương mặt ông. Chàng cống sĩ quay về chốn này để rửa hận cho thân phụ. Có nghĩa là Tống Nhất Văn đã khám phá ra bằng chứng về sự vô tội của Mạc tướng quân, rằng y nghi ngờ kẻ viết lá thư đã ngụy tạo chứng cớ và hắn chính là cừu nhân đã sát hại thân phụ mình. Việc kẻ thủ ác giấu mặt sát hại Tống Nhất Văn là bằng chứng rành rành cho thấy y đã đi đúng hướng. Có trời xanh chứng giám, đã xảy ra một vụ oan án cách đây mười tám năm!
Huyện lệnh cầm lấy tập văn thư ghi lại phiên thăng đường xét xử vụ án. Chậm rãi vuốt chòm râu, ông đọc lướt qua từ đầu đến cuối, những mong phát hiện ra các vết tích sai lầm ở đâu đó. Nhưng chỉ có một luận điểm có lợi cho Mạc Đại tướng quân, cụ thể là không có bất cứ kẻ đồng mưu nào trong vụ tạo phản biết rằng Cửu Hoàng tử đã mua chuộc được họ Mạc. Thế nhưng, quan ngự sử đã bác bỏ chuyện ấy với lý do Cửu Hoàng tử là người vô cùng đa nghi nên không tin tưởng cả những thủ hạ thân tín. Vụ án chủ yếu căn cứ vào những lá thư tìm thấy trong dinh của đại tướng quân. Chúng là những bản viết tay của Hoàng tử, bằng chính giấy viết thư của ông ta, bên trên lá thư còn rành rành dấu triện riêng được đóng xuống. Vừa lắc đâu, Địch huyện lệnh vừa chọn tìm nguyên bản lá thư vô danh. Nhưng đó chỉ là một bản sao lưu được lục sự chép lại với nét chữ rất tầm thường, tất cả bằng chứng gốc đều đã được chuyển về kinh. Xét theo lối hành văn hoàn hảo, chắc chắc nó phải được viết ra bởi một văn nhân học vấn uyên thâm. Bên lề lá thư có sao lại câu ghi chú của ngự sử đại nhân, “Nguồn gốc lá thư này có lẽ từ một viên cận thần bất mãn. Cần xác minh ngay nội dung và nét chữ.” Đọc văn thư tiếp theo, Địch huyện lệnh phát hiện ra, bất chấp nỗ lực từ các thuộc hạ của quan ngự sử, họ vẫn không thể xác định được danh tính của người viết. Triều đình đã công bố cáo thị, hứa trao thưởng hậu hĩnh cho người viết, nhưng không hề có ai đến xác nhận cả.
Chậm rãi vuốt chòm râu dài, Địch huyện lệnh cân nhắc về vụ án. Việc giả mạo thư từ của Cửu Hoàng tử là không thể, vì chúng được xác thực bởi dấu triện riêng là vật bất ly thân của ông ta. Thêm nữa, quan ngự sử có tiếng là thanh liêm chính trực, là một vị thần thám với tài giải quyết những vụ án gai góc có liên quan đến các nhân vật quyền cao chức trọng, ông nhớ ra chính thân phụ mình, sau này khi đảm nhận chức tham nghị đại phu, đã đôi lần kể về các vụ án đó và hết mực ca ngợi sự nhạy bén của quan ngự sử. Do vậy, ngài ấy phải hoàn toàn chắc chắn về vụ án trước khi luận tội. Ông đứng dậy và bắt đầu đi đi lại lại trong phòng. Chàng cống sĩ đã có được những bằng chứng mới mẻ nào? Khi tất cả biến cố xảy ra, Tống Nhất Văn mới lên năm, vì thế chứng cứ của y chỉ đến từ những câu chuyện truyền miệng hoặc văn thư lưu lại mà thôi. Làm thế nào để truy dấu những gì y đã khám phá được? Tống Nhất Văn đã bị sát hại và ác nhân đã đánh cắp những văn thư mà y giấu tại nơi trọ. Gia đình bên ngoại của y dường như là nơi khai thác thông tin khả dĩ đầu tiên. Địch huyện lệnh vẫy tay ra hiệu cho lão Lục sự và hỏi, “Có nhiều gia đình họ Tống ở Quyên Thành không?” “Nhiều lắm, thưa ngài. Người giàu lẫn người nghèo, kẻ có họ hàng hoặc tứ cố vô thân. Thời xa xưa, cả vùng này đều mang họ Tống, ngài biết đấy.” “Hãy đưa cho ta sổ bộ đăng ký thuế khóa của năm Giáp Tuất, mục ấn định thuế, nhưng chỉ riêng phần của các gia môn họ Tống thôi nhé.”
Khi lão nhân đặt một quyển sổ cái lên bàn, Địch huyện lệnh tham vấn các gia môn họ Tống có thu nhập thấp nhất. Do thân mẫu của cống sĩ chỉ là thứ thiếp, nên thân phụ của bà hẳn là một tá điền thuê đất, một tiểu thương nhỏ hay thợ thủ công mà thôi. Có nửa tá người họ Tống thuộc diện này. Người đứng thứ ba trong danh sách là một tiểu thương bán rau tên Tống Văn Đạt, có một thê tử và hai nhi nữ, trưởng nữ cưới một anh chàng mua bán ngũ kim họ Hoàng, còn thứ nữ thì bị bán làm thứ thiếp cho đại tướng quân Mạc Đức Linh. Ông trỏ ngón tay cái vào đề mục và nói, “Vui lòng tìm trong sổ hộ tịch của năm nay xem liệu Tống lão gia còn sống hay không.” Lão lục sự tiến đến các kệ sách ở vách bên và lê bước trở lại với một chồng các cuộn giấy dày cộp. Lão lật mở vài cuộn và săm soi kĩ lưỡng những mục, miệng lẩm bẩm, “Tống Văn Đạt… Tống Văn Đạt…” Cuối cùng, lão ngẩng lên nhìn và lắc đầu. “Thưa ngài, ông ta và thê tử chắc hẳn đã qua đời mà chẳng có nam tử nối dõi tông đường, vì không còn tên ai thuộc Tống gia được liệt kê ra nữa. Đại nhân có muốn biết năm mà họ quy tiên không ạ?” “Không, điều đó không cần thiết. Hãy đưa cho ta danh sách các thành viên của Phường thương nhân ngũ kim nào!” Địch huyện lệnh nhổm dậy khỏi ghế. Đây là cơ hội cuối cùng. Lão Lục sự mở một hộp to ghi mấy chữ ‘Tiểu phường hội’. Lão chọn ra một quyển sổ mỏng và trao lại cho huyện lệnh. Trong lúc lão thu dọn lại tất cả các cuộn giấy, ông lật nhanh và đọc lướt qua quyển sổ. Đúng, có một người buôn bán ngũ kim họ Hoàng, đã kết nghĩa phu thê với nữ nhân họ Tống. Đề mục được đánh dấu bằng một khoanh tròn nhỏ bên lề trang giấy, nghĩa là họ Hoàng đã trì hoãn thanh toán hội phí. Gã đang sống ở một con ngõ gần Đông môn. Ông ghi nhớ địa chỉ, đoạn ném quyển sổ lên bàn, mỉm cười hài lòng.
Cúi xuống tập văn thư về họ Mạc, Địch huyện lệnh xác nhận toàn bộ Mạc gia đã tan tác sau khi đại tướng quân bị hành quyết. Nhi tử của người thiếp đã chết, Tống Nhất Văn, được một thúc phụ họ xa ở kinh đô nhận nuôi. Ông lấy bản sao của lá thư tố cáo đại tướng quân ra khỏi hòm và bỏ nó vào trong ống tay áo. Ông cảm tạ lão lục sự, bảo lão có thể sắp xếp lại tất cả các văn thư. Rồi ông tản bộ về phía dinh. Trên đường về đến đệ tứ viện tử, Huyện lệnh nghe thấy tiếng nô đùa của con trẻ. Thật là một quang cảnh náo nhiệt và đáng yêu. Khoảng hai chục đứa trẻ mặc lễ phục rực rỡ đang vui đùa quanh mâm cỗ Trung thu cao ngang đầu người, được bày biện ở chính giữa khoảng sân lát đá. Trên nóc mâm cỗ là một chú thỏ ngọc trắng muốt được nặn bột công phu, đang ngồi chễm chệ trên đống bánh tròn vành vạnh nhân đậu ngào đường. Dưới chân bàn cỗ bày cơ man là đĩa hoa quả tươi và mứt ngọt, ở các góc bàn là những cây nến đỏ và các đỉnh đồng, chúng sẽ được thắp lên sau khi trời sập tối. Địch huyện lệnh băng qua sân đến một bậc thềm rộng rãi lát đá cẩm thạch, nơi có một nhóm người đang đứng ngóng xem. Thi sĩ cung đình và đại sư Như Ý tựa bên hàng lan can đá hoa cương, Lỗ tri huyện, đại học sĩ và nữ sĩ ở phía sau họ, đứng cạnh chiếc ghế bành lớn bằng gỗ mun chạm khắc được đặt trên bục thấp. An tọa ở ghế bành là một lão phu nhân gầy gò vận trường phục đen, mái tóc bạc trắng được chải ngược ra sau gáy. Bàn tay nhăn nheo của lão bà nắm một cây quải trượng gỗ mun có tay cầm bằng ngọc lục bảo. Đứng phía sau ghế là một nữ nhân đoan trang, độ tuổi trung niên, dáng cao thanh mảnh, trông rất cương nghị trong trường bào lụa màu xanh lá mạ thêu kim tuyến. Rõ ràng đây là đại phu nhân của Lỗ tri huyện. Chừng hai tá nữ nhân khác đang lảng vảng trong khu vực bóng râm của tòa đại sảnh phía sau lưng nàng, có lẽ là các thiếu phu nhân cùng những tỳ nữ của họ.
Ngó lơ tất cả, Địch huyện lệnh bước đến gần lão phu nhân và nghiêng mình cúi chào. Trong khi lão bà nhìn khách nhân bằng đôi mắt sắc sảo, Lỗ tri huyện cúi xuống thầm thì vào tai bà, vẻ kính cẩn, “Đây là vị đồng liêu của Lỗ nhi, ngài Địch Nhân Kiệt huyện Phổ Dương, thưa mẫu thân.” Lão phu nhân gật gù và nói lời chào mừng Địch huyện lệnh. Giọng bà êm ái nhưng trong trẻo kỳ lạ. Ông kính cẩn vấn an bà và được cho biết lão phu nhân năm nay đã bảy mươi hai tuổi. “Ta có mười bảy đứa cháu, Địch Huyện lệnh à!” Bà thông báo vẻ tự hào. “Một gia trang tề chỉnh, đại đồng đường được vun đầy hồng phúc bởi con đàn cháu đống, thưa lão phu nhân!” Học sĩ oang oang tuyên bố. Lão bà khẽ gật đầu, môi mỉm cưởi. Địch huyện lệnh bày tỏ lời chào mừng Thiệu Phàn Viên, rồi thể hiện sự kính trọng với Trương Lam Ba cùng đại sư Như Ý. Cuối cùng, ông chúc sức khỏe nữ sĩ. Nàng đáp rằng mình đang cảm thấy rất ổn, nhờ sự chăm sóc tận tình của đại phu nhân. Thế nhưng, ông nghiệm thấy mặt nàng trông phiền não và xanh xao. Ông quay sang phía đồng liêu, hạ thấp giọng nói, “Tống cống sĩ là con của đại tướng quân Mạc Đức Linh với một người thiếp mang họ Tống. Y đến chốn đây để chứng minh gia phụ mình bị hàm oan. Đúng như những gì y đã nói với Chu Hồng. Y không đến dưới một cái tên giả đâu, bởi lẽ Tống Nhất Văn đã rời khỏi Quyên Thành từ lúc năm tuổi, họ hàng chỉ còn lại một người bác gái. Phấn khởi lên, Lỗ đệ! Cho dù quả thực nữ sĩ đã giết hại Tiểu Phượng đi chăng nữa, nhưng nếu đệ có thể bẩm báo về việc đại tướng quân Mạc Đức Linh từng bị xử oan, thì đệ sẽ có cơ may thoát khỏi cơn hoạn nạn sắp đến!”
“Trời ơi, Địch huynh, một thông tin tuyệt vời! Hãy kể cho đệ nghe khi chúng ta ngồi tại bàn. Sẽ là một sự kiện tổ chức ngoài trời, ở đằng kia!” Lỗ tri huyện chỉ tay vào hành lang mở phía sau dãy nhà. Giữa các cột trụ là những chiếc bàn vững chãi, trên đó xếp đầy những đĩa thức ăn nguội xen kẽ với các chồng bánh Trung thu. “Bây giờ ta phải đi rồi. Ta phải xuống phố rồi ghé thăm miếu Hắc Hồ. Nhưng ta sẽ cố gắng trở lại trước giờ Thân để dự buổi bình thơ của đệ.” Sau khi họ nhập bọn với những người khác, lão phu nhân ngầm tỏ ý muốn nghỉ ngơi. Học sĩ và mọi người cúi mình thi lễ, còn Lỗ tri huyện và đại phu nhân đưa lão bà vào trong nhà. Địch huyện lệnh nói với Thiệu Phàn Viên rằng ông có giấy tờ công vụ khẩn cấp vừa chuyển tới từ Phổ Dương, và ngỏ lời xin lỗi vì mình không thể tham dự bữa cơm trưa ngoài trời. “Công vụ trước, vui thú sau. Thượng lộ bình an, Địch Huyện lệnh!” HỒI 15 Chủ tâm thăm một quầy hàng Ngỡ ngàng chân tướng, bàng hoàng thác oan Trước tiên, Địch huyện lệnh quay lại gian phòng của mình, vì ông muốn chuẩn bị cẩn thận cho chuyến viếng thăm. Người thân của tội nhân tạo phản, dù là họ xa hay gần, luôn e sợ quan viên triều đình. Ngay cả khi vụ án đã khép lại nhiều năm trước, các chứng cứ mới vẫn có thể được đưa ra, khiến những người họ hàng này bị liên lụy và đẩy họ vào các tình thế hiểm nguy, ông lấy ra một mảnh giấy nhỏ màu đỏ từ chỗ nghiên bút và viết lên trên đó mấy chữ ‘Tống Lương’. Phía bên phải, ông thêm chữ ‘Thương lái’, phía bên trái đề một địa chỉ tưởng tượng nào đó ở Quảng Đông. Sau khi thay sang y phục vải bông màu lam giản dị, đội chiếc mũ chỏm màu đen lên đầu, Địch huyện lệnh rời khỏi nha phủ qua lối cửa ngách.
Đến góc phố, Địch huyện lệnh thuê một cỗ kiệu nhỏ. Khi ông bảo phu kiệu đưa mình đến cửa hiệu bán ngũ kim nhà họ Hoàng, bọn họ từ chối, viện cớ đường xa, lại dẫn tới một khu dân nghèo nên lộ trình rất khó đi. Nhưng sau khi ông đồng ý trả tiền mà không mặc cả gì, lại còn đưa trước một khoản thưởng hào phóng, họ hào hứng công kênh ông đi. Cảnh tượng làm ăn phát đạt của các cửa hiệu trên phố chính gợi nhắc Địch huyện lệnh nhớ lại chuyện họ Hoàng còn trì hoãn thanh toán phí phường hội. Điều đó nghĩa là nam nhân ấy hẳn đã khánh kiệt rồi. Ông bảo phu kiệu dừng lại, bỏ ra một đĩnh bạc để mua một súc vải bông lớn màu xanh, loại tốt nhất. Sang đến cửa hiệu kế bên, ông mua hai con vịt quay và một hộp mấy cái bánh Trung thu. Xong xuôi, ông tiếp tục hành trình của mình. Qua khỏi chợ, họ băng ngang một khu dân cư mà Địch huyện lệnh nhận ra là nơi Mạnh chưởng quỹ sinh sống. Sau đó, họ tiến vào một khu dân nghèo, chằng chịt những ngõ hẻm chật hẹp và hôi thối, mặt đường rải sỏi cuội nham nhở. Mấy đứa bé cởi trần đang chơi đùa giữa những đống rác rưởi bỗng ngừng lại, há hốc mồm ngó nhìn cỗ kiệu, một phương tiện ít xuất hiện ở khu này. Không muốn thu hút sự chú ý quá mức, ông lệnh cho các phu kiệu để mình xuống trước một quán trà nhỏ. Một người phu đợi ở cạnh cỗ kiệu, người còn lại đi bộ cùng ông và mang theo súc vải cùng với thức ăn. Huyện lệnh mừng vì đã dẫn người đó theo, bởi giờ họ đang chơ vơ giữa những ngõ hẻm quanh co, khiến cho phu kiệu cũng phải hỏi thăm đường bằng tiếng địa phương.
Cửa hiệu của họ Hoàng là một quầy hàng ven đường mở tung cửa, mái hiên bằng vải bạt vá víu buộc túm vào nóc nhà trát gạch bùn ở phía sau. Một dãy ấm trà đất nung rẻ tiền treo lủng lẳng trên một cây sào, phía trên một cái bàn bày cơ man nào bát với đĩa. Đứng sau cái quầy tạm bợ đó là một nam nhân vai rộng, ăn vận xoàng xĩnh đang hì hụi xâu một tá đồng cắc vào chuỗi dây. Khi Địch huyện lệnh đặt tấm danh thiếp đỏ lên quầy, gã lắc đầu và nói với giọng cộc cằn, cáu kỉnh, “Ta chỉ có thể nhìn ra họ Tống, ông muốn gì nào?” Địch huyện lệnh phân trần, “Danh thiếp cho biết đệ là Tống Lương, hành nghề thương lái đến từ Quảng Đông. Đệ là biểu đệ xa của Hoàng thị. Trên đường đến kinh đô, đệ muốn ghé thăm họ hàng một chút.” Gương mặt ngăm đen của họ Hoàng sáng bừng lên. Quay lại về phía người đàn bà đang ngồi lom khom may vá trên trường kỷ kê sát tường, gã gọi to, “Rốt cuộc cũng có một người họ hàng của bà nhớ đến chúng ta rồi, bà ơi! Đây là Tống Lương, biểu đệ của bà, đến từ Quảng Đông! Xin mời vào nhà, đệ đã trải qua một chuyến đi dài rồi!” Người đàn bà vội vàng đứng lên. Địch huyện lệnh bảo phu kiệu đưa cho bà ta những món đồ mình đã mua rồi ra đợi ông ở quầy hàng đối diện. Ông hàng ngũ kim đưa Địch huyện lệnh vào một gian phòng nhỏ vừa dùng làm buồng ngủ, vừa trưng dụng làm bếp. Trong khi họ Hoàng nhanh tay dùng một cái giẻ rách lau mặt bàn dính đầy mỡ, ông ngồi xuống chiếc ghế đẩu tre và nói với nữ nhân kia, “Tam thúc viết thư cho đệ từ kinh thành báo rằng song thân của tỷ đã qua đời. Thúc ấy cho đệ địa chỉ của tỷ. Nhân thể qua huyện này, đệ nghĩ mình nên ghé thăm và biếu tỷ ít quà mọn để ăn tết Trung thu.”
Bà ta mở gói quà, mắt mở to ngó nhìn súc vải. Địch huyện lệnh đoán nữ nhân chừng bốn mươi tuổi, khuôn mặt cân đối nhưng hốc hác và có những nếp nhăn hằn sâu. Họ Hoàng thảng thốt thốt lên, “Đệ thật hào phóng quá! Trời đất ơi, cả súc vải đẹp làm sao! Làm thế nào ta có thể đền đáp lại món quà quý giá như vậy…” “Huynh không cần câu nệ! Cứ cho người khách bộ hành đơn độc này dùng bữa cơm Trung thu với gia đình là được! Đệ cũng mang theo phần đóng góp vặt vãnh của mình đây!” Ông mở nắp thúng và trao cho họ Hoàng hộp bánh Trung thu. Gã nhìn chằm chằm vào bên trong thúng. “Đến cả hai con vịt! Chặt chúng cẩn thận nhé, bà ơi! Lấy bát chén mới ở cửa hiệu ra nữa! Ta có để dành một vò rượu cho ngày lễ hôm nay, nhưng ta chưa bao giờ dám mơ chúng ta có thịt để nhắm cả! Và lại là thứ vịt quay đắt đỏ như thế!” Họ Hoàng rót cho Địch huyện lệnh một chén trà, rồi lịch sự hỏi han về vị khách ở Quảng Đông, gia đình, công việc, cùng chuyến đi vừa qua. Ông kể ra một câu chuyện nghe có vẻ thuyết phục, thêm lời rằng mình phải tiếp tục hành trình vào chiều nay. Sau đó ông nói, “Giờ chúng ta ăn một con vịt thôi, con còn lại gia đình dùng vào tối nay nhé.” Họ Hoàng giơ tay lên. “Tai ương có thể thình lình giáng xuống bất cứ lúc nào, từ giờ cho đến tối nay, biểu đệ à.” Gã tuyên bố với vẻ rất thành thật. “Chúng ta cứ việc ăn uống no say ngay bây giờ và ở đây!”
Gã quay lại phía nương tử, vốn nãy giờ đang lắng nghe cuộc nói chuyện với nụ cười hài lòng hiện trên khuôn mặt mỏi mệt. “Ta hứa sẽ không bao giờ thốt ra một từ xấu xa nào về gia đình bà nữa!” Bà ta ngại ngùng ngó nhìn khách và nói, “Sau sự việc khủng khiếp đó, không ai dám đến thăm chúng ta nữa, đệ biết đấy.” “Vụ án đại tướng quân được bàn tán đến tận Giang Nam,” Địch huyện lệnh bình luận. “Thật đáng buồn khi tiểu muội của tỷ lại quyên sinh trước ngày xảy ra tấn thảm kịch gia môn. Nhưng nếu nhìn nhận chuyện đó theo hướng có lợi cho Tống gia, thì đấy lại là điều tốt nhất rồi. Nó cứu chúng ta khỏi bị liên lụy vào vụ án ấy.” Khi phu thê họ Hoàng nặng nề gật đầu, ông hỏi, “Nhất Văn sao rồi ạ?” Họ Hoàng khụt khịt đáp, “Nhất Văn? Ta chỉ nghe là vài năm nay, nó đã trở thành một nho sinh. Danh giá như thế thì làm gì còn nhớ đến bác của nó nữa chứ!” “Tại sao tiểu muội của tỷ lại kết liễu đời mình vậy? Có phải nàng ấy bị ngược đãi ở Mạc gia?” “Đâu, nào phải thế,” người đàn bà chậm rãi đáp lời. “Muội ấy được đối xử tốt, nhất là sau khi hạ sinh Nhất Văn, một nhi tử kháu khỉnh và đáng yêu. Nhưng muội muội đã…” “Nàng ta thật đáng nguyền rủa…,” họ Hoàng bắt đầu nói, nhưng vợ gã đã nhanh chóng cắt ngang, “Cẩn thận lời ăn tiếng nói của ông!” Quay sang phía Địch Nhân Kiệt, bà ta nói, “Muội ấy không thể làm gì khác được, thực sự là thế. Có lẽ mọi chuyện đều là lỗi của gia phụ…”
Bà ta thở dài và rót một chút rượu ra chén. “Đến tận năm mười lăm tuổi, muội ấy vẫn là một nữ nhi trầm lặng và ngoan ngoãn, lại yêu thương động vật. Một ngày kia, muội ấy về nhà với một con cáo nhỏ mình tìm thấy được. Khi gia phụ nhìn thấy, ông trở nên kinh hãi, vì nó là giống hắc hồ, lại là cáo cái. Ông giết nó ngay lập tức. Việc đó khiến muội muội trải qua cú sốc nặng nề và không bao giờ trở lại như xưa nữa.” Ông hàng ngũ kim trao cho Địch huyện lệnh một cái nhìn khó chịu. “Linh hồn của con hồ ly dâm đãng ấy đã nhập vào nàng ta.” Nữ nhân gật đầu. “Gia phụ đã thuê một đạo sĩ. Ông ta đã đọc nhiều câu thần chú nhưng vẫn không thể trục được linh hồn hồ ly ra ngoài. Đến tuổi mười sáu, muội ấy đánh mắt đưa tình với mọi nam nhi trẻ trung gặp được. Do muội muội có nhan sắc, nên thân mẫu phải canh chừng muội ấy từ sáng sớm đến tối mịt. Thế rồi, một lão bà chuyên bán dạo gương lược, phấn son cho các gia trang lớn nói với phụ thân rằng đại phu nhân của Mạc gia đang tìm một nàng thiếp cho đức lang quân. Gia phụ mừng rỡ đưa nhi nữ đến gặp đại phu nhân, bà ta chấp thuận và vụ giao kèo coi như đã hoàn tất. Mọi việc diễn tiến êm đẹp. Tuy phải làm việc cực nhọc trong một đại gia trang, nhưng đại phu nhân tặng muội ấy một bộ y phục mới vào mỗi dịp lễ tết, rồi sau khi hạ sinh Nhất Văn thì tiểu muội không còn bị đánh đập một lần nào nữa.”
“Nàng ta phải phá hỏng mọi thứ mới được, đồ nữ nhân hư hỏng!” Họ Hoàng lầm bầm. Gã hấp tấp nốc cạn chén rượu của mìrh. Hoàng thị vén lọn tóc hoa râm ra khỏi trán. “Một ngày nọ, ta gặp đứa tỳ nữ của đại phu nhân ở chợ. Nó nói ta thật may mắn có một tiểu muội luôn nhớ đến gia môn, tuần nào cũng khăng khăng đòi về gặp mặt phụ mẫu. Lúc đó ta mới biết có điều gì đó không ổn, vì hơn nửa năm nay muội muội có về gặp chúng ta đâu. Tuy nhiên, sau đó thì muội ấy về thật, cùng với một hài nhi trong bụng, nhưng chẳng phải giọt máu của đại tướng quân. Ta đưa tiểu muội đến một bà đỡ để bà ta cho uống đủ loại thuốc thang, nhưng chẳng ích gì. Tiểu muội vẫn hạ sinh nhi nữ, rồi nói với đại tướng quân mình bị sẩy thai. Còn đứa trẻ bị bỏ rơi ven đường.” “Đấy, nàng ta là thế đấy!” Họ Hoàng giận dữ la lên. “Một con hồ ly độc ác, nhẫn tâm!” “Muội ấy rất hối tiếc vì chuyện đã làm!” Hoàng thị phản đối. “Bọc đứa trẻ đỏ hỏn trong một mảnh len mịn đỏ sẫm của Thiên Trúc để nó không bị nhiễm lạnh. Thứ chất liệu chu sa ấy, thường chỉ có các hòa thượng mới dùng để nhuộm…” Trông thấy gương mặt sững sờ của Địch huyện lệnh, bà ta nhanh chóng nói tiếp, “Xin thứ lỗi, một câu chuyện chẳng hay ho gì! Cũng đã quá lâu rồi, nhưng ta vẫn còn…” Hai hàng lệ bắt đầu rơi trên gương mặt người đàn bà. Họ Hoàng vỗ vai vợ. “Thôi nào, không nên rơi nước mắt vào ngày tốt lành như hôm nay chứ!” Đoạn gã nói với ông, “Bản thân chúng ta chẳng có con nối dõi tông đường gì cả, đệ thấy đó. Cứ nói về chuyện con cái là bà ấy lại thế đấy! À, tóm gọn lại câu chuyện dài dòng nhé, đại tướng quân phát hiện ra. Loạn thế phân tranh, đường gươm mũi giáo còn chẳng giết được họ Mạc, thì làm sao chuyện này qua mắt nam nhân lão luyện ấy được. Một trong các phu kiệu của ông ấy kể cho chúng ta nghe chuyện Mạc tướng quân đã hét lên, rằng sẽ kéo nàng thiếp và tình địch đến đại sảnh để chém đầu đôi gian phu dâm phụ! Nàng ta đã treo cổ tự vẫn, còn đại tướng quân chẳng có cơ hội xuống tay với gã kia, vì ngay ngày hôm sau, binh lính của hoàng thượng đã ập đến và họ Mạc đã rơi đầu trước! Nhân gian thật là đảo điên! Chúng ta hãy cạn chén khác nào. Đây, bà cũng uống một chén nhé, nương tử!”
“Ai là tình nhân của nàng ấy?” Địch huyện lệnh hỏi. “Tiểu muội chưa bao giờ kể cho ta nghe,” bà ta vừa nói vừa lau nước mắt. “Chỉ nói y là một quý ngài rất thông tuệ, có thể tùy ý ra vào Hoàng cung Đại nội.” “Mừng là ta đã chọn được đúng biểu tỷ của đệ!” Họ Hoàng la to, mặt mày đỏ ủng. “Bà ấy chịu thương chịu khó, suốt ngày may vá, nhờ thế mà chúng ta có đủ tiền trang trải cho cuộc sống! Thế nhưng bà ấy không hiểu gì về sự vụ của nam nhân cả! Cứ muốn ta ngừng trả phí phường hội! Ta nói không được, hãy bán hết trang phục mùa đông của chúng ta đi! Nếu một nam nhân không thuộc về một chốn nào đó, gã chẳng hơn gì một con chó hoang! Ta đã hành xử đúng. Nhờ súc vải tốt của đệ mà chúng ta sẽ được ăn vận đẹp đẽ trong năm tới! Cũng tốt cho công việc buôn bán, một nam nhân chỉnh chu trang phục đứng sau quầy hàng!” Sau khi dùng cơm xong, Địch huyện lệnh nói với Hoàng thị, “Hãy cầm danh thiếp của đệ đến cổng sau dinh tri huyện vào ngày mai. Đệ có làm ăn với viên quản gia và lão sẽ giúp tỷ có được công việc may vá ở đó.” Huyện lệnh đứng dậy. Phu thê họ Hoàng nài ép khách ở lại, nhưng ông nói mình phải đi kẻo lỡ mất chuyến phà qua sông. Người phu đưa ông quay lại quán trà, nơi cỗ kiệu đang chờ sẵn. Ông được công kênh trở lại phố chính. Tâm tưởng Địch huyện lệnh lúc này rối bời. Trả tiền xong cho các phu kiệu, ông đi bộ về nha phủ. Trong khi người gác cổng cho ông vào bằng cửa ngách, ông biết được là Lỗ tri huyện đang ở tiền sảnh tại lầu trệt của trung viện tử. Rõ là cuộc bình thi phú ở thư phòng vẫn chưa bắt đầu. Địch huyện lệnh nhanh chóng đi tới gian phòng của mình.
Ông lấy từ ngăn kéo ra tập văn thư về vụ án nữ sĩ. Cứ đứng tại bàn, ông lật nhanh và đọc lướt qua cho đến khi tìm thấy những dòng chữ của lá thư ẩn danh đã báo quan về một tử thi được chôn dưới gốc đào trong Bạch Hạc quán. Rồi ông rút lá thư ẩn danh tố cáo Mạc tướng quân từ tay áo ra và đặt nó bên cạnh lá thư trước. Chậm rãi vuốt chòm râu đen, ông so sánh hai lá thư. Cả hai đều là những bản sao chép trong văn khố được bàn tay lạnh lùng của các lục sự viết lại, phong cách cho thấy chúng có thể được viết ra bởi cùng một người. Lắc đầu vẻ nghi ngờ, ông cho hai lá thư vào ống tay áo, rồi đi về trung viện tử. Vị đồng liêu đang ngồi bên bàn trà, trên đó vương vãi giấy tờ, tay cầm bút cọ, môi mím lại. Ông ta ngẩng lên nhìn và hồ hởi nói, “Đệ đang tách riêng ra và sửa chữa tác phẩm gần đây của mình. Huynh có nghĩ là ngài học sĩ sẽ bằng lòng với các nhịp điệu lặp đi lặp lại của bài thơ tình tự sự này không?” Thấy Lỗ tri huyện sắp sửa ngâm bài thơ đang chỉnh sửa, ông mau lẹ nói, “Để khi khác, Lỗ đệ! Ta có một phát hiện lạ lùng báo lại cho đệ đây.” Địch huyện lệnh ngồi xuống đối diện vị đồng liêu. “Huynh sẽ nói ngắn gọn thôi, vì lát nữa đệ sẽ phải đi tới thư phòng, sắp đến giờ Thân rồi. “Ồ, không, còn nhiều thời gian, hiền huynh! Bữa trưa tổ chức ngoài trời tại đệ tứ viện tử hóa ra lại bị kéo dài thêm! Thi sĩ cung đình và Ngọc Lan đã sáng tác vài bài thơ, và mọi người bình, có nhiều rượu! Tất cả bốn vị khách của đệ đã đi thẳng về buồng để nghỉ trưa, chưa có ai ra ngoài cả.”
“Tốt! Vậy là bọn họ không đi ra ngoài, nên đệ đỡ phải điều động người của lão quản gia đi theo dõi. Này nhé, mẹ của cống sĩ là tỳ thiếp của đại tướng quân Mạc Đức Linh. Sau đó, bà ta tư thông với một nhân vật ẩn danh rồi bỏ rơi đứa con. Đứa bé bị vứt bỏ ấy không phải ai khác mà chính là Chu Hồng, vệ nữ canh giữ miếu Hắc Hồ.” Trông thấy gương mặt ngỡ ngàng của Lỗ tri huyện, Địch huyện lệnh giơ tay lên và tiếp tục nói, “Đứa bé bị bỏ rơi được bọc trong một miếng vải len màu đỏ sẫm. Người ta lại thường gọi những đứa trẻ bị bỏ rơi theo y phục mà chúng mặc khi được tìm thấy. Điều này có nghĩa là Chu Hồng chính là em cùng mẹ khác cha của Tống Nhất Văn. Đó là lý do tại sao chàng cống sĩ nói với Chu Hồng là hai người không bao giờ có thể cưới nhau. Cũng nghĩa là gia phụ của Chu Hồng và kẻ sát hại Tống Nhất Văn chỉ là một người. Một ngày trước khi đại tướng quân bị bắt giữ, ông nói với hầu thiếp là đã phát hiện ra bà ta tư tình với một trong các bằng hữu của mình, cũng nói thêm rằng sẽ tự tay sẽ giết chết cả hai. Người thiếp liền sau đó treo cổ tự vẫn. Còn đại tướng quân bị bắt giữ vào ngày hôm sau, trước khi kịp ra tay với tên nhân tình kia.” “Trời ơi! Huynh tìm đâu ra tất cả những chuyện đó?” “Trong văn khố của đệ, chủ yếu thế. Tống cống sĩ đoan chắc gã nhân tình của mẹ mình đã vu cáo tội tạo phản cho đại tướng quân qua một lá thư ẩn danh, nhằm ngăn ngừa bị họ Mạc tố giác tội ngoại tình của hắn. Về điểm đầu tiên, Tống Nhất Văn đã sai. Ta đã đọc tất cả mọi thứ trong văn thư cáo trạng chính thức, và ta tin chắc vị đại tướng quân kia có tội. Và gã nhân tình của nàng tỳ thiếp chắc chắn là nằm trong nhóm đồng mưu tạo phản. Còn về điểm thứ hai, Tống Nhất Văn hoàn toàn đúng. Chính gã ấy đã viết lá thư ẩn danh, do hắn biết nó sẽ khiến quan ngự sử mất một khoảng thời gian để giăng thiên la địa võng bắt đại tướng quân, và hắn muốn đảm bảo họ Mạc bị bắt giữ ngay ngày đầu tiên của cuộc điều tra nhằm ngăn ông ta xuống tay với hắn.”
Lỗ tri huyện giơ tay lên. “Đừng vội quá, Địch huynh! Nếu đại tướng quân phạm tội tạo phản, tại sao kẻ tố giác lại phải hạ sát cống sĩ? Tên này đã có một kỳ công đáng ngợi khen khi tố cáo chống lại thế lực của đại tướng quân!” “Hắn phải nắm giữ một địa vị nổi bật ở cả triều đình lẫn ngoài xã hội, và do đó hắn không thể để có một lời cáo buộc tội thông dâm chống lại mình. Hơn nữa, hắn rõ ràng đã lún sâu vào mưu đồ thoán nghịch của đại tướng quân thì mới biết được những lá thư từ Cửu Hoàng tử được cất giấu ở đâu. Đó chính là lý do tại sao hắn không xuất hiện để cung cấp thông tin mặc cho triều đình đã hứa ban thưởng.” “Trời cao chứng giám! Ai là kẻ đó?” “Ta e rằng đó là một trong ba vị khách của đệ, Thiệu Phàn Viên, Trương Lam Ba hoặc đại sư Như Ý. Không, đừng phản đối! Ta có bằng chứng không thể chối cãi được để khẳng định chắc chắn phải là một trong ba kẻ đó. Chu Hồng sẽ kể cho chúng ta nghe đấy là ai. Mặc dù cha của cô gái đó luôn che mặt khi hắn ghé thăm, nhưng ta tin là Chu Hồng vẫn có thể nhận ra hắn qua giọng nói và dáng vẻ bên ngoài.” “Huynh không thể nghĩ xấu về đại sư Như Ý! Ai mà đi chọn nam nhân xấu xí ấy làm nhân tình cơ chứ?” “Ta không quá đảm bảo điều đó. Mẹ của cống sĩ là người lẳng lơ. Tiện đây ta nói luôn, Tống gia đổ rằng bà ấy bị hồ ly tinh nhập vào. Tuy nhiên, chuyện trái khoáy kia vẫn có thể xảy ra, là người lẳng lơ và đang trong cơn tuyệt vọng, chỉ vừa mười bảy xuân xanh khi bước chân vào Mạc gia, còn đại tướng quân khi ấy đã gần tuổi sáu mươi. Bà ấy có thể cảm thấy bị thu hút từ chính vẻ ngoài xấu xí đấy. Ngoài ra, ông ta còn có một cá tính mạnh mẽ khác thường, hống hách và thích kiểm soát người khác. Nhiều nữ nhân lại nhạy cảm với loại nam nhân như thế. Trong buổi bình thơ, đệ thử tìm hiểu xem liệu Trương tiên sinh và đại sư Như Ý có ở Quyên Thành trong thời gian xét xử Mạc đại tướng quân hay không. Còn về ngài học sĩ, chúng ta biết ngài ấy từng ở đây vào lúc đó, với tư cách tri phủ vùng này. Đệ có thể cho gọi quản gia đến không?”
Lỗ tri huyện vỗ tay và truyền lệnh cho một gia nhân. Địch huyện lệnh tiếp lời, “Ta cũng muốn đệ tìm hiểu có ai trong ba nghi can trên đã hiện diện ở Hồ Tương vào mùa xuân năm nay, tại thời điểm Ngọc Lan bị bắt giữ ở đạo quán Bạch Hạc.” “Tại sao huynh muốn biết?” Vị đồng liêu hỏi, vẻ ngạc nhiên. “Do trong vụ án Ngọc Lan, các quan địa phương cũng hành động căn cứ vào một lá thư ẩn danh được viết ra bởi người học thức uyên thâm. Tội nhân luôn có thủ pháp gây án riêng của mình. Trong vụ án mưu phản của Mạc đại tướng quân, cáo trạng tố giác là đúng sự thật, nhưng bằng cách vạch mặt Mạc gia, tác giả lá thư ẩn danh còn nhất tiễn hạ song điêu, hướng đến một mục đích ngấm ngầm phía sau, cụ thể là ngăn ngừa đại tướng quân ra tay chống lại hắn. Giờ đây, mười tám năm sau, kẻ ấy rất có thể lại viện đến thủ đoạn dùng thư ẩn danh để tố cáo một tội ác khác, đó là vụ sát hại tỳ nữ tại Bạch Hạc quán, và lại nhằm đạt được một mưu đồ ẩn giấu sâu xa nào đó. Do vậy…” Địch huyện lệnh đột ngột bỏ lửng câu nói, do viên quản gia đã bước vào. Ông cầm lấy cây cọ và ghi nhanh xuống một mảnh giấy nhỏ danh tính cùng địa chỉ của họ Hoàng, chủ cửa hiệu ngũ kim, cùng với tên Tống Lương. Trao nó tận tay lão quản gia, ông nói, “Sáng mai, Hoàng thị sẽ đến cửa sau của dinh, mang theo tấm danh thiếp ghi tên Tống Lương. Lão hãy thu xếp cho bà ấy được nhận công việc may vá ở đây. Giữ chân Hoàng thị trò chuyện một lúc, vì chúng ta muốn gặp bà ấy. Bây giờ, lão hãy gọi Cao sư gia đến.”
Khi viên quản gia cúi mình thi lễ và rời đi, Lỗ tri huyện hỏi vẻ cáu kỉnh, “Tống Lương mà huynh nói đến là ai vậy?” “Chính là ta đấy.” Địch huyện lệnh tóm tắt lại cho vị đồng liêu câu chuyện ông viếng thăm nhà ông hàng ngũ kim, và kết luận, “Họ là một cặp vợ chồng chất phác, tử tế và không có con cái. Ta đang cân nhắc ý tưởng, nhưng không hẳn cứ nhất định phải thế, là giao Chu Hồng cho họ chăm sóc, sau khi cô gái tội nghiệp ấy đã hoàn toàn hồi phục. Ta phải đi đón cô gái ấy bây giờ, cùng với sư gia của đệ.” Lấy ra hai lá thư ẩn danh từ tay áo trao cho Lỗ tri huyện, ông tiếp tục, “Đây là các bản chép ở văn khố của hai lá thư ẩn danh. Đệ là một chuyên gia về văn phong tinh tế. Đệ hãy xem xét để coi có dấu hiệu nào cho thấy chúng là do cùng một người soạn ra hay không. Cất chúng vào tay áo đi! Ta thấy sư gia đang đến!” Khi Cao sư gia cúi mình thi lễ, Lỗ tri huyện nói, “Ta muốn ngươi tháp tùng Định huyện lệnh đến miếu Hắc Hồ, gần Nam môn. Ta đã quyết định cho dọn dẹp bãi đất hoang ấy, bước đầu tiên là đưa cô gái ở miếu thờ đi chỗ khác.” “Chúng ta sẽ cùng nhau đến đó trên kiệu của nha môn,” Địch huyện lệnh thêm lời. “Đại phu của Lỗ gia và nữ tổng quản sẽ theo sau chúng ta, trong cỗ kiệu kín thứ hai, vì ta có nghe là cô gái ở đó đang ốm nặng.” Viên Sư gia cúi đầu vâng mệnh.
“Tiểu nhân sẽ đảm bảo chu toàn mọi thứ ngay lập tức, thưa ngài.” Rồi họ Cao thưa với Lỗ tri huyện, “Gia nhân của học sĩ đang ở bên ngoài, bẩm đại nhân, báo rằng là ngài ấy sẵn sàng chào đón khách.” “Trời xanh độ lượng, các bài thơ của ta!” Lỗ tri huyện thốt lên. Địch Nhân Kiệt giúp Lỗ tri huyện thu nhặt và phân loại đống giấy tờ vương vãi trên mặt bàn. Ông đi cùng vị đồng liêu đến đệ nhị viện tử, rồi tản bộ một mình đến nha phủ. Cao sư gia đang chờ ông ở cổng dinh, nơi đó có kiệu nha môn đã sẵn sàng. “Đại phu và nữ tổng quản đều đã ở trong cỗ kiệu kín kia, thưa đại nhân.” Y thông báo cho Địch huyện lệnh. Trong khi họ đang được công kênh trên kiệu đi ra ngoài qua cánh cổng đồ sộ, họ Cao tiếp lời, “Bãi đất hoang ấy có thể được cải tạo thành một lâm viên, thưa đại nhân. Thật chẳng hợp lẽ nếu cứ để tồn tại bên trong những bức tường thành một khu vực cho đủ thể loại du thủ du thực tụ tập. Ngài tán thành chứ, thưa đại nhân?” “Ta tán thành.” “Tiểu nhân hi vọng ngài thấy được trong văn khố những gì ngài tìm kiếm sáng nay, thưa đại nhân.” “Ta đã tìm được.” Ngộ ra Địch huyện lệnh không có tâm trạng tản chuyện, Cao sư gia giữ im lặng. Tuy nhiên, khi họ đang băng qua con phố Tự Miếu, y lại bắt đầu, “Sáng hôm qua, tiểu nhân đã viếng thăm đại sư Như Ý trong ngôi chùa ở cuối đường này, thưa đại nhân. Tiểu nhân phải rất vất vả mới thuyết phục được ông ta chấp thuận lời mời của Lỗ đại nhân. Đại sư chỉ nhận lời sau khi tiểu nhân kể ra ngài cũng đến dự ở Lỗ gia.”
Địch Nhân Kiệt bật dậy. “Thầy ấy có nói tại sao không?” “Đại sư có đề cập đến danh tiếng của Địch đại nhân và nhắc vài điều về loài cáo, nếu tiểu nhân nhớ không lầm.” “Ta hiểu. Ngươi có ý kiến gì về điều mà đại sư có thể đang ám chỉ đến không?” “Không, thưa ngài. Đại sư là một người rất lạ lùng. Ông ta dường như đặc biệt hào hứng nhấn mạnh việc mình đã đến nơi này vào đêm hôm trước, nhưng… Trời ạ, tại sao chúng ta lại ngừng ở đây?” Họ Cao nhìn ra bên ngoài. Viên chưởng quản của đội phu kiệu tiến sát đến cửa sổ và bẩm báo với sư gia, “Có một đám đông làm tắc nghẽn con đường, thưa ngài. Chỉ một chút thôi, xin đừng phiền lòng. Thuộc hạ sẽ bảo bọn họ nhường đường.” Địch huyện lệnh nghe thấy âm thanh náo nhiệt của đám đông. Kiệu của họ đi thêm một đoạn thì phải ngừng lại. Viên vệ úy xuất hiện bên cửa sổ. Y lạnh lùng chào hỏi và bảo họ Cao, “Thuộc hạ xin thứ lỗi, thưa ngài, nhưng các ngài tốt hơn là đừng đi tiếp nữa. Nữ vu ở ngôi miếu hoang đang lên cơn dại…” Địch huyện lệnh vội vàng gạt tấm màn cửa sang một bên và bước xuống khỏi kiệu. Sáu lính tuần với giáo mác chĩa lên sừng sững đã dàn thành một hàng rào dọc theo con phố, ngăn không cho một nhóm nhỏ người dân tò mò tiến lại gần. Xa hơn về bên dưới, Chu Hồng nằm sấp mặt bên vệ đường, thân người bất động trông rất thảm thương trong bộ quần áo lấm lem, rách tả tơi. Hai tên lính ghì chặt cổ cô gái xuống đất bằng chiếc gậy chạc ba dài chuyên để bắt trộm. Xa hơn một chút, ở giữa con đường vắng ngắt, các lính gác khác đang thắp lửa làm hiệu.
“Tốt hơn không nên lại gần, thưa ngài,” viên vệ úy cảnh báo Địch huyện lệnh. “Bọn tiểu nhân sắp sửa thiêu tử thi để phòng bất trắc. Chúng ta hầu như không biết gì nhiều cách căn bệnh này lây sang người khác.” Cao sư gia đã tiến gần họ. “Có chuyện gì?” Y hỏi nhanh, giọng sắc lẹm. “Cô gái đó chết rồi à?” “Vâng, thưa ngài. Hai khắc trước, thuộc hạ của tiểu nhân đang đứng ở quầy hàng ven đường đó thì nghe thấy những tiếng la hét man rợ phát ra từ bụi cây đằng kia, và một tiếng sủa khác thường. Ngay khi tiểu nhân sắp tiến vào cánh cổng cũ kĩ ở bên đấy, thì nữ vu chạy ra ngoài, gào rú thất thanh, gương mặt méo xệch trông rất kinh khủng và mép thì sùi bọt. Cô ta tiến về phía bọn tiểu nhân, nhưng một thuộc hạ của tiểu nhân đã dùng chạc ba đè cô ta xuống đất. Cô ta chộp lấy cây gậy, giãy giụa, vật lộn hung bạo, mạnh đến nỗi cần một người nữa nhào vào mới ghì chặt xuống đất, bắt nằm yên được. Cuối cùng, nữ nhân thõng tay xuống rồi tắt thở.” Viên vệ úy đẩy chiếc mũ sắt ra sau gáy và lau cái trán ẩm ướt của mình. “Lỗ tri huyện thật là người tuyệt vời, thưa đại nhân! Ngài ấy hẳn biết chuyện này sẽ xảy ra! Tiểu nhân nhận được lệnh điều vài thuộc hạ đến quầy hàng bên đó và để mắt giám sát cánh cổng cũ kĩ kia. Thế nên bọn tiếu nhân có thể hiện diện kịp thời trước khi nữ nhân ấy tấn công khách qua đường.” “Tri huyện của chúng ta là người sâu sắc!” Một tên lính nói, toét miệng cười.
Địch huyện lệnh vẫy tay ra hiệu cho vị đại phu đã bước xuống từ cỗ kiệu còn lại. “Cô ta đã chết vì bệnh dại,” Địch huyện lệnh xẵng giọng nói. “Ngươi đồng ý cho hỏa táng thi thể chứ?” “Bẩm đại nhân, dĩ nhiên rồi. Cùng với cây gậy chạc ba dùng kẹp cổ. Và cả bụi cây mà từ đó cô ta phóng ra cũng nên bị đốt rụi. Bệnh dại là một thứ bệnh dịch kinh khủng.” “Hãy ở đây và trông coi mọi thứ sao cho thực hiện chuẩn tắc,” Địch huyện lệnh lệnh cho Cao sư gia. “Ta sẽ hồi phủ.” HỒI 16 Luận tam nhân, mười tám năm oan án Nữ thi nhân, ai đã bán đứng nàng Một đám thị nữ trẻ lăng xăng qua lại xung quanh ba cỗ kiệu nha môn trực sẵn trong sân chính của dinh. Một số đang phủ gấm thêu che kín các tấm đệm, những người khác chất lên các ấm trà và những túi mứt kẹo. Lão quản gia nói chuyện với viên chưởng quản của hai tá phu khiêng kiệu đang ngồi xổm dọc theo chân tường bên, ăn vận gọn ghẽ trong những bộ đoản phục màu nâu thắt khăn lưng đỏ bản rộng. Viên quản gia thông báo cho Địch huyện lệnh rằng buổi bình thơ ở thư phòng đã kết thúc. Khách khứa ai đã về phòng nấy để thay y phục, Lỗ tri huyện cũng thế. Địch huyện lệnh về phòng của mình. Ông kéo chiếc ghế bành lên phía trước ngưỡng cửa mở rộng, rồi ngồi xuống, người mệt lả. Tay trái nắm khuỷu tay, cằm tì lên nắm tay siết chặt, ông ủ rũ nhìn chằm chằm tòa giả sơn yên ắng dưới ánh mặt trời buổi cuối trưa.
Một tiếng kêu kéo dài vang lên phía trên đầu khiến ông phải rướn mắt ra nhìn. Một đàn ngỗng trời đang bay lượn, nhàn tản vỗ cánh trên bầu trời xanh biếc. Một dấu hiệu rõ ràng của mùa thu. Cuối cùng, Địch huyện lệnh đứng dậy và đi vào bên trong, ông mệt mỏi bơ phờ thay một bộ trường bào màu tím thẫm giống như y phục ông đã mặc vào buổi trưa hôm trước. Khi đang đặt chiếc mũ the đen chỏm cao cứng cáp lên đầu, Địch huyện lệnh nghe tiếng những đôi ủng sắt trong sân trước. Đội quân hộ tống đã đến, nghĩa là bọn họ sắp sửa lên đường. Băng qua trung viện tử, Địch huyện lệnh gặp đại sư Như Ý. Đại sư vận một bộ trường y màu lam hơi bạc, xung quanh cái eo rộng thùng thình quấn chặt một sợi dây thừng tết bằng rơm, bàn chân trần mang đôi dép bản rộng cũng bằng chất liệu đấy. Ông ta chống một cây nạng, trên đó treo lủng lẳng bọc y phục. Khi hai nam nhân bước lên bậc thềm đá hoa cương phía trước sảnh chính, nơi có Lỗ tri huyện, Thiệu học sĩ và Trương thi sĩ cung đình đang tề tựu, chói lọi trong những bộ trường bào thêu gấm, nhà sư nói với bọn họ bằng giọng cộc cằn, “Đừng lo lắng về trang phục của ta! Ta sẽ thay đổi diện mạo trong ngôi đình trên vách đá. Bọc y phục này chứa bộ trường bào đẹp nhất của ta.” “Thầy vận bộ nào trông cũng oai vệ cả, đại sư Như Ý!” Học sĩ ân cần nói. “Ta sẽ đi cùng với ngài, Trương tiên sinh. Chúng ta phải tranh luận cởi mở và thẳng thắn về những khác biệt của mình trong các bài luận thơ ca.”
“Tiến lên trước nào!” Vị thiền sư nói. “Ta sẽ đi bộ.” “Thầy không thể!” Lỗ tri huyện phản đối. “Đường núi thì dốc đứng và…” “Ta biết rõ đường và ta đã leo lên những con đường còn dốc hơn,” nhà sư cáu kỉnh nói. “Ta thích ngắm phong cảnh núi non và rèn luyện sự dẻo dai. Ta chỉ đến đây để nói với các ngài không cần bận lòng lo kiệu cho ta.” Nhà sư thư thả bước đi, cây nạng vắt vẻo trên vai. “Ôi, trong trường hợp này, hi vọng huynh sẽ đi cùng đệ,” Lỗ tri huyện nói, “Ngọc Lan sẽ ngồi trên cỗ kiệu thứ ba cùng với thị nữ của đại phu nhân nhà đệ, để tiện việc coi sóc.” Quay sang vị học sĩ, ông ta hỏi, “Ta có thể đưa ngài lên cỗ kiệu đầu tiên chứ?” Lỗ tri huyện bước xuống các bậc đá hoa cương cùng với Thiệu học sĩ và Trương thi sĩ. Ba mươi lính giáp kích sáng choang đi theo hộ tống. Ngay khi Lỗ tri huyện và Địch huyện lệnh sắp sửa bước lên cỗ kiệu thứ hai, họ nhìn thấy nữ sĩ Ngọc Lan xuất hiện ở bậc thêm. Một thân thể quyến rũ đang thướt tha trong bộ xiêm y mỏng bằng lụa trắng xòe ra vờn gót chân, bên ngoài khoác tấm áo cánh tà dài bằng gấm thêu màu xanh biếc điểm hoa bạc. Mái tóc bới cao chỉnh chu tỉ mẩn được giữ nếp ngay ngắn bằng những cây trâm bạc, đỉnh trâm được trang trí bởi vàng chạm lộng đính lam ngọc sáng lấp lánh. Theo sau nàng là một thị nữ đã lớn tuổi vận thanh y. Thoải mái ngồi trên tấm đệm xong, Lỗ tri huyện hỏi vẻ cáu kỉnh, “Huynh có trông thấy bộ xiêm y và những cây trâm đó không? Nàng ta mượn từ đại nương tử của đệ! Ôi, cuộc bình thơ của bọn đệ không kéo quá dài đâu. Ngài học sĩ và Trương tiên sinh dường như có chút miễn cưỡng khi đưa ra ý kiến thẳng thắn về thơ phú của đệ. Còn đại sư thậm chí còn chẳng thèm che giấu vẻ chán ngán! Một người chả dễ chịu gì! Phải nói là Ngọc Lan đã nêu ra vài bình phẩm rất xác đáng. Nữ nhân già đời ấy có khả năng cảm nhận rất tốt về ngôn ngữ.”
Ông ta mân mê hàm ria vểnh ngược. “À, còn về việc họ ở đâu vào thời điểm xét xử Mạc đại tướng quân, đệ tìm hiểu không khó khăn gì. Ngay khi đệ đề cập đến vụ án, ngài học sĩ sốt sắng đưa ra một bài luận dài về nó. Ngự sử đại nhân lúc đó đã triệu tập ông ấy đến để hỏi ý kiến về tình hình địa phương. Còn về Trương Lam Ba, ông ta cũng đang ở Quyên Thành để thương lượng với các tá điên thuê đất bất mãn. Trương gia sở hữu phân nửa điền sản trong huyện này, huynh biết đấy. Trương tiên sinh đã tham dự các phiên thăng đường của nha phủ để quan sát những giằng xé mâu thuẫn của bách tính lê dân, ít ra đó là những gì ông ta nói. Và đại sư Như Ý cũng đang ở chốn này vào khi ấy, trú trong một ngôi chùa cổ, giảng giải một loạt kinh kệ Phật giáo. Đệ đã không làm được việc chúng ta trù tính là gợi hỏi để xem họ có mặt ở Hồ Tương vào thời điểm nữ sĩ bị bắt giữ không. Huynh đã đưa cô gái ở miếu Hắc HỒ đi đâu rồi?” “Cô gái ấy chết vì bệnh dại rồi. Chắc là bị một con cáo cắn, vì lúc nào cô ta cũng vuốt ve chúng, thậm chí còn để cho chúng liếm lên mặt. Và quá…” “Trời xanh thương xót chúng sinh, thật là tồi tệ!” “Rất tệ. Vì bây giờ, chúng ta chẳng có ai để…” Địch huyện lệnh đột ngột ngừng lại, vì có một tiếng cồng vang rền dội đến. Những cỗ kiệu được khênh từ dinh ra đến nha phủ, giờ đã đến cổng chính. Mười hai bộ khoái xếp hàng thẳng lối phía đầu đoàn tùy tùng, bốn trong số đó đang gõ vào những cái cồng bằng đồng thau. Những người còn lại mang những cây cọc dài treo các tấm biển đỏ, một số khắc hàng chữ vàng “Nha phủ Quyên Thành,” số khác là “Dẹp đường!”. Những cái còn lại có đèn lồng với cùng những dòng chữ khắc, sẽ được thắp sáng khi đoàn người trở về thành vào buổi tối.
Cánh cổng chính bọc sắt nặng nề được đẩy mở ra và đoàn tùy tùng di chuyển ra bên ngoài phố. Đi đầu là các bộ khoái, kế đó là ba cỗ kiệu, mỗi bên được hộ tống bởi mười người lính, và cuối cùng là mười người lính khác được vũ trang kĩ càng đi đằng sau. Đám đông ăn mặc lễ phục nhốn nháo vội vã dạt ra cho đoàn kiệu. Có nhiều tiếng tung hô dành cho Lỗ tri huyện. Địch huyện lệnh hài lòng nhận thấy có thêm bằng chứng về sự được lòng dân của vị đồng liêu. Ra khỏi con phố buôn bán, bầu không khí bên ngoài đã trở nên yên ắng hơn, Địch huyện lệnh mới tiếp lời, “Ta định trông cậy vào Chu Hồng để xác định nhân dạng của kẻ mà chúng ta muốn tìm. Nhưng cái chết của cô ta là một đòn trời giáng vào chúng ta. Do ta không còn một chứng cứ nào nữa. Tuy nhiên, dù không thực sự nắm được chứng cứ, nhưng thủ phạm chắc chắn là một trong ba vị khách của đệ. Một ba người đó là cha của Chu Hồng, cũng chính là kẻ đã hạ sát Tống cống sĩ cũng là anh cùng mẹ khác cha của Chu Hồng, như ta từng nói với đệ sau chuyến viếng thăm nhà người bác. Bây giờ ta có thể bổ sung rằng cũng chính kẻ thủ ác ấy đã xuống tay với vũ nữ Tiểu Phượng.” Lỗ tri huyện la toáng. “Trời đất ơi, điều đó nghĩa là đệ…” Địch huyện lệnh giơ tay mình lên. “Không may là phát hiện của ta chẳng giúp được nhiều cho đệ nếu như chúng ta không thể chứng minh ai trong số ba người ấy là thủ phạm. Hãy để ta thử tóm lược lại toàn bộ tình hình xem nào. Vụ án mạng của vũ nữ Tiểu Phượng ngày hôm qua đã cho chúng ta một điểm khởi đầu thuận lợi. Sau đó, ta sẽ nói đến vụ sát hại cống sĩ vào ngày hôm kia, rồi xem xét đến bối cảnh xét xử Mạc đại tướng quân mười tám năm về trước. Cuối cùng, chúng ta sẽ cùng nhau xử trí vụ sát hại tỳ nữ trong đạo quán Bạch Hạc. Theo cách đó, chúng ta sẽ có thể xem xét tất cả các vấn đề trên theo một trình tự thời gian chính xác.
“À, hãy bắt đầu với án mạng của vũ nữ. Điểm mấu chốt là Tiểu Phượng từng trông thấy thân phụ của Chu Hồng ở bãi đất hoang, khi hắn đang trên đường trở ra sau khi thăm con gái. Cuộc gặp gỡ chẳng có nghĩa lý gì đối với vũ nữ vào lúc ấy, vì nàng chưa hề chạm mặt người đó trước đây. Trưa hôm qua, Tiểu Phượng muốn nhìn lại phòng tiệc của đệ, là nơi cô ta sắp sửa trình diễn vào buổi chiều. Ngọc Lan, người phải lòng nữ nhi ấy, đã dẫn Tiểu Phượng tới dinh. Tiểu Phượng nói với nữ sĩ rằng mình sắp sửa trình diễn ‘Tử vân phượng hoàng’, điệu vũ mà Tiểu Phượng coi là tác phẩm tuyệt diệu nhất của mình. Rồi nàng gặp ba vị khách của đệ. Chính cuộc gặp gỡ ngắn ngủi ấy, đã khiến vũ nữ đột ngột quyết định thay đổi. Nàng đã hủy kế hoạch dành cho vũ điệu mà mình rất rành rẽ, luôn tạo ấn tượng tốt với khán giả, khiến họ đắm say, để đổi sang ‘Hắc hồ khúc’, điệu múa mà Tiểu Phượng chưa bao giờ trình diễn trước công chúng trước đây, và do thế mà nàng ta thậm chí còn không có cả một quyển nhạc phổ cho đàng hoàng!” “Trời ơi!” Lỗ tri huyện la lên. “Vũ nữ ấy đã nhận ra kẻ mà mình từng gặp ở bãi đất hoang!” “Chính xác! Tiểu Phượng đã nhớ ra, nhưng kẻ kia chẳng cho thấy dấu hiệu nào là nhận ra cô ta cả. Ôi, cô ta đã khuấy đảo kí ức của kẻ thủ ác! ‘Hắc hồ khúc’ gợi nhắc hắn! Múa xong, khi ngồi một lúc với từng vị khách để dùng một chén rưọu, như tập tục thông thường vẫn vậy, Tiểu Phượng nói với tên sát nhân là biết cha của Chu Hồng là ai và đưa ra yêu sách. Vì cô ta là kẻ tham vọng, đã hiến dâng đời mình cho nghệ thuật, ta cho là trong trường hợp của Thiệu Phàn Viên hay Trương Lam Ba, Tiểu Phượng sẽ ngỏ lời gạ gẫm để được tiến cử với giới vương tôn ở kinh thành, kèm thêm một khoản thu nhập đáng kể hàng tháng. Còn với trường hợp của đại sư Như Ý, cô ta sẽ khăng khăng đòi ông ta bảo trợ, thu nạp làm ái nữ chẳng hạn, để lợi dụng danh tính đại sư Như Ý làm cái bóng nâng đỡ cho sự nghiệp nghệ thuật của mình. Một vụ tống tiền, chỉ có thể là thế!”
Địch huyện lệnh rẽ chòm râu và tiếp tục nói với một hơi thở dài, “Cô nương ấy thật ma mãnh, khôn ngoan, nhưng cô ta đã đánh giá thấp đối phương. Ngay khi nhận ra Tiểu Phượng, hắn lên ngay kế hoạch loại bỏ nàng vũ nữ. Thông báo của đệ rằng vũ công sắp trình bày vũ điệu ‘Hắc hồ khúc’, một lời cảnh báo rõ ràng là cô ta đã nhận ra hung thủ chính là vị khách đến bãi đất hoang, và cô ta đang rắp tâm thực hiện một vụ giao dịch đổi chác. Điều đó đã khiến tên sát nhân quyết định trừ khử người vũ nữ ngay khi có cơ hội thích hợp. Khoảng thời gian trống trong buổi bắn pháo hoa đã tạo ra cơ hội đó và hắn tận dụng ngay. Theo giải thích của ta cho đệ nghe vào tối hôm qua, chính là căn cứ vào lập luận này, mà ta vẫn bảo lưu ý kiến là có bằng chứng không thể bác bỏ rằng một trong ba vị khách của đệ là thủ phạm giết người.” “Đệ vui khi biết Ngọc Lan không phạm tội!” Lỗ tri huyện thốt lên. “Sự thật là chúng ta không biết ai trong số ba nhân vật đó đã gây án, nhưng huynh đã cứu rỗi sự nghiệp của đệ, hiền huynh! Vì bây giờ đệ có thể bẩm báo vụ án mạng nàng vũ nữ theo đúng lương tâm trong sáng, xem nó như một công vụ địa phương chẳng dính dáng gì đến nữ sĩ! Đệ sẽ không bao giờ có thể đền đáp ơn nghĩa của huynh trong chuyện này, đệ…” Câu nói của Lỗ tri huyện bị ngắt quãng bởi những tiếng hô quân lệnh và tiếng vũ khí va chạm nhau loảng xoảng. Đoàn kiệu đang băng ra ngoài qua lối Tây môn.
Địch huyện lệnh mau chóng nói tiếp, “Thứ đến, vụ án mạng của cống sĩ. Vào thời điểm xét xử Mạc tướng quân, Tống Nhất Văn còn là một đứa trẻ lên năm và ngay lập tức được thúc thúc đưa về kinh thành. Chúng ta chỉ có thể đoán chừng từ bao giờ và bằng cách nào mà Tống Nhất Văn có được các thông tin khiến y tin chắc thân phụ đã bị cáo buộc oan uổng. Ta đoán là y biết được câu chuyện tư thông nam nữ của mẹ mình, thúc thúc của y hoặc một họ hàng thân hữu khác chắc hẳn đã kể cho y nghe chuyện đó khi y đã trưởng thành, vì bác y nói rằng y chưa bao giờ về thăm bà ấy ở Quyên Thành này cả. Bằng cách này hay cách khác, Tống Nhất Văn chắc đã phát hiện ra Chu Hồng là đứa bé được sinh ra từ cuộc dan díu ấy, đó chính là lý do khiến y đến nơi đây, liên lạc với em gái của mình. Cùng lúc đó, Tống Nhất Văn tìm kiếm các văn thư ghi chép trong văn khố của đệ để tra soát những chi tiết về vụ xét xử phụ thân. Chu Hồng chưa nói gì với Tống Nhất Văn chuyện cha cô ta thỉnh thoảng vẫn đến thăm, nhưng ắt hẳn đã kể cho ác nhân kia nghe về cống sĩ, rằng tên y là Tống Nhất Văn, đã đến Quyên Thành để đưa cừu nhân ám hại thân phụ ra công đường, rằng Tống Nhất Văn đang ở tại gia trang của thương gia buôn trà họ Mạnh. Tiên hạ thủ vi cường! Ác nhân liền đến Mạnh gia, ra tay trừ khử Tống Nhất Văn.” Tri huyện hăm hở gật đầu.
“Sau đó, hắn lục soát chỗ thuê trọ của Tống Nhất Văn, tìm kiếm các ghi chú chung cuộc có thể chỉ ra manh mối về nhân dạng của hắn. Có lẽ Tống Nhất Văn thực sự đã tìm được những lá thư cổ xưa của Mạc đại tướng quân, hoặc của thân mẫu mình. Triều đình đã tịch thu tất cả gia sản của vị đại tướng, nhưng Mạc gia có thể giữ được một hay hai cái trường bào nào đó, và nhiều năm sau, chàng cống sĩ có thể đã phát hiện ra những giấy tờ mật được may vào trong lớp vải lót, hoặc là kiểu gì đó mà có trời mới biết được! “Về chuyện đó, chúng ta chỉ biết khi nào xác định được tên sát nhân và thu thập đủ bằng chứng để thẩm vấn hắn. Nhưng ta thấy có rất ít cơ hội để chúng ta có thể thành công tại thời điểm hiện tại! Tuy nhiên, trước khi đi sâu vào chủ đề đó, ta muốn thảo luận điểm thứ ba của mình, cụ thể là về một vụ án chưa xử xong, đó là vụ cáo buộc nữ sĩ đánh chết tỳ nữ ở đạo quán Bạch Hạc. Hãy kể cho ta nghe, đệ thấy những gì từ hai lá thư ẩn danh mà ta đưa cho đệ?” “Không nhiều lắm, cả hai đều được soạn ra bởi một học giả uyên thâm. Và huynh biết các quy tắc niêm luật về phong thái văn chương của Đường triều chặt chẽ như thế nào mà. Mỗi học giả sẽ sử dụng chính xác cụm từ thích hợp đúng nơi đúng chỗ. Nếu các lá thư được viết ra bởi một người không được giáo dưỡng, thì dĩ nhiên sẽ khác hẳn. Khi đó, thật dễ dàng chọn ra những văn phong tương tự nhau, hay có cùng những lỗi đó. Như chúng thể hiện, đệ chỉ có thể nói ra là có sự giống nhau trong sử dụng một số từ, điều đó gợi ý rằng cả hai lá thư đều cùng được viết bởi cùng một người. Thật đáng tiếc, Địch huynh à!”
“Ước gì ta có thể xem bản gốc của những lá thư đó!” Địch huyện lệnh thốt lên. “Ta đã nghiên cứu kĩ càng về chữ viết tay. Đảm bảo rồi ta sẽ nhận ra được người viết! Nhưng muốn thế thì phải đến tận kinh thành. Với lại liệu Bộ Hình có để cho ta khảo nghiệm những lá thư đó hay không nữa!” Ông bực tức giật mạnh hàm râu của mình. “Tại sao huynh cần biết về những lá thư đó? Với đôi mắt sắc bén của mình, hiền huynh hẳn phải có các phương cách khác để quyết định ra được ai trong số ba vị khách kia là kẻ sát nhân chứ! Trời đất ơi, ác nhân đó chắc chắn đang sống một cuộc đời hai mặt! Huynh chắc phải nắm bắt được những dấu vết gì đó trong lúc họ trò chuyện, hay là trong…” Địch huyện lệnh dứt khoát lắc đầu. “Không có tia hi vọng nào! Vấn đề cơ bản của chúng ta nằm ở chỗ cả ba nhân vật kia đều khác thường. Hành động và phản ứng của họ không thể đo lường bằng những chuẩn mực thông thường được. Chúng ta hãy thừa nhận điều này. Ba người bọn họ đều vượt xa chúng ta về học thuật, tài năng và trải nghiệm cả trên trường đời lẫn quan trường, chưa nói đến địa vị nổi bật mà họ đang nắm giữ! Trực tiếp thẩm vấn họ sẽ chỉ tổ chuốc lấy thảm họa cho cả đệ và ta. Biết đâu lại vô tình gây nên sóng gió ngả nghiêng triều chính! Còn cố gắng dùng mưu mẹo thông thường để bẫy họ một cách gián tiếp sẽ chẳng đem lại hiệu quả. Đây là những nhân vật học sâu hiểu rộng, thông tuệ phi phàm, họ là những con người rất tự chủ, khôn ngoan lõi đời, thông thạo mọi đường đi nước bước! Ngài học sĩ, là điển hình nhất, còn dày dạn kinh nghiệm phá án hơn cả đệ hay ta! Cứ cố gắng lừa phỉnh hay làm họ bất ngờ mà chẳng có gì đảm bảo, chỉ tổ chuốc lấy thất bại thê thảm mà thôi!”
Lỗ tri huyện lắc đầu. Ông ta nói vẻ chán chường, “Nói thật với huynh, đệ không thể quen được cái ý nghĩ một trong ba đại văn sĩ ấy là nghi phạm sát nhân. Làm thế nào mà huynh có thể giải thích việc một người như thế lại phạm phải những tội ác tàn nhẫn, mất hết nhân tính, thiên địa bất dung như vậy cơ chứ?” Địch huyện lệnh nhún vai. “Chúng ta chỉ có thể đưa ra các dự đoán sơ bộ thôi. Ta có thể mường tượng, chẳng hạn, là vị học sĩ đang trải qua cảm giác thừa thãi trải nghiệm cuộc đời. Đã có được tất cả những thứ mà nhân thế trần tục phải trao tặng cho mình, ông ta muốn tìm kiếm những cảm giác khác lạ. Thi sĩ cung đình thì ngược lại, hiển nhiên đang bị giày vò bởi cảm giác đau đáu khôn nguôi cho rằng mình chỉ sống mòn dựa trên những cảm xúc đớn đau của trái tim, khiến thơ ca của mình chả hay ho gì. Một tâm trạng chán chường, sụp đổ có thể gây ra cảm giác muốn được giải thoát bằng những hành động chẳng ai ngờ nhất. Còn về đại sư Như Ý, đệ đã bảo ta rằng trước khi chuyển đổi bản ngã sang tín ngưỡng mới, ông ta từng áp bức dã man các tá điền thuê đất của mình. Bây giờ, rõ là ông ta đã lựa chọn đặt bản thân mình ra ngoài vòng vây bủa của thế thái nhân tình, lánh xa trần tục, tách mình khỏi quy luật nghiệt ngã của nhân sinh. Đó là một thái độ vô cùng nguy hiểm nếu lĩnh hội nó. Ta chỉ mới đề cập một vài diễn giải đơn giản vừa nảy ra trong đầu óc. Trên thực tế, chắc chắn mọi việc sẽ phức tạp hơn!”
Tri huyện gật gù. Ông ta mở một trong các túi ra, lấy một nắm mứt kẹo và bắt đầu nhai trệu trạo. Địch huyện lệnh muốn châm cho mình một chén trà từ chiếc ấm để bên dưới kỷ nhưng kiệu bắt đầu nghiêng về phía sau tại một góc cua gắt. Ông kéo tấm màn che cửa sổ. Họ đang đi lên một con đường núi dốc đứng, dọc hai bên đường là những cây thông cao vút. Lỗ tri huyện khéo léo lau mặt bằng tấm khăn tay và tiếp lời, “Những cách kiểm tra theo thông lệ không còn hiệu nghiệm nữa, ít nhất là đối với Thiệu Phàn Viên và Trương Lam Ba. Cả hai đều nói với đệ là họ đã đi ngủ sớm vào tối hôm kia, đúng cái ngày mà Tống cống sĩ bị sát hại. Hiện giờ huynh cũng biết là khách điếm của triều đình, nơi họ ở, là một cơ ngơi to lớn và luôn náo nhiệt, tất cả các loại quan viên đều ra vào nơi đó liên tục suốt ngày đêm. Xác minh hành tung của họ là không thể, nhất là khi họ có lẽ đã đề cao cảnh giác để bản thân không bị phát hiện khi lẻn ra ngoài muộn vào đêm khuya! Dù vậy, còn đại sư Như Ý thì sao?” “Tình thế cũng tệ thế thôi. Bất cứ ai cũng có thể tự do ra vào ngôi chùa đó, như ta từng làm như vậy. Có một con đường tắt từ nơi ấy đến khu vực gần Đông môn, nơi Mạnh chưởng quỹ đang sống. Bây giờ Chu Hồng đã không còn, ta e là chúng ta đã đi vào ngõ cụt!” Hai vị huyện quan chìm vào khoảng không im lặng đầy ủ ê. Địch huyện lệnh để cho hàng tóc mai dài của mình chậm chạp trượt qua những ngón tay.
Sau một hồi thinh lặng, bất chợt ông nói, “Ngay bây giờ, tâm tưởng ta nhớ lại bữa yến tiệc tối qua. Nó không đánh động tâm thức đệ à, các quan khách của đệ cư xử với nhau mới đẹp đẽ, chuẩn mực làm sao? Tất cả bốn người bọn họ, bao gồm nữ sĩ. Lịch sự nhưng dè dặt, thân thiện nhưng khách sáo, và chỉ có đôi chút bông đùa tại một cuộc gặp nhỏ giữa các văn nhân trong giới bút nghiên, mà mỗi người đều đã đạt đến ngưỡng của vinh quang. Bốn nhân vật này vẫn thỉnh thoảng gặp nhau trong nhiều năm qua. Ai mà biết được họ thực sự nghĩ về nhau như thế nào? Những ký ức tình yêu tương hợp hay thù hận đan xen, được sẻ chia hay chôn giấu nào đang ràng buộc họ với nhau? Không ai trong số ba nam nhân để lộ nhiều cảm xúc thật của bản thân. Tuy nhiên, riêng nữ sĩ thì lại ở một thái cực khác, về bản chất, nàng là một nữ nhân nồng nàn. Sáu tuần chôn thân trong đại lao cũng như chịu xét xử đã khiến nàng rơi vào trạng thái trầm uất, căng thẳng nặng nề. Tối qua, nàng đã lật mở một phần chiếc mặt nạ của mình. Chỉ duy nhất một lần, nhưng ta cảm nhận được sự căng thẳng lộ rõ thoáng qua, chỉ trong phút giây ngắn ngủi.” “Ý huynh là sau khi nàng ngâm bài thơ lạ lùng về ‘Thú đoàn viên’?” “Chính xác. Nàng quý mến đệ, và ta tin chắc Ngọc Lan sẽ không bao giờ viết ra bài thơ nếu nàng không ở trong một trạng thái xúc động đến mức quên cả sự có mặt của đệ ở nơi đó. Sau đấy, khi chúng ta đang thưởng lãm pháo hoa ở bao lơn, lúc nàng đã bình tĩnh lại, ít nhiều gì thì Ngọc Lan cũng đã tạ lỗi với đệ. Bài thơ ấy là dành cho một trong ba vị khách của đệ.”
“Đệ vui khi nghe chuyện đó,” vị đồng liêu đáp khô khan. “Đệ thật sự bị sốc bởi sự chỉ trích mạnh mẽ của Ngọc Lan. Nhất là do bài thơ ấy thật sự rất hay, dù được xuất khẩu thành thơ tại chỗ.” “Đệ vừa nói gì vậy? Xin Lỗ đệ thứ lỗi. Ta lại đang nghĩ về hai lá thư ẩn danh kia. Nếu chúng được viết bởi chỉ một người, thì điều đó nghĩa là một trong ba vị khách của đệ căm ghét Ngọc Lan. Nỗi căm hờn sâu sắc đến mức hắn muốn đẩy nàng ra pháp trường. Một lần nữa, chúng ta hãy quay trở lại với câu hỏi mấu chốt. Đó là ai trong số ba người? Ôi, ta đã hứa với đệ sẽ bàn luận về vụ án đạo quán Bạch Hạc với nữ sĩ. Hi vọng tối nay ta sẽ có cơ hội làm chuyện ấy. Sau đó, ta sẽ bắt đầu luận giải về chủ đề lá thư ẩn danh và sẽ kín đáo quan sát những phản ứng của bọn họ, đặc biệt là của Ngọc Lan. Tuy nhiên, phải thành thực nói với đệ rằng chính bản thân ta cũng chẳng trông mong nhiều lần này!” “Một ý nghĩ hay ho, vui vẻ!” Lỗ tri huyện lẩm bẩm. Ông ta ngả người ra tấm đệm, hai tay vắt tréo trên bụng vẻ cam chịu. Sau một hồi, họ lại đi trên nền đất bằng phẳng. Cỗ kiệu ngừng lại giữa những tiếng ồn ào hỗn độn. Họ đang ở trên một dải bình nguyên, trong một không gian rộng mở được bao bọc bởi những cây thông đồ sộ. Chính màu xanh nhàn nhạt, thẳm sâu của rừng thông đã mang lại cái tên vách đá Thúy Ngọc. Xa hơn về phía trước, trên rìa vách đá là một ngôi đình đơn tầng, mở tung cả bốn phía, mái nhà nặng nề được chống đỡ bởi những hàng cột trụ bằng gỗ dày cộp uy nghi, oai vệ. Vách đá đổ thẳng đứng xuống một hẻm núi sâu thăm thẳm. Phía đối diện là hai dãy núi đứng sừng sững, đỉnh núi đầu tiên cao ngang với mái đình, đỉnh thứ hai cao vút vươn tới bầu trời loang lổ những sọc mây đỏ thẫm, ở đầu kia của vách đá có một ngôi miếu nhỏ, mái nhà nhọn hoắt lấp ló sau những nhánh thông cao vời vợi. Trước mặt ngôi miếu là những hàng ăn nhỏ đứng nhấp nhô, tất cả hiện giờ đều đóng cửa trong dịp quan tri huyện đến thăm. Các trù sư của Lỗ tri huyện đã đặt ở đấy hai nhà bếp ngoài trời. Các gia nhân mang những hòm mây và vò rượu lớn đang bận rộn xung quanh những chiếc bàn đặt dưới vòm cây. Tại đó, tất cả các Bộ khoái, lính tuần và quan viên khác của nha phủ sẽ được tiếp đãi. Phu kiệu và phu khuân vác sẽ đảm đương phần thức ăn và rượu thịt còn lại của họ.
Khi Lỗ tri huyện đang đứng cạnh cỗ kiệu đầu tiên để chào học sĩ và thi sĩ cung đình, thì bóng dáng nhếch nhác, lôi thôi của đại sư Như Ý cũng xuất hiện trước mắt. Ông ta xắn tà vạt của chiếc áo choàng xanh bạc màu lên, giắt vào sợi dây bằng rơm buộc ngang thắt lưng, để hở hai cẳng chân rậm lông, cuồn cuộn bắp thịt. Như Ý mang bọc y phục mắc vào cây gậy vắt vẻo trên vai mình, đúng như kiểu nông dân. “Thầy trông giống như một ẩn sĩ, đại sư Như Ý!” Học sĩ la lớn. “Nhưng là ẩn sĩ mạnh mẽ vì những thứ tốt đẹp hơn chỉ là những hạt thông và sương sớm ban mai!” Nhà sư cười toe toét, để lộ hàm răng nâu xỉn không đều. Ông ta đi về phía ngôi miếu. Lỗ tri huyện dẫn đường cho những vị khách còn lại đi lên một lối mòn vương vãi lá thông để đến thềm đá hoa cương của ngôi đình. Địch huyện lệnh, đang đi cuối đoàn, nhận thấy có ba binh lính không đi theo những người khác đến gian bếp dựng tạm. Bọn họ đang ngồi xổm cùng nhau dưới gốc một cây thông cao lớn, nằm ở khoảng giữa mái đình và ngôi miếu. Họ đội mũ sắt chóp nhọn, lưng đeo kiếm. Địch huyện lệnh nhận ra viên hiệu úy cao lớn mà ông từng trông thấy ở nha phủ. Đích thị họ là lính trong đoàn áp giải nữ sĩ. Sự che chở của Lỗ tri huyện chỉ nằm trong khu dinh thự của Lỗ gia. Bây giờ nàng ta đang ở bên ngoài, đội áp giải lại trở về trạng thái canh gác thường trực. Họ đang làm đúng phép tắc, vì họ chịu trách nhiệm đối với nữ tù nhân. Nếu có gì bất trắc xảy ra thì cuộc đời binh nghiệp của họ sẽ chấm dứt. Nhưng sự hiện diện này trong chuyến du ngoạn vui vẻ bất chợt tạo cho ông sự bất an.
HỒI 17 Ngắm hoàng hôn, giai nhân họa bút Tinh ái đau, bỗng chút hoen mi Địch huyện lệnh cùng những người khác tiến vào ngôi đình. Họ uống nhanh một chén trà, sau đó Lỗ tri huyện dẫn mọi người đến chỗ hàng lan can thấp làm bằng đá hoa cương chạm trổ, xây dọc theo rìa vách đá. Đứng tại đó, họ lặng lẽ ngắm nhìn vầng thái dương đỏ rực, tròn như cái mâm, đang chìm xuống và khuất dần sau dãy núi. Bóng tối lan nhanh vắt qua vách đá. Ngả người nhìn xuống, Địch huyện lệnh thấy có một con dốc thẳng đứng sâu đến hơn trăm thước. Một màn sương mỏng tỏa ra từ dòng thác đang cuồn cuộn đổ xuống những tảng đá lởm chởm nằm sâu dưới đáy vực. Thi sĩ cung đình quay lại. “Một cảnh tượng không thể quên được!” Gã nói đầy vẻ thán phục và ngưỡng mộ. “Ước chi ta có thể thu hết vẻ tráng lệ này vào trong đôi dòng thơ, khơi gợi lên. “Miễn là ngài đừng sao chép của ta là được!” Học sĩ cắt ngang với nụ cười mỏng manh. “Lần đầu tiên ta đến thăm phong cảnh nổi tiếng này là đi tháp tùng ngài tể tướng. Ta đã viết bốn khổ thơ mô tả cảnh mặt trời lặn. Tể tướng đại nhân đã cho khắc những vần thơ ấy lên những cây xà nhà ở đây, ta cho là thế. Chúng ta hãy đi xem nào, Trương tiên sinh!” Mọi người cùng kiểm tra những tấm bảng lớn nhỏ đủ loại treo trên các thanh xà của mái đình. Tất cả đều mang vết dấu của những bài thơ và luận bút do các vị khách nổi tiếng đề lên. Học sĩ bảo tiểu nhị đang thắp đèn giơ cao một tấm lên.
Thi sĩ cung đình thốt lời, “Đúng rồi, Thiệu học sĩ, đây là bài thơ của ngài! Ở rất cao trên kia, khó nhìn đấy, nhưng ta vẫn có thể nhận ra. Theo phong cách cổ điển tinh tế!” “‘Ta tập tễnh bước trên đôi nạng’ là những trích dẫn cổ xưa,” học sĩ nói. “Dù sao, họ có lẽ nên đặt bài thơ ở một vị trí đẹp đẽ hơn. À, giờ thì ta nhớ ra rồi! Vào dịp đó, Tham nghị Đại phu đã đặt tên cho buổi họp mặt của chúng ta là Trung vân hội*. Giờ đây, ai có ý nào cho tên gọi của cuộc gặp gỡ tối nay chăng?” Trung vân hội nghĩa là 'hội trong mây' “Vụ lý hội*,” một giọng nói khàn khàn cất lên. Đó chính là đại sư Như Ý, người ban nãy đã bước lên các bậc thềm, giờ đang vận một trường bào màu rượu viền đen. Vụ lý hội nghĩa là Hội trong sương. “Rất hay!” Thi sĩ cung đình reo lên. “Quả thật là có rất nhiều sương mù. Hãy nhìn vào những dải sương dằng dặc đang lơ lửng giăng ngang các cành cây ấy!” “Ta không nhắc đến điều đó,” nhà sư bình phẩm. “Chúng ta hãy hi vọng vầng trăng sẽ sớm sáng tỏ,” Địch huyện lệnh nói. “Tết Trung thu được dành riêng cho Hằng Nga!” Các gia nhân đã rót đầy những chén rượu đặt trên chiếc bàn tròn sơn son được kê sát hàng lan can cẩm thạch. Bàn chất đầy những đĩa thức ăn ướp lạnh. Vị tri huyện nâng chén lên. “Ta trân trọng chào mừng quý vị đến tham dự Vụ lý hội! Đây chỉ là một bữa ăn dân dã, đề nghị chúng ta cùng ngồi xuống và bỏ qua những nghi lễ rườm rà!”