id
stringlengths 1
8
| url
stringlengths 37
44
| title
stringlengths 1
250
| text
stringlengths 0
258k
|
---|---|---|---|
19824973 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19824973 | Georges Garvarentz | Georges Diran Garvarentz (, 1 tháng 4, 1932 – 19 tháng 3, 1993) là nhà soạn nhạc người Pháp gốc Armenia, nổi tiếng qua phần nhạc sáng tác cho các xuất phẩm điện ảnh và các bài hát của Charles Aznavour.
Ông sinh ra tại thành phố Athens, Hy Lạp trong một gia đình người Armenia nhập cư. Cha ông là Kevork Garvarentz, làm nghề giáo sư văn chương và nhà thơ và là tác giả của quân ca Armenia.
Năm 1942, cả nhà dời sang sống tại Paris, Pháp; tại đây Garvarentz theo học Nhạc viện Paris.
Năm 1956, ông quen biết Charles Aznavour và bắt đầu viết phần nhạc cho các bài hát mà Aznavour biểu diễn. Qua hàng chục năm, hai người đã sáng tác trên 100 ca khúc, như "Prends garde à toi" (1956), "Et pourtant" (1962), "Il faut saisir sa chance" (1962), "Retiens la nuit" (1962), "La plus belle pour aller danser" (1964), "Hier encore" (1964), "Paris au mois d'août" ("Paris in August", 1966), "Une vie d'amour" (1980)...
Giai đoạn nửa sau thập niên 1980 cho đến năm 1993 khi Garvarentz qua đời là thời kỳ sáng tác hăng say và bền bỉ nhất của ông và Aznavour. Dù cho Aznavour đã bước sang độ tuổi lục tuần và đã xác lập được chỗ đứng vững chắc trên đỉnh cao danh vọng, nhưng các tác phẩm của họ vẫn không bổ sung cho kho tàng nhạc đương đại và đồng thời không hề thua kém các sáng tác cũ, được Aznavour dùng biểu diễn khắp nơi. Năm 1986 và 1987, lần lượt các album "Aznavour 1986: Je bois" và "Embrasse-moi" ra đời, đưa đến với thính giả nhiều bài hát được Aznavour diễn đi diễn lại về sau như 'Je me raccroche à toi", "Je bois", "Les émigrants", "Une idée"... Năm 1991, cặp đôi ra album "Aznavour 92" với các bài thành công như "Vous et tu", "Napoli chante" và "La Marguerite". Sản phẩm cộng tác cuối cùng là album "Toi et moi" ra năm 1994 (phát hành quốc tế với nhan đề "You and Me" vào năm 1995); trong album này có bài hát cuối cùng Garvarentz cộng tác với Aznavour, đó là bản "Ton doux visage".
Ông kết hôn vào năm 1965 với em gái của Charles Aznavour, là bà Aida Aznavourian.
Georges Garvarentz cũng soạn khoản 150 nhạc nền phim, như "Taxi for Tobruk" (1961), "Tales of Paris" (1962), "The Devil and the Ten Commandments" (1962), "Rat Trap (film)" (1963), "That Man in Istanbul" (1965), "The Sultans (film)" (1966), "The Sea Pirate" (1966), "Triple Cross (1966 film)" (1966), "The Peking Medallion" (1967), "Darling Caroline (1968 film)" (1968), "They Came to Rob Las Vegas" (1968), "The Southern Star (film)" (1969), "The Heist (1970 film)" (1970), "Love Me Strangely" (1971), "Someone Behind the Door" (1971), "The Pebbles of Étretat" (1972), "Murder in a Blue World" (1973), "Killer Force" (1976), "Teheran 43" (1981), "Hambone and Hillie" (1983), "Triumphs of a Man Called Horse" (1983), "Too Scared to Scream" (1985), "Yiddish Connection" (1986), "A Star for Two" (1991), "Catorce estaciones" (1991)...
Năm 1979, ông viết nhạc nền cho phim "The Golden Lady". Đây là ca khúc hợp soạn giữa ông và ca sĩ chính của nhóm The Three Degrees là Sheila Ferguson.
Ông cũng là tác giả của nhạc kịch hài "Deux anges sont venus" và của operetta "Douchka".
|
19824980 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19824980 | Nhân quyền tại Phần Lan | Nhân quyền tại Phần Lan bao gồm những quyền cơ bản về tự do ngôn luận, tự do tín ngưỡng, tự do hội họp và lập hội được ấn định trong pháp luật và thực thi trong đời sống xã hội. Quyền cơ bản của mỗi cá nhân được đảm bảo bởi Hiến pháp, pháp luật và các điều ước về nhân quyền do Chính phủ Phần Lan phê chuẩn. Hiến pháp Cộng hoà Phần Lan quy định bản chất độc lập của ngành tư pháp.
Tổ chức Ân xá Quốc tế từng bày tỏ sự quan ngại đối với một số vấn đề còn tồn đọng tại Phần Lan, như cho phép Cơ quan Tình báo Trung ương Hoa Kỳ thực hiện các vụ bắt cóc trên lãnh thổ; bắt giam những người không đồng ý thực hiện nghĩa vụ quân sự; phân biệt đối xử đối với người dân tộc Di-gan cùng một số dân tộc và nhóm ngôn ngữ thiểu số khác.
|
19824985 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19824985 | Cúp EFL 2023-24 | Cúp EFL 2023-24 là mùa giải thứ 64 của Cúp EFL (được gọi là Carabao Cup vì lý do tài trợ). Giải đấu dành cho tất cả các câu lạc bộT Premier League và English Football League.
Đội vô địch giải đấu đủ điều kiện tham dự vòng play-off UEFA Europa Conference League 2024-25.
Manchester United hiện đang là đương kim vô địch của giải đấu sau khi đánh bại Newcastle United với tỉ số 2–0 trong trận chung kết năm 2023.
Tất cả 92 câu lạc bộ tại Premier League và English Football League đều tham dự Cúp EFL mùa giải. Suất tham dự được phân phối dựa vào 4 giải đấu hàng đầu của Hệ thống giải bóng đá Anh.
Có tổng cộng 72 câu lạc bộ thi đấu ở vòng 1: 24 từ League Two (Hạng 4), 24 từ League One (Hạng 3) và 24 từ Championship (Hạng 2). Bốc thăm cho vòng 1 được chia theo vùng địa lý gồm "phía bắc" và "phía nam".
Tổng cộng có 48 câu lạc bộ thi đấu ở vòng hai: 36 đội thắng ở vòng đầu tiên, cộng với 12 câu lạc bộ Premier League không tham dự giải đấu châu Âu. Bốc thăm cho vòng này được chia theo vùng địa lý gồm "phía bắc" và "phía nam".
Tổng cộng có 32 đội chơi ở vòng thứ ba. 24 đội thắng ở vòng 2 và 8 đội Premier League (tham dự cúp châu Âu) gồm Arsenal, Aston Villa, Brighton & Hove Albion, Liverpool, Manchester City, Manchester United, Newcastle United và West Ham United
Tổng cộng có 16 đội chơi ở vòng thứ ba gồm 16 đội thắng vòng 3.
Tổng cộng có tám đội chơi trong vòng tứ kết.
Tổng cộng có bốn đội chơi trong vòng bán kết.
|
19824995 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19824995 | Wynn Las Vegas | Wynn Las Vegas, thường chỉ được gọi là Wynn, là một khu nghỉ dưỡng và sòng bạc cao cấp tọa lạc trên đại lộ Las Vegas Strip tại Paradise, Nevada, Hoa Kỳ. Khu nghỉ dưỡng này được sở hữu và vận hành bởi Wynn Resorts, và được xây dựng trên khu đất cũ của khu nghỉ dưỡng Desert Inn, mở cửa từ năm 1950. Steve Wynn, nhà phát triển sòng bạc, đã mua và đóng cửa Desert Inn vào năm 2000 để thực hiện kế hoạch xây dựng một khu nghỉ dưỡng mới tại đây. Quá trình thiết kế kéo dài hai năm rưỡi và việc xây dựng bắt đầu vào ngày 31 tháng 10 năm 2002, với Marnell Corrao Associates đảm nhận vai trò nhà thầu chính. Với kinh phí 2,7 tỷ đô la, Wynn Las Vegas trở thành khu nghỉ dưỡng đắt đỏ nhất từng được xây dựng, vượt qua khu nghỉ dưỡng Bellagio trị giá 1,6 tỷ đô la của Wynn và khai trương trên Las Vegas Strip vào năm 1998.
Vào ngày 28 tháng 4 năm 2005, Wynn Las Vegas mở cửa với 2,716 phòng và sòng bạc rộng 111,000 foot vuông. Tại thời điểm đó, tòa tháp khách sạn 45 tầng của nó là tòa nhà cao nhất tại Nevada. Encore Las Vegas, một khu nghỉ dưỡng đối tác, ra mắt vào tháng 12 năm 2008. Được đặt ở phía bắc khu nghỉ dưỡng chính, Encore thêm một tòa tháp khách sạn thứ hai và không gian giải trí bổ sung, cùng với nhà hàng và câu lạc bộ. Khu phức hợp Wynn rộng 215 acre, có tổng cộng 4,748 phòng và không gian giải trí 188,786 foot vuông. Wynn cho biết khu phức hợp trị giá 5.2 tỷ đô la của họ hoàn thành vào tháng 5 năm 2010 sau khi mở rộng ở Encore.
Khác với các khu nghỉ dưỡng trên Strip khác, Wynn Las Vegas không sử dụng chủ đề cụ thể và không có điểm thú vị miễn phí như các khu nghỉ dưỡng khác. Thay vào đó, nó che giấu các điểm thú vị bằng một ngọn núi nhân tạo, với ý muốn kích thích sự tò mò và hấp dẫn người vào khu nghỉ dưỡng. Ý tưởng ngọn núi này được Steve và Elaine Wynn tạo ra; họ đã từng có ý định tạo ra một điểm thú vị ngọn núi tại Mirage trước khi từ bỏ ý tưởng.
Ngọn núi tại Wynn Las Vegas được thiết kế bởi Don Brinkerhoff và được xây dựng bởi công ty thiết kế cảnh quan của ông, Lifescapes International, đã từng làm việc trên các khu nghỉ dưỡng trước đây của Wynn. Ngọn núi cao hơn 100 feet. Nó được tạo thành từ các tường bậc thang, với đất bị ép vào chỗ. Xây dựng ngọn núi tốn 130 triệu đô la, và bao gồm 1.500 cây, nhiều cây trong số chúng đã được di chuyển từ sân golf cũ của Desert Inn. Ngọn núi cũng có một số thác nước, một số thác có độ cao lên tới 100 feet. Phía trước ngọn núi, và bị che khuất khỏi tầm nhìn của người đi bộ bên ngoài, là một hồ diện tích ba acre, có quang cảnh mà nhiều nhà hàng nhìn ra. Khu vực này là nơi diễn ra chương trình "Hồ của Giấc mơ".
Khu nghỉ dưỡng bao gồm một biển quảng cáo bên lề dọc theo Strip. Biển này do YESCO tạo ra và có chiều cao 135 feet. Nó gồm một màn hình LED cao 100 feet và rộng 50 feet, với một nền tảng di chuyển lên xuống trên màn hình như một "cục tẩy", hiển thị hình ảnh mới sau mỗi lần di chuyển.
Tòa tháp khách sạn có 45 tầng, mặc dù tầng cao nhất được đánh số "60". Tòa tháp bỏ qua nhiều tầng, bao gồm cả tầng số 4, mà người chơi người Trung Quốc coi là xui xẻo. Tòa tháp cao 613 feet và lúc hoàn thành, nó là tòa nhà cao nhất Nevada.
Khách sạn ra mắt với tổng cộng 2,716 phòng, trong đó bao gồm các suite với diện tích . Khu nghỉ mát cũng bao gồm Tower Suites, một phần khách sạn nằm bên trong khách sạn chính. Vào năm 2008, Wynn Las Vegas là khách sạn-casino duy nhất trên thế giới đạt huy chương năm sao từ Mobil Travel Guide, với Tower Suites của nó được ghi nhận. Nơi này cũng cung cấp biệt thự tại sân golf fairway dành cho những khách hàng high roller của mình, thuộc một đối tượng mục tiêu cụ thể. Vào năm 2008, khu nghỉ mát sở hữu đội xe lớn nhất tại Bắc Mỹ, với 10 chiếc Rolls-Royce Phantom custom-made dành cho high roller và các khách nổi tiếng. Vào năm 2016, khách sạn thông báo sẽ trang bị một Amazon Echo trong mỗi phòng, trở thành khu nghỉ đầu tiên trên thế giới thực hiện điều này. Echo được sử dụng để điều khiển nhiều khía cạnh của phòng, bao gồm nhiệt độ và ánh sáng.
Sòng bạc có diện tích . Khi khai trương, sòng bạc có 1.962 máy đánh bạc và 137 trò chơi bàn. Đèn chùm được xây dựng trên từng bàn chơi. Ngoài ra, có phòng poker, phòng keno, phòng baccarat và một sports book với phòng lounge dành cho người chơi VIP. Đối với khách lưu trú, thẻ khóa phòng cũng là thẻ đánh bạc; Wynn là sòng bạc đầu tiên thực hiện điều này. Năm 2011, khu nghỉ này trở thành khu nghỉ đầu tiên ở Las Vegas cho phép đặt cược vào các sự kiện không liên quan đến thể thao. Khu thể thao đã trải qua đổi mới lớn năm 2017, bao gồm thêm màn hình video có kích thước 137 feet x 11 feet.
Khu tổ hợp Wynn, kể cả Encore, chiếm diện tích . Tổng cộng, khu tổ hợp có 4,748 phòng khách sạn, và diện tích sòng bạc là .
Sân golf của Desert Inn được duy trì và tái thiết kế cảnh quan để trở thành Wynn Golf Club. Đây là sân golf duy nhất trên Đại lộ Strip. Sân golf 18 lỗ, đạt chuẩn 70 gậy, dài 6.722 yard, và bao phủ diện tích .
Năm 2000, công ty của Wynn, Valvino Lamore LLC, mua 41 căn nhà tại Desert Inn Estates, một phần của câu lạc bộ quốc gia của khu nghỉ dưỡng cũ. Tổng chi phí bao gồm 270 triệu đô la để mua sân golf và 50 triệu đô la cho các căn nhà. Mười hai chủ nhà còn lại từ chối bán và kiện Wynn để ngăn ông phát triển lại, ông đã đưa ra kiện ngược lại. Năm 2003, Wynn cố gắng loại bỏ sự giám sát của nhà nước đối với nguồn nước tại tài sản bằng cách thông qua dự luật của Nevada Assembly. Là chủ sở hữu của Công ty Nước Desert Inn, Wynn bị yêu cầu phải đưa tất cả các kế hoạch tài chính liên quan đến dự án qua sự xem xét của Public Utilities Commission (PUC) của nhà nước. Ông muốn tránh điều này trong trường hợp ông phải điều chỉnh kế hoạch tài chính cho khu nghỉ dưỡng. Cư dân phản đối, tin rằng đề xuất của Wynn sẽ trao cho ông quyền lực không hợp lý đối với nguồn cung cấp nước của họ. Một dự luật về nước được sửa đổi được thống nhất bởi thống đốc Nevada Kenny Guinn vào cuối năm đó, loại bỏ một số yêu cầu báo cáo tài chính cụ thể, trong khi vẫn giữ quyền giám sát của PUC đối với cư dân. Năm 2004, Wynn đạt được thỏa thuận mua 10 căn nhà còn lại với giá 23 triệu đô la.
Sân golf Desert Inn đã được tái thiết kế bởi Wynn và Tom Fazio, hai người trước đây đã cùng làm việc với nhau trên thiết kế sân golf Shadow Creek. Sân golf Wynn bao gồm 1.200 cây được cứu từ sân golf Desert Inn cũ. Cây lớn được để lại, cây nhỏ tạm thời di chuyển đến một vườn cây trồng trong thời gian tái thiết kế sân golf. Ngoài cây cối, chỉ còn một cây cầu vành là di tích còn lại từ sân golf Desert Inn. Dòng suối và hồ mới đã được thêm vào, cùng với thay đổi độ cao. Sân golf par-70 dài 7.042 yard.
Vào cuối năm 2004, Wynn đã có kế hoạch tái phát triển sân golf thành dự án đa dạng sử dụng liên quan đến hồ nhân tạo. Dự án có thể bao gồm khách sạn, không gian cờ bạc và căn hộ, tương tự dự án CityCenter của MGM. Tuy nhiên, vào năm 2014, Wynn nói rằng ông sẽ không tái phát triển sân golf này. Sau đó, ông đã thông báo kế hoạch mới cho khu đất vào năm 2016, dưới tên gọi Wynn Paradise Park. Dự án sẽ có chi phí lên đến 1,6 tỷ đô la, bao gồm khách sạn và sòng bạc nhỏ hướng ra một hồ nước nhân tạo, nơi khách có thể tham gia vào các hoạt động thể thao dưới nước. Nó cũng sẽ bao gồm bãi biển cát trắng và lối đi bộ. Wynn cho rằng khu đất này quá quý giá để bỏ không.
Sân golf đã đóng cửa vào tháng 12 năm 2017 để nhường chỗ cho việc xây dựng Công viên Paradise. Vài tháng sau đó, Matt Maddox trở thành CEO của Wynn Resorts, thay thế sau khi Steve Wynn từ chức. Về việc xây dựng Paradise Park, Maddox cho biết: "Chúng tôi không thực sự quan tâm đến việc xây dựng một bể bơi công cộng lớn trên Đại lộ Las Vegas". Kế hoạch dự án đã bị hủy bỏ vào cuối năm 2018 do chi phí xây dựng tăng lên 3 tỷ đô la. Một trung tâm hội nghị là phần duy nhất của dự án được thực hiện, xây dựng trên một phần của sân golf. Fazio và con trai Logan của ông đã được thuê để làm mới phần còn lại của sân golf. Quá trình thiết kế lại bao gồm việc làm mới 10 lỗ và thêm 8 lỗ mới.
Sân golf đã mở cửa lại vào tháng 10 năm 2019, phục vụ như tiện ích bổ sung cho đối tượng đa số nam giới trong sòng bạc. Trong thời gian đóng cửa, sân đã gây thất thoát tài sản lên đến 15 triệu đô la cho Wynn. Với giá 550 đô la mỗi vòng golf, đây là một trong những sân golf đắt đỏ nhất tại Hoa Kỳ khi mở cửa lại. Năm 2022, sân golf đã tổ chức sự kiện ô tô Las Vegas Concours d'Elegance.
Khi khai trương, Wynn Las Vegas có tổng cộng 18 nhà hàng, bao gồm một nhà hàng buffet và hai nhà hàng thịt nướng: SW - viết tắt của "Steve Wynn", và Country Club Grill, với tầm nhìn ra sân golf. Các nhà hàng chính của khu nghỉ dưỡng được xây dựng dọc theo bờ hồ, hướng ra ngọn núi nhân tạo. Trái ngược với các khu nghỉ dưỡng khác, việc tiếp cận các nhà hàng tại Wynn Las Vegas không được thực hiện trực tiếp từ sòng bạc. Theo Wynn: "Mọi người biết cách tìm đến sòng bạc. Họ không muốn bước ra khỏi cửa nhà hàng và va vào máy đánh bạc".
Wynn ưa thích tránh xa việc thuê đầu bếp vắng mặt giám sát nhà hàng từ xa. Thay vào đó, họ tuyển dụng những đầu bếp sẵn lòng chuyển đến Las Vegas. Các đầu bếp Daniel Boulud và Paul Bartolotta đã ký hợp đồng với khu nghỉ mát trước khi nó mở cửa. Bartolotta Ristorante di Mare hàng tuần nhập khẩu 1.5 tấn hải sản, và là một trong số ít nhà hàng ở Bán cầu Tây phục vụ tôm hùm. Bartolotta rời khỏi nhà hàng vào năm 2015, và sau đó nó được đổi tên thành Costa di Mare trong năm đó. Tuy nhiên, năm 2021, nhà hàng này đã đóng cửa.
Wynn Las Vegas có nhiều nhà hàng châu Á, bao gồm Okada, một nhà hàng Nhật mang tên đối tác kinh doanh của Wynn là Kazuo Okada. Okada đã mở cửa cùng với khu nghỉ mát và có quầy sushi, lò nướng robatayaki và bốn trạm teppanyaki. Takashi Yagihashi đã làm việc như đầu bếp trưởng tại đó. Năm 2012, Okada đã được cải tạo và đổi tên thành Mizumi, một tên phụ nữ phổ biến ở Nhật Bản.
Wing Lei cũng được giới thiệu tại Wynn Las Vegas, và trở thành nhà hàng Trung Quốc đầu tiên tại Mỹ đạt được ngôi sao Michelin. Nhà hàng được thiết kế bởi Jacques Garcia, với tầm nhìn ra vườn có cây lựu trên 100 tuổi. Nhà hàng tập trung vào nguyên liệu tươi mới dưới sự hướng dẫn của đầu bếp Richard Chen, với năm bể cá chứa cá sẵn sàng để nấu. Ngoài Wing Lei, hầu hết những nhà hàng tại khu nghỉ dưỡng lưu trữ hải sản trong bể cá dưới sàn sòng bạc. Mỗi tháng, khoảng 3.000 con tôm hùm được lưu trữ trong tủ lạnh này.
Alex, một nhà hàng Pháp được đặt theo tên đầu bếp Alex Stratta, là một trong những nhà hàng khai trương cùng với khu nghỉ dưỡng. Nó có một bậc cầu thang mô phỏng theo một bậc cầu thang trong vở nhạc kịch "Hello, Dolly!" Sau đó, đầu bếp Stratta mở một nhà hàng Ý mang tên "Stratta". Nhà hàng Ý-Trung Địa Corsa Cucina ban đầu được mang đề tài đua xe grand prix đã được thay thế bởi Alex. Nhưng Alex đóng cửa vào năm 2011, một đại diện của khu nghỉ dưỡng cho biết "ẩm thực Pháp cao cấp không phải là điều mọi người muốn trong thời gian này". Trong năm năm liên tiếp trước khi đóng cửa, Alex đã giành giải Forbes Travel Guide Five Star Award và Giải thưởng Kim cương AAA Five Diamond Award. Nhà hàng eponymous Stratta khác đóng cửa vào năm 2012, được thay thế bằng một nhà hàng Ý mới mang tên Allegro.
Nhà hàng "The Buffet at Wynn" đã từng là một trong những lựa chọn phổ biến tại Las Vegas. Do lo ngại về sức khỏe trong đợt đầu của đại dịch COVID-19, nhà hàng đã chuyển sang dịch vụ phục vụ thức ăn đến khách hàng. Sau một thời gian, Wynn Resorts nhận thấy khách hàng không ưa chuộng hình thức này và thông báo đóng cửa nhà hàng buffet vào cuối năm 2020. Tuy nhiên, nhà hàng "The Buffet at Wynn" đã trở lại vào tháng 7 năm 2021 với hình thức buffet truyền thống.
"Nơi ẩn náu rượu và thực phẩm La Cave" được khai trương bởi Michael Morton vào năm 2010 và đã trải qua cải tạo vào năm 2019 với việc bổ sung một quầy lounge trong khu vườn. Chuỗi nhà hàng Ý "Cipriani" cũng đã mở một cơ sở tại Wynn vào năm 2018. Năm 2021, khu nghỉ mát đã mở thêm Delilah, một câu lạc bộ tối được đặt theo tên một cơ sở đã tồn tại ở West Hollywood. Delilah được thiết kế dựa trên các câu lạc bộ tối Las Vegas trong thập kỷ 1950. Các nhà hàng khác bao gồm Lakeside, một nhà hàng hải sản do đầu bếp David Walzog giám sát; và Tableau, một nhà hàng ẩm thực tinh tú. Năm 2023, đầu bếp Alon Shaya dự kiến mở một nhà hàng Địa Trung Hải tại khu nghỉ mát.
Wynn Las Vegas khai trương với một câu lạc bộ đêm mang tên La Bete, có chủ đề nước và nghĩa là "Quái vật" trong tiếng Pháp. Ban đầu hoạt động như nhà hàng và quán bar, sau đó câu lạc bộ chuyển thành hoạt động sau giờ. Tuy nhiên, câu lạc bộ không đạt được kỳ vọng và Giám đốc hoạt động câu lạc bộ đêm rời khỏi vị trí sau ít hơn hai tuần. Victor Drai được tuyển dụng vào năm đó để cải thiện La Bete. Sau một thời gian đóng cửa để đổi mới trong hai tháng với kinh phí hàng triệu đô la, câu lạc bộ mở cửa lại vào đêm Giao thừa năm 2005 với tên Tryst. Tryst bổ sung thêm nhiều chỗ ngồi ngoài trời và được quản lý bởi Drai cùng với hai anh em Cy và Jesse Waits. Drai rời khỏi Wynn Las Vegas vào năm 2010 để theo đuổi các dự án kinh doanh khác. Tryst đóng cửa vào tháng 11 năm 2015, và được tái thiết kế mở cửa lại vào tháng 4 năm 2016 dưới tên Intrigue, với diện tích 14,000 feet vuông, trước khi đóng cửa vào năm 2019.
Một câu lạc bộ đêm khác là Blush, được quản lý bởi Nhóm Las Vegas Nightlife của Sean Christie. Blush hoạt động từ năm 2007 đến năm 2011.
Khuôn viên mở cửa với khu mua sắm boutique trong nhà được gọi là Wynn Esplanade, nơi ánh sáng tự nhiên thông qua các mái kính trần được sử dụng rộng rãi. Diện tích khu mua sắm là . Khi mở cửa, có 32 cửa hàng, trong đó có một số do Wynn Resorts sở hữu và quản lý. Các nhà bán lẻ nổi tiếng bao gồm Cartier, Chanel, Dior, Louis Vuitton, và Graff. Các nhà thiết kế thời trang Jean Paul Gaultier, Manolo Blahnik, và Oscar de la Renta cũng mở cửa hàng tại khu nghỉ dưỡng. Ngoài ra, Wynn Las Vegas cũng mở một cửa hàng tiện lợi dành riêng cho nhân viên. Đây là một trong năm khu nghỉ dưỡng trên Đại lộ Las Vegas có tính năng như vậy.
Khu nghỉ dưỡng cũng khai trương với đại lý Penske Wynn Ferrari Maserati, là một dự án chung giữa Wynn Resorts và Penske Automotive Group. Đây là đại lý Ferrari và Maserati duy nhất ở tiểu bang, và bao gồm một showroom trưng bày các xe mới và đã qua sử dụng. Đại lý này đã rất phổ biến trong cộng đồng, khiến khu nghỉ dưỡng bắt đầu thu phí $10 để vào cửa. Ngoài việc bán xe, đại lý cũng cho thuê xe cho khách sạn và có một số gara bảo trì cho chủ sở hữu.
Năm 2015, Penske và Wynn Resorts quyết định không gia hạn hợp đồng thuê cho đại lý, và cửa hàng đã đóng cửa vào cuối năm đó. Nó đã được thay thế bằng trung tâm mua sắm Wynn Plaza, được khai trương vào năm 2018. Trung tâm này có diện tích , và đã thêm vào danh sách 25 nhà bán lẻ cao cấp, bao gồm Breitling SA, Celine, Kiton, Le Labo, Loewe, Omega SA, Stella McCartney, và Rimowa. Nó được quản lý bởi Wynn Resorts và cộng sở hữu bởi Crown Acquisitions.
|
19824996 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19824996 | Hồi Long | Hồi Long có thể là một trong số các địa danh sau:
|
19824997 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19824997 | Aoshima, Ehime | , hay còn được biết tới là , là một hòn đảo trực thuộc tỉnh Ehime, Nhật Bản, nổi tiếng bởi số lượng đông đúc mèo ngụ cư trên hòn đảo. Các con mèo đã được ghi nhận lại bởi giới báo chí là vượt quá cả số người ngụ cư theo tỷ lệ 6:1 và 10:1, nhưng khi những cư dân cao tuổi của đảo qua đời, tỷ lệ này lại tăng vọt lên gần ngưỡng 36:1. Các con mèo được đưa lên đảo để chống chọi với nạn chuột hoành hành trên các tàu đánh cá, nhưng chúng lại ở lại hòn đảo và sản sinh thêm nhiều lứa hơn với số lượng lớn.
Các con mèo định cư tại Aoshima được cho ăn bởi đồ ăn quyên góp từ khắp nơi trên Nhật Bản. Chúng cũng ăn cả các loài sinh vật nhỏ con hơn của đảo và một số đồ ăn từ du khách ghé thăm.
Hòn đảo có chiều dài khoảng . Trước đây nó từng là một phần của Nagahama thuộc quận Kita, nhưng thì nó một phần của Ōzu.
Cư dân sinh sống của đảo có chiều hướng giảm sút kể từ nghề đánh cá mòi suy thoái và việc làm chuyển hướng lên các thành phố. Vào thời điểm tháng 2 năm 2019, chỉ có sáu người ngụ cư sinh sống trên đảo Aoshima.
Thời báo "New York Times" báo cáo lại vào ngày 10 tháng 5 năm 2023 rằng, số dân ngụ cư của đảo đã giảm xuống còn năm người.
Năm 1945, hòn đảo là một làng chài với dân số khoảng 900 người. Năm 2013, hòn đảo được ước tính là có 50 cư dân. Năm 2018, "Ehime Shimbun" báo cáo rằng dân số đã giảm xuống còn 13 người với độ tuổi trung bình là "trên 75". Năm 2019, "" "Globe" đưa tin rằng chỉ còn sáu cư dân trên đảo. Hòn đảo thu hút khách du lịch đến thăm mèo và cho chúng ăn.
Số lượng mèo trên đảo đã được báo cáo là trong khoảng 120 đến 130 con, giữa thời gian từ năm 2015 đến năm 2018.
Tháng 2 năm 2018, "Ehime Shimbun" đã đưa tin rằng tất cả mèo trên đảo sẽ bị thiến hoặc triệt sản, nhằm làm giảm số lượng mèo để đối phó với tình trạng dân số đang suy giảm. Đến tháng 10, 210 con mèo đã bị thiến và triệt sản, theo đó ước tính có khoảng 10 con mèo khác không bị bắt và bị một cư dân cũ phản đối chương trình này giấu đi.
Aoshima có thể tiếp cận được bằng phà, khởi hành từ phía trước nhà ga Iyo-Nagahama của JR ở cảng Nagahama, mất khoảng 30 phút di chuyển.
|
19824998 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19824998 | Enso González | Enso David González Medina (sinh ngày 20 tháng 1 năm 2005) là một cầu thủ bóng đá người Paraguay hiện đang chơi ở vị trí tiền đạo cho câu lạc bộ Wolverhampton Wanderers.
|
19825003 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19825003 | Động đất Sunbury 2023 | Động đất Sunbury 2023 là trận động đất xảy ra vào lúc 23:41 (theo giờ địa phương), ngày 28 tháng 5 năm 2023. Trận động đất có cường độ 4.0 richter (theo ), tâm chấn độ sâu khoảng 2 km. Trận động đất không gây thiệt hại về người.
|
19825006 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19825006 | Đảo Mèo | Đảo Mèo có thể đề cập tới:
Một số hòn đảo của Nhật Bản được gọi là "Đảo Mèo" (猫島) bởi số lượng mèo ngụ cư đông đúc.
|
19825042 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19825042 | Neodymi(III) nitrat | Neodymi(III) nitrat là một hợp chất vô cơ có công thức hóa học Nd(NO). Nó thường được biết đến dưới dạng hexahydrat, Nd(NO)·6HO, còn được viết dưới dạng cấu tạo [Nd(NO)(HO)]·2HO dựa trên cấu trúc tinh thể. Nó phân hủy thành NdONO ở nhiệt độ cao. Muối hòa tan trong nước này được sử dụng trong chế tạo pin nhiên liệu oxide rắn dựa trên perovskit (CaTiO), tổng hợp vanadi pentoxide pha tạp Nd sử dụng trong các siêu tụ điện và làm chất xúc tác cho quá trình tổng hợp bề mặt Friedlander quinolon biến tính để ứng dụng trong hóa dược.
|
19825044 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19825044 | Vòng bảng UEFA Champions League 2023-24 | Vòng bảng UEFA Champions League 2023–24 bắt đầu vào ngày 19 tháng 9 năm 2023 và kết thúc vào ngày 13 tháng 12 năm 2023. Có tổng cộng 32 đội thi đấu ở vòng bảng để xác định 16 suất vào vòng đấu loại trực tiếp của UEFA Champions League 2023–24.
Union Berlin và Antwerp có lần đầu tiên ra mắt ở vòng bảng. Đây là lần góp mặt đầu tiên của câu lạc bộ Bỉ ở Cúp C1 châu Âu kể từ khi họ bị loại ở vòng một vào mùa giải 1957–58 và là lần đầu tiên cho đội bóng Đức. Có tổng cộng 15 hiệp hội quốc gia được đại diện ở vòng bảng.
Đây là mùa giải cuối cùng với thể thức vòng bảng, được thay thế bởi thể thức vòng đấu hạng bắt đầu từ mùa giải tiếp theo.
Dưới đây là các đội tham dự (với hệ số câu lạc bộ UEFA năm 2023), được xếp theo nhóm hạt giống của họ. Họ bao gồm:
Ghi chú
<onlyinclude>
Bảng A
Bảng B
Bảng C
Bảng D
Bảng E
Bảng F
Bảng G
Bảng H
</onlyinclude>
|
19825045 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19825045 | Quán rượu Kayabukiya | Chủ quán rượu, Kaoru Otsuka, sở hữu hai con khỉ cưng macaque được thuê làm việc tại địa điểm này. Con khỉ đầu tiên, ""Yat-chan"", 12 tuổi, mặc áo sơ mi và quần đùi trong khi nhận đơn đặt đồ uống của khách hàng và mang đến bàn ăn. Chú khỉ nhỏ hơn tên là ""Fuku-chan"," hiện đã 4 tuổi với nhiệm vụ chủ yếu là mang khăn nóng cho những người tham dự lau tay trước khi gọi đồ uống. "Fuku-chan" mới chỉ có hai năm kinh nghiệm, trong khi "Yat-chan" được cho là đã đảm nhiệm công việc này trong khoảng thời gian dài hơn.
Cả hai chú khỉ đều nhận được đậu nành luộc từ khách hàng như tiền boa cho dịch vụ của mình. Môi trường dành cho những chú khỉ đã được kiểm tra để đảm bảo đối xử đúng đắn với động vật; theo các quy định về quyền động vật của Nhật Bản, mỗi con khỉ chỉ được phép làm việc hai giờ một ngày. Nhà hàng cũng được dùng làm phần thưởng cho đội chiến thắng trong tập thứ ba, mùa thứ hai của chương trình "I Survived a Japanese Game Show".
Quán rượu bị bỏ hoang sau trận động đất và sóng thần ngày 11 tháng 3. Những con khỉ vẫn thuộc về chủ sở hữu. Tình trạng hiện tại của quán rượu và lũ khỉ đã được nghệ sĩ Pierre Huyghe ghi nhận lại trong một bộ phim năm 2014.
|
19825052 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19825052 | Terbi(III) bromide | Terbi(III) bromide (công thức hóa học: TbBr) là một hợp chất vô cơ, kết tinh dưới dạng tinh thể màu trắng, tan trong nước.
Terbi(III) bromide có thể được điều chế bằng cách cho kim loại terbi hoặc terbi(III) oxide phản ứng với amoni bromide.
Từ dung dịch, terbi(III) bromide rắn có thể kết tinh dưới dạng hexahydrat. Khi đun nóng, nó sẽ mất nước và tạo ra một lượng nhỏ TbOBr.
Terbi(III) bromide là chất rắn màu trắng, dễ tan trong nước. Cấu trúc tinh thể của hợp chất này giống bismuth(III) iodide.
|
19825058 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19825058 | Vụ hỏa hoạn tại trường Mahdia vào năm 2023 | |
19825059 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19825059 | Cobalt(II) acetat | Cobalt(II) acetat là muối cobalt(II) của acid acetic với công thức hóa học Co(CHO). Nó thường được tìm thấy dưới dạng tetrahydrat Co(CHCO)·4HO, còn được viết tắt là Co(OAc)·4HO. Nó được sử dụng làm chất xúc tác.
Giống như nhiều muối acetat của kim loại chuyển tiếp khác, cobalt(II) acetat được tạo ra bằng phản ứng của cobalt(II) oxide hoặc hydroxide với acid acetic:
Tinh thể học tia X đã chứng minh tetrahydrat có cấu trúc bát diện, trung tâm cobalt phối trí với bốn phân tử nước và hai phối tử acetat.Nickel(II) acetat cũng có cấu trúc tương tự.
Nhiều loại hydrat khác nhau được biết đến bao gồm Co(CHCO)·HO và [Co(CHCO)]·0,5HO.
Cobalt(II) acetat là tiền thân của nhiều loại chất làm khô dầu, chất xúc tác cho phép sơn và vecni cứng lại.
Cobalt(II) acetat khan là nguồn cobalt được sử dụng rộng rãi trong quá trình tổng hợp vật liệu, chất xúc tác và điều chế các phức chất.
Muối cobalt có tính độc.
|
19825063 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19825063 | Thị trường lao động Nhật Bản | Lực lượng lao động tại Nhật Bản lên tới 65,9 triệu người vào năm 2010, chiếm 59,6% số dân trong độ tuổi từ 15 trở lên, và trong số họ có 62,57 triệu người có việc làm/đi làm thuê, trong khi đó có 3,34 triệu người chưa hoặc không có việc làm tạo ra tỷ lệ thất nghiệp là 5,1%. Cơ cấu thị trường lao động Nhật Bản trải qua sự thay đổi chậm rãi vào cuối thập niên 1980 và tiếp tục xu hướng này trong suốt thập niên 1990. Cấu trúc thị trường lao động chịu tác động bởi 4 nhân tố: 1) dân số thu hẹp, 2) sự thế chỗ bởi thế hệ bùng nổ trẻ sơ sinh thời kỳ hậu thế chiến, 3) sự gia tăng số lượng và 4) trình độ học vấn của người lao động tăng lên. Bên cạnh đó, sự gia tăng số lượng công dân người nước ngoài trong lực lượng lao động cũng đã được dự báo trước.
Tính đến 2019, tỷ lệ thất nghiệp của Nhật Bản là thấp nhất trong khối G7. Tỷ lệ có việc làm ở số dân trong độ tuổi lao động (15-64) là cao nhất trong khối G7.
|
19825070 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19825070 | Phosphor tricyanide | Phosphor tricyanide là một hợp chất vô cơ có công thức hóa học P(CN). Nó có thể được tạo ra bởi phản ứng của phosphor trichloride và trimethyl(iso)cyanosilan. Phản ứng của phosphor tribromide và bạc(I) cyanide trong diehtyl ether cũng có thể tạo ra phosphor tricyanide. Sự phân hủy nhiệt của nó có thể tạo ra pha CNP. Phosphor tricyanide phản ứng với Re(CO)FBF tạo thành {P[CN-Re(CO)]}(BF).
|
19825074 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19825074 | Giáo sư toán học Lucas | Chức danh giáo sư toán học Lucasian của Đại học Cambridge là một trong những vị trí uy tín nhất về học thuật trên thế giới. Vị trí này được tạo ra năm 1663, chính thức thông qua bởi vua Charles II ngày 18/1/1664. Nhà toán học lừng danh Isaac Newton được bổ nhiệm năm 1669. Không ai trong số hai đáp án còn lại từng dạy ở Cambridge. Richard Feynman giành giải Nobel vật lý về cơ học lượng tử năm 1965 và giảng dạy tại Viện Công nghệ California (Mỹ) cho đến khi qua đời vào năm 1988. Albert Einstein trải qua 20 năm cuối đời ở Viện Nghiên cứu Cao cấp ở Princeton, New Jersey (Mỹ). Ngoài Isaac Newton và Stephen Hawking, những người từng giữ chức danh giáo sư toán học Lucasian tại Cambridge gồm: Joseph Larmor, Charles Babbage, George Stokes, Paul Dirac… |
19825075 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19825075 | Động đất Vân Nam 2000 | Động đất Vân Nam 2000 () là trận động đất xảy ra vào lúc 7:37 (theo giờ địa phương), ngày 15 tháng 1 năm 2000. Trận động đất có cường độ 5.9 richter, tâm chấn độ sâu khoảng 10 km. Hậu quả trận động đất đã làm 7 người chết, 2.528 người bị thương.
|
19825077 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19825077 | Động đất Quần đảo Banggai 2000 | Động đất Quần đảo Banggai 2000 () là trận động đất xảy ra vào lúc 12:21 (WITA), ngày 4 tháng 5 năm 2000. Trận động đất có cường độ 7.5 richter, tâm chấn độ sâu khoảng 30 km. Động đất đã gây ra sóng thần lớn, với chiều cao lên đến 6 m. Hậu quả trận động đất đã làm 46 người chết, 264 người bị thương.
|
19825078 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19825078 | Santiago Bueno | Santiago Ignacio Bueno Sciutto (sinh ngày 9 tháng 11 năm 1998) là một cầu thủ bóng đá người Uruguay hiện đang thi đấu cho câu lạc bộ Wolverhampton Wanderers ở vị trí hậu vệ.
|
19825079 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19825079 | Thung lũng Langdale Nhỏ | Thung lũng Langdale Nhỏ là một thung lũng nằm ở quận Lake, Anh, bao gồm hồ Langdale Nhỏ và ngôi làng cùng tên. Hồ thứ hai, hồ Blea, nằm trong một thung lũng nằm giữa Langdale Nhỏ và Langdale Lớn ở phía Bắc. Langdale Nhỏ giáp Wetherlam và Swirl How lần lượt ở phía Nam và Tây Nam, giáp núi Lingmoor và Pike của Blisco ở phía Bắc và Tây Bắc. Thung lũng trên được nối liền theo chiều đi xuống với Langdale Lớn, ngay bên trên hồ Elter.
Trước đây, Langdale được nhiều người biết đến với tên gọi "Langdene" có nghĩa là ""thung lũng rừng rậm ở vùng sâu, vùng xa"" như là một cách thức để ám chỉ độ dài của một đường tàu hỏa nối từ nó đến vịnh Whitley.
Trong lịch sử, Langdale Nhỏ là một điểm giao của các tuyến đường ngựa thồ đi Ravenglass, Whitehaven, Keswick, Penrith & Carlisle, Ambleside, Hawkshead và Coniston, Ulverston, Broughton-trong-Furness và Barrow trong Furness. Cầu Slater, được xây dựng từ thế kỉ XVI, là một cây cầu bắc qua sông Brathay. Nó được chia thành ba nhịp được "đỡ" bởi một tảng đá lớn ở giữa dòng và các con đường đều được đắp bằng đá. Đó chính là cây cầu cũ được xây dựng bằng những tảng đá phiến trên một trong những tuyến đường ngựa thồ này. Ngày nay, những con đường được rải kim loại nối Langdale Nhỏ qua đèo Wrynose và đèo Hardknott về phía Eskdale ở phía Tây, qua hồ Blea đến Langdale Lớn ở phía Tây Bắc, đến làng Elterwater ở phía Đông Bắc và đến cầu Skelwith nằm trên đường Coniston ở phía Đông.
Tuyến đường Khu vực 37 của Mạng lưới Xe đạp Quốc gia Anh đoạn nối giữa Ambleside và Ulverston, được cho là có chạy qua thung lũng này.
Quỹ Niềm tin Quốc gia Anh sở hữu nhiều trang trại và diện tích đất ở thung lũng này. Rất nhiều trang trại trong số đó có niên đại từ thế kỷ XVII. Ngoài ra, trong làng còn có các quán trọ. Nhà trọ Ba Shires đã được xậy dựng từ năm 1872 và được đặt theo tên của hòn đá Ba Shires cách đó hai dặm (khoảng 3,2 km). Quán trọ là địa điểm chính được sử dụng để tổ chức Cuộc đua ngã ba Shires.
Lượng mưa trung bình hàng năm của thung lũng Langdale Nhỏ là 2408mm, cao hơn mức trung bình của cả quận Lake, địa điểm vốn có lương mưa trung bình lớn hơn đáng kể so với phần còn lại của Vương quốc Anh. Đa số diện tích đất ở Langdale Nhỏ hiện nay chủ yếu được sử dụng để chăn nuôi một số gia súc (như cừu, bò...), mặc dù cho đến năm 1940, ít nhất một phần đất nông nghiệp đã được sử dụng cho một số mục đích khác.
Vào tháng 3 năm 2006, thung lũng này từng là địa điểm bị chọn làm mục tiêu trong một kế hoạch tấn công của một nhóm "chiến binh biệt kích mujahidin" tự xưng. Sau đó, một trong số chúng đã bị kết án vì các tội liên quan đến khủng bố. Langdale Nhỏ cũng từng là một trong những địa điểm quay phim của bộ phim điện ảnh "Bạch Tuyết và Người thợ săn", một bộ phim ra mắt hồi năm 2012.
Các mỏ khoáng sản ở Langdale Nhỏ đã được khai thác rất nhiều trong vài trăm năm qua, đặc biệt là đồng và đá phiến mặc dù hiện tại ở đó có rất ít hoạt động khai thác. Các công trình ở các vùng lân cận bao gồm các mỏ đá phiến lớn tại Hodge Close, Tilberthwaite và các mỏ tại sườn phía nam của Wetherlam. Một mỏ nằm tại Hawk Rigg, một nơi cách không xa "vùng lân cận" trên, có thể đã có niên đại từ thời Elizabeth Đệ Nhất. và có báo cáo cho rằng quặng sắt đầu tiên đã được khai thác trong khu vực này vào năm 1709. Việc khai thác đá phiến ở khu vực này bắt đầu đạt mức "cực thịnh" vào Thời đại Victoria, nhất là sau sự ra đời của máy khoan khí nén để tạo ra các lỗ nổ, và tiếp diễn cho đến khi gạch xây dựng chất lượng cao được phát minh.
Các loại đá trong thung lũng này nói chung là đá thô Borrowdale và Rhyolite trên nền andesit với các khu vực đá phiến, đặc biệt là ở phía Nam.
Mỏ đá Cathedral (Mã tham chiếu Quốc gia Anh: NY308028) là một tập hợp các mỏ đá phiến xanh chưa được khai thác liên kết với nhau, nằm ở phía trên một thung lũng trong Atkinson Coppice. Hiện nay, mỏ đá trên được quản lý bởi Quỹ Niềm tin Quốc gia Anh và bất kỳ ai cũng có thể vào tham quan. Nó có nhiều phòng và đường hầm khác nhau, trong đó có một phòng dài 400 feet (khoảng 120m). Điểm thu hút nhiều sự chú ý nhất của mỏ đá là một phòng thờ cao 40 feet (khoảng 12m), được chiếu sáng từ hai cửa sổ với một cột đá đỡ mái nhà khổng lồ. Một số khoang nhỏ hơn của mỏ đá đã được đóng cửa để đảm bảo an toàn hoặc đã bị phá hủy. Mỏ đá này có ít nhất 25 tuyến đường leo núi được đặt tên và được xếp vào loại "cực kỳ nguy hiểm" và dài từ 30–40m. Những chất thải từ các mỏ này đã hợp lại với nhau, hình thành nên những bờ lớn, nơi mà các loài cây bạch dương bạc và thông tùng hiện đã và đang mọc lên.
Mỏ Greenburn (còn được biết đến với tên gọi khác là Mỏ Coniston Mới), là một mỏ đồng gần Greenburn Beck và hồ chứa Greenburn - một hồ chứa đã bị ngừng sử dụng. Nó được nhiều người cho là mỏ đồng được bảo vệ tốt nhất ở quận Lake. Các hoạt động khai thác ở mỏ này đạt đến cường độ "cực đại" vào giữa thế kỷ XIX nhưng có thể nó đã bắt đầu được vận hành từ cuối thế kỷ XVII. Mỏ đá đóng cửa vào năm 1865 nhưng đã được mở cửa trở lại với "nhịp độ vừa phải" cho đến khi nó đóng cửa một lần nữa vào năm 1940. Các trục chính của mỏ Greenburn nằm ở độ sâu lên tới 700 ft (210m) so với mặt đất. Hoạt động khai thác của mỏ có sự tham gia của một trục động cơ lớn cùng với một thiết bị cuộn dây và bơm được dẫn động bởi một bánh xe có đường kính 9,8m, cùng với nhiều trục và đường dẫn khác, một sàn đập, một máy nghiền chạy bằng bánh xe nước số hai, một đường xe điện nghiêng và hai bể chứa kết tủa. Phần còn lại của các tòa nhà trong khu mỏ bao gồm lò rèn, văn phòng, khu nhà ở hai tầng, kho để đồ đã được phơi khô, nhà thay đồ của thợ mỏ và kho thuốc nổ.
Ít nhất năm mỏ đồng đã được khai thác, lần lượt có tên là Sump, Pave York, Low Gill và Gossan Veins. Năm 1906, mỏ được điều hành bởi công ty Greenburn & Tilberthwaite Syndicate, nhưng đến năm 1912 thì công ty bạc, chì và đồng Langdale đã mua lại mỏ này. Hồ chứa (khi được xây dựng vào thế kỷ 19) có diện tích khoảng 1,6ha và chiều cao khoảng 7,5m. Tuy nhiên, một cơn bão tuyết vào mùa đông hồi năm 1979-1980 đã khiến con đập bị vỡ và nổ tung, giảm chiều cao của hồ chứa ấy xuống còn 6m như hiện tại.. Tác động của vụ nổ đập trên có thể nhìn thấy rõ trong các lõi trầm tích từ hạ lưu của hồ Langdale Nhỏ.
|
19825080 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19825080 | Cộng hòa Xô viết Ukraina | Cộng hòa Xô viết Ukraina ( ) là một một nước cộng hòa Xô viết do những người Bolshevik Ukraina thành lập. Sau Đại hội Xô viết toàn Ukraina lần thứ hai, họ tuyên bố Ukraina Xô viết độc lập vào tháng 3 năm 1918, và sáp nhập Cộng hòa Nhân dân Xô viết Ukraina, Cộng hòa Xô viết Odessa, và Cộng hòa Xô viết Donetsk–Krivoy Rog thành một quốc gia.
Lịch sử của nền cộng hòa Ukraina với tư cách là Cộng hòa Xô viết Ukraina và chính phủ của nó bắt đầu từ ngày 24-25 tháng 12 năm 1917. Khi đó tại Kharkov, Đại hội Xô viết toàn Ukraina lần đầu tiên được tiến hành, họ tuyên bố Ukraina là một nước Cộng hòa Ukraina, Cộng hòa Nhân dân Xô viết Ukraina. Đại hội quyết định liên minh chặt chẽ với Cộng hòa Nga (cũng là Xô viết) và bầu ra Ban Chấp hành Trung ương ().
Cộng hoà được cải tổ vào ngày 19 tháng 3 năm 1918, tại Đại hội Xô viết toàn Ukraina lần thứ hai ở Yekaterinoslav, sau khi Nga Xô viết ký kết Hiệp ước Brest-Litovsk vào ngày 3 tháng 3. Chính phủ Xô viết và những cư dân ủng hộ họ đã liên minh chặt chẽ với Cộng hoà Xô viết Nga. Sau chiến thắng của chính phủ Xô viết tại Ukraina, Cộng hòa Nhân dân Xô viết Ukraina chính thức được đổi tên thành Cộng hòa Xô viết Ukraina và sau đó là Cộng hòa Xô viết Xã hội chủ nghĩa Ukraina, trở thành một trong những nước đồng sáng lập Liên Xô.
Lực lượng quân sự của chính phủ Xô viết Ukraina thời đó được gọi là Quân đội Cossack Đỏ, sau này là một phần hợp nhất của Hồng quân Liên Xô.
Nước cộng hòa thống nhất Cộng hòa Nhân dân Xô viết Ukraina, Cộng hòa Xô viết Donetsk–Krivoy Rog và Cộng hòa Xô viết Odessa thành một phần của Nga Xô viết. Tuy nhiên, các lực lượng của Liên minh Trung tâm và Cộng hòa Nhân dân Ukraina nhanh chóng tràn qua khu vực.
Vào ngày 18 tháng 4 năm 1918, tại Taganrog, phiên họp tiếp theo của Ban Chấp hành Trung ương Xô viết thông báo rằng chính phủ Ukraina Xô viết, Ban Chấp hành Trung ương Ukraina và Ban Bí thư Nhân dân giờ đây được hợp nhất thành "Cục Ukraina" để chỉ đạo cuộc đấu tranh nổi dậy chống lại quân Đức chiếm đóng.
|
19825082 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19825082 | Bầu cử tổng thống Hoa Kỳ 1900 | Cuộc bầu cử tổng thống Hoa Kỳ năm 1900 là cuộc bầu cử tổng thống bốn năm một lần lần thứ 29, được tổ chức vào thứ Ba, ngày 6 tháng 11 năm 1900. Là trận tái đấu của cuộc bầu cử năm 1896, Tổng thống đương nhiệm của Đảng Cộng hòa William McKinley đã đánh bại đối thủ từ Đảng Dân chủ của ông, William Jennings Bryan. Chiến thắng của McKinley khiến ông trở thành Tổng thống đầu tiên thắng cử 2 cuộc bầu cử liên tiếp kể từ Ulysses S. Grant vào năm 1872. Cho đến năm 1956, đây sẽ là lần cuối cùng một Tổng thống đương nhiệm của Đảng Cộng hòa tái đắc cử sau khi phục vụ đủ một nhiệm kỳ. Cuộc bầu cử này là trận tái đấu thứ 5 trong lịch sử bầu cử Tổng thống, một điều sẽ không xảy ra một lần nữa cho đến năm 1956. Đây cũng là trận tái đấu đầu tiên mà có cùng một người thắng trong cả 2 lần bầu cử.
McKinley và Bryan đều gặp phải ít sự phản đối trong đảng của họ. Mặc dù một số đảng viên Đảng Dân chủ Vàng có ý định đề cử Đô đốc hạm đội George Dewey, nhưng Bryan vẫn dễ dàng giành được đề cử tại Đại hội toàn quốc Đảng Dân chủ năm 1900 sau khi Dewey rút lui. McKinley sau đó đã được nhất trí tái đề cử tại Đại hội toàn quốc Đảng Cộng hòa năm 1900. Vì Phó Tổng thống Garret Hobart qua đời vào năm 1899, đại hội Đảng Cộng hòa đã chọn Thống đốc New York Theodore Roosevelt làm đồng tranh cử mới cùng McKinley.
Kinh tế trở nên thịnh vượng trở lại cũng như chiến thắng gần đây trong Chiến tranh Tây Ban Nha-Mỹ đã giúp McKinley giành được chiến thắng một cách dễ dàng, trong khi lập trường chống chủ nghĩa đế quốc và ủng hộ bản vị lưỡng kim của Bryan chỉ thu hút được ít sự ủng hộ. McKinley đã chiến thắng hầu hết các bang bên ngoài miền Nam và giành được 51,6% số phiếu phổ thông. Kết quả bầu cử gần giống như năm 1896, mặc dù McKinley thắng thêm một số bang miền Tây và Bryan thắng thêm Kentucky.
6 tháng sau khi nhậm chức nhiệm kỳ thứ 2, McKinley bị ám sát và Phó Tổng thống Theodore Roosevelt lên kế nhiệm và trở thành Tổng thống.
926 đại biểu tham dự đại hội Đảng Cộng hòa được triệu tập tại Philadelphia từ ngày 19 đến 21 tháng 6, đã nhất trí tái đề cử Tổng thống William McKinley. Thomas C. Platt, “ông trùm chính trị” của Đảng Cộng hòa bang New York, không ưa gì Theodore Roosevelt, Thống đốc nổi tiếng của New York, dù ông cũng là một thành viên Đảng Cộng hòa. Những nỗ lực của Roosevelt nhằm cải cách nền chính trị New York - bao gồm cả cải cách Đảng Cộng hòa - đã khiến Platt và giới thượng tầng Đảng Cộng hòa ở đây đã gây áp lực buộc Tổng thống McKinley phải chấp nhận Roosevelt làm ứng cử viên Phó Tổng thống mới của ông, lấp đầy chỗ trống mà Phó Tổng thống Garret Hobart để lại sau khi qua đời năm 1899. Bằng cách bầu Roosevelt làm Phó Tổng thống, Platt sẽ loại Roosevelt khỏi chính trường bang New York. Mặc dù Roosevelt miễn cưỡng chấp nhận đề cử làm Phó Tổng thống, chức vụ mà ông coi là một chức vụ tương đối tầm thường và yếu kém, nhưng sự nổi tiếng rộng rãi của ông đối với hầu hết các đại biểu Đảng Cộng hòa đã khiến McKinley chọn ông làm đồng tranh cử mới của mình. Trớ trêu thay, vào tháng 9 năm 1901, McKinley bị ám sát và qua đời ở Buffalo, New York, Roosevelt lập tức kế nhiệm và trở thành Tổng thống - chức vụ quyền lực nhất và tất nhiên có ảnh hưởng tới chính trường tất cả các bang, gồm cả ở New York.
Sau khi Đô đốc hạm đội George Dewey trở về từ Chiến tranh Tây Ban Nha-Mỹ, nhiều người đề nghị ông tranh cử Tổng thống đại diện Đảng Dân chủ. Tuy nhiên, Dewey lại chót chọc giận một số người theo đạo Tin lành khi kết hôn với Mildred McLean Hazen theo Công giáo (vợ góa của Tướng William Babcock Hazen và con gái của Washington McLean, chủ báo "The Washington Post") vào tháng 11 năm 1899 và tặng cho bà ngôi nhà mà đất nước đã trao thưởng cho ông nhờ công lao trong chiến tranh của mình. Việc ứng cử của ông gần như ngay lập tức bị phản đối bởi một số lời vạ miệng. Báo chí bắt đầu tấn công ông ngay lập tức sau khi ông nói rằng công việc của Tổng thống vô cùng dễ dàng, chỉ đơn thuần thi hành luật do Quốc hội ban hành và rằng ông sẽ "thực thi luật của Quốc hội một cách trung thực nhất có thể như cách ông tuân lệnh cấp trên của mình.” Ngay sau đó, ông thừa nhận chưa bao giờ bỏ phiếu trong một cuộc bầu cử Tổng thống trước đây, đồng thời đề cập rằng người duy nhất mà ông sẽ bỏ phiếu nếu được sẽ là Grover Cleveland. Ông thậm chí còn bị chỉ trích nhiều hơn khi nói thẳng thắn (và sau này trở thành sự thật) với một phóng viên tờ báo rằng, "Cuộc chiến tiếp theo của chúng ta sẽ là với Đức."
Chiến dịch của Dewey sau đó còn vấp phải sự phản đối của Đảng Dân chủ Vàng (ủng hộ vàng), những người mà ban đầu ủng hộ chiến dịch của ông. Một số thậm chí còn ủng hộ Bryan (ủng hộ bạc) vì họ tin rằng ông là ứng cử viên có uy tín hơn. Ngay sau 3 ngày ứng cử, chiến dịch tranh cử của ông đã gặp trắc trở bởi những sai lầm nói trên, đã có rất nhiều tin đồn về việc Dewey sắp rút lui. Tuy nhiên, trắc trở lớn hơn hết đã xảy ra khi có thông tin giới thượng tầng Đảng Dân chủ Vermont phản đối Dewey và hoàn toàn ủng hộ Bryan. Ohio cũng ủng hộ Bryan, mặc dù có cảnh báo rằng giới thượng tầng sẽ loại bỏ vấn đề bạc ra khỏi cương lĩnh đảng. Đến ngày 5 tháng 5, John Roll McLean, anh rể và quản lý chiến dịch của Dewey, đã rút khỏi chiến dịch và được nhiều người cho là âm thầm ủng hộ Bryan. Đến ngày 17 tháng 5, Dewey nhận ra rằng có rất ít cơ hội để ông có được đủ số đại biểu ủng hộ tại các bang miền Tây và miền Nam để ngăn Bryan đạt được 2/3 số đại biểu tại đại hội đến mức nói rằng ông thậm chí còn không biết tại sao mình lại quyết định tranh cử Tổng thống; ông sau đó rút lui. Sau đó đã có đề nghị ủng hộ ông tranh đề cử làm Phó Tổng thống cùng với Bryan; tuy nhiên Dewey kiên quyết từ chối đề nghị này.
William Jennings Bryan gặp phải rất ít sự phản đối lớn sau khi Dewey rút lui. Bryan giành chiến thắng tại Đại hội toàn quốc Đảng Dân chủ năm 1900 được tổ chức tại Thành phố Kansas, Missouri, từ ngày 4 đến 6 tháng 7, giành được 936 phiếu đại biểu để giành được đề cử.
Các ứng cử viên chính thức hoặc được suy đoán tranh đề cử Phó Tổng thống:
Là đảng lớn thứ ba trên toàn quốc, Đảng Dân túy đã đưa ra quyết định vào năm 1896 để từng bước "liên minh" với Đảng Dân chủ ở cấp quốc gia bằng cách ủng hộ ứng cử viên Tổng thống của Đảng Dân chủ - dù sẽ giữ ảnh hưởng của mình bằng cách đề cử một ứng cử viên của riêng mình cho vị trí Phó Tổng thống. Ở cấp tiểu bang, các Đảng Dân túy cấp địa phương được tự do hoạt động theo cách của riêng họ. Ở các bang vùng Bình nguyên, Đảng Dân túy liên minh với Đảng Dân chủ, và ở một số bang thì đã hoàn toàn sáp nhập vào đảng này. Ở miền Nam, Đảng Dân túy liên minh với Đảng Cộng hòa. Kết quả, mặc dù Bryan thất cử, Đảng Dân túy đã có thêm nhiều Dân biểu thắng cử vào Quốc hội, từ 10 lên 26. Tuy nhiên, ở một số bang miền Nam, cơ quan lập pháp do Đảng Dân chủ kiểm soát bắt đầu thông qua một loạt luật nhằm tước quyền bầu cử của cử tri da đen - khối cử tri lớn ủng hộ Đảng Dân túy. Động thái này đã gây ra nhiều hậu quả, như trong cuộc bầu cử giữa kỳ năm 1898, số Dân biểu của Đảng Dân túy tại Hạ viện đã giảm xuống còn 9, mức thấp nhất kể từ khi thành lập đảng.
Cách Đảng Dân chủ đối xử với Đảng Dân túy đã dẫn đến sự chia rẽ trong nội bộ đảng này. Vào ngày 17 tháng 5 năm 1899, giới thượng tầng Đảng Dân túy đã gặp nhau tại St. Louis và đưa ra một bài phát biểu thành lập phái "Trung lộ", ngăn chặn nỗ lực hợp nhất 2 đảng. Tuyên bố chủ yếu nhắm vào chủ tịch toàn quốc của đảng, Thượng nghị sĩ Hoa Kỳ Marion Butler từ Bắc Carolina, người được bầu vào Thượng viện thông qua liên minh với Đảng Cộng hòa Bắc Carolina, và đang nỗ lực vận động Đảng Dân túy tái ủng hộ đề cử của William J. Bryan trong cuộc bầu cử này. Trong khi đó, phái "Liên minh" bắt đầu phản công từ đầu năm 1900. Nơi đầu tiên xuất hiện biểu hiện của sự chia rẽ là ở Đảng Dân túy Nebraska trong đại hội cấp bang vào ngày 19 tháng 3. Cả 2 phái đều cử đại biểu tham dự đại hội toàn quốc, dự kiến diễn ra ở Cincinnati. Cuối cùng, phái "Liên minh" đã quyết định tổ chức riêng một đại hội toàn quốc khi rõ rằng Đảng Dân túy Ohio không ủng hộ phái "Liên minh" và đang nỗ lực tổ chức một đại hội nhằm không ủng hộ đề cử của Bryan mà là đề cử một liên danh riêng của mình.
Đại hội toàn quốc của phái "Liên minh" được triệu tập ở ngay phía tây Sioux Falls, Nam Dakota vào ngày 9 tháng 5 và nhất trí đề cử Bryan làm Tổng thống. Charles Towne, lãnh đạo của Đảng Cộng hòa Bạc, gần như được nhất trí ủng hộ đề cử làm đồng tranh cử của ông, chỉ vấp phải sự phản đối nhỏ từ Dân biểu John Lentz từ Ohio. Tuy nhiên, cuối cùng thì Adlai Stevenson lại giành được đề cử Phó Tổng thống của Đảng Dân chủ thay vì Towne, Towne sau đó rút lui, và sau đó phái "Liên minh" quyết định ủng hộ Stevenson.
Gặp nhau tại Cincinnati, Ohio, phe "Trung lộ" đã thông qua một cương lĩnh kêu gọi tạo ra tiền định danh, gia tăng quyền sở hữu của chính phủ đối với các ngành công nghiệp chủ chốt và thành lập các vùng đặc quyền kinh tế. Doanh nhân Wharton Barker được đề cử làm Tổng thống, trong khi Dân biểu Ignatius Donnelly được chọn đồng tranh cử cùng ông.
Tổ chức Dân chủ Xã hội Hoa Kỳ được thành lập vào tháng 6 năm 1897 và sau đó được đổi tên thành Đảng Dân chủ Xã hội Hoa Kỳ vào năm 1898 khi Đảng Lao động Xã hội Hoa Kỳ đang gặp lục đục nội bộ. James F. Carey, thành viên của hội đồng thành phố Haverhill, Massachusetts, đã bị khai trừ khỏi Đảng Lao động Xã hội. Sau đó, Eugene V. Debs, Carey và Sylvester Keliher thành lập Đảng Dân chủ Xã hội. Carey và Louis M. Scates được bầu vào Hạ viện Massachusetts trong khi John C. Chase được bầu làm thị trưởng Haverhill. Victor L. Berger, lãnh đạo đảng ở Milwaukee, Wisconsin, và một nhóm ứng cử viên của đảng đã nhận được gần 6% số phiếu bầu trong cuộc bầu cử năm 1898. 20 thành viên đã đắc cử vào các văn phòng vào năm 1900.
Morris Hillquit và các thành viên phe cánh của ông, được gọi là phái Kangaroo trong Đảng Lao động Xã hội đang cố gắng lật đổ Daniel De Leon khỏi vị trí lãnh đạo đảng tại đại hội năm 1899. Phái Kangaroo đã thất bại cay đắng trước De Leon và bị khai trừ khỏi đảng nên họ đã tự thành lập một Đảng Lao động Xã hội của riêng họ. Họ đề cử Job Harriman làm Tổng thống và Max S. Hayes làm Phó Tổng thống mặc dù họ không có ý định tranh cử trong cuộc bầu cử năm 1900 và thay vào đó chỉ dùng nó như một cách thỏa hiệp với Đảng Dân chủ Xã hội Hoa Kỳ.
Đảng Dân chủ Xã hội ban đầu được mời tham dự đại hội của phái Kangaroo, nhưng họ từ chối dù Đảng Dân chủ Xã hội ủng hộ sự hợp nhất của 2 đảng. Dẫu vậy, Ban Chấp hành Đảng Dân chủ Xã hội vẫn cho phép phái Kangaroo cử đại biểu tham dự đại hội toàn quốc của họ. Phái Kangaroo đã thông qua một nghị quyết ủng hộ sự hợp nhất và thành lập một ủy ban thống nhất. 67 đại biểu từ 32 bang được triệu tập tại đại hội năm 1900 và bỏ phiếu ủng hộ Debs làm Tổng thống. Hayes và Harriman đều tranh đề cử Phó Tổng thống và Harriman đã giành được nó.
Ban Chấp hành tuyên bố vào ngày 12 tháng 5 năm 1900 rằng họ sẽ không ủng hộ việc hợp nhất với phái Kangaroo sau khi cáo buộc họ quá giáo điều và cản trở một cuộc bỏ phiếu về vấn đề hợp nhất. Dẫu vậy, khi Ủy ban Thống nhất phái Kangaroo đã gửi phiếu bầu cho các thành viên của cả 2 đảng thì cả 2 đều bỏ phiếu ủng hộ sự hợp nhất. Phái Kangaroo đồng ý đề cử Debs và Harriman làm liên danh của họ và Debs đã chấp nhận vào ngày 31 tháng 7. Debs và George D. Herron bắt đầu chiến dịch tranh cử cho đảng vào ngày 29 tháng 9, tại Music Hall ở Chicago. Debs đã nhận được 87.945 phiếu bầu với số phiếu ủng hộ lớn nhất đến từ New York và Illinois. Số phiếu bầu Debs nhận được ở Chicago nhiều gấp 10 lần số phiếu của Đảng Lao động Xã hội nhận được trong cuộc bầu cử năm 1896. Debs đã nhận được nhiều phiếu bầu hơn bất kỳ liên danh Tổng thống nào từ Đảng Lao động Xã hội. Phái Kangaroo và Đảng Dân chủ Xã hội sau đó hợp nhất và trở thành Đảng Xã hội Hoa Kỳ vào năm 1901.
Đảng Cấm rượu đã họp tại Chicago, Illinois vào ngày 28 tháng 6 để đề cử liên danh của họ. Hale Johnson, người từng là ứng cử viên Phó Tổng thống của đảng vào năm 1896, đã rút lui ngay trước khi cuộc bỏ phiếu bắt đầu. John G. Woolley đã được đề cử trong lần bỏ phiếu đầu tiên, với Henry B. Metcalf từ Rhode Island được đề cử làm đồng tranh cử cùng ông thời gian ngắn sau đó.
Đảng Cộng hòa Lincoln, trước đây có tên là Đảng Cộng hòa Bạc, đến năm 1900 đã nhận ra rằng vấn đề bản vị lưỡng kim đã hạ nhiệt và vấn đề chủ nghĩa đế quốc đang ngày càng nóng lên, và họ hy vọng rằng một cương lĩnh đa dạng phù hợp với các giáo lý mà Abraham Lincoln ủng hộ sẽ giúp Đảng phát triển mạnh hơn chỉ là một vấn đề bạc tự do.
Đảng Cộng hòa Lincoln triệu tập tại Thành phố Kansas, Missouri, cùng lúc và cùng nơi với Đại hội toàn quốc Đảng Dân chủ. Cam kết ủng hộ William Jennings Bryan tranh cử Tổng thống, mục đích chính của nhiều đại biểu tham dự là thúc đẩy Đảng Dân chủ đề cử Chủ tịch toàn quốc Charles Towne cho chức Phó Tổng thống, một nỗ lực ban đầu được Đảng Dân túy phái "Liên minh" ủng hộ. Thật không may cho những người ủng hộ Towne, những nỗ lực này có thể đã không có tác dụng, khi khối đại biểu từ miền Nam không ủng hộ ông. Cuối cùng, trong lần bỏ phiếu quyết định, Towne đứng thứ 3, với Adlai Stevenson giành chiến thắng.
Việc Stevenson, người trước đây từng giữ chức Phó Tổng thống dưới thời Grover Cleveland, được đề cử, đã khiến nhiều thành viên Đảng Cộng hòa Lincoln tham dự phẫn nộ, và nhiều nỗ lực vô cùng sau đó nhằm đề cử Charles Towne tranh cử Phó Tổng thống đã xuất hiện. Chỉ cho đến khi chính Charles Towne phát biểu tại đại hội thì sự hỗn loạn mới nguôi ngoai. Từ chối tranh cử, Towne cầu xin các đại biểu có mặt chấp nhận và ủng hộ liên danh của Đảng Dân chủ, ngụ ý rằng Bryan mới làn nhân tố chính và phần lớn Cương lĩnh Đảng Dân chủ phù hợp với Đảng Cộng hòa Lincoln. Những người khác, chẳng hạn như Thượng nghị sĩ Fred Dubois, Thượng nghị sĩ Henry Teller và John Shafroth đã có những bài phát biểu tương tự kêu gọi ủng hộ Bryan và Stevenson. Sau cùng, một ủy ban được chọn lọc thành viên đã chính thức tán thành đề cử Phó Tổng thống của Adlai Stevenson.
Liên đoàn Chống Chủ nghĩa đế quốc Hoa Kỳ được thành lập vào năm 1898 để phản đối thương vụ mua Quần đảo Philippine, coi thương vụ này vi phạm quy tắc "sự đồng ý của người bị trị". Mặc dù không chính thức là một đảng phái chính trị, nhưng đã tồn tại một phong trào trong Liên đoàn nhằm đề cử một liên danh riêng biệt trên cương lĩnh tập trung vào vấn đề chống chủ nghĩa đế quốc hoặc ít nhất là ủng hộ một ứng cử viên tổng thống từ Đảng Cộng hòa hoặc Đảng Dân chủ mà bản thân họ chống lại chủ nghĩa đế quốc. Tuy nhiên, sau khi McKinley và Bryan được đề cử, tranh luận đã bùng nổ về việc có nên tán thành Bryan và Cương lĩnh Đảng Dân chủ hay không; trong khi đó, nhiều đảng viên Đảng Cộng hòa và Đảng Dân chủ Vàng lại cảm thấy với các triết lý chính trị của Liên đoàn rất phù hợp với triết lý của họ (trừ việc tố cáo chủ nghĩa đế quốc); đến tháng 7, một số người thậm chí còn có ý định ủng hộ McKinley vào tháng 11. Cuối tháng đó, Đại hội toàn quốc được triệu tập ở Indianapolis vào ngày 15 tháng 8 đẻ quyết định ủng hộ hoặc tự đề cử một liên danh riêng cho cuộc tổng tuyển cử. Các cuộc tranh luận đã bùng nổ với sự tham gia Đảng Dân chủ Quốc gia về khả năng liên minh đề cử một liên danh duy nhất, nhưng điều này đã bị ủy ban toàn quốc của đảng bác bỏ. Sau đó, những cái tên được thảo luận cho đề cử Tổng thống bào gồm cựu Chủ tịch Hạ viện Thomas Reed, cựu Ngoại trưởng Richard Olney, cựu Thống đốc bang Massachusetts George Boutwell, và cựu Thượng nghị sĩ John Henderson.
Ngay từ đầu, những xu hướng này có lợi cho Bryan, với việc Chủ tịch thường trực George Boutwell phát biểu tại đại hội và kêu gọi ủng hộ Đảng Dân chủ, sau đó là các bài phát biểu của cựu Tướng John Beatty, Edgar Bancroft và Gamaliel Bradford. Tuy nhiên, nghị quyết tán thành Bryan đã vấp phải tranh cãi kéo dài với phe cánh ủng hộ đề cử một liên danh riêng do Thomas Osborne lãnh đạo. Osborne và phe cánh của ông nói rằng nhiều người chống chủ nghĩa đế quốc sẽ không sẵn sàng bỏ phiếu cho Bryan hoặc ủng hộ Cương lĩnh Đảng Dân chủ, và Đảng sẽ thu hút được nhiều phiếu bầu hơn nếu họ đề cử một ứng cử viên của riêng họ. Charles Codman, tác giả của nghị quyết, và Edwin Burritt Smith phản đối rằng cử tri sẽ ít để ý tới các vấn đề ngoài vấn đề chủ nghĩa đế quốc, và nên tận dụng mọi cơ hội để đưa một người chống chủ nghĩa đế quốc lên nắm quyền. Trong một lần bỏ phiếu, Cương lĩnh của Liên đoàn được thông qua, ủng hộ liên danh Bryan/Stevenson. Osborne và những người muốn đề cử một liên danh riêng sau đó rời đảng và gia nhập Đảng Quốc gia, đang chuẩn bị tổ chức đại hội gần đó.
Đảng Quốc gia được hình thành từ phong trào ủng hộ đề cử một liên danh riêng trong Liên đoàn Chống Chủ nghĩa đế quốc. Giai đoạn đầu của sự hình thành đảng xuất phát từ thất bại của đảng viên Liên đoàn, do Thomas Osborne và John Jay Chapman lãnh đạo, trong việc thuyết phục Đảng Dân chủ Quốc gia đề cử hoặc ủng hộ một liên danh. Một tuyên bố sau đó được các đại biểu Liên đoàn từ New York đưa ra, tố cáo cả hai đảng Cộng hòa và Dân chủ, ủng hộ nền độc lập của Philippines và Porto Rico, ủng hộ chế độ bản vị vàng và một hệ thống ngân hàng lớn mạnh, kêu gọi bãi bỏ những đặc quyền đặc biệt và yêu cầu cải cách dịch vụ công. Họ cũng tổ chức một đại hội toàn quốc từ ngày 14 đến ngày 15 tháng 8, gần Đại hội toàn quốc Liên đoàn được tổ chức từ ngày 15 tháng 8 đến ngày 16 tháng 8.
Khi các đại biểu đến Indianapolis, mọi người dự định rằng Liên đoàn sẽ đề cử một liên danh riêng và Đảng Quốc gia sẽ ủng hộ liên danh của Liên đoàn. Tuy nhiên, vấn đề trở nên rõ ràng khi Liên đoàn có ý ủng hộ Bryan và đang chuẩn bị quyết định ủng hộ ông. Những đại biểu của Liên đoàn liên minh với Đảng Quốc gia sau đó đã rời khỏi đảng và tiến hành bầu Thomas Osborne làm Chủ tịch Thường trực của Đại hội, kêu gọi tổ chức một đại hội toàn quốc mới vào ngày 5 tháng 9. Người ta tuyên bố rằng vào thời điểm đó, các đại biểu có ý mời Moorfield Storey chấp nhận đề cử Tổng thống của Đảng Quốc gia, nhưng Storey đã từ chối và cuối cùng đã chọn tranh cử tại khu 11, Massachusetts; trong khi đó, William Jackson Palmer ban đầu được gợi ý cho vị trí đề cử Phó Tổng thống nhưng ông cũng từ chối lời gợi ý này.
Đại hội triệu tập tại Carnegie Hall (sau đó là Chamber Music Hall) vào ngày 5 tháng 9, Đảng Quốc gia chính thức được thành lập, ứng cử viên Thượng nghị sĩ Donelson Caffery từ Louisiana được đề cử làm Tổng thống và nhà sử học Archibald Howe của Massachusetts cho Phó Tổng thống. Mặc dù có một số lo ngại về việc liệu Caffery có chấp nhận đề cử nếu được đề nghị hay không, Osborne tuyên bố rằng ông đã liên lạc với Caffrey và rằng ông vừa có thiện cảm với Đảng Quốc gia vừa sẵn sàng trở thành ứng cử viên cho chức Tổng thống của họ. Cương lĩnh của đảng gần như giống với cương lĩnh do ủy ban Liên đoàn soạn hồi tháng 7. Mục đích duy nhất của đảng chỉ dừng lại ở việc chia phiếu bầu của McKinley và Bryan.
Thật không may cho Đảng Quốc gia, Thượng nghị sĩ Cafferty từ chối tranh cử chỉ vài tuần sau đó, dẫn đến một cuộc tranh luận mà Arthur Briggs Farquhar, chủ sở hữu của Công trình Nông nghiệp Pennsylvania, được coi là người có thể thay thế ông. Một ngày sau, ngày 21 tháng 9, chi ủy Đảng ở Massachusetts bỏ phiếu giải tán đảng.
Đảng Cải cách Liên minh đã đề cử Seth H. Ellis của Ohio làm Tổng thống và Samuel T. Nicholson làm Phó Tổng thống.
Đảng Cơ đốc Thống nhất đã đề cử Jonah FR Leonard làm Tổng thống và David H. Martin làm Phó Tổng thống. Ban đầu, đảng đã đề cử Silas C. Swallow làm Tổng thống và John G. Woolley làm Phó Tổng thống, nhưng cả hai người đều từ chối, thay vào đó họ chọn tranh đề cử của Đảng Cấm rượu "(mà Woolley là người chiến thắng)".
Nền kinh tế đang phát triển thịnh vượng vào năm 1900, vì vậy khẩu hiệu của Đảng Cộng hòa là "Bốn năm nữa với một bữa tối đầy đủ", kết hợp với chiến thắng trong của Hoa Kỳ trong Chiến tranh Tây Ban Nha-Mỹ năm 1898, đã hấp dẫn cử tri hơn bao giờ hết. Teddy Roosevelt đã trở thành một anh hùng dân tộc khi từng chiến đấu ở Cuba, hơn nữa ông còn là một phát ngôn viên nổi tiếng đại diện đảng Cộng hòa. Roosevelt tỏ ra rất năng nổ và là đối thủ xứng tầm với phong cách vận động tranh cử sôi nổi của William Jennings Bryan. Roosevelt phát biểu nhiều nơi, miêu tả là McKinley là người đã mang lại hòa bình và thịnh vượng cho đất nước và xứng đáng được tái đắc cử. Trong một chiến dịch vận động tranh cử thần tốc, Roosevelt đã có 480 điểm dừng để phát biểu ở 23 bang. Trong các bài phát biểu của mình, ông liên tục lập luận rằng cuộc chiến là chính đáng, đã giải phóng người Cuba và người Philippines khỏi chế độ chuyên chế của Tây Ban Nha:
Chiến dịch của Bryan dựa trên vấn đề chính của chiến dịch năm 1896: Bạc tự do. Chiến dịch đã không thành công trong cuộc bầu cử này vì sự thịnh vượng kinh tế đã thay thế tình trạng suy thoái trầm trọng và McKinley có công trong việc này. Ngay cả những người ủng hộ bạc nhằm mở rộng nguồn cung tiền để nâng giá cũng phải thừa nhận rằng một lượng lớn vàng mới đang chảy vào nền kinh tế thế giới, và tình trạng giảm phát (tức là giá cả giảm) không còn là mối đe dọa với nền kinh tế nữa. Vấn đề lớn thứ 2 mà Bryan hướng đến là tấn công chủ nghĩa đế quốc của McKinley; Bryan ủng hộ chiến tranh nhưng phản đối việc sáp nhập Philippines. Ông nói McKinley chỉ đơn giản là thay thế chế độ chuyên chế độc ác của Tây Ban Nha bằng chế độ tàn ác của Mỹ. Bryan đặc biệt gay gắt khi chỉ trích nỗ lực đẫm máu của quân đội Mỹ nhằm trấn áp một cuộc nổi dậy của quân du kích Philippines. Vấn đề này lôi kéo được nhiều người trước đây phản đối Bryan, đặc biệt là những người Đức ủng hộ "tiền cứng", các cựu đảng viên Đảng Dân chủ Vàng và những người chống chủ nghĩa đế quốc như Andrew Carnegie.
Cả 2 ứng cử viên đều tái sử dụng kỹ thuật tranh cử vào năm 1896, với việc McKinley một lần nữa vận động "trước hiên nhà" từ Canton, Ohio. Vào đỉnh điểm của chiến dịch, ông đã chào đón 16 phái đoàn và 30.000 người ủng hộ cổ vũ trong 1 ngày. Trong khi đó, Bryan lại bắt đầu hành trình, di chuyển 18.000 dặm tới hàng trăm cuộc biểu tình khắp miền Trung Tây và Đông. Lần này, ông còn có đối thủ hùng biện khác là Theodore Roosevelt, người đã vận động hăng hái không kém ở 24 bang, với quãng đường 21.000 dặm bằng tàu hỏa.
Chiến thắng của quân đội và hải quân Mỹ trong cuộc chiến chống Tây Ban Nha là yếu tố quyết định trong việc gây dựng sự ủng hộ của Đảng Cộng hòa. Đảng Dân chủ cố gắng lập luận rằng chiến tranh chưa kết thúc vì cuộc nổi dậy ở Philippines; điều này đã trở thành vấn đề chính của họ. Nhận thức rằng Chiến tranh Hoa Kỳ-Philippines sắp kết thúc sẽ là một kho báu "màu mỡ" cho Đảng Cộng hòa, và chính quyền McKinley tuyên bố rằng quân đội sẽ được cắt giảm khi chiến tranh kết thúc. Đảng Cộng hòa cam kết rằng các cuộc giao tranh ở Philippines sẽ tự lắng xuống trong vòng 60 ngày kể từ khi McKinley tái đắc cử. Tuy nhiên, như một trung úy đã viết trong một bức thư gửi cho vợ mình, “Trên giấy tờ thì có vẻ ổn, nhưng thực sự ở đây không hề có sự cắt giảm lực lượng nào cả. Những tiểu đoàn [được hồi hương] này gồm toàn những người...sắp giải ngũ."
Ngoài ra, Bộ trưởng Chiến tranh Elihu Root còn nhận được một báo cáo từ MacArthur vào tháng 9 năm 1900 rằng ông ta sẽ không cắt giảm lực lượng cho đến sau cuộc bầu cử. Tướng Arthur MacArthur, Jr., nắm quyền chỉ huy Philippines được 4 tháng, cảnh báo Washington rằng cuộc chiến không những không hạ nhiệt mà thậm chí còn chưa định hình được kết quả. MacArthur tin rằng giai đoạn du kích của cuộc chiến chỉ mới bắt đầu và người Philippines đang hoàn thiện kỹ thuật của mình thông qua kinh nghiệm của mình. Hơn nữa, chiến lược của nhà lãnh đạo Philippines Emilio Aguinaldo đã nhận được sự ủng hộ rộng rãi hơn bao giờ hết.
Tuy nhiên, phần lớn binh lính ở Philippines không ủng hộ Bryan. Hầu hết những lời nhắn đề cập đến cuộc bầu cử năm 1900 trong thư và nhật ký của những người lính đều bày tỏ sự ủng hộ rất lớn đối với Đảng Cộng hòa của McKinley và Roosevelt. Theo Trung sĩ Beverly Daley, ngay cả "đảng Dân chủ hú hét" cũng ủng hộ McKinley. Binh nhì Hambleton viết: "Tất nhiên, có một số chàng trai cho rằng Bryan là kẻ toàn diện, nhưng số lượng những chàng trai như vậy rất ít".
Bất chấp những nỗ lực đầy nghị lực của Bryan, sự thịnh vượng mới dưới thời McKinley, kết hợp với sự ủng hộ của công chúng đối với Chiến tranh Tây Ban Nha-Mỹ, đã giúp McKinley giành được chiến thắng dễ dàng.
Theodore Roosevelt, ứng cử viên Phó Tổng thống của Đảng Cộng hòa, đã thu hút được sự ủng hộ bất ngờ trong chiến dịch tranh cử, và người ta khẳng định rằng ông đã giúp mang lại một lượng phiếu bầu rất lớn cho Đảng Cộng hòa.
McKinley đã giành được khoảng 7.200.000 phiếu bầu. Ông đã thắng ở 28 bang với tổng số 292 phiếu đại cử tri (65,32%). Tỷ lệ phần trăm phiếu phổ thông của ông trên toàn quốc tăng nhẹ (51,60%), với nhiều hơn 120.000 phiếu bầu so với năm 1896. Sự thay đổi này được phản ánh qua số quận mà ông thắng; McKinley thắng nhiều hơn 222 quận so với số quận ông thắng vào năm 1896, do đó giành chiến thắng ở đa số quận vào năm 1900.
Trong số 2.729 quận, McKinley giành chiến thắng với 1.385 (50,75%) trong khi Bryan giành được 1.340 (49,10%). 2 quận (0,07%) chia đều cho McKinley và Bryan, trong 2 hai quận (0,07%) ở Texas ghi nhận phiếu bầu cho ứng cử viên "Khác" nhiều hơn 1 trong 2 ứng cử viên của 2 đảng lớn. McKinley chiếm đa số ở 1.288 quận trong khi Bryan chiếm đa số ở 1.253 quận.
Soi xét kỹ hơn kết quả, trong số 2.729 quận, 2.286 quận có người thắng giống hệt cuộc bầu cử 4 năm trước; 113 thay đổi từ đảng Cộng hòa sang đảng Dân chủ; và 328 thay đổi từ Đảng Dân chủ sang Đảng Cộng hòa.
Một điểm đáng chú ý nữa là mức tăng tỷ lệ phiếu của Bryan ở khu vực New England và (Đông Bắc) Trung Đại Tây Dương, cùng với mức tăng nhẹ ở khu vực Trung Đông Bắc. Bryan thậm chí còn thắng ở thành phố New York với cách biệt gần 30.000 phiếu bầu, nơi ông thua với cách biệt 60.000 phiếu bầu chỉ 4 năm trước đó. Trong tất cả các vùng khác khác, số phiếu bầu của Bryan ít hơn năm 1896, và trên toàn quốc tổng số phiếu bầu của ông ít hơn 23.000 so với năm 1896. Tỷ lệ phần trăm tổng số phiếu bầu là 45,52%, giảm nhẹ. Kentucky, nơi ông mang thắng lần này, có mức tăng phiếu cho ông là 17.005. Ở 16 bang, số phiếu bầu của đảng Dân chủ tăng lên, nhưng ở 29 bang, tỷ lệ phiếu ít hơn năm 1896. Bryan chỉ thắng 17 tiểu bang. Đây là lần duy nhất trong 3 lần ứng cử mà ông không thắng Nebraska, quê hương của mình.
Đây là cuộc bầu cử cuối cùng mà đảng Cộng hòa giành được đa số phiếu đại cử tri ở Maryland cho đến năm 1920. Đây cũng là cuộc bầu cử cuối cùng mà một đảng viên Cộng hòa thắng cử Tổng thống mà không thắng được Idaho và Montana. Ngoài ra, đây cũng sẽ là cuộc bầu cử cuối cùng sau 100 năm mà ứng cử viên Đảng Cộng hòa giành chiến thắng mà không giành được tối thiểu 300 phiếu đại cử tri. Điều này sẽ không xảy ra lần nữa cho đến khi George W. Bush đánh bại Al Gore trong cuộc bầu cử Tổng thống Hoa Kỳ năm 2000.
Các bang có cách biệt chiến thắng dưới 1% (42 phiếu đại cử tri):
Các bang có cách biệt chiến thắng giữa 1% và 5% (150 phiếu đại cử tri):
Các quận với tỷ lệ phiếu bầu cho Đảng Cộng hòa cao nhất
Các quận với tỷ lệ phiếu bầu cho Đảng Dân chủ cao nhất
Các quận với tỷ lệ phiếu bầu cho ứng cử viên "Khác" cao nhất
Các quận với tỷ lệ phiếu bầu cho Đảng Cộng hòa thấp nhất
Các quận với tỷ lệ phiếu bầu cho Đảng Dân chủ thấp nhất
Các quận với số phiếu bầu cho Đảng Cộng hòa cao nhất
Các quận với số phiếu bầu cho Đảng Dân chủ cao nhất
Các quận với số phiếu bầu cho ứng cử viên "Khác" cao nhất
Các quận Đảng Cộng hòa thắng với tỷ lệ phiếu bầu thấp nhất
Các quận Đảng Dân chủ thắng với tỷ lệ phiếu bầu thấp nhất
|
19825086 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19825086 | La Plus Belle pour aller danser | "La Plus Belle pour aller danser" (tạm dịch: "Khiêu vũ với tuyệt sắc giai nhân") là bài hát tiếng Pháp do Georges Garvarentz soạn nhạc và Charles Aznavour viết lời, được nữ ca sĩ Sylvie Vartan biểu diễn vào năm 1964 trong phim "Cherchez l'idole". Phiên bản tiếng Việt do nhạc sĩ Phạm Duy đặt lời với nhan đề "Em đẹp nhất đêm nay".
Bài "La Plus Belle pour aller danser" xếp quán quân đĩa đơn tại Pháp trong suốt 11 tuần. Tại vùng Wallonia (Bỉ), đĩa đơn này duy trì 24 tuần trong bảng xếp hạng và đạt thứ hạng cao nhất là thứ 3. Bài này cũng từng đoạt ngôi quán quân đĩa đơn tại Nhật Bản.
EP 7 inch RCA 86046 (Tháng 3 năm 1964; Pháp, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha)
Đĩa đơn 7 inch RCA Victor 49.067 (1970; Pháp)
Đĩa đơn 7 inch "Aidoru o Sagase " RCA Victor SS-1476 (1964; Nhật Bản)
Đĩa đơn 7 inch "Aidoru o Sagase " RCA SS-2018 (1972; Nhật Bản)
Bài này đươc rất nhiều ca sĩ hát lại, như Pompilia Stoian (Rumani), Michèle Richard (Canada), Chris Garneau, Sarah Dagenais-Hakim và Emilie-Claire Barlow trong album "Seule ce soir" (đoạt giải Juno 2013).
Phiên bản tiếng Việt do nhạc sĩ Phạm Duy đặt lời với nhan đề "Em đẹp nhất đêm nay", được đưa đến người nghe nhạc qua giọng ca của nữ ca sĩ Thanh Lan.
|
19825088 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19825088 | Hội đồng nghiệp Công nhân Điện Quốc tế | Hội đồng nghiệp Công nhân Điện Quốc tế (Tiếng Anh: International Brotherhood of Electrical Workers, viết tắt là hay IBEW) là một Công đoàn đại diện cho khoảng 775 nghìn công nhân đang làm việc hoặc đã nghỉ hưu trong các ngành công nghiệp điện năng, với quy mô trên khắp Hoa Kỳ, Canada, Guam, Panama, Puerto Rico, và Quần đảo Virgin thuộc Mỹ. Đặc biệt là thợ điện trong các ngành xây dựng và hệ thống điện công cộng. Công đoàn này cũng đại diện cho lực lượng lao động trong ngành công nghiệp máy tính, viễn thông, truyền hình cũng như lực lượng lao động trong tất cả các ngành khác liên quan đến điện năng.
Tổ chức mà sau này là Hội đồng nghiệp Công nhân Điện Quốc tế được thành lập vào năm 1891, hai năm trước khi George Westinghouse giành chiến thắng trong Cuộc chiến dòng điện bằng cách thắp sáng Triển lãm Thế giới Columbia ở Chicago bằng dòng điện xoay chiều, và trước khi các gia đình và cơ sở kinh doanh ở Hoa Kỳ bắt đầu nhận được điện . Đây là một tổ chức quốc tế, dựa trên nguyên tắc thương lượng tập thể. Chủ tịch quốc tế của nó là Kenneth W. Cooper.
Ban đầu IBEW thuộc "Công đoàn Thợ dây và Thợ sửa Điện", sáng lập tại St. Louis, bang Missouri vào năm 1890. Cho tới năm 1891, sau khi ý tưởng về việc thành lập một công đoàn toàn quốc đã được hưởng ứng rộng rãi, một hội nghị được tổ chức vào ngày 21 tháng 11 năm 1891 tại St. Louis. Tại hội nghị, IBEW khi đó là Hội anh em Công nhân Điện Quốc gia (Tiếng Anh: National Brotherhood of Electrical Workers, NBEW), đã chính thức được thành lập. Liên đoàn Lao động Hoa Kỳ đã trao cho NBEW điều lệ cùng tư cách thành viên vào ngày 7 tháng 12, 1891. Tạp chí chính thức của công đoàn, "The Electrical Worker", được xuất bản lần đầu vào ngày 15 tháng 1 năm 1893 và vẫn được phát hành cho đến nay. Tại hội nghị năm 1899 ở Pittsburgh, bang Pennsylvania, công đoàn đã chính thức đổi tên thành "Hội đồng nghiệp Công nhân Điện Quốc tế" cho đến nay.
Công đoàn đã trải qua thời kỳ khó khăn trong những năm đầu thành lập, sau đó phải vật lộn trải qua sáu năm phân ly nôi bộ trong thập niên 1910, khi có hai phe đối địch nhau đều cho rằng bản thân được bầu ra làm lãnh đạo Công đoàn một cách hợp lệ. Vào năm 1919, nhiều công ty sử dụng lao động đã thực hiện một chiến dịch nhằm cố gắng tách các công đoàn lao động ra khỏi môi trường làm việc, công đoàn nhất trí thành lập "Hội đồng Quan hệ Lao động", một cơ quan lưỡng đảng bao gồm số lượng ngang nhau các đại diện bộ phận quản lý và bộ phận công đoàn có quyền giải quyết mọi tranh chấp thương lượng tập thể. Cơ quan đó vẫn hoạt động cho đến ngày nay và đã giải quyết phần lớn các cuộc đình công thuộc thẩm quyền của IBEW trong ngành xây dựng.
Vào tháng 9 năm 1941, IBEW, Hiệp hội Nhà thầu điện Quốc gia và Ủy ban Liên bang về Đào tạo nghề đã chung tay lập nên "Tiêu chuẩn Đào tạo nghề Quốc gia cho Ngành xây dựng Điện lực". IBEW cũng đã bổ sung thêm các chương trình và khóa đào tạo bổ sung khi cần thiết cho các công nhân cần theo kịp các công nghệ mới, bao gồm ngành công nghiệp điện tử vào năm 1959 và một khóa học vê năng lượng hạt nhân vào năm 1966.
Hiện nay, IBEW vẫn tổ chức các khóa dạy nghề thợ điện, thợ đi dây và công nhân VDV (thoại, dữ liệu và video) (những người lắp đặt hệ thống dây điện hạ thế như mạng máy tính), phối hợp với Hiệp hội Nhà thầu Điện Quốc gia, dưới sự bảo trợ của Ủy ban Liên hợp Dạy nghề và Đào tạo Quốc gia (NJATC), cho phép người học việc có thu nhập khi "vừa làm vừa học."Tại các khu vực pháp lý của Canada, IBEW không cung cấp chương trình đào tạo học nghề nhưng tiến hành đào tạo bổ sung cho những người học nghề do chính phủ đào tạo, thường với chi phí thấp hoặc miễn phí hoàn toàn. Điều lệ 353 IBEW Toronto yêu cầu tất cả người học việc phải đăng ký với JAC (Hội đồng Dạy nghề Chung) cho một số khóa học về an toàn, huấn luyện trước khi học nghề, các khóa học dự bị tại trường dạy nghề, huấn luyện bổ sung và các khóa học trước kỳ thi.
Số thành viên của IBEW đạt đỉnh điểm vào năm 1972 với khoảng 1 triệu thành viên. Số lượng thành viên giảm dần trong suốt thập niên 1970 và 1980, nhưng sau đó đã ổn định. Một sự kiện khiến số lượng thành viên IBEW sụt giảm nghiêm trọng là khi tòa án yêu cầu giải thể các bộ phận Công đoàn tại AT&T (Tập đoàn Điện thoại & Điện báo Hoa Kỳ) vào cuối năm 1982, khi đó IBEW được tổ chức chặt chẽ trong nội bộ nhân viên và trong các cơ sở sản xuất của AT&T. Năm 1988, 30% công trình xây dựng ở Mỹ được tổ chức theo công đoàn và IBEW chiếm 40% công trình xây dựng liên quan đến điện. Theo trang web chính thức của Công đoàn, số thành viên tính đến năm 2020 là khoảng 775.000.
IBEW cũng hỗ trợ việc xây dựng các nhà máy điện hạt nhân mới ở Hoa Kỳ.
|
19825119 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19825119 | Beatriz của Tây Ban Nha | Beatriz của Tây Ban Nha hay Beatriz de Borbón y Battenberg (tiếng Tây Ban Nha: Beatriz de España; tiếng Anh: "Beatrice of Spain"; tiếng Scotland: "Beatrice o Spain"; tiếng Ý: "Beatrice di Borbone-Spagna"; tiếng Đức: "Beatrice Isabella von Spanien"; tên đầy đủ: "Beatriz Isabel Federica Alfonsa Eugénie Cristina Maria Teresia Bienvenida Ladislàa de Borbón y Battenberg"; 22 tháng 6 năm 1909 – 22 tháng 11 năm 2002) là con gái của Alfonso XIII của Tây Ban Nha và Victoria Eugenie của Battenberg, Thân vương phi xứ Civitella-Cesi với tư cách là vợ của Alessandro Torlonia, Thân vương thứ 5 xứ Civitella-Cesi. Vương nữ là cô của Juan Carlos I của Tây Ban Nha.
Beatriz sinh ra tại Cung điện Vương thất La Granja, San Ildefonso gần Segovia, Tây Ban Nha vào ngày 22 tháng 6 năm 1909. Beatriz là người con thứ ba của Alfonso XIII của Tây Ban Nha và Victoria Eugenie của Battenberg. Vương nữ được đặt tên là Beatriz theo tên bà ngoại của là Beatrice của Liên hiệp Anh, con gái út của Victoria I của Liên hiệp Anh; Isabel theo tên của bà bác cố bên nội là Isabel của Tây Ban Nha; Federica theo tên của Friederike của Hannover, người sở hữu ngôi nhà mà cha mẹ Vương nữ đã đính hôn; Alfonsa theo tên của cha và Eugenia theo tên củaHoàng hậu Eugenia của Pháp, mẹ đỡ đầu của mẹ Vương nữ, Cristina và Maria dành cho Maria Christina Heniriette của Áo, bà nội cuaBeatriz, Teresa theo tên Maria Theresia của Áo và Ladislaa theo tên của Ladislaus I của Áo.
Vương nữ Beatriz được giáo dục bởi các bảo mẫu người Anh trong Cung điện phía Đông. Beatriz được dạy về tiếng Anh và tiếng Pháp cùng với tiếng Tây Ban Nha. Beatriz cùng các anh chị em nói tiếng Anh với mẹ và tiếng Tây Ban Nha với bố. Giống với em gái María Cristina kém hai tuổi, Beatriz cũng mong muốn được học ở các trường tư thục giống như những cô con gái của giới quý tộc thường lui tới cung điện với để chơi với Vương nữ, nhưng theo truyền thống Tây Ban Nha, hai chị em phải được giáo dục bởi các phó mẫu và gia sư riêng. Họ học về ngôn ngữ, lịch sử, tôn giáo, piano và khiêu vũ. Alfonso XIII và Victoria Eugenie rất coi trọng việc tập thể dục ngoài trời và Beatriz cũng trở nên hứng thú với thể thao. Vương nữ bơi rất giỏi, có thể chơi quần vợt, chơi golf và thích cưỡi ngựa. Khi ở Madrid, Beatriz thường chơi đùa trong vườn của cung điện và thực hiện các chuyến du ngoạn trên lưng ngựa. Vào mùa hè, khi gia đình chuyển đến Cung điện Magdalena, gần Santander, Beatriz và María Cristina luyện tập các môn thể thao dưới nước. Hai chị em cũng thực hiện vài chuyến thăm Anh để ở với bà ngoại tại Cung điện Kensington.
Cuối thập niên 1920s, Infanta Beatriz và em gái Infanta María Cristina đã chủ trì một số sự kiện chính thức đồng thời đứng đầu các tổ chức và tài trợ cho các sự kiện khác nhau. Hai chị em còn dành sự quan tâm đến vấn đề bảo vệ động vật. Beatriz và em gái dành thời gian tham gia các lớp điều dưỡng và hỗ trợ Hội Chữ Thập Đỏ ở Madrid hai lần một tuần từ 9 giờ sáng đến 1 giờ chiều và từ 3 đến 7 giờ tối. Beatriz còn là là chủ tịch Hội chữ thập đỏ ở San Sebastián và làm việc tại đó trong kỳ nghỉ hè của vương thất. Hai vị vương nữ luôn ăn mặc sang trọng, có vẻ ngoài trái ngược nhau: một người có mái tóc vàng và người kia có tóc màu sẫm. Beatriz có ngoại hình tương đồng với những người họ hàng Tây Ban Nha với mái tóc nâu, dáng người cao và gầy giống cha. Vương nữ chính thức ra mắt vào năm 1927 bằng một buổi vũ hội tại cung điện vương thất. Trong số bạn bè của Beatriz có Công tước xứ Alba, Fernán Núñez và Aveyro. Ám ảnh về bệnh máu khó đông đã tác động lớn đến cuộc đời vương nữ: Anh cả Alfonso và em út Gonzalo của đều mắc bệnh máu khó đông. Người anh thứ hai Jaime bị điếc và chỉ có người em trai Juan là hoàn toàn khỏe mạnh.
Năm 1929, Beatriz tròn hai mươi tuổi. Vương nữ đem lòng yêu Miguel Primo de Rivera y Sáenz de Heredia, con trai út của Miguel Primo de Rivera, người từng giữ chức Thủ tướng Tây Ban Nha từ năm 1923 đến tháng 1 năm 1930 với quyền lực độc tài. Beatriz và Miguel Primo de Rivera y Sáenz de Heredia được nhìn thấy cưỡi ngựa cùng nhau, nhưng hôn nhân giữa hai người là điều không thể xảy ra. Khi ngài Thủ tướng phát hiện ra mối qua hệ giữa hai nguòi, ông đã đưa con trai ra nước ngoài. Vì Beatriz và em gái có thể mang gene bệnh máu khó đông giống mẹ, Alfonso XIII đành miễn cưỡng tuân theo truyền thống tìm chồng có xuất thân là những vị vương tử Công giáo cho hai chị em. Những người bạn của hai chị em là ba người em họ Álvaro, Alfonso và Ataúlfo de Orleans-Borbón y Sajonia-Coburgo-Gotha, ba con trai của Vương tằng tôn Alfonso của Orléans. Có những mong đợi rằng Beatriz sẽ kết hôn với Alfonso và María Cristina sẽ kết hôn với Álvaro, thế nhưng nhưng tình hình chính trị hỗn loạn ở Tây Ban Nha đã khiến cuộc sống của họ bị chệch hướng.
Sự ủng hộ mà Alfonso XIII dành cho chế độ độc tài vốn không được lòng dân của Primo de Rivera đã làm mất uy tín của quốc vương. Các cuộc bầu cử thành phố được tổ chức vào ngày 12 tháng 4 năm 1931 không có lợi cho chế độ quân chủ. Hai ngày sau đó, Đệ Nhị Cộng hòa Tây Ban Nha được thiết lập. Thiếu sự hậu thuẫn về mặt quân sự, Alfonso XIII cảm thấy buộc phải rời khỏi đất nước ngay trong ngày, nhưng không thoái vị với hy vọng được trở lại ngai vàng Tây Ban Nha. Beatriz các anh chị em và Vương hậu Victoria Eugenie, ngoại trừ Vương tử Juan đang công tác trong hải quân Tây Ban Nha, đã bị bỏ lại ở Madrid. Theo lời khuyên của những người ủng hộ, Vương hậu và 5 người con rời Cung điện Vương hậu bằng ô tô đến El Escorial, rồi từ đó họ bắt tàu đến Pháp.
Vương thất ban đầu sống lưu vong tại Khách sạn Meurice ở Paris, sau đó nhanh chóng chuyển đến khách sạn Savoie ở Fontainebleau. Cùng với mẹ, Beatriz và María Cristina đến thăm Paris hai lần một tuần bằng ô tô hoặc cùng với một thị nữ bằng tàu hỏa. Khi ở Paris, họ dành thời gian cưỡi ngựa ở trường dạy hoặc chơi quần vợt với bạn bè. Cuộc hôn nhân của cha mẹ hai chị em vốn không hạnh phúc và ngay cả ở Tây Ban Nha, Quốc vương và Vương hậu cũng sống tách biệt. Sau khi lâm vào cảnh sống lưu vong thì hai vợ chồng đã sống ly thân hoàn toàn. Victoria Eugenie chuyển đến Luân Đôn, sau đó đến Lausanne, Thụy Sĩ và hai chị em sống với mẹ trong một thời gian. Năm 1933, Alfonso XIII chuyển đến Rapallo và vì cuộc sống quá tách biệt ở Lausanne, Beatriz cùng em gái cùng cha chuyển đến Ý. Trước sự nài nỉ của hai con gái, Alfonso XIII chuyển đến Roma và thuê một căn nhà cho hai chị em ở. Beatriz và María Cristina trở thành bạn của các thành viên Vương thất Ý và nhanh chóng thích nghi với cuộc sống ở Roma.
Năm 1934, một bi kịch ập đến với cả gia đình. Beatriz, bấy giờ đang trải qua kỳ nghỉ hè ở Pörtschach am Wörthersee ở Áo, lái một chiếc ô tô và ngồi cạnh là em trai Gonzalo. Vì cố gắng tránh một người đi xe đạp băng qua đường của hai người, Vương nữ đã đâm xe vào tường. Vụ tai nạn ban đầu có vẻ không nghiêm trọng, nhưng Gonzalo vì mắc bệnh máu khó đông nên bị xuất huyết trong và qua đời vào rạng sáng ngày hôm sau là ngày 13 tháng 8 năm 1934.
Vào thời điểm em trai qua đời, Beatriz đang mong chờ đến ngày cưới của mình. Khi đến thăm Ostia, Vương nữ được giới thiệu với một quý tộc người Ý là Alessandro Torlonia, Thân vương thứ 5 xứ Civitella-Cesi. Alessandro Torlonia được thừa kế khối tài sản lớn từ cha mình vào năm 1933, là con trai của Marino, Thân vương thứ 4 xứ Civitella-Cesi và Mary Elsie Moore, một nữ thừa kế người Mỹ. Gia đình của Alessandro có được khối tài sản lớn vào thế kỷ 18 và 19 nhờ việc quản lý tài chính của Vatican và được nhận tước hiệu Thân vương xứ Civitella-Cesi vào năm 1803 từ Giáo hoàng Piô VII . Mặc dù Alessandro là một thân vương nhưng vì không thuộc về một gia tộc đang hoặc từng trị vì, vì vậy cuộc hôn nhân giữa Beatriz và Alessandro bị xem là bất đăng đối và Beatriz phải từ bỏ quyền kế vị ngai vàng. Alfonso XIII, nhận ra rằng mối nguy về căn bệnh máu khó đông và tình cảnh sống lưu vong của gia đình sẽ khiến các con gái của ông khó tìm được người chồng có dòng dõi vương giả nên đã đồng ý cho mối hôn sự này.
Đám cưới diễn ra vào ngày 14 tháng 1 năm 1935 tại Nhà thờ Gesù. Tại đám cưới, Beatriz mặc một chiếc đầm cưới có phần đuôi váy dài 20 foot, đội một coronet hình hoa cam để cố định mạng che mặt. Hôn lễ ghi nhận sự có mặt của Quốc vương Alfonso XIII, Quốc vương và Vương hậu Ý và khoảng 52 vị vương tử mang dòng máu vương giả. Hàng nghìn người Tây Ban Nha đã đến từ Tây Ban Nha để ủng hộ vương thất lưu vong đã khiến sự kiện mang tính chính trị. Tuy nhiên, Vương hậu Victoria Eugenie và người anh cả Alfonso, Bá tước xứ Covadonga, những người có quan hệ không tốt với Nhà vua, đều không tham dự lễ cưới. Sau buổi lễ,cặp đôi trẻ được Đức Giáo Hoàng Piô XI tiếp đón.
Vương nữ Beatriz và chồng có bốn người con, 11 cháu và 19 chắt:
Infanta Beatriz sống cùng chồng tại Palazzo Torlonia, một ngôi nhà phố thời kỳ Phục hưng đầu thế kỷ 16 trên Via della Conciliazione ở Roma. Khi Quốc vương Alfonso XIII qua đời năm 1941 và tình hình ở Ý trở nên xấu đi trong Chiến tranh thế giới thứ hai, Vương nữ Beatriz Isabel và gia đình cùng các anh chị em của Vương nữ đến Lausanne và trải qua phần còn lại của cuộc chiến gần bên mẹ của họ là Vương hậu Victoria Eugenie. Sau chiến tranh, Beatriz trở về Ý và sống tại đây cho đến cuối đời.
Năm 1950, khi đang ở cùng em trai Juan ở Estoril, Bồ Đào Nha, Beatriz được Francisco Franco cho phép đến thăm Tây Ban Nha. Ngày 25 thàng 8 năm 1950, Beatriz trở lại Tây Ban Nha lần đầu tiên kể từ khi rời đi gần hai mươi năm trước đó. Vương nữ đến Tây Ban Nha đến cùng chồng và con gái Sandra từ Lisboa và ở tại khách sạn Ritz thuộc Madrid để thăm Cung điện la Granja, nơi Vương nữ được sinh ra, và Nhà thờ-Thánh đường Đức Mẹ Cột Trụ ở Zaragoza. Infanta Beatriz được tiếp đón với sự ủng hộ chế độ quân chủ mạnh mẽ đến nỗi chỉ sau một tuần, trong chuyến thăm dài hơn ban đầu, chính phủ chỉ cho Vương nữ 24 giờ để rời khỏi đất nước.
Mặc dù gia đình đã cố gắng dàn xếp một cuộc hôn nhân cho con gái của Beatriz là Sandra với Baudouin của Bỉ, nhưng Sandra lại kết hôn với Clemente Lequio, một quan phu có một con trai vào năm 1958. Clemente Lequio sau đó được phong tước hiệu "Bá tước Lequio di Assaba" vào năm 1963 bởi Umberto II của Ý. Sandra có một con trai và một con gái với Lequio, tuy nhiên cô con gái đã qua đời sau cú ngã từ tầng trên trong nhà của Lequio ở Torino vào năm 1971.
Con trai của Sandra và Clemente Lequio là Alesandro Lequio chuyển đến Tây Ban Nha vào năm 1991 và ban đầu làm việc cho Fiat. Kết hôn với người mẫu Ý Antonia Dell'Atte, nàng thơ của Giorgio Armani vào cuối thập niên 1980s, Alessandro Lequio nhanh chóng trở thành nhân vật được chú ý trong giới "jet set" và báo lá cải Tây Ban Nha. sau khi ly hôn với Antonia, Alesssandro Lequio bắt đầu mối quan hệ với Ana Obregón, một nữ diễn viên và người dẫn chương trình truyền hình người Tây Ban Nha.
Con trai cả của Infanta Beatriz là Marco kết hôn ba lần và có ba người con, mỗi ngưởi con là từ mỗi một cuộc hôn nhân. Con trai cả của Marco là Giovanni Torlonia là một nhà thiết kế nổi tiếng.
Con trai thứ hai của Infanta Beatriz là Marino đã qua đời vào năm 1995 vì các bệnh liên quan đến HIV.
Người con út là Olimpia kết hôn với Paul-Annick Weiller (1933–1998), con trai đầu của phi công Paul-Louis Weiller thuộc gia tộc Javal vào năm 1965 . Trong số sáu người con của hai vợ chồng có Sibilla là Đại Công tử phu nhân của Luxembourg với tư cách là vợ của Đại Công tử Guillaume Marie của Luxembourg.
Infanta Beatriz vẫn hướng lòng về Tây Ban Nha và ủng hộ quyền thừa kế ngai vàng Tây Ban Nha của em trai Juan. Năm 1962, Beatriz cùng Vương thất dự lễ cưới của cháu trai Juan Carlos với Sophia của Hy Lạp ở Athens. Vết gãy xương đùi vào năm 1973 của Vương nữ không bao giờ lành hoàn toàn nên ảnh hưởng đến khả năng vận động của Vương nữ trong suốt quãng đời còn lại. Sức khỏe yếu ớt của Beatriz không cho phép Vương nữ cùng gia đình tham dự lễ lên ngôi của Quốc vương Juan Carlos I, đám cưới của Vương nữ Elena và Cristina hay các nghi lễ đưa hài cốt của cha mẹ và anh em Vương nữ về Tây Ban Nha. Tuy nhiên, Infanta Beatriz không chỉ sống lâu hơn các anh em của mình mà còn đến thăm Tây Ban Nha một lần nữa vào năm 1998 để thăm viếng Cung điện la Granja. Năm 1999, khi được phỏng vấn bởi Tạp chí "¡Hola!", Beatriz đã nói về cuộc đời của mình và khoảng thời gian Vương thất lưu vong khỏi Tây Ban Nha. Vương nữ đến thăm Tây Ban Nha lần cuối vào năm 2001 để đến với em dâu María de las Mercedes của Hai Sicilie và quay trở lại Cung điện Magdalena, gần Santander, nơi 70 năm trước Beatriz đã trải qua kỳ nghỉ hè 17 năm liên tiếp cho đến năm 1930.
Vương nữ qua đời tại nhà riêng ở Palazzo Torlonia, Roma vào ngày 22 tháng 11 năm 2002, thọ 93 tuổi 5 tháng. Beatriz là người con hợp pháp cuối cùng còn sống của Alfonso XIII và Victoria Eugenie của Battenberg cũng như là người cháu hợp pháp cuối cùng còn sống của Alfonso XII của Tây Ban Nha.
|
19825120 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19825120 | María Cristina của Tây Ban Nha | Maria Cristina của Tây Ban Nha hay María Cristina de Borbón y Battenberg (tiếng Tây Ban Nha: María Cristina de España; tiếng Anh: "Maria Christina of Spain"; tiếng Scotland: "Maria Christina o Spain"; tiếng Ý: "Maria Cristina di Borbone-Spagna"; tiếng Đức: "Maria Christina von Spanien"; tên đầy đủ: "María Cristina Teresa Alejandra María de Guadalupe María de la Conception Ildefonsa Victoria Eugenia de Borbón y Battenberg"; 12 tháng 12 năm 1911 – 23 tháng 12 năm 1996) là con thứ năm và con gái út của Alfonso XIII của Tây Ban Nha và Victoria Eugenie của Battenberg cũng như là cô của Juan Carlos I của Tây Ban Nha.
María Cristina sinh ra tại Cung điện Vương thất ở Madrid, Tây Ban Nha. Vương thất Tây Ban Nha đã rời đất nước vào năm 1931, trước các cuộc biểu tình của Đảng Cộng hòa, định cư ở Paris, trước khi chuyển đến Fontainebleau.
María Cristina từ bỏ quyền kế vị ngai vàng Tây Ban Nha và vào ngày 10 tháng 6 năm 1940, Vương nữ kết hôn với Enrico Eugenio Marone-Cinzano (15 tháng 3 năm 1895 Torino – 23 tháng 10 năm 1968 Geneva), con trai của Alberto Marone và Paola Cinzano. tại Roma. Enrico được phong làm Bá tước thứ 1 vào ngày 13 tháng 5 năm 1940 bởi Victtorio Emanuele III của Ý. Enrico còn có một người con riêng từ cuộc hôn nhân trước của với Noemí Rosa de Alcorta y García-Mansilla (1907-1929):
María Cristina và Enrico Eugenio có với nhau bốn cô con gái:
María Cristina trở lại Tây Ban Nha và dành một khoảng thời gian ở đó, nhưng chưa bao giờ sống lâu dài tại đây. Vương nữ qua đời ở Madrid vì một cơn đau tim vào ngày 23 tháng 12 năm 1996 trong cuộc đoàn tụ Giáng sinh của Vương thất tại "Villa Giralda", nơi ở của họ hàng và chị dâu của María Cristina là Bá tước phu nhân xứ Barcelona. Lễ tang của Vương nữ được tổ chức tại nhà nguyện của Cung điện Vương thất Madrid vào ngày 24 tháng 12 và lễ an táng được tổ chức vào ngày 26 tháng 12 tại Đền thờ Marone-Cinzano ở Torino.
|
19825129 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19825129 | Ade Surapriatna | Muhammad Ade Surapriatna (sinh ngày 7 tháng 11 năm 1951) là một chính trị gia người Indonesia, ông là đại biểu của Hội đồng Đại diện Nhân dân từ năm 2009 đến năm 2014. Ông còn là đại biểu của Hội đồng Đại diện Nhân dân Khu vực Jakarta từ năm 1992 đến năm 2009, giữ chức chủ tọa của hội đồng từ 2004 đến 2009 và phó chủ tọa từ năm 1997 đến 2004.
Muhammad Ade Surapriatna sinh ngày 7 tháng 11 năm 1951 tại Jakarta. Ông học ở Jakarta và tốt nghiệp Học viện Hàng hải Quốc gia năm 1969. Sau đó ông làm việc tại một vài công ty. Trong quá trình học, ông gia nhập trung đoàn sinh viên vào năm 1971, kết nạp vào đảng Golkar mới thành lập.
Ông được bầu vào cơ quan lập pháp của Jakarta lần đầu vào năm 1992, và ông được bầu lại vào các năm 1997, 1999 và 2004. Ông là phó chủ tọa cơ quan lập pháp từ năm 1997 đến năm 2004. Ông còn là phó chủ tịch đảng Golkar chi nhánh Jakarta từ năm 1992 đến năm 2001, và được bầu làm chủ tịch năm 2001. Trong nhiệm kỳ 2004–2009, Ade được bầu giữ chức chủ tọa cơ quan lập pháp, nhậm chức vào ngày 4 tháng 10 năm 2004. Cùng năm 2004, Ade tái cử chức chủ tịch đảng Golkar chi nhánh Jakarta cho đến năm 2009.
Trong cuộc bầu cử thống đốc Jakarta năm 2007, Ade được coi là một trong hai ứng cử viên dẫn đầu cho tấm vé của Golkar, cạnh tranh cùng Fauzi Bowo. Tuy nhiên, Ade bất ngờ từ bỏ việc ứng cử trong cuộc họp đảng Golkar vào tháng 2 năm 2007, Fauzi Bowo sẵn sàng cho việc ứng cử. Cuối năm 2008/đầu năm 2009, một vài phe cánh trong cơ quan lập pháp mở cuộc bỏ phiếu bất tín nhiệm phản đối Ade, dẫn chứng ngân sách tỉnh năm 2009 mà theo các phe cánh là thắt chặt chi tiêu quá mức. Ade bác bỏ việc từ chức để phản ứng lại.
Ade tranh cử với tư cách là ứng cử viên cho cơ quan lập pháp quốc gia trong cuộc bầu cử lập pháp Indonesia năm 2009 đại diện khu vực bầu cử Jakarta III và được bầu với 20.378 phiếu. Ông tái tranh cử trong cuộc bầu cử lập pháp năm 2014, nhưng không giành được vị trí nào. Trong lần đi vận động cho cuộc bầu cử năm 2014, một số người ủng hộ đảng Golkar trong một cuộc biểu tình đã bị phạt do vi phạm luật giao thông. Ade chống đối với sĩ quan cảnh sát tại đó, bảo vệ những người vận động và kêu gọi phân phát đặc biệt.
|
19825130 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19825130 | Aditya Srivastava | Aditya Srivastava (sinh ngày 21 tháng 7 năm 1968 tại Prayagraj, Uttar Pradesh, Ấn Độ) là một nam diễn viên và nhà sản xuất người Ấn Độ. Ông được biết đến qua vai diễn Thanh tra phó Abhijeet trong loạt phim truyền hình "Đội đặc nhiệm CID". Ông cũng đã từng có nhiều vai diễn nổi bật trong các bộ phim Bollywood như "Satya", "Gulaal", "Lakshya", "Paanch", "Black Friday", "Kaalo", "Super 30" và "Dil Se Pooch Kidhar Jana Hai".
Aditya Srivastava sinh ngày 21 tháng 7 năm 1968 tại Prayagraj, Uttar Pradesh, Ấn Độ. Trong khi đang theo đuổi việc tốt nghiệp Đại học Allahabad, ông đã tham gia vào đoàn kịch Sangeet Samiti. Để trau dồi kỹ năng diễn xuất, vào năm 1989, ông quyết định chuyển sang Delhi sinh sống và tham gia diễn xuất tại Trung tâm biểu diễn nghệ thuật Sri Ram. Được đạo diễn Shekhar Kapoor phát hiện, ông đã tham gia bộ phim đầu tiên là "Bandit Queen" với vai diễn Puttilal. Sau đó, ông chuyển đến sinh sống ở Mumbai vào năm 1995. Ông từng tham gia lồng tiếng cho các bộ phim quảng cáo.
Năm 1999, ông được khán giả biết đến nhờ vai diễn "Thanh tra phó Abhijeet" trong "Đội đặc nhiệm CID" do B. P. Singh làm đạo diễn. Trước đó, ông từng thủ vai tên tội phạm Paresh trong loạt phim này. Ông, Shivaji Satam và Dayanand Shetty là bộ ba diễn viên chính của loạt phim này.
Ngoài ra, ông từng có một số vai diễn nổi bật trong các bộ phim Bollywood như: "Dil Se..", "Mohandas", "Dansh", "Satya", "Matrubhoomi", "Black Friday" và "Gulaal".
Ông cũng được ghi danh vào Sách Kỷ lục Guinness do đã tham gia một số cảnh quay mà không bị cắt một cảnh nào trong bộ phim điện ảnh "The Inheritance" (tạm dịch là: "Quyền thừa kế") thuộc loạt phim truyền hình "Đội đặc nhiệm CID".
Năm 2014, ông cùng với Shivaji Satam, Dayanand Shetty và Narendra Gupta đã từng tham gia chương trình "Kaun Banega Crorepati" (Ai là triệu phú phiên bản tiếng Hindi) và quyên góp tiền vào các hoạt động từ thiện.
Ông từng kết hôn với Manasi Srivastava vào năm 2003. Cả hai người đã có với nhau 2 người con gái, một người sinh năm 2005 và người còn lại sinh năm 2007.
|
19825137 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19825137 | Động đất Enggano 2000 | Động đất Enggano 2000 () là trận động đất xảy ra vào lúc 23:28 (theo giờ địa phương), ngày 4 tháng 6 năm 2000.
|
19825138 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19825138 | Terbi(III) iodide | Terbi(III) iodide (công thức hóa học: TbI) là một hợp chất vô cơ.
Terbi(III) iodide có thể được tạo ra bằng cách cho terbi phản ứng với iod.
Một phương pháp khác là cho terbi và thủy ngân(II) iodide phản ứng ở nhiệt độ 500 °C.
Terbi(III) iodide có cấu trúc tinh thể giống bismuth(III) iodide (BiI), với sự phối trí bát diện của mỗi ion Tb bởi 6 ion iodide.
|
19825139 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19825139 | Động đất Baku 2000 | Động đất Baku 2000 () là trận động đất xảy ra vào lúc 22:09 (UTC+4), ngày 25 tháng 11 năm 2000. Trận động đất có cường độ 6.8 richter, tâm chấn độ sâu khoảng 35 km. Hậu quả trận động đất đã làm 26 người chết, 412 người bị thương.
|
19825142 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19825142 | Izumi Kenta | |
19825143 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19825143 | Ái Vân (định hướng) | |
19825144 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19825144 | Cửa sổ Sash | Cửa sổ Sash hoặc cửa sổ đóng mở được tạo từ một hoặc nhiều tấm cửa có thể di chuyển, gọi là "sashes". Các sashes thường là cửa sổ có khung được chia thành tấm kính nhỏ, nhưng cũng có thể là một tấm kính duy nhất (hoặc nhiều tấm kính trong trường hợp của cửa kính đôi).
Cửa sổ sash cổ nhất được lắp đặt tại Anh vào những năm 1670, ví dụ như tại Ham House. Người ta cho rằng việc phát minh cửa sổ sash có thể là của Robert Hooke hoặc là một phát minh của Hà Lan. Tuy nhiên, vẫn chưa có bằng chứng cụ thể về người phát minh cụ thể.
Cửa sổ sash thường xuất hiện trong các ngôi nhà kiến trúc kiến trúc Georgian và kiến trúc Victorian, với sắp xếp cổ điển là ba tấm kính ngang và hai tấm kính dọc trên mỗi cửa sash, tạo thành cửa sổ "sáu trên sáu". Tuy nhiên, điều này không phải là quy tắc cố định. Nhiều ngôi nhà ngày nay vẫn sử dụng cửa sổ sash kích thước tiêu chuẩn khoảng 4 feet (1.2 m), nhưng cửa sổ cổ hơn có thể có kích thước khác nhau.
Cửa sổ sash bằng gỗ thường gặp vấn đề về mục nát, sưng hoặc biến dạng của khung gỗ, cũng như tiếng động khi gió thổi. Những vấn đề này có thể được khắc phục thông qua sửa chữa cẩn thận và lắp đặt cách nhiệt chống gió. Cửa sổ sash cũng đòi hỏi bảo trì thường xuyên hơn so với cửa sổ gập, nhưng lại mang lại nhiều ưu điểm về thẩm mỹ, phong cách và tuân thủ luật pháp. Tuy nhiên, khi được bảo quản tốt, cửa sổ sash có thể tồn tại qua nhiều thế hệ mà không cần thay thế bộ phận. Một ưu điểm khác là có thể lau chùi kính từ bên trong tòa nhà bằng cách di chuyển hai tấm kính vào các vị trí khác nhau.
Cửa sổ sash bằng nhựa vinyl (uPVC) đã xuất hiện kể từ khi khung cửa sổ PVC đầu tiên được giới thiệu tại Đức vào những năm 1960. Các cửa sổ này đã chiếm ưu thế trong ngành công nghiệp cửa sổ, với hơn 50% cửa sổ được làm bằng nhựa vinyl tại Hoa Kỳ tính đến năm 2017. Những ưu điểm của nhựa vinyl bao gồm khả năng chống nước và dễ dàng trong việc lắp đặt. Tuy nhiên, cũng có nhược điểm về độ bền và tác động đến môi trường. Theo thời gian, các hợp chất tạo độ dẻo cho nhựa vinyl bay hơi, làm cho vật liệu trở nên giòn và dễ gãy. Nhựa vinyl cũng yếu hơn gỗ và nhôm, cần hỗ trợ thêm khi sử dụng trong cửa sổ lớn. Nhựa vinyl cũng được sử dụng để bảo vệ gỗ khỏi thời tiết trong các cửa sổ gỗ. Tuy nhiên, nhựa vinyl có giới hạn trong việc sử dụng thương mại và nhà ở thấp tầng do tính cháy và khói độc hại khi cháy. Trong tương lai, có thể sẽ có phiên bản nhựa vinyl chống cháy dành cho xây dựng cao tầng, nhưng hiện tại vẫn còn nhiều vấn đề về tính cháy và khói độc hại.
|
19825147 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19825147 | Mi (định hướng) | Mi có thể là:
|
19825148 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19825148 | Ái Vân (ca sĩ) | |
19825151 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19825151 | Vòng loại Giải vô địch bóng rổ thế giới 2023 | Vòng loại Giải vô địch bóng rổ thế giới 2023 là quá trình để xác định 30 trong tổng số 32 đội tuyển giành vé tham dự Giải vô địch bóng rổ thế giới 2023. Với tư cách là hai đội chủ nhà của giải đấu, Philippines và Nhật Bản được đặc cách tham dự giải đấu khi họ được trao quyền đăng cai chung với Indonesia.
Tương tự như vòng loại của giải đấu năm 2019, các trận đấu sẽ diễn ra qua 6 giai đoạn vòng loại, trong khoảng thời gian 15 tháng trên tất cả các liên đoàn khu vực của FIBA. 80 đội tuyển đến từ 4 liên đoàn sẽ tranh tài trong quá trình diễn ra vòng loại. Lịch thi đấu cho 6 giai đoạn của vòng loại như sau:
|
19825153 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19825153 | Tẩu | Tẩu có thể là:
|
19825154 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19825154 | Graeae | Trong thần thoại Hy Lạp, Graeae (tiếng Hy Lạp cổ đại: Γραῖαι; , có nghĩa là "bà già"), là ba chị em nữ thần có mái tóc bạc từ khi sinh ra và dùng chung một con mắt và một cái răng. Có nguồn gốc từ biển cả, các Graeae là nhân cách hóa của bọt trắng trên những ngọn sóng.
Graeae đều là những người con gái của hai vị thần biển nguyên thủy, Phorcys và Ceto, do đó, Graeae cũng là chị em với các nữ quái tóc rắn Gorgon, nổi bật nhất là Medusa. Do là con của thần biển Phorcys nên các Graeae còn được gọi là Phorcides ("những đứa con của Phorcys").
Trong tác phẩm "Thần hệ", nhà thơ Hēsíodos chỉ đề cập đến hai Graeae là Pemphredo (Πεμφρηδώ) (đôi khi được viết là Pephredo (Πεφρηδώ)) và Enyo (Ἐνυώ). Hēsíodos đã mô tả Graeae như sau:
Nhà soạn kịch Aeschylus đã nâng Graeae lên 3 người, khi ông thêm vào đó là Deino (Δεινώ, còn phiên âm là Dino). Trong vở "Prometheus Bound", Aeschylus mô tả các Graeae có đầu và tay của một bà già, còn thân mình là của thiên nga. Pseudo-Apollodorus cũng đã thêm Dino vào nhóm Graeae này. Hyginus cũng ghi chú rằng, Dino cũng được gọi là Persis (Περσίς).
Các Graeae được cho là sống bên ngoài Hy Lạp, có thể là dưới dãy núi Atlas hoặc ở "dòng nước ngăn chia hai lục địa" (có thể là Biển Đỏ), có nhiệm vụ là canh giữ những người chị em Gorgon. Trong thần thoại, nhân lúc các Graeae truyền nhau con mắt, Perseus đã lấy trộm mắt và ép họ phải nói ra nơi trú ngụ của các Gorgon.
|
19825160 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19825160 | Động đất Côn Lôn 2001 | Động đất Côn Lôn 2001 () là trận động đất xảy ra vào lúc 17:26 (theo giờ địa phương), ngày 14 tháng 11 năm 2001. Trận động đất có cường độ 7.8 richter, tâm chấn độ sâu khoảng 10 km. Không có báo cáo trường hợp thương vong nào sau khi động đất xảy ra.
|
19825165 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19825165 | Eleonora Cecchini | Eleonora Cecchini (sinh ngày 27 tháng 9 năm 2003) là một nữ cầu thủ bóng đá người San Marino hiện tại đang thi đấu ở vị trí tiền vệ cho câu lạc bộ St. Catharines Roma Wolves tại League1 Ontario.
Cecchini dành cả sự nghiệp cầu thủ trẻ cho câu lạc bộ San Marino Academy.
Vào tháng 3 năm 2022, cô bắt đầu cam kết theo học tại Đại học D'Youville ở Hoa Kỳ, nơi cô chơi cho đội bóng đá nữ của trường. Vào ngày 5 tháng 9 năm 2022, cô ghi bàn thắng đầu tiên cho đội bóng đá vào lưới Bluefield State Big Blue. Sau khi ghi bàn trong trận đấu tiếp theo, cô được mệnh danh là Cầu thủ xuất sắc nhất tuần của East Coast Conference. Cô dẫn đầu đội bóng về thành tích ghi bàn trong mùa giải với 4 bàn thắng. Vào cuối năm sinh viên năm nhất, cô có tên trong ECC All-Conference Second Team và USCAA Second Team All-American.
Tháng 12 năm 2018, cô ra mắt cho đội 1 của San Marino Academy trong trận gặp Pontedera tại Serie C. Vào ngày 5 tháng 5 năm 2021, cô ra mắt cho đội bóng tại Serie A. Cô vẫn ở lại đội bóng trong mùa giải 2021–22 tại Serie B. Vào ngày 10 tháng 3 năm 2022, cô ghi bàn thắng chuyên nghiệp đầu tiên cho đội bóng, vào lưới Roma C.F..
Năm 2023, cô gia nhập câu lạc bộ St. Catharines Roma Wolves tại League1 Ontario.
Do San Marino không có một đội tuyển quốc gia dành riêng cho bóng đá nữ nên vào tháng 1 năm 2018, cô đã tham gia trại huấn luyện với đội tuyển U-15 Ý. Cô tiếp tục được gọi lên một trại huấn luyện khác vào tháng 7.
|
19825167 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19825167 | Dệt | Dệt là phương pháp sản xuất vải bằng cách xen kẽ hai bộ sợi tạo thành một mảnh vải. Sợi dọc gọi là sợi chữ, sợi ngang gọi là sợi trái. Cách xen kẽ này tạo thành các kết cấu khác nhau trong vải. Việc dệt thường thực hiện trên máy dệt, có thể thực hiện bằng cách khác như dệt bằng viên nang hoặc dệt không máy. Có ba loại kết cấu phổ biến: dệt bình thường, dệt satin và dệt twill. Vải có thể đơn giản hoặc trang trí theo thiết kế nghệ thuật.
Có dấu vết cho thấy dệt đã biết đến từ thời Kỷ đá thượng cổ, khoảng 27,000 năm trước. Tại di chỉ Dolní Věstonice, tìm thấy dấu vết về vải mờ mờ. Những người dệt thời Kỷ đá thượng cổ chế tạo nhiều loại dây, đan rổ và dệt vải bằng kỹ thuật đan và dệt đơn giản. Những hiện vật gồm dấu in trên đất sét và mảnh vải còn lại sau khi đốt.
Ở châu Mỹ, những tàn dư vải cổ nhất tìm thấy ở Hang Guitarrero, Peru. Được làm từ sợi cây, những sản phẩm này có niên đại từ 10,100 đến 9,080 TCN.
Năm 2013, tại di chỉ Çatalhöyük, tìm thấy mảng vải từ cây gai có niên đại khoảng 7,000 TCN. Tại Ai Cập cổ đại, năm 2013 còn tìm thấy mảng vải từ cây gai có niên đại khoảng 7,000 TCN.
|
19825171 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19825171 | Lê Gia Nguyên | Lê Gia Nguyên (sinh ngày 23 tháng 10 năm 2008), là một nhà sản xuất âm nhạc, người Việt Nam.
Anh cũng là người sáng lập hãng thu âm 75 Entertainment và được biết đến với các bản nhạc cụ Lofi, EDM. " nhịp đập và Hip hop..
|
19825172 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19825172 | A Bảo | A Bảo (; ? – 1739) là một vương công Mông Cổ thời nhà Thanh trong lịch sử Trung Quốc, người thừa kế tước vị Trát Tát Khắc Đa La Bối lặc của A Lạp Thiện Ách Lỗ Đặc kỳ thuộc Tây Sáo Mông Cổ. Đồng thời, ông còn là ngạch phò của nhà Thanh khi thành hôn với Đạo Khắc Hân Quận chúa.
A Bảo là con trai thứ 3 của – một hậu duệ của Chuyết Xích Cáp Tát Nhi, em trai ruột của Thành Cát Tư Hãn. Năm 1697, Hòa La Lý được Khang Hi phong làm Trát Tát Khắc Đa La Bối lặc, ban cho vùng đất A Lạp Thiện. Năm 1704, Khang Hi lệnh cho A Bảo đến kinh thành, phong làm Ngự tiền Thị vệ. Cùng năm đó, ông được ban hôn với Đạo Khắc Hân Quận chúa, con gái của Trang Thân vương Bác Quả Đạc được Khang Hi nuôi dưỡng trong cung, trở thành Hòa Thạc Ngạch phò của nhà Thanh. Hòa La Lý cũng từ đó mà toàn toàn quy thuận nhà Thanh. Sau khi A Bảo thành hôn, Khang Hi đã lệnh Tuần phủ Cam Túc xây dựng phủ đệ cho quận chúa và ngạch phò ở địa phận Mông Cổ.
Năm 1707, Hòa La Lý qua đời. Đến năm 1709 thì A Bảo quay về A Lạp Thiện kế thừa tước vị của cha. Năm 1723, A Bảo được thăng làm Quận vương, nhưng sau đó vì phạm tội mà lại bị giáng làm Bối lặc vào năm 1729. Hai năm sau, A Bảo được khôi phục tước vị Quận vương. Cũng trong năm 1731, triều đình nhà Thanh thưởng Định Viễn Doanh () cho A Bảo làm nơi ở và đồn trú, nơi hiện nay là thị trấn Bayanhot, kỳ A Lạp Thiện Tả thuộc minh A Lạp Thiện của khu tự trị Nội Mông. Trong khoảng thời gian tại vị, A Bảo từng phụng lệnh triều đình nhà Thanh suất quân chinh phạt Chuẩn Cát Nhĩ, đóng quân tại các khu vực có nhiều người Hồi như Kumul, Barkol, Thanh Hải. Sau khi bình định phản loạn, Thanh Hải bộ được quy vào quyền sở hữu của A Lạp Thiện kỳ, người dân bản địa cũng theo A Bảo trở về A Lạp Thiện kỳ. Theo nhiều sử liệu, một bộ phận người Hồi ở Mông Cổ chính là do A Bảo mang về A Lạp Thiện trong lần này, nhân số khoảng 100 người. Thêm vào đó, trong những năm dưới triều Càn Long, người Duy Ngô Nhĩ thường xuyên đến A Lạp Thiện kỳ để buôn bán làm ăn, trong số những người ở lại A Lạp Thiện kỳ có một số người theo đạo Hồi. Đây được xem là khởi đầu của sự truyền bá đạo Hồi vào khu vực A Lạp Thiện.
Năm 1739, A Bảo qua đời. Theo ghi chép của Di Thân vương Hoằng Hiểu chịu trách nhiệm quản lý sự vụ Lý phiên viện về tấu thỉnh của Đạo Khắc Hân Quận chúa dâng lên Càn Long sau khi chồng qua đời, hai người vốn có 3 người con nhưng con trưởng lại mất sớm, hiện chỉ còn người con thứ mới 6 tuổi và người con út mới 5 tuổi. Trừ hai người con trai này, A Bảo không còn người con trai nào khác. Vì vậy Đạo Khắc Hân Quận chúa tấu thỉnh xin cho phép người trai thứ được thừa kế tước Vương. Sau khi triều đình nhà Thanh cho phép, người con trai thứ là La Bặc Tàng Đa Nhĩ Tế thừa kế tước vị. Theo quy định tập tước của nhà Thanh, vì tước vị không phải thiết mạo tử vương nên khi thừa kế sẽ bị giảm xuống một bậc. La Bặc Tàng Đa Nhĩ Tế được phong làm Bối lặc.
|
19825175 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19825175 | Thơ Thẩn | Trong cuốn "Ngọc phả họ Đinh" do Công bộ Thượng thư Đinh Công Nhiếp, con trai đầu của Thái sư Đinh Liệt, có một số bài thơ do Đinh Liệt viết có liên quan đến vụ án Lệ Chi viên.
Bài thơ Nôm nhận xét về Lê Thái Tông:
Trong bài này Đinh Liệt buộc phải dùng phép nói lái: "Tống Thai" tức là Thái Tông (Lê Nguyên Long). Vua là một "anh quân" vì ông biết ngăn ngừa cường thần, dẹp phiên trấn, sùng nho, mở thi cử, song lại quá ham mê tửu sắc. Về "họa tự trong nhà", Đinh Liệt có bài thơ:
"Nhung tân" đọc lái là Nhân Tông, tức là Bang Cơ, con Nguyễn Thị Anh, "thịnh y" là thị Anh. Bài này có thể tạm dịch:
Trước khi vào cung, Thị Anh đã gian díu với Lê Nguyên Sơn, một người thuộc họ xa của dòng dõi Lê Khoáng (cha Lê Lợi). Một bài thơ khác, Đinh Liệt viết:
Dịch là:
Việc Thị Anh giết hai hoạn quan Đinh Phúc, Đinh Thắng được Đinh Liệt viết trong bài thơ mà nhiều người cho rằng vì chính hai người này đã mật báo cho ông và Nguyễn Trãi biết:
Dịch là:
Với cách gọi các vua bằng miếu hiệu như Thái Tông, Nhân Tông, chắc chắn các bài thơ này Đinh Liệt viết vào thời Lê Thánh Tông. Dù Nhân Tông và Thái hậu Nguyễn thị đã chết nhưng việc này vẫn không thể nói công khai, vì trên danh nghĩa, ngôi vua của Nhân Tông vẫn là hợp pháp. Có như vậy, việc cướp ngôi của Lê Nghi Dân mới là "phản nghịch" và việc lên ngôi của Thánh Tông mới là hợp lẽ. Đây chính là nguyên nhân khiến Đinh Liệt phải dùng phép nói ẩn ý để truyền lại cho đời sau. Sau này tới đời vua Lê Thánh Tông, vua Thánh Tông đã minh oan cho Nguyễn Trãi. Tuy nhiên, những bài thơ trên được tìm thấy trong gia phả họ Đinh thất lạc tại Trung Quốc nên tính chính xác của nó không được kiểm chứng, chỉ mang tính tham khảo giả thuyết. |
19825176 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19825176 | An toàn cháy nổ | An toàn cháy nổ là tập hợp các biện pháp nhằm giảm thiểu thiệt hại do hỏa hoạn gây ra. Các biện pháp an toàn phòng cháy chữa cháy bao gồm những biện pháp nhằm ngăn chặn sự bùng phát của đám cháy không được kiểm soát và những biện pháp được sử dụng để hạn chế sự lan rộng và tác động của đám cháy.
Các biện pháp an toàn phòng cháy chữa cháy gồm những biện pháp được lên kế hoạch trong quá trình xây dựng một tòa nhà và những biện pháp cung cấp kiến thức phòng cháy chữa cháy cho cư dân trong tòa nhà đó.
Các mối đe dọa đối với an toàn cháy nổ được gọi là nguy cơ hỏa hoạn. Nguy cơ hỏa hoạn là các tình huống làm tăng khả năng xảy ra hỏa hoạn hoặc có thể cản trở quá trình thoát hiểm trong trường hợp hỏa hoạn xảy ra.
An toàn cháy nổ là một phần của an toàn xây dựng. Thanh tra có nhiệm vụ đến các tòa nhà để theo dõi các vi phạm Luật Phòng cháy chữa cháy và đến trường học để giáo dục trẻ em về các chủ đề an toàn phòng cháy chữa cháy. Trưởng phòng Phòng cháy chữa cháy làn người đào tạo những người mới làm việc tại phòng Phòng cháy chữa cháy và cũng có thể tiến hành thanh tra, kiểm tra, giám sát.
|
19825179 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19825179 | Kinh chiều Sicilia | Kinh chiều Sicilia (tiếng Ý: "Vespri siciliani"; tiếng Sicilia: "Vespiri siciliani") là một cuộc nổi dậy thành công trên đảo Sicily nổ ra vào Lễ Phục sinh năm 1282, chống lại sự cai trị của vị vua gốc Pháp Charles I xứ Anjou, người đã cai trị Vương quốc Sicilie kể từ năm 1266. Cuộc nổi dậy diễn ra sau 20 năm triều đại Angevin cai trị Sicily, nơi có những chính sách không được lòng dân chúng Sicily.
Gây ra bởi một sự cố ở Palermo, cuộc nổi dậy nhanh chóng lan rộng đến phần lớn Sicily. Trong vòng 6 tuần, khoảng 13.000 đàn ông và phụ nữ Pháp đã bị quân nổi dậy giết chết và chính phủ của Charles mất quyền kiểm soát hòn đảo. Tìm kiếm sự hỗ trợ cho cuộc nổi dậy, người Sicily đã dâng ngai vàng cho Peter III của Aragon, người đã thay mặt vợ ông, Constance xứ Sicily, tuyên bố ngai vàng. Sự can thiệp của người Aragon vào cuộc nổi dậy đã dẫn đến việc mở rộng xung đột thành Chiến tranh Kinh chiều Sicilia.
|
19825182 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19825182 | Bắn phá mạnh cuối | Bắn phá mạnh cuối được cho là cuộc tấn công Trái Đất siêu mạnh khoảng bốn tỉ năm về trước. Có lẽ đã gây hại cho Trái Đất chúng ta nếu sự kiện này bị hoãn đến bây giờ vì đây là một sự kiện nguy hiểm nhất trên thế giới này.
Các thiên thạch sẽ rơi vào Trái Đất(rất nhiều), nếu có nhà cửa thành phố trong lúc này thì sẽ gây ra một thiệt hại lớn, nên hãy may mắn khi điều này không thể xảy ra được nữa!
Theo hình ảnh trên, một thiên thạch không may đã bị rơi xuống khu vực trên và tạo ra khu vực hố sâu tên là Meteor, hố này thực sự rất nguy hiểm đến mức bạn không thể xuống dưới được vì nó rất là sâu.
|
19825184 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19825184 | Vòng bảng UEFA Europa League 2023-24 | Vòng bảng UEFA Europa League 2023–24 bắt đầu vào ngày 21 tháng 9 năm 2023 và kết thúc vào ngày 14 tháng 12 năm 2023. Có tổng cộng 32 đội thi đấu ở vòng bảng để xác định 16 trong số 24 suất vào vòng đấu loại trực tiếp của UEFA Europa League 2023–24.
Aris Limassol, Brighton & Hove Albion, BK Häcken, Raków Częstochowa, Servette và TSC có lần đầu tiên ra mắt ở vòng bảng. Tất cả 6 câu lạc bộ cũng có lần đầu tiên ra mắt ở vòng bảng một giải đấu UEFA. Hơn nữa, Brighton giành quyền tham dự bóng đá châu Âu lần đầu tiên trong lịch sử của họ. Có tổng cộng 21 hiệp hội quốc gia được đại diện ở vòng bảng.
Đây là mùa giải cuối cùng với thể thức vòng bảng, được thay thế bởi thể thức vòng đấu hạng bắt đầu từ mùa giải tiếp theo.
Dưới đây là các đội tham dự (với hệ số câu lạc bộ UEFA năm 2023), được xếp theo nhóm hạt giống của họ. Họ bao gồm:
Ghi chú
<onlyinclude>
Bảng A
Bảng B
Bảng C
Bảng D
Bảng E
Bảng F
Bảng G
Bảng H
</onlyinclude>
|
19825187 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19825187 | Vòng bảng UEFA Europa Conference League 2023-24 | Vòng bảng UEFA Europa Conference League 2023–24 bắt đầu vào ngày 21 tháng 9 năm 2023 và kết thúc vào ngày 14 tháng 12 năm 2023. Có tổng cộng 32 đội thi đấu ở vòng bảng để xác định 16 trong số 24 suất vào vòng đấu loại trực tiếp của UEFA Europa Conference League 2023–24.
Tất cả các đội bóng ngoài AZ, Ballkani, Bodø/Glimt, Fiorentina, Gent, HJK, Maccabi Tel Aviv, PAOK, Slovan Bratislava và Zorya Luhansk có lần đầu tiên ra mắt ở vòng bảng. Breiðablik, Čukarički, KÍ, Olimpija Ljubljana và Zrinjski Mostar có lần đầu tiên ra mắt ở vòng bảng một giải đấu UEFA. Breiðablik, KÍ và Zrinjski Mostar là những đội bóng đầu tiên lần lượt từ Iceland, Quần đảo Faroe và Bosnia và Herzegovina thi đấu ở vòng bảng một giải đấu UEFA. Có tổng cộng 28 hiệp hội quốc gia được đại diện ở vòng bảng.
Đây là mùa giải cuối cùng với thể thức vòng bảng, được thay thế bởi thể thức vòng đấu hạng bắt đầu từ mùa giải tiếp theo.
Dưới đây là các đội tham dự (với hệ số câu lạc bộ UEFA năm 2023), được xếp theo nhóm hạt giống của họ. Họ bao gồm:
Ghi chú
<onlyinclude>
Bảng A
Bảng B
Bảng C
Bảng D
Bảng E
Bảng F
Bảng G
Bảng H
</onlyinclude>
|
19825191 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19825191 | Pedro III của Aragón | Peter III của Aragon (tiếng Tây Ban Nha: "Pedro III de Aragón";khoảng 1239 – tháng 11 năm 1285) là Vua của Aragon, Vua của Valencia (với vương hiệu Peter I), và Bá tước xứ Barcelona (với bá hiệu Peter II) từ năm 1276 cho đến khi ông qua đời. Theo lời thỉnh cầu của giới lãnh đạo cuộc nổi dậy Kinh chiều Sicilia, ông đã chinh phục Vương quốc Sicilia và trở thành Vua của Sicily vào năm 1282, thúc đẩy yêu sách của vợ ông, Constance II của Sicily, thống nhất vương quốc với Vương quyền Aragon.
Peter là con trai cả của James I của Aragon và người vợ thứ hai của ông là Violant của Hungary. Vào ngày 13 tháng 6 năm 1262, Peter kết hôn với Constance II xứ Sicily, con gái và là nữ thừa kế của Manfred, Vua của Sicily. Trong thời trẻ và những năm đầu trưởng thành, Peter đã thu được rất nhiều kinh nghiệm quân sự trong các cuộc chiến tranh "Reconquista" chống lại người Moor của cha mình.
Vào tháng 6 năm 1275, Peter bao vây, bắt giữ và hành quyết người anh cùng cha khác mẹ nổi loạn Fernando Sánchez de Castro tại Pomar de Cinca.
Sau cái chết của cha ông vào năm 1276, các vùng đất của Vương quyền Aragon được chia cho hai con trai. Vương quốc Aragon, Vương quốc Valencia và các bá quốc Catalan thuộc về Peter III với tư cách là con trai cả; trong khi Vương quốc Majorca và các bá quốc Catalan ngoài dãy Pyrenees thuộc về con trai thứ hai, người trở thành James II của Majorca.
Peter và Constance được tổng giám mục Tarragona làm lễ đăng quang tại Zaragoza vào tháng 11 năm 1276.
|
19825194 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19825194 | Phòng gia đình | Phòng gia đình là một phòng không chính thức, có nhiều mục đích trong một ngôi nhà. Phòng gia đình được thiết kế để là nơi gia đình và khách mời tụ họp để tham gia vào các hoạt động nhóm như trò chuyện, đọc sách, xem TV và các hoạt động gia đình khác. Thường, phòng gia đình được đặt bên cạnh nhà bếp và đôi khi có thể liên thông mà không có sự cắt quãng hình ảnh. Phòng gia đình thường có cửa dẫn ra sân sau và các khu vực sống ngoài trời cụ thể như một deck, vườn, hoặc terrace.
Thuật ngữ "phòng gia đình" được định nghĩa trong cuốn sách năm 1945 "Tomorrow's House" của George Nelson và Henry Wright. Chương 7, có tiêu đề "Phòng không có tên", nói về sự cần thiết trong cuộc sống hiện đại cho một "phòng lớn nhất trong nhà" mới, mà sẽ phục vụ nhu cầu xã hội và giải trí của toàn bộ gia đình, cho phép các hoạt động mà không được phép trong phòng khách.
Phòng lớn này sẽ có nội thất và vật liệu "chắc chắn", cho việc sử dụng khó khăn, và nó nên dễ dàng để lau chùi. Khác với các "phòng ồn ào" hiện tại, nó đôi khi sẽ phục vụ cho giải trí hơi trang trọng hơn, vì vậy nó nên là một căn phòng đẹp mắt và nên có tủ để đồ chơi, dụng cụ, vv. có thể được giấu đi.
Sự phân biệt giữa phòng gia đình, phòng khách và phòng giải trí là linh hoạt, nhưng có thể được phân loại theo ba đặc điểm: vị trí, chức năng và thiết kế. Trận bóng đá trên các TV màu lớn đã làm cho phòng gia đình đủ lớn cho cha mẹ và con cái trở nên phổ biến hơn trong những năm 1970. Trong những ngôi nhà có nhiều hơn một phòng như vậy, phòng gia đình không chính thức hơn, cả về chức năng và nội thất, và nó được đặt xa khỏi cửa chính, trong khi phòng khách thường trang trọng hơn, dành cho khách, các dịp đặc biệt và trưng bày các vật phẩm như đồ cổ hoặc nghệ thuật. Nó thường nằm ở phần trung tâm của ngôi nhà hướng về mặt trước. Phòng giải trí thường ở tầng hầm và được sử dụng cho các trò chơi và thời gian chơi.
Trong những ngôi nhà chỉ có một phòng như vậy, các thuật ngữ thường được sử dụng thay thế cho nhau. Trong các bản vẽ mặt bằng, một "phòng lớn" là nơi phòng khách và phòng gia đình được kết hợp thành một phòng cao trần kế bên nhà bếp.
|
19825196 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19825196 | Kính thông minh | Kính thông minh (tiếng Anh: "Smart glass") là một loại kính có khả năng thay đổi tính chất phản xạ để hạn chế ánh nắng mặt trời và nhiệt độ từ việc xâm nhập vào tòa nhà và bảo vệ quyền riêng tư. Mục tiêu của kính thông minh trong kiến trúc là tạo ra tòa nhà tiết kiệm năng lượng hơn bằng cách giảm lượng nhiệt từ ánh nắng mặt trời đi qua cửa kính.
Có hai loại chính của kính thông minh: hoạt động và không hoạt động. Các công nghệ kính hoạt động phổ biến nhất hiện nay bao gồm điều biến màu điện tử, lỏng kristal và thiết bị hạt bám (SPD). Các công nghệ không hoạt động bao gồm biến màu nhiệt và biến màu ánh sáng.
Khi được lắp đặt trong vỏ bọc của tòa nhà, kính thông minh giúp tạo ra các lớp vỏ kiến trúc phù hợp với khí hậu, với lợi ích bao gồm điều chỉnh ánh sáng tự nhiên, tạo sự thoải mái trong việc nhìn, chặn tia tử ngoại và tia hồng ngoại, tiết kiệm năng lượng, cung cấp sự thoải mái về nhiệt, khả năng chống đối mặt với điều kiện thời tiết khắc nghiệt và bảo vệ quyền riêng tư. Một số cửa sổ thông minh có thể tự điều chỉnh nhiệt hoặc làm mát để tiết kiệm năng lượng trong tòa nhà. Các cửa sổ thông minh có thể thay thế việc sử dụng rèm cửa, mành hoặc trang trí cửa sổ.
Các hiệu ứng cũng có thể được đạt bằng cách bám bộ phim thông minh hoặc bộ phim chuyển đổi lên bề mặt phẳng sử dụng lớp kính, acrylic hoặc polycarbonate laminates. Một số loại bộ phim thông minh có thể được áp dụng lên cửa kính hiện có bằng cách sử dụng bộ phim thông minh tự dính hoặc keo đặc biệt. Phương pháp phun sương để áp dụng lớp phủ trong suốt để chặn nhiệt và dẫn điện cũng đang được phát triển.
Thuật ngữ "cửa sổ thông minh" được xuất phát từ những năm 1980. Nó được giới thiệu bởi nhà vật lý vật liệu Thụy Điển Claes-Göran Granqvist từ Trường Đại học Công nghệ Chalmers. Ông đưa ra ý tưởng để tạo vật liệu xây dựng tiết kiệm năng lượng hơn cùng với các nhà khoa học từ Trung tâm Quốc gia Lawrence Berkeley ở California. Thuật ngữ này được sử dụng để mô tả một cửa sổ phản hồi có khả năng thay đổi độ tối.
|
19825198 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19825198 | Cục Điều tra Hiện tượng Không trung Bất thường | Cục Điều tra Hiện tượng Không trung Bất thường (), viết tắt DIFAA, là một cơ quan trực thuộc Không quân Peru chuyên điều tra hiện tượng kỳ lạ trên không có liên quan tới UFO.
DIFAA được thành lập lần đầu tiên vào năm 2001 rồi về sau bị đóng cửa vào năm 2008 do "các vấn đề hành chính". Năm 2013, do thường xuyên nhìn thấy UFO, Không quân Peru đã khởi động lại cơ quan này, tập hợp chuyên gia đến từ đủ mọi tầng lớp xã hội như nhà xã hội học, nhà khảo cổ học, nhà thiên văn học và nhân viên không quân để phân tích những trường hợp chứng kiến UFO. Các cơ quan tương tự cũng đã được thành lập ở các nước xung quanh Peru như Brasil, Argentina và Chile.
|
19825199 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19825199 | Phòng vẽ tranh | Phòng vẽ là một phòng trong nhà dùng để tiếp đón khách và cũng là tên thay thế cho phòng khách. Thuật ngữ này xuất phát từ các thuật ngữ "phòng rút lui" và "phòng rút lui thứ" vào thế kỷ 16 và tiếp tục sử dụng trong thế kỷ 17, lần đầu được ghi nhận vào năm 1642. Trong những ngôi nhà lớn ở Anh từ thế kỷ 16 đến đầu thế kỷ 18, phòng rút lui là nơi chủ nhà, vợ chồng ông hoặc khách quý ở trong căn phòng chính của ngôi nhà có thể "rút lui" để có thêm sự riêng tư. Thường nó nằm gần phòng lớn (hoặc phiên bản hiện đại của phòng lớn, phòng nhà nước) và thường dẫn đến phòng ngủ hoặc "phòng hoàng gia".
Ngày nay, trong những ngôi nhà hiện đại, nó có thể được dùng như tên gọi tiện lợi cho một phòng tiếp thứ hai hoặc nhiều hơn, nhưng không có chức năng cụ thể liên kết với tên gọi này.
Vào thế kỷ 18 ở Luân Đôn, buổi tiếp đón sáng sớm của hoàng gia mà người Pháp gọi là "levée" được gọi là "phòng vẽ", với ý ban đầu là các thành viên ưu tú của triều đình sẽ tụ tập trong phòng vẽ ngoài phòng ngủ của vua, nơi ông xuất hiện công khai lần đầu tiên trong ngày.
Trong thời kỳ Nội chiến Hoa Kỳ, ở Nhà Trắng của Liên minh miền Nam ở Richmond, Virginia, phòng vẽ nằm ngoài phòng tiếp khách nơi Tổng thống CSA Jefferson Davis đón khách. Sau khi chào hỏi, nam giới ở lại trong phòng khách để thảo luận chính trị và phụ nữ rút lui vào phòng vẽ trò chuyện riêng. Điều này thường thực hiện trong gia đình giàu có ở miền Nam Hoa Kỳ.
Năm 1865, một sách hướng dẫn kiến trúc tại Anh định nghĩa "phòng vẽ" như sau:
Thuật ngữ "phòng vẽ" không được sử dụng rộng rãi như trước đây và thường chỉ được dùng tại Anh bởi những người có nhiều phòng tiếp đãi khác như phòng sáng, một thuật ngữ từ thế kỷ 19 chỉ phòng để thư giãn ban ngày, hoặc phòng tiếp khách cho tầng lớp trung lưu, một thuật ngữ từ cuối thế kỷ 19 chỉ phòng thư giãn. Do đó, phòng vẽ thường là căn phòng thông minh nhất trong ngôi nhà, thường được người lớn sử dụng khi tiếp khách. Thuật ngữ này được sử dụng rộng rãi ở Ấn Độ và Pakistan, có lẽ bắt đầu từ thời thuộc địa, trong các ngôi nhà lớn ở thành phố nơi có nhiều phòng.
Thuật ngữ phòng khách ban đầu chỉ định các phòng tiếp đãi khiêm tốn của tầng lớp trung lưu, nhưng cách sử dụng thay đổi tại Vương quốc Anh khi chủ nhà cố gắng tương thích với ngôi nhà lớn của người giàu. Thuật ngữ "phòng khách" tiếp tục sử dụng phổ biến ở Bắc Mỹ cho đến đầu thế kỷ 20. Tại Pháp, từ "salon", trước đây chỉ định phòng tiếp đãi nhà nước, bắt đầu được dùng cho phòng vẽ từ đầu thế kỷ 19, phản ánh sự tụ tập xã hội "salon" đã trở nên phổ biến trong những thập kỷ trước đó.
|
19825200 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19825200 | Mark McDowell | Mark McDowell là một doanh nhân, chính trị gia và là thành viên của P. Ông là thành viên của Nghị viện New Zealand McDowell là người đồng sáng lập và Giám đốc điều hành của Primal Digital Agency và Syndatrace.
McDowell sinh ra ở Bangkok, Thái Lan, nơi anh theo học tại trường Bangkok Patana. Anh đã hoàn thành chương trình giáo dục đại học tại Đại học Otago ở New Zealand, tốt nghiệp với bằng cử nhân thương mại và quản trị kinh doanh.
Mark McDowell bắt đầu sự nghiệp của mình với tư cách là nhà phát triển trang web, hoạt động tự do và xây dựng trang web cho nhiều doanh nghiệp khác nhau khi còn là sinh viên.
Sau khi trở về Bangkok, anh nhận được vai trò giám đốc tiếp thị tại một cơ sở kinh doanh thịt nướng nhỏ. Năm 2013, McDowell chuyển đến Melbourne, Úc, nơi ông giữ chức vụ quản lý tài khoản tiếp thị hiệu suất tại WME.
Khi trở về Thái Lan vào năm 2015, anh đồng sáng lập Primal Digital Agency, một công ty tiếp thị kỹ thuật số có trụ sở tại Thái Lan và Malaysia. Từ năm 2017 đến năm 2020, ông là thành viên của Quốc hội khóa 52 của New Zealand.
Năm 2020, anh được đưa vào danh sách Forbes 30 under 30.
Năm 2022, McDowell đồng sáng lập Syndatrace, công ty cung cấp các dịch vụ tiếp thị kỹ thuật số và các công cụ phân tích được hỗ trợ bởi AI. McDowell cũng là cố vấn tại Talent First, một công ty tư vấn tuyển dụng, vị trí mà ông đảm nhận vào tháng 11 năm 2022. Ngoài ra, ông còn là người đứng đầu bộ phận thăng cấp tại Superist.
|
19825203 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19825203 | Royal Antwerp F.C. | Câu lạc bộ bóng đá Hoàng gia Antwerp , thường được gọi là Royal Antwerp hoặc đơn giản Antwerp , là một câu lạc bộ bóng đá chuyên nghiệp của Bỉ . RAFC có trụ sở tại thành phố Antwerp và hiện là nhà vô địch Belgian Pro League của Bỉ. Được thành lập vào khoảng năm 1880 với tên Câu lạc bộ cricket Antwerp bởi các sinh viên người Anh cư trú tại Antwerp, 15 năm trước khi thành lập Hiệp hội bóng đá Hoàng gia Bỉ , Antwerp được coi là câu lạc bộ lâu đời nhất ở Bỉ. Lúc đầu, không có môn bóng đá có tổ chức nào được tổ chức bởi các thành viên, cho đến năm 1887 khi bộ phận bóng đá được thành lập với một hội đồng riêng, lấy tên là Câu lạc bộ bóng đá Antwerp.. Là câu lạc bộ hoạt động lâu đời nhất vào thời điểm đó, đây là câu lạc bộ đầu tiên đăng ký tham gia Hiệp hội vào năm 1895. Do đó, khi số điểm trúng tuyển được đưa ra vào năm 1926, câu lạc bộ đã nhận được điểm trúng tuyển số một.
Đội đã 5 lần vô địch giải VĐQG Bỉ và 4 lần Cúp bóng đá Bỉ , trong đó có cú đúp vào mùa giải 2022–23. Ở các giải đấu châu Âu, đội đã lọt vào trận chung kết Cúp các nhà vô địch UEFA Cup năm 1992–93 .
|
19825204 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19825204 | Matteo Vitaioli | Matteo Giampaolo Vitaioli (sinh ngày 27 tháng 10 năm 1989) là một cầu thủ bóng đá người San Marino hiện tại đang thi đấu ở vị trí tiền đạo cho câu lạc bộ La Fiorita tại Campionato Sammarinese di Calcio.
Sinh ra tại Fiorentino, San Marino, Vitaioli đã thi đấu cho 4 câu lạc bộ: San Marino Calcio, F.C. Fiorentino, Sammaurese và Tropical Coriano và đã chơi cho 4 câu lạc bộ dưới dạng cho mượn: Empoli (mặc dù anh không thể ra sân một trận nào trong nửa sau của Serie A 2005–06), ASD Cagliese, Real Montecchio và P.D. Castellarano.
Anh mặc áo số 11 cho cả câu lạc bộ và đội tuyển quốc gia.
|
19825206 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19825206 | Giáo phận Nakhon Sawan | Giáo phận Nakhon Sawan (; ) là một giáo phận của Giáo hội Công giáo Rôma ở Thái Lan. Giáo phận là một giáo phận trực thuộc Tổng giáo phận Bangkok.
Địa giới giáo phận bao gồm các tỉnh Chainat, Kamphaeng Phet, Lopburi, Nakhon Sawan, Saraburi, Sukhothai, Tak, Uthai Thani và Uttaraddit ở Thái Lan.
Tòa giám mục và Nhà thờ chính tòa Thánh Anna của giáo phận được đặt tại thành phố Nakhon Sawan.
Giáo phận được chia thành 51 giáo xứ.
Giáo phận được thành lập vào ngày 9/2/1967 theo tông sắc "Officii Nostri" của Giáo hoàng Phaolô VI, trên phần lãnh thổ tách ra từ Tổng giáo phận Bangkok.
Vào ngày 2/7/1969 giáo phận đã đổi tên thành như hiện tại theo nghị định "Cum Excellentissimus" của Bộ Truyền giáo.
Vào ngày 20/6/1970 tỉnh Uttaradit đã được Giáo phận Chiang Mai trao cho giáo phận quản lí theo nghị định "Cum ad disciplinae" của Bộ Truyền giáo.
Các giai đoạn trống tòa không quá 2 năm hay không rõ ràng bị loại bỏ.
Đến năm 2021, giáo phận có 18.565 giáo dân trên dân số tổng cộng 8.959.045, chiếm 0,2%.
|
19825209 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19825209 | Vòng loại giải vô địch bóng đá châu Âu 2024 (Bảng F) | Bảng F của Vòng loại giải vô địch bóng đá châu Âu 2024 là một trong 10 bảng để quyết định đội sẽ vượt qua vòng loại cho vòng chung kết Giải vô địch bóng đá châu Âu 2024 diễn ra tại Đức. Bảng F bao gồm 5 đội: , , , và . Các đội tuyển sẽ thi đấu với nhau mỗi trận khác trên sân nhà và sân khách với thể thức đấu vòng tròn.
Hai đội tuyển đứng nhất và nhì bảng sẽ vượt qua vòng loại trực tiếp cho trận chung kết. Các đội tham gia vòng play-off sẽ được quyết định dựa trên thành tích của họ trong UEFA Nations League 2022–23.
Lịch thi đấu đã được xác nhận bởi UEFA vào ngày 10 tháng 10 năm 2022, sau lễ bốc thăm một ngày. Thời gian là CET/CEST, như được liệt kê bởi UEFA (giờ địa phương, nếu khác nhau, nằm trong dấu ngoặc đơn).
Một cầu thủ sẽ bị đình chỉ tự động trong trận đấu tiếp theo cho các hành vi phạm lỗi sau đây:
|
19825210 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19825210 | Otsuji Hidehisa | |
19825211 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19825211 | Dục vọng | Dục vọng () là những trạng thái tinh thần được thể hiện bằng những thuật ngữ như "ham muốn", "ao ước" hay "khao khát". Có rất nhiều đặc điểm gắn liền với dục vọng. Dục vọng là nhằm mục đích thay đổi thế giới bằng cách biến thế giới thành ra như thế nào, khác với niềm tin chỉ nhằm mục đích thể hiện thế giới thực tế ra sao. Dục vọng có liên quan chặt chẽ với tác nhân: chúng thúc đẩy hiện thực hóa tác nhân. Để làm được điều này, dục vọng phải được gắn kết cùng niềm tin để thống nhất hành động ra sao nhằm hiện thực hóa điều gì đó. Dục vọng biểu đạt đối tượng của chúng dưới một góc nhìn ưu ái, như thể đó là một điều gì đó tốt đẹp. Dục vọng khi được thỏa mãn thường tạo ra những trải nghiệm mang tính chất dễ chịu, tích cực; ngược lại, nếu không thỏa mãn được dục vọng thì sẽ tạo ra những trải nghiệm tiêu cực. Các loại dục vọng có ý thức thường đi kèm với một số dạng phản ứng mang tính chất cảm xúc. Dẫu nhiều nhà nghiên cứu nhìn chung có quan điểm giống nhau về những đặc điểm chung này, nhưng vẫn tồn tại không ít bất đồng về cách định nghĩa dục vọng, ví dụ đặc điểm nào trong số này là thiết yếu còn đặc điểm nào chỉ là ngẫu nhiên. "Các lý thuyết dựa trên hành động" định nghĩa dục vọng là những cấu trúc thúc đẩy con người hành động. "Các lý thuyết dựa trên niềm vui" nhấn mạnh vào xu hướng của dục vọng là tạo ra niềm vui cho con người khi được thỏa mãn. "Các lý thuyết dựa trên giá trị" thì nhận diện dục vọng đi kèm với thái độ đối với từng loại giá trị, ví dụ phán xét hoặc sở hữu một bề ngoài có vẻ tốt.
Có thể phân nhóm dục vọng thành nhiều loại khác nhau tùy theo một số điểm khác biệt cơ bản của chúng. "Dục vọng nội tại" là những gì chủ thể mong muốn vì lợi ích của chính mình, còn "dục vọng công cụ" là những gì chủ thể mong muốn không vì lợi ích của chính mình. "Dục vọng nhất thời" có thể là loại dục vọng có ý thức hoặc có tính nhân quả, trái ngược với "dục vọng thường trực" là loại dục vọng cố hữu ở đâu đó trong tâm trí một người. "Dục vọng mệnh đề" hướng đến các trạng thái có thể xảy ra của sự việc trong khi "dục vọng đối tượng" lại hướng trực tiếp về đối tượng. Nhiều tác giả phân biệt giữa dục vọng bậc cao (liên quan đến mục tiêu tinh thần hoặc tôn giáo) và dục vọng bậc thấp (liên quan thú vui thể xác hoặc giác quan). Dục vọng có vai trò quan trọng trong nhiều lĩnh vực khác nhau. Chưa có sự nhất trí trong vấn đề nên hiểu dục vọng là những lý do mang tính thực dụng hay là liệu con người có thể theo đuổi những lý do thực dụng mà không cần gắn liền chúng với dục vọng hay không. Theo "lý thuyết về giá trị của thái độ phù hợp", thì một đồ vật được xem là có giá trị nếu nó phù hợp để khao khát hoặc nếu chúng ta phải khao khát nó. "Lý thuyết về phúc lợi của sự thỏa mãn dục vọng" cho rằng phúc lợi của một người được quyết định bởi việc dục vọng của người đó có được thỏa mãn hay không.
Phật giáo xem dục vọng (xem thêm: Ái (Phật giáo)) là căn nguyên của mọi thứ Khổ trong cuộc sống của con người. Việc xóa bỏ dục vọng là cách để đạt được hạnh phúc vĩnh hằng, tức Niết-bàn. Tuy nhiên, đối với hàng tín đồ tu tại gia thì Phật xem dục vọng không hẳn là điều quá xấu xa, tội lỗi bởi họ vẫn được phép sống chung với các dục theo những chuẩn mực nhân bản, nhân văn.
Kitô giáo xem dục vọng là thứ có thể dẫn một người đến với Chúa hoặc xa rời Chúa. Dục vọng không tự thân nó là xấu mà nó là một lực tác động mạnh mẽ lên loài người, mà một khi con người đó đã dâng mình lên Chúa thì dục vọng là một công cụ để tiến bộ, để sống sung túc.
Theo Ấn Độ giáo, thần thoại sáng thế Nasadiya Sukta trong kinh Rigveda có đoạn: "Vào buổi ba sơ, có một kama (dục vọng) đóng vai trò hạt giống đầu tiên của tâm hồn. Người tìm thấy mối ràng buộc giữa tồn tại và không tồn tại trong suy nghĩ thâm sâu".
Các doanh nghiệp trong ngành tiếp thị và quảng cáo sử dụng các nghiên cứu tâm lý về kích thích dục vọng để tìm ra những cách thức hiệu quả hơn nhằm thuyết phục người tiêu dùng mua một sản phẩm hoặc dịch vụ nhất định. Một số chiêu bài là tạo ra cảm giác thiếu thốn cho khách tiềm năng hoặc liên kết sản phẩm với các thuộc tính mang tính dục vọng. Dục vọng còn đóng một vai trò quan trọng trong nghệ thuật. Chủ đề về dục vọng là nội dung cốt lõi của tiểu thuyết lãng mạn, thường tạo kịch tính bằng cách miêu tả những trường hợp dục vọng của con người bị cản trở bởi các quy ước xã hội, giai cấp hoặc rào cản văn hóa. Thể loại kịch tâm lý tình cảm sử dụng cốt truyện khơi dậy cảm xúc dâng trào của khán giả qua lối diễn xuất về "những khủng hoảng về cảm xúc của con người, những câu chuyện tình lãng mạn hoặc tình bạn thất bại", trong đó dục vọng bị cản trở hoặc không được đáp lại.
|
19825212 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19825212 | Rồi Hoa Sẽ Nở | Trước khi viết "Rồi Hoa Sẽ Nở", Nakatani đã tự xuất bản vài tác phẩm "dōjinshi" có các cặp nữ-nữ về các nhân vật trong "Touhou". Mặc dù cô không có ý định cho các tác phẩm đó thuộc về thể loại "yuri", nhưng chúng được nhiều người đọc đón nhận. Điều này làm cô có hứng thú tạo ra một câu chuyện lãng mạn về tình yêu giữa các cô gái. Một biên tập viên trên "Dengeki Daioh" đã tiếp cận Nakatani tại một hội chợ dōjinshi, đề xuất cô vẽ bộ truyện yuri cho tạp chí, và cô đã đồng ý.
Bộ manga được tổng hợp trong tám cuốn "tankōbon" được xuất bản lần đầu tại Nhật từ tháng 10 năm 2015 đến tháng 11 năm 2019 bởi ASCII Media Works dưới nhãn hiệu Dengeki Comics NEXT. Bộ manga được cấp phép xuất bản tiếng Anh ở Bắc Mỹ cho Seven Seas Entertainment, và được phát hành từ tháng 1 năm 2017 đến tháng 8 năm 2020. Tại Việt Nam, bộ manga được cấp phép xuất bản cho IPM và được phát hành từ ngày 24 tháng 4 đến ngày 22 tháng 8 năm 2023. Bộ anime truyền hình được Troyca chuyển thể năm tập đầu của bộ manga được phát sóng từ tháng 8 đến tháng 12 năm 2018. Anime được cấp phép phát hành tại Bắc Mỹ cho Sentai Filmworks.
Nữ sinh lớp 10 Koito Yu nhận lời tỏ tình bất ngờ từ một bạn học cấp hai. Cảm thấy cô ấy không hiểu tình yêu, cô ấy từ chối cậu ấy. Sau đó cô ấy thấy thành viên hội học sinh lớp 11 Nanami Toko từ chối lời tỏ tình, và trở nên thuyết phục rằng Toko có cảm giác tương tự về điều lãng mạn. Cô ấy tiếp cận Toko và hai người bắt đầu gắn bó, trước khi Toko đột ngột tỏ tình Yu, làm cô ấy ngạc nhiên. Mặc dù Yu không có cảm giác về khả năng đáp lại, Toko không bận tâm bởi điều này và nói cô ấy sẽ rất vui nếu Yu không đáp lại cảm xúc của cô ấy.
Toko tranh cử cho vị trí hội trưởng hội học sinh và nhờ Yu làm người đề cử. Trước nỗi bất an của bạn thân Toko, Saeki Sayaka, Yu chấp nhận đề nghị. Toko giải bày rằng cô ấy có cảm giác nhờ cậy vào Yu về cảm xúc, như thể cô ấy là người duy nhất mà Toko có thể tỏ ra yếu đuối. Yu quyết định gia nhập hội học sinh để hỗ trợ Toko, người thắng cử.
Là hội trưởng, Toko lên kế hoạch hồi sinh vở kịch của hội học sinh, mà đã không diễn trong bảy năm. Yu chống đối ý tưởng đó, và không đề xuất người bạn mê tiểu thuyết Kano Koyomi khi các thành viên khác hỏi ai có thể viết nó. Sayaka nói Yu xin Koyomi tham gia, và tìm hiểu hội trưởng hội học sinh bảy năm trước. Yu sau đó biết rằng chị của Toko, Mio, từng là hội trưởng hội học sinh tại thời điểm đó, và đang thực hiện một vở kịch, nhưng đã qua đời trong một vụ tai nạn giao thông trước khi vở kịch được mở màn. Yu nhận ra rằng Toko đang nhập vai chị mình và muốn thực hiện vở kịch trong vị trí của người chị. Cô cố thuyết phục Toko rằng đây là điều không cần thiết, nhưng Toko phủ nhận trong lạnh nhạt.
Koyomi hoàn thành bản phác thảo đầu tiên cho vở kịch. Cốt truyện là về một cô gái bị mất trí nhớ phải chọn hình ảnh của bản thân mà người khác mô tả là bản chất thật của cô ấy, kết thúc ban đầu là cho cô gái chọn hình ảnh theo góc nhìn của người yêu. Khi hội học sinh tổ chức trại tập huấn để tập kịch, diễn viên Ichigaya Tomoyuki, bạn học cũ của Mio, được mời đến trợ giúp. Từ anh ấy, Toko biết rằng Mio từng là một người rất khác so với cô ấy lúc bây giờ, làm cô ấy giằng xé. Cảm thấy lo lắng, Yu cho Koyomi đổi cái kết mà nhân vật chính chọn làm chính mình thay vì chọn theo góc nhìn của một người cụ thể, tin rằng điều này sẽ giúp Toko chấp nhận bản thân. Khi vở kịch được diễn tại lễ hội văn hóa, cốt truyện của nó và màn trình diễn của Toko được khán giả hoan nghênh, và đạo diễn đoàn kịch địa phương tiếp cận Toko, hỏi cô gia nhập và trở thành diễn viên. Ban đầu cô từ chối, nhưng đã cân nhắc lại và đồng ý.
Toko cảm ơn Yu vì đã hỗ trợ và nhắc lại mong muốn của cô rằng Yu ở lại bên cô như trước. Tuy nhiên, Yu đã phát triển tình cảm cho Toko, và bất ngờ tỏ tình. Cô hiểu sai phản ứng bị sốc của Toko như là từ chối và bỏ chạy, làm cho Toko nhận ra rằng cô ấy đang lợi dụng Yu. Trong khi đó, Sayaka nói chuyện với chủ quán café Kodama Miyako, cô kể bí mật về tình cảm dành cho Toko. Khi lớp 11 đi tham quan ở Kyoto, Sayaka chính thức tỏ tình cho Toko. Toko từ chối Sayaka, thừa nhận tình cảm của cô ấy dành cho Yu. Mặc dù bị từ chối, Sayaka chấp nhận điều đó. Tại nơi khác, Yu nhận ra rằng cô đang chạy trốn khỏi vấn đề của chính mình. Hai người hòa giải và Yu cuối cùng đã mở lòng đáp lại tình cảm của Toko.
Qua thời gian, Yuu và Toko trở nên thân mật về cảm xúc và thể xác hơn. Điều này đạt đến cực điểm khi họ đi chơi bowling, với thỏa thuận người thua sẽ đáp ứng mọi yêu cầu của người thắng. Yu thắng và yêu cầu qua đêm tại nhà Toko. Toko đồng ý, thú nhận cô ấy cũng muốn làm điều đó. Họ đã qua đêm tại nhà của Toko, và quan hệ tình dục.
Ba năm sau, Yu và Toko đã tốt nghiệp cấp ba, vào đại học, và đang đeo nhẫn trên ngón tay. Họ tái hợp với hội học sinh cũ để tham dự lễ hội văn hóa tại trường cũ của họ. Khi Yu và Toko hồi tưởng về cách mối quan hệ của họ bắt đầu và suy nghĩ về cuộc sống người lớn mới của họ, họ bước đi vào màn đêm.
Trước khi tạo ra bộ truyện, Nakatani Nio chủ yếu được biết đến qua tác phẩm "dōjinshi", đặc biệt các tác phẩm dựa trên "Touhou Project". Vì tác phẩm của cô chủ yếu về mối quan hệ giữa các cô gái (Nakatani đã sáng tác từ đa số dàn nhân vật nữ của "Touhou"), cô có được danh tiếng tác giả của manga "yuri". Điều này làm Nakatani ngạc nhiên, khi cô không có ý định viết thể loại yuri hay coi tác phẩm của mình thuộc thể loại đó, nói rằng cô chủ yếu cố miêu tả các mối quan hệ con người phức tạp mà làm cô hứng thú. Tuy nhiên, dù sao cô cũng có hứng với thể loại yuri, cô trở nên hứng thú với việc vẽ một chuyện tình rõ ràng giữa các cô gái.
Khi Kusunoki Tatsuya, một biên tập viên của tạp chí manga "Dengeki Daioh" (Nakatani đã ra mắt chuyên nghiệp với nhà xuất bản của họ về truyện ngắn tự xuất bản trước đây của cô "Farewell to My Alter") tiếp cận Nakatani tại hội chợ dōjinshi, hỏi cô có muốn vẽ một bộ truyện yuri cho tạp chí không, Nakatani đã chấp nhận đề nghị. Kusunoki phát biểu rằng anh luôn thích đọc manga yuri và muốn sản xuất một bộ. Anh nói rằng "Dengeki Daioh" chưa từng có truyện tình cảm giữa nữ tương tự, một lời đề nghị như vậy không chắc được chấp nhận. Tổng biên tập cuối cùng đã phê chuẩn ý tưởng, Kusunoki đã đóng góp vào văn hóa "cởi mở" của nhà xuất bản, cũng như nguồn tài chính của tạp chí.
Trong thảo luận về cách tiếp cận thể loại "yuri", Nakatani bày tỏ rằng cô thích các câu chuyện lãng mạn, nhưng cô thất vọng về cốt truyện vẽ một mối quan hệ cần thiết để hoàn thiện chính nó về mặt cảm xúc, nó làm cô cảm thấy như thể "có gì đó sai với tôi." Nakatani cảm thấy rằng các mối quan hệ đồng giới thường né tránh sự phân chia này, và khi cô cố gắng viết một mối quan hệ lãng mạn khác giới có sức thuyết phục, cô càng muốn tạo ra manga về các cặp đồng giới. Trong khi Nakatani cũng từng vẽ manga yaoi, cô kết luận rằng yuri thú vị hơn với cô, cô muốn vẽ các cô gái dễ thương. Trong một bài phỏng vấn, cô nói rằng yuri khó được định nghĩa, nhưng "một khi người đọc nghĩ nó là yuri, thì tại thời điểm đó nó trở thành yuri." Trong một cuộc trò chuyện với các nhà sáng tạo của "Akuma no Riddle" Kōga Yun và Minakata Sunao, cô đồng tình với ý kiến của Kōga rằng yuri là về "cô gái có mối quan hệ với cô gái khác," thêm vào đó là "cảm xúc giữa các cô gái." Cô cũng dẫn chứng anime chuyển thể của "Sound! Euphonium" là một nguồn cảm hứng, nói rằng nó thể hiện "mọi thứ tôi muốn làm trong yuri."
Ngoài việc nó thuộc thể loại yuri, Nakatani không có quyết định gì về chi tiết câu chuyện trước khi chấp nhận đề nghị của Kusunoki. Cô đã phát triển nhiều ý tưởng cho các cốt truyện và nhân vật khác nhau, hầu hết tất cả bị loại bỏ, trừ thiết kế nhân vật của Toko. Tổng biên tập đề nghị một "tình yêu bí mật," mà Nakatani để ý nó thường thấy trong thể loại yuri có các nhân vật phải giữ bí mật mối quan hệ đồng giới của họ do họ đều là con gái. Nakatani không muốn tập trung sự chú ý cốt truyện vào mặt thách thức xã hội về mối quan hệ giữa gái với gái, cô cảm thấy nó sẽ quá đơn giản và có hứng thú hơn trong việc khám phá thiếu sót cá nhân của các nhân vật. Do đó, cô nghĩ về một biến thể trong ý tưởng, thay vì giữ bí mật tình yêu của họ khỏi những người khác, điểm kịch tính sẽ là hai cô gái giữ bí mật tình yêu của họ với nhau. Điều này trở thành sự thúc đẩy cho cái sẽ trở thành câu chuyện lãng mạn của Yu và Toko.
Kusunoki đề xuất một câu chuyện yuri "sáng và tối" cho Nakatani, trong đó một nhân vật "tối" sẽ được nhân vật "sáng" cứu bằng cách nào đó, như là một động lực được thấy trong các manga yuri khác mà anh đã xem. Toko được tạo ra trước làm phần "tối" của cặp, trong khi Yu được tạo ra để lắp vào vai trò "sáng". Nakatani muốn Toko là người hấp dẫn nhưng "phiền hà," và thiết kế cho cô ấy có vẻ hoàn hảo bề ngoài, nhưng trong thực tế là một người cố chấp thiếu tự tin về cảm xúc sâu sắc và ghét bản thân, người sẽ tỏ tình nhưng không muốn được đáp lại. Từ đó, Nakatani đã phát triển Yu là cô gái mà theo cô tưởng tượng sẽ có thể giúp và đến cuối cùng đem lòng yêu Toko.
Yu được dự tính là tương phản với Toko về hình ảnh và tính khí, như một cô gái dễ thương một cách cẩn trọng có một mặt "điềm tĩnh" sâu sắc hơn. Tính cách của cô ấy được viết là một người sẽ không cảm thấy hạnh phúc về tình yêu của Toko nhưng cũng không từ chối cô ấy, mà dẫn đến việc cô ấy được tạo ra như một cô gái ao ước cảm xúc lãng mạn nhưng không hiểu nó. Khi họ lên ý tưởng về nhân vật, Kusunoki và Nakatani hỏi những người khác quanh họ những câu chuyện về trải nghiệm lãng mạn của họ. Một cô gái nói rằng cô không hiểu cảm xúc lãng mạn, và Nakatani đã miêu tả cảm xúc của Yu trong manga dựa trên câu chuyện của cô ấy. Khi vai của Toko là hội trưởng hội học sinh được quyết định, Nakatani nghĩ ra Sayaka, bạn của Toko trong hội học sinh, người có tình cảm không được đáp lại với Toko. Nakatani muốn Sayaka xuất hiện như là người "cực kỳ điềm đạm," và cô ấy được thiết kế để tương phản với hình ảnh "đáng yêu" của Toko khi đứng bên cạnh cô ấy với vai trò hội phó hội học sinh và đối thủ trong học tập.
Lúc vạch ra bối cảnh, Nakatani chọn đặt "Rồi Hoa Sẽ Nở" trong một môi trường nam nữ học chung, nó đối lặp với các manga yuri khác thường chọn bối cảnh trường học nữ sinh. Đó là do cô cảm thấy rằng việc thêm nhân vật nam mà Toko không có hứng thú đáp ứng vào việc hình thành tính cách thu hút vào nữ giới của Toko như một đặc điểm cá nhân độc đáo tách biệt cô khỏi các cô gái khác có trong câu chuyện. Nakatani lý giải người đọc có khả năng mong đợi Yu hay Toko sau này sẽ có mối quan hệ khác giới, và do đó giới thiệu nhân vật nam như là một cách ngăn chặn khả năng này (như là họ đã có bạn gái).
Maki, một nhân vật nam phụ lớn có hứng thú với mối quan hệ của Yu với Toko và cho cô ấy lời khuyên, được mô tả là không có hứng thú đến mối quan hệ cho bản thân. Cậu ấy được dự định là một nhân vật làm nền cho Yu, mặc cho cậu ấy không cảm nhận cảm xúc lãng mạn, cậu ấy vui vẻ với điều đó. Khía cạnh này của nhân vật cũng là để ngăn cậu ấy là một người có tình cảm lãng mạn cho Yu hay Toko. Nakatani đã thêm Maki để cho thấy người ta có thể được thỏa mãn mà không cần mối quan hệ lãng mạn. Nhà thiết kế nhân vật của anime, Gōda Hiroaki, cảm thấy trong khi cậu ấy không thể có mối quan hệ trực tiếp với dàn nữ của câu chuyện, anh đồng cảm với mong muốn được xem mối quan hệ của Yu và Toko phát triển của Maki. Cặp người lớn đồng tính nữ Riko và Miyako được giới thiệu để gợi ý rằng mối quan hệ của Yu và Toko là có khả thi trong tương lai. Các thiết kế của nhiều nhân vật trung tâm được quyết định trước khi manga bắt đầu xuất bản định kỳ.
Nakatani và Kusunoki muốn làm cảm xúc của nhân vật dễ hiểu với người đọc mà có thể không đồng cảm với họ. Điều này quan trọng nhiều cho nhân vật nữ của câu chuyện để được yêu thích đối với đối tượng "shōnen" của "Dengeki Daioh." Họ cố không né tránh nhân vật có cảm xúc phức tạp, tin rằng nếu nó được mô tả thành công, nó sẽ dẫn đến một câu chuyện vừa ý hơn. Kusunoki nói đây là một thử thách, nhưng có cảm giác Nakatani có khả năng hoàn thành nó.
Lúc dựng câu chuyện của "Rồi Hoa Sẽ Nở", Nakatani giữ tiến độ bộ truyện theo kiểu luôn có một plot twist kịch tính quan trọng ở cuối mỗi tập. Ví dụ, cô cố tình tránh thể hiện quan điểm của Toko cho đến chương 10 của manga, nó được đặt vào cuối tập hai của "tankōbon". Cô cảm thấy nó như là một đỉnh điểm lý tưởng cho kết thúc của tập đó, làm một điểm then chốt khi mà bản chất mối quan hệ của cô ấy với Yu đã vững chắc. Trong phản hồi cho biên tập của "Happy Sugar Life" Sasaki Katsuyuki nói rằng điều này đã "làm đảo lộn câu chuyện," Kusunoki bình luận rằng nó cho phép người đọc đọc lại các chương trước trên phương diện mới, và nói rằng câu chuyện "thật sự bắt đầu" từ thời điểm đó. Theo Nakatani cảm thấy quan trọng là không cho các nhân vật thay đổi quá nhanh, cô cố giữ trong đầu điều cô cảm nhận rằng họ sẽ làm như thế tại thời điểm mà cô đã phát triển họ.
Tiểu thuyết ăn theo, tập trung vào tính cách của Sayaka như nhân vật chính trung tâm, được viết bởi Iruma Hitoma, người mà Nakatani đã từng hợp tác trong tiểu thuyết trước đây của anh "Shoujo Mousouchuu". Mặc dù cô ban đầu thấy lo sợ khi cho người khác viết về nhân vật của cô, khi có quyết định Iruma sẽ là người viết, cô đồng ý. Nakatani cung cấp cho Iruma nhiều chi tiết cô ấy dự định thêm vào bộ truyện. Cùng với những chi tiết đó, Nakatani đã viết hội thoại cho cuộc trò chuyện lúc Yu và Toko biết Sayaka có bạn gái, mà sau này được thêm vào chương cuối của manga. Iruma đã chọn bắt đầu tiểu thuyết với Sayaka ở trường tiểu học, do anh không cảm thấy tự tin rằng trải nghiệm thời học cấp hai của cô sẽ là đủ cho một tiểu thuyết đầy đủ, và do đó đã tưởng tượng một lịch sử cho cô ấy dựa trên số ít chi tiết được đưa ra về quá khứ của cô ấy trong manga. Anh nói rằng trong khi Nakatani là nhà sáng tạo gốc, anh cảm thấy vai trò của anh trong việc sáng tạo tiểu thuyết là "người đóng góp câu chữ."
Sau khi phát hành tiểu thuyết, Nakatani nói rằng cách viết của Iruma đã ảnh hưởng cách cô đã viết Sayaka, cụ thể đoạn tỏ tình Toko của cô ấy trong chương 37. Cô nói rằng cô không loại bỏ hiểu biết của cô về nhân vật do ảnh hưởng của Iruma, mà cái cách mô tả nhân vật của anh ấy đã định hướng cho tầm nhìn của cô. Mặc dù dự định trước đó là Sayaka sẽ tỏ tình và bị từ chối, tính cách của cô ấy đã phát triển chi tiết hơn khi từ khi bộ truyện tiếp diễn, và cô ấy đã ảnh hưởng vào cốt truyện hơn Nakatani đã dự định. Trong lúc viết cái kết cho cốt truyện phụ của cô ấy, Nakatani muốn tránh ngụ ý sự từ chối của cô ấy có nghĩa là cô ấy đã "thất bại", nói rằng Toko có thể đã không bao giờ chấp nhận lời tỏ tình của cô ấy ngay cả khi cô ấy đã tỏ tình sớm hơn trong câu chuyện. Cô đã viết lại hội thoại cảnh tỏ tình của Sayaka nhiều lần.
Trong ấn bản cuối, Nakatani muốn viết một cái kết hoàn chỉnh cho câu chuyện mà sẽ cho người đọc cảm giác họ đã xem tất cả những gì cần được xem, làm cho bản chất cảm xúc của Yu và Toko trở nên rõ ràng, và đảm bảo mối quan hệ của họ sẽ lâu dài. Cô muốn tránh việc gây ấn tượng rằng Yu và Toko được định mệnh sắp đặt bên nhau, thay vì nhấn mạnh điều đó họ được tự do lựa chọn một mối quan hệ sau khi họ đã thay đổi và có thể yêu nhau. Chương 44, có cảnh Yu và Toko quan hệ tình dục, được xem xét là cần thiết, Nakatani cảm thấy tốt nhất là không bỏ sót khía cạnh cảm xúc cho nhau của họ. Trong lời bạt chương cuối bối cảnh ba năm sau chương trước, mối quan hệ của họ không còn là bí mật với đa số bạn bè của họ, Nakatani nghĩ nó tốt hơn do cô muốn họ được hạnh phúc ở cuối câu chuyện. Toko cũng tiếp tục theo đuổi nghiệp diễn, Nakatani quyết định điều đó do cô "không muốn loại bỏ" giai đoạn trong cuộc sống của Toko cái lúc cô ấy bắt chước chị mình. Nakatani trích dẫn tác phẩm của Mizukami Satoshi, và cụ thể là manga "Lucifer and the Biscuit Hammer", là cảm hứng cho chương cuối.
Trước khi anime chuyển thể được bật đèn xanh, Kadokawa gửi cho đạo diễn Kato Makoto vài tựa đề mà họ đang xuất bản, hỏi anh có hứng thú đạo diễn một phiên bản anime của bất kì tác phẩm nào trong đó không. Trong số đó có "Rồi Hoa Sẽ Nở", đã thu hút chú ý của Kato hơn các tác phẩm khác, và do đó anh đã xin anime được xem xét. Trong khi Kato thường không đọc manga trừ lúc được yêu cầu trong công việc, anh bị thu hút vào khung vẽ của Nakatani, theo anh nói là "rất tương đồng với cách làm trong phim ảnh". Kato cảm thấy rằng bản chuyển thể sẽ được đáp ứng tốt bởi phong cách đạo diễn của anh. Anh thừa nhận rằng anh không có am hiểu thể loại yuri, nhưng bị hấp dẫn bởi câu chuyện và thấy tiềm năng trong nó vì sự hấp dẫn phóng khoáng, thậm chí với những người không là fan của thể loại yuri. Kato tin việc đem vào quan điểm của anh với tư cách là người ngoài làm cho anime thú vị hơn, theo anh tưởng tượng rằng ai đó quen thuộc hơn với thể loại này sẽ sản xuất thứ gì đó có sự hấp dẫn giới hạn hơn.
Kato từng làm trợ lý đạo diễn cho "", và ra mắt trong vai trò chỉ đạo chính trong anime chuyển thể của "", mà Nakatani đã xem trước. Như nguồn tư liệu của "Beautiful Bones" là tiểu thuyết dài kì, Kato không cần phải bám chặt vào hình ảnh đã tồn tại trước, và anh mô tả làm việc với manga chuyển thể là một thử thách vì lý do này. Trong khi Nakatani tự tin vào kỹ năng đạo diễn của Kato, cô lo lắng việc để cho người khác xử lý câu chuyện của cô, cô không chắc cô có được tham gia không. Kato đảm bảo Nakatani rằng anh quan tâm đến manga gốc và muốn tạo ra một bản chuyển thể bám sát, an ủi được lo lắng của cô ấy. Nakatani được hỏi ý kiến nhiều trong quá trình sản xuất anime, tham gia các buổi thu âm và họp kịch bản, và giám sát hình ảnh, thiết kế nhân vật, và storyboard. Kato coi ý kiến của cô ấy là quan trọng, do độ phức tạp của câu chuyện. Nakatani đã giải thích ý định của cô trong vài cảnh và nhân vật để đảm bảo nó chính xác, và cung cấp trình tự xảy ra được mường tượng về các sự kiện của câu chuyện. Cô cũng đóng góp các chi tiết mới không trực tiếp thể hiện trong manga, như là bản nháp ban đầu của vở kịch hội học sinh trước khi yêu cầu của Yu cho Koyomi duyệt lại nó. Nakatani cảm thấy dữ liệu đầu vào của cô đã giúp anime phản ánh kỹ hơn tác phẩm gốc của cô, cô đánh giá là vượt trội.
Nhà biên kịch Hanada Jukki tham gia dự án sau khi được một nhà sản xuất hỏi anh có hứng thú không. Lúc đọc manga, Hanada cảm thấy nó sẽ khó chuyển thể, nhưng quyết định chấp nhận lời mời do anh cảm thấy anime sẽ đáng bỏ công. Nakatani đã là fan của tác phẩm của Hanada, và nhanh chóng đặt niềm tin vào anh. Trước khi viết kịch bản, anh đã thảo luận diễn giải câu chuyện với Nakatani, nói rằng anh đọc nó như là "một câu chuyện tình yêu đơn giản" giữa các cô gái với trọng tâm tối thiểu vào gợi dục đồng giới, và nó không đề cập đến việc né tránh "sự liên kết với 'điều trái đạo đức'" thường thấy trong các tác phẩm yuri khác. Hanada nói rằng hiểu biết của anh "không đi quá xa" khỏi quan điểm của Nakatani. Hanada cảm thấy có kết nối đến Toko nhất, anh đồng cảm với cảm xúc ghét bản thân của cô ấy, trong khi Kato đồng cảm với Yu. Hanada cảm thấy rằng điều này đóng góp vào sự thành công cộng tác của họ, rằng họ không mâu thuẫn với nhau vì cách mô tả nhân vật.
Trong lúc viết kịch bản, có vài thay đổi nhỏ, như là thay đổi vài câu thoại cụ thể và thứ tự trong vài cảnh được trình bày, để có nhịp độ câu chuyện tốt hơn cho anime truyền hình. Cũng có vài thứ thêm vào, như là mở rộng đoạn phát biểu hội học sinh của Yu, được Hanada viết. Tuy nhiên, không có đổi mới lớn nào, như Hanada và Kato mong muốn cho anime phù hợp trong phạm vi tính liên tục đã được thiết lập của manga. Có lúc Nakatani đề xuất cái kết gốc cho anime, nhưng điều này được quyết định là chống đối lại việc cho phép người xem chuyển tiếp vào manga và để cánh cửa mở cho việc làm tiếp. Anime ban đầu dự tính kết thúc với các sự kiện của tập bốn. Hanada và Kato cân nhắc kết thúc nó sau vở kịch hội học sinh, nhưng cảm thấy làm như thế thì sẽ làm cho anime "chỉ nói về Toko," và họ muốn cả Yu và Toko là trọng tâm. Tại thời điểm viết kịch bản, chương Yu và Toko đi thủy cung chưa được phát hành, nhưng Nakatani trình bày kế hoạch cho chương đó cho Hanada, và họ đồng ý làm nó là cái kết của anime. Phiên bản hẹn hò thủy cung của anime được mở rộng đáng kể từ bản manga, gồm các chi tiết thêm vào do Nakatani đóng góp.
Trước khi phần nhạc mở màn được đặt, Kato đã hình dung rõ ràng hình ảnh các đoạn mở màn và kết thúc. Với sự chấp thuận của nhà sản xuất Yamashita Shinpei, Kato bắt đầu vẽ storyboard cho phần nhạc mở màn trước khi nhận bài hát. Kato dự kiến phần mở màn, mà anh mô tả là phản chiếu "bản chất đôi" của các nhân vật, có cảm giác tương tự như video âm nhạc, cụ thể trong cách anh giới hạn bối cảnh của nó trong một địa điểm duy nhất. Anh đã chọn hình ảnh hoa nở trong trường học theo anh cảm thấy điều này sẽ tạo ra hình tượng ảnh hưởng lớn, và thiết lập cơ hội để thêm nhiều hình tượng tượng trưng quan trọng, cụ thể trong việc sử dụng ngôn ngữ của các loài hoa. Phần kết thúc, theo Kato mô tả là đơn giản hơn và dễ hiểu hơn, được dựa trên một bức họa từ vỏ điện thoại di động được bán làm hàng hóa cho manga. Giai điệu lạc quan của bài nhạc kết thúc "hectopascal" được chọn để "khởi động lại cảm xúc [của người xem]", để cho họ vui vẻ và háo hức muốn xem tập tiếp theo thay vì lo lắng về sự phát triển của cốt truyện, và giai điệu nặng nề và cảm xúc hơn của bài hát mở màn được chọn để làm tương phản lựa chọn này.
Trong lúc tạo thiết kế nhân vật anime, Gōda Hiroaki đã mô tả khơi gợi tranh của Nakatani là một thử thách đáng kể. Kato khuyên anh "tránh vẽ giống nhau như khuôn". Khi anh không thông thạo "phong cách nghệ thuật hiện đại", anh đã dành nhiều tháng mài dũa phiên bản nhân vật của anh, nhưng cảm thấy chúng vẫn không đạt được cái chi tiết được thấy trong tranh của Nakatani. Khi vẽ các phân đoạn hoạt họa, anh không tham khảo bảng thiết kế nhân vật của anh, thay vào đó luôn tham khảo tranh gốc của Nakatani. Gōda cảm thấy rằng trong khi vẽ Yu thì "dễ làm", cách biểu lộ cảm xúc của Toko thì thử thách hơn do tính "hai mặt" của cô ấy. Anh bình luận rằng các cảnh "khi họ đang nghĩ về cái gì đó, nhưng không được để điều đó hiện lên mặt họ" là cực kỳ khó vẽ trong khi nó là cần thiết để truyền tải cảm xúc khát khao mà không dùng biểu lộ cảm xúc của họ để mô tả một cách rõ ràng. Sayaka cũng được cân nhắc là khó, như Gōda cảm thấy anh thường "không vẽ được cô ấy với bầu không khí hoàng tộc thích hợp". Tuy nhiên, anh ghi chú các biểu cảm của Sayaka trong hai cảnh cụ thể, khi cô ấy chất vấn Yu trong tập 6, và khi cô ấy gạt bỏ bạn gái cũ trong tập 8, là nó "thật sự vui".
Phần nhạc cho anime, được soạn bởi Ōshima Michiru, được viết với ý định chung về việc tạo ra "cái gì đó lắp lánh." Biên khúc bị giới hạn sử dụng trong nhạc cụ piano, bộ dây, và bộ gỗ, và tương tự, Ōshima đã quyết định soạn nhạc thính phòng. Phần nhạc được thu âm tại một phòng thu ở New York, để tạo ra âm thanh "tươi mới và cao". Mặc dù cô muốn gợi ra một "phản ứng tâm lý" trong người xem, Ōshima không muốn diễn đạt tâm trạng "ảm đạm" quá mạnh. 35 bài được đặt cho phần nhạc.
Có nhiều phần thêm vào trong anime mà Nakatani thích, như là bài phát biểu bầu cử hội học sinh của Yu. Anime có nhiều cảnh Yu ở dưới nước như là một ẩn dụ trực quan, bao gồm một cảnh cụ thể từ đoạn mở đầu tập một lúc cô ấy vươn tay ra xuyên màn nước. Nakatani đặc biệt thích hình ảnh này, cô vẽ một ảnh tương tự làm trang đầu cho của chương 34 trong manga. Ngoài ra, chương 39 được lấy cảm hứng từ lời bài hát kết thúc của anime.
Manga được viết và minh họa bởi Nakatani Nio. Bắt đầu xuất bản định kỳ trên tạp chí hàng tháng của ASCII Media Works, "Dengeki Daioh" vào ngày và kết thúc vào ngày . "Tankōbon" tập tám và cuối của manga được phát hành vào tháng 11 năm 2019. Mô tả bộ truyện là có “…ảnh dễ thương và [một] chuyện tình đẹp,” Seven Seas Entertainment thông báo bản quyền manga phát hành tiếng Anh tại Bắc Mỹ vào ngày . Manga hiện được phát hành bằng tiếng Nhật, tiếng Anh, tiếng Hàn, tiếng Trung phồn thể, tiếng Trung giản thể, tiếng Thái, tiếng Pháp, tiếng Ý, tiếng Đức, tiếng Tây Ban Nha và tiếng Việt.
Tại Việt Nam, manga được IPM công bố bản quyền vào ngày 11 tháng 6 năm 2022 trên Facebook, và phát hành từ ngày 24 tháng 4 đến ngày 22 tháng 8 năm 2023. Trong bản tiếng Việt, cảnh quan hệ tình dục của Yu và Toko đã bị cắt.
Manga được tái phát hành bản màu webtoon bởi ấn hiệu Tatesuku Comic của Kadokawa Future Publishing. Bắt đầu phát hành định kỳ trên BookWalker ngày .
Hai cuốn tuyển tập manga chính thức được xuất bản bởi Kadokawa và được phát hành từ tháng 12 năm 2018 đến tháng 3 năm 2020.
Tiểu thuyết ngoài lề, , được viết bởi Iruma Hitoma và được xuất bản thông qua ấn hiệu Dengeki Bunko của Kadokawa từ ngày . Tập hai được phát hành vào ngày , và tập ba được phát hành vào ngày .
Bộ anime truyền hình 13 tập được công bố trong ấn bản tháng 6 của tạp chí "Dengeki Daioh" vào ngày . Phim được Troyca làm hoạt họa, sản xuất bởi Kadokawa, Docomo Anime Store, AT-X, Sony Music Solutions và Kadokawa Media House và do Katō Makoto đạo diễn, với Hanada Jukki biên soạn, Gōda Hiroaki thiết kế nhân vật và Ōshima Michiru soạn nhạc. Bài hát mở đầu là do Azuna Riko trình bày, còn bài hát kết thúc là "hectopascal" do Takada Yūki và Kotobuki Minako trình bày. Phim được phát sóng tại Nhật từ ngày 5 tháng 10 đến ngày 28 tháng 12 năm 2018. Sentai Filmworks sở hữu bản quyền phim bên ngoài lãnh thổ châu Á và phát nó trên Hidive dưới dạng phụ đề và lồng tiếng Anh. Sentai cũng phát hành bộ phim dạng DVD và Blu-ray vào tháng 9 năm 2019, trong khi đó MVM Films phát hành bộ phim cùng dạng tại Anh. KSM Anime phát hành bộ phim dạng DVD và Blu-ray có lồng tiếng Đức.
Một vở kịch nói chuyển thể từ manga đã trình diễn tại Nhật vào tháng 5 năm 2019. Vở kịch thứ hai, chuyển thể các sự kiện trong tiểu thuyết "Regarding Saeki Sayaka", trình diễn từ tháng 10 đến tháng 11 năm 2020. Một buổi diễn lại của vở kịch, với kịch bản được sửa lại để thêm các sự kiện của phần kết trong manga, được thông báo vào tháng 10 năm 2019 như là một phần của dự án "Curtain Call" sau khi kết thúc phát hành định kỳ manga. Nó được lên kế hoạch diễn trong mùa thu năm 2020, tuy nhiên, nó bị hoãn do đại dịch COVID-19. Vào tháng 7 năm 2022, buổi diễn lại được lên lịch trình diễn từ ngày 25 tháng 11 đến ngày 4 tháng 12 năm 2022, với dàn diễn viên cũ trở lại với vai của họ.
Tính đến năm 2019, 1.000.000 bản được in tại Nhật. Nó đứng thứ 4 trên Next Manga Awards năm 2017 của Niconico và Da Vinci. Manga cũng được xếp hạng trên bảng xếp hạng manga hàng tuần của Oricon, với tập 4 được hạng 30 và tập 5 được hạng 21. Manga được xếp hạng 3 trong khảo sát "Manga được mong đợi làm Anime do người hâm mộ bình chọn" năm 2018 của AnimeJapan. Nhà sáng tạo "Sword Art Online" Kawahara Reki đã bày tỏ trong một cuộc trò chuyện với Nakatani và Kayano Ai (lồng tiếng cho Sayaka trong anime) rằng ông là fan của tác phẩm.
Trong một khảo sát diễn ra vào tháng 4 năm 2022 bởi trang "Anime Anime", "Rồi Hoa Sẽ Nở" đứng thứ 3 về bộ anime mà người đọc muốn được tiếp tục.
Erica Friedman, đánh giá "Rồi Hoa Sẽ Nở" trên cơ sở mỗi tập truyện, là người bình phẩm đầu tiên của bộ truyện. Friedman khen hình ảnh, tính đa dạng giới tính trong dàn nhân vật, và thiếu sự tin cậy vào fanservice, nhưng bày tỏ sự lo lắng với cách biểu đạt sốt sắng cảm xúc của Toko, và nhận thấy sự hồ nghi trong các cảnh hôn. Friedman cũng không thích cốt truyện lãng mạn dễ hiểu, cảm thấy rằng khả năng Yu là người vô tính hay vô ái không được xem xét. Tuy nhiên, Friedman khen tính cách của Sayaka và cốt truyện phụ của cô ấy trong manga, và việc bao gồm Riko và Miyako như tấm gương về một mối quan hệ đúng đắn. Cô mô tả nó là "hấp dẫn, hơn là giải trí" và hi vọng cốt truyện sau này giải được những phê bình của cô. Friedman sau này khen một cảnh trong tập 5 khi thấy Yu trở thành "một nhân vật chủ động trong câu chuyện" trong cảnh Yu thuyết phục Toko không phụ thuộc vào cô ấy để đáp ứng cho bản thân. Mặc dù vẫn thất vọng Yu không phải là "một nhân vật chính trong manga vô ái hiếm hoi," cô cuối cùng đã khen sự phát triển nhân vật của bộ truyện và cái kết.
Michelle Smith của "Manga Bookshelf" đã viết rằng cô ban đầu coi lời tỏ tình đầu tiên của Toko là "không xứng đáng" nhưng những phát triển sau trong phần còn lại của tập đầu tiên đã thu hút được cô. Sean Gaffney cảm nhận rằng chân dung của Yu là một "sự hoán vị thú vị" và cho rằng tính cách của cô ấy giúp manga được phổ biến, nhưng cũng khen câu chuyện và dàn nhân vật nói chung, nói anh "ngạc nhiên vài lần từ đầu đến cuối."
Rebecca Silverman của "Anime News Network" cho đánh giá tích cực tập đầu manga, nói rằng khả năng Yu là vô tính làm cho câu chuyện thú vị hơn, "nó cung cấp thứ gì đó như kiểu người đại diện có thể nhận diện cho một nhóm người được miêu tả không đúng cách và đặt tựa truyện này tách rời với thể loại của nó." Silverman suy xét rằng thử nghiệm giới tính của Yu với Toko suốt câu chuyện là hình ảnh phản chiếu của Nakatani viết bộ yuri đầu tiên của cô cũng như bộ truyện ra mắt của cô sau khi chủ yếu viết "dōjinshi", nói, "Cái chúng ta có thể đang xem là một tác giả đang thử nghiệm một thể loại mà cô ấy chưa hoàn toàn thoải mái". Cô cũng khen ngợi lựa chọn đặt câu chuyện trong một trường nam nữ học chung như là một "thay đổi tốt" từ các câu chuyện yuri khác, và nói rằng nó "không có trope 'mạnh mẽ'" (như trong "Citrus" hay ""). Tuy nhiên, Silverman gọi tranh và thiết kế nhân vật của Nakatani là đơn giản và "hơi chung chung", mặc dù cô khen nó "dễ đọc".
Trong một bài viết cho tạp chí "Neo", Alex Jones khen anime chuyển thể là sự thám hiểm "xa rộng" về chủ đề của nó, trong sự tương phản với cách tiếp cận tập trung fan service của "Citrus" (bộ anime chuyển thể đã phát sóng cùng năm với "Rồi Hoa Sẽ Nở"). Jones đã khen việc thêm nhân vật Sayaka và cách bộ phim khám phá quá khứ của cô ấy, nói rằng nó nâng cao tính cách của cô vượt xa trope "phải lòng bạn thân không được đáp lại" thông thường, và cũng khen vai trò của Riko và Miyako trong việc giúp cô ấy thấy tự tin vào nhân dạng của cô. Đánh giá anime trong cùng ấn bản, Jones cảm thấy rằng đề tài vô ái chưa bao giờ "được tôn kính," và khen chủ đề nội quan của câu chuyện cũng như chất lượng của tác phẩm và cách diễn đạt nhân vật, nói anime "không bao giờ phụ thuộc vào việc cố ra vẻ 'dễ thương' trong hàm ý thông thường". Ghi chú phê bình duy nhất của Jones là anime chỉ cung cấp một "câu chuyện chưa hoàn chỉnh" không chuyển thể phần còn lại của manga.
Các cây viết cho trang "Anime Feminist" cũng đánh giá anime chuyển thể. Trong một bài đánh giá của tập đầu, Vrai Kaiser nói tập đầu có "tất cả phẩm chất của một loại kịch tâm lý tình cảm lãng mạn tốt", mô tả là "nhịp điệu hơi chậm", và khen bộ lọc màu "nhấn mạnh vào thực vật và sự thay đổi của mùa." Tuy nhiên, họ nói rằng những người coi Yu là thuộc phổ vô tính/vô ái sẽ "thất vọng hoặc thậm chí tổn thương", nhưng khen bộ phim về hình ảnh, và hi vọng nó sẽ mở cửa cho "nhiều anime yuri dành cho khán giả đồng tính nữ." Trong bài đánh giá sau này, họ mô tả anime chuyển thể là "khá đẹp", mặc dù bày tỏ thích manga hơn. Alex Henderson, cây viết khác cho trang, thì tích cực hơn, nói rằng bộ phim có các trope thông thường trong yuri, đưa ra "đại diện đồng tính quan trọng" trong thế giới hư cấu, và mô tả bộ phim là có "đại diện cặp đôi đồng tính người lớn" không như các tựa đề yuri khác.
Nhiều nhà phê bình nói tiếng Anh đánh giá cả manga và anime đã làm sáng tỏ tính cách của Koito Yu, và việc bày tỏ sự thiếu hấp dẫn với Toko của cô ấy ở đầu câu chuyện, như gợi ý rằng cô ấy là vô tính hoặc vô ái (hoặc một số biến thể của chúng). Các bài đánh giá hoặc khen bộ truyện vì nhận thức đại diện của các nhân dạng vô tính luyến ái, hoặc chỉ trích nó là một miêu tả không thỏa đáng hay thất vọng. Natasha H., trong một bài viết cho "Crunchyroll", nói rằng câu chuyện né tránh mô tả Yu là "người đau khổ" và thể hiện cô ấy như một cá thể vô tính mà vẫn có khả năng đem lại mối quan hệ thỏa mãn với Toko. Trong "Neo", Alex Jones đã viết rằng trong khi cảm xúc của Yu ban đầu có thể hiện ra là vô ái, sự phát triển sau này trong cốt truyện gợi ý rằng cô ấy là á tính. Jones công nhận rằng điều này có thể "làm nản lòng" người đọc vô tính, nhưng nói rằng với sự thêm vào của Maki, bộ truyện đã tránh ngụ ý người vô ái là "đóa hoa nở muộn".
Bauman đánh giá làn sóng đọc tác phẩm tăng lên là do anime chuyển thể đã không chuyển thể phần cốt truyện sau, đoạn mà Yu phát triển sự hấp dẫn giới tính dứt khoát vào Toko. Trong khi Bauman nói nó là "một lý lẽ hợp lý và dễ hiểu" nếu chỉ dựa trên anime, cô phủ nhận xu hướng đọc này, trích dẫn việc quảng bá tác phẩm là một chuyện tình thông thường và mô tả rõ ràng về sự hấp dẫn lãng mạn và tình dục ở cả hai mặt. Bauman cảm thấy rằng thất bại trong việc đáp lại sức hút của Toko ban đầu của Yu được quy cho là một "lỗi nhân vật" hơn là một biểu cảm của bất kì xu hướng cảm xúc không đúng tiểu chuẩn nào. Thêm vào đó, cô đã chỉ trích tính cách của Maki là tấm gương xấu của đại diện vô tính, nói rằng bộ truyện không công nhận tính thực tế của người vô tính và vô ái, những người "có thể có cuộc sống đầy ý nghĩa và những câu chuyện của riêng họ mà không nhất thiết liên quan đến tán tỉnh."
Viết cho "Anime News Network", Nicki "YuriMother" Bauman gọi "Rồi Hoa Sẽ Nở" là "một trong những tác phẩm yuri thành công nhất," lưu ý vào thành công thương mại của nó và sự phổ biến với người đọc, cô nói nó "xứng đáng từng chút một". Mặc cho sự công nhận này, Bauman cũng chỉ trích bộ truyện. Trong khi cô nói nó thoát ra khỏi nhiều trope thường gắn liền với yuri, cô nói nó có nhiều trope yuri thông thường, mô tả nó là "một ví dụ về cấu trúc 'gái-gặp-gái' gần như theo sách vở". Bauman đã chỉ ra nhiều yếu tố cốt truyện, như là cốt truyện trường học và sự thu hút vào Toko của Sayaka, cũng bắt chước các câu chuyện khác ví dụ như "Maria-sama ga Miteru" và "Strawberry Panic!". Ý kiến chỉ trích khác là biểu cảm mạnh mẽ về tình cảm dành cho Yu của Toko, mô tả nó là một ví dụ về trope "nhân vật nữ đồng tính tà tâm", mà Bauman gọi là "một trong những trope có hại nhất của yuri".
Mặc dù vậy, cô khen cách Nakatani thoát khỏi truyền thống "tình yêu đồng giới nhất thời" do những câu chuyện Class S lập ra trong việc mô tả Yu và Toko quan hệ tình dục và trở thành một cặp đôi khi đã trưởng thành (mặc dù cô ghi chú rằng "Kisses, Sighs, and Cherry Blossom Pink" và "Kase-san" đã phá vỡ các quy tắc này rồi). Trong bài viết cho "Anime Feminist", Alex Henderson cũng khen phần phát triển tính cách của Sayaka, sự mô tả mối quan hệ của Riko và Miyako, và vai trò của họ trong câu chuyện của cô ấy, cũng lo lắng cấu trúc "chỉ là nhất thời" của các trope Class S. Bauman đồng tình với Henderson, thêm vào việc khen câu chuyện của Sayaka trong bộ tiểu thuyết ăn theo, và mô tả Riko và Miyako là "hình tượng người lớn đồng tính dẫn lối cho thế hệ tiếp theo".
|
19825215 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19825215 | 859 (số) | Đây là số tự nhiên trước 858 và 860, là số nguyên tố và có tông chữ số là 22. |
19825217 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19825217 | Lục quân Nhân dân Triều Tiên | Lục quân Nhân dân Triều Tiên (KPAGF; ) là nhánh chính của Quân đội Nhân dân Triều Tiên, chịu trách nhiệm về hoạt động quân sự trên đất liền.
|
19825220 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19825220 | Núi Chư Đăng Ya | Núi lửa Chư Đăng Ya là một tổ hợp 3 ngọn núi lửa nhỏ nằm sát nhau ở Chư Đăng Ya, thuộc địa phận làng Ploi lagri, xã Chư Đăng Ya, huyện Chư Păh, Gia Lai. Tổ hợp núi lửa này nằm trong Tổ hợp núi lửa Tây Nguyên, có độ cao cao nhất là khoảng 500m.
|
19825221 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19825221 | Bãi chôn lấp | Bãi chôn lấp, còn được gọi là bãi đổ chất thải, bãi chứa chất thải, bãi thải hay chung chung là bãi rác, () là một địa điểm xử lý chất thải bằng cách chôn lấp. Bãi chôn lấp là hình thức xử lý chất thải lâu đời nhất và phổ biến nhất, mặc dù việc chôn lấp chất thải có hệ thống bằng các lớp phủ hàng ngày, lớp trung gian và lớp phủ cuối cùng chỉ mới xuất hiện từ những năm 1940. Trước đó, rác thải bị chất thành đống hoặc vứt xuống hố.
Một số bãi chôn lấp được sử dụng trong quy trình quản lý chất thải lớn hơn, chẳng hạn dùng để chứa tạm thời chất thải, hoặc là để tập trung một chỗ rồi vận chuyển đi, hoặc là để tiến hành các giai đoạn xử lý chất thải khác nhau, chẳng hạn như phân loại rác, xử lý rác hoặc tái chế rác. Các bãi chôn lấp có thể bị rung chuyển nghiêm trọng hoặc đất bị hóa lỏng nếu xảy ra động đất mà không có các công nghệ để ổn định bãi. Khi bãi đã đầy thì phần diện tích bên trên bãi chôn lấp có thể được thu hồi để sử dụng cho mục đích khác.
Các bãi chôn lấp có nguy cơ gây ra một số vấn đề cho xã hội và môi trường. Xe tải hạng nặng chở chất thải có thể gây hư hỏng đường sá và từ đó gây gián đoạn cơ sở hạ tầng. Nạn ô nhiễm đường sá và nguồn nước địa phương do chất bẩn dính trên bánh xe của các phương tiện chở chất thải khi chúng rời khỏi bãi chôn lấp có thể hết sức nghiêm trọng nhưng có thể được giảm thiểu bằng hệ thống rửa bánh xe. Ô nhiễm môi trường nơi có bãi chôn lấp có thể ở nhiều hình thức như ô nhiễm nước ngầm, ô nhiễm tầng ngậm nước hoặc ô nhiễm đất.
Khi có mưa tại các bãi chôn lấp lộ thiên, nước sẽ thấm qua chất thải và bị nhiễm bẩn bởi các chất lơ lửng và hòa tan, tạo thành một thứ gọi là nước rỉ rác. Nếu không được ngăn chặn, nước rỉ rác thấm xuống có thể làm ô nhiễm nguồn nước ngầm. Các bãi chôn lấp được xem là hiện đại đều phải được xây dựng ở những nơi ổn định về mặt địa chất, sử dụng kết hợp các lớp lót không thấm nước dày đến vài mét, kết hợp với hệ thống thu gom để chứa và thu giữ nước rỉ rác này. Sau đó, tiếp tục xử lý nước rỉ rác hoặc để bay hơi. Khi bãi chôn lấp đã đầy, người ta sẽ bịt kín bãi để ngăn chặn nước mưa gây hình thành nước rỉ rác mới. Tuy nhiên, lớp lót phải đạt độ bền từ vài trăm năm trở lên. Cuối cùng, vì bất kỳ lớp lót bãi chôn lấp nào cũng có thể bị rò rỉ, nên mặt đất xung quanh bãi chôn lấp phải được kiểm tra nước rỉ rác để ngăn chặn các chất ô nhiễm làm ô nhiễm nước ngầm.
Thức ăn nói riêng cũng như các chất thải hữu cơ nói chung khi phân hủy sẽ tạo ra nhiều loại khí phân hủy, đặc biệt là CO và CH từ quá trình phân hủy hiếu khí và kỵ khí. Cả hai quá trình này xảy ra đồng thời ở các địa điểm khác nhau trong cùng một bãi chôn lấp. Ngoài lượng O sẵn có, tỷ lệ thành phần khí sẽ khác nhau, tùy thuộc vào thời gian chôn lấp, loại chất thải, độ ẩm và các yếu tố khác. Ví dụ, lượng khí bãi rác tối đa được tạo ra có thể được minh họa bằng phản ứng ròng đơn giản hóa sau đây của diethyl oxalate, nhằm giải thích cho các phản ứng đồng thời này:
4 C H O + 6 HO → 13 CH + 11 CO
Tính trung bình thì khoảng một nửa nồng độ thể tích của khí phân hủy là CH và gần một nửa còn lại là CO . Khí này cũng chứa khoảng 5% nitơ phân tử (N), dưới 1% hydro sunfua (HS) và một nồng độ thấp các hợp chất hữu cơ không chứa metan (NMOC), cỡ khoảng 2700 ppmv.
Khí phân hủy có thể thoát ly khỏi bãi rác rồi hòa vào không khí và đất xung quanh. Khí mê-tan là một loại khí nhà kính, dễ cháy và có khả năng gây nổ ở nồng độ nhất định, điều này khiến nó trở nên hoàn hảo để đốt nhằm tạo ra nguồn điện sạch. Vì quá trình phân hủy thực vật và chất thải thực phẩm chỉ giải phóng lượng carbon vốn dĩ đã được thu giữ từ khí quyển thông qua quá trình quang hợp trước đó nên không có carbon mới nào đi vào chu trình carbon và nồng độ CO trong khí quyển không bị ảnh hưởng. Carbon dioxide giữ nhiệt trong khí quyển, góp phần gây ra biến đổi khí hậu. Tại các bãi chôn lấp được quản lý hợp lý thì người ta thu các loại khí phân hủy và đốt hoặc thu hồi để dùng vào việc khác.
Các bãi chôn lấp vận hành kém có thể trở thành cứ điểm của các sinh vật trung gian truyền bệnh như chuột và ruồi, và chúng có thể lây lan nhiều bệnh truyền nhiễm nguy hiểm. Một cách để giảm bớt sinh vật trung gian là sử dụng lớp phủ hàng ngày .
Ở những nơi mà con người chiếm giữ dần môi trường sống của động vật hoang dã, sức khỏe của một số loài động vật có thể bị ảnh hưởng do chúng chuyển sang tiêu thụ chất thải từ các bãi chôn lấp. Ngoài ra, bãi chôn lấp còn có thể gây ra tình trạng bụi, mùi hôi thối, ô nhiễm tiếng ồn và làm giảm giá trị bất động sản khu vực xung quanh.
|