text
stringlengths
465
7.22k
Bồ Đào Nha có nền kinh tế tiến bộ với thu nhập cao và tiêu chuẩn sinh hoạt cao. Đây là quốc gia có chỉ số hoà bình cao thứ ba trên thế giới vào năm 2016 và là một trong 13 quốc gia bền vững nhất vào năm 2017, duy trì hình thức chính phủ cộng hoà bán tổng thống nhất thể. Bồ Đào Nha là thành viên sáng lập của NATO và Cộng đồng các quốc gia nói tiếng Bồ Đào Nha, và cũng là một thành viên của nhiều tổ chức quốc tế khác như Liên Hiệp Quốc, Liên minh châu Âu, Khu vực đồng euro, và OECD.
Quốc hiệu Bồ Đào Nha (tiếng Bồ Đào Nha: Portugal) bắt nguồn từ tên của làng Cale ở thung lũng sông Douro. Cale có thể là một từ của tiếng Hy Lạp (Kalles: đẹp) và dùng để chỉ vẻ đẹp của tự nhiên ở vùng miền bắc của nước Bồ Đào Nha ngày nay, thuộc địa của Hy Lạp trong thời kỳ Thượng cổ. Những nhà lịch sử học khác cho rằng cale có nguồn gốc từ tiếng Phoenicia vì người Phoenicia đã định cư ở Bồ Đào Nha trước cả người Hy Lạp. Khi phần đất của Bồ Đào Nha ngày nay thuộc về Đế quốc La Mã, Cale trở thành một cảng quan trọng, trong tiếng La Tinh là Portus Cale. Trong thời kỳ Trung Cổ Portus Cale trở thành Portucale và sau đó là Portugale, thế nhưng trong thế kỷ thứ VII và thế kỷ thứ VIII từ này chỉ dùng để chỉ phần đất miền bắc của nước Bồ Đào Nha, tức là vùng giữa hai con sông Douro và Minho. Về mặt khác, Portus Cale được rút ngắn thành Porto, thành phố quan trọng thứ nhì của Bồ Đào Nha, người dân nơi đây tự hào là thành phố mang tên cho đất nước.
Một số học giả cho rằng vào đầu thiên niên kỷ thứ nhất TCN, một số làn sóng người Celt từ Trung Âu tràn tới Bồ Đào Nha và liên hôn với cư dân địa phương, điều này hình thành nên các bộ lạc khác nhau. Khảo cổ học và nghiên cứu hiện đại cho thấy người Celt tại Bồ Đào Nha và các nơi khác có một phần nguồn gốc tại Bồ Đào Nha. Đứng đầu trong số các bộ lạc này là người Lusitania, họ tập trung chủ yếu tại khu vực nội địa thuộc miền trung Bồ Đào Nha, một số bộ lạc khác có liên quan về mặt huyết thống là người Gallaeci tại miền bắc, người Celtici tại Alentejo, và Cynetes hoặc Conii tại Algarve. Những bộ lạc nhỏ hơn nằm ở khu vực lân cận hoặc giữa các bộ lạc này là người Bracari, Coelerni, Equaesi, Grovii, Interamici, Leuni, Luanqui, Limici, Narbasi, Nemetati, Paesuri, Quaquerni, Seurbi, Tamagani, Tapoli, Turduli, Turduli Veteres, Turdulorum Oppida, Turodi, và Zoelae. Một vài khu dân cư duyên hải nhỏ, bán cố định, dùng cho thương mại cũng được người Phoenicia-Carthago lập ra tại Algarve.
Người La Mã (Roma) lần đầu xâm chiếm bán đảo Iberia vào năm 219 TCN. Trong Chiến tranh Punic, người La Mã đánh đuổi người Carthago ra khỏi các thuộc địa duyên hải. Đến cuối thời Julius Caesar, hầu như toàn bộ bán đảo bị sáp nhập vào Cộng hoà La Mã. Cuộc chinh phục của người La Mã tại Bồ Đào Nha ngày nay mất gần hai trăm năm và khiến cho nhiều binh sĩ trẻ tuổi thiệt mạng. Người La Mã phải chịu một thất bại nghiêm trọng vào năm 150 TCN khi có một cuộc khởi nghĩa nổ ra ở miền bắc. Người Lusitania và các bộ lạc bản địa khác dưới sự lãnh đạo của Viriato giành được quyền kiểm soát toàn bộ miền tây Iberia. Người La Mã sau đó phái nhiều quân đoàn và những vị tướng giỏi nhất của họ đến Lusitania nhằm trấn áp cuộc khởi nghĩa song không có hiệu quả, họ bèn chuyển sang mua chuộc các đồng minh của Viriato để sát hại ông. Năm 139 TCN, Viriato bị ám sát, và Táutalo trở thành thủ lĩnh song không thành công.
Người La Mã lập ra một chế độ thuộc địa, và công cuộc La Mã hoá Lusitania chỉ hoàn thành vào thời đại Visigoth. Năm 27 TCN, Lusitania có được vị thế một tỉnh của La Mã. Sau đó, một khu vực phía bắc Lusitania trở thành tỉnh riêng gọi là Gallaecia, với thủ phủ tại Bracara Augusta, nay là Braga. Hiện vẫn còn nhiều tàn tích về các hào luỹ trên đỉnh đồi khắp Bồ Đào Nha và các di tích của nền văn hoá Castro. Nhiều di chỉ La Mã nằm rải rác tại Bồ Đào Nha, một số tàn tích đô thị có quy mô khá lớn, như Conímbriga và Mirobriga.
Một số công trình xây dựng kỹ thuật La Mã như các nhà tắm, đền thờ, cầu, đường, rạp xiếc, nhà hát và nhà ở của thường dân được bảo tồn trên khắp Bồ Đào Nha. Các nhà khảo cổ học cũng phát hiện được các đồng tiền xu, một vài đồng xu trong số đó được đúc trên đất Lusitania, cùng với nhiều mảnh vỡ của đồ gốm. Các sử gia đương thời như Paulus Orosius (khoảng 375–418) và Hydatius (khoảng 400–469), giám mục của Aquae Flaviae, đã ghi chép lại về những năm cuối cùng nằm dưới sự cai trị của La Mã và về sự kiện các bộ lạc German tiến đến.
Vào đầu thế kỷ V, các bộ lạc German là Suebi và Vandal (Silingi và Hasdingi) cùng với các đồng minh Sarmatia và Alan của họ tiến hành xâm chiếm bán đảo Iberia, và lập ra vương quốc của họ. Vương quốc của người Suebi thành lập trên các tĩnh cũ Gallaecia-Lusitania của La Mã. Dấu tích các khu định cư trong thế kỷ V của người Alan được phát hiện tại Alenquer, Coimbra và Lisbon. Vào năm 500, Vương quốc Visigoth được thành lập tại Iberia, có trung tâm tại Toledo nay thuộc Tây Ban Nha. Người Visigoth cuối cùng chinh phục thành công người Suebi và thành phố thủ đô Bracara (nay là Braga) vào năm 584–585. Lãnh thổ cũ của người Suebi trở thành tỉnh thứ sáu của Vương quốc Visigoth.
Trong 300 năm sau đó, toàn bộ bán đảo Iberia thuộc quyền cai trị của người Visigoth. Giai đoạn này kéo dài cho đến năm 711, khi Quốc vương Roderic (Rodrigo) tử trận trong cuộc kháng chiến chống lại một cuộc xâm lược của người Moor Hồi giáo từ phía nam. Trong nhiều nhóm German định cư tại miền tây Iberia, người Suebi để lại di sản văn hoá bền vững mạnh mẽ nhất tại Bồ Đào Nha, Galicia và Asturias hiện nay. Theo Dan Stanislawski, cách thức sinh hoạt của người Bồ Đào Nha tại các vùng phía bắc sông Tagus (Tejo) hầu hết là kế thừa từ người Suebi, trong đó các nông trại nhỏ chiếm ưu thế, khác biệt so với các điền trang lớn tại miền nam Bồ Đào Nha. Bracara (Augusta) trở thành kinh đô của người Suebi, địa điểm này là thủ phủ cũ của Gallaecia và nay là thành phố Braga. Orosius trong thời gian sinh sống tại Hispania ghi lại rằng công cuộc định cư ban đầu diễn ra khá thanh bình, những người mới đến canh tác trên đất của họ hoặc làm vệ sĩ cho cư dân địa phương.
Năm 722, một quý tộc Visigoth là Pelayo (Pelágio) xưng vương, lập ra Vương quốc Asturias Cơ Đốc giáo và tiếp tục chiến tranh tái chinh phục của người Cơ Đốc giáo từ người Moor, trong tiếng Bồ Đào Nha gọi là Reconquista Cristã. Đến cuối thế kỷ IX, khu vực phía bắc Bồ Đào Nha nằm giữa các sông Minho và Douro được giải phóng hoặc tái chinh phục từ người Moor, dưới quyền Vímara Peres theo lệnh của Quốc vương Asturias Alfonso III. Nhận thấy khu vực trước đó từng có hai thành phố lớn—Portus Cale tại ven biển và Braga tại nội lục, cùng nhiều thị trấn đang bị bỏ hoang—ông quyết định khôi phục dân số và tái thiết chúng bằng những nạn dân Bồ Đào Nha và Galicia cùng những người Cơ Đốc giáo khác.
Vímara Peres tổ chức khu vực ông giải phóng từ người Moor, nâng vị thế của nó thành một bá quốc với tên gọi Bồ Đào Nha (Portugal) theo tên thành phố cảng lớn nhất trong vùng—Portus Cale' hay Porto ngày nay. Một trong các thành phố đầu tiên được Vimara Peres thành lập vào thời gian này là Vimaranes, nay gọi là Guimarães— "nơi khai sinh quốc gia Bồ Đào Nha" hoặc "thành phố cội nguồn" (Cidade Berço trong tiếng Bồ Đào Nha). Năm 868, Alfonso III phong tước cho Vímara Peres là Bá tước Portus Cale (Bồ Đào Nha) thứ nhất. Khu vực được gọi là Portucale, Portugale, và đồng thời là Portugália—Bá quốc Bồ Đào Nha.
Năm 910, do tranh chấp kế vị, Vương quốc Asturias bị phân thành León, Galicia và Asturias, đến năm 924 thì thống nhất dưới quyền León. Trong thời gian đấu tranh tương tàn này, Bá quốc Bồ Đào Nha tạo thành phần phía nam của Vương quốc Galicia. Vương quốc Galicia tồn tại độc lập chỉ trong một giai đoạn ngắn, song thường là một bộ phận quan trọng của Vương quốc León. Trong suốt giai đoạn này, dân chúng Bá quốc Bồ Đào Nha với tư cách là người Galicia đã tự mình đấu tranh nhằm duy trì quyền tự trị của Galicia, một nơi có ngôn ngữ và văn hoá riêng biệt so với văn hoá Léon. Do phân chia chính trị, người Galicia-Bồ Đào Nha mất đi tính thống nhất khi Bá quốc Bồ Đào Nha tách khỏi Galicia thuộc Léon để lập nên Vương quốc Bồ Đào Nha.
Năm 1128, Bá tước Bồ Đào Nha Afonso Henriques đánh bại mẹ ông là Teresa cùng tình nhân của bà là Fernão Peres de Trava trong trận São Mamede, trở thành nhà lãnh đạo duy nhất. Afonso sau đó chuyển sang chống người Moor tại phía nam. Các chiến dịch của Afonso thắng lợi, và đến ngày 25 tháng 7 năm 1139, ông giành được thắng lợi áp đảo trong trận Ourique, và ngay sau đó được các binh sĩ nhất trí tôn là Quốc vương Bồ Đào Nha. Sự kiện này theo truyền thống được cho là thời điểm Bá quốc Bồ Đào Nha từ một thái ấp của Vương quốc Léon trở thành Vương quốc Bồ Đào Nha độc lập. Afonso được Quốc vương Alfonso VII của León công nhận vào năm 1143, và đến năm 1179 thì được Giáo hoàng Alexander III công nhận.
Bồ Đào Nha đi tiên phong trong phong trào châu Âu khám phá thế giới và Thời đại Khám phá. Henrique Nhà hàng hải, con trai của Quốc vương João I, trở thành người tài trợ và bảo trợ chính cho nỗ lực này. Năm 1415, Bồ Đào Nha giành được thuộc địa hải ngoại đầu tiên khi họ chinh phục Ceuta, một trung tâm mậu dịch Hồi giáo thịnh vượng tại Bắc Phi. Tiếp đến là khám phá các quần đảo trên Đại Tây Dương: Madeira và Açores, dẫn tới các phong trào thuộc địa hoá đầu tiên. Trong suốt thế kỷ XV, các nhà thám hiểm Bồ Đào Nha đi thuyền dọc bờ biển châu Phi, lập các điểm giao thương một số loại hàng hoá thông thường vào thời kỳ đó, từ vàng cho đến nô lệ, họ muốn tìm kiếm một tuyến đường đến Ấn Độ và tiếp cận nguồn gia vị nhằm đáp ứng nhu cầu rất lớn tại châu Âu.
Năm 1498, Vasco da Gama đến được Ấn Độ và đem lại thịnh vượng kinh tế cho Bồ Đào Nha, giúp khởi đầu Phục hưng Bồ Đào Nha. Năm 1500, Pedro Álvares Cabral khám phá Brasil và yêu sách khu vực này cho Bồ Đào Nha. Mười năm sau, Afonso de Albuquerque chinh phục Goa tại Ấn Độ, cùng Muscat và Ormuz tại khu vực eo biển Ba Tư, và Malacca tại Viễn Đông. Do đó, đế quốc này nắm quyền chi phối về thương mại tại Ấn Độ Dương và Nam Đại Tây Dương. Các thuỷ thủ Bồ Đào Nha cũng đi đến Đông Á, tới các địa điểm như Đài Loan, Nhật Bản, đảo Timor và quần đảo Maluku.
Chủ quyền của Bồ Đào Nha bị gián đoạn từ năm 1580 đến năm 1640, nguyên nhân là hai vị quốc vương cuối của Nhà Avis đều không có người kế tự – Quốc vương Sebastião I thiệt mạng trong trận Alcácer Quibir tại Maroc, và ông chú của Sebastião I là Quốc vương Henrique , dẫn đến khủng hoảng kế vị Bồ Đào Nha năm 1580. Sau đó, Felipe II của Tây Ban Nha yêu sách vương vị với tư cách là cháu ngoại của Quốc vương Bồ Đào Nha Manuel I, lấy hiệu là Filipe I của Bồ Đào Nha. Mặc dù Bồ Đào Nha không mất độc lập trên danh nghĩa, song có cùng một vị quân chủ cai quản với Đế quốc Tây Ban Nha, hình thành liên minh của các vương quốc. Vào đương thời, Tây Ban Nha là một lãnh thổ địa lý.
Việc hợp nhất này đã tước đoạt chính sách đối ngoại độc lập của Bồ Đào Nha và dẫn đến việc họ tham gia Chiến tranh Tám mươi Năm giữa Tây Ban Nha và Hà Lan. Cuộc chiến này làm tổn hại quan hệ giữa Bồ Đào Nha và đồng minh lâu năm nhất của họ là Anh, và để mất cảng mậu dịch chiến lược Hormuz tại vùng vịnh Ba Tư. Từ năm 1595 đến năm 1663, Chiến tranh Hà Lan-Bồ Đào Nha chủ yếu liên quan đến việc các công ty Hà Lan xâm phạm nhiều thuộc địa và lợi ích thương nghiệp của Bồ Đào Nha tại Brasil, châu Phi, Ấn Độ và Viễn Đông, khiến Bồ Đào Nha bị mất thế độc quyền mậu dịch hàng hải trên Ấn Độ Dương.
José I kế vị vào năm 1750, do tin trưởng vào Sebastião de Melo, José I giao phó cho ông ta thêm nhiều quyền kiểm soát quốc gia. Do ấn tượng trước thành công kinh tế của người Anh, Melo thi hành thành công các chính sách kinh tế tương tự tại Bồ Đào Nha. Ông bãi bỏ chế độ nô lệ tại Bồ Đào Nha và trong các thuộc địa của Bồ Đào Nha tại Ấn Độ; tái tổ chức lục quân và hải quân; tái tổ chức Đại học Coimbra, và chấm dứt kỳ thị chống các giáo phái Cơ Đốc giáo khác biệt tại Bồ Đào Nha. Cải cách lớn nhất của Sebastião de Melo là về kinh tế và tài chính, ông áp đặt pháp luật nghiêm ngặt lên mọi tầng lớp trong xã hội Bồ Đào Nha, và xét lại hệ thống thuế của quốc gia. Những cải cách này khiến ông trở thành đối thủ của tầng lớp thượng lưu.
Ngày 1 tháng 11 năm 1755, thủ đô Lisboa bị tác động từ một trận động đất mạnh ước tính đạt đến 8,5–9 độ theo thang đo mô men. Thành phố bị san bằng do động đất, cùng cơn sóng thần và hoả hoạn sau đó. Sebastião de Melo lập tức bắt tay tái thiết thành phố, trung tâm thủ đô mới được thiết kế nhằm chống chịu được các trận động đất sau này. Sau động đất, José I trao cho Sebastião de Melo thêm nhiều quyền lực hơn nữa, và vị thủ tướng này trở thành một nhà độc tài quyền lực và cấp tiến. Năm 1758, José I bị thương trong một nỗ lực ám sát, gia tộc Távora và Công tước xứ Aveiro bị kết tội và hành quyết. Dòng Tên bị trục xuất khỏi Bồ Đào Nha và tài sản của họ bị sung công. Sebastião de Melo khởi tố mọi người có liên quan, đây là cú đánh cuối cùng làm tan vỡ quyền lực của giới quý tộc.
Năm 1762, Tây Ban Nha xâm chiếm lãnh thổ Bồ Đào Nha trong khuôn khổ Chiến tranh Bảy Năm, song đến năm 1763 Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha khôi phục hiện trạng trước chiến tranh. Sau vụ án Távora, Sebastião de Melo không còn thế lực đối lập, ông cai trị Bồ Đào Nha trên thực tế cho đến khi José I mất vào năm 1779. Tuy nhiên, các sử gia cũng lập luận rằng "khai sáng" của Pombal dù có ảnh hưởng sâu rộng song chủ yếu là một kỹ xảo giúp nâng cao chế độ chuyên quyền gây tổn hại cho tự do cá nhân và đặc biệt là một công cụ để nghiền nát phe đối lập, đàn áp chỉ trích, và đẩy mạnh khai thác kinh tế thuộc địa cũng như tăng cường kiểm duyệt sách và củng cố quyền kiểm soát và lợi ích cá nhân.
Quân chủ mới là Maria I không ưa Sebastião de Melo, và thu hồi toàn bộ chức vụ chính trị của ông ta. Đến mùa thu năm 1807, Napoléon đưa quân Pháp qua Tây Ban Nha để xâm chiếm Bồ Đào Nha. Từ năm 1807 đến năm 1811, lực lượng Anh-Bồ Đào Nha chiến đấu chống quân Pháp. Năm 1807, khi quân đội của Napoléon tiến đến gần Lisboa, Nhiếp chính vương João VI của Bồ Đào Nha quyết định chuyển triều đình Bồ Đào Nha sang Brasil và lập Rio de Janeiro làm thủ đô của Đế quốc Bồ Đào Nha. Năm 1815, Brasil được tuyên bố là một vương quốc, và Vương quốc Bồ Đào Nha liên hiệp với Brasil để hình thành một nhà nước liên lục địa là Vương quốc Liên hiệp Bồ Đào Nha, Brasil và Algarve. Sự kiện Napoléon chiếm đóng Bồ Đào Nha đánh dấu quá trình suy thoái chậm của quốc gia này cho đến thế kỷ XX. Quá trình này được đẩy nhanh khi Brasil độc lập vào năm 1822, đây vốn là tài sản thuộc địa lớn nhất của Bồ Đào Nha.
Trong khi chủ nghĩa thực dân châu Âu đạt đỉnh cao vào thế kỷ XIX, thì Bồ Đào Nha lại mất lãnh thổ tại Nam Mỹ và chỉ còn vài căn cứ tại châu Á. Trong giai đoạn này, chủ nghĩa thực dân Bồ Đào Nha tập trung vào bành trướng các tiền đồn của họ tại châu Phi thành các lãnh thổ có quy mô quốc gia nhằm cạnh tranh với các cường quốc châu Âu khác tại đây. Trong Hội nghị Berlin năm 1884, các lãnh thổ của Bồ Đào Nha tại châu Phi có biên giới chính thức nhằm bảo vệ lợi ích của Bồ Đào Nha trong Tranh giành châu Phi. Các lãnh thổ của Bồ Đào Nha tại châu Phi là Cabo Verde, São Tomé và Príncipe, Guiné, Angola và Mozambique. Ngoài ra, Bồ Đào Nha duy trì kiểm soát các một số lãnh thổ nhỏ tại Ấn Độ, cùng Timor và Macau. Người Bồ Đào Nha thành lập hoặc xây dựng lại các thành thị tại châu Phi, và trước khi bước sang thế kỷ XX họ đã bắt đầu xây dựng đường ray đường sắt nhằm liên kết các khu vực ven biển với nội lục tại Angola và Mozambique.
Cũng trong đầu thập niên 1960, bùng phát các phong trào độc lập tại các tỉnh hải ngoại Angola và Mozambique, dẫn đến Chiến tranh Thực dân Bồ Đào Nha (1961–1974). Trong suốt chiến tranh thực dân, Bồ Đào Nha phải đối diện với tình trạng gia tăng bất đồng, cấm vận vũ khí và các chế tài trừng phạt các của hầu hết cộng đồng quốc tế. Tuy nhiên, chế độ Estado Novo chuyên chế và bảo thủ dưới quyền António de Oliveira Salazar và từ năm 1968 là Marcelo Caetano vẫn nỗ lực bảo tồn đế quốc liên lục địa rộng lớn với tổng diện tích hơn 2 triệu km².
Một cuộc đảo chính quân sự tả khuynh không đổ máu diễn ra tại Lisboa vào tháng 12 năm 1974, có tên là Cách mạng Hoa cẩm chướng. Các lãnh thổ hải ngoại của Bồ Đào Nha tại châu Phi và châu Á được độc lập, chế độ dân chủ trong nước được khôi phục sau giai đoạn hai năm chuyển đổi gọi là PREC (Processo Revolucionário Em Curso). Giai đoạn này có đặc điểm là náo loạn xã hội và tranh chấp quyền lực giữa các thế lực chính trị tả khuynh và hữu khuynh. Việc các lãnh thổ hải ngoại độc lập dẫn đến một làn sóng công dân Bồ Đào Nha hồi hương (chủ yếu là từ Angola và Mozambique). Tổng cộng, trên một triệu người tị nạn Bồ Đào Nha đào thoát khỏi các tĩnh cũ tại châu Phi.
Cải cách ruộng đất và quốc hữu hoá được thi hành, Hiến pháp Bồ Đào Nha được sửa lại nhằm phù hợp với các nguyên tắc của chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản. Cho đến trước sửa đổi hiến pháp vào năm 1982 và 1989, hiến pháp là một văn kiện có tính tư tưởng cao độ với nhiều đề cập đến chủ nghĩa xã hội, quyền lợi của người lao động, và khao khát về một nền kinh tế xã hội chủ nghĩa. Sau khi chuyển đổi sang thể chế dân chủ, tình hình kinh tế Bồ Đào Nha xấu đi buộc chính phủ phải theo đuổi các chương trình ổn định do IMF giám sát vào năm 1977–78 và 1983–85.
Ngày 26 tháng 3 năm 1995, Bồ Đào Nha bắt đầu áp dụng các quy tắc Khu vực Schengen, loại bỏ kiểm soát biên giới với các thành viên Schengen đồng thời củng cố biên giới các quốc gia khác. Năm 1996, Bồ Đào Nha đồng sáng lập Cộng đồng các quốc gia nói tiếng Bồ Đào Nha (CPLP) có trụ sở tại Lisboa. Triển lãm thế giới năm 1998 diễn ra tại Bồ Đào Nha, và đến năm 1999 quốc gia này cho lưu hành đồng euro. Ngày 1 tháng 12 năm 2009, Hiệp ước Lisboa có hiệu lực sau khi được ký kết vào năm 2007 tại Tu viện Jerónimos của Lisboa, tăng cường tính hợp pháp hiệu quả và dân chủ của Liên minh và cải thiện gắn kết trong các hành động nội khối. Kinh tế suy thoái trong khủng hoảng tài chính cuối thập niên 2010 khiến Bồ Đào Nha đàm phán với IMF và Liên minh châu Âu vào năm 2011 về một khoản vay nhằm giúp ổn định tài chính trong nước.
Bồ Đào Nha là quốc gia ven biển tại tây nam châu Âu, tại cực tây của bán đảo Iberia, giáp với Tây Ban Nha về phía bắc và đông, đường biên giới dài 1.214 km. Lãnh thổ Bồ Đào Nha còn bao gồm các quần đảo trên Đại Tây Dương (Açores và Madeira), với vị trí chiến lược. Cực nam của đại lục Bồ Đào Nha nằm không xa lối vào Địa Trung Hải là eo biển Gibraltar. Tổng diện tích của Bồ Đào Nha là 91.470 km² mặt đất và 620 km² mặt nước. Bồ Đào Nha có nhiều sông chảy qua, chúng bắt nguồn từ Tây Ban Nha. Hầu hết các sông chảy từ tây sang đông để đổ vào Đại Tây Dương; từ bắc xuống nam các sông chính là Minho, Douro, Mondego, Tejo và Guadiana.
Bán đảo Iberia có nguồn gốc là một mảnh vỡ của đới đứt đoạn kiến tạo Varisci là Khối núi Iberia-Hesperia, chiếm phần trung-tây của cao nguyên. Thành hệ này bị hệ thống dãy núi Sistema Central cắt qua, dọc theo hướng đông-đông bắc đến tây-tây nam, song song với chuỗi Baetic (một phần của chuỗi Alpes). Sistema Central phân thành hai khối, trong khi ba hệ thống sông tiêu nước từ các địa hình địa mạo khác nhau: Bắc Meseta (độ cao trung bình là 800) thoát nước vào sông Douro (hướng đông-tây); Nam Meseta (độ cao từ 200-900 m) thoát nước vào sông Tejp (hướng đông-tây) từ Tây Ban Nha, và sông Guadiana (hướng bắc-nam).
Đại lục Bồ Đào Nha không có các hồ tự nhiên cỡ lớn, và phần mặt nước nội lục lớn nhất là các hồ chứa hình thành do xây đập, như hồ chứa Alqueva rộng 250 km². Tuy nhiên, có một số hồ nước ngọt nhỏ tại Bồ Đào Nha, đáng chú ý nhất là các hồ tại Serra da Estrela, hồ Comprida (Lagoa Comprida) và hồ Escura (Lagoa Escura) được tạo thành từ các sông băng cổ đại. Tại quần đảo Açores, các hồ được hình thành trên hõm chảo của các núi lửa đã tắt. Lagoa do Fogo và Lagoa das Sete Cidades là những hồ nổi tiếng nhất trên đảo São Miguel. Bồ Đào Nha có các phá trên bờ biển Đại Tây Dương, như phá Albufeira và phá Óbidos.
Bồ Đào Nha có đường bờ biển dài, ngoài 943 km bờ biển tại đại lục Bồ Đào Nha, thì các quần đảo Açores (667 km) và Madeira (250 km) chủ yếu có bờ biển vách đá gồ ghề. Hầu hết các cảnh quan này xen kẽ giữa vách đá gồ ghề và các bãi biển cát mịn; vùng Algarve nổi tiếng với các bãi biển cát nổi tiếng đối với du khách, trong khi đó đường bờ biển dốc của vùng quanh mũi St. Vincent lại nổi tiếng với các vách đá dốc đứng. Một đặc điểm đáng chú ý của bờ biển Bồ Đào Nha là Ria Formosa với một số đảo cát và khí hậu ôn hoà cùng mùa hè ấm và mùa đông thường là êm dịu. Bờ biển Ria de Aveiro (gần Aveiro, được gọi là "Venezia của Bồ Đào Nha"), được hình thành từ một đồng bằng châu thổ (dài khoảng 45 km và rộng tối đa 11 km) có nhiều cá và chim biển.
Các máy đo thuỷ triều dọc bờ biển Bồ Đào Nha xác định mức nước biển dâng 1-1,5 m, gây tràn bờ tại các cửa sông lớn và các đồng bằng châu thổ nội lục của một số sông lớn. Do có các quần đảo trên đại dương và bờ biển dài, Bồ Đào Nha là quốc gia có vùng đặc quyền kinh tế lớn thứ ba trong Liên minh châu Âu (và đứng thứ 11 thế giới). Vùng biển mà Bồ Đào Nha thực thi quyền lợi lãnh thổ đặc biệt về khai thác kinh tế và sử dụng tài nguyên hàng hải có tổng diện tích 1.727.408 km², trong đó 327.667 km2 là của đại lục Bồ Đào Nha, 953.633 km2 là của quần đảo Açores, và 446.108 km2 là của quần đảo Madeira.
Hai quần đảo Madeira và Açores là hai vùng tự trị của Bồ Đào Nha. Madeira nằm trên mảng kiến tạo châu Phi, gồm đảo lớn Madeira, Porto Santo và quần đảo Selvagens nhỏ hơn. Açores nằm giữa nơi giao nhau của các mảng châu Phi, châu Âu và Bắc Mỹ, trên sống núi giữa Đại Tây Dương và gồm có chín đảo. Hai nhóm đảo đều có nguồn gốc núi lửa, hoạt động núi lửa và địa chấn lịch sử vẫn tồn tại cho đến ngày nay. Đỉnh cao nhất của Bồ Đào Nha là núi Pico trên đảo Pico thuộc Açores. Açores thỉnh thoảng phải chịu các trận động đất rất mạnh, giống như bờ biển đại lục. Cháy rừng hầu hết diễn ra vào mùa hè tại đại lục Bồ Đào Nha, thời tiết cực đoan dưới dạng gió mạnh và lụt diễn ra chủ yếu trong mùa đông.
Bồ Đào Nha có khí hậu Địa Trung Hải (Csa tại phía nam, nội lục và vùng Douro; Csb tại miền bắc, miền trung, và duyên hải Alentejo; khí hậu đại dương hỗn hợp dọc nửa bờ biển phía bắc và cũng có khí hậu bán khô hạn hay khí hậu thảo nguyên (BSk tại một số nơi của huyện Beja tại cực nam) theo phân loại khí hậu Köppen-Geiger), và là một trong các quốc gia châu Âu ấm nhất với nhiệt độ trung bình năm tại đại lục Bồ Đào Nha dao động từ 8-12°C tại vùng nội địa nhiều núi phía bắc cho đến 16-18°C tại phía nam và tại lưu vực sông Guadiana. Tuy nhiên, có khác biệt giữa vùng cao và vùng thấp, dẫn đến có nhiều đới khí hậu sinh vật khác nhau tại Bồ Đào Nha. Algarve tách biệt khỏi vùng Alentejo qua các dãy núi cao đến 900 m tại Alto de Fóia, và có khí hậu tương tự như các khu vực ven biển miền nam Tây Ban Nha hay phía tây nam nước Úc.
Tuyết xuất hiện thường xuyên trong mùa đông tại vùng nội lục miền bắc và miền trung, như Guarda, Bragança, Viseu và Vila Real, đặc biệt là trên các ngọn núi. Vào mùa đông, nhiệt độ có thể giảm xuống dưới -10°C đặc biệt là tại Serra da Estrela, Serra do Gerês, Serra do Marão và Serra de Montesinho. Tại những nơi đó, tuyết có thể rơi vào bất kỳ thời gian nào từ tháng 10 đến tháng 5. Tại miền nam, tuyết hiếm khi xuất hiện song vẫn có tại những nơi có độ cao lớn nhất. Nhiệt độ thấp nhất được IPMA ghi nhận là -16°C tại Penhas da Saúde và Miranda do Douro, song các cơ quan khác từng ghi nhận được nhiệt độ -17,5° tại ngoại ô Bragança vào năm 1983, và dưới -20,0°C tại Serra da Estrela.
Hai quần đảo Açores và Madeira đều có khí hậu cận nhiệt đới, song tồn tại khác biệt giữa các đảo, khiến dự báo khí hậu rất khó khăn. Madeira và Açores có biến thiên nhiệt độ thấp, và nhiệt độ trung bình năm vượt 20°C dọc theo bờ biển. Một số đảo tại Açores có các tháng khô hạn hơn vào mùa hè. Quần đảo Selvagens là lãnh thổ cực nam của Bồ Đào Nha, được phân loại là thuộc khí hậu hoang mạc với lượng mưa trung bình năm khoảng 150 mm. Nhiệt độ mặt nước biển quanh các quần đảo dao động từ 17-18°C vào mùa đông, đến 24-25°C vào mùa hè.
Mặc dù con người cư trú tại lãnh thổ Bồ Đào Nha trong hàng nghìn năm, song vẫn còn tàn tích của hệ thực vật nguyên bản. Tại Gerês có các loại rừng lá rụng và lá kim, một khu rừng Địa Trung Hải trưởng thành cực kỳ hiếm trên toàn cầu tồn tại ở một số phần thuộc núi Arrábida, và một khu rừng laurissilva cận nhiệt đới có niên đại từ kỷ Đệ Tam trên đảo chính Madeira. Do dân số suy giảm và cư dân nông thôn chuyển đến thành thị, sồi Pyrénées và các loài bản địa khác đang chiếm cứ nhiều khu vực hoang hoá. Lợn rừng, hươu đỏ Iberia, hoẵng và sơn dương Iberia được ghi nhận là phát triển mạnh trong các thập niên gần đây.
Các khu vực bảo tồn tại Bồ Đào Nha bao gồm một vườn quốc gia, 12 vườn tự nhiên, 9 khu bảo tồn tự nhiên, 5 khu kỷ niệm tự nhiên và 7 cảnh quan được bảo vệ, trong số đó có Vườn quốc gia Peneda-Gerês, Vườn tự nhiên Serra da Estrela. Các môi trường tự nhiên này có đặc điểm là hệ thực vật đa dạng, đa dạng về các loài thông (đặc biệt là Pinus pinaster và Pinus pinea), sồi Anh (Quercus robur), sồi Pyrénées (Quercus pyrenaica), hạt dẻ (Castanea sativa), sồi vỏ xù (Quercus suber), sồi xanh (Quercus ilex) hay sồi Bồ Đào Nha (Quercus faginea). Do có giá trị kinh tế, một số loài thuộc chi Bạch đàn được di thực và hiện phổ biến tại Bồ Đào Nha, song có tác động đến môi trường. Laurisilva là một kiểu rừng mưa cận nhiệt đới độc đáo, tồn tại trong một vài khu vực tại châu Âu và thế giới: Tại Açores và đặc biệt là Madeira, có các khu rừng lớn thuộc kiểu rừng Laurisilva đặc hữu.
Bồ Đào Nha có một số loài thú đa dạng như cáo, lửng, linh miêu Iberia, chó sói Iberia, dê hoang (Capra pyrenaica), mèo hoang (Felis silvestris), thỏ đồng, chồn, chồn hôi, tắc kè hoa, cầy lỏn, cầy hương. Quốc gia này còn là một điểm dừng chân quan trọng đối với các loài chim di cư, tại các địa điểm như mũi St. Vincent hay dãy núi Monchique, các đàn chim qua đó trong cuộc di cư giữa châu Âu và châu Phi. Bồ Đào Nha có trên 100 loài cá nước ngọt, từ cá da trơn châu Âu khổng lồ cho đến một số loài nhỏ và đặc hữu chỉ sống trong các hồ nhỏ. Một số trong đó là loài hiếm và gặp nguy cơ tuyệt chủng cao do mất môi trường sống, ô nhiễm và hạn hán. Nước trồi dọc bờ biển phía tây Bồ Đào Nha khiến biển tại đó cực kỳ giàu chất dinh dưỡng và đa dạng về các loài cá biển; vùng biển Bồ Đào Nha nằm vào hàng phong phú nhất về cá. Có hàng nghìn loài cá biển, như cá mòi, cá ngừ, cá thu. Tồn tại nhiều loài côn trùng đặc hữu, hầu hết chỉ có tại một số nơi nhất định của Bồ Đào Nha, còn những loài khác thì phổ biến hơn như kẹp kìm (Lucanus cervus) và ve sầu. Các quần đảo Açores và Madeira có nhiều loài đặc hữu như chim, bò sát, dơi, côn trùng, chúng tiến hoá độc lập so với các vùng khác của Bồ Đào Nha. Tại Madeira, có thể quan sát trên 250 loài chân bụng cạn.
Bồ Đào Nha là một nước cộng hoà dân chủ đại nghị bán tổng thống kể từ khi phê chuẩn hiến pháp năm 1976. Hiến pháp phân chia quyền lực giữa bốn cơ cấu là Tổng thống, Chính phủ, Nghị viện và Toà án. Bồ Đào Nha có thể chế đa đảng, cạnh tranh trong lập pháp và hành pháp ở các cấp quốc gia, khu vực và địa phương. Nghị viện Bồ Đào Nha cùng các cơ quan lập pháp khu vực và địa phương nằm dưới quyền chi phối của hai chính đảng là Đảng Xã hội (PS) trung-tả và Đảng Dân chủ Xã hội (PSD) trung-hữu, ngoài ra còn có Liên minh Dân chủ Đoàn kết (Đảng Cộng sản và Đảng Sinh thái "Xanh"), Khối cánh Tả, và Đảng CDS – Nhân dân.
Nguyên thủ quốc gia là "Tổng thống của nước Cộng hoà", được bầu ra theo thể thức phổ thông đầu phiếu với nhiệm kỳ 5 năm. Người này cũng có các quyền giám sát và dự trữ. Các quyền lực của tổng thống bao gồm bổ nhiệm thủ tướng và các thành viên khác trong chính phủ (theo kết quả bầu cử cơ quan lập pháp); bãi chức thủ tướng; giải tán Nghị viện của nước Cộng hoà (để yêu cầu bầu cử sớm); phủ quyết lập pháp (song có thể bị Nghị viện bác bỏ); và tuyên bố tình trạng chiến tranh hoặc bao vây. Tổng thống cũng là tổng tư lệnh của các lực lượng vũ trang. Hội đồng Nhà nước tiến hành cố vấn về các vấn đề quan trọng cho Tổng thống, cơ cấu này gồm sáu quan chức dân sự cao cấp, các cựu tổng thống từng được bầu theo hiến pháp năm 1976, năm thành viên do Nghị viện chọn ra, và năm thành viên do tổng thống lựa chọn.
Thủ tướng là người đứng đầu chính phủ, cơ quan này còn bao gồm ít nhất một phó thủ tướng và các bộ trưởng. Chính phủ là cơ quan tối cao về quản lý chính trị tổng thể quốc gia và về cai quản công cộng. Về cơ bản, chính phủ có quyền lực hành pháp, song cũng có các quyền lực lập pháp hạn chế. Chính phủ có thể ban hành luật về cơ cấu tổ chức của mình, về các lĩnh vực được Nghị viện uỷ quyền và về các quy định cụ thể của pháp luật tổng quát do Nghị viện ban hành. Hội đồng Bộ trưởng do thủ tướng đứng đầu (hoặc là tổng thống nếu người này yêu cầu) và bao gồm các bộ trưởng, giữ vai trò là nội các. Mỗi chính phủ đều được yêu cầu xác định phác thảo khái quát chính sách của mình trong một cương lĩnh, và trình nó lên Nghị viện.
Hệ thống tư pháp Bồ Đào Nha là bộ phận của hệ thống pháp luật dân luật. Các luật chủ yếu bao gồm hiến pháp năm 1976, luật dân sự năm 1966 (có sử đổi) và luật hình sự năm 1982 (có sửa đổi). Các luật liên quan khác là luật Thương mại năm 1888 có sửa đổi và luật Thủ tục dân sự năm 1961 có sửa đổi. Các toà án quốc gia tối cao là Toà án Tư pháp Tối cao và Toà án Hiến pháp. Bộ Công cộng do Tổng chưởng lý đứng đầu, gồm các cơ quan tố tụng công cộng độc lập. Pháp luật Bồ Đào Nha được áp dụng tại các cựu thuộc địa và tiếp tục có ảnh hưởng lớn tại các quốc gia này.
Bồ Đào Nha được phân chia thành 308 khu tự quản (tiếng Bồ Đào Nha: municípios hay concelhos), sau một cải cách vào năm 2013 chúng được chia tiếp thành 3.092 giáo xứ dân sự (tiếng Bồ Đào Nha: freguesia). Đại lục Bồ Đào Nha được phân thành 18 tỉnh, còn các quần đảo Açores và Madeira là các vùng tự trị. 18 tỉnh tại đại lục Bồ Đào Nha là: Aveiro, Beja, Braga, Bragança, Castelo Branco, Coimbra, Évora, Faro, Guarda, Leiria, Lisboa, Portalegre, Porto, Santarém, Setúbal, Viana do Castelo, Vila Real và Viseu – tên của các tỉnh được đặt theo thủ phủ.
Bồ Đào Nha là một thành viên của Liên Hiệp Quốc từ năm 1955, và là một thành viên sáng lập của NATO (1949), OECD (1961) và EFTA (1960); đến năm 1986 Bồ Đào Nha gia nhập Cộng đồng Kinh tế châu Âu, thể chế này trở thành Liên minh châu Âu vào năm 1993. Đến năm 1996, Bồ Đào Nha đồng sáng lập Cộng đồng các quốc gia nói tiếng Bồ Đào Nha (CPLP), nhằm tìm cách thúc đẩy liên kết kinh tế và văn hoá mật thiết hơn giữa các quốc gia nói tiếng Bồ Đào Nha trên thế giới. Cựu Thủ tướng Bồ Đào Nha António Guterres đảm nhiệm chức vụ Tổng Thư ký Liên Hiệp Quốc từ năm 2017.
Bồ Đào Nha còn là một thành viên đầy đủ của Liên minh Latinh (1983) và Tổ chức các quốc gia Iberia-châu Mỹ (1949). Quốc gia này có một quan hệ liên minh hữu nghị và hiệp định quốc tịch kép với cựu thuộc địa của nước này là Brasil. Bồ Đào Nha và Anh có hiệp ước quân sự có hiệu lực lâu năm nhất thế giới, theo hiệp ước Windsor ký vào năm 1373. Bồ Đào Nha có hai tranh chấp lãnh thổ với Tây Ban Nha: Olivenza được nhượng cho Tây Ban Nha vào năm 1801, song Bồ Đào Nha tái yêu sách vào năm 1815. Tuy nhiên khu vực nằm dưới quyền kiểm soát liên tục của Tây Ban Nha từ thế kỷ XIX. Quần đảo Selvagens thuộc quyền cai trị của Bồ Đào Nha, và vấn đề chính là vùng đặc quyền kinh tế của Bồ Đào Nha quanh quần đảo này.
Lục quân gồm có ba lữ đoàn và các đơn vị nhỏ khác, một lữ đoàn bộ binh (được trang bị thiết vận xa Pandur II), một lữ đoàn cơ giới (được trang bị xe tăng Leopard 2 A6 và thiết vận xa M113) và một lữ đoàn phản ứng nhanh (gồm lính dù, đặc công, biệt kích). Hải quân Bồ Đào Nha là lực lượng hải quân lâu năm nhất còn tồn tại trên thế giới, và bao gồm cả lực lượng thuỷ quân lục chiến, có các tàu khu trục nhỏ, tàu hộ tống nhỏ, tàu ngầm, tàu tuần tra và bổ trợ. Không quân Bồ Đào Nha có các máy bay F-16 Fighting Falcon và Dassault/Dornier Alpha Jet. Ngoài ra còn có Vệ binh Cộng hoà Quốc gia, một lực lượng an ninh trong khuôn khổ pháp luật và tổ chức quân sự (hiến binh). Lực lượng này thuộc phạm vi thẩm quyền của cả Bộ Quốc phòng và Bộ Nội vụ, và từng tham gia các sứ mệnh quốc tế tại Iraq và Đông Timor.
Trong thế kỷ XX, Bồ Đào Nha tham gia hai cuộc xung đột lớn là Chiến tranh thế giới thứ nhất và Chiến tranh thực dân Bồ Đào Nha (1961–1974). Sau khi Đế quốc Bồ Đào Nha kết thúc vào năm 1975, lực lượng vũ trang Bồ Đào Nha tham gia các sứ mệnh duy trì hoà bình tại Đông Timor, Bosnia, Kosovo, Afghanistan, Somalia, Iraq (Nasiriyah) và Liban. Bồ Đào Nha cũng tiến hành một số hoạt động quân sự đơn phương độc lập ở bên ngoài, như trong việc can thiệp tại Angola vào năm 1992 và tại Guinea-Bissau vào năm 1998 với mục tiêu chính là bảo vệ và di tản các công dân Bồ Đào Nha và ngoại quốc trước đe doạ từ xung đột nội bộ tại địa phương.
Bồ Đào Nha là quốc gia phát triển và có thu nhập cao, GDP bình quân đầu người vào năm 2014 đạt 78% mức trung bình của Liên minh châu Âu – tăng so với 76% vào năm 2012.. Đến cuối năm 2016, GDP PPP bình quân của Bồ Đào Nha là hơn 30 nghìn USD. Tiền tệ của Bồ Đào Nha là euro (€), nó thay thế escudo Bồ Đào Nha, và đây là một trong các quốc gia thành viên ban đầu của khu vực đồng euro. Ngân hàng trung ương của Bồ Đào Nha là Banco de Portugal, một bộ phận tích hợp của Hệ thống Ngân hàng Trung ương châu Âu. Hầu hết các ngành công nghiệp, thể chế kinh doanh và tài chính tập trung tại các vùng đô thị Lisboa và Porto, còn các tỉnh Setúbal, Aveiro, Braga, Coimbra và Leiria cũng là các trung tâm kinh tế lớn. Đại đa số mậu dịch quốc tế của Bồ Đào Nha là với Liên minh châu Âu, các đối tác mậu dịch quan trọng khác là Bắc Mỹ, các quốc gia nói tiếng Bồ Đào Nha tại châu Phi, Bắc Phi và Mercosul.
Sau Cách mạng hoa cẩm chương năm 1974, Bồ Đào Nha kết thúc một trong các chu kỳ tăng trưởng kinh tế đáng chú ý nhất của mình (bắt đầu trong thập niên 1960),. Sau rối loạn từ khởi nghĩa và giai đoạn PREC, Bồ Đào Nha nỗ lực thích ứng với kinh tế toàn cầu hiện đại đang biến đổi, quá trình này vẫn đang tiếp tục. Kể từ thập niên 1990, mô hình phát triển kinh tế dựa trên tiêu thụ của công chúng thay đổi chậm thành một hệ thống tập trung vào xuất khẩu, đầu tư tư nhân và phát triển lĩnh vực công nghệ cao. Do đó, các dịch vụ kinh doanh đã vượt qua các ngành công nghiệp truyền thống hơn như dệt, quần áo, giầy dép, nút bần (Bồ Đào Nha là nhà sản xuất nút bần hàng đầu thế giới), các sản phẩm từ gỗ, và đồ uống.
Trong thập niên thứ nhì của thế kỷ XXI, kinh tế Bồ Đào Nha phải trải qua cuộc suy thoái nghiêm trọng nhất kể từ thập niên 1970, khiến quốc gia này phải nhận cứu trợ Ủy ban châu Âu, Ngân hàng Trung ương châu Âu và Quỹ Tiền tệ Quốc tế. Khoản cứu trợ được thoả thuận vào năm 2011, yêu cầu Bồ Đào Nha áp dụng một loạt các biện pháp khắc khổ để đối lấy hỗ trợ tài chính 78 tỷ euro. Trong tháng 5 năm 2014, Bồ Đào Nha ra khỏi cứu trợ song tái khẳng định cam kết duy trì động lực cải cách. Trong thời điểm ra khỏi gói cứu trợ, kinh tế giảm đến 0,7% vào quý đầu của năm 2014, song tỷ lệ Thất nghiệp giảm xuống 15,3%.
Các công ty quốc doanh lớn của Bồ Đào Nha gồm có Águas de Portugal (nước), Caixa Geral de Depósitos (ngân hàng), Comboios de Portugal (đường sắt), Companhia das Lezírias (nông nghiệp) và RTP (truyền thông). Một số thực thể quốc doanh cũ được Parpública quản lý, đây là công ty cổ phần do nhà nước điều hành và là cổ đông của một số công ty công cộng và tư nhân. Trong số các công ty quốc doanh mới được tư hữu hoá, có CTT (bưu chính), TAP Portugal (hàng không) và ANA (cảng hàng không). Các công ty niêm yết trên sàn chứng khoán Euronext Lisboa, như EDP, Galp, Jerónimo Martins, Mota-Engil, Novabase, Semapa, Portucel Soporcel, Portugal Telecom và Sonae, nằm trong số các công ty lớn nhất của Bồ Đào Nha về số lượng việc làm, thu nhập thuần hoặc thị phần quốc tế. Euronext Lisboa là sàn giao dịch chứng khoán chính của Bồ Đào Nha và từng là bộ phận của NYSE Euronext.
Nông nghiệp Bồ Đào Nha dựa trên các đơn vị phân tán quy mô nhỏ đến vừa thuộc sở hữu hộ gia đình. Tuy nhiên, cũng có kinh doanh nông nghiệp định hướng xuất khẩu thâm canh quy mô lớn của các công ty. Bồ Đào Nha sản xuất đa dạng các sản phẩm trồng trọt và chăn nuôi, gồm cà chua, cam chanh, rau xanh, gạo, ngô, lúa mì, lúa mạch, ô liu, hạt có dầu, quả kiên, anh đào, việt quất đen, nho tươi, nấm, các sản phẩm bơ sữa, gia cầm và thịt bò. Lâm nghiệp có vai trò kinh tế quan trọng trong các cộng đồng nông thôn và các ngành công nghiệp như sản xuất giấy và nội thất. Bồ Đào Nha có truyền thống là cường quốc biển, có truyền thống mạnh về ngư nghiệp và nằm trong số các quốc gia tiêu thụ cá bình quân cao nhất. Các sản phẩm ngư nghiệp chế biến của Bồ Đào Nha được xuất khẩu thông qua một số công ty, trong đó Ramirez là nhà sản xuất cá đóng hộp lâu năm nhất còn hoạt động trên thế giới.
Bồ Đào Nha có ngành khai khoáng quan trọng và đứng hàng đầu châu Âu về sản xuất đồng, cũng như nổi bật về thiếc, volfram, và urani. Tuy nhiên, Bồ Đào Nha thiếu tiềm lực tiến hành khai thác hydrocarbon và nhôm, cản trở sự phát triển của lĩnh vực khai mỏ và luyện kim của quốc gia. Bồ Đào Nha có trữ lượng lớn về sắt và than đá, chủ yếu tại miền bắc, song từ sau cách mạng năm 1974 và toàn cầu hoá kinh tế thì do nguyên nhân tính cạnh tranh thấp nên họ buộc phải giảm hoạt động khai thác các khoáng sản này.
Công nghiệp Bồ Đào Nha có tính đa dạng, như ô tô (Volkswagen Autoeuropa và Peugeot Citroen), hàng không vũ trụ (Embraer và OGMA), điện tử, dệt, thực phẩm, hoá chất, xi mămg, và bột giấy. Nhà máy lắp ráp ô tô AutoEuropa của Tập đoàn Volkswagen tại Palmela nằm trong số các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài lớn nhất tại Bồ Đào Nha. Các ngành công nghiệp hiện đại dựa trên kỹ thuật như hàng không vũ trụ, công nghệ sinh học và công nghệ thông tin, đã được phát triển tại một số địa điểm khắp Bồ Đào Nha. Alverca, Covilhã, Évora, và Ponte de Sor là các trung tâm chính của ngành hàng không vũ trụ Bồ Đào Nha. Sau khi bước sang thế kỷ XXI, nhiều ngành công nghiệp công nghệ sinh học và thông tin quy mô lớn được hình thành, tập trung tại các vùng đô thị Lisboa, Porto, Braga, Coimbra và Aveiro.
Các trọng điểm du lịch của Bồ Đào Nha là Lisboa, Algarve, Madeira, Porto và thành phố Coimbra. Lisboa là thành phố đứng thứ 16 về thu hút du khách tại châu Âu năm 2013 (có bảy triệu du khách nghỉ trong các khách sạn tại thành phố vào năm 2006). Có 4–5 triệu khách hành hương đến Fátima mỗi năm, là nơi Đức Mẹ Maria được cho là hiện ra trước mặt ba mục đồng vào năm 1917. Thánh địa Fátima là một trong các điện thờ Công giáo La Mã lớn nhất trên thế giới. Chính phủ Bồ Đào Nha tiếp tục xúc tiến và phát triển các điểm du lịch mới, như thung lũng Douro, đảo Porto Santo và Alentejo.
Theo số liệu năm 2016, hầu hết du khách nghỉ trong các khách sạn tại Lisboa (6,3 triệu), Porto và miền bắc (4,4 triệu), Algarve (4,2 triệu), miền trung (3,2 triệu), Madeira (1,5 triệu), Alentejo (1,2 triệu), và Açores (0,5 triệu). Algarve và Lisboa dẫn đầu về số khách nghỉ qua đêm. Xét riêng du khách ngoại quốc, độ phổ biến lần lượt là Lisboa (4,41 triệu), Algarve (3,01 triệu), miền bắc (2,08 triệu), miền trung (1,23 triệu), Madeira (1,19), Alentejo (0,37), và Açores. Và đối với du khách nội địa, độ phổ biến lần lượt là miền bắc (2,28 triệu), miền trung (1,99), Lisboa (1,87 triệu), Algarve (1,18), Alentejo (0,80), Madeira (0,29) và Açores (0,27). Năm 2015, có 11,36 triệu du khách nước ngoài đến Bồ Đào Nha, so với 8,1 triệu vào năm 2011, đa số du khách đến từ châu Âu, đặc biệt là Anh, Pháp, Tây Ban Nha và Đức
Đến đầu thập niên 1970, tăng trưởng kinh tế nhanh chóng của Bồ Đào Nha kéo theo gia tăng chủ nghĩa tiêu thụ, và việc mua ô tô mới khiến chính quyền ưu tiên trong cải thiện giao thông. Đến thập niên 1990, sau khi gia nhập Cộng đồng Kinh tế châu Âu, Bồ Đào Nha xây dựng nhiều xa lộ mới. Ngày nay, Bồ Đào Nha có hệ thống đường bộ dài hơn 68,7 nghìn km, khoảng ba nghìn km thuộc hệ thống 44 xa lộ. Xa lộ đầu tiên được khánh thành vào năm 1944, liên kết Lisboa đến Sân vận động Quốc gia, đó là một dự án sáng tạo khiến Bồ Đào Nha trở thành một trong các quốc gia đầu tiên có xa lộ (tuyến đường hiện trở thành đường cao tốc Lisbon-Cascais, hay A5).
Đại lục Bồ Đào Nha có bốn sân bay quốc tế, nằm gần các thành thị chủ yếu là Lisboa, Porto, Faro và Beja. Vị trí địa lý của Lisboa khiến thành phố trở thành một điểm dừng của nhiều hãng hàng không ngoại quốc. Hãng hàng không quốc gia chủ yếu là TAP Portugal, song có nhiều hãng hàng không nội địa khác cung cấp dịch vụ trong và ngoài nước. Chính phủ quyết định xây dựng một sân bay mới bên ngoài Lisboa, tại Alcochete, nhằm thay thế sân bay Lisbon Portela, song dự án này bị ngừng do các biện pháp khắc khổ. Hiện các sân bay quan trọng nhất nằm tại Lisboa, Porto, Faro, Funchal (Madeira), và Ponta Delgada (Açores), thuộc quyền quản lý của cơ quan quốc gia ANA Aeroportos de Portugal.
Bồ Đào Nha có hệ thống đường sắt trải dài toàn quốc và sang Tây Ban Nha, thuộc quyền quản lý của Comboios de Portugal. Giao thông đường sắt chở khách và chở hàng sử dụng 2.791 km đường ray hiện đang phục vụ, trong số đó 1.430 km được điện khí hoá và khoảng 900 km cho phép tốc độ chạy tàu lớn hơn 120 km/h. Mạng lưới hạ tầng đường sắt thuộc quyền vận hành của REFER, trong khi giao thông chở hàng và chở khách là trách nhiệm của Comboios de Portugal (CP), đều là các công ty công cộng. Các hải cảng chính của Bồ Đào Nha nằm tại Sines, Lisbon, Leixões, Setúbal, Aveiro, Figueira da Foz và Faro. Hai vùng đô thị lớn nhất Bồ Đào Nha có hệ thống tàu điện ngầm: Lisbon Metro và Metro Sul do Tejo tại vùng đô thị Lisboa và Porto Metro tại vùng đô thị Porto, đều có chiều dài tuyến trên 35 km. Dịch vụ xe điện Lisboa do Companhia de Carris de Ferro de Lisboa (Carris) vận hành từ hơn một thế kỷ. Tại Porto, một mạng lưới xe điện bắt đầu được xây dựng từ năm 1895, song chỉ còn lại một tuyến phục vụ du lịch bên bờ sông Douro. Các thành thị lớn đều có dịch vụ giao thông đô thị địa phương của mình, cũng như dịch vụ taxi.
Bồ Đào Nha có tài nguyên đáng kể về năng lượng gió và sông, hai nguồn tái tạo có hiệu quả kinh tế cao nhất. Kể từ khi bước sang thế kỷ XXI, diễn ra xu thế hướng đến phát triển một ngành tài nguyên tái tạo và giảm tiêu thụ và sử dụng các tài nguyên nhiên liệu hoá thạch. Vào năm 2006, nhà máy quang năng lớn nhất thế giới đương thời là nhà máy quang năng Moura bắt đầu hoạt động gần Moura thuộc miền nam, trong khi trang trại năng lượng sóng biển thương mại đầu tiên trên thế giới là trang trại sóng Aguçadoura được khánh thành tại vùng Norte vào năm 2008. Đến cuối năm 2006, 66% sản lượng điện năng quốc gia đến từ các nhà máy điện sử dụng than đá và chất đốt, 29% đến từ các đập thuỷ điện, và 6% đến từ năng lượng gió.
Công ty truyền tải điện quốc gia Bồ Đào Nha là Redes Energéticas Nacionais (REN), sử dụng mô hình phức tạp để dự báo thời tiết, đặc biệt là kiểu gió, và các chương trình máy tính để tính toán năng lượng từ các nhà máy năng lượng tái tạo khác nhau. Trước khi phát triển năng lượng mặt trời và gió, Bồ Đào Nha sản xuất điện từ các nhà máy thuỷ điện trên các sông trong nhiều thập niên. Các chương trình mới kết hợp năng lượng gió và nước: Các tua bin gió bơm nước lên phía trên vào ban đêm, tức thời gian có gió mạnh nhất; sau đó nước chảy xuống vào ban ngày, tạo ra điện năng khi có nhu cầu sử dụng cao hơn. Hệ thống phân phối của Bồ Đào Nha nay là một đường hai chiều, thay vì chỉ phân phối điện năng, nó còn thu điện năng từ các máy phát nhỏ như các tấm pin năng lượng mặt trời trên mái nhà. Chính phủ khuyến khích phân phối như vậy bằng cách áp mức giá cao cho những người bán điện năng từ quang năng sản xuất trên mái nhà.
Viện Thống kê Quốc gia Bồ Đào Nha (INE) ước tính dân số vào năm 2011 là 10.562.178 (trong đó 52% là nữ giới, 48% là nam giới). Theo một ước tính vào năm 2017, dân số là 10.294.289. Dân cư Bồ Đào Nha tương đối thuần nhất trong hầu hết lịch sử quốc gia, với một tôn giáo duy nhất (Công giáo La Mã) và một ngôn ngữ duy nhất góp phần vào sự thống nhất dân tộc và quốc gia này, sau khi trục xuất người Moor và người Do Thái. Một số lượng nhỏ các cộng đồng thiểu số kể trên được ở lại Bồ Đào Nha với điều kiện họ phải cải sang Công giáo, và sau đó họ được gọi là Mouriscos và Cristãos Novos. Sau năm 1772, phân biệt giữa những người Cơ Đốc cũ và mới bị bãi bỏ theo sắc lệnh.
Người Bồ Đào Nha bản địa là một dân tộc Iberia, có tổ tiên rất tương đồng với các dân tộc Tây và Nam Âu cũng như Địa Trung Hải, đặc biệt là người Tây Ban Nha, tiếp theo là một số khu vực tại Pháp và Ý, chia sẻ về nguồn gốc, lịch sử và văn hoá. Ảnh hưởng nhân khẩu học quan trọng nhất đối với người Bồ Đào Nha hiện đại có vẻ như là những người cổ nhất tại địa phương; giải thích hiện hành về dữ liệu nhiễm sắc thể Y và ADN ti thể cho thấy người Bồ Đào Nha có nguồn gốc từ các dân tộc đồ đá cũ bắt đầu đến lục địa châu Âu vào khoảng 45.000 năm trước. Tất cả các cuộc di cư sau đó đều để lại ảnh hưởng về di truyền và văn hoá, song nguồn gốc chủ yếu của người Bồ Đào Nha vẫn là từ các cư dân đến vào thời đồ đá cũ. Các nghiên cứu di truyền thể hiện cư dân Bồ Đào Nha không có khác biệt đáng kể với các cư dân châu Âu khác.
Bồ Đào Nha có lịch sử thực dân lâu dài, tạo thành một nền tảng cho bản sắc quốc gia, cũng như từ vị trí địa lý tại góc tây nam của châu Âu, nhìn ra Đại Tây Dương. Đây là một trong các thế lực thực dân châu Âu cuối cùng từ bỏ các lãnh thổ hải ngoại. Do đó, Bồ Đào Nha gây ảnh hưởng cũng như chịu ảnh hưởng văn hoá từ các cựu thuộc địa, kết quả là nhập cư từ các lãnh thổ cũ vì nguyên nhân kinh tế và cá nhân. Bồ Đào Nha trong một thời gian dài là quốc gia xuất cư (nhiều người Brasil có nguồn gốc Bồ Đào Nha), song hiện trở thành quốc gia có nhập cư thuần,. Ước tính có đến 800 nghìn người Bồ Đào Nha trở về Bồ Đào Nha khi các thuộc địa của quốc gia này tại châu Phi được độc lập vào năm 1975.
Năm 2007, Bồ Đào Nha có khoảng 332.137 người nhập cư hợp pháp. Đến năm 2015, Bồ Đào Nha có khoảng 383.759 người nhập cư hợp pháp, chiếm 3,7% dân số. Kể từ thập niên 1990, cùng với bùng nổ trong xây dựng, xuất hiện một vài làn sóng nhập cư mới của người Ukraina, Brasil, các cựu thuộc địa của Bồ Đào Nha tại châu Phi và từ các quốc gia châu Phi khác. Người Romania, Moldova, Kosovo và Trung Quốc cũng di cư đến Bồ Đào Nha. Dân số Di-gan tại Bồ Đào Nha ước tính là khoảng 40.000. Ngoài ra, một số công dân Liên minh châu Âu, chủ yếu là từ Anh và các quốc gia phía bắc khác đã trở thành cư dân thường trú tại Bồ Đào Nha (cộng đồng người Anh hầu hết là những người nghỉ hưu lựa chọn sống tại Algarve và Madeira).
Theo điều tra nhân khẩu năm 2011, 81,0% dân số Bồ Đào Nha là tín đồ Công giáo La Mã. Quốc gia này còn có các cộng đồng nhỏ là tín đồ Tin Lành, Thánh hữu Ngày sau, Hồi giáo, Ấn Độ giáo, Sikh giáo, Chính thống giáo Đông phương, Nhân chứng Jehovah, Baha'i, Phật giáo, Do Thái giáo và thuyết thông linh. Nhiều người cũng chịu ảnh hưởng từ tôn giáo truyền thống châu Phi và Trung Hoa, đặc biệt là trong các lĩnh vực liên quan đến Đông y Trung Hoa và thầy cúng chữa bệnh châu Phi. Khoảng 6,8% dân số nhận mình không theo tôn giáo nào, và 8,3% không trả lời.
Nhiều ngày nghỉ, lễ hội và truyền thống của Bồ Đào Nha có nguồn gốc hoặc ý nghĩa Cơ Đốc giáo. Mặc dù quan hệ giữa nhà nước Bồ Đào Nha và Giáo hội Công giáo La Mã nhìn chung là hoà thuận và ổn định kể từ những năm đầu lập quốc, song sức mạnh cân xứng giữa họ thì có dao động. Trong các thế kỷ XIII và XIV, giáo hội là thế lực giàu có và quyền lực nhất do vai trò của họ trong cuộc tái chinh phục từ người Hồi giáo, đồng nhất mật thiết với chủ nghĩa quốc gia Bồ Đào Nha thời đầu và là nền tảng của hệ thống giáo dục Bồ Đào Nha, bao gồm đại học đầu tiên của quốc gia. Khi Bồ Đào Nha phát triển đế quốc hải ngoại, các đoàn truyền giáo là một phần quan trọng của quá trình thực dân hoá, họ có vai trò quan trọng trong giáo dục và truyền bá Phúc âm đối với cư dân thuộc địa. Các phong trào tự do và cộng hoà phát triển vào thế kỷ XIX-XX biến đổi vai trò và tầm quan trọng của tôn giáo có tổ chức.
Tiếng Bồ Đào Nha là ngôn ngữ chính thức của Bồ Đào Nha, đây là một ngôn ngữ thuộc hệ Roman, có nguồn gốc từ khu vực nay là Galicia và miền bắc Bồ Đào Nha. Tiếng Galicia-Bồ Đào Nha là ngôn ngữ chung của người Galicia và Bồ Đào Nha cho đến khi Bồ Đào Nha lập quốc. Đặc biệt là tại miền bắc của Bồ Đào Nha, vẫn còn nhiều điểm tương đồng giữa văn hoá Galicia và văn hoá Bồ Đào Nha. Galicia là một quan sát viên tham vấn của Cộng đồng các quốc gia nói tiếng Bồ Đào Nha. Theo Ethnologue, tiếng Bồ Đào Nha và tiếng Tây Ban Nha có tương đồng về từ vựng đến 89%, những người bản ngữ có giáo dục của hai bên có thể giao thiệp với nhau.
Tiếng Bồ Đào Nha bắt nguồn từ tiếng La tinh dạng nói của các dân tộc tiền La Mã bị La Mã hoá trên bán đảo Iberia vào khoảng 2.000 năm trước, đặc biệt là người Celt, Tartessia, Lusitania và Iberia. Trong các thế kỷ XV và XVI, ngôn ngữ này được truyền bá trên toàn cầu khi Bồ Đào Nha lập nên một đế quốc thực dân và thương mại từ năm 1415. Tiếng Bồ Đào Nha có người bản ngữ trên năm lục địa, Brasil là quốc gia có nhiều người bản ngữ tiếng Bồ Đào Nha nhất (209,5 triệu người nói vào năm 2016).,
Hệ thống giáo dục của Bồ Đào Nha được phân thành trước tuổi đi học (dưới 6 tuổi), giáo dục căn bản (9 năm, ba giai đoạn, bắt buộc), giáo dục trung học (3 năm, bắt buộc từ năm 2010), và giáo dục bậc cao (gồm giáo dục đại học và bách nghệ). Các trường đại học thường được tổ chức thành các khoa. Các học viện và trường cũng là tên gọi thông dụng cho các phân hiệu tự quản của các thể chế giáo dục bậc cao tại Bồ Đào Nha. Tỉ lệ biết chữ của người thành niên Bồ Đào Nha là 99%, tỷ lệ nhập học tiểu học là 100%.
Các đại học và cơ sở bách nghệ tại Bồ Đào Nha thông qua tiến trình Bologna vào năm 2006. Giáo dục bậc cao trong các thể chế giáo dục công lập được cung cấp trên cơ sở cạnh tranh, một hệ thống hạn chế số lượng sinh viên được thi hành thông qua cơ sở dữ liệu quốc gia về sinh viên nhập học. Tuy nhiên, mọi thể chế giáo dục bậc cao cũng cấp một số chỗ trống tăng thêm cho các vận động viên, người trên 23 tuổi, sinh viên quốc tế, và các trường hợp đặc biệt khác. Hầu hết chi phí của sinh viên được nhà nước hỗ trợ, song do học phí tăng lên, sinh viên phải trả tiền để theo học cơ sở giáo dục bậc cao công lập và các trường phải thu hút các loại hình sinh viên mới như bán thời gian hoặc buổi tối.
Cư dân Bồ Đào Nha có tuổi thọ dự tính là 81,1 năm, xếp thứ 21 thế giới theo số liệu vào năm 2015 của Tổ chức Y tế Thế giới Bồ Đào Nha có hệ thống y tế công cộng tốt thứ 12 thế giới vào năm 2000, xếp trên các quốc gia phát triển cao như Anh, Đức hay Thuỵ Điển Hệ thống y tế của Bồ Đào Nha có đặc điểm là cùng tồn tại ba hệ thống: Dịch vụ Y tế Quốc dân (Serviço Nacional de Saúde, SNS), chương trình bảo hiểm y tế xã hội đặc biệt cho các nghề nhất định (hệ thống phụ y tế), và bảo hiểm y tế tư nhân tự nguyện. SNS cung cấp phạm vi phổ quát, ngoài ra có khoảng 25% dân số tham gia các hệ thống phụ y tế, và 10% tham gia các chương trình bảo hiểm tư nhân và 7% khác thuộc phạm vi các quỹ tương hỗ.
Tỷ lệ tử vong trẻ nhỏ giảm mạnh từ cuối thập niên 1970, từ mức 2,4% số trẻ tử vong trong năm đầu đời giảm xuống còn 0,2%, chủ yếu là do giảm tử vong trẻ sơ sinh. Cư dân Bồ Đào Nha thường được thông báo kịp thời về tình trạng sức khoẻ của họ, các tác động tích cực và tiêu cực trong các sinh hoạt đối với sức khoẻ của họ và việc sử dụng các dịch vụ y tế. Chỉ một trong ba người trưởng thành tại Bồ Đào Nha đánh giá sức khoẻ của họ ở mức tốt hoặc rất tốt (Kasmel et al., 2004), thấp nhất trong số các quốc gia Eur-A.
Bồ Đào Nha đã phát triển một nền văn hoá đặc trưng, chịu ảnh hưởng từ nhiều nền văn minh khác nhau trên khắp Địa Trung Hải và lục địa châu Âu, hoặc được đưa đến khi Bồ Đào Nha có vai trò tích cực trong Thời đại Khám phá. Quỹ Calouste Gulbenkian được thành lập vào năm 1956 tại Lisboa. Trong các thập niên 1990 và 2000, Bồ Đào Nha hiện đại hoá cơ sở hạ tầng văn hoá công cộng, như Trung tâm văn hoá Belém tại Lisboa, Quỹ Serralves và Casa da Música tại Porto, cũng như các hạ tầng văn hoá công cộng mới như thư viện và phòng hoà nhạc đô thị trên khắp đất nước. Bồ Đào Nha có 15 di sản thế giới UNESCO tính đến năm 2013, xếp thứ tám tại châu Âu.
Kiến trúc truyền thống có nét đặc trưng và gồm phong cách Manueline, hay còn gọi là Gothic muộn Bồ Đào Nha, đây là một phong cách xa hoa, phức hợp trong trang trí, có từ các thập niên đầu của thế kỷ XVI. Phong cách Bồ Đào Nha mềm mại là một cách diễn giải trong thế kỷ XX về kiến trúc truyền thống, xuất hiện phổ biến trong các thành phố lớn mà đặc biệt là Lisboa. Bồ Đào Nha hiện đại đóng góp cho thế giới các kiến trúc sư nổi tiếng như Eduardo Souto de Moura, Álvaro Siza Vieira (đều thắng giải Pritzker) và Gonçalo Byrne. Tomás Taveira cũng được chú ý tại Bồ Đào Nha, đặc biệt là vì thiết kế sân vận động.
Điện ảnh được đưa đến Bồ Đào Nha vào năm 1896 khi trình chiếu các bộ phim nước ngoài, và phim đầu tiên của Bồ Đào Nha là Saída do Pessoal Operário da Fábrica Confiança được sản xuất vào cùng năm. Rạp chiếu phim đầu tiên khánh thành vào năm 1904 và phim có kịch bản đầu tiên của Bồ Đào Nha là O Rapto de Uma Actriz (1907). Phim có tiếng suốt phim đầu tiên là A Severa, được sản xuất vào năm 1931. Thời kỳ hoàng kim bắt đầu vào năm 1933 với A Canção de Lisboa, và kéo dài trong hai thập niên sau với các phim như O Pátio das Cantigas (1942) và A Menina da Rádio (1944). Aniki-Bóbó (1942) là phim truyện đầu tiên của Manoel de Oliveira, ghi một dấu mốc với phong cách duy thực, đi trước phong trào phim tân hiện thực Ý một vài năm. Đến đầu thập niên 1960, phong trào Cinema Novo ("điện ảnh mới") được sản sinh, thể hiện chủ nghĩa hiện thực trong phim, theo cảm hứng từ phong trào tân hiện thực Ý và làn sóng mới Pháp, với các phim như Dom Roberto (1962) và Os Verdes Anos (1963). Phong trào trở nên đặc biệt thích hợp sau Cách mạng hoa cẩm chướng vào năm 1974. Năm 1989, Recordações da Casa Amarela của João César Monteiro thắng giải Sư tử bạc tại Liên hoan phim Venezia. Đến năm 2009, Arena của João Salaviza chiến thắng Giải Cành cọ vàng cho phim ngắn của Liên hoan phim Cannes. Điện ảnh Bồ Đào Nha được trợ giúp đáng kể từ nhà nước, Viện Điện ảnh và Nghe nhìn hỗ trợ tài chính cho các bộ phim.
Ẩm thực Bồ Đào Nha có tính đa dạng, dân chúng tiêu thụ nhiều cá tuyết khô (bacalhau trong tiếng Bồ Đào Nha), với hàng trăm công thức chế biến. Hai món cá phổ biến khác là cá mòi nướng và caldeirada, một món hầm có thành phần chủ yếu là khoai tây và có thể làm từ nhiều loại cá. Các món thịt đặc trưng của Bồ Đào Nha làm từ thịt bò, thịt lợn, thịt cừu và thịt gà, gồm cozido à portuguesa, feijoada, frango de churrasco, leitão (lợn sữa quay) và carne de porco à alentejana. Một món ăn miền bắc rất phổ biến là arroz de sarrabulho (gạo ninh trong tiết lợn) hay arroz de cabidela (cơm gà hầm trong tiết gà).
Các món ăn nhanh nổi tiếng gồm có Francesinha (Frenchie) từ Porto, và bánh mì kẹp bifanas (thịt lợn nướng) hoặc prego (thịt bò nướng). Nghệ thuật bánh ngọt Bồ Đào Nha có nguồn gốc trong nhiều tu viện Công giáo thời trung cổ, được truyền bá trên khắp đất nước. Các tu viện này sử dụng rất ít nguyên liệu (hầu hết là quả hạnh, bột mì, trứng và một ít rượu) để tạo ra nhiều loại bánh ngọt khác nhau, trong đó có pastéis de Belém (hay pastéis de nata) có nguồn gốc từ Lisboa, và ovos moles từ Aveiro. Các khu vực khác nhau tại Bồ Đào Nha có các món ăn truyền thống riêng của mình. Bồ Đào Nha có văn hoá thức ăn tốt cho sức khoẻ, và trên khắp đất nước có rất nhiều nhà hàng kiểu này và các tasquinhas nhỏ đặc trưng.
Rượu vang Bồ Đào Nha được công nhận quốc tế từ thời La Mã, họ liên tưởng Bồ Đào Nha với vị thần rượu nho Bacchus. Ngày nay, Bồ Đào Nha có tiếng với cộng đồng đam mê rượu vang, và các loại rượu vang của quốc gia này giành chiến thắng trong một số giải thưởng quốc tế. Một số loại rượu vang Bồ Đào Nha hảo hạng nhất là Vinho Verde, Vinho Alvarinho, Vinho do Douro, Vinho do Alentejo, Vinho do Dão, Vinho da Bairrada và rượu vang Port, rượu vang Madeira, và Moscatel từ Setúbal và Favaios. Port và Madeira đặc biệt được đánh giá cao tại nhiều nơi trên khắp thế giới.
Ngoài Fado và âm nhạc dân gian, người Bồ Đào Nha còn nghe nhạc pop và các thể loại âm nhạc hiện đại khác, đặc biệt là từ Mỹ và Anh, cũng như các nghệ sĩ Bồ Đào Nha, Caribe và Brasil. Các nghệ sĩ được công nhận quốc tế gồm có Dulce Pontes, Moonspell, Buraka Som Sistema, Blasted Mechanism và The Gift, hai người cuối từng được đề cử giải thưởng âm nhạc MTV châu Âu. Trong thập niên 2010, các nghệ sĩ được công nhận cao nhất ở tầm quốc tế và quốc gia là Aurea, Agir, David Carreira, Richie Campbell, D.A.M.A và Diogo Piçarra.
Bồ Đào Nha có một số lễ hội âm nhạc mùa hè, như Festival Sudoeste tại Zambujeira do Mar, Festival de Paredes de Coura tại Paredes de Coura, Festival Vilar de Mouros gần Caminha, Boom Festival tại Idanha-a-Nova, NOS Alive, Sumol Summer Fest tại Ericeira, Rock in Rio Lisboa và Super Bock Super Rock tại Đại Lisboa. Ngoài mùa hè, Bồ Đào Nha có một lượng lớn các lễ hội, hướng đến khán giả đô thị như Flowfest hay Hip Hop Porto. Năm 2005, Bồ Đào Nha tổ chức lễ trao giải âm nhạc MTV châu Âu tại Pavilhão Atlântico, Lisboa. Bồ Đào Nha giành chiến thắng tại Eurovision Song Contest 2017 với bài hát "Amar pelos dois" do Salvador Sobral trình diễn.
Về âm nhạc cổ điển, Bồ Đào Nha có các tên tuổi như các nghệ sĩ piano Artur Pizarro, Maria João Pires, Sequeira Costa, các nghệ sĩ violon Carlos Damas, Gerardo Ribeiro và trong quá khứ là nghệ sĩ cello Guilhermina Suggia. Các nhà soạn nhạc đáng chú ý gồm có José Vianna da Motta, Carlos Seixas, João Domingos Bomtempo, João de Sousa Carvalho, Luís de Freitas Branco và học trò của ông là Joly Braga Santos, Fernando Lopes-Graça, Emmanuel Nunes và Sérgio Azevedo. Tương tự, các nhạc sĩ đương đại như Nuno Malo và Miguel d'Oliveira đạt được một số thành công quốc tế trong việc viết nhạc gốc cho phim và truyền hình.
Bồ Đào Nha có lịch sử phong phú về hội họa, các họa sĩ nổi tiếng đầu tiên của nước này là từ thế kỷ XV, như Nuno Gonçalves, là một phần trong giai đoạn hội họa Gothic muộn. Trong thời kỳ phục hưng, hội họa Bồ Đào Nha chịu ảnh hưởng cao độ từ hội họa phía bắc châu Âu. Trong giai đoạn baroque, Joana d'Obidos và Vieira Lusitano là những họa sĩ có nhiều sáng tác nhất. José Malhoa nổi tiếng với tác phẩm Fado, và Columbano Bordalo Pinheiro (vẽ chân dung của Teófilo Braga và Antero de Quental) đều liên quan đến hội họa tự nhiên.
Bóng đá là môn thể thao phổ biến nhất tại Bồ Đào Nha, có một số giải đấu bóng đá từ cấp độ nghiệp dư địa phương đến cấp chuyên nghiệp đẳng cấp thế giới. Cầu thủ nổi tiếng Eusébio vẫn là một biểu tượng chính của lịch sử bóng đá Bồ Đào Nha. Luís Figo và Cristiano Ronaldo từng đạt giải thưởng cầu thủ xuất sắc nhất năm của FIFA, họ là hai cầu thủ bóng đá người Bồ Đào Nha có đẳng cấp thế giới. Các huấn luyện viên bóng đá người Bồ Đào Nha cũng được chú ý, nổi tiếng nhất là José Mourinho và Fernando Santos.
Đội tuyển bóng đá quốc gia Bồ Đào Nha – Seleção Nacional – giành được danh hiệu cao nhất tại Giải vô địch bóng đá châu Âu năm 2016. Ngoài ra, đội tuyển này còn đứng thứ nhì tại Giải vô địch bóng đá châu Âu 2004 (tổ chức tại Bồ Đào Nha), đứng thứ ba tại Giải bóng đá vô địch thế giới 1966, đứng thứ tư tại Giải bóng đá vô địch thế giới 2006. Tại các giải trẻ, Bồ Đào Nha từng đứng thứ nhất tại Giải vô địch bóng đá U-20 thế giới (năm 1989 và 1991) và một số giải vô địch trẻ châu Âu. S.L. Benfica, Sporting CP và FC Porto là các câu lạc bộ bóng đá lớn nhất tại Bồ Đào Nha xét về tính đại chúng và số lượng giải giành được, họ thường được gọi là "os três grandes" ("ba ông lớn"). Họ từng giành tám danh hiệu giải đấu cấp câu lạc bộ của UEFA, hiện diện trung nhiều trận chung kết và là các đối thủ thường xuyên tại các vòng đấu cuối của hầu hết các mùa giải. Ngoài bóng đá, nhiều câu lạc bộ thể thao của Bồ Đào Nha, bao gồm "ba ông lớn", thi đấu tại một số sự kiện thể thao khác với mức độ thành công và nổi tiếng khác nhau, như khúc côn cầu trượt băng, bóng rổ, bóng đá trong nhà, bóng ném, bóng chuyền. Liên đoàn bóng đá Bồ Đào Nha tổ chức thường niên Cúp Algarve, một giải đấu có uy tín của bóng đá nữ thế giới.
Việt Nam là một nước nông nghiệp thuộc về xứ nóng, vùng nhiệt đới gió mùa. Ngoài ra lãnh thổ Việt Nam được chia ra ba miền rõ rệt là Bắc, Trung, Nam. Chính các đặc điểm về địa lý, văn hóa, dân tộc, khí hậu đã quy định những đặc điểm riêng của ẩm thực từng vùng - miền. Mỗi miền có một nét, khẩu vị đặc trưng. Điều đó góp phần làm ẩm thực Việt Nam phong phú, đa dạng. Đây là một văn hóa ăn uống sử dụng rất nhiều loại rau (luộc, xào, làm dưa, ăn sống); nhiều loại nước canh đặc biệt là canh chua, trong khi đó số lượng các món ăn có dinh dưỡng từ động vật thường ít hơn. Những loại thịt được dùng phổ biến nhất là thịt lợn, bò, gà, ngan, vịt, các loại tôm, cá, cua, ốc, hến, trai, sò v.v. Những món ăn chế biến từ những loại thịt ít thông dụng hơn như thịt chó, thịt dê, thịt rùa, thịt rắn, thịt ba ba... thường không phải là nguồn thịt chính, nhiều khi được coi là đặc sản và chỉ được sử dụng trong một dịp liên hoan nào đó với rượu uống kèm. Người Việt cũng có một số món ăn chay theo đạo Phật được chế biến từ các loại thực vật, không có nguồn thực phẩm từ động vật. Tuy nhiên, trong cộng đồng thì lại có rất ít người ăn chay trường, chỉ có các sư thầy trong các chùa hoặc người bị bệnh nặng buộc phải ăn kiêng.
Một đặc điểm ít nhiều cũng phân biệt ẩm thực Việt Nam với một số nước khác: ẩm thực Việt Nam chú trọng ăn ngon tuy đôi khi không đặt mục tiêu hàng đầu là ăn bổ. Bởi vậy trong hệ thống ẩm thực người Việt ít có những món hết sức cầu kỳ, hầm nhừ ninh kỹ như ẩm thực Trung Hoa, cũng không thiên về bày biện có tính thẩm mỹ cao độ như ẩm thực Nhật Bản, mà thiên về phối trộn gia vị một cách tinh tế để món ăn được ngon, hoặc sử dụng những nguyên liệu dai, giòn thưởng thức rất thú vị dù không thực sự bổ béo (ví dụ như các món măng, chân cánh gà, phủ tạng động vật...).
Khi thưởng thức các món ăn, tính chất phối trộn nguyên liệu một cách tổng hợp nói trên càng trở nên rõ nét hơn: người Việt ít khi ăn món nào riêng biệt, thưởng thức từng món, mà một bữa ăn thường là sự tổng hòa các món ăn từ đầu đến cuối bữa. Một nét đặc biệt khác của ẩm thực Việt Nam mà các nước khác, nhất là nước phương Tây không có chính là gia vị nước mắm. Nước mắm được sử dụng thường xuyên trong hầu hết các món ăn của người Việt. Ngoài ra còn có các loại nước chấm như tương bần, xì dầu (làm từ đậu nành). Bát nước mắm dùng chung trên mâm cơm, từ xưa đến nay làm khẩu vị đậm đà hơn, món ăn có hương vị đặc trưng hơn và biểu thị tính cộng đồng gắn bó của người Việt.[cần dẫn nguồn]
Ẩm thực miền Bắc đặc trưng với khẩu vị mặn mà, đậm đà, thường không đậm các vị cay, béo, ngọt bằng các vùng khác, chủ yếu sử dụng nước mắm loãng, mắm tôm. Sử dụng nhiều món rau và các loại thủy sản nước ngọt dễ kiếm như tôm, cua, cá, trai, hến... và nhìn chung, do truyền thống xa xưa có nền nông nghiệp nghèo nàn, ẩm thực miền Bắc trước kia ít thịnh hành các món ăn với nguyên liệu chính là thịt, cá. Nhiều người đánh giá cao ẩm thực Hà Nội một thời, cho rằng nó đại diện tiêu biểu nhất của tinh hoa ẩm thực miền Bắc Việt Nam với những món phở, bún thang, bún chả, các món quà như cốm Vòng, bánh cuốn Thanh Trì... và gia vị đặc sắc như tinh dầu cà cuống, rau húng Láng.
Ẩm thực miền Nam, có thiên hướng hảo vị chua ngọt, đây là nơi chịu ảnh hưởng nhiều của ẩm thực Trung Quốc, Campuchia, Thái Lan, có đặc điểm là thường cho thêm đường và hay sử dụng sữa dừa (nước cốt và nước dão của dừa). Nền ẩm thực này cũng sản sinh ra vô số loại mắm khô (như mắm cá sặc, mắm bò hóc, mắm ba khía...). Ẩm thực miền Nam cũng dùng nhiều đồ hải sản nước mặn và nước lợ hơn miền Bắc (các loại cá, tôm, cua, ốc biển), và rất đặc biệt với những món ăn dân dã, đặc thù của một thời đi mở cõi, hiện nay nhiều khi đã trở thành đặc sản: chuột đồng khìa nước dừa, dơi quạ hấp chao, rắn hổ đất nấu cháo đậu xanh, đuông dừa, đuông đất hoặc đuông chà là, vọp chong, cá lóc nướng trui...
Đồ ăn miền Trung được biết đến với vị cay nồng, với tất cả tính chất đặc sắc của nó thể hiện qua hương vị riêng biệt, nhiều món ăn cay và mặn hơn đồ ăn miền Bắc và miền Nam, màu sắc được phối trộn phong phú, rực rỡ, thiên về màu đỏ và nâu sậm. Các tỉnh thành miền Trung như Huế, Đà Nẵng, Bình Định rất nổi tiếng với mắm tôm chua và các loại mắm ruốc. Đặc biệt, ẩm thực Huế do ảnh hưởng từ phong cách ẩm thực hoàng gia, cho nên rất cầu kỳ trong chế biến và trình bày. Một mặt khác, do địa phương không có nhiều sản vật mà ẩm thực hoàng gia lại đòi hỏi số lượng lớn món, nên mỗi loại nguyên liệu đều được chế biến rất đa dạng với trong nhiều món khác nhau.
Với 54 dân tộc sống trên nhiều vùng địa lý đa dạng khắp toàn quốc, ẩm thực của mỗi dân tộc trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam đều có bản sắc riêng biệt. Rất nhiều món trong số đó ít được biết đến tại các dân tộc khác, như các món thịt lợn sống trộn phèo non của các dân tộc Tây Nguyên. Tuy nhiên, nhiều món ăn đã trở thành đặc sản trên đất nước Việt Nam và được nhiều người biết đến, như mắm bò hóc miền Nam, bánh cuốn trứng (Cao Bằng, Lạng Sơn), bánh coóng phù (bánh trôi dân tộc Tày, xuất xứ từ bánh trôi tàu của người Hoa), lợn sữa và vịt quay mắc mật (quả mặt), khâu nhục Lạng Sơn (ảnh hưởng từ Quảng Đông, Trung Quốc), phở chua, cháo nhộng ong, phở cốn sủi, thắng cố, các món xôi nếp nương của người Mường, thịt chua Thanh Sơn (Phú Thọ)...
Theo bước chân của người Việt đến khắp thế giới, ẩm thực Việt với tất cả những nét đặc sắc của nó dần được biết tới nhiều ở các nước khác như Thái Lan, Lào, Trung Quốc và các nước châu Âu có cộng đồng người Việt ngụ cư. Có thể dễ dàng tìm thấy các tiệm ăn Việt Nam ở Hoa Kỳ, Canada, Pháp, Úc, Cộng hoà Séc, Đức, Ba Lan và Nga. Các món ăn thuần Việt như phở, nem rán, bánh mì và các loại hương liệu đặc biệt như mắm tôm, rau húng rất phổ biến ở những vùng có đông người châu Á, trong đó có người Việt, sinh sống. Tuy nhiên ẩm thực Việt Nam tại các nước trên thế giới đã ít nhiều lai tạp với ẩm thực bản địa, hoặc đã gia giảm, thay đổi để phù hợp hơn với khẩu vị của cộng đồng dân cư khắp thế giới.
Hiện nay, do đời sống được nâng cao hơn, cơ cấu bữa ăn chính của người Việt hiện cũng đã cải thiện đáng kể theo hướng gia tăng các món mặn nhiều dinh dưỡng sử dụng nguyên liệu động vật. Bên cạnh xu hướng một số vùng miền (nhất là những vùng thôn quê) có đặc tính càng nhiều món trên mâm càng tốt, nhiều gia đình thành thị lại chú trọng xu hướng tinh giản bằng cách chỉ nấu một món trọng tâm có đủ chất đạm và các loại rau bày lên mâm, ăn kèm với các loại rau dưa lặt vặt khác. Một số gia đình làm các món ăn đặc biệt nhân ngày chủ nhật rảnh rỗi, những món cầu kỳ mà ngày thường ít có thời gian để làm. Bát nước chấm "cộng đồng" nay cũng dần được nhiều gia đình, hoặc các nhà hàng cầu kỳ san riêng ra bát cho từng người để hợp vệ sinh hơn, và có nhiều loại nước chấm khác nhau tùy theo trong bữa có loại đồ ăn gì.
Đám ăn hỏi thường sử dụng đồ ăn như lợn sữa quay nguyên con, gà luộc đặt trên mâm xôi (thường là xôi màu đỏ), bánh xu xê, bánh cốm, mứt sen, chè, rượu, trầu cau. Thường lễ vật được làm theo số lượng chẵn và đặt trên các mâm hoặc tráp theo số lẻ. Tiệc cưới có thực đơn tương tự các bữa tiệc khác, thường phổ biến là thực đơn khoảng 10 món với một món ăn khai vị (xúp), một món cơm gạo ngon, một món xôi (thường là xôi đỏ như xôi gấc, xôi lá cẩm), một món canh, một món cá, hai món thịt, một món rau xào nấu, một món nộm, một món tráng miệng.
Các món xôi thường thấy là xôi vò (xôi trộn đậu xanh giã mịn, làm tơi từng hạt), xôi xéo (xôi, đậu xanh giã mịn nắm lại thái mỏng, mỡ nước, hành củ phi), xôi đỗ xanh, xôi đậu phộng (xôi lạc), xôi đỗ đen, xôi gấc (lấy màu đỏ của thịt quả gấc, thường trộn chút đường và mỡ), xôi lá cẩm (màu tím), xôi Hoàng Phố (gần tương tự xôi xéo nhưng có thêm hạnh nhân), xôi gà (xôi ăn với thịt gà xé phay), xôi lạp xường, xôi sầu riêng (dùng chút múi sầu riêng trộn vào gạo), bánh khúc (bánh khúc lăn qua gạo nếp đồ trong chõ), xôi thập cẩm, xôi lá dứa (dùng lá dứa giã lấy nước làm xôi có màu xanh và vị rất thanh). Riêng món xôi ngô (xôi bắp, có nơi gọi là xôi lúa) được chế biến từ nguyên liệu chính là ngô chứ không phải từ gạo nếp.
Các món cháo Việt Nam có cách chế biến tương tự Trung Quốc, Triều Tiên và Nhật Bản: giống như nấu cơm nhưng cho tỷ lệ nước nhiều hơn hẳn gạo để gạo nát nhừ trong nồi. Cháo thường dùng gạo nếp, gạo dẻo kết hợp với gạo tẻ và nhiều nơi còn giã nhỏ gạo trước khi nấu. Nước dùng nấu cháo có thể nhiều kiểu như nước luộc gà, nước luộc trai, hến, nước luộc thịt. Cháo thường được ăn bình thường không kèm thức ăn gì đặc biệt, nhưng thường người Việt hay ăn cùng với trứng vịt muối, trứng kho, giá, hành tươi, thịt nướng, thịt gà hay thịt vịt xé nhỏ, quẩy. Có các món cháo như cháo trắng, cháo rau, cháo lươn, cháo sườn, cháo huyết, cháo tim gan (lợn), cháo gà, cháo cá ám, cháo vịt, cháo trai, cháo ếch, cháo sườn, cháo chân giò... Đặc biệt món rắn hổ đất nấu cháo đậu xanh rất mát, bổ, nổi tiếng ở Nam Bộ.
Bên cạnh bát phở cho thực khách là bát đựng vài miếng chanh tươi, dăm cọng rau thơm, chút tương ớt, bột tiêu. Ở Việt Nam đây thường là món dùng ăn sáng tuy rằng hiện nay có xu hướng thực khách, nhất là thực khách các đô thị trong nước và ở nước ngoài, ăn tất cả các buổi trong ngày. Phở có nhiều thương hiệu, ở miền Bắc Việt Nam rất nổi tiếng là các thương hiệu phở Phở Hà Nội và các cửa hàng phở Nam Định. Tuy nhiên tại nhiều vùng miền trong nước, và đặc biệt là ở các nước trên thế giới như Mỹ, châu Âu, phở có sự thay đổi, gia giảm ít nhiều để phù hợp với văn hóa ẩm thực từng vùng miền. Nhiều nhà kinh doanh cũng bắt đầu tạo những thương hiệu phở đặc biệt như Phở 24, Phở Cali xuất khẩu ra ngoại quốc. Các món phở chính thường thấy:
Miến thường làm dạng sợi bằng nguyên liệu là củ dong riềng, bột đao. Cách chế biến miến để ăn tương tự như các món bún nước hay phở. Trong ẩm thực người Việt thường có các món miến xào hoặc miến nước khá phổ thông sau: Miến xào lòng gà; Miến xào rau cần; Miến xào mộc nhĩ, nấm hương, thịt bò; Miến lươn nước với lươn tươi hoặc khô chiên rắc lên trên bát miến, gia chút rau răm, trút nước dùng và ăn nóng (nổi tiếng ở Nghệ An); miến xào hến ăn kèm với bánh đa nướng; miến lươn xào; miến lòng gà (nước).
Lẩu có thể coi là một biến thái của các loại mì nước hoặc món ăn mà ngày trước được gọi bằng tên hổ lốn (hay hẩu lốn) Việt Nam. Tuy nhiên, với nhiều loại gia vị, rau, nấm, măng, khoai sọ, thịt, thủy sản và các dạng nước dùng chuyên biệt, lẩu được coi là một trong những món ăn mà tính phong phú của nó khiến khó có thể liệt kê đầy đủ. Có thể có các dạng lẩu mắm (dùng các loại mắm cá rã thịt trong nồi để nấu nước dùng, ăn với nhiều loại rau vườn và rau rừng), lẩu dê, lẩu hải sản, lẩu thập cẩm, lẩu gà (thường đi kèm rau ngải cứu) v.v. và có nhiều loại lẩu từ Trung Quốc, Thái Lan) du nhập vào Việt Nam.
Thịt, cá kho: Món kho là sự sử dụng một số loại thịt cá thông dụng, ướp tẩm gia vị, rang qua hoặc rán sơ sau đó đổ nước xăm xắp và đun khoảng 1 tiếng cho cạn nước. Đây là món ăn dân dã trong các gia đình Việt Nam. Thịt lợn kho (thường là thịt mỡ hoặc nửa nạc nửa mỡ) kho với nước mắm, hạt tiêu, hành. Có thể kho thịt với dừa xắt nhỏ, hoặc phối trộn với trứng, đậu kho chung làm món kho Tàu. Cá thường kho với riềng, trám. Nếu là loại cá biển người ta hay cho một chút nước chè cho thịt cá rắn lại, còn nếu là cá nước ngọt hay kho với nước hàng (làm bằng đường thắng) để lấy màu nâu sẫm.