id
stringlengths
1
8
url
stringlengths
37
44
title
stringlengths
1
250
text
stringlengths
0
258k
19821707
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19821707
Zwiefalten
Zwiefalten là một thị xã nằm ở huyện Reutlingen, bang Baden-Württemberg, Đức.
19821708
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19821708
Trochtelfingen
Trochtelfingen là một thị trấn thuộc huyện Reutlingen, bang Baden-Württemberg, Đức. Nơi đây nằm cách Reutlingen 20 km về phía nam.
19821709
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19821709
Romeo and Juliet (phim 1968)
Romeo and Juliet () là một bộ phim điện ảnh cổ trang công chiếu năm 1968 dựa trên vở kịch cùng tên của William Shakespeare. Do Franco Zeffirelli làm đạo diễn kiêm đồng tác giả kịch bản, phim có sự tham gia diễn xuất của Leonard Whiting trong vai Romeo và Olivia Hussey trong vai Juliet. Laurence Olivier là người dẫn chuyện phần mở đầu và phần kết của bộ phim, đồng thời lồng tiếng cho Antonio Pierfederici, người thủ vai Lord Montague nhưng không được đề tên trên màn ảnh. Phim còn có sự tham gia của Milo O'Shea, Michael York, John McEnery, Bruce Robinson và Robert Stephens. Không chỉ là bộ phim điện ảnh chuyển thể từ vở kịch của Shakespeare thành công nhất về mặt tài chính lúc phim ra mắt, tác phẩm còn được thanh thiếu niên yêu thích một phần vì đây là bộ phim đầu tiên sử dụng các diễn viên gần tuổi các nhân vật trong nguyên tác kịch. Một số nhà phê bình cũng vô cùng tán dương bộ phim. Bộ phim đã giành giải Oscar cho Quay phim xuất sắc nhất (Pasqualino De Santis) và Thiết kế phục trang xuất sắc nhất (Danilo Donati); phim còn nhận được đề cử cho Đạo diễn xuất sắc nhất và Phim xuất sắc nhất (tính đến nay là phim gần nhất về vở kịch của Shakespeare được đề cử Phim xuất sắc nhất). Cả Whiting lẫn Hussey đều thắng giải Quả cầu vàng cho Diễn viên mới triển vọng nhất. Một buổi sáng mùa hè nọ ở Verona, mối thù truyền kiếp giữa gia tộc Montague và Capulet đã làm bùng phát một cuộc ẩu đả trên đường phố. Cuộc ẩu đả bị can thiệp bởi Vương chủ, ông cảnh báo cả hai gia tộc rằng bất kỳ hành vi bạo lực nào trong tương lai giữa họ sẽ phải chịu hậu quả thảm khốc. Đêm nọ, hai thiếu niên từ hai gia tộc - Romeo và Juliet - gặp nhau tại một vũ hội đeo mặt nạ Capulet và đem lòng yêu nhau. Sau đó, Romeo tình cờ bước vào khu vườn hẻo lánh dưới ban công phòng ngủ của Juliet và hai người trao nhau những lời thề nguyện say đắm. Họ bí mật kết hôn vào ngày hôm sau bởi cha giải tội, Friar Laurence (người được Romeo xem như cha mình) với sự hỗ trợ từ bà vú của Juliet. Buổi chiều nọ, Tybalt (anh họ của Juliet) tức giận vì Romeo tham dự vũ hội của gia tộc mình, lên tiếng lăng mạ anh và thách thức anh một trận đánh. Giờ đây Romeo coi Tybalt như thành viên gia đình và từ chối chiến đấu với anh ta, làm cho người bạn thân nhất của Romeo là Mercutio thay thế chiến đấu với Tybalt. Bất chấp những nỗ lực ngăn chiến cuộc đấu của Romeo, Tybalt đã đâm trọng thương Mercutio, rồi anh này nguyền rủa cả gia tộc Montague và Capulet trước khi chết. Tức giận trước cái chết của bạn mình, Romeo trả thù bằng cách chiến đấu với Tybalt và kết liễu anh ta. Sau đó Romeo bị Vương chủ trừng phạt bằng cách trục xuất khỏi Verona, với lời đe dọa sẽ lấy mạng nếu anh tái xuất. Rồi Romeo bí mật dành đêm tân hôn của mình với Juliet, cặp đôi hoàn thành việc kết hôn và Romeo bỏ trốn. Cha mẹ của Juliet do không biết về cuộc hôn nhân bí mật của con gái họ nê đã sắp xếp cho Juliet kết hôn với Bá tước Paris giàu có. Juliet cầu xin cha mẹ hoãn cuộc hôn nhân, nhưng họ từ chối và đe dọa sẽ từ mặt cô. Juliet tìm kiếm Friar Laurence để được giúp đỡ, hy vọng thoát khỏi cuộc hôn nhân sắp đặt của mình với Paris và chung thủy với Romeo. Theo chỉ thị của Friar Laurence, cô làm hòa với cha mẹ mình và đồng ý làm theo mong muốn của họ. Vào đêm trước lễ cưới, Juliet uống một lọ thuốc do Friar Laurence chuẩn bị nhằm để cô giả chết trong 42 giờ. Friar Laurence định thông báo cho Romeo về trò lừa để Romeo có thể gặp Juliet sau khi cô được chôn cất và trốn thoát cùng cổ khi Juliet tỉnh dậy, vì vậy anh cử Friar John đưa cho Romeo một lá thư mô tả kế hoạch. Tuy nhiên, khi Balthasar (người hầu của Romeo) nhìn thấy Juliet được chôn cất và tưởng cô đã chết, anh ta đến nói với Romeo và đến gặp cậu chủ trước khi Friar John tới. Quá tuyệt vọng, Romeo đến mộ Juliet và uống thuốc độc tự vẫn. Ngay sau đó, Friar Laurence đến khi Juliet tỉnh dậy. Bất chấp những nỗ lực thuyết phục cô chạy trốn khỏi hầm mộ, Juliet không chịu rời Romeo, và khi Friar bỏ trốn, cô đã tự sát bằng cách lấy con dao găm của anh đâm vào ngực mình. Sau đó, hai gia tộc đã kết thúc mối thù của họ, tham dự đám tang chung của Romeo và Juliet và bị Vương chủ lên án. Paul McCartney cho biết anh đã được Franco Zeffirelli cân nhắc cho vai Romeo. Mặc dù Zeffirelli không nhắc đến nó trong cuốn tự truyện của mình, nhưng McCartney lại cung cấp chi tiết về chuyện này (kể cả cuộc gặp gỡ với Olivia Hussey và thư trao đổi điện tín với cô) trong cuốn tự truyện mà anh đồng chắp bút. Tháng 4 năm 2020, McCartney nhắc đến những cuộc thảo luận của anh với Zeffirelli trên "The Howard Stern Show". Zeffirelli tham gia vào cuộc tìm kiếm các diễn viên tuổi thiếu niên vô danh trên toàn cầu để thủ vai cặp tình nhân. Anjelica Huston có ý định tranh vai Juliet, nhưng cha cô là đạo diễn John Huston đã rút tên cô khỏi các ứng viên khi ông quyết định mời cô đóng trong bộ phim "A Walk with Love and Death" của ông. Leonard Whiting 16 tuổi và Hussey 15 tuổi lúc được tuyển vai, nhưng đã lần lượt sang 17 tuổi và 16 tuổi khi bộ phim bấm máy mùa hè năm 1967. Zeffirelli đã chuyển thể vở kịch theo hướng phát huy điểm mạnh và che giấu điểm yếu của họ: chẳng hạn như các bài phát biểu dài được cắt bớt và ông nhấn mạnh vào các cảnh quay phản ứng. Laurence Olivier tình cờ tham gia vào quá trình sản xuất bộ phim. Ông ở Roma để ghi hình phim "The Shoes of the Fisherman" và đến thăm trường quay đang ghi hình của "Romeo and Juliet". Ông hỏi Zeffirelli liệu mình có thể làm được gì không, và ông nhận được Đoạn mở đầu, sau đó được giao lồng tiếng cho Lãnh chúa Montague cũng như các vai phụ khác. Sau khi các diễn viên đọc kịch bản vào cuối tháng 5, các buổi diễn tập và ghi hình bắt đầu vào cuối tháng 6 năm 1967 tại Tuscania, Ý, sau đó chuyển đến Pienza, Gubbio và Artena, trước khi hoàn thành tại xưởng phim Cinecittà ở Roma. Cảnh ban công nổi tiếng của Romeo và Juliet được quay ở Artena vào tháng 9 năm 1967. Phim lấy bối cảnh nước Ý thời Phục hưng thế kỷ 14. Trong khâu hậu kỳ, một số cảnh bị cắt hoặc lược bớt. Hồi 5, Cảnh 3, trong đó Romeo chiến đấu và cuối cùng lấy mạng Paris ngoài hầm mộ của Juliet đã được ghi hình nhưng bị xóa khỏi bản phim cuối cùng. Theo Leonard Whiting và Roberto Bisacco, Zeffirelli cắt cảnh này vì ông thấy nó làm cho Romeo bớt gây thiện cảm một cách không cần thiết. Một cảnh khác, cảnh Romeo và Benvolio tìm hiểu về vũ hội Capulet bằng cách chặn một lời mời đã được ghi hình nhưng bị xóa bỏ; tuy nhiên, những tấm ảnh tĩnh quảng bá vẫn tồn tại. Kinh phí cuối cùng của bộ phim là 850.000 đô la Mỹ (tương đương đô la Mỹ vào năm ). Ngày 4 tháng 3 năm 1968, "Romeo and Juliet" có buổi trình chiếu ra mắt trong Royal Film Performance và được phát hành toàn quốc tại Vương quốc Anh vào ngày hôm sau. Phim được phát hành vào ngày 8 tháng 10 năm 1968 tại Hoa Kỳ và vào ngày 19 tháng 10 tại Ý. Tác phẩm thu về 14,5 triệu đô la Mỹ từ thị trường phòng vé Bắc Mỹ trong năm 1969 (tương đương 83,4 triệu đô la Mỹ vào ). Phim được tái phát hành vào năm 1973 và thu được 1,7 triệu đô la Mỹ (tương đương 1,7 triệu đô la Mỹ vào năm ). Rotten Tomatoes chấm bộ phim số điểm "Tươi" là 95% dựa trên 41 bài phê bình, đạt điểm trung bình là 8/10, kèm theo sự nhất trí tích cực: "Diễn xuất ổn và hình ảnh bắt mắt đã làm cho "Romeo and Juliet" của Zeffirelli thành một bản chuyển thể điện ảnh chủ chốt từ vở kịch [của Shakespeare]." Roger Ebert của "Chicago Sun-Times" thì viết: "Tôi tin rằng "Romeo and Juliet" của Franco Zeffirelli là bộ phim thú vị nhất về Shakespeare từng được thực hiện." Hai đĩa nhạc nền của bộ phim do Nino Rota sáng tác đã được thực hiện. Bài nhạc hiệu "Love Theme from Romeo and Juliet " của bộ phim cực kỳ ăn khách, đáng chú ý là trong "Our Tune", một phân đoạn trong chương trình phát hành của Simon Bates. Ngoài ra, nhiều bản khác nhau của nhạc phẩm đã được thu âm và phát hành, kể cả một bản rất thành công do Henry Mancini trình bày tại Hoa Kỳ vào tháng 6 năm 1969. Bất chấp từng lên tiếng bảo vệ cảnh khỏa thân của bộ phim và khẳng định rằng nó được thực hiện một cách "có thẩm mỹ" và "cần thiết cho bộ phim", vào ngày 30 tháng 12 năm 2022, Hussey cùng với Whiting đã đệ đơn kiện Paramount Pictures tại Tòa án Cấp cao Quận Los Angeles đòi bồi thường 500 triệu đô la Mỹ, cáo buộc lạm dụng tình dục, quấy rối tình dục và lừa đảo, đồng thời cho phép Zeffirelli ghi hình khỏa thân của họ mà họ không hề hay biết. Đơn kiện cáo buộc rằng các diễn viên cảm thấy điều này khiến họ phải chịu tổn thương và đau khổ về mặt tinh thần trong nhiều thập kỷ sau thành công của bộ phim, và làm cho sự nghiệp của họ không phản ánh được thành công ấy. Con trai của Zeffirelli đã phản ứng gay gắt lại vụ kiện, gọi việc Hussey và Whiting đệ đơn kiện "55 năm sau khi ghi hình phim" là "đáng hổ thẹn" và rằng họ mắc nợ toàn bộ sự nghiệp của mình nhờ thành công của bộ phim. Sau đó vụ kiện bị Thẩm phán Alison Mackenzie của Tòa án Thượng thẩm Los Angeles bác bỏ vào ngày 25 tháng 5 năm 2023; cô tuyên bố rằng vụ việc không đáp ứng các yêu cầu để đình chỉ thời hiệu với hành vi lạm dụng tình dục trẻ em. Mackenzie còn phê phán bên nguyên đơn vì đã "lựa chọn" các đạo luật đã áp dụng cho vụ kiện của họ. Hussey và Whiting được cho là lên kế hoạch kháng cáo phán quyết, cũng như đệ đơn kiện riêng dựa trên "bản phát hành DVD gần đây của bộ phim trên Criterion không chịu ảnh hưởng bởi thời hiệu." Đọc thêm
19821710
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19821710
Cô gái mở đường
"Cô gái mở đường" (tựa tiếng Anh: The Girls who Opened the Road) là một ca khúc thuộc thể loại nhạc đỏ sáng tác năm 1966 của nhạc sĩ Xuân Giao. Bài hát gợi nhớ đến những nữ chiến sĩ thanh niên xung phong trong công cuộc khai phá mặt đường tại dãy Trường Sơn trong chiến tranh Việt Nam. "Cô gái mở đường" được viết vào năm 1966 sau khi Xuân Giao đã trải qua một thời gian hành quân trên đường Trường Sơn. Ca khúc nằm trong phong trào "Tiếng hát át tiếng bom" của nhiều địa phương tại Việt Nam khởi xướng. Nội dung của ca khúc dựa trên hình ảnh những cô gái Ngã ba Đồng Lộc nói riêng và những nữ thanh niên xung phong nói chung thực hiện nhiệm cho quân đội Việt Nam hành quân qua dãy Trường Sơn. Về mặt nội dung, "Cô gái mở đường" nói lên "phẩm chất anh hùng", "bình dị" của những nữ thanh niên xung phong người Việt Nam khi đang ở trên chiến trường ngày ngày đối mặt với cái chết nguy hiểm cận kề. Thông qua lời bài hát, các cô gái này có nhiệm vụ chủ yếu là xây dựng, bảo vệ các cung đường vận tải chiến lược, bắc cầu, rà phá bom mìn, tải đạn, tải lương, tải thương. "Cô gái mở đường" được chia thành hình thức 3 đoạn đơn A-B-C với đoạn A gồm 2 câu ngắt ở bậc 7 của giọng Mi thứ để bắt đầu vào âm chủ ở đoạn B. Đoạn B cũng gồm 2 câu nhạc nhưng dừng ở âm chủ. Đoạn C gồm 2 câu nhạc nhưng âm hình tiết tấu tăng cường nhiều luyến láy và câu 2 được mở rộng thêm một tiết nhạc và chuyển về một coda nhỏ kết thúc toàn bài với nốt sol cao trào trước khi trở về âm chủ. "Cô gái mở đường" thường xuyên được biểu diễn trong những ngày lễ và chương trình sự kiện tưởng niệm những nữ thanh niên xung phong hy sinh trong cuộc chiến tranh Việt Nam như một sự "ca ngợi công lao" của họ. Theo đó, bài hát còn trở thành "tinh thần" của một giai đoạn, một vùng đất của Việt Nam. Trong một chương trình phát sóng tối ngày 6 tháng 11 năm 2021, nữ ca sĩ Han Sara bị khán giả chỉ trích khi trình diễn ca khúc "Cô gái mở đường", cô sử dụng một số đoạn trong bài hát nhạc sĩ Xuân Giao và phối lại trên nền nhạc EDM. Cô còn thay đổi cả phần lời và thêm rap cùng với trang phục trình diễn bị cho là phong cách "nhạy cảm, sexy". Ngay sau đó, Han Sara cùng ê kíp chương trình đã lên tiếng xin lỗi và cho biết sẽ tháo gỡ tất cả dữ liệu của tiết mục. Trước đó, phần trình diễn của Han Sara khi phát sóng trên VTV đã bị cắt bỏ một số phần. Tuy vậy, phần trình diễn của ca sĩ Hậu Hoàng trên nền nhạc hip hop lại được khen ngợi.
19821733
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19821733
Jigsaw (phần mềm tống tiền)
Jigsaw là một phần mềm mã độc tống tiền xuất hiện vào năm 2016. Ban đầu phần mềm có tên "BitcoinBlackmailer", nhưng sau đó nó đã được gọi là "Jigsaw" do có hình ảnh của nhân vật Billy the Puppet từ loạt phim "Saw". Phần mềm này sẽ mã hóa các tệp máy tính và dần dần xóa chúng, yêu cầu nạn nhân phải trả một số tiền chuộc để giải mã các tệp và dừng xóa. Jigsaw được thiết kế vào tháng 4 năm 2016 và phát hành một tuần sau khi ra đời. Phần mềm được thiết kế để phát tán qua các tệp đính kèm độc hại trong email spam. Jigsaw sẽ được kích hoạt nếu người dùng tải xuống chương trình chứa phần mềm độc hại. Sau khi mã hóa tất cả các tệp người dùng và bản ghi khởi động chính (Master Boot Record), một cửa sổ với hình nhân vật Billy The Puppet sẽ bật lên kèm dòng chữ tống tiền theo phong cách của nhân vật Jigsaw. Nội dung của thông điệp yêu cầu người dùng phải chuyển một số tiền Bitcoin nhất định để đổi lấy việc giải mã các tập tin. Nếu tiền chuộc không được thanh toán trong vòng một giờ, một tệp sẽ bị xóa. Điều này tiếp tục tái diễn trong mỗi giờ tiếp theo nếu không trả tiền chuộc, với số lượng tệp bị xóa tăng theo cấp số nhân từ vài trăm đến hàng nghìn tệp cho đến khi tất cả bị xóa sau 72 giờ. Bất kỳ nỗ lực nào để khởi động lại máy tính hoặc ngăn cản quá trình sẽ dẫn đến việc 1.000 tệp bị xóa. Một phiên bản nâng cấp hơn cũng đe dọa nạn nhân bằng việc tung thông tin cá nhân của họ lên Internet. Jigsaw khi kích hoạt thường trông giống như tệp Firefox hoặc Dropbox trong trình quản lý tác vụ. Vì Jigsaw lưu trữ khóa giải mã tĩnh trong tệp nhị phân, chúng có thể được trích xuất từ tệp nhị phân bằng trình chỉnh sửa hex hoặc trình dịch ngược .NET để xóa mã hóa mà không phải trả tiền chuộc. Nói về phần mềm này, trang "The Register" nhận định: "Việc sử dụng các hình ảnh và nội dung trong phim kinh dị để gây ra sự khốn khổ cho nạn nhân đã tiến đến một mức độ mới". Vào năm 2017, Jigsaw được liệt kê vào trong số 60 mã độc tống tiền sử dụng các thủ thuật lẩn tránh phần mềm diệt virus trong khi khởi động.
19821755
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19821755
Chuyện nghề của Thủy
Chuyện nghề của Thủy là một cuốn tự truyện của đạo diễn Trần Văn Thủy và Lê Thanh Dũng, xuất bản lần đầu vào năm 2013 bởi Nhà xuất bản Hội nhà văn và Công ty sách Phương Nam. Tại thời điểm ra mắt, tác phẩm đã trở thành cuốn sách bán chạy cũng như nhận về nhiều phản hồi tích cực từ độc giả. Bản chuyển ngữ tiếng Anh của sách sau đó đã ra mắt tại Mỹ vào năm 2016. Cuốn sách gồm 29 chương, là lời thuật lại của Trần Văn Thủy về quãng đời làm phim của ông, từ ấn tượng ban đầu với phim ảnh thuở nhỏ đến những ngày hoạt động gian khó trong chiến tranh để làm phim tài liệu; những khó khăn và ngăn trở bởi chính quyền trong quá trình làm hai bộ phim tài liệu nổi tiếng "Hà Nội trong mắt ai" – "Chuyện tử tế" và những dự án phim ảnh quốc tế của ông; các buổi hội thảo lớn về tác phẩm của đạo diễn và sự công nhận dành cho Trần Văn Thủy. Một số chương còn lại được viết bởi Lê Thanh Dũng – người ghi chép lại các câu chuyện của Trần Văn Thủy thành sách – tâm sự về cuộc đời bạn mình. Từ tháng 9 năm 2011 đến tháng 2 năm 2012, hai học giả người Mỹ Michael Ronov và Dean Wilson đã sang Việt Nam để phỏng vấn Trần Văn Thủy trong nửa năm và viết thành một luận văn dài với tựa đề "Tran Van Thuy's "Story of Kindness": Spirituality and Political Discourse". Sau khi được bạn thân là Tiến sĩ khoa học Lê Thanh Dũng gợi ý viết một cuốn tự truyện về mình, Trần Văn Thủy đã tận dụng các cuộn băng ghi âm từ cuộc phỏng vấn trước đó để tập hợp lại thông tin thành nội dung hoàn chỉnh, cùng với Lê Thanh Dũng suốt 10 tháng. Ngoài những thông tin đã kể với hai nhà nghiên cứu, một số thông tin chưa nêu cũng được bổ sung vào sách. Trần Văn Thủy kể lại cho Lê Thanh Dũng để bạn tự viết theo cảm nhận cá nhân, nhưng đa phần vẫn là đạo diễn tự chấp bút vì là "người trong cuộc". Ngoài vai trò sắp xếp nội dung và đảm trách một số chương trong truyện, Lê Thanh Dũng cũng đánh máy những trang viết chữ của Trần Văn Thủy lên máy tính. Theo lời của Trần Văn Thủy, ông viết cuốn sách này như một sự "tri ân nhưng bậc cao niên, đồng nghiệp, khán giả, bằng hữu trong và ngoài nước – những người đã tin cậy, nâng đỡ và khích lệ tôi trong suốt cuộc đời làm nghề". Bản thảo đầu tiên của sách rất dài, nhưng sau đó Trần Văn Thủy đã cân nhắc loại bỏ 50% nội dung ban đầu, như những đoạn nói về ký ức với Trần Độ, để người đọc dễ tiếp cận hơn. Bản thảo cuối cùng dừng lại ở con số 474 trang. Trần Văn Thủy và Lê Thanh Dũng đã cân nhắc những cái tên cho cuốn tự truyện, sau cùng thống nhất đặt là "Chuyện nghề của Thủy". Trong quá trình in ấn sách, Trần Văn Thủy được Công ty sách Phương Nam hỗ trợ rất nhiều ở phương diện xuất bản và quảng bá sách. Dù lo sợ tác phẩm sẽ không được phép xuất bản và có thể bị cắt gọt nhưng đến cuối cùng bản thảo của ông vẫn được giữ nguyên từ đầu đến cuối. Cuốn sách đã chính thức phát hành vào ngày 20 tháng 5 năm 2013. Cái tên Lê Thanh Dũng trong truyện được đặt lên trên Trần Văn Thủy ở mục tác giả, mà theo đạo diễn là vì nếu "không có anh Lê Thanh Dũng thì không có cuốn sách này". Nhiều buổi ra mắt "Chuyện nghề của Thủy" sau đó đã được lên kế hoạch tổ chức trên khắp Việt Nam, đi qua lần lượt 5 tỉnh, thành phố lớn lần lượt gồm Thành phố Hồ Chí Minh, Nha Trang, Đà Nẵng, Huế, Hà Nội. Các buổi ra mắt này đều diễn ra trong tháng 6 và đã thu hút rất đông khán giả – chủ yếu là những người lớn tuổi – có mặt để bày tỏ sự ủng hộ đối với Trần Văn Thủy. Một số chương trong truyện cũng được trích dẫn để giới thiệu trên báo "Tuổi Trẻ". Cuốn sách đã nhận được nhiều phản hồi tích cực từ cả người đọc lẫn giới phê bình. Tác phẩm ngay khi ra đời đã lập tức trở thành sách bán chạy tuy chỉ mới in 1000 bản đầu tiên và trước đó nhà phát hành có tính đến nguy cơ bị lỗ. Cuốn sách được ghi nhận đã "để lại dấu ấn" trong người đọc và vẫn được tái bản đều đặn tới công chúng, tính đến năm 2015 đã lập kỷ lục tái bản tổng cộng 7 lần. Nhà văn Võ Thị Hảo nhìn nhận sự thành công của cuốn sách cho thấy "độc giả vẫn khao khát sự thật, và rõ ràng, sự tử tế vẫn đánh thức được lương tri". Theo tờ "Phụ nữ thủ đô", sức hấp dẫn lớn nhất của cuốn tự truyện mà hiếm có tác phẩm cùng thể loại nào đạt được là nhờ kết cấu của truyện cũng như những câu chuyện ít biết trong sự nghiệp làm phim của Trần Văn Thủy. Báo "Sài Gòn Giải Phóng" thì chỉ ra rằng những phản ứng của tác giả và sự chiêm nghiệm về khó khăn là các yếu tố góp phần tạo nên sức hút cho tự truyện. Trong năm 2013, "Chuyện nghề của Thủy" đã được trao giải "Phát hiện mới" tại giải Sách hay tổ chức bởi Viện Giáo Dục IRED. Sách sau đó được mua bản quyền chuyển ngữ sang tiếng Anh. Giáo sư, cựu chiến binh người Mỹ Eric Henry cùng nhà nghiên cứu Nguyễn Quang Dy đã biên dịch sách và Wayne Karlin đặt tên là "In Whose Eyes". Sách do xuất bản năm 2016. Theo thời báo "Nikkei Asia", đây là cuốn tự truyện đầu tiên của một đạo diễn Việt Nam xuất bản ở tiếng Anh. Vào tháng 8 năm 2013, nhiều báo chí đã đưa tin "Chuyện nghề của Thủy" bị in lậu và tuồn ra bán với số lượng lớn trên thị trường. Những cuốn sách có chất lượng giấy kém; hình ảnh nát, nhòe; đóng sách sơ sài đã được trưng bày cả trong phố sách Đinh Lễ, Hoàn Kiếm với giá 100.000 đồng một cuốn. Việc nhiều sách giả được bày bán đã khiến bản sách thật không tiêu thụ được và khiến Công ty Phương Nam thiệt hại lên tới hàng trăm triệu đồng. Phía Phương Nam sau đó đã gửi văn bản cho các cơ quan chức năng để điều tra và xác minh những cá nhân và tổ chức đứng sau vụ việc này.
19821757
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19821757
László Bölöni
László Bölöni (; sinh ngày 11 tháng 3 năm 1953) là một cựu cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người România hiện tại đang là huấn luyện viên trưởng của câu lạc bộ Metz tại Ligue 1. Sau khi bắt đầu sự nghiệp tại ASA Târgu Mureș, Bölöni đã trở thành một phần không thể thiếu của đội hình Steaua București vô địch UEFA Champions League năm 1986, trở thành đội bóng Romania duy nhất—và là một trong hai đội bóng Đông Âu đạt được vinh dự này. Ông hai lần giành được giải thưởng Cầu thủ xuất sắc nhất năm của Romania và ra sân 484 trận tại Divizia A, số lần ra sân nhiều thứ tư trong lịch sử giải đấu. Trên đấu trường quốc tế, Bölöni ra sân 102 trận cho đội tuyển quốc gia, giúp ông đứng thứ năm trong danh sách ra sân nhiều trận cho đội tuyển quốc gia và ghi được 23 bàn thắng, cao thứ sáu trong tất cả. Do đó, ông được coi là một trong những cầu thủ bóng đá Romania xuất sắc nhất trong lịch sử. Sau khi giải nghệ với tư cách là một cầu thủ, ông tiếp tục huấn luyện các câu lạc bộ ở Pháp, Bồ Đào Nha, Bán đảo Ả Rập, Bỉ và Hy Lạp. Bölöni cũng là huấn luyện viên của đội tuyển quốc gia Romania từ năm 2000 đến năm 2001. Xét về số danh hiệu giành được, thời gian thành công nhất của ông là ở Sporting CP và Standard Liège với mỗi đội giành được ba danh hiệu trong nước. Bölöni sinh ra ở Târgu Mureș, Romania, trong một gia đình dân tộc Hungary đến từ Târnăveni. Đội bóng đầu tiên của ông là Chimica Târnăveni, và vào năm 1970, ông chuyển đến ASA Târgu Mureș. Ông ở đó cho đến năm 1984, khi ông gia nhập Steaua București, nơi ông là một phần của đội đã giành chiến thắng trận Chung kết Cúp C1 châu Âu 1986 (nơi ông sút hỏng quả phạt đền trong loạt đá luân lưu) và Siêu cúp châu Âu vào năm sau. Bölöni ở lại Steaua cho đến năm 1987. Năm 1988, ở tuổi 35, Bölöni rời đất nước để chơi ở Bỉ, tại câu lạc bộ Racing Jet Bruxelles và sau đó ở Pháp tại US Créteil. Ông từ giã sự nghiệp bóng đá vào năm 1992. Vào ngày 25 tháng 3 năm 2008, ông đã được tổng thống Romania, Traian Băsescu tặng huân chương Ordinul "Meritul Sportiv" — (Huân chương "The Sportive Merit") hạng II, vì đã góp phần giành được danh hiệu cúp châu Âu năm 1986. Bölöni giành huy chương vàng với đội tuyển bóng đá trẻ Romania tại Đại hội Thể thao Sinh viên Thế giới năm 1974 tổ chức tại Pháp, thi đấu cùng với Gheorghe Mulțescu, Dan Păltinișanu, Romulus Chihaia và Paul Cazan. Thi đấu cho Đội tuyển bóng đá quốc gia România vào năm 1983, Bölöni đã ghi một trong những bàn thắng đáng chú ý nhất của ông, trong chiến thắng 1–0 trước Ý trong trận đấu tại vòng loại Euro 1984, trận đấu cuối cùng đã chứng minh là vô giá đối với quốc gia đủ điều kiện tham dự giải đấu. Ở vòng chung kết ở Pháp, ông đã chơi trong cả ba trận đấu của Romania, và ghi bàn gỡ hòa trong trận hòa 1-1 với Tây Ban Nha tại Stade Geoffroy-Guichard. Tổng cộng, Bölöni đã ra sân 102 trận cho Romania và ghi được 23 bàn thắng—hoặc 108 trận và 25 bàn thắng nếu bao gồm cả vòng loại Thế vận hội. Là một huấn luyện viên bóng đá, Bölöni bắt đầu với câu lạc bộ AS Nancy, nơi ông là huấn luyện viên trưởng trong vài năm. Ông đã thăng hạng cùng đội bóng ở Ligue 1. Năm 2000, ông được bổ nhiệm làm huấn luyện viên đội tuyển quốc gia, nhưng đến mùa hè năm 2001, ông quyết định rời bỏ công việc này. Sau đó, ông gia nhập câu lạc bộ của Bồ Đào Nha, Sporting Clube de Portugal, nơi ông đã giành được chức vô địch quốc gia và cúp quốc gia trong năm đầu tiên của mình. Ông bị sa thải vào cuối mùa giải tiếp theo do kết quả tầm thường. Di sản của ông tại Sporting là việc đưa các cầu thủ của đội trẻ như Ricardo Quaresma, Hugo Viana và Cristiano Ronaldo vào đội hình xuất phát của đội 1. Năm 2003, ông trở lại Pháp với tư cách là huấn luyện viên của Stade Rennais; vào năm 2005, ông đã dẫn dắt đội bóng đến vị trí tốt nhất trong lịch sử (hạng 4 ở Ligue 1), và một suất tham dự UEFA Cup sau đó. Vào tháng 5 năm 2006, Bölöni ký hợp đồng hai năm với AS Monaco nhưng bị sa thải vào ngày 23 tháng 10 vì không có kết quả (Monaco đứng thứ 19/20 trong giải đấu vào ngày đó). Vào ngày 9 tháng 6 năm 2008, Standard Liège đã bổ nhiệm Bölöni làm huấn luyện viên mới của họ, khi ông kế nhiệm Michel Preud'homme, người đã dẫn dắt câu lạc bộ đến chức vô địch đầu tiên. Danh hiệu Giải bóng đá vô địch quốc gia Bỉ sau 25 năm (2007–2008). Vào ngày 24 tháng 5 năm 2009, ông giành chức vô địch Giải bóng đá vô địch quốc gia Bỉ trong mùa giải đầu tiên tại Standard (2008–2009) sau khi chơi trận play-off tranh chức vô địch với Anderlecht. Vào ngày 10 tháng 2 năm 2010, Bölöni từ chức huấn luyện viên tại Standard Liege. Vào ngày 29 tháng 5 năm 2010, có thông báo chính thức rằng Bölöni đã ký hợp đồng với câu lạc bộ Al-Wahda. Vào ngày 2 tháng 9 năm 2010, Al-Wahda sa thải Bölöni, bất chấp chiến thắng 3-1 của đội trước Ittihad Kalba. Vào ngày 2 tháng 1 năm 2011, ông được bổ nhiệm bởi RC Lens, theo hợp đồng một năm, nhưng ông không thể cứu đội bóng khỏi việc xuống hạng. Bölöni ngay lập tức bị sa thải vào tháng 6 và ký hợp đồng hai năm với PAOK vào ngày 8 tháng 6 năm 2011, sau một thời gian đàm phán ngắn. Nhiệm kỳ của Bölöni tại PAOK bắt đầu với hai chiến thắng trước Vålerenga Fotball ở Vòng sơ loại thứ ba của UEFA Europa League, giúp họ đấu với Karpaty Lviv ở vòng Play-off. PAOK thắng trận lượt đi trên sân nhà và hòa trận lượt về, giành quyền vào vòng bảng. Trong một bảng đấu khó khăn bao gồm Tottenham Hotspur F.C., FC Rubin Kazan và Shamrock Rovers F.C., PAOK của Bölöni đã vượt qua vòng bảng với thành tích bất bại, giành chiến thắng tại White Hart Lane, một kỳ tích đáng chú ý khi không có đội Hy Lạp nào giành chiến thắng trên đất Anh kể từ năm 1999 khi PAOK đánh bại Arsenal tại Highbury. Ở vòng 32 đội, PAOK đối mặt với Udinese Calcio, và mặc dù trận hòa 0–0 ở Ý đã lan truyền sự lạc quan, nhưng một PAOK suy yếu đã bị loại khỏi giải đấu khi trận lượt về trên sân nhà kết thúc với tỷ số thua 0–3. Nhìn chung, sự hiện diện của châu Âu là tích cực mặc dù kết thúc đột ngột, khi PAOK giành được 6 chiến thắng trong số 12 trận, với màn trình diễn ấn tượng và chiến thắng quan trọng trước Tottenham. Trên sân nhà, PAOK đã có một mùa giải đầy sóng gió khi đội bóng này chỉ cán đích ở vị trí thứ 3 trong mùa giải chính thức, với vị trí thứ 5 là vị trí cuối cùng sau vòng play-off. Trong mùa giải, PAOK đã thắng các trận sân khách trước AEK Athens F.C. và Panathinaikos F.C., đánh dấu sự kết thúc của truyền thống 10 năm không thắng trước các đội bóng đó khi thi đấu xa nhà. Tuy nhiên, phong độ của đội không nhất quán và sự ra đi - do khó khăn tài chính của câu lạc bộ - của hai trong số những cầu thủ quan trọng nhất của đội, Vieirinha và Pablo Contreras không giúp ích được gì. Bölöni đã phải ứng biến để bù đắp cho đội hình thiếu chiều sâu, với nhiều kết quả khác nhau. Mặc dù mùa giải được coi là không thành công, nhưng người hâm mộ không đổ lỗi cho Bölöni, người đã chiếm được cảm tình của họ nhờ tính cách của ông, kết quả của ông trước một số đối thủ lớn và lối chơi của đội khi có phong độ tốt. Vào ngày 25 tháng 5 năm 2012, PAOK đã sa thải Bölöni sau một năm dẫn dắt đội bóng. Bölöni được câu lạc bộ Al Khor bổ nhiệm làm huấn luyện viên trưởng vào ngày 21 tháng 6 năm 2012. Vào ngày 26 tháng 1 năm 2013, trong trận đấu với Qatar SC, ông đã dính vào một sự cố gây tranh cãi. Ông ném một chai nước vào một cậu bé nhặt bóng phía sau khung thành sau khi cậu bé lấy quả bóng ra ngoài sân. Tuy nhiên, cái chai không trúng cậu bé, tuy nhiên, người quan sát trận đấu, Ali Al-Naimi, đã phát hiện ra nó, người đã chuyển thông tin cho một trợ lý trọng tài, người này cuối cùng đã thông báo cho trọng tài, Fahad Jaber, người đã quyết định đuổi cậu ta khỏi sân. Thay vì đi thẳng đến khán đài, ông chọn ở lại bất hợp pháp trong trạm kiểm soát. Các nhân viên an ninh đã cố gắng đuổi ông đi, nhưng ông đáp trả bằng cách sử dụng ngôn từ thô tục và xô đẩy các nhân viên cảnh sát. Kết quả là, một báo cáo của cảnh sát đã được đệ trình chống lại anh ta. Sau đó, ông bị Hiệp hội bóng đá Qatar phạt 75.000 riyal Qatar và bị cấm chỉ đạo 5 trận. Vào tháng 8 năm 2013, các phương tiện truyền thông ở Croatia suy đoán rằng Bölöni có thể được bổ nhiệm làm tân huấn luyện viên trưởng của Dinamo Zagreb, sau khi huấn luyện viên trưởng cũ của đội bị sa thải, Krunoslav Jurčić. Bölöni trước đây cũng đã được liên kết với Hajduk Split, đối thủ khốc liệt của Dinamo Zagreb. Vào ngày 21 tháng 7 năm 2015, câu lạc bộ Al-Ittihad tại Giải Vô địch quốc gia Ả Rập Xê Út thông báo bổ nhiệm Bölöni làm tân huấn luyện viên trưởng của đội bóng. Vào ngày 16 tháng 6 năm 2017, Bölöni được công bố là huấn luyện viên mới của câu lạc bộ Royal Antwerp. Trong mùa giải đầu tiên của mình tại câu lạc bộ, đội bóng đã cán đích ở vị trí thứ 8 trong mùa giải thông thường và vị trí thứ 3 trong nhóm đá play-off Europa League để giúp đội trụ hạng thành công. Trong mùa giải thứ hai của mình, Antwerp đã gây bất ngờ cho nhóm tranh chức vô địch, kết thúc mùa giải thông thường ở vị trí thứ 6 và lần đầu tiên đủ điều kiện tham dự vòng play-off tranh chức vô địch. Antwerp đã giành những chiến thắng quan trọng trước Genk (1–0), Anderlecht (2–1), Gent (2–1), Standard Liège (2–1), cũng như như một trận hòa không bàn thắng với Club Brugge trong nửa đầu trận play-off và leo lên vị trí thứ 3, nhưng những trận thua sau đó trước những đội bóng này đồng nghĩa với việc Antwerp đứng thứ 4, do đó sẽ tham dự vòng loại play-offs cuối cùng của Europa League. Trong trận chung kết, Antwerp đánh bại Charleroi 3–2 sau khi bị dẫn trước 0-2 trong những phút đầu tiên. Như vậy, Antwerp đã giành quyền vào vòng sơ loại thứ ba của UEFA Europa League sau 26 năm vắng bóng ở châu Âu. Sau khi bất ngờ hạ gục Viktoria Plzeň nhờ luật bàn thắng trên sân khách ở vòng thứ ba, Antwerp đã dừng bước ở vòng bảng khi sau đó bị AZ loại ở vòng play-off. Về mặt nội bộ, Bölöni đã dẫn dắt đội cán đích ở vị trí thứ 4 khác trong giải đấu, cũng như lọt vào trận chung kết Cúp quốc gia Bỉ ở mùa giải 2019–20, lần đầu tiên kể từ năm 1992. bị hoãn lại đến ngày 1 tháng 8 do đại dịch COVID-19 và hợp đồng của Bölöni sau đó hết hạn vào ngày 20 tháng 5, khiến người kế nhiệm của ông Ivan Leko huấn luyện đội bóng cho trận chung kết. Vào ngày 20 tháng 8 năm 2020, K.A.A. Gent đã thông báo bổ nhiệm Bölöni trở thành tân huấn luyện viên trưởng của đội bóng. Vào tháng 9, ông bị sa thải chỉ sau ba trận cầm quân. Vào ngày 19 tháng 10 năm 2020, Bölöni được công bố là huấn luyện viên trưởng mới cho câu lạc bộ Hy Lạp, Panathinaikos. Ông đã hòa trận đầu tiên với tỷ số 1-1 trước Volos tại Giải bóng đá vô địch quốc gia Hy Lạp. Vào ngày 10 tháng 5 năm 2021, Boloni lần thứ hai trong mùa giải này bị sa thải, lần này là bởi câu lạc bộ sau khi không thể giúp họ giành một suất tham dự vòng loại cúp châu Âu; sau đó ông đuọc thay thế bởi Ivan Jovanović vào ngày 24 tháng 5. Trong suốt tháng 1 năm 2022, Bölöni đã đàm phán với chủ tịch Liên đoàn bóng đá România, Răzvan Burleanu để trở lại với tư cách là huấn luyện viên của đội tuyển quốc gia Romania, hơn 20 năm sau khi nghỉ việc. Các cuộc đàm phán thất bại dẫn đến việc bổ nhiệm Edward Iordănescu thay thế. Khi Bölöni 15 tuổi, cha ông qua đời vì đột quỵ khi xem ông thi đấu từ khán đài. Cái chết của cha mẹ đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến ông, nhưng Bölöni đã được mẹ thuyết phục tiếp tục chơi bóng. Bà chuyển từ thành phố quê hương Târnăveni của họ đến Budapest vào một thời điểm nào đó sau này trong đời. Trong thời gian làm việc tại Steaua București, Bölöni cũng đã tuyên bố là nha sĩ trong sáu năm; con gái ông đã tiếp bước ông và học cấy ghép ở Pháp. Khi được hỏi tại sao ông thích được gọi là người Hungary hơn là người Romania, Bölöni nói: "Đó không phải là vấn đề sở thích, tôi là người Hungary." Ông cũng nói thêm: "Điều đó không ngăn cản tôi sống ở Romania, nơi tôi đã thi đấu, kể cả trong đội tuyển quốc gia. Ngay cả khi tôi thuộc người Hungary thiểu số, tôi đã ghi bàn vào lưới Hungary, tôi đã tập luyện đội tuyển Romania đánh bại Hungary ở vòng sơ loại World Cup. Nhưng tôi đã nhận được nền giáo dục và văn hóa Hungary. Nhờ cha mẹ tôi." Vào năm 2019, sau khi những tiếng hô chống Hungary vang lên từ khán đài trong các trận đấu của đội tuyển quốc gia Romania với Tây Ban Nha và Malta, ông một lần nữa tuyên bố: "Tôi là người Hungary", sau đó hỏi: "Lỗi của chúng tôi là gì?" Trước hành động này, ông đã rất thất vọng với những kẻ thù độc ác. Vào năm 2021, ông được "Nemzeti Sport" thuê để phân tích các trận đấu của đội tuyển Hungary tại Giải vô địch bóng đá châu Âu 2020, và trong cùng năm đó đã tiết lộ sự ủng hộ của ông đối với Đội bóng đá Székely Land. Tuy nhiên, sau những cuộc đàm phán thất bại để dẫn dắt đội tuyển quốc gia Romania vào năm 2022, Bölöni bày tỏ sự tiếc nuối vì không thể đại diện cho đất nước của mình một lần nữa. Bölöni nắm giữ hộ chiếu quốc tịch Romania, Hungary và Pháp. Steaua București Cá nhân Nancy-Lorraine Sporting CP Al-Jazira Standard Liège Cá nhân
19821764
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19821764
M247 Sergeant York
M247 Sergeant York DIVAD (Division Air Defense) là một loại Vũ khí phòng không tự hành (self-propelled anti-aircraft gun) (SPAAG), do Ford Aerospace phát triển vào cuối thập niên 1970. Pháo được phát triển dựa trên khung gầm xe tăng M48 Patton, với việc loại bỏ tháp pháo và thay bằng một tháp pháo mới với hai radar dẫn bắn trực tiếp cho pháo bắn nhanh Bofors 40 mm. Xe thiết giáp được đặt theo tên của Trung sĩ Alvin York, một anh hùng thời Chiến tranh thế giới lần thứ nhất World War I. Sergeant York được dự tính sẽ được triển khai kết hợp với M1 Abrams và M2 Bradley trong Lục quân Hoa Kỳ, tương tự như pháo ZSU-23-4 của Liên Xô và pháo Flakpanzer Gepard của Đức. Nó sẽ thay thế cho M163 Vulcan Air Defense System SPAAG và tên lửa phòng không MIM-72 Chaparral, trong khi hệ thống tên lửa phòng không MIM-46 Mauler chưa được hoàn thiện. Dù áp dụng nhiều công nghệ đã tiêu chuẩn hóa để cho phép phát triển nhanh và giảm giá thành nhưng một loạt lỗi kỹ thuật cùng với giá thành đội giá đã khiến Quân đội Mỹ hủy bỏ chương trình vào năm 1985.
19821776
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19821776
Danh sách tích phân với hàm vô tỉ
Dưới đây là danh sách tích phân (nguyên hàm) với hàm vô tỉ. Đối với danh sách đầy đủ hàm tích phân, xem danh sách tích phân. Trong bài này, hằng số tích phân được lược bớt đi cho ngắn gọn. Giả định "x" > "a" (đối với trường hợp "x" < "a", xem mục sau): Giả định rằng ("ax" + "bx" + "c") không thể chuyển về dạng ("px" + "q") với "p" và "q" là hằng số.
19821777
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19821777
Stephen Hopkins
Stephen Hopkins (7 tháng 3 năm 1707 – 13 tháng 7 năm 1785) là một thành viên nhóm lập quốc Hoa Kỳ, thống đốc của Rhode Island và Đồn điền Providence, chánh án của Tòa án Tối cao Rhode Island, và là người ký kết bản thảo Hiệp hội Lục địa và Tuyên ngôn độc lập Hoa Kỳ. Ông xuất thân từ một gia đình nổi tiếng ở Rhode Island, và là cháu trai của William Hopkins, một chính trị gia lỗi lạc. Ông cố của ông, Thomas Hopkins đã đi thuyền từ Anh cùng với người anh họ Benedict Arnold vào năm 1635 là một trong những người đã định cư ban đầu tại Đồn điền Providence. Về sau, Benedict Arnold đã trở thành thống đốc đầu tiên của thuộc địa Rhode Island theo Hiến chương Hoàng gia năm 1663. Thủa bé, Hopkins là rất ham mê đọc sách, và đặc biệt tỏ ra chuyên cần trong các bộ môn khoa học, toán học và văn học. Ông trở thành một nhà khảo sát, nhà thiên văn học và là người thực hiện các phép đo trong quá trình sao Kim đi qua Mặt trời, năm 1769. Vào năm 23 tuổi, ông tham gia hoạt động công ích ở thị trấn mới thành lập thời bấy giờ là Scituate, Rhode Island. Hopkins nhanh chóng trở thành thẩm phán của Tòa án chung thẩm, đồng thời phục vụ với tư cách là người phát ngôn của Hạ viện và chủ tịch của Hội đồng thị trấn Scituate. Ngoài việc hoạt động tích cực trong các vấn đề dân sự, Hopkins còn là một thương gia thành đạt nhờ vào xưởng đúc sắt của ông. Năm 1750, Hopkins là nhân vật chính chính trong bức tranh châm biếm "Sea Captains Carousing in Surinam" của John Greenwood. Tháng 5 năm 1747, Hopkins được bổ nhiệm làm thẩm phán của Tòa án Tối cao Rhode Island, công việc được duy trì cho đến tháng 5 năm 1749. Tiếp đó, vào tháng 5 năm 1751, ông trở thành chánh án thứ ba của cơ quan này, chức vụ được ông nắm giữ kết thúc vào tháng 5 năm 1755. Năm 1755, Hopkins trở thành thống đốc của thuộc địa và bước vào thời kỳ nhiệm kỳ đầu tiên. Chức vị này được Hopkins nắm giữ suốt từ 9 đến 15 năm tiếp theo của cuộc đời. Vào thời Hopkins sống, vấn đề về sử dụng đồng tiền tệ và một trong những vấn đề chính trị gây mẫu thuẫn nhất. Samuel Ward, đối thủ chính trị hàng đầu của Hopkins là một người ủng hộ mạnh mẽ cho việc dùng tiền tệ cứng, trong khi Hopkins ủng hộ đồng tiền giấy. Việc cạnh giữa hai chính trị gia đã có lúc lên đến đỉnh điểm khi có lần Hopkins đã kiện Ward đòi 40.000 bảng Anh, nhưng vụ kiện này cuối cùng đã không thành công và chính Hopskin đã phải trả một khoản chi phí cho vụ kiện. Samuel Ward, cũng là một đại biểu của Quốc hội Lục địa và đã từng luân phiên với Hopkins làm thống đốc của Rhode Island trong một số nhiệm kỳ. Hai người họ đã trở thành đối thủ gây gắt của nhau. Vào giữa những năm 1760, những bất đồng giữa Hopkins và Ward đã trở thành mối phân tâm nghiêm trọng đối với chính quyền tại Rhode Island, trong tình thế này cả Hopkins và Ward sau đó đã chọn cách xoa dịu lẫn nhau mặc dù ban đầu vẫn không mấy thành công. Đến năm 1768, Samuel Ward và Hopkins thông qua thỏa thuận và không đứng ra tranh cử, ứng cử viên Josias Lyndon đã trở thành Thống đốc thứ 35 của Thuộc địa Rhode Island và Đồn điền Providence. Năm 1770, một lần nữa Hopkins đảm nhiệm chức vụ chánh án của Tòa án Tối cao Rhode Island, ông đảm nhận vai trò xử lý chính trong Vụ Gaspee vào năm 1772, khi nhóm công dân tại đảo Rhode Island trong lúc nổi giận đã tấn công ngoài khơi lên một con tàu hải giám Anh Quốc. Năm 1774, với tư cách là một trong hai Đại biểu Quốc hội tại Rhode Island, ông được giao nhiệm vụ tham dự Đại hội Lục địa lần thứ nhất cùng với Samuel Ward. Tên tuổi của Hopkins đã trở nên nổi tiếng tại Mười ba thuộc địa Anh-Mỹ vào năm năm trước khi Hopkins cho xuất bản một bài tiểu luận nhỏ mang tên "The Rights of Colonies Examined" để chỉ trích Quốc hội Anh cùng chính sách thuế tại quốc gia này. Hopkins đã ký bản Tuyên ngôn độc lập Hoa Kỳ vào mùa hè năm 1776, tại thời điểm này, một bên cánh tay của ông gặp phải chứng tê liệt nghiêm trọng. Ông đã ký bản tuyên ngôn bằng tay phải và dùng tay trái nắm chặt tay còn lại và nói rằng, "Chỉ có tay tôi run, nhưng trái tim tôi thì không." Hopkins vẫn phục vụ trong Quốc hội Lục địa đến tháng 9 năm 1776, sau đó ông đã từ chức vì sức khỏe suy giảm. Ông là một người ủng hộ nhiệt thành cho Trường Đại học thuộc địa Rhode Island và các đồn điền Providence của Anh (được đổi tên thành Đại học Brown về sau), và đồng thời cũng là hiệu trưởng danh dự đầu tiên của trường học này. Ông qua đời tại Providence vào năm 1785 ở tuổi 78 và được chôn cất ở Nghĩa trang Burial Ground của thành phố này. Stephen Hopkins được coi là một nhà chính khách vĩ đại nhất của Rhode Island. Trước đó, năm 1774, Hopkins nắm giữ sáu hoặc bảy người nô lệ, khiến ông nằm trong số 5% những chủ nô hàng đầu ở Providence vào thời đại này. Stephen Hopkins sinh ra ở Providence tại Thuộc địa Rhode Island và Đồn điền Providence, là con thứ hai trong một gia đình có chín anh chị em, cha mẹ ông là William và Ruth Hopkins (nhủ danh Wilkinson). Ông nội của Stephen, William Hopkins, là một chính trị gia thuộc địa nổi bật và đã phục vụ hơn 40 năm với tư cách là Phó Thứ trưởng Providence, Chủ tịch Hạ viện và là thiếu tá. Bà nội của Stephen, Abigail Whipple Hopkins, là con gái của John Whipple, một trong những người định cư ban đầu sớm nhất tại Providence, bà Abigail cũng là em gái của Joseph Whipple, một thương gia tại Providence giàu có, đồng thời là dì của Joseph Whipple Jr, Phó Thống đốc thứ 27 và 29 của Thuộc địa Rhode Island. Ông Thomas Hopkins, cụ cố của Stephen là một trong những người đầu tiên di cư đến Đồn điền Providence. Thomas là một đứa trẻ mồ côi và được nuôi nấng bởi người chú William Arnold, và vào năm 1635 ông cùng với những người nhà Arnold trong đó có Benedict Arnold di cư đến New England, Benedict là anh họ của Stephen, người sau này đã trở thành thống đốc đầu tiên của Thuộc địa Rhode Island và Đồn điền Providence theo Hiến chương Hoàng gia vào năm 1663. Hopkins trải qua phần lớn những năm đầu đời của mình tại phía bắc của Providence, một khu vực có nhiều cây cối được gọi là ngọn Đồi Chopmist, về sau nơi này trở thành thị trấn Scituate của Rhode Island. Vào thời điểm đó, khu vực này không có trường học, Hopkins đã tự bổ sung kiến thức cho mình bằng việc đọc ngấu nghiến những cuốn sách và tài liệu có sẵn trong gia đình. Irving Richman, một nhà sử học đã đề cập Hopkins là "một cậu học sinh nghiêm túc và chuyên cần, thường dành phần lớn thời gian của mình để đọc sách những lúc thư nhàn." John Sanderson viết rằng, "Hopkins hồi trẻ gắn bó với việc nghiền ngẫm về sách và những người đàn ông." Hopkins thừa hưởng được khả năng khảo sát từ người ông nội Samuel Wilkinson. Ông đã sử dụng kỹ năng này trong việc thiết kế đường phố và tạo dựng bản đồ thị trấn Scituate, và cũng như cho chính Providence sau này. Khi Hopkins 19 tuổi, ông nhận từ cha và từ ông nội , như một phần trách nhiệm của tuổi trẻ. Hopkins bắt đầu hoạt động công ích vào năm 1730 khi ông 23 tuổi, và trở thành Thẩm pháp Hòa bình cho thị trấn Scituate mới thành lập bấy giờ, vị trí này được ông giữ cho đến năm 1735. Ông cũng làm thư ký tại Scituate vào năm 1731, một công việc được ông nắm giữ suốt 11 năm cho đến khi chuyển đến Providence năm 1742. Sau nhiệm kỳ thẩm phán cho thị trấn Scituate, ông giữ chức vụ Inferior Court of Common Pleas và General Sessions từ năm 1736 đến 1746, nhiệm kỳ thư ký của Hopkins cũng kết thúc trong năm năm cuối cùng trong thời gian đó. Một số chức vụ khác được Hopkins nắm giữ trong thời gian này gồm chủ tịch Hội đồng thị trấn, phó đại biểu và là người phát ngôn của Hạ viện. Năm 1744, Hopkins được bầu trở thành đại biểu Providence, chức vụ này được ông giữ trong bảy năm tiếp theo, và dành hai năm phục vụ với tư cách là một đại biểu của Hạ viện trong khoản thời gian này. Hopkins bán trang trại của mình ở Scituate vào năm 1742 để chuyển đến và định cư tại Providence. Tại đây, ông đã bỏ ra nhiều công sức trong việc giúp phát triển thương mại ở Providence. Ông trở thành một thương gia đóng, chủ sở hữu và trang bị các thiết bị cho những con tàu, Hopkins cũng là một trong những chủ sở hữu của con tàu tư nhân tên "Reprisal" vào năm 1745, phi vụ được hợp tác với con trai của Đại tá Peter Mawney là ông John Mawney, cảnh sát trưởng của Providence. Giữa những năm 1750, John Greenwood, một họa sĩ vẽ chân dung ở Boston được một nhóm thuyền thương nhân và trưởng, trong đó có Hopkins, thuê để vẽ ra một bức họa châm biếm. Họa phẩm này đã vẽ lên một bức tranh gồm những người đàn ông kẹt lại tại một thương cảng lớn ở Suriname nằm trên bờ biển phía bắc Nam Mỹ, vùng mà Greenwood sinh sống vào thời điểm đó. Greenwood đã phát họa một khung cảnh trong một quán rượu gồm 22 người, thể hiện Hopkins được bao quanh giữa những thương nhân giàu có khác, nhiều người trong số những thương gia này bị biếm họa trong tình trạng say rượu. Một trong những công việc của Hopkins sau này là hoạt động như một nhà kinh doanh và sản xuất, ông đã hợp tác cùng với những người anh em khác của ông bao gồm Moses, Nicholas, Joseph và John Brown để thành lập Hope Furnace. Khu xưởng này chuyên thực hiện những việc liên quan đến đúc sắt cũng như việc sản xuất gang thỏi và đại bác phục vụ trong Chiến tranh Cách mạng. Về sau việc quản lý nhà xưởng này đã được giao cho Rufus, con trai của Hopkins trong bốn thập kỷ. Hopkins nhậm vào nhiệm kỳ thống đốc đầu tiên vào năm 1755, khi ông đánh bại người tiền nhiệm trước đó William Greene với tỷ số cách biệt không quá lớn. Khoảng thời gian này, Hopkins chủ yếu bận rộn với luật pháp và công việc liên quan đến cuộc chiến đang diễn với Pháp. Với thất bại của Thiếu tướng Braddock và việc đóng chiếm Pháo đài Crown Point đã khiến Rhode Island gửi một lực lượng đến Albany. Cuối năm trước đó, Hopkins và Bộ trưởng Tư pháp Hoa Kỳ, ông Daniel Updike, là một đại biểu từ Rhode Island khác đã đến Đại hội Albany, hội nghị này được triệu tập với mục đích thảo luận về các vấn đề bảo vệ các thuộc địa chung đồng thời mở một hội nghị mới với năm bộ lạc da đỏ sống tại đây để yêu cầu sự viện trợ của họ trong việc ngăn sự xâm lược của Pháp. Hopkins cùng những nhà lãnh đạo khác đã xem qua bản kế hoạch ban đầu do Benjamin Franklin đề xuất cho việc thống nhất các vấn đề về thuộc địa, nhưng các nguyên tắc của bản kế hoạch cuối cùng đã bị bác bỏ ở cả thuộc địa Rhode Island và Vương quốc Anh. Vào tháng 2 năm 1756 thời điểm bùng nổ chiến tranh với Pháp, 500 người đàn ông sinh sống tại Rhode Island đã được Đại hội đồng huy động tham gia vào trận đánh Hồ George ở New York. Sau hai năm trên cương vị của mình, Hopkins bị đánh bại bởi William Greene trong việc cạnh tranh chức Thống đốc, nhưng việc Greene qua đời khi đang tại chức vào tháng 2 năm 1758, khiến Hopkins một lần nữa đảm nhiệm vai trò này. Khi đó, một trong những vấn đề gây mâu thuẫn nhất trong chính trị là việc sử dụng giữa hai loại đồng tiền tệ là đồng tiền cứng và đồng tiền giấy, so với việc dùng tiền tệ cứng, Hopkins đã ủng hộ cho việc sử dụng tiền giấy. Vấn đề chính trị gây mâu thuẫn thứ hai vào thời này là lợi ích giữa Newport và Providence. Trong nhiều năm, Hopkins đã vướng vào cuộc tranh chấp gay gắt với Samuel Ward, phó của Westerly, người ủng hộ mạnh mẽ trong việc sử dụng đồng tiền tệ cứng và là một người đặt lợi ích của Newport hàng đầu, Hopkins sau đó đã kiện Ward tội danh vu khống và đòi 40.000 bảng Anh. Vụ kiện này được lên Massachusetts trong việc đưa ra xét xử một cách công bằng; vào năm 1759, kết quả phán quyết cuối cùng nghiêng về phía bất lợi cho Hopkins, và chính ông đã phải trả giá cho vụ kiện này. Trong mười năm, Hopkins và Samuel Ward giữ mối quan hệ qua lại với tư cách là Thống đốc của thuộc địa, cả Ward và Hopkins đều là người đứng đầu của một đảng thế lực khác nhau. Ward là người dẫn dắt cho sự giàu có và chủ nghĩa bảo thủ tại Quận Newport, Narragansett và Kent, trong khi Hopkins đại diện cho sức mạnh ngày càng tăng của các quận thuộc Rhode Island và Bristol. Hai chính trị gia được ví như những đấu sĩ trên đấu trường, luôn thèm muốn diệt trừ lẫn nhau. Cuối cùng, Ward đánh bại Hopkins thông qua bầu cử và nắm giữ chức vụ Thống đốc vào năm 1762. Năm 1763, Hopkins giành lại chức thống đốc, dấu hiệu hòa bình giữa Hopkins và Ward chỉ xuất hiện vào một năm sau khi Ward viết thư cho Hopkins yêu cầu cả hai nên từ bỏ "tham muốn đứng đầu chính phủ." Cùng ngày này, Hopkins không biết về lá thư, ông viết thư cho Ward để bổ nhiệm Ward nhận chức phó thống đốc, một vị trí trống sau cái chết của John Gardner. Cuối cùng, cả Hopkins và Ward đều không chấp nhận đề xuất lẫn nhau, nhưng giai đoạn này giữa hai chính trị gia đã trở thành là mầm móng cho sự hợp tác sau này. Đầu năm 1765, nghị viện và hạ viện của Quốc hội Anh thông qua về một đạo luật mang tên Đạo luật Tem. Về đạo luật này là một trong những kế hoạch nhầm đánh thuế vá vào các thuộc địa, chỉ thị nêu rằng tất cả các tài liệu pháp lý và thương mại phải được viết trên giấy có dấu xác nhận được bán với giá cố định bởi các quan chức chính phủ, đồng thời chỉ thị cũng áp dụng thuế đối với báo chí. Quốc hội có quyền trong việc đánh thuế vào các thuộc địa cũng như việc tăng thuế đối với các sản phẩm như đường, cà phê và các loại mặt hàng khác, đồng thời yêu cầu hai loại mặt hàng là gỗ và sắt từ các thuộc địa Hoa Kỳ chỉ được xuất khẩu sang Vương quốc Anh. Tin tức về nội dung của đạo luật này mang lại đã khiến người dân Mỹ tức giận, và Samuel Adams ở Massachusetts phải mời tất cả quan chức của các thuộc địa đến tham dự một đại hội đại biểu ở New York để thảo luận về việc giảm bớt các khoản thuế được đề ra trước đó mang tính bất công. Vào tháng 8 năm 1765, Đại hội đồng Rhode Island đã thông qua một nghị quyết dưới sự chỉ đạo của chính trị gia của Virginia là ông Patrick Henry. Nhà phân phối tem của Rhode Island được bổ nhiệm là Augustus Johnson, nhưng ông đã từ chối nhiệm vụ này vì cho rằng "trái với điều mà Chúa tối cao của chúng ta muốn." Cuộc họp tại East Greenwich của Đại hội đồng Rhode Island vào tháng 9 năm 1765, chọn các đại biểu tham dự đại hội ở New York và quyết định bổ nhiệm một ủy ban xem xét Đạo luật Tem 1765. Ủy ban đưa ra sáu nghị quyết loại trừ mọi sự ưu ái của Hoa Kỳ đối với Anh Quốc trừ khi những bất lợi từ đạo luật mang lại được giải quyết. Đạo luật tem chính thức bị bãi bỏ vào năm 1766, tin tức được đưa đến Mỹ vào tháng 5 cùng năm đó và công dân Mỹ đã tỏ ra vui mừng. Năm 1764, một đạo luật được thông qua nhầm mục đích thành lập trường đại học tại Rhode Island. Hopkins và Ward đều là những người ủng hộ nhiệt thành cho một cơ sở giáo dục đại học ở thuộc địa, và cả hai chính trị gia đã trở thành ủy viên của hội đồng ủy thác ủy của Rhode Island College. Hopkins cũng đã trở thành một trong những nhà tài trợ hào phóng nhất và là hiệu trưởng đầu tiên của trường học này, một vị trí được ông giữ trong suốt nhiều năm cho đến khi qua đời vào năm 1785. Vào năm 1767, cuộc tranh cử vào chức thống đốc Rhode Island của Hopkins là cuộc tranh cử gây gắt nhất trong sự nghiệp chính trị của ông, nhưng Hopkins cuối cùng đã đánh bại Ward với kết quả áp đảo chưa từng có trong bất kỳ cuộc bầu cử trước nào. Đến năm 1768, Hopkins đưa ra lời đề xuất với Ward nhầm khuyên nhủ cả Ward và ông nên từ bỏ yêu sách cạnh tranh trong cuộc bầu cử và đồng ý cho việc chọn ra một ứng viên thỏa hiệp thay thế. Ông Ward đã chấp thuận lời nghị này và Josias Lyndon là người tiếp theo được bầu để trở thành thống đốc, Hopkins về sau đã trở thành bạn thân của Ward và tình bạn giữa ông vẫn được truy trì trong suốt quãng thời gian sau này. Tháng 11 năm 1764, Đại hội đồng Rhode Island cho xuất bản một cuốn sách tiểu luận nhỏ do chính Hopkins biên soạn mang tên "The Rights of Colonies Examined" (tạm dịch: "Quyền của các thuộc địa được kiểm tra"). Bài tiều luận này chủ yếu nhắm đến Đạo luật tem và trong việc tạo dựng danh tiếng của Hopkins với tư cách là một nhà lãnh đạo cách mạng, cuốn sách chỉ trích thuế và Nghị viện này đã được phân phối một cách rộng rãi. Văn bản trong bài tiểu luận được bắt đầu rằng, "Tự do là phúc lành lớn nhất mà con người được thụ hưởng, chế độ nô lệ là lời trù rủa nặng nề nhất mà về cơ bản con người có thể mắc phải;" nội dung bài tiểu luận đưa ra một đánh giá rõ ràng về mối quan hệ của các thuộc địa Anh-Mỹ. Bài luận văn của Hopkins đã nhận được sự lưu hành rộng rãi cũng như sự tán thành nồng nhiệt từ khắp các thuộc địa. Nhà sử học Thomas Bicknell gọi bài luận là "tài liệu đáng lưu tâm nhất được xuất bản trong thời kỳ trước Chiến tranh Cách mạng." Ông Thomas Hutchinson, Thống đốc Massachusetts nhận xét về bài báo rằng, "Bài tiểu luận của Hopkins được làm ra ở mức độ căng thẳng cao hơn bất kỳ các bài báo thuộc địa nào trước đây." Hopkins được công nhận là một trong những nhà lãnh đạo dư luận của các thuộc địa và tiểu luận "The Rights of Colonies Examined" của ông đã được xuất bản rộng rãi. In May 1747, Hopkins was first appointed as a justice of the Rhode Island Superior Court, whose long title was the "Superior Court of Judicature, Court Of Assize, and General Gaol Delivery." In 1751, he became the third Chief Justice of this court, which he held until 1755 when he became governor. Hopkins was once again appointed as Chief Justice of the court in 1770 after a total of nine years as governor; he served until October 1775 while simultaneously serving as a delegate to the Continental Congress. One of the most important events with which Hopkins dealt during his final tenure as Chief Justice was the Gaspee Affair. In March 1772, Deputy Governor Darius Sessions in Providence sent a letter of concern to Governor Joseph Wanton in Newport, having consulted with Chief Justice Hopkins. Sessions expressed alarm that the British schooner "Gaspee" had been cruising the Narragansett Bay, disrupting the traffic by stopping and searching commercial ships. Sessions wrote:Sessions went on to request that the governor take measures to bring the ship's commander to account. A chain of threatening correspondence ensued between the governor and "Gaspee" commander Lieutenant William Dudingston, and Dudingston's superior Admiral John Montagu. On the night of June 9–10, a party of incensed colonists attacked the vessel and burned it to the waterline. Officially, Sessions was outraged at the incident and offered the colony's assistance in bringing the perpetrators to justice. To ameliorate retribution by the British authorities, Rhode Island officials took visible steps to find the culprits who burned the ship. Behind the scenes, however, Sessions and Hopkins did all they could to thwart any attempts to identify the attackers. A royal commission was appointed by the British to investigate the incident, and they demanded that any indicted person be sent to England for trial. This egregious threat to local liberty prompted the colonists to form the Committees of Correspondence. Loyalist Massachusetts Governor Hutchinson further aggravated the colonists' sensitivities by urging Britain to rescind the Rhode Island Royal Charter. Sessions conferred with Chief Justice Hopkins, lawyer John Cole, and Moses Brown, and the four men drafted a letter to Massachusetts' statesman Samuel Adams. Adams replied by urging Rhode Island to remain defiant, or at least to stall matters by appealing the creation of the royal commission. Governor Wanton was put at the head of this commission but was compliant with Sessions' and Hopkins' attempts to frustrate the aims of the commission. Sessions, Hopkins, and others coordinated their efforts to lose evidence, threaten potential witnesses, and discredit those who testified. The vast majority of Rhode Island's citizens were supportive of the attackers and kept quiet about their identities. A year after the incident, the royal commission was terminated without a single indictment. Cuộc họp Đệ nhất Quốc hội Lục địa lần đầu tiên diễn ra vào năm 1774, Hopkins và Ward là hai đại biểu đại diện của Rhode Island. Khi đó Hopkins, đã 68 tuổi, ông là người lớn tuổi nhất trong số tất cả các thành viên đại biểu vào thời điểm đó, và chỉ có Hopkins là đại biểu duy nhất từng cùng Benjamin Franklin tham dự Đại hội Albany vào 20 năm trước. Trong nhiều năm, Hopkins gặp phải chứng tê liệt ở tay và làm ảnh hưởng lớn đến năng lực viết của ông. Tại hội nghị này, Henry Arniett Brown đã viết về Hopkins rằng, "người ngồi ở đằng kia là người già nhất trong số họ. Dáng ông hơi nghiêng, những lọn tóc thưa thớt, vầng trán của ông trĩu xuống vì tuổi tác và lòng phụng sự tận tụy, đôi tay của ông run khi đặt chúng vào lòng. Đó là Stephen Hopkins." Hội nghị Đệ nhất Quốc hội Lục địa được triệu tập với mục đích xem xét các đối sách của Vương quốc Anh nhầm đảm bảo quyền lợi và đặc quyền của 13 thuộc địa. Cả Hopkins và Ward trước đó đều dự đoán rằng độc lập sẽ chỉ xuất phát từ chiến tranh. Hopkins nói với các cộng sự của mình tại Quốc hội: "Thuốc súng và dạn sẽ quyết định cho câu hỏi. Riêng khẩu súng và lưỡi lê sẽ kết thúc cuộc đấu giao chiến này, và bất kỳ ai trong số các anh không thể điều chỉnh sự tập trung của mình vào cuộc dao chạm, tốt hơn là nên rút lui kịp thời." Sau các cuộc tấn công nhấm vào tháng 4 của Trận Lexington và Concord, phiên họp lập pháp lần thứ hai Đệ Nhị Quốc hội Lục địa diễn ra vào ngày 10 tháng 5 năm 1775 và Hopkins một lần nữa là đại biểu tham dự cuộc họp này. Đại hội này được triệu tập với mục đích điều hành chiến lược chiến tranh, và sau đó tiến hành việc tuyên bố độc lập khỏi Vương quốc Anh. Tháng 7 năm 1775, quốc hội áp dụng hệ thống bưu chính quốc gia được đề xuất bởi ông William Goddard, và Benjamin Franklin trở thành Tổng Bưu tá trưởng Hoa Kỳ đầu tiên. Đây là một ý tưởng đã được Rhode Island thực hiện vào một tháng trước đó. Đến tháng 12 năm 1775, Hopkins góp mặt trong ủy ban để báo cáo về kế hoạch trang bị vũ khí hải quân cho các quân đội thuộc địa. Lượng kiến thức mà Hopkins sở hữu về kinh doanh vận tải biển được ông phục vụ với tư cách là thành viên của ủy ban hải quân Quốc hội vốn thành lập nhầm mục đích mua, trang bị cũng như vận hành những con tàu đầu tiên của Hải quân Lục địa mới đã trở nên thực sự hữu ích. Hopkins là người có công trong việc xây dựng nên bộ luật hải quân Hoa Kỳ và soạn thảo ra các nguyên tắc cũng như những quy định cần thiết để phục vụ cho công việc quản lý một tổ chức hàng hải non trẻ vừa mới ra đời hồi Chiến tranh Cách mạng Mỹ. Hải đội hải quân đầu tiên của Mỹ được hạ thủy vào ngày 18 tháng 2 năm 1776. Hopkins đã sử dụng sức ảnh hưởng của mình để đảm bảo cho vị trí tổng tư lệnh hải quân mới cho người anh trai là Esek Hopkins, vì cuộc bổ nhiệm trước cho thấy một tỷ lệ kết quả không mong muốn. The Colony of Rhode Island and Providence Plantations declared its absolute independence from Great Britain by a nearly unanimous vote on May 4, 1776; the Continental Congress adopted the United States Declaration of Independence two months later on July 2. Hopkins had to support his palsied right hand with his left as he signed the document, remarking, "my hand trembles, but my heart does not." The gathering of the Founding Fathers was depicted in John Trumbull's "Declaration of Independence", where Hopkins is pictured standing in the back wearing a hat. John Adams appreciated Hopkins' contributions during the congressional sessions: Stephen Hopkins là một chủ nô và có sở hữu nô lệ, giống như phần lớn những chính trị gia ký bản Tuyên ngôn Độc lập Mỹ ở thời điểm đó, Hopkins đã đề cập 5 người nô lệ trong di chúc của mình vào năm 1760 trong số đó bao gồm một đàn ông, một phụ nữ và ba đứa trẻ. Những người nô lệ này sẽ được để lại cho các thành viên thân thiết trong gia đình Hopkins sau khi ông mất cùng với lời hướng dẫn về cách cư xử với họ; đây là một điều hiếm có ở bất kỳ chủ nô nào. Những thông tin trong bản di chúc đã nêu ra rằng nữ nô lệ Fibbo (hoặc tên Phibo hay Phebe) sẽ đến phục vụ vợ Hopkins là Anne và được đối xử theo cách giúp "Fibbo không còn cảm thấy nô lệ là một gánh nặng"; và Saint Jago sẽ đến phục vụ Rufus, con trai cả của Hopkins và được đối xử theo cách "giúp cuộc sống của anh ta có thể trở nên dễ dàng và thoải mái hơn." Mặc vậy, bản di chúc chưa bao giờ được thực hiện vì Hopkins đã sống thêm 25 năm và nội dung trong bản di chúc này đã được thay đổi. Vào ngày 28 tháng 10 năm 1772, Hopkins trả tự do cho Saint Jago, trong văn thư giải phóng nô lệ của mình, ông viết: Hopkins thấy rằng sự trói buộc vào những "loài sinh vật có lý trí" vốn tự lập là trái với ý muốn Chúa Trời; nhưng ông cũng cho rằng việc trả tự do không màng điều kiện cho những người nô lệ là một hành động vô trách nhiệm đối với ông. Cũng chính vì điều này, Hopkins từ chối trả tự do cho Fibbo, và ông đã trả giá bằng việc từ bỏ tư cách thành viên Quaker. Hopkins cho rằng "những đứa con của nữ nô lệ Fibbo cần sự chăm sóc từ một người mẹ." Và những nô lệ khác của do ông sở hữu không được trả tự do cho đến sau khi ông mất, nhưng trong đó có Primus và Bonner Jr., hai nô lệ hiếm hoi khác của Hopkins đã được giải phóng vài năm trước khi ông qua đời. Vào năm 1774, trong thời gian phục vụ trong Hội đồng Rhode Island, Hopkins đưa ra một dự luật trong đó ngăn cấm việc nhập khẩu nô lệ vào thuộc địa. Dư luật này đã trở thành một trong những đạo luật chống buôn bán nô lệ đầu tiên tại Hoa Kỳ. Ngoài ra, một số áp lực lớn khác tại Rhode Island dẫn đến nảy sinh nhiều hạn chế hơn đối với việc buôn bán nô lệ tại vùng đất này là tỷ lệ dân cư sinh sống là tín hữu Quakers chiếm một tỷ lệ lớn. Tháng 9 năm 1776, với tình trạng suy giảm sức khỏe đã buộc Hopkins phải từ bỏ chức Quốc hội Lục địa để trở về Rhode Island, tuy nhiên Hopkins vẫn là một thành viên tích cực của đại hội đồng Rhode Island trong suốt những năm 1777 đến năm 1779. Ông mất tại Providenc trong nhà riêng của mình vào ngày 13 tháng 7 năm 1785, ở tuổi 78, và được chôn cất tại Nghĩa trang North Burial Ground cùng thành phố này. Năm 1753, Hopkins đã hỗ trợ thành lập Providence Library Company, ông đồng thời là thành viên của Hiệp hội Triết học Newport. Thị trấn Hopkinton của Rhode Island sau này được đặt theo tên ông. Một con tàu lớp tự do mang tên SS "Stephen Hopkins" đã được đặt theo tên Hopkins để vinh danh ông, đây là con tàu buôn duy nhất của Hoa Kỳ đánh chìm một tàu chiến Hải quân Đức trong Thế chiến II. Ông cũng có công trong việc thành lập Trường Đại học thuộc địa Rhode Island và các đồn điền Providence của Anh (ngày nay là Đại học Brown) và là người được ủy thác sáng lập. Từ năm 1764 đến năm 1785, Hopkins là hiệu trưởng đầu tiên của trường học này. Nhà Thống đốc Hopkins của ông ban đầu nằm trên góc đường Hopkins và South Main tại Providence, sau khi Hopkins qua đời ngôi nhà này về sau đã được chuyển đi hai lần nằm trên các địa điểm khác nhau của Phố Hopkins. Ngôi nhà này hiện tọa lạc rìa khuôn viên Đại học Brown nằm tại số 15 Phố Hopkins, góc Phố Benefit, và đây là một Di tích Lịch sử Quốc gia Hoa Kỳ. Ezra Stiles, một mục sư công giáo, trong nhật ký của mình đã viết về Hopkins rằng, "Tôi hiểu rõ về Gov. Hopkins. Ông ấy là một thiên tài sáng suốt, rất tinh tế, mưu mẹo, hấp dẫn và gan dạ." Stiles đề cập thêm về Hopkins là một "con người có tính kiên trì và quyết tâm cao quý" đồng thời là "một nhà ái quốc quang vinh!" Hopkins đã nhận được nhiều lời phê bình tích cực từ nhiều nhà sử học, trong số đó là Sanderson, Arnold và Bicknell, nhưng Richman đơn thuần gọi Hopkins là "chính khách vĩ đại nhất của Rhode Island." Vào năm 1726, Hopkins kết hôn với Sarah Scott, con gái của Sylvanus Scott và Joanna Jenckes, họ đều là hậu duệ của Richard Scott và Katharine Marbury, những người đầu tiên định cư tại Đồn điền Providence; bà Marbury là em gái út của Anne Hutchinson, một nhà cải cách tôn giáo. Còn Richard Scott là một tín đồ thuộc giáo phái Quaker đầu tiên của Providence. Hopkins có tổng cộng bảy người con, và có năm người trong số họ sống đến tuổi trưởng thành. Sau khi bà Sarah Scott qua đời vào ngày 9 tháng 9 năm 1753, ở tuổi 46, Hopkins đã kết hôn với Anne Smith, con gái của Benjamin Smith và không có con. Một trong những người em trai của Hopkins là Esek Hopkins đã trở thành tổng tư lệnh đầu tiên của Hải quân Lục địa Hoa Kỳ, người anh trai William của ông là một thương gia có tiếng. Jemima Wilkinson, một nhà thuyết giáo Quaker, một trong những người họ hàng của Hopkins, đã được ông xem là một người bạn.
19821778
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19821778
Osakeyhtiö
' (; "Công ty cổ phần"), thường được viết tắt là Oy (), là thuật ngữ chỉ một công ty trách nhiệm hữu hạn của Phần Lan (ví dụ: , LLC, or GmbH). Còn theo thuật ngữ tiếng Thụy Điển là ", thường được viết tắt (ở Phần Lan) thành Ab"', còn chữ viết tắt theo tiếng Thụy Điển đôi khi được viết như sau: "Ab Company Oy", "Oy Company Ab", hoặc "Company Oy Ab". Các chữ viết tắt đã được tạo theo nhiều kiểu cách khác, chẳng hạn như "Oy", "OY", "O.Y". hoặc thậm chí là "O/Y". Dạng viết tắt trong tiếng Anh là "Ltd". "Julkinen osakeyhtiö" (pl. "julkiset osakeyhtiöt") có nghĩa là "công ty cổ phần (đại chúng)" và được viết tắt là oyj (). Một "julkinen osakeyhtiö" có thể được niêm yết trên . Thuật ngữ tương tự trong tiếng Thụy Điển là "Abp" ("publikt aktiebolag"). Một "oyj" có thể được gọi là Công ty trách nhiệm hữu hạn đại chúng hoặc công ty đại chúng bằng tiếng Anh và có thể sử dụng chữ viết tắt là PLC hoặc thuật ngữ công ty trong tên tiếng Anh của công ty, ví dụ như: , và Nokia Corporation.
19821779
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19821779
Only Friends
Only Friends (; ; tạm dịch:Bạn cấm kỵ)là một bộ phim truyền hình Thái Lan phát sóng năm 2023 với sự tham gia của Kanaphan Puitrakul (First), Thanawat Rattanakitpaisan (Khaotung), Jiratchapong Srisang (Force), Kasidet Plookphol (Book), Trai Nimtawat (Neo) và Pakin Kuna-anuvit (Mark). Bộ phim được đạo diễn bởi Tichakorn Phukhaotong và sản xuất bởi GMMTV cùng với Hard Feeling Film. Đây là một trong 19 dự án phim truyền hình cho năm 2023 được GMMTV giới thiệu trong sự kiện "GMMTV 2023 Diversely Yours," vào ngày 22 tháng 11 năm 2022. Bộ phim được phát sóng vào lúc 20:30 (), thứ Bảy trên GMM 25, bắt đầu từ ngày 12 tháng 8 năm 2023.
19821782
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19821782
Chuyển nhượng (bóng đá)
Trong bóng đá chuyên nghiệp, một vụ chuyển nhượng là hành động được thực hiện bất cứ khi nào một cầu thủ theo hợp đồng di chuyển giữa các câu lạc bộ. Nó đề cập đến việc chuyển đăng ký của một cầu thủ từ câu lạc bộ bóng đá này sang một câu lạc bộ bóng đá khác. Nói chung, các cầu thủ chỉ có thể được chuyển nhượng trong kỳ chuyển nhượng và theo các quy tắc do cơ quan quản lý đặt ra (đáp ứng các yêu cầu của FIFA, các cơ quan cấp châu lục và quốc gia điều chỉnh các câu lạc bộ mua và bán). Phí chuyển nhượng thương lượng là khoản bồi thường tài chính theo thỏa thuận được trả từ một câu lạc bộ quan tâm, cho câu lạc bộ sở hữu quyền thi đấu theo hợp đồng độc quyền của cầu thủ. Khi một cầu thủ chuyển từ câu lạc bộ này sang câu lạc bộ khác, hợp đồng cũ của họ sẽ bị chấm dứt trong khi cầu thủ và câu lạc bộ đích mới của họ sẽ thương lượng về các điều khoản hợp đồng mới (hoặc đã cùng nhau đồng ý trước đó về các điều khoản cá nhân). Do đó, phí chuyển nhượng có chức năng như bồi thường tài chính (trả cho câu lạc bộ sở hữu các quyền thi đấu hiện có) đối với chấm dứt hợp đồng của một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp được hai bên đồng ý sớm. Phí chuyển nhượng phụ thuộc vào khả năng chơi bóng hiện tại của cầu thủ, tiềm năng trong tương lai, thời hạn của hợp đồng hiện tại, số tiền lương nợ trong tương lai (trong thời hạn còn lại của hợp đồng hiện tại) và sự sẵn lòng của các câu lạc bộ trong việc đồng ý cân bằng kinh tế thông qua cung và cầu. Chuyển nhượng trong Hiệp hội Bóng đá khác đáng kể so với giao dịch trong các môn thể thao của Mỹ, Canada và Úc, trong đó các đội về cơ bản giao dịch hợp đồng cầu thủ hiện có. Tuy nhiên, tiền mặt hoặc nghĩa vụ hợp đồng có thể được sử dụng thay vì hoặc với người chơi, chẳng hạn như Major League Baseball và National Football League để giảm bớt giới hạn tiền lương và các mối quan tâm tài chính khác. Tuy nhiên, trong một số trường hợp không phổ biến, chuyển nhượng có thể hoạt động theo cách tương tự như giao dịch cầu thủ, vì các đội có thể cung cấp một cầu thủ khác trong đội của họ như một phần của khoản bồi thường dưới hình thức giao dịch hoán đổi, nhằm giảm khoản bồi thường tài chính cho phí chuyển nhượng. Theo FIFA, từ tháng 1 đến tháng 9 năm 2018 đã có 15.049 vụ chuyển nhượng cầu thủ nam quốc tế với tổng phí 7,1 tỷ USD và 577 vụ chuyển nhượng quốc tế cầu thủ nữ với giá 493.235 USD. Hầu hết các hoạt động chuyển nhượng được tiến hành trong kỳ chuyển nhượng mùa hè châu Âu (kỳ trước mùa giải ở châu Âu), trùng lặp từ ngày 1 tháng 7 đến ngày 31 tháng 8 của bất kỳ năm nhất định nào (bao gồm cả hai ngày), với các thay đổi nhỏ của cả ngày bắt đầu và ngày kết thúc, cho mỗi giải đấu trong nước tương ứng. Prominent transfers also occur during the European winter transfer window of 1–31 January. Most notably, the transfer deadline dates of the transfer windows, are solely reliant upon the country jurisdiction of the purchasing club, in order to successfully perform the registration of newly transferred players (football clubs worldwide may agree to sell the playing rights of any contracted player at any time to another club whose country's transfer window is still open, in addition free agents may be signed at any time outside the prescribed transfer windows).
19821836
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19821836
Tam Trì Tể
Tam Trì Tể () là một đảo cát nhỏ thuộc nhóm đảo An Vĩnh, quần đảo Hoàng Sa. Nó nằm giữa đảo Trung và đảo Nam, nhưng gần đảo Nam hơn. Các tọa độ địa lý là 16°57'00"N vĩ độ bắc và 112°19'48"E kinh độ đông. Hiện tại, đảo này đang được quản lý bởi thành phố Tam Sa, tỉnh Hải Nam, Trung Quốc. Thực thể này mới được Trung Quốc đặt tên vào ngày 19 tháng 4, 2020.<mapframe latitude="16.949590" longitude="112.330323" zoom="16" width="508" height="204" text="Tam Trì Tể (đảo nhỏ, giữa). Góc bên phải là đảo Nam." align="center" />
19821842
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19821842
Channa amphibeus
Channa amphibeus là một loài cá lóc trong chi "Channa" (cá quả/cá lóc) thuộc họ Channidae có nguồn gốc từ Ấn Độ (bang Tây Bengal, Assam?) và có thể có ở Bhutan. Mẫu điển hình thu thập tại sông Chail (cửa sông khoảng 6 km ở phía bắc Jalpaiguri), chi lưu tả ngạn của sông Teesta - chi lưu hữu ngạn của sông Brahmaputra tại bang Tây Bengal, Ấn Độ. "C. amphibeus" có kích thước dài tối đa tới 90 cm. Loài này từng bị nhầm lẫn với "Channa barca" có ở bang Assam.
19821859
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19821859
Cá tràu tiến vua
Cá tràu tiến vua có thể là:
19821885
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19821885
Cụm tập đoàn quân Nam Ukraina
Cụm tập đoàn quân Nam Ukraina (, ) là một phiên hiệu đội hình tác chiến chiến lược cấp cụm tập đoàn quân của liên quân Đức Quốc xã và Vương quốc Rumani trên Mặt trận phía Đông trong Thế chiến thứ hai. Cụm tập đoàn quân này đặt bản doanh tại Slănic-Moldova, chịu trách nhiệm trên tuyến mặt trận dài 680 km, trong đó gần phân nửa do quân Romania trấn giữ. Khu vực hoạt động của nó bao phủ toàn bộ miền Đông Romania, từ một đường 40 km về phía đông Bucharest. Cụm tập đoàn quân Nam Ukraina được thành lập vào ngày 5 tháng 4 năm 1944 trên cơ sở đổi tên thành từ Cụm tập đoàn quân A. Quân số lúc cao điểm của cụm tập đoàn quân này lên đến 905.000 người (gồm 500.000 quân Đức và 405.000 quân Rumani), 400 xe tăng và pháo xung kích (gồm 120 xe tăng và 280 pháo xung kích), 7.600 pháo các loại, 810 máy bay Cụm tập đoàn quân này tham chiến trong Chiến dịch Iaşi–Chişinău và sau khi chịu thương vong nặng nề được đổi tên thành Cụm tập đoàn quân Nam vào nửa đêm ngày 23 tháng 9 năm 1944.
19821891
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19821891
MIM-46 Mauler
MIM-46 Mauler là một hệ thống tên lửa phòng không cơ động được phát triển bởi General Dynamics từ cuối những năm 1950s nhằm đáp ứng yêu cầu của Lục quân Mỹ về một hệ thống tên lửa phòng không chống lại mục tiêu bay thấp như máy bay cường kích và các tên lửa đạn đạo tầm ngắn. Hệ thống được đặt trên xe thiết giáp XM546, dựa trên khung gầm xe thiết giáp M-113, cùng với trang bị chín tên lửa MIM-46, radar chuyên theo dõi và chiếu xạ mục tiêu bằng sóng liên tục và hệ thống điều khiển hỏa lực. Là một thiết kế có nhiều tham vọng vào thời điểm nó ra đời, Mauler đã trải qua quá trình phát triển gặp nhiều vấn đề và khó khăn, nên nó đã bị hủy bỏ vào tháng 11 năm 1965. Việc hủy bỏ chương trình phát triển MIM-46 đã khiến cho quân đội Mỹ bị bỏ trống không có một vũ khí phòng không Lục quân hiện đại nào trong trang bị, bắt buộc Lục quân Mỹ phải đẩy nhanh việc phát triển hệ thống MIM-72 Chaparral và M163 Tracked Vulcan đơn giản hơn nhiều để trang bị. Những hệ thống vũ khí này có tính năng thấp hơn nhiều so với MIM-46 Mauler, và chỉ đóng vai trò là một giải pháp tạm thời cho đến khi phát triển hệ thống phòng không mới cao cấp hơn. Mặc dù vậy, chúng không bị loại biên cho đến tận cuối những năm 1990s. Cả Hải quân Mỹ và Hải quân Anh đều mong đợi rằng Mauler sẽ đảm đương tốt vai trò phòng không tầm ngắn mà hai lực lượng này vẫn còn thiếu. Sau khi chương trình phát triển MIM-46 Mauler bị hủy bỏ, cả hai đã phát triển tên lửa phòng không tầm ngắn RIM-7 Sea Sparrow và Rapier, để đảm đương vai trò phòng không tầm ngắn. Sau chiến tranh thế giới thứ hai, các loại vũ khí phòng không cơ động đầu tiên mà Lục quân Mỹ phát triển đều được dựa trên pháo phòng không Bofors cỡ nòng 40 mm với tên gọi là M19 Multiple Gun Motor Carriage sau đó là M42 Duster. Lần đầu được đưa vào trang bị năm 1952, hệ thống pháo phòng không Duster nhanh chóng trở nên lỗi thời do tốc độ và tính năng của máy bay ngày một được nâng cao. Do đó việc theo dõi, bám mục tiêu, xác định khoảng cách tới mục tiêu thủ công đã trở nên lỗi thời và quân đội Mỹ đã triển khai thêm radar RADUSTER cho hệ thống Duster. Đến năm 1955 người ta nhận ra rằng cần phải phát triển loại khí tài mới để đáp ứng yêu cầu đặt ra chứ không thể nâng cấp M42 Duster được thêm nữa. Do đó vào năm 1956 kế hoạch đặt ra là cải tiến hệ thống điều khiển hỏa lực T50 cho hệ thống RADUSTER. Do yêu cầu đặt ra là chống lại máy bay phản lực bay cao tới và tầm bắn thẳng là , các kỹ sư đã kết hợp pháo 37 mm Gatling lên khung gầm M113 Armored Personnel Carrier tạo thành hệ thống phòng không mới mang tên T249 Vigilante cuối năm 1956. Ngoài ra còn có một phiên bản T248 dạng xe kéo cũng được phát triển. Mặc dù Vigilante ngắm bắn bằng quang học giống như Duster, nhưng vận tốc bắn cao của nó (3.000 phát/phút) giúp nó có hiệu suất tốt hơn nhiều trong việc chống mục tiêu bay có vận tốc lớn. Khi chương trình phát triển pháo phòng không Vigilante còn đang tiến hành, Lục quân Mỹ đã đưa ra quyết định sẽ hủy bỏ các chương trình phát triển pháo phòng không do vô dụng trước máy bay phản lực có vận tốc lớn cùng với thời gian giao chiến giảm xuống. Pháo phòng không Vigilante có tầm bắn hiệu dụng khoảng , và đạn pháo sẽ mất khoảng 5 giây để bay tới cự ly tối đa, trong khi máy bay phản lực bay ở vận tốc đã di chuyển được hơn một km trong khoảng thời gian này. Do đó, hệ thống radar ngắm bắn sẽ không thể đưa ra giải pháp để điều khiển pháo bắn trúng đích. Sau cùng Lục quân Mỹ đã quyết định tiếp tục sử dụng pháo phòng không Duster trong lúc chờ đợi giai đoạn phát triển thứ 3 (Phase III) phát triển loại tên lửa phòng không có năng lực để thay thế nó. Phase III được mong đợi sẽ đáp ứng yêu cầu cấp thiết của Lục quân Mỹ về hệ thống phòng không cơ động. Hệ thống có kích thước nhỏ, có khả năng cơ động và có khả năng bắn máy bay bay ở độ cao lên tới 10.000 feet. Trong dự án "Phòng không khu vực phía trước-Forward Area Air Defense", Lục quân Mỹ triển khai thu thập các thông số lý thuyết để phát triển hệ thống phòng không dựa trên tên lửa vào năm 1959. Hệ thống dẫn đường cho tên lửa là một mối quan tâm chính. Phần lớn các hệ thống tên lửa phòng không trong thời kỳ này đều sử dụng phương pháp Dẫn đường bằng radar bán chủ động, với radar mặt đất để chiếu xạ mục tiêu, sóng phản xạ trở lại từ mục tiêu được thu lại bởi bộ phận thu tín hiệu đặt trên đầu tên lửa. Hệ thống này có ưu điểm là tín hiệu radar sẽ ngày càng mạnh hơn khi tên lửa ngày càng bay lại gần mục tiêu, khiến nó dễ dàng bám mục tiêu. Ngoài ra tín hiệu phản xạ từ mục tiêu có dạng hình côn, do đó càng tăng độ chính xác khi tên lửa tiếp cận mục tiêu. Về nhược điểm, việc sử dụng Dẫn đường bằng radar bán chủ động SARH cũng đồng nghĩa với việc các tín hiệu radar phản xạ từ nơi khác cũng sẽ được tên lửa thu nhận và làm nhiễu đầu dò của tên lửa. Các tên lửa SARH đời đầu thường dễ dàng bị nhiễu bởi các tín hiệu radar phản xạ từ cây, các tòa nhà hoặc phản xạ bởi mặt đất. Rất khó để tên lửa có khả năng xác định đúng đâu là tín hiệu phản xạ từ mục tiêu trong một môi trường dày đặc nhiễu như vậy. Trong dự án FAAD, Lục quân Hoa Kỳ quyết định sử dụng phương pháp lái tên lửa bằng chùm tia. Phương pháp này đã được sử dụng từ rất sớm trên tên lửa RIM-2 Terrier, tuy nhiên nó đã bị bỏ xó do quân đội ưa thích hệ thống dẫn đường bằng radar bán chủ động do các ưu điểm liệt kê bên trên. Tín hiệu lái tên lửa có dạng hình côn đồng nghĩa với việc tên lửa sẽ ngày càng "thiếu chính xác" khi bay gần đến mục tiêu. Phần lớn các tên lửa sử dụng phương pháp lái tên lửa theo chùm tia như một phương pháp phụ để dẫn đường giai đoạn cuối. Mặc dù có các nhược điểm như trên, nhưng phương pháp lái tên lửa bằng chùm tia đã trở thành phương án để dẫn đường cho tên lửa ở tầm thấp gần mặt đất trong dự án FAAD. Do tín hiệu điều khiển được thu lại qua cạnh thân tên lửa, tín hiệu sẽ vẫn gần như không bị nhiễu. FAAD sử dụng radar với hiệu ứng Doppler để xác định chính xác mục tiêu trong môi trường nhiễu nền. Ở giai đoạn cuối, FAAD sử dụng hệ thống dò tìm hồng ngoại tiên tiến. FAAD sẽ có chế độ hoạt động bán tự động. Trong chiến đấu, kíp điều khiển có thể lựa chọn mục tiêu trên radar tìm kiếm từ xa và ra lệnh phóng bằng giọng nói. Sau đó hệ thống máy tính sẽ tự động điều khiển và dẫn bắn tên lửa ngay khi mục tiêu bay vào tầm bắn. Sau khi chạy mô phỏng Monte Carlo trên máy tính IBM 650, các nhà thiết kế sử dụng đầu đạn nổ văng mảnh thay vì đầu đạn continuous-rod warhead. Để cơ động, hệ thống được đặt trên khung gầm xe M113, loại xe thiết giáp chở quân tốt nhất của Lục quân Mỹ khi đó. Sau khi sửa đổi xe M113 mang định danh XM-546. General Dynamics (Convair Pomona Division) dành được hợp đồng phát triển hệ thống phòng không mới vào năm 1959. Chương trình phát triển Mauler được bắt đầu vào tháng Năm năm 1959 nhưng thực sự được triển khai từ tháng Ba năm 1960. Lục quân Mỹ không phải là khách hàng duy nhất của hệ thống Mauler, cả Hải quân Mỹ và Lục quân Anh cũng dự kiến sẽ trang bị loại tên lửa phòng không này. Từ năm 1960, Hải quân Mỹ phát triển hệ thống mang tên "Basic Point Defense Missile System", với việc sửa đổi Mauler trở thành "RIM-46A Sea Mauler". Thậm chí tàu hộ tống của Hải quân Mỹ đã được chế tạo với dư địa để lắp đặt ống phóng tên lửa Sea Mauler khi nó được tiếp nhận. Việc phát triển hệ thống trên nhiều nền tảng khác nhau khá phức tạp. Trong đó vấn đề đặc thù là sự tương hợp của hệ thống nhận diện địch ta (IFF). Việc phát triển cấu hình khí động học của tên lửa và động cơ diễn ra rất nhanh chóng. Tuy nhiên hai lần phóng thử nghiệm không điều khiển và có điều khiển đều gặp nhiều vấn đề. Trong khi đó Anh và NATO đã phát triển thành công Rapier missile là một hệ thống tương tự như Mauler. Vốn phát triển hệ thống Mauler bị hạn chế và việc phát triển bị kéo dài tới hai năm. Kế hoạch sản xuất được điều chỉnh lại vào năm 1963 khi hệ thống pháo phòng không M42 Duster bị loại biên. Chương trình Feasibility Validation Program được đề ra năm 1963 để xác định liệu Mauler có khả năng được phát triển thành công trong khoảng thời gian và chi phí hợp lý. Chương trình đi đến kết luận rằng Mauler có khả năng chống lại máy bay phản lực và máy bay cánh quạt dù ở cự ly không không như mong đợi. Chương trình phát triển Mauler bị khai tử tháng Bảy năm 1965 không làm giới chuyên môn bất ngờ. Thiếu vốn, thiếu dẫn đường từ trung tâm chỉ huy, thay đổi về yêu cầu đặc tính kỹ thuật, và các vấn đề kỹ thuật mới chưa được kiểm chứng đã dẫn đến tương lai mù mịt của chương trình phát triển Mauler. Kết quả của sáu năm phát triển cuối cùng là sự hủy bỏ. Lúc này đã có nhiều nghi ngại về việc hệ thống phòng không sẽ được triển khai sớm. Ngày 16 tháng Chín năm 1963, Army Materiel Command yêu cầu Aviation and Missile Command nghiên cứu khả năng phát triển hệ thống tên lửa phòng không tầm ngắn dựa trên AIM-9 Sidewinder. Theo đánh giá của cơ quan này, việc chuyển đổi sẽ đơn giản, nhưng sẽ không hiệu quả. Ban Lục quân với sự hỗ trợ từ Army Air Defense Artillery School tại Fort Bliss, đã bắt đầu nghiên cứu mới dưới sự lãnh đạo của Lieutenant Colonel Edward Hirsch. Theo đó Ủy ban này đưa ra một hệ thống phòng không nhiều lớp bao gồm hệ thống tên lửa phòng không MIM-72 Chaparral mang tên lửa Sidewinder đảm nhiệm phòng không tầm xa và hệ thống M163 VADS được trang bị pháo M61 Vulcan đóng vai trò phòng không tầm gần, và radar cảnh báo phía trước AN/MPQ-49 Forward Area Alerting Radar sẽ gửi tín hiệu cho cả hai hệ thống phòng thủ. Ngoài ra những tổ hợp phòng không trên sẽ được hỗ trợ bởi tên lửa phòng không vác vai FIM-43 Redeye. Mặc dù có thể không hiệu quả như Mauler nhưng những tổ hợp phòng không này sẽ được sản xuất và trang bị sớm hơn nhiều trong khi quá trình phát triển một hệ thống phòng không tiên tiến vẫn còn chưa hoàn thiện. Tháng Mười một năm 1963, Mauler được định hướng sẽ sử dụng các công nghệ kém tiên tiến hơn, một vài mẫu thử nghiệm đã được đề xuất nhưng vẫn không được trang bị trước năm 1969. Các thử nghiệm vẫn được tiếp tục cho đến khi toàn bộ chương trình bị hủy bỏ vào tháng Mười một năm 1965. Chaparral cùng với đầu dò hồng ngoại của Mauler đã tỏ ra có hiệu quả cao hơn nhiều so với nguyên mẫu AIM-9C. Sự kết hợp của bộ đôi Chaparral/Vulcan là sự bổ sung hoàn hảo trong khi một hệ thống phòng không hoàn thiện hơn được phát triển. Tuy nhiên trong những năm 1970s các mối đe dọa đường không chuyển từ máy bay cường kích-bom chiến thuật sang máy bay trực thăng mang tên lửa có khả năng tấn công từ phía sau đội hình cần bảo vệ. Điều này dẫn đến việc cần thiết phải có hệ thống dựa trên súng pháo bắn nhanh, có tầm bắn xa hơn tầm bắn 1.200 mét của pháo Vulcan. Một giải pháp đưa ra là sử dụng M247 Sergeant York. Tuy nhiên chương trình phát triển pháo này gặp nhiều vấn đề kỹ thuật dẫn đến bị hủy bỏ vào năm 1985. Sau khi chương trình phát triển Sergeant York bị hủy bỏ, Lục quân Mỹ tham gia cùng với Lục quân Canada để phát triển một hệ thống mới với cái tên ADATS dựa trên pháo Oelingkon, rất tương đồng với nguyên mẫu của Mauler cũng dựa trên khung gầm xe M113. ADATS có năng lực tốt hơn Mauler, với tầm bắn tới 10 km và tốc độ tên lửa cao hơn. Tuy nhiên, sau khi Chiến tranh Lạnh kết thúc, Lục quân Hoa Kỳ đã rút khỏi chương trình phát triển ADATS. Vai trò phòng không được thực hiện bởi hệ thống Bradley Linebacker, dựa trên FIM-92 Stinger. Hải quân Mỹ trong khi đó cần thứ có thể thay thế được RIM-24 Tartar, Hải quân Mỹ cũng tìm kiếm một loại vũ khí có khả năng thay thế cho các hệ thống súng phòng không tầm ngắn trên hạm tàu của mình. Hải quân mong đợi Mauler sẽ được trang bị trên không chỉ là tàu hiện đại nhất của Hải quân khi đó như lớp Knox mà còn hình thành nên một cấu hình phòng không cơ bản của Hải quân Mỹ vào những năm 1970s. Người ta cũng tin tưởng rằng Mauler sẽ cải thiện đáng kể khả năng phòng không của các tàu cỡ nhỏ, giúp nó có khả năng đảm đương nhiệm vụ tương đương một phần với các tàu cỡ lớn hơn như tàu khu trục. Tuy nhiên, sau khi chương trình Mauler bị hủy bỏ, Hải quân Mỹ buộc phải khởi động lại chương trình đã dở dang trước đó để phát triển một hệ thống phù hợp. Do tên lửa hồng ngoại Sidewinder bị giới hạn trong việc chống lại mục tiêu bay như máy bay và tên lửa bay đến trực diện, nên Hải quân Mỹ đã sử dụng AIM-7 Sparrow để thay thế. Dù cho Sparrow là một tên lửa tốt, nhưng nó được thiết kế chuyên biệt để đối phó với máy bay tốc độ cao do đó nó có gia tốc khá thấp, đổi lại cho việc bay hành trình ở cự ly xa hơn và tầm bắn lớn hơn. Do đó, một động cơ mới đã được phát triển và trang bị riêng cho RIM-7 Sea Sparrow, một tên lửa mới dựa trên AIM-7. Để dẫn đường cho tên lửa, một radar chiếu xạ thủ công mới được phát triển. Radar tìm kiếm mục tiêu của tàu chiến sẽ gửi thông tin về mục tiêu thông qua kênh âm thanh tới kíp điều khiển, kíp điều khiển sẽ vận hành thủ công hướng chùm tia radar về phía mục tiêu và phóng tên lửa. Tên lửa sẽ được chứa trong tám ống phóng quay. Toàn bộ hệ thống lớn hơn nhiều so với Mauler nhưng lại có tầm bắn ngắn hơn, và mất nhiều thời gian để chuyển trạng thái chiến đấu hơn. Do nguyên mẫu Sea Sparrow đơn giản và tính năng không cao, nó đã nhanh chóng được nâng cấp. Nhờ áp dụng kiểu cánh có thể gấp lại được nên đã làm giảm kích thước của ống phóng tên lửa, và hệ thống tự động bắt bám mục tiêu cũng sớm được bổ sung cho radar chiếu mục tiêu. Sea Sparrow còn tiếp tục được nâng cấp với radar mảng pha trên các tàu chiến hiện đại giúp trực tiếp dẫn đường cho tên lửa Sparrow, thay vì sử dụng radar chiếu xạ cồng kềnh trước kia. Phiên bản mới nhất có khả năng phóng từ giếng phóng thẳng đứng giúp tăng đáng kể số tên lửa có thể mang trên tàu. Cuối cùng, Hải quân và Lục quân Mỹ đã tìm được giải pháp cho câu hỏi phòng thủ, bắt đầu từ Mauler cho đến các hệ thống có khả năng tốt hơn rất nhiều.
19821902
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19821902
Đụng tường
Trong sức bền các môn thể thao như đạp xe đường dài và chạy bộ đường dài, đụng tường là tình trạng đột ngột mệt mỏi và mất năng lượng do cạn kiệt glycogen dự trữ trong gan và cơ. Các trường hợp nhẹ hơn có thể được khắc phục bằng cách nghỉ ngơi ngắn và ăn thức ăn hoặc đồ uống có chứa carbohydrate. Mặt khác, nó có thể được khắc phục bằng cách đạt được hô hấp lần thứ hai bằng cách nghỉ khoảng 10 phút hoặc bằng cách giảm tốc độ đáng kể và tăng tốc độ từ từ trong khoảng thời gian 10 phút. Mười phút là khoảng thời gian cần thiết để axit béo tự do sản xuất đủ ATP để đáp ứng nhu cầu gia tăng.. Có thể tránh được tình trạng này thường bằng cách đảm bảo rằng mức glycogen cao khi bắt đầu tập luyện, duy trì mức glucose trong khi tập luyện bằng cách ăn hoặc uống các chất giàu carbohydrate hoặc bằng cách giảm cường độ tập luyện. Cơ xương chủ yếu dựa vào glycogenolysis trong vài phút đầu tiên khi nó chuyển từ trạng thái nghỉ ngơi sang hoạt động, cũng như trong suốt hoạt động hiếu khí cường độ cao và tất cả các hoạt động kỵ khí. Việc thiếu glycogen gây ra lượng dự trữ ATP thấp trong các tế bào cơ đang tập luyện. Cho đến khi đạt được hô hấp lần thứ hai (tăng sản xuất ATP chủ yếu từ axit béo tự do), các triệu chứng của dự trữ ATP thấp khi tập luyện cơ do cạn kiệt glycogen bao gồm: mỏi cơ, cơ chuột rút, đau cơ nhịp tim nhanh không phù hợp khi tập thể dục (nhịp tim nhanh), khó thở (khó thở) hoặc thở nhanh (thở nhanh), phóng đại tim mạch phản ứng với tập thể dục (nhịp tim nhanh & khó thở/thở nhanh). Tim cố gắng bù đắp cho sự thiếu hụt năng lượng bằng cách tăng nhịp tim để tối đa hóa việc cung cấp oxy và nhiên liệu từ máu đến các tế bào cơ để phosphoryl hóa oxy hóa. Không có glycogen trong cơ, điều quan trọng là phải bước vào cơn gió thứ hai mà không đi quá nhanh, quá sớm cũng như không cố gắng vượt qua cơn đau. Đi quá nhanh, quá sớm khuyến khích chuyển hóa protein hơn chuyển hóa chất béo và đau cơ trong trường hợp này là kết quả của tổn thương cơ do dự trữ ATP thấp nghiêm trọng.
19821912
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19821912
Katie Higgins Cook
Katie Higgins Cook (nhũ danh Johnson) là một nữ phi công người Mỹ thuộc Thủy quân Lục chiến. Năm 2015, cô trở thành nữ phi công đầu tiên của Blue Angels, và điều khiển chiếc máy bay vận tải C-130 "Fat Albert" trong hai mùa. Cuộc biểu diễn đầu tiên của cô với đội Blue Angels diễn ra ở El Centro, California, vào tháng 3 năm 2015. Cô còn được biết với tên Katie Higgins và gia nhập Blue Angels ở tuổi 28. Higgins là phi công thế hệ thứ ba, cô sinh trưởng trong một gia đình theo quân sự thường chuyển đến sinh sống ở California và Nhật Bản. Cha cô, Bill Johnson, tốt nghiệp Học viện Hải quân năm 1981, ông đã điều khiển chiếc F-18 Hornet trong Hải quân Hoa Kỳ rồi làm kỹ sư cho Northrop Grumman. Cô tốt nghiệp Trung học W. T. Woodson ở Fairfax, Virginia năm 2004. Higgins hoàn thành bằng Cử nhân Khoa học về khoa học chính trị tại Học viện Hải quân Hoa Kỳ ở Annapolis, Maryland vào năm 2008. Cô nhận bằng sắc phong hàm thiếu úy từ Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ, cô theo học an ninh quốc tế tại Đại học Georgetown và hoàn thành bằng Thạc sĩ Xã hội và Nhân văn năm 2009. Cô có một người em trai hoạt động trong lĩnh vực chất nổ tốt nghiệp trường Annapolis năm 2010. Higgins trở thành phi công hải quân thuộc phi đội VMGR-252. Cô phục vụ tại Afghanistan để hỗ trợ Chiến dịch Tự do Bền vững. Ở tuổi 26, trong hành động đầu tiên chống lại Taliban vào năm 2013, cô điều khiển chiếc KC-130 (tín hiệu gọi "Filth02"), bắn hai tên lửa Hellfire và loại bỏ vị trí quân địch, cứu sống một nhóm Thủy quân Lục chiến. Cô triển khai đến Châu Phi cùng để hỗ trợ các hoạt động dự phòng. Trong năm 2015, cô đã bay gần 400 giờ chiến đấu qua bảy quốc gia. Vào tháng 7 năm 2014, Blue Angels tuyển chọn Higgins và các sĩ quan khác vào đội biểu diễn năm 2015. Thông báo được đưa ra ngay sau khi cựu chỉ huy của Blue Angels, Hạm trưởng Gregory McWherter bị khiển trách khi để cấp dưới xem hình ảnh khiêu dâm trong buồng lái cùng những hành vi dâm ô khác. Higgins nhận những bình luận lý do duy nhất cô được chọn vì là phụ nữ, nhưng khẳng định với Blue Angels, "Ứng viên thích hợp nhất sẽ có được công việc – không quan trọng giới tính nào." Higgins tham gia cuộc biểu diễn Blue Angels đầu tiên vào tháng 3 năm 2015. Chiếc C-130 Hercules mang tên "Fat Albert", do cô lái luân phiên cùng với các Thủy quân lục chiến khác, là phần mở đầu của cuộc biểu diễn Blue Angels kéo dài khoảng tám phút. Diễn tập nhanh nhất do Fat Albert thực hiện được gọi là "con đường bằng phẳng", bay với tốc độ 370 dặm trên giờ ở độ cao 40 feet. Các diễn tập khác bao gồm "vượt qua duyệt binh", qua độ cao 300 foot ở góc 60 độ và "leo dốc", leo 45 độ tới độ cao 1.200 foot, tiếp theo lao xuống mũi dốc đứng gây ra không trọng lượng đối với hành khách ở phía sau máy bay. Trong năm 2019, cô được biết với tên Katie Higgins Cook với quân hàm Thiếu tá. Năm 2020, Cook trở thành khách mời trong buổi ra mắt mùa thứ 24 của chương trình "The Bachelor". Trong chương trình, cô giúp phi công Peter Weber thuộc Delta Air Lines, tổ chức một buổi hẹn hò theo nhóm, trong đó anh đưa các thí sinh nữ vượt qua chương trình huấn luyện bay bao gồm đi bằng con quay hồi chuyển. Katie Higgins Cook được vinh danh trong "American Valor: A Salute to Our Heroes", một chương trình truyền hình đặc biệt từng đoạt giải Emmy do Trung tâm Cựu chiến binh Hoa Kỳ sản xuất và dẫn chuyện bởi Harrison Ford. Katie Higgins kết hôn với Dusty Cook là phi công của Blue Angels, cả hai gặp nhau lần đầu ở VMGR-252 và bắt đầu hẹn hò sau khi Dusty Cook rời khỏi đội Blue Angels. Họ có hai người con và sinh sống ở Texas.
19821920
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19821920
Fundadores de São Paulo
Fundadores de São Paulo (tạm dịch: Những vị đấng sáng lập São Paulo) là một tượng đài nằm ở khu phố Vila Mariana của São Paulo, Brazil. Tác phẩm được tạc bởi nhà điêu khắc người Brazil nhằm vinh danh những vị thuỷ tổ có công sáng lập thành phố. Tượng đài được khánh thành vào ngày 25 tháng 1 năm 1963 sau 10 năm xây dựng. Tượng đài được điêu khắc bởi Luis Morrone, có vị trí nằm trên phố Nábia Abdala Chohfi, ở góc Đại lộ Sargento Mario Kozel Filho, gần R. Manoel da Nóbrega, trong khu phố Vila Mariana của São Paulo, Brazil. Tác phẩm điêu khắc này nằm giữa Nhà thi đấu Ibirapuera và Đài tưởng niệm Bandeiras. Tượng đài nằm ở phía trước , nhưng ban đầu được đặt gần Praça da Sé cho đến những năm 1970. Có chín nhân vật tượng đồng được điêu khắc trong tác phẩm, trong đó có 3 nhân vật mang vai trò tôn giáo (, và ), 2 nhà thám hiểm người Bồ Đào Nha (Martim Afonso de Souza và ) và 3 người bản xứ (Bartira, Tibiriçá và cậu bé Curumim). Nhân vật thứ chín là một em bé nằm trong lòng Bartira không được xác định rõ danh tính. Một cây thánh giá được đặt ở trung tâm nhằm đề cập đến tôn giáo chủ yếu của thành phố là Công giáo. Hai tấm bảng trên bệ đá hoa cương đại diện cho quần chúng nhân dân đầu tiên ở São Paulo và sự thành lập của São Vicente. Phần chính của tượng đài được làm bằng đồng và đá hoa cương có kích thước , nằm trên một bệ đá cũng làm từ đá hoa cương có kích thước . Cây thánh giá ở vị trí trung tâm có chiều cao . Việc xây dựng tượng đài bắt đầu bằng việc đặt viên đá nền vào ngày 18 tháng 10 năm 1952 và được hoàn thành vào năm 1962. Tác phẩm được khánh thành vào ngày 25 tháng 1 năm 1963 vào ngày kỷ niệm thành lập thành phố. Tấm bảng tượng trưng cho quần chúng nhân dân đầu tiên đã bị lấy trộm vào năm 2004. Và vì không có bức ảnh nào chụp lại tấm bảng này, nó đã được thay thế bằng một tấm bảng tạm thời ghi lại vụ trộm. Ít nhất kể từ năm 2016 dường như không còn cây thánh giá nào ngoại trừ cây thánh giá đang đặt ở vị trí giữa.
19821931
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19821931
Martin Perscheid
Martin Perscheid (16 tháng 2 năm 1966 – 31 tháng 7 năm 2021) là một họa sĩ truyện tranh người Đức. Ông đã tạo ra một nhân vật chính vào năm 1994, nhân vật này xuất hiện từ năm 1998 với tựa đề "Perscheids Abgründe" (tạm dịch là "Vực thẳm của Perscheid"). Hơn 4.300 cột tranh biếm hoạ đã xuất hiện trên một số tờ báo và tạp chí của Đức. Ông còn được biết đến với "cái nhìn không sợ hãi về vực thẳm của con người về phân biệt giới tính, phân biệt chủng tộc, sự thiếu hiểu biết, tham nhũng và ngu si tất cả được ghi lại dưới sự hài hước của hài đen." Perscheid sinh ra ở Wesseling vào ngày 16 tháng 2 năm 1966, nơi ông đã sống và làm việc cho đến khi qua đời. Ông đã được đào tạo làm một hoạ sĩ in thạch bản. Perscheid đã kết hôn và có hai con nhưng vào thời điểm qua đời, ông đang có mối quan hệ tình cảm với đồng nghiệp là nữ họa sĩ truyện tranh Nadia Menze. Perscheid qua đời vào ngày 31 tháng 7 năm 2021 sau một thời gian dài đối mặt với căn bệnh ung thư. Sinh ra trong một gia đình Công giáo, Perscheid sớm trở thành một người theo chủ nghĩa vô thần và nhân văn, điều này ảnh hưởng đáng kể đến sự nghiệp của ông. Từ năm 2020 cho đến khi qua đời, ông là thành viên ban cố vấn của Giordano Bruno Foundation, một tổ chức phi lợi nhuận đến từ Đức nhằm thúc đẩy chủ nghĩa nhân văn tiến hóa và sự khai sáng. Phong cách vẽ của Perscheid được so sánh với phong cách của Gary Larson. Các chủ đề trong truyện tranh của ông thường là châm biếm, kể cả những chủ đề bị cho là cấm kỵ và thường bao gồm cả hài đen. Loạt truyện tranh của ông được vẽ ở định dạng ô thẳng đứng không thay đổi, có khung màu đen, được vẽ bằng các nét thưa thớt và phóng nét vẽ một cách chính xác ("mit zielsicherer Pointenführung"). Các tác phẩm của Perscheid đã được đăng trên nhiều tờ báo và tạp chí của Đức. Năm 1994, ông gia nhập Lappan Verlag và gắn bó cho đến khi qua đời. Sau đó, vị hoạ sĩ này còn sáng tạo ra nhân vật chính của mình, một người đàn ông hói đầu, đeo kính và là người thay thế cho chính bản thân Perscheid. Loạt truyện hoạt hình xoay quanh nhân vật của ông năm 1996 có tên là "Perscheids Abgründe". Ông đã vẽ hơn hơn 4.300 tranh biếm hoạ về tác phẩm. Perscheid đã xuất bản cuốn sách đầu tiên của mình vào năm 1995. Trong sự nghiệp của mình, ông đã cho ra mắt hơn 25 cuốn sách với truyện tranh. Truyện tranh của Perscheid đã được trưng bày tại các viện bảo tàng, bao gồm một buổi trưng bày tại bảo tàng Caricatura ở Kassel và Bảo tàng der niederrheinischen Seele vào năm 2017. Perscheid đã nhận được nhiều giải thưởng cho sự nghiệp của mình, bao gồm Giải thưởng Max & Moritz 2002 cho hạng mục Truyện tranh bằng tiếng Đức hay nhất, cũng như ""Kulturplakette"" (Giải thưởng Văn hóa) từ quê hương Wesseling của bản thân ông. Bảo tàng Caricatura đã vinh danh ông bằng một tác phẩm điêu khắc nhân vật hoạt hình của ông có tên là "Der unbekannte Idiot" (tạm dịch là "kẻ ngốc vô danh"). Sau khi qua đời, nhà xuất bản của Perscheid bày tỏ trong cáo phó rằng: "Sự dũng cảm của ông ấy khi nhìn thoáng qua tận cùng vực thẳm của con người về phân biệt giới tính, phân biệt chủng tộc, sự thiếu hiểu biết, tham nhũng và ngu si, cũng như cách ông thể hiện lại tất cả những điều này trong truyện tranh với sự chế nhạo gay gắt và hài đen là điều độc nhất vô nhị."
19821934
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19821934
Phosphoryl hóa oxy hóa
Phosphoryl hóa oxy hóa hoặc Phosphoryl hóa liên kết vận chuyển điện tử hoặc oxy hóa đầu cuối là con đường trao đổi chất trong đó tế bào sử dụng enzyme để oxy hóa chất dinh dưỡng, do đó giải phóng năng lượng hóa học để tạo ra adenosine triphosphate (ATP). Ở sinh vật nhân chuẩn, điều này diễn ra bên trong ti thể. Hầu như tất cả sinh vật hiếu khí đều thực hiện quá trình phosphoryl hóa oxy hóa. Con đường này rất phổ biến vì nó giải phóng nhiều năng lượng hơn các quá trình lên men thay thế như kỵ khí glycolysis. Tnăng lượng được lưu trữ trong các liên kết hóa học của glucose được tế bào giải phóng trong chu trình acid citric tạo ra carbon dioxide, và năng lượng chất cho điện tử NADH và FADH. Phosphoryl hóa oxy hóa sử dụng các phân tử này và O để tạo ra ATP,được sử dụng khắp tế bào bất cứ khi nào cần năng lượng. Trong quá trình phosphoryl hóa oxy hóa, các electron được chuyển từ các chất cho điện tử sang một loạt chất nhận điện tử trong một chuỗi phản ứng oxy hóa khử kết thúc bằng oxy, phản ứng giải phóng một nửa tổng năng lượng.
19821935
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19821935
Western &amp; Southern Open 2023
Western & Southern Open 2023 là một giải quần vợt nam và nữ thi đấu trên mặt sân cứng ngoài trời diễn ra từ ngày 13 đến ngày 20 tháng 8 năm 2023. Đây là một giải đấu Masters 1000 trong ATP Tour 2023 và WTA 1000 không Mandatory trong WTA Tour 2023. Giải đấu năm 2023 là lần thứ 122 (nam) và lần thứ 95 (nữ) giải Cincinnati Masters được tổ chức và diễn ra tại Lindner Family Tennis Center ở Mason, Ohio, ngoại ô phía bắc Cincinnati, Hoa Kỳ. Dưới đây là những tay vợt được xếp loại hạt giống. Hạt giống dựa trên bảng xếp hạng ATP vào ngày 7 tháng 8 năm 2023. Xếp hạng và điểm trước vào ngày 14 tháng 8 năm 2023. Đặc cách: Bảo toàn thứ hạng: Vượt qua vòng loại: Thua cuộc may mắn: Đặc cách: Dưới đây là những tay vợt được xếp loại hạt giống. Hạt giống dựa trên bảng xếp hạng WTA vào ngày 7 tháng 8 năm 2023. Xếp hạng và điểm trước vào ngày 14 tháng 8 năm 2023. † Điểm từ kết quả tốt nhất của lần 16 (cho điểm bảo vệ) hoặc kết quả tốt nhất của lần 17 (cho điểm thắng), vào ngày 14 tháng 8 năm 2023.<br> ‡ Điểm từ giải WTA 1000 không Mandatory thứ hai tốt nhất của tay vợt, phải được tính vào xếp hạng của tay vợt.<br> § Không thay đổi điểm vì điểm từ giải đấu không được tính là một trong 16 kết quả tốt nhất của tay vợt. Đặc cách: Bảo toàn thứ hạng: Vượt qua vòng loại: Thua cuộc may mắn: Đặc cách: Bảo toàn thứ hạng: Thay thế:
19821937
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19821937
Western &amp; Southern Open 2023 - Đơn nam
Novak Djokovic là nhà vô địch, đánh bại Carlos Alcaraz trong trận chung kết, 5–7, 7–6, 7–6. Đây là danh hiệu Cincinnati Masters thứ 3 và là danh hiệu ATP Tour Masters 1000 thứ 39 của Djokovic. Trận đấu giữa Djokovic và Alcaraz là trận chung kết ATP Tour theo thể thức đánh ba thắng hai dài nhất và cũng là trận đấu dài nhất trong lịch sử giải đấu, với 3 tiếng 49 phút. Borna Ćorić là đương kim vô địch, nhưng thua ở vòng 2 trước Hubert Hurkacz. Alcaraz và Djokovic cạnh tranh vị trí số 1 bảng xếp hạng đơn ATP. Alcaraz giữ nguyên thứ hạng sau khi vào trận chung kết. Đây là giải đấu đầu tiên của Djokovic ở Hoa Kỳ kể từ sau Giải quần vợt Mỹ Mở rộng 2021, sau khi yêu cầu tiêm chủng vắc-xin COVID-19 đối với hành khách quốc tế được dỡ bỏ vào tháng 5 năm 2023. 8 hạt giống hàng đầu được miễn vào vòng 2. <section begin=Finals /><section end=Finals />
19821938
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19821938
Western &amp; Southern Open 2023 - Đơn nữ
Coco Gauff là nhà vô địch, đánh bại Karolína Muchová trong trận chung kết, 6–3, 6–4. Đây là danh hiệu WTA 1000 đầu tiên của Gauff và là trận chung kết WTA 1000 đầu tiên của cả Gauff và Muchová. Cô cũng trở thành tay vợt trẻ nhất vô địch giải đấu. Với việc vào trận chung kết, Muchová có lần đầu tiên vào top 10 trên bảng xếp hạng WTA. Caroline Garcia là đương kim vô địch, nhưng thua ở vòng 2 trước Sloane Stephens. 8 hạt giống hàng đầu được miễn vào vòng 2.
19821939
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19821939
Western &amp; Southern Open 2023 - Đôi nam
Máximo González và Andrés Molteni là nhà vô địch, đánh bại Jamie Murray và Michael Venus trong trận chung kết, 3–6, 6–1, [11–9]. Đây là danh hiệu ATP Tour Masters 1000 đầu tiên của González và Molteni. Rajeev Ram và Joe Salisbury là đương kim vô địch, nhưng thua ở vòng 2 trước González và Molteni. 4 hạt giống hàng đầu được miễn vào vòng 2. <section begin=Finals /><section end=Finals />
19821948
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19821948
Western &amp; Southern Open 2023 - Đôi nữ
Alycia Parks và Taylor Townsend là nhà vô địch, đánh bại Nicole Melichar-Martinez và Ellen Perez trong trận chung kết, 6–7, 6–4, [10–6]. Lyudmyla Kichenok và Jeļena Ostapenko là đương kim vô địch, nhưng thua ở vòng 2 trước Parks và Townsend. 4 hạt giống hàng đầu được miễn vào vòng 2.
19821954
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19821954
Ga Eocheon
Ga Eocheon (Tiếng Hàn: 어천역, Hanja: 漁川驛) là ga tàu điện ngầm trên Tuyến Suin–Bundang, nằm ở nằm ở Eocheon-ri, Maesong-myeon, Hwaseong, Gyeonggi-do. Trước khi mở cửa trở lại vào ngày 12 tháng 9 năm 2020, Tuyến Suin khổ hẹp hoạt động cho đến năm 1995 và tòa nhà ga vào thời điểm đó được sử dụng làm phòng nghỉ cho nhân viên của các nhà máy gần đó trong một thời gian ngay cả sau khi nhà ga bị đóng cửa và bị phá bỏ vào nửa đầu năm 2013
19821962
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19821962
La Liga 2023–24
La Liga 2023–24 (còn được gọi là LaLiga EA Sports vì lý do tài trợ) là mùa giải thứ 93 của La Liga, giải đấu bóng đá hàng đầu của Tây Ban Nha. Giải đấu bắt đầu vào ngày 11 tháng 8 năm 2023 và dự kiến ​​kết thúc vào ngày 26 tháng 5 năm 2024. Barcelona là đương kim vô địch, đã giành chức vô địch thứ 27 ở mùa giải trước. Tổng cộng có 20 đội tham dự giải, bao gồm 17 đội từ mùa 2022–23 và 3 đội thăng hạng từ Segunda División 2022–23 (2 đội đầu bảng và 1 đội thắng play-off thăng hạng). Elche là đội đầu tiên xuống hạng vào ngày 2 tháng 5 năm 2023, sau trận thua 2–1 trước Almería. Đội thứ hai là Espanyol, vào ngày 28 tháng 5 năm 2023, sau trận hòa 2–2 trước Valencia. Đội cuối cùng xuống hạng là Real Valladolid, sau trận hòa 0–0 trước Getafe vào ngày 4 tháng 6 năm 2023. Hai đội đầu tiên giành được suất thăng hạng là Granada và Las Palmas, hai đội đứng đầu mùa giải 2022–23. Granada trở lại La Liga sau một năm vắng bóng, Las Palmas trở lại sau 5 năm. Đội cuối cùng được thăng hạng là Alavés sau khi giành chiến thắng 1–0 trong trận chung kết play-off trước Levante, trở lại La Liga chỉ sau 1 năm bị xuống hạng. ! Đội ! Huấn luyện viên trưởng ! Đội trưởng ! Nhà tài trợ trang phục ! Nhà tài trợ chính ! (Các) nhà tài trợ khác
19821984
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19821984
Ga Yamok
Ga Yamok (Tiếng Hàn: 야목역, Hanja: 野牧驛) là ga tàu điện ngầm trên Tuyến Suin–Bundang, nằm ở nằm ở Yamok-ri, Maesong-myeon, Hwaseong, Gyeonggi-do. Nó bắt đầu hoạt động với việc khai trương Tuyến Suin vào tháng 8 năm 1937, ngừng xử lý hành khách vào tháng 1 năm 1996 và tiếp tục hoạt động như một ga đường đôi khổ tiêu chuẩn vào ngày 12 tháng 9 năm 2020
19821989
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19821989
Hiệp ước Mặt Trăng
Hiệp ước Mặt Trăng, tên đầy đủ là Thỏa thuận Quản lý hoạt động của Các quốc gia trên Mặt Trăng và Các thiên thể khác (tiếng Anh: Agreement Governing the Activities of States on the Moon and Other Celestial Bodies), là một hiệp ước đa phương có mục đích trao quyền tài phán cho các quốc gia tham gia đối với tất cả các thiên thể (bao gồm cả các vật thể xung quanh các thiên thể đó). Vì vậy, tất cả các hoạt động tuân theo luật pháp quốc tế, bao gồm cả Hiến chương Liên Hợp Quốc. Hiệp ước chưa được phê chuẩn bởi bất kỳ quốc gia nào tham gia vào các chuyến bay vũ trụ tự phóng có con người (ví dụ, Hoa Kỳ, Nga (hay tiền thân là Liên Xô) hay Trung Quốc) kể từ khi nó được ký vào ngày 18 tháng 12 năm 1979, và do đó nó gần như không liên quan với trong luật pháp quốc tế. Kể từ tháng 1 năm 2022, có 18 quốc gia tham gia hiệp ước. Cần lưu ý rằng kể từ khi Hiệp ước Không gian ngoài thiên thể năm 1967 được ký kết, công nghệ và xã hội đã phát triển hơn, đòi hỏi phải xác định lại các quyền và trách nhiệm của công dân và chính phủ trong việc sử dụng và phát triển không gian ngoài thiên thể. Mục tiêu chính của Hiệp ước Mặt Trăng năm 1979 là "cung cấp các nguyên tắc pháp lý cần thiết để điều chỉnh hành vi của các quốc gia, tổ chức quốc tế và cá nhân tham gia khám phá các thiên thể khác ngoài Trái Đất, cũng như quản lý các nguồn tài nguyên mà việc thăm dò có thể phát hiện ra." Hiệp ước đề xuất thực hiện mục tiêu bằng cách yêu cầu các quốc gia thành viên tạo ra một "chế độ quốc tế" cùng với thiết lập các thủ tục thích hợp (Điều 11.5). Trong khi hiệp ước nhắc lại việc cấm tuyên bố chủ quyền đối với "bất kỳ phần nào" của vũ trụ, vấn đề thiếu chính xác hiện tại của hiệp ước, được gọi là chưa hoàn thành, đã gây ra nhiều cách hiểu khác nhau. Đây được coi là lý do chính khiến nó không được được hầu hết các quốc gia tham gia ký kết. Hiệp ước đề xuất rằng việc khai thác tài nguyên sẽ được điều chỉnh theo một cơ chế quốc tế (Điều 11.5), nhưng không có sự đồng thuận nào trong việc thiết lập các điều luật này. Thỏa thuận đã được mô tả là không mang lại kết quả và có thể thất bại, nếu nó vẫn chưa được nhiều quốc gia phê chuẩn, đặc biệt là những quốc gia có hoạt động trong không gian. Chỉ một quốc gia (Ấn Độ) có khả năng thực hiện các chuyến bay tự phóng vào vũ trụ đã tham gia ký (nhưng chưa phê chuẩn) hiệp ước. Các chuyên gia pháp lý gây tiếng vang, như S. Neil Hosenball, Tổng cố vấn của NASA và trưởng đoàn đàm phán Hiệp ước Mặt Trăng của Hoa Kỳ, đã quyết định vào năm 2018 rằng việc đàm phán các quy tắc của cơ chế quốc tế này nên được trì hoãn cho đến khi tính khả thi của việc khai thác các nguồn tài nguyên trên Mặt trăng được thiết lập vững chắc. Một chuyên gia về luật pháp vũ trụ và kinh tế đã tóm tắt rằng hiệp ước sẽ cần đưa ra các điều khoản thích hợp để chống lại bất kỳ công ty nào giành được vị trí độc quyền trên thị trường khoáng sản thế giới, đồng thời tránh việc "xã hội hóa Mặt trăng." Năm 2020, Hiệp định Artemis đã được ký kết, tuy không đề cập đến hiệp ước nhưng hiệp định này vẫn có công kích hiệp ước. Vào thời điểm ký kết hiệp định, Tổng thống Hoa Kỳ Donald Trump cũng đã ban hành thêm một sắc lệnh có tên "Encouraging International Support for the Recovery and Use of Space Resources" ("Khuyến khích Hỗ trợ quốc tế cho Phục hồi và Sử dụng tài nguyên vũ trụ"). Sắc lệnh nhấn mạnh rằng "Hoa Kỳ không coi không gian ngoài thiên thể là 'tài sản chung toàn cầu" và gọi Hiệp ước Mặt Trăng là "một nỗ lực thất bại trong việc hạn chế doanh nghiệp tự do." Việc Úc ký và phê chuẩn cả Hiệp ước Mặt Trăng và Hiệp định Artemis đã gây ra một cuộc thảo luận liệu chúng có thể được hài hòa với nhau hay không. Theo hướng này, một "Thỏa thuận thực thi" Hiệp ước Mặt Trăng nhận được sự ủng hộ, như một cách để bù đắp cho những thiếu sót của Hiệp ước Mặt Trăng và hài hòa nó với các điều luật khác, cho phép nó được chấp nhận rộng rãi hơn
19821993
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19821993
Cụm tập đoàn quân Weichsel
Cụm tập đoàn quân Weichsel () là một đơn vị quân sự chiến lược cấp cụm tập đoàn quân của "Wehrmacht". Được thành lập vào ngày 24 tháng 1 năm 1945 với nhiệm vụ bảo vệ Berlin khỏi quân Liên Xô từ hướng sông Vistula, cụm tập đoàn quân bao gồm các đơn vị còn lại của cụm tập đoàn quân A (tan rã sau chiến dịch Wisla–Oder của Liên Xô), cụm tập đoàn quân Trung tâm (phần lớn bị tiêu diệt trong chiến dịch Đông Phổ) và các đơn vị thành lập mới.
19821994
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19821994
Cụm tập đoàn quân G
Cụm tập đoàn quân G (, từ tháng 4 năm 1944 đến tháng 9 năm 1944 mang phiên hiệu "Armeegruppe G") là một đơn vị tác chiến chiến lược cấp cụm tập đoàn quân của Đức Quốc xã trong Thế chiến thứ hai. Đơn vị này tham chiến ở mặt trận phía Tây và trực thuộc OB West.
19821995
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19821995
Cụm tập đoàn quân Ostmark
Cụm tập đoàn quân Ostmark () là một đơn vị tác chiến chiến lược cấp cụm tập đoàn quân của Đức Quốc Xã hoạt động trong giai đoạn cuối của chiến tranh thế giới thứ hai.
19821996
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19821996
Giáo phận Wonju
Giáo phận Wonju (; ) là một giáo phận của Giáo hội Latinh trực thuộc Giáo hội Công giáo Rôma ở Hàn Quốc. Giáo phận là một giáo phận trực thuộc Tổng giáo phận Seoul. Lãnh đạo đương nhiệm của giáo phận là Giám mục Basiliô Cho Kyu-man. Địa giới giáo phận ở Hàn Quốc bao gồm: Nhà thờ chính tòa của giáo phận là Nhà thờ chính tòa Đức Mẹ Ban Ơn ở thành phố Wonju, cũng là nơi đặt tòa giám mục của giáo phận. Giáo phận được chia thành 53 giáo xứ. Giáo phận được thành lập vào ngày 22/3/1965 theo tông sắc "Fidei propagandae" của Giáo hoàng Phaolô VI, trên phần lãnh thổ tách ra từ Giáo phận Ch'unch'on (hiện là Giáo phận Chuncheon). Vào ngày 29/5/1969 một phần lãnh thổ của giáo phận được tách ra để thành lập Giáo phận Andong. Các giai đoạn trống tòa không quá 2 năm hay không rõ ràng bị loại bỏ. Đến năm 2020, giáo phận có 79.402 giáo dân trên dân số tổng cộng 880.054, chiếm 9,0%.
19822004
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822004
Cụm tập đoàn quân 11
Cụm tập đoàn quân 11 là đơn vị tác chiến chủ lực của quân đội Anh ở mặt trận Đông Nam Á trong chiến tranh thế giới thứ hai.
19822007
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822007
Alfonso của Castilla
Alfonso của Castilla, Alfonso của Trastámara hay Alfonso Ngây thơ (tiếng Tây Ban Nha: "Alfonso de Castilla"; "Alfonso el Inocente"; tiếng Anh: "Alfonso of Castile"; 17 tháng 11 năm 1453 – 5 tháng 7 năm 1468) là Vương tử Castilla, Thân vương xứ Asturias và là nhân vật biểu tượng của cuộc nổi dậy của các cận thần Castilia chống lại người anh cùng cha khác mẹ của mình là Enrique IV của Castilla. Alfonso là con trai duy nhất còn sống của Juan II với người vợ thứ hai là Isabel của Bồ Đào Nha. Chị gái của Alfonso là Isabel, tương lai là Nữ vương Isabel I của Castilla, cũng là con gái duy nhất còn sống của Juan II và Isabel của Bồ Đào Nha. Sau cái chết của cha là Juan II, Alfonso, mẹ và chị gái gần như bị lưu đày, trong khi Thái hậu Isabel bị đưa đến Arevalo thì hai chị em đến Segovia. Khi Alfonso khoảng bảy tuổi, Vương tử cùng chị gái được chuyển đến triều đình của Enrique IV tại Madrid và được đặt trong hộ gia của Vương hậu Joana. Trong thời gian này, có tin đồn rằng Vương hậu Joana đã cố gắng đầu độc Alfonso ít nhất một lần để đảm bảo quyền kế vị cho cô con gái duy nhất của mình. Vào đầu những năm 1460, các quý tộc Castilia trở nên không hài lòng với sự cai trị của Enrique IV và tin rằng đứa con của Vương hậu Joana (Juana, Nữ Thân vương xứ Asturias) không phải con gái của nhà vua. Thông qua tuyên truyền và đồn thổi, được tiếp tay bởi liên minh các quý tộc nổi loạn, lập luận rằng cha của Juana thực chất là Beltrán de la Cueva, một sủng thần của vương thất có xuất thân thấp kém, người mà Henry đã nâng lên thành quyền lực to lớn và người, theo gợi ý của Alfonso de Palencia và những người khác, có thể là người tình của Joana. Điều này dẫn đến cái tên "Juana la Beltraneja" gắn với Vương nữ Juana theo dòng lịch sử. Nếu Juana là con ngoại hôn của Vương hậu Joana, thì người kế vị hợp pháp là Alfonso. Nếu Joana đích thực là con gái của Enrique IV thì Alfonso và người chị gái trứ danh Isabel I của Castilla đều là những kẻ soán ngôi. Xem xét những ảnh hưởng của Isabel I đối với lịch sử thế giới, câu hỏi này đã thu hút các nhà sử học trong nhiều thế kỷ. Liên minh các quý tộc kiểm soát Alfonso đã buộc Henry với Đại diện của Burgos năm 1464 phải từ chối Joanna và công nhận Alfonso là người thừa kế chính thức của mình. Alfonso do đó trở thành Thân vương xứ Asturias, thay thế cháu gái Juana. Enrique IV đã đồng ý yêu cầu này với điều kiện rằng Alfonso sẽ kết hôn với Juana trong tương lai, để đảm bảo rằng một ngày nào đó cả hai đều sẽ nhận được ngai vàng. Không lâu sau đó, Enrique IV đã thất hứa và bắt đầu ủng hộ quyền kế vị của con gái một lần nữa. Vào ngày 5 tháng 6 năm 1465, liên minh quý tộc chống lại Enrique IV đã tiến hành nghi lễ phế truất hình nộm của Enrique IV bên ngoài thành phố Avila và tôn Alfonso làm quốc vương đối đầu với Enrique IV. Sự kiện này được gọi là Trò hề Ávila. Không lâu sau đó, Alfonso bắt đầu trao đất đai và phong tước vị như thể bản thân đã là quân chủ chân chính. Một cuộc nội chiến bắt đầu. Cuộc đụng độ đáng chú ý nhất là tại Trận Olmedo lần thứ hai vào năm 1467, kết thúc với kết quả hòa. Tuy nhiên, vào năm 1468, Alfonso đột ngột qua đời khi chỉ được 14 tuổi. Nguyên nhân cái chết vẫn chưa được xác định, nhưng có khả năng là do một căn bệnh nào đó như bệnh lao hoặc dịch hạch (mặc dù có tin đồn rằng Alfonso đã bị kẻ thù đầu độc). Alfonso được chôn cất gần cha mình, (sau này di hài của Isabel của Bồ Đào Nha cũng được an táng tại đây) tại Tu viện Miraflores, được ủy quyền bởi Nữ vương Isabel I. Năm 2006, trong quá trình trùng tu tu viện, Tổng cục Di sản Văn hóa và Tài sản của Junta de Castilla y León đã quyết định thực hiện một nghiên cứu nhân chủng học về các ngôi mộ. Hài cốt của Alfonso, được đặt trong một chiếc quan tài bằng gỗ óc chó, được tìm thấy trong tình trạng bảo quản kém. Chiều cao của Alfonso được ước tính là 165 cm. Vào năm 2013, một nghiên cứu chi tiết hơn dựa trên những kết quả này đã được Đại học León công bố với giả thuyết rằng Alfonso thực chất đã bị hạ độc, vì các triệu chứng không giống với các triệu chứng của bệnh dịch hạch thể hạch và hài cốt của Alfonso cũng không có dấu vết của vi khuẩn "Yersinia pestis". Theo ý nguyện của mình, ngai vàng sẽ được kế thừ bởi chị gái Isabel, người được đề nghị thay thế em trai trở thành biểu tưởng của quân nổi loạn. Ngay sau đó, Isabel đã từ chối, và sau một cuộc đàm phán tại Toros de Guisando, Isabel và đồng minh của mình đạt được hầu hết mục tiêu, Enrique đã chấp thuận loại trừ con gái Juana khỏi vị trí kế vị và công nhận Isabel là người thừa kế chính thức của mình. Mặc dù Enrique tiếp tục chống lại quyết định này khi có thể, nhưng nỗ lực của Enrique IV không thành công, và quốc vương vẫn duy trì thế hòa hảo với Isabel trong suốt triều đại của mình. Isabel cũng trở thành vị vua tiếp theo của Castilla khi Enrique IV qua đời vào năm 1474.
19822016
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822016
Joe Locke
Joseph William Locke (sinh ngày 24 tháng 9 năm 2003) là một diễn viên người Manx. Anh được biết đến với nam chính Charlie Spring trong sê-ri phim tuổi teen "Trái tim ngừng nhịp" (2022-hiện tại) của Netflix, tại đây anh đã nhận được đề cử Giải Emmy dành cho Trẻ em và Gia đình. Joseph William Locke sinh ngày 24 tháng 9 năm 2003. Anh sinh ra và lớn lên tại Douglas, đảo Man, sau đó theo học tại Trường Trung học Ballakermeen. Chia sẻ với "This Morning" của ITV vào tháng 4 năm 2022, anh đang ôn tập để lấy bằng A-level cho các môn chính trị, lịch sử và tiếng Anh. Khi còn học trung học, Locke và ba bạn học đã đệ đơn yêu cầu các quan chức chính phủ điều tra tính khả thi việc cho phép những người tị nạn Syria đến Đảo Man. Vào năm 2020, Locke trở thành thành viên của Nhà hát Quốc gia Connections cũng như sản xuất tại Nhà hát Gaiety cùng một nhóm thanh niên thuộc Trung tâm Nghệ thuật Kensington. Đến tháng 4 năm 2021, Locke được thông báo sẽ đảm nhận vai chính Charlie Spring, đây cũng là vai diễn đầu tay của anh trong loạt phim tuổi mới lớn "Trái tim ngừng nhịp" được chuyển thể từ webcomic và tiểu thuyết đồ họa cùng tên của Alice Oseman do Netflix phát hành vào năm 2022. Anh được chọn trong số 10.000 diễn viên tiềm năng khác thông qua một cuộc gọi tuyển chọn diễn viên mở. Vào thời điểm ghi hình, anh đã 17 tuổi nhưng vào vai một cậu học sinh 14-15 tuổi. Tháng 11 năm 2022, Locke đã được chọn tham gia loạt phim truyền hình ăn theo WandaVision, "" của Marvel Studios được phát hành trên Disney+. Locke công khai xu hướng tính dục trên Instagram và với mẹ của mình, bản thân là người đồng tính khi chỉ mới 12 tuổi. Tuy nhiên, sau đó anh đã xóa bài đăng này khỏi Instagram và không công khai cho đến năm 15 tuổi vì cho rằng bản thân sẵn sàng công khai xu hướng tính dục với gia đình chứ không phải thế giới. Locke cũng từng chia sẻ với truyền thông những trải nghiệm cá nhân khi là một người đồng tính trẻ xuất thân từ đảo Man cùng những điểm tương đồng giữa bản thân với nhân vật Charlie trong loạt phim "Trái tim ngừng nhịp". Vào tháng 8 năm 2022, Bộ trưởng Bộ y tế của đảo Man, Lawrie Hooper, đã xác thực chính phủ sẽ thay đổi lệnh cấm hoàn toàn đối với những người đồng tính nam hiến máu sau khi Locke kêu gọi thay đổi quy định "lỗi thời" trong một video được phát tại lễ tự hào hàng năm trên đảo.
19822064
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822064
Lê Cao Hoài An
Lê Cao Hoài An (sinh ngày 19 tháng 9 năm 1993) là một cầu thủ bóng đá người Việt Nam hiện tại đang thi đấu ở vị trí tiền vệ trung tâm trong màu áo của câu lạc bộ Thành phố Hồ Chí Minh tại Giải bóng đá Vô địch Quốc gia Việt Nam.
19822076
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822076
Clara Sosa
María Clara Sosa Perdomo (sinh ngày 25 tháng 9 năm 1993) là một người mẫu, MC, nữ hoàng sắc đẹp người Paraguay. Cô đăng quang Hoa hậu Hòa bình Quốc tế 2018 và là người Paraguay đầu tiên đoạt được danh hiệu này. Sosa sinh ra ở thủ đô của Paraguay, Asunción, và lớn lên ở San Lorenzo. Cô là người mẫu thuộc quản lý của ON Management và cũng là MC dẫn chính của chương trình chào buổi sáng ăn khách "La mañana de Unicanal". Năm 2015, cô tham gia và lọt vào Top 20 cuộc thi Người mẫu Thế giới. Ngày 9 tháng 6 năm 2018, cô được trao vương miện Hoa hậu Hòa bình Paraguay trong đêm chung kết diễn ra tại Nhà hát Khách sạn Guarani. Sosa sau đó tiếp tục đăng quang Hoa hậu Hòa bình Quốc tế 2018, diễn ra vào ngày 25 tháng 10 ở One Entertainment Park tại Yangon, Myanmar. Cô là người Paraguay đầu tiên giành chiến thắng tại đấu trường này.
19822077
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822077
Timelapse of the Future
Timelapse of the Future: A Journey to the End of Time là một web film ngắn khoa học viễn tưởng năm 2019 do nhạc sĩ kiêm nhà làm phim theo chủ đề thiên văn học người Mỹ John D. Boswell làm ra, nối tiếp "Timelapse of the Entire Universe". Bộ phim dài 29 phút là một flowmotion—sự kết hợp của các cảnh hyperlapse, tua nhanh thời gian (timelapse) và tốc độ thường—về vũ trụ từ năm 2019 đến tận cùng của thời gian, với thời gian trôi đi tăng gấp đôi sau mỗi 5 giây. Bộ phim bao gồm các thước phim tự làm và fair use, và các bài phát biểu của các nhà khoa học, sử dụng kiến ​​thức hiện tại kết hợp các giả thuyết khác nhau. Sau 6 tháng sản xuất, "Timelapse of the Future" đã được phát hành trên YouTube và được chiếu ở một số địa điểm; bộ phim cũng đã giành được giải Webby 2020. Bộ phim đã trở nên lan truyền, thu hút hàng triệu lượt xem và nhìn chung là được đánh giá tích cực. Bộ phim đã truyền cảm hứng cho một bài hát và video âm nhạc của Noah Cyrus, người đã ca ngợi các yếu tố hiện sinh của bộ phim. Một spin-off, "Life Beyond", sau đó đã được thực hiện. Bộ phim mở đầu và kết thúc bằng câu nói của Helen Keller:"Everything has its wonders, even darkness and silence. And I learn, whatever state I may be in, therein to be content."Tạm dịch: "Mọi thứ đều có điều kỳ diệu, ngay cả bóng tối và sự im lặng. Và tôi học được rằng, dù tôi ở trạng thái nào, thì tôi vẫn hài lòng." Kỷ nguyên Anthropocene bắt đầu. Sau các sự kiện tự nhiên, con người đáp xuống Sao Hỏa và từ trường của Trái Đất bị đảo lộn. Sao chổi Hale-Bopp quay trở lại vào năm 3357, tiếp theo là mực nước biển dâng cao, va chạm với tiểu hành tinh và Antares trở thành siêu tân tinh. Sahara trở thành rừng nhiệt đới vào năm 14.811, các chòm sao bắt đầu bị thay đổi, "Voyager 1" đi qua Gliese 445 vào năm 38.874 và thời kỳ gian băng (Interglacial Period) kết thúc. Vào năm 97.583, siêu núi lửa Yellowstone phun trào. Dấu chân của phi hành gia "Apollo 11" mờ dần vào năm 968.657. Betelgeuse trở thành siêu tân tinh và các di tích bằng đá bị xói mòn. Một vụ nổ tia gamma xảy ra. Phobos trở thành hệ thống vành đai của Sao Hỏa, trong khi vành đai của Sao Thổ biến mất. Nam Cực tan chảy vào năm 43.343.155, sau đó là tác động đáng kể của một tiểu hành tinh vào năm 70.606.131, tiếp đó là sự hình thành của một siêu lục địa mới vào năm 153.793.159. Độ sáng của Mặt Trời tăng vào năm 427.821.025, khiến thực vật chết vào năm 833.270.413, tiếp đó là toàn bộ sự sống vào năm 2.952.729.059, khi các đại dương bốc hơi. Mặt Trời sau đó mở rộng và trở thành một sao khổng lồ đỏ—hủy diệt Trái Đất trong quá trình đó—trước khi chết đi, trở thành sao lùn trắng vào năm 7.650.412.497. Những ngôi sao khác cũng dần dần chết theo. Những sao lùn đỏ cuối cùng chết vào năm thứ 100.000.000.000.000. Khi các ngôi sao hoàn toàn cạn kiệt nhiên liệu, Kỷ nguyên Thoái hóa bắt đầu. Vũ trụ giờ chỉ chứa các sao xung, lỗ đen và sao lùn nâu, hầu như không được chiếu sáng bởi sao lùn trắng. Theo thời gian, lực hấp dẫn đẩy hầu hết tàn dư vũ trụ vào không gian liên sao, còn những vật chất không thoát ra được khỏi thiên hà thì sẽ bị lỗ đen siêu lớn ở trung tâm mỗi thiên hà hút vào. Đáng chú ý là các sao neutron có thể va chạm với nhau và tạo ra các siêu tân tinh siêu sáng. Sự sống ngoài Trái Đất có thể sống xung quanh các sao lùn trắng, nhưng tới một ngày nào đó, sao lùn trắng sẽ mờ đi và trở thành sao lùn đen. Các lý thuyết dự đoán rằng các nền văn minh có thể sử dụng lỗ đen như một nguồn năng lượng, đồng thời làm chậm thời gian của họ để tồn tại. Tuy nhiên, nếu proton là không ổn định, chúng sẽ phân rã thành các hạt hạ nguyên tử nhẹ hơn. Điều đó sẽ khiến các nguyên tử tan rã theo, từ đó khiến mọi vật chất suy biến còn lại trong vũ trụ tan rã. Với việc các proton đã hoàn toàn phân rã, Kỷ nguyên Lỗ đen bắt đầu. Vũ trụ giờ chứa các "thiên hà zombie" gồm các lỗ đen và các hạt ánh sáng lang thang. Các lỗ đen đôi có thể hợp nhất, giải phóng một lượng năng lượng khổng lồ dưới dạng sóng hấp dẫn. Vào năm 159 novemdecillion (159 × 10), bức xạ Hawking khiến các lỗ đen đầu tiên chết đi. Khi chúng phát nổ, chúng chiếu sáng lại bóng tối xung quanh. Vũ trụ vẫn tiếp tục mở rộng hơn nữa bởi năng lượng tối, nếu nó vẫn tồn tại vào thời điểm đó, và sẽ khiến vũ trụ giãn nở mãi mãi. Các lý thuyết dự đoán rằng các nền văn minh, bao gồm cả con người, có thể tạo ra vũ trụ ảo hoặc vũ trụ thật của riêng họ, xem xét khả năng tồn tại của đa vũ trụ và sự tiến hóa giữa các vũ trụ. Tuy nhiên, nếu việc thoát khỏi vũ trụ là không thể, entropy sẽ hủy diệt các lỗ đen còn lại. Lỗ đen cuối cùng bốc hơi vào năm 15 untrigintillion (15 × 10), khiến vũ trụ trở thành "không có gì ngoài một biển photon dần dần có xu hướng về cùng nhiệt độ khi sự giãn nở của vũ trụ làm nguội chúng về độ không tuyệt đối" theo Brian Cox. Trong thời gian này, mọi thứ trong vũ trụ sẽ phân rã thành hư vô, khiến vũ trụ kết thúc vào năm 1 googol (10). Khi điều này xảy ra, thời gian không còn giá trị gì nữa (nó "trở nên vô nghĩa"). Sau đoạn credit ngắn, một dòng chữ xuất hiện có nội dung """Dành cho Ash" ("For Ash"), tên con trai của Boswell, sinh ngày 1 tháng 1 năm 2019. Bộ phim bắt đầu được sản xuất vào mùa hè năm 2018. Vào ngày 9 tháng 10 năm 2018, Boswell đã đăng trên tài khoản Twitter của mình hình ảnh về thử nghiệm ban đầu của bộ phim: hình ảnh hoạt họa về một lỗ đen. Thử nghiệm ban đầu này hoàn toàn khác với kết quả cuối cùng của phim: các số biểu thị năm cực lớn được biểu thị bằng lũy ​​thừa, không có bộ đếm chuyển động (moving counter) và văn bản trực tiếp trên frame, thay vì trên hard matte dưới; không có nhiều tuyên bố về việc sản xuất bộ phim, ngoài việc "Làm ra nó cần nhiều tháng nghiên cứu về vũ trụ học vật lý, nơi những suy đoán về số phận cuối cùng của vũ trụ là vô số, và thường trái ngược nhau" ("Creating it required months of research into physical cosmology, where speculations about the ultimate fate of the universe are legion, and often contradictory"). Boswell nói rằng mình đã được truyền cảm hứng, "nhiều năm trước", bởi ý tưởng về việc Mặt Trời sắp chết sau 5 tỷ năm nữa, Boswell đặt câu hỏi "Điều gì sẽ xảy ra sau đó? Điều gì sẽ xảy ra không phải trong 5 tỷ năm, mà là 5 nghìn tỷ năm? Các câu trả lời đã có sẵn, nhưng chúng là từng phần và không được xâu chuỗi lại với nhau một cách thuyết phục. Vì vậy, tôi đã tận dụng cơ hội để tạo ra thứ gì đó độc đáo làm nổi bật những dự đoán chung của chúng tôi về tương lai, cả ngắn hạn và dài hạn" ("What happens after that? What happens not in 5 billion years, but 5 trillion? The answers are out there, but they are piecemeal and not strung together in a compelling way. So I took the opportunity to create something unique highlights our collective predictions about the future, both short-term and long-term"). Sau đó, qua Long Now Foundation, Boswell nói thêm: "My original plan was to make something more like an art installation piece where there wouldn't be so much talking and facts; it would basically just be the timeline and some chill music and meditative imagery of black holes that would just span for like 10 minutes at a time, and you'd get this abstract impression of how long the future is going to be, and how much emptiness there is. But the more I dug into it, the more I found there's so much to talk about, and so much to say, that it would be foolish to waste this opportunity. I had a draft of this [in summer 2018], and felt it needed to be taken to the next level. So I spent another six months really digging into the VFX of it all, and the research, and figuring out how to build the flow of it and the structure and how to make it work. And I am glad I did. There's just so much to say, and so much I had to leave out. But it came together really well and I am pretty stoked about how it turned out."Tạm dịch: "Kế hoạch ban đầu của tôi là tạo ra thứ gì đó giống một tác phẩm nghệ thuật sắp đặt hơn, nơi sẽ không có quá nhiều lời nói và sự thật; về cơ bản nó sẽ chỉ là dòng thời gian và một số bản nhạc chill và hình ảnh trầm tư (meditative) về các lỗ đen sẽ chỉ kéo dài khoảng 10 phút mỗi lần và bạn sẽ có ấn tượng đầy trừu tượng về tương lai sẽ kéo dài bao lâu và có bao nhiêu sự trống rỗng ở đó. Nhưng càng đào sâu vào nó, tôi càng thấy có quá nhiều điều để nói, đến nỗi sẽ thật ngu ngốc nếu bỏ lỡ cơ hội này. Tôi đã có một bản thảo về điều này [vào mùa hè năm 2018] và cảm thấy nó cần được đưa lên một tầm cao mới. Vì vậy, tôi đã dành thêm sáu tháng nữa để thực sự đào sâu vào VFX của tất cả, nghiên cứu và tìm ra cách xây dựng flow của nó, cấu trúc cũng như cách làm cho nó hoạt động. Và tôi vui vì tôi đã làm. Có quá nhiều điều để nói, và rất nhiều điều tôi phải bỏ qua. Nhưng nó đã kết hợp với nhau rất tốt và tôi khá ngạc nhiên về cách nó thành ra."Giống như các bộ phim khác, các hình ảnh hoạt họa và các chỉnh sửa, Boswell sử dụng Cinema 4D, Octane Render và Adobe After Effects. Closed captioning được thực hiện bởi các tình nguyện viên trên Amara và YouTube; closed captioning bằng tiếng Anh được tạo theo cách thẩm mỹ hơn là theo cách dễ tiếp cận, trong đó phụ đề chi tiết được tạo cho người khiếm thính. Boswell, giống như một số bộ phim khác của ông, được hỗ trợ bởi nhà khoa học máy tính Juan Benet. Boswell cho biết đã sử dụng một số stock audio trên Spitfire Audio, Komplete, 8dio và Omnisphere thay vì chỉ sử dụng soundtrack gốc được sáng tác bằng Ableton Live; synth được chơi bằng Yamaha CS-80 và Moog Sub 37. Giai điệu piano cho bộ phim được chơi bởi Gulbransen, một nhạc cụ mà Boswell sử dụng nhiều lần. Track đầu tiên của soundtrack, "Sun" "Mother", sử dụng điệu 120 nhịp một phút, tăng dần theo thời gian để "làm nổi bật tốc độ tăng tốc của [thời gian trôi đi]". Timing của bài hát cũng được cân nhắc, ông nói rằng "Đối với tôi, điều quan trọng là phải có những khoảnh khắc mà âm nhạc, hình ảnh và hiệu ứng âm thanh có thể biểu lộ được và người xem có thể tiếp thu những gì họ đã thấy" ("It was important to me to have moments where the music, visuals, and sound effects could breathe, and the viewer could take in what they have seen"). Phương pháp thời gian trong phim "được suy xét và trickery nhiều hơn" ("a lot more thought and trickery") so với web film "Timelapse of the Entire Universe" trước đó vốn có thời lượng 10 phút, trong đó mỗi giây là 22 triệu năm và mỗi khung hình xấp xỉ 958.000 năm, tóm tắt lại lịch sử của vũ trụ từ lúc Vụ Nổ Lớn xảy ra cho đến ngày nay. Boswell đã chọn một phương pháp luận khác trong "Timelapse of the Future," nói rằng:"It could have been every three seconds, and the video would have been over in fifteen minutes. But then you're really cramming a ton of stuff into the first few minutes. Everything from the present day to the death of the Earth would've occurred in one minute instead of three to four. That would've made it really hard to breathe. But then you have to apply that same rule to the rest of the video, and ensure you've got enough stuff in there to fill the time. It's a balance."Tạm dịch:"Nó có thể là ba giây một lần và video sẽ kết thúc sau mười lăm phút. Nhưng sau đó bạn thực sự nhồi nhét rất nhiều thứ vào vài phút đầu tiên. Mọi thứ từ ngày nay cho đến cái chết của Trái Đất sẽ diễn ra trong một phút thay vì ba đến bốn phút. Điều đó sẽ làm cho nó thực sự hard to breathe. Nhưng sau đó, bạn phải áp dụng quy tắc tương tự cho phần còn lại của video và đảm bảo rằng bạn có đủ nội dung trong đó để lấp đầy thời gian. Đó là một sự cân bằng."Trong "Timelapse of the Future", thời gian trên mỗi khung hình giảm xuống còn khoảng 0,5 tháng cho mỗi khung hình (phim là 24 khung hình một giây) vào lúc đầu và tăng lên dần dần sau đó. Tweet đầu tiên được biết là liên quan đến bộ phim là một tweet vào ngày 21 tháng 7 năm 2018, về Pangaea Ultima, một sự kiện có trong phim. Dòng tweet đầu tiên đề cập rõ ràng đến việc sản xuất bộ phim đã được đăng vào ngày 10 tháng 10, cũng như một dòng tweet khác gián tiếp đề cập đến phần kết của bộ phim 8 ngày sau đó. Đoạn teaser đầu tiên được đăng trên Patreon và Vimeo của Boswell vào ngày 1 tháng 2 năm 2019, tiếp theo là một thông báo trên Patreon, đề cập bộ phim là "bản phát hành đầy tham vọng nhất của tôi" ("my most ambitious release yet"). Một hình ảnh về một cảnh trong phim đã bị rò rỉ trên Twitter của Boswell vào ngày 15 tháng 3, tiếp theo là một đoạn giới thiệu dài 70 giây vào ngày hôm sau. Bộ phim đã được phát hành trên kênh YouTube Melodysheep của Boswell vào ngày 20 tháng 3, 17:15 UTC. Phim được chiếu tại event venue 393, thành phố New York vào ngày 2 tháng 5, sử dụng định dạng nhiều màn hình nhưng bộ đếm năm (year counter) không nhìn thấy được; những Patron của Boswell đã cung cấp vé miễn phí. Phim được chiếu một lần khác tại Exploratorium, San Francisco, vào ngày 25 tháng 7 lúc 9:30 tối (theo giờ Thái Bình Dương), với buổi chiếu cuối cùng lồng tiếng bởi dự án Atomic Studio với phần lồng tiếng của Andrey Lysenko diễn ra tại Rodina Film Centre, St. Petersburg, Nga, vào ngày 3 tháng 11 lúc 6:30 chiều MSK. Một buổi thuyết trình được tổ chức tại Treefort Music Fest lẽ ra sẽ diễn ra vào ngày 28 tháng 3 năm 2020, nhưng đã bị hoãn lại đến ngày 23 tháng 9 hoặc 2021 do đại dịch COVID-19.
19822080
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822080
Bá tước xứ Jersey
Bá tước xứ Đảo Jersey (tiếng Anh: "Earl of the Island of Jersey"), thường được rút ngắn và gọi tắt là Bá tước xứ Jersey, là một tước hiệu thuộc Đẳng cấp quý tộc Anh. Nó được nắm giữ bởi một nhánh của gia tộc Villiers, mà từ năm 1819 là gia tộc Child Villiers. Tước hiệu được tạo ra vào năm 1697, dưới thời của Vua William III, và được trao cho Edward Villiers, Tử tước Williers thứ nhất, người giữ chức Đại sứ Anh tại Pháp từ năm 1698 đến 1699 và Ngoại trưởng từ năm 1699 đến năm 1700. Tước vị được lấy theo Đảo Jersey, Địa hạt Jersey, một lãnh địa vương quyền của Anh nằm ở Eo biển Manche. Bá tước xứ Jersey đã truyền đời được đến tận ngày nay, hiện đã là đời thứ 10 và vị Bá tước đang tại nhiệm là William Child Villiers.
19822099
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822099
Stenocereus
Stenocereus (tiếng Hy Lạp "stenos", hẹp, tiếng Latin "cereus", nến) là một chi xương rồng. là loài bản địa của vùng Bán đảo Baja California và các phần khác của México, Arizona ở Hoa Kỳ, Colombia, Costa Rica, Guatemala, Venezuela và Tây Ấn. Chi này đã được mở rộng bằng cách bổ sung các loài từ một số chi khác. Một họ hàng gần là chinoa đặc biệt hoặc xương rồng chende, "Polaskia chende". Những bông hoa chủ yếu được mọc gần đỉnh của thân cây và chủ yếu mọc về đêm. Các loài trong chi này được coi là dễ trồng và thường phát triển chậm. "Stenocereus thurberi" là một thành viên nổi tiếng của chi này và phân bố rộng rãi ở Arizona và miền bắc México. Quả tương tự như quả thanh long. Loài "Stenocereus gummosus", có tính acid và thường rất tươi, rất được người Seris ở tây bắc México ưa chuộng, họ gọi cây xương rồng "ziix là ccapxl"  - "thứ có quả chua". Chi này thường được biết đến trong tiếng Tây Ban Nha là "pitaya agria", có nghĩa là "thanh long chua". "S. griseus", được người dân địa phương gọi là "iguaraya" và được người Wayuu từ Bán đảo La Guajira của Colombia thưởng thức. Chi này có các loài sau:
19822100
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822100
Bá tước xứ Cardigan
Bá tước xứ Cardigan (tiếng Anh: "Earl of Cardigan") là một tước hiệu thuộc Đẳng cấp quý tộc Anh, hiện do Hầu tước xứ Ailesbury nắm giữ, và được sử dụng như một tước hiệu lịch sự bởi người thừa kế rõ ràng của Hầu tước đương nhiệm, hiện là David Brudenell-Bruce, Bá tước xứ Cardigan, con trai của Hầu tước thứ 8. Gia tộc Brudenell là hậu duệ của Ngài Robert Brudenell, Chánh án của Common Pleas từ năm 1520 đến năm 1530 (toà án thông luật cao thứ 2 ở Anh cho đến năm 1875). Chắt của ông, Ngài Thomas Brudenell, được trao tước vị Nam tước, của xứ Deene ở Hạt Northampton", vào ngày 29 tháng 6 năm 1611. Vào ngày 26 tháng 2 năm 1628, ông được nâng lên hàng Đẳng cấp quý tộc Anh với tư cách là Nam tước Brudenell, của Stanton Wyvill ở Hạt Leicester, và vào ngày 20 tháng 4 năm 1661, ông được vinh danh hơn nữa khi được phong làm Bá tước xứ Cardigan, cũng trong Đẳng cấp quý tộc Anh.
19822104
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822104
Super Top Model po-ukrainsky, Mùa 7
Super Top Model po-ukrainsky, Mùa 7 là mùa thứ bảy của Top Model po-ukrainsky được dựa theo "America's Next Top Model" của Tyra Banks. Alla Kostromichova, Sergiy Nikityuk và Sonya Plakidyuk quay lại làm giám khảo cho mùa này còn Volodimir Demchinskiy sẽ không còn là giám khảo nữa và sẽ thay thế ông là một vị giám khảo khách mời ở mỗi tập. Trong mùa này, một lần nữa sẽ không có thí sinh nam tham gia trong mùa này. Thí sinh của mùa 1, Tanya Bryk là quán quân của mùa này. Cô giành được: Mùa thi này được gọi là mùa giải All-Stars vì đây là mùa thi dành cho những thí sinh đã từng tham gia các mùa trước của chương trình. 20 người đại diện cho cả 6 mùa thi của Supermodel po-ukrainsky & Top Model po-ukrainsky đã được chọn thông qua cuộc bình chọn của khán giả trên website của chương trình và cho thêm 1 cơ hội thứ 2 để giành chiến thắng cuộc thi. Tuy nhiên, có một số thí sinh khác cũng được chọn vào mùa thi này nhưng họ đã từ chối.
19822105
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822105
Bá tước xứ Denbigh
Bá tước xứ Denbigh (tiếng Anh: "Earl of Denbigh"; phát âm là 'Denby') là một tước hiệu trong Đẳng cấp quý tộc Anh. Nó được tạo ra vào năm 1622 cho William Feilding, Tử tước Feilding, một cận thần, đô đốc và là anh rể của George Villiers, Quận công Buckingham thứ nhất, người nắm nhiều quyền lực đương thời. Tước hiệu được đặt theo tên của thị trấn Denbigh ở hạt Denbighshire, xứ Wales. Kể từ thời của bá tước thứ ba (1640), Bá tước xứ Denbigh cũng đã giữ tước hiệu Bá tước xứ Desmond, trong Đẳng cấp quý tộc Ireland. Trụ sở của gia tộc bá tước là Newnham Paddox, ở giáo xứ Monks Kirby, Warwickshire. Bá tước đời thứ 8 cải sang Công giáo La Mã trong những năm 1850, theo đó gia đình vẫn giữ đức tin. Bá tước là một trong những tước vị cha truyền con nối có quyền ngồi trong Viện Quý tộc đã bị loại bỏ bởi Đạo luật Viện Quý tộc 1999.
19822109
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822109
Thể thao điện tử tại Đại hội Thể thao châu Á 2018 - Giải đấu Liên Minh Huyền Thoại
Thể thao điện tử Liên Minh Huyền Thoại tại Đại hội Thể thao châu Á 2018 sẽ là một nội dung thi đấu biểu diễn được tranh tài từ ngày 27 tháng 8 năm 2018 đến ngày 29 tháng 8 năm 2018. Đây là lần đầu tiên bộ môn Liên Minh Huyền Thoại được đưa vào thi đấu chính thức tại 1 sự kiện thể thao đa môn. 8 đội tuyển sẽ được chia thành 2 bảng, mỗi bảng có 4 đội. 2 đội có thành tích tốt nhất của 2 bảng sẽ giành quyền vào vòng loại trực tiếp.
19822111
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822111
Giáo phận Copenhagen
Giáo phận Copenhagen (; ) là một giáo phận của Giáo hội Latinh trực thuộc Giáo hội Công giáo Rôma ở Đan Mạch. Giáo phận được đặt tên theo nơi đặt tòa giám mục là thủ đô Copenhagen của Đan Mạch. Địa giới giáo phận bao gồm toàn bộ nước này, trong đó có cả hai lãnh thổ hải ngoại, quần đảo Faroe và Greenland. Có khoảng 36.000 (0,7%) giáo dân trong giáo phận trên tổng dân số 5.516.597.
19822113
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822113
Heo (định hướng)
Heo có thể là:
19822125
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822125
Bầu cử tổng thống Hoa Kỳ 1880
Cuộc bầu cử tổng thống Hoa Kỳ năm 1880 là cuộc bầu cử tổng thống bốn năm một lần lần thứ 24, được tổ chức vào Thứ Ba, ngày 2 tháng 11 năm 1880. Ứng cử viên Đảng Cộng hòa James A. Garfield đã đánh bại Winfield Scott Hancock của Đảng Dân chủ. Tỷ lệ cử tri đi bầu trong cuộc bầu cử này cao bậc nhất trong lịch sử Hoa Kỳ. 8 tháng sau đó, vào ngày 2 tháng 7 năm 1881, Garfield bị ám sát và qua đời tháng sau đó vào ngày 19 tháng 9, Phó Tổng thống Chester A. Arthur nhậm chức và kế vị Garfield ngay sau đó. Tổng thống đương nhiệm Rutherford B. Hayes trước đó đã tuyên bố không ra tái tranh cử. Sau đại hội đảng dài nhất trong lịch sử, các đảng viên Cộng hòa đã chọn Dân biểu Garfield từ Ohio làm ứng cử viên Tổng thống của họ. Trong khi đó, Đảng Dân chủ đã chọn Tướng Winfield Scott Hancock từ Pennsylvania làm ứng cử viên của mình. Vị thế thống trị của hai đảng Dân chủ và Cộng hòa đã lung lay dữ dội khi một đảng cánh tả mới nổi, Đảng Đồng bạc xanh, đề cử một vị tướng Nội chiến khác làm ứng cử viên Tổng thống, Dân biểu từ Iowa James B. Weaver. Trong một cuộc bầu cử với các chủ đề tranh luận chính xoay quanh các vấn đề như Nội chiến Hoa Kỳ, thuế quan và người Mỹ gốc Hoa, Garfield thắng cả phiếu đại cử tri và phiếu phổ thông với cách biệt sít sao. Ông và Hancock mỗi người chỉ chiếm hơn 48% tổng số phiếu phổ thông, trong khi Weaver và hai ứng cử viên đảng nhỏ khác, Neal Dow và John W. Phelps, thắng số phiếu còn lại. Cuối cùng, cách biệt số phiếu phổ thông của hai ứng cử viên chính là 1.898 phiếu (tương ứng với 0,11%), cách biệt nhỏ nhất trong phiếu phổ thông từng được ghi nhận. Tuy nhiên, trong cử tri đoàn, cách biệt chiến thắng của Garfield lớn hơn nhiều; ông đã giành chiến thắng quyết định ở bang New York với 21.033 phiếu bầu (tương ứng với 1,91%). Dù thắng tất cả các bang miền Nam nhưng điều đó là không đủ để Hancock giành chiến thắng, nhưng nó đánh dấu sự khởi đầu của sự thống trị của đảng Dân chủ tại miền Nam trong nhiều thập kỷ tiếp theo. Đây cũng là cuộc bầu cử thứ hai mà hai ứng cử viên (nhận được phiếu đại cử tri) thắng số bang bằng nhau. Điều này cũng xảy ra vào năm 1848 và 2020. Đây là chiến thắng cuối cùng trong chuỗi 6 chiến thắng trong các cuộc bầu cử tổng thống liên tiếp của Đảng Cộng hòa. Đây cũng là lần đầu tiên người dân ở mọi bang có thể bỏ phiếu trực tiếp cho các đại cử tri bầu tổng thống. Hai đảng chính là Đảng Cộng hòa và Đảng Dân chủ, và sau khi Kỷ nguyên Tái thiết chấm dứt vào năm 1877, cử tri toàn quốc đã luôn bầu cho ứng cử viên từ 1 trong 2 đảng này. Cử tri đi bầu không bầu cho ứng cử viên dựa trên ý thức hệ của họ; mà thay vào đó dựa trên sắc tộc và tôn giáo của mình, cũng như lòng trung thành với Nội chiến của các ứng cử viên. Hầu hết những người theo đạo Tin lành miền Bắc và người miền Nam da đen bầu cho Đảng Cộng hòa. Mặt khác, người miền Nam da trắng và người Công giáo miền Bắc thường bỏ phiếu cho Đảng Dân chủ. Bản vị vàng và thuế quan đối với hàng nhập khẩu đã chia rẽ nội bộ các đảng lớn. Cuộc tranh luận về tiền tệ chủ yếu xoay quanh giá trị của đồng đô la Mỹ. Trước Nội chiến, hầu hết các giao dịch trái phiếu chính phủ vẫn dựa trên việc sử dụng vàng và bạc, song, khi Nội chiến bùng nổ, chi phí cho chiến tranh ngày càng tăng buộc Quốc hội Hoa Kỳ phải phát hành cái được gọi là "đồng bạc xanh". Dù đồng bạc xanh đã giúp chi trả phần nào các khoản dùng cho chiến tranh nhưng nó làm tình trạng lạm phát trở nên nghiêm trọng hơn bao giờ hết. Khi Nội chiến kết thúc, các chủ nợ tại miền Bắc muốn quay trở lại sử dụng vàng và bạc. Tuy nhiên, những con nợ (đặc biệt là ở miền Nam và miền Tây) lại muốn duy trì "đồng bạc xanh" do lạm phát sẽ làm giảm giá trị của đồng đô la Mỹ, từ đó, làm giảm giá trị thực các khoản nợ của họ. Vấn đề này gây ra chia rẽ trong nội bộ các 2 đảng, cuối cùng dẫn đến sự ra đời của Đảng Đồng bạc xanh vào năm 1876. Cuộc tranh luận về tiền tệ trở nên căng thẳng hơn khi Quốc hội ban hành Đạo luật Tiền tệ năm 1873, ngừng lưu thông "đồng bạc xanh" và trở lại sử dụng vàng vào năm 1879. Khi cuộc bầu cử năm 1880 bắt đầu, vàng được sử dụng rộng rãi để chi trả cho các khoản phí tranh cử dù vấn đề về "đồng bạc xanh" vẫn chưa được giải quyết dứt điểm. Chính sách thuế quan là nguyên nhân chính dẫn đến xung đột giữa các đảng vào cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20. Trong Nội chiến, Quốc hội đã nâng mức thuế nhập khẩu cao hơn để một phần chi trả cho chiến tranh, một phần là do các bang miền Bắc ủng hộ Liên bang có chính sách thuế quan giống vậy. Mức thuế cao có nghĩa là hàng hóa nước ngoài đắt hơn, giúp các doanh nghiệp nội địa Mỹ bán hàng dễ dàng hơn. Đảng Cộng hòa ủng hộ mức thuế cao như một cách để bảo vệ việc làm của người Mỹ cũng như giúp tăng cường sự thịnh vượng cho đất nước. Trái lại, Đảng Dân chủ lên án điều này là lý do làm giá hàng hóa tăng cao, trong khi lợi nhuận lớn cho chính phủ liên bang là điều không cần thiết sau khi Nội chiến kết thúc. Tuy nhiên, các đảng viên Đảng Dân chủ miền Bắc từ các bang thiên về sản xuất, đặc biệt là ở Pennsylvania, lại ủng hộ mức thuế cao. Để đoàn kết nội bộ đảng, thượng tầng mỗi đảng đều tránh các câu hỏi về vấn đề này càng nhiều càng tốt. Trong cuộc bầu cử năm 1876, Rutherford B. Hayes của Đảng Cộng hòa từ Ohio đã đánh bại Samuel J. Tilden của Đảng Dân chủ từ New York trong một trong những cuộc bầu cử tổng thống tranh cãi nhất trong lịch sử Hoa Kỳ. Kết quả ban đầu cho thấy Đảng Dân chủ giành chiến thắng, nhưng số phiếu đại cử tri của một số bang miền Nam bị tranh chấp gay gắt. Cả hai đảng trong Quốc hội đã đồng ý thành lập Ủy hội Bầu cử mà cuối cùng đã trao toàn bộ số phiếu bị tranh chấp cho Hayes, giúp ông đắc cử Tổng thống. Đối với các đảng viên Đảng Dân chủ, "cuộc bầu cử bị đánh cắp" đã trở thành một khẩu hiệu phổ biến trong nội bộ Đảng Dân chủ, vốn chiếm đa số trong Hạ viện và đã dành phần lớn thời gian trong năm 1878 để điều tra nó, mặc dù họ không đưa ra được bất kỳ bằng chứng mới nào chống lại kẻ thù Đảng Cộng hòa của họ. Thoạt đầu, Tilden được coi là ứng cử viên hàng đầu để ứng cử Tổng thống năm 1880. Đối với giới thượng tầng Đảng Cộng hòa, lễ nhậm chức của Hayes năm 1877 báo hiệu sự khởi đầu việc tranh giành đề cử của đảng vào năm 1880 do ngay cả trước khi đắc cử, Hayes đã cam kết không tranh cử nhiệm kỳ thứ hai, để ngỏ con đường tái tranh cử vào Nhà Trắng vào năm 1880. Việc lựa chọn Nội các của ông làm phật ý giới thượng tầng của đảng mình, làm Đảng Cộng hòa bị chia rẽ giữa phe ủng hộ Thượng nghị sĩ từ New York Roscoe Conkling và phe ủng hộ Thượng nghị sĩ từ Maine James G. Blaine. Các đảng soạn cương lĩnh và đề cử các ứng cử viên của họ tại các đại hội đảng, nhóm họp vào mùa hè trước cuộc bầu cử. Đại hội của Đảng Cộng hòa triệu tập lần đầu tại Chicago, Illinois, vào ngày 2 tháng 6. Trong số những người tranh đề cử của Đảng Cộng hòa, ba ứng cử viên nặng ký nhất trước đại hội là cựu Tổng thống Ulysses S. Grant, Thượng nghị sĩ James G. Blaine và Bộ trưởng Ngân khố John Sherman. Grant từng là tướng tư lệnh Lục quân hàng đầu của lực lượng miền Bắc trong Nội chiến, và đã phục vụ 2 nhiệm kỳ tổng thống từ năm 1869 đến năm 1877. Ông đang cố gắng tranh cử nhiệm kỳ thứ 3 chưa từng có tiền lệ. Ông được ủng hộ bởi phe Conkling trong Đảng Cộng hòa, bấy giờ được gọi là phái Stalwarts. Họ phản đối cải cách công vụ, điều mà Tổng thống Hayes hướng đến. Blaine, một thượng nghị sĩ và cựu dân biểu từ Maine, được hỗ trợ bởi phái Half-Breed trong đảng, vốn ủng hộ cải cách công vụ. Sherman, em trai của Tướng William Tecumseh Sherman trong Nội chiến, là cựu thượng nghị sĩ từ Ohio và khi ấy đang phục vụ trong nội các của Hayes. Ông được chống lưng bởi một phe phái nhỏ hơn nhưng không ủng hộ 2 phái lớn. Trong lần bỏ phiếu đầu tiên, Grant và Blaine lần lượt nhận được 304 và 285 phiếu bầu, trong khi Sherman nhận được 93. Không ứng cử viên nào đến gần với chiến thắng, và nhiều lần bỏ phiếu tiếp diễn để xác định người chiến thắng. Nhiều lần bỏ phiếu khác đã diễn ra, nhưng không có ứng cử viên nào giành chiến thắng. Sau lần phiếu thứ 35, Blaine và Sherman chuyển sang ủng hộ ứng cử viên "ngựa ô" mới, Dân biểu James A. Garfield từ Ohio. Ở lần bỏ phiếu tiếp theo, Garfield được đề cử làm Tổng thống khi giành được 399 phiếu bầu, hầu hết đến từ phái ủng hộ Blaine và Sherman. Để xoa dịu phái Grant, những người ủng hộ Garfield ở Ohio đề nghị Levi P. Morton làm Phó Tổng thống. Morton từ chối sau khi nghe lời khuyên của Conkling. Do đó, họ đề cử Chester A. Arthur, một thành viên của phái Stalwart khác đến từ New York. Conkling cũng khuyên ông từ chối, nhưng ông lại chấp nhận đề cử. Ông được đề cử, và Đại hội toàn quốc kéo dài nhất lịch sử Đảng Cộng hòa bế mạc vào ngày 8 tháng 6 năm 1880. Cuối tháng đó, Đảng Dân chủ tổ chức đại hội của họ ở Cincinnati, Ohio. 6 người tranh đề cử của đảng và một số người khác nhận được phiếu bầu từ các đại biểu. Trong số này, 2 ứng cử viên hàng đầu là Thiếu tướng Winfield Scott Hancock từ Pennsylvania và Thượng nghị sĩ Thomas F. Bayard từ Delaware. Tilden không chính thức là một ứng cử viên, nhưng ông ấy vẫn có ảnh hưởng rất lớn đối với đại hội. Bản thân Tilden không rõ liệu mình có nên tham gia một cuộc bầu cử nữa hay không, dẫn đến việc một số đại biểu ủng hộ ông quay sang ủng hộ ứng cử viên khác, trong khi những đại biểu khác vẫn trung thành với ông. Khi đại hội khai mạc, một số đại biểu ủng hộ Bayard, một thượng nghị sĩ bảo thủ, trong khi những người khác ủng hộ Hancock, một quân nhân chuyên nghiệp và anh hùng trong thời Nội chiến. Một số người khác ủng hộ những người mà họ coi là người thay thế cho Tilden, bao gồm Henry B. Payne từ Ohio, luật sư và cựu nghị sĩ, và Samuel J. Randall từ Pennsylvania, Chủ tịch Hạ viện Hoa Kỳ. Lần bỏ phiếu đầu tiên bất phân phân thắng bại, với Hancock và Bayard dẫn đầu. Trước lần bỏ phiếu thứ hai, Tilden dương như đã rút khỏi cuộc đua; các đại biểu sau đó chuyển sang ủng hộ Hancock, người sau cùng đã giành được đề cử. William Hayden English, một chính trị gia bảo thủ và doanh nhân đến từ bang Indiana, được đề cử làm Phó Tổng thống. Đại hội Đảng Đồng bạc xanh đã triệu tập tại Chicago vào giữa tháng 6, sử dụng hội trường do Đảng Cộng hòa vừa sử dụng trước đó. Đảng mới tham gia chính trường vào năm 1880, được thành lập sau khi tình trạng suy thoái kinh tế xảy ra sau Khủng hoảng năm 1873, chủ yếu ở miền Tây và miền Nam Hoa Kỳ. Trong Nội chiến, Quốc hội đã cho lưu thông "đồng bạc xanh ", một hình thức tiền có thể mua lại bằng trái phiếu chính phủ, thay vì bằng vàng như truyền thống. Sau chiến tranh, nhiều đảng viên Đảng Dân chủ và Cộng hòa ở miền Đông tìm cách quay trở lại hệ thống bản vị vàng, và chính phủ bắt đầu ngừng lưu thông "đồng bạc xanh". Việc giảm nguồn cung tiền, kết hợp với suy thoái kinh tế, khiến cuộc sống của những con nợ, nông dân và lao động công nghiệp trở nên khó khăn hơn; Đảng Đồng bạc xanh hy vọng sẽ thu hút được sự ủng hộ từ các nhóm này. Ngoài sự ủng hộ của họ đối với một nguồn cung tiền lớn hơn, họ còn ủng hộ ngày làm việc tám giờ cũng như các quy định về an toàn trong các nhà máy và chấm dứt sử dụng lao động trẻ em. 6 người tham gia tranh đề cử của đảng Đồng bạc xanh. James B. Weaver, một dân biểu từ Iowa và là tướng trong Nội chiến, rõ ràng là người được yêu thích nhất, nhưng hai dân biểu khác, Benjamin F. Butler từ Massachusetts và Hendrick B. Wright từ Pennsylvania, cũng có lượng người ủng hộ đáng kể. Weaver giành chiến thắng trong gang tấc khi giành được đa số trong tổng số 850 phiếu bầu của đại biểu trong lần bỏ phiếu đầu tiên. Barzillai J. Chambers, một doanh nhân Texas và là cựu chiến binh cho Liên minh miền Nam, cũng được đề cử làm Phó Tổng thống trong lần bỏ phiếu đầu tiên. Hỗn loạn hơn cả là cuộc chiến soạn cương lĩnh của đảng, khi các đại biểu từ các phe phái khác nhau của phong trào cánh tả xung đột về vấn đề quyền bầu cử của phụ nữ, người Mỹ gốc Hoa và ngày làm việc tám giờ. Một đại hội của Đảng Cấm rượu cũng họp vào tháng đó tại Cleveland, Ohio. Những người theo chủ nghĩa Cấm rượu, giống một phong trào hơn là một đảng, tập trung nỗ lực vào việc cấm rượu. Hầu hết đảng viên là những người ngoan đạo, và hầu hết từng là đảng viên Cộng hòa. Chỉ có 12 bang cử đại biểu đến dự đại hội, và cương lĩnh mà họ thông qua im lặng về hầu hết các vấn đề thời đó, thay vào đó tập trung vào tệ nạn sử dụng rượu. Đối với vị trí Tổng thống, những người theo chủ nghĩa Cấm rượu đã đề cử Neal Dow, một vị tướng thời Nội chiến đến từ Maine. Với tư cách là thị trưởng của Portland, Dow đã giúp thông qua "luật Maine", cấm bán rượu trong toàn thành phố; trở thành hình mẫu cho các luật cấm rượu trên khắp đất nước. Cuối cùng, một Đảng Chống Hội Tam điểm vừa tái lập đã đề cử John W. Phelps, một vị tướng khác trong Nội chiến, thông qua cương lĩnh phản đối Hội Tam điểm. Các nhà quan sát chính trị cho rằng Weaver rất ít cơ hội giành chiến thắng, còn Dow và Phelps thì cơ hội bằng không. James Abram Garfield lớn lên trong hoàn cảnh khiêm tốn tại một trang trại ở Ohio bởi người mẹ góa bụa của mình. Khi còn trẻ, ông đã làm nhiều công việc khác nhau, kể cả trên lái sà lan. Bắt đầu từ năm 17 tuổi, ông theo học tại Đại học Williams ở Williamstown, Massachusetts, tốt nghiệp năm 1856. Một năm sau, Garfield gia nhập Đảng Cộng hòa. Ông kết hôn với Lucretia Rudolph vào năm 1858, và từng là thành viên của Thượng viện Bang Ohio (1859–1861). Garfield phản đối các bang miền Nam ly khai, từng giữ hàm Thiếu tướng trong Quân đội Liên bang trong Nội chiến, và tham chiến trong các trận Middle Creek, Shiloh và Chickamauga. Năm 1862, ông được bầu làm Dân biểu Hoa Kỳ đại diện cho Khu 19, Ohio. Trong suốt thời gian phục vụ trong Quốc hội sau Nội chiến, ông kiên quyết ủng hộ chế độ bản vị vàng và nổi tiếng là một nhà hùng biện tài ba. Garfield ban đầu đồng ý với quan điểm của đảng viên Cộng hòa cấp tiến về Tái thiết, nhưng sau đó ủng hộ cách giải quyết ôn hòa hơn nhằm thực thi quyền công dân cho các cựu nô lệ. Sau khi được đề cử, Garfield đã gặp gỡ giới thượng tầng của đảng với nỗ lực hàn gắn sự chia rẽ giữa phái Stalwarts và phái Half-Breed. Trong lá thư chấp nhận đề cử của mình, được viết với lời khuyên từ một số nhà lãnh đạo đảng, ông tán thành ý tưởng về thuế quan cao và bình định giá tiền, nhưng chú ý hơn cả đến vấn đề nhập cư của người Trung Quốc và cải cách công vụ. Với cả hai vấn đề này, Garfield tìm kiếm tiếp cận một cách ôn hòa. Ông kêu gọi hạn chế tuân theo các hiệp định cũ với chính quyền Trung Hoa bằng cách tái đàm phán với họ. Về cải cách công vụ, dù nói rằng ông đồng ý với vấn đề này, nhưng lại hứa sẽ bổ nhiệm người phụ trách vấn đề này với sự tham vấn của giới tinh hoa của đảng, vốn phản đối vấn đề này, một quan điểm mà nhà viết tiểu sử thế kỷ 20 Allan Peskin gọi là "không nhất quán". Theo truyền thống vào thời điểm đó, Garfield trở về nhà của mình trong suốt thời gian diễn ra cuộc bầu cử và để việc vận động tranh cử cho những diễn giả khác của đảng. Winfield Scott Hancock sinh ra và lớn lên ở Pennsylvania. Ông theo học tại Học viện Quân sự Hoa Kỳ ở West Point và phục vụ trong Quân đội trong 4 thập kỷ, bao gồm cả việc tham chiến trong Chiến tranh Mỹ-Mễ và với giữ hàm Thiếu tướng của Liên bang trong Nội chiến. Được các đồng nghiệp trong Lục quân gọi là "Hancock Cao ngạo", ông đặc biệt được chú ý vì khả năng lãnh đạo cá nhân của mình trong Trận Gettysburg năm 1863, nơi ông chỉ huy lực lượng Pickett's Charge và bị thương trong trận này. Ông tiếp tục phục vụ quân sự sau Nội chiến khi tham gia vào Tái thiết quân sự tại miền Nam và hiện diện tại biên giới miền Tây. Trong quá trình Tái thiết, ông đã đứng về phía Tổng thống lúc bấy giờ là Andrew Johnson, ủng hộ rút quân nhanh chóng khỏi miền Nam và cho phép tái lập các chính quyền bang trước chiến tranh. Hancock nổi tiếng với tư cách là một anh hùng chiến tranh tại Gettysburg, hơn nữa còn là một Đảng viên Đảng Dân chủ nổi bật với lòng trung thành sắt đá với Liên bang cũng như quan điểm ủng hộ quyền của các bang, khiến ông trở thành ứng cử viên Tổng thống hoàn hảo cho đảng Dân chủ. Hancock chính thức được đề cử vào tháng 7. Như Garfield đã làm, ứng cử viên Đảng Dân chủ tìm cách tiếp cận các vấn đề một cách ôn hòa mà không gây tranh cãi, điều mà theo người viết tiểu sử David M. Jordan là "nhạt nhẽo và chung chung". Đảng Cộng hòa đã nắm quyền liên tục từ năm 1860 đến tận thời điểm đó, buộc Hancock phải tìm cách xoa dịu lo ngại rằng một Tổng thống Đảng Dân chủ sẽ đảo ngược kết quả của Nội chiến và Tái thiết, một chiến lược tranh cử phổ biến của Đảng Cộng hòa. Không giống như Garfield, Hancock không có bất kỳ kinh nghiệm nào với các chức vụ dân cử, nhưng lá thư chấp nhận đề cử của ông không cho biết rõ ràng sở thích chính trị của ông. Hancock tiếp tục tại ngũ trong suốt chiến dịch tranh cử tại Đảo Thống đốc ở Cảng New York. James Baird Weaver sinh ra ở Ohio và chuyển đến Iowa khi còn nhỏ khi gia đình anh đòi một ngôi nhà ở biên giới. Ông bắt đầu hoạt động chính trị khi còn trẻ và là người ủng hộ quyền của nông dân và người lao động, đã từng tham gia và rời bỏ một số đảng phái chính trị để hiện thực hóa lý tưởng của ông. Sau khi phục vụ trong Quân đội Liên bang trong Nội chiến, Weaver trở lại Iowa và làm việc cho chiến dịch tranh cử của các ứng cử viên Đảng Cộng hòa. Sau nhiều nỗ lực không thành công trong việc giành đề cử của Đảng Cộng hòa vào các chức vụ khác nhau và ngày càng không hài lòng với phe bảo thủ của đảng, vào năm 1877, Weaver chuyển sang Đảng Đồng bạc xanh, ủng hộ việc tăng nguồn cung tiền và gia tăng các quy định đối với các doanh nghiệp lớn. Là một đảng viên Đảng đồng bạc xanh, với sự ủng hộ của đảng Dân chủ, Weaver thắng cử vào Hạ viện năm 1878. Không giống như các ứng cử viên chính của 2 đảng lớn, Weaver, thay vì lui về nhà, đã có nhiều bài phát biểu trên khắp đất nước. Đồng tranh cử của ông, Chambers, cũng làm như vậy, cho đến khi bị ngã từ một chuyến tàu vào tháng 7 khiến ông bị tàn tật trong suốt thời gian của cuộc bầu cử. Vì Đảng Đồng bạc xanh là đảng duy nhất có liên danh tranh cử bao gồm một người miền Nam, ông ấy hy vọng sẽ thắng nhiều bang tại đây. Con đường dẫn đến chiến thắng của Weaver, vốn đã khó xảy ra, lại càng trở nên khó khăn hơn khi ông từ chối phối hợp tranh cử ở các bang mà sức mạnh của cả Đảng Dân chủ và Đồng bạc xanh có thể vượt qua Đảng Cộng hòa. Thông điệp về hòa nhập chủng tộc của đảng ông cũng báo trước khó khăn ở miền Nam, vì những đảng viên Đồng bạc xanh sẽ đối mặt với những trở ngại giống như những gì đảng viên Cộng hòa đã gặp phải khi đối mặt với tình trạng tước quyền bầu cử của người da đen ngày càng gia tăng. Hancock và các đảng viên Đảng Dân chủ dự kiến sẽ giành chiến thắng ở hầu hết các bang Miền Nam cứng rắn, trong khi phần lớn miền Bắc được coi là lãnh thổ an toàn cho Garfield và các đảng viên Cộng hòa; hầu hết chiến dịch sẽ liên quan đến một số bang dao động như New York và Indiana. Các cuộc bầu cử toàn quốc phần lớn được quyết định tại các bang dao động ở New York và Trung Tây. Sự khác biệt về lý tưởng giữa các ứng cử viên của các đảng lớn là rất ít, và các đảng viên Cộng hòa bắt đầu chiến dịch tranh cử với chủ đề quen thuộc, cái mà phe đối lập gọi là "vẫy chiếc áo đẫm máu", nhắc nhở các cử tri miền Bắc rằng Đảng Dân chủ phải chịu trách nhiệm về việc ly khai và 4 năm Nội chiến đẫm máu, và rằng nếu họ nắm quyền, họ sẽ đảo ngược thành quả của cuộc chiến đó, bôi nhọ của các cựu chiến binh Liên bang và trả lương hưu cho binh lính Liên minh từ ngân khố liên bang. Với 15 năm đã trôi qua kể từ khi Nội chiến kết thúc kết hợp với việc các tướng lĩnh của Liên bang đều được đề cử làm Tổng thống từ cả đảng lớn lẫn nhỏ, những vấn đề như lòng trung thành với Liên bang trong thời chiến không còn thu hút cử tri như trước. Về phần mình, Đảng Dân chủ đã vận động dựa trên sự nghiệp của các ứng cử viên. Họ tấn công Garfield vì mối liên hệ của ông với vụ bê bối Crédit Mobilier của Mỹ vào đầu những năm 1870, trong đó nhiều thành viên Quốc hội đã bị mua chuộc bởi tập đoàn Crédit Mobilier, một công ty xây dựng đường sắt. Liệu Garfield có trực tiếp tham gia hay không vẫn còn là một bí ẩn, nhưng các nhà viết tiểu sử hiện đại đồng ý rằng lời kể của ông rằng ông không liên quan tới tập đoàn này là không hoàn toàn trung thực. Các đảng viên Đảng Dân chủ sử dụng vụ việc như một cách nhằm nâng cao uy tín của Hancock, người, với tư cách là một sĩ quan quân đội chuyên nghiệp, không tham gia Quốc hội. Ít người trong Đảng Cộng hòa dám trực tiếp chỉ trích "anh hùng của Gettysburg", nhưng họ lập luận rằng Hancock là người không am tường về các vấn đề chính trị, và một số đồng đội cũ của ông ấy đã có những bài phát biểu chỉ trích về tính cách của ông. Đảng viên Đồng bạc xanh đã nhận thấy tầm quan trọng của lòng trung thành trong Nội chiến sâu sắc hơn cả khi họ tranh giành phiếu bầu ở các bang miền Nam. Weaver bắt đầu chuyến công du miền Nam vào tháng 7 và tháng 8. Mặc dù các đảng Đồng bạc xanh địa phương đã đạt được một số thành công gần đây, nhưng cấp đảng toàn quốc, với một cựu tướng lĩnh của Liên bang và cựu thành viên đảng Cộng hòa đứng đầu, đã vấp phải sự phản đối lớn. Đảng này vẫn cố lôi kéo các cử tri da đen đi bầu, đe dọa của đảng Dân chủ, vốn được những người da trắng ủng hộ, dẫn đến bạo lực, các cuộc biểu tình chống lại Weaver bùng nổ và họ đe dọa sẽ chống lại những người ủng hộ ông. Khi Weaver vận động tranh cử ở miền Bắc vào tháng 9 và tháng 10, các đảng viên Cộng hòa cáo buộc ông cố tình làm chia rẽ sự ủng hộ đối với đảng Cộng hòa để giúp đảng Dân chủ giành chiến thắng ở các bang vùng biên. Weaver còn từ chối phối hợp với các đảng viên Đảng Dân chủ để cùng nhau đánh bại Đảng Cộng hòa. Tuy nhiên, trong các cuộc đua cấp tiểu bang, các ứng cử viên Đồng bạc xanh thường phối hợp với các ứng cử viên Đảng Dân chủ để đánh bại các ứng cử viên Đảng Cộng hòa. Trong cuộc đua giành chức thống đốc bang vào tháng 9 ở Maine, một liên minh giữa 2 đảng đã đề cử Harris M. Plaisted, người đã đánh bại Thống đốc đương nhiệm đảng Cộng hòa trong gang tấc ở bang được coi là an toàn của đảng. Thất bại bất ngờ đã gây ra một cú sốc cho chiến dịch Garfield, và khiến họ phải suy nghĩ lại về chiến lược "vẫy chiếc áo đẫm máu" của mình. Sau thất bại ở Maine, Đảng Cộng hòa bắt đầu vận động tranh cử dựa trên các khác biệt về chính sách nhiều hơn. Điểm khác biệt lớn nhất giữa họ và Đảng Dân chủ là vấn đề về thuế quan khi Đảng Dân chủ tán thành "chỉ áp dụng thuế quan đối với ngân khố quốc gia". Đó là mức thuế sẽ chỉ được sử dụng để trang trải chi phí của chính phủ liên bang, và không được tăng để hỗ trợ các ngành cụ thể. Các nhà vận động tranh cử của Garfield đã sử dụng tuyên bố này để cho rằng Đảng Dân chủ không thông cảm với hoàn cảnh của những người lao động công nghiệp, nhóm được hưởng lợi từ mức thuế bảo hộ cao. Vấn đề thuế quan đã làm giảm sự ủng hộ đối với đảng Dân chủ ở các bang công nghiệp hóa phía Bắc - các bang quan trọng để quyết định số phận của đảng Dân chủ trong cuộc bầu cử. Hancock đã làm cho tình hình trở nên tồi tệ hơn khi cố gắng thể hiện lập trường ôn hòa, ông nói "vấn đề thuế quan là vấn đề của địa phương". Mặc dù không hoàn toàn không chính xác—các ưu đãi về thuế quan thường liên quan ít nhiều đến địa phương—nhưng tuyên bố này mâu thuẫn với cương lĩnh của Đảng Dân chủ và làm lộ ra việc Hancock không hiểu vấn đề. Sự thay đổi trong chiến thuật dường như có hiệu quả, khi các cuộc bầu cử cấp bang vào tháng 10 ở Ohio và Indiana mang lại chiến thắng cho Đảng Cộng hòa, khiến các Đảng viên Đảng Dân chủ lo lắng về cơ hội giành chiến thắng của họ vào tháng sau. Giới tinh hoa Đảng Dân chủ đã chọn English làm đồng tranh cử với Hancock vì ông nổi tiếng ở Indiana. Với thất bại cấp tiểu bang ở đây, một số người đã bàn về việc loại English ra khỏi đề cử Phó Tổng thống, nhưng ông ấy thuyết phục họ rằng trận thua vào tháng 10 là do các vấn đề ở cấp bang nhiều hơn và rằng liên danh của Đảng Dân chủ vẫn có thể thắng Indiana, ngay cả nếu thua ở Ohio, vào tháng 11. Trong những tuần cuối cùng trước cuộc bầu cử, vấn đề nhập cư của người Hoa đã làm nóng cuộc đua. Cả 2 đảng chính (cũng như Đảng Đồng bạc xanh) đều cam kết trong cương lĩnh của họ là hạn chế nhập cư người Hoa, đây là điều mà dân lao động bản địa ở các bang miền Tây ủng hộ vì càng nhiều người Hoa nhập cư đồng nghĩa tiền lương của họ cũng giảm theo. Tuy nhiên, vào ngày 20 tháng 10, một tờ báo của Đảng Dân chủ đã đăng một bức thư, được cho là của Garfield gửi cho một nhóm doanh nhân, cam kết duy trì mức nhập cư như thời điểm hiện tại để giữ mức lương của công nhân luôn ở mức thấp. Garfield tố cáo bức thư là một âm mưu chính trị, nhưng đã quá muộn vì hơn một trăm nghìn bản sao của tờ báo này đã được công khai tại California và Oregon. Sau khi bức thư bị vạch trần là giả mạo, người viết tiểu sử của Garfield, Peskin tin rằng nó thậm chí có thể mang lại phiếu bầu cho Đảng Cộng hòa ở miền Đông, nhưng nó có thể làm vị thế của ông suy giảm ở miền Tây. Cuộc bầu cử cực kỳ có kết quả rất sát sao, với tỷ lệ cử tri đi bỏ phiếu cao bậc nhất lịch sử. Đảng Dân chủ đã nắm chắc chiến thắng tại Miền Nam, cũng như hầu hết các bang vùng biên. Đảng Cộng hòa thắng được vùng Đông Bắc và Trung Tây, giành được các bang dao động quan trọng như New York, Ohio và Indiana. Đảng Cộng hòa đã giành được số phiếu đại cử tri 214 so với 155 của Đảng Dân chủ, nhưng cách biệt tổng phiếu bầu phổ thông là dưới 2000 trên tổng số hơn 9 triệu phiếu bầu được kiểm. Đảng Cộng hòa đã giành được Hạ viện với tỷ số 147–135, nhưng Thượng viện chia đều cho 2 đảng, với Phó Tổng thống bỏ phiếu phá vỡ thế hòa. Khi tất cả các lá phiếu được kiểm, Garfield và Hancock hơn kém nhau 2.000 phiếu bầu, đây là cách biệt trong phiếu phổ thông sít sao nhất trong lịch sử Hoa Kỳ. Các cử tri đã thể hiện mối quan tâm của họ đối với cuộc bầu cử này bằng cách đi bầu với số lượng kỷ lục; 78% cử tri đủ điều kiện đã bỏ phiếu, một trong những tỷ lệ lớn nhất trong lịch sử Hoa Kỳ. Mỗi ứng cử viên của đảng lớn chỉ giành được hơn 48% phiếu bầu. Weaver đã giành được hơn 3%, gấp 3 lần so với tổng số phiếu mà ứng cử viên Đảng Đồng bạc xanh giành được của 4 năm trước đó. Các ứng cử viên của đảng nhỏ khác có kết quả tệ hơn nhiều, khi Dow và Phelps lần lượt giành được 0,1 và 0,01%. Garfield đã thắng bang dao động quan trọng New York với cách biệt 20.000 phiếu bầu trong tổng số 1,1 triệu phiếu bầu ở đó. Các bang khác sít sao hơn nhiều; cách biệt chiến thắng của Hancock ở California chỉ là khoảng 144 phiếu bầu. Lá phiếu Đại cử tri đoàn dù dựa trên lá phiếu phổ thông ở từng bang nhưng do sử dụng hệ thống "được ăn cả, ngã về không" chứ không sử dụng cách tính tỷ lệ nên có tầm quan trọng hơn lá phiếu phổ thông. Đúng như dự đoán, Hancock đã thắng tất cả các bang miền Nam và vùng biên, trong khi Garfield thắng tất cả các bang còn lại, trừ New Jersey, nơi mà ông thua khi kém Hancock chỉ 2000 phiếu bầu. Cả hai ứng cử viên đều thắng 19 bang, nhưng chiến thắng của Garfield ở miền Bắc đông dân hơn đã đem về chiến thắng cho ông với tỷ số 214–155 đại cử tri đoàn. Sự phân chia phiếu bầu theo khu vực càng củng cố sâu sắc hơn việc Đảng Cộng hòa không thể thắng miền Nam sau Tái thiết, nhưng chứng minh rằng họ có thể giành chiến thắng mà không cần cạnh tranh ở đây. Ngay cả khi Weaver bắt tay với đảng Dân chủ, thì Hancock chỉ thắng thêm Indiana và đảng Cộng hòa vẫn chiếm đa số trong cử tri đoàn. Hancock tin chắc rằng đảng Cộng hòa thắng New York nhờ gian lận. Thiếu bằng chứng và ký ức về hỗn loạn trong cuộc bầu cử gây tranh cãi 4 năm trước đó, Đảng Dân chủ đã không truy tận gốc vấn đề này. California lần đầu tiên ủng hộ cho người thua đến từ Đảng Dân chủ, điều sẽ không xảy ra nữa cho đến năm 2000. Đảng Cộng hòa sẽ không giành chiến thắng nếu không có New Jersey và Delaware cho đến năm 2000. Nevada cũng lần đầu tiên bỏ phiếu cho ứng cử viên Đảng Dân chủ thua cuộc. Tại Virginia, sự chia rẽ trong Đảng Dân chủ về việc thanh toán các khoản nợ của tiểu bang đã dẫn đến việc hai phe phái cùng trong Đảng Dân chủ thực hiện các chiến dịch khác nhau tại đây, một là phái "Funder", ủng hộ trả hết khoản nợ; một là phái "Readjuster", không ủng hộ điều này. Cả 2 phe đều ủng hộ Hancock. Các đảng viên Cộng hòa ban đầu hy vọng sự chia rẽ có thể giúp Garfield giành được bang này, nhưng kết quả lại khác. Readjuster mang về cho Hancock 31.527 phiếu bầu, trong khi chỉ phe Funder đã mang về 96.449 phiếu bầu, đủ để đánh bại Đảng Cộng hòa, chỉ giành 84.020 phiếu bầu. Mặc dù Hancock đã giành được phần nhiều phiếu phổ thông của Georgia một cách dễ dàng, nhưng có sự bất thường trong số phiếu đại cử tri tại đây. Theo Điều II, Mục 1, khoản 3 của Hiến pháp, "Quốc hội có thể ấn định thời điểm lựa chọn các Đại cử tri, và ngày mà họ sẽ bỏ phiếu; ngày đó sẽ giống nhau trên toàn Hoa Kỳ." Năm 1792, Quốc hội ấn định ngày Đại cử tri đoàn sẽ bỏ phiếu vào thứ Tư đầu tiên của tháng 12, ngày này vào năm 1880 rơi vào ngày 1 tháng 12. Tuy nhiên, các đại cử tri Georgia đã không bỏ phiếu vào ngày 1 tháng 12, thay vào đó bỏ phiếu vào thứ Tư tuần sau, ngày 8 tháng 12. Quốc hội, sau đó, vẫn kiểm phiếu bầu của Georgia; nếu họ không làm như vậy, số phiếu đại cử tri của Hancock sẽ giảm xuống 144 chứ không phải 155. Các bang có cách biệt chiến thắng dưới 1% (15 phiếu đại cử tri): Các bang có cách biệt chiến thắng giữa 1% và 5% (131 phiếu đại cử tri) Các bang có cách biệt chiến thắng giữa 5% và 10% (58 phiếu đại cử tri) Khi Garfield nhậm chức vào tháng 3 năm 1881, sự chia rẽ của đảng Cộng hòa trước đó được hàn gắn một lần nữa tan rã. Garfield bổ nhiệm Blaine vào nội các, và phái Stalwart của Conkling trở nên khó chịu vì họ không có sự bảo trợ từ Tổng thống, ngay cả ở bang New York, quê hương của Conkling. Garfield đã bổ nhiệm William H. Robertson, một người ủng hộ cải cách công vụ, vào vị trí béo bở nhất trong chính quyền New York, và từ chối rút lại sự bổ nhiệm này bất chấp sự phản đối của Conkling; để đáp lại, Conkling và các đồng minh của ông đã đóng băng mọi quy trình lập pháp trong Thượng viện đang chia đều cho 2 đảng. Vào tháng 5, Conkling và Thượng nghị sĩ New York Thomas C. Platt từ chức khỏi Thượng viện để phản đối. Hai người thuộc phái Stalwart kỳ vọng cơ quan lập pháp New York sẽ bầu lại họ vào Thượng viện như một cách để cho thấy New York ủng hộ họ; dẫu vậy, cơ quan lập pháp bế tắc trong nhiều tháng, cuối cùng từ chối đưa 1 trong 2 người trở lại Thượng viện. Tuy nhiên, trước khi kết quả đó được thông cáo rộng rãi, Charles Guiteau, một người đàn ông tâm thần không ổn định tức giận vì thất nghiệp, đã bắn Garfield ở Washington, DC, vào ngày 2 tháng 7 năm 1881. Garfield vẫn sống sót thêm tháng trước khi qua đời vào ngày 19 tháng 9 năm 1881. Phó Tổng thống Chester A. Arthur, thành viên phái Stalwart từ New York, tuyên thệ nhậm chức kế nhiệm tổng thống vào đêm đó. Việc Garfield bị sát hại bởi một kẻ thất nghiệp đã tăng bật sự cần thiết của cải cách công vụ—và Arthur, dù là thành viên ủng hộ Conkling, ủng hộ cải cách công vụ. Năm 1883, đa số lưỡng đảng trong Quốc hội đã thông qua Đạo luật Cải cách Công vụ Pendleton để cải cách hệ thống tìm việc, và Arthur đã ký dự luật này thành luật. Quốc hội cũng giải quyết vấn đề người Hoa nhập cư, thông qua Đạo luật bài người Hoa năm 1882. Arthur ban đầu phủ quyết đạo luật này, mà ông tin rằng sẽ mâu thuẫn với hiệp ước giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc, nhưng cuối cùng đã ký một dự luật thỏa hiệp, cấm nhập cư người Hoa nhưng chỉ trong trong vòng 10 năm Thuế quan, một vấn đề chính trong suốt cuộc bầu cử, hầu như không thay đổi trong 4 năm sau đó, mặc dù Quốc hội đã thông qua một sửa đổi nhỏ sau đó. Sau nỗ lực nửa vời trong việc tìm kiếm đề cử vào năm 1884, Arthur về hưu và qua đời hai năm sau đó. Sách Bài báo
19822133
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822133
1989 (định hướng)
1989 là một năm theo lịch Gregorius. 1989 còn có thể là:
19822137
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822137
Khuon Sodary
Khuon Sodary (tiếng Khmer: ឃួន សុដារី; sinh ngày 8 tháng 11 năm 1952) là một chính trị gia người Campuchia. Bà là Đại biểu Quốc hội của tỉnh Kandal và là Phó Chủ tịch Quốc hội thứ hai lần thứ nhất từ năm 2012 đến năm 2014 và lần hai từ năm 2018 đến năm 2023. Bà sẽ đảm nhiệm chức vụ Chủ tịch Quốc hội vào năm 2023.
19822146
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822146
Khai Thành thạch kinh
Khai Thành thạch kinh (開成石經) hoặc thạch kinh thời Đường là một nhóm mười hai tác phẩm kinh điển Nho giáo thời kỳ đầu của Trung Quốc được chạm khắc trên bia đá theo lệnh của Đường Văn Tông vào năm 833–837 niên hiệu Khai Thành thời Đường để làm tài liệu tham khảo cho giới học giả. Các tác phẩm được ghi nhận gồm: Các tác phẩm kinh điển này với hơn 650.000 chữ Hán khắc hai mặt trên 114 phiến đá hiện được bảo quản trong Bảo tàng Bi Lâm ở Tây An, Trung Quốc. Được nhiều người coi là cuốn sách nặng nhất thế giới, những tấm bảng này cũng là một trong những bản sao hoàn chỉnh nhất của những tài liệu quan trọng về văn hóa Trung Quốc từng tồn tại. Kinh điển Nho giáo đã nhiều lần được khắc trên bia đá. "Hy Bình thạch kinh" hay "thạch kinh thời Hán" được thành lập tại nhà Thái học bên ngoài Lạc Dương vào năm 175–183. Khoảng 200.000 chữ Hán được khắc trên 46 tấm bia, bao gồm văn bản của bảy bộ kinh được công nhận vào thời điểm đó: "Kinh Dịch", "Kinh Thư", "Kinh Thi", "Lễ ký", "Kinh Xuân Thu", "Hiếu kinh" và "Luận ngữ". Chỉ còn sót lại một vài mảnh vỡ của những viên đá này. Kinh "Chính trị" () năm 241 ghi lại ba bộ kinh này bằng ba chữ in, nhưng những kinh điển này đã biến mất kể từ đó. Những bộ thạch kinh này bao gồm "Quảng chính" () (944), "Gia hữu" () (1061) và Thái học (1131). Suốt thời Tống, "Mạnh Tử" cũng được công nhận là một phần của tác phẩm kinh điển Nho giáo, tạo ra thập tam kinh. Nó còn nằm trong các bản khắc in vào năm 1789 dưới thời Càn Long nhà Thanh, thêm 30.000 chữ nữa trên 17 bảng khắc in. Bộ hoàn chỉnh gồm 190 bản khắc in chứa hơn 630.000 chữ được lưu giữ trong Khổng miếu, Bắc Kinh.
19822147
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822147
Khai Nguyên tạp báo
Khai Nguyên tạp báo (), là ấn phẩm chính thức xuất hiện lần đầu tiên trong niên hiệu Khai Nguyên thời Đường. Nó được mô tả là tờ báo viết hoặc công báo đầu tiên của Trung Quốc, và cũng là tờ tạp chí đầu tiên trên thế giới. Những người đặt mua tờ báo này chủ yếu là giới quan lại triều đình. Những tin tức chính trị, thời sự trong nước hàng ngày đều được biên tập viên sưu tầm, người viết thuê chép lại để gửi đi các tỉnh. Báo được in bằng tay trên lụa và xuất hiện trong khoảng thời gian từ năm 713 đến năm 734.
19822148
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822148
Thái Bình hoàn vũ ký
Thái Bình hoàn vũ ký (), hoặc "Địa lý phổ quát niên hiệu Thái Bình [976–983]," là chuyên khảo địa lý do học giả Nhạc Sử biên soạn dưới thời vua Tống Thái Tông nhà Bắc Tống. Toàn sách gồm 200 quyển, có chứa những mục từ viết về hầu hết các khu vực của Trung Quốc vào thời điểm xuất bản, hoàn chỉnh với địa danh và từ nguyên của chúng. Tác phẩm này nói chung tuân theo hệ thống phân định địa lý và hành chính thời Đường, chia Trung Quốc thành 13 "đạo" (), sau đó chia nhỏ hơn nữa thành các "châu" () và "huyện" () mang tính truyền thống hơn. Bởi vì phần lớn dựa trên các tác phẩm đời Đường, nên nó tạo thành một nguồn dữ liệu quan trọng cho việc nghiên cứu địa lý thời kỳ này. "Thái Bình hoàn vũ ký" thường ghi chép lại dân số tại các địa điểm, địa danh đáng chú ý và cấu trúc tôn giáo hoặc nghi lễ, phong tục tập quán và thông tin lịch sử cơ bản, đôi khi thêm thắt các chi tiết không có trong "Sử ký" của Tư Mã Thiên. Nó cũng đặt ra xu hướng bao gồm tiểu sử, trích dẫn văn học và nguồn tài liệu khác trong các tác phẩm địa lý của Trung Quốc.
19822149
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822149
Thái Bình ngự lãm
Thái Bình ngự lãm (), là bách khoa toàn thư khổng lồ về "loại thư" của Trung Quốc do một nhóm học giả biên soạn từ năm 977 đến năm 983. Bộ sách này được triều đình nhà Tống chỉ đạo việc biên soạn vào đầu thời Tống Thái Tông. Toàn sách được chia thành 1.000 tập và 55 phần, gồm khoảng 4,7 triệu chữ Hán. Nó thu thập trích dẫn từ khoảng 2.579 loại tài liệu khác nhau trải dài từ sách, thơ, ca dao, tục ngữ, bia ký cho đến các tác phẩm khác. Sau khi hoàn thành, Tống Thái Tông đã đọc xong bộ sách này chỉ trong vòng một năm với 3 tập mỗi ngày. "Thái Bình ngự lãm" được coi là một trong "Tống tứ đại thư". Nhóm biên soạn "Thái Bình ngự lãm" bao gồm: Thang Duyệt (湯悅), Trương Kị (張洎), Từ Huyền (徐鉉), Tống Bạch (宋白), Từ Dụng Tân (徐用賓), Trần Ngạc (陳鄂), Ngô Thục (吳淑), Thư Nhã (舒雅), Lã Văn Trọng (吕文仲), Nguyễn Tư Đạo (阮思道), Hỗ Mông (扈蒙), Lý Phưởng (李昉) và những người khác. Đây là một trong những nguồn tài liệu được giới học giả thời Minh Thanh sử dụng để tái tạo lại cuốn "Kinh Sở tuế thời ký" bị thất truyền. Một bản sao như vậy của "Thái Bình ngự lãm" được cất giữ tại chùa Tōfuku-ji ở Kyoto, Nhật Bản. Năm 1244, Enni được triều đình nhà Tống chấp thuận cho mang về 103 tập sách này, và sau đó, thêm 10 tập nữa được đưa vào lưu hành trong giới tăng sĩ nơi đây. 103 tập hiện được xếp vào loại Bảo vật Quốc gia Nhật Bản.
19822150
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822150
Giáo phận Bắc Hải
Giáo phận Bắc Hải (; ) là một giáo phận của Giáo hội Công giáo Rôma ở Trung Quốc, nằm trong Giáo tỉnh Quảng Châu với tòa giám mục đặt tại địa cấp thị Bắc Hải (Quảng Tây).
19822154
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822154
Giáo phận Chanthaburi
Giáo phận Chanthaburi (; ) là một giáo phận của Giáo hội Công giáo Rôma ở miền đông nam Thái Lan. Giáo phận là một giáo phận trực thuộc Tổng giáo phận Bangkok. Địa giới giáo phận bao gồm các tỉnh Chanthaburi, Chonburi, Prachinburi, Rayong, Sa Kaeo, Trat, và phần phía đông sông Bang Pa Kong nằm trong các tỉnh Chachoengsao và Nakhon Nayok ngoại trừ huyện Ban Na. Tòa giám mục và Nhà thờ chính tòa Đức Mẹ Vô nhiễm Nguyên tội của giáo phận được đặt tại thị xã Chanthaburi. Giáo phận được chia thành 41 giáo xứ. Năm 1711, một nhà nguyện truyền giáo đã được xây dựng tại Chanthaburi. Sau khi được xây lại bốn lần và mở rộng thành một nhà thờ năm 1859 để phục vụ cộng đồng người Công giáo Việt Nam tới lánh nạn và định cư vì chính sách cấm đạo tại Đàng Trong thời Trịnh-Nguyễn phân tranh, đến năm 1909, nhà thờ được xây lại theo kiến trúc Gothic và cho đến nay đây vẫn là nhà thờ lớn nhất Thái Lan. Trong Chiến tranh thế giới thứ hai, các ngọn tháp được tháo xuống để tránh việc nhà thờ được dùng làm điểm đánh dấu hỗ trợ máy bay ném bom của quân Đồng minh, và sau đó ngọn tháp mới đã được thay thế vào. Hạt Đại diện Tông tòa Chantaburi được thành lập vào ngày 11/5/1944 theo tông sắc "Quo in Thailändensi" của Giáo hoàng Piô XII, trên phần lãnh thổ tách ra từ Hạt Đại diện Tông tòa Bangkok (nay là Tổng giáo phận Bangkok). Vào ngày 18/12/1965 Hạt Đại diện Tông tòa được nâng cấp thành một giáo phận theo tông sắc "Qui in fastigio" của Giáo hoàng Phaolô VI. Vào ngày 2/7/1969 giáo phận đã đổi tên thành Giáo phận Chanthaburi như hiện tại theo nghị định "Cum Excellentissimus" của Bộ Truyền giáo. Các giai đoạn trống tòa không quá 2 năm hay không rõ ràng bị loại bỏ. Đến năm 2021, giáo phận có 55.806 giáo dân trên dân số tổng cộng 5.107.898, chiếm 1,1%.
19822159
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822159
Sor Rotana
Sor Rotana (sinh ngày 9 tháng 10 năm 2002), là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Campuchia thi đấu ở vị trí trung vệ cho câu lạc bộ Visakha tại giải bóng đá Ngoại hạng Campuchia và đội tuyển bóng đá quốc gia Campuchia.
19822163
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822163
Lịch sử Krym
Lịch sử thành văn của bán đảo Krym, từng có tên là "Tauris", "Taurica" (), và "Chersonese Taurica" (, "bán đảo Taurica"), bắt đầu vào khoảng thế kỷ 5 TCN khi một số thuộc địa của người Hy Lạp được thành lập dọc theo bờ biển của bán đảo, quan trọng nhất trong số này là Chersonesos gần Sevastopol hiện nay, còn người Scythia và Tauri sống tại vùng nội địa ở phía bắc. Duyên hải phía Nam dần hợp nhất thành Vương quốc Bosporus, sau đó bị Pontus sáp nhập và rồi trở thành một vương quốc chư hầu của La Mã (63 TCN – 341). Duyên hải phía Nam vẫn theo văn hoá Hy Lạp trong gần hai nghìn năm, bao gồm dưới thời các nhà nước kế tục của La Mã là Đế quốc Byzantine (341–1204), Đế quốc Trebizond (1204–1461), và Thân vương quốc Theodoro (kết thúc 1475) độc lập. Trong thế kỷ 13, một số thành phố cảng của Krym nằm dưới quyền kiểm soát của Venezia và của Genova, nhưng phần nội địa thì kém ổn định hơn nhiều, phải hứng chịu một loạt các cuộc chinh phục và xâm lăng kéo dài. Trong thời kỳ Trung cổ, bán đảo bị Kiev Rus' chinh phục một phần, Thân vương Vladimir Vĩ đại được rửa tội tại Sevastopol, đánh dấu khởi đầu Cơ Đốc giáo hoá Kiev Rus'. Khi người Mông Cổ xâm chiếm châu Âu, phần phía bắc và giữa của Krym rơi vào tay Hãn quốc Kim Trướng, và đến thập niên 1440 thì Hãn quốc Krym hình thành sau khi Kim Trướng sụp đổ nhưng nhanh chóng trở thành nước phụ thuộc của Đế quốc Ottoman, đế quốc này cũng chinh phục các khu vực duyên hải vốn dĩ độc lập với Hãn quốc Krym. Một nguồn góp phần vào sự phồn vinh trong những thời kỳ này là từ việc thường xuyên đột kích vào Nga để bắt nô lệ. Năm 1774, Đế quốc Ottoman chiến bại trước Đế quốc Nga dưới quyền Yekaterina Đại đế. Hiệp định Küçük Kaynarca buộc Sublime Porte công nhận người Tatar Krym độc lập về chính trị. Nữ hoàng Nga ra lệnh hợp nhất Krym vào năm 1783. Do đánh bại Đế quốc Ottoman nên sức mạnh của Đế quốc Nga gia tăng tại khu vực Biển Đen. Krym là lãnh thổ Hồi giáo đầu tiên tuột khỏi quyền bá chủ của sultan Ottoman. Từ năm 1853 đến năm 1856, vị trí chiến lược của bán đảo trong việc kiểm soát Biển Đen khiến đây là nơi diễn ra các cuộc giao tranh chính trong Chiến tranh Krym, kết quả là Nga thất bại trước liên quân do Pháp lãnh đạo. Trong Nội chiến Nga, Krym qua tay nhiều thế lực và là nơi quân Bạch vệ chống Bolshevik của Wrangel nắm giữ cuối cùng vào năm 1920, và hàng chục nghìn quân ở lại bị sát hại trong Khủng bố Đỏ. Năm 1921, Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa tự trị Krym được thành lập với vị thế là nước Cộng hòa thuộc Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết Liên bang Nga. Trong Chiến tranh thế giới thứ hai, Krym bị Đức chiếm đóng cho đến năm 1944. CHXHCNXV Tự trị Krym bị hạ cấp thành một tỉnh trong CHXHCNXV Liên bang Nga vào năm 1945 sau khi chế độ Liên Xô thanh lọc người Tatar Krym. Năm 1954, Krym được chuyển giao cho CHXHCNXV Ukraina trong dịp kỷ niệm 300 năm Thoả thuận Pereyaslav, được gọi là "tái thống nhất Ukraina với Nga" vào thời Liên Xô. Sau khi Liên Xô tan rã, Cộng hòa Krym được hình thành vào năm 1992, nhưng bị bãi bỏ vào năm 1995. Cộng hòa Tự trị Krym được thành lập với thẩm quyền vững chắc của Ukraina, và Sevastopol là một thành phố có vị thế đặc biệt. Một hiệp định phân chia Hạm đội Biển Đen của Liên Xô, cho phép Nga tiếp tục đặt hạm đội của họ tại Sevastopol với thời hạn thuê được kéo dài vào năm 2010. Năm 2014, Cộng hòa Krym tuyên bố độc lập từ Ukraina sau một cuộc trưng cầu dân ý gây tranh cãi. Nga sau đó chính thức sáp nhập Krym, nhưng hầu hết quốc gia công nhận Krym là bộ phận của Ukraina. Bằng chứng khảo cổ học về việc loài người định cư tại Krym có niên đại từ thời đại đồ đá giữa. Các hài cốt người Neanderthal được tìm thấy trong hang Kiyik-Koba có niên đại từ khoảng 80.000 năm trước. Sự chiếm giữ muộn của người Neanderthal cũng được tìm thấy tại Starosele (khoảng 46.000 năm trước) và Buran Kaya III (khoảng 30.000 năm trước). Các nhà khảo cổ học tìm thấy một vài trong các hài cốt người hiện đại về mặt giải phẫu cổ nhất tại châu Âu trong hang Buran-Kaya thuộc dãy núi Krym (phía đông của Simferopol). Các hoá thạch có niên đại từ 32.000 năm trước, với những hiện vật có liên hệ đến văn hoá Gravettia. Trong Cực đại băng hà cuối cùng, cùng với bờ biển phía bắc Biển Đen nói chung, Krym là một nơi lánh nạn quan trọng và từ đây trung-bắc châu Âu được tái định cư. Đồng bằng Đông Âu trong thời kỳ này nói chung là các môi trường vùng đất băng giá-hoàng thổ-thảo nguyên, dù khí hậu đã ấm hơn một chút trong một vài khoảng ngắn ngủi và bắt đầu ấm đáng kể sau khi bắt đầu Cực đại băng hà cuối cùng. Mật độ chiếm giữ di chỉ loài người tương đối cao tại khu vực Krym và tăng lên ngay từ khoảng 16.000 năm trước. Những người ủng hộ giả thuyết đại hồng thủy Biển Đen tin rằng Krym đã không trở thành một bán đảo cho đến tương đối gần đây, là do sự gia tăng mực nước Biển Đen vào thiên niên kỷ thứ 6 TCN. Giai đoạn bắt đầu thời đại đồ đá mới tại Krym không gắn liền với nông nghiệp, thay vào đó là với bắt đầu sản xuất đồ gốm, những thay đổi trong công nghệ chế tạo công cụ đá lửa, và thuần hoá lợn tại địa phương. Bằng chứng sớm nhất về việc chọn lọc lúa mì tại bán đảo Krym là từ di chỉ Ardych-Burun thời đại đồ đồng đá, có niên đại từ giữa thiên niên kỷ 4 TCN Đến thiên niên kỷ 3 TCN, văn hoá Yamna hay "hầm mộ" đã vươn đến Krym, được cho là tương ứng với giai đoạn muộn của nền văn hóa Ấn-Âu nguyên thủy trong giả thuyết Kurgan. Trong thời đại đồ sắt sớm, có hai nhóm người định cư tại Krym được tách biệt bởi dãy núi Krym, là người Tauri ở phía nam và người Scythia thuộc nhóm Iran ở phía bắc. Người Tauri hòa trộn với người Scythia bắt đầu từ cuối thế kỷ 3 TCN, họ được gọi là "Tauroscythia" và "Scythotauri" trong các tác phẩm của các tác giả Hy Lạp cổ đại. Trong Geographica, Strabo đề cập người Tauri là một bộ lạc Scythia. Tuy nhiên, Herodotus nói rằng các bộ lạc Tauri về mặt địa lý cư trú bên cạnh người Scythia, nhưng họ không phải là người Scythia. Ngoài ra, người Tauri đã truyền cảm hứng cho các thần thoại Hy Lạp về Iphigenia và Orestes. Người Hy Lạp cuối cùng thành lập các thuộc địa tại Krym trong thời đại cổ phong, họ nhìn nhận người Tauri là một dân tộc man di, hiếu chiến. Thậm chí sau nhiều thế kỷ người Hy Lạp và La Mã định cư, người Tauri không bị họ bình định và tiếp tục tham gia việc cướp biển trên Biển Đen. Đến thế kỷ 2 TCN, họ trở thành thần tử-đồng minh của Quốc vương Scythia Scilurus. Vùng đất ở phía bắc của dãy núi Krym là nơi các bộ lạc Scythia chiếm giữ, trung tâm của họ là thành phố Neapolis thuộc Scythia tại ngoại vi Simferopol hiện nay. Thị trấn cai trị một vương quốc nhỏ bao phủ vùng đất giữa hạ du sông Dnepr (Dnipro) và Krym. Trong thế kỷ 3 và 2 TCN, Neapolis thuộc Scythia là một thành phố "với cư dân Scythia-Hy Lạp hỗn hợp, tường phòng thủ vững mạnh và các toà nhà công cộng lớn được xây dựng theo trật tự của kiến trúc Hy Lạp". Thành phố cuối cùng bị người Goth phá hủy vào giữa thế kỷ 3. Người Hy Lạp cổ đại là những người đầu tiên đặt tên khu vực là "Taurica" theo tên người Tauri. Do người Tauri chỉ cư trú tại vùng núi phía nam của Krym nên tên gọi Taurica ban đầu được sử dụng chỉ cho phần phía nam này, nhưng sau đó được mở rộng cho toàn bộ bán đảo. Các thành bang Hy Lạp bắt đầu thành lập các thuộc địa dọc bờ biển Đen của Krym vào thế kỷ 7 hoặc 6 TCN. Theodosia và Panticapaeum được Miletus thành lập. Đến thế kỷ 5 TCN, người Doria từ Heraclea Pontica lập cảng biển Chersonesos (nay là Sevastopol). Đế quốc Achaemenes Ba Tư dưới quyền Darius I bành trướng đến Krym trong các chiến dịch của ông nhằm chống lại người Scythia vào năm 513 TCN. Năm 438 TCN, Archon (người cai trị) của Panticapaeum nhận tước hiệu Quốc vương Bosporus Cimmeria, là một nhà nước duy trì quan hệ mật thiết với Athens, cung cấp cho thành phố lúa mì, mật ong và các mặt hàng khác. Người cuối cùng của dòng dõi quốc vương này là Paerisades V, ông bị người Scythia chèn ép, phải đặt mình dưới quyền bảo hộ của Mithridates VI, quốc vương của Pontus, vào năm 114 TCN. Sau khi ông mất, con trai ông là Pharnaces II, được Pompey đầu tư với Vương quốc Bosporus Cimmeria vào năm 63 TCN, như một phần thưởng vì đã trợ giúp cho người La Mã trong chiến tranh chống lại cha ông. Năm 15 TCN, tước hiệu lại được khôi phục thành quốc vương của Pontus, nhưng từ đó được xếp là một nước triều cống của La Mã. Đến thế kỷ 2 TCN, phần phía đông của Taurica trở thành bộ phận của Vương quốc Bosporus, trước khi nó trở thành một vương quốc triều cống của Đế quốc La Mã vào thế kỷ 1 TCN. Trong các thế kỷ 1, 2, 3, Taurica có các binh đoàn và thực dân La Mã tại Charax, Krym. Thuộc địa Charax được thành lập dưới thời Vespasius với ý định bảo vệ Chersonesos và các cửa hàng mậu dịch Bosporus khỏi người Scythia. Thuộc địa La Mã được bảo vệ bởi một vexillatio của Legio I Italica; nó cũng có một biệt đội của Legio XI Claudia vào cuối thế kỷ 2. Trại bị người La Mã từ bỏ vào giữa thế kỷ 3. Tỉnh thực tế này thuộc quyền kiểm soát bởi legatus của một trong các binh đoàn đóng tại Charax. Trong suốt các thế kỷ sau đó, Krym bị xâm chiếm hoặc chiếm đóng liên tiếp bởi người Goth (250), người Hun (376), người Bulgar (thế kỷ 4–8), người Khazar (thế kỷ 8). Tiếng Goth Krym là một ngôn ngữ Đông German, được người Goth Krym nói tại một số địa điểm biệt lập tại Krym cho đến cuối thế kỷ 18. Đến thế kỷ 9, Byzantium thành lập thema Cherson để phòng thủ chống lại các vụ xâm nhập của Hãn quốc Rus'. Bán đảo Krym từ thời điểm này là nơi tranh giành giữa Byzantium, Rus' và Khazaria. Khu vực vẫn là nơi có các lợi ích chồng chéo, và có liên hệ với các vùng ảnh hưởng Slav, Turk và Hy Lạp thời kỳ đầu trung cổ. Bán đảo trở thành một trung tâm về mua bán nô lệ. Người Slav bị bán đến Byzantium và những nơi khác tại Anatolia và Trung Đông trong giai đoạn này. Vào giữa thế kỷ 10, Thân vương Sviatoslav I của Kiev chinh phục khu vực phía đông của Krym, và nó trở thành một phần của Thân vương quốc Tmutarakan của Kiev Rus'. Kiev Rus' giành lấy bán đảo từ Byzantine trong thế kỷ 10; tiền đồn lớn của Byzantine là Chersonesus bị chiếm vào năm 988. Một năm sau, Đại thân vương Vladimir của Kiev chấp thuận kết thân với Hoàng đế Basil II bằng cách kết hôn với em gái ông ta là Anna, và được rửa tội bởi các linh mục Byzantine địa phương tại Chersonesus, do vậy đánh dấu việc Rus' bước vào thế giới Cơ Đốc giáo. Nhà thờ chính toà Chersonesus đánh dấu vị trí của sự kiện lịch sử này. Trong quá trình Byzantine sụp đổ, một số thành phố rơi vào tay chủ nợ là Cộng hòa Genova, thế lực này cũng chinh phục các thành phố do kình địch là Cộng hòa Venezia kiểm soát. Trong toàn bộ giai đoạn này, các khu vực đô thị nói tiếng Hy Lạp và theo Cơ Đốc giáo Đông phương. Trong suốt giai đoạn cổ đại và trung đại, vùng nội địa và phía bắc của Krym bị chiếm đóng bởi các nhóm du mục thảo nguyên xâm lăng khác nhau, như người Tauri, người Cimmeria, người Scythia, người Sarmatia, người Goth Krym, người Alan, người Bulgar, người Hun, người Khazar, người Kipchak và người Mông Cổ. Vương quốc Bosporus từng thực thi một số quyền kiểm soát đối với phần lớn bán đảo khi đạt đỉnh cao quyền lực, còn Kiev Rus' cũng có một số quyền kiểm soát vùng nội địa Krym sau thế kỷ 10. Các lãnh thổ hải ngoại của Trebizond là Perateia đã chịu áp lực từ người Genova và người Kipchak vào thời điểm Alexios I của Trebizond mất vào năm 1222, trước khi người Mông Cổ xâm lược về phía tây qua Volga Bulgaria vào năm 1223. Kiev Rus' mất quyền kiểm soát vùng nội địa Krym vào đầu thế kỷ 13 do Mông Cổ xâm lược. Vào mùa hè năm 1238, Batu Khan tàn phá bán đảo Krym và bình định Mordovia, tiến đến Kiev vào năm 1240. Vùng nội địa Krym nằm dưới quyền kiểm soát của Hãn quốc Kim Trướng của người Turk-Mông Cổ từ năm 1239 đến năm 1441. Tên gọi "Krym" có nguồn gốc từ tên của thủ phủ tỉnh của Hãn quốc Kim Trướng, thành phố này hiện gọi là Staryi Krym. Perateia của Trebizond trở thành Thân vương quốc Theodoro và Gazaria thuộc Genova, lần lượt chia sẻ quyền kiểm soát phía nam Krym cho đến khi Ottoman can thiệp vào năm 1475. Vào thế kỷ 13, Cộng hòa Genova đoạt được các khu định cư mà kình địch của họ là Cộng hòa Venezia xây dựng lên dọc bờ biển Krym và tự lập tại Cembalo (nay là Balaklava), Soldaia (Sudak), Cherco (Kerch) và Caffa (Feodosiya), giành quyền kiểm soát kinh tế Krym và thương mại Biển Đen trong hai thế kỷ. Genova và các thuộc địa của họ chiến đấu một loạt cuộc chiến với các nhà nước Mông Cổ từ thế kỷ 13 đến 15. Năm 1346, Hãn quốc Kim Trướng bao vây Kaffa (nay là Feodosiya) của Genova, khi đó họ bắn các thi thể chiến binh Mông Cổ thiệt mạng do dịch bệnh vào trong tường thành. Các sử gia suy đoán rằng những người tị nạn Genova từ cuộc giao tranh này có thể đã đưa Cái chết Đen đến Tây Âu. Sau khi Hãn quốc Kim Trướng suy sụp, người Tatar Krym thành lập một Hãn quốc Krym độc lập dưới quyền Hacı I Giray (một hậu duệ của Thành Cát Tư Hãn) vào năm 1443. Hacı I Giray và những người kế vị của ông ban đầu cai trị tại Qırq Yer, và sau đó chuyển đến Bakhchisaray. Người Tatar Krym kiểm soát các thảo nguyên trải rộng từ Kuban đến sông Dniester, nhưng họ không thể đoạt quyền kiểm soát các thị trấn thương mại của người Genova tại Krym. Sau khi người Tatar Krym yêu cầu giúp đỡ từ Đế quốc Ottoman, dưới quyền lãnh đạo của Gedik Ahmed Pasha cường quốc này tiến hành xâm chiếm các thị trấn của Genova vào năm 1475, đưa Kaffa và các thị trấn mậu dịch khác nằm dưới quyền kiểm soát của họ. Sau khi chiếm được các thị trấn của Genova, Sultan Ottoman bắt giam Hãn Meñli I Giray, sau đó phóng thích ông để đổi lấy việc chấp thuận quyền bá chủ của Ottoman đối với các hãn Krym, và Ottoman cho phép họ cai trị với thân phận thân vương triều cống của Đế quốc Ottoman.<ref name="blacksea-crimea/hist"></ref> Tuy nhiên, các hãn Krym vẫn có quyền tự trị cao, và tuân theo các quy tắc mà họ nghĩ là tốt nhất cho mình. Người Tatar Krym tiến hành các cuộc đột kích vào các vùng đất Ukraina (Cánh đồng hoang), khi đó họ bắt giữ nô lệ để bán. Từ năm 1450 đến năm 1586, 86 cuộc đột kích của người Tatar được ghi lại, và con số từ năm 1600 đến năm 1647 là 70. Trong thập niên 1570, gần 20.000 nô lệ mỗi năm được đưa đến bán tại Kaffa. Các nô lệ và người được tự do chiếm khoảng 75% dân số Krym. Năm 1769, một cuộc đột kích lớn cuối cùng của người Tatar diễn ra trong Chiến tranh Nga-Thổ Nhĩ Kỳ năm 1768-1774, ghi nhận bắt giữ 20.000 nô lệ. Người Tatar Krym là dân tộc chi phối Hãn quốc Krym. Họ bắt nguồn từ một sự hòa trộn phức tạp của các dân tộc Turk định cư tại Krym từ thế kỷ 8, có lẽ cũng hấp thụ tàn dư của người Goth Krym và người Genova. Về mặt ngôn ngữ, người Tatar Krym có liên hệ với người Khazar, những người xâm chiếm Krym vào giữa thế kỷ 8; tiếng Tatar Krym là bộ phận của nhánh Kipchak hay Tây bắc của ngữ hệ Turk, nhưng nó thể hiện ảnh hưởng đáng kể của nhánh Oghuz do sự hiện diện của người Thổ Ottoman tại Krym. Một khu biệt lập nhỏ của người Karaite Krym được hình thành vào thế kỷ 13, họ là một dân tộc gốc Do Thái thực hành tín ngưỡng Karai và sau đó tiếp nhận một ngôn ngữ Turk. Họ tồn tại giữa người Tatar Krym Hồi giáo, chủ yếu tại khu vực Çufut Qale đồi núi. Năm 1553–1554, Hetman Dmytro Vyshnevetsky của người Cossack (tại vị 1550–1557) tập hợp các nhóm Cossack lại với nhau và xây dựng một pháo đài được thiết kế để cản trở các cuộc tấn công của người Tatar vào Ukraina. Cùng với hành động này, ông đã thành lập Sich Zaporozhia, nhờ đó ông tiến hành một loạt cuộc tấn công vào bán đảo Krym và người Thổ Ottoman. Năm 1774, Đế quốc Ottoman chiến bại trước Yekaterina II của Nga. Sau hai thế kỷ xung đột, hạm đội Nga phá hủy Hải quân Ottoman và Lục quân Nga gây ra những thất bại nặng nề cho Lục quân Ottoman. Hiệp định Küçük Kaynarca sau đó buộc Sublime Porte công nhận người Tatar Krym độc lập về chính trị, có nghĩa là các hãn Krym rơi vào ảnh hưởng của Nga. Tuy nhiên, Hãn quốc Krym phải chịu sự suy sụp nội bộ dần dần, đặc biệt là sau một vụ tàn sát gây ra một cuộc di cư được Nga hỗ trợ của các thần dân Cơ Đốc giáo khỏi Krym, họ vốn chiếm áp đảo trong các tầng lớp đô thị và sau đó lập nên các thành phố như Mariupol. Nữ hoàng Yekaterina sau đó hợp nhất Krym vào Đế quốc Nga năm 1783, làm tăng sức mạnh của Nga trong khu vực Biển Đen. Krym là lãnh thổ Hồi giáo đầu tiên tuột khỏi quyền bá chủ của sultan Ottoman. Biên giới của Đế quốc Ottoman dần thu hẹp lại, và Nga sau đó tiến hành đẩy biên giới cường quốc này về phía tây đến sông Dniester. Vào ngày 28 tháng 12 năm 1783, Đế quốc Ottoman ký một thoả thuận công nhận việc để mất Krym và các lãnh thổ khác do Hãn quốc Krym nắm giữ. Krym trải qua một số cải cách hành chính sau khi Nga sáp nhập, đầu tiên là oblast Taurida vào năm 1784 nhưng đến năm 1796 nó bị chia thành hai huyện và bị nhập vào guberniya Novorossia, và guberniya Taurida được thành lập vào năm 1802 với thủ phủ tại Simferopol. Tỉnh này gồm cả bán đảo Krym cùng các khu vực lân cận rộng lớn hơn thuộc đại lục. Năm 1826, Adam Mickiewicz xuất bản tác phẩm tinh túy của ông "Sonnet Krym" sau khi đi qua bờ biển Đen. Đến cuối thế kỷ 19, người Tatar Krym tiếp tục hình thành thế đông đảo nhất mong manh trong cư dân nông thôn Krym, là bộ phận chiếm ưu thế trong cư dân vùng núi, và khoảng một nửa cư dân thảo nguyên. Bán đảo có số lượng lớn người Nga tập trung tại khu Feodosiya và người Ukraina cũng như một lượng nhỏ người Do Thái (bao gồm người Krymchak và người Karait Krym), người Belarus, người Thổ Nhĩ Kỳ, Armenia, người Hy Lạp và người Digan. Người Đức và người Bulgaria định cư tại Krym vào đầu thế kỷ 19, nhận được các vùng đất lớn và màu mỡ, sau đó các thực dân giàu có bắt đầu mua đất, chủ yếu là tại các huyện Perekopsky và Evpatoria. Chiến tranh Krym (1853–1856) là một xung đột giữa Đế quốc Nga và một liên minh của Đế quốc Pháp, Đế quốc Anh, Đế quốc Ottoman, Vương quốc Sardegna và Công quốc Nassau. Đây là một phần trong cuộc tranh giành kéo dài giữa các cường quốc châu Âu về ảnh hưởng đối với các lãnh thổ của một Ottoman đang suy sụp. Nga và Ottoman đi đến chiến tranh vào tháng 10 năm 1853 về vấn đề quyền lợi của Nga trong việc bảo vệ Cơ Đốc nhân Chính thống giáo; để ngăn chặn các cuộc chinh phục của Nga thì Pháp và Anh tham gia vào tháng 3 năm 1854. Các cuộc giao tranh chính của cuộc chiến này diễn ra tại Krym. Sau hành động tại các thân vương quốc Danube và tại Biển Đen, quân liên minh đổ bộ lên Krym vào tháng 9 năm 1854 và bao vây Sevastopol, là căn cứ của Hạm đội Biển Đen của Nga và liên quan đến mối đe dọa Nga có tiềm năng xâm nhập Địa Trung Hải. Sau khi giao tranh rộng rãi trên khắp Krym, thành phố thất thủ vào tháng 9 năm 1855. Chiến tranh kết thúc với thất bại của Nga vào tháng 2 năm 1856. Chiến tranh tàn phá phần lớn cơ sở hạ tầng kinh tế và xã hội của Krym. Người Tatar Krym phải chạy trốn hàng loạt khỏi quê hương mình, bị bắt buộc vì tình trạng do chiến tranh gây ra, hoặc do bị áp bức và trưng thu đất đai. Những người sống sót sau hành trình, nạn đói và dịch bệnh đã định cư tại Dobruja, Anatolia, và các nơi khác của Đế quốc Ottoman. Cuối cùng, chính phủ Nga quyết định dừng quá trình này, do nông nghiệp bắt đầu chịu tổn thất do vùng đất nông nghiệp màu mỡ không được chăm sóc. Sau Cách mạng Nga 1917, tình hình quân sự và chính trị tại Krym trở nên hỗn loạn giống như phần lớn Nga. Trong Nội chiến Nga sau đó, Krym qua tay nhiều thế lực và trong một thời gian là thành trì của quân Bạch vệ chống Bolshevik. Bán đảo cũng là nơi đứng chân cuối cùng của Bạch vệ Nga dưới quyền Tướng quân Wrangel chống lại Nestor Makhno và Hồng quân vào năm 1920. Khi sức kháng cự này bị đè bẹp, nhiều chiến binh và thường dân chống Bolshevik trốn thoát bằng thuyền đến Istanbul. Khoảng 50.000 tù binh Bạch vệ và thường dân bị hành quyết bằng cách xử bắn và treo cổ sau thất bại của Tướng Wrangel vào cuối năm 1920. Đây được cho là một trong các vụ tàn sát lớn nhất trong Nội chiến Nga. Từ 56.000 đến 150.000 thường dân sau đó bị sát hại trong Khủng bố Đỏ, do Béla Kun tổ chức. Các thế lực từng cai trị Krym: Krym trở thành bộ phận của Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết Liên bang Nga vào ngày 18 tháng 10 năm 1921 với vị thế Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết Tự trị Krym, CHXHCNXV Liên bang Nga tham gia hình thành Liên bang Xô viết vào năm 1922, Krym duy trì một mức độ tự chủ nhất định trên danh nghĩa và được vận hành như một khu biệt lập của người Tatar Krym. Tuy nhiên, điều này không bảo vệ người Tatar Krym đang chiếm khoảng 25% dân số bán đảo, khỏi các cuộc đàn áp của Joseph Stalin trong thập niên 1930. Người Hy Lạp là nhóm văn hoá khác chịu tổn hại. Đất đai của họ bị mất đi trong quá trình tập thể hoá, khi đó nông dân không được bồi thường bằng tiền công. Trường học dạy tiếng Hy Lạp bị đóng cửa và văn học Hy Lạp bị phá hủy, vì Liên Xô nhận định người Hy Lạp là "phản cách mạng" do các liên hệ của họ với nhà nước Hy Lạp tư bản, và văn hoá độc lập của họ. Từ năm 1923 đến năm 1944, có những nỗ lực nhằm tạo ra các khu định cư Do Thái tại Krym. Có hai nỗ lực để thiết lập quyền tự trị của người Do Thái tại Krym, nhưng cuối cùng đều thất bại. Krym trải qua hai nạn đói nghiêm trọng trong thế kỷ 20, nạn đói 1921–1922 và Holodomor 1932–1933. Một dòng người Slav (chủ yếu là người Nga và người Ukraina) lớn đổ vào Krym trong thập niên 1930 do kết quả từ chính sách phát triển khu vực của Liên Xô. Những biến động nhân khẩu học này làm thay đổi vĩnh viễn cân bằng dân tộc trong khu vực. Trong Chiến tranh thế giới thứ hai, Krym là chiến trường của một số trận đánh đẫm máu. Các thủ lĩnh của Đức Quốc xã nóng lòng muốn chinh phục và thuộc địa hoá bán đảo màu mỡ và tươi đẹp này, nằm trong chính sách của họ về tái định cư người Đức tại Đông Âu trên đất đai của người Slav. Trong Chiến dịch Krym, quân Đức và Romania chịu thương vong nặng nề vào mùa hè năm 1941 khi họ cố gắng tiến quân qua eo đất Perekop hẹp nối Krym với đại lục Liên Xô. Đến khi quân Đức đột phá (Chiến dịch Trappenjagd), họ chiếm giữ hầu hết Krym ngoại trừ Sevastopol, thành phố này bị bao vây và sau này được trao thưởng danh hiệu Thành phố Anh hùng sau chiến tranh. Hồng quân toinr thất 170.000 binh sĩ do thiệt mạng hoặc bị bắt làm tù binh, và ba tập đoàn quân (44, 47, 51) cùng với 21 sư đoàn. Sevastopol bị bao vây từ tháng 10 năm 1941 đến ngày 4 tháng 7 năn 1942 khi quân Đức chung cuộc đã chiếm được thành phố. Từ ngày 1 tháng 9 năm 1942, bán đảo được quản lý với danh nghĩa "Generalbezirk Krim" (tổng khu Krym) "und Teilbezirk" (và phân khu) "Taurien", do "Generalkommissar" Alfred Eduard Frauenfeld (1898–1977) quản lý, dưới thẩm quyền của ba Reichskommissar liên tiếp của toàn Ukraina. Bất chấp các chiến thuật nặng tay của Đức Quốc xã và sự hỗ trợ của quân Romania và Ý, dãy núi Krym vẫn là một thành trì bất khả xâm phạm của lực lượng kháng chiến bản địa (du kích) cho đến ngày bán đảo được giải phóng khỏi lực lượng chiếm đóng. Người Do Thái Krym là mục tiêu tiêu diệt trong thời kỳ chiếm đóng của Đức Quốc xã. Theo Yitzhak Arad, "Vào tháng 1 năm 1942, một đại đội gồm những người tình nguyện Tatar được thành lập tại Simferopol dưới quyền chỉ huy của "Einsatzgruppe 11". Đại đội này tham gia vào các cuộc săn lùng và giết hại chống lại người Do Thái ở các vùng nông thôn”. Khoảng 40.000 người Do Thái Krym bị giết. Cuộc tấn công Krym của Liên Xô giành thắng lợi, năm 1944 Sevastopol nằm dưới quyền kiểm soát của binh sĩ Liên Xô. "Thành phố Vinh quang của Nga" này từng có các kiến trúc đẹp đã bị phá hủy hoàn toàn và phải được xây dựng lại từ đầu. Do có ý nghĩa lớn về lịch sử và biểu tượng đối với người Nga, thành phố trở thành một ưu tiên của Stalin và chính phủ Liên Xô nhằm khôi phục vinh quang trong quá khứ trong thời gian ngắn nhất có thể. Cảng Yalta của Krym tổ chức Hội nghị Yalta gồm Roosevelt, Stalin và Churchill, sự kiện sau này được nhìn nhận là phân chia châu Âu giữa vùng ảnh hưởng cộng sản và dân chủ. Ngày 18 tháng 5 năm 1944, toàn bộ cư dân người Tatar Krym bị chính phủ Liên Xô của Stalin trục xuất cưỡng ép đến Trung Á, đó là một dạng trừng phạt tập thể dựa trên lý lẽ là dân tộc này bị cáo buộc cộng tác với quân Đức và thành lập các quân đoàn Tatar thân Đức. Ngày 26 tháng 6 cùng năm, các cư dân Armenia, Bulgaria và Hy Lạp cũng bị trục xuất đến Trung Á, và một phần đến Ufa và vùng xung quanh thuộc dãy núi Ural. Tổng cộng có trên 230.000 người – khoảng một phần năm tổng dân số bán đảo Krym khi đó – bị trục xuất, chủ yếu đến Uzbekistan. Đến cuối mùa hè năm 1944, việc thanh lọc dân tộc tại Krym đã hoàn thành. Năm 1967, người Tatar Krym được phục hồi địa vị, nhưng bị cấm quay về quê hương mình cho đến thời gian cuối của Liên Xô. Sự kiện trục xuất được Ukraina công nhận chính thức là diệt chủng từ 2015. Các dân tộc khác được tái định cư tại bán đảo, chủ yếu là người Nga và người Ukraina. Hầu hết các chuyên gia cho rằng sự kiện trục xuất nằm trong kế hoạch của Liên Xô nhằm giành quyền tiếp cận Dardanelles và giành lãnh thổ tại Thổ Nhĩ Kỳ, hoặc để loại bỏ người dân tộc thiểu số khỏi các vùng biên giới của Liên Xô. Gần 8.000 người Tatar Krym thiệt mạng trong quá trình trục xuất, và hàng chục nghìn người thiệt mạng sau đó do các điều kiện lưu đày khắc nghiệt. Người Tatar Krym phải bỏ lại 80.000 hộ gia đình và 360.000 acre đất đai. Krym từ nước cộng hòa tự trị không có dân tộc tiêu đề bị chuyển thành một tỉnh trong CHXHCNXV Liên bang Nga vào ngày 30 tháng 6 năm 1945. Một quá trình phi Tatar hoá Krym được bắt đầu nhằm xoá bỏ ký ức về người Tatar, bao gồm đổi tên hàng loạt hầu hết các địa danh, chuyển thành các tên gọi Slav và cộng sản. Rất ít địa điểm Bakhchysarai, Dzhankoy, İşün, Alushta, Alupka, và Saky được đổi lại tên gốc của chúng sau khi Liên Xô sụp đổ. Ngày 19 tháng 2 năm 1954, tỉnh Krym được chuyển giao thẩm quyền từ CHXHCNXV Liên bang Nga sang CHXHCNXV Ukraina, trên cơ sở "đặc điểm hợp nhất của nền kinh tế, sự gần gũi về lãnh thổ và mối quan hệ kinh tế và văn hóa chặt chẽ giữa tỉnh Krym và Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết Ukraina" và để kỷ niệm 300 năm thống nhất Ukraina với Nga. Sevastopol là một thành phố đóng cửa do tầm quan trọng của nó là cảng nhà của Hạm đội Biển Đen Liên Xô và chỉ được gắn kết vào tỉnh Krym vào năm 1978. Việc xây dựng kênh đào Bắc Krym được bắt đầu vào năm 1957 ngay sau khi chuyển giao Krym, đây là một kênh đào phục vụ tưới tiêu tại tỉnh Kherson và bán đảo Krym. Kênh đào cũng có nhiều nhánh khắp tỉnh Kherson và bán đảo Krym. Các công trình chính của dự án diễn ra từ năm 1961 đến 1971 và có ba giai đoạn. Trong những năm sau chiến tranh, Krym phát triển mạnh mẽ khi trở thành một địa điểm du lịch, với các điểm tham quan và viện điều dưỡng mới cho khách du lịch. Khách du lịch đến từ khắp Liên Xô và các quốc gia vệ tinh của họ, đặc biệt là từ CHDC Đức. Theo thời gian, bán đảo cũng trở thành một điểm đến du lịch chính cho các du thuyền bắt nguồn từ Hy Lạp và Thổ Nhĩ Kỳ. Cơ sở hạ tầng và sản xuất của Krym cũng phát triển, đặc biệt là xung quanh các cảng biển tại Kerch và Sevastopol và tại thủ phủ Simferopol. Dân số người Ukraina và người Nga tăng gấp đôi do các chính sách đồng hóa, với hơn 1,6 triệu người Nga và 626.000 người Ukrainela sống trên bán đảo vào năm 1989. Khi Liên Xô tan rã và Ukraina độc lập, bán đảo Krym có dân tộc Nga chiếm đa số được tổ chức lại thành Cộng hòa Krym, sau một cuộc trưng cầu dân ý vào năm 1991, với việc nhà cầm quyền Krym thúc đẩy độc lập hơn khỏi Ukraina và liên kết chặt chẽ hơn với Nga. Năm 1995, nước cộng hòa bị Ukraina cưỡng chế bãi bỏ và thay thế bằng Cộng hòa Tự trị Krym nằm vững chắc dưới thẩm quyền của Ukraina. Cũng có những căng thẳng không liên tục với Nga về Hạm đội của Liên Xô, nhưng hiệp ước năm 1997 đã phân chia Hạm đội Biển Đen Liên Xô, cho phép Nga tiếp tục đặt hạm đội của họ tại Sevastopol, với hợp đồng thuê gia hạn vào năm 2010. Năm 2006, các cuộc biểu tình nổ ra trên bán đảo sau khi Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ đến thành phố Feodosiya của Krym để tham gia tập trận quân sự Sea Breeze 2006 Ukraina–NATO. Nghị viện Krym tuyên bố Krym là "lãnh thổ không có NATO". Sau nhiều ngày phản đối, Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ đã rút khỏi bán đảo. Vào tháng 9 năm 2008, sau Chiến tranh Nga–Gruzia, Bộ trưởng Ngoại giao Ukraina Volodymyr Ohryzko cáo buộc Nga cấp hộ chiếu Nga cho người dân tại Krym và mô tả đây là "vấn đề thực sự" do Nga tuyên bố chính sách can thiệp quân sự ở nước ngoài để bảo vệ công dân Nga. Valentyn Nalyvaychenko, quyền giám đốc của Cơ quan An ninh Ukraina (SBU), tuyên bố vào ngày 17 tháng 2 năm 2009 rằng ông tin tưởng rằng bất kỳ "kịch bản Ossetia" nào đều không thể xảy ra ở Krym. SBU bắt đầu tố tụng hình sự chống lại hiệp hội thân Nga "Mặt trận nhân dân Sevastopol-Krym-Nga" vào tháng 1 năm 2009. Vào ngày 24 tháng 8 năm 2009, các cuộc biểu tình chống Ukraina đã được tổ chức tại Krym bởi các cư dân gốc Nga. Sergei Tsekov, một chính trị gia cấp cao thân Nga, khi đó nói rằng ông hy vọng rằng Nga sẽ ủng hộ chủ nghĩa ly khai của Krym giống như cách họ đã làm tại Nam Ossetia và Abkhazia. Trước năm 2014, Krym có thể được coi là một phần của căn cứ chính trị của Tổng thống khi đó là Viktor Yanukovych. Vì vậy, trong khoảng thời gian ngay trước năm 2014, Krym đã không trải qua các cuộc huy động mạnh mẽ chống lại Ukraina hoặc nhân danh việc sáp nhập vào Nga. Các sự kiện tại Kyiv lật đổ tổng thống Ukraina Viktor Yanukovych đã gây ra các cuộc biểu tình chống lại chính phủ mới của Ukraina. Đồng thời, tổng thống Nga Vladimir Putin đã thảo luận về các sự kiện của Ukraina với các giám đốc cơ quan an ninh nhận xét rằng "chúng ta phải bắt đầu làm việc để đưa Krym trở về Nga". Vào ngày 27 tháng 2, các binh sĩ Nga chiếm giữ các điểm chiến lược trên khắp Krym. Điều này dẫn đến việc thành lập chính phủ Aksyonov thân Nga tại Krym, Trưng cầu dân ý về tình trạng Krym và tuyên bố Krym độc lập vào ngày 16 tháng 3 năm 2014. Mặc dù Nga ban đầu tuyên bố quân đội của họ không tham gia vào các sự kiện, nhưng sau đó thừa nhận rằng họ đã làm. Nga chính thức sáp nhập Krym vào ngày 18 tháng 3 năm 2014. Sau sáp nhập, Nga tăng cường sự hiện diện quân sự của mình trên bán đảo và đưa ra các mối đe dọa hạt nhân nhằm củng cố hiện trạng mới trên thực địa. Ukraina và nhiều quốc gia khác lên án việc sáp nhập và cho đó là vi phạm luật pháp quốc tế và các thỏa thuận của Nga về bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ của Ukraina. Việc sáp nhập đã dẫn đến việc các thành viên khác của G8 đình chỉ Nga khỏi nhóm và áp dụng các lệnh trừng phạt. Đại hội đồng Liên Hợp Quốc cũng bác bỏ trưng cầu dân ý và sáp nhập, thông qua một nghị quyết khẳng định "sự toàn vẹn lãnh thổ của Ukraina trong các đường biên giới được quốc tế công nhận". Theo khảo sát được thực hiện bởi Pew Research Center vào năm 2014, phần lớn cư dân Krym nói rằng họ tin rằng cuộc trưng cầu dân ý là tự do và công bằng (91%) và rằng chính phủ tại Kyiv nên công nhận kết quả của cuộc bỏ phiếu (88%). Chính phủ Nga phản đối bị gắn mác "thôn tính", khi Putin bảo vệ cuộc trưng cầu dân ý là tuân thủ nguyên tắc quyền tự quyết của các dân tộc. Trong vòng vài ngày sau khi ký hiệp ước gia nhập, quá trình sáp nhập Krym vào liên bang Nga đã bắt đầu với việc rúp Nga được đưa vào lưu thông chính thức và sau này trở thành tiền tệ duy nhất cho thanh toán hợp pháp đồng hồ được chuyển sang giờ Moskva. Bản sửa đổi Hiến pháp Nga đã chính thức được công bố với Cộng hòa Krym và thành phố liên bang Sevastopol được thêm vào các chủ thể liên bang Nga, và Thủ tướng Nga Dmitry Medvedev tuyên bố rằng Krym đã được hợp nhất hoàn toàn vào Nga. Kể từ khi sáp nhập, Nga đã hỗ trợ di cư quy mô lớn vào Krym. Sau khi Ukraina mất quyền kiểm soát lãnh thổ vào năm 2014, họ cắt nguồn cung cấp nước của kênh Bắc Krym vốn cung cấp 85% nhu cầu nước ngọt của bán đảo từ sông Dnepr. Việc phát triển các nguồn nước mới được thực hiện, với những khó khăn lớn, để thay thế các nguồn mà Ukraina đã đóng cửa. Vào năm 2022, quân Nga từ bán đảo Krym chiếm đóng một phần lớn của tỉnh Kherson, cho phép họ mở khóa kênh Bắc Krym bằng vũ lực, nối lại nguồn cung cấp nước vào Krym. Bắt đầu từ tháng 7 năm 2022, một loạt vụ nổ và hỏa hoạn đã xảy ra tại bán đảo Krym.
19822164
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822164
Hiệp ước Bầu trời Mở
Hiệp ước Bầu trời Mở (tiếng Anh: Treaty on Open Skies) là hiệp ước thiết lập chương trình thực hiện các chuyến bay giám sát trên không phi vũ trang trên toàn bộ lãnh thổ của các bên tham gia. Hiệp ước được thiết lập trên cơ sở tăng cường sự hiểu biết và tin tưởng lẫn nhau bằng cách trao cho tất cả các quốc gia thành viên, bất kể quy mô, vai trò trực tiếp trong việc thu thập thông tin về các lực lượng quân sự và các hoạt động mà họ quan tâm. Nó có hiệu lực từ ngày 1 tháng 1 năm 2002 và hiện có 34 quốc gia thành viên. Ý tưởng về việc cho phép các quốc gia giám sát lẫn nhau một cách công khai được cho là để ngăn chặn sự hiểu lầm và hạn chế căng thẳng leo thang. Nó cũng đưa ra trách nhiệm giải trình lẫn nhau để các quốc gia tuân theo các cam kết trong hiệp ước. Khái niệm "giám sát trên không lẫn nhau" ("mutual aerial observation") ban đầu được Tổng thống Hoa Kỳ Dwight D. Eisenhower đề xuất với Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô Nikolai Bulganin tại Hội nghị thượng đỉnh Genève năm 19955. Tuy nhiên, Liên Xô đã nhanh chóng bác bỏ khái niệm này và thuật ngữ đã im lìm trong vài năm. Hiệp ước cuối cùng đã được ký kết theo sáng kiến ​​của Tổng thống Hoa Kỳ (và cựu Giám đốc Cơ quan Tình báo Trung ương) George H. W. Bush vào năm 1989. Thỏa thuận được các thành viên lúc bấy giờ của NATO và Khối Warszawa tham gia đàm phán, và được ký kết tại Helsinki, Phần Lan, vào ngày 24 tháng 3 năm 1992. Ngày 22 tháng 11 năm 2020, Hoa Kỳ rút khỏi hiệp ước, và ngày 15 tháng 1 năm 2021, Nga cũng công bố ý định rút khỏi, với lý do Hoa Kỳ rút khỏi hiệp ước và các quốc gia thành viên không có khả năng đảm bảo rằng thông tin thu thập được sẽ không bị chia sẻ với Hoa Kỳ. Nga chính thức rút khỏi hiệp ước vào tháng 12 năm 2021. Có 32 quốc gia thành viên của Hiệp ước Bầu trời Mở, gồm: Belarus, Bỉ, Bosnia và Herzegovina, Bulgaria, Canada, Croatia, Séc, Đan Mạch (bao gồm cả Greenland), Estonia, Phần lan, Pháp, Gruzia, Đức, Hy Lạp, Hungary, Iceland, Ý, Latvia, Litva, Luxembourg, Hà Lan, Na Uy, Ba Lan, Bồ Đào Nha, România, Slovakia, Slovenia, Tây Ban Nha, Thụy Điển, Thổ Nhĩ Kỳ, Ukraina và Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland. Kyrgyzstan đã ký hiệp ước nhưng chưa phê chuẩn. Canada và Hungary là các bên giữ lưu chiểu của in hiệp ước để ghi nhận những đóng góp đặc biệt của họ đối với tiến trình Bầu trời Mở. Hiệp ước Bầu trời Mở là một hiệp ước có vô thời hạn và sẵn sàng cho các quốc gia khác gia nhập. Các quốc gia hậu Xô viết chưa là quốc gia thành viên của hiệp ước có thể tham gia bất kỳ lúc nào. Các hoạt động liên quan của các quốc gia quan tâm khác phải tuân theo quyết định đồng thuận của Ủy ban Tư vấn về Bầu trời mở (OSCC). Tám quốc gia đã tham gia hiệp ước kể từ khi nó có hiệu lực vào năm 2002: Bosnia và Herzegovina, Croatia, Estonia, Phần Lan, Latvia, Litva, Slovenia và Thụy Điển. Ủy ban Tư vấn về Bầu trời mở (tiếng Anh: Open Skies Consultative Commission) là cơ quan thi hành Hiệp ước Bầu trời Mở. Ủy ban bao gồm các đại diện từ các quốc gia tham gia hiệp ước và họp hàng tháng tại trụ sở Viên của Tổ chức An ninh và Hợp tác châu Âu (OSCE).
19822174
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822174
Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Slovenia
Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Slovenia (, tiếng Serbia-Croatia: Socijalistička Republika Slovenija / Социјалистичка Република Словенија), thường gọi là Slovenia Xã hội chủ nghĩa hoặc chỉ là Slovenia, là một trong sáu cộng hoà liên bang tạo thành Nam Tư và là quốc gia dân tộc của người Slovenia. Nhà nước này tồn tại dưới nhiều tên khác nhau từ khi được thành lập vào ngày 29 tháng 11 năm 1945 cho đến ngày 25 tháng 6 năm 1991. Vào đầu năm 1990, chính phủ đã dỡ bỏ hệ thống chính phủ độc đảng – được thiết lập bởi Liên đoàn những người cộng sản – và áp dụng một nền dân chủ đa đảng. Cộng hòa Slovenia đã bỏ tên hiệu 'Xã hội chủ nghĩa' ngay sau đó và vào cuối năm 1990 đã bỏ phiếu công khai thành công cho nền độc lập, và nước này chính thức tuyên bố độc lập vào ngày 25 tháng 6 năm 1991, và đạt được điều này sau Chiến tranh Mười ngày ngắn ngủi. Nước cộng hòa lần đầu tiên có tên chính thức là "l'Slovenia Liên bang" (, tiếng Serbia-Croatia: Federalna Slovenija / Федерална Словенија) cho đến ngày 20 tháng 2 năm 1946, khi được đổi tên thành "Cộng hòa Nhân dân Slovenia" (, tiếng Serbia-Croatia: Narodna Republika Slovenija / Народна Република Словенија). Nó giữ tên này cho đến ngày 9 tháng 4 năm 1963, khi được đổi tên một lần nữa, lần này là "Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Slovenia" (, tiếng Serbia-Croatia: Socijalistička Republika Slovenija / Социјалистичка Република Словенија). Vào ngày 8 tháng 3 năm 1990, Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Slovenia đã loại bỏ tiền tố "Xã hội chủ nghĩa" khỏi tên của mình, trở thành Cộng hòa Slovenia, mặc dù vẫn là một quốc gia cấu thành của Cộng hòa Liên bang Xã hội chủ nghĩa Nam Tư cho đến ngày 25 tháng 6 năm 1991, khi họ ban hành luật dẫn đến độc lập. Vào tháng 9 năm 1989, nhiều sửa đổi hiến pháp đã được Quốc hội Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Slovenia thông qua, áp dụng dân chủ nghị viện cho đất nước. Cùng năm đó Hành động phía Bắc đoàn kết phe đối lập và cộng sản dân chủ hóa tại Slovenia trong hành động phòng thủ đầu tiên chống lại các cuộc tấn công của các ủng hộ viên Milošević, dẫn đến nền độc lập của Slovenia. Từ 'Xã hội chủ nghĩa' đã bị xóa khỏi tên của nhà nước khi đó vào ngày 7 tháng 3 năm 1990. Cơ sở xã hội chủ nghĩa đã bị giải thể phần lớn. Cuộc bầu cử dân chủ công khai đầu tiên được tổ chức vào ngày 8 tháng 4 năm 1990. Phe đối lập, được gọi là liên minh DEMOS do nhà bất đồng chính kiến Jože Pučnik lãnh đạo, đã giành chiến thắng trong cuộc bầu cử quốc hội. Đồng thời, Milan Kučan, cựu chủ tịch của Liên đoàn những người cộng sản Slovenia (ZKS), được bầu làm Tổng thống Cộng hòa. Quốc hội được bầu cử dân chủ đã đề cử lãnh đạo Đảng Dân chủ Cơ đốc giáo Lojze Peterle làm Thủ tướng, điều này đã chấm dứt thực sự 45 năm cầm quyền của Đảng Cộng sản. Trong thời kỳ này, Slovenia vẫn giữ lại lá cờ và huy hiệu cũ của mình, cùng với hầu hết các biểu tượng trước đây trong khi chờ đợi việc tạo ra các biểu tượng mới sẽ xuất hiện sau khi giành được độc lập. Quốc ca cũ là "Naprej zastava slave" đã được thay thế bằng "Zdravljica" vào tháng 3 năm 1990. Vào ngày 23 tháng 12 năm 1990, một cuộc trưng cầu dân ý về độc lập được tổ chức tại Slovenia, khi đó 94,8% số phiếu (88,5% tổng số cử tri) bỏ phiếu ủng hộ việc Slovenia ly khai khỏi Nam Tư. Vào ngày 25 tháng 6 năm 1991, các đạo luật về nền độc lập của Slovenia được Nghị viện thông qua. Sau Chiến tranh Mười ngày ngắn ngủi, quân đội Slovenia giành được độc lập; đến cuối năm, nền độc lập của họ được cộng đồng quốc tế công nhận.
19822180
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822180
Droupadi Murmu
Droupadi Murmu (; sinh ngày 20 tháng 6 năm 1958) là một cựu giáo viên và chính trị gia người Ấn Độ, hiện đang giữ chức vụ tổng thống Ấn Độ kể từ năm 2022. Bà là người phụ nữ thứ hai (sau Pratibha Patil) và là người trẻ nhất giữ chức vụ này. Bà cũng là tổng thống đầu tiên sinh ra ở Ấn Độ độc lập.
19822209
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822209
Nguyễn Văn Nhuệ
Nguyễn Văn Nhuệ (ngày 20 tháng 8 năm 1938 - ngày 30 tháng 11 năm 2022) tên thánh Phêrô, là chính khách Việt Nam Cộng Hòa, nguyên dân biểu và thượng nghị sĩ Quốc hội Việt Nam Cộng hòa. Nguyễn Văn Nhuệ chào đời tại Giáo xứ Trung Lai, Giáo phận Bắc Ninh (nay thuộc tỉnh Bắc Giang) vào ngày 20 tháng 8 năm 1938 (tài liệu thời Việt Nam Cộng hòa ghi là năm 1938, cáo phó thì ghi là năm 1936). Từ năm 1962 đến năm 1967, ông dạy học ở trường phổ thông. Ngày 22 tháng 10 năm 1967, ông được bầu làm Dân biểu và giữ chức Phó Tổng Thư ký Hạ nghị viện Việt Nam Cộng hòa từ năm 1968 đến năm 1969. Sau khi nhiệm kỳ Dân biểu kết thúc vào năm 1971, ông vào làm việc trong Phủ Tổng thống Việt Nam Cộng hòa. Từ năm 1973 đến năm 1975 (nhiệm kỳ ban đầu đến năm 1979, chấm dứt sớm do chính thể Việt Nam Cộng hòa sụp đổ) với chức vụ Thượng nghị sĩ Việt Nam Cộng hòa. Nguyễn Văn Nhuệ qua đời tại nhà riêng vào ngày 30 tháng 11 năm 2022 ở Laguna Hills, California, Hoa Kỳ, hưởng thọ 86 tuổi.
19822210
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822210
Nguyễn Văn Ngải
Nguyễn Văn Ngải (sinh ngày 12 tháng 9 năm 1934) là chính khách Việt Nam Cộng hòa và là thành viên Đại Việt Quốc dân Đảng, từng là Bộ trưởng Bộ Phát triển Nông thôn kiêm thượng nghị sĩ trong Quốc hội Việt Nam Cộng hòa. Nguyễn Văn Ngải chào đời tại Hưng Yên, miền bắc Việt Nam ngày 12 tháng 9 năm 1934. Thân phụ tên Nguyễn Chí Lai là một đảng viên tích cực của Đại Việt Quốc dân Đảng từng bị bắt giam nhiều năm từ năm 1939 vì hoạt động chống thực dân Pháp, về sau bị Đảng Cộng sản bắt giữ do bất đồng chính kiến. Năm 1950, ông gia nhập Đại Việt Quốc dân Đảng khi đang theo học ở Hà Nội. Năm 1964, ông là chủ nhiệm kiêm chủ bút một tờ nhật báo và tuần báo chính trị ở Sài Gòn. Từ năm 1973 đến năm 1974, ông giữ chức Bộ trưởng Bộ Phát triển Nông thôn. Kể từ sau biến cố 30 tháng 4 năm 1975, không rõ tung tích của ông ra sao nữa. Nguyễn Văn Ngải tin theo tín ngưỡng Phật giáo. Ông đã kết hôn và có tới sáu người con (tính đến năm 1974).
19822211
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822211
Hoàng Xuân Tửu
Hoàng Xuân Tửu (ngày 5 tháng 5 năm 1928 – Tháng 9 năm 1980) là chính khách Việt Nam Cộng hòa, nguyên Phó Chủ tịch Thượng nghị viện Việt Nam Cộng hòa. Hoàng Xuân Tửu chào đời tại tỉnh Quảng Trị, Liên bang Đông Dương vào ngày 5 tháng 5 năm 1928. Năm 1944, ông gia nhập Đại Việt Quốc dân Đảng tham gia đấu tranh chống thực dân Pháp giành độc lập cho Việt Nam. Năm 1946, ông lãnh đạo phong trào chống đối cộng sản ở Quảng Trị. Năm 1955, ông xa lánh chính quyền Ngô Đình Diệm và tự lập căn cứ ở Ba Lòng, Quảng Trị để chống lại chế độ độc tài của ông Diệm. Ít lâu sau, ông bị tòa án thân chính phủ kết án 6 năm tù khổ sai vào năm 1956. Tháng 8 năm 1969, ông đã tổ chức thành công một cuộc họp báo tại Tokyo trước khi kết thúc chuyến công du hữu nghị tới Pháp, Ý, Vương quốc Liên hiệp Anh, Bỉ, Mỹ, Trung Hoa Dân Quốc và Nhật Bản. Từ năm 1964 đến năm 1965, ông giữ chức Tỉnh trưởng Quảng Trị, sau ra làm dân biểu Quốc hội Lập hiến từ năm 1966 đến năm 1967, Thượng nghị sĩ từ năm 1967 đến năm 1973, Phó Chủ tịch Thượng viện nghị từ năm 1974 đến năm 1975, đây cũng là nhiệm kỳ cuối cùng trong sự nghiệp chính trị của đời ông. Từ sau biến cố 30 tháng 4 năm 1975, Hoàng Xuân Tửu bị nhà cầm quyền cộng sản đưa đi cải tạo tập trung và chết tại nhà tù Nam Hà tỉnh Hà Nam Ninh vào tháng 9 năm 1980. Ông đã lập gia đình và có tới chín người con.
19822212
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822212
Hoàng Cơ Thụy
Hoàng Cơ Thụy (1912 – 2004) là luật sư, chính khách và nhà ngoại giao Việt Nam Cộng hòa, từng giữ chức đại sứ Việt Nam Cộng hòa tại Vương quốc Lào. Hoàng Cơ Thụy sinh ngày 24 tháng 9 năm 1912 tại làng Đông Ngạc, huyện Từ Liêm, tỉnh Hà Đông (nay là quận Bắc Từ Liêm, thành phố Hà Nội), Bắc Kỳ, Liên bang Đông Dương. Thân phụ tên Hoàng Huân Trung từng là quan chức triều Nguyễn. Năm 1936, ông được trường Đại học Hà Nội (tức Đại học Đông Dương chứ không phải Đại học Hà Nội ngày nay) cấp bằng hợp pháp. Từ năm 1938 đến năm 1942, ông được nhận vào làm Thư ký Tòa Sơ thẩm Hà Nội, rồi lên làm Thư ký Tòa Sơ thẩm Biên Hòa năm 1943. Từ tháng 9 năm 1945 đến tháng 2 năm 1946, ông giữ chức Chánh án Tòa Sơ thẩm Bến Tre. Từ năm 1943 trở về sau, ông là luật sư tại Tòa Phúc thẩm Sài Gòn. Dưới thời Đệ Nhị Cộng hòa, ông được bổ nhiệm làm đại sứ Việt Nam Cộng hòa tại Vương quốc Lào từ năm 1969 cho đến cuối tháng 4 năm 1975. Năm 1954, Hoàng Cơ Thụy làm tổng thư ký và là người khởi xướng Phong trào Tranh thủ Tự do. Ông còn là chú của Nguyễn Triệu Hồng, một sĩ quan quân đội tham gia vào âm mưu đảo chính năm 1960 nhằm lật đổ chế độ của Tổng thống Diệm. Khi đó ông đang là lãnh đạo của một đảng đối lập nhỏ đã ủng hộ và tham gia vào cuộc đảo chính rồi tìm cách chạy trốn khỏi miền Nam Việt Nam sau khi đảo chính thất bại. Vợ là Nguyễn Thị Đính sinh được 7 người con.
19822213
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822213
Chicken tatsuta
"" được chế biến bằng cách chiên ngập dầu. Sau khi ướp thịt hoặc cá, thịt được rắc katakuri-ko (tinh bột khoai tây) của Nhật trước khi chiên. Tinh bột ngô cũng được sử dụng nếu không có sẵn katakuri-ko. Món này được nấu kèm theo thịt lợn, cá thu hoặc cá voi. Chúng cũng có thể được dùng làm bữa trưa với bánh mì đóng vai trò như một loại sandwich hoặc bánh bao.
19822235
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822235
Richard D. Wolff
Richard David Wolff (sinh 1 tháng 4 năm 1942) là một nhà kinh tế học Marxist người Mỹ, nổi danh với các tác phẩm về phương pháp luận kinh tế học và phân tích giai cấp. Ông là giáo sư danh dự của khoa kinh tế học tại Đại học Massachusetts Amherst và là giáo sư thỉnh giảng chương trình tốt nghiệp ngành quan hệ quốc tế của Đại học New School. Wolff cũng đã từng có thời gian giảng dạy tại Đại học Yale, Đại học Thành phố New York, Đại học Utah, Đại học Paris I (Sorbonne), và Diễn đàn Brecht ở Thành phố New York.
19822242
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822242
José Carlos Mariátegui
José Carlos Mariátegui (14 tháng 6 năm 1894 – 16 tháng 4 năm 1930) là một cây bút, chính khách và triết gia Marx-Lenin người Peru. Bình sinh, ông được người đời gọi trìu mến bằng cái tên "El Amauta", nghĩa là "thầy giáo" trong tiếng Quechua bản địa.
19822243
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822243
The New Mentor - Người mẫu Toàn năng 2023
Người mẫu Toàn năng 2023 hay The New Mentor 2023 là chương trình truyền hình thực tế tìm kiếm và đào tạo ra một thế hệ người mẫu với những tố chất mới, phù hợp với nhu cầu và xu hướng mới của thị trường. Nơi một người mẫu không chỉ cần đáp ứng với những tiêu chuẩn về thời trang cao cấp mà còn có khả năng tham gia vào nền công nghiệp quảng cáo và giải trí, từ đó khẳng định được tên tuổi và vị thế, gây được sức ảnh hưởng lớn hơn đến khán giả, và sau cùng trở thành một người thầy của một thế hệ mới để đào tạo nên những thế hệ người mẫu và nghệ sĩ giải trí trong tương lai. Các huấn luyện viên của chương trình bao gồm siêu mẫu Thanh Hằng, ca sĩ Hồ Ngọc Hà, hoa hậu Hương Giang và siêu mẫu Trần Ngọc Lan Khuê. Chương trình lên sóng lúc 20h30 Thứ sáu hàng tuần trên kênh VTVcab - Đài truyền hình Việt Nam (đến hết tập 9) và các nền tảng media của Huong Giang Entertainment bắt đầu từ ngày 11 tháng 08 năm 2023 đến ngày tháng năm 2023. "Ngày phát sóng: 11 tháng 8 năm 2023" VÒNG ĐỐI ĐẦU Tại vòng thi này, các thí sinh sẽ thi đấu theo cặp, họ có 2 phút 30 giây để tìm kiếm và mặc trang phục đề bài yêu cầu, sau đó, trình diễn catwalk và trả lời câu hỏi của ban giám khảo. Thí sinh nhận được 3/5 giám khảo bình chọn trở lên sẽ giành chiến thắng và được đi tiếp vào vòng chọn đội. Mỗi Super Mentor có quyền cứu 1 thí sinh bị loại, thí sinh được cứu sẽ về thẳng đội huấn luyện viên đó; Super Judge hoặc Host cũng có quyền cứu 1 thí sinh, thí sinh đó được chọn 1 trong 4 phong bì có tên của các huấn luyện viên, đồng nghĩa với việc về đội của huấn luyện viên đó. Có 6 thí sinh lọt thẳng vào top 24 và 29 thí sinh đi tiếp vào vòng chọn đội. Ghi chúVÒNG CHỌN ĐỘI 29 thí sinh bước vào vòng chọn đội, trong đó chỉ có 15 thí sinh được các huấn luyện viên lựa chọn. Kết thúc vòng chọn đội, team Hồ Ngọc Hà thiếu 1 thành viên và team Lan Khuê thiếu 2 thành viên, do đó phải chọn thêm 3 trong 14 thí sinh không được chọn trước đó; host Dược sĩ Tiến đã chọn H'Duyên Bkrông về team Hồ Ngọc Hà và Kim Nhung, Pông Chuẩn về team Lan Khuê. "Ngày phát sóng: 18 tháng 8 năm 2023" COMPREHENSIVE AREA Trước tiên, top 24 thí sinh được mang giày múa và luyện tập các kĩ thuật cùng diễn viên múa Linh Nga. Sau đó, các thí sinh sẽ thực hiện bộ ảnh "The Lotus" trong BST "The Legacy of The New Mentor" trên concept bồn hoa sen, mỗi thí sinh có 2 phút để hoàn thành thử thách. Ban giám khảo sẽ công bố 3 bức ảnh đẹp nhất và 3 bức ảnh tệ nhất, các thí sinh có bức ảnh đẹp nhất sẽ mang lợi thế về cho đội của mình trong thử thách tiếp theo. 3 thí sinh có bức ảnh đẹp nhất (xếp theo thứ hạng) 3 thí sinh có bức ảnh tệ nhất (KHÔNG xếp theo thứ hạng) PROVING AREA Các Super Mentor chọn ra 4 thí sinh mỗi team làm leader (hay The New Mentor) để dẫn dắt các thí sinh khác. Top 24 thí sinh phải thực hiện một bộ ảnh "xuyên không" vào các vở chèo để cùng trò chuyện, giao lưu các nhân vật và "kể lại" thông qua một bộ ảnh thời trang high fashion. Mỗi team sẽ có với 6 bức ảnh đơn và 1 bức ảnh nhóm do Super Mentor chỉ đạo, cùng với đó, sẽ có 1 bức ảnh bao gồm 5 người mẫu do The New Mentor chỉ đạo. Các team có 25 phút thực hiện, top 3 ở thử thách trước giúp team mình có thêm thời gian ở thử thách lần này, team Thanh Hằng thêm 3 phút, team Hương Giang thêm 2 phút và team Lan Khuê thêm 1 phút. Các The New Mentor cũng là người chọn 1 trong 2 trích đoạn chèo "Xúy Vân giả dại" trong "Kim Nham" và "Thị Mầu lên chùa" trong "Quan Âm Thị Kính" cho team mình, dưới sự hỗ trợ của NSƯT Thu Huyền và NSND Thúy Ngần. Cách tính điểm chia làm hai phần: mỗi bức ảnh đơn và bức ảnh team do Super Mentor hướng dẫn có 2 trên 3 ban giám khảo "say yes" sẽ được tính 1 điểm; bức ảnh của 5 người mẫu do The New Mentor hướng dẫn sẽ được ban giám khảo cho điểm, bức ảnh có tổng điểm cao nhất nhận được 10 điểm, tổng điểm cao thứ hai, ba, tư lần lượt nhận được 9.5 - 9 - 8.5 điểm. Tập 3: CATWALK ĐỊA HÌNH LIÊN HOÀN, AI SẼ BỊ LOẠI?
19822246
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822246
Ngọc Thúy
Ngọc Thúy tên đầy đủ là Phạm Thị Ngọc Thúy (sinh năm 1980 tại Sài Gòn) là một siêu mẫu, diễn viên Việt Nam. Cô là một trong những tên tuổi hàng đầu của thời trang Việt Nam vào đầu thập niên 2000. Cô được mệnh danh là Marilyn Monroe Việt Nam.
19822259
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822259
Hòa bình kiểu Carthage
Hòa bình kiểu Carthage là sự áp đặt một "hòa bình" rất tàn bạo nhằm mục đích làm tê liệt vĩnh viễn bên thua cuộc. Thuật ngữ này bắt nguồn từ các điều khoản hòa bình do Cộng hòa La Mã áp đặt lên Đế chế Carthage sau Chiến tranh Punic. Sau Chiến tranh Punic lần thứ hai, Carthage mất tất cả các thuộc địa của mình, buộc phải phi quân sự hóa, liên tục cống nạp cho La Mã và bị cấm tiến hành chiến tranh nếu không có sự cho phép của La Mã. Vào cuối Chiến tranh Punic lần thứ ba, La Mã đã đốt cháy Carthage một cách có hệ thống và bắt dân Carthage về làm nô lệ. Thuật ngữ này được phổ biến bởi nhà kinh tế học thế kỷ 20 John Maynard Keynes. Thuật ngữ này đề cập đến kết quả của một loạt cuộc chiến tranh giữa La Mã và thành bang Carthage của người Phoenicia, được gọi là Chiến tranh Punic. Hai đế quốc đã tiến hành ba cuộc chiến tranh riêng biệt với nhau, bắt đầu từ năm 264 trước Công nguyên và kết thúc vào năm 146 trước Công nguyên. Vào cuối Chiến tranh Punic lần thứ ba, người La Mã đã vây hãm Carthage. Khi chiếm được đô thành, La Mã đã giết hầu hết cư dân, bắt những người còn lại bán làm nô lệ và phá hủy toàn bộ thành phố. Không có bằng chứng cổ xưa nào cho các tài liệu hiện đại rằng người La Mã rải muối lên mặt đất. Nói rộng ra, một nền hòa bình kiểu Carthage có thể đề cập đến bất kỳ hiệp ước hòa bình tàn bạo nào yêu cầu bên bại trận khuất phục hoàn toàn. Việc sử dụng thuật ngữ hiện đại thường được mở rộng cho bất kỳ giải pháp hòa bình nào trong đó các điều khoản hòa bình quá khắc nghiệt và được thiết kế để làm nổi bật và duy trì sự thấp kém cho bên thua cuộc. Do đó, sau Thế chiến I, nhiều người (trong số đó có nhà kinh tế học John Maynard Keynes) ] đã mô tả cái gọi là hòa bình do Hiệp ước Versailles mang lại như một “hòa bình kiểu Carthage”. Kế hoạch Morgenthau được đưa ra sau Thế chiến II cũng được mô tả là một hòa bình kiểu Carthage, vì nó ủng hộ quá trình phi công nghiệp hóa nước Đức. Nó nhằm mục đích hạn chế nghiêm trọng ảnh hưởng quyền lực Đức trong khu vực và ngăn chặn quá trình Đức tái vũ trang, như đã xảy ra sau Thế chiến thứ nhất (Đức tái vũ trang và Tái quân sự hóa Rhineland). Kế hoạch Morgenthau đã bị loại bỏ thay thế bằng Kế hoạch Marshall (1948–1952), kéo theo việc xây dựng lại cơ sở hạ tầng Tây Âu, đặc biệt là ở Tây Đức. Tướng Lucius D. Clay, cấp phó của Tướng Dwight D. Eisenhower và, vào năm 1945, Thống đốc Quân sự Vùng Hoa Kỳ chiếm đóng ở Đức, sau này đã nhận xét rằng "không còn nghi ngờ gì nữa, JCS 1067 đã dự tính hòa bình kiểu Carthage chi phối các hoạt động ở Đức trong những tháng đầu chiếm đóng. Đây là lúc Hoa Kỳ đang tuân theo Kế hoạch Morgenthau." Clay sau đó sẽ thay thế Eisenhower làm thống đốc và tổng tư lệnh ở châu Âu. Kế hoạch Marshall được ủng hộ vì sự hồi sinh của nền kinh tế Tây Đức được coi là cần thiết cho sự phục hồi của nền kinh tế châu Âu. Tây Đức được coi là bức tường thành quan trọng chống lại Khối phía Đông.
19822287
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822287
Linda Yaccarino
Linda Yaccarino (sinh ngày 21 tháng 12 năm 1963) là một nhà điều hành truyền thông người Mỹ. Bà từng là chủ tịch mảng quảng cáo toàn cầu và cộng tác của NBCUniversal. Vào ngày 5 tháng 6 năm 2023, Yaccarino kế nhiệm Elon Musk với vai trò CEO của X Corp., một phần của Twitter. Yaccarino lớn lên ở Deer Park, New York. Bà là người gốc Ý. Yaccarino tốt nghiệp Khoa Truyền thông Donald P. Bellisario thuộc Đại học Bang Pennsylvania với bằng cử nhân viễn thông năm 1985. Yaccarino hoạt động tại Turner Entertainment gần 20 năm, trở thành phó chủ tịch điều hành và giám đốc điều hành bộ phận kinh doanh quảng cáo, bà giúp phát triển các quảng cáo mới và chiến lược tiếp thị. Yaccarino gia nhập NBCUniversal vào tháng 10 năm 2011. Là người đứng đầu bộ phận bán hàng quảng cáo của NBCUniversal, bà đóng vai trò chủ chốt trong việc ra mắt dịch vụ phát trực tuyến Peacock. Yaccarino gia nhập Hội đồng Quảng cáo vào năm 2014. Năm 2018, Tổng thống Donald Trump bổ nhiệm bà vào Hội đồng của Tổng thống về Thể thao, Thể hình và Dinh dưỡng. Yaccarino trở thành chủ tịch của ban giám đốc Hội đồng Quảng cáo vào tháng 1 năm 2021, nhiệm kỳ kết thúc ngày 30 tháng 6 năm 2022. Khi là chủ tịch, Yaccarino hợp tác với chính quyền Biden vào năm 2021 để tạo ra một chiến dịch vắc-xin COVID-19 với sự góp mặt của Giáo hoàng Phanxicô. Bà còn chủ trì lực lượng đặc nhiệm Tương lai về Công việc của Diễn đàn Kinh tế thế giới (WEF). Yaccarino từ chức ở NBCUniversal vào ngày 12 tháng 5 năm 2023, cùng ngày Elon Musk cho biết Yaccarino sẽ giữ chức CEO của X Corp. và Twitter. Trước việc bổ nhiệm này, tờ "Financial Times" tỏ ra hoài nghi của Musk về WEF và mối liên hệ của Yaccarino với tổ chức mà ông phê phán là "sẽ trở thành một chính phủ thế giới không được bầu". Musk trấn an người dùng là ông không nghĩ mối liên hệ của Yaccarino với WEF là trở ngại đối với cam kết tự do ngôn luận mà ông tuyên bố, về việc bổ nhiệm Yaccarino giữ chức CEO Twitter ông viết "cam kết tính minh bạch tài liệu công khai và thừa nhận nhiều quan điểm lớn không thay đổi." Yaccarino được cho là một người được địa vị theo chỉ định của Trump và theo dõi một số tài khoản theo thuyết âm mưu và cực hữu trên Twitter. Dưới sự lãnh đạo của Musk và Yaccarino, nền tảng này nổi tiếng vì gia tăng các phát ngôn thù hận và được coi là cực hữu. Yaccarino kết hôn với Claude Madrazo và có hai người con. Họ sinh sống ở Sea Cliff, New York.
19822292
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822292
Alpheus armatus
Alpheus armatus là một loài tôm gõ mõ trong họ Alpheidae, được tìm thấy tại vùng nước nông ở Biển Caribe và Vịnh Mexico. Nó sống cùng với một loài hải quỳ như "Bartholomea annulata", dọn sạch cát khỏi các vết nứt và kẽ hở mà hải quỳ thường sinh sống. "Alpheus armatus" là loài tôm có kích thước vừa phải, dài từ 2 đến 5 cm (0,8 đến 2,0 in). Râu có màu trắng với các dải sẫm màu và thân màu nâu, cam hoặc đỏ, có đốm trắng. Một trong những cặp chân trước mang một gọng kìm khổng lồ, dùng làm vũ khí săn mồi và đe dọa kẻ thù, có khả năng tạo ra tiếng "cách" lớn. Chân trước còn lại mang một móng vuốt nhỏ. "Alpheus armatus" sinh sống tại vùng nước nhiệt đới và cận nhiệt đới phía tây Đại Tây Dương, Biển Caribe và Vịnh Mexico, thường ở độ sâu lớn hơn 10 m (33 ft). Cùng với "A. armatus", loài tôm gần như tương đồng "Alpheus immaculatus" tạo thành một quần thể loài, chủ yếu xuất hiện ở độ cao từ 13 đến 25 m (43 đến 82 ft). Cả hai loài tôm sống cùng với một loài hải quỳ, thường là "Bartholomea annulata", sinh sống trong hang động, phần nhô ra và kẽ hở, cũng như san hô vụn; hải quỳ giấu chân và cột của nó ở một nơi kín đáo và vươn các xúc tu vào cột nước để kiếm ăn. Khi bị quấy rầy, hải quỳ co cơ thể trở lại hang ổ của mình, rồi tự vệ bằng các xúc tu có nọc độc. Nơi hải quỳ sống gần đáy biển có cát hoặc ở vị trí sóng gió, có nhiều khả năng có một hoặc một cặp tôm cộng sinh sống cùng với nó hơn là hải quỳ ở xa đáy biển hơn. "Alpheus armatus" là loài săn mồi, ăn động vật giáp xác nhỏ, động vật thân mềm và thậm chí cả cá nhỏ. Khi một con mồi tiềm năng tiếp cận con tôm này, nó sẽ mở rộng chiếc gọng kìm lớn của mình và tiến về phía mồi, đóng chặt càng lại bằng một tiếng lách cách lớn. Động tác này phóng ra một tia nước giống như súng nước và "hạ gục" con mồi; tiếng "cách" là do bong bóng tạo bọt vỡ ra khi móng vuốt đóng lại. Tôm sau đó mang con mồi về tổ để ăn. Nếu vì một lý do nào đó mà móng vuốt bị mất, móng vuốt còn lại sẽ to ra, mang hình dạng và chức năng của móng vuốt "cách", mặc dù không bao giờ đạt được kích thước như ban đầu. Ở lần thay vỏ tiếp theo, một móng vuốt nhỏ mới phát triển trên chi bị tổn thương, nhưng không phục hồi chức năng ban đầu. "Alpheus armatus" là loài cộng sinh bắt buộc của hải quỳ, thường là "Bartholomea annulata", và có thể thích nghi với độc tố của nó. Con tôm tìm kiếm hải quỳ ngay cả khi cả hai đều bị chôn vùi hoàn toàn trong cát. Tôm chủ động dọn sạch cát cản lối vào hang ổ của hải quỳ. Trong khi làm sạch hang, tôm thực hiện ba hành vi riêng biệt: đào bới, hất tung và xáo trộn cát. Nhờ đó, hải quỳ có thể tự co mình vào ổ một cách dễ dàng hơn nhằm tự vệ; trong khi tôm được những xúc tu độc của hải quỳ bảo vệ.
19822295
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822295
Andy Selva
Andy Selva (sinh ngày 23 tháng 5 năm 1976) là một cựu cầu thủ bóng đá San Marino hiện tại đang là huấn luyện viên trưởng của câu lạc bộ Tre Fiori tại Campionato Sammarinese di Calcio. Trong cả sự nghiệp, anh thi đấu ở vị trí tiền đạo và đã từng là đội trưởng của Đội tuyển bóng đá quốc gia San Marino, kết thúc sự nghiệp của mình với tư cách là cầu thủ nhiều bàn thắng nhất trong lịch sử của đội bóng. Anh bắt đầu sự nghiệp của mình vào mùa giải 1994–95, chơi ở Eccellenza với A.S. Latina, trong đó anh đã ghi được 5 bàn thắng sau 26 lần ra sân. Mùa giải tiếp theo, anh ghi 10 bàn sau 31 lần ra sân cho Civita Castellana ở Serie D, trước khi chuyển đến Fano (tại Serie C2), nơi anh ở lại cho đến tháng 3 năm 1998, anh đã chơi 32 trận chỉ với một bàn thắng. Năm 1999, Selva chơi với câu lạc bộ tại Serie C2 khác, Catanzaro, ra sân 40 lần, ghi 6 bàn. Selva quay lại Eccellenza với Tivoli vào năm 1999, anh ghi 15 bàn sau 21 trận, trong khi ở mùa giải tiếp theo, anh chuyển đến San Marino, nơi anh ghi bốn bàn sau 26 lần ra sân. Trong mùa giải 2001–02 chơi ở ba đội khác nhau, anh có ba lần ra sân với San Marino, sau đó là năm lần ra sân với Maceratese ở Serie D, ghi một bàn thắng, và do đó kết thúc mùa giải ở Serie D, với Grosseto (15 lần ra sân và ghi 2 bàn). Anh đã ghi 21 bàn sau 30 trận cho Bellaria trong mùa tiếp theo. Vào mùa hè năm 2003, anh chuyển đến SPAL 1907, tại đây, trong hai mùa giải ở Serie C1, anh đã chơi 51 trận và ghi được 22 bàn thắng. Vào giữa năm 2009, anh chuyển đến Hellas Verona nhưng đã bị bán đi sau khi Verona thăng hạng lên Serie B. Vào tháng 7 năm 2011, anh thử việc tại câu lạc bộ Santarcangelo. Anh tuyên bố giải nghệ với tư cách là một cầu thủ vào tháng 7 năm 2018. Selva được sinh ra ở Roma, Ý với bố là người Ý đến từ Lazio và mẹ là người San Marino. Vì vậy, anh có thể đại diện cho cả Ý lẫn San Marino và anh đã chọn đại diện cho San Marino. Anh ra mắt quốc tế vào ngày 9 tháng 9 năm 1997 trong trận thua 1–4 trước U-21 Thổ Nhĩ Kỳ, và ghi được 1 bàn thắng trong trận đấu đó. Là một trong số ít những cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp trong nước, anh được ca ngợi là một trong những cầu thủ vĩ đại nhất trong lịch sử của đội tuyển quốc gia nước này. Anh đã ra sân 73 lần cho đội tuyển quốc gia và ghi được 8 bàn thắng, trở thành tay săn bàn hàng đầu trong lịch sử của đội. Cho đến năm 2012, anh là cầu thủ duy nhất ghi nhiều hơn một bàn cho San Marino. Vào ngày 28 tháng 4 năm 2004, Selva trở thành cầu thủ đầu tiên ghi bàn thắng quyết định cho San Marino khi anh ghi bàn thắng duy nhất trong chiến thắng 1–0 trước Liechtenstein. Đó là trận thắng duy nhất mà San Marino giành được cho đến nay, đồng thời là một trong 6 trận đấu chính thức mà San Marino giữ sạch lưới. Sau khi giải nghệ, anh được bổ nhiệm làm huấn luyện viên trưởng của Đội tuyển bóng đá U-17 quốc gia San Marino vào năm 2018. Vào tháng 2 năm 2020, anh được bổ nhiệm làm huấn luyện viên của câu lạc bộ Pennarossa. Vào ngày 13 tháng 6 năm 2022, anh được bổ nhiệm làm huấn luyện viên trưởng của câu lạc bộ Tre Fiori. Vào ngày 7 tháng 7 năm 2022, anh đã giúp đội bóng giành chiến thắng đầu tiên trên sân khách ở một giải đấu cúp châu Âu (và là trận thắng đầu tiên của bất kỳ đội bóng ở San Marino nào), chiến thắng 1–0 trước Fola Esch. Một tuần sau, Tre Fiori đánh bại Fola Esch 3–1 trong trận lượt về, dẫn đến việc họ lần đầu tiên đủ điều kiện tham dự vòng loại thứ 2 của UEFA Europa Conference League và lần thứ hai duy nhất tiến xa ở một giải đấu tại châu Âu.
19822296
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822296
Jumhuriya
Jumhūriyyah, Jumhūrīyah hay Jumhūrīyat (; ) là một từ trong tiếng Ả Rập, có nghĩa là "cộng hòa". Tên chính thức của các quốc gia sau đây có chứa từ ""Jumhūriyyah"" hoặc chứa các biến thể của từ này theo các ngôn ngữ khác.
19822299
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822299
Rap Việt All-Star Concert (mùa 1)
Rap Việt All-Star Concert là buổi hòa nhạc trực tiếp có sự góp mặt của các HLV, ban giám khảo và các thí sinh của chương trình, và cũng là món quà tri ân mà chương trình dành tặng khán giả. Đêm diễn ban đầu dự kiến tổ chức vào ngày 30 tháng 1 năm 2021 với quy mô 10.000 khán giả, nhưng đã bị lùi lại sang ngày 10 tháng 4 năm 2021 do ảnh hưởng của đại dịch COVID-19. Buổi hòa nhạc được phát sóng trên kênh HTV2 - Vie Channel, VTVCab 1 - Vie Giải Trí, ứng dụng VieON vào 20 giờ các ngày 22, 29 tháng 5 và 21 giờ ngày 6 thâng 6 năm 2021, được phát hành trên kênh Youtube HTV2 - Vie Channel vào 20 giờ các ngày 12, 19 tháng 6 năm 2021.
19822300
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822300
Thể thao điện tử tại Đại hội Thể thao châu Á 2022 - Giải đấu Liên Quân Mobile
Thể thao điện tử Liên Quân tại Đại hội Thể thao châu Á 2022 sẽ là một nội dung thi đấu tranh huy chương, được tranh tài từ ngày 24 tháng 09 năm 2023 đến ngày 26 tháng 09 năm 2023. Tại Đại hội Thể thao châu Á 2022, bộ môn Liên Quân sẽ được thi đấu ở phiên bản Đại hội Thể thao châu Á, sẽ được thay thế bằng bộ môn Vương Giả Vinh Diệu. Bộ môn Liên Quân (Vương Giả Vinh Diệu) sẽ sử dụng bản đồ của tựa game Vương Giả Vinh Diệu.
19822301
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822301
Đẳng cấp quý tộc Scotland
Đẳng cấp quý tộc Scotland (tiếng Gael Scotland: "Moraireachd na h-Alba"; tiếng Scots: "Peerage o Scotland"; tiếng Anh: "Peerage of Scotland") là 1 trong 5 bộ phận của đẳng cấp quý tộc tại Vương quốc Anh và người lập ra những tước vị thuộc đẳng cấp đó là Vua Scotland tạo ra trước năm 1707. Theo Hiệp ước Liên minh, Vương quốc Scots và Vương quốc Anh được kết hợp dưới tên gọi Vương quốc Đại Anh, và một đẳng cấp quý tộc mới được thiết lập với tên gọi Đẳng cấp quý tộc Đại Anh, trong đó các tước hiệu tiếp theo được tạo ra. Những người ngang hàng Scotland được quyền ngồi trong Nghị viện Scotland cũ. Sau Liên minh, những người đồng cấp của Nghị viện cũ của Scotland đã bầu 16 đại diện ngang hàng vào ngồi trong Viện Quý tộc tại Westminster. Đạo luật Đẳng cấp quý tộc 1963 đã cấp cho tất cả những quý tộc Scotland ngang hàng quyền ngồi trong Viện Quý tộc, nhưng quyền tự động này đã bị thu hồi, đối với tất cả các quý tộc cha truyền con nối (ngoại trừ của Bá tước Nguyên soái và Lãnh chúa Thị vệ Đại thần Anh đương nhiệm), khi Đạo luật Viện Quý tộc 1999 nhận được sự đồng ý của Hoàng gia. Không giống như hầu hết các quý tộc khác, nhiều tước hiệu của Scotland đã được ban cho phần còn lại để truyền cho con cái (do đó, một gia đình người Ý đã kế vị và hiện đang nắm giữ tước vị Bá tước xứ Newburgh), và trong trường hợp chỉ dành cho con gái, những tước vị này được trao cho con gái tránh rơi vào tình trạng bị tước bỏ tước vị khi tuyệt tự dòng nam (như trường hợp của các nam tước Anh cổ đại bằng lệnh triệu tập). Không giống như các danh hiệu quý tộc khác của Anh, luật Scots cho phép các tước vị được thừa kế bởi hoặc thông qua một người không hợp pháp khi sinh, nhưng sau đó được hợp pháp hóa bởi cha mẹ của họ kết hôn sau đó. Các cấp bậc của Quý tộc Scotland theo thứ tự tăng dần: Lãnh chúa của Nghị viện, Tử tước, Bá tước, Hầu tước và Công tước. Các Tử tước Scotland khác với các Tử tước của các Đẳng cấp quý tộc khác (của Anh, Đại Anh, Ireland và Vương quốc Liên hiệp Anh) bằng cách sử dụng phong cách của tước hiệu của họ, như trong Tử tước xứ Oxfuird. Mặc dù đây là dạng lý thuyết, nhưng hầu hết các Tử tước đều bỏ "of". Tử tước xứ Arbuthnott và ở một mức độ thấp hơn là Tử tước xứ Oxfuird vẫn sử dụng "of". Các Nam tước Scotland xếp hạng dưới các Lãnh chúa của Nghị viện, và mặc dù được coi là cao quý, nhưng tước hiệu của họ là cha truyền con nối. Đã có lúc các nam tước phong kiến ngồi trong quốc hội. Tuy nhiên, họ được coi là những nam tước nhỏ chứ không phải ngang hàng vì tước hiệu của họ có thể được cha truyền con nối hoặc mua bán. Trong bảng sau đây về Đẳng cấp quý tộc Scotland hiện tại, tước hiệu xếp hạng cao nhất của mỗi đẳng cấp trong các đẳng cấp khác (nếu có) cũng được liệt kê. Những quý tộc ngang hàng được biết đến với tước hiệu cao hơn ở một trong những đẳng cấp khác được liệt kê bằng chữ in nghiêng.
19822302
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822302
Toàn cầu hóa quân sự
Toàn cầu hóa quân sự (tiếng Anh: Military globalization) được David Held định nghĩa là "quá trình ngày càng tăng về mức độ và cường độ của các mối quan hệ quân sự giữa các đơn vị chính trị trong hệ thống thế giới. Có thể hiểu, nó phản ánh sự mở rộng của mạng lưới quan hệ quân sự toàn cầu, cũng như tác động của những đổi mới công nghệ quân sự quan trọng (từ tàu thủy chạy bằng hơi nước đến vệ tinh), dần theo thời gian, đã tái tạo thế giới thành một không gian địa chiến lược duy nhất". Đối với Robert Keohane và Joseph Nye, toàn cầu hóa quân sự kéo theo 'các mạng lưới phụ thuộc quân sự lẫn nhau ở khoảng cách xa, và mối đe dọa hoặc hứa hẹn sử dụng vũ lực". Held chia toàn cầu hóa quân sự thành ba quá trình riêng biệt: Tất cả ba quá trình trên "được kết nối với sự phát triển công nghệ, thứ đã giúp chúng trở nên khả thi ngay từ đầu. Kết quả của việc này là làm tăng tính phức tạp và phụ thuộc lẫn nhau trên toàn cầu". Quá trình toàn cầu hóa quân sự bắt đầu từ Thời đại Khám phá, khi các đế quốc thuộc địa châu Âu bắt đầu các hoạt động quân sự trên phạm vi toàn cầu. "Sự cạnh tranh đế quốc đã dẫn đến Chiến tranh thế giới thứ nhất, là cuộc xung đột toàn cầu đầu tiên trong lịch sử thế giới". Keohane xác định thời điểm toàn cầu hóa quân sự bắt đầu ít nhất là từ thời những cuộc chinh phạt của Alexandros Đại Đế.
19822306
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822306
Danh sách cầu thủ tham dự giải vô địch bóng đá U-23 Đông Nam Á 2023
Dưới đây là các đội hình cho Giải vô địch bóng đá U-23 Đông Nam Á 2023, diễn ra từ ngày 17 đến ngày 26 tháng 8 năm 2023. Mười đội tuyển quốc gia thuộc Liên đoàn bóng đá ASEAN (AFF) tham gia giải đấu này phải đăng ký một đội có tối đa 23 cầu thủ, trong đó có ba thủ môn. Chỉ những cầu thủ trong danh sách đội dưới đây mới được phép tham gia giải đấu. Huấn luyện viên: Issara Sritaro Huấn luyện viên: Félix Dalmás Huấn luyện viên: Michael Feichtenbeiner Huấn luyện viên: Atsushi Hanita Huấn luyện viên: Park Tae-su Huấn luyện viên: E. Elavarasan Huấn luyện viên: Shin Tae-yong Huấn luyện viên: Hoàng Anh Tuấn Đội hình cuối cùng được công bố vào ngày 19 tháng 8 năm 2023. Huấn luyện viên: Christopher Pedimonte Đội hình cuối cùng được công bố vào ngày 16 tháng 8 năm 2023. Huấn luyện viên: Guglielmo Arena
19822312
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822312
Plastic Love
Vào năm 2017, "Plastic Love" chứng kiến sự hồi sinh trên phạm vi quốc tế khi bản phối lại dài 8 phút của bài hát xuất hiện YouTube. Video nhanh chóng thu về 24 triệu lượt xem, trước khi khiếu nại bản quyền đối với hình ảnh album vô tình dẫn đến việc nó bị xóa. Bản phối này đã được khôi phục vào năm 2019 và có hơn 63 triệu lượt xem. "Plastic Love" được viết và biểu diễn bởi Takeuchi, sản xuất bởi là chồng cô, Yamashita Tatsuro. Yamashita cũng chơi guitar cho bài hát, trong khi Nakanishi Yasuharu chơi piano điện, Itō Kōki chơi guitar bass và Aoyama Jūn chơi trống. Trong một cuộc phỏng vấn với "The Japan Times", Takeuchi đã nhớ lại: "Tôi muốn viết một thứ gì đó có thể nhảy được, một thứ gì đó mang âm hưởng city pop... [lời bài hát] kể về câu chuyện của một người phụ nữ đã mất đi người đàn ông mà cô ấy thực sự yêu". Bài hát ra mắt lần đầu trong album ăn khách số một của Takeuchi, "Variety" (1984). Một đĩa đơn 12-inch của ca khúc đã được phát hành vào ngày 25 tháng 3 năm 1985. Đây là đĩa đơn thứ 12 của nữ ca sĩ, bao gồm một "bản hòa âm câu lạc bộ mở rộng" và bản phối lại mới bài hát. Sau khi xuất bản, đĩa "Plastic Love" đã đạt vị trí thứ 86 trên Oricon Singles Chart. Ngày 5 tháng 7 năm 2017, một người dùng có tên là "Plastic Lover" đã tải lên bản phối lại "Plastic Love" dài 8 phút trên YouTube. Video cho thấy hình ảnh cắt xén từ bìa đĩa đơn trước đó của Takeuchi "Sweetest Music", chụp bởi nhiếp ảnh gia Alan Levenson ở Los Angeles. Trong một cuộc phỏng vấn, Plastic Lover nói rằng video là bản tải lên lại của một video tương tự đã bị xóa trên nền tảng. Trùng hợp với sự phổ biến của dòng nhạc vaporwave, bản phối của Plastic Lover đã lan truyền nhanh chóng khắp YouTube thông qua thuật toán đề xuất. Sự lan truyền của bài hát cũng được hỗ trợ bởi các meme trên internet, thảo luận trên Reddit, và fan art của bìa "Sweetest Music" trên những nền tảng như DeviantArt. Video đã đạt được 24 triệu lượt xem trước khi bị gỡ xuống do tranh chấp bản quyền với Levenson, nhưng sau đó được khôi phục trở lại vào năm 2019 với phần ghi công Levenson trong phần mô tả và hình thu nhỏ của video. Bài hát cũng truyền cảm hứng cho một phiên bản lời tiếng Anh do người hâm mộ tạo ra, bên cạnh bản remix và ảnh bìa đĩa của người hâm mộ. Tính đến tháng 5 năm 2021, video đã có hơn 63 triệu lượt xem. Ryan Bassil, viết cho "Vice" đã đánh giá bài hát là "một giai điệu hiếm hoi không cần những từ ngữ chính xác để miêu tả chuyên nghiệp một cảm giác cụ thể – những ham muốn, đau lòng, tình yêu, sợ hãi, phiêu lưu, mất mát, tất cả bị cuốn vào giữa dòng xoáy của một đêm chơi bời trên phố" và gọi "Plastic Love" là "bài nhạc pop hay nhất thế giới". Cat Zhang của trang "Pitchfork" ghi nhận rằng những người trẻ hâm mộ city pop thường coi "Plastic Love" là "cánh cổng dẫn đường" của họ. Nhiều phiên bản cover của ca khúc cũng tồn tại, bao gồm của Tofubeats, Friday Night Plans và Chai. Vào ngày 16 tháng 5 năm 2019, phiên bản ngắn của video âm nhạc chính thức, do Hayashi Kyōtaro sản xuất, đã được phát hành trên YouTube với thời lượng 90 giây. Phiên bản đầy đủ, dài khoảng 5 phút, nằm trong DVD và Blu-ray của "Souvenir the Movie" phát hành ngày 18 tháng 11 năm 2020. Video âm nhạc sau đó cũng có trên YouTube vào 11 tháng 11 năm 2021. Ngày 3 tháng 11 cùng năm, Tower Records đã phát hành bản in lại đĩa đơn 12 inch cũ của "Plastic Love", cùng với các bản ghi LP album của Takeuchi gồm "Variety" and "Request". Tất cả các bài hát do Takeuchi Mariya viết và sắp xếp bởi Yamashita Tatsuro.
19822316
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822316
Benjamin Cremaschi
Benjamin Cremaschi (; sinh ngày 2 tháng 3 năm 2005) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Mỹ hiện tại đang thi đấu ở vị trí tiền vệ cho câu lạc bộ Inter Miami tại Major League Soccer. Cremaschi bắt đầu chơi bóng tại câu lạc bộ Key Biscayne SC khi mới 6 tuổi và năm 14 tuổi chuyển đến Weston Academy. Anh đã giúp Weston Academy giành được U-16 MLS Next Cup năm 2021, nơi anh giành được Chiếc giày Vàng. Anh chuyển đến đội trẻ của Inter Miami vào năm 2021. Năm 2022, anh giúp đội U-17 Inter Miami vô địch Generation Adidas Cup và giành được quyền lựa chọn tại MLS NEXT All-Star. Anh cũng ra mắt cho Inter Miami II vào năm 2022, ghi 5 bàn và có 1 kiến ​​tạo trong mùa giải đó ở MLS Next Pro. Vào ngày 22 tháng 11 năm 2022, anh ký hợp đồng chuyên nghiệp đầu tiên với Inter Miami theo bản hợp đồng 3 năm. Anh ra mắt chuyên nghiệp với Inter Miami khi vào sân thay người trong chiến thắng 2–0 trước CF Montréal tại Major League Soccer vào ngày 25 tháng 2 năm 2023. Sinh ra ở Hoa Kỳ, Cremaschi là người gốc Argentina và do đó đủ điều kiện để đại diện cho một trong hai quốc gia. Anh được gọi triệu tập lên đội tuyển U-19 Hoa Kỳ cho chiến dịch giành chức vô địch của họ tại Slovenia Nations Cup vào tháng 9 năm 2022. Anh được gọi lên một trại huấn luyện của đội tuyển U-20 Hoa Kỳ vào tháng 10 năm 2022 để chuẩn bị cho Giải vô địch bóng đá U-20 thế giới 2023. Ngày 7 tháng 12 năm 2022, anh được triệu tập lên đội tuyển U-20 Argentina cho một trại huấn luyện để tham dự Giải vô địch bóng đá U-20 Nam Mỹ 2023.
19822335
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822335
Danh sách thảm họa quân sự
Thảm họa quân sự là một bên thất bại trong trận chiến hoặc chiến tranh dẫn đến việc bên thua cuộc hoàn toàn thất bại trong việc đạt được mục tiêu ban đầu. Nó thường, nhưng không phải luôn luôn, liên quan đến thiệt hại về người rất lớn và không tương xứng. Các nguyên nhân rất đa dạng và bao gồm lỗi con người, công nghệ kém, vấn đề hậu cần, đánh giá thấp kẻ thù, đông hơn và kém may mắn. Danh sách được liệt kê này là những trận đánh mà nhiều nguồn liên quan đến chủ đề thảm họa quân sự đã coi sự kiện được đề cập là một thảm họa quân sự (hoặc một thuật ngữ tương đương).
19822337
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822337
The Moon: Nhiệm vụ cuối cùng
The Moon: Nhiệm vụ cuối cùng (tựa gốc tiếng Hàn: 더 문; Romaja: Deo Mun; tựa gốc tiếng Anh: "The Moon") là một bộ phim điện ảnh Hàn Quốc thuộc thể loại thảm họatâm lýchính kịch ra mắt vào năm 2023 do Kim Yong-hwa làm đạo diễn, viết kịch bản và đồng sản xuất, với sự tham gia diễn xuất của các diễn viên gồm D.O., Sol Kyung-gu và Kim Hee-ae. Tác phẩm kể về câu chuyện đầy kịch tính về sứ mệnh thám hiểm mặt trăng đầu tiên của các phi hành đoàn Hàn Quốc và hành trình sinh tồn của phi hành gia trẻ Hwang Sun-woo trước những thảm họa trong không gian. Bộ phim có buổi công chiếu tại Hàn Quốc vào ngày 2 tháng 8 năm 2023, và tại Việt Nam vào ngày 11 tháng 8 cùng năm. Tác phẩm nhìn chung nhận về những lời khen ngợi từ giới chuyên môn. Năm 2024, sứ mệnh đưa con người lên mặt trăng đầu tiên của Hàn Quốc đã kết thúc thảm bại trong một thảm họa thảm khốc khi một vụ nổ xảy ra trên tàu khiến tất cả phi hành đoàn đều thiệt mạng. Đến năm 2029, tàu vũ trụ Woori-ho của Hàn Quốc bắt đầu cuộc hành trình tới Mặt Trăng. Điều này đã thu hút sự chú ý của thế giới, nhưng một ngọn lửa Mặt Trời bùng lên đã nhấn chìm con tàu vũ trụ, chỉ còn lại duy nhất thành viên phi hành đoàn Hwang Sun-woo mắc kẹt tại Mặt Trăng. Kim Jae-gookcựu giám đốc chuyến bay của Trung tâm vũ trụ Naro phải hợp tác Yoon Moon-younggiám đốc quỹ đạo Mặt Trăng của NASA để cùng nhau tham gia vào một trận chiến khốc liệt chống lại các yếu tố ngoài không gian nhằm đưa Sun-woo trở về an toàn. Quá trình quay phim chính bắt đầu vào ngày 6 tháng 6 năm 2021 và kết thúc vào tháng 10 năm 2021.
19822343
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822343
Sergey Fyodorovich Rudskoy
Sergey Fyodorovich Rudskoy (chữ Kirin: Серге́й Фёдорович Рудско́й, sinh ngày 2 tháng 10 năm 1960) là một tướng lĩnh Quân đội Liên bang Nga, Anh hùng Liên bang Nga. Ông hiện là Phó Tổng tham mưu trưởng kiêm Tổng cục trưởng Tổng cục Tác chiến Bộ Tổng tham mưu Lực lượng vũ trang Liên bang Nga, quân hàm Thượng tướng. Tướng Rudskoy sinh ngày 2 tháng 10 năm 1960 tại Nikolaev, vùng Nikolaev, Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xô Viết Ukraina, nay là Mykolaiv, tỉnh Mykolaiv, Ukraina Cha của ông là Anh hùng Liên Xô, thiếu tướng binh chủng tăng thiết giáp Fyodor Andreevich Rudskoy (1921-1982). Năm 1977, ông tốt nghiệp Trường Thiếu sinh quân Suvorov Minsk; năm 1981, tốt nghiệp Trường Cao đẳng Chỉ huy Vũ khí Liên hợp Moskva. Ông tham gia cuộc chiến Chechnya, năm 1995, với quân hàm trung tá và là chỉ huy Trung đoàn súng trường cơ giới Cận vệ 255 Stalingrad-Korsun. Ngày 13 tháng 12 năm 2012, ông được thăng quân hàm Trung tướng. Ngày 24 tháng 11 năm 2015, ông được bổ nhiệm làm Tổng Cục trưởng Tổng Cục Tác chiến của Bộ Tổng tham mưu Lực lượng vũ trang Liên bang Nga - Phó Tổng tham mưu trưởng thứ nhất Lực lượng vũ trang Liên bang Nga. Ngày 22 tháng 2 năm 2017, ông được thăng quân hàm Thượng tướng. Ông là Ủy viên Hội đồng biên tập Tạp chí "Tư tưởng quân sự" của Nga. Ông bị Chính phủ Vương quốc Anh quy kết là tội phạm chiến tranh ở Syria vì hỗ trợ Chính quyền al-Assad và do đó bị Anh cấm vận từ năm 2022. Đến năm 2023, ông lại bị Liên minh châu Âu cấm vấn vì lý do Tổng cục Tác chiến do ông làm thủ trưởng là cơ quan chịu trách nhiệm chính về vạch kế hoạch tác chiến xâm lược Ukraina.
19822348
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822348
Tổng giáo phận Sydney
Tổng giáo phận Sydney (; ) là một tổng giáo phận của Giáo hội Công giáo Rôma với tòa giám mục đặt tại Sydney, New South Wales, Úc.
19822351
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822351
Makhnovshchyna
Makhnovshchyna () là một phong trào quần chúng hướng tới việc thiết lập một xã hội theo chủ nghĩa cộng sản vô trị ở miền nam và đông Ukraina trong thời kỳ chiến tranh giành độc lập Ukraina (1917–1921). Lấy tên theo tổng tư lệnh Nghĩa quân Cách mạng Ukraina, Nestor Makhno, mục đích của phong trào là nhằm sáng lập một hệ thống các xô-viết tự do điều hành sự chuyển tiếp sang một xã hội không nhà nước và không giai cấp.
19822354
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822354
Ga Sari
Ga Sari (Tiếng Hàn: 사리역, Hanja: 四里驛) là ga tàu điện ngầm trên Tuyến Suin–Bundang, nằm ở nằm ở Sa-dong, Sangnok-gu, Ansan-si, Gyeonggi-do. Nó hoạt động như một dịch vụ hành khách từ tháng 9 năm 1966 đến tháng 12 năm 1995 và tiếp tục hoạt động vào ngày 12 tháng 9 năm 2020 với tư cách là ga bán ngầm cho các đoàn tàu đường đôi khổ tiêu chuẩn.
19822359
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822359
Henry Francis Cary
Reverend Henry Francis Cary (6 tháng 12 năm 1772 – 14 tháng 8 năm 1844) là một tác giả và dịch giả người Anh, được biết đến nhiều nhất với bản dịch thơ không vần tác phẩm "Thần khúc" của Dante. Henry Francis Cary sinh tại Gibraltar, ngày 6 tháng 12 năm 1772. Ông là con trai cả của Henrietta Brocas và William Cary. Henrietta là con gái của Theophilus Brocas, chức danh Dean của Killala và William. Vào thời điểm đó, ông là đội trưởng của Trung đoàn Bàn Chân "Regiment of Foot" đầu tiên. Ông nội của ông, Henry Cary là phó tế, và ông cố của ông, Mordecai Cary, là giám mục của giáo phận đó. Ông được đào tạo tại Trường Rugby và tại các trường Grammar của Sutton Coldfield và Birmingham, cũng như tại Christ Church, Oxford, nơi ông nhập học năm 1790 và theo học ngành văn học Pháp và Ý. Khi còn đi học, ông thường xuyên đóng góp cho "Tạp chí Gentleman's Magazine" và xuất bản một tập "Sonnets and Odes" . Ông từng nhận lệnh thánh và vào năm 1797 trở thành cha xứ của Abbots Bromley ở Staffordshire . Ông đã tại vị ở đây cho đến khi tạ thế. Năm 1800, ông cũng trở thành cha xứ của Kingsbury ở Warwickshire. Tại Christ Church, ông đã học văn học Pháp và Ý, khả năng thành thạo của ông được chứng tỏ trong các ghi chú của ông về bản dịch Dante của chính mình. Phiên bản của "Địa ngục (Inferno)" được xuất bản vào năm 1805 cùng với văn bản gốc. Cary chuyển đến London vào năm 1808, nơi ông trở thành độc giả tại nhà nguyện Berkeley Chapel và sau đó là giảng viên tại Chiswick và phụ trách viên nhà nguyện Savoy Chapel. Phiên bản của ông toàn văn tác phẩm "Thần khúc" bằng thơ không vần xuất hiện vào năm 1814. Cuốn sách được xuất bản với chi phí của chính ông, vì nhà xuất bản từ chối chấp nhận rủi ro do sự cố phát sinh đối với "Địa ngục Inferno" . Bản dịch đã gây chú ý tới Samuel Rogers bởi Thomas Moore. Rogers đã thực hiện một số bổ sung cho một bài viết về nó bởi Ugo Foscolo trên tờ "Edinburgh Review". Bài báo này, cùng với lời khen ngợi dành cho công trình của Coleridge trong một bài giảng tại Royal Institution, đã dẫn đến sự thừa nhận chung về giá trị của nó. "Dante" của Cary dần dần chiếm vị trí trong số các tác phẩm tiêu chuẩn, trải qua bốn lần xuất bản trong đời ông. Năm 1833, Cary được nghỉ phép sáu tháng vì ốm và cùng với người hầu và con trai của ông, Francis, đi đến Ý thăm Amiens, Paris, Lyons, Aix, Nice, Mentone, Genoa, Pisa, Florence, Sienna, Rome (một tháng), Napoli, Bologna, Verona, Venice (một tháng), Innsbruck, Munich, Nuremberg, Frankfurt, Cologne, Rotterdam, Hague, Amsterdam, Brussels, Ghent và Bruges. Năm 1824, Cary xuất bản bản dịch "The Birds" của Aristophanes, và khoảng năm 1834, ông xuất bản bản dịch "Odes" của Pindar. Năm 1826, ông được bổ nhiệm làm trợ lý thủ thư tại Bảo tàng Anh, chức vụ mà ông đã giữ trong khoảng 11 năm. Ông từ chức vì việc bổ nhiệm người giữ sách in, lẽ ra đã phải thuộc về ông theo quy trình thăng tiến thông thường, người ta đã từ chối ông mặc dù khi đó nó đang bỏ trống. Năm 1841, khoản trợ cấp vương miện trị giá 200 bảng Anh một năm, có được nhờ nỗ lực của Samuel Rogers, đã được trao cho ông. "Cuộc đời của các nhà thơ Pháp thời kỳ đầu" của Cary và "Cuộc đời của các nhà thơ Anh" (từ Samuel Johnson cho đến Henry Kirke White), được dự định là phần tiếp theo của "Cuộc đời các nhà thơ" của Johnson, được xuất bản dưới dạng tuyển tập vào năm 1846. Ông tạ thế tại Charlotte St., St. George's, Bloomsbury, London vào năm 1844 và được chôn cất ở Poets' Corner, Tu viện Westminster. Một cuốn hồi ký đã được xuất bản bởi con trai ông, thẩm phán Henry Cary, vào năm 1847. Một người con trai khác, Francis Stephen Cary, trở thành giáo viên nghệ thuật nổi tiếng, kế nhiệm Henry Sass với tư cách là người đứng đầu học viện nghệ thuật của ông ở London.
19822363
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822363
Gustavo Bacarisas
Gustavo Bacarisa (1872–1971) GMH là một họa sĩ người Gibralta. Ông sinh ra tại Gibraltar và mất ở Seville, Tây Ban Nha. Tác phẩm của ông theo phong cách tượng hình và chủ đề đa dạng, được đặc trưng bởi cách sử dụng màu sắc phong phú. Ông đã kết hôn với nghệ sĩ và nhà thiết kế Thụy Điển Elsa Jernås. Bacaris theo học ở Paris, Pháp và làm việc ở Buenos Aires, Argentina cho đến năm 1916. Sau đó, ông chuyển đến thủ đô Seville của Andalucia. Ông cũng từng đến Thụy Điển để tạo ra các bối cảnh và bức tượng cho vở opera "Carmen". Tương tự như vậy với phần đầu của "El amor brujo" () tại "Teatro Español" ở Madrid. Trong cuộc nội chiến Tây Ban Nha, ông đã chuyển chỗ ngụ cư, lần này là đến đảo Madeira của Bồ Đào Nha, rồi trở lại Gibraltar vào năm 1937. Khi Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, ông chuyển đến Tây Ban Nha, định cư ở Seville. Bacarisas đã trưng bày tác phẩm của mình ở nhiều thành phố của Tây Ban Nha cũng như ở nước ngoài. Ông được trao huy chương vàng và danh hiệu giáo sư danh dự bởi "Real Academia de Bellas Artes de Santa Isabel de Hungría" () và là thành viên của "Real Academia de Bellas Artes de San Fernando".
19822364
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822364
Sophie Hedevig của Đan Mạch
Sophie Hedevig của Đan Mạch và Na Uy (28 tháng 8 năm 1677 – 13 tháng 3 năm 1735) là một Vương nữ Đan Mạch, con gái của Christian V của Đan Mạch và Charlotte Amalie xứ Hessen-Kassel. Sophie Hedevig đã sớm trở thành đối tượng của những cuộc hôn nhân triển vọng và đã được hứa hôn ba lần. Khi còn nhỏ, Sophie Hedevig được đính hôn với em họ là Johann Georg IV xứ Sachsen, một truyền thống về mặt chính trị giữa Đan Mạch và Sachsen. Năm 1689, cuộc hôn nhân của hai người sẽ được tiến hành vào hai năm sau đó. Tuy nhiên, khi Johann Georg IV kế vị cha mình trở thành Tuyển hầu tước xứ Sachsen vào năm 1691 thì đã hủy bỏ hôn ước với Sophie Hedevig. Vào năm 1692, và sau đó là từ năm 1694 đến năm 1697, một cuộc hôn nhân với Joseph của Áo (tương lai là Hoàng đế của Thánh chế La Mã) đã được đề xuất. Tuy nhiên, Sophie Hedevig từ chối cải sang Công giáo bất chấp áp lực từ cha. Từ năm 1697 đến năm 1699, Đan Mạch mong muốn một liên minh với Thụy Điển, liên minh này sẽ được hiện thực hóa bằng một đám cưới kép của Sophie Hedevig với Karl XII của Thụy Điển, và em trai là Carl với chị gái của Karl XII là Hedvig Sofia (sau khi Hedvig Sofia kết hôn vào năm 1698, em gái của Hegvid Sophia Ulrika Eleonora trở thành lựa chọn thay thế). Tuy nhiên, mặc dù phần nào tiếp nhận ý tưởng về một liên minh với Đan Mạch, Karl XII thực tế không muốn kết hôn, và liên minh Đan Mạch-Thụy Điển rất không được chấp thuận ở Thụy Điển. Sophie Hedevig do đó vẫn duy trì tình trạng độc thân, mặc dù có tin đồn rằng vương nữ đã bí mật kết hôn với một cận thần quý tộc là Carl Adolph von Plessen (1678-1758). Năm 1699, cha của Sophie Hedevig qua đời và được kế vị bởi anh trai với tên hiệu là Frederik IV. Theo thông lệ, Sophie Hedevig sống với mẹ cho đến khi mẹ vương nữ qua đời vào năm 1714, và sau đó Sophie Hedevig sống tại triều đình của anh trai Frederik IV. Trong số những thị nữ của Sophie Hedevig có Elisabeth Helene von Vieregg, là tình nhân của Frederik IV từ năm 1701 và vào năm 1703 thì trở thảnh vợ lẽ của Frederik IV. Khi Thái hậu Charlotte Amalie qua đời vào năm 1714, Sophie Hedevig được thừa kế các điền trang của Gjorslev và Erikstrup và Vương nữ đã trao cho Frederik IV để đổi lấy các điền trang của Dronninglund, Dronninggård và Tu viện Børglum ("Børglumkloster"). Sophie Hedevig có mối quan hệ tốt với anh trai Frederik IV cho đến năm 1721, khi vương nữ rời triều đình cùng với em trai Carl để phản đối cuộc hôn nhân của Frederik IV với Nữ Bá tước Anne Sophie Reventlow. Hai chị em dựng nên một triều đình riêng của tại Vemmetofte, một trang viên mà Carl được thừa kế từ mẹ của hai chị em. Họ có một triều đình gồm 70 cận thần quý tộc, đứng đầu là Carl Adolph von Plessen, bạn của Carl, và thậm chí có thể là người chồng bí mật của chính Sophie Hedevig. Hai chị em chỉ làm hòa với Quốc vương vài năm sau đó. Sophie Hedevig, cùng với Carl và Carl Adolph, đã thành lập các trường học dành cho người dân trên các vùng lãnh địa của mình, vì Sophie Hedevig tin rằng trường học là cần thiết để đưa ra các chỉ dẫn tôn giáo. Khi Carl qua đời vào năm 1729, Sophie Hedevig là người thừa kế được ưu ái em trai. Vương nữ được thừa kế những vùng lãnh địa tương đối rộng lớn: Vemmetofte, Højstrup và Charlottenborg. Tuy nhiên, Vương nữ cũng phải chịu trách nhiệm về các khoản nợ của Carl và Sophie Hedevig đã chi trả bằng thu nhập từ Cung điện Sorgenfri, Dronninggård và Frederiksdal mà Vương nữ được cháu trai Christian VI ban cho khi Christian VI kế vị Frederik IV vào năm 1730. Vương nữ Sophie Hedevig là một họa sĩ vẽ chân dung tài năng và có niềm đam mê đến âm nhạc, đồ thủ công mỹ nghệ như đồ trang trí bằng ngà voi và thêu thùa. Vương nữ cũng thu thập sách thánh vịnh và các ấn phẩm khác nhau. Nhiều tác phẩm của Vương nữ được lưu giữ trong Bộ sưu tập Vương thất Đan Mạch tại Lâu đài Rosenborg. Năm 1735, Tu viện Vemmetofte ("Vemmetofte Kloster"), một nơi dành cho những phụ nữ quý tộc chưa lập gia đình được thành lập theo chỉ dẫn trong di chúc của Sophie Hedevig. Vương nữ qua đời ở tuổi 57 tại Charlottenborg.
19822365
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822365
Cờ Lyon
Cờ Lyon bao gồm một tấm vải hình chữ nhật, trên đó hiển thị các yếu tố của quốc huy, do đó nó là một lá cờ huy hiệu. Theo thói quen, nó được tính theo tỷ lệ thông thường là 3: 2 và là một lá cờ dành cho mục đích dân dụng, vì trong Tòa thị chính và các khu vực phụ thuộc của nó, chỉ có quốc kỳ Pháp được kéo lên. Chiếc khiên đặc trưng của Lyon bao gồm một cánh đồng gule (màu đỏ), trong đó có con sư tử xuất hiện một cách hung hãn (có hình dạng và dáng đứng) và bằng bạc (màu trắng). Quốc huy này được bổ sung từ Chief (huy hiệu), bộ phận chiếm phần ba phía trên. Đây là "Đứng đầu nước Pháp", được trao cho tất cả các "Bonnes Villes", thể hiện huy hiệu của các vương triều trước đây của họ: màu xanh lam với ba bông hoa vàng (nền màu xanh lam được trang trí bằng ba bông hoa loa kèn màu vàng). Vào thế kỷ thứ 13, các thương hội bắt tay vào một cuộc nổi dậy chống lại quyền thế của Tổng giám mục-Bá tước Lyon. Những người này đã sử dụng các lá cờ riêng biệt với một con sư tử để tượng trưng cho sức mạnh của mình, khiến cho vua Philip V của Pháp buộc phải can thiệp vào cuộc xung đột năm 1320. Do sự can thiệp của nhà vua, thành phố phải phụ thuộc một cách trực tiếp vào Vương quốc Pháp, được đưa vào danh sách "Bonnes Villes" và nhận được huy hiệu khiên chắn (và cờ). Năm 1376, Vua Charles V đã đơn giản hóa huy hiệu, giảm xuống còn ba con số vô định của "fleurs de lys" mà cho đến nay vẫn bao trùm toàn bộ không gian của các kho vũ khí hoàng gia và huy hiệu chief của "Bonnes Villes".
19822373
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822373
Nestor Ivanovych Makhno
Nestor Ivanovych Makhno ( năm 1888 – 25 tháng 7 năm 1934), biệt danh Bat'ko Makhno ("Cha Makhno"), là một nhà cách mạng vô trị chủ nghĩa người Ukraina, và là thủ lĩnh Nghĩa quân Cách mạng Ukraina thời nội chiến Ukraina (1917-1921).
19822381
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822381
Terbi(III) oxide
Terbi(III) oxide, còn được gọi là terbi sesquioxide, là một oxide hóa trị ba của kim loại đất hiếm terbi, có công thức hóa học TbO. Nó là một chất bán dẫn loại p, dẫn proton, tính bán dẫn được cải thiện khi pha tạp với calci. Nó có thể được điều chế bằng cách khử TbO trong hydro ở 1300 °C trong 24 giờ. Nó là một oxide kiềm, dễ tan trong acid loãng, tạo ra muối terbi gần như không màu. Hợp chất thuộc cấu trúc tinh thể lập phương và hằng số mạng là "a" = 1057 pm.
19822384
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822384
Công tước xứ Buccleuch
Công tước xứ Buccleuch ( ; tiếng Anh: "Duke of Buccleuch"), trước đây cũng được đánh vần là Công tước xứ Buccleugh, là một tước hiệu trong Đẳng cấp quý tộc Scotland được lập ra hai lần, lần đầu tiên là vào ngày 20 tháng 4 năm 1663, trao cho James Scott, Công tước thứ nhất xứ Monmouth, và được lập ra lần thứ hai dưới hình thức "Suo jure" để trao cho vợ của ông là Anne Scott, Nữ bá tước thứ 4 xứ Buccleuch. Monmouth, con trai ngoài giá thú lớn tuổi nhất của Vua Charles II, đã bị bãi bỏ tước vị sau khi nổi dậy chống lại chú của mình là Vua James II và VII, nhưng tước hiệu của vợ ông không bị ảnh hưởng và được truyền lại cho con cháu của họ, những người lần lượt mang họ Scott, Montagu-Scott, Montagu là Douglas Scott và Scott. Năm 1810, Công tước thứ 3 xứ Buccleuch thừa kế Công tước xứ Queensberry, cũng thuộc Đẳng cấp quý tộc Scotland, do đó tách tước hiệu đó khỏi Hầu tước xứ Queensberry.
19822388
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822388
La Kim Phụng
La Kim Phụng (sinh năm 1970 tại Sài Gòn) là một siêu mẫu Việt Nam. Cô là một trong những tên tuổi hàng đầu của thời trang Việt Nam vào đầu thập niên 1990. Cô được mệnh danh là siêu mẫu đầu tiên của Việt Nam.
19822391
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19822391
Erbi(III) nitrat
Erbi(III) nitrat là một hợp chất vô cơ của erbi và acid nitric có công thức hóa học Er(NO). Hợp chất tạo thành tinh thể màu hồng, dễ tan trong nước, cũng tạo thành tinh thể ngậm nước. Một cách đơn giản để điều chế erbi(III) nitrat là hòa tan erbi kim loại trong acid nitric: Hoặc hòa tan erbi(III) oxide/erbi(III) hydroxide trong acid nitric: Một cách khác là phản ứng của nitơ dioxide với erbi kim loại: Erbi(III) nitrat tạo thành tinh thể màu hồng, có tính hút ẩm. Nó tạo thành tinh thể Er(NO)·5HO hoặc Er(NO)·6HO. Pentahydrat có cấu trúc giống Y(NO)·5HO, các hằng số mạng tinh thể a = 0,6603 nm, b = 0,9516 nm, c = 1,052 nm, α = 63,65°, β = 84,6°, γ = 76,07°. Cả erbi(III) nitrat khan và ngậm nước đều bị phân hủy khi đun nóng. Hợp chất tan trong nước và EtOH. Erbi(III) nitrat ngậm nước bị phân hủy nhiệt để tạo thành ErONO và sau đó thành erbi(III) oxide. Nó được sử dụng để điều chế erbi kim loại và trong thuốc thử hóa học.