text
stringlengths
465
7.22k
Thành tích nổi bật khác của Jackson còn là hàng loạt kỷ lục Guinness (ghi thêm 6 kỷ lục chỉ tính riêng năm 2006), 13 giải Grammy (bao gồm Giải Grammy Huyền thoại và Giải Grammy Thành tựu trọn đời), 26 giải thưởng Âm nhạc Mỹ (bao gồm giải "Nghệ sĩ của Thế kỷ" và "Nghệ sĩ của thập niên 1980"),—nhiều hơn bất kể nghệ sĩ nào, 13 đĩa đơn quán quân tại Hoa Kỳ trong sự nghiệp đơn ca—nhiều hơn bất kỳ nam nghệ sĩ nào trong thời kỳ Hot 100—và hơn 400 triệu đĩa nhạc tiêu thụ trên toàn cầu,[GC] giúp ông trở thành một trong những nghệ sĩ bán đĩa chạy nhất trong lịch sử âm nhạc. Jackson còn nhận được Bằng Doctor of Humane Letters từ United Negro College Fund và Huân chương Doctorate of Humane Letters từ Đại học Fisk.
Người Do Thái (tiếng Hebrew: יְהוּדִים ISO 259-3 Yehudim, phát âm [jehuˈdim]) là một sắc tộc tôn giáo là một dân tộc có nguồn gốc từ người Israel, còn gọi là người Hebrew, trong lịch sử vùng Cận Đông cổ đại. Các đặc tính sắc tộc, dân tộc và tôn giáo của người Do Thái có liên quan chặt chẽ với nhau, khi mà Do Thái giáo là tín ngưỡng truyền thống của dân Do Thái, cho dù mức độ hành đạo của họ rất đa dạng, từ tuân thủ nghiêm ngặt cho tới hoàn toàn không thực hành.
Người Do Thái bắt nguồn từ một nhóm dân tộc và cũng là một nhóm tôn giáo ở Trung Đông trong thiên niên kỷ thứ hai trước công nguyên, ở một phần của vùng Levant được gọi là mảnh đất của Israel. Merneptah Stele khẳng định sự tồn tại của một dân tộc được gọi là Israel nằm ở đâu đó trong vùng Canaan từ khoảng thế kỷ thứ XIII trước công nguyên (cuối thời đại đồ đồng). Người Israel phát triển từ dân số Canaanite, củng cố các tổ chức của họ với sự xuất hiện của Vương quốc Israel và Vương triều Judah. Một số người cho rằng các dân tộc định cư ở vùng Canaan này kết hợp với các nhóm du mục di cư đến được gọi là người Hebrew. Mặc dù một vài nguồn chi tiết đề cập đến các giai đoạn lưu vong, kinh nghiệm cuộc sống vong quốc của người Do Thái, từ chế độ nô lệ Ai Cập cổ đại đối với người Levant, đến sự đóng chiếm của người Assyria và chế độ lưu đày, cho đến xự chiếm đóng của người Babylonian và sự trục xuất, cho đến sự cai trị của Vương quốc Seleukos, tiếp theo là sư độ hộ của đế quốc La Mã và sự tha hương viễn xứ, và các mối quan hệ lịch sử giữa người Do Thái với quê hương của họ sau đó, trở thành đặc điểm chính của lịch sử, bản sắc và ký ức của người Do Thái.
Người Do Thái đã trải qua một lịch sử lâu dài bị đàn áp và thảm sát trên nhiều vùng đất khác nhau; dân số và phân bố dân cư của họ thay đổi qua nhiều thế kỷ. Số lượng người Do Thái trên khắp thế giới đã đạt đỉnh là 16,7 triệu người trước Thế Chiến thứ hai, chiếm khoảng 0,7% tổng dân số thế giới vào thời điểm đó, nhưng khoảng 6 triệu người do thái đã bị tàn sát có hệ thống trong suốt nạn diệt chủng Do Thái. Sau đó, dân số tăng chậm trở lại, và vào năm 2014, theo North American Jewish Data Bank, ước tính có khoảng 14,2 triệu người Do Thái, chiếm gần 0,2% tổng dân số thế giới (khoảng một trong 514 người là người Do thái). Dựa theo báo cáo, khoảng 44% trong số tất cả người Do Thái sống ở Israel (6,3 triệu), và 40% người Do Thái ở Hoa Kỳ (5,7 triệu), phần lớn số người Do Thái còn lại sống ở châu Âu (1,4 triệu) và Canada (0,4 triệu). Những con số này bao gồm tất cả những người tự xác định là người Do Thái trong một nghiên cứu xã hội nhân khẩu học hoặc đã được xác định là như vậy bởi một người trả lời trong cùng một hộ gia đình. Tuy nhiên, số liệu chính xác của người Do Thái trên toàn thế giới rất khó đo lường. Ngoài các vấn đề về phương pháp thống kê, các tranh chấp giữa các yếu tố nhân dạng theo luật Do Thái halakhic, thế tục, chính trị, và tổ tiên liên quan đến người Do Thái và ai là một người Do Thái cũng có thể ảnh hưởng đáng kể đến con số thống kê tùy thuộc vào nguồn gốc. Israel là quốc gia duy nhất nơi mà người Do Thái chiếm đa số. Nhà nước Israel hiện đại được thành lập như một nhà nước Do thái và tự định nghĩa bản sắc của nó trong bảng Tuyên bố Độc lập và hiến pháp cơ bản. Luật về Sự trở lại của quốc gia Israel trao quyền công dân cho bất kỳ người Do Thái nào yêu cầu quốc tịch Israel.
Giữa năm 1948 và năm 1958, dân số Do Thái tăng từ 800.000 người Do Thái lên đến hai triệu người Do Thái. Hiện tại, người Do Thái chiếm 75,4% dân số của Israel, hay 6 triệu người. Những năm đầu đời của Nhà nước Israel được đánh dấu bởi sự nhập cư hàng loạt của những người còn sống sót sau cuộc diệt chủng người Do Thái Holocaust và người Do Thái trốn khỏi các vùng đất của người Ả Rập. Israel cũng có một số lượng lớn người Do Thái Ethiopia, nhiều người trong số đó được đưa đến Israel vào cuối những năm 1980 và đầu những năm 1990. Từ năm 1974 đến năm 1979 gần 227.258 người nhập cư Do thái đến Israel, khoảng một nửa là từ Liên Xô. Giai đoạn này cũng cho thấy sự gia tăng số lượng dân nhập cư vào Israel từ Tây Âu, Châu Mỹ Latinh và Bắc Mỹ.
Một số người nhập cư từ các cộng đồng khác cũng đã di cư đến, kể cả những người Do Thái Ấn Độ và những nhóm sắc dân người Do Thái khác, cũng như một số con cháu của những người Do Thái Ashkenazi còn sống sót sau nạn diệt chủng người Do Thái Holocaust, những người này đã định cư tại các nước như Hoa Kỳ, Argentina, Úc, Chilê và Nam Phi. Một số người Do Thái đã di cư ra khỏi Israel rồi đi đến ở nơi khác vì những vấn đề kinh tế hoặc sự vỡ mộng với các điều kiện chính trị và cuộc xung đột giữa người Ả Rập và người Do Thái. Người Do Thái Israel di cư rời khỏi quốc gia Israel được gọi là yordim.
Những làn sóng di cư của người Do Thái đến Hoa Kỳ và những quốc gia khác vào cuối thế kỷ XIX, và sự ra đời của Chủ nghĩa phục quốc Do Thái và các sự kiện tiếp theo sau đó, bao gồm các cuộc tàn sát người Do Thái ở Nga, những vụ thảm sát người Do Thái Châu Âu trong nạn diệt chủng người Do thái Holocaust, và sự hồi sinh của nhà nước Israel, cuộc di dân Do Thái sau đó từ các vùng đất của các quốc gia Ả Rập, tất cả đều dẫn đến những thay đổi đáng kể tác động đến các trung tâm dân cư tập trung nhiều người Do Thái trên toàn thế giới vào cuối thế kỷ XX.
Hơn một nửa số người Do Thái sống trong các cộng đồng hải ngoại của người Do Thái (xem Bảng Dân số). Hiện tại, cộng đồng người Do Thái lớn nhất bên ngoài Israel, và cũng là cộng đồng Do Thái lớn nhất hoặc lớn thứ hai trên thế giới, lấy địa bàn tại quốc gia Hoa Kỳ, với nhiều ước tính khác nhau, từ 5.2 cho đến 6.4 triệu người Do Thái. Ở những nơi khác ngoài nước Mỹ, cũng có số lượng lớn cộng đồng người Do Thái ở Canada (315.000 người Do Thái), Argentina (180.000-300.000 người Do Thái), và Braxin (196.000-600.000 người Do Thái), và số lượng người Do Thái ít ỏi hơn ở Mexico, Uruguay, Venezuela, Chile, Colombia và một số quốc gia khác (xem Lịch sử người Do Thái ở Châu Mỹ Latinh). Các nhà nhân khẩu học không đồng ý với việc liệu đất nước Hoa Kỳ có dân số Do Thái lớn hơn quốc gia Israel hay không, với nhiều người cho rằng Israel đã vượt qua Hoa Kỳ về mặt dân số người Do Thái trong những năm 2000, trong khi những nước khác cho rằng Hoa Kỳ vẫn có đông đảo số lượng người Do Thái lớn nhất trên toàn thế giới. Hiện tại, cuộc điều tra dân số Do Thái được lên kế hoạch để xác định rằng liệu điều ấy có đúng hay không về việc Israel đã vượt qua Hoa Kỳ về mặt dân số người Do Thái.
Tây Âu có cộng đồng người Do Thái lớn nhất thứ ba trên thế giới có thể tìm thấy ở Pháp, nơi có từ 483.000 đến 500.000 người Do Thái, phần lớn là người nhập cư hoặc người tị nạn từ các nước Bắc Phi như Algérie, Ma-rốc và Tunisia (hoặc con cháu của họ). Vương quốc Anh có số lượng khá lớn cộng đồng Do Thái là 292.000 người Do Thái. Ở Đông Âu, những con số chính xác rất khó xác định được. Số lượng người Do Thái ở Nga rất khác nhau tùy theo nguồn sử dụng dữ liệu điều tra dân số (đòi hỏi một người chọn một quốc tịch giữa hai lựa chọn bao gồm "người Nga" và "người Do Thái") hoặc đủ tiêu chuẩn nhập cư vào Israel (đòi hỏi một người có một hoặc nhiều ông bà là người Do Thái). Theo các tiêu chí sau, những người đứng đầu cộng đồng người Do Thái Nga khẳng định rằng khoảng 1,5 triệu người Nga có đủ điều kiện cho aliyah để hồi hương cố quốc Israel. Tại quốc gia Đức, có khoảng 102.000 người Do Thái đăng ký với cộng đồng Do Thái, người Do Thái ở nước Đức hiện đang là một sắc dân có dân số đang giảm dần, mặc cho có làn sóng nhập cư của hàng chục ngàn người Do Thái từ Liên Xô cũ kể từ khi bức tường Berlin sụp đổ. Hàng ngàn người Israel đang sống ở Đức, dù cho là vĩnh viễn hoặc tạm thời, yếu tố chủ yếu là vì lý do kinh tế.
Trước năm 1948, khoảng 800.000 người Do Thái đã sống ở những vùng đất mà giờ đây tạo thành thế giới Ảrập (không kể Israel). Trong số này, chỉ dưới hai phần ba số người sống ở vùng Maghreb do Pháp kiểm soát, 15-20% người Do Thái ở Vương quốc Iraq, khoảng 10% người Do Thái ở Vương quốc Ai Cập và khoảng 7% người Do Thái ở Vương quốc Yemen. Hơn 200.000 người Do Thái sống ở Pahlavi Iran và Cộng hòa Thổ Nhĩ Kỳ. Ngày nay, thì có khoảng 26.000 người Do Thái đang sinh sống ở các nước Ả Rập và khoảng 30.000 người Do Thái đang sinh sống ở Iran và Thổ Nhĩ Kỳ. Một cuộc di cư quy mô nhỏ đã bắt đầu ở nhiều quốc gia trong những thập niên đầu của thế kỷ XX, mặc dù aliyah đáng kể duy nhất đến từ Yemen và Syria.
Kể từ thời kỳ của người Hy Lạp cổ đại, một tỷ lệ lớn người Do Thái đã hòa nhập và đồng hóa vào xã hội dân ngoại rộng lớn xung quanh họ, bởi vì sự lựa chọn tự nguyện của chính bản thân của người Do Thái hoặc là do sự cưỡng bức và vũ lực bắt buộc người Do Thái phải làm vậy, những người Do Thái sau đó bị đồng hóa thì ngừng lại hoặc chấm dứt các hoạt động liên quan đến Do Thái giáo và họ vứt bỏ đi bản sắc dân tộc Do Thái cũng như vứt bỏ danh tính cũ của họ trước đây là người Do Thái. Sự đồng hóa xảy ra ở tất cả các khu vực và trong suốt tất cả các khoảng thời gian của chiều dài lịch sử. Một số cộng đồng Do Thái, ví dụ như người Do Thái khai phương ở Trung Quốc thì bị biến mất hoàn toàn.
Trong suốt quá trình lịch sử của người Do Thái, người Do Thái đã liên tục bị trục xuất theo cách trực tiếp hoặc gián tiếp ngay tại chính cả quê hương nguyên thủy ban đầu của họ là vùng đất Israel, và nhiều khu vực mà người Do Thái đã định cư. Kinh nghiệm dầy dặn của những người tị nạn này đã hình thành nên bản sắc Do Thái và do đó người Do Thái thực hành tôn giáo theo nhiều cách khác nhau, và vì thế đó cũng là một yếu tố chính trong lịch sử Do Thái. Sau đây là danh sách chưa đầy đủ của các di dân đáng kể và đáng chú ý khác của người Do thái bao gồm nhiều trường hợp như bị trục xuất hoặc chạy trốn vì áp lực ép buộc:
3. Chính sách của người Assyria là trục xuất và thay thế sắc dân trên các dân tộc đã bị chinh phục, và ước tính khoảng 4.500.000 người trong số những người bị giam cầm phải chịu sự thay thế sắc dân trong ba thế kỷ theo luật lệ Assyria. Đối với Israel, Tiglath-Pileser III tuyên bố ông đã trục xuất 80% dân số của tiểu vùng hạ lưu Galilee, khoảng 13.520 người. Khoảng 27.000 người Do Thái, 20-25% dân số của Vương quốc Israel, được mô tả là bị trục xuất bởi Sargon II, và được thay thế bởi các nhóm sắc dân bị trục xuất khác và người Do Thái bị lưu đày vĩnh viễn bởi Assyria đến các tỉnh Thượng lưu Mesopotamian của Đế chế Assyrian,
5. Sự lưu vong 2.000 năm của người Do Thái bắt đầu từ Đế quốc La Mã, khi người Do Thái sống rải rác khắp mọi nơi trong đế quốc La Mã, và từ vùng đất này đến miền đất khác, người Do Thái định cư ở bất cứ nơi nào mà họ có thể được sống tự do đủ để thực hành Do Thái giáo của họ. Trong quá trình di cư, trung tâm cuộc sống Do Thái di chuyển từ Babylonia đến bán đảo Iberia rồi đến Ba Lan rồi lại đến Hoa Kỳ và tiếp theo là Chủ nghĩa phục quốc Do Thái để quay trở về vùng đất Israel.
Israel là quốc gia duy nhất có dân số người Do Thái phát triển liên tục qua sự tăng trưởng dân số tự nhiên, mặc dù dân số người Do Thái ở các nước khác, đặc biệt là cộng đồng người Do Thái ở châu Âu và ở Bắc Mỹ gần đây đã tăng lên thông qua làn sống di dân nhập cư. Trong cộng đồng người Do Thái hải ngoại, ở hầu hết mọi quốc gia thì dân số của người Do Thái nói chung đang suy giảm hoặc đang ở trong mức ổn định, nhưng cộng đồng người Do Thái Chính thống và cộng đồng người Do Thái Haredi, trong hai cộng đồng người Do Thái này thì các thành viên thường bỏ qua việc kiểm soát sinh đẻ và từ chối kế hoạch hóa gia đình vì lý do đức tin tôn giáo, hai cộng đồng người Do Thái trên có sự gia tăng dân số nhanh nhất.
Cũng có một xu hướng của các cuộc cách mạng được khởi xướng từ phái Do Thái giáo Chính thống để hỗ trợ và giúp đỡ những người Do Thái thế tục hướng về một bản sắc Do Thái truyền thống đậm đà bản sắc dân tộc Do Thái để giảm thiểu tỷ lệ kết hôn khác chủng tộc và việc kết hôn khác tôn giáo. Nhờ những nỗ lực của các cuộc cách mạng ấy cùng với các nhóm Do Thái khác, trong 25 năm qua đã có một xu hướng (được gọi là cuộc cách mạng Baal Teshuva) đã làm cho những người Do Thái thế tục trở thành những người Do Thái sùng đạo, mặc dù các tác động về nhân khẩu học của cuộc cách mạng này chưa được điều tra rõ ràng. Thêm vào đó, cũng có một tỷ lệ lớn những người dân ngoại cải đạo chuyển đổi sang đạo Do Thái Giáo được gọi là Người Do Thái của Sự Lựa Chọn của các dân ngoại là những người quyết định gia nhập đại gia đình dân tộc Do Thái.
Tiếng Hebrew là ngôn ngữ thiêng liêng của người Do Thái (được gọi là lashon ha-kodesh, "ngôn ngữ thần thánh") Tiếng Hebrew là ngôn ngữ chính được sử dụng trong các kinh sách của người Do Thái (Tanakh) được sáng tác, và người Do Thái nói ngôn ngữ này hằng ngày trong nhiều thế kỷ. Vào thế kỷ thứ V trước Công nguyên, tiếng Aramaic có họ hàng với tiếng Hebrew, ngôn ngữ Aramaic đã sát nhập với ngôn ngữ Hebrew và là ngôn ngữ được nói và được sử dụng ở xứ Judea. Vào thế kỷ thứ III trước Công nguyên, một số người Do Thái ở hải ngoại nói tiếng Hy Lạp.
Trải qua nhiều thế kỷ, người Do Thái trên toàn thế giới đã nói ngôn ngữ địa phương hoặc sử dụng ngôn ngữ phổ biến tại các vùng mà người Do Thái di cư đến, người Do Thái thường phát triển các phương ngữ địa phương và sau này trở thành những ngôn ngữ độc lập. Yiddish là ngôn ngữ Đức Do Thái được phát triển bởi những người Do Thái Ashkenazi di cư sang Trung Âu. Ladino là ngôn ngữ Do Thái-Tây Ban Nha được phát triển bởi những người Do Thái Sephardic di cư sang bán đảo Iberia. Do nhiều yếu tố, bao gồm sự ảnh hưởng của nạn diệt chủng người Do Thái Holocaust đối với người Do Thái Châu Âu, cuộc di cư của người Do Thái từ các quốc gia Ả rập và các quốc gia Hồi giáo, và sự di cư tràn lan từ các cộng đồng Do Thái khác trên khắp thế giới, thì những ngôn ngữ Do Thái cổ và khác biệt của một số cộng đồng Do Thái, bao gồm Do Thái Georgian, Do Thái Ả Rập, Do Thái Berber, Krymchak, Do Thái Malayalam và nhiều ngôn ngữ khác của người Do Thái, đa số những ngôn ngữ Do Thái đó không còn được sử dụng nữa.
Trải qua hơn mười sáu thế kỷ, tiếng Hebrew được sử dụng hầu hết trong vai trò là một ngôn ngữ phụng vụ đọc kinh cầu nguyện, và được sử dụng trong vai trò là một ngôn ngữ tôn giáo được sử dụng trong hầu hết các sách có nội dung liên quan đến Do Thái giáo, vài người chỉ nói tiếng Hebrew duy nhất vào ngày Sa bát. Tiếng Hebrew đã được Eliezer ben Yehuda hồi sinh để tiếng Hebrew sống lại thành một ngôn ngữ nói, ông đã đến Palestine năm 1881. Tiếng Hebrew đã không được sử dụng trong vai trò là một tiếng mẹ đẻ kể từ thời kỳ Tannaic. Ngôn ngữ Hebrew hiện đại thì hiện nay là một trong hai ngôn ngữ chính thức của Nhà nước Israel cùng với ngôn ngữ Ả Rập hiện đại.
Mặc dù nhiều người Do Thái đã có đủ kiến thức và trình độ ngôn ngữ về tiếng Hebrew để nghiên cứu các văn học Do Thái cổ điển, và các ngôn ngữ Do Thái khác như tiếng Yiddish và tiếng Ladino thường được sử dụng gần đây vào đầu thế kỷ XX, là những ngôn ngữ Do Thái mà hầu hết người Do Thái ngày nay thiếu kiến thức; và tiếng Anh đã thay thế hầu hết các ngôn ngữ khác của người Do Thái. Ba ngôn ngữ phổ biến nhất được sử dụng rộng rải bởi những người Do Thái hiện nay là tiếng Hebrew, tiếng Anh và tiếng Nga. Một số ngôn ngữ Romance, đặc biệt là tiếng Pháp và tiếng Tây Ban Nha, cũng được sử dụng phổ biến. Trải qua chiều dài lịch sử Do Thái, tiếng Yiddish đã được nhiều người Do Thái sử dụng nhất trong lịch sử hơn bất kỳ ngôn ngữ Do Thái nào khác, nhưng ngày nay sau cuộc thảm họa diệt chủng người Do Thái Holocaust và việc áp dụng tiếng Hebrew hiện đại theo cuộc cách mạng của Chủ nghĩa phục quốc Do Thái và Nhà nước Israel thì tiếng Yiddish ít được sử dụng hơn.
Ở một số nơi khác, ngôn ngữ mẹ đẻ của cộng đồng Do Thái này khác biệt với ngôn ngữ mẹ đẻ của cộng đồng Do Thái khác hoặc các nhóm dân cư chiếm đa số. Chẳng hạn như là ở Quebec, đa số người Do Thái Ashkenazi nói tiếng Anh, còn người Do Thái Sephardi sử dụng tiếng Pháp làm ngôn ngữ chính. Tương tự như vậy, những người Do Thái Nam Phi sử dụng tiếng Anh thay vì tiếng Afrikaans. Do cả hai chính sách của chế độ Czarist và chế độ Liên Xô, Tiếng Nga đã thay thế tiếng Yiddish là ngôn ngữ của người Do Thái Nga, nhưng những chính sách này cũng ảnh hưởng đến các cộng đồng người Do Thái lân cận. Ngày nay, tiếng Nga là ngôn ngữ mẹ đẻ của nhiều cộng đồng người Do Thái ở một số quốc gia hậu Xô viết, chẳng hạn như Ukraine và Uzbekistan, cũng tương tự như người Do Thái Ashkenazi ở Azerbaijan, Georgia, và Tajikistan. Mặc dù các cộng đồng người Do Thái ngày nay ở Bắc Phi nhỏ và ít ỏi, người Do Thái ở đó đã chuyển từ một nhóm đa ngôn ngữ sang một ngôn ngữ đơn nhất (hoặc gần như vậy), người Do Thái nói tiếng Pháp ở Algérie, Morocco, và thành phố Tunis.
Nguồn gốc của người Do Thái theo truyền thống là vào khoảng 1800 TCN với những câu chuyện ghi lại trong Kinh Thánh về sự ra đời của đạo Do Thái. Merneptah Stele, có niên đại vào khoảng 1200 TCN, là một trong những tài liệu khảo cổ xưa nhất của người Do Thái sinh sống trong vùng đất Israel, nơi Do Thái giáo, tôn giáo độc thần đầu tiên được phát triển. Theo những câu chuyện chép lại trong Kinh Thánh, người Do Thái hưởng thụ những giai đoạn tự chủ đầu tiên dưới những quan tòa từ Othniel cho tới Samson, sau đó vào khoảng năm 1000 TCN, vua David thiết lập Jerusalem như là kinh đô của Vương quốc Israel và Judah Thống nhất và từ đó cai quản Mười hai chi tộc Israel.
Vào năm 970 TCN, con của vua David là vua Solomon trở thành vua của Israel. Trong vòng mười năm, Solomon bắt đầu xây dựng Đền thờ thiêng liêng được biết đến như là Đền thờ Đầu tiên. Khi Solomon chết (khoảng 930 TCN), mười chi tộc phía bắc tách ra để thành lập Vương quốc Israel. Vào năm 722 TCN người xứ Assyria chinh phục vương quốc Israel và làm người Israel phải sống lưu vong, bắt đầu một cộng đồng hải ngoại. Vào thời đại di chuyển và du hành khá hạn chế, người Do Thái trở thành những người dân tỵ nạn đầu tiên và dễ bị chú ý nhất. Ngày xưa cũng như bây giờ, dân di cư được đối xử với sự nghi ngờ.
Giai đoạn Đền Thờ thứ nhất kết thúc vào khoảng 586 trước Công Nguyên, khi vua nước Babylon là Nebuchadnezzar II thân chinh đốc suất đại binh phạt Vương quốc Judah và phá hủy Đền thờ Do Thái. Ông ta cướp bóc sạch sành sanh các kho báu trong đền thờ, và còn đày ải nhiều người Do Thái. Những người Do Thái khác từ đó cũng phải đi tha hương để định cư ở nơi khác. Vào năm 538 trước Công Nguyên, vua Belshazzar khi đang dự yến tiệc ở kinh thành Babylon thì bỗng thấy có bàn tay người hiện ra viết một dòng chữ lên tường thành, vội triệu tiên tri Daniel vào hỏi thì ông giải nghĩa dòng chữ, rằng Thiên Chúa đã phán quyết Đế quốc Babylon đã đến hồi diệt vong. Quả nhiên, vua nước Ba Tư thân chinh điều động binh mã tinh nhuệ phạt nước Babylon và lật đổ Belshazzar, tiêu diệt luôn cả Đế quốc của ông ta. Sau thắng lợi vang dội này, Cyrus Đại đế liền ban bố thánh chỉ:
Thế rồi, không những dân Do Thái mà tất cả các dân tộc tù đày trong Đế quốc Babylon đều được vua Cyrus Đại Đế ban bố tự do cho trở về cố hương. Khác xa các vua Ai Cập và Babylon trước đây, ông là vị vua anh minh, nhân đạo và có ngự bút viết: "Trẫm đã quy tụ tất cả các dân tộc đó và Trẫm cho phép họ được về quê hương của chính họ". Theo huấn lệnh của nhà vua, quan Tổng đốc tỉnh Judah là Sheshbazzar - người có dòng dõi vua David - dẫn nhóm người Do Thái đầu tiên trở về thành Jerusalem. Hai năm sau, tức năm 536 trước Công Nguyên, người cháu của David là Zerubabbel dẫn thêm một nhóm người Do Thái thứ hai trở về cố hương, chấm dứt kiếp tù đày của họ. Trở về, trước cảnh hoang tàn của thành Jerusalem họ hết mực đau buồn. Kể từ triều đại Cyrus Đại Đế, dân Do Thái cũng xuất hiện ở Iran. Ông cũng ban của cải và vật liệu xây dựng đền thờ cho vị quan Tổng đốc này. Từ năm 538 TCN cho đến năm 535 TCN, quan Tổng đốc Zerubabbel đã dẫn dắt nhóm người Do Thái đầu tiên về quê hương. Với chính sách tự do tôn giáo, triều đình Cyrus Đại Đế còn bỏ ra tiền của ngân khố quốc gia Ba Tư giúp nhân dân Do Thái xây dựng lại đền thờ. Việc xây dựng Đền thờ thứ hai, được hoàn thành vào năm 516 TCN dưới triều vua Darius Đại Đế 70 năm sau khi Đền thờ Thứ nhất bị phá hủy. Khi Alexander Đại Đế chinh phục Đế quốc Ba Tư, vùng đất Israel rơi vào quyền cai trị của người Hy Lạp cổ (Hellenistic Greek), cuối cùng lại mất vào tay Vương quốc Ptolemaios rồi lại mất vào tay Vương quốc Seleukos.
Triều đình Seleukos cố gắng cải tạo lại Jerusalem khi một thành phố theo văn minh Hy Lạp trở thành người đứng đầu sau khởi nghĩa Maqabim thành công năm 168 TCN lãnh đạo bởi tu sỹ Mattathias cùng với 5 người con trai của ông chống lại Antiochus Epiphanes, và họ thành lập Vương quốc Hasmoneus năm 152 TCN với Jerusalem một lần nữa là kinh đô của vương quốc. Vương quốc Hasmoneus kéo dài trên một trăm năm, nhưng sau đó khi Đế quốc La Mã trở nên hùng mạnh hơn họ đưa Herod lên làm vua chư hầu người Do Thái. Vương quốc của vua Herod cũng kéo dài trên một trăm năm. Bị người Do Thái đánh bại trong cuộc khởi nghĩa Do Thái thứ nhất năm 70, cuộc chiến tranh Do Thái - La Mã đầu tiên và cuộc khởi nghĩa Bar Kokhba năm 135 đã đóng góp đáng kể vào số lượng và địa lý của cộng đồng Do Thái ở nước ngoài, do một phần lớn dân số Do Thái của vùng đất Israel bị trục xuất rồi bị bán làm nô lệ trong toàn Đế quốc La Mã. Kể từ đó, những người Do Thái đã sống trên mọi đất nước của thế giới, chủ yếu là ở châu Âu và vùng Trung Đông mở rộng, trải qua nhiều sự ngược đãi, đàn áp, nghèo đói, và ngay cả diệt chủng (xem: chủ nghĩa bài Do Thái, Holocaust), với thỉnh thoảng một vài giai đoạn phát triển hưng thịnh về văn hóa, kinh tế, và tài sản cá nhân ở nhiều nơi khác nhau (chẳng hạn như Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Đức, Ba Lan và Hoa Kỳ).
Cho đến cuối thế kỷ XVIII, từ Do Thái và theo đạo Do Thái được xem là đồng nghĩa trong thực tế, và đạo Do Thái là yếu tố chính thống nhất người Do Thái mặc dù mức độ theo đạo đó có khác nhau. Trong thời kỳ của chủ nghĩa Khai sáng chuyên chế, một vị vua nổi tiếng của Vương quốc Phổ là Friedrich II Đại Đế đã tiến hành khoan dung tôn giáo và gia tăng quyền lợi của cộng đồng Do Thái. Vào năm 1750, ông ra Thánh chỉ phán rằng người Do Thái được quyền làm chủ các trường học, giáo đường và nhà nguyện của họ. Theo sau Thời đại Khai sáng và thời đại Haskalah tương ứng theo truyền thống Do Thái, một sự thay đổi dần dần đã diễn ra mà qua đó nhiều người Do Thái cho mình là thành viên của nước Do Thái là khái niệm khác biệt với theo đạo Do Thái.
Từ "Yehudi" (số nhiều Yehudim) trong tiếng Hebrew nguyên thủy được dùng để chỉ chi tộc Judah. Sau này, khi phần phía bắc của Vương quốc Israel Thống nhất tách khỏi phần phía nam, thì phần phía nam của Vương quốc bắt đầu đổi tên theo của chi tộc lớn nhất của họ, tức là thành Vương quốc Judah. Từ này ban đầu đề cập đến cư dân của vương quốc phương nam, mặc dù từ B'nei Yisrael (Israelite, người Israel) vẫn được sử dụng cho cả hai nhóm. Sau khi người Assyria chinh phục vương quốc phía bắc để lại mỗi vương quốc phía nam còn tồn tại, từ Yehudim dần dần được dùng để chỉ toàn thể những người theo Do Thái giáo, hơn là chỉ những người trong chi tộc hay là trong Vương quốc Judah. Từ Jew trong tiếng Anh được bắt nguồn từ Yehudi (xem #Thuật ngữ). Sử dụng đầu tiên trong Kinh thánh Tanakh để chỉ đến toàn bộ dân tộc Do Thái được tìm thấy trong Sách Esther.
Việc khôi phục lại thông tin về nguồn gốc của người Do Thái thì rất là khó khăn và phức tạp. Việc phục dựng này đòi hỏi phải kiểm tra ít nhất là 3.000 năm lịch sử cổ đại của nhân loại bằng cách sử dụng nhiều tài liệu với số lượng đồ sộ và đa dạng được viết bằng ít nhất mười ngôn ngữ ở vùng cận Đông. Những khám phá khảo cổ học phụ thuộc vào các nhà nghiên cứu và các học giả từ nhiều chi nhánh khác nhau, mục tiêu là phải giải thích tất cả các dữ kiện thực tế, tập trung vào lý thuyết hợp lý nhất. Trong trường hợp này thì việc này rất là phức tạp bởi sự ảnh hưởng của các yếu tố chính trị lâu dài và các thành kiến về tôn giáo và văn hoá.
Những dữ liệu tiền sử và dân tộc học của người Do Thái có liên quan chặt chẽ với ngành khảo cổ học, sinh học, và các bản ghi chép lịch sử, cũng như các tài liệu tôn giáo và những tài liệu thần thoại. Nhóm dân tộc sơ khai nguyên thủy mà người Do Thái ban đầu có nguồn gốc với tổ tiên của họ là một liên minh của các bộ lạc nói ngữ hệ Semetic thời kỳ đồ sắt được gọi là người Israel sống ở khu vực nằm trong một phần của miền đất Canaan trong thời kỳ bộ lạc và thời kỳ chánh thể. Những người Do Thái hiện đại xuất thân từ Vương quốc Judah ở miền nam Israel, là các bộ lạc của chi tộc Judah và chi tộc Benjamin kể từ khi mười bộ lạc phía Bắc bị mất sau khi họ bị bắt giam ở Assyria.
Theo bản tường thuật Kinh Thánh Hebrew, tổ tiên của người Do Thái được truy ra là có nguồn gốc từ các bậc tổ phụ trong Kinh thánh như Abraham, con trai của Abraham là Isaac, con trai của Isaac là Jacob, và các mẫu phụ như Sarah, Rebecca, Leah và Rachel, những người này đã sống ở Canaan. Mười hai bộ lạc được mô tả là con cháu hậu duệ thuộc dòng dõi của mười hai người con trai của Jacob. Jacob và gia đình ông di cư đến Ai Cập cổ đại sau khi được chính tay Pharaoh mời đến sống cùng với con của ông là Joseph. Dòng dõi con cháu hậu duệ của các bậc tổ phụ sau này trở thành những người nô lệ cho đến khi giai đoạn xuất hành được Moses dẫn dắt. Joshua là người thừa kết vai trò lãnh đạo dân tộc Do Thái sau khi Moses qua đời. Joshua là người đã chỉ huy người Israel xâm chiếm vùng đất của người Canaan.
Phần lớn các nhà khảo cổ học hiện đại đã loại bỏ tính lịch sử của bài tường thuật Kinh Thánh này, vì bài tường thuật này đã được tái tạo thành một câu chuyện thần thoại mang khí chất dân tộc đầy cảm hứng của người Israel. Tuy nhiên, người Israel và nền văn hóa của họ, theo các tài liệu khảo cổ học hiện đại, đã không hề xâm chiếm vùng đất của người Canaan bằng vũ lực, nhưng thay vào đó thì người Israel đã tách ra khỏi dân tộc Canaan và tạo ra sự khác biệt văn hoá thông qua việc phát triển một bản sắc riêng biệt là tín ngưỡng độc thần và sau này là tôn giáo độc thần, đức tin tập trung vào Yahweh là một trong những vị thần cổ đại của dân Canaan. Sự phát triển của niềm tin trung thành với Yahweh, cùng với một số thực hành văn hoá, đã dần dần làm cho nhóm dân tộc Israel khác biệt để tách khỏi những người Canaan khác.
Các nghiên cứu di truyền về người Do Thái cho thấy hầu hết đa số người Do Thái trên toàn thế giới đều có một di sản di truyền phổ biến có chung tổ tiên nguồn gốc từ Trung Đông, và kết quả cho thấy sự giống nhau nhiều nhất giữa người Do Thái với các dân tộc của vùng Trăng lưỡi liềm Màu mỡ. Thành phần di truyền của các nhóm người Do Thái khác nhau cho thấy người Do Thái có chung một cụm gien di truyền từ 4.000 năm nay, đó là một dấu hiệu về nguồn gốc tổ tiên chung của họ. Mặc dù các nhóm người Do Thái sinh sống tách biệt nhau lâu dài, các cộng đồng Do Thái vẫn duy trì các đặc điểm chung trong văn hoá, truyền thống và ngôn ngữ.
Sau đó trong Tây Âu thời trung cổ, những cuộc bức hại người Do Thái được khởi xướng bởi các Kitô hữu đã xảy ra, đặc biệt là trong các cuộc Thập Tự chinh - khi người Do Thái trên khắp nước Đức bị thảm sát - và một loạt các vụ trục xuất từ Vương quốc Anh, Đức, Pháp, và đợt trục xuất lớn nhất là ở Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha sau khi Reconquista (Cuộc cách mạng tái chiếm bán đảo Iberia), nơi mà cả hai người Do Thái Sephardi chưa được rửa tội và tầng lớp cai trị là người Hồi giáo Moors đã được trục xuất.
Hồi giáo và Do Thái giáo có một mối quan hệ phức tạp. Theo truyền thống, người Do Thái và Kitô hữu sống ở các vùng đất Hồi giáo, được gọi là dhimmis, người Do Thái và Kitô hữu được phép thực hành tôn giáo của họ và quản lý các công việc nội bộ của họ, nhưng người Do Thái và Kitô hữu phải tuân thủ theo một số điều kiện nhất định. Người Do Thái và người Kitô hữu phải trả tiền thuế jizya (thuế bình quân đầu người được áp dụng đối với nam giới tự do mà không phải là người Hồi giáo) sinh sống ở trong nhà nước Hồi giáo.
Dhimmis có vị thế thấp kém hơn dưới sự cai trị của người Hồi giáo. Họ có một số khuyết tật về mặt xã hội và về mặt pháp lý như cấm đối tượng mang vũ khí phòng thân hoặc đưa ra lời khai tại tòa án trong các trường hợp có liên quan đến người Hồi giáo. Sự khuyết tật này có tính biểu tượng. Một trong những mô tả của Bernard Lewis là "làm suy nhồi nhất" Mặt khác, người Do Thái hiếm khi đối mặt với tử vì đạo hoặc đày ải, hoặc bị cưỡng bách thay đổi tôn giáo của họ, và họ hầu như được tự do lựa chọn nơi cư trú và nghề nghiệp. là yêu cầu phải mặc quần áo khác biệt. Mặt khác, người Do Thái ít khi phải đối mặt với án tử đạo hoặc bị lưu đày, hoặc bắt buộc phải thay đổi tôn giáo của họ, và họ hầu như được tự do lựa chọn nơi ở và nghề nghiệp.
Các trường hợp ngoại lệ đáng chú ý bao gồm vụ thảm sát người Do Thái và bắt buộc người Do Thái phải cải đạo bởi các nhà cai trị thuộc triều đại Almohad ở Al-Andalus vào thế kỷ XII, cũng như là ở Hồi giáo Ba Tư, và sự ép buộc cưỡng bách người Do Thái Ma Rốc vào các khu phố được gọi là mellahs bắt đầu từ thế kỷ XV và đặc biệt vào đầu thế kỷ XIX. Trong thời hiện đại, chủ đề bài Do Thái trở thành một tiêu chuẩn để kết hợp với các ấn phẩm chống lại người Do Thái và các tuyên bố từ các phong trào Hồi giáo như Hezbollah và Hamas, trong các tuyên bố của các cơ quan khác nhau của Cộng hòa Hồi giáo Iran, thậm chí trong các tờ báo và các ấn phẩm khác của Thổ Nhĩ Kỳ Refah Partisi. "
Trong suốt chiều dài lịch sử, nhiều nhà cai trị, các đế quốc và các quốc gia đã đàn áp quần chúng Do Thái của họ hoặc tìm cách để loại bỏ hoàn toàn nhân dân Do Thái. Các phương pháp được sử dụng bao gồm từ việc trục xuất Do Thái sang diệt chủng Do Thái hoàn toàn; trong các quốc gia, thường những đe dọa của những phương pháp cực đoan này đủ để làm im lặng sự bất đồng quan điểm. Lịch sử của chủ nghĩa bài Do Thái bao gồm cuộc thập tự chinh đệ nhất dẫn đến cuộc tàn sát người Do Thái; cuộc bách đạo Tây Ban Nha (dẫn đầu bởi Tomás de Torquemada) và cuộc bách đạo Bồ Bào Nha, với cuộc đàn áp và hành động đức tin để chống lại những người Kitô hữu Mới và người Do Thái Marrano; vụ thảm sát Bohdan Chmielnicki Cossack ở Ukraine; những vụ tàn sát Pogrom được hậu thuẫn bởi các Sa hoàng Nga; cũng như những vụ trục xuất người Do Thái rời khỏi Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Anh, Pháp, Đức và các quốc gia khác mà người Do Thái đã định cư. Theo một nghiên cứu năm 2008 được công bố trên tạp chí Journal of Human Genetics của Mỹ, 19,8% dân số Iberia hiện đại có tổ tiên là người Do Thái Sephardi, cho biết rằng số lượng người Do Thái cải đạo có thể đã cao hơn nhiều so với dự kiến ban đầu.
Nạn diệt chủng người Do Thái Holocaust là những cuộc khủng bố và những vụ diệt chủng người Do Thái Châu Âu mang tính chất hệ thống của nhà nước (và một số cộng đồng người Do Thái Bắc Phi bị kiểm soát tại Bắc Phi) và các nhóm dân tộc châu Âu thiểu số khác trong Thế chiến thứ II do Đức và các đồng minh của Đức đã gây ra thì ngày nay vẫn là dấu ấn lịch sử nổi bật nhất về sự đàn áp bách hại chống lại người Do Thái. Cuộc bức hại và diệt chủng người Do Thái đã được thực hiện theo từng giai đoạn. Tạo ra những bộ luật mới để loại bỏ người Do Thái hoàn toàn khỏi xã hội dân sự và đã được ban hành nhiều năm trước khi Thế chiến thứ II bùng nổ ra. Các trại tập trung được thành lập với mục đích sử dụng sức lao động của các tù nhân người Do Thái làm nô lệ cho đến khi các phạm nhân người Do Thái chết vì bị kiệt sức hoặc bị trúng bệnh tật. Trường hợp Đế chế thứ ba chinh phục các lãnh thổ mới nằm ở vùng Đông Âu, các đơn vị chuyên biệt được gọi là Einsatzgruppen đã giết hại người Do Thái và các đối thủ chính trị người Do Thái trong các vụ nổ súng hàng loạt.
Người Do Thái không phải là một dân tộc thống nhất nhưng là một dân tộc có nhiều sắc tộc khác nhau. Mỗi sắc tộc Do Thái mang một nền văn hóa, truyền thống, và bản sắc dân tộc cũng rất khác nhau. Ngày nay, các biểu hiện của những khác biệt này giữa các sắc tộc người Do Thái có thể được quan sát thấy trong các biểu hiện văn hóa ở trong mỗi cộng đồng Do Thái, bao gồm sự đa dạng ngôn ngữ mà người Do Thái nói, sở thích ăn uống, các phong tục nghi lễ tôn giáo, các giải thích giáo lý Do Thái Giáo, và nguồn gốc gien di truyền.
Ngoài hai nhóm sắc tộc Do Thái chính kia, thì còn có những nhóm sắc tộc Do Thái thiểu số khác như là các nhóm Ấn Độ Do Thái bao gồm Bene Israel, Bnei Menashe, Cochin Do Thái, và Bene Ephraim. Người Romaniotes của Hy Lạp; người Do thái Ý ("Italkim" hoặc "Bené Roma"); Teimanim từ Yemen; những nhóm người Do Thái Châu Phi khác nhau, trong đó có nhiều nhất là Beta Israel của Ethiopia; và người Trung Hoa Do Thái, nổi bật nhất là người Khai Phong Do Thái, cũng như các cộng đồng khác biệt nhưng bây giờ gần như tuyệt chủng.
Sephardi có nghĩa là Tây Ban Nha hay Hispanic có nguồn gốc từ danh từ Sepharad là một địa danh trong Kinh Thánh. Người Sephardi Do Thái là những người Do Thái thuộc dòng dõi của những người Do Thái đã từng sống ở Bán đảo Iberia vào cuối thế kỷ XV. Vì lý do tôn giáo người Do Thái Sephardi phải di cư rời khỏi Tây Ban Nha vào năm 1492. Con cháu hậu duệ dòng dõi của những người Do Thái này cho dù có sinh ra ở bất cứ nơi đâu vẫn được gọi là người Sephardi Do Thái. Mặc dù những người Do Thái này được trục xuất rời khỏi Bán đảo Iberia, những người Do Thái này lưu vong tìm những nơi trú ẩn mới như Maghreb, Ai Cập, Ý, Hy Lạp, Thổ Nhĩ Kỳ, Syria, Đất Thánh, Hà Lan, và Tân Thế giới.
Người Sephardi Do Thái nói ngôn ngữ Ladino hay tiếng Do Thái Tây Ban Nha, những người Do Thái Sephardi có phong tục tập quán và văn hóa truyền thống và nghi thức tôn giáo Do Thái riêng của họ. Năm 1924, Đại tướng Don Miguel Primo de Rivera y Orbaneja, Marquis đệ Nhị của Estella, thứ 22 của Sobremonte, Hiệp sĩ của Calatrava đã cấp quốc tịch Tây Ban Nha cho những người Do Thái Sephardi vì lý do "lịch sử" và điều này đã cứu được nhiều mạng sống của người Do Thái trong thời kỳ Chiến tranh Thế giới Thứ Hai. Lãnh sự quán Tây Ban Nha Ángel Sanz Briz đã cứu sống được 5200 mạng người Do Thái ở Hungary để tránh khỏi nạn diệt chủng người Do Thái Holocaust bằng cách làm giấy tờ giả cho những người Do Thái Hungary. Tuyên bố rằng người Do Thái Sephardic là công dân Tây Ban Nha và do đó người Sephardi Do Thái thuộc thẩm quyền của chính phủ Tây Ban Nha.
Một nghiên cứu do Cục Thống kê Trung ương Israel (ICBS) tiến hành, những người Do Thái Mizrahi ít có khả năng theo học đại học hơn so với người Do Thái Ashkenazi. Những người Do Thái Ashkenazi sinh ra ở Israel có khả năng theo học đại học cao gấp hai lần so với người Do Thái Mizrahi ở Israel. Hơn nữa, tỷ lệ người Do Thái Mizrahi theo đuổi sự nghiệp học vấn tại đại học vẫn còn rất thấp so với các nhóm di dân thế hệ thứ hai có nguồn gốc từ người Do Thái Ashkenazi, chẳng hạn như người Nga. Theo một cuộc khảo sát của Trung tâm Adva, thu nhập trung bình của người Do Thái Ashkenazi cao hơn 36% so với thu nhập trung bình của người Do Thái Mizrahi năm 2004.
Người Ashkenazi Do Thái chiếm phần lớn đa số dân số người Do Thái hiện đại, với ít nhất 70% người Do Thái trên toàn thế giới (và lên đến 90% trước Chiến tranh thế giới II và Holocaust). Do sự di cư của họ từ châu Âu, Ashkenazim cũng đại diện cho phần lớn người Do Thái ở các lục địa Thế giới Mới, ở các quốc gia như Hoa Kỳ, Gia Nã Đại, Á Căn Đình, Úc và Brasil. Hiện nay thì cộng đồng người Do Thái ở nước Mỹ chủ yếu là Người Ashkenazi Do Thái chiếm 90% tổng dân số người Do Thái ở nước Mỹ. Ở xứ Pháp, sự nhập cư của người Do Thái từ Algérie (Người Do Thái Sephardi) đã dẫn họ vượt qua người Do Thái Ashkenazi.
Tại Israel thì người Do Thái gốc Ashkenazi chiếm khoảng 47,5% tổng dân số người Do Thái ở Israel (và do đó người Do Thái gốc Ashkenazi chiếm 35-36% tổng dân số người Israel). Người Do Thái Ashkenazi đã đóng một vai trò rất lớn và nổi bật trong nền kinh tế, truyền thông và chính trị của quốc gia Israel kể từ khi đất nước Israel hiện đại từ trong giai đoạn trứng nước cho đến khi được thành lập. Các đời tổng thống Israel từ khi quốc gia này được thành lập năm 1948 cho đến hiện này đều là người Ashkenazi Do Thái.
Trong năm 2009, học sinh người Do Thái Ethiopia đã bị từ chối nhập học vào ba trường bán công Haredi ở Petah Tikva. Một quan chức chính phủ Israel đã chỉ trích khu đô thị Petah Tikva và các trường học. Lãnh đạo tinh thần Shas Ovadia Yosef đe doạ sẽ đuổi việc bất kỳ hiệu trưởng của trường học nào trong hệ thống trường học của Shas, những người từ chối nhận học sinh người Do Thái Ethiopia. Bộ Giáo dục Israel quyết định rút kinh phí khỏi các trường học Lamerhav, Da'at Mevinim và Darkei Noam, những trường này đã từ chối chấp nhận sinh viên người Do Thái Ethiopia. Thủ tướng Israel Benjamin Netanyahu đã lên tiếng chống lại việc từ chối chấp nhận trẻ em Ethiopia, gọi đó là "một cuộc tấn công khủng bố đạo đức"
Vào tháng 4 năm 2015, một người lính Ethiopia trong quân đội IDF trở thành nạn nhân của một cuộc tấn công phân biệt kỳ thị chủng tộc không mang tính khiêu khích, người lính Ethiopia bị một cảnh sát người Israel đánh đập và vụ tấn công này đã được thu lại trên video. Tờ báo Do Thái Jerusalem Post ghi nhận vào năm 2015 rằng, đã có một loạt các báo cáo trong báo chí Israel về các hành động bạo lực của cảnh sát Do Thái đối với người do thái Ethiopia ở Israel, và nhiều người trong cộng đồng nói rằng họ bị đối xử bất công bằng và bị đối xử một cách tàn nhẫn khắc nghiệt khó khăn hơn so với các công dân khác.
Vào ngày 24 tháng 1 năm 1996, tờ Ma'ariv đã tiết lộ về chính sách Magen David Adom gây chú ý dư luận dẫn đến các chỉ trích nặng nề ở Israel và trên toàn thế giới. Theo chính sách mà Bộ Y tế Israel hay các nhà tài trợ đã không chú ý đến, các mẫu hiến máu nhận được từ người nhập cư Ethiopia và con cái của họ đã được vứt bỏ một cách bí mật. Cuộc điều tra công khai lần thứ hai đã dẫn đến việc hiểu sai về hướng dẫn năm 1984 để đánh dấu các mẫu hiến máu từ người nhập cư Ethiopia do tỷ lệ cao bị nhiễm vi khuẩn HBsAg và kết quả cho thấy các ca nhiễm bệnh viêm gan B rất cao trong các mẫu máu lấy từ quần thể này.
Vài ngày sau cuộc điều tra, mười ngàn người Do Thái Ethiopia đã bao vây quanh Văn phòng Thủ tướng Chính phủ. Lực lượng cảnh sát đã bị bất ngờ và cảnh sát đã không chuẩn bị trước cho vụ bạo lực bùng phát này, khiến các cảnh sát bị thương do người Do Thái Ethiopia ném đá, đánh đập bằng gậy và thanh thép. Cảnh sát đã đẩy lùi những người biểu tình bằng đạn cao su, súng nước. 41 cảnh sát và 20 người biểu tình đã bị thương và 200 chiếc xe thuộc lực lượng nhân viên Văn phòng Thủ tướng Chính phủ đã bị hư hỏng.
Theo một chương trình truyền hình vào năm 2012, người nhập cư Ethiopia là nữ giới có thể đã được cấp thuốc ngừa thai Depo-Provera mà không có giải thích đầy đủ về tác dụng của thuốc, mặc dù Bộ Y tế Israel đã chỉ thị cho tất cả các tổ chức bảo trì sức khoẻ không sử dụng phương pháp điều trị này trừ khi bệnh nhân hiểu được những tác dụng phụ. Phụ nữ Do Thái Ethiopia đang chờ hồi hương aliyah đã được kiểm soát việc sinh đẻ trong khi đang ở các trại chuyển tiếp. Thuốc này đã tồn tại khoảng ba mươi năm nhưng chỉ có khoảng năm phần trăm phụ nữ lựa chọn sử dụng phương pháp ngừa thai này ở Hoa Kỳ. Tác dụng của thuốc Depo-Provera kéo dài trong vòng ba tháng.
Các nghiên cứu Nhiễm sắc thể Y có khuynh hướng ngụ ý một số lượng nhỏ những người tổ tiên trong một quần thể cổ đại mà các thành viên đã tách ra và đi theo những con đường di cư khác nhau. Trong hầu hết các quần thể Do Thái, những tổ tiên của người Do Thái chủ yếu là người Trung Đông. Ví dụ, người Do Thái Ashkenazi chia sẻ nhiều dòng dõi hệ cha phổ biến hơn với các nhóm Do Thái và các nhóm người Trung Đông khác so với những người không phải là người Do Thái ở các khu vực nơi người Do Thái sinh sống ở Đông Âu, Đức và thung lũng Rhine của Pháp. Điều này phù hợp với truyền thống Do Thái tin rằng hầu hết nguồn gốc của người Do Thái đến từ khu vực Trung Đông. Ngược lại, dòng dõi mẹ của các nhóm Do Thái, nghiên cứu bằng cách nhìn vào ADN ty thể, nói chung là không đồng nhất hơn. Các học giả như Harry Ostrer và Raphael Falk tin rằng điều này cho thấy nhiều nam giới người Do Thái tìm được những người bạn đời mới từ các cộng đồng Âu Châu và các cộng đồng khác ở những nơi họ di cư đến trong các cộng đồng di dân sau khi bị trục xuất khỏi quốc gia Israel cổ đại. Trái lại, Behar đã tìm thấy bằng chứng cho thấy rằng khoảng 40% người Do Thái Ashkenazi có nguồn gốc từ bốn bà mẹ tổ tiên, những người phụ nữ này có nguồn gốc Trung Đông. Các quần thể của cộng đồng người Do Thái Sephardi và người Do Thái Mizrahi "cho thấy không có bằng chứng của hiệu ứng tổ tiên ít. Các nghiên cứu tiếp theo của Feder et al. đã xác nhận phần lớn nguồn gốc mẹ không phải là người địa phương trong số những người Do Thái Ashkenazi. Kết quả nghiên cứu này phản ánh những phát hiện của họ liên quan đến nguồn gốc mẹ của những người Do Thái Ashkenazi. Các tác giả kết luận: "Rõ ràng, sự khác biệt giữa người Do Thái và dân ngoại là rất nhiều so với những người thực hành tôn giáo trong cộng đồng Do Thái. Do đó, sự khác biệt giữa các cộng đồng người Do Thái có thể bị bỏ qua khi dân ngoại không được đưa vào trong so sánh.
Đối với các cộng đồng người Do Thái ở cộng đồng lưu vong của người Do Thái, thành phần di truyền của các nhóm người Do Thái Ashkenazi, Sephardi và Mizrahi đã cho thấy một số lượng lớn các tổ tiên gốc gác Trung Đông. Theo Behar, lời giải thích hợp lý nhất cho tổ tiên người Do Thái có nguồn gốc Trung Đông này là "phù hợp với công thức lịch sử của người Do Thái xuất phát từ người Hebrew và người Do Thái cổ đại ở vùng Levant" và "sự phân tán lưu vong của người dân tộc Israel cổ đại trong Cựu Thế giới Cổ Đại.
Dân tộc Do Thái và tôn giáo của người Do thái là Do Thái Giáo có quan hệ mật thiết chặt chẽ gắn bó liên kết với nhau. Những người chuyển đổi sang đạo Do Thái giáo thì những người đó đạt được đẳng cấp ngang hàng với người Do Thái bị sinh ra trong dân tộc Do Thái. Tuy nhiên, một số người chuyển đổi cải đạo sang Do Thái giáo, cũng như những người Do Thái đã rời bỏ dân tộc Do Thái, thì những người đó đã tuyên bố rằng những người theo đạo Do Thái được coi như là những người Do Thái hạng hai bị coi thường bị khinh bỉ bị xem thường trong đôi mắt của nhiều người Do Thái được sinh ra trong dân tộc Do Thái (người Do Thái đạo gốc dòng dõi chính tông mang huyết thống máu mủ dân tộc Do Thái). Sự cải đạo không được khuyến khích bởi đạo Do Thái chính thống và sự chuyển đổi đạo được coi là một nhiệm vụ khó khăn gian nan phức tạp. Đa số đối tượng của các cuộc cải đạo chuyển đổi sang đạo Do Thái Giáo là các trẻ em con cái của các cuộc hôn nhân khác chủng tộc, hoặc có vợ hoặc có chồng là người Do Thái.
Kinh thánh Hebrew, theo cách hiểu tôn giáo đề cập đến các truyền thống và lịch sử nguyên thủy của người Do Thái, đã thiết lập nên một trong những tôn giáo đầu tiên của Các tôn giáo khởi nguồn từ Abraham, hiện nay được thực hành đạo nghĩa bởi 54% tổng dân số thế giới nhân loại. Đạo Do Thái giáo hướng dẫn những tín đồ Do Thái thực hành trong cả thực tiễn lẫn niềm tin, và Do Thái Giáo không chỉ là một tôn giáo, mà Do Thái Giáo còn là một "lối sống" của người Do Thái. Thật là quá khó khăn cho Đạo Do Thái Giáo để đưa ra sự phân biệt rõ ràng giữa Do Thái giáo, văn hoá Do Thái, và bản sắc Do Thái. Trong suốt chiều dài lịch sử, trong những thời đại và những nơi khác biệt đa dạng đa văn hóa đa chủng tộc như thế giới Hy Lạp cổ đại ở Châu Âu trước và sau Thời kỳ Khai sáng ở đế chế Hồi giáo Tây Ban Nha và Bồ đào nha Al-Andalus ở Bắc Phi và Trung Đông ở Ấn Độ ở Trung Hoa hay ngay cả thời kỳ hiện đại ở nước Mỹ và nước Do Thái Israel nơi mà các hiện tượng văn hoá đã phát triển theo một nghĩa nào đó mà có cái chất Do Thái nhưng không phải là cái chất tôn giáo cụ thể.
Thực tế cho thấy tỷ lệ phần trăm nhỏ nhắn rất ít ỏi của người Do Thái trong tổng dân số nhân loại, nhưng người Do Thái đã ảnh hưởng đáng kể và đã góp phần vào sự tiến bộ của loài người trong nhiều lĩnh vực, bao gồm lãnh vực triết học, luân lý học, văn chương, chính trị, kinh doanh thương mại bán buôn, nghệ thuật và kiến trúc, tôn giáo, âm nhạc, phim ảnh kịch nghệ, và điện ảnh và nền y dược cũng như khoa học công nghệ kỹ thuật tiên tiến và cả về mặt lịch sử lẫn thời hiện đại.
Trong thế kỷ đầu tiên, Babylon là nơi người Do Thái di cư đến sau cuộc chinh phục của người Babylon cũng như sau khi cuộc Khởi nghĩa Bar Kokhba kết thúc vào năm 135. Dân số người Do Thái lúc đó phát triển nhanh chóng, ước tính khoảng 1 triệu người Do Thái tăng lên khoảng 2 triệu dân Do Thái trong giai đoạn từ năm 200 đến năm 500. Sự phát triển dân số của người Do Thái là do sự tăng trưởng tự nhiên và dòng người nhập cư của người Do Thái từ nhiều vùng đất của Israel, chiếm khoảng 1/6 dân số Do Thái thế giới tại thời kỳ đó. Tại thời điểm việc cải đạo chuyển đổi tôn giáo đã chiếm một phần của sự tăng trưởng dân số của người Do Thái. Một số người cho rằng trong thế kỷ đầu tiên của kỷ nguyên Kitô giáo, ví dụ, dân số tăng hơn gấp đôi, từ bốn đến 8-10 triệu trong phạm vi của đế quốc La Mã, kết quả của một làn sóng cải đạo chuyển đổi tôn giáo.
Các nhà sử học khác tin rằng việc cải đạo chuyển đổi tôn giáo trong thời kỳ La Mã được giới hạn về số lượng và không chiếm đáng kể đến sự tăng trưởng dân số của người Do Thái, do nhiều yếu tố khác nhau như chuyển đổi bất hợp pháp của nam giới Do Thái Giáo trong thế giới La Mã từ giữa thế kỷ II. Một yếu tố khác có thể gây khó khăn trong việc cải đạo chuyển đổi tôn giáo trong thế giới La Mã là yêu cầu luật pháp đạo Do Thái Giáo Halakha về việc cắt bao quy đầu, một yêu cầu mà những nhà truyền giáo Kitô giáo đã nhanh chóng loại bỏ. Thuế dành riêng cho người Do Thái trong Đế quốc La Mã vào năm 70 cũng hạn chế sức hấp dẫn của Do Thái giáo.
Văn hào Mark Twain cũng nhận xét rất tích cực về người Do Thái qua cuốn sách Liên quan đến người Do Thái của ông: "Người Ai Cập, người Babylon, và Hoa Hồng Ba Tư (người Ba Tư), phát triển sinh sôi nảy nở trên mặt đất với danh tiếng vang dội lẫy lừng và ánh sáng huy hoàng, nhưng sau đó đã trở nên phai mờ nhạt nhòa như những giấc mơ và rồi đã biến mất; người Hy Lạp và người La Mã chạy theo bánh xe đổ đó, và họ tạo ra tiếng tăm lẫy lừng thật lớn, và rồi thời đại huy hoàng của họ cũng đã trôi qua; những dân tộc khác cũng đã nổi lên và giơ cao ngọn đuốc vinh quang của họ trong một thời gian, nhưng ngọn đuốc đó đã đốt cháy hết, và họ ngồi trong ánh hoàng hôn, hoặc họ đã biến mất. Người Do Thái đã chạm trán tất cả, đánh bại tất cả họ, và bây giờ người Do Thái mãi mãi không bị suy đồi, không có sự yếu đuối của tuổi tác, không có sự suy yếu của các bộ phận cơ thể, nguồn năng lượng của người Do Thái không bị chậm chạp, tâm trí của người Do Thái không bị lưu mờ và ý chí rất hung hăng. Tất cả mọi thứ đều đã chết, nhưng người Do Thái thì không. Tất cả các quyền lực khác đã biến mất, nhưng người Do Thái vẫn tồn tại. Bí mật trong sự bất tử của người Do Thái là gì?"
Thời gian cai trị của ông kéo dài 58 năm, đứng thứ hai trong lịch sử của Pháp chỉ sau người tiền nhiệm là tằng tổ phụ, Louis XIV. Năm 1745, ông thân chinh và giành chiến thắng tại Trận Fontenoy chiếm được Nam Hà Lan từ tay Đế quốc Áo nhưng sau đó trả lại cho người Áo năm 1748. Năm 1763, ông cắt đất Tân Pháp ở Bắc Mỹ cho Tây Ban Nha và Anh sau thất bại trong Chiến tranh Bảy năm. Ngoài ra ông còn sáp nhập lãnh địa của Công quốc Lorraine và Cộng hòa Corse vào Vương quốc Pháp. Louis XV qua đời năm 1774 và người kế nhiệm là đích tôn của ông, Louis XVI, người bị lật đổ trong Cách mạng Pháp. Hai người cháu khác của ông, Louis XVIII và Charles X, lần lượt giữ ngôi vua sau thất bại của Napoleon Bonapate. Các sử gia đánh giá triều đại của ông là giai đoạn tồi tệ, với liên tiếp các cuộc chiến tranh nổ ra làm hao mòn tiền bạc trong phủ khố rồi dẫn đến sự suy vong của triều đình và cuộc Cách mạng Pháp vào những năm 1780.
Louis XV là tằng tôn của Louis XIV và là con trai thứ hai của Quận công xứ Bourgogne (1682-1712), cùng vợ là Marie Adélaïde xứ Savoia, trưởng nữ của Victor Amadeus II, Quận công xứ Savoia. Ông chào đời tại Cung điện Versailles ngày 15 tháng 2 năm 1710. Sau khi chào đời, ông được tấn phong làm Quận công xứ Anjou. Khả năng kế vị của ông khi đó không cao; ông đứng sau tổ phụ là trưởng tử của nhà vua, Louis Đại Thái tử (Grand Dauphin), còn có cha và trưởng huynh trong danh sách thừa kế. Tuy nhiên, Đại Thái tử chết vì bệnh đậu mùa ngày 14 tháng 4 năm 1711. Ngày 12 tháng 2 năm 1712, mẫu thân của Louis, Marie Adélaïde, sau đó ngày 18 tháng 2 là cha của Louis, Quận công xứ Bourgogne, người thừa kế số một, lần lượt mắc bệnh sởi và chết. Ngày 7 tháng 3, cả Louis và trưởng huynh, Quận công Bretagne, đều bị chẩn đoán mắc bệnh sởi. Quận công Bretagne được điều trị theo cách truyền thống là chích máu. Khoảng tối ngày 8 rạng sáng ngày 9 tháng 3, Quận công Bretagne chết mà nguyên nhân là do cả căn bệnh và cách điều trị sai lầm. Bảo mẫu của Louis, Madame de Ventadour, không cho phép các bác sĩ lấy máu, do đó mặc dù rất đau nhưng ông vẫn sống sót. Khi Louis XIV qua đời ngày 1 tháng 9 năm 1715, Louis, mới 5 tuổi, kế thừa hoàng vị.
Theo pháp lệnh Vincennes năm 1374, vương quốc được điều hành bởi Nhiếp chính vương cho đến khi Louis lên 13 tuổi. Danh hiệu Nhiếp chính được trao cho người bà con gần nhất là ông chú của nhà vua Philippe, Quận công xứ Orleans. Louis XIV, tuy nhiên, không tín nhiệm Philippe, một người lính kiệt xuất, nhưng bị nhà vua coi là kẻ không sùng đạo. Nhà vua gọi Philippe là Fanfaron des crimes ("đầu sỏ của tội ác)" Louis XIV muốn quyền điều hành Hội đồng Nhiếp chính phải giao cho người con ngoại hôn được ông rất thương yêu, Quận công xứ Maine (con triêng của Louis XIV với Madame de Montespan). Tháng 8 năm 1714, không lâu trước khi chết, nhà vua viết di chiếu lệnh hạn chế quyền hạn của người chấp chính; theo đó quốc gia sẽ được điều hành bởi Hội đồng Nhiếp chính gồm 14 thành viên cho đến năm tân vương 13 tuổi. Philippe là cháu gọi Louis XIV là bác, làm Chủ tịch Hội đồng, nhưng còn có các thành viên khác bao gồm Quận công xứ Maine cùng các đồng minh. Quyết định của triều đình được ban xuống theo chế độ đa số phiếu, nghĩa là quyền lực Nhiếp chính vương có thể bị bác bỏ bởi nhóm Maine. Orléans nhìn ra điều đó, và ngay sau khi nhà vua qua đời, ông đến Nghị viện Paris, một Hội đồng quý tộc gồm nhiều đồng minh của ông, và Nghị viện đã hủy bỏ tờ di chiếu. Để đổi lấy sự ủng hộ của họ, Orléans cho khôi phục droit de remontrance (quyền phản đối) của Nghị viện - vốn bị Louis XIV triệt bỏ từ trước, theo đó Nghị viện có quyền phản đối những quyết định của nhà vua mà họ cho là trái với lợi ích dân tộc. Quyền phản đối làm suy yếu quyền hành của quân chủ và đánh dấu khởi đầu xung đột giữa Nhà vua và Nghị viện mà đỉnh điểm là Cách mạng Pháp năm 1789.
Ngày 9 tháng 9 năm 1715, Nhiếp chính dẫn nhà vua rời khỏi cung điện Versailles về Paris, ở đây Nhiếp chính ở tại tư gia thuộc Cung điện hoàng gia. Ngày 12 tháng 9, ông ra sắc lệnh đầu tiên, khai mạc Tòa án công lý lần đầu tiên dưới triều của mình tại Cung điện hoàng gia. Từ tháng 9 năm 1715 đến tháng 1 năm 1716 ông sống tại Chateau de Vincennes, trước khi dời đến Cung điện Tuileries. Tháng 2 năm 1717, ông vừa tròn 7 tuổi, và bị tách khỏi người bảo mẫu là Madame Ventadour và đặt dưới sự chăm sóc của Francois de Villeroy, vị Quận công 73 tuổi và Marechal de France, gọi theo chức vị mà Louis XIV đã tấn phong cho ông trong tờ di mệnh tháng 8 năm 1714. Villeroy hướng dẫn cho nhà vua trẻ những lễ nghi cung đình, dạy ông cách duyệt binh, và nghi thức tiếp khách trong hoàng tộc. Những vị khách mà ông tiếp bao gồm Sa hoàng Pyotr Đại đế năm 1717; trái với nghi thức thông thường, vị Sa hoàng cao 2 mét đã bế ông lên tay và hôn ông. Louis cũng học cưỡi ngựa và bắn cung, và nhà vua trẻ nhanh chóng say mê những trò này. Năm 1720, theo gương Louis XIV, Villeroy bảo nhà vua Louis múa trước công chúng hai điệu ballets tại Cung điện Tuileries ngày 24 tháng 2 năm 1720, và một lần nữa trong sự kiện The Ballet des Elements ngày 31 tháng 12 năm 1721. Louis nhút nhát không thích trò này và ông không bao giờ múa ballet lần nào nữa.
Gia sư của nhà vua là Tu viện trưởng André-Hercule de Fleury, Giám mục xứ Frejus, (về sau trở thành Hồng y de Fleury), dạy cho ông các ngôn ngữ Latin, Ý, các môn lịch sử, địa lý, thiên văn, toán học, mĩ thuật và bản đồ. Khi Sa hoàng Nga có chuyến thăm nước Pháp, nhà vua khiến Sa hoàng thích thú khi ông xác định những con sông, thành phố và các địa điểm địa lý của Nga. Trong những năm cuối đời nhà vua vẫn đam mê với khoa học và địa lý; ông lập ra Khoa Vật lý (1769) và Cơ khí (1773) tại Collège de France., và tài trợ cho tấm bản đồ hoàn chỉnh và chính xác đầu tiên của nước Pháp, Cartes de Cassini. Ngoài các môn khoa học lý thuyết, ông còn nhận được nền giáo dục thực tiễn trong chính phủ. Bắt đầu từ năm 1720 ông tham dự các cuộc họp thường kỳ của Hội đồng Nhiếp chính.
Một cuộc khủng hoảng kinh tế làm đứt đoạn thời kì Nhiếp chính; nhà tư sản người Scotland, John Law được tấn phong làm Tổng trưởng tài chính. Tháng 5 năm 1716, ông khai trương Banque Générale Privée ("Ngân hàng Tư nhân Tổng hợp"), nơi này sớm trở thành Ngân hàng Hoàng gia. Phần lớn do chính phủ tài trợ, và đây là một trong những ngân hàng đầu tiên phát hành tiền giấy, có thể được đổi bằng vàng. Ông cũng thuyết phục những nhà tư sản và quý tộc giàu có ở Paris đầu tư vào Công ty Mississippiy, để phục vụ cho việc chiếm đóng thuộc địa Louisiana. Cổ phiếu của công ty ban đầu tăng nhanh và sau đó đóng cửa vào năm 1720, sáp nhập vào ngân hàng. Pháp luật lỏng lẻo, và những nhà giàu ở Paris miễn cưỡng đóng các khoản đầu tư tiếp theo và tin tưởng và những thứ tiền giấy thay cho vàng.
Năm 1719, Pháp, liên minh với Anh và Cộng hòa Hà Lan, tuyên chiến với Tây Ban Nha. Người Tây Ban Nha bị đánh bại trên cả hai mặt trận thủy và bộ, không lâu sau phải xin giảng hòa. Hiệp ước Pháp - Tây Ban Nha được kí kết ngày 27 tháng 3 năm 1721. Hai chính phủ quyết định liên hôn với nhau bằng hôn nhân giữa Louis với Mariana Victoria của Tây Ban Nha, cô con gái bảy tuổi của nhà vua Felipe V của Tây Ban Nha - một người cháu nội khác của Louis XIV, chú ruột của Louis XV. Thỏa thuận hôn nhân được kí ngày 25 tháng 11, và cô dâu tương lai đến Pháp và trú tại Louvre. Tuy nhiên, Nhiếp chính cho rằng Mariana quá nhỏ để sinh con, và gửi cô bé trở về Tây Ban Nha. Suốt khoảng thời gian còn lại thời Nhiếp chính, đất nước tương đối ổn định, và năm 1720, Nhiếp chính vương đã ra sắc lệnh cho chính phủ đứng ngoài các cuộc xung đột tôn giáo. Montesquieu và Voltaire xuất bản những tác phẩm đầu tiên của họ, và Thời kì Khai sáng ở Pháp bắt đầu một cách yên bình.
Ngày 15 tháng 6 năm 1722, Louis sắp lên 13 (tuổi trưởng thành), và rời Paris trở về Versailles, kết thúc cuộc sống vui vẻ thời niên thiếu, nhưng tách biệt với công chúng. Ngày 25 tháng 10, Louis được gia miện tại Nhà thờ chính tòa Đức Bà Reims. Ngày 15 tháng 2 năm 1723, Nghị viện Paris tuyên bố nhà vua đã đến tuổi trưởng thành, chấm dứt thời kì Nhiếp chính. Vào những năm đầu chấp chính của Louis, Quận công Orleans tiếp tục quản lý chính phủ, và được tấn phong làm Thủ tướng vào tháng 8 năm 1723, nhưng lại thường xuyên vui đùa với các nhân tình, tránh xa triều đình và các ngự y. Orleans chết vào tháng 12 năm đó. Theo lời khuyên của ân sư là Fleury, Louis XV bổ nhiệm chú họ là Louis Henri, Quận công xứ Bourbon, lên thay Quận công Orléans vừa tạ thế.
Một trong những ưu tiên hàng đầu của Quận công Bourbon là tìm một cô dâu cho nhà vua, để đảm bảo sự liên tục của nền quân chủ, và đặc biệt là để ngăn cản nhà Orleans, đối thủ của gia đình ông, chiếm được ngai vàng. Vị quận chúa 21 tuổi Marie Leszczyńska, con gái của Stanisław I, vị vua bị truất phế của Ba Lan được chọn. Hôn lễ được tổ chức vào tháng 9 năm 1725 khi nhà vua lên 15. Từ 1727 đến 1737, bà sinh cho vua 10 đứa con, 8 gái 2 trai, trong đó có một người sống sót, Thái tử Louis (1729-1765) Sự ra đời của người thừa kế được chời đợi từ lâu, đảm bảo cho sự tồn tại của vương triều lần đầu tiên từ 1712, được chào đón bằng một lễ hội rình rang khắp cả nước. Năm 1747, Thái tử cưới Maria Josephina xứ Saxon, bà sinh ra ba vị vua Pháp cuối cùng: Louis XVI, Louis XVIII, và Charles X.
Một trong những xung đột nghiêm trọng làm xáo trộn những năm đầu triều Louis XV là tranh chấp giữa triều đình với Giáo hội và một giáo sắc gọi là Unigenitus. Nhà vua Louis XV đòi Giáo hoàng Pope Clement XI ban một Giáo sắc vào ngày 8 tháng 9 năm 1713. Nội dung tờ giáo sắc lên án Jansen, một học thuyết tôn giáo dựa trên lời giáo huấn của Saint Augustine. Ở Pháp nhiều tín đồ tôn sùng chủ nghĩa Jansenism, bao gồm Blaise Pascal, nhà thơ Racine, các quý tộc như Madame de Sévigné và Madame de Lafayette. Các giảng viên Sorbonne, ban đầu chủ yếu ở các trường cao đẳng thần học và một trung tâm Jansen, yêu cầu sự vinh danh từ chính phủ. Phe Jansen liên minh với phe Gallica, những nhà thần học mong muốn Giáo hội Công giáo ở Pháp phải minh bạch rõ ràng. Họ đối đầu với phe Unigenitus đang nắm giữ thế đa số trong Nghị viện Paris và giới quý tộc. Mặc dù có sự phản đối, ngày 20 tháng 3 năm 1730, Hồng y Fleury đã thuyết phục nhà vua xuống chiếu tuyên bố Unigenitus là chính thống của Giáo hội Pháp.
Chính phủ và Giáo hội ra sức đàn áp dòng Jansen. Ngày 27 tháng 4 năm 1732, Tổng Giám mục Paris đe dọa rút phép thông công những thành viên của giáo hội đọc báo của phe Jansen, Nouvelles Ecclésiastiques. Nghị viện cấm đoán nghiêm ngặt bất kì hành vi thảo luận về tôn giáo, ngăn chặn người ta chống đối với Giáo sắc Unigenitus. Các linh mục không đồng tình với Unigenitus bị cấm làm lễ phổ độ cho người sắp chết. Một thứ thuế mới, cinquantième, được áp dụng cho các giáo sĩ đối lặp trước kia từng được miễn thuế. Phái Jansen và Kháng Cách bị đe dọa bỏ tù và trục xuất. Hậu quả của các cuộc đàn áp này là, xung đột tôn giáo trở thành một vấn đề tranh chấp nội bộ suốt triều Louis.
Căng thẳng gia tăng giữa Quận công Bourbon và Hồng y de Fleury vốn được nhà vua sủng ái. Quận công có tính tình cứng nhắc và thiếu hoạt bát, nên không được lòng nhà vua trẻ. Ông quay sang hỏi ý kiến của vị gia sư cũ về việc điều hành đất nước. Khi nhà vua nhấn mạnh rằng Fleury phải có mặt trong tất cả các cuộc gặp giữa ông và Quận công Bourbon, Quận công đã tức giận và bắt đầu tìm cách vùi dập Fleury trước triều đình. Khi nhà vua nhận ra âm mưu của Quận công, ông liền cách chức ông ta và đưa Fleury lên thay.
Từ 1726 đến khi qua đời năm 1743, Fleury nắm quyền điều hành Pháp quốc một cách có hiệu quả và nhận được sự ủng hộ từ nhà vua. Fleury lựa chọn những quyết sách cho quốc gia. Ông ta cũng cấm nhà vua thảo luận các vấn đề chính trị với hoàng hậu. Để tiết kiệm ngân sách cho triều đình, ông ta đưa bốn cô con gái nhỏ của nhà vua đến nuôi dạy ở Tu viện Fontevrault. Thời kì này có vẻ như là thời kì yên bình nhất và thịnh vượng nhất trong suốt triều Louis XV, nhưng ngọn lửa chống đối vẫn âm ỉ và chờ dịp bùng phát, đặc biệt là từ các nhà quý tộc trong Nghị viện, họ cảm thấy quyền lực của mình đang bị suy giảm. Fleury bổ sung sắc chỉ Unigenitus của Giáo hoàng như một phần của luật pháp và ngăn cấm mọi cuộc tranh luận trong viện Nghị, dẫn đến họ bằng mặt nhưng không bằng lòng. Ông ta đánh giá thấp tầm quan trọng của Hải quân, điều này về sau dẫn đến tai họa lớn khi các cuộc xung đột nổ ra.
Bộ trưởng Tài chính Michel Robert Le Peletier des Forts (tại nhiệm 1726–1730), có công ổn định tiền tệ Pháp, mặc dù ông bị trục xuất vào năm 1730 do tội tư túi. Người kế nhiệm, Philibert Orry, giúp giảm nhiều khoản nợ mắc phải sau Chiến tranh Kế vị Tây Ban Nha, đơn giản và công bằng hóa hệ thống thu thuế, dù ông vẫn theo chính sách thứ mười mất lòng dân, tức là đánh thuế mọi thu nhập công dân là 1/10. Trong hai năm cuối thời chấp chính của Fleury, Orry có những chính sách để cân bằng ngân sách của hoàng gia, thành tựu này không bao giờ có thể lặp lại trong những năm tiếp đó.
Chỉnh phủ của Fleury mở rộng thông thương, cả trong Pháp quốc và giao dịch với nước ngoài. Đường vận chuyển được mở rộng với việc mở kênh đài Saint-Quentin canal (nối liền các sông Oise và Somme) năm 1738, về sau mở rộng ra đến Sông Escaut và Vùng đất thấp, và xây dựng hệ thống đường bộ nội địa. Giữa thế kỉ XVIII, Pháp là nước có mạng lưới đường sá hiện đại và rộng nhất thế giới. Hội đồng thương mại đã thúc đẩy giao thương, và quy mô thương mại hàng hải với nước ngoài của Pháp tăng từ 80 đến 308 triệu livres trong 32 năm (1716 - 1748).
Trong những năm đầu chấp chính, Fleury cùng Bộ trưởng Ngoại giao Germain Louis Chauvelin vẫn duy trì liên minh với Anh, mặc dù hai nước này là cựu thù nhiều năm và đang tranh giành các thuộc địa béo bở ở Bắc Mỹ và Tây Ấn. Họ cũng giảng hòa với Tây Ban Nha, sau sự kiện vua Tây Ban Nha nổi trận lôi đình vì triều đình Pháp hủy hôn với công chúa. Sự ra đời của người thừa kế năm năm 1729 đã chấm dứt khủng hoảng kế vị ở Pháp. Tuy nhiên, các thế lực khác lại nổi lên ở châu Âu, như là Nga quốc dưới sự trị vì của Pyotr Đại đế và Yekaterina I của Nga, Phổ quốc và Thánh chế La Mã với lãnh địa rộng lớn từ Serbia ở Đông Âu và thuộc địa cướp được từ tay Đế chế Ottoman, cùng với những vùng đất đoạt lấy qua hôn nhân với Hà Lan (bao gồm Bỉ) Milan và Vương quốc Napoli.
Một liên minh chống Pháp được hình thành vào ngày 6 tháng 8 năm 1726 với sự tham gia của Phổ, Nga và Áo. Xuung đột giữa hai phe bùng phát sau vấn đề tranh chấp quyền kế thừa ngai vàng Ba Lan. Ngày 2 tháng 1 năm 1733, Vua Ba Lan và Tuyển đế hầu xứ Saxon, August II, chết, và người lên ngôi là Stanisław Leszczynski, nhạc phụ của vua Pháp. Trước đó một năm Nga, Áo và Phổ bí mật kí thỏa thuận với mục tiêu loại Stanisław khỏi ngai vàng và thay vào đó là một ứng viên khác, August III, con trai của nhà vua quá cố. Tranh chấp này đã dẫn đến Chiến tranh Kế vị Ba Lan. Stanisław được hộ tống đến Warsaw, lên ngôi vua Ba Lan và Đại Công tước Litva vào ngày 12 tháng 9. Nữ hoàng Nga quốc lập tức điều quân đến Ba Lan để ủng hộ con bài của mình. Stanisław buộc phải bỏ trốn tới cảng Danzig (nay là Gdansk), trong khi đó ngày 5 tháng 10, August III lên ngai báu ở Warsaw.
Hồng y Fleury đã cẩn thận thu xếp tình hình. Đầu tiên ông thỏa thuận với Anh và Hà Lan, yêu cầu họ không can thiệp, cùng lúc liên minh với Vua Tây Ban Nha và Vua Sardegna với món hàng trao đổi là các lãnh địa của Đế chế Habsburg. Ngày 10 tháng 10 năm 1733, Louis hạ chiếu tuyên chiến với Áo. Quân Pháp chiếm lấy Công quốc Lorraine và tiếp đó Alsace, trong khi cánh quân khác băng qua dãy Alps và chiếm Milan vào ngày 3 tháng 11, trao nó cho Vương quốc Sardegna. Fleury không mấy tha thiết với việc phục ngôi cho Stanisław, quân của ông này đang bị Hải quân Nga phong tỏa tại Danzig. Thay vì gửi đại quân đến đóng tại Copenhagen đến chi viện cho Danzig, ông ta lại cho quân trở về Brest và chỉ gửi 2000 thủy binh đến, cuối cùng tàu Pháp bị quân Nga đánh chìm. Ngày 3 tháng 7 Stanisław lại phải bôn đào qua Phổ quốc, trở thành thượng khách của Nhà vua Phổ Friedrich Wilhelm I của Phổ tại tòa lâu đài Koenigsburg.
Để kết thúc chiến tranh, Fleury và hoàng đế Karl VI bàn về hiệp ước. Franz III, Quận công xứ Lorraine, bỏ Lorraine đến Vienna, kết hôn với Maria Theresia, người thừa kế ngai vàng nhà Hapsburg. Ngôi chúa bỏ trống ở Lorraine được giao cho Stanisław, sau khi ông này từ bỏ quyền lên ngôi ở Ba Lan. Sau cái chết của Stanislaw, Công quốc Lorraine và Ba Lan lệ thuộc vào Pháp. Franz, về sau nhờ vợ mà trở thành hoàng đế, sẽ được bồi thường đất bị mất ở Lorraine bằng việc nhận phong ở Công quốc Toscana. Nhà vua của Sardegna nhận một số lãnh địa ở Lombardy; nhưnng phải triệt quân về Napoli, đổi lấy Parma và Plaisance. Đám cưới giữa Franz xứ Lorraine với Maria Theresia diễn ra vào năm 1736, và các cuộc trao đổi lần lượt diễn ra. Sau cái chết của Stanisław năm 1766, Lorraine và vùng lân cận là Công quốc Bar sáp nhập vào Vương quốc Pháp.
Tháng 9 năm 1739, Fleury lại tìm được một thành công ngoại giao khác. Sự trung gian hòa giải của Pháp trong cuộc chiến giữa Thánh chế La Mã và Đế chế Ottoman dẫn đến Hiệp ước Belgrade (tháng 9, 1739), theo đó Ottoman là nước giành lợi thế. Từ đầu thế kỉ XVI, Pháp thường liên minh với Ottoman chống lại nhà Habsburg. Để trả ơn, năm 1740, Ottoman gia hạn sự thỏa hiệp, đánh dấu uy quyền thương mại của Pháp tại ở Trung Đông. Với những thành công này, uy tín của Louis XV đạt tới đỉnh điểm. Năm 1740, Vua của Phổ tuyên bố "Kể từ Hiệp ước Vienna, Pháp là trọng tài của châu Âu."
Ngày 29 tháng 10 năm 1740, khi nhà vua đang đi săn ở Fontainebleau, một thám mã đến báo tin Hoàng đế Karl VI băng hà, con gái là Maria Theresia của Áo lên kế ngôi. Sau hai ngày suy nghĩ, Louis tuyên bố, "Trong vụ này, trẫm không muốn dính líu đến. Trẫm vẫn sẽ để tay trong túi, nếu họ không bầu lên một ông vua Kháng Cách." Thái độ này khiến các đồng minh của Pháp đang muốn thừa cơ xâu xé đế chế Habsburg, cùng các tướng của Louis đang rất hăng máu sau những chiến thắng liên tục trong trăm năm trở lại đây trước người Áo. Nhà vua Phổ băng hà ngày 31 tháng 5 và kế vị là con trai Friedrich Đại đế, một thiên tài quân sự có tham vọng lãnh thổ to lớn. Tuyển đế hầu Bayern, được Friedrich ủng hộ, thách thức quyền kế ngôi của Maria Theresia, và ngày 17 tháng 12 năm 1740, Friedrich xâm chiến tỉnh Silesia của Áo. Vị Hồng y già cả Fleury không có tham vọng gì trong cuộc chiến này.
Fleury cử Đại tướng quân, Charles Louis Auguste Fouquet, Quận công de Belle-Isle, Nguyên soái Belle-Isle, cháu của Fouquet, cựu Quản lý tài chính thời Louis XIV, làm sứ giả đến Hội nghị Frankfurt, mang theo thông điệp của người Áo và chấm dứt chiến tranh bằng việc bầu Tuyển đế hầu Bayern lên ngai vàng Áo. Nhưng, Nguyên soái do căm ghét người Áo, nên đã kết minh với Phổ chống Áo, chiến tranh do đó bùng nổ. Quân Pháp và Bayern nhanh chóng lấy Linz và lập vòng vây ở Prague. Ngày 10 tháng 4 năm 1741, Friedrich của Phổ đại thắng quân Áo tại Trận Molwitz. Ngày 18 tháng 5, Fleury lập liên minh mới giữa Pháp, Tây Ban Nha và Bayern, sau đó có thêm Ba Lan và Sardegna. Tuy nhiên năm 1742, tình thế đảo ngược. Vị vua gốc Đức ở bên kia eo biển, George II, kiêm Tuyển đế hầu xứ Hannover, đứng về phía Áo và đem quân giao tranh với Pháp trên lãnh thổ Đức. Quân Hungary của Maria Theresa tái chiếm Linz và tiến quân vào các xứ Bayern cùng Munich. Tháng 6, Friedrich của Phổ rút liên minh với Pháp ngay sau khi chiếm xong Silesia từ tay người Áo. Belleville phải rút khỏi Prague, tổn thất 8000 người. Trong bảy năm, Pháp đã tham gia vào một cuộc chiến tranh tốn kém với liên minh chuyển đổi liên tục. Orry, người quản lý tài chính Pháp, buộc phải phục hồi thuế 1/10 mất lòng dân để gây quỹ chiến tranh. Hồng y de Fleury đã không sống đủ lâu để thấy sự kết cục cuộc chiến; ông qua đời vào ngày 29 tháng 1 năm 1743, và sau đó Louis trị vì một mình.
Năm 1744, Hà Lan trở thành chiến trường chính, và tình hình chiến tranh có chút chuyển biến tốt cho phía Pháp. Friedrich Đại đế quyết định tái ủng hộ Pháp. Louis XV rời Versailles và thân chinh dẫn quân đến Hà Lan, tướng chỉ huy quân Pháp là Nguyên soái Maurice de Saxe, người gốc Đức. Tại Trận Fontenoy ngày 11 tháng 5 năm 1745, Louis, dẫn theo Thái tử, giành chiến thắng trước liên quân Anh, Hà Lan và Áo. Khi Thái tử xúc động vì nhìn thấy máu những người lính chết, nhà vua bảo, "Mày nên biết rằng chiến thắng nào cũng có giá của nó. Máu của kẻ thù vẫn là máu con người. Chiến thắng chân chính cần phải giảm thiểu điều đó." Saxe thắng trận tiếp theo tại Rocoux (1746) và Lauffeld (1747). Năm 1746, quân Pháp bao vây và chiếm lấy Brussels, và Louis ca khải hoàn vào thành. Nhà vua ban cho de Saxe Lâu đài de Chambord ở thung lũng Loire để tưởng thưởng.
Sau khi Fleury chết vào tháng 1 năm 1743, Bộ trưởng Chiến tranh, Quận công xứ Noailles, dâng biểu lên nhà vua kể về cố sự Louis XIV từng căn dặn cháu nội ông, cũng tức là Felipe V của Tây Ban Nha; rằng: "Đừng để chính mình bị chi phối; hãy làm chủ. Không nên có sủng thần hay thủ tướng. Lắng nghe, tham khảo ý kiến của Hội đồng, nhưng hãy giữ quyền quyết định. Nhờ Chúa, mày trở thành Vua; và hãy tự mình quyết định, miễn là mày có ý định tốt." Louis theo lời khuyên đó và quyết định cai trị mà không lập tể tướng. Hai vị Thượng thư nắm nhiều quyền lực nhất trong chính phủ là; Thượng thư bộ Tài chính, Jean Baptiste de Machault D'Arnouville, và Thượng thư bộ Binh, Bá tước d'Argenson
Khi chiến tranh chấm dứt, Louis nắm lấy cơ hội để tìm cách giảm nợ và hiện đại hóa hệ thống thuế của Vương quốc. Cải cách được Thượng thư Bộ Tài chính D'Arnouville đưa ra rồi được nhà vua chấp thuận qua hai sắc lệnh ban hành vào tháng 5, 1749. Biện pháp đầu tiên là phát hành trái phiếu, lấy lãi 5%, để trả nợ 36 triệu livres dùng cho chiến tranh. Phương pháp mới này ngay lập tức giành được kết quả. Biện pháp thứ hai làm hủy bỏ dixième, loại thuế 10% thu nhập, vốn lập ra để phục vụ nhu cầu chiến tranh, thay thế bằng vingtième, lấy thuế 5% thu nhập, nhưng không như dixième, nó đánh thuế trên tất cả công dân, lần đầu tiên giai cấp tăng lữ và quý tộc cũng phải nộp thuế.
Trong khi loại thuế mới được người dân ủng hộ, như Voltaire, nó gặp phải sự chống đối quyết liệt từ giới tăng lữ, quý tộc. Ngày 5 tháng 5 năm 1749 khi nó được công bố tại Nghị viện Paris, nơi mà giới tăng lữ và nhà giàu mua được gần hết số ghế, dự luật bị bác bỏ với tỉ lệ 106/49; đa số người cho cần thêm thời gian để xem xét. Nhà vua đáp lại bằng cách ra lệnh phải thông qua ngay lập tức, và Nghị viện miễn cưỡng thông qua vào ngày 19 tháng 5. Nhưng sự chống đối với chính sách mới vẫn tiếp tục trong giới nhà thờ và ở các tỉnh, vốn đều có Nghị viện riêng của mình. Trong khi Nghị viện Bourgogne, Provence và Artois tuân theo lệnh vua, Bretagne và Languedoc kháng mệnh. Chính phủ hoàng gia giải tán Nghị viện Bretagne, buộc các thành viên Nghị viện Languedoc trở về xứ của họ, và trực tiếp kiểm soát Provence.
Ở Paris, tranh chấp giữa Nhà vua cùng Nghị viện nổ ra về vấn đề Hôpital Général, một tổ chức bán tôn giáo có 6 bệnh viện và nhà tạm trú ở Paris, gồm khoảng 5000 thành viên. Các nhân viên và quan chức ở đây thuộc phe Jansen, trong khi ban Giám đốc điều hành bệnh viện có nhiều người trong Nghị viện Paris. Năm 1749, nhà vua quyết định thanh trừng những người Jansen và những kẻ tham nhũng khỏi đó, bổ nhiệm "Bộ máy đầu não" mới không theo ý của các quản trị viên, những người này liền từ chức; và vua bổ nhiệm 4 thành viên mới; và đòi chủ tịch thứ nhất của Nghị viện, René Nicolas Charles Augustin de Maupeou, làm theo ý định tái tổ chức bệnh viện của mình. De Maupeou từ chối tuân lệnh nếu không có sự tán thành của Nghị viện, và Nghị viện đang ở vào kì nghỉ. Ngày 20 tháng 11 khi Nghị viện họp lại, Nhà vua lại triệu Maupeou đến và bắt tuân theo chiếu chỉ không trì hoãn. Lúc này các thành viên Nghị viện từ chối thảo luận về bệnh viện. Ngày 28 tháng 1 năm 1752, Nhà vua chỉ thị Hội đồng thay đổi cơ cấu Bệnh viện mà không có sự đồng ý của Nghị viện. Voltaire, miêu tả về sự cố này, rằng, "Trước đó chưa bao giờ một vấn đề nhỏ lại gây ra ảnh hưởng lớn đến vậy." Đây là lần đầu tiên cơ quan lập pháp đối đầu với nhà vua, và một trong những dấu hiệu đầu tiên cho thấy Nghị viện bắt đầu tin, rằng Nhà vua không phải là luật pháp của quốc gia.
Kế hoạch đánh thuế lên nhà thờ của vua cũng gặp khó khăn. Một sắc lệnh được đưa ra, theo đó tất cả các giáo sĩ phải đệ trình kê khai thu nhập vào ngày 17 tháng 2 năm 1751, nhưng không ai khai gì hết. Thay vào đó, nhà vua đã lặng lẽ ban hành một sắc lệnh mới vào tháng 12 năm 1750, hủy bỏ thuế và dựa hoàn toàn vào đóng góp tự nguyên của các nhà thờ là 1,500,000 livres. Theo nghị định mới, thay vì nộp thuế, nhà thờ mỗi năm sẽ thu được một số tiền và tự nguyện dâng nó cho chính phủ. Sự ủng hộ của vua cho nhà thờ là do gia sư của ông, Hồng y Fleury, dạy và lòng biết ơn của ông với Tổng Giám mục de Beaumont, người bảo vệ ông chống lại các cuộc tấn công của Jansen và những lời chỉ trích của Nghị viện, và Tổng Giám mục còn tỏ ra khoan dung với cuộc sống phóng túng của nhà vua bên các cô tình nhân.
Dù chiến thắng của Pháp, chiến tranh vẫn còn lan rộng ở Hà Lan và Ý, nơi Tướng quân Belle-Isle bao vây quân Áo ở Genoa. Trước hè 1757, Pháp chiếm toàn bộ Hà Lan thuộc Áo (Bỉ quốc hiện nay). Tháng 3 năm 1748, Louis đề xuất hội họp tại Aix-en-Chapelle để thương nghị kết thúc chiến tranh. Quá trình bắt đầu khi Maastricht bị Tướng de Saxe chiếm vào ngày 10 tháng 4 năm 1748. Anh, đang bị áp lực bởi đe dọa xâm lược từ Pháp và phần còn lại của Hà Lan, kêu gọi đàm phán liền dù cho phản đối từ Áo và Sardegna. Hiệp ước được các bên thương lượng trong tháng 9 và tháng 10 năm 1748. Louis thì cũng muốn giải quyết nhanh bởi chiến tranh với Anh đe dọa đến nguồn lợi hàng hải của Pháp. Đề xuất của Louis rất là hào phóng; trong Hiệp ước Aix-la-Chapelle, Louis đã lại tất cả lãnh thổ đã chiếm ở Hà Lan cho Áo, Maastricht cho Cộng hòa Hà Lan, Nice và Savoia cho Sardegna, và Madras cho Ấn Độ thuộc Anh. Người Áo trả lại Công quốc Parma và các lãnh thổ khác cho vua Tây Ban Nha, trong khi Anh trao cho Pháp Louisburg và đảo Cape Breton, đều thuộc Nova Scotia. Pháp cũng đồng ý trục xuất người đòi ngôi nhà Stuart của Anh.
Chiến tranh kết thúc, Paris tổ chức ăn mừng, nhưng khi Hiệp ước được công bố vào ngày 14 tháng 1 năm 1749, gây ra sự bất bình và phẫn nộ. Người đòi ngôi nhà Stuart của Anh không chịu dời đi, và hành động này được người Paris hoan nghênh. Cuối cùng anh ta bị bắt ngày 10 tháng 12 năm 1748 và bị đày ra Switzerland. Các tướng Pháp, như De Saxe, cũng tức giận về việc bỏ Hà Lan thuộc Tây Ban Nha. Quyết định của nhà vua cũng có cái lý của ông: ông không muốn Hà Lan thành nơi tranh chấp giữa Pháp với các cường quốc, và cho rằng lãnh thổ nước Pháp đã đạt đến cực hạn, nên làm quốc gia thịnh vương thay vì mở rộng lãnh thổ. Lý lẽ của ông còn dựa trên tôn giáo; ông được dạy bởi Fleury về Điều răn thứ 7, cấm lấy tài sản của người khác bằng gian lận hay bạo lực. Louis thường trích dẫn một câu châm ngôn "Nếu ai hỏi bằng cách nào anh ta có thể bảo vệ tốt nhất một vương quốc, thì câu trả lời là, không mở rộng nó ra thêm nữa." Ông cũng nhận được sự ủng hộ của Voltaire, "Có vẻ như tốt hơn, và thậm chí còn hữu ích hơn khi triều đình Pháp suy nghĩ về sự thỏa mãn của các đồng minh, chứ không phải là để có hai hoặc ba thị trấn Flemish mà khiến người ta thù dằn lâu dài." Vua không có đủ kỹ năng giao tiếp để giải thích quyết định của mình cho công chúng, và thấy không cần làm như vậy. Tin tức về việc nhà vua trả đất cho Áo gặp phải nhiều hoài nghi. Người Pháp thu được rất ít so với những gì họ đã chiến đấu, họ gọi đó là Bête comme la paix ("Ngu như hòa bình") và Travailler pour le roi de Prusse ("Làm việc cho vua Phổ", i.e. làm không vì cái vì cả).
Từ 1727 đến 1737, Hoàng hậu hạ sinh 2 trai 8 gái. Hoàng trưởng tử, chào đời ngày 4 tháng 9 năm 1729, được tấn phong làm Thái tử (dauphin) kế vị ngôi vua, dù anh ta chết trước phụ vương và không lên ngôi được. Con trai thứ hai, Quận công xứ Anjou, sinh 1730, mất 1733. Chỉ có hai người con lớn được nuôi ở Versailles; những người còn lại được nuôi ở Tu viện Fontevrault. Hoàng trưởng nữ, gọi là Madame Premiere, kết hôn với hoàng tử Felipe của Tây Ban Nha, con trai thứ hai của vua Tây Ban Nha và Elisabeth Farnese.
Louis đã từng rất yêu thương Hoàng hậu, trong những năm đầu họ dường như không thể tách rời, nhưng vì số người trong nhà tăng lên và hoàng hậu kiệt sức vì liên tục mang thai, nhà vua bắt đầu nhìn ra bên ngoài. Đầu tiên ông làm quen với một thị nữ của Hoàng hậu, Louise Julie de Mailly, người cùng tuổi với ông và đến từ gia đình quý tộc xưa. Không cần tán tỉnh hay nghi thức, ông biến Mailly làm nhân tình và tấn phong bà ta lên địa vị Công nương. Quận công xứ Luynes bình luận: "Nhà vua yêu phụ nữ, nhưng không đủ can đảm để kiềm chế cảm xúc của mình." Năm 1738, sau khi hoàng hậu sẩy thai, các bác sĩ cấm bà giao hợp với nhà vua một thời gian. Nhà vua cảm thấy bị xúc phạm khi hoàng hậu từ chối mình và sau đó không còn ngủ chung với bà nữa. Biết rằng mình phạm tội ngoại tình, Louis từ chối xưng tội và nhận bí tích. Hồng y de Fleury cố gắng thuyết phục ông từ bỏ mấy cô nhân tình, song không được.
Năm 1740, nhà vua hướng sự chú ý qua em gái của Louise-Joulie, Pauline-Félicité, Hầu tước de Vintimille, đã kết hôn. Pauline-Félicité mang thai với vua vào cuối năm đó, nhưng cuối cùng cả mẹ lẫn con đều chết. Nhà vua rất đau thương và giành một thời gian cầu nguyện để tìm sự an ủi. Sau khi ông hồi phục, Nữ Bá tước Mailly lại giới thiệu cho Vua cô em gái út, Marie Anne de Mailly, vợ góa của Hầu tước de Tournelle. Nhà vua ngay lập tức say mê Marie-Anne; tuy nhiên, bà đòi chị gái bà phải bị trục xuất khỏi triều trước khi bà trở thành người tình của nhà vua. Vua nghe theo, ngày 4 tháng 10 năm 1742, Marie-Anne được phong làm Phu nhân hầu phòng của Hoàng hậu, và một tháng sau vua lệnh cho chị bà phải rời khỏi triều và sống tại Paris. Ông tấn phong nhân tình mới làm Công nương xứ Chateauroux. Quan hệ với nhà vua với ba chị em trở thành đề tài châm biếm trong khắp triều và cả Paris, một bài thơ châm biếm ra đời, câu kết là: "Hốt hết cả một gia đình – là không chung thủy, hay là kiên định?"
Tháng 6 năm 1744, vua rời Versailles để chuẩn bị thân chinh trong cuộc chiến kế vị Áo. Việc di chuyển phổ biến này đã bị hủy hoại bởi quyết định thiếu thận trọng của nhà vua để mang theo Marie-Anne de Mailly. Danh tiếng của ông trước công chúng trở nên xấu đi khi ông quyết định mang theo Marie-Anne de Mailly. Tháng 8, vua bệnh nặng ở Metz. Cái chết cận kề, và người ta tổ chức các lễ cầu Chúa phù hộ cho nhà vua qua khỏi. Các giáo sĩ từ chối làm lễ xá tội cho vua nếu ông không từ bỏ nhân tình, ông làm theo ý họ; Marie-Anne rời khỏi hậu cung nhưng lại đoàn tụ với vua một tháng sau. Lời thú nhận của nhà vua được công bố công khai khiến ông xấu hổ và làm tê liệt uy tín của chế độ quân chủ. Mặc dù việc Louis hồi phục sau căn bệnh khiến ông có biệt danh "Đáng yêu", sự kiện tại Metz làm giảm uy tín của ông. Thành công quân sự trong Chiến tranh Kế vị Áo làm dịu đi ác cảm của công chúng với những người tình của Louis, nhưng sau năm 1748, từ sự phẫn nộ với Hiệp ước Aix-la-Chapelle, những lời bàn tán không hay về những người phụ nữ đó được lan truyền rộng rãi.
Jeanne-Antoinette Poisson, nổi tiếng với biệt danh Madame de Pompadour, là nhân tình nổi tiếng nhất và có ảnh hưởng nhất của Louis XV. Bà là con ngoại hôn của một tướng quân ở Paris, đã kết hôn với một chủ ngân hàng, Charles Guillaume Lenormant d'Etoiles. Bà được nhà vua để mắt tới tỏng cuộc đi săn, và chính thức gặp ông ở buổi dạ hội thời trang Carnaval năm 1745. Trước tháng 7, bà đã là người tình của nhà vua và được tấn phong tước Hầu xứ de Pompadour. Trong 20 năm tiếp theo, bà là người tri kỉ và cố vấn của nhà vua, giúp vua chọn hoặc bãi nhiệm các quan Thượng thư. Ý kiến của bà khiến các Bộ trưởng có thế lực bị lật đổ, bao gồm Machault d'Aurnouville và Hầu tước d'Argenson, và nâng đỡ một số tướng không đủ năng lực. Lựa chọn đúng đắn nhất của bà là Quận công de Choiseul, người trở thành một trong những quan đại thần có năng lực nhất thời Louis XV. Từ năm 1750 bà không còn là tình nhân của nhà vua nữa nhưng vẫn là cố vấn thân cận nhất của ông. Bà được tấn phong làm Công nương vào năm 1752, và Phu nhân của cung Hoàng hậu vào năm 1756, và là người bảo trợ cho âm nhạc và nghệ thuật cũng như tôn giáo. Bà vẫn ở gần nhà vua cho đến khi qua đời vào năm 1764. Ông bị suy sụp tinh thần và nhốt mình trong phòng nhiều tuần sau khi bà mất.
Tại Tân thế giới, xung đột vẫn tiếp tục giữa Anh và Pháp. Các thuộc địa Pháp gặp phải bất lợi lớn về nhân khẩu; có ít hơn 70.000 người Pháp đóng trải dài trên một lãnh thổ từ Sông Saint Lawrence đến Ngũ Đại Hồ mở rộng xuống các thung lũng sông Mississippi và Ohio xuống Louisiana (đặt tên cho ông cố nhà vua, Louis XIV); so với 300.000 ở các thuộc địa Anh. Để bảo vệ lãnh thổ của mình, Pháp đã xây dựng Fort Duquesne để bảo vệ biên giới; Anh cũng cử George Washington đem một lực lượng nhỏ xây pháo đài ở Fort Necessity, gần đó. Năm 1752, sau khi tướng Joseph Coulon de Jumonville bị giết, người Pháp đã gửi quân tiếp viện và buộc Washington và quân của ông ta phải rút lui.
Tiếp đó là Chiến tranh Pháp - Ấn Độ (không tuyên chiến), người Anh coi các thuộc địa Pháp là kẻ thù. Năm 1755, Anh bắt giữ 300 tàu buôn Pháp. Tháng 1 năm 1756, Louis gửi tối hậu thư cho Luân Đôn về việc đó, chính phủ Anh bác bỏ. Vài tháng sau, ngày 16 tháng 1 năm 1756, Friedrich Đại đế của Phổ kí Hiệp ước Westminster, kết minh với Anh. Louis đáp lại ngay lập tức vào ngày 1 tháng 5 năm 1756 khi kí hiệp ước phòng thủ chung với Áo, đó là Hiệp ước Versailles. Điều này khiến cả Vương đình Pháp bất ngờ, vì Pháp với Áo vốn là kẻ thù không đội chung trời trong suốt 200 năm.
Louis tuyên chiến với Anh vào ngày 9 tháng 6 năm 1756, và gần như đã thành công. Hạm đội Pháp tại Địa Trung Hải đánh bại quân Anh ở Minorca năm 1756, và chiếm được đảo. Quân Pháp lại vượt trội hơn so với Anh và Phổ ở lục địa. Họ giành thắng lợi trước quân Anh dưới sự chỉ huy của Hoàng tử Quận công xứ Cumberland ở Closterseven. Đội quân khác xâm chiếm Saxon và Hannover, quê hương của Vua George II. Tuy nhiên, tướng giỏi nhất bên Pháp, Maurice de Saxe, đã chết hai năm sau Chiến tranh Kế vị Áo, và các tướng quân mới, Charles, Vương công xứ Soubise, Quận công D'Estrees và Quận công de Broglie ghét nhau và không muốn hợp tác với nhau. Tháng 8, Friedrich của Phổ mở cuộc đánh chớp nhoáng vào Saxon và ngày 5 tháng 11 năm 1757, quân Pháp dù đông gấp đôi đối phương, nhưng đã bị đánh bại tại Trận Rossbach. Tân Thủ tướng Anh, William Pitt, chọn một vị tướng mới, Quận công Ferdinand xứ Brunswick-Wolfenbüttel, và quân đội Pháp bị đẩy trở lại Rhine, bị đánh bại lần nữa tại trận Crefield ngày 23 tháng 6. Sau đó, Anh và Phổ nắm được thượng phong, đẩy quân Pháp về các lãnh thổ Đức dọc theo sông Rhine.
Sức mạnh của Hải quân Anh ngăn cản Pháp mở rộng các thuộc địa ở nước ngoài, và phi đội hải quân Anh đột kích vào bờ biển Pháp quốc tại Cancale và Le Havre sau đổ bộ lên Ile d'Aix và Le Havre. Năm 1759 người Anh chiếm Martinique và Guadeloupe miền Tây Ấn, cùng Cảng Louis và Quebec. Một loạt thất bại trên biển buộc Louis phải từ bỏ kế hoạch xâm lược Anh quốc. Ở Ấn Độ, thuộc địa Pondicherry của Pháp bị quân Anh phủ vây. Tiền đồn quan trọng của Pháp ở Pondicherry thuộc Ấn Độ cũng lâm nguy, và đầu hàng vào năm sau. Ngày 8 tháng 9 năm 1860, Montreal đầu hàng, kết thúc nền đô hộ của Pháp tại Canada. Martinique rơi vào tay người Anh năm 1762.
Ngày 5 tháng 1 năm 1757, khi nhà vua ngồi xe ngựa đến sân Grand Trianon Versailles, một thằng điên, Robert-François Damiens, đẩy lui đám thị vệ và tấn công nhà vua, dùng con dao nhỏ đâm vào bên hông vua. Các thị vệ bắt giữ Damien, và nhà vua lệnh cho họ cầm giữ nhưng không được làm hại hắn ta. Ông đi bộ lên cầu thang tới phòng mình tại Trianon, ở đó vết thương trở nặng. Ông cho đòi bác sĩ và linh mục tới, rồi ngất đi. Louis được cứu khỏi vết thương lớn này vì khi đó mùa đông, quần áo ông mặc dày hơn bình thường. Tin tức truyền tới Paris, đám đông tụ họp trên đường phố. Giáo hoàng, Nữ hoàng Áo và vua Anh đều gửi thư cầu chúc cho ông hồi phục. Damien bị tra tấn nặng nề để coi có ai đứng đằng sau không, rồi bị xét xử trước Nghị viện Paris, thế lực đối kháng với vua trong mấy năm này. Để chứng minh sự trung thành của mình với nhà vua, Nghị viện kết án Damiens đến mức án nặng nhất; ngày 28 tháng 9 năm 1757, Damien bị xử chết tại Cung điện de Grève tại Paris bằng hình thức quải lạp phân (treo cổ, chặt đầu và phanh thây), thi thể bị đốt đi. Ngôi nhà của hắn bị đốt đi, người cha, vợ và các con gái bị trục xuất khỏi Pháp quốc, các anh chị em bị bắt phải đổi tên đổi họ. Nhà vua hồi phục nhanh, nhưng cuộc tấn công ảnh hưởng nhiều đến tinh thần của ông. Một trong những cựu thần của ông, Duford de Chervrny, sau đó viết: "ai cũng thấy khi các triều thần đến chúc mừng ngài hồi phục, Bệ hạ đáp, "vâng, trẫm khỏe," nhưng ôm đầu và nói, "nhưng điều đó rất tệ, và khó có thể chữa lành." Sau vụ ám sát, nhà vua đã mời thái tử đến để tham dự tất cả các cuộc họp của Hội đồng Hoàng gia và lặng lẽ đóng cửa lâu đài tại Versailles, nơi ông đã gặp với những người tình ngắn ngủi của mình.
Nghị viện là tổ chức của tầng lơp quý tộc và tăng lữ Pháp, những thành viên ở đây là thẩm phán tại tòa án, bao gồm cả quý tộc cha truyền con nối và bọn tư sản giàu mua ghế. Một số Nghị viện địa phương, chẳng hạn như Rouen và Provence, đã tồn tại hàng thế kỷ, và coi mình là chính phủ hợp pháp ở các tỉnh của họ. Louis tổ chức lại chính phủ và bổ nhiệm người của mình khiến uy quyền của Nghị viện cùng giá mua chức đều giảm theo. Ở Franche-Comte, Bordelaise và Rouen, Nghị viện từ chối nghe lệnh hoàng gia. Khi các đại thần khuyên nhà vua khẳng định quyền lực và thu thuế tất cả đẳng cấp, Nghị viện đình công, từ chối tiến hành xét xử các vụ án dân sự. Hệ thống tòa án bị đình trệ. Năm 1761, Nghị viện Normandy và Rouen đã viết biểu trình lên, giải thích rằng nhà vua có quyền đánh thuế, nhưng Nghị viện có độc quyền để thu thuế. Vua bác bỏ, trục xuất một số thành viên Nghị viện chống đối và tịch thu đất phong của họ. Trong suốt những năm sau, Nghị viện theo mệnh nhà vua, nhưng tìm mọi cơ hội để chống lại các khoản thuế mới và quyền hạn của nhà vua. Đây là một trong những nguyên nhân của sự phản đối quyền lực nhà vua mà cuối cùng phát triển thành Cách mạng Pháp ba chục năm sau.