text
stringlengths
1
809k
1. Rèn luyện cơ hô hấp, gia tăng hoạt lượng của phổi (phế hoạt lượng): Cơ hô hấp bao gồm luôn các bắp thịt của các bộ phận mạng ngực (hoành cách mô) và cơ giữa hai sườn. Mạng ngực co rút lại khiến cho xoang ngực nở lớn ra, cơ ở giữa hai sườn (tầng ngoài) co rút lại làm cho xoang ngực nở to ra. Như vậy, xoang ngực nở lớn làm cho phổi nở nang, dung lượng khi trao đổi tự nhiên tăng gia. Phế hoạt lượng là cái gì? Khi ta hít vào một hơi một cách đầy đủ, rồi lại thở hết hơi ấy ra, thì cái dung lượng khí mà phổi đã dung nạp ấy gọi là phế hoạt lượng. Phế hoạt lương có thể tăng gia nhờ sự luyện tập. Về mặt biểu khán, động tác TCQ trông thì chậm chạp, nhưng lượng vận động lại không ít, do đó cũng làm tăng gia lượng khí trao đổi khi hô hấp. Nhưng điều đáng nói là cái ưu điểm nổi bật hẳn của TCQ, là ở chổ thay đổi một cách có ý thức số lần hô hấp và mở rộng phế hoạt lương, làm cho sự hô hấp và động tác phối hợp lại. Hơn nữa, phải hô hấp cho đúng phép "sâu, dài, đều, im" (Thâm, trường, quân, tĩnh). Cứ luyện tập bền bĩ như vậy, thì tự nhiên phát triển được cơ hô hấp, tăng gia được phế hoạt lượng. Sự phát triển và tăng gia này có một tác dụng rất tốt đẹp đối với sự cải tiến cơ năng và tình trạng lành mạnh của khí quan hô hấp. 2. Ðạt đến mục đích "Hấp khí dưỡng thần": " Thần " chính là hệ thống thần kinh, đúng hơn nữa là bộ phận cao cấp của hệ thần kinh tức là não. Khi vận động, do sự tăng cường tác dụng tân trần đại tạ, mà nhu cầu về dưỡng khí tương đối nhiều. Luyện tập TCQ đòi hỏi nâng cao dung lượng khí trao đổi của phổi một cách có ý thức. Trên thực tế, lượng dưỡng khí thu vào này lớn hơn mức đòi hỏi cần thiết của thân thể, do đó các bộ phận trong thân thể, và nhất là não, hấp thụ dưỡng khí một cách sung túc, làm cho thần khí thanh sãng (tinh thần, ý chí trong lành và khoan khoái). Như vậy, chính là đạt đến mục đích
"Hấp khí dưỡng thần". Mặt khác khi luyện tập TCQ còn phải thực hiện được yêu cầu "Ðộng trung cầu tĩnh", "Tĩnh" là làm cho các bộ phận của thân thể, nhất là não bộ, trở nên êm đềm, yên ấm, làm cho tốc độ chuyển hóa không quá nhanh, lượng tiêu hao cũng có thể giảm thiểu. Ðồng thời, do ảnh hưởng của phương thức hô hấp đặc thù trong sự vận động TCQ, tốc độ tuần hoàn của máu tăng nhanh, làm cho các bộ phận của thân thể, nhất là não, hấp thụ dưỡng liệu và oxygen nhiều hơn, và mặt khác chất dinh dưỡng và oxygen trong cơ thể bị tiêu hao ít hơn, điều này rõ rệt là cải tiến trạng huống của thể chất. Ðồng thời trong lúc vận động, đại bộ phận của lớp võ ngoài của đại não (đại não bì tằng) bị đặt trong trạng thái ức chế, do đó đại não có cơ hội nghĩ ngơi rất bổ ích, đây là bước đưa đến "Dưỡng thần". Cái kết quả dưỡng thần đạt được từ phương thức này so với phương cách nghĩ ngơi thông thường khác, là cao hơn nhiều, bởi vì kết quả ấy là kết quả thu lượm do ở sự phát triển cái tác dụng tích cực của sự vận động. Phàm những bệnh tật nào liên quan đến hệ thần kinh, sẽ chuyễn biến tốt đẹp một cách từ từ, như các bệnh suy nhược thần kinh, mất ngũ, di tinh, huyết áp cao, ., sẽ dần dần biến mất nhờ luyện tập TCQ. 3. Tiêu trừ sự ứ huyết trong cơ thể, xúc tiến (làm nhanh hơn) sự tuần hoàn của máu: "Thực hiện sự hô hấpvà sự vận động một cách tương ứng cũng có thể gia tăng sự
hồi lưu của tĩnh mạch, thí dụ như lúc hít vào, dung tích của lồng ngực lớn ra, áp suất nội bộ tăng cao, kết quả là áp lực trên tĩnh mạch ở soang trên dưới giảm bớt, sự hồi lưu của tĩnh mạch nhanh hơn. Trong quá trình luyện tập TCQ, điểm này biểu hiện rất là rõ rệt. Khi tập TCQ, toàn thân buông lõng không căng thẳng, hơn nữa lại kết hợp một cách có ý thức hô hấp với vận động, như thế mới có thể làm cho hô hấp thuận với tự nhiên. Hiệu quả của sự hô hấp sẽ tăng gia, nói khác đi, chính là sự tuần hoàn của máu và chất bạch huyết tăng nhanh hơn một cách tốt đẹp." "Ngoài ra trong TCQ, sự hô hấp đòi hỏi phải sâu, phải "Khí trầm đan điền" nữa, đây chính là một loại hô hấp bằng hoành cách mô. Phương thức hô hấp này, trên bình diện y liệu và dưỡng sinh, có tác dụng rất hữu ích. Sự co rút và dãn nở của các cơ hoành cách và các cơ bụng làm cho áp lực trên bụng không ngừng thay đổi. Lúc phúc áp tăng cao, tĩnh mạch trong xoang bụng chịu tác dụng của áp lực sẽ đem máu về tâm phòng (tâm thất) phải, ngược lại lúc phúc áp giảm thiểu, máu lại đi về xoang bụng. Như vậy là cải thiện trạng huống tuần hoàn của máu. Thêm vào đó, sự vận động của hoành cách mô làm cho gan được xoa bóp, làm tiêu trừ sự ứ huyết ở gan và cải thiện công năng của gan". (Trích từ bài 'Cơ sở sinh lý học của TCQ' của Khúc Miên Thành ) . Cho nên, sự kết hợp hô hấp với sự vận động của TCQ có một ý nghĩa dưỡng sinh rất rõ rệt và chắc chắn .
22. Làm Thế Nào Kết Hợp Một Cách Có Ý Thức Sự Hô Hấp Và Ðộng Tác? Cần Ðề Phòng Những Thiên Hướng Nào? Trong TCQ, sự kết hợp hô hấp với động tác tùy thuộc vào sự biến hóa của động tác mà tự nhiên hình thành. Khi thực hiện động tác, lúc nào hấp khí, lúc nào hô khí, đều có chuẩn tắc nhất định. Ðể người học dễ nắm yếu điểm của sự hô hấp, chúng tôi đem một số qui luật thông thường mà quy nạp lại như sau: 1. Hấp khí (hít vào): khởi thân, khuất tý, đề thối, thích thối (cất mình, co tay, treo chân, đá chân). 2. Hô khí (thở ra): tồn thân, thân tý (đã quyền, xuất chưởng), lạc bộ (thả chân) cho đến lúc các động tác đi hết đến điểm nhất định thì thở ra. Dưới đây là mấy trường hợp biện minh: 1. Hể cất mình đứng lên, thì thường là hít vào, như làm xong thức Hải Ðề châm, Tấn Bộ Tài Trùy, Tả Hữu Kim Kê Ðộc Lập, khi đứng lên đều là lúc hít vào. Hể hai cánh tay hay một co rút vào thân là lúc ấy hít vào, như lúc cánh tay làm xong động tác Lãm Tước Vĩ, lúc cánh tay trái từ bên phải thâu về trong thức Ðơn Tiên, lúc hai tay rút về như thức Như Phong Tự Bế, thì tất cả những lúc ấy đều hít vào. Về động tác của chân , thì khi nào treo chân lên, hoặc đá chân ra là lúc hít vào, điều quan trọng là các động tác treo chân, bật mũi đá ra hay đạp ra phải phối hợp nhịp nhàng với hơi thở, như trong các động tác Tả Hữu Phân Cước, Tả Hữu Ðắng Cước, Chuyển Thân Ðáng Cước, Thập Tự Ðơn Bãi Liên, Chuyễn Thân Song Bãi Liên.
2. Ðộng tác nào đòi hỏi thân phải rùn xuống, thì lúc ấy thở ra, như trong lúc làm các thế Hải Ðề Châm, Tấn Bộ Tả Ðắng Cước, Ðơn Tiên Hạ Thức, đều phải thở ra. Mỗi khi một tay hay hai tay duỗi ra, tức là lúc đánh quyền ra hoặc vổ chưởng ra, thì là lúc thở ra. Như lúc hai chưởng án ra trong thức Lãm Tước Vĩ, lúc tay trái đẩy ra trong thức Ðơn Tiên, lúc đánh quyền ra trong các thức Ban Lan Trùy, Chỉ Ðắng Trùy, Tấn Bộ Tài Trùy, đều là lúc thở ra cả. Hể khi nào chân thả xuống đất là thở ra. Mỗi khi làm xong các động tác Lâu Tất Ảo Bộ, Tả Hữu Phân Cước, Tả Hữu Ðắng Cước, thì khi gót chân vừa thâu về đó đặt xuống đất là lúc bắt đầu thở ra. Những trường hợp trình báy ở trên là thông thường, tất nhiên trong lúc kết hợp hơi thở với từng động tác một có thể có sự biến đổi, chớ không phải chắc nịt như nói trên. Trong lúc kết hợp hơi thở với động tác, cần chú ý là hít thở không thể gắng gượng miễn cưỡng dĩ nhiên đây là vẫn là sự điều tiết hơi thở một cách có ý thức , không dồn hơi thở, không dùng sức thở ra hít vào, mà phải làm sao kết hợp hơi thở và động tác, chứ không phải kết hợp kiểu ép dầu ép mở. Ðối với người mới luyện tập, không thể đòi hỏi phải thực hiện được điều này, chỉ cần giử cho hơi thở tự nhiên và đều là được rồi. 23. Luyện Tập TCQ, Tại Sao Phải Chú Ý Nhãn Thần? Làm Sao Chú Ý Nhãn Thần?
Luyện tập TCQ, dứt khoát phải chú ý đến nhãn thần. Gọi là nhãn thần, tinh thần của toàn thân thể hiện qua hai con mắt. Không riêng gì về TCQ, mà các môn phái quyền thuật khác cũng thế. Mà nhãn thần cũng chỉ là một trong năm điều quan yếu cần phải tập luyện của quyền thuật. Ở đây chúng ta chỉ nói tới nhãn thần mà thôi. Trong quyền thuật, tại sao phải chú ý nhãn thần? Trước hết, chúng ta cần phải biềt rằng quyền thuật là kỹ thuật công kích và phòng ngự. Do ở tính cách chiến đấu trực tiếp với địch bằng tay chân, mà khi chiến đấu đương nhiên không thể khép mi nhắm mắt, cho nên nhất định phải nhìn, phải chú ý động tĩnh của đối phương. Thí dụ như xem đối phương dùng chiêu thức gì, tấn công làm sao, tránh né đòn như tế nào,., để nắm chắc đường đi nước bước của địch mới có thể thấy chiêu phá chiêu, thấy thức phá thức, sáo thức hoàn chiêu. Ðó chính là tri kỹ tri bĩ bách chiến bất đải vậy. Thị giác có linh mẫn, thì lúc giao thủ mới phát huy được tác dụng của đòn thế. Hơn nữa khi giao thủ, nhãn thần ta có bén nhọn sắc sảo thì cũng đũ để làm khiếp vía đối phương rồi . Khi tập một mình, tức là không trực tiếp giao thủ, chỉ là múa từng chiêu từng thức một cách đơn điệu, nhưng tự nó vẫn là động tác giao thủ, cho nên vẫn phải thể hiện tư thái như khi chiến đấu. Ðiều trọng yếu là nhãn thần phải quán chú (như rót vào một chổ), mới khiến cho ý chí tập trung, tâm thần không loạn, do đó nâng cao hiệu quả của sự vận động.
Chú ý nhãn Thần như thế nào? Quy luật thông thường là như sau: Trong hai tay của mỗi thức, thường thường một tay làm động tác tấn công, một tay làm động tác phòng thủ, thì nhãn thần chú ý đến tay tấn công, cũng chính là tay tỏ lộ ở đàng trước. Thí dụ như ở động tác Ðơn Tiên, cần chú ý tay trái; ở động tác Hải Ðề Châm cần nhìn tay phải; ở động tác Vân Thủ cần chú ý hoặc tay trái hoặc tay phải vào lúc mà tay ấy lật chưởng đi vòng lên. Nhưng không được chú ý nhìn kiểu dương mắt ếch, hoặc là nhìn đờ con mắt, mà phải nhìn làm sao giống như lườm mà không phải lườm, giống như khép mà không phải muốn khép. Ðứng trên mặt giá trị y liệu mà nói, nhìn kiểu này có thể làm cho tinh thần nội liễm, làm cho đại não nghĩ ngơi một cách an tĩnh, và đó chính là đạt đến mục tiêu dưỡng thần rồi vậy. 24. Thủ Pháp TCQ Có Mấy Loại? Chú Ý Ðến Thủ Pháp Bằng Cách Nào? Trong khi luyện tập TCQ, tác pháp của bàn tay có ba loại: quyền, chưởng và câu. TCQ tuy gọi tên như thế nhưng trên thực tế lại rất ít khi dùng quyền, tức là quả đấm, mà hay dùng chưởng, tức là bàn tay, còn câu, tức là năm ngón tay rũ xuống tự nhiên và các đầu ngón tay chụm lại, chỉ thấy ở thức Ðơn Tiên mà thôi. Các thủ pháp trên được trình bày giản lược như sau: Ác quyền pháp (pháp nắm tay thành quả đấm) Bốn ngón tay dựa vào nhau cuộn lại, ngón tay cái đạt ngang trên lóng (đốt) ngón tay thứ hai của hai ngón, ngón trỏ và ngón giữa. Khi nắm quyền, không nắm quá chặc hoặc quá lõng. Quá chặc thì phương hại đến sự tuần hoàn của máu. Quá lõng thì mất thực dụng. Trong khi đấm ra thì quyền và cánh tay duổi xuôi thẳng, không thể hướng ra ngoài hoặc vào trong mà vặn cổ tay, Nhưng thông thường người ta hay phạm vào lỗi gập cổ tay đấm ra ngoài. Gập cổ tay hướng ra ngoài hay vào trong đều làm cho cổ tay cương lên, làm máu huyết không lưu thông được. Ngoài ra khi chiến đấu dễ bị thương, vì vậy nên cố gắng tránh khuyết diểm này.
Chưởng Pháp (Phép đanh bằng bàn tay để tự nhiên): Chưởng có hai nghĩa, rộng và hẹp. Nghĩa rộng là nói cả bàn tay. Các ngón tay duổi mở, đánh địch bằng toàn thể bàn tay thì gọi là chưởng. Nghĩa hẹp của chưởng chỉ bộ phận tương đối có da có thịt một chút là từ cườm cổ tay cho tới cuối ngón tay út Danh từ "Chưởng" trong TCQ bao quát cả hai ý nghĩa trên. Thân chưởng pháp (Phép để tay duổi thành chưởng) như sau: năm ngón tay hơi cong, không được duổi thẳng, các ngón tay không khít nhau mà để hở, mỗi khi đưa chưởng ra cổ tay không được cong gập lại đưa chưởng ra hoặc thu về đều không được dùng sức, bởi vì nhướng gân hay dùng sức đều trở ngại cho máu huyết lưu thông. Câu pháp (Phép túm tay thành cái móc câu) : Có hai cách làm thành tay lưởi câu. Cách thứ nhất là đầu ngón tay cái và hai đấu ngón tay của ngón trỏ và ngón út chụm lại, còn ngón giữa và ngón áp út dựa vào nhau. Cách thứ hai là đầu ngón cái và hai đầu ngón tay của ngón trỏ và ngón giữa chụm lại, cón ngón út và ngón áp út dựa vào nhau. Hai cách trên có giá trị như nhau. Ðiều quan trọng là các ngón tay buông thả tự nhiên, cổ tay buông lõng, toàn thể bàn tay rũ xuống tự nhiên. Xét về hình thức của tay, thông thường thì chỉ có ba loại nói trên. Nhưng ba hình thức của tay trong TCQ thường biến hóa luôn, cho nên mỗi khi biến đổi phải làm chầm chậm, không thể làm nhanh quá hoặc ra sức, thêm vào đó cổ tay không được cương lên.
25. Thân Pháp Khi Luyện TCQ Phải Nhu Thế Nào? Tại Sao Thân Mình Trung Chính An Thư? Có hai quan điểm khác nhau về nội dung của danh từ "thân pháp". Một thì cho rằng thân pháp là các động tác, tư thức của thân mình mà thôi, không kể đầu và chân tay. Quan điểm thứ hai xem thân pháp chỉ các động tác tư thức của toàn thể con người. Trong câu hỏi này, thân pháp được hiễu theo nghĩa hẹp. Yêu cầu của TCQ đối với thân pháp thì rất nhiều , như hàm hung bạt bối , tung yêu , trầm kiên , đỉnh đầu huyền . các điều này sẽ được trình bày ở các câu hỏi sau . Ở đây chỉ bàn đến hai điểm quan trọng là Vĩ Lư Trung Chính và Trung Chính An Thư . Vĩ Lư là tên gọi tắt của xương Vĩ Lư . Xương Vĩ Lư ở mắc cuối của cột xương sống , trên thực tế nó tiếp liền ngay toàn thể cột xương sống hệ thống xương làm trụ cột cho thân mình . Mắc trên của cột xương sống tiếp với xương đầu , để chống đở đầu bộ , mắc dưới nối với cốt bàn và hai chân . Cột xương sống được tổ thành bởi từng đốt xương một , điều này làm cho cổ và eo chuyển động được linh hoạt . Xương sống con người , không phải là đường thẳng mà tự nhiên cong ở ba chổ : cổ , ngực và eo . Chẳng qua vì độ cong nhỏ nên nhìn bề ngoài không thấy được . TCQ đòi hỏi Vĩ Lư Trung Chính là muốn nói đến sự trung chính tự nhiên này đây , chứ không phải trung chính gắng gượng như muốn cho cột xương sống từ trên xuống dưới thành một đường thẳng buông xuôi , vì trên thực tế không thể làm được . Ai có tật khòm lưng , khi tập quyền , cố gắng giử cho eo thẳng , mới mong được vĩ lư
trung chính . Thế nào gọi là Trung Chính An Thư ? Lá khi luyện quyền , thân thể giử cho an nhiên thư triển , không nghiêng không lệch . Trong TCQ Luận có nói : "không được có chổ nào lồi lỏm , không được có chổ nào khuyết hảm" , chính là nói đến ý này . Nếu như khi luyện quyền , bộ phận nào của cơ thể cảm thấy sượng sùng khó chịu , không thư thản tự nhiên , đó chính là nghịch với nguyên tắc trung chính an thư . Xét về khía cạnh sinh lý của sự vận động , giử thân cho trung chính an thư rất có ảnh hưởng đến sức khõe . Luyện TCQ kỵ nhất là gồng cứng gân thịt và trương căng khớp xương , chỉ khi nào để buông lõng thì mới không làm trở ngại sự lưu thông của máu , giử xoang bụng rộng mở và phổi được thư triển . Ngoài ra , khi luyện tập có chú ý vĩ lư trung chính mới giử được cho thân không chồm không ngữa cùng là méo trái lệch phải . Nếu không , động tác không được đẹp đẽ , hô hấp không được tự nhiên thư sướng , đồng thời thân thể mất quân bình , trọng tâm không ổn , thì lúc thôi thủ , chỉ cần đối phương dẫn một cái là đã ngã úp rồi . Yếu điểm này , phải nhớ luôn luôn . 26. Bộ Pháp Cơ Bản Của TCQ Có Mấy Loại ? Yếu Ðiểm Của Các Bộ Pháp Ấy Như Thế Nào ? Bước Như Thế Nào Mới Gọi Là Ðúng Cách ? Bộ pháp cơ bản của TCQ có năm loại : Cung Ðắng Bộ , Kỵ Mã Bộ , Ðinh Hư Bộ , Bán Phó Bộ và Bát Tự Bộ .
1. Cung Ðắng Bộ : Chân trước gảy cong như cây cung , chân sau duổi thẳng ra (đặng hay đắng : đạp ra , dẫm lên) , nên gọi là cung đắng bộ ; còn gọi là cung tiển bộ vì chân trước gập cong như cây cung , chân sau duổi thẳng như cây tên , cung tiển bộ trong TCQ , so với trong trường quyền Thiếu Lâm có hai điểm bất đồng . Ðiểm thứ nhất là khoảng cách giữa hai bàn chân gần hơn , khoảng cách này ước chừng hai hay ba bàn chân . Ðiểm thứ hai là trọng lượng nữa thân trên hoàn toàn do chân trước chịu hết , để chân sau có thể tự do di chuyển . Trong TCQ , loại bộ pháp này được sử dụng rất nhiều . Như trong các thức Lãm Tước Vĩ , Lâu Tất Ảo Bộ , Ban Lan Trủy đều dùng bộ pháp này . 2. Kỵ Mã Bộ : Còn gọi là kỵ thức , ý nuốn nói tư thức này như là cưỡi ngựa vậy . Tư thế chuẩn bị dời chân trái về phía trái (tức là dời ngang chân trái sau khi rùn chân nhón gót) độ nữa bước , hai bàn chân gần như song song , cách nhau hơn một khoảng rộng độ chiều rộng của vai . Thân thể ngồi xuống thành "bán tồn thức" tức là tư thế ngồi xoạc chân một nữa , hai đầu gối không quá mũi chân , hông và eo cao hơn đầu gối , buông lõng eo và bắp đùi , nữa thân trên phải thẳng . Yêu cầy của bộ pháp này trong TCQ không giống như của Thiếu Lâm . Như về khoảng cách hai bàn chân thì lấy bề rộng của vai làm chuẩn , thân người ngồi xoạc xuống quá sâu , mục đích là để hai chân có thể biến hóa hư thực dễ dàng ; bộ phận bụng có hơi cong một chút để khí huyết lưu thông . Trong TCQ kỵ nhất là phạm phải bệnh song trọng , mà bộ
pháp kỵ mã thức có tính song trọng rõ rệt , cho nên trong TCQ bộ pháp này rất ít khi dùng đến . Chỉ ở trong các thức Tả Ðơn Tiên , Phản thhân phiết thân trủy mới ứng dụng bộ pháp này . 3. Ðinh Hư Bộ : Là hai chân đặt thành hình chữ 'Ðinh" , tức là một chân có bàn chân dính với mặt đất , còn một chân thì gót hổng , mũi chấm đất . Bộ pháp này đáp ứng được yêu cầu về sự phân biệt hư thực trong TCQ . So với đinh hư bộ của Thiếu lâm thì không có gì khác lắm , chẳng qua chỉ khác ở chổ hai chân không tạo thành hình chữ đinh một cách vuông vắn , mà mũi chân của chân hư , thuạn hướng chân , hơi hướng về một bên , Trong TCQ , các tư thức dùng bộ pháp này như Cao Thám Mã , thượng Bộ Thất Tinh , Hải Ðề Châm . 4. Bán Phó Bộ : Còn gọi là bán phó thức . Bộ pháp này như sau : Một chân gập lại hoàn toàn , lòng bàn chân dính với mặt đất , một chân hướng về trái (hoặc phải) duổi thẳng , ngang trên mặt đất , lòng bàn chân liếm ngang mặt đất . Nhưng nên chú ý , trong TCQ , yêu cầu của thức này là hai bàn chân không được cách nhau quá xa , để tránh khỏi tình trạng cương nghạnh mất linh hoạt . Ðơn tiên hạ thức của TCQ có bộ pháp này . 5. Bát Tự Bộ : Hai chân đứng thẳng , cách nhau cở hai vai . Hai mũi chân đều hướng xéo ra ngoài , như hình chữ bát . Xét hai chân trong thế đứng của bộ pháp này thì hai chân luôn luôn thay nhau cong duổi , biến hóa hư thực . Nếu chân trái cong thì chân phải duổi thẳng và ngược lại . Trọng lượng của thân thể lúc nào cũng đặt trên chân cong
. TCQ có thức Vân Thủ đi bộ pháp này . Mỗi động tác của TCQ đòi hỏi phải được thực hiện từ từ chậm chậm , tốc độ đều đặn . Do đó không kể lúc tiến trước hoặc thối sau , bộ pháp phải khoan thai , phân chia hư thực rõ ràng , một bước đạp thực (dẫm xuống thành chân thực) rồi mới bước một bước khác , như là mèo đi vậy . Mèo là loài động vật đi bằng ngón chân , khi bước đi rất nhẹ nhàng linh động , chạy mau một cách êm ả không gây tiếng động đó là ưu điểm của loài động vật này . Ta nên bắt chước khi tập TCQ . 27. Trầm Kiên Trụy Trửu Là Gì ? Trầm kiên là hai khớp xương vai phải tung khai (lõng lẻo) , không khẩn trương (căng thẳng) , tự nhiên rũ xuống mà không hướng cao lên ; trụy trửu là hai chỏ phóng tung (chìm xuống) . Người mới học hay phạm vào lỗi so vai (tung kiên hay đoạn kiên) , lộ chỏ (dương trửu hay phiên trửu) . Cái hại là hai vai so cao , không thể làm cho khí hạ trầm , tức là khiến cho khí không tụ về đan điền . Như vậy nghịch với nguyên lý của TCQ là "trầm khí , vận khí" . Hơn nữa , trọng tâm thân thể không ổn cố . Nếu không thõng chỏ thì hai chỏ nâng cao , mà hễ chỏ nâng cao thì làm cho vai so cao lên . trong lúc tập thôi thủ với bạn , dễ bị bạn khống chế , bạn ta chỉ cần lợi dụng lúc chỏ ta nâng cao để lộ trống nách và sườn thì tấn công vào đó liền . Do đó , về mặt kỹ thuật mà nói , thõng chỏ có tác dụng bảo hộ thân thể .
Khi tập các thức Lãm tước vĩ . Ðơn tiên , Cao thám mã , v.v. người tập hay mắc phải lỗi tung kiên , dương trửu , nên chú ý rằng không nên gắng dùng sức ở vai và chỏ , mà cần buông lõng thì vai , chỏ tự nhiên chìm thông . 28. Khi Ði Quyền , Bộ Phận Miệng Phải Như Thế Nào ? Khi tập TCQ , mồm miệng có thể chia làm năm phương diện : môi , răng , lưỡi , hít thở , và nước miếng . 1. Môi : Hai bờ môi nên hơi hé nụ , không mím môi chặc , nhưng cũng không mở rộng , nếu mím môi chặc thì phương hại cho sự hô hấp , mà mở rộng thì không hợp vệ sinh , bị "thương khí" và cũng kém mỹ quan . 2. Răng : Hai hàm răng không nghiến chặt mà hơi hơi tách ra , nếu hai hàm răng nghiến chặt lại thì cơ nhai và xương hàm bị đặt trong tình trạng khẩn trương (căng thẳng) , do đó không những làm hại răng mà còn làm trở ngại khi thở ra . 3. Lưỡi : Lưỡi không thè ra , không uốn cong lại , nhưng để cho khỏi bị khô miệng , giúp cho nước miếng dễ chảy , thỉnh thoảng nên dùng đầu lưỡi rà nhẹ vòm trên của miệng . 4. Hít thở : Diều này đã nói rõ ở phần 21 . Ở đây chỉ nhắc lại cho rõ là khi tập TCQ , thường chỉ xử dụng mũi để hít vào thở ra . Tuy nhiên , khi làm những động tác tương đối lớn , có thể dùng mũi hít vào và dùng miệng thở ra . Nhưng nên nhớ là trong TCQ , cách hít thở này hiếm khi xử dụng . Cũng cần nên nói thêm là khi đi quyền không nên cười nói , vì sự cười nói khi vận động có ảnh hưởng nhất định đến sự hô hấp , và vì vậy sẽ có hại cho sức khõe .
5. Nước miếng : Khi có nước miếng thì tùy lúc nuốt vào chớ không được nhổ ra . Khi đi quyền , các cơ năng hô hấp , tuần hoàn làm việc mạnh , cho nên hiện tượng phân bí (chảy ra) trong thân thể cũng theo đó mà nhiều hơn , như vậy nước miếng cũng chảy ra nhiều hơn và điều này là chuyện thông thường . Nước miếng nhiều , không những giúp ích cho việc tiêu hóa mà còn có lợi cho sự hô hấp . 29. " Hư Linh Ðỉnh Kình " Và "Ðỉnh Ðầu Huyền " Là Gì ? Làm Sao Thực Hiện Ðược ? Trên phương diện ngôn ngữ thì 'Hư linh đỉnh kình' và 'Ðỉnh đầu huyền' khác nhau , nhưng nội dung mà chúng muốn diễn tả thì chỉ là một. Ðỉnh kình trong hư linh đỉnh kình theo tự nghĩa mà giải thích là ở trên đầu giống như có một dòng kình lực hướng lên thượng đỉnh , nhưng thật ra không có cái gọi là "kình" mà chỉ là tác dụng của tinh thần mà thôi . Lý thuyết TCQ có nói : "Thần quán ư đỉnh" , thì chữ "Thần" này chính là ý chỉ về tinh thần vậy . Mà tinh thần là ý niệm trừu tượng cho nên mới gọi là hư linh dỉnh kình vậy . Về đỉnh đầu huyền có hai giải thích : thứ nhất cho là đỉnh đầu huyền là đỉnh đầu được một sợi dây tưởng tượng treo lên (giống như trong đồ của chơi trẻ em có loại búp bê vải con con có dây treo trên đầu vậy) , thứ hai cho là giống như là trên đầu có đặt một vật gì đó mà không được để cho nó rớt xuống . Cả hai lối giải thích đều có lý cả .
Hư linh đỉnh kình và đỉnh đầu huyền đòi hỏi đầu phải được giử cho ngay ngắn , không cúi trước ngửa sau , không méo trái lệch phải . Ðầu là chủ tể của thân , nếu đầu không được ngay ngắn thì tất ảnh hưởng đến sự chính xác của tư thức và sự linh hoạt của động tác . Gặp khi chiến đấu thật sự dễ mất trọng tâm do đó dễ bị người chế ngự . Người mới học nếu lần tập nào cũng không thực hiện được sự yêu cầu nêu trên thì dễ mắc phải bệnh cổ cứng đờ không linh hoạt , nếu chỉ chú ý giử cho đầu được ngay thẳng thì quên trầm khí đan điền , hoặc mắc phải các lổi lầm khác , cho nên người mới học nên ghi nhớ cẩn thận điều này , nên chú ý thường xuyên . Hai yêu cầu của đỉnh đầu huyền và vĩ lư trung chính có quan hệ mật thiết trong hoạt động của thân thể , nếu giử cho đỉnh đầu được như treo (như chỉ mành treo chuông) thì xương vĩ lư sẽ ngay ngắn ; mà ngược lại nếu xương vĩ lư không ngay thì cũng khó mà giữ cho đỉnh đầu như treo được . 30. " Hàm Hung Bạt Bối " Là Gì ? Làm Sao Thực Hiện Ðược ? Khi thực hiện mỗi động tác của TCQ , phải giử cho ngực hơi hơi ngậm lại (nơi hàm) , nên gọi là hàm hung ; trong lúc hàm hung , cơ lưng hơi nổi lên tiện cho việc hành khí dụng chiêu , nên gọi là bạt bối . Ðể làm sáng tỏ vấn đề này , trước tiên cần phải nói rõ sự cấu tạo của ngực .
Thể xoang của con người có thể chia làm hai bộ phận . Trên hoành cách mô là xoang ngực , dưới hoành cách mô là xoang bụng . Trong xoang ngực lại chia làm ba xoang : xoang giữa chứa đựng tim là vi tâm xoang , hai xoang trái phải chứa hai lá phổ , tức là phế xoang . Xương sườn của con người cong xuống như hình cung . Nếu như xương nhục ở trong vùng xương sườn co rút lại , thì xương sườn nổi lên , đồng thời ngực lòi ra , xoang ngực sẽ nở to hơn , phổi nở lớn ra , và là lúc hít vào . Ngoài ra hoành cách mô co rút xuống dưới sẽ làm cho xương ngực nở thêm mà hít hơi vào . Trên đây là cách hít thở chủ yếu của lối hít thở bằng ngực (hung thức hô hấp) . Còn sau đây là chủ yếu của lối hít thở bằng bụng (phúc thức hô hấp) . Ðể tăng cao phế hoạt lượng , nghĩa là nâng cao sức khõe , TCQ đòi hỏi phải phát triển lối hô hấp bằng bụng . Trong vận động TCQ , ý nghĩa hàm hàm hung bạt bối có ba điểm : 1. Ðộng tác của TCQ vốn là động tác kết hợp với hô hấp . lại còn phải thường thường hàm hung , tức là làm cho hoành cách mô hạ xuống , làm cho phổi nở nang , phát triển lối hô hấp bằng bụng , tăng gia phế hoạt lượng . 2. Lúc mà ta hàm hung , chính là lúc hoành cách mô hạ xuống , lại còn thêm vào đó ảnh hưởng của sự kết hợp hô hấp với vận động , thì phúc áp (cái áp lực của các cơ bụng và hoành cách mô đối với nội tạng của bụng) luôn luôn biến đổi , làm sự
trở về tim của máu được nhanh chóng , cải tiến sự tuần hoàn của máu . 3. Lúc tập thôi thủ với bạn , trong vài động tác nào đó cũng cần phải giử hàm hung bạt bối , Thí dụ như để hóa giải một đòn tay của đối phương từ chính diện tới , nếu như không hàm hung thì không dễ dàng hóa giải ; từ chính diện nếu muốn thực hiện động tác "phát" đối phương (trong thuật ngữ TCQ , hễ ném văng đối phương ra thì gọi là "phát" hay "phóng") . Nếu không hàm hung thì không thể dễ dàng "phát" được . Khi nên hàm hung mà ta lại không , thì ngực dễ có khuynh hướng ươn lồi ra , thế thì hoành cách mô đi lên , khí nổi lên , không trầm xuống đan điền , khí không trầm xuống thì thân nổi lềnh bềnh , hạ chi vô lực , kết quả là dễ bị "phát" ra xa . Ðây là trạng thái được hình thành một cách liên tục và nhất quán . Do đó trong vận động TCQ , hàm hung là một vấn đề quan trọng . Thực hiện hàm hung bạt bối rất đơn giản , ta giử làm sao cho ngực đừng có ưởn ra , vênh ra , mà lại hơi hóp vào . Bạt bối thì tương ứng với hàm hung , các bắp thịt lưng hơi hơi nổi lên , nhô ra . Cùng lúc ấy , khi hít thở một hơi dài thì bụng dưới sẽ hơi hơi đập . Hai điểm sau đây cần phải được chú ý : 1. Trong TCQ không phải bất cứ động tác nào cũng cần phải giử hàm hung bạt bối . Chỉ ở các động tác mà thân pháp hạ giáng (như Hải đề châm , Ðơn tiên hạ
thức chẳng hạn) , hoặc ở các động tác thôi , án của tay (như thế án ra của Lãm tước vĩ , thế đẩy của tay phải ở thức Ðơn tiên chẳng hạn) , mới cần giử hàm hung bạt bối mà thôi . Nếu như mỗi động tác đều đòi hỏi giử yêu cầu này thì hóa ra lại hạn chế đi sự phát triển của xoang ngực , gây ảnh hưởng không tốt tới sự nẩy nở của thân thể . 2. Yêu cầu hàm hung bạt bối ở TCQ tương phản với với yêu cầu điển hung hoặc thiển hung (ngực đầy đặn) ở một số môn quyền thuật khác . Ðiển hung là ngực để nở ra , ưởn ra . Và cũng khác với yêu cầu của Thông bối quyền ; hấp hung là làm cho ngực thóp vào tới mức có thể thóp được . Ðiển hung , hấp hung , và hàm hung là ba tác pháp hoàn toàn khác nhau . Khi luyện tập TCQ , hãy nhớ không nên hàm hung quá độ mà biến thành hấp hung mất . Cũng như có người hiểu sai rằng : bạt bối là làm cho eo lưng cong ra sau ; nếu luyện quyền như thế lâu ngày thì thân sẽ bị tật lưng khòm . Trong TCQ không có động tác nào đòi hỏi eo phải cong ra sau cả . Cần nên nhớ là , bạt bối và vĩ lư trung chính , tuy hai mà một , không có gì mâu thuẩn . Người học TCQ nên lưu tâm thể nghiệm . 31. Ðan Ðiền Là Cái Gì ? "Khí Trầm Ðan Ðiền" Là Sao ? Tác Pháp Và Ý Nghĩa ra sao ? "Ðan điền" , là danh từ thường thấy trong thư tịch của Ðạo gia hay trong y thư cổ
đại Trung Hoa . Nội dung của nó nói lên quan điểm luyện tĩnh dưỡng sinh . Theo luận thuyết của Ðạo gia : dưới lổ rốn khoảng ba tất (hoặc một tất mấy phân) có khoảng không gian trong bụng gọi là đan điền . Ðây là nơi tu luyện nội đan nên gọi là đan điền . Ðan điền còn được phân biệt thượng , trung , hạ . Dưới rốn là hạ đan điền , dưới tim là trung đan điền , khoảng giửa hai đầu lông mày là thượng đan điền . Nhưng thông thường các môn quyền thuật khi nói đến đan điền thì ý ám chỉ là hạ đan điền . Lý thuyết về đan điền có đúng không ? Khoa giải phẩu học cho thấy rằng trong xoang bụng ở dưới rốn , ngoài tiểu trường , đại trường , bì niệu sinh thực khí , thì không còn vật gì khác . Như thế phải chăng đan điền chỉ là sự tưởng tượng của cổ nhân , không có tính cách khoa học ? Về chữ "khí" trong "khí trầm đan điền" thì khí ở đây là cái gì ? Tuyệt đối không phải là không khí do sự hô hấp . Bởi vì không khí do sự hô hấp chỉ có thể thông qua khí quản , thanh quản và xoang mũi mà ra vào phổi , tuyệt không thể vào xoang bụng . Hiển nhiên , lý thuyết này cũng không có tính khoa học . Thế thì , làm thế nào mà ý niệm "đan điền" phát sinh được ? Nguyên nhân chính là : Trong lúc hít thở sâu , vì hoành cách mô hạ xuống , bụng phồng ra ; phần bụng dưới rốn tương đối nở rõ hơn , và do sự luyện tập lâu ngày , cơ năng thần kinh phát triển mạnh . Dưới sự khống chế của hệ thần kinh , các cơ bụng có thể căng thẳng một cách cực độ , đàn tính rất cao , thậm chí không sợ đấm đá nữa . Các bậc Ðạo gia khi xưa không hiểu rõ sinh lý học , gọi chổ đó là đan điền , họ nghĩ rằng khí có thể chìm xuống đan điền . Ðiều này rõ ràng là không phù hợp với khoa học ngày nay .
"Khí trầm đan điền" là thuật ngữ thường dùng của giới quyền thuật , cho nên quyển sách này cũng nương theo đấy mà dẫn dụng , mượn nó để làm sáng tỏ vấn đề . Chúng ta nên thẳng thắn phê phán những lý thuyết sai lầm , và mặt khác xiển minh những nhận định đúng đắn , mà có thể gồm lại trong ba đìểm sau đây : 1. Hít thở sâu khi vận động , kết hợp hô hấp với vận động , hạ hoành cách mô xuống một cách có ý thức , tất cả đưa đến các kết quả là khoáng đại phế hoạt lượng , thay đổi phúc áp , xúc tiến sự tuần hoàn của máu , tăng gia cơ hội hoạt động của các khí quan trong cơ thể . 2. Bất luận lúc đi đứng hay nghỉ ngơi , lúc nào cũng ý thức về bụng dưới (đan điền) . Như vậy làm cho tinh thần nội liểm , tránh được tâm viên ý mã , hồ tư loạn tưởng , tầng ngoài đại não có thể nghỉ ngơi một cách cục bộ . Lợi dụng lúc được nghỉ ngơi ấy , thông qua hệ thần kinh tương ứng với các cơ quan nội tạng , làm cho cơ năng của nội tạng được điều hòa và cải tiến và do đó mà dần dần nâng cao mức sức khõe toàn diện của cơ thể , nói văn hoa hơn là thực hiện được cái đạo lý "bồi dưỡng nguyên khí" . Kỳ thực chính là tạo ra một ảnh hưởng quyết định đối với sự hoạt động của hệ thần kinh cao cấp , có thế mới làm thân thể tráng kiện . 3. Hễ khí trầm xuống (tức là hoành cách mô hạ xuống) thì trọng tâm đi xuống , như
thế bàn chân mới ổn cố , đến khi cùng bạn tập thôi thủ , mới không bị daođộng trọng tâm mà té ngã . Người học nên chú ý : Luyện tập TCQ không phải là trầm khí đan điền từ đầu đến cuối , mà tùy theo sự vận động , tùy sự thay đổi của hô hấp , để cho hoành cách mô lúc lên lúc xuống . Khi thì khí nổi , khi thì khí trầm , đều là tự nhiên nhi nhiên , hình thành một cách hữu ý vô ý . Có như vậy mới khiến cho thân thể nổi chìm và biến hóa hư thực . Trải qua sự luyện tập bền bỉ , mới có thể nâng cao tính linh hoạt của động tác và hiệu quả của sự vận động . Ở phần trên đã nói rằng lý thuyết về đan điền không phù hợp với cái nhìn khoa học , nó chỉ là một thiết tưởng của người xưa . Ngày nay chúng ta không tin suông thuyết củ một cách mù quáng mà nhìn một cách soi mói . Bản thân của thuyết đan điền có được cái sắc thái bền bỉ . Là vì xưa khoa học chưa phát triển , người ta mượn nó để gán vào cái mục đích tập tĩnh dưỡng sinh . Nay , trên khía cạnh sinh lý học mà nhìn , tuy nó thiếu khoa học tính nhưng còn có chổ dùng tích cực nhất định . Còn cái gọi là "luyện đan" của Ðạo gia , thực sự chỉ là thần bí hóa vấn đề , làm nhận thức của người khác thêm mơ hồ . 32. "Tung Yêu" Là Gì ? Tại Sao Phải Tung Yêu ? Làm Thế Nào Thì Là Tung Yêu ?
Tung yêu ( Lỏng eo ) trong TCQ là eo không dụng lực căng thẳng , không mảy may kình cương mà eo phải tung , nhuyển , linh hoạt , thuận cho sự biến hóa của động tác và sự biến hóa hư thực . Ðể hiểu rõ vấn đề này , trước hết cần nói vế sự cấu tạo của eo . Thông thường mà nói , eo là khoảng giửa của hai bên lưng và thân . Giửa lưng là một cột xương sống . Cột xương sống do nhiều đốt xương tạo thành . Trong mỗi đốt xương sống này có một lớp nhuyển cốt . Lớp nhuyển cốt này mềm dai và có tính đàn hồi , nhờ đó mà cột xương sống có tính chất dẻo dai , linh hoạt . Các nhóm cơ ở eo chủ yếu gồm có : yêu đại cơ , yêu phương cơ , yêu bối cân mô . Các cơ này dính với xương cốt , cơ thể , hình thành sự vận động . Ðặc tính của cơ là có thể co duỗi , và dưới sự khống chế của hệ thần kinh các cơ ấy hoạt động một cách có quy luật ý muốn căng thẳng hay buông lơi thì các cơ ấy sẽ co thắt căng thẳng hay buông lỏng . Khi các cơ ở eo căng thẳng thì các cơ ở tứ chi cũng căng thẳng lên , như vậy nếu thịt xương ở eo mà căng thẳng thì sự chuyển động không còn linh hoạt nữa ; ngược lại nếu thịt xương ở eo được buông lỏng , các quan tiết lỏng lẻo , trong bắp thịt lỏng , các bộ phận như tứ chi sẽ vận dụng một cách tự nhiên . Buông lỏng eo trong TCQ là như vậy .
Tại sao phải buông lỏng eo ? Ít nhất là có hai lý do : 1. Như đã nói trên , có buông lỏng eo thì thân mới linh hoạt , không ngạnh kình ( cứng ngắc ) , mới không gây ảnh hưởng trên sự hoạt động của chân tay . 2. Có buông lỏng eo mới dụng ý được . TCQ chủ trương dụng ý bất dụng lực , mà cái động của ý do eo thể hiện trước tiên , đó là ý nghĩa câu :Mệnh ý nguyên đầu tại yêu tế " , chính vì eo là chủ tể của thân , chỉ khi nào eo tung nhuyễn linh hoạt mới có thể khống chế các bộ phận khác của thân thể , mới có thể biến hóa hư thực dễ dàng . Cũng nên nói rõ thêm một chút , tung yêu có phải là eo hoàn toàn mềm lỏng (tung nhuyễn) không sức hay không ? Hiểu như vậy là hoàn toàn sai lầm ! Bởi vì "sự buông lỏng" (tung) eo ở đây là sự buông lỏng dưới tác dụng của ý thức , chứ tuyệt không phải là cái eo thực sự vô lực như ở eo của một số người yếu đuối mềm nhũng không có chút lực nào . Cũng cần nên biết rằng kình trong TCQ được vận dụng một cách cương nhu tương tế (cứng mềm đắp đổi) , lúc cương lúc nhu , lúc thì buông lỏng mềm mại , lúc thì quyết liệt . Yêu cầu về "Kình" là "Cực nhu nhuyễn nhi hậu cực kiên cương" có đạt được mới là thỏa đáng vậy . Cách thực hiện tung yêu là như sau : 1. Trước hết , eo và toàn thân không được kình cương , nếu còn kình cương tức là chưa được tung yêu .
2. Trong một số động tác , bắt buộc phải tung yêu , như : lúc hướng trước mại bộ (thả chân đạp một bước) , ở Lâu tất ảo bộ cần phải tung yêu , ở Ban lan trùy và Phiến thông bối , lúc quyền hoặc chưởng duỗi ra cần phải tung yêu ; lúc thực hiện sự lên xuống ở Ðơn tiên hạ thức , Ðề thủ thượng thức cần phải tung yêu . 3. Ðồng thời với tung yêu , thân phải giử cho trung chính an thư , vì lư trung chính , đỉnh đầu huyền , hàm hung bạt bối , nếu không thì cố thử thất bỉ (giử được đìểm này mà không giử được điểm kia) . 33. Trong Khi Luyện TCQ , Làm Thế Nào Chú Ý Ðược Sự Hoạt Ðộng Của Hạ Chi (Chân) ? Tại Sao Phải Chú Ý Sự Phân Thanh Hư Thực Và Kỵ Sự Song Trọng ? Trong khi luyện tập TCQ , sự hoạt động của hạ chi lúc nào cũng phải ở vào tình trạng hư thực phân minh (ngoài hạ chi ra , thượng chi và các bộ phận khác của cơ thể cũng có chia hư thực) . Sự phân minh hư thực là một đặc điểm chính của TCQ . Ở đây chỉ bàn riêng về sự phân minh hư thực của hạ chi mà thôi . Hư thực là cái gì ? Ở hạ chi , hư thực là như thế này : Nếu chân trái gánh chịu trọng lượng của toàn thân thì chân trái được gọi là thực , còn chân phải là hư , và ngược lại . Hễ chân nào thực , dù phải gánh chịu thể trọng , không được mảy may dao động , còn chân kia thì di động một cách nhiệm ý .
Thế nào là "thực" ? Thực ở dây có ngụ ý kiên thực (vững thật) , sự dụng kình của chân thực có quy luật hẳn hoi , không trệ sáp (không rối rít) , mà cũng không cương ngạnh không linh hoạt . Thế nào là "hư" ? Hư hàm ý linh hoạt , tung nhuyễn , chớ đừng nghĩ theo theo ý hư không hoặc hư vô . Hư thực trong sự vận động của TCQ đều là sự biến hóa nhân vi cả . Hư là sự chuẩn bị cho thực và ngược lại . Sự phân Thanh hư thực có ba ý nghĩa như sau : 1. Thuận tiện cho sự vận động , tức là thuận với sự biến hóa của tư thức và sự di động của bộ pháp . 2. Làm cho chi đứng được vững vàng . Hai chân được rèn luyện khi hư khi thực làm cho chân thực ổn cố bất động , chân hư khinh linh tiện cho sử dụng . Lúc thôi thủ song phương , sự công thủ đều thuận lợi . 3. Do sự phân chia hư thực mà lượng vận động tăng gia theo . Bình thường , hai chân cùng gánh chịu thể trọng ; khi tập TCQ thì chỉ còn có một chân gánh chịu , tức là làm tăng thêm động tác co duỗi , và lượng vận động như vậy tăng lên ít nhất là gấp đôi . Hiệu quả của sự vận động theo đó mà được nâng rất cao. Lúc vận dụng bộ pháp hư thực , cần phải để ý các điểm sau : 1. Mại bộ (chân bước đi) không được quá xa , quá lớn ; nếu khoảng cách hai chân quá xa thì sự đổi bộ không được linh hoạt mà dễ trệ sáp , và sẽ phạm lỗi song trọng một cách dễ dàng .
2. Trong mỗi động tác , hạ chi thường biến đổi hư thực , thức là đem thể trọng dồn về một chân ; nhưng đối với các động tác khó phân hư thực như Thập tự thủ , Ðơn tiên , thì càng nên chú ý . 3. Mại bộ cần phải khinh linh , ổn cố mà lại hữu lực , tức là lúc mại bộ , một chân đạp thực vững vàng rồi mới đi tiếp một bước khác , sao cho "mại bộ như miêu hành" . Song trọng là gì ? Là để thể trọng lên cả hai chân , không chia làm hư với thực . TCQ rất kỵ lổi này , vì nếu cả hai chân song trọng thì cất bước sẽ nặng nề , sự di chuyễn sẽ không được nhẹ nhàng linh động , dễ bị khống chế , làm giảm đi hiệu quả của sự vận động . 34. Câu " Xứ Xứ Quân Hữu Nhất Hư Thực " Có Ý Nghĩa Là Gì ? Phần trên đã nói về sự phân chia hư thực của hai chân , nhưng trong TCQ ngoài hạ chi ra còn có thượng chi và thân thể với các bộ phận của nó cũng được phân chia hư thực . Ðó chính là ý nghĩa của câu " xứ xứ quân hữu nhất hư thực" . Ðây là một đặc điểm của TCQ . Sự lý giải hư thực ở hai chân tương đối dễ dàng , còn ở hai tay và thân thì làm thế nào biết đâu là hư đâu là thực ? Ở đây hư thực là do "Ý" , ý đến đâu thì nơi đó là thực . Nơi nào ý không đến thì nơi đó là hư . Thí dụ như : 1. Trong động tác Ðơn tiên , tay trái là thực , tay phải là hư , bởi vì lúc này ý đặt tại tay trái , đây mới chỉ là sự phân chia hư thực sơ bộ ; nếu ta xem tay trái là một thì cườm chưởng trái là thực , các phần khác của tay trái là hư , đây là sự phân chia hư
thực bước thứ hai . Cho nên nếu xem động tác của Ðơn tiên là một , thì ta đã có hư thực , rồi tay trái của Ðơn tiên lại được chia hư thực . Thì đây chẳng phải là ý nghĩa của câu "xứ xứ quân hữu nhất hư thực" ư ? 2. Cung tiễn bộ trong động tác Ðơn tiên cũng được chia hư thực . Trong Thiếu Lâm quyền , Cung tiễn bộ hình thành bởi hai chân đều gánh chịu thể trọng . Nhưng trong TCQ thì lại khác ; ở Ðơn tiên , chân trái là thực , chân phải là hư . Ðây là hư thực ở hạ chi . Về hư thực ở các bộ phận khác của thân thể , người học cần hiểu rằng , tình trạng hư thực không ổn định nếu trên phương diện vị trí mà xét , và tình trạng hư thực rất ngắn ngủi nếu trên phương diện thời gian mà xét . Sự hư thực này biến hóa theo sự biến hóa của tư thức , cho nên Vương Tông Nhạc triều Thanh viết Thái Cực quyền luận có nói : " Tả trọng tắc tả hư , hữu trọng tắc hữu yếu , ngưỡng chi tắc di cao , phủ chi tắc di thâm " , mà đạt được tình trạng này là do vận dụng được sự biến hóa hư thực . Muốn vận dụng hư thực vào trong mỗi động tàc tư thức của TCQ không phải là dể dàng đâu , mà cần phải có thời gian luyện tập lâu dài mới nắm được yếu lý và vận dụng tương đối khá . Nay nêu ra ở đây vài điểm theo thứ tự để người học dần dần thể nghiệm mà hiểu ra :
1. Ở mỗi động tác , trước hết phải phân chia hư thực ở hai chân . 2. Biết dụng ý bất dụng lực , phải biết ở mỗi động tác "ý" đặt ở đâu , sau đó mới vận dụng sự biến hóa , hư thực trong suốt các động tác liên tiếp với sự điều khiển của ý . 3. Sau khi luyện tập thuần thục rồi , luyện tiếp đến thôi thủ , nên lưu tâm đến sự biến hóa và tác dụng của hư thực trong động tác thôi thủ , cho đến khi đạt đến cảnh giới tùng tâm sở dục , ấy mới là thành công vậy . 35. Dụng Pháp Của Bàn Chân Trong TCQ Có Mấy Dạng ? Làm Thế Nào Mới Chính Xác ? Dụng pháp của cước có ba phần : Phân cước , Ðắng cước , Bãi liên cước (còn gọi là Bãi liên thối) . 1. Phân cước : Chia làm tả hữu phân cước . Phân cước còn gọi là Xí cước , vì khi hai chân trái , phải đá mũi ra giống như chim duỗi cánh vậy ( Xí nghĩa là cánh chim ) . 2. Ðắng cước : Chia ra tả hữu Ðắng cước , cộng cả thảy năm lần . Lúc lyện tập , toàn bàn chân gập lên , đá ra bằng lòng bàn chân . "Ý " đặt tại lòng bàn chân . 3. Bãi liên cước : Còn gọi là Bãi liên thối . Dụng pháp tại cước chớ không phải tại thối (chân , không kể bàn chân ) nên gọi là Bãi liên cước thì đúng hơn . Bãi liên cước chia làm Ðơn Bãi liên và Song Bãi liên . Ðơn Bãi liên là dùng một tay vổ nhẹ trên các ngón chân lúc đưa chân lên đá ngang qua . Song Bãi liên là dùng hai hai bàn tay vổ lên mũi bàn chân . Bất luận đá đơn hay song , thì đường di động của chân là đường tròn , cạnh ngoài của bàn chân có dùng sức .
Về dụng pháp của bàn chân , chủ yếu có ba dạng nói trên . Do đó ở sự truyền dạy bất đồng , sự thực hiện có thể có chút ít dị biệt nhưng vẫn là đại đồng , không cần nói rườm rà . Lúc dùng cước nên chú ý : 1. Ðứng vững , vì lúc dùng chân đá phải nhất chân lên , chỉ còn một chân đứng , người mới học gót chân không có sức , thường hay mắc lổi ngã nghiêng , đây là biểu hiện của công phu non kém ; muốn tránh lổi này phải tập đứng vững một chân , rồi mới treo chân kia lên đá , lâu ngày thì mới đứng vững được . 2. Phân thanh hư thực , chân đúng như trồng cọc là thực , còn chân kia treo lên là hư ; mà ngay như trong phạm vi của chân treo lên đó cũng chia làm hư thực , khi Phân cước thì mũi bàn chân là thực , khi Ðắng cước thì lòng bàn chân là thực , kỳ dư là hư cả . 3. Không dùng kình cương , lúc dùng chân , dùng bàn chân dễ sinh ra kình cương , như vậy chuyển động không linh hoạt , khí huyết không thông . Ðể tránh lổi này , các quan tiết toàn người , nhất là háng , đầu gối , cổ chân phải buông lỏng , cơ nhục cũng buông lỏng , tình tự bình ổn trấn tĩnh . 4. Treo chân không quá cao , duỗi chân không quá thẳng , không quá cao mới dễ ứng dụng mà không bị địch thừa cơ lợi dụng , duỗi không quá thẳng để mà chứa kình đợi khi phát ra mới dễ . Cổ nhân bảo : " Kình dĩ khúc súc nhi hữu dư " , tức là phải giử đúng nguyên tắc "khúc súc" (chứa đựng trong cái cong) mới có dư kình lực , nếu như duỗi thẳng thì cơ nhục sản sinh ra kình cương mất .
5. Lúc Xí cước hoặc Ðắng cước cần phối hợp với dộng tác hít vào . 6. Treo chân lên , buông chân xuống phải từ từ và phối hợp với hai tay cho có tương tùy . 36. Dụng Ý Bất Dụng Lực Là Gì ? "Ý" Là Gì ? "Lực" Là Gì ? Ý Nghĩa Và Tác Pháp Của Dụng Ý Bất Dụng Lực Ra Sao ? Khi Luyện TCQ , không nên gây căng thẳng ở cơ nhục, mà tinh thần phải hết sức chủ ý , như thế gọi là 'Dụng ý bất dụng lực" . "Ý" là cái gì ? Theo nghĩa chữ mà nói thì ý hàm ngụ cái nghĩa ý niệm , ý thức , tâm ý , tuy gần gủi với quan niệm ý của TCQ nhưng không lột tả được hết . Cái gọi là "ý" trong TCQ chỉ là tác dụng của tinh thần . Nói cụ thể hơn , trong quá trình luyện tập TCQ , tiểu não và trung khu vận động của đại não bì tằng (hai bộ phận này có liên hệ mật thiết tới sự hoạt động của thân thể) , đối với các hoạt động của các bộ phận trong thân thể , tăng gia sự khống chế một cách có ý thức , như vậy TCQ gọi là dụng "ý" . "Lực" là cái gì ? Sức lực của thân thể phát sinh từ sự co thắt của cơ , gân , sụn . Người có bắp thịt nở nang , thì sức lực nggười ấy tương đối nhiều ; những người lao động chân tay , những vận động viên , tương đối có sức khõe hơn người bình thường (sự co thắt của bắp thịt cũng chịu sự chi phối của hệ thống thần kinh mới tạo lực được) .
Thế thì tạo sao TCQ lại yêu cầu phát rtiển tác dụng của ý mà không phát triêẻn lực ? Ðó là bởi vì : 1. Ðộng tác của TCQ phải khinh linh , rất kỵ dùng chuyết kình ( kình lực vụng về ) làm cho cơ nhục căng thẳng . Ðể ngừa sự căng thẳng của cơ nhục nên phải dụng ý . 2. Vận động thân thể cốt để xúc tiến sự tuần hoàn của máu , nếu làm cơ nhục quá căng thẳng thì chướng ngại sự tuần hoàn của máu , cho nên khi dụng lực đến mức quá đáng dễ sinh ra hiện tượng ứ huyết , trong khi đó động tác TCQ thì nhu hòa hoãn mạn , lại phối hợp với nguyên tắc dụng ý bất dụng lực nên không hề sinh ra các bệnh kể trên . 3. Kết quả của sự dụng ý là tác dụng cải tiến cơ năng hệ thần kinh . Vì sự phức tạp của các động tác của TCQ nên đại não bị đặt trong tình trạng căng thẳng để hoàn thành các động tác đó , tức là gián tiếp gây tác dụng huấn luyện hệ thống trung khu thần kinh , kích thích sự hoạt động có tính cách cơ năng của các khí quan và hệ thống ; nếu kiên trì luyện tập lâu năm , sẽ có thể dần dần làm cho cốt cách cứng cỏi , cơ nhục mềm mại , cảm giác linh mẩn ; sự xử dụng kình lực sẽ tùy ý chí mà di chuyển , năng thâu năng phóng , năng tùng tâm sở dục , và khi chiến đấu hễ mới chạm là đã phát . Ðây là ý nghĩa của sự dụng ý bất dụng lực .
Ðể đạt được yêu cầu dùng ý bất dụng lực , cần chú ý vài điểm sau : 1. Khi luyện tập TCQ , không được dụng lực ở bất kỳ những động tác nào ; những động tác phải viên hoạt tung nhuyễn ; khi dùng quyền thì không nắm chặc quyền , khi đã quyền không được dùng mãnh kình ; khi dụng cước cũng từ từ nhè nhẹ treo chân và từ từ đá ra , không dùng sức không cầu thắng , chỉ cầu tinh thần quán chú vào lòng bàn chân , tức là đặt ý tại đó . 2. Ý tùy theo động tác mà di động . Sự di động của ý có liên hệ mật thiết tới sự tuần hoàn của máu . Như ở động tác Ðơn tiên , ý từ tay phải thông qua lưng mà qua tay trái , tức là đem máu ở tay phải trở về tim , đồng thời , một phần máu do động mạch thông qua vai , chỏ , cổ tay mà đến bàn tay trái , và lúc tay trái duỗi ra ắt có cảm giác các đầu ngón tay trương ra , nở ra , chính là máu chảy đến . Trong TCQ sự đáo đạt (sự đến nơi) của ý ở bất kỳ động tác nào cũng thế cả . 3. Lúc luyện tập thôi thủ , cũng cần phát huy tác dụng của ý , bởi vì sự dụng ý có được thỏa đáng hay không có quan hệ mật thiết với sự đắc thắng hay không. 37. Thế Nào Là Thượng Hạ Tương Tùy ? Ý Nghĩa Và Tác Pháp Của Nó Ra Sao ? Khi luyện tập TCQ , bất luận làm động tác nào cũng phải làm cho sự vận chuyển của các bộ phận thân thể cùng với thượng , hạ chi ăn khớp , phối hợp với nhau . Sự
vận chuyển ăn khớp này gọi là thượng hạ tương tùy . Trong quyển Thái Cực Quyền Luận có nói : " Kỳ căn tại cước , phát ư thối , chủ tể tự yêu , hình ư thủ chỉ , do cước nhi thối nhi yêu tổng tu hoàn chỉnh nhất khí " ; câu này muốn nói rằng khi luyện tập , chân như là rể của cây cối , có thể làm cho thân vững vàng , mà tính vững vàng này lại do đùi phát xuất , rót đến tận dưới gót chân ; còn eo là chủ tể của thân , vì nó là cái trục quay trung ương, kình lực phát ra do eo đi xuống dưới thì qua đùi mà đến bàn chân , đi lên trên thì qua vai và cánh tay mà rót đến ngón tay . Do đó trong bất cứ động tác nào , đều phải làm cho toàn thân là một khí hoàn chỉnh , mới là thượng hạ tương tùy. Thượng hạ tương tùy có ý nghĩa gì ? Theo Thái Cực Quyền luận : ".Hướng tiền thối hậu , nãi nâng đắc cơ đắc thế , hữu bất đắc cơ đắc thế , thân tiện tán loạn ." Ý muốn nói : Thượng hạ tương tùy giúp cho sự tiến thối được cơ được thế , thân pháp mới không tán loạn . Do đó có thể phân tích trên hai mặt : 1. Trên mặt vận động : Mỗi động tác TCQ đều là hoạt động của toàn thân , đều là hoạt động toàn diện , cả trong lẩn ngoài , cả trên lẩn dưới , do đó chúng ta thấy ngay rằng thương hạ tương tùy trên phương diện sinh lý vận động cốt là làm cho thân thể vận động toàn diện .
2. Trên mặt Kỹ kích : (Sử dụng trong chiến đấu) Có thượng hạ tương tùy mới chiếm được thế cơ , thân pháp hoàn chỉnh nhất khí nên tiến thoái mới thuận lợi , thôi thủ mới chiếm phần thắng . Nếu như thân pháp tán loạn , chân tay không thể hợp tác , khí như áo rách tả tơi , sẽ bị người ta chế ngự . Ðể thực hiện được thượng hạ tương tùy , nên chú ý mấy điểm sau đây : 1. Khi luyện tập TCQ , bất luận đối với động tác nào , đều phải làm cho tay chân nhất trí với nhau , không được chia ra trước hay sau . Thông thường là ta hay mắc phải lổi là chân tới trước rồi tay mới tới sau , tức là mại bộ thì nhanh còn thủ thế thì chậm ; thứ đến là các động tác khuất thối tọa yêu ( rùn chân buông eo ) cũng không di chuyển một lượt với thân . Sửa thế nào đây ? TCQ Luận có nói : " Hữu bất đắc cơ đắc thế xứ , thân tiện tán loạn , kỹ bệnh tất ư yêu thối cầu chi " , tức là các bệnh (lổi) này đều do eo và chân gây ra cả , cho nên nếu muốn khắc phục thì nhắm ngay vào eo và chân . Phải thường chú ý luôn mới mong giử được thượng hạ tương tùy . Như ở động tác Ðảo niên hầu , lúc tay phải co rút thu về thì chân phải cũng lui về , lúc chân trái lui ra sau thì đồng thời tay trái cũng rút về sau , mới là thượng hạ tương tùy ; đồng thời lấy eo làm trục thì chuyển động mới linh hoạt .
2. Trong lúc tập thôi thủ , có thể phát triển thêm một bước cái ưu đìểm của thương hạ tương tùy , như lúc hai người đang hoạt bộ thôi thủ , thủ pháp và bộ pháp phải nhất trí , tiến thì tê , thối thì lý ; không được chậm trể mảy may ; nếu trái lại ắt phải bị khống chế . 38. Thế Nào Gọi Là Nội Ngoại Tương Hợp? Ý Nghĩa Và Tác Pháp Cụ Thể? " Nội " là tinh thần , mà tinh thần là cái gì vô hình , sự lành mạnh hay không của tinh thần là do thân thể biểu hiện , mà mỗi động tác của thân thể được hình thành dưới sự chi phối của hệ thống thần kinh tức là vỏ đại não . Khi não ở trạng thái hưng phấn thì tinh thần sung túc sãng khoái ; khi não bị ức chế thì tinh thần ủy mị . Yêu cầu nội ngoại tương hợp của TCQ có quan hệ mật thiết với trạng thái của vỏ đại não là như vậy . " Ngoại " là tứ chi bách hải của thân thể . Bất luận sự hoạt động toàn bộ hoặc cục bộ của thân thể , dù là hoạt động vi tiểu đến đâu , cũng phải chịu sự chi phối của thần kinh mới hoàn thành được , cho nên trong các tình huống thông thường , hoạt động nhục thể và tác dụng của thần kinh là không thể phân ly . Ðã như thế thì tại sao khi luyện tập TCQ còn đòi hỏi nội ngoại phải tương hợp ? Xin thưa sự đòi hỏi này chỉ là sự nhấn mạnh có tính cách cưỡng điệu hóa cái tác dụng chủ đạo của vỏ đại não , chiếm địa vị chủ soái trong lúc vận động , và sai khiến sự hoạt động của toàn thân . Vậy chúng ta có thể định nghĩa nội ngoại tương hợp như sau : Sự dung hợp của tác dụng tinh thần và vận động nhục thể . Vận động của TCQ có hiệu quả tốt , có hiệu năng y liệu là do tác dụng trọng yếu của tương hợp nội ngoại vậy .
Muốn làm được nội ngoại tương hợp , thì trước khi khai thức cần làm cho tinh thần trầm tĩnh xuống , sau khai thức thì nội liễm tinh thần , tập trung tư tưởng , trong mỗi một động tác hành khí làm sao , dụng ý ở đâu đều phải được phối hợp một cách nghiêm mật . 39. Thế Nào Là Tương Liên Bất Ðoạn ? Ý Nghĩa Và Tác Pháp Cụ Thể ? Gọi là " Tương liên bất đoạn " khi sự dụng ý và vận kình từ chiêu thức này sang chiêu thức nọ đều liên tục không gián đoạn (có khi kình đoạn nhưng ý không đoạn) Sự vận động của TCQ là sự vận động mà từ khai thức tới thâu thức , thức này nối thức kia , đều liên tục bất đoạn , đồng thời với sự liên tục của khí .Các loại vận động bất đoạn liên hoán này có thể xúc tiến sự phát triển ở cơ năng của các khí quan trong thân thể . Tỷ như bộ máy tiêu hóa của chúng ta không được tốt , thì sau một thời gian luyện tập TCQ , cơ năng tiêu hóa tốt lại , chúng ta trở nên thích ăn uống nhiều hơn , cho nên động tác của TCQ , tuy nhu hoà hoãn mạn , nhưng được thực hiện liên tục và bền bĩ , sẽ nâng cao tình trạng sức khõe . Sự dụng ý ở TCQ tùy thuộc vào sự biến hóa của động tác . Phàm ý vận hành ở bộ phận nào trong cơ thể thì khí huyết đến nơi đó . Ý có thể đi khắp toàn thân nên khí huyết cũng chu lưu khắp cơ thể . Nếu trong người có chổ nào bị bệnh (như viêm các quan tiết , thần kinh suy nhược , v.v.) thì do ảnh hưởng của sự vận hành khí huyết trong cơ thể , sau một thời gian nào đó các bộ phận ấy sẽ lành mạnh trở lại .
Về mặt chiến đấu , nguyên tắc tương liên bất đoạn có giá trị nhất định của nó . Như trong lúc thôi thủ , do sự dụng ý và vận kình một cách tương liên bất đoạn , mới có thể phòng thủ nghiêm mật , không để hở chổ nào cho địch thủ có thể tấn công . Phương pháp để đạt tương liên bất đoạn như sau : 1. Bình thường khi đi quyền không nên gây gián đoạn . Những người mới học nên chia thành những động tác đơn để tập luyện thì mới nắm được động tác . Ðiều quan trọng là khi hiểu được dộng tác rồi phải biết diễn luyện liên tục từ thức này sang thức khác , không một lúc nào ngưng nghỉ . 2. Khi thực hiện các động tác , cái gọi là kình có thể gián đoạn nhưng ý thì không được gián đoạn . Ý bất đoạn chính là tinh thần thủy chung quán chủ , không một sát na nào không quán chủ . Chổ nào ý cần phải đến , phải thực sự đưa ý đến hẳn hoi . Muốn nắm được điểm tâm lý này cần phải để tâm nghiên cứu . 40. Thế Nào Là Ðộng Trung Cầu Tĩnh ? Ý Nghĩa Và Tác Pháp ? Ðộng trung cầu tĩnh trong TCQ là trong cái động của các động tác từ hoãn ( chậm chạp mềm mại) , tâm thần một mực bình ổn , điềm tĩnh . Ðó là giử cái trầm tĩnh trong cái hoạt động vậy . " Ðộng " hàm ngụ các ý niệm vận động . có cái động bên ngoài của cơ thể là cái động tay chân . Có cái động bên trong như hô hấp , máu tuần hoàn , tế bào sinh hóa (hiện tượng tân trần đại tạ) . Ý niệm "động" ở TCQ bao hàm hai phương diện ấy .
" Tĩnh " hàm ngụ các ý nghĩa an tĩnh , bình ổn . Thực ra trong vũ trụ không có sự vật nào tuyệt đối ở trong trạng thái tĩnh chỉ , từ cái nhỏ như nguyên tử , phân tử , đến cái lớn như địa cầu , hệ thái dương đều ở trạng thái động hằng cửu . Người ta là một thể hửu cơ hoạt dộng , dù trong lúc ngủ , các hiện tượng sinh lý vẫn liên tục xảy ra . Cho nên , cái tĩnh trong TCQ là tương đối , là cái tĩnh ở một trình độ nhất định nào đó . Theo mặt sinh lý mà nói , động tác hoãn mạn nhu hòa làm cho sự hô hấp của phổi sâu và dài , làm cho nhịp tim đập chậm mà có sức , làm cho khí huyết đi khắp mọi nơi và đi đến nơi đến chốn . Vận động như vậy sau một thời gian dài , cơ năng các khí quan sẽ tiến triển . tức là thể chất và thể lực tăng triển . Nói một cách cụ thể nếu học viên nào ủ rũ vì thần kinh suy nhược hay tinh thần lờ đờ lúc ban ngày , mất ngủ lúc ban đêm , nếu trải qua một thời gian luyện tập TCQ nào đó , thì tinh thần có thể chuyển biến tốt hơn và ba tháng sau không còn bị mất ngủ nữa . Do nguyên nhân nào vậy ? Bởi vì TCQ tự nó là một phương pháp vận động có tính cách nghỉ ngơi tích cực . Sự đòi hỏi tĩnh khiến cho những ai lo lắng buồn rầu phải xua đuổi tạp niệm , làm cho đại não có cơ hội nghĩ ngơi nhiều hơn , tức là làm cho thần kinh não chuyển biến từ suy nhược đến mạnh khõe .
Trên phương diện tâm lý , làm thế nào giử cho " tĩnh " ? Ðây là sự trấn tĩnh trên phương diện tinh thần . Vỏ đại não là cơ sở vật chất của hoạt động tâm lý . Khi luyện quyền , ta bắt buộc phải nội liễm tinh thần , tập trung tư tưởng , trong não không nghĩ ngợi gì cả cho đến mức mục vô sở thị , nhỉ vô sở văn , tuy vận động mà vẫn y nhiên thản nhiên tâm thần thơ thới . Ðó chính là trạng thái mà Ðạo gia gọi là "nhập tĩnh" hay "hư vô" . Chính trong trạng thái này , đại bộ phận của võ đại não bị đặt vào tình trạng ức chế , làm phát sinh tác dụng phản xạ có ích ở các khí quan nội tạng . Do ảnh hưởng của sự vận công liên tục , bệnh tình của bệnh nhân giảm và hết đi . Ðồng thời , trạng thái nhập tĩnh còn có tác dụng huấn luyện đối với hệ thống trung khu thần kinh , cơ năng của hệ thống này mạnh mẻ lên lại điều chỉnh và kích thích cơ năng của các hệ thống khí quan của nó . Vì vậy trên phương diện vận động sinh lý , nguyên tắc động trung cầu tĩnh có giá trị rất lớn . Người mới học rất khó thực hiện động trung cầu tĩnh vì động tác tư thức chưa được thuộc làu còn nhớ này quên kia . Nhưng không thể không biết yêu cầu này , biết để mà từ từ thử nghiệm . 41. Thế Nào Là Khinh Linh ? Ý Nghĩa Và Tác Pháp Cụ Thể ? Gọi là khinh linh khi cơ nhục và quan tiết toàn thân đều buông lỏng , tâm thần ổn định , thức nào thức nấy đều nhẹ nhàng , mềm mại , uyển chuyển , sống động (khinh , tung , linh , hoạt) .
Khinh linh là một đặc điểm của TCQ , không thấy ở các môn vận động nào khác . Ý nghĩa của khinh linh là : 1. Khi rèn luyện mà buộng lỏng được cơ nhục và quan tiết , sự vận chuyển khinh linh , thì khí huyết khắp thân lưu thông , làm cho sự dụng ý trở nên hiện thực tức là làm cho khí huyết theo sự dẫn dắt của động tác mà vận chuyển , lâu ngày nội kình chân khí tự phát sinh . 2. Làm cho gân cốt thư triển : Khi cơ nhục căng thẳng thì gân mạch toàn thân cũng căng thẳng theo , các mô tủy ở trong xương bị bó ép lại không được thư triển , và sự lưu thông của huyết dịch bị ảnh hưỡng . Do đó chỉ với điều kiện thân thể khinh linh thì gân mạch nới lõng ( tung thí ) , tủy mới thân trương , máu tuần hoàn nhanh lên , tế bào mới sinh ra nhanh hơn . 3. Về mặt tác dụng của khinh linh trong chiến đấu , có khinh linh mới không sinh ra kình lực vụng về , mới dễ ứng địch . Mỗi động tác của TCQ đều khinh linh viên hoạt , cơ nhục không căng thẳng , thân thể tứ chi không cứng ngắt vụng về , khéo biến hóa khi giao thủ , mới không bị địch khống chế . Người mới học TCQ không dễ gì đạt được sự khinh linh , vì lúc bình thường cơ nhục lúc nào cũng ở trong một mức độ căng thẳng nào đó . Sự căng thẳng này sinh ra do sự khống chế của hệ thống thần kinh . Bình thường thì như vậy , đến khi luyện quyền , sự căng thẳng vẫn sinh ra vì sự thiếu tự chủ . Phải trải qua một quá trình nhất định nào đó mới hiểu và đạt được tình trạng khinh linh . Muốn thế thì người học hãy nổ lực thực hiện mấy điểm sau :
1. Khi luyện quyền , trước hết phải giử tinh thần không được căng thẳng . 2. Với bất kỳ động tác nào , cũng phải tuân thủ một cách nghiêm túc nguyên tắc dụng ý bất dụng lực . 3. Tập xong và đi khá bài quyền , thì luyện thôi thủ hai người , và trong lúc thôi thủ , lưu tâm thể nghiệm yếu lý và tác dụng của sự khinh linh . 42. Có Người Nói Rằng TCQ Ðược Gói Trong Mật Quyết : Tâm , Ý , Thần , Khí . Thực Sự Bốn Thứ Này Là Gì ? TCQ là một loại vận động kiện thân ( làm thân thể sống mạnh ) , nhưng rất chú trọng đến tác dụng của tinh thần . Nói chung tinh thần có tác dụng hiệu quả của sự vận động TCQ về nhiều mặt , và phần lớn đã được đề cập ở các mục chuyên biệt ở trên . Nhưng có người cho rằng tác dụng của tinh thầ được gói ghém trong bốn chữ : Tâm Ý Thần Khí , còn gọi là bốn chữ mật quyết . Thực ra bốn chữ này không nói hết lên được . Ý nghĩa của bốn chữ này không thể căn cứ vào mặt chữ mà giải thích , vì chúng có nghĩa rộng hơn . Chữ " Tâm " ở đây không có nghĩa là tâm trạng (trái tim) mà là sự hoạt động của thần kinh cao cấp của đại não . Chữ " Ý " ở đây có thể nói là ý niệm , là một loại tác dụng của tinh thần , như ta nói dụng ý bất dụng lực. Chữ " Thần " chính là hoạt động của thần kinh , chủ yếu là hoạt động của đại não . Chữ " Khí " có hai mặt ý nghĩa là nuôi khí và luyện khí .
Dĩ tâm hành khí , vụ lệnh trầm trước : túc là lấy tinh thần khống chế sự vận hành của huyết khí , một mực phải trầm trọng lặng lẻ , thì mới đạt hiệu quả cao. Dĩ khí vận thân , vụ lệnh thuận toại , nãi năng tiện lợi tùng tâm : Trong lúc vận khí đi khắp nơi trong cơ thể , cần một mực vận hành một cách tự nhiên , không được gắng gượng dùng sức , rồi trải qua sự tập luyện lâu ngày mới được như ý muốn , dẫn khí đi khắp thân thể . Thân thư thế tĩnh , khắc khắc tại tâm : Thần là tinh thần , chủ yếu là vỏ đại não , cần phải trầm tĩnh thư sương , tư tưởng tập trung ; thế tĩnh là muốn nói trong cái động giử cái tĩnh , khắc khắc tại tâm là bất luận ở động tác tư thức nào , tinh thần đều phải chuyên nhất , không được có một chút tạp niệm nào . Tâm vi lệnh , khí vi kỳ : Câu này muốn nói rằng dưới sự khống chế của hệ thần kinh , khí huyết được đưa đi khắp thân . Các mật quyết tương tự còn rất nhiều , nhưng ý nghĩa thì đại đồng tiểu dị , không cần nói chi cho rườm . Tóm lại , Tâm Ý Thần Khí ám chỉ tác dụng của tinh thần , không thể phân biệt được một cách rành rọt , có tác dụng chủ đạo trong vận động TCQ , có ý nghĩa trọng yếu đối với hiệu quả vận động và mực độ sức khõe . 43. " Thập Lục Quan Yếu " Của TCQ Có Nội Dung Gì ?
Các nhà quyền thuật cận đại đã quy nạp những điều cần thiết khi tập TCQ thành 16 điểm quan trọng , gọi là Thập lục quan yếu . Ðó là : 1. Hoạt bát ư yêu . 9. Liễm chi ư tủy . 2. Linh cơ ư đỉnh . 10. Ðạt chi ư thần . 3. Thần thông ư bối . 11. Ngưng chi ư nhĩ . 4. Lưu hành ư khí . 12. Tức chi ư tỵ . 5. Hành chi ư thối . 13. Hô chi ư phúc . 6. Ðắng chi ư túc . 14. Túng chi ư tất . 7. Vận chi ư chưởng . 15. Phát chi ư mao . 8. Quán chi ư chỉ . 16. Hồn ngạc nhất thân . 1. Hoạt bát ư yêu : Cái eo chiếm một địa vị trọng yếu trong TCQ . Một cái eo buông lỏng linh hoạt hoặc vụng về cương ngạnh có ảnh hưởng rất lớn đối với thân và tứ chi . Sự khinh linh viên hoạt của động tác TCQ chỉ có được trên cơ sở là cái eo linh hoạt . Ðó là ý nghĩa của hoạt bát ư yêu . 2. Linh cơ ư đỉnh : Về điểm này chỉ có hai giải thích : a. Tức là hư linh đỉnh kình . b. Tức là cái động cơ linh hoạt phát xuất từ đỉnh đầu điều khiển sự hoạt động đáp trái ứng phải của toàn thân , tức là sự hoạt động của đại não có thể khống chế toàn thân . Trong khi luyện quyền , tinh thằn càng tập trung cao độ thì tác dụng của sự hoạt động của hệ thần kinh cao cấp càng được phát huy . 3. Thần thông ư bối : Ở đây , bối ( lưng ) là tích bối ( vùng lưng dọc cột xương sống ) . Trên thân thể , lưng chiếm một địa vị trọng yếu , lên trên là đầu , qua trái và phải thì thông qua hai vai mà đạt đến cánh tay , đi xuống thì qua eo , háng mà
đạt đến chân , cho nên tích bối , đối với thân thể , là chổ giao thông rất thuận lợi (tứ thông bát đạt) ; thần (tích tủy và thần kinh) thông qua bối mà đi khắp châu thân ; nhưng muốn đạt được mục đích thần thông ư bối , phải thực hiện dưới tác dụng của tinh thần một cách có ý thức , làm cho thần đi khắp toàn thân ; như dụng ý , vận kình , đều có thể thông qua tích bối mà đến khắp tứ chi . 4. Lưu hành ư khí : Ý muốn nói khí lưu hành khắp thân . Làm thế nào để khí huyết lưu hành khắp thân ? Ðiều này thì trong lúc luyện quyền , chú ý đến việc kết hợp hô hấp và sự dụng ý bất dụng lực . 5. Hành chi ư thối . 6. Ðắng chi ư túc . 7. Vận chi ư chưởng . 8. Quán chi ư chỉ . Bốn điều quan yếu này muốn nói rằng trong lúc luyện TCQ , tinh thần và khí huyết đạt đến các bộ phận trên thân thể như thế nào ; thông qua thối và tý ( đùi và tay ) , vận đến thủ chưởng ( bàn tay ) và túc chích ( bàn chân ) , sau cùng rót đến đầu ngón tay và đầu ngón chân . 9. Liễm chi ư tủy . 10. Ðạt chi ư thần . Trước đây có nói rằng khi luyện quyền phải nội liểm tinh thần . Nội liểm có nghĩa là nội thâu . Lúc luyện quyền , không chú ý bất cứ sự vật gì của hoàn cảnh , mà chỉ chú ý tới một điều là dụng ý bất dụng lực , như vậy tinh thần không những nội liểm mà còn đạt đến cốt tủy , nên gọi là liểm chi ư tủy . Thật ra đây chỉ là thu liểm tinh thần vào trong một cách hoàn hảo ( tập trung tinh thần một cách hoàn hảo ) . Lâu ngày , tạo ảnh hưởng tốt cho hệ thần kinh , nhất là vỏ đại não , làm cho vỏ đại não được bồi dưỡng , nên gọi là đạt chi ư thần .
11. Ngưng chi ư nhĩ : TCQ đòi hỏi động trung cầu tĩnh , tránh ngoại vật kích thích . Như thế tức là đòi hỏi tai mắt phải ra sao ? Về vấn đề nhãn thần , đã có nói qua ở trên . Còn ở đây chỉ nói về thính giác . Ngưng chi ư nhĩ là làm cho cái công năng của tai , tức là thính giác , ngưng tĩnh lại , không còn nghe âm thanh nữa , để mà tập trung tinh thần . 12. Tức chi ư tỵ : Tức là hít thở bằng mũi , cũng có khi thở ra bằng miệng nhưng không được hít vào bằng miệng . 13. Hồ chi ư phúc : Về phương thức hô hấp , có hai cách : hung thức và phúc thức . Người ta bình thường hô hấp bằng ngực , còn TCQ thì đòi hỏi phải thở sâu , dài , đều , im , nên chủ trương thở bằng bụng . 14. Túng chi ư tất : Ðầu gối là quan tiết trọng yếu của hạ chi , và trong các quan tiết , nó tương đối nhu nhược dễ bị bệnh , như các bệnh viêm quan tiết và dây chằng bị thương , chủ yếu là do khí huyết không thông . Cho nên , túng chi ư tất trong TCQ là làm sao cho huyết khí rút đến quan tiết đầu gối . 15. Phát chi ư mao : Lông tóc con người , sinh từ trong da ,đầu dưới của lông là gốc lông , trong gốc lông có huyết quản vi ti vận chuyễn chất dinh dưỡng và oxygen ; lúc tuổi thanh niên khí huyết thịnh vượng thì lông mọc nhiều dài và nhanh , lúc tuổi già thì khí huyết suy nhược , lông tóc dần dần rụng rơi và ngã sang màu bạc . Luyện tập TCQ là để tăng cường thể chất , thể lực . Nhờ vận hành khí huyết đến tận gốc lông nên lông mọc dài , giảm thiểu sự rụng và biến màu . Phát chi ư mao biểu hiện một kết quả cụ thể của sự vận động TCQ .
16. Hôn ngạc nhất thân : Thuật ngữ này muốn nói rằng trong lúc đi quyền , xử dụng ý và và vận kình tại khắp thân thể là một khí hoàn chỉnh . Nhân thể là một thể hoàn chỉnh thống nhất , hoạt động của các cơ quan khí quan hệ mật thiết với nhau , dưới sự chi phối của hệ thần kinh . TCQ là thứ vận động phát triển cơ thể một cách điều hòa : " Nhất động vô hữu bất động , nhất tĩnh vô hữu bất tĩnh " , " Kỳ căn tại cước , phát ư thối , chủ tể ư yêu , hình ư thủ chỉ ; do cước nhi thối nhi yêu , tổng tu hoàn chỉnh nhất khí " . Như vậy bằng sự vận động này mà thân thể phát triển toàn diện . 44. Có Người Nói Rằng Khi Ði Bài TCQ Ði Càng Chậm Càng Tốt , Căn Cứ Vào Ðâu Mà Nói Vậy ? Ði quyền Với Tốc Ðộ Nào Thì Là Ðúng Nhất ? Khi đi quyền , tốc độ không được nhanh , nhưng cũng không phải càng chậm càng tốt , mà là đi với một tốc độ chậm rãi nhất định . Lấy thời gian mà nói , đi trọn một bài TCQ mất từ 15 phút đến 20 phút là thích đáng . 1. Hợp với đặc điểm sinh lý : Các dạng biến hóa của nhân thể , như tiêu hóa , hô hấp , tuần hoàn , bài tiết , xảy ra một cách liên tục ; nhưng tốc độ mhanh chậm của các dạng biến hóa ấy thì tùy theo sự nhiều ít của lượng hoạt động , lúc tĩnh tọa hay tĩnh ngọa thì chậm lúc đi bộ thì nhanh hơn một tí , lúc chạy thì càng nhanh hơn , khi chạy nhanh vì tim phải đập quá gấp , thời gian co thắt của tâm thất quá ngắn , không thể bài tiết một số lượng tương ứng số lượng máu mà nó dung nạp , đồng thời cái thời gian mà tim tiếp thụ
máu từ tĩnh mạch hầu như hoàn toàn không có , kết quả là sự hoạt động của tim bị suy nhược . Sự hoán khí ở phổi cũng thế , vì số lần hô hấp mỗi phút tăng nhiều làm cho cơ hội trao đổi khí bị giảm thiểu . Nếu như mỗi phút mà số lần hô hấp lên đến bốn năm chục thì sự hô hấp chỉ là hình thức thôi , bởi vì lúc này không khí chỉ ra vào ở khí quản chớ không đến tận các phế bào , tức là không xảy ra sự trao đổi khí , lại càng làm cho phổi thêm mệt nhọc . Lúc này chúng ta nhận thấy tim đập nhanh , hơi thở hổn hển , không cách chi ngưng lại được , đó là vì các khí quan tim , phổi không được rèn luyện bao giờ cả . Nhưng sự vận động kịch liệt như vậy chỉ thích hợp với thanh thiếu niên , bởi vì thân thể của chúng phát dục nhanh , cơ năng của các khí quan cải tiến cũng nhanh , trải qua một thời kỳ luyện tập nhất địng sự vận động trở thành tập quán . thì kết quả của sự vận động càng ngày càng cao . Nhưng từ trung niên trở đi , nhất là những ai thiếu thể chất , vốn dĩ không tập luyện như thế bao giờ , đương nhiên không thích hợp với loại vận động kịch liệt này . TCQ là một loại vận động chậm rải . Trong lúc vận động , dưới ảnh hưởng của sự hô hấp theo các hình thức đặc định , phổi sẽ nở nang và dung lượng khí trao đổi gia tăng , nhưng số lần hô hấp không tăng . Ðộng tác hòa hoản tâm thần an tĩnh làm tim đập nhẹ nhàng nhưng có sức . Nhờ sự co thắt khõe khoắn của tim mà máu tuần hoàn nhanh . Ðồng thời các cơ năng tiêu hóa , tạo huyết , cho đến sự bài tiết của thận đều nhận được ảnh hưởng tốt đẹp , làm cho các cơ năng phát triển một cách tự
nhiên , tuần tự tiệm tiến , vừa sinh vừa trưởng , ngày ngày tiến triển . Cho nên yêu cầu động tác hoãn mạn của TCQ có cơ sở lý luận sinh lý học nhất định của nó . 2. Tăng gia lượng vận động : Vận động chậm rãi có làm giảm đi hiệu quả của vận động không ? Không , mà ngược lại . Thí dụ như hạ chi phải phân thanh hư thực , vì một chân phải gánh chịu thể trọng , thân pháp phải rùn thấp , mại bộ phải chầm chậm , chỉ bấy nhiêu thôi cũng cho phép ta nói là lượng vận động không được tính là ít ỏi ; đó là chưa kể đến sự quán chú của tinh thần , sự tề động của tay chân , sự liên tục của bài quyền hơn mười mấy phút , lại càng làm gia tăng lượng vận động , biểu hiện qua sự bài tiết mồ hôi . Ðây chỉ là một mặt của vấn đề . Một mặt khác , ta biết rằng với sự vận sử của tâm ý thần khí , và động tác tuy chậm , thế mà lượng hô hấp lại rất lớn , máu tuần hoàn rất nhanh , làm tăng nhanh tác dụng của tân trần đại tạ , và kết quả là hiệu quả vận động rất lớn . 3. Tạo ảnh hưởng tốt đối với vỏ đại não : Vận động TCQ đòi hỏi tâm thần trấn tỉnh , thủ trung khí , tuyệt tạp niệm , hàm nhãn quang ,ngưng nhĩ vận , khí trầm đan điền , hô hấp quân tỉnh . Các yêu cầu này giống như ở tĩnh tọa , có ảnh hưởng rất lớn đối với hệ thống thần kinh , nhất là vỏ đại não . Về phương diện này , kết quả kỳ diệu đã được chứng minh bởi những người suy nhược hệ thần kinh và những người say mê vũ thuật .
Nhưng ở đây người mới học nên lưu ý một điểm là trong sự chậm rãi phải có sự tương tùy thượng hạ , toàn thân nhất tề hoạt động , còn như hạ chi bất động mà thượng chi cứ chậm chạp như rùa thì không khác gì lảng phí thời giờ , đánh mất cái " động " của TCQ , cái chậm ấy chỉ còn cái võ không nhân thịt . 45. Sau Thâu Thức Ta Nên Làm Gì ? Sau khi luyện xong một bài quyền , nên duy trì tình tự như trong lúc đang đi quyền , tinh thần không được tán loạn , chậm rãi đi bộ , và nếu không thật cần thiết , không nên nói chuyện để mà dưỡng khí liễm thần ; sau khi tản bộ được ba hay năm phút , mới trở lại trạng thái hoạt động thường nhật . Làm như thế có ý nghĩa gì ? Có thể phân tích thành hai điểm : 1. Trong khi luyện quyền , số lượng hô hấp tăng lên , máu tuần hoàn cũng nhanh , các cơ năng sinh lý đều ở trong trạng thái tích cực hoạt động ; cho nên sau thâu thức , đi tản bộ chậm rãi tức làm vận động chỉnh lý , làm cho hoạt động sinh lý của cơ thể dần dần khôi phục lại trạng thái bình thường . Làm như vậy , sức khõe của thân thể mới dễ dàng gia tăng . 2. Trong khi luyện quyền , tinh thần nội liễm , tư tưởng tập trung , đại bộ phận của đại não ở vào trạng thái ức chế , giống như lúc " nhập tĩnh " trong tĩnh tọa ; như vậy mới năng thử xả ,tinh thần hoàn chỉnh nhất khí . Lúc này trong thân thể sinh ra nhiều phản ứng tốt và tác dụng liên đới có điều kiện . Mỗi lần luyện xong bài quyền , loại phản ứng và tác dụng liên đới này vẫn tiếp tục xảy ra , vẫn phát huy tác dụng , và tốt nhất ta làm chúng từ từ dịu lại , có vậy mới cũng cố được hiệu dụng đem lại do phản ứng và tác dụng liên đới nói trên . Nếu không , tinh thần tán loạn , làm giảm đi hiệu quả vận động .
46. Làm Thế Nào Nâng Cao Tiến Bộ Công Phu ? Ở Mỗi Giai Ðoạn Của Tiến Trình Luyện Tập Nên Chú Ý Ðiều Gì ? TCQ là loại vũ thuật rèn luyện thân thể bắt buộc phải trải qua một quá trình tự luyện tập nhất định mới am hiểu được . Sau khi nắm được rồi , tháng ngày liên trì luyện tập , chất lượng công phu mới gia tăng . Ở mỗi cá nhân , vì sự khác nhau về thể chất , năng lực tiếp thụ và tinh thần nghiên cứu , cho nên sự tiến triển của chất lượng công phu cũng khác nhau . Nếu căn cứ vào tiến độ công phu bình thường thì có thể nói đơn giản như dưới đây , đồng thời cũng nêu ra các điểm cần chú ý ở mỗi giai đoạn luyện tập , để học viên tham khảo : 1. Giai đoạn sơ học : Người mới học thật khó mà làm đúng và làm tốt các động tác chậm rãi , đi đường tròn , chiêu thức liên tục , hơn nữa động tác đa dạng khó nhớ , nay nhớ mai quên . Ðây là chuyện thường . Vấn đề là người học phải nhẫn nại học tập , luyện đi luyện lại cho rành rẽ , chớ nên tham học nhiều động tác mới . 2. Giai đoạn nhập môn : Thông thường theo học được nữa bài quyền tức là có thể dần dà vào cửa , lúc này việc tiếp tục tư thức mới tương đối dễ dàng , và bắt đầu cảm thấy hứng thú . Nhưng lúc này cũng phát sinh hai thiên hướng : một là lòng ham biết quá mãnh liệt , tham đa mạo đắc ; một là thái độ khinh thị , xem TCQ chẳng có chi là ghê gớm , chỉ cần đôi chút thông minh là làm được ngay . Cả hai thiên hướng này đều ngăn trở sự
tiến bộ ,người học chớ nghĩ thế mà lầm to . 3. Giai đoạn cũng cố : Bắt đầu từ lúc học xong một bài quyền là giai đoạn cũng cố . Nên biết rằng tuy học xong bài quyền nhưng đây chỉ là thuộc quyền lộ mà thôi , còn động tác tư thức vẫn cần kiếu chĩnh cho đến khi nào tinh xảo , rồi bước tới việc dụng khí qua sự kết hợp hô hấp , dụng ý làm sao , vận động làm sao , cho đến việc biến hóa hư thực , đổng kính ,v.v. Kinh nghiệm chứng minh cho thấy , muốn nắm được và vận dụng được các yếu lý này ít nhất cũng phải có công phu luyện tập vài năm ; còn những ai chuyên tâm nghiên cứu say mê thì một hai năm là có thể sơ bộ nắm được . 4. Giai đoạn ổn bộ đề cao : Sau khi sơ bộ nắm được tinh yếu của bài quyền , có thể tập thôi thủ và các loại binh khí (kiếm , đao , thưong) để nâng cao trình độ lên mãi . Con đường tiến trong vũ thuật phải biết là vô tận . 47. Muốn Phẩm Bình Trình Ðộ Công Phu Cao Thấp Của Một Người , Ta Dựa Vào Tiêu Chuẩn Nào ? Việc nâng cao chất lượng của TCQ không có giới hạn . Yêu cầu về việc nâng cao trình độ ở các nhà các phái cũng không giống nhau , cho nên trong quá khứ không thể đưa ra một hệ thống tiêu chuẩn để xét đoán nào cả . Các lão tiền bối trong quyền giới , với kinh nghiệm giang hồ đầy mình , chỉ cần liếc một cái là biết được hành lương của công phu của người nào là bao nhiêu , mà thành ngữ vũ thuật gọi là " Hành gia nhất thân thủ , tiên tri hữu một hữu " ( chỉ cần xem con nhà vũ thuật duỗi tay một cái là biết ngay công phu có hay không) , hay là
" Hành gia kháng môn đạo " (tức là xem họ xuất phát từ môn phái nào , từ sư trưởng nào) . Do đâu mà biết xét đoán chính xác vậy ? Bởi vì công phu luyện tập 10 năm so với công phu 20 năm tuyệt đối không như nhau . Sự bất đồng này có thể đứng trên vài phương diện mà quan sát so sánh thì rút ra được kết luận rõ ràng , nhất là đối với người ở trong nghề . Căn cứ vào đặc điểm của TCQ , có thể đưa ra các tiêu chuẩn sau đây : 1. Tư thức chính xác , ý thức tập trung . 2. Ðộng tác hiệp điều , tinh thần quán chủ . 3. Tiến thoái chuyên hoán , hư thực phân minh . 4. Tiền hậu liên quán , thượng hạ tương tùy . 5. Tốc độ quân quần , hô hấp tự nhiên . Các tiêu chuẩn trên tuy lời lẻ ngắn gọn nhưng ý nghĩa rất toàn diện , rất cụ thể ; thực hiện được các đìểm trên là điều kiện tối thiểu của việc luyện tập TCQ . Dùng chúng làm tiêu chuẩn để phẩm bình cái học của người tập , thực sự rất thích hợp vậy . 48. Thôi Thủ Là Gì ? Thôi Thủ Và Ðiều Gọi Là " Ðổng Kính " Có Quan Hệ Gì ? Ý Nghĩa Và Chúng Loại Của Thôi Thủ ? Thôi thủ , còn gọi là đáp thủ hoặc kháo thủ , là phương pháp luyện tập cách dụng chiêu khi cận chiến với đối thủ . Bất luận môn phái quyền thuật nào cũng có phương pháp thôi thủ riêng cho mình . Ý nghĩa của thôi thủ là gì ? Ở TCQ thôi thủ nhằm mục đích luyện việc đổng kính , tức là tăng cường năng lực cảm giác . Trong khi hai người thôi thủ , do sự tiếp xúc của tay hay bộ phận thân thể nào của đối phương với thân thể của mình , thì ta cảm giác được ngay đường đi nước bước kình lực của đối phương , khinh trọng hư thực ra sao , sau mới có thể triêm hoặc niêm tay của đối phương không để cho thoát , và khéo hơn nữa là dùng kình lực của đối phương trả lại đối phương , giử vững thế
chủ động của ta , và tùy ý đẩy đối phương ngã nhào . Như vậy mới là luyện được " Ðổng kính " . Ý nghĩa của thôi thủ chính là đổng kính vậy . TCQ Luận có nói : " Ðổng kính hậu dũ luyện dũ tinh " , tức là chỉ sau khi tri hành được đổng kính , mà càng luyện tập thì công phu càng tiến bộ rất nhanh , bấy giờ chiêu pháp mới xử dụng được một cách trọn vẹn . Có nhiều phương pháp thôi thủ , các phương thức thường thấy dùng gồm có : 1. Ðơn đáp thủ pháp : hai người đứng đối diện nhau , mỗi người đạp thực chân phải hoặc trái về phía trước một bước , dùng tay phải hoặc trái niêm nhau ở lún cổ tay , đẩy tới đẩy lui . 2. Song đáp thủ pháp : Tay phải và bộ pháp giống như trên , nhưng mỗi người dùng chưởng tâm trái của mình đở lấy cùi chỏ đối phương , bốn cánh tay cùng đáp , tạo thành một đường tròn . 3. Ðơn thủ bình viên thôi thủ pháp : Tức là mỗi bên dùng một tay đáp nhau ( chạm nhau ) nhưng đẩy đưa theo đường tròn . 4. Lý án thôi thủ pháp : Hai người thôi thủ , chỉ làm hai động tác lý và án . 5. Ðơn thủ lập viên thôi thủ pháp : Mỗi người chỉ dùng một tay đáp nhau , đẩy đưa thành đường tròn theo phương thẳng . 6. Lý tê thôi thủ pháp : hai người chỉ dùng hai động tác lý và tê . 7. Ðơn áp thôi thủ pháp : Mỗi người dùng một tay đưa đẩy mà làm động tác nén cổ
tay (áp cản động tác) . 8. Áp cản án trửu thôi thủ pháp : bốn cánh tay cùng đáp nhau , làm động tác áp cản và án trửu . 9. Tứ chính thôi thủ pháp : luyện bốn động tác Bằng , lý , tê , án (chia làm hai cách , định bộ và hoạt bộ) . 10. Tứ ngưng thôi thủ pháp : (thường gọi là đại lý) : luyện bốn động tác thái , liệt , trửu , kháo . Vì bề ngoài giống như chỉ là động tác lý mở rộng , cho nên gọi là đại lý . 49. Thế Nào Là Triêm , Niêm , Liên , Tùy ? Những Lổi Lầm Nào Dễ Phạm Khi Tập Thôi Thủ ? Thế Nào Thì Biết Là Ðổng Kính Thật Sự ? Trong khi thôi thủ , phải tuân thủ nguyên tắc triêm , niêm , liên , tùy , tức là làm sao cho bàn tay và cánh tay ta cùng với tay của đối phương luôn luôn duy trì sự tiếp xúc , bất luận động tác biến hóa ra sao , không được rời ra . Bốn chữ triêm , niêm , liên , tùy , được định nghĩa như sau : * Triêm : Có nghĩa là nâng lên , nhổ lên . Trong lúc đáp thủ với đối phương , bằng vào kỹ thuật thôi thủ của mình mà dẩn khởi thủ tý của đối phương , làm đối phương phải bật gót , mục đích là để hất té đối phương . * Niêm : Bất luận thủ pháp và thân pháp của đối phương biến hóa ra sao , thủ tý của ta không bao giờ rời thủ tý của đối phương , giống như đeo đuổi một cái gì vậy
* Liên : Cần phải biết làm cho lực của mình liên tiếp với lực của đối phương một cách có ý thức , để hóa giải lực của đối phương . * Tùy : Cùng đối phương đáp thủ , khi đối phương muốn thoát , ta theo liền tức thì , và đây chính là cơ hội để thủ thắng . Lúc mới học thôi thủ , chưa thể Ðổng kính được và trong lúc này người học dễ mắc phải các lổi sau : Ðình : Hễ khi kình lực đối phương phát sinh là lập tức có phản ứng đề kháng , tức là để xúc ( tiếp xúc có đề kháng ) . Kháng : so với xúc thì trầm trọng hơn , tức là luôn luôn có phản ứng đề kháng kình lực của đối phương . Biển : động tác không kịp thời , mất liên , mất tùy . Ðâu : không những không kịp thời , mà còn tách rời tay của đối phương , mất niêm . Muốn đạt được tình trạng đổng kính thực sự , phải trải qua một thời kỳ tập luyện , lúc bấy giờ mới đi thôi thủ theo hình thức cố định sang thôi thủ không câu nệ hình thức , có thể tùy ý mà biến hóa động tác ; bất luận tiến thoái chuyển hoán , lên xuống nhanh chậm đều có thể tùng tâm sở dục , thuận lợi , cơ hồ như bộ phận nào của thân thể cũng đều sẳn sàng tiếp ứng với hai tay . 50. Có Bao Nhiêu Dộng Tác Thôi Thủ ? Nội dung của thôi thủ có tám động tác : băng , lý , tê , án , thái , liệt , trửu , kháo .
Thường được phân biệt làm tứ chính thôi thủ bao gồm bốn động tác đầu , và tứ ngưng thôi thủ gồm bốn động tác sau . 1. Băng ( quen đọc là bằng ) : Có ý nghĩa nâng lên trên , lúc đáp thủ , phát kình nghịch đối phương , làm kình lực đối phương không thể đi xuống , gọi là bằng , nếu làm đúng phép có thể làm đối phương bay bổng lên . 2. Lý : Lúc đáp thủ , nếu đối phương dùng thế bằng hoặc thế tê đối với ta , thì ta thuận thế mà lý về đàng sau bên dưới ; nếu làm đúng thế có thể làm đối phương ngã nhào về đàng trước . 3. Tê : Lúc đáp thủ ta dùng bàn tay hoặc cánh tay ngăn đẩy đối phương , làm đối phương không thể động thủ , rồi sau đó đẩy đối phương ra . 4. Án : Lúc đáp thủ , nếu đối phương dùng thế tê đối với ta , thì ta liền dùng tay hạ án phá thế tê . 5. Thái : Lúc đáp thủ , hễ nén (chế) đối phương , nắm bắt (thái : hái lấy) lực của đối phương ngay sát thân của đối phương , đều gọi là thái . Người giỏi dùng thế thái không kể lực của đối phương công kích tới như thế nào chăng nữa , đều có thể thái mà phá giải , và chọn chổ nhược của đối phương mà phản công lại . 6. Liệt : Có nghĩa là làm xoay chuyển (nửu chuyển) ; lúc đáp thủ nếu ta dời được , hóa giải được lực của đối phương và tấn công đối phương , gọi là liệt , mà trong lực học gọi là phân giải lực lượng đối phương , rối từ trắc diện tấn công thì có thể
châu chấu đá voi . 7. Trửu : Là quan tiết ở giữa cánh tay . Trong TCQ , dùng chỏ đánh địch gọi là dùng thế trửu . 8. Kháo : Dùng vai và mé ngoài của lưng đánh địch gọi là kháo ; lúc tiếp cận thân địch chính là cơ hội thích hợp để dùng kháo , chớ xem thường . 51. Trong Môn Thái Cực Quyền Có Binh Khí Nào ? Các Bài Binh Khí Ðó có Những Ðặc Ðiểm Gì ? Trong môn phái TCQ , trừ quyền ra còn có dùng binh khí là Thái Cực kiếm , Thái Cực đao , Thái Cực thương , Luyện tập các món binh khí này phải giử nguyên tắc như khi luyện quyền . 1. Về mặt động tác : liên quán có hệ thống , tốc độ đều đặn , hư thực phân minh , kết hợp hô hấp . 2. Về mặt tư thế của thân thể : đầu dung đoan trực ,vĩ lư trung chính , hàm hung bạt bối , trầm kiên trụy trửu . 3. Về mặt tâm lý : tinh thần quán chú , tinh thần nội liểm , tư tưởng tập trung , dụng ý bất dụng lực . Ngoài còn có mấy điểm cần nói rõ : 1. TCQ cổ truyền không hề dùng binh khí , các bài kiếm , đao , thương do người sau dựa vào nguyên lý của TCQ mà đặt ra . 2. Trước tiên thì phải học quyền trước đã , sau khi có cơ sở vững vàng rồi mới học đến đao , kiếm , thương . 3. Luyện tập các môn binh khí phái TCQ rất dễ phạm lổi là không còn giử đúng nguyên tắc , phong cách TCQ , mà rơi vào tình trạng giống như múa binh khí theo như các môn phái khác . Muốn tránh lổi này , phải học hỏi cho kỹ yếu lĩnh của các bài binh khí , tuần tự mà học , mỗi lần đi bài nên đi song song cùng với bài quyền , chớ nên chỉ tập riêng các môn binh khí mà thôi .
52. Những Người Yếu Ðuối Hay Bệnh Hoạn , Khi Luyện TCQ Nên Lưu Tâm Ðiều Gì ? Những người yếu đuối hoặc bệnh hoạn mà luyện TCQ , nên căn cứ vào thể chất , bệnh tình và lòng say mê mà ấn định cho mình thời gian , số lần và lượng vận động . Tình huống thể chất mỗi người khác nhau nên ở đây không thể ấn định rõ , mà chỉ căn cứ vào tình huống thông thường để nêu ra một vài đề nghị để người học tham khảo . 1. Những người yếu đuối nhưng không có bệnh có thể mỗi ngày luyện tập tương đối nhiều lần , nhưng mỗi lần tập không nên lâu , làm động tác tư thức nên cố gắng làm cho chính xác ; khi nào thấy người khõe hơn thì mới gia tăng lượng vận động một cách tương ứng . 2. Sáng tinh sương là lúc tốt nhất để các cụ già luyện tập TCQ , nếu tinh thần sãng khoái thì nên tập nhiều hơn , nếu uể oải thì tập đôi chút thôi ; buổi chiều có thể tập chốc lát , buổi tối nên đi ngủ sớm thì tốt , có thể không tập . 3. Nếu ở bệnh viện hoặc dưỡng viện nên tập theo sự hướng dẩn của y sĩ . Khi luyện tập nếu có phản ứng đặc biệt nào nên thông báo ngay cho y sĩ , chớ nên nín lặng . Nếu như muốn thay đổi giờ giấc luyện tập hoặc lượng vận động , nên hỏi ý kiến y sĩ . 4. Ðối với những người có bệnh mạn tính không nặng lắm và không cần vào bệnh viện để điều trị , vẫn có thể tập một mình , nhưng cũng cần phải ấn định thời gian và lượng vận động .
* Những ai suy nhược thần kinh thì nên sớm hôm tập luyện , đặc biệt là đối với giờ tập buổi tối , nên kiên trì không xao lãng , bởi lẻ , qua sự luyện tập , tinh thần nội liễm , vỏ đại não ở trạng thái ức chế , thân thể trở nên thấm mệt , các điều này làm cho người suy nhược thần kinh có giấc ngủ ngon hơn . * Những ai bị viêm quan tiết , trong phạm vi khả năng của mình , nên tập mỗi ngày nhiều lần , tuy mỗi lần không lâu . Mỗi lần tập xong , nên xoa bóp nhè nhẹ các quan tiết , để xúc tiến sự tuần hoàn của máu và cải tiến cơ năng của quan tiết . * Những ai có áp huyết cao thì đi quyền phải thật chậm rãi và nhất là tâm phải tĩnh . * Những ai bị bệnh bao tử , ruột , nên tùy nghi gia tăng số lần tập và lượng vận động , tập rồi chà xát bụng , lâu ngày cơ quan tiêu hóa sẽ khõe khoắn , bụng thèm ăn nhiều hơn , việc đại tiện sẽ rất thoãi mái . * Những ai bệnh phổi mới kết hạch hoặc đã calcium hóa , khi hô hấp nên tự nhiên , không dùng lực , nên tập luyện ở chổ không khí trong lành . * Phụ nữ có kinh nguyệt không điều hòa , không nên vận động quá nhiều , quá lâu , nên ngưng tập những ngày có kinh . Tóm lại , những ai có bệnh mạn tính , khi tập TCQ nên giử cho tinh thần lạc quan , tươi vui , quên đi bệnh tật , và kiên trì luyện tập . Ðối với bệnh mạn tính thông thường , chỉ trên dưới một tháng luyện tập là đã có biến chuyển tốt , và nếu cứ kiên trì luyện tập như thế , có tập cả khí công càng tốt , thì hiệu quả dưỡng thân rất là vững chắc .
53. TCQ Trần Gia Và TCQ Dương Gia Khác Nhau Ở Chổ Nào ? Trong tương quan giữa tất cả các bài TCQ hiện đang lưu truyền khắp nơi thì bài TCQ Trần Gia là cổ xưa nhất , nhưng bài TCQ Dương Gia thì phổ biến nhất . Tuy hai bài quyền này có chung cơ sở là thập tam thế , nhưng đặc điểm vận động và hình tượng lại khác nhau rõ rệt , Sự khác nhau đó là : 1. Về động tác tư thức : Bài Trần Gia có một số động tác đặc hữu như : Kim Cương Ðảo Trủy , Lãn Trác Y , Yếm Thủ Quăng Trùy , Phục Hổ Thế , Huyền Cước Linh (tức Nhị Khởi Cước) , Thủ Ðầu Thế , Tước Ðịa Long , Triều Thiên Ðẳng , Ðương Ðầu Pháo, v.v. Còn một số động tác tương đối lớn , khó ước lượng , như Tảo Ðường Cước , Nhị Khởi Cước , Toàn Phong Cước , Bãi Cước Ðiệt Xoa , và một số động tác tương đối nhiều như Ðơn Chấn Cước và Song Chấn Cước . Bài này có khá nhiều động tác rất giống động tác của Thiếu Lâm quyền , nên có người nhận lầm nó là Thiếu Lâm quyền . Bài Dương Gia có một số động tác đặc hữu như : Lãm Tước Vĩ , Lâu Tất Ảo , Ban Lan Trùy , Bảo Hổ Quy Sơn , Ðảo Niện Hầu , Tả Hửu Phân Cước , Tả Hửu Ðả Hổ Thế , Ngọc Nữ Xuyên Thoa , Phiến Thông Bối .v.v. Toàn bộ bài quyền không hề có động tác chấn cước (dẫm chân) , đằng không (bay bổng) , khiêu được (nhảy nhót) , và hư tọa (ngự xổm) trên mặt đất .
2. Về phương diện dụng kình : Các động tác dụng cước , phát quyền trong bài Trần Gia được thực hiện một cách cương nhu tương tế , trong một trạng thái toàn thân buông lỏng quan tiết và cơ nhục đều buông lỏng được vậy mới có thể phát cương kình (thốn kính) . Kình phát ra từ cột sống eo (yêu tích) , chứa kình thì chậm , phát kình thì nhanh . Phàm các động tác đường tròn hay đường cung đều đòi hỏi phát kình xoắn theo hình trôn ốc (la toàn hình đích triền ty kính) . Ðộng tác Dương Gia thì khinh linh , trầm trước , khinh tung , nhu hòa , dụng ý bất dụng lực , tốc độ đều đều , không nhanh không chậm , như mây trôi nước chảy . Các động tác đường tròn hay đường cung không tạo thành kính xoắn hình trôn ốc . 3. Về các mặt khác : Yêu cầu của bài Trần Gia đối với sự luyện tập động tác tư thức , hô hấp , vận kình rất cao , nên khó học . Sự truyền thụ không được rộng rãi bằng bài Dương Gia . Bài Dương Gia rất được phổ biến , vì đường quyền khinh tung linh hoạt , thư triển rộng rãi , không dụng cương kình , không có các động tác khó như bay nhảy , chém chỉa , cho nên thích hợp với người có thể lực yếu đuối , trung niên , và vãn niên hơn là bài Trần Gia . 54. Tại Sao động Tác Của TCQ Lại Ði Theo Ðường Tròn Hoặc đường cung (Viên Hình hoặc Hồ Hình) ? Trên Phương Diện Sinh Lý Và Kỹ Thuật Chiến Ðấu , Sự Di Chuyển Ấy Có Ý Nghĩa Gí ?
Trong TCQ động tác của hai tay luôn luôn là động tác của đường tròn hoặc đường cung , có thể là đường tròn nhỏ , đường tròn lớn , đường ellipse và đường bán nguyệt (tiểu viên , đại viên , thỏa viên , và bán viên) , cho nên có người từng gọi TCQ là "vận động tròn" (viên vận động) và sự mệnh danh này có lý do của nó . Loại động tác này rõ ràng khác hẳn loại động tác trực xuất trực nhập của Thiếu Lâm quyền . Kết cấu quyền thuật tương đối phức tạp , đa dạng , tư thức đẹp đẻ và đầy quyến rũ . Các điểm ưu mỹ này là kết quả của một sự diễn tiến liên tục . Trong quá khứ , đã có người xử dụng Bát Quái , Ngủ Hành của Thái Cực Ðồ cùng với quan niệm tương sinh tương khắc , hoàn toàn tương nhiều của Thái Cực Ðồ , mà giải thích động tác đường tròn , đường cung của TCQ . Lời biện giải này là hư hoặc , không tin vào đâu được . Ở đây chúng ta hãy căn cứ vào sinh lý học và thực dụng chiến đấu mà xem xét vấn đề . Trên mặt sinh lý học mà nói , các quan tiết của thân thể như vai , chỏ , cổ tay , háng , đầu gối đều có dáng tròn , giống như trục cửa . Dạng kết cấu này của quan tiết làm cho thân thể hoạt động linh hoạt . Hoạt động của thân thể vốn rất phức tạp , nhiều loại nhiều dạng , nhưng hoạt động tròn là tự nhiên nhất . Ví dụ nếu ta lấy vai làm tâm đường tròn , cánh tay duỗi thẳng làm bán kính , ta được một đường tròn lớn , và động tác tạo đường tròn này rất là tự nhiên , vì nó phù hợp với cấu trúc tròn của quan tiết , Thân thể ngoài các quan tiết tương đối lớn ở tứ chi , còn có nhiều quan tiết nhỏ hơn trên cột xương sống ; các quan tiết nhỏ này nhờ sự vận
động đường tròn , đường cung mới có cơ hội hoạt động đều khắp và phát triển đều đặn . Vận động tròn cũng làm rất nhiều cơ được dịp hoạt động . Ví dụ như trong các động tác Vân thủ , Ðảo niệm hầu , Dã mã phân tông , gần như khối thịt nào cũng hoạt động cả . Ngoài ra , sự biến hóa của động tác đường tròn tương đối phức tạp đa dạng , và như vậy có tác dụng rất tốt đối với sự huấn luyện trung khu thần kinh và sự đìều tiết cơ năng của các khí quan dưới ảnh hưởng của hệ thần kinh . Trên mặt chiến đấu mà xét thì sự biến chuyển linh hoạt , bất trệ bất sáp , biến hóa vạn đoan , dễ dàng hóa giải lực của đối phương mà trả lại cho đối phương , các tính chất này của động tác đường tròn rất hợp với nguyên lý của lực học . Lúc luyện thôi thủ tức là áp dụng các nguyên lý về đòn bẩy , trục , phân lực , hợp lực và di động trọng tâm , cho nên chỉ cần lực nhỏ mà có thể thắng lực lớn . Trong TCQ luận có nói : "sát tứ tượng bát thiên cân chi cú,hiển phi lực thắng" , chính là đề cập đến kết quả của sự áp dụng các nguyên lý trên . Ngoài ra động tác đường tròn , chỉ cần thân chuyển khác đi một chút là có thể biến thành động tác chiêu pháp khác , cho nên lúc dụng chiêu mới không hay bị dẫn tiến lạc không và lúc phá chiêu cũng dễ phòng thủ . Tập thôi thủ tới một trình độ nhất định nào đó thì có thể hóa hiểm thành suông , biến nguy thành an , chuyển bị động sang chủ động , là nhờ ở các quan tiết năng vận dụng động tác đường tròn .
55. Lúc Luyện Tập TCQ , Một Vài Bộ Phận Thân Thể Nào Ðó Bị Run Run Là Vì sao ? Làm Thế Nào Khắc Phục ? Lúc luyện tập TCQ , khi thực hiện một số động tác xoay tròn (Vân thủ , Cao thám mã) hoặc những động tác tương đối tốn sức (Kim kê độc lập , Tả hữu phân cước) thường xảy ra hiện tượng run run . Nếu nhẹ thì tình trạng này chỉ xuất hiện tạm thời ở một vài động tác nhất định ; nếu nặng thì thường là xuất hiện ở đa số các động tác mà không thể ngăn lại được , tạo thành một gánh nặng tinh thần . Vì sao lại bị run ? Vì chưa viên hoạt khinh linh , lúc vận động không buông lỏng cơ nhục . Người mới học dễ bị lổi này nhất . Cũng có người lúc bình thường đi quyền khá khinh linh viên hoạt , không căng thẳng , không hề bị run , nhưng khi đi quyền để tranh đua hơn kém thì tinh thần trở nên căng thẳng đến độ phát run , Cũng có người vì không được chỉ dạy đàng hoàng mà cho rằng sự run run là một điều tốt , là tình trạng "khí đun đẩy" phải có một trình độ công phu nào đó mới có được . Nhận lầm như thế cho nên cứ truy cầu sự run run , lâu ngày thành thói quen rất khó sửa đổi . Chúng ta cần phải biết rằng , phát run không phải là hiện tượng dũng , không phải là dấu hiệu của sự phát triển công phu , mà là dấu hiệu của sự tẩu hỏa nhập ma . Sự run rẩy làm ảnh hưởng đến vẽ mỹ quan của tư thức , sự chính xác của động tác , và khi đến mức độ nghiêm trọng là thành thói quen tật rồi thì lúc cầm bút , nắm đồ
vật , dơ tay dơ chân cũng run run , thì đây là điều tai hại vô cùng . Làm thế nào ngăn ngừa và chấm dứt hiện tượng này ? Ngay lúc mới học phải giử tinh thần cho được trầm tĩnh , cơ nhục buông lỏng , tuyệt không căng thẳng ; sự co duỗi của tay , sự biến hóa của chiêu thức rất mực tự nhiên . Nên học một cách tiệm tiến , chớ có gấp rút . Theo cách tập nầy sẽ ngăn ngừa một cách dễ dàng cái hiện tượng run rẩy . Nếu như đã mắc thói quen run rẩy rồi thì lại càng phải tập trung tinh thần mà sửa chửa , đi lại từ đầu như mới học , thì dần dà mới dứt điểm được thói xấu ấy . 56. Thái Cực Quyền Và Khí Công Có Khác Nhau Không ? Hai Môn Này Có Bổ Túc Cho Nhau không ? TCQ không phải khí công mà là quyền thuật . Có người dựa vào yêu cầu "tâm tĩnh" và "động tác và hô hấp kết hợp với nhau" mà bảo rằng TCQ là một hình thức của khí công . Nhận định này sai . TCQ chủ yếu là một loại vận động nhằm rèn luyện thân thể . TCQ và Thiếu Lâm quyền cùng thuộc vào loại vận động thể dục . TCQ và khí công khác nhau . Các điểm khác nhau là : 1. TCQ lấy "động" làm chủ , là một bài quyền được tạo thành bởi nhiều tư thế ưu mỹ . Khí công thì lấy "tĩnh" làm chủ . Tuy có biện biệt thành tọa công , trạm công , và ngọa công , nhưng lúc vận dụng , bất kỳ hình thức khí công nào cũng đều nhằm yêu cầu "nhập tĩnh" .
2. Lúc luyện tập , TCQ yêu cầu "tinh thần nội liễm" , "tư tưởng tập trung" là biểu hiệu của "động trung cầu tĩnh" . Lúc luyện khí công , hô hấp kéo dài và dưới ảnh hưởng của sự hô hấp mà sự tuần hoàn của máu được xúc tiến , tác dụng chuyển hóa tăng nhanh . Như lúc luyện tĩnh tọa , bề ngoài trông thấy rất an tĩnh nhưng trong thân thể là cả một hòa điệu của sự hoạt động sinh lý . Khí công biểu hiệu cho "tĩnh trung cầu động" . 3. Lúc tập TCQ , động tác và sự hô hấp kết hợp với nhau một cách tự nhiên . Sự co , duỗi , lớn , nhỏ của động tác TCQ ảnh hưởng đến không khí trao đổi trong lúc vận động , làm cho dung lượng khí trao đổi tương ứng với động tác không bằng nhau . Còn phương thức hô hấp của khí công , tuy có chia ra thành thuận hô hấp , nghịch hô hấp và hô hấp tự nhiên . Nhưng bất luận dùng phương pháp nào thì cũng đều là sự hô hấp có quy luật , đòi hỏi phải đều đặn , khó kết hợp với động tác . 4. TCQ có ba loại tác dụng : kiện thân , khước bệnh ,và kỹ k.(là chiến đấu) , trong khi đó khí công chỉ có hai tác dụng đầu . Về phương diện trị liệu các bệnh mạn tính như sưng dạ dày , xệ dạ dày , huyết áp cao , khí công có hiệu quả hơn , cho nên mới được mệnh danh là "khí công liệu pháp" , trong khi đó TCQ chỉ được gọi là "y liệu thể dục" .
TCQ và khí công đều có giá trị y liệu và kiện thân , cho nên có thể đồng thời luyện chúng để lấy sở trường của cả hai . Luyện khí công (như tĩnh tọa chẳng hạn) , tuy có thể thông qua sự hô hấp theo cách thức nhất định là cho máu tuần hoàn nhậm lẹ và tác dụng chuyển hóa trong cơ thể xảy ra mau chóng , nhưng thân thể vốn dĩ thiếu hoạt động , nên không thể rèn luyện gân cốt bắp thịt . Ðể bù vào khuyết điểm này , người tập khí công có thể tập TCQ để các bộ phận cơ thể có cơ hội hoạt động . Những người bệnh đang dùng khí công liệu pháp để điều trị mà tập thêm TCQ là tốt nhất , bởi vì trên phương diện y liệu thể dục thì những người ấy đâu còn thích hợp với các loại vận động kịch liệt nữa . Thật vậy , lấy TCQ làm loại vận động phụ trợ cho khí công liệu pháp để điều trị người bệnh thì hiệu quả rất tốt , làm giảm rất nhanh quá trình điều trị . Ðối lại , tình trạng "tâm tĩnh" củ lúc luyện TCQ có tác dụng ức chế đối với vỏ đại não không mạnh bằng lúc luyện khí công . Ðối với các bệnh mạn tính , dùng khí công điều trị thì có kết quả nhanh hơn . Vì vậy , người có bệnh mạn tính nên luyện khí công làm chính , và luyện TCQ để phụ trợ thì kết quả rất tốt . Người mạnh khõe , nhất là người lao động trí óc và người già cũng nên kiêm luyện hai môn này , ích lợi vô cùng .
57. Sự Tập Luyện TCQ Có Giúp Ta Rèn Luyện Bắp Thịt không ? Nhất Là Bắp Thịt Bụng ? Bụng Nở To Và Sự Luyện Tập TCQ Có Quan Hệ Gì Không ? Chúng ta đã biết môn vận động TCQ là một bài quyền được tạo thành bởi nhiều động tác Phủ , Ngưỡng , Khúc , Thân (Cúi , ngữa , co , duỗi) . Ði xong một bài quyền thì toàn thân phát nhiệt . Ðiều này chứng minh rằng đi một bài quyền TCQ là thực hiện một lượng vận động nhất định . Nếu so sánh với các môn đấu vật , cử tạ , và các môn thể thao khác , lượng vận động của TCQ tương đối kém hơn . Các môn vận động trên , bằng các hoạt động kỹ xảo , có thể rèn luyện bắp thịt làm thân hình nở nang , đẹp mắt . TCQ thì "khó tính" , bắt phải dùng ý chớ không được dùng sức , lấy "tâm , ý , thần ,khí" chi phối sự thực hiện toàn bộ động tác bài quyền . Không lấy việc nở nang bắp thịt , khõe như trâu làm mục đích , mà mục đích là khước trừ tật bệnh . Do đó TCQ không làm cho thân hình có những bắp thịt cuồn cuộn rắn chắt đẹp mắt . Nhưng điều này thật ra không cần phải nói , ở những người tập TCQ , có khuynh hướng mập ra , bụng cũng có khuynh hướng nở ra . Vấn đề một người nào đó mập ra , theo đó bụng cũng nở ra , là do nhiều nhân tố , như điều kiện sinh hoạt cao hay thấp , sự sinh hoạt có điều độ mực thước hay không , tâm tính có thoải mái hay không ; nhưng nhiều người dù có đũ các điều kiện này cũng không nhất định trở nên mập mạp béo tốt , Tóm lại , chúng ta không nên lấy việc làm thân thể
trở nên mập mạp là kết quả duy nhất của TCQ . Ở đây cần nói rõ một điều là có nhiều người yêu TCQ , không hiểu "khí trầm đan điền" là tác dụng chi phối của ý thức , tức là lúc hít hơi vào thì từ từ hít vào một cách có ý thức giống như là rót vào đan điền , mà lại hiểu "khí trầm đan điền" là "tận lượng thâu sức" (hết sức hóp bụng) , rồi khi tập luyện lâu ngày , bụng sẽ nở to ra , tập như vậy là sai , như đã nói trên , đạt cái không phải là mục đích của nó . Như vậy , muốn có một thân thể đẹp mà khõe nữa thì trừ TCQ ra , ta có thể tập thêm một môn vận động tương đối tốn sức và thiên về phát triển bắp thịt . 58. "Liễm Ðồn" Và "Ðiệu Ðáng" Là Gì ? Trong TCQ Chúng Có Ý Nghĩa Gì ? Liễm đồn còn gọi là thủy đồn hoặc hộ đồn . Liễm đồn là một tư thế theo đó bất kỳ một động táp nào mà người trầm xuống ta đều giử cho mông tự nhiên buông xuống (tự nhiên hạ thùy) , chứ không chống ra sau . Ðiệu Ðáng còn được gọi là điếu đang là một tình trạng cơ thể , đó là lúc luyện quyền ta làm cho cơ nhục gần giang môn (hậu môn) nhè nhẹ đưa lên ( tức là nhíu hậu môn) . Việc liễm đồn trong lúc luyện quyền là nhất trí với yêu cầu "vĩ lư trung chính" và "đỉnh đầu huyền" . Trên mặt sinh lý , liễm dồn có hai ý nghĩa : Giử được trạng thái tự nhiên của thân thể , làm cho thân thể nẩy nở tự nhiên .
Tiện cho khí trầm đan điền , khí huyết hoán thông . Trên mặt kỹ kích , cũng có hai ý nghĩa : Liễm đồn thì dáng mới tròn , toàn thân mới hợp thành chỉnh kính (kính hoàn chỉnh không dứt) , động tác của hạ chi mới có thể khinh linh vô trệ , tiến thoái na di (dời đổi) mới mau mắn trơn tru . Ðộng tác TCQ lấy eo làm chủ thể , eo như trục xe mang thượng chi và lưỡng quyền , cải chiêu hoán thể đều có thể theo ý muốn mà ứng thủ ; trái lại , không liễm đồn thì mông dao động lắc lư trái phải làm cho eo dao động , thì toàn thân tán loạn , rất dễ bị đối phương chế ngự . Cùng lúc với liễm đồn là điệu đáng , tức là không để cho co nhục ở hậu môn hở ra , buông ra , mà làm cho khép , thâu vào . Trên mặt sinh lý , điệu đáng có hai ý nghĩa : Xúc tiến sự tuần hoàn của một phần nào huyết dịch nội tạng ở hậu môn , trực trường và phúc xoang . Giúp cho eo và xương sống ngay ngắn , nẩy nở tự nhiên . Trên mặt kỹ kích , có điệu đáng mới dễ cho việc hình thành kính hoàn chỉnh nối thượng và hạ chi , và để cho việc điều tiết linh hoạt tính của thân thể . 59. Mười Thân Pháp Của TCQ Gồm Có Những Cái Nào ? Mười thân pháp của TCQ là : 1. Hàm hung 6. Ðiếu đáng 2. Bạt bối 7. Tung kiên 3. Lý đáng 8. Trầm trửu 4. Hộ đồn 9. Thiểm chiến 5. Ðề đỉnh 10. Ðẳng na Tám thân pháp đầu là các điểm quan trọng về phương diện thể thế mà ta phải tuân thủ khi luyện tập . Ðã được giải thích ở các phần trên , không cần lập lại , Ở đây chỉ đề cập hai thân pháp "thiểm chiến" và "đẳng na" .
Thiểm chiến còn gọi là "thiểm triển" , có nghĩa là mẫn tiệp , tấn tốc (nhanh vùn vụt) . (Thiểm nghĩa đen là chớp trong sấm chớp) , "Ðẳng na" (đẳng là chồm tới , nhảy vút lên ; na là dời , nhấc) chỉ sự linh mẫn của sự biến hóa của thân pháp và sự di động của bộ pháp . Lúc đi quyền nên chú ý yếu lĩnh này , và nhất là lúc hai người thôi thủ lại càng phải chú ý đến hai thân pháp này mới tránh được cái tệ chậm chạp , nặng nề , vụng về . Có người hiểu lầm TCQ thế này . Ðộng tác TCQ khi tập thì chậm chạp , lúc tập thôi thủ cũng không nhanh lắm . Và họ kết luận là về mặt chiến đấu , giá trị của TCQ không cao , tác dụng không lớn . Họ có biết đâu động tác chậm rãi của TCQ là có cơ sở lý luận đàng hoàng , hơn nữa là loại động tác chậm rãi có giá trị rất cao về mặt sinh lý . Tập thôi thủ tương đối chậm rãi có chủ yếu là bồi dưỡng cảm giác linh mẫn để đạt đến tình trạng đống kính . Bất luận đi quyền một mình hay hai người thôi thủ , tuy thực hiện động tác chậm rãi từ tốn , nhưng không có nghĩa là đánh mất sự khinh linh mẫn tiệp . Chậm rãi có thể biến thành nhanh lẹ , trầm ổn cũng là lấy khinh linh mẫn tiệp làm cơ sở . Vương Tông Nhạc có viết trong Thái Cực Quyền Luận : " Ðộng cấp tắc cấp ứng , động hoãn tắc hoãn tùy " , và " tuy thế hữu khu biệt , khái bất ngoại hồ tráng khi nhược , mạn nhược khoái , hữu lực đả vô lực , thủ mạn nhượng thủ khoái nhỉ " .
Như vậy ta có thể nói TCQ không phải chỉ đòi hỏi sự chậm rãi mà không đòi hỏi sự mẫn tiệp , chỉ có thể chậm mà không thể nhanh . Ðó là yêu cầu về thân pháp và bộ pháp củ "thiểm chiến" và "đẳng na" vậy . PHỤ LỤC : Thái Cực Quyền Luận Vương Tông Nhạc Thái cực giả , vô cực nhi sinh , động tĩnh chi cơ , âm dương chi mẫu dã . Ðộng chi tắc phân , tĩnh chi tắc hợp . Vô quá bất cập , tùy khúc tựu thân . Nhân cương ngã nhu vị chi tẩu , ngã thuận nhân bối (cbc: nghịch) vị chi niêm . Ðộng cấp tắc cấp ứng , động hoãn tắc hoãn tùy . Tuy biến hóa vạn đoan nhi lý vi nhất khí . Do trước thục nhi tiệm ngộ đống kính , do đống kính nhi giai cập thần minh ; nhiên phi dụng lực chi cứu , bất năng khoát nhiên quán thông yên , Hư linh đỉnh kình , khí trầm đan điền , bất thiên bất ỷ , hốt ẩn hốt hiện . Tả trọng tắc tả hư , hữu trọng tắc hữu yểu . Ngưỡng chi tắc di cao , phủ chi tắc di thâm ; tiến chi tắc dũ trường , thối chi tắc dũ xúc . Nhất vũ bất năng gia , đăng trùng bất năng lạc . Nhân bất tri ngã , ngã độc tri nhân , anh hùng sở hướng vô địch , cái do thử nhi cập dã . Tư kỹ bàng môn thậm da ; tuy thế hữu khu biệt , khái bất ngoại hồ tráng khi nhược , mạn nhượng khoái nhĩ . Hữu lực đả vô lực , thũ mạn nhượng thủ khoái ; thị giai tiên thiên tự
nhiên chi năng , phi quan học lực nhi hữu vi dã , Sát tứ tượng bát thiên cân chi cú , hiển phi lực thắng ; quan mạo điệt năng ngư chúng chi hình , khoái hà năng vĩ . Lập như bình chuẩn , hoạt tự xa luân . thiên trầm tắc tùy , song trọng tắc trệ . Mỗi kiến sổ niên thuần công bất năng vận hóa giả , suất tự vi nhân chế , song trọng chi bệnh vị ngộ nhĩ , Nhược dục tỵ thử bệnh , tu tri âm dương . Niêm tức thị tẩu , tẩu tức thị niêm . Âm bất ly dương , dương bất ly âm ; âm dương tương tế , phương vi đống kính . Ðống kính hậu dũ luyện dũ tinh , mặc thức suỷ ma , tiệm chí tùng tâm sở dục . Bản thị xả kỹ tùng nhân , đa ngộ xả cận cầu viển . sở vị sai chi hào ly , mậu chi thiên lý . học giả bất khả tưởng biện yên . Thử luận cú cú thiết yếu , tịnh vô nhất tự phu diễn bồi sấn , phi hữu tức tuệ , bất năng ngộ dã . Tiên sư bất khẳng vọng truyền , phi độc trạch nhân , diệc khủng uổng phí công phu nhĩ . Thị vi luận . Trường quyền giả , như trường giang đại hải , thao thao bất tuyệt dã . Băng , lý , tê ,án , thái , liệt , trửu , kháo thử bát quái dã . Tấn bộ , thối bộ , tả cố , hữu phán , trung định , thử ngũ hành dã , Băng , lý , tê , án , túc, khãm , ly , chấn , đoài , tứ
chính phương dã . Thái , liệt , trửu , kháo tức càn , khôn , cấn , tốn , tứ tà giác dã . Tấn , thối , cố , phán , định , tức kim , mộc ,thủy , hỏa , thổ dã . Hợp chi tắc vi thập tam thế dã . Thập Tam Thế Hành Công Tâm Giải Vũ Vũ Tương Dĩ tâm hành khí , vụ lệnh trầm trước , nãi năng thu liễm nhập cốt . Dĩ khí vận thân , vụ lệnh thuận toại , nãi năng tiện lợi tùng tâm . Tinh thần năng đề đắc khởi tắc vô trì trọng chi ngu sở vị đỉnh đầu huyền dã . Ý khí tu hoán đắc linh , nãi hữu viên hoạt chi diêu (cbc: thú ) , sở vị biến chuyển hư thực dã . Phát kính tu trầm trước tung tịnh , chuyên chú nhất phương . Lập thân tự trung chính an thư , chi sanh bát diện . hành khí như cửu khúc châu , vô vi bất đáo (cbc: vô vãn bất lợi) (khí biến thân khu chi vị dã) . Vận kính như bách luyện cương , vô kiên bất tồi . hình như bát thố chi cốt , thần như bộ thử chi miêu . Tĩnh như sơn nhạc , động nhược giang hà . Súc kính như khai cung , phát kính như phóng tiển . Khúc trung cầu trực , súc nhi hậu phát . Lực do tích (cbc: bối) phát , bộ tùy thân hoán . Thâu tức thị phóng , phóng tức thị thâu , đoạn nhi phục liên . Vãng phục tu hửu triệu điệp (cbc: triệt điệt) , tiến thoái tu hữu chuyển hoán . Cực nhu nhuyễn nhi hậu cực chuyên cương . Kiên cương . Năng hô hấp , nhiên hậu năng linh hoạt . Khí dĩ trực dưỡng nhi vô hại , kính dĩ khúc súc di hữu dư . Tâm vi lệnh , khí vi kỳ , yêu vi đạo . Tiên cầu khai triển , hậu cầu khẩn trăn , nãi khả trăn ư chẩn mật hỹ .
Hựu viết : Tiên tại tâm hậu tại thân . Phúc tung tịnh , khí liềm nhập cốt . Thần thư thể tĩnh , khắc khắc tại tâm . Thiết ký nhất động vô hữu bất động , nhất tĩnh vô hữu bất tĩnh . Khiên động vãng lai , khí thiếp bối nhi liễm nhập tích cốt , nội cố tinh thần , ngoại thị an dật . Mại bộ như miêu hành , vận kính như trừu ty . Toàn thân ý tại tinh thần , bất tại khí ; tại khí tắc trệ . Hữu khí giả vô lực ; vô khí giả thuần cương . Khí như xa luân , yêu tự xa trục . Hựu viết : bĩ bất bất động , kỹ bất động ; bĩ vi động , kỹ tiên động . Kính tự tung phi tung , tương triển vị triển , kính đoạn ý bắt đoạn . Nhất cử động , chu thân câu yếu khinh linh , vưu tu quán xuyến , khí nghi cổ đảng , thần nghi nội liễm . Vô sử hữu khuyết hãm xứ , vô sử hữu đột ao xứ , vô sử hữu đoạn tục xứ . Kỳ căn tại cước , phát ư thối chủ tể ư yêu , hình ư thủ chỉ . Do cước nhi thối , nhi yêu tổng tu hoàn chính nhất khí ; hướng tiền thối hậu , nãi năng đắc cơ đắc thế . Hữu bất đắc cơ đắc thế xứ , thân tiện tán loạn . Kỳ bệnh tất ư yêu thối cầu chi . Thượng hạ tả hữu tiền hậu giai nhiên . Phàm thư giai thị ý , bất tại ngoại diện . Hữu thượng tức hữu hạ , hữu tả tức hữu hữu , hữu tiền tức hữu hậu . Như ý yêu hướng thượng tức ngụ hạ ý . Nhược tương vật hân khởi nhi gia dĩ toả chi chi ý , tư kỳ căn tự đoạn , nãi hoại chi tốc nhi vo nghị . Hư thực nghi phân thanh sở . Nhất xứ tự hữu nhất xứ hư thực . Xứ xứ tổng thử nhất hư thực . Chu thân tiết tiết quán xuyến , vô lệnh ty hào gián đoạn nhĩ.
Thập Tam Thế Ca Quyết Vô Danh Thập tam tổng thế , mạc khinh thị Mệnh ý nguyên đầu tại yêu tế Biến chuyển hư thực tu lưu ý Khí biến thân khu bất thiểu trệ Tĩnh trung xúc động , động do tĩnh Nhân địch biến hóa thị thần kỳ Thế thế tồn tâm quỉ dụng ý Ðắc lai toàn bất phí công phu Khắc khắc lưu tâm tại yêu giang Phúc nội tung tịnh , khí đằng nhiên Vĩ lư trung chính thân quán đĩnh Mản thân khinh lợi , đĩnh đầu huyền Tử tế lưu tâm hướng suy cầu Khuất thân khai hợp tính tự do Nhập môn dẫn lộ tu khẩu thụ Công phu vô tức , pháp tự tu Nhược vấn thể dụng hà vi chuẩn ? Ý khí quân lai cốt nhục thần Tường suy dụng ý chung hà tại ? Ích thọ diên niên bất lão xuân Ca hề ca hề chấp tứ cú Tự tự chân thiết ý vô di Nhược bất hướng thử suy cầu khứ Uổng phí công phu di thán tức . Ðả Thủ Ca Bắng lý tê án tu nhận chân Thượng hạ tương tùy nhân nan tiến Nhiệm tha cự lực lai đả ngã Khiên đông tứ lượng bát thiên cân Dẫn tiển lạc không hợp tức xuất Triêm liên niêm tùy bất đâu đỉnh
THÁI CỰC QUYỀN ( Tai Chi ) Tôn Thất Cảnh Link: Kính thưa quý vị, Năm 1975 tôi đã nhờ tập TCQ mà lành được cái bướu trong đầu mà không cần giải phẫu. Vì nhận thấy kết quả quá hay, tôi có ý định sẽ truyền bá môn này cho mọi người. nên đã cố gắng đeo đuổi việc tập luyện, học hỏi thêm nhiều vị thầy khác để nghiên cứu và dạy cho đúng. Với tinh thần Hướng Đạo có trong người từ khi gia nhập phong trào từ năm 1940, tôi đem phổ biến môn này cho mọi người tập luyện gần 30 năm suốt từ năm 1976 đến nay mà không thấy mệt mỏi. Ngược lại tôi luôn luôn cảm thấy vui sướng và thích thú vì đã giúp được nhiều người lành bệnh sau khi chỉ cho họ tập Thái cực quyền. Có 2 câu của BiPi đã được các Trưởng Hồ văn Khuê Albert và Trưởng Trần Ngọc Sính day tôi từ khi tôi gia nhập phong trào đến nay đã hơn 60 năm và còn theo tôi cho đến khi tôi nhắm mắt từ giã cuộc chợ Huớng đạo. Đó là : “ Hạnh phúc thật sự chỉ tìm được khi ta giúp người khác" và "Muốn có hạnh phúc phải chia xẻ hạnh phúc của mình cho kẻ khác “. Sau đây tôi sẽ lần lượt trình bày những mục . 1. Tại sao chúng ta phải tập luyện ? 2. Tập luyện như thế nào ? 3. TCQ là gì ? 4. Nguồn gốc Thái cực quyền. 5. Ai có thể tập TCQ ? 6. Tập TCQ như thế nào ? 7. Lợi ích của TCQ. 8. Phương pháp giảng dạy. 9. Cần tập thêm gì ngoài TCQ. 1. Tại sao chúng ta cần phải tập luyện ?
Trời sinh con người phải vận động cho cơ thể được khoẻ mạnh. Cơ thể, ví như một chiếc xe, luôn luôn cần được bảo trì và phải xử dụng thường xuyên để xe chạy cho ngon lành. Vận động thường xuyên giúp cơ thể được sung sức, tinh thần nhanh nhẹn, gia tăng khả năng hoạt động và tránh được nhiều bệnh tật. Cơ thể vận động lâu dài trên 5, 6 chục năm nên dễ sinh lười biếng và do sự lười biếng nên cơ thể dễ bị bệnh xâm nhập. Aristote, một nhà hiền triết Hy lạp ( 384 322 trước Tây lịch ) đã nói : " Không có gì làm suy yếu và phá huỷ cơ thể con người bằng để cơ thể không vận động lâu dài ." 2. Tập luyện như thế nào ? Tập luyện vừa sức vì tập quá sức có hại, Nên vận động ngoài trời để cơ thể con người ( tiểu vũ trụ ) có thể hòa hợp với sự biến chuyễn không ngừng của Ðại vũ trụ. Có nhiều loại vận động như đi bách bộ, tập Thể dục, tập Yoga, tập Khí công (Chi Kung, Qigong ) tập Thái cực quyền ( Tai Chi ),. Người lớn tuổi nên chọn những loại vận động nhẹ nhàng chậm rãi thích hợp với sức khỏe và bệnh tật của mình vì càng lớn tuổi, xương càng dòn, nếu tập động tác mạnh, xương dễ bị gãy và khi bị gãy thì khó lành. Ði bộ là lối vận động đơn giản dễ nhất. Nên đi bộ vừa sức vì đi nhiều quá hại gân. Nên đi theo lối hành thiền, không nên trò chuyện để tâm tĩnh và kết hợp với lối thở sâu, dài, đều và êm ( Thâm, trường, quân, tĩnh ).
Hai chân bước đi, sẽ thúc đẩy sự lưu thông của Khí trong 6 đường kinh của 3 tạng là Tỳ, Can, Thận và 3 phủ là Ðỡm ( mật ), Vị ( bao tử ) và Bàng quang ( bộ phận thải nước tiểu ). Hai tay cần đưa tới đưa lui, để thúc đẩy sự lưu thông khí trong các tạng phủ còn lại là Tâm ( tim ),Phế ( phổi ), Ðại trường ( ruột già ), Tiểu trường ( ruột non ), Tâm bào ( màng tim ) và Tam tiêu. Có hai cách đi bộ : Ði bộ chậm, chủ về Thủy, đi chậm và thở theo nhịp bước chân, thận mạnh, thuỷ vượng có thể hạ áp huyết, Ði bộ nhanh , chủ về Mộc, đi nhanh Can mộc vượng, trị tiểu đường, mộc sinh hỏa, hỏa vượng, đốt cháy calo, chống mập phì. Tập thể dục nhẹ, tập thể dục luyện về thể lực ( nở nang các bắp thịt ). Tập yoga luyện tập cả khí lẫn thể lực nhưng ngồi hay đứng tại một chỗ tập từng bộ phận riêng biệt. Tập khí công chỉ luyện tập về khí không luyện về thể lực. Tập thái cực quyền là luyện cả về thể lực và về khí như yoga nhưng di chuyển, toàn cơ thể đều động " nhất động vô hữu bất động ", ngoài ra còn dùng ý điều khiển khí lưu thông khắp cơ thể. Theo tôi, vì những động tác trong Thái cực quyền toàn là chậm rãi, mềm mại nhẹ nhàng nên người lớn tuổi tập Thái cực quyền là hợp nhất. 3. Thái cực quyền là gì ? Thái Cực là danh từ đầu tiên ở Kinh Dịch, Thái là lớn lao, Cực là trạng thái ban sơ
của vũ trụ, ngụ ý nói sự rộng lớn bao la của vũ trụ .Thái Cực được tượng trưng bằng vòng tròn liên tục thể hiện trong Thái cực đồ. Thái cực đồ có hình một vòng tròn trong đó có 2 phần màu trắng và màu đen, trắng ( màu sáng ) tượng trưng cho dương, đen ( màu tối ) tượng trưng cho âm. Trong phần đen có một chấm trắng và trong phần trắng có một chấm đen có nghĩa là trong âm có dương và trong dương có âm, âm dương bổ sung cho nhau. Thái cực sinh lưỡng nghi là âm và dương Âm dương xung đối, chế hóa nhau đồng thời thúc đẩy nhau và do đó, vạn vật mới sinh thành. Trời đất là Ðại vũ trụ, con người là tiểu vũ trụ. Trời đất có âm có dương ( trời + , đất ), con người cũng có âm có dương ( đầu và bên Phải + , chân và bên Trái ). Trong cơ thể luôn luôn có sự điều hòa cân bằng 2 khí âm dương.Âm dương là hai trạng thái đối nghịch. Trời đất có sáng có tối, con người có khi sáng suốt thông minh, có khi ngu muội, đần độn, Trời đất có nóng có lạnh, con người có lúc nóng nảy, có lúc lạnh lùng. Ngũ hành : Trong trời đất, vạn vật có ngũ hành : Gỗ ( Mộc ), Lửa ( Hỏa ), Ðất ( Thổ ), Kim loại ( Kim ), Nước ( Thuỷ ). Trong cơ thể con người cũng có ngũ hành: Can thuộc Mộc, Tâm thuộc Hỏa, Tỳ thuộc Thổ, Phế thuộc Kim, Thận thuộc Thuỷ. Thuận với trời đất thì khoẻ mạnh mà nghịch lại thì bệnh tật.
Thái cực quyền : Sở dĩ lấy tên Thái cực cho bài quyền vì mỗi động tác của nó đều có phân chia âm dương, nghĩa là có đối nghịch, có thăng có giáng, có hợp có khai, có trái có phải, có tiến có lùi, có hư có thực, v.v. Ngoài ra, mỗi động tác của Thái cực quyền đều đi theo đường tròn như các đường tròn trong Thái cực đồ. Các động tác trong Thái cực quyền từ khởi thức đến thu thức được liên tục, không đứt đoạn như một vòng tròn hoàn chỉnh, không thấy đầu mối ( yếu quyết tương liên bất đoạn) như vòng tròn Thái cực đồ. Thái cực quyền là một môn võ vừa là môn vũ thể dục vừa là thiền động. Nó là một môn võ vì các chiêu thức đều được trích ra từ các bài quyền chiến đấu. Nó là môn vũ vì các động tác nhịp nhàng và uyển chuyển. Nó là một dạng thiền động vì khi tập phải tập trung tư tưởng và buông xã như thiền và các động tác được liên tục và phối hợp với lối thở sâu và thở bụng. Không nên nhầm Thái cực quyền ( Tai chi chuan ) với Thái cực đạo ( Tae Kwon Do , phải dịch là Túc quyền đạo mới đúng ). 4. Nguồn gốc của Thái cực quyền. Về nguồn gốc, cho đến nay chưa có thuyết nào xác thực. Theo thuyết cũ, vào thế kỷ thứ 13 Ðạo sĩ Trương Tam Phong ( Chang Sen Feng ) tu ở núi Võ Ðang đã sáng chế ra môn võ công Thái cực quyền của phái Võ Ðang, nhưng trong các loại bản văn cũ không có ghi chép thống nhất. Căn cứ vào tài liệu ở Trần Gia Câu, người ta chỉ biết có Thái cực quyền ở Trần Gia Câu xuất hiện vào đầu triều nhà Thanh. Cuối thế kỷ 18 Dương Lộ Thiền được Ðại gia Trần Trường Hưng truyền dạy. Sau đó Dương Lộ Thiền sửa đổi hình thức và nội dung quyền thế cho thích hợp với quần chúng và tốc độ đi bài quyền chậm đều thay vì nhanh chậm không đều của Trần gia thức.
Dương Lộ Thiền truyền lại cho 2 người con là Dương Ban Hầu và Dương Kiện Hầu. Con của Dương Kiện Hầu là Dương Trừng Phủ lại sửa đổi thêm và truyền bá rộng rãi môn này cho đến ngày nay. 5. Ai có thể tập Thái cực quyền ? Vì các động tác nhẹ nhàng, không cần dùng sức nên bất kỳ ai, nam phụ lão ấu, già hay trẻ, khoẻ cũng như yếu đều có thể tập Thái cực quyền. Ðối với những người yếu đuối, bệnh hoạn nên tập tùy sức, tập nhiều lần trong ngày, mỗi lần tập nên cố gắng tập cho đúng. Mặc áo quần rộng rãi để khí huyết dễ lưu thông. Dùng giày dép đế thấp tránh bị trượt, ngã. 6. Tập luyện Thái cực Quyền như thế nào ? Thái cực quyền thuộc Nhà họ Dương, phái Võ Ðang chia làm 2 ngành : chiến đấu và dưỡng sinh. Chúng tôi tập theo dưỡng sinh nên tôi chỉ đề cập đến Thái cực Dưỡng sinh mà thôi. Thường tại các sân tập ngừoi ta chỉ chú trọng đến việc tập bài quyền mà không chú trọng đến căn bản . Lớp tôi hướng dẫn chia làm 4 cấp : Luyện Hình, luyện Khí, luyện Ý và luyện Tâm. Cấp 1 . Luyện hình : Luyện căn bản và các tư thế của các chiêu thức trong bài quyền cho đúng. Ðộng tác của Thái cực quyền rất chậm rãi, thong thả, mềm mại, nhịp nhàng theo từng thế quyền, toàn thân phải buông lỏng nhưng động tác rất vững chắc. Một chỗ động thì tất cả mọi chỗ đều động chứ không vận dụng từng bộ phận như ở các môn thể thao khác. Khi đánh một chiêu thức cần chú ý đến ngũ pháp, đánh đúng theo ý của chiêu thức và theo đúng 10 yếu quyết của Thái cực quyền.
Ở cấp 1, học viên cần buông lỏng toàn thân, chú trọng nhất về bộ pháp, thủ pháp và thân pháp. Không nên chỉ chú trọng đến thủ pháp mà quên một phần rất quan trọng là bộ pháp vì bộ pháp có đúng, xuất chiêu mới được vững chắc ví như gốc rễ cây có chắc thì cây mới đứng vững được. Tay xuất chiêu phải mang yếu lý của võ thuật, chỉ dùng ý không dùng sức để đẩy khí đi (yếu quyết dụng ý bất dụng lực ) Chân phải phân rõ nặng nhẹ ( yếu quyết phân hư thực ) vì vậy khi đi xong một bài quyền tuy mồ hôi toát ra nhưng người tập xong vẫn không thấy mệt. Thân phải giữ thẳng ( yếu quyết thứ nhất : hư linh đĩnh kình ). Vì là một môn võ nên mỗi chiêu thức phải được đánh cho đúng thế võ, nếu không, khi nhìn vào, người ta cho là múa " lèo " như Thầy Ðổng Anh Kiệt, một đại sư Thái cực quyền Trung quốc đã nhận xét như sau : "phần đông múa Thái cực quyền thì nhiều, chỉ theo hình thức bên ngoài, dù có luyện đến 10 năm vẫn còn hồ đồ." . Cấp 2 . Luyện khí : Luyện thở theo động tác. Con người sống cần phải thở và thở cho điều hòa và chính xác mớí trường thọ. Ở cấp luyện khí, phải kết hợp hô hấp với vận động đúng theo quy luật. Học viên sơ cấp ( luyện hình ) thở tự nhiên khi đi bài quyền, từ cấp luyện khí trở lên, tại các sân tập của tôi, các học viên luôn luôn phải tập thở theo động tác. Trên thực tế, hầu hết tại các sân tập, ở đây cũng như ở VN, các thầy chỉ dạy về
Hình, chỉ chú trọng đến thủ pháp khi đánh các chiêu thức, đánh cho có dạng, không theo Ngũ Pháp ( Bộ pháp, Thủ pháp, Thân pháp, Tâm pháp và Nhỡn pháp ) và thở tự nhiên khi đi bài quyền. Trước năm 90, ở Việt Nam, hầu hết ở các lớp không dạy thở theo động tác. Sau đó, nhờ có một bài viết kêu gọi tập TCQ phải tập thở theo động tác và cho biết rằng " tập Thái cực quyền mà không thở theo động tác thì uổng công vô ích ", nên từ đó, ở VN, các thầy mới bắt đầu chịu dạy cho học viên thở theo động tác. Cấp 3 . Luyện ý : Luyện dùng ý dẫn khí đi theo mục đích của chiêu thức. Sau khi luyện khí, học viên ngành dưỡng sinh cần học luyện ý ( h†c viên ª ngành Thái c¿c quyŠn chiến đấu đã được học ngay ở giai đoạn luyện hình rồi ). Học viên phải hiểu rõ mục đích của mỗi động tác để dùng ý dẫn khí đi . Cấp 4 . Luyện tâm : Luyện tâm tĩnh, xã chấp và biết hy sinh. Tập Thái cực quyền phải tập trung tư tưởng, không tâm viên ý mã, tâm phải tĩnh, không phải tập theo lối ồn ào và mạnh như aerobic. Tập Thái cực quyền là tập buông xả là xả bỏ, là xả chấp. Khi đã xả bỏ thì ta luyện được cái tâm thoải mái. Khi thân được khoẻ mà tâm lại được an lạc thì mới trường thọ . Ngoại cảnh gây bệnh cho thân xác trong khi sự buồn phiền lo lắng, thần kinh căng thẳng là mầm mống của tâm bệnh. Tập Thái cực quyền để dưỡng sinh không phải để đánh thắng người như theo ngành chiến đấu mà là để đánh thắng ta.
Thắng người đã khó mà thắng chính ta lại càng khó hơn, thắng ta là thắng cái bệnh hoạn của ta, thắng cái sự lười biếng, thắng cái sự cố chấp của ta. Cố chấp là nguồn gốc của sự bất đồng trong gia đình, trong xã hội. Khi đã xả chấp được rồi, nên cố gắng tiến xa thêm một bước là luyện tâm biết hy sinh, quên mình để lo cho người, nhất là những người đau ốm, bệnh hoạn đang cần mình giúp đỡ. Việc tập luyện lúc đầu khó khăn vì phải nhớ cho hết các động tác và làm đúng theo sự hướng dẫn, phải luyện tập thường xuyên mỗi ngày, người tập phải cố gắng tập luyện vì biết rằng nó sẽ phòng bệnh, mang lại sức khoẻ cho mình để chống lại bệnh tật. Phương pháp tập luyện phải chính xác, tư thế đúng, mới nâng cao được hiệu quả rèn luyện. Có người đã nghĩ sai, cho rằng dùng thái cực quyền như thuốc Tây, tập xong rồi để đó, không chịu luyện hàng ngày, đợi khi nào đau, đem ra tập để chữa bệnh. 7. Lợi ích của Thái cực quyền như thế nào ? * Phòng bệnh và trị bệnh . Phòng bệnh hơn chữa bệnh. Luyện để đáp ứng 2 mặt phòng bệnh cho thân xác, ổn định những rối loạn tâm thần và khi cần, có thể trị bệnh. Luyện tập Thái cực quyền của ngành dưỡng sinh không phải để đánh nhau như ở ngành chiến đấu, mà là đánh với bệnh để trị bệnh, kéo dài tuổi thọ trong tình trạng khỏe mạnh. Thái cực quyền tăng khả năng thích ứng với thay đổi của thời tiết, mang lại sự hài hòa giữa thiên nhiên và con người : Âm dương trong con người kết hợp với âm dương của vũ trụ giúp con người tạo được sự hài hòa của bên trong ( tâm ) với các hoạt động bên ngoài ( tay chân ).
Nhiều người, qua một thời gian rèn luyện, đã chứng minh Thái cực quyền có tác dụng chữa trị nhức đầu, đau lưng, chóng mặt, nhức mõi rất tốt. Ngoài ra nó còn chữa một số bệnh mãn tính như suy nhược thần kinh, bệnh tim, áp huyết, bệnh tiểu đường, thấp khớp, trị được các bệnh mất ngủ, mập phì, các bệnh về tiêu hoá như táo bón, ăn không tiêu v. v. . . Nếu ai đòi hỏi hiệu quả tức khắc như dùng thuốc Tây thì không thể trông đợi gì vào Thái cực quyền vì hiệu quả chỉ đến từ từ , phải kiên trì tập luyện hằng ngày. * Hổ trợ hoạt động hệ tuần hoàn, hệ tim mạch: Khí và huyết luôn luôn đi kèm nhau, khí đi đâu thì huyết theo đó. Tập Thái cực quyền, một chỗ động thì tất cả mọi chỗ đều động, làm cho khí huyết được lưu thông toàn cơ thể ( ví như châm cứu toàn cơ thể ), các mạch máu của động mạch sẽ hoạt động điều độ, thúc đẩy quá trình tuần hoàn máu. Khí huyết lưu thông thì khỏi bệnh tật như vị danh y của ta ở thế kỷ thứ 19 là Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác đã nói : " Thống, tắc bất thông, thông, tắc bất thống " ( có nghĩa là: Ðau, ắt là khí huyết không thông, đã thông khí huyết thì ắt là không đau ). Trợ giúp và bảo vệ hệ tim mạch, phòng chống cao huyết áp và xơ cứng động mạch. Khi ta bị cao áp huyết, lúc đó, hỏa của Tâm đang vượng ( mạnh ), muốn hạ áp huyết, theo luật tương khắc của ngũ hành Thuỷ khắc Hỏa nên Thận phải có đầy đủ
Thuỷ để làm hạ Hỏa của Tâm. Tập Thái cực quyền tăng cường thận, thủy được vượng, điều hòa được âm dương nên áp huyết không thể tăng lên cao được. * Tăng cường hệ thần kinh : Thường thường mỗi khi có chuyện buồn phiền làm thần kinh căng thẳng, ta có thể làm giảm mức độ căng thẳng bằng một lối xả tự nhiên là dùng giấc ngủ, dùng thể dục thể thao như bơi lội, tập thái cực quyền, dùng các thú tiêu khiển như chơi cây cảnh, hoặc tập thiền v . .v. . Khi tập Thái cực quyền phải tập trung tư tưởng, làm cho con người dịu lại, được thư giãn, tập gạt bỏ tất cả mọi ưu phiền, như vậy khắc phục được căng thẳng thần kinh và cơ bắp nhờ các động tác như bơi trong không khí trong khi tâm được tĩnh. Khi tâm được tĩnh, vỏ đại não được nghỉ ngơi làm cho con người được thư sướng. Thái cực quyền trị bệnh suy nhược thần kinh: Trong khi não bộ bị làm việc quá độ, cho nó nghỉ ngơi một chốc lát bằng cách cố gắng làm cho nó không nghĩ gì hết. Khi tập Thái cực quyền, toàn bộ cơ bắp phải buông lỏng. Những động tác dịu dàng kết hợp với việc buông lỏng cơ bắp, làm cho thần kinh được nghỉ ngơi khiến ta cảm thấy thoải mái. Có nhiều loại thiền, Thái cực quyền là một loại thiền động, khó hơn hành thiền vì hành thiền khi tập trung tư tưởng, hai chân tự động bước tới, còn về Thái cực quyền, khi tập trung tư tưởng khí đi theo chiêu thức làm cho tay chân vận động theo đúng các tư thế của chiêu thức (dĩ tâm hành khí , dĩ khí vận thân” dùng tâm ý làm cho khí lưu thông, sau đó lấy khí làm vận chuyển toàn thân) Tăng cường trí năng, tăng cường trí nhớ.
Khi tập Thái cực quyền, tập nhớ các động tác và tên các chiêu thức, tập cho trí ra lệnh cho tay chân sẽ làm gì sau mỗi động tác vừa làm xong ( yếu quyết Nội ngoại tương hợp ). * Trợ giúp và bảo vệ thận : Tập Thái cực quyền chủ về thận, lấy eo làm trục để vận động tay chân ( “ chủ tể ư yêu, hành ư thủ chỉ “, có nghĩa eo là chủ ÇiŠu khi‹n cho tay chân vận động ). * Trợ giúp và bảo vệ hệ thống xương cốt được khoẻ mạnh : Vận động trong Thái c¿c quyŠn không thể tách rời hoạt động có liên quan giữa cơ bắp, khớp xương và các cơ quan liên hệ, vì một chỗ động tất cả mọi chỗ đều động. Tập Thái cực quyền tăng cường được sự dẽo dai, sự linh hoạt của các khớp xương, nhất là của cột sống và của các khớp ở tay chân. Ðộng tác vòng tròn, xoáy trôn ốc có thể khiến toàn bộ các cơ bắp và các đường gân trong cơ thể phải tham gia hoạt động, khiến khả năng của chúng thêm phong phú, uyển chuyễn. Hoạt động các cơ quan tuy mềm mại nhưng có ảnh hưởng nhiều. Hệ xương cốt và các cơ quan khác chịu sự chi phối của cơ bắp, song có tác dụng của tự mình điều tiết , nó hổ trợ cho sự mạnh mẽ của xương, bảo đảm tính linh hoạt của các cơ quan khác trong cơ thể, ( trị bệnh thấp khớp, phòng chống xương bị biến tính như bị còng lưng và xơ cứng các khớp xương ). * Cải thiện sư nhanh nhẹn, sức mạnh của người già : Gia tăng sức mạnh cơ bắp phần dưới của cơ thể như bắp đùi, mông, bắp chân, cải thiện tư thế được thăng bằng, giảm rủi ro té ngã. Té ngã thường gây thương tích phần lớn làm chết người già ( ví dụ bị gảy xương hông ), hoặc nếu được cứu sống, cũng sống trong tình trạng dở sống dở chết.
* Làm chậm lão hóa: Hiệu quả của tập Thái cực quyền đến từ từ nên người tập cần phải kiên trì tập luyện mỗi ngày. Trên đây là những lợi ích mà các học viên của tôi đã thu được sau gần 30 năm tôi dạy môn này. Còn nhiều lợi ích khác trong các sách báo có nói nhưng tôi chưa có dịp kiểm chứng. 8. Phương pháp tập do tôi hܧng dÅn :. Không nên cố gắng học cho thuộc mà chỉ cần nghe băng để tập thường xuyên mỗi ngày . Cứ chịu khó nghe băng để tập rồi dần dần tự động sẽ nhớ đủ không cần học thuộc . Đọc thêm tài liệu để hiểu rõ thêm về lý thuyết nói về Thái Cực Quyền . * Tài liệu nói về Thái cực quyền ( sách và video ) ở Mỹ có rất nhiều, có thể tham khảo để tập, nhưng muốn tập cho đúng để có kết quả tốt, cách tốt nhất là nên tìm tài liệu của chính tác giả bài mình đang tập và nên đến các nơi dạy để được hướng dẫn rõ ràng, hơn nữa, ở sân tập, ngoài không khí luyện tập, có nhiều học viên đã luyện tập nhiều năm nên người tập có thể học hỏi thêm được nhiều kinh nghiệm tập luyện bổ ích hơn. 9. Ngoài việc tập Thái cực quyền có thể tập thêm môn gì được nữa ? Nên nhớ rằng tập luyện luôn luôn đi đôi với Dưỡng Sinh. không bao giờ tách rời. Tập luyện tốt mà ăn uống bừa bãi hoặc ăn uống cẩn thận mà không chịu luyện tập thì vẫn không ngừa được bệnh. Có thể tập thêm Khí công ( Qigong , Chi Kung ). Khí công rất gẫn gũi với Thái cực quyền nên có thể bổ túc cho Thái cực quyền để tu dưỡng thân tâm và giải trừ bệnh tật. Không nên ham tập nhiều loại và tập quá sức. Có rất nhiều loại khí công. Tôi dạy Trí năng Công ( Zhineng Qigong, Mỹ gọi là Chilel ), dùng khả năng của trí tuệ
để điều khiển khí. Có thể tập thêm Phản xạ ( Reflexology ) Dùng bàn lăn, thiết đạn Bảo Ðình hoặc Trái thông ( thay th‰ cho bàn lăn, kết quả tốt hÖn và lại khỏi mất tiền mua vì ở Mỹ chỗ nào cũng có trồng thông ). Tập xoay tay Ghi Chú Thầy hiện cư ngụ tại San Jose California. Số phone để l/l với thầy Tôn Thất Cảnh : 408 272 7936 Tài Liệu số 2 : THÁI CỰC QUYỀN THẬP YẾU Dương Trừng Phủ 1 Hư linh đỉnh kình: đỉnh kình là đầu mặt cần ngay ngắn, tinh thần chú ý lên đỉnh. Không được dùng sức; dùng sức sẽ làm cứng cổ, khí huyết không lưu thông được. Nếu không đỉnh kình thì tinh thần không thể nâng cao. 2 Hàm hung bạt bối: hàm hung là ngực hơi hàm (ngậm), giúp cho khí trầm xuống đan điền. Ngực cần tránh nhô lên; nếu nhô lên thì khí sẽ nổI lên ngực, dẫn tới trên nặng, dướI nhẹ, chân dễ bị nhẹ nổi. Bạt bối là khí dính ở lưng vậy. Có thể hàm hung thì tự nhiên có thể bạt bối. Có thể bạt bối thì có thể lực do bối phát, từ đó mà thành vô địch. 3 Tùng yêu (lỏng eo): eo là chúa tể thân. Lỏng được eo thì 2 chân sẽ có lực, phần dướI sẽ vững vàng; hư thực có thể do eo chuyển động. Có câu:’Mệnh ý nguyên đầu tạI yêu tế’ (cần chú ý đến eo); nếu mà không được lực thì cần chỉnh eo, chân. 4 Phân hư thực: trong Thái cực quyền, phân hư thực có ý nghĩa lớn nhất. Nếu toàn thân ngồI trên chân phảI thì chân phảI là thực mà chân trái là hư. Nếu toàn thân ngồI trên chân tráiI thì chân trái là thực mà chân phải là hư. Có thể phân hư thực thì sau có thể chuyển động linh hoạt, không phí chút lực nào; Nếu không phân được thì bước ra sẽ nặng nề, đứng không vững, mà dễ bị ngườI dẫn động.
5 Trầm kiên (vai), trụy chỏ (khuỷu): trầm kiên là vai lỏng, mở & trầm xuống. Nếu không tùng trầm được thì vai sẽ nhô & khí theo đó mà lên, toàn thân sẽ không được lực. Trụy chỏ là có ý khuỷu tay trầm xuống dướI. Nếu chỏ bị nâng lên thì vai không thể trầm, phóng người không xa, gần vớI ngoại gia quyền vậy. 6 Dụng ý bất dụng lực: Thái cực quyền luận viết: ‘toàn thân dụng ý bất dụng lực’. Luyện Thái cực quyền, toàn thân lỏng mở, không dùng chút lực vụng về, làm cho gân cốt khí huyết sẽ tự cởi trói, về sau có thể khinh linh biến hóa, viên chuyển tự nhiên. Có thể nghi vấn rằng không dụng lực sao lạI trường lực? Con người có kinh lạc, như đất có kênh rạch, kênh rạch không tắc thì nước chảy, kinh mạch không tắc thì khí huyết thông. Nếu toàn thân kinh mạch cứng ngắc, khí bị trì trệ, chuyển động không nhanh nhẹn. Nếu không dùng lực mà dụng ý thì ý đến khí đến, khí huyết lưu chuyển khắp châu thân, không bị dừng trệ. Luyện tập lâu ngày tự đạt được chân kình, tức là như Thái cực quyền luận viết: cực nhu nhuyễn về sau cực kiên cương’. Người giỏi kungfu Thái cực thì tay như bông bọc thép vậy, phân lượng cực trầm. Luyện ngoại gia quyền, khi dụng lực thì có lực, mà khi không dụng lực thì tay nhẹ nổi, có thể thấy đó là ngoại kình nhẹ nổi. Không dùng ý mà dụng lực thì rất dễ dẫn động. 7 Thượng hạ tương tùy: Thái cực quyền luận có viết: ‘gốc rễ ở chân, phát ở đùi, chúa tể tạI eo, hình tạI ngón tay; Từ chân, qua đùi, đến eo cần phải hoàn chỉnh nhất khí’. Tay động, eo động, nhãn thần cũng tùy đó mà động. Nếu nói thượng hạ tương tùy mà 1 chỗ bất động thì sẽ loạn vậy.
8 Nội ngoại tương hợp: Thái cực quyền luận có viết: ‘Thần là chủ soái, thân là thúc đẩy’. Tinh thần có thể nâng cao, tự nhiên cử động nhẹ nhàng. Giá tử không ngoài hư thực, khai hợp. Nói là khai thì không chỉ chân tay khai mà ý cũng cần khai mở. Nói là hợp thì không chỉ chân tay hợp mà ý cũng cần hợp. Có thể nội ngoại tương hợp thì toàn thân không gián đoạn. 9 Tương liên bất đoạn: Ngoại gia thì kình hậu thiên, lực vụng; có nổi có đứt nối. Khi lực cũ đã qua, lực mớI chưa sinh, rất dẽ bị đốI phưong khống chế. Thái cực quyền dụng ý bất dụng lực, từ đầu tớI cuối liên miên bất đoạn, tuần hoàn vô biên… Nguyên gọi là: ‘trường giang đại hảI, liên miên bất đoạn’; lạI viết: ’vận kình như hút tơ’, đó cũng là quán trung nhất khí vậy 10 Động trung lĩnh tĩnh: Ngoại gia quyền thiên về nhảy nhót, dùng tận khí lực. Do đó tập xong bị tiêu hao khí lực. Thái cực quyền, khi tập bài quyền thì càng chậm càng tốt, hô hấp được sâu, khí trầm đan điền, do đó khí lực được nuôi dưỡng mà đầy đủ. Document Outline
THÁI CỰC QUYỀN (TÀI CHI): MỘT PHƯƠNG PHÁP TRỊ BỆNH HỮU HIỆU Chu Tất Tiến Kỳ này, mời quí độc giả đọc bài viết của nhà văn Chu Tất Tiến, về kinh nghiệm bản thân cùng cách tập Thái cực Quyền, một môn thể dục chưa được y học Tây phương (Western medicine) để tâm nghiên cứu nhiềụ Bài viết giúp chúng ta tìm hiểu Thái cực Quyền là gì, và nguyên tắc tập luyện. BS. Nguyễn Văn Đức Hồi truớc, nghe nói Thái cực Quyền (hay Tài Chi) là phương pháp dưỡng sinh, người viết không những không coi trọng mà còn chế diễu nữạ Vì vốn từ thời còn trẻ đã từng luyện tập nhiều môn võ khác nhau, với đấm đá, vật lộn rầm rầm, người viết vẫn coi thường những môn thể dục nhẹ nhàng, nhất là nhìn mấy người già lão múa Thái cực Quyền vòng qua vòng lại, trong lòng luôn thấy tức cườị Nhưng, chỉ sau khi chính mình đã kiểm nghiệm thực tế tác dụng của Thái cực Quyền, mới biết rằng mình chỉ là “ếch ngồi đáy giếng”, kiêu căng, tự thị một cách ngu xuẩn. Thái cực Quyền thực sự là một phương pháp dưỡng sinh tuyệt diệu, vừa giúp cho cơ thể khỏe mạnh, trẻ trung, vừa giữ hệ thần kinh lúc nào cũng thư thái, lại có thể chữa bệnh một cách lạ lùng được. Sau khi đi tù “cải tạo” về, vì phải làm tất cả mọi công việc nặng nhọc hầu có thể sống còn, người viết thấy cơ thể mỗi ngày mỗi yếu đi, và một hôm, tự nhiên hai chân nhũn ra, té xuống, rồi đứng dậy không được. Gia đình phải vực dậy và vội vàng đưa vào bệnh viện Phú Nhuận. Ở đây, bác sĩ chẩn bệnh và cho biết van tim bị hở, tim bị suy yếu, chỉ đập có 45 nhịp một phút, không đưa đủ máu đi khắp cơ thể.
Do đó, người bệnh không thể tự đứng được. Bác sĩ còn cho rằng ngoài ra, người viết còn bị “mỡ bao tim”, sẽ không sống được bao lâu nữa, vì ở Việt Nam, không có phương pháp mổ tim để lấy mỡ ra! Gia đình lo sợ quá, nhưng nghi ngờ chẩn đoán này, lại đưa đến bệnh viện Sùng Chính. Ở đây, bác sĩ nói “bị nhồi máu cơ tim!”, cũng không có thuốc chữạ Lại mếu máo kéo nhau về, đến Bệnh viện Bình Dân, ở đây làm điện tâm đồ (ECG) và cho biết rằng mạch máu bên phải bị đứt, không có cách chi chữa được! Người nhà lại chở đến một bác sĩ chuyên tim mạch ở gần Nhà hát Trần hưng Đạọ Vị bác sĩ trẻ, sau khi làm điện tâm đồ cũng kết luận là “đứt nhánh phải hoàn toàn” nên không sống đuợc bao lâu nữạ Về nhà, nằm nghỉ, đừng cử động mạnh, thì may ra sống được thêm một thời gian! Nhưng ông cũng cho toa “Nitrostat” để phòng khi nào đau quá thì ngậm dưới lưỡi sẽ bớt đaụ Cả nhà khóc như có đám ma, nhưng vẫn cố gắng tìm đến một bác sĩ ở quận Tân Bình, rồi một bác sĩ ở đường Hai bà Trưng, gần chợ Tân Định, tổng cộng là sáu bác sĩ, không một ai nói là sẽ sống sót. Tình hình coi như tuyệt vọng. Chỉ còn cầu nguyện đêm ngày, mong có phép lạ. Và, phép lạ đã đến. Một hôm, vô tình nghe nói ở quận Phú Nhuận có dậy Thái cực Quyền dưỡng sinh buổi sáng sớm, có thể chữa được bệnh, liền nhờ đứa con trai 14 tuổi chở xe đạp ra đó ghi tên và tập.
Những sáng đầu tiên, đứa con phải đứng liền ngay cạnh, để lỡ bố té xuống thì còn đỡ kịp, nhưng dần dần thấy bố đứng vững được, thằng con có thể ngồi xa mà nhìn. Chừng một tháng, thấy không té nữa và có thể tự đi xe đạp chầm chậm một mình, nên người viết không cần nhờ đến con nữạ Vài tháng sau, không những chỉ đạp xe đi tập và còn đạp xe đi một vòng thành phố mỗi sáng thật nhanh. Dần dần, khỏe mạnh như thường, khoảng hơn nửa năm thì hứng chí đi luyện lại võ thuật. Dĩ nhiên là vừa luyện vừa nghe ngóng. Không thấy triệu chứng gì nặng, chỉ thỉnh thoảng đau lói tim một chút rồi thôị Chừng một năm sau thì không còn đau nữa, nếu không tập tạ hoặc hít đất nhiều quá. Cho đến nay đã gần 18 năm, người viết vẫn làm việc sung sức, vẫn có thể làm việc nặng và tập luyện thể thao mà không thấy triệu chứng gì. Điều kỳ lạ là sau khi qua Mỹ, đi làm “scan” và siêu âm, ngoài điện tâm đồ, bác sĩ cho biết đã khám phá thấy có một mạch máu nhỏ đã tự phát ra từ chỗ mạch bị nghẽn để làm thay cho công việc của mạch này! Cũng nhờ mạch máu mới phát đó mà tim tiếp tục sống và làm việc bình thường! Điều lạ thứ hai là từ khi bị bệnh liệt giường vẫn tuyệt đối không dùng một loại thuốc trợ tim nào cả mà cơ thể vẫn khỏe trở lạị Chỉ nhờ tập Thái cực Quyền! Người viết suy đoán là trong thời gian tập Thái cực Quyền, do hít thở đúng phương pháp, cơ thể tự điều chỉnh và tự phát ra mạch máu lạ kia, giữ cho mạng sống còn tới ngày hôm nay(?). Sau này, mỗi khi mệt mỏi, suy nhược hay bị “stress”, người viết lại áp dụng vài “chiêu” và thấy khỏe ngaỵ Bởi vậy, mới viết bài này, mong được phổ biến tới mọi đọc giả,
biết đâu lại chẳng cứu thêm được ngườị Điều căn bản là tập theo phương pháp này, nếu không chữa được bệnh nan y, cũng có thể giảm được nhiều triệu chứng liên quan đến bệnh về tim mạch, cao máu, hồi hộp, mất ngủ và yếu sinh lý. Tuy nhiên, những phương pháp diễn tả trong bài lại không phải là thuần Thái cực Quyền nữa, vì tác giả, do luyện tập nhiều môn khí công khác nhau, đã biến chế thêm cho dễ nhớ và dễ tập, xin quý vị tôn sư Thái cực Quyền lượng thứ, nếu thấy cách luyện tập “không giống con giáp nào cả!”. Thật sự, nếu đọc giả thích, có thể gọi phương pháp này là “Tào Lao Quyền” cũng được. Ị NGUYÊN TẮC. Ba điểm chính mà người luyện tập cần nhớ là HÍT THỞ ĐÚNG CÁCH, TẬP TRUNG TƯ TƯỞNG, và CHUYỂN ĐỘNG NHẸ NHÀNG. A Hít thở đúng cách: Khi hít vào cũng như khi thở ra đều phải làm trong nhịp thật chậm, từ từ hít vào bằng mũi cho đến khi không còn hít thêm được nữa thì ngưng lại, nén hơi xuống bụng chừng 10 hay 15 giây, rồi thở ra cũng bằng mũi, thật chậm. Giai đoạn nén hơi này rất quan trọng vì theo một vị Tiến Sĩ về Dinh dưỡng, khí oxy khi được hít mạnh vào sẽ tràn đầy các tế bào và các mô, kích thích sinh hoạt của các tế bào và các mô, làm giãn nở các mạch máu và bắp thịt. B Tập trung tư tưởng: Trong lúc làm động tác hít thở, tư tưởng phải hoàn toàn ổn định, nghĩa là cố theo dõi hơi thở của mình và tưởng tượng đến luồng khí mà ta hít vào hay thở ra, từ lúc bắt đầu chui vào lỗ mũi, qua ống mũi, xuống khí quản, rồi vào phổi, bị nén xuống, đoạn trở lên trên mũi và ra ngoàị Nếu mở mắt ra mà thấy chia trí thì nên nhắm mắt lại, chỉ theo dõi hơi thở bằng óc mà thôị
C Chuyển động nhẹ nhàng: Khi tạo ra chuyển động, tuyệt đối không dùng đến gân cốt và bắp thịt, nghĩa là phải thật nhẹ nhàng. Tay và cơ thể đều xoay chuyển liên tục theo một đường vòng tròn, tưởng tượng như mình đang luân chuyển theo một dòng nước. IỊ HÌNH THỨC. Thật ra, có rất nhiều bài tập, từ những bài đơn giản đến rắc rối, nhưng vì không có cơ hội để luyện tập chung trên sân tập mà chỉ ghi chép trên giấy, nên người viết chỉ đưa ra những hình thức căn bản mà thôị Từ những thế căn bản này, mà ai cũng có thể tự tạo ra cho mình những thế riêng biệt, không cần cẩm nang hay “bí kíp” gì cả, miễn sao chuyển động liên tục cho đến khi mệt thì nghỉ. Khi nghỉ cũng không “thở hồng hộc”, mà cố gắng thở chậm và điều hòạ A Làm nóng người: Khi bắt đầu, phải làm cho cơ thể nóng dần lên rồi mới đi vào chiêu thế. Làm nóng từ trên cổ xuống dưới chân, từ phải qua tráị 1 Luyện cổ: Có hai cách luyện cổ: xoay vòng và chuyển động thẳng. Xoay cổ từ phải qua trái 10 lần xong làm ngược lại, từ trái qua phảị (Đếm thầm trong óc 1, 2, 3.). Xoay đầu theo vòng tròn dựa trên chiếc trục cổ. Sau đó, hất mạnh đầu qua phải đến hết mức rồi chuyển hướng hất mạnh cổ sang bên trái, cả hai bên chừng 10 lần. Tiếp theo, gập đầu xuống ngực tối đa, xong ngửa cổ lên tối đa, cả hai hướng trên dưới chừng 10 lần. (Thở bình thường). Theo một số y sĩ chuyên trị đau nhức, thế tập này còn có thể giúp trị bệnh đau tay hay vai gây ra bởi dây thần kinh cổ bị kẹt giữa hai khớp xương cổ.
2 Luyện vai: Thả lỏng vai, tay xuôi theo người, tự xoay hai vai theo vòng tròn từ đằng sau ra đằng trước 10 lần, sau đổi hướng ngược lại, từ trước ra saụ 3 Luyện cổ tay: Lắc cổ tay từ trên xuống dưới, từ ngoài vào trong, từ trong ra ngoài, mỗi thức 10 lần. 4 Luyện lưng và hông: Đứng thẳng người, hai tay chống hông, lấy thắt lưng làm trục, tự xoay phần trên thắt lưng theo một vòng tròn từ phải qua trái, từ trái qua phải, mỗi thức 10 lần. Vẫn thở bình thường, nhưng dài hơi hơn. 5 Luyện đầu gối: Hai tay thả lỏng theo thân người, dang chân rộng, lấy chân dưới làm trụ, hơi hướng chân về bên phải, xoay phần trên đầu gối theo vòng tròn từ phải qua trái 10 lần. Chuyển hướng về bên trái, xoay đầu gối từ trái qua phải 10 lần. 6 Luyện bàn chân và ngón chân: Nhấc khẽ một bàn chân lên, xoay bàn chân trên ngón chân, mỗi bên 10 lần. Lưu ý: Tất cả các thế trên đều có thể giúp cho các khớp xương chuyển dịch trơn tru, làm giảm bệnh đau nhức gây ra tại các khớp, nhất là sau một đêm ngủ, các khớp xuơng bị tê cứng. B. Tập khí công: Có hai đợt: Thượng và Hạ. 1 Thượng: Đứng thẳng người, hai chân dang rộng, hai tay để hai bên hông, vừa HÍT VÀO CHẦM CHẬM, vừa từ từ đưa tay vòng ra hai bên, rồi đưa dần lên cao đến khi hai bàn tay chạm nhau ở chính giữa và trên đỉnh đầu, tạo thành một vòng tròn khép kín. Hai bàn tay, sau khi chạm nhau, từ từ cùng hạ xuống ngực theo một đường thẳng. Khi tay vừa tới ngực thì ngừng lại, NÍN THỞ, ÉP HƠI XUỐNG BỤNG
chừng 5 giây (đếm đến 5), rồi THỞ RA CHẦM CHẬM, và buông lỏng hai tay xuống. (Hít vào, thở ra đều bằng mũi). Mỗi lần xong một thế, đếm thầm trong óc một tiếng: Một. Làm như vậy 10 lần, trong khi đó, tập trung tư tưởng, theo dõi luồng khí đi vào và đi ra khỏi cơ thể. Mới đầu, giai đoạn nín hơi kéo dài chừng 5 giây, sau tăng dần đến 10 giây hoặc hơn. Nín càng lâu càng tốt, nhưng đừng quá sức, có thể bị mệt. (Có thể xem phim chưởng, thấy những kiếm sĩ khi bị trọng thương đều luyện thế này). 2 Hạ: Hai chân rùn xuống vừa phảị Hai tay giơ thẳng ra trước, nhắm mắt lại, HÍT VÀO CHẦM CHẬM, NÉN HƠI XUỐNG BỤNG chừng 5 đến 10 giây, xong THỞ RA CHẦM CHẬM. Thở 10 lần trong khi vẫn đứng rùn chân và tay giơ thẳng ra trước. C.Bài Quyền: (Tất cả các động tác phải làm thật chậm rãi, thở đều đặn và dài hơi) 1 Ôm banh (còn gọi là ôm cầu): chân dang rộng vừa phải, từ từ rùn xuống, hai bàn tay mở ngửa để trước bụng, các ngón tay chạm vào nhau, chầm chậm đưa tay ra hai bên, vòng lên đầu tạo thành một vòng tròn. Khi các ngón tay chạm nhau, úp sấp cả hai bàn tay lại, đưa từ từ xuống bụng, rồi chuyển sang bên phải, tay phải ở trên úp xuống, tay trái ngửa lên, hai lòng bàn tay cách nhau chừng ba tấc, tưởng tượng như hai tay đang ôm một quả banh. Đồng thời, bước chân trái về sau 90 độ, chân phải bước sang bên trái, hai bàn chân song song, cách nhau chừng hơn một bàn chân, các ngón chân chỉ