Phiên âm
stringlengths
2
728
Dịch nghĩa
stringlengths
2
731
__index_level_0__
int64
0
13.7k
Thị thời, Trường Lạc hoàng thái hậu chi thân Nguyễn Văn Lang diệc tại trục trung hồi bản quán.
thân thích của Trường Lạc Hoàng thái hậu là Nguyễn Văn Lang cũng ở trong số người bị đuổi về quê quán.
13,383
Đại thần tông thất Nghi quận công Lê Năng Cẩn bất đắc chí, hữu thi ký dữ Nguyễn Văn Lang sử cử binh tru ác đảng.
Đại thần tông thất là Nghi quận công Lê Năng Cẩn, vì bất đắc chí, có bài thơ gửi cho Nguyễn Văn Lang và bảo cử binh giết bọn ác đảng.
13,384
Văn Lang thông thao lược, tinh binh pháp, thiện quan thiên thời, lực năng bổ hổ.
Văn Lang là người thông thao lược, giỏi binh pháp, khéo xem xét thiên thời, sức khoẻ có thể bắt được hổ.
13,385
Ư thị, Văn Lang suất Chiêm nô Chế Mạn, Vũ Bá, Vũ Tiếp tịnh Thanh Hoa tam phủ nhân, cử nghĩa sư vu Tây Đô thành, dĩ quân trấn Thần Phù hải khẩu.
Bấy giờ Văn Lang đem bọn Chế Mạn làm nô lệ người Chiêm cùng Vũ Bá, Vũ Tiếp và người ba phủ nổi nghĩa quân ở thành Tây Đô, đem quân giữ ở cửa biển Thần Phù .
13,386
Thời, đế thích hại tông thất.
Bấy giờ, vua giết hại người tông thất.
13,387
Giản.
Giản
13,388
Tu công Dinh do bị hệ ngục nãi dĩ tài vật lộ thủ giả, đắc thoát vị cập cáo mẫu tịnh huynh đệ dữ kì phi, nãi đĩnh thân đào nhập Tây Đô.
Tu công Dinh còn bị giam ở ngục mới đem của cải ải đút lót người canh giữ, thoát được ra, chưa kịp báo cho mẹ, anh em và vợ mình, một mình trốn vào Tây Đô.
13,389
Chí Thần Phù hải khẩu, kiến Văn Lang phụng nghênh, lập vi minh chủ, nhân dữ Văn Lang tạo trường thương cập đại thần Nguyễn Diễn, Ngô Khế, Nguyễn Bá Cao, Lê Trạm, dữ Thanh Hoa tổng binh thiêm sự Nguyễn Bá Tuấn, Thừa tuyên sứ Lê Tung, Tham chính Nguyễn Thì Ung đẳng đồng khởi binh.
Đến cửa biển Thần Phù, được Văn Lang ra đón, lập làm minh chủ, rồi cùng Văn Lang rèn đúc giáo dài và cùng với bọn đại thần Nguyễn Diễn, Ngô Khế, Nguyễn Bá Cao, Lê Trạm, và Thanh Hoa tổng binh thiêm sự Nguyễn Bá Tuấn, Thừa tuyên sứ Lê Tung, Tham chính Nguyễn Thì Ung khởi binh.
13,390
Thương tàn cốt nhục, trầm nịch thần liêu.
Giết hại người cốt nhục, dìm hãm các thần liêu.
13,391
Tước dĩ tận nhi lạm thưởng bất tận, dân dĩ.
Quan tước đã hết rồi vẫn thưởng tràn không ngớt, dân chúng đã
13,392
cùng nhi lạm thủ vô cùng.
cùng khốn còn vơ vét chẳng thôi.
13,393
Trưng phú nhược truy thù, dụng tài nhược nê sa, bạo ngược đãi đồng ư Tần Chính.
Vét thuế khoá từng cân lạng, tiêu tiền của như đất bùn, bạo ngược ngang với Tần Chính .
13,394
Đãi thần như khuyển mã, thị dân như thảo giới, mạn vũ hữu thậm ư Nguỵ Oanh.
Đãi bề tôi như chó ngựa, coi dân chúng tựa cỏ rác ngạo mạn quá cả Nguỵ Oanh .
13,395
Huống hựu đại kì cung thất, quảng kì hoa hựu.
Huống chi lại xây cung thất to, làm vườn hoa rộng.
13,396
Khu dân chủng thụ, Tống Hoa Cương chi phúc triệt; tương tầm điền hải trúc cung, Tần A Phòng chi hôn phong phục chủng.
Xua dân đi trồng cây, giẫm theo vết xe đổ chất gò Hoa Cương đời Tống; lấp biển xây cung điện, nối gót thói u mê xây cung A Phòng nhà Tần.
13,397
Thổ mộc trúc nhi cải, cải nhi trúc, bì lao Hải Dương, Kinh Bắc chi dân; hoa tông kiêu nhi hoành, hoành nhi kiêu, tao nhiễu phiên trấn tứ tuyên chi cảnh.
Công trình thổ mộc xây lên rồi thay đổi, thay đổi rồi xây lên, dân Hải Dương, Kinh Bắc mệt mỏi, lao đao; tông thất xa hoa, kiêu căng lại ngang ngược, ngang ngược lại kiêu căng, cõi tứ tuyên phiên trấn xôn xao, rối loạn.
13,398
Cư dân tật thủ, suất thổ thống tâm".
Cư dân nhức óc, cả nước đau lòng".
13,399
Hựu hịch vân: "Đoan Khánh ngự đồ, ngoại gia thiện chính, Tử Mô dĩ thị tỉnh hôn ngu chi bối, vặn loạn triều cương, Thắng Chủng dĩ lư diêm nhũ xú chi đồng, vọng hành uy phúc.
Lại làm bài hịch rằng: "Đoan Khánh làm vua, họ ngoại chuyên quyền, Tử Mô làm phường ngu hèn nơi phố chợ làm rối loạn kỷ cương, Thắng Chủng là hạng trẻ ranh miệng còn hơi sữa đã tái oai tác phúc.
13,400
Thậm chí.
Đến mức
13,401
chậm sát tổ mẫu, ngư nhục thân vương.
đánh thuốc độc giết bà nội, tàn sát các thân vương.
13,402
Dĩ tư ý nhi đồ lục sinh dân, võng tri kỷ cực; dĩ mật thể nhi tru cầu tiền hoá, ích tứ tham dâm.
Theo ý riêng mà giết hại sinh dân, không biết đâu cho thoả; dùng ngón ngầm để vét vơ tiền của, càng mặc sức tham lam.
13,403
Tứ hải khốn cùng, vạn dân sầu oán".
Bốn biển đã khốn cùng, muôn dân đều sầu oán".
13,404
Thị nguyệt, sơ bát nhật, Giản Tu công Dinh tự Tây Đô phát thuỷ bộ chư dinh tịnh tiến.
Tháng này, ngày mồng 8, Giản Tu công Dinh từ Tây Đô đem các dinh thuỷ, bộ cùng tiến phát.
13,405
Thuỷ quân đáo Thiên Kiện sơn.
Quân thuỷ đến núi Thiên Kiện .
13,406
Đế dĩ Hà Thanh, Hải Thanh nhị khinh thuyền trì đáo Thiên Kiện sơn Bảo tự, hoạch kì thuỷ dinh tướng nhất nhân tịnh đắc binh tốt nhị thập quắc, tương hồi Đông Hoa môn ngoại.
Vua dùng hai chiếc thuyền nhẹ Hà Thanh và Hải Thanh đi đến chùa Bảo trên núi Thiên Kiện, bắt được một viên tướng thuỷ dinh và giết được 20 sĩ tốt đem về ngoài cửa Đông Hoa.
13,407
Đế mệnh phó tướng Đông Nham bá Lê Vũ tán lí, Ngự sử đài đô ngự sử Dương Trực Nguyên ký lục, Hữu thị lang Phạm Thịnh, Trần Năng.
Vua sai phó tướng Đông Nham bá Lê Vũ làm tán lý, Ngự sử đài đô ngự sử Dương Trực Nguyên làm ký lục và bọn Hữu thị lang Phạm Thịnh, Trần Năng
13,408
đẳng đề lĩnh cấm quân tịnh Thần vũ, Hiệu lực, Điện tiền chư vệ quan quân ngự chi, phất khắc.
đem cấm quân và quan quân các vệ Thần vũ, Hiệu lực, Điện tiền đi chống giữ nhưng không được.
13,409
Nhị thập tam nhật, Dinh huynh Cẩm Giang Vương Sùng, tịnh đệ Tĩnh Lượng công Doanh, cập Quyên dữ Thọ Mai phò mã Nguyễn Kính giai ngộ hại.
Ngày 23, anh của Dinh là Cẩm Giang Vương Sùng, em là Tĩnh Lượng công Doanh, và Quyên cùng Thọ Mai phò mã Nguyễn Kính đều bị hại.
13,410
Trực Nguyên, Phạm Thịnh, Trần Năng đẳng diệc một ư Châu Cầu.
Bọn Dương Trực Nguyên, Phạm Thịnh, Trần Năng cũng bị chết ở Châu Cầu .
13,411
Quan quân bại hoàn.
Quan quân thua trận rút về.
13,412
Nhị thập lục nhật, Dinh quân chư dinh tịnh tiến chí Bảo Đà, Nhân Mục, Hồng Mai, Thiêu Thân đẳng xứ.
Ngày 26, các dinh quân của Dinh đều tiến đến các xứ Bảo Đà, Nhân Mục, Hồng Mia, Thiêu Thân .
13,413
Đế xuất Thanh Dương môn uý lạo Kim Quang điện lực sĩ cập Cẩm y, Kim ngô tướng sĩ, dĩ kiếm tứ Trình Chí.
Vua ra cửa Thanh Dương uý lạo các lực sĩ điện Kim Quang và tướng sĩ các vệ Cẩm y và Kim ngô, đem kiếm ban cho bọn Trình Chí
13,414
Sâm, Lê Quảng Độ đẳng, phát kim ngân tiền tài tứ ngũ hình kiến giam tù nhân, mỗi nhân tam cưỡng, sử dĩ kích tặc.
Sâm, Lê Quảng Độ, lấy vàng bạc tiền của ban cho tù nhân bị giam ở ty Ngũ hình mỗi người 3 quan, rồi sai đi đánh giặc.
13,415
Thụ tất các quy kì gia.
Các tù nhân nhận tiền xong rồi ai về nhà người ấy.
13,416
Hựu thương tốt trưng binh.
Lại vội vã gọi quân.
13,417
Đế mệnh Trung sứ, Hoa văn học sinh mỗi ti các nhị viên nhân, tê bổng sắc phù vãng Lạng Sơn, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Yên Bang các đô ti tường sắc, hợp phù, điều thủ các trấn sĩ binh mỗi trấn ngũ thiên nhân dĩ phòng kích tặc.
Vua sai Trung sứ và Hoa văn học sinh mỗi ty 2 người mang sắc phù đến các đô ty Lạng Sơn, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Yên Bang cho nhận sắc, kháp phù, bắt mỗi trấn lấy 5.000 thổ binh để phòng đánh giặc.
13,418
Kì nhân thụ sắc phù khứ, đế hứa ngự tiền chu tất đoản sóc mỗi nhân nhất bính dĩ tuỳ thân.
Những người nhận sắc phù đi, vua cho mỗi người một chiếc giáo ngắn ngự tiền sơn son để tuỳ thân.
13,419
Vị đáo Bồ Đề, Xuân Canh đẳng xứ, Dinh quân dĩ nhập quá thành, chúng giai độn khứ.
Bọn này chưa đến các xứ Bồ Đề, Xuân Canh thì quân Dinh đã tiến vào sát thành, mọi người đều chạy trốn.
13,420
Hoàng hậu Trần Thị Tùng đào xuất chí Hồng Mai xã, nặc vu dân gia, tự ải ư tự miếu.
Hoàng hậu Trần Thị Tùng trốn ra đến xã Hồng Mai, náu ở nhà dân rồi tự thắt cổ chết ở miếu chùa.
13,421
Lê Quảng Độ dữ Giản Tu Công nội ngoại tương ứng, truyền pháo vi tín, yết can vi kì, trảm mộc tác binh.
Lê Quảng Độ cùng với Giản Tu công Dinh người trong kẻ ngoài thông tin với nhau, bắn súng làm hiệu, dựng gậy làm cờ, chặt cây làm binh khí
13,422
tự tương công kích dĩ hãi chúng quân, nhân kiếp đế Bắc hạnh.
đánh lộn lẫn nhau cho các quân kinh hãi, rồi ép vua chạy sang phương Bắc.
13,423
Giản Tu Công chí Đông Kinh thành, văn phụ Kiến Vương dữ huynh Cẩm Giang Vương, đệ Tĩnh Lượng công, quý đệ Quyên đẳng ngộ hại, mệnh quan trị tang sự dữ hành táng lễ.
Giản Tu công tới thành Đông Kinh nghe tin cha là Kiến Vương cùng anh là Cẩm Giang Vương, em là Tĩnh Lượng công , em út là Quyên đều đã bị hại, sai quan sửa việc tang và làm lễ chôn cất.
13,424
Nhị thập bát nhật, đế tẩu chí Nhật Chiêu phường, tiền vệ sĩ truy hoạch chi, nộp dữ Giản Tu công hệ Lệ Cảnh môn.
Ngày 28, vua chạy tới phường Nhật Chiêu , một vệ sĩ cũ đuổi theo bắt được, nộp cho Giản Tu công giam ở cửa Lệ Cảnh.
13,425
Công dĩ vệ sĩ bất nghĩa, toại sát chi.
Giản Tu công cho là người vệ sĩ ấy làm điều bất nghĩa, sai giết đi.
13,426
Thập nhị nguyệt, sơ nhất nhật, đế ẩm chậm tự tận.
Tháng 12, ngày mồng 1, vua uống thuốc độc tự tử.
13,427
Kì ngoại thích giai tận thí].
Bọn ngoại thích cũng đều bị giết hết).
13,428
diệc Án Hồng Thuận Trị bình bảo phạm viết: Đoan Khánh niên gian, nội triều can chính, ngoại thích chuyên quyền, pháp lệnh phiền hà, kỷ cương vặn loạn, nông tang thất nghiệp, phong tục nhật du, thậm khả mẫn dã.
Xét sách Hồng Thuận Trị bình bảo phạm nói: Đời Đoan Khánh, bọn hoạn quan thọc vào chính sự, kẻ ngoại thích mặc sức chuyên quyền, pháp lệnh phiền hà, kỷ cương rối loạn, nông tang tiêu tàn mất nghiệp, phong tục ngày một suy đồi, thực rất đáng thương tâm.
13,429
Đăng tiến sài lang chi bối, quan khai hối lộ chi môn.
Tiến dùng bè lũ sai lang, đua mở rộng đường hối lộ.
13,430
Tu đệ trạch tắc Thái Nguyên, Tuyên Quang đẳng xứ sơn vô mộc dĩ tắc dục nguyên,.
Xây phủ đệ thì rừng núi các xứ Thái Nguyên, Tuyên Quang không còn cây để lấp nguồn dục vọng,
13,431
sách hàm diêm tắc Nghệ An, Yên Bang địa phương hải vô lân, dĩ điền nga trác.
đòi mắm muối thì sông biển các vùng Nghệ An, Yên Bang không còn cá mà nhét miệng đói thèm.
13,432
Thái A đảo trí, thần khí triển dao, tai dị lũ hiện, hạ dân oán ta, kì vong nghi hĩ.
Gươm Thái A trở ngược , đồ thần khí lung lay , tai dị sinh luôn, hạ dân ta oán, bị diệt vong là đáng lắm rồi.
13,433
Luận viết: Mẫn Lệ tín nhậm ngoại thích, bạo ngược vô đạo, tru lục tông thất, tàn khốc bách tính, tự thủ diệt vong, bất diệc nghi hồ! Thị nguyệt, sơ tứ nhật, Giản Tu công tức hoàng đế vị.
Lời bàn: Mẫn Lệ công tin dùng ngoại thích, bạo ngược vô đạo, giết hại tông thất, tàn sát nhân dân, tự mình chuốc lấy diệt vong, chẳng đáng lắm sao!
13,434
Dĩ Đỗ Nhân vi Đông các học sĩ, thăng Triều liệt đại phu, dĩ Nhân tằng phụng Bắc sứ cố thụ thử chức.
Lấy Đỗ Nhân làm Đông các học sĩ, thăng Triều liệt đại phu, vì Nhân từng vâng mệnh đi sứ phương Bắc, nên trao chức ấy.
13,435
Đế ký tức vị, mệnh đầu mục Lê Quảng Độ, Lê Điêu, Nguyễn Văn Lang, Lê Tung, Lưu.
Sau khi lên ngôi, vua sai bọn đầu mục Lê Quảng Độ, Lê Điêu, Nguyễn Văn Lang, Lê Tung, Lưu
13,436
Hưng Hiếu, Trình Chí Sâm, Trịnh Tuy, Lương Đắc Bằng, Đỗ Lí Khiêm, Đinh Cường, Đặng Minh Khiêm, Đỗ Nhân, Lê Nãi, Đàm Thận Giản đẳng thượng biểu trần tình vu Minh.
Hưng Hiếu, Trình Chí Sâm, Trịnh Tuy, Lương Đắc Bằng, Đỗ Lý Khiêm, Đinh Cường, Đặng Minh Khiêm, Đỗ Nhân, Lê Nại, Đàm Thận Giản dâng biểu trần tình với nhà Minh.
13,437
Kì từ vân: Đoan Khánh Lê Tuấn, tập phong vương tước kinh tứ niên gian, sủng nhậm mẫu đảng Khương Chủng, Nguyễn Bá Thắng đẳng, tứ hành hung bạo, trọc loạn triều cương, đồ lục tông thân, chậm sát tổ mẫu, đồ độc quốc nhân, dân bất kham mệnh.
Lời biểu nói: Đoan Khánh Lê Tuấn tập phong tước vương đã được 4 năm, tin dùng phe cánh họ mẹ là bọn Khương Chủng, Nguyễn Bá Tuấn, ngang tàn bạo ngược, đảo lộn triều cương, tàn sát họ hàng, giết ngầm tổ mẫu, người trong nước điêu linh, dân không chịu đựng nổi.
13,438
Chủng, Thắng đẳng quyền khuynh trung ngoại, ác đảng nhật tư, đồ thiết quốc bính.
Bọn Chủng, Thắng quyền át trong ngoài, ác đảng ngày càng lan rộng, mưu cướp quyền nước.
13,439
Thập thất nhật, truy tôn mẫu Trịnh thị vi Huy Từ Trang Huệ Kiến hoàng thái hậu.
Ngày 17, truy tôn mẹ là Trịnh thị làm Huy Từ Trang Huệ Kiến Hoàng thái hậu.
13,440
Mệnh Điện tiền đô kiểm điểm Thuỵ Dương hầu Trịnh Hựu vi Sơn lăng sứ, Hộ bộ Thượng thư Trịnh Duy Đại phó chi, Diên quận công phò mã đô uý Lê Mậu Chiêu vi Tổng hộ.
Sai Điện tiền đô kiểm điểm Thuỵ Dương hầu Trịnh Hựu làm Sơn lăng sứ, Hộ bộ thượng thư Trịnh Duy Đại làm phó, Diên quận công phò mã đô uý Lê Mậu Chiêu làm tổng hộ
13,441
sứ, Thanh Hoa tổng binh thiêm sự Nguyễn Bá Thuyên Bá Đàm Thận Huy đẳng phó chi.
sứ, Tổng binh thiêm sự Thanh Hoa Nguyễn Bá Thuyên và Đàm Thận Huy làm phó.
13,442
Dĩ bản nguyệt thập cửu nhật thiên táng vu Ngự Thiên chi Mĩ Xá hương.
Ngày 19 tháng ấy dời về táng ở hương Mỹ Xá, huyện Ngự Thiên .
13,443
Nhị thập cửu nhật Ất Sửu, lập Huy Từ Trang Huệ Kiến Hoàng thái hậu bi.
Ngày Ất Sửu 29, dựng bia Huy Từ Trang Huệ Kiến Hoàng thái hậu.
13,444
Mệnh Lễ bộ Tả thị lang Hàn lâm viện thị độc chưởng Hàn lâm viện sự Lương Đắc Bằng tuyển kí.
Sai Lễ bộ tả thị lang Hàn lâm viện thị độc chưởng Hàn lâm viện sự Lương Đắc Bằng soạn bi ký.
13,445
Truy thuỵ Hiển Tổ, Tuyên Tổ, Thái Tổ Hoàng Đế, Hoàng thái hậu dĩ hạ tôn hiệu.
Truy tôn thuỵ hiệu, tôn hiệu từ Hiển Tổ, Tuyên Tổ, Thái Tổ Hoàng Đế và Hoàng thái hậu trở xuống.
13,446
Tôn phụ Kiến Vương viết: Phối Thiên Dụ Thánh Ôn Lương Quang Minh Văn Triết Khoan Hoằng Chương Tín Tuy Hưu Mục Hiếu Kiến Hoàng Đế, mẫu Kiến Hoàng thái hậu Trịnh thị viết: Huy Từ Trang Huệ Gia Lượng Nhu Thánh Hoà Mục Tín Khiêm Minh Chính Ý Thuần Phúc Khánh Hoàng thái hậu.
Truy tôn cha là Kiến Vương làm Phối Thiên Dụ Thánh Ôn Lương Quang Minh Văn Triết Khoan Hoằng Chương Tín Tuy Hưu Mục Hiếu Kiến Hoàng Đế, mẹ là Kiến Hoàng thái hậu Trịnh thị làm Huy Từ Trang Huệ Gia Lượng Nhu Thánh Hoà Mục Tín Khiêm Minh Chính Ý Thuần Phúc Khánh Hoàng Thái Hậu.
13,447
Tặng đồng mẫu huynh Cẩm Giang Vương Sùng vi Trang Định Đại Vương, thứ đệ Tĩnh Lượng công.
Truy tặng anh cùng mẹ là Cẩm Giang Vương Sùng làm Trang Định Đại Vương, em thứ là Tĩnh Lượng công
13,448
Doanh vi Mục Ý Vương, quý đệ Quyên vi Dực Cung Vương.
Doanh làm Mục Ý Vương, em út là Quyên làm Dực Cung Vương.
13,449
Dĩ Ngô Hoán vi Thanh Hoa Tán trị thừa tuyên sứ ti Thừa tuyên sứ, tầm thụ Lại bộ Thượng thư.
Lấy Ngô Hoán làm Tán trị thừa tuyên sứ ty thừa tuyên sứ Thanh Hoa, ít lâu sau, trao chức Lễ bộ thượng thư.
13,450
sinh Hiến Tông, thời phong Giản Tu công.
Thời Hiến Tông, được phong làm Giản Tu công.
13,451
Cập Uy mục Đế tru lục tông thất, nãi đĩnh.
Đến khi Uy Mục Đế giết hại người công thất, mới một mình
13,452
thân nhập Tây Đô.
trốn vào Tây Đô.
13,453
Canh Ngọ Hồng Thuận nhị niên.
Canh Ngọ, Hồng Thuận năm thứ 2 , .
13,454
Xuân, chính nguyệt, luận ứng nghĩa sư công: dĩ Nghĩa quận công Nguyễn Văn Lang vi Nghĩa quốc công; gia Thiệu quận công Lê Quảng Độ vi Thiệu quốc công; Lượng quận công Lê Phụ vi Lượng quốc công; Uy quận công Lê Bá Lân vi Uy quốc công; Hộ bộ thượng thư Trịnh Duy Đại vi Văn quận công; Điện tiền đô kiểm điểm Thuỵ dương hầu Trịnh Hựu vi Thọ quận công; Phò mã đô.
Mùa xuân, tháng giêng, bàn luận công trạng những người ứng nghĩa: Lấy Nghĩa quận công Nguyễn Văn Lang làm Nghĩa quốc công; gia phong Thiệu quận công Lê Quảng Độ là Thiệu quốc công, Lượng quốc công Lê Phụ làm Thượng quốc công, Uy quận công Lê Bá Lân làm Uy quốc công, Hộ bộ thượng thư Trịnh Duy Đại làm Văn quận công, Điện tiền tô kiểm điểm Thuỵ Dương hầu Trịnh Hựu làm Thọ quận công, Phò mã đô
13,455
Nghị trí đề lĩnh quan, hữu chưởng đề lĩnh, đồng đề lĩnh, cương đề lĩnh, đề lĩnh, tứ thành quân vụ sự, kì chức chưởng tắc tuần cảnh kinh sư các xứ, xích hậu cầm bổ gian phi.
Bàn đặt quan đề lĩnh, có các chức chưởng đề lĩnh, đồng đề lĩnh và phó đề lĩnh, trông nom việc quân ở bốn mặt thành, chức trách là tuần phòng ở Kinh sư, canh phòng các nơi, tìm bắt kẻ gian phi .
13,456
Nhị nguyệt, đế khiển sứ như Minh.
Tháng 2, vua sai sang nhà Minh.
13,457
Hình bộ thượng thư Đàm Thận Huy, Đông các hiệu thư Nguyễn Văn Thái, Binh khoa đô cấp sự trung Lê Thừa Hưu, Thông sự Nguyễn Phong, hành nhân tam danh, tòng nhân bát danh tấu sự; Lễ bộ tả thị lang Nguyễn Quýnh, Thị thư Vũ Cán, Đề hình Nguyễn Doãn Văn, Thông sự Nguyễn Hảo, Hành nhân tam danh, tòng nhân cửu danh cầu phong.
Hình bộ thượng thư Đàm Thận Huy, Đông các hiệu thư Nguyễn Văn Thái , Binh khoa đô cấp sự trung Lê Thừa Hưu , Thông sự Nguyễn Phong, hành nhân 3 người, tòng nhân 8 người sang tâu việc; Lễ bộ tả thị lang Nguyễn Quýnh, Thị thư Vũ Cán, Đề hình Nguyễn Doãn Văn, Thông sự Nguyễn Hảo, hành nhân 3 người, tòng nhân 9 người sang cầu phong.
13,458
Thời Thừa Hưu vãng chí giới thủ hữu tật, nãi khiển Binh khoa đô cấp sự trung Nguyễn Văn Tuấn đại hành.
Bấy giờ, Thừa Hưu đi đến đầu địa giới thì bị ốm, liền sai Binh khoa đô cấp sự trung Nguyễn Văn Tuấn đi thay.
13,459
Đế xưng Nhân Hải động chủ.
Vua tự xưng là Nhân Hải động chủ.
13,460
Nhị thập thất nhật, dĩ Đông các học sĩ Đỗ Nhân vi Hộ bộ tả thị lang, Nhân cải danh Nhạc tị ngự xưng Nhân Hải dã.
Ngày 27, lấy Đông các học sĩ Đỗ Nhân làm Hộ bộ tả thị lang, đổi tên Nhân thành Nhạc, để tránh tên hiệu của vua là Nhân Hải.
13,461
Thái tổ miếu thừa trần truỵ.
Trần miếu Thái Tổ bị sụt.
13,462
Hạ tứ nguyệt, nhị thập ngũ nhật, dạ tam canh, nội thụ Nguyễn Khắc Hài.
Mùa hạ, tháng 4, ngày 25, đêm canh ba, hoạn quan Nguyễn Khắc Hài làm
13,463
loạn, bức đế hạnh Trùng Hoa cung, hựu hạnh Vạn Thọ, Cẩn Đức, Kính Thiên đẳng điện.
loạn, ép vua đến cung Trùng Hoa, lại đến các điện Vạn Thọ, Cẩn Đức, Kính Thiên.
13,464
Đế tác quốc ngữ thi, đại thần văn võ nhập thị phụng hoạ Duy Đông các hiệu thư Trần Dực hoạ hợp cách, tứ tiền ngũ quán.
Vua làm thơ quốc ngữ, các đại thần văn võ vào chầu kính hoạ lại, chỉ có Đông các hiệu thư Trần Dực hoạ hợp cách, được ban 5 quan tiền.
13,465
Đế mệnh Thọ quận công Trịnh Hựu đẳng thảo chi, truy chí Đông Hà, nghịch đồ tựu lục giả quá bán, kì dư đảng độ hà quá Bồ Đề độn khứ Tam Đảo sơn.
Vua sai bọn Thọ quận công Trịnh Hựu đi đánh, đuổi đến phường Đông Hà , bọn phản nghịch bị giết quá nửa, số còn lại vượt sông qua Bồ Đề trốn vào núi Tam Đảo.
13,466
Hựu sai tì tướng truy thảo chi.
Hựu sai tỳ tướng đuổi đánh .
13,467
Nhị thập lục nhật, đại xá.
Ngày 26, đại xá.
13,468
Kì chế mạo dạng dụng chu mạo, hữu kim hồng phượng sí.
Kiểu mũ dùng mũ đỏ có cánh nạm vàng, thêu phụng đỏ.
13,469
Ai Lao cục mông khiển.
Cục Mông nước Ai Lao sai
13,470
sứ đáo Nghệ An đệ bản dịch tấu khất nạp khoản quy phụ.
sứ đến Nghệ An đệ bản tâu trạm xin nộp cống quy phụ.
13,471
Chiếu khước chi, dĩ tân đắc quốc, khủng kì khuy du quốc trung cố dã.
Vua xuống chiếu khước từ, vì mới lấy được nước, sợ họ nhòm ngó nước ta.
13,472
Lục nguyệt, dĩ sinh nhật vi Thiên Bảo Thánh tiết.
Tháng 6, lấy ngày sinh làm Thiên Bảo thánh tiết.
13,473
Thu bát nguyệt Thái Bạch kinh thiên.
Mùa thu, tháng 8, sao Thái Bạch đi ngang trời.
13,474
Cải hiệu lệnh Lực sĩ vi Thể sát lực sĩ.
Đổi Hiệu lệnh lực sĩ thành Thể sát lực sĩ.
13,475
Đông thập nguyệt, dĩ hộ bộ tả thị lang Đỗ Nhạc vi Đông các đại học sĩ, nhập thị kinh diên.
Mùa đông, tháng 10, lấy Hộ bộ thị lang Đỗ Nhạc làm Đông các đại học sĩ, nhập thị kinh diên.
13,476
Khởi phục Lại bộ tả thị lang Lương Đắc Bằng kiêm Đông các học sĩ nhập thị kinh diên cố từ bất thụ.
Khởi phục Lại bộ tả thị lang Lương Đắc Bằng kiêm Đông các học sĩ, nhập thị kinh diên cố từ chối không nhận.
13,477
Thị dĩ, Ngu Thuấn chi thời ký hi hạo hĩ nhi Bá Ích chi thỉ mô tắc viết võng du vu dật, võng dâm vu lạc, vô đãi vô hoang, lật lật hồ như nguy vong chi tương chí.
Cho nên, đời Ngu Thuấn đã thịnh vượng rồi mà Bá Ích lúc bày mưu mô thì nói chớ ham mê nhàn rỗi, chớ đắm đuối vui chơi, không lười biếng, không trễ nải, phấp phỏng như nguy vong sắp đến.
13,478
Đế Thuấn nạp kì ngôn nhi giới kì sở đương giới thử sở dĩ vi đại thánh dã.
Đế Thuấn nghe lời khuyên mà răn ngừa những việc đáng răn, do đó đã trở thành bậc đại thánh.
13,479
Hán Văn chi thời ký phú.
Thời Hán Văn đã phú
13,480
thứ hĩ, nhi Giả Nghị chi hiến sách tất viết thố hoả tích tân, khả vi lưu thế, khả vi thống khốc nhu nhu hồ, nhược hoạ hoạn chi dĩ hình.
cường rồi, nhưng Giả Nghị khi dâng kế sách lại khuyên điều để lửa gần của, đáng phải chảy nước mắt, đáng phải khóc phải thương, lo lắng như hoạ hoạn đã thành.
13,481
Văn Đế nạp kì ngôn nhi ưu kì sở đáng ưu, thử sở dĩ vi hiền quân dã.
Văn Đế nghe lời khuyên mà lo nghĩ việc đáng lo, do đó đã trở nên bậc hiền nhân.
13,482