text
stringlengths
1
809k
Câu hỏi ấy dường như làm vị chưởng quỹ bối rối. “Không… không có ngay lập tức được, thưa đại nhân. Nhưng tiểu nhân sẽ cố hết sức để…” “Tốt lắm. Thêm vào cả những miêu tả chi tiết nữa. Tiện đây, ngươi có thể nhờ bào đệ của mình sao chép các bức chân dung. Ông ta là một họa sư thành thục…” Chưởng quỹ tái mặt. “Bẩm đại nhân, tiểu nhân đã hoàn toàn cắt đứt quan hệ với Lý Kha.” Y nói. “Tiểu nhân phải ngượng ngùng mà thưa với đại nhân, đó là một kẻ thiếu nhân cách. Trong nhiều năm, y sống trong nhà tiểu nhân mà ăn bám. Không động tay vào bất cứ việc gì. Suốt ngày chỉ mải mê tô vẽ, hoặc đọc những thứ sách nhảm nhí về thuật điểm đá hóa vàng hay sách của những triết gia phi chính thống. Hàng đêm, y đều đi đánh bạc, chè chén hoặc làm những chuyện đồi bại hơn nữa. Y cùng một giuộc với Ngô phu nhân và…” Chưởng quỹ ngừng lại và cắn môi. “Ngô phu nhân sao?” Địch Công ngỡ ngàng. “Tiểu nhân lẽ ra không nên nhắc đến nữ nhân này!” Lý Mai tỏ vẻ hối hận. “Tuy nhiên, tiểu nhân đôi khi vẫn như vậy, nên tiểu nhân cũng sẽ giãi bày cùng đại nhân. Tiểu nhân biết Ngô phu nhân và nam nhân mà bà ta cùng chung sống trước khi thành thân với Ngô đại nhân. Kẻ đó là một thợ kim hoàn lành nghề, vẫn hay làm những việc lặt vặt cho tiểu nhân. Nhưng cũng là kẻ lừa đảo và giao du với toàn những kẻ lừa đảo. Khi hắn bỏ bà ta, bà ta đến chỗ tiểu nhân, hỏi tiểu nhân xem có thể cho bà ta một công việc không, có thể ở ngay tại một cửa hiệu. Ngô đại nhân tình cờ xuất hiện, và ông ấy nhất thời tỏ lòng hào hiệp. Tiểu nhân muốn cảnh báo ông ấy về hoàn cảnh trước đó của nữ nhân này, nhưng bà ta thề trước mặt tiểu nhân, sẽ không bao giờ tham gia vào những trò lừa đảo nữa, và cũng nghiêm túc cam đoan rằng bà ta sẽ là hiền thê của Ngô đại nhân. Tiểu nhân thừa nhận, bà ta là người đảm đang và tháo vát, nên tiểu nhân giữ thái độ ôn hòa. Và Ngô đại nhân thành gia thất với bà ta, chính là vào ngày mười lăm, tháng Chín năm ngoái. Tiểu nhân phải nói rằng, bà ta thực sự giỏi quán xuyến mọi việc trong nhà. Không may, bà ta lại không hòa thuận với Bạch Ngọc.”
“Phải rồi, ta có nghe người ta đồn đại. Tại sao thế?” “Bẩm đại nhân, tiểu thư Bạch Ngọc là vị cô nương duyên dáng, thông hiểu kinh sử nhưng lại hoàn toàn không thạo chuyện đời. Tiểu thư có xu hướng nhìn mọi thứ bằng con mắt trong sáng đầy những giáo lí của sách vở. Nàng không chấp nhận được sự thật là kế mẫu của mình xuất thân từ một hoàn cảnh khác biệt. Nàng ngay lập tức bất hòa với bà ta. Hai người họ không ưa gì nhau, tiểu nhân tin là vậy. Ngô đại nhân hiểu chuyện và tự mình dạy dỗ Bạch Ngọc. Một tình thế bất thường, đại nhân ạ. Một thiếu nữ lại không hề được một phu nhân lớn tuổi hơn bảo ban, khuyên nhủ. Bởi thế, tiểu nhân vui mừng khôn xiết khi Ngô đại nhân dự định để tiểu nhân thành thân với nàng. Dĩ nhiên, tiểu nhân hơi nhiều tuổi hơn nàng, nhưng Ngô đại nhân nói Bạch Ngọc cần một phu quân có thể kiên nhẫn giải thích mọi chuyện cho nàng và cho nàng biết cuộc đời này hay dở ra sao. Mặt khác, nàng cần một phu quân có thể ở bên nàng, gần như chính Ngô đại nhân đã ở bên nàng từ sau khi mẫu thân nàng qua đời.” Chưởng quỹ vuốt bộ ria rồi nói tiếp, “Tiểu nhân vô cùng yêu thương tiểu thư Bạch Ngọc, và tiểu nhân nghĩ mình có thể nói mình trẻ hơn so với tuổi. Thú vui duy nhất của tiểu nhân là săn bắn và chỉ như vậy mới giúp tiểu nhân giữ được khí độ.” “Được rồi. Ta hỏi luôn, ngươi có đồng ý với Ngô đại nhân khi nói gã kí lục Dương Mậu Đức đã ve vãn tiểu thư Bạch Ngọc không?”
“Không, thưa đại nhân. Tiểu nhân không thể nói mình quý mến Dương Mậu Đức; hắn hay lui tới những nơi mà bào đệ phóng đãng của tiểu nhân cũng lui tới. Nhưng khi ở trong nhà Ngô đại nhân, cách đối nhân xử thế của hắn luôn chuẩn mực. Tóm lại, hắn chỉ làm công việc của một kí lục mà thôi.” Y ngẫm nghĩ một lát rồi nói tiếp, “Có thể Ngô đại nhân hơi quá nghi ngờ về mục đích của các nam nhân khác đối với tiểu thư. Bạch Ngọc không hề có được một mái ấm và đó cũng chính là lý do tiểu nhân muốn thành thân với nàng càng sớm càng tốt.” “Lý chưởng quỹ, bản quan xin đa tạ ngươi vì đã nói ra những điều giá trị. Nếu ngươi không còn muốn giãi bày thêm điều gì, chúng ta sẽ ngừng lại ở đây. Ta có một số sự vụ cấp bách phải xử lý trước khi thăng đường. Ta sẽ cho ngươi biết về tiến trình điều tra của ta.” Khi chưởng quỹ cúi chào và ra về, Mã Vinh nói, “Một người chính trực. Chúng ta phải tìm cách…” Địch Công không hề lắng nghe. Ông trầm ngâm nói, “Ta tự hỏi vì sao Lý Mai quay lại đây. Nghĩ lại lý do chính của cuộc trò chuyện này, ta chỉ có thể nhớ được một câu mà y đã hỏi. Đó là ta có tìm được bằng chứng nào không. Y cũng nói ra hai nhận định đặc biệt: y nhắc lại ý muốn thành thân với tiểu thư Bạch Ngọc, và y nhấn mạnh vào tầm quan trọng của việc tìm kiếm tiểu thư ở những huyện kế bên. Nếu đến gặp ta chỉ để nói thế thì gần như không đáng chút nào! Ta thấy rất lạ.”
“Đại nhân, lão phu nghĩ”, Hồng Sư gia nói thêm, “y cũng muốn bôi nhọ cả Ngô phu nhân. Rõ ràng y cố tình nhắc đến bà ta chứ không phải lỡ miệng. Y chủ đích đào bới quá khứ của bà ta.” “Đúng thế, Sư gia ạ, ta cũng có ấn tượng tương tự. Ôi, các vị, giờ hãy chuyển sang án mạng kép. Ta đã định đến ngôi chùa hoang để điều tra thật kĩ lưỡng ngay sau bữa điểm tâm sáng, nhưng những vị khách này lại lấy hết thời gian của ta. Chúng ta sẽ đến đó sau phiên thăng đường. Ta sẽ bãi đường sớm nhất có thể chỉ đưa ra một vài nhận định chung nhất về án mạng trong ngôi chùa và tuyên bố huyện nha vẫn đang điều tra, A Ngưu vẫn đang bị giam giữ để chờ kết quả. Mã Vinh, ngươi không cần có mặt trên công đường. Ta muốn ngươi đi gặp kẻ được xưng là Bang chủ Cái bang kia. Dù ông ta không còn lại chút ảnh hưởng nào, nhưng đương nhiên ông ta sẽ biết nhiều về tình hình trong trấn.” “Cứ hỏi ông ta có biết Thẩm Tam không. Rồi ngươi cũng sẽ phải nghĩ cách tìm ra người đã xăm mình cho Thẩm Tam. Không có nhiều người như vậy đâu, vì thẩm mĩ đối với hình thức trang điểm kì dị ấy đang mai một dần. Nghe thật khó tin, nhưng những kẻ mối lái và đám du côn hạ lưu đều cả thèm chóng chán! Nếu ngươi tìm ra được kẻ đó, hãy hỏi hắn xem Thẩm Tam đã bình phẩm gì khi hắn xăm hình ngôi chùa lên lưng. Ta hy vọng rằng…” Bộ đầu bước vào, mang theo hai tập văn thư lớn. Y đặt chúng lên án thư và nói với vẻ nghiêm trọng, “Bẩm đại nhân, đây là những bằng chứng bổ sung về vụ án nhà họ Cao và nhà họ Lư. Nhà họ Cao dựa trên cơ sở những dữ liệu này, tự tin cho rằng đại nhân sẽ có thể xử lý êm xuôi vụ án này trong buổi sáng hôm nay. Thuộc hạ đem những hồ sơ này từ pháp đường đến cho đại nhân xem xét.” Y cẩn thận phủi sạch bụi bặm trên tập hồ sơ. Trong đó có tất cả những tài liệu liên quan đến một vụ tranh chấp rất rắc rối về thừa kế đã bị trì hoãn vài tháng, liên quan đến một số tiền lớn. Vì đã có lệ, bên thắng kiện sẽ hào phóng tặng cho Bộ đầu và bộ hạ của y một món tiền lớn, nên y và người của y quan tâm sâu sắc đến vụ này.
“Được rồi, Bộ đầu. Mau đi xem công đường đã được chuẩn bị sẵn sàng để xét xử chưa!” Bộ đầu vừa đóng cửa lại, Địch Công bực bội thốt lên, “Thật toàn chuyện xui xẻo! Ta đã hoàn toàn giao phó vụ án Cao Lư cho Chánh Lục sự. Ông ta đã xem xét vụ án và nắm rõ mọi chi tiết trong tay! Và giờ thì ông ta lại đang ở huyện Thư Mạt! Chúng ta sẽ phải xem qua hai hồ sơ này thật nhanh, Hồng Sư gia ạ! Còn nửa canh giờ nữa là thăng đường! Mã Vinh, mau tận dụng thời gian làm những việc ta đã dặn ngươi. Ta rất sợ phiên thăng đường này phải đến tận xế chiều mới kết thúc!” HỒI 14 Hảo hán xin Quan Công chiếu cố Bang chủ trao Mã Vinh mộc bài Mã Vinh đổi sang bộ đồ cũ mà y đã mặc khi đến gặp Thổ Nhĩ Bối và Tháp Lạp hôm trước. Y ra chợ và ngồi xuống một bàn trong quán ăn rẻ tiền không có mái che, quán này chỉ toàn đám phu phen tạp dịch hay lui tới. Y ăn một bát mì lớn, rồi thêm một bát nữa vì mì nấu khá ngon. Y ợ lên mấy cái để thể hiện mình ăn ngon miệng, lấy tăm xỉa răng rồi bảo một người phu đang xì xụp húp mì cạnh mình, “Con mãng xà trên tay huynh trông thật có hồn. Mụ nhà ta bảo ta cũng nên xăm một con mãng xà trước ngực, nó sẽ chuyển động mỗi khi ta hít thở. Mụ ta nói lúc nào hình xăm đó cũng khiến mụ kích thích.” Người kia nhìn lồng ngực đồ sộ của Mã Vinh rồi ước lượng.
“Ngươi sẽ tốn khá nhiều tiền đấy! Nhưng ngươi không phải đi đâu xa để xăm đâu. Người thợ xăm giỏi nhất có một quầy hàng ở ngay lối đi bên cạnh.” Mã Vinh đến nơi thì thấy gã thợ xăm đang mải ngồi xỉa răng. Y quan sát hắn một lát, rồi cất giọng gắt gỏng với hắn, “Mặt hổ mà ngươi xăm trên lưng bằng hữu Thẩm Tam của ta không hề có tác dụng tốt! Hắn bị giết rồi!” “Huynh đệ à, là lỗi của hắn thôi! Ta đã bảo hắn là một cái hình xăm mặt hổ không thể bảo vệ hắn nếu hắn không thêm vào những sợi ria màu đỏ. Như vậy thì phải trả thêm cho ta mười đồng xu nữa, vì thuốc đỏ loại tốt thì đắt hơn, ngươi biết mà. Hắn không đồng ý. Và ngươi thấy chuyện gì đến với hắn rồi đó!” “Hắn bảo ta hắn không cần bất cứ sợi ria mép nào trên mặt hổ, vì hình xăm của ngôi chùa thiêng mà ngươi xăm ở ngang hông hắn đã là một loại bùa đầy quyền uy rồi. Tại sao lại phải tốn thêm mười xu vô ích chứ?” “Vậy ra đó là ngôi chùa sao? Thẩm Tam nói đó chỉ là một căn nhà! ‘Đa kim đa phúc’, hắn bảo ta xăm mấy chữ đó bên dưới hình ngôi nhà. Chẳng thấy vàng đâu mà lại vô phúc, tội nghiệp cho hắn! Ngươi thì muốn gì đây? Muốn xem các mẫu hình xăm không?” “Không phải ta! Ta không chịu được đau! Cáo từ.” Y rảo bước bỏ đi, miệng vẫn ngậm tăm, trầm ngâm. Thẩm Tam vẫn luôn kín tiếng về số vàng ấy. Khi đến trước miếu Quan Đế, y mua hai xu hương của một thầy tu đang ngồi ngủ gật trước một cửa hiệu nhỏ. Mã Vinh châm hương và cắm vào chiếc lư đồng trên án thờ. Bên trên án là tượng Quan Công uy nghi đường bệ, râu dài quá ngực, tay cầm long đao.
“Võ Thánh, hôm nay xin ngài ban cho tiểu nhân một chút may mắn, có được không?” Y khấn. “Và ban cả may mắn cho một thôn nữ nhỏ bé, nếu có thể. Vụ án mà tiểu nhân đang giải quyết đang thiếu may mắn trầm trọng!” Dưới phố, một kẻ hành khất chỉ còn một chân chìa tay ra. Mã Vinh bỏ vào lòng bàn tay nhem nhuốc ấy một đồng xu, và hỏi đường đến hầm rượu của Bang chủ Cái bang. Kẻ đó giương đôi mắt quỷ quyệt nhìn y, đôi mắt hắn đã trũng sâu trên khuôn mặt nhăn nheo. Rồi hắn tập tễnh chống nạng quay đi, nhanh hết sức có thể. Mã Vinh chửi thề. Y định hỏi lại hai kẻ nhàn tản khác, nhưng chúng chỉ nhìn y thờ ơ mà không nói gì. Y vu vơ đi qua những con ngõ nhỏ hôi hám và những con hẻm ồn ào, cố tìm ra một nơi thích hợp để hỏi chỗ ở của vị Bang chủ đang lánh đời kia. Y biết người nghèo sẽ giữ kín những bí mật của mình và cũng vì nghèo túng mà luôn luôn gây khó dễ cho người khác. Vừa mệt vừa khát, y vào một tửu điếm nhỏ. Đến bên quầy, y nghĩ mình sẽ phải tạo dựng một danh tính giả. Y chắc chắn ai cũng tin mình là một tên lưu manh đầu đường xó chợ; nhưng họ lại không quen y, vậy nên họ mới lạnh nhạt. Năm, sáu người phu đứng ở quầy nhìn y hồ nghi. Đăm chiêu nhìn vào rượu trong bát đặt trước mặt, y lại thấy tiếc khi vị bằng hữu, nghĩa huynh Kiều Thái của y không ở đây thưởng rượu cùng. Một cuộc đối tửu đâu ra đấy của hai người sẽ xóa đi bầu không khí nặng nề này.
Khi uống hết bát thứ ba, rèm cửa kéo sang một bên và một nữ nhân nhếch nhác xuất hiện. Những người phu đều biết ả ta, liền buông lời chọc ghẹo rất thô thiển. Một người còn chộp lấy tay áo đã bạc màu của ả. Ả vừa chửi rất tục vừa đẩy hắn ra. “Buông ra! Ta chỉ tiếp khách ban đêm thôi, ban ngày là để ngủ. Ta phải đi thăm mẫu thân ta, bà ấy lại ho ra máu, không có ai chăm sóc cả. Cho ta uống chút gì đi, ta sẽ trả tiền!” “Để ta mời cô.” Mã Vinh cộc cằn nói. “Tại sao chứ? Ngươi là ai?” “Người huyện Thư Mạt. Biểu ca của Thẩm Tam.” Đám phu nhìn y dò xét. “Đến để chia tài sản thừa kế cùng hắn à?” Một kẻ nói với vẻ khinh bỉ. Mấy kẻ khác cười phá lên đắc ý. “Ta đến để tính sổ.” Mã Vinh nhẹ nhàng nói. Rồi khi cả đám bỗng im bặt, y nói thêm, “Có ai muốn giúp ta không?” “Bọn ta không tính nổi.” Một lão phu già khẽ nói. “Nha phủ đã tóm được A Ngưu, và đương nhiên hắn sẽ bị chặt đầu. Nhưng A Ngưu không làm chuyện táng tận đó. Không phải là một kẻ trong số bọn ta đâu. Là một tên khốn kiếp ở nơi khác đến.” “Ta không quan tâm hắn là ai cho đến khi tự tay ta tóm được hắn. Bang chủ Cái bang lâu nay thế nào?” “Bang chủ thê thảm lắm rồi.” Ả kĩ nữ kia lẩm bẩm. “Cứ hỏi đám nữ nhân sống ở đó! Mười xu một lần, không được gặp trước đâu!” Ả uống một hớp rượu. “Dù sao cũng cứ hỏi Bang chủ đi. Ta còn nhớ ta có lần trông thấy Thẩm Tam ở quanh đó.”
Mã Vinh đứng dậy và trả tiền rượu cho cả hai. “Hãy đưa ta đến đó.” Y bảo ả kia. “Có mười đồng tiền cho cô.” “Ta sẽ chỉ cho ngươi nơi đó mà không lấy tiền, chẳng cần gì cả. Thẩm Tam là kẻ tầm thường, nhưng hắn bị một kẻ lạ mặt sát hại, và chúng ta không thể không làm gì.” Đám phu cũng xì xào tán đồng. Ả dẫn Mã Vinh qua vài con phố. Ả dừng lại ở một góc ngõ quanh co. “Ở đầu bên kia ngõ có một doanh trại cũ. Quan binh đã bỏ đi; đám kĩ nữ tìm đến ở lại trong những lều trại. Bang chủ Cái bang sống trong một hầm rượu. Chúc may mắn!” Con ngõ được lát bằng những viên cuội đủ mọi hình dạng và hai bên là dãy nhà cũ được xây từ những tảng đá lớn màu xám. Trước đây có những gia đình sung túc sống ở đó, nhưng giờ đây những căn nhà này có vẻ đều là nơi trú ngụ của hàng chục gia đình nghèo túng. Mỗi bước chân, Mã Vinh đều phải cúi xuống để tránh giẫm phải những vũng nước từ đám quần áo treo trên những thanh tre thò ra đường ở các cửa sổ tầng trên. Những người dân trong ngõ này ngồi trên những chiếc ghế dài ngoài phố, uống trà và tranh cãi ầm ĩ. Những bà nội trợ ngó ra từ những cửa sổ tầng trên, lắng nghe rồi lại oang oang chõ xuống góp lời. Càng đi vào sâu thì càng yên tĩnh hơn. Gần như không có người qua lại ở góc đường có trại lính. Những cánh cổng gỗ kín mít, những ô cửa sổ đóng kín không để lọt ra bất cứ âm thanh nào. Đám kĩ nữ vẫn ngủ triền miên từ đêm hôm trước.
Bên cạnh cổng, Mã Vinh thấy một cánh cửa vẫn còn mở nhưng thấp và tối tăm. Y cúi xuống và nhìn vào trong. Có một cầu thang dốc toàn những bậc đá xù xì dẫn xuống một hầm rượu. Một thứ mùi ẩm thấp xông vào mũi khi y bước từng bước xuống cầu thang ấy. Hầm rượu tối tăm chỉ rộng tầm mười thước, nhưng có vẻ dài đến hơn bốn mươi thước, mở rộng ra so với mặt tiền. Ánh sáng lờ mờ được tạo ra từ vòm cửa sổ ở ngay dưới trần hầm và ngang tầm với mặt đường. Ở sâu phía trong cùng, một ngọn nến leo lét được đặt trên chiếc bàn thấp lè tè làm từ những khúc gỗ. Ngoại trừ chiếc ghế tre phía trước bàn, chẳng còn thấy đồ đạc nào khác, và hình như trong này cũng không có ai. Khi Mã Vinh tiến đến bên ngọn nến, y thấy đâu đó trong phòng có những dòng nước chảy xuống từ bức tường đá xanh rêu. “Đứng yên đó!” Một giọng nói mỏng manh, yếu ớt vang lên từ trên đầu Mã Vinh. Y nhảy sang bên và nhìn lên. Y thoáng thấy một bóng đen ngồi dựa vào những song sắt cửa sổ. Đến gần hơn, y thấy đó là một người gầy nhỏ và già nua không tả xiết. Người đó đang ngồi vắt chân chữ ngũ trong một góc cửa vòm. Cái đầu trọc lốc, sáng bóng, mũi dài và nhọn, cổ khẳng khiu thò ra từ bộ quần áo đen đúa rách tả tơi, tất cả khiến lão ta trông khá giống một con kền kền sắp sà xuống con mồi. Trong tay lão là cây gậy dài, một đầu có gắn móc sắt trông rất hiểm. Đôi mắt lão nhỏ và sáng, khi liếc nhìn Mã Vinh thì thật khủng khiếp.
“Đợi đã!” Y nói vọng lên. “Tại hạ muốn gặp Bang chủ Cái bang. Muốn xin được chỉ giáo.” “Cho hắn qua đi, Mắt Lác!” Một giọng nói thâm trầm từ phía trong cùng hầm rượu nói vọng ra. “Sẽ có kẻ trả tiền để được nghe chỉ giáo!” Lão điểu nhân trên cửa sổ cầm gậy ra hiệu cho Mã Vinh vào. Ngoài phố có tiếng bước chân. Lão điểu nhân ngóc đầu lên và ghé nhìn qua chấn song. Bằng một động tác vô cùng nhanh gọn và bất ngờ, lão xoay đầu gậy, thò gậy ra bên ngoài chấn song sắt. Lão lại thu gậy về, gỡ từ cái móc sắt trên đầu gậy ra một mẩu bánh rán dính đầy bùn đất và tóp tép nhai rất ngon lành. Mã Vinh tiến lại chỗ bàn, y nghĩ mình thật may khi không bị cái móc sắt kia móc vào cổ. Y căng mắt ra nhìn, nhưng ở phía bên kia chiếc bàn, y chỉ có thể thấy một miệng hầm tối đen, hai bên là hai cây cột đá lớn. Cây cột bên phải dường như sắp đổ sụp xuống, khắp trên dưới đều đầy những lỗ hổng lớn phủ kín nhiều lớp mạng nhện. “Mời ngồi!” Vẫn là giọng nói thâm trầm kia. Trong khi Mã Vinh ngồi xuống chiếc ghế bằng tre, một bàn tay to lớn và lông lá thò ra từ bóng tối và dùng ngón trỏ lẫn ngón cái để khêu ngọn nến lên. Ngọn lửa cháy sáng hơn trước, Mã Vinh thấy thứ mà y tưởng là một đống gạch đá khi nãy hóa ra lại là một người to lớn râu dài, không có hình dạng rõ rệt. Người đó đang ngồi phía sau bàn, khom người trên bệ đỡ của cây cột. Tấm lưng to rộng của lão vừa khít với khoảng trống trên cây cột, nơi những viên gạch đã rơi rụng hết. Lão phơi ra mái tóc bạc rối bù; từng mớ tóc dài rối tung rủ xuống vầng trán cao và xô lệch vì những nếp nhăn sâu. Dưới cặp lông mày rậm và rối là cặp mắt to đen láy, dõi nhìn Mã Vinh bằng ánh mắt không dao động. Lão mặc chiếc áo vá víu của Cái bang, bạc thếch như màu xám của bụi.
“Tại hạ là Thiệu Bá”, Mã Vinh lên tiếng, “người huyện Thư Mạt. Là biểu ca của Thẩm Tam.” “Hắn nói dối đấy, Hòa Thượng!” Lão già bên cửa sổ chõ xuống. “Thẩm Tam chưa bao giờ nói hắn có biểu ca!” “Thẩm Ngũ đang ở trong tù.” Mã Vinh vội nói. “Tại hạ có nhiệm vụ tìm bắt kẻ đã giết Thẩm Tam.” “Vậy tại sao Thiệu Bá ngươi lại tìm đến ta?” “Vì ở huyện Thư Mạt, người ta nói ngài là thủ lĩnh ở đây.” “Đã từng là thủ lĩnh!” Mắt Lác quát lên. Lão bật ra một tràng cười rúc rích. Hòa Thượng cúi xuống, nhặt một viên gạch vỡ dưới chân bàn và ném lên chỗ lão già. Tràng cười chợt tắt, thay vào đó là những tiếng kêu đau đớn. Lão bắt đầu ngọ nguậy rối rít trên khung cửa sổ như một con chim trong lồng đang sợ hãi. Lão nhân mang tên Hòa Thượng vẫn mải quan sát Mã Vinh. “Vóc dáng ngươi cũng tựa như Thẩm Tam”, lão nói. “Ta không biết ai đã giết Thẩm Tam, nhưng ta biết Thẩm Tam đã theo đuổi thứ gì.” “Có ích gì đâu!” Mã Vinh giễu cợt. “Số vàng trong ngôi chùa hoang, ai chẳng biết. Sau khi tại hạ tóm được tên sát nhân đốn mạt kia, hắn sẽ cho tại hạ biết chỗ giấu vàng.” Hòa Thượng không nói gì. Lão chậm rãi dùng bàn tay to lớn lau chùi mặt bàn. Mặt bàn gỗ có khắc nhiều hình ảnh, thỉnh thoảng được đánh dấu bằng những ký tự phức tạp và lạ lùng. Giơ ngọn nến lên, Hòa Thượng cúi cái đầu to lớn với mớ tóc bạc bù xù xuống, chăm chú nhìn mê cung ấy. Lát sau, lão ngẩng lên.
“Không, ta đã vẽ quá nhiều sơ đồ ở đây; sơ đồ này đã trở nên lẫn lộn mất rồi.” Mã Vinh chợt nhận ra, dù lão có chất giọng thô lỗ, nhưng lão lại sử dụng thứ ngôn ngữ của người có học. “Ta không thể nói nhiều với ngươi, Thiệu Bá ạ. Không nhiều. Nhưng ta có thể cho ngươi một lời khuyên xác đáng. Hãy lấy số vàng ấy, và quên kẻ sát nhân đi.” “Tại hạ sẽ không quên đâu, nhưng trước hết lấy số vàng ấy thì cũng chẳng có hề gì. Bang chủ muốn bao nhiêu?” “Hai phần ba số đó, Thiệu Bá ạ.” “Ngài điên rồi sao? Một nửa thôi. Ngài nên nhớ, tại hạ còn phải chia cho cả Thẩm Ngũ!” “Cũng như Bang chủ sẽ chia vàng cho tôi!” Lão già trên cửa sổ lại lên tiếng. “Được.” Hòa Thượng lục tìm trong tay áo rách nát và đặt một mộc bài* lên bàn, trên đó có khắc vài chữ rất lạ. “Thiệu Bá, tối nay ngươi hãy đến am Thanh Phong. Đó là một thảo am, gần chùa Tử Quang, nằm trên ngọn đồi bên ngoài cổng thành phía Đông. Bất cứ ai cũng có thể chỉ chỗ cho ngươi. Leo qua tường và đến chỗ ở của tiểu tì, một căn nhà nhỏ bên trái cổng vào, gõ cửa bốn lần. Đưa mộc bài này cho tiểu tì ở đó. Tên cô ta là Xuân Vân.” Miếng gỗ nhỏ hình chữ nhật. “Cô ta còn xuân lắm!” Mắt Lác cười ré lên. Hòa Thượng lại ném một viên đá vào lão nhưng không trúng. Hòn đá rơi lạch cạch xuống sàn, lão già lại bật ra một tràng khùng khục. “Mắt ngài cũng đã kém rồi, Hòa Thượng!” Y nói lớn.
“Cô ta đã lấy được số vàng đó rồi ư?” “Vẫn chưa đâu, Thiệu Bá, nhưng có lẽ sắp tìm ra rồi. Nếu cùng nhau, hai người sẽ tìm được nhanh thôi.” “Nếu đã vậy, tại sao ngài không tự đi tìm? “Vì Bang chủ không thể đi lại được”, Mắt Lác ré lên, “Nếu ta không đi kiếm đồ ăn cho ông ấy, thì ông ấy đã chết rũ như một con chó ghẻ. Và đến giờ người ta vẫn gọi ông ta là Bang chủ.” “Chân ta hơi yếu.” Hòa Thượng lẩm bẩm. “Ta bị bệnh về khớp, sâu trong xương tủy. Lưng và chân ta đều đã thoái hóa. Nhưng ta vẫn có thể cưỡi ngựa, và đầu ta vẫn còn minh mẫn. Thiệu Bá, hãy hành sự cẩn trọng!” “Còn Dương Mậu Đức? Hắn cũng không được chia phần sao?” Bang chủ vò mớ râu dài và xồm xoàm, cứ nhìn xoáy vào Mã Vinh với ánh mắt lặng thinh lạ lùng. “Ngươi biết gì về Dương Mậu Đức không? Họ Dương đã mất tích rồi. Thiệu Bá, mau nhanh chân lên! Có thể ngươi cũng sẽ biến mất đấy! Ta không biết biểu đệ của ngươi làm việc cho ai, nhưng hắn biết tất cả. Tối nay hãy nhớ đến am Thanh Phong!” “Ngủ lại với ả tiện nữ đó nhé!” Mắt Lác lại lớn tiếng. “Loại bẩn thỉu rẻ mạt!” Hòa Thượng nhỏm dậy, cố gắng nâng người lên bằng đôi tay rắn rỏi. Mã Vinh thấy vóc dáng đồ sộ của lão còn nhỉnh hơn y khoảng hai tấc. Nhưng lưng lão đã cong xuống và đôi vai rộng đã vẹo đi thành một góc lạ lùng. Lão già kia rối rít trên ô cửa sổ, bộ đồ rách rưới của lão tung bay như mọc cánh.
“Hòa Thượng, thuộc hạ xin lỗi! Xin Bang chủ thứ lỗi!” Lão kêu. “Câm miệng ngay, đồ mắt lác. Câm ngay lại!” Hòa Thượng gầm lên và lại buông mình ngồi xuống. Rồi lão quay sang Mã Vinh, “Tạm biệt Thiệu Bá.” Lão lại tựa người vào chân cột, gục đầu xuống ngực. Mã Vinh đứng dậy, vẫy tay chào lão già trên cửa sổ và quay ra. Y vội vã trở về huyện nha, vừa đi vừa huýt sáo yêu đời. Cuộc phiêu lưu đã chiếm trọn buổi chiều, lúc này trời đã nhá nhem. Nhưng thời gian bỏ ra thật có ích! Bảo Nguyệt sư thái đã cảnh báo Địch Công rằng tiểu tì của bà ta có thân quen với đám du đãng, và bây giờ y lại biết rằng cô ta được bố trí ở đó dưới tư cách là mật thám của Bang chủ Cái bang! Y chắc chắn sẽ có một buổi tối hay ho không phải chỉ ở khía cạnh công việc! Khi ánh sáng của hai ngọn đèn lồng bằng giấy đỏ treo trên cổng miếu Quan Đế hiện ra, y lại quay vào miếu và thắp hương. Rõ ràng Quan Công đã chiếu cố cho y! Về đến huyện nha, Bộ đầu cho y biết Địch Công và Hồng Sư gia đang trò chuyện với họa sư Lý Kha trong thư phòng. Mã Vinh vội trở về túc xá để tắm rửa và thay y phục. HỒI 15 Lý Kha đem tranh lên huyện nha Địch Công xem kịch trong bóng tối Lão tổng quản của túc xá đang thắp đèn lồng thành một hàng dài trước bậc thềm bằng đá cẩm thạch. Nhìn qua những cánh cửa đang mở của thư phòng, Mã Vinh thấy Địch Công đứng bên án thư, hai tay chắp sau lưng. Hồng Sư gia đang giúp họa sư trải những bức tranh cuộn.
Khi Địch Công trông thấy Mã Vinh ngoài hiên, ông bảo Lý Kha, “Lý họa sư, tiếc là ngươi vẫn chưa bố trí để vẽ cho ta bức tranh phong cảnh miền biên cương. Nhưng ta biết loại giấy cao cấp sẽ rất khó đến được với thị trấn xa xôi này. Và ta hiểu rõ ngươi không muốn vẽ một bức tranh trừ khi ngươi có được đúng tâm trạng, khí chất trong tranh quả thật rất quan trọng. Ta sẽ rất thích được ngắm ba bức tranh phong cảnh mà ngươi vẽ năm ngoái. Ta cho là chúng có thể được treo ở đâu đó trên tường này. Sư gia, bảo tổng quản đem thêm nến đến đây. Trong lúc chờ đợi, ta sẽ tản bộ trong vườn cùng trợ thủ của ta để tận hưởng chút thanh khí buổi tối.” Ông kéo Mã Vinh đến chỗ chiếc ghế đá mộc mạc bên dưới một cây kèo ở đầu bên kia hiên nhà. “Phiên thăng đường sẽ kéo dài đến tận cuối buổi chiều.”Ông thuật lại với y. “Ta phải hoãn lại, vì có một bên đã tìm được bằng chứng mới! Ta ít khi phải xử lý một vụ tranh chấp thừa kế phức tạp như vậy! Ngay sau khi ta thay y phục và đi tắm, Lý Kha đến gặp ta. Lúc này, chúng ta sẽ có thể trò chuyện lâu hơn với y. Ngươi có thu thập được thông tin gì không?” Mã Vinh báo lại chi tiết kết quả của cuộc phiêu lưu chiều nay. Địch Công vô cùng hứng thú với cuộc gặp gỡ Bang chủ Cái bang có biệt danh Hòa Thượng. Ông đòi Mã Vinh thuật lại lần nữa. “Mã Vinh, người quả thực rất giỏi! Giờ thì chúng ta cũng đã thấy rõ bản chất vụ án này từ bên trong! Danh tính của kẻ sát nhân vẫn còn là bí ẩn, nhưng chúng ta đã sắp tìm ra số vàng của Trâu đại nhân rồi! Tối nay, ngươi hãy cùng ả tiểu tì kia đi tìm chúng, như vậy sẽ thuận lợi hơn là đến đó với một toán sai nha! Ngươi cũng phải tìm cách bắt ả ta kể thêm về con người Hòa Thượng. Lão có vẻ là nhân vật dị thường nhất.”
Địch Công giũ những bông hoa rơi trên vạt áo và đứng dậy. Hai người trở lại thư phòng. Căn phòng sáng trưng do có bốn ngọn nến cùng được thắp. Lý Kha và Hồng Sư gia đang đứng trước ba bức tranh lớn treo trên kệ sách của Địch Công, những trục gỗ của cả ba bức tranh cuộn đều chạm xuống đất. Địch Công xoay ghế rồi ngồi xuống đối diện với những bức tranh, ông lặng lẽ ngắm, tay vuốt hai dải tóc mai. “Đúng rồi”, Địch Công nói, “bức tranh thủy mặc ở giữa, ta thực sự rất thích. Hai bức còn lại có thể được vẽ bằng những nét thanh nhã hơn, nhưng nét bút ở bức chính giữa có được vẻ phóng túng vô ưu của những bậc tiền nhân. Có một khoảng cách lớn trong tranh. Nếu ngươi không đặt hòn đảo nhỏ kia ở phía chân trời, người xem tranh sẽ không biết đâu là nơi biển cả kết thúc và trời xanh bắt đầu.” “Đại nhân, ngài quả hiểu sâu về tranh của tiểu nhân.” Lý Kha tỏ vẻ biết ơn. “Tiểu nhân luôn muốn tạo ra độ sâu và khoảng cách, nhưng ít khi thành công.” “Nếu có thể đạt được tột đỉnh những gì chúng ta khao khát”, Địch Công nói, “thì sẽ có cảm giác chán ngán. Lý họa sư, mời ngồi và dùng trà.” Lão tổng quản đem vào phòng khay trà lớn. Sau khi thưởng trà, Địch Công nói, “Lý họa sư, ngươi là một nghệ sĩ có tài. Đã đến lúc ngươi nên lập gia thất, như vậy ngươi có thể truyền lại tài năng nghệ thuật của mình cho con cháu.” Lý Kha uể oải mỉm cười. “Lập gia thất thì sẽ nảy sinh cảm giác chán ngán như ngài vừa nói. Cảm giác ấy sẽ phá hoại ái tình, và rồi tinh thần sáng tạo cũng biến mất.”
Địch Công lắc đầu dứt khoát. “Lý họa sư, hôn phối là nền tảng cốt yếu cho trật tự xã hội bất biến của chúng ta. Nếu ngươi có thể chỉ sống trong bốn bức tường, thì ngươi có thể theo đuổi ái tình mà không cần biết đến những kết quả phải có của ái tình. Tuy nhiên, vì ngươi buộc phải bước ra thế giới bên ngoài, nên ngươi phải thích ứng với xã hội. Nếu không thì hậu quả thật khôn lường. Một bậc tiền nhân đã từng so sánh con người với một con ngựa trong cỗ xe tứ mã. Trong cỗ xe đó, mỗi con ngựa đều được tự do trong một giới hạn đáng kể, phi nhanh hơn hay đi chậm hơn, chuyển hướng sang trái hay sang phải, để cỗ xe sẽ không bao giờ chệch ra khỏi đường đi. Con ngựa muốn thoát ly khỏi cỗ xe có thể được hưởng sự tự do tuyệt đối trong một khoảng thời gian nhất định. Nhưng khi nó đã mệt và đơn độc, và lại muốn tái nhập với ba con còn lại, nó sẽ thấy mất hết hy vọng và không bao giờ có thể bắt kịp cỗ xe nữa.” Họa sư tái mặt. Tay y run lên khi cầm chén trà. Y mang một vẻ ngập ngừng đầy vụng về. Rồi y lại ngẩng lên và hỏi, “Đại nhân, vụ án mạng trong chùa hoang được điều tra tới đâu rồi? Ngài đã có đủ bằng chứng để kết tội gã du đãng chưa?” “Chúng ta vẫn tiến hành đâu ra đấy.” Địch Công lơ đãng đáp. “Chậm nhưng chắc.” Ông nhấp một ngụm trà để thể hiện đã đến lúc khách nên ra về. Lý Kha định đứng dậy, nhưng y bỗng vỗ tay lên trán. “Tiểu nhân thật ngốc! Tiểu nhân định báo ngay với đại nhân điều này nhưng thật đãng trí! Hôm qua, sau khi đại nhân ra về, tiểu nhân nhớ ra mình quả nhiên đã trông thấy chiếc hộp gỗ nhỏ mà đại nhân cho xem.”
“Được lắm”, Địch Công nói. “Hay đấy! Lý họa sư, ngươi trông thấy nó ở đâu và khi nào?” “Bẩm đại nhân, tầm nửa năm trước, ở chỗ một lão hành khất. Lão ta đến nhà và đòi tiểu nhân trả lão vài xu cho chiếc hộp ấy. Chiếc hộp bám đầy bùn nên tiểu nhân không nhận thấy miếng ngọc thạch trên nắp hộp. Lão nói lão nhặt được nó trên con dốc phía sau chùa Tử Quang, gần một cái hang thỏ. Tiểu nhân đang bận nên phản ứng đầu tiên là đuổi lão đi. Nhưng nhìn lão thảm thương đến mức tiểu nhân đành nhận chiếc hộp và cho lão năm đồng xu. Tiểu nhân ném nó vào sọt đựng những đồ vặt vãnh khác. Về sau, khi người buôn đồ ở sau miếu Quan Đế đến mua của tiểu nhân một bức tranh cổ, tiểu nhân đã đưa cho lão ta chiếc giỏ đó và nhận lại khoản tiền mình yêu cầu.” “Xin đa tạ Lý họa sư. Ta rất mừng vì bây giờ đã biết nguồn gốc chiếc hộp. Xin đa tạ vì đã cho ta xem tranh. Ta sẽ giữ những bức tranh thủy mặc này vài ngày, và ta sẽ cho ngươi biết khi ta đưa ra được lựa chọn. Cho ta hỏi luôn, phụ tá Dương Mậu Đức của ngươi đã quay về chưa?” “Vẫn chưa, thưa đại nhân, nhưng hắn sẽ sớm quay về thôi! Tiểu nhân đã hỏi kỹ quanh trấn và biết hắn đang mải mê chè chén cùng hai gã phóng dật khác. Sẽ tốn tiền đây!” “Ta hiểu. Ta tình cờ gặp người chủ cũ của hắn, Ngô đại nhân. Ông ta nói đã đuổi Dương Mậu Đức vì hắn là một gã chơi bời phóng đãng.”
Họa sư lắc đầu giận dữ. “Ngô Tông Nhân là kẻ chẳng ra gì! Giống hệt như bào huynh của tiểu nhân. Hai người đó chẳng có một chút cảm thông cho những người không phù hợp với thứ quan điểm sống khắc nghiệt, tầm thường của họ!” “Chà, thế giới này được cấu thành bởi đủ mọi hạng người. Lý họa sư, Hồng Sư gia sẽ tiễn ngươi.” * “Đại nhân, vậy ra chiếc hộp được tìm thấy ở gần ngôi chùa hoang!” Mã Vinh nhận định. “Đúng thế.” Địch Công chậm rãi nói. “Rất lạ. Nếu Lý Kha nói sự thật, thì có vẻ sự mất tích của Bạch Ngọc có liên quan đến ngôi chùa hoang ấy. Và nếu y cố ý kể cho ta một câu chuyện tưởng tượng, thì tại sao y lại chọn câu chuyện này?” Ông lại ngồi vuốt râu một lát. “Và ai nói cho y thứ thông tin giả là Dương Mậu Đức đang chè chén với hai người bạn? Họ Dương đã chết rồi!” Mã Vinh nhún vai. “Đại nhân, cũng dễ giải thích thôi. Như thuộc hạ đã kể, thuộc hạ gặp Lý Kha hôm qua khi y đang đi tìm kiếm ở các tửu điếm. Và đại nhân cũng đã biết những chưởng quỹ đó là ai. Bọn chúng luôn tìm cách khước từ những người đến dò hỏi bằng những câu trả lời rất chung chung. Chúng không thích bị liên quan đến những rắc rối của người khác. Chúng có đủ rắc rối rồi!” “Ta sẽ xem lại tất cả, Mã Vinh ạ. Ngươi nên đến am Thanh Phong vào giờ Hợi. Lúc đó, Bảo Nguyệt sư thái đã tụng kinh xong và đi ngủ.” Địch Công theo hành lang đi đến khu vườn nhỏ ở gần dãy phòng của Đại phu nhân. Qua cửa sổ để mở, ông nghe thấy tiếng đàn nhị cầm. Bước vào căn phòng tối, ông trông thấy vài người đang túm tụm bên nhau. Mọi người đều đang mải mê xem kịch. Một sân khấu cao tầm bảy thước phủ bằng gấm đỏ thêu kim tuyến được dựng lên trong phòng, phủ từ đỉnh xuống là một bức màn bằng vải trắng, phía sau có treo đèn dầu thắp sáng. Những hình người nhỏ, đủ màu sắc tươi sáng nhảy múa trên tấm màn. Từ trong lều có tiếng hát của người diễn trò kịch, đi cùng là tiếng nhị cầm nhộn nhịp. Địch Công rón rén đi tới một góc phía sau mọi người. Đó là tấm màn kịch bóng mà Đại phu nhân đã hứa với các vị công tử, cùng với bữa tiệc sinh nhật của bà hôm trước.
Ba vị phu nhân đang ngồi trên chiếc ghế dài ngay trước sân khấu cùng các công tử và nhũ mẫu. Phía sau họ là những nữ tì. Ngay cả những nha đầu trong nhà bếp cũng được cho phép vào nhà trong nhân dịp đặc biệt này. Mọi người đều mải mê xem kịch. Địch Công khoanh tay đứng xem. Những con rối duyên dáng được cắt từ giấy da mỏng và được vẽ bằng những màu sắc trong sáng, chuyển động phía sau tấm màn nhờ những sợi dây kim loại. Lúc này, người diễn kịch đưa chúng lại gần tấm màn nên người xem có thể trông thấy từng đường nét, sắc diện của nhân vật, rồi người diễn lại đưa chúng ra xa, tạo nên cảm giác nhân vật đã tan biến vào không gian. Như đã thành thông lệ trong những dịp đặc biệt, vở kịch này là sự kết hợp của nhiều truyền thuyết, trong đó truyền thuyết về Tây Vương Mẫu là được diễn lại nhiều nhất. Lúc này, họ đang diễn tích nương nương luận đàm trước Quần Tiên hội, đứng dưới gốc đào tiên, ăn được những trái đào tiên đó thì có thể trường sinh bất lão. Nương nương vung ống tay rộng, trông giống như đôi cánh bướm. Rồi, một con khỉ trắng xuất hiện, muốn lấy trộm đào tiên. Các vị công tử vỗ tay và reo lên tán thưởng khi con khỉ bắt đầu giở mánh khóe để lấy trộm đào. Địch Công nghĩ, ngoài đời thực sự có những chuyện hỗn tạp rắc rối hơn cả kịch. Những chuyện bất ngờ cứ chồng chất lên nhau; động cơ gây án thì lại mờ nhạt sau những diễn tiến không thể đoán trước; những âm mưu được bàn tính kĩ lưỡng nhất lại thất bại do một sự trớ trêu của số phận; những mưu đồ thâm sâu lại bị cản trở bởi vô số thái độ của con người. Bởi thế, thật sai lầm khi tìm cách giải thích những sự việc trên nền tảng kế hoạch được cho là do tên hung thủ đã bày ra trong ngôi chùa hoang. Hắn phải tính đến một giới hạn lớn của những sai sót, và những sự trùng hợp ngẫu nhiên.
Ông chậm rãi gật đầu. Xét lại theo hướng này, ông nghĩ mình có thể đoán ra lý do chiếc hộp gỗ lại xuất hiện ở cạnh ngôi chùa hoang. Những điểm phi lý trong thông điệp của Bạch Ngọc vẫn khiến ông băn khoăn rồi cũng sẽ có lời giải thích họp lý. Nhờ trời, nếu ông đoán đúng, thì lời Lý Kha kể về chuyện y có được chiếc hộp sẽ là chuyện kỳ dị nhất mà ông từng gặp phải. Tiếng đàn nhị cầm thông báo màn thứ nhất của vở kịch đã khép lại. Địch Công vội lẻn ra ngoài. HỒI 16 Am Thanh Phong, Xuân Vân lộ diện Chùa Tử Quang, Mã Vinh gặp ma Lần thứ hai trở lại ngôi chùa, Mã Vinh nghĩ tốt nhất mình nên xem xét lối vào phía sau. Vì thế, y rời khỏi thành theo cổng phía Bắc. Y tìm thấy lối mòn dẫn lên dốc một cách dễ dàng. Nhưng giữa chừng có thêm vài lối rẽ và y phải vòng đi vòng lại vài lần trước khi tìm được đúng đường dẫn đến khoảng rừng trên đỉnh đồi. Y dừng lại đó một lát, ngắm nhìn quang cảnh huyện Lan Phường bên dưới với bao đốm sáng lung linh. Sau khi vào khoảng rừng trống, y thấy Bộ khoái trẻ tuổi Phương Cảnh Hành đang ngồi bên một gốc cây. Phương Cảnh Hành bảo Mã Vinh rằng người đồng đội của mình đang giám sát ở đầu lối lên chùa phía bên kia ngọn đồi. Sau khi chỉ cho Mã Vinh lối đi đến am Thanh Phong, Cảnh Hành lại trở về vị trí đứng gác. Chẳng mấy chốc, Mã Vinh đã thấy cánh cổng sơn son của am Thanh Phong. Tường bao không quá cao, và theo như những gì y trông thấy trong thứ ánh sáng mờ ảo, thì gạch lát tường còn mới và chắc chắn. Trèo qua tường không khó, nhưng y quyết định đợi đến khi trăng sáng rõ, không còn bị mây che phủ nữa; vì một viên ngói bị vỡ có thể gây tiếng động lớn trong đêm tối thanh tĩnh. Loanh quanh trong đám cây bụi, y lựa được năm, sáu tảng đá cuội rồi xếp chồng lên nhau dưới chân tường bên trái cánh cổng. Mặt trăng vừa lộ ra, y trèo lên đống đá và đu mình lên tường. Mái nhà nơi ả tiểu tì ở ở ngay bên dưới y, đúng như Bang chủ đã nói. Y bò thêm một quãng rồi nhẹ nhàng nhảy xuống sân. Nhìn qua cửa sổ còn sáng tại chỗ ở của Bảo Nguyệt sư thái, y rón rén đến gần cửa chính của căn nhà nhỏ và nhẹ nhàng gõ cửa bốn tiếng.
Khi thấy dường như bên trong không có động tĩnh gì, y liền lặp lại cách gõ cửa đó rồi áp tai vào cửa, nghe ngóng. Lúc này, y thoáng nghe có tiếng chân trần bước đi. Cánh cửa mở ra và y nhanh nhẹn bước vào một căn phòng nhỏ, bên trong có một đài nến đặt trên chiếc bàn bằng tre. “Giờ thì ngươi là ai đây?” Cô ta thì thào hỏi sau khi nhẹ nhàng đóng cửa lại. Cô ta mặc bộ đồ mỏng và Mã Vinh thoáng thấy khuôn mặt trái xoan lẫn bộ tóc rối bù. Y lấy mộc bài trong tay áo ra. Đặt mộc bài vào bàn tay nhỏ nhắn và ấm áp của cô ta, y nói: “Tại hạ là Thiệu Bá, là biểu ca của Thẩm Tam. Bang chủ Cái bang cử ta đến đây. Ông ấy nói cô nương tên là Xuân Vân.” Cô ta bước đến bên chiếc bàn và xem kĩ mộc bài dưới ánh nến. Bên cạnh đài nến là chiếc gương hình bầu dục đặt trong khung gỗ; phía trước tấm gương là chiếc lược gãy. Đây rõ ràng là bàn trang điểm của cô ta. Mã Vinh liếc nhanh sang mấy thứ đồ dùng giản tiện. Kế tường bên là chiếc giường ván đơn sơ, trên có trải tấm chiếu đã cũ mòn, cạnh giường là chiếc ghế bằng tre khập khiễng. Trên kệ sát tường, y trông thấy một giỏ ủ trà, một chậu nước bằng đồng thau và một chiếc đèn lồng nhỏ. Mùi tinh dầu rẻ tiền phảng phất trong không gian chật hẹp. “Nhỏ mà ấm áp!” Y nói. “Lo việc của ngươi đi!” Cô ta cúi xuống và kéo trong gầm giường ra một cái bàn nhỏ và thấp. Đặt nó lên giường, cô ta ngồi vắt chân chữ ngũ một bên và ra hiệu cho Mã Vinh ngồi xuống bên kia. Y bỏ giày ra và làm theo lời cô ta. Chiếc chiếu còn ấm hơi người. Hai người lặng lẽ ngồi đối diện nhau, ở giữa có chiếc bàn nhỏ.
Mã Vinh hài lòng khi thấy cô ta đã vén những món tóc lòa xòa ra khỏi mặt, trông cô ta khá xinh đẹp, đúng kiểu nữ nhân mà y thích: khuôn mặt trái xoan với đôi mắt lanh lợi, má lúm đồng tiền, môi đỏ và đầy đặn. Khi nhìn qua cặp đào tiên tròn và săn chắc bên dưới tà áo mỏng, y thầm khấn Quan Công. Bỗng cô ta mỉm cười. “Thiệu Bá, ngươi cũng không còn quá trẻ, nhưng trông ngươi khá hơn nhiều so với phần đông những vị bằng hữu của cha ta!” “Ôi, ôi!” Mã Vinh thốt lên. “Vậy ra cô nương chính là ái nữ của Bang chủ! Thật vinh dự khi được giúp sức cho cô nương! Tại hạ được cử đến để giúp cô nương tìm vàng. Xin hỏi vì sao lão Bang chủ lại biết về số vàng ấy? Sinh thời, Thẩm Tam vẫn luôn kín miệng.” “Đơn giản thôi. Cha ta trước kia từng dạy Thẩm Tam quyền cước. Đó là lý do Thẩm Tam vẫn luôn ngưỡng mộ ông ấy. Hắn hứa sẽ chia cho ông ấy một phần số vàng đó.” “Thẩm Tam sẽ có được bao nhiêu vàng?” “Một phần ba, Dương Mậu Đức được hai phần ba. Cũng dễ hiểu, vì họ Dương đã mách nước về số vàng đó cho biểu đệ của ngươi. Họ Dương không thích đi tìm vàng một mình, vì kẻ đầu tiên tuyên bố sở hữu số vàng đó là một kẻ rất ghê gớm. Họ Dương sợ hắn. Và cũng đúng thôi! Cứ xem cách hắn giết biểu đệ của ngươi và tống khứ gã họ Dương đến nơi nào chỉ có trời biết đất biết! Sau đó, ta bảo cha rằng ta không muốn tiếp tục tìm kiếm trong ngôi chùa một mình vào ban đêm. Kẻ làm việc đó không phải là ta!”
“Tại hạ rất muốn gặp tên cẩu tặc đã sát hại Thẩm Tam! Bào đệ của Thẩm Tam là Thẩm Ngũ đang bị tù ở huyện Thư Mạt, nên tại hạ phải là người đi tính sổ với hắn.” “Về phần ta, cha ta bảo ta xin làm nữ tì cho mụ già ở đây để canh chừng ngôi chùa. Xin nhớ cho, ta sẽ không nói xấu biểu đệ của ngươi, nhưng cha ta thì nghĩ Thẩm Tam cần phải được giám sát, chắc ngươi hiểu.” “Bang chủ nói rất đúng! Điều tại hạ không hiểu là tại sao tên khốn giấu vàng trong chùa kia lại không tự đi mà đào rồi lấy hết đi. Tại sao lại để chỗ vàng đó trong chùa cho đến khi bọn Thẩm Tam và Dương Mậu Đức tìm đến?” Cô ta nhún vai. “Hình như, hắn giấu vàng vì hắn đánh cắp số vàng đó ở nơi khác, và hắn đã giấu kĩ đến nỗi chính bản thân hắn cũng không tìm lại được! Và cũng không muốn tốn sức tìm lại! Ta đã lùng sục khắp cái nơi thối tha ấy, và ta có thể nói với ngươi rằng, hắn thực sự cũng đã đến đó tìm kiếm! Nền phòng bị lật lên ở khắp nơi. Ta cũng lục soát chỗ ở của Bảo Nguyệt rồi.” “Trời ơi, cô nương không nghi ngờ cả một nữ tu sùng đạo đấy chứ?” “Chừng nào ta chưa biết kẻ sở hữu số vàng đó là ai, thì ta không tin bất cứ ai. Và nói về sự sùng đạo, tính tình mụ già đó cũng rất quái gở, Thiệu huynh đệ ạ. Mỗi khi buồn bực, mụ ta sẽ trút sang ta bằng cây roi mây. ‘Mau cúi đầu trước Phật Tổ và xin chuộc lỗi cho tâm tính của mình!’, mụ ta vừa lần tràng hạt vừa đếm số roi đánh xuống! Quả là sùng đạo, Thiệu huynh đệ ạ!” Cô ta nhổ xuống sàn. “Chà, giờ người đã ở đây, ta không buồn ngó sang ngôi chùa hoang kia nữa. Ta sẽ cho ngươi xem sơ đồ.”
Cô ta lôi từ dưới chiếu lên một mảnh giấy được gập cẩn thận, đoạn mở nó ra. 👁 “Đây, đây là đại điện, ngay chính giữa. Đó là nơi chúng ta bắt đầu tìm.” Mã Vinh nghiên cứu kĩ sơ đồ các gian trong chùa. Giống hệt như Địch Công và Hồng Sư gia đã mô tả với y. “Cô nương vẽ thật chính xác!” “Chứ sao. Ta rất giỏi vẽ sơ đồ. Ta thường xin vào các nhà đại gia làm nữ tì rồi vẽ sơ đồ. Thế nên các vị bằng hữu của cha ta mới không hề bị lạc trong đêm tối. Thiệu huynh đệ, ngươi cứ ngồi nghiên cứu sơ đồ ở chỗ ngọn nến đằng kia. Chúng ta vẫn còn tầm nửa canh giờ, vì chúng ta không thể rời khỏi đây trước khi Bảo Nguyệt ngủ.” Gập mảnh giấy lại, Mã Vinh cười nhăn nhở. “Ta muốn dùng nửa canh giờ còn lại để siết chặt mối quan hệ của chúng ta thêm một chút, cô nương ạ! Đừng vội vào việc trước khi biết rõ về bạn đồng hành của mình, người ta vẫn nói vậy!” “Làm trước, hưởng sau.” Cô ta kiên quyết. “Mau xuống khỏi giường và xem kĩ sơ đồ đi! Trong lúc đó, ta sẽ đi thay đồ. Ngồi quay lưng lại và không được ngẩng lên khỏi mảnh giấy!” Mã Vinh xuống giường và ra đứng trước bàn trang điểm, quay lưng lại phía giường. Cô ta lột bộ đồ ngủ và quỳ xuống lục lọi phía sau giường cho đến khi tìm được chiếc quần màu lam thẫm và chiếc áo ưng ý. Vừa định mặc đồ, cô ta do dự và nhìn sang tấm lưng rộng như lưng gấu của Mã Vinh bằng ánh mắt dò xét. Nhếch mép cười nhạt, cô ta đặt bộ y phục sang một bên, quỳ gối lên bộ đồ ngủ và bắt đầu chải tóc. Cô ta nghĩ lúc này mình khá là lôi cuốn. Cô ta nói lớn, “Chớ có quay lưng lại!” 👁
Mã Vinh gặp Xuân Vân trong đêm “Tại sao phải quay lại chứ?” Mã Vinh hỏi. “Có chiếc gương trước mặt là đủ rồi. Trông từ đằng sau, cô nương cũng thật xinh đẹp!” “Tên đốn mạt!” Cô ta nhảy xuống khỏi giường và lao đến, định cào lên mặt Mã Vinh. Y ôm chặt lấy cô ta. Khi đã mặc đồ xong, cô ta hạ chiếc đèn lồng nhỏ trên kệ xuống. “Chúng ta chỉ có thể thắp đèn lồng khi vào trong chùa”, cô ta nói. “Trưa nay, ta đã trông thấy có hai kẻ lảng vảng gần cổng chùa và trông chúng giống đám sai nha được cử đến gác sau khi biểu đệ của huynh bị hại. Do đó, kẻ giết biểu đệ của huynh sẽ không dám lai vãng đến đó tối nay. Dẫu vậy, chúng ta có thể sẽ gặp ma đấy.” “Cô nương chớ có đùa!” “Ta không đùa. Ở đó có ma. Chính mắt ta đã trông thấy vài lần. Ả ta bay lơ lửng trên những ngọn cây. Đó là một nữ nhân cao gầy, mặc bộ đồ liệm màu trắng. Ta không thích ma quỷ, nhưng con ma này có vẻ vô hại. Một lần, ta suýt nữa đâm sầm vào ả. Ả không có phản ứng gì, chỉ nhìn ta bằng đôi mắt to và buồn thảm rồi lướt đi.” “Buồn hay không thì ta cũng không thích chạm trán với ả. Lên đường nào! Ta sẽ giúp nàng qua mặt đám lính gác. Ngày xưa, ta đã từng làm lục lâm.” Cô ta thổi tắt ngọn nến và hé cửa ra. “Hay thật!” Cô ta thì thầm. “Phòng mụ già ấy vẫn còn ánh nến!” “Chắc bà ấy vẫn đang đọc kinh!” “Và còn đọc rất to nữa. Ôi, dù thế nào chúng ta cũng phải đi. Nếu mụ ta phát hiện ta trốn ra ngoài, ta đành phải bỏ việc thôi. Để mụ ta đi mà đánh đứa con gái khác!”
Hai người rón rén đi qua sân. Xuân Vân cẩn thận nhấc thanh chắn cổng ra, đẩy cánh cửa và chèn mấy viên đá xuống bên dưới để cánh cửa vẫn khép hờ. Hai người đi xuống lối mòn qua khu rừng. Đến bìa rừng, Mã Vinh bảo Xuân Vân đi sát vào mình và làm theo đúng những gì y nói. Y quan sát đám cây cối ở đoạn gần những bậc thang, cố nhìn ra vị Bộ khoái đang đứng gác. Thật khó xử nếu người đó phát hiện ra họ. Kia rồi, tên lười biếng! Hắn đang ngủ dưới gốc một cây bách! Ôi, dù sao thì cũng thật suôn sẻ. Định kéo Xuân Vân đi, y bỗng đứng khựng lại. Có gì đó rất lạ ở hai đầu gối co quắp và đôi tay dang rộng kia. Y vội chạy lại bên người nằm sõng soài ấy và cúi xuống xem. “Hắn… hắn chết rồi ư?” Xuân Vân thì thầm phía sau. “Bị siết cổ từ phía sau bằng một sợi thừng mỏng.” Y lẩm bẩm. “Quay về mau, Xuân Vân. Từ giờ trở đi, đây hoàn toàn là chuyện của một mình ta. Hung thủ vừa quay lại đây.” Cô ta siết chặt tay y. “Ta sẽ ở lại cùng huynh. Ta đã từng nhiều lần giao đấu. Nếu huynh giữ được hắn, muội có thể cầm đá mà đập vỡ đầu hắn.” “Cứ làm theo cách của nàng! Tên cẩu tặc này có thể đang ở trong đại điện, nên chúng ta không thể liều lĩnh vào bằng lối cửa trước. Chúng ta sẽ đi theo cửa sau, trước hết phải trèo qua tường bao ở phía sau.” “Đúng rồi, ngay trên tường sau của sảnh có một lỗ hổng. Đi nào, ta sẽ chỉ cho huynh!”
Hai người đi dọc theo tường bao bên ngoài, rẽ sang và đi theo lối mòn dọc lề tường của chùa. Khi đến khoảng rừng thưa ở góc Đông Bắc, Mã Vinh dừng lại. “Đợi một lát”, y thì thào, “ta sẽ đi thăm dò trước.” Y trèo lên chỗ có nhiều cây cao, tìm xem Phương Cảnh Hành đâu. Nhưng dù có đi quanh khoảng rừng có lối mòn đi xuống con dốc thì cũng không thấy bóng dáng Phương Cảnh Hành. Y khẽ huýt sáo. Tất cả vẫn lặng yên. Y lẩm bẩm chửi thề. Hung thủ cũng đã giết Phương Cảnh Hành rồi sao? Bỗng y linh cảm có người đang theo dõi mình. Một đám mây đã che khuất mặt trăng. Y căng mắt ra nhưng dường như không có gì chuyển động bên dưới những cây sồi lớn này. Y quay lại chỗ Xuân Vân. “Không có ai ở đó đâu.” Y bảo. “Nàng ở đây nhé, tốt nhất cứ để ta đi trước xem xét tường phía sau. Ta sẽ quay lại đón nàng nếu ở đó không có người, và nàng có thể cho ta thấy lỗ hổng mà chúng ta sẽ trèo vào.” Y vòng qua góc tường, chống tay trái lên những viên gạch đã nhuốm màu thời gian của tường bao. Không có một bóng người trên lối mòn dài và hẹp chạy dọc theo tường sau của ngôi chùa. Bên phải lối mòn có một sườn dốc, cây bụi đã mọc kín và thỉnh thoảng có một tảng đá cuội lớn phủ đầy rêu. Đứng trong góc đó, y nhìn khắp một lượt bờ tường. Gạch vữa đã vỡ vụn ở nhiều chỗ, nhưng y không thể thấy được lỗ hổng lớn mà Xuân Vân đã nói đến. Ở phía xa, bên kia bóng của tòa tháp phía Tây, y thấy một đống gạch đá đánh dấu cho phía đối diện của tường bao, ở đó có một giếng cổ. Nếu cần thiết, hai người có thể đến đó và rồi…
Y cúi rạp người xuống. Trong bóng tối gần với góc tường phía xa, y lại thấy một bóng trắng. Không tin vào mắt mình, y vội bước lên mấy bước. Rồi y đứng khựng lại. Đó là một nữ nhân mặc đồ trắng, bàn tay dài và gầy đang ra hiệu cho y. HỒI 17 Người lẫn ma cùng hại Mã Vinh Ba phe đảng rắp tâm trộm vàng Tròn mắt nhìn bóng ma ấy. Rồi y thoáng nhớ ra đêm hôm trước bóng ma này đã dẫn y tới con đường mòn bị che lấp. Nàng ta sẽ…? Y chạy xuống con đường ấy. “Thiệu huynh, muội…” Tiếng Xuân Vân gọi phía sau y. Bỗng bóng ma kia đưa cả hai tay lên cao quá đầu. Ánh trăng chiếu xuyên ống tay áo óng ánh như bạc của nàng. Mã Vinh bất ngờ đứng khựng lại; y không biết phải nghĩ sao về cử chỉ như đang đe dọa kia. Xuân Vân đâm sầm vào lưng y. Cùng lúc đó, phần trên của bức tường ngay trên đầu y bỗng đổ sụp xuống ngay trước mặt. Trong một khoảnh khắc cực ngắn, y đứng bất động, chết lặng, trợn mắt nhìn đống gạch vữa vừa đổ xuống chắn ngang con đường. “Chuyện gì thế? Chuyện gì…?” Xuân Vân thở dốc phía sau y. “Đống gạch này là để dành cho chúng ta đấy!” Y rít lên. “Ở yên đây!” Y vội trèo lên đống gạch. Từ đây, y có thể bám lên mép của lỗ hổng cao tít trên tường. Y đu người lên, trèo lên tường và nhảy xuống sân sau của ngôi chùa, vừa kịp lúc trông thấy một bóng đen biến mất vào cửa sau của đại điện. Mã Vinh cúi thấp người rồi chạy lại cánh cửa đó và vội lẻn vào trong. Y xoay lưng vào tường bên phải, náu mình ngay bên trong cánh cửa, sẵn sàng tóm ngay kẻ nào đang đợi ở đó. Nhưng không có động tĩnh gì trong bóng tối. Y thận trọng dò dẫm trong phạm vi tầm với nhưng tay y chỉ chạm đến khoảng không. Y thấy có ánh sáng le lói phía đầu kia của sảnh.
Đó chắc chắn là do tấm lưới mắt cáo của cánh cửa lục bội. Y lại ngửi thấy thứ mùi hôi thối đến nôn mửa giống hôm trước. Âm thanh duy nhất y nghe được là tiếng vỗ cánh của một con dơi đang hoảng sợ. Nhưng hung thủ chắc chắn đang ở đâu đó trong đại điện tối tăm này. Cả hai sẽ phải giao đấu ở đây. Với nỗi thỏa mãn tràn trề, y nghĩ mình đã có lợi thế, dù hung thủ có vũ khí đi nữa. Vì Mã Vinh đã nhiều lần kịch chiến ở những nơi tối đen như mực và y biết hết mọi mánh khóe. Cũng nhờ lần trước đã đến đây và nhờ sơ đồ của Xuân Vân, y đã hình dung rõ về địa thế. Y hết sức cẩn trọng bò dọc theo bờ tường, nhích từng tí một về phía góc trái. Vai phải y cọ lên nền đá, từng thớ cơ đều căng ra để sẵn sàng động thủ. Hai tai y không để lọt bất cứ âm thanh nào. Đến góc bên kia, một mảnh vải bất ngờ sượt qua bàn tay trái đang lần mò của y. Y vươn về trước, đôi tay dài phóng ra để chộp lấy chân địch thủ. Nhưng chẳng có gì cả, đầu y va vào tường. Trong lúc choáng váng, y nghe có tiếng chân lướt qua rất nhanh ngay trước mặt. Rồi có tiếng kim loại loảng xoảng trên nền đá. Vậy là địch nhân có kiếm. Y nằm bất động một lúc. Rồi y lại dò dẫm xung quanh và hiểu ra chuyện gì vừa đến. Thứ mà y tưởng là tà áo của địch thủ hóa ra chỉ là một đám mạng nhện nặng trĩu bụi. Đầu y quay cuồng, nhưng y biết mình phải tránh khỏi góc đó càng xa càng tốt. Cửa bên dẫn sang phòng ở của các tăng ni chắc cách không xa. Bò dọc theo tường được một lát, những ngón tay y chạm vào bề mặt thô nhám của những tấm ván gỗ. Giờ đã đến chỗ hốc tường giấu những binh khí dùng trong nghi lễ. Phải rồi, y sờ thấy hai cán gỗ. Hai ngọn kích vẫn nằm ở đó. Nhưng phần còn lại trong hốc thì trống không. Bây giờ y cũng đã biết binh khí của địch nhân là gì: đó là cây phủ kiểu Đột Quyết thứ hai. Y tự nhếch mép cười mà nghĩ mình thật may mắn. Vì phủ ít khi được dùng để giao chiến trong bóng tối, trong khi kích lại là thứ vũ khí lý tưởng. Y biết sử dụng kích: dài hơn mười thước, mũi kích có thể đâm xuyên qua áo giáp da, lưỡi sắc có thể được dùng để lôi một kị binh xuống khỏi ngựa, hoặc đánh ngã bộ binh. Và y có hai cây kích, một để tấn công, một để tung ra hư chiêu và dụ địch thủ! Y đứng thẳng người và lấy hai ngọn kích mà không tạo ra tiếng động, cầm cả hai thẳng đứng. Trong khi đứng yên chờ cơn đau nhức trên đầu tan đi, y cố hình dung xem mình đang ở vị trí nào. Y đang đứng bên cây cột cuối cùng trong hàng cột bên trái lối vào. Bên tay trái y là khoảng không gian phía trước án thờ. Y dùng ngọn kích bên tay phải để thăm dò nền sảnh. Khi không thấy có chướng ngại, y quay sang và dò thấy không có kẻ nào nấp giữa hàng cột và bức tường. Cầm thẳng cả hai ngọn kích, y rón rén đến giữa sảnh và đứng đối diện với lối vào.
Sáu tấm lưới mắt cáo của cánh cửa lục bội hiện lên rõ ràng. Đương nhiên kẻ kia sẽ phải tránh đứng ở phần giữa sảnh, giữa hai hàng cột vì hắn có thể bị phát hiện nhờ ánh sáng chiếu qua những ô mắt cáo. Hắn chắc chắn đang trốn ở phía sau hàng cột bên phải lối vào, bên trái của Mã Vinh. Y nở một nụ cười thích chí. Y bước từng bước sang trái cho đến khi chạm vào cây cột cuối cùng trong hàng. Y đứng ngay trước cây cột, dựng cây kích bên trái lên cột. Rồi y cầm chắc cây kích còn lại bằng cả hai tay. Lúc này, y sẽ đá đổ cây kích đang dựng kia, nó sẽ đổ ra phía sau cột mà kêu loảng xoảng. Địch nhân sẽ lao ra và hiện hình dưới ánh sáng của những ô cửa mắt cáo. Sau đó, y sẽ bắt giữ hắn bằng cây kích mình vẫn đang cầm. Bỗng y nín thở. Y nghĩ mình đã nghe thấy âm thanh gì đó, từ phía bên kia cây cột trước mặt. Bỗng một bóng đen lao ra trước, hất ngọn kích trên tay y sang một bên và lao ra cửa. Mã Vinh phóng ngọn kích lên nhưng đã quá muộn, bóng người kia đã ra ngoài tầm kích. Y chửi thề rồi buông kích mà đuổi theo. Bóng đen kia dừng lại trước cửa. Một vật bay vút qua đầu Mã Vinh và rơi loảng xoảng xuống đất. Kẻ kia đạp tung một cánh cửa. Mã Vinh lao lên trước để ôm ngang lưng hắn. Chân y vướng vào một sợi dây và y ngã đập mặt xuống đất. Lồm cồm bò dậy, y lao ra khỏi cửa, xuống sân trước, đoạn thoáng thấy có gì đó di chuyển ngoài cổng Tam Quan. Khi chạy ra đến nơi, y thoáng nghe có tiếng bước chân chạy xuống cầu thang đá phía xa. Địch nhân đã trốn thoát.
Y buông một tràng chửi rủa rồi lau máu trên mặt. Trán y đã u lên một cục. Y quay vào trong và tìm lại cây kích. Y tức tối đâm nát cánh cửa lục bội. Lúc này, y thấy sợi dây ban nãy mình vướng vào hóa ra chính là một cái thang dây, làm từ những sợi thừng mỏng và bền chắc. Một đầu chiếc thang dây có gắn hai móc sắt lớn. Dưới chân cây cột cuối cùng là cây phủ kiểu Đột Quyết mà kẻ kia đã ném vào y. Y rời khỏi đại sảnh theo lối cổng sau. Xuân Vân ngồi trên lỗ hổng, tay vẫn cầm chặt lồng đèn. Y trèo lên, hôn lên khuôn mặt đầm đìa lệ của cô ta và đỡ cô ta xuống phía bên kia tường. “Tên cẩu tặc ấy đã thoát rồi! Nàng có trông thấy ả ma nữ kia không?” “Ma? Không, ta không thấy gì. Ta có phải kẻ nhát gan không? Này, trông huynh đáng sợ quá! Nào, để ta lau mặt cho!” “Đừng lo. Ta sẽ đưa nàng về am Thanh Phong, rồi đi tìm quanh đây một lần nữa để xem ả ma nữ đó ở đâu.” Y vòng tay ôm lấy vai Xuân Vân và đưa cô ta quay lại am Thanh Phong. “Một ngày nào đó, nàng sẽ hiểu hơn về ta, công chúa ạ!” Y nói. Đẩy cô ta vào phòng, y ngẫu nhiên nhìn qua chỗ ở của Bảo Nguyệt. Lúc này, phòng bà đã tắt đèn. Y quay lại khoảng rừng thưa, nơi đã trông thấy Phương Cảnh Hành ngồi bên một gốc cây. Y lại đưa tay lên miệng huýt sáo. Chỉ có tiếng con cú đêm rú lên đáp lại. Cau mày lo lắng, y thắp đèn lồng và bắt đầu điên cuồng tìm kiếm trong đám cây bụi, vừa tìm vừa chửi um lên khi bị những nhánh gai cào rách cả áo quần. Y biết Phương Cảnh Hành sẽ không bao giờ rời xa khỏi vị trí đứng gác.
Sục sạo xuyên qua đám hoa hồng dại, y lại đến một khoảng rừng thưa, nằm phía trước một loạt cây thủy tùng lớn. Vừa định đi qua đó, chân phải y thụt ngay xuống một cái hố và đập mặt vào một tảng đá cuội. “Đây là lần thứ ba trong đêm nay!” Y lầm bầm và bò dậy. Y thở dài rồi nhặt đèn lồng lên, lấy bùi nhùi đánh lửa rồi thắp lại đèn. Bỗng y thở hổn hển. Thứ mà y tưởng là tảng đá cuội đầy rêu kia hóa ra là một chiếc thủ cấp đã phân hủy. Cảm giác buồn nôn dâng lên, y rọi đèn vào khuôn mặt biến dạng kia. Rồi y thở phào nhẹ nhõm. “Ơn trời!” Đó không phải Phương Cảnh Hành. Y hoàn toàn không biết người này. Rồi y thận trọng nhòm vào hố. Đó là một cái hố mới đào, có một đống đất ẩm bên cạnh. Y lại nhìn sang cái thủ cấp ghê rợn dưới chân. “Trời ơi, đây chắc chắn là đầu của Dương Mậu Đức, được hung thủ chôn ở đây! Nhưng tại sao hắn lại đào lên?” Y đưa đèn lồng len vào soi xét đám cây thủy tùng. Một người đang nằm trên bãi cỏ bên dưới những gốc cây, cạnh đầu người ấy còn có chiếc mũ sắt của Bộ khoái đã vỡ. Mã Vinh buông tiếng chửi rồi đến bên thân hình sõng soài kia xem có còn sống hay không. Phương Cảnh Hành vẫn còn thở. Mã Vinh nhẹ nhàng xoay đầu Phương Cảnh Hành lại một chút. Có một vết thương lớn sau gáy. Y xem kĩ xung quanh vết thương, ngón tay tỉ mỉ rẽ từng lọn tóc. “Quả là một cú đánh rất hiểm.” Y khẽ nói. “Nhưng theo như ta thấy thì xương sọ vẫn chưa bị tổn thương. Mũ sắt của Bộ khoái được làm rất cứng. Mất khá nhiều máu nhưng nếu bị thương trên đầu thì cũng chẳng thể tránh được.” Y nhặt chiếc mũ lên. “Đây rồi, tên cẩu tặc ấy dùng cây phủ của bọn Đột Quyết để chém y. Chiếc mũ sắt có thể cứu mạng Cảnh Hành, nhưng không còn được bao lâu nữa. Phải đến chỗ Bảo Nguyệt sư thái ngay, và lục tìm kho dược thảo của bà ấy.”
Y chạy xuống lối mòn về am Thanh Phong. Sau khi gõ viên gạch lên cổng một lúc, lỗ nhỏ trên cánh cổng hé ra. Qua đó, Mã Vinh trông thấy khuôn mặt đầy vẻ kinh ngạc của Xuân Vân và Bảo Nguyệt đang đứng phía sau cô ta. Y cúi xuống và lấy giấy tờ tùy thân từ trong giày ra. Giơ lên trước ô cửa, y nói với Bảo Nguyệt, “Thưa sư thái, tại hạ là Mã Vinh, người của Địch đại nhân. Tại hạ thấy trong rừng có một người bị thương đang cần được chữa trị ngay lập tức.” “Mở cửa ra!” Bảo Nguyệt ra lệnh cho Xuân Vân. Vào trong sân, Mã Vinh thuật lại mọi chuyện cho Bảo Nguyệt. Bà vội gật đầu và bảo, “May là bần ni có đầy đủ thảo dược ở đây. Chăm sóc cho người bệnh và người bị thương là một phần trong nhiệm vụ của chúng ta. Tiểu tì sẽ đưa Mã công tử vào bếp. Tấm liếp bằng tre kia sẽ được dùng làm cáng. Bần ni sẽ chăm sóc cho người ấy. Giờ bần ni sẽ đi chuẩn bị giường bệnh ở nhà bên.” Vừa vào đến nhà bếp, Xuân Vân quay sang Mã Vinh bằng đôi mắt nảy lửa. “Đồ dối trá!” Cô ta rít lên. Mã Vinh không biết nói sao. Quan Công đã bỏ rơi y trong lúc này rồi! Hai người lặng lẽ hạ tấm liếp xuống. Xuân Vân chợt liếc Mã Vinh và nói, “Dẫu sao, ngươi cũng là một tên dối trá đàng hoàng.” “Được lắm!” Mã Vinh nhoẻn cười. “Cô nương thật cao thượng! Một công chúa thực thụ!” Địch Công đang ở trong thư phòng, cùng Hồng Sư gia xem lại các hồ sơ liên quan đến chuyện tài chính ở huyện.
“Trời đất, ngươi gặp chuyện gì vậy?” Địch công sửng sốt khi thấy Mã Vinh sứt đầu mẻ trán, y phục tả tơi lấm bùn. “Sư gia, rót cho Mã Vinh chén trà đi!” Mã Vinh cảm tạ rồi nhấp ngụm trà đặc. Y bắt đầu thuật lại mọi chuyện. Y kết luận: “Bảo Nguyệt sư thái đã rửa sạch vết thương trên đầu cho Phương Cảnh Hành. Bà ấy quả là một nữ kiệt, trước sau vẫn luôn điềm tĩnh. Khi thuộc hạ bôi thuốc vào vết thương và rót thuốc vào miệng y, Cảnh Hành đã dần hồi tỉnh. Y nói đã trông thấy dấu vết đào bới ở khoảng rừng thưa đó. Khi vừa phát hiện ra đầu của Dương Mậu Đức, y bị tấn công từ phía sau. Bảo Nguyệt sư thái đã cho y uống thuốc giảm đau, lúc thuộc hạ ra về thì y đã ngủ. Bảo Nguyệt sư thái nói nếu qua đêm nay mà Cảnh Hành không lên cơn sốt thì y sẽ sớm hồi phục.” Uống hết chén trà thứ bảy, y nói thêm, “Thuộc hạ vẫn chưa báo với Bộ đầu về chuyện Bộ khoái kia bị sát hại. Chúng ta sẽ báo hung tin này cho những người khác thế nào đây?” “Mã Vinh, ngươi đi lệnh cho Bộ đầu tập hợp các Bộ khoái ở túc xá. Rồi nhân danh ta mà thông báo rằng, ta hứa với họ sẽ trừng trị hung thủ đích đáng. Sau đó, lệnh cho Bộ đầu đến chùa Tử Quang, đem theo cáng để đưa thi thể người kia và đầu của Dương Mậu Đức về đây.” Mã Vinh vâng lệnh rồi ra ngoài. Địch Công lặng lẽ ngồi vuốt râu một lúc. Rồi ông bảo Hồng Sư gia: “Chúng ta đã mất đi một người được việc, một người khác thì bị thương nặng. Sư gia à, chúng ta có được hai manh mối quan trọng, nhưng phải trả giá quá đắt.”
Ông khoanh tay lên mặt án thư, đôi mắt vô hồn chăm chăm nhìn vào tập văn thư về tài chính trước mặt. Ông chìm sâu trong suy nghĩ. Bỗng ông ngẩng lên và hỏi, “Tại sao hung thủ bỗng nhiên lại vội vàng như vậy? Nhiều tháng qua, hắn đã bằng lòng nhẫn nại tìm kiếm trong chùa. Và bây giờ, chỉ trong vòng hai ngày, trước hết hắn phạm tội giết hai người, sau đó lại tìm cách giết Mã Vinh hai lần, giết một Bộ khoái và đánh bị thương người còn lại! Tại sao lại có chuyện bất ngờ này?” Sư gia lắc đầu, khuôn mặt xương xương của lão đầy vẻ âu lo. “Vì một vài lí do nào đó, kẻ này bỗng liều lĩnh. Tấn công mệnh quan triều đình không phải là chuyện nhỏ. Ai cũng biết các vị quan sai sẽ không bao giờ bỏ qua cho hung thủ, và theo luật lệ thì hắn sẽ bị hành quyết vô cùng tàn khốc. Đó là lý do các Bộ khoái có thể đi làm nhiệm vụ mà chỉ mang theo đoản côn. Nếu có tin đồn kẻ nào đó dám cả gan tấn công một Bộ khoái đang làm nhiệm vụ, thì sự an toàn cho toàn bộ sai nha sẽ bị ảnh hưởng lớn.” “Đúng thế, ta cũng nghĩ đến khía cạnh này, Sư gia ạ. Vì thế ta mới bảo Mã Vinh kín đáo chỉ thị cho các Bộ khoái.” Địch Công lại chìm vào những suy nghĩ ảm đạm. Khi Mã Vinh quay về, Địch Công đã bình tĩnh lại. Ông ngồi thẳng dậy và quả quyết nói, “Số vàng chắc chắn được giấu ở một vị trí trên cao, nếu không thì hung thủ sẽ không phải dùng đến cả thang dây. Thứ hai, giờ chúng ta đã biết có ít nhất ba phe phái đang tìm kiếm số vàng đó. Đó là tên hung thủ đã tổ chức vụ trộm, Dương Mậu Đức cùng Thẩm Tam, và Bang chủ Cái bang là người đã được Thẩm Tam hứa sẽ chia phần. Như ta đã vừa giải thích cho Sư gia, có một chuyện làm ta phải lo âu rất nhiều. Đó là thái độ nóng vội, cấp bách của tên hung thủ. Ta tự hỏi liệu chuyện đó có thể được giải thích là do có một kẻ vừa xuất hiện, một nhân vật mới của vở diễn, một kẻ không liên quan đến vụ trộm vàng. Tuy nhiên, ý nghĩ này chỉ dựa trên trực giác của ta. Cuối cùng là chuyện bóng ma. Cho đến đêm hôm qua ta mới công nhận bóng ma ấy không phải là lời bịa đặt do trí tưởng tượng của kẻ mê tín. Hôm trước, Mã Vinh không chắc có thực sự trông thấy bóng ma đó hay không. Nhưng tối nay, y đã trông thấy ả ta rõ ràng, và thấy ả ta góp phần lớn vào việc hãm hại y. Vậy từ giờ trở đi, chúng ta sẽ phải giải thích rõ ràng về bóng ma bí ẩn đó. Mã Vinh, ý ngươi thế nào?”
Mã Vinh lắc đầu buồn bã. “Đại nhân, dù bóng ma đó là ai hay là thứ gì thì ả ta cũng là đồng bọn với hung thủ. Hôm trước, ả ta không hề có ý giúp thuộc hạ khi chỉ cho thuộc hạ lối mòn đến giếng cổ, chỉ là thuộc hạ ngu ngốc mà lầm tưởng. Ả ta làm vậy chỉ để dụ tại hạ đến góc vườn đằng xa đó, ở đó hung thủ đã đợi sẵn ở sau lỗ hổng trên tường. Khi thấy thuộc hạ xuống giếng, chúng nghĩ giết thuộc hạ dưới đó thì sẽ không ai tìm được xác thuộc hạ, tránh cho chúng gặp nguy hiểm. Tối nay, ả ma nữ đó lại dụ thuộc hạ tìm đến, cố làm thuộc hạ chú ý đến ả ta, vì thế mà thuộc hạ không nhận thấy hung thủ đã phá phần trên của bức tường sắp sụp. Nhưng ả ta lại phạm sai lầm khi bỗng giơ hai tay lên như thể ra hiệu cho hung thủ biết thuộc hạ đã vào đúng bẫy của chúng. Cử chỉ đó làm thuộc hạ sợ hãi. Thuộc hạ dừng lại và thoát chết chỉ trong gang tấc!” Địch Công gật đầu. Ông xem lại các ghi chép rồi hỏi, “Ngươi không thể mô tả cho ta kĩ hơn về bóng ma đó sao?” “Bẩm đại nhân, cả hai lần thuộc hạ đều chỉ thoáng trông thấy ả ta và cả hai lần đều ở khá xa, lại dưới ánh trăng mờ ảo. Thuộc hạ nghĩ, ả ta mặc bộ xiêm y bằng vải sa mỏng, và cũng quấn một chiếc khăn bằng loại vải đó quanh đầu, che cả khuôn mặt. Ả ta cao ráo, đó là những gì thuộc hạ dám chắc.” “Mã Vinh này, ngươi có chắc đó là một nữ nhân không?”
Mã Vinh mân mê hàng ria mép. Y do dự đáp, “Ai cũng nói đó là một nữ nhân áo trắng… Và bộ xiêm y đó… nhưng đương nhiên cũng có khả năng đó là một nam nhân mặc đồ nữ… Chà, đương nhiên là có giả thiết đó. Hông rộng, vai hẹp. Thuộc hạ đã trông thấy ngực ả ta chưa nhỉ? Có… hay là…?” Y lắc đầu thất vọng. “Đại nhân, xin thứ lỗi. Thuộc hạ thực sự không biết!” “Đừng lo, Mã Vinh! Điều đáng nói là chúng ta giờ đã biết đó vốn là một người bằng xương bằng thịt. Ôi, ngay sáng ngày mai, ngươi phải đến ngay am Thanh Phong, Mã Vinh ạ, và xem tình trạng Phương Cảnh Hành thế nào. Chúng ta sẽ lại về đây sau bữa điểm tâm sáng. Phải hành động ngay lập tức. Hung thủ rất liều lĩnh, hắn có thể ra tay lần nữa bất cứ lúc nào. Sư gia, mở cửa sổ ra đi! Trời oi bức đến mức ta e rằng sắp có một cơn bão. Và thời điểm này trong năm thì mưa bão vô cùng ghê gớm. Ta sẽ ở lại đây một lát để thử sắp xếp lại suy nghĩ của mình. Xin hai vị cứ ngon giấc!” HỒI 18 Phút hấp hối, Tháp Lạp xin thiêu xác Rương bị hỏng, Kính Văn thuê họ Lưu Mưa bão dữ dội đã khiến huyện Lan Phường như chao đảo suốt mấy canh giờ trước lúc trời sáng, bình minh lên thì trời quang mây tạnh. Khi Địch Công cùng Tam phu nhân ra vườn đi dạo buổi sáng, một màn sương mỏng lơ lửng trên mặt ao sen, vô số bông sen trắng và hồng bỗng nở rộ. Địch Công quyết định dùng bữa điểm tâm sáng tại thủy đình.
Hai người lặng lẽ ăn, tận hưởng bầu không khí trong mát và phong cảnh nên thơ. Sau đó, cả hai đứng bên hàng lan can sơn đỏ và rắc những hạt cơm còn sót lại xuống ao cho đám cá vàng. Đứng ngắm đàn cá tung tăng bơi lội khi chúng vừa nhao ra từ dưới những chiếc lá sen lớn, Tam phu nhân nói: “Đêm qua, lão gia về nhà rất muộn và ngủ không yên giấc, trở mình nhiều lần. Có hung tin gì phải không?” “Đúng thế. Chúng ta đã mất một Bộ khoái, người ấy để lại vợ dại và hai đứa con thơ, một Bộ khoái khác thì bị thương nặng. Nhưng ta tin vụ án đau đầu này sắp kết thúc rồi. Chỉ thiếu một mảnh ghép cuối cùng, ta hy vọng hôm nay sẽ tìm ra.” Nàng theo ông đi ra cổng vườn. Ông thấy Mã Vinh và Hồng Sư gia đang đợi ông trong tư phòng. Sau khi chào hỏi Địch Công, Mã Vinh nói: “Đại nhân, thuộc hạ vừa từ am Thanh Phong về. Phương Cảnh Hành đang hồi phục. Bảo Nguyệt sư thái nghĩ rằng sau khoảng mười ngày thì y sẽ ổn. Bà ấy cho phép y ở lại đó cho đến khi hoàn toàn bình phục.” “Quả là tin tốt!” Địch Công ngồi xuống bên án thư. “Phải rồi, tốt nhất trong lúc này, Cảnh Hành nên ở lại am Thanh Phong. Ôi, đêm qua ta cứ nghĩ đi nghĩ lại về nhiều điểm trong vụ án này. Ta quyết định trong hôm nay, chúng ta trước hết sẽ lục soát chùa Tử Quang lần nữa, sau đó mời Bang chủ Cái bang và tiểu nữ của lão ta đến để chất vấn kĩ lưỡng.” Mã Vinh có vẻ bồn chồn. Y lấy giọng rồi nói, “Đại nhân, xin nói với ngài sự thật, thuộc hạ có cảm giác Xuân Vân có khi là kẻ do thám cho đám hành khất chuyên nghề đạo chích dưới quyền cha cô ta.”
“Đó chính là điều ta nghĩ đến khi trông thấy sơ đồ của ngôi chùa mà cô ta đã vẽ.” Địch Công nói. Ông mở ngăn kéo và đặt tờ giấy vẽ sơ đồ lên án thư. Vuốt phẳng tờ giấy, ông nói, “Ta phải thừa nhận, sơ đồ này rất hữu dụng để chúng ta định hướng điều tra.” Mã Vinh đứng dậy. Cúi xuống bên án thư, y hăm hở, “Trên sơ đồ này, thuộc hạ có thể thuật lại chính xác cho đại nhân biết đêm qua mình đã tìm cách bắt giữ tên hung thủ như thế nào. Đại nhân nhìn xem, đây chính là lỗ hổng trên tường mà thuộc hạ chui vào trong chùa. Thuộc hạ lẻn vào trong bằng cửa này và…” Y tiếp tục thuật lại tuần tự cuộc đụng độ trong đại điện tối tăm. Địch Công nghe với vẻ lơ đãng. Ông giật dải tóc mai, nhìn tấm sơ đồ không chớp mắt. “Rồi thuộc hạ vấp phải cái thang dây chết giẫm đó”, Mã Vinh kể tiếp. “Nó ở đây, ngay chính điểm này. Vì thế…” Bỗng Địch Công đấm xuống án thư, mạnh đến nỗi mấy chén trà nảy lên. “Trời ạ!” Ông thốt lên. “Ra là thế! Sao ta lại không phát hiện ra ngay nhỉ? Suốt thời gian ta đến ngôi chùa, ta đã nghĩ về cách bố trí của nó, nhưng ta không nhận thấy sự tương đồng!” “Sao cơ…” Hồng Sư gia hỏi. Địch Công đẩy ghế đứng dậy. “Đợi đã! Ta sẽ phải làm rõ mọi thứ. Các vị, nhờ vào năng lực của cô nương kia, ta đã tìm ra mảnh ghép cuối cùng! Giờ ta đã thấy chính xác vị trí của mảnh ghép ấy… Phải rồi, cuối cùng thì một bức tranh rõ ràng đã hiện lên từ tất cả những manh mối rắc rối này. Nhưng…”
Ông lắc đầu với vẻ sốt ruột. Ông đi lại trong phòng, hai tay chắp sau lưng. Mã Vinh mỉm cười hài lòng. Khi đến am Thanh Phong, y đã có cơ hội trò chuyện riêng với Xuân Vân một lúc, và y nghĩ cô ta không hẳn là không muốn trở thành tình nương của mình. Cô nương này rõ ràng đã cho Địch Công một manh mối quan trọng như vậy, có thể những tội lỗi nhỏ trước kia của cô ta sẽ dễ dàng được xóa bỏ. Khuôn mặt Hồng Sư gia cũng lộ vẻ vui mừng, vì theo kinh nghiệm lâu năm, ông đã nhận ra những dấu hiệu khả quan; vụ án này đã đến lúc được tháo gỡ. Có tiếng bước chân nặng nề và vội vã ngoài hành lang. Bộ đầu xộc vào. “Đại nhân, lý chính* ở khu Tây Bắc thành xin vào gặp!” Y thở hổn hển. “Bên đó có sự cố. Đám người Đột Quyết đang xử tội ả phù thủy bằng cách ném đá đến chết. Khi người của lý chính đến ngăn họ, đám giang hồ đã dùng gậy và gạch đá đánh đuổi họ đi…” Chức vụ hành chính đứng đầu cấp thôn làng, xã phường thời xưa. Mã Vinh nhìn sang Địch Công để dạm ý. Khi Địch Công gật đầu, y bật dậy, giật lấy ngọn roi từ đai lưng của Bộ đầu rồi chạy ra ngoài. Trước tàu ngựa, hai mã phu đang tắm rửa cho một con ngựa. Mã Vinh nhảy luôn lên lưng ngựa mà không cần yên, thúc ngựa phóng ra cổng. Ra phố, y thúc ngựa phi nước kiệu. Dân chúng vội tránh đường khi nghe tiếng vó ngựa rền vang và thấy có người phóng ngựa qua. Đường phố ở khu Tây Bắc thành có một vẻ hoang tàn. Qua những mái nhà lụp xụp trên đầu, Mã Vinh thấy có khói bốc lên phía xa và tiếng quát tháo hỗn loạn.
Trên con phố mà Tháp Lạp sống, một đám đông hỗn tạp chắn ngang đường y. Hom mười người Đột Quyết đang xô đẩy nhau, quát tháo và chửi bới. Ba người Tây Trúc đang ném những ngọn đuốc lên mái nhà của Tháp Lạp, một đám nữ nhân nhếch nhác tung hô ầm ĩ từ những ô cửa nhà đối diện. Mã Vinh vụt ngọn roi xuống những tấm lưng trần đẫm mồ hôi của mấy người Đột Quyết gần nhất rồi thúc ngựa đi qua. Đám đông hướng về phía y mà chửi bới giận dữ. Khi thấy quan phục của y, biết y là người của huyện nha, tất cả đành tức tối im miệng. Mã Vinh nhảy xuống ngựa và chạy đến chỗ nữ nhân nằm dưới chân bức tường đất cạnh cửa ra vào. Chiếc áo choàng của Tháp Lạp bị xé tả tơi, dính đầy máu, hai cánh tay trắng nõn của nàng ta trải đầy những vết thương vừa dài vừa sâu do nàng ta lấy tay che mặt. Những đám cây que và gạch đá vương vãi xung quanh. Trong khi Mã Vinh quỳ xuống bên nàng ta, một viên gạch sượt qua đầu y và trúng vào bức tường. Y quay lại và thấy một gã Đột Quyết cởi trần đang cúi xuống nhặt một viên gạch khác. Nhanh như chớp, Mã Vinh bật dậy và lao về phía hắn. Tay trái y túm lấy mớ tóc của hắn và vụt cán roi xuống gáy hắn. Buông hắn ra, y quay ra quát đám đông: “Đem mấy thùng nước đến đây và dập lửa đi. Các ngươi có muốn nhà mình cũng bị thiêu rụi không?” Tháp Lạp bấy giờ mới dám buông tay khỏi mặt. Một vết thương sâu hoắm cắt qua chân mày nàng ta; nửa khuôn mặt bên trái của nàng ta bị đánh bầm giập.
“Ta sẽ đưa bà lên ngựa và đưa bà đến…” Mã Vinh mở lời. Nàng ta giương bên mắt đỏ vằn máu lên nhìn Mã Vinh. “Thiêu… xác ta đi”, nàng ta thì thầm. Bỗng có thứ gì đó đổ sập, kèm theo là tiếng kêu la kinh hãi của đám đông. Mái nhà của Tháp Lạp đã sập xuống. Cái đầu to lớn của vị hung thần lộ ra. Khuôn mặt đỏ au của bức tượng dường như càng khủng khiếp hơn giữa những ngọn lửa bao phủ quanh mình. Mã Vinh ôm lấy nữ nhân kia và lùi xa khỏi bức tường, vì những mảnh gỗ cháy đang rơi xuống từ mái nhà. Y thấy đôi môi bật máu của nàng ta mấp máy. “Hãy rải tro cốt của ta…” Nàng ta nói mà gần như không thể thành tiếng. Y thấy nàng ta rùng mình, rồi thân thể nàng ta rũ ra trên tay y. Y đặt thi thể nàng ta lên ngựa. Tên Đột Quyết mà y đánh khi nãy đã được bạn bè đưa đi. Những người khác thì quỳ xuống trước căn nhà của Tháp Lạp trong nỗi sợ hãi hèn yếu. Đầu của pho tượng đang bùng cháy nhưng vẫn nhìn xuống đám ngu dân với nụ cười mỉa mai. “Đứng lên và dập lửa đi, lũ ngốc!” Mã Vinh quát. Rồi y nhảy lên ngựa và quay lại huyện nha với thi thể Tháp Lạp. Địch Công bình tĩnh khi nghe hung tin ấy. Ông nghiêm nghị nhìn Mã Vinh và Hồng Sư gia, “Số phận của Tháp Lạp đã được định đoạt từ khi nàng ta đi theo thứ tín ngưỡng tin vào diệt vong đó. Ta đã ra lệnh không được can thiệp vào những xung đột tôn giáo của mấy kẻ dị tộc, nên chúng ta sẽ không truy cứu những người dân quanh đó nữa. Chúng ta sẽ hỏa táng nàng ta như nàng ta mong muốn.”
Lời ông bị cắt ngang bởi tiếng chiêng đồng trước cổng huyện nha. Lúc này, Địch Công lại nhớ đến tiếng chiêng ở chùa, tiếng chiêng gióng giả vang lên vào cuối lễ tang, báo hiệu linh hồn của người chết đã sang thế giới bên kia. “Phiên thăng đường sắp bắt đầu.” Ông nói. “Mã Vinh, ngươi nên đi nghỉ ngơi chút đi; vì chiều nay, chúng ta sẽ đến chùa Tử Quang. Sư gia, ông sẽ giúp ta ở công đường. Ta e sẽ lại là một buổi xét xử kéo dài nữa, vì vụ án nhà họ Cao kiện nhà họ Lư vẫn cần phải tái thẩm; bây giờ, bên họ Lư muốn đưa ra bằng chứng mới của họ. Ở cuối buổi xét xử, ta sẽ ra lệnh phóng thích tên du đãng A Ngưu. Hồng Sư gia, lấy cho ta bộ quan phục.” Sau khi sai người hỏa táng Tháp Lạp đúng luật lệ, Mã Vinh đi thẳng về túc xá. Cởi bỏ y phục, y ngồi ở một góc và có hai nha dịch múc từng gầu nước lạnh đổ lên người y. Vẫn để mình trần như vậy, y đi lên căn gác nhỏ, buông mình xuống chiếc giường ván của binh sĩ. Y quá mệt vì đã phải đến am Thanh Phong từ trước khi trời sáng, y chỉ được ngủ hai canh giờ sau một đêm vất vả ở chùa Tử Quang. Tuy nhiên, ngay khi vừa nhắm mắt lại, khuôn mặt tàn tạ của Tháp Lạp lại hiện lên trong tâm trí y; rồi y lại thấy nàng ta như đang đứng trước mặt mình, trần trụi bên một đống sọ người… Y lầm bầm chửi thề rồi trở mình liên tục cho đến khi chìm vào giấc ngủ không mộng mị.
Y tỉnh dậy và thấy đầu đau nhức. Nhìn ra cửa sổ, y thấy trời đã xế chiều. Y vội mặc y phục và xuống dưới. Trong khi ăn vội tô mì đã nguội lạnh ở túc xá, một Bộ khoái báo cho y biết Chánh Lục sự đã trở về từ huyện Thư Mạt. Ông ta vừa vào cổng, hiện đang ở thư phòng của Địch Công. Mã Vinh đặt tô mì xuống và vội vàng đến thư phòng. Địch Công ngồi sau án thư, Sư gia đứng một bên. Chánh Lục sự đang ngồi ở ghế đối diện, vẫn luôn giữ một vẻ giản dị và đĩnh đạc. Mã Vinh ngồi xuống, khó hiểu nhìn những mảnh giấy nhỏ được xếp thành nhiều hàng ngay ngắn trên án thư, mỗi mảnh giấy đều kín chữ viết tay quen thuộc của Địch Công. Phía trên cùng những hàng giấy ấy có bảy tấm thẻ lớn, thường dùng để đánh dấu trong hồ sơ. Y định mở lời xin thứ lỗi vì đến muộn, nhưng Địch Công đã khoát tay. “Ngươi đến vừa kịp lúc để nghe trình báo về huyện Thư Mạt.” Đoạn ông bảo Chánh Lục sự, “Nói tiếp đi!” “Khinh xa Đô úy của binh đoàn hộ tống đã đồng ý cho thuộc hạ đi cùng, nên gần như suốt quãng đường quay về, thuộc hạ được an nhàn và đi cũng rất nhanh! Đoạn đường cuối thuộc hạ đi ngựa cùng một nhóm các thương nhân buôn trà. Tất cả cùng đi suốt đêm. Cũng thật may mắn vì khi mưa bão nổi lên thì cả đoàn đã tìm được chỗ trú trong một túp lều của người kiếm củi trên núi. Rồi…” “Ông đã có một chuyến đi đáng nhớ”, Địch Công ngắt lời. “Mau nói cho ta những điều trọng yếu mà ông thu được ở huyện Thư Mạt. Sau khi nghỉ ngơi thì ông hãy thuật lại mọi chi tiết.”
“Đa tạ đại nhân. Thuộc hạ muốn bắt đầu nói về chuyện quan sai ở huyện nha huyện Thư Mạt cư xử với thuộc hạ hết sức lễ độ. Họ bố trí cho thuộc hạ nơi ở thuận tiện nhất trong dịch quán dành cho khách đến huyện nha.” “Ta sẽ viết thư cảm tạ người bạn đồng liêu của mình. Ông biết gì về chuyện quan Chưởng cố Tư khố ở đó?” “Các đồng nghiệp cho thuộc hạ gặp viên Lục sự đã từng được giao nhiệm vụ hỗ trợ cho Trâu đại nhân. Ông ta bảo rằng mọi việc lần đó cũng suôn sẻ, vì Trâu đại nhân đã mệt mỏi sau một chuyến đi dài nên từ chối lời mời đến dự tiệc của Huyện lệnh. Khi viên Lục sự ấy đem cơm tối lên phòng cho Trâu đại nhân, đại nhân bảo ông ta cho gọi một người thợ làm da đến, vì một trong số các rương hành lý có một vết rách. Sau khi người thợ làm da xong việc, Trâu đại nhân mới nghỉ ngơi. Ông ấy không tiếp bất cứ ai và sáng hôm sau họ lên đường khi trời vừa hửng sáng.” Chánh Lục sự cúi đầu đáp lễ Hồng Sư gia khi Sư gia đẩy chén trà về phía ông ta. Uống được vài ngụm, ông ta kể tiếp, “Bộ đầu của huyện nha huyện Thư Mạt đã đi tìm người thợ ấy giúp thuộc hạ. Tên ông ta là Lưu Thiện Long, một người đứng tuổi, có phần ba hoa. Ông ta vốn là thợ kim hoàn, nhưng sau đó vì mắt đã kém nên chuyển sang làm đồ da. Ông ta nhớ rất rõ chuyện từng gặp Trâu đại nhân, vì ít ngày sau đó thì có tin số vàng bị mất, và rồi…”
“Được rồi. Chuyện gì đã xảy ra khi Lưu Thiện Long đến?” “Bẩm đại nhân, Trâu đại nhân đưa Lưu Thiện Long vào phòng và chỉ cho ông ta chiếc rương bị rách. Lưu Thiện Long xem xét và bảo rằng thứ da này là loại chất lượng tốt và không phải lo bị rách thêm. Trâu đại nhân tỏ vẻ an lòng và thưởng cho họ Lưu. Được những lời vàng ngọc của vị đại quan khích lệ, Lưu Thiện Long khen ngợi sự tinh xảo trên bộ quan phục có đính vàng mà Trâu đại nhân đang mặc, thêm vào đó ông ta cũng khoe mình là một thợ kim hoàn giỏi. Trâu đại nhân nói nếu đã vậy thì hãy làm thêm vài việc cho mình. Đại nhân lấy trong tay áo ra một chiếc chìa khóa có kết cấu phức tạp, mở khóa của chiếc rương bị rách. Đại nhân đứng quay lưng về phía họ Lưu, nhưng qua tấm gương trên bàn, họ Lưu thấy trong rương toàn là những thỏi vàng lớn, xếp kín đến tận miệng. Trâu đại nhân đóng rương và quay lại phía họ Lưu với một thỏi vàng lớn trong tay. Ông bảo rằng thỏi vàng này dài quá mức bình thường; ông ấy đã cố nhét nó vào rương lên trên cùng và có thể đây là nguyên nhân khiến lớp vỏ da bị rách. Đại nhân hỏi Lưu Thiện Long xem có thể cưa thỏi vàng này làm hai phần mà không làm mất đi vàng cám không. Lưu Thiện Long có mang đúng loại cưa cần thiết trong hộp dụng cụ và sau khi xong việc thì ra về ngay. Chuyện là vậy, thưa đại nhân!” Địch Công nhìn hai trợ thủ với ánh mắt đầy ẩn ý. Ông hỏi Chánh Lục sự, “Lưu Thiện Long đã kể với ai về những điều ông ta biết?”
“Ôi, bẩm đại nhân, có đến hàng chục người! Tình cờ là phường kim hoàn có một buổi họp theo lệ thường vào chính tối hôm đó, và Lưu Thiện Long đã kể cho cả đám nghe câu chuyện lấy. Những người bình thường ít khi được nghe về một chuyến vận chuyển vàng như vậy, và đó là lúc để họ đưa ra đủ mọi giả thiết về lý do quan Chưởng cố Tư khố của Bộ Hộ đem một lượng vàng lớn như vậy qua biên giới.” “Vất vả cho ông rồi! Sau khi đi nghỉ ngơi, ông nên xem qua hồ sơ về những vụ án trong hai ngày nay. Vẫn là vụ kiện giữa nhà họ Cao và Lư.” “Đại nhân, thuộc hạ đương nhiên là muốn xem những hồ sơ ấy!” Lão nhân hăng hái. “Đúng rồi, thuộc hạ ngờ rằng cả hai bên đều ngấm ngầm có kế hoạch riêng, nhất là bên phía họ Cao! Có điểm bất minh về cuộc hôn nhân lần thứ hai của gã tam đường ca và…” “Đây là hai tập hồ sơ”, Địch Công vội bảo. “Ta sẽ xem xét lại vụ án này vào ngày mai.” Chánh Lục sự cáo lui, thích thú ôm hai tập giấy tờ trong tay. “Trâu đại nhân đã phạm một sai lầm nghiêm trọng”, Sư gia nhận định. “Lẽ ra ông ấy nên bảo Lưu Thiện Long ra khỏi phòng một lát khi ông ấy lấy thỏi vàng từ trong rương ra.” “Quả là vậy”, Mã Vinh thêm vào. “Dẫu thế, thông tin này cũng chẳng giúp ích thêm cho chúng ta là bao. Làm sao để ta tìm ra kẻ nào đã loan truyền tin tức đó về huyện Lan Phường? Đó có thể là một bằng hữu hoặc…”
“Không quan trọng đâu, Mã Vinh”, Địch Công ngắt lời. “Điều cốt yếu là giờ đây chúng ta đã biết chắc chắn số vàng đã bị lộ ra như thế nào, và thông tin ấy đã truyền đến đây trước khi Trâu đại nhân đến, tất cả thợ kim hoàn lẫn thợ rèn đều đã biết rõ. Đó mới là những gì ta cần.” “Đại nhân, giờ chúng ta sẽ đến chùa Tử Quang chứ?” Mã Vinh hỏi. “Có sáu Bộ khoái đã ở đó, nhưng thuộc hạ không mong số vàng ấy lại nằm đâu đó trên mặt đất!” “Không, chúng ta chưa đến đó vội. Như ta đã giải thích cho Sư gia trước khi Chánh Lục sự đến, giờ ta đã hoàn thành một giả thiết về vụ án này. Bắt buộc phải có một cuộc tái thẩm tra cẩn thận về mọi bằng chứng đã được làm rõ từ trước đến giờ, nhất là phải kiểm tra rõ ràng về ngày tháng. Ngày tháng giữ một vai trò sống còn trong vụ án này. Vì thế mà ngươi mới thấy trước mặt ta có những mẩu giấy ghi chép này. Những kết quả đã được ta tổng hợp lại trên bảy tấm thẻ xếp phía trên. Trên mỗi tấm thẻ, ta đều viết ra một họ tên, cùng với những sự kiện quan trọng. Không còn cần đến những mẩu giấy này nữa.” Địch Công kéo ngăn bàn ra, dùng tay áo gom tất cả những mẩu giấy đó vào ngăn bàn. “Giờ chúng ta sẽ cùng xem xét bảy tấm thẻ này. Ta đã úp tất cả xuống khi có người báo Chánh Lục sự tới, vì ông già này rất tinh mắt! Mỗi tấm thẻ đều có họ tên của kẻ bị tình nghi.”
HỒI 19 Bảy nghi phạm đảo điên thật giả Địch Nhân Kiệt xếp đặt sự tình Địch Công ngồi thẳng lưng. Ông khoanh tay lại rồi nói, “Trước khi giải thích tại sao ta nghi ngờ bảy người này, từng người hoặc từng cặp, ta phải cho hai vị biết rằng chúng ta chỉ có một vụ án duy nhất. Hôm kia trời ạ, tưởng như đã lâu lắm rồi chúng ta còn nghĩ đây là ba vụ án riêng biệt. Hai vụ là từ gần một năm trước: vụ mất số vàng của Chưởng cố Tư khố Bộ Hộ Trâu Kính Văn đại nhân, và thông điệp bí ẩn của một nữ nhân có tên Bạch Ngọc; còn vụ thứ ba mới là đêm trước đó, Thẩm Tam bị sát hại trong chùa hoang. “Những diễn biến sau đó cho thấy vụ trộm vàng có liên quan đến những cái chết trong chùa, và sáng nay, tấm sơ đồ do Xuân Vân vẽ khiến ta tin rằng vụ mất tích của Bạch Ngọc chắc chắn liên quan đến những tội ác diễn ra ở ngôi chùa đó. Chúng ta chỉ có một vụ án thôi, nhưng là một vụ án với nhiều phần khác nhau! Tất cả bắt đầu từ vụ trộm vàng. Xung quanh năm mươi thỏi vàng bị mất cắp đó nảy sinh một mạng lưới nhân tình thế thái xung khắc với nhau, vừa lạ lùng vừa phức tạp. Sư gia, rót cho ta một chén trà nữa!” Địch Công uống liền mấy ngụm hết chén trà. Rồi ông lục trong ngăn bàn và lấy ra một mảnh giấy. “Lúc nãy, ta đã nói rằng ngày tháng sẽ thể hiện những manh mối quan trọng trong vụ án này. Ta vừa ghi chép một chút ở đây. Các vị xem đi!”
Sư gia và Mã Vinh kéo ghế lại gần án thư và đọc những gì Địch Công viết. Mười lăm năm trước (năm Đinh Mão): Quan phủ đóng cửa chùa Tử Quang. Am Thanh Phong được dựng dưới quyền trông nom của một tăng nhân và một ni cô, hai người đã thề từ bỏ dị giáo. Năm ngoái (năm Tân Tỵ): Ngày mười lăm, tháng Năm, Ngô đại nhân thành thân với Ngô phu nhân. Ngày mồng hai, tháng Tám, Trâu đại nhân bị mất trộm vàng. Ngày hai mươi, tháng Tám, Trương quả phụ, tức Thẩm thị, đến tu ở am Thanh Phong, pháp danh là Bảo Nguyệt. Ngày mồng sáu, tháng Chín, Mễ Đại Lang mất tích. Ngày mồng mười, tháng Chín, Bạch Ngọc mất tích. Ngày mười hai, tháng Chín, Bạch Ngọc để lại thông điệp trên hộp gỗ. Mã Vinh ngẩng lên. “Đại nhân, Mễ Đại Lang là ai vậy?” “Ngươi không nhớ sao, hôm trước, Hồng Sư gia đã thuật lại với ngươi sau khi xem hồ sơ về những vụ mất tích. Ông ấy đã thấy có vụ một người thợ kim hoàn là Mễ Tam Lang đến trình báo huynh trưởng của mình là Mễ Đại Lang ra ngoài vào đêm mồng Sáu tháng Chín năm Tân Tỵ và không quay về. Hôm trước, Lý Mai nói với chúng ta rằng Ngô phu nhân đã từng chung sống cùng một người thợ kim hoàn, người đó bỏ bà ta khoảng một năm trước. Trưa nay, ta đã nhờ Sư gia bí mật điều tra tiểu đệ của Mễ Đại Lang, và Hồng Sư gia đã luận ra rằng, Ngô phu nhân quả thực đã từng chung sống với Mễ Đại Lang một thời gian. Mễ Đại Lang là một thợ làm khóa chuyên nghiệp và cũng là một thợ kim hoàn có tay nghề cao. Nhưng y lại là kẻ lừa đảo đúng như lời Lý Mai đã nói khi ông ta kể về những mối quan hệ cũ của Ngô phu nhân. Dù thế nào cũng phải nhớ rõ những ngày tháng và danh tính này! Tất cả đều vô cùng quan trọng.”
Ông vươn người về trước và lật tấm thẻ đầu tiên. “Thẻ này ta đề tên Ngô Tông Nhân, cựu Thứ sử đại nhân. Ngô Tông Nhân vẫn luôn là người trung thực trong suốt thời gian dài làm quan. Nhưng trong những năm về sau, sau khi lâm vào cảnh bần hàn và thành gia thất với một nữ nhân xấu xa, tâm tính ông ta đã thay đổi. “Đây, thẻ thứ hai có tên của Ngô phu nhân, tức Chu thị. Ta để nó bên cạnh tấm thẻ của Ngô Tông Nhân. Họ rất có khả năng đã nghe được tin tức về số vàng ở huyện Thư Mạt. Ngô đại nhân hay lui tới cửa hiệu của Lý Mai, và tình lang của Chu thị lại là một thợ kim hoàn. Khi họ nghe được tin tức từ huyện Thư Mạt, họ nhận ra đây là cơ hội nghìn năm có một. Chu thị liên lạc với tình lang cũ của mình là Mễ Đại Lang, và hắn đã đánh cắp số vàng ấy rồi thay những thỏi chì vào; trò đánh tráo ấy có thể là do Ngô Tông Nhân gợi ý. Họ Mễ giấu vàng ở đâu đó trong ngôi chùa hoang. Tuy nhiên, sau đó đã xảy ra rắc rối. Họ Mễ không tiết lộ chính xác địa điểm mình giấu vàng. Hắn tức giận vì tình nương đã lập gia thất? Hoặc phải chăng chỉ là vì hắn muốn độc chiếm số vàng ấy? Chúng ta chỉ có thể phán đoán câu trả lời mà thôi. Nhưng cũng có một điều chắc chắn: phu thê Ngô Tông Nhân không bỏ qua cho thái độ cự tuyệt của gã họ Mễ. Có thể hai người đó đã khống chế hắn, tra tấn hắn cũng nên. Bốn ngày sau, hắn bị giết và thi thể bị thủ tiêu. Bấy giờ, hai người bắt đầu tìm kiếm một cách có hệ thống trong chùa Tử Quang. Họ đã lục soát suốt nhiều tháng mà không có kết quả. Rồi sự cố thứ hai xảy ra. Dương Mậu Đức moi được bí mật về số vàng từ Chu thị. Có nhiều dấu hiệu cho thấy hai kẻ đó đã thông gian với nhau. Hoặc họ Dương đã biết được chuyện đó khi do thám trong nhà họ Ngô. Dương Mậu Đức thuê Thẩm Tam tống tiền nhà họ Ngô. Phu thê Ngô Tông Nhân và Chu thị liền lừa cả hai gã Dương Thẩm vào chùa Tử Quang rồi giết họ.”
“Nếu giả thiết này chính xác”, Mã Vinh nói, “thì Chu thị chính là ả ma nữ kia! Nhưng còn Bạch Ngọc thì sao?” “Ta nghĩ Bạch Ngọc đã biết chuyện phụ thân và kế mẫu sát hại Mễ Đại Lang, và hai kẻ đó quyết định cũng phải cho Bạch Ngọc ra đi ngay lập tức. Chu thị vốn ghét nàng ta và cái chết của nàng ta khiến cho người cha phải chịu cảm giác tội lỗi giày vò trong một thời gian dài. Ôi, những hành vi của Ngô Tông Nhân và Chu thị hôm qua đã hỗ trợ toàn diện cho giả thiết này. Cáo thị mà ta cho dán khắp nơi đã kinh động đến hai kẻ tội lỗi. Ta đã tìm ra manh mối cho việc họ giết nàng ta ư? Ta đang định bắt họ để thẩm vấn ư? Họ cho rằng ra tay trước là cách phòng thủ hữu hiệu nhất. Ngô Tông Nhân tìm đến ta, Chu thị thì đến gặp Tam phu nhân, liều lĩnh đến tìm hiểu xem ta đã khám phá ra điều gì và cố ý làm rối loạn mọi việc. “Tuy nhiên, có một lỗ hổng trong giả thiết của ta, và cũng là một lỗ hổng quan trọng. Ngô Tông Nhân có thể là người đã ném đá xuống khi ngươi ở dưới giếng, Mã Vinh ạ, và hắn cũng có thể đã xô đổ phần trên của bức tường xiêu vẹo trong chùa. Nhưng ta không hiểu một người lớn tuổi như hắn làm sao có thể siết cổ Dương Mậu Đức và đâm Thẩm Tam; làm sao có thể di chuyển xác Thẩm Tam và thoát khỏi ngươi trong bóng tối. Sư gia có ý kiến gì không?” Khi Hồng Sư gia lắc đầu, Địch Công nói tiếp, “Ta sẽ lật tấm thẻ thứ ba. Chưởng quỹ Lý Mai. Đương nhiên, theo tin tức nghe được từ huyện Thư Mạt thì y là kẻ có khả năng nhất. Chúng ta điều biết Chu thị không hẳn là một người thoát tục trước khi thành thân với Ngô Tông Nhân. Bà ta có thể cũng đã qua lại với Lý Mai, Mễ Đại Lang có thể biết hoặc không biết chuyện này. Khi Ngô Tông Nhân có tình cảm với bà ta, Lý Mai liền thúc đẩy cho hai người đến với nhau; không gì tiện lợi hơn là làm mai nhân tình của mình cho vị hảo bằng hữu! Ngô Tông Nhân muốn gả tiểu nữ Bạch Ngọc cho Lý Mai. Thật quá tiện lợi! Lý Mai sẽ có một vị hôn thê trẻ đẹp, và cùng lúc ấy lại có những cơ hội tốt hơn để tiếp tục thông gian với kế mẫu của hôn thê. Lý Mai và Chu thị tổ chức vụ trộm vàng nhờ Mễ Đại Lang. Rồi hai biến cố ta vừa nhắc đến lại xảy ra: Họ Mễ không tiết lộ nơi giấu vàng, nên họ giết hắn. Bạch Ngọc khám phá ra vụ án mạng đó, hoặc biết chuyện kế mẫu thông gian, và nàng đã bị ám hại. Chu thị vốn ghét nàng, và Lý Mai lại thích của cải hơn là một người vợ trẻ. Còn về hai vụ giết người trong chùa, Lý Mai là kẻ cao lớn khỏe mạnh, thích săn bắn. Một địch thủ xứng tầm cho ngươi trong đại điện đó, Mã Vinh! Sư gia có lập luận nào không?” 👁
Địch Công trình bày giả thiết qua bảy tấm thẻ Hồng Sư gia nãy giờ vẫn có vẻ mơ hồ. Bấy giờ, lão mới nói, “Làm sao chúng ta chấp nhận được giả thiết này trong khi Lý Mai cố tìm cách bôi nhọ Chu thị? Hắn đã không ngại đến gặp chúng ta để kể về thân thế đáng ngờ của ả.” “Đó có thể là một động thái thông minh, vì muốn tung tin giả để đánh lạc hướng chúng ta. Lý Mai biết rất rõ chúng ta không hề có bất cứ bằng chứng gì để kết tội Chu thị. Và những lời ả ta nói với Tam phu nhân cũng chính là những gì Lý Mai đã dặn ả. Chà, chúng ta giờ đã có được hai nam nhân và một nữ nhân. Thẻ thứ tư cũng là một nữ nhân. Ta sẽ lật lên và xếp bên cạnh thẻ của Lý Mai.” Hồng Sư gia vươn người về trước. Lão thở dốc khi đọc được tên người ấy. “Bảo Nguyệt!” Lão thốt lên. “Đúng thế, Bảo Nguyệt. Nhớ rằng bà ấy là quả phụ của chủ tiệm kim hoàn họ Trương, và cũng có thể quen biết đồng nghiệp Lý Mai. Nếu bà ta và Lý Mai cũng là nhân tình của nhau thì sao? Hồ sơ cho biết Trương chưởng quỹ chết vào tháng Một năm Tân Tỵ, do một cơn đau tim bất ngờ. Liệu có phải ông ta đã phát hiện ra thê tử tư thông với Lý Mai, và hai kẻ đó đã tiễn ông ta sang thế giới bên kia? Ta nghĩ, những chi tiết về cái chết của Trương chưởng quỹ cần phải được xem xét lại. Dù thế nào, chính vào tháng diễn ra vụ trộm vàng, bà ta trở thành Bảo Nguyệt sư thái của am Thanh Phong vị trí lý tưởng cho một người có hứng thú với ngôi chùa hoang ấy, kẻ muốn tìm kiếm số vàng được giấu trong đó mà không gặp trở ngại! Cuối cùng, bà ta biết trước rằng Mã Vinh sẽ đến ngôi chùa ấy. Chính ta đã nói với bà ta trong bữa tiệc mừng sinh nhật. Và bà ta ra về rất sớm, ngay khi món cuối cùng được dọn lên. Bà ta nói bị đau đầu nên xin cáo từ.”
“Vậy là bà ta có thể dễ dàng trở lại ngôi chùa đúng thời điểm để dụ thuộc hạ ra giếng cổ”, Mã Vinh cay đắng nhận ra. “Và đêm qua, sau khi dựng một cái bẫy cho thuộc hạ bên dưới bức tường sắp đổ, bà ta đã có đủ thời gian để trở lại am Thanh Phong trong khi thuộc hạ mải đuổi theo Lý Mai trong sảnh. Nhưng còn Bạch Ngọc thì sao?” “Vẫn là câu chuyện như trước đó: Bạch Ngọc chắc chắn đã bắt quả tang bọn chúng đang phi tang xác Mễ Đại Lang.” “Bảo Nguyệt có khi còn hứng thú với việc sát hại cô nương tội nghiệp ấy.” Mã Vinh ghê tởm nói. “Xuân Vân nói mụ già đó rất thích trừng phạt nàng bằng roi! Nhưng thực sự chuyện gì đã xảy ra với Bạch Ngọc?” “Theo lời Tháp Lạp”, Địch Công từ tốn đáp, “Tiểu thư Bạch Ngọc bị gãy cổ vào ngày mồng mười, chính vào ngày nàng ta mất tích. Tuy nhiên, theo thông điệp để lại trên chiếc hộp gỗ, Bạch Ngọc chết vào khoảng ngày mười hai.” “Đúng với ngày tháng để lại trên hộp.” Hồng Sư gia nhận xét. “Cô nương ấy bị bắt giữ từ ngày mười đến ngày mười hai, không được cho ăn uống!” Địch Công cầm tấm thẻ thứ năm lên. “Tấm thẻ này ta đề tên họa sư Lý Kha. Hãy xem, ta đặt thẻ của y giữa thẻ của Chu thị và Bảo Nguyệt. Trước đó, Lý Kha cũng có cơ hội tốt để biết về bí mật số vàng như bào huynh của mình là Lý Mai, vì thời điểm đó y vẫn còn sống trong nhà Lý Mai. Cũng vì thế, y có thể đã gặp Mễ Đại Lang và Chu thị, kẻ về sau trở thành Ngô phu nhân.”
Địch Công đưa thẻ của Lý Kha lại gần thẻ của Chu thị và mỉm cười mãn nguyện khi nhìn hai tấm thẻ đó. “Ta phải thừa nhận, ta thích sự kết hợp này! Quả thực rất thích. Một nữ nhân lẳng lơ thành gia thất với một nam nhân cao tuổi, và một gã họa sư sống buông thả nhưng lại tin vào tình ái lãng mạn. Cả hai đều tầm trung tuổi, thời điểm mà ngọn lửa nhục dục bùng cháy mạnh mẽ hơn những người trẻ tuổi.” “Lý Kha cũng biết thuộc hạ sẽ đến ngôi chùa”, Mã Vinh lẩm bẩm. “Thuộc hạ đã nói với y khi gặp y trên đường đến cổng thành phía Đông. Và Lý Kha cũng là người sở hữu chiếc hộp gỗ! Bên cạnh đó, y còn là dân miền núi, khỏe mạnh và dạn dày kinh nghiệm! Thế nên y mới giảo hoạt đến vậy khi thuộc hạ tìm cách tóm y trong đại điện!” Địch Công gật đầu. Ông đưa thẻ của Lý Kha lại gần thẻ của Bảo Nguyệt. “Sự kết hợp này”, ông nói, “rõ ràng không hợp lý cho lắm. Nhưng ta phải nhớ rằng Lý Kha là người chuyên vẽ tranh về các hung thần. Y chắc chắn đã nghiên cứu kĩ lưỡng về số tranh và tượng từng có trong chùa Tử Quang; y có thể đã gặp được Bảo Nguyệt, bà ta vốn sùng đạo và lúc ấy vẫn còn là Trương phu nhân. Chà, ta sẽ lật tấm thứ sáu. Các vị có thể thấy ta đã viết tên Dương Mậu Đức trên đó.” “Dương Mậu Đức chết rồi!” Sư gia lấy làm lạ. “Chúng ta không nên bỏ qua người chết, Sư gia ạ xin mượn lời của Tháp Lạp. Ta đặt thẻ của họ Dương lên trên thẻ của Lý Kha, và đặt thẻ của Chu thị bên cạnh đó. Nhìn xem, giờ chúng ta có một sự kết hợp có phần còn hợp lý hơn sự kết hợp giữa Chu thị và Lý Kha! Một nữ nhân có thói trăng hoa và một gã thư sinh trẻ trung, trụy lạc, cùng sống dưới một mái nhà! Mụ ta sẽ nói với Dương Mậu Đức về số vàng và sai khiến hắn thực thi công việc khó khăn đó. Chúng ta thấy xác của họ Dương rồi; hắn là một kẻ tráng niên, có thể dễ dàng xử lý cả Mễ Đại Lang lẫn Bạch Ngọc.”
“Nhưng sau đó chính gã họ Dương này cũng đã bị giết, cùng với Thẩm Tam!” Hồng Sư gia xác nhận. “Đúng thế! Vậy nên ta mới để thẻ của họ Dương lên trên thẻ của Lý Kha. Vì trong vòng vài tháng sau khi diễn ra vụ trộm vàng, mối quan hệ giữa những kẻ này đã thay đổi. Chu thị đem lòng yêu Lý Kha. Mụ nói với Dương Mậu Đức là mình muốn kết thúc với hắn và hắn phải chia tay với số vàng. Nhưng họ Dương đâu có chấp nhận. Hắn tìm đến Lý Kha và bảo mình không thèm bận tâm đến Chu thị, nhưng hắn muốn một nửa số vàng. Để trông chừng đôi gian phu dâm phụ đó, họ Dương buộc Lý Kha phải dùng đến mình, đe dọa nói ra mọi chuyện với Ngô Tông Nhân. Tuy nhiên, họ Dương sau đó nhận thấy Lý Kha không phải kẻ dễ bị bắt nạt, và hắn quyết định tự mình đi tìm hết số vàng đó. Vì thế hắn thuê gã lưu manh Thẩm Tam đi giúp hắn tìm kiếm trong ngôi chùa cổ. Ở đó, cả hai đã bị Lý Kha và Chu thị giết hại.” Địch Công cầm cả sáu tấm thẻ lên. Ông tựa ra sau, xáo trộn tất cả lên và nói, “Dĩ nhiên còn một số sự kết hợp khả dĩ khác. Nhưng ta nghĩ chúng ta đã xét đến những khả năng cốt yếu mà buộc phải tính đến.” “Đại nhân, vẫn còn một thẻ nữa”, Sư gia nhắc. Địch Công ngồi thẳng dậy. “À, phải rồi, tấm thẻ thứ bảy!” Ông lật lên. Chỉ có một màu đen. Ông giơ tấm thẻ lên và nói: “Ta đã định viết một danh tính lên dây. Có thể là tên của một bóng ma. Bóng ma chùa Tử Quang. Nhưng rồi ta lại bôi đen nó. Tấm thẻ này mang nghĩa cái chết.”
Ông đặt tấm thẻ màu đen vào cùng sáu tấm thẻ kia, xáo trộn chúng lên và bỏ tất cả vào ngăn bàn. Ông khoanh tay lại và nói, “Khi đã đến giai đoạn này rồi, nói chung chúng ta nên bỏ nhiều thời gian và công sức hơn vào cuộc điều tra. Ta phải dò lại từng chi tiết về lai lịch những kẻ tình nghi, tìm ra chúng ở đâu và cùng ai vào thời điểm những tội ác này diễn ra, hỏi cung đám gia nhân, chưởng quỹ… Sẽ mất vài tuần, thậm chí hàng tháng, có khi tới lúc Kiều Thái lẫn Đào Cam cùng về để tham gia phá án. May mắn là chúng ta có thể đi được đường tắt.” Ông kéo sơ đồ của Xuân Vân lại phía mình. Những ngón tay ông khẽ gõ lên đó, “Nhờ bức phác họa tinh tế này, chúng ta có thể tiến hành một thử nghiệm có tính quyết định ngay đêm nay. Nửa canh giờ trước, ta đã nhờ một Lục sự chuyển đi hai bức thư. Một bức gửi cho phu thê Ngô Tông Nhân, bức kia gửi cho Lý Mai. Ta mời cả ba đến ngôi chùa hoang sau một canh giờ nữa, vì ta muốn đến đó rồi mới cho chúng biết về kết quả những điều tra của ta về tiểu thư Bạch Ngọc.” “Đại nhân, còn Lý Kha và Bảo Nguyệt thì sao?” Mã Vinh hỏi. “Bảo Nguyệt thì đích thân ta sẽ đến tìm ở am Thanh Phong. Dẫu sao ta cũng muốn đến đó để xem sức khỏe Phương Cảnh Hành thế nào. Còn với Lý Kha, Mã Vinh, ngươi sẽ đến nhà y bây giờ. Bảo y là ta lệnh cho ngươi tháp tùng y đến chùa Tử Quang, vì ta muốn cho y xem vài thứ mà không phải ai cũng biết và hỏi ý kiến y. Đưa y lên ngọn đồi bằng con đường phía sau, vì không nên để y biết ta còn có những vị khách khác. Bắt y đợi phía sau chùa. Khi ta cần đến y, ta sẽ cho ngươi biết. Rồi ngươi sẽ phải đưa y vào đại điện bằng cửa sau.” Mã Vinh vừa đứng dậy, Địch Công vội nói thêm, “Mã Vinh, nhớ theo sát y, không rời nửa bước! Y là một nghi phạm!”
“Thuộc hạ sẽ giám sát y cẩn thận!” Y nói với vẻ dứt khoát rồi đi ra ngoài. Địch Công cũng đứng dậy. “Hồng Sư gia, đi nào! Ta phải có mặt ở chùa Tử Quang trước khi các vị khách đến. Ta muốn thử lại giả thiết của mình trước khi thử những nghi phạm!” HỒI 20 Án Bạch Ngọc được giải ngọn ngành Ma trong chùa vẫn còn lẩn khuất Lính canh ở cổng thành phía Đông ngạc nhiên nhìn đoàn kiệu của quan huyện. Hai Bộ khoái cưỡi ngựa đi trước, đánh chiêng đồng và ra lệnh, “Tránh đường, mau tránh đường! Huyện lệnh đại nhân đang đến!” Rồi đến hai Bộ khoái khác, mỗi người mang một chiếc đèn cốc loại lớn bằng giấy dầu, trên có mấy chữ màu đỏ: Huyện nha huyện Lan Phường. Theo sau họ là kiệu của Địch Công, có mười kiệu phu mặc thường phục khiêng kiệu. Bộ đầu cưỡi ngựa đi một bên, mười hai binh sĩ cưỡi ngựa đi sau cùng. Khi đám phu, những kẻ nhàn rỗi cùng đám hành khất ngồi bên những quầy hàng trên phố dọc theo hai bên đường bên ngoài cổng thành trông thấy đoàn kiệu qua, họ liền đứng dậy đi theo sau. Bộ đầu phải quát họ dừng lại nhưng rèm kiệu đã hé ra. Địch Công nhìn ra và bảo Bộ đầu: “Cứ để họ đi theo nếu họ muốn!” Địch Công và Hồng Sư gia xuống kiệu ở chân cầu thang đá. Nhớ đến con dốc nhọc nhằn trước mặt, Địch Công đã không mặc quan phục, mà chọn bộ trường bào mỏng bằng sợi màu xám có viền đen và đai lưng rộng, đội mũ ô sa. Trong sân trước của ngôi chùa, Bộ khoái đã cắm các cây sào trên mặt đất để treo đèn cốc của huyện nha ở cả hai bên cổng Tam Quan. Địch Công bảo họ đợi ở đó. Ông bước vào sảnh chính, cùng đi có Hồng Sư gia, Bộ đầu và một Bộ khoái lớn tuổi; riêng Bộ khoái đó cầm hai cây đèn lồng, một chiếc thang dây và một cuộn thừng nhỏ.
Họ lưu lại rất lâu trong đại điện. Khi Địch Công quay lại sân trước, khuôn mặt ông tái xám và hốc hác dưới ánh đèn. Ông bảo Bộ đầu đi đón các vị khách và lệnh cho họ đợi ở sân trước. Các Bộ khoái đi thắp đuốc trong đại điện và quét sàn. Ban lệnh xong, ông cùng Hồng Sư gia đi ra lối mòn dẫn sang am Thanh Phong. Khi Bảo Nguyệt đích thân ra mở cổng, Địch Công chân thành cảm tạ bà vì đã chăm sóc vết thương cho Phương Cảnh Hành, rồi bảo ông muốn được gặp y. Bảo Nguyệt đưa hai người vào một sảnh bên của điện thờ, Phương Cảnh Hành đang nằm trên chiếc giường tre. Xuân Vân đang ngồi cạnh lò than ở một góc nhà, quạt đám than hồng để đun một nồi thuốc. Địch Công khen ngợi vị Bộ khoái trẻ tuổi vì đã phát hiện ra chiếc thủ cấp và chúc y mau chóng bình phục. “Đại nhân, thuộc hạ thực sự đã được chăm sóc rất chu đáo”, Phương Cảnh Hành nói với vẻ biết ơn. “Bảo Nguyệt sư thái đã đắp thuốc cho vết thương và cứ sau một canh giờ cô nương Xuân Vân lại cho thuộc hạ uống thuốc để làm hạ cơn sốt.” Hồng Sư gia nhận thấy ánh mắt trìu mến của Phương Cảnh Hành dành cho Xuân Vân và ông cũng thấy cô ta đỏ mặt. Trở lại sân chính, Địch Công nói với Bảo Nguyệt, “Tối nay, bản quan đã mời vài người đến chùa Tử Quang để đàm luận về vụ án mạng mới xảy ra ở đó. Bản quan muốn sư thái cũng có mặt. Có thể nói, nơi này thuộc trách nhiệm của sư thái!” Bảo Nguyệt không bình phẩm gì. Bà cúi đầu tỏ vẻ đồng ý, kéo chiếc khăn trùm đầu lên đầu và đi theo Địch Công cùng Hồng Sư gia ra ngoài.
Ngô Tông Nhân đang đi lại trong sân chùa, hai tay chắp sau lưng. Ông ta mặc trường bào màu lục thẫm có có viền đen và đội mũ ô sa, trông ông lộ rõ cốt cách nhà quan. Ngô phu nhân mặc xiêm y tối màu, có tấm mạng đen bó ngoài tóc. Bà ta ngồi trên một tảng đá cuội lớn. Lý Mai thì đứng cạnh bà ta. Địch Công giới thiệu phu thê Ngô Tông Nhân với Bảo Nguyệt. Hóa ra Bảo Nguyệt biết Ngô phu nhân từ trước, vì Ngô phu nhân đã đến thăm am Thanh Phong vài lần để dâng hương. Đứng ngay giữa sân, họ kính cẩn hỏi han nhau những chuyện thường nhật. Ánh sáng dịu của hai chiếc đèn lồng lớn khiến cho những bức tường xám xịt của ngôi chùa có vẻ bớt lạnh lùng. Nếu không có các Bộ khoái và lính gác đứng gần cổng, đây tựa như một buổi hội họp bình thường diễn ra trong sân chùa để mọi người cùng tận hưởng không khí mát lành buổi tối. “Bản quan vô cùng biết ơn các vị vì đã hạ cố đến đây chỉ trong một thời gian ngắn như vậy.” Địch Công nói. “Lúc này, ta muốn các vị cùng ta đến đại điện. Ở đó, ta sẽ giải thích lý do ta muốn mọi người đến đây tối nay.” Ông đi qua sân. Cánh cửa lục bội đã mở, mọi người cùng vào sảnh chính. Bên trong lúc này sáng trưng nhờ rất nhiều đuốc đã được thắp. Các Bộ khoái đã cắm đuốc vào những lỗ hổng được đục sẵn trên tường. Đến bên án thờ ở phía trong cùng, Địch Công nghĩ ngày xưa, khi mà những bức tường này vẫn còn treo đầy những bức tranh rực rỡ và án thờ vẫn còn ngập những đồ tế lễ, đại điện này chắc hẳn phải vô cùng choáng ngợp. Ông đứng quay lưng lại với án thờ, ra hiệu cho phu thê Ngô Tông Nhân đến thẳng trước mặt ông. Rồi ông mời Bảo Nguyệt đứng bên phải họ, Lý Mai đứng bên trái. Trong lúc đó, Bộ đầu tiến đến bên trái án thờ, bên phải có vị Bộ khoái kia. Cả hai đứng nghiêm chỉnh. Hồng Sư gia đứng gần hàng cột, cùng với lão có sáu binh sĩ. 👁
Ngô Tông Nhân và Bảo Nguyệt trước mặt Địch Công Địch Công nhìn một lượt bốn người trước mặt mình bằng ánh mắt u buồn, tay vuốt bộ râu dài. Rồi ông nghiêm mặt bảo Ngô Tông Nhân: “Bản quan tiếc rằng phải cho đại nhân biết hung tin: tiểu thư Bạch Ngọc đã qua đời. Tiểu thư đã chết ở ngay chính trong đại điện này.” Nói xong, ông liền bước sang trái. Qua chỗ Bộ đầu, ông ra lệnh, “Di chuyển án thờ đi!” Bộ đầu dang cả hai tay ôm lấy đầu bên trái của án thờ, vị Bộ khoái kia cũng ôm lấy đầu bên này. Địch Công sắc lạnh nhìn bốn người đứng trước án thờ. Phu thê Ngô Tông Nhân nhìn nhau ngơ ngác. Lý Mai chăm chăm nhìn Địch Công, chân mày giương cao. Bảo Nguyệt như đã hóa tượng, hai mắt ráo hoảnh nhìn Bộ đầu và Bộ khoái đang di chuyển chiếc án. Hai người nghiêng án thờ đi một chút và giữ nguyên ở tư thế đó. Sau một thoáng khó chịu, Địch Công bảo Bộ đầu, “Được rồi!” Trong khi họ buông án thờ trở về vị trí, Địch Công trở lại chỗ ông đứng khi nãy phía trước án thờ. Ông lại quay sang Ngô Tông Nhân. “Ngô đại nhân, tiểu thư đã mê đắm gã kí lục của ngài, Dương Mậu Đức. Ngài không thể kết tội tiểu thư. Tiểu thư mồ côi mẹ từ thuở còn trứng nước, quá mê đọc thi thư nên mang trong mình nhiều ý niệm ảo tưởng về ái tình. Tiểu thư đương nhiên sẽ là nạn nhân của một nam nhân trẻ trung phóng đãng và từng trải như Dương Mậu Đức. Ngô đại nhân, xin ngài hãy dành cho tiểu thư một vị trí trong tâm mình. Vào cái đêm định mệnh đó, sau khi nói chuyện với đại nhân, tiểu thư đã bỏ đi khỏi nhà. Không hề đến chỗ người dì, mà đến thẳng ngôi chùa hoang này. Vì tiểu thư biết Dương Mậu Đức vẫn hay đến đây. Tiểu thư muốn cho hắn biết đại nhân đã từ chối hôn sự của mình và hắn, rồi muốn hỏi hắn xem hai người nên làm gì. Tuy nhiên, Dương Mậu Đức không có mặt ở đây đêm đó. Tiểu thư gặp một người khác. Một kẻ sát nhân, đang giải quyết kết quả của một tội ác.
“Kẻ này đã tổ chức lấy trộm năm mươi thỏi vàng của Trâu Kính Văn đại nhân, vụ trộm diễn ra gần một năm về trước, vào ngày mồng hai tháng Tám năm Tân Tỵ. Vì muốn đột nhập vào phòng của Trâu đại nhân và lấy trộm vàng, hắn đã thuê một người thợ khóa, đồng thời cũng là một thợ kim hoàn lão luyện, người này là Mễ Đại Lang.” Có một tiếng kêu nhanh chóng bị kiềm chế. Ngô phu nhân đưa tay lên ôm miệng. Phu quân của bà ngạc nhiên nhìn sang và định hỏi gì đó. Nhưng Địch Công khoát tay. “Ngô đại nhân, đại nhân cũng đã biết, trước khi thành gia thất với mình, phu nhân có một cuộc đời khốn khó. Một lần, bà ấy đã gặp được Mễ Đại Lang. Bào đệ của hắn đã đến huyện nha trình báo, Mễ Đại Lang mất tích vào ngày mồng sáu tháng Chín. Thời điểm đó là hơn một tháng kể từ sau vụ trộm vàng của triều đình, bốn ngày trước khi tiểu thư Bạch Ngọc biến mất. Kẻ thuê Mễ Đại Lang đã ra lệnh cho hắn giấu số vàng trong chính ngôi chùa hoang này, họ Mễ đã hành sự vô cùng chuyên nghiệp, vì hắn là một thợ khóa giỏi, quen với các loại mật thất, những ẩn tàng được ngụy trang khéo léo và những cơ quan tương tự. Hắn nghĩ mình có quyền được hưởng nhiều hơn phần tiền được hứa trước nên đã không tiết lộ cho kẻ thuê mình vị trí chính xác của nơi giấu vàng. Bản quan cho rằng trước tiên kẻ thuê Mễ Đại Lang đã tìm cách dụ hắn nói ra bằng những lời hứa hẹn, rồi khi không có tác dụng thì đe dọa, và khi…”
“Những chuyện này không có ý nghĩa gì với Ngô mỗ”, Ngô Tông Nhân sốt ruột ngắt lời. “Ta muốn biết kẻ nào đã giết hại ái nữ của mình, và giết như thế nào.” Địch Công quay sang Lý Mai. “Hung thủ chính là đệ đệ của ngươi, họa sư Lý Kha.” Mặt Lý Mai chuyển sang tái mét. “Đệ… đệ đệ của tiểu nhân?” Y lắp bắp. “Tiểu nhân biết nó không phải người tốt… Nhưng, trời ơi, giết người thì…” “Đệ đệ của ngươi”, Địch Công nói tiếp, “chắc chắn hay lui tới ngôi chùa này trong nhiều năm để xem tranh và tượng. Không rõ vì sao, nhưng y đã biết được có một hầm bí mật nằm sâu dưới án thờ này. Các vị đã biết đấy, hầu hết đền chùa lớn đều có một hầm bí mật như vậy, dùng để cất giấu những đồ thờ có giá trị trong thời kì có biến loạn, và cũng là nơi ẩn náu của tăng nhân. Lý Kha đã lừa Mễ Đại Lang xuống căn hầm đó, rồi bảo sẽ bỏ hắn chết đói dưới đó nếu họ Mễ không tiết lộ nơi giấu vàng. Chuyện này xảy ra vào đêm mồng sáu tháng Chín, chính cái đêm mà Mễ Đại Lang mất tích. Bốn ngày sau, vào ngày mồng mười, Lý Kha mở hầm ra. Hắn đã bỏ họ Mễ dưới đó quá lâu; gã thợ khóa đã chết mà không kịp tiết lộ bí mật. Ngô đại nhân, tiểu thư thấy Lý Kha đứng bên miệng hầm bí mật, và hắn đã ném tiểu thư vào trong. Xác hai người vẫn còn dưới đó. Các vị, xin hãy đứng lùi lại! Được rồi.” Địch Công đến chỗ Bộ đầu và ra lệnh, “Mở căn hầm ra!”
Bộ đầu và các Bộ khoái lại nghiêng án thờ đi. Rồi họ gắng hết sức đẩy án thờ nhích ra khỏi vị trí từng tấc một. Khi dịch chuyển án thờ ra khoảng năm tấc, một phần của nền đá tầm sáu thước vuông bỗng trồi lên, xoay vòng quanh một trục được gắn dọc theo chân tường, chỗ có án thờ lúc trước. Một thứ mùi thối rữa xộc lên từ miệng hầm tối đen. Được Địch Công ra hiệu, Bộ đầu thắp đèn lồng lên, buộc một sợi dây nhỏ vào đèn. Trong khi y thả đèn xuống hầm, Địch Công ra hiệu cho Ngô Tông Nhân đến bên miệng hầm. Hai người cùng nhìn xuống. Tường gạch ngay ngắn kéo dài xuống gần hai mươi thước. Sâu bên dưới có một đống rác rưởi hỗn độn: những chiếc hộp gỗ đủ mọi kích cỡ, vài ba chum vò bằng đất nung và những đài nến đã gãy. Bên trái là những phần thi thể của một nữ nhân, nằm ngửa. Mái tóc dài quanh xương sọ như một vầng hào quang, xương cốt lộ ra từ những phần còn lại của bộ xiêm y màu nâu đã mục ruỗng. Phía bên kia, gần tường, là hài cốt của một nam nhân, nằm sấp, hai tay dang rộng. Qua những lỗ thủng trên tay áo mốc meo rách nát, những mẩu vàng lấp lánh dưới ánh sáng của đèn lồng. “Ta đã xuống đó bằng một chiếc thang dây.” Địch Công nói. Giọng ông nghẹn lại vì ông đã kéo cổ áo lên quá miệng và mũi. “Trên bức tường ngay phía trên xác Mễ Đại Lang có một ám trù*. Trong những giờ khắc hoảng loạn cuối cùng ở dưới này, khi gần như hóa điên vì đói khát, họ Mễ đã mở ám trù này và bắt đầu lấy số vàng mà hắn đã giấu ở đó, bỏ vào tay áo. Rồi hắn đã phải lìa đời. Gục xuống đất trên chính số vàng ấy. Trước khi hung thủ lừa Mễ Đại Lang xuống hầm, đương nhiên hắn đã xem xét dưới đó cẩn thận và thấy đó là nơi dễ dàng nhất để giấu vàng. Nhưng hắn đã không xác định được vị trí của chiếc ám trù kia. Và khi mở nắp hầm ra và phát hiện họ Mễ đã chết, hắn vẫn không trông thấy số vàng. Giờ đây, từ trên này chúng ta có thể trông thấy số vàng vì y phục của Mễ Đại Lang đã mục nát và bị sâu mọt ăn. Hung thủ không biết rằng số vàng ở dưới đó, và hắn bắt đầu mất thời gian tìm kiếm quanh ngôi chùa trong vô vọng.”
Loại tủ nằm sâu dưới đất. Ngô Tông Nhân lùi lại, sắc diện xám như tro. “Tên ác quỷ đã hại chết tiểu nữ tội nghiệp của ta giờ ở đâu?” Giọng ông ta khê đặc. Địch Công gật đầu ra hiệu cho Bộ đầu. Y ra khỏi sảnh theo lối cửa sau. Địch Công chỉ lên cánh cửa lật của hầm bí mật. “Như các vị thấy, cửa này được làm từ những khúc gỗ cực dày. Chúng được phủ lên một lớp vữa và bên trên gắn những phiến đá lát. Cửa này nặng đến nỗi, khi đóng lại, dẫu có giậm chân lên trên cũng không tạo ra âm vọng, ở đầu bên kia có một vật giữ vai trò đối trọng, đặt ngầm dưới đất nhưng ở bên ngoài hầm. Có hai vật chèn để giữ cân bằng cho cửa. Nếu án thờ bị nghiêng đi, rồi đẩy về phía trước theo đường thẳng song song với bức tường, hai vật chèn sẽ bị tách ra. Tài nghệ của người chế tạo quả vô cùng xuất chúng.” Bộ đầu bước vào cùng một người cao lớn. Mã Vinh đi theo sau hắn. Ngay khi kẻ đó trông thấy hầm bí mật đã bị mở tung và những người đứng quanh đó, hắn vội đưa tay che mặt. Nhưng quá muộn. “Dương Mậu Đức!” Ngô phu nhân kêu lên. “Tại sao…” Kẻ kia quay ngoắt định chạy, nhưng Mã Vinh đã túm lấy hắn, bẻ ngoặt tay hắn ra sau. Bộ đầu dùng xích trói hắn lại. Thân hình cao lớn của Dương Mậu Đức chùng xuống. Hắn vẫn đứng đó với đôi mắt trông xuống đất, sắc diện như của người chết. “Đệ đệ của ta đâu?” Lý Mai kêu lên. “Lý chưởng quỹ, đệ đệ của ngươi chết rồi”, Địch Công nhẹ nhàng nói. “Hắn phạm tội giết hai người, rồi chính hắn cũng bị giết.” Ông ra hiệu cho Bộ đầu bằng vẻ quả quyết. Cùng với Bộ khoái kia, y đẩy án thờ trở lại vị trí ban đầu ở sát tường.
Cửa hầm lại từ từ đóng lại. Địch Công trở lại vị trí của ông phía trước án thờ. “Lý chưởng quỹ, ngươi sẽ được nghe trọn vẹn câu chuyện. Ta sẽ tiếp tục thuật lại các diễn biến. Vì đệ đệ của ngươi đã chết, một phần trong những gì ta sắp nói ra sẽ chỉ là phỏng đoán. Nhưng Dương Mậu Đức sẽ nói nốt những gì còn thiếu. Sau khi Lý Kha giết Mễ Đại Lang và tiểu thư Bạch Ngọc, hắn bắt đầu tìm kiếm trong chùa. Vì hắn biết mọi loại du đãng sẽ tìm đến đây vào buổi tối và vì hắn sẽ phải tìm kiếm cả trong khu vườn, nên hắn cần người trợ giúp. Thành ra hắn đã thuê Dương Mậu Đức làm việc cho mình. Dương Mậu Đức, Lý Kha đã định trả cho ngươi bao nhiêu?” Kẻ bị xích ngẩng lên với ánh mắt bàng hoàng. “Y nói đám tăng nhân chôn vàng ở đó”, hắn lẩm bẩm. “Tiểu nhân… tiểu nhân cho rằng còn có nhiều hơn thế. Tiểu nhân tìm được trong phòng của Lý Kha những mảnh giấy mà hắn tính toán giá trị năm mươi thỏi vàng đó, và…” “Và ngươi nghĩ ngươi có thể kiếm về cho mình nhiều hơn phần mà Lý Kha đã hứa.” Địch Công dõng dạc từng lời. “Ngươi thuê tên lưu manh Thẩm Tam để cùng với ngươi lên kế hoạch dụ Lý Kha đến chùa và hạ sát hắn. Thẩm Tam siết cổ Lý Kha từ phía sau. Rồi ngươi, Dương Mậu Đức, thực thi phần thứ hai trong kế hoạch bẩn thỉu của mình. Ngươi đợi đến khi Thẩm Tam kết liễu Lý Kha và cúi xuống bên nạn nhân. Ngươi dùng dao đâm trúng lưng Thẩm Tam. Tại sao ngươi lại đợi suốt nhiều tuần trước khi ra tay sát hại Lý Kha? Rồi tại sao ngươi hai lần tìm cách giết trợ thủ của ta trong hai đêm liên tiếp? Tại sao ngươi không đợi thêm vài ngày cho đến khi chúng ta ngừng tìm kiếm trong chùa? Dương Mậu Đức, mau nói đi!”
Miệng gã họ Dương mấp máy, nhưng không thành lời. “Mau khai ra sự thật!” Địch Công quát. “Mười ngày trước… tiểu nhân xem qua những giấy tờ của Lý Kha lúc hắn ra ngoài. Hắn thường hay đến một cửa hiệu cũ, gần như ngày nào cũng vậy… Cuối cùng, hắn đã tìm được thứ mình cần. Một tập thư do chính sư trụ trì trong chùa này viết, từ hơn một trăm năm trước. Một bức thư còn nói về việc xây dựng một ám trù dưới hầm bí mật. Rồi Lý Kha đi mua thang dây… Tiểu nhân đã phải nhanh tay hơn vì sợ không thể thủ vai Lý Kha thêm vài ngày nữa. Tiểu nhân phải nhanh chóng đi lấy số vàng đó và rời khỏi đây…” “Ngày mai, ngươi sẽ phải thú nhận mọi tội lỗi trên công đường”, Địch Công ngắt lời. “Bộ đầu, đưa phạm nhân đi, cho sáu binh sĩ áp giải hắn về đại lao! Ngô đại nhân, hôm qua đại nhân đến hỏi Địch mỗ, manh mối mới nào liên quan đến sự mất tích của tiểu thư mà khiến Địch mỗ phải cho dán cáo thị. Bây giờ, Địch mỗ sẽ trả lời câu hỏi đó. Địch mỗ tình cờ có được một mảnh giấy có lưu lại tên của tiểu thư, cho biết tiểu thư đang bị giam giữ ở đây và cầu xin người khác đến giải cứu. Mảnh giấy được dán trong một chiếc hộp cổ bằng gỗ. Mặt hộp có trang trí một miếng ngọc lục bảo, chạm thành chữ ‘trường cửu’ theo lối kiểu cổ. Có kẻ đã khắc chữ ‘nhập’ lên một bên mặt hộp, và phía bên kia có chữ ‘hạ’. Tình cờ là vị trí của những chữ này lại khá giống với sơ đồ của ngôi chùa. Phần hộp hình chữ nhật ở chính giữa là nói đến sảnh chính, những đường riềm nổi bên cạnh đó là phong cách của các tăng nhân, hai hình vuông là hai tòa tháp. Chiếc hộp được chọn rõ ràng là vì những điểm tương đồng này; nó cung cấp thêm thông tin cho thông điệp của tiểu thư. Mảnh giấy ấy đã nói rõ thời gian, thì chiếc hộp chính là địa điểm. Và địa điểm được biểu thị chính xác bằng chữ hạ được khắc bên cạnh bức tường phía sau sảnh: rõ ràng muốn nhắc đến một căn hầm, bên dưới án thờ.”
“Ái nữ của ta chắc đã tìm được chiếc hộp đó dưới hầm.” Ngô Tông Nhân khẽ nói. “Nhưng làm sao nó có thể…” “Mảnh giấy bên trong có tên tiểu thư nhưng không phải do tiểu thư viết ra. Tiểu thư đã ngã và bị gãy cổ khi rơi xuống hầm, tiểu thư đã thiệt mạng ngay tức khắc. Chiếc hộp này là một trò lừa đảo công phu, mục đích của nó không liên quan đến vụ án này. Nhưng trò lừa đảo này lại giúp bản quan phục dựng lại được tội ác, vì nó khiến ta chú ý đến tầng hầm bí mật ở đây. Chiếc hộp được cho là được tìm thấy gần một hang thỏ, trên con dốc phía sau chùa. Ý muốn nói đến miệng của một đường thông khí. Hầm bí mật này thực sự có bốn đường thông khí, để các tăng nhân không bị ngạt nếu phải trú ẩn dưới đó trong vài ngày. Những chum vò lớn trong hầm đựng nước và gạo khô. Ngô đại nhân, Địch mỗ sẽ không ngăn trở ngài nữa. Ta sẽ đưa thi thể tiểu thư đi khâm liệm và chuyển về nhà để ngài lo tang sự. Địch mỗ vô cùng đau buồn vì không thể cứu mạng tiểu thư. Nhưng Trời Phật đã trừng phạt hung thủ. Và những nghi ngờ xoay quanh sự mất tích của tiểu thư giờ đã được hóa giải.” Ngô Tông Nhân dập đầu bái tạ. Rồi ông quay ra cửa, phu nhân đi theo sau. Địch Công vội đuổi theo bà ta. Ông nói nhỏ: “Hôm qua, đại nhân không hề đến huyện nha để tố giác phu nhân. Ông ấy muốn bảo vệ phu nhân. Bây giờ, phu nhân có thể một lần nữa bắt đầu lại cuộc sống trọn vẹn đôi lứa. Xin đừng đi tìm những cuộc vui rẻ mạt bên ngoài. Phu nhân chắc cũng thấy những thứ đó sẽ khiến người ta thân bại danh liệt thế nào.”
Bà ta gật đầu và vội theo kịp phu quân. Khi Địch Công trở lại bên án thờ, ông thấy Lý Mai vẫn đứng đó, đầu cúi gục, vẫn đăm đắm nhìn xuống cửa hầm đã khép lại. “Lý chưởng quỹ, xin cho bản quan được gửi đến ngươi lời chia buồn sâu sắc.” Lý Mai bái tạ. “Đại nhân, tiểu nhân thương xót cho nàng. Tiểu nhân vẫn luôn hy vọng nàng vẫn còn sống. Và tiểu nhân cũng vô cùng hổ thẹn khi đệ đệ của mình lại làm hoen ố cả gia tộc.” “Bản quan vô cùng trân trọng tính cách kiên định và tấm lòng chung thủy của ngươi.” Địch Công nghiêm trang nói. “Một gia tộc mà có được người như ngươi, tất sẽ có ngày khổ tận cam lai.” Lý Mai lại bái tạ và ra khỏi đại điện. Bảo Nguyệt nãy giờ vẫn đứng quan sát tất cả bằng đôi mắt ngây dại, trống rỗng. Lúc này, bà mới chậm rãi lắc đầu và nói, “Số mệnh đã để ngôi chùa này thành hiện trường của những sự việc khủng khiếp, vì những nghi lễ tà đạo đã hủy hoại sự linh thiêng. Và ở nơi Đức Phật lui bước, thì yêu ma, ác quỷ sẽ đến cư ngụ. Bần ni sẽ chuẩn bị ngay một nghi lễ thanh tẩy chu đáo. Xin từ biệt đại nhân.” “Mã Vinh, tiễn sư thái về nhà!” Địch Công ra lệnh. Rồi ông quay sang Bộ đầu. “Cử bốn người của ngươi đến cổng thành phía Đông để lấy thang tre, hai chiếc áo quan, cuốc xẻng và dây thừng. Chúng ta trước hết phải đưa hai thi thể lên, sau đó là số vàng, cuối cùng là dọn sạch tầng hầm. Hồng Sư gia, hãy ra ngoài và đợi ngoài sân. Không khí ẩm mốc trong đây sẽ rất khó chịu đấy!”
Địch Công ngồi bên một tảng đá lớn bên dưới hàng đèn cốc của huyện nha, Hồng Sư gia ngồi dưới một gốc cây. Từ phía bên kia tường bao nổi lên những tiếng thì thào. Đám hành khất và những kẻ nhàn rỗi đi theo kiệu quan từ cổng thành phía Đông hăm hở hỏi những binh sĩ áp giải phạm nhân. Lúc này, họ mải bàn luận về những diễn biến khôn lường vừa qua. Hồng Sư gia khoan khoái hít thở bầu không khí trong lành. Lão cố sắp xếp lại những sự kiện nối tiếp nhau thành một chuỗi thời gian, nhưng lão không thể đặt tất cả sự kiện vào đúng chỗ được. Đối với lão, dường như Địch Công đã cố ý bỏ lại một vài lỗ hổng. Tuy nhiên, quan trọng là Địch Công đã tìm lại được số vàng cho Trâu đại nhân! Lão mỉm cười mãn nguyện. Thành tích này chắc chắn sẽ khiến các vị quan trên ở kinh thành ưu ái thêm cho Địch Công. Có thể ngài ấy sẽ được đề bạt đến một nhiệm sở mới, đàng hoàng hơn cái xó huyện tỉnh lẻ hẻo lánh này! “Đại nhân, khi nào ngài chuyển lại số vàng cho triều đình?” Lão hỏi. “Chúng ta sẽ đóng gói số vàng bằng giấy dầu ở ngay tại đây, Sư gia ạ, rồi đưa về huyện nha bằng kiệu của ta. Đến nơi, chúng ta sẽ phải kiểm kê lại ngay lập tức trước mặt những nhân chứng đáng tin cậy.” Địch Công lại ngồi lặng yên. Ông khoanh tay nhìn lên hình bóng đối xứng của ngôi chùa in trên nền trời tối. Sư gia trầm ngâm vuốt râu, khuỷu tay phải chống lên bàn tay trái. Một lúc lâu sau, lão mới hỏi:
“Chiều nay, đại nhân đã đặt tấm thẻ của Dương Mậu Đức lên trên tấm thẻ của Lý Kha. Đại nhân đã nghi ngờ gã họ Dương đóng giả gã họa sư sao?” Địch Công quay sang nhìn ông. “Đúng thế, Sư gia ạ. Ta đã thấy lạ, dù kẻ tự xưng là họa sư kia có khả năng luận bàn trôi chảy khi nói về học thuyết của nghệ thuật hình ảnh, nhưng hắn lại không vẽ xong bức tranh mà ta yêu cầu trong thời gian ngắn. Mà bất cứ văn nhân nào cũng có thể luận bàn về tranh như vậy. Những lời bào chữa của hắn cũng thật ngây ngô và vô lý. Một họa sư có thể vẽ nên những tác phẩm trác tuyệt mà chúng ta thấy trong xưởng, thì cũng có thể hoàn thành ngay một bức tranh phong cảnh biên cương, một chủ đề hoàn toàn quen thuộc với hắn vì ta đã hứa sẽ trả rất hậu. Thêm nữa, ta chưa hề nghe Tam phu nhân nói ở huyện Lan Phường này lại khó tìm được loại giấy tốt. Khi ta bất ngờ đến gặp hắn cùng Mã Vinh, ta nhận thấy màu vẽ trên những chiếc đĩa gỗ đã khô và phủ bụi, cho thấy chúng lâu nay không được sử dụng. Hắn còn bảo chúng ta rằng Dương Mậu Đức đang bỏ đi ăn chơi đàn đúm, như vậy lại càng củng cố cho những nghi ngờ của ta, dù ta đã phải thừa nhận rằng Mã Vinh cũng có lý khi nói các chủ quán trọ thường chỉ nói ra những thông tin giả. “Cuối cùng, trong vòng ba ngày mà những vụ án bỗng liên tiếp diễn ra đến lạ kì. Ba người bị giết, Mã Vinh hai lần bị ám hại! Ta có một cảm giác rõ rệt: một yếu tố mới vừa xuất hiện trong vụ án, một nhân vật hoàn toàn mới đang theo đuổi số vàng, một kẻ có lý do rất thuyết phục đang tìm cách rời khỏi đây càng sớm càng tốt. Cảm giác đó đã hỗ trợ cho giả thiết của ta về chuyện giả mạo. Vì mặc dù cả gã họa sư lẫn Dương Mậu Đức đều có thói quen thích lang thang thất thường, thì cũng vẫn có khả năng một chưởng quỹ hoặc một thương nhân sống gần đó sẽ hỏi chúng những câu hỏi khó. Sau khi thử nghiệm với cánh cửa hầm bí mật chứng minh phu thê Ngô Tông Nhân, Bảo Nguyệt và Lý Mai đều vô tội, ta biết Dương Mậu Đức chính là người chúng ta cần tìm.”
Sư gia gật đầu. “Phải cần đến sự kiềm chế phi phàm để không nhảy lùi lại khi biết đang đứng trên một cửa hầm sắp mở ra mật thất sâu hai mươi thước!” “Đúng thế. Ôi, số mệnh vô thường đã không để cho Dương Mậu Đức hay Lý Kha mở chiếc hộp đó ra, nên ta đã tìm được và khám phá ra toàn bộ ý nghĩa quan trọng của nó qua sơ đồ của Xuân Vân về ngôi chùa. Và kỳ lạ hơn là Dương Mậu Đức, hắn nóng lòng muốn che giấu việc mình không vẽ nổi tranh nên đã tìm cách tạo ra ấn tượng tốt với ta bằng cách kể rằng hắn nhặt được chiếc hộp đó như thế nào, mà lại không hề nghĩ đến có thể đưa tới những hậu quả nặng nề từ một cử chỉ đơn giản như thế! Một vụ kỳ án, Hồng Sư gia ạ. Quả là kỳ án!” Địch Công lắc đầu và lại vuốt hai dải tóc mai. Hồng Sư gia liếc nhìn ông. Sau một chút do dự, lão lấy giọng và nói, “Đại nhân đã giải thích tất cả. Ngoại trừ bóng ma.” Địch Công thoát khỏi cơn mơ mộng. Quay ngoắt sang nhìn Sư gia, ông chậm rãi nói, “Bóng ma chùa Tử Quang sẽ không bao giờ xuất hiện nữa, Sư gia ạ. Những mối quan hệ kì lạ, có thể nói là bí ẩn, trói bóng ma đó vào ngôi chùa này, đã bị cắt đứt rồi. Vậy là tốt. Mã Vinh kia rồi!” Trông thấy vẻ mặt chán nản của y, Địch Công hoảng hốt hỏi, “Phương Cảnh Hành có chuyện không hay ư?” “Ồ, không đâu, thưa đại nhân. Thuộc hạ vừa đi gặp y, sau khi tiễn Bảo Nguyệt sư thái về am. Y đã khá hơn.”
Địch Công đứng dậy. “Tốt lắm. Còn nhiều việc phải làm, Mã Vinh à. Chúng ta sẽ trở lại đại điện và mở hầm bí mật ra. Các Bộ khoái sẽ sớm quay lại và mang theo đủ dụng cụ cần thiết để đưa hai thi thể cùng số vàng ra ngoài.” Địch Công băng qua sân, hai trợ thủ theo sau ông. Mã Vinh thở dài. “Nữ nhân”, y nói với Sư gia bằng giọng buồn chán, “đều là những sinh vật vô tình.” “Người ta vẫn hay nói thế.” Sư gia lơ đãng đáp lại. Mã Vinh nắm lấy cánh tay Sư gia. “Nam thanh thì đi tìm nữ tú, Sư gia ạ. Có trải qua rồi thì mới biết. Nhưng cũng thật cay đắng.” Hồng Sư gia chợt nhớ ra ánh mắt trìu mến của chàng Bộ khoái trẻ tuổi đang bị thương dành cho Xuân Vân và khuôn mặt đỏ bừng thẹn thùng của cô nàng. Lão chỉ gật đầu và vội rảo bước. HỒI 21 Trả lại vàng, Địch công xuống phố Kể chuyện xưa, Hòa Thượng âu sầu Gần đến nửa đêm, Địch Công mới xong hết những công việc cấp bách nhất liên quan đến các khám phá trong ngôi chùa cổ. Số vàng của Trâu đại nhân đã được kiểm kê cẩn thận và xác định giá trị trước sự có mặt của bốn nhân chứng: bốn vị thân sĩ ở huyện Lan Phường, tất cả đều được triệu tập gấp lên huyện nha. Rồi năm mươi thỏi vàng được chia vào năm chiếc rương có niêm phong và đặt vào một ngăn tủ bí mật lớn ở pháp đường. Sáu binh sĩ đứng canh suốt đêm. Đến sáng, Mã Vinh sẽ đưa số vàng đến chỗ Thứ sử đại nhân cùng với một đội kỵ binh. Thứ sử đại nhân sẽ chịu trách nhiệm chuyển số vàng về cho triều đình.
Địch Công ký tên và đóng triện vào văn thư gửi cho Thứ sử đại nhân rồi bảo Hồng Sư gia bỏ thư vào một phong bì lớn theo thể thức của quan lại. Ông đến bên chậu nước trong góc phòng và rửa mặt bằng chiếc khăn đẫm nước lạnh. “Chúng ta đã hoàn thành một vụ án”, ông bảo Sư gia. “Ta không mong Dương Mậu Đức sẽ khai ra bất cứ thông tin nào mới khi ta xét xử hắn trên công đường sáng mai. Ta nghĩ hắn sẽ tự giới hạn cho mình một lời thú nhận chiếu lệ, về chuyện chủ mưu giết Lý Kha, tự ra tay sát hại Thẩm Tam và sau đó thì chặt đầu cả hai để có thể tráo đổi thân xác nhằm che giấu đầu mối trên hình xăm nói về ngôi chùa và số vàng. Hắn cũng sẽ thú nhận việc giết Bộ khoái. Hắn sẽ hoàn toàn ý thức được số mình đã tận, và không còn gì có thể cứu hắn thoát khỏi cuộc hành hình bằng hình phạt khủng khiếp nhất theo quốc pháp. Khi bị giam trong đại lao, hắn sẽ thấy trấn tĩnh hơn và chấp nhận số mệnh.” Địch Công ngừng lại. Ông lấy chiếc lược trong tay áo ra và chải lại mái tóc cùng bộ râu dài. Ông nghiêm nghị nhìn Sư gia rồi nói tiếp, “Nhưng Sư gia à, lão cũng sẽ nhận thấy vẫn có một số nút thắt còn lỏng cần được buộc chặt. Ta không nghĩ mình sẽ phải có thêm quyết định nào nữa, nhưng ta có nhiệm vụ phải đảm bảo cho tất cả. Mã Vinh vẫn còn mải miết trong ngôi chùa hoang, giám sát việc dọn dẹp căn hầm. Nếu Sư gia không quá mệt mỏi, ta muốn Sư gia đi cùng ta xuống dưới phố.”
“Lão phu luôn sẵn lòng đi cùng đại nhân.” Sư gia ôn tồn đáp. “Vì lão phu nghĩ đó là một công vụ không hề đơn giản.” Địch Công mỉm cười mệt mỏi. Lão bộc lâu năm của ông luôn biết cách khiến lòng ông dịu lại! “Xin đa tạ Sư gia. Chúng ta sẽ cùng đi, và ra khỏi huyện nha bằng cửa sau. Chúng ta sẽ thuê ghế kiệu ngoài phố.” Các kiệu phu đặt ghế kiệu xuống trước miếu Quan Đế. Trong khi Địch Công trả tiền cho họ, Hồng Sư gia đi hỏi hai kẻ vô công rồi nghề đang ngồi bên thềm đá trước cổng miếu. Lão hỏi đường tới một kỹ viện nằm trong một khu doanh trại cũ. Chúng cười khinh bỉ rồi chỉ chỗ cho lão. Hai người cùng đến khu vực tồi tàn ấy. Một tiểu tử đưa họ đến khu doanh trại ở góc một đoạn đường quanh co. Lúc này, mọi cửa sổ của đám nhà gỗ xiêu vẹo đều đã mở. Một đám nữ nhân trang điểm diêm dúa ngó ra. Vừa cầm những chiếc quạt bằng lụa có màu sắc lòe loẹt, họ vừa gọi mời khách qua đường. Nhưng người trên phố không đoái hoài đến họ. Đứng thành từng nhóm nhỏ, họ bàn luận về những chuyện xảy ra trong chùa Tử Quang. Đám phu và đám hành khất đi theo kiệu Địch Công đã vội trở về trấn để kể lại mọi chuyện. Địch Công nhận thấy cánh cửa sổ có chấn song mà Mã Vinh đã mô tả, và cả lối vào vừa thấp vừa tối tăm. Địch Công bỗng liên tưởng đến lối vào một hầm mộ. Ông bước xuống từng bậc thang, Hồng Sư gia theo sau. Sau khi những tiếng ồn ào ngoài phố đã ở lại phía sau, sự tĩnh mịch ngự trị trong căn hầm này mới thật huyền bí. Lão già mặc đồ đen đang ngồi thu lu trên cửa sổ, đầu hắn gục lên cây gậy vắt ngang đầu gối. Ở phía trong cùng, ngọn nến soi tỏ cái đầu to lớn của Bang chủ Cái bang đang gục trên hai tay. Lão hình như đang ngủ.
Khi Địch Công bước đến bên chiếc bàn, có tiếng “vút” từ bên trên vọng xuống và tiếng người lanh lảnh kêu lên: “Một gã râu dài, Hòa Thượng ơi! Một gã râu dài! Dậy mau!” Cây gậy quét xuống dưới như muốn đe dọa. “Yên lặng đi!” Địch Công quát lão hói. “Ta là Huyện lệnh huyện Lan Phường đây.” Lão già co rúm người lại. Lão áp thân hình ốm o vào chấn song sắt trong nỗi sợ hãi kinh người. Bang chủ ngẩng đầu lên. Lão ta chỉ vào chiếc ghế đẩu phía trước. “Địch đại nhân, xin mời ngồi. Ngài chắc hẳn rất mệt, vì thảo dân được nghe kể ngài đã vất vả suốt đêm.” Địch Công kéo ghế ngồi. Hồng Sư gia đứng phía sau ông. Địch Công lặng lẽ nhìn người to lớn kia. Lão có khuôn mặt rộng và nhăn nheo, đôi mắt vô hồn, trán cao. Rồi ông nhìn sang mặt bàn, trên đó khắc chi chít những hình vẽ. Ông thở dài và xoa hai đầu gối đã mỏi cứng. Ông đã phải đứng suốt đêm. “Thảo dân có thể giúp gì được đại nhân đây?” Người kia cất giọng trầm trầm. “Ông có thể cho ta thỉnh giáo đôi điều giá trị, Hòa Thượng ạ.” Địch Công ôn tồn đáp. “Người ta gọi ông là Hòa Thượng, hẳn cũng có lý do, đúng không? Ông đã từng là một hòa thượng thực thụ ở chùa Tử Quang. Rất lâu trước đây, những nghi lễ bí mật vẫn diễn ra ở đó. Và sau khi quan quân đóng cửa chùa Tử Quang, ông đã xây dựng am Thanh Phong. Ông và một ni cô nữa. Bởi thế, ta mới cho rằng ông là một người thông thạo về đền chùa, Hòa Thượng ạ.”
Người to lớn kia chậm rãi gật đầu. “Đúng vậy thưa đại nhân, người ta nói ngài là người có trí tuệ siêu phàm, quả thực không sai. Đại nhân, ngài không hề cần thỉnh giáo, dù có là điều gì đi nữa, nhất là thỉnh giáo người như thảo dân.” “Có đấy. Ông sẽ thấy có một chi tiết nhỏ. Đường thông khí của một hầm bí mật dưới lòng một ngôi chùa luôn luôn phải có lưới sắt, đúng không? Để ngăn chuột bọ xâm nhập? Đó là còn chưa nói đến bầy thỏ.” Bang chủ vẫn ngồi yên. Đôi vai rộng hơi chùng xuống. Nhìn lên Địch Công bằng đôi mắt dưới cặp chân mày vừa dài vừa rậm đã bạc, lão lẩm bẩm, “Vậy ra ngài đã biết. Địch đại nhân, ngài quả là đại tài. Thảo dân đã nói những lời đó rồi và sẽ còn nhắc lại!” “Ông quên mất những tấm lưới sắt, Hòa Thượng ạ, nhưng ông còn phạm một sai lầm nghiêm trọng nữa. Những lời trên mảnh giấy ông đặt vào hộp đó đều không đúng sự thật. Tại sao một cô nương sắp chết vì đói khát lại phải viết thêm ngày tháng trên thư cầu cứu? Ta thấy ngay rằng ở đây có điều gì thật phi lý. Và rồi sau khi ta hiểu ra rằng miếng ngọc thạch trên hộp có ý ám chỉ địa điểm mà cô ta bị bắt giam, ta biết chắc rằng toàn bộ thông điệp ấy chỉ là giả. Cứ cho là cô ta có thể tìm được chiếc hộp như vậy giữa đống rác rưởi dưới hầm, lại còn có cả bùi nhùi để thắp sáng vài ngọn nến cũ dưới đó, thì cũng không một người đủ sáng suốt nào lại tin rằng một cô nương đang bấn loạn lại có thể nghĩ ra một mưu chước tinh tế như vậy.” Chỉ lên mặt chiếc hộp, ông luận rằng, “Mưu chước như vậy xuất phát từ trí não lệch lạc của một kẻ thích ngồi nghiền ngẫm những hình tượng thần bí, từ ngày này qua tháng khác.”
“Đại nhân, tại sao thảo dân lại phải làm giả một thông điệp của nữ nhân sắp chết?” “Để tống tiền hung thủ đã hại cô ta. Chính một kẻ hành khất dưới quyền của ông đã đem chiếc hộp đến cho Lý Kha, bảo rằng tìm thấy chiếc hộp bên một hang thỏ, trên sườn dốc phía sau chùa Tử Quang. Hang thỏ sẽ gợi ý cho hung thủ về một đường thông khí và cảnh báo hắn rằng người gửi chiếc hộp này đã biết tất cả. Âm mưu độc ác của hắn đã bị khám phá vì tiểu thư Bạch Ngọc không hề chết khi bị ngã vào hầm bí mật, và đã viết lại thông điệp đó trong những giờ phút cuối cùng bằng chính máu của mình, rồi đưa chiếc hộp ra ngoài bằng cách ném nó qua đường thông khí. Hòa Thượng ạ, đối với bản quan, chi tiết này còn gợi lên một sự việc quan trọng khác. Đó là, người gửi chiếc hộp biết rằng sau khi đẩy Bạch Ngọc vào hầm, hung thủ đã đóng cửa hầm lại ngay, không cần biết có phải cô ta đã chết ngay khi ngã xuống hay không. Hòa Thượng, hãy trả lời ta đi. Tại sao ông lại biết được điều đó?” Bang chủ không đáp ngay. Dường như lão đang đắm chìm trong suy tư. Cuối cùng, khi đã mở miệng, giọng lão vô cùng mệt mỏi. “Tháp Lạp đã chết rồi, và thảo dân cũng sắp chết. Có gì không thể nói với đại nhân nữa đâu? Tháp Lạp đã từng ở chùa Tử Quang vào đêm mồng mười. Nàng ấy bị những sợi dây kì bí trói buộc nên cứ tìm đến trung tâm của đại điện, có bông hoa sen thần thánh, biểu tượng bất diệt của nguồn sống, linh thiêng nhờ những hy sinh nối tiếp. Hàng đêm có trăng tròn, nàng đều đến đó để thắp hương. Tháp Lạp đã trông thấy một nữ nhân trẻ tuổi bước vào đại điện và đi theo cô ta. Lý Kha đứng bên miệng hầm, Tháp Lạp đã trông thấy hắn đẩy cô ta vào trong rồi đóng cửa hầm lại. Tháp Lạp đã kể lại với thảo dân. Nàng không hỏi Lý Kha vì sao lại hãm hại cô ta. Tháp Lạp chưa bao giờ hỏi điều gì.”
“Hôm qua, nàng ta đã hỏi rồi”, Địch Công nói. “Khi trợ thủ của ta đến tìm nàng ta, nàng ta đã hỏi thần thánh về số phận cô nương ấy, sau khi được trợ thủ của ta cho biết tên cô nương ấy là Bạch Ngọc. Nàng ta cho hay Bạch Ngọc đã chết vào ngày mồng mười do bị gãy cổ. Quả nhiên là đúng, vì ta đã nghiệm thi tối nay. Vị thần của Tháp Lạp cũng cho biết nàng ta cũng sẽ chết vào hôm nay. Và quả nhiên là thật.” Hòa Thượng lắc đầu. “Đại nhân, Tháp Lạp là người mạnh mẽ. Mạnh mẽ hơn cả thảo dân, Lý Kha và Dương Mậu Đức. Nhưng vị thần của nàng còn mạnh mẽ hơn. Nàng có linh cảm với ông ta bằng những nghi lễ kì lạ vượt qua cả ranh giới giữa sự sống và cái chết. Đại nhân đã hỏi về bức thư giả. Thảo dân đã gửi nó cho Lý Kha để đe dọa hắn. Đe dọa để hắn phải trao số vàng đó cho thảo dân. Để thảo dân có thể kéo Tháp Lạp ra xa khỏi hắn, khỏi vị thần kia, Tháp Lạp sẽ thuộc về thảo dân. Hôm sau, thảo dân sai Mắt Lác, chính là lão già trên cửa sổ kia, đến chỗ Lý Kha để ép hắn đến hầm rượu này. Nhưng Lý Kha có vẻ không hiểu, nên hắn không đến.” “Ông lẽ ra không cần phủ bùn khô lên chiếc hộp, Hòa Thượng ạ. Dương Mậu Đức đã mua chiếc hộp, nhưng cả hắn và Lý Kha đều không xem xét kĩ. Lý Kha bán nó cùng với những đồ bỏ đi khác cho một hiệu buôn đồ cổ. Và ta mua lại chiếc hộp từ đó. Trước tiên.”
“Xin đừng nói về chiếc hộp đó nữa, đại nhân. Hãy nói về Lý Kha. Tháp Lạp đã ném hắn đi, như người ta ném một mẩu kẹo khi đã ngậm chán. Và nàng ấy lại đi lại với Dương Mậu Đức. Hôm nọ, nàng đến gặp thảo dân, bảo rằng ngài đang theo dõi mình, nhưng cũng chẳng hề gì. Dương Mậu Đức biết số vàng ở đâu, hắn đã giết Lý Kha lẫn tay sai của Lý Kha là Thẩm Tam. Tháp Lạp muốn cùng Dương Mậu Đức trốn qua bên kia biên giới. Đã đến lúc phải đi, vì bá tánh huyện Lan Phường đang căm ghét nàng, và vị thần của nàng nói nàng sắp chết, khi đó nàng sẽ phải ở bên ông ta mãi mãi. Nhưng lần này thì nàng không tin. Nàng cười ngạo nghễ khi kể chuyện đó. Và giờ nàng chết rồi. Đại nhân à, vị thần ấy luôn chiến thắng.” Lão nhìn vào khoảng không vô định, đôi mắt trống rỗng. Bỗng, lão đảo mắt sang Địch Công và hỏi, “Đại nhân đã làm gì với thi thể nàng ấy?” “Ta hỏa táng rồi, và tro được rải ở khắp nơi. Đó là di nguyện của nàng ta.” Bang chủ đưa bàn tay to lớn lên tạo thành một cử chỉ vô vọng. “Như vậy là tôi đã mất nàng. Mãi mãi. Gió đã đưa tro cốt của nàng sang thảo nguyên. Nàng sẽ lại biến thành một phù thủy nhân hậu, quẩn quanh trong gió, trong sáng và trần trụi trên lưng con ngựa ô của nàng, ở bên hỏa thần, chủ nhân của nàng. Cả hai sẽ cùng nhau thúc ngựa trong gió khi hoang mạc nổi trận cuồng phong, và khi những người Đột Quyết nghe thấy tiếng thét của nàng, họ sẽ lại ngồi co cụm trong lều và cầu nguyện. Đại nhân, lẽ ra ngài nên chôn cất tro cốt của nàng ấy.”
“Theo luật pháp”, Địch Công nói, “tro cốt của người không có thân thích sẽ được rải đi khắp nơi.” “Đại nhân, ngài không tin vào những lời thảo dân kể sao?” “Ta không hề tin nhưng cũng không phủ nhận. Hòa Thượng, ông hỏi một câu thật vô nghĩa. Giờ nói cho ta biết, số vàng trong chùa là từ đâu ra?” “Thảo dân không biết. Tháp Lạp biết, nhưng nàng không hề nói với thảo dân. Chắc có kẻ đã đánh cắp số vàng đó ở huyện này từ năm trước. Khi thảo dân còn là Bang chủ, số vàng chưa có ở đó.” “Ta hiểu. Lý Kha có gặp Tháp Lạp trong chùa không?” Hòa Thượng lại yên lặng một lúc lâu. Đầu lão gục xuống, lão bâng quơ lấy ngón tay dò theo những hình ảnh được khắc trên mặt bàn. Cuối cùng, lão lên tiếng, “Lý Kha là kẻ ham hiểu biết và là một họa sư đại tài. Nhưng y muốn biết nhiều, quá nhiều. Những điều ấy thì một người sáng suốt như đại nhân cũng không nên biết. Bởi thế, thảo dân sẽ chỉ kể với đại nhân chuyện này thôi. Hai mươi năm trước, khi thảo dân bốn mươi tuổi và Tháp Lạp hai mươi, bọn thảo dân đều là tăng ni trong chùa Tử Quang. Năm năm sau đó, quan quân đóng cửa chùa, bọn thảo dân vờ như đã bỏ tín ngưỡng đó nhưng tiếp tục bí mật duy trì những nghi lễ ở am Thanh Phong. Cả hai đều là những người tinh thông, sành sỏi đối với mọi bí thuật. Bọn thảo dân biết về những gì mà người đời gọi là khởi đầu và kết thúc của sự sống. Biết quá nhiều. Nhưng cả hai lại không biết rằng con người đã bị trói buộc vào những cuộc hành trình quẩn quanh. Ngay khi nghĩ mình đã đến đích, sắp chạm tới những huyền cơ, thì bỗng thấy mình đã trở lại điểm xuất phát. Tháp Lạp, một ni cô biết mọi bí mật, đã đem lòng yêu Lý Kha. Và nàng ấy rời bỏ thảo dân.”
Bỗng lão phá lên cười. Tiếng cười vang vọng trong căn hầm thênh thang. Lão già trên cửa sổ bỗng ngọ nguậy rối rít. Hòa Thượng sửa lại tư thế ngồi. Lão buồn bã nói, “Đại nhân, ngài đã không cười. Ngài đã đúng. Vì vẫn chưa đến lúc cho tiếng cười sảng khoái nhất. Ngài đã nghĩ rằng thảo dân là một tăng nhân thì sẽ coi thường sự điên rồ của nàng ấy và bỏ đi, đúng không? Không. Khi nàng ấy rời khỏi am Thanh Phong để vào trong thành, thảo dân đã van xin nàng ấy đừng bỏ đi!” Với một nỗ lực kinh người, lão ta chống hai cánh tay rắn rỏi để nâng người lên và nói lớn, “Đại nhân, ngài cười đi! Cười vào mặt thảo dân đi!” Địch Công đáp lại ánh mắt ám ảnh kia bằng ánh nhìn tương tự. “Ta không biết Tháp Lạp cảm thấy thế nào về ông, Hòa Thượng ạ. Tuy nhiên, ta biết nàng ta vẫn yêu thương ái nữ của mình. Đêm qua, nàng ta đã dụ trợ thủ của ta đến phía sau chùa, ở đó Dương Mậu Đức đã định giết chết y. Nhưng đến thời điểm cuối cùng, nàng ta bỗng thấy ái nữ của mình xuất hiện sau lưng y, và nàng ta đã giơ tay lên cảnh báo. Cử chỉ ấy đã khiến trợ thủ của ta sợ hãi. Y dừng lại ngay và đã thoát chết.” Hòa Thượng không dám nhìn thẳng nữa. “Thảo dân hy vọng”, giọng lão trầm xuống, “Tháp Lạp sẽ bỏ Dương Mậu Đức giống như nàng ấy đã bỏ Lý Kha. Bỏ Dương Mậu Đức, ngay khi hắn có được số vàng. Thảo dân cũng mong mình sẽ có thể kéo nàng ra xa khỏi vị hung thần. Vì dù cho ngọn lửa sự sống đã lụi tàn trong thảo dân, thì thảo dân vẫn quen với những nghi lễ vô danh, và vẫn biết những thần chú không thể nói thành lời.” Lão ta thở dài và lồng ngực rộng căng lên. “Phải rồi, thảo dân đã hy vọng đưa nàng ấy thoát ra khỏi những vòng dây trói, và đưa nàng ấy cùng nhi nữ sang bên kia biên giới, về sống giữa những người đồng tộc. Lại được cưỡi ngựa đi khắp thảo nguyên bao la! Từng ngày đều được thúc ngựa đi trong không gian trong lành và sảng khoái của đại mạc!”
“Ta nhớ rằng”, Địch Công chậm rãi nói, “ta đã nói với Dương Mậu Đức về con ngựa bất kham, tự tách khỏi đàn để rong chơi khắp thảo nguyên, tự do và phóng khoáng. Nhưng rồi sẽ đến ngày nó thấy cô độc và mệt mỏi. Rồi nó sẽ thấy mình cô đơn và lạc lõng đường về đã bị gió xóa sạch và đoàn xe đã biến mất phía chân trời.” Hòa Thượng lại ngập trong suy tư, dường như không nghe thấy lời ông nói. Khi lần nữa mở lời, giọng lão ta vô cùng ôn hòa. “Không có vị thần ấy, Tháp Lạp sẽ co mình lại trong một vỏ ốc, giống như thảo dân thôi. Vì dù các thánh thần cho phép ta tự do hoang phí những gì ta muốn, thì thánh thần cũng không bao giờ trả lại những thứ đó. Nhưng ngay cả hai kẻ già nua, trống rỗng có lòng yêu thương nhau, thì ít nhất cũng có thể cùng nhau chờ đợi cái chết. Giờ đây, không có Tháp Lạp, thảo dân sẽ phải ngồi đợi một mình. Sẽ không quá lâu đâu.” Giọng lão nhỏ dần, đến nỗi gần như không thể nghe được. Bang chủ ngẩng đầu lên và thì thào bằng giọng khàn đặc, “Đại nhân, đã khuya lắm rồi. Ngài nên ra về. Trừ khi ngài nghĩ cần bắt giữ thảo dân, hoặc… hoặc lấy lời khai của thảo dân…” Địch Công đứng dậy. Ông lắc đầu nói, “Vụ án đã hoàn tất, Hòa Thượng ạ. Không còn gì cần làm nữa, cũng không có gì để nói. Không còn gì nữa đâu. Xin cáo biệt.” Ông đi ra, Hồng Sư gia theo sau. Lão già nhỏ thó ngồi chầu trên cửa sổ đã kéo sát tấm áo rách tả tơi vào người, hai vai co lại, đầu rụt xuống.
Một con quạ tìm chỗ ngủ réo vang màn đêm. Tái bút Địch Nhân Kiệt (630 700) là một nhân vật lịch sử dưới thời nhà Đường. Bên cạnh danh hiệu thần thám, ông còn là vị quan thông tuệ. Ở nửa sau trong sự nghiệp quan trường, ông đã giữ vai trò quan trọng đối với những chính sách đối nội và đối ngoại của nhà Đường. Tuy nhiên, những cuộc phiêu lưu trong sách này hoàn toàn là hư cấu. Huyện Lan Phường, nơi diễn ra các sự kiện trong cuốn sách này cũng là một địa danh tưởng tượng. Thể loại đạo Phật mới, huyền bí được mô tả trong cuốn sách này ý muốn nói đến dòng tu Đát đặc la, phát triển mạnh ở Ấn Độ vào thời đó và cả các quốc gia khác. Dưới thời Địch Công, người dân Trung Hoa không để tóc đuôi sam; phong tục này xuất hiện vào năm 1644, khi người Mãn Châu chiếm được Trung Nguyên. Trước thời điểm đó, họ để tóc dài và búi lên. Họ đội loại mũ mỏng khi ở nhà và ra đường, nam nữ đều mặc áo dài có tay áo rộng và dài giống như kimono của người Nhật trên thực tế, kimono bắt nguồn từ trang phục của đời Đường. Chỉ có quân đội, người dân cấp thấp mới mặc quần áo ngắn, có quần ống rộng lẫn xà cạp. Trà, rượu và các loại đồ uống nặng khác đều là các đồ uống đặc trưng của quốc gia. Nhiều thế kỉ sau đó, thuốc lá cũng như á phiện mới du nhập vào Trung Hoa. Robert van Gulik Table of Contents Giới thiệu Nhân vật Landmarks Cover
Robert van Gulik ĐỊCH CÔNG KỲ ÁN #15 THIẾT ĐINH ÁN Chinese Nail Murders (1961) Nguyệt Minh dịch LỜI TỰA Thiết Đinh Án là cuốn tiểu thuyết cuối cùng kết lại loạt truyện Địch Công kỳ án của tôi. Cuốn tiểu thuyết này kể lại quá trình vị thần thám họ Địch đã phá ba vụ án chỉ trong vòng vài tháng sau khi ông được bổ nhiệm làm Thứ sử Bắc Châu tại vùng biên cương phía Bắc của nhà Đường. Tôi đã đính kèm sơ đồ thành Bắc Châu trong cuốn tiểu thuyết. Đồng thời, độc giả cũng có thể thấy danh sách các nguồn tài liệu của Trung Hoa, những nhận xét chung về loạt truyện Địch Công kỳ án cũng như cách thức và nguyên do chúng tôi thực hiện loạt truyện này trong phần Tái bút. Những cuốn tiểu thuyết trong loạt truyện này chỉ đề cập tới nửa đầu sự nghiệp làm quan của Địch Nhân Kiệt, trong thời gian ông làm Huyện lệnh, rồi Thứ sử tại nhiều địa phương khắp cả nước. Sử sách Trung Hoa chỉ ghi lại tóm lược rằng trong giai đoạn này, vị thần thám lừng danh đã phá được vô số vụ kỳ án. Tuy nhiên, về thời gian Địch Nhân Kiệt làm quan trong triều, các ghi chép lại vô cùng chi tiết, bởi lúc đó ông đã là một danh nhân. Ông là một trong số ít những quan viên có thể gây ảnh hưởng tới Võ Tắc Thiên, nữ hoàng đế độc ác và chuyên quyền nhưng vô cùng tài năng, đã trị vì nhà Đường trong suốt năm mươi năm bằng bàn tay sắt. Có thể nói, câu chuyện về Địch Nhân Kiệt cố gắng cải tổ bộ máy chính trị mục nát, rồi bị vu cáo và bị tuyên tra tấn cho tới chết, sau đó đã tìm cách vượt ngục thành công và lấy lại quyền lực để ngăn cản Võ Hậu thực hiện những điều độc ác và sai trái; cũng như câu chuyện rằng khi ông đạt được đỉnh cao trong sự nghiệp, ông đã cản trở Võ Hậu truyền ngôi cho người thừa kế bất hợp pháp, tất cả những sự kiện ấy đều chứng tỏ rằng lịch sử thực sự còn ly kỳ hơn tiểu thuyết.
Địch Nhân Kiệt mất vào năm 700, ở cương vị Tể tướng, thọ bảy mươi tuổi. Hai người con trai của ông đều nối nghiệp cha, họ đều là những quan viên thanh liêm chính trực. Theo như sử sách ghi lại, cháu nội của Địch Nhân Kiệt là Địch Chân Mạc, khi qua đời đang tại chức Kinh triệu doãn, cũng đã phát huy trí tuệ tinh anh cũng như lòng nhân đạo sâu sắc như người ông lừng danh của mình. Các thế kỷ sau, dòng họ Địch ở Thái Nguyên không can hệ nhiều tới chính sự dù cho đây vẫn là dòng họ sản sinh ra nhiều học giả và thi sĩ. Cho tới ngày nay, dòng họ này vẫn tiếp tục tồn tại. Vào năm 1936, tôi đã gặp một trong những hậu duệ của Địch Nhân Kiệt, một lão tiên sinh, là chuyên gia nghiên cứu tranh cổ nổi danh. Tuy vậy, chúng tôi chỉ trò chuyện xã giao vì khi ấy tôi cũng không thể ngờ rằng mười bốn năm sau, mình lại sáng tác loạt tiểu thuyết trinh thám kể về vị tổ tiên lẫy lừng của ông ấy. Robert van Gulik BẢN ĐỒ BẮC CHÂU 1. Nha phủ; 2. Thao trường cũ; 3. Tháp Trống; 4. Chu phủ; 5. Tế Sinh Đường; 6. Miếu Quan Đế; 7. Đại quân doanh; 8. Tiệm đồ cổ của Phan Phong; 9. Tiệm giấy của họ Diệp; 10. Tháp Chuông; 11. Miếu Thành Hoàng; 12. Tiệm vải bông của Lục nương; 13. Tư gia của Lam Đại Khôi; 14 Nhà tắm “Cam Tuyền trì”; 15. Chợ; 16. Miếu Khổng Tử; 17. Liêu phủ; 18. Cái quan; 19. Núi Dược Sư; 20. Nghĩa địa GIỚI THIỆU Các nhân vật chính ĐỊCH NHÂN KIỆT: Thứ sử của Bắc Châu, một quận thuộc địa phận phủ Hà Bắc*. Ông thường được gọi là “Địch Công” hay “Thứ sử”.
HỒNG LƯỢNG: Quân sư thân cận của Địch Nhân Kiệt, cũng là Sư gia của nha phủ, thường được gọi là “lão Hồng” hay “Hồng Sư gia”. MÃ VINH, KIỀU THÁI và ĐÀO CAM: ba trợ thủ của Địch Thứ sử. Hà Bắc nằm ở phía Bắc của Hoàng Hà, nay là tỉnh Hà Bắc, Trung Quốc. Các nhân vật khác HỌ QUÁCH: Ngỗ tác của nha phủ Bắc Châu. QUÁCH PHU NHÂN, VƯƠNG THỊ: phu nhân của Quách Ngỗ tác, cũng là quản giáo nữ lao. DIỆP BÂN: một thương nhân buôn giấy. DIỆP THÁI: tiểu đệ của Diệp Bân. PHAN PHONG: một thương nhân buôn đồ cổ. PHAN NƯƠNG, DIỆP THỊ: phu nhân của Phan Phong, tiểu muội của Diệp Bân và Diệp Thái. HỌ CAO: một lý chính*, nhân chứng trong vụ án mạng nhà họ Phan. LAM ĐẠI KHÔI: một võ sư. MAI THÀNH: đồ đệ của Lam Đại Khôi. LỤC MINH: một thương nhân buôn vải bông, đã chết năm tháng trước. LỤC NƯƠNG, TRẦN THỊ: phu nhân của Lục Minh, mẫu thân của Lục Mai Lan. LỤC MAI LAN: nhi nữ còn nhỏ tuổi nhà họ Lục. HỌ LIÊU: phường chủ phường thuộc da. LIÊU LIÊN PHƯƠNG: nhi nữ của Liêu phường chủ, bị mất tích. CHU ĐẠT NGUYÊN: một viên ngoại giàu có. VŨ KHANG: quản gia của Chu Đạt Nguyên, vị hôn phu của Liêu Liên Phương. Chức vụ hành chính đứng đâu cấp thôn, xã thời xưa. Các vụ án trong truyện Vụ án XÁC CHẾT KHÔNG ĐẦU. Vụ án CON MÈO GIẤY. Vụ án THƯƠNG NHÂN BỊ SÁT HẠI. HỒI 1 Nơi hoa viên quan nhân báo mộng Tại thư phòng Thứ sử nhận tin Nguyện dốc lòng xử án, Thiên cổ soi gương ai. Sinh tử do ta quyết,
Phải cẩn trọng không sai! Đêm hôm trước, ta ngồi một mình dưới mái đình trong hoa viên hóng mát. Đêm đã khuya nên các phu nhân đều lui về phòng riêng từ lâu. Cả buổi tối, ta miệt mài làm việc trong thư phòng nên đã kêu gia nhân luôn tay lấy giúp cuốn sách từ trên kệ xuống và chép lại những đoạn ta cần đọc. Như mọi người đều biết, những lúc an nhàn, ta đều dành thời gian biên soạn một tuyển tập về các vụ kỳ án thời triều Đại Đường, đồng thời soạn thêm một phần phụ lục về tiểu sử của các thần thám trứ danh thời xa xưa. Hiện ta đang viết đến tiểu sử của Địch Nhân Kiệt, một vị quan án nổi tiếng sống cách đây bảy trăm năm. Trong nửa đầu sự nghiệp, khi vẫn còn làm huyện lệnh ở nhiều nơi, ông đã phá được rất nhiều vụ án bí ẩn, nên giờ đây người ta chủ yếu biết đến ông qua cái tên Địch thần thám một vị quan nổi tiếng của thời quá khứ huy hoàng. Sau khi cho gia nhân đi ngủ, ta viết một lá thư dài gửi cho đại huynh của mình, huynh ấy đang giữ chức Chánh Lục sự tại Bắc Châu. Huynh ấy được bổ nhiệm từ hai năm trước, để lại căn nhà cũ ở con phố bên cạnh cho ta trông nom coi sóc. Ta viết thư cho đại huynh để kể rằng ta vừa phát hiện ra Bắc Châu là địa phương cuối cùng mà Địch Nhân Kiệt làm quan án trước khi được điều về kinh nhận chức vụ cao hơn. Vì vậy, ta đã nhờ đại huynh giúp ta tra lại sổ sách địa phương, biết đâu huynh ấy có thể tìm ra thông tin gì thú vị về những vụ án mà Địch Nhân Kiệt đã phá ở nơi đó. Ta biết đại huynh nhất định sẽ giúp đỡ hết lòng vì huynh đệ chúng ta vốn rất khăng khít.
Viết thư xong, ta chợt nhận thấy trong thư phòng vô cùng oi bức. Ta bước ra hoa viên, hóng gió mát đang thổi qua hồ sen. Ta quyết định rằng trước khi đi ngủ sẽ ngồi nghỉ một lát trong mái đình nhỏ vừa xây ở góc hoa viên, bên cạnh hàng chuối. Ta cũng chẳng vội vàng muốn về phòng ngủ ngay, vì không khí trong nhà hiện đang căng thẳng từ sau khi ta cưới Tam phu nhân. Nàng quả là một mỹ nhân tài sắc vẹn toàn. Ta thật không hiểu tại sao hai vị phu nhân kia lại tỏ ra hằn học với nàng ngay từ ngày đầu gặp mặt, và lúc nào cũng trách móc việc ta ở cùng nàng hàng đêm. Thế nên đêm nay ta đành hứa sẽ đến phòng của Đại phu nhân, và phải thú thật là ta chưa muốn đi ngay. Ngồi thoải mái trên chiếc ghế tre, ta phe phẩy chiếc quạt lông ngỗng, ngắm nhìn hoa viên đang tắm mình dưới ánh trăng.👁 Bỗng nhiên, ta thấy cổng sau mở ra. Ta vô cùng bất ngờ khi thấy đại huynh của mình bước vào. Cuộc gặp gỡ ở hoa viên Ta đứng bật dậy và chạy ngay đến chào đại huynh. “Huynh về có việc gì thế?” ta hỏi. “Sao huynh không báo trước cho đệ là huynh sắp xuống miền Nam?” “Có việc bất ngờ nên ta phải đi ngay,” huynh ấy đáp. “Vừa tới nơi là ta liền đến gặp đệ. Mong đệ lượng thứ vì ta đến muộn thế này.” Ta trìu mến nắm cánh tay đại huynh và dẫn huynh ấy vào mái đình. Ta nhận thấy tay áo của đại huynh lạnh toát và ẩm ướt khác thường. Sau khi đợi đại huynh an tọa, ta ngồi xuống chiếc ghế đối diện và ân cần nhìn huynh ấy. Đại huynh đã gầy đi rất nhiều, mặt trắng bệch và hốc mắt hõm sâu.
“Có lẽ là do ánh trăng,” ta lo lắng nói, “nhưng trông huynh không được khỏe. Chắc là đường đi từ Bắc Châu về đây rất vất vả nhỉ?” “Quả đúng là rất gian nan,” đại huynh khẽ đáp. “Ta cứ hy vọng sẽ đến nơi từ bốn ngày trước, nhưng sương mù dày đặc quá.” Huynh ấy đưa tay phủi vết bùn khô trên vạt áo trắng rồi nói tiếp, “Thời gian gần đây, sức khỏe của ta không được tốt. Ở đây cứ liên tục đau nhói.” Huynh ấy nhẹ nhàng sờ tay lên đỉnh đầu. “Đau buốt đến tận hốc mắt, có lúc toàn thân còn run bần bật nữa.” “Khí hậu ấm áp ở quê nhà chắc sẽ khiến huynh khỏe lên,” ta an ủi đại huynh. “Ngày mai đệ sẽ mời đại phu hay khám cho gia quyến đến xem thế nào. Giờ thì huynh kể cho đệ nghe tình hình ở Bắc Châu đi.” Đại huynh kể lại ngắn gọn về công việc của mình ở đó; có vẻ như huynh ấy và Thứ sử có quan hệ rất tốt. Nhưng khi nhắc đến chuyện riêng thì huynh ấy lại có vẻ phiền muộn. Huynh ấy kể rằng Đại phu nhân gần đây cư xử khá kỳ lạ. Không hiểu sao thái độ của phu nhân với huynh ấy không còn như xưa. Có vẻ là vì việc này mà huynh ấy mới đột ngột về lại đây. Khi thấy đại huynh run lập cập, ta không hỏi gì thêm nữa vì xem ra đây là chuyện khiến huynh ấy rất phiền lòng. Để giúp đại huynh quên đi phiền muộn, ta đề cập đến Địch Nhân Kiệt và kể về lá thư ta vừa viết xong. “À phải,” đại huynh nói. “Người dân Bắc Châu hay kể về ba vụ án bí ẩn mà Địch tiền bối phá giải khi còn làm Thứ sử ở đó. Chuyện được truyền lại qua nhiều thế hệ, được kể đi kể lại ở các trà quán, nên dĩ nhiên là đã bị thổi phồng lên rất nhiều.”
“Chỉ vừa mới qua nửa đêm,” ta phấn khích nói, “nếu huynh không quá mệt thì hãy kể cho đệ nghe đi.” Gương mặt hốc hác của đại huynh nhăn lại trong đau đớn. Ta vội vàng lên tiếng xin lỗi vì yêu cầu quá đáng của mình, nhưng huynh ấy đã giơ tay lên ngăn lại. “Có khi kể cho đệ nghe câu chuyện lạ lùng ấy lại có ích,” đại huynh nói với vẻ nghiêm trang. “Nếu lúc trước ta để tâm đến nó hơn thì có thể sự tình đã khác rồi…” Đại huynh không nói gì nữa, tay lại sờ nhẹ lên đỉnh đầu. Một lát sau, huynh ấy nói tiếp: “Chắc hẳn là đệ đã biết, vào thời của Địch Nhân Kiệt, sau khi đánh bại quân Thát Đát, biên giới phía Bắc của nước ta lần đầu tiên được kéo dài ra đến tận vùng đồng bằng phía bên kia Bắc Châu. Hiện tại thì Bắc Châu là một quận giàu có, dân cư đông đúc, là trung tâm giao thương của các tỉnh miền Bắc. Nhưng khi ấy thì vẫn còn là một vùng đất hẻo lánh, dân cư còn ít, mà nhiều gia đình trong số đó lại mang nửa dòng máu Thát Đát, và họ vẫn lén lút làm những trò tà thuật man rợ. Xa hơn nữa về phía Bắc là nơi Tiết độ sứ Văn La dựng trại để bảo vệ Đại Đường, phòng quân Thát Đát xâm lược.” Sau khi nói sơ về hoàn cảnh thời đó, đại huynh của ta bắt đầu kể một câu chuyện lạ lùng khó tin. Khi tiếng kẻng báo hiệu canh tư vang lên thì huynh ấy mới đứng dậy chào từ biệt. Ta ngỏ ý đưa đại huynh về nhà, vì người huynh ấy đang run bần bật và giọng nói thều thào yếu ớt đến mức ta không nghe được gì cả. Nhưng đại huynh kiên quyết từ chối, và chúng ta giã từ tại cổng hoa viên.
Vẫn chưa muốn đi ngủ ngay, ta quay vào thư phòng. Ta vội vàng ghi chép lại câu chuyện kỳ lạ mà đại huynh vừa kể. Khi bình minh đến, ta mới bỏ bút xuống và ngả người lên chiếc chõng tre ngoài hiên. Lúc ta thức dậy thì đã gần đến giờ dùng cơm trưa. Ta lệnh cho gia nhân mang cơm ra mái hiên và ngồi ăn ngon lành, lần này thì ta rất mong chờ Đại phu nhân tới. Khi nàng mở lời trách móc ta vì đêm qua không đến phòng nàng, ta sẽ đắc thắng ngắt lời và đưa ra cái cớ hết sức chính đáng là sự xuất hiện bất ngờ của đại huynh. Sau khi đã giải quyết êm xuôi với nữ nhân cáu bẳn đó, ta sẽ đến tư gia của đại huynh ngồi đàm đạo. Có thể huynh ấy sẽ cho ta biết lý do chính xác khiến huynh ấy rời Bắc Châu, và ta sẽ nhờ huynh ấy làm rõ một số vấn đề mà ta còn chưa hiểu tường tận trong câu chuyện huynh ấy đã kể. Nhưng khi ta vừa bỏ đũa xuống, lão quản gia liền xuất hiện để thông báo rằng tín sứ vừa từ Bắc Châu đến. Y chuyển cho ta một lá thư của Thứ sử, báo tin buồn rằng vào bốn ngày trước, lúc nửa đêm, đại huynh của ta đã đột ngột qua đời. Trên mình khoác áo choàng lông dày, Địch Thứ sử ngồi sau chiếc bàn trong thư phòng. Dù đã đội một chiếc mũ lông trùm kín cả hai bên tai, ông vẫn cảm nhận được cơn gió lạnh lùa vào gian phòng rộng. Nhìn về phía hai trợ thủ lớn tuổi đang ngồi trước bàn, ông bảo: “Ngóc ngách nào cơn gió lạnh này cũng len vào được!”
“Gió ùa về từ bình nguyên phía Bắc, thưa đại nhân,” người có chòm râu xơ xác đáp. “Lão phu sẽ sai người thêm than vào lò!” Lão đứng dậy và bước ra cửa, còn Địch Thứ sử thì chau mày nhìn người còn lại: “Cái lạnh của phương Bắc có vẻ chẳng là gì với ngươi cả, Đào Cam.” Nghe Địch Thứ sử hỏi, nam nhân gầy gò thọc tay sâu vào ống tay áo da dê đã sờn rách và cười đáp: “Tấm thân già này của thuộc hạ đã lê la khắp mọi miền, thưa đại nhân. Nóng hay lạnh, ẩm ướt hay khô ráo, với thuộc hạ đều như nhau cả. Và tấm áo của người Thát Đát thuộc hạ đang bận ấm áp hơn nhiều so với chiếc áo lông thú quý giá kia.” Nhưng Địch Thứ sử biết thực ra trợ thủ tinh ranh của mình có phần hơi bủn xỉn. Đào Cam xưa kia vốn là một kẻ lừa đảo. Cách đây chín năm, khi làm Huyện lệnh ở Hán Nguyên, ông đã cứu Đào Cam lúc nguy nan. Từ lúc đó, kẻ bịp bợm này đã cải tà quy chính và xin được phụng sự dưới trướng của Địch Thứ sử. Kiến thức sâu rộng về chốn giang hồ và sự thấu hiểu tâm lý con người của y rất có ích trong việc truy lùng những tên tội phạm nham hiểm. Hồng Sư gia trở về, theo sau là một nha lại bê chậu than hồng. Y chất thêm than vào lò sưởi ngay cạnh bàn. Sau khi an tọa, Hồng Sư gia vừa xoa đôi tay gầy guộc vừa nói: “Bẩm đại nhân, vấn đề nằm ở chỗ gian phòng này quá rộng. Các thư phòng trước đây, không có phòng nào rộng hơn ba mươi thước vuông cả.”
Địch Thứ sử nhìn những cột gỗ cao chống đỡ vòm trần đã nhuốm màu đen qua năm tháng và những cửa sổ lớn dán giấy dầu phản chiếu màu tuyết trắng bên ngoài. “Sư gia đừng quên là,” ông nói, “mãi đến ba năm về trước, nha phủ này vẫn còn là căn cứ của Tiết độ sứ của Bắc Trấn quân. Lính tráng luôn cần có không gian rộng rãi mà!” “Chỗ ở hiện tại của Tiết độ sứ chắc chắn là rất rộng rãi!” Đào Cam nhận xét. “Cách đây hai trăm dặm về phía Bắc, ngay giữa sa mạc lạnh giá.” “Lão phu nghĩ các quan viên bộ Lại đã lạc hậu mất mấy năm rồi.” Hồng Sư gia nói. “Khi họ điều đại nhân đến đây, chắc họ nghĩ Bắc Châu vẫn nằm ngay biên giới phía Bắc nước ta.” “Có lẽ lão nói đúng đó,” Địch Thứ sử cười buồn. “Khi Thượng thư bộ Lại tuyên đọc chiếu chỉ cho ta, ngài ấy còn lịch sự dặn dò với vẻ hơi lơ đễnh rằng ngài ấy tin ta sẽ giải quyết được đám người man di như đã từng làm ở Lan Phường. Nhưng tại Bắc Châu này, ta còn cách các bộ tộc man di vùng biên giới hơn ba trăm dặm đất và một đội quân cả chục vạn người.” Lão Sư gia vuốt chòm râu với vẻ hậm hực. Lão đứng dậy và bước về phía ấm trà trong góc phòng. Hồng Sư gia là gia nhân lâu năm của nhà họ Địch và lão đã săn sóc Địch Thứ sử từ khi ông còn nhỏ. Mười hai năm trước, khi Địch Nhân Kiệt lần đầu được bổ nhiệm là Huyện lệnh, lão Hồng kiên quyết muốn đi theo, dù tuổi đã cao. Địch Nhân Kiệt phong ông làm Sư gia để ông có chức danh chính thức tại nha phủ. Lão Hồng luôn trung thành với ông và gia đình ông; đồng thời là một Sư gia thân tín có thể cùng ông thảo luận mọi vấn đề.
Địch Thứ sử cảm kích nhận lấy chén trà nóng từ tay Hồng Sư gia. Ấp hai lòng bàn tay vào chén trà để sưởi ấm, ông nói: “Dù sao thì cũng không có gì để phàn nàn cả. Người dân ở đây khỏe mạnh, thành thật và chăm chỉ. Chúng ta đã đến đây được bốn tháng rồi mà chỉ có mấy công việc hành chính, vài vụ ẩu đả và cãi cọ; mà mấy việc đó thì Mã Vinh và Kiều Thái giải quyết rất nhanh chóng. Và phải công nhận là chấp pháp quân xử trí rất hiệu quả những kẻ đào ngũ và bọn vô lại khác từ phía Bắc trôi dạt về đây.” Ông chậm rãi vuốt chòm râu dài. “Tuy vậy,” ông nói tiếp, “vẫn còn tồn đọng vụ mất tích cách đây mười ngày của Liêu tiểu thư.” “Ngày hôm qua,” Đào Cam nói, “thuộc hạ đã gặp qua phụ thân của nàng ta, Liêu phường chủ. Lão lại hỏi liệu có tin tức gì về Liêu tiểu thư hay chưa.” Địch Thứ sử đặt chén trà xuống. Ông vừa vuốt cặp chân mày rậm vừa nói: “Chúng ta đã điều tra khắp khu chợ, đã gửi chân dung của nàng ta cho quân đội và các nha phủ khác. Vậy là đã cố gắng hết sức rồi.” Đào Cam gật gù. “Thuộc hạ không nghĩ vụ Liêu Liên Phương mất tích đáng để chúng ta hao công tổn sức như thế,” y nói. “Thuộc hạ vẫn tin rằng nàng ta cao chạy xa bay cùng tình nhân. Chẳng bao lâu nữa, nàng ta sẽ trở về với một đứa bé bụ bẫm trên tay và một phu quân bẽn lẽn đi bên cạnh để cầu xin phụ thân tha thứ.” “Nhưng nàng ta đã được đính ước với người khác,” Hồng Sư gia đáp.
Đào Cam không đáp lại mà chỉ cười hoài nghi. “Nhìn qua thì có vẻ như Liêu tiểu thư đã trốn đi cùng tình nhân.” Địch Thứ sử nói. “Nàng cùng nhũ mẫu ra chợ xem một tên mãi võ người Thát Đát diễn xiếc gấu thì đột nhiên mất tích. Lúc đó đám đông chen chúc, ai nấy đều chăm chú xem gấu diễn trò, nhũ mẫu chỉ chớp mắt một cái đã lạc mất Liêu tiểu thư. Giữa ban ngày ban mặt, dùng vũ lực bắt cóc một thiếu nữ ngay giữa chốn đông người là điều không thể, nên ta cho rằng có nhiều khả năng là nàng ta tự ý bỏ đi.” Nghe ba tiếng cồng vọng tới từ chính sảnh, Địch Thứ sử đứng dậy. “Sắp đến giờ thăng đường buổi sáng rồi,” ông nói. “Dù sao thì hôm nay ta cũng sẽ xem lại vụ án của Liêu tiểu thư. Mấy vụ mất tích đúng là phiền toái. Thà là án mạng có khi còn hay hơn.” Khi Hồng Sư gia giúp ông khoác quan phục thêu tường vân ngũ long, đeo đai ngọc, Địch Thứ sử nói thêm, “Không hiểu sao Mã Vinh và Kiều Thái đi săn đến giờ vẫn chưa về nhỉ.” Lão Hồng đáp: “Tối hôm qua họ bảo là sẽ lên đường trước bình minh để bắt sói, và họ sẽ cố gắng về kịp giờ thăng đường buổi sáng.” Địch Thứ sử thở dài và thay chiếc mũ lông bằng chiếc mũ ô sa. Ông vừa bước ra cửa thì thấy Bộ đầu hớt hải chạy vào bẩm báo: “Đại nhân, có chuyện rồi! Sáng sớm nay, ở phía Nam thành phát hiện thi thể của một nữ nhân. Bách tính đang náo động toàn bộ châu phủ.”
Địch Thứ sử bỗng dừng bước. Quay sang Hồng Sư gia, ông nghiêm giọng nói: “Điều ta vừa nói vài phút trước thật là ngu xuẩn. Lẽ ra ta không nên đem chuyện án mạng ra đùa mới phải.” “Hy vọng không phải là Liêu tiểu thư,” Đào Cam lo lắng nói Địch Thứ sử không đáp lời. Khi băng qua hành lang từ thư phòng của mình đến cửa sau công đường, ông hỏi Bộ đầu: “Ngươi có thấy Mã Vinh và Kiều Thái đâu không?” “Họ vừa về đến, thưa đại nhân,” Bộ đầu đáp, “nhưng tuần đinh vừa chạy đến nha phủ báo tin ở một tửu quán đang có ẩu đả. Y khẩn thiết yêu cầu trợ giúp, nên hai vị đại ca đã vội vã đi theo y rồi.” Địch Thứ sử gật đầu, nhìn vẻ mặt sầu lo của Hồng Sư gia, rồi vén rèm cất bước vào công đường. HỒI 2 Hai huynh đệ cáo trạng em rể Địch Thứ sử xem xét hiện trường An tọa trên chiếc ghế cao được đặt trên bục, Địch Thứ sử nhìn quanh đám đông đang có mặt bên dưới công đường. Vụ án phía Nam thành đã sớm truyền đi khắp nơi, bách tính đều muốn tới nha môn xem Địch Thứ sử khai thẩm. Sáu Bộ khoái đã đứng thành hai hàng, mỗi bên ba người trước bàn thẩm án, còn Bộ đầu thì đứng bên cạnh. Hồng Sư gia đã yên vị trên chỗ ngồi quen thuộc của mình đặt phía sau chiếc ghế của Địch Thứ sử. Đào Cam ngồi bên một chiếc bàn được đặt thấp hơn bàn thẩm án, cùng Lục sự ghi chép lời khai. Lúc này, Lục sự đang mài mực điều nghiên. Địch Thứ sử đập kinh đường mộc xuống bàn, tuyên bố:
“Buổi thăng đường sáng sớm, quân dân Bắc Châu có gì bẩm báo, bản quan sẽ tiếp nhận và xử lý. Có đơn thì đệ đơn, không có đơn thì thuật lại.” Địch Thứ sử nói chưa dứt lời, dưới công đường đã có tiếng hô to, “Oan uổng!” Địch Thứ sử nhìn xuống thấy có hai nam nhân lách qua đám đông, quỳ sụp xuống nền đá thủy thanh trước công đường. Nam nhân lớn tuổi hơn vừa cao vừa gầy, hình dung tiều tụy; nam nhân trẻ tuổi dáng người vạm vỡ, mặt mày dữ tợn. Bách tính bắt đầu xôn xao, châu đầu ghé tai, bàn tán sôi nổi. Địch Thứ sử đập mạnh kinh đường mộc xuống bàn, quát lớn, “Yên lặng!,” rồi hỏi, “Hai ngươi có gì oan uổng, mau nói đi!” Nguyên cáo lớn tuổi hơn thoáng ngẩng đầu lên, cung kính thưa: “Tiểu nhân là Diệp Bân, làm nghề buôn giấy. Còn đây là đệ đệ của tiểu nhân, Diệp Thái. Huynh đệ tiểu nhân muốn tố giác muội phu của mình, Phan Phong, thương nhân buôn đồ cổ. Hắn đã tàn nhẫn sát hại muội muội của huynh đệ tiểu nhân, cũng là thê tử của hắn. Cầu lão gia tróc nã hung thủ, thay huynh đệ tiểu nhân báo thù rửa oan…” 👁 Huynh đệ họ Diệp trình báo vụ thảm án “Gã Phan Phong đó hiện đang ở đâu? Chẳng lẽ đã lẩn trốn?” Địch Thứ sử ngắt lời hắn. “Đúng vậy, thưa lão gia. Phan Phong đã trốn khỏi thành từ hôm qua…,” Diệp Thái đáp. “Diệp Bân,” Địch Thứ sử hỏi, “làm sao ngươi phát hiện muội muội ngươi bị Phan Phong sát hại? Hãy kể lại toàn bộ, đừng bỏ qua tiểu tiết.” “Bẩm lão gia, sáng sớm ngày hôm nay,” Diệp Bân dập đầu xuống sàn, chậm rãi kể, “Diệp Thái đến nhà họ Phan, thấy cổng đóng chặt, y gõ cửa hồi lâu mà không ai trả lời. Thường thì vào giờ này phu thê họ Phan lúc nào cũng ở nhà, nhưng hôm nay có chút khác thường như vậy nên Diệp Thái sinh lòng ngờ vực, lo lắng chạy về nhà gọi tiểu nhân cùng đi để…”