text
stringlengths
1
809k
Ngô Phong vẫn tiếp tục đi theo hướng Nam rồi bất chợt rẽ sang phố bên. Đâu đó trên phố có vài người. Đào Cam vẫn bước từng bước vội vã, kéo chiếc cúc ở giữa đỉnh mũ cho đến khi nó biến thành chiếc mũ có chỏm của người dân bình thường. Y lấy trong ống tay áo ra một ống tre dài tầm một thước. Đây là một trong số những món đồ lợi hại của Đào Cam. Đó là ống tre có chứa sáu ống tre khác theo kích thước nhỏ dần. Y kéo dài ống tre ra và biến nó thành một chiếc gậy. Đào Cam lại thay đổi dáng đi thành dáng vẻ bình thản của một lão nhân. Y theo sát cho đến khi tới gần Ngô Phong. Tay họa sư rẽ sang một ngõ nhỏ khác và Đào Cam đã ở ngay sau hắn. Hai người lúc này đã vào một khu vực yên tĩnh, Đào Cam nghĩ cả hai chưa thể đi xa khỏi cổng thành phía Đông. Ngô Phong dường như khá quen thuộc khu vực này. Y rẽ sang một con phố nhỏ khác, dường như hoàn toàn vắng người. Đào Cam cũng rẽ vào và bám theo Ngô Phong. Y thấy đây là đoạn đường cụt, tận cùng là một cổng vòm của một ngôi chùa nhỏ. Hình như ngôi chùa này đã bị bỏ hoang vì cánh cổng gỗ đã đổ nát và bên trong tuyệt không thấy ánh nến. Cũng không có bóng sư sãi nào. Ngô Phong đi thẳng vào trong và leo lên những bậc đá rạn vỡ dẫn lên cổng vòm đó. Hắn đứng đó và nhìn quanh. Đào Cam vội thu mình lại. Khi y ngó ra lần nữa, Ngô Phong đã vào trong chùa.
Đào Cam đợi một lát rồi bước ra và thong dong bước vào chùa như thể tản bộ. Trên cổng vòm, y thoáng thấy ba chữ lớn khắc trên đá đã bị thời gian ăn mòn, đề “Tam Bảo tự”. Đào Cam leo lên từng bậc và bước vào trong. Ngôi chùa có vẻ đã bị bỏ không nhiều năm. Mọi vật dụng đều không còn và nơi trước kia là bệ thờ thì trống trơn. Y không thấy gì ngoài những bức tường đá trơ trọi. Đâu đó trên mái có một lỗ thủng khiến y có thể trông thấy những vì sao trên bầu trời tăm tối. Đào Cam rón rén đi lại dò xét khắp nơi. Nhưng không thấy bóng dáng Ngô Phong đâu. Cuối cùng, y ngó ra cửa sau. Y vội rụt đầu lại bên trong khung cửa. Có một khu vườn nhỏ với tường bao quanh, chính giữa là một ao cá. Bên bờ ao có một chiếc ghế đá cổ. Ngô Phong đang ngồi một mình ở đó, ngồi chống cằm và dường như đối với họa sư, ao cá này có một niềm hấp dẫn lạ kỳ. “Đây chắc chắn là một nơi hò hẹn bí mật!” Đào Cam nghĩ. Y thấy một hốc tường phù hợp để trốn và quan sát Ngô Phong, đồng thời y có thể ẩn mình và đợi bất cứ kẻ nào khác sắp đến. Ngồi trong hốc tường đó, Đào Cam khoanh tay và nhắm mắt lại, sử dụng thính giác để cảm nhận mọi âm thanh. Y không dám liên tục nhìn ra chỗ Ngô Phong vì y biết nhiều người rất nhạy cảm khi có kẻ nhìn trộm. Y ngồi đó một lúc lâu. Không có chuyện gì xảy ra cả. Ngô Phong thỉnh thoảng thay đổi tư thế. Một hai lần gì đó, y nhặt vài hòn sỏi và ném xuống ao để tiêu khiển. Cuối cùng, họa sư đứng lên và đi lại quanh khoảng sân, có vẻ y đang chìm trong suy nghĩ.
Thêm nửa canh giờ nữa trôi qua, Ngô Phong bỗng bỏ đi. Đào Cam thu mình lại trong hốc tường, nép sát mình vào tường đá ẩm ướt. Ngô Phong rảo bước quay về, mắt không trông ngang. Trở lại con ngõ nhỏ dẫn về chỗ ở, họa sư đứng bất động trong góc đường và nhìn quanh. Rõ ràng y muốn xem Mã Vinh có ở ngoài phố không. Rồi y vội bỏ đi và biến mất vào lối hẹp giữa tửu điếm và nhà kế bên. Đào Cam thở dài nhẫn nhịn và quay về huyện nha. Trong tửu điếm vô cùng náo nhiệt. Sau khi những câu chuyện tiếu lâm của Mã Vinh đã tàn, chủ quán cũng kể một loạt chuyện của gã. Hai gã kia là hai thính giả say mê nhất. Cả hai sôi nổi vỗ tay tán thưởng sau mỗi câu chuyện và sẵn sàng để bữa rượu này kéo dài hàng giờ. Cuối cùng, Ngô Phong xuống thang và cùng ngồi vào bàn. Mã Vinh đã uống nhiều tuần rượu đến nỗi y cũng không nhớ là bao nhiêu. Nhưng y có tửu lượng phi thường và đầu óc vẫn tỉnh táo. Y nghĩ nếu có thể ép Ngô Phong uống, y sẽ thu được nhiều điều từ tay họa sư. Do vậy, y xởi lởi chào đón Ngô Phong như một người bạn cùng từ kinh thành đến và bưng rượu mời tay họa sư. Ngô Phong than phiền rằng y thua xa cả bốn người kia. Y rót nửa vò rượu mạnh vào một chiếc bát vẫn dùng để ăn cơm và uống một hơi cạn sạch. Đối với y, rượu không khác gì nước lã. Rồi y mời Mã Vinh một bát và kể một câu chuyện dài nhưng rất khôi hài.
Mã Vinh bắt đầu thấy hơi men đã bốc lên. Y thấy nhức đầu và om sòm kể một câu chuyện khác, khó khăn lắm mới kể xong được. Ngô Phong lớn tiếng tán thưởng. Họa sư uống cạn liền ba bát rất nhanh gọn, rồi lật chiếc khăn ra sau, thu khuỷu tay lên bàn, tiếp tục kể một loạt chuyện lạ về những sự kiện ở kinh thành, chỉ dừng lại khi uống thêm. Quả thực y vô cùng thích rượu, uống cạn một bát chỉ bằng một hơi. Mã Vinh coi họa sư là hảo bằng hữu. Y đoán Ngô Phong là một người rất thích kết giao. Y nhớ mình có muốn hỏi Ngô Phong điều gì đó nhưng không thể nghĩ ra. Mã Vinh định rót tiếp một tuần rượu nữa. Hai gã kia xin rút lui trước. Chủ quán nhờ vài bằng hữu ở quanh đó đưa cả hai về nhà. Mã Vinh thấy mình đã say mèm. Y kể một câu chuyện hóm hỉnh nhưng kể đến đoạn cuối thì lẫn lộn hết cả. Ngô Phong uống thêm một bát nữa và kể một câu chuyện tiếu lâm đầy tục tĩu đến nỗi chủ quán phá lên cười như điên. Mã Vinh không hiểu ý đồ của câu chuyện nhưng y vẫn cho đó là câu chuyện vô cùng khôi hài và cười lớn. Y lại uống với Ngô Phong một bát nữa. 👁 Mã Vinh và Ngô Phong uống rượu Mặt Ngô Phong đã đỏ bừng và mồ hôi nhỏ xuống từ chân mày. Y lột bỏ chiếc khăn và ném vào một góc. Từ lúc đó, cuộc đàm đạo mỗi lúc một lộn xộn hơn. Mã Vinh và Ngô Phong cùng nói một lượt. Chỉ dừng lại để vỗ tay tán thưởng và uống thêm.
Đã quá nửa đêm, Ngô Phong cho hay y muốn về ngủ. Họa sư khó nhọc đứng dậy và mãi rồi cũng tới được chân cầu thang, luôn miệng hô hào về tình bằng hữu bất diệt của y và Mã Vinh. Trong khi chủ quán đỡ Ngô Phong trèo lên thang, Mã Vinh nghĩ tửu điếm này thật thân thiện và hiếu khách. Y nhẹ nhàng nằm nhoài ra sàn quán, chẳng mấy chốc đã ngáy ầm ĩ. HỒI 12 Tranh Bồ Tát hiện ra dị điểm Phương Huyền Lan lấy trộm thơ tình Sáng hôm sau, khi Đào Cam băng qua sân chính của huyện nha đến thư phòng của Địch Công, y thấy Mã Vinh ngồi gập người trên ghế đá, gục đầu vào hai bàn tay. Đào Cam đứng chăm chú nhìn hình hài câm lặng kia, rồi hỏi, “Mã đệ, có chuyện gì với đệ vậy?” Mã Vinh đưa tay phải lên làm một cử chỉ mơ hồ. Không buồn ngẩng lên, y cất giọng khàn khàn, “Lão huynh cứ đi đi, đệ muốn nghỉ ngơi. Đêm qua, đệ có uống rượu với Ngô Phong. Lúc đó đã quá muộn, nên đệ đành ngủ qua đêm ở tửu điếm đó, mong có thể tìm hiểu thêm về hành tung của Ngô Phong. Đệ vừa về đến đây nửa canh giờ trước.” Đào Cam nhìn y nghi ngờ rồi sốt ruột hỏi, “Đi cùng ta! Đệ phải nghe ta trình báo với đại nhân và xem ta đem về điều gì!“Vừa nói, y vừa cho Mã Vinh xem một gói nhỏ bọc bằng giấy. Mã Vinh miễn cưỡng đứng dậy. Hai người vào thư phòng của Địch Công. Địch Công đang ngồi bên án thư, chăm chú đọc tài liệu. Hồng Sư gia ngồi một góc nhấp trà sáng. Địch Công ngẩng lên khỏi tập giấy, “Hai bằng hữu”, ông nói, “tay họa sư đêm qua có ra ngoài không?”
Mã Vinh xoa hai bàn tay to lớn lên trán, buồn bã nói. “Bẩm đại nhân, đầu thuộc hạ nặng như chứa đá. Đào Cam có thể trình báo với đại nhân!” Địch Công nhìn dáng vẻ hốc hác của Mã Vinh với ánh mắt dò xét. Rồi ông quay sang để lắng nghe Đao Cam. Đào Cam thuật lại chi tiết chuyện y đi theo Ngô Phong vào chùa Tam Bảo và hành vi kỳ lạ của họa sư ở đó. Khi y kể xong, Địch Công vẫn giữ im lặng một lúc, trán cau lại. Rồi ông phán, “Vậy là cô nương kia không xuất hiện!” Hồng Sư gia và Đào Cam có vẻ ngạc nhiên và thậm chí cả Mã Vinh cũng thấy tò mò. Địch Công lấy xuống bức tranh mà Ngô Phong tặng ông. Ông đứng lên và trải bức banh lên án thư, mỗi đầu chèn một chiếc trấn chỉ. Rõi ông lấy mấy tờ giấy trắng và phủ lên bức tranh, chỉ để chừa lại mỗi khuôn mặt của Quan Thế Âm Bồ Tát. “Hãy nhìn kỹ khuôn mặt này!” Địch Công ra lệnh. Đào Cam và Hồng Lượng đứng lên. Hai người cúi đầu bên bức tranh. Mã Vinh định đứng dậy nhưng vội ngồi thụp xuống với vẻ đau đớn. Đào Cam từ tốn nói, “Bẩm đại nhân, nhất định khuôn mặt Quan Âm ở bức tranh này có gì đó bất thường! Khuôn mặt của những nữ Bồ Tát luôn mang vẻ trung dung, không có thần thái. Tuy nhiên, đây giống như chân dung một thiếu nữ người phàm hơn!” Địch Công tỏ vẻ hài lòng. Ông khẳng định, “Chính thị! Hôm qua, khi nhìn qua những bức tranh của Ngô Phong, ta thấy ấn tượng khi những bức vẽ Quan Thế Âm đều có cùng một khuôn mặt. Ta kết luận rằng, họa sư hẳn đang say đắm một cô nương nào đó. Hình ảnh cô nương ấy cứ ở mãi trong tâm trí của y. Do đó dù vẽ một nữ Bồ Tát thì y cũng vẽ đúng những đặc điểm của cô nương ấy, có thể chính y cũng không nhận ra. Vì Ngô Phong thực sự là một họa sư tài ba, nên bức tranh này chắc chắn phải là bức đẹp nhất về cô nương bí ẩn kia. Bức này thể hiện chính xác từng đường nét của cô nương ấy. Ta tin rằng cô nương này chính là lời giải thích cho việc Ngô Phong không rời khỏi huyện Lan Phường. Nàng ta có thể chính là đầu mối liên kết Ngô Phong với vụ giết Đinh tướng quân!”
“Cũng không quá khó khăn để tìm ra cô nương này!” Hồng Sư gia nhận định. “Chúng ta có thể tìm kiếm ở khu vực quanh chùa Tam Bảo.” “Quả là ý hay. Cả ba ngươi hãy khắc ghi khuôn mặt này!” Mã Vinh rên rỉ đứng dậy và cũng đến nhìn khuôn mặt Bồ Tát. Y day hai ngón tay vào hai bên thái dương rồi nhắm mắt lại. “Ai đã làm khổ con sâu rượu vậy?” Đào Cam khó chịu hỏi. Mã Vinh mở mắt, từ tốn nói, “Thuộc hạ dám chắc mình đã gặp vị cô nương đó rồi. Khuôn mặt cô ta rõ ràng có nét gì đó quen thuộc. Nhưng cố đến mấy thuộc hạ cũng không thể nhớ ra đã gặp cô ấy ở đâu và khi nào!” Địch Công cuộn bức tranh lại và nói, “Chà, khi nào đầu óc ngươi thư thái thì sẽ nhớ được. Đào Cam, ngươi đem được gì về?” Đào Cam mở gói nhỏ vô cùng cẩn thận. Bên trong có một phiến gỗ, trên mặt có dán mảnh giấy hình vuông. Y đặt phiến gỗ xuống trước mặt Địch Công và bảo, “Đại nhân xin hãy nhẹ tay! Tờ giấy mỏng này vẫn còn ướt và rất dễ rách. Sáng sớm hôm nay, trong lúc thuộc hạ xem xét lớp vải lót trong bức tranh của Nghê Tuần phủ, thuộc hạ phát hiện ra mảnh giấy này dán phía sau lớp vải lót của giá kim tuyến. Đây chính là chúc thư của Nghê Tuần phủ!” Địch Công cúi mình trước mảnh giấy nhỏ ấy. Rồi khuôn mặt ông chùng xuống. Ông tựa ra sau ghế và giận dữ giật hai dải tóc mai. Đào Cam nhún vai, “Bẩm đại nhân, vẻ bề ngoài dễ khiến người ta bị đánh lừa. Nghê phu nhân lâu nay đã lừa chúng ta.”
Địch Công đẩy phiến gỗ về phía Đào Cam. “Đọc to lên!” Ông cộc lốc ra lệnh. Đào Cam đọc: Ta là Nghê Thọ Kiền, biết mình sắp phải rời xa dương thế, dưới đây là di ngôn và chúc thư của ta. Vì nhị phu nhân của ta là Mai thị đã phạm tội thông gian, nhi tử nàng ấy sinh ra không phải là cốt nhục của ta, mọi tài sản của ta sẽ để lại cho trưởng nam là Nghê Kỳ, người sẽ kế tục truyền thống lâu đời của gia tộc. Nghê Thọ Kiền Phía dưới là một dấu triện. Yên lặng một lát, Đào Cam tiếp lời, “Đương nhiên thuộc hạ đã so sánh dấu triện trên chúc thư này với dấu triện trên bức tranh của Nghê Tuần phủ. Hoàn toàn đồng nhất.” Cả phòng chìm vào im lặng hồi lâu. Rồi Địch Công vươn người về trước và đấm mạnh xuống bàn. “Tất cả đều sai!” Ông tuyên bố. Đào Cam nhìn Hồng Lượng đầy nghi ngờ. Sư gia lắc đầu. Mã Vinh tròn mắt nhìn Địch Công. Địch Công thở dài nói, “Ta sẽ giải thích vì sao ta tin chắc có điều gì cơ bản không đúng ở đây. Ta sẽ không nói đến chuyện Nghê Thọ Kiền là một người sáng suốt, biết nhìn xa trông rộng. Ông ấy hoàn toàn ý thức được rằng, trưởng tử Nghê Kỳ nhân cách xấu xa và vô cùng ghen tị với tiểu đệ của mình. Trước khi Nghê San ra đời, Nghê Kỳ nhiều năm tự xem mình là người thừa kế độc nhất. Khi Nghê Tuần phủ sắp qua đời, ông ta chỉ nghĩ làm sao để bảo vệ người quả phụ trẻ tuổi và đứa trẻ mới ra đời khỏi những mưu tính của Nghê Kỳ.”
“Nghê Tuần phủ biết nếu ông ấy chia đều tài sản cho hai nhi tử, chưa nói đến chuyện tước quyền thừa kế của Nghê Kỳ, thì Nghê Kỳ cũng sẽ làm hại tiểu đệ mới ra đời của mình, và thậm chí có thể giết đứa bé để chiếm đoạt phần thừa kế của nó. Bởi thế, Nghê Tuần phủ cố tình làm như mình không chia gia sản cho Nghê San.” Hồng Sư gia gật đầu và nhìn Đào Cam đầy nghiêm nghị. “Cùng lúc đó”, Địch Công tiếp lời, “ông ta giấu trong bức tranh này bằng chứng mình chia một nửa hoặc chia phần lớn gia sản cho Nghê San. Đây hiển nhiên là một cách thức lạ lùng mà Nghê Thọ Kiền đã sử dụng khi muốn truyền lại di ngôn. Ông ta nói rõ rằng, cuộn tranh ấy là dành cho Nghê San, và còn lại là của Nghê Kỳ; ông ta đã cẩn thận kiềm chế khi định nghĩa hai chữ ‘còn lại’.” “Ý của Nghê Thọ Kiền là thông qua bức mật thư này để bảo vệ Nghê San mới ra đời cho đến khi cậu ta đủ trưởng thành để tiếp nhận thừa kế. Ông ấy hi vọng sau mười năm hoặc hơn nữa, một vị Huyện lệnh sáng suốt sẽ khám phá ra mật thư trong cuộn tranh và trả lại cho Nghê San tài sản thừa kế hợp pháp. Bởi vậy ông ấy dặn lại người quả phụ đem cuộn tranh này đến gặp bất cứ tân Huyện lệnh nào được bổ nhiệm đến huyện này.” “Bẩm đại nhân”, Đào Cam chen ngang, “có thể Nghê Tuần phủ chưa bao giờ dặn lại điều đó. Chúng ta chỉ nghe Nghê phu nhân nói những lời đó. Theo ý thuộc hạ, bức mật thư này đã chỉ rõ rằng, Nghê San là một đứa con hoang. Nghê Tuần phủ là người nhân từ và cam chịu, ông ấy muốn ngăn Nghê Kỳ trả thù kẻ đã lừa gạt thân phụ mình. Cùng lúc ấy, ông ấy lại muốn đảm bảo sau này sự thật sẽ được phơi bày. Đó là lý do ông ấy giấu bức thư này trong cuộn tranh. Khi một vị thanh quan khám phá ra, ông ấy sẽ có thể bác bỏ bất cứ đơn kiện nào của Nghê phu nhân đối với Nghê Kỳ.”
Địch Công chăm chú lắng nghe nhận định này. Ông hỏi, “Vậy ngươi sẽ giải thích ra sao khi Nghê phu nhân một mực cho rằng trong cuộn tranh này có bí ẩn cần được giải đáp?” “Nữ nhân”, Đào Cam đáp, “có khả năng ngộ nhận về tầm ảnh hưởng của họ lên nam nhân họ yêu mến. Thuộc hạ tin rằng Nghê phu nhân hi vọng Nghê Tuần phủ có lòng nhân đức mà giấu trong cuộn tranh một văn thư liên quan đến ngân lượng hoặc lời chỉ dẫn để tìm ra số ngân lượng được giấu, để bồi hoàn cho bà ta vì đã mất đi một phần gia sản.” Địch Công lắc đầu. Ông luận giải, “Lời ngươi nói khá hợp lý, nhưng lại không hợp với tính cách của Nghê Tuần phủ. Ta tin rằng mật thư này là giả mạo, do chính Nghê Kỳ tạo ra. Giả thuyết của ta là, Nghê Tuần phủ giấu một vài văn thư không mấy quan trọng trong cuộn tranh này để dẫn Nghê Kỳ đi sai hướng. Như ta đã nói trước đó, đối với Nghê Thọ Kiền, đây là một phương thức tầm thường khi ông ấy muốn giấu điều gì đó thực sự quan trọng. Bên cạnh những manh mối giả, bức tranh này còn có một thông điệp thật được giấu bằng cách khéo léo không ai ngờ tới.” “Vì Nghê Tuần phủ sợ rằng Nghê Kỳ sẽ nghi ngờ cuộn tranh ấy chứa thứ gì giá trị và sẽ tiêu hủy nó, ông ấy đã thêm vào vài văn thư trong lớp vải lót để Nghê Kỳ tìm. Từ đó, ông ấy đảm bảo rằng sau khi Nghê Kỳ tìm ra những thứ đó sẽ không tiếp tục tìm kiếm manh mối thật nữa. Nghê phu nhân bảo ta rằng Nghê Kỳ đã giữ cuộn tranh đó suốt mười ngày liền. Từng đó là đủ thời gian để hắn khám phá ra những văn thư kia. Dù những văn thư kia có là gì, Nghê Kỳ cũng thay thế chúng bằng bức mật thư giả này, từ đó hắn có thể kê cao gối mà ngủ, dù Nghê phu nhân có làm gì với cuộn tranh đó đi nữa.”
Đào Cam gật đầu nói, “Đại nhân, thuộc hạ phải công nhận đó là một giả thuyết rất hợp lý. Nhưng thuộc hạ vẫn nghĩ giả thuyết của mình đơn giản hơn.” “Cũng không quá khó”, Hồng Sư gia nói, “để tìm một mẫu chữ viết của Nghê Tuần phủ. Thật không may, ông ta dùng lối chữ cổ để viết lời đề cho bức tranh phong cảnh ấy.” Địch Công ngầm ngâm nói, “Ta vốn đã định đến gặp Nghê Kỳ dù trong trường hợp nào. Ta sẽ đến đó ngay chiều nay và thử xem một mẫu chữ mà Nghê Tuần phủ thường viết cũng như thiêm danh của ông ấy. Lão Hồng, lão sẽ đến đó ngay bây giờ cùng với danh thiếp của ta và báo trước về chuyến viếng thăm của ta.” Hồng Sư gia và hai người kia đứng dậy rồi lui bước. Trong khi đi qua sân sau, Sư gia nói, “Mã Vinh, ngươi cần một bình trà đắng thật lớn và nóng. Chúng ta sẽ ngồi trong túc xá một lát. Ta không thích rời khỏi huyện nha trước khi chúng ta thấy ngươi tỉnh táo lại!” Mã Vinh đồng ý. Trong túc xá của sai nha, họ thấy Phương Bộ đầu đang ngồi bên một chiếc án vuông, nghiêm nghị trò chuyện với nhi tử của ông ta. Người thanh niên ấy vội đứng dậy khi thấy ba người bước vào và lấy ghế mời ngồi. Tất cả ngồi quây quần và Hồng Sư gia lệnh cho một Bộ khoái đang túc trực đem đến một bình trà đắng. Sau vài câu chuyện phiếm, Phương Bộ đầu nói, “Khi các vị bước vào, tại hạ đang bàn luận với nhi tử về chuyện tìm kiếm trưởng nữ ở nơi nào.” Hồng Sư gia nhấp trà rồi chậm rãi nói, “Phương Bộ đầu, ta không muốn nói về một chuyện khiến Bộ đầu đau lòng. Nhưng ta cảm thấy chúng ta không nên bỏ qua khả năng Bạch Lan có một tình lang bí mật và bỏ trốn cùng y.”
Phương Chính lắc đầu phản đối. Ông ta nói,“Trưởng nữ rất khác biệt với tiểu muội. Huyền Lan bướng bỉnh, có tính cách độc lập. Nó biết chính xác những gì bản thân muốn ngay từ khi mới lẫm chẫm biết đi và thường biết cách để có được những điều đó. Huyền Lan đúng ra phải là một nam nhân. Đổi lại, trưởng nữ Bạch Lan luôn trầm lặng và nhu mì. Tính cách nó mềm mỏng, dễ bảo. Tại hạ đảm bảo rằng nó thậm chí không bao giờ nghĩ đến chuyện có tình lang và một mình trốn đi cùng ai đó!” “Nếu đã như vậy”, Đào Cam lên tiếng, “ta sợ rằng chúng ta phải sẵn sàng cho trường hợp xấu nhất. Có lẽ nào vài tên lưu manh hạ đẳng đã bắt cóc cô nương ấy và bán vào kỹ viện không?” Phương Chính buồn bã gật đầu. Ông ta thở dài nói, “Đúng thế, lão huynh nói rất phải. Tại hạ cũng nghĩ chúng ta nên khám xét những chốn yên hoa phong nguyệt. Các vị đều đã biết ở trấn này có hai nơi như vậy. Một là Bắc Liêu phường, nằm ở góc Tây Bắc trấn. Mỹ nữ ở đó chủ yếu là từ bên kia biên giới, chốn thanh lâu này từng là một nơi phồn hoa trong thời gian quan đạo đi Tây Vực vẫn còn ở huyện Lan Phường. Giờ đây Bắc Liêu đã rơi vào thời kỳ lụn bại, đó là nơi ưa thích mà đám cặn bã trong trấn thường lui tới.” “Còn một nơi khác tên gọi Nam Liêu phường, chỉ phục vụ cho đám khách thượng lưu. Mỹ nữ tại đó đều là nữ nhi Hán tộc, một số còn được học hành tử tế. Bọn họ không giống như đám kỹ nữ và ca nhi ở những đô thành lớn.”
Đào Cam vân vê ba sợi lông trên má trái. “Ta muốn nói, chúng ta nên bắt đầu từ Bắc Liêu. Từ lời Bộ đầu nói, ta nghiệm ra bọn Nam Liêu không dám bắt cóc nữ nhân. Đám khách thượng lưu luôn thận trọng để không phạm luật, chúng mua nữ nhân rất hợp thức.” Mã Vinh đặt tay lên vai Phương Bộ đầu, “Ngay khi đại nhân lo xong vụ sát hại Đinh Tướng quân, tại hạ sẽ xin đại nhân giao việc tìm kiếm trưởng nữ của Phương thúc cho Đào lão huynh và tại hạ. Nếu có người có khả năng tìm ra nàng ấy, đó chắc chắn là tay giang hồ lắm mưu nhiều kế này, nhất là khi tại hạ lại giúp y những việc khó nhọc!” Phương Chính hai mắt đẫm lệ, cảm tạ Mã Vinh. Đúng lúc đó, Huyền Lan bước vào, ăn vận kín đáo như một tỳ nữ. “Tiểu muội, mọi việc thế nào?” Mã Vinh hỏi. Huyền Lan không để mắt tới y. Nàng cúi đầu chào Phương Chính và nói, “Thân phụ, con phải đến trình báo với đại nhân. Thân phụ đưa con đến đó được không?” Phương Chính đứng dậy và xin cáo từ. Hồng Sư gia đi báo tin cho Nghê Kỳ về chuyến thăm của Địch Công, Phương Bộ đầu băng qua sân sau, Huyền Lan theo gót thân phụ. Hai người thấy Địch Công đang ngồi một mình trong phòng, hai tay chống cằm. Ông đang chìm sâu trong suy tư. Huyện lệnh vừa ngẩng lên thì thấy Phương Chính và tiểu nữ, khuôn mặt ông rạng rỡ hẳn. Ông đáp lễ họ bằng một cái gật đầu thân mật rồi hồ hởi nói, “Cô nương cứ từ tốn mà kể cho ta mọi chuyện trong Đinh gia trang!”
“Bẩm đại nhân”, Huyền Lan bắt đầu, “chắc chắn Đinh lão Tướng quân rất sợ có kẻ lấy mạng mình. Những tỳ nữ trong Đinh gia trang kể rằng, mọi thực phẩm đều phải đem cho chó ăn trước để kiểm tra xem có bị bỏ độc không. Cổng chính và các cửa bên đều bị khóa cả ngày lẫn đêm, đám gia nhân thấy rất phiền toái khi họ phải khóa cửa mỗi khi có khách hay thương gia đến gia trang này. Đám gia nhân không hề thích làm việc ở đó, ai cũng bị Đinh lão Tướng quân nghi ngờ và bị thiếu chủ nhân hạch hỏi kỹ lưỡng. Họ không muốn ở lại đó thêm vài tháng nữa.” “Hãy nói về gia quyến của Đinh lão tướng quân đi!” Địch Công giục. “Đại phu nhân đã qua đời vài năm trước, giờ đây nhị phu nhân quán xuyến mọi chuyện. Bà ấy luôn lo sợ vì những người khác không cư xử kính cẩn với mình và bà ấy cũng không phải vị phu nhân dễ tính để họ phục vụ. Tam phu nhân là người không có học thức, to béo và lười nhác, nhưng cũng không khó để hầu hạ cho vừa ý. Tứ phu nhân còn rất trẻ, Đinh lão gia gặp bà ấy khi đến huyện Lan Phường. Tiểu nữ cho rằng bà ấy là kiểu nữ nhân mà mọi nam nhân đều yêu thích. Nhưng trong khi phu nhân thay y phục sáng nay tiểu nữ nhận thấy phu nhân có một nốt ruồi vô duyên trên ngực trái. Tứ phu nhân chủ yếu dành thời giờ trong ngày để ngồi điểm trang trước gương, không thì tìm cách lừa lấy ngân lượng ở chỗ nhị phu nhân.” “Công tử Đinh Y sống với thê tử ở một viện tử nhỏ tách biệt. Họ không có con cái. Thiếu phu nhân không phải người có nhan sắc, lại nhiều hơn phu quân vài tuổi. Nhưng gia nhân nói bà ấy là người giỏi giang và đọc nhiều sách. Công tử thỉnh thoảng lại ngỏ ý muốn có thêm thê thiếp, nhưng thiếu phu nhân không bao giờ chấp nhận. Đinh công tử nhân lúc này đang tìm cách ve vãn những tỳ nữ nhưng không mấy khi thành công. Không ai muốn làm việc ở đó nữa, các tỳ nữ cũng không quan tâm mình có làm mất lòng công tử hay không. Sáng nay, khi đang lau dọn phòng của Đinh Y, tiểu nữ có lục lọi sơ qua những tín thư của anh ta.”
“Ta đâu có sai cô nương làm việc đó”, Địch Công khó chịu. Phương Chính nhìn tiểu nữ giận dữ. Huyền Lan đỏ bừng mặt và vội kể tiếp, “Tiểu nữ thấy trong cùng ngăn bàn có một bọc thơ và tín thư do Đinh Y viết. Văn phong rất khó đọc đối với tiểu nữ, nhưng tiểu nữ có đọc được đôi câu mà mình thấy dễ hiểu, nội dung rất dị thường. Tiểu nữ đem theo bọc thư đó về để trình lên đại nhân.” Vừa nói, nàng vừa đưa bàn tay mảnh mai vào ống tay áo và lấy ra một tập giấy. Nàng kính cẩn cúi đầu trao nó cho Địch Công. Địch Công nhìn Phương Chính đang tức giận với ánh mắt khôi hài, rồi xem qua tập giấy. Ông đặt tập giấy xuống và bảo, “Những bài thơ này nói về một mối tình bị cấm đoán, từ ngữ nồng nàn say đắm như thế này thì đúng là cô nương không thể hiểu được. Những lá thư có nội dung giống nhau và đều ký ‘Đinh Y quỳ gối cúi đầu trước nàng’. Có vẻ như Đinh công tử viết những bài thơ này để bày tỏ hết những tình cảm nồng nàn của mình, vì có người không bao giờ biết đến những tình cảm ấy.” “Y hầu như không viết những lời như vậy cho một nữ sĩ như thiếu phu nhân đâu!” Huyền Lan lên tiếng. Phương Chính bạt tai nàng và quát, “Sao con dám nói khi chưa được hỏi, đồ hỗn xược!“Quay sang Địch Công, ông ta vội xin lỗi, “Thưa đại nhân, cũng chỉ vì tệ nội không còn sống để dạy bảo nó!” Địch Công cười. “Phương Bộ đầu, khi chúng ta phá xong vụ án này, ta sẽ đứng ra chủ trì hôn sự cho tiểu nữ của ngươi. Không gì thích hợp hơn một thiếu nữ bướng bỉnh lại an ổn với công việc nội trợ thường nhật.”
Phương Chính kính cẩn bái tạ Địch Công. Huyền Lan có vẻ giận nhưng không dám nói. Dùng ngón trỏ gõ gõ vào tập giấy, Địch Công nói, “Ta sẽ sao chép tập thơ này ngay lập tức. Chiều nay, cô nương phải trả nó về đúng nơi tìm thấy. Cô nương không được phép hành sự bất cẩn! Luôn lắng nghe và quan sát, nhưng phải cẩn trọng khi tò mò xem xét những ngăn bàn và rương hòm đã khóa. Ngày mai hãy về trình báo với ta.” Trong khi Phương Chính và Huyền Lan rời khỏi phòng, Địch Công gọi Đào Cam vào. Ông nói, “Ở đây ta có một tập thơ và thư từ. Ngươi hãy sao chép chúng thật cẩn thận và từ những tình cảm nồng nàn tuôn trào này, hãy thử luận ra vài manh mối về danh tính vị cô nương được nhắc đến.” Đào Cam đọc lướt qua tập thơ, chân mày dựng lên. HỒI 13 Địch Công ghé thăm Nghê gia trang Nghê Kỳ tiếp chuyện Địch Huyện lệnh Địch Công đến gia trang của Nghê Kỳ, chỉ có Hồng Sư gia và bốn Bộ khoái đi cùng. Kiệu vừa đi qua cây cầu bằng cẩm thạch, ông nhìn lên tòa tháp Cửu Trùng sừng sững bên trái hồ sen và trầm trồ khen ngợi. Kiệu rẽ sang hướng Tây và đi dọc theo con sông cho đến khi đến góc Tây phía Đông thành không người qua lại. Gia trang của Nghê Kỳ đứng biệt lập trên phần kéo dài của bãi đất trống. Địch Công nhớ rằng xung quanh nhà họ Nghê là một bức tường đồ sộ. Ông nghĩ nơi ấy gần với thủy môn; người dân thích sở hữu những ngôi nhà vững chãi đề phòng đám dị tộc tập kích vào thành thông qua đường sông.
Hồng Sư gia vừa đến gõ cổng, những cánh cửa kép liền mở ra. Hai người gác cửa vái chào khi kiệu của Địch Công tiến vào sân chính. Khi Địch Công bước xuống, một người mập mạp từ bậc thềm sảnh tiếp khách vội chạy xuống. Hắn có khuôn mặt tròn rộng, ria mép ngắn và nhọn. Đôi mắt ti hi luôn đảo qua đảo lại dưới cặp chân mày mỏng, phù hợp với cử chỉ nhanh nhẹn và giọng nói hấp tấp của hắn. Hắn kính cẩn chào rồi nói, “Bẩm đại nhân, thảo dân là Nghê Kỳ, chủ của gia trang. Đại nhân đại giá quả là vinh dự cho tệ trang. Mời đại nhân hạ cố vào trong!” 👁 Nghê Kỳ đón tiếp Địch Công Nghê Kỳ dẫn Địch Công tiến lên thềm và qua cánh cửa lớn của sảnh tiếp khách. Hắn mời khách ngồi ở vị trí danh dự trước đại án kê sát tường, trông như một bệ thờ. Địch Công nhìn qua thì thấy sảnh này được bài trí khá yên tĩnh và tao nhã. Ông đoán toàn bộ số đồ đạc cổ ở đây cũng như những bức tranh trên tường đều là do Tuần phủ Nghê Thọ Kiền sưu tầm được. Trong lúc một gia nhân rót trà vào bộ chén cổ quý giá, Địch Công mở lời, “Bản quan luôn có thói quen đến thăm những vị hương thân trong huyện mà mình nhậm chức. Đối với trang chủ, thật hân hạnh vì ta vẫn mong được gặp nhi tử của một vị đại quan lỗi lạc như Tuần phủ Nghê Thọ Kiền.” Nghê Kỳ bật dậy khỏi ghế. Hắn vội vái ba vái trước Địch Công. Vừa ngồi xuống, hắn lại liến láu, “Vạn lần tạ ơn những lời sâu sắc của đại nhân! Quả có vậy, gia phụ đúng là một người xuất chúng, xuất chúng nhất trên đời! Thật bất hạnh là thảo dân không xứng làm nhi tử của người cha kỳ tài ấy! Ôi, tài năng thực sự đều là thiên phú. Tài năng có thể được nâng tầm thông qua dùi mài kinh sử. Tuy nhiên, nếu nói về thảo dân, căn cơ của thảo dân không phải ở đó, học hành từ sáng đến đêm thì cũng chẳng có ích gì. Nhưng thảo dân hi vọng mình ít nhất cũng dám khẳng định rằng, thảo dân cũng biết được những hạn chế của mình. Thảo dân không phải người bẩm sinh giỏi giang, bởi thế thảo dân không bao giờ dám vươn cao. Thảo dân chỉ sống những ngày tháng yên bình, chăm sóc trang viên và gia quyến của mình!”
Hắn vừa mỉm cười đầy vẻ xun xoe, vừa xoa hai bàn tay mập mạp vào nhau. Địch Công định nói thì Nghê Kỳ đã cướp lời, “Thảo dân hổ thẹn mà thưa rằng, mình không xứng đáng được trò chuyện với người có học vấn như đại nhân. Hơn cả, cũng vì thảo dân thấy vinh hạnh vô cùng khi một Huyện lệnh trứ danh hạ cố đến tệ trang. Thảo dân cúi mình chúc mừng đại nhân đã nhanh chóng bắt giữ được tên ác bá Tiền Mưu. Thật là một chiến công hiển hách! Những vị cựu Huyện lệnh chỉ toàn cung phụng Tiền Mưu. Thật đáng hận ngàn đời! Thảo dân còn nhớ rõ, gia phụ hay buông lời khinh miệt sự hèn kém của đám quan lại non trẻ. Đương nhiên, đại nhân là một ngoại lệ. Thảo dân định nói là, nổi danh như…” Nghê Kỳ ngập ngừng một lát. Địch Công vội chen ngang, “Nghê đại nhân chắc hẳn để lại cho trang chủ nhiều tài sản?” “Quả có vậy! Và bất hạnh thay thảo dân lại là kẻ khá ngốc nghếch! Thực tế, thảo dân luôn mất thời gian để chăm lo cho gia trang. Và những người đến thuê mượn, thưa đại nhân, những người đến thuê! Đương nhiên họ là những người khá trung thực, thảo dân dám nói như vậy, nhưng luôn nợ tiền thuê nhà! Và đám gia nhân người vùng này, khác hẳn với đám người ở kinh thành! Thảo dân luôn nói…” “Bản quan được biết”, Địch Công khẳng định, “trang chủ có một khu đất rất đẹp bên ngoài cổng thành phía Đông.” “Ôi, đúng rồi”, Nghê Kỳ đáp, “đúng thế, đó là một mảnh đất đầy phúc lành.” Rồi lần đầu tiên, hắn không giải thích gì thêm.
“Một ngày nào đó, ta muốn đến thăm mê cung nổi tiếng ở đó.” “Hân hạnh! Hân hạnh!” Nghê Kỳ hồ hởi. “Thật không may nơi đó là khu đất xấu. Thảo dân muốn xây dựng lại trang viên tại đó nhưng gia phụ không muốn, thậm chí còn ra lệnh không được động vào bất cứ thứ gì ở đó. Đúng thế, thưa đại nhân, thảo dân là kẻ ngốc, nhưng thảo dân mong mình cũng không phải kẻ thiếu chữ hiếu. Gia phụ có để vợ chồng một lão môn đinh ở đó trông nom, những gia nhân lâu năm và trung thành, nhưng họ không đủ khả năng trông coi khu đất ấy. Nhưng đại nhân biết những lão gia nhân như vậy thì ra sao rồi, có thể tạm hiểu rằng họ không có gì phải lo lắng. Thực tế là thảo dân chưa hề đặt chân đến đó, đại nhân nên hiểu là, hai người già đó có thể nghĩ…” “Ta thực sự thích thú với mê cung ấy”, Địch Công nhẫn nại nói. “Ta nghe nói nó được bố trí vô cùng tài tình. Trang chủ đã bao giờ vào trong chưa?” Cặp mắt nhỏ tí của Nghê Kỳ lóe lên một ánh nhìn không vui. “Không, phải nói là… Không, thảo dân chưa bao giờ dám vào trong. Xin kể đại nhân nghe sự thật, gia phụ vô cùng tường tận mê cung ấy. Chỉ riêng ông ấy biết rõ bí mật…” “Bản quan cho rằng”, Địch Công nói với vẻ tình cờ, “quả phụ của Nghê lão thái công biết rõ bí mật mê cung ấy?” “Thật đáng buồn!” Nghê kỳ than, “Đại nhân cũng đã biết là gia mẫu đã qua đời từ khi thảo dân còn rất nhỏ. Thật không may! Gia mẫu mất sau một thời gian dài bệnh nặng!”
“Thực sự là, ta muốn nói đến kế thất của Nghê đại nhân, kế mẫu của trang chủ.” Nghê Kỳ lại bật dậy khỏi ghế với một sự nhanh nhẹn lạ lùng. Vừa đi lại trước mặt Địch Công, hắn vừa thao thao, “Cũng thật đáng buồn! Thật không may khi lại phải nói về chuyện đó! Đại nhân cũng hiểu sẽ đau đớn thế nào khi một hiếu tử buộc phải thừa nhận một người tài ba như gia phụ lại vẫn phạm sai lầm. Thảo dân xin nói thêm đó một sai lầm rất đời thường, và người ta chỉ phạm phải do bản tính rộng lượng, nhân từ.” “Trời ơi, thưa đại nhân, gia phụ để mình bị một ả đàn bà độc ác quỷ quyệt đánh lừa. Bà ta đã chạm được đến lòng thương của gia phụ và ông ấy đã đưa bà ta về. Ôi, người đàn bà này! Thay vì tỏ ra biết ơn, bà ta lại lừa bịp ông ấy, có trời mới biết nhân tình của bà ta là tên vô lại trẻ tuổi nào. Đại nhân à, tội thông gian, một thứ tội xấu xa đáng ghê tởm! Gia phụ biết, nhưng âm thầm chịu đựng. Ông ấy không thổ lộ nỗi buồn với ai, kể cả với con đẻ của mình là thảo dân. Chỉ khi trên giường bệnh, khi trăn trối, cuối cùng ông ấy mới thổ lộ đó là một sai lầm khủng khiếp!” Địch Công định nói gì đó nhưng Nghê Kỳ tiếp tục, “Thảo dân biết đại nhân sẽ nói ‘ta sẽ xét xử người đàn bà đó ở huyện nha’, nhưng thảo dân không thể chịu được cái cảnh chuyện riêng của gia phụ bị đưa ra trước huyện nha, giữa đám dân chúng thô thiển. Thảo dân không sao chịu nổi!”
Nghê Kỳ đưa hai tay lên che mặt. “Thật vô cùng đáng tiếc”, Địch Công thẳng thắn nói, “chuyện này sẽ phải đem ra phán xử trước huyện nha. Kế mẫu của trang chủ đã làm đơn kiện trang chủ, bà ấy muốn làm rõ chúc thư và đòi lại một nửa gia sản.” “Thật là kẻ vô ơn bạc nghĩa”, Nghê Kỳ thốt lên, “thật không còn lời lẽ nào để diễn tả! Đại nhân, bà ta đúng là con hồ ly tinh! Không người bình thường nào có thể hèn hạ đến vậy!” Y bật ra những tiếng thổn thức. Địch Công chậm rãi uống hết chén trà. Ông đợi đến khi Nghê Kỳ ngồi xuống và bình tĩnh lại. Rồi ông nói bằng giọng tâm tình, “Bản quan lấy làm tiếc vì chưa bao giờ có cơ hội được gặp Nghê đại nhân. Nhưng một người sẽ còn lưu lại hồn cốt trên chữ viết. Phiền trang chủ cho bản quan xem một số mẫu thư pháp của lão gia được không? Đại nhân vốn nổi tiếng thư pháp mà.” “À!” Nghê Kỳ thốt lên, “lại một điều không may nữa! Xấu hổ mà nói, thảo dân không thể đáp ứng yêu cầu của đại nhân! Đây lại là một điểm dị thường nữa của gia phụ. Không, cứ để thảo dân nói thẳng, một bằng chứng khác cho sự khiêm tốn tột cùng của ông ấy. Khi biết mình không thể qua khỏi, ông bắt thảo dân đốt hết mọi văn thư mình viết đi. Ông ấy không muốn lưu lại nét bút của mình, mà rõ ràng xứng đáng lưu lại cho hậu thế. Những nét bút thật hùng hồn!” Địch Công lẩm bẩm bình phẩm một câu. Rồi ông lại hỏi, “Nghê Tuần phủ vốn đã nổi danh, vậy bản quan cho rằng có nhiều người ở huyện Lan Phường là bằng hữu của ông ấy?”
Nghê Kỳ nhếch mép cười, đáp, “Chốn biên cương này không có lấy một người mà gia phụ muốn trò chuyện. Đương nhiên là ngoại trừ đại nhân! Sao gia phụ lại mong được trò chuyện với đại nhân đến vậy! Ông ấy luôn quan tâm đến chuyện trị dân trị nước… Không, gia phụ chỉ luôn giam mình trong thư phòng và dành thời gian thư nhàn để giám sát công việc của các nông phu trên đất của mình. Đó là lý do người đàn bà đó có thể quyến rũ ông…. Ôi, ôi, sao thảo dân lại nói những chuyện vô nghĩa này!” Nghê Kỳ vỗ tay và bảo gia nhân đem thêm trà. Địch Công lặng lẽ vuốt râu. Ông nghĩ vị gia chủ này là một người vô cùng tinh khôn. Hắn nói nhiều mà gần như chẳng nói gì. Trong khi Nghê Kỳ cứ liên tục nói những câu ngây ngô như trẻ con về khí hậu khắc nghiệt của huyện Lan Phường, Địch Công chậm rãi nhấp trà. Bất chợt, ông hỏi, “Nghê Tuần phủ vẽ tranh ở nơi nào?” Nghê Kỳ nhìn vị khách bằng ánh mắt hoang mang. Hắn chần chừ không đáp, sau đó xoa cằm rồi trả lời, “Gia phụ không hẳn là một danh họa… Để thảo dân xem nào. Đúng rồi, gia phụ vẽ tranh ở một tòa tiểu đình phía sau trang viên ở ngoại thành. Một nơi rất đẹp, ngay phía sau khu vườn, gần lối vào mê cung. Thảo dân tin rằng án thư lớn mà gia phụ dùng để ngồi vẽ vẫn còn đó. Ít nhất là nếu lão môn đinh có chăm chút cho nó. Đại nhân biết đấy, những gia nhân già như vậy…” Địch Công đứng dậy. Nghê Kỳ một mực mời ông ở lại thêm. Hắn lại định kể thêm một câu chuyện rắc rối nữa. Khó khăn lắm Địch Công mới có thể cáo biệt gia chủ.
Hồng Sư gia đang đợi ông ở chỗ người gác cổng. Hai người trở lại huyện nha. Địch Công vừa ngồi xuống bên án thư đã buông tiếng thở dài. Ông than thở, “Tên Nghê Kỳ này thật khiến người ta mệt mỏi!” “Đại nhân có khám phá ra điều gì mới không?” “Không, nhưng Nghê Kỳ có nói ra đôi ba điều có vẻ quan trọng. Ta không lấy được mẫu thủ bút nào của Nghê Tuần phủ để so sánh với bản chúc thư mà Đào Cam tìm được trong cuộn tranh. Nghê Kỳ khẳng định thân phụ mình đã ra lệnh đốt hết những văn thư viết tay sau khi ông ấy qua đời. Ta nghĩ có thể các bằng hữu của Nghê Thọ Kiền ở huyện Lan Phường có thể sở hữu thủ bút của ông ấy, nhưng Nghê Kỳ quả quyết thân phụ mình không có lấy một vị bằng hữu. Sư gia thấy trang viên đó thế nào?” “Trong khi đứng đợi ngoài cổng”, Hồng Sư gia đáp, “lão phu có nói chuyện rất lâu với hai người gác cổng. Họ nghĩ chủ nhân của mình có phần kỳ dị. Hắn là người lập dị giống thân phụ mình nhưng lại thiếu trí tuệ sáng suốt của Nghê Tuần phủ. Dù Nghê Kỳ không thích tập luyện gân cốt, y lại thích võ thuật, suất giao* và kiếm thuật. Hầu hết gia nhân trong gia trang đều được lựa chọn nhờ năng lực thể chất. Nghê Kỳ thích nhất là xem họ luyện tập. Y biến sân sau thứ hai của gia trang thành một dạng đấu trường và hay ngồi đó hàng giờ, cổ vũ những đấu thủ và tặng thưởng cho người thắng cuộc.” Suất giao: cử tạ. Địch Công khẽ gật đầu. Ông nhận định, “Những kẻ yếu đuối sẽ hay tôn kính thái quá đối với sức mạnh thể chất.”
“Đám gia nhân nói”, Sư gia kể tiếp, “Nghê Kỳ từng mua chuộc kiếm sư giỏi nhất ở gia trang của Tiền Mưu bằng cách trả cho hắn số tiền lớn. Tiền Mưu rất tức giận. Nghê Kỳ không phải kẻ có gan, ngày nào hắn cũng sợ đám dị tộc sẽ đến tấn công vào huyện. Đó là lý do hắn một mực muốn gia nhân phải là những đấu sĩ thiện chiến. Hắn thậm chí còn thuê hai dũng sĩ người Duy Ngô Nhĩ từ bên kia sông đến để dạy đám gia nhân về phương pháp chiến đấu của người Duy Ngô Nhĩ!” “Gia nhân có nói gì về thái độ của Nghê Tuần phủ với Nghê Kỳ không?” Địch Công hỏi. “Nghê Kỳ chắc chắn rất kính sợ thân phụ mình. Kể cả khi Nghê đại nhân qua đời thì điều đó cũng không thay đổi. Sau đám tang, Nghê Kỳ cho những gia nhân lâu năm ra đi vì họ khiến hắn nhớ đến hình ảnh đáng buồn của Nghê Tuần phủ. Nghê Kỳ thực hiện mọi lời di huấn của thân phụ không sót điều gì, bao gồm cả mọi việc ở trang viên ngoại thành, mọi thứ đều đâu ra đấy. Nghê Kỳ chưa bao giờ đến đó từ sau khi thân phụ qua đời. Gia nhân nói hắn sẽ biến sắc mặt nếu một ai nhắc đến nơi đó!” Địch Công vuốt râu, trầm ngâm nói, “Trong những ngày này, ta sẽ đến thăm trang viên ấy và quan sát mê cung trứ danh kia. Trong thời gian đó, Sư gia hãy đi hỏi xem Nghê phu nhân và nhi tử đang sống ở đâu và mời họ đến gặp ta. Có thể, Nghê phu nhân vẫn giữ một số bút tích của Nghê Tuần phủ. Sau đó, ta có thể xác định lời của Nghê Kỳ khi cho rằng thân phụ hắn không có bằng hữu nào ở huyện Lan Phường.”
“Đối với vụ giết Phan Huyện lệnh, ta vẫn không hoàn toàn từ bỏ hi vọng có được một manh mối về vị khách bí ẩn của Tiền Mưu. Ta đã giao cho Kiều Thái việc thẩm vấn mọi gia đinh cũ trong nhà Tiền Mưu, Phương Chính sẽ thẩm tra hai gã môn khách của Tiền Mưu trong nhà lao. Ta cũng sẽ xem xét đến việc cử Mã Vinh đi điều tra những sào huyệt của đám lưu manh hạ đẳng trong trấn này. Nếu chính là kẻ bí ẩn kia sát hại Phan đại nhân, hắn chắc chắn phải có kẻ đồng mưu.” “Đại nhân”, Hồng Sư gia đề nghị, “Mã Vinh có thể dò hỏi về trưởng nữ Bạch Lan của Phương Bộ đầu. Bọn lão đã nói chuyện đó với Phương Chính sáng nay và ông ta cũng thừa nhận, rất có thể Bạch Lan đã bị bắt cóc để bán vào kỹ viện.” Địch Công thở dài, “Đúng thế, ta e là cô nương tội nghiệp ấy thực sự đã gặp chuyện không may đó.” Một lát sau, Địch Công nói tiếp, “Chúng ta vẫn chưa có tiến triển gì về vụ giết Đinh lão Tướng quân. Ta sẽ lệnh cho Đào Cam ngay tối nay đến chùa Tam Bảo và xem Ngô Phong và nữ nhân bí ẩn mà y thích vẽ có xuất hiện không.” Địch Công lấy một tờ giấy từ chồng văn thư mà Đào Cam đã mang về khi ông đi vắng. Tuy nhiên, Hồng Sư gia dường như còn chưa muốn đi. Do dự một lát, lão nói, “Đại nhân, lão phu cứ băn khoăn mãi về những gì chúng ta quan sát được trong thư phòng của Đinh lão tướng quân. Càng nghĩ, lão phu càng tin rằng manh mối cho vụ án này sẽ được tìm thấy ở đó!”
Địch Công đặt tờ giấy xuống và chăm chú nhìn Hồng Lượng. Ông mở chiếc tráp nhỏ sơn son và lấy ra bản sao của con dao găm mà Đào Cam đã làm cho ông. Đặt nó lên lòng bàn tay, ông chậm rãi nói, “Lão biết ta không giấu lão điều gì mà. Dù ta đang cân nhắc nhiều giả thuyết mơ hồ về căn nguyên vụ giết Đinh Hổ Quốc, ta phải thẳng thắn nói rằng ta không hề có bất cứ ý niệm nào về cách sử dụng loại dao này, hoặc cách tên sát thủ đã vào ra thư phòng!” Cả hai người chìm vào yên lặng một lát. Rồi Địch Công bỗng đưa ra quyết định. “Lão Hồng, sáng mai, chúng ta sẽ trở lại Đinh gia trang và khám xét thư phòng ấy. Có thể lão đã đúng và đó chính nơi là chúng ta phải tìm ra lời giải cho vụ án này!” HỒI 14 Địch Nhân Kiệt trở lại hiện trường Hộp mơ độc tố cáo Ngô Phong Sáng hôm sau, thời tiết trong lành. Hứa hẹn một ngày nắng ấm và sáng sủa. Sau khi dùng điểm tâm, Địch Công cho Hồng Lượng biết ông định đi bộ đến Đinh gia trang. “Ta sẽ bảo Đào Cam đi cùng”, Địch Công nói thêm. “Đi bộ cũng như giúp y luyện tập!” Hai người rời khỏi huyện nha bằng cổng phía Đông. Địch Công không báo trước cho Đinh Y về việc ông định đến thăm. Họ thấy toàn gia trang đang nghi ngút hương khói chuẩn bị cho việc mai táng. Quản gia dẫn Địch Công cùng hai bằng hữu vào một phòng bên. Đại sảnh đã chuyển thành nơi cử hành tang lễ, tại đó, thi thể Đinh Hổ Quốc được đặt nghiêm chỉnh trong một chiếc áo quan lớn bằng gỗ có sơn son, trước mặt có mười hai tăng nhân đang tụng kinh siêu độ. Những lời kinh ảo não và tiếng mõ dội lại trong trang viên, không khí cũng nặng mùi hương trầm.
Địch Công nhận thấy trong hành lang có một tiểu án xếp hàng chồng những món lễ vật, tất cả đều bọc giấy đỏ kèm thư chúc mừng. Quản gia thấy ánh mắt ngạc nhiên của Địch Công thì vội xin tạ lỗi. Ông ta nói những lễ phẩm này thật chướng mắt, sẽ phải bị đem vứt bỏ từ lâu nếu những gia nhân không bận rộn chuẩn bị tang lễ cho Đinh lão tướng quân. Đinh Y lao vào phòng, mặc bộ đồ tang bằng vải gai trắng. Anh ta luôn miệng xin thứ lỗi vì cảnh tang gia bối rối. Địch Công ngắt lời. “Hôm nay và ngày mai, ta sẽ xét xử vụ án của nhà công tử ở huyện nha. Có hai hoặc ba điểm ta muốn xác minh rõ, nên mới quyết định đến thăm công tử đường đột như vậy. Giờ ta sẽ xem xét thư phòng của lão Tướng quân một lần nữa. Công tử không cần phải đi cùng ta.” Họ thấy có hai Bộ khoái đứng gác trên hành lang tối tăm dẫn đến thư phòng. Hai người trình báo, không có ai dám bén mảng đến nơi này. Địch Công bóc dấu niêm phong và mở cửa. Ông vội lùi lại và đưa ống tay dài lên che mặt. Một thứ mùi ghê gớm xộc vào cánh mũi. “Có thứ gì đó đã chết trong này”, Địch Công bảo. “Đào Cam, mau đến đại sảnh, xin mấy vị tăng nhân vài cây hương Tây Trúc!” Đào Cam vội đi ngay. Lát sau, y trở lại, mỗi tay cầm ba cây hương đã đốt. Bó hương tỏa khói mù mịt với thứ mùi sắc. Địch Công đón lấy và lại bước vào thư phòng, tay khua bó hương, đến nỗi một làn khói xanh bao phủ lấy ông. Sư gia và Đào Cam đợi bên ngoài.
Lát sau, Địch Công trở ra. Ông đang cầm cây gậy hai chạc dùng để treo những bức tranh cuộn lên tường. Ở đầu gậy cắm một nửa con chuột đã thối rữa. Ông đưa cây gậy cho Đào Cam và ra lệnh, “Bảo Bộ khoái bỏ con vật này vào hộp rồi phong kín!” Huyện lệnh vẫn đứng trước ngưỡng cửa. Ông đã cắm bó hương vào ống bút trên án. Làn khói nhè nhẹ trôi ra cửa. Trong khi đợi cho mùi hôi thối bay đi hết, Hồng Sư gia mỉm cười bảo, “Đại nhân, con vật đó làm lão phu sợ chết khiếp!” Vẻ mặt Địch Công trở nên thâm trầm. “Lão Hồng à, sau khi bước vào phòng, lão sẽ không cười nổi đâu. Trong đó chỉ toàn là âm hồn của người chết đầy đau đớn!” Khi Đào Cam trở lại, ba người cùng vào thư phòng. Địch Công chỉ một hộp giấy cứng nhỏ nằm trên sàn và nói, “Hôm nọ, ta đã để chiếc hộp này trên án thư, bên cạnh nghiên mực. Đó chính là hộp mơ tẩm đường được tìm thấy trong tay áo Đinh tướng quân. Một con chuột đã ngửi thấy. Xem đi, có thể trông thấy rõ ràng từng dấu chân chuột nhỏ xíu in trên mặt bụi dưới chân án thư.” Địch Công ngừng lại và cẩn thận dùng hai ngón tay nhặt chiếc hộp lên. Ông đặt nó lên án thư. Họ thấy một góc vỏ hộp đã bị gặm. Địch Công mở chiếc hộp. Một trong số chín quả mơ đã biến mất. “Đây là hung khí thứ hai của tên sát thủ”, Địch Công nghiêm mặt nói. “Những trái mơ này đã được tẩm độc!” Ông ra lệnh cho Đào Cam, “Tìm trái mơ còn lại trên sàn đi. Nhớ đừng chạm vào nó!”
Đào Cam quỳ gối tìm. Y thấy trái mơ ấy đã bị ăn một nửa, dưới chân một kệ sách. Địch Công gỡ chiếc tăm cắm trên y phục của mình và cắm vào trái mơ. Ông bỏ lại trái mơ vào hộp và đậy lại. “Bọc chiếc hộp này vào giấy dầu”, ông bảo Hồng Sư gia. “Chúng ta sẽ đưa nó về huyện nha để điều tra thêm.” Địch Công nhìn quanh rồi lắc đầu nói, “Chúng ta sẽ trở lại huyện nha. Đào Cam hãy niêm phong cửa phòng lại và hai Bộ khoái vẫn phải canh gác bên ngoài.” Họ lặng lẽ ra về. Vừa vào đến thư phòng, Địch Công bảo người đem trà nóng lên. Ông ngồi xuống bên án thư. Đào Cam và Hồng Lượng cũng ngồi xuống ghế. Rồi Địch Công nói, “Lão hãy cho người ra ngoài gọi Ngỗ tác đến đây!” Sư gia đi khỏi, Địch Công bảo Đào Cam, “Vụ án mạng này ngày càng trở nên phức tạp. Thậm chí trước khi chúng ta xác định được hung thủ đã gây án thế nào, chúng ta lại thấy hắn có một loại hung khí thứ hai để dự phòng. Ngay khi phát hiện ra bị cáo Ngô Phong có một nữ nhân bí ẩn, chúng ta cũng biết thêm là nguyên cáo Đinh Y cũng có một tình nương bí mật!” “Đại nhân”, Đào Cam nói với vẻ tinh ranh, “Có thể nào hai vị cô nương đó cùng là một người không? Nếu Ngô Phong và Đinh Y là tình địch, vậy thì lời buộc tội của Đinh Y có phần sáng tỏ rồi!” Địch Công có vẻ vui mừng. “Đó là một gợi ý hay!” Dừng lại một lát, Đào Cam nói tiếp, “Thuộc hạ vẫn không thể hiểu bằng cách nào mà hung thủ khiến Đinh Tướng quân nhận chiếc hộp có toàn mơ tẩm độc! Hung thủ phải là người đích thân đưa nó cho ông ta. Chúng ta thấy có một loạt tặng phẩm ngoài hành lang. Hung thủ không thể để hộp mơ ở đó, vì làm sao hắn biết Đinh Tướng quân sẽ chọn hộp nào? Hộp mơ ấy chỉ có thể do chính Đinh Y hoặc ai đó trong nhà đem đến.”
“Vậy thì, tại sao hung thủ không lấy chiếc hộp trong tay áo Đinh Tướng quân sau khi giết ông ta? Tại sao lại bỏ lại một phần chứng cớ ở hiện trường vụ án?” Đào Cam lắc đầu bối rối. Một lát sau, y nói, “Chúng ta đôi khi vẫn phải đối mặt với nhiều câu hỏi nan giải cùng thời điểm. Ngoại trừ vụ án mạng này, chúng ta còn có thông điệp ẩn giấu trong bức tranh phong cảnh trên tường, vị khách bí ẩn ở nhà Tiền Mưu vẫn đang nhởn nhơ ngoài kia và âm mưu chuyện gì thì chỉ có trời mới biết. Hoàn toàn không có manh mối nào để xác định danh tính của hắn sao?” Địch Công cười nhạt. “Hoàn toàn không. Đêm qua, Kiều Thái bảo rằng y đã thẩm tra đám gia đinh và hai tên môn khách của nhà Tiền Mưu. Không kẻ nào cung cấp được bất cứ thông tin gì. Vị khách bí ẩn kia luôn đến lúc nửa đêm và mặc áo choàng dài che kín thân thể. Hắn chưa bao giờ nói một lời. Phần dưới khuôn mặt hắn được khăn quàng che kín, phần trên thì chìm trong bóng đen của khăn đội đầu. Hắn thậm chí không chìa tay ra, tay hắn luôn giấu trong ống áo!” Ba người uống thêm một chén trà nữa. Rồi một gia đinh vào báo Ngỗ tác đã đến. Địch Công nhìn lão bằng ánh mắt sắc lạnh. “Hôm trước, khi khám nghiệm xác Đinh Tướng quân, ngươi có chỉ ra rằng chất kịch độc phát tác từ bên trong có thể xác định được là loại nào. Giờ ta có một hộp mơ tẩm đường. Một con chuột đã ăn một nửa quả mơ và chết ngay lập tức. Ngươi hãy xem xét những trái mơ này trước mặt ta và thử xác định xem bên trong có chứa loại độc nào. Nếu cần thiết, ngươi có thể khám xét cả con chuột chết kia.”
Địch Công đưa hộp mơ cho Ngỗ tác. Lão nhân mở bọc nhỏ lão mang theo và lấy ra một gói da. Trong đó là bộ dao mỏng lưỡi ngắn và cán dài. Lão chọn lấy một con dao có lưỡi cực sắc, rồi lấy tập giấy thấm màu trắng hình vuông trong tay áo ra và đặt lên một góc án thư. Lão dùng kẹp gắp trái mơ mà con chuột đã ăn, đặt nó lên một mảnh giấy. Bằng động tác vô cùng khéo léo, lão cắt phần cùi mơ thành từng lát mỏng dính như tờ giấy lụa. Địch Công và hai trợ thủ nôn nóng dõi theo từng cử chỉ. Ngỗ tác dùng lưỡi dao rải từng lát mơ lên tập giấy thấm và chăm chú nhìn. Rồi lão ngẩng lên và xin một chén nước nóng, một cây bút lông đã bỏ đi, và một cây nến. Khi gia nô đưa đến những vật dụng lão cần, Ngỗ tác tẩm ướt cây bút và chấm nước lên từng lát mơ. Rồi lão lấy một mảnh giấy vuông còn trắng tinh đặt lên lát mơ và ấn chặt trong hai lòng bàn tay. Ngỗ tác thắp nến, đưa mảnh giấy cho Địch Công xem, nó in vết ẩm của lát mơ. Ngỗ tác đem đến bên ngọn lửa và hơ. Lão đem mảnh giấy đến bên cửa sổ và xem xét cẩn thận một lúc, ngón tay trỏ khẽ lướt trên mặt giấy. Đào Cam rời khỏi ghế và ngó qua vai Ngỗ tác. Quay lại và trao mảnh giấy cho Địch Công, lão nói, “Thuộc hạ xin thưa, trái mơ có chứa một lượng lớn thuốc độc mang tên ‘đằng hoàng’, được đưa vào trái mơ thông qua một cây kim rỗng ruột.” Địch Công chậm rãi giật hai dải tóc mai. Liếc qua mảnh giấy, ông hỏi, “Sao ngươi chứng minh được?”
Ngỗ tác mỉm cười đáp, “Phương pháp này đã được sử dụng trong giao thương từ nhiều thế kỷ qua. Chất lạ trong nước của trái mơ được phát hiện nhờ màu sắc và tính kết hạt. Nếu đại nhân quan sát vết ẩm, sẽ thấy một màu vàng nhạt lộ rõ. Sự khác biệt trong tính kết hạt chỉ có thể được nhận biết bởi xúc giác nhạy cảm của một chủ hiệu thuốc dạn dày kinh nghiệm. Vì những lát mơ có một số đốm tròn nhỏ, lão phu kết luận chất đằng hoàng được đưa vào nhờ một cây kim rỗng ruột. “Thật tuyệt!” Địch Công đồng tình. “Giờ ngươi hãy xem xét nốt những trái mơ còn lại.” Trong khi Ngỗ tác bắt tay vào việc, Địch Công cầm chiếc hộp giấy lên vu vơ xem. Ông cạy lớp giấy bọc trắng ở đáy hộp. Bất ngờ, ông cúi xuống và chăm chú nhìn dấu vết màu đỏ nhạt bên mép giấy. “Chà, chà”, ông nói, “thật sơ ý!” Hồng Sư gia và Đào Cam đứng dậy và sốt sắng cúi đầu bên mảnh giấy đó. Địch Công chỉ vào dấu đỏ ấy. “Đây là một nửa con dấu của Ngô Phong!” Sư gia quả quyết. “Giống y như con dấu in trên bức tranh hôm trước!” Địch Công tựa người ra sau, nói, “Vậy là hai đầu mối dẫn thẳng đến tên họa sư ấy! Trước hết, chất độc được sử dụng. Đằng hoàng là chất các họa sư hay dùng để tạo ra màu vàng. Thứ hai, mảnh giấy để bọc chiếc hộp này. Ta cho rằng Ngô Phong đã từng sử dụng mảnh giấy này để lót khi đóng dấu lên một bức tranh; vô tình, một nửa dấu triện đã hằn lên tờ giấy ở dưới.”
“Đây chính là điều chúng ta đang đợi!” Đào Cam thốt lên hứng khởi. Địch Công không bình phẩm. Ông lặng lẽ đợi Ngỗ tác hoàn tất phần kiểm tra những trái mơ còn lại. Cuối cùng, lão nhân trình báo, “Bẩm đại nhân, tất cả số mơ này đều chứa một lượng đằng hoàng đủ gây chết người!” Địch Công lấy một tờ giấy theo đúng thể thức của quan lại trên án và đưa cho Ngỗ tác. Ông nói, “Phiền ngươi ghi lại lời chứng nhận của mình vào giấy này và điểm chỉ lên đó!” Lão nhân chấm mực và ghi chép tường tận. Sau khi lão điểm chỉ, Địch Công cảm tạ rồi cho lão ra về. Rồi Địch Công sai người đi gọi Phương Chính. Khi Bộ đầu đến, Địch Công ra lệnh dứt khoát, “Đem theo bốn Bộ khoái đi bắt giữ họa sư Ngô Phong!” HỒI 15 Lên công đường, Ngô Phong chịu hình Đọc thơ tình, Địch Công phẫn nộ Ba hồi chiêng đồng báo hiệu huyện nha đã thăng đường xử án buổi chiều. Một đám đông dân chúng đã tụ lại trước đại đường, bởi Đinh lão Tướng quân vốn nổi tiếng ở đất Lan Phường. Địch Công bước ra, lệnh cho Đinh Y bước lên trước. Anh ta vừa quỳ trước đại đường, Địch Công đã phán, “Hôm trước, nhà ngươi đến huyện nha kiện Ngô Phong về tội sát hại thân phụ. Bản quan đã tiến hành điều tra kỹ lưỡng và tìm đủ bằng chứng để bắt giữ Ngô Phong. Nhưng như vậy vẫn chưa đủ để làm sáng tỏ tất cả. Giờ đây, bản quan sẽ thẩm vấn bị cáo Ngô Phong và ngươi sẽ phải lắng nghe cẩn thận. Nếu có bất cứ điểm nào đáng ngờ có thể cung cấp thêm dẫn chứng, ngươi bắt buộc phải lên tiếng!”
Địch Công viết giấy cho đề lao. Hai Bộ khoái nhanh chóng dẫn Ngô Phong lên trước công đường. Y vừa được đưa đến, Địch Công đã nhận thấy y vẫn vững như núi Thái Sơn. Ngô Phong quỳ xuống và kính cẩn đợi đến khi Địch Công hỏi mình. “Kẻ quỳ dưới công đường kia, mau xưng họ tên và nghề nghiệp!” Địch Công ra lệnh. “Thảo dân là Ngô Phong, vốn là một Tú tài nhưng thường được biết đến là một họa sư.” “Nhà ngươi bị kết tội sát hại lão Tướng quân Đinh Hổ Quốc.” Địch Công nghiêm giọng. “Mau khai nhận sự thật!” “Bẩm đại nhân”, Ngô Phong vẫn bình thản, “thảo dân kiên quyết bác bỏ lời kết tội ấy. Thảo dân đã quá quen thuộc với danh tính người bị hại và biết cả tội lỗi ông ta đã gây ra, để rồi từ đó phải giã từ binh nghiệp, bởi vì thảo dân thường được nghe gia phụ nói về câu chuyện ô nhục này. Nhưng thảo dân xin thưa rằng, thảo dân chưa bao giờ gặp Đinh lão Tướng quân. Thảo dân thậm chí không biết ông ta sống ở huyện Lan Phường, cho đến khi Đinh công tử loan đi những tin đồn hiểm ác về thảo dân. Những lời đồn đại ấy, thảo dân hoàn toàn không bận tâm đến, vì tất cả đều thật lố bịch, không đáng để thảo dân phải phản bác lại.” “Nếu đã như vậy”, Địch Công lạnh lùng, “tại sao Đinh lão Tướng quân luôn ở trong tư thế phòng bị ngươi? Tại sao Đinh gia trang luôn cửa đóng then cài cả ngày lẫn đêm và Đinh lão Tướng quân phải tự nhốt mình trong thư phòng khóa kín? Và nếu ngươi không hề có âm mưu đen tối nào đối với Đinh lão Tướng quân, tại sao ngươi lại thuê đám giang hồ đi dò xét trang viên của ông ta?”
“Về hai câu hỏi đầu tiên của đại nhân”, Ngô Phong đáp, “chúng liên quan đến nội sự ở Đinh gia trang. Vì thảo dân hoàn toàn không màng đến những chuyện như vậy, nên thảo dân không thể đưa ra bất cứ nhận định nào. Còn đối với câu hỏi cuối cùng, thảo dân không hề thuê bất cứ người nào để dò xét Đinh gia trang. Thảo dân dám thách thức nguyên cáo chỉ ra được một người mà được cho là do chính thảo dân đã thuê và cho kẻ đó đối chất với thảo dân.” “Đừng quá kiêu căng!” Địch Công nghiêm giọng. “Trên thực tế, bản quan đã bắt được một kẻ giang hồ như vậy. Ngươi sẽ phải đối chất với hắn ngay sau đây!” Ngô Phong lớn tiếng giận dữ, “Tên vô lại Đinh Y ấy đã thuê hắn để ngụy tạo bằng chứng!” Khi thấy cuối cùng Ngô Phong đã mất bình tĩnh, Địch Công nghĩ đây chính là thời điểm thích hợp để cho bị cáo thêm một bất ngờ nữa. Ông vươn người về trước và nói bằng giọng sắc lạnh, “Bản quan sẽ cho ngươi biết lý do ngươi căm ghét nhà họ Đinh! Không phải vì mối cừu hận giữa thân phụ ngươi và Đinh lão Tướng quân. Không, ngươi có động cơ riêng và là một động cơ hèn hạ. Hãy nhìn nữ nhân này đi!” Trong khi nói, Địch Công lấy trong tay áo ra một phần bức tranh của Ngô Phong, trên đó chỉ thể hiện mỗi khuôn mặt của Quan Thế Âm Bồ Tát. Vừa trao nó cho Phương Bộ đầu đưa cho Ngô Phong, Địch Công vừa để mắt đến cả bị cáo lẫn Đinh Y. Ông thấy ngay khi vừa đề cập đến một nữ nhân trong vụ án này, mặt hai vị công tử đều biến sắc. Mắt Đinh Y mở tròn trong nỗi sợ đến bất chợt.
Địch Công nghe có tiếng kêu nghẹn ngào cạnh mình. Phương Bộ đầu vẫn đứng đó với bức tranh trên tay, khuôn mặt xám lại như vừa gặp ma. Ông ta kêu lên, “Đại nhân, đây chính là trưởng nữ Bạch Lan của thuộc hạ!” Cả đám đông rộ lên tiếng xì xào trước tiết lộ bất ngờ này. “Giữ yên lặng!” Giọng Địch Công vang như sấm. Không để lộ ra nỗi kinh ngạc, ông nhẹ nhàng nói, “Bộ đầu, mau đưa bức tranh đó cho bị cáo!” Địch Công không quên quan sát trong khi Ngô Phong vô cùng hoang mang trước danh tính của vị Bộ đầu, thì Đinh Y lại có vẻ nhẹ nhõm. Chàng thở phào và sắc diện lại bình ổn. Ngô Phong nhìn bức tranh bằng ánh mắt cứng đờ. “Nói đi!” Địch Công quát, “mối quan hệ của ngươi với nữ nhân này là thế nào?” Mặt Ngô Phong tái như người chết. Nhưng giọng y vẫn gãy gọn khi đáp, “Thảo dân xin từ chối hồi đáp!” Địch Công vươn người về trước và lạnh lùng nói, “Bị cáo dường như đã quên rằng đây là công đường. Bản quan ra lệnh cho ngươi phải trả lời câu hỏi!” “Đại nhân có thể tra tấn thảo dân đến chết”, Ngô Phong dõng dạc đáp, “nhưng đại nhân sẽ không bao giờ bắt thảo dân trả lời câu hỏi đó được đâu!” Địch Công thở dài nói, “Ngươi phạm tội coi thường huyện nha!” Địch Công ra hiệu, hai Bộ khoái lột áo Ngô Phong ra. Hai Bộ khoái khác giữ chặt hai tay y và ấn y dúi về phía trước cho đến khi mặt y chạm xuống sàn. Rồi họ nhìn Phương Bộ đầu chờ đợi, lúc này ông ta đang đứng đó với ngọn roi trong tay.
Bộ đầu nhìn lên Địch Công với vẻ mặt đầy khổ sở. Địch Công hiểu ra. Phương Chính chỉ là một người bình thường, ông ta sợ trong cơn thịnh nộ có thể dùng hình khiến Ngô Phong phải chết. Địch Công chỉ một Bộ khoái lực lưỡng. Người ấy cầm lấy ngọn roi của Bộ đầu, giương cánh tay lực lưỡng lên và ngọn roi da quật xuống tấm lưng trần của Ngô Phong. Ngô Phong rên lên sau mỗi lằn roi nổi trên lưng. Được mười roi, máu tứa ra từ tấm lưng rách nát. Nhưng y không tỏ vẻ muốn mở lời. Sau hai mươi roi, thân hình y đổ gục xuống. Bộ khoái bảo y đã ngất lịm. Địch Công ra hiệu và hai Bộ khoái thúc mạnh vào gối y. Họ để giấm dưới mũi y cho đến khi y hồi tỉnh. “Mau nhìn ta!” Địch Công ra lệnh. Một Bộ khoái nắm tóc Ngô Phong và kéo ngược đầu. Địch Công vươn người về trước và nhẫn nại nhìn khuôn mặt méo mó của y. Bộ khoái cầm roi định vung một quyền đánh vào mặt y. Nhưng Địch Công khoát tay. Ông hỏi Ngô Phong bằng giọng nhẹ nhàng, “Ngô Phong, ngươi là một nam nhân thông hiểu sự đời. Ngươi phải nhận thấy thái độ của ngươi là vô cùng ngu ngốc. Nói cho ngươi hay, bản quan biết về mối quan hệ của ngươi với nữ nhân lầm lạc kia nhiều hơn ngươi tưởng đấy!” Ngô Phong chỉ lắc đầu. “Ta biết mọi chuyện về cuộc gặp gỡ của ngươi và Bạch Lan trong chùa Tam Bảo, gần cổng phía Đông và. .” Địch Công vẫn bình thản. Bỗng Ngô Phong đứng bật dậy. Y loạng choạng và một Bộ khoái phải giữ cánh tay y để y đứng vững. Ngô Phong không nhận thấy có người đỡ mình. Y đưa cánh tay phải trần trụi lên, trên đó đầy máu. Y giương quyền về phía Địch Công và cất giọng the thé, “Giờ nàng ấy chết rồi! Tất cả là tại ngươi, tên cẩu quan, ngươi đã giết nàng ấy!”
Tiếng kêu la rộ lên từ đám đông. Bộ đầu Phương Chính bước lên trước và lắp bắp một loạt câu hỏi không thành lời. Mấy Bộ khoái không biết phải làm sao. Địch Công cầm kinh đường mộc vỗ án. Ông cất giọng đầy uy thế, “Yên lặng và giữ trật tự!” Tiếng xì xào nhỏ dần. “Nếu ta phải cảnh báo một lần nữa”, Địch Công cứng rắn, “ta sẽ mời tất cả ra khỏi đại đường! Tất cả đứng nguyên tại chỗ!” Ngô Phong ngã sụp xuống đất. Thân thể y giật lên trong từng cơn nấc. Bộ đầu Phương Chính đứng ngây ra nhìn. Ông ta cắn môi đến nỗi cằm chan hòa máu. Địch Công từ tốn vuốt râu. Rồi giọng nói thâm trầm của ông phá võ sự yên tĩnh đến khó chịu. “Ngô Tú tài, ngươi sẽ nhận ra mình không còn đường chối cãi, mà phải khai nhận toàn bộ với bản quan. Từ lời nhận định sau cùng của ngươi, nếu ta đã làm hại Bạch Lan chỉ vì nhắc đến cuộc gặp gỡ của cô nương ấy với ngươi trong ngôi chùa bỏ hoang, thì chính ngươi là người chịu trách nhiệm cho cảnh ngộ của cô nương ấy. Chính ngươi đã có cơ hội để cảnh báo bản quan.” Địch Công ra hiệu cho các Bộ khoái. Họ đưa cho Ngô Phong một chén trà. Y uống cạn rồi nói bằng giọng tuyệt vọng, “Bí mật về nàng giờ đây đã bị cả huyện này biết hết! Nàng không còn được an toàn nữa!” Địch Công lạnh lùng nhận định, “Cứ để huyện nha quyết định sự an toàn của cô nương ấy! Ta nhắc lại, mau thuật lại toàn bộ sự tình!” Ngô Phong lấy lại bình tĩnh. Y bắt đầu bằng giọng nói trầm buồn, “Gần cổng thành phía Đông có một ngôi chùa nhỏ, tên gọi Tam Bảo. Nhiều năm trước, khi quan đạo đi Tây Vực còn cắt ngang qua huyện này, tăng nhân từ Hòa Điền xây dựng ngôi chùa ấy. Về sau họ bỏ đi. Ngôi chùa ngày một đổ nát, người dân quanh đó lấy hết cánh cửa và đồ đạc về làm củi. Nhưng vẫn còn sót lại những bức bích họa tuyệt đẹp do các tăng nhân vẽ.”
“Thảo dân đã tình cờ khám phá ra những bức bích họa ấy khi lang thang ở huyện này để tìm kiếm những bức họa về Phật. Thảo dân thường hay đến đó và vẽ lại những bức bích họa ấy. Thảo dân yêu thích khu vườn nhỏ ẩn khuất phía sau ngôi chùa. Thảo dân đã quen đến đó vào đêm và thưởng trăng.” “Một tối, vào khoảng một tháng trước, thảo dân đã uống rất say. Thảo dân quyết định tản bộ đến ngôi chùa đó để ngồi trong vườn hóng mát. Khi đang ngồi trên chiếc ghế đá, thảo dân bất chợt trông thấy một nữ nhân bước vào khu vườn.” Ngô Phong cúi gục đầu xuống. Sự tĩnh lặng bao trùm lên cả đại đường. Ngô Phong lại ngẩng lên với ánh mắt đã mờ nhòa rồi kể tiếp, “Đối với thảo dân, nàng ấy giống như Quan Thế Âm Bồ Tát hạ phàm. Nàng ấy mặc chiếc áo choàng mỏng bằng lụa trắng. Một chiếc khăn choàng cũng bằng lụa trắng trên đầu. Khuôn mặt nàng ấy yêu kiều, mang một nỗi buồn u hoài sâu thẳm, hai má tái nhợt lấp lánh lệ. Những đường nét thần tiên ấy vẫn còn khắc sâu trong tâm trí thảo dân. Thảo dân sẽ ghi nhớ suốt đời!” 👁 Ngô Phong tình cờ gặp Bạch Lan tại chùa Tam Bảo Y đưa tay lên ôm mặt, rồi lại buông thõng hai tay xuống với vẻ bơ phờ. “Thảo dân lao đến chỗ nàng ấy, miệng lắp bắp không rõ mình nói ra những lời gì. Nàng ấy lùi lại sợ hãi và thì thầm, ‘Xin đừng nói, hãy tránh ra! Tiểu nữ rất sợ’. Thảo dân quỳ thụp xuống trước mặt nàng và khẩn xin nàng hãy tin mình.”
“Nàng ấy kéo áo choàng sát vào người và hạ thấp giọng, ‘Tiểu nữ đã định không bao giờ rời khỏi nhà, nhưng tối nay tiểu nữ đã bỏ đi. Giờ tiểu nữ phải quay về, nếu không tiểu nữ sẽ bị giết! Xin đừng nói với ai. Tiểu nữ sẽ còn quay lại!’” “Rồi mây đen che phủ mặt trăng. Trong bóng tối, thảo dân thoáng nghe thấy tiếng chân nàng vội vã. Đêm đó, thảo dân mất nhiều canh giờ tìm khắp trong chùa và cả khu vực xung quanh. Nhưng thảo dân không thể nào tìm ra dấu tích của nàng.” Ngô Phong dừng lại. Địch Công ra hiệu rót cho y một chén trà nữa. Ngô Phong thiếu kiên nhẫn lắc đầu, kể tiếp, “Từ buổi tối định mệnh ấy, thảo dân đến ngôi chùa ấy gần như mỗi đêm. Nhưng nàng không bao giờ trở lại. Rõ ràng nàng bị bắt giữ. Giờ đây, chuyện nàng bí mật đến ngôi chùa ấy đã bị lộ ra, đám ác nhân cai quản nàng sẽ giết nàng!” Ngô Phong rộ lên một tràng nức nở. Sau một hồi yên lặng, Địch Công nói, “Bây giờ, ngươi mới thấy mọi chuyện thật nguy hiểm như thế nào khi không nói cho ta sự thật. Huyện nha sẽ làm tất cả những gì có thể để tìm ra cô nương ấy. Trong khi đó, tốt nhất giờ ngươi hãy thú nhận chuyện ngươi giết Đinh lão Tướng quân như thế nào!” Ngô Phong kêu, “Thảo dân sẽ thú nhận mọi điều đại nhân muốn! Nhưng không phải lúc này. Thảo dân khẩn xin đại nhân hãy cử người đi bảo vệ cô nương kia! Nếu không thì quá muộn!” Địch Công nhún vai. Ông gật đầu với mấy vị Bộ khoái. Họ kéo Ngô Phong đứng dậy và đưa hắn trở lại nhà lao.
“Đinh công tử, đây quả là một diễn tiến không ngờ tới. Hiển nhiên chuyện Ngô Phong sát hại thân phụ ngươi thì không phải kể đến nữa. Tuy nhiên, rõ ràng không còn lý do gì để thẩm tra bị cáo thêm nữa. Bản quan tạm dừng phiên xử vụ án của ngươi ở đây. Trong thời gian tới sẽ đem ra xét xử tiếp.” Địch Công vỗ án bãi đường rồi đứng dậy và lui vào hậu đường. Dân chúng dần ra khỏi đại đường, vừa đi vừa mải bàn luận về những diễn tiến mới đầy gay cấn này. Trong khi Địch Công đổi sang bộ thường phục, ông lệnh cho Hồng Sư gia gọi Phương Bộ đầu đến. Mã Vinh và Đào Cam ngồi kế bên án thư của Địch Công. “Phương Bộ đầu, đây quả là một bất ngờ ghê gớm đối với ngươi. Thật không may, ta lại không cho ngươi xem bức tranh sớm hơn, nhưng ta không thể đoán được là nó lại liên quan đến trưởng nữ Bạch Lan. Tuy thế, đây là manh mối chính xác đầu tiên về nơi có thể tìm thấy Bạch Lan.” Trong khi nói chuyện, Địch Công cầm cây bút lông chấm mực đỏ và viết liền ba tờ giấy thể thức nhà quan. “Bây giờ”, ông nói tiếp, “ngươi hãy chọn ra hai mươi Bộ khoái mang theo binh khí và đến ngay chùa Tam Bảo. Mã Vinh và Đào Cam sẽ chỉ đường cho ngươi. Họ là hai người giỏi nhất mà ta có, đầy đủ kinh nghiệm trong những việc như vậy. Những tờ lệnh này cho phép ngươi ra vào và tìm kiếm mọi căn nhà quanh đó!” Địch Công đóng dấu của huyện nha lên những tờ lệnh và đưa cho Mã Vinh. Y vội giấu cả ba vào ống tay áo. Rồi ba người vội vã lên đường.
Địch Công sai người đem trà nóng đến. Trong khi uống, ông nói với lão Hồng, “Ta rất mừng vì ít ra Phương Bộ đầu cũng đã có vài tin tức về trưởng nữ bị mất tích. Giờ đây, rõ ràng là cô nương ấy được Ngô Phong vẽ lại trong tranh, ta nhận ra khuôn mặt ấy có vài điểm tương tự ở tiểu nữ Huyền Lan của Phương Chính. Đúng ra ta phải nhận ra ngay!” “Đại nhân, người duy nhất nhận ra có điểm giống nhau”, Sư gia kín đáo nói, “chính là hộ vệ quả cảm của ngài, Mã Vinh!” Địch Công mỉm cười nói, “Hình như Mã Vinh để ý đến Huyền Lan nhiều hơn cả ta và lão!” Rồi vẻ mặt Địch Công lại trở nên nghiêm nghị như thường lệ. Ông chậm rãi nói, “Chỉ có trời mới biết chúng ta sẽ tìm thấy cô nương ấy trong hoàn cảnh nào, nếu mọi chuyện đúng như ta nghĩ. Nếu dịch những vần thơ của tên họa sư dễ xúc động kia sang ngôn ngữ thường ngày, thì rõ ràng là khi đến ngôi chùa ấy, Bạch Lan mặc một chiếc áo choàng bình thường. Như vậy là cô nương ấy bị cầm tù trong một ngôi nhà gần chùa, có thể dưới tay một kẻ dâm đãng đồi bại. Khi phát hiện ra nàng bí mật rời nhà, hắn có thể sợ hãi mà giết nàng ấy. Một ngày nào đó, thi thể cô nương ấy sẽ được tìm thấy dưới một cái giếng cạn…” “Trong khi đó”, Hồng Sư gia nhận định, “chuyện này lại không đưa ta đến lời giải cho vụ án giết Đinh Tướng quân. Thuộc hạ e rằng chúng ta phải dùng hình với Ngô Phong để tra án.”
Địch Công không phản ứng trước nhận định của Hồng Sư gia. Ông nói, “Ta đã nhận thấy một sự thật thú vị. Trong suốt phiên xử án, khi ta nhắc đến một nữ nhân thì cả Ngô Phong và Đinh Y đều biển sắc mặt; Đinh Y thì rõ ràng sợ hãi. Ngay khi Đinh Y nghe thấy đó là trưởng nữ của Phương Bộ đầu, anh ta tỏ rõ vẻ an tâm. Như vậy phải có một nữ nhân liên quan đến vụ giết Đinh lão tướng quân. Hiển nhiên vẫn là người mà Đinh Y đã dành cho những vần thơ nồng nàn.” Có tiếng gõ cửa nhẹ nhàng. Hồng Sư gia đứng dậy mở cửa. Huyền Lan bước vào. Nàng thi lễ trước Địch Công rồi nói, “Bẩm đại nhân, tiểu nữ không thấy thân phụ đâu, nên đánh bạo đến đây một mình để trình báo.” 👁 Huyền Lan báo cáo với Địch Công tình hình Đinh gia “Cô nương, xin cứ tự nhiên!” Địch Công nôn nóng. “Chúng ta đang nói về Đinh gia trang. Mau nói đi, cô nương có biết Đinh thiếu gia dành chủ yếu thời giờ ở đâu bên ngoài không?” Huyền Lan thẳng thắn lắc đầu. “Bẩm đại nhân, tiểu nữ không biết, đám gia nhân còn mong Đinh thiếu gia ra ngoài. Thiếu gia suốt ngày chỉ quanh quẩn trong gia trang, nhìn ngó quanh quẩn và tìm cách bắt bẻ họ những lỗi và thiếu sót nhỏ. Một lần, có hai tỳ nữ còn thấy thiếu gia lén lút đi xuống một hành lang lúc đêm khuya. Có thể thiếu gia đi để kiểm tra xem đám gia nhân có đánh bạc hay không!” “Phản ứng của anh ta đối với chuyến thăm viếng bất ngờ của ta sáng nay thế nào?”
“Tiểu nữ đang ở trong phòng thiếu gia khi có một gia nhân đến báo đại nhân sắp ghé qua. Đinh thiếu gia đang cùng thiếu phu nhân ngồi tính toán những phí tổn trong đám tang của Đinh công. Thiếu gia rất mừng khi đại nhân lại đến rồi bảo thiếu phu nhân, ‘Ta chưa nói với nàng cuộc điều tra đầu tiên ở thư phòng của thân phụ còn rất hời hợt, đúng không? Ta thấy mừng vì Địch đại nhân đã trở lại, ta dám chắc họ sẽ tìm ra manh mối!’ Thiếu phu nhân chua chát nói, ‘Phu quân đừng nghĩ mình sáng suốt hơn một vị Huyện lệnh’ và Đinh thiếu gia vội ra ngoài đón đại nhân.” Địch Công lặng lẽ nhấp trà rồi nói, “Được rồi, đa tạ cô nương đã giúp ta. Cô nương rất tinh ý! Ta không cần cô nương trở lại Đinh gia trang nữa. Chiều nay, chúng ta đã có được tin tức về tỉ tỉ của cô nương, thân phụ cô nương đã đi tìm Bạch Lan rồi. Giờ cô nương cứ về nghỉ; ta chân thành mong Phương Bộ đầu sẽ mang theo tin tốt lành khi quay về!” Huyền Lan vội cáo lui. “Thật lạ lùng”, Hồng Sư gia nhận xét, “khi Đinh công tử không hay ra ngoài vào đêm. Một người khác sẽ nghĩ rằng anh ta có chuyện tình ái vụng trộm ở nơi anh ta gặp nữ nhân bí ẩn kia!” Địch Công gật đầu nói, “Mặt khác, đây có thể lại là câu chuyện gặp lại tình cũ. Những người đa cảm thường có thói quen tai hại là giữ lại kỉ niệm về những chuyện đã qua. Nhưng những bài thơ mà Huyền Lan đem về dường như mới được viết. Đào Cam có tìm ra manh mối nào về danh tính của nữ nhân trên tập thơ mà y sao chép không?”
“Không, nhưng Đào Cam chắc chắn thích làm việc này! Y có chép lại đôi dòng theo lối thư pháp đẹp nhất của mình và cứ luôn cười khúc khích.” Địch Công mỉm cười đầy bao dung. Ông lục tìm trong các tập văn thư trên án cho đến khi tìm được những dòng Đào Cam chép lại, được viết rất cẩn thận trên giấy viết thư có trang trí. Tựa người ra ghế, Địch Công bắt đầu đọc. Lát sau, ông nói, “Chà, đều là cùng một chủ đề, được thể hiện theo nhiều cách. Đinh Tú tài cũng là kẻ sâu nặng. Như thể những vần thơ không thể dành cho một mục đích cao cả hơn! Lão nghe nhé: “Tú khâm hương la trướng Ôn nhu phú quý hương Tình si vô chương điển Tâm túy vong cương thường Nguyệt viên thành loan phượng Hoa hảo phối uyên ương Tâm khúc tố thâm khuê Can đảm chiếu sầu trường.”* Dịch thơ: Chăn thơm gối mềm hương khắp chốn Mỹ nhân phú quý vốn trong tay Si tình chuyện ấy xưa nay Say lòng luân lý không hay, thường tình Trăng tròn trăng sáng dường loan phượng Hoa tươi hoa thắm tựa uyên ương Chốn khuê phòng vốn thê lương Lòng này sầu thảm, tâm thương não nề. Địch Công chán nản buông tờ giấy xuống án thư, lãnh đạm nói, “Bài thơ này cũng chẳng có gì đặc biệt!” Ông chậm rãi vuốt râu. Bỗng Địch Công ngồi thẳng dậy. Ông chộp lấy tờ giấy vừa đọc và vội vã đọc nhanh. Hồng Sư gia biết Địch Công đã khám phá ra điều gì đó. Lão đứng dậy và nhìn vào cùng. Địch Công đấm một quyền xuống bàn rồi ra lệnh, “Lấy cho ta lời chứng khai của lão quản gia ghi lại trong buổi điều tra sơ bộ ở Đinh gia trang!”
Hồng Sư gia tìm tráp bọc da có đựng giấy tờ về vụ án Đinh lão Tướng quân. Lão rút ra một văn thư có đóng dấu. Địch Công đọc một lượt từ đầu chí cuối, rồi ông bỏ lại văn thư vào tráp. Ông đứng dậy và bắt đầu đi lại trong phòng. “Những kẻ đắm chìm trong ái tình mới thật điên rồ làm sao!” Địch Công bỗng buông ra bình phẩm. “Giờ ta đã tìm ra lời giải cho một nửa vụ án sát hại Đinh Hổ Quốc. Thật là một tội ác man rợ, đê tiện!” HỒI 16 Mã Vinh đóng giả phường phiêu khách Lạp Hộ đi tìm Ô Nhĩ Kim Bắt đầu vào canh một, Mã Vinh cùng Đào Cam và Phương Bộ đầu đến nhà của viên phường chính ở phía Đông thành. Khuôn mặt họ mệt mỏi và hốc hác dưới ánh nến. Cả ba ngồi lặng lẽ bên án thư. Họ đã lùng tìm cả góc thành đó nhưng vô ích. Mã Vinh chia đám Bộ khoái thành ba nhóm, mỗi nhóm bảy người. Một nhóm do Đào Cam chỉ đạo, một nhóm theo Phương Bộ đầu và nhóm thứ ba do chính Mã Vinh chỉ đạo. Họ đi theo những nhóm bí mật từ hai đến ba người và theo nhiều cách khác nhau. Với nhiều lý do, các nhóm này đến điều tra các cửa hiệu và những nơi công cộng khác, rồi họ vào từng tư gia để khám xét kĩ lưỡng. Nhóm của Phương Chính phá tan một nhóm đạo chích đang tụ họp, Mã Vinh giải tán một nhóm đánh bạc và Đào Cam đánh động một cặp nhân tình đang vụng trộm trong nhà chứa. Nhưng họ không tìm ra dấu vết của Bạch Lan.
Đào Cam cẩn thận hỏi mụ tú bà. Y biết nếu một cô nương bị bắt cóc và bị giam giữ ở đâu đó, thì một nữ nhân như vậy sớm muộn cũng sẽ biết. Tuy nhiên, sau nửa canh giờ khéo léo hỏi han, Đào Cam thấy mụ ta không biết gì về Bạch Lan. Y chỉ biết thêm vài ba chuyện lạ về những người đứng đầu ở chốn này. Cuối cùng, họ đành công khai đến điều tra từng hộ gia đình một theo đúng thể lệ nhà quan, kiểm tra mọi nhân khẩu theo sổ hộ tịch của phường chính. Nhưng lúc này họ phải thừa nhận rằng cuộc điều tra đã thất bại. Một lát, Đào Cam nói, “Chỉ còn lại một khả năng, đó là cô nương ấy đã bị giam giữ nhiều ngày ở tại một nơi duy nhất gần đây. Kẻ bắt cóc phát hiện ra cô ấy bí mật đến ngôi chùa hoang, hắn đã cảnh giác và chuyển cô nương đến một nhà chứa bí mật ở đâu đó trong thành, hoặc đưa cô ấy vào kỹ viện.” Phương Bộ đầu lắc đầu phản đối, “Tại hạ không tin chúng sẽ bán trưởng nữ vào kỹ viện. Gia đình tại hạ sinh trưởng ở đất này, chúng sẽ không dám để một vài khách làng chơi đến đó rồi nhận ra Bạch Lan và báo lại cho tại hạ. Một nhà chứa là nơi khả quan hơn cả. Nhưng để khám xét mọi nhà chứa thì phải mất nhiều ngày!” “Có phải”, Mã Vinh hỏi, “nơi đó được gọi là Bắc Liêu phường ở phía Tây Bắc trấn, rất ít khi có người Hán đến đó?” Phương Chính gật đầu đáp, “Đó là một chốn hạ đẳng, chỉ có đám người Duy Ngô Nhĩ, người Đột Quyết và đám người dị tộc bên kia biên giới thường hay tới đó. Kỹ nữ ở đó là một đám hỗn tạp, còn sót lại từ những ngày tháng phồn thịnh,khi trấn này đầy rẫy đám thủ lĩnh dị tộc giàu có và những thương lái từ Tây Vực đến.”
Mã Vinh đứng dậy và thắt chặt đai lưng. Y dõng dạc nói, “Tại hạ sẽ đến đó bây giờ. Để tránh gây nghi ngờ, tại hạ sẽ đi một mình và gặp lại hai vị ở huyện nha tối nay!” Đào Cam vẫn ngồi giật ba dải tóc bên má trái. Y trầm ngâm bảo, “Ý hay đấy, tốt nhất chúng ta phải hành động thật nhanh, vì đến ngày mai, tin tức về chuyện khám xét bất ngờ này sẽ lan ra khắp trấn. Giờ ta sẽ đến Nam Liêu và nói chuyện với đám chủ ở đó. Ta không có nhiều hi vọng nhưng ta không thể bỏ qua khả năng Bạch Lan ở đó!” Bộ đầu một mực đòi đi cùng. Ông nói, “Đám vô lại trong thành đều ở cả Bắc Liêu. Đến đó một mình thì cầm chắc cái chết!” “Thúc đừng lo!” Mã Vinh nói, “Tại hạ biết phải xử lý đám giang hồ đó thế nào!” Y đưa chiếc mũ cho Đào Cam và búi tóc bằng một mảnh vải bẩn thỉu. Rồi y gập tà áo, nhét vào đai lưng, xắn tay áo lên. Bất chấp lời phản đối của Phương Bộ đầu, y hùng dũng bước ra phố. Trên phố chính lúc này vẫn còn đông người qua lại, nhưng Mã Vinh rảo bước. Người trên phố vội tránh đường khi trông thấy một gã giang hồ vạm vỡ tiến đến. Khi qua khu chợ gần Tháp Trống, cảnh tượng náo nhiệt hơn. Người dân mặc y phục dị tộc tha thẩn quanh những tửu điếm, trò chuyện ầm ĩ bằng thứ ngôn ngữ lạ lùng, giọng nói khàn khàn. Họ không mấy để ý đến Mã Vinh. Ở đây, dáng vẻ ngạo ngược của y không có gì đặc biệt.
Rẽ ở một góc phố, y thấy một dãy nhà đầy ánh sáng lòe loẹt từ những chiếc đèn lồng đa sắc bằng giấy dầu. Y nghe tiếng đàn của người man trầm bổng và kéo dài trong điệu sáo như muốn xé rách không gian. Bỗng có một người gầy gò, ăn vận lôi thôi bước ra từ trong bóng tối. Hắn nói bằng thứ tiếng Hán sai âm luật, “Đại gia có thích công chúa người Duy Ngô Nhĩ không?” Mã Vinh đứng khựng lại và nhìn hắn từ đầu đến chân. Kẻ đó mỉm cười đầy thiện cảm, lộ ra hàm răng xiêu vẹo. “Nếu ta đập nát khuôn mặt ngươi”, Mã Vinh cộc cằn, “thì mặt ngươi cũng không thể xấu xí hơn lúc này! Mau dẫn đường và chọn cho ta một chỗ tử tế. Nhưng nhớ rẻ thôi!” Vừa nói, y vừa xoay người kẻ kia lại và tống cho hắn một cú đá. “Ây da!” Hắn kêu lên rồi vội dẫn Mã Vinh vào một lối nhỏ. Hai bên đường đều là nhà dạng thấp. Mặt tiền các nhà đều được trang trí rất vui mắt. Nhưng mưa gió đã rửa sạch màu sắc và không ai buồn tô vẽ lại. Những tấm màn vá víu, bóng bẩy buông xuống các khung cửa để ngỏ. Hai người đi tới thì một đám nữ nhân điểm trang lòe loẹt, ăn vận nhố nhăng, vội tránh sang hai bên và mời cả hai vào bằng một loạt lời mời chào lẫn lộn giữa tiếng Hán và dị tộc. Kẻ kia dẫn Mã Vinh đến một căn nhà trông đàng hoàng hơn hẳn những căn khác. Trước cửa có treo cao hai chiếc đèn lồng. “Đây rồi, khách quan! Tất cả đều là những công chúa người Duy Ngô Nhĩ chính gốc!” Hắn thêm vào một lời bình phẩm thô tục và chìa hai bàn tay nhem nhuốc ra.
Mã Vinh chụp lấy cổ hắn và đập đầu hắn vào cánh cửa xiêu vẹo. Y nói, “Cái này là để báo cho chủ nhân ngươi biết là ta đã đến! Tiền thưởng thì ngươi sẽ lấy ở chỗ gã. Đừng nghĩ sẽ kiếm được gấp đôi, đồ khốn!” Cánh cửa bật mở và một nam nhân cởi trần xuất hiện. Đầu gã gần như đã cạo trọc. Gã nhìn Mã Vinh bằng con mắt độc ác duy nhất. Con mắt bên kia thì đã bị một vết sẹo đỏ xấu xí che kín. “Tên cẩu trệ này”, Mã Vinh gằn giọng, “muốn đòi ta cho thêm tiền thưởng!” Gã trọc quay sang kẻ dẫn đường bằng vẻ man rợ và quát, “Xéo ngay! Muốn lấy tiền thưởng thì sau hãy quay lại!” Rồi gã sưng sỉa quay sang Mã Vinh, “Mời vào!” Một thứ mùi kinh khủng bốc ra từ khối mỡ cừu treo trong phòng. Căn phòng nóng bức ngột ngạt. Ở chính giữa nền nhà bằng đất là một lò than lớn bằng kim loại đang rực hồng. Tầm năm, sáu người đang ngồi quanh một chiếc ghế dài bằng gỗ thấp lè tè. Cả đám đang nướng những mẩu mỡ cừu bằng những chiếc xiên đồng. Có ba gã phiêu khách. Cả ba mặc quần rộng thùng thình, ánh sáng từ chiếc đèn lồng đa sắc chiếu lên những khuôn mặt lấm tấm mồ hôi của chúng. Những nữ nhân ngồi bên cạnh mặc xiêm y mỏng, màu hồng lẫn lục, có những đường nếp rộng và áo khoác ngắn không tay. Tóc họ cuộn thành búi dày bằng những sợi len đỏ. Áo khoác mở tung để lộ ra bộ ngực trần. Tên canh cửa nhìn Mã Vinh nghi ngờ nói, “Năm mươi đồng tiền cho một bữa ăn và một mỹ nhân, xin trả trước!”
Mã Vinh lẩm bẩm gì đó và lần tìm trong tay áo. Y lấy ra một xâu tiền rồi cởi dây ra, đếm đủ năm mươi đồng xu trên mặt quầy bẩn thỉu. Gã chủ thò tay ra. Nhưng Mã Vinh liền chộp lấy cổ tay gã và đè xuống mặt quầy trước khi gã kịp vớ lấy số tiền. “Không có rượu kèm theo đồ ăn sao?” Y gầm ghè. Tên kia nhăn nhó trong khi bị Mã Vinh siết chặt cổ tay. “Không!” Gã cũng gằn giọng. Mã Vinh buông tay và thô bạo đẩy gã ra sau. Y thu lại số tiền và bảo, “Miễn đi nhé! Còn có những nơi khác tốt hơn chỗ của ngươi!” Gã chủ tỏ vẻ thèm khát khi số tiền biến mất nhanh chóng. “Được rồi”, gã nói, “sẽ có một vò rượu cho khách quan!” “Vậy mới đúng!” Mã Vinh bảo. Y quay lại và chuẩn bị ngồi vào cùng đám phiêu khách quanh lò than. Nhập gia tùy tục, trước hết y lột áo choàng phía tay phải rồi mới đến tay trái, buộc hai ống tay lại quanh hông, rồi ngồi xuống chỗ còn trống. Những kẻ khác chăm chú nhìn nửa thân trên đồ sộ, đầy sẹo của y. Mã Vinh rút một xiên mỡ cừu trong lò ra. Y có vẻ là người sành sỏi và thứ mùi ôi của mỡ cừu khiến y buồn nôn. Nhưng y cắn răng rút miếng mỡ khỏi xiên và ăn hết. Một trong ba gã Duy Ngô Nhĩ đã say mèm. Hắn vòng tay qua eo lưng một nữ nhân bên cạnh và lắc lắc, miệng êm ái thì thầm những từ ngữ lạ lùng. Mồ hôi tứa ra từ đầu và vai hắn. Hai gã còn lại vẫn điềm tĩnh. Cả hai đều gầy, nhưng Mã Vinh lại thấy cơ bắp dẻo dai, căng đầy của chúng không dễ xem thường. Cả hai luôn miệng trò chuyện với nhau bằng thứ tiếng của người Duy Ngô Nhĩ.
Gã chủ đặt một chiếc vò bằng đất nung xuống cạnh chỗ Mã Vinh. Một ả đứng dậy và đến giá đàn, lấy một cây đàn tì bà. Tựa lưng vào tường, ả vừa gảy đàn vừa ngồi hát. Giọng ả này khàn khàn nhưng bài ca có điệu nhịp nhàng không hề dễ nghe. Mã Vinh thấy bộ xiêm rộng của những ả này mỏng đến nỗi có thể nhìn xuyên qua. Từ cửa để ngỏ phía sau, nữ nhân thứ tư xuất hiện, dáng vẻ thô tục nên trông ả không hề bắt mắt. Ả đi chân trần, chỉ mặc bộ xiêm y rộng thùng thình bằng lụa bạc màu. Nửa thân trên để trần, trông cân đối nhưng bộ ngực và cánh tay lại dính đầy bồ hóng. Có vẻ ả ta vừa phụ việc trong nhà bếp. 👁 Mã Vinh gặp Thổ Nhĩ Bối Khuôn mặt tròn của ả nở một nụ cười nhạt nhẽo khi ả ngồi xuống bên Mã Vinh. Y kề vò rượu lên môi và uống một hớp rượu cay nồng. Rồi y vừa nhổ vào đống lửa vừa hỏi, “Mỹ nhân, tên nàng là gì?” Ả kia mỉm cười lắc đầu. Ả không hiểu tiếng Hán. “Thật may là cuộc vui của hai ta không cần phải nói thành lời!” Mã Vinh nói với hai gã phiêu khách ngồi đối diện. Kẻ cao lớn hơn trong hai kẻ đó cười ha hả. Gã hỏi lại bằng tiếng Hán, “Người anh em tên họ là gì?” “Ta là Vinh Bảo.” Mã Vinh đáp. “Còn ngươi?” “Mọi người gọi ta là Lạp Hộ. Mỹ nhân của ngươi có biệt danh là Thổ Nhĩ Bối. Sao ngươi lại đến đây?” Mã Vinh nhìn gã cảnh giác. Y đặt tay lên eo của Thổ Nhĩ Bối ngồi bên.
“Ngươi đâu cần phải bằng mọi giá đến đây chỉ vì thứ đó!” Lạp Hộ nói bằng giọng chế nhạo. Mã Vinh tỏ vẻ giận dữ. Y đứng phắt dậy. Thổ Nhĩ Bối cố kéo y ngồi xuống nhưng y thô bạo đẩy ả ra. Y vòng qua bên kia lò than và túm cổ Lạp Hộ lôi bật dậy. Y bẻ quặt tay gã ra sau và quát, “Tên cẩu trệ này, ngươi định thẩm tra lão gia sao?” Lạp Hộ đưa mắt cho hai kẻ còn lại. Tên Duy Ngô Nhĩ thứ hai đang mải nhai miếng mỡ nướng. Gã chủ phường đứng dựa bên quầy xỉa răng. Cả hai không tỏ vẻ muốn ứng cứu. Lạp Hộ nài, “Đừng nổi nóng, Vinh Bảo huynh đệ! Ta muốn hỏi chỉ vì người Hán rất hiếm khi đến đây.” Mã Vinh buông gã ra và trở về chỗ. Thổ Nhĩ Bối vòng tay ôm lấy y và y quay ra âu yếm nàng một lát. Thế rồi y uống cạn vò rượu bằng một hơi. Vừa đưa tay lau miệng, y nói, “Chà, vì chúng ta đến đây như những bằng hữu lâu năm, nên ta cũng không phiền khi trả lời câu hỏi của ngươi. Nhiều ngày trước, ta có tranh cãi với một vị bằng hữu trong quân doanh cách đây ba ngày đường. Ta vỗ nhẹ vào đầu hắn và hắn bị vỡ sọ. Cũng vì các vị thượng quan không hiểu rõ mọi tình tiết, nên ta nghĩ tốt nhất nên cao chạy xa bay. Giờ ta đến đây, hầu bao của ta gần như chẳng còn bao nhiêu. Nếu có vụ gì có thể kiếm ra ngân lượng, thì ta nguyện là người của ngươi!” Lạp Hộ vội dịch lại cho kẻ ngồi bên cùng nghe, đó là một người béo lùn, đầu nhọn như mũi tên. Cả hai ngắm nghĩa Mã Vinh để định giá thù lao.
“Lúc này thì không có nhiều việc lắm đâu, huynh đệ ạ!” Lạp Hộ thận trọng nói. “Xem nào”, Mã Vinh nói, “bắt cóc nữ nhi thì sao? Đó là một loại hàng hóa luôn thiếu!” “Không phải ở đất này, huynh đệ ạ!” Gã ngồi bên đáp. “Mọi nhà chứa ở đây đã có đủ và dư thừa. Vài năm trước, khi quan đạo đi ngang qua nơi này, phải rồi, một người có thể bỏ ngân lượng ra mua một nữ nhân. Nhưng bây giờ thì không!” “Không có nữ nhân người Hán ở khu vực này sao?” Mã Vinh hỏi. Lạp Hộ lắc đầu đáp, “Không có lấy một ả. Nhưng thiếu nữ bên cạnh ngươi có gì không được sao?” Mã Vinh kéo chiếc xiêm y của Thổ Nhĩ Bối, đáp, “Không có gì không được, và dù sao ta cũng không phải kẻ kĩ tính!” “Một gã người Hán kiêu ngạo như ngươi sẽ xem thường một thiếu nữ người Duy Ngô Nhĩ!” Gã ngồi bên khó chịu nói. Mã Vinh nghĩ tốt nhất là không nên cãi cọ, y bảo, “Không phải ta! Ta thích vẻ tự nhiên của những nữ nhân này!” Và trong lúc Thổ Nhĩ Bối không tìm cách che kín thân thể lại, y nói thêm, “Họ cũng không có vẻ kiểu cách!” “Đúng thế”, Lạp Hộ nói, “chúng ta là tộc người mạnh mẽ, oai hùng hơn người Hán các người. Một ngày nào đó, chúng ta sẽ tấn công các người từ phía Bắc và phía Tây, chiếm lĩnh toàn bộ đất Đại Đường!” “Chắc phải sau khi ta đã chết!” Mã Vinh hào sảng nói. Lạp Hộ lại nhìn Mã Vinh bằng ánh mắt sắc lạnh. Rồi gã nói một tràng dài với gã Duy Ngô Nhĩ ngồi bên. Gã này trước hết lắc đầu dứt khoát, sau có vẻ tán đồng.
Lạp Hộ đứng dậy và đến chỗ Mã Vinh. Gã thô lỗ đẩy Thổ Nhĩ Bối ra và ngồi xuống cạnh Mã Vinh. “Nghe này, huynh đệ”, gã bộc bạch, “chúng ta có thể đưa ngươi vào một vụ làm ăn rất hậu! Ngươi đã quen sử dụng các loại binh khí trong quân đội đúng không?” Mã Vinh nghĩ đây chỉ là một câu hỏi tò mò. Y nôn nóng đáp, “Ta đã từng là quan binh trong vài năm, huynh đệ ạ! Ta biết tất cả!” Lạp Hộ gật đầu nói, “Sắp tới sẽ có một trận giao tranh và một hảo hán sẽ được nhiều thứ từ đó!” Mã Vinh chìa tay ra. “Không”, Lạp Hộ nói, “không phải về chuyện ngân lượng. Nhưng vài ngày tới, khi chúng ta tiến hành, ngươi muốn bao nhiêu cũng được!” “Ta nhận lời!” Mã Vinh hào hứng. “Ta sẽ tham gia cùng ngươi ở đâu?” Lạp Hộ lại nói một tràng với gã bên cạnh. Rồi gã đứng dậy, bảo, “Đi nào, huynh đệ, ta sẽ đưa ngươi đến gặp thủ lĩnh của bọn ta!” Mã Vinh đứng bật dậy và vắt áo qua vai. Y dịu dàng vỗ nhẹ lên người Thổ Nhĩ Bối và bảo, “Thổ Nhĩ Bối, ta sẽ trở lại!” Hai người rời khỏi chốn ấy, Lạp Hộ đi trước. Gã đưa Mã Vinh qua hai con hẻm tối tăm, rồi vào một nơi gần như đổ nát. Họ dừng lại trước một căn lều nhỏ. Gã gõ cửa nhưng không có người đáp lại. Lạp Hộ nhún vai rồi đẩy tung cửa, ra hiệu cho Mã Vinh cùng vào. Họ ngồi trên chiếc ghế thấp phủ da cừu. Bên trong chẳng có gì ngoài chiếc giường thấp bằng gỗ. “Thủ lĩnh sẽ sớm quay về thôi”, Lạp Hộ nói. Mã Vinh gật đầu và sẵn sàng chờ đợi.
Bỗng cánh cửa bật tung và một đại hán xộc vào. Hắn hoảng hốt lớn tiếng báo gì đó cho Lạp Hộ. “Hắn lảm nhảm cái gì vậy?” Mã Vinh hỏi. Lạp Hộ có vẻ kinh hãi. “Hắn nói đám sai nha vừa lục soát Đông phường!” Mã Vinh đứng phắt dậy. “Giờ là lúc ta phải đi rồi!” Y bảo. “Nếu bọn chúng đến là ta tiêu đời! Ngày mai ta sẽ trở lại. Làm sao ta tìm được căn lều này?” “Cứ bảo muốn tìm Quận vương Ô Nhĩ Kim!” Gã đại hán đáp. “Ta biến đây. Xin hẹn ngày mai!” Mã Vinh lao ra ngoài. Y thấy Địch Công đang ngồi một mình trong thư phòng, đắm chìm trong suy tư. Khi Địch Công trông thấy Mã Vinh, ông cau mày nói, “Đào Cam và Phương Bộ đầu đã về được một lúc rồi. Họ nói rằng khám xét cũng không có kết quả. Đào Cam đã đến phường hội Nam Liêu, nhưng bọn chúng không hề mua thêm nữ nhân nào từ nửa năm nay. Ngươi có tìm được manh mối gì về chỗ ở của Bạch Lan ở phường hội nhà thổ phía Bắc không?” “Không có tin tức gì về cô nương bị bắt cóc ấy!” Mã Vinh đáp, “nhưng thuộc hạ có một câu chuyện ly kỳ.” Rồi y kể lại cho Địch Công toàn bộ cuộc phiêu lưu với Lạp Hộ và Thổ Nhĩ Bối. Địch Công ngồi nghe với vẻ lơ đãng. Ông nói, “Đám du thủ du thực ấy có thể muốn ngươi cùng chúng tập kích một bộ lạc khác. Ta sẽ không muốn mạo hiểm cùng chúng sang vùng đồng bằng bên kia sông, nếu ta là ngươi!” Mã Vinh lắc đầu hoài nghi nhưng Địch Công nói tiếp, “Sáng mai, ta muốn ngươi cùng ta và Hồng Sư gia đến thăm trang viên của Nghê Tuần phủ ở ngoại thành. Nhưng tối mai ngươi có thể quay lại Bắc Liêu và thử tìm hiểu thêm về gã thủ lĩnh của đám người dị tộc ấy.”
HỒI 17 Mai thị đưa con đến Lan Phường huyện nha Địch Công dẫn người tới u linh trang viên Địch Công định lên đường đến trang viên của Nghê Tuần phủ ở ngoại thành từ sáng sớm. Nhưng vừa thưởng trà buổi sáng xong, Hồng Sư gia đến báo Nghê phu nhân cùng nhi tử Nghê San đến gặp Địch Công như đã được mời. Địch Công cho mời họ vào. Nghê San cao lớn hơn so với tuổi. Cậu ta có khuôn mặt sáng sủa, thông minh và khí chất của sự tự tin khiến Địch Công hài lòng. Ông bảo Nghê phu nhân và nhi tử ngồi trước án thư. Sau những lời hỏi han thường lệ, Địch Công nói, “Phu nhân, xin thứ lỗi vì bản quan công vụ nặng nề nên đã không dành được nhiều thời giờ cho chuyện của phu nhân như ý muốn. Ta vẫn chưa thể giải mã được bí mật trong bức tranh của Nghê đại nhân. Tuy nhiên, ta cảm thấy nếu được biết nhiều hơn về nội tình của Nghê gia khi Nghê đại nhân còn sống, ta sẽ có được lợi thế khi giải quyết vụ án này. Do vậy, bản quan mong hỏi phu nhân vài câu, để gợi ý cho ta.” Mai thị cúi đầu. “Trước hết”, Địch Công nói tiếp, “bản quan muốn biết về thái độ của Nghê đại nhân với trưởng nam Nghê Kỳ. Theo lời chứng khai của phu nhân, Nghê Kỳ là kẻ nhẫn tâm. Nghê đại nhân có nhận thấy nhi tử mang bản tính ác độc không?” “Dân nữ xin được nói thẳng”, Mai thị đáp, “trước khi lão gia qua đời, Nghê Kỳ cư xử rất chính trực. Dân nữ không bao giờ nghĩ sẽ có ngày hắn trở nên độc ác như sau khi lão gia mất. Lão gia luôn nhẹ nhàng khi nói về Nghê Kỳ với dân nữ, ông ấy thường nói Nghê Kỳ là người cần mẫn và cần phải dồn hết tâm sức để hỗ trợ hắn làm chủ gia sản. Và Nghê Kỳ đối xử với dân nữ như một nhi tử mẫu mực, luôn thấy trước mọi ước muốn của thân phụ.”
“Phu nhân, bản quan muốn phu nhân cho biết danh tính vài vị bằng hữu của Nghê đại nhân ở huyện Lan Phường.” Mai thị do dự. Rồi nàng đáp, “Bẩm đại nhân, lão gia không thích có bằng hữu. Ông ấy quen dành buổi sáng ngoài cánh đồng. Buổi chiều, ông ấy sẽ vào mê cung một mình và ở lại đó khoảng nửa canh giờ.” “Phu nhân đã bao giờ vào trong mê cung đó chưa?” Địch Công ngắt lời. Thiếu phụ lắc đầu. “Dân nữ chưa từng vào đó. Lão gia luôn nói trong ấy rất ẩm thấp. Sau đó, ông ấy hay thưởng trà ở tiểu đình trong khu vườn phía sau trang viên. Ông ấy có thể đọc sách hoặc vẽ. Dân nữ biết một người là Lý phu nhân, một họa sư thiên bẩm. Lão gia thường hay mời Lý phu nhân và dân nữ cùng ông ấy đến tiểu đình để luận bàn về tranh.” “Lý phu nhân có còn sống không?” Địch Công hỏi. “Dân nữ nghĩ là bà ấy còn sống. Năm xưa, bà ấy sống cách trang viên nhà họ Mai không xa. Lý phu nhân thường hay đến thăm dân nữ. Bà ấy là người nhân hậu, nhưng lại bất hạnh vì phu quân đã qua đời sau hôn sự không lâu. Dân nữ có lần gặp bà ấy khi bà ấy đang đi qua ruộng lúa gần điền trang nhà họ Nghê, dường như Lý phu nhân rất quý mến dân nữ. Sau khi lão gia kết hôn với dân nữ, bà ấy vẫn duy trì mối hữu hảo, và lão gia cũng rất ủng hộ điều đó.” “Đại nhân, lão gia là người rất chu đáo! Ông ấy hiểu rằng khi là phu nhân của một trang viên lớn chỉ toàn những người không quen biết, dân nữ đôi lúc sẽ thấy cô đơn. Dân nữ biết đó chính là lý do lão gia đồng ý để Lý phu nhân đến thường xuyên, dù ông ấy không thích có khách đến.”
“Lý phu nhân có đoạn tuyệt với phu nhân từ sau khi Nghê đại nhân qua đời không?” Mai thị đỏ bừng mặt, nói, “Không hề, hoàn toàn là lỗi của dân nữ, dân nữ đã không gặp lại bà ấy nữa. Sau khi Nghê Kỳ đuổi dân nữ ra khỏi trang viên, dân nữ thấy ô nhục và hổ thẹn nên quay về điền trang của thân phụ, và từ sau đó không còn gặp lại Lý phu nhân nữa.” Địch Công thấy nàng vô cùng xúc động. Ông vội hỏi, “Vậy là Nghê đại nhân hoàn toàn không còn vị bằng hữu nào ở huyện Lan Phường nữa ư?” Mai thị lấy lại bình tĩnh. Nàng gật đầu đáp, “Lão gia thích cô độc. Tuy vậy, có lần lão gia nói, ở đâu đó trong dải núi gần huyện này, lão gia có một người bạn già rất thân thiết.” Địch Công nôn nóng, “Là ai vậy, thưa phu nhân?” “Lão gia chưa bao giờ nhắc đến tên người ấy, nhưng dân nữ có ấn tượng rằng, lão gia vô cùng kính trọng và mến phục ông ta.” Địch Công thất vọng. “Phu nhân, chi tiết này rất quan trọng. Xin hãy cố nhớ lại, nếu phu nhân có thể nhớ thêm điều gì về vị bằng hữu đó!” Mai thị từ tốn nhấp trà rồi mới nói, “Dân nữ giờ chỉ nhớ rằng, ông ấy chắc chắn có đến thăm lão gia một lần, vì đó là một dịp đặc biệt. Lão gia thường thu nhận tá điền một lần mỗi tháng; bất cứ ai có điều gì than phiền hoặc muốn xin lời khuyên đều có thể đến gặp lão gia vào ngày hôm đó.” “Một hôm, có một lão nông phu đứng đợi trước sân. Vừa trông thấy lão gia, lão nhân ấy đã chạy đến vái chào. Lão gia đưa lão nông phu ấy vào thẳng thư phòng và giữ ông lão ở lại đó suốt mấy canh giờ. Dân nữ nghĩ đó phải chăng là vị bằng hữu của lão gia, có thể là một ẩn sĩ. Nhưng dân nữ không hề hỏi.”
Địch Công vuốt râu. Sau khi trầm ngâm một lúc, ông nói, “Bản quan cho rằng phu nhân có giữ một số bút tích của Nghê đại nhân?” Mai thị lắc đầu. “Khi lão gia hợp hôn với dân nữ”, nàng mộc mạc nói, “dân nữ không biết đọc hay biết viết. Chính lão gia đã dạy cho dân nữ biết ít nhiều, nhưng đương nhiên dân nữ chưa bao giờ đủ khả năng để thấu hiểu thư pháp của lão gia. Chắc chắn còn một vài bản thư pháp của lão gia trong trang viên của Nghê Kỳ. Đại nhân có thể đến hỏi hắn.” Địch Công đứng dậy, “Ta hiểu rằng phu nhân đã bất chấp tất cả để đến đây. Xin phu nhân hãy tin rằng, bản quan sẽ dùng tất cả khả năng để tìm ra thông điệp bí ẩn trong bức tranh của Nghê đại nhân. Cho phép bản quan chúc mừng công tử. Công tử rõ ràng là một thiếu niên tài tuấn!” Mai thị và Nghê San đứng dậy cúi đầu thi lễ, rồi Hồng Sư gia tiễn họ ra ngoài. Khi quay lại, lão nói, “Đại nhân, có vẻ không gì gian nan bằng việc có được một bản bút tích của Nghê đại nhân! Có lẽ chúng ta phải thỉnh xin ở kinh thành thì may ra có. Bộ Lễ chắc chắn còn lưu nhiều giác thư cũ gửi cho Thánh thượng mà Nghê đại nhân đã soạn thảo.” “Phải mất cả tháng trời đấy”, Địch Công đáp. “Có thể Lý phu nhân kia có một bức tranh do Nghê đại nhân đề từ. Lão Hồng, hãy thử tìm hiểu xem bà ấy còn sống không, và từng sống ở đâu. Những dữ liệu về vị ẩn sĩ, bằng hữu của Nghê đại nhân còn rất mờ nhạt, ta không mấy hi vọng tìm được ông ta. Có thể, ông ta cũng đã quy tiên.”
“Đại nhân có định xét xử vụ án nhà họ Đinh chiều nay không?” Tối hôm trước, Địch Công đã cố luận giải thêm về điều ông khám phá ra trong bài thơ của Đinh Y và Sư gia nóng lòng muốn biết. Địch Công im lặng một lúc, chưa đáp vội. Rồi ông đứng dậy, “Nói thật với lão, ta vẫn chưa nghĩ ra được. Chúng ta sẽ cùng xem xét lại sau khi chúng ta đến khám phá trang viên ở ngoại thành. Phiền lão ra ngoài và xem kiệu của ta đã được chuẩn bị chưa, và gọi luôn Mã Vinh!” Hồng Sư gia biết không nên nài ép Địch Công thêm nữa. Lão ra ngoài và sai người chuẩn bị kiệu cho Huyện lệnh, có tất cả sáu kiệu phu. Địch Công lên kiệu. Mã Vinh và Hồng Sư gia cưỡi ngựa. Cả đoàn người ra khỏi cổng thành phía Tây và đi theo con đường nhỏ xuyên qua những cánh đồng lúa. Khi đến gần những đoạn có gò cao, Mã Vinh hỏi đường một nông phu. Họ sẽ phải rẽ phải ở ngã rẽ đầu tiên. Con đường rất khó đi. Cỏ dại và cây bụi mọc kín hai bên, ở chính giữa chỉ còn lại một lối mòn cho khách bộ hành. Kiệu phu đặt kiệu xuống, Địch Công bước ra. “Đại nhân, tốt nhất chúng ta nên đi bộ!” Mã Vinh khuyên. “Kiệu không thể qua nơi này.” Nói xong, y buộc dây cương vào một gốc cây. Hồng Sư gia cũng làm theo. Đoàn người đi thành một hàng, Địch Công dẫn trước. Sau nhiều ngã rẽ, họ sững sờ khi đứng trước cổng một trang viên lớn. Những cánh cửa kép vốn được sơn son thếp vàng giờ đây chỉ còn lại những tấm ván rệu rã. Một tấm ván còn sắp rơi ra.
“Ai dám sống trong này chứ!” Địch Công nói trong nỗi kinh ngạc. “Nhưng đây là nơi an toàn nhất ở huyện Lan Phường!” Hồng Sư gia bình phẩm. “Ngay cả đám đạo tặc hung hãn nhất cũng không dám đi ngang qua cửa. Đây là trang viên bị ma ám!” Địch Công đẩy cánh cửa xiêu vẹo ra và bước vào nơi trước kia từng là một hoa viên tươi đẹp. Giờ đây, nơi này thật hoang vu. Đám rễ của cây tuyết tùng cao chót vót đã phá vỡ lớp đá lát sân và cỏ dại dày đặc đã che khuất lối đi. Chỉ còn lại sự tĩnh mịch ngự trị. Không có cả tiếng chim chóc. Lối đi dường như đã biến mất vào đám cây bụi. Mã Vinh phải rẽ đám cây ra cho Địch Công đi qua. Họ thấy một trang viên đổ nát có thềm cao bao quanh. Đây là khu nhà một tầng khá rộng, trước kia hẳn đã là một chốn uy nghi. Giờ đây mái nhà đã thủng lỗ chỗ, mưa gió đã hủy hoại tất cả cùng những cánh cửa và cột trụ bằng gỗ chạm trổ. Mã Vinh chạy lên những bậc thềm đã vỡ và nhìn quanh. Tuyệt không một bóng người. “Có khách đến đây!” Y oang oang lên tiếng. Chỉ có những tiếng vọng đáp lại. Mọi người cùng tiến vào đại sảnh. Ở đây, vữa tường rơi xuống từng mảng. Vài thứ đồ đạc gãy hỏng đứng trơ trọi một góc. Mã Vinh lại lên tiếng nhưng vẫn không có ai đáp lại. Địch Công thận trọng buông mình xuống một chiếc ghế cũ. Ông nói, “Tốt nhất hai người thử đi xem xét quanh đây. Có thể sẽ tìm thấy đôi vợ chồng già đang làm việc trong khu vườn phía sau trang viên.”
Địch Công khoanh tay. Ông lại thấy kinh ngạc trước sự tĩnh lặng huyền bí bao trùm lên nơi này. Rồi ông chợt nghe tiếng chân người chạy. Mã Vinh và Hồng Sư gia lao vào sảnh. “Đại nhân!” Mã Vinh hổn hển, “chúng thuộc hạ tìm thấy xác hai lão nhân kia!” “Trời”, Địch Công khó chịu, “người chết đâu có hại ai. Chúng ta cùng đi xem!” Hai người dẫn Địch Công qua một hành lang tù mù. Tận cùng hành lang ấy là một khu vườn lớn, bao quanh là đám thông già. Ở chính giữa khu vườn là tòa tiểu đình hình bát giác. Mã Vinh lặng người chỉ vào cây mộc lan đang trổ hoa ở một góc vườn. Địch Công chạy xuống mấy bậc thềm và băng qua lớp cỏ um tùm. Trên một chiếc kỷ bằng tre, ngay dưới gốc cây mộc lan, ông thấy những phần thi thể còn lại của hai ông lão bà lão. Xác họ chắc hẳn đã nằm ở đây suốt mấy tháng trời. Xương cốt đã lộ ra qua bộ y phục rách mủn. Đám tóc bạc bám vào xương sọ. Hai người nằm bên nhau, tay ôm ngang qua ngực nhau. Địch Công cúi xuống và chăm chú xem xét kĩ lưỡng hai thi thể. Ông nói, “Ta thấy hình như hai người này qua đời chỉ vì đã hết dương thọ. Ta nghĩ khi một trong hai người nhắm mắt vì bệnh tật và tuổi già, người còn lại cũng nằm xuống đây và cùng yên nghỉ. Ta sẽ sai Bộ khoái đem thi thể họ về huyện nha để nghiệm thi. Nhưng ta cũng không mong thu được điều gì khả quan.” Mã Vinh lắc đầu chán chường nói, “Nếu có bất cứ manh mối gì ở đây, chúng ta phải tự mình tìm ra.”
Địch Công đi về phía tiểu đình. Những ô thoáng trên cửa sổ hình mắt cáo rắc rối cho thấy trước đây nơi này vốn là một chốn thanh tao. Giờ đây, chẳng còn lại gì ngoài những bức tường trơ trọi và một chiếc án thư lớn. “Nơi này Nghê đại nhân đã từng ngồi vẽ và đọc sách. Ta tự hỏi cánh cổng ở hàng rào phía sau dẫn tới đâu.” Họ lại rời tòa tiểu đình để đến cánh cổng gỗ. Mã Vinh đẩy tung cổng. Trước mắt mọi người là khoảng sân lát đá. Phía trước, một cổng đá lớn hiện ra thấp thoáng sau đám lá xanh tươi. Mái cổng cong được tô điểm bằng lớp ngói xanh dương. Hai bên tả hữu là bụi cây dày như bức tường và lớp cây trồng sát nhau. Địch Công nhìn lên phiến đá có viết chữ gắn vào lớp vữa trên cổng. Ông quay lại và nói với hai vị bằng hữu, “Đây hình như là lối vào mê cung trứ danh của Nghê đại nhân. Hãy nhìn khổ thơ trên đó.” Hồng Sư gia và Mã Vinh chăm chú dõi lên. Chữ trên đó được viết bằng nét chữ thảo. “Ta không thể phân biệt được từng chữ!” Hồng Sư gia than. Địch Công vẫn như không nghe thấy lời lão. Ông cứ chăm chú nhìn vào từng câu chữ với vẻ thích thú. “Đây quả là thư pháp tuyệt diệu nhất ta từng thấy!” Ông thở dài. “Thật không may là thiêm danh* đã bị rêu xanh che phủ đến nỗi gần như không thể đọc được. Đúng rồi, chính là thế. Hạc Y ẩn sĩ. Thật là một danh xưng kỳ lạ!” Thiêm danh: chữ ký. Địch Công suy nghĩ một lát rồi nói tiếp, “Ta không thể nhớ ra đã từng nghe đến người mang danh hiệu này hay chưa. Nhưng dù có là ai, người này quả là một nhà thư pháp đại tài! Các ngươi hãy xem những nét chữ ấy và sẽ hiểu vì sao cổ nhân ca tụng lối thư pháp tuyệt trần chẳng khác nào rồng bay phượng múa.”
Địch Công bước qua cổng vòm, vẫn không ngớt lời ngưỡng mộ. “Hãy cho tại hạ thấy chữ viết mà một người có thể đọc được!” Mã Vinh thì thầm với Hồng Sư gia. Phía trước là một rặng cây tuyết tùng già. Khoảng không giữa những thân cây to lớn đều đầy đá cuội và cây bụi có gai. Ngọn cây chạm vào nhau ở tít trên cao, che cả ánh mặt trời. Không khí quyện một mùi lá cây mục. Bên phải, hai cây thông xương xẩu ở hai bên lối đi tạo nên một cổng cây tự nhiên. Dưới chân một cây thông là một phiến đá có khắc chữ “Lối vào”. Bên kia cổng cây là một đường hầm ẩm thấp, mờ tối dẫn thẳng lên trước một đoạn, rồi biến mất ở một khúc quanh. Vừa nhìn vào đường hầm màu lục ấy, trong lòng Địch Công dâng lên một nỗi sợ hãi không thể giải thích nổi. Ông từ từ quay lại. Bên trái, ông thấy lối vào của một đường hầm khác. Một số tảng đá cuội lớn xếp chồng lên giữa những cây tuyết tùng. Một phiến đá đề “Lối ra”. Mã Vinh và Hồng Sư gia đứng sau lưng Địch Công. Không ai nói một lời. Cả hai đều cảm nhận được bầu không khí kỳ dị, đầy đe dọa ở nơi này. Địch Công lại nhìn sang lối vào. Đường hầm dường như tỏa ra một luồng hàn khí. Địch Công thấy ớn lạnh đến xương. Nhưng khối khí xung quanh lại hoàn toàn tĩnh. Lá cây không hề xao động. Địch Công muốn quay đi nhưng đường hầm mờ tối kia như thôi miên ông. Trong ông dậy lên mong muốn bước vào đó. Ông thấy như mình có thể trông thấy bóng dáng cao lớn của Nghê Thọ Kiền đứng trong màn sương mờ đục của khu vườn bên kia khúc quanh, đang vẫy tay ra hiệu cho ông.
Địch Công vận hết gân sức làm chủ mình. Để giải thoát mình khỏi bầu không khí quỷ quái, ông buộc phải nhìn xuống đất, mặt đất phủ một lớp lá mục rất dày. Bỗng tim ông chững lại. Ở giữa khoảng đất xám xịt, ngay trước mũi chân ông, ông thấy một dấu chân nhỏ, như có người bước đi về phía đường hầm. Dấu vết ma quái này như ra lệnh cho ông bước vào trong. Địch Công thở mạnh, rồi bất ngờ quay ngoắt lại. Ông nói bằng vẻ bình thản, “Chà, tốt nhất chúng ta không nên mạo hiểm bước vào mê cung mà không có sự chuẩn bị kĩ lưỡng!” Nói rồi, ông bước qua lối cổng vòng, băng qua khoảng sân lát đá và trở lại khu vườn khi nãy. Chưa bao giờ nắng ấm lại hiền hòa như vậy. Địch Công nhìn lên một cây tuyết tùng to lớn, cao hơn cả những cây thông. Ông bảo Mã Vinh, “Ta muốn ít nhất phải có được hình dung đại thể về hình dạng và kích thước của mê cung này. Chúng ta không nên vào trong để xem xét. Nếu ngươi trèo lên cây này, ngươi có thể quan sát được toàn bộ khu vực này.” “Dễ thôi, thưa đại nhân!” Mã Vinh bằng lòng. Y tháo bỏ đai lưng và cởi áo khoác ngoài. Rồi y nhảy phốc lên và túm được cành cây thấp nhất rồi đu mình lên. Y nhanh chóng ẩn mình vào giữa đám lá dày đặc. Địch Công và Hồng Sư gia ngồi trên một thân cây đổ. Không ai nói lời nào. Bỗng họ nghe tiếng cành gãy bên trên. Mã Vinh nhảy xuống. Trông y thật thê thảm với một vết rách trên quần. “Bẩm đại nhân, thuộc hạ đã trèo lên tới ngọn cây, từ đó quan sát được trọn mê cung. Mê cung này có dạng vòng tròn và mở rộng ra tầm hơn một mẫu đất, tới gần chân núi. Nhưng thuộc hạ không khám phá ra được cách bố trí của mê cung này. Những ngọn cây chạm vào nhau gần như ở mọi nơi, thuộc hạ chỉ có thể nhìn ra một đoạn kéo dài của con đường mòn. Đâu đó trên con đường có sương mù nhẹ lơ lửng. Thuộc hạ sẽ không thấy lạ nếu trong đó có một số ao tù.”
“Ngươi không trông thấy thứ gì giống như mái của tòa tiểu đình hay một căn nhà nhỏ sao?” “Không, thuộc hạ chỉ thấy toàn là những ngọn cây xanh ngợp!” “Thật lạ lùng”, Địch Công bối rối. “Vì Nghê đại nhân chủ yếu dành thời gian ở trong mê cung đó, vậy thì ta có thể hình dung ông ấy sẽ có một vài thư phòng hoặc họa phòng bên trong đó.” Địch Công đứng dậy và chỉnh đốn y phục. “Giờ chúng ta hãy cùng xem xét kĩ hơn bên trong trang viên.” Ba người một lần nữa đi qua chỗ tòa tiểu đình trong vườn và hai thi hài bên dưới gốc mộc lan. Họ trèo lên thềm. Ba người khám xét một số phòng lớn và nhỏ, tất cả đều trống không. Phần lớn đồ gỗ đã mục nát, gạch lộ ra qua lớp vữa. Trong khi Địch Công đang bước vào một hành lang âm u, Mã Vinh, nãy giờ vẫn đi trước ông liền nói, “Đại nhân, cánh cửa này vẫn đóng chặt!” Địch Công và Hồng Sư gia đến bên y. Mã Vinh chỉ vào một cánh cửa gỗ vẫn ở trong tình trạng tốt. “Đây là cánh cửa đầu tiên ở nơi này mà chúng ta thấy còn đóng kín!” Hồng Sư gia nhận định. Mã Vinh thúc vai đẩy cửa và suýt nữa ngã vào trong. Cánh cửa bật mở dễ dàng vì bản lề cửa còn trơn. Địch Công bước vào. Căn phòng này chỉ có một cửa sổ, trên đó gắn lưới sắt. Căn phòng gần như trống không chỉ có một chiếc kỷ bằng tre mộc mạc nằm một góc. Nền phòng được quét sạch sẽ. Hồng Sư gia cũng vào phòng và đến bên cửa sổ che lưới sắt kia.
Mã Vinh vội lùi ra. “Từ lần chúng ta phải mạo hiểm dưới chiếc chuông đồng”, y nói với Địch Công từ bên ngoài phòng, “thuộc hạ trở nên thận trọng đối với những nơi bị đóng kín! Trong khi đại nhân và Sư gia ở trong, thuộc hạ sẽ đứng canh gác ngoài hành lang và đảm bảo không để kẻ nào sập cửa nhốt hai người ở trong!” Địch Công mỉm cười chán nản. Liếc thấy cửa sổ đã bị chặn kín và trần nhà thì cao, ông nói, “Ngươi nói đúng rồi đấy, Mã Vinh! Ngay khi cửa khóa lại, chúng ta sẽ không dễ dàng thoát khỏi căn phòng này đâu!” Nhận thấy chiếc kỷ bằng tre còn mới, không có dấu vết bụi bặm, ông nói thêm, “Có ai đó lâu nay vẫn sống ở nơi này!” “Đây cũng không phải một nơi ẩn dật kém lý tưởng”, Sư gia nhận xét. “Nơi này có thể là hang ổ của đám tội phạm!” “Một phạm nhân hoặc một tù nhân”, Địch Công trầm tĩnh nói. Rồi ông bảo Hồng Sư gia đóng cửa lại. Họ đi khám xét các phòng khác nhưng không phát hiện ra bất cứ điều gì khác. Đã đến gần trưa, Địch Công quyết định quay về huyện nha. HỒI 18 Mã Vinh lập mưu dụ Ô Nhĩ Kim Kiều Thái theo kế bắt kẻ đầu sỏ Vừa trở về huyện nha, Địch Công lập tức triệu Phương Bộ đầu đến. Ông lệnh cho Phương Chính cử mười Bộ khoái và hai đảm giá* đến ngay trang viên của nhà họ Đinh ở ngoại thành để thu nhặt những phần thi thể còn lại của vợ chồng ông lão gác cổng. Đảm giá: người thu dọn hiện trường. Rồi Địch Công gọi người đem cơm trưa lên thư phòng cho mình. Trong khi ăn, ông gọi quán lại đến. Người này đã quá lục tuần, ông ta được chủ phường buôn tơ lụa giới thiệu đến chỗ Địch Công. Ông ta là một thương nhân tơ lụa đã nghỉ việc, cả đời sống ở huyện Lan Phường.
Địch Công hỏi luôn trong lúc dùng bữa, “Tiên sinh đã bao giờ nghe đến một lão học sĩ ở huyện này, sử dụng tên hiệu là Hạc Y ẩn sĩ chưa?” Quán lại cũng hỏi, “Lão phu cho rằng đại nhân muốn nói đến Hạc Y tiên sinh?” “Có thể cùng là một người đấy”, Địch Công nói. “Tiên sinh chắc chắn sống ở đâu đó ngoài ngoại ô.” “Đúng vậy”, quán lại đáp. “Đó là Hạc Y tiên sinh, như cách lão thường được gọi. Lão là một ẩn sĩ, từng sống trên dãy núi bên ngoài cổng thành phía Nam, theo như lão phu còn nhớ. Không ai biết tiên sinh bao nhiêu tuổi.” “Ta muốn gặp ông ấy”, Địch Công nói. Lão quán lại có vẻ ngờ vực. “Đại nhân, đây quả là một việc khó khăn!” Lão nhân thốt lên. “Lão tiên sinh đó không bao giờ rời khỏi thung lũng trong núi và không muốn có khách đến thăm. Lão phu cũng không biết tiên sinh vẫn còn sống nếu như dạo trước lão phu không nghe nói có hai người đi kiếm củi tình cờ gặp được tiên sinh đang đọc sách trong vườn. Hạc Y ẩn sĩ là một học sĩ uyên bác. Thậm chí, vài người còn nói lão đã khám phá ra thuốc trường sinh bất lão, và sẽ sớm tu luyện thành tiên, thoát khỏi cõi trần.” Địch Công lại chậm rãi vuốt râu. “Ta đã được nghe nhiều lần câu chuyện về những ẩn sĩ. Thông thường, họ chỉ là những người vô cùng lười biếng và vô tri. Tuy nhiên, ta đã trông thấy mẫu thư pháp của con người này, thật vô cùng tuyệt diệu. Hạc Y tiên sinh có thể là một ngoại lệ. Đường đi tới đó thế nào?”
“Đại nhân sẽ phải đi bộ gần hết quãng đường. Đường mòn trên núi rất dốc và hẹp, đến nỗi ngay cả một chiếc kiệu nhỏ cũng không lọt.” Địch Công vừa cảm tạ quán lại thì Kiều Thái bước vào. Trông y có phần lo lắng. “Kiều Thái, ta tin là không có chuyện gì bất trắc ở Tiền gia trang?” Địch Công sốt ruột hỏi. Kiều Thái ngồi xuống và tay mân mê hàng ria mép. Y nói, “Đại nhân, thật khó để giải thích khi nhận thấy sự thay đổi trong thái độ của một số quân sĩ. Thuộc hạ cho rằng đây là chuyện hệ trọng. Trong vòng hai ngày nay, thuộc hạ thấy có chuyện không hay trong binh sĩ. Thuộc hạ cùng Lăng Bài quân đi kiểm tra và thấy ông ta cũng đang lo lắng. Ông ta nói, binh sĩ dường như tiêu nhiều hơn số tiền họ có thể được nhận.” Địch Công vẫn chăm chú lắng nghe. “Kiều Thái à, nghe có vẻ nghiêm trọng đó!” ông chậm rãi nói. “Hãy lắng nghe câu chuyện kỳ lạ của Mã Vinh!” Mã Vinh một lần nữa thuật lại những gì y được nghe ở phường hội Bắc Liêu. Kiều Thái lắc đầu. “Đại nhân, thuộc hạ e rằng chúng ta gặp chuyện không hay rồi! Chúng ta đã nghĩ kế tạo ra một đội quân giả đi tuần tra vùng biên, kế ấy đã tạo ra hai sự kiện. Thứ nhất, chúng ta đã có thể hạ thủ được Tiền Mưu và bắt giữ người của hắn. Thứ hai, có thể kế đó đã khiến các bộ lạc dị tộc tính chuyện đột kích huyện này vì chúng cho rằng đây là cơ hội nghìn năm có một, trước khi quân đội của ta kịp đến.”
Địch Công giật dải tóc mai. “Một cuộc tấn công của dị tộc vào huyện này sẽ là đòn hiểm sau cùng!” ông bực bội. “Cứ như thể chúng ta chưa gặp đủ khó khăn vậy! Ta ngờ rằng gã giật dây bí ẩn luôn bày kế cho Tiền Mưu chính là kẻ đứng sau lưng toàn bộ chuyện này! Ngươi nghĩ chúng ta có bao nhiêu người có thể tin tưởng được?” Kiều Thái ngẫm nghĩ. Lát sau y đáp, “Bẩm đại nhân, số người thuộc hạ có thể tin tưởng sẽ không quá năm mươi người!” Mọi người lại chìm vào yên lặng. Bỗng Địch Công đấm mạnh xuống án thư. “Nhưng cũng có thể chưa quá muộn đâu!” Ông thốt lên. “Lời nhận định của ngươi về hai hiệu quả của mưu kế lại cho ta một ý tưởng, Kiều Thái ạ. Mã Vinh, chúng ta phải lập tức bắt giữ gã thủ lĩnh người Duy Ngô Nhĩ mà ngươi định gặp tối hôm qua. Ngươi có thể bắt hắn mà không khiến những kẻ khác ngoài kia chú ý không?” Mã Vinh mừng rỡ. Y chống tay lên gối và mỉm cười, “Đại nhân, giữa ban ngày ban mặt thì không phải thời điểm thích hợp để hành động, nhưng đương nhiên việc đó nằm trong tầm tay của thuộc hạ!” “Ngươi hãy cùng Kiều Thái đến đó ngay!” Địch Công ra lệnh. “Nhưng nhớ là phải bí mật bắt giữ hắn. Nếu ngươi thấy không thể bắt giữ hắn mà không để người khác biết, thì phải buông tha hắn và quay về đây!” Mã Vinh gật đầu. Y đứng dậy và ra hiệu cho Kiều Thái đi theo. Họ quay về túc xá của sai nha và ngồi một góc. Đó là nơi hai người hay thì thầm bàn luận. Sau đó, Mã Vinh rời huyện nha một mình.
Y đi vòng qua huyện nha và tha thẩn đi dọc theo phố chính dẫn đến cổng thành phía Bắc. Y đứng một lát trước một quán ăn nhỏ rồi bước vào trong. Mã Vinh đã từng đến đó. Chủ quán chạy ra chào đón. “Ta muốn ăn trưa trong một phòng nhỏ ở lầu trên!” Mã Vinh bảo rồi leo lên thang. Ở lầu trên, y thấy một phòng trong góc còn trống. Khi y vừa gọi cơm trưa xong, Kiều Thái bước vào phòng qua lối cửa sau. Mã Vinh vội cởi bỏ áo mũ. Trong khi Kiều Thái bỏ hai thứ đó vào gói hành lý, Mã Vinh rũ tóc cho rối và quấn một dải khăn nhem nhuốc quanh đầu. Y nhét dải áo vào trong đai và xắn tay lên. Vội vàng từ giã Kiều Thái, y ra khỏi phòng. Y rón rén xuống cầu thang và đi vào bếp. “Ngươi có dư chiếc bánh rán nào không, lão béo?” Y quát hỏi một trù sư đang đầm đìa mồ hôi bên bếp lửa. Trù sư ngẩng lên. Khi thấy một gã giang hồ thô lỗ, ông ta vội đưa cho y một chiếc bánh bột mì còn nằm trong chảo. Mã Vinh lẩm bẩm gì đó, chộp lấy chiếc bánh rồi ra khỏi nhà bếp bằng cửa sau. Trên lầu, Kiều Thái bắt đầu dùng cơm trưa. Trông thấy chiếc áo nâu quen thuộc và chiếc mũ đen có chỏm của huyện nha, tiểu nhị đem cơm lên vẫn ngỡ đó là người đã vào quán lúc trước. Kiều Thái định bỏ đi vào lúc chủ quán đang bận. Trong lúc đó, Mã Vinh đã đến được khu chợ gần Tháp Trống. Y loanh quanh một lát giữa những quầy hàng rong trên phố rồi lên chỗ Tháp Trống.
Không gian tối tăm bên dưới cửa vòm bằng đá khiến cho phần chân của tháp rất vắng vẻ. Trong những ngày mưa gió, những người bán hàng rong thường đến trú dưới vòm đá này và bày hàng hóa, nhưng hôm nay thì họ sẽ thích không gian sáng sủa bên ngoài hơn. Mã Vinh ngoái lại. Khi không thấy ai chú ý đến mình, y vội bước vào trong cửa vòm đó. Y trèo lên lối cầu thang hẹp dẫn lên lầu trên. Đây là một căn gác có cửa sổ lớn ở bốn bên. Thời tiết nắng nóng, người dân thỉnh thoảng hay lên đây hóng gió, nhưng lúc này ở đây không một bóng người. Cầu thang dẫn lên lầu thứ ba bị chặn lại bởi một cánh cửa gỗ. Cửa đó không có khóa, được chốt bằng then sắt, có dải giấy niêm phong mang con dấu lớn màu đỏ của huyện nha. Mã Vinh bình thản gỡ niêm phong và đẩy cửa mở ra. Y leo lên lầu thứ ba. Một chiếc trống lớn nằm trên bệ ở chính giữa sàn gỗ. Trên trống phủ một lớp bụi từ những ô thoáng bay vào. Chiếc trống chỉ được dùng đến trong trường hợp khẩn cấp để cảnh báo dân chúng. Rõ ràng chiếc trống này đã không được dùng đến trong nhiều năm. Mã Vinh gật đâu. Y lại vội vã đi xuống. Y nhìn ra một cửa vòm. Khi thấy không có người theo dõi mình, y lẻn ra và đến thẳng phường hội Bắc Liêu. Ban ngày, trông nơi này tồi tàn hơn buổi tối. Không có ai quanh đấy. Hình như đám người ở đây đã ngủ quên từ đêm hôm trước. Mã Vinh tha thẩn một lúc nhưng không tìm được tửu điếm hôm trước y đã đến.
Y đánh bạo mở đại một cửa. Một ả ăn vận lếch thếch đang nằm trên chiếc kỷ bằng gỗ. Mã Vinh đá vào chiếc kỷ. Ả kia uể oải nhỏm dậy. Ả khó chịu nhìn Mã Vinh và gãi đầu. Mã Vinh cộc cằn, “Ô Nhĩ Kim!” Ả kia bỗng hoạt bát hẳn lên. Ả nhảy xuống đất và biến vào trong tấm màn phía sau. Ả quay lại và dắt theo một tiểu lãng tử nhếch nhác. Chỉ tay vào Mã Vinh, ả luôn miệng dặn dò tiểu tử kia. Rồi ả nói lại điều gì đó với Mã Vinh. Y nôn nóng gật đầu dù không hiểu lời nào. Tiểu lãng tử kia ra hiệu cho Mã Vinh. Nó chạy nhanh ra phố, Mã Vinh theo gót. Tiểu lãng tử luồn qua một lối hẹp giữa hai căn nhà. Mã Vinh khó khăn lắm mới lách được thân hình đồ sộ của mình qua. Khi đi qua dưới một cửa sổ nhỏ đang mở, rộng khoảng hai thước, y nghĩ nếu có kẻ nào bên trong muốn lựa lúc này để đập vỡ sọ y tại đây, thì y cũng chẳng thể xoay xở nổi. Một chiếc đinh móc rách áo y. Mã Vinh dừng lại và buồn bã nhìn vết rách toang hoác kia. Rồi y nhún vai xem thường; tóm lại, vết rách này cũng giúp y ngụy trang. Bỗng y nghe một giọng mềm mại gọi y từ trên kia, “Vinh Bảo, Vinh Bảo!” Y ngẩng lên. Chính cô nương Thổ Nhĩ Bối đang nhìn qua ô cửa sổ nhỏ ngay trên đầu y. “Mỹ nhân, nàng thế nào rồi?” Mã Vinh mừng rỡ hỏi. Thổ Nhĩ Bối hình như rất vui mừng. Nàng vừa thì thầm mấy lời, vừa chăm chăm nhìn Mã Vinh qua đôi mắt tròn to.
Mã Vinh lắc đầu, “Ta không biết nàng đang gặp chuyện gì, nhưng giờ ta đang có chuyện cấp bách. Ta sẽ trở lại sau!” Y đang định bỏ đi thì Thổ Nhĩ Bối vươn cánh tay trần ra khỏi cửa sổ và níu lấy cổ áo y. Nàng chỉ về hướng mà tiểu lãng tử kia vừa đi, lắc đầu với vẻ dứt khoát. Rồi nàng lướt ngón tay trỏ ngang qua cổ. “Phải rồi, ta biết bọn chúng là đám giết người!” Mã Vinh cười nói. “Nhưng nàng đừng lo. Ta sẽ tự lo cho mình được!” Thổ Nhĩ Bối kéo y lại gần cửa sổ. Nàng ghé má lại, áp lên má y một lát. Nàng vẫn có mùi mỡ cừu thoang thoảng nhưng Mã Vinh thấy có phần dễ chịu. Rồi y nhẹ nhàng buông tay nàng và đi tiếp. Khi y ra khỏi lối hẻm ấy, tiểu lãng tử kia chạy lại chỗ y. Nó lắp bắp liên hồi, hình như nó sợ bị lạc mất Mã Vinh. Hai người bò lên một đống rác và trèo qua một bức tường đổ nát. Một căn lều được dựng khéo léo, đứng lạc lõng giữa một đám lều trại ngổn ngang. Tiểu lãng tử kia chỉ vào căn lều ấy rồi bỏ đi. Mã Vinh lúc này đã nhận ra căn lều nhỏ y đã đến cùng với Lạp Hộ tối hôm trước. Y đến gõ cửa. “Vào đi!” Một giọng nói vang ra từ bên trong. Mã Vinh mở cửa. Y đứng sững lại. Một người cao gầy đang đứng quay lưng vào bức tường đối diện cửa. Mã Vinh không rời mắt khỏi con dao dài kỳ dị mà tay phải người kia đang cầm, chỉ trực phóng vào y. Sau vài giây căng thẳng, người kia nói, “Thì ra là ngươi, Vinh Bảo! Ngồi xuống đi!”
Hắn lại nhét con dao vào bao da và ngồi xuống chiếc ghế gỗ thấp lè tè. Mã Vinh cũng ngồi xuống. “Tối hôm trước, Lạp Hộ đã đưa tại hạ đến đây và…” “Im miệng!” Kẻ kia ngắt lời, “Nếu ta không biết mọi điều về ngươi, thì giờ ngươi không còn mạng đâu. Ta phóng dao chưa bao giờ trượt!” Mã Vinh nghĩ có thể hắn nói đúng. Một người Duy Ngô Nhĩ giỏi tiếng Hán, Mã Vinh đoán hắn chính là một tiểu thủ lĩnh. Mã Vinh cười đầy thiện cảm. “Thủ lĩnh, tại hạ được nghe kể là thủ lĩnh có thể giúp tại hạ một vụ làm ăn có hời!” “Ngươi là kẻ phản bội”, Ô Nhĩ Kim khinh bỉ, “và những kẻ phản bội thì chỉ nghĩ đến lợi lộc. Nhưng ngươi có thể hữu dụng. Có điều trước khi ta chỉ dẫn cho ngươi, ta muốn nói rõ một điều. Tốt nhất ngươi chớ có làm kẻ hai mặt. Nếu có một biểu hiện nào của kẻ hai mặt, sẽ có một lưỡi dao cắm trên lưng ngươi đấy!” “Chắc chắn rồi, thưa thủ lĩnh!” Mã Vinh vội đáp. “Thủ lĩnh biết rõ tình cảnh của tại hạ mà. Tại hạ…” “Đủ rồi!” Gã thủ lĩnh giở giọng hống hách. “Hãy nghe cho kĩ, ta không bao giờ nhắc lại lời mình đâu.” “Có ba bộ lạc đang hùng cứ ở vùng đồng bằng bên kia sông. Ngày mai, lúc nửa đêm, tất cả sẽ đánh chiếm huyện này. Chúng ta có thể chiếm huyện này bất cứ khi nào chúng ta muốn, nhưng chúng ta muốn tránh những cuộc tắm máu vô ích. Đám quan lại người Hán luôn tự mãn và lười nhác, hơn nữa đây lại là một tiền đồn xa xôi.
Huyện này có bị đánh chiếm thì cũng không khiến ở kinh thành bận tâm, đám quan lại cũng không quá vội vã cử quân đội đến đây. May cho bọn ta, quan đạo đi Tây Vực không còn ngang qua huyện này nữa. Nên đám quan lại ở kinh thành không cần phải lo lắng chúng ta sẽ cản trở những đoàn xe cống phẩm từ các chư hầu ở Tây Vực. Khi bọn chúng biết phải làm gì, thì chúng ta đã dựng được vương quốc của mình ở đây rồi, và ở trong tư thế sẵn sàng đáp lại mọi cuộc tiến công.” “Điều quan trọng là chúng ta muốn chiếm huyện này thật bất ngờ. Tất cả đều đã sẵn sàng để đánh chiếm huyện nha và giết tên quan huyện cùng người của hắn. Nhưng chúng ta cần vài tên người Hán để trừ khử đám lính gác cổng.” “Ha!” Mã Vinh tuyên bố, “vậy may cho ngài rồi! Tình cờ tại hạ lại có một vị bằng hữu mà ngài cần. Hắn ta là Bài quân trong quân đội, kẻ này phải bỏ trốn và ẩn mình vì hắn có xích mích với tân Huyện lệnh ở đây. Tên Địch Huyện lệnh ấy là một kẻ rất đáng khinh!” “Người Hán các ngươi luôn luôn sợ Huyện lệnh!” Tên thủ lĩnh Duy Ngô Nhĩ nói giọng khinh khỉnh. “Ta thì không sợ bọn chúng! Vài năm trước, chính tay ta đã cắt cổ một tên Huyện lệnh như vậy!” Mã Vinh nhìn hắn với vẻ thán phục. “Chà”, y nói, “vậy tốt nhất thủ lĩnh nên liên lạc với bằng hữu của tại hạ. Hắn là một kiếm khách thượng thừa và biết mọi khẩu lệnh cũng như hoạt động của quan quân.” “Hắn ở đâu?” Ô Nhĩ Kim nôn nóng.
“Cách đây không xa, thủ lĩnh à!” Mã Vinh đáp. “Bọn ta tìm được một nơi ẩn náu tuyệt mật cho hắn. Hắn chỉ ra ngoài vào đêm, ban ngày hắn ngủ ở lầu thứ ba của Tháp Trống.” Gã Ô Nhĩ Kim cười ầm. Hắn nói, “Quả là một ý tưởng hay! Không ai lên đó mà tìm hắn cả! Mau đưa hắn đến gặp ta!” Mã Vinh tỏ ý nghi ngờ, y cau mày đáp, “Thủ lĩnh, như tại hạ đã nói, hắn không thể mạo hiểm ra ngoài ban ngày. Chúng ta cùng đến đó được không? Khá gần đây thôi!” Gã Duy Ngô Nhĩ nhìn Mã Vinh ngờ vực. Hắn ngẫm nghĩ một lát rồi đứng dậy, rút dao ra khỏi thắt lưng và giấu vào tay áo. “Huynh đệ”, hắn bảo, “ta hi vọng ngươi không định lừa ta. Ngươi đi trước đi. Có bất cứ cử chỉ đáng ngờ nào, ta sẽ cho ngươi nhận một dao vào lưng, không ai có thể đoán ra lưỡi dao từ đâu bay tới!” Mã Vinh nhún vai. “Không cần những lời cảnh báo đó đâu”, y biện bạch. “Thủ lĩnh không thấy chúng tại hạ hoàn toàn ở trong tay thủ lĩnh sao? Một lời hé ra với huyện nha thì tại hạ cùng vị bằng hữu kia sẽ mất mạng!” “Ngươi cứ ghi nhớ điều đó, huynh đệ ạ!” Hắn nói. Hai người ra phố, gã Duy Ngô Nhĩ đi cách Mã Vinh một đoạn. Trong khi Mã Vinh đến khu chợ, y thấy Kiều Thái đứng dựa lưng vào tấm bia đá. Tay Kiều Thái khoanh lại trong tay áo, thơ thẩn nhìn đám đông. Chiếc mũ chỏm, bộ trường bào nâu có dải dây lưng đen cùng với khí chất nhà quan hiện rõ, cho thấy y là người của huyện nha.
Mã Vinh dừng chân. Đây là nơi Mã Vinh phải tận dụng cơ hội. Mọi cử chỉ cũng đều có thể bị nhận một dao của gã Duy Ngô Nhĩ vào lưng. Nhưng y không thể hành động quá vội vàng vì y phải để Kiều Thái trông thấy mình. Mồ hôi đã lạnh buốt chân mày, Mã Vinh thận trọng với vai diễn của mình. Y làm như mình đang do dự một lát. Khi Kiều Thái đưa tay lên và mân mê bộ ria mép, Mã Vinh quay sang và vòng qua phía sau tấm bia đá. Ngay khi y vào được vòm đá tối bên dưới Tháp Trống, Ô Nhĩ Kim cũng theo vào. “Thủ lĩnh có trông thấy cái gã đang đứng tựa vào tấm bia đá kia không?” Mã Vinh vui vẻ thì thào. “Hắn là người của huyện nha đấy!” “Ta có thấy”, Ô Nhĩ Kim cộc lốc. “Mau lên!” Mã Vinh leo lên lầu trên. Y đợi tên Duy Ngô Nhĩ cùng lên. Chỉ vào dấu niêm phong đã bị xé trên cánh cửa, Mã Vinh bảo, “Xem này! Bằng hữu của tại hạ ở trên này!” Gã Duy Ngô Nhĩ rút dao ra khỏi vỏ. Hắn lướt ngón tay trỏ qua lưỡi dao cực sắc. “Trèo lên đi!” Hắn ra lệnh. Mã Vinh lại nhún vai nhẫn nhục. Y chậm rãi leo lên thang, Ô Nhĩ Kim theo sau. Trong khi Mã Vinh ghé vai đẩy cửa mở ra, y thốt lên, “Ôi, ôi! Tên lười biếng này vẫn còn ngủ!” Vừa nói y vừa nhanh nhẹn nhảy lên khỏi những bậc thang sau cùng. Chỉ vào chiếc trống, y nói, “Hắn đây này!” Ô Nhĩ Kim vội vã trèo lên. Đầu hắn vừa ló ra khỏi sàn gỗ, Mã Vinh nhanh như cắt giáng cho hắn một cú đá rất hiểm vào giữa mặt.
Tên Duy Ngô Nhĩ kinh hồn ngã lăn xuống cầu thang dốc. Mã Vinh tuột xuống nhanh hết sức có thể. Ở dưới chân thang, y có thể tránh được một đường dao hiểm ác. Tên Duy Ngô Nhĩ đang nằm trên sàn, tay trái cố chống người lên. Hình như hắn đã gãy một chân và máu tứa ra từ một vết thương sâu trên cái đầu trọc của hắn. Nhưng mắt hắn vẫn ánh lên những tia tinh anh và tay vẫn cầm chắc con dao. Mã Vinh biết không còn thời gian nữa, vì có những chuyện cần kíp hơn. Y nhanh chóng lùi ra phía sau gã kia. Trước khi tên Duy Ngô Nhĩ kịp quay lại, Mã Vinh lại giáng cho hắn một cú đá. Đầu hắn đập vào một bên chân thang. Con dao văng ra sàn. Hắn nằm bất tỉnh. Mã Vinh nhặt con dao lên và giắt vào đai lưng. Y trói hai tay hắn ra sau lưng. Xem xét chân hắn thì thấy dường như không chỉ bị gãy ở một chỗ. Mã Vinh xuống dưới. Y ra khỏi tháp và vô tư đi ra khu chợ, hướng về phía tấm bia đá. Y vừa định đi ngang qua trước tấm bia đá thì Kiều Thái tiến lại. “Đứng yên đó!” Y quát và chộp lấy tay Mã Vinh. Mã Vinh giật tay, nhìn Kiều Thái hằn học và cự lại, “Tên cẩu trệ, bỏ cái tay thối của ngươi ra!” “Ta là người của huyện nha!” Kiều Thái cứng rắn. “Chắc chắn Địch đại nhân muốn hỏi chuyện ngươi đấy!” “Ta ư?” Mã Vinh nổi giận, “Quan gia à, ta là một thường dân thôi mà!” Một đám đông hiếu kỳ tụ lại quanh họ, hăm hở dõi theo chuyện lạ này.
“Ngươi sẽ tự đi, hay để lão gia phải cho ngươi ăn đòn trước?” Kiều Thái dọa. “Bà con xem, chúng ta lại bị đám chó săn của huyện nha bắt nạt sao?” Mã Vinh quay ra hỏi đám đông. Y thấy không ai phản ứng trước trò rửa nhục kín đáo của mình. Mã Vinh cam chịu, “Được rồi, huyện nha cũng chẳng là gì với ông mày!” Kiều Thái trói hai tay y ra sau. Mã Vinh quay lại nói, “Nghe này, ta có một vị bằng hữu đang bị thương. Hãy để ta trả cho người bán bánh rong vài đồng, để đem chút lương thực cho hắn. Hắn không thể đi lại được!” “Hắn ở đâu?” Kiều Thái hỏi. Mã Vinh ngập ngừng một lát rồi miễn cưỡng đáp, “Được rồi, ta sẽ nói sự thật cho ngươi, đêm qua hắn leo lên Tháp Trống đằng kia để hưởng chút thanh khí. Hắn ngã xuống thang và gãy chân. Giờ hắn nằm ở lầu thứ hai.” Đám đông cười ha hả. “Ta nghĩ rằng”, Kiều Thái nói, “huyện nha sẽ muốn gặp bằng hữu của ngươi đấy!” Rồi y quay về phía đám đông, “Ai đó hãy đến chỗ phường chính và bảo ông ta cử đến đây bốn người, một chiếc cáng và vài tấm chăn cũ!” Phường chính chẳng mấy chốc đã chạy đến cùng bốn người lực lưỡng, mang theo nhiều sào tre. “Phường chính, hãy trông giữ gã lưu manh này”, Kiều Thái ra lệnh. Y ra hiệu cho hai người và đi về phía Tháp Trống. Kiều Thái leo lên, vai vắt mấy tấm chăn. Tên Duy Ngô Nhĩ vẫn nằm bất động. Kiều Thái vội dán mảnh giấy dầu lên miệng hắn. Rồi y cuộn hắn trong một tấm chăn và cuộn một tấm khác quanh đầu và vai hắn. Y gọi xuống dưới. Hai người của phường chính leo lên đỡ thân hình mềm rũ kia xuống.
Ô Nhĩ Kim được đặt trên chiếc cáng làm bằng sào tre. Bốn người khiêng hắn lên đường đến huyện nha, Kiều Thái đi trước chỉ đường, dẫn theo cả Mã Vinh. Đám người vào bằng lối cổng bên. Vừa vào đến bên trong, Kiều Thái đã bảo phường chính, “Đặt cáng xuống đây. Túc hạ và người của mình có thể về rồi!” Trong lúc Kiều Thái tiễn họ ra và khóa cổng lại, Mã Vinh đã tự rút tay ra khỏi vòng dây trói lỏng. Y cùng Kiều Thái khiêng cáng vào nhà lao. Họ đặt Ô Nhĩ Kim vào một lao phòng nhỏ. Trong lúc Mã Vinh băng lại vết thương trên đầu cho hắn, Kiều Thái cắt chiếc quần thùng thình của hắn ra rồi dùng nẹp cứng nẹp bên chân bị gãy lại. Mã Vinh vội chạy đi trình báo với Địch Công. Kiều Thái khóa cửa lao phòng lại rồi đứng tựa cửa. Khi đề lao đến, Kiều Thái bảo mình vừa bắt được một gã giang hồ hung hãn; ông ta cần hỏi rõ danh tính hắn ngay khi hắn bình tĩnh lại. Trong thư phòng của Địch Công, chỉ có mỗi Đào Cam ngồi ngủ gật ở một góc. Mã Vinh lay y tỉnh dậy rồi hồ hởi hỏi, “Đại nhân đâu rồi?” Đào Cam nhìn lên, càu nhàu, “Đại nhân cùng Hồng Sư gia ra ngoài sau khi đệ và Kiều Thái vừa đi khỏi. Có chuyện gì mà phấn khích vậy? Đệ có bắt được tên Ô Nhĩ Kim không?” “Còn hơn thế”, Mã Vinh kiêu hãnh, “chúng đệ bắt được cả kẻ đã sát hại Phan đại nhân!” “Mã đệ, tối nay đệ đáng được thưởng một chầu rượu rồi!” Đào Cam hứng khởi. “Chà, đại nhân lệnh cho ta đi mời Nghê Kỳ đến huyện nha vào cuối buổi chiều nay. Ta cho là đại nhân muốn thẩm vấn hắn về cái chết của vợ chồng lão môn đinh tại trang viên ngoại thành. Ta phải đi rồi!”
HỒI 19 Chốn núi non, ẩn sĩ tiếp quan án Giữa thảo lư, thần thám tỏ thiên cơ Sau khi Mã Vinh và Kiều Thái đi khỏi, Địch Công rút một tờ trong chồng văn thư trên án thư. Ông đọc nhưng hình như không để tâm đến nội dung. Hồng Sư gia biết Địch Công đang lo lắng. Địch Công thiếu kiên nhẫn buông tờ giấy xuống. “Không giấu gì lão, nếu Mã Vinh và Kiều Thái không thể bắt được gã Duy Ngô Nhĩ kia, thì chúng ta sẽ ở trong tình thế nguy hiểm nhất từ trước đến giờ!” “Đại nhân, hai người bọn họ đã từng thực hiện những nhiệm vụ gian khó hơn như vậy!” Sư gia trấn an. Địch Công không bình phẩm. Trong gần nửa canh giờ, ông chỉ tập trung vào những văn thư của huyện nha. Cuối cùng, ông buông bút lông xuống, nói ngắn gọn, “Không thể cứ ngồi đây chờ đợi nữa! Rõ ràng Mã Vinh và Kiều Thái đã có cơ hội bắt giữ Ô Nhĩ Kim mà không gây chú ý. Thời tiết hôm nay khá đẹp, chúng ta cùng đi và xem có thể tìm được Hạc Y tiên sinh không!” Từ kinh nghiệm dày dặn, Hồng Sư gia biết tự mình hành động chính là loại thuốc xoa dịu hữu hiệu nhất khi Địch Công buồn phiền. Lão vội ra ngoài chuẩn bị hai tuấn mã. Hai người rời khỏi huyện nha bằng cổng chính, nhằm hướng Nam mà đi. Họ phóng ngựa qua cây cầu cẩm thạch và qua cổng thành phía Nam. Sau khi đi ngựa một lúc lâu theo đại lộ, một nông phu chỉ cho họ lối mòn nhỏ hẹp dẫn lên núi. Lối mòn ấy nằm dưới chân ngọn đồi dốc.
Địch Công và lão Hồng xuống ngựa. Sư gia đưa vài đồng tiền cho một người tiều phu và nhờ ông ta chăm sóc cho đôi tuấn mã tầm nửa canh giờ. Rồi hai người leo lên ngọn đồi. Họ hăm hở leo lên đỉnh ngọn đồi phủ kín thông. Địch Công dừng lại một lát để lấy lại nhịp thở. Nhìn xuống thung lũng xanh ngợp lá trải dài dưới chân, ông vươn hai tay lên tận hưởng ngọn gió lành của núi thổi vào tay áo rộng. Sau khi Hồng Sư gia cũng đã nghỉ chân, hai người cùng đi xuống con đường mòn uốn khúc quanh co. Càng đi xuống thung lũng, không khí càng tĩnh lặng lạ thường. Chỉ còn nghe được duy nhất tiếng suối chảy róc rách. Bắc qua con sông là cây cầu đá nhỏ. Một lối mòn theo sườn núi dẫn đến một thảo lư ẩn hiện trong bạt ngàn lá xanh. Con đường mòn đưa hai người qua một đám cây bụi rậm rạp, đến một cánh cổng tre đơn sơ. Bên trong là khu vườn nhỏ. Hai bên lề là những cây cối trổ hoa cao gần bằng thân người. Địch Công nghĩ mình chưa bao giờ được chiêm ngưỡng một rừng hoa bạt ngàn lộng lẫy như vậy. Những bức tường của căn nhà nhỏ phủ kín dây leo, ngợp màu xanh rêu và như muốn nghiêng đi dưới sức nặng của mái tranh. Có vài bậc thang gỗ cũ kĩ dẫn lên một cánh cửa đơn sơ gồm những tấm ván mộc mạc, không màu sắc. Cửa đang hé mở. Địch Công định báo có khách đến nhưng không hiểu sao ông lại không muốn phá vỡ không gian yên tĩnh chốn này. Ông rẽ qua đám cây mọc hai bên nhà, trông thấy một bờ hiên thô mộc làm từ thân tre. Một lão nhân ăn vận rách rưới đang tưới một hàng chậu hoa. Lão đội chiếc mũ rơm tròn rộng vành. Hương thơm dịu nhẹ của phong lan thoang thoảng trong không khí.
Địch Công rẽ những nhánh cây rộng ra và gọi, “Xin hỏi, Hạc Y tiên sinh có nhà không ạ?” Lão nhân quay lại. Nửa dưới khuôn mặt lão là bộ râu rậm bạc trắng như cước, nửa trên được chiếc mũ rơm to rộng che kín. Lão nhân không đáp mà hướng về phía căn nhà và có một cử chỉ mơ hồ. Rồi lão đặt chiếc bình tưới xuống và biến mất sau căn nhà mà không nói một lời. Địch Công không lấy làm mừng vì lối tiếp đón tùy tiện đó. Ông cộc lốc bảo Hồng Sư gia cứ đợi bên ngoài. Sư gia ngồi xuống bên cổng, Địch Công bước lên những bậc thềm và vào nhà. Ông thấy một gian nhà rộng rãi và trống trải. Sàn gỗ đơn sơ và những bức tường trắng cũng vậy. Vật dụng chỉ có một chiếc án gỗ thô nhám và hai chiếc ghế đẩu đặt bên cửa sổ vừa rộng vừa thấp, một chiếc án thư bằng tre kê sát tường phía sau. Trông giống như trong nhà một nông phu. Nhưng tất cả đều rất sạch sẽ, thanh cảnh. Không thấy bóng dáng gia chủ đâu. Địch Công thấy khó chịu và hối hận vì đã tìm đến đây bằng mọi cách. Ông thở dài, ngồi xuống một chiếc ghế đẩu, nhìn ra cửa sổ và sửng sốt trước hình ảnh thanh tao của những cây đang ra hoa được trồng trên giá ngoài hiên. Những loại phong lan quý hiếm đang nở trong bát bằng sứ và đất nung; hương thơm của hoa lan đã tràn ngập khắp gian nhà. Trong khi ngồi đó, Địch Công thấy không gian tĩnh lặng mênh mông này dần dần xoa dịu tâm trạng bức bối. Lắng nghe tiếng bay mềm mại của một chú ong vô hình, thời gian dường như ngùng trôi.
Cơn bực tức trong Địch Công tan hết. Ông thu hai khuỷu tay lên án và thư thái nhìn quanh. Ông thấy ở khoảng tường bên trên chiếc án bằng tre có treo một đôi câu đối. Cả hai đều được viết bằng lối mạnh mẽ. Địch Công vu vơ đọc qua mấy dòng: “Thiên long thăng không, thành tiên quả Địa dẫn quật thổ, diệc trường sinh.”* Rồng bay lên trời thành tiên quả Giun đào xuống đất được trường sinh. Ý nói con người sẽ có nhiều cách để được lưu danh. Địch Công nghĩ những dòng này quả không tầm thường, không thể chỉ được giải thích bằng một cách. Đôi câu đối được đề tên và đóng dấu. Nhưng từ chỗ mình ngồi, Địch Công không sao đọc được những ký tự nhỏ. Bức màn màu lam đã bạc phía trong cùng gian nhà bỗng rẽ ra và lão nhân khi nãy bước vào. Lão đã đổi bộ đồ rách rưới sang chiếc áo choàng rộng màu nâu và chiếc mũ rơm không còn nữa, để lộ ra mái đầu bạc. Trên tay lão là bình nước nóng nghi ngút khói. Địch Công vội đứng dậy thi lễ. Lão nhân gật đầu và khoan thai ngồi xuống chiếc ghế đẩu còn lại, xoay lưng về phía cửa sổ. Sau một hồi do dự, Địch Công cũng ngồi xuống. Khuôn mặt lão nhân nhăn nheo như một trái táo dại, nhưng đôi môi còn đỏ như son. Trong khi gia chủ cúi đầu rót nước nóng vào ấm trà, cặp chân mày trắng và dài của lão rủ xuống mắt như một bức rèm nên Địch Công không thể nhìn vào đôi mắt lão. 👁 Hạc Y tiên sinh và Địch Công luận đàm Địch Công kính cẩn ngồi đợi lão nhân mở lời trước. Khi đậy nắp ấm trà lại, vị gia chủ mới vòng tay thi lễ và nhìn thẳng vào Địch Công. Dưới cặp chân mày rậm, đôi mắt sắc sảo ấy giống như mắt diều hâu. Giọng nói lão nhân thâm trầm bí hiểm, “Xin thứ lỗi cho lão hủ vô lễ. Lão hủ rất hiếm khi đón khách!”
Trong khi lão tiên sinh nói, Địch Công nhận thấy hàm răng lão còn đủ và trắng như ngọc trai. Địch Công đáp, “Xin tiên sinh lượng thứ vì đã đường đột tới thăm. Ngài…” “Hà! Vậy là Nghê gia sai túc hạ đến đây!” Lão tiên sinh ngắt lời ông. “Hẳn túc hạ là người của gia tộc họ Nghê trứ danh!” “Không”, Địch Công vội đính chính, “vãn bối họ Địch. Vãn bối…” “Phải rồi, phải rồi”, tiên sinh vẫn lơ đãng, “đã rất lâu lão hủ không gặp lão bằng hữu ấy. Để xem nào, đến giờ Nghê đại nhân quy tiên cũng phải được tám năm rồi. Hay là chín năm nhỉ?” Địch Công nghĩ phải chăng lão tiên sinh này đã lẩn thẩn rồi. Nhưng cũng chính sự nhầm lẫn của gia chủ đã đưa ông quay về mục đích của chuyến viếng thăm này, ông không tìm cách đính chính nữa. Tiên sinh lại rót trà. “Phải rồi”, lão nhân trầm ngâm, “một người đầy hoài bão, lão Nghê Tuần phủ ấy. Tại sao, đã bảy mươi năm kể từ khi chúng ta học cùng nhau ở kinh thành. Phải rồi, ông ta là người đầy hoài bão, đã sắp đặt nhiều kế hoạch cho tương lai xa. Ông ta sẽ xóa bỏ cái ác, sẽ tái thiết lại vương triều…” Giọng tiên sinh nhỏ dần. Lão vừa gật đầu liền mấy lần vừa nhấp trà. Địch Công rụt rè, “Vãn bối vô cùng quan tâm đến cuộc đời của Nghê Tuần phủ khi ở huyện Lan Phường.” Vị gia chủ dường như không nghe thấy lời ông, cứ từ tốn nhấp trà. Địch Công cũng đưa chén trà lên miệng. Sau ngụm trà đầu tiên, ông nhận ra đây là thứ trà ngon nhất ông từng được thưởng thức. Hương vị dịu ngọt này như lan ra khắp thân thể ông.
Gia chủ bất chợt mở lời, “Nước được lấy từ những dòng suối chảy qua khe đá. Đêm qua, lão hủ đã đặt lá trà vào nụ hoa cúc. Sáng nay, lão hủ lấy trà ra khi hoa cúc vừa nở dưới ánh nắng. Những lá trà này đã thấm đẫm tinh chất của sương sớm.” Cứ như vậy, Hạc Y tiên sinh nói tiếp, “Nghê đại nhân bắt đầu sự nghiệp ở chốn quan trường còn lão hủ thì vân du khắp thiên hạ. Ông ta trở thành Tri phủ, rồi Tuần phủ. Tên tuổi ông ta đã vang dội khắp chốn kinh thành. Nghê đại nhân trừng trị kẻ xấu, bảo vệ và giúp đỡ người tốt, miệt mài đường trường để tái thiết vương triều.” “Rồi một ngày, khi gần như thực hiện được mọi hoài bão của mình, ông ta thấy mình đã không thể sửa chữa được chính người con của mình. Nghê đại nhân từ quan và trở về sống cuộc đời ẩn dật, chăm sóc ruộng vườn. Và chúng ta đã gặp lại nhau, sau hơn năm mươi năm. Cả hai đều đến cùng một đích bằng hai con đường khác nhau.” Lão tiên sinh chợt cười khúc khích như một đứa trẻ khi nói thêm, “Điểm khác biệt duy nhất là một con đường thì dài và quanh co, con đường còn lại thì ngắn và thẳng!” Ông dừng lại. Địch Công băn khoăn có nên đòi tiên sinh giải thích cho nhận định sau cùng hay không. Nhưng trước khi ông kịp hỏi, lão nhân lại kể tiếp, “Không lâu trước khi Nghê đại nhân qua đời, ông ta và lão hủ có bàn luận về chính điều đó. Rồi ông ta viết đôi câu đối trên tường kia. Mau đến và chiêm ngưỡng thư pháp của Nghê đại nhân đi!”
Địch Công nghe lời, ông đứng dậy và đến xem đôi câu đối treo trên tường. Giờ đây, ông có thể đọc được những chữ nhỏ hơn, “Ninh Hinh Di Nghê Thọ Kiền kính thư”. Giờ Địch Công biết chắc chắn bản chúc thư tìm được trong cuộn tranh của Mai thị là giả mạo. Lời đề này giống với lời đề được thêm vào ở bản chúc thư giả, nhưng rõ ràng không phải cùng một người viết. Địch Công chậm rãi vuốt râu. Nhiều điều đã sáng tỏ trong ông. Vừa ngồi xuống, Địch Công đã nói, “Vãn bối có thể kính cẩn thưa rằng, thư pháp của Nghê Tuần phủ quả là phi phàm, nhưng thưa tiên sinh, thư pháp của tiên sinh mới thực khiến người khác mê hồn. Lời đề tặng trên cổng mê cung của Nghê Tuần phủ mới thật khiến vãn bối…” Tiên sinh dường như vẫn lơ đãng. Lão ngắt lời Địch Công, “Nghê đại nhân mang đầy hoài bão, đến nỗi cả đời vẫn không vơi cạn nhiệt huyết. Ngay cả khi đã về ẩn cư, ông ta cũng cũng không dừng bước. Một vài dự định nhằm điều chỉnh lại những sai phạm lâu năm của ông ta không còn được kết quả như ý muốn nữa khi ông ta qua đời nhiều năm trước đây! Chỉ muốn một mình, nên Nghê đại nhân xây dựng mê cung dị thường đó. Như thể ông ta có thể đơn thương độc mã, với mọi ý đồ và kế hoạch quanh mình như một bầy ong đang phẫn nộ!” Tiên sinh lắc đầu và lại rót một chén trà nữa. Địch Công hỏi, “Nghê đại nhân có nhiều bằng hữu ở đây không?” Gia chủ chậm rãi mân mê một sợi mày dài, rồi lại cười khúc khích và bảo, “Sau tất cả những năm tháng đó, sau tất những gì đã trông thấy và nghe thấy, Nghê đại nhân vẫn đọc Tứ thư ngũ kinh của Khổng Tử. Ông ta có gửi cho lão hủ một xe sách. Lão hủ thấy đó là những gì hữu dụng nhất. Chúng là thứ dùng để nhóm bếp rất độc đáo!”
Địch Công định kính cẩn đưa ra lời phản bác về thái độ bất kính với kinh sách, nhưng gia chủ không màng tới. Lão nói tiếp, “Đức Khổng Tử! Giờ đây là con người giàu hoài bão đối với các vị! Ngài ấy đã dành cả đời để đi khắp thiên hạ, sắp đặt mọi thứ, luôn đưa ra lời khuyên dạy cho bất cứ ai muốn lắng nghe ngài. Ngài ấy giống như một con ruồi trâu! Không bao giờ dừng lại đủ lâu để để nhận thấy càng gắng sức thì càng chẳng thu được bao nhiêu, và càng giành được nhiều thì càng sở hữu được ít. Đúng thế, đức Khổng Tử là một người giàu hoài bão. Nghê đại nhân cũng như vậy…” Lão nhân ngừng lời, rồi lại tỏ vẻ khó chịu, “Và cả ngài cũng vậy!” Địch Công giật mình vì lời nhận định bất ngờ về cá nhân mình. Ông đứng dậy bối rối rồi khiêm nhường cúi đầu, “Xin cho vãn bối mạo muội hỏi câu này…” Hạc Y tiên sinh cũng đứng dậy. “Một câu hỏi”, ông đáp, “sẽ chỉ dẫn đến một câu hỏi khác. Ngài giống như người ngư phủ quay lưng vào dòng sông và những tấm lưới để vào rừng và trèo lên cây bắt cá! Hoặc giống như một người đóng thuyền bằng sắt với một cái lỗ lớn dưới thuyền rồi hy vọng dùng nó để qua sông! Hãy tiếp cận những khó khăn của ngài từ bên phải và bắt đầu bằng những câu trả lời. Rồi một ngày, có thể ngài sẽ tìm được câu trả lời sau cùng. Xin từ biệt!” Địch Công định cúi đầu từ biệt nhưng gia chủ đã quay lưng lại và lê bước vào sau bức màn ở cuối gian nhà.
Địch Công đợi đến khi bức màn buông xuống phía sau lưng tiên sinh thì mới ra ngoài. Ông thấy Hồng sư gia đang ngồi tựa vào cổng vườn mà ngủ, bèn đánh thức lão dậy. Sư gia đưa tay che mắt. Lão nở nụ cười hồn hậu, “Dường như lão phu chưa bao giờ được ngủ ngon đến thế! Lão phu mơ về thời thơ ấu, khi mới lên bốn, năm tuổi, và nhiều điều tưởng như đã quên hết!” “Phải rồi”, Địch Công thâm trầm, “đây là một chốn lạ kỳ…” Hai người lặng lẽ leo lên dốc núi. Khi một lần nữa đứng dưới rặng thông trên đỉnh đồi, Sư gia hỏi, “Hạc Y tiên sinh có cho đại nhân biết thêm nhiều điều không?” Địch Công gật đầu trong vô thức. “Có”, lát sau ông mới đáp, “ta nhận được nhiều điều. Giờ đây ta biết chắc, chúc thư gắn trong bức tranh của Nghê đại nhân là giả mạo. Ta cũng biết thêm lý do Nghê đại nhân bỗng từ quan. Và biết thêm nửa còn lại trong cái chết của Đinh lão tướng quân.” Sư gia định nhờ Địch Công giải thích thêm nhưng trông thấy vẻ mặt Địch Công, ông lại giữ im lặng. Nghỉ ngơi một lát, họ đi xuống con dốc. Hai người lại lên ngựa và trở về huyện Lan Phường. Mã Vinh đang đợi trong thư phòng của Địch Công. Khi y bắt đầu trình báo về chuyện y và Kiều Thái cùng bắt Ô Nhĩ Kim, Địch Công rũ bỏ hết vẻ buồn bã và hăm hở lắng nghe. Mã Vinh cam đoan không ai khác biết về chuyện bắt người này. Y thuật lại từng chi tiết trong cuộc trò chuyện của y với tên thủ lĩnh người Duy Ngô Nhĩ, chỉ lờ đi cuộc gặp gỡ bất ngờ với cô nương Thổ Nhĩ Bối và lời cảnh báo của cô; y một mực cho rằng Địch Công không hứng thú với những hình ảnh mơ mộng.
“Giỏi lắm!” Địch Công khen khi Mã Vinh kể xong. “Giờ chúng ta nắm được thế thắng rồi!” Mã Vinh nói thêm, “Đào Cam đang tiếp Nghê Kỳ ở sảnh tiếp khách. Hai người đang cùng thưởng trà. Lúc nãy, khi thuộc hạ nhìn vào đó, thấy Đào Cam đang rất khó chịu vì Nghê Kỳ nói quá nhanh đến nỗi huynh ấy không nói được dù chỉ một câu!” Địch Công có vẻ hài lòng. Ông bảo Sư gia, “Lão Hồng, lão hãy đến khách sảnh và bảo Nghê Kỳ là ta vô cùng hối hận vì đã bị công vụ cản trở. Gửi lời tạ lỗi của ta đến Nghê Kỳ và báo rằng, ta sẽ đến thăm y ngay khi rảnh rỗi!” Khi Sư gia sắp đi, Địch Công mới hỏi, “Ta hỏi luôn, lão có tìm ra được nơi ở của Lý phu nhân, bằng hữu của Nghê quả phụ không?” “Bẩm đại nhân, lão phu đã lệnh cho Phương Bộ đầu đi điều tra rồi. Lão phu nghĩ Bộ đầu là người vùng này nên có thể có được kết quả nhanh hơn lão phu.” Địch Công gật đầu rồi hỏi sang Mã Vinh, “Kết quả nghiệm thi vợ chồng lão môn đinh ở trang viên ngoại thành thế nào rồi?” “Thưa đại nhân, Ngỗ tác xác nhận cả hai người đều qua đời rất tự nhiên.” Mã Vinh đáp. Địch Công gật đầu. Ông đứng lên và đổi sang bộ quan bào. Trong khi đội chiếc mũ cánh chuồn của quan án, ông chợt hỏi, “Mã Vinh, nếu ta không nhầm, ngươi đã đạt đến cửu cấp và là cấp cao nhất trong quyền thuật từ mười năm trước, đúng không?” Nam nhân cao lớn lắc vai và kiêu hãnh đáp, “Quả là vậy, thưa đại nhân!”
“Giờ nghĩ lại đi”, Địch Công ra lệnh, “và cho ta biết khi là ngươi mới nhập môn, ngươi cảm thấy thế nào về sư phụ ngươi, và cả khi ở nhị cấp hoặc tam cấp!” Mã Vinh không quen phân tích những cảm giác. Y nhíu mày vắt óc nghĩ. Lát sau, y từ tốn đáp, “Đại nhân, thuộc hạ vô cùng tôn kính sư phụ. Ông ấy chắc chắn là một trong số những võ sư giỏi nhất trong thời nay, và thuộc hạ vô cùng ngưỡng mộ. Nhưng khi thuộc hạ tập quyền với ông ấy, ông ấy tránh được mọi ngón đòn hiểm hóc nhất của thuộc hạ mà không hề gặp khó khăn, vừa đùa giỡn mà vừa phản đòn bất cứ khi nào ông ấy muốn dù thuộc hạ đã liên tục phòng ngự. Thuộc hạ vẫn ngưỡng mộ, nhưng đồng thời cũng căm ghét ông ta, vì khả năng thượng thừa ấy!” Địch Công mỉm cười đầy mệt mỏi. “Xin đa tạ huynh đệ của ta! Chiều nay, ta đã đến dãy núi phía Nam thành và gặp một người khiến ta vô cùng bối rối. Giờ đây, ngươi đã nói đúng vào những gì ta không dám bộc bạch rõ ràng với chính mình!” Mã Vinh không hiểu Địch Công đang nói gì, nhưng y thấy thích thú vì được khen. Mỉm cười hồn hậu, y kéo bức màn dẫn ra đại đường. Địch Công bước qua và tiến lên đại án. HỒI 20 Quận vương bị xử, đành khai nhận Nghiệt tử lộ mặt, chịu cúi đầu Ba hồi trống giục báo hiệu huyện nha đã bắt đầu phiên xử buổi chiều. Không ai biết có kỳ án gì ngoại trừ những sự vụ thông thường cần phải xử lý, nên chỉ có vài chục người dân tụ lại trước công đường.
Địch Công ngồi xuống vị trí của quan án và tuyên bố thăng đường. Ông ra hiệu cho Phương Bộ đầu. Bốn Bộ khoái tiến ra cửa công đường và vào vị trí canh phòng. “Do có những nguyên nhân quan trọng”, Địch Công phán, “nên không ai được phép rời khỏi đại đường này trước khi phiên xử kết thúc!” Tiếng xì xào ngạc nhiên rộ lên trong đám dân chúng. Địch Công cầm bút lông và viết lệnh cho đề lao. Hai Bộ khoái đưa Ô Nhĩ Kim lên. Hắn đi lại khó nhọc, Bộ khoái phải đỡ hai tay hắn. Trước đại án của Huyện lệnh, hắn chỉ quỳ một chân; chân bị nẹp duỗi thẳng ra trước trong tiếng rên rỉ đau đớn. “Kẻ quỳ dưới công đường kia, mau khai rõ họ tên và nghề nghiệp!” Địch Công ra lệnh. Gã Duy Ngô Nhĩ ngẩng đầu lên. Nỗi ân hận nổi lên trong ánh mắt rực lửa của hắn. “Bản vương là Quận vương Ô Nhĩ Kim!” “Trong bộ tộc của các ngươi”, Địch Công lạnh lùng, “một người tự xưng là Quận vương chỉ khi hắn có được hai mươi con ngựa! Nhưng đây không phải là bộ tộc của ngươi. Thiên ân của Đại Đường đã chiếu cố chấp nhận Khả Hãn của người Duy Ngô Nhĩ là một chư hầu, phải cúi đầu xưng ‘thần’ với Thánh thượng, có Thiên Địa chứng giám.” “Nay nhà ngươi, Ô Nhĩ Kim, âm mưu tấn công huyện Lan Phường. Ngươi đã phản bội lại Khả Hãn của mình và phạm tội mưu phản chống lại triều đình. Mưu phản là tội nặng nhất, sẽ bị xử mức án cao nhất trong khung hình. Hi vọng duy nhất cho ngươi để được giảm nhẹ khi lĩnh án đó là khai nhận toàn bộ sự thật; cũng đồng nghĩa ngươi phải khai ra những kẻ Hán gian đã đồng mưu với ngươi khi thực thi âm mưu hiểm độc kia.”
“Ngươi gọi kẻ đó là Hán gian”, Ô Nhĩ Kim lớn tiếng, “ta gọi hắn là hảo hán! Có một số người Hán nhận ra rằng những gì bọn chúng lấy đi của chúng ta thì sẽ phải hoàn trả. Người Hán các ngươi không xâm phạm thảo nguyên của chúng ta sao? Nông phu của các ngươi không cày cấy trên đất đai màu mỡ của chúng ta sao? Chúng ta còn chưa phải chứng kiến ngựa dê của mình chết đói hay sao?” “Ta sẽ không khai ra danh tính những người Hán ấy đâu. Bọn họ nhận ra những sai lầm khủng khiếp mà các ngươi đã gây ra cho chúng ta, những người Duy Ngô Nhĩ!” Phương Bộ đầu định vả miệng hắn nhưng Địch Công khoát tay. Ông cúi người về trước và thong thả nói, ‘Tình cờ là bản quan lại không có thì giờ để điều tra về những chuyện đó. Chân phải ngươi đã gãy, dù thế nào ngươi cũng không thể đi lại. Vậy ngươi chắc cũng không thấy phiền lắm nếu chân trái cũng gãy nốt.” Địch Công ra hiệu cho Bộ đầu. Hai Bộ khoái vật ngửa gã người Duy Ngô Nhĩ xuống sàn và giẫm lên tay hắn. Một Bộ khoái khác đem đến một cây trụ cao tầm hai thước. Bộ đầu nhấc chân trái của Ô Nhĩ Kim lên và buộc bàn chân vào trụ. Ông đưa mắt nhìn Địch Công. Địch Công vừa gật đầu, một Bộ khoái lực lưỡng cầm trọng côn giáng xuống gối hắn. Gã Duy Ngô Nhĩ rống lên. “Cứ bình tĩnh”, Địch Công bảo Bộ khoái, “đừng quá vội!” Bộ khoái giáng một côn vào cẳng chân hắn, rồi vào bắp vế. Ô Nhĩ Kim kêu gào và chửi bới bằng tiếng của người Duy Ngô Nhĩ. Rồi khi cẳng chân bị nhận thêm một côn nữa, hắn gào lên, “Sẽ có ngày chúng ta chiếm được đất nước mạt hạng của ngươi, chúng ta sẽ san bằng thành trì và thiêu rụi các phủ huyện, chúng ta sẽ giết hết đám đàn ông và bắt đàn bà cùng lũ trẻ con làm nô lệ…”
Hắn trở nên điên dại khi Bộ khoái vụt hắn thêm một côn nữa. Khi Bộ khoái vung côn lên để đánh côn quyết định, sẽ có thể đập gãy chân hắn, Địch Công khoát tay. “Ô Nhĩ Kim, rồi ngươi sẽ thấy”, ông bình thản nói, “màn chất vấn này chỉ là thông lệ. Ta chỉ muốn ngươi xác nhận những lời tên Hán gian đồng lõa của ngươi đã nói với ta khi hắn trình báo về ngươi và những kẻ dưới quyền ngươi, rồi tố cáo toàn bộ mưu đồ!” Với một cố gắng kinh người, gã Duy Ngô Nhĩ giật được một bàn tay ra khỏi chân Bộ khoái đang đè chặt. Chống khuỷu tay nhỏm dậy, hắn quát, “Tên cẩu quan kia, đừng tìm cách dụ dỗ bản vương bằng những lời dối trá vô liêm sỉ!” “Chà”, Địch Công vẫn lạnh lùng, “đương nhiên một người Hán sẽ sáng suốt hơn nhiều so với đám phiên bang các ngươi. Hắn làm như thể khi hắn đã về phe ngươi. Và rồi khi thời cơ đến, hắn trình báo mọi thứ cho quan phủ. Triều đình sẽ sớm bổ nhiệm hắn một vị trí đầy lợi lộc, xem như là phần thưởng cho những tin tức giá trị hắn đem đến. Ngươi không thấy bản thân ngươi và Khả Hãn vô đức vô năng của ngươi đều bị biến thành những tên ngu ngốc sao?” Hắn vừa định mở miệng, Địch Công đã ra hiệu cho Mã Vinh. Rồi Nghê Kỳ được đưa đến đại đường. Khi trông thấy Ô Nhĩ Kim nằm trên sàn, mặt Nghê Kỳ tái mét. Y muốn bỏ chạy nhưng Mã Vinh đã túm lấy tay hắn bằng bàn tay cứng như gọng kìm. Tên Duy Ngô Nhĩ vừa nhìn thấy Nghê Kỳ liền buông ra một tràng rủa xả, “Đồ cẩu trệ! Đồ phản phúc đê tiện! Không ngờ có ngày một người Duy Ngô Nhĩ chính trực phải bắt tay với một tên Hán cẩu hai mặt như ngươi!”
“Đại nhân, tên này bị điên rồi!” Nghê Kỳ kêu lên. Địch Công không bận tâm đến hắn. Ông bình thản hỏi gã Duy Ngô Nhĩ kia, “Ở trang viên của người này, có những ai là đồng mưu với ngươi?” Ô Nhĩ Kim kể tên của hai dũng sĩ người Duy Ngô Nhĩ mà Nghê Kỳ đã thuê dưới tư cách kiếm sư. Rồi hắn gào lên, “Còn có những tên Hán gian nữa! Tên cẩu trệ Nghê Kỳ này có thể đã lừa được ta, nhưng ta đảm bảo với đại nhân, bọn Hán gian đó sẵn lòng làm tất cả chỉ vì ngân lượng!” Rồi hắn kể ra tên của ba chủ hiệu người Hán và bốn binh sĩ. Đào Cam cẩn thận ghi chép lại những danh tính đó. Địch Công ra hiệu cho Kiều Thái đến bên. Ông thì thầm, “Đến ngay chỗ binh sĩ của ngươi ở Tiền gia trang và bắt giữ bốn binh sĩ đó. Rồi cùng Lăng Bài quân và hai mươi binh sĩ khác đến ngay Nghê gia trang bắt giữ hai gã dũng sĩ người Duy Ngô Nhĩ ở đó. Bắt giữ cả ba chủ hiệu người Hán. Sau cùng, bắt ngay tên Lạp Hộ và tay chân của hắn ở phường hội Bắc Liêu!” Kiều Thái tuân lệnh lên đường, Địch Công bảo Ô Nhĩ Kim, “Ta đâu phải kẻ phải trái bất minh. Ta không dung túng cho một gã người Hán được nhận thưởng chỉ vì hắn phản bội lại ngươi sau khi hắn vừa là chủ mưu vừa là kẻ xúi giục cho tội lỗi của ngươi. Nếu ngươi không muốn Nghê Kỳ ra đi với những thành tích đê tiện của hắn, ngươi nên khai ra chuyện ngươi đã sát hại Phan Huyện lệnh thế nào!”
Mắt gã Duy Ngô Nhĩ lóe lên nỗi vui sướng đáng sợ. “Giờ là lúc ta phục thù đây!” Hắn lớn giọng. “Nghe đây, Huyện lệnh! Bốn năm trước, chính gã Nghê Kỳ kia đã cho ta mười nén bạc. Hắn bảo ta đến huyện nha và báo với tân Huyện lệnh rằng,ngay đêm đó phải bắt Nghê Kỳ tại một cuộc hội đàm bí mật cùng tín sứ của Khả Hãn Duy Ngô Nhĩ,gần khúc sông cạn. Phan Huyện lệnh đến cùng một trợ thủ nữa. Kẻ trợ thủ đó bị ta hạ thủ ngay khi chúng ta ở ngoài cổng thành. Chính tay ta đã cắt cổ gã Huyện lệnh đó và lôi xác hắn ra bờ sông.” Ô Nhĩ Kim nhổ về phía Nghê Kỳ, hắn gào lên, “Tên cẩu trệ, giờ thì ngươi được ban thưởng thứ gì đây?” Địch Công gật đầu với nha lại. Ông ta đọc to mọi ghi chép về những lời Ô Nhĩ Kim đã khai nhận. Ô Nhĩ Kim xác nhận đó chính là toàn bộ lời thú nhận của hắn. Lời khai được đưa cho hắn để điểm chỉ. Rồi Địch Công phán, “Ô Nhĩ Kim, ngươi là một Quận vương Duy Ngô Nhĩ ở bên kia biên giới, tội xúi giục làm phản của ngươi liên quan đến mối bang giao hữu hảo với Đại Đường. Bản quan không có đủ tư cách để xác định Khả Hãn của ngươi và những thủ lĩnh bộ lạc khác tham gia sâu vào âm mưu phiến loạn này ra sao. Bản quan cũng không có đủ chức trách để phán xử ngươi. Ngươi sẽ bị áp giải ngay lập tức về kinh thành. Tội lỗi của ngươi sẽ được Bộ Lễ xử lý.” Ông ra hiệu cho Bộ đầu. Ô Nhĩ Kim được đặt lên cáng và đưa về nhà lao.
“Đưa phạm nhân Nghê Kỳ lên trước công đường!” Địch Công ra lệnh. Nghê Kỳ bị bắt quỳ xuống giữa đại đường. Địch Công nghiêm nghị, “Nghê Kỳ, ngươi đã phạm tội mưu phản. Đây là tội chống lại triều đình, theo quốc pháp thì phải chịu hình phạt vô cùng khủng khiếp. Nhưng có thể thanh danh của thân phụ ngươi và lời của bản huyện sẽ khiến các vị thượng quan giảm nhẹ hình phạt của ngươi. Bởi thế, bản quan khuyên ngươi hãy thú nhận và khai nhận toàn bộ tội lỗi của mình!” Nghê Kỳ không đáp. Đầu hắn gục xuống, hơi thở nặng nề. Địch Công ra lệnh cho Bộ đầu tạm lui lại. 👁 Nghê Kỳ nhận tội trước đại đường Cuối cùng, Nghê Kỳ ngẩng lên. Y nói bằng giọng yếu ớt, khác hẳn thói quen ăn nói tràng giang đại hải thường lệ, “Ngoài hai gã Duy Ngô Nhĩ đó, thảo dân còn có nhiều kẻ đồng mưu nữa trong gia trang. Thảo dân vẫn hay nói với đám gia đinh về chuyện sẽ chiếm cứ huyện Lan Phường. Bốn binh sĩ nhận ngân lượng. Ngày mai, vào lúc nửa đêm, bốn kẻ đó sẽ đốt lửa làm hiệu trên vọng lâu cao nhất ở Tiền gia trang. Chúng được cho biết đó là hiệu lệnh để một nhóm giang hồ gây nhiễu loạn và đó cũng chỉ là hành vi che mắt, vì trong lúc đó sẽ có hai tiệm kim hoàn lớn trong huyện bị đánh cướp. Tuy nhiên, thực ra lửa hiệu là hiệu lệnh cho đám quân Duy Ngô Nhĩ bên kia sông tiến công. Ô Nhĩ Kim và những kẻ đồng mưu người Hán sau đó sẽ mở thủy môn và…” “Đủ rồi!” Địch Công cắt ngang. “Ngày mai, ngươi sẽ có cơ hội được kể toàn bộ sự tình. Giờ ta chỉ muốn ngươi trả lời một câu hỏi. Ngươi đã làm gì với bản chúc thư tìm thấy trong cuộn tranh của thân phụ ngươi?”
Vẻ mặt xanh xao của Nghê Kỳ thoáng bối rối. Y đáp, “Vì bản chúc thư gốc nói rằng tài sản sẽ được chia đều cho thảo dân và Nghê San, nên thảo dân đã tiêu hủy nó. Thay vào đó, thảo dân đưa vào trong cuộn tranh bản chúc thư do chính tay thảo dân viết, từ đó mọi nghi ngờ được xóa tan và thảo dân thành người thừa kế độc nhất.” “Ngươi nên biết rằng”, Địch Công nói với vẻ khinh miệt, “tất cả những người liên quan đến âm mưu của ngươi ta đều biết cả! Dẫn phạm nhân về nhà lao!” Địch Công vừa bãi đường được một lát, Kiều Thái đã bước vào thư phòng của ông và báo, mọi kẻ thủ ác đều đã bị bắt giữ. Ở phường hội Bắc Liêu có chút sự cố, Lạp Hộ kháng cự khi bị bắt nhưng đã bị Lăng Bài quân hạ thủ. Địch Công tựa người ra sau, nhấp một ngụm trà rồi nói, “Ô Nhĩ Kim và sáu gã Duy Ngô Nhĩ sẽ bị áp giải về kinh thành. Lệnh cho Lăng Bài quân chọn ra mười binh sĩ và lên khoái mã đi ngay sáng mai. Nếu họ phải đổi ngựa ở quân doanh gần nhất, họ sẽ đến kinh thành trong mười ngày. Ba tên chủ cửa hiệu và đám binh lính đã nhận tội hối lộ, ta sẽ xét xử chúng ngay tại đây.” Nhìn sang bốn vị trợ thủ ngồi quanh án thư của ông thành một vòng cung, Địch Công mỉm cười nói tiếp, “Ta nghĩ khi bắt giữ những kẻ đầu đảng, chúng ta có thể ngăn chặn được âm mưu phiến loạn!” Kiều Thái gật đầu hăm hở nói, “Không nên xem thường đám dân du mục Duy Ngô Nhĩ ấy khi chúng là những dũng sĩ cận chiến trên chiến trường. Chúng đều là những kỵ sĩ thiện chiến và những cung thủ ‘bách phát bách trúng’. Nhưng chúng không hề có kinh nghiệm hay trang bị cần thiết để công hãm tường thành. Tới đêm mai, khi không trông thấy lửa hiệu trên vọng lâu, chúng sẽ không dám tấn công!”