text
stringlengths
1
809k
Địch Công gật đầu. “Kiều Thái, ta giao chuyện đó lại cho ngươi. Hãy chuẩn bị kĩ lưỡng để đối mặt với mọi khả năng có thể xảy ra.” Mỉm cười mệt nhọc, Địch Công nói thêm, “Những hảo bằng hữu, các vị đừng than vãn rằng ở huyện này không có việc để làm!” “Hôm nọ, khi chúng ta đến huyện Lan Phường”, Hồng Sư gia cười nói, “Đại nhân đã nhận định rằng công việc của chúng ta ở đây sẽ rất thú vị vì sẽ gặp những chuyện dị thường! Phỏng đoán đó đã thành sự thật!” Địch Công mệt mỏi đưa tay lên che mắt. “Ta thấy thật khó để tin rằng chúng ta chỉ mới đến huyện Lan Phường chưa đầy mười ngày!” Thu tay vào trong ống tay rộng, ông nói tiếp, “Nhìn lại vài ngày gần đây, ta nghĩ vị khách bí ẩn đến nhà Tiền Mưu sẽ lo sợ ta hơn bất cứ điều gì. Hắn hiển nhiên là kẻ đứng sau giật dây cho mọi hành động của tên ác bá đó. Ta biết chừng nào hắn còn nhởn nhơ ngoài kia, thì bất cứ chuyện gì cũng có thể xảy ra!” “Sao đại nhân phát hiện ra kẻ đó chính Nghê Kỳ?” Đào Cam hỏi. “Theo như thuộc hạ thấy, không hề có bất cứ manh mối để lần ra danh tính kẻ lạ mặt đó!” Địch Công gật đầu nói, “Đúng thế, chúng ta không được biết gì nhiều. Nhưng có hai manh mối gián tiếp. Trước hết, chúng ta biết kẻ đó phải là người có liên quan đến nội sự và ngoại sự của Đại Đường ta. Thứ hai, hắn có thể sống ở đâu đó quanh nhà Tiền Mưu. Ta phải thừa nhận rằng, trước hết, ta nghi ngờ Ngô Phong là kẻ đó. Gã chính là kiểu người liều lĩnh, sẵn sàng mạo hiểm cho một âm mưu táo bạo như vậy. Và nền tảng gia tộc của gã sẽ cho gã một tầm hiểu biết lớn về những chuyện quốc gia đại sự để có thể chỉ dẫn cho Tiền Mưu.”
“Hơn thế nữa”, Hồng Sư gia chen ngang, “Ngô Phong lại cuồng nhiệt say mê hội họa của dị tộc!” “Chính xác!” Địch Công nói. “Tuy nhiên, Ngô Phong lại sống cách xa Tiền gia trang, và đối với ta, có vẻ gã không thể rời khỏi chỗ trọ thường xuyên dưới một lốt ngụy trang công phu mà không bị gã chủ quán ba hoa của tửu điếm Vĩnh Xuân phát hiện ra. Cuối cùng, câu chuyện của Mã Vinh và Lạp Hộ đã cho thấy kế hoạch của những kẻ chủ mưu không hề bị ảnh hưởng sau khi Ngô Phong bị bắt.” Địch Công duỗi tay ra và chống cả hai khuỷu tay lên mặt án thư. Ông nhìn Kiều Thái rồi nói tiếp, “Kiều Thái, chính ngươi đã đưa ra cho ta giải pháp!” Kiều Thái vô cùng ngạc nhiên trước nhận định bất ngờ này. “Đúng vậy”, Địch Công nói tiếp, “chính ngươi và đội quân tưởng tượng của chúng ta đã chỉ ra cho ta thấy, mưu kế ấy sẽ đem lại hai hiệu quả! Ta bất chợt hiểu ra, những sắp đặt công phu của Nghê Kỳ để bảo vệ bản thân hắn khỏi bị đám người dị tộc tấn công cũng có thể được hiểu là những sắp đặt để tham dự vào một cuộc tập kích giống như vậy!” “Ngay khi trong ta xuất hiện những nghi ngờ ấy, ta phát hiện ra Nghê Kỳ rất phù hợp để giữ vai trò vị khách bí mật của Tiền Mưu. Trước hết, Nghê Kỳ đương nhiên hoàn toàn liên quan đến chính sự, hắn sinh trưởng trong gia đình của một vị đại quan uy thế nhất thời nay. Thứ hai, trang viên nhà hắn nằm trong phạm vi đủ để đi bộ đến Tiền gia trang, hắn có thể dễ dàng trông thấy lá cờ đen mà Tiền Mưu hay treo trên cổng khi hắn muốn Nghê Kỳ đến gặp mình ngày hôm đó.”
“Rồi ta bắt đầu tự hỏi mình vài câu hỏi. Tại sao một kẻ sợ bị phiên bang tấn công lại mua một trang viên ở vị trí nguy hiểm nhất, là góc Tây Nam của thành, gần thủy môn? Và trong khi đó hắn lại sở hữu một trang viên gần cổng thành phía Tây, một địa điểm an toàn, nơi hắn có thể trốn vào núi ngay khi có nguy hiểm? Và tại sao Tiền Mưu không động đến Nghê Kỳ khi Nghê Kỳ đã chiếm mất hai kiếm sư giỏi nhất ở Tiền gia trang? Chỉ có thể có duy nhất một câu trả lời. Nghê Kỳ chính là vị khách bí ẩn của Tiền Mưu, chính hắn đã lên kế hoạch xây dựng một tiểu quốc độc lập ở chính chốn biên cương này. Cuối cùng, chính Tiền Mưu đã nói với ta!” “Đại nhân, hắn nói khi nào vậy?” Hồng Sư gia và Mã Vinh cùng thốt lên. Đào Cam và Kiều Thái nhìn Địch Công ngỡ ngàng. Địch Công nhìn cả bốn người với điệu cười châm chọc, đáp, “Khi Tiền Mưu sắp chết, tất cả chúng ta đều nghĩ hắn cố gắng nói một câu bắt đâu bằng chữ ‘Ngài’. Đáng lẽ ta phải nhận ra ngay lúc đó! Một người sắp chết, gần như không thể mở miệng, sẽ không cố nói một câu đầy đủ. Hắn chỉ muốn bật ra một danh tính, danh tính của kẻ đã sát hại Phan Huyện lệnh. Hắn muốn nói chữ ‘Nghê’, tức Nghê Kỳ!” Đào Cam đập tay xuống án thư. Y nhìn mọi người bằng ánh mắt thấu hiếu. “Ta phải nói thêm”, Địch Công tiếp, “chính Hạc Y tiên sinh là người đã gợi ý cho ta. Ngay khi bắt đầu đàm đạo, ông ấy đã nghe lầm chữ ‘Ngài’ thành chữ ‘Nghê’. Ít nhất, ta đã nghĩ ông ấy nghe nhầm… Nhìn lại cuộc đàm đạo lạ lùng ấy, ta ngờ rằng mọi từ ngữ mà lão tiên sinh ấy nói ra đều nhằm một mục đích và có ý nghĩa đặc biệt…”
Giọng Địch Công nhỏ dần. Ông rơi vào yên lặng một lúc, trầm ngâm vuốt râu. Rồi ông nhìn lên cả bốn người và nói rất nhanh, “Ngày mai, ta sẽ khép lại vụ án về Nghê Kỳ. Phán xử tội phản quốc là chuyện quan trọng nhất cần làm, vì sẽ quyết định luôn cả tội sát hại Phan đại nhân của hắn. Cùng trong phiên thăng đường này, ta cũng sẽ kết thúc vụ giết Đinh lão tướng quân!” Lời tuyên bố sau cùng càng khiến bốn vị phải sửng sốt thêm lần nữa trong buổi tối hôm đó. Bốn người quay ra hỏi lẫn nhau. Địch Công khoát tay. “Đúng vậy, ta cuối cùng đã tìm ra lời giải cho vụ án kỳ lạ và nan giải này. Kẻ đã giết Đinh Tướng quân đã điểm chỉ nhận tội rồi!” “Vậy ra, chính là gã Ngô Phong vô liêm sỉ đó!” Hồng Sư gia sôi nổi. “Ngày mai”, Địch Công thong thả nói, “các vị sẽ thấy tướng quân Đinh Hổ Quốc đã chết ra sao.” Ông nhấp trà rồi nói tiếp. “Hôm nay, chúng ta giải quyết được rất nhiều. Nhưng vẫn còn lại hai chuyện khiến ta phật ý. Thứ nhất, một chuyện cấp thiết và thực tế hơn cả, đó là sự mất tích của Bạch Lan. Thứ hai, một chuyện ít cấp thiết hơn, nhưng cũng cần chúng ta phải hoàn toàn chú tâm. Ta muốn nói đến bí mật trong bức tranh của Nghê đại nhân. Trừ khi chúng ta chứng minh Nghê quả phụ và Nghê San là những người thừa kế hợp pháp đối với một nửa gia sản nhà họ Nghê, nếu không họ sẽ mãi mãi sống trong cảnh cơ cực như hiện giờ. Vì Nghê Kỳ sẽ bị khép tội phản quốc, triều đình sẽ sung công toàn bộ gia sản của hắn.
Thật không may, Nghê Kỳ đã hủy bản chúc thư hắn tìm thấy trong cuộn tranh của Nghê đại nhân. Bằng chứng đã mất. Lời khai nhận của Nghê Kỳ không thay đổi được một sự thật, đó là Nghê đại nhân lúc lâm chung đã truyền lại bức tranh cho Nghê phu nhân và nhi tử, và phần còn lại thuộc về Nghê Kỳ. Những vị thượng quan, nhất là Bộ Lại sẽ dựa vào bản di chúc bằng lời đó và tịch biên toàn bộ tài sản của Nghê Kỳ. Do đó, nếu chúng ta không giải được bí mật trong bức tranh đó, thì Nghê phu nhân và Nghê San sẽ không được nhận bất cứ thứ gì!” Đào Cam gật đầu. Y lại trầm ngâm mân mê ba sợi lông trên má trái rồi hỏi, “Ban đầu, chúng ta không hề biết Nghê Kỳ có liên quan đến âm mưu chiếm huyện Lan Phường. Chúng ta chỉ biết hắn là bị cáo trong một vụ kiện về thừa kế. Tại sao ngay từ đầu đại nhân lại hứng thú với vụ án nhà họ Nghê?” Địch Công mỉm cười đáp, “Ta đang giải thích đây, ta có thể sẽ nói cho mọi người về lý do chính khiến ta đặc biệt quan tâm đến vụ án này. Phải nói rằng, ta vẫn luôn thích tìm hiểu sâu về nhân cách của Tuần phủ Nghê Thọ Kiền. Nhiều năm trước, khi đang chuẩn bị cho lần ứng thí thứ hai, ta đã chép lại mọi biên bản mà ta có thể được xem về những vụ án mà Nghê đại nhân đã xử khi ông ấy còn là một Huyện lệnh. Mải mê nghiên cứu, ta đã có hoài bão muốn học theo mọi phương pháp suy luận tinh tế của ông ấy. Về sau, ta cẩn thận nghiên cứu những lời thỉnh tấu sôi sục của ông ấy dâng lên Thánh thượng và tìm cách lĩnh hội đam mê cháy bỏng của ông ấy dành cho công đạo và sự cúc cung tận tụy của Nghê đại nhân đối với triều đình và dân chúng. Đối với ta, ông ấy là một tấm gương sáng, một hình mẫu cho một bầy tôi trung thành với triều đình.”
“Ta vô cùng mong mỏi được diện kiến Nghê đại nhân! Nhưng đương nhiên là không thể được vì ông ấy là một Tuần phủ còn ta chỉ là một Tú tài. Rồi Nghê đại nhân bỗng từ quan. Hành động khó hiểu của Nghê đại nhân khiến ta nghĩ ngợi rất nhiều. Ta vẫn luôn tự hỏi về quyết định đó. Khi ta tìm thấy vụ án nhà họ Nghê trong thư khố của huyện Lan Phường, ta thấy như mình cuối cùng cũng có cơ hội được đến gần người mà mình sùng bái thời trẻ, như thể được gặp ông ấy trong tâm tưởng. Bí ẩn trong chúc thư của Nghê đại nhân đối với ta như một thách thức từ người đã khuất…” Địch Công dừng lại và chăm chú nhìn lên cuộn tranh treo trên bức tường đối diện. Ông vừa nói vừa chỉ lên đó, “Ta quyết tâm tìm ra bí mật trong cuộn tranh đó! Vì có lời thú tội của Nghê Kỳ, nên thông điệp của Nghê đại nhân không chỉ là một thách thức. Ta thấy trọng trách của mình để tưởng nhớ Nghê đại nhân là đảm bảo cho nhị phu nhân và Nghê San có được những gì xứng đáng thuộc về họ. Hơn nữa cũng chính ta đã đưa trưởng nam của ông ấy vào chốn ngục tù.” Địch Công đứng lên và đến trước bức tranh. Những trợ thủ của ông cũng đứng dậy và một lần nữa lại chăm chú ngắm bức tranh phong cảnh bí ẩn. Địch Công khoanh tay lại và chậm rãi nói, “Hư Không lâu các! Nghê đại nhân sẽ bất ngờ thế nào khi biết trưởng nam của mình đã kế thừa được trí tuệ uyên thâm của ông ta, nhưng không kế thừa được phẩm cách đáng kính! Ta đã thuộc từng nét bút trên bức tranh này. Ta đã hi vọng khu trang viên cũ ở ngoại thành sẽ cho chúng ta thêm chút manh mối, nhưng ta không thể….”
Bỗng Địch Công ngừng bặt. Cúi người về trước, ông nhìn qua toàn bộ bức tranh từ trên xuống dưới. Đứng thẳng người lên, ông lại giật hai dải tóc mai. Rồi ông quay lại. Hai mắt ông sáng long lanh. “Các vị, ta đã tìm ra rồi!” Ông quả quyết. “Ngày mai, bí mật này sẽ được làm sáng tỏ!” HỒI 21 Nghịch tử vô đạo, nhận đại tội Tráng sĩ cảm khái, nhớ chuyện xưa Hôm sau, khi Địch Công thăng đường buổi sớm, hàng trăm người dân đã tụ lại trước đại đường. Tin tức về vụ bắt giữ Nghê Kỳ đã lan ra khắp trấn và những lời đồn bừa bãi nhất được lan đi chính là chuyện bắt giữ tên thủ lĩnh người Duy Ngô Nhĩ. Địch Công chậm rãi nhìn khắp đám đông một lượt và cân nhắc một lát xem nên bắt đầu thẩm tra thế nào. Ông cho rằng Nghê Kỳ rất giỏi che giấu và lên kế hoạch bí mật, hắn vẫn chuyên đứng sau bức bình phong, cẩn mật mà chỉ đạo mọi việc. Thường thì những kẻ như vậy sẽ hoàn toàn suy sụp khi buộc phải lộ diện ngoài ánh sáng. Địch Công viết họ tên Nghê Kỳ lên tờ lệnh và trao cho Phương Bộ đầu. Khi Nghê Kỳ được đưa lên, Địch Công thấy phỏng đoán của ông đã đúng. Nghê Kỳ đã biến thành người khác chỉ sau một đêm. Tấm mặt nạ hồn hậu, dễ chịu mà hắn khéo léo đeo cho mình đã rơi xuống. Chỉ còn lại một kẻ bệ rạc, ngờ nghệch. Địch Công ôn tồn nói, “Trong phiên thăng đường hôm trước, chúng ta đã đi qua nhiều thủ tục. Nay ngươi có thể bắt đầu thú tội ngay được rồi!”
“Đại nhân”, Nghê Kỳ buồn rầu nói, “khi một kẻ không còn chút hi vọng nào ở kiếp này hoặc kiếp sau, thì không có lý do gì để hắn không khai nhận toàn bộ sự thật.” Nghê Kỳ dừng lại một lát rồi bất ngờ nói bằng giọng cay đắng, “Thảo dân biết gia phụ không ưa gì thảo dân. Thảo dân cũng căm ghét ông ấy dù cũng phải thừa nhận rằng thảo dân rất sợ ông ấy! Lúc gia phụ còn sống, thảo dân đã một lòng kiên quyết mình phải trở thành người lẫy lừng hơn ông ấy. Gia phụ là Tuần phủ, thảo dân sẽ phải là vương hầu!” “Trong nhiều năm, thảo dân đã tỉ mỉ nghiên cứu về tình trạng của biên cương. Thảo dân nhận ra nếu đám quân rợ liên kết lại và được dẫn đường, chúng có thể dễ dàng chiếm giữ toàn bộ khu vực biên cương. Có huyện Lan Phường làm thủ phủ, thảo dân có thể thành lập một vương quốc giữa chốn biên cương này. Trong khi lung lạc đám quan lại người Hán bằng những giao ước về chuyện phụng sự và không ngừng đàm phán về thân phận chư hầu, thảo dân liên tục mở rộng vương quốc về phía Tây bằng cách thu dụng ngày càng nhiều thủ lĩnh dị tộc; vì thế quyền năng của thảo dân lớn mạnh ở phía Tây, mối quan hệ của thảo dân đối với quan lại người Hán ở phía Đông cũng dần bền chặt cho đến khi thảo dân đủ mạnh đến nỗi không kẻ nào dám đối đầu với mình.” Nghê Kỳ buông ra tiếng thở dài rồi nói tiếp, “Thảo dân tin rằng mình có tài ngoại giao siêu việt và tầm hiểu biết về chính sự của người Hán để có thể thực hiện mưu đồ này. Nhưng thảo dân lại thiếu khả năng cầm quân. Thảo dân nhận thấy Tiền Mưu chính là một công cụ hữu dụng. Hắn là một kẻ tàn nhẫn và kiên định, nhưng hắn biết mình không đủ khả năng để làm chính sự. Thảo dân đã hối thúc hắn tự dựng mình lên thành một đại bá ở huyện này và cho hắn thấy hắn có thể củng cố được vị thế của mình để chống lại triều đình ra sao. Hắn cũng hiểu ra tài lãnh đạo của thảo dân. Nếu kế hoạch của cả hai đều thành hiện thực, thảo dân định sẽ phong Tiền Mưu làm Đại tướng quân. Cùng lúc đó, thảo dân lại lợi dụng mọi hoạt động của Tiền Mưu để kiểm định phản ứng của triều đình. Tất cả đều diễn ra như ý muốn, triều đình dường như chấp nhận tình trạng bất phục tùng ở huyện này. Nên thảo dân quyết tâm thực hiện bước kế tiếp và liên lạc với những thủ lĩnh người Duy Ngô Nhĩ.”
“Rồi Phan Huyện lệnh đến, quả là một kẻ khờ khạo thích lo chuyện bao đồng. Do một sự tình cờ xui rủi, bức thư thảo dân gửi cho một thủ lĩnh Duy Ngô Nhĩ đã rơi vào tay ông ta. Thảo dân buộc phải nhanh chóng ra tay. Thảo dân ra lệnh cho Ô Nhĩ Kim, một biểu đệ của Khả Hãn và cũng là thân tín của thảo dân, dụ Phan Huyện lệnh đến bờ sông và giết ông ta. Tiền Mưu nổi giận, hắn sợ triều đình sẽ truy cứu. Nhưng thảo dân chỉ cho hắn cách che đậy tội lỗi và sau đó quả nhiên không có gì xảy ra.” Địch Công định ngắt lời Nghê Kỳ nhưng khi nghĩ lại, ông quyết định cứ để mặc hắn thuật lại mọi chuyện theo cách của mình. Nghê Kỳ tiếp tục bằng chất giọng vô hồn ấy, “Thảo dân sẽ có thể công khai tất cả nếu không có chuyện Khả Hãn biết tin quân Hán đại thắng phiến quân ở phía Bắc. Hắn bắt đầu do dự và cuối cùng đã không đồng ý tương trợ nữa. Vậy là thảo dân phải tham gia những cuộc đàm phán rắc rối với những thủ lĩnh nhỏ, và cuối cùng đã thành công liên kết được ba bộ lạc hùng mạnh nhất. Chúng sẽ tấn công vào thành nếu thảo dân đảm bảo thủy môn sẽ được mở và những địa điểm trọng yếu trong thành được người của thảo dân chiếm giữ.” “Khi ngày giờ đã được định sẵn, cũng là lúc đại nhân đến huyện này cùng với một đoàn quân đi tuần tiễu khắp biên cương, Tiền Mưu bị bắt và người của hắn cũng tan tác. Thảo dân sợ kế hoạch của mình sẽ bại lộ và chẳng mấy chốc
một đội hùng binh sẽ được cử đến huyện Lan Phường. Thảo dân quyết định hành động ngay lập tức.” “Tối nay, ba bộ lạc Duy Ngô Nhĩ sẽ hội quân ở vùng đồng bằng bên kia sông. Đến nửa đêm, khi trông thấy lửa hiệu ở vọng lâu, chúng sẽ vượt sông và vào thành qua lối thủy môn. Đó là toàn bộ sự việc!” . Đám đông bắt đầu bàn tán sôi nổi. Họ nhận ra mình vừa may mắn thoát khỏi khỏi cảnh bị vó ngựa của quân Duy Ngô Nhĩ giày xéo. “Yên lặng!” Địch Công quát. Rồi ông ra lệnh cho Nghê Kỳ, “Mau khai ra, ba bộ lạc có bao nhiêu quân tham chiến?” Nghê Kỳ nghĩ một lát rồi đáp, “Bẩm đại nhân, có tầm hai nghìn cung thủ được huấn luyện tinh nhuệ và trang bị ngựa, thêm vài trăm bộ binh.” “Ba tên chủ hiệu người Hán giữ vai trò gì trong kế hoạch này?” Địch Công hỏi. “Thảo dân chưa bao giờ gặp họ”, Nghê Kỳ đáp, “đó là chiến thuật mà thảo dân định ra để duy trì nền tảng của mình lớn mạnh nhất có thể. Thảo dân lệnh cho Ô Nhĩ Kim tận dụng sự trợ giúp của tầm mười hai người Hán để dẫn quân Duy Ngô Nhĩ vào huyện nha và các cổng thành. Hắn đã chọn ra được ba kẻ này và bảo đảm chúng sẽ tương trợ.” Địch Công ra hiệu cho một nha lại. Ông ta đọc to bản ghi chép về lời chứng khai của Nghê Kỳ rồi cho hắn điểm chỉ vào. Địch Công nghiêm giọng phán, “Nghê Kỳ, bản quan tuyên bố, ngươi phạm tội mưu phản. Có thể những vị thượng quan sẽ giảm đi vài cung bậc về tính khắc nghiệt trong hình phạt cao nhất do có sự tôn kính đối với những công lao đáng nể của thân phụ ngươi ngày trước, và cũng vì ngươi đã tự động thành khẩn khai nhận. Nhưng bản quan phải cảnh báo ngươi, quốc pháp quy định tội mưu phản sẽ phải chịu hình phạt lăng trì. Dẫn phạm nhân đi!”
Địch Công phán, “Ta đã bắt giữ mọi kẻ đầu đảng trong âm mưu ghê gớm này. Đám quân Duy Ngô Nhĩ đêm nay sẽ không dám tấn công vì không trông thấy lửa hiệu. Tuy nhiên, bản quan đã ra lệnh phòng bị kĩ lưỡng cho mọi khả năng có thể xảy ra. Trong ngày hôm nay, dân chúng sẽ nhận được chỉ lệnh từ các phường chính về những việc phải làm. Đám quân rợ không bao giờ có thể vượt qua được tường thành, nên không ai phải lo sợ!” Dân chúng nghe vậy cùng reo mừng. Địch Công vỗ án rồi thông báo, “Bây giờ, bản quan sẽ xử vụ án nhà họ Đinh và nhà họ Ngô.” Ông cầm bút lông mực đỏ viết lệnh. Ngô Phong lập tức được hai Bộ khoái đưa đến trước đại đường. Ngô Phong vừa quỳ xuống, Địch Công lấy trong tay áo ra chiếc hộp giấy và đẩy ra ngoài mép án. Chiếc hộp rơi bịch xuống trước mặt Ngô Phong. Y nhìn với vẻ lạ lùng. Chính là chiếc hộp được tìm thấy trong tay áo của Đinh lão tướng quân. Góc hộp bị chuột gặm đã được gắn lại cẩn thận. Địch Công hỏi, “Ngươi có biết chiếc hộp này không?” Ngô Phong nhìn lên đáp, “Loại hộp này để đựng mơ ngọt. Thảo dân đã thấy hàng trăm hộp như vậy được bán ngoài chợ gần Tháp Trống. Thỉnh thoảng, thảo dân cũng có mua ăn. Nhưng dù hiển nhiên biết loại hộp đó, thảo dân cũng chưa bao giờ trông thấy chiếc hộp đặc biệt này. Câu chúc trên mặt hộp cho thấy đây là tặng phẩm mà người ta tặng nhau.” “Ngươi nói đúng”, Địch Công nói, “đây là tặng phẩm mừng thọ. Ngươi có nhận thấy mùi mơ bên trong không?”
Ngô Phong nhìn Địch Công bối rối. Rồi y nhún vai và đáp, “Bẩm đại nhân, không hề cảm nhận được!” Y mở hộp. Chín trái mơ được xếp ngay ngắn trên một lớp giấy lụa trắng. Ngô Phong lấy ngón tay day vào mấy trái mơ. Khi phát hiện có một trái bị mềm, y đưa trái đó vào miệng. Y ăn hết và nhả hạt ra. “Đại nhân có muốn thảo dân ăn thêm không?” Ngô Phong kính cẩn đáp. “Vậy là đủ rồi!” Địch Công nghiêm nghị. “Ngươi có thể lui ra sau!” Ngô Phong đứng dậy và nhìn quanh đám Bộ khoái. Họ không đến chụp tay y và dẫn y về nhà lao. Nên y lùi lại mấy bước và vẫn đứng trên đại đường. Y đưa ánh mắt bồn chồn nhìn Địch Công. “Đưa Tú tài Đinh Y lên công đường!” Địch Công ra lệnh. Đinh Y vừa quỳ xuống trước án, Địch Công nói, “Đinh Y, bản quan vừa tìm ra hung thủ sát hại thân phụ ngươi. Vụ án này quả là một kỳ án, bản quan không có hi vọng làm rõ mọi chân tơ kẽ tóc. Thân phụ ngươi bị đe dọa không phải chỉ từ một kẻ, không chỉ có một phe phái muốn sát hại ông ta. Tuy nhiên, phiên xử này chỉ liên quan đến một phe phái đã ra tay hành thích Đinh lão tướng quân trót lọt. Bị cáo Ngô Phong không hề liên quan đến chuyện này. Do đó, mọi lời buộc tội Ngô Phong đều hiển nhiên bị loại bỏ!” Có tiếng thì thào ngạc nhiên xuất hiện trong đám đông dân chúng. Đinh Y vẫn lặng yên, không nhắc lại lời buộc tội Ngô Phong nữa. Ngô Phong lên tiếng, “Bẩm đại nhân, ngài đã tìm thấy Bạch Lan chưa?”
Khi Địch Công lắc đầu, Ngô Phong lặng lẽ quay lại và thô lỗ rẽ đám đông ra để tiến ra cửa đại đường. Địch Công cầm chiếc bút lông màu sơn son trên án thư. Ông ra lệnh, “Đinh Y, mau đứng dậy và nói cho bản quan mọi điều ngươi biết về cây bút lông này!” Vừa nói, ông vừa chìa cây bút cho Đinh Y xem, cố tình hướng một đầu cán bút bị mở tung hướng thẳng về phía anh ta. Đinh Y lặng người. Anh ta đón lấy cây bút từ tay Địch Công và xoay đi xoay lại trong tay. Khi đọc dòng chữ chạm trên bút, anh ta gật đầu. “Đại nhân, thảo dân đã nhận ra câu đề tặng mà mình còn nhớ! Vài năm trước, khi gia phụ cho thảo dân xem một vài viên ngọc bích cổ quý hiếm, ông ấy cũng đưa ra cây bút lông này. Gia phụ nói đó là tặng phẩm trong ngày mừng thọ lục tuần của một nhân vật có phẩm hàm lớn và vô cùng cao quý. Gia phụ không cho biết danh tính người ấy nhưng có nói rằng, người ấy bảo từ khi linh cảm mình sắp qua đời, ông ta muốn tặng lại cây bút này; gia phụ không hề sử dụng nó cho đến khi chính thức làm lễ mừng thọ lục tuần. Gia phụ vô cùng trân trọng cây bút lông này. Sau khi cho thảo dân xem, ông ấy lại cất vào tráp và khóa kĩ, cùng với những hạt bích ngọc khác.” “Cây bút đó”, Địch Công nghiêm giọng, “là công cụ sát hại thân phụ ngươi!” Đinh Y hoang mang nhìn xuống cây bút trên tay. Anh ta chăm chú nhìn kĩ nó và ghé mắt nhòm vào bên trong thân bút rỗng. Rồi anh ta lắc đầu hoài nghi.
Địch Công chăm chú dõi theo mọi cử chỉ của chàng rồi cứng cỏi nói, “Trả lại cây bút đó cho bản quan. Ta sẽ cho ngươi thấy cách nó giết người ra sao!” Khi Đinh Y trả lại cây bút, Địch Công cầm bút sang tay trái. Tay phải ông lấy ra một mẩu gỗ nhỏ trong tay áo và đưa ra để mọi người cùng trông thấy. “Đây là hình mẫu bằng gỗ của chuôi con dao nhỏ được tìm thấy trong cổ họng Đinh đại nhân. Nó dài bằng toàn bộ con dao ấy khi bao gồm cả phần lưỡi. Giờ ta sẽ đặt nó vào trong cán bút rỗng này.” Mẩu gỗ vừa khít với thân bút. Nhưng khi cắm vào được nửa tấc, nó kẹt lại. Địch Công đưa bút cho Mã Vinh. “Ngươi ấn thêm đi!” Ông ra lệnh. Mã Vinh đặt ngón tay cái to lớn lên một đầu của mẩu gỗ. Khó khăn lắm y mới ấn được mẩu gỗ xuống cho đến khi nó hoàn toàn nằm trong thân bút. Y nhìn Địch Công với vẻ hi vọng. “Duỗi tay ra và nhấc ngón tay cái ra nhanh nhất có thể!” Địch Công ra lệnh. Mẩu gỗ phóng ra ngoài tầm năm thước, rồi rơi lóc cóc trên sàn. Địch Công tựa người ra sau. Ông chậm rãi vuốt râu, “Cây bút lông này là hung khí giết người. Phần thân rỗng của nó chứa một số vòng dây mỏng mà ta mạo muội cho đó là dây mây ở miền Nam. Sau khi đưa vào trong những cuộn dây mây, kẻ làm ra công cụ này đã nén chúng xuống hết mức có thể bằng một chiếc ống rỗng. Người này đã đổ nhựa cây sơn nóng vào ống đó và giữ những vòng dây cho đến khi nhựa cây sơn đông đặc lại. Rồi rút chiếc ống rỗng đó ra và thay vào bằng thứ này.”
Địch Công mở chiếc hộp nhỏ và hết sức thận trong lấy ra con dao đã tìm thấy trên cổ Đinh đại nhân. “Ngươi sẽ thấy”, ông nói, “phần chuôi hình ống của con dao này vừa khớp với phần thân bút, trong khi phần lưỡi dao rỗng cũng khớp với hình dạng vòng cung bên trong. Dù có ghé mắt nhìn vào trong thân bút cũng không thể phát hiện ra loại dao này.” “ít năm trước, một nhân vật đã tặng cây bút này cho Đinh lão tướng quân và đó xem như lời tuyên án tử hình đối với ông ta. Người này biết khi Đinh đại nhân dùng bút, trước sau gì cũng sẽ hơ đầu bút qua ngọn nến để loại bỏ những sợi lông tạp, giống như chúng ta vẫn làm khi bắt đầu sử dụng một cây bút mới. Nhiệt độ từ ngọn lửa sẽ làm mềm nhựa sơn, những vòng dây sẽ nờ ra và lưỡi dao tẩm độc sẽ phóng ra khỏi thân bút. Mười phần thì chỉ có một phần cơ hội để lưỡi dao phóng trúng mặt hoặc cổ nạn nhân. Sau đó, cũng khó phát hiện ra những cuộn dây xoắn vì chúng sẽ dãn ra dọc theo thân bút rỗng.” Trong khi Địch Công nói, Đinh Y trước hết tỏ vẻ vô cùng bối rối. Dần dần, thái độ đó chuyển sang nỗi kinh hãi đầy hoài nghi. Rồi anh ta hỏi lớn, “Đại nhân, ai là kẻ đã bày ra công cụ hiểm độc này?” “Người đó đã lưu lại tên mình rồi đấy”, Địch Công điềm tĩnh nói. “Nếu không nhờ có chuyện đó, bản quan cũng không bao giờ giải được bí ẩn này. Hãy để bản quan đọc to dòng chữ này, “Đinh ông lục trật hoa đản chi hỉ. Ninh Hinh Di kính đề.”
“Đó là ai vậy? Thảo dân chưa bao giờ nghe đến danh tính ấy!” Đinh Y thốt lên. Địch Công gật đầu. “Chỉ có vài vị bằng hữu thân tín là biết”, ông đáp. “Hôm qua, ta mới phát hiện ra đó là một bút hiệu của vị Tuần phủ quá cố Nghê Thọ Kiền!” Đám đông dân chúng rộ lên ồn ào. Khi không khí bát nháo lắng đi, Địch Công nói, “Tình cờ là trong cùng một ngày, cả phụ tử đều xuất hiện ở chốn huyện nha này, nhi tử là người, còn phụ tử đã là quỷ. Đinh Y, ngươi sẽ có thể biết rõ hơn bản quan về hành vi nào của thân phụ mình đã buộc Nghê Tuần phủ phải xử ông ta tội chết và đích thân Nghê đại nhân phải thi hành bản án bằng cách dị thường này. Tuy nhiên, nếu đúng như vậy, ta cũng không thể tiếp tục xét xử những người đã chết. Bản quan tuyên bố bãi đường!” Địch Công cầm kinh đường mộc vỗ án. Ông đứng dậy và lui vào hậu đường phía sau tấm màn. Dân chúng vừa lũ lượt kéo ra khỏi nha môn, vừa xôn xao bàn luận về cái kết bất ngờ trong vụ án Đinh lão tướng quân. Họ hết lời ca ngợi Địch Công vì đã tìm ra thứ hung khí kỳ dị đó. Tuy nhiên, một số vị lão niên am hiểu về chuyện tra án lại nghi ngờ. Họ không thể hiểu được tầm quan trọng của chiếc hộp đựng những trái mơ tẩm đường và bàn tán với nhau rằng, rõ ràng vụ án này không chỉ như người ta vừa chứng kiến. Khi Phương Bộ đầu bước vào túc xá của nha sai, ông thấy Ngô Phong đang đợi mình.
Ngô Phong cúi đầu thi lễ với Phương Chính rồi nôn nóng hỏi, “Phương thúc, xin cho tại hạ được cùng đi tìm Bạch Lan!” Phương Bộ đầu trầm ngâm nhìn y rồi đáp, “Ngô công tử, cũng vì công tử đã chịu cực hình để bảo vệ cho trưởng nữ của ta, nên ta đồng ý cho công tử trợ giúp. Giờ ta có chuyện công cán phải đi. Cứ đợi ở đây chốc lát, khi trở lại ta sẽ cho công tử biết mọi điều về cuộc tìm kiếm bất thành đầu tiên.” Dù cho Ngô Phong có phản đối, Bộ đầu vẫn bỏ ra cổng nha môn và quan sát đám đông đang đổ ra. Ông trông thấy Đinh Y vừa bước ra phố. Phương Bộ đầu theo kịp anh ta và nói, “Đinh công tử, đại nhân muốn gặp công tử một lát ở thư phòng.” Địch Công đang ngồi đợi bên án thư cùng bốn vị trợ thủ quanh ông. Địch Công lệnh cho Đào Cam cắt thân cây bút lông làm hai. Họ đã trông thấy khối nhựa sơn ở dưới đáy thân bút và những sợi mây đã duỗi dài dọc theo bên trong thân bút rỗng. Khi Phương Bộ đầu đưa Đinh Y vào, Địch Công quay sang các trợ thủ và nói, “Phiền các vị tạm lui!” Họ đứng dậy và ra hành lang. Tuy nhiên, Kiều Thái vẫn đứng lại trước án thư của Địch Công. “Đại nhân”, y bướng bỉnh, “thuộc hạ khẩn xin đại nhân cho phép ở lại!” Địch Công nhướn mày và lạ lùng nhìn vẻ mặt điềm tĩnh của Kiều Thái. Rồi ông gật đầu và ra hiệu cho y ngồi xuống chiếc ghế đẩu bên cạnh án thư. Kiều Thái ngồi xuống và Đinh Y cũng định ngồi. Nhưng vì Địch Công không mời anh ta ngồi, sau một hồi do dự, chàng Tú tài vẫn đứng nguyên tại chỗ. Rồi Địch Công nói, “Đinh công tử, ta không muốn công khai tội trạng của thân phụ ngươi trước mặt thiên hạ. Nếu không vì vài lý do đặc biệt mà ta sắp nói rõ, ta cũng sẽ không vạch tội Đinh đại nhân trước mặt nhi tử độc nhất của ông ta.”
“Ta biết chính xác lý do thân phụ ngươi buộc phải từ quan. Những mật thư liên quan đến chuyện đó lại tình cờ được chuyển qua Đại lý tự ở kinh thành khi ta còn tại nhiệm ở đó. Không có đầy đủ mọi chi tiết, vì không có bất cứ nhân chứng nào về hành vi ám muội của thân phụ ngươi nhằm thoát khỏi địch họa. Tuy nhiên, Ngô Long Tướng quân đã thu thập được những bằng chứng thứ yếu để chỉ rõ ra rằng, Đinh Hổ Quốc thân phụ ngươi là người gây ra vụ thảm sát mấy nghìn binh sĩ triều đình.” “Khi có những lý do chính sự ngăn cản các vị thượng quan truy cứu thân phụ ngươi, Nghê Tuần phủ đã quyết định tự tay trừng phạt thân phụ ngươi theo đúng những gì ông ta phải gánh chịu. Nghê Tuần phủ là người bản lĩnh, ông ấy sẽ công khai trừng trị thân phụ ngươi nếu như chuyện đó không liên quan đến cả chính gia tộc họ Nghê. Bởi thế, Nghê đại nhân quyết định sẽ thực thi bản án sau khi ông ta đặt mình ra ngoài mọi giới hạn của Nhân Luật. Ta sẽ không phán xét hành động của Nghê Tuần phủ, người như ông ta không bao giờ có thể được đem đánh giá bằng những luân lý tầm thường trên thế gian. Ta chỉ muốn làm rõ cho công tử thấy rằng ta biết tất cả mọi chuyện.” Đinh Y không đáp. Hiển nhiên là anh ta biết rõ về tội lỗi của thân phụ mình. Anh ta cúi đầu và lặng lẽ nhìn xuống đất. Kiều Thái vẫn ngồi đó. Y trân trân nhìn vào khoảng không trước mặt, đôi mắt vô hồn.
Địch Công lặng lẽ ngồi vuốt râu, rồi mới nói, “Đinh Y, ta đã giải quyết vụ án liên quan đến thân phụ ngươi rồi, bây giờ ta sẽ hỏi đến ngươi!” Kiều Thái đứng lên. “Đại nhân, xin cho thuộc hạ cáo lui!” Địch Công gật đầu. Kiều Thái rời khỏi phòng. Ông ngồi yên một lúc. Cuối cùng, Đinh Y sợ hãi ngẩng lên. Anh ta co rúm người lại khi trông thấy hổ nhãn nảy lửa của Địch Công dõi vào mình. Nắm chặt tay vào thành ghế, Địch Công vươn người về trước và khinh bỉ nói, “Nhìn bản quan đi, tên tiểu nhân mạt hạng!” Đinh Y nhìn ông bằng ánh mắt run sợ. “Ngươi là kẻ ngu si đê tiện!” Giọng Địch Công run lên trong cơn phẫn nộ. “Ngươi nghĩ mình có thể lừa gạt ta bằng thứ mưu mô đốn mạt đó sao!” Địch Công gắng hết sự tự chủ của bản thân. Khi cất lời trở lại, giọng ông đã vững vàng. Nhưng trong giọng ông có một âm hưởng cứng rắn đến tàn nhẫn khiến cho Đinh Y phải rúm người lại vì sợ hãi. “Không phải Ngô Phong lập mưu sát hại thân phụ ngươi bằng thuốc độc. Mà chính là ngươi, nhi tử duy nhất của Đinh Tướng quân! Việc Ngô Phong đến huyện Lan Phường đã khiến ngươi nảy ra ý tưởng che giấu tội ác mà ngươi đã trù liệu. Ngươi loan tin đồn về Ngô Phong, chính ngươi mới là kẻ cho người dò xét y. Cũng chính ngươi đã lẻn vào họa phòng của Ngô Phong khi y đi vắng hoặc đang mải mê uống rượu, lấy trộm một mảnh giấy có in dấu triện của y!” Đinh Y há hốc miệng. Địch Công đấm tay xuống mặt án thư quát, “Im miệng và nghe đây! Vào đêm mừng thọ thân phụ, ngươi đã giấu sẵn hộp mơ độc trong tay áo. Khi thân phụ ngươi rời khỏi sảnh đường, thì ngươi, kẻ hiếu tử của ông ta, đưa thân phụ về tận thư phòng. Quản gia đi theo sau ngươi.”
“Đinh công mở khóa cửa. Ngươi quỳ xuống và buông lời lễ nghĩa. Quản gia bước vào phòng và thắp hai cây nến trên án thư. Rồi ngươi lấy chiếc hộp trong tay áo ra và lặng lẽ đưa cho thân phụ mình. Có thể lúc đó ngươi vẫn quỳ gối. Dòng chữ trên mặt hộp đã thay cho mọi lời cần nói. Thân phụ ngươi cảm ơn và cất chiếc hộp vào tay áo trái.” “Chính khoảnh khắc đó, quản gia đã bước ra ngoài. Ông ta nghĩ đã trông thấy thân phụ ngươi cất chìa khóa vào tay áo, và nghĩ những lời cảm ơn kia là dành cho lời chúc của ngươi. Nhưng lại có một khoảng thời gian không thể giải thích được kéo dài tầm hai phân chung*, khoảng thời gian mà quản gia đã thắp hai cây nến. Tại sao thân phụ ngươi vẫn đứng đó với chiếc chìa khóa trên tay? Đương nhiên ông ta đã cất chìa khóa vào tay áo ngay khi mở xong cửa. Quản gia đã trông thấy ông ta cất chiếc hộp đựng những trái mơ tẩm độc vào tay áo. Thứ công cụ mà tên nghịch tử vô đạo muốn dùng để sát hại thân phụ mình!” 1 phân chung bằng 1 phút. Mắt Địch Công rực sáng như những lưỡi dao phóng vào Đinh Y. Anh ta bắt đầu run lên, nhưng mắt không thể tránh nổi những tia nhìn như đóng đinh của Địch Công. “Ngươi không hề sát hại thân phụ mình”, Địch Công hạ thấp giọng. “Trước khi ông ta kịp mở chiếc hộp, Tuần phủ Nghê Thọ Kiền đã xuống tay.” Đinh Y nuốt nước bọt liền mấy lần. Rồi anh ta thốt lên bằng giọng giả tạo, “Tại sao, tại sao thảo dân lại muốn sát hại gia phụ chứ?”
Địch Công đứng bật dậy. Ông cầm lấy cuộn văn thư mà mình ghi chép về vụ án của Đinh lão tướng quân. Ông đến trước mặt Đinh Y và một chất giọng đáng sợ cất lên, “Ngươi quả là kẻ ngu ngốc thậm tệ! Ngươi dám mở miệng hỏi câu đó sao? Ngươi dám hỏi tại sao, khi mà trong những ghi chép bẩn thỉu kia, ngươi không chỉ công khai nhắc đến một người đàn bà đê tiện, người đã khiến ngươi căm ghét thân phụ mình, mà còn tự tiết lộ ra những mối quan hệ đầy tội lỗi của mình?” Ném cuộn giấy vào mặt Đinh Y, Địch Công nói tiếp, “Hãy đọc lại những gì ngươi viết trong bài thơ bẩn thỉu đó đi.” “Tú khâm hương la trướng, Can đảm chiểu sầu trường.” “Hai người các ngươi điển chương đã mất, cương thường không còn. Cái gì mà hoa hảo nguyệt viên, thành loan phượng, phối uyên ương. Cả hai tâm ý đã như một. Sáu chữ vô chương điển, vong cương thường đã nói lên tất cả. Lại thêm bốn chữ đầu ở bốn câu cuối ghép thành Nguyệt Hoa Tâm Can, rõ ràng ngươi đã thông gian với tứ phu nhân của thân phụ mình là Vương Nguyệt Hoa.” 👁 Địch Công vạch trần tội loạn luân của Đinh Y Sự im lặng bỗng trùm lên cả phòng. Lúc cất lời trở lại, giọng Địch Công đã mệt mỏi, “Trước công đường, ta có thể kết tội ngươi cùng nhân tình của mình về tội thông gian ô nhục đó. Nhưng mục đích chính của luật pháp là làm sáng tỏ những bại hoại do một hành vi tội lỗi gây nên. Trong vụ án này, không có gì để phải làm sáng tỏ cả. Tuy nhiên, những gì ta có thể làm và sẽ làm là ngăn cho vết ung nhọt không lan rộng ra.”
“Ngươi biết người làm vườn sẽ làm gì khi một nhánh cây bị mục ruỗng đến tận lõi rồi đấy. Họ sẽ cắt bỏ nhánh đó để cây có thể tiếp tục sống. Thân phụ ngươi đã không còn, ngươi lại là người nối dõi duy nhất, bản thân ngươi cũng không có con cái. Ngươi chắc cũng sẽ thấy nhà họ Đinh sẽ bị tuyệt tự. Đinh Y, đó là những gì ta muốn nói!” Đinh Y quay lại. Anh ta rời khỏi thư phòng của Địch Công, đi như người trong cơn mộng mị. Có tiếng gõ cửa. Khuôn mặt Địch Công sáng bừng lên khi thấy Kiều Thái bước vào. “Kiều Thái, mau ngồi đi!” Ông mỉm cười mệt mỏi. Kiều Thái ngồi xuống ghế, khuôn mặt tái nhợt và hốc hác. Không rườm rà, y thuật lại câu chuyện của mình bằng giọng đều đều, như thể đang đọc bản trình tấu vậy. “Mười năm trước, vào mùa thu, tướng quân Đinh Hổ Quốc cùng bảy ngàn dũng sĩ đụng độ một đội phiến quân có phần thiện chiến ở biên giới phía Bắc. Nếu ra lệnh tham chiến, chắc ông ta sẽ có cơ hội giành chiến thắng. Nhưng ông ta không muốn liều mạng. Ông ta bí mật hội đàm và đút lót để tướng quân phe địch rút quân. Rồi tên dị tộc ấy một mực cho rằng quân sĩ của hắn không thể lui về bộ lạc của mình mà không có vài trăm thủ cấp quân địch để chứng tỏ lòng cam đảm trên sa trường.” “Đinh Hổ Quốc lệnh cho đạo quân thứ sáu của Tả Dực tách khỏi đại quân và tập trung vào một thung lũng. Có tổng cộng tám trăm binh sĩ do Lương Đô úy chỉ huy, là một trong số những vị tướng có phẩm cách nhất trong quân đội đương triều, cùng tám Hiệu úy khác. Ngay khi đạo quân vào đến thung lũng, hai nghìn quân man di đã đánh úp họ từ trên núi. Tướng sĩ nhà Đường chiến đấu rất quả cảm nhưng lòng can đảm ấy không thấm vào đâu so với bọn phiên binh bốn bề đông đảo. Tám trăm tráng sĩ bị thảm sát. Bọn dị tộc cắt lấy hết thủ cấp của họ treo vào đầu thương rồi quay về.”
“Bảy vị Hiệu úy đã bị tan xương nát thịt. Người thứ tám, đầu bị một ngọn thương vụt trúng và bị bỏ lại dưới chân ngựa. Anh ta tỉnh dậy khi bọn dị tộc đã đi hết và thấy mình là người duy nhất sống sót.” Giọng Kiều Thái bỗng khiên cưỡng. Mồ hôi nhỏ xuống khuôn mặt hốc hác của y. Y nói tiếp, “Vị Hiệu úy đó tìm đường trở lại kinh thành và đến trước Bộ Binh để tố cáo Đinh Hổ Quốc. Anh ta được cho biết, Bộ Binh đã tạm ngưng hoạt động và tốt nhất nên quên mọi chuyện đi.” “Thế rồi vị Hiệu úy đó lột bỏ giáp phục. Anh ta thề chừng nào chưa tìm ra Đinh Hổ Quốc và lấy đầu lão ta thì sẽ chết không nhắm mắt. Anh ta thay tên đổi họ, gia nhập một nhóm lục lâm, suốt mấy năm liền rong ruổi khắp thiên hạ để tìm Đinh Hổ Quốc. Rồi một ngày, anh ta gặp được một vị Huyện lệnh trên đường về nhiệm sở. Người ấy đã dạy cho anh ta về ý nghĩa của công đạo, thế rồi…” Kiều Thái ấp úng. Y nấc lên nghẹn ngào. Địch Công thương cảm nhìn y và trang nghiêm nói, “Kiều Thái, số mệnh đã để cho thanh gươm báu của ngươi không bị chôn vùi bởi máu của kẻ phản quốc. Một người khác đã định án tử cho Đinh Hổ Quốc và thi hành bản án đó. Câu chuyện ngươi vừa kể sẽ mãi là chuyện của riêng hai ta. Nhưng ta sẽ không giữ ngươi ở lại đây để cản trở ý nguyện của ngươi. Ta vốn biết tâm ngươi nằm lại trong quân ngũ. Ngươi nghĩ sao nếu ta tìm lý do để đưa ngươi trở lại kinh thành? Ta sẽ cho ngươi một bức tín thư đề bạt gửi đến Thượng thư Bộ Binh. Chắc chắn ngươi sẽ được bổ nhiệm làm Đô đốc!”
Một nụ cười ảm đạm thoáng qua trên mặt Kiều Thái. Y điềm tĩnh đáp, “Thuộc hạ muốn đợi đến thời điểm đại nhân được sắc phong về Lục Bộ ở kinh thành. Thuộc hạ xin được tiếp tục hỗ trợ đại nhân đến khi ngài không còn cần đến thuộc hạ phụng sự nữa.” “Được!” Địch Công mỉm cười phấn khởi. “Xin cảm tạ ngươi vì quyết định đó, Kiều Thái ạ. Nếu không ta sẽ vô cùng hối tiếc vì không có ngươi ở bên!” HỒI 22 Đinh gia đại án đã sáng tỏ Mê cung bí mật được phơi bày Trong cùng thời gian ấy, Phương Bộ đầu đang đàm đạo với Ngô Phong. Rõ ràng Ngô Phong không quan tâm đến điều gì khác ngoài sự mất tích của Bạch Lan. Y đã hoàn toàn quên những ngày trong lao tù và trận đòn roi phải nhận trước công đường. Suốt một lúc lâu, y lơ đãng ngồi nghe Bộ đầu giải thích về cái chết của Đinh lão tướng quân. Rồi y bực bội cắt ngang, “Tại hạ không hề có hứng đối với đám họ Đinh đáng nguyền rủa ấy. Những gì tại hạ muốn biết là chúng ta sẽ làm sao để tìm ra trưởng nữ của thúc! Tiện đây, thúc cũng đã biết rằng tại hạ vốn định tìm người mai mối cho hôn sự của cả hai ngay khi tìm thấy nàng ấy!” Bộ đầu lặng lẽ cúi mặt. Ông thầm tự hào vì một trang tuấn kiệt như vậy muốn thành gia thất với trưởng nữ của ông. Nhưng ông bất ngờ vì y tùy tiện nói đến chuyện hôn sự. Giống như biết bao người dân ở tầng lớp trung lưu, Phương Chính là người rất coi trọng mọi chuẩn mực, đó lại là một quy ước lễ giáo nền tảng mà tân lang không được trực tiếp nói với nhạc phụ cho đến khi người mai mối đến hỏi ông. Chính vì giữ nghiêm những quy củ mà ông đã sai Huyền Lan đi dò hỏi tin tức của Lý phu nhân như lời Hồng Sư gia đã dặn. Phương Chính không muốn tự mình thực thi nhiệm vụ đó vì ông cho rằng thanh danh của Lý phu nhân có thể bị ảnh hưởng khi có một nam nhân đến thẩm tra bà ấy.
Phương Bộ đầu vội đổi chủ đề, “Ta mong ngày mai đại nhân sẽ tiến hành một kế hoạch truy tìm mới. Ngô Phong, trong thời gian đó, công tử có thể họa lại bốn hoặc năm bức chân dung Bạch Lan, chuyển đến các phường chính trong huyện.” “Quả là ý hay!” Ngô Phong hồ hởi, “Tại hạ sẽ về nhà và bắt tay vào việc ngay!” Chàng bật dậy nhưng Bộ đầu đã giữ lấy tay chàng. Ông rụt rè nói, “Ngô Phong, tốt nhất trước khi rời khỏi chốn công nha thì công tử nên đến gặp đại nhân. Công tử chưa hoàn toàn được ông ấy cho phép ra về và công tử cũng phải đến tạ ơn đại nhân vì đã xóa bỏ nghi ngờ với mình.” “Để sau, để sau đi!” Ngô Phong tinh nghịch nói và chạy đi. Địch Công đang cùng Hồng Sư gia dùng bữa trưa thanh đạm trong thư phòng. Sư gia thấy chủ có vẻ mệt. Ông lặng lẽ ăn. Xong bữa cơm, Địch Công với lấy chén trà. Cuối cùng, ông mở lời, “Lão Hồng, mau gọi ba người kia đến đi. Ta muốn thuật lại tường tận cái chết của Đinh Hổ Quốc cho mọi người cùng biết.” Khi cả bốn trợ thủ đều đã tề tựu trước mặt, Địch Công tựa lưng ra ghế và kể lại câu chuyện riêng của ông và Đinh Y lúc trước. Đào Cam lắc đầu trước sự rắc rối của vụ án. Y thở dài rồi nói, “Đại nhân, thuộc hạ thấy từ trước đến giờ chúng ta chưa bao giờ phải đối mặt với vụ án nào hỗn độn và phức tạp như vậy!” “Nhìn bề ngoài thì là thế”, Địch Công đáp. “Thực ra, chỉ là do chính bối cảnh cục bộ khiến mọi thứ phức tạp hơn. Lúc này, từng mớ chỉ thêu rối ren mới dần được tháo gỡ và một họa tiết đẹp đẽ mới xuất hiện. Chúng ta đã gặp ba vụ án. Trước tiên là cái chết của Đinh lão tướng quân. Thứ hai là vụ án nhà họ Nghê. Cuối cùng là chuyện cô nương Bạch Lan mất tích.”
“Cách chúng ta diệt trừ Tiền Mưu, khám phá ra âm mưu của Nghê Kỳ và tìm ra bí mật sau cái chết của Phan đại nhân, đều phải xem như bối cảnh cục bộ. Tất cả là những chuyện riêng biệt và không liên quan đến ba vụ án.” Hồng Sư gia gật đầu. Lát sau, lão nói, “Lâu nay lão phu vẫn tự hỏi tại sao đại nhân không lập tức tra án Ngô Phong. Lúc đầu, mọi bằng chứng đều cho thấy anh ta có tội.” “Ngay trong lần gặp đầu tiên”, Địch Công đáp, “Tú tài Đinh Y đã hành xử rất đáng ngờ. Khi ta và Mã Vinh gặp hắn trên phố, hắn không thể che đậy nỗi kinh sợ lúc ta nói ra danh tính của mình. Vì ta vốn có cái danh hào là thần thám, Đinh Y rõ ràng đã thoáng nghĩ từ bỏ kế hoạch đầu độc thân phụ và đổ cho Ngô Phong. Rồi, hắn thấy âm mưu của mình quá mỹ mãn, và sau cùng, hắn vẫn có cơ hội. Hắn mời hai ta đến quán trà và bịa ra câu chuyện về âm mưu của Ngô Phong định làm hại Đinh Hổ Quốc.” “Tên khốn ấy dám lừa cả thuộc hạ!” Mã Vinh giận dữ. Địch Công cười và tiếp tục, “Và rồi Đinh công bị sát hại. Đinh Y không hề mảy may biết chuyện gì đã xảy ra. Sáng nay ta đã đến khám xét lại. Các vị thấy ta bất ngờ đưa ra cây bút hung khí, xoay phần đuôi bút bị mở về phía mặt Đinh Y. Nếu chính Đinh Y đã động vào cây bút sau khi Nghê Tuần phủ tặng nó cho Đinh công, thì Đinh Y chắc đã có phản ứng.”
“Vì rằng, Đinh Y chắc chắn đã thấy hoang mang trước vụ án mạng bí ẩn đó giống như chúng ta. Hắn sẽ mất cả nửa canh giờ để lo lắng, cố tìm hiểu chuyện gì đã xảy ra. Liệu nhân tình của hắn có ra tay hại người không? Phải chăng có ai đó đã phát hiện ra hắn âm mưu sát hại thân phụ mình và lúc nào đấy kẻ đó sẽ đòi thù lao vì đã thay hắn thực hiện âm mưu đó? Rồi Đinh Y quyết định tiến hành kế hoạch ban đầu là đổ tội cho Ngô Phong. Ngô Phong bị hàm oan, Đinh Y không cần e sợ kẻ sát nhân thật sự kia đến đe dọa hoặc tống tiền hắn. Do đó, hắn vội đến nha môn và tố cáo Ngô Phong. Tuy nhiên, Đinh Y không nhận thấy rằng, bằng cớ giả mà gã tốn công sức dựng lên thật vô cùng tầm thường.” “Đại nhân, thật quá sức hình dung!” Đào Cam cắt ngang. “Chiếc hộp đựng mơ tẩm đường đã dẫn chúng ta đến thẳng Ngô Phong!” “Còn hơn cả thế”, Địch Công đáp, “chúng ta đã quá tay và hơn nữa lại còn dựa vào ước đoán sai lầm trầm trọng về tính cách của Ngô Phong. Ngô Phong là kẻ thông minh hơn người và dễ bị kích động. Phải thú nhận, ta không thể ưa thích kiểu người này. Nhưng y thực sự là một họa sư trác tuyệt. Những người như vậy thường tùy tiện, không coi trọng nếp sống thường nhật, nhưng lại có khả năng tập trung ghê gớm với vấn đề mà họ thực sự quan tâm. Nếu Ngô Phong muốn đầu độc ai đó, y chắc chắn không bao giờ dùng đằng hoàng và không bao giờ bỏ qua một manh mối hiển nhiên là con dấu trên tờ giấy bên trong chiếc hộp.”
Đào Cam gật đầu, “Bằng chứng cuối cùng cho thấy Ngô Phong vô tội là y sẵn lòng ăn những trái mơ chúng ta mới xếp vào chiếc hộp đó.” “Chính xác!” Địch Công nói. “Tuy nhiên, chúng ta hãy cùng sắp xếp lại mọi sự kiện theo trình tự. Khi Đinh Y đến báo về vụ giết người, ta vội đến gặp Ngô Phong ngay. Ta muốn so sánh đặc điểm tính cách của bị cáo và nguyên cáo. Ta lập tức đi đến kết luận, Ngô Phong hầu như không phải kiểu người có thể phạm tội giết người có chủ ý, chưa nói đến một động cơ hại người sâu xa mà Đinh Y đã cho biết.” “Ta giả thiết rằng vụ giết người lúc đó do một kẻ thứ ba thực hiện. Ta có thể hình dung rõ rằng, một kẻ phạm tội tày đình như Đinh Tướng quân sẽ có nhiều kẻ thù, và ta cho rằng Đinh Y đã sử dụng chuyện này để đổ tội cho Ngô Phong. Còn về lý do Đinh Y sẵn sàng hại Ngô Phong, ta cho rằng họ là tình địch. Chân dung thiếu nữ luôn xuất hiện trong tranh của Ngô Phong và những lá thư tình của Đinh Y khiến ta tin cả hai người này đều đang nặng lòng với cùng một nữ nhân.” “Khám phá của chúng ta về những trái mơ tẩm độc lại càng củng cố thêm niềm tin của ta, Đinh Y đang bày kế để hại Ngô Phong. Ta đoán rằng hiển nhiên Đinh Y đã tính đến chuyện thuốc độc sẽ bị phát hiện trước khi thân phụ hắn ăn mơ. Ta tin một người bình thường sẽ không bao giờ dám đem tính mạng của thân phụ ra đánh đổi chỉ để loại bỏ tình địch.”
“Đúng thế”, Hồng Sư gia ngắt lời, “giờ lão đã hiểu tại sao đại nhân lại phán Ngô Phong có tội.” “Thực ra, ta đã xem Đinh Y là kẻ ích kỷ và xảo trá. Điều này lại giúp ta đi đến bước tiếp theo, khi ta khám phá ra Đinh Y và Ngô Phong không hề cùng yêu một nữ nhân. Chuyện đã thay đổi mối liên quan giữa Đinh Y và Ngô Phong cùng lời buộc tội giả của hắn. Nhưng lý do sau đó Đinh Y một mực buộc tội cho Ngô Phong là gì? Khả năng duy nhất là bản thân Đinh Y đã sát hại thân phụ và lên kế hoạch sử dụng Ngô Phong làm hình nhân thế mạng.” “Rồi ta đặt ra giả thuyết, Đinh Y đã chuẩn bị hai thứ hung khí. Một là thứ đã được sử dụng, nhưng ta vẫn chưa khám phá ra. Thứ còn lại là chiếc hộp đựng mơ độc, Đinh Y đã dùng nó để phòng thứ hung khí thứ nhất không có tác dụng. Từ đó, điều quan trọng nhất là phải tìm ra động cơ của Đinh Y trong tội ác ghê tởm này. Có liên quan gì đến cô nương mà Đinh Y đem lòng say mê? Ta đã cử Huyền Lan quay lại Đinh gia trang để thu thập tin tức.” Địch Công dừng lại và nhâm nhi chén trà. Mọi người đều im lặng. Địch Công nói tiếp, “Tuy thế, cùng thời gian đó, ta băn khoăn về một nghịch lý lạ lùng. Vì Đinh Y đã trù liệu kĩ lưỡng để đảm bảo thứ hung khí thứ hai của hắn, là hộp mơ, phải dẫn đến chỗ Ngô Phong, thì hiển nhiên hắn phải làm sao để thứ hung khí đầu tiên phải công khai tố cáo Ngô Phong. Ta đau đầu nhức óc mà không thể tìm ra bất cứ manh mối nào trong vụ giết người này hướng đến Ngô Phong.”
“Bởi thế, ta quyết định quay lại giả thiết thứ nhất, vụ giết người đã được thực hiện bởi một kẻ thứ ba, hành vi của hắn lại vô tình trùng với âm mưu đầu độc đê tiện của Đinh Y. Theo quy luật thì ta không thích sự trùng hợp, nhưng ta phải thừa nhận rằng, vụ án này là minh chứng cho thấy chuyện trùng hợp nào cũng có thể xảy ra.” “Có sự trùng hợp đó”, Kiều Thái nói, “chính là do một sự thật mà đại nhân đã đề cập đến khi nãy, Đinh Hổ Quốc có nhiều kẻ thù. Và sau tất cả, chuyện đó cũng hiển nhiên vì chính Đinh Hổ Quốc đã phản bội tướng sĩ dưới quyền mình và Nghê Tuần phủ đã giết ông ta!” Địch Công gật đầu và nói tiếp, “Kết luận này không đưa ta đến gần với lời giải cho vụ giết người, nhưng lại giúp ta thêm ở chỗ ta có thể kết luận cả Đinh Y và Ngô Phong là kẻ bị tình nghi. Khi khám phá ra động cơ Đinh Y muốn giết thân phụ mình, một phần của vụ án đã được giải quyết” Hồng Sư gia ngắt lời, “Vậy đó là lý do đại nhân nói một nửa vụ án giết người đã rõ ràng! Đại nhân sau đó đã kết nối chi tiết của Huyền Lan về vị tứ phu nhân và những chi tiết trong bài thơ của Đinh Y!” “Chính thị! Còn đối với nửa còn lại của vụ án Đinh Tướng quân bị sát hại, ta thừa nhận mình có thể sẽ không bao giờ phá giải được nếu Nghê đại nhân không lưu lại tên mình.” “Ta đi đến kết luận sau cùng, Đinh Hổ Quốc chắc chắn bị giết bởi một thứ công cụ cơ học, vì hung thủ không thể nào vào ra căn phòng khóa kín. Nhưng ta chưa hề khám phá ra bí mật trong chiếc bút lông. Ta thật không sánh kịp với trí tuệ của Nghê đại nhân! Các vị sẽ nhận thấy sau khi lưỡi dao phóng ra khỏi thân bút, những vòng dây mây duỗi ra dọc theo bên trong; ta sẽ không bao giờ trông thấy những vòng dây ấy dù có ghé mắt nhìn vào trong.”
“Khi ta đến thăm Hạc Y tiên sinh, ta nhận thấy ‘Ninh Hinh Di’ là bút hiệu của Nghê đại nhân, ta nhớ đã được trông thấy họ tên ấy khắc trên thân cây bút lông mà Đinh tướng quân đã viết khi bị giết. Ta nghĩ lại gợi ý của Đào Cam về một loại ống thổi và nhận thấy thân bút rỗng có thể dùng vào cùng một đích. Ngọn nến ở sai vị trí đã cho ta thấy có một thứ gì đó bên trong cây bút lông đã phóng ra ngay khi cây bút bị hơ nóng. Phần còn lại cũng thật dễ đoán ra.” “Chúng ta sẽ phải làm sao nếu Đinh Y không tự sát?” Kiều Thái hỏi. “Ta sẽ buộc hắn và ả nhân tình phải lên công đường để xử tội thông gian và dùng hình cho đến khi chúng thú nhận!” Địch Công thản nhiên đáp. Ông chậm rãi vuốt râu và nhìn cả bốn vị. Khi không ai hỏi thêm câu nào, ông tiếp tục, “Giờ ta sẽ đến với vụ án thứ hai, di huấn của Nghê Tuần phủ.” “Chúc thư viết tay nằm trong lớp vải lót là một manh mối giả được tạo ra rất khéo léo bởi chính Nghê đại nhân, nhằm đánh lừa Nghê Kỳ. Ý đồ của Nghê đại nhân đã thành công, vì khi Nghê Kỳ phát hiện ra văn thư đó, hắn không hủy cả cuộn tranh mà lại giao lại cho Nghê phu nhân. Tự phong cảnh trong bức tranh vốn đã chứa đựng manh mối thật, chỉ là vô cùng tinh tế!” Địch Công đứng lên và đến bên bức tranh. Các trợ thủ vội rời ghế và đến bên ông. “Ta vốn đã ngờ”, Địch Công bắt đầu, “có vài mối liên quan giữa phong cảnh và điền trang ở ngoại thành của Nghê đại nhân. Đó là lý do chính mà ta đích thân đến đó.”
“Tại sao lại có sự liên quan?” Đào Cam nôn nóng hỏi. “Vì một lý do đơn giản”, Địch Công đáp, “chỉ có hai thứ mà Nghê đại nhân muốn gìn giữ bằng mọi giá. Ông ấy đã dự liệu rất khéo léo để sao cho cuộn tranh ấy không bị tiêu hủy sau khi mình qua đời, và ông ấy cũng nghiêm khắc bảo Nghê Kỳ không được thay đổi thứ gì ở trang viên đó. Trước hết, ta nghĩ bức tranh phong cảnh có một địa đồ ẩn tích về trang viên ở ngoại thành, ngầm chỉ ra vị trí của một chiếc hòm mật mà trong đó ta có thể tìm ra chúc thư thật của Nghê đại nhân. Nhưng trong suốt thời gian ta ở đó, ta không tìm ra bất cứ điểm tương đồng nào. Chỉ vừa đêm qua, ta mới tìm ra được mối liên kết ấy!” Địch Công nở nụ cười. Cả bốn người hồi hộp dõi theo từng lời của ông. “Nếu các ngươi xem kĩ phong cảnh trong tranh thì sẽ nhận ra những dị điểm trong kết cấu bức tranh. Có một số ngôi nhà nằm rải rác bên vách đá. Từ con đường mòn trên núi, có thể đến tất cả những ngôi nhà ấy, ngoại trừ tòa nhà lớn nhất và công phu nhất ở trên cùng góc phải! Tòa nhà ấy nằm bên dòng sông, nhưng không hề có đường sá! Ta kết luận tòa nhà đó phải là một nơi đặc biệt quan trọng. Giờ hãy nhìn đám cây này! Không có gì dị biệt khiến các ngươi ấn tượng sao?” Đào Cam và Hồng Sư gia lại gần hơn để quan sát kĩ bức tranh. Mã Vinh và Kiều Thái đã chịu thua. Hai người nhìn Địch Công đầy vẻ khâm phục.
Khi Sư gia và Đào Cam lắc đầu bỏ cuộc, Địch Công nói tiếp, “Mọi ngôi nhà đều có cây bao quanh, được vẽ sơ sài. Chỉ riêng những cây thông được vẽ rất chi tiết. Mỗi gốc thông đều đứng tách riêng so với cảnh vật phía sau.” “Giờ các vị sẽ thấy có số lượng những cây thông biếu thị số thứ tự. Số hai ở đỉnh ngọn núi nơi con đường bắt đầu, số ba ở dưới một đoạn, số bốn ở cây cầu vắt ngang dòng sông, số năm gần ngôi nhà lớn ở đỉnh núi bên phải. Ta kết luận những cây thông là các dấu mốc biểu thị một con đường sau đó. Hai cây thông trên đỉnh núi chính là sợi dây liên kết bức tranh với điền trang ở ngoại thành. Chúng biểu thị hai cây thông mà chúng ta đã trông thấy ở lối vào mê cung!” “Do đó, phong cảnh này là tấm địa đồ chỉ dẫn cho mê cung đó, giúp ta có thể đến được một thảo lư hoặc một tòa tiểu đình mà Nghê đại nhân đã xây dựng trong mê cung!” Đào Cam quả quyết. Địch Công lắc đầu. “Không, không chính xác. Ta đồng ý rằng dãy số biểu thị một con đường tới một tòa tiểu đình trong mê cung. Vì Nghê đại nhân gần như đến đó mỗi ngày, rõ ràng đâu đó bên trong mê cung có một tòa tiểu đình để ông ta ngồi đọc và viết. Ta cũng đồng ý là có một tòa nhà kỳ vĩ biểu thị cho tòa tiểu đình đó. Nhưng ta không cho rằng chỉ cần đi theo lối mòn của mê cung là đến được nơi đó.” “Nghê đại nhân đã có ý xem nơi lui tới của mình trong mê cung là một chốn tuyệt mật. Ông ấy sẽ chẳng bao giờ lưu lại những văn thư quan trọng ở đó nếu bất cứ ai liều lĩnh và nhẫn nại tìm kiếm khắp mê cung và đi theo con đường chính đó đều tìm thấy. Tại sao Nghê đại nhân lại tạo ra một dấu hiệu đặc biệt giữa phần thứ nhất và phần thứ hai của con đường ấy? Tại sao lại biểu thị phần thứ hai của con đường bằng một dòng sông chảy qua núi?”
“Để khiến người khác khó tìm ra hơn!” Đào Cam đáp vội. “Không”, Địch Công nói, “Nghê đại nhân đã bỏ nhiều công sức để cho thấy nơi được đánh dấu bằng bốn cây thông là một địa điểm quan trọng. Thay vì là con đường mòn trong núi, đường đi từ đó được minh họa bằng con sông. Cây cầu là một biểu thị khác, cho thấy ở đó có một thay đổi quan trọng. Ta tin ở địa điểm này, người ta sẽ rời khỏi con đường mòn của mê cung, bước vào một đoạn đường tắt bí mật dẫn đến tòa tiểu đình kín đáo kia, không nằm trên lối mòn mà ở đâu đó giữa những khúc quanh.” Đào Cam gật đầu tán đồng. Y thốt lên, “Thật là một nơi ẩn mình hoàn hảo. An toàn hơn bất cứ dinh lũy nào! Nếu ai đó không biết có đường tắt bí mật đó, người ấy có thể phải lang thang trong mê cung hàng chục ngày và không bao giờ tìm thấy tòa tiểu đình. Nhưng Nghê Tuần phủ và bất cứ ai biết về bí mật đó đều có thể đến nơi trong vòng vài khắc!” “Đúng”, Địch Công nói, “nhận định cuối cùng của ngươi rất quan trọng. Nghê đại nhân không thích đi bộ cả nửa canh giờ hoặc hơn thế theo con đường quanh co của mê cung mỗi khi cần vào trong. Lý do này gợi ý cho ta về sự tồn tại của con đường tắt bí mật kia. Giờ chúng ta phải đi theo con đường được đánh dấu trong bức tranh này!” Địch Công chỉ vào ngôi nhà nhỏ trên đỉnh núi, mỗi bên có một cây thông. “Đây”, ông nói, “là lối vào của mê cung. Chúng ta sẽ đi xuống những bậc thang được tạc vào đá, theo con đường mà đi xuống. Ngã ba đầu tiên thì không hề gì, không quan trọng là ta rẽ trái hay phải. Đến ngã ba thứ hai, có ba cây thông dọc theo lề con đường cho thấy chúng ta tiếp tục đi theo bên trái.”
“Rồi ta sẽ đến dòng sông. Đây là nơi ta rời khỏi con đường của mê cung. Lối vào con đường tắt bí mật được đánh dấu bằng bốn cây thông; ta mạo muội cho rằng trong mê cung này, chúng ta sẽ tìm ra lối vào giữa cây thông thứ hai và thứ ba, ngay chính giữa, giống như dòng sông trong tranh. Đâu đó dọc theo con đường bí mật, chúng ta sẽ thấy có năm cây thông đứng làm hai nhóm, nhóm hai cây và nhóm ba cây. Tòa mật đình của Nghê đại nhân chắc chắn nằm ở đó!” Vừa nói ông vừa chỉ vào ngôi nhà lớn trên ngọn trên cùng bên phải bức tranh. Ông quay lại án thư và ngồi xuống. “Ta không nhầm đâu”, Địch Công kết luận, “chúng ta sẽ tìm ra trong tòa tiểu đình đó một chiếc hòm mật hoặc một chiếc rương sắt có chứa thư tín của Nghê đại nhân, bao gồm cả bản chúc thư!” “Chà”, Mã Vinh nói, “thật quá sức của thuộc hạ, nhưng thuộc hạ dám thử! Tuy thế, vẫn còn vụ án thứ ba, là vụ cô nương Bạch Lan mất tích!” Khuôn mặt Địch Công tối sầm lại. Vừa nhấp trà, ông vừa từ tốn nói, “Đó là vụ án đáng buồn nhất! Chúng vẫn chưa có thêm tiến triển gì trong quá trình tìm kiếm cô nương ấy. Ta hối hận hơn cả vì ta vốn quý mến Phương Bộ đầu. Ông ta là một thương nhân trung thực và đàng hoàng, một lớp người mà Đại Đường phải thấy tự hào…” Địch Công mệt mỏi đưa bàn tay lên ôm trán rồi nói tiếp, “Sau bữa cơm tối nay, chúng ta sẽ cùng ngồi lại đây để bàn về cách tìm ra cô nương ấy. Khi những vụ án khác được phá giải, chúng ta sẽ có thể tập trung vào vụ án cuối cùng này.”
“Giờ tất cả chúng ta hãy cùng đến trang viên ở ngoại thành và xác định xem giả thiết của ta về con đường tắt bí ẩn qua mê cung có đúng hay không. Nếu chúng ta tìm ra bản chúc thư của Nghê đại nhân, ta có thể chuyển nó lên các vị thượng quan cùng tấu trình của ta về tội mưu phản của Nghê Kỳ. Bộ Hộ sau đó sẽ phải để lại phần tài sản của Nghê San khi tuyên bố tịch biên gia sản của nhà họ Nghê.” “Kiều Thái, ngươi sẽ cần cả buổi chiều hôm nay để bố trí phòng vệ cho huyện Lan Phường, đề phòng quân rợ đêm nay đột kích. Lão Hồng này, lão sẽ cùng đi với ta và Mã Vinh, Đào Cam!” HỒI 23 Thần thám phá giải mê cung án Tiểu đình xuất hiện xác nữ nhân Nửa canh giờ sau, một cảnh tượng nhộn nhịp lạ thường diễn ra ở trang viên của Nghê Tuần phủ. Những Bộ khoái có mặt ở mọi nơi. Vài người đang quét dọn lối đi ngoài vườn, một số khác đang kiểm kê những đồ đạc trong trang viên, những người khác lại đang tìm kiếm trong hậu hoa viên. Địch Công đứng bên khoảng sân lát đá phía trước cây cổng đá dẫn vào mê cung. Ông đang đưa ra những chỉ lệnh cuối cùng với Hồng Sư gia, Mã Vinh và Đào Cam. Hai mươi Bộ khoái đã đứng quanh họ. “Ta không biết con đường sẽ dài bao nhiêu.” Địch Công nói. “Ta cứ xem như nó khá ngắn, nhưng chúng ta không dám chắc. Trong khi chúng ta vào trong, cứ sau khi đi được hai mươi thước thì có một Bộ khoái phải tách ra khỏi đội.
Bộ khoái ấy sẽ đứng lại đó để có thể ra lệnh cho người đằng trước và đằng sau. Ta không muốn bị lạc trong mê cung đâu!” Quay sang Mã Vinh, Địch Công nói thêm, “Ngươi sẽ cầm thương đi trước. Ta không tin những câu chuyện về cạm bẫy trong mê cung này, nhưng nơi này đã bị bỏ hoang nhiều năm và những giống thú dữ có thể tìm đến đây trú ngụ. Mọi người hãy hết sức cẩn trọng!” Rồi tất cả bước qua dưới cổng vòm bằng đá và tiến vào mê cung. Trong đường hầm mờ tối, họ chỉ thấy mùi lá khô mục nát trong bóng tối. Con đường hẹp nhưng người vào có thể dễ dàng đi sóng đôi. Hai bên đường đều trồng cây san sát và những tảng đá cuội cỡ lớn tạo nên một bức tường không thể vượt qua. Cây cối đủ chủng loại nhưng không hề trông thấy một cây thông nào trong tầm mắt. Những nhánh cây lòa xòa ngay trên đầu người, đan lại với nhau thành một lớp dây leo dày đặc, đôi khi sà xuống thấp đến nỗi Địch Công và Mã Vinh phải cúi xuống để chui qua. Loại nấm to lớn dị thường mọc kín các gốc cây. Mã Vinh dùng thương đập vào một cây nấm. Từ đó, một đám bụi trắng mang mùi xú uế bốc ra. “Cẩn thận đấy, Mã Vinh!” Địch Công cảnh báo. “Những cây nấm đó có thể có độc!” Ở ngã rẽ trái đầu tiên, Địch Công dừng lại. Ông mỉm cười với vẻ hài lòng và chỉ vào ba cây thông xương xẩu đứng sát bên nhau ngay bên khúc quanh nói, “Đó chính là dấu mốc đầu tiên!” “Đại nhân cẩn thận!” Mã Vinh hô lớn.
Địch Công nhanh nhẹn nhảy vọt sang bên. Một con nhện to cỡ bàn tay người rơi bịch xuống đất. Thân hình đầy lông của nó lốm đốm vàng, mắt nó ánh lên tia sáng màu lục như mắt quỷ. Mã Vinh vung cán thương đập nát con nhện. Địch Công thắt chặt khăn quàng cổ. “Ta không thích bị một con nhện như vậy rơi vào cổ mình đâu!” Ông cộc lốc nói rồi lại đi tiếp. Con đường dường như đã lặp lại. Sau khoảng hai mươi thước có một ngã rẽ phải đột ngột. “Dừng lại!” Địch Công gọi Mã Vinh. “Đây chính là dấu mốc thứ hai!” Dọc theo bên đường, bốn cây thông đứng thành một hàng. “Đây rồi”, Địch Công nói, “chúng ta phải rời con đường này và bước vào lối đi tắt bí mật. Hãy xem khoảng trống giữa cây thông thứ hai và thứ ba!” Mã Vinh cầm thương đâm vào đám cây bụi dày đặc. Bỗng y nhảy lùi lại, đẩy bật Địch Công về sau. Một con rắn màu đỏ dài tầm hai thước bò lên khỏi lớp lá mục và nhanh chóng biến mất vào một hang rắn dưới gốc cây. “Thật là một chốn hiếu khách!” Mã Vinh gầm gừ. “Thứ bò sát này không hề có trong bức tranh!” “Đó là lý do ta dặn ngươi nhớ mặc đồ đi săn!” Địch Công nói. “Nhớ quan sát cẩn thận!” Mã Vinh cúi người và ngó dưới đám cành cây. Rồi y đứng thẳng người và bảo, “Đúng rồi, quả nhiên có một lối đi ở đây. Nhưng nó hẹp đến mức khó ai có thể đi vừa. Thuộc hạ sẽ đi trước và dọn dẹp cành cây cản đường!” Y biến mất dưới tán cây dày đặc. Địch Công thắt chặt y phục vào người và cùng Hồng Sư gia và Đào Cam đi theo sau. Các Bộ khoái nghi ngại nhìn Phương Bộ đầu. Ông ta rút thanh đoản kiếm và ra lệnh, “Đừng do dự nữa! Nếu có bất cứ loại thú hoang nào, chúng ta sẽ xử lý hết!”
Lối đi này hóa ra chỉ dài có vài sải*. Sau một thoáng xoay xở với đám cành gai, họ lại ra đến một lối đi rộng rãi. 1 sải tương đương 1,8m. Bên phải và bên trái đều có một khúc quanh. Địch Công rẽ theo bên trái trước. Ông thấy một đoạn đường dài và thẳng trước mặt. Ông lắc đầu nói, “Phải là hướng đối diện. Ta không nghĩ con đường tắt lại có một đoạn dài như vậy.” Ông quay lại ngay nơi khi nãy vừa từ trong đám lá bước ra con đường. Khi vòng sang khúc quanh bên phải, họ thấy ngay một đoạn đường ngắn. “Đây rồi!” Địch Công reo lên mừng rỡ. Ông chỉ hai bên đường. Ba cây thông đứng cùng một bên đường, hai cây đứng phía bên kia. “Theo như bức tranh của Nghê đại nhân”, Địch Công bảo ba trợ thủ, “thì tòa tiểu đình bí mật kia phải ở rất gần đây. Ta đoán có một lối đi giữa hai cây thông bên này. Ba cây thông bên kia đường có vẻ chỉ góp mặt cho đủ con số năm!” Mã Vinh vội đâm thương vào đám cây bụi mọc kín khoảng không gian giữa hai cây thông. Mọi người nghe tiếng y chửi rủa thậm tệ. Y quay ra, hai ống chân ướt sũng bùn. “Chẳng có gì ngoài một cái ao tù!” Y nói với vẻ ghê tởm. Địch Công nhíu mày. “Phải có một lối đi vòng qua cái ao đó!” Ông sốt ruột đáp. “Cho đến lúc này, mọi thứ đều đúng như ta đoán!” Phương Bộ đầu ra hiệu cho các Bộ khoái. Họ tuốt kiếm và bắt đầu phạt hết đám cây cỏ. Bờ ao đen ngòm hiện ra. Những chỗ Mã Vinh giẫm vào lập tức nổi bọt. Không khí nồng nặc mùi hôi thối.
Địch Công cúi xuống nhìn dưới những tán cây lòe xòe. Bỗng ông co rúm người lại. Một cái đầu có hình dáng quái dị từ từ trồi lên khỏi mặt nước. Đôi mắt vàng của nó bất động nhìn đám người trên bờ. Mã Vinh hổn hển vung thương lên. Nhưng Địch Công vội trấn an y. Một con kỳ đà khổng lồ bò lên khỏi ao. Thân hình nhớp nháp của nó dài đến năm thước. Vừa lên đến bờ, nó vội trườn vào đám cỏ nước. Mọi người ai nấy tái mặt kinh sợ. “Thuộc hạ thích sáu tên Duy Ngô Nhĩ hơn con vật này!” Giọng Mã Vinh run lên. Nhưng Địch Công thì hình như rất vui mừng. Ông nói với vẻ mãn nguyện, “Ta từng đọc sách cổ nói về những con kỳ đà to lớn như vậy. Đây là lần đầu tiên ta được tận mắt trông thấy một con!” Rồi ông tỉ mỉ quan sát những chỗ lộ ra của bờ ao. Không có vẻ gì khả quan, chỉ toàn là đám cỏ nước bọc trong bùn. Địch Công xem xét lại mặt nước đen ngòm kia. “Ngươi có trông thấy phiến đá kia không?” Ông bỗng quay sang hỏi Mã Vinh. “Rõ ràng đó là phiến đá đầu tiên của một lối đi bằng đá dẫn qua ao. Chúng ta đi nào!” Mã Vinh buộc dải áo vào đai lưng. Những người khác cùng làm theo. Y bước lên phiến đá phẳng và dùng thương dò xét xung quanh rồi nói lớn, “Ở đây có một phiến đá nữa! Thẳng phía bên trái!” Y rẽ những cành cây ra và bước lên phía trước. Rồi y bỗng đứng sững lại. Địch Công ở ngay phía sau va vào y. Địch Công sẽ rơi xuống nước nếu Mã Vinh không vội giữ ông lại.
Mã Vinh lặng lẽ chỉ vào một cành cây gãy. Y thì thào với Huyện lệnh, “Có người đã làm gãy cành cây này, cách đây không lâu. Đại nhân hãy nhìn xem, đám lá còn chưa khô. Có ai đó vừa đi qua đây hôm qua! Hắn trượt chân trên phiến đá và cố đứng vững bằng cách bám vào cành cây này!” Địch Công nhìn lên cành cây đó và gật đầu. “Hắn có thể ở rất gần đây, chúng ta tốt nhất hãy phòng bị!” Ông hạ thấp giọng đáp lại, rồi dặn Hống Sư gia đứng trên phiến đá cạnh đó. Lão lại báo cho Đào Cam và Phương Bộ đầu. “Dù đó là kẻ nào thì cũng vẫn hơn con quái vật nhớp nháp kia!” Mã Vinh lẩm bẩm. Y xem xét lại cây thương rồi mới bước lên trước. Ao tù này không quá rộng nhưng đoàn người cũng phải mất một lúc lâu mới vượt qua được. Họ phải dò dẫm từng phiến đá một, vài người đã ngã xuống nước. Tuy nhiên, nếu một người biết rõ cách bố trí các phiến thì có thể vượt qua ao trong chưa đầy một khắc. Khi lên đến bờ bên kia, Mã Vinh và Địch Công cúi người xuống. Địch Công rẽ đám cành cây hé ra một chút. Có một khoảng đất trống khá rộng, bao quanh là cây cao và những tảng đá lớn. Ở giữa có một tòa tiểu đình dạng tròn, xây bằng đá, dưới một cây tuyết tùng lớn. Các cửa sổ của tòa tiểu đình đều đóng nhưng cửa chính lại hé mở. Địch Công đợi đến khi các Bộ khoái đã qua sông hết, ông hô lớn, “Bao vây tòa tiểu đình!” Vừa nói ông vừa tiến lên trước, chạy thẳng đến chỗ tòa tiểu đình và đạp tung cửa. Hai con dơi lớn vỗ cánh bay nhào ra.
Địch Công quay lại. Các Bộ khoái tỏa ra và lùng tìm trong các bụi rậm. Địch Công lắc đầu. “Ở đây không có người, Phương Bộ đầu và các Bộ khoái mau tìm kiếm khắp bãi đất trống này!” Rồi ông lại bước vào trong. Mã Vinh và hai trợ thủ kia cũng đi theo. Mã Vinh mở tung các cửa sổ. Trong thứ ánh sáng lờ mờ và có màu lục nhạt, Địch Công thấy bên trong tòa tiểu đình chỉ có mỗi chiếc bàn đá ở chính giữa và chiếc ghế hoa cương dựa lưng vào tường. Tất cả đều phủ một lớp bụi dày và mốc. Trên bàn có một chiếc tráp, dài rộng đều tầm một thước. Địch Công cúi nhìn. Ông dùng tay áo lau lớp bụi. Chiếc tráp được làm từ ngọc lục bảo, chạm trổ rồng mây rất đẹp mắt. Địch Công cẩn thận mở nắp tráp, lấy ra một cuộn nhỏ bọc trong gấm thêu kim tuyến đã bạc màu. Vừa đưa lên cho các bằng hữu xem, ông trang trọng nói, “Đây chính là bản chúc thư của Nghê đại nhân!” Địch Công từ tốn mở ra. Ông trải cuộn giấy ra và đọc: Đây là lời trăn trối và di chúc của Nghê Thọ Kiền, một viên quan Bộ Lại, nguyên Tuần phủ ba tỉnh miền Đông. Thưa bậc kỳ nhân và vị đồng liêu, người đã giải được bí ẩn trong bức tranh của Nghê mỗ và vào được trung tâm của mê cung, Nghê mỗ xin cúi đầu kính cẩn! Người ta gieo trồng vào tiết xuân và gặt hái khi thu về. Khi ánh tà dương đã sắp tắt trong những ngày tháng xế bóng này, người ta chỉ nhớ lại và xét lại nhiều chuyện đã làm được như những người khác sẽ bị xét lại ở kiếp sau.
Ta vốn nghĩ mình đã công thành danh toại. Rồi bỗng chỉ thấy mình thất bại thê thảm. Ta đã dốc lòng trung hưng triều đình và không thể dạy dỗ được trưởng tử của mình là Nghê Kỳ. Nghê Kỳ là người tâm tính độc ác và tham lam vô độ. Từ khi thấy trước rằng sau khi mình tạ thế, đứa con này không sớm thì muộn sẽ đi vào tận diệt, Nghê mỗ tái hôn để hoàn thành trách nhiệm với tổ tông nhà họ Nghê và để đảm bảo gia tộc họ Nghê không bị tuyệt tự nếu Nghê Kỳ có chết trong chốn lao tù hoặc trên pháp trường. Hoàng Thiên phù hộ cho lần hôn ước thứ hai khi có được nhị tử Nghê San, người mà Nghê mỗ vô cùng kỳ vọng. Nhiệm vụ của Nghê mỗ là giúp cho Nghê San tiếp tục thành đạt sau khi mình qua đời. Nếu chia đều tài sản cho cả Nghê Kỳ và Nghê San, ta sẽ đẩy Nghê San vào chỗ nguy hiểm. Nên khi nằm trên giường bệnh, ta giả như mình đã để lại tất cả cho Nghê Kỳ. Nhưng tại đây, ta viết lại ý định thực sự của mình, có thiêm danh và dấu triện, để tuyên bố chúc thư của mình. Nếu Nghê Kỳ biết cải tà quy chính thì nó và Nghê San mỗi người sẽ nhận được một nửa tài sản. Nếu Nghê Kỳ phạm tội, tất cả tài sản sẽ thuộc về Nghê San. Nghê mỗ giấu một bản chúc thư viết tay trong cuộn tranh, cố ý để Nghê Kỳ phát hiện ra. Nếu tiểu tử trung thực làm theo di huấn đó, mọi chuyện sẽ tốt đẹp và Hoàng Thiên sẽ phù hộ cho gia tộc họ Nghê. Nếu Nghê Kỳ nổi ác tâm mà hủy bản chúc thư đó vì nghĩ rằng bức tranh đó nói lên một bí mật của chúc thư và trao bức tranh lại cho nhị phu nhân của ta, một nữ nhân trung trinh, thì khi đến tay ngài, vị đồng liêu sáng suốt, xin hãy tìm ra ẩn ý trong bức tranh và tìm ra văn thư này.
Nghê mỗ khẩn xin Hoàng Thiên ban ơn, để khi ngài đọc được văn thư này thì bàn tay Nghê Kỳ vẫn chưa vấy máu. Tuy nhiên, nếu nó phạm phải những tội lỗi xấu xa, ta xin ngài hãy chuyến những lời biện hộ đến cho vị thượng quan nào có đủ thẩm quyền. Xin Hoàng Thiên phù hộ cho ngài, vị đồng liêu uyên bác và xin nhủ lòng thương xót cho nhà họ Nghê! Nghê Thọ Kiền. “Bức thư này xác nhận cho mọi chi tiết chúng ta tìm ra!” Hồng Sư gia quả quyết. Địch Công lơ đãng gật đầu. Ông mải mê đọc một văn thư kèm theo, một tờ giấy mềm mại có trang trí được cuộn cùng trong cuộn giấy. Rồi ông đọc to nội dung: Nghê Thọ Kiền, chưa từng một lần khẩn xin cho mục đích của mình hoặc cho bản thân mình, giờ đây sau khi qua đời, lại cúi mình khẩn xin một ơn huệ, trong phạm vi của quốc pháp, cho trưởng nam của mình là Nghê Kỳ, kẻ đã phạm tội do sự bất tài của người cha luôn yêu thương nó, dù cho có bao nhiêu lỗi lầm. Tòa tiểu đình mờ ảo chìm trong yên lặng. Những âm thanh duy nhất chỉ là tiếng các Bộ khoái bên ngoài. Địch Công từ tốn cuộn văn thư lại. Trong giọng nói điềm tĩnh của ông vẫn dạt dào cảm khái, “Nghê đại nhân quả là bậc đại hiền đáng kính phục!” Đào Cam lấy móng tay cạo lên mặt bàn đá rồi thốt lên, “Có hình được chạm khắc ở đây!” Y rút dao và cạo lớp bụi đóng kín. Hồng Sư gia và Mã Vinh cùng phụ một tay. Chẳng mấy chốc, mặt bàn đã lộ rõ.
Địch Công cúi xuống. “Đây chính là bản đồ của mê cung.” Ông nói. “Xem này, hình dạng con đường quanh co tạo nên bốn chữ ‘Hư Không lâu các’. Cũng chính là lời đề chúng ta đã gặp trên bức tranh phong cảnh! Đây là ý chủ đạo trong mọi ý nghĩ của Nghê đại nhân sau khi rời khỏi chốn quan trường. Hư không!” 👁 Bản đồ mê cung “Con đường tắt cũng được biểu thị ở đây!” Đào Cam vồn vã. “Vị trí của những cây thông là những dấu chấm!” Địch Công lại nhìn xuống bản đồ. Ông lướt ngón tay dò xét từng đường nét. “Thật là một mê cung tài tình!” Ông thốt lên. “Xem này, nếu một người vào bằng lối chính và luôn rẽ phải ở mọi ngã ba, người đó sẽ đến lối ra sau khi đi qua toàn bộ mê cung. Và ngược lại, nếu một người vào bằng lối ra, cũng ra ngoài sau khi đi qua cả mê cung nếu luôn rẽ trái. Nhưng người đó phải biết được lối đi tắt, nếu không sẽ chẳng bao giờ tìm ra tòa tiểu đình bí ẩn!” “Đại nhân, chúng ta phải xin phép Nghê phu nhân cho dọn dẹp mê cung này”, Sư gia nhắc. “Rồi nơi đây sẽ thành thắng cảnh của huyện, giống như ngôi chùa bên hồ sen vậy!” Đúng lúc đó, Phương Bộ đầu bước vào. “Bẩm đại nhân, dù người ở đây là ai thì cũng đã bỏ đi trước khi chúng ta đến!” Ông bẩm báo. “Chúng thuộc hạ đã lục khắp đám cỏ rậm nhưng không tìm được gì.” “Cứ cho người của ngươi đi khám xét từng gốc cây và từng cành cây”, Địch Công ra lệnh. “Kẻ rình mò lạ mặt kia có thể vẫn lẩn khuất đâu đây!”
Bộ đầu đi khỏi, Địch Công tò mò nhìn Đào Cam. Y đang cúi xuống chiếc ghế hoa cương và chăm chú quan sát lớp bụi trên đó. Y lắc đầu nói, “Đại nhân, theo hiểu biết của thuộc hạ thì dấu vết màu đen này trông giống vết máu đã khô!” Nỗi sợ đã tràn ngập trong lòng Địch Công. Ông vội bước đến và lấy ngón tay miết lên dấu vết mà Đào Cam chỉ ra. Ông đến bên cửa sổ và quan sát bàn tay mình. Ông thấy những đốm đỏ thẫm. Quay lại phía Mã Vinh, Địch Công ra lệnh, “Mau xem bên dưới ghế!” Mã Vinh khua ngọn thương xuống khoảng không tối mịt bên dưới. Một con cóc lớn nhảy vọt ra. Y quỳ gối, nhìn phía dưới ghế và báo, “Không có gì ngoài mạng nhện và bụi bặm.” Trong lúc đó, Đào Cam ngó ra sau ghế đá dài rộng. Y quay lại với khuôn mặt tái mét, giọng run lên vì sợ, “Có một thi thể phía sau ghế đá!” Mã Vinh nhảy lên trên chiếc ghế. Họ kéo lên một thi thể nữ nhân không còn nguyên vẹn. Người này lõa thể và phủ đầy bùn và máu khô. Đầu người ấy không còn, trên cổ chỉ còn lại mẩu xương. Họ đặt thi thể kinh khủng ấy lên ghế. Mã Vinh tháo bỏ khăn quàng và phủ lên nửa thân dưới của cái xác. Rồi y lùi lại, mắt hổ mở to với nỗi kinh khiếp. Địch Công cúi người bên phần thi thể trước kia hẳn đã từng là một cô nương xinh đẹp. Ông quan sát vết dao nham nhở bên dưới ngực trái và những vết sẹo chưa lành trên cánh tay. Ông nhẹ nhàng lật úp cái xác. Vai và hông còn hằn lên những lằn roi mỏng.
Ông đứng thẳng người, hai mắt nảy lửa vì giận dữ. Giọng ông căng thẳng, “Nữ nhân này mới bị giết ở đây hôm qua. Thi thể đã cứng, nhưng chưa hề thối rữa.” “Sao nàng ta lại đến được đây?” Mã Vinh thất kinh hỏi. “Nàng ta chắc chắn đã khỏa thân khi đi qua mê cung! Nhìn xem, gai đã cào rách vế đùi, hai chân thì lấm bùn dưới ao. Chính nàng ta đã trượt chân trên một phiến đá và làm gãy cành cây khi cố níu mình đứng!” “Quan trọng là ai đưa nàng ta đến đây?” Địch Công bực bội. “Gọi Phương Bộ đầu đi!” Phương Chính bước vào, Địch Công ra lệnh, “Phương Bộ đầu, hãy dùng áo choàng của ngươi bọc thi thể này lại. Lệnh cho các Bộ khoái chặt cành cây làm cáng!” Bộ đầu bỏ áo choàng ra và cúi xuống bên thi thể đó. Bỗng ông ta kêu toáng lên, cặp mắt như lồi ra khi nhìn vào thi thể kia, giọng nghẹn lại, “Đây chính là Bạch Lan!” Mọi người cùng sững sờ. Địch Công khoát tay và ôn tồn hỏi, “Ngươi chắc chứ?” “Có lần, hồi nó mới lên bảy tuổi”, Bộ đầu khóc nấc lên, “nó ngã vào ấm nước sôi và bị bỏng ở tay trái. Đại nhân nghĩ thuộc hạ không nhớ rõ vết sẹo đó sao?” Ông ta chỉ vào vết sẹo trắng làm xấu đi vẻ đẹp của cánh tay thon gọn. Rồi ông ta đổ sụp xuống thi thể và khóc rống lên như thể tim gan đã vỡ nát. Địch Công khoanh tay. Cặp chân mày rậm nhíu lại khi ông chìm trong suy tư. Bỗng ông hỏi Hồng Sư gia, “Lão có tìm ra nơi ở của Lý phu nhân không?”
Sư gia lặng lẽ chỉ vào Phương Bộ đầu, lúc này vẫn ủ rũ bên xác chết. Khẽ đặt tay lên vai Phương Bộ đầu, Địch Công căng thẳng hỏi, “Lý phu nhân sống ở đâu?” Phương Bộ đầu không ngẩng lên, ông ta đáp, “Sáng nay, thuộc hạ đã sai Huyền Lan đi tìm và đã tìm ra.” Địch Công ngoắt lại như một tia chớp, ông nắm tay áo Mã Vinh kéo lại gần mình và thì thầm đôi điều. Mã Vinh vội lao ra khỏi tòa tiểu đình mà không nói một lời. HỒI 24 Mã Vinh một mình cứu Huyền Lan Phiên bang nghìn quân đành lui bước Sáng hôm đó, Huyền Lan rời khỏi nha huyện và lên đường tìm nơi ở của Lý phu nhân như thân phụ nàng đã ra lệnh. Nàng vội vã đi dọc theo con phố chính dẫn đến cổng thành phía Đông. Từ nhiều ngày qua, nàng vẫn lo lắng về tỉ tỉ của mình. Nàng hi vọng tản bộ sẽ giúp suy nghĩ của mình thông suốt hơn. Nàng loanh quanh gần nửa canh giờ ở những quầy hàng của đám người bán hàng rong tại ngã tư đường, rồi lại vào khu chợ trung tâm gần Đông môn. Thân phụ nàng đã dặn Lý phu nhân là một họa sư, nên Huyền Lan đi vào cửa hiệu bán giấy vẽ và bút lông đầu tiên nàng trông thấy. Chủ hiệu biết Lý phu nhân. Ông ta nói suốt nhiều năm qua Lý phu nhân là một khách hàng quen thuộc của hiệu. Bà vẫn còn sống, ông ta đoán bà ấy tầm năm mươi tuổi. Chủ hiệu còn nói thêm rằng Huyền Lan không nên đến nhà Lý phu nhân để tránh phiền toái, vì trong một tháng trở lại đây, bà ấy không nhận thêm bất cứ nữ học trò nào. Huyền Lan đáp nàng chỉ muốn gặp Lý phu nhân để hỏi về một người họ hàng xa. Chủ hiệu chỉ cho nàng tìm nhà bà ta. Chỉ cách đó vài con phố.
Huyền Lan nghĩ giờ đây nàng có thể trở về huyện nha và báo cho thân phụ. Nhưng trời vẫn còn nắng ấm, nàng không thích về sớm. Nàng quyết định đến địa điểm được chỉ dẫn và quan sát căn nhà của Lý phu nhân. Căn nhà nằm ở một khu vực của tầng lớp trung lưu, yên tĩnh. Vừa nhìn vào căn nhà khang trang với những cánh cửa chính sơn đen tinh xảo, Huyền Lan nghĩ có thể đây là nơi mà các chủ hiệu đã nghỉ ngơi hay lui tới. Định quay ra phố, nàng trông thấy chữ “Lý” trên cánh cổng của một căn nhà xinh đẹp. Huyền Lan đứng giữa cửa và gõ chiếc vòng đồng, nàng không nén nổi ý muốn được vào trong. Không có ai trả lời. Trí tò mò trong lòng thiếu nữ lại càng được nhóm lên và khiến nàng kiên quyết phải tìm cách nhòm vào trong. Nàng gõ cửa lần nữa, mạnh hết sức có thể. Rồi nàng áp tai lên cửa. Nàng nghe thoáng tiếng chân người chạy qua lại. Nàng đang gõ lần nữa thì cánh cửa mở ra. Một nữ nhân trung niên, ăn vận dung dị đứng trước cửa, trên tay bà ta là chiếc gậy có một đầu bọc bạc. Bà ta nhìn Huyền Lan từ đầu đến chân rồi lạnh lùng hỏi, “Tiểu cô nương, sao lại gõ cửa nhà ta?” Huyền Lan nhìn lối phục sức và cách cư xử thì đoán ngay bà ta chính là Lý phu nhân. Nàng cúi đầu chào và kính cẩn thưa, “Tiểu nữ là Huyền Lan, con gái của ông thợ rèn Phương Chính. Tiểu nữ đang tìm một họa sư có thể chiếu cố mà chỉ giáo cho tiểu nữ học vẽ, và một chủ hiệu bán giấy đã chỉ tiểu nữ đến đây. Tiểu nữ bạo dạn tìm đến để tỏ lòng kính trọng với phu nhân, dù chủ hiệu giấy có nói phu nhân không còn nhận thêm học trò nữa.”
Mệnh phụ kia trầm tĩnh nhìn Huyền Lan. Bỗng bà ta mỉm cười bảo, “Quả là ta không nhận thêm học trò nữa. Nhưng vì cô nương bất chấp tất cả để đến tìm ta, nên xin mời cô nương vào dùng trà!” Huyền Lan cúi đầu lần nữa. Nàng đi theo Lý phu nhân, bà ta tập tễnh đi qua một hoa viên nhỏ nhưng trang nhã, đến một nơi giống như đại sảnh của tư gia. Trong khi Lý phu nhân đi lấy nước sôi,Huyền Lan nhìn quanh, thầm ngưỡng mộ quang cảnh thanh lịch chốn này. Căn phòng không rộng nhưng vô cùng sạch sẽ và được bài trí rất tinh tế. Chiếc ghế dài nàng ngồi làm từ hồng mộc, phủ những chiếc đệm bằng lụa thêu. Trên chiếc đại án sát tường sau, một làn khói hương mỏng cuộn lên từ chiếc lư hương cổ bằng đồng. Bên trên đó là một bức tranh cuộn dài và hẹp, vẽ chim muông hoa lá. Cửa sổ treo mành có dán giấy trắng tinh. Lý phu nhân quay lại với chiếc ấm bằng đồng. Bà ta rót nước sôi vào một bình trà bằng sứ có nhiều hoa văn tinh xảo và ngồi xuống nửa ghế bên kia. Qua chén trà thơm phức, hai người lịch sự trò chuyện về những điều thường nhật. Huyền Lan thấy dù chân có tập tễnh nhưng Lý phu nhân chắc chắn là người đàn bà đẹp khi còn trẻ. Khuôn mặt bà ta vẫn cân đối dù những đường nét đã đậm hơn và cặp chân mày dày hơn so với tiêu chuẩn vẻ đẹp của nữ nhân. Rõ ràng bà ta rất thích trò chuyện với nàng. Huyền Lan cảm thấy trong lòng khoan khoái. Điều nàng thấy ấn tượng và tò mò nhất là hình như trong nhà không có gia nô. Khi nàng hỏi về chuyện này thì Lý phu nhân đáp nhanh, “Tư gia nhỏ hẹp, ta chỉ có một bà cụ để giúp làm việc nặng. Ta có chút khác người trong chuyện này, ta không ưa đám đông nô tài vây quanh mình mọi lúc. Ít ngày trước, bà ấy bị ốm, ta đưa bà ấy về nhà với thái công. Thái công là một ông già bán hàng rong sống ở góc phố đằng kia. Những lúc thư nhàn, ông ấy đến chăm sóc hoa viên cho ta.”
Huyền Lan vội xin thứ lỗi vì sự xâm phạm của mình, điều này có vẻ phiền toái hơn do người hầu của Lý phu nhân đều không còn. Nàng đứng dậy xin phép ra về. Lý phu nhân vội phản đối. Bà nói mình rất vui khi gặp vị tiểu cô nương như vậy và vội rót thêm trà. Sau đó, bà đưa Huyền Lan ra một chái nhà phụ. Chiếm gần như trọn diện tích là một án thư lớn có sơn đỏ. Những kệ sách dựa lưng vào tường, trên đó có đến năm, sáu ống đựng bút lông với đủ mọi kiểu dáng và kích thước, những bình đựng các loại phẩm màu. Từng cuộn giấy và lụa được xếp trong một chiếc bình sứ lớn kê trên sàn. Cửa sổ mở ra một khu vườn nhỏ có đủ các loại cây đang trổ hoa. Lý phu nhân bảo Huyền Lan ngồi xuống chiếc ghế đẩu bên cạnh án thư và cho nàng xem tranh. Trong lúc Lý phu nhân mở lần lượt từng cuộn tranh, một người không biết nhiều về hội họa như Huyền Lan cũng có thể nhận thấy nữ chủ nhân là một nghệ sĩ tài ba. Bà chỉ vẽ hoa, trái cây và chim muông nhưng tất cả được vẽ giống y như thật và phối màu rất công phu. Huyền Lan vô cùng hổ thẹn trước vẻ ân cần của Lý phu nhân. Nàng tự hỏi mình có nên nói thật rằng nàng đến đây chỉ vì theo lệnh của huyện nha không. Rồi nàng nghĩ nàng không hề biết Địch Công có muốn giữ bí mật chuyện này hay không. Do đó nàng nghĩ mình tốt nhất nên tiếp tục sắm vai thật tốt và xin ra về ngay khi có cơ hội.
Khi Lý phu nhân cuộn các bức tranh lại, Huyền Lan đứng lên và nhìn ra cửa sổ. Nàng tình cờ nói về vài loại cây đã bị xéo nát. “Đó là do hôm trước có mấy kẻ thô mãng từ huyện nha đến tìm kiếm quanh đây!” Lý phu nhân cay nghiệt đáp. Giọng bà đầy nỗi căm tức đến nỗi Huyền Lan quay lại và sửng sốt nhìn bà. Nhưng vẻ mặt Lý phu nhân vẫn điềm tĩnh như từ đầu đến giờ. Huyền Lan cúi đầu và lễ độ nói những lời cảm tạ. Lý phu nhân vươn ra ngoài cửa sổ và nhìn lên mặt trời. “Chà”, bà thốt lên, “ai dám nghĩ rằng trời đã quá trưa rồi! Giờ ta phải về chuẩn bị cơm nước. Thật ghét công việc đó làm sao! Cô nương còn rất trẻ, liệu có phiền không khi ta muốn nhờ cô nương đỡ ta một tay?” Huyền Lan không thể từ chối lời đề nghị này một cách thô thiển được. Cùng lúc đó, nàng nghĩ ít nhất mình cũng có thể chuẩn bị một bữa trưa tươm tất cho vị gia chủ nhân hậu này để chuộc lỗi một chút cho việc mình nói dối. Nàng vội đáp, “Tiểu nữ vô cùng vụng về trong mọi việc, nhưng cho phép tiểu nữ được được nhóm bếp giúp phu nhân!” Lý phu nhân ưng ý. Bà ta đưa Huyền Lan qua sân sau để đến nhà bếp. Nàng bỏ áo choàng và xắn ống tay lên. Rồi nàng nhóm lại bếp lửa còn đang đỏ hồng. Lý phu nhân ngồi trên chiếc ghế nhỏ và bắt đầu kể một câu chuyện dài về phu quân của mình, người đã qua đời đột ngột ngay sau ngày thành thân. Huyền Lan thấy một chiếc hộp bằng tre đựng mì. Nàng thái thêm hành và tỏi, một ít nấm khô từ xâu nấm treo ngoài cửa sổ.
Trong khi Lý phu nhân tiếp tục kể, Huyền Lan cho mỡ vào chảo và thái thêm rau và đậu, dùng một chiếc thìa sắt dài để xào. Đến đúng thời điểm, nàng bỏ mì vào chảo. Mùi thơm ngậy tràn ngập căn bếp. Lý phu nhân đi lấy bát, đũa và một đĩa rau ngâm giấm. Hai người ngồi xuống và cùng ăn. Huyền Lan ăn ngon miệng nhưng Lý phu nhân ăn rất ít. Bà buông bát xuống khi mới ăn hết một nửa. Bà đặt tay lên gối Huyền Lan và khen nàng nấu ăn ngon. Trong lúc Huyền Lan ngẩng lên khỏi bát mì xào, nàng ngạc nhiên khi ánh mắt Lý phu nhân bỗng khiến nàng lo lắng một cách lạ kỳ. Nàng tự bảo, thật lố lăng nếu tỏ ra ngượng nghịu trước mặt một nữ nhân khác. Nhưng không hiểu vì sao nàng cứ thấy không ổn. Nàng dè chừng mà không để lộ ra. Lý phu nhân đứng dậy. Bà ta quay lại với một chiếc bình và hai chén nhỏ. “Chúng ta hãy uống một chút rượu để dùng bữa ngon miệng hơn!” Bà ta mỉm cười nói. Huyền Lan quên ngay e thẹn. Nàng chưa bao giờ được nếm thử rượu. Thưởng rượu có vẻ là một việc đầy thú vị và quý phái. Nàng nhấp thử một ngụm. Thứ rượu thơm ngon này có tên là Hồng Hoa Sương, uống lạnh và mạnh hơn thứ rượu màu vàng thông thường, rượu thông thường sẽ được uống nóng. Sau khi Lý phu nhân rót đầy chén của nàng thêm vài lượt, Huyền Lan thấy trong lòng ngây ngất. Lý phu nhân giúp nàng mặc áo choàng và đưa nàng trở lại phòng khách. Bà đỡ Huyền Lan ngồi xuống cạnh mình trên tràng kỷ rồi tiếp tục câu chuyện về hôn sự buồn thảm kia.
Lý phu nhân vòng tay qua eo lưng Huyền Lan. Bà cho hay sau khi xuất giá thì nữ nhân có nhiều bất lợi. Nam nhân vốn thô lỗ và kém hiểu biết, không bao giờ có thể nói chuyện sâu sắc với họ như khi nói chuyện với người cùng giới. Huyền Lan nghĩ trong lời Lý phu nhân nói có nhiều ẩn ý. Nàng thấy tự hào khi vị phu nhân này lại tin tưởng mà chia sẻ quá nhiều với nàng. Lát sau, Lý phu nhân đứng lên. “Ta thật khiếm nhã!” Bà ta nói. “Ta đã bắt cô nương làm việc trong bếp mà không nghĩ cô cũng cần nghỉ ngơi! Cô chắc hẳn đã rất mệt. Tại sao cô không đi nghỉ một chút trong phòng ngủ của ta trong khi ta sẽ ngồi vẽ?” Huyền Lan lại nghĩ mình nên quay về. Nhưng thực sự nàng đã thấy mệt và hoa mắt, nàng thấy thật thú vị khi được ngắm nơi điểm trang của một vị quý phu nhân. Trong lúc nàng phản đối chiếu lệ, Lý phu nhân vẫn dẫn nàng vào một phòng phía sau. Phòng ngủ còn vượt quá hình dung của Huyền Lan. Hương thơm nhè nhẹ tỏa ra từ chiếc lư hương nhỏ như một chiếc bát treo trên trần. Bàn điểm trang bằng gỗ mun có đến hơn mười chiếc hộp nhỏ xinh xắn bằng sứ được sơn đỏ. Tràng kỷ rộng cũng bằng gỗ mun, được chạm khắc điêu luyện và khảm rất nhiều ngọc trai. Những tấm màn của giường ngủ đều bằng vải sa trắng với nhiều họa tiết được thêu bằng kim tuyến. Lý phu nhân kéo một tấm màn khác ra. Hai bậc đá hoa cương dẫn xuống một phòng tắm nhỏ. Bà ta quay lại bảo, “Tiểu cô nương, xin cứ tự nhiên! Ngay khi cô tỉnh dậy, chúng ta sẽ uống trà trong phòng vẽ!”
Lý phu nhân ra ngoài và đóng cửa lại. Huyền Lan cởi bỏ áo choàng và ngồi xuống chiếc ghế đẩu bên bàn điểm trang. Nàng nóng lòng xem xét mọi vật dụng trong các hộp điểm trang, các loại phấn và thuốc. Khi đã thỏa trí tò mò, nàng chuyển sang bốn chiếc hộp bọc da màu đỏ xếp chồng lên nhau bên cạnh tràng kỷ. Tất cả đều được sơn vàng với những đặc điểm của bốn mùa. Bên trong là y phục của Lý phu nhân, Huyền Lan không dám ngó vào. Nàng kéo tấm màn ra và bước vào phòng tắm. Bên cạnh chiếc bồn gỗ thấp có chiếc gầu nhỏ và trong góc nàng trông thấy những thùng gỗ lớn để lấy nước nóng hoặc lạnh. Cửa số dán giấy dầu mờ đục. Bóng những cây tre ngoài vườn in lên cửa sổ nên cửa sổ giống như một bức tranh thanh nhã bằng lá tre đang chuyển động. Huyền Lan mở thùng đựng nước ấm. Nước còn khá nóng. Những loại lá thơm còn nổi trên mặt nước. Nàng vội cởi bỏ y phục, múc vài gầu nước nóng vào trong chậu. Khi đang thêm nước lạnh vào, nàng bỗng nghe có tiếng người sau lưng. Nàng vội quay lại. Lý phu nhân đứng chống gậy bên cửa. Bà ta mỉm cười nói, “Đừng sợ, tiểu cô nương, chỉ có ta thôi! Ta nghĩ mình cũng nên đi chợp mắt một chút. Đi tắm trước sẽ rất dễ chịu, cô nương sẽ ngủ ngon hơn!” Vừa nói, Lý phu nhân vừa nhìn nàng bằng ánh mắt bất động lạ lùng. Bỗng Huyền Lan thấy vô cùng sợ hãi. Nàng vội cúi xuống nhặt y phục lên. Lý phu nhân bước đến, giật bộ đồ khỏi tay Huyền Lan. “Cô nương không đi tắm sao?” Giọng bà ta căng thẳng.
Huyền Lan bắt đầu cuống quýt. Lý phu nhân bất ngờ kéo nàng lại gần rồi mềm mỏng nói, “Cô nương không cần làm ra vẻ đoan trang! Cô nương đẹp lắm!” Nhận thấy có chuyện chẳng lành, nàng dùng hết sức đẩy nữ nhân kia ra. Lý phu nhân ngã ngửa ra sau. Khi đứng dậy được, hai mắt bà ta lóe sáng trên gương mặt méo mó. Trong lúc Huyền Lan đứng đó, run lên không biết phải làm sao, cây gậy của Lý phu nhân bỗng vung ra và đánh một gậy rất mạnh trúng một bên bắp vế trần của thiếu nữ. Cơn đau làm Huyền Lan quên cả sợ hãi. Nàng vội cúi xuống nhặt chiếc gầu nhỏ, định ném vào đầu Lý phu nhân. Nhưng nàng không biết Lý phu nhân sử dụng cây gậy rất giỏi. Trước khi những ngón tay Huyền Lan kịp chạm vào chiếc gầu, Lý phu nhân đã đánh một đòn trúng hông nàng, khiến nàng nhảy sang một bên và kêu lên đau đớn. Lý phu nhân phá lên cười. “Đừng có giở trò, cô nương ạ!” Mụ ta nhẹ nhàng nói. “Nhớ rằng với cây gậy này, ta có thể vừa đâm vừa đánh! Ngươi khó dạy hơn tỉ tỉ Bạch Lan của ngươi, nhưng rồi ngươi sẽ sớm biết cách cư xử!” Mụ già bất ngờ nhắc đến Bạch Lan khiến Huyền Lan quên cả đau. “Tỉ tỉ của ta ở đâu?” Nàng gào lên. “Ngươi muốn gặp nó không?” Mụ Lý hỏi bằng ánh mắt dâm dật ác độc. Mụ không đợi câu trả lời mà nhanh chóng quay lại phòng ngủ. Huyền Lan đứng đó, cứng đơ người vì sợ và lo lắng. Nàng nghe tiếng mụ Lý cười khúc khích phía sau tấm màn.
Rồi mụ ta kéo tấm màn sang bằng tay trái. Trên tay phải mụ là con dao dài và sắc. 👁 Lý phu nhân định sát hại Huyền Lan “Xem đây!” Mụ đắc thắng chỉ vào bàn điểm trang. Huyền Lan kêu lên xé lòng trong nỗi khiếp đảm. Trước tấm gương là thủ cấp của Bạch Lan. Mụ Lý vội bước xuống phòng tắm và lướt ngón tay qua lưỡi dao. “Ngươi không thích ta nhỉ, con ranh ngu ngốc!” Mụ rít lên. “Bởi vậy, ta sẽ giết ngươi như giết tỉ tỉ của ngươi!” Huyền Lan quay lại, kêu cứu bằng tất cả sức lực có thể. Nàng định phá nát tấm rèm cửa sổ để thoát ra vườn. Nàng rúm người lại khi trông thấy một bóng đen to lớn phủ lên cửa sổ. Cửa sổ bị giật tung từ khung và một người to lớn nhảy vào. Người đó nhìn qua hai người trong phòng rồi lao đến chỗ Lý phu nhân. Người ấy tránh được nhát dao, túm lấy cổ tay mụ đàn bà và vặn xoắn. Con dao rơi ra sàn. Trong nháy mắt, người kia đã trói tay mụ Lý ra sau bằng bằng dải thắt lưng. “Mã Vinh!” Huyền Lan kêu lên, “Mụ ta đã giết tỉ tỉ rồi!” “Cô nương mau mặc đồ vào!” Y gắt lên. “Ta vốn đã biết mụ ta giết Bạch Lan!” Huyền Lan thấy mặt đỏ bừng và nóng ran. Trong khi Mã Vinh lôi mụ Lý trở lại phòng ngủ, Huyền Lan vội mặc đồ. Khi nàng vào phòng ngủ, Mã Vinh đã trói chặt chân tay mụ già và đặt lên tràng kỷ. Vừa đặt thủ cấp của Bạch Lan vào trong chiếc giỏ, y nói, “Chạy ra mở cổng đi! Các Bộ khoái sẽ đến ngay, ta phải lên ngựa đi trước.”
“Đồ mãng phu, ta đâu nhận lệnh của huynh!” Huyền Lan tức tối. Mã Vinh cười lớn. Nàng vội lao ra khỏi phòng. * * * Chạng vạng tối, Địch Công và các trợ thủ cùng ngồi lại trong thư phòng. Ngô Phong bước vào chào Địch Công. “Thi thể Bạch Lan đã được đưa đến túc xá của sai nha”, giọng y khàn khàn. “Đầu nàng ấy cũng đã được ghép vào thân thể. Vãn sinh đã cho làm một cỗ quan tài bằng gỗ cứng.” “Phương Bộ đầu sao rồi?” Địch Công hỏi. “Bẩm đại nhân, lúc này ông ấy đã biết mọi chuyện xảy ra với Bạch Lan”, Ngô Phong đáp, “ông ấy cũng đã bình tĩnh lại. Huyền Lan đang ở bên ông ấy.” Ngô Phong dập đầu rồi lui gót. “Tay họa sư này thật vô cùng điềm tĩnh!” Địch Công nói. “Thuộc hạ không hiểu gã này cứ quanh quẩn ở đây làm gì!” Mã Vinh cáu kỉnh. “Ta biết anh ta cảm thấy mình có phần nào trách nhiệm đối với số phận bi đát của Bạch Lan”, Địch Công nhận định. “Cô nương tội nghiệp đó chắc chắn đã sống trong địa ngục khi bị mụ Lý bắt giữ. Hãy xem những dấu vết trên thân thể cô ấy.” “Lão phu vẫn không thể hiểu”, Hồng Sư gia nói, “sao đại nhân khám phá ra trong mê cung có mối liên quan giữa Bạch Lan và mụ Lý kia.” Địch Công tựa người ra sau, chậm rãi vuốt râu rồi đáp, “Nghê đại nhân giữ bí mật về con đường tắt ấy cho riêng mình ông. Ngay cả Nghê Kỳ hay nhị phu nhân cũng chưa bao giờ được vào trong mê cung. Chỉ có một người có những cơ hội đặc biệt có thể khám phá ra nó.”
“Chúng ta đều biết Lý thị thường thưởng trà trong tòa tiểu đình giữa vườn cùng Nghê đại nhân và Nghê Kỳ, đàm luận về hội họa. Ta xem như mụ Lý kia đã từng ngạc nhiên trước Nghê đại nhân khi ông ấy vẽ bức tranh phong cảnh. Mụ Lý có con mắt nhà nghề của họa sư, không khó để mụ ta nhận ra đó không phải là cảnh vật thông thường. Vì cũng đã quen với địa thế ở lối vào mê cung, mụ ta chắc chắn đã đoán ra ý nghĩa bức tranh mà Nghê đại nhân không hề hay biết.” “Có thể mụ ta trông thấy bức tranh ở giai đoạn đầu tiên”, Đào Cam nhận định, “khi mà chỉ có những cây thông được biểu thị trong đó. Nghê đại nhân về sau mới vẽ nốt phần còn lại.” “Vì mụ Lý có hứng thú bệnh hoạn đối với những cô nương thanh tú”, ông nói tiếp, “nên mụ ta không nói ra khám phá của mình về bức tranh cho bất cứ ai. Mụ ta nghĩ nơi đó có thể sẽ hữu dụng khi đến thời điểm mụ ta cần!” “Bằng cách nào đó, mụ ta đã dụ Bạch Lan đến nhà mình. Trưởng nữ của Phương Chính là cô gái mềm mỏng, yếu đuối, mụ Lý chắc chắn đã thấy rằng mình có thể dễ dàng khiến nàng ấy khuất phục. Mụ ta giam Bạch Lan trong nhà trong nhiều ngày. Chuyện cô nương ấy trốn ra ngôi chùa hoang đã khiến mụ ta khó chịu. Mụ ta đưa Bạch Lan đến trang viên ở ngoại thành và nhốt nàng trong căn phòng có cửa sổ bằng lưới sắt. Do đó, khi các Bộ khoái tìm kiếm khu phía Đông thành và khám xét cả nhà của mụ Lý, họ không tìm thấy Bạch Lan. Tuy nhiên, chuyện đó lại khiến mụ Lý đâm hoảng sợ. Mụ quyết định sát hại Bạch Lan. Tòa tiểu đình bí mật của Nghê đại nhân là nơi kín đáo nhất để tội ác diễn ra.”
“Nếu sáng hôm đó chúng ta rời khỏi huyện nha sớm hơn tầm nửa canh giờ khi đến thăm trang viên đó lần đầu tiên”, Đào Cam nói, “thì đã có thể ngăn được tội ác đó! Mụ Lý chắc hẳn chỉ bỏ đi ngay trước khi chúng ta đến!” “Số mệnh đã quyết định để đúng buổi sáng hôm đó nhị phu nhân đến gặp ta”, Địch Công nghiêm giọng. “Sau đó, khi xem xét lối vào mê cung, ta trông thấy dấu chân của mụ Lý hoặc Bạch Lan. Ta đã không nói về dấu chân đó tại thời điểm ấy, vì khi ta đứng đó nhìn vào mê cung, nỗi kinh sợ khôn tả đã xâm chiếm ta. Linh hồn của cô nương tội nghiệp ấy vẫn còn lởn vởn quanh ta. Cô nương ấy bị sát hại tàn nhẫn chỉ khoảng nửa canh giờ trước đó. Ta cũng nghĩ mình như đã trông thấy hồn ma của Nghê đại nhân ra hiệu cho ta từ trong bóng tối…” Giọng Địch Công lạc đi. Ông run lên khi nhớ lại những thời khắc kinh hãi đó. Tất cả cùng lặng yên một lúc. Rồi Địch Công lấy lại tinh thần và nói bằng giọng hoạt bát, “Ôi, may sao Mã Vinh đã đến kịp lúc để ngăn vụ giết người tàn độc thứ hai. Giờ chúng ta hãy đi ăn bữa tối. Sau đó, các ngươi nên nghỉ vài canh giờ. Chúng ta đều biết có thể sắp có một đêm mất ngủ. Thật khó mà đoán được đám người Duy Ngô Nhĩ sẽ giở trò gì!” Chiều hôm đó, Kiều Thái đã bố trí canh phòng cẩn mật khắp huyện. Y đã cắt cử những binh sĩ giỏi nhất ở gần thủy môn và chia số còn lại ra các cổng thành trong huyện. Theo lệnh y, các phường chính đã cảnh báo dân chúng về cuộc tấn công của phiến quân tối hôm đó vào huyện.
Những người có sức khỏe đều mải mê chuẩn bị đá lớn và củi khô trên tường thành, chế tạo những ngọn giáo bằng tre và tên bịt sắt. Gần hai canh giờ trước nửa đêm, tất cả đã có mặt trên tường thành, mỗi vị quan binh chỉ huy năm mươi người. Hai binh sĩ được cử đến Tháp Trống. Ngay khi quân Duy Ngô Nhĩ tiến vào con sông, họ sẽ dùng gậy gỗ lớn đánh trống cảnh báo. Tiếng trống sẽ là báo hiệu để thắp đuốc trên tường thành. Nếu phiến quân tìm cách leo lên tường, chúng sẽ đụng phải chướng ngại là đá nặng và mồi lửa. Địch Công ăn tối ở tư thất. Rồi ông nằm trên tràng kỷ trong thư phòng mà ngủ liền mấy canh giờ. Nửa canh giờ trước nửa đêm, Mã Vinh giáp trụ đầy đủ, đến đánh thức ông. Địch Công mặc áo giáp mỏng bên dưới trường bào và cầm thanh trường kiếm tổ truyền treo trên tường bên cạnh những kệ sách. Đội mũ quan lên, ông theo Mã Vinh ra ngoài. Hai người phóng ngựa đến thủy môn. Kiều Thái đang đợi họ. Y cho hay Hồng Sư gia và Đào Cam cùng bốn binh sĩ đã được cử đến vọng lâu của Tiền gia trang. Họ sẽ không để cho kẻ nào đốt lửa hiệu. Địch Công gật đầu và leo lên từng bậc đá, lên tới đỉnh thủy môn. Trên lỗ châu mai, một binh sĩ vạm vỡ, cao lớn không kém gì Mã Vinh, đứng nghiêm chờ lệnh. Anh ta vác cây sào dài có treo cờ vàng. Địch Công đứng vào lỗ châu mai. Bên phải ông là một binh sĩ vác cờ, bên trái là Mã Vinh giương cờ hiệu của Địch Công. 👁
Địch Công chỉ huy nghênh địch ở thủy môn Địch Công thấy đây là lần đầu tiên mình chịu trách nhiệm bảo vệ cho biên cương Đại Đường, chống lại dị tộc xâm lược. Nhìn lên lá cờ vàng phấp phới trong gió, ông thấy niềm tự hào sâu sắc dâng lên trong lồng ngực. Ông nắm chắc kiếm trong tay, nhìn qua vùng đồng bằng tối đen bên kia. Gần đến nửa đêm, Địch Công chỉ về phía đường chân trời. Phía xa lóe lên ánh lửa. Quân Duy Ngô Nhĩ chuẩn bị tiến công. Những ánh lửa dần tiến lại gần, rồi đứng yên một chỗ. Kỵ binh của Duy Ngô Nhĩ đã dừng ngựa, đợi lửa hiệu ở vọng lâu. Ba người nhóm Địch Công đứng đó lặng lẽ hơn nửa canh giờ. Rồi những ánh lửa bỗng lóe lên trên con sông. Chúng nhỏ dần và rồi theo nhau biến mất vào bóng đêm. Chờ đợi trong vô vọng mà không thấy lửa hiệu, đám người Duy Ngô Nhĩ thúc ngựa quay về bộ lạc. HỒI 25 Án kết thúc, công đạo viên thành Còn day dứt, Địch Công dấn bước Hôm sau, Địch Công xét xử Lý thị trong phiên thăng đường buổi sáng. Mụ ta đã thú nhận toàn bộ tội lỗi. Trước khi Nghê Thọ Kiền qua đời không lâu, mụ ta từng thưởng trà cùng Nghê phu nhân trong đình viện, đợi Nghê đại nhân đến. Lý thị đã nhìn qua một số bức tranh của ông ta, phát hiện ra bức phác họa của một tranh phong cảnh. Mụ ta nhìn các ghi chú thì biết Nghê đại nhân đã đưa vào bức tranh một địa đồ chỉ dẫn đi tới con đường tắt qua mê cung. Lý thị vô cùng thích thú trước nhị phu nhân, nhưng chừng nào Nghê đại nhân còn sống, mụ ta không dám bộc lộ dâm tính của mình với nàng. Sau tang lễ của Nghê đại nhân, Lý thị đã đến trang viên ngoại thành nhưng chỉ tìm thấy vợ chồng lão môn đinh ở đó;họ không biết Nghê phu nhân đã đi đâu sau khi Nghê Kỳ đuổi bà ấy đi. Lý thị đã đi dò hỏi khắp vùng thôn dã, nhưng Nghê phu nhân đã dặn các nông phu không nói cho bất cứ ai nơi bà và nhi tử đang trốn.
Sau đó, tầm một tháng trước đây, Lý thị đã trở lại trang viên cũ kia khi tình cờ Nghê phu nhân xuất hiện quanh đó. Khi mụ ta phát hiện ra hai thi thể vợ chồng lão môn đinh, mụ ta cũng tìm ra hai đoạn đường đầu tiên của con đường tắt. Mụ thấy có nhiều dữ kiện trong bức tranh phong cảnh đều chính xác, trước đó mụ đã cẩn thận ghi chép lại những dữ kiện ấy. Lý thị gặp Bạch Lan đang đi chợ và thuyết phục nàng cùng mụ về nhà. Vừa đến nhà, mụ ta lập tức dọa nạt cô nương yếu ớt đó và giam giữ nàng trong nhà để thỏa mãn thú tính. Mụ ta bắt Bạch Lan làm mọi việc trong nhà, dùng gậy đánh đập nàng bất cứ khi nào muốn. Khi Lý thị phát hiện ra Bạch Lan lẻn ra ngoài để đến ngôi chùa hoang và gặp một người lạ mặt, mụ ta nổi cơn cuồng nộ. Mụ lôi cô nương yếu đuối đó đến một nhà kho trống, nơi ấy tường dày đến nỗi không có âm thanh nào lọt qua. Lý thị lột quần áo của nàng và trói tay nàng vào cột. Rồi Lý thị bắt đầu chất vấn nàng, hỏi đi hỏi lại rằng có phải Bạch Lan trốn ra ngoài để gặp người lạ hay không? Lần nào cô nương cũng chối cãi. Lý thị đánh đập nàng tàn nhẫn bằng một cây roi mây mảnh, luôn buông ra những lời đe dọa khủng khiếp. Quằn quại đau đớn dưới những lằn roi ác nghiệt, Bạch Lan chỉ còn biết không ngừng kêu khóc van xin. Như vậy lại càng khiến Lý thị nổi xung. Mụ dùng hết sức vụt roi mây xuống thân thể trần trụi của cô nương đáng thương cho đến khi tay mụ mỏi rã. Đến lúc đó, Bạch Lan gần như đã mất trí vì đau đớn và sợ hãi, nhưng nàng vẫn một mực nói rằng mình vô tội. 👁
Lý phu nhân dùng roi đánh Bạch Lan Nhưng Lý thị sợ rằng bí mật về Bạch Lan sẽ bị lộ ra ngoài. Sáng hôm sau, mụ ta hóa trang cho Bạch Lan thành một ni cô và đưa nàng đến điền trang cũ của Nghê đại nhân. Tại đó, mụ giam nàng vào căn phòng mà vợ chồng lão môn đinh đã sống, lột y phục của nàng để ngăn mọi ý định bỏ trốn. Lý thị đến gặp nàng mỗi ngày, đem theo một vò nước và một giỏ đậu khô hoặc bánh rán. Mụ ta định đưa nàng trở về ngay khi ý muốn bỏ trốn của Bạch Lan tiêu tan. Nhưng sau đó, các Bộ khoái đã đến tìm kiếm cô nương ấy ở khu phía Đông thành. Lý thị cảnh giác hơn. Hàng ngày, vào sáng sớm, mụ đều vội vã đến trang viên đó. Mụ tìm được đường đến tòa tiểu đình bí mật thông qua dấu hiệu của những cây thông, bắt Bạch Lan dẫn đường, tàn nhẫn dùng gậy đánh đập sai khiến nàng. Trong tòa tiểu đình, mụ bắt nàng nằm xuống chiếc ghế hoa cương rồi đã đâm một dao vào ngực nàng. Bản năng tàn ác thôi thúc mụ cắt thủ cấp của nàng, đẩy xác nàng vào góc trong ghế. Lý thị bỏ thủ cấp nàng vào giỏ rồi quay về. Trong lúc vội vã, mụ không để ý đến chiếc tráp trên mặt bàn. Lý thị một mạch kể ra tất cả mà không cần bị thúc bách. Địch Công thấy mụ ta hài lòng khi kể lại tất cả và hả hê trước những tội ác bệnh hoạn. Mụ ta cũng tự nguyện cho biết thêm, ba mươi năm trước, mụ đã sát hại chồng mình bằng cách trộn độc vào rượu của ông ta.
Địch Công thấy ghê tởm mụ đàn bà đồi bại này. Ông nhẹ lòng khi Lý thị điểm chỉ vào bản khai và được dẫn trở lại nhà lao. Cũng trong phiên thăng đường đó, Địch Công xét xử ba tên chủ hiệu người Hán đã làm nội ứng cho quân Duy Ngô Nhĩ. Chúng nói không hề biết rõ mục đích thực sự của âm mưu này. Chúng chỉ nghĩ đó là một kế hoạch nhằm tạo ra một vụ xung đột và đánh cướp một số cửa hiệu trong lúc hỗn loạn. Địch Công cho đánh mỗi kẻ năm mươi côn và xử chúng đeo gông bằng gỗ nặng suốt một tháng. Chiều hôm ấy, quản gia của Đinh gia trang vội vã đến huyện nha. Ông ta báo rằng Đinh công tử đã treo cổ tự vẫn và tứ phu nhân của Đinh lão gia cũng đã uống thuốc độc quyên sinh. Không ai để lại bất cứ lời trăn trối nào. Ai cũng cho rằng hai người họ đã tuyệt vọng sau cái chết bi thảm của Đinh lão gia. Chuyện tứ phu nhân kia tự tử được một số lão nhân tán tụng, họ nghĩ đó là minh chứng của một tấm lòng thủy chung khi một nữ nhân đi theo phu quân của mình sang thế giới bên kia. Họ quyên tiền bạc để dựng một tấm bia đá tưởng niệm. Trong suốt mười ngày sau đó, Địch Công dành trọn thời giờ để xử lý mọi việc của Tiền Mưu và Nghê Kỳ. Hai gã môn khách của Tiền Mưu cũng phải chịu sự trừng phạt dù không nặng, và đám thủ hạ chuyên đi bóc lột người khác của hắn cũng phải chịu chung cảnh. Nhị phu nhân được cho biết về nội dung bản chúc thư của Nghê đại nhân. Nàng sẽ được mời lên công đường ngay khi phán quyết cuối cùng của các vị thượng quan từ kinh thành được đưa đến.
Hồng Sư gia hi vọng Địch Công được nghỉ ngơi đôi chút khi phá giải xong ba vụ án và đập tan âm mưu đánh chiếm huyện Lan Phường. Nhưng lão thất vọng khi biết ông vẫn còn đau đầu lo lắng về điều gì đó. Địch Công hay ở trong tâm trạng không tốt, và đôi khi xem lại những quyết định cũ, đó là điều rất lạ đối với ông. Sư gia không thể hình dung nguyên nhân nỗi âu lo của chủ, và Địch Công cũng không đưa ra bất cứ lời giải thích nào. Một buổi sáng, có tiếng vó ngựa rền vang và tiếng chiêng làm náo động cả con phố chính. Hai trăm binh sĩ của triều đình tiến vào huyện Lan Phường, cờ xí ngợp trời. Đây là lực lượng đồn trú được cử đến theo thỉnh cầu của Địch Công. Chỉ huy là một vị tướng quân vốn chuyên chống phiến quân ở phương Bắc, một vị tướng trẻ trung văn võ song toàn để lại cho Địch Công ấn tượng tốt đẹp. Y trình thư của Bộ Binh, thư đó trao cho Địch Công toàn quyền đối với hoạt động quân sự ở huyện này. Đơn vị đồn trú ấy đến đóng tại gia trang của Tiền Mưu. Kiều Thái được trở về huyện nha. Quan quân được cử đến khiến Địch Công phấn chấn hơn hẳn. Tuy vậy, ông lại nhanh chóng rơi vào tâm trạng buồn rầu. Ông vùi mình vào những công vụ thường nhật ở huyện và ít khi ra ngoài. Lần duy nhất ông rời khỏi huyện nha là khi đến đám tang của Bạch Lan. Ngô Phong đã tổ chức tang lễ vô cùng chu đáo, y một mực đòi tự mình lo liệu mọi phí tổn. Chàng họa sư đã thay đổi thành người khác. Y thề sẽ bỏ rượu, một quyết định đã đẩy y vào cuộc cãi vã gay gắt với chủ quán của tửu điếm Vĩnh Xuân. Chủ quán cho rằng quyết định bỏ rượu của y phản ánh việc chất lượng quán của gã đã xuống thấp. Mọi đệ tử Lưu Linh của vùng này đều buồn bã cho rằng mối bất hòa này chính là sự chấm dứt cho một tình bằng hữu bền chặt.
Ngô Phong bán hết tranh và thuê một căn phòng nhỏ trong khuôn viên của miếu Khổng Tử. Y chủ yếu dành thời gian nghiên cứu lại Tứ thư ngũ kinh, chỉ ra ngoài khi đến thăm Phương Bộ đầu ở huyện nha gần đó. Hai người có vẻ đã trở thành những bằng hữu tri kỷ, Ngô Phong thường ngồi đàm đạo với Phương Chính hàng giờ ở túc xá của sai nha. Một buổi chiều, khi Địch Công bơ phờ ngồi trong thư phòng xem lại những văn thư thường lệ, Hồng Sư gia bước vào và trao cho ông một phong thư lớn có gắn niêm phong. “Đại nhân, thư này vừa được tín sứ từ kinh thành đưa đến!” Địch Công rạng rỡ hẳn lên. Ông vội xé bì thư ra và hấp tấp đọc qua nội dung bên trong. Khi gập phong thư lại, ông gật đầu hài lòng. Gõ gõ ngón tay vào lá thư, ông nói với Sư gia, “Đây là ý chỉ của triều đình về tội phản quốc của Nghê Kỳ, vụ sát hại Đinh tướng quân và chuyện Lý thị hại người. Lão sẽ thấy hài lòng khi âm mưu của đám Duy Ngô Nhĩ đã được xử lý, trong cuộc hội đàm giữa Bộ Hộ và Khả Hãn Duy Ngô Nhĩ; huyện Lan Phường không còn lo bị tấn công nữa! Ngày mai, ta sẽ khép lại các vụ án này. Sau đấy, ta mới được thư thái!” Hồng Sư gia không hiểu lắm câu sau cùng của Địch Công. Nhưng không để lão kịp hỏi lại, ông lập tức ra lệnh chuẩn bị cho phiên thăng đường sáng mai. Sáng hôm sau, từ trước khi trời sáng một canh giờ, toàn bộ nha dịch của huyện nha đã sẵn sàng. Đuốc sáng trưng trước cổng huyện nha, ở đó có một nhóm Bộ khoái đang chuẩn bị xe tù cho các phạm nhân lên đường thi hành bản án ở bên ngoài cổng thành phía Nam.
Dù còn sớm, rất nhiều người dân cũng đã có mặt. Trông họ như mê mị trước cảnh tượng ở cổng huyện nha. Rồi những kỵ binh vác trường thương từ quân doanh của lực lượng đồn trú cũng đã đến, xếp thành một vòng bảo vệ quanh xe tù. Nửa canh giờ trước khi trời sáng, một Bộ khoái lực lưỡng đánh ba hồi chiêng đồng trước cổng huyện nha. Lính gác mở cửa và dân chúng kéo cả vào trước đại đường. Trong đại đường nến thắp sáng trưng. Dân chúng đứng lặng yên trong sự kính phục, nhìn lên Địch Công đang bước ra đại án và vào vị trí của pháp quan. Ông mặc quan bào tề chỉnh bằng gấm thêu kim tuyến lấp lánh ánh lục. Một tấm hồng điều phủ qua vai ông. Đó là dấu hiệu cho thấy ông sẽ công bố bản án của triều đình ban xuống. Trước tiên, Nghê Kỳ được dẫn ra đại đường. Hắn vừa quỳ xuống nền đá trước đại án, nha lại đã trình lên Địch Công một văn thư. Địch Công kéo ngọn nến lại gần và chậm rãi đọc trang trọng, “Phạm nhân Nghê Kỳ phạm tội mưu phản. Theo đúng quốc pháp, phải xử lăng trì. Xét rằng thân phụ của phạm nhân, Tuần phủ Nghê Thọ Kiền, có nhiều công lao với xã tắc, xét rằng Nghê Thọ Kiền trước khi qua đời đã xin tha tội cho con mình, hình phạt sẽ được giảm nhẹ. Phạm nhân sẽ bị xử tội chết và sau đó sẽ bị phân thây. Để tỏ lòng tôn kính Tuần phủ Nghê Thọ Kiền, phạm nhân sẽ không bị bêu đầu ở cổng thành và gia sản sẽ không bị tịch biên.” Địch Công dừng lại và đưa tờ giấy cho Bộ đầu. “Phạm nhân được phép đọc lại lời khẩn xin của thân phụ mình”, ông tuyên bố.
Phương Chính đưa tờ giấy cho Nghê Kỳ, nãy giờ hắn vẫn lắng nghe với vẻ mặt điềm tĩnh. Tuy nhiên, khi đọc lại văn thư thống thiết ấy, Nghê Kỳ òa lên khóc trong đau đớn. Hai Bộ khoái trói tay Nghê Kỳ ra sau. Phương Bộ đầu cầm thẻ án màu trắng, được chuẩn bị trước, cài vào sau lưng Nghê Kỳ. Trên thẻ đó có ghi tên ‘Kỳ’, tội danh và án hình được viết bằng những chữ lớn. Họ Nghê của hắn được bỏ qua, để tưởng nhớ đến Nghê đại nhân. Khi Nghê Kỳ được đưa đi, Địch Công nói, “Triều đình bố cáo, Khả Hãn Duy Ngô Nhĩ đã cử một đoàn sứ thần đến kinh thành, dẫn đầu là đại vương tử của Khả Hãn, để xin tạ lỗi vì âm mưu thâm độc do Ô Nhĩ Kim Quận vương thực hiện và xin được tiếp tục giữ lòng trung thành với Thánh thượng. Triều đình đã độ lượng mà chấp nhận lời tạ lỗi đó, giao lại Ô Nhĩ Kim và bốn kẻ đồng mưu cho sứ thần, để Khả Hãn xử lý đích đáng.” Mã Vinh thì thầm với Kiều Thái, “Mấy chữ ‘xử lý đích đáng’ dịch sang tiếng Hán sẽ giống như là lột da lúc còn sống, ném vào vạc dầu và chặt làm muôn mảnh! Khả Hãn không hề độ lượng với những kẻ làm hỏng âm mưu của hắn!” “Vương tử của Khả Hãn”, Địch Công nói tiếp, “đã được mời ở lại kinh thành trong suốt thời gian đi sứ như một vị khách danh dự của triều đình.” Dân chúng reo hò. Họ biết rằng khi vương tử bị giữ ở kinh thành làm con tin, thì Khả Hãn sẽ không dám bội ước.
Ông ra hiệu cho Bộ đầu. Nghê phu nhân và nhi tử Nghê San được đưa ra đại đường. “Nghê phu nhân”, Địch Công ôn tồn, “ngươi có thẩm quyền đối với bản chúc thư gốc của Nghê đại nhân. Bản chúc thư ấy được tìm thấy trong một họa phòng bí mật ở chính giữa mê cung. Giờ đây phu nhân được toàn quyền sở hữu trọn gia sản nhà họ Nghê, cũng được nhân danh nhi tử của mình là Nghê San. Bản quan tin rằng, dưới sự nuôi dạy của phu nhân, Nghê San sẽ trở thành một hình ảnh mới của người cha lẫy lừng, và là người xứng đáng với dòng họ Nghê nổi danh thiên hạ!” Mai thị và Nghê San dập đầu ba lần để tỏ lòng biết ơn. Khi hai người lùi lại, nha lại trình một văn thư khác lên trước Địch Công. “Bản quan sẽ đọc lệnh chỉ của triều đình về vụ án sát hại Đinh lão tướng quân!” Ông vuốt dải tóc mai rồi chậm rãi đọc dõng dạc, “Bộ Hình đã nhận thấy có nhiều sự việc liên quan đến cái chết của tướng quân Đinh Hổ Quốc. Một tên họ cụ thể được khắc trên cây bút lông, trong đó có giấu hung khí, không có đủ bằng chứng thuyết phục cho thấy đó là họ tên của người đã biến cây bút này thành hung khí gây án, cũng không nhằm mục đích sát hại Đinh tướng quân. Chiếu theo vương pháp, cái chết của Đinh tướng quân sẽ được xếp vào án tử vong do tai nạn.” “Một trường hợp điển hình của vương pháp!” Hồng Sư gia thì thầm vào tai Địch Công khi cuộn văn thư lại. Địch Công khẽ gật đầu và nhỏ nhẹ đáp lại, “Rõ ràng triều đình muốn giữ gìn thanh danh của Nghê đại nhân trong chuyện này!”
Rồi ông cầm lấy cây bút lông mực đỏ và viết một tờ lệnh cho đề lao. Lý thị được hai Bộ khoái dẫn lên. Trong suốt thời gian ngồi trong nhà lao, nỗi khiếp sợ trước án tử sắp tới đã dần xâm chiếm mụ ta. Mụ ta đánh mất hoàn toàn vẻ đắc thắng đã phô diễn khi thú nhận mọi tội ác man rợ. Mặt mũi mụ ta xanh xao, đôi mắt giương to nhìn lên hồng điều trên vai Địch Công và nhìn nam nhân vạm vỡ mang vẻ mặt lạnh lùng đứng bên cạnh đại án. Ông ta vác trên vai thanh đao đã tuốt trần, hai Bộ khoái đứng phía sau cầm dao, cưa và những vòng dây. Lý thị nhận ra đó là đao phủ và hai bộ khoái chuyên việc hành hình, mụ lảo đảo đứng không vững. Hai Bộ khoái phải đỡ mụ ta quỳ xuống trước đại đường. Địch Công tuyên, “Phạm nhân Lý thị phạm tội bắt cóc dân nữ cho mục đích trái luân thường và giết người có chủ ý. Bị phạt trượng hình và xử trảm. Triều đình bác bỏ thỉnh cầu đối với tài sản của Lý thị. Tài sản ấy sẽ được trao lại cho gia đình các nạn nhân thay cho tiền bồi thường. Phạm nhân sẽ bị bêu đầu nơi cổng thành trong ba ngày để thị chúng.” Lý thị bắt đầu kêu gào. Một Bộ khoái bịt miệng mụ ta bằng mảnh giấy dầu trong khi hai Bộ khoái khác trói quặt tay mụ ra sau. Cuối cùng, họ gắn thẻ án vào lưng mụ, trên đó có tên, tội danh và hình phạt. Khi Lý thị được đưa đi, dân chúng cũng chuẩn bị rời khỏi đại đường. Địch Công đập kinh đường mộc để giữ yên lặng.
“Giờ ta sẽ công bố danh tính những công sai tạm thời của huyện nha.” Ông đọc to tên của Phương Bộ đầu và những người trước kia là lục lâm mà ông ta đã đưa về làm các Bộ khoái và lính gác khi ông đến huyện Lan Phường được hai ngày. Họ đứng nghiêm trước mặt Địch Công. Địch Công tựa người ra sau. Ông trầm ngâm quan sát những người đã trung thành phục vụ mình suốt những ngày khốn khó vừa qua. Ông phán, “Phương Bộ đầu, ngươi và thủ hạ được tuyển mộ trong tình trạng cấp bách, nhưng các ngươi đã dốc lòng tận tụy với huyện nha. Vì hiện giờ mọi điều kiện đã trở lại như cũ, ta cho các ngươi được rời khỏi nhiệm vụ. Có điều bất cứ ai trong số các ngươi muốn phục vụ lâu dài cho huyện nha thì sẽ được đón nhận.” “Tất cả chúng thuộc hạ”, Phương Chính kính cẩn đáp, “nợ đại nhân món nợ ơn nghĩa sâu nặng, và thuộc hạ là người chịu ơn đại nhân hơn cả. Thuộc hạ sẽ khẩn xin đại nhân tiếp tục cho mình theo hầu ở cương vị hiện tại, nếu như thuộc hạ không cùng tiểu nữ rời khỏi huyện này, vì nơi đây chỉ khiến tiểu nữ của thuộc hạ ngày đêm nhớ lại tấm thảm kịch đã phá hoại gia đình thuộc hạ.” “Ngô Phong đã đề nghị thuộc hạ trở thành tổng quản trong phủ của một bằng hữu của thân phụ y ở kinh thành. Thuộc hạ có phần muốn đồng ý trước lời đề nghị rộng rãi đó vì qua một người mai mối, thuộc hạ đã biết Ngô Phong có ý muốn thành gia thất với tiểu nữ Huyền Lan ngay khi anh ta thi đỗ trong kỳ thi sắp tới.”
“Thật là cô nương bội bạc!” Mã Vinh tức tối thì thầm với Kiều Thái. “Đệ đã cứu mạng nàng ấy! Hơn nữa, đệ đã trông thấy nàng ấy…” “Yên lặng!” Kiều Thái thì thào, “Đệ đã được ngắm cô nương Thổ Nhĩ Bối, đó là phần thưởng xứng đáng rồi!” “Thuộc hạ khẩn xin”, Bộ đầu nói tiếp, “được lưu lại nhi tử tại huyện Lan Phường. Vì khắp thiên hạ này nó sẽ không thể tìm ở đâu được một mệnh quan như đại nhân để dốc lòng phục vụ. Khẩn xin đại nhân chấp nhận nó vào nhiệm vụ cố định ở huyện nha, dù nó chưa có năng lực.” Địch Công nghiêm túc lắng nghe từng lời. Ông nói, “Bộ đầu, nhi tử nhà ngươi sẽ tiếp tục làm Bộ khoái ở đây. Ta lấy làm mừng vì trời xanh có đức hiếu sinh vô biên đã để cho một tội lỗi xấu xa sau một thời gian tạo nên được cảnh hạnh phúc cho cả hai gia đình. Khi nến đỏ được thắp trong hôn lễ của Huyền Lan, thịnh khí của một tương lai tươi sáng sẽ xoa dịu đi những vết thương cũ trong lòng thân phụ của cô nương ấy. Ta thấy hối tiếc vì sẽ phải chấp nhận không có ngươi từ ngày mai!” Phương Bộ đầu và nhi tử quỳ xuống, dập đầu nhiều lần để tạ ơn. Ba Bộ khoái còn lại thưa rằng, họ muốn trở lại cuộc sống đời thường ngày trước. Cả ba đều khấn xin được tháo áo mũ ngay hôm nay. Khi mọi thủ tục đã xong, Địch Công bãi đường. Bên ngoài huyện nha, một đám đông người đang đợi. Nghê Kỳ và Lý thị đã được đưa vào xe tù. Thẻ án với họ tên, tội trạng của cả hai đều được trưng ra cho dân chúng trông thấy.
Khi cổng công nha mở ra, kiệu của Địch Công ra phố. Mười Bộ khoái đi trước và mười người khác đi sau kiệu. Mã Vinh và Hồng Sư gia cưỡi ngựa đi bên trái, Kiều Thái và Đào Cam ở bên phải. Bốn người khác mang theo cờ hiệu đề “Huyện lệnh Lan Phường” vượt lên trước. Lính gác gõ chiêng đồng và cả đoàn người di chuyển về phía Nam. Xe tù được quan binh bao quanh hộ tống. Dân chúng cũng đi theo rất đông. Đoàn người đi qua cây cầu bằng đá hoa cương, ráng đỏ của bình minh bấy giờ mới xuất hiện trên ngôi chùa bên hồ sen. Pháp trường ở ngay ngoài cổng thành phía Nam. Kiệu của Địch Công đi qua cổng trên có một hàng rào sắt cọc nhọn. Khi ông xuống kiệu, vị tướng quân chỉ huy đồn trú đến gặp ông. Y đưa Địch Công đến vị trí của pháp quan vừa được dựng lên suốt đêm qua. Binh lính dàn thành đội ngũ ở phía trước. Đao phủ cắm thanh đao xuống đất và lột bỏ áo ngoài. Khối cơ bắp cuồn cuộn của anh ta dồn lên nửa thân trên. Hai trợ thủ của anh ta leo lên xe tù dẫn hai phạm nhân đến giữa pháp trường. Họ cởi trói cho Nghê Kỳ và lôi hắn lên một cây cột đóng trên nền đất, thân cột có hai thanh ngang. Một người trói cổ hắn vào cột, người kia cố định tay và chân hắn vào thanh ngang. Khi mọi thứ đã xong, đao phủ lựa một con dao dài và mỏng, đến trước mặt Nghê Kỳ. Ông nhìn lên Địch Công đợi lệnh. Địch Công ra hiệu đồng ý. Đao phủ đâm thẳng vào tim Nghê Kỳ. Hắn chết mà không kịp kêu một tiếng.
Rồi Nghê Kỳ bị đem phân thây. Lý thị ngất lịm từ khi án hình khủng khiếp ấy bắt đầu, nhiều người đứng xem lấy tay áo che mặt. Cuối cùng, đao phủ cầm thủ cấp phạm nhân lên chỗ Địch Công, ông đánh dấu lên trán của thủ cấp bằng bút lông mực đỏ. Thủ cấp được bỏ vào một chiếc giỏ cùng những phần thân thể khác. Lý thị đã hồi tỉnh sau khi được đặt một cây hương vào dưới mũi. Hai vị trợ thủ lôi mụ ta lên trước pháp trường và đạp mụ ta quỳ xuống. Vừa trông thấy đao phủ cầm roi tiến đến, Lý thị rú lên khiếp hãi. Trong nỗi sợ hãi hèn hạ ấy, mụ ta kêu xin tha mạng. 👁 Lý phu nhân chịu hình trên pháp trường Đao phủ và trợ thủ đã quen với những cảnh tượng như vậy, họ không mảy may để ý đến những lời van xin của mụ. Một trong hai trợ thủ xổ tung tóc mụ ra. Y nắm mớ tóc dài của mụ và kéo đầu mụ về trước. Người còn lại xé tung áo tù của mụ và trói quặt tay ra sau. Đao phủ thử trước ngọn roi. Thứ công cụ hung thần này bao gồm một sợi dây da gắn những móc sắt nhỏ dựng đứng, người ta chỉ trông thấy nó trên pháp trường vì chưa từng có ai sống sót sau làn mưa roi. Khi Địch Công cho phép, đao phủ vung roi lên. Ngọn roi quất thẳng xuống lưng Lý thị kèm theo một âm thanh khiến người khác sởn gai ốc, xé rách da thịt. Lý thị sẽ ngã sấp mặt xuống sau lần roi đầu tiên nếu không có người trợ thủ giữ chặt tóc mụ.
Khi Lý thị hồi lại, mụ lại la hét muốn vỡ giọng. Nhưng đao phủ lại tiếp tục quất xuống. Lý thị đã bất tỉnh nhân sự. Địch Công khoát tay. Mất một lúc mụ ta mới tỉnh lại. Rồi đao phủ vung đao lên trong khi hai trợ thủ dựng Lý thị dậy. Địch Công đồng ý, ngọn đao xả xuống, đầu Lý thị lìa ra khỏi thân thể. Địch Công lại lấy bút lông mực đỏ đánh dấu lên thủ cấp của mụ. Rồi đao phủ ném đầu mụ vào giỏ. Sau đó, thủ cấp Lý thị bị đem treo trên cổng thành bằng chính tóc của mụ, bêu ở đó suốt ba ngày. Địch Công rời khỏi pháp trường và lên kiệu. Khi những kiệu phu vác đòn kiệu lên vai cũng là lúc những tia nắng đầu tiên chiếu sáng mũ đầu mâu của binh sĩ. Kiệu của Địch Công là kiệu đầu tiên tiến vào miếu Thành Hoàng, vị tướng quân trẻ tuổi theo sau và mở cửa miếu. Ở đó, Địch Công tâu với Thành Hoàng về những tội ác xảy trong huyện và những hình phạt của triều đình dành cho kẻ thủ ác. Rồi ông cùng vị tướng trẻ thắp hương và khẩn cầu. Hai người cáo biệt nhau trong sân miếu. Vừa về đến huyện nha, Địch Công đi thẳng về thư phòng. Sau khi uống một chén trà đặc, ông bảo Hồng Sư gia rằng mình muốn đi dùng bữa điểm tâm. Cuối ngày hôm đó, hai người thảo ra một bản tấu về vụ thi hành án tử hôm nay gửi cho các vị thượng quan. Hồng Sư gia thấy Mã Vinh, Kiều Thái và Đào Cam đang đứng trò chuyện ở một góc sân. Sư gia vừa đến, lão thấy Mã Vinh vẫn còn hậm hực, một mực gọi Huyền Lan là kẻ bội tín bội nghĩa.
“Đệ lâu nay vốn đinh ninh mình sẽ là người thành gia thất với nàng ấy!” Y chua chát nói. “Nàng ấy đã suýt đâm chết đệ trong lần đụng độ với chúng ta trên núi. Đệ thực sự mến nàng ấy!” “Hiền đệ, cứ xem như đệ gặp may đi”, Kiều Thái an ủi. “Cô nương Huyền Lan đó có cái lưỡi sắc xảo quyền uy, nàng ấy sẽ khiến đời đệ phải thê thảm đấy!” Mã Vinh vỗ trán phẫn uất. “Đệ nhớ ra rồi!” Y thốt lên, “Đệ sẽ cho huynh biết mình sẽ làm gì! Đệ sẽ đích thân chuộc nàng Thổ Nhĩ Bối ra. Đó là một thiếu nữ vạm vỡ và nàng ấy không biết nói tiếng Hán! Như vậy không phải là trong ấm ngoài êm sao?” Đào Cam lắc đầu. Khuôn mặt dài thậm chí buồn bã hơn thường lệ khi y nói với vẻ ảm đạm, “Đừng có ảo tưởng, Mã đệ à! Ta đảm bảo với đệ rằng trong vòng tầm mười ngày, cô nương ấy sẽ thao thao bất tuyệt, dù biết tiếng Hán hay không!” Nhưng Mã Vinh không nản lòng. “Tối nay đệ sẽ đến đó”, y nói, “và bất cứ ai muốn đi cùng đệ cũng được. Ở đó các huynh sẽ gặp những mỹ nữ, và họ không hề che giấu nhan sắc của mình đâu!” Kiều Thái thắt lại dây lưng. Y tỏ vẻ nôn nóng, “Cái gã như đệ không nói được chuyện gì khác quan trọng hơn chuyện nữ nhi sao? Đi nào, ra ngoài và ăn một bữa điểm tâm thật ngon! Đối với cái bụng trống rỗng thì không gì hơn vài chén rượu ấm!” Mọi người đều công nhận đó là ý hay, cả bốn cùng nhau ra phố.
Trong lúc đó, Địch Công đã đổi sang bộ y phục đi săn. Ông lệnh cho một nha dịch ra tàu ngựa lấy con ngựa mà ông ưa thích. Địch Công tung mình lên yên ngựa. Ông dựng cổ áo lên cao quá miệng và mũi rồi thúc ngựa ra phố. Phố xá đông đúc, người dân đứng tụ lại thành nhiều nhóm. Họ đang bàn luận về án hình dành cho hai phạm nhân và không hề chú ý đến người cưỡi ngựa đơn độc kia. Khi Địch Công cưỡi ngựa qua cổng thành phía Nam, ông thúc ngựa phóng nước đại. Trên pháp trường, các Bộ khoái vẫn mải lau dọn chỗ ngồi của pháp quan. Họ rải cát sạch lên những dấu máu. Vừa ra đến cánh đồng, Địch Công ghìm cương cho ngựa chậm lại. Ông hít thở bầu không khí buổi sáng và tận hưởng phong cảnh yên bình này. Nhưng dù có ở giữa chốn êm đềm này, ông thấy mình vẫn không sao thoát khỏi những suy nghĩ tiêu cực. Cảnh tượng trên pháp trường vẫn cứ ám ảnh khiến Địch Công rợn người. Ông luôn là người sắt đá chừng nào còn tham gia phá án; nhưng khi tội nhân vừa được tìm ra và thú nhận, Địch Công luôn mong mỏi được gạt bỏ vụ án đó ra khỏi tâm tư. Ông ghét công việc giám sát hành hình với những thủ tục ghê rợn, chết chóc. Ý định từ quan cứ luẩn quẩn trong tâm trí. Địch Công từ sau lần đàm đạo với Hạc Y tiên sinh và giờ đã biến thành một niềm ao ước đầy lôi cuốn. Địch Công nghĩ mình vừa quá tứ tuần; không quá muộn để bắt đầu một cuộc đời mới ở một điền trang nhỏ mà ông sở hữu ở quê.
Còn gì hơn một cuộc đời thanh thản trong những ngày tháng yên bình, dành trọn thời gian để đọc sách và viết, toàn tâm toàn ý dưỡng dục trẻ thơ? Sẽ thế nào nếu mỗi sáng đều thức dậy giữa chốn hủ bại và âm mưu hèn hạ của những đầu óc tội lỗi, trong khi cuộc đời còn biết bao điều tốt đẹp, tươi mới để trao đi? Sẽ có vô số vị quan tài năng thế chỗ của ông. Và chẳng nhẽ ông không thể đóng góp cho thế gian bằng cách viết ra những luận thuyết như ông vẫn dự định? Trình bày lại những học thuyết cao quý trong Tứ thư ngũ kinh bằng ngôn ngữ bình dân để muôn dân cũng được thấu hiểu? Nhưng Địch Công lại thấy hồ nghi. Thiên hạ này sẽ ra sao nếu mọi vị quan đều có chung thái độ lánh đời đó? Chẳng phải nhiệm vụ của ông là giúp cho các nhi tử của mình sau này có cơ hội được đứng trong chốn quan trường hay sao? Cuộc đời ẩn dật ở chốn thôn dã có thể giúp các nhi tử trong tương lai sao? Ông vừa thúc ngựa vừa lắc đầu. Câu trả lời cho vấn đề của ông nằm lại trong cặp câu đối khó vừa lòng người mà ông trông thấy trên tường nhà Hạc Y tiên sinh: Thiên long thăng không, thành tiên quả Địa dẫn quật thổ, diệc trường sinh. Từ sau chuyến viếng thăm lạ lùng đó, những câu chữ này vẫn luôn khiến suy nghĩ của ông rối ren. Địch Công thở dài. Ông sẽ để lão tiên sinh ấy quyết định giúp ông. Ông ấy sẽ giải thích về cả hai con đường mà Địch Công sẽ chọn.
Khi đến chân dốc núi, Địch Công nhảy xuống ngựa. Ông gọi một nông phu đang làm việc trên thửa ruộng gần đó và nhờ ông ta trông ngựa giúp mình. Khi ông quay đi để chuẩn bị leo lên dốc, hai người tiều phu từ con đường mòn đi xuống. Họ là vợ chồng lão tiều, khuôn mặt nhăn nheo và tay chân khẳng khiu như chính những cây củi khô họ mang trên lưng. Lão tiều dừng chân. Ông buông gánh củi xuống. Lau những giọt mồ hôi trên trán, lão tiều nhìn lên Địch Công và lễ phép hỏi, “Quan nhân, ngài đi đâu vậy?” “Tại hạ đang trên đường đến thăm Hạc Y tiên sinh”, Địch Công đáp. Lão tiều khẽ lắc đầu. “Quan nhân sẽ không tìm được ông ấy đâu.” Lão tiều nói. “Bốn ngày trước, bọn thảo dân thấy căn nhà của ông ấy trống không. Cửa bị gió giật và mưa đã làm nhàu nát hết đám hoa. Giờ đây, thảo dân và tệ nội dùng căn nhà ấy làm nơi chứa củi.” Nỗi cô độc không rõ từ đâu xâm chiếm con người Địch Công. “Quan nhân, ngài không muốn mất công thì đừng lên đó!” Nông phu kia cũng nói và trao lại dây cương cho Địch Công. Địch Công thẫn thờ cầm lấy sợi cương, ông hỏi lão tiều, “Lão tiên sinh ấy gặp chuyện gì vậy? Hai vị có tìm thấy thi thể ông ấy không?” Một nụ cười ranh mãnh hiện ra trên khuôn mặt nhăn nheo khi lão tiều từ tốn lắc đầu. “Người như ông ấy”, lão đáp, “không rời bỏ thế gian này như quan nhân hay như thảo dân đâu! Họ thực sự không bao giờ thuộc về thế giới này. Cuối cùng, những người ấy sẽ bay vào vòm trời xanh như thần long ẩn hiện. Họ không để lại gì ngoài một chữ ‘Hư’!“
Lão tiều xốc lại gánh củi và bỏ đi. Trong thoáng chốc, Địch Công bỗng ngộ ra. Đó chính là câu trả lời! Ông mỉm cười và bảo nông phu, “Chà, tại hạ thì luôn thuộc về thế giới của hai chúng ta! Tại hạ sẽ tiếp tục làm giun mà chui sâu xuống đất đây!” Ông tung mình lên yên ngựa và quay lại trấn Lan Phường. Tái bút của tác giả Đặc điểm chung của các bộ truyện trinh thám Trung Quốc cổ là vai trò thần thám luôn thuộc về Huyện lệnh nơi xảy ra vụ án. Vị quan này chịu trách nhiệm toàn bộ hoạt động hành chính của huyện đó trong phạm vi quyền hạn của mình, thường bao gồm một tòa thành và những vùng thôn quê quanh đó tầm năm mươi dặm. Huyện lệnh có nhiều nhiệm vụ. Ông ta hoàn toàn chịu trách nhiệm việc thu thuế, sinh tử và hôn phối, theo dõi việc sử dụng đất, duy trì hòa bình… đồng thời giữ vai trò một quan án tại công nha mà ông ta làm việc, xử phạt tội phạm và xử các vụ án hình sự cũng như dân sự. Vì Huyện lệnh gần như giám sát mọi mặt trong đời sống thường nhật của người dân, nên trong tiếng Hán, ông ta thường được nhắc đến là “quan phụ mẫu”. Huyện lệnh này là một vị quan luôn phải làm việc cật lực. Ông ta sống cùng gia quyến ở những tư thất riêng biệt trong khuôn viên huyện nha, và thường dành chủ yếu thời gian để xử lý việc quan. Huyện lệnh là nền tảng cho cấu trúc khổng lồ hình kim tự tháp của bộ máy chính quyền Trung Quốc xưa kia. Ông ta phải trình báo với Tri phủ, người giám sát mười hoặc hơn mười huyện. Tri phủ lại trình báo lên Tuần phủ, người chịu trách nhiệm cho nhiều phủ nha. Về phần mình, Tuần phủ lại trình báo lên các vị quan trung ương ở kinh thành, cùng Hoàng đế ở tầng trên cùng.
Mỗi con dân, dù giàu hay nghèo, bất chấp xuất thân, đều có thể tham gia vào quan trường và trở thành Huyện lệnh khi vượt qua các kỳ thi văn hóa do triều đình tổ chúc. Ở phương diện này, hệ thống chính quyền Trung Quốc có phần giống một chính quyền dân chủ tại thời điểm đó, trong khi châu Âu vẫn còn dưới chế độ phong kiến hà khắc. Một nhiệm kỳ của Huyện lệnh thường kéo dài ba năm. Sau đó, ông ta được chuyển đến một huyện khác, cho đến khi được thăng chức tri phủ. Thăng chức thông qua sự chọn lọc, dựa trên các hoạt động thực tế của quan huyện. Huyện lệnh được các sai nha thường xuyên trợ giúp, như nha lại, đề lao, Ngỗ tác, Bộ khoái, lính gác và tùy phái. Tuy nhiên, những người này chỉ thực hiện những nhiệm vụ thông thường. Họ không liên quan đến tra án. Nhiệm vụ tra án được đích thân Huyện lệnh thực hiện, với sự trợ giúp của ba hoặc bốn trợ thủ tin cẩn. Những người này được Huyện lệnh lựa chọn từ khi bắt đầu sự nghiệp làm quan và đi theo Huyện lệnh đến bất cứ nhiệm sở nào. Các trợ thủ này có chức vụ cao hơn các sai nha khác trong huyện nha. Không giống các sai nha, họ không có mối quan hệ với người dân địa phương, do đó họ ít có khả năng để mình bị ảnh hưởng bởi những lý do riêng trong quá trình thực hiện các nhiệm vụ của nhà quan. Cũng từ lý do đó, có một điều luật lâu đời quy định rằng: không vị quan nào được bổ nhiệm chức Huyện lệnh ở tại chính quê hương mình.
Cuốn sách bạn đọc đang cầm trên tay đưa ra một khái niệm chung về các thủ tục xử án ở Trung Quốc thời xưa. Khi thăng đường xét xử, Huyện lệnh ngồi sau đại án, các trợ thủ và nha lại đứng hai bên. Đại án là một chiếc bàn lớn, có phủ một tấm vải đỏ, rủ xuống tận nền đất. Trên đại án, luôn có dụng cụ quen thuộc: một thỏi mực để mài mực đen hoặc đỏ, hai cây bút lông, một số thẻ tre mỏng trong một ống tròn. Những thẻ này được dùng để biểu thị số lượng hình trượng mà một tội nhân phải chịu. Nếu các Bộ khoái phải đánh bao nhiêu trượng, quan án sẽ lấy số thẻ tương ứng và ném xuống trước đại đường. Bộ đầu sẽ đếm số thẻ để biết số lượng hình trượng. Bên cạnh các dụng cụ đó, trên đại án thường thấy có một con dấu lớn hình vuông của huyện nha, cùng kinh đường mộc. Kinh đường mộc không giống như chiếc búa ở phương Tây. Đó là một khối gỗ cứng hình chữ nhật dài tầm một gang tay, dùng để vỗ xuống án khi ra lệnh. Các Bộ khoái sẽ đứng phía trước đại án, quay mặt vào nhau thành hai hàng ở hai bên trái phải. Cả nguyên cáo và bị áo đều phải quỳ dưới nền đá giữa hai hàng Bộ khoái dữ tợn, và cứ quỳ như vậy suốt phiên xử. Họ không có luật sư để trợ giúp, họ có thể không được nhờ đến nhân chứng, nên vị trí của họ thông thường sẽ không được xem trọng. Thực tế, toàn bộ thủ tục xét xử đều có ý làm thoái chí, áp đặt lên người dân nỗi sợ khi có dính dáng đến pháp luật.
Các thư phòng của Huyện lệnh thường được bố trí ngay phía sau công đường, cách đại đường bằng một tấm màn. Có một nguyên lý cơ bản trong luật Trung Quốc cổ xưa: không phạm nhân nào bị tuyên bố có tội trừ khi chính kẻ đó tự thú nhận tội lỗi. Để ngăn những tội phạm cứng đầu thoát khỏi sự trừng phạt bằng cách không thú nhận kể cả khi có những bằng chứng không thể chối cãi, luật cho phép áp dụng các hình pháp khắc nghiệt, như đánh bằng roi da hoặc gậy tre, kẹp ngón tay và mắt cá chân. Bên cạnh dùng hình tra khảo, các Huyện lệnh thường áp dụng nhiều biện pháp khắc nghiệt khác. Tuy nhiên, nếu bị cáo bị thương tật thân thể vĩnh viễn hoặc tử vong trong quá trình dùng hình tra khảo, Huyện lệnh và toàn bộ sai nha sẽ bị trừng phạt, thường là ở cung tội nặng nhất. Do đó, phần lớn các quan án đều phải dựa vào khả năng nắm bắt tâm lý sáng suốt cùng như tri thức của những đồng sự hơn là dựa vào các hình thức tra tấn. Nhìn chung, hệ thống nhà nước Trung Quốc cổ hoạt động khá hợp lý. Sự điều hành nghiêm ngặt của các thượng quan đã ngăn chặn sự vượt quyền, và dư luận chung trở thành một công cụ khác để hạn chế các Huyện lệnh gian ác hoặc vô trách nhiệm. Những mức án của triều đình đều do Hoàng đế phê chuẩn và mọi tội nhân bị kết án có thể kháng án lên các vị trí cao hơn. Hơn thế nữa, Huyện lệnh không được phép thẩm vấn riêng bất cứ bị cáo hoặc nhân chứng nào, mọi phiên xử của một vụ án bao gồm chất vấn sơ bộ đều phải được tiến hành trong phiên xử công khai ở chốn công đường. Một biên bản tỉ mỉ sẽ được giữ lại trong số mọi biên bản lưu và các báo cáo này phải được chuyển lên các thượng quan để họ điều tra.
Người đọc Địch Công án từng hỏi có thể nào các nha lại ghi chép chính xác được những diễn tiến mà không sử dụng chữ tốc ký. Câu trả lời như sau: bản thân văn phạm tiếng Trung đã là một dạng tốc ký. Chẳng hạn, một câu thông thường có khoảng hai mươi chữ thì có thể giảm xuống còn bốn chữ để lấy ý chính. Hơn nữa, có tồn tại một vài hệ thống chữ viết tay liên tiếp, trong đó các ký tự bao gồm tầm mười nét bút có thể giảm xuống còn một nét. Trong khi làm việc tại Trung Quốc, bản thân tôi cũng hay nhờ các thư ký ghi chép lại các cuộc đàm phán phức tạp bằng tiếng Trung và thấy biên bản chính xác đến kinh ngạc. Trong hầu hết các tiểu thuyết trinh thám Trung Quốc, Huyện lệnh buộc phải giải quyết ít nhất ba vụ án hoàn toàn khác nhau trong cùng một thời điểm. Đặc điểm thú vị này tôi đã giữ lại trong cuốn truyện các bạn đang cầm trên tay. Theo ý kiến của tôi, ở phương diện này, các câu chuyện trinh thám của Trung Quốc có tính thực tế hơn truyện trinh thám của chúng ta. Một huyện khá đông dân. Bởi thế, đương nhiên sẽ hay có đôi ba vụ án phải được giải quyết cùng lúc. Trong cuốn sách này, tôi vẫn đi theo truyền thống lâu đời của Trung Quốc nên ở cuối chuyện có miêu tả chi tiết về quá trình hành hình phạm nhân. Công đạo đòi hỏi hình phạt dành cho phạm nhân phải được thực thi đầy đủ đến từng tiểu tiết. Tôi cũng đi theo thói quen của các nhà văn Trung Quốc thời Minh khi mô tả con người và cuộc sống trong tiểu thuyết giống như cùng thời với họ, dù bối cảnh truyện là từ nhiều thế kỷ trước. Cách minh họa trong truyện của tôi cũng tương tự, mô phỏng lại thói quen và trang phục giống của triều Minh (1368 1644) hơn là triều Đường.
Tôi có thể nói thêm rằng “Địch Công” là một trong số những vị quan tra án lẫy lừng nhất ở Trung Quốc thời xưa. Ông là một nhân vật lịch sử có thật, một chính khách nổi tiếng thời Đường. Tên đầy đủ của ông là Địch Nhân Kiệt, sinh năm 630, mất năm 700. Về sau, ông trở thành Đại Lý Tự Khanh và sự sáng suốt của ông đã có tầm ảnh hưởng lớn đến những chuyện quốc gia đại sự. Tuy nhiên, chủ yếu là nhờ danh tiếng thần thám mà về sau trí tưởng tượng của người Trung Quốc đã biến ông thành nhân vật chính trong nhiều câu chuyện phá án, các câu chuyện này đều dựa rất ít vào các yếu tố lịch sử. Tôi mượn ba cốt truyện từ ba câu chuyện huyền bí và phá án khác nhau ở Trung Quốc vào thế kỷ XVI. Trong nguyên bản, cả ba câu chuyện này đều không hề có bất cứ tình tiết nào liên quan đến Địch Công hoặc Địch Công kỳ án. Tuy nhiên, vì qua bản dịch Địch Công kỳ án của tôi, bạn đọc đã quen với Địch Công và bốn vị trợ thủ, nên ba cốt truyện này đã được viết thành một câu chuyện thống nhất xoay quanh vị thần thám trứ danh của Trung Quốc thời xưa. Địch Công có thể được đưa vào câu truyện này dễ dàng, vì các nhân vật Huyện lệnh thám quan đều nổi bật trong các tiểu thuyết trinh thám Trung Quốc cổ điển. Thực tế là kiểu nhân vật này quan trọng hơn tên gọi, các vụ án được giải quyết bởi Địch Công hay Bao Công thì cũng không khác nhau là mấy. Vụ án Căn phòng bị niêm phong được cho là một giai thoại liên quan đến Nghiêm Thế Phan, một đại gian thần thời Minh, mất năm 1565. Ông ta đã chế ra một cây bút lông đặc biệt có thể phóng ra dị vật gây chết người khi cây bút được hơ nóng trên nến (Giai thoại này được A. Waley giới thiệu trong bản dịch tiếng Anh của Kim Bình Mai). Câu chuyện gốc cho biết Nghiêm Thế Phan sử dụng “cây bút hung khí” như một vũ khí phòng thân, được dùng khi một trong số những kẻ thù của ông ta bất ngờ xuất hiện lúc ông ta đang ngồi viết trong thư phòng và không có thứ vũ khí khác trong tay. Tôi mô tả “cây bút hung khí” ấy dưới dạng một thứ vũ khí để tấn công và viết một câu chuyện mới về nó, xoay quanh một cuộc trả thù, một mô típ phổ biến trong tiểu thuyết Trung Quốc. Cần nói thêm rằng, một cây bút lông mới khi được đem sử dụng, người viết trước hết sẽ phải đốt bỏ những sợi lông tạp ở đầu bút. Khi làm việc này, người viết sẽ cầm bút hơ qua ngọn lửa, thân bút ở vị trí ngang tầm với mắt người đó. Như vậy, đó là cơ hội tốt để dị vật phóng ra từ đuôi bút đâm trúng mặt người này. Dù cho chất sáp để giữ lò xo bên trong thân bút không chảy ra trong quá trình này, người viết vẫn sẽ có rất ít cơ hội sống sót ngay khi anh ta bắt đầu viết, vì đầu người này sẽ thường cúi trên mặt giấy, do đó sẽ chiếu thẳng vào hướng bắn của dị vật. Đây chính là chuyện đã xảy ra với nhân vật Đinh tướng quân trong cuốn truyện các bạn đang cầm.
Một mô típ khác được thể hiện trong vụ án Bản chúc thư bí ẩn. Vụ án này dựa trên một câu chuyện cổ nổi tiếng ở Trung Quốc thời xưa. Một phiên bản tóm lược của câu chuyện này xuất hiện trong sách Đường Âm Bỉ Sự, một tuyển tập các vụ án liên quan đến cai trị đất nước, được biên soạn vào năm 1211, bản dịch của tôi lấy tiêu đề Tang yin pi shih, Parallel Cases rom under the Pear tree, a 13th century manual of Jurisprudence and Detection (Đường Âm Bỉ Sự, liên hoàn án dưới gốc lê, sổ tay luật học và tra án thế kỷ XIII), trang 177, Vụ án 66 B. Một phiên bản tóm lược khác được tìm thấy trong một tuyển tập những câu chuyện phá án nổi tiếng ở thế kỷ XVI, Long Đồ công án, kể về những kỳ tích của Bao Công, vị thần thám lẫy lừng ở thời Tống. Phiên bản này có tựa đề Ch’e hua chou ‘The Taking apart of the Scroll Picture’. Một phiên bản đầy đủ hơn xuất hiện trong một tuyển tập truyện Trung Hoa, phổ biến rộng rãi ở thế kỷ XVII mang tên Chin ku ch’i kuan; trong đó, câu chuyện bản chúc thư được nằm ở vị trí thứ ba với tiêu đề T’eng ta yin kuei tuan chia szu ‘Magistrate T’eng’s marvelous solution of the Inheritance Suit. Trong câu chuyện gốc, bản chúc thư thật được giấu trong ống trục của cuộn tranh, các manh mối trong bức tranh đều là những chi tiết tôi thêm vào. Tôi cũng thêm vào một tình tiết mới về bí ẩn mê cung. Theo như tôi biết, thì mê cung này không xuất hiện trong các câu chuyện trinh thám Trung Quốc cổ điển, dù mê cung đôi khi được nhắc đến trong bản mô tả các cung điện ở Trung Quốc.
Tình tiết thiếu nữ bị chặt đầu khá phổ biến trong nhiều truyện trinh thám Trung Quốc cổ điển; có thể xem trong bản dịch của tôi về cuốn Đường Âm Bỉ Sự, vụ án 64 A. Tôi đã đưa tình tiết này vào một câu chuyện xoay quanh kẻ mắc chứng đồng dâm nữ, một chứng loạn trí được nhắc đến trong nhiều tiểu thuyết và kịch ở Trung Quốc. Điển hình nhất chính là câu chuyện tình của cô gái Tào Ngữ Hoa và bà Thôi Tiên Vân trong vở kịch Liên Hương Bạn ở thế kỷ XVII của nghệ sĩ kịch tác gia trứ danh Lý Ngư. Sự độc ác của phụ nữ đối với những tỳ nữ được mô tả phong phú trong các ‘tiểu thuyết đạo đức’ của Trung Quốc; tôi xin viện dẫn chương VIII trong tiểu thuyết nổi tiếng Kim Bình Mai. Trung Quốc thời xưa, thường xuyên có cảnh đồng dâm nữ và hay những hành vi tàn ác giữa những phụ nữ do gia đình theo chế độ đa thê, nhiều phụ nữ phải sống chung đụng triền miên. Những sinh viên của ngành xã hội học sẽ gặp nhiều vấn đề cần thảo luận ở một số đoạn trong cuốn sách của tôi, nhan đề Erotic Colour Prints of the Ming Period (Tokyo 1951, Vol. I, p. 146 148). Tôi đã lựa chọn động cơ này để đưa vào cuốn truyện các bạn đang đọc, một phần vì nó giúp tôi có thể tạo ra các diễn tiến bất ngờ và một phần cũng nhằm thể hiện tính bất ngờ của các cốt truyện Trung Hoa cổ ‘hiện đại’. Vụ án ba nhà sư khai man việc bị mất bức tượng vàng trong chương VII của cuốn truyện này được dựa trên một câu truyện trong bộ Đường Âm Bỉ Sự, một tuyển tập các vụ án đã được nhắc đến ở trên. Vụ án đặc biệt này nằm ở trang 159 trong bản dịch của tôi, Vụ án 57 B.
‘Cốt’ của cuốn sách, câu chuyện về một thị trấn xa xôi, có một tên ác bá lộng hành, cũng là một tình tiết phổ biến trong các tiểu thuyết Trung Quốc. Đôi khi, một Huyện lệnh sáng suốt sẽ dùng mưu khuất phục kẻ nổi loạn đó, đôi khi chính kẻ nổi loạn đó lại là người hùng của câu chuyện. Nhân vật này sẽ chiếm quyền của một vị Huyện lệnh vô năng, sau đó sẽ được chính thức xác lập vị trí của mình thông qua cách cai quản lý tưởng. Cuối cùng, vai trò của ‘Hạc Y tiên sinh’ trong truyện (xem hồi 19) là một phiên bản đã tiết chế của kiểu nhân vật ‘thần bí’ trong nhiều truyện trinh thám cổ điển Trung Quốc; những nhân vật này có năng lực siêu nhiên (đôi khi chính là thần tiên hạ phàm dưới hình dạng con người) có thể giúp Huyện lệnh hóa giải một vụ án phức tạp bằng những quyền năng bí ẩn. Đương nhiên, yếu tố này không được độc giả hiện đại chấp nhận. Bởi thế, trong cuốn truyện này, tôi giới thiệu Hạc Y tiên sinh là một ẩn sĩ Đạo gia uyên bác, mọi manh mối mà Địch Công khám phá ra trong cuộc trò chuyện hoặc là kết quả của một sự tình cờ may mắn, hoặc do hiểu biết của tiên sinh về chuyện nhà họ Nghê, hoặc là do năng lực trí tuệ phi thường của tiên sinh, tùy bạn đọc nhận định. Tôi chọn nền tảng của cuộc trò chuyện ấy là sự tương phản giữa Đạo Khổng và Đạo Lão. Độc giả đều đã rõ, Đạo Khổng và Đạo Lão là hai đạo cơ bản chi phối đến triết học và tôn giáo Trung Quốc từ khoảng thế kỷ IV trước Công Nguyên. Đạo Khổng thực tiễn và chiếm số đông trong dân chúng, Đạo Lão lại huyền bí và hoàn toàn thoát tục.
Địch Công, một vị quan nho sinh của Đạo Khổng chính thống, tôn kính Kinh Thư của Khổng Tử, những tác phẩm có tầm quan trọng tối cao đối với những giá trị đạo đức được chấp nhận như Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín… Mặt khác, Hạc Y tiên sinh lại chủ trương theo nguyên lý của Đạo Lão về tính tương đối của mọi giá trị đã được thừa nhận, và một cuộc sống ung dung tự tại trong sự hài hòa viên mãn với tự nhiên nguyên thủy. Hai quan điểm xung khắc được cô đọng lại trong đôi câu đối của Nghê Tuần phủ về loài giun và loài rồng. Cặp câu đối này tôi trích dẫn trong triết lý về Thiền của đạo Phật. Thiền trong đạo Phật khá gần gũi với đạo Lão.
Robert van Gulik ĐỊCH CÔNG KỲ ÁN #14 BÓNG MA TRONG CHÙA The Phantom of the Temple (1966) Nguyễn Việt Hải dịch dựa theo bản in của NXB Văn học, 2019 Nguồn sách Hà Du Solo text kimtrongnew GIỚI THIỆU Robert van Gulik (1910 1967) là một viên chức ngoại giao người Hà Lan. Mối quan tâm đến ngôn ngữ và văn hóa châu Á đã thúc đẩy ông trở thành một nhà Đông phương học uyên thâm và là tác giả của hàng loạt cuốn sách về văn hóa phương Đông. Trong thời gian công tác tại Trung Quốc và Nhật Bản, van Gulik tìm hiểu nền văn học dân gian ở đây và bị ấn tượng bởi nhân vật lịch sử Địch Nhân Kiệt một vị thần thám thời nhà Đường. Những câu chuyện cổ trong biên niên sử Trung Hoa về vị quan án nổi tiếng này là nguồn cảm hứng để ông sáng tác nên bộ truyện Địch Công kỳ án trứ danh. Địch Công kỳ án là bộ tiểu thuyết 16 tập thuộc dòng trinh thám quan án. Nội dung tác phẩm xoay quanh nhân vật Địch Nhân Kiệt và các trợ thủ thân tín, cùng những vụ kỳ án muôn màu muôn vẻ ông đã phá giải trên hành trình thăng tiến từ một Huyện lệnh lên đến chức Tể tướng. Có thể nói, tác giả đã hội tụ và đúc kết những gì tinh hoa nhất của hai dòng trinh thám phương Đông và phương Tây vào kiệt tác Địch Công kỳ án. Bộ tiểu thuyết được viết theo phong cách đậm chất duy lý, đồng thời cũng là tác phẩm trinh thám phương Tây đầu tiên đi theo mô típ trinh thám quan án và mang lại sức sống mới cho dòng trinh thám đậm chất phương Đông này. Nhờ vậy mà đến tận bây giờ, Địch Công kỳ án vẫn giữ vị trí độc tôn đặc biệt, là tác phẩm thành công nhất trong dòng trinh thám quan án.
Theo niên biểu các vụ án mà Địch Nhân Kiệt tham gia, Bóng ma trong chùa là cột mốc thứ mười một trong sự nghiệp quan án của ông. Năm 670, sau nửa năm tiếp quản huyện Lan Phường, Địch Công đã dần khôi phục được trật tự của huyện này. Những tưởng mảnh đất đã yên bình trở lại, nào ngờ vẫn ẩn tàng những tội ác vô cùng đáng sợ. Trong một lần tìm kiếm thư khố của huyện nha, ông vô tình phát hiện ra tập hồ sơ về vụ mất trộm vàng khét tiếng của Chưởng cố Tư khố Bộ Hộ đến nay vẫn chưa được xử lý. Đào sâu tìm hiểu những manh mối liên quan, Địch Công khám phá ra một mạng lưới nhân tình thế thái phức tạp xoay quanh mọi chuyện. NHÂN VẬT CÁC NHÂN VẬT CHÍNH ĐỊCH NHÂN KIỆT: còn gọi là Địch Công, Huyện lệnh của huyện Lan Phường, một huyện ở biên giới Tây Bắc Đại Đường. HỒNG LƯỢNG: quân sư thân tín của Địch Công, Sư gia của huyện nha. MÃ VINH: một trong các trợ thủ thân tín của Địch Công, giỏi võ nghệ. CÁC NHÂN VẬT KHÁC THẨM TAM: một gã lưu manh có tiếng. THẨM NGŨ: bào đệ của Thẩm Tam. A NGƯU: bằng hữu của Thẩm Tam. HÒA THƯỢNG: biệt danh của Bang chủ Cái bang. BẢO NGUYỆT: vốn họ Thẩm, là quả phụ nhà họ Trương, một nữ tu ở am Thanh Phong. XUÂN VÂN: tiểu tì của Bảo Nguyệt. THÁP LẠP: bà đồng người Đột Quyết. LÝ MAI: chủ một tiệm kim hoàn. LÝ KHA: họa sư, đệ đệ của Lý Mai. NGÔ TÔNG NHÂN: cựu Thứ sử. NGÔ PHU NHÂN: vốn họ Chu, phu nhân của Ngô Thứ sử. DƯƠNG MẬU ĐỨC: một gã văn nhân phóng đãng.
CÁC VỤ ÁN TRONG TRUYỆN Vụ án TỬ THI BỊ ĐÁNH TRÁO. Vụ án LỜI CẦU CỨU TRONG HỘP. Vụ án NĂM MƯƠI THỎI VÀNG BỊ MẤT CẮP. ĐỊA ĐỒ PHÁC HỌA HUYỆN LAN PHƯỜNG 1. Nha phủ; 2. Tư thất của Địch Công; 3. Miếu Khổng Tử; 4. Miếu Quan Đế; 5. Tháp Chuông; 6. Tháp Trống; 7. Tháp Cửu Trùng; 8. Bắc Liêu Phường; 9. Đồn binh của huyện Lan Phường; 10. Tư dinh của Ngô Tông Nhân; 11. Nhà của Lý Mai; 12. Nhà của Lý Kha; 13. Hầm rượu của Hòa Thượng; 14. Đông môn; 15. Chùa Tử Quang; 16. Am Thanh Phong HỒI 1 Chốn hoang phế nảy ra quái sự Đêm ma mị đồng lõa mưu gian Ả đứng bất động, nhìn chăm chăm vào vật nằm bên miệng giếng cổ. Không một ngọn gió nào xuất hiện giữa bầu không khí nóng ẩm đang bủa vây khu vườn của ngôi chùa tối tăm. Vài bông hoa hạnh rung rinh trên tán cây trải rộng trên đầu người, trắng sáng lên trong đốm lửa từ chiếc đèn lồng. Và càng trắng hơn khi nằm lẫn giữa những vết máu trên nền đá nhuốm màu thời gian. Kéo tà áo rộng sát vào ngực, ả nói với nam nhân cao lớn đứng bên mình, “Ném cả nó xuống giếng đi! Rất an toàn; giếng cổ này đã nhiều năm không ai lui tới. Ta không nghĩ còn có ai biết về nó.” Nam nhân khắc khoải nhìn khuôn mặt vô hồn, tái xám của ả, đặt ngọn đèn lồng lên đống đá cuội và gạch vỡ cạnh giếng rồi vừa run rẩy với vẻ sốt ruột, vừa tháo chiếc khăn quàng ra. “Ta muốn an toàn gấp đôi, nàng thấy không. Ta sẽ gói nó lại và…” Nhận thấy mình đã lớn tiếng giữa khu vườn của ngôi chùa hoang, hắn lại thì thầm, “…và chôn nó trong rặng cây phía sau chùa. Tên say rượu ngu ngốc kia có vẻ đang ngủ và sẽ không có ai còn thức sau nửa đêm.”
Ả bình thản đứng nhìn hắn bọc cái thủ cấp trong khăn quàng. Những ngón tay hắn run lên dữ dội đến nỗi hắn khó khăn lắm mới buộc chặt được nút thắt. “Ta không thể làm nổi!” Hắn thì thào chống chế. “Thật là… thật quá sức của ta. Sao… sao nàng lại dám ra tay vậy? Hai lần, và thật giảo hoạt…” Ả nhún vai. “Chàng cần phải biết về khoảng trống giữa các khớp xương”, ả đáp lãnh đạm. Rồi ả cúi mình bên miệng giếng cổ. Từng cụm dây thường xuân dày đặc đã phủ kín phần gỗ mục nát của thanh xà cũ kỹ và những dải phướn dài rủ xuống trong bóng đêm thâm sâu, bám vào một sợi dây mòn, lúc trước dây còn treo một chiếc gầu. Có gì đó xao động trong tán lá rậm rạp của đám cây cổ thụ. Hoa hạnh trắng lại đổ xuống như mưa. Vài bông rơi đúng tay ả. Hoa lạnh như tuyết. Ả thu tay lại và phủi hoa đi. Rồi ả chậm rãi nói, “Tiết đông năm trước, khu vườn này bị tuyết phủ trắng xóa. Một màu trắng xóa…” Giọng ả lạc đi. “Đúng thế”, gã nam nhân hăm hở. “Đúng rồi! Trong thành cũng rất đẹp. Tuyết đóng thành nhũ trên mái ngôi chùa bên hồ sen trong những chiếc chuông nhỏ”, hắn lau khuôn mặt nóng bỏng ướt sũng rồi nói thêm, “Không khí lạnh thật sảng khoái. Ta còn nhớ rằng sáng hôm đó…” “Đừng nhớ nữa”, ả lạnh lùng ngắt lời. “Quên hết đi! Chỉ nghĩ đến tương lai thôi. Vì lúc này chúng ta sẽ có thể đạt được tương lai ấy. Tất cả. Mau đi thôi, ra khỏi chốn này.” “Bây giờ?” Hắn kinh ngạc. “Ngay sau khi…” Hắn nhìn ả khinh khỉnh rồi vội nói, “Ta đã nói là ta mệt quá rồi. Thật đó!”
“Mệt ư? Chàng vẫn luôn khoe khoang về sức vóc của mình!” “Nhưng đâu còn gì để phải vội vàng nữa, đúng không? Chúng ta có thể đi và đạt được tương lai ấy bất cứ khi nào chúng ta muốn. Và chúng ta…” “Ta bỗng có việc gấp. Nhưng ta có thể hoãn lại. Chỉ một đêm thôi nhé?” Hắn nhìn ả buồn bã. Và khát vọng của hắn đối với nữ nhân này thật cay đắng, khiến hắn chịu giày vò. “Sao nàng không thể là của ta, của riêng ta thôi?” Hắn van nài. “Nàng biết ta sẽ làm bất cứ điều gì nàng muốn. Ta đã chứng minh rồi đấy, ta…” Hắn bật khóc, vì hắn thấy ả không nghe những lời hắn vừa nói. Ả đang chăm chú nhìn lên khoảng không giữa những tán lá, rải rác những bông hoa trắng. Đỉnh của hai tòa bảo tháp ba tầng đâm xuyên vào nền trời đêm. Cả hai ngọn tháp sừng sững hai bên sảnh chính của ngôi chùa, tạo nên sự đối xứng hoàn hảo. HỒI 2 Án năm cũ vẫn còn dai dẳng Quà sinh nhật lại hóa hung tin Sáng sớm hôm sau, bầu không khí nóng bức nặng nề vẫn bao phủ lên huyện Lan Phường. Trở về thư phòng sau khi tản bộ buổi sáng, Địch Công thấy mệt nhọc vô cùng khi bộ trường bào của ông đã ướt sũng mồ hôi, dính chặt vào đôi vai rộng. Ông rút chiếc hộp gỗ nhỏ trong tay áo ra và đặt lên án thư. Ông đến bên chiếc rương đựng y phục trong góc phòng. Sau khi đổi sang bộ thanh y mát mẻ mặc trong tiết hạ, ông mở tung cửa sổ và nhìn ra ngoài. Người trợ thủ vạm vỡ của ông là Mã Vinh đang đi ngang qua khoảng sân lát đá của huyện nha, trên vai vác nguyên một con lợn quay. Y đang ngâm nga một bài ca. Giữa khoảng sân trống trải, âm điệu đó nghe thật khó chịu và kỳ quặc.
Địch Công đóng cửa sổ lại và ngồi xuống bên án thư, trên đó bày ngổn ngang các loại văn kiện. Ông xoa mặt và nghĩ mình cũng phải được thoải mái trong ngày đặc biệt này. Ông nhìn sang chiếc hộp nhỏ bằng gỗ mun mà ông đặt ở một góc án thư. Miếng ngọc thạch trang trí trên vỏ hộp màu đen nhã nhặn đang ánh lên một màu sáng u hoài. Sáng nay, khi đi tản bộ, ông đã trông thấy chiếc hộp trong cửa sổ của hiệu buôn cổ vật dưới phố và ông phải mua ngay, không do dự. Vì miếng ngọc thạch có khắc hai chữ “trường cửu” theo lối cách điệu, khiến cho chiếc hộp bỗng hoàn toàn xứng đáng với sự kiện của ngày hôm nay. Không có lý do gì trên đời khiến ông phải ảo não cả. Ông phải tự làm chủ bản thân. Cuộc sống ảm đạm ở trấn huyện miền biên cương xa xôi này khiến ông phải kiên định hơn. Ông không được sa vào những thời khắc buồn thảm như thế này. Bằng một động tác kiên quyết, ông đẩy cả chồng văn thư đồ sộ vào một góc, dọn một khoảng trống trên mặt án thư trước mặt mình, rồi ông vỗ tay gọi gia nhân. Bữa điểm tâm đã làm dịu cái bụng cồn cào của ông. Còn cần phải giải quyết cái nóng bức nữa. Ông cầm lấy chiếc quạt lông vũ lớn. Tựa người ra chiếc ghế bành bằng gỗ keo có chạm khắc, ông phe phẩy cây quạt. Cửa mở, một lão nhân gầy gò bước vào. Lão mặc trường bào màu lam, đội chiếc mũ nhỏ màu đen trên mái đầu bạc. Lão nhân chào Địch Công và cẩn thận đặt khay đồ điểm tâm lên một bên án thư. Khi lão vừa đặt xuống án bình trà cùng những đĩa nhỏ đựng rau và cá kho, Địch Công mỉm cười đáp:
“Lão Hồng, cứ để gia nhân đem đồ điểm tâm lên cho ta chứ! Sao lão lại phải động tay vào?” “Lão phu tiện đường ngang qua nhà bếp. Lão phu thấy Mã Vinh vừa mua về một con lợn quay lớn chưa từng thấy!” “Đúng thế, đó sẽ là món chính tối nay. Nào, đưa cho ta bình trà, ta có thể tự rót được! Hồng Sư gia, mau ngồi đi!” Nhưng lão nhân kia lắc đầu. Lão vội rót cho Địch Công một chén trà rồi đặt tô cơm còn nóng hổi xuống trước mặt ông. Xong xuôi, lão mới ngồi xuống chiếc ghế thấp phía trước án thư. Lão liếc nhìn khuôn mặt hốc hác của Địch Công. Vốn là quản gia trong nhà họ Địch từ khi Địch Công còn nhỏ, lão biết rõ tâm tính của chủ nhân. Địch Công cầm đũa và bảo: “Lão Hồng à, đêm qua ta ngủ không được ngon giấc. Bữa điểm tâm thịnh soạn này sẽ lấy lại tinh thần cho ta.” “Khí hậu huyện Lan Phường thật khắc nghiệt”, Hồng Sư gia nói bằng giọng khô khan và nghiêm nghị như mọi khi. “Mùa đông thì lạnh và mưa, đến hè lại nóng ẩm, thỉnh thoảng có một đợt lạnh bất chợt tràn qua từ vùng hoang mạc bên kia biên giới. Đại nhân phải hết sức giữ gìn. Ở đây rất dễ bị cảm lạnh.” Lão nhấp trà, tay trái mân mê bộ ria dài. Đặt chén trà xuống, lão nói, “Quá nửa đêm hôm qua, lão phu vẫn còn trông thấy phòng đại nhân có ánh nến. Mong là không có vụ án nghiêm trọng nào vừa xảy ra?” Địch Công lắc đầu. “Không, không có gì đặc biệt cả. Chẳng có gì đáng kể ở đây, Sư gia ạ, nhất là sau khi ta khôi phục lại luật lệ và trật tự từ nửa năm trước. Có một vài vụ ngộ sát trong trấn, một hai vụ trộm, đó là tất cả! Công việc của ta chủ yếu bao gồm những việc thường lệ của huyện nha. Sinh tử, hôn thú, giải quyết những tranh chấp nhỏ, thu thuế… Rất an bình. Có thể tạm nói là quá an bình!” Ông bật cười nhưng Hồng Lượng nhận thấy đó là một điệu cười gượng gạo. “Lão Hồng, xin thứ lỗi cho ta.” Địch Công vội chữa lại. “Ta có đôi chút mụ mẫm, chỉ có vậy thôi. Ta sẽ sớm lấy lại tinh thần thôi. Nhưng điều nghiêm trọng hơn cả là ta đang lo về mấy vị phu nhân. Cuộc sống ở đây quá tồi tàn đối với họ. Cả ba hầu như không có bất cứ người bạn tâm tình nào ở xó huyện nhỏ bé này, cũng chẳng có mấy thú tiêu khiển. Không có kịch hay để xem, chẳng có cảnh đẹp mà dạo… Và tầm ảnh hưởng của hãn quốc Đột Quyết vẫn còn lớn đến nỗi các lễ hội của người Hán ở đây đều rất ít khi được xem trọng. Đó là lý do ta rất vui vì lễ mừng sinh nhật nho nhỏ dành cho Đại phu nhân tối nay.” Ông lắc đầu và lặng lẽ ăn một lúc. Sau khi buông đũa, ông ngả người ra ghế.
“Sư gia vừa hỏi ta về chuyện đêm qua. Xem nào, trong khi tìm kiếm giữa thư khố của huyện nha, ta tìm được tập hồ sơ về vụ án khét tiếng còn chưa được xử lý, đó là một vụ trộm xảy ra ở đất này. Vụ trộm vàng của Chưởng cố Tư khố Bộ Hộ Trâu Kính Văn đại nhân.” “Sao đại nhân lại chú ý đến vụ án đó? Đó là vụ án từ năm trước. Từ trước khi đại nhân nhậm chức ở huyện Lan Phường này!” “Đúng thế. Vụ án xảy ra chính xác là vào ngày mồng hai, tháng Tám, năm Tân Tỵ. Nhưng những vụ án chưa được phá giải thì luôn khiến ta hứng thú, lão Hồng ạ. Dù là cũ hay mới!” Hồng Sư gia khẽ gật đầu. “Lão phu nhớ đã đọc được bố cáo của triều đình về vụ trộm đó, khi chúng ta vẫn còn ở huyện Phổ Dương. Vụ trộm đó gây náo động cả chốn quan trường. Trâu đại nhân đi ngang qua huyện này trên đường đến gặp Khả Hãn của người Đột Quyết bên kia biên giới. Ông ta ra lệnh mua của Khả Hãn vài con ngựa tốt nhất từ người Đột Quyết để đem về cho triều đình sử dụng. Đại nhân mang theo năm mươi thỏi vàng lớn.” “Đúng thế. Số vàng bị lấy trộm trong đêm, và bị thay thế bằng những thỏi chì. Không tìm ra được kẻ trộm và…” Có tiếng gõ cửa. Mã Vinh bước vào, mỉm cười hồn hậu, “Đại nhân, thuộc hạ đã mua một con lợn quay tuyệt hảo nhất từ trước đến giờ!” “Mã Vinh, ta đã trông thấy ngươi đem về. Tối nay chúng ta chỉ có một vị khách thôi, một nữ bằng hữu của các phu nhân, và bà ấy là một người chay tịnh. Vậy nên sẽ còn nhiều thịt lợn quay cho tất cả mọi người đấy. Ngồi đi. Ta đang nói chuyện với Sư gia về vụ trộm vàng năm ngoái.”
Người trợ thủ cao lớn buông mình xuống chiếc ghế bên cạnh. “Một Chưởng cố Tư khố thì phải biết cách bảo vệ số vàng mà triều đình đã giao phó cho mình.” Y lãnh đạm bình phẩm. “Ông ta được ăn lương để làm việc đó! Đúng rồi, thuộc hạ nhớ vụ án ấy. Ông ta không bị cách chức sao?” “Có chứ.” Địch Công đáp. “Không tìm ra được kẻ trộm và cũng không lấy lại được số vàng. Nhưng vụ án được điều tra vô cùng kỹ lưỡng.” Ông đặt tay lên tập hồ sơ trước mặt mình và nói tiếp, “Đây là những ghi chép vô cùng có giá trị, Mã Vinh à, đáng để xem xét cẩn thận hơn. Huyện lệnh huyện Lan Phường khi ấy trước hết đã thẩm vấn Hiệu úy và các binh sĩ hộ tống Trâu đại nhân. Ông ta đã lập luận rất chặt chẽ rằng, vận chuyển một số vàng lớn như vậy là một bí mật của triều đình cần được giữ kín nghiêm ngặt, và do chỉ có Trâu Kính Văn biết rõ về mục đích nhiệm vụ của ông ta, nên tên trộm chắc chắn là người trong nội bộ. Thêm một manh mối khác cũng chứng minh cho điều đó. Hành lý của Trâu đại nhân bao gồm ba chiếc rương bọc da có cùng kích thước, kiểu dáng và màu sắc, cả ba nắp rương đều được khóa bằng cùng một loại khóa. Dấu vết khác biệt duy nhất đó là một phía của chiếc rương đựng vàng đã bị rách. Bấy giờ, chỉ có chiếc rương đó là được mở ra. Hai chiếc còn lại, đựng y phục và những vật dụng cá nhân khác, vẫn chưa hề được động đến. Đó là lý do Huyện lệnh bắt đầu tra án bằng cách điều tra đoàn tùy tùng của Trâu đại nhân.”
“Mặt khác”, Hồng Sư gia nói, “kẻ trộm đã thay thế số vàng bằng những thỏi chì. Rõ ràng vì hắn hy vọng mãi đến khi mở rương thì Trâu đại nhân mới phát hiện ra bị mất vàng, khi ấy ông ta đã đến lãnh thổ của người Đột Quyết. Chi tiết này cho thấy đó là một kẻ không ở trong đoàn hộ tống. Những kẻ trong đoàn đều biết triều đình đã có lệnh, hàng đêm trước khi ngủ thì người áp tải vàng của triều đình kiểm tra lại xem vàng có bị thất thoát hay không, và mỗi sáng khi tỉnh dậy cũng đều phải kiểm tra lại.” Địch Công gật đầu. “Khá đúng. Tuy nhiên, Huyện lệnh tiền nhiệm cho rằng đây chỉ là một mánh khóe để đánh lạc hướng điều tra, hòng gán vụ trộm cho người ngoài.” Mã Vinh đứng dậy và tiến đến bên cửa sổ. Nhìn quanh khoảng sân trống, y cau mày đáp: “Thuộc hạ tự hỏi gã Bộ đầu* lười biếng đó đang làm gì! Hắn nên đưa Bộ khoái* đi thao luyện buổi sáng mới đúng!” Nhìn vẻ khó chịu của Địch Công, y vội ngồi xuống. “Đại nhân, xin thứ lỗi! Nhưng Kiều Thái và Đào Cam đã lên đường về kinh thành để hỏi về chuyện đồn binh của ta bị tiết giảm, thuộc hạ phải đích thân giám sát các Bộ khoái và lính canh.” Y lại ngồi xuống và tỏ vẻ hứng thú, “Tên trộm không để lại bất cứ dấu vết nào sao?” Chức vụ đứng đầu một khoái ban chuyên phụ trách truy nã, bắt giữ tội phạm và duy trì trị an. Chức vụ phụ trách truy nã, bắt giữ tội phạm và duy trì trị an cấp huyện thời xưa. Tập thể các Bộ khoái là khoái ban và người đứng đầu khoái ban là Bộ đầu.