text
stringlengths
1
809k
“Dừng lại!” Địch Thứ sử ngắt lời. “Sao trước tiên y không hỏi hàng xóm xung quanh xem liệu rằng phu thê họ Phan sáng sớm có ra ngoài không?” “Lão gia có điều không biết, Phan gia tọa lạc ở một con phố vô cùng vắng vẻ,” Diệp Bân cẩn trọng đáp, “hai bên đều là nhà hoang không có người ở, cũng không có hàng xóm.” “Tiếp tục đi,” Địch Thứ sử gật đầu nói. “Huynh đệ tiểu nhân cùng quay trở lại nơi đó,” Diệp Bân nói tiếp. “Phan gia chỉ cách Diệp gia hai con phố. Huynh đệ tiểu nhân vừa cao giọng gọi to vừa cật lực gõ cửa nhưng vẫn không có ai xuất hiện. Tiểu nhân cảm thấy kỳ lạ, trong lòng có chút sợ hãi, liền vòng tới hậu viện, trèo tường vào trong. Tiểu nhân thấy cửa sổ phòng ngủ được mở tung ra, nên đã bảo Diệp Thái cúi xuống để tiểu nhân đạp lên vai y mà nhìn vào trong. Tiểu nhân đã nhìn thấy…” Xúc cảm khiến giọng của Diệp Bân biến đổi. Dù đang là tháng Chạp giá rét nhưng mồ hôi trên trán y vẫn không ngừng chảy xuống. Y định thần lại rồi tiếp tục kể: “Bẩm lão gia, tiểu nhân nhìn thấy muội muội nằm ở trên giường sưởi*, máu me khắp người, tiểu nhân sợ đến chân tay mềm nhũn, ngã nhào xuống đất. Diệp Thái đã nâng tiểu nhân dậy, huynh đệ tiểu nhân lập tức chạy đi tìm lý chính để làm chứng rồi đến ngay nha môn báo tin…” Ở miền Bắc Trung Quốc, người ta dùng một chiếc lò lớn được xây bằng gạch, duy trì một ngọn lửa cháy chậm ở bên trong. Chiếc lò này được dùng như một chiếc tràng kỷ để làm giường ngủ suốt đêm. Địch Thứ sử đập kinh đường mộc xuống bàn.
“Diệp Bân, ta hỏi ngươi, ngươi nhìn thấy muội muội của mình toàn thân đầy máu qua cửa sổ, sao lại có thể kết luận nàng ta đã bị giết chết?” Diệp Bân nước mắt giàn giụa, toàn thân run rẩy, đáp: “Lão gia,” y lắp bắp, “đầu của muội muội đã không còn! Thi thể đó không có đầu!” Trên công đường yên lặng như tờ, bách tính đến nghe thẩm án kinh ngạc đưa mắt nhìn nhau. Địch Thứ sử trầm ngâm. Ông nhìn Diệp Bân, lạnh lùng nói: “Tiếp tục đi. Ngươi đang nói rằng mình đi tìm lý chính.” “Huynh đệ tiểu nhân gặp ngài ấy ở một góc phố,” Diệp Bân tiếp tục nói, lúc này giọng y đã bình tĩnh hơn. “Tiểu nhân kể cho ngài ấy nghe những gì mình đã nhìn thấy và nói rằng tiểu nhân sợ Phan Phong cũng đã bị sát hại. Huynh đệ tiểu nhân xin phép được phá cửa để vào nhà. Nghe đến đó, lý chính họ Cao nói rằng trưa hôm qua, ngài ấy đã nhìn thấy Phan Phong mang theo một tay nải da căng tròn vội vã chạy dọc theo con phố, nói rằng có việc gấp, sẽ rời thành vài ngày. Nghe những lời này, huynh đệ tiểu nhân giận sôi, hận không thể lập tức bắt Phan Phong trở về, đánh chết hắn tại chỗ mới có thể giải hận. Lão gia, ngài nói thử xem, trong tay nải da mà không phải là cái đầu của muội muội thì còn là gì nữa?” Diệp Thái không nhịn được, cũng nói: “Lão gia, tên ác ma Phan Phong này giết người không chớp mắt, giờ hắn đã lẩn trốn, vạn mong lão gia thay tiểu nhân làm chủ, tróc nã hắn đem về quy án!”
“Cao lý chính hiện ở đâu?” Địch Thứ sử hỏi. “Tiểu nhân đã cầu xin ngài ấy theo tới công đường, thưa lão gia,” Diệp Bân than vãn, “nhưng ngài ấy từ chối và nói rằng phải ở đó để bảo vệ hiện trường, đảm bảo không có ai can thiệp hay dịch chuyển bất cứ vật gì.” Địch Thứ sử gật đầu. Ông nói nhỏ với Hồng Sư gia. “Ít nhất y là một lý chính biết phận sự!” Nói rồi, ông quay ra bảo Diệp Bân: “Bây giờ Lục sự sẽ đọc to bản cáo trạng. Nếu ghi chép là chính xác thì huynh đệ các ngươi hãy điểm chỉ lên.” Lục sự đọc to bản ghi chép. Huynh đệ họ Diệp đều nhất trí rằng mọi chi tiết đều đúng sự thật. Sau khi họ điểm chỉ lên giấy tờ, Địch Thứ sử tuyên bố: “Ta sẽ ngay lập tức dẫn người đi tới hiện trường án mạng. Huynh đệ các ngươi cũng cần đi theo. Tuy nhiên, trước khi rời khỏi đây, ta cần ngươi mô tả tỉ mỉ hình dáng tướng mạo Phan Phong để ta sẽ hạ lệnh canh phòng, nghiêm cẩn điều tra, lưu hành cáo thị khắp các châu phủ hiệp lực lùng bắt hắn. Phan Phong mới chỉ rời khỏi đây một đêm, đường sá lại xấu. Ta chắc chắn rằng hắn sẽ sớm bị bắt lại. Hãy yên tâm, nha phủ sẽ đưa tên hung thủ sát hại muội muội các ngươi ra công lý.” Địch Thứ sử hạ kinh đường mộc xuống bàn thẩm án và tuyên bố bãi đường. Quay trở lại thư phòng, Địch Thứ sử đứng cạnh lò than hồng để hơ nóng đôi tay trên lửa. Ông nói với Hồng Sư gia và Đào Cam:
“Chúng ta sẽ đợi ở đây cho đến khi Diệp Bân mô tả xong về Phan Phong.” “Thi thể không có đầu, thực hết sức quái gở! Không biết ngài nghĩ thế nào?” Hồng Sư gia nhận xét. “Có lẽ phòng ngủ tối tăm, Diệp Bân nhìn gà hóa cuốc,” Đào Cam nói. “Không biết chừng chăn gối trên giường đã che mất cái đầu.” “Lát nữa đến nơi, chúng ta sẽ thấy rõ ràng.” Địch Thứ sử nói. Lục sự bước vào với bức họa chân dung của Phan Phong. Địch Thứ sử nhanh chóng viết lên dòng chữ truy nã và thảo một công văn gửi cho quan viên những châu phủ xung quanh. Ông yêu cầu lục sự, “Chuyện này cần làm ngay lập tức!” Kiệu lớn của Địch Thứ sử đã đứng đợi sẵn ở ngoài đình viện. Địch Thứ sử đã vén màn kiệu bước lên và kêu Hồng Sư gia cùng Đào Cam vào ngồi cùng. Tám kiệu phu, bốn trước bốn sau, nâng kiệu lên vai và nhịp nhàng bước đi theo con đường quanh co khúc khuỷu hướng về phía Nam thành. Bốn Bộ khoái cưỡi ngựa đi trước kiệu, gõ nhẹ vào chiếc chiêng đồng và hét to, “Tránh đường! Tránh đường! Thứ sử đại nhân đang tới!” Bộ đầu thì theo sau cùng với bốn Bộ khoái nữa. Người đi đường thấy nghi trượng của quan phủ, đều cung kính tránh né. Phố xá hai bên liên tiếp những hàng quán sầm uất, tuy là nơi biên giới nhưng cũng thịnh vượng chẳng kém chốn Trung Nguyên. Sau vài lần rẽ, qua miếu Quan Đế, quang cảnh dần hoang vu, hai bên đường trồng bạch dương, dân cư thưa thớt. Nơi này từng là Đại quân doanh của Bắc Trấn quân, đến nay đã bị bỏ hoang, họ tiến vào một con đường dài và thẳng. Đối diện với Đại quân doanh cũ là một dãy trạch viện, vốn là nơi ở của các quan lại phụ trách quân nhu, nay đã có một số gia đình bình dân dọn vào, trong đó có phu thê họ Phan.
Kiệu được hạ xuống trước trạch viện của Phan Phong. Một nam nhân diện mạo khôi ngô tiến bước lên và tự xưng mình là lý chính họ Cao phụ trách khu phía Đông Nam. Y cung kính mời Địch Thứ sử xuống kiệu. Sau khi nhìn ngang nhìn dọc con phố, Đào Cam ngờ vực, không khỏi hỏi: “Một thương nhân buôn đồ cổ sao lại lựa chọn nơi hoang vắng như vậy để mở cửa tiệm? Nơi này mở quán đậu phụ cũng chẳng làm ăn nổi, nói gì đến chuyện buôn bán đồ cổ!” Địch Thứ sử gật gù, mắt nhìn Cao lý chính, chờ y trả lời. Cao lý chính đáp: “Chỗ này đúng là hẻo lánh hoang vu, nhưng Phan Phong thường chỉ tới cửa chào hàng, chứ không cần khách hàng hạ mình tới đây chọn mua. Thỏa thuận xong, lão liền giao hàng tận cửa.” Địch Thứ sử gật đầu, Cao lý chính liền dẫn đường vào trạch viện. Qua tiền viện là một cái sân nho nhỏ, bên cửa có một cái giếng, bên giếng có một cái cây cổ thụ. Cao lý chính chỉ vào cái sân nhỏ nói rằng: “Thưa đại nhân, nơi này được chia thành ba gian nhà. Một gian chính là phòng ngủ của phu thê họ Phan. Bên trái là cửa tiệm của hắn, phía sau là bếp. Bên phải là kho chứa chút đồ cổ không đáng giá.” Thấy cửa phòng ngủ mở hé, Địch Thứ sử liền hỏi: “Ai đang ở trong căn phòng đó?” “Thưa đại nhân, không có ai cả,” Cao lý chính đáp. “Thuộc hạ đã canh chừng ngay sau khi phá cửa chính vào. Người của thuộc hạ không ai dám đi quá cái sân kia nên mọi thứ trong hiện trường vụ án sẽ không hề bị xê dịch.”
Địch Thứ sử gật đầu tỏ ý đồng tình, rồi bước vào phòng ngủ. Phòng ngủ không lớn, bên cửa sổ có một cái giường sưởi rộng, phủ chăn dày và bọc đệm. Trên giường là thi thể trần trụi của một nữ nhân. Thi thể được đặt ngửa, hai tay trói chặt phía trước, hai chân duỗi thẳng. Thi thể đúng là không có đầu. Cổ bị chém đứt lìa, máu thịt đầm đìa. Chăn bông trên giường cũng nhuốm máu khô loang lổ. Địch Thứ sử nhanh chóng rời mắt khỏi thi thể, quan sát bố trí của phòng ngủ. Đối diện với bức tường phía sau, giữa hai cái cửa sổ, ông nhìn thấy một bàn trang điểm. Có một chiếc khăn được treo trước gương, phất phơ trong làn gió buốt giá đang thổi qua khung cửa sổ mở. “Vào đóng cửa lại đi!” Địch Thứ sử ra lệnh cho Hồng Sư gia và Đào Cam. Rồi ông quay sang nói với Cao lý chính, “Ngươi hãy ra ngoài coi chừng, đừng để ai cản trở chúng ta! Khi huynh đệ nhà họ Diệp tới, bảo họ chờ ở đại sảnh.” Khi cánh cửa đã được đóng lại sau lưng Cao lý chính, Địch Thứ sử bắt đầu nhìn kỹ phần còn lại của căn phòng. Đối diện với bức tường kê chiếc giường sưởi là bốn chiếc rương lớn bằng da màu đỏ bình thường, mỗi chiếc đều được viết chữ Xuân, Hạ, Thu, Đông, xem ra là rương đựng y phục của bốn mùa. Bên cạnh đó là một cái bàn nhỏ mới được sơn son, bên cạnh bày hai chiếc ghế gỗ. Địch Thứ sử bất giác nhìn lại về phía thi thể và nói: “Đào Cam, ta không hề nhìn thấy y phục mà nạn nhân đã cởi ra, cả hài cũng không có, ngươi thử mở những chiếc rương này ra xem nào!”
Đào Cam mở chiếc rương ra, lật xem rồi nói: “Thưa đại nhân, trong này chỉ có y phục mùa xuân đã được gấp gọn gàng.” “Mở cả bốn chiếc rương ra xem! Lão Hồng, lão giúp Đào Cam đi!” Địch Thứ sử gắt gỏng. Trong lúc hai người kia tìm kiếm, Địch Thứ sử vẫn đứng ở chính giữa căn phòng, chậm rãi vuốt râu. Bấy giờ cánh cửa đã bị đóng lại, chiếc khăn tay đã rủ xuống chiếc gương. Ông chú ý thấy trên đó vẫn còn vết máu. Ông nhớ người ta thường nói rằng nhìn một thi thể trong gương là điềm gở. Rõ ràng tên sát nhân cũng nghĩ như vậy. Bỗng một tiếng kêu của Đào Cam khiến ông phải quay đầu lại. “Đại nhân, ngài xem! Thuộc hạ tìm thấy chỗ trang sức này ở một ngăn bí mật ở đáy chiếc rương thứ hai,” vừa nói, Đào Cam vừa chỉ cho Địch Thứ sử xem hai chiếc vòng đeo tay bằng vàng khảm hồng ngọc cùng với sáu chiếc trâm làm từ vàng ròng. Địch Thứ sử nói, “Phan Phong là thương nhân buôn đồ cổ, có chút châu báu như thế này cũng là chuyện bình thường thôi. Ngươi cất chúng trở lại chỗ cũ, chúng ta sẽ niêm phong tòa viện trạch này lại. Điều ta đang quan tâm hơn cả là việc y phục của nạn nhân biến mất chứ không phải những đồ trang sức này. Ngươi cùng lão Hồng gấp y phục lại, cất vào rương như cũ, rồi theo ta ra kho tìm xem sao.” Ba người đi ra kho, thấy trên bên trong đầy những thùng gỗ cùng hộp giấy đủ mọi kích cỡ được xếp chồng chất. Địch Thứ sử nói: “Đào Cam, ngươi kiểm tra kỹ những thùng và hộp kia. Đừng quên, ngoài chuyện đi tìm y phục, chúng ta còn phải kiếm thủ cấp bị mất tích kia nữa. Ta sẽ tiếp tục cùng Sư gia đi ra cửa tiệm.”
Quầy hàng chia cửa tiệm đơn sơ thành hai nửa, phía sau quầy là chiếc kệ bày đủ loại đồ sứ, đồ ngọc, tầng cao nhất xếp đầy sách cổ, phủ đầy bụi. Trong góc phòng chất chồng những tượng đất nặn Bồ Tát, đỉnh đồng, đỉnh sắt cùng những đồ lặt vặt. Địch Thứ sử ra dấu, Hồng Sư gia cuốn rèm lên. Địch Thứ sử mở ngăn kéo của quầy hàng ra và thấy mấy quyển sổ ghi nợ cùng một đống bạc vụn và xâu tiền đồng. “Lão Hồng xem này, Phan Phong hẳn là đã rất vội vàng bỏ đi! Hắn không lấy trang sức, cũng chẳng mang theo tiền!” Hồng Sư gia gật đầu đồng tình. Sau đó, họ cũng cẩn thận tìm trong bếp nhưng không thấy gì đáng chú ý. Hai người liền quay lại kho, đúng lúc gặp Đào Cam bước ra. Y phủi bụi trên áo choàng rồi bẩm báo: “Đại nhân, thuộc hạ đã mở tất cả các thùng và hộp ra xem. Trong đó đều là những đồ đồng, sắt, ngói và những đồ cổ khác. Tất cả đều phủ đầy bụi, xem ra đã lâu không có ai đi vào đó.” Địch Thứ sử trầm ngâm vuốt chòm ria mép. “Thật là thú vị.” Cuối cùng ông thốt lên một câu như vậy rồi rời khỏi phòng. Hai trợ thủ bước theo phía sau. Cao lý chính vẫn chờ ở sảnh cùng với Bộ đầu và những Bộ khoái, ngoài ra còn có hai huynh đệ họ Diệp. Địch Thứ sử gật đầu đáp lại những cái thi lễ của họ rồi nói với Bộ đầu: “Ngươi cho hai nha dịch thả câu liêm xuống giếng vớt thử xem. Ngoài ra hãy mượn Cao lý chính một chiếc cáng và một tấm mền để chuyển thi thể nạn nhân tới nha môn. Sau đó thì hãy niêm phong tòa trạch viện này lại, cho hai nha dịch ở đây trông coi, không có mệnh lệnh không được rút đi. Nếu thấy có kẻ khả nghi, không cần biết là ai, lập tức bắt giữ, áp giải đến nha môn.”
Ông nhìn hai huynh đệ họ Diệp và nói: “Muội muội của các ngươi quả thật đã bị sát hại dã man. Nhưng đáng tiếc vẫn chưa tìm thấy thủ cấp của nàng.” “Tên ác ma Phan Phong đã mang nó đi rồi!” Diệp Bân khàn giọng kêu lên. “Cao tiên sinh đã nhìn thấy hắn mang theo một tay nải bằng da căng tròn, không chứa đầu người thì là gì?” “Ngươi hãy kể lại chính xác hôm qua ngươi đã gặp họ Phan kia như thế nào và hắn đã nói gì?” Địch Thứ sử quay sang yêu cầu Cao lý chính. “Buổi trưa hôm qua, thuộc hạ đã gặp Phan Phong đang vội vã đi ra phố về hướng Tây, liền tiến lên bắt chuyện.” Cao lý chính đáp. “Thuộc hạ đã hỏi hắn ‘Có chuyện gì mà vội vậy, ông chủ Phan?’ Hắn dường như chẳng để ý, chân cũng không dừng lại mà chỉ lẩm bẩm rằng sẽ rời thành vài ngày. Trông mặt hắn đỏ bừng dù không mặc áo khoác lông. Tay phải của hắn xách theo một tay nải bằng da, bên trong phình lên như chứa một vật tròn.” Địch Thứ sử suy nghĩ một hồi rồi lại tiếp tục hỏi Diệp Bân: “Muội muội ngươi đã từng kể cho ngươi rằng họ Phan ngược đãi nàng chưa?” “Việc này,” Diệp Bân trả lời sau một chút do dự, “tiểu nhân nói thật, tiểu nhân thấy phu thê bọn họ chung sống với nhau khá hòa thuận. Họ Phan vốn góa vợ, hắn lớn tuổi hơn muội muội rất nhiều. Hắn có một nhi tử đã trưởng thành đang sống trên kinh sư. Hắn mới cưới muội muội hai năm trước. Tiểu nhân vẫn luôn nghĩ hắn là một muội phu tốt, dù đã đến tuổi xế chiều và luôn tỏ vẻ già yếu lọm khọm. Ai ngờ hắn lại là tên sát nhân ác ôn, lừa dối tiểu nhân suốt thời gian qua!”
“Đệ sớm đã nhìn ra hắn là kẻ lòng muông dạ thú rồi! Muội muội thường nói với đệ, Phan Phong luôn chửi mắng, đánh đập muội ấy!” Diệp Thái chợt nói xen vào. “Sao đệ chưa bao giờ kể cho ta điều này? Ta còn tưởng phu thê bọn họ hòa thuận lắm.” Diệp Bân ngạc nhiên hỏi. “Đệ không muốn khiến huynh lo lắng.” Diệp Thái buồn rầu nói. “Lần này mà bắt được hắn, chúng ta nhất định sẽ không tha cho hắn!” “Vì sao sáng sớm hôm nay ngươi lại đi tìm muội muội ngươi?” Địch Thứ sử ngắt lời. Diệp Thái do dự một hồi rồi mới đáp: “Bẩm lão gia, tiểu nhân rảnh rỗi nên muốn đến thăm muội muội, cũng không có việc gì quan trọng.” Địch Thứ sử nâng giọng: “Được rồi! Giờ các ngươi theo ta về nha môn. Sau khi nghe kết quả nghiệm thi, ta sẽ trở lại công đường tiếp tục thẩm án.” Cao lý chính và huynh đệ họ Diệp theo tiễn Địch Thứ sử ra kiệu. Khi kiệu lại đi ngang qua con phố chính, một Bộ khoái vén rèm kiệu, dùng cây roi của mình để chỉ và nói: “Thưa đại nhân, kia là y quán của Quách Ngỗ tác. Thuộc hạ có cần vào mời ngài ấy đến công đường hay không ạ?” Địch Thứ sử nhìn nhanh về phía cửa y quán. Biển hiệu của y quán được viết đẹp, rất dễ nhìn với hàng chữ ‘Tế Sinh Đường’. Họ Quách nổi danh là đại phu đệ nhất Bắc Châu, y thuật cao minh, tự mình mở ra y quán này, đồng thời kiêm cả việc làm Ngỗ tác chuyên nghiệm thương và nghiệm thi cho nha phủ. “Ta sẽ tự đi mời.” Địch Thứ sử nói. Khi bước xuống kiệu, ông nói với hai trợ thủ của mình, “Ta vẫn luôn muốn đến thăm y quán này. Các ngươi hãy đợi bên ngoài. Ta nghĩ bên trong không đủ chỗ đâu.”
Địch Thứ sử đẩy cửa tiến vào, liền ngửi thấy ngay hương dược liệu khô dễ chịu. Có một nam nhân đang đứng sau quầy, xắn cao tay áo chăm chú dùng dao cầu thái nhân sâm. Lão ước chừng trên dưới bốn mươi tuổi, nhưng lưng đã gù, tóc đã hoa râm, chiều cao không quá bốn thước, nhưng vai rộng, cổ to, đôi mắt lấp lánh có thần. Lão nhanh chóng bỏ dao xuống, phủi vụn thuốc trên áo, xoa tay, cúi mình hành lễ với Địch Thứ sử. “Địch lão gia ghé thăm hàn xá, thảo dân thất lễ, nghênh đón sơ suất, xin ngài lượng thứ.” “Bản quan vẫn chưa có dịp tới thăm Ngỗ tác của phủ.” Địch Thứ sử nói. “Hôm nay lại đến phiền đại phu hạ mình tới nha môn giúp nghiệm thi. Ngài đã nghe nói phía Nam thành có một nữ nhân bị sát hại chưa? Ta muốn ngài đến công đường để nghiệm thi.” “Thảo dân sẽ tới ngay.” Lão Quách đáp, rồi cẩn thận thu gom nhân sâm cất vào tủ thuốc, khóa lại. Lão quay sang nói với Địch Thứ sử bằng giọng hối lỗi, “Xin lão gia lượng thứ, hàn xá bừa bộn quá!” “Không đâu,” Địch Thứ sử tin tưởng nói. “Ta thấy căn tiệm này mọi thứ được sắp xếp rất khéo.” Ông thấy trên tủ thuốc lớn được sơn đen có những con chữ màu trắng được chạm khắc rõ ràng trên vô số những ngăn kéo nhỏ. “Ta thấy ngài có đủ các loại ma phí tán*. Ngài còn có cả nguyệt thảo nữa. Thật hiếm có.” Thuốc giảm đau. Lão Quách háo hức kéo ngăn kéo và lấy ra một nhúm những chiếc rễ cây nhỏ và khô. Khi lão cẩn thận tỉ mỉ gỡ những rễ cây đó, Địch Thứ sử thấy lão có những ngón tay dài và linh hoạt. Lão Quách nói:
“Lão gia thật tinh tường. Nguyệt thảo này chỉ mọc duy nhất trên vách núi Dược Sư cheo leo ở ngoại thành phía Bắc, được hấp thụ tinh hoa nhật nguyệt, linh khí thiên địa mà trưởng thành, có thể chữa trị bách bệnh, kéo dài tuổi thọ, vô cùng đắt giá. Nhánh này là thê tử tiểu nhân hôm qua tự mình lên núi đào trong tuyết, nặng tới hai lạng, quả thực quý báu. Bởi vậy tiểu nhân không đành lòng bán đi, chỉ muốn giữ lại dùng. Mùa đông này dùng bồi bổ rất thích hợp, nên tiểu nhân sẽ thái nhỏ đun canh cho thê tử uống.” Địch Thứ sử gật đầu. “Vào mùa đông, dược lực của nguyệt thảo là cao nhất, tất cả nhựa sẽ tích tụ trong rễ cây.” “Địch lão gia quả có kiến thức sâu rộng!” Lão Quách ngạc nhiên thốt lên. Địch Thứ sử khẽ nhún vai. “Ta vốn cũng khá ưa thích đọc sách y dược.” Ông trả lời. Lúc này, ông chợt cảm thấy có gì đó đang di chuyển dưới chân. Nhìn xuống thì là một con mèo nhỏ màu trắng đang tập tễnh bò đến dụi lưng vào chân lão Quách đầy trìu mến. “Lão cẩn thận bế nó lên và nói: “Con mèo què này là do thảo dân nhặt được trên đường. Hôm nào rảnh rỗi, thảo dân sẽ thỉnh Lam Đại Khôi sư phụ hỗ trợ nắn xương đùi cho nó.” “Ta cũng thường nghe người trong nha phủ nói về ông ấy.” Địch Thứ sử đáp. “Rằng Lam Đại Khôi là võ sư đệ nhất Bắc Châu, mấy lần thượng đài tỉ võ đều đoạt chức vô địch, quả là anh hùng một phương.” “Lam Đại Khôi sư phụ không chỉ có thể phách hùng vĩ, tướng mạo hiên ngang, nhân phẩm cũng cực kỳ chính trực, ngay thẳng. Lam sư phụ không gần nữ sắc, thủ thân như ngọc, bốn phương đều ngưỡng mộ, ai nấy đều kính yêu,” Lão Quách nói.
Lão lại thả con mèo xuống đất. Chợt bức màn màu xanh ở phía sau cửa tiệm được vén lên, một nữ nhân vóc người cao lớn, nhan sắc diễm lệ, phong thái ung dung bước vào, tay bưng một khay trà, có bốn con mèo trắng lớn theo sau gót. Nàng hành lễ với Địch Thứ sử, rồi dâng lên một chén trà thơm. Địch Nhân Kiệt nhận ra nàng là Quách phu nhân, quản giáo khu nữ lao, thường vẫn vô cùng lễ phép với mình. Địch Thứ sử trước kia ít để ý tới nàng, hôm nay nhìn kỹ mới thấy nàng có đôi mắt như làn thu thủy, lông mày tựa nét xuân sơn, da tuyết tóc mây, dáng vẻ yêu kiều tha thướt. Địch Thứ sử thi lễ, nói rằng: “Bản quan nghe nói rằng Quách phu nhân đã quản giáo nữ lao rất nghiêm cẩn, không ngờ trong nhà cũng là một bậc hiền thê.” Quách phu nhân cúi đầu đáp:“Địch lão gia quá khen rồi. Thực ra thì trong nữ lao cũng có rất ít phạm nhân, nếu có thì cũng phân phát cho Bắc Trấn quân sung vào doanh kỹ, nên nữ lao thường luôn trống vắng. Cũng là do Địch lão gia cai trị anh minh, Bắc Châu yên tĩnh, kẻ gian không dám hoành hành, bách tính an cư lạc nghiệp. Tuy chỉ là đất hoang nơi biên giới, cũng chẳng thua Trung Nguyên lễ nhạc phong phú, phồn vinh giàu mạnh.” Địch Thứ sử nghe nàng nói, trong lòng nảy sinh ý kính trọng. Quách phu nhân không chỉ đoan trang nhu mì mà nói năng cũng không tầm thường. Nàng vào trong phòng lấy ra một cái áo khoác da chồn cho Quách đại phu, lại cẩn thận dặn dò vài câu. Địch Thứ sử thưởng thức chén trà nhài thanh nhã, trong lòng không khỏi nghĩ đến mấy vị thê thiếp của mình, trên mặt lộ ra ý cười ngọt ngào.
Địch Thứ sử thấy không đành lòng rời khỏi đây. Không khí bình yên trong y quán nhỏ, quyện với mùi hương dễ chịu thơm mát của thảo dược thật khiến ông ấm lòng sau khi nhìn thấy cảnh tượng ghê sợ trong căn phòng có vụ án mạng rùng rợn kia. Thở dài đầy hối tiếc, ông đặt chén trà xuống và nói: “Được rồi, ta phải đi thôi!” Quách đại phu đội một chiếc mũ da lên đầu, rồi theo Địch Thứ sử ra khỏi Tế Sinh Đường, lên kiệu trở về nha phủ. HỒI 3 Ngỗ tác nghiệm thi không đầu Thứ sử họp bàn trợ thủ Địch Thứ sử gặp Lục sự đang đợi ông trong thư phòng. Trong khi Hồng sư gia và Đào Cam đang bận bịu pha trà trong góc, Địch Thứ sử ngồi sau bàn, Lục sự kính cẩn đứng bên cạnh ông, tay đặt một xấp thư bạ lên bàn. “Truyền Chánh Lục sự vào đây!” Ông ra lệnh, mắt liếc nhìn sang chồng thư bạ. Khi Chánh Lục sự bước vào, Địch Thứ sử ngẩng lên và nói, “Chốc nữa Bộ đầu sẽ đưa thi thể Phan nương lên công đường. Không thể để thi thể bị những người không phận sự và những kẻ vô công rồi nghề soi xét. Vì thế không được nghiệm thi trước mặt bách tính. Ngươi hãy gọi người đến giúp Quách Ngỗ tác chuẩn bị ở gian phòng bên cạnh. Ngoài ra, hãy truyền lệnh cho sai nha rằng, ngoại trừ người của công đường, hai huynh trưởng của nạn nhân và Cao lý chính khu phía Đông Nam không ai được phép ra vào nửa bước.” Hồng Sư gia mang lên một chén trà bốc khói nghi ngút cho Địch Thứ sử. Sau khi nhấm nháp vài ngụm, ông cười nhạt rồi nói:
“Trà ở đây quả không thể bì được với trà nhài ta từng thưởng ở y quán của Quách đại phu. Dù cho lão Quách và phu nhân không xứng đôi nhưng trông họ có vẻ rất hòa thuận.” “Quách phu nhân, tên là Chí Anh, vốn là một quả phụ,” Đào Cam nói. “Tiên phu của Chí Anh vốn là một tên đồ tể phóng đãng bất kham, hình như họ Vương, năm năm trước đã qua đời sau một đêm say khướt.” “Đúng là như vậy,” Lục sự tiếp lời, “Vương đồ tể chết đi để lại rất nhiều khoản nợ, kể cả kỹ viện sau chợ. Tú bà ép buộc Chí Anh bán thân trả nợ, may thay lão Quách kịp thời can thiệp, khẳng khái giúp đỡ, trả hết nợ nần rồi hỏi cưới nàng. Chí Anh liền trở thành Quách phu nhân, phu thê họ Quách vô cùng yêu mến kính trọng nhau. Đến khi làm quản giáo nữ lao, nàng càng thể hiện tầm hiểu biết không tầm thường, trên dưới nha phủ đều kính trọng nàng.” Địch Thứ sử đóng con dấu đỏ lớn của công đường lên thư bạ đặt trước mặt ông. Khi ngước lên, ông nói: “Quách phu nhân xem ra là một người có học hành, cũng biết lễ nghĩa.” “Bẩm đại nhân, sau khi gả cho lão Quách nàng mới được đọc sách, nhưng bản tính thông minh nên đã học một lần là không quên,” Lục sự nói. “Nàng cũng học hỏi từ lão Quách về y đạo, lại có năng lực phân biệt các loại dược thảo. Nàng thường một mình lên núi Dược Sư hái thuốc. Lúc đầu nhiều người bàn tán vì nữ nhân đã có chồng mà lại tự do ra ngoài, nhưng bây giờ không ít gia đình giàu có tìm nàng xem bệnh, đặc biệt là khi nữ nhân trong nhà gặp tai nạn, ốm đau, đều tìm đến nàng, bởi nam đại phu chỉ được phép bắt mạch của nữ nhân mà thôi.”
“Có nữ nhân tài năng xuất chúng như vậy tới quản giáo nữ lao, ta đương nhiên vô cùng yên tâm,” Địch Thứ sử vừa nói vừa đưa thư bạ cho Lục sự. “Thông thường những nữ quản giáo đều hung dữ nên ta luôn phải canh chừng để đề phòng các mụ ngược đãi hoặc hành hạ nữ phạm nhân.” Lục sự mở cửa và đứng sang bên để nhường đường cho hai nam nhân cường tráng, vai rộng, thân mang áo khoác dài, đầu đội nón lông phủ tai. Họ là hai trợ thủ tin cẩn của Địch Thứ sử, Mã Vinh và Kiều Thái. Khi hai người bước vào, Địch Thứ sử nhìn họ bằng ánh mắt đầy từ ái. Xưa kia cả hai từng làm đạo tặc, xưng là lục lâm huynh đệ. Mười hai năm trước, khi Địch Thứ sử đang trên đường đi nhậm chức Huyện lệnh lần đầu tiên, họ đã chặn đường ông khi ông đang đi một mình. Sau đó, vì quá cảm phục thái độ can trường và lối nói chuyện đầy thuyết phục của ông mà họ bỏ nghề đạo tặc và trở thành thuộc hạ dưới trướng. Những năm về sau, cặp huynh đệ đáng gờm này đã chứng minh tài năng và sự hữu dụng trong công cuộc truy bắt những kẻ thủ ác nguy hiểm cũng như trong các phi vụ khó khăn, đầy rủi ro. “Có chuyện gì?” Địch Thứ sử hỏi Mã Vinh. Sau khi cởi khăn quàng cổ, Mã Vinh cười đáp: “Bẩm đại nhân, không có gì đặc biệt cả. Hai nhóm kiệu phu có chút xung đột trong tửu quán, khi thuộc hạ và Kiều huynh bước vào thì bọn chúng đang chuẩn bị ẩu đả. Bọn thuộc hạ chỉ cần ra oai phủ đầu chúng một chút thì chúng đã kéo về nhà ngay rồi. Bọn thuộc hạ đã giải bốn tên cầm đầu về nha môn, chỉ cần đại nhân cho phép thì sẽ cho chúng qua đêm trong đại lao.”
“Được,” Địch Thứ sử gật đầu tán thành. “Tiện thể, các ngươi đã bắt được con sói kia chưa? Nó cắn chết rất nhiều súc vật, cũng là một mối hại ở địa phương.” “Bẩm đại nhân, bọn thuộc hạ đã bắt được rồi,” Mã Vinh đáp. “Một chuyến đi săn thành công! Chu viên ngoại cũng trợ giúp bọn thuộc hạ đi vây bắt sói. Đại nhân biết Chu viên ngoại là xạ thủ xuất sắc nhất Bắc Châu, bách phát bách trúng, xưa nay không chệch mũi nào. Ngày hôm nay lão Chu đã phát hiện con sói trước, nhưng ba mũi tên hắn bắn đều rơi vào khoảng không, thật là khó hiểu. Cuối cùng, Kiều Thái huynh đã bắn tên xuyên thẳng vào cổ họng nó! Bẩm đại nhân, đó là một phát tên tuyệt đẹp!” “Chu viên ngoại tất là cố ý khiêm nhường cho thuộc hạ lập công thôi,” Kiều Thái mỉm cười nói. “Trước nay Chu viên ngoại bắn tên chưa từng có sơ suất, thuộc hạ và Mã Vinh đều tự thẹn không bằng.” “Chu viên ngoại mỗi ngày đều ở hậu viện tập bắn, đắp người tuyết lớn như người thật làm bia,” Mã Vinh tiếp lời. “Hắn vừa phi ngựa quanh sân vừa bắn liền một phát ba mũi tên, mỗi tên đều trúng đầu người tuyết. Cưỡi ngựa bắn tên thì Chu viên ngoại là đệ nhất!” Mã Vinh thở dài tán thưởng. Sau đó y chuyển đề tài, “Đại nhân, nghe nói phía Nam thành đã xảy ra vụ án mạng, mọi người đều bàn tán xôn xao.” Địch Thứ sử sa sầm. “Vụ án này rất ghê rợn,” ông nói. “Hai ngươi hãy sang gian phòng bên cạnh xem có thể bắt đầu nghiệm thi chưa.” Sau khi Mã Vinh và Kiều Thái quay lại và báo rằng mọi thứ đều đã sẵn sàng, Địch Thứ sử bước sang gian phòng bên, theo sau ông là Hồng Sư gia và Đào Cam.
Bộ đầu và hai lục sự đứng chờ ở cạnh bàn. Sau khi Địch Thứ sử ngồi xuống, bốn trợ thủ của ông đứng đối diện nhau ở hai bên. Địch Thứ sử nhìn thấy Diệp Bân và Diệp Thái đang đứng ở góc phòng cùng với viên lý chính họ Cao. Họ cúi người thi lễ, Địch Thứ sử gật đầu đáp lại rồi ra hiệu cho lão Quách. Nam nhân lưng gù kéo tấm chăn đắp trên chiếc chiếu sậy đặt trên bàn. Trước bàn đã chuẩn bị sẵn chậu đồng, nước nóng, vải sạch cùng đủ loại dụng cụ. Đây là lần thứ hai trong ngày Địch Thứ sử nhìn vào thi thể không đầu đó. Sau một lượt thở dài, ông cầm bút lông điền vào một mẫu văn thư, vừa viết vừa đọc thành tiếng, “Thi thể của Phan nương Diệp thị. Tuổi?” “Ba mươi hai tuổi,” Diệp Bân nghèn nghẹn trả lời. Mặt y xám xanh lại do sợ hãi. “Có thể bắt đầu nghiệm thi rồi.” Địch Thứ sử nói. Lão Quách nhúng vải sạch vào nước nóng trong chậu đồng rồi vắt khô, lão bắt đầu chà xát thi thể cứng ngắc. Lau sạch máu đen, da thịt cũng mềm ra, tay chân có thể cử động được. Lão cẩn trọng cởi bỏ dây thừng trói nạn nhân, tháo chiếc nhẫn bạc khỏi bàn tay phải rồi đặt nó lên một mảnh giấy. Sau khi lau chùi thi thể kỹ lưỡng, lão khám nghiệm từng chút một. Sau một lúc, lão lật thi thể lại và lau vết máu trên lưng. Trong lúc đó, Hồng Sư gia hạ thấp giọng kể những điều lão biết về vụ án cho Mã Vinh và Kiều Thái nghe. Hai người nghe xong không khỏi nhìn nhau, lông mày nhíu chặt.
“Huynh có thấy những lằn roi trên lưng nàng không?” Y giận dữ thì thầm với Kiều Thái. “Đệ nhất định sẽ bắt được hung thủ!” Lão Quách nhìn kỹ phần cổ của thi thể. Cuối cùng lão ngẩng lên và nói: “Thi thể là một nữ nhân đã thành hôn, chưa sinh nở. Da nhẵn nhụi, không có vết bớt hay sẹo cũ. Trên thi thể không có vết thương, cổ tay bị dây thừng cứa rách, trên ngực và cẳng tay trên có vết bầm. Trên lưng và hông có vết lằn, nhiều khả năng từng bị hành hung bằng roi da.” Lão Quách đợi lục sự ghi nhận xong những chi tiết này. Sau đó lão nói tiếp: “Phần cổ còn có vết chém lớn, hung khí có thể là dao phay dùng trong nhà bếp hoặc lưỡi rìu sắc.” Địch Thứ sử phẫn nộ vuốt râu. Ông ra lệnh cho lục sự đọc to lời lão Quách rồi cho ngỗ tác điểm chỉ vào đó. Ông ra lệnh đưa lại nhẫn cho Diệp Bân. Diệp Bân tò mò ngắm nhìn rồi nói: “Đại nhân, lạ quá! Trên nhẫn sao không thấy viên hồng ngọc? Hôm trước tiểu nhân có gặp muội muội, thấy trên nhẫn rõ ràng có một viên hồng ngọc.” “Muội muội của ngươi còn đeo chiếc nhẫn nào khác không?” Địch Thứ sử hỏi. Diệp Bân lắc đầu, Địch Thứ sử lại tiếp tục nói, “Diệp Bân, ngươi có thể đem quan tài đến mang thi thể lệnh muội về được rồi. Chờ tới khi phá được án, tìm được đầu của lệnh muội, thì sẽ chọn ngày lành tháng tốt an táng nàng. Nha phủ sẽ tận lực tìm kiếm, cũng sẽ bắt giữ hung thủ để rửa oan báo thù cho lệnh muội.”
Huynh đệ họ Diệp lặng lẽ cúi người, Địch Thứ sử đứng lên và trở về thư phòng, theo sau ông là bốn trợ thủ. Khi ông bước vào căn phòng rộng, ông thoáng rùng mình dù trên người đã khoác một lớp áo lông rất dày. Ông bảo với Mã Vinh: “Thêm than vào lò đi!” Khi Mã Vinh đang bận rộn thì những người còn lại ngồi xuống. Địch Thứ sử ngồi lặng thinh vuốt râu. Sau khi Mã Vinh cũng ngồi xuống, Đào Cam lên tiếng: “Vụ án này quả thật rất kỳ quái! Hung thủ còn cố ý mang đầu người đi, là như thế nào đây? Chẳng lẽ là sợ có người nhận ra khuôn mặt thật của nạn nhân?” “Ác ma Phan Phong này rốt cuộc muốn đem theo cái tay nải bằng da đến nơi nào?” Mã Vinh gầm gừ, “Đầu người không ở trong nhà, không ở trong giếng, lẽ nào chắp cánh bay hay sao? Đại nhân, dù thế nào cũng phải bắt giữ được Phan Phong mới được.” Địch Thứ sử đang trầm tư suy nghĩ nên không nghe thấy lời của y. Đột nhiên, ông phẫn nộ thét to: “Thật vô lý!” Ông đột ngột đứng dậy. Sau khi đi đi lại lại trong phòng, ông nói tiếp: “Nạn nhân bị lấy hết y phục, đến hài cũng không thấy. Thử nghĩ nếu Phan Phong giết vợ, lại cẩn trọng gói ghém y phục và thủ cấp vào tay nải da, dọn dẹp phòng và bỏ trốn, nhưng lại không mang theo trang sức quý giá và bạc vụn trong ngăn kéo quầy hàng! Chẳng phải là kỳ quái sao?” Hồng Sư gia nhận định: “Bẩm đại nhân, ý của ngài là vụ án còn có người thứ ba tham gia, còn Phan Phong vô tội. Nhưng vì sao hắn phải lẩn trốn?”
Địch Thứ sử do dự. Ông quay về ngồi sau bàn và nhìn những phụ tá của mình. Kiều Thái nói: “Vì sao Phan Phong bỏ trốn, hiện nay còn chưa rõ, nhưng nếu muốn dùng dao phay hoặc rìu sắc chặt đầu người thì không phải chuyện dễ dàng. Người cường tráng như đao phủ còn phải vận sức lực, mà Phan Phong đã có tuổi, yếu ớt suy nhược, có thể làm được sao? Huống hồ nạn nhân còn trẻ tuổi, sao lại không phản kháng?” “Có khả năng,” Đào Cam lên tiếng, “lão Phan phát hiện hung thủ trong nhà, vì quá hoảng sợ nên đã bỏ chạy và để lại những vật giá trị.” “Nhiều khả năng là như vậy,” Địch Thứ sử nói. “Mã Vinh nói đúng, nhất định phải bắt tên họ Phan này về càng sớm càng tốt!” “Phải bắt sống hắn!” Đào Cam thêm vào. “Nếu giả thuyết của thuộc hạ là đúng thì có lẽ hung thủ cũng đang truy đuổi lão ta!” Cánh cửa đột ngột mở ra, một nam nhân cao tuổi gầy gò bước vào. Địch Thứ sử kinh ngạc nhìn lão. “Quản gia đến đây làm gì vậy?” Ông hỏi. “Bẩm đại nhân,” lão quản gia nói, “tín sứ vừa cưỡi ngựa từ Thái Nguyên đến đây. Đại phu nhân xin được tiếp kiến đại nhân một lát.” Địch Thứ sử đứng dậy. Ông nói với các trợ thủ: “Tối nay ta đã nhận lời đến làm khách tại phủ của Chu Đạt Nguyên. Các ngươi đến nha môn chờ ta trước khi trời tối, chúng ta cùng nhau đi bái phỏng Chu viên ngoại.” Rồi ông đi ra, theo sau là lão quản gia. HỒI 4 Thứ sử tham dự dạ tiệc Tuần đinh bắt kẻ tình nghi
Trời chiều ngả bóng chưa lâu thì sáu bộ khoái đã đứng chờ trước sân. Trên tay họ cầm những chiếc đèn làm bằng giấy dầu dày dặn đã được thắp sáng. Nhìn thấy họ đứng giậm chân liên tục để giữ ấm, bộ đầu nhe răng cười và bảo: “Các ngươi không cần sợ lạnh đâu! Ai cũng biết Chu viên ngoại là người phóng khoáng thế nào. Ngài ấy nhất định sẽ cho chúng ta một bữa no nê!” “Chắc sẽ không thiếu rượu đâu nhỉ!” Một Bộ khoái trẻ tuổi mãn nguyện lên tiếng. Ngay sau đó, tất cả đứng thẳng người. Địch Thứ sử đã xuất hiện ở trước cửa, theo sau là bốn trợ thủ. Ông lên kiệu cùng Hồng sư gia và Đào Cam. Khi mã phu dắt ngựa đến cho Mã Vinh và Kiều Thái, Kiều Thái thưa: “Bọn thuộc hạ sẽ đi đón Lam đại ca, thưa đại nhân!” Địch Thứ sử gật đầu, các kiệu phu nhanh chóng xuất phát. Ông dựa lưng vào đệm và nói: “Tín sứ từ Thái Nguyên đã mang đến một tin buồn. Thân mẫu của Đại phu nhân nhà ta đang lâm bệnh nặng. Nhạc mẫu của ta nay đã hơn bảy mươi tuổi rồi, nên Đại phu nhân không yên lòng. Nàng sẽ xuất phủ vào sáng ngày mai. Nhị phu nhân và tam phu nhân cùng với các nhi tử cũng sẽ đi cùng. Còn ta, vụ án không đầu còn chưa phá được, ta không có cách nào rời khỏi Bắc Châu.” Hồng Sư gia và Đào Cam bày tỏ sự đồng cảm với tình cảnh ấy. Địch Thứ sử cảm tạ họ rồi nói tiếp: “Thật bất tiện, tối nay ta phải đi dự yến ở phủ của Chu Đạt Nguyên. Hắn đã có thịnh tình mời, ta đã đồng ý từ lâu, làm sao có thể vì việc riêng trong nhà mà không giữ lời để thiên hạ chê cười.”
Lão sư gia gật đầu. “Lão phu thấy Mã Vinh và Kiều Thái qua lại với họ Chu rất thân mật, lúc rảnh rỗi thường cùng nhau lên núi săn thú, hoặc đến Chu phủ uống rượu. Chu Đạt Nguyên là người hào sảng khẳng khái, không câu nệ tiểu tiết, vô cùng hợp ý với hai huynh đệ Mã, Kiều.” “Không hiểu sao hắn lúc nào cũng vui vẻ được như thế,” Đào Cam nhận xét, “trong khi phải lo giữ gìn hòa khí giữa tám vị thê thiếp trong nhà!” “Nào,” Địch Thứ sử trách móc, “các ngươi đều biết hắn chưa có nhi tử mà. Chắc hẳn hắn rất lo lắng khi chưa có con trai để nối dõi tông đường.” “Chu Đạt Nguyên thực sự rất giàu có,” Hồng Sư gia trầm ngâm, “nhưng có những thứ mà đến người giàu như hắn cũng không mua được.” Sau một hồi, lão lại nói thêm, “Các phu nhân và nhi tử của đại nhân sắp xa nhà một thời gian, e là trong mấy ngày tới đại nhân sẽ rất cô quạnh.” “Ta vẫn còn một vụ án mạng đang chờ giải quyết,” Địch Thứ sử đáp, “dù sao thì cũng không có thời gian cho gia đình. Trong lúc họ vắng mặt, ta sẽ ăn ngủ trong thư phòng. Lão đừng quên báo với lục sự đó, sư gia!” Địch Thứ sử nhìn ra bên ngoài cửa sổ và thấy bóng đen của Tháp Trống ẩn hiện giữa nền trời đầy sao của mùa đông. “Sắp đến nơi rồi!” Ông nói. Kiệu phu dừng lại trước cổng lớn. Đó là một cánh cổng sơn son, dưới treo bốn ngọn đại hồng đăng lung linh tỏa sáng. Nha dịch xốc màn lên, Địch Thứ sử bước xuống kiệu. Đào Cam cưỡi ngựa theo sau cũng vừa tới. Một nam nhân cao lớn, lưng hùm vai gấu, mình khoác áo choàng lông sói, đầu đội mũ lông chồn tía bước đến nghênh đón Địch Thứ sử.
Chu Đạt Nguyên cúi mình hành lễ, Địch Thứ sử cũng vái dài đáp lại. Chu Đạt Nguyên cầm đèn tự mình dẫn đường. Bằng hữu của họ Chu là Liêu phường chủ cùng quản sự Chu phủ là Vũ Khang cũng bước tới hành lễ với quan án. Địch Thứ sử nghe nói Vũ Khang chính là vị hôn phu của Liêu Liên Phương. Có lẽ trong yến tiệc tối nay, hai người sẽ nhân cơ hội để thúc giục nha phủ mau chóng tìm người, nghĩ đến đây trong lòng Địch Thứ sử không khỏi có chút mất hứng. Địch Thứ sử còn kinh ngạc hơn nữa khi Chu Đạt Nguyên thay vì đưa bọn họ đến đại sảnh thì lại dẫn bọn họ tới một mái đình lộ thiên ở phía Nam. Bốn phía đình đã dựng bình phong chắn gió, lại thắp lên vô số ngọn đuốc. Trong đình kê bốn chiếc bàn lớn, xếp thành một hình vuông, ở giữa là một chậu than khổng lồ đang cháy hừng hực. Trên chậu than là một vỉ sắt, đang nướng lợn rừng, thỏ, hoẵng cùng dê, mỡ chảy xuống chậu than thành tiếng xèo xèo. Ba nô bộc đứng xung quanh đang cầm que sắt nhọn xiên thịt. Bốn bàn đã có rất nhiều khách ngồi xuống, nhưng vẫn chưa động bát đũa. Địch Thứ sử vừa bước vào đình, quan khách trên bàn đã cuống quýt đứng dậy, dồn dập thi lễ. Thức ăn nóng hổi bắt đầu được đưa từ phòng trong bếp hậu viện lên bàn tiệc. Chu Đạt Nguyên mỉm cười nói: “Địch lão gia cười chê rồi. Lúc đầu tiểu nhân đã có ý định thiết đãi lão gia trong đại sảnh đường. Nhưng tiểu nhân nghĩ mình chỉ là một nông phu thô bỉ, không biết khoản đãi lão gia những món cao lương mỹ vị gì! Tiểu nhân trộm nghĩ, chắc lão gia sẽ thích một bữa tiệc săn ở ngoài trời hơn ngồi trong sảnh. Chỉ có chút thịt nướng và rượu quê, mời lão gia và chư vị cùng thưởng thức!”
Địch Thứ sử lịch sự đáp lời nhưng thực tâm, ông thầm nghĩ rằng ý tưởng này chẳng hay ho gì. Gió đã lắng xuống nhưng trời vẫn lạnh buốt. Địch Thứ sử rùng mình, cổ họng khô khốc. Ông nghĩ buổi sáng khi đến nhà họ Phan, ắt hẳn mình đã bị nhiễm phong hàn, và ông muốn dùng bữa tối thoải mái trong đại sảnh ấm cúng hơn. Chu Đạt Nguyên mời Địch Thứ sử ngồi ghế chủ tọa, giữa mình và lão Liêu. Những người khác cũng lần lượt ngồi xuống, hàn huyên, rót rượu. Hồng Sư gia và Đào Cam ngồi ở bên phải, cùng với quản sự Chu gia là Vũ Khang, đối diện với hai nam nhân lớn tuổi mà họ Chu giới thiệu là người của phường hội thương nhân bán giấy và bán rượu. Mã Vinh và Kiều Thái ngồi ở bàn đối diện với Địch Thứ sử cùng với Lam Đại Khôi. Địch Thứ sử lần đầu gặp Lam Đại Khôi, trong lòng không khỏi âm thầm khen ngợi nhãn lực của Mã Vinh và Kiều Thái. Lam Đại Khôi thân hình vạm vỡ, dung mạo hào sảng, quả nhiên phong thái phi phàm. Cái đầu trọc lốc không một sợi tóc, cẳng tay cẳng chân cuồn cuộn cơ bắp, mày rậm mắt to, trông tựa như một vị chiến thần. Nghe Mã Vinh và Kiều Thái nói hắn không thành thân, cũng không gần nữ sắc, sinh hoạt vô cùng khắc khổ, toàn tâm toàn ý nghiên cứu võ thuật. Hắn giáo dục đồ đệ rất nghiêm, chỉ dạy tự vệ và rèn luyện thân thể, không dạy kẻ gian làm điều ác, càng không cho phép cậy mạnh bắt nạt yếu. Địch Thứ sử hài lòng mỉm cười, ông vô cùng vui mừng vì Mã Vinh và Kiều Thái trong thời gian ngắn như vậy đã tìm được những bằng hữu tốt như Chu Đạt Nguyên và Lam Đại Khôi.
Chu Đạt Nguyên kính Địch Thứ sử một chén rượu. Ông uống một ngụm rượu, cay đến chảy nước mắt, nhưng vẫn phải cố nén, tươi cười đáp lễ lại một chén. Chu Đạt Nguyên ngửa cổ uống một hơi cạn sạch, mặt không biến sắc. Sau đó, họ Chu hỏi dò về vụ án mạng phía Nam thành. Địch Thứ sử vừa thưởng thức món thịt nướng vừa kể ngắn gọn cho hắn nghe. Nhưng thịt khiến cho dạ dày ông sôi sục. Ông cố gắp rau ăn nhưng vì đeo găng nên việc dùng đũa có chút khó khăn. Ông vội vàng tháo găng ra, nhưng các ngón tay của ông liền đông cứng lại và khiến việc ăn uống còn trở nên khó khăn hơn. Chu Đạt Nguyên giọng khàn khàn nói nhỏ, “Vụ án mạng đó khiến bằng hữu của tiểu nhân là Liêu tiên sinh hết sức bất an, lo sợ rằng ái nữ của mình có thể đã cùng chung số phận. Mong lão gia mau mau nghĩ cách tìm Liêu tiểu thư!” Địch Thứ sử đã đoán trước sẽ phải nghe những lời này, cũng sớm chuẩn bị câu trả lời, liền nói vài câu với lão Liêu về những nỗ lực truy tìm tung tích ái nữ của lão, nhưng lão lại nhân cơ hội đó để huyên thuyên một tràng dài về những đức hạnh tuyệt vời của nhi nữ. Địch Thứ sử thấy rất cảm thông với lão, nhưng ông đã nghe câu chuyện ấy nhiều lần trên công đường, và ông hiện đang đau đầu. Mặt ông tái nhợt, còn lưng và chân lạnh buốt như băng. Ông băn khoăn không biết liệu thê tử của mình sẽ phải trải qua một hành trình khó chịu đến nhường nào trong thời tiết này.
Họ Chu một lần nữa nghiêng đầu về phía Địch Thứ sử rồi nói: “Tiểu nhân hy vọng rằng lão gia sẽ sớm tìm thấy cô nương đó, dù còn sống hay đã chết! Không chỉ vì Liêu tiên sinh, mà còn vì Vũ Khang, quản sự của Chu gia. Liêu tiểu thư là hôn thê của y, hiện nay nàng đột nhiên mất tích, khiến tiểu tử này cả ngày như người mất hồn. Trong nhà tiểu nhân có nhiều sự vụ cần giải quyết, mà gần đây y không giúp được gì nhiều cả!” Vừa thì thầm, Chu Đạt Nguyên vừa khiến không khí xung quanh Địch Thứ sử ngập mùi rượu và mùi tỏi. Lại thêm khí trời lạnh giá, trên bàn tiệc thì lửa nóng hừng hực, tiếng cười nói ầm ĩ, Địch Thứ sử cảm thấy bụng sôi lên một trận buồn nôn. Sợ lão Liêu cùng Vũ Khang tiếp tục nói dông dài, ông bèn đứng dậy và xin phép rời bàn ăn một lúc. Chu Đạt Nguyên ra hiệu cho một nô bộc mang đèn lồng dẫn Địch Thứ sử đi qua các hành lang quanh co như mê cung dẫn đến một tiểu viện với một dãy nhà xí ở phía sau. Địch Thứ sử nhanh chóng đi vào một trong phòng đó. Khi ông bước ra, một nô bộc khác đang đợi sẵn với một chậu nước nóng bằng đồng. Địch Thứ sử lau mặt và cổ bằng khăn ấm và cảm thấy dễ chịu hơn. Ông bảo nô bộc không cần phải đợi mình rồi bắt đầu chậm rãi đi dạo quanh khoảnh sân tràn ngập ánh trăng cho thoáng khí. Không gian ở đó rất yên tĩnh. Địch Thứ sử nghĩ rằng mình chắc đang ở phía hậu viện của Chu phủ rộng lớn này.
Sau một hồi, ông quyết định trở lại bữa tiệc. Nhưng bên trong ngôi nhà với hành lang dài tối đen này, ông nhanh chóng nhận ra mình đã bị lạc. Ông vỗ tay để gọi nô bộc, nhưng không ai trả lời. Hẳn là tất cả nô bộc đều đã ra ngoài đình phục vụ bữa tiệc. Nhìn về phía trước, Địch Thứ sử nhìn thấy một quầng sáng mờ nhạt. Ông cẩn trọng bước tới một cửa vòm. Lững thững bước qua cửa, ông thấy một hoa viên, bốn phía dựng một loạt cọc gỗ khá cao. Hoa viên trống trải, chỉ có vài cây cổ thụ đang oằn xuống vì tuyết đọng trên cành. Ánh trăng trong sáng, ông bước đi chậm rãi, nhân tiện cũng muốn thư giãn gân cốt. Đột nhiên một trận gió lạnh thổi qua, cây cối trong hoa viên xào xạc, Địch Thứ sử cảm thấy một nỗi sợ hãi vô cớ trào lên. Ông nghe trong gió có tiếng “u u” như quỷ khóc ma gào, mũi cũng tựa hồ ngửi thấy mùi máu tanh. Bất chợt, ông dừng bước nhìn quanh. Trái tim ông như ngừng đập, một bóng trắng kỳ lạ đang ngồi bất động ở góc hoa viên. Địch Thứ sử dừng lại nhìn chằm chằm vào nó đầy kinh hãi. Rồi ông thở phào nhẹ nhõm. Đó là một người tuyết có kích thước như người thật, trông giống một thiền sư đang khoanh chân ngồi quay lưng lại những cọc gỗ trong tư thế thiền định. Địch Thứ sử muốn bật cười, nhưng nụ cười đóng băng lại trên môi ông. Người tuyết kia đang giương hai hốc mắt trống rỗng nhìn chằm chằm vào ông với vẻ hiểm ác, tỏa ra không khí ngột ngạt chết chóc.
Trong lòng Địch Thứ sử hoảng hốt bất an, ông ngờ rằng mình đã trở bệnh nặng rồi. Ông quay đi và nhanh chóng quay trở lại ngôi nhà. Trong lúc bước lên thềm, ông vấp ngã và bị thương ở cằm nhưng vẫn cố gắng đi thật nhanh, tìm đường theo linh cảm và lần mò dọc theo hành lang tối tăm. Sau khi rẽ hai lần, ông mới gặp được một nô bộc cầm đèn lồng trên tay. Và hắn đã dẫn ông trở ra ngoài đình. Các thực khách đang cao hứng nghêu ngao một khúc ca săn bắn. Chu Đạt Nguyên đang cầm đũa gõ nhịp phách. Khi thấy Địch Thứ sử, y liền mau mắn đứng dậy và lo lắng hỏi thăm: “Địch lão gia, thần sắc ngài trông không được tốt cho lắm!” Địch Thứ sử nở nụ cười miễn cưỡng. “Chắc ta đã bị phong hàn rồi. Ngươi cứ nghĩ mà xem, người tuyết ở hoa viên thực sự đã dọa ta sợ đến toát mồ hôi lạnh.” Chu Đạt Nguyên cười lớn. “Tiểu nhân sẽ bảo hạ nhân dạy dỗ lại con cái rằng chỉ được đắp người tuyết vui nhộn mà thôi. Địch lão gia, tiểu nhân kính ngài một chén rượu làm ấm người là lão gia sẽ thấy khá hơn đó!” Đang nói chuyện, chợt một nô bộc Chu phủ xuất hiện. Hắn dẫn theo một nam nhân béo lùn, đội một chiếc mũ chóp nhọn, mặc áo khoác ngắn và quần da rộng thùng thình. Hắn tự xưng là trương tuần. Hắn đứng trước mặt Địch Thứ sử và dõng dạc nói: “Bẩm đại nhân, thuộc hạ có việc cần bẩm báo. Trên đường đến thôn Sơn Dương, tuần đinh đã bắt giữ được Phan Phong cách đường lớn hai dặm về phía Đông. Thuộc hạ vừa áp giải hắn vào đại lao, thưa đại nhân.”
Địch Thứ sử nói to, “Làm tốt lắm!” Rồi ông quay sang họ Chu và nói thêm, “Xin thất lễ không thể tiếp tục dự tiệc, ta phải về nha phủ ngay để xử lý việc này. Nhưng ta sẽ chỉ mang theo Hồng Sư gia mà thôi. Chư vị xin cứ tiếp tục.” Chu Đạt Nguyên và những vị khách khác tiễn Địch Thứ sử ra sân trước. Địch Thứ sử quay về phía gia chủ và cáo lỗi lần nữa vì sự ra về đường đột của mình. Chu Đạt Nguyên nói với vẻ chân thành, “Công việc là trên hết. Tiểu nhân rất vui mừng khi nghe tin đã bắt được Phan Phong!” Khi Địch Thứ sử trở lại nha phủ, ông nói một cách dứt khoát với Hồng Sư gia, “Mau truyền gọi Giám ngục.” Giám ngục xuất hiện và hành lễ với Địch Thứ sử. “Ngươi có lục soát ra vật gì trên người Phan Phong không?” Địch Thứ sử hỏi y. “Bẩm đại nhân, hắn đi tay không, chỉ có giấy thông hành và chút bạc vụn thôi ạ.” Giám ngục đáp. “Hắn không mang theo tay nải bằng da ư?” “Bẩm không, thưa đại nhân.” Địch Thứ sử gật đầu và sai Giám ngục dẫn họ tới đại lao. Khi Giám ngục mở khóa cửa sắt của một phòng giam chật hẹp và nâng đèn lồng lên, Địch Thứ sử thấy một nam nhân bị cùm đang ngồi trên băng ghế. Nhìn qua, Địch Thứ sử nghĩ rằng Phan Phong là một lão già tóc đã điểm bạc, yếu đuối, vô hại. Lão cúi thấp đầu như thể đang ăn năn hối hận. Trên má trái của lão có một vết thương do roi quất. Phan Phong không hề kêu to “oan uổng” như tội phạm thông thường mà chỉ nhìn Địch Thứ sử một chút, rồi lại cúi đầu, trầm mặc không nói.
Địch Thứ sử đút tay vào ống tay áo rộng rồi nghiêm giọng, “Phan Phong, ngươi biết tội không?” Phan Phong ngước mắt nhìn Địch Thứ sử, thở dài và ngập ngừng nói: “Thưa đại nhân, thảo dân đã sớm đoán được chuyện này. Chắc hẳn thê huynh của thảo dân là Diệp Thái đã vu cáo tiểu nhân với nha phủ. Hắn luôn làm phiền tiểu nhân vì muốn vay tiền và gần đây thảo dân đã kiên quyết cự tuyệt hắn. Chỉ không biết hắn đã vu cáo thảo dân điều gì ở trên công đường?” Địch Thứ sử trầm giọng nói: “Ngày mai trên công đường sẽ tiến hành thẩm án. Giờ khắc này ta chỉ muốn hỏi ngươi một câu, gần đây giữa ngươi và thê tử có xảy ra cãi vã nghiêm trọng nào không?” Phan Phong cay đắng nói: “Vậy là nàng cũng tham dự vào chuyện này sao? Chẳng trách gần đây nàng cứ lén lén lút lút, vẻ mặt hoang mang. Thì ra là cùng Diệp Thái bàn bạc tìm cách vu cáo thảo dân. Ngày hôm kia thảo dân…” Địch Thứ sử cảm thấy Phan Phong quả nhiên không giống như kẻ mang tội sát nhân, liền phất tay ra lệnh: “Ngày mai, ngươi hãy kể lại toàn bộ câu chuyện trên công đường.” Nói rồi ông quay đi, ra lệnh cho giám ngục khóa cửa và rời khỏi đại lao. HỒI 5 Đào Cam kể chuyện Lam võ sư Phan Phong khai báo chốn công đường Buổi sáng hôm sau, khi sắp tới phiên thăng đường buổi sáng thì Địch Thứ sử mới vội vã bước vào thư phòng. Những người phụ tá đã ở đó chờ đợi ông. Hồng Sư gia nhận thấy Địch Thứ sử tinh thần mệt mỏi, sắc mặt nhợt nhạt. Ông đã bận rộn sửa sang hành trang cùng các vị phu nhân đến tận nửa đêm qua, sáng sớm nay lại cưỡi ngựa tiễn thê tử ra tận ngoại thành. Vừa ngồi xuống bàn, Địch Thứ sử đã lên tiếng:
“Tốt rồi, gia quyến của ta đều đã lên đường. Nếu đợt tuyết mới không rơi, mọi người sẽ tới được Thái Nguyên trong vòng ba ngày tới.” Địch Thứ sử đưa tay dụi mắt đầy mỏi mệt rồi nhanh chóng nói tiếp: “Đêm qua ta đã thẩm vấn qua Phan Phong. Có vẻ phỏng đoán ban đầu của chúng ta là đúng. Đã có một kẻ thứ ba ra tay sát hại thê tử của hắn. Trừ khi hắn là một kẻ diễn kịch đại tài, nếu không thì hắn cũng không mơ hồ về những chuyện đã xảy ra trong nhà như vậy.” “Đại nhân, hôm trước đó Phan Phong đã trốn đi đâu?” Đào Cam gặng hỏi. “Bộ Hình đã quy định, ta không thể thẩm vấn riêng hắn trong đại lao. Chờ lát nữa lên công đường, ta sẽ hỏi hắn.” Địch Thứ sử vừa nói vừa chậm rãi nhấp ngụm trà nóng mà Sư gia vừa dâng đoạn nói: “Đêm qua ta đã bảo ba ngươi không được rời khỏi bữa tiệc ở Chu phủ không chỉ vì ta không muốn phá hủy không khí bữa tiệc mà còn bởi vì ta cảm thấy không khí ở đó khá lạ lùng. Có lẽ là ta hơi váng đầu buồn nôn, nên mới cảm thấy trong Chu phủ tràn ngập một bầu không khí kỳ quái. Khi ở trong hoa viên, ta còn ngửi thấy mùi máu tanh. Giờ ta muốn nghe xem hai ngươi có nhận thấy gì bất thường sau khi ta đi khỏi hay không?” Mã Vinh nhìn Kiều Thái. Y gãi đầu gãi tai và ủ rũ nói: “Mong đại nhân thứ tội, thuộc hạ xin thú nhận là tối qua thuộc hạ có uống hơi nhiều nên không chú ý thấy gì đặc biệt. Nhưng có lẽ Kiều Thái huynh có nhiều điều muốn nói.”
“Thuộc hạ chỉ có thể nói rằng tất cả mọi người đều vô cùng vui vẻ, kể cả thuộc hạ.” Kiều Thái nhăn nhở nói. Đào Cam vuốt ve ba sợi râu dài mọc trên gò má trái, bất chợt lên tiếng: “Thuộc hạ không quá hứng thú với mấy loại rượu mạnh đó. Cũng bởi Lam Đường chủ không hề uống một chút rượu nào nên thuộc hạ đã dành thời gian để nói chuyện phiếm cùng ngài ấy. Tuy vậy, thuộc hạ vẫn không quên để mắt tới những việc đang diễn ra trên bàn rượu. Thưa đại nhân, phải nói rằng bữa tiệc đó đơn giản chỉ là một tiệc rượu mua vui.” Địch Thứ sử không có ý kiến gì, Đào Cam nói tiếp, “Tuy thế, Lam Đường chủ đã kể cho thuộc hạ một thông tin khá thú vị. Khi bàn về vụ án mạng kia, ngài ấy nói rằng Diệp Bân là một lão già lẩm cẩm nhưng không phải là một kẻ tồi tệ. Nhưng ngài ấy lại nghĩ rằng Diệp Thái là một kẻ côn đồ bất tài vô dụng.” “Sao lại thế?” Địch Thứ sử nhanh hỏi lại. “Vài năm trước, Diệp Thái từng bái Lam Đường chủ làm sư phụ dạy quyền thuật nhưng sau vài tuần thì ngài ấy đã đuổi y. Lam Đường chủ nói Diệp Thái tâm thuật bất chính, chỉ muốn học vài chiêu để diễu võ dương oai chứ không hề hứng thú gì với võ học. Lam Đường chủ nhận xét rằng Diệp Thái vốn rất khỏe mạnh nhưng tính ích kỷ của y sẽ không cho phép y trở thành một võ sư thực thụ.” “Đây quả là một thông tin hữu ích.” Địch Thứ sử hỏi thêm, “Ngài ấy có kể cho ngươi thêm điều gì nữa không?”
“Bẩm đại nhân, không ạ. Sau đó ngài ấy cho thuộc hạ xem những hình thù ngài ấy đã xếp được với Thất Xảo Bản thôi ạ.” Đào Cam đáp lại. “Thất Xảo Bản sao!” Địch Thứ sử thốt lên với vẻ đầy tò mò. “Đó chỉ là một trò trẻ con thôi mà! Hồi nhỏ ta nhớ cũng đã từng chơi. Chỉ là một tờ giấy hình vuông cắt thành bảy mảnh, từ bảy mảnh đó ta có thể xếp thành đủ mọi hình dạng phải không?” “Đúng là thế ạ,” Mã Vinh cười. “Đây là sở thích của Lam đại ca. Lam đại ca vẫn duy trì cái thú vui chẳng khác gì trò chơi của trẻ con như vậy, lại còn nói trò chơi này sẽ giúp cho ta nhận biết ra những khía cạnh quan trọng của mọi thứ ta đã nhìn và tăng khả năng tập trung trí lực nữa.” Đào Cam gật gù: “Mã Vinh đệ nói đúng, Lam Đường chủ thường dùng tuyệt kỹ này để đánh cược với người ta, lần nào cũng thắng.” Địch Thứ sử không khỏi hiếu kỳ: “Đào Cam, ngươi thử xếp lại mấy cái hình đó cho ta xem.” Đào Cam lấy từ ống tay áo của mình ra bảy miếng bìa cứng, đặt chúng lên bàn và xếp lại thành một hình vuông. “Bảy mảnh Thất Xảo Bản này chính là do Lam Đường chủ đưa cho thuộc hạ đêm qua,” Đào Cam bẩm với Địch Thứ sử. Sau khi xáo trộn những miếng giấy, Đào Cam nói tiếp, “Lúc đầu thuộc hạ bảo ngài ấy xếp Tháp Trống, ngài ấy đã làm được luôn. “Cái này thì quá dễ rồi, vậy nên thuộc hạ lại yêu cầu Lam Đường chủ làm một con ngựa đang phi nước đại. Ngài ấy cũng làm được ngay.
“Sau đó thuộc hạ lại yêu cầu ngài ấy tạo hình một bị cáo đang quỳ ở chốn công đường, ngài ấy đã làm thế này: “Thuộc hạ thua đau nên đã bảo ngài ấy làm một tên nha dịch say rượu cùng một vũ nữ đang múa. Nhưng ngài ấy vẫn làm được như thường! “Sau đó, thuộc hạ không thể không chịu thua.” Đào Cam cay đắng nói. Địch Thứ sử cùng mọi người cùng cười rộ lên. Ông lại nói: “Nếu các ngươi đêm qua không để ý thấy điều gì bất thường thì có lẽ là do ta không khỏe nên đã quá nhạy cảm. Có điều, Chu phủ cũng thật rộng lớn. Ta suýt nữa bị lạc trong những hành lang tối tăm như mê lộ.” “Chu gia đã sống ở đây không biết bao nhiêu đời. Mà những tòa nhà càng cổ xưa thì ảo giác càng nhiều, bầu không khí càng thần bí, khiến cho người ta bất an,” Kiều Thái nói. “Căn nhà đó sao đủ rộng để cho tất cả thê thiếp của huynh ấy trú ngụ!” Mã Vinh cười khẩy. “Chu huynh là người tốt. Huynh ấy vừa có tài săn bắn bậc nhất, vừa là một địa chủ tốt, chỉ là hơi nghiêm khắc thôi. Những tá điền đều rất biết ơn huynh ấy, tất nhiên rồi. Họ đều cảm thấy lo lắng vì huynh ấy mãi chưa có người nối dõi.” “Huynh ấy mà cũng khốn đốn thế sao!” Mã Vinh trợn to mắt. “À, thuộc hạ quên mất chưa nói, quản sự nhà họ Chu là một tiểu tử tên gọi Vũ Khang. Y trông có vẻ khá dị thường, điệu bộ như hồn bay phách lạc. Khi thuộc hạ đề cập tới vụ án đó với y, y giật mình như thể vừa nhìn thấy ma. Thuộc hạ có cảm giác rằng y cũng có suy nghĩ như chúng ta, vị hôn thê của y đã bỏ trốn cùng nam nhân khác, hẳn là trong lòng y rất ư đau đớn.” Đào Cam nói.
Địch Thứ sử gật đầu và nói: “Chúng ta phải thăm dò y trước khi y hoàn toàn suy sụp. Còn về Liêu tiểu thư kia, phụ thân của nàng ta vẫn đang cố gắng thuyết phục chúng ta tin tưởng vào phẩm hạnh của ái nữ, nhưng dường như ông ta cũng đang cố thuyết phục mình tin rằng như vậy. Chiều nay ngươi hãy đến Liêu phủ, Đào Cam, hãy cố tìm thêm tin tức về gia đình đó. Ngươi cũng có thể thăm dò huynh đệ họ Diệp để xác thực xem những gì Lam Đường chủ nói về họ có chính xác hay không. Có điều, tuyệt đối không được lỗ mãng, tránh bứt dây động rừng.” Ba tiếng cồng báo hiệu giờ thăng đường đã vang lên. Địch Thứ sử khoác quan phục và đội mũ lên. Rõ ràng tin tức Phan Phong bị bắt giữ đã lan truyền khắp thành. Lúc này, trong nha môn, người đến xem đã chen chúc đông nghịt. Ngay sau khi Địch Thứ sử bắt đầu buổi thẩm án và cho gọi những người có liên quan, ông nhấc chiếc bút lông chấm mực đỏ của mình lên và hoàn thành một văn kiện đưa cho Giám ngục. Những lời bàn tán bỗng nổi lên từ phía dân chúng đến xem thẩm án khi Phan Phong được dẫn lên trước công đường. Huynh đệ họ Diệp đang đứng hàng trước, cùng hàng với Chu Đạt Nguyên và Lam Đại Khôi. Hai người sấn về phía trước nhưng những Bộ khoái đã giữ họ lại. Địch Thứ sử đập kinh đường mộc xuống bàn. Ông quát lên “Trật tự!” Công đường lại yên lặng như tờ. Rồi ông quay về phía nam nhân đang quỳ trên thềm đá phía dưới và ra lệnh:
“Hãy khai ra tên họ và nghề nghiệp của ngươi.” “Bẩm, thảo dân là Phan Phong, làm nghề buôn đồ cổ.” Phan Phong cất giọng khàn đặc. “Bản quan hỏi ngươi, vì sao hôm kia ngươi lại rời khỏi thành?” Địch Thứ sử quát hỏi. “Bẩm đại nhân, thảo dân vốn là người làm ăn thành thật, dựa vào buôn bán đồ cổ mà sống, chưa bao giờ dám làm ra chuyện phạm pháp. Vài ngày trước, có một nông phu ở thôn Sơn Dương đến gặp tiểu nhân. Hắn nói rằng trong lúc đào hố chôn phân ngựa trên cánh đồng, hắn đã tìm thấy một cái vạc cổ ba chân bằng đồng xanh. Theo thảo dân được biết, tám trăm năm trước, dưới thời nhà Hán, thôn Sơn Dương vốn là một lâu đài cổ. Thảo dân đã nói với thê tử rằng cũng đáng để đến đó xem xét cái vạc đồng này. Vừa vặn ngày hôm đó khí trời lại đẹp nên thảo dân liền vội vã ăn cơm trưa rồi tới thôn Sơn Dương, dự định sẽ trở về vào ngày hôm sau. Do vậy…” Địch Thứ sử ngắt lời Phan Phong: “Buổi sáng ngày hôm kia, phu thê các ngươi đã làm gì trước khi ngươi rời đi?” “Buổi sáng, thảo dân đem một chiếc bàn cổ ra sơn sửa lại.” Phan Phong chần chừ một chút rồi đáp. “Còn thê tử của tiểu nhân đi chợ mua đồ rồi về nhà chuẩn bị bữa trưa.” Địch Thứ sử gật đầu. “Ngươi nói tiếp đi!” Ông ra lệnh. “Sau khi phu thê thảo dân ăn cơm trưa cùng nhau xong,” Phan Phong nói tiếp, “thảo dân cuộn chiếc áo choàng da nặng nề của mình lại và bỏ vào một tay nải bằng da vì thảo dân lo sợ ở thôn Sơn Dương không nhóm lò sưởi. Trên đường, thảo dân gặp một người bán đồ tạp hóa. Hắn nói với thảo dân rằng ở trạm liên lạc gần đó khá hiếm ngựa nên nếu thảo dân muốn đến thôn Sơn Dương thì phải nhanh chân lên. Vì vậy mà thảo dân đã chạy nhanh tới cổng thành phía Bắc và may mắn thuê được con ngựa cuối cùng. Sau đó…”
“Ngươi còn gặp ai khác ngoài người bán tạp hóa không?” Địch Thứ sử lại ngắt lời lão. Phan Phong suy nghĩ một hồi rồi trả lời: “Bẩm có, thưa đại nhân, thảo dân gặp Cao lý chính trên đường tới trạm liên lạc. Thảo dân sợ lỡ không thuê được ngựa, nên chỉ chào hỏi qua loa rồi vội đi tiếp.” Địch Thứ sử gật đầu, ra hiệu cho Phan Phong tiếp tục nói: “Đến lúc hoàng hôn, thảo dân đã tới được thôn Sơn Dương, tìm thấy nông phu đó và xem cái vạc, thảo dân thấy nó quả thực được rèn đúc từ triều Hán, trong lòng mừng rỡ. Ai ngờ nông phu quá quắt đó thấy vậy liền nâng giá lên tận trời. Thảo dân kỳ kèo mặc cả hồi lâu không được, liền tức giận bỏ đi. Lúc này sắc trời đã tối, thảo dân liền tìm đến một quán trọ trong làng, ăn uống qua loa rồi đi nghỉ. “Sáng hôm sau, ngay sau khi thức giấc, việc đầu tiên mà thảo dân làm là dạo vòng quanh các nông trang khác để xem có thứ đồ cổ nào khác không nhưng không thu được gì. Thảo dân trở lại quán trọ dùng cơm trưa và quay lại tìm nông phu kia. Sau một hồi kỳ kèo mặc cả nữa thì cuối cùng thảo dân cũng mua được cái vạc đó. Thảo dân nhanh chóng choàng áo khoác lông thú lên người, đặt chiếc vạc đồng đặt vào tay nải rồi vội vã trở về. “Nhưng thảo dân chỉ mới cưỡi ngựa đi được tầm ba dặm thì có hai tên cướp đột nhiên xuất hiện rồi chạy lại phía thảo dân. Thảo dân sợ hãi vô cùng, cố thúc ngựa phi nước đại bán sống bán chết. Chạy giữa vùng đồi tuyết hoang vu suốt nửa ngày, thảo dân mới thoát khỏi toán cướp, nhưng lại phát hiện mình bị lạc mất rồi. Tồi tệ hơn, cái tay nải đựng vạc đồng cũng rơi mất, không còn treo trên yên ngựa nữa. Thảo dân quay lại tìm một hồi nhưng không được, chỉ biết vòng tới vòng lui. Bão tuyết thổi đến như quỷ khóc ma gào, thảo dân vô cùng hoảng sợ, chỉ lo trời tối không tìm được đường về.
“Đúng lúc đó, thảo dân nhìn thấy xa xa có một đội tuần đinh đang cưỡi ngựa đi tới. Thảo dân mừng rớt nước mắt, liền lớn tiếng kêu cứu. Nhưng không hiểu tại sao đội tuần đinh lại không phân biệt tốt xấu, đột nhiên kéo thảo dân xuống khỏi lưng ngựa, trói tay chân thảo dân lại! Thảo dân vội hỏi có chuyện gì xảy ra nhưng họ chẳng nói gì. Thay vào đó, trương tuần còn dùng roi quất vào mặt thảo dân và bắt thảo dân im miệng. Bọn họ nhét khăn vào miệng thảo dân, trói thảo dân lên lưng ngựa, phi một mạch về thành mà không giải thích lời nào, rồi quẳng ngay thảo dân vào đại lao. Những lời thảo dân nói hoàn toàn là sự thực, thưa đại nhân!” Diệp Bân hét lên: “Hắn đang bịa chuyện đó, thưa đại nhân!” “Lời khai của hắn sẽ được xác minh,” Địch Thứ sử nói. “Nguyên cáo Diệp Bân hãy giữ bình tĩnh cho đến khi được hỏi!” Nói rồi ông quay qua Phan Phong, “Ngươi hãy mô tả dáng dấp hai tên cướp cho ta!” Sau một hồi bối rối, Phan Phong đáp lại: “Lúc đó thảo dân sợ hãi vạn phần, thưa đại nhân, thế nên thảo dân cũng không nhìn rõ bọn chúng. Thảo dân chỉ nhớ được rằng có một tên chột, hắn dùng miếng vá che một bên mắt lại.” Quan án ra lệnh chép lại lời khai của họ Phan. Sau đó, Bộ đầu đưa tờ ký lục cho Phan Phong điểm chỉ. Địch Thứ sử nghiêm túc nói: “Phan Phong, thê tử của ngươi đã bị sát hại. Hai vị thê huynh của ngươi đã đến nha phủ tố cáo ngươi là hung thủ.” Mặt Phan Phong biến sắc.
“Đại nhân, thảo dân oan uổng!” Lão điên cuồng thét lên. “Thảo dân không hề biết gì về chuyện đó! Khi thảo dân rời khỏi nhà, nàng ấy vẫn sống và khỏe mạnh. Khẩn cầu đại nhân…” Địch Thứ sử ra hiệu cho Bộ đầu. Phan Phong bị dẫn đi nhưng vẫn không ngừng giãy giụa, khàn giọng kêu oan uổng. Hai Bộ đầu vẫn lạnh lùng lôi lão rời khỏi công đường. Địch Thứ sử quay về phía Diệp Bân, Diệp Thái và nói: “Hai ngươi cũng về nhà đi, bản quan sẽ xác minh lời khai của Phan Phong, sau đó sẽ truyền hai ngươi đến đây một lần nữa.” Tiếp đó, Địch Thứ sử xử lý một vài chính sự khác trong quận rồi kết thúc buổi thẩm án. Khi đoàn người quay trở lại thư phòng Hồng Sư gia nôn nóng hỏi: “Đại nhân nghĩ sao về lời khai của Phan Phong?” Địch Thứ sử vừa trầm ngâm vuốt ve chòm ria mép vừa nói: “Ta nghĩ rằng hắn nói thật. Sau khi hắn rời khỏi nhà, đã có kẻ xông vào giết chết thê tử của hắn.” Đào Cam tiếp lời ông, “Điều này có thể giải thích tại sao tiền bạc trong nhà vẫn không hề bị động tới. Đơn giản là hung thủ không hề biết chúng được cất ở đâu. Thế nhưng tại sao hung thủ phải đem y phục của Phan nương đi mất? Ngay cả một đôi hài cũng không lưu lại. Điều này… thuộc hạ không lý giải nổi.” “Sơ hở lớn nhất trong câu chuyện của hắn là việc đánh rơi tay nải trong lúc chạy trốn khỏi hai tên cướp. Ai cũng biết đường từ thành Bắc Châu đến thôn Sơn Dương luôn có kỵ binh tuần tra, chuyên lùng bắt Bắc Trấn quân đào ngũ và bọn gián điệp Thát Đát. Thường thì bọn cướp đâu dám công khai chặn đường khách bộ hành giữa ban ngày.” Mã Vinh nói.
Kiều Thái gật đầu tán thành. “Tất cả những gì họ Phan có thể mô tả về ngoại hình của bọn cướp chỉ là có một tên chột mắt. Đó cũng là hình dạng của một tên cướp mà các lão thuyết thư ở chợ thường mô tả.” “Dù gì đi nữa, chúng ta cũng sẽ xác minh lại toàn bộ câu chuyện hắn kể. Sư gia, lão hãy báo Bộ đầu cử hai nha dịch tới thôn Sơn Dương để hỏi nông phu bán vạc đồng kia và chưởng quỹ của quán trọ trong thôn. Bây giờ ta sẽ viết thư cho Đô úy ở Bắc Trấn quân để hỏi thông tin về bọn cướp.” Sau khi suy nghĩ một hồi, ông nói thêm: “Trong thời gian chờ đợi, chúng ta vẫn phải nỗ lực tìm ra tung tích của Liêu tiểu thư. Chiều nay, Đào Cam hãy đến Liêu phủ và tiệm giấy nhà họ Diệp. Mã Vinh và Kiều Thái hãy ra chợ nơi Liêu tiểu thư biến mất để hỏi thăm thêm manh mối.” “Chúng thuộc hạ có thể đi cùng Lam đại ca không thưa đại nhân?” Mã Vinh hỏi. “Huynh ấy biết rõ nơi đó như lòng bàn tay.” “Thế nào cũng được.” Địch Thứ sử trả lời. “Bây giờ ta đi dùng cơm trưa đã, rồi nghỉ ngơi một lúc. Ngay sau khi các ngươi quay trở lại thì hãy báo cáo tình hình cho ta biết.” HỒI 6 Đào Cam thu được tin hữu ích Thương nhân khoản đãi bữa thịnh soạn Hồng Sư gia cùng Mã Vinh và Kiều Thái đến nha phủ dùng bữa trưa, riêng Đào Cam bước thẳng ra khỏi cổng. Y bước trên con đường tuyết phủ, men theo hướng Đông thao trường cũ mà đi. Cơn gió lạnh như cắt da cắt thịt chợt thổi qua, Đào Cam khẽ kéo chiếc áo dài quấn chặt thân hình gầy gò của mình rồi rảo bước thật nhanh.
Đến trước miếu Quan Đế, y hỏi thăm tiệm giấy của huynh đệ họ Diệp và được chỉ dẫn sang con phố bên cạnh. Chẳng mấy chốc, y đã nhìn thấy tấm bảng hiệu lớn “Diệp ký” của tiệm giấy, bên trong bày văn phòng tứ bảo*, trên tường treo mấy bức thư họa của danh nhân, cũng có vẻ thanh nhã. Bốn món đồ văn phòng phẩm: bút, nghiên, giấy, mực. Đào Cam chậm rãi bước sang sạp rau nhỏ đối diện rồi mua một đồng củ cải muối. “Làm ơn thái nhỏ củ cải rồi gói cẩn thận vào giấy dầu cho ta!” Đào Cam nói với chủ sạp. “Khách quan không dùng tại chỗ sao?” Chủ sạp ngạc nhiên hỏi. “Chỉ có kẻ hạ lưu mới ăn ngoài phố!” Đào Cam kiêu căng nói. Nhưng vừa trông thấy ánh nhìn khó chịu của chủ sạp, y bèn thêm vào một câu, “Sạp rau của ngươi thật gọn gàng và sạch sẽ, chắc ngươi làm ăn khấm khá lắm nhỉ.” Khuôn mặt của chủ sạp lập tức tươi lên. “Cũng không tệ,” hắn đáp. “Phu thê tại hạ ngày ngày vẫn đủ cơm canh đạm bạc, không phải lâm vào cảnh nợ nần.” Sau đó hắn lại tự hào tiếp lời, “Cứ nửa tháng lại được ăn thịt.” “Ta nghĩ,” Đào Cam nói, “ông chủ hiệu giấy làm ăn phát đạt bên kia đường chắc hẳn là ngày nào cũng thừa mứa thịt cá để ăn.” “Mặc kệ hắn,” chủ sạp chẳng mấy quan tâm. “Con ma cờ bạc chẳng còn thịt cá mà ăn được bao lâu nữa đâu!” “Đại ca họ Diệp đánh bạc sao?” Đào Cam kinh ngạc hỏi. “Trông y không giống như vậy lắm.” “Không phải y,” chủ sạp đáp. “Con ma cờ bạc là tiểu đệ của y, gã côn đồ Diệp Thái. Nhưng ta nghĩ từ nay y cũng chẳng còn nhiều tiền để đánh bạc đâu.”
“Sao lại không?” Đào Cam gặng hỏi. “Cửa hiệu có vẻ đang ăn nên làm ra thì phải.” “Chắc là khách quan đây có điều không biết,” chủ sạp tỏ vẻ trịch thượng. “Khách quan hãy nghe đây. Diệp Thái là kẻ bừa bãi phóng đãng, rượu chè đàng điếm, không thiếu một trò nào. Y mê nhất là đánh bạc, nhưng vận may lại kém, đánh bạc thua liên tục, suốt ngày bị người ta tới tiệm giấy đòi tiền. Ôi, không biết ông chủ Diệp đã bị tiểu đệ hoang phí tới bao nhiêu của cải. Giờ ông chủ Diệp cũng thiếu nợ khắp nơi, ốc không lo nổi mình ốc, làm sao còn mang cọc cho rêu? Diệp Thái hết cách, lại mặt dày đi vay tiền muội muội. Nay muội muội bị sát hại, xem ra…” “Diệp Thái cũng không còn tiền đánh bạc,” Đào Cam tiếp lời. “Khách quan đã hiểu rồi đó,” chủ sạp kêu lên vẻ đắc thắng. “Thì ra mọi chuyện là như vậy.” Đào Cam gật đầu suy ngẫm. Y cầm lấy phần củ cải đã được gói, bỏ vào ống tay áo rồi bước ra ngoài. Y lang thang trong khu vực để tìm kiếm sòng bạc. Với quá khứ từng là con bạc khét tiếng, y tự khắc có trực giác với những nơi chốn như vậy và chẳng mấy chốc đã bước lên tầng hai của một hiệu tơ lụa. Tuy đây là một sòng bạc, nhưng lại bố trí vô cùng thanh nhã, xung quanh bày tứ bình phong, thư họa treo đầy trên vách tường trắng tinh. Trong phòng có bốn nam nhân đang tụ quanh một chiếc bàn vuông đổ xí ngầu. Ở chiếc bàn bên cạnh có một nam nhân béo lùn đang ngồi một mình uống trà. Đào Cam ngồi xuống đối diện gã.
Gã quản sòng tỏ thái độ khinh khỉnh khi nhìn thấy chiếc áo chắp vá của Đào Cam, rồi lạnh lùng buông lời: “Vị huynh đài này xin hãy về đi. Mức cược thấp nhất tại sòng này là năm mươi đồng đó.” Đào Cam cầm lấy chén trà của người đối diện, chầm chậm đảo ngón tay giữa trên vành chén hai lần. “Thất lễ, thất lễ rồi,” gã quản sòng nói nhanh. “Mời huynh đài dùng một chén trà, huynh đài cần gì xin cứ nói!” Đào Cam đã ra dấu hiệu bí mật của những con bạc sành sỏi. “Chuyện là thế này,” y nói, “sự thật là ta chỉ đến đây để thỉnh giáo đôi điều. Tên Diệp Thái ở tiệm giấy nợ ta chút tiền đã lâu, hắn cam đoan rằng mấy ngày trước đã thua hết sạch ở đây, không còn một xu dính túi. Ta không tin, vì thế muốn hỏi ngươi một chút trước khi tiến hành ép nợ.” “Xin huynh đài đừng để hắn đánh lừa,” quản sòng nói. “Hắn thua thì cũng có thua, nhưng đêm qua hắn lại đến đây chơi, hắn còn đặt cược bằng bạc ròng đó.” “Tên cẩu tạp chủng dám cả gan lừa lão phu!” Đào Cam thét lớn. “Hắn than khóc với ta rằng huynh trưởng của hắn là một gã keo kiệt, muội muội từng giúp đỡ hắn lại bị sát hại!” “Có thể hắn nói thật,” quản sòng đáp, “nhưng hắn vẫn còn nguồn tiền khác. Đêm qua, sau khi đã ngà ngà say, hắn đã kể chuyện mình mới vặt lông được một con gà béo.” “Ngươi không biết danh tính của con gà béo đó sao?” Đào Cam háo hức hỏi. “Ta vốn xuất thân nông phu, ta vặt lông cũng không tệ đâu.”
“Ý tưởng này cũng không tồi!” Quản sòng cảm kích. “Tối nay Diệp Thái lại đến, tại hạ sẽ cố moi tin từ miệng hắn. Hắn tuy lực lưỡng nhưng đầu óc thì không lanh lợi lắm. Nếu có đủ phần cho hai người cùng hưởng thì tại hạ sẽ báo cho huynh đài.” “Ngày mai ta sẽ lại đến,” Đào Cam nói. “Nhân tiện, ngươi có muốn đánh cược một chút không?” “Tất nhiên!” Quản sòng vui vẻ đáp. Đào Cam lấy các mảnh giấy của Thất Xảo Bản từ ống tay áo ra. Sau khi đặt chúng lên bàn, y mạnh dạn nói: “Ta cược năm mươi đồng, với những mảnh giấy này ta có thể tạo ra mọi thứ mà ngươi yêu cầu.” Sau khi liếc nhìn những mảnh giấy, gã quản sòng nói, “Một lời đã định! Huynh đài hãy xếp nó thành một đồng xu, tại hạ yêu thích nhất là tiền xu.” Đào Cam làm thử một hồi nhưng không được, đành chịu thua. “Không thể hiểu nổi!” Y khó chịu kêu lên. “Hôm trước ta từng thấy Lam Đường chủ xếp rồi, trông cũng khá đơn giản mà.” “Chuyện là thế này,” quản sòng điềm tĩnh nói, “tối qua tại sòng bạc có một gã may mắn thắng đến tám ván liên tiếp; trông cũng thật dễ dàng. Nhưng khi vị bằng hữu của gã cố bắt chước gã thì đã thua đến trắng tay.” Đào Cam rầu rĩ nhặt lại các mảnh giấy, gã quản sòng tiếp lời, “Xin huynh đài hãy trả tiền; đã là dân cờ bạc lõi đời thì cần phải sòng phẳng, đúng không nào?” Đào Cam gật đầu buồn bã và bắt đầu đếm tiền đồng, gã quản sòng chân thành nói tiếp: “Nếu tại hạ là huynh đài thì tại hạ sẽ bỏ ý định với trò cược đó đi. Tại hạ có cảm giác trò này sẽ làm huynh đài thua một khoản lớn.”
Đào Cam lại gật đầu. Y đứng dậy cáo từ. Khi đi về hướng Tháp Chuông, y chán nản nghĩ rằng thông tin thu được về Diệp Thái tuy khá thú vị nhưng cũng thật đắt đỏ. Đào Cam dễ dàng tìm thấy Liêu phủ cách miếu Khổng Tử không xa. Đào Cam đến trước cánh cổng sơn đen vô cùng trang nghiêm, nhưng y thấy hơi đói, bèn nhìn quanh quẩn để tìm một quán ăn rẻ tiền. Nhưng đây là khu vực tập trung dân cư; quán ăn duy nhất trong khu vực này chính là tửu lâu lớn nằm đối diện Liêu phủ. Thở dài não nề, Đào Cam đành lê bước vào tửu lâu. Y nghĩ rằng lần tra án này thật tốn kém. Y bước lên lầu rồi an tọa trên chiếc bàn đối diện cửa sổ, từ cửa sổ này có thể theo dõi Liêu phủ ở phía đối diện. Tiểu nhị khách sáo chào hỏi y, nhưng sau khi Đào Cam gọi bình rượu nhỏ nhất trong tửu lâu thì sắc mặt của hắn liền sa sầm. Khi tiểu nhị mang lên một bình rượu nhỏ, Đào Cam nhìn vẻ bất bình. “Các ngươi chỉ giỏi biến người ta thành kẻ nghiện rượu.” Y trách móc. “Vị khách quan này,” tiểu nhị khó chịu nói, “nếu muốn mua rượu cỡ cái đê khâu thì xin mời đến tiệm may.” Sau khi đặt một đĩa dưa muối lên bàn, hắn chua ngoa nói tiếp, “Khách quan vui lòng trả thêm năm đồng nữa!” “Ta có sẵn rau rồi.” Đào Cam bình tĩnh nói. Y lấy củ cải muối từ ống tay áo ra và bắt đầu nhấm nháp, đôi mắt không ngừng liếc nhìn dinh phủ đối diện. Một hồi lâu sau, y nhìn thấy một nam nhân to béo khoác áo lông dày rời khỏi Liêu phủ. Theo sau gã là một tên khuân vác đang vất vả gánh một bao gạo to. Gã nhìn sang tửu lâu. Sau đó, gã vươn chân đá tên khuân vác một phát rồi quát ầm lên, “Vác bao gạo đến cửa hiệu của ta nhanh!”
Đào Cam chậm rãi nở nụ cười. Y dự cảm rằng mình sắp moi được tin và được thiết đãi một chầu miễn phí. Gã buôn gạo vừa bước lên lầu vừa thở hổn hển, Đào Cam liền mời hắn đến ngồi cùng. Gã béo ngồi phịch xuống ghế và gọi một bình rượu nóng thật to. “Gần đây làm ăn thật khó khăn,” gã thở phì phò. “Chỉ cần hàng hơi ướt một chút là bị trả lại. Gan của ta cũng không được tốt.” Gã cởi áo khoác lông và nắn nhẹ bên sườn. “Với ta thì chuyện làm ăn chẳng khó khăn mấy.” Đào Cam vui vẻ nói. “Sắp tới ta sẽ được ăn cơm với giá một trăm đồng một đấu gạo.” Gã béo nhanh chóng ngồi dậy. “Một trăm đồng!” Gã hoài nghi kêu lên. “Này, giá hiện giờ là một trăm sáu mươi đồng đó!” “Với ta thì không phải vậy,” Đào Cam tự mãn nói. “Tại sao ngươi không phải trả giá đó?” Gã háo hức dò hỏi. “Ha!” Đào Cam kêu lên. “Bí mật, ta chỉ có thể tiết lộ với những kẻ buôn gạo sành sỏi mà thôi.” “Tiền rượu ta trả.” Gã béo nhanh nhảu. Hắn vừa rót chén rượu vừa nói, “Xin thỉnh giáo huynh đài, thật lòng tiểu đệ rất muốn biết.” “Ta không có nhiều thời gian,” Đào Cam trả lời, “nhưng ta sẽ kể những ý chính cho ngươi nghe. Sáng nay ta gặp ba người nọ, họ cùng thân phụ lên kinh, kéo theo một xe ngựa chất đầy gạo. Đêm qua thân phụ của họ vì đau tim mà qua đời, họ cần tiền gấp để mua quan tài và đưa về cố hương. Ta đồng ý giúp đỡ với giá một trăm đồng một đấu gạo. Giờ ta phải đi rồi. Tiểu nhị, tính tiền!”
Đào Cam vừa đứng dậy thì bị gã béo túm lấy tay áo ngay lập tức. “Huynh đài sao phải vội thế?” Gã hỏi. “Ta mời huynh một đĩa thịt nướng. Tiểu nhị, mang thêm một bình rượu nữa, ta phải thiết đãi vị huynh đài này.” “Ta cũng không muốn thất lễ,” Đào Cam nói. Sau khi ngồi xuống, y nói với tiểu nhị, “Bụng ta hơi yếu, nên cho ta một đĩa gà nướng thôi. Phải là đĩa to nhất đó.” Khi quay đi, tiểu nhị kia lẩm bẩm: “Lúc đầu thì muốn bình nhỏ nhất, bây giờ lại đòi đĩa to nhất. Làm tiểu nhị thật là mệt mỏi.” “Nói thật với huynh đài,” gã béo tâm sự, “Tiểu đệ là thương nhân buôn gạo và tiểu đệ hiểu rõ việc kinh doanh của mình. Nếu huynh đài muốn trữ lượng gạo đó để dùng thì nó sẽ hỏng mất. Huynh sẽ không thể mang ra chợ bán được vì huynh không thuộc phường gạo. Tiểu đệ sẽ giúp huynh, tiểu đệ sẽ mua lại số gạo đó với giá một trăm mười đồng.” Đào Cam do dự. Sau khi nhấp hết chén rượu, y nói: “Chúng ta từ từ bàn tiếp. Cạn chén.” Y rót rượu đầy chén rồi kéo đĩa gà nướng về phía mình. Sau khi nhanh chóng chọn được phần ngon nhất, y hỏi: “Chẳng phải dinh phủ đối diện là của Liêu phường chủ có ái nữ vừa mất tích sao?” “Đúng vậy.” Gã béo đáp. “Nhưng Liêu phường chủ quả là may mắn như nhổ được cái gai trong mắt. Nha đầu đó chẳng có gì tốt. Lại nói về chuyện gạo thì…” “Hãy kể ta nghe chuyện này đã nào,” Đào Cam ngắt lời gã, tay lại gắp thêm một miếng gà.
“Tiểu đệ không thích ngồi lê đôi mách,” gã béo miễn cưỡng nói. “Tiểu đệ thậm chí còn không kể với bà xã ở nhà nữa là.” “Nếu ngươi không tin ta thì…” Đào Cam lạnh nhạt nói. “Tiểu đệ không có ý xúc phạm huynh đài,” gã béo vội vã đính chính. “Chuyện là thế này. Hôm trước tiểu đệ đang tản bộ ở khu chợ phía Tây Nam. Bỗng nhiên tiểu đệ nhìn thấy Liêu tiểu thư một mình bước ra khỏi căn nhà đóng kín cửa gần Xuân Phong tửu quán. Ả dáo dác nhìn quanh phố rồi mau chóng rời đi. Tại hạ cảm thấy thật kỳ lạ nên đã bước đến xem ai sống ở đó. Sau đó cửa mở, một tiểu tử gầy gò bước ra. Y cũng dáo dác nhìn xung quanh rồi bỏ chạy. Tiểu đệ đến một cửa hiệu hỏi thăm về căn nhà đó. Huynh đài nghĩ nó là gì?” “Nơi trai gái hẹn hò bí mật,” Đào Cam nói ngay, tay gắp miếng rau muối cuối cùng trong đĩa. “Sao huynh đài biết?” Gã béo thất vọng hỏi. “May mắn đoán trúng thôi.” Đào Cam nói, đoạn nốc hết rượu trong chén. “Giờ này ngày mai hãy đến đây, ta sẽ mang theo biên lai gạo. Chúng ta có thể cùng nhau làm ăn. Đa tạ vì đã thiết đãi.” Y nhanh chóng sải bước đến cầu thang, bỏ mặc gã béo ngạc nhiên nhìn chằm chằm mấy cái đĩa trống. HỒI 7 Hai bằng hữu ghé thăm võ đường Một quân nhân kể chuyện bi ai Mã Vinh và Kiều Thái kết thúc bữa cơm trong phòng trực của nha môn bằng một chén trà đắng, sau đó cáo biệt Hồng Sư gia. Mã Vinh nhìn lên trời. Y nói, “Huynh đệ, có vẻ trời sẽ không có tuyết. Chúng ta hãy đi bộ chút thôi.” Kiều Thái đồng ý. Họ nhanh chóng rời khỏi nha phủ và đi dọc theo bức tường cao trước miếu Thành Hoàng, sau đó rẽ phải và bước vào khu phố yên tĩnh, nơi ở của Lam Đại Khôi.
Người mở cửa là một thanh niên khỏe mạnh vạm vỡ. Chắc chắn đây là một trong những đồ đệ được Lam Đường chủ dạy dỗ. Y nói với họ rằng Lam sư phụ đang ở trong sân luyện công. Mặc dù tiết trời lạnh, họ Lam vẫn để mình trần và chỉ mặc một cái khố. Y đang rèn luyện công phu với một quả thiết cầu màu đen lớn bằng đầu người. Mã Vinh và Kiều Thái ngồi xuống băng ghế, háo hức theo dõi nhất cử nhất động của y. Lam Đại Khôi liên tục di chuyển quả cầu; y tung nó lên rồi lại hứng lấy nó bằng vai trái, chuyển nó qua vai phải, để nó lăn dọc cánh tay cho đến tận bàn tay. Sau đó y thả nó xuống, nhưng rồi chỉ với một cử động hết sức nhẹ nhàng y lại bắt lấy quả cầu ngay trước khi nó chạm đất mà không hề tốn một chút sức lực nào. Điều này quả thật vô cùng ấn tượng. Huynh đệ Mã Kiều không khỏi liên tục reo hò khen hay. Đột nhiên, Lam Đại Khôi dừng lại, đứng một lúc để điều hòa nhịp thở rồi tươi cười bước đến gần hai người. Y sải cánh tay rắn rỏi của mình ra, đặt quả thiết cầu vào tay Mã Vinh rồi nói: “Đệ hãy cầm giùm ta một chút. Để ta mặc y phục vào đã!” Mã Vinh đón lấy quả thiết cầu từ tay Lam Đại Khôi nhưng rồi không cầm nổi, để nó tuột khỏi tay rơi xuống, lún vào bùn đến một nửa. Cả ba đều cười phá lên. Mã Vinh kêu lên: “Trời ạ, thiết cầu này nặng quá! Lam đại ca quả nhiên khí lực hơn người.”
Kiều Thái lên tiếng: “Không biết đại ca có thể dạy tiểu đệ chơi thiết cầu này không?” Lam Đại Khôi mỉm cười đáp: “Võ học quan trọng ở dưỡng khí, mà dưỡng khí chính là phải thanh tâm quả dục, hai đệ không phải người theo nghiệp võ, e rằng học không được.” Mã Vinh nói: “Lam đại ca đừng khinh thường chúng tiểu đệ. Bàn về khí lực thì tất nhiên đại ca mạnh hơn, nhưng chúng tiểu đệ cũng có thể chăm chỉ khổ luyện, làm sao lại không học được?” Lam Đại Khôi nghiêm mặt nói: “Ta hỏi đệ, ba điều cấm kỵ của ta, đệ có thể tránh được hay không?” Mã Vinh đưa tay gãi đầu và hỏi: “Không biết tiểu đệ có nhớ chính xác hay không, ba điều cấm kỵ của đại ca là… một không uống rượu, hai không ăn mặn, ba không gần nữ sắc.” Lam Đại Khôi nói, “Nữ nhân chỉ làm hao mòn sức lực của nam nhân chúng ta mà thôi.” Họ Lam trả lời một cách cay đắng khiến hai vị bằng hữu kinh ngạc nhìn y. Hiếm khi thấy Lam Đại Khôi nói chuyện gì mà tâm đắc đến vậy. Rồi y nhanh chóng khôi phục nụ cười và nói: “Chỉ là nói thế thôi, chứ nếu chúng ta làm gì cũng có điều độ thì cũng không sao cả. Nếu hai vị tiểu đệ muốn học, ta sẽ đưa ra những điều kiện đặc biệt hơn một chút. Đệ phải kiêng rượu thịt, và chỉ gần nữ nhân mỗi tháng một lần thôi. Được chứ?” Mã Vinh nhìn Kiều Thái đầy nghi ngờ. Y nói: “Lam đại ca à, tiểu đệ không ham rượu thịt và nữ nhân, nhưng ở cái tuổi gần tứ tuần này thì dường như những thứ đó đã trở thành thói quen rồi. Kiều Thái, huynh thì sao?”
Kiều Thái vân vê ria mép và trả lời: “Nữ nhân à, cũng chẳng sao, vốn dĩ thì điều kiện này cũng đúng vì bọn họ luôn luôn rắc rối. Nhưng để hoàn toàn kiêng rượu thịt thì…” Lam Đại Khôi cười nói: “Thực ra, hai đệ cũng chẳng cần luyện thiết cầu. Hai đệ đã rất thành thạo quyền thuật, côn bổng rồi, thế gian e là cũng ít đối thủ.” “Thật vậy ư?” Mã Vinh hỏi. Họ Lam trả lời: “Quả vậy. Để đạt tới đệ cửu đẳng, chỉ cần thể chất mạnh mẽ và đức tính kiên trì. Nhưng muốn đạt tới đệ thập đẳng thì sức mạnh và kỹ năng chỉ là thứ yếu. Chỉ những ai có tâm trí thanh tĩnh hoàn toàn mới có thể đạt được đệ thập đẳng, và chính điều đó tự nhiên sẽ ngăn cản người ta lầm đường lạc lối.” Mã Vinh huých nhẹ vào sườn Kiều Thái, y vui vẻ nói: “Lam đại ca, thực ra, hôm nay chúng tiểu đệ đến đây là có công vụ. Chúng tiểu đệ muốn nhờ Lam đại ca dẫn ra chợ hỏi thăm vụ mất tích của Liêu Liên Phương tiểu thư. Đại ca thông thạo khu vực này, xin chớ từ chối chúng tiểu đệ. Đại ca mau thay y phục đi, chúng ta cùng ra ngoài.” Lam Đại Khôi nhanh chóng thay y phục, y nói thêm: “Nhưng ta nghĩ Thứ sử đại nhân hoàn toàn có thể đạt tới đệ thập đẳng. Ta cảm thấy đại nhân có bản tính cương trực và mạnh mẽ.” “Đúng là vậy. Hơn nữa, đại nhân còn là một kiếm sĩ thượng thừa. Tiểu đệ từng chứng kiến đại nhân đánh hay đến mức tiểu đệ phải ghen tị! Mà đại nhân cũng ăn uống thanh đạm, sinh hoạt điều độ. Chỉ hiềm một nỗi, đại nhân cũng có chỗ không buông bỏ được. Đại ca có nghĩ rằng đại nhân sẽ đồng ý cạo hết râu tóc đi hay không?”
Cả ba người vừa cười vừa đi đến cửa trước. Họ đi dọc theo hướng Nam và nhanh chóng đến cổng chợ. Trên chợ mua bán rộn ràng, ngựa xe chen chúc. Người đi đường tám chín phần mười đều nhận ra Lam Đại Khôi, liền dừng lại chào hỏi cung kính. Lam Đại Khôi nói: “Khu chợ này đã có lịch sử rất lâu đời, từ khi Bắc Châu còn là nơi tụ họp buôn bán chính của những bộ tộc người Thát Đát. Không chỉ có hàng hóa từ Tứ Xuyên, Thiểm Tây, mà còn có cả hàng hóa từ Hoài Dương, Giang Nam, buôn bán quả thực phồn vinh thịnh vượng. Mà chính xác thì hai đệ đang tìm kiếm gì vậy?” Mã Vinh đáp: “Mục đích của đệ là tìm manh mối về tung tích Liêu tiểu thư đã biến mất ở đây ngày hôm trước.” Lam Đại Khôi lên tiếng, “Nghe nói Liêu tiểu thư đang xem xiếc gấu của người Thát Đát ở ngã ba chợ bên kia thì mất tích, chúng ta hãy tới đó xem thử.” Y dẫn họ đi tắt phía sau các cửa hàng đến ngã ba chợ. “Đây rồi. Hiện tại thì chưa thấy người Thát Đát nào nhưng chính xác là chỗ này.” Mã Vinh nhìn vào các cửa tiệm tồi tàn ở bên trái và cả bên phải, nơi các thương nhân đang rao chào hàng hóa. Y nói: “Hồng Sư gia và Đào Cam đã hỏi tất cả những người ở đây rồi. Họ chỉ biết phận sự của mình thôi. Hỏi họ lần nữa cũng chẳng ích gì. Nhưng đệ tự hỏi vì sao Liêu tiểu thư lại đến đây. Thường thì chỉ thấy các cô nương đến phía Bắc khu chợ có những cửa tiệm bán tơ lụa và đồ thổ cẩm lớn.”
“Nhũ mẫu của cô nương đó nói sao?” Lam Đường chủ hỏi. Kiều Thái trả lời: “Bà ta nói rằng họ bị lạc đường. Lúc nhìn thấy con gấu đang diễn xiếc, họ quyết định ở lại để xem một lúc.” “Ta nhớ ở đầu phố phía Đông kia có một khu kỹ viện, phải chăng Liêu tiểu thư đã bị bọn chúng dụ dỗ bắt đi?” Mã Vinh khoát tay cười nói: “Không đâu, chúng tiểu đệ đã tuần tra kỹ viện vài lần rồi. Đêm hôm trước Đào Cam cũng đã cải trang vi hành, có vẻ kỹ viện này không liên quan đến chuyện Liêu tiểu thư mất tích.” Nghe thấy một tiếng kêu kỳ quặc phía sau, y quay lại và thấy một tiểu tử gầy guộc khoảng mười sáu tuổi, ăn vận rách rưới. Khuôn mặt tiểu tử co giật kinh khủng khi thốt ra những âm thanh kỳ lạ. Mã Vinh thò vào tay áo định đưa cho tiểu tử đó vài đồng nhưng tiểu tử đó đã đẩy y ra và kéo mạnh tay áo của Lam Đại Khôi. Lam Đại Khôi mỉm cười, giơ bàn tay to bản của mình lên xoa đầu tiểu tử. Tiểu tử đó lập tức dịu lại và ngước lên nhìn hình dáng cao lớn của họ Lam đầy kính phục. Kiều Thái kinh ngạc nói: “Sao Lam đại ca lại quen biết tiểu tử này?” Lam Đại Khôi bình tĩnh nói: “Nó là một hài nhi bị bỏ rơi của một binh sĩ triều ta với một kỹ nữ Thát Đát. Một ngày ta thấy nó trên đường phố, bị một tên ma men hung ác đá gãy xương sườn, bèn đưa nó về nhà, trị liệu và chăm sóc nó nửa tháng đến khi khỏi hẳn. Nó bị câm, nhưng vẫn nghe hiểu được. Ta đã dạy nó vài thế võ phòng thân nên giờ chỉ có kẻ say đến mất trí mới dám đánh nó! Nó khá thông minh, phàm đã gặp ai, trải qua việc gì đều sẽ không quên.”
Kiều Thái vội nói: “Lam đại ca thử hỏi nó về Liêu tiểu thư xem sao?” Lam Đại Khôi gật gù, dẫn tiểu tử kia tới ngã ba chợ, khoa tay hỏi nó về hai nữ nhân một già một trẻ xem xiếc gấu. Nó kiên nhẫn lắng nghe, rồi đưa tay vào trong ống tay áo của Lam Đại Khôi và lấy ra những mảnh của Thất Xảo Bản, cúi xuống sắp xếp chúng trên những viên đá lát đường. Họ Lam cười nói: “Ta đã dạy nó chơi Thất Xảo Bản. Nó thường dùng mấy mảnh bìa này nói ra những gì nó muốn. Hãy xem nó đang xếp gì nào?” Ba người cùng cúi xuống xem, thì thấy tiểu tử kia đang xếp Thất Xảo Bản thành hình một nam nhân cao lớn. Họ Lam nhận xét: “Đó rõ ràng là một nam nhân Thát Đát. Trên đầu hắn là chiếc mũ chóp đen mà người Thát Đát hay đội. Hắn đã làm gì vậy, tiểu bằng hữu?” Tiểu tử câm buồn bã lắc đầu. Rồi nắm lấy tay áo của Lam Đường chủ, nó thốt ra mấy tiếng khàn khàn. Lam Đại Khôi giải thích: “Nó không giải thích được. Nó muốn ta đi cùng với nó tới chỗ một bà lão ăn xin đã từng trông nom nó. Họ sống trong một hầm nhỏ bên dưới một cửa tiệm. Tốt hơn là hai người nên đợi ở đây. Nơi đó khá bẩn và hôi, nhưng cũng khá ấm áp.” Lam Đại Khôi rời đi cùng tiểu tử. Mã Vinh và Kiều Thái đứng xem các loại dao găm Thát Đát được bày bán tại một tiệm gần đó. Ước chừng thời gian uống cạn một chén trà, Lam võ sư trở lại một mình. Y hài lòng nói:
“Hai đệ lại đây nào, ta vừa hỏi thăm được chuyện Liêu tiểu thư mất tích ngày hôm đó.” Y kéo hai người họ vào một con hẻm nhỏ, rồi nhỏ giọng nói, “Bà lão ăn xin đó nói rằng hôm ấy bà ta cùng tiểu tử kia cũng đang xem xiếc gấu trong đám đông. Họ thấy một tiểu thư y phục diễm lệ đi cùng một đại nương. Hai người đang cố gắng chen lên gần họ định xin vài đồng bạc thì thấy một nữ nhân đến bên tiểu thư kia thì thầm gì đó vào tai nàng. Tiểu thư đó lén nhìn nhũ mẫu, và khi thấy bà ta đang chú ý tới màn biểu diễn thì nàng liền một mình quay đi với nữ nhân kia. Tiểu tử len lỏi dưới chân những người đứng đó và đi theo họ để xin vài đồng, nhưng bị một nam nhân cao lớn người Thát Đát khoác áo choàng màu đen tóm lấy, đẩy ngã xuống đất và chửi mắng thậm tệ. Rồi nam nhân đó cũng vội đuổi theo hai nữ nhân kia đi mất. Tiểu tử kia làm sao dám đuổi theo nữa? Vừa rồi chính là nó đã dùng Thất Xảo Bản để xếp thành hình nam nhân Thát Đát đó. Hai đệ nghĩ sao?” “Bà lão ăn xin có thể miêu tả nam nhân Thát Đát và nữ nhân kia không?” Đường chủ đáp lại: “Đáng tiếc là không. Bà lão ăn xin nói nữ nhân kia đã dùng khăn che nửa dưới của khuôn mặt, còn nam nhân Thát Đát thì đã đội mũ da sụp xuống, che khuất gần như toàn bộ khuôn mặt.” Kiều Thái nghe vậy liền bảo: “Chúng ta cần phải bẩm báo chuyện này với đại nhân ngay. Đây là đầu mối đầu tiên cho biết Liêu tiểu thư đã xảy ra chuyện gì.”
“Ta sẽ đưa hai đệ ra theo đường tắt.” Lam Đường chủ tiếp lời. Y đưa họ vào một lối đi hẹp, người người chen lấn. Đột nhiên, họ nghe thấy tiếng nữ nhân thét lên, rồi có tiếng đập phá đồ đạc. Những người xung quanh đột nhiên tản đi hết; trong chốc lát, chỉ còn lại ba người họ trên đường. “Ở đằng kia, trong căn nhà tối tăm đó!” Mã Vinh kêu lên. Y lao tới trước, đạp cửa xông vào, hai người còn lại theo sau. Họ chạy qua một sảnh đường vắng vẻ có một cầu thang lớn bằng gỗ. Lầu trên chỉ có một phòng lớn, hướng ra bên đường. Bên trong đang xảy ra một cảnh tượng bi thảm. Ở giữa căn phòng, hai tên côn đồ đang hành hung hai nam nhân quằn quại trên sàn. Một nữ nhân mặc xiêm y sơ sài đang run rẩy bên chiếc giường gần cửa; còn trên giường trước cửa sổ, một nữ nhân khác đang cố che đậy thân thể trần trụi của mình. Những kẻ côn đồ buông nạn nhân ra. Một trong hai kẻ đó có vẻ đầu trâu mặt ngựa với một miếng băng che mắt phải. Nhìn cái đầu cạo trọc của võ sư, hắn nghĩ Lam Đại Khôi là kẻ yếu nhất, tức thì tung cú đấm về phía họ Lam. Võ sư khẽ nghiêng đầu, quả đấm hụt, họ Lam liền đẩy nhẹ vào vai hắn. Tên côn đồ bắn về phía trước như một mũi tên rời khỏi cung và đập thẳng vào tường khiến cho lớp thạch cao rơi lả tả. Cùng lúc đó, tên côn đồ kia cúi đầu định húc vào bụng Mã Vinh. Nhưng Mã Vinh nhanh chóng nâng đầu gối lên thúc vào má phải hắn. Nữ nhân đang khỏa thân hét lên lần nữa.
Tên một mắt đã đứng dậy. Hắn thở hổn hển nói: “Nếu trong tay ta có kiếm, ta sẽ giết chết ngươi.” Mã Vinh muốn hạ gục hắn, nhưng Lam Đường chủ đã giữ tay y lại. Họ Lam nói khẽ, “Ta nghĩ rằng chúng ta có chút hiểu lầm.” Quay sang những kẻ côn đồ, y nói thêm, “Hai vị huynh đệ này là người của nha phủ.” Hai nạn nhân đang bò dưới mặt đất vội vã lao ra cửa, nhưng Kiều Thái đã nhanh chóng đứng chặn lại. Nét mặt tên một mắt tươi tỉnh hẳn. Quay sang phía ba người, hắn trình bày với Kiều Thái: “Quan gia, xin lượng thứ! Chúng tiểu nhân nghĩ các vị là đồng bọn của hai kẻ này. Tiểu nhân và bằng hữu đây là binh sĩ của Bắc Trấn quân đang nghỉ phép.” “Cho ta xem giấy tờ của các ngươi!” Kiều Thái lớn tiếng ra lệnh. Tên một mắt liền rút một phong bao nhàu nát từ tay áo ra, trên đó có dấu triện của Bắc Trấn quân. Kiều Thái nhanh chóng xem xét các giấy tờ bên trong. Lúc trả lại giấy tờ, Kiều Thái nói: “Được rồi. Ngươi hãy kể mọi chuyện cho ta nghe.” 👁 Quân nhân chột kể chuyện Tên một mắt bắt đầu kể: “Ả tiện nữ đang nằm trên chiếc tràng kỷ kia đã dụ dỗ chúng tiểu nhân trên đường. Ả mời gọi chúng tiểu nhân đến đây mua vui. Chúng tiểu nhân đi vào, và thấy có ả khác đang đợi ở đây. Chúng tiểu nhân đã trả tiền để được mua vui, rồi ngủ thiếp đi. Khi chúng tiểu nhân thức dậy thì thấy tất cả tiền bạc đều mất sạch. Tiểu nhân quát lên, lập tức hai nam nhân này xuất hiện, và nói hai ả là thê tử của chúng, nếu chúng tiểu nhân không lặng lẽ rời đi thì chúng sẽ báo với chấp pháp quân và tố cáo chúng tiểu nhân đã cưỡng bức hai ả.
“Chúng tiểu nhân đã rơi vào một tình thế thật khốn nạn, bởi nếu như bị tố cáo với chấp pháp quân, thì cầm chắc sẽ phải chịu đòn thừa sống thiếu chết, dù có tội hay không. Chúng tiểu nhân đã định cho qua số ngân lượng đó, nhưng nhất định phải dạy cho hai tên khốn này một bài học nhớ đời.” Mã Vinh nhìn đi nhìn lại hai nam nhân đó. Bây giờ y mới thốt lên: “Chẳng lẽ ta lại không nhận hai ngươi? Các ngươi là quy nô* của kỹ viện cách đây hai con phố!” Những kẻ chuyên tìm kiếm, dụ dỗ nữ nhân vào kỹ viện và đánh đập nếu có nữ nhân nào không chịu tiếp khách. Hai gã đó lập tức quỳ sụp xuống, cầu xin tha thứ. Gã lớn tuổi hơn móc từ tay áo ra một hầu bao rồi trả lại cho gã một mắt. Mã Vinh châm chọc vẻ khinh bỉ: “Ngươi không thể hành xử đường hoàng một lần hay sao? Thật phiền nhiễu. Các ngươi và cả hai nữ nhân kia nữa đều phải bị áp giải tới nha môn.” “Ngươi có thể khiếu kiện.” Kiều Thái nói với gã một mắt. Gã liếc nhìn kẻ đồng hành vẻ dò hỏi, rồi mới nói: “Vị quan sai này, không giấu gì các vị, chúng tiểu nhân quả thực không muốn. Chúng tiểu nhân cần phải trở về doanh trại trong hai ngày nữa, và nếu phải dành thời gian đó để thưa kiện trên công đường thì cũng không phải là chuyện vui vẻ gì. Chúng tiểu nhân đã nhận lại đủ ngân lượng rồi, và phải nói những ả kỹ nữ này cũng đã hoàn thành tốt phận sự. Các vị có thể cho phép chúng tiểu nhân rời đi không?”
Kiều Thái nhìn Mã Vinh, đoạn nhún vai và nói: “Với ta thì thế nào cũng được thôi. Nhưng những kẻ lừa đảo này phải bị bắt giữ vì đây không phải là một kỹ viện được cấp môn bài.” Rồi y hỏi gã lớn tuổi hơn, “Này, các ngươi có cho thuê căn nhà này để người ta tự dẫn nữ nhân tới không?” “Tuyệt đối không thưa quan gia.” Hắn trả lời một cách thành thực. “Để khách mang kỹ nữ không có môn bài vào là trái phép. Ngài sẽ tìm thấy một khách điếm bí mật như vậy trên con phố kế tiếp, gần Xuân Phong tửu quán. Mụ tú bà ở đó không phải là người của phường hội chúng tôi. Nhưng khách điếm đó hiện đã đóng cửa, vì mụ tú bà vừa chết cách đây vài ngày.” Mã Vinh trầm ngâm nói: “Cầu cho mụ được siêu thoát. Thôi, chuyện này coi như xong. Chúng ta sẽ cử tuần đinh giải những kẻ này tới nha môn.” Rồi y quay sang nói với những binh sĩ: “Các ngươi có thể đi được rồi.” Gã một mắt biết ơn đáp lại: “Đa tạ quan gia. Đây thực sự là một may mắn với tiểu nhân trong những ngày cuối cùng ở đây. Kể từ khi tiểu nhân gặp nạn, đôi mắt này bị hỏng thì tiểu nhân chỉ gặp toàn rắc rối mà thôi.” Thấy ả kỹ nữ khỏa thân trên giường vẫn còn chần chừ chưa mặc y phục, Mã Vinh liền quát: “Ngươi còn làm bộ đoan trang!” Khi ả run rẩy bò xuống khỏi giường, Lam Đại Khôi quay lưng lại và bình thản hỏi gã một mắt: “Mắt ngươi làm sao vậy?” Gã trả lời: “Khi chúng tiểu nhân đang trên đường đi từ thôn Sơn Dương tới thành, trời đã lạnh tới mức đóng băng. Bọn tiểu nhân cố tìm người giúp nhưng chỉ thấy một lão già khọm đang cưỡi ngựa đi. Chắc lúc đó hắn vừa làm điều gì khuất tất nên ngay khi nhìn thấy chúng tiểu nhân đã vội vã bỏ chạy. Tiểu nhân nói với vị bằng hữu đây là…”
Mã Vinh ngắt lời hắn: “Khoan, lão già đó có mang theo thứ gì không?” Gã một mắt gãi đầu rồi nói: “Ồ bây giờ quan gia hỏi tiểu nhân mới nhớ lại, hắn đúng là có một tay nải da hay thứ gì đó treo trên yên ngựa.” Mã Vinh nhanh chóng liếc sang Kiều Thái. Y nói với gã binh sĩ đó: “Thật tình cờ, đại nhân nhà chúng ta rất quan tâm đến lão già mà ngươi đã nhìn thấy. Ngươi sẽ phải cùng ta đến nha môn, nhưng ta hứa sẽ không mất nhiều thời gian của ngươi đâu.” Rồi Mã Vinh quay sang nói với Lam Đại Khôi: “Chúng ta hãy trở về thôi.” “Bây giờ ta đã thấy hai đệ thực sự gặt hái được chút manh mối rồi đó. Ta phải nói lời cáo biệt ở đây thôi. Ta phải đi mua chút thực phẩm, rồi tới nhà tắm nữa.” HỒI 8 Địch Công tóm tắt hai vụ án Vũ Khang thú nhận chuyện tư tình Khi Mã Vinh và Kiều Thái đưa hai binh sĩ về công đường, các lính canh đứng ở cổng cho hay Đào Cam đã trở lại, hiện đang ở trong thư phòng của Địch Thứ sử với Hồng Sư gia. Mã Vinh báo với họ rằng chốc nữa tuần đinh sẽ dẫn theo hai nam nhân và hai nữ nhân đến. Hai nam nhân có thể được bàn giao ngay cho Giám ngục, nhưng họ phải gọi Quách phu nhân đến để xử trí hai ả kỹ nữ. Sau khi đã thu xếp xong mọi việc, họ đi đến thư phòng của Địch Thứ sử và bảo hai binh sĩ đứng chờ ngoài hành lang. Địch Thứ sử đang bàn luận sôi nổi với Hồng Sư gia và Đào Cam, nhưng khi nhìn thấy hai trợ thủ còn lại bước vào, ông lập tức ra lệnh cho họ báo cáo lại mọi việc.
Mã Vinh kể lại chi tiết chuyện xảy ra ở chợ, rồi báo lại rằng hai binh sĩ đang chờ bên ngoài. Địch Thứ sử có vẻ rất hài lòng. Ông nói: “Cùng với những gì Đào Cam đã tìm hiểu được, giờ thì chúng ta đã biết đại khái Liêu tiểu thư gặp chuyện gì rồi. Kiều Thái, hãy truyền hai binh sĩ kia vào đi.” Sau khi hai binh sĩ khấu kiến Địch Thứ sử, ông bảo họ kể lại đầu đuôi câu chuyện lần nữa. Rồi ông nói: “Thông tin hai ngươi cung cấp rất quan trọng. Ta sẽ viết một lá thư cho Đô úy của hai ngươi, đề nghị điều hai ngươi về doanh trại ở khu vực lân cận để ta có thể triệu hai ngươi đến cung cấp lời khai nếu cần thiết. Giờ thì Hồng Sư gia sẽ đưa hai ngươi đến đại lao để đối chất với một nghi phạm, sau đó hai ngươi hãy đến phòng Lục sự để viết lại lời khai. Hai ngươi hãy lui đi.” Hai binh sĩ rối rít cảm ơn Địch Thứ sử, họ rất vui mừng vì được thêm mấy ngày nghỉ phép. Sau khi Hồng Sư gia đưa họ đi, Địch Thứ sử thảo một tờ công văn để gửi cho Đô úy của họ. Sau đó, ông bảo Đào Cam kể lại cho Mã Vinh và Kiều Thái những gì mình tìm hiểu được ở sòng bạc và ở tửu lâu. Đào Cam vừa kể xong thì Hồng Sư gia cũng quay lại để báo rằng hai binh sĩ đã ngay lập tức nhận ra Phan Phong là lão già cưỡi ngựa họ gặp bên ngoài thành. Địch Thứ sử uống hết chén trà rồi nói: “Hãy cùng xem lại những gì ta đã biết. Đầu tiên là vụ án mạng của Phan nương. Lời khai của hai binh sĩ có thể chứng minh Phan Phong quả thực đã tới thôn Sơn Dương, trong tay nải da kia chính là vạc đồng vừa mua được. Để hoàn toàn chắc chắn thì chúng ta hãy chờ đến khi các Bộ đầu ta cử đến thôn Sơn Dương trở về rồi hẵng thả người. Ta thì tin chắc rằng họ Phan vô tội. Trước mắt, chúng ta phải tập trung đi tìm bằng chứng về hung thủ đã xông vào Phan gia, sát hại Phan nương trong khoảng thời gian từ trưa ngày Mười Lăm đến sáng ngày Mười Sáu.”
“Vì hung thủ hẳn phải biết trước việc Phan Phong sẽ rời thành vào chiều hôm ấy,” Đào Cam suy luận, “nên nhất định hắn phải hiểu rõ về phu thê họ Phan. Diệp Thái có thể cho chúng ta biết Phan nương hay giao du với những ai, hắn có vẻ rất thân thiết với muội muội của mình.” “Đằng nào thì cũng phải điều tra Diệp Thái thôi.” Địch Thứ sử nói. “Chúng ta phải cẩn thận điều tra mọi hoạt động của hắn sau khi biết được những chuyện ở sòng bạc kia. Còn ta sẽ đích thân thẩm vấn Phan Phong về các bằng hữu của y. Giờ thì hãy bàn đến vụ mất tích của Liêu Liên Phương. Theo lời gã buôn gạo, bằng hữu của Đào Cam, Liêu tiểu thư từng lén lút qua lại với một nam nhân trẻ tuổi tại một khách điếm trong chợ, gần tửu quán Xuân Phong. Hình như chính là căn nhà mà tên quy nô kia đã nhắc đến. Vài ngày sau, ả nữ nhân tiếp cận Liêu tiểu thư cũng ở ngay khu vực đó, và nàng ta đã lẻn đi theo ả. Ta đoán ả đã nói với Liêu tiểu thư rằng gã tình nhân đang đợi, thế nên nàng ta mới đi theo. Còn vai trò của gã đội mũ đen thì vẫn chưa rõ.” “Chắc chắn hắn không phải là tình nhân của Liêu cô nương rồi.” Hồng Sư gia nói. “Gã buôn gạo mô tả gã tình nhân là một thanh niên gầy gò, còn tiểu tử kia lại nhắc đến một nam nhân cao to bặm trợn.” Địch Thứ sử gật gù. Ông trầm tư vuốt râu hồi lâu, đoạn nói tiếp: “Ngay sau khi nghe Đào Cam kể về cuộc hẹn bí mật của Liêu tiểu thư, ta đã cử Bộ đầu đến tiệm gạo và bảo gã buôn gạo dẫn y đến chỗ căn nhà ấy. Sau đó thì đến dinh cơ của Chu Đạt Nguyên để đưa Vũ Khang về đây. Lão Hồng hãy đi xem thử Bộ đầu đã về hay chưa.”
Hồng Sư gia ra ngoài một lát rồi về bẩm lại: “Nơi hẹn hò của Liêu tiểu thư quả thật là căn nhà ngay đối diện tửu quán. Những người sống gần đó khai rằng mụ tú bà vừa chết ngày hôm kia, và tì nữ duy nhất ở nhà đó đã về quê rồi. Họ cũng biết là trong nhà đó xảy ra nhiều việc mờ ám, thường thì vào đêm hôm khuya khoắt có rất nhiều tiếng ồn, nhưng họ nghĩ cứ làm ngơ đi cho xong. Bộ đầu đã cho người phá cửa xông vào. Nội thất trong nhà sang trọng hơn các nhà cùng khu vực đó. Nhà vẫn còn để trống từ lúc mụ tú bà chết, vẫn chưa có bà con nào đến nhận. Bộ đầu đã kê khai mọi đồ đạc và niêm phong căn nhà lại rồi.” “Ta không tin y sẽ kê khai hết mọi thứ đâu.” Địch Thứ sử nói. “Ta đồ rằng hầu hết tài sản tịch biên sẽ được Bộ đầu mang về nhà mình. Cứ mỗi khi y bỗng nhiên sốt sắng như thế là ta nghi ngờ lắm. Thật đáng tiếc là mụ tú bà lại qua đời ngay lúc này, vì mụ có thể kể với chúng ta nhiều điều về tình nhân bí mật của Liêu Liên Phương. Mà Vũ Khang đã đến chưa?” “Họ Vũ đang ngồi ngoài vọng gác, thưa đại nhân.” Hồng Sư gia đáp. “Lão phu sẽ đi gọi y vào ngay.” Khi Hồng Sư gia đưa Vũ Khang vào, Địch Thứ sử nhận thấy gã thanh niên vốn khôi ngô tuấn tú giờ đây dung nhan tiều tụy, tinh thần suy sụp, đôi môi tái nhợt mấp máy co giật, chân tay luống cuống. “Ngồi đi, Vũ Khang,” Địch Thứ sử ôn tồn nói. “Cuộc điều tra đã có chút tiến triển, nhưng ta nghĩ là nên tìm hiểu thêm về hôn thê của ngươi. Nói ta nghe xem, hai ngươi đính ước được bao lâu rồi?”
“Đã được ba năm rồi, thưa đại nhân,” Vũ Khang run rẩy đáp. Địch Thứ sử nhướng mày rồi nói: “Người xưa thường nói ‘cưới vợ phải cưới liền tay, chớ để lâu ngày lắm kẻ dèm pha’.” Mặt Vũ Khang bỗng đỏ bừng. Y vội nói: “Chỉ là… Liêu lão gia có ý đồ từ hôn, liên tục trì hoãn hôn kỳ. Liêu lão gia chê tiểu nhân nghèo, muốn kén nơi nhà cao cửa rộng để gả Liên Phương. Về phần phụ mẫu của tiểu nhân, vì họ sống ở miền Nam xa xôi, họ đã nhờ Chu lão gia thay mặt quản giáo tiểu nhân. Tiểu nhân sống ở Chu phủ từ khi đến đây, và Chu lão gia có một nỗi lo rất chính đáng là sau khi tiểu nhân thành gia lập thất, lão gia sẽ không thể kiểm soát thời gian của tiểu nhân được nữa. Chu lão gia luôn xem tiểu nhân như con, thưa đại nhân, và tiểu nhân nhận thấy mình không nên thành hôn sớm.” Địch Thứ sử không bình luận gì. Thay vào đó, ông hỏi: “Theo ngươi thì chuyện gì đã xảy ra với Liêu tiểu thư?” “Tiểu nhân không biết!” Y thống khổ kêu lớn. “Tiểu nhân lo lắng, tiểu nhân rất sợ…” Địch Thứ sử yên lặng nhìn Vũ Khang lời còn chưa dứt, nước mắt đã chảy dài. “Có phải là,” ông bất ngờ lên tiếng, “ngươi sợ rằng nàng ta đã bỏ trốn cùng một nam nhân khác?” Vũ Khang ngẩng mặt lên. Y cười trong nước mắt, nói: “Không, thưa đại nhân, điều đó hoàn toàn không thể! Liên Phương là một nữ nhân chung thủy, nàng không giống song thân chê nghèo tham giàu, vẫn giữ lời thề son sắt không hề thay đổi, tiểu nhân chắc chắn nàng chẳng có tình nhân nào khác. Dù song thân có bắt ép nàng gả cho kẻ khác thì nàng cũng quyết chẳng theo đâu.”
“Nhưng mà,” Địch Thứ sử nghiêm trang đáp, “vài ngày trước khi nàng mất tích, có người thấy nàng cùng với một nam nhân rời khỏi khách điếm gần Xuân Phong tửu quán trong chợ.” Mặt của Vũ Khang bỗng nhiên trắng bệch. Y trợn tròn mắt nhìn chằm chằm vào Địch Thứ sử như thể đang nhìn thấy ma. Bỗng nhiên y kêu thất thanh: “Vậy ra… đại nhân đã biết hết chuyện rồi ư!” Y bắt đầu khóc nức nở. Địch Thứ sử ra hiệu cho Hồng Sư gia mời y một chén trà. Y uống lấy uống để, sau đó y nói tiếp với giọng điềm tĩnh hơn: “Bẩm đại nhân, Liên Phương đã tự tử, và cái chết của nàng ấy là lỗi của tiểu nhân.” Địch Thứ sử kinh ngạc, ngồi tựa lưng vào ghế. “Ngươi giải thích đi, Vũ Khang.” Vũ Khang lau nước mắt, cố gắng bình tĩnh lại và bắt đầu kể: “Khoảng sáu tuần trước, có một hôm Liên Phương cùng nhũ mẫu đến Chu phủ để đưa thư mà thân mẫu nàng viết cho Chu Đại phu nhân. Vì phu nhân đang tắm nên họ phải chờ. Trong lúc chờ đợi, Liên Phương đi dạo trong hoa viên và gặp tiểu nhân. Phòng của tiểu nhân vốn ở ngay trong khu nhà ấy; tiểu nhân đã thuyết phục nàng về phòng mình… Sau đó, tiểu nhân và Liên Phương lén lút gặp nhau vài lần nữa ở khách điếm trong chợ. Nhũ mẫu của Liên Phương có một người bạn mở cửa tiệm ở gần đó, nên bà ta thường để nàng tự do đi xem các gian hàng ngoài phố trong lúc bà ta trò chuyện với bạn mình. Lần cuối tiểu nhân và nàng gặp nhau ở đó là hai ngày trước khi nàng mất tích.”
“Vậy ra ngươi chính là kẻ đã rời khỏi khách điếm mà người ta trông thấy!” Địch Thứ sử ngắt lời. “Vâng, thưa đại nhân,” Vũ Khang buồn bã đáp, “chính là tiểu nhân. Hôm ấy, Liên Phương bảo rằng có lẽ nàng đã mang thai. Nàng rất hoảng loạn, vì việc làm đáng hổ thẹn của chúng tiểu nhân sẽ bị người ta biết. Tiểu nhân cũng rất hoang mang lo lắng. Tiểu nhân biết Liêu lão gia sẽ đuổi nàng ra khỏi nhà, và Chu lão gia cũng sẽ sa thải tiểu nhân trong nhục nhã. Tiểu nhân đã hứa sẽ làm mọi điều có thể để thuyết phục Chu lão gia sớm tác thành cho hôn sự mình, Liên Phương cũng nói sẽ cầu xin phụ mẫu. “Ngay chiều hôm đó, tiểu nhân đề cập đến chuyện hôn sự với Chu lão gia, nhưng lão gia vừa nghe đã nổi trận lôi đình và mắng tiểu nhân là kẻ vô liêm sỉ. Tiểu nhân lén viết thư gửi cho Liên Phương, hối thúc nàng thuyết phục phụ mẫu. Nhưng Liêu lão gia còn cố chấp hơn cả Chu lão gia, hẳn lão đã dứt khoát cự tuyệt. Ắt hẳn Liên Phương quá tuyệt vọng nên đã tự tử. Và kẻ hèn này phải chịu trách nhiệm cho cái chết của nàng.” Nói đến đây y bật khóc. Sau một hồi, y nghẹn ngào kể tiếp: “Suốt ba ngày qua, bí mật này đã ám ảnh tiểu nhân; từng giờ từng phút tiểu nhân đều run sợ, chỉ lo nhận được tin có người đã tìm ra thi thể của nàng. Và rồi tên vô lại Diệp Thái kia đến gặp tiểu nhân, bảo là hắn đã biết chuyện tiểu nhân và Liên Phương lén lút hẹn hò. Tiểu nhân đã nuốt giận mà đưa tiền cho hắn, nhưng hắn hết lần này đến lần khác được voi đòi tiên, lòng tham không đáy. Hôm nay hắn lại đến gặp tiểu nhân, và…”
“Làm sao mà Diệp Thái biết được bí mật của ngươi?” Địch Thứ sử ngắt lời. “Chuyện là,” Vũ Khang đáp, “có một mụ nô bộc già họ Lưu đã nhìn thấy chúng tiểu nhân. Trước đây mụ làm công cho Diệp gia và là nhũ mẫu của Diệp Thái, mụ đã kể lại sự việc với hắn khi họ đứng nói chuyện bên ngoài thư phòng của Chu lão gia. Diệp Thái đến đó để trao đổi chút việc làm ăn với lão gia. Diệp Thái cam đoan với tiểu nhân rằng mụ kia đã hứa sẽ không kể với ai khác nữa.” “Mụ già đó không đến đe dọa ngươi sao?” Địch Thứ sử hỏi. “Không, thưa đại nhân,” Vũ Khang đáp, “nhưng tiểu nhân đã cố gắng tìm gặp mụ để bảo đảm rằng mụ sẽ giữ lời hứa. Tuy nhiên, cho đến tận hôm nay, tiểu nhân vẫn chưa gặp được mụ.” Nhìn thấy vẻ ngạc nhiên của Địch Thứ sử, Vũ Khang vội giải thích, “Chu lão gia chia phủ thành tám trạch viện, mỗi viện đều có phòng bếp và gia nhân riêng. Chính viện bao gồm nơi ở của Chu lão gia và Đại phu nhân, thư phòng của lão gia và tư phòng của tiểu nhân. Bảy tiểu thiếp của lão gia mỗi người có một viện riêng. Vì trong phủ có rất nhiều gia nhân và ai cũng được lệnh là chỉ được ở trong viện của mình, rất khó tìm ra một người để nói chuyện riêng. “Tuy nhiên, vào sáng hôm nay, sau khi bàn với lão gia về các tá điền, tiểu nhân vừa bước ra khỏi thư phòng thì tình cờ thấy mụ Lưu. Tiểu nhân đã hỏi ngay rằng mụ đã kể những gì với Diệp Thái về Liên Phương và mình, nhưng mụ vờ như không hay biết gì. Rõ ràng mụ vẫn còn rất trung thành với Diệp Thái.” Nói rồi y đau buồn nói thêm, “Nhưng dù sao thì bây giờ mụ có giữ bí mật hay không cũng chẳng quan trọng!”
“Quan trọng đó, Vũ Khang.” Địch Thứ sử vội nói. “Ta hiện có bằng chứng cho thấy Liêu tiểu thư không tự tử, mà đã bị kẻ gian bắt cóc.” “Là kẻ nào đã dụ dỗ, bắt cóc nàng?” Vũ Khang kinh hãi, vội thét lên. “Nàng đang ở đâu?” Địch Thứ sử giơ tay lên. “Bản quan vẫn còn đang điều tra,” ông điềm tĩnh đáp. “Vũ Khang, ngươi đừng lo lắng, cũng đừng tuyệt vọng. Ngươi hãy cứ giữ kín bí mật của mình, để không kinh động đến kẻ bắt cóc Liêu tiểu thư. Khi Diệp Thái lại đến vòi tiền ngươi, hãy bảo hắn quay lại sau một, hai ngày. Ta tin là trong thời gian đó, ta sẽ tìm ra vị hôn thê của ngươi, cũng đã bắt giữ được kẻ gian đã dụ dỗ nàng. “Có điều, Vũ Khang, ta có vài câu cần giáo huấn ngươi. Ngươi và Liêu tiểu thư chưa thành hôn, lại làm ra chuyện bại hoại gia phong như vậy, không chỉ bôi nhọ tổ tông của mình, mà còn làm tổn thương danh tiết cả đời của Liêu tiểu thư. Sau khi nàng mất tích, ngươi lại chậm chạp không đến công đường nói rõ chuyện uẩn khúc, trì hoãn việc truy bắt của nha phủ, kéo dài thời gian Liêu tiểu thư phải chịu đựng thống khổ. Ngươi hãy tự kiểm điểm bản thân đi! Nếu Liêu tiểu thư quả thực gặp chuyện bất trắc, thì tội nghiệt của ngươi cũng không nhỏ. Giờ ngươi hãy trở về đi, nha phủ sẽ cho truyền gọi ngươi sau!” Vũ Khang dập đầu chạm đất, sợ sệt cảm ơn rồi đi ra. Các trợ thủ của Địch Thứ sử bắt đầu bàn tán xôn xao, nhưng ông giơ tay lên và nói:
“Thông tin này đã làm sáng tỏ vụ mất tích bí ẩn của Liêu tiểu thư. Tên vô lại Diệp Thái chính là kẻ tình nghi lớn nhất, vì ngoài mụ già kia thì chỉ có hắn biết bí mật của Vũ Khang và Liêu tiểu thư. Mà tướng mạo của hắn cũng giống mô tả về nam nhân Thát Đát của tiểu tử câm kia. Thiếu phụ báo tin giả cho Liêu cô nương chắc hẳn là mụ tú bà. Nhưng mụ không đưa nàng ta đến khách điếm mà giam giữ nàng tại một nơi bí mật nào đó, cho Diệp Thái thỏa mãn dục vọng hoặc bán qua tay cho kẻ khác. Có trời mới biết nàng ta đang bị ngược đãi thế nào. Đã vậy, hắn còn dám to gan lớn mật tống tiền Vũ Khang!” “Đại nhân hãy mau hạ lệnh cho chúng thuộc hạ bắt giữ Diệp Thái về quy án đi!” Mã Vinh tức giận kêu lên. “Được rồi!” Địch Thứ sử gật đầu đồng ý. “Ngươi và Kiều Thái hãy tới Diệp gia; chắc bây giờ huynh đệ bọn họ đang ăn cơm tối. Các ngươi đừng tùy tiện xông vào, chỉ cần lẳng lặng chờ ngoài cửa. Khi Diệp Thái đi ra thi các ngươi hãy lặng lẽ đi theo hắn, hắn sẽ dẫn các ngươi tới hang ổ bí mật đang giam giữ Liêu tiểu thư. Khi hắn vào trong, các ngươi hãy xông vào bắt hắn cùng tất cả những kẻ có liên quan. Nhưng cần cẩn thận bảo vệ Liêu tiểu thư, tránh để nàng bị thương tổn. Còn nếu Diệp Thái dám phản kháng, thì không cần nhẹ tay, cứ cho hắn một bài học. Các ngươi mau đi đi!” HỒI 9 Thứ sử dẫn trẻ lạc về nhà
Quan án nhận thêm tin án mạng Mã Vinh và Kiều Thái vội vã ra ngoài, ngay sau đó Hồng Sư gia và Đào Cam cũng đi ăn cơm tối. Địch Thứ sử bắt đầu xem qua một tập công văn dày. Có tiếng gõ cửa nhẹ nhàng. Tưởng là nha dịch mang cơm rượu vào, Địch Thứ sử nói to “Mời vào!,” tay đẩy chồng giấy sang một bên. Nhưng khi ngẩng lên, ông nhìn thấy Quách phu nhân đang đẩy cửa bước vào. Quách phu nhân khoác áo choàng lông xám dài có mũ trùm, vẻ dịu dàng đoan trang. Khi phu nhân thỉnh an, Địch Thứ sử ngửi thấy mùi hương hệt như mùi thảo dược dễ chịu ở Tế Sinh Đường. “Quách phu nhân, mời ngồi!,” Địch Thứ sử vội nói, “đây không phải là công đường.” Sau khi an tọa, Quách phu nhân đáp: “Bẩm đại nhân, dân phụ lấy hết dũng khí đến đây để hồi báo về hai cô nương bị áp giải đến nha môn chiều nay.” “Nói tiếp đi.” Địch Thứ sử ngả người vào ghế bành. Khi cầm chén trà lên ông mới biết trà đã cạn từ lâu, vì thế ông lại đặt chén lên bàn. Quách phu nhân nhanh chóng đứng dậy, cầm lấy ấm trà ở góc bàn rồi châm trà cho ông. Quách phu nhân bắt đầu nói: “Cả hai cô nương đều là nhi nữ của những gia đình nông dân phía Nam. Mùa thu năm ngoái, song thân bán họ cho một tên buôn người vì mùa màng thất bát. Y dẫn họ đến Bắc Châu rồi bán họ vào kỹ viện trong chợ. Tú bà đã đưa họ đến tư gia đó rồi nhiều lần dạy họ chiêu trò tống tiền như họ đã thực hiện hôm qua.
“Dân phụ không nghĩ hai vị cô nương đó là loại hư hỏng. Họ cũng chán ghét cuộc sống của mình nhưng chẳng thể thay đổi được gì, bởi vụ bán người đã thành giao, tú bà đã nhận tờ khế ước có dấu điểm chỉ của song thân họ.” Địch Thứ sử thở dài. “Lại là một câu chuyện xưa cũ.” ông nói. “Tuy nhiên, vì tú bà mở kỹ viện không có môn bài nên chúng ta có thể xử lý được. Những tên vô lại kia đối xử với hai vị cô nương thế nào?” “Đó cũng là một câu chuyện xưa.” Quách phu nhân cười buồn. “Họ thường xuyên bị đánh đập, suốt ngày phải đầu tắt mặt tối quét nhà lau cửa, thổi cơm nấu nước.” Quách phu nhân chỉnh mũ trùm với một cử chỉ duyên dáng. Địch Thứ sử không khỏi nghĩ rằng nàng thật sự là một nữ nhân quyến rũ khác thường. “Những kẻ mở kỹ viện không có môn bài,” quan án nói, “thông thường phải đóng tiền phạt. Mức phạt đó cũng chẳng đáng là bao, tú bà sẽ trả tiền và buộc các cô nương phải bù lại khoản đó. Nhưng hắn còn phạm tội tống tiền nên chúng ta sẽ tuyên bố khế ước bán thân là vô hiệu. Vì phu nhân nhận xét họ là những cô nương tử tế, ta sẽ trả họ về với gia đình.” “Đại nhân thật chu đáo.” Quách phu nhân nói. Địch Thứ sử vẫn còn muốn tiếp tục đàm đạo, nhưng Quách phu nhân đã đứng dậy chờ ông cho phép lui ra rồi. Bỗng nhiên thấy bực dọc với chính mình, ông nói cộc lốc: “Cảm ơn Quách phu nhân đã kịp thời hồi báo. Phu nhân có thể lui rồi.”
Quách phu nhân hành lễ rồi cung kính lui ra. Địch Thứ sử bắt đầu đi đi lại lại, tay chắp sau lưng. Thư phòng bỗng chốc cô đơn và lạnh lẽo hơn bao giờ hết. Ông nghĩ có lẽ lúc này các phu nhân của mình đã đến trạm dịch đầu tiên, ông tự hỏi liệu họ ăn ở tại đó có thoải mái không. Sau khi nha dịch mang cơm tối vào, Địch Thứ sử liền ăn ngấu nghiến. Ăn xong, ông đứng dậy uống trà, gần lò than. Cánh cửa mở ra, Mã Vinh bước vào, trông y khá chán nản. “Bẩm đại nhân, sau bữa trưa, Diệp Thái đã ra ngoài,” y hồi báo, “vẫn chưa thấy hắn về nhà ăn cơm tối. Gia nhân thưa rằng Diệp Thái thường cùng đám cờ bạc đến tửu lâu ăn uống say khướt, đêm khuya mới về nhà. Kiều Thái huynh chắc còn đang ở đó theo dõi.” “Thật đáng tiếc,” Địch Thứ sử nói, “ta hy vọng có thể giúp cô nương kia thoát khỏi đó thật nhanh chóng. Tối nay có theo dõi thêm nữa e rằng cũng chẳng ích gì. Sáng mai Diệp Thái chắc chắn sẽ cùng Diệp Bân đến công đường nghe thẩm án, lúc đó bắt giữ y cũng không muộn.” Khi Mã Vinh rời đi, Địch Thứ sử ngồi xuống bàn. Ông lại cầm công văn lên và cố gắng đọc tiếp. Nhưng ông không thể tập trung. Ông rất bực bội vì Diệp Thái không có nhà. Ông tự nhủ rằng tức giận như vậy thật là vô lý, nhưng tại sao tên vô lại này có thể chọn đúng đêm nay để tìm đến sào huyệt bí mật của mình chứ? Điều rắc rối chính là không thể hành động ngay bây giờ trong khi vụ án đã sắp sửa đến hồi kết. Có lẽ chính lúc này, sau khi cơm no rượu say tại một tửu lâu, y đang trên đường tới sào huyệt đây. Chiếc mũ chóp đen đó có thể khiến y dễ dàng bị phát hiện trong đám đông… Đột nhiên, Địch Thứ sử nghĩ tới lần trước ở gần miếu Thành Hoàng, ông đã nhìn thấy trong đám đông có kẻ đội chiếc mũ chóp đen như vậy.
Địch Thứ sử đứng dậy, bước đến cái tủ lớn kê sát tường và lục lọi đống y phục cũ bên trong. Ông tìm thấy một chiếc áo khoác lông chắp vá đã sờn nhưng vẫn đủ để giữ ấm. Sau khi mặc áo khoác vào, ông đổi từ mũ tròn sang một chiếc khăn quàng dày, ông quấn khăn thật chặt xung quanh đầu và dưới mặt. Sau đó ông lấy hòm thuốc cũ đeo lên vai. Nhìn vào gương, Địch Thứ sử thấy mình trông như một đại phu giang hồ. Ông lặng lẽ ra khỏi nha phủ từ cửa sau. Trời đã tối, gió dịu dần, tuyết như lông ngỗng rơi lả tả, bách tính xa gần đều đóng chặt cửa, tiếng chó sủa cũng chỉ còn văng vẳng. Địch Thứ sử vội vã đi về phía miếu Thành Hoàng. Xung quanh miếu Thành Hoàng yên tĩnh, bên trong nhang đèn đều đã tắt, tìm đâu ra cái mũ chóp đen bây giờ? Địch Thứ sử không khỏi cười khổ, cảm nhận được một nỗi buồn phiền không tên. Ông cho rằng mình có thể sẽ gặp được Diệp Thái. Nhưng ông cũng thất vọng nhận ra bản thân không thật sự muốn gặp y, điều ông thật sự muốn chính là thay đổi không khí. Làm gì cũng được, ngoài việc ngồi trong thư phòng lạnh lẽo, đơn độc… Địch Thứ sử chán nản với chính mình. Ông đứng yên và nhìn quanh. Ông thấy mình đang đứng trong một con hẻm nhỏ rất tối tăm, xung quanh không một bóng người. Ông nhanh nhẹn đi thẳng về trước, chỉ cần rẽ qua lối kia, qua miếu Khổng Tử là về đến nha phủ rồi. Đột nhiên phía trước vang lên tiếng thút thít. Địch Thứ sử dừng bước nhìn quanh, ông thấy một tiểu nha đầu khoảng năm, sáu tuổi đang co ro ngồi khóc nức nở dưới một mái hiên tối tăm, trên đầu phủ đầy tuyết, khuôn mặt đỏ ửng lên vì lạnh.
“Tiểu nha đầu, có chuyện gì vậy?” Địch Thứ sử tốt bụng hỏi. “Cháu lạc đường rồi, cháu không về nhà được!” Tiểu nha đầu khóc nức nở. “Ta biết nhà cháu, ta sẽ đưa cháu về!” Địch Thứ sử an ủi tiểu nha đầu. Ông đặt hòm thuốc xuống, vươn tay ẵm lấy nó. Khi thấy cơ thể nhỏ bé đang run rẩy trong chiếc áo choàng mỏng, ông nới lỏng áo khoác lông và ôm nó vào lòng. Chẳng bao lâu, tiểu nha đầu đã ngừng khóc. “Đầu tiên cháu phải giữ ấm đã,” Địch Thứ sử nói. “Sau đó bá bá sẽ đưa cháu về,” tiểu nha đầu thỏa mãn nói. “Được.” Ông đáp. “Mẫu thân gọi cháu là gì?” “Mai Lan,” tiểu nha đầu dùng giọng trách móc nói. “Bá bá đã biết rồi mà?” “Tất nhiên!” Địch Thứ sử đáp. “Cháu là Vương Mai Lan mà.” “Bá bá trêu cháu!” Tiểu nha đầu bĩu môi. “Bá bá thừa biết cháu là Lục Mai Lan.” “Ta biết chứ,” Địch Thứ sử đáp, “phụ thân của cháu bán hàng ở…” “Bá bá lại giả vờ rồi!,” tiểu nha đầu thất vọng đáp. “Phụ thân chết rồi, mẫu thân phải trông tiệm vải bông. Bá bá chẳng biết gì hết.” “Ta là đại phu nên rất bận rộn.” Địch Thứ sử bào chữa. “Giờ hãy nói cho ta biết, khi cháu cùng mẫu thân ra chợ thì rẽ sang phía nào của miếu Thành Hoàng?” “Phía có hai con sư tử đá,” tiểu nha đầu trả lời rất nhanh. “Bá bá thích con nào nhất?” “Con có quả tú cầu dưới chân.” Địch Thứ sử đáp, lòng thầm hy vọng lần này ông đoán trúng. “Cháu cũng thế!” Tiểu nha đầu vui vẻ nói. Địch Thứ sử đứng dậy. Ông đeo hòm thuốc lên vai bằng một tay, tay kia ẵm tiểu nha đầu và đi về miếu hướng Thành Hoàng.
“Cháu ước gì mẫu thân cho cháu xem con mèo con.” Tiểu nha đầu đăm chiêu nói. “Mèo con nào?” Địch Thứ sử lơ đãng hỏi. “Có một đại thúc thường tới nhà cháu gặp mẫu thân, đại thúc cứ gọi mèo con, mèo con,” đứa trẻ sốt ruột nói. “Bá bá không biết đại thúc ấy sao?” “Ta không biết,” Địch Thứ sử trả lời. Để khiến cô bé được vui, ông hỏi, “Đại thúc đó là ai vậy?” “Cháu cũng không biết,” đứa trẻ trả lời. “Cháu tưởng bá bá có quen đại thúc ấy. Đại thúc thường đến nhà vào ban đêm, khi cháu đã ngủ. Nhưng khi cháu hỏi mẫu thân xem con mèo ở đâu, cháu muốn chơi với con mèo, cháu thích mèo nhất, thì mẫu thân rất tức giận, mắng cháu rồi đánh cháu, bảo cháu gặp ác mộng, trong nhà làm gì có mèo. Nhưng thật sự cháu đã nghe đại thúc kia nói chuyện với mèo mà.” Địch Thứ sử thở dài. Có lẽ Lục quả phụ đang bí mật qua lại với một nam nhân. Họ hiện đang đứng trước đền thờ. Địch Thứ sử hỏi thăm một chủ sạp xem tiệm vải bông của Lục nương ở đâu, chủ sạp liền chỉ cho ông. Sau khi đi tiếp, ông hỏi tiểu nha đầu: “Tiểu nha đầu, sao muộn như vậy cháu còn ra khỏi nhà?” “Cháu gặp ác mộng,” tiểu nha đầu đáp, “khi tỉnh dậy cháu sợ quá nên chạy ra ngoài tìm mẫu thân.” “Sau cháu không tìm nhũ mẫu?” Địch Thứ sử hỏi. “Sau khi phụ thân qua đời, mẫu thân đã đuổi thẩm thẩm ấy đi rồi,” tiểu nha đầu đáp, “vậy nên tối nay không có ai ở nhà cả!” Địch Thứ sử dừng bước trước một cửa tiệm treo bảng hiệu “Lục ký,” nằm trên một con đường yên tĩnh. Sau khi ông gõ cửa, cửa mở ra rất nhanh. Một thiếu phụ mảnh mai xuất hiện. Sau khi nhấc đèn lồng lên, mụ dò xét Địch Thứ sử và giận dữ quát:
“Tên lang băm kia, ngươi đã lừa nhi nữ của ta đi đâu?” “Lệnh ái chạy ra khỏi nhà và đi lạc, đang khóc ở trong một hẻm nhỏ thì gặp ta.” Địch Thứ sử sững sờ nhưng vẫn bình tĩnh đáp. “Phu nhân nên chăm sóc lệnh ái tốt hơn, lệnh ái ăn vận quá đơn bạc, có thể bị phong hàn đó.” Thiếu phụ chua ngoa liếc nhìn Địch Thứ sử, nhếch đôi môi mỏng, châm chọc nói: “Ngươi lại định bán thuốc giả sao, đồ lang băm! Ta sẽ không bố thí cho ngươi đồng nào đâu.” Nói rồi mụ liền kéo nhi nữ vào nhà, đoạn đóng sầm cửa lại. “Quả là một nữ nhân dịu dàng.” Địch Thứ sử lầm bầm. Ông nhún vai rồi quay ra đường lớn, chậm rãi hướng về nha phủ. Khi đang chen qua đám đông trước cửa tiệm mì lớn, ông va vào hai nam nhân cao lớn có vẻ đang rất vội. Một gã tức giận túm lấy vai Địch Thứ sử, định lớn tiếng chửi rủa. Đột nhiên y buông tay ra và kêu lớn: “Ôi trời! Là đại nhân mà!” Địch Thứ sử mỉm cười nhìn khuôn mặt ngạc nhiên của Mã Vinh và Kiều Thái, ông ngượng ngập nói: “Ta muốn đi một vòng tìm Diệp Thái, nhưng ta bận đưa một tiểu nha đầu lạc đường về nhà. Giờ chúng ta có thể cùng nhau đi tìm rồi.” Khuôn mặt thiểu não của hai trợ thủ vẫn không hề giãn ra. Địch Thứ sử lo lắng hỏi: “Có chuyện gì vậy?” “Bẩm đại nhân,” Mã Vinh khó nhọc nói, “chúng thuộc hạ đang chuẩn bị quay về nha phủ hồi báo. Đã phát hiện Lam đại ca bị sát hại trong nhà tắm.” “Như thế nào?” Địch Thứ sử vội hỏi.
“Bẩm đại nhân, là bị hạ độc!” Kiều Thái cay đắng nói. “Một thủ đoạn đê tiện.” “Mau đến đó.” Địch Thứ sử đáp ngắn gọn. HỒI 10 Địch Công vội tới Cam Tuyền trì Ngỗ tác phát hiện hoa tẩm độc Một đám đông đang tụ tập trước cửa nhà tắm Cam Tuyền trì. Tuần đinh đứng canh gác trước cổng. Họ định ngăn Địch Thứ sử lại nhưng ông đã mất kiên nhẫn kéo chiếc khăn che mặt xuống. Nhận ra Thứ sử đại nhân, đám người vội vã đứng sang một bên. Trong sảnh lớn, một nam nhân vừa mập vừa lùn với khuôn mặt tròn tiến lại phía quan nha và tự xưng là chưởng quỹ nơi đây. Địch Thứ sử chưa từng đến nhà tắm này bao giờ nhưng ông biết Cam Tuyền trì được xây trên một suối nước nóng tự nhiên, chưởng quỹ nhiều năm lao tâm khổ tứ, cũng gây dựng được chút quy mô, chuyện làm ăn từ trước đến nay chưa có sai phạm gì. Địch Thứ sử thấy ngoại trừ bể tắm lớn ở ngoài trời, còn có rất nhiều ao nhỏ trong phòng đơn. Ao nhỏ trong phòng đơn được phục vụ chu đáo, nước nóng trong suốt, không thấy một vết bẩn nào, bởi vì phòng đơn chỉ dành cho một khách sử dụng, thu phí cao hơn nhiều so với bể tắm chung. “Hãy đưa ta tới hiện trường vụ án.” Địch Thứ sử ra lệnh. Chưởng quỹ đưa họ đến phòng đơn cuối dãy, hơi nước vẫn đang bốc lên nghi ngút. Mã Vinh và Kiều Thái phải cởi áo choàng ra. “Đại nhân, ngài nên cởi hết y phục ra, trừ tiết sam. Bên trong thậm chí còn nóng hơn nữa đó.” Mã Vinh đưa ra lời cảnh báo.
Trong lúc Địch Thứ sử cởi y phục, chưởng quỹ giải thích rằng Lam Đường chủ thường hai ngày lại đến Cam Tuyền trì tắm rửa một lần, mỗi lần đều dùng phòng cuối dãy vì ở đó khá yên tĩnh. Chưởng quỹ đẩy mạnh cánh cửa gỗ nặng nề. Luồng hơi nước nóng bên trong tạt thẳng vào mặt những người đang đứng trước cửa. Địch Thứ sử mơ hồ thấy hình bóng của hai nô bộc mặc y phục bằng vải dầu màu đen để tránh hơi nóng. “Hai người các ngươi hãy ra ngoài và yêu cầu tất cả mọi người rời khỏi nhà tắm này.” Chưởng quỹ ra lệnh và quay sang phía Địch Thứ sử, “Đại nhân, đây là phòng tắm của Lam Đường chủ.” Mọi người bước vào một phòng tắm lớn. Hồng Sư gia và Đào Cam lặng lẽ nhường đường cho Địch Thứ sử. Địch Thứ sử thấy trong phòng một cái bàn đá nhỏ và một cái ghế dài bằng tre. Cơ thể trần trụi của Lam Đại Khôi nằm phục trên sàn đá bên bờ ao nhỏ, giữa bộ bàn ghế. Khuôn mặt y méo mó, xanh xao đến đáng sợ, còn lưỡi thì sưng to lên và thè ra ngoài. Địch Thứ sử nhanh chóng quay đi. Ông thấy một ấm trà lớn trên bàn đặt cùng vài mảnh bìa cứng. Mã Vinh chỉ xuống sàn nhà và nói, “Đại nhân, chén trà của Lam đại ca bị vỡ nát rồi.” Địch Thứ sử cúi xuống và nhìn những mảnh vỡ. Ông nhặt phần đáy của chén trà vỡ kia lên. Bên trong vẫn còn một chút vụn trà màu nâu. Ông cẩn thận đặt nó lên bàn đá rồi hỏi chưởng quỹ: “Các ngươi phát hiện Lam Đường chủ đã chết như thế nào?”
Chưởng quỹ cung kính đáp: “Lam Đường chủ có thói quen, khi đến đây tắm trước hết sẽ ngâm mình trong ao nước nóng khoảng nửa canh giờ*, sau đó dùng trà và luyện công. Chúng thảo dân thường được lệnh không làm phiền. Sau khi luyện công, đường chủ sẽ tự mở cửa và gọi người đến pha trà mới, dùng vài chén rồi mặc y phục và trở về nhà.” 1 canh giờ bằng 2 tiếng. Chưởng quỹ ngẫm nghĩ rồi nói tiếp: “Vì tất cả nô bộc ở đây đều biết thói quen của Lam Đường chủ nên sẽ luôn có một nô bộc đợi ở hành lang cho tới lúc đường chủ rời đi. Tối nay, Lam Đường chủ không luyện công, cũng không mở cửa. Nô bộc đứng ở bên ngoài đợi thêm nửa canh giờ nhưng không dám vào quấy rầy nên đã chạy đến tìm thảo dân. Thảo dân biết thói quen của đường chủ, sợ rằng đường chủ bị cảm mạo gì đó nên đã lập tức chạy đến mở cửa. Và thảo dân nhìn thấy…” Mọi người đều im bặt. Sau cùng, Hồng Sư gia lên tiếng: “Chưởng quỹ đã cử người đến nha môn báo tin. Vì lúc đó đại nhân ra ngoài nên lão phu đã ngay lập tức đến đây bảo vệ hiện trường. Tất cả đều chưa bị xáo trộn. Lão phu cùng Đào Cam đã hỏi tất cả nô bộc ở đây, còn Mã Vinh và Kiều Thái tra xét những khách đến tắm vừa mới rời đi. Nhưng không ai nhìn thấy có kẻ nào bước vào hoặc rời khỏi phòng của Lam Đường chủ.” “Như vậy thì trà đã bị hạ độc như thế nào?” Địch Thứ sử hỏi. “Chắc chắn trà đã bị hạ độc trong chính căn phòng này, thưa đại nhân.” Hồng Sư gia nhận định. “Lão phu thấy trong phòng chờ có một vại trà lớn, nô bộc sẽ châm trà từ vại này vào những ấm trà nhỏ mời khách. Nếu hung thủ hạ độc vào vại trà thì chắc chắn tất cả khách đến tắm đều đã bị trúng độc hết rồi. Lam Đường chủ bất cẩn, không bao giờ khóa cửa, có thể hung thủ đã lẻn vào, hạ độc vào trà rồi lặng lẽ rời đi.”
Địch Thứ sử gật đầu. Ông chỉ vào bông hoa nhài vương trên một mảnh vỡ của chén trà và hỏi chưởng quỹ: “Các ngươi đãi khách bằng trà hoa nhài sao?” Chưởng quỹ lắc đầu phủ nhận: “Thưa đại nhân, không ạ. Chúng thảo dân chỉ dùng lá trà vụn, chứ không đủ tài lực để mua loại trà xa xỉ đó!” “Hãy đổ phần trà còn lại vào một hũ nhỏ.” Địch Thứ sử ra lệnh cho Đào Cam. “Sau đó, ngươi hãy gói những mảnh vỡ vào trong giấy dầu. Cẩn thận đó, đừng làm hỏng bông hoa nhài kia! Niêm phong cả ấm trà kia lại và mang nó về nha phủ kiểm nghiệm xem có độc hay không.” Đào Cam chậm rãi gật đầu. Y nhìn chằm chằm vào những mảnh bìa cứng trên bàn rồi lên tiếng: “Đại nhân, người nhìn này. Lúc kẻ sát nhân bước vào đây, Lam Đường chủ đang chơi Thất Xảo Bản.” Mọi người đều nhìn vào những mảnh bìa. Chúng dường như được sắp đặt ngẫu nhiên. “Ta chỉ nhìn thấy sáu miếng giấy.” Địch Thứ sử nhận định. “Hãy tìm kiếm miếng thứ bảy đi. Nó chắc chắn là một hình tam giác nhỏ thứ hai.” Trong lúc các trợ thủ đang rà soát sàn nhà, Địch Thứ sử đứng yên, nhìn xuống xác chết. Rồi ông bất chợt nói: “Bàn tay phải của Lam Đường chủ nắm chặt. Hãy xem thử xem trong đó có gì không.” Hồng Sư gia cẩn thận gỡ nắm đấm ra, quả nhiên thấy một mảnh bìa hình tam giác nhỏ dính lấy lòng bàn tay của họ Lam. Lão cầm lấy mảnh bìa và đưa cho Địch Thứ sử. “Hẳn là Lam Đường chủ đã xếp hình này ngay sau khi phát hiện mình trúng độc! Có thể y đã cố để lại manh mối gì đó về hung thủ chăng?” Địch Thứ sử nhận xét.
Đào Cam tiếp lời, “Nhưng thuộc hạ nhìn không ra hình gì cả. Có lẽ khi Lam Đường chủ ngã xuống đất đã làm xáo trộn những mảnh bìa này, cả chén trà cũng rơi vỡ mất.” “Đào Cam, ngươi hãy phác hoạ lại vị trí của những mảnh bìa này.” Rồi Địch Thứ sử quay sang nói với Sư gia, “Chúng ta sẽ tìm hiểu sau. Còn bây giờ, lão hãy gọi nha dịch chở thi thể này tới nha môn. Sau đó mấy người các ngươi cần phải kiểm tra phòng tắm này một lần nữa. Bây giờ, ta sẽ đi hỏi cối kế vài câu.” Địch Thứ sử quay người rời khỏi phòng. Trong phòng chờ, sau khi đã mặc y phục lại như cũ, Địch Thứ sử yêu cầu chưởng quỹ dẫn ông đến gặp cối kế ở lối vào nhà tắm. Địch Thứ sử ngồi xuống một chiếc ghế nhỏ gần quầy thu ngân rồi bắt đầu hỏi thăm gã cối kế đang toát mồ hôi lạnh: “Ngươi có nhớ Lam Đường chủ tới đây lúc nào không? Không cần sợ hãi. Vì lúc nào ngươi cũng ngồi ở vị trí này nên xem ra chỉ có ngươi là kẻ duy nhất không có khả năng ra tay. Hãy nói cho ta nghe!” “Bẩm đại nhân, thảo dân nhớ rất rõ ạ!” Cối kế lắp bắp. “Lam Đường chủ đến đây cũng vào giờ như thường lệ, trả năm đồng và đi vào trong.” “Đường chủ đi một mình sao?” Địch Thứ sử hỏi. “Bẩm đại nhân, đúng là thế ạ, cũng như mọi khi thôi ạ.” Gã trả lời. “Ta hiểu rồi. Vậy ngươi có còn nhớ những kẻ vào sau Lam Đường chủ không? Nếu là khách quen, ngươi nói ra tên của họ.”
Cối kế nhíu mày, ngẫm nghĩ một hồi rồi đáp: “Thưa đại nhân, thảo dân cũng nhớ được ít nhiều. Do Lam Đường chủ là một võ sư có tiếng nên thảo dân luôn chú ý tới. Đường chủ luôn đến vào thời điểm giao ca buổi tối. Đầu tiên là lão Lưu đồ tể trả hai đồng mua thẻ đen để vào bể tắm chung. Tiếp đó thì là Liêu phường chủ trả năm đồng mua thẻ đỏ để thuê một phòng tắm riêng. Lát sau, có bốn gã vô công rồi nghề ở chợ tới. Sau đó còn có…” “Ngươi biết cả bốn gã đó chứ?” Địch Thứ sử ngắt lời. “Tất nhiên, thưa đại nhân.” Cối kế trả lời. Hắn gãi gãi đầu rồi nói tiếp, “Có thể nói thảo dân quen mặt ba gã, vốn cũng chẳng phải hạng lương thiện gì, chỉ là những kẻ trộm gà bắt chó. Còn kẻ thứ tư mới tới đây lần đầu. Hắn là một thiếu niên y phục đen như người Thát Đát, đội mũ chóp đen sụp xuống che cả mắt mũi.” “Bọn họ thuê loại phòng tắm nào?” Địch Thứ sử hỏi. “Mỗi người trả hai đồng để vào bể tắm chung, thảo dân đã đưa cho họ những tấm thẻ bài màu đen, thưa đại nhân.” Địch Thứ sử nhíu mày. Thấy thế, cối kế vội vã lấy hai miếng gỗ đen, mỗi miếng có gắn một sợi dây từ chiếc giá treo trên tường xuống. “Đây là loại thẻ bài mà Cam Tuyền trì dùng, thưa đại nhân.” Cối kế giải thích. “Thẻ bài màu đen là dành cho phòng tắm chung còn thẻ bài màu đỏ là dành cho phòng tắm riêng. Khách đến đây sẽ đưa lại một nửa của tấm thẻ bài này cho những gia nô thay đồ ở phòng chờ. Một nửa còn lại của tấm thẻ bài có số giống như vậy thì khách giữ bên mình. Khi họ ra khỏi phòng tắm, họ phải đưa nửa tấm thẻ bài còn lại cho nô bộc ở phòng chờ thì mới nhận lại được y phục.”
“Các ngươi chỉ có cách quản lý này thôi sao?” Địch Thứ sử gắt lên. “Dạ đúng thế thưa đại nhân, chúng thảo dân chỉ làm thế với mục đích tránh khách đến đây tắm quỵt hoặc lấy mất y phục của người khác.” Địch Thứ sử tự nhủ với chính mình rằng ông cũng không thể mong đợi gì hơn. Địch Thứ sử lại hỏi: “Liêu phường chủ thuê ao nhỏ phòng đơn bên cạnh Lam đại sư sao?” “Thưa không, Liêu phường chủ ở Tây sảnh, Lam đại sư ở Đông sảnh, ở giữa có một phòng chờ lớn ngăn cách. Trong phòng chờ có đặt giường, đốt chậu than, để khách nằm nghỉ ngơi.” Địch Thứ sử gật gù, lại hỏi: “Ngươi có tận mắt thấy cả bốn gã đó rời khỏi nhà tắm không?” Cối kế chần chừ một chút, rồi lắc đầu. “Thưa đại nhân, thảo dân thực sự cũng không biết phải trả lời thế nào. Sau khi phát hiện ra vụ án mạng này, mọi người tụ tập quá đông nên thảo dân…” Hồng Sư gia và Mã Vinh bước tới. Hai người báo cáo lại rằng họ không tìm được thêm manh mối nào trong phòng tắm riêng kia nữa. Địch Thứ sử hỏi Mã Vinh: “Khi ngươi và Kiều Thái kiểm tra những khách tới đây tắm, ngươi có thấy kẻ nào mặc y phục Thát Đát không?” “Bẩm đại nhân, không ạ.” Mã Vinh trả lời. “Chúng thuộc hạ đã ghi lại tên và nơi ở của từng người. Nếu có kẻ nào mặc y phục Thát Đát thì thuộc hạ đã phải chú ý rồi vì ở đây thường không có nhiều người ăn vận như vậy.” Cối kế nói: “Thưa đại nhân, xem ra bốn gã đó chưa rời khỏi nhà tắm đâu, đại nhân nhìn kìa, kẻ đang đứng trước gương chải tóc chính là một trong số đó.”
Mã Vinh vội vàng kéo tiểu tử đó đến trước mặt Địch Thứ sử. Quan án nghiêm giọng hỏi: “Gã bằng hữu Thát Đát của ngươi đâu?” Thiếu niên hoảng sợ nhìn Địch Thứ sử. “Thưa đại nhân, thảo dân thực sự không quen biết hắn!” Y lắp bắp. “Hôm trước, thảo dân đã thấy hắn ở trước cửa nhà tắm đi tới đi lui, như đang chờ đợi ai. Hôm nay, lúc thảo dân cùng các bằng hữu vào nhà tắm, hắn liền đi theo sau.” “Ngươi hãy mô tả lại tướng mạo của hắn cho ta.” Địch Thứ sử ra lệnh. Thiếu niên trông có vẻ khó chịu. Sau khi suy nghĩ một hồi, y mới lên tiếng: “Có thể nói hắn khá thấp bé, lại đội mũ chóp đen kiểu Thát Đát sụp xuống, quấn khăn che nửa mặt nên thảo dân chỉ thoáng thấy hắn có một lọn tóc xoăn. Hắn cũng không nói chuyện với bọn thảo dân. Những người Thát Đát thường mang theo đao nữa, thế nên…” “Khi hắn vào bể tắm, ngươi có nhìn thấy hắn rõ hơn không?” Địch Thứ sử hỏi. “Chắc hắn đã mua thẻ đỏ thuê ao nhỏ phòng riêng rồi. Bọn thảo dân không hề nhìn thấy hắn trong bể tắm chung.” “Chỉ thế thôi sao?” Địch Thứ sử cụt hứng. Ông phất tay bảo Mã Vinh thả người, rồi nhanh chóng ra lệnh cho cối kế: “Ngươi mau đếm lại số thẻ bài đi.” Trong lúc cối kế tất bật phân loại các thẻ bài, Địch Thứ sử vừa quan sát vừa chậm rãi vuốt ve hàng ria mép. Một hồi sau, cối kế kêu thất thanh: “Thưa đại nhân, thẻ bài màu đen số ba mươi sáu đã biến mất.” Địch Thứ sử đột ngột đứng lên. Ông quay sang Hồng Sư gia và Mã Vinh rồi nói:
“Bây giờ chúng ta có thể quay lại nha môn rồi. Chúng ta đã biết những gì cần biết, biết kẻ sát nhân làm thế nào để ra vào phòng tắm mà không ai để ý và biết được phần nào tướng mạo của hắn. Đi thôi!” HỒI 11 Địch Công luận bàn án mạng mới Ngỗ tác kể lại nghi vấn xưa Suốt sáng hôm sau, Địch Thứ sử đã lệnh cho Quách Ngỗ tác tiến hành nghiệm thi Lam Đại Khôi. Rất nhiều người từ quý tộc đến thường dân Bắc Châu đều kéo đến công đường để nghe thẩm án. Sau khi nghiệm thi xong, Quách đại phu báo cáo, “Người này đã chết vì trúng độc, là độc từ rễ cây xà mộc miền Nam. Vụn trà và cánh hoa nhài trong chén đều có kịch độc. Thảo dân đem chút vụn trà còn lại cho một con chó già uống thử, nó liền chết ngay. Tuy nhiên, trà trong ấm lại hoàn toàn vô hại.” Địch Thứ sử hỏi: “Quách đại phu cho rằng chất độc được bỏ vào chén trà như thế nào?” Họ Quách trả lời, “Thảo dân đoán rằng hoa nhài trước đó đã bị tẩm độc rồi lén thả vào chén trà.” “Ngươi dựa vào đâu mà đưa ra phán đoán như vậy?” Địch Thứ sử hỏi. Lão Quách giải thích: “Độc có mùi nhẹ nhưng rất đặc biệt, hòa với trà nóng lại càng dễ nhận biết hơn. Nhưng nếu tẩm trong hoa nhài, hương hoa sẽ át đi mùi độc. Khi thảo dân đun sôi nước trà mà không bỏ hoa nhài vào, thì mùi độc không thể lẫn vào đâu được, nên thảo dân có thể kết luận như vậy.” Địch Thứ sử gật đầu và ra lệnh cho lão Quách điểm chỉ vào hồ sơ khám nghiệm của mình. Đập kinh đường mộc xuống bàn, Địch Thứ sử phán quyết:
“Lam Đường chủ là niềm tự hào của Bắc Châu chúng ta. Đường chủ không chỉ võ công cái thế, vô địch thiên hạ, mà nhân phẩm, hạnh kiểm cũng khiến người người kính trọng. Vậy mà lại có kẻ dùng thủ đoạn tàn nhẫn đê tiện như vậy để sát hại Đường chủ. Bản quan sẽ gắng hết sức truy bắt thủ phạm về quy án, để Lam Đường chủ có thể nhắm mắt chốn cửu tuyền.” Một lần nữa đập kinh đường mộc xuống bàn thẩm án, Địch Thứ sử tiếp tục: “Giờ xét đến vụ án của họ Diệp và họ Phan.” Ông ra dấu cho Bộ đầu, đưa Phan Phong tới trước công đường. Sau đó ông cao giọng nói: “Bây giờ Lục sự sẽ đọc hai lời khai liên quan đến hành động của Phan Phong.” Lục sự đứng dậy và đọc lời khai của hai binh sĩ trước, sau đó là báo cáo của các nha dịch về cuộc điều tra ở thôn Sơn Dương. Địch Thứ sử tuyên bố: “Nha phủ đã điều tra rõ ràng, từ ngày Mười Lăm đến ngày Mười Sáu, Phan Phong quả thực đã tới thôn Sơn Dương. Nếu hắn thực sự đã sát hại thê tử của mình, hắn chắc chắn sẽ không rời khỏi thành trong hai ngày mà không che giấu thi thể đi. Vì vậy, bằng chứng được đưa ra cho đến nay là không đủ để tố cáo Phan Phong. Nguyên cáo sẽ phải quyết định xem liệu có thể đưa ra thêm bằng chứng khác để kết tội bị cáo không, hay là muốn rút lại cáo trạng.” Diệp Bân vội quỳ xuống trước công đường, nói: “Lão gia sáng suốt, tiểu nhân muốn rút lại cáo trạng, tiểu nhân vô cùng hối hận vì đã bốc đồng do quá đau lòng trước cái chết bi thảm của muội muội.”
Địch Thứ sử nói với Lục sự: “Những lời khai đó sẽ được lưu lại.” Quay sang nhìn vào những kẻ đang quỳ trước công đường, ông hỏi, “Tại sao hôm nay Diệp Thái không có mặt?” Diệp Bân đáp lời: “Bẩm lão gia, tiểu nhân cũng không biết đã có chuyện gì xảy ra với đệ đệ. Trưa hôm qua đệ ấy đã ra ngoài, đến giờ vẫn chưa trở về.” “Diệp Thái thường xuyên qua đêm bên ngoài sao?” Địch Thứ sử hỏi. Diệp Bân lo lắng trả lời: “Thưa lão gia, không ạ! Mặc dù đệ ấy có lúc về nhà rất muộn, nhưng không bao giờ ngủ ở ngoài. Tiểu nhân rất lo lắng, chỉ sợ đệ ấy gặp chuyện ngoài ý muốn.” Địch Thứ sử cau mày nói: “Khi Diệp Thái quay lại, hãy bảo y lập tức đến nha phủ. Y phải đích thân xác nhận rút đơn cáo trạng Phan Phong.” Ông đập kinh đường mộc rồi phán: “Phan Phong hiện đã được phóng thích. Bản quan sẽ tiếp tục nỗ lực tìm kiếm hung thủ đã sát hại thê tử của ngươi.” Phan Phong vội vã dập đầu xuống sàn vài lần để tạ ơn, bất giác nước mắt lưng tròng. Khi lão đứng lên thì Diệp Bân nhanh chóng bước tới dìu lão, nói rằng: “Muội phu oan khuất, là do ngu huynh nhất thời hồ đồ, tin lời gièm pha, trót vu cáo ngươi.” Nói rồi, y khom người thi lễ. Hai người cùng nhau rời khỏi nha môn, trở về nhà. Địch Thứ sử lại ra lệnh cho Bộ đầu giải tú bà, hai gã quy nô và hai kỹ nữ lên công đường. Ông đưa khế ước bán thân đã bị vô hiệu hóa cho hai kỹ nữ kia và nói rằng họ đã được tự do. Sau đó, ông phán tú bà và hai gã quy nô phải chịu ba tháng tù giam và chịu đòn năm mươi trượng. Ba kẻ đó bắt đầu lớn tiếng phản kháng, trong đó tú bà kêu gào to nhất. Chịu đòn chỉ là chuyện nhỏ, nhưng bị mất hai kỹ nữ xinh đẹp thì quả là tai hại. Trong khi các nha dịch kéo họ vào đại lao, Địch Thứ sử nói với hai kỹ nữ rằng họ có thể làm việc trong nhà bếp của nha phủ, trong khi chờ thuyền đưa họ trở lại quê hương.
Hai nữ nhân quỳ phục trước công đường, nước mắt ngắn dài tạ ơn. Khi Địch Thứ sử kết thúc phiên thăng đường, ông ra lệnh cho Hồng Sư gia triệu Chu Đạt Nguyên đến thư phòng. Địch Thứ sử ngồi xuống phía sau án thư, đoạn mời họ Chu an tọa. Bốn trợ thủ thân tín của ông như thường lệ đã ngồi xuống những chiếc ghế đẩu ở phía trước. Một gia nhân lặng lẽ dâng trà trong không khí tẻ nhạt. Địch Thứ sử đi thẳng vào vấn đề: “Đêm qua ta không tra xét thêm về vụ án mạng của Lam Đường chủ bởi vì ta muốn chờ kết quả nghiệm thi, và cũng vì muốn nghe đôi lời chỉ giáo của Chu viên ngoại. Nghe nói viên ngoại đã có giao tình lâu năm với đường chủ.” Chu Đạt Nguyên trầm ngâm hồi lâu rồi nói: “Tiểu nhân sẽ làm tất cả những gì có thể để bắt tên vô lại đã sát hại Lam Đường chủ phải đền tội! Võ công cũng như nhân phẩm của Đường chủ đều khiến tiểu nhân vô cùng kính phục. Chẳng hay lão gia đã có manh mối nào để tìm ra hung thủ chưa?” Địch Thứ sử nói: “Hung thủ là một nam nhân Thát Đát trẻ tuổi thấp bé, hoặc ít nhất cũng là một tiểu tử cải trang như vậy.” Hồng Sư gia liếc nhanh sang Đào Cam rồi nói: “Thưa đại nhân, lão phu chưa thông tỏ tại sao đại nhân lại kết luận hung thủ là một tiểu tử thấp bé? Lúc đó nhà tắm người ra kẻ vào đông đúc, Mã Vinh và Kiều Thái ghi lại danh sách có hơn sáu mươi người.” “Nhưng những kẻ đó không thể ra vào phòng của Lam Đường chủ mà không bị phát hiện. Tuy nhiên hung thủ đã mặc y phục Thát Đát, bởi vì hắn biết rằng các nô bộc ở Cam Tuyền trì đều khoác vải dầu màu đen. Hắn đã bước vào nhà tắm cùng với ba tiểu tử khác. Trong phòng chờ, hắn không đưa thẻ bài ra, mà đi thẳng đến hành lang, giả vờ là một nô bộc vào hầu trà. Hắn nhân lúc hơi nước bốc lên mù mịt mà lẻn vào phòng của Lam Đường chủ, thả hoa tẩm độc vào chén trà, rồi bước ra ngoài. Có lẽ hắn rời khỏi Cam Tuyền trì bằng lối đi của nô bộc.”
Chu Đạt Nguyên kinh ngạc trợn mắt. Đào Cam kêu lên, “Quả là mánh khóe xảo quyệt. Hắn đã chu toàn mọi thứ.” Địch Thứ sử tiếp tục nói: “Tuy nhiên, vẫn có một số manh mối. Hung thủ chắc hẳn đã rời đi mà không nhận ra rằng Lam Đường chủ trong lúc hấp hối đã cố gắng xếp hình bằng Thất Xảo Bản. Đáng tiếc là Đường chủ chưa xếp xong, hoặc va chạm vào khiến hình bị lộn xộn hết, nên chưa thể giải nghĩa được. Nhưng chắc chắn là hình này chứa đựng manh mối trực tiếp về danh tính của hung thủ. Hơn nữa, Lam Đường chủ hẳn đã biết rõ về hắn, và ta cũng đã nghe mô tả sơ qua về tướng mạo của hắn. Chu viên ngoại có thể cho ta biết liệu Lam Đường chủ có đồ đệ nào còn ít tuổi, thấp bé và có tóc xoăn không?” Chu Đạt Nguyên trả lời ngay lập tức: “Không có, thưa lão gia. Tiểu nhân biết tất cả đồ đệ của Lam Đường chủ, bọn họ đều là những kẻ vạm vỡ, lưng hùm vai gấu, làm gì có loại thấp bé gầy yếu? Hơn nữa, Đường chủ yêu cầu toàn bộ đồ đệ phải cạo trọc đầu, không cho để tóc dài, thì đương nhiên lại càng không có tóc xoăn. Chao ôi, một anh hùng cái thế, đội trời đạp đất, lại thiệt mạng vì quỷ kế của kẻ tiểu nhân đê tiện, thật khiến người ta giận dữ.” Tất cả đều im lặng. Đào Cam đang vân vê ba sợi ria dài mọc bên má trái của mình, đột nhiên nói: “Tên sát nhân là một kẻ tiểu nhân đê tiện hoặc hắn thực ra là một nữ nhân!”
Chu Đạt Nguyên khẳng định: “Lam Đường chủ không bao giờ gần gũi nữ sắc.” Nhưng Đào Cam lắc đầu và nói: “Biết đâu đó lại chính là lý do khiến đường chủ bị sát hại. Lam Đường chủ có thể đã cự tuyệt nữ nhân nào đó, khiến ả thẹn quá hóa giận, bèn dùng độc kế đẩy đường chủ vào chỗ chết.” Mã Vinh nói thêm: “Đào Cam nói có lý. Thuộc hạ biết điều này rất rõ. Nhiều vũ nữ đã than phiền với thuộc hạ về sự lạnh nhạt của Lam đại ca. Sự tiết chế của đại ca dường như lại càng thu hút bọn họ, duyên cớ tại sao thì chỉ có trời mới biết.” Chu Đạt Nguyên hét lên giận dữ: “Thật là hoang đường!” Địch Thứ sử đã im lặng lắng nghe. Bấy giờ ông mới đưa ra ý kiến: “Ta phải thừa nhận là ta cũng đồng tình với phán đoán đó. Một nữ nhân có thể cải trang thành một thiếu niên Thát Đát để lẻn vào nhà tắm. Nhưng ắt hẳn ả phải có quen biết gì với Lam Đường chủ, không chừng chính là tình nhân bí mật. Vì khi ả bước vào phòng tắm, đường chủ thậm chí còn không che thân lại. Khăn tắm vẫn còn treo trên giá.” Họ Chu hét lên: “Không thể nào! Lam Đường chủ có tình nhân ư! Thật hoang đường!” Kiều Thái chậm rãi nói: “Bây giờ thuộc hạ mới nhớ ra rằng khi đến thăm Lam đại ca ngày hôm qua, đại ca đã bất ngờ đưa ra một nhận xét cay đắng về nữ nhân, rằng họ có thể làm hao mòn sức lực của nam nhân. Đại ca còn có vẻ rất cay đắng khi đưa ra nhận định đó, sao có thể có tình nhân bí mật được?”
Đào Cam suy luận: “Hay là đường chủ đã từng có tình nhân, sau đó sợ tổn thương nguyên khí, sinh lòng hối hận, mới đoạn tuyệt với ả đó. Ả không chịu nổi nên đã xuống tay sát hại.” Chu Đạt Nguyên lẩm bẩm giận dữ, còn Địch Thứ sử gật đầu, rồi lấy từ trong ngăn kéo ra Thất Xảo Bản mà Đào Cam đã mang về, sắp xếp sáu mảnh như họ đã nhìn thấy trên bàn. Ông cố thêm mảnh thứ bảy để xếp thành một hình. Một lúc sau ông nói: “Nếu Lam Đại Khôi bị một nữ nhân sát hại, thì hình này có thể chứa đựng manh mối về danh tính của ả. Nhưng đường chủ đã làm xáo trộn các mảnh khi ngã xuống, và chết trước khi có thể xếp thêm mảnh tam giác cuối cùng. Chuyện này thật khó nói.” Gạt những mảnh ghép sang một bên, ông tiếp tục, “Tuy nhiên, nhiệm vụ đầu tiên của chúng ta là điều tra tất cả những người mà Lam Đường chủ từng kết giao. Chu viên ngoại, mong ngươi hãy phối hợp với Mã Vinh, Kiều Thái và Đào Cam để thực hiện nhiệm vụ này, bắt đầu điều tra ngay lập tức. Sư gia, lão hãy ra chợ và hỏi hai tiểu tử còn lại về ngoại hình của thiếu niên Thát Đát đó. Nếu lão dẫn chúng đến tửu quán no say một trận thì biết đâu chúng lại có thể tiết lộ thêm manh mối. Mã Vinh đã có danh tính và nơi ở của chúng. Trên đường đi hãy mời Quách đại phu đến đây, ta muốn biết thêm chi tiết về chất độc đó.” Sau khi Chu Đạt Nguyên và bốn người thân tín của ông đã rời khỏi, Địch Thứ sử chậm rãi uống vài ngụm trà, cẩn trọng suy tính. Sự vắng mặt của Diệp Thái khiến ông lo lắng. Liệu tên côn đồ có nghi ngờ rằng nha môn đang theo sát hắn không? Địch Thứ sử bật dậy và bắt đầu đi đi lại lại trong phòng. Vụ sát hại Phan nương chưa được giải quyết, lại thêm vụ đầu độc Lam Đường chủ, ông mới ao ước giá mà chỉ cần phải giải quyết mỗi vụ mất tích của Liêu tiểu thư.
Khi Quách Ngỗ tác đến, Địch Thứ sử mời lão ngồi xuống. Rồi ông lại an tọa phía sau án thư và nói: “Quách đại phu, ngài có thể cho ta biết làm thế nào mà hung thủ có được loại độc dược đó hay không? Chắc hẳn nó khá hiếm nhỉ?” Họ Quách vuốt tóc và đặt đôi bàn tay to bản lên đầu gối: “Thưa lão gia, thật không may, loại độc dược này rất thông dụng. Nếu sử dụng một liều nhỏ thì nó là thuốc trợ tim, nên hầu hết các y quán đều có sẵn.” “Thế là chẳng hy vọng sẽ tìm ra manh mối gì từ đó.” Đặt các mảnh Thất Xảo Bản trước mặt và ráp chúng lại, ông nói tiếp, “Xem ra cơ may cuối cùng là ở trò chơi này đây.” Địch Thứ sử nói với Quách Ngỗ tác. 👁 Địch Thứ sử và Quách Ngỗ tác Lão gù lắc đầu, buồn bã nói: “Bẩm lão gia, tiểu nhân không nghĩ vậy ạ. Độc dược đó khiến người ta đau đớn không thể chịu nổi, và sẽ dẫn đến tử vong rất nhanh.” Địch Thứ sử nhận xét: “Nhưng Lam Đường chủ là một người có sức mạnh ý chí phi thường và rất thạo trò Thất Xảo Bản. Đường chủ biết khó mà ra khỏi cửa để gọi cứu viện, nên ta nghĩ đường chủ đã cố gắng dùng cách này để chỉ ra hung thủ.” Họ Quách nói: “Đúng vậy, Lam Đường chủ quả là người thông tuệ, xếp Thất Xảo Bản rất giỏi. Khi đường chủ đến tư gia của tiểu nhân, thường cùng phu thê tiểu nhân giải trí bằng cách xếp Thất Xảo Bản thành vô số hình thù trong chớp mắt.” “Ta không thấy hình này có ý nghĩa gì.”
Lão gù trầm ngâm: “Lam Đường chủ là người chính trực, thưa lão gia. Đường chủ biết bọn lưu manh ở chợ thường xô đẩy và nhạo báng tiểu nhân, nên đã sáng tạo một chiêu phòng thủ hợp với tình trạng chân yếu tay khoẻ của tiểu nhân. Đường chủ đã kiên nhẫn dạy tiểu nhân chiêu ấy, và kể từ đó không có kẻ nào dám động đến tiểu nhân nữa.” Địch Thứ sử không chú ý đến những lời cuối cùng của họ Quách. Mải sắp xếp bảy mảnh bìa, ông đột nhiên phát hiện ra rằng mình đã tạo nên hình một con mèo. Ông vội vã xáo trộn các mảnh ghép. Độc dược, hoa nhài, con mèo… Ông không muốn suy luận theo hướng này nữa! Nhận thấy ánh mắt kinh ngạc của họ Quách, ông vội nói để che giấu sự bối rối của mình: “Ồ, ta đột nhiên nghĩ về một cuộc gặp gỡ thú vị đêm qua. Ta đưa một tiểu cô nương bị lạc về nhà, ai ngờ mẫu thân của nó không những không tạ ơn, mà lại còn nhục mạ ta. Qua những lời nói ngây thơ của đứa trẻ, ta xâu chuỗi lại thì ắt hẳn mụ là quả phụ, đang lén lút qua lại cùng gian phu.” Họ Quách tò mò hỏi, “Quả phụ đó họ gì?” “Lục nương, chủ tiệm vải bông đối diện miếu Thành Hoàng.” Họ Quách đờ người ra, rồi kêu lên: “Thưa lão gia, mụ thực là một nữ nhân lăng loàn. Ỷ có chút nhan sắc, từng đọc vài cuốn sách, mồm miệng xảo trá, chuyên khêu ong gợi bướm dụ dỗ nam nhân. Chồng của mụ tên Lục Minh, chết chưa đầy nửa năm. Lão gia, Lục Minh chết có chút kỳ lạ.”
Địch Thứ sử vẫn còn có chút phân tâm kể từ khi khám phá ra cách xếp con mèo. Ông lơ đãng hỏi: “Cái chết của thương nhân đó có gì kỳ lạ?” Họ Quách do dự một chút trước khi trả lời: “Sự việc đã được Thứ sử tiền nhiệm an bài chưa thỏa đáng lắm. Nhưng đúng vào thời điểm đó, quân Thát Đát đã tấn công Bắc doanh, rất nhiều dân tị nạn đổ vào thành. Thứ sử đại nhân lúc đó rất bận rộn và tiểu nhân cũng hiểu rằng đại nhân không muốn mất thời gian cho một thương nhân chết vì đau tim.” “Sao lại như vậy? Nghiệm thi có cho thấy điều gì đáng ngờ không?” Lão gù thần sắc không mấy vui vẻ nói: “Thưa lão gia, vấn đề là lúc đó không hề nghiệm thi!” Địch Thứ sử giờ đã hoàn toàn chú ý. Tựa mình vào ghế, ông ra lệnh: “Hãy kể cho ta nghe mọi sự.” Họ Quách bắt đầu nói: “Lúc đó là chiều muộn, Lục nương đến công đường cùng với Khang đại phu có tiếng ở đây. Đại phu nói rằng vào bữa trưa Lục Minh đã than thở về chứng đau đầu, phải nằm liệt giường. Không lâu sau đó, Lục nương nghe thấy y rên lên, đến khi mụ bước vào phòng ngủ thì y đã chết. Rồi mụ cho mời Khang đại phu đến nghiệm thi. Mụ nói với đại phu rằng Lục Minh cũng thường than phiền về chứng đau tim. Khang đại phu hỏi y đã ăn gì trong bữa trưa, mụ bảo rằng y chỉ ăn một chút cơm nhưng lại uống đến hai bầu rượu để bớt đau đầu. Khang đại phu đã ký chứng nhận Lục Minh chết vì đau tim, phát tác do say rượu quá mức. Thứ sử đại nhân tiền nhiệm không nghi ngờ gì, phê chuẩn qua loa rồi cho tùy ý mai táng.”
Thấy Địch Thứ sử im lặng, lão gù tiếp tục, “Tiểu nhân có quen biết với em trai của Lục Minh, y kể với tiểu nhân rằng khi giúp liệm quan, y thấy mặt Lục Minh không đổi màu, nhưng đôi mắt thì lồi lên. Những triệu chứng đó cho thấy nhiều khả năng y đã bị đánh mạnh sau gáy, nên thảo dân tìm đến gặp Lục nương để hỏi thêm chi tiết, nhưng mụ đã quát tháo và chửi thảo dân là lắm lời nhiều chuyện. Sau đó tiểu nhân đã bẩm báo lại với Thứ sử đại nhân tiền nhiệm, nhưng đại nhân nói đã hài lòng với kết luận của Khang đại phu và thấy không cần phải nghiệm thi. Vụ án kết thúc ở đó.” “Rồi tiên sinh có trao đổi với Khang đại phu không?” Địch Thứ sử hỏi. “Tiểu nhân đã thử, nhưng y đều tránh mặt. Nghe đồn rằng sau đó y mắc phải vu cổ*. Rồi y rời thành theo dòng người tị nạn xuôi xuống phía Nam, từ đó không ai nghe được tin tức gì về y nữa.” Đồng cốt, bùa chú. Địch Thứ sử chậm rãi vuốt râu. Cuối cùng ông nói: “Thật là một câu chuyện đáng ngờ! Ở đây vẫn còn những kẻ thực hành vu thuật hay sao? Tiên sinh cũng biết rằng đó là hành vi trái với vương pháp mà.” Họ Quách nhún vai rồi nói: “Dân ở Bắc Châu này thì nhiều người mang trong mình dòng máu Thát Đát và cho rằng có sở hữu quyền năng bí ẩn của các vu bà* Thát Đát. Một số kẻ còn tin rằng có thể giết người bằng niệm chú, hay bằng cách đốt hoặc cắt đầu của bức chân dung nạn nhân. Những kẻ khác thì theo đuổi các bí thuật của Đạo giáo và ân ái với các vu bà để được trường sinh. Theo thảo dân, tất cả chẳng qua đều là mê tín dị đoan, nhưng Lam Đường chủ đã cẩn thận điều tra về vấn đề này và nói với thảo dân rằng cũng có một phần sự thật trong các luận điệu đó.”
Phụ nữ thực hành vu thuật. Địch Thứ sử sốt ruột nói: “Đức Khổng Tử đã bảo chúng ta không nên du nhập những thứ tà đạo đó. Ta chưa bao giờ nghĩ rằng một người thông tuệ như Lam Đại Khôi lại lãng phí thời gian theo đuổi những thứ kỳ quái như vậy.” “Lão gia, đường chủ có nhiều sở thích lắm,” lão gù rụt rè nói. Địch Thứ sử đáp: “Được rồi. Ta rất vui khi tiên sinh kể cho ta nghe chuyện về Lục nương. Ta nghĩ cần cho gọi mụ đến công đường để hỏi thêm chi tiết về cái chết của Lục Minh.” Địch Thứ sử lấy ra một tờ giấy, họ Quách vội vàng cúi đầu thi lễ rồi rời đi. HỒI 12 Địch Công ghé thăm núi Dược Sư Lục nương khinh thường lệnh nha phủ Ngay sau khi cánh cửa khép lại, Địch Thứ sử ném đống công văn xuống bàn. Ông khoanh tay lại, cố gắng phân tích những suy nghĩ đang quẩn quanh trong đầu. Cuối cùng, ông đứng lên, mặc vào y phục đi săn. Ông quyết định sẽ cưỡi ngựa ra ngoại thành đi dạo cho đỡ phiền muộn, đầu óc được thanh tĩnh. Ông sai mã phu mang một con ngựa tốt đến. Đầu tiên, ông vòng qua thao trường cũ vài lần. Sau đó ông thúc ngựa vào đường chính, rời thành qua cổng thành phía Bắc. Ông thả ngựa phi nước kiệu qua vùng tuyết trắng mênh mông. Rồi ông nhìn phía xa xa, thấy trong ráng hồng hiện ra một ngọn núi cao chót vót, đó chính là núi Dược Sư nổi danh. Có người nói, xưa kia Trương Thiên Sư* từng trồng thần dược ở đây, nên đặt thành tên núi. Ở bên sườn núi có đường Thiên Sư, dẫn tới động Thiên Sư, phong cảnh u nhã. Trên vách núi cheo leo lại có những loại thảo dược quý giá như nhân sâm, linh chi và nguyệt thảo, khiến ngọn núi càng thêm phần tiên khí.
Trương Lăng (34 156) được xem là người đã sáng lập ra giáo phái Ngũ Đấu Mễ Đạo trong Đạo giáo Trung Quốc. Địch Thứ sử buộc ngựa vào một gốc cây tùng, rồi lững thững đi lên núi. Ông chăm chú ngắm nhìn những chữ viết và tượng Phật được khắc trên vách đá. Chợt Địch Thứ sử dừng lại. Ông nhìn thấy trên tuyết có những dấu chân nhỏ, rõ ràng là của một nữ nhân. Sau một hồi tự đấu tranh với bản thân, cuối cùng, Địch Thứ sử vẫn quyết định men theo dấu chân mà đi lên. Trên vách đá chỉ có một cây hàn mai cành lá khẳng khiu đang ươm những nụ hoa nhỏ rực rỡ. Gần đó, bên lan can bằng gỗ, có một nữ nhân khoác áo choàng lông xám đang cầm một cái cuốc nhỏ đào bới trong tuyết. Khi nghe thấy tiếng bước chân Địch Thứ sử lạo xạo trên tuyết, nàng giật mình, nhanh chóng đặt cái cuốc vào trong chiếc giỏ dưới chân và cúi đầu thi lễ. “Quách phu nhân, thì ra phu nhân đang đào nguyệt thảo. Nghe nói mấy ngày trước phu nhân cũng đào được một nhánh lớn.” Quách phu nhân gật đầu. Chiếc mũ lông trùm đầu tuột khỏi làm lộ ra khuôn mặt thanh tú của nàng. “Chỉ là gặp may thôi, thưa lão gia.” Quách phu nhân mỉm cười nói. “Sao lão gia lại một mình đi dạo ở đây? Hay là cũng muốn thử vận may như dân phụ?” “Đâu có, vụ sát hại Lam Đại Khôi thực sự khiến ta rối trí, nên mới đi dạo một chút cho nhẹ nhàng khoan khoái đầu óc.” Địch Thứ sử trả lời. Khuôn mặt Quách phu nhân bỗng sa sầm. Nàng kéo sát chiếc áo choàng lại thân mình và khẽ nói:
“Lão gia, cho đến nay vụ án vẫn không có manh mối sao?” “Ta cũng đã có những mô tả khá xác thực tướng mạo của hung thủ.” Địch Thứ sử đáp. Quách phu nhân trợn tròn mắt. “Lão gia, hắn là ai vậy?” Nàng run run khẽ hỏi. “Ta không nghĩ đó là một nam nhân.” Địch Thứ sử đáp. Phu nhân chậm rãi lắc đầu. “Chắc chắn đó phải là một nam nhân,” nàng khẳng định, “dân phụ thường xuyên gặp mặt Lam Đường chủ bởi ngài ấy là bằng hữu của phu quân, mấy đường quyền cước của phu quân cũng là được ngài ấy dạy. Ngài ấy thực sự rất tử tế và lịch thiệp, với dân phụ cũng thế. Nhưng dân phụ vẫn cảm thấy thái độ của ngài ấy đối với nữ nhân có vẻ hơi khác!” “Sao phu nhân lại nói thế?” Địch Thứ sử hỏi. “Thế này ạ, ngài ấy dường như… cảnh giác với nữ nhân.” Gò má nàng ửng hồng, đôi mắt có vẻ hoang mang, thẹn thùng, rồi nàng cúi thấp đầu xuống. Địch Thứ sử hơi giật mình, cảm thấy không được tự nhiên cho lắm. Ông bước đến bên hàng lan can gỗ và nhìn xuống. Ông bất thình lình lùi lại. Bên dưới là vực sâu đến năm mươi thước, lởm chởm đầy đá sắc nhọn phủ tuyết dày. Nhìn ra xa xuống phía bình nguyên mênh mông tuyết phủ bên dưới, Địch Thứ sử dường như không biết phải nói gì nữa. Nhưng ông cố đè nén mối bận tâm, quay đầu lại và hỏi: “Quách phu nhân, lần trước ta tới y quán đã thấy có rất nhiều mèo. Không biết nuôi mèo là sở thích của phu nhân hay là của Quách đại phu vậy?”
“Bẩm lão gia, cả hai phu thê dân phụ đều yêu thích mèo.” Quách phu nhân nhỏ nhẹ trả lời. “Phu quân không thể kìm lòng khi thấy những con thú bị thương nên chàng thường nhặt những con mèo hoang đi lạc hoặc những con mèo ốm đau về nhà. Sau đó thì dân phụ sẽ chăm sóc chúng. Tới bây giờ, đã có bảy con mèo cả lớn cả nhỏ trong nhà.” Địch Thứ sử gật gù, ông thấy đôi mắt to sáng ngời của Quách phu nhân đang nhìn mình, bất chợt trong lòng cảm thấy lúng túng, nhất thời lại không biết phải nói gì. Ông ngẩng đầu. Thấy trên vách núi có một cây hàn mai cao lớn, gặp gió lạnh thổi tới, cánh hoa với tuyết cùng bay lả tả, nhìn đẹp mê hồn, ông liền chỉ vào cây hàn mai, nói rằng: “Phu nhân nhìn cây hàn mai này, dáng ngọc yêu kiều như một vị mỹ nhân, phong thái thanh tao mà phóng khoáng.” “Đúng thế thưa lão gia.” Quách phu nhân đáp. “Đứng ở đây còn có thể nghe thấy cánh hoa rơi trên tuyết từ xa cả dặm. Lại nhớ người xưa cũng có một bài vịnh cánh hoa mai rơi xuống đất.” Địch Thứ sử gật đầu, định đọc bài vịnh mà Quách phu nhân nói tới. Nhưng lúc này, ông lại chẳng thể nhớ được một câu, đành lắc đầu, lúng túng cười nói: “Quách phu nhân xin cứ tự nhiên, bản quan cáo từ. Nha phủ còn có việc gấp chờ ta về xét xử.” Nói rồi ông khom người thi lễ. Quách phu nhân yên lặng nhìn ông, chỉ hé miệng nở nụ cười, coi như đáp lễ. Địch Thứ sử vội vã xuống núi. Quách phu nhân lại cầm cuốc đi đào nguyệt thảo.