text
stringlengths
1
809k
“Không hề.” Địch Công cộc lốc đáp. “Căn phòng mà Trâu Kính Văn ở lại trong huyện nha này chỉ có duy nhất một cửa chính và một cửa sổ, như các ngươi đã biết. Cửa chính có bốn binh sĩ canh gác cả ngày lẫn đêm, hộ vệ ngồi ngay hành lang bên ngoài. Tên trộm vào bằng cửa sổ. Hắn rạch một ô cửa giấy ra, thò tay vào và bằng cách nào đó đã cậy được ổ khóa trên thanh chắn cửa.” Hồng Sư gia kéo tập hồ sơ về phía mình và đọc qua. Lão ngẩng lên rồi lắc đầu nói, “Đúng thế, Huyện lệnh đã thực thi mọi biện pháp điều tra cần thiết. Khi xác định được đoàn hộ tống của Trâu đại nhân nằm ngoài diện tình nghi, ông ta đã vây bắt hết đám trộm cắp chuyên nghiệp trong huyện, và thậm chí cả những kẻ chuyên tiêu thụ đồ ăn cắp. Hơn thế, ông ta còn…” “Sư gia, ông ta đã phạm một sai lầm.” Địch Công ngắt lời. “Đó là chỉ giới hạn điều tra trong huyện Lan Phường này.” “Lẽ nào không nên như vậy ạ?” Mã Vinh hỏi. “Chẳng phải vụ trộm diễn ra ở huyện này sao?” Địch Công đứng dậy. “Đúng là vậy. Nhưng kế hoạch trộm vàng đã được lập ra ở nơi nào khác, trước khi Trâu đại nhân đến huyện Lan Phường. Bởi thế, ta sẽ bắt đầu tiến hành điều tra cẩn thận cả huyện kế bên là huyện Thư Mạt, nằm ở phía bên kia dãy núi. Trâu đại nhân cũng từng ở lại đó một đêm. Chắc hẳn có người bằng cách nào đó đã biết ông ta mang theo một gia tài nhỏ, và số kim ngân ấy được cất trong chiếc rương bị đánh dấu bằng chỗ da bị rách. Thông tin đáng giá ấy đã đến huyện Lan Phường trước cả Trâu đại nhân. Mau gọi Chánh Lục sự* đi, Mã Vinh!”
Người đứng đầu ban thư lại và quản lý tất cả các Lục sự. Hồng Sư gia có vẻ nghi ngờ. Lão khẽ giật chòm râu mỏng, rồi nói, “Đại nhân, nếu cũng với lập luận đó, thì tên trộm cũng có thể đã biết về số vàng bí mật ấy ở bất cứ địa điểm nào khác trên đường từ kinh thành đến đây. Hoặc thậm chí còn biết trước khi Trâu đại nhân rời khỏi kinh thành!” “Không đâu, Hồng Sư gia, có bằng chứng xác thực cho thấy chắc chắn bí mật bị lộ ra ở huyện Thư Mạt. Trâu đại nhân đã nói trong bản tuyên cáo được lập ở đây rằng, chiếc rương chứa vàng bị rách trước khi ông ta đến huyện Thư Mạt. Có thể phỏng đoán là do vàng quá nặng.” Bỗng lúc này Mã Vinh đưa vào một nam nhân đứng tuổi, mảnh khảnh. Chánh Lục sự cúi đầu thi lễ với Địch Công. Ông ta kính cẩn đợi Huyện lệnh giao nhiệm vụ cho mình. “Bản quan đang thu thập chứng cứ về vụ trộm vàng của Trâu đại nhân”, Địch Công bảo nha lại. “Ta muốn ngươi lên đường đến huyện Thư Mạt, nơi ấy là điểm dừng chân cuối cùng của đại nhân trước khi đến huyện Lan Phường. Ngươi sẽ trình báo với huyện nha bên đó, và cố gắng tìm ra người nào còn nhớ về lần Trâu đại nhân đến đó. Ta muốn biết Trâu đại nhân có tiếp bất cứ vị khách nào vào đêm ông ta ở lại đó hay không, có nữ nhân nào được đưa đến hầu hạ ông ta không, ông ta có nhận được bất cứ thư tín nào không; tóm lại là tất cả mọi điều.” Ông chọn một tờ giấy theo đúng thể thức nha huyện trong tập giấy trên án thư và viết nhanh vài dòng giới thiệu gửi cho người đồng liêu ở huyện Thư Mạt.
Dùng dấu triện lớn màu đỏ đóng lên tờ giấy, ông trao nó cho nha lại. “Ngươi hãy lên đường ngay. Trong khi các mã phu chuẩn bị ngựa, ngươi hãy đọc hồ sơ này. Hãy cố gắng trở lại đây trước ngày mai.” “Xin tuân lệnh, đại nhân.” Chánh Lục sự đang định cúi đầu cáo lui thì Mã Vinh hỏi ông ta, “Ông có biết Bộ đầu ở đâu không?” “Bộ đầu đã ra ngoài bắt giữ một tên du đãng. Đêm qua có một vụ xung đột ở tửu quán dưới phố, tên du đãng đó đã giết chết một kẻ côn đồ.” “Chà”, Địch Công nói, “đây rõ ràng là một vụ xô xát thường thấy trong đám giang hồ, không cần nha lại phải bận tâm quá nhiều. Ông mau lên đường đi! Chúc may mắn!” Nha lại đi khỏi, Mã Vinh chua ngoa nói, “Hóa ra Bộ đầu mẫn cán của chúng ta đang đi làm việc ấy! Bắt giữ một tên giết người. Và cũng không cần lệnh bắt! Nếu gã này không cẩn thận, một ngày nào đó y sẽ ngã bệnh vì lao lực!” “Tiếc là chúng ta không giữ được Phương Chính ở lại làm Bộ đầu.” Sư gia nói. “Đại nhân, chiếc hộp này dùng để làm gì vậy? Lão phu chưa từng trông thấy nó trên án thư của đại nhân bao giờ.” “Chiếc hộp nào cơ?” Địch Công hỏi, bừng tỉnh khỏi mọi suy nghĩ. “Ồ! Ta đã mua nó ở một tiệm đồ cổ, ngay góc đường phía sau miếu Khổng Tử. Nửa canh giờ* trước, ta đi tản bộ buổi sáng và trông thấy nó. Ta mua về làm quà sinh nhật cho đại phu nhân. Ta sẽ tặng cho nàng ấy vào bữa tiệc mừng tối nay.”
1 canh giờ bằng 2 tiếng. Ông cầm chiếc hộp lên và cho hai trợ thủ xem. 👁 Địch Công khoe món quà sinh nhật “Hai chữ ‘trường cửu’ trên mặt hộp đủ để biến chiếc hộp thành món quà sinh nhật giá trị nhất. Miếng ngọc thạch này được chạm khắc tinh xảo theo kiểu chữ cổ.” Ông chỉ ra phía sau. “Giống với kiểu chữ được sử dụng để trang trí cho bức mành trên cửa sổ kia.” Ông đưa chiếc hộp cho Mã Vinh, y ngắm nghía rồi nói, “Kích thước chỉ vừa đủ để đựng bái thiếp thôi.” Rồi y kéo chiếc hộp lại gần hơn để quan sát kĩ. “Tiếc là nắp hộp có ít vết xước. Kẻ ngu dại nào đó đã tìm cách viết chữ ‘nhập’* vào một bên miếng ngọc. Và ở phía đối diện thì hắn tìm cách viết chữ gì đó như chữ ‘hạ’*. Đại nhân, cho phép thuộc hạ giữ nó trong sáng nay nhé. Sau phiên thăng đường buổi sáng, thuộc hạ sẽ đưa nó đến chỗ người thợ phục chế đồ cổ mà thuộc hạ biết ở gần cổng thành phía Nam. Ông ta sẽ đánh lại nắp hộp cho nhẵn nhụi.” Nghĩa là “vào”. Nghĩa là “xuống”. “Được, ý hay đấy. Ngươi nhìn gì vậy?” Mã Vinh tình cờ mở nắp hộp. Lúc này, y mới được nhìn kĩ bên trong nắp. “Có một mẩu giấy nhỏ gắn ở đây”, y thì thầm. “Chắc là dùng để viết giá tiền”, Địch Công nói. “Ngươi bóc nó ra đi.” Mã Vinh đưa móng tay vào bên dưới một góc nắp hộp. Bất chợt, y ngẩng lên. “Đại nhân, đây không phải là giấy viết giá tiền. Thuộc hạ thấy có hai dòng chữ viết ngược bằng mực đỏ. Hay lắm, nó tróc ra rồi. Giờ ta có thể lật ngược mảnh giấy lại. Chữ viết rất vụng về. Thuộc hạ không thể luận ra trên đó viết gì.”
Y trao mảnh giấy bé xíu cho Địch Công, cặp chân mày rậm của ông nhướn lên và ông đọc to: “Tôi đang sắp chết vì đói khát, làm ơn đến cứu tôi ra. Bạch Ngọc. Ngày mười hai, tháng Chín, năm Tân Tỵ.” Địch Công khó chịu ngẩng lên. “Tại sao lại dán một mẩu giấy bé xíu như vậy dưới nắp chiếc hộp này?” “Đại nhân, có thể không phải là một trò đùa!” Mã Vinh nói. “Một cô nương tên là Bạch Ngọc, hẳn là một cô nương xinh đẹp! Đương nhiên là cô nương ấy bị bắt cóc!” Hồng Sư gia mỉm cười đầy độ lượng. Lão đã quen với thói đa tình của Mã Vinh. Lão ôn tồn nói, “Mã huynh đệ, lúc nào ngươi cũng sẵn lòng đến giải cứu cho một cô nương đang gặp tai họa. Nhưng đây hiển nhiên chỉ là một mẩu giấy xé ra từ một trang trong cuốn truyện diễm tình, hoặc một vở kịch.” “Vô lý!” Mã Vinh gắt lên. “Cô nương tội nghiệp ấy viết những dòng này bằng máu của mình, rồi dán vào trong hộp, ném chiếc hộp ra khỏi cửa sổ của căn phòng mà cô ấy bị giam giữ. Nét chữ lúc ấy chưa khô, và chiếc hộp đã lăn nhiều vòng khi rơi xuống đất, nắp hộp bị xước. Dù chuyện đã xảy ra gần một năm, nhưng không lý gì chúng ta lại để cho đám giang hồ đã bỏ cô nương ấy chết đói được thoát tội!” Quay sang Địch Công, y nôn nóng hỏi, “Đại nhân, ngài nghĩ sao ạ?” Địch Công đã đặt mẩu giấy lên mặt án thư rồi vuốt thẳng. Ông xem xét mẩu giấy ấy, tay ông giật hai dải tóc mai. Ông ngẩng lên.
“Lập luận của ngươi khá thông minh, Mã Vinh ạ. Tuy nhiên, ta đồng ý với Sư gia. Nếu đây thật sự là lời một người đang cầu cứu, thì…” Ông nhìn ra cửa. “Vào đi!” Bộ đầu bước vào và thi lễ. Trên khuôn mặt thô lỗ với chòm râu cằm lởm chởm của y hiện lên một nụ cười mãn nguyện. “Đại nhân, xin cho thuộc hạ được trình báo. Thuộc hạ vừa bắt giữ một kẻ giết người. Một tên du đãng tên là A Ngưu. Hắn đã giết một gã côn đồ vào đêm qua sau một vụ cãi cọ ở…” “Được rồi, Chánh Lục sự đã sớm báo cho ta biết. Bộ đầu, ngươi rất được việc! Ta sẽ thăng đường xét xử ngay sáng nay. Có nhân chứng nào không?” “Bẩm đại nhân, có nhiều người làm chứng. Đó là viên chưởng quỹ và hai tên cờ bạc.” Sau khi Bộ đầu đi khỏi, Địch Công đứng dậy. Ông cầm chiếc hộp gỗ mun lên và trầm ngâm xem xét, đặt nó trong lòng bàn tay để ước đoán trọng lượng. Rồi ông bỏ chiếc hộp vào tay áo. “Chúng ta sẽ lần theo thông điệp khả nghi trong hộp này sau vậy.” Ông bảo hai trợ thủ. “Chúng ta còn tầm nửa canh giờ trước khi phiên thăng đường bắt đầu. Dù thông điệp này có mang ý nghĩa gì, thì nó cũng đã làm hỏng mất vượng khí của một món quà sinh nhật. Nên ta sẽ quay lại tiệm đồ cổ để chọn một món quà khác. Ta sẽ hỏi ông ta xem ông ta có được chiếc hộp này trong trường hợp nào. Sư gia, mau lên công đường đi. Xem lại hồ sơ về những người bị mất tích trong tháng Chín của năm Tân Tỵ xem có nữ nhân nào tên Bạch Ngọc được trình báo bị mất tích không. Mã Vinh, ngươi sẽ cùng ta đến tiệm đồ cổ. Tiệm đó cách đây không xa lắm nên chúng ta sẽ đi bộ.”
HỒI 3 Quan án nóng lòng dò tin tức Họa sư phân trần chuyện vẽ tranh Khi Địch Công và Mã Vinh bước xuống những bậc đá lớn trước nha môn, hai người thấy con phố lớn dẫn đến cổng thành phía Nam đã đông kín người qua lại, dù vẫn còn sớm và trời thì oi bức. Chóp nhọn của tháp Cửu Trùng giữa hồ sen ẩn hiện trong màn sương ẩm ướt bao phủ toàn thành. Địch Công rảo bước. Không ai nhận ra ông chính là Huyện lệnh, vì ông vẫn mặc bộ thanh y dung dị, đổi mũ ô sa sang chiếc mũ nhỏ. Mã Vinh theo ngay phía sau ông, mặc quan phục một chiếc trường bào nâu có thắt lưng đen và đường viền, đội mũ đen. Đi được một đoạn, Mã Vinh bỗng dừng chân. Cách vài bước chân, có một cặp mắt to, sáng rực đang găm vào y với ánh nhìn dữ dội. Y thoáng thấy một khuôn mặt đẹp, nhợt nhạt, một phần ẩn dưới chiếc khăn mà nữ nhân nọ dùng để trùm đầu, loại trang phục của người Đột Quyết. Nàng ta có vẻ cao lớn khác thường. Y đang định hỏi xem nàng ta muốn gì, thì có hai người phu vác một chiếc rương gỗ lớn đi chen qua giữa hai người. Khi họ đi qua, nữ nhân kia đã biến mất vào đám đông. Địch Công quay lại phía y và chỉ lên mái ngói cao của miếu Khổng Tử phía trước. “Cửa hiệu ấy nằm ngay góc con hẻm thứ hai phía sau miếu, bên phải đường.” Rồi ông trông thấy vẻ mặt bối rối của Mã Vinh, ông hỏi, “Ngươi gặp chuyện gì vậy?” “Đại nhân, thuộc hạ vừa thấy một nữ nhân rất lạ lùng. Nàng ta có đôi mắt to dị thường.”
“Ta ước gì ngươi đừng để ý đến mọi nữ nhân mà ngươi gặp.” Địch Công khó chịu nói. “Đi nào, chúng ta không còn nhiều thời gian đâu!” Trong con hẻm phía sau miếu, người dân đi lại thưa thớt. Một bầu không khí yên tĩnh, dịu nhẹ chào đón cả hai khi hai người bước vào trong cửa hiệu nhỏ, mờ tối ấy. Một lão nhân có bộ râu dài bờm xờm vội chạy ra quầy khi nhận ra Địch Công. “Đại nhân, lão phu có thể giúp gì ngài chăng?” Ông ta nở nụ cười móm mém. “Sáng nay, khi ta đến đây”, Địch Công đáp, “ta quên mất rằng mình cũng cần một miếng bảo ngọc nữa. Một cặp xuyến, hoặc có thể một cây trâm dài.” Lão nhân bưng chiếc khay hình vuông từ dưới quầy lên. “Đây, đại nhân sẽ tìm được món đồ thích hợp.” Địch Công tìm kiếm trong số nữ trang ấy. Ông lựa được một cặp xuyến cổ bằng bạch ngọc, chạm khắc hình những nụ hoa mai. Đặt chúng sang một bên, ông hỏi giá. “Một nén bạc, thưa đại nhân. Một cái giá đặc biệt cho một vị khách đặc biệt!” “Ta sẽ lấy. Tiện đây cho ta hỏi, lão có thể cho ta biết, chiếc hộp gỗ mà ta đã mua, lão kiếm được nó ở đâu vậy? Ta luôn muốn biết rõ lai lịch mọi món đồ cổ mà ta mua, chắc lão cũng đã biết.” Lão nhân đẩy chiếc mũ đen ra sau và gãi gãi mái đầu bạc. “Lão phu kiếm nó ở đâu ư? Đại nhân, xin cho phép lão phu đi xem lại sổ sách! Xin đại nhân đợi một lát!” “Sao đại nhân không trả giá thấp hơn?” Mã Vinh tức tối hỏi. “Tận một nén bạc! Thật lạ là cái lão lưu manh này vẫn còn được sống trên đời!”
“Ngọc xuyến ấy đáng một nén bạc đấy. Và ta tin Đại phu nhân sẽ thích.” Chủ hiệu đồ cổ từ phía sau quay lại. Lão đặt một cuốn sổ lớn lên quầy. Ngón tay gầy gò của lão chỉ vào một mục, lão lầm bầm: “Đúng rồi, lão phu đã ghi nó ở đây! Lão phu mua chiếc hộp ấy từ bốn tháng trước, ở chỗ Lý Kha tiên sinh.” “Người đó là ai?” Địch Công cộc lốc hỏi. “Chà, Lý Kha là một họa sư. Y chuyên vẽ tranh sơn thủy. Cả ngày chỉ vẽ tranh sơn thủy, mà số người muốn mua không nhiều! Đại nhân, lão phu xin hỏi ngài, ai muốn mua tranh phong cảnh mới vẽ làm gì? Cảnh núi non thì ngài có thể thoải mái ngắm mỗi ngày, ngay ở ngoài thành thôi! Nếu là những bức tranh cổ thì…” “Lý Kha sống ở đâu?” “Bẩm đại nhân, ở cách đây không xa. Trên con phố bên cạnh Tháp chuông. Một ngôi nhà cũ xiêu vẹo! Đúng rồi, giờ lão phu đã nhớ ra! Chiếc hộp nằm trong một giỏ đồ cũ mà Lý tiên sinh muốn vứt bỏ. Tất cả đều dính đầy bùn đất. Nếu Lý tiên sinh trông thấy miếng ngọc thạch đẹp như vậy trên nắp hộp…” Cái miệng móm mém của lão nhân tạo thành một nụ cười nhăn nhở ma mãnh. Nhưng rồi lão vội nói thêm, “Đại nhân ạ, lão phu đã trả một cái giá hợp lý cho tất cả số đồ cũ ấy! Bào huynh của Lý tiên sinh là Lý Mai, có một cửa hiệu kim hoàn, không quá lớn, nhưng… Lão phu muốn làm vừa lòng nhà họ Lý. Một ngày nào đó, lão phu có thể làm ăn với Lý Mai…”
“Nếu Lý Kha có một bào huynh tốt, tại sao y lại phải sống trong cảnh cơ hàn?” Địch Công hỏi. Lão nhân kia nhún vai. “Người ta nói năm ngoái, hai huynh đệ bọn họ có xảy ra tranh cãi. Đại nhân biết ngày nay thế nào rồi đấy, người ta không hiểu được lý do mà phụ tử, huynh đệ phải luôn gắn bó khăng khít. Lão phu luôn nói…” “Được rồi. Tiền của lão đây. Thôi, khỏi cần gói.” Địch Công bỏ đôi ngọc xuyến vào tay áo. Khi hai người ra ngoài, ông bảo Mã Vinh, “Đến chỗ Tháp chuông chỉ cần vài bước chân. Vì cần phải điều tra sâu, nên tốt nhất ta hãy đến chỗ Lý Kha.” Hai người lại quay lại phố chính và vòng qua thềm của Tháp chuông. Chiếc chuông lớn bằng đồng treo lơ lửng trên thanh xà sơn son đã mang một màu đục xỉn. Mỗi sáng, người ta đều đánh chuông để báo thức cho dân chúng. Một người phu gánh nước sốt sắng chỉ cho họ căn nhà gỗ trông như nhà kho nằm ở một con hẻm phía sau, khắp phố chỉ toàn những cửa hiệu nhỏ. Cửa trước được ghép bằng những tấm ván thô, những chỗ rạn nứt được sửa lại qua loa. Các cửa sổ phía hai bên cửa chính đều đóng kín. “Nhà của Lý tiên sinh có vẻ không được đàng hoàng cho lắm.” Địch Công bình phẩm khi gõ cửa. “Lẽ ra y nên trở thành một chủ hiệu đồ cổ!” Mã Vinh chua chát nói. Hai người nghe tiếng chân nặng nề. Thanh chắn cửa được gỡ ra và cánh cửa hé mở. Một người cao gầy, ăn mặc luộm thuộm bất ngờ bước ra. “Ai thế… Cái gì vậy?” Y lắp bắp. Rõ ràng y vẫn đang mong có một thương nhân đến. Địch Công lặng lẽ nhìn khuôn mặt gầy gò của người kia với hàng ria mép đen thưa thớt và đôi mắt to lanh lợi. Chiếc áo choàng màu nâu, rộng thùng thình của y dính đầy phẩm màu; chiếc mũ đen bằng nhung cũng đã cũ sờn.
“Túc hạ có phải họa sư Lý Kha không?” Địch Công lịch thiệp hỏi. Và khi người kia gật đầu, ông hỏi tiếp, “Ta là Địch Nhân Kiệt, Huyện lệnh của huyện Lan Phường, còn đây là trợ thủ Mã Vinh của ta.” Thấy vẻ mặt Lý Kha bỗng tái nhợt, ông liền niềm nở, “Lý tiên sinh, ta chỉ tình cờ ghé thăm tiên sinh thôi! Ta rất thích tranh sơn thủy, ta lâu nay cũng được nghe nói tiên sinh là một họa sư giỏi. Sáng nay, khi đi tản bộ, ta có đến gần nơi này, và ta lập tức quyết định phải đến xem tranh của tiên sinh.” “Đại nhân, thật vinh dự cho tiểu nhân! Thật vô cùng vinh dự!” Lý Kha vội đáp. Rồi nét mặt y bỗng chùng xuống. “Thật không may, trong nhà tiểu nhân lúc này vô cùng bừa bãi. Phụ tá của tiểu nhân đêm qua không về nhà. Y vẫn luôn dọn dẹp giúp tiểu nhân. Nếu đại nhân muốn vào, may ra…” “Ta không bận tâm đâu!” Địch Công vui vẻ ngắt lời rồi bước vào sảnh đường tối tăm bên trong. Họa sư đưa hai người vào một căn phòng rộng và thấp, sáng lờ mờ do hai cửa sổ lớn đã bị che bởi những tấm giấy lụa nhơ nhuốc. Y đẩy một chiếc ghế xiêu vẹo lại gần bàn vẽ ở giữa phòng và mời Mã Vinh ngồi xuống chiếc ghế đẩu bằng tre. Khi Lý Kha chuẩn bị pha trà, Địch Công liếc qua một loạt những cuộn giấy và lụa cùng lọ đựng bút lông trên bàn. Màu trên những chiếc đĩa gỗ nhỏ đã khô lại thành một lớp cặn cứng, một lớp bụi mỏng đã bao phủ lên nghiên mực. Họa sư có vẻ vừa ăn điểm tâm xong, vì ở một góc bàn còn có một chiếc bát mẻ đựng cháo và bên cạnh đó có một mảnh giấy dầu đựng những miếng dưa chua nhỏ.
Bức tường bên trái treo hàng tá tranh thủy mặc. Địch Công thấy một vài bức trong số đó khá ấn tượng. Tuy nhiên, khi nhìn sang những bức tranh cuộn treo trên tường đối diện, ông cau mày. Số tranh đó đều vẽ các nhân vật trong Phật giáo. Không phải những vị Phật thanh cao, nhã nhặn của đạo Phật đời trước, mà là những hung thần hình hài dữ tợn, bán khỏa thân, thuộc về những trường phái bí ẩn sau này. Những dáng hình hung ác có nhiều đầu và tay, diện mạo quái dị, mắt đảo tròng và miệng rộng, đeo những chuỗi vòng cổ được xâu bằng đầu người. Một số còn đang ôm chặt những nữ quỷ trong tay. Những bức tranh này đều được tô vẽ sống động bằng hai màu vàng và lục. Khi Lý Kha đặt hai chén trà lên bàn, Địch Công nói, “Ta rất thích tranh thủy mặc của tiên sinh. Tất cả đều nhằm đạt được phong thái thanh cao của những họa sư thời xưa.” Lý Kha có vẻ vui mừng. “Đại nhân, tiểu nhân thích cảnh sơn thủy. Vào mùa xuân và mùa thu, tiểu nhân vẫn dành nhiều ngày để đi thăm thú vùng núi non ở phía Bắc và phía Tây thành. Tiểu nhân không nghĩ ở huyện này còn ngọn núi nào mà tiểu nhân chưa tìm đến! Trong tranh của mình, tiểu nhân đã cố truyền tải hết nguyên bản mọi cảnh trí thiên nhiên mà mình được chiêm ngưỡng.” “Tại sao một họa sư thanh cao như tiên sinh lại hạ mình vẽ những bức tranh về yêu quỷ man rợ kia?” Lý Kha ngồi xuống chiếc kỷ bằng tre bên cửa sổ. Y mỉm cười rồi đáp, “Đại nhân, tranh thủy mặc không cho tiểu nhân bát cơm đầy! Nhưng đám người Đột Quyết và Duy Ngô Nhĩ trong huyện thì lại có nhu cầu lớn đối với số tranh cuộn ấy. Đại nhân chắc cũng đã biết, những người này tin vào tín ngưỡng mới và man rợ đó, trong đó dạy rằng nam nữ giao hoan là đại diện cho sự hòa hợp của Thiên Địa, và từ đó con người sẽ tiến đến sự cứu rỗi. Những kẻ sùng đạo tự đồng nhất mình với những con quỷ hung dữ đó. Nghi lễ của họ bao gồm…”
Địch Công khoát tay. “Ta biết tất cả về những hủ tục ghê rợn đó. Chúng đều núp dưới cái bóng của tôn giáo. Tất cả đều dẫn đến sự phóng đãng và những tội lỗi mờ ám. Khi ta còn giữ chức Huyện lệnh ở huyện Hán Nguyên, ta đã phải xử lý một số vụ giết người man rợ tại một đạo quán, ở đó diễn ra một nghi lễ bí ẩn*. Dù đám Phật tử giả mạo có tiếp thu các nghi lễ này từ các đạo sĩ hoặc ngược lại hay không, ta cũng không cần biết và không quan tâm.” Ông giận dữ giật hai dải tóc mai. Rồi ông nhìn họa sư bằng ánh mắt sắc lạnh. “Tiên sinh không định nói những nghi lễ bẩn thỉu đó đang diễn ra ở huyện này chứ?” Xem tập Đạo quán có ma trong bộ Địch Công kỳ án. “Không hề, thưa đại nhân. Ở đây không còn những thứ đó nữa. Tuy nhiên, tám hoặc mười năm về trước, chùa Tử Quang ngôi chùa nằm trên ngọn đồi ngay bên ngoài cổng thành phía Đông thuộc về giáo phái đó, và nhiều người Đột Quyết cũng như những kẻ sùng đạo Phật khác từ bên kia biên giới đều đến đó lễ bái. Nhưng khi quan sai động đến thì đám tăng ni đều phải bỏ đi hết. Tuy vậy, tín đồ đạo Phật giáo phái đó trong huyện này vẫn bám vào tín ngưỡng ấy. Họ mua những bức tranh này để treo trên án thờ trong nhà. Họ một mực tin rằng những hung thần này sẽ bảo vệ họ khỏi mọi điều tà ác và đảm bảo cho họ cuộc sống trường thọ, con cháu đầy đàn.” “Thật là mê tín đến ngu muội!” Địch Công khinh bỉ nói. “Kinh Phật nguyên thủy có bao hàm những tư tưởng cao quý. Tuy bản thân ta, là một đệ tử Nho gia chính thống cũng giống như ông, không ưa thích sự sùng bái đạo Phật dưới bất cứ hình thức nào. Ta muốn đặt một bức tranh sơn thủy của tiên sinh. Từ lâu ta đã muốn có một bức tranh về vùng biên cương để treo trong thư phòng, bức tranh phải lột tả sự tương phản giữa vùng núi non và vùng đồng bằng rộng lớn. Ta sẽ rất hài lòng nếu tiên sinh chịu vẽ giúp ta. Ta cũng sẽ giới thiệu tiên sinh với những người quen khác của mình. Tuy nhiên, với một điều kiện, tiên sinh phải ngừng vẽ những bức tranh gớm ghiếc về đạo Phật!”
“Đại nhân, tiểu nhân xin tuân lệnh!” “Được!” Địch Công lấy chiếc hộp gỗ trong tay áo ra. Đặt hộp lên án thư, ông hỏi, “Có phải chiếc hộp này vốn nằm trong bộ sưu tập của tiên sinh?” Ông nôn nóng dõi theo vẻ mặt của họa sư nhưng Lý Kha chỉ tỏ vẻ ngạc nhiên. “Đại nhân, tiểu nhân chưa bao giờ trông thấy nó. Đương nhiên, ngoài chợ có bán rất nhiều loại hộp này. Những người thợ mỹ nghệ trong vùng làm ra loại hộp này từ những mẩu gỗ mun bỏ đi, người dân mua chúng để đựng con dấu hoặc bái thiếp. Nhưng tiểu nhân chưa bao giờ nhìn thấy chiếc hộp kiểu cổ và tao nhã như vậy. Và nếu có trông thấy, chắc tiểu nhân cũng chẳng bao giờ có thể mua nổi!” Địch Công lại bỏ chiếc hộp vào tay áo. “Lệnh huynh chưa bao giờ mua tranh của tiên sinh sao?” Ông chợt hỏi. Lý Kha buồn hẳn. Y đáp cộc lốc, “Gia huynh của tiểu nhân là một thương gia. Ông ấy không có hứng thú với nghệ thuật và coi thường mọi nghệ nhân.” “Tiên sinh sống ở đây một mình cùng với phụ tá sao?” “Đúng thế, thưa đại nhân. Tiểu nhân ghét phải nuôi cả một đám người hầu. Phụ tá của tiểu nhân họ Dương, một kẻ có tài. Y là một văn nhân nhưng không thể vượt qua kì thi cuối cùng vì thiếu lộ phí. Y làm việc nhà và cũng giúp tiểu nhân chuẩn bị đồ vẽ. Tiếc là đại nhân không thể gặp người này.” Nhận thấy Địch Công đã đứng lên, y vội nói, “Đại nhân, để tiểu nhân rót cho ngài một chén trà nữa? Tiểu nhân cũng không mấy khi có vinh dự được đàm đạo với một vị quan nổi danh như ngài, và…”
“Lý tiên sinh, xin thứ lỗi, nhưng bản quan phải trở về huyện nha ngay lúc này. Xin đa tạ tiên sinh đã mời dùng trà. Và đừng quên bức tranh phong cảnh biên cương của ta!” Lý Kha kính cẩn tiễn hai người ra cửa. “Đại nhân, lão họa sư miệng trơn như mỡ này đúng là một kẻ dối trá đê tiện!” Mã Vinh cục cằn nói khi hai người ra đến phố. “Lão già ở hiệu đồ cổ đã chắc chắn rằng mình mua chiếc hộp từ chỗ Lý Kha. Lão ta còn biết rõ về công việc của Lý Kha nữa.” “Trước tiên”, Địch Công chậm rãi đáp, “Lý Kha cho ta ấn tượng tốt đẹp. Tuy nhiên, sau đó, ta lại thấy không hẳn như vậy.” Ông dừng lại. “Trong khi ta trở về huyện nha, ngươi có thể đến hỏi một cửa hiệu hoặc người dân quanh đây xem người ta nghĩ gì về Lý Kha. Và hỏi về cả người phụ tá của ông ta, về cả những bức tranh nữa.” Mã Vinh vâng lệnh. Y chỉ trông thấy một cửa hiệu nổi bật trong con ngõ hẹp. Phía trong cùng cửa hiệu, bốn nữ nhân trung tuổi ngồi quanh một bàn thêu hẹp và dài, mải mê thêu thùa. Người thợ may chào Mã Vinh khá lịch sự. Nhưng ông ta lại có vẻ khó chịu khi Mã Vinh hỏi có quen biết họa sư Lý Kha không. “Thê thảm như một con chuột đói vậy!” Ông ta nói với vẻ ghê tởm. “Tại hạ vẫn thỉnh thoảng thấy y đi ngang qua đây, nhưng y chưa bao giờ mua một mảnh vải! Và phụ tá của y cũng chỉ là một gã lang thang thôi. Đến và đi đều thất thường, giao du toàn với phường lưu manh. Hắn hay làm náo động cả khu vực yên tĩnh và thanh bạch này khi hắn quay về nhà, vừa hát vừa quát tháo vì đã say mèm!”
“Những kẻ liên quan đến văn thơ chữ nghĩa đôi khi hơi phóng đãng”, Mã Vinh thản nhiên nói. “Văn thơ chữ nghĩa gì đâu! Họ Dương là một tên du thủ du thực! Hắn chỉ làm bộ làm tịch như vậy thôi. Hắn mua của tại hạ một bộ y phục mới, thật đen đủi! Hắn chưa hề trả cho tại hạ một đồng nào! Tại hạ vốn định làm to chuyện, nhưng…” Ông ta vươn người qua quầy và ngó kĩ ngoài phố. “Tại hạ phải thật cẩn trọng, quan gia ạ. Tại hạ không muốn một hôm nào đó hắn đến đây cùng đám du côn và ném từng bọc rác rưởi vào số lụa của mình đâu.” “Nếu họ Dương là kẻ vô lại như vậy, tại sao Lý Kha lại giữ hắn trong nhà để giúp việc?” “Vì Lý Kha chẳng kiếm được ai ngoài hắn! Ngưu tầm ngưu, mã tầm mã, quan gia ạ! Và tại hạ xin hỏi ngài, tại sao Lý Kha tiên sinh không thành gia lập thất? Đúng là vì y nghèo, nhưng một người dù có nghèo đến đâu thì cũng luôn có thể tìm được một nữ nhân còn nghèo hơn mình, nên y vẫn có thể thành gia lập thất, như mọi nam nhân bình thường khác. Hai người bọn họ đều đơn độc trong căn nhà nát ấy; họ thậm chí không có cả một nữ tì. Chỉ có trời mới biết chuyện gì xảy ra ở đó hàng đêm!” Người thợ may nhìn Mã Vinh đầy ẩn ý, nhưng khi y định hỏi kĩ hơn, thì người thợ may cúi đầu và hạ thấp giọng, “Xin quan gia nhớ cho, tại hạ không phải người kể chuyện phiếm. Tại hạ vẫn luôn nói: Hãy chấp nhận lối sống của người khác. Bởi thế tại hạ sẽ chỉ nói câu này: Trước đây, hàng xóm của tại hạ có trông thấy một nữ nhân lẻn vào căn nhà đó; y nói lúc ấy là nửa đêm. Và khi tại hạ kể chuyện đó cho chủ tiệm tạp hóa, hắn nói hắn nhớ đã trông thấy Lý Kha mở cửa cho nữ nhân ấy đi ra, vào lúc tờ mờ sáng! Chuyện ấy khiến cho cả một vùng lân cận bị mang tiếng xấu. Và ảnh hưởng đến việc bán hàng của tại hạ.”
Mã Vinh nói, “Thế gian vốn đầy phiền muộn.” Sau khi biết họ tên của gã phụ tá kia là Dương Mậu Đức, y từ biệt ra về. Y vừa rảo bước trở về huyện nha vừa thầm nguyền rủa cái nóng. HỒI 4 Tra hồ sơ, Bạch Ngọc còn ẩn tích Lên công đường, A Ngưu vẫn kêu oan Khi Mã Vinh bước vào thư phòng của Địch Công, Hồng Sư gia đang giúp Địch Công đổi sang bộ quan bào uy nghi màu lục có thêu kim tuyến, cổ áo thêu chỉ vàng. Trong khi Địch Công chỉnh lại mũ ô sa trước gương, Mã Vinh thuật lại cuộc trò chuyện với người thợ may khi nãy. “Ta không biết phải nghĩ sao về những chuyện này.” Địch Công nói. “Hồng Sư gia đã xem qua hồ sơ về những người mất tích nhưng ông ấy cũng không thu được gì nhiều. Sư gia, cho Mã Vinh biết những gì lão tìm ra đi!” Sư gia lấy một tờ giấy trong tập ghi chép trên án thư. “Ngày mồng bốn tháng Chín năm Tân Tỵ”, lão nói với Mã Vinh, “hai người được trình báo mất tích. Một tay buôn ngựa người Đột Quyết nói nữ nhi của mình bỗng nhiên biến mất; nhưng tháng sau cô ta đã quay về, sánh vai với vị hôn phu vốn là người ở bên kia biên giới và một đứa bé mới sinh. Thứ hai, bào đệ của một người thợ kim hoàn là Mễ Đại Lang trình báo rằng Mễ Đại Lang ra ngoài vào ngày mồng sáu tháng Chín năm Tân Tỵ và không quay về. Để chắc chắn, lão phu đã xem qua mọi ghi chép của năm Tân Tỵ nhưng không thấy có người nào tên Bạch Ngọc được nhắc tới.”
Tiếng chiêng đồng vang lên lanh lảnh ngoài cổng huyện nha. Có liền ba hồi chiêng, báo hiệu phiên thăng đường của huyện nha đã bắt đầu. Hồng Sư gia kéo tấm màn ngăn phòng của Địch Công và đại đường sang một bên. Bức màn màu tía thêu chỉ vàng có hình giải trãi, linh thú biểu tượng cho sự sáng suốt ở đời. Địch Công bước lên đài cao và ngồi xuống đại án của pháp quan, mặt án có phủ hồng điều rủ xuống gần chạm đất. Trên án có một tập mỏng các văn thư, bên cạnh là một chiếc tráp lớn hình chữ nhật, bọc bằng giấy dầu. Địch Công tò mò nhìn chiếc tráp ấy rồi ông khoanh tay lại trong ống tay rộng và nhìn khắp đại đường. Trong đại đường rộng lớn thênh thang này, không khí có phần mát mẻ. Chỉ có hơn mười người dân đến xem xử án. Họ tha thẩn như đi chơi. Rõ ràng họ đến để tránh cái nóng bên ngoài hơn là xem một phiên thăng đường kịch tính. Tám Bộ khoái đứng nghiêm chỉnh thành hai hàng, mỗi hàng bốn người, ngay phía trước đại án. Bộ đầu đứng tách riêng, trên tay y là ngọn roi da lớn. Một cặp khóa xích bằng sắt lủng lẳng trên đai lưng bằng da to bản của y. Phía sau y, Địch Công thấy có bốn người thuộc tầng lớp dân cần lao, ăn mặc giản dị và trông có phần ốm yếu. Bên trái đại án, hai Lục sự* ngồi bên một chiếc án thấp, bút mực đã sẵn sàng để ghi chép diễn tiến của buổi xử án. Người giữ việc biên chép văn thư sổ sách ở các cơ quan. Sau khi Sư gia và Mã Vinh đứng ra sau ghế của Địch Công, ông cầm kinh đường mộc* vỗ án.
Dụng cụ Địch Công dùng để đập xuống bàn trong lúc thăng đường. “Bản quan tuyên bố, huyện nha huyện Lan Phường bắt đầu thăng đường xử án!” Ông tuyên bố, đoạn đọc văn thư rồi sai Bộ đầu dẫn bị cáo lên đại đường. Được Bộ đầu ra hiệu, hai Bộ khoái tiến đến một cánh cửa bên trái đại đường và lôi một nam nhân ra công đường. Hắn mặc áo da thú vá víu và chiếc quần ống rộng. Địch Công nhanh chóng quan sát. Khuôn mặt hắn dài, nước da rám nắng, ria mép bờm xờm và râu cằm thì ngắn; mái tóc dài và bù xù của hắn lòa xòa trước trán thành từng mớ. Các Bộ khoái đẩy hắn quỳ xuống trên nền đá phía trước đại án. Bộ đầu đứng bên bị cáo, ngọn roi chuyền qua chuyền lại trong tay. Địch Công xem qua tờ giấy trên cùng trong tập văn thư trước mặt. Ông ngẩng lên và nghiêm nghị hỏi, “Ngươi chính là A Ngưu, ba mươi hai tuổi, không có nghề nghiệp cũng như nơi ở cố định?” “Bẩm đại lão gia, chính là thảo dân.” A Ngưu kêu than. “Nhưng thảo dân muốn thưa rằng…” Bộ đầu khẽ đặt cán roi lên vai A Ngưu. “Chỉ được trả lời khi đại nhân hỏi!” Y quát bị cáo. “Bộ đầu, mau đọc bản cáo trạng!” Bộ đầu đứng nghiêm, hắng giọng đọc: “Đêm qua, người này ăn tối ở Mã Hầu tửu điếm, ngay bên trong cổng thành phía Tây với Thẩm Tam, một kẻ lưu manh có tiếng trong vùng. Hai người uống bốn vò rượu và tranh cãi về chuyện trả tiền. Chu chưởng quỹ* phải đến can thiệp và cả hai đã làm hòa. Tiếp đó, A Ngưu và Thẩm Tam bắt đầu đi đánh bạc. Sau đó, Thẩm Tam bắt đầu thua nặng, hắn quay ra đổ lỗi cho A Ngưu đã ăn gian. Hai người nảy sinh loạn đả, A Ngưu tìm cách đập một vò rượu vào đầu Thẩm Tam. Chưởng quỹ phải nhờ nhiều người khác can giúp. Người ta nghe thấy Thẩm Tam nói với A Ngưu rằng hắn sẽ tính sổ ở ngôi chùa hoang. Thưa đại nhân, chính là ngôi chùa cổ mang tên Tử Quang, nằm trên ngọn đồi bên ngoài cổng thành phía Đông. Ngôi chùa ấy đã bị bỏ không từ hơn mười năm nay và đám du thủ du thực vẫn hay qua đêm ở đó.”
Chủ hiệu buôn. “Bị cáo và Thẩm Tam có thực sự đã đến đó không?” Địch Công hỏi. “Bẩm đại nhân, hai người quả có đến đó. Lính gác ở cổng thành phía Đông có trình báo rằng hai người đi qua cổng trước lúc nửa đêm tầm nửa canh giờ, vừa đi vừa luôn miệng chửi bới nhục mạ nhau. Lính gác còn cảnh báo rằng họ sắp đóng cổng thành, và A Ngưu quát lại họ rằng hắn sẽ không thèm quay về.” A Ngưu ngẩng đầu lên nói gì đó. Nhưng khi Bộ đầu vung ngọn roi lên, hắn vội cúi mặt xuống đất. “Sáng nay, ngay sau khi trời hửng sáng, người thợ săn họ Mạnh đến huyện nha và trình báo rằng, khi bước vào gian trước của ngôi chùa đó để nghỉ chân, ông ta phát hiện ra một tử thi nằm trước án thờ. Thuộc hạ lập tức lên đường tới đó cùng hai Bộ khoái. Thủ cấp của xác chết đó đã bị cắt lìa, nằm trong vũng máu cạnh thân thể. Thuộc hạ nhận ra nạn nhân chính là tên lưu manh Thẩm Tam. Hung khí cũng nằm cạnh đấy, một cây đại phủ* hai lưỡi, kiểu mà người Đột Quyết vẫn dùng. Thuộc hạ liền tra xét khắp trong ngoài ngôi chùa và phát hiện ra bị cáo nằm ngủ dưới một gốc cây ở một góc khu vườn của chùa. Trên áo hắn vẫn còn vấy máu. Vì thuộc hạ sợ hắn sẽ trốn thoát nếu thuộc hạ quay về xin lệnh bắt, nên thuộc hạ đã bắt giữ hắn ngay tại chỗ vì tội du đãng. Khi hắn nói nơi cuối cùng hắn đến hôm qua chính là Mã Hầu tửu điếm trong huyện, thuộc hạ liền đến đó ngay và được chưởng quỹ cho biết về vụ cãi lộn. Chưởng quỹ cũng đang có mặt trên công đường để chứng khai. Đi cùng ông ta là hai thực khách đã chứng kiến vụ ẩu đả và cả người thợ săn họ Mạnh.”
Một loại vũ khí dạng rìu. Địch Công gật đầu. Ông quay sang Mã Vinh, hỏi nhỏ, “Có gì bất thường không khi một vụ cãi lộn trong đám giang hồ lại được kết thúc bằng một cây đại phủ?” “Hiển nhiên là có, thưa đại nhân”, Mã Vinh đáp. “Bọn chúng thích dùng dao cắt cổ, hoặc dùng gậy nặng đánh vào đầu.” “Hãy xem hung khí!” Mã Vinh mở lớp giấy dầu. Mọi người thấy một cây phủ hai lưỡi có cán cong dài tầm ba thước*. Trên lưỡi phủ sắc bén vẫn còn chút máu khô. Phần cuối cán phủ bằng đồng được chế hình đầu quỷ đang toác miệng cười. 1 thước tương đương 0,33 mét. “Bộ đầu, tại sao kẻ sát nhân lại có được thứ hung khí lạ lùng này?” “Bẩm đại nhân, hắn tìm được cây phủ ở ngay tại đó. Sảnh đường của ngôi chùa trống không, chỉ có một án thờ kê sát tường. Nhưng trong một hốc nhỏ ở bức tường bên có hai cây kích và hai cây phủ. Lúc ngôi chùa còn có người đến lễ bái, những binh khí ấy được dùng trong những nghi lễ dị thường. Chúng bị bỏ lại khi đám tăng nhân rời khỏi chùa. Không ai dám đánh cắp những thứ này, vì chúng là những vật thiêng có thể gây ra đen đủi.” “Thẩm Tam có người thân nào ở đây không?” “Không hề có, thưa đại nhân. Hắn có một người huynh đệ là Thẩm Ngũ, nhưng kẻ này đã bỏ sang huyện Thư Mạt cách đây không lâu.” Hồng Sư gia ghé xuống bên Địch Công và nói, “Lão phu có xem bản sao các văn thư mà Huyện lệnh huyện Thư Mạt gửi đến, ông ta vừa kết án Thẩm Ngũ sáu tháng tù giam, cùng với ả nhân tình của hắn. Cả hai phạm tội lấy trộm một con lợn.”
“Ta biết rồi.” Rồi Địch Công ra lệnh. “A Ngưu, mau thuật lại cho bản quan thật chính xác về những chuyện xảy ra tối qua!” “Bẩm đại lão gia, không có chuyện gì cả, hoàn toàn không có. Thảo dân xin thề! Thẩm Tam là bằng hữu tốt nhất của thảo dân, sao thảo dân lại phải…?” “Ngươi đã cãi cọ kịch liệt với hắn và ngươi còn tìm cách đánh vào đầu hắn”, Địch Công cắt lời hắn. “Ngươi cũng định chối bỏ chuyện này sao?” “Bẩm đại lão gia, đương nhiên thảo dân không có ý đó! Thẩm Tam và thảo dân vẫn luôn cãi cọ, chẳng qua là vì quá nhàn rỗi. Sau đó, Thẩm Tam nói thảo dân đánh bạc gian lận, và quả nhiên có chuyện đó. Thảo dân vẫn luôn gian lận khi đánh bạc và Thẩm Tam vẫn luôn tìm cách bắt quả tang. Đó cũng chỉ là một trò tiêu khiển! Đại lão gia, xin hãy tin lời thảo dân, thảo dân không hề giết hắn. Thảo dân xin thề! Thảo dân thậm chí chưa bao giờ dám làm hại đến một sợi tóc của người khác, thảo dân sẽ không bao giờ…” Địch Công vỗ án. “Mau thuật lại mọi chuyện từ sau khi hai người rời khỏi quán rượu!” “Bẩm đại lão gia, chúng thảo dân cùng nhau đi về phía cổng thành phía Đông, vừa đi vừa cãi chửi nhau, nhưng rất thân thiết. Khi qua cổng thành, hai người bá vai nhau, vừa đi vừa hát. Thẩm Tam đỡ thảo dân bước đi vì thảo dân đã quá mệt. Thảo dân đã phải đi vác củi thuê suốt cả buổi chiều vì có một kẻ keo kiệt… Ôi, khi hai người đã vào đến sân của ngôi chùa, Thẩm Tam nói: ‘Ta sẽ đi vào sảnh lớn, ta sẽ ngủ bên án thờ!’ Thảo dân thấy buồn ngủ nên nằm luôn dưới một gốc cây ở chỗ nào đó. Chỉ sáng nay khi tỉnh dậy, thảo dân mới thấy cái tên…Hắn vội chữa lại khi Bộ đầu vung ngọn roi lên, và buồn rầu nói, “thấy vị quan sai này đạp vào sườn thảo dân và mắng thảo dân là kẻ giết người!”
“Còn có kẻ nào khác lai vãng đến ngôi chùa hoang đó không?” “Bẩm đại lão gia, không hề có ai khác!” “Bộ đầu, Ngỗ tác* đã khám nghiệm tử thi chưa?” Người làm công việc khám nghiệm tử thi trong nha phủ. “Bẩm đại nhân, Ngỗ tác đã khám nghiệm xong. Đây là bản trình báo của ông ta.” Bộ đầu lấy trong túi áo ra tờ giấy được gập cẩn thận và kính cẩn đặt lên đại án bằng cả hai tay. Địch Công xem qua tờ giấy, Mã Vinh và Sư gia cũng đứng bên xem cùng. “Thật hay là hắn lại đi chặt đầu người ta!” Mã Vinh thì thào. “Cứ cắt cổ thì mọi chuyện đã êm rồi!” Địch Công nhìn sang y. “Ngỗ tác cho biết”, ông hạ thấp giọng, “trên thi thể không có vết sẹo hoặc dấu hiệu ẩu đả nào cả. Vì Thẩm Tam là kẻ côn đồ, nên ta cũng thấy có chút lạ lùng.” Ông vừa vuốt râu vừa suy nghĩ chốc lát. Rồi ông bảo hai trợ thủ, “Ngỗ tác vốn có nghề buôn bán dược phẩm. Một người nhân hậu, nhưng ông ấy không có kinh nghiệm đối với nghiên cứu nguyên nhân. Ta nghĩ tốt nhất nên đích thân xem lại thi thể đó trước khi chúng ta tiếp tục thẩm vấn.” Ông vỗ án và phán: “Bộ đầu, dẫn bị cáo trở lại đại lao! Phiên thăng đường tạm ngừng cho đến khi có thông cáo mới.” Ông đứng dậy và quay vào bên trong tấm màn thêu giải trãi, Mã Vinh và Hồng Sư gia theo sau. HỒI 5 Một tử thi bỗng hóa ra hai Ngày trọng đại vẫn đi tra án Ba người đi từ công đường xuống đại lao phía sau nha phủ, ở đó có một gian phòng lớn được dùng làm nhà xác.
Gian phòng thấp này có mùi ẩm mốc. Giữa nền phòng gạch đỏ kê một chiếc bàn dài. Trên đó là một thi thể được phủ vải liệm, bên cạnh có một chiếc giỏ lớn được đặt dưới sàn. Địch Công chỉ vào chiếc giỏ. “Trước hết hãy xem phần đầu của nạn nhân”, ông bảo Mã Vinh. Mã Vinh đặt chiếc giỏ lên bàn. Khi vừa mở ra, y sững người vì kinh sợ. “Đại nhân, thật kinh khủng!” Sau khi kéo kéo cổ áo lên che kín miệng và mũi, y cầm mớ tóc dài bê bết máu mà nâng cái đầu lên rồi đặt ra bên cạnh chiếc giỏ. Địch Công lặng lẽ quan sát thứ đáng sợ ấy, hai tay chắp sau lưng. Thẩm Tam có khuôn mặt đầy đặn, nước da sạm nắng, má trái biến dạng vì một vết sẹo xấu xí có từ lâu. Đôi mắt đỏ ngầu đã lạc tròng của hắn bị vài sợi tóc rủ xuống trước trán che khuất. Hàng ria mép lởm chởm nằm trên cái miệng đầy nhục dục, cặp môi dày méo mó tạo thành một điệu cười thô bỉ, phô ra hàm răng nâu xỉn, khấp khểnh. Phần cổ đầy vết da rách và máu đông. “Khuôn mặt này thật không tạo được chút thiện cảm nào.” Địch Công nói. “Kéo vải liệm ra đi, Hồng Sư gia!” Thi thể không đầu trần trụi ấy khá cân xứng, hông gọn, vai rộng. Hai cánh tay dài và cơ bắp cuồn cuộn. “Một đại hán có dũng lực”, Mã Vinh bình phẩm. “Thật khó tìm được ai bảo hắn ngoan ngoãn đưa cổ ra cho chém.” Y cúi xuống bên thi thể và xem kĩ phần cổ. “A, ở đây có một vết lằn, và những vết da trầy. Đại nhân, Thẩm Tam đã bị siết cổ bằng một sợi dây thừng mỏng, và có thể là bị siết cổ từ phía sau.”
“Mã Vinh, ngươi có thể đã đúng vì vết lằn là dấu vết rõ ràng. Ban đầu hung thủ chỉ khiến cho khuôn mặt biến dạng, nhưng muốn cắt thủ cấp nên mới thành ra như vậy. Bây giờ, hãy xem tội ác man rợ này diễn ra thời điểm nào?” Địch Công xem chân và tay của tử thi, rồi cúi xuống xem khuỷu tay phải. “Qua tình trạng của tử thi, người này tử vong vào khoảng nửa đêm. Ít nhất thì cũng có một sự thật giống với giả thiết của Bộ đầu.” Vừa định buông tay của tử thi ra, ông bỗng nhiên giật mình. Ông mở bàn tay đang nắm của tử thi ra và xem kỹ lòng bàn tay mềm mại cùng những ngón tay. Ông buông tay tử thi và đến phía bên kia bàn để xem chân. Rồi ông đứng thẳng người và bảo Hồng Sư gia, “Cái gói vấy máu trong góc kia là y phục của người chết, phải vậy không? Sư gia mau đem đến đây và mở ra!” Địch Công tìm ra chiếc quần vá víu trong đống đồ và phủ lên đôi chân của người chết. “Đúng như ta nghĩ!” Ông thì thầm. Nhìn hai trợ thủ bằng ánh mắt ảm đạm, ông nói, “Các ngươi, ta đã nhầm rồi, khi mà sáng nay ta lại nói đây là một vụ án do xung đột trong đám giang hồ gây ra. Có thể nói, đây là án mạng kép.” Cả hai tròn mắt nhìn ông. “Án mạng kép ư?” Hồng Sư gia hòi. “Ý đại nhân là thế nào?” “Ý ta là không phải chỉ có một người mà có đến hai người bị sát hại. Cả hai đều bị chặt đầu nên thân thể họ có thể được tráo đổi cho nhau. Các ngươi không thấy đây không phải thân thể của Thẩm Tam sao? Hãy so khuôn mặt sạm nắng với bàn tay và cánh tay trắng trẻo nhẵn nhụi của tử thi mà xem, nhìn bàn tay mịn màng này, nhìn bàn chân không hề có chai sạn này! Hơn thế, đây là thân thể của một người cao lớn, thế mà chiếc quần của Thẩm Tam vẫn quá dài so với chân hắn. Bộ đầu nhà ta còn phải học thêm nhiều!”
“Thuộc hạ sẽ gọi tên lỗ mãng đó đến ngay!” Mã Vinh lẩm bẩm. “Rồi chúng ta sẽ cho hắn…” “Không, ngươi đừng nên hành xử kiểu đó!” Địch Công vội ngăn. “Kẻ giết người chắc chắn phải có lý do nhất định thì mới cố tình sắp đặt như thể chỉ có mình Thẩm Tam bị sát hại và đây là thân thể của Thẩm Tam. Chúng ta sẽ không cần phải làm khó Bộ đầu. Trong lúc này, cứ để như vậy đi.” “Vậy thân thể của Thẩm Tam và phần đầu của thân thể bất minh này đang ở đâu?” Mã Vinh lúng túng hỏi. “Đó cũng chính là điều ta đang muốn biết”, Địch Công cộc lốc đáp. “Trời ơi, có hai người bị giết, và chúng ta thậm chí không có bất cứ manh mối gì về động cơ của tội ác man rợ này!” Ông vuốt râu và nhìn xuống khuôn mặt biến dạng của Thẩm Tam. Rồi ông quay lại và ra lệnh, “Chúng ta phải đến đại lao và hỏi chuyện A Ngưu.” Lao phòng nhỏ này tối tăm đến nỗi khó mà nhận ra bóng dáng tù nhân đang ngồi sau chấn song sắt. Khi trông thấy ba người bước vào, hắn vội vã bò về góc xa nhất trong phòng làm xích sắt kêu leng keng. “Xin đừng đánh thảo dân!” Hắn thốt lên hoảng loạn. “Thảo dân xin thề rằng…” “Im miệng!” Địch Công quát, rồi lại tiếp tục nói bằng giọng thân thiện hơn, “Ta chỉ đến hỏi chuyện ngươi về bằng hữu Thẩm Tam của ngươi thôi. Nếu ngươi không phải kẻ giết người trong ngôi chùa cổ, vậy thì đó là ai? Và tại sao trên áo ngươi lại dính máu?” A Ngưu lập cập bò ra đến cửa. Hai tay bị khóa ôm lấy đầu gối, hắn bắt đầu rên rỉ. “Đại lão gia, thảo dân không hề biết. Làm sao thảo dân có thể biết được? Đương nhiên là Thẩm Tam có nhiều kẻ thù, ngày nào mà hắn chả tranh chấp, ai mà không có kẻ thù nếu làm cái nghề như hắn? Nhưng không có kẻ nào dám liều mạng giết hắn. Không có ai, thưa đại lão gia. Còn về vết máu, có trời mới biết vì sao lại có máu trên quần áo của thảo dân. Lúc thảo dân rời tửu điếm thì trên người không hề có máu, thảo dân chỉ biết có vậy!” Hắn lắc đầu và lại tiếp tục. “Thẩm Tam là kẻ cứng cỏi, hắn lại biết võ nghệ, biết cả dùng dao. Trời ạ, có thể là…” Hắn bỗng ngừng lại.
“Nói tiếp đi! Có thể là ai?” “Ôi… thảo dân nghĩ có thể là do ma làm. Bóng ma trong chùa Tử Quang, chính bọn thảo dân đã gọi ả ta lên. Đại lão gia, có một nữ nhân khoác tấm vải liệm trên mình. Ả ta đi lại trong khu vườn hoang phía sau vào mỗi đêm trăng tròn. Bẩm đại lão gia, đó là một cương thi vô cùng đáng sợ. Ả ta thích gặm đầu của nam nhân. Chúng thảo dân không bao giờ đến đó khi…” “Đừng nói những lời nhảm nhí nữa!” Địch Công thiếu kiên nhẫn ngắt lời hắn. “Thẩm Tam gần đây có xung đột với ai không? Ý ta là xung đột thực sự, không phải chỉ là cãi cọ trong lúc say?” “Ôi, đại lão gia, khoảng nửa tháng trước, hắn có xung đột kịch liệt với bào đệ của mình. Thẩm Ngũ, người ta gọi bào đệ của hắn bằng tên ấy. Kẻ này không có khí chất như Thẩm Tam, mà là một kẻ mạt hạng tầm thường. Hắn chiếm mất một nữ nhân của Thẩm Tam, và Thẩm Tam thề sẽ giết hắn. Rồi Thẩm Ngũ bỏ sang huyện Thư Mạt cùng ả tiện nữ đó. Nhưng đó là một nữ nhân, đâu có lý do gì đáng để giết người, phải không đại lão gia? Nếu không phải vì tiền…” “Trong số bằng hữu và người quen của Thẩm Tam, có ai là kẻ cao ráo, gầy gò không? Một kẻ tuấn tú, như một thủ quỹ hoặc đại khái như vậy?” A Ngưu nhíu mày nghĩ ngợi với vẻ khó nhọc. Rồi y đáp, “Có đấy, thưa lão gia, thảo dân đã trông thấy có vài lần Thẩm Tam đi cùng một kẻ cao ráo, kẻ này chỉ mặc bộ thanh y, trông cũng gọn gàng. Hắn cũng đội một chiếc mũ. Thảo dân từng hỏi Thẩm Tam đó là ai và cả hai đang nói chuyện gì mà rôm rả vậy, nhưng hắn chỉ bảo thảo dân im miệng mà làm việc của mình đi. Thảo dân đành thôi.”
“Nếu ngươi trông thấy kẻ đó lần nữa, ngươi có nhận ra hắn không?” “Không đâu, đại lão gia à. Hai người họ gặp nhau khi trời đã tối, ngay trong sân của chùa Tử Quang. Thảo dân nghĩ hắn không có râu cằm. Chỉ có một hàng ria mép thôi.” “Tốt lắm, A Ngưu. Ta hy vọng ngươi đã kể hết mọi điều ngươi biết. Vì lợi ích của chính ngươi thôi!” Trong khi quay lại thư phòng, Địch Công bảo hai trợ thủ, “Những lời nhận định của gã A Ngưu này đều là sự thật. Có kẻ nào đó đã bày trò để A Ngưu phải làm hình nhân thế mạng. Lúc này, A Ngưu sẽ được an toàn khi ở trong đại lao. Sư gia, lệnh cho Bộ đầu hoãn phiên thăng đường sang ngày mai. Ta phải thay đổi thời gian xét xử, vì ta đã hứa với các vị phu nhân là sẽ đi dùng cơm trưa với họ, hôm nay là ngày đại hỉ. Sư gia, sau đó ta sẽ đi cùng lão và Bộ đầu đến ngôi chùa hoang ấy để xem xét hiện trường vụ án mạng. Còn ngươi, Mã Vinh, ta muốn ngươi ngay chiều nay đến khu phía Tây Bắc, nơi tập trung đông người Đột Quyết, Duy Ngô Nhĩ và những dị tộc khác. Vì hung thủ sử dụng cây phủ của người Đột Quyết, nên hắn có thể là một người Đột Quyết, hoặc một người Hán sống giữa đám dị tộc. Phải thật quen với loại phủ có cán cong thì mới có thể sử dụng chúng linh hoạt như tên hung thủ đã sử dụng. Cứ đi dò xét quanh hàng quán của đám hạ lưu, bọn tiện dân vẫn quanh quẩn ở đó, và nhớ bí mật điều tra!”
“Đại nhân, thuộc hạ có thể làm được hơn thế!” Mã Vinh hồ hởi. “Thuộc hạ sẽ đi hỏi cô nương Thổ Nhĩ Bối*!” Một cô nương người Duy Ngô Nhĩ, đã xuất hiện ở cuốn Mê cung án trong bộ Địch Công kỳ án. Hồng Sư gia nhìn sang Địch Công đầy ẩn ý nhưng khéo léo không bình phẩm gì. Thổ Nhĩ Bối là một kỹ nữ người Duy Ngô Nhĩ mà Mã Vinh đã phải lòng từ sáu tháng trước. Chuyện tình ấy chẳng kéo dài được bao lâu, vì y sớm mệt mỏi với vẻ duyên dáng khó cưỡng của nàng, trong khi nàng lại có một sở thích cố hữu là món trà bơ ôi khét và cũng không thích tắm. Hơn thế, y lại phát hiện ra nàng vốn có một tình lang, một kỵ sĩ lạc đà người Mông Cổ và nàng còn sinh cho hắn hai đứa con trai. Y lịch thiệp cắt đứt với nàng. Y dùng số ngân lượng dành dụm của mình để chuộc nàng ra, cho nàng làm chủ một tiệm cháo. Gã kỵ sĩ lạc đà cưới nàng về, Mã Vinh lại trở thành phù rể trong tiệc hỉ với món thịt cừu nướng và rượu sữa của người Mông Cổ, tiệc hỉ ấy kéo dài đến sáng và là lần đầu tiên sau nhiều năm y say đến thế. Sau khi ngừng lại một lát, Địch Công thận trọng nói, “Theo lệ thường, những người này đều âm thầm lưu tâm đến những chuyện trong tộc người mình. Tuy nhiên, vì ngươi đã quen cô nương ấy, cô ta có thể sẽ thoải mái kể chuyện với ngươi. Dù sao cũng đáng để thử một lần. Khi về thì đến báo lại với ta ngay.” Hồng Sư gia và Mã Vinh dùng bữa trưa cùng nhau ở túc xá của sai nha. Mã Vinh đã lệnh cho một nha dịch mua về một vò rượu lớn từ tửu điếm gần nhất.
“Tại hạ biết thứ rượu quê mà mấy bà già hay bán.” Y vừa nói vừa đặt chén rượu xuống. “Bởi thế, tại hạ cần phải lót dạ trước! Bây giờ, tốt nhất là tại hạ sẽ đổi sang bộ y phục cũ, để không bị quá lộ liễu. Chúc Sư gia điều tra ngôi chùa sẽ thu được kết quả tốt!” Sau khi Mã Vinh đi khỏi, Hồng Sư gia uống trà và đến tư thất của Địch Công ở phía sau huyện nha. Tổng quản phụ trách túc xá báo với Sư gia rằng, sau bữa cơm trưa, Địch Công đã ra vườn sau cùng ba vị phu nhân. Sư gia gật đầu và quay đi. Lão là nam nhân duy nhất ở huyện nha này được phép vào chỗ ở của các vị phu nhân, lão luôn hãnh diện về đặc ân đó. Trong vườn rất thoáng mát do đã được Huyện lệnh tiền nhiệm bố trí khéo léo. Ông rất thích làm vườn. Những cây sồi và keo cao lớn vươn tán trên lối đi quanh co được lát bằng đá mịn đều nhau. Ở mỗi khúc quanh, người ta có thể nghe tiếng nước chảy róc rách qua đám cây bụi tầm thấp, đâu đó thấp thoáng những khóm hoa cùng khoe sắc rất hài hòa. Khúc quanh cuối cùng dẫn Hồng Sư gia đến một khoảng đất trống nhỏ, bao quanh là những tảng đá lớn phủ đầy rêu. Nhị phu nhân và Tam phu nhân đang ngồi trên chiếc ghế đá mộc mạc dưới một rặng tre xào xạc cao vút, hai người đang ngắm ao sen cạnh đó. Bức tường bao được những cây thông khéo léo che kín. Giữa ao sen có một tòa thủy đình nhỏ, mái chóp và các mái chìa yêu kiều nằm trên sáu cây cột sơn son. Địch Công và Đại phu nhân đang ở trong đó, ngồi bên bàn đá cạnh lan can.
“Lão gia đang mải viết thư pháp.” Nhị phu nhân bảo Hồng Lượng. “Chúng ta ở đây để tránh làm phiền ông ấy.” Nàng có khuôn mặt chất phác, hiền hậu; mái tóc được buộc lại phía sau rất dung dị; nàng mặc áo choàng bằng lụa tía bên ngoài chiếc xiêm màu trắng. Nhiệm vụ của nàng là giám sát mọi sổ sách trong nhà. Tam phu nhân, mảnh mai trong trong bộ xiêm y có tay dài bằng lụa xanh, khăn quàng màu đỏ thắt lại dưới ngực áo, búi tóc của nàng vừa cao vừa cầu kì, hợp với vẻ mặt cao quý. Thú vui của nàng là hội họa và thư pháp, nàng cũng thích những trò tiêu khiển ngoài trời, đặc biệt là cưỡi ngựa. Nàng chăm lo cho chuyện học hành của các công tử. Hồng Sư gia gật đầu với họ bằng vẻ thân thiện rồi bước xuống bậc thang đá dẫn ra ao sen. Lão bước lên cây cầu bằng đá cẩm thạch dẫn ra giữa ao sen. Tòa thủy đình được xây trên điểm cao nhất của cây cầu. Địch Công đang đứng bên bàn đá, trên tay cầm cây bút lớn. Ông đang chăm chú nhìn vào tờ giấy đỏ trải rộng trên mặt bàn. Đại phu nhân đang mải mê mài mực cạnh ông. Bà có khuôn mặt trái xoan cân đối, mái tóc búi cao thành ba búi, cài một chiếc trâm vàng. Bộ y phục bằng lụa thêu hai màu xanh lam và trắng rất tôn dáng, dù bà đang dần trở nên đẫy đà ở tuổi ba mươi chín. Địch Công thành gia thất với bà khi bà vừa mười chín và ông mới hai mươi tuổi. Bà là trưởng nữ của một vị đại quan, là bạn thân của cha Địch Công. Có được nền giáo dục tinh túy và là một nữ nhân có tính cách kiên cường, bà rất giỏi quán xuyến mọi việc trong nhà. Bà đã ngừng mài mực và bày khay mực ra cho Địch Công. Ông chấm bút, kéo cổ tay áo bên phải lên, rồi viết hai chữ “trường cửu” lên mảnh giấy dài gần bốn thước, động tác uyển chuyển và mạnh mẽ.
Hồng Sư gia vẫn đợi trên cầu cho đến khi Địch Công viết xong mới đi đến tòa thủy đình. “Đại nhân, thư pháp của ngài thật tuyệt diệu!” Lão nói. “Ta muốn những chữ tốt lành này được chính tay lão gia viết, Hồng tiên sinh ạ!” Đại phu nhân nở nụ cười mãn nguyện. “Tối nay, chúng ta sẽ trưng thư pháp của đại nhân trên tường phòng ăn!” Nhị phu nhân và Tam phu nhân cũng đến thủy đình để chiêm ngưỡng thư pháp. Cả hai vỗ tay tán thưởng. “Chà”, Địch Công mỉm cười, “không thể nào viết xấu được, bởi Đại phu nhân mài mực và hai nàng chuẩn bị giấy bút cho ta mà! Giờ ta phải đi rồi, vì ta phải đến điều tra ở một ngôi chùa cổ. Vài tên du đãng đã ẩu đả ở đó tối qua. Nếu còn thời gian, ta sẽ ghé qua am Thanh Phong của Bảo Nguyệt sư thái và bảo bà ấy rằng ta đang lên kế hoạch đặt một doanh trại trên ngọn đồi đó.” “Xin theo ý lão gia!” Nhị phu nhân nôn nóng đáp. “Bảo Nguyệt sư thái sống cô độc, chỉ có một tiểu tì.” “Lão gia nên thuyết phục Bảo Nguyệt chuyển vào trong thành.” Đại phu nhân nhắc. “Vẫn còn hai hoặc ba điện thờ để bà ấy có thể tĩnh tu. Cũng tránh cho bà ấy phải đi cả một quãng đường dài mỗi khi muốn đến đây dạy bọn thiếp cách cắm hoa.” “Ta sẽ cố gắng hết sức.” Địch Công hứa. Các vị phu nhân đều quý mến Bảo Nguyệt, một trong số ít những bằng hữu đáng mến ở huyện Lan Phường. “Có thể ta sẽ về muộn”, ông nói thêm, “nhưng các nàng cũng sẽ bận bịu suốt cả chiều đấy, vì sẽ phải đón tiếp phu nhân của các vị thân sĩ đến chúc mừng. Ta sẽ trở về sớm nhất có thể.”
Ba vị phu nhân tiễn ông ra tận cổng vườn. HỒI 6 Chùa Tử Quang, Huyện lệnh tìm xác Am Thanh Phong, thiếu nữ khinh người Kiệu của Địch Công đã chờ sẵn trong sân trước, tám kiệu phu lực lưỡng đứng kế bên. Bộ đầu cùng mười Bộ khoái cưỡi ngựa đứng đợi. Địch Công bước vào kiệu, theo sau là Hồng Sư gia. Trong khi đi đến cổng thành phía Đông, Sư gia hỏi, “Đại nhân, tại sao hung thủ lại phải mất công cắt đầu của cả hai nạn nhân? Và tại sao lại tráo đổi thân xác?” “Sư gia, câu trả lời đã rất rõ ràng, dù có một hung thủ hay nhiều hung thủ! Đừng quên Thẩm Tam là một nạn nhân, hẳn phải có lý do bí ẩn nào đó nên hắn mới không muốn người ta tìm ra thi thể của Thẩm Tam. Cùng lúc đó, hắn lại muốn che giấu một sự thật rằng, còn có một nạn nhân thứ hai, và hắn muốn che giấu danh tính nạn nhân thứ hai ấy. Nhưng có thể còn có những lý do khác ít lộ liễu hơn. Tuy nhiên, đừng lo lắng gì về mấy chuyện đó. Việc đầu tiên là tìm ra thân thể của Thẩm Tam và đầu của nạn nhân thứ hai. Chúng sẽ được giấu ở đâu đó bên trong hoặc gần ngôi chùa hoang.” Khi đoàn kiệu đi qua cổng thành phía Đông một số kẻ lang thang đang lảng vảng quanh những quán hàng và cửa hiệu nhỏ dọc hai bên đường liền chạy theo, tò mò muốn biết chuyện gì đang diễn ra. Nhưng Bộ đầu đã vung ngọn roi lên và quát bọn họ lùi ra xa. Lát sau, cây cổng vòm bằng đá nằm dưới chân ngọn núi rậm rạp báo hiệu đoàn người sẽ phải leo lên con đường dốc. Bộ đầu và đám Bộ khoái xuống ngựa. Khi các kiệu phu đặt kiệu của Địch Công xuống, ông vội bảo Hồng Sư gia:
“Hồng Sư gia, xin nhớ cho, người của chúng ta không được phép biết chính xác chúng ta đang tìm kiếm thứ gì! Ta sẽ nói với họ đó là một chiếc rương lớn hoặc thứ gì đó tương tự.” Địch Công xuống kiệu và hồ nghi nhìn những bậc thang dẫn lên con dốc. “Bộ đầu à, chúng ta sẽ phải leo núi trong tiết trời nóng bức này!” “Bẩm đại nhân, có đến gần hai trăm bậc thang đá. Nhưng đây là đường nhanh nhất rồi. Phía sau chùa còn có một lối mòn rất dễ đi, nó dẫn xuống dốc tới tận đường cái, và từ đó chỉ cách một đoạn ngắn là đến cổng thành phía Bắc. Nhưng phải mất gần một canh giờ để lên tới đỉnh đồi. Chỉ có đám thợ săn và những người kiếm củi mới đi theo đường đó. Đám du đãng đến trú trong chùa qua đêm đều đi theo bậc thang này.” “Được rồi.” Địch Công chỉnh lại quan bào và bắt đầu trèo lên từng bậc đá rộng nhuốm màu thời gian. Được nửa đường, Địch Công ra lệnh nghỉ ngơi một lát, vì ông đã nhận thấy Sư gia có phần mệt nhọc. Đến hết bậc thang, mọi người trông thấy một khoảng đất ngợp cỏ dại và những thân cây cao lớn. Một bên là cổng Tam Quan của chùa bằng đá xám, phía bên kia là bức tường lớn đồ sộ rêu phong. Trên mái vòm chính giữa cổng có bốn chữ khảm đa sắc, đề “Tử Quang Thiền Tự”. “Đại nhân, con đường mòn nhỏ hẹp dọc theo bức tường bên phải này dẫn đến một thảo am mới dựng, được gọi là am Thanh Phong”, Bộ đầu giải thích. “Bảo Nguyệt sư thái sống ở đó, cùng với một tiểu tì. Thuộc hạ chưa hỏi họ xem họ có nghe thấy hoặc trông thấy gì đêm qua không.”
“Ta muốn đi xem hiện trường vụ án trước đã.” Địch Công bảo y. “Mau dẫn đường!” Khoảng sân lát đá phía trước đã mọc kín cỏ dại và những bức tường đổ vỡ nham nhở, nhưng sảnh chính của ngôi chùa vẫn sừng sững như bất chấp thời gian. Mái chùa cao, hai bên là hai ngọn tháp ba tầng. “Kiến trúc kì lạ này”, Địch Công nói với Hồng Sư gia, “đương nhiên không bao giờ có thể chạm tới sự hoàn mĩ của kiến trúc nước ta. Tuy thế, ta phải thừa nhận rằng, từ quan điểm về chuyên môn, thì các công trình sư Tây Trúc quả là giỏi. Hai tòa tháp này hoàn toàn cân xứng. Ta đoán rằng, ngôi chùa này đã được xây dựng từ ba trăm năm trước, và vẫn còn ở trong tình trạng tốt, chưa cần phải tu sửa. Bộ đầu, ngươi tìm thấy A Ngưu ở đâu?” Bộ đầu đưa họ đến góc trái sân, toàn cây cối rậm rạp, nguyên một vẻ hoang dã. Bên phải sân là một bãi đất hoang khô cằn, rải rác những tảng đá lớn. Địch Công nhận thấy ở đây mát hơn so với trong thành. Bầu không khí sôi nổi được góp phần bằng tiếng ve sầu râm ran khắp nơi. “Đại nhân, chỗ cây cối hoang dại này vốn là một khu vườn rộng và đẹp.” Bộ đầu giải thích. “Giờ đây, chỗ này cây cối rậm rạp hoang vu đến nỗi ngay cả đám du đãng lai vãng đến chùa này cũng không dám đến gần. Người ta nói trong đó có nhiều rắn độc.” Chỉ lên một cây sồi già, y nói tiếp, “A Ngưu nằm dưới gốc cây này, hắn gối đầu lên đám rễ cây. Theo phỏng đoán của thuộc hạ thì hắn định bỏ trốn sau khi giết Thẩm Tam. Nhưng hắn vấp ngã trong bóng tối dưới gốc cây. Vốn sẵn đang say rượu, hắn ngã xuống và ngất lịm đi.”
“Ta hiểu rồi. Thử vào trong xem.” Khi các Bộ khoái đẩy cánh cửa chính gồm sáu cánh cửa nhỏ để vào đại điện, những mảnh gỗ mục rơi xuống đầu họ. Địch Công leo lên bậc đá tam cấp, bước qua ngưỡng cửa, tò mò nhìn quanh sảnh đường tối như một miệng hang. Hai bên tả hữu đều có một hàng sáu cây cột đá lớn đỡ những thanh xà đồ sộ trên cao, trên có từng đám mạng nhện nặng trĩu bụi trông như những lá cờ màu xám. Ở phía xa, dưới chân bức tường trong cùng, Địch Công thấy thấp thoáng một án thờ bằng gỗ mun cứng, dài hơn mười hai thước và cao tầm năm thước. Bức tường bên có một cửa sổ nhỏ, mặt tường phía trên đó có một ô cửa sổ hình vuông, được che kín bằng những tấm ván. Chỉ lên cửa sổ đó, Địch Công hỏi, “Bộ đầu, bảo người của ngươi mở cửa sổ ra được không? Trong này tối tăm quá!” Được Bộ đầu ra hiệu, hai Bộ khoái đến bên một hốc tường phía sau hàng cột bên trái. Họ lấy ra từ trong đó hai cây kích. Hai người bắt đầu dùng kích cậy phá cửa sổ. Trong khi Bộ khoái vào việc, Địch Công tiến đến chính giữa sảnh và lặng lẽ quan sát, hai tay chậm rãi giật hai dải tóc mai. Bầu không khí ẩm thấp và ngột ngạt dường như khiến ông khó thở. Ngoại trừ những lỗ hổng cách nhau đều đặn trên tường để cắm đuốc, chẳng còn lại gì để chứng minh nhiều năm trước ở đây từng diễn ra những nghi lễ. Nhưng trong sảnh này lại phảng phất một thứ tà khí. Bỗng Địch Công cảm thấy điều gì đó rất lạ, dường như có những cặp mắt vô hình đang dõi vào ông đầy thù hằn.
“Bẩm đại nhân, người ta nói xưa kia trên những bức tường này có treo những bức tranh lớn màu sắc sặc sỡ.” Bộ đầu đứng cạnh ông nói. “Toàn là những vị thần khỏa thân, và…” “Ta không có hứng với tin đồn!” Địch Công cắt ngang. Nhận thấy vẻ mặt Bộ đầu ngớ ra, ông liền dịu giọng hỏi, “Bộ đầu, ngươi nghĩ đống tro trên mặt sàn phía sau những cây cột là từ đâu ra?” “Bẩm đại nhân, vào mùa đông, đám du đãng vẫn hay lui tới nơi này để đốt lửa sưởi ấm. Chúng ngủ lại qua đêm ở đây, nhất là trong những tháng giá rét, vì những bức tường kiên cố này có thể giúp chúng tránh được mưa và tuyết.” “Dầu vậy, đống tro ở chính giữa sảnh kia có vẻ còn mới”, Địch Công nhận định. Đống tro nằm trong một hố nông trên nền sảnh, ở đó một phiến đá đã bị cậy ra. Quanh miệng hố là một vòng hoa sen được khắc vào đá. Địch Công thấy phiến đá đặc biệt này được đặt ở chính giữa nền sảnh. Tám phiến đá bao quanh nó được khắc những ký tự lạ lùng để đánh dấu. Những tấm ván che kín cửa sổ của bức tường phía sau rơi xuống ‘ầm’ một tiếng. Hai con dơi lao xuống từ những thanh xà. Một con lướt qua đầu Địch Công với tiếng rít sắc lạnh và kỳ quái. Rồi lũ dơi biến vào khoảng tối phía trước lối vào. Hồng Sư gia đã xem kĩ phần nền phía trước án thờ. Lão đứng thẳng người và bảo, “Đại nhân, bây giờ đã sáng hơn trước, ngài có thể trông thấy rõ lúc trước đã từng có một vũng máu ở đây. Nhưng lớp bụi dày và đất cát đã che phủ nó. Và có nhiều dấu chân hỗn độn ở khắp nơi đến nỗi khó mà đưa ra kết luận được.”
Địch Công đến bên Sư gia và cùng xem xét nền sảnh. “Không, có trời mới biết chuyện gì đã xảy ra ở đây! Bộ đầu, gọi người của ngươi đến đứng quanh ta!” Khi các Bộ khoái đứng thành một nửa vòng tròn trước mặt ông, Địch Công dặn, “Ta đã có căn cứ để kết luận rằng, trước hoặc sau vụ giết người, một chiếc rương gỗ lớn đã được giấu trong ngôi chùa này, hoặc ở những khu đất quanh chùa. Chúng ta sẽ bắt đầu tìm từ bên trong.” “Ta sẽ sang nửa bên trái với Hồng Sư gia và ba Bộ khoái, Bộ đầu ở nửa bên phải cùng những người còn lại. Đó chắc chắn là một chiếc rương khá lớn, nên hãy tìm những mật tương*, những phiến đá có dấu hiệu mới bị cậy lên, những cánh cửa bí mật trên mặt đất… Mau vào việc đi!” Một dạng tủ, két sắt trong tường hoặc dưới nền nhà. Hai Bộ khoái mở cánh cửa bên trong hốc tường để lấy các loại binh khí vốn dùng trong các nghi lễ. Bên cạnh hai ngọn trường kích xếp phía sau, hốc tường còn có một cây phủ hai lưỡi của người Đột Quyết, giống hệt như hung khí giết người. Cả hai bước vào một hành lang chật hẹp dài tầm hai mươi lăm thước, mỗi bên có bốn cánh cửa mở sẵn. Cả bốn đều dẫn vào những căn phòng dài và hẹp, mỗi phòng có một cửa sổ đang được mở rộng để lấy ánh sáng; các bức mành phủ giấy đã biến mất từ lâu. “Rõ ràng những căn phòng này là chỗ ở của đám tăng nhân.” Địch Công nói. “Chắc phía bên phải cũng phải có tám căn phòng tương tự, vì ngôi chùa này có kết cấu đối xứng. Này, các ngươi, mau đến đây!” Chỉ xuống sàn, Địch Công bảo một Bộ khoái, “Hãy xem ngươi có thể nâng được những phiến đá lỏng lẻo này lên không. Chúng có vẻ không được khít cho lắm. Hai ngươi có thể khám xét sàn của những căn phòng đối diện bên kia hành lang.”
Bộ khoái cắm mũi dao vào đường rãnh giữa những phiến đá. Ba phiến đá được nhấc lên dễ dàng. “Hãy xem thứ gì được chôn dưới đó!” Bộ khoái thọc sâu lưỡi dao xuống nền đất xốp, nhưng dưới đó không có gì ngoại trừ những viên đá cứng lát nền. “Đại nhân, chúng ta sắp tìm ra rồi!” Hồng Sư gia phấn khởi. “Có kẻ muốn chôn thứ gì đó rất lớn ở đây, nhưng rồi lại bỏ qua khi thấy không thể đào được một cái hố đủ rộng!” “Sư gia nói đúng. Chúng ta có thể chuyển qua các phòng khác được rồi. Hung thủ sẽ còn lên cả tòa tháp, để xem phía dưới có khoảng trống nào không. Hắn…” “Đại nhân, mau đến đây xem này!” Bộ khoái còn lại gọi. “Một nửa sàn phòng đối diện đã bị cậy lên!” Mấy người vội chạy sang. Sáu phiến đá lát ở chính giữa phòng đã bị cậy đi và được xếp gọn trong góc. Địch Công lướt ngón tay qua phiến đá trên cùng: trên phiến đá có một lớp bụi mỏng. “Người đâu, mau đi xem các phòng còn lại!” Họ thấy nền của mọi phòng đều đã bị đào bới. Ở một số phòng, những phiến đá lát được xếp lại rất cẩn thận, những phòng còn lại thì gạch bị cậy lên bừa bãi và bị ném vào một góc. “Vào trong ngọn tháp!” Địch Công ra lệnh. Ông băng qua cánh cửa mở sẵn ở cuối hành lang và bước vào gian sảnh rộng lớn hình bát giác, chính là phần đáy của tòa tháp phía tây. Ở đó, nền sảnh vẫn còn nguyên. “Hiển nhiên là”, Địch Công thì thầm, “những phiến đá mỏng này được gắn lại bằng một lớp vữa. Cần một cây cuốc để đào một cái hố ở đây. Nhưng hãy nhìn tấm ván lát chân tường!”
Ở nhiều chỗ, những tấm ván gỗ để phủ lên tường gạch đã mục nát và long ra, tạo nên khoảng trống cách tường tầm hai tấc*. 1 tấc tương đương 3,3 cm. “Lão phu không hiểu tại sao…” Sư gia bối rối. “Ta hiểu.” Địch Công vội ngắt lời. “Người đâu, mau khám xét cầu thang và hai tầng bên trên. Sư gia, đi nào! Chúng ta sẽ lên đỉnh tháp và tận hưởng chút không khí trong lành!” Hai người leo lên những bậc thang kẽo kẹt ấy, thận trọng tránh khỏi những chỗ hổng trên các bậc thang mục ruỗng. Một dương đài* hẹp chạy vòng quanh tầng thượng của tháp, bên dưới phần máng chìa của mái chóp. Địch Công đứng bên hàng lan can thấp. Ông khoanh tay lại trong ống tay áo rộng và chăm chú nhìn xuống hàng loạt ngọn cây xanh mướt phía dưới. Sau một lúc, ông quay sang Sư gia và mỉm cười, nói: Ban công. “Hồng Sư gia, xin thứ lỗi vì đã vô lễ với Sư gia lúc ở dưới kia. Đây là một vụ án dễ gây khó chịu nhất. Bây giờ, hai ta đã có được manh mối đầu tiên, nhưng dường như lại không tìm ra dấu vết nào của hung thủ! Ngôi chùa này đã bị lục lọi, và lục lọi kỹ lưỡng nữa là đằng khác. Nhưng không phải để tìm một nơi giấu thân thể và một cái đầu người, và cũng không phải mới bị đào bới hôm qua, mà từ lâu rồi. Thứ mà kẻ đó tìm kiếm là một vật nhỏ, có thể nói là không lớn hơn lòng bàn tay.” Sư gia chậm rãi gật đầu. Rồi lão hỏi, “Sao đại nhân biết vật mà những kẻ kia tìm kiếm là một vật nhỏ?”
“Chà, khi kẻ đó lật những phiến đá lát ở phòng đầu tiên, và thấy lớp đất bên dưới chỉ dày có năm hoặc sáu tấc, hắn lại đào bới nền của các phòng còn lại, hy vọng tìm được thì gì đó chôn bên dưới. Rồi hắn tìm đến những khoảng trống phía sau những tấm ván lát chân tường, những khoảng trống ấy chỉ là vài tấc tính từ tường gạch, như Sư gia đã thấy.” Ông nghĩ ngợi một lát rồi nói, “Ta cũng nghĩ sẽ có đến hai kẻ khác nhau cùng tìm kiếm trong chùa. Một kẻ đã dạn dày kinh nghiệm với việc này; hắn tìm cách xóa đi dấu vết tìm kiếm của mình bằng cách cẩn thận đặt lại các phiến đá lát nền. Kẻ còn lại thì không bận tâm, hắn cứ ném những phiến đá bị cậy lên vào một góc và cậy tung những tấm ván lát chân tường.” “Ngài nói cuộc tìm kiếm vật thể bị giấu ấy không có ý nghĩa gì đối với vụ án của chúng ta. Nhưng chúng ta đều biết rằng Thẩm Tam vẫn hay lui tới ngôi chùa này. Có thể có mối liên quan giữa hung thủ sát hại hắn và vụ tìm kiếm, dù ngôi chùa đã bị lục lọi từ rất lâu trước khi án mạng xảy ra.” “Sư gia nói đúng! Đó chính là một khả năng mà chúng ta phải nghiêm túc tính đến. Có thể Thẩm Tam và kẻ kia bị giết vì chúng phát hiện ra có một bên thứ hai cũng đang tìm kiếm trong vô vọng!” Ông cân nhắc một lát rồi vuốt râu nói, “Còn đối với thân thể của Thẩm Tam và cái đầu bị mất tích kia, chúng ta sẽ không tìm thấy chúng trong chùa đâu. Sư gia sẽ thấy ở đây không có bất cứ một giọt máu nào, cũng không có dấu vết của máu đã bị bôi xóa.” Ông chỉ xuống những ngọn cây phía dưới. “Những phần thân thể còn lại hiển nhiên chính là ở trong khu vườn hoang kia. Khá khó đấy, vì từ vị trí này, Sư gia cũng có thể thấy khuôn viên ngôi chùa rộng đến cỡ nào. Chà, chúng ta nên xuống dưới thôi.”
Ba Bộ khoái khám xét các tầng dưới đến báo rằng họ không thấy các tầng này có dấu vết bị lục lọi, đào bới. Những bức tường không có ván lát chân tường, gạch cũng không bị cậy. Bộ đầu đứng trong đại sảnh, kéo cổ áo lau khuôn mặt nhọ nhem lấm tấm mồ hôi. Người của y đứng xung quanh, thì thào bàn tán. “Đại nhân, có kẻ đã đào bới sàn các phòng và cậy phá các bức tường.” Y trình báo với ánh mắt mệt mỏi. “Nhưng chúng thuộc hạ không thấy bất cứ dấu vết nào của một chiếc rương lớn.” “Bộ đầu à, chiếc rương chắc chắn được chôn ở đâu đó trong khu vườn. Tiện đây ta hỏi luôn, cánh cửa hẹp gần án thờ đằng kia dẫn tới đâu vậy? Ta không thấy có cổng sau trên tường bao khi ta đứng trên lầu thượng của tòa tháp phía Tây.” “Bẩm đại nhân, cánh cửa đó dẫn đến một khoảng trống nhỏ phía sau đại điện. Trước kia vốn có một cánh cổng, nhưng đã bị xây kín lại từ nhiều năm qua.” “Được rồi. Đưa người của ngươi ra tìm kiếm ngoài vườn. Hãy tìm dấu vết đất đá mới bị đào xới. Trong khi ấy, ta và Sư gia sẽ đến thăm am Thanh Phong.” Khi đi ngang qua sân, Địch Công nói, “Sư gia này, hung thủ chắc chắn có kẻ đồng mưu. Để lôi thân thể Thẩm Tam ra ngoài, vẩy máu lên áo A Ngưu, chôn thân thể Thẩm Tam và cái đầu của người kia ở đâu đó trong đám cây cối rậm rạp đây rõ ràng không phải chuyện một người có thể làm được! Có hai kẻ sát nhân, và vẫn chưa biết động cơ của chúng là gì! Ta thật không thích điều này, Sư gia à.”
Hai người ra khỏi cổng Tam Quan và theo lối mòn chạy dọc theo bức tường phía trước ngôi chùa. Địch Công nói, “Trong thời kỳ chính sự bất ổn, tăng nhân thường hay chôn tượng vàng và những vật thờ cúng giá trị khác để tránh bị mất trộm. Nếu có một kho báu như vậy được chôn trong ngôi chùa hoang này, chúng ta sẽ tìm ra được một động cơ hợp lý. Khó khăn duy nhất là ta chưa từng nghe về một kho báu được chôn giấu nào có liên quan đến ngôi chùa này!” “Có thể ai đó vô tình khám phá ra một ghi chép về kho báu ấy trong một văn thư cổ đã bị quên lãng.” “Đúng thế, sẽ có khả năng ấy, Sư gia ạ! Nếu kẻ đó thuê ba hoặc bốn tên giang hồ giúp hắn bí mật tìm kiếm kho báu được chôn giấu ấy thì sao? Nếu Thẩm Tam và người bị giết kia là một trong số mấy tên giang hồ đó, và hai người tìm cách giữ riêng toàn bộ số của lấy được cho riêng mình, thì những kẻ còn lại sẽ có động cơ xác đáng để sát hại hai người. Giả thiết này sẽ tạo ra mối liên kết hợp lý giữa chuyện ngôi chùa bị lục lọi và hai vụ giết người.” Lối mòn dẫn đến một khoảng rừng thưa nằm giữa ngôi chùa và am Thanh Phong. Địch Công dừng chân và quay lại. “Từ đây, chúng ta có thể quan sát kĩ được toàn bộ ngôi chùa. Ngọn đồi cheo leo dẫn thẳng xuống phía sau chùa. Đó là lý do con đường mòn nối xuống đường cái có nhiều lối rẽ bất chợt. Chúng ta phải cố tìm hiểu thêm về lịch sử chùa Tử Quang, Sư gia ạ. Khi trở lại huyện nha, ta muốn Sư gia hãy xem kĩ các hồ sơ cũ ở pháp đường. Tìm ra thời điểm chính xác mà quan quân bắt các tăng nhân phải rời khỏi chùa, sư trụ trì là ai và ông ta đã bỏ đi đâu, có hay không lời đồn về số của cải bị chôn giấu.”
Mất một lúc đi bộ qua khu rừng, hai người trông thấy bức tường trắng sạch sẽ của am Thanh Phong, một thiền viện đơn sơ được xây theo đúng kiểu của người Hán. Mái am được tô điểm bằng ngói màu lục; mái vẩy cong lên như hình đuôi rồng. Hai người thoáng nghe thấy tiếng vịt kêu. Ngoài ra chỉ có tiếng ve sầu râm ran. Hồng Sư gia khẽ gõ vòng sắt bằng đồng sáng bóng trên cánh cửa sơn son. Lão đập cửa mấy lần, bấy giờ cửa mới hé ra và khuôn mặt của một thiếu nữ xuất hiện phía sau tấm lưới sắt. Đôi mắt to và lanh lợi của cô ta nhìn kĩ hai vị khách bằng vẻ dò xét, rồi cô ta hỏi bằng giọng sắc sảo: “Dám hỏi hai vị đến đây có việc gì?” “Bọn ta là người của huyện nha”, Sư gia đáp. “Xin cho được vào!” Thiếu nữ đưa hai người đến một khoảng sân nhỏ. Rõ ràng cô ta là một tiểu tì, vì cô ta mặc chiếc áo màu xanh thẫm dung dị, quần ống rộng cũng bằng thứ vải đó. Địch Công thấy cô ta có khuôn mặt tầm thường nhưng không kém phần duyên dáng; trên má có hai lúm đồng tiền. Những phiến đá xám lát trên mặt sân đều vô cùng sạch sẽ và được vẩy nước để giữ cho không khí thoáng mát. Bên trái là một căn nhà nhỏ bằng gạch đỏ, bên phải là căn nhà lớn hơn có một bờ hiên. Những bức tường phía trong cùng của gian chính đều được trát vữa trắng tinh và những cây cột đỡ các mái cong được sơn màu đỏ. Trong góc cạnh giếng có một giá gỗ để bày một hàng chậu hoa, trên tầng cao nhất của giá là những chiếc bình bằng sứ cắm nhiều loại hoa rất khéo léo. Địch Công nhận thấy đó là cách cắm hoa của các vị phu nhân nhà ông và đoán rằng đây chính là tác phẩm của nữ tu Bảo Nguyệt. Hương phong lan phảng phất trong không gian. Địch Công nghĩ, sau khi ra khỏi ngôi chùa hoang, chốn thanh tao này quả là một sự thay đổi dễ chịu.
“Chà”, tiểu tì hỏi, “tôi có thể giúp được gì cho hai vị đây, quan gia?” “Xin giúp ta trao bái thiếp* cho Bảo Nguyệt sư thái.” Địch Công nói và đưa tay vào trong tay áo. Tờ thiếp đưa trước cho gia chủ để thông báo danh tính và thời điểm khách nhân vãng lai. “Bảo Nguyệt sư thái đang ngủ.” Tiểu tì nói với vẻ buồn bã. “Tối nay, bà ấy sẽ phải vào trong thành, đến dự tiệc ở chỗ Huyện lệnh đại nhân. Nếu hai vị một mực muốn gặp, tôi đành…” “Ồ, không.” Địch Công vội nói. “Ta chỉ đến để hỏi xem hai vị có nghe hoặc trông thấy bất cứ điều gì bất thường đêm qua không. Một vài tên du đãng đã gây chuyện trong chùa Tử Quang. Lúc ấy tầm nửa đêm.” “Tầm nửa đêm ư?” Tiểu tì cười khẩy. Cô ta chỉ về phía hai căn nhà và làm động tác đang quét dọn, rồi nói tiếp, “Tôi phải giữ cho tất cả sạch sẽ, làm mọi việc một mình, ngài nhớ cho! Đây là một tiểu am, nhưng có rất nhiều vật dụng ở điện thờ cần phải được lau dọn. Các vị nghĩ tôi muốn thức đến tận nửa đêm sau một ngày làm việc vất vả ư?” “Cô cũng kiêm cả việc mua sắm mọi thứ?” Địch Công tò mò hỏi. “Nếu cô phải lên xuống cầu thang mọi ngày…” “Tôi chỉ đi mua đậu tương, muối và đậu phụ mỗi tuần một lần. Chúng tôi không ăn thịt hoặc đồ tanh!” “Thế mà ta lại nghe thấy có tiếng vịt kêu.” Sắc diện cô ta có phần ôn hòa. “Lũ vịt đó là của tôi. Bảo Nguyệt sư thái cho phép tôi nuôi chúng. Đàn vịt rất dễ thương, những con vịt nhỏ bé…” Rồi cô ta lại lấy lại bình tĩnh và cộc lốc hỏi, “Tôi có thể giúp gì cho hai vị đây?”
“Bây giờ thì không cần. Sư gia, đi nào. Về xem mọi việc ở chùa diễn ra thế nào rồi.” “Đúng là một nha đầu hỗn xược!” Sư gia buông lời chỉ trích khi họ quay lại khu rừng. Địch Công nhún vai. “Cô ta thích vịt, ít nhất thì đó cũng là một điểm tốt. Ôi, ta lấy làm mừng vì được đến am Thanh Phong. Không gian thanh tao ở đó cho thấy các vị phu nhân đã nhận định rất đúng về Bảo Nguyệt.” Bộ đầu và hai Bộ khoái đang ngồi trên bậc thềm của sảnh chính, mồ hôi đầm đìa, đầu tóc rũ rượi. Cả ba đều bật dậy khi thấy Địch Công bước vào sân chùa. “Đại nhân, chẳng thu được gì cả! Thuộc hạ thề rằng không có kẻ nào bước vào cái nơi hoang vu đáng nguyền rủa này trong suốt một khoảng thời gian rất dài! Thậm chí chẳng có một lối mòn nào. Và chúng thuộc hạ cũng không thấy bất cứ dấu hiệu đào xới nào. Những người khác vẫn đang tìm cách đi xuyên qua đám cây rậm rạp ấy bằng cách men theo tường bao bên ngoài.” Địch Công ngồi xuống một tảng đá lớn trong bóng mát của bức tường và bắt đầu quạt liên hồi. “Đại nhân, ngài nói rằng hung thủ chắc chắn có đồng phạm.” Lát sau, Sư gia mở lời. “Vậy, chúng không thể bỏ xác nạn nhân lên một cái cáng tự chế rồi đưa xuống dưới đồi sao?” “Có thể lắm, nhưng cũng không chắc. Chúng sẽ có nguy cơ gặp phải những tên du đãng khác, và những kẻ đó đều rất tọc mạch. Khu vườn này là địa điểm tốt nhất, ta nghĩ vậy.” Từng Bộ khoái lần lượt ra khỏi khu vườn hoang. Tất cả đều lắc đầu chán ngán.
“Muộn rồi. Tốt nhất chúng ta nên quay về huyện nha. Bộ đầu, niêm phong đại sảnh lại. Để lại hai người canh gác nơi này. Và đến tối thì cho người đến thay để họ về nghỉ ngơi.” HỒI 7 Gặp cố nhân, Nhĩ Bối tận tình Tìm Tháp Lạp, Mã Vinh mất vía Mã Vinh mặc chiếc quần ống rộng, khoác lên mình chiếc áo vá víu bằng sợi bông màu lam đã bạc, búi tóc bằng mảnh vải đỏ. Trong bộ dạng ‘Cái bang’ đó, y sẽ không bị chú ý khi đến khu vực phía Tây Bắc thành, ở đó toàn những người Đột Quyết, Tây Trúc, Duy Ngô Nhĩ và những dị tộc khác. Mất một lúc lâu để đi bộ, nhưng y đến đó thuận lợi vì phần lớn các cửa hiệu đều đóng cửa để nghỉ trưa và trên phố có rất ít người qua lại. Tuy nhiên, sau khi đi qua Tháp Trống, những con phố hẹp bắt đầu đông người hơn: những người đang vội vã ngấu nghiến món mì buổi trưa, những kẻ bần hàn quanh đó lập tức xuất hiện để cùng nhặt nhạnh vài đồng xu hòng có được bữa tối. Những lao công đến từ các tộc người thiểu số và những kẻ bán rong người Hán đang chen lấn xô đẩy nhau trên những con phố nồng nặc mùi hôi, cuối cùng y cũng đến được con ngõ nhỏ có tiệm cháo của Thổ Nhĩ Bối. Y thấy nàng từ xa, nàng đang đứng trước lò bánh và mắng đứa con trai lớn của mình. Nó đang nghịch lửa dưới một chiếc chảo gang lớn. Đứa bé trai còn lại thì đang bám theo váy mẹ. Giờ này vẫn chưa có thực khách nào đến quán. Y nhẩn nha tiến lại gần nàng. 👁
Mã Vinh gặp lại bạn cũ Thổ Nhĩ Bối “Mã Vinh!” Nàng vui mừng thốt lên. “Thật mừng vì được gặp lại huynh! Nhưng trông huynh thật dị hợm! Lão gia đã đuổi huynh đi sao? Muội luôn bảo huynh rằng huynh là người quá tốt nên không thể đi bắt kẻ cướp được. Huynh nên…” “Im lặng nào!” Y ngắt lời. “Ta ăn mặc như vậy vì đang làm nhiệm vụ.” “Đi chỗ khác chơi, đồ tiểu quỷ!” Nàng quát lên và bạt tai đứa con nhỏ, nó vẫn túm chặt lấy váy nàng. Thằng bé bỗng gào lên oang oang, to hết sức có thể. Đứa con lớn của nàng thì nhìn Mã Vinh bằng vẻ khinh miệt, rồi nhổ vào đống lửa. Mã Vinh cảm nhận được mùi mỡ cừu quá quen thuộc, y cũng thấy mũi của Thổ Nhĩ Bối còn bẩn. Nàng cũng đã béo hơn. Y thầm tạ ơn trời vì đã rủ lòng thương mà không bắt y phải cưới nữ nhân này! Y dò dẫm trong tay áo rồi lấy ra một xâu tiền. “Đây…” Y mở lời. Nhưng nàng lại khoát tay và bĩu môi: “Thật đáng xấu hổ, Mã Vinh à! Huynh cho muội tiền để đổi lấy chuyện ấy ư, thật chẳng ra sao!” Nhưng rồi nàng cũng bỏ cả xâu tiền vào tay áo và nói tiếp, “Phu quân của muội hôm nay đi vắng, nên chúng ta có thể vào phòng muội và trò chuyện dông dài cũng được. Lũ trẻ sẽ lo chuyện hàng quán và…” “Ta đã bảo nàng là ta đang làm nhiệm vụ!” Y vội ngắt lời. “Tiền này là để đổi lấy đôi điều ta cần biết, như người ta vẫn làm! Mau ngồi xuống đây đi.” “Cứ đi đã nào!” Nàng nói và chộp lấy tay y bằng vẻ cương quyết. “Huynh sẽ có được điều cần biết! Đương nhiên, không phải làm việc mới thích làm sao, có điều… chà, cũng có nhiều thứ khác nữa. Và huynh biết muội nghĩ gì về huynh không, Mã Vinh!” Nàng nhìn ra phía cửa đầy ẩn ý.
Y ấn nàng ngồi xuống chiếc kỷ và cũng ngồi xuống cạnh nàng. “Để lần tới nhé. Thật sự là ta đang rất vội. Ta phải tìm hiểu về những chuyện xung đột giữa đám người của nàng và gã Thẩm Tam, chính là tên lưu manh ở khu phố gần cổng thành phía Đông. Một vụ tranh chấp thật sự ghê gớm. Thẩm Tam đã bị chặt đầu rồi.” “Nam nhân chỗ muội không gây sự với đám du côn người Hán”, nàng tỏ vẻ khó chịu. “Họ thậm chí còn không hiểu tiếng của nhau thì sao có thể gây gổ được?” Vẻ mặt rạng rỡ, nàng hỏi, “Huynh còn nhớ mình đã từng dạy muội tiếng Hán thế nào không, Mã Vinh?” “Ta nhớ chứ!” Y nói và cười nhăn nhở. “Chà, nàng nên nhớ, ta không nói người của nàng đã làm chuyện gì xấu. Lão gia nhà ta chỉ muốn không có thêm rắc rối nào thôi; ông ấy thích một nơi có kỉ cương, giống như người ta vẫn nói trong chuyện làm ăn vậy. Nào, nghĩ đi! Nàng chưa bao giờ nghe thực khách nào nhắc đến vụ ẩu đả trong ngôi chùa cổ bên ngoài cổng thành phía Đông ư?” Nàng trầm ngâm nghĩ. Rồi nàng chậm rãi đáp, “Chuyện ghê gớm duy nhất mà gần đây muội nghe được là chuyện một thủ lĩnh Đột Quyết bị giết ở bên kia biên giới. Thanh toán một mối thâm thù huyết hận.” Nàng liếc nhìn y và nói thêm, “Huynh nhắc đến ngôi chùa làm muội nhớ đến đôi điều. Cách đây bốn con phố có một bà đồng, một nữ nhân Đột Quyết kì dị. Tên bà ta là Tháp Lạp. Một phù thủy thực sự, biết rõ cả quá khứ lẫn tương lai. Bất cứ ai ở chỗ bọn muội mà muốn làm đại sự, đều phải đến xin bà ấy chỉ giáo. Bà ta biết tất cả, Mã Vinh à, tất cả! Nhưng cũng không có nghĩa là bà ấy sẽ nói mọi điều mình biết! Ngày nay ai cũng ghét bà ta. Họ cho rằng bà ta phán sai hết, có thể là cố tình phán sai. Nếu người ta không quá sợ Tháp Lạp, thì họ đã…” Nàng lướt ngón tay trỏ qua cổ mình.
“Ta đến đó kiểu gì đây?” “Đừng có mó vào bếp lò nữa!” Thổ Nhĩ Bối quát đứa con lớn. “Mau đưa Mã đại gia đến chỗ bà đồng Tháp Lạp đi!” Mã Vinh vừa đứng dậy thì nàng đã vội thì thầm, “Cẩn thận nhé, Mã Vinh! Nơi đó không an toàn đâu!” “Ta sẽ tự lo cho mình chu đáo! Xin đa tạ!” Đứa bé đưa y đến một con ngõ quanh co. Tiếp nối nhau ở hai bên đường là những căn nhà mộc mạc có tường đất xiêu vẹo và những mái tranh được lợp tạm bợ. Sau khi chỉ lên chóp mái của một căn lều tựa như của người Đột Quyết, đứa bé vội bỏ đi. Những kẻ duy nhất còn lại là ba người Đột Quyết, đang đứng quay lưng vào bức tường đối diện căn nhà của bà đồng. Họ mặc quần da rộng thùng thình, đeo thắt lưng to bản; nửa thân trên để trần cuồn cuộn cơ bắp. Ánh nắng giữa trưa làm cái đầu trọc của họ sáng óng lên, trên đầu họ chỉ có đúng một dải đuôi sam dài sau gáy. Khi Mã Vinh đi ngang qua, một người nói bằng tiếng Hán trọ trẹ với hai người bạn của mình, “Giờ đây, mụ ta còn tiếp cả bọn cặn bã người Hán nữa!” Cố tình không bận tâm đến lời lăng mạ đó, Mã Vinh kéo bức màn cửa dính đầy mỡ sang một bên. Trong gian nhà tối tăm, y thoáng thấy hai bóng người đang ngồi cạnh nhau bên một bếp lửa nhỏ, ngọn lửa được nhóm trong một cái hố trên nền đất. Vì họ không mảy may chú ý đến y, nên y ngồi xuống chiếc ghế đẩu thấp lè tè ngay bên cửa ra vào. Y không nhìn thấy gì nhiều, vì mắt y vẫn chưa thể điều tiết lại khi ánh mặt trời bên ngoài không rọi được vào tận đây. Bầu không khí mát mẻ quyện lẫn mùi thơm của một loại hương trầm lạ lùng khiến y nhớ lại một loại thuốc; y nghĩ đó có thể là cây long não. Người đội khăn trùm đầu ngồi quay lưng về phía y, vẫn đang buông ra một tràng độc thoại dài bằng thứ ngôn ngữ lạ. Đó là một bà lão, mặc chiếc áo khoác bằng da của người Đột Quyết. Nữ nhân ngồi đối diện bà ta ở phía bên kia bếp lửa hình như đang ngồi trên một chiếc ghế thấp. Y không thể hình dung ra hình dáng người này, vì người này trùm kín người bằng chiếc áo choàng dài, hình dạng kỳ dị, phủ kín từ vai xuống đến tận đất. Người đó để đầu trần, mái tóc đen dài rủ xuống hai vai và che kín một nửa khuôn mặt. Đó là bà đồng Tháp Lạp, đang ngồi nghe bà lão kia kể lể bằng thứ giọng đều đều, nhàn nhạt.
Mã Vinh khoanh tay lại. Ngồi trơ ra hồi lâu, y nhìn quanh mấy thứ đồ đạc ít ỏi trong nhà. Sát bức tường phía sau bà đồng có một chiếc giường ván thấp lè tè, được làm rất thô sơ, cạnh đó là hai chiếc ghế đẩu bằng tre. Ở bức tường bên trên giường, có hai con mắt tròn to dõi thẳng xuống chỗ y. Đó là hai con mắt của một ác thần trong tranh, màu sắc rất sống động. Một tay ác thần đang cầm một thứ binh khí lạ lùng vốn dùng trong các nghi lễ; tay trái cầm một chiếc sọ người dùng làm vò đựng nước. Thân hình to béo của ác thần gần như trần trụi, chỉ có một tấm da hổ quấn quanh thắt lưng. Một con rắn đang uốn mình trên hai vai của ác thần. Là do ánh lửa lập lòe hay chính cái miệng đang há hốc với cái lưỡi thè dài của gã ác thần đang tạo nên một điệu cười khinh bỉ? Mã Vinh chợt nhận ra đó hoàn toàn không phải một bức tranh, mà là một bức tượng. Y cũng không dám chắc, vì phía sau vị hung thần quái dị kia chỉ toàn là bóng tối. Bực mình, Mã Vinh quay mặt đi, tránh khỏi hình ảnh ghê rợn kia và nhìn quanh phần còn lại trong phòng. Ở một góc khá xa có một đống rác. Những tấm da thú xếp thành đống ở chân bức tường bên, cạnh đó có một thùng nước lớn được gò từ đồng thau. Cảm thấy nỗi khó chịu dâng cao, y kéo áo sát lại hai vai, vì rõ ràng ở đây bỗng lạnh dần. Y cố nghĩ đến những điều khác, những điều tươi vui hơn. Y nghĩ sau tất cả thì Thổ Nhĩ Bối vẫn không phải người xấu. Một ngày nào đó, y nên đến thăm nàng và mua tặng nàng chút gì đó. Rồi y nghĩ về nữ nhân tên Bạch Ngọc, về thông điệp bí ẩn được tìm thấy trong chiếc hộp gỗ. Cuối cùng thì nàng ấy đã được an toàn chưa, và nàng ấy hiện đang ở đâu?
Bạch Ngọc là một danh xưng đẹp, gợi lên nhan sắc thuần hậu và đặc biệt… Y cảm thấy đó sẽ là nữ nhân mà mọi nam nhân đều khao khát. Y ngẩng lên. Thứ giọng đều đều của bà lão kia cuối cùng đã dừng lại. Một bàn tay trắng toát thò ra từ những nếp gấp của chiếc áo choàng trên người bà đồng. Nàng ta cầm que cời nhỏ khơi cho lửa đượm hơn, rồi cầm mẩu củi còn đỏ mà vẽ ra những đường nét bằng than, đoạn thì thầm gì đó với bà lão kia. Bà lão gật đầu liên hồi. Nàng ta đặt một nắm đồng xu nhờn mỡ xuống bên cạnh bếp lửa, khó nhọc đứng dậy và biến mất vào trong tấm màn bằng dạ. Mã Vinh đứng dậy xưng họ tên, nhưng khi bà đồng ngẩng đầu dậy, y lại vội ngồi thụp xuống. Hai con mắt lớn, rực lửa đang xoáy vào y. Chính là đôi mắt đã dõi theo y sáng nay ở trên phố. Nữ nhân này có khuôn mặt đẹp nhưng lạnh lùng, đôi môi tái nhợt kia cong lên thành một vẻ khinh khỉnh. “Quan gia, ngài đến để hỏi xem tình nương có còn tình cảm với mình không chứ gì?” Nàng ta hỏi bằng giọng thâm trầm. “Hay lão gia nhà ngài cử ngài đến để xem ta có hành nghề phù thủy, trái với luật định?” Nàng ta nói tiếng Hán rất chuẩn. Trong khi Mã Vinh lặng người nhìn nàng ta, nữ nhân ấy nói tiếp, “Quan gia, ta nhận ra ngài rồi, dù ngài có ngụy trang thế nào đi nữa. Sáng nay, ngài đã đi theo lão gia nhà mình, vị quan án có bộ râu dài.” “Cao nhân quả có con mắt tinh tường!” Mã Vinh lẩm bẩm. Y kéo chiếc ghế đẩu lại gần bếp lửa đang dần tàn. Y bối rối không biết mở lời ra sao.
“Nói đi, ngọn gió nào đưa ngài tới đây? Ta chưa bao giờ nhận của ăn cắp. Ngài cũng tự nhận thấy mà!” Nàng ta lại khơi cho bếp cháy thêm và chỉ que cời vào một góc. Mã Vinh thở hổn hển. Thứ khi nãy y tưởng là một đống rác giờ hiện nguyên hình là một đống xương. Hai cái sọ người như đang nhăn nhở cười với y bằng cái miệng đầy răng. Trên đỉnh đống da có một hàng xương đùi, tất cả đều xám đen do người chết đã lâu. “Đây là nghĩa địa sao?” Y kinh hãi thốt lên. “Chẳng phải chúng ta đang sống trong một nghĩa địa hay sao? Lúc nào chẳng vậy, ở đâu cũng thế.” Tháp Lạp chế giễu. “Người sống bị hằng hà sa số người chết bao quanh lấn át. Chúng ta, những người sống, vẫn mặc nhiên chấp nhận. Quan gia à, hãy luôn kính cẩn với người chết cho phải đạo! Nào, ngài đến đây có việc gì?” Mã Vinh hít một hơi thật sâu. Không cần phải vòng vo tam quốc với nữ dị nhân này. Nên y cộc lốc nói, “Một gã côn đồ tên là Thẩm Tam đã bị giết đêm qua, bên ngoài cổng thành phía Đông. Hắn…” “Ngài đang phí thời giờ đấy.” Nàng ta ngắt lời. “Ta chỉ biết những chuyện diễn ra ở góc thành này thôi. Và ở bên kia biên giới. Ta không biết gì về những chuyện xảy ra ở góc bên kia thành. Tuy nhiên, nếu ngài muốn biết về vị cô nương trong lòng ngài ngay lúc này, ta sẽ có thể giúp ngài.” Nhìn vẻ bối rối của Mã Vinh, nàng ta vội nói tiếp, “Không phải ả tiện nữ tên Thổ Nhĩ Bối đâu, quan gia ạ. Ta muốn nói đến người khác kìa, người được đặt tên theo một loại đá quý.”
“Nếu cao nhân biết… Bạch Ngọc là ai, và ở nơi nào…” Mã Vinh lắp bắp. “Ta không biết. Nhưng ta sẽ hỏi tướng công nhà ta.” Nàng ta đứng dậy và giũ chiếc áo choàng khỏi vai. Mã Vinh lại sững sờ lần nữa. Nàng ta gần như hoàn toàn lõa thể trước mặt y. Thân hình nàng ta cao ráo và cân đối. Mã Vinh há hốc miệng, người cứng đờ và ngây ra như đã mọc rễ trong nỗi kinh sợ không thể nói được thành lời. Vì thân hình nhợt nhạt, trần trụi ấy có vẻ phi thực, gần như thoát tục. Những đường cong đậm đà, vượt quá cả nỗi hưng phấn trỗi dậy trong lòng y, khiến y phải co rúm lại trong sợ hãi, nỗi sợ hãi khốn khổ trước một người lạ mặt. Y gắng hết sức mình mới có thể đảo mắt ra chỗ khác khi nhận thấy nãy giờ nàng ta không hề ngồi trên ghế, mà ngồi trên đống sọ người xếp thành hình chữ “phẩm*”. Chữ phẩm: 品. “Phải rồi”, nàng ta nói bằng chất giọng lạnh lùng, không giống của người sống chút nào, “đây là khởi đầu. Một phần trong những trò mơ mộng hão huyền của ngài, trong số tất cả những ảo vọng về ái tình của ngài.” Nàng ta chỉ vào đống sọ người và nói thêm, “Và đây chính là kết thúc, sau mọi lời hứa hão và những ảo vọng.” Nàng ta vung bàn chân trần đá vào đó. Chúng lăn lông lốc trên mặt đất. Suốt một lúc lâu, nàng ta đứng nhìn xuống Mã Vinh bằng vẻ khinh bỉ không bút nào tả xiết, tay chống nạnh, chân duỗi thẳng. Mồ hôi lạnh đã ướt sũng người Mã Vinh khi y ngồi co ro tại chỗ. Như thể đang trong cơn mộng mị, y nhìn theo nàng ta khi nàng ta bất ngờ quay ngoắt đi và tháo một sợi thừng từ chiếc móc sắt trên tường.
Một tấm màn lòe loẹt được buộc chặt trên những thanh xà ám đen bỗng từ từ rủ xuống. Tấm màn ngăn gian nhà làm hai nửa. Nàng ta giũ mạnh mái tóc và biến mất sau tấm màn. Ngọn lửa có vẻ lại sắp tàn. Mã Vinh không sao hiểu nổi trọn vẹn ý tứ trong lời nàng ta, nhưng những lời ấy lại lấp đầy y bằng cảm giác cô độc đến đáng sợ. Y nhìn không chớp mắt vào những biểu tượng kì lạ được minh họa trên tấm màn, tâm trí y như đông cứng lại. Bỗng chiếc chuông bằng đồng thau vang lên những âm thanh sắc lạnh, kéo y ra khỏi cơn mê dại. Tháp Lạp bắt đầu tụng một bài kinh buồn thảm bằng thứ ngôn ngữ lạ tai. Giọng nàng ta ban đầu cao vút lên, rồi lại nhỏ dần, cứ lên xuống theo tiếng chuông ngân. Tiếng tụng kinh khiến gian nhà ấm áp hơn, và cùng lúc ấy, có một thứ mùi thối rữa đáng buồn nôn nhấn chìm hương thơm tinh khiết của gỗ long não. Gian nhà nóng dần lên; mồ hồi chảy xuống ròng ròng trên lưng Mã Vinh, ướt đẫm cả áo. Bỗng bài kinh biến thành những tiếng rên rỉ não lòng. Tiếng chuông đã ngừng. Mã Vinh siết chặt hai nắm tay trong cơn phẫn nộ đầy bất lực, những móng tay cắm vào lòng bàn tay y. Ruột gan y đảo lộn. Ngay khi nghĩ mình sắp nôn thốc ra, mùi thối rữa kia bỗng tan biến. Hương gỗ long não dịu nhẹ lại thay thế thứ mùi kinh khủng kia và không gian cũng bớt nóng. Tất cả bỗng chìm vào tĩnh lặng như đang trong một nấm mồ. Một lúc sau, giọng Tháp Lạp vang lên từ sau tấm màn, vô cùng mệt mỏi:
“Mau kéo tấm màn lên và buộc lại.” Mã Vinh vội đứng dậy và làm theo lời nàng ta, không dám nhìn nàng ta nữa. Khi y buộc sợi thừng vào chiếc móc sắt rồi quay lại, y thấy nàng ta nằm trên chiếc giường ván, đầu gối lên tay, hai mắt nhắm nghiền. Mái tóc dài của nàng ta rủ xuống đất. 👁 Mã Vinh gặp bà đồng Tháp Lạp “Đến đây!” Nàng ta ra lệnh mà không mở mắt ra. Mã Vinh ngồi xuống chiếc ghế đẩu bằng tre cạnh giường. Y thấy mồ hôi bắt đầu túa ra khắp người nàng ta. Môi dưới của nàng ta đang chảy máu. “Cô nương Bạch Ngọc của ngài chào đời từ hai mươi năm trước, vào ngày mồng bốn, tháng Năm, năm Nhâm Tuất. Nàng ấy qua đời năm ngoái vào ngày mồng mười, tháng Chín, năm Tân Tỵ. Bị gãy cổ.” “Sao mà… kẻ nào…?” Mã Vinh lắp bắp. “Đó là tất cả những gì ta được cho biết. Ta cũng được cho biết về số mệnh của mình. Xin đừng hỏi. Mau đi đi!” Mã Vinh cố gắng lấy hết can đảm. “Ta lệnh cho cao nhân phải nói rõ mọi chi tiết. Nếu không, ta buộc phải đưa cao nhân về huyện nha, để…” Nàng uể oải chìa tay ra, vẫn không thèm nhìn Mã Vinh. “Cho ta xem lệnh bắt giữ của ngài!” Mã Vinh không đáp. Mí mắt ủ rũ của nàng ta bỗng bật mở. Y thấy hai mắt nàng ta đỏ như máu, trông như thể đã mù. Mã Vinh nôn ọe. Y bật dậy và lao ra cửa. Mắt y cũng gần như mù khi gặp ánh mặt trời, y va phải một bóng người gầy gò. Đó là một trong mấy người Đột Quyết lúc nãy. Cả ba lúc này đang đứng giữa con ngõ, chắn đường y. Kẻ cao lớn nhất đẩy y một cái.
“Tên chó này, nhìn đường chứ! Ngươi có được vui vẻ với ả phù thủy đó không?” Tất cả nỗi sợ hãi lẫn cảm giác bất lực kìm nén trong lòng Mã Vinh được xổ tung. Y hạ gục tên Đột Quyết bằng một quyền giáng trúng cằm hắn, mạnh đến nỗi hắn đổ gục xuống như một bó củi. Hai kẻ còn lại bỏ chạy thục mạng, chúng nhận ra đôi mắt nảy lửa của Mã Vinh toát lên vẻ hiếu sát. Y đuổi theo hai kẻ kia trong cơn tức giận mù quáng. Người trên phố vội tránh đường cho đại hán đang trong cơn thịnh nộ. Rồi Mã Vinh giẫm phải một cái hố và ngã giập mặt. Khi lồm cồm bò dậy được, y thấy mình đã ở con phố của Thổ Nhĩ Bối. Nàng đang đứng trước cửa quán, cầm chiếc thìa dài xào nấu gì đó trong chảo. Nàng ngoảnh lại mắng the thé đứa con lớn đang kéo tóc đứa em, khiến nó khóc ré lên. Cơn nóng giận của Mã Vinh nguôi dần. Cảnh tượng trần tục, mộc mạc ấy khiến cảm giác ấm áp, khoan khoái trỗi dậy trong lồng ngực y. Nhìn ánh nắng, y nhận ra lúc này mới là đầu buổi chiều. Phải ăn một bát canh nóng cho ấm bụng đã… Y vội lau sạch đất cát trên mặt và mỉm cười đến bên Thổ Nhĩ Bối. HỒI 8 Địch Công ra cáo thị tìm người Bảo Nguyệt đến huyện nha dự tiệc Phòng ăn ở tư thất của Địch Công đã sáng bừng ánh đèn ấm áp, từng tốp nữ tì đang treo hoa lên những chiếc đèn lồng đủ màu sắc trên những nhánh cây sà xuống thấp ở sân trước. Đại phu nhân mặc bộ xiêm y tay dài bằng gấm tím thêu kim tuyến lẫn chỉ vàng óng ánh, đang tiễn vị nữ khách cuối cùng sau buổi tiệc trà. Sau khi chào từ biệt, bà lo lắng nhìn về phía cổng sau của nha phủ. Tổng quản túc xá đã bảo bà rằng, Địch Công đã trở về từ ngôi chùa hoang nửa canh giờ trước, nhưng ông vẫn chưa hề ra khỏi phòng. Quay sang Tam phu nhân, hôm nay trông nàng thật yêu kiều trong bộ xiêm bằng vải sa trắng, Đại phu nhân nói, “Ta hy vọng lão gia sẽ kịp ra để đón Bảo Nguyệt sư thái! Bữa tối đã chuẩn bị xong từ nửa canh giờ rồi!”
Trong thư phòng của Địch Công, cuộc đàm luận đã gần kết thúc. Địch Công ngả người ra ghế, những ngón tay dài chậm rãi vuốt râu. Chân nến bằng bạc hắt ánh sáng lên mặt ông. Hồng Sư gia ngồi trên chiếc ghế tre ở một góc, mệt mỏi sau buổi chiều nóng bức ở ngôi chùa và miệt mài tìm kiếm trong thư khố đầy bụi của huyện nha sau đó. Những ngón tay gầy của lão thu lại trong lòng, gập vào rồi lại mở ra một mảnh giấy. Mã Vinh thì ngồi đối diện với Địch Công, trông có vẻ ủ rũ. Sau khi Địch Công kể cho y về cuộc tìm kiếm trong ngôi chùa hoang, Mã Vinh cũng báo lại chuyện mình đến gặp bà đồng và Địch Công bắt y thuật lại từng câu từ trong cuộc trò chuyện ấy. Mặc dù gặp được Thổ Nhĩ Bối đã khiến y thoát khỏi nỗi sợ mình sẽ không bao giờ có thể yêu thêm một nữ nhân nào nữa, nhưng phải thuật lại cuộc gặp gỡ với Tháp Lạp vẫn khiến y hoảng loạn hơn y tưởng. Cuối cùng, Địch Công bảo: “Về những nhận định chung chung của ả Tháp Lạp đó, ta không muốn đi sâu vào thêm. Những lời ấy chỉ là những lời xảo trá làm ô nhục những gì mà bất cứ nam nhân chính trực nào cũng tôn sùng. Đối với những lời ám chỉ sự biến mất của cô nương Bạch Ngọc, chuyện ả ta biết ngươi đang lo cho cô nương ấy thì cũng dễ giải thích, Mã Vinh à. Trong khi ngồi đợi ả đồng cốt ấy trò chuyện với bà lão kia, ngươi chỉ mải mê suy nghĩ về Bạch Ngọc. Và Tháp Lạp, giống như mọi nữ nhân làm nghề kì dị đó, hiển nhiên có được khả năng đọc được suy nghĩ của người khác ở một thời điểm nhất định. Một phần trong thành công của những kẻ làm nghề bói toán phụ thuộc vào tài năng. Còn về chuyện ả ta biết được ngày tháng năm sinh và ngày chết của Bạch Ngọc, ta không dám mạo muội đoán bừa.”
“Đại nhân, hãy mau đi bắt giữ nữ nhân đáng sợ ấy và dùng hình ép ả khai ra!” Mã Vinh phẫn nộ thốt lên. Địch Công lấy một tờ giấy theo đúng thể thức nhà quan từ chồng giấy trên án thư và dùng bút lông mực đỏ cặm cụi viết. Sau khi đóng dấu triện của huyện nha lên tờ giấy, ông lắc đầu bảo, “Đương nhiên là ta có nhiệm vụ bắt giữ ả. Nhưng ta không hy vọng chúng ta sẽ thành công. Dĩ nhiên ả hoàn toàn ý thức được sẽ có lệnh bắt giữ mình. Thậm chí lúc này ả ta có thể đã sang bên kia biên giới và vào địa phận của người Đột Quyết! Nhất là khi những người Đột Quyết khác ở khu Tây Bắc thành vốn không ưa gì ả. Mã Vinh, dù thế nào thì cũng cứ đưa giấy này cho Bộ đầu và chỉ cho ông ta chỗ của Tháp Lạp!” Sau khi Mã Vinh đi khỏi, Sư gia nói, “Đại nhân, sao yêu nữ đó lại cho Mã Vinh biết những chuyện ấy?” “Ta cũng không rõ nữa, Sư gia ạ! Dù thế nào thì chúng ta cũng đã biết rằng thông điệp trong chiếc hộp gỗ không phải là một trò đùa. Về ý nghĩa thực sự của thông điệp đó, dẫu cho…” Giọng ông nhỏ dần. Ông chăm chú nhìn chiếc hộp gỗ đó bằng vẻ u buồn, lúc này ông đã dùng chiếc hộp làm trấn chỉ*. Miếng ngọc thạch được mài bóng đang tỏa ra những tia hiểm ác dưới ánh nến. Vật chặn giấy. Ông mân mê ria mép, mắt vẩn vơ nhìn sang chồng văn thư trên án, nhưng rồi thế nào thì mắt ông cũng vẫn quay về với chiếc hộp gỗ.
Khi Mã Vinh quay lại, Địch Công ngồi thẳng dậy. “Mã Vinh, lấy giấy bút ra đây!” Ông nói cụt ngủn. “Viết theo hướng dẫn của ta nhé.” Sau khi Mã Vinh chẩm mực, ông nói tiếp, “Bất cứ ai có thể cung cấp thông tin về danh tính đầy đủ và nơi ở hiện tại của một nữ nhân mang tên Bạch Ngọc, mất tích từ tháng Chín năm Tân Tỵ, đều phải lên trình báo với huyện nha sớm nhất có thể. Ký tên: Huyện lệnh Địch Nhân Kiệt. Được rồi đó, Mã Vinh. Đem ra nha môn, bảo các Lục sự sao ra thành mấy chục bản, ngay đêm nay đem dán ở khắp trong ngoài thành. Đưa ra cáo thị này là cách hữu hiệu nhất mà ta có thể làm để xử lý thông điệp bí ẩn trong chiếc hộp gỗ.” Ông ngồi tựa ra ghế và bảo Sư gia, “Sư gia, cho Mã Vinh biết về những gì lão thu được trong ngôi chùa hoang đi!” Hồng Lượng kéo ghế lại gần ngọn nến. Ông xem qua tờ giấy trong tay rồi nói, “Chùa Tử Quang được các tăng nhân Tây Trúc xây dựng từ hai trăm tám mươi năm về trước, ngân quỹ đều do người dân địa phương đóng góp, thời đó nơi này vô cùng phồn thịnh. Ngôi chùa trải qua nhiều biến cố trong suốt những cuộc chiến tranh tại biên cương nhưng những hoạt động tín ngưỡng chưa bao giờ bị gián đoạn quá lâu. Tuy nhiên, ba mươi năm trước, có ba tăng nhân của tín ngưỡng mới từ bên kia biên giới tìm đến, họ cải đạo cho một số tăng nhân của chùa. Những người còn lại đều bất mãn bỏ đi và có thêm những người đã cải đạo đến thế chỗ, một số là người Đột Quyết, một số là người Hán.
Tín ngưỡng mới này lan truyền nhanh trong đám người dị tộc, và những kẻ ngoại bang ở huyện này đến thăm viếng chùa rất đông. Tám mươi lăm năm trước, một số chức sắc ở địa phương đã đến trình báo với huyện nha, tố cáo những tà lễ diễn ra trong chùa. Huyện lệnh đại nhân liền tiến hành điều tra kĩ lưỡng. Kết quả là sư trụ trì bị bắt giải về kinh thành, mọi tranh vẽ, tượng và những vật dụng khác đều bị đem thiêu đốt công khai ở giữa chợ, đám môn đồ dị giáo ấy bị đuổi đi.” “Hay lắm!” Địch Công đồng tình. “Đó là cách duy nhất để xử lý những thứ tà đạo như vậy.” Sư gia nhìn qua những ghi chép và nói tiếp, “Những biện pháp khắc nghiệt này đã gây ra tình trạng bất ổn trong đám dân Đột Quyết. Thậm chí, bọn chúng còn tìm cách nổi loạn bằng vũ lực. Để xoa dịu những kẻ bị kích động, Huyện lệnh đã cho phép một tăng nhân người Hán và một ni cô người Đột Quyết xây dựng am Thanh Phong và tiến hành những nghi lễ của đạo Phật truyền thống đã được triều đình chuẩn y. Tuy nhiên, số người lui đến ngày một ít đi. Mấy năm sau, vị ni cô kia bỏ đi, một thời gian sau thì tăng nhân người Hán cũng bỏ đi nốt. Quan quân niêm phong am Thanh Phong. Hai năm sau, quan đạo dẫn tới các nước chư hầu phía Tây được di dời từ huyện Lan Phường lên phía Bắc, dân ngoại bang ở Lan Phường càng ít đi. Năm ngoái, Huyện lệnh đã định đóng cửa am Thanh Phong vĩnh viễn. Tuy nhiên, người thợ bạc họ Trương nổi danh bỗng qua đời mà không có con nối dõi. Thẩm thị, tức quả phụ nhà họ Trương, vẫn luôn tôn sùng đạo Phật, liền xuống tóc đi tu và xin giao lại am Thanh Phong cho mình. Am Thanh Phong được giao lại vào mùa thu năm Tân Tỵ, ngày hai mươi tháng Chín. Mọi chuyện là vậy.”
“Mã Vinh à, một câu chuyện có phần thú vị đấy.” Địch Công bình phẩm. “Nhưng cũng không làm sáng tỏ thêm điều gì cho vụ án của chúng ta. Thuộc hạ đã hy vọng có manh mối gì về một kho báu cổ xưa được chôn giấu.” Y thở dài. Không khí im lặng bao trùm trong căn phòng nhỏ oi bức suốt một lúc lâu. Rồi Mã Vinh lật chiếc mũ ra và nói: “Thuộc hạ đến khu Tây Bắc thành mà không thu được thông tin gì về vụ án mạng, đại nhân nghĩ sao nếu tối nay thuộc hạ thử đến khu dân cư ở cổng thành phía Đông? Có rất nhiều tiệm ăn rẻ tiền và tửu điếm ở đó. Thẩm Tam là kẻ giang hồ khét tiếng, chắc sẽ không khó để tìm ra những người biết rõ về hắn và buộc họ phải kể về hắn.” “Ngươi tiến hành đi”, Địch Công nói, “ở đó chắc chắn sẽ có một trưởng lão Cái bang, y sẽ biết rõ về những chuyện xảy ra trong giới giang hồ. Mã Vinh, ngươi nhớ đến trò chuyện với y.” “Còn đối với thân thể của Thẩm Tam và thủ cấp bị mất kia, thuộc hạ tin rằng chúng được chôn trong khu vườn ở chùa hoang. Bộ đầu và Bộ khoái đã tìm kiếm, nhưng theo kinh nghiệm của thuộc hạ trong giới lục lâm thảo khấu, thuộc hạ có thể nói rằng trong bóng tối thì một khu rừng trông sẽ khác biệt hoàn toàn. Trong ánh sáng ban ngày, các Bộ khoái có thể bỏ qua những đặc điểm mà phải trong bóng tối thì chúng mới hiện hữu. Tối nay thuộc hạ sẽ đến đó để tìm kiếm. Có thể nói là quan sát tình hình qua con mắt của hung thủ.”
Địch Công gật đầu đồng ý. “Lời ngươi nói cũng rất sâu xa, Mã Vinh à. Được, cứ thử đi! Ta cử hai Bộ khoái canh gác ở đó và họ có thể giúp ngươi dọn sạch một lối mòn. Đừng quên mang xà cạp dày, nghe nói nơi đó có nhiều rắn độc.” Ông đứng dậy. “Chà, giờ ta sẽ phải đi tắm và thay đồ để dự tiệc.” Lát sau, Địch Công bước vào phòng dự tiệc, mặc bộ lễ phục bằng gấm màu lục thêu kim tuyến, đội chiếc mũ có chóp cao. Ông đến vừa kịp lúc. Đại phu nhân đang dẫn Bảo Nguyệt vào từ cổng trước, theo sau là Nhị phu nhân và Tam phu nhân. Địch Công vội đến chào Bảo Nguyệt, ông cúi đầu mời bà vào tư thất. Bà cúi đầu ba lần liên tiếp, tay khoanh lại trong tay áo rộng của chiếc cà sa màu nghệ. Bà khiêm nhường nhìn xuống đất, cảm tạ Địch Công vì lời mời chân thành. Ông rất tò mò về nữ tu này, vì cho đến thời điểm này, ông mới chỉ vài lần thoáng nhìn qua vóc dáng cao ráo của bà khi bà đi qua sân của huyện nha đến tư thất của các phu nhân vào những hôm bà đến dạy cắm hoa. Bảo Nguyệt đã trạc tứ tuần, ông nghĩ bà vẫn còn có phần xuân sắc dù bà chọn cuộc sống khổ hạnh, cô độc. Đầu và vai bà quàng chiếc khăn đen, để lộ khuôn mặt trái xoan, sống mũi cao và bờ môi mỏng và cương quyết. Năm người ngồi xuống những chiếc ghế đẩu bằng gỗ đàn hương quanh chiếc bàn vuông bằng cẩm thạch. Những cánh cửa lục bội có lưới mắt cáo đều mở rộng để đón không khí mát lành buổi tối. Từ chỗ ngồi, mọi người đều có thể ngắm trọn khu vườn đầy sắc hương phía trước. Ớ đó, những chiếc đèn lồng đủ màu sắc tươi tắn đang tỏa sáng trong những tán lá xanh thẫm. Trong khi hai nữ tì rót những chén trà hoa nhài thơm phức, một nữ tì khác bày ra những đĩa hoa quả tẩm đường và hạt dưa khô lên bàn đá. Bốn nữ nhân đều kính cẩn đợi đến khi Địch Công mở lời.
“Xin cho tại hạ thưa trước với Bảo Nguyệt sư thái”, ông mở lời, “bữa tiệc tối nay chỉ là một chuyện nhỏ của gia quyến. Tại hạ chỉ hy vọng những đồ dùng thanh tịnh của huyện nha sẽ không khiến sư thái phật ý.” “Đại nhân, chính là mối giao tình đã tạo nên cuộc họp mặt này, không phải những thứ cao lương mỹ vị.” Bảo Nguyệt đoan trang nói. “Bần ni phải xin tạ lỗi với ngài vì thái độ bất kính của tiểu tì chiều nay. Cô ta lẽ ra nên vào báo với ta ngay khi đại nhân đến. Một cô nương ngốc nghếch, thiếu sự giáo dưỡng, xuất thân nơi chợ búa. Bần ni đã phạt cô ta rồi, nhưng…” Bà đưa bàn tay đầy đặn lên và làm một cử chỉ bất lực. Chuỗi tràng hạt bằng thạch anh trên cổ tay bà vang lách cách. “Không hề gì đâu!” Địch Công an ủi bà. “Tại hạ chỉ muốn xem sư thái có bị đám du đãng quấy nhiễu không. Bọn chúng đã gây chuyện trong chùa Tử Quang đêm qua. Tiểu tì đó cho tại hạ biết ở am Thanh Phong không nghe thấy hoặc trông thấy gì đặc biệt.” Bảo Nguyệt ngẩng đầu lên, đôi mắt tròn mở to nhìn Địch Công. “Ngôi chùa ấy đã bị ô nhục vì những nghi thức tà đạo, do những kẻ lầm lạc cử hành. Nhưng Đức Phật sẽ rủ lòng từ bi cho cả những kẻ phản giáo ấy.” Bà đưa bàn tay trắng muốt nâng chén trà lên và nhấp một ngụm. “Còn với tiểu tì kia, bần ni tự hỏi không biết cô nương ấy có nói với ngài mọi điều cô ta biết không.” Địch Công vừa nhướn mày, bà lại nói tiếp, “Bần ni nghi ngờ tâm tính phóng túng của cô ta. Cô ta luôn tìm cách làm quen với những kẻ giang hồ du đãng lang thang trong rừng. Một đêm nọ, bần ni bắt gặp cô ta nói chuyện và rúc rích cười với một gã hành khất rách rưới trước cổng. Bần ni đã phạt nặng cô ta, nhưng bần ni không rõ làm vậy có thay đổi được gì không. Bần ni chỉ có thể cầu nguyện cho cô ta.” Bà bắt đầu đếm chuỗi tràng hạt thạch anh theo bản năng.
“Sư thái không nên giữ cô nương đó ở lại am!” Đại phu nhân lên tiếng. Rồi quay sang Nhị phu nhân, bà nói, “Có lẽ sư thái nên hỏi kĩ những Phật tử quen biết. Họ có thể sẽ biết một cô nương xứng đáng để hầu sư thái!” Nhị phu nhân đưa ánh mắt e sợ nhìn Địch Công. Nàng đã tiếp thu đạo Phật từ sau khi đến huyện Lan Phường. Nàng vốn chỉ được dạy dỗ rất sơ đẳng, nên những lời giảng đạo mộc mạc và lễ nghi rất dễ đi sâu vào lòng nàng. Dù Địch Công không phản đối, nàng cũng biết ông không hề vui khi nàng theo đạo Phật. Nhưng lúc này, suy nghĩ của Địch Công đang ở nơi nào khác. Tiểu tì kia hiển nhiên khao khát thay đổi cuộc sống buồn tẻ ở am Thanh Phong bằng cách làm quen với những tên du đãng, do đó cô ta có thể biết những thông tin giá trị. “Tại hạ đã lệnh cho thuộc hạ là Mã Vinh tối nay đi điều tra thật kĩ lưỡng trong ngôi chùa hoang ấy.” Ông nói với Bảo Nguyệt. “Có thể sẽ đến am Thanh Phong và hỏi chuyện tiểu tì của sư thái.” “Đại nhân, nếu hỏi chuyện cô ta khi có sự hiện diện của bần ni thì sẽ tốt hơn.” Bảo Nguyệt nghiêm nghị nói. “Nếu để một mình cô ta với thuộc hạ của đại nhân, cô ta sẽ… khiến y sao lãng.” “Đương nhiên rồi, tại hạ sẽ… Ồ, các con của tại hạ đã đến!” Người nhũ mẫu dẫn các con của Địch Công đến. Tiểu công tử, một đứa bé trai bụ bẫm mới lên ba được bế trên tay. Sau khi Đại phu nhân giới thiệu cả mấy đứa nhỏ với Bảo Nguyệt, tổng quản túc xá vào báo bữa tiệc đã được chuẩn bị xong.
Tất cả cùng đến một chiếc bàn tròn và rộng ở cuối sảnh. Địch Công ngồi ở trung tâm, thẳng với án thờ bằng gỗ mun kê sát bức tường phía sau. Trước bàn ăn có treo hai chữ “trường cửu” mà ông đã viết lúc trưa. Ông mời Bảo Nguyệt ngồi bên phải mình, Đại phu nhân ngồi bên trái, Nhị phu nhân và Tam phu nhân ngồi đối diện nhau. Đại phu nhân bảo nhũ mẫu đưa các con trở về phòng, nhưng tiểu công tử thích những bông hoa gắn trên chiếc trâm vàng của bà và không chịu buông ra. Bà đành bảo nhũ mẫu cứ ở lại, đứng sau ghế. 👁 Tiệc mừng sinh nhật của Đại phu nhân Trong khi họ thưởng thức món khai vị, tổng quản túc xá đưa vào một đĩa đậu phụ rán nóng hổi, còn nữ tì già thì rót rượu đầy các chén. Địch Công nâng chén và chúc mừng. Bấy giờ, bữa tiệc thực sự bắt đầu. HỒI 9 Giữa chùa hoang, hồn ma dẫn lối Dưới giếng sâu, xác chết hại người Cùng thời điểm Địch Công và các vị phu nhân ngồi xuống dùng bữa, Mã Vinh đến một quầy hàng rong bán thứ rượu rẻ tiền phía sau miếu Quan Đế. Hai người đang ngồi ở đó vội trả tiền rồi bỏ đi. Chủ hàng, một gã giang hồ cao to, áo khoác hờ phô ra lồng ngực trần đầy lông, vươn lên chuyển ngọn đèn dầu đang soi sáng cho quầy hàng từ phía trước ra phía sau. Mã Vinh chợt hiểu ra. Chiếc mũ ô sa cho người ta thấy y là người của huyện nha, khách hàng vì thế mà sợ hãi. Y lấy một nắm tiền xu trong tay áo ra, vừa đặt lên quầy hàng vừa gọi rượu uống. Chủ hàng vươn tay ra nhưng Mã Vinh vội đặt bàn tay to lớn lên trên nắm tiền.
“Bình tĩnh đã, huynh đệ. Phải làm gì cho ta thì ngươi mới kiếm được số tiền ấy! Ta muốn hỏi ngươi về gã Thẩm Tam, kẻ vừa bị giết đêm qua. Ngươi biết hắn chứ?” “Biết chứ. Tôi mất một khách hàng quen thuộc! Và hắn cũng mới trở thành một khách hàng có tiền thôi. Hắn bảo tôi rằng mười ngày trước, hắn vừa thực hiện một vụ lớn, kiếm được một số tiền không nhỏ!” “Vụ gì đó mà có cả một tên dị tộc cùng tham gia, đúng không?” “Ôi, không đâu! Thẩm Tam đâu phải kẻ đặc biệt như quan gia nghĩ, nhưng hắn đã cạch mặt đám dị tộc cẩu trệ đó rồi!” “Vậy thì hắn làm việc cho ai? Hắn là kẻ hữu dũng vô mưu, không thể đơn thương độc mã xoay xở đại sự được.” Chủ hàng nhún vai. “Tôi nghe nói đó là một vụ tống tiền. Gã Thẩm Tam đó có thể tự mình lo liệu ổn thỏa mọi việc được!” “Ngươi có biết hắn tống tiền ai không?” “Không biết! Thẩm Tam là chúa ba hoa, nhưng vụ này thì hắn ngậm tăm. Hắn chỉ nói hắn kiếm được bộn tiền khi tham gia!” “Tên khốn đó sống ở đâu?” “Nay đây mai đó. Thường thì hắn ngủ qua đêm tại ngôi chùa hoang. Quan gia uống nữa không?” “Không, xin đa tạ. Có thể kẻ bị hắn tống tiền cũng đang ở trong ngôi chùa.” “Ngài điên sao? Tôi hỏi ngài, hắn tống tiền ai ở chỗ đó? Ma à?” Hắn nhổ xuống đất. “Trưởng lão Cái bang có thể biết rõ. Bây giờ ai là trưởng lão Cái bang ở đây?” “Chẳng có ai cả. Nơi này chẳng có gì cho đám hành khất kiếm ăn đâu. Ban đầu, đám tay chân của tên khốn Tiền Mưu* thu hết mọi mối làm ăn về bàn tay bẩn thỉu của chúng. Rồi lại đến lão cẩu Huyện lệnh hiện giờ nữa, xin quan gia lượng thứ nhé, lão đã tiếp quản hết. Ý tôi là lão đã để mắt đến tất cả mọi thứ! Trời ạ, chính là lão Chu vừa đi qua! Không thèm nhìn tôi một cái. Nghe này, quan gia, ngài làm ơn đi khỏi đây được không? Ngài đang phá hỏng chuyện làm ăn của tôi đấy. Nếu ngài muốn nói chuyện lâu hơn và dễ chịu hơn, cứ đến gặp lão Bang chủ Cái bang đi.”
Nhân vật đã xuất hiện trong cuốn Mê cung án của bộ Địch Công kỳ án. Mã Vinh đẩy nắm tiền về phía hắn. “Ngươi vừa nói không có người nào như vậy mà!” “Không có. Không còn nữa. Bang chủ đã từng là một vị rất ghê gớm. Một đại hán, tôi nghĩ lão ta là người gốc Đột Quyết. Lão ta là lãnh tụ trên giang hồ. Nhưng giờ thì chắc đã già rồi, lão ta lại còn bị bệnh tim. Lão ta sống đâu đó trong một hầm rượu. Xin đa tạ về số tiền, nhưng nếu có thể thì xin quan gia đừng quay lại!” Mã Vinh lẩm bẩm rồi bỏ đi. Y nghĩ vụ tống tiền có thể là động cơ gây ra án mạng kép. Vật được giấu trong chùa có thể là một gói những văn thư thỏa thuận. Trước tiên, nạn nhân tìm cách lấy lại chúng, nhưng khi thất bại, kẻ đó liền giết luôn hai kẻ tống tiền. Mã Vinh mất thêm nửa canh giờ nữa để đi quanh bốn tửu quán khác. Khi rời khỏi tửu quán thứ tư, y lẩm bẩm, “Ước gì có Kiều Thái ở đây cùng ta! Nhiệm vụ này sẽ dễ dàng biết bao khi có một vị bằng hữu để cùng trò chuyện. Không biết Kiều huynh đang làm gì ở kinh thành nữa. Ta dám cá huynh ấy sẽ có thêm một chuyện tình trắc trở nữa! Ôi, ta uống quá nhiều thứ rượu rẻ tiền đó, mà vẫn chưa tìm ra được điều gì. Ai cũng cho rằng Thẩm Tam là một gã du côn tầm thường, và hắn chẳng có bạn bè nào khác ngoài A Ngưu. Ta cũng chẳng hy vọng có được gì nhiều từ cái kẻ được gọi là Bang chủ Cái bang ấy. Có lẽ cũng chỉ là một lão già khốn khổ đáng thương hại. Đoạn kết cuộc đời tồi tàn dành cho một lão già đã từng một thời là lão đại trong chốn giang hồ. Ta nên…”
Y quay lại. Một người cao gầy đuổi theo y. Đó chính là họa sư Lý Kha. “Lý họa sư, sao ông lại đến nơi này vậy?” “Mã quan gia, tôi đang có chút lo lắng về phụ tá của mình, gã Dương Mậu Đức ấy. Chẳng thấy hắn đâu cả. Trước đây hắn cũng hay mải mê chè chén, nhưng hắn luôn báo trước cho tôi. Tôi đã đến tìm ở mọi tửu điếm ở đây rồi. Ngài đang định đi đâu vậy?” “Đến chùa Tử Quang. Nếu không tìm được Dương Mậu Đức, ông cứ báo với tôi. Huyện nha sẽ tiến hành tìm kiếm như thường lệ. Cáo từ!” Mã Vinh rảo bước về phía cổng thành phía Đông. Y bảo lính gác cho mình mượn một chiếc đèn bão nhỏ, rồi y vào ăn uống qua loa lót dạ ở một tiệm ăn tuềnh toàng nằm bên đường cái ngay ngoài cổng thành. Sau đấy, y mới vững dạ mà leo lên từng bậc thang đá dẫn lên đỉnh đồi. Trời đã tối và có phần lạnh hơn. Nhưng con đường dốc vẫn khiến y toát mồ hôi đầm đìa. “Ta cứ tự hỏi tại sao người ta lại luôn muốn xây dựng đền chùa ở những nơi cao ngất như thế này!” Y lẩm bẩm. “Chắc sắp lên đến trời rồi!” Khi y vừa đặt chân đến bãi đất trống trước cổng Tam Quan, hai Bộ khoái xuất hiện từ phía sau một cây bách, vung đoản côn lên. Khi nhận ra Mã Vinh, họ cúi chào rồi bảo rằng y chính là người đầu tiên tìm đến từ lúc họ bắt đầu canh gác ở đây. Mã Vinh thấy hài lòng khi thấy một trong hai người là Phương Cảnh Hành con trai của Bộ đầu Phương Chính* ngày trước, một thanh niên tài tuấn.
Ở cuối tập Mê cung án, Bộ đầu Phương Chính đã xin chuyển đi nơi khác, xin Địch Công cho con trai mình ở lại làm Bộ khoái huyện nha. “Ta phải vào xem xét trong chùa”, y bảo hai Bộ khoái. “Hai ngươi cứ ở đây. Nếu cần, ta sẽ huýt sáo gọi cả hai. Nếu các ngươi thấy kẻ khả nghi nào, cứ việc bắt giữ rồi gọi ta.” Y bước vào cổng và dò xét trong sân trước một lúc. Khung cảnh thật thê lương dưới ánh trăng rằm. “Khu vườn bên trái này chắc còn hoang vu rậm rạp gấp vạn lần những khu rừng hoang khác!” Y tự bảo. “Chà, ta sẽ làm ăn thật chuẩn xác. Trước hết, ta sẽ ngó qua đại sảnh; rồi sẽ hình dung mình là hung thủ ôm một thi thể và một thủ cấp trên tay!” Leo lên bậc thềm dẫn vào đại sảnh, y thấy sau khi Địch Công đến chùa trưa nay thì Bộ đầu đã niêm phong cánh cửa lục bội lại rồi. Y xé giấy niêm phong ra, dùng sức đẩy cánh cửa cũ nát cho đến khi một cánh mở ra. Định bước vào trong đại điện tối đen ấy, y chợt đứng sững người. Y nghe có tiếng đóng cửa ở đâu đó phía sau. Nhưng lúc này, mọi thứ lại chìm vào tĩnh lặng tuyệt đối. Buông một tiếng chửi thề, y dùng bùi nhùi đánh lửa thắp đèn lồng lên rồi giương cao đèn mà bước vào. Ánh đèn soi tỏ những cây cột lớn và án thờ đồ sộ bên trong. Y vội bước tới cánh cửa nhỏ bên trái án thờ, vì hình như âm thanh khi nãy phát ra từ cửa này. Y đẩy mở cánh cửa. Hai bậc đá dẫn xuống một khoảng sân dài và hẹp lát đá. Không có bóng người nào.
“Lẽ ra Bộ đầu nên niêm phong nốt cả cánh cửa này!” Y gầm ghè. “Nhưng có thể âm thanh đó là do ta tưởng tượng ra.” Y hít vào mấy cái. Bỗng y giật mình sợ hãi. Trong đại điện xuất hiện thứ mùi hôi thối mà y đã gặp ở nhà của ả đồng cốt Tháp Lạp. “Trời ơi, lẽ nào thân thể và cái thủ cấp kia được giấu ngay trong đại sảnh này! Đại nhân đã không tìm kiếm trong này, vì đá lát nền vẫn còn nguyên vẹn, bụi bặm vẫn phủ nguyên.” Giương đèn lồng lên cao quá đầu, y soi qua các thanh xà. “Hốc tường phía lối vào thì sao nhỉ? Có thể đưa một cái xác lên đó, nếu có thang. Và có thể hung thủ thực sự có một cái thang. Sẽ mất rất nhiều thời gian để giấu xác kiểu đó, có khi mất cả đêm!” Y đẩy mở hai cánh giữa của cửa lục bội. Sau khi chèn mấy mẩu đá xuống chân cửa để chẹn cẩn thận, y giắt đèn lồng vào thắt lưng, bám lên mép trên cùng của cánh cửa và leo lên, đặt chân vào những ô trống trên khung mắt cáo. Hai chân y dang rộng, mỗi chân giẫm lên một cánh cửa, y có thể nhìn vào hốc tối đó. Một vật màu đen lao thẳng vào mặt y và suýt làm y mất thăng bằng. “Tiên sư con dơi! Ở đây có đủ chỗ cho cả ngàn con dơi, và cũng đủ cho hai cái xác. Nhưng chẳng có xác mà cũng chẳng có đầu người. Và trên này cũng không có thứ mùi kinh tởm như dưới đại điện.” Y lại trèo xuống và thổi tắt đèn lồng. Đứng giữa cửa, y nhìn quanh đám cây rậm rạp chạy dọc theo lề phải của sân.
“Cây sồi lớn đằng kia có bộ rễ nổi, chắc chắn là nơi lý tưởng mà A Ngưu đã ngả lưng nghỉ ngơi. Được rồi, ta sẽ vác cái xác lên vai và bước xuống sân. Ta sẽ bọc thủ cấp trong khăn quàng cổ. Hoặc có thể ta sẽ giao cái xác nặng cho đồng bọn của ta. Rồi…” Y sững lại và nhìn chằm chằm vào đám cây bụi rậm rạp, cách cây sồi một chút. Y đưa tay lau mồ hôi trán. “Rõ ràng ta vừa thấy một bóng trắng quanh quất đằng kia! Có thể là một nữ nhân. Một người cao ráo, mặc đồ trắng dài thướt tha. Phải bám theo nàng ta!” Y chạy qua sân. Tuy nhiên, phía bên kia cây sồi, chỉ có một bụi hoa hồng trắng dày đặc, loại hồng dại đầy gai. “Bóng người ấy đâu rồi…” Y cúi xuống và nhìn đám cành cây gãy. Khi thận trọng rẽ đám cành cây thấp ra, y mỉm cười. “Đây rồi, có một lối mòn ở đây! Phải nói là đã từng có một lối mòn mới đúng. Cỏ dại che lấp hết cả.” Phải bò bằng cả chân lẫn tay, y chui dưới những cành cây lòa xòa. Vốn là một thợ rừng dạn dày, y biết mình đang ở một lối mòn cũ, bị đám cây bụi đan xen che lấp. Y nhanh chóng có thể đi lại dễ dàng. Y đi tiếp mà gần như không gây ra tiếng động, thỉnh thoảng dừng lại để nghe ngóng. Nhưng y không nghe thấy gì khác ngoài tiếng đám ve sầu rúc rích, và thỉnh thoảng có tiếng loài thú ăn đêm. Y lại châm đèn lên và dò xét các bụi cây. Có những vết đen thẫm trên vài chiếc lá. Y đã đi đúng hướng.
Một lối mòn bị lãng quên chạy quanh co giữa những thân cây lớn, dẫn đến một khoảng đất trống nhỏ. Tại đây, có thêm một lối nữa rẽ theo hướng khác. “Ta dám nói, lối đó chắc chắn dẫn về phía sau chùa. Nhưng ta phải tiếp tục đi theo hướng bên trái.” Y lại hít hít liền mấy lần. Mùi ẩm mốc của lá cây mục dần được thay thế bằng hương thơm phảng phất. “Hoa hạnh! Chắc chắn phía trước có vài cây!” Thêm một đoạn nữa, y đến một miệng giếng cổ, xung quanh là những cây hạnh rất cao. Những bông hoa trắng rải rác trên nền đá phủ rêu y như những bông tuyết. Bên kia bụi cây rậm rạp cạnh miệng giếng, y thấy một bức tường. Một phần bức tường đã bị phá, tạo ra một lỗ hổng rộng tầm vài thước. Một đống gạch và đá cuội lớn xếp cạnh miệng giếng, cỏ dại đã mọc kín. Y ngẩng lên. Qua khoảng trống giữa tán lá, y có thể trông thấy tòa tháp bên trái của ngôi chùa hoang. Y bỗng hiểu ra đôi điều. “Cái giếng bị bỏ hoang này chắc chắn nằm ở góc xa nhất, phía sau khu vườn hoang. Bóng ma lương thiện kia đang ở đâu rồi? Hoặc đã biến mất vào lỗ hổng trên tường đằng kia, hoặc là đi theo lối mòn khi nãy ta trông thấy. Dầu sao đi nữa, nàng ấy cũng không ở đây lúc này, thật là một niềm an ủi!” Y oang oang tự nói với chính mình, vì y đang thấy bức bối. Dưới gầm trời này, những hiện tượng siêu nhiên là thứ duy nhất khiến y thực sự sợ hãi. Y nhìn khắp đám cỏ cây tăm tối, nhưng không thấy có gì khác thường. Y nhún vai rồi quay lại chỗ miệng giếng.
“Đương nhiên, đây chính là một điểm lý tưởng để vứt thi thể. Đây rồi, có những dấu vết màu đen trên bờ giếng! Dọc theo lớp gạch dưới kia cũng có! Màu đỏ thẫm!” Y nhìn vào trong miệng giếng. “Sâu quá, dễ đến hơn hai mươi thước. Có rất nhiều cây cỏ mọc bên trong thành giếng. Dây gầu đã mục nát cả rồi, nhưng ta tin có thể treo được đèn lồng lên đó.” 👁 Khám phá của Mã Vinh Y buộc đầu dây gầu vào cần đèn lồng và hạ chiếc đèn xuống giếng. Dưới đám dây thường xuân hỗn độn có một đám dây leo chằng chịt mọc kín trong rãnh giữa những viên gạch cũ. Nhiều phần của thành giếng đã rơi ra, để lại nhiều khe hổng từ trên xuống dưới. Y chăm chú quan sát đáy giếng. “Chẳng có gì ngoài gạch đá và cỏ dại!” Y thất vọng thì thầm. “Nhưng cái xác chắc sẽ ở đâu đó bên dưới.” Y nhanh chóng kéo đèn lồng lên và giắt vào thắt lưng. Rồi y trèo qua miệng giếng, bám chắc vào đám dây leo dày đặc, chân dò dẫm tìm chỗ đứng trên vách. Mã Vinh vốn được rèn luyện bài bản, nhưng vẫn phải chú ý từng động tác vì có nhiều chỗ trên tường gạch cũ lở ra khi y đặt chân vào. Cuối cùng, y đã leo xuống khá sâu, đến nỗi có thể buông mình nhảy xuống đám cỏ dại dưới đáy giếng. Y cúi xuống và mỉm cười mừng rỡ. Ở đây có một cái chân người. Rẽ đám cỏ dại, y trông thấy nửa thân trên không đầu trần trụi và cứng đờ của một đại hán, tấm lưng trải đầy những hình xăm. Mã Vinh ngồi xổm xuống và soi đèn lên tấm lưng xăm trổ chi chít của người kia. Những hình xăm có ba màu là vàng, lam và lục, tất cả đều sặc sỡ.
“Gã này cũng tốn tiền để xăm mình đấy!” Y nghĩ. “Một mặt hổ lớn nằm giữa hai vai chắc chắn có ý nghĩa bảo vệ hắn khỏi bị tấn công từ đằng sau. Nhưng lá bùa ấy lại phản lại hắn vào thời điểm nhất định. Vì hắn đã bị giết bằng nhát dao đâm ngay bên dưới vai trái. Đây đúng là thân thể của Thẩm Tam rồi! Chân tay đều nổi từng khối cơ bắp. Nhưng còn cái đầu của gã còn lại đâu?” Y tìm kiếm khắp xung quanh nhưng chỉ tìm ra một bọc y phục màu xanh. Ở một chỗ, có mảng gạch đá đã sụp xuống, tạo thành một hốc tối trên tường gạch cao tầm bốn thước và sâu tầm ba thước. Y ngồi xuống và đưa đèn lồng vào trong. Một con cóc lớn giương mắt nhìn y, đôi mắt lồi của nó nhấp nháy. Mã Vinh nhún vai. “Vậy chắc tên hung thủ đem cái đầu về nhà rồi. Chà, tốt nhất nên trèo lên. Hai Bộ khoái kia sẽ đi tìm dây thừng và cáng và… Trời đất ơi!” Một khối đất đá rơi thẳng xuống giếng, sượt qua vai y, chỉ cách có một tấc. Tảng đất rơi bịch xuống lưng cái xác. Nhanh như chớp, Mã Vinh thổi tắt đèn lồng và thu người lại, lùi ngay vào hốc tối. Mã Vinh co chân lại, vòng tay ôm lấy hai chân, áp cằm vào hai đầu gối. Y ngồi lọt thỏm vào trong hốc. Nhiều mảnh gạch đá liên tục rơi xuống. “Dừng lại ngay, thằng điên kia!” Y quát lên. “Á… Vai của ta. Dừng lại…” Y tuôn ra một tràng kêu gào tuyệt vọng, sau đó là la hét ầm ĩ, rồi chỉ còn những tiếng rên rỉ yếu ớt. Thêm nhiều tảng gạch đá cứ thế rơi xuống, rồi liên tiếp những hòn đá cuội đầy rêu. Một hòn đập vào vách và bắn trúng chân trái y. Thế rồi tất cả lại rơi vào tĩnh lặng.
Mã Vinh gắng gượng nán lại trong cái xó chật hẹp đó lâu hết mức có thể, lắng tai nghe. Rồi khi chỉ còn lại sự yên lặng, y bò ra khỏi chỗ trú ẩn. Xoa hai cẳng chân đã tê cứng, y chăm chú nhìn lên miệng giếng. Khi chắc chắn không còn gì trên đó, y nhặt đèn lồng lên và thắp sáng. Thân thể Thẩm Tam đã bị vùi dưới một đống gạch đá cao đến vài thước. “Thẩm Tam à, chúng ta sẽ mất nhiều công mới dọn được cái đống trên người ngươi đấy.” Y lẩm bẩm. “Tuy nhiên, ngay lúc này, nó sẽ giúp ta ít nhiều để trèo lên miệng giếng. Và sau đó, ta sẽ có thể quan sát xung quanh xem kẻ nào vừa quăng cả đống gạch đá đó lên ngươi.” HỒI 10 Xác không đầu có hình xăm lạ Dương Mậu Đức mất mạng vì tham Địch Công chăm chú nhìn xuống phần thân thể không đầu được đặt trên chiếc phản ở nhà chứa xác của Thẩm Tam. Ông mặc y phục dạ hành, tóc búi lên bằng một mảnh vải. Mã Vinh thì quần áo còn lấm bùn và rách tả tơi, đứng ở phía bên kia phản, tay cầm một đài nến lớn. Lúc ấy đã quá nửa đêm tầm nửa canh giờ. Bảo Nguyệt đã ra về ngay khi bữa tiệc kết thúc. Sau đó, Địch Công còn ngồi chơi với ba vị phu nhân một lúc rồi mới về nghỉ cùng Đại phu nhân. Về phòng, hai người uống vài chén trà, thong thả trò chuyện về cuộc sống suốt hai mươi năm về bên nhau, xong rồi mới đi nghỉ. Địch Công bị tiếng gõ cửa dồn dập của tổng quản túc xá đánh thức, ông ta đã báo trước với nữ tì là Mã Vinh vừa quay về với tin khẩn. Ngay lập tức, Mã Vinh đưa Địch Công đến nhà chứa xác và báo lại cho ông quá trình tìm ra phần thân thể đó.
Im lặng một hồi, Địch Công ngẩng lên. “Vậy đó chính là lý do cái đầu của Thẩm Tam không có dấu hiệu bị nghẹt thở.” Ông nói. “Hắn bị giết bằng một nhát đâm từ đằng sau. Chính nạn nhân còn lại mới là kẻ tử vong vì ngạt thở. Ngươi có biết bằng cách nào mà tên hung thủ lần theo ngươi được không, Mã Vinh?” “Gã Bộ đầu ngu ngốc không nói với tiểu tử Phương Cảnh Hành và Bộ khoái kia về lối đi thứ hai để vào ngôi chùa từ phía sau. Và thuộc hạ cũng ngu ngốc không kém.” Y cay đắng nói thêm. “Lẽ ra thuộc hạ nên xem xét phía sau bức tường trước khi trèo xuống giếng. Có một lỗ hổng lớn trên tường, từ đó kẻ gian kia có thể theo dõi nhất cử nhất động của thuộc hạ. Hắn có thể đã ở trong đại điện lúc thuộc hạ bước vào, vì thuộc hạ nghĩ mình đã nghe tiếng cánh cửa nhỏ phía sau án thờ khép lại; nhưng khi ấy thuộc hạ không dám chắc. Trong lúc hai Bộ khoái mải kéo thân thể này từ dưới giếng lên, thuộc hạ đi xem xét phía sau ngôi chùa và thấy có một lối mòn dọc theo bên ngoài bức tường bao quanh khu vườn. Hung thủ chắc hẳn đã đi dọc theo lối mòn đó để đến lỗ hổng trên tường. Hắn không thể bám theo thuộc hạ qua khu vườn được, vì lúc đó thuộc hạ chắc chắn sẽ phát hiện ra hắn. Về chuyện này thì thuộc hạ tin chắc.” “Ngươi cũng nói rằng mình đã trông thấy một bóng trắng.” “Ôi.” Mã Vinh ngượng ngập đáp, “Đại nhân à, đó chắc là do ánh trăng đã khiến thuộc hạ nhìn lầm thôi. Ma không thể ném đá đâu!”
Cúi xuống gần thân thể kia, Địch Công xem xét kĩ những hình xăm phức tạp. “Lưng người này đã bị giập nát bởi đống gạch đá mà kẻ tấn công ngươi ném xuống”, ông nói. “Thẩm Tam rõ ràng là kẻ mê tín, như hầu hết đám đồng bọn của hắn. Bên dưới mặt hổ, hắn còn xăm thêm đôi chim uyên ương, biểu tượng của đôi lứa thủy chung. Bên dưới một con còn xăm tên của Thẩm Tam, dưới con còn lại, ôi, Mã Vinh, soi nến lại gần hơn đi!” Địch Công chỉ vào một biểu tượng màu lam nhỏ hơn, chạy ngang qua eo lưng. “Nhìn này! Đó giống hình dáng của ngôi chùa hoang! Tiếc là da thịt đã bị gạch đá làm giập nát. Nhưng ta vẫn có thể luận ra bốn chữ xăm bên dưới là ‘đa kim đa phúc’*.” Nhiều tiền thì nhiều hạnh phúc. Địch Công đứng thẳng lên. “Mã Vinh à, giờ chúng ta đã biết lý do hung thủ phải hoán đổi các mảnh xác! Động cơ của tội ác được xăm trên lưng của Thẩm Tam! Thẩm Tam truy tìm số vàng được giấu trong chùa. Và hung thủ cũng vậy.” “Tối nay, thuộc hạ có hỏi một gã ở dưới phố, hắn nói hắn nghĩ Thẩm Tam đang tống tiền ai đó.” Mã Vinh đưa ra giả thiết về những văn thư liên quan đến tội trạng được giấu trong chùa, và kết luận, “Trong trường hợp này, chữ ‘kim’ không liên quan đến số của cải được chôn giấu, mà là số ngân lượng Thẩm Tam đang mong sẽ lấy được của nạn nhân.” “Đó là một khả năng mà chúng ta phải lưu tâm đến. Đây là một vụ án phức tạp, Mã Vinh à! Nhưng ít nhất chúng ta có thể loại bỏ được giả thiết là có một kẻ dị tộc liên quan đến vụ án mạng. Vì chúng ta đều biết Thẩm Tam bị sát hại bằng một nhát dao đâm vào lưng, còn kẻ kia bị siết cổ. Để cắt rời thủ cấp của nạn nhân sau khi chết thì không cần đến bất cứ kỹ năng đặc biệt nào trong cách dùng loại phủ của người Đột Quyết.” Địch Công ngẫm nghĩ một lát rồi nói thêm, “Lạ lùng là hung thủ không ném thủ cấp của kẻ kia xuống giếng. Ngươi nói chỉ có một bọc y phục thôi sao?”
“Đúng vậy, thưa đại nhân. Thuộc hạ để nó ở trong góc đằng kia.” “Khá lắm. Chúng ta sẽ lấy số y phục đó ra để xem xét. Mau khóa cánh cửa sau lưng ngươi lại.” Họ bước xuống hành lang vắng dẫn lên pháp đường mà không gây tiếng động nào. Trong khi đi cùng nhau, Địch Công hỏi, “Mã Vinh, có ai biết việc ngươi tìm ra thi thể này không?” “Bẩm đại nhân, không có ai khác ngoại trừ Phương Cảnh Hành và Bộ khoái còn lại. Thuộc hạ dặn họ không được để cho bất cứ ai ở huyện nha biết chuyện thuộc hạ tìm được thi thể. Ba người thuộc hạ bọc kín thi thể này lại rồi đem về đây, và thuộc hạ cũng bảo các lính gác đó là thi thể của một tên du đãng được tìm thấy trong rừng.” “Được lắm. Và chừng nào hung thủ còn nghĩ rằng hắn đã giết được ngươi thì ta càng có lợi. Sáng sớm ngày mai, ngươi và Phương Cảnh Hành tốt nhất hãy hỏa táng thân thể của Thẩm Tam cùng cái đầu của hắn. Hắn có vẻ là một gã lưu manh tầm thường, nhưng hắn cũng có quyền được chết toàn thây.” Vừa vào đến tư phòng, Địch Công buông mình xuống ghế. Mã Vinh thắp ngọn nến mà y cầm theo rồi đặt lên án thư và cũng ngồi xuống. “Đại nhân”, y nói, “thuộc hạ cũng xin báo luôn, khi thuộc hạ bước vào đại điện của ngôi chùa tối nay, có một thứ mùi kinh khiếp khiến thuộc hạ nhớ đến mùi thối rữa ở nhà ả ma đầu Tháp Lạp.” “Chiều nay khi ở đó, ta lại không nhận thấy mùi gì. Chắc là có con dơi chết; nơi ấy dơi làm tổ rất nhiều. Ngươi vừa nói đến ả đồng cốt đó, khi cả nhà ta đang dự tiệc, Bộ đầu có đến báo rằng Tháp Lạp đã bỏ đi đâu đó hoặc đã bỏ trốn, đúng như ta đã lo ngại. Các Bộ khoái lùng tìm khắp khu vực đó mà vô ích. Người dân ở đó đều hợp tác với quan sai, dường như họ đều ghét và sợ ả, họ cũng vui mừng nếu chúng ta bắt được ả. Ngươi biết đối với đám người dị tộc thì chuyện đó có ý nghĩa thế nào rồi đấy. Chừng nào những kẻ hành nghề phù thủy nói đúng, họ sẽ tôn sùng chúng như thần thánh. Nhưng ngay khi chúng phán sai, họ sẽ không khoan nhượng với chúng. Những người Đột Quyết ở đó nếu có gan thì họ đã giết Tháp Lạp rồi. Ngươi đi xem trong bình có còn chút trà nóng nào không.”
Trong khi Mã Vinh rót trà, Địch Công nói tiếp, “Trong bữa tiệc tối nay, Bảo Nguyệt sư thái có nói với ta rằng, tiểu tì của bà ấy là một ả phóng đãng, thích lả lơi với mọi tên du côn lai vãng đến ngôi chùa hoang ấy. Mã Vinh, ngươi có thể đến đó và thử hỏi chuyện ả. Nhưng đừng để cho Bảo Nguyệt biết, vì bà ấy muốn có mặt mình ở đó khi ả tiểu tì ấy bị hỏi cung. Có điều, khi có mặt Bảo Nguyệt, ả lại không nói nửa lời.” Ông đặt chén xuống và ngáp. “Ôi, giờ đi xem chỗ y phục kia nào.” Mã Vinh mở gói y phục ra. Y thấy có bộ y phục màu lam giản dị, liền vắt lên ghế và xem xét hai tay áo và cả những đường may. “Không thu được gì, đại nhân ạ! Hung thủ cũng khá cẩn trọng.” Địch Công nãy giờ vẫn quan sát bộ y phục, hai tay chậm rãi vuốt hai dải tóc mai. Bỗng ông ngẩng lên. “Ngươi đã nói với ta là Lý Kha đang đi tìm người phụ tá bị mất tích là Dương Mậu Đức. Và người thợ may cũng nói Dương Mậu Đức giao du với toàn đám lưu manh và hắn cũng là một kẻ vô tích sự. Mặt khác, A Ngưu cho chúng ta biết Thẩm Tam đang tham gia vào một phi vụ bí mật nào đó cùng một gã cao lớn, mặc y phục màu lam xoàng xĩnh, trông giống một người phụ việc. Đương nhiên cũng không dám chắc được, nhưng biết đâu nạn nhân bí ẩn này chính là gã phụ tá của Lý Kha?” “Chà”, Mã Vinh từ tốn đáp, “chúng ta có thể triệu tập Lý Kha ngay ngày mai và cho ông ta xem cái xác. Những họa sư có đôi mắt rất tinh tường; ông ta có thể nhận ra hình dáng của bàn tay, hay vóc người nói chung và…”
Địch Công khoát tay. “Không, ta muốn để Lý Kha tránh xa vụ này, chừng nào chuyện chiếc hộp gỗ còn chưa được xác minh. Trên bàn sát tường đằng kia có một cái chậu, ngươi đem ra giếng và múc đầy nước sạch vào chậu đó cho ta!” Mã Vinh rất ngạc nhiên nhưng vẫn làm theo lời ông. Ông nói, “Để xuống trước mặt ta đi. Được rồi. Lấy chiếc áo của nạn nhân lại đây, căng nó phía trên chậu và lấy cây thước của ta đập chiếc áo!” Mã Vinh làm theo, Địch Công kéo cây nến lại gần và quan sát lớp bụi rơi từ chiếc áo xuống chậu nước. Lát sau, ông khoát tay. “Được rồi đấy. Giờ đến chiếc quần của nạn nhân!” Sau khi Mã Vinh dùng thước gỗ đập liên hồi vào chiếc quần, Địch Công nói, “Được rồi. Giờ hãy xem chúng ta thu được gì!” Ông cúi xuống chậu nước và quan sát mặt nước kĩ lưỡng. “Đúng rồi.” Ông nói với vẻ mãn nguyện và ngẩng lên. “Nạn nhân chính là Dương Mậu Đức! Xem này, những đốm màu xám nổi trên mặt nước là thứ bụi thông thường. Nhưng ngươi có trông thấy những hạt rất nhỏ chìm xuống đáy chậu không? Bên phải chậu, có một đám màu đỏ nhỏ xíu đang lan ra trong nước, và ở đây, chỗ tay ta chỉ, ngươi có thể thấy một chút màu vàng trộn lẫn màu lam. Đó đều là những bột phẩm màu của họa sư. Quần áo của Dương Mậu Đức chắc đã dính những chất này khi lau dọn án thư tại họa phòng của Lý Kha. Chúng ta tiến thêm được một bước nữa rồi, Mã Vinh à!” Ông đứng lên và đi lại quanh phòng. Cơn buồn ngủ đã tiêu biến hết. Mã Vinh mỉm cười thích thú rồi nghiêng chậu nước. Nhiều đám màu nhỏ hơn đang tan ra trong nước.
Địch Công dừng lại. Ông khoanh tay rồi nói, “Mã Vinh, một việc khó đã có lời giải. Ta sẽ tìm lời giải cho một việc nữa. Về động cơ của vụ án mạng kép. Ta không nghĩ giả thiết về vụ tống tiền của ngươi sẽ hợp lý, ít nhất thì cũng không chính xác như ngươi nghĩ. Tuy nhiên, nếu chúng ta hiểu chữ ‘kim’ xăm trên lưng Thẩm Tam theo đúng nghĩa thông thường, thì hiển nhiên nó liên quan đến số vàng được giấu trong ngôi chùa. Hồng Sư gia vẫn cần mẫn xem lại mọi ghi chép liên quan đến lịch sử ngôi chùa, nhưng lão Hồng thậm chí cũng không tìm ra một ẩn ý nào về kho báu được chôn giấu ở đó trong suốt lịch sử hàng trăm năm của ngôi chùa. Và dù thật sự có một kho báu được chôn giấu, sai nha tất sẽ khám phá ra khi quan binh tiến hành niêm phong chùa. Kiểu gì họ cũng sẽ hạch hỏi đám tăng ni và sục sạo khắp chốn quanh chùa!” Ông lại ngồi xuống. “Mã Vinh, phỏng đoán của ta là chúng đang đi tìm số vàng của triều đình. Năm mươi thỏi vàng ròng.” “Nhưng đó là vụ trộm từ năm ngoái!” “Đúng thế. Có điều, tên trộm đã ẩn mình một thời gian dài, đợi đến khi quan quân không còn truy tìm số vàng nữa. Sẽ thế nào nếu hắn chỉ kể với đồng bọn của mình, hoặc kẻ thuê hắn, rằng số vàng được hắn giấu ở đâu đó trong chùa, không tiết lộ rõ địa điểm chính xác? Và tên trộm đã chết trước khi chúng tìm lại được chỗ vàng? Rồi những kẻ khác lâm vào tình trạng khó xử. Chúng sẽ phải dò tìm trong chùa và toàn bộ những khu đất xung quanh. Dương Mậu Đức và Thẩm Tam, hoạt động độc lập hoặc cùng nhau, cùng đi tìm số vàng. Trước hết, chúng tống tiền những kẻ kia đúng như giả thiết của ngươi, Mã Vinh ạ. Nhưng Dương Mậu Đức và Thẩm Tam không lường được đối thủ của mình và chúng đều bị giết.”
Mã Vinh hăng hái gật đầu. “Đại nhân, thuộc hạ nghĩ ngài đã đúng! Ngài có thể gói năm mươi thỏi vàng đó theo nhiều cách: trong một kiện hàng hình vuông, một kiện hình chữ nhật, trong nhiều gói nhỏ, đại khái như vậy. Đó là lý do những kẻ đi tìm vàng tìm kiếm cả dưới nền phòng lẫn phía sau những tấm ván lát tường trong tòa tháp.” “Khá đúng. Và số vàng vẫn còn đó, Mã Vinh ạ! Vì nếu hung thủ hoặc một nhóm hung thủ, hoặc Dương Mậu Đức và Thẩm Tam đã tìm được chúng, thì chuyện hoán đổi xác kia thật phi lý. Chúng sẽ phải bỏ trốn cùng số vàng ngay sau khi giết người; cũng không cần phải ngăn chúng ta tìm ra manh mối trên những hình xăm. Chúng không cần phải quay lại chùa tối nay và tìm cách sát hại ngươi. Số vàng vẫn ở đâu đó trong chùa, và chúng ta phải tìm ra! Mã Vinh, sáng mai chúng ta sẽ đến ngôi chùa đó. Còn giờ thì đi nghỉ đi!” HỒI 11 Cha già đi tìm con mất tích Người lạ hẹn gặp Tam phu nhân Hôm sau, trời vừa sáng, Mã Vinh và Bộ khoái trẻ tuổi Phương Cảnh Hành đã hỏa táng thi thể Thẩm Tam trong lò thiêu phía sau đại lao. Sau đó, Mã Vinh đi ăn điểm tâm cùng Hồng Sư gia ở túc xá. Y thuật lại cho Sư gia tường tận cuộc phiêu lưu của mình đêm hôm trước. Ăn xong, hai người cùng đến thư phòng của Địch Công. Địch Công nói những kết luận của ông cho Hồng Sư gia. “Vậy hiện giờ, chúng ta có một nhiệm vụ kép trước mặt”, ông nói. “Tìm ra số vàng bị chôn giấu và bắt hung thủ giết hai kẻ kia. Sáng nay, chúng ta sẽ đến ngôi chùa cổ cùng với… Ừ, vào đi!”
Bộ đầu bước vào. Sau khi chào Địch Công y nói, “Bẩm đại nhân, cựu Thứ sử đại nhân Ngô Tông Nhân muốn gặp đại nhân vì có chuyện khẩn. Ông ấy đi cùng chưởng quỹ Lý Mai.” “Ngô đại nhân sao?” Địch Công lên giọng, “Ôi, được rồi, ta nhớ rồi. Ta có gặp ông ấy một hai lần gì đó trong những lần hội họp ở huyện này. Một người gầy gò, lưng hơi gù, đúng không?” Bộ đầu gật đầu, Địch Công nói tiếp, “Một Thứ sử có phẩm cách. Ông ấy là vị quan thanh liêm và cần mẫn, nhưng sự nghiệp của ông ấy bất ngờ kết thúc sau một chuyện không may. Thúc thúc của Ngô đại nhân táng gia bại sản nên ông ấy buộc phải trả hết số nợ đó, dù ông ấy không hề có nghĩa vụ phải làm vậy. Ngô đại nhân gần như suy sụp hoàn toàn khi thúc thúc qua đời không lâu sau đó, nên ông ấy không bao giờ đòi lại một đồng xu nào. Ông ấy xin từ quan, rời khỏi quê hương và đến ẩn cư ở huyện này, vì cuộc sống ở đây đỡ tốn kém hơn hẳn những đô thị lớn và ít phải chịu những nghĩa vụ xã hội. Người còn lại là ai? Ngươi nói là Lý Mai ư?” “Đúng vậy, thưa đại nhân. Lý Mai có một tiệm kim hoàn nhỏ ở phía Đông thành, tiệm của ông ta cũng có giao dịch liên quan đến tiền bạc. Người này là bằng hữu của Ngô đại nhân.” “Đại nhân, Lý Mai chính là bào huynh của họa sư Lý Kha.” Mã Vinh nói thêm. Địch Công đứng dậy thở dài. “Chà, Sư gia, mau ra đón khách đi. Đưa họ đến sảnh đường. Trong lúc đó, ta sẽ đi thay y phục.”
Mã Vinh giúp Địch Công mặc quan phục bằng gấm màu lục thêu kim tuyến. Tiếp đón một vị cựu Thứ sử thì phải trang trọng để xứng với phẩm hàm của ông ấy. Trong khi đội mũ cánh chuồn, Địch Công nở nụ cười buồn thảm, “Ngô đại nhân đến thật không đúng lúc chút nào, nhưng ở tư cách một quan viên nhiều kinh nghiệm, ông ấy ít nhất sẽ trình bày mọi chuyện thật rõ ràng và súc tích!” Địch Công cùng Mã Vinh đi qua sân chính, ông ngẩng lên nhìn trời. Hôm nay không nóng bức và ngột ngạt như hôm trước, có thể sẽ là ngày khá mát mẻ. Hai người bước lên cầu thang bằng cẩm thạch dẫn lên cửa lớn của sảnh tiếp khách, xây trên một nền đất cao. Hồng Sư gia đứng giữa hai cây cột sơn son đợi hai người và dẫn Địch Công vào trong. Hai người đang ngồi bên bàn trà vội đứng dậy khi thấy Địch Công bước vào. Người cao tuổi hơn tiến lên thi lễ. Ông ta có khuôn mặt dài tái xám, chòm râu lưa thưa và bộ ria mép dài đã ngả màu muối tiêu. Ngô Tông Nhân mặc trường bào màu lam thẫm thêu hoa bằng chỉ vàng, đội mũ ô sa có đính ngọc thạch. Trong khi kính cẩn chào hỏi vị Thứ sử, Địch Công vẫn thầm quan sát nam nhân cao lớn vai rộng đứng sau ông ta. Người này có khuôn mặt tròn, nhợt nhạt, đôi mắt đã sụp mí, ria mép đen và ngắn, râu cằm lún phún. Y mặc áo xám, đội loại mũ nhỏ của dân buôn bán. Địch Công mời Ngô đại nhân ngồi. Ông cũng ngồi xuống phía đối diện vị khách đặc biệt. Lý chưởng quỹ vẫn đứng sau ghế của Ngô đại nhân. Mã Vinh và Sư gia lui ra xa, ngồi xuống hai chiếc ghế đẩu.
Sau khi gia nhân đem trà lên, Địch Công tựa người ra ghế và vui vẻ hỏi, “Niên huynh*, sáng sớm như vậy, tại hạ có thể giúp gì cho niên huynh đây?” Tiếng tôn xưng người bạn cùng tuổi với mình, hoặc cùng thi đậu một khoa với mình. Ngô Tông Nhân nhìn sang ông bằng ánh mắt buồn thảm. “Địch đại nhân, ta đến để hỏi có tin tức gì về tiểu nữ nhà ta không.” Trông thấy vẻ ngỡ ngàng của Địch Công, ông lại càng sốt ruột. “Vì ngài đã đưa ra cáo thị vào tối hôm qua, ngài chắc chắn đã biết chuyện về Bạch Ngọc.” Địch Công ngồi thẳng dậy. Ông vội rót cho vị khách một chén trà khác. “Niên huynh, trước khi chúng ta bắt đầu nói chuyện, tại hạ xin được hỏi tại sao Lý chưởng quỹ lại đi cùng huynh?” “Được thôi. Một tháng trước khi tiểu nữ nhà ta mất tích, ta đã hứa gả nó cho Lý chưởng quỹ. Ông ta vẫn chưa thành thân, bởi thế ông ta có quyền được biết.” “Tại hạ hiểu.” Địch Công lấy chiếc quạt từ trong tay áo ra và bắt đầu ngồi quạt. Một lát sau, ông nói, “Mọi chuyện đều xảy ra từ năm ngoái, trước khi tại hạ đến đây. Vì tin tức của tại hạ chủ yếu dựa vào lời đồn, nên tại hạ sẽ hiểu rõ hơn về những tin đồn ấy nếu niên huynh nói sơ qua về chuyện lệnh ái bị mất tích. Tại hạ không khám phá ra bất cứ manh mối chính xác nào trong các hồ sơ còn lưu lại của huyện nha.” Ngô đại nhân cau mày. Đưa những ngón tay gầy gò vuốt chòm râu thưa, ông nói. “Bạch Ngọc là đứa con duy nhất của ta với Đại phu nhân, bà ấy đã qua đời ba năm trước. Nó là một người thông minh nhưng cũng rất cứng đầu. Khi tuổi nó vừa tròn mười tám, ta đã chọn Lý chưởng quỹ đây làm phu quân tương lai cho nó. Ta có thể nói thêm rằng, Lý chưởng quỹ lâu nay vẫn trợ giúp ta những chuyện về tiền bạc, và ta thấy ông ta là người chính trực, có học thức. Hơn nữa, chúng ta lại là người cùng huyện ở phương Bắc. Tiểu nữ nhà ta ưng theo lựa chọn ấy. Tuy nhiên, thật không may, ta đã thuê gã thư sinh Dương Mậu Đức làm ký lục cho mình. Hắn là người địa phương, lễ độ, được giới thiệu là có nhân phẩm tốt. Nhưng có ai ngờ, tuổi già đã khiến ta mất đi khả năng nhìn người. Họ Dương kia hóa ra là một kẻ vô lại. Sau lưng ta, hắn đã âm thầm dụ dỗ tiểu nữ nhà ta.”
Vị chưởng quỹ cúi xuống và thì thầm điều gì đó với Ngô đại nhân, nhưng ông lắc đầu liên hồi. “Lý Mai, xin cứ bình tĩnh. Ta sẽ nói chuyện đó theo cách của ta! Tiểu nữ nhà ta là người không thạo sự đời, họ Dương dễ dàng chiếm được cảm tình của nó. Vào đêm ngày mồng mười tháng Chín năm ngoái, sau bữa cơm tối, ta bảo nó rằng ngày mai ta sẽ đi xem bói để định ngày lành tháng tốt làm lễ thành hôn cho nó và Lý Mai. Ngài có thể hình dung được ta kinh hãi đến thế nào khi nó lạnh lùng bảo ta rằng nó sẽ không thành thân với Lý Mai vì đã phải lòng viên ký lục họ Dương kia không! Ta triệu tên vô lại đó đến ngay lập tức, nhưng hắn đã ra ngoài. Ta đã mắng Bạch Ngọc rất nặng lời, ta phải thừa nhận là rất thậm tệ. Có ai bình tĩnh nổi khi gặp chuyện nhục nhã như vậy? Nó đứng dậy và bỏ đi.” Ngô đại nhân nhấp một ngụm trà rồi lắc đầu. “Địch đại nhân, ta đã phạm một sai lầm lớn. Ta cho rằng Bạch Ngọc đã bỏ đến chỗ người dì, một vị phu nhân sống ở phố kế bên. Bà ấy là tiểu muội của Đại phu nhân nhà ta, Bạch Ngọc rất quý mến bà ấy. Ta nghĩ tiểu nữ chỉ đến đó để tìm sự an ủi và sáng hôm sau sẽ trở về xin tạ lỗi với ta. Nhưng hôm sau, đến trưa nó vẫn chưa trở về, ta cử tổng quản đến đưa nó về. Ông ta được cho hay Bạch Ngọc không hề đến đó. Ta cho gọi Dương Mậu Đức đến, nhưng tên lưu manh ấy lại nói không hề biết gì về chuyện Bạch Ngọc mất tích và cũng trơ tráo tuyên bố rằng hắn chưa bao giờ đoái hoài đến nó. Ta bảo hắn là kẻ dối trá và tự mình điều tra. Dương Mậu Đức quả thực đã qua đêm ở một kỹ viện. Ta liền tống cổ hắn đi. Rồi ta gọi Lý chưởng quỹ đến, hai ta bất chấp tất cả, tiến hành điều tra bằng mọi cách. Nhưng Bạch Ngọc đã biến mất mà không để lại dấu tích gì. Kết luận hợp lý nhất chỉ là nó đã bị bắt cóc khi trên đường tới nhà dì.”
“Niên huynh, tại sao huynh không trình báo ngay với huyện nha?” Địch Công hỏi. “Trong trường hợp có người mất tích, quan sai có thể tiến hành nhiều biện pháp tìm kiếm hiệu quả và…” “Trước hết”, Ngô Tông Nhân ngắt lời, “Huyện lệnh tiền nhiệm là một kẻ đồi bại. Và cũng là kẻ hèn nhát, hắn không dám động tới Tiền Mưu, tên ác bá lộng hành ở đất này.” Ông giận dữ đưa tay xoắn lấy bộ râu. “Thứ hai, ta là người thủ cựu. Danh dự của gia tộc có ý nghĩa lớn nhất với ta. Ta không muốn chuyện tiểu nữ bị bắt cóc bị đem ra công khai. Lý Mai cũng tán thành với suy nghĩ đó.” “Đại nhân, tiểu nhân đã định thành gia thất với tiểu thư Bạch Ngọc.” Lý Mai ôn tồn nói. “Nếu như không có chuyện không may xảy ra với nàng ấy.” “Lý chưởng quỹ, ta hiểu lòng thủy chung của ngươi.” Địch Công nói. “Nhưng ngươi lại không thể khuyên Ngô đại nhân đúng cách. Việc nên làm duy nhất khi ấy là lên trình báo về vụ mất tích đó, không được do dự.” Ngô đại nhân gạt lời nhận định đó đi bằng thái độ thiếu kiên nhẫn. “Bây giờ, ngài đã biết gì về tiểu nữ nhà ta? Nó còn sống không?” Địch Công lại cất chiếc quạt vào tay áo, và lấy trong tay áo ra một cuộn giấy. Ông lật từng tờ cho đến khi tìm được những ghi chép về chuyện Mã Vinh đến gặp ả đồng cốt. Ông ngẩng lên hỏi, “Tiểu thư sinh ngày mồng bốn, tháng Chín, năm Nhâm Tuất?” “Đúng vậy. Đại nhân có thể tìm thấy thông tin đó trong những văn thư ở pháp đường.”
“Chính vậy. Tiếc là tại hạ chỉ có thể cho niên huynh biết rằng, thông tin tại hạ có được về tiểu thư lại rất mơ hồ. Lúc này, tại hạ không thể nói ra điều gì mà không khiến niên huynh đau khổ tột cùng hoặc giúp niên huynh nuôi dưỡng hy vọng, rằng những lời nói ra có thể không phải sự thật. Đó là tất cả những lời tại hạ có thể nói lúc này.” “Ngài cứ xử lý vụ án này như ý ngài thấy hợp lý.” Ngô Tông Nhân bướng bỉnh đáp. “Tuy nhiên, ta có một thỉnh cầu nhỏ với ngài. Nếu công cuộc điều tra của ngài đến thời điểm cần phải hành động theo luật định, ta sẽ vô cùng biết ơn ngài nếu ngài vui lòng cho ta biết trước mọi bằng chứng.” Địch Công nhấp trà. Ông tự hỏi ý vị khách định nói là gì. Lời yêu cầu dường như vô cùng thừa thãi. Đặt chén xuống, ông nói, “Tại hạ sẽ làm đúng như lời niên huynh muốn, tại hạ…” Ngô Tông Nhân đột ngột đứng dậy. “Xin đa tạ Địch đại nhân. Lý Mai, mau đi thôi!” Địch Công cũng đứng dậy theo. Tiễn khách ra cửa, ông bảo với vị chưởng quỹ, “Lý chưởng quỹ, ta nghe nói ngươi có một bào đệ, là một họa sư giỏi.” “Đại nhân, tiểu nhân hoàn toàn không biết gì về nghệ thuật cả.” Lý Mai đáp, có phần lỗ mãng. Hồng Sư gia tiễn khách xuống thềm. “Tóm lại, quả thực có một cô nương tên Bạch Ngọc!” Mã Vinh hồ hởi thốt lên. “Mụ đồng cốt đó chắc chắn biết rõ nàng ấy, cả ngày sinh tháng đẻ mà mụ ta nói với thuộc hạ cũng đúng! Thông điệp cuối cùng từ nàng ấy mà chúng ta tìm được trong chiếc hộp gỗ hoàn toàn là thật! Trời ạ, chúng ta phải lập tức…”
“Mã Vinh, chớ nóng vội!” Địch Công lật mũ ra và lau mồ hôi trán. “Ta cảm nhận được những bí ẩn lạ lùng. Thật thiếu lễ độ nếu ép Thứ sử đại nhân nói ra từng chi tiết, nhưng… Có chuyện gì vậy, tổng quản?” Ông ngạc nhiên nhìn lão Hồng lập cập chạy vào, khuôn mặt gầy gò lộ rõ vẻ lo lắng. “Đại nhân, có chuyện bất thường ở chỗ các vị phu nhân. Đại phu nhân cử tiểu nhân đến báo.” “Mau nói đi!” “Tam phu nhân vừa đến gặp Đại phu nhân, đem về một phong thư còn nguyên. Bà ấy cho hay có một nữ nhân che mặt tìm đến cửa sau của nha phủ, ngồi trên ghế kiệu che kín. Sau khi hỏi các nữ tì xem ai là vị phu nhân trẻ tuổi nhất, biết được đó là Tam phu nhân, bà ta liền đòi gặp riêng. Khi nữ tì hỏi tên tuổi, bà ta đưa ra phong thư còn gắn xi. Đại phu nhân mở ra, thấy đó là danh thiếp của Ngô phu nhân, là phu nhân của cựu Thứ sử Ngô Tông Nhân. Đại phu nhân lập tức sai nô tài tới đây để báo cho đại nhân biết.” Địch Công nhướn mày. “Ta không thích các vị phu nhân có liên quan đến vụ án ta đang điều tra.” Ông cau có bảo Mã Vinh. “Mặt khác, ta lại dễ dàng nhận thấy Ngô đại nhân không nói với ta toàn bộ câu chuyện. Chà, ta sẽ hỏi ý kiến Đại phu nhân. Bảo Hồng Sư gia rằng lát nữa chúng ta sẽ gặp nhau ở tư phòng của ta.” HỒI 12 Địch Nhân Kiệt sau rèm nghe trộm Ngô phu nhân tỏ bày tâm tư Địch Công thấy Đại phu nhân và Tam phu nhân đang ở khuê phòng của Đại phu nhân. Ông kể sơ qua với hai người về cuộc gặp với Ngô đại nhân. “Ngô phu nhân đến đây, tất có chuyện liên quan đến sự mất tích của tiểu thư Bạch Ngọc. Ta muốn đích thân tiếp bà ấy, nhưng bà ấy sẽ không nói chuyện với ta. Dầu vậy, ta muốn quan sát bà ấy để xem có ấn tượng gì về tính cách bà ấy hay không…” Ông lại giật hai dải tóc mai.
Đại phu nhân vội quay sang Tam phu nhân và hỏi, “Muội có thể tìm cách tiếp Ngô phu nhân ở đâu đó trong phòng muội để lão gia có thể quan sát bà ấy mà không bị phát hiện không?” Theo đúng thể thức, Địch Công đã phân cho mỗi vị phu nhân một căn phòng riêng, có đầy đủ nhà bếp và những nữ tì riêng. Dù Nhị phu nhân và Tam phu nhân thường thoải mái ra vào nơi ở của Đại phu nhân ở tòa nhà chính, Đại phu nhân lại chưa bao giờ đặt chân vào chỗ ở của hai người kia. Địch Công nghiêm khắc tuân theo tục lệ cũ này vì ông biết như vậy mới là cách tốt nhất đảm bảo cho gia thất được trong ấm ngoài êm. “Ôi”, Tam phu nhân chậm rãi nói, “lão gia biết đấy, cửa bán nguyệt ngăn cách phòng ngủ và phòng khách có một tấm rèm bằng vải sa. Nếu thiếp xếp cho khách ngồi gần cửa sổ, và lão gia đứng trong phòng ngủ, ngay sau tấm rèm, thì…” “Được đấy!” Địch Công quyết định. “Mau đi nào!” “Nếu lão gia không phiền”, Tam phu nhân nói, “thiếp sẽ đưa lão gia vào phòng bằng cửa sau, như vậy đám nữ tì sẽ không trông thấy lão gia. Họ có thể sẽ vô tình nói với Ngô phu nhân là lão gia đi cùng thiếp.” “Ý hay”, Đại phu nhân chấp thuận. “Chúc hai người may mắn!” Tam phu nhân đưa Địch Công ra ngoài và đi theo lối mòn quanh co trong khu vườn dẫn đến tư thất của nàng, nằm ở một góc xa phía sau nha phủ. Nàng vừa mở cửa phòng khách để đưa ông vào, ông đã vội nói, “Cố ép bà ấy nói một chút về tiểu thư Bạch Ngọc. Nàng biết đấy, bà ấy là Nhị phu nhân của Ngô Tông Nhân.”
“Thiếp hồi hộp quá!” Nàng thì thầm và siết tay ông. “Nhìn xem, thiếp sẽ để bà ấy ngồi ở ghế đằng kia, đối diện với cửa bán nguyệt!” Địch Công liền vào phòng ngủ, thận trọng kéo tấm rèm xuống phía sau mình. Trong đó tranh tối tranh sáng, mọi cửa sổ đều đã được đóng để ngăn cái nóng tràn vào. Ngồi bên mép giường, ông nghe tiếng Tam phu nhân vỗ tay. Nàng cho nữ tì lui ra ngoài ngay sau khi đưa vị khách vào vì nàng muốn tự tay pha trà. Địch Công gật đầu ưng ý. Nàng là nữ nhân thông minh và có thẩm mĩ tinh tế. Bằng vẻ thấu hiểu, ông nhìn sang lối cắm hoa tao nhã trên bàn trà. Mỗi lần ông đến, ông đều nhận thấy đôi điều mới lạ. Trên tường có treo một bài thơ do chính nàng sáng tác, hoặc trên bàn có một bức họa của nàng, không thì có một bộ đồ thêu thanh nhã. Nàng sống hạnh phúc khi theo đuổi niềm đam mê nghệ thuật và nàng cũng thích dạy học cho các công tử. Phụ thân của nàng, một người ích kỉ đã từ bỏ nàng sau những thử thách ghê gớm mà nàng đã trải qua ở huyện Bồng Lai*. Và Địch Công biết giờ đây nàng đã cảm thấy được che chở, nàng cũng xem Đại phu nhân lẫn Nhị phu nhân là tỉ tỉ. Xem hồi 15 của cuốn Hoàng kim án trong bộ Địch Công kỳ án. Tiếng người trò chuyện ngoài phòng khách khiến Địch Công bừng tỉnh khỏi những suy nghĩ. Tam phu nhân đón một nữ nhân cao ráo, ăn vận bình dị với bộ xiêm y màu xám có ống tay dài. Trên hông bà có thắt một chiếc khăn lụa, hai đầu dải khăn rủ xuống tận đất. Trên đầu bà ta phủ khăn choàng đen. Nữ tì vừa lui gót, bà ta liền bỏ khăn ra, cúi đầu thi lễ và kính cẩn chắp tay. 👁
Tam phu nhân tiếp Ngô phu nhân “Phu nhân chắc đã nhận ra ta là ai khi xem tấm bái thiếp.” Bà ta nói bằng giọng nhanh và rõ ràng. “Ngàn lần cảm tạ phu nhân vì đã chiếu cố đến gặp ta, dù ta vẫn chưa có vinh dự được gặp mặt Đại phu nhân.” Khuôn mặt linh hoạt, đa cảm của bà ta nổi bật dưới mái tóc búi cao, không hề điểm trang. Địch Công nghĩ bà ta không đẹp theo kiểu truyền thống; môi bà ta quá dày, chân mày quá đậm, dưới đôi mắt to và lanh lợi của bà ta đã bắt đầu có bọng. Nhưng bà ta chắc chắn là nữ nhân có tính cách mạnh mẽ. Ông đoán tuổi bà ta tầm ba mươi lăm. Trong khi mời khách ngồi gần cửa sổ, Tam phu nhân bắt đầu lịch sự hỏi han. Rồi nàng cũng ngồi và bắt đầu pha trà. Ngô phu nhân lẽ ra phải đợi đến khi trà được pha xong mới nên bắt đầu câu chuyện. Nhưng bà ta lại mở lời ngay: “Ta không nên lấy đi quá nhiều thời giờ của phu nhân, chính ta cũng đang có chuyện cấp bách, vì lão gia nhà ta không muốn ta đến đây. Vậy nên xin phu nhân vui lòng cho phép ta bỏ qua những thủ tục rườm rà và nói thẳng đến vấn đề chính.” Trong khi Tam phu nhân tỏ ý bằng lòng, Ngô phu nhân vội tiếp lời, “Lão gia nhà ta đã đến gặp Địch đại nhân sáng nay, để tố cáo ta bắt cóc tiểu thư Bạch Ngọc.” Tam phu nhân đánh rơi chén trà xuống đất. Chiếc chén vỡ tan trên nền đá hoa cương. “Xin lỗi phu nhân!” Ngô phu nhân thốt lên. “Ta thật vô ý khi vội vàng nói ra điều đó! Lẽ ra ta nên nói đầu đuôi mọi chuyện trước tiên. Nào, để ta giúp phu nhân!”
Hai người lại ngồi xuống, Ngô phu nhân lập tức vào đề. “Đương nhiên ta chưa bao giờ nghĩ đến chuyện làm hại tiểu thư. Ta muốn giải thích chuyện này với phu nhân. Phu nhân là một thiếu phụ trẻ, phu nhân tất sẽ hiểu. Ta hy vọng sau đó, phu nhân sẽ vui lòng trình bày lại mục đích chính trong cuộc trò chuyện của hai ta với Địch đại nhân, từ đó ông ấy sẽ hiểu mọi chuyện phía sau tất cả những rắc rối này.” “Ngô phu nhân, ta không thể hứa với phu nhân bất cứ chuyện gì trước khi được nghe mọi chuyện.” Tam phu nhân nhẹ nhàng và thận trọng nói. “Đương nhiên là thế!” Ngô phu nhân tỏ vẻ sốt ruột. Vẻ lịch lãm nhanh chóng biến mất. “Trước hết, ta phải đảm bảo với phu nhân rằng ta yêu Ngô tướng công. Tuổi ông ấy gấp đôi tuổi ta, nhưng ông ấy lại rất nhân hậu và chu đáo. Ông ấy cho ta cuộc sống an toàn mà ta muốn.” “Trước khi thành gia thất, ta vốn là một nữ nhân bị ruồng bỏ và vô cùng nghèo khổ. Nhưng đó không phải điều đáng nói. Vấn đề chính là khi Ngô tướng công thành gia thất với ta, ông ấy đã ở vậy suốt ba năm. Ông ấy chỉ có một nhi nữ duy nhất tên là Bạch Ngọc. Tướng công vô cùng yêu mến cô ta, nhưng ta có thể khẳng định với phu nhân, Bạch Ngọc chẳng có gì đặc biệt cả. Chỉ là một đứa con gái mười tám tuổi tầm thường, chỉ nghĩ đến nam nhân trước khi đủ chín chắn. Ta muốn tự mình dạy dỗ cô ta, nhưng Ngô tướng công không đồng ý, ông ấy muốn tự lo cho việc giáo dục Bạch Ngọc. Ông ấy yêu quý con gái mình, có phần hơi quá, nếu phu nhân hiểu ý ta muốn nói gì. Có thể bản thân tướng công không nhận thấy điều ấy, nhưng ta là người từng trải nên ta hiểu. Ta không thể nói rõ với tướng công điều này, nhưng ta có thể nói với tướng công rằng Bạch Ngọc đang đứng giữa ngăn cản phu thê chúng ta, và tốt nhất tướng công nên gả chồng cho cô ta nhanh nhất có thể. Và đó mới là khởi đầu cho vô số bất hòa.”
Bà nhún vai và nói tiếp, “Bấy giờ, phu thê chúng ta đã có những cuộc tranh cãi triền miên, nhưng rốt cuộc chẳng thể thay đổi được gì. Nhưng khi ta phát hiện Bạch Ngọc có tình lang, ta nghĩ mình phải báo lại cho tướng công; thế là tướng công nổi cơn thịnh nộ! Rồi đến khi con tiện nữ đó bỏ đi cùng tình lang, tướng công đã mắng chửi ta không tiếc lời. Tướng công đã quát rằng chính ta đã sát hại tiểu thư và giấu xác nó! Sau khi ông ấy bình tĩnh lại đôi phần, ông ấy nhận thấy mình đã nói những lời vô lý. Nhưng rồi ông ấy lại cho rằng ta bắt cóc Bạch Ngọc và bán nó vào kỹ viện! Phu nhân nghĩ mà xem!” “Xin chớ để trà nguội.” Tam phu nhân điềm tĩnh nói, rồi đẩy chén trà về phía khách. Ngô phu nhân uống cạn một hơi. “Ôi, ta không chấp những lời buộc tội điên rồ ấy, cho đến khi ta kiệt quệ vì tức giận, nhưng tướng công vẫn không tin ta. Trùng hợp là ta lại đi vắng vào đúng đêm cô ta mất tích, phu nhân hiểu chứ. Ta đã đi thăm một người quen cũ.” “Nếu phu nhân nói cho lão gia biết tên của gã tình lang kia và hai người họ đã bỏ đi đâu, thì đó chẳng phải là bằng chứng xác thực nhất cho thấy phu nhân vô tội sao?” Địch Công cười. Tam phu nhân thật thông minh. “Nếu ta biết được tất cả, ta sẽ báo với lão gia ngay!” Ngô phu nhân đáp cộc lốc. “Cô ta đầu mày cuối mắt với một kẻ họ Dương, viên kí lục của tướng công. Nhưng họ Dương đó lại là người nghiêm chỉnh, hắn vờ như không để mắt tới cô ta. Không, chắc chắn phải còn một kẻ khác, nhưng ta chưa bao giờ tìm ra kẻ đó là ai. Tướng công cho cô ta được tự do quá trớn. Ông ấy tin rằng những thiếu nữ tân tiến sẽ có thể xử lý những chuyện nhỏ một cách sáng suốt!”
“Ôi, sao phu nhân không nhờ bằng hữu của mình đến nói với ngài ấy rằng mình lâu nay vẫn luôn chung thủy với ngài ấy?” Tam phu nhân dịu dàng hỏi. Ngô phu nhân liếc nhìn nàng bằng ánh mắt nghi ngờ. “Vậy”, bà ta chậm rãi đáp, “để ta nói cho phu nhân sự thật, Dương tiên sinh thực sự đã mời ta. Hắn là người từng trải và cũng đã nhận thấy cuộc đời của ta thật hẩm hiu. Nên hắn đã mời ta đi ăn ở một tiệm quen thuộc. Đương nhiên đó là một cuộc gặp đường hoàng. Nhưng nếu tướng công biết, ông ấy sẽ vô cùng tức giận, ông ấy là người rất tử tế, nhưng phu nhân có thể thấy ông ấy cũng có phần thủ cựu.” Ngô phu nhân thở dài rồi vội nói tiếp, “Ta sẽ nói vắn tắt thôi. Sáng nay, tướng công bỗng bảo ta rằng ông ấy sẽ đi tìm hiểu về sự mất tích của Bạch Ngọc. Sau gần sáu tháng trời, phu nhân à! Ta cho là chính Địch đại nhân đã triệu ông ấy đến?” “Ngô phu nhân, thật không thể nói rõ chuyện đó cho phu nhân được. Lão gia nhà ta không bao giờ nói chuyện công việc ở tư gia.” “Thật sáng suốt! Tướng công đã gọi Lý Mai đến. Đó là vị bằng hữu thân thiết nhất của tướng công, một vị chưởng quỹ của tiệm kim hoàn. Hơi phô trương, nhưng cũng không phải kẻ xấu. Hai người cùng vội vã đến huyện nha. Bây giờ, ta hy vọng sau khi nghe toàn bộ câu chuyện, phu nhân sẽ vui lòng mà gợi ý với Địch đại nhân, để ngài ấy bảo tướng công nhà ta rằng, tốt nhất ông ấy hãy quên tất cả những nghi ngờ vô căn cứ đối với ta đi. Sau đây, Địch đại nhân có thể giải quyết chuyện tiểu thư Bạch Ngọc và tình lang của cô ta. Địch đại nhân là một quan án có tiếng! Ngài ấy sẽ tức tốc tìm ra được hai kẻ đó. Chỉ như vậy mới yên được những chuyện ô nhục này. Tướng công sẽ lại đối xử với ta như một vị phu quân thông thường. Ông ấy đã không bước vào phòng ta từ khi con tiện nữ hư hỏng kia biến mất, tin hay không thì tùy phu nhân! Còn đó là mọi điều ta muốn nói.”
Tam phu nhân nãy giờ vẫn giữ yên lặng. Nghe xong, nàng mới nói, “Phu nhân, ta sẽ suy nghĩ kĩ về những điều phu nhân nói. Nhưng ta cũng phải nhắc lại rằng, lão gia không thích nói chuyện công việc với các phu nhân, ta ngờ rằng có thể ông ấy…” Ngô phu nhân đứng dậy. Khẽ chạm vào tay Tam phu nhân, bà ta mỉm cười nói, “Bất cứ nam nhân nào cũng sẽ phải lắng nghe một nữ nhân trẻ tuổi yêu kiều như phu nhân! Bất cứ ai! Xin ngàn lần cảm tạ lòng tốt và sự nhẫn nại của phu nhân!” Bà ta lại trùm khăn lên đầu. Tam phu nhân tiễn bà ta ra cửa. Khi nàng kéo tấm rèm ở cửa bán nguyệt sang một bên, Địch Công trông thấy mắt nàng nhòe lệ. “Cuối cùng thì mọi chuyện thật không đáng hào hứng chút nào.” Nàng buồn bã nói. Địch Công kéo nàng ngồi xuống bên cạnh mình và vỗ nhè nhẹ lên tay nàng. HỒI 13 Lý chưởng quỹ thổ lộ tâm can Địch Huyện lệnh luận giải án tình Sư gia và Mã Vinh lặng lẽ ngồi nghe mà bàng hoàng trước những lời Địch Công thuật lại về câu chuyện của Ngô phu nhân. Địch Công sắp xếp lại những ghi chép và kết luận, “Ngô phu nhân là một nữ nhân dung tục, có sự thấu hiểu sâu sắc và đầy tính trực giác đối với những mối quan hệ nhục dục giữa nam và nữ, nhưng lại hoàn toàn không thể thấu được tâm tính của nam nhân như Ngô đại nhân. Ngô đại nhân muốn biết tiểu thư đã gặp phải chuyện gì, nhưng ông ta vẫn muốn bảo vệ thê tử của mình, bất chấp những hành vi xấu xa bà ta có thể đã phạm phải. Đó là lý do mà trước khi ra về, ông ấy cứ một mực muốn ta hứa rằng ta sẽ cho ông ấy biết về các bằng chứng trước khi hành pháp. Vì nếu ta khám phá ra Ngô phu nhân quả thực liên quan đến chuyện tiểu thư bị mất tích, Ngô đại nhân tất sẽ tìm cách thuyết phục ta bỏ qua vụ án này.”
“Đại nhân, ngài nghĩ trong những nghi ngờ của Ngô đại nhân còn có dụng ý gì khác không?” Hồng Sư gia hỏi. Địch Công vuốt râu. “Ta phải thừa nhận rằng ta không có ý tưởng gì cả.” Ông đáp. “Những gì ta biết đó là giả định của Ngô phu nhân về chuyện Bạch Ngọc bỏ đi theo gã tình lang bí ẩn là hoàn toàn vô lý. Nếu Bạch Ngọc thực sự có tình lang, các vị có thể tin chắc Ngô phu nhân tất sẽ tìm ra kẻ đó là ai! Đối với tội lỗi của Ngô phu nhân thì… Bà ta đã thẳng thắn kể với Tam phu nhân về những nghi ngờ của Ngô đại nhân, nhưng đương nhiên điều đó cũng chẳng chứng minh được gì; bà ta tin chắc rằng Ngô đại nhân đến gặp ta để tố cáo mình. Ngô phu nhân là một nữ nhân vô cùng lẳng lơ, nỗi thất vọng triền miên thường khiến những nữ nhân như vậy trở nên phóng đãng.” “Thuộc hạ không hiểu”, Mã Vinh lên tiếng, “tại sao họa sư Lý Kha lại thuê Dương Mậu Đức làm phụ tá cho mình sau khi Ngô đại nhân đuổi cổ hắn. Và Dương Mậu Đức hình như còn quyến rũ cả Ngô phu nhân. Chúng ta phải tìm hiểu thêm về gã họ Dương này. Dù sao thì hắn cũng là nạn nhân thứ hai trong vụ án mạng tại chùa Tử Quang!” Địch Công vẫn ngồi liếc qua những ghi chép của mình. Bấy giờ, ông mới ngẩng lên và từ tốn nói, “Có sự trùng hợp kỳ lạ, đó là Dương Mậu Đức có mặt trong chuyện Bạch Ngọc mất tích năm ngoái lẫn vụ án mạng hiện tại. Ta không thích chuyện này. Không một chút nào! Chuyện ả đồng cốt Tháp Lạp biết về Bạch Ngọc cho thấy đám người Đột Quyết cũng có liên quan.”
“Thuộc hạ sẽ đến hỏi lại Thổ Nhĩ Bối và nhờ nàng dò la trong đám người Đột Quyết có kẻ nào bắt cóc một nữ nhân người Hán hay không.” Mã Vinh nói. Y ngẫm nghĩ, nếu so với những nữ nhân như Tháp Lạp và Ngô phu nhân, thì Thổ Nhĩ Bối cũng không đến nỗi xấu xa. “Được lắm, ngươi tiến hành đi Mã Vinh. Có thể Bạch Ngọc vẫn bị giam cầm ở một chốn ô uế nào đó tại Bắc Liêu phường*. Tuy nhiên, trước hết, ngươi phải thu thập thêm thông tin về Thẩm Tam. Nếu tiểu thư Bạch Ngọc thực sự bị bắt cóc, không sớm thì muộn chúng ta sẽ bắt được đám lưu manh đó. Nhưng việc cần kíp lúc này là tìm ra kẻ sát nhân trong ngôi chùa hoang trước khi hắn gây ra tội ác khác như đêm hôm trước đã tìm cách sát hại ngươi.” Một tập hợp các nhà chứa, kĩ viện ở phía Bắc Lan Phường, địa danh đã được giới thiệu ở cuốn Mê cung án trong bộ Địch Công kỳ án. Có tiếng gõ cửa, một gia nhân bước vào. “Bẩm đại nhân, chưởng quỹ Lý Mai vừa quay lại. Ông ấy xin đại nhân cho gặp một lát.” “Cho ông ta vào!” Địch Công bảo hai trợ thủ, “Ta nhận thấy Lý Mai còn băn khoăn gì đó, nhưng Ngô đại nhân không để ông ta nói.” Chưởng quỹ dường như ngỡ ngàng khi thấy bên cạnh Địch Công còn hai người nữa. “Lý chưởng quỹ, mời ngồi!” Địch Công tỏ vẻ sốt ruột. “Hai người này là hai trợ thủ tin cẩn của ta.” Lý Mai ngồi xuống ghế mà Hồng Sư gia mời. Y cẩn thận chỉnh đốn y phục. Rồi bình thản nhìn sang Địch Công bằng đôi mắt đã sụp mí, y nói, “Tiểu nhân vô cùng cảm tạ đại nhân vì đã tiếp chuyện tiểu nhân. Tiểu nhân không thể tự do lên tiếng khi có mặt Ngô đại nhân.” Y lấy giọng. “Trước tiên, tiểu nhân muốn nhắc lại rằng tiểu nhân vốn đã xem tiểu thư Bạch Ngọc là hôn thê của mình và sẽ thành thân với nàng ấy ngay khi nàng ấy được tìm về, dù có những chuyện gì đã xảy ra với nàng ấy suốt nửa năm qua.” Đôi môi mỏng của y mím lại với vẻ cương quyết. Y nói tiếp, “Thứ hai, tiểu nhân cảm thấy đại nhân còn do dự khi nói cho Ngô đại nhân về những bằng chứng mà huyện nha có được, cũng vì đại nhân không muốn làm tổn thương ông ấy. Tiểu nhân đã hoàn toàn sẵn sàng để nghe sự thật, dù có thảm thương đến thế nào.” Y nhìn Địch Công đầy hy vọng.
Địch Công tựa người ra ghế. “Lý chưởng quỹ, ta cũng chỉ có thể nhắc lại những gì đã nói với Ngô đại nhân sáng nay.” Thấy Lý Mai cúi đầu cam chịu, Địch Công nói tiếp, “Tuy nhiên, ngươi có thể trợ giúp ta điều tra nếu ngươi nói cho ta những cách mà ngươi và Ngô đại nhân đã dùng để tìm kiếm Bạch Ngọc từ năm ngoái đến giờ.” “Đại nhân, tiểu nhân xin sẵn lòng. Tiểu nhân đã đích thân đến một kĩ viện của người Hán là Nam Liêu phường* và bí mật dò xét. Khi không có kết quả, tiểu nhân lệnh cho viên kí lục cao tuổi nhất của mình điều tra trong đám giang hồ, ông ta là người địa phương này và có mối quan hệ rộng rãi.” Y liếc nhanh sang Địch Công và kể tiếp, “Tiểu nhân tin rằng tiểu thư Bạch Ngọc không phải bị người ở địa phương này bắt cóc, mà là một nhóm lãng khách, chúng đưa nàng ấy đi khỏi đây ngay tức khắc.” Y lau khuôn mặt đang mồ hôi đầm đìa. “Tiểu nhân đã viết thư cho các chủ phường kim ngân ở năm huyện quanh đây, kèm theo nhiều bức chân dung của Bạch Ngọc. Nhưng không có kết quả.” Y thở dài. “Đại nhân rất sáng suốt khi trách tiểu nhân không thúc giục Ngô đại nhân đến huyện nha trình báo ngay. Nhưng cũng vẫn quá muộn! Nếu đại nhân gửi thông tri cho các Huyện lệnh ở…” Một tập hợp các nhà chứa, kĩ viện ở phía Nam Lan Phường, địa danh đã được giới thiệu ở cuốn Mê cung án trong bộ Địch Công kỳ án. “Lý chưởng quỹ, ta đang định làm việc đó đây. Ngươi có thể cho ta xin tầm hơn mười bức chân dung của tiểu thư Bạch Ngọc không?”