text
stringlengths
1
809k
Họ Lang vẫn giữ điềm tĩnh, nhưng Địch huyện lệnh để ý thấy vẻ mặt viên cối kế đã tái nhợt. Ông nói tiếp, “Tố giác ngươi trước cửa quan cũng dễ thôi, Lang Lưu ạ. Nhưng hòa hoãn là hòa hoãn, người của ta sẽ giữ lời. Đương nhiên, nếu chúng ta cùng chia sẻ. Tám mươi tư chia đôi là được bốn mươi hai. Ta có tính sai không?” Gã từ tốn vuốt râu, ánh mắt ác độc nhìn sang hai hộ vệ. Cả hai nam nhân to lớn đều lắc đầu quầy quậy. Viên cối kế vội vàng lui ra sau ghế của chủ nhân. Căn phòng rộng lớn tĩnh lặng hồi lâu. Cuối cùng, Lang Lưu cất lời, “Người của ngươi quả là giỏi, rất giỏi là đằng khác. Ta sẽ phải tra xét lại toàn bộ bang mình. Được, ngươi tính không hề sai. Đồng ý rằng ở địa hạt chung thì chúng ta sẽ cùng nhau phân chia đều. Tuy nhiên, ta đã không tiết lộ cho bang chủ của ngươi biết, vì mọi chuyện đã thất bại. Ta vẫn chưa lấy được chuỗi ngọc.” Địch huyện lệnh đứng bật dậy. “Họ Lang kia, đêm qua ngươi tìm cách sát hại ta, như vậy đã chứng tỏ ngươi là kẻ dối trá. Bang quy của bên ta là nếu ngươi khước từ những yêu cầu hợp lý, thì ta phải tuyên bố chấm dứt thời gian hòa hoãn. Ngay tại đây, ngay bây giờ. Xin cáo từ!” Ông bước thẳng ra cửa. Khi vừa chạm tay vào thành cửa, Lang Lưu bỗng gọi lớn, “Xin lão đệ hãy quay lại và ngồi xuống đã! Ta sẽ giải thích chuyện này.” Địch huyện lệnh quay lại án thư nhưng không ngồi chiếc ghế gia chủ mời. Ông bực tức nói, “Lang Lưu, trước hết, ta muốn ngươi tạ lỗi vì đã có ý định giết hại ta!”
“Xin tạ lỗi vì ngươi đã bị gây khó dễ ở một nhà kho của ta. Ta sẽ sai người làm rõ chuyện này ngay lập tức. Như vậy đã vừa ý ngươi chưa?” “Cũng tốt hơn là không có lời nào.” Địch huyện lệnh lại ngồi xuống. Họ Lang tựa người ra sau. “Ta đã phạm một sai lầm, đúng ra không nên nhận làm vụ này. Nhưng ngươi phải biết rõ mọi phí tổn của chúng ta trong thời kỳ này! Ta đã tốn biết bao ngân lượng để trả cho chủ các sòng bạc, thế mà đám vô lại ấy vẫn lén lút biển thủ số tiền lãi. Ngươi xem, làm sao điều hành nổi các kỹ viện trong khi thiếu nguồn cung cấp gái quê? Bọn ta phải trả tiền cho một ả thôn nữ không kém gì một kỹ nữ hạng sang! Nếu không có vài trận lũ lớn, hạn hán kéo dài hay mất mùa, chắc ta sẽ mất hết tiền bạc ở nhánh làm ăn này. Về chuyện thuế, ta phải nói rằng…” “Thôi!” Địch huyện lệnh ngắt lời. “Nói về chuỗi ngọc đi!” “Chà, ta chỉ muốn thanh minh rằng theo tình hình lúc này, mười nén vàng là số tiền lớn không được xem thường. Trong vụ này, ta được hứa hẹn mười nén vàng mà không cần chịu rủi ro hay phí tổn gì.” Lang Lưu thở dài. “Đây mới chính là chuyện đáng nói. Tuần trước, một kẻ môi giới tơ lụa đến gặp ta, mang theo thư giới thiệu từ một người của bên ta tại kinh thành. Hắn tự giới thiệu mình họ Hoắc và bảo bản thân có một đầu mối liên lạc. Người này đang lên kế hoạch lấy trộm một chuỗi ngọc quý trong cung Bích Thủy. Họ Hoắc nói chuỗi hạt gồm tám mươi tư viên ngọc trai thượng đẳng nhất, nhưng tất nhiên chúng sẽ được bán từng viên một. Nếu ta quen biết ai thông thuộc địa hình con sông và khu vực quanh cung Bích Thủy, và dụ được người đó nhận vụ này, đầu mối của họ Hoắc sẽ trả ta mười nén vàng. Ta nghĩ ngay đến viên thủ quỹ, kẻ biết rõ nhất về con sông, nhưng ta không nhận lời. Mười nén vàng là số tiền lớn, nhưng lấy trộm đồ trong cung cấm thì quả là quá liều lĩnh. Tuy nhiên, sau đó hắn giải thích rằng mọi đường đi nước bước đã được vạch sẵn. Viên cối kế của ta sẽ nhắc lại toàn bộ, y có một trí nhớ phi thường đấy. Đó là ưu điểm duy nhất của y! Ngươi mau nói đi! Thuật lại lời của kẻ kia!”
Tên đầu nhọn nhắm mắt. Hai tay đan chặt vào nhau, y thao thao kể lại, “Kẻ trộm sẽ dùng thuyền rời khỏi trấn tầm nửa canh giờ trước lúc nửa đêm, chèo thuyền đến bãi đậu thứ tư trên bờ phải con sông, bỏ thuyền lại đó và men theo con đường mòn phía sau rặng thông thứ hai. Trước đây, đám lính tuần của cung Bích Thủy hay đi lối này. Đường mòn chạy dọc theo bờ sông đến tận góc tây bắc của con hào bao quanh cung. Dưới mặt nước tầm hai thước có một cửa cống cũ, bơi theo đó để đến tháp canh tây bắc. Ngay trên mặt nước có một dải đá rộng tầm một thước chạy dọc bức tường phía bắc. Men theo dải đá đó cho đến khi thấy thủy môn cuối cùng. Bên trên thủy môn đó là trụ đỡ của tòa tiểu đình có mái che. Lựa những chỗ rạn nứt trên trụ gạch mà leo lên. Vào tòa tiểu đình bằng cửa sổ bên. Tòa tiểu đình thông với một phòng ngủ qua một khung cửa tròn. Chuỗi ngọc sẽ nằm trên, hoặc bàn trang điểm kê phía bên trong khung cửa tròn, hoặc bàn trà ở đối diện. Núp bên ngoài khung cửa tròn cho đến khi mọi người đã ngủ say. Rồi bước vào trong, lấy chuỗi ngọc và quay lại theo đường cũ. Không cần bận tâm đến đám cung thủ đang canh phòng, chúng sẽ được điều đi chỗ khác.” Y mở mắt và mỉm cười tự mãn. Họ Lang nói tiếp, “Rõ ràng là đầu mối của họ Hoắc biết rõ về việc mình đang làm, thế là ta tính đến chuyện ép buộc tên thủ quỹ. Ta biết hắn cần ngân lượng. Ta mời hắn chơi một ván bạc, để hắn thắng trước tiên, sau đó thua đậm. Khi ta kể với hắn về vụ trộm đã được lên kế hoạch, như một ơn huệ, hắn đồng ý ngay. Ta thông báo với họ Hoắc mọi việc đã xong. Chẳng may Đới Ninh bị bắt, đương nhiên ta sẽ chối bay chối biến vai trò của mình trong kế hoạch này. Ta sẽ khai rằng hắn bị cám dỗ vì đã thua hết tiền trong sới bạc.”
“Ta tin những gì ngươi kể, Lang Lưu à,” Địch huyện lệnh mệt mỏi nói. “Ta vẫn đang đợi để nghe lý do ngươi không lấy được chuỗi ngọc. Đoạn còn lại thì đâu có gì đáng bận tâm!” “Ta chỉ muốn kể cho đầy đủ,” Lang Lưu khó chịu đáp. “Xem nào, Đới Ninh xuất phát từ nhà kho của ta vào thời điểm đã định. Hắn hứa sẽ về thẳng đây, mang chuỗi ngọc đổi lấy hai mươi đĩnh bạc, đấy là còn chưa trừ đi số tiền hắn nợ ta. Giờ ta phải thừa nhận là đôi khi mình cũng phạm sai lầm, nhưng ít nhất ta cũng biết những việc phải làm. Ở các ngả đường hướng ra phía tây, đông và nam của trấn, ta đều cắt cử hai người canh gác. Nếu họ Đới trót quên mất những gì được giao phó ở nhà kho, chúng ta sẽ có thể nhắc nhở hắn. Viên cối kế đã đợi hắn ở nhà kho suốt một canh giờ trong vô vọng. Rồi ở ngả đường phía đông, Đới Ninh đã bị bộ hạ của ta túm cổ lôi về. Chúng vô tình bắt gặp tên thủ quỹ đang hộc tốc phi ngựa, phục trang vô cùng chỉnh tề. Rõ là trước đó hắn đã trở lại khách điếm Thúy Điểu.” Địch huyện lệnh cố không há miệng ngáp dài. “Lang Lưu, chắc chắn ngươi đã dành kha khá thời gian đi nghe đám người kể chuyện ngoài chợ!” Rồi ông bực bội hỏi, “Còn chuỗi ngọc thì sao?” “Tên khốn ấy khai mình không lấy được chuỗi ngọc! Mọi chuyện đều suôn sẻ cho đến lúc hắn leo vào bên trong tòa tiểu đình. Ở đó không có ai, trong phòng ngủ cũng vậy. Và không có chuỗi ngọc hay món nữ trang nào đáng lấy cả. Hắn trở lại nhưng không dám về nhà kho, sợ bọn ta nghĩ hắn đang cố đánh lừa và giấu chuỗi ngọc ở đâu đó. Chà, một sự trùng hợp lạ lùng, đó chính là điều bộ hạ của ta nghĩ. Chúng đành phải mạnh tay để bắt hắn phun ra sự thật, đến nỗi hắn chết dưới tay chúng. Không biết Hồng Y bang điều hành kẻ dưới quyền thế nào, chứ đối với Thanh Y bang, dường như ta không có nổi một tên phụ tá nào ra hồn.”
Gã buồn bã lắc đầu và tiếp tục, “Không chỉ vụng về khi hạch hỏi tên thủ quỹ, chúng còn chọn sai địa điểm ném xác hắn. Đúng ra cái xác phải được tìm thấy dưới hạ lưu sông vài dặm. Chuẩn theo những việc phải làm, ta cho người lục soát phòng của Đới Ninh ở khách điếm. Dĩ nhiên là chẳng thấy gì. Ta đâu thể đi tìm hết mọi hốc cây, mọi ngóc ngách trong rừng thông chết tiệt kia, đúng không? Nên ta gạt bỏ vụ chuỗi ngọc, đó là tất cả câu chuyện.” Địch huyện lệnh thở dài. “Chuyện hay đấy, Lang Lưu, không kém gì chuyện Đới Ninh đã kể cho bộ hạ của ngươi. Chỉ khác là hắn không thể chứng minh cho câu chuyện của mình, trong khi ngươi thì có thể. Ngươi chỉ cần giới thiệu ta với vị bằng hữu tốt Hoắc đại gia.” Lang Lưu có vẻ bứt rứt không yên. “Sáng hôm qua, lẽ ra họ Hoắc phải quay lại đây cùng mười nén vàng. Ta không biết phải tìm hắn ở đâu nữa.” Cả hai im lặng một lúc lâu. Rồi Địch huyện lệnh đẩy ghế đứng dậy. “Lang Lưu, xin thứ lỗi, nhưng ta không thể quay về trình báo câu chuyện đó. Nên nhớ, ta không coi ngươi là kẻ dối trá nữa, ta chỉ nói mình cần bằng chứng. Ta sẽ lưu lại trấn này ít lâu để quan sát tình hình. Không cần ta phải nhắc cho ngươi, ta cũng có một số vị huynh đệ quanh đây, vậy nên đừng lặp lại sai lầm tối hôm qua nữa nhé! Nếu muốn trò chuyện thân mật với ta, ngươi biết phòng ta ở đâu rồi đấy. Cáo từ!” Viên cối kế đầu nhọn kính cẩn tiễn ông ra cửa.
HỒI 11 Lang Lưu nhận thư hẹn gặp mặt Địch Công bày kế chiếm đoạt vàng Về phòng, Địch huyện lệnh thả mình xuống chiếc ghế kế bên cửa sổ. Giờ vụ tra tấn và sát hại Đới Ninh đã được phá giải. Ông đảm bảo rằng Lang Lưu và đồng bọn sẽ bị xử lý đích đáng. Nhưng trước hết, ông sẽ phải nhận diện được phường tội nhân dám cả gan lên kế hoạch trộm ngọc xuyến. Đến lúc này, phỏng đoán của ông đã được chứng minh là đúng. Vụ trộm là phần quan trọng của một mưu đồ ghê gớm trong triều. Đầu mối của họ Hoắc bí ẩn kia chắc chắn là người trong cung Bích Thủy. Chỉ mong là sẽ có một gã họ Hoắc trong cung, vì khi lũ quan hủ bại muốn thuê đám giang hồ ngoài cung để thực hiện những hành vi bẩn thỉu, chúng thường mướn luôn một gã trung gian. Giá như ông có thể lần ra gã họ Hoắc đó! Bị bắt giữ và chất vấn, hắn tất sẽ khai ra kẻ chủ mưu. Nhưng đâu đó vẫn có điểm không đúng: họ Hoắc đã không quay lại gặp Lang Lưu. Địch huyện lệnh thấy khó chịu trước viễn cảnh hắn hoàn toàn rút lui khỏi màn kịch. Tiếng đàn nguyệt êm ái từ dưới lầu lại vọng lên. Lần này là một âm điệu nhanh được gảy thành thục, xa lạ nhưng rất lôi cuốn. Bản đàn bỗng kết thúc ở một âm lạc, có tiếng một nữ nhân cười phá lên. Trấn Thanh Xuyên không hề có những kỹ nữ hạng sang, nhưng có vẻ một số khách du lịch đã đưa mỹ nữ của mình theo cùng. Địch huyện lệnh trầm tĩnh vuốt râu.
Đới Ninh đã làm gì với ngọc xuyến? Thật dễ dàng để lấy chuỗi ngọc mà Công chúa bỏ lại trên bàn. Viên thủ quỹ có thể tiếp cận nó mà không cần đặt chân vào tòa tiểu đình. Lẽ nào kẻ chủ mưu đã đợi sẵn Đới Ninh phía sau rào sắt ở thủy môn, bên dưới cột trụ? Vòm những thủy môn khá thấp, không quá ba hoặc bốn thước, chính mắt ông đã trông thấy. Nhưng biết đâu một chiếc thuyền nhỏ, đáy bằng có thể vượt qua dòng kênh ngầm. Kẻ kia có thể đã lấy chuỗi ngọc và trao tiền thưởng cho Đới Ninh qua khe cửa sắt, chỉ cần một nén vàng thay vì mười nén như gã đã hứa với Lang Lưu. Với những kẻ đầy rẫy mưu sâu kế hiểm trong cung cấm, không quá khó để lừa Lang Lưu một vố như vậy. Một giao dịch tương tự có thể đã diễn ra trong rừng thông, nơi họ Hoắc đợi Đới Ninh quay trở lại. Trong trường hợp nào thì viên thủ quỹ cũng có cơ hội giấu nén vàng trong một hốc cây, dự định sẽ lấy nó sau khi mình và Ngụy phu nhân bàn bạc về tương lai lứa đôi ở làng Thập Lý. Địch huyện lệnh lại thở dài. Có quá nhiều khả năng và yếu tố chưa được xác định. Chỉ một điểm chắc chắn là Lang Lưu không liên quan gì đến vụ tấn công nhằm vào ông và Hồ Lô tiên sinh. Bọn sát thủ đã đưa hai người đến nhà kho của họ Lang, chúng biết gã dùng nơi này để tra tấn nạn nhân và những chuyện ám muội khác. Nơi đó cũng thuận tiện, khu vực xung quanh trở nên hoang vắng vào ban đêm. Vẫn chính là họ Hoắc đã thuê bọn chúng, tên râu xồm đã gắng gượng thốt ra cái tên đó trước khi chết. Âm mưu lấy mạng ông đã thất bại. Nhưng dường như kẻ chủ mưu vẫn không muốn ông can dự vào âm mưu của mình, vì thế ông sẽ phải tính trước đến vụ tấn công thứ hai. Ông đứng dậy. Có tiếng gõ cửa rất nhẹ.
Địch huyện lệnh cầm kiếm, kéo thanh chốt và hé cửa ra, kiếm đã tuốt sẵn. Đó là viên cối kế của Lang Lưu. “Lang đại gia mời ngài xuống sảnh đường. Lão gia vừa nhận được thư và muốn cho ngài biết.” Địch huyện lệnh đặt lại thanh kiếm lên bàn và đi theo gã đầu nhọn xuống lầu. Lang Lưu đang đứng bên quầy, nói chuyện với lão chưởng quỹ. “A, đại phu, thật mừng vì ngài vẫn ở đây! Một người của ta đang bị cơn đau bụng hành hạ. Ta sẽ vô cùng biết ơn nếu ngài đến khám cho người bệnh. Ta sẽ chỉ cho ngài phòng anh ta!” Trước khi quay đi, Lang Lưu tìm trong ống tay áo và lấy ra một phong thư đã mở sẵn, trên đó là những chữ lớn được viết nắn nót, đề gửi cho họ Lang. Gã đưa ra cho Ngụy Thành xem và hỏi, “Ngụy chưởng quỹ, cho ta hỏi, ai vừa chuyển lá thư này đến vậy?” “Lúc ấy ta đang ngồi phía sau tấm bình phong kia nên chỉ thoáng thấy một tiểu tử lang thang. Nó quăng phong thư lên quầy rồi chạy mất. Khi trông thấy thư gửi cho ngài, ta lập tức sai tiểu nhị đưa sang phòng cho ngài.” “Ta hiểu rồi. Đại phu, mời ngài đi cùng ta.” Khi ba người trở lại phòng của họ Lang, tên ác bá đưa phong thư cho Địch huyện lệnh.👁 Lang Lưu hỏi chuyện Ngụy chưởng quỹ “Ngươi muốn bằng chứng,” gã lạnh lùng nói. “Khi nãy ở ngoài quầy, ta gọi ngươi xuống là để cho ngươi thấy phong thư thực sự đã được chuyển đến đây, không phải do ta giả mạo sau khi ngươi đi khỏi.” Địch huyện lệnh mở phong thư và rút ra một tờ giấy. Trong thư nói người ký tên dưới đây rất hối hận, vì tình thế bất khả kháng nên không thể đến gặp Lang đại gia vào đúng ngày đã định để bàn về chuyện mua bán tơ thô. Tuy nhiên, vào hôm nay, người này sẽ đến kho của họ Lang vào giữa giờ Dậu. Nếu vừa ý với các mẫu tơ, giao dịch sẽ được thực hiện ngay tại chỗ. Bên dưới đề thiêm danh “Hoắc”. Bức thư không hề có lỗi sai, cách viết, thể thức, nét chữ đều theo lối Khải thư. Rõ ràng bức thư này là thật, phải mất ít nhất một ngày để Lang Lưu tìm ở trấn Thanh Xuyên một học sĩ có thể viết thư như thế.
Trao lại lá thư cho họ Lang, ông nói, “Được rồi. Đây quả thực là bằng chứng ta cần. Chúng ta vẫn tiếp tục thời kỳ hòa hoãn như đã thỏa thuận. Ta sẽ đến nhà kho vào giữa giờ Dậu.” Cặp chân mày mỏng của Lang Lưu rướn lên. “Nhà kho ư? Ngươi nghĩ chúng ta sẽ đến đó sao? Mọi chuyện đã xong rồi! Cửa sẽ được khóa và họ Hoắc sẽ không thấy ai ở đó cả!” Địch huyện lệnh nhìn gã vẻ thương hại. “Lang Lưu, ta đã hiểu vì sao ngươi không có được bộ hạ giỏi. Ngươi đang đánh mất khả năng xét đoán đấy! Trời ạ, ở đây có mười nén vàng ròng sắp sẵn cho ngươi, thế mà ngươi lại khóa cửa rồi dán thông báo đi vắng! Nghe này, hảo huynh đệ, ta sẽ cho ngươi biết chính xác những gì chúng ta sẽ làm! Chúng ta sẽ tiếp đón họ Hoắc thật lịch thiệp và hỏi hắn có mang theo vàng không. Nếu có, chúng ta sẽ kính cẩn mà nhận. Thú nhận rằng chúng ta không lấy được chuỗi ngọc, nhưng lại gặp vô số trở ngại và mất nhiều phí tổn vì hắn, nên chúng ta sẵn lòng xem mười nén vàng kia như vật đền bù.” Lang Lưu lắc đầu. “Chắc chắn Hoắc cẩu tặc đó đại diện cho một kẻ quyền thế. Có vẻ là đám quan lại có phẩm hàm cao. Hoặc bè lũ trong cung Bích Thủy, có thể thấy chúng biết rất nhiều về địa thế trong cung. Ta thích bình an, người huynh đệ ạ, chứ không thích rắc rối.” “Lang Lưu, ngươi không thấy là chúng ta đang nắm dao đằng chuôi sao, dù chúng có là đại quan hay không? Nếu họ Hoắc không thích lời đề nghị công bằng đó, chúng ta sẽ lấy danh nghĩa lương dân tuân thủ vương pháp mà tuyên bố: chúng ta sẵn lòng hộ tống hắn đến tổng quân doanh của Cấm quân và để quan quân quyết định vụ này. Đương nhiên, sau đó chúng ta phải giải thích, rằng mình đồng ý với kế hoạch trộm bảo vật trong cung chỉ vì muốn có bằng chứng đầy đủ về tội phạm thượng trước khi đi trình báo. Và giờ chúng ta có thể đòi triều đình ban thưởng.”
Họ Lang đấm nắm tay xuống bàn. “Trời đất ơi!” Gã kêu lên. “Giờ ta đã hiểu tại sao bang của ngươi luôn mạnh hơn bang ta. Ngươi thật là một kỳ nhân, trong khi ta phải sửa sai cho đám bộ hạ ngu ngốc như tên đầu nhọn kia!” Gã bật dậy và tát viên cối kế liền hai cái. Sau khi xả được cơn tức, gã lại ngồi xuống và mỉm cười hào sảng, bảo Địch huyện lệnh, “Thật là một kế hoạch công phu và đáng nể, hảo huynh đệ ạ!” “Bên ta được năm nén vàng mà,” Địch huyện lệnh đáp lạnh tanh. “Bốn nén cho Hồng Y bang, một nén là tiền thưởng cho ta.” “Các vị bang chủ, bang phó sẽ phải cho ngươi hai nén!” Lang Lưu tỏ vẻ hào hiệp. Gã gắt lên với viên cối kế, “Đây là cơ hội cuối cùng để ngươi lấy công chuộc tội đấy, đồ ngốc! Ngươi hãy đến nhà kho cùng vị huynh đệ này.” Rồi gã quay sang nói với Địch huyện lệnh, “Dĩ nhiên ta không thể đích thân đi được, còn phải giữ gìn danh tiếng của mình nữa. Nhưng sẽ không chỉ có hai người đâu, vì ta sẽ cử thêm một tá bộ hạ giỏi đến nhà kho.” Gã liếc nhanh về phía ông và vội vàng giải thích, “Đề phòng họ Hoắc kia cũng đem theo người của hắn!” “Được, ta đã hiểu ý ngươi!” Ông đáp. “Ta sẽ đến nhà kho sau đó một chút. Ngươi sẽ bảo người của mình để ta vào chứ?” Ông bước qua cửa và đích thân Lang Lưu tiễn khách ra hành lang, hồ hởi nói, “Thật vinh hạnh khi được làm quen với hiền đệ! Chúng ta sẽ uống mừng sau chuyện này. Uống vì sự hợp tác thân mật của Thanh Y bang và Hồng Y bang!”
HỒI 12 Giữa phố đông, quan quân bắt kẻ gian Trong kho vắng, Địch công gặp ác mộng Địch huyện lệnh về phòng để lấy hồ lô và thanh kiếm. Ông phải đến gặp Trâu Hiệu úy ngay để báo về cuộc gặp ở nhà kho trong rừng, cùng y bố trí bắt giữ gã họ Hoắc bí ẩn kia cùng đám hung đồ dưới trướng Lang Lưu. Tử Tây đang đứng trước cổng khách điếm Thúy Điểu, mặc cả với một bà lão bán đồ trang điểm. Địch huyện lệnh định đi qua sẽ gật đầu chào thân mật thì nàng đã níu lấy cánh tay ông, đưa ra một chiếc lược ngà đính mấy viên đá rẻ tiền. “Ngài nghĩ thứ này có hợp với tiểu nữ không?” Thiếu nữ bẽn lẽn hỏi. Khi ông cúi xuống nhìn chiếc lược, nàng vội thì thầm, “Cẩn thận! Hai kẻ ngoài kia đang dò hỏi về ngài.” “Chiếc lược hợp với cô nương đấy,” ông đáp rồi bước ra cổng. Vờ như đang nhìn trời ngắm đất, ông liếc thấy có hai thân sĩ đang đứng trước cổng khách điếm Cửu Tiêu. Y phục của chúng bình dị, trường bào xám, dây lưng và mũ đều màu đen, khó đoán được chúng là hạng người nào. Có thể chúng thuộc Thanh Y bang hoặc là mật thám từ cung Bích Thủy. Và từ lúc này, ông cũng phải tính đến Hồng Y bang, có thể những kẻ đó đã biết ông giả dạng làm người trong bang. Dù chúng là ai, chắc chắn chúng chưa biết ông đang định đến gặp Trâu Hiệu úy. Địch huyện lệnh rảo bước ra phố chính, thỉnh thoảng dừng lại để xem xét đồ trên các quầy hàng. Quả đúng là hai gã áo xám đang đi theo ông. Ông thử dùng vài cách để thoát khỏi chúng nhưng vô ích. Ông thong thả vòng qua một góc phố, rồi bất ngờ phóng vọt lên trước và tìm cách ẩn mình vào đám đông, nhưng hai kẻ kia vẫn bám đuôi ông không chút khó khăn. Chúng là bọn lọc lõi với trò này.
Bực mình, Địch huyện lệnh bước vào một quán ăn lớn và chọn một bàn trong cùng. Khi tiểu nhị đến cho ông chọn món, ông bảo y là mình quên mất vài thứ và chạy ra ngoài bằng lối cửa bếp. Nhưng một trong hai kẻ mặc đồ xám đã đứng sẵn ở góc đường ngõ sau. Ông đành quay lại phố chính. Giả như ông thông thạo đường đi nước bước trấn Thanh Xuyên này, ông sẽ tìm cách cắt đuôi hai kẻ này lần nữa. Đã như vậy, ông sẽ phải dùng mưu để bắt chúng hiện nguyên hình, đồng thời tới được tổng quân doanh. Ông hòa mình vào dòng người trên phố, cho đến khi ông nhận ra một loạt mũ đầu mâu của Cấm quân ở phía trước. Rồi ông đột ngột rảo bước nhanh hơn, bất ngờ dừng chân và quay lại. Khi đâm phải tên cao lớn hơn trong số hai nam nhân đó, ông quát to hết sức có thể, “Bọn đạo chích! Bắt lấy chúng!” Một đám người lập tức tụ lại quanh chúng mà hạch hỏi. “Ta là đại phu!” Địch huyện lệnh kêu lên. “Tên cao lớn này đâm vào ta, còn tên kia thọc tay vào ống tay áo ta!” Một phu dịch lực lưỡng túm lấy cổ áo tên cao lớn. “Thật ô nhục! Dám ăn trộm của đại phu! Ta sẽ…” “Có chuyện gì vậy?” Một vị quan binh to béo rẽ đám đông bước vào. Hai kẻ áo xám không hề tỏ ý muốn chạy trốn. Kẻ nhiều tuổi hơn bình tĩnh thưa, “Người này đã đổ oan cho bọn ta. Xin hãy đưa tất cả đến gặp Hiệu úy!” Vị quan binh liếc nhanh qua Địch huyện lệnh và hai kẻ kia. Y kéo đai giắt kiếm lên, rồi bảo người phu dịch, “Buông người này ra đi! Tất cả chỉ là hiểu lầm thôi. Hiệu úy sẽ giải quyết việc này. Hai vị đi theo ta, tổng quân doanh ở ngay phía trước thôi.”
Trên đường đến tổng quân doanh, hai kẻ kia vẫn giữ vẻ điềm tĩnh ngạo mạn. Liễu Binh tào đưa họ đến chỗ Hiệu úy. Trâu Lập Uy đang đọc văn thư liền ngẩng lên. Không xét đến Địch huyện lệnh, họ Trâu lớn tiếng ra lệnh cho vị quan binh trình báo, rồi y chìa tay ra. “Mau trình giấy thông hành của hai người!” Hai kẻ kia đặt lên án thư những loại giấy giống nhau, mỗi tờ đều có viền đỏ kèm dấu triện. Kẻ nhiều tuổi hơn nói với viên Hiệu úy, “Người được gọi là đại phu kia thực ra là kẻ mạo nhận. Bọn ta được lệnh đưa hắn về cung Bích Thủy. Bọn ta muốn có một vị quan quân hộ tống ngay lập tức.” Trâu Hiệu úy đẩy mũ đầu mâu của mình ra sau. “Các vị biết là ta không thể làm vậy! Trừ khi có lệnh của Tướng quân. Giấy tờ của Lương đại phu đều hợp lệ. Được chính ta xác nhận, ta biết rõ mà.” Y lại gãi mũi. “Tuy nhiên đây là những gì ta sẽ làm. Các vị hãy đem thư của ta đến gặp Khang Tướng quân, rồi quay về đây để xử lý người này.” Họ Trâu lấy một tờ giấy mới trong tập giấy trước mặt và chấm bút vào khay mực. “Nhỡ khi bọn ta quay lại, kẻ này biến mất thì sao?” Kẻ lớn tuổi kia cười chế nhạo. “Thưa Hiệu úy, bọn ta có quy định rõ ràng!” “Xin thứ lỗi, nhưng ta cũng có quy định của mình!” Trâu Lập Uy viết rất nhanh rồi đưa tờ giấy qua mặt án. “Của các vị đây!” Trong khi kẻ kia bỏ thư vào ống tay áo, gã sỗ sàng nói, “Hiệu úy nhớ giam giữ người này cho đến khi bọn ta trở lại.”
“Chỉ khi vị đại phu này đồng ý. Ta không thể bắt giam một thường dân có trình báo đàng hoàng khi chưa có lệnh. Các ngươi biết hai chữ ‘Nhân Trị’ mà! Mặt khác, nếu vị đại phu này sẵn lòng hợp tác…” “Đương nhiên là tại hạ sẵn lòng!” Địch huyện lệnh đáp nhanh. “Tại hạ không muốn kẻ mà mấy vị đang tìm lại trốn mất. Chuyện hiểu lầm này phải được làm rõ nhanh nhất có thể.” “Được rồi, vậy mọi chuyện đã xong!” Viên Hiệu úy mỉm cười. “Hai vị có cần ngựa không?” “Bọn ta có sẵn ngựa rồi.” Hai tên mặc đồ xám quay đi mà không nói một lời. Vị quan binh đưa họ xuống cầu thang. “Đệ có biết hai gã này không?” Trâu Lập Uy hỏi Liễu Binh tào. “Thưa Hiệu úy, thuộc hạ biết. Cả hai đều thuộc phủ Tổng giám cung. Họ mặc đồ màu xám, trong khi người của Đại tổng quản sẽ mặc hắc phục.” Viên Hiệu úy lo lắng nhìn sang ông. “Đại nhân, đúng như ngài đã nói, chắc chắn ngài đã bị dính líu vào chuyện không hay!” “Sẽ mất bao lâu để hai người đó quay lại đây?” “Gần một canh giờ, thưa đại nhân. Có thể sẽ lâu hơn, nếu họ không gặp được Khang Tướng quân ở phủ.” “Không được đâu. Địch mỗ phải đến nhà kho của Lang Lưu vào giữa giờ Dậu. Ở đó, ta sẽ gặp viên cối kế của họ Lang và một tên tội nhân nguy hiểm tự xưng là họ Hoắc. Lang Lưu không tin tưởng họ Hoắc hay ta, gã đang cắt cử hơn mười bộ hạ đến dãy nhà kho đối diện kho của mình. Ta muốn các hạ cho người bao vây dãy nhà kho ấy để bắt trọn cả đám bọn chúng. Tối nay các hạ có điều được sáu mươi vệ binh không?”
“Thưa đại nhân, vẫn còn phụ thuộc vào chuyện ngài định tội gì cho chúng.” “Người của Lang Lưu đã sát hại thủ quỹ Đới Ninh. Những kẻ khác phạm tội làm phản.” Trâu Hiệu úy nhìn ông dò xét. “Đại nhân, trong trường hợp ấy, ti chức sẽ đích thân đến đó. Giờ nói đến các vị thượng quan ở cung Bích Thủy, ti chức không chắc Khang huynh sẽ đưa ra lệnh bắt. Ti chức nói rõ trong thư là ngài đã đến trình diện đầy đủ. Trước hết huynh ấy sẽ đòi thêm những chi tiết cụ thể.” “Ta có lý do để phỏng đoán rằng,” Địch huyện lệnh ôn tồn nói, “Tổng giám cung sẽ cho Khang Tướng quân biết đầy đủ mọi chi tiết.” Họ Trâu quay sang vị Binh tào. “Liễu đệ, đệ có sắp xếp được một vụ vượt ngục hoàn hảo không?” Khi Liễu Binh tào gật đầu với nụ cười hãnh diện, Trâu Lập Uy nói với ông, “Đệ ấy cũng sẽ giúp đại nhân cải trang, để ngài có thể rời khỏi tổng quân doanh ngay lúc này mà không bị ai phát hiện. Đừng bận tâm nếu hai tên kia có để lại vài bộ hạ để theo dõi bản doanh này, Liễu đệ là bậc thầy hóa trang!” Y xoa tay vào nhau rồi nhìn Địch huyện lệnh vẻ suy xét. “Chúng ta sẽ bắt đầu từ việc cắt bớt bộ râu dài của đại nhân. Rồi…” “Ta không muốn diễn trò đâu!” Ông nói dứt khoát. “Liễu Binh tào, ngươi có thể kiếm cho ta một con lừa già và một đôi nạng không?” Anh ta gật đầu và lập tức lui ra ngoài. “Liễu đệ là một phụ tá đắc lực!” Viên Hiệu úy nói. “Mời đại nhân dùng trà!”
Rồi y giải thích tường tận với ông về cách Liễu Binh tào dàn dựng cảnh một tù nhân trong đại lao vượt ngục. Y chỉ rõ từng chi tiết với nỗi vui thích như một đứa trẻ. Khi trình bày xong, y hỏi, “Đại nhân, còn vụ sát hại thủ quỹ Đới Ninh thì sao?” “Vụ đó nằm trong quyền hạn của các hạ, vì tội ác diễn ra trong địa phận này.” Ông kể chính Lang Lưu đã thừa nhận việc tra tấn Đới Ninh và giết hại anh ta, vì viên thủ quỹ đã không tiết lộ nơi giấu chuỗi ngọc mà mình được thuê để lấy trộm. “Tối nay, sau khi các hạ bắt giữ hết đám người của Lang Lưu, chúng ta sẽ đến khách điếm Thúy Điểu để tóm họ Lang. Sau đấy Địch mỗ sẽ chính thức định tội gã. Nhưng họ Hoắc còn quan trọng hơn nhiều. Ngay khi hắn đến nhà kho, ta sẽ huýt sáo ra hiệu hai lần để các hạ dẫn quân tập kích bọn chúng. Tuy nhiên, họ Hoắc tất có người đi theo. Để ta nói sơ qua cho các hạ hiểu.” Ông lấy một mẩu giấy và phác họa trảng đất trống cùng những nhà kho. Trâu Lập Uy so sánh với tấm địa đồ của mình và chỉ ra những nơi sẽ đặt phục quân. Liễu Binh tào quay lại. “Bẩm đại nhân, lừa đã được dắt đến sân sau,” anh ta bẩm báo. “Đại nhân nên đi sớm, vì hiện ngoài kia không có kẻ nào rình mò. Vẫn chưa có.” Địch huyện lệnh vội tạ ơn Trâu Hiệu úy. Liễu Binh tào đưa ông xuống những bậc thang ọp ẹp dẫn ra khoảng sân nhỏ của nhà bếp. Trong lúc ông trèo lên lưng con lừa già, họ Liễu đưa cho ông đôi nạng cũ đã mòn.
“Tốt lắm!” Ông thì thào với vị Binh tào rồi thúc lừa đi qua cánh cổng hẹp. Chùng vai xuống và cúi gục đầu, ông cưỡi lừa ra con phố chạy song song với phố chính. Ông đang sắm vai Hồ Lô tiên sinh, một nhân vật quen thuộc đến nỗi người dân ở trấn chẳng buồn nhìn ông quá kỹ. Điểm khác biệt duy nhất là ông mang theo kiếm. Ông tháo dây đeo kiếm và giấu nó giữa hai cây nạng vắt ngang lưng lừa. Con lừa bình thản bước từng bước, lách qua đám đông. Địch huyện lệnh hài lòng khi thấy không ai để ý kỹ đến mình. Thỉnh thoảng có người lên tiếng chào, ông cũng chắp tay đáp lễ. Ông cưỡi lừa đi về hướng khách điếm Thúy Điểu vì không muốn mạo hiểm quá lâu. Khách điếm chính là nơi mà đám người của cung Bích Thủy không ngờ rằng ông sẽ trốn. Con ngõ hẹp phía sau khách điếm Thúy Điểu vắng hoe. Bầu không khí hối hả của giờ ăn trưa đã không còn nữa, đám gia nhân phục vụ đã đi nghỉ, phải đến gần giờ ăn tối những tiểu thương mới quay trở lại. Đến cổng sau, Địch huyện lệnh xuống khỏi lưng lừa và nhòm vào khu vườn hoang kia. Dãy phòng của Lang Lưu đều đóng cửa và trong bếp rất yên ắng. Cửa sổ phòng ông cũng đã đóng nhưng có một phòng dưới lầu vẫn hé cửa. Có người đang gảy đàn nguyệt, vẫn là những âm điệu ông đã nghe trong đêm đầu tiên đến đây. Giờ ông mới nhớ ra. Bản đàn ấy từng nổi tiếng ở kinh thành nhiều năm về trước. Quan sát khu vườn một lúc, ông quyết định sẽ tận dụng căn nhà kho cũ kĩ. Cánh cửa chỉ khép hờ, ông lách vào trong, tay cầm đôi nạng và thanh kiếm.
Bên trong không được sạch sẽ cho lắm. Mạng nhện giăng từ mái nhà mốc meo xuống, không khí toàn một mùi ẩm mốc khó chịu. Bàn ghế hỏng xếp dựa vào vách, nhưng nền đất đã được quét dọn sạch sẽ. Khi nhìn kỹ đám đồ đạc cũ, ông nhận ra phía sau có một chồng bao gai xếp sát vào tường. Ông xô chiếc bàn gãy ra và đâm kiếm vào đám bao gai ấy. Bên trong toàn vỏ trấu. Ông quyết định đây sẽ là chỗ ngủ của mình trong vài canh giờ nữa. Ông để mặc con lừa quay lại chỗ của nó. Dựa đôi nạng bên cạnh ô cửa sổ độc nhất, ông xếp lại những bao trấu và nằm lên trên, gần sát vách. Hai tay đan lại dưới gáy, ông nhớ lại các sự kiện gần đây nhất. Bức thư họ Hoắc gửi cho Lang Lưu thực ra là tin tức có lợi. Nó cho thấy kẻ chủ mưu trong cung Bích Thủy vẫn chưa có được chuỗi ngọc trong tay. Như vậy, ông có thể loại bỏ một khả năng mình đang xem xét, đó là có kẻ đã chặn đường viên thủ quỹ sau khi diễn ra vụ trộm và trực tiếp mua lại ngọc xuyến. Giả thuyết này dựa trên việc nhân vật họ Hoắc bí ẩn không quay lại gặp Lang Lưu ngày hôm sau. Giờ thì ông đã rõ, họ Hoắc đã bị giữ chân như hắn đã nói trong lá thư, và hắn mong kết thúc giao dịch tại nhà kho của Lang Lưu tối nay. Quả là tin tốt. Việc họ Hoắc bị bắt giữ sẽ khiến kẻ chủ mưu trong cung Bích Thủy phải dừng lại cân nhắc trong chốc lát. Nhờ vậy, ông sẽ có thời gian để tập trung truy tìm chuỗi ngọc. Cả buổi sáng thăm thú con sông đã khiến ông mệt mỏi, ông ngủ thiếp đi.
Giấc ngủ của Địch huyện lệnh bị nhiều cơn mộng mị quấy phá. Khuôn mặt méo mó của gã sát thủ râu xồm lại hiện ra, lơ lửng trong không trung, con mắt độc nhất trợn ngược và nhìn ông chằm chằm. Không phải, đó là viên thủ quỹ đã chết đang đứng phía trên, khuôn mặt xanh trương phình, đôi mắt lồi ra dán chặt vào ông trong khi hai bàn tay giập nát chộp lấy cổ ông. Địch huyện lệnh muốn ngồi dậy, nhưng toàn thân nặng như chì, không thể cử động được. Ông gắng gượng để thở. Ngay khi nghĩ mình chết ngạt đến nơi rồi, viên thủ quỹ biến thành một nữ nhân cao dong dỏng, toàn thân mặc y phục xanh lấm bẩn. Mái tóc rối bù và bám đầy bùn khô xõa dài qua mặt bà ta, chỉ để lộ ra khuôn miệng xanh tím đang há hốc, từ trong đó một cái lưỡi to thè ra. Ông thét lên kinh hãi rồi choàng tỉnh. Khắp người ướt đẫm mồ hôi, Địch huyện lệnh trèo xuống khỏi chỗ ngủ và ra lục lọi đám đồ dùng cũ một lúc để quên đi cơn ác mộng kinh khủng kia. Ông buột ra một tiếng rủa khi vấp phải mấy bao đầy bụi. Hình như trong đó là bột. Ông xoa xoa gối rồi lại nằm nhoài lên đống bao gai. Đến lúc này, ông mới chìm vào giấc ngủ không mộng mị. HỒI 13 Trong đêm tối, Hiệu úy đặt phục binh Đến giờ hẹn, kẻ lạ không lộ diện Địch huyện lệnh tỉnh giấc vì trên cổ bỗng thấy ngứa rấm rứt. Trước hết, ông nhìn ra ô cửa sổ có chấn song và thấy trời đã tối. Ông nhảy xuống và vội chạy đến bên cửa sổ. Ông nhẹ lòng hẳn khi nghe thấy những trù sư vừa thái thịt vừa đứng hát rất hào sảng. Vì hiện không có ai gọi đồ ăn, hẳn giờ chưa đến lúc ăn tối. Xoa lên chỗ cổ bị ngứa, ông phát hiện ra cơ man là kiến đen đang bò dưới cổ áo mình. Trong bộ râu còn nhiều kiến hơn, cả phía trước vạt áo cũng có. Bực bội, ông giũ sạch đám côn trùng không sót con nào.
Lúc này, cửa sổ phòng Lang Lưu đã sáng đèn, một cánh cửa hé ra nhưng ông không nghe được tiếng nói chuyện bên trong. Hai tiểu thương hàng rau bước vào vườn và đi thẳng tới nhà bếp. Địch huyện lệnh đợi cho đến khi họ ra về với những chiếc giỏ trống không, bấy giờ ông mới lách ra ngoài và đi qua cổng sau. Ngạc nhiên thay, khi con lừa vẫn quanh quẩn ở đó. Nó đứng cạnh tường, đang sục vào đám rác rưởi. Ông vội trở lại nhà kho và lấy đôi nạng. Cảm thấy an toàn trong lớp ngụy trang, ông cưỡi lừa đi ra bến sông. Một đám đông hỗn độn tụ lại dưới ánh sáng từ ngọn đèn dầu ám khói của những quầy đồ ăn phía trước chợ cá, tiếng người qua lại huyên náo. Địch huyện lệnh phải dừng lại khi một xe chở dưa hấu bị đổ trước mặt con lừa. Những người đứng quanh đó bèn xúm lại giúp vị tiểu thương nhặt dưa. Một nam nhân ăn mặc nhếch nhác chụp lấy dây cương của con lừa. “Hồ Lô tiên sinh, để tiểu nhân giúp tiên sinh qua!” Anh ta vui vẻ nói. Khi họ lách qua đám đông, Địch huyện lệnh bỗng nghe có tiếng ai đó thì thầm sau lưng, “Bọn chúng bám theo ông ấy, nhưng ông ấy đã biến mất.” Ông vội ngoái lại. Dưới ánh sáng nhập nhoạng, ông chỉ nhận ra những khuôn mặt tươi cười của vài thanh niên đang thúc con lừa từ phía sau. Lát sau, ông đã ra khỏi đám đông bát nháo. Địch huyện lệnh nhăn mặt khó hiểu. Trận chiến ở nhà kho hôm trước là minh chứng rõ ràng cho thấy đạo nhân đang giúp sức cho ông. Nhưng lời thì thầm khi nãy, của một người nhầm ông với Hồ Lô tiên sinh, cũng nói lên rằng mọi hoạt động của ông luôn được báo lại cho lão nhân ấy. Mối liên quan giữa ông ta với vụ án rối ren này là thế nào? Ông cố nhớ lại xem trước đây mình đã gặp người đó ở đâu mà không nhớ nổi.
Màn sương mỏng buổi tối bồng bềnh trên mặt sông. Lúc này, Địch huyện lệnh đang hướng về một đầu của bến sông, ở đó không còn hàng quán nữa, khắp nơi tối tăm và hoang vắng. Chỉ còn đốm sáng từ các ngọn đèn treo ở mũi những con thuyền đậu bập bềnh trên làn nước đen thẳm. Lúc đi ngang qua nhà kho đầu tiên trong dãy nhà kho, ông nhảy xuống và dựng đôi nạng vào vách. Khi đến bên rặng cây cao ngăn cách trảng đất trống ở đối diện, ông đeo kiếm ra sau lưng. Ngay khi ông đi qua dưới những tán cây tăm tối, một giọng nói khàn khàn vang lên ngay trên đầu, “Ngươi đến muộn. Nhưng họ Hoắc vẫn chưa tới đâu!” Ngẩng lên, ông lờ mờ nhận ra thân hình lực lưỡng của một tên hộ vệ bên cạnh Lang Lưu, gã đang ngồi trên một cành cây lớn. Phải rồi, họ Lang biết những việc phải làm mà. Ông đi qua trảng đất trống và gõ cửa. Tên đầu nhọn ra mở cửa ngay. “Ngài đã đến!” Y lẩm bẩm. “Nơi này khiến tiểu nhân lạnh gáy!” “Ngươi sợ hồn ma của Đới Ninh sao?” Địch huyện lệnh lạnh lùng hỏi. Ông đẩy ghế sát vào vách rồi ngồi xuống. “Không phải tiểu nhân ra tay với hắn!” Viên cối kế ngồi xuống bên Địch huyện lệnh. “Ngài biết không, hắn kêu ré lên như lợn bị chọc tiết! Bọn khốn ngu ngốc ấy đã để hắn chết trước khi cuộc tra tấn thực sự bắt đầu.” Một nụ cười độc ác nở ra trên đôi môi dày của y. “Chúng buộc hắn vào chính băng ghế này đây. Trước tiên, chúng…” “Ta không quan tâm đến mấy trò tiểu nhân đó của các ngươi.” Ông đặt thanh kiếm lên ngang đùi rồi tựa vào vách. “Tuy nhiên, ngươi có thể kể cho ta những gì khai thác được từ hắn.”
“Hiển nhiên là chẳng có gì. Khi chúng đốt chân hắn, hắn rống lên hàng trăm lần rằng mình không giữ chuỗi ngọc. Sau đó, hắn rú thêm vài lần nữa, rằng có tra tấn cũng không để làm gì vì mình không có chuỗi ngọc. Tên tiểu nhân vô liêm sỉ ấy chửi bọn ta đến tận lúc chết. Bọn ngốc kia mổ bụng để xem hắn có nuốt chuỗi ngọc không. Đương nhiên là chẳng thấy gì.” Nhìn sang thanh kiếm của Địch huyện lệnh, y bồn chồn hỏi thêm, “Thanh kiếm đó sẽ khiến họ Hoắc nghi ngờ. Ngài có nghĩ mình nên giấu tạm thanh kiếm ở đâu đó không?” “Không.” Địch huyện lệnh khoanh tay lại và gục đầu xuống ngực. Ông cố để không nghĩ ngợi gì, nhưng rất nhiều vấn đề trước mắt vẫn quấy phá ông. Từ lúc này, ông sẽ phải tập trung vào viên thủ quỹ đã chết. Dù họ Hoắc kia biết chính xác kẻ chủ mưu trong cung là ai, cũng phải đợi đến khi tìm ra ngọc xuyến thì ông mới mong đấu lại được chúng. Tam Công chúa đã đặc biệt nhấn mạnh chi tiết này. Ông lại tự hỏi Đới Ninh đã nghĩ gì mà dám qua mặt Lang Lưu. Vì vài lý do, ông cảm thấy một cuộc trò chuyện với Ngụy phu nhân sẽ giúp tìm ra manh mối về việc họ Đới làm với chuỗi ngọc. “Ngồi yên đi!” Ông quát viên cối kế đang cựa quậy bồn chồn lo lắng. Nguồn tin duy nhất về Ngụy phu nhân là từ Tử Tây cô nương, một nữ nhân thông minh xuất chúng, nhưng vẫn chỉ là một thiếu nữ trẻ người non dạ mới sống cùng Ngụy gia được ít lâu. Ông tự nghĩ có nên tin những nhận định đầy thiện chí của nàng hay không. Tử Tây khẳng định rằng đại thẩm không hề gian thông với viên thủ quỹ, còn Ngụy thúc là một lão già lẩn thẩn khó ưa. Nhưng cũng thật sỉ nhục khi một nữ nhân bỏ nhà ra đi mà không để lại lời giải thích. Ngụy Thành đã nói nhân tình của nương tử là một tên lãng tử. Đó cũng là một chi tiết cần lưu tâm. Đúng ra ông phải hỏi chuyện lão Ngụy nhiều hơn, nhưng biết bao việc cứ dồn dập xảy đến…
“Ngươi lẩm bẩm cái gì đấy?” Ông bực tức hỏi kẻ ngồi bên. “Chỉ là tiểu nhân đang lo lắng về họ Hoắc. Ngài thấy đấy, chúng ta đợi ở đây đã gần nửa canh giờ rồi! Sao họ Hoắc lại hẹn gặp chúng ta nếu hắn không định đến đúng giờ?” “Ngươi hỏi vì sao ư? Có thể hắn bị giữ chân bởi vài chuyện đột xuất…” Ông chợt ngừng lại, rồi đấm lên đầu gối mình. “Trời ơi, đúng ra ta phải nghĩ đến chuyện đó! Trong số…” “Cái gì… tại sao…” Viên cối kế lắp bắp. “Ta cũng chỉ là kẻ ngốc giống ngươi!” Địch huyện lệnh cay đắng nói. “Đương nhiên, cuộc hẹn gặp này chỉ là một trò lừa bịp bẩn thỉu!” Bỏ qua những câu hỏi đầy sợ hãi của viên cối kế, ông bật dậy, lao ra ngoài và đưa tay lên miệng huýt sáo hai lần. Tiếng huýt sáo rít lên chói tai giữa trảng đất trống yên tĩnh. Cánh cửa nhà kho kế bên mở hé và một bộ mặt đầy râu ria thận trọng ghé nhìn ra ngoài. Rồi bên phía rừng thông có tiếng hô vang ra lệnh cùng tiếng binh khí loảng xoảng. Một bóng đen to lớn rơi xuống từ thân cây đối diện nhà kho. Hai quan quân đã bắt được tên hộ vệ. Gã định chống trả thì ăn một sống kiếm vào đầu và gục xuống. Trảng đất trống bỗng đông kín Cấm quân được trang bị binh khí đầy đủ. Khi hai vệ binh dùng đại phủ phá cửa nhà kho thứ hai, Trâu Hiệu úy chạy đến chỗ Địch huyện lệnh, theo sau là Liễu Binh tào. “Bọn ti chức không thấy ai đến đây sau ngài,” viên Hiệu úy nói. “Kẻ gầy gò phía sau ngài là họ Hoắc phải không?”
“Không phải đâu. Nhưng y chỉ đạo vụ tra tấn và sát hại viên thủ quỹ. Bắt giữ y ngay đi! Gã họ Hoắc không xuất hiện. Ngựa của các vị đâu? Chúng ta phải đến khách điếm Thúy Điểu càng nhanh càng tốt!” Họ Trâu ra lệnh cho Liễu Binh tào rồi chạy về phía khu rừng, Địch huyện lệnh theo sát y. “Đại nhân cần bao nhiêu người?” Trâu Lập Uy ngoái lại hỏi. “Bốn người là được!” Ông hổn hển đáp. Qua khúc quanh thứ hai ở lối mòn trong rừng, sáu kỵ binh đang trông chừng một bầy ngựa có phủ giáp. Ông cùng viên Hiệu úy lấy hai con tuấn mã rồi nhảy phốc lên yên. Vừa thúc ngựa, Trâu Hiệu úy vừa gọi thêm bốn người đi theo. Trong trảng đất trống, binh lính đã bắt bộ hạ của Lang Lưu xếp thành hàng và trói tất cả lại với nhau. Đích thân Liễu Binh tào trói tên cối kế bằng một sợi thừng nhỏ. Lúc đi ngang qua anh ta, Địch huyện lệnh gọi to, “Đừng quên con lừa nhé! Nó ở cuối dãy nhà kho này!” Rồi sáu con ngựa phi nước đại nhằm thẳng bến sông mà tiến. HỒI 14 Lang ác bá bỏ mạng thảm thương Địch quan án tìm ra diệu kế Ngụy Thành đang đứng sau quầy tính tiền giữa gian sảnh đường tranh tối tranh sáng, cùng uống trà với hai khách trọ. Lão bối rối khi thấy Địch huyện lệnh và các Cấm binh, tay vẫn cầm chén trà đang đưa lên nửa chừng. “Có vị khách nào đến tìm Lang đại gia không?” Ông sốt sắng hỏi. Lão chưởng quỹ im lặng lắc đầu, không thốt nổi nên lời. Địch huyện lệnh chạy vào hành lang dẫn đến dãy phòng của Lang Lưu. Cửa tiền sảnh không khóa, nhưng cửa vào phòng của họ Lang có vẻ đã bị chốt từ bên trong. Trâu Hiệu úy dùng chuôi kiếm đập cửa. Thấy không có động tĩnh gì, y dùng vai thúc mạnh làm cửa bật tung. Họ Trâu dừng lại quá bất ngờ, khiến Địch huyện lệnh đâm sầm vào y. Bên trong không có ai nhưng căn phòng đã bị lục lọi không sót chỗ nào. Án thư bị lật đổ, mọi ngăn kéo đều bung ra. Sàn nhà vương vãi giấy tờ. Có những tấm ván lát chân tường bị cậy tung, trước cửa sổ là một đống y phục bị xé nát. Ông chụp lấy tay viên Hiệu úy rồi chỉ vào góc xa nhất trong phòng. Trâu Lập Uy thốt ra một câu rủa ghê gớm.
Thân hình lõa thể của Lang Lưu bị treo ngược từ xà nhà. Hai ngón chân cái của gã bị bó chặt bằng một sợi thừng mỏng, hai tay bị trói ra sau lưng. Một mảnh vải nhuốm máu quấn chặt quanh đầu gã, giữ cho sàn nhà khỏi bẩn. Địch huyện lệnh chạy tới bên Lang Lưu, cúi xuống và gỡ mảnh vải ra. Ngay lập tức, máu phun ra sàn. Ông vội đặt tay lên ngực gã. Làn da vẫn còn ấm, nhưng tim đã ngừng đập. Ông quay lại phía viên Hiệu úy, khuôn mặt trắng bệch. “Quá muộn rồi. Hãy bảo người của các hạ đưa gã xuống và chuyển về nhà xác.” Ông loạng choạng tiến lại phía án thư, dựng lại chiếc ghế và ngồi xuống. Lang Lưu là tên hung đồ tàn nhẫn đáng bị xử chém trên pháp trường, nhưng gã không đáng bị tra tấn đến chết một cách tàn bạo như vậy. Địch Nhân Kiệt ông phải chịu trách nhiệm cho chuyện này. Giọng nói nhẹ nhàng của Trâu Hiệu úy kéo ông ra khỏi những suy nghĩ ảm đạm. “Bẩm đại nhân, hai thuộc hạ của ti chức đang tìm kiếm trong vườn và thẩm tra đám gia nhân.” Ông chỉ vào cánh cổng vườn đang mở. “Địch mỗ không nghĩ có người trông thấy những kẻ đột nhập,” ông mệt mỏi nói. “Chúng đã lẻn vào đây qua lối cổng sau, khi những trù sư đang bận chuẩn bị cơm tối. Đó là lý do chúng tổ chức cuộc hẹn vào giữa giờ Dậu. Đó là một âm mưu hòng dụ hết đám bộ hạ của Lang Lưu rời khỏi đây, để gã lại một mình cho chúng tra khảo. Trâu Hiệu úy, ta đã phạm phải một sai lầm lớn. Một sai lầm nghiêm trọng.”
Ông lại ngồi chậm rãi vuốt râu, ngẫm nghĩ rằng âm mưu này đã được đầu óc xảo trá của đám quan hủ bại nghĩ ra, vượt qua mọi bậc thầy về sự gian xảo và quỷ quyệt. Chắc chắn chúng đã cài người vào đám bộ hạ của Lang Lưu và nhận được tin báo về chuyện viên thủ quỹ không trao lại ngọc xuyến. Bởi thế, chúng không cử họ Hoắc đến lấy chuỗi ngọc nữa. Tuy nhiên, khi xét lại, chúng kết luận rằng Đới Ninh hẳn đã đưa báu vật cho Lang Lưu khi trở lại khách điếm để gói đồ. Gã đã để viên thủ quỹ đi với lời hứa về món tiền thưởng lớn hơn nhiều so với thỏa thuận ban đầu. Sau đó, Lang Lưu đã sai người giết hại Đới Ninh, chỉ để không phải chia chác ngân lượng và tránh những phiền toái về sau từ anh ta. Tin rằng Lang Lưu đã giấu chuỗi ngọc trong phòng riêng, chúng đã bố trí một cuộc gặp ở nhà kho, để có thể bất ngờ ập đến khách điếm khống chế gã. “Các hạ vừa nói gì vậy?” “Ti chức vừa hỏi đại nhân, liệu đám hung đồ này đã tìm được thứ mà chúng muốn chưa?” “Chúng chưa tìm được đâu. Thứ đó không có ở đây.” Về chuyện ấy thì Địch huyện lệnh tin chắc. Chẳng phải vì Lang Lưu không thể tham gia vào trò hai mặt ấy, mà vì viên thủ quỹ nhất định đã nài nỉ những kẻ tra tấn đưa mình đến gặp chủ nhân của chúng. Anh ta hi vọng, dù bản thân không đủ khả năng thương thuyết với Lang Lưu để xin gã tha mạng, ít nhất mình cũng gỡ gạc thêm chút thời gian.
Địch huyện lệnh lặng yên suy tư trong khi hai vệ binh hạ thi thể xuống. Họ đặt người chết vào cáng, phủ tấm vải trắng lên trên rồi đưa đi. Ông thấy mệt mỏi và chán nản với vụ án điên rồ, đầy rẫy thất vọng này. “Phải rồi, đại nhân, ti chức vừa nhớ ra vài chi tiết! Vừa lúc ti chức tập trung Cấm binh để đến nhà kho của Lang Lưu, những người được cử đến làng Thập Lý bên kia núi cũng trở về. Ngụy phu nhân không ở đó. Họ cũng đảm bảo là bà ấy chưa hề đến đó.” Địch huyện lệnh chẳng nói chẳng rằng. Vậy là giả thuyết ấy cũng sai nốt. Ông đã cố gắng hết sức, nhưng mọi suy luận đều đi vào ngõ cụt. Ông uể oải hỏi, “Hai người của cung Bích Thủy nói gì về chuyện ta trốn khỏi nhà lao?” “Bẩm đại nhân, hai kẻ đó không thể nói gì nhiều, vì ti chức đã đưa họ xuống đại lao vốn định để giam ngài. Liễu Binh tào đã làm nên một kỳ tích thực thụ. Tuy nhiên, ti chức không thích vẻ mặt ti tiện của hai kẻ đó. Vụ mưu sát Lang Lưu sẽ là lý do hợp lý để ti chức cắt cử sáu vệ binh ở lại trong sảnh đường khách điếm này, cùng sắc lệnh cấm ngoại nhân bước vào đây.” Địch huyện lệnh đứng dậy. “Hay lắm,” ông nói, “Địch mỗ cần một đêm yên giấc.” Rồi hai người cùng trở lại sảnh đường. Ông không biết khách điếm Thúy Điểu có nhiều khách trọ đến thế. Sảnh đường chật ních những kẻ kích động. Một vệ binh đứng giữa lối vào, một vệ binh khác thì ngồi trong góc để thẩm vấn một số gia nhân đang sợ hãi. Ngay khi các vị khách trông thấy Trâu Hiệu úy, họ liền vây lấy y mà hỏi. Viên Hiệu úy ra hiệu cho Ngụy Thành, lúc này đang đứng bên Tử Tây cô nương và tiểu nhị ở quầy.
Y bảo lão chưởng quỹ, “Có kẻ đã đột nhập và giết thương nhân Lang Lưu, rồi lục lọi phòng ông ta.” “Trời đất thiên địa ơi! Chúng phá hoại đồ đạc của khách điếm ư?” “Ngươi tự đến mà xem!” Y đáp. Khi lão chưởng quỹ lao ra hành lang, cậu tiểu nhị theo bén gót, Trâu Lập Uy bảo các khách trọ, “Tốt nhất là các vị nên trở về phòng mình! Không có gì phải lo cả, ta sẽ cử sáu người ở lại đây canh gác qua đêm.” Trong khi cả hai đi ngang qua quầy, Địch huyện lệnh bảo họ Trâu, “Địch mỗ sẽ xem xét kỹ sổ đăng ký. Đúng ra lúc trước ta phải kiểm tra ngay. Dường như ta đã bỏ qua nhiều việc cần làm! Ôi, ta sẽ đến gặp các hạ sáng sớm mai.” “Đại phu có vẻ rất thân với viên Hiệu úy trẻ tuổi này!” Tử Tây bình luận. “Hiệu úy muốn tham vấn ta về thời điểm tử vong của nạn nhân. Cô nương có thể lấy cho ta cuốn sổ đăng ký không?” Thiếu nữ mở ngăn kéo trên và đưa cho ông một cuốn sổ lớn. Tì cả hai khuỷu tay lên mặt quầy, nàng quan sát khi ông xem qua sổ. Tên họ không nói lên được nhiều điều. Ngoại trừ Lang Lưu và người của gã, có vẻ tất cả khách trọ đều là những thương gia chân chính và đến trước Địch huyện lệnh ít lâu. Ông sẽ để lại cuốn sổ cho Trâu Hiệu úy điều tra về lai lịch của từng người. “Suốt buổi chiều nay, tiểu nữ không thấy đại phu đâu,” Tử Tây tò mò quan sát gương mặt hốc hác của ông. “Trông ngài có phần xanh xao đấy.”
“Ta khá mệt, ta sẽ đi nghỉ sớm. Tạm biệt cô nương!” Lên phòng, Địch huyện lệnh mở rộng cửa sổ rồi ngồi xuống bên bàn, kéo ấm trà về phía mình. Chậm rãi nhấp từng ngụm trà, ông nỗ lực hết sức để sắp xếp lại mọi suy nghĩ. Ông phải để đầu óc thật công tâm, bình thản mà xem xét lại tình hình hiện tại. Ông cần thoát khỏi cơn kích động trước cái chết ghê gớm của Lang Lưu, nhìn nhận những chuyện đã xảy ra đơn thuần là một nan đề cần vận dụng tài trí, và cố gắng sắp xếp từng thành tố vào đúng vị trí. Nhưng còn thiếu quá nhiều yếu tố. Nếu Tam Công chúa không dứt khoát ra lệnh cho ông phải ẩn danh đến khi tìm được ngọc xuyến, ít ra ông sẽ có đủ thẩm quyền để làm nhiều thứ, thúc đẩy việc tra án. Đến cung Bích Thủy và tiến hành một cuộc điều tra chính thức, bắt đầu từ chuyện bắt giữ hai kẻ mặc đồ xám được phủ Tổng giám cung cử đi theo ông. Dĩ nhiên chúng không theo dõi Địch huyện lệnh vì ông vào cung với danh tính giả, mà vì chúng là tay chân của tên chủ mưu, kẻ một lòng ngăn ông tìm được chuỗi ngọc. Tiến trình điều tra trực tiếp đã bị phá hỏng, ông băn khoăn không rõ còn cách nào khác không. Thời gian còn lại không nhiều. Ông chỉ có đêm nay và sáng mai, vì Tam Công chúa sẽ phải rời cung Bích Thủy để hồi kinh vào trưa mai. Ông đứng dậy và bồn chồn chắp tay sau lưng, đi lại trong phòng. Khuôn mặt kiều diễm của Công chúa lại hiện lên trước mắt ông. Tam Công chúa, ái nữ của Hoàng thượng, xung quanh là hàng chục nữ quan và biết bao thị tỳ, có Đại tổng quản và những lính canh bảo vệ… nhưng nàng cô độc, chỉ có duy nhất một nữ quan mà mình có thể thực sự tin tưởng. Hoàng thượng đáp ứng mọi mong muốn của Công chúa, thậm chí Bệ hạ đã thực hiện một biện pháp chưa từng có tiền lệ là giao cho nàng chính lệnh để chỉ định một Khâm sai. Một nữ nhân trẻ trung đầy quyền lực, nhưng hoàn toàn đơn độc và đau khổ! Ông nghĩ đến đôi mắt tròn đầy u sầu của nàng.
Công chúa đã tiết lộ rằng có kẻ đánh cắp ngọc xuyến để khiến hoàng thượng ghét bỏ nàng. Nhưng đó không thể là lý do thật sự. Hoàng thượng có tiếng là người sáng suốt và biết suy xét công minh, việc mất chuỗi ngọc cùng lắm cũng chỉ khiến hoàng thượng nổi giận quở trách. Nhưng trong những lời sau cùng, Công chúa đã bảo là nàng đặt cả hạnh phúc của mình vào tay Địch Nhân Kiệt! Ông cay đắng nghĩ sự tự tin thái quá đã dẫn bản thân đến chỗ phạm phải sai lầm nghiêm trọng. Giả thuyết viên thủ quỹ đang định hội ngộ với Ngụy phu nhân đã sai hoàn toàn. Vậy thanh niên đó định làm gì vào cái đêm anh ta đến cung Bích Thủy lấy trộm chuỗi ngọc? Bỗng Địch huyện lệnh dừng bước, trên khuôn mặt cau có hé nở một nụ cười. Ông vuốt râu và nhận thấy sau tất cả, mình vẫn có thể trực tiếp điều tra mà không cần để lộ danh tính. Ông vội mở mã yên bao và xem lại mọi vật dụng. Khi thấy ở dưới đáy bao là bộ đồ lụa đen dung dị và dải khăn đen to bản đi kèm, ông gật gù mãn nguyện. Đó chính là những gì ông cần. Cởi bộ đồ vi hành màu nâu, ông ngả lưng xuống giường. Ông cần nghỉ ngơi đôi canh giờ, nhưng có quá nhiều suy nghĩ đang giày vò đầu óc mệt nhọc của ông. Mất hồi lâu trở mình trằn trọc, ông mới chìm vào giấc ngủ. HỒI 15 Chốn sông nước, Tử Tây trợ giúp Giữa tối tăm, Nhân Kiệt dốc lòng Khi Địch huyện lệnh tỉnh dậy, cả trấn đã chìm vào yên lặng. Ông đoán lúc này đã gần nửa đêm. Bầu trời dày đặc mây và thỉnh thoảng nổi gió mạnh, nhưng ông không nghĩ là sẽ có mưa. Ông dò xét khu vườn bỏ hoang và không thấy ai ngoài đó. Quân của Trâu Hiệu úy chắc đang ở ngoài sảnh, hoặc ở cổng trước của khách điếm.
Ông cởi bỏ đồ và mặc hắc phục lên người. Mất một lúc để ông tính cách chuyển mật thư quý giá sang cổ áo mới, rồi ông quyết định không làm vậy nữa. Nếu ông thất bại, mật thư này sẽ không có tác dụng, vì nó sẽ được tìm thấy trong thi thể ông. Được ăn cả, ngã về không. Sau khi dò dẫm trong bóng tối, đấu tranh với những bóng hình khó nắm bắt, cuối cùng ông sẽ có một kết quả rõ ràng và súc tích! Vừa khẽ ngân nga, ông vừa thắt lại dây lưng da quanh eo. Ông bắt chéo dải khăn qua phần thân trên vạm vỡ, quấn chặt qua thanh kiếm sau lưng, chuôi kiếm hướng về phía vai phải. Rồi ông xem lại thương tích trên cẳng tay. Có vẻ nó đang lành dần, ông dùng cao lá rịt lên trên. Cuối cùng ông đội chiếc mũ đen quen thuộc. Hành lang bên ngoài rất yên tĩnh. Tuy nhiên, trong khi ông bước ra đầu cầu thang, những tấm ván gỗ dưới chân oằn mình cọt kẹt làm ông phải cảnh giác dừng lại. Ông lắng nghe một lúc nhưng không thấy tiếng động nào từ dưới sảnh vọng lên. Địch huyện lệnh xuống thang, cố đi sát vào phía vách. Dưới sảnh không còn ai, nhưng ông nghe tiếng những vệ binh đang nói chuyện với nhau ngoài cổng. Nhớ rằng đêm trước Ngụy Thành đã gọi mã phu ở một phòng nhỏ phía sau, ông vòng ra sau bức bình phong. Ông mở cửa và thấy mình đang ở khu vườn bỏ hoang quen thuộc. Bỏ ra ngoài qua cánh cổng cạnh nhà kho, ông đi dọc theo ngõ hẻm nhỏ dẫn ra con phố chạy song song với phố chính. Ban ngày, đây là nơi buôn bán giao thương tấp nập. Nhưng lúc này, mọi cánh cửa đều đã đóng kín, phố xá lặng im như tờ. Địch huyện lệnh ước gì có được cây đèn lồng, vì mây đã che kín ánh trăng nhợt nhạt, bến sông cũng tối tăm không thấy đường.
Bỗng có giọng nói khàn khàn vọng ra từ con phố cắt ngang trước mặt. Địch huyện lệnh vội nhìn quanh, tìm một cánh cổng để trốn vào, nhưng đội canh phu đã vòng qua góc phố và nhìn thấy ông. Trương tuần đưa đèn lồng lên. “À, Lương đại phu đây mà! Ngài ra ngoài muộn thế! Ta có giúp gì được ngài không?” “Có người sinh nở khó nên ta được gọi đi, ở ngay gần chợ cá thôi.” “Bọn ta không giúp gì được ngài rồi!” Trương tuần nói. Đám canh phu cũng bật cười. “Quan gia cho mượn cây đèn lồng,” ông bảo, “tức là giúp ta rồi.” “Được thôi!” Rồi đám canh phu lại lên đường. Địch huyện lệnh cầm đèn lồng theo, về sau nhất định ông sẽ cần đến nó. Khi đến gần bến sông, ông ngoái lại phía sau nhiều lần vì cảm thấy bất an như đang bị theo dõi. Nhưng mọi cánh cửa sổ đều khép chặt, ông không thấy thứ gì di chuyển trong bóng tối giữa những căn nhà. Góc phía đông của bến sông chìm trong một màn sương mù màu xám. Cứ trông theo ánh đèn dầu của các con thuyền, ông đến được bờ sông. Nhìn lướt qua hàng thuyền dài đậu bên bến nước, ông tự hỏi không biết đâu là thuyền của Tử Tây cô nương. Trong bóng tối, thuyền nào cũng giống hệt nhau. “Là thuyền thứ năm từ trái sang,” một giọng nhỏ nhẹ vang lên phía sau ông. Địch Nhân Kiệt quay ngoắt lại và tỏ ý khó chịu với bóng người mảnh mai kia. “Là cô nương ư? Sao lại đi theo ta?” “Ngài đã làm tiểu nữ thức giấc! Phòng của tiểu nữ nằm ngay bên trên phòng của ngài. Tiểu nữ đã định đi nghỉ sớm hơn thường lệ. Đầu tiên, tiểu nữ nghe thấy ngài đi lại trong phòng, rồi ngài nằm lăn ra giường! Tiểu nữ không thể ngủ. Đến khi những tấm ván trên hành lang kêu cọt kẹt, tiểu nữ nghĩ tốt hơn là nên đi theo xem ngài tính làm gì. Hóa ra đó lại là hành động đúng đắn, tiểu nữ tuyệt nhiên không muốn thấy thuyền của mình chìm nghỉm. Tiểu nữ rất thích chiếc thuyền ấy.”
“Nghe này, Tử Tây cô nương, hãy thôi ngay việc vô nghĩa này lại! Cô nương quay về ngay đi. Ta biết mình phải làm gì.” “Ở trên thuyền thì ngài không biết đâu! Ngài định đi đâu vậy?” “Nếu cô nương khăng khăng muốn biết thì ta không đi xa đâu. Chỉ đến bãi đậu thuyền thứ tư, phía ngược dòng.” Thiếu nữ khinh khỉnh hỏi, “Ngài nghĩ mình có thể tìm ra bãi đậu thuyền ấy trong đêm tối ư? Tin tiểu nữ đi, giữa ban ngày ban mặt ngài còn không thể trông thấy cửa sông ấy! Nó rất hẹp và bị cỏ nước che kín rồi. Tiểu nữ chỉ tình cờ biết về chỗ ấy vì ở đó có giống cua rất ngon. Đi nào, mau lên thuyền!” Địch Nhân Kiệt do dự. Tử Tây đã đúng, để tìm ra bãi đó chắc ông phải mất đến vài canh giờ. Nếu chịu ngồi im một chỗ mà chờ đợi, chắc nàng sẽ không gặp nguy hiểm và cũng tránh cho ông vô vàn trắc trở. “Ta muốn đi thăm thú quanh khu rừng phía đó. Có thể cô nương sẽ phải đợi ta vài canh giờ đấy.” “Tiểu nữ có thể ngủ trên thuyền thoải mái như nằm trên giường. Quanh bãi đậu đó có nhiều cây thông lớn, tiểu nữ sẽ đậu thuyền dưới tán cây. Trên thuyền có một tấm vải bạt để đề phòng trời mưa, nhưng tiểu nữ chắc chỉ có vài hạt mưa rào là cùng.” Địch huyện lệnh ngồi phía đuôi thuyền. “Tử Tây cô nươmg, nàng đã giúp ta rất nhiều!” Ông nói đầy hàm ơn trong khi thiếu nữ cầm sào đẩy thuyền ra. “Tiểu nữ quý mến ngài. Hơn nữa, tiểu nữ tin tưởng ngài. Chỉ có trời mới biết ngài định lang thang vào giờ này trong đêm để làm gì! Chúng ta cũng sẽ không thắp đèn ở mũi thuyền đâu nhé.”
Khi ra đến vùng nước lớn, một đám mây che khuất mặt trăng và trời tối như mực. Địch huyện lệnh nhận thấy nếu không có vị cô nương này, ông chắc chắn sẽ bị lạc. Thiếu nữ khỏa mái chèo nhanh mà khéo léo, chiếc thuyền cứ thế lướt đi không một tiếng động. Bất chợt, một cơn gió lạnh thấu xương thổi qua mặt sông, khiến ông phải kéo sát áo vào ngực. “Đến rồi!” Nàng chèo thuyền vào một cửa sông hẹp, cành lá chìa ra cọ cả vào vai ông. Một rặng cây lớn tối đen hiện ra trên đầu. Nàng cầm sào đẩy thuyền và ông cảm thấy thân thuyền cọ vào đá. “Tiểu nữ sẽ đưa thuyền đi dọc theo dải đá ngầm,” nàng bảo. “Giờ ngài có thể thắp đèn lồng rồi. Từ sông nhìn vào sẽ không ai trông thấy chúng ta nữa.” Địch huyện lệnh lấy hộp đánh lửa từ ống tay áo ra và thắp sáng chiếc đèn mượn của đội canh phu. Đến lúc này, ông mới thấy Tử Tây cũng mặc hắc phục và quấn tấm khăn đen quanh mái tóc. Đôi mắt to ánh lên một tia tinh nghịch, thiếu nữ nói, “Tiểu nữ biết cách chọn phục trang khi muốn lẻn đi giữa đêm hôm thanh vắng! Ôi, hai ta sẽ được hưởng cảm giác riêng tư tuyệt đối trong một bãi đậu thuyền kín đáo. Chỉ có ngài và tiểu nữ, cùng Hằng Nga trên cao. Ngài không muốn nói nhỏ cho tiểu nữ về mục đích của chuyến đi này sao?” “Ta muốn tìm vài thứ, dọc theo con đường mòn xuyên qua khu rừng. Ta đi phải mất ít nhất một canh giờ. Đến hết giờ Sửu mà ta chưa quay lại đây, cô nương cứ trở về trấn một mình. Ta nói trước là cô nương sẽ phải chờ lâu đấy.”
“Tiếp theo ngài sẽ nói là mình muốn đi tìm thảo dược!” Nàng ngắt lời. “Ôi, đừng bận tâm đến tiểu nữ, hãy bận tâm đến lũ rắn. Tốt hơn ngài hãy soi đường thật sáng để không giẫm lên con rắn nào. Chúng không thích thế đâu.” Ông giắt tà áo dài vào dải dây lưng và bước lên bờ. Chuyển đèn lồng sang tay trái, ông cầm kiếm chọc vào đám bụi cây dày đặc, tìm một khoảng hở để len mình. “Quả là đạo tặc chuyên nghiệp!” Tử Tây nói lớn từ phía sau. “Chúc ngài may mắn!” Địch huyện lệnh nhăn mặt cười, cố chống chọi với những cành cây khẳng khiu và đám cây bụi gai góc, nhằm hướng đông bắc mà bước. Ông đến một con lộ hẹp sớm hơn mình tưởng. Bên phải con lộ là cây cỏ um tùm, nhưng bên trái lại khá quang đãng. Ông lựa một cành khô to chắc và đặt ngang đường để đánh dấu khi ông quay lại. Nếu ông còn có thể quay lại. Đi theo con lộ quanh co được một lúc lâu, ông thấy đêm tối không còn quá tĩnh mịch nữa. Luôn có tiếng sột soạt trong những bụi cây dọc hai bên đường, xen lẫn tiếng rúc rích và gầm gừ, các loài chim ăn đêm kêu vang trên những tán cây tối đen trên đầu. Thỉnh thoảng có tiếng cú ảo não. Những loài vật nhỏ chạy trốn ánh sáng của chiếc đèn lồng, nhưng ông không thấy có rắn. “Chắc nàng chỉ muốn trêu ghẹo ta!” Địch huyện lệnh vừa mỉm cười vừa lẩm bẩm. “Một cô nương gan dạ.” Ông chợt dừng chân và vội lùi lại. Một con rắn đốm dài đến năm thước đang trườn qua đường.
“Một cô nương gan dạ và trung thực,” ông nghĩ thầm. Địch huyện lệnh nhanh chóng mất đi cảm giác về thời gian khi cuốc bộ qua rừng thông kỳ dị này. Ước chừng hai khắc sau, con lộ rộng dần ra và có ánh sáng le lói trong rặng cây trước mặt. Rồi ông trông thấy dòng nước và ở phía bên kia là khối tháp canh đồ sộ phía tây bắc. Góc trái của nó vươn lên từ mặt sông, một vùng nước tĩnh lặng và tăm tối dưới bầu trời u ám. Con lộ uốn sang phải, chạy thẳng theo hướng nam, dọc theo đường hào phía tây của cung Bích Thủy. Địch huyện lệnh phải bò qua đám cây tầm thấp và bụi rậm bao quanh bờ hào. Ra đến mép nước, ông kinh sợ khi phát hiện rằng con hào rộng hơn rất nhiều so với lúc ông ngắm nó vào sáng hôm qua. Ông từng ước đoán con hào rộng tầm mười lăm thước, nhưng thực tế nó phải đến ba mươi hoặc bốn mươi thước. Vài thước phía bên dưới, dòng nước tối tăm trông rất đáng sợ. Qua mặt nước mờ đục, ông không nhìn ra dấu vết nào của cửa cống dưới. Tuy nhiên, cho đến lúc này, những lời chỉ dẫn của họ Hoắc mà tên cối kế nhớ được đều chính xác. Ông bẻ một cành cây khô và mảnh từ đám cây tầm thấp, chúi người về phía trước và thọc xuống nước để thăm dò. Đúng rồi, cách mặt nước tầm ba thước là một thanh xà lớn. Bỗng có tiếng khẩu lệnh vọng ra từ lỗ châu mai của tháp canh, sau đó là tiếng hài sắt loảng xoảng trên nền đá, rộn rã cả màn đêm tĩnh lặng. Địch huyện lệnh vội lủi xuống dưới tán lá. Đội tuần canh đã đổi gác, lúc này là đúng nửa đêm.
Ông lại bò ra mép nước và căng mắt nhìn. Thực sự có một dải đá ngầm chạy dọc theo tường? Ông chỉ thấy có một dải cỏ nhỏ đầy bùn, mọc lởm chởm ngay bên trên mặt nước. Ông thở dài, quyết định tự mình khám phá. Bò trở lại con lộ, Địch huyện lệnh tháo bỏ dải khăn đan chéo trên ngực và lấy kiếm cắt nó làm đôi. Ông nhét mũ vào ống tay áo, quấn thật chặt một nửa dải khăn quanh đầu. Rồi ông cởi áo, gập lại cẩn thận. Bọc thanh kiếm vào nửa dải khăn còn lại, ông đặt kiếm cùng đèn lồng lên trên áo, để tránh gió thổi bay mất chiếc áo. Sau khi thắt chặt ống quần quanh bắp chân, ông cho hai gấu quần vào trong giày, rồi buộc dây quanh hai chân. Cuối cùng, ông rẽ đôi bộ râu dài và vắt qua hai vai. Sau khi buộc túm hai nửa ra sau gáy, ông giắt bộ râu lên dải khăn quấn trên đầu. Khi bò trở lại mép nước, Địch huyện lệnh lo lắng nhìn lên những lỗ châu mai trên tường thành. Theo lời họ Hoắc, các cung thủ “sẽ được điều đi chỗ khác” vào thời điểm viên thủ quỹ đến cung Bích Thủy. Rõ ràng kẻ chủ mưu đã đánh lạc hướng để các cung thủ lơ là việc canh phòng. Ôi, ông sẽ phải chấp nhận may rủi. Ông từ từ thả mình xuống dòng nước. Bàn chân và bắp chân thì không sao, nhưng phần bụng và ngực trần thì tê buốt. Ông cay đắng nghĩ Đới Ninh chắc chắn đã bơi dưới nước dọc theo thanh xà của cửa cống. Nhưng ông không đủ sức cho khả năng bơi lặn điêu luyện ấy.
Mắt và mũi vẫn ở trên mặt nước, ông dò dẫm theo thanh xà nhớp nháp. Hai bàn tay chạm vào những vật nhầy nhụa khó xác định, cùng các mảnh vụn mềm rất dính, khiến ông bắt đầu cảm thấy ghê tay. Phần gỗ trên cửa cống cũ đang mủn dần và ông phải để ý đến những khoảng trống khó lường. Được nửa chừng, ông bỗng bị tuột tay. Nước sủi tăm quanh đầu khi ông tụt xuống. Ông cố tìm cách ngoi lên chỗ thanh xà, hít thật sâu và đi tiếp. Khi sang đến phía bên kia, Địch huyện lệnh thở phào nhẹ nhõm. Ẩn mình dưới nước, tay ông cảm nhận được lớp bùn dọc theo chân tường. Họ Hoắc bí ẩn kia có thể là một kẻ đáng ghê tởm, nhưng ông đánh giá cao sự chính xác của hắn. Thực sự có một dải đá, bám đầy bùn hôi thối và mọc kín cỏ nước, nhưng cũng đủ chỗ đặt chân. Lo lắng nhìn lên những đoạn tường cao đến hai mươi thước có lỗ châu mai nhô ra, ông từ từ ngoi lên khỏi mặt nước và trèo lên dải đá. Lưng và hai lòng bàn tay xòe rộng áp vào bức tường dốc nghiêng, ông men theo tường và vòng qua góc tháp. Lúc này, ông đang đối mặt với dòng sông, một vùng nước đen lấp lánh. Địch Nhân Kiệt cẩn trọng tiến theo tường phía bắc, mũi giày ướt sũng ướm trước từng bước dọc theo dải đá đầy bùn. Chẳng bao lâu, dòng nước tối đen chảy lờ đờ đã ở ngay phía trước và nó làm ông chóng mặt, ông cảm thấy như mình và cả cung Bích Thủy đang trên thuyền bơi về phía thượng lưu. Cương quyết nhắm nghiền mắt, ông tiến về phía trước. Hành trình này tương đối dễ dàng đối với một thanh niên thấp bé và nhanh nhẹn như Đới Ninh, còn vóc dáng và trọng lượng bản thân lại đặt ông vào thế bất lợi rõ ràng. Mỗi lần bước đi, chân của ông lại lún sâu vào bùn, ông cũng phải để ý những chỗ dải đá bị lở. Đến một điểm có ít bùn bám, ông xoay người lại, quay mặt vào tường. Lúc này ông mới dám mở mắt ra. Ở tư thế này, ông có thêm lợi thế là có thể xác định những đường rãnh giữa bức tường gạch rêu phong để bám tay vào dễ dàng.
Địch huyện lệnh nhẹ nhõm hẳn khi tay trái chạm vào những khối đá nhô ra của mái vòm thủy môn đầu tiên. Ông đưa tay vào trong và nắm được một thanh sắt trên tấm rào sắt, nằm sâu tầm một thước bên trong tường. Ông đu mình dưới cửa vòm đó, tay nắm chắc một thanh sắt ngang phía trên và quắp đôi chân mỏi nhừ vào một thanh ngang bên dưới, để bàn chân vào bên trong rào sắt, đôi giày cách khỏi mặt nước. Đó không hẳn là một vị trí tiện lợi nhưng ông được an toàn tuyệt đối, phần trên của cửa vòm giúp ông tránh khỏi những con mắt giám sát từ các lỗ châu mai trên kia. Ông lo lắng nghĩ về số lượng thủy môn mình còn phải vượt qua. Sáng hôm qua, ông đã đếm được tám thủy môn. Dù gì, Đới Ninh đã làm được và ông đang đi theo chính phương pháp của viên thủ quỹ. Điểm khác biệt duy nhất là anh ta định mò đến chỗ một chuỗi ngọc, trong khi ông lại muốn mò đến chỗ một người. Đây là cách duy nhất để ông có thể diện kiến Tam Công chúa mà không phải bất tuân mệnh lệnh giữ bí mật tuyệt đối. Cùng lúc ấy, con đường mà Đới Ninh đã đi có thể sẽ cung cấp một vài manh mối về nơi anh ta giấu ngọc xuyến. Sau khi nghỉ ngơi một lúc, Địch huyện lệnh di chuyển đến phía bên trái của cửa vòm và tiếp tục men theo dải đá, má phải áp sát mặt tường xù xì, đôi giày ngập trong bùn. Dần dà, ông cũng quen với cách di chuyển lạ lùng như loài cua. Ông thấy bản thân khá an toàn. Các khoảng tường có lỗ châu mai nhô ra tầm một thước. Trừ khi vươn người ra ngoài và ngó xuống, lính canh sẽ không nhận ra có kẻ đột nhập đang men theo tường. Nhưng ông vẫn thấy mừng khi bàn tay trái, đang dò dẫm để tìm chỗ bám giữa các hàng gạch, lại gặp được những khối đá nhô ra của một thủy môn khác. Thủy môn này thấp hơn nhiều so với cái trước. Lúc cúi xuống và nhìn vào thủy môn có rào sắt bên trong, ông há hốc miệng kinh sợ, suýt nữa mất thế thăng bằng. Từ bên trong, một bàn tay trắng và gầy đang bám chặt lấy thanh ngang dưới cùng.
HỒI 16 Địch Nhân Kiệt một phen mạo hiểm Vương nữ quan hai lượt chỉ đường Địch huyện lệnh gắng gượng hết sức để trụ vững. Quan sát kỹ hơn, ông thấy cổ tay mảnh khảnh kia có đeo một chiếc vòng bạch ngọc chạm hình rồng uốn lượn. Một ý nghĩ lóe lên trong đầu ông, rằng đây không phải là thủy môn mà là cửa sổ vòm của một thủy lao. Phía trước rào sắt có một gò đá lát màu xám rộng ba thước, nhô lên trên mặt nước khoảng một thốn. Khi đu vào được bên trong và ngồi xổm trên rìa đá, ông nghe thấy tiếng khóc nghẹn ngào từ bóng tối bên trong. Bàn tay trắng kia đã biến mất. “Phu nhân, là Lương đại phu đây.” Lúc này, hai bàn tay gầy cũng bám lên thanh ngang cũ. Thấp thoáng bên dưới chúng là một khuôn mặt trái xoan trắng xanh. Dường như cửa sổ này cao gần chạm trần của thủy lao, mặt sàn ở sâu phía dưới. “Bằng cách nào… tại sao ngươi lại đến đây?” Vương nữ quan ngập ngừng hỏi bằng chất giọng yếu ớt. “Tiểu nhân muốn gặp Tam Công chúa để hỏi chuyện, nhằm hoàn thành nhiệm vụ mà Công chúa giao cho. Sao Vương phu nhân lại ở chốn thủy lao ô uế này?” “Địch Nhân Kiệt, có nhiều chuyện khủng khiếp đã xảy ra. Từ đêm qua đến giờ ta chưa được ăn uống gì cả. Lấy cho ta chút nước đi!” Địch huyện lệnh cởi dải khăn trên đầu, gập nó lại rồi múc nước. Đưa “bát nước” còn nhỏ giọt qua rào sắt, ông dặn, “Phu nhân uống đi, nhưng đừng uống quá nhiều.” Lát sau, Vương nữ quan bắt đầu kể, “Thực ra, đúng là ta bị chứng hen suyễn nhẹ. Bởi thế, khi ngươi ra về, ta nghĩ mình cũng có thể dùng thứ thuốc ngươi kê. Nhưng một nữ quan đã bí mật trộn độc dược vào đó. Ngay sau khi uống, đầu óc ta quay cuồng và ta ngã vật xuống đất, tay chân co giật dữ dội. Tam Công chúa vô cùng hoảng sợ, lập tức gọi thái y trong cung đến, họ nói ta đang ốm thập tử nhất sinh. Thế rồi ta ngất đi. Khi tỉnh lại, ta thấy mình đang nằm trên nền đất ẩm ướt trong góc thủy lao này. Không ai đến gặp ta cả.”
Bà dừng lại, rồi lại nói tiếp bằng giọng mệt nhọc, “Ta biết chính xác chúng sẽ làm gì. Đến sáng, chúng sẽ tìm đến, khi ấy ta đang sắp chết vì đói khát. Rồi chúng sẽ bỏ độc vào đồ ăn và nước uống của ta, đưa xác ta đến chỗ Tam Công chúa và bảo các thái y đã làm hết sức mình nhưng ta không qua khỏi. Theo dự định, đoàn hộ tống của Hoàng thượng sẽ đến đây vào trưa mai để rước Công chúa về kinh thành. Như vậy, sẽ không có thời gian để điều tra kỹ lưỡng cái chết của ta. Cho ta uống thêm được không?” Vương nữ quan đưa lại dải khăn ướt qua rào sắt. “Kẻ chủ mưu đồi bại này là ai?” Ông đưa nước cho bà. “Đó là một trong số những điều hạ quan muốn hỏi Tam Công chúa.” “Địch Nhân Kiệt, tốt nhất là ngươi đừng đến gặp Công chúa bây giờ. Vì với tâm trạng hiện tại, Công chúa nhất định sẽ không tin ngươi đâu, nàng sẽ cho là ngươi cố ý kê đơn sai. Ngươi hỏi kẻ thù của chúng ta là ai ư? Làm sao ta hay Công chúa biết được? Ngày nào cũng có rất nhiều người lởn vởn quanh chúng ta từ sáng đến tối. Tất cả bọn họ đều tuyệt đối khuôn phép, hăm hở lấy lòng bậc bề trên, cười nói luôn miệng. Ai mà biết được kẻ nào là mật thám chuyên rình mò, hoặc kẻ nào đứng sau những âm mưu ghê gớm đó? Ta chỉ có thể nói, kẻ cả gan hạ độc ta, nữ quan thân cận nhất của Công chúa, thì chỉ có Đại tổng quản và Tổng giám cung. Hai người có phẩm hàm cao nhất này chắc cũng biết đôi điều về những chuyện đang diễn ra. Nhưng ai mà biết chuyện đã bị xuyên tạc thành thế nào khi đến tai bọn họ? Ai biết được có bao nhiêu kẻ đã bị mua chuộc để thốt ra những lời dối trá bẩn thỉu, có bao nhiêu nô tài trung thành đã bị tống vào ngục vì thói vu khống xảo quyệt? Chỉ có một người trong cung Bích Thủy là bất khả xâm phạm. Đó chính là Tam Công chúa.”
Địch huyện lệnh gật đầu. “Cả Đại tổng quản và Tổng giám cung đều tỏ rõ thái độ thù địch khi hạ quan đến cung Bích Thủy gặp phu nhân. Mới đây thôi, họ còn tìm đủ mọi cách bắt giữ hạ quan. Ai đã báo cho Công chúa biết việc hạ quan đến trấn Thanh Xuyên và cả cái tên giả hạ quan sử dụng?” “Người đó là Hồ Lô tiên sinh. Năm năm trước, trước khi cung Bích Thủy trở thành nơi lui đến của Tam Công chúa mỗi mùa hè, vị đạo nhân ấy thường hay đến Hoàng cung. Hoàng thượng đã giao phó cho ông ta việc giảng dạy triết lý cho Thái tử Điện hạ. Tam Công chúa cũng hay đến nghe giảng và nàng vô cùng kính phục đạo nhân. Sau khi Hồ Lô tiên sinh xa lánh thế tục và an cư ở trấn Thanh Xuyên, Công chúa vẫn hay triệu ông ta đến, vì nàng thích đàm đạo với đạo nhân và tin tưởng ông ta tuyệt đối. Vì Hồ Lô tiên sinh vốn nổi danh trong Hoàng cung, ông ta tuổi tác đã cao, Đại tổng quản không dám phản đối. Chắc chắn đạo nhân cũng nhận ra tình cảnh trắc trở của Công chúa. Mới hôm qua thôi, ông ta đã bắn một mũi tên không đầu lên trước lan can khuê phòng của Công chúa, vào đúng góc phía đông. Ngươi không biết chứ ông ta là một xạ thủ kỳ tài.” “Hạ quan đã có vinh hạnh gặp ông ta,” Địch huyện lệnh nói. “Đó cũng là một kiếm khách hiệp nghĩa.” “Đương nhiên rồi. Đạo nhân từng dạy kiếm thuật cho các vị hoàng tử, kể cả hai chân có tập tễnh thì ông ta vẫn là một kiếm khách siêu quần. Ông ta ngồi trên ghế, mỗi tay cầm một thanh kiếm, vậy mà ba kiếm khách lão luyện khác không sao lại gần được! Phải rồi, ông ta có gắn một bức thư trên mũi tên, báo cho Công chúa biết về sự xuất hiện của ngươi cùng cái tên giả, cả chỗ ở của ngươi. Đạo nhân khuyên nàng nên vời ngươi vào cung. Công chúa lập tức triệu ta lại và bảo muốn giao cho ngươi việc tìm kiếm ngọc xuyến. Rồi ta cử nhi nữ đến đón ngươi, cũng vì ta không thể tin tưởng ai khác.”
“Hạ quan hiểu. Hạ quan đã lần ra tên đạo chích. Đó là một thanh niên trẻ tuổi, được một đám giang hồ thuê đi lấy trộm nhưng bọn chúng lại được một kẻ chủ mưu trong cung này thuê mướn. Thanh niên ấy tìm cách ôm ngọc xuyến bỏ trốn, nên bị bọn ác bá sát hại trước khi kịp nói ra nơi giấu chuỗi ngọc. Hạ quan vẫn chưa thể tìm ra báu vật.” Một luồng gió lạnh tràn qua mặt nước làm tấm thân trần đầy mồ hôi của Địch huyện lệnh lạnh buốt. Ông bắt đầu run lên. “Phu nhân có vật gì để hạ quan che thân không?” Lát sau, một đầu của bộ áo gấm được luồn qua rào sắt. “Đám tiểu nhân đê tiện thậm chí còn không cho ta một tấm chăn để nằm,” bà thì thào. Địch huyện lệnh kéo chiếc áo choàng đồ sộ ấy qua chấn song và quấn quanh người. Ngồi xếp bằng trên rìa đá, ông hỏi tiếp, “Công chúa đã tiết lộ, mục đích của vụ trộm ngọc xuyến là để chia rẽ tình cảm giữa nàng và Bệ hạ. Hoàng thượng… ý hạ quan là… xin thứ lỗi cho hạ quan tội phạm thượng. Trong hoàn cảnh đặc biệt này, hạ quan thấy không cần câu nệ lời nói. Đêm nay, kẻ thù của phu nhân đã phạm tội ác tày đình vì nghĩ chúng sẽ có cơ hội lấy được ngọc xuyến. Tại sao chúng lại nóng lòng muốn có chuỗi ngọc ấy? Có phải chúng muốn báu vật ấy biến mất không? Thêm nữa, hạ quan thấy khó tin khi chuyện mất ngọc xuyến lại gây ra rạn nứt tình cảm giữa Hoàng thượng và Công chúa. Nhưng đương nhiên, phu nhân sẽ xét đoán chuyện đó chính xác hơn.”
Ông dừng lại, hi vọng có câu trả lời. Thấy người bị cầm tù vẫn giữ yên lặng, ông nói tiếp, “Tam Công chúa một mực cho rằng vụ trộm do người ngoài cung tiến hành. Chi tiết ấy gợi ý rằng Công chúa sợ kẻ thù đang lên kế hoạch đổ vạ cho một người thân cận với nàng, chúng muốn triệt hạ người này bằng cách buộc tội trộm bảo vật trong cung. Vì Công chúa không sẵn lòng cung cấp danh tính người đó, nên hạ quan không thể yêu cầu phu nhân tiết lộ. Nhưng sẽ có lợi hơn cho hạ quan, nếu phu nhân có thể cho hạ quan chút ít manh mối…” Ông bỏ lửng câu nói. Một hồi lâu im lặng. Địch huyện lệnh kéo sát áo vào người. Mùi hương phảng phất trên áo trái ngược hẳn với mùi hôi thối tỏa ra từ thủy lao tối tăm, ẩm thấp. Cuối cùng, Vương phu nhân lên tiếng, “Địch Nhân Kiệt, tâm trạng Công chúa lúc này vô cùng hỗn loạn. Điều nguy hại là nàng gần như suy sụp hoàn toàn. Công chúa không thể thổ lộ nhiều hơn, nhưng ta lại có thể. Ngươi biết Hoàng thượng đã nói sẽ chấp thuận bất cứ nam nhân nào mà ái nữ chọn làm phò mã. Đương nhiên, ở kinh thành có đến ba, bốn bè lũ tranh đua nhau. Chúng tìm đủ mọi cách để mong Công chúa chọn người của phe mình. Hôn phu của vị Công chúa được Bệ hạ sủng ái sẽ là chỗ dựa đầy quyền thế trong triều, có thể thúc đẩy cho quyền lợi phe cánh mình. Ngươi có thể hình dung ra sự phẫn nộ và thất vọng của chúng khi Tam Công chúa bắt đầu tỏ ra để ý đến Khang Tướng quân, Chỉ huy Cấm quân, người luôn tránh xa khỏi mọi mưu đồ và không thuộc bất cứ phe cánh nào. Bởi thế, các phe cánh thù địch liền hợp sức để khiến Khang Tướng quân thất sủng trong mắt Công chúa.”
“Trong trường hợp đó, cách giải quyết thật dễ dàng!” Địch huyện lệnh ngắt lời. “Công chúa sẽ cho Hoàng thượng biết mình yêu mến Khang Tướng quân. Sẽ không còn kẻ nào dám…” “Địch Nhân Kiệt, chuyện không đơn giản như vậy đâu! Công chúa không chắc mình có thực sự yêu Khang Tướng quân không, hay Tướng quân có thật lòng với nàng không. Đó là lý do vụ trộm ngọc xuyến lại trở thành một âm mưu tàn độc như ngươi đã thấy. Khang Tướng quân đã bí mật gặp gỡ Công chúa trót lọt, và nàng phát hiện chuỗi ngọc bị mất sau ngay sau khi Tướng quân đến thăm. Có kẻ đã khéo léo nói bóng gió với Công chúa, rằng chính Khang Tướng quân đã lấy ngọc xuyến để cao chạy xa bay với nhân tình bí mật, cùng nhau xây tổ uyên ương. Ai cũng biết Tướng quân không có nhiều ngân lượng và đang lâm vào cảnh nợ nần để giữ vững vị trí hiện tại. Đó là lý do đầu tiên cho việc kẻ thù dùng mọi thủ đoạn để đoạt lấy ngọc xuyến. Chuỗi ngọc phải được tìm thấy ở chỗ Khang Tướng quân.” Ông khẽ gật đầu. Ngay từ đầu, ông đã thấy chi tiết Công chúa tháo chuỗi ngọc ra vì sợ nó rơi xuống sông dường như có phần gượng gạo. Giờ ông cũng nhớ ra, nàng đã đặc biệt nhấn mạnh đến chuyện mình chỉ có một mình trong đêm. “Hạ quan nghĩ,” ông nói, “Công chúa yêu Khang Tướng quân rất nhiều. Nàng đã quả quyết với hạ quan là ngọc xuyến bị một kẻ ngoài cung đánh cắp.” “Địch Nhân Kiệt, ngươi không thể hình dung ra những cảm xúc hỗn độn đang giày vò Công chúa đâu. Đôi khi nàng nghĩ mình yêu Khang Tướng quân, đôi khi lại không.”
“Vậy đó chẳng phải tâm trạng phổ biến nhất ở những nữ nhi đang yêu sao?” Ông nghe tiếng nữ nhân thở dài. “Địch Nhân Kiệt, vì ngươi là người duy nhất có thể vẫn cứu vãn được tình thế này, giờ ta sẽ tiết lộ lý do thứ hai mà những kẻ đê tiện kia thèm muốn ngọc xuyến để chia rẽ Công chúa và Khang Tướng quân. Đó là một bí mật ghê gớm đến nỗi ở tình thế thông thường, ta thà chết chứ không chịu hé răng nửa lời!” Rồi bà chìm vào yên lặng. Sau lúc lâu trì hoãn, bà nói tiếp, “Có bao giờ ngươi thấy lạ khi Hoàng thượng không bao giờ giúp Tam Công chúa tìm phu quân chưa? Có một quy định bất biến, ngay khi một Công chúa tròn mười tám tuổi thì bắt đầu kén rể. Thế mà Tam Công chúa đã hai mươi sáu tuổi rồi! Lời tuyên bố đại lượng của Hoàng thượng, cho phép nàng được quyền chọn hôn phu, cũng có thể hiểu là một cố gắng nhằm trì hoãn hôn sự của Công chúa lâu nhất có thể. Nhằm… giữ nàng ở bên mình.” Địch huyện lệnh nhướn mày. Ông cất giọng hỏi, “Tại sao…” Rồi ông chợt hiểu ra. Trời ơi! Mồ hôi lạnh tuôn ra đầy ngực ông. Thật khủng khiếp, không thể nói thành lời… “Công chúa… có nhận ra…?” “Công chúa có nghi ngờ. Tệ hơn nữa, nàng không sợ hãi trước nghi ngờ đó như bọn ta tưởng. Ngươi có thể hình dung được hậu quả sẽ thế nào, nếu mối quan hệ này… đi đến kết cục không tránh khỏi.” Địch huyện lệnh siết chặt hai nắm tay. Lúc này, ông đã nhìn ra âm mưu đánh cắp ngọc xuyến thực sự đáng sợ đến thế nào. Một nữ nhân hai mươi sáu tuổi, trưởng thành trong không khí tù túng của hậu cung hẻo lánh, không rõ về chính những tình cảm của mình… trở lại kinh thành trong nỗi thất vọng về tình yêu dành cho một Tướng quân. Nếu trong tình cảnh rối ren này, nàng… nếu đó là sự thật… thì một người biết rõ bí mật tội lỗi kia có thể… Trời, nếu kẻ đó khôn khéo tận dụng chuyện này, hắn hiển nhiên có thể buộc Hoàng thượng làm theo ý mình!
Ông bất ngờ lắc đầu đầy kiên quyết và mạnh mẽ nói, “Không, phu nhân, hạ quan không dám tin điều này! Hạ quan tin những âm mưu ghê tởm như vậy sẽ nằm trong đầu óc của đám quan hủ bại, đặc biệt là bọn thái giám. Chúng là thứ dị vật mang nhân cách đồi bại, những kẻ không thể thiếu nhưng lại là cội nguồn ghê tởm của tội ác ở mọi cấm cung! Hạ quan cũng tin là Công chúa bị ảnh hưởng bởi những ý nghĩ hỗn loạn mơ hồ, nàng đang nghi ngờ chính những xúc cảm của mình. Nhưng nói đến Hoàng thượng, phụ thân của hạ quan lúc sinh thời từng là Viên ngoại và có vinh hạnh được Thiên tử tin tưởng, ông ấy luôn coi Bệ hạ là bậc thánh quân. Người không màng đến địa vị độc tôn của mình, luôn giữ phẩm cách cao cả và khả năng suy xét kiên định của đấng Thiên tử.” Rồi ông chuyển sang giọng thâm trầm hơn, “Dù thế nào, hạ quan thấy mừng vì phu nhân đã nói ra hết. Lúc này, hạ quan đã biết chính xác kẻ chủ mưu đang theo đuổi điều gì và lý do hắn không ngừng nhúng tay vào những vụ giết người ghê tởm nhất. Nhưng dù âm mưu gì đang diễn ra, kẻ thù sẽ bị vô hiệu hóa ngay khi chúng ta chứng minh được Khang Tướng quân không lấy trộm ngọc xuyến. Hạ quan tin rằng khi Công chúa lấy lại niềm tin dành cho Khang Tướng quân, nàng sẽ xin Hoàng thượng ban hôn sự cho hai người.” Ông cởi chiếc áo choàng ra và trao lại qua rào sắt. “Xin phu nhân đừng tuyệt vọng! Hạ quan sẽ dùng hết khả năng để tìm lại ngọc xuyến ngay trong đêm nay. Nếu sáng ra chúng có đến đây, xin phu nhân hãy cầm chân chúng. Hãy nói phu nhân có những thông tin quan trọng cho chúng, hoặc làm bất cứ điều gì phu nhân nghĩ là có lợi nhất. Dù thành công hay không, hạ quan cũng sẽ có mặt ở cung Bích Thủy vào sáng mai và sẽ làm hết sức để giải cứu phu nhân.”
“Địch Nhân Kiệt, ta không lo cho mình,” Vương phu nhân nhẹ nhàng nói. “Mong Trời Phật nhân từ sẽ che chở cho ngươi!” Địch huyện lệnh đứng lên và bắt đầu tìm đường quay lại. HỒI 17 Về khách điếm, lập mưu tính kế Xét sảnh đường, thấy rõ ngay gian Ngay khi vừa ẩn mình dưới những tán cây ở một góc hào, Địch huyện lệnh tháo giày và cởi bỏ cái quần ướt sũng. Ông chà xát khắp thân mình bằng nửa dải khăn khô mà khi nãy dùng để bọc thanh kiếm. Sau khi quấn dải khăn quanh hông làm khố, ông mặc lại áo và đội mũ lên. Không biết phải làm sao với chiếc quần ướt, ông đành ném nó đi. Rồi ông cầm kiếm và đèn lồng lên. Cảm thấy vừa ý về mọi chuyện nên trong lòng ông nhẹ nhõm vô cùng. Nhưng ông chợt nhận ra đầu mình đã trống không. Bắt đầu xuất hiện những phản ứng sau giờ khắc căng thẳng. Trong khi đi theo con lộ xuyên qua khu rừng, ông không tài nào xử lý được những điều mình vừa được biết. Nhớ lại những lời Hồ Lô tiên sinh nói về tầm quan trọng của tính ‘Hư’, ông thả lỏng đầu óc, tưởng tượng mình là viên thủ quỹ Đới Ninh, đang quay về bằng chính con lộ ấy, đem theo một chuỗi ngọc mà bản thân muốn giấu ở đâu đó. Tiếp tục đi, Địch huyện lệnh thấy dù tâm trí mình đã mệt mỏi, mọi giác quan lại nhanh nhạy phi thường. Ông cảm nhận rõ ràng những mùi hương trong rừng, hai tai đã quen với mọi âm thanh từ trong tán lá tăm tối, đôi mắt nhìn ra được từng hốc cây, từng vết lõm trên những tảng đá cuội đầy rêu, những thứ xuất hiện trong quầng sáng của chiếc đèn. Ông dò xét mọi dị điểm có thể viên thủ quỹ sẽ lưu tâm, nhưng chưa tìm thấy ngọc xuyến đâu.
Sau gần nửa canh giờ, ông vấp phải cành cây khô mình đã đặt ngang đường. Ông mừng rỡ vì đã đánh dấu điểm khởi hành, vì cây cối và bụi rậm khắp nơi đều giống nhau. Ông rẽ những cành cây, tìm đường len qua bụi rậm và hướng về bãi đậu thuyền. Trong khi cuốc bộ dưới vòm lá rậm rạp của những cây cổ thụ trong rừng, ông không để ý mặt trăng đã hiện ra. Lúc này, ánh trăng dịu nhẹ đang làm sáng bừng mặt nước tĩnh lặng. Đứng trên bờ đá, ông sửng sốt nhìn con thuyền đậu dưới những cành thông xương xẩu. Tử Tây cô nương không có trong thuyền. Rồi có tiếng nước vỗ phía sau ông. Tử Tây lên tiếng gọi, “Ngài trở lại sớm vậy? Ngài đi còn chưa đến một canh giờ!” Ông quay lại. Thiếu nữ đang đứng trong một vực nước cao đến ngang đầu gối, từng giọt nước lấp lánh trên cơ thể trẻ trung tuyệt đẹp. Vẻ đẹp của nàng khiến huyết mạch trong ông rạo rực, lay động mọi giác quan. Nàng ngồi thụp xuống và đan tay che ngực. “Trông ngài không được khỏe! Ngài cũng nên xuống tắm đi!” “Xin thứ lỗi vì đã để cô nương đợi,” ông lẩm bẩm và ngồi xuống bên bờ đá, quay lưng lại phía nàng. “Cô nương nên mặc đồ vào đi, đã quá nửa đêm từ lâu rồi.” Ông tháo giày, nhổ một nắm cỏ giữa hai tảng đá và nhúng xuống nước. “Tiểu nữ không ngại chờ đợi mà,” nàng nói và tiến lại gần. Qua khóe mắt, ông thấy thiếu nữ đứng ngay gần bờ đá mà vắt những lọn tóc dài. “Nhanh lên!” Ông giục nàng rồi bắt đầu cọ đôi giày lấm bùn với vẻ hăng say thái quá.👁
Địch Công hăng say cọ giày Mất một lúc, Địch huyện lệnh mới cọ sạch giày. Khi ông xỏ giày vào và đứng dậy, Tử Tây đã mặc đồ xong, đang mải kéo chiếc thuyền ra khỏi gốc thông. Ông bước lên thuyền, rồi thiếu nữ chèo thuyền hướng ra cửa sông. Vừa cầm mái chèo, nàng đưa ánh mắt buồn bã nhìn về phía rừng thông dát bạc rồi nhỏ nhẹ nói, “Xin đại phu thứ lỗi. Tiểu nữ cư xử thật ngốc nghếch. Nhưng sự thật là tiểu nữ rất mến ngài và hi vọng ngài sẽ đưa mình cùng về kinh thành.” Địch huyện lệnh ngả người ra mũi thuyền. Cảm giác trống rỗng trong tâm trí đã tan biết, giờ ông chỉ thấy mệt mỏi rã rời. Lát sau, ông cất tiếng, “Tử Tây cô nương, nàng mến ta chỉ vì ta gợi lại cuộc đời yên ấm, hạnh phúc của nàng khi ở nhà cùng gia phụ. Vì ta cũng mến cô nương, ta muốn thấy nàng kết đôi với một chàng trai trẻ khôi ngô. Ta sẽ luôn nhớ về cô nương, chắc chắn không chỉ vì nàng là một người bạn đường chung thủy.” Thiếu nữ mỉm cười ấm áp. “Ngài đã tìm được thứ mình cần chưa?” “Được, mà cũng không được. Ta hi vọng ngày mai có thể kể với cô nương nhiều hơn.” Địch huyện lệnh khoanh tay, ngồi nhớ lại cuộc trò chuyện với Vương phu nhân. Ông phải sắp xếp lại các dữ kiện hỗn độn mới biết trước, rồi mới nghĩ đến cách dò tìm dấu vết của ngọc xuyến. Chắc chắn viên thủ quỹ đã giấu nó ở đâu đó gần khách điếm Thúy Điểu. Nếu không, anh ta đã chẳng quay lại đó, chấp nhận rủi ro đụng mặt đám bộ hạ của Lang Lưu. Đới Ninh biết không sớm thì muộn Lang Lưu và người của gã cũng sẽ quay về phương nam. Đến lúc ấy, anh ta sẽ có cơ hội quay về từ làng Thập Lý để lấy chuỗi ngọc.
Bến sông vẫn vắng vẻ như lúc hai người rời đi. Chỉ có điều, lúc này ánh trăng đã tạo nên những bóng đen kỳ dị lên đám đá cuội. “Ta sẽ đi trước,” Địch huyện lệnh bảo Tử Tây. “Ngay khi thấy có chuyện không ổn, hãy trốn vào một cánh cổng hoặc một con phố cắt ngang.” Nhưng hai người về đến con ngõ nhỏ phía sau khách điếm Thúy Điểu mà không gặp một ai. Lách vào trong qua cửa bếp, ông bỗng thấy bụng đói cồn cào, bèn quay sang hỏi, “Cô nương đã dùng cơm tối chưa?” Khi Tử Tây gật đầu, ông chộp lấy liễn cơm nguội và một đĩa sung muối trên giá bát. “Cho ta mua chịu nhé!” Ông khẽ nói. Thiếu nữ nén lại tiếng cười khúc khích. Qua sảnh đường, hai người nghe tiếng binh khí lạch cạch trước cổng. Vệ binh vẫn đang làm nhiệm vụ. Hai người rón rén lên gác và chia tay trước cửa phòng ông. Địch huyện lệnh đốt nến, thay sang bộ đồ sạch sẽ. Ông thấy hài lòng khi trà vẫn còn ấm. Ông ngồi xuống ghế và thay cao lá cho vết thương trên tay. Dùng nắp gỗ của liễn cơm thay cho đĩa, ông trộn lẫn cơm vào sung muối, nắm thành những nắm nhỏ. Ông thưởng thức bữa cơm tầm thường của một người lính thật khoái khẩu, kèm thêm vài chén trà cho trôi cơm. Sau khi tự tiếp thêm sức lực, ông lấy hồ lô rồi ra giường ngồi, hai vai tựa lên chiếc gối êm ái. Cứ buộc rồi lại tháo sợi dây đỏ quanh chiếc hồ lô, ông sắp xếp lại mọi suy nghĩ. Âm mưu liên quan đến ngọc xuyến giờ đã sáng tỏ đến từng chi tiết. Thật đáng phẫn nộ, kẻ chủ mưu trong cung muốn đổ oan cho Khang Tướng quân, để loại bỏ anh ta khỏi vị trí phò mã tương lai, để đẩy Tam Công chúa vào tâm trạng bất ổn khi nàng hồi kinh. Vương nữ quan đã nhắc rằng có khả năng Đại tổng quản và Tổng giám cung liên quan đến mưu đồ này. Nhưng còn có một vị thượng quan thứ ba là Khang Tướng quân. Về người này, quả thực ông biết không nhiều, chỉ là Tam Công chúa đem lòng quyến luyến anh ta và Trâu Hiệu úy có lòng khâm phục anh ta. Nhưng cả Công chúa lẫn Hiệu úy đều thiên vị họ Khang.
Kẻ chủ mưu trong cung đã tung tin Khang Tướng quân có một nhân tình bí mật. Có vẻ như đó là một lời vu cáo hiểm độc. Mặt khác, những kẻ buộc tội kia rất giỏi bày mưu tính kế. Thay vì bịa đặt cả một câu chuyện mới, chúng thích xuyên tạc những chuyện có thật, làm sai một tuyên bố bằng cách thay đổi một vài câu chữ hoặc thay đổi trọng tâm. Bởi thế, không nên gạt bỏ khả năng Khang Tướng quân thật sự có tình nhân. Họ Khang không lấy trộm ngọc xuyến nhưng anh ta có thể gián tiếp liên quan. Tương kế tựu kế là mưu kế được truyền dạy trong nhiều bộ binh thư. Khang Tướng quân đã ở bên Công chúa trong chính đêm định mệnh đó. Có thể họ đã đứng bên nhau trước cửa sổ của tòa tiểu đình, Tam Công chúa đã đặt ngọc xuyến lên bàn trước khi họ bước qua khung cửa tròn dẫn vào phòng bên. Như vậy, Đới Ninh chỉ cần thò tay qua cửa sổ là lấy được chuỗi ngọc. Nếu giữa vị Tướng quân và viên thủ quỹ có sự thông đồng thì sao? Thật khó để xác định phe cánh nào trong cung Bích Thủy đang tìm cách trừ khử Địch huyện lệnh. Những người do Vương nữ quan cử đến đón ông ở khách điếm Thúy Điểu đều mặc chế phục đen của phủ Đại tổng quản, nhưng đám người đã bỏ ông lại giữa rừng để kẻ khác ám hại cũng mặc hệt như vậy. Những kẻ tìm cách bắt giữ ông lại mặc y phục của phủ Tổng giám cung. Những chi tiết ấy không nói lên được điều gì, chúng có thể được thuê mướn qua một gã trung gian.
Đương nhiên, không thể tìm ra nhân vật họ Hoắc bí ẩn. Manh mối duy nhất dẫn đến kẻ chủ mưu chính là sự kiện đánh lạc hướng trong cung vào đêm xảy ra vụ trộm. Ông phải nhớ kỹ chi tiết này để sau này tiến hành một cuộc điều tra chính thức trong cung, dựa trên cơ sở những đặc quyền mà Hoàng thượng đã có chỉ dụ công nhận. Ông siết chặt chiếc hồ lô trong tay. Những suy xét vừa rồi không làm sáng tỏ thêm điều gì trong các vấn đề trọng yếu, như Đới Ninh đã làm gì sau khi lấy trộm ngọc xuyến và trước khi bị người của Lang Lưu bắt giữ trên đường. Ông phải bắt đầu lại tất cả, từ động cơ của viên thủ quỹ. Chán nản do phát hiện Lang Lưu bị giết, Địch huyện lệnh đã phủ nhận giả thuyết về động cơ của Đới Ninh, vì dù sao Ngụy phu nhân cũng không đến làng Thập Lý. Lúc này, khi đã suy xét lại lần nữa, ông tin giả thuyết của mình về cơ bản là đúng. Tử Tây có nói Đới Ninh dành tình cảm sâu nặng cho Ngụy phu nhân. Dù nghi ngờ các đánh giá của nàng về phẩm cách của đại thẩm, ông vẫn tin rằng thiếu nữ đã hiểu đúng về Đới Ninh, một thanh niên bằng tuổi nàng. Viên thủ quỹ chắc cũng biết Ngụy phu nhân đã tính đến chuyện rời bỏ vị phu quân hà tiện, anh ta liền bảo bà ấy là mình cũng muốn bỏ đi. Nếu phu nhân đi thẳng đến làng Thập Lý, anh ta sẽ đến gặp phu nhân tại đấy và giúp bà ấy định cư yên ổn ở nơi nào đó. Đới Ninh hi vọng sẽ có thể thuyết phục Ngụy phu nhân kết bái cùng mình, vì thế anh ta cần ngân lượng. Số bạc Lang Lưu đã hứa hẹn chỉ là một số tiền nhỏ, có thể Đới Ninh đủ khôn ngoan để biết trước sau gì gã cũng lừa mình. Thành ra, anh ta quyết định giữ lại chuỗi ngọc. Tử Tây đã nói viên thủ quỹ là một thanh niên dung dị, hẳn anh ta không ý thức được hậu quả của việc lấy trộm bảo vật trong cung. Giống như phần nhiều bách tính, anh ta cho rằng Hoàng thượng giàu có đến nỗi không để tâm.
Chuyện Ngụy phu nhân không đến làng Thập Lý thì cũng có thể hiểu được. Bà ấy hứa hẹn gặp Đới Ninh ở đó chỉ để chiều ý anh ta, hòng tránh khỏi sự ân cần không mong muốn. Thực ra, bà ấy đã bỏ đi cùng một nam nhân chưa rõ danh tính. Chắc Đới Ninh có biết người này, và có thể đã đụng độ y khi viên thủ quỹ quay về từ cung Bích Thủy. Tuy thế, những luận điểm này không quan trọng. Dù đã gặp ai đi nữa, Đới Ninh cũng chưa hề giao ngọc xuyến ra. Nếu đã làm vậy, hẳn anh ta sẽ phải đề cập đến người đó khi bị bộ hạ của Lang Lưu tra tấn. Anh ta đã nghiến răng chịu đựng vì mình đang giữ chuỗi ngọc, lòng nuôi hi vọng được sống sót để quay về lấy báu vật đó. Địch huyện lệnh cầm hồ lô lên và chăm chú quan sát. Ông nhớ những lời Hồ Lô tiên sinh nói về tầm quan trọng của tính ‘Hư’. Để tìm ra nơi Đới Ninh giấu chuỗi hạt, ông sẽ phải để bản thân trống không và đặt mình vào vị trí của họ Đới. Trở thành thủ quỹ của khách điếm Thúy Điểu, sống cuộc đời của anh ta. Địch huyện lệnh nhắm nghiền hai mắt. Ông hình dung ra mình đang ngồi trên chiếc ghế cao phía sau quầy tính tiền ở khách điếm. Lão chưởng quỹ keo kiệt trả công rất thấp, ngày nào ông cũng phải ngồi đó từ sáng sớm tới tối mịt, thỉnh thoảng được tiêu khiển bằng một chuyến đi câu trên sông, chỉ khi khách điếm vắng khách. Nhưng ông còn có một thú tiêu khiển hàng ngày là ngắm nhìn vị phu nhân mà mình say mê. Chắc chắn Ngụy phu nhân luôn có mặt ở sảnh đường, vì theo như lời của chủ khách điếm Cửu Tiêu, bà ấy giữ một vai trò tích cực trong việc điều hành khách điếm. Ông tận dụng mọi cơ hội để được trò chuyện cùng người thương. Không được quá thường xuyên, vì lão chủ sẽ trông thấy ông không làm tròn phận sự ở quầy tính tiền. Phân loại đủ kiểu hóa đơn và tính tiền cho khách trọ, gảy bàn tính, ghi chép tất cả bằng mực đỏ… Mực đỏ!
Địch huyện lệnh mở choàng mắt. Đây là chi tiết đáng lưu ý. Đới Ninh đã đánh dấu con đường đến thôn Thập Lý bằng mực đỏ. Hẳn tấm địa đồ nằm trong ngăn kéo của quầy, vì nó phải ở trong tầm tay để tiện phục vụ khách. Trên phòng mình, Đới Ninh cũng không có thỏi mực đỏ hoặc nghiên mài mực nào. Như vậy, chắc chắn anh ta đã đánh dấu lên tấm địa đồ khi đang ngồi ở quầy. Trời đất thiên địa ơi, đó là câu trả lời sao? Ông đứng dậy, đặt hồ lô lên giường và trầm ngâm nghĩ ngợi. Ông quyết định tự mình đi tìm hiểu. Địch huyện lệnh ra hành lang, đi lại cẩn trọng để tránh làm tấm ván sàn cọt kẹt. Sảnh dưới được chiếu sáng lờ mờ bởi một ngọn đèn lồng duy nhất đặt trên mặt quầy. Tiểu nhị đã dọn dẹp hết, chỉ để lại nghiên mực lớn, một thỏi mực đen và một ống tre đựng vài cây bút lông. Quầy có hai ngăn kéo nằm bên phải ghế của thủ quỹ. Ông kéo ngăn trên ra. Trong đó là cuốn sổ đăng ký của khách điếm, một lọ nhỏ đựng thứ hồ đặc màu nâu mà các thủ quỹ dùng để dính các hóa đơn lại với nhau, một con dấu gỗ khắc chữ “đã nhận tiền” và một hộp mực đỏ đi kèm, một tập giấy trắng và phong bì thư. Ông vội mở ngăn kéo thứ hai. Đây rồi, bên cạnh chiếc bàn tính là nghiên mực đỏ và một thỏi mực son, còn có một lọ nước để làm ướt nghiên và bút. Trong ngăn cũng có một tráp nhỏ, bên trong trống không. Ban ngày, chiếc tráp đó đựng đầy tiền. Nhưng đến ban đêm, không bao giờ Ngụy Thành quên lấy hết tiền trong tráp trước khi về nghỉ. Ông vòng ra sau tấm bình phong. Chiếc rương lớn mà Ngụy Thành đã lục lọi vẫn nằm nguyên trên sàn. Ông mở rương. Bên trong hoàn toàn trống không. Không có xiêm y. Cũng không có tấm áo gấm đỏ.
Địch huyện lệnh ngồi xuống ghế phía sau án thư. Ngụy Thành đã có tính toán khi kê bàn ghế như vậy. Ở vị trí đó, lão có thể quan sát bên ngoài thông qua những mắt lưới trên tấm bình phong, để mắt đến quầy tính tiền và tất cả những người ra vào khách điếm. Đúng rồi, vấn đề liên quan đến tấm địa đồ giờ đã được giải thích. Vẫn còn lại một bí ẩn cuối cùng, chính là nơi cất giấu ngọc xuyến. Ông tin rằng đáp án cho câu hỏi này sẽ được tìm thấy ở ngay tại khách điếm Thúy Điểu, nằm trong phạm vi nhỏ bé của cuộc sống ảm đạm thường nhật của viên thủ quỹ. Ông lại tưởng tượng mình là Đới Ninh, đang ngồi phía sau quầy, làm công việc của mình dưới ánh mắt giám sát của lão chủ. Ông sẽ đưa sổ đăng ký cho khách mới đến, còn khách ra về sẽ hỏi ông tính tiền. Ông sẽ phải làm rất nhiều phép tính liên quan đến tiền phòng và những phí tổn phát sinh, gảy bàn tính và viết tổng tiền lên hóa đơn bằng mực đỏ. Sau khi khách trả tiền, ông sẽ bỏ tiền vào tráp ở ngăn kéo thứ hai, rồi đóng dấu “đã nhận tiền” lên hóa đơn. Cuối ngày, các hóa đơn sẽ được dính lại với hóa đơn của ngày hôm trước bằng thứ hồ màu nâu… Địch huyện lệnh bất ngờ ngồi thẳng dậy, tay bám chặt vào thành ghế. Ông nhanh chóng nhìn lại mọi sự kiện. Phải rồi, đương nhiên đó là lời giải đáp! Ông ngả người ra sau và vỗ lên trán. Trời ơi, ông đã phạm phải sai lầm nghiêm trọng nhất mà một quan án từng phạm phải. Ông đã bỏ qua những điều ngay trước mắt!
HỒI 18 Trước thư phòng, hoàng đại đạo treo cao Trong tháp đường, quan Khâm sai mời khách Tiếng gà gáy trong sân làm Địch huyện lệnh tỉnh giấc. Ông chậm chạp ngồi dậy, mỗi cử động đều khiến những cơ bắp tê cứng đau nhức. Ông nhăn nhó tập lại vài đường quyền để điều hòa khí huyết. Xong xuôi ông mới mặc bộ đồ đen của đêm hôm trước và đội mũ. Thông lệnh của Công chúa được cất vào ống tay áo. Lúc xuống thang, ông ngạc nhiên khi thấy một tá quan binh đang đi lại trong sảnh đường. Liễu Binh tào đang đứng dựa vào quầy tính tiền, nhẩn nha uống trà cùng lão chưởng quỹ. Anh ta đến chào Địch huyện lệnh và nở nụ cười gượng gạo, “Đại phu, sáng nay ti chức đã đọc bản trình báo của đội canh phu, cho biết ngài bị gọi đi thăm bệnh lúc đêm khuya. Có phải nhà đó đã sinh quý tử?” Thấy Địch huyện lệnh gật đầu, anh ta nói tiếp, “Thật đáng mừng cho cặp phu thê ấy. Ti chức còn nhớ mình cũng rất vui mừng khi hài nhi đầu lòng là con trai.” Cách Liễu Binh tào gãi sống mũi rất giống Trâu Hiệu úy. “À, ti chức được biết, rằng đại phu định sẽ đến gặp Trâu Hiệu úy sáng sớm hôm nay. Hiệu úy ra lệnh cho ti chức đến đón đại phu. Vừa rồi bọn ti chức nhìn thấy bốn gã thân sĩ lảng vảng trước quân doanh, lần này chúng mặc đồ đen chứ không phải đồ xám. Ngoài phố có đủ mọi loại tiện dân qua lại, nên Hiệu úy nghĩ tốt nhất nên đến hộ tống đại phu, đề phòng những việc bất trắc.”
“Xin đa tạ. Chúng ta đi nào. Tại hạ có việc gấp cần gặp Hiệu úy.” Ra khỏi cổng, ông thấy bốn kẻ mặc hắc y đứng trước khách điếm Cửu Tiêu nói chuyện với gã chưởng quỹ to béo, có vẻ như chứng khó tiêu của gã này còn nặng hơn trước. Trông thấy ông xuất hiện, chúng từ bên kia đường đi sang. Nhưng rồi khi Liễu Binh tào và người của mình tập hợp trước cổng, chúng vội vã quay về. Địch huyện lệnh và Liễu Binh tào đến đúng lúc Trâu Hiệu úy đang sì sụp ăn một bát mì. Y buông đũa xuống và định đứng dậy thì ông đã nói, “Xin cứ tự nhiên! Ta cũng đang rất đói. Trước hết, xin đa tạ các hạ đã hộ tống kịp thời. Thứ hai, Địch mỗ muốn các hạ sai người treo hoàng đại đạo* hoàng đại đạo, còn gọi là cờ tiết mao, là cờ lệnh có lông mao. ngay trước cửa phòng này.” Ông lấy mảnh giấy vàng trong ống tay áo ra và trải ra án thư. Hiệu úy liếc mắt đọc nhanh nội dung mảnh giấy. Y vội vàng đứng dậy, suýt nữa hất đổ ghế. “Đại nhân… ý ti chức là, thưa Khâm sai đại nhân, chuyện này…” “Trâu Hiệu úy, mau ban lệnh đi. Bảo Liễu Binh tào đi lấy cho ta một chiếc uất đẩu* uất đẩu là một dạng bàn là dùng than nóng thời xưa. và một vuông lụa vàng tốt nhất!” Trâu Lập Uy và thuộc hạ vội lao ra ngoài. Hoàng đại đạo được treo lên cũng có nghĩa là một vị đại quan mang theo mệnh lệnh của Hoàng thượng đang có mặt ở đây. Nó ngụ ý rằng khu vực đó của trấn sẽ có Cấm quân giám sát, dân chúng phải đóng hết các cửa và ở yên trong nhà.
Liễu Binh tào trở lại trước tiên. Địch huyện lệnh cầm chiếc uất đẩu chứa đầy than nóng lướt qua tấm chỉ dụ của Hoàng thượng. Khi ông cuốn vuông lụa vàng quanh mảnh giấy ấy, Trâu Hiệu úy bước vào và báo hoàng đại đạo đã được treo, mọi mệnh lệnh đều đã được truyền đi. “Tốt lắm. Các hạ sẽ phải đến ngay cung Bích Thủy, trao thông lệnh của Hoàng thượng cho Khang Tướng quân, rồi cùng anh ta đến chỗ Tổng giám cung. Bảo bọn họ rằng Khâm sai đại nhân lệnh cho cả hai phải đến đây ngay, đem theo ít tùy tùng nhất, rồi ngồi dưới pháp đường để nghe phán. Ta muốn triệu cả Đại tổng quản đến, nhưng quy định trong cung nghiêm cấm Lôi công công rời khỏi đó trong bất cứ trường hợp nào. Bảo bọn họ rằng ta yêu cầu họ tuyệt đối giữ bí mật. Các hạ phải tự mình bảo đảm sao cho cả Khang Tướng quân lẫn Tổng giám cung đều không có cơ hội tiêu hủy hoặc ra lệnh tiêu hủy bất cứ loại thư tịch hay công hàm nào trong phủ đường của họ. Các hạ cũng cần nói thêm rằng Khâm sai đại nhân lo lắng cho bệnh tình của Vương nữ quan, ông ấy tin rằng thái y trong cung sẽ biết cách điều trị hữu hiệu nhất. Các hạ mau trả lại giấy thông hành cho ta!” Sau khi viên Hiệu úy mở ngăn kéo và cúi đầu đưa mảnh giấy cho Địch huyện lệnh, ông nói thêm, “Chúng ta phải làm mọi việc thật đúng quy cách. Nhờ các hạ yêu cầu Tổng giám cung cấp cho Địch mỗ một chiếc mũ của quan thẩm án cùng một tấm khăn vàng. Còn trường bào thì ta sẽ bỏ qua. Hãy đem mũ và khăn lại cho ta trước khi các hạ mời các quan khách vào đại đường. Nhanh lên, sáng nay chúng ta có rất nhiều việc phải làm!”
Trâu Hiệu úy tỏ ra vô cùng bối rối trước những chuyện bất ngờ này, đến nỗi không thể thốt ra dù chỉ một câu hỏi. Y kính cẩn nhận cuộn lụa vàng bằng cả hai tay và lui ra ngoài. Địch huyện lệnh quay sang bảo Liễu Binh tào đang nghiêm trang đứng kế bên, “Trước tiên, ta muốn nhờ ngươi mua một bát mì thật ngon như bát của Hiệu úy!” Ông ngồi bên án thư của viên Hiệu úy, thong thả thưởng thức bữa điểm tâm. Rồi ông bảo Liễu Binh tào đưa mình xuống pháp đường ở lầu dưới. Pháp đường không rộng rãi như công đường trong phủ nha, nhưng trên bục trong cùng kê một bàn xử án cao phủ hồng điều, bên cạnh là một án thư nhỏ cho thư lại. Phía sau bàn của pháp quan, nằm sát vách, là đại án có đặt một chiếc đỉnh đồng. Trên sàn chỉ lát đá. “Liễu Binh tào, mau đem chiếc án nhỏ kia đi, thêm vào mỗi bên bàn xử án một chiếc ghế bành. Đem cho ta một ấm trà nóng nữa!” Địch huyện lệnh ngồi xuống chiếc ghế bành phía sau bàn của pháp quan. Khi Liễu Binh tào đem đến một ấm trà sứ và châm một chén, ông bảo anh ta ra ngoài đợi. Ông muốn không ai bước vào đại đường ngoại trừ Tổng giám cung, Khang Tướng quân và Trâu Hiệu úy. Ông tựa người ra sau, chậm rãi vuốt râu và quan sát pháp đường trống trải. Địch huyện lệnh nhớ tới công đường của huyện nha ở huyện Phổ Dương. Nếu mọi chuyện diễn ra tốt đẹp, ông có thể trở về trong vòng một hoặc hai ngày. Địch huyện lệnh uống được vài chén trà thì Trâu Hiệu úy bước vào và trình cuộn lụa vàng cho ông. Địch huyện lệnh đứng dậy, thắp ít hương trầm trong chiếc đỉnh đồng và đặt cuộn lụa vàng lên trước, vị trí trang trọng cho chỉ dụ của Hoàng thượng. Họ Trâu mở một gói nhỏ bọc lụa đỏ. Ông liền đội chiếc mũ cánh chuồn bằng nhung đen có viền vàng, phía trước gắn kim hiệu thể hiện phẩm hàm. Khoác tấm khăn vàng trên vai, ông ngồi xuống ghế và bảo viên Hiệu úy bắt đầu cuộc hội kiến.
Cánh cửa bật mở và Tổng giám cung bước vào, uy nghi trong bộ quan phục bằng gấm tía thêu chỉ vàng, đầu đội mũ tam tằng. Theo sau ông ta là Khang Tướng quân, mình mặc giáp vàng hiên ngang, dáng vẻ khôi ngô đường bệ. Cả hai cúi thấp mình thi lễ, lông vũ đa sắc trên mũ trụ vàng của Tướng quân quét xuống gần đất. Rồi hai người tiến đến quỳ trước bàn xử án. “Mời đứng dậy,” Địch huyện lệnh bảo. “Đây là cuộc hội kiến ngoài công đường, bởi vậy các vị được phép ngồi. Trâu Hiệu úy sẽ đứng trông chừng ngoài cửa để đảm bảo không ai làm phiền chúng ta.” Hai vị khách an tọa trên ghế bành, dáng ngồi cứng nhắc. Khang Tướng quân đặt thanh đao ngang qua đầu gối. Địch Nhân Kiệt từ tốn uống hết chén trà rồi vươn thẳng người và dõng dạc nói, “Đương kim Thánh thượng đã tin tưởng giao cho bản quan điều tra một số việc bất thường vừa xảy ra trong cung Bích Thủy, đặc biệt là chuyện một báu vật trong đại nội bị đánh cắp, đó là ngọc xuyến của Tam Công chúa. Hai vị và Đại tổng quản là ba thượng quan có phẩm hàm cao nhất trong cung Bích Thủy, đều phải có trách nhiệm. Bản quan tin rằng mình không cần nhắc hai vị về tính nghiêm trọng khôn cùng của vụ việc này.” Hai nam nhân kia cúi đầu công nhận. “Bản quan vừa hoàn thành công cuộc điều tra. Sau đây, chúng ta sẽ tới cung Bích Thủy. Ở đó, bản quan sẽ lệnh cho Đại tổng quản đến thỉnh an Tam Công chúa, như vậy bản quan mới có thể dâng lên bản tấu của mình. Tuy thế, vụ trộm ngọc xuyến vô tình lại có chút liên quan đến một tội ác ghê rợn khác xảy ra ở trấn Thanh Xuyên. Để làm sáng tỏ tình huống phức tạp này, trước hết bản quan muốn xử lý vụ giết người kia trước mặt hai vị.”
Ông đứng dậy và nói thêm, “Mời hai vị cùng ta đến khách điếm Thúy Điểu.” HỒI 19 Mời thượng quan cùng nghe tra án Bắt hung thủ nhận tội sát nhân Trên con phố vắng tanh, hai cỗ kiệu lớn treo màn nhung kim đang đợi sẵn, mỗi kiệu có mười hai phu khiêng. Trước sau đều có vài đội vệ binh hàng ngũ tề chỉnh, khí giới đầy đủ, trường kích giương cao. Địch huyện lệnh bước vào kiệu của Tổng giám cung và ra hiệu cho ông ta cùng bước vào. Trong suốt quãng đường tới khách điếm Thúy Điểu, không ai nói một lời. Ngụy Thành đứng trong sảnh đường cùng chục vị khách. Tất cả đang sôi nổi bàn luận xem vị đại quan đến thăm trấn Thanh Xuyên là ai. Địch huyện lệnh thấy trong đám ấy có một thiếu phụ mảnh mai vận bạch y, dung mạo có phần xinh tươi. Đứng cạnh nàng là một nam tử dáng vẻ anh tuấn, đầu đội chiếc mũ ra dáng một học sĩ. Thanh niên ôm một chiếc đàn nguyệt bọc trong vải gấm. Ông đoán đó là cặp phu thê đã thuê phòng ngay bên dưới phòng mình. Ông quay về phía Trâu Hiệu úy, y đã vào khách điếm từ trước cùng Liễu Binh tào. “Phiền các vị rời khỏi sảnh đường!” Địch huyện lệnh ra lệnh. “Bày cho ta ba chiếc ghế lớn quay lưng vào vách.” Địch Nhân Kiệt an tọa ở chiếc ghế chính giữa, ra hiệu cho Tổng giám cung và Khang Tướng quân ngồi xuống hai bên tả hữu. Rồi ông bảo viên Hiệu úy, “Dẫn chủ khách điếm Ngụy Thành đến gặp bản quan!” Hai cấm binh dẫn lão Ngụy vào. Trước ba vị đại quan, lão sững sờ không nói nên lời, miệng há hốc. Hai quan binh ấn lão quỳ xuống.
“Nửa tháng trước,” ông bảo hai người kia, “nam nhân này có trình báo rằng nương tử đã bỏ nhà đi cùng một gã nhân tình bí ẩn.” Tổng giám cung bực bội giật chòm râu đã bạc. “Đại nhân, ngài cho rằng vụ việc tầm thường liên quan đến một chủ khách điếm hèn mọn thực sự khiến chúng ta phải bận tâm.” “Đúng thế,” Địch huyện lệnh ngắt lời. Địch Nhân Kiệt nghiêm nghị chất vấn lão chưởng quỹ, “Ngụy Thành, ngươi là kẻ bần tiện. Chuyện đó vốn không phải tội ác, nhưng có thể dẫn đến tội ác. Trong trường hợp của ngươi, bản tính bần tiện đã dẫn đến một vụ sát nhân tàn ác. Ngươi không thể lìa xa tiền bạc, cũng như không thể đánh mất thê tử. Ngươi không yêu thương mà chỉ coi bà ấy như vật sở hữu, và ngươi sẽ không để kẻ khác cướp mất tài sản của mình. Ngươi nghĩ rằng thủ quỹ Đới Ninh đang ve vãn Ngụy phu nhân.” Ông chỉ tay vào bức bình phong. “Ngươi ngồi ở đó, giám sát nương tử cùng viên thủ quỹ, nghe lén cuộc trò chuyện của họ ở quầy tính tiền. Khi phát hiện ra Đới Ninh đánh dấu con đường trên tấm địa đồ trong ngăn kéo, ngươi cho rằng anh ta đang định bỏ trốn cùng Ngụy phu nhân. Ta nghĩ ngươi đã kết luận sai, nhưng ta không thể chứng minh được, vì viên thủ quỹ đã lìa trần. Và Ngụy phu nhân cũng đã chết. Nửa tháng trước, ngươi đã sát hại bà ấy.” Lão chưởng quỹ ngẩng đầu, khuôn mặt phờ phạc. “Không có chuyện đó!” Lão kêu lên. “Ả tiện nhân ấy đã bỏ đi, thảo dân xin thề! Ả…” “Ngụy Thành, đừng ngoan cố mà thêm tội!” Ông quát. “Ngươi đã phạm hai tội rồi, thế là đủ để lôi ngươi ra pháp trường. Ngươi sẽ bị xử trảm, vì đã giết nương tử mà không có bằng chứng bà ấy phạm tội gian thông. Sai lầm đầu tiên của ngươi là không ngừng chì chiết việc chi tiêu của thê tử, đến nỗi bà ấy thường phải nhận bánh ngọt từ chủ khách điếm Cửu Tiêu. Vị chưởng quỹ đó đã cho Ngụy phu nhân vài chiếc bánh bao vào chính buổi tối ngươi sát hại bà ấy. Sai lầm thứ hai của ngươi là đã không tiêu hủy số y phục của thê tử. Lại một lần nữa, đầu óc tham lam khiến ngươi gặp họa. Thay vì thiêu hủy y phục của bà ấy, ngươi lại giữ chúng lại để bán cho tiệm cầm đồ. Chẳng có nữ nhân lắng lơ nào bỏ đi mà không mang theo những bộ xiêm y đẹp nhất, trong đó có chiếc áo choàng gấm đào mà bà ấy ưa thích.”
Địch huyện lệnh đứng dậy. “Giờ ta sẽ đưa các vị đến nhà kho phía sau khách điếm. Trâu Hiệu úy, hãy cho người bắt giữ kẻ thủ ác và bảo Liễu Binh tào đưa lão theo ta.” Ông đi qua chỗ ngồi của lão chủ và ra sân sau. Đám gà mái trong sân kêu quang quác, sợ hãi vì thấy nhiều người giáp trụ sáng loáng xuất hiện giữa đám cây khô và cỏ dại cao ngút. Địch huyện lệnh bước vào nhà kho ẩm mốc hôm trước. Ông đẩy mấy thứ bàn ghế gãy sang một bên và trèo lên đống bao gai mà tối hôm trước mình đã nằm ngủ. Lũ kiến từng bu lấy người ông vẫn còn đó. Chúng tụ thành đàn bò lên khỏi khe nứt trên sàn, kết thành một đội hình quân sự rõ rệt vượt qua đống bao gai rồi biến mất vào một lỗ nhỏ trên vách, chỗ một mảng vữa đã rụng xuống. Ông đứng thẳng người và quay lại. Tổng giám cung đứng chắp tay trong hai ống tay áo rộng của bộ quan bào đường bệ. Dáng vẻ ngạo mạn cho thấy ông ta hoàn toàn không tán thành những thủ tục này, nhưng đành nhẫn nhịn tuân theo. Khang Tướng quân nghi hoặc nhìn sang Trâu Hiệu úy, người lúc này đang nhướn mày ngó sang Liễu Binh tào. Nhưng riêng họ Liễu lại chỉ chú ý đến Địch huyện lệnh. Ngụy Thành đứng giữa hai vệ binh ở cửa, mắt lão dán chặt xuống đất. Ông chỉ lên bức vách bên trên đám bao gai và nói, “Có kẻ đã sửa chữa khoảng tường này. Lão cũng không khéo tay cho lắm. Liễu Binh tào, mau vào bếp lấy cho ta chiếc búa và mũi dùi nhọn.”
Ông vuốt râu nghĩ, hôm trước do thiếu ánh sáng mà mình đã không nhận ra lớp vữa trắng mới trát lên tường gạch. Ông chăm chú nhìn xuống một bao gai trống mà mình đã vấp phải. Rõ ràng nó đã từng đựng bột đá phấn. Theo như cơn ác mộng khủng khiếp quấy phá giấc ngủ của ông… Địch huyện lệnh lắc đầu hồ nghi. Ngay khi Liễu Binh tào gỡ vài viên gạch ra, một thứ mùi hôi thối đến nôn mửa tỏa ra khắp nhà kho. Tổng giám cung vội lùi lại, lấy tay áo che kín mũi miệng. Rồi Liễu Binh tào dồn cả sức nặng của mình lên chiếc dùi sắt, khiến một mảng gạch vỡ tung rơi xuống đất. Ngụy Thành định lao ra khỏi cửa nhưng quan binh đã túm chặt tay lão. Trong hốc tường là xác một nữ nhân ở tư thế đứng. Người xấu số mặc y phục màu xanh dính đầy bột đá và vữa cứng, đầu gục xuống ngực rất dị thường, bộ tóc dài xõa xuống thành một đám rối bù. Lão chưởng quỹ hét lên khi cái xác rũ ra và đổ sập xuống đất. Địch huyện lệnh cúi xuống, lặng lẽ chỉ vào hai chiếc bánh ngọt đã ôi vừa rơi ra từ tay áo người chết, trên đó lũ kiến bám đen kịt. “Ngụy Thành, đúng là ngươi không có nhiều thời gian,” ông lạnh lùng nói, “nhưng chôn một tử thi vào tường mà không kiểm tra y phục của bà ấy thì quả là sai lầm ngu ngốc. Hai chiếc bánh ngọt đã thu hút lũ kiến. Đám kiến siêng năng này lại cho ta manh mối về nơi ngươi giấu xác. Mau khai thật, ngươi đã sát hại phu nhân như thế nào?”
“Bẩm… đó là vào giờ ăn tối,” Ngụy Thành lắp bắp, đầu gục xuống. “Đám gia nhân đang mải phục vụ khách trên các phòng. Thảo dân bóp cổ ả sau tấm bình phong, rồi đem xác đến đây…” Lão Ngụy khóc nấc lên. “Trâu Hiệu úy,” Địch huyện lệnh ra lệnh, “ngươi hãy khép Ngụy Thành vào tội giết người. Liễu Binh tào, ngươi có nhiệm vụ giam kẻ sát nhân này vào đại lao.” Ông quay mình, ra hiệu cho những người khác bước theo mình. Lúc đi qua sảnh đường, ông chỉ vào quầy tính tiền. “Trâu Hiệu úy, lấy hai ngăn kéo đó ra rồi đem về pháp đường. Nhớ là không được động vào mọi vật dụng trong đó! Các vị, bây giờ chúng ta sẽ trở lại tổng quân doanh.” Đến khi ngồi trong kiệu, Tổng giám cung mới mở miệng hỏi, “Địch đại nhân, khả năng suy luận của ngài quả là siêu việt. Tuy nhiên, đây chỉ là một tội ác tầm thường và ngu muội do đám hạ lưu gây ra. Chuyện này thì dính dáng gì đến những sự việc nghiêm trọng ở cung Bích Thủy?” “Ngài sẽ được biết ngay thôi,” Địch huyện lệnh bình thản đáp. HỒI 20 Địch Nhân Kiệt tìm ra ngọc xuyến Lôi công công vò nát nhánh hoa Trở lại pháp đường, Địch huyện lệnh lệnh cho Trâu Hiệu úy đặt hai chiếc ngăn kéo lên bàn xử án. Rồi ông bảo y lấy một bát lớn đựng đầy một loại nước tẩy rửa còn nóng và một mảnh lụa trắng mềm mại. Ngồi xuống vị trí của pháp quan, ông tự châm một chén trà. Ba người lặng lẽ đợi cho đến khi viên Hiệu úy trở lại. Khi Trâu Lập Uy đặt chiếc bát sứ và mảnh lụa xuống, ông nói, “Giờ đây, bản quan sẽ nói đến ngọc xuyến án. Chuỗi ngọc ấy bị Đới Ninh, thủ quỹ của khách điếm Thúy Điểu, lấy trộm. Kẻ thuê anh ta làm chuyện này là một tên gian tặc có tiếng, từng tạm trú ở trấn Thanh Xuyên.”
Khang Tướng quân ngồi thẳng dậy, lo lắng hỏi, “Thưa đại nhân, ngọc xuyến đã bị đánh cắp thế nào?” “Kẻ sai khiến tên gian tặc ấy đã cung cấp cho viên thủ quỹ những chỉ dẫn chi tiết để có thể đánh cắp ngọc xuyến từ bên ngoài: anh ta phải bơi ngang con hào ở tháp canh phía tây bắc, men theo rìa đá dọc chân tường phía bắc cung Bích Thủy, rồi trèo lên tường và tiếp cận tòa tiểu đình của Công chúa. Chuỗi ngọc ấy vô tình lại nằm trên bàn, bên trái khung cửa tròn, tên đạo chích chỉ cần thò tay vào là lấy được. Khang Tướng quân, bản quan tin rằng ngươi sẽ thi hành những biện pháp cần thiết ngay lập tức, để loại bỏ lỗ hổng bảo an này.” Khang Tướng quân cúi đầu hiểu ý, rồi thở dài và tựa người ra sau. Ông tiếp lời, “Sau khi lấy trộm ngọc xuyến, anh ta quyết định không giao lại nó cho tên gian tặc đã thuê mình. Anh ta muốn giữ nó để bán đi từng viên ngọc.” “Phường vô đạo!” Tổng giám cung giận dữ thốt lên. “Khi quân phạm thượng! Kẻ đó phải bị…” “Đó là một thanh niên có đầu óc giản đơn,” ông nhẹ nhàng nói. “Anh ta không tường tận rõ việc mình đang làm. Anh ta chỉ cần ngân lượng để chiếm được tình cảm của một nữ nhân, người mà anh ta nghĩ vẫn đang đợi mình ở một thôn làng tại huyện kế bên. Chúng ta không cần phán xét anh ta quá khắc nghiệt. Cuộc đời nam nhân này ảm đạm và tù túng, anh ta khao khát tình yêu và hạnh phúc ở một nơi xa xôi phía bên kia dãy núi. Nhiều người cũng có ước mơ như vậy.”
Địch huyện lệnh vuốt râu, mắt liếc nhanh sang khuôn mặt trầm tĩnh của Khang Tướng quân. Ông nhanh chóng luận giải tiếp, “Trở về từ cung Bích Thủy, viên thủ quỹ có tạt qua khách điếm Thúy Điểu rồi cưỡi ngựa đi, nhưng lại bị người của tên gian tặc kia chặn bắt. Anh ta nói mình không giữ chuỗi ngọc nên bị bọn chúng tra tấn đến chết, chưa kịp tiết lộ nơi giấu chuỗi ngọc. Trâu Hiệu úy, giờ bản quan muốn được nghe lời chứng khai của ngươi.” Trâu Lập Uy vội quỳ xuống. “Mau thuật lại những gì Hiệu úy tìm được trong người Đới Ninh, sau khi thi thể được tìm thấy trên sông!” “Bẩm đại nhân, anh ta chỉ mặc độc một chiếc áo choàng. Trong ống tay áo, hạ quan tìm được một tập danh thiếp, một tấm địa đồ huyện này, một ít ngân lượng và chiếc bàn tính của anh ta.” “Tốt lắm.” Địch huyện lệnh vươn người về trước rồi nói tiếp, “Đới Ninh bình sinh là một kẻ khờ khạo nhưng lại nghĩ ra chỗ giấu ngọc xuyến vô cùng tài tình. Anh ta cắt đứt sợi dây trong chuỗi ngọc, giấu từng viên ngọc vào vật thể mà một thủ quỹ sử dụng mỗi ngày, do đó ai cũng bỏ qua vật đó. Vật đó đây!” Ông lấy chiếc bàn tính trong ngăn kéo trước mặt và giơ lên cao. Trong khi những người khác hồ nghi nhìn, Địch huyện lệnh tháo khung gỗ của chiếc bàn tính, để những hạt tròn màu nâu sẫm rơi ra khỏi trục và rơi vào bát sứ. Rồi ông bắt đầu lắc chiếc bát, để những hạt tròn hòa vào thứ dung dịch kia. Vừa làm ông vừa nói tiếp, “Trước khi thay thế chỗ hạt tính gỗ, anh ta đã phủ lên mỗi viên ngọc một lớp hồ màu nâu, loại hồ các thủ quỹ dùng để dán hóa đơn. Một khi hồ này đã cứng lại, có ngâm nước sông một đêm cũng chưa tan ngay. Tuy nhiên, thứ dung dịch ấm trong bát sẽ có tác dụng hơn.”
Ông nhặt hai hạt ra khỏi bát, cẩn thận dùng mảnh lụa lau khô chúng, rồi chìa bàn tay ra cho những người khác xem. Trong đó là hai viên ngọc trai tròn trặn, ánh lên một vẻ tinh khôi đẹp vô cùng. Địch huyện lệnh trang trọng nói, “Các vị, trong chiếc bát này là những viên ngọc trai trong chuỗi ngọc xuyến của Hoàng thất. Bây giờ, trước mặt các vị, bản quan sẽ xác định lại xem có đủ tám mươi tư viên ngọc không. Trâu Hiệu úy, lấy ra đây một sợi tơ và một cây kim!” Tổng giám cung căng mắt nhìn bát ngọc, đôi môi mỏng mím chặt lại. Khang Tướng quân một mực dõi theo khuôn mặt nghiêm trang của ông, hai bàn tay siết lấy thanh kiếm đặt ngang gối. Viên Hiệu úy mau chóng quay lại. Đứng bên Địch huyện lệnh, y rửa sạch từng viên ngọc rồi xâu lại thành một chuỗi. Sau khi đếm đủ số ngọc, ông cất ngọc xuyến vào ống tay áo và nói, “Đám gian tặc thậm chí còn mổ bụng Đới Ninh để khám xét, nhưng chúng chưa bao giờ để ý đến chiếc bàn tính, vì ai cũng nghĩ một thủ quỹ sẽ mang theo nó. Đó là chỗ cất giấu lộ liễu mà cẩn mật nhất.” “Nếu chiếc bàn tính được tìm thấy trong thi thể tên thủ quỹ,” Tổng giám cung thận trọng hỏi, “sao nó lại nằm ở quầy tính tiền trong khách điếm?” Địch huyện lệnh cau có nhìn ông ta. “Chính bản quan đã đem nó về khách điếm,” ông thẳng thừng đáp, “mà không nhận ra. Vào thời điểm ấy, bản quan không hề biết đến việc ngọc xuyến bị mất. Sau đó, lẽ ra bản quan phải nhớ đến chi tiết này. Bản quan khám phá ra tuy muộn nhưng cũng kịp lúc.”
Ông đứng dậy, quay lưng lại và thi lễ trước chỉ dụ của Hoàng thượng đặt trên án. Nâng cuộn lụa vàng bằng cả hai tay, ông bảo họ Trâu, “Giờ Hiệu úy hãy trở về khách điếm và khép lại vụ án ở đó.” Đoạn ông bảo hai nam nhân kia, “Chúng ta sẽ đến cung Bích Thủy.” Đoàn hộ tống vừa bước qua cây cầu đá hoa bắc qua con hào, cánh cổng đồ sộ của cấm cung liền mở ra cho hai cỗ kiệu tiến vào. Hai hàng Cấm binh mang khí giới đã có mặt ở sân trước. Địch huyện lệnh ngó ra khỏi cửa sổ bên của kiệu và ra hiệu cho một vị quan quân. “Tối hôm trước, khi ta rời khỏi đây dưới thân phận Lương đại phu, thanh kiếm ta giấu trong cỗ kiệu đen đã bị lấy mất. Chỉ cần nhìn là nhận ra thanh kiếm ngay, trên thân kiếm có thếp vàng hai chữ ‘Long Vũ’.” Vị quan quân cúi đầu thi lễ, tỏ vẻ đã hiểu. Ông bảo Tổng giám cung, “Giờ chúng ta sẽ đến thẳng phủ đệ của ngài.” Họ xuống kiệu ngay trước gian đại đường. Ông ra hiệu cho Khang Tướng quân rồi vào trong. Bên án thư của Tổng giám cung, Viên ngoại đang nói chuyện với ba quan viên khác bằng giọng nhẹ nhàng. Tất cả lập tức quỳ xuống thi lễ. Địch huyện lệnh giấu cuộn lụa vàng vào trong áo và ra lệnh, “Đứng lên và cho ta biết về tình hình của Vương nữ quan!” Viên ngoại lập cập đứng dậy và vòng tay kính cẩn cúi chào. “Khởi bẩm đại nhân, thái y nói rằng Vương nữ quan bất ngờ lên cơn sốt do thời tiết nóng ẩm. Phu nhân gặp những ảo giác khủng khiếp. Tuy nhiên, sau khi được dùng thuốc, phu nhân đã ngủ say. Sáng nay, Vương nữ quan đã khá hơn nên có thể đưa phu nhân từ phòng trị bệnh về tư thất trong phủ Tam Công chúa.”
Ông gật đầu. “Mật tương* Mật tương là tủ sắt bí mật. thường cất giữ ở đâu?” Viên ngoại tỏ ra do dự nhưng ông đã nhìn nhanh sang bức họa trên vách. Ông tiến lại và kéo bức họa sang một bên. Chỉ vào cánh cửa sắt nhỏ, ông ra lệnh cho Tổng giám cung, “Mau mở ra!” Ngồi lên ghế, Địch huyện lệnh vội mở một bọc giấy lấy từ trong ngăn bí mật, vừa xem vừa vuốt râu. Những văn thư này bao gồm những bản tấu bí mật vài những văn kiện quan trọng khác liên quan đến việc điều hành cung Bích Thủy. Không có gì dính dáng đến chuyện riêng của Tam Công chúa hoặc âm mưu đánh cắp ngọc xuyến. Ông đứng dậy, xếp bó giấy trở lại chỗ cũ và bảo Tổng giám cung khóa lại. “Khang Tướng quân, hãy dẫn bản quan đến chỗ của ngài. Tổng giám cung sẽ đi cùng.” Thư phòng của Khang Tướng quân được bài trí đơn giản nhưng rất sạch sẽ. Cửa sổ trông ra một khoảng sân kín và rộng rãi, có vài Cấm binh đang luyện cung. Họ Khang mở một mật tương dưới nền nhà cho Địch huyện lệnh khám xét, nhưng ông không tìm thấy gì khả nghi. Chắp tay sau lưng, ông bảo Khang Tướng quân, “Bốn ngày trước, lúc gần nửa đêm, có một một sự cố làm náo động cả cung. Bản quan muốn bản tường trình về sự việc đó.” Khang Tướng quân mở ngăn kéo bàn và đặt một cuốn sổ lớn trước mặt Địch huyện lệnh. Mỗi trang đều được chia cẩn thận thành những mục nhỏ, biểu thị cho những nhiệm vụ của Cấm quân. Lật cuốn sổ cho đến khi tìm được đúng ngày mình cần, họ Khang đọc lướt qua mọi ghi chép bên lề.
Rồi anh ta ngẩng lên và nói, “Hai khắc trước lúc nửa đêm, mái của tiểu đình trong sân ở góc tây bắc bất chợt bốc cháy. Cùng thời điểm đó, mạt tướng đang ở một khu vực khác trong cung, nhưng viên Phó tướng đã cử một đội quân đến đó ngay. Họ dập tắt ngọn lửa không mấy khó khăn. Tuy vậy, hình như Đại tổng quản đã trông thấy đám khói và lập tức truyền lệnh phong tỏa toàn bộ khu vực này, nhằm đảm bảo lửa không lan đến chỗ ở của Công chúa. Người của mạt tướng đã đưa ra thiết lệnh cho hộ quân ở thành lũy phía bắc và phía tây. Sau nửa đêm tầm nửa canh giờ thì họ trở lại vị trí.” “Tướng quân có chứng minh được chuyện đó không?” Khang Tướng quân lật sang trang bên. Một mảnh giấy nhỏ màu đỏ được gắn kèm, có dấu triện của Đại tổng quản, kèm một số chỉ dẫn viết vội. “Bây giờ chúng ta sẽ đến chỗ Đại tổng quản.” Tin tức về quan Khâm sai đã lan rộng ra khắp cung. Lính gác ở phủ Đại tổng quản mở rộng cổng cho ba người vào, viên thái giám to béo chạy ra đón họ. Gã quỳ phục xuống đất và khấu đầu. “Phiền hai vị đợi ngoài hành lang này,” Địch huyện lệnh bảo hai nam nhân đi cùng. “Bản quan sẽ vào trong để xin được phép qua bên kia cầu Kim Ngọc.” Ông đến gõ cánh cửa thếp vàng. Thấy không có người mở cửa, ông bước vào trong và đóng cửa lại. Trong thư phòng thanh tao không có người. Mùi sách cũ hòa cùng hương phong lan nồng nàn ngoài cửa sổ. Địch huyện lệnh nhìn ra ngoài. Lôi công công mặc một bộ đồ dung dị có ống tay dài, đầu đội mũ vải sa, đang đứng bên một tảng đá lớn ngoài hoa viên, ông bước ra hoa viên, đi theo một lối mòn nhỏ hẹp, uốn lượn giữa những ao nhỏ nuôi cá vàng và các bụi hoa. Mấy chú chim nhỏ với bộ lông sặc sỡ đang líu lo trong những tán lá xanh hãy còn lấp lánh sương sớm.
Lôi công công quay lại. Nhìn Địch huyện lệnh bằng đôi mắt sụp mí, lão nói, “Địch đại nhân, một điều kỳ lạ đã xảy ra đêm qua! Nụ hoa quý bỗng nở rộ! Hãy ngắm nhìn những cánh hoa tinh tế cùng sắc màu dịu dàng này đi! Ta đã nhờ một tín sứ* tín sứ là người chuyển giao thư tín. riêng đem thứ phong lan hiếm từ phương nam về đây. Suốt ba tháng, ta đã tự tay chăm bón mà chưa bao giờ dám hi vọng nó sẽ đơm bông!” Ông cúi xuống cây phong lan đã lớn bằng bàn tay người trưởng thành. Cây bén rễ vào vết lõm trên một thân cọ, ôm chặt vào đá. Các cánh hoa vàng điểm những đốm tím sẫm, khiến cho bông hoa mang một vẻ duyên dáng đầy giả dối. Phong lan tỏa hương thơm dịu nhẹ rất khác biệt. “Bản quan phải thú thực là chưa bao giờ mình được ngắm nhìn thứ hoa gì như vậy,” ông vừa đứng thẳng người vừa nhận xét. “Và đại nhân sẽ không bao giờ thấy nó nữa,” Lôi công công thản nhiên nói. Lão dùng bộ móng tay dài ngắt cuống hoa rồi đưa nó lên mũi.👁 Đại tổng quản cùng loài phong lan hiếm Đại tổng quản chậm rãi hạ bông hoa xuống, đưa nó lại sát mũi, cứ như thế vài lần. Rồi lão nói tiếp, “Địch đại nhân, hôm trước ngài đến đây, ta đã biết ngài không phải là một đại phu. Trông thấy ta và viên hộ vệ phía sau, đại nhân không hề run sợ, thậm chí còn không tỏ ra khép nép. Thay vào đó, đại nhân bình tĩnh cùng ta ứng đối những điều thâm thúy, như thể chúng ta ngang hàng. Địch đại nhân, nếu lần tới ngài định cải trang, nhớ phải thay đổi cả tính cách của mình nữa!”
“Công công đã tìm mọi cách để trừ khử ta,” Địch huyện lệnh nói, “nhưng ta đã may mắn thoát nạn. Giờ ta sẽ trả lại ngọc xuyến cho Công chúa. Bởi thế, ta xin phép công công cho mình được qua bên kia cầu Kim Ngọc.” Lão công công xoay đi xoay lại bông hoa trên bàn tay gầy gò. “Địch đại nhân, đừng hiểu lầm ta. Đúng là ta mong mỏi quyền lực. Để có thứ quyền lực gần như vô hạn, người ta phải biết rõ được bí mật tội lỗi của Hoàng thượng. Nhưng ta cũng có một lý do khác thuyết phục hơn nhiều. Địch đại nhân, ta muốn Tam Công chúa ở bên ta mãi mãi. Muốn được ân cần chăm sóc cho nàng như ta ân cần chăm bón cho loài hoa quý kia. Ta muốn được gặp nàng mỗi ngày, nghe giọng nói êm ái ấy, được biết mọi việc nàng làm… lúc nào cũng vậy. Thế mà giờ đây, Công chúa sẽ bị một tên võ phu cướp đi…” Đại tổng quản bất ngờ vò nát bông phong lan trong bàn tay có móng nhọn rồi ném nó xuống đất. “Vào trong đi,” lão cay nghiệt nói. “Ta mắc nhiều chứng bệnh kinh niên. Đã đến giờ uống thuốc rồi.” Địch huyện lệnh đi theo lão vào trong thư phòng. Lôi công công ngồi xuống chiếc ghế lớn được chạm khắc công phu, mở ngăn bàn. Lão lấy ra một chiếc hồ lô nhỏ bằng thạch anh, nút hồ lô bọc lụa đỏ. Khi lão định mở nút, ông bước đến và túm chặt lấy cổ tay yếu ớt. Ông nói ngắn gọn, “Âm mưu ác độc phải bị triệt tiêu từ gốc đến ngọn.” Đại tổng quản buông hồ lô ra. Lão ấn vào một hoa văn được chạm công phu trên cạnh án thư và một ngăn kéo bí mật hiện ra. Lão lấy ra một phong thư dán kín và trao cho Địch huyện lệnh, đôi môi mỏng xanh nhợt thốt ra những lời chế nhạo đầy khinh bỉ, “Hãy tra tấn bọn chúng đến chết, từng kẻ một! Linh hồn khốn khổ của chúng sẽ thành đám nô tài phục dịch cho ta ở kiếp sau!”
Ông xé phong thư ra và nhìn lướt qua tập giấy, mỗi mảnh giấy mỏng đều có họ tên và phẩm cấp của một kẻ. Rồi có những bản ghi chép ngày tháng và số tiền, tất cả đều từ cùng một bàn tay khẳng khiu viết ra. Ông gật đầu và bỏ phong thư vào ống tay áo. Lôi công công mở nút hồ lô nhỏ bằng thạch anh và rót ra chén một thứ nước không màu. Uống cạn chén nước đó trong một ngụm, lão tựa lưng ra ghế, đôi bàn tay nổi gân chằng chịt bám chặt vào thành ghế, hai mắt nhắm nghiền, hơi thở hổn hển. Rồi lão buông tay khỏi thành ghế mà ôm chặt lấy lồng ngực. Thân hình gầy gò co giật như điên. Đột nhiên, cặp môi tái xanh bỗng mở ra. “Đại nhân được phép qua cầu Kim Ngọc.” Rồi đầu lão gục xuống ngực, hai tay từ từ tuột xuống ngang bụng. HỒI 21 Gặp Công chúa, Khang Tướng quân mãn nguyện Nhận Long Vũ, Địch Nhân Kiệt hài lòng Tổng giám cung và Khang Tướng quân đứng đợi ngoài hành lang trong im lặng, lòng đầy bứt rứt. Viên thái giám to béo vẫn còn quỳ. Địch huyện lệnh đóng cánh cửa thếp vàng lại. Trao lại phong thư cho Tổng giám cung, ông nói, “Trong đây, đại nhân sẽ thấy đầy đủ mọi chi tiết về những kẻ tham gia âm mưu bẩn thỉu này. Đại nhân hãy trở về phủ đệ của mình và bắt giữ ngay những tên tội nhân trọng yếu nhất. Sau này, đại nhân nên tiến hành một cuộc thẩm tra toàn diện nhất. Khang Tướng quân, xin hãy đi theo bản quan. Ta đã được Đại tổng quản đồng ý cho qua bên kia cầu.”
Đoạn ông bảo viên thái giám, “Mau dẫn đường!” Khi ba người đến chân cầu, viên thái giám to béo đánh vào chiếc cồng nhỏ bằng vàng treo trên cột đá hoa. Lát sau, bốn cung nữ từ trong tòa nhà đối diện bước ra, Địch huyện lệnh và Khang Tướng quân qua cầu. Ông bảo các cung nữ rằng quan Khâm sai muốn diện kiến Công chúa. Hai nam nhân được đưa vào một phòng bên và đợi ở đó hồi lâu. Dường như Tam Công chúa vẫn còn đang điểm trang. Cuối cùng, có hai cung nữ bước vào và dẫn cả hai qua dãy hành lang lộ thiên đến một tiểu đình có mái hiên, nằm bên cạnh hàng cột sơn son, ở phía đông cung Bích Thủy. Từ đó có thể ngắm nhìn dễ dàng khu rừng trải dài đến tận dãy núi phía xa. Tam Công chúa đang đứng bên cây cột cuối cùng, trên tay là chiếc quạt tròn. Sau nàng là một nữ quan đứng tuổi có vẻ yếu ớt, mái tóc hoa râm chải ngược ra sau để lộ vầng trán cao. Địch huyện lệnh và Khang Tướng quân quỳ xuống thi lễ. “Địch khanh, miễn lễ!” Công chúa nhẹ nhàng ra lệnh. Ông đứng lên, hai tay dâng cuộn lụa vàng. Khang Tướng quân vẫn còn quỳ. “Hạ quan xin kính cẩn trao lại thánh chỉ cho Công chúa.” Nàng tỏ thiện ý đáp lễ. Vị phu nhân tiến lên phía trước. Khi bà nhận thánh chỉ từ tay Địch huyện lệnh, ông nhận ra chiếc vòng bạch ngọc trên cổ tay bà có chạm hình rồng uốn lượn. “Hạ quan cũng kính cẩn trao lại ngọc xuyến cho Công chúa. Kẻ trộm hóa ra lại là một người ngoài cung, đúng như Công chúa hạ cố báo vào lần đầu tiên hạ quan diện kiến Công chúa.”
Thiếu nữ đưa tay ra, Địch huyện lệnh cúi thấp người dâng chuỗi ngọc lên. Đón lấy ngọc xuyến, nàng nói với ông, nhưng mắt lại nhìn sang Khang Tướng quân, “Địch khanh hãy nhắc lại những lời sau cùng ta nói với khanh.” “Công chúa đã nói rằng giao cho hạ quan việc tìm lại ngọc xuyến, tức là Công chúa đã giao hạnh phúc của mình vào tay hạ quan.” Địch huyện lệnh đáp rất tự nhiên, vì lúc này ông đã thấy rõ khuôn mặt Công chúa giữa ánh nắng sáng tỏ, vẻ mặt kiên định của nàng có sức lay động đối với ông. “Khang Tướng quân, giờ Tướng quân đã biết rồi. Hai ta sẽ sớm gặp lại, lúc ấy sẽ có ánh nến soi tỏ.” Họ Khang đứng dậy và tiến đến trước nàng, đôi mắt sáng nhìn thiếu nữ không chớp. Vị phu nhân nhìn lên đôi uyên ương, khuôn mặt mệt nhọc và nhợt nhạt nở một nụ cười đầy từ tâm. Địch huyện lệnh vội lui ra cửa. Hai cung nữ đưa ông trở lại cầu Kim Ngọc. Viên thái giám to béo đang đứng đợi bên kia cầu. Khi gã cung kính tiễn Địch huyện lệnh ra cổng, ông bảo, “Hãy đến gặp chủ nhân của ngươi đi. Ta e bệnh ông ta trở nặng rồi.” Ông bước vào kiệu và bảo hộ quân đưa mình đến phủ đệ của Tổng giám cung. Hành lang đã đông kín Cấm binh cùng những lính tráng oai phong trong chế phục màu đen và xám. Tất cả đều được vũ trang đầy đủ, trên tay đeo tấm băng đỏ có chữ “Khu vực cai quản đặc biệt”. Tất cả đều thi lễ khi trông thấy Địch huyện lệnh. Tổng giám cung đang đứng cúi đầu bên án thư vương vãi các mảnh giấy mỏng. Ông ta ngẩng lên.
“Địch đại nhân, những tên đầu đảng vừa bị bắt giữ! Ta lấy làm tiếc phải báo tin là sự thối nát đã lan rộng, thậm chí trong chính người của ta. Địch đại nhân, chẳng hay chúng ta phải xử trí Đại tổng quản thế nào? Không thể bắt giữ lão ta nếu không có…” “Đại tổng quản đã đột tử vì bệnh tim,” ông ngắt lời. “Trong khi tiến hành điều tra, ngài hãy đặc biệt lưu tâm đến một kẻ tự xưng là họ Hoắc và đám tay chân của hắn, những gã đã sát hại thương nhân Lang Lưu ở khách điếm Thúy Điểu tối hôm trước. Ngài hãy đảm bảo rằng bọn chúng bị trừng trị đích đáng.” Tổng giám cung chắp tay nhận lệnh. Rồi ông ta mời Địch huyện lệnh, “Địch đại nhân, mời ngồi. Ta sẽ giải thích…” Địch huyện lệnh lắc đầu. Ông bỏ mũ cánh chuồn, cẩn thận đặt lên án thư và đội chiếc mũ đen quen thuộc lên. Rồi ông tự cởi bỏ khăn vàng, đặt lên trên chiếc mũ cánh chuồn. “Tại hạ vừa giao lại thánh chỉ cho Tam Công chúa. Từ bây giờ trở đi, tại hạ chỉ là Địch Nhân Kiệt của Phổ Dương. Mọi chuyện xin nhờ vào bàn tay xuất chúng của đại nhân.” Tổng giám cung trân trân nhìn Địch huyện lệnh bằng đôi mắt sắc sảo. “Ý đại nhân là ngài sẽ không tận dụng cơ hội này để… Ngài không nhận thấy mình sẽ có một chức vụ cao ở kinh thành, chỉ cần ngài đưa ra thỉnh cầu? Ta sẽ sẵn lòng tiến cử.” “Đại nhân, Địch Nhân Kiệt đang nóng lòng trở lại nhiệm sở.” Tổng giám cung lại nhìn ông hồi lâu. Rồi ông ta lắc đầu, đến lấy thanh kiếm trên bàn bên và trao lại cho Địch huyện lệnh. Đó thanh Long Vũ mà ông hằng gìn giữ.
Khi Địch huyện lệnh đeo kiếm ra sau lưng, Tổng giám cung trịnh trọng tuyên bố, “Ở huyện Phổ Dương, đại nhân đã quyết liệt chống lại đám hòa thượng ở chùa Phổ Độ, khiến cho những kẻ sùng đạo Phật trong triều trở thành kẻ thù của ngài. Giờ ngài lại ngang nhiên chống lại đám hoạn quan đầy quyền thế. Địch đại nhân, ta muốn ngài biết rằng ngài có những kẻ thù không đội trời chung ở trong triều. Nhưng ngài cũng có không ít các bằng hữu tín nghĩa, trong đó có ta.” Đôi môi mỏng của ông ta cong lên. Đó là lần đầu tiên Địch huyện lệnh thấy Tổng giám cung mỉm cười. Ông cúi chào và lui gót. Liễu Binh tào đứng đợi trước cổng, hỏi ông có muốn ngồi kiệu không, nhưng Địch huyện lệnh bảo mình thích cưỡi ngựa hơn. Cánh cổng rộng mở và ông phi ngựa qua cây cầu đá hoa. HỒI 22 Cáo biệt giữa rừng, kỳ nhân lộ tướng Trở lại Thanh Xuyên, thuộc hạ chờ mong Vào đến rừng thông, Địch huyện lệnh cảm nhận được những tia nắng ấm chiếu trên lưng. Ông nhận ra mặt trời đã lên chính Ngọ. Hít thở khí trời trong lành, ông thấy đây là một thay đổi dễ chịu cho bầu không khí ngột ngạt, tù túng ở cung Bích Thủy. Đã sẵn sàng đương đầu với mọi gian khó, ông tự hào nghĩ rằng Long vị sẽ không bị vấy bẩn bởi những lời bóng gió bỉ ổi. Lúc nào cũng có đủ mọi loại âm mưu trong cung, đó là điểm yếu không thể tránh khỏi trong việc cai trị vương triều hùng mạnh này. Nhưng chừng nào đức Thánh thượng còn là bậc minh quân thì thiên hạ Đại Đường còn được thái bình. Ông giục tuấn mã, vó ngựa không gây ra tiếng động trên lớp lá thông dày phủ kín con đường.
Bỗng ông ghìm cương. Hồ Lô tiên sinh đã ở khúc quanh phía trước, khom người trên lưng lừa, đôi nạng vắt ngang phía sau. Chiếc hồ lô vẫn treo bên hông bằng sợi dây đỏ. Đạo nhân dừng lại, rướn cặp chân mày rậm mà quan sát Địch huyện lệnh. “Thật mừng khi thấy Địch huyện lệnh lại đội chiếc mũ đó. Lão hủ biết mảnh giấy vàng có dấu triện đỏ không thay đổi được phẩm cách của đại nhân. Hồ lô của đại nhân đâu?” “Tại hạ đã bỏ lại ở khách điếm Thúy Điểu. Hồ Lô tiên sinh, tại hạ mừng vì được gặp lại tiên sinh lần nữa trước khi rời khỏi trấn Thanh Xuyên.” “Đây là lần thứ ba và là lần cuối đấy, Địch đại nhân. Giống như tự nhiên, cuộc đời con người xoay quanh những vòng quay. Trong một khoảnh khắc ngắn ngủi, vòng quay của đại nhân và lão hủ gặp nhau. Trong cung Bích Thủy thế nào rồi?” “Tại hạ đã trả lại ngọc xuyến cho Công chúa. Tại hạ mong hôn sự của nàng và Khang Tướng quân sẽ được công bố trong nay mai. Hồ Lô tiên sinh, tiên sinh thực sự là ai?” Đạo nhân nói bằng giọng khắc nghiệt, “Đại nhân biết không ít chuyện, chắc ngài cũng biết cả chuyện này. Nhiều năm trước, lão hủ là một vị Tướng quân. Khi lên phương bắc giao chiến với ngoại bang, lão hủ để lại cố hương vị hôn thê cùng hài nhi trong bụng nàng. Lão hủ bị thương nặng trong trận chiến cuối cùng, chân bị gãy trong lúc chiến mã tử thương. Lão hủ bị đám quân mọi rợ bắt làm tù binh, suốt mười lăm năm trời phải mang thân làm nô dịch cho bọn chúng. Từ đó, lão hủ nhận ra quyền năng của vạn vật chỉ là ‘Hư’. Đúng ra lão hủ đã tự sát, nhưng nghĩ về vị hôn thê ở quê nhà, lão hủ cắn răng mà sống, dù có phải khốn khổ thế nào.
“Đến khi lão hủ trốn thoát về Trung Nguyên thì hôn thê đã qua đời. Nàng được chọn làm cung phi ngay sau khi lão hủ lên đường, ít lâu sau thì nàng hạ sinh hài nhi. Đại nhân đã đoán đúng về nhi nữ của lão hủ. Tiểu nữ được công nhận là con đẻ của Hoàng thượng, vì lũ thái giám sợ chịu tội do không biết rõ nàng không còn trong trắng khi tiến cung. Địch đại nhân, chuyện đó cho lão hủ thấy tình thương của vạn vật đều là ‘Hư’. Do đó, lão hủ trở thành đạo sĩ vân du, chỉ còn lại duy nhất một mối quan tâm trên thế gian này, đó chính là hạnh phúc của ái nữ.” Ông ta dừng lại rồi miễn cưỡng nói, “Lão hủ tên là Âu Dương Bồi Hàn.” Địch huyện lệnh từ tốn gật đầu. Ông đã nghe về vị tướng lừng danh quả cảm ấy. Hai mươi lăm năm trước, cả nước đã để tang khi ông ta hy sinh trong chiến trận. Lão nhân tiếp tục, “Ruột trong được khoét rỗng thì quả bầu mới trở nên hữu dụng, vỏ ngoài có khô thì nó mới trở thành chiếc hồ lô. Chúng ta cũng vậy. Chỉ sau khi loại bỏ hết mọi ảo vọng, tất cả những mục đích nhỏ mọn và các ảo tưởng luyến ái, chúng ta mới thành người hữu ích. Địch đại nhân, có thể khi đã về già, ngài sẽ nhận ra. “Ôi, lúc gặp đại nhân trong rừng, lão hủ đã nhận ra ngài ngay. Lão hủ từng nghe nói chúng ta có vẻ ngoài giống nhau, lão hủ cũng cảm nhận được uy phong trong tính cách của ngài. Tình cờ là hai chiếc hồ lô lại trở thành sợi dây liên kết đầu tiên giữa hai ta, tạo nên mối hữu hảo giữa đại phu và đạo sĩ vân du, không hề gượng ép và rất tự nhiên. Dù có niềm tin chắc chắn vào chữ ‘Duyên’, lão hủ nghĩ mình cũng có thể chủ động tạo ra mối liên kết thứ hai trong chuỗi nhân quả. Thế là lão hủ khuyên ái nữ triệu đại nhân đến, rồi cứ để mọi sự trôi theo dòng chảy sẵn có. Bây giờ, tốt nhất đại nhân hãy quên lão hủ đi. Cho đến lúc nào đó, ngài chợt nhớ ra lão hủ. Đối với kẻ ngốc, lão hủ chỉ là chiếc gương đồng để họ soi mình. Đối với người khôn, lão hủ là cánh cửa khai sáng.”
Đạo nhân tặc lưỡi thúc con lừa phóng nước đại. Địch huyện lệnh nhìn theo bóng dáng đang khuất dần cho đến khi lão nhân biến mất giữa rừng cây. Ông thúc ngựa quay lại trấn Thanh Xuyên. Sảnh đường của khách điếm Thúy Điểu vắng hoe. Nghe thấy tiếng nói vọng ra từ sau bức bình phong, ông bước vào xem. Trâu Hiệu úy đang ngồi sau án thư của lão chưởng quỹ, vừa miệt mài viết vừa nói chuyện với Tử Tây cô nương đứng bên cạnh. Thấy Địch huyện lệnh, Trâu Lập Uy vội đứng dậy thi lễ. “Bẩm đại nhân, ti chức đang giúp Tử Tây cô nương chút việc văn thư giấy tờ,” y nói có chút ngượng nghịu. “Có quá nhiều đơn phải điền và ti chức nghĩ…” “Hay đấy. Trâu Hiệu úy, Địch mỗ muốn cảm tạ các hạ vì sự tín nhiệm và lòng tương trợ hết mình. Xin thứ lỗi, ta đã không kịp soạn ra cho các hạ một phương pháp để đối phó với những vị khách không mời mà tới.” Viên Hiệu úy có vẻ xấu hổ. “Đương nhiên rồi, thưa đại nhân. Ý ti chức là ti chức không nên…” Y lúng ba lung búng, rồi vội nói, “Hai phụ tá của đại nhân đã đến rồi! Khi họ đến trình diện, ti chức đã bảo họ tới khách điếm Cửu Tiêu. Ti chức sẽ đi xem!” Họ Trâu chạy vọt ra sảnh. Tử Tây nhìn Địch huyện lệnh bằng ánh mắt không vừa lòng. “Ngài chỉ có ba vị phu nhân sao? Trời ơi! Là một Khâm sai, hẳn ngài phải sở hữu cả một hậu cung toàn mĩ nhân!” “Ta chỉ là một Địch Nhân Kiệt bình thường chứ không phải quan Khâm sai, ta thực sự có ba vị phu nhân,” ông thản nhiên đáp. “Xin thứ lỗi, vì tình thế bắt buộc ta phải sắm vai một đại phu, ta không thể tiết lộ thân phận cho cô nương sớm hơn.”
Thiếu nữ lại mỉm cười. “Dù sao chúng ta cũng đã có hai chuyến đi chơi sông thú vị!” Nàng nói. Trâu Hiệu úy quay lại thông báo, “Đại nhân, ti chức thấy họ đang đứng trong sảnh của khách điếm Cửu Tiêu!” “Được rồi. Ta sẽ ăn trưa cùng họ ở đó rồi mới lên đường. Xin chúc hai người hạnh phúc dài lâu. Cả hai người.” Ông mau mắn chạy ra phố. Trong tiền sảnh của khách điếm Cửu Tiêu, vị chưởng quỹ to béo đang đứng dựa vào quầy, gương mặt xanh lét, hai bàn tay to mập ôm bụng, mắt nhìn Địch huyện lệnh đầy hằn học. Ông lấy bút lông trên quầy và viết một đơn thuốc. Đưa đơn thuốc cho gã, ông nói, “Xin biếu chưởng quỹ. Uống thuốc này sau mỗi bữa cơm, ăn uống phải đều đặn nhưng phải điều độ. Tránh uống rượu, những món chua cay hoặc có mỡ. Hạn chế cả đồ ngọt!” Mã Vinh và Kiều Thái đang ngồi trong quán ăn, ở bàn cạnh cửa sổ, và cắn hạt dưa. Thấy ông, hai đại hán cùng đứng dậy, khuôn mặt rám nắng rạng rỡ hẳn lên. “Bẩm đại nhân, bọn thuộc hạ đã có hai ngày vất vả! Phải ngủ lăn lóc trong rừng!” Mã Vinh khoe khoang ầm ĩ. “Giết được hai con lợn rừng rất lớn. Đại nhân, hi vọng ngài được nghỉ ngơi như ý! Chuyến đi câu cá của ngài thế nào?” “Cũng được. Ta câu được một con cá vược rất lớn.” Kiều Thái lo lắng nhìn khuôn mặt hốc hác của Địch huyện lệnh. Y nghĩ chủ nhân cần uống chút gì. Biết rõ bản tính thanh đạm của ông, y do dự một lát rồi mới bảo, “Thưa, ngài có muốn uống một chén rượu nhỏ cùng bọn thuộc hạ không?”
Địch huyện lệnh vừa gật đầu, Kiều Thái liền gọi tiểu nhị, “Cho hai vò rượu loại ngon nhất!” Ông ngồi xuống rồi quay lại bảo tiểu nhị, “Đem cho ba vò đi.” Ảnh chuỗi ngọc Ảnh quả bầu
Robert van Gulik ĐỊCH CÔNG KỲ ÁN #13 MÊ CUNG ÁN The Chinese Maze Murders (1951) Nguyễn Việt Hải dịch Dựa theo bản in của NXB Văn học, 2019 Nguồn sách Hà Du Solo text kimtrongnew LỜI TỰA Sau khi ra mắt bản dịch cuốn tiểu thuyết trinh thám Trung Hoa cổ của mình là Địch Công án*, tôi được đề nghị tìm dịch thêm các tiểu thuyết Trung Hoa khác về cùng chủ đề này. Tuy nhiên, những cuốn sách như vậy hiện nay có phần khan hiếm. Hơn nữa, cũng khó để tìm được một bộ sách có sức hấp dẫn, đáp ứng được thị hiếu của phương Tây và Trung Quốc hiện đại. Nhưng Địch Công án lại là một ngoại lệ, vì phong vị, nội dung của các vụ án cổ cũng như những câu chuyện huyền bí lại vô cùng khác biệt so với những câu chuyện hiện đại không gây được nhiều hứng thú cho độc giả phương Đông và càng ít hấp dẫn đối với độc giả phương Tây. Địch Công án, còn có tên Ba vụ án được quan án Địch phá giải, là cuốn tiểu thuyết trinh thám cổ của Trung Hoa được dịch từ nguyên bản tiếng Trung, với lời giới thiệu và những ghi chép của Robert van Gulik. Mặt khác, các câu chuyện phá án ở Trung Quốc thời cổ bao gồm nhiều tình tiết gay cấn và nhiều chất liệu liên quan đến tra án hơn. Bởi thế, tôi nghĩ mình sẽ có một thử nghiệm thú vị khi tự tay viết một bộ truyện trinh thám mang phong cách Trung Quốc, sử dụng những tình tiết trong các câu chuyện từ xa xưa ở Trung Quốc. Tôi bắt tay vào thử nghiệm này chủ yếu để chứng minh cho các tác giả Nhật Bản và Trung Quốc hiện đại thấy rằng: Ta hoàn toàn có thể viết tiểu thuyết trinh thám bằng phong cách Trung Hoa truyền thống mà vẫn tạo hứng thú cho độc giả phương Đông ngày nay. Tôi nghĩ đây là điều đáng giá hơn cả, bởi lúc này thị trường sách ở Trung Quốc và Nhật Bản tràn ngập các bản dịch kém chất lượng của các tác phẩm giật gân nước ngoài hạng ba, trong khi các bộ truyện trinh thám cổ của nước mình gần như đã bị lãng quên. Khi tôi viết xong bản thảo tiếng Anh cuốn Mê Cung Án, tác phẩm này đã được giáo sư Ogaeri Yukio dịch sang tiếng Nhật và nhà xuất bản Kadan sha in năm 1951 tại Tokyo dưới tựa đề Meiro no Satsujin, đồng thời được nhà văn viết truyện kỳ ảo nổi tiếng người Nhật là Edogawa Rampo viết lời đề tựa. Rồi tự tôi lại thực hiện một phiên bản tiếng Trung của cuốn sách này và nhà xuất bản Nanyang Press tại Singapore ấn hành vào năm 1953, dưới tựa đề Địch Công kỳ án. Cả hai ấn bản này đều được đón nhận nồng nhiệt trong ngành xuất bản ở Nhật Bản và Trung Quốc. Có động lực từ thành công trên, tôi viết thêm hai cuốn truyện về Địch Công là Bí Mật Quả Chuông và Thuyền Hoa Án, các phiên bản tiếng Nhật và tiếng Trung của hai cuốn này cũng chuẩn bị xuất hiện.
Sau khi đạt được mục tiêu chính, tôi thấy các độc giả phương Tây cũng có thể sẽ thích thú với kiểu truyện trinh thám mới này. Bởi thế, tôi quyết định xuất bản nguyên bản tiếng Anh của cuốn Mê Cung Án, một bước tiến khi mà các yếu tố Trung Quốc được các nhà văn phương Tây giới thiệu nhiều đến mức tôi nghĩ độc giả sẽ hào hứng muốn xem phong cách Trung Quốc thực sự sẽ như thế nào. Để biết thêm thông tin về nền tảng của cuốn sách này và các nguồn tư liệu của Trung Quốc được sử dụng, mời độc giả tham khảo phần tái bút của tôi ở cuối sách. Có thể nói rằng, tôi mượn ba cốt truyện từ các nguồn tư liệu cổ của Trung Quốc để viết lại thành một câu chuyện liền mạch, xoay quanh vị thần thám trứ danh thời Đường ở Trung Quốc là Địch Nhân Kiệt. Tôi giữ lại các đặc điểm tiêu biểu của các truyện trinh thám Trung Quốc xưa kia, như đoạn mở đầu sẽ mang một vài ý niệm trong các sự kiện chính của câu chuyện, tên chương sẽ là hai câu đối xứng, nói lên hai yếu tố đặc biệt giúp quan án hóa giải đồng thời một số tình tiết… Và nói chung, tôi cố giữ gìn phong cách và khí chất Trung Hoa nhiều nhất có thể. Bối cảnh trong truyện được xây dựng ở huyện Lan Phường, một địa danh tưởng tượng ở biên giới Trung Quốc, trong giai đoạn thế kỷ VII sau Công Nguyên. Người đọc sẽ thấy một bản đồ kiểu Trung Hoa của huyện này ở đầu cuốn sách. Các bức họa được chính tôi vẽ theo phong cách minh họa sách thời Minh.
Mọi giá trị làm thỏa mãn độc giả trong cuốn truyện này đều là của các tác giả Trung Hoa cổ, những người đã xây dựng nên các tình tiết. Mọi thiếu sót xin cứ trách riêng tôi, tác giả thời nay. The Hague, mùa xuân 1956 Robert van Gulik NHÂN VẬT CÁC NHÂN VẬT CHÍNH ĐỊCH NHÂN KIỆT: tân Huyện lệnh của huyện Lan Phường một huyện ở biên giới Tây Bắc Đại Đường. Ông thường được gọi là “Địch Công” hay “Huyện lệnh”. HỒNG LƯỢNG: quân sư thân cận của Địch Nhân Kiệt, cũng là Sư gia của nha phủ, thường được gọi là “lão Hồng” hay “Hồng Sư gia”. ĐÀO CAM, KIỀU THÁI, MÃ VINH: các trợ thủ thân tín của Địch Công. CÁC NHÂN VẬT KHÁC ĐINH HỔ QUỐC: vị tướng đã từ quan về sống ở huyện Lan Phường. ĐINH Y: một Tú tài, nhi tử độc nhất của Đinh Hổ Quốc. NGÔ PHONG: một Tú tài và họa sư, nhi tử của Tướng quân Ngô Long. NGHÊ THỌ KIỀN: cựu Tuần phủ, qua đời khi từ quan về sống ở huyện Lan Phường. NGHÊ KỲ: trưởng nam của Nghê Thọ Kiền với đại phu nhân. MAI THỊ: nhị phu nhân của Nghê Thọ Kiền. NGHÊ SAN: nhi tử của Mai thị. LÝ PHU NHÂN: họa sư, bằng hữu của Mai thị và Nghê Thọ Kiền. PHƯƠNG CHÍNH: một thợ rèn, về sau được bổ nhiệm làm Bộ đầu ở huyện nha. BẠCH LAN: trưởng nữ của Phương Chính. HUYỀN LAN: thứ nữ của Phương Chính. TIỀN MƯU: tên ác bá lộng hành ở Lan Phường. LƯU VẠN PHƯƠNG: môn khách trong nhà Tiền Mưu. LĂNG BÀI QUÂN: quan quân đào ngũ, sau được Địch Công phục chức. Ô NHĨ KIM: thủ lĩnh người Duy Ngô Nhĩ. Còn được nhắc đến là Ô Nhĩ Kim Quận vương.
LẠP HỘ: kẻ đồng mưu với Ô Nhĩ Kim. THỐ NHĨ BỐI: một cô nương Duy Ngô Nhĩ. HẠC Y TIÊN SINH: một lão ẩn sĩ. CÁC VỤ ÁN TRONG TRUYỆN Vụ án CĂN PHÒNG BỊ NIÊM PHONG. Vụ án BẢN CHÚC THƯ BÍ MẬT. Vụ án THIẾU NỮ KHÔNG ĐẦU. TOÀN CẢNH HUYỆN LAN PHƯỜNG 1. Huyện nha; 2. Miếu Thành Hoàng; 3. Miếu Khổng Tử; 4. Miếu Quan Đế; 5. Tháp Chuông; 6. Tháp Trống; 7. Tháp Cửu Trùng; 8. Bắc Liêu Phường; 9. Nam Liêu Phường; 10. Tư gia của Tiền Mưu; 11. Tư gia của Đinh Tướng quân; 12. Vĩnh Xuân tửu điếm; 13. Chùa Tam Bảo; 14. Tư gia của Lý Phu nhân; 15. Nhà cũ của Nghê Thọ Kiền; 16. Tư gia của Nghê Kỳ; 17. Thủy môn; 18. Pháp trường TỰ Bên hồ sen, gặp được Địch thái công Ngỡ chiêm bao, xin kể chuyện năm xưa Thiên Đạo đã sinh ra một khuôn mẫu bất biến suốt cả vạn năm qua, cho nhật nguyệt ở trên cao, thủy thổ ở dưới. Về sau, những bậc hiền nhân thời cổ đã tạo nên trật tự xã hội tôn nghiêm của chúng ta, coi Thiên Đạo và Nhân Luật là hai thành tố chính tạo nên thế giới. Một quan án sáng suốt và chính trực đích thị là công cụ hành pháp của Ngọc hoàng, là quan phụ mẫu vừa biết thương dân như con, vừa nghiêm khắc uy quyền. Ở công đường của vị quan đó, những người chịu oan khuất sẽ được đền bù sau những tổn hại, những tội nhân thì không có lối thoát dẫu dùng mọi âm mưu thủ đoạn. Dưới triều Minh thịnh vượng do Vĩnh Lạc đế* cai trị, thiên hạ thái bình, mùa màng tốt tươi, không có hạn hán hay lũ lụt, dân chúng no đủ. Quốc thái dân an hoàn toàn là nhờ Thiên Đức của Thánh thượng. Đương nhiên, trong thời bình, ít khi xuất hiện tội phạm, do đó ngày nay có ít tư liệu phục vụ cho nghiên cứu về tội phạm và điều tra án. Người thời nay phải quay về quá khứ để tìm lời giải thích cho hoạt động tra án và những giải pháp tuyệt diệu mà các Huyện lệnh thông tuệ đưa ra.
Vĩnh Lạc đế: Tức Minh Thành Tổ (1360 1424), vị hoàng đế thứ ba của nhà Minh, tại vị từ năm 1402 đến năm 1424. Ông được coi là một trong các Hoàng đế kiệt xuất nhất trong lịch sử Trung Quốc. Thấy mình có nhiều giờ phút thư nhàn để theo đuổi công việc nghiên cứu ưa thích, ta tỉ mỉ tìm kiếm những tài liệu cũ và lục trong kho lưu trữ ám bụi những vụ đại án cổ xưa. Khi tề tựu trong quán trà, ta thường cẩn thận lắng nghe bằng hữu và người quen đàm luận về những vụ kỳ án do các vị quan án trứ danh phá giải hàng trăm năm trước. Hôm nọ, vào lúc xế chiều, ta tản bộ qua vườn hoa phía Đông thành để ngắm hoa sen đang nở rộ. Ta băng qua cây cầu chạm khắc bằng cẩm thạch dẫn đến hòn đảo nhỏ ở giữa hồ sen và tìm được một bàn còn trống trong góc hiên một tửu quán. Vừa dùng trà và nhấm hạt dưa, ta vừa thưởng ngoạn cảnh đẹp của hồ nước ngợp màu sen. Như thường lệ, ta quan sát một đám người qua đường đủ mọi tầng lớp và tiêu khiển bằng cách thử suy đoán tính cách cũng như xuất thân thông qua vẻ ngoài của họ. Ta đặc biệt chú ý đến hai cô nương diễm lệ đang nắm tay nhau đi ngang qua ta. Hai người rất giống nhau nên ta cho rằng họ là tỉ muội. Nhưng rõ ràng tính nết hai nàng hoàn toàn khác nhau. Cô em tươi tắn và hoạt bát, luôn miệng nói cười. Trái lại, cô chị là người dè dặt, e lệ, hầu như không đáp lại lời muội muội. Khuôn mặt nàng mang nỗi buồn sâu thẳm. Ta chắc rằng đời nàng đã có một tấn bi kịch ghê gớm.
Khi hai thiếu nữ biến mất vào đám đông, ta nhận thấy có một nữ nhân trung niên đi theo sau họ. Bà ta hơi tập tễnh, đi phải chống gậy và dường như chỉ một mực muốn theo kịp hai thiếu nữ kia. Ta đoán bà ta là bảo mẫu của họ. Nhưng khi nữ nhân đi qua phía trước hiên quán, ta trông thấy cái liếc mắt đầy vẻ độc ác của bà ta, đến nỗi ta phải vội chú ý đến hai người trẻ tuổi đi cạnh nữ nhân này. Nam nhân trẻ tuổi đội mũ ra dáng thư sinh, còn thiếu nữ ăn vận kín đáo như một người nội trợ. Hai người đi cách xa nhau, nhưng qua ánh mắt trìu mến của họ, có thể thấy rõ họ đã phải lòng nhau. Ngay khi hai người đi qua trước mặt ta, thiếu nữ kia nắm tay chàng thư sinh, nhưng y vội rụt tay lại và cau mày lắc đầu. Từ vẻ vụng trộm của cả hai, ta kết luận họ đang có mối quan hệ ân ái mờ ám. Quan sát những vị khách đang kéo đến hiên quán, ta chú ý tới một người tròn mập, ăn vận gọn gàng, ngồi một mình giống ta. Ta đoán đó là một phú hộ. Ông ta có khuôn mặt tròn trĩnh, khôi hài và có vẻ là kiểu người hay nói, nên ta vội quay đi vì sợ rằng ông ta sẽ lầm tưởng ánh mắt chăm chú của ta là một lời làm quen. Ta thích ngồi một mình với những ý nghĩ hơn, thêm nữa ta cũng nhận thấy một tia lấp lánh trong đôi mắt ông ta khiến ta phải thận trọng. Ta nghĩ người có ánh mắt lạnh lùng, đầy toan tính, trái ngược với vẻ mặt thân thiện ấy có đủ khả năng tham gia vào một âm mưu đen tối được lên sẵn kế hoạch.
Một lát sau, ta thấy một thân sĩ cao tuổi có bộ râu dài trắng như cước chậm rãi bước từng bậc lên hiên quán. Lão nhân mặc lễ bào màu nâu có ống tay rộng với một lớp nhung đen may nối, đầu đội mũ vải sa đen và có chóp cao. Dù trang phục không thể hiện phẩm cấp, nhưng ông lại có một diện mạo phi thường. Ông đứng chống gậy một lát, dò xét khắp hiên quán đông người bằng đôi mắt sắc sảo dưới hàng chân mày trắng và rậm. Lẽ nào một người khả kính như vậy cứ phải đứng mãi? Ta vội vàng đứng dậy, mời lão nhân ngồi xuống bên bàn mình. Ông nhã nhặn cúi đầu cảm tạ. Trong khi uống trà, hai chúng ta hỏi nhau những câu lịch thiệp thường gặp, hóa ra lão nhân mang họ Địch và là một Tri phủ đã cáo lão hồi hương. Hai chúng ta nhanh chóng bị cuốn vào một cuộc trò chuyện thú vị. Địch thái công là người uyên bác và có thẩm mỹ thanh cao, chúng ta quên cả thời giờ khi vừa mải đàm đạo về thơ văn vừa nhìn ra đám đông đủ màu sắc đứng ven hồ. Ta nhận thấy lão nhân nói giọng Thiểm Tây, nên trong lúc tạm dừng câu chuyện, ta hỏi gia tộc ông có liên quan đến gia tộc họ Địch ngày trước ở Thái Nguyên, thủ phủ của tỉnh Thiểm Tây hay không. Nhiều thế kỷ trước, dưới thời nhà Đường, nơi ấy đã sinh ra vị thần thám kiệt xuất Địch Nhân Kiệt. Ánh mắt Địch thái công bỗng sáng rực. Ông giận dữ giật mạnh bộ râu dài và nói, “Hừ! Nhà ta đương nhiên là một nhánh của gia tộc họ Địch, sinh ra quan án Địch nổi danh thiên hạ, và ta lấy làm tự hào khi ngài là một vị liệt tổ liệt tông của mình. Nhưng cùng với đó, chuyện này lại là ngọn nguồn của những phiền toái nối tiếp. Bất cứ khi nào ta dùng cơm hoặc nhấm thứ trà thơm trong quán, ta đều nghe thấy đám khách kể cho nhau những câu chuyện về Địch Công. Về căn bản, những điều họ nói về sự nghiệp chói lọi của ngài trong triều đình thường là sự thật. Hơn thế, những câu chuyện như vậy có thể xác minh thông qua việc tham chiếu pho chính sử thời Đường. Tuy nhiên, phần đông những kẻ dốt nát lại bàn tán về những câu chuyện kỳ quái xảy ra vào giai đoạn đầu trong sự nghiệp làm quan của ngài, khi ấy ngài luôn giữ chức Huyện lệnh ở các tỉnh và danh xưng ‘Địch Công’ trở nên nổi tiếng vì đã phá giải nhiều vụ kỳ án. Trong dòng họ ta, ghi chép đúng sự thật về phần lớn những vụ án đó đều được truyền qua rất nhiều thế hệ. Điều ấy khiến ta vô cùng bực bội khi phải nghe những câu chuyện giả tạo được kể lại trong tửu quán, và ta thường bỏ đi khi chưa dùng xong bữa.”
Địch thái công lắc đầu và giận dữ dộng mạnh cây gậy xuống nền đá. Ta rất mừng vì biết rằng Vị khách này quả nhiên là hậu duệ của quan án Địch nức tiếng khắp nơi. Ta đứng dậy và đến trước mặt ông, rạp người vái để tỏ lòng tôn kính đối với gia tộc lẫy lừng của ông. Rồi ta bộc bạch, “Thái công, vãn sinh là người thích nghiên cứu những câu chuyện có thật về khả năng tra án tài ba của các vị quan án nổi danh sống dưới thời kỳ vàng son thuở trước. Tuy nhiên, vãn sinh không phải ham chuyện tầm phào, vãn sinh có hứng thú với phân tích thấu đáo trong những văn bản cổ như vậy. Chẳng phải những tài liệu ấy giống như tấm gương sáng cho chúng ta, những người đời sau, cảnh báo chúng ta bằng cách chỉ ra những nhược điểm và khiếm khuyết sao? Những ghi chép ấy không chỉ nâng cao phẩm hạnh và cải thiện tập tục, mà còn giữ vai trò như một công cụ đầy quyền uy ngăn chặn những kẻ hung hiểm. Không tìm được ở đâu những minh chứng hùng hồn hơn cho câu ‘Lưới trời lồng lộng, thưa mà khó thoát’.” “Theo ý vãn sinh, tự cổ chí kim, không có vị quan án nào sánh bằng Địch Công. Trong nhiều năm, vãn sinh đã cần mẫn sưu tầm những tư liệu về các vụ án do vị thanh quan này phá giải. Giờ đây, số mệnh đã chiếu cố cho vãn sinh được gặp thái công, người nắm giữ vô số câu chuyện về ngài. Vãn sinh tự hỏi nếu cúi mình xin thái công đích thân kể cho nghe vài vụ án ít người biết tới, thì liệu mình có làm phiền đến thái công hay không?”
Địch thái công đồng ý ngay và ta mời ông ăn một bữa tối đơn sơ. Chạng vạng tối, khách khứa đã rời khỏi hiên quán để vào bên trong dùng bữa, đám tiểu nhị đã thắp nến cùng những chiếc đèn lồng bằng giấy màu. Ta tránh gian đại sảnh vì ở đó thực khách trò chuyện ồn ào, rồi dẫn Địch thái công đến một phòng ăn nhỏ bên cạnh, trông ra mặt hồ lúc này đang tràn ngập ráng đỏ của ánh tà dương. Ta gọi hai phần cơm có bốn món và một bình rượu nóng. Sau vài tuần rượu và đã thưởng thức đồ ăn, Địch thái công vuốt râu nói, “Ta sẽ kể cho ngươi nghe ba vụ kỳ án mà Địch Công đã phá trong những tình huống dị thường nhất. Khi đó, ngài còn đang giữ chức Huyện lệnh ở Lan Phường, một huyện hẻo lánh ở biên giới Tây Bắc Đại Đường.” Rồi ông bắt đầu kể một câu chuyện dài và ly kỳ. Mặc dù câu chuyện rất hấp dẫn, nhưng ông lại đi vào nhiều chi tiết dài dòng bên lề và giọng kể của ông đều đều, phảng phất như tiếng ong đập cánh. Sau một lúc, ta đã thấy mình hơi mất tập trung. Ta uống hết liền ba chén rượu để tâm trí tỉnh táo trở lại, nhưng thứ rượu màu hổ phách này chỉ khiến ta thêm phần đờ đẫn. Trong khi giọng của thái công vẫn cứ đều đều, ta thấy như mình đang được thần ru ngủ. Khi tỉnh dậy, ta thấy chỉ còn mình ta trong căn phòng lạnh lẽo, đang nằm nhoài ra bàn, gục đầu lên hai cánh tay khoanh trước mặt. Một tiểu nhị khó tính đang đứng bên và bảo ta lúc này đã là canh đầu. Có phải ta đã nhầm tửu quán này với một khách điếm mà người ta hay ở lại qua đêm?
Ta thấy đau đầu nên không vội tìm ngay lời lẽ để đuổi gã quê mùa này ra ngoài. Thay vào đó, ta hỏi về Địch thái công và mô tả lại từng chi tiết về vẻ ngoài của ông. Tiểu nhị nói lúc chập tối y mải phục vụ ở gian khác trong quán. Không lẽ ta nghĩ y có thời gian quan sát từng vị khách hay sao? Thế rồi y đưa hóa đơn cho hai phần cơm, mỗi phần gồm sáu món ăn cùng tám bình rượu. Ta đành phải trả tiền, dù tự hỏi phải chăng cuộc gặp gỡ với Địch thái công chỉ là một giấc chiêm bao và tên nhãi này lợi dụng lúc ta không tỉnh táo để moi tiền của ta. Ta ra khỏi quán với tâm trạng của kẻ bị lợi dụng và băng qua con phố vắng để về nhà. Thư đồng của ta đã ngủ gật ở góc thư phòng. Ta không đánh thức cậu ta mà rón rén đến bên kệ sách. Ta lấy xuống những bộ sử về đời Đường, bộ tự điển địa lý và những ghi chép của ta về Địch Công. Nghiền ngẫm cả ba tập sách, ta thấy mặc dù tổng quan câu chuyện của Địch thái công khá giống với sự thật lịch sử, nhưng lại không hề có một địa danh nào là huyện Lan Phường ở biên giới Tây Bắc. Ta nghĩ có thể mình đã nghe nhầm tên vùng đất ấy và quyết tâm ngày mai phải đến thăm Địch thái công để nhờ ông giải thích rõ hơn. Rồi ta lại thấy nản lòng khi nhận ra dù mình nhớ rõ từng câu từ trong câu chuyện Địch thái công kể, nhưng có cố gắng đến mấy ta cũng không thể nhớ lại từng chi tiết liên quan đến thân phận của ông. Ta đã quên cả tên của thái công và nơi ông đang sống.
Ta lắc đầu rồi mài mực. Và ngay đêm đó, ta miệt mài viết lại toàn bộ câu chuyện ông kể, đến khi gà gáy sáng mới đặt bút xuống. Hôm sau, ta đi hỏi thăm đám bằng hữu, nhưng không ai từng nghe đến một vị Tri phủ hồi hương họ Địch sống trong trấn này, cũng không có gì sáng tỏ thêm khi đi tìm hiểu về nơi lão nhân sinh sống. Chuyện này vẫn không hề làm tiêu tan mọi nghi hoặc của ta. Lão nhân này chắc hẳn chỉ đi ngang qua đây hoặc sống đâu đó ở ngoại thành. Vì vậy, ta mạo muội thuật lại câu chuyện như đã được nghe, để những độc giả sáng suốt đánh giá và tự nhận định xem cuộc gặp gỡ bên hồ sen này là mơ hay thực. Nếu câu chuyện kể về ba vụ kỳ án này khiến độc giả trong chốc lát quên đi những mối quan tâm, lo lắng của cuộc sống thường nhật, thì ta sẽ không thấy tiếc số tiền mình đã phải mất ở tửu quán. Vì dù chuyện gì thực sự đã diễn ra thì gã tiểu nhị đó rõ ràng là một kẻ xấu bụng. Thật khó tin khi một hoặc thậm chí là hai văn sĩ có khẩu vị thanh nhã lại uống hết tám bình rượu trong một cuộc gặp mặt. HỒI 1 Đường gập ghềnh, qua núi đồi khúc khủy Trong núi hiểm, đụng độ phường đạo tặc Bốn cỗ xe ngựa chậm chạp chuyển bánh qua dãy núi phía Tây huyện Lan Phường. Trong cỗ xe đầu tiên, tân Huyện lệnh huyện Lan Phường là Địch Nhân Kiệt đã cố để mình thư thái nhất có thể trong hành trình cực nhọc. Ông ngồi trên tấm đệm, tựa vào kiện sách lớn. Vị quân sư trung tín của ông, lão Sư gia Hồng Lượng, đang ngồi trên cái gối vải đối diện ông. Đường đi gập ghềnh nên dù bố trí chỗ ngồi trong xe cẩn thận thế nào cũng không tránh khỏi việc liên tục bị va đập. Địch Công và Sư gia đều mệt vì cả hai đã đi suốt nhiều ngày.
Phía sau xe của họ là một cỗ xe lớn có rèm lụa che kín. Trong xe là ba vị phu nhân và các nhi tử của Địch Công cùng mấy tỳ nữ đang nằm cuộn mình giữa đám gối và chăn bông, cố chợp mắt một chút. Hai cỗ xe phía sau chở đầy hành lý. Một vài người hầu đang ngồi vắt vẻo trên những kiện đồ và rương hòm, vài người khác thích đi bộ bên đám ngựa cũng đã ướt sũng mồ hôi. Trước khi trời sáng, đoàn người đã rời khỏi ngôi làng sau cùng. Từ sau đó, đường đi đều chỉ qua vùng núi hoang. Những người duy nhất họ gặp là vài người hái củi. Buổi chiều hôm đó, hành trình bị chậm lại một canh giờ* vì có một bánh xe ngựa bị gãy lìa và trời đã nhá nhem tối, vùng đồi núi dường như có phần hung hiểm hơn. Canh giờ: 1 canh bằng 2 tiếng. Có hai nam nhân cao lớn phóng ngựa lên phía trước đoàn người. Cả hai đeo phác đao sau lưng, mỗi người đều treo một cây cung bên mã yên bao*, tên trong bao va vào nhau kêu lách cách. Hai người này là Mã Vinh vài Kiều Thái, hai trợ thủ thân tín của Địch Công. Họ là hộ vệ cho cả đoàn. Một trợ thủ khác của Địch Công là Đào Cam, người mảnh khảnh, lưng hơi gù. Đi cuối cùng là lão quản gia. Mã yên bao: túi đeo bên yên ngựa. Đến đỉnh núi, Mã Vinh ghìm cương. Con đường phía trước dẫn vào một thung lũng rậm rạp. Dốc núi bên kia vươn lên ở phía đối diện. Vẫn ngồi trên lưng ngựa, Mã Vinh quay lại bảo người đánh xe, “Tên ngốc kia, ngươi đã nói chỉ còn nửa canh giờ nữa là sẽ đến huyện Lan Phường cơ mà! Giờ lại có một ngọn núi nữa chắn ngang đường!”
Người đánh xe quay ra lẩm bẩm với những người khác, cho rằng đám người thành thị rất hay nóng vội, rồi buồn bã nói, “Đừng lo, từ đỉnh núi bên kia, các vị sẽ trông thấy trấn Lan Phường dưới chân dốc.” “Lúc trước, đệ đã nghe thấy tên này nói ‘đỉnh núi bên kia’ một lần rồi”, Mã Vinh bảo Kiều Thái. “Sẽ rất nguy hiểm nếu nửa canh giờ nữa mới đến được Lan Phường! Vị huyện quan sắp chuyển đi kia chắc chắn đã ngóng chúng ta từ trưa. Và còn biết bao hương thân phụ lão khác trong huyện cùng bữa tiệc mừng thì sao? Tất cả chúng ta đều đã đói meo rồi!” “Họng ta khô đến nỗi không nói nổi!” Kiều Thái nói thêm. Rồi y quay ngựa phóng đến bên xe của Địch Công. “Bẩm đại nhân, trước mặt còn có một thung lũng nữa”, y bẩm báo, “nhưng qua được khỏi đây là chúng ta đến huyện Lan Phường.” Hồng Sư gia buông ra tiếng thở dài. “Thật đáng tiếc khi đại nhân ra lệnh rời khỏi Phổ Dương quá sớm. Dù đã có hai vụ đại án xảy ra ngay sau khi chúng ta đến đó, thì Phổ Dương vẫn là một nơi dễ chịu.” Địch Công mệt nhọc mỉm cười, cố tìm cách ngồi dựa vào đống hành lý sao cho thoải mái hơn. Ông nói, “Hình như tàn dư của đám Phật tử cuồng tín ở kinh thành đã bắt tay với đồng đảng trong đám thương gia Quảng Châu, gây ảnh hưởng đến việc thuyên chuyển của ta từ rất lâu, trước cả khi ta kết thúc nhiệm kỳ ở Phổ Dương. Nhưng đáng giá nhất vẫn là được giữ chức Huyện lệnh ở một huyện hẻo lánh như Lan Phường. Chắc chắn chúng ta sẽ gặp những sự vụ đặc biệt lý thú mà những châu huyện lớn hơn ở Trung Nguyên không bao giờ có.”
Hồng Sư gia cũng đồng ý nhưng trông vẫn còn mệt mỏi. Lão đã ngoài lục tuần, nỗi khổ nhọc trong chuyến đi dài này làm lão kiệt sức. Từ thuở ấu thơ, Hồng Lượng đã là thân tín trong Địch gia. Khi bước vào chốn quan trường, Địch Công đã coi lão Hồng là vị quân sư thân tín của mình. Ở mọi nhiệm sở nơi ông giữ chức, ông đều chỉ định lão làm Sư gia ở chốn công đường. Người đánh xe vung roi quất ngựa. Cả đoàn người vượt qua ngọn núi và tiến vào thung lũng theo con đường hẹp quanh co. Họ nhanh chóng xuống đến thung lũng, dưới này đường đi tối tăm do có những đám tuyết tùng cao vun vút mọc lên giữa đám cây bụi dày đặc hai bên đường. Địch Công vừa định bảo thuộc hạ thắp đuốc lên thì nghe tiếng quát rộ lên cả ở phía trước và phía sau. Một nhóm người mang khăn đen bịt mặt bất ngờ hiện ra từ giữa đám cây rừng. Hai kẻ túm chân phải Mã Vinh rồi lôi y xuống khỏi yên ngựa trước khi y kịp rút kiếm. Tên thứ ba nhảy phốc lên phía sau ngựa của Kiều Thái, kẹp chặt cổ rồi kéo y xuống đất. Ở phía cuối đoàn người, hai tên đạo tặc khác đang khống chế Đào Cam và Sư gia. Người đánh xe nhảy xuống và biến mất vào rừng. Đám gia đinh nhà Địch Công bỏ chạy thục mạng. Hai kẻ bịt mặt đến trước cửa sổ xe Địch Công. Lão Hồng bị đánh vào đầu đến bất tỉnh. Địch Công chỉ kịp tránh mũi thương đâm vào trong xe. Ông vội túm chặt cán thương bằng cả hai tay. Bên ngoài, kẻ cầm thương liền xoay mạnh hòng rút lại cây thương. Ông trước hết giữ chặt, rồi bất ngờ đẩy mạnh cây thương về phía tên kia. Hắn ngã ngửa ra sau. Địch Công giật được cây thương từ tay hắn và nhảy ra từ cửa sổ. Ông múa thương không cho hai kẻ hung đồ lại gần. Tên đạo tặc đã đánh Hồng Sư gia mang một cây côn, kẻ cầm thương khi nãy giờ rút ra cây trường kiếm. Chúng nhất tề hung hãn tấn công, Huyện lệnh nghĩ mình không đủ sức để chống lại cả hai kẻ địch quá lâu. 👁
Địch Công và lũ đạo tặc Hai tên đạo tặc đã lôi Mã Vinh xuống khỏi ngựa đang toan một đao lấy mạng khi y định vùng thoát. Nhưng thật không may, chúng phải đấu với một tráng sĩ vũ dũng hơn người, ít năm trước cũng là đạo tặc khét tiếng. Trước khi được Địch Công cảm hóa, cả Mã Vinh và Kiều Thái đều là những tráng sĩ phường lục lâm. Do đó, Mã Vinh đã thông thạo chuyện giao chiến trên đường rừng. Không cố để vùng dậy, y xoay mình trên đất, nắm chặt cổ chân một tên cướp và giật mạnh. Cùng lúc đó, Mã Vinh đạp mạnh vào khoeo chân tên còn lại. Đòn liên hoàn này giúp y có đủ thời gian bật dậy. Tên cướp đang loạng choạng bị giáng cho một quyền rất mạnh vào đầu và ngã gục. Y nhanh như chớp xoay mình, tên bị đạp vào khoeo chân kia nhận ngay một cước vào mặt, đầu hắn gập ra sau, gần như đã gãy cổ. Mã Vinh vội rút kiếm, lao đến chỗ Kiều Thái đang nằm trên mặt đất, liều lĩnh vật lộn với kẻ đang bóp cổ y. Hai tên cướp khác cầm dao dài chờ sẵn để đâm Kiều Thái ngay khi có thể. Mã Vinh phóng kiếm đâm trúng lồng ngực một tên. Không kịp rút lưỡi kiếm ra, y xông đến đá thẳng vào hạ bộ tên còn lại khiến hắn gục luôn xuống đất. Cầm con dao dài của tên cướp, Mã Vinh đâm một nhát lút cán vào vai trái kẻ đang vật lộn với Kiều Thái. Vừa đỡ Kiều Thái dậy, Mã Vinh nghe Địch Công gọi, “Cẩn thận đấy!” Kẻ cầm đoản côn đánh Địch Công đã xông tới tương trợ đồng bọn. Mã Vinh vội xoay mình, tránh được nhát côn nhằm thẳng đầu y. Cây côn đánh trúng vai trái y. Y khuỵu xuống, bực tức chửi um. Tên kia vung côn định đánh vỡ sọ Kiều Thái. Y rút dao, lao vào bên dưới cánh tay địch thủ đang vung lên, cắm lưỡi dao vào tim hắn.
Địch Công lúc này chỉ phải địch với một tên mang kiếm, ông khiến hắn phải luôn tay chống đỡ. Ông vung thương tung đòn giả vào lúc tên cướp định vung kiếm chém xuống. Rồi Địch Công lừa kẻ địch bằng ngón thương “cán cờ đổ”. Ông quay tròn cây thương và vụt xuống khiến kẻ địch vỡ đầu. Để Kiều Thái trói gô mấy tên cướp còn sống lại, Địch Công chạy đến chỗ xe chở hành lý. Một tên cướp đang nằm sõng soài trên đất, tay ôm chặt lấy cổ. Một tên khác tay cầm đoản côn, đang dò xét dưới gầm xe. Ông đánh gục hắn bằng một nhát thương giáng xuống đầu. Đào Cam bò ra từ dưới gầm xe, tay cầm một sợi dây mỏng. “Có chuyện gì ở đây vậy?” Địch Công hỏi. Đào Cam mỉm cười đáp, “Bẩm, một tên mãng phu đã đánh ngất quản gia, một tên khác suýt đánh trúng đầu thuộc hạ. Thuộc hạ cố tình ngã xuống, hổn hển thở trong cơn sợ hãi và nằm yên không nhúc nhích. Chúng nghĩ thuộc hạ đã ngất đi và bắt đầu lục tung hành lý. Thuộc hạ ngồi dậy và từ phía sau siết cổ tên gần nhất. Rồi thuộc hạ chui xuống gầm xe, kéo sợi dây chặt hết sức có thể. Tên còn lại không thể đuổi theo thuộc hạ mà không ra khỏi xe, và hắn cũng không sử dụng đoản côn dưới gầm xe được. Hắn đang băn khoăn không biết phải làm sao thì đại nhân giúp hắn giải quyết tình thế lưỡng lự đó.” Huyện lệnh mỉm cười rồi vội quay lại chỗ Mã Vinh. Đào Cam rút từ trong tay áo ra một sợi dây và trói chặt tay chân hai tên cướp. Rồi y nới sợi dây thòng lọng quanh cổ tên cướp đang sắp chết ngạt.