filename
stringlengths
4
100
text
stringlengths
0
254k
trận malplaquet.txt
Trận Malplaquet là một trong những trận đánh lớn của Chiến tranh Kế vị Tây Ban Nha, diễn ra vào ngày 11 tháng 9 năm 1709. Trong trận đánh này, quân Đồng minh Áo, Anh, Hà Lan và Phổ đã đánh bại quân Pháp, buộc quân Pháp phải triệt thoái khỏi chiến trường và gây thảm cảnh cho vua Louis XIV nước Pháp. Tuy nhiên, với sự triệt binh có trật tự và sĩ khí chẳng sa sút của quân Pháp, thắng lợi này trở nên một "chiến thắng kiểu Pyrros" của khối Đại Liên minh, mặc dù chiến thắng này khiến cho thắng lợi này là rõ rệt và quân Liên minh giải nguy được thành Mons. Khi quân Pháp thất thế, Thống chế Pháp là Claude-Louis-Hector de Villars cũng bị thương trong trận kịch chiến này. Với tổn thất cực lớn của cả hai phe tham chiến, đây là một trận đánh kinh hoàng nhất của cuộc Chiến tranh Kế vị Tây Ban Nha nói riêng trong các cuộc chiến tranh của Louis XIV nói chung, và cũng là trận đánh đẫm máu nhất châu Âu trong vòng một thế kỷ, thậm chí trận này vẫn giữ vai trò ấy mãi cho đến khi trận Borodino bùng nổ vào năm 1812. Ngoài ra, chiến thắng đắt giá của quân Liên minh trong trận chiến này cũng ghi dấu hai đoàn to lớn nhất châu Âu đương khi ấy, và tướng lĩnh của cả hai phe đều rút ra nhiều kinh nghiệm quý báu từ trận đánh đẫm máu này, trong khi bản thân vị tướng thắng trận Marlborough cũng tỏ ra đau đớn trước cuộc tàn sát này dù quân Pháp đã thua. Thực chất, sau thất bại đẫm máu này (góp phần làm nên một loạt thảm họa bi đát cho nước Pháp cuối triều Louis XIV người Pháp không còn dám giáp mặt với ông nữa. Phải qua mất lần tấn công thì quân Đồng minh mới chiến thắng trận này, buộc quân Pháp phải lui binh sau một loạt đợt công kích bất thành vào đội Kỵ binh quân Liên minh. Trận ác chiến này là thắng lợi chung thứ ba của John Churchill, Công tước thứ nhất của Marlborough và Vương công Eugène xứ Savoie, là chiến thắng thứ tư của chính Marlborough và cũng là chiến thắng cuối cùng của ông. Tuy đắt giá (được xem là một thắng lợi nhờ vào tiêu hao) nhưng chiến thắng này vẫn nêu bật tài nghệ chiến thuật của Marlborough, song công lớn trong thắng lợi chủ yếu thuộc về Eugène - chính ông đã tạo điều kiện cho Marlborough đánh bại một cánh quân Pháp. Ông đã bị thương trong chiến đấu, nhưng cương quyết không thoái lui. Thắng lợi đắt giá này khiến cho phe cánh chống Marlborough tại Anh Quốc được dịp nổi lên và điều ấy đã đe dọa nghiêm trọng đến nỗ lực chiến tranh của nước Áo, dù thất bại đẫm máu này đã khiến cho Louis XIV một lần nữa thất thế và phải cầu hòa. == Bối cảnh == Sau khi phải trì hoãn chiến dịch do thời tiết quá khắc nghiệt, quân Liên minh phát động chiến dịch chống Pháp năm 1709 vào giữa tháng 6. Không thể nào đánh một trận với đạo quân Pháp của Thống chế Villars bởi do phòng tuyến kiên cố của quân Pháp và huấn lệnh của Triều đình Versailles không cho vị Thống chế đánh trận, Thống chế Anh là Quận công Marlborough thứ nhất chuyển tầm ngắm của ông sang hai pháo đài Tournai và Ypres. Tournai thất thủ sau khi bị vây khốn trong suốt 70 ngày, và để tránh bệnh dịch lan truyền trong ba quân ở vùng đất nghèo ngặt xung quanh Ypres, Marlborough lại phải Đông tiến về pháo đài Mons nhỏ hơn, với mong muốn đánh chiếm nó nhằm bọc sườn phòng tuyến của quân Pháp ở phía Tây. Villars tiến quân đến, theo những huấn dụ mới của vua Louis XIV là bằng mọi giá phải giải vây cho Mons – Villars là một vị Thống chế táo bạo do đó đây rõ là một huấn lệnh cho ông mở trận. Sau một loạt đợt tiến quân phức tạp, hai đoàn quân đã chạm trán nhau dọc theo cái lỗ hổng Malplaquet ở hướng Tây Nam Mons. == Diễn biến == Quân Đồng minh, phần lớn là Quân đội Áo và Hà Lan, nhưng cũng có nhiều đạo quân Anh và Phổ, do Quận công Marlborough thứ nhất và Tổng thống lĩnh quân Áo là Vương công Eugène xứ Savoie chỉ huy, trong khi quân Pháp và một đạo quân Bayern là do Villars và Thống chế Boufflers cầm đầu. Thực chất, Boufflers là cấp trên của Villars, nhưng ông lại tình nguyện phục vụ Villars. Quân Đồng minh có 86 nghìn binh sĩ và 100 khẩu hỏa pháo và quân Pháp có khoảng 75 nghìn binh sĩ và 80 khẩu hỏa pháo, và họ đóng trại cách nhau một tầm đại bác gần nơi mà ngày nay là biên giới Pháp-Bỉ. Vào lúc 9.00 sáng ngày 11 tháng 9 năm 1709, quân Áo cùng với quân Liên minh Phổ - Đan Mạch do Bá tước Albrecht Konrad Finck von Finckenstein chỉ huy đã tiến công và đẩy đội tả binh vào Pháp về khu rừng đằng sau họ. Ở cánh trái quân Liên minh, quân Hà Lan dưới quyền Johan Willem Friso, Vương công xứ Orange tấn công đội hữu binh Pháp nửa tiếng sau đó, và dù phải chịu tổn thất nặng nề nhưng họ đã thành công trong việc ngăn chặn Boufflers tăng viện cho Villars. De Villars đã củng cố quân ngũ, nhưng Marlborough và Eugène lại phát động tấn công, được yểm trợ bởi một chi đội dưới quyền Tướng Withers xuất kích từ sườn trái quân Pháp, buộc De Villars phải chuyển bớt trung quân của ông về đối diện với họ. Trong khoảng 1.00 giờ chiều hôm đó, một viên đạn hỏa mai đã xuyên thẳng vào đầu gối của De Villars, buộc ông phải giao lại quyền chỉ huy cho Boufflers. == Ghi nhận trực tiếp == Một ghi nhận trực tiếp về trận Malplaquet có thể được tìm thấy trong quyển sách "Amiable Renegade: The Memoirs of Peter Drake (1671-1753)" từ trang 163 cho đến trang 170. Đại úy Peter Drake - một người Ireland đã dành phần lớn cuộc đời mình như một lính đánh thuê trong quân đội nhiều nước châu Âu, đã chiến đấu cho quân Pháp trong trận này và vài lần bị thương. Drake viết hồi ký ấy khi ông đã có tuổi. == Kết quả == Như một thắng lợi chung thứ ba của Marlborough và Eugène và là thắng lợi thứ tư của riêng Marlborough khi ông trên đỉnh cao vinh quang, về nguyên tắc và về hình thức thì trận Malplaquet là một chiến thắng của quân Liên minh vì quân Pháp buộc phải thoát lui vào cuối ngày và quân Liên minh chiếm lĩnh toàn bộ trận địa. Một lần nữa, tài nghệ chiến thuật của Marlborough đã đem lại thắng lợi cho ông, là một thắng lợi rõ rệt cho quân Đồng minh. Nhưng, công lớn nhất cho chiến thắng thuộc về Eugène, người đã đánh tạt sườn quân Pháp, tạo điều kiện cho Marlborough đánh bại một cánh khác của quân Pháp để mà thắng cả trận. Tuy nhiên cái giá phải trả cho chiến thắng này là 21 nghìn người chết và bị thương trong khi quân Pháp chỉ thiệt hại 11 nghìn người. Đồng thời quân Pháp cũng không bỏ chạy hỗn loạn mà rút lui một cách có trật tự, bảo toàn được binh lực của mình. Nếu như mở đầu trận đẫm máu này quân Hà Lan có đến 80 Sư đoàn, thì sau thắng lợi họ thậm chí không còn đủ binh sĩ hình thành 18 Sư đoàn. Thống chế De Villars đưa ra một nhận xét về kết quả trận đánh với nội dung gần y hệt như của vua Pyrros sau những chiến thắng đắt giá trước quân La Mã ngày xưa: Sử gia John A. Lynn trong tác phẩm The Wars of Louis XIV 1667-1714 đã đánh giá trận này là chiến thắng kiểu Pyrros của quân Đồng minh, tuy nhiên thất bại này cũng khiến cho Louis XIV bị đau sầu và nỗ lực giải cứu thành Mons bị thất bại và ngày 20 tháng 10 Mons rơi vào tay quân Đồn minh. Các tướng giỏi của Pháp đều bị thương trong trận này, và Villars cũng nằm trong số ấy. Mặt khác, quân Liên minh thắng này cũng tóm gọn 500 binh lính Pháp. Một lần nữa, Louis XIV thất thế, nên phải cầu hòa. Sau thất bại đẫm máu này - góp phần làm nên một trong những thảm họa bi đát của nước Pháp cuối triều Louis XIV, thực ra người Pháp đã bị đánh đuổi khỏi bờ kênh Sambre về Valenciennes và không bao dám giáp mặt với Marlborough nữa. Tuy nhiên, thương vong khủng khiếp của trận đánh đẫm máu nhất thế kỷ 18 này (vốn ghi dấu ấn của hai đoàn quân to lớn nhất của châu Âu thời bấy giờ đã khiến cả châu Âu chấn động. Đã có những tin đồn lan truyền về việc Marlbrough chết trận, điều này trở thành cảm hứng cho một bài dân ca Pháp nổi tiếng mang tên Marlbrough s'en va-t-en guerre. Và trái với các chiến thắng trước, lần này Marlborough không nhận được thư chúc mừng nào từ Nữ hoàng Anh là Anne. Chỉ thị cho Vander Beck của Richard Blackmore là một trong những bài thơ hiếm hoi ca ngợi "chiến thắng" của Marlborough tại Malplaquet, trong khi đó Đảng Bảo thủ (Tory) bắt đầu vận động cho việc rút lui khỏi chiến tranh và đàm phán hòa bình với Pháp. Như vậy, chiến thắng đắt giá tại Malplaquet (được xem là một thắng lợi nhờ vào tiêu hao) đã khiến cho các kẻ thù chính trị của Marlborough lên mặt, và đương khi ấy không ai biết rằng đó chính là trận thắng cuối cùng trong võ nghiệp của ông. Trước lòng dũng cảm của người Pháp thể hiện qua việc gây tổn thất nặng nề cho quân Đồng minh ở trận Malplaquet và ngăn chặn cuộc tiến công, người Anh nhận thấy rằng cuộc chiến tranh khó có thể kết thúc được. Mà, điều ấy lại còn gây tổn hại to lớn đến nỗ lực chiến tranh của Eugène và cả nước Áo, trong khi người Hà Lan sau chiến thắng đắt giá này cũng bắt đầu nản chí. Việc Anh rút khỏi chiến tranh khiến cán cân sức mạnh nghiêng hẳn về phía Pháp và điều đó khiến họ có thể đánh tan quân Áo và Hà Lan tại trận Denain. Với thắng lợi ấy, Villars đã trả thù được cho thất bại ở Malplaquet - một trong loạt thảm họa dồn dập dưới triều Louis XIV, nơi vị Thống chế đã thua to và còn bị thương. Mãi cho đến khi trận Borodino bùng nổ vào năm 1812, trận Malplaquet vẫn luôn được xem là trận đánh tàn khốc nhất trời Âu. Sau trận đánh đẫm máu này, hai phe đã rút ra nhiều bài học quý báu, nhanh hơn hẳn các tướng lĩnh thời Chiến tranh thế giới thứ nhất. Đặc biệt, sau thắng lợi này, Marlborough luôn băn khoăn và đau xót vì trận tàn sát này. == Chú thích == == Tham khảo == == Liên kết ngoài == Battle of Malplaquet at Battlefield Anomalies. The French Army 1600-1900 Battle of Malplaquet at BritishBattles.com Amiable Renegade: The Memoirs of Captain Peter Drake (1671-1753)
người mỹ gốc việt.txt
Người Mỹ gốc Việt (tiếng Anh: Vietnamese American) là những người định cư tại Hoa Kỳ có nguồn gốc dân tộc Việt. Với tổng dân số được ước tính là 1.642.950 trong năm 2007, họ chiếm trên một nửa dân số người Việt hải ngoại trên thế giới. Họ cũng là cộng đồng dân tộc gốc Á lớn thứ tư tại Hoa Kỳ, sau người Mỹ gốc Hoa, người Mỹ gốc Ấn, và người Mỹ gốc Philippines. Phần lớn người Việt di cư đến Hoa Kỳ kể từ sau sự kiện 30 tháng 4 năm 1975, với những người nhập cư đầu tiên là những người tị nạn từ miền Nam Việt Nam được chính phủ Hoa Kỳ di tản. Tiếp theo là những thuyền nhân vượt biên ra nước ngoài bằng đường biển. Kể từ thập niên 1990, những người Việt định cư vào Hoa Kỳ chủ yếu là để đoàn tụ gia đình. Người Mỹ gốc Việt bắt đầu hòa nhập vào xã hội Hoa Kỳ và trở thành một cộng đồng dân tộc thiểu số đáng kể tại quốc gia này. == Lịch sử == === Đợt thứ nhất === Lịch sử của người Mỹ gốc Việt chỉ mới diễn ra gần đây trong khoảng hai ba chục năm đổ lại. Trước 1975, những người Việt tại Mỹ là vợ hoặc con của những người lính Mỹ tham chiến tại Việt Nam hoặc là học sinh, thương gia đến định cư ở Mỹ, ước tính khoảng từ 15.000 đến 18.000 người. Sau khi chính phủ Việt Nam Cộng hòa sụp đổ sau sự kiện 30 tháng 4 năm 1975, kết thúc Chiến tranh Việt Nam, làn sóng tị nạn đầu tiên bắt đầu. Vì lo sợ bị chính quyền mới trả thù, làn sóng người đầu tiên rời Việt Nam vào mùa xuân năm 1975 gồm khoảng 125.000, đa số là gia đình quân nhân của Việt Nam Cộng hòa, dân thị thành, thành phần có học thức hoặc có công tác với quân đội Hoa Kỳ. Họ được chính phủ Hoa Kỳ vận chuyển bằng máy bay đến những căn cứ tại Philippines và Guam, và sau đó được di chuyển đến những trung tâm tị nạn khắp nước Mỹ. Những người tị nạn này, lúc đầu không nhận được sự hoan nghênh của dân chúng Hoa Kỳ; một cuộc thăm dò ý kiến vào năm 1975 cho thấy chỉ có 36% người dân Hoa Kỳ chấp nhận việc nhập cư của người Việt. Tuy vậy, Tổng thống Gerald Ford và những viên chức khác ủng hộ họ một cách mạnh mẽ bằng việc thông qua Đạo luật Di trú và Người Tị nạn Đông Dương (Indochina Migration and Refugee Act) trong năm 1975, cho phép họ nhập cư đến Hoa Kỳ bằng một vị thế đặc biệt. Những người Việt tị nạn được bố trí định cư rải rác khắp nước để giảm thiểu tác động của họ đối với những cộng đồng địa phương và hạn chế sự hình thành những khu vực tập trung dân tộc thiểu số. Tuy thế, trong vài ba năm thì hầu hết người Việt tị nạn đã tái định cư tại California và Texas, khiến hai tiểu bang này có dân số người Mỹ gốc Việt cao hơn cả. Ở trại Chaffee nơi tạm cư của người tỵ nạn năm 1975 có tấm bia ghi sự kiện này: === Đợt thứ hai === Năm 1976 bắt đầu làn sóng người Việt tị nạn thứ hai cho đến giữa thập niên 1980. Ngay sau khi thống nhất Việt Nam, chính quyền mới tập trung nhiều thành phần liên quan đến chính quyền Việt Nam Cộng hòa và đưa họ đi cải tạo qua lao động, lạ̀ tên gọi hình thức giam giữ trong những "trại học tập cải tạo". Những người trong trại được dạy chủ nghĩa Marx-Lenin trong từ vài ba tháng tới vài ba năm, phải lao động sản xuất để tự cấp tự túc lương thực thực phẩm. Nguyên nhân khác là chính sách chuyên chính vô sản của chính quyền Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Chính sách lúc đó giới hạn tối đa các quyền tự do kinh doanh của người dân, nền kinh tế bao cấp trở nên trì trệ gây ra tình trạng khốn khó cho dân chúng trong mọi mặt của đời sống. Nguyên nhân quan trọng khác là Chiến tranh biên giới Tây Nam giữa Việt Nam và Khmer Đỏ, các tỉnh phía Nam giáp biên giới với Campuchia thường xuyên bị bắn phá, tập kích khiến nhiều thường dân thiệt mạng, những người dân khác trở nên lo ngại và di tản hàng loạt. Hàng trăm ngàn người chấp nhận vượt biên trong những chiếc ghe nhỏ chật chội, cực kỳ nguy hiểm trước những cơn sóng gió bất thần của biển Đông. Nếu thoát được hải tặc Thái Lan, Campuchia, hay những cơn sóng lật úp thuyền, họ thường được đến những trại tị nạn ở Thái Lan, Singapore, Indonesia, Hồng Kông hoặc Philippines, hầu đợi đi định cư ở nước thứ ba. Quốc hội Hoa Kỳ thông qua Đạo luật Người Tị nạn năm 1980 (Refugee Act of 1980), giảm bớt những giới hạn việc nhập cư, trong khi nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam chấp nhận Chương trình Ra đi có Trật tự (Orderly Departure Program hay ODP) do Hoa Kỳ đề xuất, dưới sự điều khiển của Cao ủy Tị nạn Liên Hiệp Quốc (United Nations High Commissioner for Refugees) do áp lực của quốc tế và nhu cầu đoàn tụ của nhiều người dân có thân nhân đã sinh sống tại hải ngoại. Chương trình này cho phép một số người dân rời khỏi Việt Nam một cách hợp pháp để đoàn tụ gia đình và những đạo luật của Hoa Kỳ được thông qua cho phép con cái của những quân nhân Hoa Kỳ và những cựu tù nhân chính trị và gia đình họ cũng như gia đình những người có con lai Mỹ được định cư ở Hoa Kỳ. Giữa những năm 1981 và 2000, Hoa Kỳ tiếp nhận 531.310 người tị nạn từ Việt Nam. == Nhân khẩu == Theo Điều tra Dân số Hoa Kỳ 2000, có 1.122.528 người tự nhận là thuần gốc Việt và 1.223.736 khi tính thêm các người Việt lai với các chủng tộc khác. Trong số đó, 447.032 người (39,8%) sống ở California và 134.961 (12,0%) sống ở Texas. Nơi người gốc Việt sống đông nhất bên ngoài nước Việt Nam là Quận Cam tại California, có 135.548 người Việt. Những công ty người Việt có ở khắp nơi tại Westminster và Garden Grove, còn được gọi là khu Sài Gòn Nhỏ (Little Saigon): tại Westminster họ chiếm 30,7% dân số và tại Garden Grove họ chiếm 21,4% dân số. Người Mỹ gốc Việt là một trong những nhóm người nhập cư mới nhất tại Hoa Kỳ, cho nên họ là nhóm có tỷ lệ người lai chủng tộc khác thấp nhất trong các nhóm người Mỹ gốc Á châu chính. Theo điều tra năm 2000, có đến 1.009.627 người 5 tuổi trở lên tự khai rằng họ nói tiếng Việt ở nhà, làm cho tiếng Việt đứng thứ 7 trong những ngôn ngữ phổ thông tại Hoa Kỳ. Là người tị nạn, người Mỹ gốc Việt có một tỷ lệ nhập tịch khá cao, cao nhất trong các nhóm người gốc Á châu. Trong năm 2007, 72,6% của những người sinh ngoài Hoa Kỳ là công dân, cộng thêm 37,5% số người sinh tại Hoa Kỳ dẫn đến tổng cộng 82,8% người Mỹ gốc Việt là công dân Mỹ. Theo cuộc khảo sát năm 2007, người Mỹ gốc Việt có tỉ lệ 50,5% nữ và 49,5% nam, và tuổi trung bình là 34,5, so với 36,7 cho toàn bộ dân số Hoa Kỳ. Tỉ lệ tuổi tác cho người Mỹ gốc Việt là: Mỗi gia đình có trung bình 3,8 người, so với 3,2 người cho người Mỹ nói chung. Số tiền thu nhập cho mỗi đầu người Mỹ gốc Việt hàng năm là 20.074 đô la, thấp hơn con số 26.688 đô la cho mỗi người Mỹ. Tính về trình độ học vấn, người Mỹ gốc Việt có tỉ lệ người chưa tốt nghiệp trung học (26,7%) cao hơn người Mỹ nói chung (15,5%) trong số những người trên 25 tuổi - bởi vì một lượng lớn người Việt khi đến Mỹ đã đến tuổi lao động và cộng thêm tiếng Anh thì không rành. Nhưng số người Mỹ gốc Việt có bằng cử nhân (19,1%) thì cao hơn người Mỹ nói chung (17,4%) - những người Việt này phần lớn là F2, sinh ra tại Mỹ, hoặc đến Mỹ khi còn nhỏ tuổi. Tính tới năm 2012, số người Việt nhập cư chiếm 3% tổng số dân sinh ra ở ngoại quốc, mà là 40,8 triệu người. Số người Việt di cư vào năm 1980 là khoảng 231.000 tăng tới gần 1,3 triệu vào năm 2012, trở thành số dân cư sinh ở ngoại quốc đông hạng 6 ở Hoa Kỳ, hạng 4 so với dân từ Á Châu, sau Ấn Độ, Philippines và Trung Quốc. Khoảng chừng 160 ngàn người Việt sống bất hợp pháp ở Hoa Kỳ, đứng hạng thứ 10, chiếm 1% trong khoảng 11,4 triệu người ở lậu tại đây. == Chính trị == Theo một cuộc nghiên cứu năm 2008 của Học viện Manhattan, người Mỹ gốc Việt là một trong những nhóm người nhập cư có chỉ số hội nhập cao nhất tại Hoa Kỳ. Trong khi chỉ số hội nhập về văn hóa và kinh tế không có gì đặc biệt khi so với các nhóm khác (có thể vì sự khác biệt ngôn ngữ giữa tiếng Anh và tiếng Việt), chỉ số hội nhập về quyền công dân là cao nhất trong các nhóm người nhập cư đáng kể. Người Mỹ gốc Việt là những người tị nạn chính trị, xem việc về lại Việt Nam là việc bất khả thi, nên tham gia các hoạt động chính trị tại Hoa Kỳ với tỷ lệ rất cao. === Lập trường chống cộng === Là những người tị nạn chống cộng sản, nhiều người Mỹ gốc Việt có quan điểm chống cộng mãnh liệt. Trong một cuộc thăm dò ý kiến cho tờ báo Orange County Register năm 2000, 71% người trả lời là việc đấu tranh chống cộng là việc "ưu tiên hàng đầu" hay "rất quan trọng" và 77% coi trọng việc thúc đẩy chính phủ Việt Nam cải thiện chính sách nhân quyền. Người Mỹ gốc Việt thường xuyên biểu tình chống chính phủ Việt Nam, lên án tình trạng nhân quyền tại Việt Nam, và biểu tình chống đối những cá nhân hay đoàn thể mà họ cho rằng ủng hộ chính quyền Việt Nam Một thí dụ cụ thể là vào năm 1999, một cuộc biểu tình rầm rộ nhằm chống một người làm nghề cho thuê băng video tại Westminster tên là Trần Trường khi ông này treo cờ đỏ sao vàng của Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam và một bức hình của Hồ Chí Minh. Số người biểu tình lên đến 15.000 người trong một đêm, gây nên tranh cãi về vấn đề tự do ngôn luận tại Hoa Kỳ. Trước kia những đảng viên Dân chủ ít được người Mỹ gốc Việt ủng hộ vì họ được xem là khuynh tả hơn, nhưng gần đây họ được nhìn bằng ánh mắt thiện chí hơn bởi thế hệ thứ hai, giới trẻ hay những người có thu nhập kém hơn. Tuy nhiên, Đảng Cộng hòa vẫn giành số người ủng hộ áp đảo: tại Quận Cam số người Mỹ gốc Việt ghi danh theo Đảng Cộng hòa cao gấp đôi số người ghi danh theo Đảng Dân chủ, với tỉ lệ là 55% và 22%, và một cuộc thăm dò ý kiến toàn quốc cho thấy trong năm 2008 tỷ lệ người Mỹ gốc Việt theo đảng Cộng hòa là 29% so với 22% cho đảng Dân chủ. Trong cuộc bầu cử tổng thống Hoa Kỳ năm 2004, 72% cử tri người Mỹ gốc Việt bỏ phiếu cho ứng cử viên Cộng hòa đương nhiệm George W. Bush trong khi chỉ 28% bỏ phiếu cho ứng cử viên Dân chủ John Kerry. Trong một cuộc thăm dò ý kiến cho cuộc bầu cử tổng thống năm 2008, 2/3 trong số các cử tri Mỹ gốc Việt đã chọn ứng cử viên có ý định bầu cho ứng cử viên Cộng hòa John McCain. Gần đây, nhiều nhóm người Mỹ gốc Việt đã vận động trong Chiến dịch Cờ Vàng thành công ở một số thành phố và tiểu bang với mục đích dùng lá cờ vàng ba sọc đỏ của Việt Nam Cộng hòa làm biểu tượng đại diện cho cộng đồng người Việt tại địa phương. Tháng 8 năm 2006, chính phủ tiểu bang California và Ohio đã thông qua đạo luật coi lá cờ này là biểu tượng cho người gốc Việt ở địa phương. Chính phủ Việt Nam phản đối việc này và đây là một trong những điểm gây ra bất đồng trong quan hệ Việt-Mỹ. Đầu năm 2012, hơn 150.000 người Mỹ gốc Việt đã tham gia một chiến dịch ký thỉnh nguyện thư khiến Bộ Ngoại giao Mỹ chú ý. Kết quả của cuộc vận động nhân quyền lớn nhất từ trước đến nay của cộng đồng người Mỹ gốc Việt là chính phủ Hoa Kỳ phái Thứ trưởng Ngoại giao là Michael Posner mở cuộc tiếp đón 165 người vào ngày 5 tháng 3 và cam kết sẽ tiếp tục đưa vấn đề nhân quyền trong vòng đối thoại với chính phủ Việt Nam. Công văn hồi âm ghi nhận rằng: Trong khi chúng tôi tiếp tục các cuộc đối thoại với phía Việt Nam, chúng tôi đặc biệt ý thức rất rõ lập trường của cộng đồng người Việt tại Mỹ. Posner còn nhấn mạnh chính phủ Hoa Kỳ muốn tiếp tục trao đổi ý kiến với cộng đồng người Mỹ gốc Việt. === Vận động tham chính === Nhiều người Mỹ gốc Việt đã tham gia vào các hoạt động chính trị tại địa phương và được bầu hay bổ nhiệm vào các chức vụ như Đinh Đồng Phụng Việt, trợ lý Bộ trưởng Tư pháp dưới chính phủ của Tổng thống George W. Bush; Cao Quang Ánh, dân biểu liên bang; Trần Thái Văn, dân biểu tiểu bang California; Janet Nguyễn, giám sát viên Quận Cam; Madison Nguyễn, thành viên hội đồng thành phố San Jose, v.v. Phần lớn các vận động chính trị của cộng đồng người Mỹ gốc Việt qua các cơ quan công quyền vẫn còn lấy chủ nghĩa chống Cộng làm trọng tâm. Đáng kể là chuỗi biểu tình 52 ngày phản đối việc một người gốc Việt (ông Trần Trường) treo cờ đỏ sao vàng và hình của Hồ Chí Minh đầu năm 1999 lôi kéo 15.000 người xuống đường. Sau cuộc tổng tuyển cử năm 2008, thành phố Westminster trở thành thành phố đầu tiên có đa số thành viên trong hội đồng thành phố là người gốc Việt. Năm 2003, Tượng đài Chiến sĩ Việt Mỹ (Vietnam War Memorial) đã được xây dựng tại Westminster để tưởng niệm các chiến sĩ Việt Nam Cộng hòa và Hoa Kỳ đã hy sinh trong Chiến tranh Việt Nam. Tháng 5 năm 2004, hội đồng thành phố Garden Grove, tiểu bang California nhất thể bỏ phiếu thành lập khu vực "cấm những người cộng sản" (No Communist zone) với chủ ý ngăn không cho các phái đoàn nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam công du vào vùng Little Saigon. Nếu muốn vào, luật thành phố đòi hỏi phái đoàn phải báo trước 14 ngày để cảnh sát lo an ninh, nhưng đây cũng sẽ là thời gian để cộng đồng địa phương tổ chức biểu tình chống phái đoàn. Trong những tháng sau Bão Katrina, cộng đồng người Mỹ gốc Việt tại New Orleans, một trong những nhóm người đầu tiên trở lại thành phố, đã vận động chống đối việc thiết lập một bãi rác để chứa các mãnh vụn gần nơi cộng đồng sinh sống. Sau nhiều tháng giằng co, bãi rác được đóng cửa, và cộng đồng người Việt xem đây là một chiến thắng, và cộng đồng người Mỹ gốc Việt trở thành một thế lực chính trị tại đây. Năm 2008, luật sư Joseph Cao Quang Ánh, một nhà hoạt động trong cộng đồng người Mỹ gốc Việt tại New Orleans, thắng cử ghế dân biểu thứ hai của Louisiana trong Hạ viện, trở thành người Mỹ gốc Việt đầu tiên được bầu vào Quốc hội Hoa Kỳ. == Kinh tế == Theo điều tra năm 2007, 64,9% người Mỹ gốc Việt lớn tuổi hơn 16 có thể tham gia lực lượng lao động, với tỷ lệ thất nghiệp là 5,4%, thấp hơn so với tỷ lệ thất nghiệp của người Mỹ nói chung là 6,3%. 59,3% phụ nữ đủ tuổi tham gia lực lượng lao động, với tỷ lệ thất nghiệp là 4,9%. 31,5% người Mỹ gốc Việt làm nghề quản trị, nghề chuyên nghiệp, hay các công việc liên quan, thấp hơn tỷ lệ 34,6% cho người Mỹ nói chung. 24,9% theo ngành phục vụ, cao hơn người Mỹ nói chung là 16,7%. 18,4% làm việc công việc sản xuất hay vận tải, 18,4% làm việc văn phòng hay buôn bán, 6,1% theo ngành xây dựng, duy trì, hay sửa chữa, và 0,4% theo nông nghiệp, ngư nghiệp, hay lâm nghiệp. 82% người Mỹ gốc Việt làm cho các hãng tư nhân, 9,2% làm việc cho nhà nước, và 8,5% tự làm việc cho mình. Mỗi gia đình có thu nhập điểm giữa là 59.831 USD, thấp hơn so với thu nhập một gia đình người Mỹ là 61.173 USD. Mỗi gia đình người Mỹ gốc Việt có trung bình 3,8 người, cao hơn số trung bình cho người Mỹ nói chung là 3,2 người. Bình quân mỗi người có thu nhập là 22.074, thấp hơn so với người Mỹ nói chung. 13,1% người Mỹ gốc Việt được xem là có lợi tức thấp. 67,3% người Mỹ gốc Việt sống tại nhà do họ sở hữu, trong khi 32,7% sống trong nhà họ thuê. Tại một số lĩnh vực, người Việt chiếm lĩnh thị trường. Khoảng 80% thợ móng ở California và 43% toàn quốc là người Mỹ gốc Việt. Tại vùng vịnh Mexico, người Mỹ gốc Việt chiếm từ 1/3 đến một nửa các công việc ngư nghiệp. Vụ tràn dầu Deepwater Horizon năm 2010 đã ảnh hưởng tiêu cực nghiêm trọng đối với các ngư dân gốc Việt tại đây. Theo nghiên cứu năm 2013 của Trường Đại học Brown khi so sánh sáu nhóm di dân gốc Á châu (Hoa, Ấn, Phi, Nhật, Hàn và Việt) thì người gốc Việt có thu nhập thấp nhất. Ấn Độ và Nhật Bản là hai nhóm di dân thành đạt nhất tại Mỹ, trong khi người nhập cư Việt Nam có tỷ lệ thất nghiệp cao nhất so với năm nhóm kia và cũng là cộng đồng có lợi tức và học vấn thấp hơn cả. == Văn hóa và tôn giáo == Những sinh hoạt cộng đồng nhằm góp phần lưu giữ gốc Việt và văn hóa Việt được tổ chức thường xuyên; như giải Phượng Hoàng được tổ chức hàng năm để tuyển lựa tài năng cổ nhạc. Và những trung tâm dạy Việt ngữ được mở ra khắp nơi. Tính đến năm 2008, chỉ riêng ở vùng Nam California, có tới hơn 80 trung tâm Việt Ngữ, đang tiếp nhận khoảng 17.000 học sinh theo học. Cũng vì sự vận động của cộng đồng gốc Việt, ngày 12 Tháng Tám năm 2009 Hội đồng thành phố Westminster, CA thông qua nghị quyết 4257 công nhận ngày Thứ Bảy cuối cùng mỗi Tháng Tư sẽ là "Ngày Thuyền nhân Việt Nam". Ở cấp tiểu bang thì California thông qua nghị quyết ACR-40 công bố Tháng Tư 2011 là tháng của người Mỹ gốc Việt với 6 điểm ghi nhận: Hành trình tỵ nạn của người Việt từ năm 1975 Hội nhập và đóng góp giá trị của cộng đồng Nỗ lực tranh đấu vì lý tưởng tự do Coi lá cờ vàng ba sọc đỏ là biểu tượng của cộng đồng người Mỹ gốc Việt Công nhận tuần lễ 24-30 Tháng Tư là "Tuần tưởng niệm Tháng Tư Ðen" Công nhận Tháng Tư, 2011 là tháng tuyên dương cộng đồng người Mỹ gốc Việt tại California. Sinh hoạt các tôn giáo cũng phong phú và đa dạng, nhiều chùa Phật giáo và giáo xứ Công giáo được xây dựng khắp nơi. Từ năm 1978, Đại hội Thánh Mẫu của người Công giáo tổ chức hàng năm vào mùa hè tại Carthage, Missouri quy tụ khoảng 60 hay 70 ngàn người hành hương mỗi kỳ . == Sinh hoạt cộng đồng == Người Việt tại Mỹ thường sống quây quần và có những sinh hoạt cộng đồng thường xuyên. Nhiều đoàn thể, hội ái hữu, hội đồng hương,.... và các tổ chức Hướng đạo Việt Nam, Gia đình Phật tử, Thiếu nhi Thánh Thể được thành lập khắp nơi. Hàng năm, vào ngày Tết Nguyên Đán, đều có các cuộc diễn hành tết của cộng đổng người Việt tại khắp nơi, lớn nhất là tại San Jose do Hội Diễn hành Xuân (Vietnamese Spring Festival) tổ chức, với sự kết hợp của nhiều hội đoàn, tổ chức. Tại Garden Grove, trường Bolsa Grande High School hiện nay là địa điểm tổ chức Hội Tết Việt Nam hằng năm, với hàng trăm ngàn người tham dự, và do Tổng hội Sinh viên Việt Nam Nam Cali (UVSA) tổ chức liên tục từ năm 1982 đến nay. Từ năm 2003, Đại hội Điện ảnh Việt Nam Quốc tế (Vietnamese International Film Festival - ViFF) là một đại hội điện ảnh diễn ra hai năm một lần tại Đại học California tại Irvine và nhiều địa điểm quanh vùng Little Saigon của Quận Cam. == Công dân Việt Nam ở Mỹ == === Du học sinh === Bản thông cáo báo chí của Ðại Sứ Quán Hoa Kỳ hôm 15 tháng 11 năm 2016, lấy từ thống kê của Open Doors, hiện đang có 21,403 du học sinh Việt Nam theo học ở Hoa Kỳ, con số này đưa Việt Nam vươn lên vị trí thứ 6 trong số các quốc gia đứng đầu về du học sinh theo học tại Hoa Kỳ, so với vị trí thứ 9 của năm 2015, gia tăng đến 14.3% so với năm 2015. == Xem thêm == Little Saigon Việt kiều Viện Bảo tàng Người Việt Chiến dịch Cờ Vàng == Chú thích == == Liên kết ngoài == Người Việt tại Hoa Kỳ: từ báo Người Việt, phát hành tại Quận Cam Văn Thư Lưu Trữ về Đông Nam Á Vietnamese American Heritage Project - Triển lãm về người Mỹ gốc Việt tại Viện bảo tàng Smithsonian Viết về nước Mỹ: cuộc thi viết về kinh nghiệm người Việt hội nhập vào xã hội Hoa Kỳ 30 năm và người Việt ở hải ngoại: từ BBC Việt ngữ Những người Việt thành đạt ở NASA National Congress of Vietnamese Americans Cộng đồng người Việt đứng ở đâu trong xã hội Mỹ?, báo Tuổi Trẻ, 24/03/2007. Nguồn của các thông số: The American Community Asian, 2004, American Community Survey Report, February 2007.
thomas hobbes.txt
Thomas Hobbes (05/04/1588-04/12/1679) là một nhà triết học người Anh nổi tiếng với các tác phẩm về triết học chính trị. Cuốn sách Leviathan viết năm 1651 của ông đã thiết lập nền tàng cho nền triết học chính trị phương Tây theo quan điểm lý thuyết về khế ước xã hội. Hobbes là người ủng hộ chính thể chuyên chế nhưng ông cũng phát triển các nguyên tắc cơ bản của tư tưởng tự do châu Âu: quyền được bầu cử của các cá nhân; quyền bình đẳng tự nhiên của tất cả mọi người; tính nhân tạo của địa vị chính trị (điều dẫn đến sự khác nhau sau này giữa xã hội và nhà nước); quan điểm tất cả quyền lực chính trị hợp pháp phải mang tính "đại diện" và dựa trên sự đồng thuận của nhân dân; và sự diễn giải luật khá phóng thoáng cho phép mọi người được làm bất kỳ điều gì mà pháp luật không cấm. == Cuộc đời == === Thời thơ ấu và niên thiếu === Thomas Hobbes ra đời tại Malmesbury, Wiltshire, Anh. Tương truyền rằng Hobbes đã bị đẻ non khi mẹ ông bị động kinh. Sở dĩ bà lại bị như vậy vì bà hay tin rằng hạm đội Armanda của Tây Ban Nha, cường quốc về hàng hải lúc bấy giờ, đã tiến vào nước Anh. Nói về lúc ấy, Hobbes đã thốt lên rằng: "Mẹ tôi sinh ra tôi và sự sợ hãi cùng một lúc". Người chồng của người phụ nữ trên là một mục sư quản xứ Charlton và Westport của Giáo hội Anh. Ông bị bắt buộc phải rời bỏ quê hương, để lại ba đứa con nhỏ cho người anh Francis Hobbes chăm sóc. Cậu bé Thomas Hobbes, một trong ba đứa trẻ ấy, được học tập tại Nhà thờ Westport khi mới 4 tuổi. Tiếp theo đó, Hobbes vào học một trường tự do do Robert Latimer làm hiệu trưởng. Ở ngôi trường này, Hobbes tỏ ra là một cậu bé xuất sắc. Đến năm 1603, Hobbes được gửi đến Oxford. Phản ứng của cậu bé này trước lối giảng dạy mang tính kinh viện của nhà trường đó là không thích thú và tự sáng tạo ra và tuân thủ theo cách học riêng. Bởi vì thế, Hobbes đã không thể nào hoàn thành chương trình đại học cho đến năm 1608. === Thời thanh niên === Vào năm 1608, một sự kiện đã đến với chàng thanh niên Thomas Hobbes. Đó là trở thành một gia sư cho con trai của William Cavendish, nam tước xứ Hardwick. Con trai của Cavendish và Hobbes đã trở thành những người bạn thân (ngoài ra, Hobbes gắn bó với gia đình ấy đến cuối đời). Hai chàng thanh niên đã thực hiện một chuyến du lịch vào năm 1610. Đây quả là chuyến đi tuyệt vời bởi Hobbes đã tiếp xúc với chủ nghĩa phê phán khác cái thứ kinh viện ông đã từng học và không ưa thích. === Khi trưởng thành === Thomas Hobbes có khá nhiều người bạn nổi tiếng như Ben Jonson, Francis Bacon. Ngay sau khi chồng qua đời, bà bá tước quả phụ Cavendish đã sa thải Hobbes. Nhưng may mắn cho ông là ông đã có ngay việc làm, và một lần nữa lại là gia sư. Lần này là cho con trai của Gervase Clifton ở thành phố Paris. Năm 1631, ông lại được gia đình Cavendish gọi trở lại. Năm 1636, ông đi thăm Florence và trở thành một người nhiệt tình tham gia các buổi tranh luận về triết học trong các nhóm triết học do Marin Mersenne tổ chức. Do bày tỏ quan điểm quân chủ, Hobbes đã không được nhiều người ưa thích, thậm chí họ còn nổi giận. Chính vì vậy, ông thực hiện một cuộc di chuyển từ Anh sang châu Âu lục địa. Ông còn tỏ ra hóm hỉnh khi nói rằng ông là "một trong những người đầu tiên chạy khỏi nước Anh". Ở đây, con người lưu vong đã đàm đạo với nhiều tri thức người Pháp như Pierre Gassendi hay Marin Mersenne và cả những người Anh bị lưu đày. Hobbes sống nốt cuộc đời còn lại xa quê hương. == Sự nghiệp == === Vài nét khái quát === Thomas Hobbes là một trong những nhà triết học lỗi lạc của nước Anh thời kỳ Phục hưng. Tuy nhiên, Hobbes lại không tận tâm hoàn toàn vào triết học cho đến năm 1629 và chỉ nhận mình là một triết gia khi đã gần 50 tuổi (1637). === Tư tưởng === ==== Ủng hộ nền quân chủ tuyệt đối ==== Thomas Hobbes đã đi ngược lại rất nhiều người khi ông ủng hộ việc xuất hiện một chế độ quan chủ tuyệt đối để ổn định cộng đồng. Và không ngạc nhiên khi ông phải sống lưu vong vào cuối đời. ===== Khế ước xã hội-mầm mống của quyền lực tuyệt đối ===== Nội dung vấn đề Luận chứng của Hobbes về quân chủ tuyệt đối có liên quan đến cái gọi là khế ước xã hội. Ý tưởng về khế ước xã hội không phải do Hobbes nghĩ ra, nhưng lại được Hobbes suy nghĩ theo cách hoàn toàn khác. Cụ thể, ý tưởng này là như sau: Ta có một nhà nước tự nhiên trước khi chính quyền được hình thành. Trong nhà nước này, Hobbes cho rằng con người sẽ không bị ràng buộc bởi luật lệ, và bởi đơn giản là vì họ có tư lợi, xung đột là điều không thể tránh khỏi. Cho nên, tất yếu xảy ra "chiến tranh tất cả chống lại tất cả..." và tất yếu dẫn đến "...cuộc sống của mỗi người trong nhà nước tự nhiên sẽ cô đơn, dơ dáy, nghèo nàn, vũ phu và thiếu thốn". Để loại bỏ một cuộc chiến tranh như vậy và bảo toàn lợi ích của tất cả, Hobbes cho rằng, con người phải thỏa hiệp nhau để xây dựng một chính quyền có quốc vương nắm quyền lực tuyệt đối bởi chỉ có quyền lực tuyệt đối mới giải quyết được mọi xung đột. Và cái thảo hiệp đó chính là khế ước xã hội. Cần phải nhìn nhận vấn đề này một cách rộng rãi. Xin nhớ cho, Hobbes không hề đề cập rằng quyền lực tuyệt đối này duy nhất tồn tại ở chế độ quân chủ chuyên chế. Ông lưu ý với chúng ta rằng cái quyền lực đó có thể rơi vào tay của một tập hợp thiểu số (chế độ quả đầu) hay trao cho mọi người (chế độ dân chủ). Đúng là Hobbes ủng hộ hoàn toàn quân chủ chuyên chế, nhưng ông cũng cho rằng hai chế độ kia cũng rất hứa hẹn. Từ quan điểm về quyền lực tuyệt đối, Hobbes cho rằng không thể có cái chính quyền mà quyền lực bị phân chia hay biến tướng thành những quyền hành khác nhau. Như thế thì chỉ có xung đột. Nguyên nhân vấn đề Sở dĩ Hobbes có đề cập đến khế ước xã hội như vậy là vì ông không thể nào ưa nổi chủ nghĩa kinh viện (như ta đã biết là ông có thái độ đó khi còn đi học). Ông không thích việc mà ông cho là đòi hỏi quá nhiều quyền uy nếu so với lý trí, quá thiên về sử dụng các từ ngữ trống rỗng như "bản chất vô thể", "thuyết đồng thể chất". Hobbes muốn sử dụng hình học để xây dựng lý thuyết về chính trị (cần nhớ là Hobbes rất thích các tiên đề của Euclid, những thứ tưởng chừng vô hại và đơn giản lại có thể suy ra những kết quả khó hiểu và kỳ lạ). Từ tiền đề vững chắc, Hobbes thiết lập khế ước xã hội để rút ra những kết luận vững chắc về đạo đức và chính trị. Cách thực hiện Xây dựng chính quyền Liệu có thể xây dựng thành công một chính quyền như theo suy nghĩ của Hobbes không là câu hỏi mà ngay của Hobbes cũng khó trả lời. Bởi nếu muốn tạo sự chuyên chế cho một người, những người khác phải tự nguyện "giao quyền lực" cho người đó, đó là ý của Hobbes. Vậy những kẻ tự tôn thì sao? Hobbes lại làm phép so sánh quan hệ dân-vua là quan hệ tớ-chủ. Thế thì liệu có ai tự nguyện xây dựng một quan hệ nô dịch không? Đến đây thì có lẽ Hobbes không biết trả lời thế nào. Bào vệ chính quyền Hobbes cho rằng con người cần sự bình yên, nên phải đến những nơi có thể ngăn chặn xung đột và xây dựng thành một cộng đồng. Nhưng có thể có "con sâu bỏ rầu nồi canh", tức là những người không đáng tin trong cộng đồng đó, nên cần hình thành và thực hiện pháp luật. Pháp luật phải xây dựng trên cơ sở của sự đồng thuận. Khi luật pháp ra đời, mọi cá nhân trong cộng đồng phải tuân theo. Như vậy, tìm kiếm an toàn dẫn đến tìm kiếm hòa bình, tìm kiếm hòa bình lại đòi hỏi đủ sức mạnh bảo vệ hòa bình. ==== Suy nghĩ về Thượng đế ==== Hobbes cho rằng Thượng đế là nguyên nhân của mọi hành động. Nhưng đừng vội suy nghĩ rằng ông coi Ngài là nền tảng của đạo đức. Ông phủ nhận các triết gia, cả vô thần lẫn hữu thần, đều tuân theo Thượng đế, nhưng không bao giờ phủ nhận họ phải tuân theo luật lệ của tự nhiên và nhà nước. Ý kiến của Hobbes đó là trước khi Thượng đế làm gì thì lý trí đã làm trước rồi. === Ảnh hưởng === Luận chứng khế ước xã hội của Hobbes đã ảnh hưởng đến lý luận chính trị của nhiều nhà triết học, tiêu biểu là John Locke, Jean-Jacques Rousseau và Immanuel Kant. === Các tác phẩm === Leviathan Những thành tố của luật, tự nhiên và chính trị Công dân Những sơ luận triết lý về chính quyền == Thông tin khác == Ngoài nghiên cứu triết học chính trị, Hobbes còn nghiên cứu các lĩnh vực khác của triết học và khoa học. == Trích dẫn == Thần học là vương quốc của sự tối tăm. (The kingdom of theology is the kingdom of darkness.) Tôn giáo giống như những viên thuốc mà người ta phải nuốt chửng cả viên. (Religions are like pills, which must be swallowed whole without chewing.) == Chú thích ==
thái bình.txt
Thái Bình là một tỉnh ven biển ở đồng bằng sông Hồng, miền Bắc Việt Nam. Trung tâm tỉnh là thành phố Thái Bình cách thủ đô Hà Nội 110 km về phía đông nam, cách thành phố Hải Phòng 70 km về phía đông bắc. Thái Bình tiếp giáp với 5 tỉnh, thành phố: Hải Dương ở phía bắc, Hưng Yên ở phía tây bắc, Hải Phòng ở phía đông bắc, Hà Nam ở phía tây, Nam Định ở phía tây và tây nam. Phía đông là biển Đông (vịnh Bắc Bộ). Theo quy hoạch phát triển kinh tế, Thái Bình thuộc vùng duyên hải Bắc Bộ. Tên gọi khác: "Quê hương 5 tấn". == Điều kiện tự nhiên == === Địa hình === Tọa độ: 20°18′đến 20°44′độ vĩ bắc, 106°06′đến 106°39′độ kinh đông. Địa hình khá bằng phẳng với độ dốc thấp hơn 1%; độ cao phổ biến từ 1–2 m trên mực nước biển, thấp dần từ bắc xuống đông nam. Thái Bình có bờ biển dài 52 km. Tỉnh này có 4 con sông chảy qua: phía bắc và đông bắc có sông Hóa dài 35 km, phía bắc và tây bắc có sông Luộc (phân lưu của sông Hồng) dài 53 km, phía tây và nam là đoạn hạ lưu của sông Hồng dài 67 km, sông Trà Lý (phân lưu cấp 1 của sông Hồng) chảy qua giữa tỉnh từ tây sang đông dài 65 km. Các sông này tạo ra 4 cửa sông lớn: Diêm Điền (Thái Bình), Ba Lạt, Trà Lý, Lân. Do đặc điểm sát biển nên chúng đều chịu ảnh hưởng của chế độ thủy triều, mùa hè mức nước dâng nhanh với lưu lượng lớn và hàm lượng phù sa cao, mùa đông lưu lượng giảm nhiều và lượng phù sa không đáng kể khiến nước mặn ảnh hưởng sâu vào đất liền từ 15–20 km. === Khí hậu - Thủy văn === Thái Bình nằm trong vùng khí hậu cận nhiệt đới ẩm: mùa hè nóng ẩm, mưa nhiều từ tháng 5 đến tháng 9; mùa đông khô lạnh từ tháng 11 năm trước đến tháng 3 năm sau; tháng 10 và tháng 4 là mùa thu và mùa xuân tuy không rõ rệt như các nước nằm phía trên vành đai nhiệt đới. Nhiệt độ trung bình: 23,5 °C. Số giờ nắng trong năm: 1.600-1.800 giờ. Độ ẩm tương đối trung bình: 85-90% Tỉnh Thái Bình nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa, nên hàng năm đón nhận một lượng mưa lớn (1.700-2.200mm), lại là vùng bị chia cắt bởi các con sông lớn, đó là các chỉ lưu của sông Hồng, trước khi chạy ra biển ==== Sông ngòi ==== Tỉnh Thái Bình nằm trong vùng cận nhiệt đới ẩm, nên hàng năm đón nhận một lượng mưa lớn (1.700-2.200mm), lại là vùng bị chia cắt bởi các con sông lớn, đó là các chỉ lưu của sông Hồng, trước khi chạy ra biển. Mặt khác, do quá trình sản xuất nông nghiệp, trải qua nhiều thế hệ,người ta đã tạo ra hệ thống sông ngòi dày đặc. Tổng chiều dài các con sông, ngòi của Thái Bình lên tới 8492 km, mật độ bình quân từ 5–6 km/km2. Hướng dòng chảy của các con sông đa số theo hướng tây bắc xuống đông nam. Phía bắc, đông bắc Thái Bình còn chịu ảnh hưởng của sông Thái Bình. Hệ thống sông ngoài đê: Phía tây, tây nam và phía nam (đoạn ngã ba sông Luộc đến cửa Ba Lạt) có sông Hồng chảy uốn khúc, quanh co, là nguồn cung cấp nước và phù sa chính cho Thái Bình. Phía tây bắc là sông Luộc (một chỉ lưu của sông Hồng), đây là sông cung cấp nước cho các huyện Quỳnh Phụ, Hưng Hà. Phía đông bắc là sông Hóa chảy ra cửa sông Thái Bình. Sông Trà Lý (một chỉ lưu của sông Hồng) bắt nguồn từ sông Hồng chảy ra biển, chia đôi Thái Bình thành hai khu: Khu bắc và khu nam. Sông Diêm Hộ, chảy qua một phần huyện Đông Hưng và chia đôi huyện Thái Thụy (phần Thụy Anh, phần Thái Ninh cũ) và chảy ra biển thông qua cống Trà Linh Hệ thống sông trong đê: Thái Bình còn có hệ thống sông ngòi trong đê chằng chịt chủ yếu phục vụ tưới tiêu cho đồng ruộng và sinh hoạt của người dân. Sau đây là một số sông nội bộ của tỉnh: Khu vực bắc Thái Bình: Sông Tiên Hưng: Vốn là con sông tự nhiên chạy uốn quanh các huyện Hưng Hà và Đông Hưng. Sông dài 51 km, rộng 50-100m, tưới tiêu cho các vùng đất ven sông và là đường giao thông thủy quan trọng của vùng này. Sông Sa Lung: Sông đào, khởi công từ năm 1896 đến năm 1900 thì, dài khoảng 40 km, chảy qua các phủ huyện Hưng Nhân, Duyên Hà (nay là Hưng Hà) Tiên Hưng, Đông Quan (nay là huyện Đông Hưng), Thái Ninh nay là huyện Thái Thụy. Sông Quỳnh Côi: Còn gọi là sông Yên Lộng hay sông Bến Hiệp. Đây là con sông đào xuyên qua một phần huyện Quỳnh Phụ, xuôi xuống Đông Hưng, có chiều dài khoảng 15 km, bắt đầu từ cống Bến Hiệp nối với sông Tiên Hưng ở xã Liên Giang. Sông Đại Nẫm: Cũng là con sông chạy qua huyện Quỳnh Phụ, dài 16 km, bắt nguồn từ cống Đại Nẫm nối với Diêm Hộ. Sông Diêm Hộ: Là con sông tiêu nước quan trọng nhất trong hệ thống thủy nông ở khu vực bắc Thái Bình. Hầu hết các con sông nội đồng trong khu vực đều đổ ra sông Diêm Hộ. Khi chưa có cống Trà Linh, sông Diêm Hộ trở thành con sông trong đê với chức năng chính là tiêu úng cho các huyện phía bắc Thái Bình. Sông Thuyền Quan: Là con sông đào, nối với sông Tiên Hưng ở ranh giới xã Đông Giang - Đông Kính, với sông Sa Lung ở xã Đông Vinh, với sông Trà Lý ở ranh giới xã Đông Lĩnh (Đông Hưng) - Thái Hà (Thái Thụy) dài 9 km. Sông Hệ: Nối sông Hóa với sông Diêm Hộ, dài 12 km, chạy qua mấy xã thuộc Quỳnh Phụ, Thái Bình. Khu vực nam Thái Bình Sông Cự Lâm: Chảy từ sông Trà Lý ở xã Xuân Hòa qua các xã Hiệp Hòa, Song Lãng, Minh Lãng, Minh Quang, nối với sông Vĩnh Trà ở Thị trấn Vũ Thư, huyện Vũ Thư. Đoạn sông này dài 14 km. Sông Búng: Chảy qua các xã Hiệp Hòa, Việt Hùng, Dũng Nghĩa, Tân Lập, nối sông Trà Lý với sông Hồng, dài khoảng 13 km. Sông Bạch: Chảy từ cống Nạng (sông Trà Lý) ở ranh giới xã Tân hòa, Phúc Thành uốn lượn qua Tân Phong, Tân Bình (Vũ Thư), phường Tiền Phong, xã Phú Xuân, nối với sông Vĩnh Trà ở phường Phú Khánh thành phố Thái Bình. Sông Kiến Giang: Là con sông đào gồm nhiều đoạn khác nhau. Dòng chính nối từ sông Vĩnh Trà ở Thành phố Thái Bình, qua một số xã ở huyện Vũ Thư rồi chảy qua huyện Kiến Xương, Tiền Hải, đổ vào Sông Lân, dài 30 km. Đây là con sông quan trọng cho việc tưới tiêu đồng ruộng phía nam Thái Bình và là đường vận tải thủy quan trọng trong khu vực. Có thể nói, nó là xương sống của hệ thống thủy lợi khu nam Thái Bình. Nó có hệ thống sông ngòi, mương máng nối với sông Hồng, sông Trà Lý thông qua các cống. Hầu hết các con sông khác trong khu vực đều có mối liên hệ với sông Kiến Giang, như sông Nguyệt lâm, Dực Dương... Sông Kiến Giang là con sông tương đối đẹp, một nơi có đôi bờ là điểm quần tụ dân cư đông đúc, trù phú, làng mạc xanh tươi. Sông Nguyệt Lâm: Là sông đào đi từ cống Nguyệt Lâm, lấy nước từ sông Hồng (xã Vũ Bình, huyện Vũ Thư), nối với sông Kiến Giang ở xã Hòa Bình, huyện Kiến Xương chiều dài 13 km. Sông Dực Dương: Cũng là sông đào đi từ cống Dực Dương, lấy nước sông Trà Lý, tại vị trí xã Trà Giang, nối sông Kiến Giang ở xã Bình Minh huyện Kiến Xương dài 13 km. Sông Hương: Nối sông Hồng với sông Kiến Giang, từ xã Bình Thanh huyện Kiến Xương đến đến xã Phương Công huyện Tiền Hải. Sông Lân: Trước kia là một nhánh của sông Hồng đổ ra biển. Hiện nay nó trở thành con sông trong đê, chạy từ ranh giới xã Hồng Tiến (huyện Kiến Xương) - Nam Hải (Tiền Hải) chảy ròng ra biển. Từ ngày đắp đê, xây dựng cống Lân, nó trở thành con sông nội đồng. Con sông này tưới tiêu nước cho huyện Kiến Xương và Tiền Hải. Cống Lân làm nhiệm vụ ngăn nước mặn và tiêu nước mỗi khi ngập úng nội đồng, đồng thời điều tiết tưới tiêu cho khu vực nam Thái Bình. Sông Long Hầu: Nối sông Trà Lý với sông Kiến Giang từ xã Đông Quý đến xã Đông Lâm (Tiền Hải). Quá trình hình thành các con sông lớn nhỏ của Thái Bình là sự kết hợp giữa sự phát triển tự nhiên và nhu cầu hoạt động sản xuất, sinh hoạt của con người. Các con sông tự nhiên được hình thành do quá trình vận động của các dòng chảy, bắt đầu từ thượng nguồn, về phía hạ lưu hướng dòng chảy luôn thay đổi do sông uốn khúc nhiều. Sông Hồng trước đây thường hay thay đổi dòng chảy. Từ khi hình thành hệ thống đê điều, dòng chảy của sông Hồng ổn định gần như diện mạo hôm nay. Hệ thống sông trong đê là kết quả quá trình chinh phục của con người, nhằm hạn chế tác hại của thiên tai, tận dụng các điều kiện tự nhiên để tưới tiêu trong nông nghiệp. Trải qua nhiều thập niên, người nông dân Thái Bình liên tục cải tạo, khơi sâu, nắn dòng các con sông nội đồng với mục đích tưới tiêu thuận lợi và một phần phục vu vận tải đường thủy. ==== Ao, hồ, đầm ==== Trên địa bàn Thái Bình không có các hồ, đầm lớn, chủ yếu là các ao nhỏ, nằm xen kẽ với làng xóm hoặc ven đê, ven biển do lấy đất đắp đê hoặc do vỡ đê tạo thành các điểm trũng tích nước. Các ao hồ nhỏ nằm rải rác, xen kẽ các khu dân cư là kết quả của quá trình tạo lập đất ở. Xưa kia, đất được bồi đắp không bằng phẳng, chỗ cao chỗ thấp, người ta đào ao lấy đất đăp nền nhà, tạo thành vườn tược, và tận dụng nguồn nước từ ao hồ quanh nhà để lấy nước sinh hoạt. Vì vậy phần lớn làng xóm, cư dân của Thái Bình (nhà cửa, ruộng vườn) đều gần với ao đầm. Tổng diện tích ao hồ gần 6.575ha, chiếm 4,25% đất đai của tỉnh. Các ao hồ của Thái Bình thường có diện tích không lớn (khoảng 200-300m2). Những năm gần đây, diện tích một số ao hồ được cải tạo, có xu hướng tập trung thành quy mô trang trại để nuôi tôm cá theo quy trình bán công nghiệp. Bước đầu một số ao hồ nuôi tôm cá đã đem lại hiệu quả kinh tế cao, nhất là các vùng nuôi tôm ở các ao đầm ven biển (tôm sú, tôm rảo..) ==== Biển ==== Biển Thái Bình nằm trong vùng biển vịnh Bắc Bộ, là một phần của Biển Đông. Biển Đông là một biển lớn thông với Thái Bình Dương qua các eo biển rộng. Vịnh Bắc Bộ nằm ở phía tây bắc biển Đông, thực ra là phần lục địa bị chìm dưới nước biển do đó biển nông, nơi sâu nhất không quá 200m. Nước ngầm Thái Bình là bộ phận của tam giác châu thổ sông Hồng, thuộc trầm tích bờ rời Đệ Tứ có nguồn gốc song - biển hỗn hợp. Xét về mặt tổng thể thì trầm tích này có khả năng chứa nước rất lớn, mực nước ngầm nông, dễ khai thác. Theo tài liệu nghiên cứu về địa chất và thủy văn, vùng này có sự phân đới thủy địa hóa theo phương nằm ngang và phương thẳng đứng như sau: Phân đới thủy hóa theo phương nằm ngang: Phân đới thủy hóa theo phương nằm ngang, lấy sông Trà Lý chảy qua giữa tỉnh làm ranh giới: Phía bắc sông Trà Lý gồm các huyện Hưng Hà, Đông Hưng, Quỳnh Phụ và một số xã thuộc huyện Thái Thụy gần khu vực sông Hóa, nằm trong đới nước ngọt có tổng độ khoáng hóa dao động từ 300–500 mg/l. Các tầng chứa nước ngọt rất tốt. Phía nam sông Trà Lý bao gồm các huyện Vũ Thư, Kiến Xương, Tiền Hải, phần lớn huyện Thái Thụy và Thành phố Thái Bình nằm trong đới nước mặn. Các lỗ khoan cho thấy, nước khoan lên có tổng độ khoáng hóa dao động trong khoảng 600-2.500 mg/l, nước thuộc loại Clorua Natri. Do bị nhiễm mặn nên không đạt tiêu chuẩn dùng cho nước sinh hoạt. Phân đới thủy hóa theo phương thẳng đứng Phân đới thủy hóa theo phương thẳng đứng từ mặt đất đến độ sâu 140m bao gồm các tầng cách nước và chứa nước sau: + Tầng chứa nước nghèo thuộc hệ tầng Thái Bình + Tầng cách nước thuộc hệ tầng Hải Hưng II + Tầng chứa ít nước thuộc hệ tầng Hải Hưng II + Tầng cách nước thuộc hệ tầng Vĩnh Phúc I + Tầng chứa nước lỗ hổng thuộc hệ tầng Vĩnh Phúc II + Tầng chứa nước trong trầm tích cát - cuội- sỏi hệ Hà Nội ==== Tài nguyên nước ==== Tài nguyên nước trong dòng chảy mặt ở Thái Bình rất phong phú. Mật độ sông ngòi dày đặc chứa và lưu thông một lượng nước mặt khổng lồ. Nguồn cung cấp hàng tỷ m3 từ các con sông lớn như sông Hồng, sông Trà Lý, sông Thái Bình, cộng vào đó là lượng nước mưa nhận được hàng năm cũng rất lớn (hàng tỉ tấn). Đây là điều kiện thuận lợi để cư dân sử dụng tài nguyên nước mặt phục vụ cho sinh hoạt và sản xuất ở mọi nơi trong tỉnh. Các dòng chảy mặt đã được sử dụng tưới tiêu cho đồng ruộng thông qua hệ thống thủy lợi: mương, máng tưới tiêu, hệ thống cống tự chảy... Dòng chảy mặt của các con sông nội đồng ngoài tác dụng tưới cho đồng ruộng, phục vụ sinh hoạt của cư dân, còn mang theo các chất thải ở thể lỏng chảy ra biển Đông (nước thải sinh hoạt, nước thau chua, rửa mặn đồng ruộng). Hệ thống dòng chảy mặt, nhất là hệ thống sông ngòi nội đồng chảy quanh co, ngang dọc trên đất Thái Bình làm thành cảnh quan, tạo ra một khung cảnh sông nước, đồng ruộng, vườn cây trái, hài hòa, yên bình, thơ mộng. Các tầng chứa nước nông đều có hàm lượng sắt cao, vượt quá tiêu chuẩn cho phép; Để dùng được phải qua xử lý, khử bớt sắt mới đảm bảo tiêu chuẩn cho phép. Hầu hết các giếng khoan đã có biểu hiện ô nhiễm các chất hữu cơ do tàn tích của các loài thực vật, có xuất hiện các ion độc hại như NH4, NO2, P04, S... Tầng chứa nước lỗ hổng trong trầm tích cát - cuội- sỏi hệ tầng Hà Nội sâu 80-140m có khả năng chứa nước lớn, có giá trị cung cấp cả về số lượng lẫn chất lượng cho những trạm xử lý và cung cấp nước trung bình và nhỏ. Do tầng chứa nước ở dưới sâu nên khả năng gây ô nhiễm nguồn nước trong tầng này được bảo vệ bởi các tầng chứa nước phía trên. Tuy nhiên, để đảm bảo an toàn khi khai thác và sử dụng, cần lưu ý biện pháp bảo vệ và khai thác với mức độ hợp lý. Nước ngầm tầng mặt của Thái Bình, về mùa khô chỉ đào sâu xuống 1-1,5m, mùa mưa chỉ đào sâu chưa đến 1m. Tuy nhiên, đây chỉ là nước ngầm trên mặt, nếu đào sâu xuống sẽ gặp nước mặn và chua, độ trong không đảm bảo, không thể dùng trong sinh hoạt ngay được mà cần phải xử lý. Càng sâu trong đất liền (Quỳnh Phụ, Hưng Hà) thì mức độ mặn, chua giảm hơn. === Tài nguyên khoáng sản === Các khoáng sản chính: Khí mỏ: Thái Bình có mỏ khí đốt Tiền Hải đã được khai thác từ năm 1986 với sản lượng khai thác hàng năm vài chục triệu m³ khí thiên nhiên. Tháng 5, 6 năm 2003, Tổng công ty dầu khí Việt Nam đã tiến hành nổ địa chấn 3D lô 103/107 vịnh Bắc Bộ trữ lượng ước tính 7 tỷ m³. Nước khoáng: Mỏ Tiền Hải ở độ sâu 450 m có trữ lượng khoảng 12 triệu m³, đã khai thác từ năm 1992, sản lượng 9,5 triệu lít với các nhãn hiệu nước khoáng Vital, nước khoáng Tiền Hải. Nước khoáng nóng: Đã thăm dò và phát hiện ở làng Khả xã Duyên Hải huyện Hưng Hà mỏ nước nóng 57 °C ở độ sâu 50 m và nước nóng 72 °C ở độ sâu 178 m có thể sẽ được đầu tư khai thác phục vụ phát triển du lịch và chữa bệnh, hiện tại có 2 công ty nước khoáng khai thác hoạt động tại làng Khả (công ty nước khoáng Duyên Hải và Tiên Hải). Than: Có than nâu thuộc bể than nâu vùng đồng bằng sông Hồng với trữ lượng 210 tỉ tấn (lớn gấp 20 lần trữ lượng than tại Quảng Ninh). Hiện nay Tập đoàn than khoáng sản và Tỉnh Thái Bình đã ký kết thoả thuận phối hợp chỉ đạo và thực hiện một số nội dung quan trọng: Giai đoạn 2010 - 2015 triển khai địa chất 24 lỗ khoan, giai đoạn 2015 - 2020 khoan thăm dò địa chất 3600 lỗ khoan. Từ 2010 đầu tư thử nghiệm một số dự án khai thác than bằng công nghệ ngầm dưới lòng đất hoặc công nghệ hàm lò tại Tiền Hải và Thái Thụy, mỗi dự án có quy mô công suất 6 triệu tấn/năm. Công ty dầu khí Sông Hồng bắt đầu khoan thăm dò khai dákkdkkdjakkdkkj khí than tại giếng khoan Tiền Hải C-08 tại Xá Tây Ninh - Tiền Hải, giếng có độ sâu 1100m. === Khu dự trữ sinh quyển thế giới === Tỉnh Thái Bình có 2 trong số 5 khu vực đa dạng sinh học được UNESCO công nhận là khu dự trữ sinh quyển thế giới châu thổ sông Hồng, 3 khu vực còn lại thuộc Nam Định và Ninh Bình. Khu dự trữ sinh quyển châu thổ sông Hồng nằm trên địa bàn các xã ven biển thuộc 3 tỉnh Thái Bình, Nam Định và Ninh Bình đã được UNESCO công nhận là khu dự trữ sinh quyển thế giới từ năm 2004 với những giá trị nổi bật toàn cầu về đa dạng sinh học và có ảnh hưởng lớn đến sự sống của nhân loại. Khu dự trữ sinh quyển ven biển Thái Bình gồm 2 phần nằm ở cửa biển, nơi giáp Hải Phòng và Nam Định: Rừng ngập mặn Thái Thuỵ: thuộc các xã Thụy trường, Thụy Xuân, Thụy Hải, Thị trấn Diêm Điền, Thái Đô, Thái Thượng. Khu bảo tồn thiên nhiên Tiền Hải: thuộc các xã Nam Hưng, Nam Phú, Nam Thịnh. == Lịch sử == Vùng đất thuộc tỉnh Thái Bình ngày nay, vào thời Bắc Thuộc trước thế kỉ 10, thuộc hương Đa Cương (vùng đất từ sông Luộc ra đến biển) của quận Giao Chỉ. Thời 12 sứ quân vùng đất này là căn cứ của sứ quân Trần Lãm. Tới nhà Hậu Lê, thời vua Lê Thánh Tông về sau vùng đất Thái Bình ngày nay thuộc trấn Sơn Nam. Đến cuối thời nhà Lê trung hưng sang đầu nhà Nguyễn, vùng này thuộc trấn Sơn Nam Hạ. Năm 1832, vua Minh Mạng nhà Nguyễn cắt hai phủ Thái Bình, Kiến Xương nhập vào tỉnh Nam Định, nhập phủ Tiên Hưng vào tỉnh Hưng Yên. Ngày 21 tháng 3 năm 1890 Toàn quyền Đông Dương ra nghị định thành lập tỉnh Thái Bình, gồm phủ Thái Bình, phủ Kiến Xương (tách từ tỉnh Nam Định) và huyện Thần Khê (tách từ tỉnh Hưng Yên và sáp nhập vào phủ Thái Bình - sau đổi tên là phủ Thái Ninh). Tỉnh lỵ đặt tại phủ lỵ Kiến Xương, bờ nam sông Trà Lý. Vị trí này nằm trên đường Hải Phòng- Nam Định nhưng chỉ cách Nam Định 17km nên người dân nơi đây thường đi phà Tân Đệ (sau này là cầu) sang Nam Định mua các thứ cần thiết. Ngày 28 - 11- 1894, Toàn quyền Đông Dương ra nghị định cắt hai huyện Hưng Nhân và Duyên Hà thuộc phủ Tiên Hưng, tỉnh Hưng Yên sáp nhập vào tỉnh Thái Bình; lấy sông Luộc làm ranh giới giữa hai tỉnh Hưng Yên và Thái Bình. Như vậy lúc mới thành lập, tỉnh Thái Bình gồm có 3 phủ Kiến Xương, Thái Ninh, Tiên Hưng với tổng cộng là 12 huyện Đông Quan, Duyên Hà, Hưng Nhân, Trực Định, Phụ Dực, Quỳnh Côi, Thanh Quan, Thư Trì, Thụy Anh, Tiền Hải, Thần Khê, Vũ Tiên. Sau đó, đơn vị hành chính cấp phủ bị loại bỏ, các huyện có sở lị phủ thì đổi theo tên của phủ kiêm quản trước đó: Thanh Quan thành Thái Ninh, Trực Định thành Kiến Xương, Thần Khê thành Tiên Hưng. Tỉnh lị tỉnh Thái Bình khi mới thành lập năm 1890, đặt tại xã Kỳ Bố, trước là huyện lị của huyện Vũ Tiên (từ thời Minh Mạng). Sau này, tỉnh lị Thái Bình phát triển mở rộng sang các huyện lân cận thành thị xã Thái Bình, rồi thành thành phố Thái Bình. Sau năm 1954, tỉnh Thái Bình có 13 đơn vị hành chính gồm thị xã Thái Bình và 12 huyện: Đông Quan, Duyên Hà, Hưng Nhân, Kiến Xương, Phụ Dực, Quỳnh Côi, Thái Ninh, Thư Trì, Thụy Anh, Tiền Hải, Tiên Hưng, Vũ Tiên. Ngày 17 tháng 6 năm 1969, 2 huyện Đông Quan và Tiên Hưng hợp nhất thành huyện Đông Hưng; 2 huyện Hưng Nhân, Duyên Hà và 5 xã: Bắc Sơn, Đông Đô, Hòa Bình, Chi Lăng và Tây Đô của huyên Tiên Hưng hợp nhất thành huyện Hưng Hà; 2 huyện Quỳnh Côi và Phụ Dực hợp nhất thành huyện Quỳnh Phụ; 2 huyện Thái Ninh và Thụy Anh hợp nhất thành huyện Thái Thụy; 2 huyện Vũ Tiên và Thư Trì hợp nhất thành huyện Vũ Thư. tỉnh Thái Bình còn 1 thị xã và 7 huyện. Ngày 29 tháng 4 năm 2004, chuyển thị xã Thái Bình thành thành phố Thái Bình. == Dân số == Năm 2011, Thái Bình có 1.786.000 người với mật độ dân số 1.138 người/km². Thành phần dân số: Nông thôn: 90,1% Thành thị: 9,9% Phấn đấu đạt tỉ lệ đô thị hoá 22,3% năm 2015, đến năm 2020 tỉ lệ đô thị hoá đạt khoảng 40%, tỉ lệ lao động phi nông nghiệp trong tổng số lao động khoảng 67%. == Hành chính == Tỉnh Thái Bình có 286 đơn vị cấp xã gồm 10 phường, 9 thị trấn và 267 xã. Thái Bình được chia thành 7 huyện và 1 thành phố trực thuộc: Theo QUYẾT ĐỊNH 733/QD -TTg của thủ tướng chính phủ ngày 17/5/2011 PHÊ DUYỆT QUY HOẠCH TỔNG THỂ PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI TỈNH THÁI BÌNH ĐẾN NĂM 2020 Xây dựng 4 đô thị trung tâm vùng cấp tỉnh: Thị trấn Diêm Điền (Thái Thụy), Khu du lịch Đồng Châu và khu vực Cồn Vành (Tiền Hải), thị trấn Hưng Nhân (Hưng Hà), thị trấn An Bài (Quỳnh Phụ) lên đô thị loại IV. Quy hoạch đô thị trung tâm cấp huyện (thị trấn): Các thị trấn: Quỳnh Côi, An Bài, Đông Hưng, Tiên Hưng, Thanh Nê, Vũ Quý, Hưng Hà, Hưng Nhân, Tiền Hải, Nam Trung, Thái Ninh, Diêm Điền, Vũ Thư. Nâng cấp một số xã thành đô thị loại V trực thuộc huyện: Các xã: Đông Đô, Thái Phương (Hưng Hà); xã Thụy Xuân (Thái Thụy); các xã: An Lễ, Quỳnh Giao (Quỳnh Phụ); xã Vũ Hội (Vũ Thư). == Kinh tế == Năm 2014 Tổng sản phẩm trong tỉnh (GRNP) đạt 38.341 tỷ đồng (tăng 7,83% so năm 2013), là năm có mức tăng trưởng cao nhất trong 04 năm gần đây và cao hơn mức tăng trưởng chung của cả nước (5,8%). Tổng giá trị sản xuất ước tăng 8,82%. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực. Giá trị sản xuất công nghiệp (theo giá so sánh 2010) ước đạt 33.840 tỷ đồng, tăng 11,4% so với năm 2013. Ðã có 126/144 dự án trong các KCN đi vào hoạt động đem lại giá trị sản xuất là 12.566 tỷ đồng, tăng 11,3% so năm 2013. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng năm 2014 ư­ớc đạt 25.639 tỷ đồng, tăng 13.48% so 2013. Tổng thu ngân sách nhà nước năm 2014 (không kể ghi thu) ước đạt 12.115 tỷ đồng (bằng 155% dự toán, tăng 8,3% so với năm 2013). Trong đó thu nội địa 4.053,6 tỷ đồng (tăng 32,4% so với cùng kỳ). Tổng chi ngân sách nhà nước năm 2014 ước đạt 12.085 tỷ đồng (bằng 160% dự toán, tăng 6,8% so với năm 2013). Trong đó chi phát triển kinh tế đạt 5.022,6 tỷ đồng Kim ngạch xuất khẩu ước đạt 1.168 triệu USD, tăng 17% so với 2013. Kim ngạch nhập khẩu ước đạt 1.190 triệu USD, tăng 27% so với 2013. Toàn tỉnh đã tạo việc làm mới cho 32.200 lao động, tỷ lệ hộ nghèo giảm còn 3,32%. Định hướng phát triển Năm 2015, toàn tỉnh phấn đấu tổng sản phẩm trong tỉnh tăng 8% trở lên so với năm 2014; tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội tăng 8,2%; kim ngạch xuất khẩu tăng 12,6%; tổng thu ngân sách nhà nước 8.618,9 tỷ đồng; phấn đấu đến hết năm 2015 có trên 130 xã và 1 huyện đạt chuẩn quốc gia về xây dựng nông thôn mới; tỷ lệ hộ nghèo giảm 1% trở lên. Tiếp tục thực hiện việc Thành lập Khu Kinh tế Biển tại 2 huyện Tiền Hải và Thái Thụy rộng 30.580 Ha (gồm 30 xã ở 2 huyện Thái Thụy và Tiền Hải); Trong đó, phần diện tích đất tự nhiên theo ranh giới các xã là 21.583 ha, còn lại là phần diện tích ngập nước ven bờ khoảng 9.000 ha. Phấn đấu năm 2020 Thái Bình trở thành Tỉnh Công nghiệp . Trong định hướng phát triển giao thông của vùng sẽ có quốc lộ ven biển, đường cao tốc Ninh Bình - Hải Phòng - Quảng Ninh qua Thái Bình. Trung tâm Điện lực Thái Bình tại xã Mỹ Lộc - Huyện Thái Thụy với vốn đầu tư 2.1 tỉ USD, diện tích 254ha. Dự án có công suất 1800 MW. Và Nhà máy sản xuất Amôn Nitrat (công suất 200 ngàn tấn/năm). === Các khu Công nghiệp của Tỉnh Thái Bình === KCN Phúc Khánh 120ha KCN Nguyễn Đức Cảnh 64ha KCN Tiền Phong 77ha KCN Tiền Hải 400ha KCN Cầu Nghìn 214ha KCN Gia Lễ 85ha KCN Diêm Điền 100ha KCN Sông Trà 250ha Ngoài các khu Công nghiệp trên, tương lai sẽ thành lập một số Khu Công nghiệp: KCN An Hòa 400ha KCN Minh Hòa 390ha KCN Đồng Tu 50ha KCN Thanh Nê 50ha KCN Sơn Hải 450ha == Xây dựng nông thôn mới == Là tỉnh điểm về xây dựng nông thôn mới, Thái Bình đã và đang đạt được nhiều thành tựu đáng khích lệ: Đến hết năm 2013 Thái Bình đã có: 14 xã được công nhận xã đạt chuẩn nông thôn mới - vượt 6 xã so với mục tiêu đề ra (trong đó nhiều xã không phải là xã điểm được chọn đầu tư của huyện), 34 xã đạt từ 15 - 17 tiêu chí, 163 xã đạt 10 - 14 tiêu chí, 52 xã đạt dưới 10 tiêu chí, Từ năm 2009 - 2013, tỉnh Thái Bình đã huy động, phân bổ vốn xây dựng nông thôn mới là 707 tỷ đồng. Riêng năm 2013, vốn ngân sách đầu tư cho nông thôn mới là 252 tỷ đồng, Từ quý IV/2013 tỉnh Thái Bình thực hiện chương trình hỗ trợ xi măng phục vụ xây dựng hạ tầng giao thông nông thôn. Dự kiến lượng xi măng trong 2 năm 2013-2014 khoảng 700.000 tấn. Sang năm 2014, Toàn tỉnh có thêm 76 xã đăng ký về đích "Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới" (đây là những xã đạt từ 13 - 17 tiêu chí), trong đó: Hưng Hà có 10 xã, Ðông Hưng 13 xã, Quỳnh Phụ 5 xã, Thái Thụy 15 xã, Vũ Thư 9 xã, Kiến Xương 9 xã, Tiền Hải 13 xã, Thành phố Thái Bình 2 xã. Tầm nhìn đến năm 2020 có ít nhất 6 đơn vị huyện đạt đơn vị nông thôn mới. Và về cơ bản Thái Bình là một tỉnh Nông thôn mới đạt chuẩn quốc gia. == Giáo dục == Ngành Giáo dục - Đào tạo và khoa học công nghệ được giữ vững và phát triển. Trong năm học 2012 - 2013, Thái Bình là một trong 5 tỉnh, thành phố đầu tiên trong cả nước được công nhận đạt phổ cập mầm non cho trẻ 5 tuổi; học sinh tốt nghiệp trung học phổ thông đạt tỷ lệ cao; số học sinh đỗ đại học, cao đẳng xếp thứ 2 toàn quốc... === Giáo dục chuyên nghiệp === Danh sách các cơ sở giáo dục: Trường Đại học Y Dược Thái Bình Trường Đại học Thái Bình Cao đẳng Y tế Thái Bình Cao đẳng sư phạm Thái Bình Trường Cao đẳng Văn hóa Nghệ thuật Thái Bình Trường Cao đẳng nghề số 19 Bộ Quốc phòng Trung cấp Sư phạm mầm non Trường Trung học Nông nghiệp Thái Bình Trường Trung cấp công nhân kĩ thuật Trường Trung cấp xây dựng === Giáo dục phổ thông === Năm 2004, Thái Bình có 295 trường mầm non, 293 trường tiểu học, 276 trường trung học cơ sở, 39 trường trung học phổ thông. Top trường THPT của tỉnh Thái Bình gồm có: Chuyên Thái Bình (chuyên tỉnh Thái Bình) Nguyễn Đức Cảnh (Tp.Thái Bình), Lê Quý Đôn (Tp. Thái Bình) Bắc Đông Quan (huyện Đông Hưng), Tây Tiền Hải (huyện Tiền Hải), Bắc Kiến Xương (huyện Kiến Xương), Đông Thụy Anh (huyện Thái Thụy), Quỳnh Côi (huyện Quỳnh Phụ), Bắc Duyên Hà (huyện Hưng Hà), Nguyễn Trãi (huyện Vũ Thư). == Giao thông == Đường bộ: Quốc lộ 10 sang Nam Định và đi Hải Phòng; quốc lộ 39 nối Hưng Yên - Hưng Hà - Đông Hưng & Tp. Thái Bình - tt. Diêm Điền; đường 217 sang Hải Dương, Quốc lộ 37 nối Cảng Diêm Điền với tỉnh Sơn La. Dự án Đường cao tốc Ninh Bình - Nam Định - Hải Phòng - Quảng Ninh đi qua Thái Bình. Đường thuỷ: Cảng Diêm Điền, đang đầu tư xây dựng để tàu 1.000 tấn có thể ra vào. Cầu Hiệp nối 2 tỉnh Thái Bình và Hải Dương, chiều dài cầu 542.5 m, khổ rộng 12m, tổng mức đầu tư 245.425 tỷ đồng Dự án xây dựng cầu Thái Hà vượt sông Hồng và tuyến đường bộ nối 2 tỉnh Thái Bình, Hà Nam với đường cao tốc Cầu Giẽ - Ninh Bình (khởi công ngày 25/1/2010). Giai đoạn 2 của dự án nối quốc lộ 10 với đường ven biển Tiền Hải - Thái Thuỵ Dự án tuyến đường ôtô cao tốc ven biển đang được chính phủ nghiên cứu khả thi, dự án tại Thái Bình qua 2 huyện: Thái Thụy và Tiền Hải Đường 39B nối tt. Thanh Nê với tt. Diêm Điền dài 28.9 km . Tuyến xe buýt nội tỉnh Thái Bình 1, Tuyến 01 Hoàng Hà: TP. Thái Bình - KCN Tiền Hải. Lộ trình: Cầu Phúc Khánh - Đường Trần Thái Tông - Đường Lý Bôn (Vườn Hoa, Bến xe khách Thái Bình, Bệnh viện Đa khoa Thái Bình) - Đường Lê Lợi - Đường Lý Thường Kiệt - Quốc lộ 39 B (Thị trấn huyện Kiến Xương, Thị trấn huyện Tiền Hải) - Khu vực ngã tư xã Đông Minh huyện Tiền Hải. 2, Tuyến 02 Hoàng Hà: TP. Thái Bình - TT. Diêm Điền. Lộ trình: Trường CĐSP Thái Bình - Đường Quang Trung - Đường Lý Bôn (Vườn Hoa, Bến xe khách Thái Bình) - Quốc lộ 10 - Quốc lộ 39 (huyện Đông Hưng) - Cống Thóc thị trấn Diêm Điền - Hồng Quỳnh huyện Thái Thụy. 3, Tuyến 03 Hoàng Hà: TP. Thái Bình - Cầu Triều Dương. Lộ trình: Trường CĐSP Thái Bình - Đường Quang Trung - Ngô Thì Nhậm - Đường Lý Bôn (BV Đa khoa Thái Bình, Vincom Thái Bình - Bến xe khách Thái Bình) - Quốc lộ 10 (huyện Đông Hưng) - Quốc lộ 39 (huyện Hưng Hà) - Cầu Triều Dương tỉnh Hưng Yên. 4, Tuyến 04 Hoàng Hà: TP. Thái Bình - Phố Bến Hiệp. Lộ trình: Trường CĐSP Thái Bình - Đường Quang Trung - Ngô Thị Nhậm - Đường Lý Bôn (Vườn Hoa, Bến xe khách Thái Bình) - Quốc lộ 10 (huyện Đông Hưng) - Ngã ba Đọ - Thị trấn Quỳnh Côi - Bến Hiệp huyện Quỳnh Phụ. 5, Tuyến 05 Hoàng Hà: TP. Thái Bình - Bến xe Chợ Lục. Lộ trình: Trường CĐSP Thái Bình - Đường Quang Trung - Đường Lý Bôn (Vườn Hoa, Bến xe khách Thái Bình) - Quốc lộ 10 - Quốc lộ 39 (huyện Đông Hưng) - Thái Giang - Thái Hà - Thái Phúc - Chợ Lục, Thái Ninh huyện Thái Thụy. 6, Tuyến 06 Hoàng Hà: Thành phố Thái Bình - Tịnh Xuyên – Hưng Hà. Lộ trình: Trường CĐSP Thái Bình - Cầu Cống Trắng - Đường Ngô Thì Nhậm - Đường Phan Bá Vành - Đường Lý Bôn - Bệnh viện Đa khoa Thái Bình - Vimcom Thái Bình - Bến xe khách Hoàng Hà - Ngã tư Tân Bình (Trường ĐH Thái Bình) - Tân Hòa - Minh Lãng - Song Lãng - Hiệp Hòa - Xuân Hòa – Cầu Tịnh Xuyên - Thị trấn Hưng Hà - Bệnh viện đa khoa Hưng Hà (Ngã Tư La). == Văn hóa-xã hội == === Văn hóa truyền thống === Có gần 82 lễ hội đặc sắc, 16 loại hát múa, trò chơi như: chiếu chèo "làng Khuốc", trò múa rối nước làng Nguyên Xá (Đông Hưng) và làng vườn Bách Thuận (Vũ Thư) v.v. Phát triển du lịch văn hoá gắn với các lễ hội, Đền Trần, tham quan chùa Keo, đền Mẫu Đợi xã Đông Hải huyện Quỳnh Phụ,đền Đồng Bằng xã An Lễ huyện Quỳnh Phụ, đền Tiên La, du lịch sinh thái gắn với xây dựng Khu du lịch Cồn vành, Cồn Thủ, du lịch làng nghề (Đồng Xâm, Hồng Thái Capital - Kiến Xương...), du lịch biển (Đồng Châu - Tiền Hải), đặc là khu resort Cồn Đen đang được xây dựng tại xã Thái Đô, Thái Thụy, Thái Bình Nhà hát Chèo Thái Bình là đơn vị nghệ thuật chèo chuyên nghiệp, nơi bảo tồn và lưu giữ nghệ thuật chèo trên quê hương Thái Bình. === Di tích lịch sử === Thành phố Thái Bình: Chùa Đoan Túc, Đình Bo, Chùa Chành, Chùa Tống Vũ, Đình Lạc Đạo, nhà hát Chèo Thái Bình. Đông Hưng: Miếu Bắc, Đền Rèm, Đình Hậu Trung - Hậu Thượng, Từ đường Phạm Huy Quang, Làng Kháng chiến Nguyên Xá, Lăng Thái Bảo, Đình Bứa Hưng Hà: Đền Trần Thái Bình, Đền Tiên La, Lăng Thái sư Trần Thủ Độ & Quốc mẫu Trần Thị Dung, Từ đường Nguyễn Tông Quai, Từ đường - Lăng mộ nhà bác học Lê Quý Đôn Quỳnh Phụ: Đền Đồng Bằng, Đền Mẫu Đợi, Chùa La Vân, Đền Bến tượng A Sào Vũ Thư: Chùa Keo, Khu lưu niệm Bác Hồ, Chùa Hội, Đền Thượng, Chùa Bổng Điền, Chùa Bách Tính, Từ đường Hoàng Công Chất, Từ đường Bùi Sỹ Tiêm, Đình La Uyên,Chùa Phượng Vũ. Thái Thụy: Đền Hét, Đình An Tiêm, Khu lưu niệm - Lăng mộ Nguyễn Đức Cảnh, Từ đường Quách Đình Bảo - Quách Hữu Nghiêm, đền Côn Giang, Nhà lưu niệm Phạm Thế Hiển Kiến Xương: Đền Vua Rộc, Nhà lưu niệm Nguyễn Mậu Kiến, Cơ sở Xứ ủy Bắc Kỳ Tiền Hải: Khu lưu niệm Ngô Quang Bích, Khu lưu niệm Bùi Viện, Đình Tiểu Hoàng, Lăng Nguyễn Công Trứ === Danh nhân === Thái Bình cũng là quê hương của các vị danh nhân tiêu biểu qua nhiều thời kỳ. Trước thời kỳ phong kiến, nơi này có những danh nhân tiêu biểu như: Bát nạn tướng quân Vũ Thị Thục Nương (thế kỷ I)- bà là một nữ tướng tài ba dưới thời 2 Bà Trưng; Sứ quân Trần Lãm (?-967), người có công giúp đỡ Đinh Bộ Lĩnh dẹp 12 sứ quân, sau này lập ra nhà Đinh (968 - 980); Bùi Quang Dũng (thế kỷ X) là tướng Nhà Đinh có công khai khẩn đất hoang, một nhà hoạt động chính trị; Ðỗ Ðô (1042-?) là một thiền sư nổi tiếng thời Lý; Cũng trong thời nhà Lý (1010-1225), Hưng Hà là quê hương của Thái úy Lưu Khánh Đàm, Thái úy Tô Hiến Thành,Thái úy phụ chính Tô Trung Từ, Thái phó Lưu Ba, Thái phó Đàm Dĩ Mông. Vương triều Trần có các vua Trần, có Thái sư Trần Thủ Độ, Linh Từ quốc mẫu Trần Thị Dung. Thời hậu Lê có Lễ Nghi học sĩ Nguyễn Thị Lộ, vợ Nguyễn Trãi. Thời vua Lê Hiển Tông (1740-1786) có danh tướng, danh y(thái y) Hà Tự Tâm, Thái Thịnh, Thái Thuỵ, Thái Bình. Nhà bác học lỗi lạc Lê Quý Đôn. Trước, trong và Sau cách mạng tháng tám, Thái Bình có: * Nguyễn Đức Cảnh, một trong những đảng viên đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam, khi thành lập ngày 03/02/1930. Hoàng Văn Thái (1915 - 1986), Đại tướng Quân đội nhân dân Việt Nam, Tổng tham mưu trưởng đầu tiên, Tư lệnh Quân giải phóng miền Nam. Vũ Ngọc Nhạ (1928-2002) là một trong 4 huyền thoại trong ngành Tình báo Việt Nam, và là một Thiếu tướng của Quân đội Nhân dân Việt Nam. Phạm Tuân (1947-) là phi công, phi hành gia đầu tiên của Việt Nam và châu Á bay lên vũ trụ vào năm 1980 trong chương trình Intercosmos của Liên Xô. Ông cũng là một trong số ít người nước ngoài được trao tặng danh hiệu Anh hùng Liên Xô. Bùi Quang Thận (1948-2012) là người lính Quân đội Nhân dân Việt Nam đầu tiên cắm lá cờ chiến thắng của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam trên nóc dinh Độc Lập vào lúc 11 giờ 30 phút ngày 30 tháng 4 năm 1975 Hoàng Trung Hải (27 tháng 9 năm 1959 -) quê tại xã Quỳnh Giao, huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình) là một chính khách Việt Nam, Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa IX, X, XI, XII. Từ ngày 05/02/2016, ông là Bí thư Thành ủy Hà Nội, Phó Thủ tướng Chính phủ Việt Nam, nguyên Bộ trưởng Bộ Công nghiệp Việt Nam, Đại biểu Quốc hội khóa VIII, XI, XIII. Trần Quốc Vượng là đại biểu Quốc hội Việt Nam các khóa XII và XIII, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Trung ương. Ông là Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam các khóa X, XI và XII, nguyên Chánh Văn phòng Trung ương Đảng; nguyên Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao. == Thể dục - thể thao == === Thể dục - thể thao phong trào === Đội bóng Nhi đồng Thái Bình (U11 Thái Bình) đã từng hai lần vô địch Giải vô địch bóng đá nhi đồng Việt Nam vào các năm 1997 và 2010 tại Thái Nguyên, một lần giải ba Giải vô địch bóng đá nhi đồng Việt Nam năm 2006 tại Khánh Hòa và hai lần đồng giải ba Giải vô địch bóng đá nhi đồng Việt Nam vào các năm 2004 và 2008. Đội bóng Thiếu niên Thái Bình (U13 Thái Bình) đã từng hai lần giành ngôi Á quân Giải vô địch bóng đá thiếu niên Việt Nam vào các năm 2006, 2007 và giải ba Giải vô địch bóng đá thiếu niên Việt Nam năm 2008. Thái Bình cũng có một số cầu thủ bóng đá được gọi vào đội tuyển quốc gia như: Vũ Công Tuyền, Nguyễn Văn Biển,Bùi Quang Huy, Hoàng Danh Ngọc Ngoài ra các đội chạy việt dã của tỉnh đã từng tham gia các giải chạy việt dã báo tiền phong qua các năm và đạt được những thanh tích cao. === Thể dục - thể thao chuyên nghiệp === Đội bóng chuyền nữ Thái Bình là một trong các đội bóng chuyền mạnh quốc gia, đội đã từng vô địch Giải vô địch bóng chuyền Việt Nam năm 2007 và đội đã ba lần đạt giải á quân Giải vô địch bóng chuyền Việt Nam ở các mùa giải 2004, 2006 và 2008. Đội bóng chuyền nữ Thái Bình đã 2 lần đạt đứng thứ ba Giải vô địch bóng chuyền Việt Nam qua các mùa giải 2005 và 2009. Gương mặt nổi bật như Bùi Thị Huệ, Lê Thị Mười... Đoàn thể thao tỉnh Thái Bình đã đứng thứ 15 trên 66 đoàn tham gia đại hội thể dục thể thao toàn quốc lần thứ VI năm 2010 với 37 bộ huy chương (bao gồm: 11 huy chương vàng, 12 huy chương bạc và 14 huy chương đồng) Tay vợt Nguyễn Thị Bình Thơ thi đấu hơn mười năm qua, có thành tích đáng nể với tổng số 38 huy chương các loại từ các giải Quốc gia, Quốc tế, trong đó có 17 huy chương Vàng, 14 huy chương bạc và 7 huy chương đồng. Song ấn tượng nhất và được giới cầu lông toàn Quốc nể trọng, người hâm mộ mãi lưu tên là thành tích liên tục bốn năm liền từ 2006 đến 2009, Bình Thơ giành vô địch và bảo vệ thành công ngôi vô địch đơn nữ cầu lông toàn quốc. == Ẩm thực == Thái Bình có nhiều đặc sản nổi tiếng như: Bánh cáy làng Nguyễn (làng Nguyễn, xã Nguyên Xá, huyện Đông Hưng), Ổi Bo (làng Bo, phường Hoàng Diệu, thành phố Thái Bình), Canh cá Quỳnh Côi (thị trấn Quỳnh Côi, huyện Quỳnh Phụ), Gỏi nhệch, Sứa muối, chả Rươi, chả Cá (huyện Thái Thụy), Bánh chưng Cầu Báng (xã Tân Bình, TP Thái Bình) Bánh gai Đại Đồng(xã Tân Hòa, huyện Vũ Thư), Bánh giò Bến Hiệp (Bến Hiệp xã Quỳnh Giao, huyện Quỳnh Phụ) Cá nướng Thái Xuyên (xã Thái Xuyên, huyện Thái Thuỵ)... == Những làng nghề nổi tiếng == === Làng nghề chạm bạc Đồng Xâm === Làng nằm ở phía Bắc của huyện Kiến Xương, thuộc xã Hồng Thái, đây là một làng nghề chạm khắc trên mặt kim loại. Cách đây hơn 300 năm nghệ nhân nghề chạm bạc tên là Nguyễn Kim Lâu theo thuyền dọc sông Trà Lý về lập nghiệp ở đây. Ông đã truyền nghề chạm bạc cho dân làng, trải qua nhiều thời kỳ đến nay nghề vẫn được duy trì và ngày càng phát triển. Sau khi ông mất, để tưởng nhớ đến công lao của ông nhân dân ở đây đã lập đền thờ ông ở ngay làng gọi là Đền Đồng Xâm. Hàng năm lễ hội đền Đồng Xâm được tổ chức từ ngày 1- 5/4 âm lịch với nghi lễ rước, tế linh đình, các trò chơi dân gian được duy trì và mở rộng nên đã thu hút được nhiều du khách từ các tỉnh, thành về dự. Vào ngày hội các sản phẩm chạm bạc của làng được trưng bầy và bán hàng lưu niệm. nguồn Thaibinh.gov.vn === Làng Nguyễn === Làng Nguyễn chỉ là một tên gọi khác của xã Nguyên Xá huyện Đông Hưng tỉnh Thái Bình. Nói tới Thái Bình là mọi người nghĩ ngay đến một món đặc sản đó là Bánh Cáy Làng Nguyễn. Cũng không biết nghề làm Bánh Cáy có từ bao giờ nhưng tương truyền ngày xửa ngày xưa (mình cũng không nhớ là vào đời vua nào nữa) hoàng tử con vua mắc bệnh biếng ăn, bao nhiêu là cao lương ngũ vị nhưng hoàng cũng chẳng chịu ăn và ngày một gầy đi. Hoàng thượng lo lắng đã ban chiếu trong cả nước mong tìm được một món ăn làm cho hoàng tử thích nhất. Sau một thời gian chiếu ban, bao nhiêu là món ngon của lạ được dâng lên nhưng tất cả đều không được hoàng tử để ý đến, tất cả triều đình đều lo cho sức khỏe của người. Một hôm, có một người ăn mặc rách rưới đến xin được yết kiến hoàng thượng và nói rằng có thể làm một món mà sẽ làm cho hoàng tử thích. Nhìn người đàn bà rách rưới, các quan ra mặt khinh bỉ nhưng nghe nói có thể làm được món mà hoàng tử thích nên cũng để cho làm thử xem sao.Sau khi món ăn được dâng lên thì lạ thay hoàng tử đã rất thích và ăn một cách ngon lành. Đức vua và bá quan văn võ đều lấy làm vui mừng, nhà vua quyết định ban thưởng cho người đàn bà đã làm ra thứ bánh đó. Nhưng khi nhà vua cho triệu tập thì người đó đã bỏ đi, nhà vua cho tìm tung tích nhưng chẳng được kết quả j chỉ biết rằng người đó làm nghề mò bán cáy. Để ghi nhớ công ơn của bà, nhà vua quyết định đặt tên cho món đó là món Bánh Cáy. Đó là sự tích mà mọi người được biết về món Bánh Cáy, chẳng biết thục hư ra sao nhưng Bánh Cáy ngày nay đã trở thành một đặc sản của Thái Bình và Làng Nguyễn đã trở thành cái nôi sản sinh ra món đặc sản đó. === Làng Chiếu Tân Lễ === Làng Hới (Thái Bình) có nghề dệt chiếu lâu đời và nổi tiếng ở làng Hải Triều xã Tân Lễ Thái Bình (tên tỉnh). Chưa có ai biết nghề chiếu xuất hiện ở Hới từ bao giờ, cũng như Tổ nghề thật sự là ai. Theo truyền thuyết, vào thời Tiền Lê - Lý (thế kỷ X-XI), làng Hới đã bắt đầu dệt chiếu, rồi phát triển mạnh vào thời Hậu Lê (thế kỷ XV). Nghề dệt chiếu Hới thịnh đạt lúc bấy giờ là nhờ công lao của Trạng nguyên Phạm Đôn Lễ (1457 - ?)- Ông người làng Hải Triều, huyện Ngự Thiêm, phủ Tân Hưng. Ông thi đỗ Trạng nguyên khoa thi Tân Sửu, niêu hiệu Hồng Đức năm thứ 12 (1481) làm quan tới chức Thượng thư. Khi ông lớn lên, làng Hới đã có nghề dệt chiếu từ lâu. Nhưng chiếu dệt khung đứng, không có ngựa đỡ sợi nên chiếu không đẹp. Đi sứ sang Trung Quốc, khi qua vùng Ngọc Hà, Châu Quế Lâm, tỉnh Quảng Tây, Phạm Đôn Lễ đã tìm hiểu và học được bí quyết kỹ thuật dệt chiếu của người Trung Quốc. Đó là kỹ thuật dệt khung nằm, có ngựa đỡ sợi dọc, làm cho sợi đay căng, chao cói nhanh hơn và chiếu đẹp hơn. Ông đã phổ biến kinh nghiệm và kỹ thuật dệt mới cho nhân dân. Ông cho cải tiến khung dệt. Nhờ vậy, chiếu Hới đẹp hơn và nổi tiếng từ đó. Dân làng tôn ông là ông Tổ nghề dệt chiếu, gọi ông là "Trạng Chiếu" và lập đền thờ sau khi ông mất; đền thờ Phạm Trạng nguyên. Như thế, sản phẩm chiếu dệt thủ công của làng Hới từ lâu đã trở thành một sản phẩm tiêu biểu không chỉ của một địa phương nhỏ, mà của cả một tỉnh nông nghiệp loại lớn nhất ở đồng bằng Bắc Bộ và lưu vực sông Hồng. === Làng vườn Bách Thuận === Làng Bách Thuận nằm cách Thành phố Thái Bình 10 km theo hướng Cầu Tân Đệ đi Nam Định thuộc huyện Vũ Thư. Đây là một làng vườn trù phú, rìa làng là bãi phù sa nơi trồng dâu nuôi tằm. Trong làng là những vườn cây ăn quả, cây cảnh. Đến Bách Thuận du khách như lạc vào công viên thu nhỏ với đủ các gam màu đậm, nhạt dọc theo hai bên đường làng là màu xanh của cây hòe, táo. Thiên nhiên ưu đãi cho Bách Thuận phát triển nghề vườn truyền thống, ở đây có đủ các loại hoa quả bốn mùa: táo, ổi, cam, chanh, hồng xiêm, roi, chuối bên cạnh những vườn cây ăn quả là những vườn cây cảnh, cây thế. Mỗi loại cây cảnh đều mang một dáng, nét riêng với những tên gọi khác nhau tùy theo sự uốn tỉa của chủ nhân của nó. Bách Thuận còn là một làng quê cổ, tiêu biểu cho vùng quê ở vùng đồng bằng bắc bộ. Nơi đây có chùa Từ Vân và chùa Bách Tính đã được Nhà nước công nhận xếp hạng di tích lịch sử, là một điểm du lịch để du khách đến tham quan, vãn cảnh. Du khách trong và ngoài nước rất thích thú với cảnh quan, môi trường sinh thái ở làng vườn Bách Thuận này. == Những khu du lịch nổi tiếng == === Biển Đồng Châu === Biển Đồng Châu thuộc huyện Tiền Hải, cách thành phố Thái Bình 35 km theo tỉnh lộ đi Kiến Xương - Tiền Hải. Khu du lịch bao gồm bờ biển thuộc xã Đông Minh; Cửa Lân; hai đảo biển Cồn Thủ và Cồn Vành. Diện tích toàn khu du lịch rộng hàng chục km2, trung tâm của khu du lịch là bãi biển Đồng Châu dài 5 km, nơi đây đã hình thành hệ thống các khách sạn, nhà nghỉ cao tầng. Ngoài ra, Đồng Châu còn có đền Nhà Bà thờ vợ một vị vua đời Tống bên Trung Quốc đã có công giúp nhà Trần đánh quân Nguyên Mông và đây cũng là cơ sở hoạt động của xứ uỷ Bắc Kỳ trước cách mạng tháng Tám. === Khu du lịch sinh thái biển Cồn Vành === Cách đất liền 7 km, Cồn Thủ và Cồn Vành nổi lên như hai ngọn sóng xanh giữa biển khơi. Cồn Thủ có bãi cát trắng mịn, có rừng thông, rừng phi lao xanh ngắt, có bãi tắm nhỏ thơ mộng là địa điểm lý tưởng cho du khách đi tắm biển, tổ chức các cuộc picnic và nghỉ dưỡng bằng tàu thuyền với các trò vui chơi, giải trí trên biển như câu cá, lướt ván, bóng chuyền bãi biển... Cồn Vành rộng 15km2, có khu bảo tồn rừng ngập mặn là điểm dừng chân của các loài chim quý hiếm như cò thìa, bồ nông, mòng biển... Hằng năm nơi đây đã thu hút rất nhiều du khách là các nhà nghiên cứu, khách du lịch tới thăm cồn đảo. Cồn Vành được xem là một điểm có nhiều tiềm năng thuận lợi để phát triển thành một khu du lịch sinh thái lý tưởng và hấp dẫn. Đây là bãi sa bồi rộng gần 2 nghìn hecta, với địa hình tương đối bằng phẳng, nằm ở phía đông xã Nam Phú (Tiền Hải), phía Bắc giáp Cồn Thủ, phía Nam giáp cửa Ba Lạt (cửa sông Hồng), phía Đông giáp biển đông. Cồn Vành thuộc khu vực khu dự trữ sinh quyển châu thổ sông Hồng (đã được UNESCO công nhận vào tháng 12 năm 2004), nằm trong hệ thống liên hoàn các khu rừng ngập mặn ven biển trải dài từ Ninh Bình - Nam Định - Thái Bình. Nơi đây có hệ sinh thái rừng ngập mặn khá phong phú với nhiều loài thực vật như sú, vẹt, bần, thông, trên 200 loài hải sản có giá trị và nhiều loài chim quý hiếm. Ngày nay, nhờ có tuyến đê PAM dài gần 10 km và 4 cây cầu mới được xây dựng, nối liền các nhánh sông, việc đi lại đã thuận tiện hơn rất nhiều, khiến cho giao thông đến Cồn Vành trở nên dễ dàng hơn. === Khu du lịch sinh thái biển Cồn Đen === Cồn Đen Cách đất liền khoảng 3 km thuộc địa phận xã Thái Đô, Thái Thuỵ, Thái Bình. Cách trung tâm TP Thái Bình khoảng 40 km. Nơi đây vẫn giữ được những nét hoang sơ của một cồn biển đẹp nhất miền Bắc với rừng ngập mặn ven biển gồm những loại sú vẹt, bần đước, và những rặng phi lao thẳng tắp và rừng dừa nước ngập mặn rất hoang sơ. == Tỉnh kết nghĩa == Tỉnh Trà Vinh, Việt Nam == Hình ảnh Thái Bình == == Tham khảo == Bài báo Thái Bình dưới thời Lê Tài liệu Địa chí Thái Bình, tập I và II, Nguyễn Quang Ân - Nguyễn Thanh (chủ biên) == Liên kết ngoài == Trang thông tin chính thức của Thái Bình
baht.txt
Baht (tiếng Thái: บาท, ký hiệu ฿, mã ISO 4217 là THB) là tiền tệ của Thái Lan. Đồng bạt được chia ra 100 satang (สตางค์). Ngân hàng Thái Lan là cơ quan chịu trách nhiệm phát hành tiền tệ. Một bạt cũng là một đơn vị đo trọng lượng vàng và thường được sử dụng trong những người làm đồ trang sức và thợ vàng ở Thái Lan. 1 bạt = 15,244 g (15,244 g được sử dụng đối với nén hoặc thoi hoặc vàng "thô"; trong trường hợp đồ kim hoàn, 1 hơn 15,16 g). == Lịch sử == Trước đây, Thái Lan sử dụng đợn vị tiền tệ gọi là tical và tên này đã được sử dụng trong văn bản tiếng Anh trên các tờ giấy bạc cho đến năm 1925. Tuy nhiên, đơn vị tiền tệ bạt đã hình thành vào thế kỷ 19. Cả tical và bạt ban đầu đều đã là các đơn vị trọng lượng và các đồng xu đã được phát hành bằng cả vàng và bạc gọi tên theo trọng lượng của chúng tính bằng bạt và các phân số và bội số của nó. Cho đến 1897, đồng bạt đã được chia ra thành 8 fuang (เฝือง), mỗi fuang chia ra 8 att (อัธ). Các tên gọi được sử dụng như sau: Hệ thống thập phân hiện nay, theo đó 1 bạt = 100 satang, đã được vua Chulalongkorn áp dụng vào năm 1897. Tuy nhiên, đồng xu đặt tên theo các đơn vị cũ vẫn được phát hành cho đến tận năm 1910. Một tàn tích của hệ thống trước thập phân: 25 satang (¼ bạt) vẫn thông tục được gọi là một salueng hay salung (สลึง). Nó thường được sử dụng cho những số lượng không vượt qua 10 salueng hoặc 2,50 bạt. Một đồng 25-satang đôi khi cũng được gọi là đồng xu salueng (เหรียญสลึง, phát âm là 'rian salueng'). Cho đến ngày 27 tháng 11 năm 1902, đồng tical đã được cố định trên một cơ sở bạc ròng, với 15 g bạc là 1 bạt. Điều này khiến cho giá trị đơn vị tiền tệ của Thái Lan dễ biến động so với các đồng tiền theo chế độ bản vị vàng. Năm 1857, giá trị của một số đồng tiền bạc nhất định đã được cố định theo quy định của pháp luật, với 1 bạt= 0,6 Straits dollar và 5 bạt = 7 rupee Ấn Độ. Trước năm 1880, tỷ giá hối đoái đã được cố định ở mức 8 bạt một Bảng Anh, song đã tụt xuống 10 bạt một bảng trong thập niên 1880. == Tỉ giá hối đoái hiện thời của đồng THB == == Tham khảo == == Liên kết ngoài == (tiếng Thái) Compare exchange rates of the Thai Baht from many bank in Thailand.
the world factbook.txt
The World Factbook (ISSN 1553-8133; cũng gọi là CIA World Factbook; tiếng Việt: Sách Dữ kiện Thế giới) là một ấn bản phẩm thường niên của CIA Hoa Kỳ theo kiểu thông tin niên giám về các quốc gia trên thế giới. Factbook cung cấp thông tin giản lược về nhân khẩu, địa lý, giao thông, chính quyền, kinh tế và quân sự của 266 quốc gia, khu vực và vùng độc lập được Hoa Kỳ công nhận trên thế giới. The World Factbook được CIA biên soạn để cung cấp tài liệu cho quan chức của chính phủ Mỹ sử dụng, và nội dung, cách thức, phạm vi của nó chủ yếu trình bày theo yêu cầu của những người sử dụng chính này. Tuy nhiên, cuốn sách này cũng được sinh viên, các ấn phẩm phi chính phủ sử dụng làm nguồn dẫn. Là một ấn phẩm của chính phủ Hoa Kỳ, bản quyền của cuốn sách này thuộc dạng phạm vi công cộng (public domain). == Nguồn dữ liệu cho Factbook == Để nghiên cứu cho cuốn Factbook, CIA sử dụng các nguồn dưới đây. Những nguồn công cộng và tư nhân khác cũng được xem xét đến. Chương trình Thông tin Nam cực (Quỹ Khoa học Quốc gia) Cơ quan Tình báo Y học Các lực lượng vũ trang (Bộ Quốc phòng) Cục Điều tra Dân số (Bộ Thương mại) Cục Thống kê Lao động (Bộ Lao động) Cơ quan Tình báo Trung ương Hoa Kỳ Hội đồng Giám đốc các Chương trình Nam cực Quốc gia Cơ quan Tình báo Quốc phòng (Bộ Quốc phòng) Bộ Năng lượng Bộ Ngoại giao Dịch vụ Cá và Động vật hoang dã (Bộ Nội vụ) Cơ quan Quản lý Hàng hải (Bộ Giao thông) Cục Quốc gia Hoa Kỳ về do thám mặt đất (Bộ Quốc phòng) Naval Facilities Engineering Command (Bộ Quốc phòng) Phòng Quốc hải vụ (Bộ Nội vụ) Phòng Tình báo Hải quân (Bộ Quốc phòng) Ủy ban Địa danh Hoa Kỳ (Bộ Nội vụ) Bộ tư lệnh Giao thông Hoa Kỳ (Bộ Quốc phòng) Tạp chí Xăng dầu == Bản quyền == Vì Sách dữ kiện thuộc phạm vi công cộng, mọi người được tự phân phối và chỉnh sửa nó theo mọi cách họ mong muốn, mà không cần sự cho phép của CIA. Tuy nhiên, CIA yêu cầu phải được trích dẫn khi sử dụng Sách dữ kiện. Tuy nhiên, con dấu chính thức của CIA không được sao chép mà không có sự cho phép theo đòi hỏi của Đạo luật CIA năm 1949 (50 U.S.C. mục 403m). Việc sử dụng sai trái con dấu chính thức của CIA có thể bị xử lý dân sự hoặc hình sự. == Tần suất cập nhật và sẵn có == Trước tháng 11 năm 2001, trang web Dữ kiện thế giới được cập nhật theo năm. Từ đó trở đi, trang web Dữ kiện được cập nhật hai tuần một lần; ấn bản in vẫn được cập nhật hàng năm. Nói chung, thông tin vào ngày 1 tháng 1 năm hiện tại sẽ được dùng để in cuốn Sách dữ kiện, được phát hành vào khoảng giữa năm. === Bản chính phủ của Sách dữ kiện === Phiên bản được phân loại đầu tiên của Sách dữ kiện được phát hành vào tháng 8 năm 1962 và bản không phân loại đầu tiên vào tháng 6 năm 1971. Dữ kiện thế giới bắt đầu phát hành ở dạng bản in ra công chúng từ năm 1975 và trên World Wide Web từ tháng 10 năm 1994. Phiên bản trang web có khoảng 6 triệu lượt viếng thăm mỗi tháng; nó có thể tải về được. Phiên bản in chính thức được bán với giá do Văn phòng In ấn Chính phủ và Dịch vụ Thông tin Kỹ thuật Quốc gia ấn định. Trong các năm trước, Sách dữ kiện cũng có ở dạng CD-ROM, vi phim, băng từ, và đĩa mềm. === In lại === Nhiều trang Internet sử dụng thông tin và hình ảnh từ Dữ kiện thế giới của CIA. Một số nhà xuất bản, trong đó có Grand River Books, Potomac Books (trước đây là Brassy's Inc.), và Skyhorse Publishing đã xuất bản lại sách dữ liệu trong vài năm gần đây. == Những thực thể trong Dữ kiện thế giới == Vào tháng 2 năm 2008, Dữ kiện thế giới gồm có 266 thực thể. Những thực thể này có được chia thành nhiều thể loại. Chúng là: Các quốc gia độc lập Thể loại nay có các quốc gia độc lập, mà CIA định nghĩa là người dân "về chính trị được tổ chức thành một quốc gia có chủ quyền với lãnh thổ có giới hạn". Trong thể loại này, có 194 thực thể. Khác Thể loại Khác là danh sách các nơi khác không nằm trong danh sách các quốc gia độc lập. Hiện nay chúng có hai thực thể: Đài Loan và Cộng đồng châu Âu. Quốc gia phụ thuộc và Khu vực chủ quyền đặc biệt Thể loại nàu là danh sách các nơi phụ thuộc vào quốc gia khác. Chúng có thể được chia nhỏ hơn thành các thể loại theo từng quốc gia mà chúng phụ thuộc: Úc: sáu thực thể Trung Quốc: hai thực thể Đan Mạch: hai thực thể Pháp: chín thực thể Hà Lan: hai thực thể New Zealand: ba thực thể Na Uy: ba thực thể Liên hiệp Vương quốc Anh và Bắc Ireland: mười bảy thực thể Hoa Kỳ: mười bốn thực thể Linh tinh Thể loại này dành cho Châu Nam cực và những nơi đanh tranh chấp. Chúng có sáu thực thể. Các thực thể khác Thể loại này dành cho Thế giới và đại dương. Có năm đại dương và Thế giới (mục Thế giới được dự định dùng tóm tắt 256 mục khác). == Những điều kỳ quặc và tranh cãi == === Về chính trị === Các lãnh thổ không đề cập Một số lãnh thổ trong một quốc gia hoặc khu vực đang tranh chấp giữa các quốc gia, như Kashmir, không được đề cập đến, nhưng những khu vực khác của thế giới có tình trạng đang tranh chấp, như Quần đảo Trường Sa, lại có mục từ. Những khu vực tiểu quốc gia trong một nước (như Tiểu bang Hoa Kỳ hay Các tỉnh và lãnh thổ của Canada) không được ghi trong Sách dữ kiện. Thay vào đó, người dùng tìm thông tin về khu vực tiểu quốc gia sẽ được chỉ đến "một bách khoa toàn thư tốt" nếu có nhu cần tham khảo. Tiêu chí này được đề xướng trong phiên bản 2007 với quyết định bỏ những mục viết về Guiana thuộc Pháp, Guadeloupe, Martinique, và Reunion. Chúng được bỏ đi vì ngoài việc là tỉnh hải ngoại, giờ đây chúng là vùng hải ngoại, một phần gắn liền vào nước Pháp. Kashmir Bản đồ mô tả Kashmir với biên giới Ấn Độ–Pakistan được vẽ tại Đường quản lý, nhưng khu vực Kashmir do Trung Quốc quản lý được vẽ bằng nét đứt. Bắc Síp Bắc Síp không được cho một mục tách biệt cũng như liệt kê như một phần của Thổ Nhĩ Kỳ vì "những khu dân cư/sát nhập lãnh thổ không được Chính phủ Hoa Kỳ công nhận sẽ không được vẽ trên bản đồ của Chính phủ Hoa Kỳ". Đài Loan/Trung Hoa Dân quốc Đài Loan có một mục riêng không liệt kê theo vần T, mà lại ở cuối danh sách. Tên "Trung Hoa Dân quốc" không được ghi như "tên chính thức" của Đài Loan tại đề mục "Chính quyền", do sự ghi nhận của Hoa Kỳ đối với chính sách một Trung Quốc theo đó chỉ có một nước Trung Quốc - Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa - và Đài Loan là một phần của nó. Tên "Trung Hoa Dân quốc" (Republic of China) được thêm vào ngày 27 tháng 1 năm 2005 nhưng ngay sau đó quay lại "none" (không). (Xem thêm: Vị thế chính trị của Đài Loan, Vị thế pháp lý của Đài Loan) Miến Điện/Myanmar Hoa Kỳ không thừa nhận việc đổi tên Miến Điện do phe quân sự lãnh đạo thực hiện thành Myanmar và do đó vẫn giữ mục từ dành cho quốc gia này dưới tên "Burma" (Miến Điện). Điều này là do sự thay đổi tên "không được chứng nhận bởi cơ quan lập pháp thực sự nào ở Miến Điện". Do đó, chính phủ Hoa Kỳ chưa bao giờ dùng cái tên Myanmar. Macedonia Cộng hòa Macedonia được ghi dưới tên Macedonia. Mặc dù sự thật là không có tổ chức quốc tế nào như Liên Hiệp Quốc, Liên minh châu Âu, NATO, Liên minh truyền thông châu Âu, và Ủy ban Olympics Quốc tế sử dụng dạng viết ngắn này (tất cả họ đều dùng cụm từ Cộng hòa Macedonia thuộc Nam Tư cũ). Lịch sử cái tên được dùng cho mục từ này khá phức tạp. Trong phiên bản 1992 của Dữ kiện thế giới, mục từ dành cho quốc gia này được liệt ở dạng quốc gia cũ (vào cùng thời điểm đó, những mục từ mới được thêm vào cho 20 quốc gia khi đó tách ra từ Liên Xô và Nam Tư; hai quốc gia này bị bỏ ra). Trong phiên bản 1994, tên của mục từ đổi thành Former Yugoslav Republic of Macedonia (Cộng hòa Macedonia thuộc Nam Tư cũ). Trong thập niên tiếp theo, nó vẫn là tên quốc gia này khi liệt kê tại đó. Cuối cùng, trong phiên bản 2004 của Sách dữ kiện, tên của mục từ này quay trở về Macedonia. Điều này xảy ra sau một quyết định của Hoa Kỳ vào tháng 11 năm 2004 rằng sẽ gọi Cộng hòa Macedonia thuộc Nam Tư cũ là Cộng hòa Macedonia. (Xem thêm Tranh cãi tên gọi Macedonia.) Liên minh châu Âu Vào ngày 16 tháng 12 năm 2004, CIA đã thêm một mục từ cho Liên minh châu Âu (EU). (Trước ngày này, EU nằm ngoài cuốn Sách dữ kiện). Theo CIA, Liên minh châu Âu được thêm vào vì EU "tiếp tục hướng về những tính chất ngày càng giống quốc gia". Khu vực bảo tồn hoang dã Đảo Thái Bình Dương Hoa Kỳ và Iles Eparses Trong phiên bản 2006 của Dữ kiện Thế giới, các mục từ dành cho Đảo Baker, Đảo Howland, Đảo Jarvis, Đá ngầm Kingman, Đảo san hô vòng Johnston, Đảo san hô vòng Palmyra, và Quần đảo Midway được nhập vào mục từ mới Khu vực bảo tồn hoang dã Đảo Thái Bình Dương Hoa Kỳ. Những mục từ cũ cho mỗi khu vực đảo được biến thành chuyển hướng tại trang web Sách dữ kiện website. Vào ngày 7 tháng 9 năm 2006, CIA cũng nhập các mục của Bassas da India, Đảo Europa, Quần đảo Glorioso, Đảo Juan de Nova, và Đảo Tromelin vào một mục từ mới Iles Eparses. Cùng với mục từ mới Khu vực bảo tồn hoang dã Đảo Thái Bình Dương Hoa Kỳ, năm mục từ cũ cho năm đảo vẫn tiếp tục làm chuyển hướng trên trang web. Vào ngày 19 tháng 7 năm 2007 mục Iles Eparses và những chuyển hướng cho mỗi đảo bị bỏ ra do nhóm này trở thành một quận của Vùng đất phía Nam và châu Nam cực thuộc Pháp vào tháng 2. Nam Tư/Serbia và Montenegro Nam Tư có một lịch sử đầy tranh cãi trên Sách dữ kiện. Trước năm 1992, Liên bang Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Nam Tư trong Sách dữ kiện. Vào năm 1992, mục từ này bị loại bỏ và các mục từ khác dành cho tất cả các nước cộng hòa cũ được thêm vào. Khi làm việc này, CIA đã liệt kê Liên bang Cộng hòa Nam Tư là Serbia và Montenegro. Điều này là do quyết định ngày 21 tháng 5 năm 1992 của Chính phủ Hoa Kỳ không công nhận Liên bang này (hoặc bất kỳ các nước cộng hòa khác) như quốc gia kế thừa của Nam Tư xã hội chủ nghĩa vừa giải thể. Chính phủ Mỹ cũng quyết định không công nhận bản thân Liên bang Nam Tư là một quốc gia. Những quan điểm này được ghi rõ trong lời phủ nhận được in trong cuốn Sách dữ kiện: Ngoài lời phủ nhận, những nước cộng hòa Serbia và Montenegro được đối xử độc lập nhau trong dữ liệu, có thể nhìn thấy trong bản đồ bên phải. Trong tháng 10 năm 2000, Slobodan Milošević đã từ chức sau một cuộc bầu cử đầy tranh cãi tổ chức vào tháng trước. Sự kiện này khiến tạo ra thay đổi trong phiên bản năm 2001 của Sách dữ kiện, với việc thực thể Serbia và Montenegro lại được đổi thành Nam Tư. Vào ngày 14 tháng 3 năm 2002, một thỏa thuận được ký để biến Liên bang Nam Tư thành một liên minh quốc gia có tên Serbia và Montenegro; nó có hiệu lực vào ngày 14 tháng 2 năm 2003. Cái tên thực thể Nam Tư được thay đổi trong Sách dữ kiện một tháng sau sự thay đổi. Đông Timor/Timor-Leste Vào ngày 19 tháng 7 năm 2007 mục từ dành cho Đông Timor (East Timor) được đổi tên thành Timor-Leste theo một quyết định của Ủy ban Địa danh Hoa Kỳ. Kosovo Vào ngày 28 tháng 2 năm 2008 CIA đã thêm một mục cho Kosovo; trước đó, Kosovo không được ghi trong Sách dữ kiện. Sự bổ sung này được thực hiện bất chấp Nga và Serbia cùng một số nước khác kịch liệt phản đối sự độc lập này, và nhiều quốc gia không công nhận nền độc lập của nó. (Xem Phản ứng của thế giới về tuyên bố độc lập của Kosovo năm 2008.) === Sự thật === Trước năm 1998, hồ sơ của Liên minh Vương quốc Anh và Bắc Ireland chứa một câu nói rằng UK giành được độc lập vào ngày 1 tháng 1 năm 1801. Dòng viết ngắn ngủi này, một sự mô tả gây bối rối do tham khảo Đạo luật Liên minh 1801 từ đó đã được mở rộng rất nhiều. == Số ISBN == Đây là danh sách Số hiệu sách chuẩn quốc tế (ISBN) dành cho phiên bản Chính phủ của Dữ kiện Thế giới. ISBN dành cho bản in lại của Potomac Books và Skyhorse Publishing của Sách dữ kiện cũng được ghi chú. Đối với phiên bản in lại, năm dữ liệu được ghi trong ngoặc. Phiên bản chính phủ 2000: ISBN 0-16-061343-4 2001: ISBN 0-16-066404-7 2002: ISBN 0-16-067601-0 2003: ISBN 0-16-067943-5 2004: ISBN 0-16-073030-9 2005: ISBN 0-16-074941-7 2006: ISBN 0-16-076547-1 2007: ISBN 978-0-16-078580-1 2008: TBD Bản in lại Potomac Books 2000 (1999): ISBN 1-57488-266-X 2001 (2000): ISBN 1-57488-346-1 2002 (2001): ISBN 1-57488-475-1 2003 (2002): ISBN 1-57488-641-X 2004 (2003): ISBN 1-57488-837-4 2005 (2004): ISBN 1-57488-942-7 2006 (2005): ISBN 1-57488-997-4 2007 (2006): ISBN 1-59797-109-X 2008 (2007): ISBN 1-59797-182-0 Bản in lại Skyhorse Publishing 2008 (2007): ISBN 978-1-60239-080-5 == Xem thêm == Ngoài Dữ kiện thế giới, CIA cũng xuất bản một thư mục có tên Các nhà lãnh đạo thế giới thường xuyên. Viết tắt được dùng trong Dữ kiện thế giới của CIA == Tham khảo == Bài viết này có chứa những dữ liệu từ Dữ kiện thế giới của CIA, và vì nó là ấn bản chính phủ Hoa Kỳ, nó thuộc phạm vi công cộng. == Liên kết ngoài == Current CIA World Factbook Mobile Edition of the current CIA World Factbook - updated monthly 1991 CIA World Factbook 1990 CIA World Factbook Previous editions of The World Factbook from the University of Missouri–St. Louis archive: 1992, 1993, 1994, 1995, 1996, 1997, 1998, 1999, 2000, 2001, 2002, 2003, 2004, 2005, 2006, 2007 The World Factbook for Google Earth: The Factbook as Google Earth placemarks On stephansmap.org: The CIA World Factbook accessible by location and date range; covers the years 2001–2007. All Factbook entries are tagged with "cia". Requires graphical browser with javascript. CIA World Factbook for Pocket PC và Palm OS devices CIA World Factbook 2006 for Pocket PC và Palm OS devices from Tomeraider CIA World Factbook 2007 as mobile friendly XHTML
khai thác mỏ.txt
Khai thác mỏ là hoạt động khai thác khoáng sản hoặc các vật liệu địa chất từ lòng đất, thường là các thân quặng, mạch hoặc vỉa than. Các vật liệu được khai thác từ mỏ như kim loại cơ bản, kim loại quý, sắt, urani, than, kim cương, đá vôi, đá phiến dầu, đá muối và kali cacbonat. Bất kỳ vật liệu nào không phải từ trồng trọt hoặc được tạo ra trong phòng thí nghiệm hoặc nhà máy đều được khai thác từ mỏ. Khai thác mỏ ở nghĩa rộng hơn bao gồm việc khai thác các nguồn tài nguyên không tái tạo (như dầu mỏ, khí thiên nhiên, hoặc thậm chí là nước). Khoảng 40.000 năm trước công nguyên, con người đã biết sử dụng mọi thứ xung quanh mình, kể cả đá cũng được dùng làm công cụ khai thác các khoáng sản. Sau một thời gian sử dụng hết những đá tốt trên bề mặt trái đất, con người bắt đầu đào bới để tìm những thứ họ cần. Những cái mỏ đầu tiên chỉ là những cái hố nông nhưng rồi những người khai mỏ sau buộc phải đào sâu thêm để tìm kiếm. Một trong những khoáng sản họ cần lúc bấy giờ là Hoàng Thổ, được dùng như sắc tố cho các mục đích lễ nghi và vẽ tranh trong hang động. Khu mỏ Hoàng Thổ được khai thác xưa nhất được tìm thấy là ở Bomvu Ridge thuộc Swaziland, châu Phi. == Lịch sử == === Khai thác mỏ thời tiền sử === Từ khi bắt đầu thời kỳ văn minh con người đã sử dụng đá, gốm và sau đó là kim loại được tìm thấy trên bề mặt Trái Đất. Các loại vật liệu này cũng đã được sử dụng để tạo ra các công cụ và vũ khí trong thời kỳ này, như đá lửa chất lượng cao được tìm thấy ở miền bắc nước Pháp và miền nam Anh được sử dụng để tạo ra đá lửa. Các mỏ đá lửa được tìm thấy trong các khu vực có đá phấn, ở đây các vỉa đá được đào ở dạng hầm. Các mỏ ở Grimes Graves rất nổi tiếng, và cũng giống như hầu hết các mỏ đá lửa khác, có tuổi thuộc thời kỳ đồ đá mới (khoảng 4000 TCN- khoảng 3000 TCN). Các loại đá cứng khác được khai thác hay thu thập để làm rìu bao gồm đá lục của công nghiệp rìu Langdale có cơ sở tại Lake District ở Anh. Các mỏ được biết đến cổ nhất theo ghi nhận của khảo cổ học là "hang Lion" ở Swaziland. Ở đây, theo phương pháp định tuổi cacbon chứng minh rằng mỏ được khai thác cách đây khoảng 43.000 năm, những cư dân thuộc thời kỳ đồ đá cũ đã khai thác hematit, một khoáng vật chứa sắt được nghiền nhỏ để làm chất tạo màu đỏ đất son. Các mỏ cùng tuổi ở Hungary được xem là các vị trí mà người Neanderthal đã từng khai thác đá lửa để chế tạo vũ khí và dụng cụ. === Ai Cập cổ đại === Những người Ai Cập cổ đại khai thác mỏ malachit ở Maadi. Ban đầu, người Ai Cập sử dụng các đá malachit màu lục sáng để trang trí khảm và làm đồ gốm. Sau đó, vào giữa những năm 2.613 và 2.494 TCN. các dự án xây dựng lớn đòi hỏi những cuộc hành trình khắp nơi đến vùng Wadi Maghara để "đảm bảo việc cung cấp nguồn khoáng sản và các nguồn tài nguyên khác mà Ai Cập không có." Các mỏ ngọc lam (turqoise) và đồng cũng được tìm thấy ở "Wadi Hamamat, Tura, Aswan và các vùng khác thuộc Nubia" trên bán đảo Sinai và ở Timna. Khai thác mỏ ở Ai Cập xuất hiện từ các triều đại sớm nhất, và các mỏ vàng của Nubia nằm trong số những mỏ lớn nhất và rộng nhất vào thời Ai Cập cổ đại, và chúng được tác giả người Hy Lạp Diodorus Siculus miêu tả lại. Ông đề cập rằng nung đá là một phương pháp dùng để phá hủy các đá cứng để lấy vàng. Họ nghiền quặng thành bột trước khi đãi chúng để lấy vàng cám. === La Mã và Hy Lạp cổ đại === Khai thác mỏ ở châu Âu đã có từ rất lâu, ví dụ như các mỏ bạc Laurium, giúp phát triển thành phố Hy Lạp thuộc Athens. Tuy nhiên, người La Mã đã phát triển các phương pháp khai thác mỏ trên quy mô rộng, đặc biệt việc sử dụng một lượng nước lớn để mang quặng đi bằng cống thoát nước. Nước được sử dụng vào nhiều mục đích khác nhau như để gạt bỏ lớp phủ và các đá vụn được gọi là khai thác mỏ thủy lực, cũng như rửa quặng đã được nghiền nhỏ, và vận hành các máy đơn giản. Họ sử dụng phương pháp thủy lực trên diện rộng để thu các mạch quặng, đặc biệt các dạng khai thác lỗi thời hiện không còn dùng nữa như hushing. Nó liên quan đến việc xây dựng một lượng lớn các cống cung cấp nước đến đầu mỏ (nơi đang khai thác), ở đây nước được chứa trong các bồn và bể lớn. Khi các bể chứa đầy được xả ra đẩy các vật liệu phủ làm lộ ra đá gốc và các mạch quặng nằm bên dưới. Đá lộ ra sau đó bị nung nóng bằng pháp đốt và bị làm lạnh bằng dòng nước. Sự thay đổi nhiệt độ nhanh làm cho đá bị vỡ ra và dễ thu hồi bằng các dòng nước từ các bồn chứa như cách bốc lớp phủ ở trên. Họ sử dụng phương pháp tương tự để thu hồi cassiterit ở Cornwall và quặng chì ở Pennines. Các phương pháp đã được phát triển bởi người La Mã ở Tây Ban Nha vào 25 CN để khai thác các mỏ vàng lớn trong bồi tích, khu mỏ lớn nhất nằm ở Las Medulas, ở đây có 7 hệ thống cống dài được xây dựng để lấy nước từ các con sông trong khu vực với mục đích là rửa quặng. Tây Ban Nha là một khu vực khai thác mỏ quan trọng nhất trong tất cả các khu vực khai thác của đế chế La Mã. Họ sử dụng guồng nước nghịch để tách nước từ các mỏ ở dưới sâu như ở Rio Tinto. Ở Anh, người bản địa đã khai thác mỏ khoáng sản các đây gần nghìn năm, nhưng khi người La Mã đến, hoạt động khai thác đã thay đổi nhanh chóng. Người La Mã cần những thứ mà người Anh đang sở hữu, đặc biệt là vàng, bạc, thiếc và chì. Kỹ thuật của người La Mã không chỉ giới hạn trong việc khai thác trên mặt, mà họ còn khai thác theo các mạch quặng dưới lòng đất khi đó việc khai thác lộ thiên không còn là vấn đề khó khăn. Ở Dolaucothi họ dừng khai thác các mạch, và chuyển sang đào các lối vào xuyên qua các đá khô cằn để tiêu thoát nước đọng trong mỏ. Các đường này vẫn còn được sử dụng để thông gió cho công trình, đặc biệt rất quan trọng khi sử dụng phương pháp đốt. Ở các phần khác của mỏ, họ đào qua mực nước ngầm và lấy nước từ mỏ bằng các máy móc như guồng nước nghịch. Các máy này được sử dụng phổ biến trong các mỏ đồng ở Rio Tinto, Tây Ban Nha, ở đây có 16 cái được xếp thành hai hàng có nhiệm vụ nâng khoảng 80 foot (24 m). Chúng được vận hành như các máy đi từng bước với thợ mỏ đứng trên thanh gỗ cao nhất. Một vài ví dụ như các bộ phận của nó được tìm thấy ở các mỏ La Mã cổ và một số được trưng bày trong bảo tàng Vương quốc Anh và bảo tàng quốc gia xứ Wales. === châu Âu thời trung cổ === Khai thác mỏ trong thời kỳ Trung Cổ được biết đến nhiều nhất từ công trình De Re Metallica (1556) của Georg Agricola, ông đã miêu tả một số phương pháp khai thác mỏ khác nhau, sau này được sử dụng trong các mỏ ở Đức và Saxon. Sử dụng năng lượng nước một dạng của cối xay nước được cải tiến; họ tạo ra quặng được nghiền nhỏ, đưa quặng lên từ hầm mỏ và thông gió trong mỏ bằng các ống thổi công suất lớn. Bột màu đen được sử dụng đầu tiên trong khai thác mỏ ở Selmecbánya, Vương quốc Hungary (ngày nay là Banská Štiavnica,Slovakia) vào năm 1627. Phương pháp dùng chất nổ này làm các khối đất đá vỡ ra và thu hồi mạch quặng nhanh hơn phương pháp đốt nêu trên. Năm 1762, học viện khai thác mỏ đầu tiên trên thế giới được thành lập trong thành phố này. === Nam Mỹ và Bắc Mỹ === Ở Bắc Mỹ đã có những mỏ đồng được khai thác vào thời tiền sử và thời cổ đại dọc theo hồ Superior. "Những người da đỏ bản địa đã mang lại nhiều lợi ích cho họ từ việc khai thác đồng ở đây ít nhất cách đây 5000," và những công cụ bằng đồng, đầu mũi tên, và các dụng cụ mang tính văn hóa khác là một phần trong mạng lưới giao thương bản địa đã được khám phá. Thêm vào đó, đá vỏ chai, đá lửa, và các khoáng sản khác được khai thác, chế biến và trao đổi. Trong khi các nhà thám hiểm người Pháp trước đây bắt gặp các mỏ này không sử dụng các kim loại bởi vì khó khăn trong việc vận chuyển, đồng được buôn bán trên toàn lục địa dọc theo các tuyến đường thủy chính. Ở Manitoba, Canada, cũng có các mỏ thạch anh cổ đại gần hồ Waddy và các vùng xung quanh. Trong lịch sử thuộc địa của châu Mỹ trước đây, "vàng và bạc tự nhiên được khai thác một cách nhanh chóng và chuyển chúng đến Tây Ban Nha trên các thuyền buồm chất đầy vàng và bạc" hầu hết từ các mỏ ở Trung và Nam Mỹ. Ngọc lam được định tuổi khoảng năm 700 được khai thác vào thời châu Mỹ tiền Columbus; trong khu vực mỏ Cerillos ở New Mexico, ước tính "khoảng 15.000 tấn đá đã bị bóc ra khỏi núi Chalchihuitl sử dụng công cụ bằng đá trước năm 1700." Khi thác mỏ ở Hoa Kỳ trở nên thịnh hành vào thế kỷ 19. Với cơn sốt vàng California vào giữa thập niên 1800, khai thác mỏ khoáng sản và kim loại quý cùng với nông trại, là một yếu tố tác động vào sự mở rộng về phía Tây đến bờ biển Thái Bình Dương. Với sự khảo sát về phía tây, các trại khai thác mỏ được dựng lên và "thể hiện một tinh thần đặc biệt, một gia sản lâu dài cho đất nước mới;" những người sốt vàng có thể gặp những vấn đề tương tự như những người sốt đất diễn ra trong thời gian ngắn ở miền Tây trước đó. bằng đường sắt, một số người đến miền Tây để tìm kiếm cơ hội làm việc trong ngành khai thác mỏ. Các thành phố miền Tây như Denver và Sacramento trước đây là các thành phố khai thác mỏ. == Các phương pháp và công đoạn khai thác mỏ == === Các bước phát triển mỏ === Quá trình khai thác mỏ bắt đầu từ giai đoạn phát hiện thân quặng đến khâu chiết tách khoáng sản và cuối cùng là trả lại hiện trạng của mặt đất gần với tự nhiên nhất gồm một số bước nhất định. Đầu tiên là phát hiện thân quặng, khâu này được tiến hành thông qua việc thăm dò để tìm kiếm và sau đó là xác định quy mô, vị trí và giá trị của thân quặng. Khâu này cung cấp những số liệu để đánh giá tính trữ lượng tài nguyên để xác định kích thước và phân cấp quặng. Việc đánh giá này là để nghiên cứu tiền khả thi và xác định tính kinh tế của quặng. Bước tiếp theo là nghiên cứu khả thi để đánh giá khả năng tài chính để đầu tư, kỹ thuật và rủi ro đầu tư của dự án. Đây là căn cứu để công ty khai thác mỏ ra quyết định phát triển mỏ hoặc từ bỏ dự án. Khâu này bao gồm cả quy hoạch mỏ để đánh giá tỷ lệ quặng có thể thu hồi, khả năng tiêu thụ, và khả năng chi trả để mang lại lợi nhuận, chi phí cho kỹ thuật sử dụng, nhà máy và cơ sở hạ tầng, các yêu cầu về tài chính và equity và các phân tích về mỏ như đã đề xuất từ khâu khai đào cho đến hoàn thổ. Khi việc phân tích xác định một mỏ có giá trị thu hồi, phát triển mỏ mới bắt đầu và tiến hành xây dựng các công trình phụ trợ và nhà máy xử lý. Vận hành mỏ để thu hồi quặng bắt đầu và tiếp tục dự án khi mà công ty khai thác mỏ vẫn còn thu được lợi nhuận (khoáng sản vẫn còn). Sau khi tất cả quặng được thu hồi sẽ tiến hành công tác hoàn thổ để làm cho đất của khu mỏ có thể được sử dụng vào mục đích khác trong tương lai. === Công nghệ khai thác mỏ === Công nghệ khai thác mỏ chủ yếu gồm 2 nhóm là khai thác mỏ lộ thiên và khai thác hầm lò. Đối tượng khai thác cũng được chia thành 2 nhóm tùy theo loại vật liệu: sa khoáng bao gồm các khoáng vật có giá trị nằm lẫn trong cuội lòng sông, cát bãi biển và các vật liệu bở rời khác; và quặng mạch hay còn gọi là quặng trong đá gốc, ở đây các khoáng vật có giá trị được tìm thấy trong các mạch, các lớp hoặc các hạt khoáng vật phân bố rải rác trong khối đá. Cả hai loại này đều có thể khai thác theo phương pháp lộ thiên và hầm lò. === Máy móc === === Chiết tách kim loại === == Tác động môi trường == Những ảnh hưởng của khai thác mỏ đến môi trường như xói mòn, tạo các hố sụt lún, suy giảm đa dạng sinh học, và ô nhiễm đất, nước ngầm và nước mặt bởi các hóa chất sử dụng trong các quá trình khai thác mỏ. Trong một số trường hợp, khai thác gỗ rừng bổ sung trong khu vực xung quanh mỏ để tăng khả năng chứa các loại đất và đá thải ra từ quá trình khai thác. Sự nhiễm do rò rĩ các chất hóa học cũng tác động đến sức khỏe của cư dân địa phương nếu không có biện pháp kiểm soát chặt chẽ. Các nhà máy xử lý quặng tạo ra một lượng lớn chất thải được gọi là đuôi quặng. Các chất thải này có thể có độc tính. Các đuôi quặng thường được thải ra ở dạng bùn thải, thường được thải vào các hồ chứa nằm trong các thung lũng tự nhiên. Các hồ chứa này thường được xây dựng giống như các đập. Các đập bị vỡ gây nhiều tổn hại đến môi trường như trong thảm họa khai thác Marcopper có ít nhất 2 triệu tấn đuôi quặng thải vào sông ở địa phương. Thải đuôi quặng ở dưới nước cũng là một lựa chọn. Ngành công nghiệp mỏ đã lập luận rằng việc thải đuôi quặng xuống biển sẽ tránh được các tác hại do các hồ chứa chất thải, mặc dù việc làm này là không hợp pháp ở Hoa Kỳ và Canada nhưng các nước đang phát triển vẫn thực hiện. nhưng các tác động tiêu cực liên quan đến hệ sinh thái biển là không lường trước được. == Công nghiệp khai thác mỏ == == An toàn == === Mỏ sau khai thác === == Kỷ lục == Đến năm 2008, mỏ sâu nhất trên thế giới là TauTona ở Carletonville, Nam Phi đạt đến độ sâu 3,9 km, kỉ lục trước đó là mỏ lân cận Savuka ở North West Province của Nam Phi đạt đến độ sâu 3.774 m. Mỏ East Rand ở Boksburg, Nam Phi từng lập kỷ lục ở độ sâu 3.585 m. Mỏ sâu nhất ở châu Âu là các mỏ khai thác urani thứ 16 ở Příbram, Séc ở độ sâu 1.838 m, thứ nhì là Bergwerk Saar ở Saarland, Đức sâu 1.750 m. == Xem thêm == == Chú thích == == Tham khảo == == Đọc thêm == Ali, Saleem H. (2003) Mining, the Environment and Indigenous Development Conflicts. Tucson AZ: University of Arizona Press. Ali, Saleem H. (2009) Treasures of the Earth: need, greed and a sustainable future. New Haven and London: Yale University Press Even-Zohar, Chaim (2002). From Mine to Mistress: Corporate Strategies and Government Policies in the International Diamond Industry. Mining Journal Books. tr. 555. ISBN 0-9537336-1-0. Geobacter Project: Gold mines may owe their origins to bacteria (in PDF format) Garrett, Dennis Alaska Placer Mining Jayanta, Bhattacharya (2007). Principles of Mine Planning (ấn bản 2). Wide Publishing. tr. 505. ISBN 81-7764-480-7. Morrison, Tom (1992) Hardrock Gold: a miner's tale. ISBN 0-8061-2442-3 John Milne: The Miner's Handbook: A Handy Reference on the subjects of Mineral Deposits(1894) Mining operations in the19th century.[5] Aryee, B., Ntibery, B., Atorkui, E. (2003) Trends in the small-scale mining of precious minerals in Ghana: a perspective on its environmental impact (in Journal of Cleaner Production 11: 131-140) The Oil, gas and Mining Sustainable Community Development Fund (2009) Social Mine Closure Strategy, Mali(in [6]) == Liên kết ngoài == First chapter of Introductory Mining Engineering An introduction to geology and hard rock mining
độ giãn nở nhiệt.txt
Độ giãn nở nhiệt là xu hướng vật chất thay đổi về thể tích khi nhiệt độ thay đổi, bởi sự truyền nhiệt. == Giãn nở của chất rắn == Các loại vật liệu thường thay đổi kích thước của nó khi chịu tác động của nhiệt độ trong khi áp suất được giữ không đổi. Trong trường hợp đặc biệt của các vật liệu rắn, áp suất không ảnh hưởng đáng kể đến kích thước của vật thể, và vì thế đối với chất rắn không cần thiết phải xác định rằng áp suất được giữ không đổi. Các chất rắn kỹ thuật phổ biến thường có hệ số giãn nở nhiệt mà hệ số này không thay đổi đáng kể trong khoảng dao động nhiệt độ mà nó được thiết kế sửa dụng, ở những nơi cần độ chính xác cực kỳ cao không bắt buộc, các tính toán thực nghiệm có thể dựa trên các hằng số, giá trị trung bình, giá trị hệ số giãn nở. === Giãn nở dài === Giãn nở tuyến tính hay giãn nở dài có nghĩa là sự thay đổi theo một chiều (dài) khác với giãn nở thể tích. Đối với phép tính sắp xỉ đầu tiên, sự thay đổi chiều dài của một vật thể do giãn nở nhiệt liên quan đến sự thay đổi nhiệt độ theo một hệ số giãn nở tuyến tính. Nó là sự thay đổi chiều dài tỉ lệ với mức độ thay đổi nhiệt độ. Giả sử ảnh hưởng của áp suất là không đáng kể, chúng ta có thể viết: α L = 1 L d L d T {\displaystyle \alpha _{L}={\frac {1}{L}}\,{\frac {dL}{dT}}} với L {\displaystyle L} là chiều dài của vật thể và d L / d T {\displaystyle dL/dT} là tốc độ thay đổi chiều dài theo biến thiên theo nhiệt độ. Để chuyển đổi không gian tuyến tính có thể được viết: Δ L L = α L Δ T {\displaystyle {\frac {\Delta L}{L}}=\alpha _{L}\Delta T} Phương trình này có thể sử dụng khi hệ số giãn nở dài không thay đổi quá lớn so với sự thay đổi nhiệt độ Δ T {\displaystyle \Delta T} . Nếu nó thay đổi, phương trình phải được tích hợp. ==== Ảnh hưởng của ứng suất ==== Đối với các vật liệu rắn có chiều dài đáng kể, như các thanh hay cáp, việc ước tính sự giãn nở nhiệt có thể được miêu tả bởi ứng suất của vật liện theo ϵ t h e r m a l {\displaystyle \epsilon _{\mathrm {thermal} }} và được xác định như sau: ϵ t h e r m a l = ( L f i n a l − L i n i t i a l ) L i n i t i a l {\displaystyle \epsilon _{\mathrm {thermal} }={\frac {(L_{\mathrm {final} }-L_{\mathrm {initial} })}{L_{\mathrm {initial} }}}} với L i n i t i a l {\displaystyle L_{\mathrm {initial} }} là chiều dài trước khi chịu tác động của nhiệt độ và L f i n a l {\displaystyle L_{\mathrm {final} }} là chiều dài sau khi chịu tác động của nhiệt độ. Đối với hầu hết chất rắn, sự giãn nở nhiệt tỉ lệ thuận với sự thay đổi nhiệt độ: ϵ t h e r m a l ∝ Δ T {\displaystyle \epsilon _{\mathrm {thermal} }\propto \Delta T} Vì vậy, sự thay đổi về ứng suất hoặc nhiệt độ có thể được ước lượng theo: ϵ t h e r m a l = α L Δ T {\displaystyle \epsilon _{\mathrm {thermal} }=\alpha _{L}\Delta T} với Δ T = ( T f i n a l − T i n i t i a l ) {\displaystyle \Delta T=(T_{\mathrm {final} }-T_{\mathrm {initial} })} là sự khác biệt nhiệt độ giữa hai mức ứng suất được ghi nhận, có thể tính theo độ C hoặc Kelvin, và α L {\displaystyle \alpha _{L}} là hệ số giãn nở dài trên 1 độ C hoặc 1K ký hiệu lần lượt là °C−1 hay K−1. Trong lĩnh vực cơ học môi trường liên tục, sự giãn nở nhiệt và những ảnh hưởng của nó được xem là eigenstrain và eigenstress. === Giãn nở diện tích === Hệ số giãn nở diện tích liên quan đến sự thay đổi kích thước của vật liệu theo diện tích khi chịu tác động của nhiệt độ. Nó là sự thay đổi theo tỉ lệ diện tích theo mức độ thay đổi nhiệt độ. Bỏ qua áp suất, chúng ta có thể viết: α A = 1 A d A d T {\displaystyle \alpha _{A}={\frac {1}{A}}\,{\frac {dA}{dT}}} với A {\displaystyle A} là diện tích tiếp xúc nhiệt của vật thể, và d A / d T {\displaystyle dA/dT} là tỉ lệ thay đổi diện tích trên một đơn vị nhiệt. Sự thay đổi diện tích có thể được tính theo: Δ A A = α A Δ T {\displaystyle {\frac {\Delta A}{A}}=\alpha _{A}\Delta T} Phương trình này có thể áp dụng cho đến khi hệ số giãn nở diện tích không thay đổi quá lớn so với sự thay đổi nhiệt độ δ T {\displaystyle \delta T} . Nếu nó thay đối lớm, phương trình phải được tính tích phân. === Giãn nở thể tích === Đối với chất rắn, chúng ta có thể bỏ qua ảnh hưởng của áp suất tác dụng lên vật liệu, và hệ số giãn nở thể tích có thể được viết như sau: α V = 1 V d V d T {\displaystyle \alpha _{V}={\frac {1}{V}}\,{\frac {dV}{dT}}} với V {\displaystyle V} là thể tích vật liệu, và d V / d T {\displaystyle dV/dT} tốc độ thay đổi thể tích theo nhiệt độ. Điều này có nghĩa rằng thể tích của vật liệu thay đổi theo một tỷ lệ nhất định. Ví dụ, một khối thép có thể tích 1 mét khối có thể giãn nở lên thành 1.002 mét khối khi nhiệt độ tăng lên 50 K, tức theo tỉ lệ giãn nở 0,2%. Nếu chúng ta có một khối thép có thể tích 2 mét khối, cũng với cùng nhiệt độ trên thì nó có thể giãn nở thành 2,004 mét khối, tức là tỉ lệ giãn nở là 0,2%. Hệ số giãn nổ thể tích có thála2 0,2% cho 50 K, hay 0,004% K−1. Nếu chúng ta biết hệ số giãn nở, thì chúng ta có thể tính được sự thay đổi thể tích Δ V V = α V Δ T {\displaystyle {\frac {\Delta V}{V}}=\alpha _{V}\Delta T} với Δ V / V {\displaystyle \Delta V/V} là tỉ lệ thay đổi thề tích (ví dụ 0.002) và Δ T {\displaystyle \Delta T} là sự thay đổi nhiệt độ (50 °C). Ví dụ nêu trên giả sử rằng hệ số giãn nở không đổi khi nhiệt độ thay đổi. Điều này không phải lúc nào cũng đúng, nhưng đúng với đối với những thay đổi nhiệt độ nhỏ, chúng ta có thể tính gần đúng. Nếu hệ số giãn nở thể tích không đổi đáng kể theo nhiệt độ, thì phương trình trên có thể được phân tích: Δ V V = ∫ T i T f α V ( T ) d T {\displaystyle {\frac {\Delta V}{V}}=\int _{T_{i}}^{T_{f}}\alpha _{V}(T)\,dT} với α V ( T ) {\displaystyle \alpha _{V}(T)} là hệ số giã nở thể tích là một hàm của nhiệt độ T, và T i {\displaystyle T_{i}} , T f {\displaystyle T_{f}} là nhiệt độ ban đầu và cuối. == Giãn nở đẳng áp của chất khí == Đối với một khí lý tưởng, giãn nở nhiệt thể tích (như sự biến đổi tương đối về thể tích do nhiệt độ thay đổi) phụ thuộc vào kiểu quá trình mà nhiệt độ thay đổi. Hai trường hợp đơn giản là sự thay đổi đẳng áp tức áp suất không đổi, và thay đổi đoạn nhiệt, tức không có nhiệt trao đổi với môi trường. Định luật khí lý tưởng có thể được viết như sau: p v = T {\displaystyle pv=T\,} với p là áp suất, v là thể tích, và t là nhiệt độ tính theo đơn vị năng lượng. Viết theo phương trình logarit: ln ⁡ ( v ) + ln ⁡ ( p ) = ln ⁡ ( T ) {\displaystyle \ln \left(v\right)+\ln \left(p\right)=\ln \left(T\right)} Theo định nghĩa về hệ số giãn nở nhiệt thể tích đẳng áp, phương trình trên được viết như sau: γ p ≡ 1 v ( ∂ v ∂ T ) p = ( d ( ln ⁡ v ) d T ) p = d ( ln ⁡ T ) d T = 1 T . {\displaystyle \gamma _{p}\equiv {\frac {1}{v}}\left({\frac {\partial v}{\partial T}}\right)_{p}=\left({\frac {d(\ln v)}{dT}}\right)_{p}={\frac {d(\ln T)}{dT}}={\frac {1}{T}}.} Chỉ số p {\displaystyle p} biểu thị quá trình đẳng áp. == Giãn nở của chất lỏng == Về mặt lý thuyết, hệ số giãn nở tuyến tính có thể được đưa ra từ hệ số giãn nở thể tích (αV ≈ 3α). Tuy nhiên, đối với các chất lỏng α được tính từ việc xác định thực nghiệm của giá trị αV. == Giãn nở của hợp kim == Sự giãn nở của các hợp phần trong hỗn hợp có thể triệt tiêu nhau như trong trường hợp invar. Khả năng giãn nở nhiệt của các hỗn hợp từ từ sự giãn nở của các thành phần nguyên chất trong hỗn hợp đó và sự giãn nở dư được xác định từ: ∂ V ∂ T = ∑ i ∂ V i ∂ T + ∑ i ∂ V i E ∂ T {\displaystyle {\frac {\partial V}{\partial T}}=\sum _{i}{\frac {\partial V_{i}}{\partial T}}+\sum _{i}{\frac {\partial V_{i}^{E}}{\partial T}}} α = ∑ i α i V i + ∑ i α i E V i E {\displaystyle \alpha =\sum _{i}\alpha _{i}V_{i}+\sum _{i}\alpha _{i}^{E}V_{i}^{E}} ∂ V E ¯ i ∂ T = R ∂ ( l n ( γ i ) ) ∂ P + R T ∂ 2 ∂ T ∂ P l n ( γ i ) {\displaystyle {\frac {\partial {\bar {V^{E}}}_{i}}{\partial T}}=R{\frac {\partial (ln(\gamma _{i}))}{\partial P}}+RT{\partial ^{2} \over \partial T\partial P}ln(\gamma _{i})} == Hệ số giãn nở nhiệt ở một số vật liệu == Mục này tóm tắt một số hệ số giãn nở nhiệt của một vài loại vật liệu phổ biến. Đối với các vật liệu đẳng hướng các hệ số giãn nở nhiệt dài α và hệ số giãn nở thể tích αV có mối quan hệ αV = 3α. Đối với các chất lỏng thường hệ số giản nở thể tích được liệt kê và hệ số giãn nở dài được tính toán ở đây với mục đích so sánh. Đối với các loại vật liệu phổ biến như nhiều kim loại và hợp chất, hệ số giãn nở nhiệt tỉ lệ nghịch với điểm nóng chảy. Trong trường hợp đặc biệt đối với kim loại thì có mối quan hệ sau: α ≈ 0.020 M P {\displaystyle \alpha \approx {\frac {0.020}{M_{P}}}} đối với các halua và oxit α ≈ 0.038 M P − 7.0 ⋅ 10 − 6 K − 1 {\displaystyle \alpha \approx {\frac {0.038}{M_{P}}}-7.0\cdot 10^{-6}\,\mathrm {K} ^{-1}} Trong bảng bên dưới, phạm vi giá trị của α là từ 10−7 K−1 đối với các chất rắn cứng đến 10−3 K−1 đối với các chất lỏng hữu cơ. Hệ số α thay đổi theo nhiệt độ và một số loại vật liệu có độ dao động rất cao; xem ví dụ sự dao động so với nhiệu độ của hệ số giãn nở thể tích của polypropylen (PP) bán kến tinh ở các áp suất khác nhau, và sự dao động của hệ số giãn nở dài theo nhiệt độ của thép ở các cấp khác nhau (từ dưới lên: thép không gỉ ferrit, thép không gỉ martensit, thép cacbon, thép không gỉ duplex, thép austenit). (Công thức αV ≈ 3α thường dùng cho chất rắn.) == Tham khảo ==
kinh tế myanmar.txt
Kinh tế Myanmar là một trong những nền kinh tế kém phát triển nhất thế giới, đã phải chịu hàng thập kỷ trì trệ do quản lý yếu kém và cấm vận quốc tế. GDP của Myanmar là 82,72 tỉ USD (ước lượng 2011) và tăng trưởng trung bình 2,9% một năm, thấp nhất trong Tiểu vùng Sông Mekong Mở rộng. EU, Hoa Kỳ và Canada đã áp đặt các lệnh trừng phạt kinh tế Myanmar, nhưng những lệnh cấm vận này đã được dỡ bỏ từ năm 2011 sau khi Myanmar chuyển từ chính phủ quân sự sang chế độ dân sự. Về mặt lịch sử, Myanmar là con đường giao thương chính giữa Ấn Độ và Trung Quốc từ thế kỷ 1 TCN. Các quốc gia Môn ở Myanmar đã đóng vai trò như là trung tâm thương mại quan trọng tại vịnh Bengal. Sau khi Myanmar bị chinh phục bởi người Anh, quốc gia này đã trở thành đất nước giàu có nhất ở Đông Nam Á. Đó cũng một thời là nhà xuất khẩu gạo đứng đầu thế giới, từng sản xuất 75% lượng gỗ tếch cho thế giới và có tỉ lệ cao dân chúng biết chữ. Sau khi thành lập chính phủ nghị viện năm 1948, thủ tướng U Nu đã thi hành chính sách quốc hữu hóa. Chính phủ cũng đã cố thực hiện một kế hoạch tám năm thiếu tính toán. Đến năm 1950, xuất khẩu gạo đã giảm 2/3 và khoáng sản giảm 96%. Cuộc đảo chính năm 1962 đã đưa đến chương trình kinh tế được gọi là Con đường đưa Myanmar đi lên xã hội chủ nghĩa, một kế hoạch nhằm quốc hữu hóa toàn nền kinh tế. Chương trình thất bại thảm hại này đã biến Myanmar thành một trong những quốc gia nghèo nhất thế giới. Năm 2011, khi chính phủ của tân tổng thống Thein Sein nắm quyền điều hành đất nước, Myanmar đã thi hành một chính sách cải cách nhiều mặt bao gồm việc chống tham nhũng, chỉnh sửa tỷ giá hối đoái, sửa luật đầu tư nước ngoài và thuế. Đầu tư nước ngoài tăng từ 300 triệu USD trong năm 2009-10 lên 20 tỷ USD trong năm 2010-11, tương đương 667%. Dòng vốn chảy vào lớn làm cho đồng tiền Myanmar tăng giá trị thêm 25%. Để đối phó tình trạng này, chính phủ đã nới lỏng các hạn chế nhập khẩu và hủy bỏ hết thuế xuất khẩu. Mặc cho vấn đề về tiền tệ hiện nay, nền kinh tế Myanmar được dự đoán ​​sẽ tăng trưởng khoảng 8,8% trong năm 2011. Sau khi hoàn thành cảng nước sâu Dawei trị giá 58 triệu USD, Myanmar dự kiến sẽ là trung tâm thương mại kết nối Đông Nam Á và biển Đông với Ấn Độ Dương, tiếp nhận hàng hóa từ Trung Đông, châu Âu và châu Phi thông qua biển Andaman, thúc đẩy sự phát triển của khu vực ASEAN. == Lịch sử == === Trước khi là thuộc địa === Trước khi trở thành thuộc địa của Anh, nền kinh tế Myanmar về bản chất là nền kinh tế tự cung tự cấp. Phần lớn dân cư liên quan đến hoạt động sản xuất gạo và làm nông nghiệp Miến Điện cũng thiếu một hệ thống tiền tệ chính thức cho đến triều vua Mindon Min vào giữa thế kỷ 19. Đất đai về mặt hình thức là thuộc về nhà vua. Hơn nữa, vua cũng kiểm soát việc xuất khẩu, cùng với việc khai thác đá quý, các giếng dầu và sản xuất gỗ tếch. Myanmar liên quan mật thiết đến thương mại ở Ấn Độ Dương. Gỗ tếch nguyên khối là một mặt hàng xuất khẩu có giá trị, được người châu Âu dùng để đóng tàu do độ bền của nó, và đã trở thành mặt hàng xuất khẩu chính của Myanmar từ thế kỷ 18 đến thế kỷ 19. === Thời kỳ thuộc địa (1885 - 1948) === Trong thời gian bị Anh chiếm đóng, Myanmar là quốc gia giàu có nhất ở Đông Nam Á. Nó cũng từng là nhà xuất khẩu gạo lớn nhất thế giới. Dưới chính quyền thuộc địa, Myanmar cung ứng dầu thông qua công ty dầu Burma. Myanmar cũng là nước giàu tài nguyên thiên nhiên và nguồn lao động. Nó sản xuất 75% lượng gỗ tếch của thế giới và có tỉ lệ dân chúng biết chữ cao. Vậy nên người ta tin rằng Myanmar sẽ phát triển nhanh chóng. === Độc lập === === Thiết quân luật (1988 - 2011) === == Xem thêm == Kinh tế Lào Kinh tế Campuchia == chú thích == == Liên kết ngoài == News, information, journals, magazines related to Burmese business and commerce Bản mẫu:Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO)
kinh tế ai cập.txt
Nằm ở phía đông bắc Ai Cập, đồng bằng châu thổ sông Nile là nơi tập trung hầu hết các hoạt động kinh tế của Ai Cập. Trong 30 năm qua, chính phủ đã cải cách lại nền kinh tế tập trung cao được thừa kế từ thời Tổng thống Gamal Abdel Nasser. Trong những năm 1990, một loạt các thỏa thuận với Quỹ tiền tệ quốc tế, cùng với viện trợ lớn từ nước ngoài do việc tham gia của Ai Cập trong liên minh Chiến tranh vùng Vịnh, đã giúp Ai Cập cải thiện hiệu quả nền kinh tế vĩ mô. Tốc độ cải cách cơ cấu, bao gồm các chính sách tài chính, tiền tệ, tư nhân hóa và các đạo luật kinh doanh mới đã giúp Ai Cập trở thành nền kinh tế thị trường, đầu tư nước ngoài tăng nhanh. Các chương trình cải cách vẫn đang được tiến hành và chính phủ sẽ cần phải tiếp tục theo đuổi cải cách mạnh mẽ để duy trì tốc độ đầu tư nước ngoài và tăng trưởng, cải thiện điều kiện kinh tế hơn nữa cho người dân. Các ngành xuất khẩu của Ai Cập, đặc biệt là ngành xuất khẩu vàng và khí thiên nhiên có triển vọng tốt. == Tham khảo ==
vòng loại giải bóng đá vô địch thế giới 2018 khu vực châu á.txt
Liên đoàn bóng đá châu Á (AFC) phân chia Vòng loại Giải vô địch bóng đá thế giới 2018 thành vòng loại cho Giải vô địch bóng đá thế giới 2018, sẽ tổ chức tại Nga, và Cúp bóng đá châu Á 2019 tại UAE. Số đội sẽ giành quyền tham dự giải là 4 hoặc 5. Vào ngày 16 tháng 4 năm 2014, ban chấp hành AFC được chấp thuận 1 đề nghị để hợp nhất vòng loại sơ bộ Giải vô địch bóng đá thế giới và Cúp bóng đá châu Á, mà sẽ được mở rộng đến 24 đội bắt đầu trong 2019. == Định dạng == Cấu trúc vượt qua vòng loại là như áp dụng sau: Vòng 1: Có tổng số 12 đội (các đội bóng đã xếp hạng 35–46) sẽ chơi sân nhà và sân khách trên 2 lượt. Vòng 2: Có tổng số 40 đội (các đội bóng đã xếp hạng 1–34 và vô địch 6 đội vòng 1) sẽ được chia thành 8 bảng sân nhà và sân khách trên vòng đấu 1 lượt, nơi 8 bảng đội nhất và 4 bảng đội xếp thứ 2 tốt nhất sẽ giành quyền vào vòng 3 vòng loại giải vô địch bóng đá thế giới cũng như vượt qua cho trận chung kết Cúp bóng đá châu Á. Vòng 3: 12 đội (tăng từ 10 cho 2014) sẽ được chia thành 2 bảng 6 đội đến chơi đá trên sân nhà và sân khách trận đấu vòng tròn 1 lượt. Giả sử cùng một số khe cắm giao cho AFC như World Cup trước đó (4,5 suất), 2 đội đứng đầu mỗi bảng sẽ hội đủ điều kiện cho Giải vô địch bóng đá thế giới 2018, và 2 đội xếp thứ 3 sẽ tiến thẳng vào vòng 4. Vòng 4 (nếu có yêu cầu, phụ thuộc vào sự phân bổ các địa điểm để các AFC tại giải vô địch bóng đá thế giới 2018): Hai đội xếp thứ 3 trong mỗi bảng từ vòng 3 sẽ thi đấu với nhau tại sân nhà và sân khách trên hai lượt đi-lượt về để xác định đội nào sẽ tiến thẳng vào play-off liên lục địa. 16 đội tốt nhất tiếp theo bị loại từ vòng loại giải vô địch bóng đá thế giới vào vòng 2 và 8 đội thắng ở lượt play-off sẽ thi đấu vào vòng 3 của Vòng loại Cúp bóng đá châu Á 2019 (mà sẽ được tách biệt từ vòng loại giải vô địch bóng đá thế giới 2018 cho AFC), nơi chúng được chia thành 6 bảng 4 đội và cạnh tranh cho các khe còn lại của Cúp bóng đá châu Á 2019. == Phân loại hạt giống == Có tất cả có 46 hiệp hội quốc gia FIFA từ AFC vào tham gia vòng loại. Để xác định các quốc gia sẽ thi đấu ở vòng 1 và các quốc gia đó sẽ nhận được một tạm biệt vào vòng 2, Bảng xếp hạng bóng đá nam FIFA của tháng 1 năm 2015 đã được sử dụng (ghi trong ngoặc đơn), vì đó là bảng xếp hạng được công bố mới nhất trước khi lễ bốc thăm vòng 1. Bảng xếp hạng bóng đá nam FIFA của tháng 1 năm 2015 cũng đã được sử dụng cho hạt giống của lễ bốc thăm vòng 1; Tuy nhiên, đối với hạt giống ở vòng 2 và lễ bốc thăm vòng 3, bảng xếp hạng bóng đá nam FIFA gần đây nhất trước khi những lễ bốc thăm sẽ được sử dụng. == Lịch thi đấu == Lịch trình của cuộc thi đấu là như áp dụng sau: Nếu một đội bóng AFC được nhập vào vé play-off liên lục địa, họ đang lên kế hoạch để được chơi giữa ngày 06–14 tháng 11 năm 2017. == Vòng 1 == Lễ bốc thăm cho vòng 1 tổ chức vào ngày 10 tháng 2 năm 2015, vào lúc 15:30 MST (UTC+08:00), tại trụ sở Liên đoàn bóng đá châu Á (AFC) ở Kuala Lumpur, Malaysia. == Vòng 2 == Lễ bốc thăm cho vòng 2 được tổ chức vào ngày 14 tháng 4 năm 2015, vào lúc 17:00 MST (UTC+08:00), tại khách sạn JW Marriott ở Kuala Lumpur, Malaysia. === Các vòng bảng === ==== Bảng A ==== ==== Bảng B ==== ==== Bảng C ==== ==== Bảng D ==== ==== Bảng E ==== ==== Bảng F ==== ==== Bảng G ==== ==== Bảng H ==== === Đội xếp hạng 2 === Để xác định bốn đội đứng thứ hai tốt nhất, các tiêu chuẩn sau đây được sử dụng: Điểm (3 điểm cho một trận thắng, 1 điểm cho một trận hoà, 0 điểm cho một trận thua) Khác biệt Goal Số bàn thắng Các trận đấu play-off trên sân trung lập (nếu được chấp thuận bởi Ban tổ chức FIFA), với thêm thời gian và sút luân lưu nếu cần. Như một kết quả của Indonesia đang bị loại bởi hệ thống treo FIFA, Nhóm F chỉ chứa bốn đội so với năm đội trong tất cả các nhóm khác. Do đó, kết quả so với đội thứ năm đặt không được tính khi xác định thứ hạng của các đội á quân. === Đội xếp hạng 4 === Để xác định bốn đội đứng thứ tư tốt nhất, các tiêu chuẩn sau đây được sử dụng: Điểm (3 điểm cho một trận thắng, 1 điểm cho một trận hoà, 0 điểm cho một trận thua) Khác biệt Goal Số bàn thắng Các trận đấu play-off trên sân trung lập (nếu được chấp thuận bởi Ban tổ chức FIFA), với thêm thời gian và sút luân lưu nếu cần. Như một kết quả của Indonesia đang bị loại bởi hệ thống treo FIFA, Nhóm F chỉ chứa bốn đội so với năm đội trong tất cả các nhóm khác. Do đó, kết quả so với đội thứ năm đặt không được tính khi xác định thứ hạng của các đội á quân. == Vòng 3 == Vòng 3 sẽ bao gồm hai bảng 6 đội. Hai đội đầu tiên trong mỗi bảng sẽ tiến thẳng vào giải vô địch bóng đá thế giới 2018. Hai bảng các đội xếp thứ ba sẽ tiến thẳng vào vòng 4. Lễ bốc thăm cho vòng 3 diễn ra vào lúc 16:30 (UTC+8), ngày 12 tháng 4 năm 2016 tại khách sạn Mandarin Oriental ở Kuala Lumpur, Malaysia. === Phân loại hạt giống === Phân loại hạt giống của các đội dựa theo bảng xếp hạng FIFA công bố vào tháng 4 năm 2016. và chia thành 6 nhóm, mỗi nhóm 2 đội. === Các vòng bảng === ==== Bảng A ==== ==== Bảng B ==== == Vòng 4 == Hai đội xếp thứ ba trong mỗi bảng từ vòng 3 sẽ chơi với nhau mỗi khác sân nhà và sân khách trên hai lượt để xác định đội nào sẽ tiến thẳng vào vòng play-off liên lục địa. Lễ bốc thăm cho vòng 4 (để quyết định thứ tự của các lượt) sẽ được tổ chức sau vòng 3 được hoàn thành. == Vòng playoff liên lục địa == Lễ bốc thăm cho vòng playoff liên lục địa đã được tổ chức như là một phần của Giải vô địch bóng đá thế giới 2018 vòng loại sơ bộ bốc thăm vào ngày 25 tháng 7 năm 2015, bắt đầu từ lúc 18:00 MSK (UTC+03:00), tại Cung Konstantinovsky ở Strelna, Sankt-Peterburg. Các đội xếp thứ 5 từ AFC đã được rút ra với đội xếp thứ 4 từ CONCACAF, với đội chủ nhà AFC lượt về. == Danh sách cầu thủ ghi bàn == Ghi chú: Các cầu thủ bằng in đậm vẫn còn hoạt động trong thi đấu này. 15 bàn 9 bàn 8 bàn 7 bàn 6 bàn 5 bàn 4 bàn 3 bàn 2 bàn 1 bàn 1 bàn phản lưới nhà == Xem thêm == Vòng loại Cúp bóng đá châu Á 2019 == Tham khảo == == Liên kết ngoài == Website chính thức cho Giải vô địch bóng đá thế giới Nga 2018, Vòng loại – châu Á, FIFA.com Website chính thức cho Giải vô địch bóng đá thế giới (Khu vực châu Á), Lịch thi đấu & Kết quả, the-AFC.com
são paulo.txt
São Paulo (phát âm IPA: [sɐ̃w̃ 'paw.lu]; tiếng Bồ Đào Nha đọc gần như "xao pao-lu", có nghĩa là "Thánh Phaolô") là thủ phủ của bang São Paulo ở phía đông nam Brasil. Địa điểm: 23°32′36″N 46°37′59″T, cách Rio de Janeiro 400 km và cách thủ đô liên bang, Brasília, 1030 km. Đây là thành phố lớn nhất tại Brasil. Diện tích thành phố 1.523 km² và dân số hơn 11 triệu người (2006 IBGE estimate), là thành phố đông dân nhất ở Nam Bán Cầu [2] và là một Thành phố toàn cầu. 19 triệu người sông ở Vùng đô thị Đại São Paulo (Região Metropolitana) khiến cho vùng đô thị này là một trong 5 vùng đô thị đông dân nhất thế giới. Nếu tính cả các vùng đô thị kề đấy vào số liệu thống kê như: Baixada Santista, São José dos Campos, Campinas, Sorocaba... thì Vùng đô thị mở rộng (Complexo Metropolitano Estendido) nữa thì có gần 29 triệu dân, chỉ xếp sau vùng đô thị Tokyo với 35 triệu dân. Bang São Paulo cũng là một bang đông dân với dân số 40 triệu. Dân São Paulo được gọi là paulistanos. Khẩu hiệu của thành phố là Non ducor, duco, trong tiếng Latin có nghĩa "Tôi không bị dẫn đầu, tôi mới là dẫn đầu". == Khí hậu == == Kinh tế == São Paulo là một trong những trung tâm tài chính quan trọng nhất của Mỹ Latin. Thành phố có nhiều trụ sở các công ty Đức hơn bất cứ thành phố nào bên ngoài Đức. GDP của São Paulo khoảng 260 tỷ USD năm 2006. Sở giao dịch chứng khoán của São Paulo là Bovespa, trong khi futures exchange là BM&F. Các quận trung tâm của thành phố nằm ở những khu vực quanh Avenida Paulista và ở Centro Velho (Trung tâm Cũ). Các quận quan trọng khác về kinh doanh nằm ở các boroughs Pinheiros và Santo Amaro, bao gồm large artery Faria Lima. Có một số vùng đặc biệt như Bom Retiro và Brás (các quận bán sỹ quần áo), Consolação (thiết bị chiếu sáng), Rua Santa Ifigênia (phụ tùng điện và điện tử), Rua Teodoro Sampaio (thiết bị âm nhạc và nội thấtt), the posh Rua Oscar Freire (designer and label stores), Avenida Europa (xe hơi sang trọng) và Rua Vinte Cinco de Março đông đúc. São Paulo có một số công ty truyền hình và quảng cáo lớn. Trong những năm qua, São Paulo đã trở thành một nơi tổ chức các sự kiện và các hội chợ lớn, từ khoa học đến nghệ thuật trong nước và quốc tế như: Đã có sự chuyển dịch lớn trong cơ cấu kinh tế của thành phố, từ cơ sở công nghiệp chuyển qua dịch vụ và công nghệ. Các nhành sử dụng nhiều lao động đã được chuyển qua các ngành có hàm lượng công nghệ cao, nhiều trường đại học đã được thành lập, nhiều cơ sở giải trí, mua sắm, dịch vụ du lịch cũng được xây dựng. === Thành phố kết nghĩa === == Một vài hình ảnh == == Chú thích == == Liên kết ngoài == Du lịch São Paulo (tiếng Anh) Hướng dẫn du lịch São Paulo (tiếng Anh) Trang chính thức (tiếng Anh) São Paulo Tourism Office home page (tiếng Anh) City of São Paulo home page (tiếng Anh) São Paulo official tourist agency Web site (tiếng Bồ Đào Nha) São Paulo City Hall Web site (tiếng Anh) São Paulo Metro Underground official Web site (tiếng Anh) (tiếng Bồ Đào Nha) BM&F Bovespa - São Paulo Stock Exchange Web site (tiếng Anh) (tiếng Bồ Đào Nha) (tiếng Tây Ban Nha) São Paulo Convention & Visitors Bureau Trang khác (tiếng Anh) Gringoes Website (tiếng Anh) The New York Times São Paulo's Travel Guide (tiếng Anh) UK House of Commons Trade and Industry Committee report on Brazil (tiếng Bồ Đào Nha) Maplink – São Paulo Street Guide and Maps Câu chuyện mới (tiếng Anh) AdBusters, "São Paulo: A City Without Ads". (tiếng Anh) The Times, "Cutting-edge style in São Paulo", by Alex Bello. (tiếng Anh) The Times, "Where cafezinho is the key to commerce", retrieved ngày 6 tháng 12 năm 2007. (tiếng Anh) Guardian Unlimited, "Blog by blog guide to... São Paulo". (tiếng Anh) The New York Times, "36 Hours in São Paulo". (tiếng Anh) Rich Brazilians Rise Above Rush-Hour Jams.
trận hohenfriedberg.txt
Trận Hohenfriedberg, còn gọi là Trận Striegau là một trận đánh quan trọng trong chiến tranh Schlesien lần thứ hai và chiến tranh Kế vị Áo, diễn ra vào ngày 4 tháng 6 năm 1745 trên đồng bằng Schlesien (Phổ). Lực lượng tham chiến trong trận này gồm gần 59 nghìn quân Phổ do vua Friedrich II trực tiếp chỉ huy và một lực lượng đông ngang ngửa của liên minh Áo-Sachsen do vương tước Karl xứ Lothringen và quận công Johann Adolf xứ Sachsen-Weißenfels chỉ huy. Trận đánh kết thúc với thắng lợi lớn đầu tiên của quân đội Phổ trong chiến tranh Schlesien lần thứ hai, đã làm phá sản các nỗ lực của người Áo nhằm chiếm lại Schlesien vào mùa xuân-hạ năm 1745. Quân Phổ chỉ hao tổn gần 5 nghìn người nhưng đã gây thiệt hại gấp gần 3 lần cho cho quân liên minh Áo-Sachsen. == Bối cảnh == Năm 1740, vua Phổ Friedrich II tấn công tỉnh Schlesien của Áo, dẫn đến sự hình thành mặt trận Áo-Phổ trong chiến tranh Kế vị Áo. Quân Phổ nhanh chóng chinh phục phần lớn Schlesien và đánh bại cuộc phản công của Áo trong trận Mollwitz năm 1741. Thất bại của người Áo tại Mollwitz đã cổ vũ Pháp và Bayern liên kết với Phổ xâu xé đế quốc Áo. Tháng 5 năm 1742, quân Phổ lại đánh thắng quân Áo trong trận Chotusitz; sau đó Friedrich xé bỏ liên minh với Pháp, Bayern và ký kết hòa ước Breslau với Áo ngày 11 tháng 6 năm 1742. Hòa ước này quy định Áo phải nhượng hoàn toàn Schlesien cho Phổ, song cũng tạo điều kiện cho Áo dồn sức đánh Pháp và Bayern. Quân đồng minh Pháp-Bayern liên tục bại trận trong năm 1743. Đầu năm 1744, nữ vương Áo Maria Theresia liên kết với Sachsen chuẩn bị chiếm lại Schlesien. Friedrich đã bắt bài được ý định này, nên vào tháng 6 ông tái lập liên minh với Pháp, Bayern và mở lại mặt trận Áo-Phổ. Tháng 8 năm 1744, Friedrich đem 8 vạn quân đánh vùng Böhmen nhằm uy hiếp kinh đô Viên, nhưng không thành công và phải triệt thoái về Schlesien sau khi hao tổn gần 3 vạn lính. Tình hình càng trở nên có lợi cho Áo khi Bayern đầu hàng vào ngày 22 tháng 4 năm 1745, còn Pháp mãi lo xâm lược Hà Lan nên cũng không thể chi viện cho Friedrich. Nhưng Friedrich vẫn kiên quyết giữ lấy Schlesien. Ông ta cài tình báo vào bộ chỉ huy quân Áo đặng kích động tâm lý chủ quan của các tướng Áo và nắm bắt các kế hoạch của họ. Tháng 3 năm 1745, các gián điệp đã tiết lộ với Friedrich rằng liên minh Áo-Sachsen đang tập trung binh lực chuẩn bị đánh từ Böhmen vào Schlesien. Ngay lập tức, vua Phổ lập sở chỉ huy ở Glatz quy tụ 58800 quân gồm 42 nghìn bộ binh, 14500 thiết kỵ và long kỵ, 2300 khinh kỵ cùng 54 đại bác về Schlesien trong tháng 4 – 5 năm 1745. === Quân Áo tiến vào Schlesien === Đúng như các điệp viên Phổ thông báo, nữ vương Áo đã tổ chức tập kết một lực lượng lớn tại Böhmen vào mùa xuân năm 1745. Đội quân này bao gồm 4 vạn quân Áo do vương công Karl Alexander xứ Lothringen và 19 nghìn quân chư hầu Sachsen do quận công Johann Adolf chỉ huy. Karl rất xem thường sức mạnh quân đội Phổ, nên không hề đề ra biện pháp ngăn chặn các hoạt động quân sự và tình báo của Friedrich. Việc tập trung binh lực của Áo-Sachsen diễn ra khá chậm và vẫn chưa hoàn tất vào đầu tháng 5 - khi phía Phổ đã hoàn thành chuẩn bị chiến đấu. Đến ngày 26 tháng 5, quân liên minh Áo-Sachsen khởi hành tiến đánh Schlesien. Để phát huy triệt để sức mạnh tác chiến của quân Phổ, Friedrich quyết định dụ địch khỏi vùng đồi núi trên biên ải Böhmen-Schlesien và ép họ đánh một trận quy ước trên đồng bằng Schlesien. Friedrich đã sai một số đơn vị cơ động giả vờ tháo lui trước mặt quân tướng Áo, đồng thời cử một gián điệp tâu với Karl rằng quân Phổ đang rút chạy về Breslau. Kết quả là vào chiều ngày 3 tháng 6, liên quân Áo-Sachsen tiến khỏi các đồi gần Böhmen và đóng trại trên một địa bàn dài hơn 6 km giữa hai thị trấn Kauder và Hohenfriedberg. Do tin rằng quân địch đã co cụm về Breslau, Karl không cho kỵ binh đi trinh sát và chỉ phòng bị doanh trại một cách qua loa. Trên thực tế, cách đó không xa về phía đông nam, Friedrich đã ém quân sau rừng Nonnen-Bush và trong các trũng giữa Schweidnitz và Alt-Jauernick từ ngày 1 tháng 6. == Diễn biến == Đêm ngày 3 tháng 6, Friedrich leo lên đồi Ritter-Berg gần Striegau và quan sát thấy quân địch đã xuất hiện trên đồng bằng Schlesien. Ngay sau đó, ông ta dẫn quân đi vòng qua hướng tây bắc đặng đột kích vào sườn phía đông (sườn trái) của quân đội Áo-Sachsen. 2h30 sáng ngày 4 tháng 6, quân đội Phổ nghỉ chân trên hướng đông nam suối Striegau chảy qua thị trấn cùng tên. Tại đây Friedrich chỉ thị cho toàn quân chia thành các hàng dọc vượt suối Striegau trên một chính diện chạy dài từ Striegau tới Teichau trên hướng tây nam, kế đến quẹo lên mạn tây bắc và tiến đến vùng ngoại ô thị trấn Pilgrimshain; tiếp theo đó, quân Phổ sẽ quay mặt sang hướng tây và lập đội hình chiến đấu, rồi di chuyển tấn công theo hình bậc thang với cánh phải là lực lượng đi đầu tại nửa phía bắc của hàng quân. Sau khi nhận được chỉ thị cụ thể từ quốc vương, người Phổ tiếp tục hành quân trong trật tự và âm thầm đến mức phe Áo-Sachsen không thể nào phát hiện sự di chuyển của địch. Tuy nhiên, lực lượng liên minh bên kia suối Striegau được dàn trải xa về hướng đông hơn là Friedrich dự đoán. Rạng sáng ngày 4 tháng 6, quân tiền vệ cánh phải do trung tướng Du Moulin chỉ huy (gồm 6 tiểu đoàn bộ binh xung kích và 28 khối khinh kỵ binh) trở thành lực lượng Phổ đầu tiên vượt sang suối Striegau. Họ định di chuyển qua các đồi giữa Striegau với Pilgrimshain nhưng phát hiện một nhóm quân Áo-Sachsen đang đóng trên đó. Lúc 4h sáng, Friedrich nhận được cấp báo của Moulin về sự hiện diện của địch sát bờ bắc suối Striegau. Nhà vua lập tức chi viện cho Moulin một khẩu đội gồm 6 pháo 24 pao, đồng thời đôn đốc các đơn vị bộ binh và kỵ binh đi đầu đội hình chủ lực tăng tốc vượt suối. Khoảng 4 - 5h, Johann Adolf cho kỵ binh Sachsen và kỵ binh cánh trái Áo triển khai đội hình tác chiến trên hướng đông Pilgrimshain. Giao chiến đã bùng phát giữa kỵ binh Áo-Sachsen với quân khinh kỵ của De Moulin cùng lực lượng kỵ binh trên sườn phải đội hình chủ lực Phổ. Ban đầu kỵ binh Phổ nắm ưu thế về kỷ luật và quân số, nhưng chỉ sau vài phút trận đánh đã chuyển biến thành một cuộc hỗn chiến đẫm máu và không phân thắng bại giữa các loại kỵ binh của hai phe.. Một trong các chỉ huy quân Sachsen là Schlichting đã bị viên sĩ quan thiết kỵ Phổ Friedrich Wilhelm von Seydlitz bắt tại trận. Trong lúc kỵ binh đang giao đấu ác liệt, lực lượng bộ binh hai phe đã được đưa dần đến trận địa. Bộ binh Sachsen bên sườn trái liên quân đã xây dựng các tuyến phòng thủ trên một địa bàn nhấp nhô có nhiều đầm lầy, mương rãnh, bụi rậm, và được sự yểm trợ sát cận của pháo binh. Đối diện với họ, thống chế Phổ Leopold von Anhalt-Dessau xua 21 tiểu đoàn vượt suối Striegau trên các cầu gần Gräben và triển khai đội hình tác chiến. Thực thi học thuyết chiến thuật của mình, bộ binh Phổ vác súng điểu thương di chuyển nhanh qua vùng hỏa lực của pháo và bộ binh địch, kế đến áp sát và bắn xối xả vào đội hình Sachsen. Quân Sachsen vẫn giữ vững hàng ngũ; họ chống đỡ rất dữ dội và gây cho quân Phổ thương vong khá nặng. Phải đến 7h sáng, quân Phổ mới giành được thế thượng phong. Sau khi chờ mãi không thấy quân Áo đến tiếp sức, Johann Adolf ra lệnh rút hết lực lượng Sachsen khỏi trận địa, và điều này có nghĩa là toàn bộ cánh trái quân liên minh đã bị loại khỏi vòng chiến. Mặc dù kỵ binh cánh phải Phổ và bộ binh của Leopold đã kiệt sức không thể tiếp tục tấn công, quân Áo trên cánh phải liên quân vẫn hoàn toàn bị động. Friedrich quyết định chuyển hướng tất cả các lực lượng chưa tham chiến sang hướng tây nhằm tập trung đánh diệt quân Áo. Các chỉ huy bộ binh Phổ đã đưa được 13 tiểu đoàn hỏa mai và 5 tiểu đoàn xung kích – cả thảy có 10400 lính – đến đối diện với người Áo. Quân bộ binh Áo đã dần dần bị đẩy lùi về hướng đông gần Gϋnthersdorf. Cùng lúc đó, Friedrich điều 9 trung đoàn kỵ binh Phổ vượt suối Striegau gần Teichau để yểm trợ sườn trái cho bộ binh. Lực lượng đầu tiên vượt sang bờ bắc là 10 khối thiết kỵ của thiếu tướng Kyau. Trong khi quân Kyau tiến vào vùng đồng bằng Halbendorf - Thomaswaldau, chiếc cầu sau lưng họ chợt đổ sập và làm cô lập họ với kỵ binh chủ lực Phổ. Lợi dụng ưu thế áp đảo về quân số, kỵ binh Áo ồ ạt xông lên tiêu diệt các thiết kỵ của Kyau. May mắn cho Kyau là thiếu tướng Hans von Ziethen đã tìm ra một chỗ cạn giữa Teichau và Gräben; sau đó Ziethen đem trung đoàn khinh kỵ Ziethen và trung đoàn long kỵ Alt-Württemberg đánh ập vào tuyến thứ hai của kỵ binh Áo trước khi tuyến này có thể áp sát đội thiết kỵ Kyau. Đồng thời, trung tướng Nassau dẫn thêm 25 khối kỵ binh tràn qua chỗ cạn giữa suối Striegau và đột kích vào sườn trái kỵ binh Áo. Khoảng 8h sáng, dưới sức ép từ các đợt xung kích của kỵ binh Phổ kết hợp với hỏa lực bộ binh từ làng Thomaswaldau, toàn bộ bộ kỵ binh Áo đã tan vỡ và tháo chạy tán loạn khỏi trận địa. Sau khi quân Sachsen và kỵ binh Áo thua chạy, lực lượng liên quân tham gia trận đánh bị giảm xuống còn 19500 lính bộ binh ở trung tâm quân Áo. Các đơn vị tinh nhuệ của bộ binh Áo, được sự yểm trợ mạnh mẽ từ pháo binh, đã chặn đứng nhiều đợt tấn công của bộ binh địch.Trong lúc di chuyển tấn công, bộ binh Phổ đã sơ ý tạo một kẽ hở giữa trung đoàn Bevern với lữ đoàn của tướng Ferdinand von Brunswick-Wolfenbüttel. Nhưng quân Áo chưa kịp khai thác sơ suất này thì trung đoàn long kỵ Bayreuth – một đơn vị kỵ binh đứng chân sau lưng bộ binh Phổ và chưa tham gia các trận chiến với kỵ binh Áo-Sachsen và kỵ binh Áo – đã chủ động luồn qua các khoảng trống trong đội hình bộ binh. Khoảng 8h15, trung đoàn long kỵ Bayreuth tung một đòn đột kích mạnh vào trận tuyến quân địch. Lính bộ binh Áo chống cự được một thời gian ngắn, nhưng sau đó tan rã và mạnh ai nấy chạy. Chỉ trong vòng chưa đầy nửa tiếng, trung đoàn Bayreuth chịu thương vong 94 người, nhưng đã diệt gọn 20 tiểu đoàn Áo, bắt được 2500 tù binh và tịch thu gần 67 quân kỳ Áo. Trận đánh khép lại vào 9h khi người Áo hoàn toàn bị trục xuất khỏi trận địa, và kế hoạch tái chiếm Schlesien của Maria Theresia đã bị phá sản. == Kết cuộc == Trận Hohenfriedberg kết thúc với thất bại toàn diện của liên quân Áo-Sachsen. Khác với phần lớn các trận đánh giữa Phổ và Áo trong thời kỳ 1740-1763 – khi quân đội Phổ thường chấp nhận thương vong lớn hơn địch để đạt được chiến thắng, quân liên minh chịu thiệt hại gấp gần 3 lần so với quân Phổ tại Hohenfriedberg. Cụ thể hơn, tổn thất về nhân mạng của liên minh lên đến 14 nghìn người, bao gồm 9 nghìn người tử trận và 5 nghìn bị bắt làm tù binh. Trong số quân liên minh bị bắt sống có 5 sĩ quan cấp tướng. Đổi lại, tổng số quân Phổ chết, bị thương và mất tích chỉ lên đến 4751 người (trong đó khoảng 900 người thiệt mạng). Quân Phổ cũng phá hủy và tịch thu 66 cỗ đại bác của liên minh Áo-Sachsen. Tuy nhiên, do phần lớn lực lượng Phổ đã thấm mệt và hệ thống hậu cần của họ còn nhiều thiếu sót, Friedrich không tổ chức truy kích và để yên cho bại binh Áo-Sachsen rút lui an toàn về Böhmen. Chiến thắng của Friedrich II tại Hohenfriedberg-Striegau là đề tài của Hành khúc Hohenfriedberg (Der Hohenfriedberger) – một bản quân nhạc nổi tiếng của quân đội Phổ-Đức trước năm 1945. Tương truyền chính Friedrich II đã sáng tác hành khúc này để tuyên dương công trạng của trung đoàn long kỵ Bayreuth trong trận đánh. Sau thất bại của cuộc tấn công Schlesien nửa đầu năm 1745, triều đình Viên vẫn kiên quyết không chịu nhượng Schlesien cho Phổ. Maria Theresia và vua Sachsen đã ra sức chấn chỉnh lực lượng để duy trì chiến tranh với Friedrich. Phải sau những thắng lợi tiếp theo của Friedrich và quân đội Phổ tại Soor (30 tháng 9), Hennersdorf (24-25 tháng 11) và Kesselsdorf (15 tháng 12), người Áo và Sachsen mới chấp nhận thất bại và họ ký hòa ước Dresden với Phổ vào giáng sinh năm 1745. == Chú thích == == Tham khảo == Duffy, Christopher (2015). Frederick the Great: A Military Life. Routledge. OCLC 13174084973. Duffy, Christopher (1974). The army of Frederick the Great. Hippocrene Books. Lawley, Robert Neville (1852). General Seydlitz, a Military Biography. W. Clowes & Sons. Tucker, Spencer C. (2015). Wars That Changed History: 50 of the World's Greatest Conflicts: 50 of the World's Greatest Conflicts. ABC-CLIO. OCLC 1610697863. Weigley, Russell F. (2004). The Age of Battles: The Quest for Decisive Warfare from Breitenfeld to Waterloo. Indiana University Press. OCLC 0253217075. Zabecki, David T. (2014). Germany at War: 400 Years of Military History [4 volumes]: 400 Years of Military History. ABC-CLIO. OCLC 1598849816.
nhà trần.txt
Nhà Trần hoặc Trần triều (Hán-Nôm: 家陳 ・陳朝, nhà Trần • Trần triều) là triều đại quân chủ chuyên chế trong lịch sử Việt Nam, bắt đầu khi Trần Cảnh lên ngôi vào năm 1225, sau khi được Lý Chiêu Hoàng truyền ngôi. Những năm đầu tiên, Trần Cảnh còn nhỏ tuổi, toàn bộ quyền hành của nhà Trần đều do một tôn thất vai chú của Trần Cảnh là Trần Thủ Độ nắm quyền. Trong giai đoạn nắm giữ quyền lực, nhà Trần vẫn đóng đô ở Thăng Long - kinh đô triều cũ, tiếp tục mở rộng và phát triển sự hưng thịnh có từ đời nhà Lý. Về chính sách chính trị, các hoàng đế nhà Trần cũng xây dựng bộ máy nhà nước hoàn thiện hơn so với nhà Lý, họ tạo nên một hệ thống đặc biệt, trong đó các Hoàng đế sẽ sớm nhường ngôi cho Thái tử mà lui về làm Thái thượng hoàng, tuy nhiên vẫn cùng vị Hoàng đế mới điều hành chính sự. Việc này được đánh giá là tích cực, khi ngôi Hoàng đế sớm có chủ, tránh được việc tranh giành ngôi vua như triều đại nhà Lý trước đó; và bản thân vị Hoàng đế sẽ tiếp xúc và làm quen việc cai trị cho đến khi trưởng thành. Các mặt kinh tế, xã hội, giáo dục và nghệ thuật cũng hoàn chỉnh hơn và cho thấy Nho giáo, Đạo giáo đã có ảnh hưởng rõ rệt tới triều đại, tạo ra cục diện Tam giáo đồng nguyên, sự cân bằng ảnh hưởng của Phật giáo - Nho giáo - Đạo giáo. Thái thượng hoàng Trần Nhân Tông được coi là một danh nhân văn hóa nổi tiếng, người bảo trợ Phật giáo và Đạo giáo, thành lập Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử nổi tiếng và truyền đến đời nay. Bên cạnh đó, những danh thần Đoàn Nhữ Hài, Mạc Đĩnh Chi, Nguyễn Hiền, Nguyễn Trung Ngạn, Trương Hán Siêu, Chu Văn An, Trần Quang Triều,...là những cái tên nổi danh về tri thức, thơ văn, góp phần to lớn tạo nên thời kỳ nhà Trần hưng thịnh văn hóa. Dưới triều Trần, lực lượng quân đội đặc biệt được chú trọng phát triển đủ sức đánh dẹp các cuộc nội loạn và đương đầu với quân đội các nước xung quanh. Lực lượng quân đội nhà Trần thiện chiến nhất là thủy binh, rồi kỵ binh, bộ binh, tượng binh....chính sách chia thực ấp cho các thân tộc trong họ, mỗi thế lực trong dòng tộc đều có quân đội tinh nhuệ là nền tản lớn khiến quân đội nhà Trần tiêu diệt được cuộc xâm phạm của quân đội Nhà Nguyên, Đế quốc Mông Cổ qua 3 lần vào năm 1258, 1285 và 1287. Thời gian này xuất hiện một danh tướng kiệt xuất, vốn là tôn thất nhà Trần, chính là Hưng Đạo đại vương Trần Quốc Tuấn; người có vai trò quan trọng trong chiến thắng vào năm 1285 và 1287. == Tôn xưng == Theo Đại Việt sử ký toàn thư, vào năm Thiên Ứng Chính Bình thứ 19 (1250), Trần Thái Tông ban chiếu định thiên hạ phải gọi vua là Quốc gia (國家). Nhưng đến năm 1277, Trần Thánh Tông hỏi Uy Văn vương Trần Quốc Toại nghĩa chữ Quan gia (官家), ông này đáp: "Thời ngũ đế coi thiên hạ là của chung, thời tam vương coi thiên hạ là nhà chung, nên gọi là quan gia". Danh xưng này vốn được Tống Thái Tổ ban hành đầu tiên, rút tỉa từ Tấn thư và Tư trị thông giám: "Tây Hán vị thiên tử vi huyền quan, Đông Hán vị thiên tử vi quốc gia, cố kiêm nhi xưng chi. Hoặc viết: Ngũ đế quan thiên hạ, tam vương gia thiên hạ, cố kiêm nhi xưng chi". Như vậy, kể từ năm 1277, thiên hạ phải gọi vua Trần là "Quan gia" vì lẽ đó. == Lịch sử == === Nguồn gốc === Căn cứ vào gia phả họ Trần ở Nhạc Dương do thống tôn đời thứ 27 Trần Định Nhân còn lưu giữ được thì gốc tích xa xưa từ đời Chiến quốc, họ Trần thuộc nhóm tộc người Bách Việt sống ở đất Mân (Phúc Kiến - Trung Hoa). Năm 227 TCN, Phương chính hầu Trần Tự Minh đang làm quan cho Nam Việt vương Triệu Đà, vì mâu thuẫn giữa người Hán và người Bách Việt mà ông đã theo dòng người Bách Việt di cư xuống phía Nam. Tự Minh được An Dương Vương thu nạp, trở thành vị tướng tài ba, cùng Cao Lỗ giúp vua chống lại Triệu Đà. Khi thành Cổ Loa thất thủ, Âu Lạc rơi vào tay Triệu Đà, Trần Tự Minh lui về sống ẩn dật ở đất Kinh Bắc. Dòng họ này qua 700 năm ở Kinh Bắc phân ra nhiều nhánh, nhưng dòng thống tôn đến đời Trần Tự Viễn (582 - 637) nổi lên như một nhân tài kiệt xuất của xứ Giao Châu. Trần Kinh (陳京) khi dời từ An Sinh (Quảng Ninh) về Tức Mạc (Nam Định) lấy vợ sinh ra Trần Hấp. Trần Hấp (陳翕) sinh ra Trần Lý. Trần Lý sinh ra Trần Thừa (sau được tôn là Trần Thái Tổ), Trần Tự Khánh và Trần Thị Dung. Trần Hoằng Nghi sinh được ba người con trai: Trần An Quốc, Trần An Hạ và Trần Thủ Độ. === Nguồn gốc tên === Các nhà lãnh đạo thuộc những thế hệ đầu tiên thường mang tên các loài cá, do nguồn gốc xuất thân chài lưới của họ Trần. Tổ họ Trần vốn tên là Chép, được dịch sang tiếng Hán là 鯉, phiên âm là "Lý", nghĩa là cá chép. Con ông là Trần Thừa vốn có tên là Dưa (cá dưa). Hai con trai Trần Thừa vốn có tên là Leo (cá leo), được phiên theo chữ Hán là Liễu (cha của Trần Quốc Tuấn), người con thứ hai có tên là Lành Canh (cá lành canh), phiên sang chữ Cảnh. Trần Thị Dung cũng vốn có tên là Ngừ (cá ngừ), khi làm hoàng hậu của Lý Huệ Tông mới đổi gọi là Dung. Về sau dân địa phương lập đền thờ bà vẫn gọi là "Bà chúa Ngừ". Từ thế hệ thứ hai, nhà Trần nắm quyền cai trị nên mới đặt theo các tên đời sau thường biết tới. === Thay ngôi nhà Lý === Vốn sống bằng nghề đánh cá, họ Trần thường sinh sống làm ăn ở những vùng cửa sông ven biển, đến đời Trần Lý (ông nội của vua Trần Thái Tông) đã trở thành một cự tộc có thế lực vùng Hải Ấp (nay là xã Lưu Xá, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình). Năm 1209, khi trong triều có biến loạn, vua Lý Cao Tông phải chạy lên Quy Hoá, Thái tử Lý Sảm (李旵) chạy về Hải Ấp đã được gia đình Trần Lý giúp đỡ. Hoàng tử Sảm đã kết duyên cùng Trần Thị Dung - con gái của Trần Lý. Họ Trần đã tập hợp hương binh giúp nhà Lý dẹp loạn, diệt trừ Quách Bốc, đưa vua Lý trở lại kinh đô. Cậu ruột Trần Thị Dung là Tô Trung Từ được làm Điện tiền chỉ huy sứ. Trung Từ lại đang tâm muốn nắm quyền riêng, lạnh nhạt với người đứng đầu chỉ huy họ Trần lúc bấy giờ là Trần Tự Khánh. Năm 1211, Thái tử Lý Sảm lên ngôi, sử gọi là Lý Huệ Tông. Ông cho đón vợ là Trần Thị Dung về cung lập làm Nguyên phi (元妃). Lúc này, Tô Trung Từ được phong Thái uý phụ chính, còn Tự Khánh được phong Chương Thành hầu (章成侯). Huệ Tông là người yếu đuối, lại bị Đàm thái hậu (譚太后) điều khiển chính sự, nên mọi việc đều phó thác cho Đàm Dĩ Mông (譚以蒙), người chức cao, quyền lớn nhưng không có học thức, không có mưu thuật, lại nhu nhược không quyết đoán, chính sự ngày một đổ nát. Lợi dụng tình hình đó, Đoàn Thượng (段尚) làm phản, tụ tập bè đảng ở Hồng Châu thả sức cướp bóc, khiến triều đình không chế ngự nổi. Năm 1216, trước tình thế bức bách của Đàm thái hậu, Lý Huệ Tông đã bí mật rời bỏ hoàng cung, cùng với Trần Thị Dung trốn đến nơi đóng quân của Trần Tự Khánh. Từ đó, vua Lý hoàn toàn phụ thuộc vào thế lực anh em họ Trần. Năm 1223, Trần Tự Khánh chết, mọi việc đều uỷ quyền cho Trần Thủ Độ, em họ Trần Thừa (陳承) và Tự Khánh, khi ấy là Chỉ huy sứ, quản lĩnh cấm quân. Là người cơ mưu, quyết đoán, Trần Thủ Độ đã sắp xếp để vua Huệ Tông nhường ngôi cho công chúa Chiêu Thánh, rồi cắt tóc đi tu ở chùa Chân Giáo. Liền sau đó, Trần Thủ Độ lại thu xếp cho Lý Chiêu Hoàng lên 7 tuổi lấy con trai thứ của Trần Thừa là Trần Cảnh (陳煚) lên 8 tuổi. Một năm sau, vào tháng 12 âm lịch năm 1225, Trần Thủ Độ ép Chiêu Hoàng nhường ngôi cho chồng, nhà Trần bắt đầu nắm quyền cai trị. Khi lên ngôi, Trần Cảnh còn nhỏ, mọi việc triều chính đều trong tay Thái sư Trần Thủ Độ và cha là Thái thượng hoàng Trần Thừa. === Dẹp nội loạn === Từ năm 1211, trong nước Đại Việt đã hình thành ba thế lực phân cát lớn là: Họ Đoàn, Đoàn Thượng (Hải Dương và Hải Phòng). Họ Trần, Trần Tự Khánh (Thái Bình, Nam Định và nam Hưng Yên). Họ Nguyễn, Nguyễn Nộn (Quốc Oai, Hà Tây) Triều đình nhà Lý chỉ kiểm soát vùng xung quanh Thăng Long. Trong thời gian nắm quyền bính trong triều cho tới khi thay ngôi nhà Lý, nhà Trần tiếp tục phải đối phó với các lực lượng cát cứ từ thời Lý. Do thế lực chưa đủ mạnh để trấn áp tất cả các lực lượng nổi dậy, họ Trần phải dùng chiến thuật khi đánh khi hoà, thậm chí cả biện pháp hôn nhân; và tận dụng sự xung đột của chính các thế lực này tự làm yếu nhau. Sau khi nhà Trần thành lập, Nguyễn Nộn đánh bại giết chết Đoàn Thượng năm 1228. Nhưng không lâu sau, cuối năm 1229, Nguyễn Nộn ốm chết, lực lượng của Nộn tự tan rã. Nhà Trần chấm dứt được cục diện chia cắt, tập trung củng cố nội chính sau nhiều năm nghiêng ngả dưới thời Lý. === Thời kỳ thịnh trị === ==== Nguyên Phong chi trị ==== Trần Cảnh khi lên ngôi vua chỉ mới 8 tuổi. Thái sư Trần Thủ Độ và Thái thượng hoàng Trần Thừa nhiếp chính và thực sự nắm quyền hành. Trần Thủ Độ tuy bị đánh giá là người không có lễ giáo, thất học nhưng mưu lược hơn người, trị việc trong nước đều cẩn thận và chu toàn. Về mọi mặt, thời Thái Tông củng cố các vấn đề chính nhất là: Mở khoa thi Tam giáo (Đạo giáo, Nho giáo, Phật giáo) sau nhiều năm bị gián đoạn do loạn lạc cuối thời Lý. Định đặt luật pháp, soạn ra bộ Quốc triều hình luật gồm 20 quyển để định tội danh trong nước. Đáng tiếc bộ sách này đã bị thất truyền. Lại mở rộng phía ngoài thành Đại La, bốn cửa thành giao cho quân Tứ sương thay phiên nhau canh giữ. Sửa đổi quan chức các phủ lộ. Đặt 2 viên An phủ sứ và An phủ phó sứ. Trong thành dựng cung, điện, lầu, các và nhà lang vũ ở hai bên phía đông và tây. Bên tả là cung Thánh Từ (nơi Thái thượng hoàng ở), bên hữu là cung Quan Triều (nơi Hoàng đế ở). Chép công việc của quốc triều làm bộ Quốc triều thường lễ, 10 quyển. Thủy lợi cũng được coi trọng. Năm 1231, sai hoạn quan Nguyễn Bang Cốc chỉ huy binh lính phủ mình đào vét kênh Trầm và kênh Hào từ phủ Thanh Hóa đến địa giới phía nam Diễn Châu. Việc xong, thăng Bang Cốc làm Phụ Quốc thượng hầu. Bắt đầu định luật hành chính. Chia đất nước làm 12 lộ. Đặt các chức quan cai trị. Làm đơn sổ hộ khẩu, con trai lớn gọi là đại hoàng nam, con trai nhỏ gọi là tiểu hoàng nam, 60 tuổi gọi là lão, già lắm thì gọi là long lão. Nhân đinh có ruộng đất thì nộp tiền thóc, người không có ruộng đất thì miễn cả. Có 1, 2 mẫu ruộng thì nộp 1 quan tiền, có 3, 3 mẫu thì nộp 2 quan tiền, có từ 5 mẫu trở lên thì nộp 3 quan tiền. Tô ruộng mỗi mẫu nộp 100 thăng thóc. Bắt đầu thông thương nơi biên giới, để có thể giao thương với nhà Tống ở Giang Nam. Khi Nguyên Thái Tông mất, thì cửa ải thường không thông. Nếu có sứ mệnh thì chỉ có hai viên chánh phó sứ và hai bọn người đi theo, còn sản vật tiến cống có bao nhiêu thì gói bọc đưa đến địa đầu biên giới, quan địa phương nhận giữ và chuyển nộp. Sứ thần đến kinh, chỉ dâng biểu tâu thôi, các vật tiến cống không đến nơi cả được. Đến bây giờ, sai tướng chống giữ, đánh chiếm mới thông hiếu được với nước Tống. Mỗi khi có dịp hạn hán, triều đình thường ban hành luật miễn thuế khóa, mở lương thóc rồi đại xá. Cho nên quốc lực mau chóng khôi phục, Đại Việt lại trở nên phồn thịnh như thời nhà Lý. Trong ĐVSKTT có ghi chép:..Bấy giờ quốc gia vô sự, nhân dân yên vui, người làm quan giữ mãi một chức, người ở quán, các 10 năm mới được xuất thân, người ở sảnh, cục 15 năm mới được xuất thân, chức tể tướng thì chọn người hiền năng trong tôn thất, có đạo đức, tài nghệ, thông hiểu thi thư thì cho làm. Năm 1252, Thái Tông đổi niên hiệu là Nguyên Phong (元豐). Sau đó ông lập tức dẫn binh đi đánh Chiêm Thành. Trước đó khi nhà Lý suy, Chiêm Thành thường hay xua binh công phá ở vùng Nghệ An, dân chết vô số, nay vua lên ngôi mà không sang thông hiếu nên rất giận, dẫn quân đi đánh và bắt được nhiều thần thiếp, cướp được nhiều của cải. Uy danh Đại Việt đối với Chiêm Thành lại được thiết lập. Giai đoạn này gọi là Nguyên Phong chi trị (元豐之治). Năm 1258, sau khi đánh bại đại quân của Ngột Lương Hợp Thai của người Mông Cổ, Thái Tông truyền ngôi cho Hoàng thái tử Trần Hoảng (陳晃), tự xưng là Thái thượng hoàng. Từ đấy, nhà Trần theo lệ truyền ngôi sớm cho thái tử, Thượng hoàng tuy nhường ngôi nhưng vẫn quán xuyến mọi việc, giúp vị vua trẻ quen dần chính sự. Trần Hoảng lên ngôi, sử gọi là Trần Thánh Tông. ==== Nhân Hiếu nhị hoàng ==== Dưới thời của Thánh Tông hoàng đế, mọi việc chính sự vẫn đều chu toàn, nhà Trần tiếp tục thịnh trị. Ông xưng là Nhân Hoàng (仁皇), niên hiệu cải thành Thiệu Long (紹隆). Năm 1264, Thái sư Trần Thủ Độ qua đời, thọ 71 tuổi. Thái sư công chính nghiêm minh, nhà Trần có được ngôi báu và sự thịnh trị đời Thái Tông phần nhiều là công sức của ông. Đến đây, truy phong làm Thượng phụ Thái sư Trung Vũ đại vương (上父太師忠武大王). Nhân sự cũng được thay đổi trong thời Thánh Tông. Bấy giờ Đặng Kế (鄧薊) làm Hàn lâm viện học sĩ, Đỗ Quốc Tá (杜國佐) làm Trung thư sảnh trung thư lệnh, đều là nho sĩ văn học. Theo chế độ cũ, không phải là nội nhân (hoạn quan) thì không được làm hành khiển, chưa bao giờ dùng nho sĩ văn học. Bắt đầu từ đây, nho sĩ văn học mới giữ được quyền bính, cũng là dấu hiệu của Nho giáo đang bắt đầu có ảnh hưởng mạnh trong bộ máy nhà nước. Đối với anh em trong hoàng tộc, nhà vua luôn coi là thân thiết. Ông xuống chiếu cho các vương hầu tôn thất, khi bãi triều thì vào trong điện và lan đình. Vua cùng ăn uống với họ. Hôm nào trời tối không về được thì xếp gối dài, trải chăn rộng, kê giường liền cùng ngủ với nhau để tỏ hết lòng yêu quý nhau. Còn như trong các lễ lớn như triều hạ, tiếp tân, yến tiệc thì phân biệt rõ ngôi thứ, cấp bậc cao thấp. Vì thế, các vương hầu thời ấy không ai là không hòa thuận, kính sợ và cũng không phạm lỗi khinh nhờn, kiêu căng. Năm 1277, Thượng hoàng Thái Tông băng hà, hưởng thọ 60 tuổi, làm Thượng hoàng được 19 năm. Cùng năm đó, Thánh Tông nhường ngôi cho Hoàng thái tử Trần Khâm (陳欽), sử gọi là Trần Nhân Tông. Ông xưng làm Hiếu Hoàng (孝皇), đổi niên hiệu thành Thiệu Bảo (紹寶). Khi Nhân Tông lên ngôi, họa giặc giã từ quân Nguyên ở phía Bắc đang kéo đến. Năm đó, quân Nguyên đánh diệt nhà Tống, Tả thừa tướng nhà Tống là Lục Tú Phu cõng Tống đế nhảy xuống biển chết. Hậu cung và các quan chết theo rất nhiều. Qua 7 ngày có đến hơn 10 vạn xác chết nổi lên mặt biển. Xác Tống đế cũng ở trong số đó. Để chuẩn bị cho chiến tranh chống quân xâm lượt, nhà Trần cho tiến hành xét duyệt sổ đinh, chuẩn bị lương thảo lực lượng. Phong cho Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn (興道王陳國峻) làm Quốc công tiết chế, thống lĩnh quân đội toàn quốc, sai chọn các quân hiệu có tài chỉ huy, chia đi nắm giữ các đơn vị. Cuối cùng, quân đội nhà Trần toàn thắng vào năm 1285 và năm 1287. Đến đây, nhà Trần bắt đầu bước vào thời thịnh trị lâu dài tiếp theo. Năm 1290, Thượng hoàng Thánh Tông băng hà, hưởng dương 50 tuổi. Trị vì được 21 năm, thượng hoàng được 11 năm. Ông là người thiên tư, nhân ái, kế nghiệp Thái Tông khiến quốc gia hưng thịnh, lại giúp Nhân Tông chống giặc ngoại xâm, thực là công lao to lớn. Miếu hiệu Thánh Tông hoàng đế cũng là rất tôn xứng. Trong nước sau thời kỳ chiến tranh, mất mùa thất bát. Ngay năm Thánh Tông băng hà, trong triều lục đục chuẩn bị tang lễ thì nhân dân ngoài kinh thành lại đói to, 3 thăng gạo giá 1 quan tiền, dân nhiều người bán ruộng đất, và bán con trai con gái làm nô tỳ cho người, mỗi người giá 1 quan tiền. Ngay lập tức, xuống chiếu phát thóc công chẩn cấp dân nghèo và miễn thuế nhân đinh. Năm sau, tiếp tục chết đói, 2 năm này liên tiếp nạn đói hoành hành, Nhân Tông ban chiếu cho nô dịch, nô lệ có thể mua chuộc lại ruộng đất để tăng cường cải thiện tình hình lương thực. Tình hình dần dần cải thiện. Năm 1293, Nhân Tông nhường ngôi cho Hoàng thái tử Trần Thuyên (陳烇), sử gọi là Trần Anh Tông. Ông tự xưng làm Anh Hoàng (英皇). ==== Anh Minh thịnh thế ==== Anh Tông hoàng đế là một vị Hoàng đế có tính trưởng thành cao trong các vị hoàng đế nhà Trần. Khi mới lên nối ngôi, Anh Tông hay uống rượu và đêm thường hay lén ra ngoài đi chơi, có lần bị đồ vô lại ném trúng đầu. Một hôm uống rượu say đến nỗi Thượng hoàng Nhân Tông ở Thiên Trường về kinh đô, các quan đều ra đón rước cả, mà vua vẫn nằm ngủ. Thượng hoàng giận lắm, truyền xa giá lập tức về Thiên Trường và hạ chiếu cho bách quan phải về đấy hội nghị định truất ngôi Anh Tông. Khi Anh Tông tỉnh rượu, biết thượng hoàng về kinh đô, sợ hãi quá, vội vàng chạy ra ngoài cung gặp một người học trò tên là Đoàn Nhữ Hài (段汝諧), mượn thảo bài biểu để dâng lên tạ tội, rồi cùng với Nhữ Hài xuống thuyền đi suốt đêm đến phủ Thiên Trường. Thượng hoàng xem biểu rồi quở mắng một lúc, và tha lỗi cho Anh Tông. Về đến kinh sư, Anh Tông cho Đoàn Nhữ Hài làm ngự sử trung tán, và từ đấy không uống rượu nữa. Anh Tông từ sau việc ấy siêng năng hơn, tối hôm tấu duyệt sớ của chính sự. Và từ sau vụ ấy, vua cũng đâm ra ghét người nghiện rượu và không dùng những người ấy vào việc quan. Ông cũng là người rất ghét nạn đánh bạc, đã sai đánh chết Thượng phẩm Nguyễn Hưng vì tội ấy. Dưới thời Anh Tông luật pháp rất nghiêm, vì thế trong nước có trật tự, quốc gia đi lên nhanh chóng. Dưới thời ông, Ai Lao và các động biên giới thường xuyên quấy nhiễu, dù Trần Quang Khải, Trần Quốc Tuấn đều đã qua đời nhưng các tướng Phạm Ngũ Lão, Trần Nhật Duật, Trần Quốc Tảng đều là các danh tướng nên biên giới được an lành. Đối với văn hóa, thời Anh Tông xuất hiện các danh nhân như Đoàn Nhữ Hài, Trương Hán Siêu, Mạc Đĩnh Chi, Nguyễn Trung Ngạn (阮忠彥), Trần Thì Kiến (陳時見), Bùi Mộc Đạc (裴木鐸). Đời Anh Tông có một ông quan nhỏ tên Trần Cụ (陳瞿), người Cứu Liên. Tính tình khoan hậu, cẩn trọng, giỏi bắn cung đá cầu nên Anh Tông sai bảo dạy cho Thái tử Trần Mạnh (陳孟). Cụ là người rất thích ngay ngắn, làm cầu đá, bắn cung đều rất quy tắc và ngay thẳng. Ông vốn có mối hận với Cứu Liên, thề rằng chân không giẫm lên đất ấy nữa. Sau này trở về Cứu Liên thì đi thuyền, đến khi lên bộ thì đi kiệu vào cửa, tới giường mới xuống kiệu, thức ngủ, ăn uống đều ở trên giường. Khi nào chơi xem vườn ao thì sai khiêng giường đến chỗ đó, hết hứng thì trở về, lại ngồi kiệu, lên thuyền... Cứ như thế cho đến hết đời, chưa hề giẫm một bước xuống đất Cứu Liên. Ông ta giữ lòng bền rắn một mực như vậy đó, đời xưa gọi thế là người gàn. Về lễ phục quan lại, Anh Tông quy định áo mũ, kiệu ngồi cũng rất chặt chẽ, rõ ràng. Năm 1300, quy định quan văn thì đội mũ Đinh tự màu đen, tụng quan thì đội mũ Toàn hoa màu xanh vẫn như quy chế cũ. Ống tay áo của các quan văn võ rộng 9 tấc đến 1 thước 2 tấc, không cho dùng từ 8 tấc trở xuống. Các quan văn võ không được mặc xiêm, tụng quan không được mặc thường (mũ toàn hoa xanh có hai vòng vàng đính vào hai bên). Nhưng đến năm sau, đổi lại thành các quan văn võ đều đội mũ Đinh tự, thêm miếng lụa bọc tóc màu tía xen màu biếc. Các kiểu mũ của vương hầu: người tóc dài đội mũ Triều thiên, người tóc ngắn đội mũ Bao. Một sự kiện đánh dấu sự mở rộng cương vực Đại Việt là việc Anh Tông gả em gái là Huyền Trân công chúa (玄珍公主) cho Chế Mân (Jaya Sinhavarman III), để đổi lấy hai châu Ô, Lý (từ đèo Hải Vân, Thừa Thiên đến phía bắc Quảng Trị ngày nay). Nhưng cuộc hôn nhân chỉ được 1 năm thì Chế Mân băng hà, Anh Tông lo sợ Huyền Trân ở đấy không hay nên cử Trần Khắc Chung (陳克終) cướp công chúa về, từ đấy người Chiêm Thành oán hận Đại Việt. Năm 1311, chúa Chiêm là Chế Chí (Jaya Sinhavarman IV) đánh trả nhưng bị đại bại. Năm 1318, Chế Năng tiếp tục đem quân đánh phá nhưng vẫn không kết quả. Năm 1314, Anh Tông nhường ngôi cho Hoàng thái tử Trần Mạnh, sử gọi là Trần Minh Tông. Minh Tông tự xưng làm Ninh Hoàng (宁皇). Thượng hoàng Anh Tông vẫn giúp đỡ ông trông coi chính sự. Triều đại nhà Trần dưới thời Minh Tông tiếp tục duy trì sự thịnh vượng của các đời Anh Tông đã tạo nên. Sự thịnh thế này gọi là Anh Minh thịnh thế (英明晟世), kéo dài hơn 60 năm hưng thịnh. Dưới thời Minh Tông, trong huyết thống hoàng gia đã bắt đầu có ngoại thích xen vào. Đó là việc ông sủng ái Anh Tư phu nhân (英思夫人), con gái một quan viên họ Lê và em phu nhân là Sung viên Lê thị (充媛黎氏). Cả 2 bà đều sinh ra các Hoàng tử đều là những người sẽ kế thừa ngôi vị Hoàng đế Đại Việt tương lai. Anh Tư phu nhân sinh ra Hoàng trưởng tử Trần Vượng (陳旺), Trần Phủ (陳暊) còn Lê sung viên sinh ra hoàng tử út Trần Kính (陳曔). Minh Tông do sủng ái Anh Tư phu nhân nên muốn lập con của phu nhân là Trần Vượng làm Thái tử, nhưng gặp phải sự phản đối từ cha của Lệ Thánh hoàng hậu (麗聖皇后) là Huệ Vũ vương Trần Quốc Chẩn (陳國瑱), một đại thần trụ cột đương thời, con trai của Nhân Tông hoàng đế, người mà Minh Tông phải gọi bằng chú. Khi Anh Tông hấp hối, ông đã giao Quốc Chẩn chăm nom Minh Tông nên có thể nói địa vị của Quốc Chẩn rất là cao. Khi Quốc Chẩn phản đối việc ông lập Trần Vượng làm Thái tử, Minh Tông bèn thôi nhưng rất bực mình. Sau đó, dưới sự xúi giục của Trần Khắc Chung (陳克終), Văn Hiến hầu (文獻侯) là con trai của Trần Nhật Duật, cùng sự ngấm ngầm của Anh Tư phu nhân, Minh Tông đã bắt giam Quốc Chẩn vào một ngôi chùa và khiến Quốc Chẩn thiệt mạng. Minh Tông sau đó truyền ngôi cho Thái tử Trần Vượng, gọi là Trần Hiến Tông. Hiến Tông chết khi còn trẻ, ông lập con của Lệ Thánh hoàng hậu là Trần Hạo (陳暭), tức Trần Dụ Tông. Năm 1358, Thượng hoàng Minh Tông băng hà, hưởng dương 59 tuổi. Dụ Tông tự mình điều hành chính sự, thời kỳ suy vong của nhà Trần bắt đầu. === Thời kỳ suy tàn === ==== Dụ Tông suy trị ==== Trần Dụ Tông tuy được đánh giá thông minh, hiểu rộng, sách vở đều thông nhưng đến khi Thượng hoàng Minh Tông băng hà, ông trở nên bỏ bê chính sự. Ông ham mê tửu sắc, ra lệnh cho xây cung điện, tạo sưu cao, thuế nặng làm cho nhân dân vô cùng khổ sở và ca thán. Trong nước, giặc giã nổi lên khắp nơi. Trong khi đó tại triều đình, các bọn gian thần kéo bè kết đảng và trở nên lộng hành vô cùng. Chu Văn An (朱文安), một vị quan thanh liêm, trung thần tại triều đình, đã dâng Thất trảm sớ (七斬疏) đề nghị trị tội những tên tham quan ô lại. Vua Trần Dụ Tông đã không nghe theo nên Chu Văn An đã từ quan về nhà dạy học. Dụ Tông ham chơi bời, mê đàn hát, thường sai các vương hầu và công chúa bày tiệc đóng trò hát tuồng cho vui, ai diễn hay thì được thưởng. Mặc dù phép tắc nhà Trần rất nghiêm khắc với tội đánh bạc nhưng Trần Dụ Tông lại thích trò này, chiêu tập các nhà giàu vào cung đánh bạc cùng vua. Có người đã xàm tấu với ông rằng Thái úy Cung Tĩnh Đại vương Trần Nguyên Trác (陳元卓) đã yểm bùa hại ông. Dụ Tông chút nữa là sát hại Nguyên Trác, nhưng Hiến Từ hoàng thái hậu đã can ngăn. Ông sai phu xây cất nhiều cung điện, đào hồ ở vườn trong hậu cung, trong hồ xây đá làm núi, trồng nhiều cây cỏ lạ và nuôi chim thú quý; sau đó ông lại sai làm hồ con, lệnh cho dân ra biển chở nước mặn đổ vào hồ và thả cá biển, đồi mồi vào nuôi. Vua thích chơi bời, các quý tộc cũng hưởng ứng theo vua khiến triều đình rối nát. Bên ngoài xảy ra mất mùa trong nhiều năm. Trần Dụ Tông chỉ có các biện pháp khắc phục tạm thời như sai các nhà hào phú bỏ thóc lúa chu cấp cho người nghèo để chống đói và thưởng chức tước cho họ để trả công; ông không chú trọng việc đắp đê và làm thủy lợi để phát triển nông nghiệp lâu dài. ==== Loạn Dương Nhật Lễ ==== Năm 1369, Trần Dụ Tông băng hà, hưởng dương 34 tuổi, cai trị được 28 năm. Trần Nhật Lễ, con của Cung Tĩnh vương Trần Nguyên Dục (陳元育) được chọn làm người kế thừa đại thống. Nhật Lễ không phải là con của Nguyên Dục mà mẹ Lễ vốn là cô đào, vợ của kép hát Dương Khương (楊姜). Bà múa vở Vương mẫu hiến bàn đào, thân người rất đẹp nên Nguyên Dục si mê, buộc bà phải bỏ Dương Khương mà về làm vợ mình, nhưng lúc đó bà đã mang thai Lễ. Sau khi Nhật Lễ sinh ra, Nguyên Dục tự nhận làm con mình. Đến khi Dụ Tông bệnh nặng, truyền ngôi cho Nhật Lễ để kế thừa. Thật ra, lúc đó triều thần không muốn thế mà muốn lập Cung Định vương Trần Phủ lên thay, nhưng Hiến Từ hoàng thái hậu lại nghĩ đó là cháu mình, khăng khăng lập Nhật Lễ nên quần thần đều nghe theo. Nhật Lễ lên ngôi, tôn Thái hậu làm Thái hoàng thái hậu, Trần Nguyên Trác làm Thượng tướng quốc thái tể. Sau này, Thái hoàng thái hậu biết chuyện của Nhật Lễ, hết sức thất vọng mà muốn phế truất Lễ nên Lễ ra tay trước, cho người ngầm bỏ độc giết chết Thái hậu. Nhật Lễ ở ngôi bỏ bễ chính sự, ham tửu sắc, hằng ngày chỉ rong chơi, thích các trò hát xướng, muốn đổi lại họ là Dương, việc này làm bất bình trong giới hoàng tộc nhà Trần trong đó có Thái tể Trần Nguyên Trác. Ông ngầm lập mưu bắt Lễ trong cung, cùng con trai là Trần Nguyên Tiết với 2 cháu trai là con của Thiên Ninh công chúa (天寧公主) xâm nhập và cung nhưng kế hoạch thất bại, Nguyên Trác cùng đồng đảng đều bị Nhật Lễ giết hết. Mùa đông, tháng 10, năm 1370, Cung Định vương Trần Phủ vì có con gái làm hoàng hậu của Nhật Lễ, sợ vạ lây đến mình, tránh ra trấn Đà Giang (Gia Hưng), ngầm hẹn với các em là Cung Tuyên Vương Trần Kính, Chương Túc quốc thượng hầu Trần Nguyên Đán (陳元旦) cùng với Thiên Ninh công chúa hội ở sông Đại Lại, phủ Thanh Hóa để dấy quân. Lật đổ được Nhật Lễ, giáng xuống làm Hôn Đức công (昏德公). Cùng năm ấy, Cung Định vương Trần Phủ lên ngôi, tức là Trần Nghệ Tông. ==== Hồ Quý Ly chiếm ngôi ==== Nghệ Hoàng giữ ngai vị được 2 năm, lên làm Thái thượng hoàng và nhường ngôi cho em là Trần Kính lên thay, tức là Trần Duệ Tông. Năm 1377, Duệ Tông tử trận ở Chiêm Thành, Nghệ Hoàng lập con Duệ Tông là Trần Hiện (陳晛) lên thay, sử gọi là Trần Phế Đế. Thượng hoàng Nghệ Tông nắm quyền bính trong tay quyết định mọi việc nhưng lại quá tin dùng một mình Hồ Quý Ly (黎季犛), là cháu của Minh Từ thái phi, mẹ của Nghệ Hoàng. Hồ Quý Ly muốn nắm đại quyền, nên xúi giục Nghệ Hoàng giết hại các trung thần, các hoàng tử, các thân vương và ngay cả Phế Đế cũng bị sự gièm pha của Quý Ly mà bị Nghệ Tông phế bỏ. Con út của Nghệ Hoàng là Trần Ngung (陳顒), tức Trần Thuận Tông được lập lên ngôi nhưng cũng không có thực quyền. Con gái lớn của Quý Ly là Khâm Thánh hoàng hậu của Thuận Tông, nên mọi việc của Thuận Tông càng bị Quý Ly siết chặt hơn bởi lẽ Hồ Quý Ly rất gian xảo Do sự suy yếu chính quyền, các cuộc khởi nghĩa đã nổ ra. Cụ thể là khởi nghĩa của: Ngô Bệ. Nguyễn Thanh cùng với cậu hai là Nguyễn Kỵ và em út là Nguyễn Bổ. Nguyễn Nhữ Cái. Phạm Sư Ôn - tăng sư nổi tiếng. Vì có mưu đồ soán đoạt ngôi vị mà lại được sự tin dùng của Nghệ Tông nên Hồ Quý Ly đã tạo được khá nhiều phe cánh và bè đảng ở triều đình và khắp mọi nơi. Rồi từ đó Quý Ly càng ngày càng lộng quyền không coi ai ra gì. Năm 1394, Nghệ Hoàng băng hà, hưởng thọ 74 tuổi. Hồ Quý Ly nắm lấy cả quyền hành rồi sai người vào đất Thanh Hoá xây thành Tây Đô. Sau khi công việc xong xuôi, Quý Ly bắt Trần Thuận Tông dời kinh về Tây Đô rồi lập mưu ép Thuận Tông nhường ngôi cho con là Trần An, khi đó mới có 3 tuổi lên ngôi, tức Trần Thiếu Đế. Quý Ly lên làm phụ chính sai người giết Thuận Tông, tự xưng làm Quốc Tổ Chương Hoàng (國祖章皇). Nhìn thấy âm mưu của Hồ Quý Ly, nhiều tướng lĩnh nhà Trần như Đại tướng quân Trần Khát Chân (陳渴真) cùng các tông thất lập hội với mưu đồ tiễu trừ Quý Ly, nhưng cơ mưu bị bại lộ, tất cả đều bị bắt và bị giết vào khoảng hơn 370 người. Năm 1400, Quý Ly phế truất Thiếu Đế rồi tự xưng làm vua, chiếm lấy ngôi nhà Trần, đổi sang họ Hồ (胡), lập ra triều đại nhà Hồ. Nhà Trần chấm dứt, kéo dài 175 năm với 13 đời hoàng đế. === Nhận định === ==== Về chiến thắng Mông - Nguyên ==== Theo đánh giá của các sử gia, việc nhà Trần lên thay nhà Lý vào đầu thế kỷ 13 là cần thiết và kịp thời cho sự phục hưng nước Đại Việt bị suy yếu nghiêm trọng cuối thời nhà Lý. Nếu không có sự xuất hiện của nhà Trần, nước Đại Việt sẽ khó tồn tại trong cảnh cát cứ (Nguyễn Nộn, Đoàn Thượng) bên trong và họa Mông - Nguyên bên ngoài như các nước Đại Lý, Nam Tống láng giềng. Nguyên nhân cơ bản nhất cho những thành công của nhà Trần là chính sách đoàn kết nội bộ của những người lãnh đạo. Dù trong hoàng tộc nhà Trần có những người phản bội theo nhà Nguyên nhưng nước Đại Việt không bị mất, nhờ sự ủng hộ của đông đảo dân chúng. Còn một nguyên nhân nữa phải kể tới trong thành công của nhà Trần là đội ngũ tướng lĩnh xuất sắc, nòng cốt lại chính là các tướng trong hoàng tộc nhà Trần. Dù xuất thân quyền quý nhưng các hoàng tử, thân tộc nhà Trần, ngoài lòng yêu nước - và bảo vệ quyền lợi dòng tộc - số lớn là những người có thực tài cả văn lẫn võ. Thật hiếm dòng họ cai trị nào có nhiều nhân tài nổi bật và nhiều chiến công như nhà Trần, đặc biệt là thế hệ thứ hai: Trần Quốc Tuấn, Trần Nhân Tông, Trần Quang Khải, Trần Nhật Duật đều là những tên tuổi lớn trong lịch sử Việt Nam. Đó là chưa kể tới Trần Thủ Độ, Trần Khánh Dư, Trần Quốc Toản... Mông - Nguyên đương thời là đế quốc lớn nhất thế giới. Những nơi người Mông bại trận lúc đó như Ai Cập quá xa xôi, Nhật Bản và Indonesia đều có biển cả ngăn cách và quân Mông cũng không có sở trường đánh thủy quân nên mới bị thua trận. Thế nhưng nước Đại Việt lúc đó nằm liền kề trên đại lục Trung Hoa, chung đường biên giới cả ngàn dặm với người Mông mà người Mông vẫn không đánh chiếm được. Một đế quốc đã nằm trùm cả đại lục Á-Âu mà không lấy nổi một dải đất bé nhỏ ở phía nam. Có so sánh tương quan lực lượng với kẻ địch và vị trí địa lý với những quốc gia làm được điều tương tự mới thấy được sự vĩ đại của chiến công 3 lần đánh đuổi Mông - Nguyên của nhà Trần. ==== Về hậu kỳ nhà Trần ==== Nhìn chung, triều Trần có thể chia ba thời kỳ: thời thứ nhất từ Thái Tông đến Nhân Tông là thời xây dựng và chống Mông-Nguyên, thời thứ hai từ Anh Tông đến Hiến Tông (có thượng hoàng Minh Tông) là thời kế tục, thời thứ ba từ Dụ Tông (sau khi thượng hoàng Minh Tông mất) tới khi kết thúc là thời suy tàn. Để tránh "họa ngoại thích", nhà Trần chủ trương chính sách "hôn nhân nội tộc". Chính sự nhà Trần bắt đầu suy từ đời vua Dụ Tông xa hoa hưởng lạc, xa lánh lương thần, tin dùng gian thần. Nhưng đó đơn giản chỉ là sự hưởng thụ như Lý Cao Tông trước đây mà thôi. Tới các đời sau, đặc biệt là Trần Nghệ Tông và Trần Phế Đế (Đế Hiện), có hàng loạt biểu hiện của sự mê muội, u tối của người cầm quyền. Trần Nghệ Tông tin dùng một mình Hồ Quý Ly, nghe lời Quý Ly sát hại hàng loạt con cháu, người thân tộc họ Trần. Nhiều hành động của Nghệ Tông như thể để "dọn đường" cho Quý Ly cướp ngôi nhà Trần sau này. Thời kỳ Nghệ Tông trở về sau, vấn đề chống Chiêm Thành là lớn nhất, vậy mà một Quý Ly luôn chạy dài trước những đợt tấn công của địch, không hề lập được công bao giờ, lại vẫn được tin dùng đến như vậy. Còn Đế Hiện đối với Đỗ Tử Bình, gian thần xảo trá gây ra cái chết của cha mình (Duệ Tông), không những không trừng trị đích đáng mà còn nhiều lần thăng lên làm đại thần cấp cao hơn trước, khi chết (1382) còn được truy tặng gia phong. Những hành động tối tăm, mê muội đó phải chăng là sản phẩm của sự "thoái hóa giống nòi" do "hôn nhân nội tộc" nhiều đời gây ra? Những lần tiếm quyền, thoán ngôi khác trong lịch sử Việt Nam như Dương (Tam Kha) đoạt Ngô, Tiền Lê đoạt Đinh, Trần đoạt Lý, Mạc cướp Lê, Trịnh át Lê đều là "cường thần hiếp chúa". Quan hệ giữa Quý Ly với Nghệ Tông, Tử Bình với Đế Hiện không thể như Trần Thủ Độ với Lý Huệ Tông, Mạc Đăng Dung với Lê Cung Hoàng... Việc dung túng cho cấp dưới, những kẻ trực tiếp đụng chạm tới quyền lợi của dòng tộc mình mà vẫn "không hay biết" như các vua Trần quả là hiếm có. Các vua Trần thời hậu kỳ, kể cả Minh Tông, đều không biết chiêu mộ nhân tài; lực lượng quan lại đều kém tài. Nếu thế hệ trước thắng Mông-Nguyên khổng lồ một cách oai hùng bao nhiêu thì đời con cháu phải chạy trốn một Chiêm Thành nhỏ bé, từng núp bóng mình trong chiến tranh chống Nguyên Mông xưa kia, một cách thảm hại bấy nhiêu. Tới lúc bị Chiêm Thành xâm lấn, không hề có một gương mặt nào của dòng họ Trần đứng ra chống được giặc mà phải dựa vào một tướng ngoài hoàng tộc (Trần Khát Chân vốn mang họ Lê). Nếu trong tông thất nhà Trần thời kỳ sau có những nhân tài như giai đoạn đầu thì dù Quý Ly có manh tâm cũng không thể tính chuyện cướp ngôi. Nhà Trần trượt dốc từ Trần Dụ Tông, sau sự kiện Dương Nhật Lễ và cái chết của Duệ Tông đã không gượng dậy được nữa. Đó chính là thời cơ cho Hồ Quý Ly làm việc chuyên quyền và chiếm lấy ngôi nhà Trần. Dù sao, nhà Trần vẫn là một trong những triều đại nổi bật nhất trong lịch sử Việt Nam. Trang sử về nhà Trần trong sử sách nằm trong số những trang sáng nhất và để lại nhiều bài học cho đời sau. == Đối ngoại == Trong triều đại nhà Trần, ngoài những cuộc chiến tranh với quân Nguyên Mông ở phía Bắc thì Đại Việt cũng có những sự liên hệ với các nước láng giềng phía tây và phía nam là Ai Lao và Chiêm Thành. === Với Chiêm Thành === Có thể nói trong các triều đại Việt Nam, Chiêm Thành không lúc nào không quấy phá và cuộc chiến tranh giữa hai nước vẫn thường xuyên xảy ra. Lúc nhà Trần lên ngôi, nước Chiêm Thành vẫn giữ lệ triều cống và giao hòa. Trong đời vua Trần Nhân Tông, sau khi chinh phạt Chiêm Thành, thì giữa Đại Việt và nước Chiêm Thành có sự qua lại tốt đẹp. Đến đời vua Trần Anh Tông, lúc bấy giờ Trần Nhân Tông đã lên làm thái thượng hoàng và trong lúc sang thăm vãn cảnh nước Chiêm và để cho tình giao hảo của hai nước trở nên bền vững hơn, nhà Trần đã gả công chúa Huyền Trân cho vua Chiêm Thành là Chế Mân vào năm 1306. Chế Mân dâng châu Ô và châu Rí cho Đại Việt. Vua Trần Anh Tông đổi tên là Thuận Châu và Hóa Châu rồi đặt quan cai trị cũng như cho di dân sang ở. Một năm sau, Chế Mân chết. Theo tục lệ Chiêm Thành thì hoàng hậu phải bị hỏa thiêu chết theo. Vua Trần Anh Tông sai tướng Trần Khắc Chung giả tiếng vào thăm rồi tìm kế rước về. Chế Mân chết thì Chế Chỉ lên thay và đòi lại hai châu mà Chế Mân đã dâng cho Đại Việt. Vua Trần Anh Tông sai quân sang bắt Chế Chỉ đem về trị tội và phong cho em của Chế Chỉ là Chế Đà A Bà lên thay làm vua nước Chiêm Thành. Đến đời vua Trần Dụ Tông, con và rể của vua Chiêm Thành tranh giành nhau ngôi vua, quân nhà Trần sang can thiệp nhưng bị quân Chiêm Thành đánh bại cả hai lần. Năm 1370, các hoàng tử con vua Minh Tông lật đổ Dương Nhật Lễ (xem phần "Thời kỳ suy tàn" bên dưới) lập Trần Nghệ Tông. Mẹ Nhật Lễ chạy sang Chiêm Thành xui vua Chiêm đánh Đại Việt. Lúc đó thế lực nhà Trần suy yếu, Chiêm Thành có ý khởi binh đánh đòi lại hai châu đã mất. Đến đời vua Trần Duệ Tông, vua Chiêm Thành là Chế Bồng Nga quấy rối biên giới, vua Duệ Tông sai Đỗ Tử Bình đem quân trấn giữ Hóa Châu. Bồng Nga đem 10 mâm vàng dâng lên. Tử Bình ỉm đi, cướp làm của mình, nối dối là Bồng Nga ngạo mạn vô lễ, nên đem quân đánh. Duệ Tông giận lắm, quyết ý thân chinh. Cuối năm 1376, quân Trần xuất phát. Năm 1377, quân Trần chiếm cửa Thị Nại (Quy Nhơn ngày nay) rồi tiến đánh kinh thành là Đồ Bàn. Lúc đó Chế Bồng Nga, một ông vua có tài thao lược, dùng kế dụ quân Trần vào ổ mai phục đánh tan. Vua Trần Duệ Tông bị tử trận, Hồ Quý Ly, Đỗ Tử Bình rút quân bỏ chạy về nước. Thừa thắng xông lên, Chế Bồng Nga nhiều lần mang quân sang đánh phá Đại Việt, Hồ Quý Ly nhiều lần ra trận bị thua, quân Chiêm ba lần chiếm được kinh thành Thăng Long, vua tôi nhà Trần phải bỏ thành chạy. Quân Chiêm cướp phá kinh thành rồi rút về. Đỗ Tử Bình chỉ bị đồ làm lính 1 năm rồi sau đó lại được nhấc lên địa vị cao hơn. Năm 1390, Chế Bồng Nga lại đem quân sang đánh. Tướng trẻ Trần Khát Chân được lệnh đem binh dàn trận ở sông Hải Triều (sông Luộc ở vùng Hưng Yên ngày nay). Nhờ có hàng tướng bên Chiêm sang chỉ chỗ, Khát Chân sai chĩa hỏa pháo nhằm cả vào thuyền Chế Bồng Nga mà bắn. Vua Chiêm trúng đạn tử trận, quân Chiêm bỏ chạy và sau đó con của Chế Bồng Nga hàng phục Đại Việt. Kể từ đó trong thời gian dài Chiêm Thành không dám đánh Đại Việt nữa. === Với Ai Lao === Vào đời nhà Trần, quân của Ai Lao thường sang quấy phá cướp bóc ở vùng Nghệ An và Thanh Hóa. Vì thế triều đình đã phải sai quân lính đi đánh dẹp mãi và chính các vị vua phải thân chinh đi dẹp giặc, trong đó nhiều nhất phải kể đến vua Trần Nhân Tông. Mỗi lần bị thua thì quân Ai Lao rút về, nhưng sau đó thì lại sang quấy phá. Trong đời vua Trần Anh Tông, ông cũng nhiều lần thân chinh đi dẹp giặc nhưng ông cũng đã ra lệnh cho Phạm Ngũ Lão hơn ba, bốn phen đi dẹp giặc. Vua Trần Minh Tông cũng nhiều phen thân chinh đi dẹp giặc. Trong triều đại nhà Trần, mục đích của Đại Việt là dẹp các cuộc đánh phá và quấy nhiễu của quân Ai Lao chứ không có mục đích đánh chiếm lấy đất nước này. == Tổ chức quân đội == Quân chủ lực nhà Trần gồm cấm quân và quân các lộ. Quân các lộ ở đồng bằng gọi là chính binh, ở miền núi gọi là phiên binh. Cấm quân được gọi là quân túc vệ. Các đơn vị quân đội được gọi là quân. Đứng đầu mỗi quân là một đại tướng quân. Mỗi quân có 30 đô, chỉ huy mỗi đô có chánh phó đại đội. Mỗi đô có 5 ngũ, đứng đầu mỗi ngũ là đầu ngũ. Cấm quân là lực lượng nòng cốt trong chiến tranh chống ngoại xâm, có thể được điều động đi các lộ để tác chiến. Nhằm có lực lượng đông đảo cần thiết khi chống xâm lược, nhà Trần kế tục chính sách ngụ binh ư nông (giữ quân lính ở nhà nông) của nhà Lý, vừa đảm bảo số quân cần thiết phòng khi có chiến tranh xảy tới. Vua Trần một phần giữ lại ở kinh thành phòng khi có chuyện cấp bách, một phần cho về quê cày ruộng. Quân cấm vệ và các lộ có khoảng 10 vạn người Trương Hữu Quýnh, Đinh Xuân Lâm, Lê Mậu Hãn, sách đã dẫn, == Chiến tranh chống Mông Nguyên == Ở phương Bắc, người Mông Cổ dần và xâm chiếm Trung Quốc. Sau khi tiêu diệt nhà Kim phía bắc, các vua Mông Cổ tiến xuống phía nam để diệt nước Nam Tống vốn đã suy yếu khi bị nhà Kim của người Nữ Chân xâm lấn từ đầu thế kỷ 12. Để tạo thế bao vây Nam Tống, vua Mông Cổ đánh chiếm nước Đại Lý (Vân Nam (1254) và sau đó đánh sang Đại Việt. Cuối năm 1257, tướng Mông Cổ là Ngột Lương Hợp Thai (Uriyangqadai hay 兀良合台) mang 3 vạn quân tiến vào nước Đại Việt qua đường Vân Nam. Vua Trần Thái Tông đích thân ra chiến trận. Quân Trần cố gắng chặn nhưng quân Mông Cổ vẫn tiến vào được Thăng Long. Nhân dân Thăng Long theo lệnh của triều đình đã thực hiện "vườn không nhà trống", rút về Thiên Mạc (Hà Nam). Ngột Lương Hợp Thai kéo quân vào Thăng Long chưa đầy 1 tháng thì bị thiếu lương thực. Nhân cơ hội đó quân Đại Việt phản công ở Đông Bộ Đầu (Từ Liêm-Hà Nội). Quân Mông Cổ thua phải rút khỏi Thăng Long, đến vùng Quy Hóa (Yên Bái) bị quân của tộc trưởng Hà Bổng đánh tan tác, quân Mông Cổ rút chạy về Vân Nam. Năm 1279, quân Mông diệt được Nam Tống. Từ năm 1280, vua Mông Cổ là Hốt Tất Liệt đã lập ra nhà Nguyên. Để lấy cớ đánh Đại Việt, nhà Nguyên cho Toa Đô mượn đường đánh Chiêm Thành (Champa). Sau nhiều hoạt động ngoại giao hòa hoãn bất thành, cuối cùng chiến tranh bùng phát. Cuối năm 1284, nhà Nguyên liền phái hoàng tử Thoát Hoan và tướng Toa Đô mang quân đánh hai đường nam, bắc kẹp lại để chiếm Đại Việt. Thoát Hoan đi từ Quảng Tây còn Toa Đô đi đường biển từ cảng Quảng Châu, trước hết đánh vào Chiêm Thành rồi đánh "gọng kìm" thốc lên từ phía nam Đại Việt. Đây là lần xâm lược Đại Việt với quy mô lớn nhất của nhà Nguyên (huy động hơn 50 vạn quân) và cũng là cuộc kháng chiến gian khổ nhất của nhà Trần chống phương Bắc, quyết định sự tồn vong của Đại Việt lúc đó. Sau nhiều đợt rút lui để tránh thế mạnh của các đạo quân Mông, dùng chiến thuật "vườn không nhà trống" để quân địch không có lương ăn và bị bệnh dịch do không hợp thủy thổ bản địa, nhà Trần tổ chức phản công vào cuối xuân, đầu hè năm 1285. Với những chiến thắng ở Tây Kết, Hàm Tử, Chương Dương, quân Trần đại thắng, bắt giết được Toa Đô. Thoát Hoan thu tàn quân chạy về bắc. Thắng lợi năm 1285 cơ bản xác định sự tồn tại của Đại Việt và củng cố lòng tin của người Việt có thể đương đầu được với đạo quân hùng mạnh của Mông Nguyên liền kề phía bắc. Bởi vậy trong lần kháng chiến thứ 3 chống Mông Nguyên năm 1287, Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn nói với vua Trần: "...Quân ta đã quen việc chiến trận, mà quân nó thì sợ phải đi xa... Theo như thần thấy, phá được chúng là điều chắc chắn". Nhà Trần tiếp tục chủ động áp dụng chiến thuật tránh thế mạnh, triệt lương thảo. Cuối cùng quân Trần đại phá quân Nguyên ở sông Bạch Đằng tháng 4 năm 1288, bắt sống Nguyên soái Ô Mã Nhi, Phàn Tiếp, Tích Lệ Cơ. Thoát Hoan một lần nữa chạy trốn về bắc. Sau thất bại lần thứ ba ở Đại Việt, Nguyên Thế Tổ Hốt Tất Liệt vẫn chưa muốn đình chiến. Sang các năm sau, vua Nguyên tiếp tục muốn điều binh sang nhưng chưa gặp thời cơ thuận tiện. Tới năm 1294 lại định điều binh lần nữa thì chính Hốt Tất Liệt băng hà. Cháu nội là Nguyên Thành Tông lên ngôi không muốn gây chiến với Đại Việt nữa. Việc chiến tranh với nhà Nguyên từ đó mới chấm dứt. == Hành chính == Đời nhà Trần, Việt Nam chia ra làm 12 lộ, Đại Việt sử ký toàn thư (ĐVSKTT) chép như sau: Nhâm Dần, Thiên Ứng Chính Bình năm thứ 11 1242: Mùa xuân, tháng 2, chia nước làm 12 lộ. Đặt chức an phủ, trấn phủ, có 2 viên chánh, phó để cai trị. Các xã, sách thì đặt chức đại tư xã, tiểu tư xã. Từ ngũ phẩm trở lên là đại tư xã, từ lục phẩm trở xuống là tiểu tư xã. Có người làm kiêm cả 2-4 xã, cùng xã chính, xã sử, xã giám gọi là xã quan. Mỗi lộ đều có quyền dân tịch để kiểm soát dân số trong lộ. Dân chúng trong nước được chia ra làm 3 hạng: hạng tiểu hoàng nam (từ 18 tuổi đến 20 tuổi), hạng đại hoàng nam (từ 20 tuổi đến 60 tuổi) và hạng lão (trên 60 tuổi). Lúc đầu chỉ có những người trong hoàng tộc mới được giữ các chức quan nhưng từ đời vua Anh Tông, những người tài đức cũng được tuyển dụng vào giữ các chức vụ quan trọng này. Sách Khâm định Việt sử Thông giám Cương mục, phần chính biên, có ghi lại 12 lộ như sau: Thiên Trường, Long Hưng, Quốc Oai, Bắc Giang, Hải Đông, Trường Yên, Kiến Xương, Hồng Khoái, Thanh Hoá, Hoàng giang, Diễn Châu. Ngoài các lộ trên, nhà Trần còn đặt các phủ Lâm Bình, Thái Nguyên, Lạng Giang. Khi quân Mông Cổ đánh bại nhà Nam Tống, một số quan lại địa phương nhà Tống đã quy phụ nhà Trần, như trường hợp Hoàng Bính đem dâng phủ Tư Minh (nay là Bằng Tường) năm 1263 Năm 1306, nhà Trần gả Huyền Trân công chúa cho vua Chiêm Jaya Sinhavarman III. Vua Chiêm Thành dâng hai Châu Ô, Rý làm của hồi môn. Nhà Trần đổi thành Thuận Châu và Hóa Châu (Nam Quảng Trị và Thừa Thiên-Huế ngày nay). == Luật pháp == Vua Thái Tông cho sửa lại luật pháp rất nghiêm minh. Đại Việt sử ký toàn thư có chép lại như sau: Canh Dần, Kiến Trung năm thứ 5 1230: Mùa xuân, tháng 3, khảo xét các luật lệ của triều trước, soạn thành Quốc triều thống chế và sửa đổi hình luật lễ nghi, gồm 20 quyển. Định bị đồ có mức độ khác nhau: Loại bị đồ làm Cảo điền hoành thì thích vào mặt 6 chữ, cho ở Cảo xã (nay là xã Nhật Cảo), cày ruộng côn, mỗi người 3 mẫu, mỗi năm phải nộp 300 thăng thóc. Loại bị đồ làm Lao thành binh thì thích vào cổ 4 chữ, bắt dọn cỏ ở Phượng Thành, thành Thăng Long, lệ vào quân Tứ sương. Đặt ty bình bạc là cơ quan hành chính và tư pháp ở kinh đô Thăng Long lúc đó với chức quan kinh doãn, chuyên xét đoán việc kiện tụng ở kinh thành. Năm 1265 đổi thành Đại an phủ sứ, sau lại đổi thành Kinh sư đại doãn. == Kinh tế == Về mặt nông nghiệp: để tránh nạn ngập lụt, vua Thái Tông sai đắp đê hai bên bờ sông và cử quan đặc trách trông coi việc đê gọi là hà đê sứ. Mỗi năm sau vụ mùa, triều đình còn ra lệnh cho quân sĩ đắp đê hay đào lạch, hào, giúp đỡ dân chúng. Đại Việt sử ký toàn thư có chép: Tân Mão, Kiến Trung năm thứ 7, 1231: Mùa xuân, tháng giêng, sai nội minh tự Nguyễn Bang Cốc (hoạn quan) chỉ huy binh lính phủ mình đào vét kênh Trầm và kênh Hào (là tên hai con kênh, thuộc huyện Ngọc Sơn (nay là Tĩnh Gia), tỉnh Thanh Hóa) từ phủ Thanh Hóa đến địa giới phía nam Diễn Châu. Triều đình cũng cho phép các vương, hầu có quyền chiêu tập những người nghèo khó, lưu lạc đi khai khẩn đất hoang để mở mang thêm ruộng nương. Về mặt thuế má: Có 2 loại thuế là thuế thân và thuế điền. Thuế thân được đóng bằng tiền và ít nhiều tuỳ theo số ruộng có. Ai có dưới một mẫu ruộng thì được miễn thuế. Thuế điền thì đóng bằng thóc. Ngoài ra còn có thuế trầu cau, rau quả, tôm cá v.v. Về mặt tiền tệ, để tiện việc tiêu dùng - vàng, bạc được đúc thành phân, lượng và có hiệu của nhà vua. == Giáo dục, thi cử == Đời nhà Trần, văn học rất được mở mang, Nho học cũng phát triển hơn so với thời Lý. Ngoài Quốc Tử Giám có tại kinh đô từ đời nhà Lý, nhà Trần cho lập thêm Quốc Học viện để giảng Tứ Thư và Ngũ Kinh. Tại các lộ cũng cho mở trường học để dạy cho dân chúng. Trước kia dưới triều nhà Lý, có mở những khoa thi tam trường để lấy cử nhân, nhưng các khoa thi chỉ được mở ra khi nào triều đình cần người tài giỏi ra giúp nước chứ chưa có mở định kỳ. Năm 1232, vua Trần Thái Tông cho mở khoa thi thái học sinh để lấy tiến sĩ theo định kỳ cứ 7 năm thì có một kỳ thi. Năm 1247, nhà vua lại cho đặt ra khảo thi tam khôi để lấy trạng nguyên, bảng nhãn và thám hoa. Lê Văn Hưu là người đầu tiên đậu bảng nhãn. Trong 175 năm tồn tại, nhà Trần đã tổ chức 14 khoa thi (10 khoa chính thức và 4 khoa phụ), lấy 283 người đỗ. Có 2 khoa thi 1256 và 1266 lấy 2 trạng nguyên là Kinh trạng nguyên và Trại trạng nguyên nên tổng số có 12 người đỗ đầu trong các kỳ thi. == Tôn giáo == Về Phật giáo, vào đầu đời nhà Trần thì Phật giáo còn thịnh. Các nhà vua đều sùng đạo cho xây chùa, đúc chuông, tạc tượng để phụng thờ khắp nơi. ĐVSKTT chép lại Thượng hoàng xuống chiếu rằng trong nước hễ chỗ nào có đình trạm đều phải đắp tượng phật để thờ. Vua Nhân Tông còn sai sứ sang Trung Hoa để thỉnh kinh về truyền bá đạo Phật, và ông chính là ông tổ đầu tiên của thiền phái Trúc Lâm. Nhưng cuối đời Trần, Phật giáo bị pha thêm các hình thức mê tín bùa chú cho nên ngày càng suy vi. Về Lão giáo thì cũng được nhân dân ngưỡng mộ. Do đó, nhà Trần cũng cho mở những khảo thi tam giáo như đời nhà Lý. == Văn hóa nghệ thuật == Đời nhà Trần đã đào tạo được khá nhiều học giả nổi tiếng như Lê Văn Hưu soạn bộ Đại Việt Sử Ký và đây là bộ sử đầu tiên của Việt Nam. Mạc Đĩnh Chi nổi tiếng là một ông trạng rất mực thanh liêm, đức độ và có tài ứng đối đã làm cho vua quan nhà Nguyên phải kính phục. Chu Văn An là một bậc cao hiền nêu gương thanh khiết, cương trực. Các vua Thái Tông, Thánh Tông, Nhân Tông, Anh Tông, Minh Tông đều là những người giỏi văn chương và có soạn Ngự tập và danh tướng Trần Quốc Tuấn có làm những tác phẩm giá trị như Hịch tướng sĩ. Hàn Thuyên tức Nguyễn Thuyên có công làm thơ bằng chữ Nôm và đặt ra luật thơ Nôm. Vì thế đã có nhiều học giả, văn nhân đã theo gương của Hàn Thuyên mà làm những bài thơ Nôm rất giá trị. ĐVSKTT chép: Bấy giờ (năm 1282) có cá sấu đến sông Lô. Vua sai hình bộ thượng thư Nguyễn Thuyên làm bài văn ném xuống sông, cá sấu bỏ đi. Vua cho việc này giống như việc của Hàn Dũ, bèn ban gọi là Hàn Thuyên. Thuyên lại giỏi làm thơ phú quốc ngữ. Thơ phú nước ta dùng nhiều quốc ngữ, thực bắt đầu từ đấy. Nghệ thuật điêu khắc thời Trần được đánh giá là có bước tiến bộ, tinh xảo hơn so với thời Lý, trong đó có một số phù điêu khắc hình nhạc công biểu diễn mang phong cách Chiêm Thành. Cách trang trí hoa dựa trên nghệ thuật dân dụng. Về kiến trúc, dựa trên các tháp gốm, tháp đá, mô hình nhà bằng đất nung, mảnh ngói vỡ khai quật được, triều Trần tiếp tục kế thừa truyền thống nhà Lý với điểm nổi bật là chùa tháp, bộ đấu củng chống đỡ mái cầu kỳ và các hoạt tiết trang trí đậm màu sắc Phật giáo. Âm nhạc Đại Việt thời Trần chịu ảnh hưởng của Ấn Độ, Chiêm Thành và Trung Quốc. Một số nhạc công bị bắt từ Chiêm Thành và Trung Quốc trong các cuộc chiến đã truyền nghề ca hát cho dân Đại Việt, càng ngày càng phổ biến. == Chính sách hôn nhân == Nhà Trần lấy ngôi nhà Lý bằng biện pháp hôn nhân. Nhà Trần từ vai trò là ngoại thích của nhà Lý đã giành ngôi. Do đó, để tránh họa ngoại thích, nhà Trần chủ trương chỉ kết hôn với người trong họ. Tác giả Nguyễn Thị Chân Quỳnh đã dẫn ra hơn 30 trường hợp hôn nhân nội tộc của nhà Trần: Trần Liễu, anh Thái Tông, con Thượng hoàng Trần Thừa, lấy Thuận Thiên công chúa, con vua Lý Huệ Tông và Thuận Trinh. Thuận Trinh là em ruột Trần Thừa, Trần Liễu và Thuận Thiên là con cô con cậu. Năm 1225, Trần Cảnh, tức Trần Thái Tông, lấy Lý Chiêu Hoàng, em Thuận Thiên; trường hợp này cũng là con cô lấy con cậu. Sau khi Lý Huệ Tông qua đời, giáng Huệ hậu (Trần Thị Dung) làm Thiên Cực công chúa, gả cho Trần Thủ Độ tức là chị em họ lấy nhau. Năm 1237, vì Chiêu Hoàng không có con, Thủ Độ ép Thái Tông lấy Thuận Thiên, lúc ấy đã có mang ba tháng với Trần Liễu. Trường hợp này vừa là con cô con cậu lấy nhau, vừa là em chồng lấy chị dâu. Vua Thái Tông hứa gả con gái là công chúa Thiên Thành cho Trung Thành vương và đã cho Thiên Thành tới ở nhà Nhân Đạo vương, là cha đẻ ra Trung Thành vương, để chờ ngày cưới. Năm 1251, Hưng Đạo vương muốn lấy công chúa Thiên Thành, đang đêm lẻn vào phòng Thiên Thành thông dâm. Thụy Bà Trưởng công chúa, chị Thái Tông, lại là mẹ nuôi Hưng Đạo vương, đang đêm gõ cửa cung nói dối là Hưng Đạo vương đã bị Nhân Đạo vương bắt giam, xin vua cứu giúp. Sự thật, khi vua sai người tới thì Hưng Đạo vương còn trong phòng Thiên Thành và lúc ấy Nhân Đạo vương mới biết. Hôm sau Thụy Bà phải dâng mười mâm vàng sống xin cưới Thiên Thành cho Hưng Đạo. Vua bất đắc dĩ phải gả và bồi thường cho Trung Thàng vương. Như vậy Thiên Thành là em họ Hưng Đạo, vì Hưng Đạo là con Trần Liễu Thiên Thành là con Trần Thái Tông. Đây là trường hợp con chú con bác lấy nhau. Năm 1258, Trần Thánh Tông lấy Thiên Cảm công chúa là con Trần Liễu, tức là con chú con bác lấy nhau. Thụy Bảo công chúa, con vua Thái Tông, lấy Uy Văn vương Toại. Gả công chúa tên Thúy, con Thái Tông cho Thượng vị Văn Hưng hầu. Thiên Thụy công chúa, con vua Thánh Tông và Thiên Cảm, tức cháu nội Thái Tông và cháu ngoại Trần Liễu, lấy Hưng Vũ vương Quốc Nghiễn (con Trần Hưng Đạo), cháu nội Trần Liễu; trường hợp này vừa là con cô con cậu (Trần Hưng Đạo và Thiên Cảm là con Trần Liễu) vừa là cháu chú cháu bác lấy nhau. Thiên Thụy công chúa lại tư thông với Nhân Huệ vương Trần Khánh Dư là tông thất nhà Trần. Khánh Dư nhờ có công đánh quân Nguyên được Thượng hoàng Thánh Tông nhận làm con nuôi. Năm 1274, Nhân Tông, con Thánh Tông, lấy Bảo Thánh, rồi Tuyên Từ, đều là con Hưng Đạo vương. Trường hợp này giống Thiên Thụy lấy Quốc Nghiễn. Anh Tông, con Nhân Tông, cháu Thánh Tông, chắt Thái Tông, lấy Văn Đức phu nhân năm 1292, là con Hưng Nhượng vương Quốc Tảng, cháu nội Hưng Đạo vương, chắt Trần Liễu. Trường hợp này là cháu cô cháu cậu (Hưng Đạo vương và Thiên Cảm là con Trần Liễu) hay chắt chú chắt bác lấy nhau. Sau Anh Tông lại bỏ Văn Đức phu nhân mà lấy em ruột phu nhân là Thánh Tư. Anh Tông lấy Huy Tư là con Thụy Bảo công chúa và Trần Bình Trọng. Thụy Bảo là em Thánh Tông, Anh Tông là cháu nội Thánh Tông, tức cháu lấy cô. Năm 1301, Thiên Trân công chúa, con Anh Tông, Anh Tông là con Nhân Tông, cháu Thánh Tông, lấy Uy Túc công Văn Bích, cháu nội Trần Quang Khải. Quang Khải và Thánh Tông là anh em, tức cháu chú cháu bác lấy nhau. Thiên Trân chết, Uy Túc lại lấy Huy Thánh công chúa. Thượng Trân công chúa, em Anh Tông, chắt Thái Tông lấy Văn Huệ công Quang Triều, con Quốc Tảng, cháu Hưng Đạo, chắt Trần Liễu, tức chắt chú chắt bác lấy nhau. Trần Minh Tông, con Anh Tông, cháu Nhân Tông, lấy Huy Thánh tức Lệ Thánh, con gái lớn Huệ Vũ vương Quốc Chẩn. Chẩn là em Anh Tông: con chú con bác lấy nhau. Minh Tông gả Huy Chân, con Nhân Tông, cho Uy Giản hầu năm 1317. Mẹ Huy Chân là Trần Thị Thái Bình, cung tần của Thượng hoàng Anh Tông. Năm 1318 Minh Tông gả Thiên Chân Trưởng công chúa cho Huệ Chính vương. Năm 1337 Hiến Tông, con Minh Tông, lấy Hiển Trinh, con gái lớn Huệ Túc vương Đại Niên. Năm 1342, Thiên Ninh công chúa, con Minh Tông, lấy Hưng/Chính Túc vương Kham. Năm 1349, Dụ Tông, con Minh Tông, lấy con gái thứ tư Huệ Túc vương là YÙ Từ Nghi Thánh. Năm 1351, Dụ Tông loạn dâm với Thiên Ninh là chị ruột. Nguyên năm 1339 Dụ Tông bị chết đuối ở Hồ Tây, được thầy thuốc Tàu là Trâu Canh dùng kim châm cứu khỏi nhưng đoán sau này lớn lên sẽ bị liệt dương. Sau quả nhiên sự việc xảy ra đúng như vậy, Trâu Canh được vời đến chữa, khuyên vua giết một đứa con trai nhỏ tuổi lấy mật hoà với thuốc dương khởi thạch mà uống rồi thông dâm với chị hay em ruột. Vua nghe theo, thông dâm với Thiên Ninh công chúa. Huy Ninh công chúa, con Minh Tông, lấy tông thất Nhân Vinh. Sau Nhân Vinh bị Dương Nhật Lễ giết, Nghệ Tông là anh, lại gả Huy Ninh cho Quý Ly. Duệ Tông, con Minh Tông và Lê Đôn Từ, cô Quý Ly, lấy Hiền Trinh là em họ Quý Ly, tức anh em họ lấy nhau. Duệ Tông lấy con gái Thái bảo Trần Liêu làm phi. Năm 1375 Duệ Tông gả con là Trang Huy công chúa cho Nguyên Dẫn, con Cung Chính vương. Cung Chính vương và Duệ Tông đều là con Minh Tông, tức con chú con bác lấy nhau. Thiên Huy hay Thái Dương công chúa, con Nghệ Tông, lấy Phế Đế là con Duệ Tông. Nghệ Tông và Duệ Tông cùng là con Minh Tông, mẹ Nghệ Tông là Minh Từ, mẹ Duệ Tông là Đôn Từ, là hai chị em ruột, cô của Quý Ly: vừa là con chú con bác, vừa là cháu dì cháu già lấy nhau. Sau khi Phế Đế chết, vợ là Thái Dương tư thông với Nguyên Uyên, con Cung Tín vương Thiên Trạch, em Nghệ Tông: con chú con bác tư thông với nhau. Năm 1393, thượng hoàng Trần Nghệ Tông giận Thái Dương, đem gả Thái Dương cho Nguyên Hãng là em Nguyên Uyên để làm nhục. Tuyên Huy công chúa, con Duệ Tông, lấy Quan Phục Đại vương Húc, con Nghệ Tông, giống trường hợp Thái Dương lấy Trần Phế Đế. Quý Ly gả Trang Huy công chúa, con Tông thất Nhân Vinh (bị Nhật Lễ giết) cho Mộng Dữ, con Trần Nguyên Đán, cháu bốn đời của Quang Khải. Thuận Tông, con út Nghệ Tông, lấy Thánh Ngẫu công chúa là con gái lớn của Hồ Quý Ly và Huy Ninh công chúa. Huy Ninh là em Nghệ Tông, tức là con cô con cậu lấy nhau. Thuận Tông lại là cháu nội của Đôn Từ, cô của Quý Ly, lấy con gái Quý Ly, tức anh em họ lấy nhau. Từ khi Trần Nghệ Tông trọng dụng Hồ Quý Ly là một ngoại thích, lập tức nhà Trần cũng gặp "họa ngoại thích" và mất về tay ngoại thích. == Những nhân vật có ảnh hưởng nhất triều Trần == Những nhân vật có ảnh hưởng nhất triều Trần, được đánh giá dựa trên sự đống góp, công trạng của họ cho triều đại, giúp triều đại này tồn tại và phát triển. == Các Hoàng đế nhà Trần == == Thế phả nhà Trần == == Đền thờ, lăng mộ == Đền Trần (Thái Bình): gồm đền thờ và lăng mộ các vị vua đời đầu nhà Trần. Đền Trần (Nam Định): là nơi đặt hành cung Thiên Trường. Đền Thái Vi, Ninh Bình: là nơi đặt hành cung Vũ Lâm. Khu di tích nhà Trần ở Đông Triều, Quảng Ninh: gồm đền thờ và lăng mộ các vị vua đời sau nhà Trần. == Xem thêm == Kháng chiến chống Nguyên Mông Văn học thời Trần Nhà Nguyên Nhà Hồ Chiêm Thành == Tham khảo == Trần Xuân Sinh (2006), Thuyết Trần, Nhà xuất bản Hải Phòng. Hà Văn Tấn, Phạm Thị Tâm (1975), Cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Nguyên Mông thế kỷ XIII, Nhà xuất bản Khoa học xã hội. Trương Hữu Quýnh, Đinh Xuân Lâm, Lê Mậu Hãn chủ biên (2008), Đại cương lịch sử Việt Nam, Nhà xuất bản Giáo dục. Mai Hồng (1989), Các trạng nguyên nước ta, Nhà xuất bản Giáo dục. == Chú thích == == Liên kết ngoài == Tran Dynasty (Vietnamese history) tại Encyclopædia Britannica (tiếng Anh) Lược Sử Tóm Tắt Về Khu Lăng Mộ Đền Thờ Các Vua Trần Đại Việt sử ký toàn thư - Bản điện tử Khâm định Việt sử Thông giám cương mục - Bản điện tử Dấu vết 'kinh đô thứ hai' của nhà Trần trên VnExpress ngày 13 tháng 12 năm 2006
borobudur.txt
Borobudur, Barabodur hay Ba La Phù đồ (tiếng Indonesia: Candi Borobudur) là một ngôi đền Phật giáo có niên đại từ thế kỷ thứ 9 toạ lạc ở Magelang, miền trung Java, Indonesia, là một trong những ngôi đền cũng như di tích Phật giáo lớn nhất thế giới. and also one of the greatest Buddhist monument in the world. Ngôi đền có chín tầng, xếp chồng lên nhau bao gồm sáu vuông, ba tròn và trên cùng là một mái tròn. Ngôi đền được trang trí bằng 2672 tấm phù điêu chạm khắc nổi và 504 pho tượng Phật. Mái vòm trên cùng được bao quanh bởi 72 pho tượng Phật, mỗi tượng được đặt trong một phù đồ. Đền được xây dựng vào thế kỷ thứ 9 dưới triều đại Sailendra theo phong cách kiến trúc Phật giáo Java, trong đó pha trộn với tục thờ cúng tổ tiên của người Indonesia bản địa cũng như các khái niệm nhập Niết-bàn của Phật giáo. Ngôi đền cũng cho thấy sự ảnh hưởng của phong cách Gupta, phản ánh ảnh hưởng của Ấn Độ trong khu vực, nhưng vẫn mang những nét đặc sắc Indonesia riêng biệt. Ngôi đền là nơi thờ Đức Phật và cũng là một địa điểm hành hương cho tín đồ Phật giáo. Cuộc hành trình của Phật tử bắt đầu từ nền đền rồi đi vòng quanh để lên đến đỉnh qua ba khu vực mô tả khái niệm tam giới vũ trụ của Phật giáo: Kāmadhātu (Dục giới), Rupadhatu (Sắc giới) và Arupadhatu (Vô sắc giới). Trên đường lên đến đỉnh ngôi đền, khách hành hương sẽ đi qua một hệ thống cầu thang và hành lang rộng lớn, qua 1460 tấm chạm khắc trên tường và lan can. Đền Borobodur là nơi có tập hợp phù điêu chạm khắc lớn nhất và đầy đủ nhất trên thế giới. Bằng chứng đã cho thấy Borobodur đã được xây dựng từ thế kỷ thứ 9 và bị bỏ rơi sau sự suy tàn của các vương quốc Ấn giáo ở thế kỷ 14 và người Java cải sang đao Hồi. Thế giới bên ngoài chỉ biết được về sự tồn tại của nó vào năm 1814 khi toàn quyền người Anh trên đảo Java là Sir Thomas Stamford Raffles được người bản địa chỉ địa điểm. Kể từ đây, Borobodur đã trải qua nhiều đợt trùng tu. Các lần lớn nhất là vào năm 1975 và1982 được thực hiện bởi chính phủ Indonesia và UNESCO. Sau đó, ngôi đền đã được liệt kê vào danh sách Di sản Thế giới. Ngày nay, Borobodur vẫn được sử dụng như là địa điểm hành hương; mỗi năm một lần, Phật tử tại Indonesia lại tổ chức Đại lễ Phật đản tại ngôi đền. Ngoài ra, đây là địa điểm thu hút nhiều khách du lịch nhất của Indonesia. == Lịch sử == Borobudur được dựng vào khoảng thế kỷ thứ 8 đến thế kỷ thứ 9 dưới vương triều Sailendra vốn sùng đạo Phật. Tọa lạc trên đỉnh đồi giữa vùng đồng bằng phì nhiêu, Borobudur sừng sững nổi lên giữa lòng chảo, chung quanh là núi rừng bao bọc.# Ngôi đền tháp Borobudur, sau khi vương triều Phật giáo Sailendra sụp đổ, đã bị bỏ hoang và lãng quên trong suốt 10 thế kỷ. Vào năm 1814, một phái đoàn các nhà khoa học châu Âu, do chính quyền thuộc địa Hà Lan ở Indonesia cử đến, mới tiến hành nghiên cứu và tu bổ lại ngôi đền. Những ngôi đền đã bị đổ nát, hư hỏng quá nhiều. Năm 1970, chính phủ Indonesia phải kêu gọi UNESCO giúp đỡ. Một bản phục chế Borobudur của UNESCO, bao gồm 600 nhà phục chế có tên tuổi trên thế giới đã tiến hành trùng tu lại ngôi đền trong suốt 12 năm trời và tiêu tốn mất 50 triệu đô la Mỹ. Ngày nay, Borobudur đã được trùng tu, tuy không được hoàn toàn như trước, nhưng đã thể hiện được dáng dấp và làm khách tham quan vô cùng ngưỡng mộ, xứng đáng là một trong những kì quan nổi tiếng của châu Á. == Kiến trúc == Từ chân đồi khách phải trèo hơn 15 m mới lên tới nền đền. Cấu trúc ngôi phù đồ gồm 12 nền lộ thiên to, nhỏ, vuông, tròn xen kẽ, chồng lên nhau tạo thành một khối cao 42 mét. Chiều dài mỗi cạnh nền dưới cùng là 123 m. Nếu trèo lên từng tầng một và đi dọc đường chu vi của tất cả 12 tầng thì tổng cộng là 5 km. Tầng thứ nhất (từ chân đồi lên) có bình đồ hình vuông, mỗi bốn cạnh căn đúng vào bốn hướng: Đông, tây, nam, bắc. Khoảng giữa mỗi cạnh để trống 7,38 m, hai bên đặt con sư tử lớn bằng đá chầu hai bên. Mỗi tượng thú cao 1,7 m kể cả bệ, dài 1,26 m, và rộng 0,8 m. Miệng sư tử nhe răng, lông bờm ở lưng, cổ, ngực dựng lên trông rất dữ tợn. Đuôi con thú uốn cong ngược về phía sau. Trong tám con sư tử ở bốn cạnh thì một số đã được đẽo gọt, chạm trổ hoàn chỉnh. Vài con còn ở dạng dở dang, chưa hoàn tất. Tầng thứ hai cao hơn tầng thứ nhất 1,52 m. Bình đồ tầng hai không theo dạng hình vuông như ở tầng nhất, mà là hình đa giác với 20 cạnh, gần như ôm lấy triền đồi. Tầng hai dù vậy vẫn có bốn cạnh lớn hướng về bốn phương trời, giữa có bốn tầng cấp. Hai bên tầng cấp có hai lan can uốn cong rất duyên dáng. Cuối lan can là một đầu voi rất to, trong miệng ngoạm một con sư tử; còn đầu lan can kia, là một đàn sư tử, mõm mở rộng, lưng tựa vào tường. Từ tầng thứ ba trở lên, lại có hình dạng vuông, riêng tầng ba trên cùng có dạng hình tròn. Trên mỗi tầng có xây dựng nhiều đền đài miếu mạo trông như vòm bát úp, vòm lớn nhất ở giữa, hai bên là những cái bé hơn. Trên cùng của đền tháp là mái tròn hình chuông. Tất cả các bậc thềm từ tầng một đến tầng chín đều được phủ kín những phù điêu, được chạm trổ rất công phu, mô tả về cuộc đời của đức Phật Thích Ca Mầu Ni, các bồ tát và các vị đã giác ngộ Phật pháp, và cả những cảnh trên niết bàn hay dưới địa ngục... Riêng ba tầng trên cùng phẳng phiu, trơn nhẵn có trổ 72 tháp chuông hình mắt cáo. Bên trong có đặt 72 tượng Phật ngồi (tầng một 2,32 m, tầng hai 2,24 m và tầng ba 2,16 m). == Tham khảo == == Liên kết ngoài == Borobudur Borobudur, the monumental stupa The Borobudur Temple Archaeology and Architecture of Borobudur 360° view on the World Heritage Tour
nhạc vàng.txt
Nhạc vàng là tên gọi dòng tân nhạc Việt Nam ra đời trong thập niên 1960 với lời ca trữ tình bình dân được viết trên những giai điệu chậm buồn đều đều (bolero, rumba, ballade...), âm hưởng dân ca, hát bằng giọng thứ quãng âm trung hoặc trầm. Đôi khi nhạc vàng còn được dùng chỉ các bài thời tiền chiến hay "tình khúc 1954-1975" chậm buồn nhưng giai điệu khác với nhạc vàng, hay một số bài đậm chất dân gian nhưng không mang đặc trưng của nhạc vàng theo nghĩa phổ thông (nhiều bài đậm chất dân gian theo điệu chachacha). Đặc trưng của dòng nhạc này là lời ca giản dị, câu nhạc dễ nghe, chất chứa nỗi niềm của một bộ phận trong xã hội, chủ yếu là những người nghèo, bình dân. Thực chất cụm từ nhạc vàng đã xuất hiện từ thời tiền chiến, màu vàng khi đó biểu thị cho sự sang trọng. Nhưng theo quan điểm của người Cộng sản thời chiến tranh Đông Dương và chiến tranh Việt Nam thì chỉ cụm từ nhạc vàng cho các ca khúc tiền chiến và phần lớn ở vùng Việt Nam Cộng hòa kiểm soát thời chiến tranh cho dù mang âm hưởng Tây phương hay dân gian mà nội dung nhuốm màu bi lụy, yếu đuối, cá nhân chủ nghĩa hay nhạc "tâm lý chiến". Cụm từ "nhạc sến" chỉ dùng ở Miền Nam để phân biệt với "nhạc vàng" thường phối nhạc phương Tây sang trọng hơn, có thể nói đến chia ly, cô đơn, nhưng nội dung không nói đồng quê, nghèo khó, hay kể một câu chuyện. Tuy nhiên trong nhân dân thì cụm từ nhạc vàng hay chỉ các bài theo điệu Bolero... mang âm hưởng dân ca khi đó, chứ không dùng cho nhạc tiền chiến hay "tình khúc 1954-1975". Điểm khác biệt chính giữa "nhạc vàng" và "nhạc sến" là "nhạc vàng" thường theo điệu Slow Rock, Slow ảnh hưởng nhiều của nhạc Thiên Chúa giáo hay triết học hiện sinh du nhập mạnh mẽ ở miền Nam khi đó, chậm, buồn, đều đều và phong cách thính phòng, hát bằng giọng Bắc chuẩn, còn "nhạc sến" âm hưởng dân ca hát bằng giọng Bắc, Bắc pha hay giọng địa phương (tùy theo điệu dân ca, nhưng chủ yếu của Nam Bộ), về sau thường hay được hát bằng giọng Nam, hợp hơn với tầng lớp bình dân. Ngoài ra miền nam trước 1975 còn có nhạc quê hương hay được hát bởi các giọng hát "nhạc sến" nên hay được gộp chung nhạc vàng nhưng giới chuyên môn hay tách ra thành nhánh nhạc quê hương, chủ đề rộng về quê hương đất nước hoặc về làng quê đậm chất dân ca cả ba miền, không có chất sến, hát theo giọng địa phương. Cụm từ nhạc sến còn hay được sử dụng trong nhiều nhạc phẩm sau này ảnh hưởng nhạc Hoa, Nhật, Hàn, Thái, hay một số bài pop ballad (sau Đổi Mới), tùy theo giai điệu, ca từ, tư tưởng, nhưng không ai gọi là "nhạc vàng" theo thói quen hay chỉ các ca khúc điệu Bolero, Rhumba mang âm hưởng dân ca, chủ yếu Nam Bộ. Cách phân chia nhạc vàng, nhạc sến không theo quy cách phân chia nhạc thị trường (phục vụ thị hiếu một bộ phận công chúng để thu lợi nhuận) và nhạc nghệ thuật (có giá trị nghệ thuật) mà chỉ theo giai điệu, ca từ nội dung, kể cả lối hát. Cụm từ nhạc sến ra đời từ thập niên 1960, của các gia đình thượng lưu người gốc Bắc di cư, có nuôi con sen (Marie Sến) trong nhà và họ gọi nhạc của những người bình dân gốc nông dân chủ yếu di cư từ nông thôn ra là nhạc sến. Một tên gọi khác là "nhạc máy nước", tức nhạc mà những người bình dân hay lấy nước ở các tụ điểm lấy nước công cộng nghe. Báo An ninh thế giới từng viết "Duy Khánh tuy không sến, không rên rỉ như Chế Linh nhưng cũng thuộc hàng phông-tên máy nước" (phông-tên là các điểm lấy nước công cộng ở Sài Gòn trước 1975). Còn "nhạc sến" hiện đại thường ca từ cũng không khác "nhạc sến", khai thác các chủ đề thất tình, hướng ham muốn hưởng thụ cá nhân cho dù có khi chỉ là tình cảm, nhưng có tính trách oán (do thất bại), có khác là ở giai điệu và lối hát trẻ trung hiện đại hơn, nhưng chủ đề thường bó hẹp hơn, ít chịu ảnh hưởng của dân ca. Hiện nay cả hai dòng "sến" này đều được nhà nước chấp nhận, do âm nhạc được xem là một ngành công nghiệp giải trí, và không có một đánh giá cụ thể là nhạc thị trường hay có giá trị nghệ thuật nào đó. Ít nhiều nó phù hợp tâm trạng nhất thời hay tâm lý của một bộ phận xã hội với khách quan. == Lịch sử == === "Nhạc vàng" ở phía Nam vĩ tuyến 17 === Tác phẩm điệu Rumba đầu tiên là "Trăng sơn cước" của Văn Phụng và Văn Khôi viết năm 1949, còn nhạc phẩm điệu bolero đầu tiên là "Nắng chiều" của Lưu Trọng Nguyễn năm 1952, rộn ràng và đơn giản. Danh từ "nhạc vàng" xuất hiện tại miền Nam Việt Nam ở vùng do Việt Nam Cộng hòa kiểm soát vào những năm 1960 trong thời kỳ kinh tế thị trường phát triển mạnh, ảnh hưởng đến âm nhạc, đặc biệt là sự đa dạng. Vào cuối thập niên đó nhạc sĩ Phó Quốc Lân cho ra mắt ban "Nhạc Vàng" thuộc đài truyền hình Sài Gòn THVN để trình tấu định kỳ. Ông là tác giả những bản nhạc như "Xuân ly hương", "Hương lúa miền Nam", "Anh tôi" (nói về người lính Cộng Hòa), "Mong ngày anh về", "Vui khúc tương phùng". Những hãng phát hành băng và đĩa nhạc cũng cho ra nhiều sản phẩm với danh hiệu "nhạc vàng" như hãng Hương Giang, hãng Dạ Lan của nhạc sĩ Anh Bằng, và hãng Shotguns của Ngọc Chánh. Nhạc vàng sau đó được hiểu là thể loại nhạc tình êm dịu có tình yêu quê hương, tình yêu lứa đôi hoặc có nỗi lòng riêng tư của lính chiến mặc dù đang gánh trách nhiệm với đại cuộc. Cho đến năm 1975, dòng nhạc này phổ biến ở Miền Nam. Theo nhạc sĩ Nguyễn Ánh 9, nhạc vàng "có những câu mang âm hưởng dân ca Nam Bộ. Phần đông ca sĩ, nhạc sĩ là người miền Nam nên hát và viết bài hát mang chất dân ca bình dân của người Nam. Họ viết nhạc phần đông ở giọng thứ, khi hát với bolero, nó đúng cái nhịp của người miền Nam". Cũng theo nhạc sĩ Nguyễn Ánh 9, hai thể điệu chính của Nhạc vàng là bolero và slow rock. "Người đầu tiên nghĩ ra bolero là Lam Phương rồi Trúc Phương", và "Dòng nhạc bolero không hiếm những bài hát kiểu kể chuyện như: Hàn Mặc Tử, Màu tím hoa sim, Lan và Điệp… Bolero của Việt Nam khác bolero của Tây Ban Nha hay Nam Mỹ. Bolero Việt Nam rất chậm..." Nhạc vàng lúc đó bao gồm nhiều phong cách, từ nhạc tình tự quê hương với biến thể từ dân ca Nam Bộ, nhạc lính, nhạc "sến" (theo nhạc sĩ Nguyễn Ánh 9, "Không phải mình phân chia giai cấp, nhưng loại nhạc đó được giới bình dân nghe nhiều hơn. So với nhạc vàng, lời nhạc sến còn bình dân hơn: Ước gì nhà mình chung vách, anh khoét bức tường, anh qua thăm em. Chung quy cũng là nhạc trữ tình. Nhạc cho người có hiểu biết chút xíu gọi là nhạc vàng, còn cho người ít hiểu biết gọi là nhạc sến"), bolero kể chuyện, "kích động nhạc" bình dân,... Nhiều sáng tác của các nhạc sĩ nổi tiếng được xem là có đóng góp cho Tân nhạc Việt Nam nhiều ca khúc có giá trị như Phạm Duy, Trịnh Công Sơn, Phạm Đình Chương,... thời kỳ này cũng được xem là nhạc vàng, căn cứ cụ thể vào từng bài hát của họ. So với thời kỳ thập niên 1950 về trước, sáng tác của Phạm Duy có những chuyển biến rất đa dạng, nhiều đề tài, thái độ từ tâm linh, tôn giáo, xã hội và một số mang màu sắc thị trường như dòng nhạc trẻ, nhạc vỉa hè. Trịnh Công Sơn thì ảnh hưởng nhiều của chủ nghĩa hiện sinh, thái độ lạc lõng bơ vơ, "nổi loạn tinh thần" và mang màu sắc vô thần (tư tưởng này có một số nét trùng lặp giống chủ nghĩa cộng sản về lý thuyết). === "Nhạc màu vàng" ở phía Bắc vĩ tuyến 17 === Ở Miền Bắc do Việt Nam Dân chủ Cộng hòa kiểm soát thì từ thập niên 1950 đã du nhập khái niệm "nhạc màu vàng" từ Trung Hoa. Trong Hán ngữ nhạc màu vàng (黃色音樂, Hán Việt: hoàng sắc âm nhạc) được hiểu là nhạc tình thời thượng của thập niên 1930 phổ biến ở Thượng Hải. "Nhạc màu vàng" theo đó bị coi "là thứ âm nhạc lãng mạn bi quan, hoặc khêu gợi tình dục và những khát vọng thấp kém của xác thịt". Phong trào bài trừ "nhạc màu vàng" ở Trung Hoa thời Mao Trạch Đông cũng lan theo sang miền Bắc Việt Nam như trong những bài báo dịch lại từ tiếng Hoa, chống nhạc "ủy mị" vì thiếu tinh thần đấu tranh cách mạng. Cũng vì vậy mà dòng nhạc tiền chiến thịnh hành trước năm 1954 cũng không còn được hát. === Nhạc vàng sau năm 1975 === ==== Thời kỳ cấm đoán ==== Sau năm 1975 danh từ "nhạc vàng" được dùng cho tất cả những tác phẩm âm nhạc ở miền Nam ra đời trong thời kỳ đất nước chia đôi và dòng nhạc này bị cấm trên các phương tiện truyền thanh truyền hình. Cũng như những đề mục văn hóa khác ở miền Nam, âm nhạc Miền Nam bị gán thêm cái nhãn hiệu chính trị là "nhạc phản động" hoặc "đồi trụy", "ru ngủ", không thể hiện được con người xã hội chủ nghĩa lý tưởng như tinh thần cộng đồng, yêu lao động, có chí khí vươn lên, không có tư tưởng an phận, than thở, nhận ân huệ. Kết quả là nhiều sản phẩm văn hóa trong đó có băng cassette, đĩa nhạc cùng những bài vở ghi chép nhạc vàng bị đốt. Cũng theo nghĩa đó thì đối lập với nhạc vàng là nhạc đỏ tức dòng nhạc nêu cao chủ nghĩa cộng sản, mục tiêu giải phóng đất nước, đấu tranh giai cấp và ca ngợi tinh thần lao động. Dù vậy nhạc vàng vẫn được nhiều người ưa thích cả trong Nam lẫn ngoài Bắc vì nói lên được tình cảm cá nhân không gò buộc vào tập thể. "Nhạc vàng" do đó hàm ý vàng của quý kim mà người nghe phải lén lút để nghe vì nó cho người nghe cái tâm trạng "riêng" của con người trong khi xã hội chỉ cho phép cái ý thức hệ chung của tập thể. Dù phải nghe trộm qua những buổi phát thanh của VOA hoặc BBC từ hải ngoại, người trong nước vẫn cố gắng tìm nghe bất chấp hình phạt của luật pháp. Có thể nói nhạc vàng vẫn tiếp tục chiếm địa vị quan trọng trên thị trường âm nhạc và được dân chúng ưa chuộng hơn. Đối với người Việt hải ngoại thì nhạc vàng trở thành một dòng nhạc chủ đạo trong thị hiếu người nghe nhạc và cùng với tình khúc 1954-1975 trở thành dòng nhạc chủ đạo của tân nhạc hải ngoại, tuy nhiên ranh giới giữa hai dòng nhạc này không còn rõ rệt như thời kỳ trước năm 1975. Sau năm 1975 nhiều nhạc sĩ nhạc vàng, nhạc sến bị tịch thu tài sản vì Nhà nước cho là họ hưởng sự giàu có không tương xứng với các sáng tác của họ, chỉ chiều theo thị hiếu, sáng tác theo đơn đặt hàng,... (nhưng sau Đổi mới nhiều ca sĩ, nhạc sĩ sáng tác nhạc vàng thì không gặp vấn đề gì cả thậm chí rất giàu có như ca sĩ Ngọc Sơn). Nhiều nhạc sĩ bỏ nước ra nước ngoài (nhất là các nhạc sĩ Thiên Chúa giáo), trong khi phần đông nhạc sĩ vô thần hay theo đạo Phật vẫn ở lại và có sáng tác mới. ==== Hạn chế nhưng không còn cấm toàn bộ ==== Mãi đến khi bắt đầu thời kỳ Đổi mới thì các loại nhạc vàng mới dần dà được chính quyền xét lại và cho phổ biến một cách hạn chế tuỳ theo tác giả và tác phẩm. Năm 1986 lần đầu tiên chính quyền cho ra danh mục 36 tác phẩm âm nhạc của Miền Nam trước kia nay được phép công khai trình diễn. Dù vậy ca sĩ Thanh Lan cho đến cuối thập niên 1980 vẫn phải lén lút thu thanh, thực hiện từ nửa đêm đến rạng sáng thì nghỉ để tránh bị công an phát giác. Danh sách nhạc sang thập niên 1990 thì bỏ, trong khi dân chúng tìm nghe nhiều loại nhạc vàng. Thay vào đó là danh sách nhạc cấm thuộc thể loại nhạc lính Cộng hòa. Bộ Văn hóa đề nghị cổ xúy nhạc xanh, tức nhạc trẻ của thời đại Đổi Mới nhưng không thành công. Trong khi đó số người nghe nhạc vàng ngày càng đông, không chỉ ở phía nam vĩ tuyến 17 và hải ngoại mà cả ở miền Bắc, thậm chí theo chân người Việt đi lao động ở Liên Xô và Đông Âu vào thập niên 1980. Chính quyền tỏ ra bất lực và thất bại trước phong trào nhạc vàng sống lại. Sang thế kỷ 21, những nhà kinh doanh và tổ chức ca nhạc trong nước đã tổ chức nhiều buổi trình diễn nhạc vàng, đưa ca sĩ từ hải ngoại về hát vì dễ kiếm lời. Nhạc sĩ Võ Công Diên nhận xét rằng: Vào tháng 8 năm 2010 hai ca sĩ mà tên tuổi gắn liền với "nhạc sến", Hương Lan và Tuấn Vũ đã trình diễn những bản nhạc vàng ở Nhà hát Lớn Hà Nội nửa tháng trời với giá vé lên đến 1.700.000 đồng Việt Nam mà mỗi suất vẫn kín chỗ. Nhạc vàng theo nhận xét của nhạc sĩ Trần Chí Phúc đã đi từ địa vị bị cấm đoán năm 1975 để rồi đến năm 2010 đã "lên ngôi vua" ở giữa thủ đô Hà Nội. Nhiều ca sĩ trong nước cũng thường xuyên trình diễn nhạc vàng tại hải ngoại. Nhạc sĩ Việt Dzũng nhận xét về nhạc vàng và hiện trạng trong nước như sau: == Những nghệ sĩ nổi bật == Những nghệ sĩ nổi bật nhất của dòng nhạc vàng có thể kể: Nhạc sĩ: Lam Phương, Trúc Phương, Anh Bằng, Lê Dinh, Minh Kỳ, Y Vân, Bắc Sơn, Hoàng Thi Thơ, Trần Thiện Thanh, Trịnh Lâm Ngân, Trầm Tử Thiêng, Châu Kỳ, Vinh Sử, Nhật Ngân, Song Ngọc, Thanh Sơn, Tâm Anh, Hoài Linh, Hoài An... Ca sĩ: Giang Tử, Duy Khánh, Chế Linh, Bảo Yến, Hùng Cường, Nhật Trường, Thanh Thúy, Thanh Tuyền, Hoàng Oanh,Trung Chỉnh, Hương Lan, Thái Châu, Anh Khoa, Giao Linh, Phương Dung, Phương Hồng Quế, Sơn Ca, Băng Châu và sau này là Kim Anh, Lưu Hồng, Như Quỳnh, Lâm Nhật Tiến, Tuấn Vũ, Jimmii Nguyễn, Mạnh Quỳnh, Mỹ Huyền, Phi Nhung, Cẩm Ly, Trường Vũ, Mạnh Đình, Quang Lê, Đan Nguyên, Quốc Khanh, Ngọc Huyền, Tâm Đoan, Hạ Vy, Đặng Thế Luân, Đan Nguyên, Hương Thủy, Mai Thiên Vân, Băng Tâm, Y Phụng, Duy Trường, Tường Nguyên. == Xem thêm == Danh sách các nhạc sĩ nổi bật của dòng nhạc vàng Bolero Việt Nam Tình khúc 1954-1975 Nhạc xanh Nhạc đỏ Nhạc hải ngoại == Tham khảo ==
tiến sĩ heinz doofenshmirtz.txt
Tiến sĩ Heinz Doofenshmirtz là một nhân vật phản diện trong series phim hoạt hình Phineas and Ferb. Hắn là một tiến sĩ điên khùng chuyên có những phát minh độc ác để độc chiếm toàn bộ vùng Ba Bang (Tri-State area). Hắn có một tuổi thơ rất u ám vì không được chiều chuộng như bao cô bé, cậu bé khác: hoặc bị chê cười, hoặc bị đóng giả làm thần lùn giữ vườn, vì thế mà hắn có động cơ để thực hiện những tội ác điên khùng đó. Tuy nhiên hắn luôn bị Perry (thú mỏ vịt của Phineas và Ferb, cũng là đặc vụ bí ẩn Agent P) đánh bại, mặc dù đã chuẩn bị sẵn rất nhiều bẫy để bắt. Ngoài ra, Doofenshmirtz còn là một người cha rất tình cảm, nhưng lại là một ông chồng không tốt khiến cho 2 vợ chồng hắn phải li thân. Hắn luôn tự hào khoe với con gái Vanessa của mình về những phát minh tội lỗi ngớ ngẩn của hắn, tổ chức sinh nhật cho cô bé và thậm chí còn tìm kiếm con búp bê hàng hiếm cho cô nữa, nhưng chưa bao giờ hắn làm đúng, duy nhất có một lần, nhờ sự giúp đỡ của Perry, hắn trở thành một DJ thực thụ trước mặt bạn bè của cô. Rất nhiều lần, cô bé Vanessa mê nhạc Rock này đã kể với mẹ mình về các phát minh của bố. Tuy nhiên, tất cả những phát minh của hắn không bao giờ được vợ hắn biết đến, vì chúng luôn bị biến mất do Perry ngăn chặn. Với hắn, Perry là một đối thủ, nhưng hắn rất buồn nếu không được chiến đấu với Perry mỗi ngày dù hắn luôn thất bại. Điều đó đã quá quen với cuộc sống của hắn. Không chỉ là đối thủ, có những lúc, họ giúp đỡ nhau: Perry giúp Doofenshmirtz trở thành DJ, để con gái được hãnh diện, Doofenshmirtz cho Perry mượn người máy Norm,... Hắn là một nhân tố quan trọng trong các tình huống hài hước của phim và các tình huống biến mất của các phát minh do 2 anh em Phineas and Ferb tạo ra. == Tham khảo == == Liên kết ngoài == Heinz Doofenshmirtz trên Phineas and Ferb Wiki Tiếng Việt;
phở.txt
Phở là một món ăn truyền thống của Việt Nam, cũng có thể xem là một trong những món ăn tiêu biểu cho ẩm thực Việt Nam. Thành phần chính của phở là bánh phở và nước dùng (hay nước lèo theo cách gọi miền Nam) cùng với thịt bò hoặc thịt gà cắt lát mỏng. Ngoài ra còn kèm theo các gia vị như: tương, tiêu, chanh, nước mắm, ớt... Những gia vị này được thêm vào tùy theo khẩu vị của từng người dùng. Phở thông thường dùng làm món điểm tâm buổi sáng hoặc ăn đêm, nhưng ở các thành phố lớn món ăn này được thưởng thức trong cả ngày. Các tỉnh phía Nam Việt Nam và một số vùng miền khác phở được bày bàn kèm cả đĩa rau thơm như hành, giá và những lá cây rau mùi, rau húng, trong đó ngò gai là loại lá đặc trưng của phở; tuy nhiên tại Hà Nội thì không có đĩa rau sống này. Phở thường là phở bò hay phở gà, nhưng đôi khi cũng có những biến thể khác như phở heo, phở tôm, phở ếch, dù không mấy thành công. Nước dùng cho nồi phở thường là nước dùng trong được ninh từ xương bò (nếu người nội trợ không nhiều kinh nghiệm để khử mùi xương bò thì có thể thay bằng xương lợn), sá sùng, kèm nhiều loại gia vị bao gồm quế, hồi, gừng nướng, thảo quả, đinh hương, hạt mùi, hành khô nướng. Thịt dùng cho món phở là thịt bò (với đủ loại thịt bắp, nạm, gầu được làm tái hay chín hẳn) hoặc thịt gà (gà ta già luộc, xé thịt cho thịt ngọt đậm đà). "Bánh phở" theo truyền thống được làm từ bột gạo, tráng thành tấm mỏng rồi cắt thành sợi. Phở luôn được thưởng thức khi còn nóng hổi. Để có được những bát phở ngon tùy thuộc rất nhiều vào kinh nghiệm và bí quyết truyền thống của người chế biến, trong đó quan trọng đặc biệt là nồi nước dùng. Hiện nay phở đã theo chân người Việt đi khắp toàn thế giới. == Nguồn gốc và biến tấu == Phở thường được cho là định hình vào đầu thế kỷ 20. Về nơi xuất hiện đầu tiên ở Việt Nam, người ta có hai quan điểm khác nhau là: Nam Định và Hà Nội, đây cũng là nơi làm cho món ăn này trở nên nổi tiếng. Về nguồn gốc món ăn, có quan điểm cho rằng phở bắt nguồn từ một món ăn Quảng Đông mang tên "ngầu yụk phẳn" (âm Hán Việt là "ngưu nhục phấn"). Cũng có ý kiến cho rằng phở vốn bắt nguồn từ món "xáo trâu" (dùng sợi bún) của Việt Nam, sau được biến tấu thành món "xáo bò" dùng bánh cuốn. Giả thuyết khác lại cho rằng, phở có nguồn gốc từ phương pháp chế biến món thịt bò hầm của Pháp pot-au-feu (đọc như "pô tô phơ") kết hợp với các loại gia vị và rau thơm trong ẩm thực Việt Nam. Phở bắt nguồn từ miền Bắc Việt Nam, xâm nhập vào miền Trung và miền Nam giữa thập niên 1950, sau sự thất bại của Pháp ở Đông Dương và Việt Nam bị chia thành hai miền. Người Việt Nam ở phía bắc di cư vào miền Nam năm 1954 mang theo món phở và phở đã bắt đầu có những sự khác biệt. Sự xuất ngoại để tị nạn chính trị của những người Việt Nam trong thời kỳ hậu Chiến tranh Việt Nam đã làm cho phở được biết đến ở nhiều nơi trên thế giới, đặc biệt là các nước phương Tây. Đã có nhiều nhà hàng phở ở Mỹ, Pháp, Úc và Canada. Những người Việt Nam không thuộc diện tị nạn chính trị cũng mang phở đến những nước thuộc khối Xô Viết, bao gồm Nga, Ba Lan và Cộng hòa Séc. Ngày nay, phở đã có những phương pháp chế biến và hương vị khác nhau. Tại Việt Nam, có những tên gọi để phân biệt chúng là: Phở Bắc (ở miền Bắc), phở Huế (ở miền Trung) và phở Sài Gòn (ở miền Nam). Thông thường thì phở miền Bắc đặc trưng bởi vị mặn còn miền Nam thì ngọt và nhiều rau. Bánh phở ở miền Nam nhỏ hơn ở miền Bắc. Trước đây, chỉ có phở bò chín với đầy đủ "chín-bắp-nạm-gầu", về sau, thực khách chấp nhận cả phở tái, phở gà. Đi xa hơn, có nhà hàng thử nghiệm với cả thịt vịt, ngan nhưng không mấy thành công. Ngoài ra còn một số món ẩm thực từ nguyên liệu bánh phở truyền thống như phở cuốn, loại phở xuất hiện vào thập niên 1970 là phở xào, của thập niên 1980 là phở rán... == Chế biến nước dùng == Trong món phở, công đoạn chế biến nước dùng, còn gọi là nước lèo, là công đoạn quan trọng nhất. Nước dùng của phở truyền thống là phải được ninh từ xương ống của bò cùng với một số gia vị. Xương phải được rửa sạch, cạo sạch hết thịt bám vào xương cho vào nồi đun với nước lạnh. Nước luộc xương lần đầu phải đổ đi để nước dùng khỏi bị nhiễm mùi hôi của xương bò, nước luộc lần sau mới dùng làm nước lèo. Gừng và củ hành đã nướng đồng thời cũng được cho vào. Lửa đun được bật lớn để nước sôi lên, khi nước đã sôi thì phải giảm bớt lửa và bắt đầu vớt bọt. Khi đã vớt hết bọt, cho thêm một ít nước lạnh và lại đợi nước tiếp tục sôi tiếp để vớt bọt... Cứ làm như vậy liên tục cho đến khi nước trong và không còn cặn trong bọt nữa. Sau đó, cho một ít gia vị vào và điều chỉnh độ lửa sao cho nồi nước chỉ sôi lăn tăn để giữ cho nước khỏi bị đục và chất ngọt từ xương có đủ thời gian để tan vào nước lèo. Hương vị thơm ngon của nước dùng chủ yếu do các loại gia vị quyết định. Tuy nhiên, công thức của từng loại nước dùng cụ thể cho từng hiệu phở được giữ khá bí mật. Mặc dù vậy, có thể nhận thấy các loại gia vị này bao gồm thảo quả, gừng, hoa hồi, đinh hương, hạt ngò gai, quế thanh, hành khô, tôm nõn, địa sâm và theo truyền thống, không thể thiếu một cái đuôi bò. Nguyên thủy, để tăng vị ngọt rất giàu axit amin của nước phở, theo truyền thống, khi chưa có bột ngọt (mì chính), người xưa dùng tôm he và địa sâm khô. Cách nấu nước dùng ngày nay đã có những sự khác biệt tùy địa phương, như miền Bắc thường dùng nhiều mì chính (nhất là trong thời bao cấp, có cả phở "không người lái" không thịt), còn miền Nam nhiều nơi nấu nước dùng bằng xương gà và thêm con khô mực. == Văn hóa ăn phở == Những quán phở Việt Nam vẫn giữ những thói quen là ít khi mang thực đơn cho khách hàng mà khách sẽ phải tự chọn loại phở gì (ví dụ: phở bò, phở gà...). Phở được đựng trong tô. Thông thường thì những bàn ăn được đánh số để phục vụ, trên đó có sẵn đũa, muỗng và những gia vị kèm theo phở như: tương, chanh, nước mắm, ớt... Nhà thiết kế Yanko Design đã thiết kế một tô đựng phở đặc biệt và tiện lợi, có ngăn riêng cho phụ gia kèm theo. == Phá cách == Ngoài những kiểu chế biến truyền thống là phở chan nước dùng, ngày nay người ta còn tạo ra nhiều loại phở khác như phở cuốn, phở áp chảo, phở xào, phở bò viên sa tế... và phở trong công nghiệp chế biển thực phẩm như phở ăn liền, phở chay, phở công nghiệp... Tại Hà Nội đang thịnh hành ăn phở với quẩy trong khi người Sài Gòn chỉ ăn quẩy với cháo. Người Gia Lai có món phở khô hay còn gọi là "phở hai tô" với sợi phở nhỏ và dai như sợi hủ tiếu Mỹ Tho và chén nước dùng để riêng. Và một số người kinh doanh ăn uống hiện nay lạm dụng tên gọi "phở" để gọi một số món ăn hoàn toàn không phải là phở do nguyên liệu và cách chế biến khác, gia vị khác và hình thức cũng khác. Cá biệt có quán bán tô phở với thịt bò Kobe vá giá đến 850 nghìn đồng ở Hà Nội hoặc tô phở AnQi tại nhà hàng Tiato ở California với thịt bò Kobe loại A 5 Wagyu đắt nhất, tôm hùm xanh cực hiếm, nấm truffle alba trắng loại tốt, nước dùng nấu bằng gan ngỗng béo và giá khởi điểm 5.000 đô la để làm việc từ thiện trợ giúp một bệnh viện trẻ em. == Phở ở Hà Nội == Nhà văn Thạch Lam viết trong cuốn Hà Nội băm sáu phố phường: "Phở là một thứ quà đặc biệt của Hà Nội, không phải chỉ riêng Hà Nội mới có, nhưng chính là vì chỉ ở Hà Nội mới ngon". Phở ngon phải là phở "cổ điển", nấu bằng thịt bò,"nước dùng trong và ngọt, bánh dẻo mà không nát, thịt mỡ gầu giòn chứ không dai, chanh ớt với hành tây đủ cả", "rau thơm tươi, hồ tiêu bắc, giọt chanh cốm gắt, lại điểm thêm một ít cà cuống, thoảng nhẹ như một nghi ngờ". Vào thời những năm 1940, phở đã rất phổ biến ở Hà Nội: "Đó là thứ quà ăn suốt ngày của tất cả các hạng người, nhất là công chức và thợ thuyền. Người ta ăn phở sáng, ăn phở trưa và ăn phở tối...." Ở Hà Nội, phở là một món ăn đặc biệt của người Hà Nội không biết đã có từ bao giờ. Phở được dùng riêng như là một món quà sáng hoặc trưa và tối, không ăn cùng các món ăn khác. Nước dùng của phở được làm từ nước ninh của xương bò: xương cục, xương ống và xương vè. Thịt dùng cho món phở có thể là bò, hoặc gà. Bánh phở phải mỏng và dai mềm, gia vị của phở là hành lá, hạt tiêu, giấm ớt, lát chanh thái. Từ giữa những năm 1960 đến trước những năm 1990 của thế kỷ 20, vì nhiều lý do nhất là khâu quản lý hành chính bao cấp về lương thực, thực phẩm, tại Hà Nội và nhiều tỉnh miền Bắc xuất hiện "phở không người lái" (phở không thịt) trong các cửa hàng mậu dịch quốc doanh. Cũng từ thời bao cấp, ở Hà Nội, người ta thường có thói quen cho thêm nhiều mì chính vào nước dùng. Cùng với thời đổi mới từ thập niên 90, phở đã phong phú hơn và người Hà Nội thường ăn phở với những miếng quẩy nhỏ (từ thập kỷ 60 đến giữa thập kỷ 80 nhưng do ở giai đoạn khó khăn nên quẩy bị mất đi khoảng 1995 quẩy đã quay trở lại) Những hiệu phở ở Hà Nội đã lưu truyền 3 đời như: phở Phú Xuân ở phố Hàng Da vốn là những người gốc làng Phú Gia, Phú Thượng, Tây Hồ, Hà Nội; phở "Bắc Nam" ở phố Hai Bà Trưng; phở gà "Nam Ngư"; phở "Thìn"; phở "Số 10 Lý Quốc Sư" và phở Bát Đàn. Ngoài các quán hàng phở cố định, Hà Nội một thời còn có "phở gánh". Đó là những người bán phở dạo. Trên đôi quang gánh của họ, một bên là thùng hàng tự chế có đủ nguyên liệu để chế biến món phở và bát, đĩa, đũa, thìa; bên kia là nồi nước dùng đặt trên một bếp than. Trước năm 1980, những gánh phở như vậy đã đi khắp các hàng cùng ngõ hẻm của Hà Nội với những tiếng rao quen thuộc của văn hóa ẩm thực về đêm của Hà Thành. Ngày nay, khi xã hội phát triển, quán ăn nhiều lên thì "phở gánh" ngày càng ít xuất hiện. == Phở bò Nam Định == Phở bò Nam Định Là một món ăn phổ biến của Nam Định, phở Nam Định cũng có những đặc điểm chung như phở của các vùng khác là gồm bánh phở, nước phở, thịt bò hoặc thịt gà, và một số gia vị kèm theo, nhưng lại mang cái khác toàn diện mà khó có thể nhầm lẫn được. Bánh phở Nam Định là loại đặc biệt có sợi nhỏ ngon và mềm, khác với sợi bánh của vùng khác. Thịt bò được thái mỏng đập dập, nhúng và vớt trong khoảng thời gian phù hợp nên ăn mềm mà vẫn giữ được độ tươi ngon và dinh dưỡng của thịt... Và nếu nói đến nước thì thường mang tính "gia truyền" những người thợ làm phở thường giấu kín bí quyết pha chế nước phở của mình và chỉ truyền cho thế hệ sau trong gia đình mà thôi. Phở gia truyền ở Nam Định chủ yếu có nguồn gốc từ Hoa kiều ở làng Giao Cù và từ họ Cồ ở làng Vân Cù, xã Đồng Sơn, (huyện Nam Trực). Sau đó được truyền ra các làng bên cạnh nhưng đã được biến chế, không còn mang nét nguyên vẹn như xưa và thêm một số phụ gia . Vào thập niên 50, người Nam Định đã mang món phở ra Hà Nội và bán theo xe đẩy . Từ giữa những năm 60 đến trước những năm 90 của thế kỷ 20, vì nhiều lý do nhất là khâu quản lý hành chính bao cấp về lương thực, thực phẩm, phở Nam Định vắng bóng ở những địa phương khác, nhưng từ năm 90 trở lại đây, Phở Nam Định phục hồi trở lại và ngày càng phát triển mạnh . Hiện nay dân làng thuộc làng Vân Cù, Giao Cù và các làng lân cận đi khắp nơi từ Bắc vào Nam mở các quán phở đế kiếm kế sinh nhai và gìn giữ một món ăn ngon ngườì Việt. == Phở Sài Gòn == Người Việt Nam ở phía Bắc di cư vào miền Nam năm 1954 sau hiệp định Geneva mang theo món phở và phở đã bắt đầu có những sự khác biệt . Tại miền Nam, nhất là tại Sài Gòn, thịt bò trong phở thường được bán theo 5 kiểu: chín, tái, nạm, gầu, gân tùy theo ý thích của khách, ngoài ra còn một chén nước béo (nước mỡ của xương bò) để riêng nếu khách muốn. Phở tại miền Nam thường phải bán đi kèm với tương ngọt (tương đen), tương ớt đỏ và chanh, ớt tươi, ngò gai, húng quế, giá (trụng nước sôi hoặc ăn sống), hành tây cắt lát mỏng (có thể ngâm với dấm), đó là những loại rau bắt buộc phải có, thường là để riêng trong một dĩa hay rổ bán kèm theo từng tô phở, khách thích thứ nào thì lấy bỏ vào tô của mình. Sau này, nhiều quán còn thêm vào đĩa rau đó: ngò ôm (rau ngổ), húng Láng, hành lá dài, các loại rau thơm khác.... Nước phở (nước lèo) thường không được bỏ bột ngọt (mì chính) như ở Hà Nội và có màu hơi đục, không trong như phở Bắc, đôi khi ngọt hơn, béo hơn và nấu bằng xương gà, thêm con khô mực hoặc củ hành nướng và gừng nướng. Có khá nhiều quán phở nổi danh ở Sài Gòn trước năm 1975: phở Công Lý, phở Tàu Bay, phở Tàu Thủy, phở Bà Dậu, phố phở Pasteur (với rất nhiều quán phở chuyên bán phở bò), phố phở Hiền Vương (chuyên bán phở gà) . Hầu hết các quán phở này nay vẫn còn, truyền đến đời cháu nhưng "không còn cái hương mãnh liệt" và "không còn xuân sắc như thuở trước 75" . Hiện nay, có các hệ thống Phở 24 (Lý Quí Trung là một trong những thành viên sáng lập), Phở 5 sao, Phở Quyền, Phở 2000, Phở Hòa... Sau 1975 Phở Sài Gòn theo chân người vượt biên tới Mỹ, Úc, Canada. Riêng tại Mỹ, thống kê không chính thức năm 2005 cho biết doanh thu các cửa hàng phở Việt Nam trên toàn nước Mỹ lên tới khoảng 500 triệu USD một năm . == Chú thích == == Liên kết ngoài == Pho (food) trên Encyclopædia Britannica Phở Hà Nội Bộ Văn hoá Thể thao và Du lịch Việt Nam. 08 Tháng Tư 2013 'Săn' những thương hiệu phở nhất nhì Hà Nội báo Đất Việt 09/03/2012 08:39 Phở Việt trên đất Mỹ. Hà Nguyên, Thanh Niên Online 02/03/2005 21:03 Phở Việt Nam ở Mỹ lên ngôi SGGP. VnExpress 9/12/2001 | 10:59 GMT+7 Phát hiện mới về phở (Bài 2): "Giải phẫu" một bát phở bò TS Vũ Thế Long báo Thể thao & Văn hóa 18/09/2009 14:15 Trăm năm phở Việt T.Q. DŨNG VnEconomy 09:33 - Chủ Nhật, 25/1/2009 Michelle Warwicker & Anna-Louise Taylor (ngày 27 tháng 9 năm 2013). “What is Vietnamese pho?” (bằng tiếng Anh). BBC.
imperialism.txt
Imperialism là một trò chơi chiến thuật theo lượt cho Microsoft Windows và máy tính Apple Macintosh, được Frog City Software phát triển và Strategic Simulations, Inc. ("SSI") phát hành vào năm 1997. Trong Imperialism, người chơi là một nhà lãnh đạo quốc gia châu Âu trong thế kỷ 19, với mục tiêu trở thành người cai trị thế giới bằng cách chinh phục các quốc gia khác hoặc bằng cách chiếm đa số phiếu khi bầu cử trong Hội đồng các nước. Trò chơi này có một phiên bản sau, Imperialism II: Age of Exploration. Từ năm 2001 Ubisoft sở hữu quyền đối với nhãn hiệu Imperialism. == Tham khảo == == Liên kết ngoài == Imperialism trên MobyGames Imperialism trên GameFAQs Imperialist Forum: A forum dedicated to the Imperialism Series and currently in the process of an Imperialism remake Imperialism Remake: A fan project to create a free remake of the original Imperialism. Imperialism category on Wikia site Imperialism forum archive
quỹ quốc tế bảo vệ thiên nhiên.txt
Quỹ Quốc tế Bảo vệ Thiên nhiên hay còn gọi là Tổ chức Bảo tồn Thiên nhiên Thế giới, Quỹ Bảo vệ Thiên nhiên Toàn Cầu (tiếng Anh: World Wide Fund For Nature - WWF) là một trong những tổ chức phi chính phủ lớn nhất thế giới về bảo vệ thiên nhiên. Tên cũ là Quỹ Động vật Hoang dã Thế giới hoặc Quỹ Bảo vệ Đời sống Thiên nhiên Thế giới (World Wildlife Fund) . == Lịch sử == Quỹ Quốc tế Bảo vệ Thiên nhiên (WWF) được thành lập ngày 11 tháng 9 năm 1961 tại Thụy Sĩ, với tên ban đầu là World Wildlife Fund. Ngay năm đầu tiên, WWF đã có chi nhánh tại Thụy Sĩ, Vương quốc Liên hiệp Anh và Hoa Kỳ, sau đó là những chi nhánh tại Áo, Đức, Hà Lan, và Nam Phi. Ngày nay, WWF có chi nhánh tại 59 quốc gia trên thế giới. Năm 1986, nhân dịp kỷ niệm 25 năm thành lập cùng việc hoạt động mở rộng phạm vi nên WWF quyết định đổi tên thành World Wide Fund For Nature; tên cũ tuy nhiên vẫn giữ nguyên ở Bắc Mỹ gồm Hoa Kỳ và Canada. Biểu tượng là hình phác họa theo mẫu một con gấu trúc lớn tên Chi Chi được được đưa từ Sở thú Bắc Kinh đến Sở thú Luân Đôn vào năm 1958, 3 năm trước khi WWF được thành lập. Năm 2002, WWF đã thắng trong một cuộc tranh kiện, làm Công ty Đấu Vật Thế giới - World Wrestling Federation phải đổi tên là World Wrestling Entertainment (WWE) . == Mục đích == WWF đưa ra những mục tiêu sau: WWF mong muốn giảm bớt sự tàn phá thiên nhiên toàn cầu để xây dựng một tương lai mà con người sống hòa hợp cùng thiên nhiên. Bảo tồn sự đa dạng sinh học của thế giới. Đảm bảo duy trì sử dụng các tài nguyên thiên nhiên có thể tái sinh. Xúc tiến việc giảm bớt ô nhiễm môi trường và tiêu thụ lãng phí. == Hoạt động == Trong biên bản thành lập có ghi hoạt động của WWF là "bảo vệ động vật, thực vật, rừng, cảnh quan, nước, nền đất và những nguồn tài nguyên thiên nhiên qua sự mua và quản trị những khu vực. Những khoản tài trợ sẽ được sử dụng cho việc nghiên cứu và giáo dục các tầng lớp, thông tin công chúng, điều hợp những cố gắng và liên kết những nhóm quan tâm". Theo đó, WWF tạo sự khác biệt với những tổ chức bảo vệ môi trường khác là chú trọng vào những công việc vận động hành lang cổ điển, liên kết với những công ty thương mại để tài trợ những dự án bảo vệ hệ sinh thái dài hạn, thay vì tạo những chiến dịch nổi bật gây dư luận và thu hút truyền thông đại chúng ngắn hạn như tổ chức Hòa bình xanh. Trong quá trình hoạt động, WWF đã mở rộng phạm vi hoạt động trở thành một tổ chức bảo vệ thiên nhiên phổ thông, đặc biệt chú trọng về việc ngăn ngừa hiệu ứng nhà kính gây ra do sự nóng lên của khí hậu toàn cầu, thành lập những khu vực được bảo vệ (conservator) để bảo vệ dài hạn những động- và thực vật bị đe đọa, thay vì chỉ nhắm vào động- thực vật hoang dã như mục tiêu ban đầu. Từ năm 1960, WWF đã tài trợ cho khoảng 12.000 dự án trong 153 quốc gia và 1.500.000 cây số vuông đã có thể chuyển thể thành vườn quốc gia. Trên thế giới hiện có khoảng chừng 4000 nhân viên trên 100 quốc gia hoạt động trong khoảng 300 khu vực được bảo hộ. Trên 5 triệu người trên thế giới ủng hộ, nhờ đó năm 2006 trên 374 triệu Euro đã được quyên góp để sử dụng cho các mục đích bảo vệ thiên nhiên, trong đó riêng năm 2006 là 2000 dự án bảo vệ thiên nhiên và môi trường . === Vietnam === Ngày 14-12-2016, Quỹ quốc tế bảo tồn thiên nhiên (WWF) VN và Vườn quốc gia Yok Đôn khởi động kế hoạch Hành động khẩn cấp bảo tồn voi rừng Yok Đôn giai đoạn 2016-2020, nhằm hạn chế nguy cơ tuyệt chủng đàn voi rừng lớn nhất nước. Số liệu quan sát cho thấy Tây nguyên hiện có đàn voi rừng lớn nhất với khoảng 70 con, trong tổng số khoảng 100 con trên cả nước. Từ năm 2009 đến nay có ít nhất 23 cá thể, chủ yếu là voi con dưới một tuổi, ở Đắk Lắk bị chết. Trong khi đó tình trạng săn bắn voi để lấy ngà, phá rừng làm rẫy đe dọa trực tiếp đến không gian sinh sống, dẫn tới nguy cơ tuyệt chủng của đàn voi rừng tại đây.. == Chủ tịch == Hoàng tử Bernhard của Hà Lan (1962–1976) John H Loudon (1976–1981) Hoàng thân Philip, Công tước Edinburgh (1981–1996) Syed Babar Ali (1996–1999) Ruud Lubbers (2000–2000) Sara Morrison (2000–2001) Emeka Anyaoku (2001–2010) Yolanda Kakabadse (2010-) == Chú thích == == Liên kết ngoài == Panda.org, WWF.org WWF international Web site === Trang web địa phương ===
kiểu chữ.txt
Kiểu chữ (tiếng Anh là typeface hoặc font family) là định dạng bảng chữ cái có cùng chung một đặc tính thiết kế. Một kiểu chữ đơn lẻ được thể hiện bằng độ đậm, phong cách, cách chữ, độ rộng, độ nghiêng, in nghiêng, sự trang trí và nhà thiết kế nhưng không phải là kích thước. Ngày này kiểu chữ thường dùng tương đương với thuật ngữ là phông chữ (font) mặc dù chúng có ý nghĩa rất khác nhau trước khi sự phát minh của kiểu chữ học kỹ thuật số ra đời. == Tham khảo == == Nghiên cứu thêm == Garfield, Simon (2010), Just my Type: a Book About Fonts, Profile == Liên kết ngoài == ABC typography – Introduction to the most famous typefaces Named parts of a letter: Type Anatomy 1.0 Nwalsh.com, comp.fonts FAQ
vàng (màu).txt
Màu vàng là màu sắc của ánh sáng tác động đều lên hai loại tế bào cảm thụ màu đỏ và tế bào cảm thụ màu lục và rất yếu lên tế bào cảm thụ màu lam của mắt người. Đa số người thấy màu này khi nhìn vào hình bên. == Trong quang phổ == Màu vàng là màu của ánh sáng không đơn sắc có bước sóng nằm trong khoảng từ 566nm tới 590 nm. == Trong phối màu phát xạ == Theo định nghĩa, một số hỗn hợp đều của ánh sáng màu đỏ và xanh lá cây tạo nên cảm giác màu vàng. == Trong phối màu hấp thụ == Màu vàng là một trong số các màu gốc trong hệ màu CMY (hay CMYK, dùng trong in ấn, sơn, nhuộm...), và màu bù của nó là màu xanh lam của hệ màu RGB. Tuy nhiên, vì các đặc trưng của các chất màu hay sơn sử dụng trong quá khứ, các thợ sơn hay họa sĩ thông thường nói tới phần bù của nó là màu tía. == Sử dụng, biểu tượng, diễn giải thông thường == Phần này có thể chứa đựng một lượng văn hoá Anh Mỹ thiên lệch, do dịch từ trang tiếng Anh. Nếu có thể xin bạn giúp sửa chữa Màu vàng là một màu sáng gây cảm giác vui vẻ, nhưng trong tiếng Anh, màu vàng làm cho người ta nghĩ tới bệnh vàng da và tính nhút nhát. Trong tiếng lóng Mỹ, sự nhút nhát được nói như là "yellow belly". Nó cũng có nghĩa như là một điều gì đó bại hoại, chẳng hạn như trong câu "yellow journalism" (có thể được hiểu bằng cụm từ "báo lá cải" để chỉ loại báo chí thiếu nghiêm trọng). Ban nhạc Coldplay đã ghi một bài hát phổ biến là Yellow ("vàng"); ban nhạc The Beatles có bài hát tên là Yellow Submarine ("Tàu ngầm vàng"); ca sĩ Donovan có bài hát là Mellow Yellow ("Màu vàng êm dịu"). Màu vàng là biểu tượng cho Hoàng đế Trung Hoa và hoàng tộc Trung Quốc cũng như đối với các quốc gia chịu ảnh hưởng của nền văn minh Trung Hoa như Việt Nam, Nhật Bản v.v dưới thời phong kiến. Những người dân thường cũng như quan lại các cấp không được sử dụng màu vàng. Ngày nay việc sử dụng màu này không còn bị cấm đoán như vậy nữa. Nó cũng là màu của Tân Đảng tại Đài Loan. Có nhiều bút chì được sơn màu vàng vì mối liên hệ của nó với Trung Quốc, khu vực mà than chì tốt nhất được tìm thấy. Chỉ có bút chì với than chì của Trung Quốc được sơn màu vàng. Tại Mỹ trong thế kỷ 20, những người nhập cư từ Trung Quốc và Đông Á được nói tới một cách miệt thị như là Yellow peril ("mối đe dọa màu vàng"), có lẽ ám chỉ tới màu da. Màu vàng, trong các tổ chức chính trị quốc tế, là màu sắc của những người theo chủ nghĩa tự do. Ở một số quốc gia, xe taxi được sơn màu vàng. Thực tế này bắt đầu từ thành phố New York, khi ở đó taxi do Harry N. Allen sở hữu được sơn màu vàng sau khi biết rằng màu vàng là màu dễ nhìn thấy nhất khi ở xa. Tại Canada và Mỹ, các xe buýt dành cho các trường học gần như thống nhất được sơn màu vàng (thông thường được nhắc đến như là "school bus yellow") vì mục đích dễ nhận thấy và an toàn. Những người điều hành hệ thống xe buýt của Anh chẳng hạn như FirstGroup đang cố gắng giới thiệu khái niệm này ở đó. "Màu vàng Caterpillar" và "màu vàng tầm nhin xa lớn" được sử dụng cho các thiết bị xây dựng đường cao tốc. Trong môn đua ô tô, cờ hiệu màu vàng báo hiệu sự thận trọng. Các ô tô không được phép vượt nhau khi có cờ hiệu vàng. Các "trang vàng" (yellow pages) là một phần của danh bạ điện thoại hay danh bạ điện thoại trực tuyến để liệt kê các số quan trọng theo thể loại. Chúng được gọi như vậy do chúng được in trên giấy màu vàng thay vì trên giấy thông thường. Bánh vàng (hay yellow cake, cũng được biết như là urania và ôxít uran) là phần tinh chế của ôxít uran, thu được trong quá trình nghiền quặng uran. Yellowcake được sử dụng để làm nhiên liệu cho các lò phản ứng nguyên tử và trong làm giàu uran, một trong các bước quan trọng để chế tạo các vũ khí nguyên tử. Hoa hồng vàng Texas, hay "hoa vàng Harison" lần đầu tiên nở hoa tại thành phố New York trong những năm thập niên 1830. Màu vàng là màu của quả bóng của môn snooker (một thể thức chơi của môn bi da) có giá trị là hai điểm. Màu vàng cũng là màu của các xe jíp cũ. Khi màu vàng trộn với màu xanh lá cây, nó tạo thành màu vàng chanh (tiếng Anh: lime) Màu vàng là màu người Ai Cập cổ đại yêu thích nhất (màu của kim loại vàng) == Tọa độ màu == 'Số Hex = #FFFF00 RGB (r, g, b) = (255, 255, 0) CMYK (c, m, y, k) = (0, 0, 100, 0) HSV (h, s, v) = (60, 100, 100) == Xem thêm == Danh sách màu Cầu vồng == Tham khảo ==
mary tyler moore.txt
Mary Tyler Moore (29 tháng 12 năm 1936 – 25 tháng 1 năm 2017) là nữ diễn viên người Mỹ, nổi tiếng với chương trình hài kịch tình huống The Mary Tyler Moore Show (1970–1977), nơi bà vào vai Mary Richards, một người phụ nữ độc thân trạc tuổi 30 làm việc tại hãng thông tin Minneapolis và The Dick Van Dyke Show (1961–1966) trong vai Laura Petrie, một cựu vũ công trở về Westchester làm công việc nội trợ, mẹ và vợ. Bà góp mặt trong phim Thoroughly Modern Millie (1967) và Ordinary People (1980) giành đề cử Giải Oscar cho Nữ diễn viên chính xuất sắc nhất. Vai diễn của bà trong The Mary Tyler Moore Show và The Dick Van Dyke Show phá vỡ những hình tượng kiểu mẫu của phụ nữ và định kiến giới tính. Moore trở thành biểu tượng văn hóa và là nguồn cảm hứng cho nhiều nữ diễn viên, phụ nữ chuyên nghiệp và người theo chủ nghĩa nữ giới trẻ tuổi. Moore tham gia nhiều công tác từ thiện và chính trị, đặc biệt trong các vấn đề về quyền động vật và bệnh tiểu đường. Bà được chẩn đoán mắc bệnh tiểu đường loại 1 trong lúc thực hiện The Mary Tyler Moore Show. Bà còn mắc chứng nghiện rượu, là chủ đề trong hai tập tự truyện đầu tiên của bà. Tháng 5 năm 2011, Moore trải qua ca phẫu thuật não để cắt bỏ khối u lành tính. Bà qua đời vì viêm phổi khi 80 tuổi vào ngày 25 tháng 1 năm 2017. == Thời thơ ấu == Moore sinh tại khu vực Brooklyn Heights, New York, là con gái của Marjorie (nhũ danh Hackett; 1916–92) và George Tyler Moore (1913–2006), một nhân viên kế toán. Bà là con cả trong số 3 người con (em ruột của bà là John và Elizabeth), Moore và gia đình sống tại Flushing, Queens. Ông cố nội của bà, Lieutenant Colonel Lewis Tilghman Moore, sở hữu căn nhà nơi giờ đây là Viện bảo tàng Stonewall Jackson's Headquarters ở Winchester, Virginia. Năm lên 8, gia đình của Moore dời đến Los Angeles. Bà được nuôi dạy theo Công giáo, theo học tại trường St. Rose of Lima Parochial ở Brooklyn, trường Saint Ambrose tại Los Angeles và Immaculate Heart High School ở Los Feliz, California. == Đời tư == Năm 1955, Moore kết hôn với Richard Carleton Meeker lúc 18 tuổi, và mang thai đứa con duy nhất của bà trong chưa đầy 6 tuần, Richard Jr. (sinh ngày 3 tháng 7 năm 1956). Meeker và Moore ly hôn năm 1961. Moore kết hôn với Grant Tinker, một nhà điều hành tại CBS và sau này là chủ tịch đài NBC, vào năm 1962. Họ thành lập công ty truyền hình MTM Enterprises năm 1970 và sản xuất chương trình đầu tiên của hãng, The Mary Tyler Moore Show. Moore và Tinker ly hôn năm 1981. Ngày 14 tháng 10 năm 1980, con trai Richard của bà qua đời ở tuổi 24 vì trúng đạn. Moore kết hôn với Bác sĩ Robert Levine  ngày 23 tháng 11 năm 1983, tại Khách sạn Pierre, Thành phố New York. Họ gặp nhau lúc mẹ bà được ông điều trị tại Thành phố New York và trở về từ Vatican, nơi họ gặp gỡ Pope John Paul II. Moore được chẩn đoán mắc bệnh tiểu đường loại 1 khi 33 tuổi. Năm 2011, bà thực hiện giải phẫu để cắt bỏ khối u não lành tính. Năm 2014, bà được báo cáo với nhiều vấn đề về tim, thận và thị lực kém. Moore qua đời ngày 25 tháng 1 năm 2017 tại Bệnh viện Greenwich ở Greenwich, Connecticut. == Giải thưởng và công nhận == Năm 1980, Moore giành đề cử giải Oscar cho Nữ diễn viên chính xuất sắc nhất trong phim Ordinary People. Moore nhận 6 giải Emmy. Bà nhận 5 giải "Nữ diễn viên chính loạt phim hài nổi bật" trong các năm 1964, 1966, 1973, 1974, 1976, san bằng kỷ lục số giải của Candice Bergen và Julia Louis-Dreyfus. Giải Tony vinh danh bà với vai diễn trong Whose Life Is It Anyway? (1980), còn giúp bà giành đề cử giải Drama Desk. Năm 1986, bà được bổ nhiệm vào Đại lộ danh vọng Truyền hình. Năm 1987, bà giành giải Hài kịch Mỹ Thành tựu trọn đời. Năm 1992, bà được trao một ngôi sao trên Đại lộ danh vọng Hollywood nhờ những đóng góp cho ngành công nghiệp truyền hình. TV Land và thành phố Minneapolis vinh danh bà bằng một bức tượng tại Minneapolis vào tháng 5 năm 2002. Bức tượng thể hiện bà trong vai Mary Richards trong cảnh mở đầu chương trình The Mary Tyler Moore Show, lúc đang hất chiếc mũ Tam o' Shanter lên không trung. Moore được trao giải Thành tựu trọn đời của Hiệp hội Diễn viên Màn ảnh. == Sự nghiệp điện ảnh == === Điện ảnh === === Truyền hình === == Tham khảo == === Thư mục === Moore, Mary Tyler (1995). After All. Putnam. ISBN 0-399-14091-3. Moore, Mary Tyler (2009). Growing Up Again: Life, Loves, and Oh Yeah, Diabetes. St. Martin's Press. ISBN 0-312-37631-6. == Liên kết ngoài == Mary Tyler Moore trên Internet Broadway Database Mary Tyler Moore tại Internet Movie Database Mary Tyler Moore trên trang TCM Movie Database Mary Tyler Moore at TVGuide.com Mary Tyler Moore trên C-SPAN Các công trình liên quan hoặc của Mary Tyler Moore trên các thư viện của thư mục (WorldCat) Thêm tin tức và bình luận về Mary Tyler Moore trên The New York Times
trái phiếu chính phủ.txt
Trái phiếu chính phủ, công trái hay công khố phiếu là trái phiếu được phát hành bởi chính phủ một quốc gia. Trái phiếu chính phủ có thể được phát hành bằng đồng tiền nước đó hoặc ngoại tệ (trường hợp sau tiếng Anh gọi là sovereign bond). == Rủi ro == Trái phiếu chính phủ thường được coi là không có rủi ro bởi chính phủ có thể tăng thuế hoặc in thêm tiền mặt để chi trả trái phiếu đáo hạn. Một số ví dụ rất hiếm thấy khi chính phủ không thể thanh toán được nợ đó là cuộc khủng hoảng đồng rúp năm 1998 của chính phủ Nga. Ở Hoa Kỳ, trái phiếu chính phủ mệnh giá bằng đôla là hình thức đầu tư tiền an toàn nhất. An toàn hay không có rủi ro là theo nghĩa rủi ro có thể không được thanh toán. Các rủi ro khác vẫn tồn tại như tỷ giá – là khi đồng nội tệ mất giá so với các ngoại tệ; rủi ro thứ hai là lạm phát – tiền gốc nhận lại khi đáo hạn giảm giá trị vì lạm phát vượt quá dự kiến. Nhiều chính phủ phát hành công trái điều chỉnh theo lạm phát để bảo vệ các nhà đầu tư trước rủi ro lạm phát. Có rất nhiều tổ chức cung cấp chỉ số rủi ro tài chính và xếp hạng năng lực tài chính, trong đó chỉ số của Moody’s, Standard & Poor’s và Fitch Ratings được tín nhiệm hơn cả. Một ví dụ về công trái có rủi ro ở mức độ nhất định là công trái của các chính phủ chưa đủ năng lực hiệu quả cao để thực hiện chính sách tài chính. Bulgaria có nền kinh tế phụ thuộc vào kinh tế thế giới và các tổ chức kinh tế thế giới nhiều hơn là Hoa Kỳ vì thế, công trái dài hạn của nước này bị xếp hạng BBB+ bởi tổ chức Standard & Poor’s năm 2006. Chỉ sau năm 2004, một số trái phiếu và đặc biệt là trái phiếu ngắn hạn chính phủ của nước này mới được xếp hạng rủi ro A. == Xem thêm == Kho bạc Nợ chính phủ == Tham khảo == == Liên kết ngoài == Global array of government bonds, listed by country and instrument == Tham khảo ==
mervin trần.txt
Mervin Trần (sinh 22 tháng 9 năm 1990) là vận động viên trượt băng nghệ thuật đôi người Canada từng thi đấu cho Nhật Bản cho đến năm 2012. Cùng với bạn diễn trước kia là Narumi Takahashi, anh đã giành được huy chương đồng tại giải Vô địch Trượt băng nghệ thuật Thế giới năm 2012, huy chương bạc tại giải trẻ Vô địch Trượt băng nghệ thuật 2010, vô địch giải ISU Junior Grand Prix 2010 và vô địch quốc gia Nhật Bản từ 2008 đến 2012. Cặp đôi này đã giành huy chương Thế giới đầu tiên ở nội dung trượt đôi cho Nhật Bản. Gần đây, Mervin nhảy cặp với Natasha Purich. == Tiểu sử == Mervin sinh ra ở Regina, Saskatchewan năm 1990. Anh chuyển đến Montréal, Québec năm 2007 để luyện tập với HLV Richard Gauthier. Cha mẹ anh là người tị nạn từ Việt Nam và Campuchia. Anh từng thi đấu tại giải điền kinh cấp tỉnh ở nội dung nhảy cao và chạy 100m vượt rào và xếp vị trí thứ 5 ở bộ môn vượt rào. == Tham khảo ==
người lự.txt
Người Lự, còn gọi là người Lữ, người Nhuồn, người Duồn, là một dân tộc ít người sinh sống trong khu vực Thái Lan, Lào, Việt Nam và Trung Quốc. Tiếng nói chính thức của người Lự là tiếng Lự, là ngôn ngữ thuộc nhóm ngôn ngữ Tày-Thái, hệ ngôn ngữ Tai-Kadai. Tuy nhiên, tại các quốc gia họ sinh sống, họ có thể sử dụng các ngôn ngữ chính thức tại mỗi quốc gia. == Dân số và địa bàn cư trú == === Tại Lào === Tại Lào, theo ước tính của Ethnologue thì có khoảng 134.100 người Lự (Ethnologue ghi là năm 2000) sinh sống tại các tỉnh Phongsali, Luang Namtha, Bokeo, Oudomxai, Xaignabouli, Luang Prabang. === Tại Thái Lan === Tại Thái Lan, theo ước tính của Ethnologue thì có khoảng 83.000 người Lự (Ethnologue ghi là theo ước tính năm 2001 của Johnstone và Mandryk) sinh sống tại các tỉnh Chiang Rai, Phayao, Lamphun, Nan và khắp miền bắc Thái Lan. === Tại Việt Nam === Tại Việt Nam, người Lự được công nhận là dân tộc thiểu số trong số 54 dân tộc tại Việt Nam. Dân số theo điều tra dân số 1999 là khoảng 4.964 người. Cư trú chủ yếu tập trung ở hai huyện Phong Thổ và Sìn Hồ, tỉnh Lai Châu và một lượng đáng kể di cư vào tỉnh Lâm Đồng. Tuy nhiên, theo ước tính năm 2003 của Ủy ban dân tộc Việt Nam thì dân tộc này có dân số 5.553 người. Theo Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009, người Lự ở Việt Nam có dân số 5.601 người, cư trú tại 21 trên tổng số 63 tỉnh, thành phố. Phần lớn người Lự cư trú tập trung tại tỉnh Lai Châu (5.487 người, chiếm 98,0% tổng số người Lự tại Việt Nam), Thái Nguyên (75 người), các tỉnh còn lại có không quá 10 người. === Tại Trung Quốc === Tại Trung Quốc, họ được coi là một phần của dân tộc Thái. == Đặc điểm kinh tế == Người Lự có truyền thống làm ruộng từ lâu đời. Họ biết dùng cày bừa, đào mương dẫn nước, gieo mạ, cấy lúa, nhưng lại không làm cỏ, bón phân. Họ còn làm thêm nương để trồng lúa, ngô, khoai, sắn, lạc, bông, chàm và nhà nào cũng có vườn cạnh nhà. Người Lự có tập quán ăn cơm nếp là chính, thích ăn ớt, ưa uống nước chè và đàn ông thường hút thuốc lào. Trong các nghề phụ của người Lự thì nghề dệt phát triển nhất. Mỗi gia đình người Lự thường có vài ba khung cửi. Tài nghệ dệt, may, thuê đều khá cao, từ chiếc quần của đàn ông cho đến váy, áo, khăn của phụ nữ thường có hoa văn trang trí rực rỡ trên nền vải nhuộm chàm, nhất là trang phục ngày lễ hội càng được tranh trí nhiều và đẹp hơn. == Hôn nhân gia đình == Trai gái Lự được tìm hiểu nhau tự do rồi xin ý kiến cha mẹ để kết hôn, nhưng họ phải nhờ thầy số xem tuổi trước, nếu hợp tuổi mới lấy nhau. Con trai phải ở rể vài ba năm rồi ra ở riêng. Con lấy họ theo cha, tên con trai có chữ đệm Bạ, tên con gái có chữ đệm Yý. Người Lự sống tình nghĩa, thủy chung. Vợ chồng rất ít ly dị nhau, nếu trai bỏ vợ, gái bỏ chồng đều bị phạt nặng theo tập tục. == Tục lệ ma chay == Sau khi chôn cất người chết một thời gian, tang gia làm một mái nhà táng giấy có trang trí đẹp rồi bỏ vải, đệm, gối, thóc, tiền vào đó để làm lễ đưa linh hồn người chết vào chùa. == Văn hóa == Người Lự hay hát dân ca "khắp", yêu thích vốn truyện cổ, thơ ca, tục ngữ, các loại sáo, nhị, trống... == Nhà cửa == Người Lự ở nhà sàn, hai mái, mái phía sau ngắn, còn mái phía trước kéo dài xuống che cho cả hàng hiên và cầu thang. Cửa ra vào ở hướng Tây Bắc. Trong nhà có hai bếp, một bếp để nấu ăn và một bếp để đun nước tiếp khách. == Ghi chú == == Liên kết ngoài == Dân tộc Lự
kv2.txt
Ngôi mộ KV2, được tìm thấy trong Thung lũng của các vị Vua, là ngôi mộ của vị PharaonRamses IV. Nó nằm ở vị trí thấp trong nền ở trung tâm thung lũng, giữa KV7 và KV1. Nó đã được mở từ thời cổ đại và có một số lượng lớn người Graffiti đã đến đây. == Kế hoạch chính của ngôi mộ == Có kế hoạch của ngôi mộ được biết dựa vào sự bố trí để xây dựng của nó. Một tấm giấy cói (hiên được trung bày ở Viện bảo tàng ở Turin) cung cấp chi tiết về việc mô tả kế hoạch của ngôi mộ. Tất cả những đoạn hành lang và phòng chôn đều còn nguyên. Các kế hoạch trên tấm giấy cói cũng miêu tả của quan tài Pharaon, cách bố trí của đền thờ đã được tìm thấy nguyên vẹn trong ngôi mộ của Tutankhamun ở KV62. Kế hoạch của ngôi mộ đã được tìm thấy ghi trên một phiến đá vôi nằm không xa lối vào của ngôi mộ. == Mở cửa trong thời cổ đại == Lăng mộ là một trong khoảng 11 ngôi mộ mở đã được mở từ thời cổ. KV2 chứa số hình vẽ cổ xưa nhiều thứ nhì ở Thung lũng (sau KV9), với 656 người Graffiti bao gồm cả từ Hy Lạp cổ đại, và La Mã. Cũng có những bức tranh miêu tả Thờ thánh và thánh giá trên những bức tường của ngôi mộ. == Cuộc khai quật hiện đại == Nhà khảo cổ học Edward West đã khai quật lối vào của ngôi mộ trong những năm 1905 và 1906, tiếp theo đó là cuộc khai quật của Howard Carter vào năm 1920. Cả hai người đều tìm thấy những tàn tích các tài liệu cổ ở đó và những mảnh gỗ, thủy tinh và mảnh sứ bị vỡ. == Xem thêm == Danh sách lăng mộ ở Thung lũng các vị Vua KV15 KV3 KV10 KV20 == Bản đồ vị trí các ngôi mộ == == Tham khảo ==
đậu phụ.txt
Đậu phụ (tiếng Trung: 荳腐 - đậu hũ) là một món ăn dân dã của người dân một số quốc gia Đông Á như Trung Hoa, các nước vùng Đông Á và Đông Nam Á như Việt Nam. Đậu phụ có nguồn gốc từ Trung Quốc. Món này có nhiều cách gọi: đậu khuôn ở miền Trung và đậu hũ ở miền Nam. Đậu phụ là món ăn có thể giúp phòng chống xơ vữa động mạch, cũng thường được làm món ăn chay cho những người theo đạo Phật. Nguyên liệu làm đậu phụ là hạt đậu nành, được xay lên rồi ngâm vào nước. Tinh bột chảy vào nước thành hình dáng theo người làm tự tạo, bả được lọc ra ngoài. Các hình dáng thường thấy là hình vuông, tròn hay chữ nhật dài. Khi sản phẩm hoàn thành thì có thể sao chế thêm, như cắt thành hình chữ nhật rán với dầu. Thành một màu vàng bọc ngoài thêm gia vị thếm, là thành một bữa. Nếu không rán thì có thể cắt lát làm thêm phần phụ trong nồi canh rau hay cá. == Đậu phụ và các thực phẩm kết hợp == Đậu phụ và cá; đậu phụ và rong biển; đậu phụ và củ cải. Các thực phẩm này kết hợp hòa lẫn vào thành một món ăn với nhiều hương vị lạ. Món đậu phụ sốt cà chua, hành lá, đôi khi có thêm thịt ba chỉ... Đậu phụ cũng hay được sử dụng trong các món lẩu. Món đậu phụ luộc thường hay chấm với mắm tôm. == Những yếu tố phụ == Mặc dù có rất nhiều tác dụng tốt cho cơ thể, nhưng khi ăn cũng phải để ý do nguyên liệu là đậu nành, có chứa chất paponin chất này bài tiết I-ốt trong cơ thể, nếu ăn nhiều trong một thời gian dài thì rất dễ dẫn đến thiếu I-ốt. Hàm lượng protein trong đậu phụ khá cao, ăn nhiều sẽ khiến cơ thể khó hấp thụ sắt và dễ dẫn đến tiêu hoá không tốt, chỉ nên ăn 100g là thích hợp cho cơ thể. == Xem thêm == Đậu phụ Mơ Tào phớ == Tham khảo == == Liên kết ngoài == Đậu phụ tại Từ điển bách khoa Việt Nam Đậu phụ nhự tại Từ điển bách khoa Việt Nam Tofu (Food) tại Encyclopædia Britannica (tiếng Anh)
quân đội hoa kỳ.txt
Quân đội Hoa Kỳ hay Các lực lượng vũ trang Hoa Kỳ (tiếng Anh: United States Armed Forces) là tổng hợp các lực lượng quân sự thống nhất của Hoa Kỳ. Các lực lượng này gồm có Lục quân, Hải quân, Thủy quân lục chiến, Không quân và Tuần duyên. Hoa Kỳ có một truyền thống dân sự kiểm soát quân sự mạnh mẽ. Trong lúc Tổng thống Hoa Kỳ là người lãnh đạo tổng thể về quân sự thì Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ, một bộ hành chính liên bang, đóng vai trò là cơ quan chính nơi mà các chính sách quân sự được thực hiện. Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ do Bộ trưởng Quốc phòng Hoa Kỳ lãnh đạo. Bộ trưởng là một người thuộc giới dân sự và là một thành viên trong Nội các Hoa Kỳ. Bộ trưởng cũng phục vụ trong vai trò tư lệnh quân sự đứng thứ hai sau Tổng thống Hoa Kỳ. Để điều phối hành động quân sự với ngoại giao, Tổng thống Hoa Kỳ có một Hội đồng An ninh Quốc gia với một vị cố vấn an ninh quốc gia lãnh đạo để hội ý. Cả Tổng thống Hoa Kỳ và Bộ trưởng Quốc phòng Hoa Kỳ được cố vấn bởi một Bộ Tổng tham mưu Liên quân Hoa Kỳ gồm sáu thành viên là lãnh đạo của các quân chủng. Bộ Tổng tham mưu Liên quân Hoa Kỳ do Tổng Tham mưu trưởng Liên quân Hoa Kỳ và Tổng tham mưu phó Liên quân Hoa Kỳ lãnh đạo. Tất cả năm quân chủng được đặt dưới quyền hướng dẫn của Bộ Quốc phòng, trừ Tuần duyên Hoa Kỳ được đặt dưới quyền của Bộ Nội an Hoa Kỳ vào năm 2003 sau khi có việc tái tổ chức chính phủ theo sau vụ tấn công khủng bố ngày 11 tháng 9 năm 2001. Tuần duyên Hoa Kỳ có thể được thuyên chuyển sang Bộ Hải quân Hoa Kỳ theo lệnh của Tổng thống hay Quốc hội Hoa Kỳ trong thời chiến. Tất cả năm lực lượng vũ trang là trong số 7 lực lượng đồng phục của Hoa Kỳ; hai lực lượng còn lại là Đoàn Ủy nhiệm Y tế Công cộng Hoa Kỳ và Đoàn Ủy nhiệm Quản trị Khí quyển và Đại dương Quốc gia. Từ lúc lập quốc, quân sự đã đóng vai trò quyết định trong lịch sử Hoa Kỳ. Ý nghĩa mang tính định hình và sự thống nhất quốc gia đã được hình thành từ các chiến thắng như các cuộc chiến chống hải tặc Barbary cũng như Chiến tranh 1812. Mặc dù vậy, những người sáng lập ra Hoa Kỳ vẫn nghi ngờ về một lực lượng quân sự thường trực (vì lo sợ một kẻ độc tài nào đó có thể dùng lực lượng quân sự để thao túng đất nước) cho đến khi Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ thì một quân đội hiện dịch lớn mạnh mới được chính thức thiết lập Đạo luật An ninh Quốc gia Hoa Kỳ 1947, được thông qua sau Chiến tranh thế giới thứ hai và trong thời gian bắt đầu xảy ra Chiến tranh lạnh, đã tạo nên khung sườn cho Quân đội Hoa Kỳ hiện đại. Đạo luật này đã sát nhập các bộ cấp nội các là Bộ Chiến tranh Hoa Kỳ và Bộ Hải quân Hoa Kỳ thành Tổ chức Quân sự Quốc gia (sau đó đổi tên thành Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ vào năm 1949). Đạo luật này cũng lập ra Bộ Không quân Hoa Kỳ (đặt dưới quyền của Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ) và Hội đồng An ninh Quốc gia. Quân đội Hoa Kỳ là một trong các quân đội lớn nhất tính theo quân số. Nguồn nhân lực của Quân đội Hoa Kỳ là từ con số lớn những người tự nguyện phục vụ mặc dù chính sách quân dịch cũng từng được sử dụng nhiều lần trong quá khứ cả thời chiến cũng như thời bình nhưng nó đã không được dùng kể từ năm 1972. Tính đến năm 2010, Hoa Kỳ chi tiêu khoảng 692 tỉ đô la Mỹ mỗi năm để tài trợ cho các lực lượng quân sự của mình, chiếm khoảng 42 phần trăm chi tiêu quân sự thế giới. Tính chung, các lực lượng vũ trang Hoa Kỳ sở hữu số lượng lớn các trang bị mạnh và tiên tiến mà giúp cho họ khả năng lớn cả về phòng thủ và tấn công. == Lịch sử == Lịch sử Quân đội Hoa Kỳ bắt đầu từ năm 1775, thậm chí trước khi Tuyên ngôn Độc lập Hoa Kỳ ra đời để đánh dấu việc thiết lập nên quốc gia Hoa Kỳ. Lục quân Lục địa, Hải quân Lục địa, và Thủy quân lục chiến Lục địa đã được thành lập khi kết thúc thành công Đệ nhị Quốc hội Lục địa để bảo vệ quốc gia non trẻ chống Đế quốc Anh trong cuộc Chiến tranh Cách mạng Mỹ. Các lực lượng vũ trang này bị giải thể vào năm 1784 sau Hiệp định Paris (1783) kết thúc chiến tranh giành độc lập. Quốc hội Hợp bang thành lập Lục quân Hoa Kỳ vào ngày 14 tháng 6 năm 1784, tuy nhiên trong một thời gian dài Hoa Kỳ không có một quân đội thường trực sẵn sàng chiến đấu. Việc thông qua Hiến pháp Hoa Kỳ năm 1787 đã cho Quốc hội Hoa Kỳ quyền lực "xây dựng và hỗ trợ các lực lượng lục quân", "tạo ra và duy trì một lực lượng hải quân" và "tạo ra những luật lệ cho chính phủ và quy định đối với các lực lượng hải quân và bộ binh" cũng như quyền tuyên chiến và giao cho Tổng thống Hoa Kỳ trách nhiệm làm tổng tư lệnh quân đội. Các vụ căng thẳng gia tăng vào nhiều thời điểm khác nhau với Đế quốc Anh và Pháp qua Chiến tranh Quasi và Chiến tranh 1812 đã làm cho Hải quân Hoa Kỳ (thành lập vào ngày 13 tháng 10 năm 1775) và Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ (thành lập 10 tháng 11 năm 1775) phát triển nhanh chóng. Tuần duyên Hoa Kỳ có nguồn gốc từ việc thành lập Sở Quan thế Biển Hoa Kỳ (Revenue Cutter Service) năm 1790; cơ quan này được nhập với Sở Cứu cấp Nhân mạng Hoa Kỳ (United States Life-Saving Service) năm 1915 để thành lập Tuần duyên Hoa Kỳ. Không quân Hoa Kỳ được thành lập như một quân chủng độc lập vào năm 1947; nó có nguồn gốc từ việc thành lập Sư đoàn Không gian thuộc Binh chủng Truyền tin năm 1907 và là một bộ phận thuộc Lục quân Hoa Kỳ trước khi nó trở thành một quân chủng độc lập. == Ngân sách == Hoa Kỳ có ngân sách quốc phòng lớn nhất trên thế giới. Năm ngân sách 2010, Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ có ngân sách căn bản là 533,8 tỉ đô la Mỹ. Bộ quốc phòng xin thêm 130,0 tỷ đô la để dùng cho các hoạt động ở hải ngoại trong cuộc Chiến tranh chống khủng bố và xin thêm 33 tỷ đô la trọn năm để chi tiêu thêm cho việc tài trợ các hoạt động ở hải ngoại. Ngoài chi tiêu trực tiếp của Bộ Quốc phòng, Hoa Kỳ còn chi tiêu thêm từ 218–262 tỉ hàng năm cho các chương trình có liên quan đến quốc phòng khác như chương trình phúc lợi cho cựu chiến binh, an ninh nội địa, bảo trì vũ khí hạt nhân, và Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ. Theo quân chủng, 225,2 tỉ dành cho Lục quân Hoa Kỳ, 171,7 tỉ cho Hải quân Hoa Kỳ và Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ, 160,5 tỉ cho Không quân Hoa Kỳ và 106,4 tỉ chi tiêu tổng quát cho quốc phòng. Theo bộ phận chức năng, 154,2 tỉ cho nhân sự, 283,3 tỉ cho hoạt động và bảo trì, 140,1 tỉ chi tiêu cho trang thiết bị vũ khí, 79,1 tỉ nghiên cứu và phát triển, 23,9 tỉ chi tiêu cho xây cất quân sự và 3,1 tỉ chi tiêu cho gia cư. Năm ngân sách 2009, các chương trình quốc phòng chính cũng tiếp tục được tài trợ. 4,1 tỉ được dùng cho các phi cơ F-22 Raptor thế hệ mới với thêm 22 phi cơ xuất xưởng trong tài khóa 2009. 6,7 tỉ dùng cho phi cơ F-35 Lightning II vẫn đang được phát triển. 16 phi cơ sẽ được giao theo ngân sách này. Chương trình "hệ thống tác chiến tương lai" có thể tiêu tốn khoảng 3,6 tỉ dành cho phát triển nó. Tổng số 12,3 tỉ dùng cho phòng không chống tên lửa bao gồm các hệ thống phòng không "Patriot CAP", PAC-3 và SBIRS-High. 720 triệu cũng được chi tiêu để thiết lập một nơi phòng không chống tên lửa thứ ba ở châu Âu. 4,2 tỉ cũng được dùng để tiếp tục chương trình thay thế các hàng không mẫu hạm. Với sự thiết lập Bộ tư lệnh Hoa Kỳ ở châu Phi, 389 triệu được dùng để phát triển và duy trì bộ tư lệnh mới này. == Nhân sự == Tính đến ngày 28 tháng 2 năm 2009 có đến 1.454.515 người đang phục vụ trong Quân đội Hoa Kỳ và khoảng thêm 848.000 người đang trong 7 thành phần trừ bị. Tuy nhiên tất cả đều là những người tình nguyện phục vụ quân sự. Chính sách quân dịch cưỡng bách có thể được thực hiện theo lệnh của Tổng thống Hoa Kỳ và phải được sự chấp thuận của Quốc hội Hoa Kỳ. Quân đội Hoa Kỳ có binh sĩ trú đóng khắp nơi trên thế giới, và đứng hạng 2 trên thế giới sau Quân đội Giải phóng Nhân dân của Trung Quốc tính theo quân số. Đầu năm 2007, Bộ trưởng Quốc phòng Hoa Kỳ Robert Gates đã đề nghị với Tổng thống Hoa Kỳ gia tăng quân số của Lục quân và Thủy quân lục chiến để đáp ứng nhu cầu Chiến tranh chống khủng bố. Hiện tại các kế hoạch là gia tăng Lục quân lên đến 547.400 và Thủy quân lục chiến lên đến 202.000 vào năm 2012. Việc gia tăng quân số sẽ tiêu tốn tổng số tiền là 90,7 tỉ từ năm 2009 đến 2013 trong khi đó Hải quân và Không quân phải cắt giảm có giới hạn chế lực lượng của họ. Giống như đa số quân đội, các thành viên Quân đội Hoa Kỳ đều giữ một cấp bậc quân sự như sĩ quan, cấp chuẩn úy, hạ sĩ quan hay binh sĩ và có thể được thăng cấp. === Nhân sự theo quân chủng === Tính đến tháng 5 năm 2009 Thành viên nữ tính đến ngày 30 tháng 9 năm 2008 === Đóng quân === ==== Hải ngoại ==== Tính đến ngày 31 tháng 3 năm 2008, Quân đội Hoa Kỳ đồn trú tại hơn 820 căn cứ và cơ sở ở ít nhất 135 quốc gia. Một số nơi có quân số đông nhất là ở Iraq với 142.000 quân, Đức với 56.222 quân, Nhật Bản với 33.122 quân, Hàn Quốc với 28.500 quân, Afghanistan với 31.100 quân và tại Ý và Vương quốc Anh mỗi nơi có khoảng 9.700 quân. Các số liệu này thường thay đổi vì các đơn vị luôn được triển khai và rút đi thường xuyên. Tổng cộng có chừng 84.488 quân nhân đóng quân tại châu Âu, 154 tại các quốc gia cựu Liên Xô, 70.719 tại Đông Á và Thái Bình Dương, 7.850 tại Bắc Phi, Cận Đông, và Nam Á, 2.727 tại Hạ-Sahara châu Phi và 2.043 tại Tây Bán cầu trừ Hoa Kỳ. ==== Quốc nội ==== Bao gồm các vùng quốc hải Hoa Kỳ và các tàu nổi trong hải phận của Hoa Kỳ Tổng số 1.118.027 quân nhân đang phục vụ tại Hoa Kỳ và các vùng lãnh thổ của mình (bao gồm các tàu nổi). Phần lớn khoảng 883.430 quân nhân đóng quân tại nhiều căn cứ bên trong Hoa Kỳ Lục địa. Có thêm 36.827 tại Hawaii và 19.828 tại Alaska. Có khoảng 90.218 quân nhân trên các vùng biển trong khi đó có 2.970 quân nhận tại đảo Guam và 137 tại Puerto Rico. === Các cấp bậc nhân sự === Ghi chú tiếng Anh: Enlisted rank hay chính xác hơn enlisted rate: có nghĩa là bậc lương cho nhóm quân nhân có cấp bậc từ tân binh cho đến hạ sĩ quan cao cấp nhất. Trong thứ tự bậc lương bắt đầu từ bậc lương E-1 (tân binh) cho đến bậc lương cao nhất là E-9 (thượng sĩ cao cấp) Enlisted: để chỉ riêng nhóm binh sĩ. Bậc lương của nhóm này có thể từ E-1 đến E-3 hoặc E-4 Non-commissioned officers (sát nghĩa là các viên chức không ủy nhiệm): để chỉ nhóm hạ sĩ quan. Bậc lương của nhóm này có thể từ E-4 đến E-9 Warrant officers: có thể nói tương đương chuẩn úy trong tiếng Việt vì trên hạ sĩ quan và dưới sĩ quan. Tuy nhiên có sự khác biệt với cấp bậc trong tiếng Việt là nhóm chuẩn úy này có một số cấp bậc phụ nữa, thí dụ như chuẩn úy 1, chuẩn úy 2,... Commissioned officers (sát nghĩa là viên chức ủy nhiệm): để chỉ nhóm sĩ quan từ thiếu úy lên đến đại tướng (thống tướng và đại thống tướng là 2 trường hợp đặc biệt) ==== Binh sĩ ==== Những binh sĩ phục vụ tương lai thường được tuyển mộ từ các trường trung học và đại học, tuổi tuyển mộ được nhắm vào là từ 18 đến 28. Những người nộp đơn xin có thể ghi danh lúc 17 tuổi nhưng với sự chấp thuận của một trong hai phụ huynh là cha mẹ hay người giám hộ và sau đó sẽ tham dự vào chương trình nhập ngũ trì hoãn. Trong chương trình này, những người nộp đơn được cho cơ hội tham dự vào các hoạt động có liên quan đến quân sự được bảo trợ tại địa phương mà có thể gồm có từ các môn thể thao đến tranh tài được hướng dẫn bởi các nhân viên tuyển mộ nhập ngũ hay những văn phòng liên lạc quân sự khác. Sau khi nhập ngũ, những tân binh này trải qua sự huấn luyện cơ bản (còn được biết với tên gọi "boot camp" trong Hải quân, Tuần duyên và Thủy quân lục chiến), theo sau đó là học ngành chuyên nghiệp quân sự chính của mình tại một trong nhiều cơ sở huấn luyện trên khắp thế giới. Mỗi quân chủng tiến hành huấn luyện tân binh khác nhau. Ban đầu, các tân binh không có trình độ giáo dục cao hay bậc đại học sẽ có bậc lương E-1, và thường sẽ được thăng bậc lên E-2 ngay sau khi hoàn thành xong huấn luyện cơ bản. Các quân chủng khác nhau có các chương trình khuyến khích khác nhau đối với các tân binh, thí dụ như cấp bậc ban đầu cao hơn nếu có học đại học và giới thiệu bạn bè đăng ký nhập ngũ. Tham dự vào chương trình nhập ngũ trì hoãn là một cách những người nhập ngũ có thể có được cấp bậc trước khi họ khởi sự đi huấn luyện cơ bản. Có một số tiêu chuẩn bậc lương được cho phép khác nhau trong mỗi nhóm bậc lương binh sĩ (từ E-1 đến E-3) và mỗi quân chủng cũng khác nhau. Những người đầu quân trong Lục quân có thể được bậc lương ban đầu E-4 nếu có một bằng cấp bốn năm tuy nhiên bậc lương ban đầu cao nhất thường là E-3. ==== Hạ sĩ quan ==== Rất ít ngoại lệ, để trở thành một hạ sĩ quan trong Quân đội Hoa Kỳ các quân nhân phải thực hiện từ từ qua các cấp bậc từ binh sĩ. Tuy nhiên, không giống như thăng cấp trong nhóm binh sĩ, thăng cấp trong nhóm hạ sĩ quan thường là nhờ vào năng lực cạnh tranh với đồng đội. Các cấp bậc hạ sĩ quan bắt đầu từ bậc lương E-4 hay E-5, tùy thuộc quân chủng và thường đạt đến bậc lương này trong khoảng thời gian từ 3 đến 6 năm tại ngũ. Các hạ sĩ quan cấp thấp đóng vai trò như những người quản lý cấp 1 đối với nhóm binh sĩ hay vai trò của tiểu đội trưởng, huấn luyện các binh sĩ về nhiệm vụ của họ và hướng dẫn họ thăng tiến. Trong khi được xem là thuộc nhóm hạ sĩ quan theo luật, các hạ sĩ quan cao cấp trong tiếng Anh gọi là senior non-commissioned officer (SNCOs) hay Chief Petty Officer trong Hải quân Hoa Kỳ và Tuần duyên Hoa Kỳ và staff non-commissioned officers trong Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ, thực hiện các nhiệm vụ thiên về lãnh đạo hơn là chuyên môn kỹ thuật. Thăng cấp lên đến hạ sĩ quan cao cấp có cấp bậc từ E-7 đến E-9 (E-6 đến E-9 trong Thủy quân lục chiến) là do phấn đấu cao của bản thân. Bậc lương từ E-8 và E-9 bị giới hạn theo luật liên bang là đến 2,5 phần trăm cho toàn quân đội và một phần trăm toàn lực lượng binh sĩ và hạ sĩ quan của một quân chủng. Các hạ sĩ quan cao cấp đóng vai trò lãnh đạo các đơn vị nhỏ và làm việc trong bộ tham mưu. Một số hạ sĩ quan cao cấp điều hành các chương trình có cấp bậc tổng hành dinh và một số ít được chọn nắm giữ các trách nhiệm ở cấp bậc cao nhất trong cơ cấu tổ chức quân đội. Đa số các tư lệnh đơn vị có một viên hạ sĩ quan cao cấp làm cố vấn. Tất cả các hạ sĩ quan cao cấp được trông mong là chỉ dẫn cho các hạ sĩ quan cấp thấp cũng như các binh sĩ trong bộ phận trách nhiệm của mình. Một tân binh thông thường phải mất 10 đến 16 năm quân ngũ để thăng chức đến cấp bậc hạ sĩ quan cao cấp. Mỗi quân chủng trong năm quân chủng đều có một hạ sĩ quan cao cấp làm cố vấn ở cấp bậc bộ quân chủng. Người này là thành viên có cấp bậc hạ sĩ quan cao nhất trong quân chủng của mình và phục vụ trong vai trò cố vấn trưởng cho bộ trưởng, tham mưu trưởng quân chủng đó và Quốc hội Hoa Kỳ về các vấn đề có liên quan đến nhóm binh sĩ và hạ sĩ quan của quân chủng. Những hạ sĩ quan cao cấp này mang trọng trách và tính cách tương đương như các sĩ quan cấp tướng và sĩ quan mang quân kỳ. Họ là những người có cấp bậc như sau: Sergeant Major of the Army: tạm dịch là "đại thượng sĩ Lục quân Hoa Kỳ" Sergeant Major of the Marine Corps: tạm dịch là "đại thượng sĩ Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ" Master Chief Petty Officer of the Navy: tạm dịch là "thủy sư thượng sĩ Hải quân Hoa Kỳ" Chief Master Sergeant of the Air Force: tạm dịch là "đại thượng sĩ Không quân Hoa Kỳ" Master Chief Petty Officer of the Coast Guard: tạm dịch là "thủy sư thượng sĩ Tuần duyên Hoa Kỳ" ==== Cấp bậc chuẩn úy ==== Ngoài ra, tất cả các quân chủng trừ Không quân Hoa Kỳ có cấp bậc chuẩn úy đang sử dụng. Trên cấp bậc chuẩn úy 1 (warrant officer one) các quân nhân này có thể được xem là cấp sĩ quan, nhưng thường phục vụ trong một vai trò chuyên nghiệp và kỹ thuật của đơn vị mình. Tuy nhiên gần đây hơn, các quân nhân này cũng có thể phục vụ trong những vai trò lãnh đạo truyền thống hơn như các sĩ quan thông thường khác. Có một ngoại lệ đáng ghi nhận, thí dụ như các phi công trực thăng của Lục quân Hoa Kỳ, những quân nhân này thông thường đã có mặt trong quân đội và từng phục vụ trong vai trò các hạ sĩ quan cao cấp trong ngành mà mình sau đó sẽ phục vụ với cấp bậc chuẩn úy với tư cách là chuyên viên kỹ thuật. Đa số các phi công Lục quân Hoa Kỳ đã từng phục vụ một thời gian trong cấp bậc hạ sĩ quan. Cũng có thể họ đã từng đăng vào tân binh, hoàn thành khóa huấn luyện căn bản, rồi đi thẳng vào trường ứng viên chuần úy tại Trại Rucker, Alabama để sau đó tiếp tục học lái phi cơ. Cấp bậc chuẩn úy trong Quân đội Hoa Kỳ có cùng tập tục và tác phong giống như cấp bậc sĩ quan. Họ có thể tham dự các câu lạc bộ sĩ quan, nhận vai trò chỉ huy, và được các quân nhân cấp chuẩn úy dưới bậc và toàn thể hạ sĩ quan binh sĩ chào khi gặp mặt. Không quân Hoa Kỳ không còn sử dụng cấp bậc chuẩn úy từ năm 1959 khi bậc lương E-8 và E-9 ra đời. Đa số các nhiệm vụ không bay do các quân nhân cấp chuẩn úy đảm nhiệm trong các quân chủng khác được Không quân Hoa Kỳ thay thế bằng các quân nhân hạ sĩ quan cao cấp. ==== Sĩ quan ==== Có năm cách thông thường để được ủy nhiệm thành một sĩ quan của một trong 5 quân chủng (mặc dù cũng có các con đường khác). Quân đoàn Huấn luyện Sĩ quan Trừ bị (Reserve Officers' Training Corps) Trường Ứng viên Sĩ quan (OCS): là các học viện dành cho quân nhân đang tại ngũ, hay, trong trường hợp của Vệ binh Quốc gia thì do các học viện được tiểu bang tài trợ. Các học viện quân chủng (Học viện Quân sự Hoa Kỳ ở West Point, New York; Học viện Hải quân Hoa Kỳ ở Annapolis, Maryland; Học viện Không quân Hoa Kỳ ở Colorado Springs, Colorado; Học viện Tuần duyên Hoa Kỳ ở New London, Connecticut; và Học viện Thương mại Biển Hoa Kỳ ở Kings Point, New York.) Được ủy nhiệm trực tiếp - những người trong giới dân sự có các kỹ năng mà quân đội cần cho việc hoạt động và hỗ trợ binh sĩ có thể được ủy nhiệm trực tiếp thành sĩ quan. Các sĩ quan này giữ các chức vụ lãnh đạo trong ngành sau đây: luật, y tế, nha khoa, dược khoa, quân y, tình báo, vận tải-tiếp liệu, công binh, công cộng sự vụ, tuyên úy, đại dương học, và những ngành khác. Ủy nhiệm tại mặt trận - dưới một số điều kiện nào đó, các hạ sĩ quan có kỹ năng hơn các đồng sự của họ có thể trở thành sĩ quan theo sự ủy nhiệm trực tiếp của một vị tư lệnh. Kiểu ủy nhiệm này hiếm khi xảy ra và chỉ dành riêng cho các cá nhân tài giỏi nhất và thông thường chỉ có vào thời chiến. Không có ủy nhiệm trực tiếp tại mặt trận kể từ Chiến tranh Việt Nam. Sĩ quan công vụ hạn chế - vì lẽ tự nhiên thiếu một số sĩ quan có kỹ thuật cao nên Hải quân Hoa Kỳ có mở một hệ thống thăng chức dành cho các quân nhân hạ sĩ quan cao cấp có tài vào các chức vụ sĩ quan. Họ đáp ứng nhu cầu tương tự nhưng đặc biệt so với các nhu cầu mà quân nhân cấp chuẩn úy đảm nhiệm. Trong khi các quân nhân cấp chuẩn úy vẫn là các chuyên viên kỹ thuật thì các sĩ quan công vụ hạn chế đảm trách vai trò tổng thể hơn, giống như các sĩ quan. Các quân nhân nhận ủy nhiệm từ Tổng thống Hoa Kỳ để trở thành sĩ quan (với sự ưng thuận của Thượng viện Hoa Kỳ). Để chấp nhận sự ủy nhiệm này, tất cả sĩ quan phải tuyên thệ nhận chức (từ commissioned officer có nghĩa là viên chức được ủy nhiệm tương đương nghĩa sĩ quan trong tiếng Việt). Trong đời binh nghiệp, các sĩ quan sẽ phải trải qua các khóa huấn luyện cao hơn tại một hoặc nhiều trường đại học tham mưu. Các sĩ quan cấp đại đội có bậc lương từ O-1 (thiếu úy) đến O-3 (đại úy) đảm nhận vai trò lãnh đạo các đơn vị nhỏ hoặc một bộ phận nào của một đơn vị, thông thường họ có một quân nhân hạ sĩ quan cao cấp có kinh nghiệm làm người hướng dẫn và trợ tá. Các sĩ quan cấp bậc chiến trường có bậc lương từ O-4 (thiếu tá) đến O-6 (đại tá) chỉ huy các cuộc hành quân phức tạp hơn và lớn hơn. Các sĩ quan có bậc lương từ O-1 (thiếu úy) đến O-3 (đại úy) được xem không chính thức là các sĩ quan cấp thấp; những sĩ quan có bậc lương từ O-4 (thiếu tá) đến O-6 (đại tá) đôi khi được công nhận là sĩ quan cao cấp. Các sĩ quan cấp tướng hay các sĩ quan mang quân kỳ phục vụ ở các cấp bậc chỉ huy cao nhất. === Cấp bậc 5-sao === Đây là các cấp bậc vinh dự và trách nhiệm cao nhất trong quân đội nhưng gần như không được cấp trong lúc phục vụ thời bình và chỉ được rất ít sĩ quan mang trong thời chiến: Thống tướng lục quân Thủy sư đô đốc Thống tướng không quân Không có cấp bậc tương đương cho Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ hay Tuần duyên Hoa Kỳ. Giống như cấp bậc 3 và 4-sao, Quốc hội Hoa Kỳ là nơi có quyền chấp thuận xác nhận một cấp bậc 5-sao. Cấp bậc đại thống tướng lục quân được xem là cao hơn thống tướng lục quân nhưng chưa có một vị sĩ quan nào giữ khi đang tại ngũ và có các sĩ quan khác giữ cấp bậc thống tướng. Có hai người được phong cấp bậc này là: John J. Pershing được phong cấp bậc này năm 1919 sau Chiến tranh thế giới thứ nhất và George Washington được phong cấp bậc này sau khi mất vào năm 1976 đúng lúc kỷ niệm 200 năm lập quốc Hoa Kỳ. Pershing, được phong đại thống tướng lục quân khi còn sống vào thời gian có các sĩ quan được phong cấp thống tướng lục quân trong thời Chiến tranh thế giới thứ hai. George Washington được phong đại thống tướng theo công luật 94-479 và theo văn bản thì "cấp bậc này cao hơn bất cứ cấp bậc nào khác của lục quân trong quá khứ cũng như hiện tại". Như vậy theo văn bản thì cấp bậc của Washington chẳng những cao hơn Pershing mà còn vĩnh viễn cao hơn bất cứ cấp bậc nào của Lục quân Hoa Kỳ. Đối với Hải quân Hoa Kỳ, cấp bậc tương đương đại thống tướng lục quân theo lý thuyết là Admiral of the Navy hay đại thủy sư đô đốc. Cấp bậc này chưa từng có vị sĩ quan hải quân tại ngũ nào giữ trong lúc có các sĩ quan mang quân hàm fleet admiral hay thủy sư đô đốc. George Dewey là người duy nhất từng giữ cấp bậc này. Sau khi cấp bậc thủy sư đô đốc được thiết lập vào năm 1944, Bộ Hải quân Hoa Kỳ nói rõ rằng cấp bậc cấp bậc thủy sư đô đốc đứng sau cấp bậc đại thủy sư đô đốc. Tuy nhiên từ khi Dewey qua đời nằm 1917 trước khi cấp bậc thủy sư đô đốc được lập ra, tình trạng của cấp bậc 6-sao vẫn hoàn toàn chưa được xác nhận. == Chú thích == == Xem thêm == Lính Mỹ Quân đội NATO Tội ác của quân đội Hoa Kỳ Chính sách Không hỏi, không nói Đế quốc Mỹ == Liên kết ngoài == Official U.S. DOD site United States Order of Battle Kamouflage.net > U.S. Military camouflage patterns Global Security on U.S. Military Operations Military News === Các quân chủng === Lục quân Hoa Kỳ Thủy quân lục chiến Hải quân Hoa Kỳ Không quân Hoa Kỳ Tuần duyên Hoa Kỳ
phạm lưu tuấn tài.txt
Phạm Lưu Tuấn Tài (sinh ngày 13 tháng 6 năm 1988) hay còn được biết với nghệ danh là Isaac, là một ca sĩ nhạc trẻ và diễn viên người Việt Nam. Anh thành danh trong sự nghiệp ca hát với tư cách trưởng nhóm nhạc 365 từ năm 2010 đến năm 2016. == Tiểu sử và sự nghiệp == Phạm Lưu Tuấn Tài sinh ngày 13 tháng 6 năm 1988, anh sinh ra và lớn lên tại Cần Thơ. Thời đi học, Tuấn Tài từng là một lớp phó văn thể mỹ, học giỏi nhất môn tiếng Anh và kém về môn văn. Chính vì vậy mà anh không được học sinh giỏi trong ba năm Trung học phổ thông. Phạm Lưu Tuấn Tài đã từng tốt nghiệp đại học, chuyên ngành bác sĩ thú y của Đại học Cần Thơ. Năm 2007, Phạm Lưu Tuấn Tài đi dự thi Vietnam Idol mùa 1, nhưng không vượt qua top 60, sau đó vào Thành phố Hồ Chí Minh lập nghiệp. Năm 2010, khi Ngô Thanh Vân thành lập nhóm 365, cô đã cử Phạm Lưu Tuấn Tài làm trưởng nhóm, từ đó anh lấy nghệ danh Isaac. Anh cùng với nhóm 365 ra mắt trước công chúng trong ca khúc “Awakening” vào ngày 16 tháng 12 năm 2010. Tháng 7 năm 2013, Isaac tham dự cuộc thi IMTA tại New York, một cuộc thì tìm kiếm tài năng âm nhạc và người mẫu trên khắp thế giới và đạt được giải nhì. Tháng 7 năm 2015, anh tung MV đầu tay, Mr.Right (Khi anh yêu em). Isaac cũng làm diễn viên trong phim Tấm Cám: Chuyện chưa kể. Năm 2016, Isaac tham gia vào ban giám khảo chương tình Vietnam Idol Kids – Thần tượng âm nhạc nhí. Cuối tháng 7 năm 2016, khi nhóm 365 tan rã, Isaac trở thành ca sĩ hoạt động tự do. Cuối năm 2016, Isaac cho ra MV đầu tiên khi hoạt động solo – Get Down. Tháng 4/2017, anh chính thức ra mắt MV Anh sẽ về sớm thôi == Đời tư == Isaac có lần đã chia sẻ đã từng có người yêu, nhưng mối tình này chỉ kéo dài 2 tuần vì sau đó Isaac phải vào thành phố Hồ Chí Minh lập nghiệp. == Bài hát == Tắt đèn (với Only C) - 2015 Yêu Không Nghỉ Phép (Perché Tiamo) (với Only C) - 2015 Lỗi Định Mệnh - 2015 Mr.Right - 2015 Chuyện Buồn Tháng Ba - 2016 Get Down - 2016 Anh Sẽ Về Sớm Thôi - 2017 == Các phim đã đóng == == Giải thưởng == == Tham khảo == == Liên kết ngoài == Isaac trên Facebook Isaac Official trên YouTube Isaac trên Google+
buôn.txt
Buôn (bôn), hay plây (plei, pơlây, pơlơi, palây) hay kon (kung), là đơn vị cư trú, đồng thời là đơn vị xã hội cơ sở thấp nhất tồn tại ở các tộc người thuộc nhóm ngôn ngữ Môn-Khmer (như người Mạ, Chil, Cơ Ho ở Lâm Đồng) và các dân tộc thuộc ngữ tộc Malay-Polynesia (như Ê Đê, Gia Rai, Chăm), tập trung chủ yếu ở Tây Nguyên và dọc Trường Sơn. Buôn phần nào có thể coi tương đương như làng của người Việt (Kinh), bản của các dân tộc Tày, Thái. Mỗi làng gồm một số lớn (hay nhỏ) các hộ gia đình (từ vài chục đến vài trăm) thuộc các nhóm huyết thống khác nhau. Quy mô mỗi làng phụ thuộc vào điều kiện đất đai, môi trường, điều kiện phát triển kinh tế, xã hội từng vùng. Các nhà trong làng thường được bố trí xung quanh ngôi nhà công cộng (nhà rông của người Ba Na, nhà gơl của người Cơ Tu), nơi sinh hoạt cộng đồng của cả làng. Mỗi làng quản lý một vùng đất rừng và đất rẫy để luân canh canh tác. Từng làng có bộ máy tự quản, gồm người trưởng làng (tơm plây, khoa buôn) và những người giúp việc, trong đó những người già làng có tiếng nói quan trọng vì có nhiều kinh nghiệm trong sản xuất, hiểu biết về phong tục và lễ nghi cổ truyền. Bộ máy tự quản dựa vào tập quán luật tục để điều hành và quản lý mọi sinh hoạt cộng đồng. Tính cộng đồng là đặc trưng cơ bản của làng các dân tộc này. Ngày nay, nhiều làng hợp thành một xã, tổ chức hành chính cấp cơ sở ở nông thôn Việt Nam. == Tham khảo == == Xem thêm == Thôn Sóc Phum Làng Bản Các dân tộc Việt Nam == Liên kết ngoài == Plây tại Từ điển bách khoa Việt Nam Làng buôn tại Từ điển bách khoa Việt Nam
malus domestica.txt
Bài này nói về loài thực vật theo tên khoa học. Về loại quả, xem Táo tây Malus domestica là một loài cây rụng lá trong họ Hoa hồng được biết đến vì quả ngọt của nó (quả táo tây). Nó được trồng trên toàn thế giới như một cây ăn quả, và là những loài được trồng rộng rãi nhất trong chi Hải đường (Malus). Cây táo có nguồn gốc ở Trung Á, nơi tổ tiên của nó - loài táo dại Tân Cương - vẫn còn tồn tại cho đến ngày hôm nay. == Đặc điểm == Cây táo tây cao khoảng 3–12 m, tán rộng và rậm. Đến thu cây rụng lá. Lá táo hình bầu dục, rộng 3–6 cm, dài 5–12 cm; đầu lá thắt nhọn với cuống lá (petiole) khoảng 2–5 cm. Rìa lá dạng răng cưa. Hoa táo nở vào mùa xuân cùng lúc khi mầm lá nhú. Hoa sắc trắng, có khi pha chút màu hồng rồi phai dần. Hoa có năm cánh, đường kính 2,5-3,5 cm. Trái chín vào mùa thu và thường có đường kính cỡ 5–9 cm. Ruột táo bổ ra có năm "múi" (carpel) chia thành ngôi sao năm cánh. Mỗi múi có 1-3 hột. === Tổ tiên === Cây táo tây (Malus domestica) có nguồn gốc là loài táo dại Tân Cương (Malus sieversii) ở Trung Á, hiện vẫn còn mọc ở vùng núi Trung Á, phía nam của Kazakhstan, Kyrgyzstan, Tajikistan, và Tân Cương, Trung Quốc.. Việc gieo trồng táo, nhiều khả năng bắt đầu từ hai cánh rừng của dãy núi Thiên Sơn, tiến triển trong một thời gian dài, cho phép dung hợp các gen từ loài khác vào những hạt giống thụ phấn. Nhờ trao đổi gien đáng kể với loài Malus sylvestris, đã tạo ra các quần thể hiện tại của loài táo thường là liên quan nhiều hơn đến crabapples hơn là với nguyên bản táo dại Malus sieversii. Có hơn 7500 giống táo trồng với nhiều đặc tính mong muốn. Các giống táo trồng có năng xuất và kích thước cây khác nhau, kể cả khi mọc từ cùng loại gốc ghép. === Bản đồ gien === Trong năm 2010, một tập đoàn của Ý thông báo họ đã giải mã hoàn chỉnh bộ gien của quả táo khi hợp tác với các nhà sinh học chuyên về gien làm vườn tại Đại học bang Washington, sử dụng giống táo Golden delicious. Có khoảng 57.000 gien, số lượng cao nhất của bất cứ bộ gien thực vật được nghiên cứu cho đến nay, thậm chí nhiều hơn số bộ gien của con người (khoảng 30.000). Sự hiểu biết mới này về bộ gien của loài táo sẽ giúp các nhà khoa học trong việc xác định các gien và các biến thể gien chống bệnh tật và hạn hán, và các đặc tính mong muốn khác. Hiểu biết về các gien đằng sau những đặc điểm này sẽ cho phép các nhà khoa học thực hiện nhân giống chọn lọc tốt hơn. Giải mã bộ gien cũng cung cấp bằng chứng rằng Malus sieversii là tổ tiên hoang dã của táo tây - một vấn đề gây tranh cãi từ lâu trong cộng đồng khoa học. == Hình ảnh == == Tham khảo == == Liên kết ngoài == Táo tây Malus domestica tại Từ điển bách khoa Việt Nam Malus domestica tại Encyclopedia of Life Malus domestica tại trang Trung tâm Thông tin Công nghệ sinh học quốc gia Hoa Kỳ (NCBI). Malus domestica 516655 tại Hệ thống Thông tin Phân loại Tích hợp (ITIS). Malus pumila Mill. (tên chấp nhận)
2 tháng 5.txt
Ngày 2 tháng 5 là ngày thứ 122 (123 trong năm nhuận) trong lịch Gregory. Còn 243 ngày trong năm. == Sự kiện == 264 – Tư Mã Chiêu buộc Ngụy Nguyên Đế phong mình làm Tấn vương, tăng đất phong từ 10 quận lên 20 quận, họ Tư Mã tiến gần hơn tới việc giành ngôi nhà Ngụy. 1559 – John Knox trở về Scotland sau một thời gian lưu vong nhằm lãnh đạo cải cách tôn giáo tại Scotland. 1813 – Chiến tranh Napoléon: Xảy ra giao tranh giữa quân Pháp-Warszawa và quân Nga-Phổ tại tây nam Leipzig. 1829 – Sau khi neo tàu gần đó, Thuyền trưởng Charles Fremantle tuyên bố thành lập Thuộc địa sông Swan thuộc Anh, tiền thân của Tây Úc. 1945- Chiến tranh thế giới thứ hai, Berlin bắt đầu sụp đổ, Bộ chỉ huy quân Đức trong thành phố Beclin đầu hàng, hạ vũ khí, trận công phá Berlin kết thúc bằng chiến thắng của Hồng quân Liên Xô. 1997 - Đảng Lao động của Tony Blair chiếm đa số tại Nghị viện Anh, Tony Blair trở thành Thủ tướng, chấm dứt 18 năm cầm quyền của Đảng Bảo thủ. Ông cũng trở thành Thủ tướng trẻ nhất trong lịch sử 185 năm, khi vừa tròn 44 tuổi. 1964 – Chiến tranh Việt Nam: Tàu USS Card bị chiến binh Giải phóng đánh bom khi đang neo đậu tại Sài Gòn, và sau đó bị đắm. 2008 – Bão Nargis đổ bộ vào Myanmar làm hơn 130.000 người thiệt mạng, gây tổn thất 10 tỉ đô la Mỹ. 2011 – Osama bin Laden bị lực lượng biệt kích của Hoa Kỳ bắn chết trong nơi ẩn náu tại Abbottabad, Pakistan. 2014 – Hai trận lở đất tại tỉnh Badakhshan, Afghanistan khiến nhiều người thiệt mạng và mất tích. General Motors giành quyền kiểm soát Chevrolet Motor công ty của Delaware. == Sinh == 1729 - Nữ hoàng Ekaterina II của Nga (m. 1796) 1917 - Văn Tiến Dũng, Đại tướng Quân đội Nhân dân Việt Nam, Tư lệnh Chiến dịch Hồ Chí Minh 1975, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Việt Nam (m. 17 tháng 3 năm 2002) 1975 - David Beckham, ngôi sao bóng đá Anh. 1983 - Sam Winchester, Nhân vật hư cấu, một trong 2 nhân vật chính của Seri phim truyền hình dài tập Siêu Nhiên (Supernatural) 1993 - Hoàng Tử Thao cựu thành viên nhóm nhạc EXO người Trung Quốc 1997 - Bambam Kunpimook Bhuwakul người Thái Lan, thành viên nhóm nhạc Hàn Quốc GOT7 1995 - Yook SungJae thành viên nhóm nhạc Hàn Quốc BTOB == Mất == 1908 - Trần Đông Phong, du học sinh người Việt ở Nhật, hổ thẹn tự vẫn vì nghĩ gia đình không giúp đỡ anh em học sinh trong Phong trào Đông Du (s. 1887) 1945 - Hitler 1945 - Eugène Vaulot, quân nhân người Pháp của Đức Quốc xã (s. 1923) 1982 - Nguyên Hồng, nhà văn Việt Nam 2011 - Osama bin Laden. == Những ngày lễ và kỷ niệm == Hồi giáo: Ngày sinh của nhà tiên tri Muhammad. == Tham khảo ==
kon tum.txt
Kon Tum là một tỉnh thuộc vùng cực bắc Tây Nguyên của Việt Nam, có vị trí địa lý nằm ở ngã ba Đông Dương, phần lớn nằm ở phía Tây dãy Trường Sơn. == Vị trí địa lý == Địa giới tỉnh Kon Tum nằm trong vùng từ 107020'15" đến 108032'30" kinh độ Đông và từ 13055'12" đến 15027'15" vĩ độ Bắc. Phía Bắc Kon Tum giáp địa phận tỉnh Quảng Nam với chiều dài ranh giới 142 km, phía Nam giáp với tỉnh Gia Lai chiều dài ranh giới 203 km, phía Đông giáp với tỉnh Quảng Ngãi với chiều dài ranh giới dài 74 km, phía Tây giáp với nước CHDCND Lào (142,4 km) và Vương quốc Campuchia (138,3 km). == Lịch sử == === Vùng đất sơ khai của các bộ tộc tự trị === Về nguồn gốc tên gọi "Kon Tum", theo ngôn ngữ Ba Na thì Kon là làng, Tum là hồ, chỉ tên gọi một ngôi làng gần một hồ nước cạnh dòng sông Đăk Bla mà hiện nay là làng Kon Kơ Nâm ở thành phố Kon Tum. Vùng đất Kon Tum ngày xưa là vùng đất hoang vắng, đất rộng, người thưa với sự sinh sống của các dân tộc bản địa gồm Xơ Đăng, Bana, Gia Rai,Giẻ Triêng, Brâu, Rơ Măm. Mỗi dân tộc gắn với một vùng cư trú khác nhau. Thiết chế xã hội cổ truyền của người dân bản địa nơi đây là tổ chức làng (kon), mang tính biệt lập, do một già làng là người có uy tín nhất trong làng, đứng đầu. Đất rộng người thưa, cách biệt với bên ngoài bởi rừng rậm và núi non hiểm trở, các làng bản địa là những xã hội thu nhỏ, chưa có một chính quyền liên minh trong khi chính quyền các quốc gia hùng mạnh xung quanh như Đại Việt, Chân Lạp, Chiêm Thành, Vạn Tượng chưa vươn tầm kiểm soát đến đây. Tuy nhiên, do vị trí vùng đệm giữa Chiêm Thành và Chân Lạp, các bộ tộc tại Kon Tum thường trở thành mục tiêu các cuộc cướp bóc và buôn bán nô lệ. Mãi đến thế kỷ 12, sau khi đánh bại được Chân Lạp, Chiêm Thành mới toàn quyền ảnh hưởng trên toàn vùng Tây Nguyên, đặc quyền đô hộ lên vùng này. Năm 1471, sau khi vua Lê Thánh Tông chinh phạt Chiêm Thành, đẩy lùi chính quyền Chiêm Thành về phía Nam (tương ứng vùng từ Khánh Hòa đến Bình Thuận ngày nay), đã cử các sứ thần thu phục các bộ tộc ở Tây Nguyên và sáp nhập vùng đất này vào lãnh thổ của Đại Việt. Mặc dù vậy, do chủ yếu tập trung thiết lập chính quyền trên các vùng đất mới ở duyên hải, triều đình Đại Việt chưa thực sự thiết lập quyền kiểm soát. Các cư dân bản địa vẫn được tự trị và hòa hợp hơn với người Kinh, vốn chịu ảnh hưởng văn hóa lên án việc cướp bóc và bắt nô lệ. Các quan viên được bổ chức trấn nhậm, chủ yếu chỉ mang tính hình thức khẳng định chủ quyền. Năm 1540, triều đình Lê Trung hưng từ bổ Bùi Tá Hán làm tuần tiết xứ Nam - Ngãi được kiêm quản luôn cả các dân tộc miền núi (Trung Sơn - Tây Nguyên). Mãi đến phong trào khởi nghĩa Tây Sơn (1771-1786), ba anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ và Nguyễn Lữ cử nhiều sứ giả đến tăng cường quan hệ hợp tác đồng minh với các bộ tộc vùng này nhằm tạo một hậu cứ vững chắc làm bàn đạp tiến xuống duyên hải, đồng thời mộ quân và tài lực phục vụ cho chiến tranh. === Bước chân các nhà truyền giáo và quá trình thực dân === Thời Thiệu Trị, năm 1840, triều đình Huế cho lập Bok Seam, một người Bana làm quan cai trị các bộ tộc Tây Nguyên, đồng thời cho phép người Kinh và bộ tộc được phép tự do quan hệ mua bán, trao đổi. Trong thời gian này, các giáo sĩ Thiên chúa giáo cũng tìm cách mở đường lên cao nguyên để truyền đạo, trong đó có cả Kon Tum. Lịch sử Giáo hội Công giáo tại Việt Nam ghi nhận, sau chuyến mở đường năm 1848, 2 linh mục Pháp và 7 thầy giảng người Việt đã đến Kon Tum và đặt cơ sở tôn giáo tại đây vào năm 1850. Hai trong 4 trung tâm truyền giáo đầu tiên được đặt ở vùng Kon Tum ngày nay: Kon Kơ Xâm (do linh mục Combes phụ trách, truyền giáo bộ tộc Bahnar-Jơlơng) và Kon Trang (do linh mục Dourisboure phụ trách, truyền giáo bộ tộc Xơ Đăng). Sau khi nắm được toàn quyền thực dân ở Đại Nam, người Pháp bắt đầu mở rộng quyền kiểm soát và tiến lên khai thác vùng Tây Nguyên. Năm 1888, một nhà phiêu lưu người Pháp là Mayréna xin phép chính quyền Pháp đi thám hiểm khu vực Tây Nguyên để thỏa thuận với các dân tộc thiểu số ở đây và được Toàn quyền Đông Dương lúc đó là Ernest Constans chấp thuận. Bằng các tiểu xảo, Mayréna đã thu phục được một số bộ tộc thiểu số (cụ thể là hai dân tộc Ba Na và Xơ Đăng) và thành lập ra Vương quốc Sedang với Mayréna làm vua, lấy hiệu là Vua Marie đệ nhất, vua Sedang. Thủ đô của Vương quốc Sedang tại làng Long Răng, hiện nay là làng Kon Gu, xã Ngok Wang, huyện Đắk Hà tỉnh Kon Tum, lấy tên là Pelei Agna hay thành phố vĩ đại, một số nguồn nói rằng tên thủ đô của vương quốc Sedang là Maria Pelei. Sau đó, Mayréna quay về Quy Nhơn và thuyết phục chính quyền thực dân Pháp mua lại vương quốc Sedang. Sau khi Pháp từ chối đề nghị này, Mayréna sang Hồng Kông với ý định bán lại vương quốc Sedang cho người Anh. Nhân dịp này, công sứ Quy Nhơn Guiomar đã tìm cách ngăn chặn Mayréna trở về, đồng thời đặt quyền kiểm soát Tây Nguyên, dưới quyền công sứ Quy Nhơn. Năm 1892, chính quyền thực dân Pháp cho đặt tòa đại lý hành chính Kon Tum, do một giáo sĩ người Pháp là Vialleton (tên Việt: Truyền) phụ trách, trực thuộc tòa công sứ Bình Định. === Thời Pháp thuộc === Ngày 4 tháng 7 năm 1904, chính quyền thực dân Pháp thành lập tỉnh Plei Ku Der, do một công sứ Pháp là Leon Plantié nắm quyền cai trị, gồm hai tòa đại lý hành chính mơi thành lập là Kon Tum (trước đây thuộc Bình Định) và Cheo Reo (trước đây thuộc Phú Yên). Ngày 25 tháng 4 năm 1907, chính quyền thực dân Pháp lại bãi bỏ tỉnh Plei Ku Der. Toàn bộ đất đai của tỉnh Plei Ku Der gồm hai tòa đại lý hành chính Kon Tum và Cheo Reo được sáp nhập trở lại hai tỉnh Bình Định và Phú Yên như trước đó. Ở tòa đại lý Kon Tum, viên đại lý đầu tiên là Guenot. Ngày 9 tháng 2 năm 1913, chính quyền thực dân Pháp chính thức thành lập tỉnh Kon Tum, bao gồm đại lý hành chính Kon Tum tách ra từ Bình Định, đại lý hành chính Cheo Reo tách ra từ Phú Yên, và đại lý hành chính Buôn Ma Thuột. Năm 1917, Pháp thành lập tòa đại lý hành chính An Khê, gồm huyện Tân An và khu vực người dân tộc thiểu số đặt dưới quyền cai trị của công sứ Kon Tum. Ngày 2 tháng 7 năm 1923, thành lập tỉnh Đắk Lắk trên cơ sở tách đại lý Buôn Ma Thuột khỏi tỉnh Kon Tum. Ngày 3 tháng 12 năm 1929, thị xã Kon Tum được thành lập, trên thực tế chỉ là thị trấn, gồm tổng Tân Hương và một số làng dân tộc thiểu số phụ cận. Ngày 25 tháng 5 năm 1932, tách đại lý Pleiku ra khỏi tỉnh Kon Tum để thành lập tỉnh Pleiku. Đến ngày 9 tháng 8 năm 1943, đại lý hành chính An Khê được tách khỏi tỉnh Kon Tum, sáp nhập vào tỉnh Pleiku. Lúc này tỉnh Kon Tum chỉ còn lại tổng Tân Hương và toàn bộ đất đai vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Ngày 3 tháng 2 năm 1929, theo nghị định của Khâm sứ Trung Kỳ, tổng Tân Hương được lập thành thị trấn Kon Tum, từ đó thị trấn Kon Tum trở thành tỉnh lị của tỉnh Kon Tum. === Trong chiến tranh giành độc lập === Sau Cách mạng tháng 8, chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã tổ chức lại tỉnh Kon Tum thành 4 đơn vị hành chính gồm các huyện Đăk Glei, Đăk Tô, Konplong và thị xã Kon Tum. Ngày 26 tháng 6 năm 1946, người Pháp tái chiếm lại Kon Tum và sau đó trao lại quyền kiểm soát về danh nghĩa cho Quốc gia Việt Nam (thành lập năm 1949) để thành lập Hoàng triều cương thổ. Trên thực tế, bộ máy cai trị tại đây vẫn trên cơ sở hành chính cũ của người Pháp. Về phía chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, tỉnh Kon Tum chịu sự quản lý chỉ đạo về hành chính của Xứ ủy Trung Kỳ và Phân ban vận động quốc dân thiểu số Nam Trung Bộ. Tháng 1 năm 1947, Phân khu 15 thành lập, trong đó nòng cốt là tỉnh Kon Tum và các huyện miền Tây của hai tỉnh Quảng Nam và Quảng Ngãi. Trên thực tế, tổ chức hành chính của tỉnh Kon Tum vẫn giữ nguyên, nhưng chịu sự quản lý và chi phối của Phân khu 15 về hoạt động quân sự. Tháng 8 năm 1947, Khu 15 Tây Nguyên được thành lập, tỉnh Kon Tum là một trong những đơn vị hành chính trực thuộc Khu 15. Tháng 3 năm 1950, theo chủ trương của Liên Khu ủy V, tỉnh Kon Tum và Gia Lai được sáp nhập thành tỉnh Gia - Kon. Tháng 10 năm 1951, theo quyết định của Liên Khu ủy V, tỉnh Kon Tum và các huyện phía tây Quảng Ngãi hợp nhất thành Mặt trận miền Tây. Tháng 2 năm 1954, Kon Tum là tỉnh đầu tiên và duy nhất ở Tây Nguyên hoàn toàn đặt dưới quyền kiểm soát của Việt Minh. Một thời gian sau, Mặt trận miền Tây cũng được giải thể. === Hệ thống 2 chính quyền trong Chiến tranh Việt Nam === Sau khi Hiệp định Giơnevơ được ký kết, phía Quốc gia Việt Nam tiếp quản Kon Tum. Năm 1958 dưới thời Việt Nam Cộng hòa, bộ máy hành chính tỉnh Kon Tum được chia thành tòa hành chính Kon Tum - bộ máy hành chính cấp tỉnh, bên dưới gồm các quận Kon Tum, Đăk Tô, Konplong và Đăk Sút. Năm 1958, Việt Nam Cộng hòa thành lập quận Toumơrông. Năm 1959, tiếp tục lập thêm quận Chương Nghĩa. Năm 1960, quận Konplong bị xóa bỏ. Năm 1961, tỉnh Kon Tum còn lại 4 đơn vị hành chính cấp quận là Kon Tum, Đăk Tô, Đăk Sút, Toumơrông. Năm 1972, Việt Nam Cộng hòa đổi tên chi khu Đăk Pét thành quận Đăk Sút để mở rộng chức năng về hành chính. Sau chiến dịch xuân - hè năm 1972, quân Giải phóng miền Nam Việt Nam giải phóng Đăk Tô - Tân Cảnh và đại bộ phận các vùng nông thôn, vùng kiểm soát của Việt Nam Cộng hòa bị thu hẹp đáng kể. Quận lỵ Đăk Tô phải chuyển về đèo Sao Mai; các chi khu Đăk Pét, Măng Đen, Măng Buk bị cô lập giữa vùng kiểm soát của quân Giải phóng. Lực lượng Việt Nam Cộng hòa chỉ còn tập trung phần lớn tại khu vực thành phố Kon Tum. Năm 1974, quân Giải phóng tấn công tiêu diệt hoàn toàn các chi khu Đăk Pét, Măng Đen, Măng Buk. Tận dụng thời cơ thắng lớn ở Buôn Ma Thuột, ngày 16 tháng 3 năm 1975, quân giải phóng và dân chúng trong tỉnh đã nổi dậy tấn công vào đầu não của Việt Nam Cộng hòa ở nội thị, chiếm được thị xã và toàn tỉnh Kon Tum. === Sau khi Việt Nam thống nhất === Tháng 10 năm 1975, tỉnh Kon Tum sáp nhập với tỉnh Gia Lai thành tỉnh Gia Lai - Kon Tum, trên địa bàn tỉnh có thị xã Kon Tum và 3 huyện: Đắk Glei, Đăk Tô, Kon Plông. Ngày 10 tháng 10 năm 1978, thành lập huyện Sa Thầy. Ngày 21 tháng 8 năm 1991, tỉnh Kon Tum được tái lập trên cơ sở chia tách tỉnh Gia Lai - Kon Tum thành hai tỉnh mới là Gia Lai và Kon Tum. Đồng thời, thành lập một số huyện mới như thành lập Ngọc Hồi vào năm 1992, Đăk Hà thành lập vào năm 1994, huyện Kon Rẫy thành lập vào năm 2002, và huyện Tu Mơ Rông thành lập vào năm 2005. Ngày 14 tháng 9 năm 2009, thị xã Kon Tum được nâng cấp lên thành thành phố Kon Tum. Ngày 11 tháng 3 năm 2015, theo Nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội thành lập huyện Ia H'Drai trên cơ sở tách ra từ huyện Sa Thầy. Tính đến năm 2015, tỉnh Kon Tum có 1 thành phố và 9 huyện. == Điều kiện tự nhiên == Địa hình Kon Tum chủ yếu là đồi núi, chiếm khoảng 2/5 diện tích toàn tỉnh, bao gồm những đồi núi liền dải có độ dốc 150 trở lên. Địa hình núi cao liền dải phân bố chủ yếu ở phía bắc - tây bắc chạy sang phía đông tỉnh Kon Tum, đa dạng với gò đồi, núi, cao nguyên và vùng trũng xen kẽ nhau khá phức tạp, tạo ra những cảnh quan phong phú, đa dạng vừa mang tính đặc thù của tiểu vùng, vừa mang tính đan xen và hoà nhập, Kon Tum có độ cao trung bình từ 500 mét đến 700 mét, riêng phía Bắc có độ cao từ 800 mét - 1.200 mét, đặc biệt có đỉnh Ngọc Linh cao nhất với độ cao 2.596 mét. Khí hậu Kon Tum có nét chung của khí hậu vùng nhiệt đới gió mùa của phía Nam Việt Nam, lại mang tính chất của khí hậu cao nguyên. Khí hậu Kon Tum chia thành 2 mùa rõ rệt là mùa mưa và mùa khô. Trong đó, mùa mưa thường bắt đầu từ tháng 4 đến tháng 11, mùa khô từ tháng 12 đến tháng 3 năm sau. Lượng mưa trung bình hàng năm vào khoảng 2.121 mm, lượng mưa năm cao nhất 2.260 mm, năm thấp nhất 1.234 mm, tháng có lượng mưa cao nhất là tháng 8. Mùa khô, gió chủ yếu theo hướng đông bắc, nhưng vào mùa mưa, gió chủ yếu theo hướng tây nam. Nhiệt độ trung bình trong năm dao động trong khoảng 22 - 230C, biên độ nhiệt độ dao động trong ngày 8 - 90C. Kon Tum nằm trên khối nâng Kon Tum, vì vậy rất đa dạng về cấu trúc địa chất và khoáng sản. Trên địa bàn có 21 phân vị địa tầng và 19 phức hệ mắc ma đã được các nhà địa chất nghiên cứu xác lập, hàng loạt các loại hình khoáng sản như sắt, crôm, vàng, nguyên liệu chịu lửa, đá quý, bán quý, kim loại phóng xạ, đất hiếm, nguyên liệu phục vụ sản xuất vật liệu xây dựng,... đã được phát hiện. Rừng Kon Tum phần lớn là rừng nguyên sinh có nhiều gỗ quý như cẩm lai, dáng hương, pơ mu, thông… tỉnh Kon Tum có khoảng hơn 300 loài thực vật, thuộc hơn 180 chi và 75 họ thực vật có hoa. Động vật nơi đây cũng rất phong phú, đa dạng, trong có nhiều loài hiếm, bao gồm chim có 165 loài, 40 họ, 13 bộ, đủ hầu hết các loài chim. Thú có 88 loài, 26 họ, 10 bộ, chiếm 88% loài thú ở Tây Nguyên. Bên cạnh các loài thú, Kon Tum còn có nhiều loại chim quý cần được bảo vệ như công, trĩ sao, gà lôi lông tía và gà lôi vằn. == Hành chính == Tỉnh Kon Tum hiện có 1 thành phố và 9 Huyện, Trong đó có với 97 đơn vị hành chính cấp xã, gồm có 6 thị trấn, 10 phường và 86 xã: == Kinh tế == Kon Tum có điều kiện hình thành các cửa khẩu, mở rộng hợp tác quốc tế về phía Tây. Kon Tum có đường Quốc lộ 14 nối với các tỉnh Tây Nguyên và Quảng Nam, đường 40 đi Atôpư (Lào). Giai đoạn từ năm 2001 đến năm 2010, cơ cấu kinh tế chuyển đổi cơ bản tiến bộ, công nghiệp xây dựng đạt 32%, nông, lâm nghiệp 25%, dịch vụ 43%, GDP bình quân đầu người đạt 507 USD, nhu cầu vốn đầu tư cả thời kỳ 476,6 triệu USD. Tình hình xuất nhập khẩu đến năm 2010 đạt 70 triệu USD. Đồng thời năm 2010 có 50.000 lượt khách du lịch, trong đó có 10.000 khách nước ngoài.. Năm 2012, năm thứ hai triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Kon Tum lần thứ XIV. Tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt 13,77% so với cả nước. Trong đó, các ngành nông - lâm - thủy sản tăng 7,3%, ngành công nghiệp - xây dựng tăng 17,49%, ngành dịch vụ tăng 18,34% và chỉ số giá tiêu dùng tăng 9,88%. Thu ngân sách trên địa bàn đạt 1.632,2 tỷ đồng, vượt 0,5% so với kế hoạch. Tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt 38,2%, đồng thời giải quyết việc làm cho khoảng 6.200 lao động, góp phần giảm tỷ lệ thất nghiệp xuống dưới 5%. Thu nhập bình quân đầu người đạt 22,12 triệu đồng, và tỷ lệ hộ nghèo giảm còn 22,77%. Ước tính đến cuối năm 2012, toàn tỉnh có 13.794 hợp tác xã, tăng 504 so với năm 2011. Danh thu bình quân của Hợp tác xã năm 2012 ước đạt 1,74 tỷ đồng/HTX/Năm, Lợi nhuận bình quân của hợp tác xã đạt 370,87 triệu đồng/HTX/Năm. Thu nhập bình quân của các xã viên hợp tác xã ước đạt 18,26 triệu đồng/xã viên/năm. Thu nhập của lao động thường xuyên trong các hợp tác xã, Liên hiệp hợp tác xã ước đạt 17,83 triệu đồng/lao động/năm. Tỉnh Kon Tum đã thực hiện đẩy mạnh phát triển các ngành kinh tế mũi nhọn và sản phẩm chủ lực của tỉnh như Sâm Ngọc Linh, rau hoa xứ lạnh, nuôi cá tầm, cá hồi... gắn với tìm kiếm thị trường tiêu thụ. Tỉnh phấn đấu trong năm 2013, thu ngân sách nhà nước tại địa bàn đạt trên 1.830 tỷ đồng và kim ngạch xuất khẩu đạt trên 100 triệu USD.. == Dân cư == Theo kết quả điều tra ngày 1 tháng 4 năm 1999, tỉnh Kon Tum có 316.600 người. Toàn tỉnh có 25 dân tộc, trong đó đông nhất là dân tộc Kinh có 145.681 người chiếm 46,36%. Các dân tộc thiểu số gồm dân tộc Xơ Ðăng có 78.741 người, chiếm 25,05%. dân tộc Ba Na có 37.519 người, chiếm 11,94%. dân tộc Giẻ- Triêng có 25.463 người, chiếm 8,1%. dân tộc Gia Rai có 15.887 người, chiếm 5,05%. các dân tộc khác chiếm 3,5 %. Tính đến năm 2011, dân số toàn tỉnh Kon Tum đạt gần 453.200 người, mật độ dân số đạt 47 người/km² Trong đó dân số sống tại thành thị đạt gần 156.400 người, dân số sống tại nông thôn đạt 296.800 người. Dân số nam đạt 237.100 người, trong khi đó nữ đạt 216.100 người. Tỷ lệ tăng tự nhiên dân số phân theo địa phương tăng 18,6 ‰ Theo thống kê của tổng cục thống kê Việt Nam, tính đến ngày 1 tháng 4 năm 2009, toàn tỉnh Kon Tum có 42 dân tộc cùng người nước ngoài sinh sống. Trong đó dân tộc kinh có 201.153 người, người Xơ Đăng có 104.759 người, người Ba Na có 53.997 người, Người Giẻ Triêng có 31.644 người, người Gia Rai có 20.606 người, người Mường có 5.386 người, Người Thái có 4.249 người, Người Tày có 2.630, cùng các dân tộc ít người khác như Nùng, Hrê, Brâu, Rơ Măm... Tính đến ngày 1 tháng 4 năm 2009, Toàn tỉnh Kon Tum có 5 Tôn giáo khác nhau chiếm 173.593 người. Trong đó, nhiều nhất là Công giáo có 134.312 người, Phật giáo có 25.012 người, Tinh Lành có 13.736 người, cùng các tôn khác như Cao Đài có 499 người, Đạo Bahá'í có 15 người, Đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa có 4 người, cuối cùng là Hồi giáo chỉ có 1 người. == Du lịch == Kon Tum có nhiều cảnh quan tự nhiên như hồ Ya ly, rừng thông Măng Đen, khu bãi đá thiên nhiên Km 23, thác Đắk Nung, suối nước nóng Đắk Tô và các khu rừng đặc dụng, khu bảo tồn thiên nhiên… có khả năng hình thành các khu du lịch cảnh quan, an dưỡng. Các cảnh quan sinh thái này có thể kết hợp với các di tích lịch sử cách mạng như di tích cách mạng ngục Kon Tum, ngục Đắk Glei, di tích chiến thắng Đắk Tô - Tân Cảnh, chiến thắng Plei Kần, chiến thắng Măng Đen… các làng văn hoá truyền thống bản địa tạo thành các cung, tuyến du lịch sinh thái - nhân văn. == Giáo dục & Y tế == === Giáo dục === Tính đến thời điểm ngày 30 tháng 9 năm 2011, trên địa bàn toàn tỉnh Kon Tum có 256 trường học ở cấp phổ trong đó có Trung học phổ thông có 14 trường, Trung học cơ sở có 94 trường, Tiểu học có 131 trường, trung học có 10 trường, có 10 trường phổ thông cơ sở, bên cạnh đó còn có 108 trường mẫu giáo. Với hệ thống trường học như thế, nền giáo dục trong địa bàn Tỉnh Kon Tum cũng tương đối hoàn chỉnh, góp phần giảm thiểu nạn mù chữ trong địa bàn tỉnh. === Y tế === Theo thống kê về y tế năm 2011, trên địa bàn toàn tỉnh Kon Tum có 121 cơ sở khám chữa bệnh trực thuộc Sở Y tế. Trong đó có 9 Bệnh viện, 13 Phòng khám đa khoa khu vực, 97 Trạm Y tế phường xã, và 1 bệnh viện điều dưỡng phục hồi chức năng, với 1770 giường bệnh và 354 bác sĩ, 350 y sĩ, 694 y tá. == Tham khảo == == Liên kết ngoài == Thông tin điện tử của UBND tỉnh Kon Tum Sở giáo dục Kon Tum
đại anh.txt
Đại Anh chữ Hán giản thể: 大英县, Hán Việt: Đại Anh huyện) là một huyện thuộc địa cấp thị Toại Ninh, tỉnh Tứ Xuyên, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Huyện này có diện tích 703 km2, dân số năm 2002 là 520.000 người. Đại Anh được chia thành 11 trấn và 7 hương. Trấn: Bồng Lai, Long Thịnh, Hồi Mã, Thiên Bảo, Ngọc Phong, Tượng Sơn, Hà Biên, Thạch Môn, Dân Chủ, Thê Khẩu, Trác Đồng. Hương: Trí Thủy, Thông San, Kim Nguyên, Tinh Hoa, Ngũ Phương, Phúc Lộc, Thốn Đường Khẩu. == Tham khảo ==
tam giác vàng.txt
Tam giác Vàng (tiếng Anh: Golden Triangle - tiếng Thái: สามเหลี่ยมทองคำ; tiếng Lào: ສາມຫຼ່ຽມຄຳ) là khu vực rừng núi hiểm trở nằm giữa biên giới ba nước Lào, Thái Lan, Myanma, nổi tiếng là nơi sản xuất thuốc phiện lớn nhất thế giới, nhưng ngày nay không còn trồng thuốc phiện nữa mà trở thành khu du lịch sinh thái lý tưởng, theo đó, những cánh đồng anh túc năm xưa được thay bằng những thửa ruộng hoa màu, cây trái quanh năm xanh tốt. Nơi đây cũng tồn tại một bảo tàng thuốc phiện được xây dựng từ năm 2003 và khánh thành vào năm 2005 bởi Thái Lan == Vị trí == Nằm trên bờ sông Mêkông thuộc địa phận thành phố Chiang Rai- một tỉnh biên giới miền Bắc Thái Lan, nơi đây những năm 70 đã từng là đại bản doanh của trùm thuốc phiện Khun Sa khét tiếng. Phần lớn diện tích Tam giác vàng nằm trong vùng núi có độ cao 1.000m rất phù hợp với việc trồng ma túy. Những cánh rừng bạt ngàn có rất ít tuyến đường giao thông và một vị trí đặc biệt khiến vùng nằm ngoài tầm kiểm soát của chính phủ cả ba nước đã mang lại điều kiện lý tưởng cho việc trồng cần sa. == Tình hình ma túy == Những năm 1970-1990, diện tích cây thuốc phiện đến 160.000 ha với số lượng thuốc phiện mỗi vụ đã qua sơ chế 2.560 tấn, bằng 3/4 số lượng thuốc phiện thế giới (khí hậu ôn đới trên độ cao hơn 1000 m và chất đất ở đây rất thích hợp với cây thuốc phiện). Đến nay, diện tích trồng cây thuốc phiện trên đất Lào, Thái Lan giảm, còn không đáng kể. Trên đất Myanma, diện tích cũng giảm nhiều nhưng do rừng sâu, núi thẳm, vô cùng hiểm trở, nơi sinh sống của nhiều bộ tộc người Wa, Shan, Mông… mặc dù Chính phủ Myanma đã có rất nhiều cố gắng nhưng vẫn chưa kiểm soát cơ bản việc trồng và chế biến thuốc phiện. Theo UNODC (văn phòng Liên Hợp Quốc về ma túy và tội phạm) ước tính trong năm 2005 có 430 km2 đất trồng thuốc phiện ở Miến Điện . Sự đầu hàng của Khun Sa vào tháng 1 năm 1996 được Yangon coi như một thành tựu chống ma túy lớn, nhưng thiếu tâm huyết và sự nhanh nhẹn để loại bỏ các nhóm buôn lậu và phân phối các loại thuốc bất hợp pháp lớn và thiếu cam kết nghiêm túc chống rửa tiền vẫn tiếp tục cản trở các nỗ lực chống ma túy tổng thể. Hầu hết các bộ lạc trồng cây thuốc phiện ở Miến Điện và ở các vùng cao Thái đang sống dưới mức nghèo khổ. Myanma đã thay thế Thái Lan trở thành "công xưởng vàng đen" ở Tam giác vàng và là nơi sản xuất ma túy lớn thứ 2 trên thế giới sau Afghanistan. Theo báo cáo của Liên Hợp Quốc hồi tháng 4, diện tích trồng cây anh túc ở vùng Tam giác vàng cao nhất là vào năm 1998 với 130.000 ha, đến năm 2006 thì giảm xuống còn 20.000 ha. Thế nhưng, anh túc lại bùng phát trở lại trong mấy năm nay khi diện tích trồng loại cây "ma quái" này tăng gấp đôi vào năm 2010 và chỉ 2 năm sau đã lên đến 50.000 ha, chiếm 29% diện tích trồng anh túc của thế giới. Trên 90% diện tích trồng cây anh túc ở khu vực Tam giác vàng được xác định ở bang Shan, miền đông Myanmar, tiếp giáp Thái Lan và Lào. Từ đây, nhựa cây anh túc được chuyển đến bang Kachin, gần Trung Quốc và Ấn Độ, để chế biến thành đủ loại ma túy khác nhau và tung ra thị trường. Cũng theo báo cáo của Liên Hợp Quốc, 610 tấn trong tổng số 638 tấn heroin của Tam giác vàng năm 2011 có nguồn gốc từ Myanma (25 tấn từ Lào, 3 tấn từ Thái Lan). Một năm sau, tỷ lệ này tiếp tục tăng lên 690/735 tấn heroin, trị giá khoảng 16,3 tỉ USD tức hơn 1/3 GDP của Myanmar. Ngoài các băng nhóm tội phạm, nền "công nghiệp ma túy" Tam giác vàng còn do các nhóm vũ trang và lực lượng phiến quân kiểm soát. Hoạt động trồng anh túc và chế biến ma túy tại các bang đông và đông bắc Myanmar gần như hoàn toàn nằm trong tay những nhóm vũ trang dân tộc thiểu số đang chiến đấu đòi ly khai. Trong số này, mạnh nhất là Lực lượng thống nhất bang Wa (UWSA). UWSA đơn phương tuyên bố tự trị ở bang Wa hồi năm 2009 và xem mua bán ma túy là phương pháp chính để kiếm tiền phát triển lực lượng cũng như kiểm soát người dân. Quân đội của chính phủ cũng như lực lượng phòng chống ma túy thường khó tiếp cận các khu vực núi non hiểm trở luôn hiện diện họng súng của phiến quân. Không chỉ sản xuất và buôn bán ma túy, các nhóm tội phạm ở Tam giác vàng còn nhúng tay vào cướp bóc, tống tiền, giết người… Hồi tháng 3.2013, Trung Quốc đã tử hình trùm ma túy người Myanmar Naw Kham vì vụ thảm sát 13 thủy thủ người Trung Quốc hồi năm 2011. Naw Kham và đồng bọn đã chặn cướp 2 tàu hàng Trung Quốc trên sông Mê Kông rồi xử bắn toàn bộ người trên tàu và vứt thi thể xuống một đoạn sông chảy qua tỉnh Chiang Rai, miền bắc Thái Lan. Theo giới chức các nước, đã xảy ra hàng chục vụ tương tự từ khi Trung Quốc đẩy mạnh giao thương biên giới với Myanmar, Lào và Thái Lan qua đường thủy trên sông Mê Kông. Bên cạnh đó, Trung Quốc cũng rất lo ngại làn sóng ma túy mới từ Tam giác vàng tràn vào thông qua đường thủy và đường bộ. Bên cạnh đó, tham nhũng liên quan đến ma túy trong chính quyền và quân đội cũng như các chương trình hỗ trợ người dân từ bỏ cây anh túc chưa đạt hiệu quả cao cũng khiến việc kiểm soát ma túy tại Myanmar gặp nhiều khó khăn. Thời gian gần đây, chính quyền của Tổng thống Thein Sein rất tích cực đối thoại với các nhóm vũ trang ly khai nhằm tiến tới thỏa thuận ngừng bắn và theo các chuyên gia, hòa bình, ổn định là điều kiện đầu tiên để phát triển kinh tế, cải thiện đời sống người dân và đưa các khu vực nằm trong Tam giác vàng khỏi vòng xoáy ma túy . == Du lịch tại Tam Giác Vàng == Tại Chiang Rai, có nhiều khách sạn nhà hàng cao cấp đang được xây dựng trên các khu đồi cao ở Le Meridien Baan Boran, Chiang Sean, theo đó, từ đây du khách có thể phóng tầm mắt chiêm ngưỡng toàn bộ phong cảnh xứ Lào, Mianma và dòng sông Mê Kông thơ mộng vào bất cứ thời điểm nào trong ngày hay thưởng thức phong cảnh của toàn bộ thành phố. Bên bờ sông thuộc lãnh thổ Thái Lan, các hoạt động diễn ra hết sức sôi nổi, sầm uất với các hoạt động phục vụ du lịch như thuê mướn xuồng bè, các trang phục đồ dùng cho du khách, mỗi khách chỉ cần bỏ ra từ 300 đến 800 baht là họ sẽ được phục vụ tận tình mọi thứ cần thiết. Đối diện phía bờ bên kia của Myanmar là những khách sạn, tụ điểm vui chơi, giải trí và có cả những sòng bạc hiện đại. Việc đi lại giữa hai tỉnh Chiang Rai (Thái Lan) và tỉnh Mea Sai (Myanmar) được thực hiện nhờ vào cây cầu hữu nghị tại Mea Sai. Nếu đến Chiang Rai mà khách không đến thăm bản Therd Thai thì chưa thể gọi là du lịch Tam giác vàng được, đây là địa danh ở cách tỉnh lị 42 km về phía Bắc, nơi cách đây 17 năm, trùm thuốc phiện Khun Sa và thuộc hạ đã chiếm đóng làm căn cứ để sản xuất và cung ứng thuốc phiện cho thị trường toàn cầu. Con đường dẫn tời sào huyệt của tên tội phạm quốc tế này không đồ sộ nhưng lại rất hiểm trở, ngoằn ngoèo dọc theo những sườn đồi, vách đứng. Chính vì địa thế hiểm trở mà Khun Sa đã nhiều lần thoát khỏi truy nã gắt gao của cảnh sát Thái Lan. Trên đường đi vào Akha, có những bộ lạc thiểu số với trang phục của họ toát lên nét đặc thù hết sức độc đáo, lạ mắt và trở thành tiêu điểm cuốn hút khách thập phương. Ngày nay, đội quân Khu Sa không còn nữa, có chăng cũng chỉ là những khu lán trại hoang tàn với những mái tôn ố rỉ, Khun Sa đã bị cảnh sát Thái Lan triệt hạ năm 1982. Bản Therd Thai và cả vùng Tam giác vàng bây giờ đây đang từng ngày được thay da đổi thịt và không ngừng phát triển trước cơn lốc du lịch toàn cầu, trong tương lai, Chiang Rai sẽ trở thành thành phố thiên thần (City of Angels) hay Vương quốc những nụ cười (Land of Smiles) mà mọi người đã từng đặt tên cho nó, thay dần những ý nghĩ không tốt về một vùng đất đã từng cung ứng những cái chết trắng cho nhân loại. == Thông tin chính == Khu vực này có diện tích vào khoảng 380.000 km vuông. Khu vực giáp ranh giữa 3 nước, địa hình chủ yếu là đồi núi hiểm trở. Do nằm xa các trung tâm hành chính, hiểm trở cũng như do đặc điểm của khu vực biên giới, việc kiểm soát của Chính phủ các nước đối với khu vực này là rất hạn chế. Ngay từ thập niên 50 của thế kỷ 20, Tam giác Vàng đã trở thành một trong những nơi trồng nhiều cây thuốc phiện, cần sa nhất thế giới. == Xem thêm == Khun Sa Chiang Khong Chiang Saen Sob Ruak Mea Sai == Tham khảo == <references> Thanh Niên Online: Tam giác vàng và đường dây ma túy xuyên quốc gia (gồm 3 kỳ) Geopium: Khoa địa chính trị Tam giác Vàng
phú sĩ.txt
Núi Fuji hay Núi Phú Sĩ (富士山 (ふじさん / ふじやま), Fuji-san / Fuji-yama, Phú Sĩ Sơn) là ngọn núi cao nhất Nhật Bản và cũng là biểu tượng nổi tiếng của quốc gia này. Ngọn núi này thường là đề tài trong các bức họa và nhiếp ảnh nghệ thuật cũng như trong văn chương và âm nhạc. Đây là một trong "Ba núi Thánh" của Nhật Bản (三 霊 山 Sanreizan) cùng với núi Tate và núi Haku, và cũng là một nơi đặc biệt của danh lam thắng cảnh, một di tích lịch sử, và đã được công nhận là Di sản Văn hóa Thế giới vào ngày 22 tháng 6 năm 2013. == Địa lý == Núi Phú Sĩ trải dài trên địa phận tỉnh Shizuoka và tỉnh Yamanashi, ở phía Tây Nam Tokyo. Đây là một núi lửa còn hoạt động và là ngọn núi cao nhất của Nhật Bản với độ cao tuyệt đối: 3.776 mét. Đỉnh núi Phú Sĩ quanh năm tuyết phủ, tạo nên một vẻ đẹp hùng vĩ, tráng lệ. Dưới chân núi có 5 hồ nước ngọt lớn, đó là: Kawaguchi, Yamanaka, Sai, Motosu và Shoji. Cùng với Hồ Ashi ở gần đó, chúng tạo nên một cảnh quan tuyệt đẹp cho ngọn núi. Đây là một phần trong Công viên Quốc gia Phú Sĩ-Hakone-Izu. == Địa chất == Các nhà khoa học đã xác định được 4 thời kỳ hoạt động núi lửa khác nhau hình thành nên ngọn núi Phú Sĩ. Thời kỳ đầu tiên là Sen-komitake, được tạo nên từ lõi anđêxit mới được phát hiện gần đây ở sâu bên trong núi. Cái tên Sen-komitake được lấy theo chữ "Phú Sĩ Komitake" là một lớp đá bazan được hình thành từ hàng trăm nghìn năm trước. Khoảng 100,000 năm trước, một ngọn núi "Phú Sĩ cổ" đã được hình thành trên đỉnh núi Phú Sĩ Komitake. Hiện tại, ngọn núi "Phú Sĩ mới" được cho là hình thành trên đỉnh núi "Phú Sĩ cổ" khoảng 10,000 năm trước. Hiện nay, ngọn núi lửa này thuộc loại đang hoạt động với nguy cơ phun trào thấp. Lần gần đây nhất ghi nhận được sự phun trào là năm 1707 trong thời kỳ Edo. Tại thời điểm này, có một miệng núi lửa mới, dọc theo đỉnh thứ 2 đã hình thành xuống nửa chừng bề mặt của nó. Miệng núi lửa này có tên là Hōei-zan, đặt theo tên của một triều đại. Núi Phú Sĩ là nơi giao nhau của mảng lục địa Á Âu, mảng lục địa Okhotsk và lục địa Philippin. Chúng lần lượt tạo nên phần phía tây, phía đông của nước Nhật và bán đảo Izu. == Tên gọi == === Các tên gọi khác === Tên ngọn núi viết bằng Kanji 富士山 khi phiên sang chữ Latinh có thể thành Fuji-san hoặc đôi khi là Fuji Yama, do chữ 山 (sơn) trong tiếng Nhật có nhiều cách đọc là San, Zan và Yama. Ngoài ra, trong tiếng Nhật, từ "富士" có thể được phát âm thành "Huzi" do đặc trưng của âm ふ("fu", thuộc hàng "ha" trong tiếng Nhật). Tuy nhiên, cách phát âm chuẩn vẫn là "Fuji". Núi Phú Sĩ còn có các tên gọi khác cũ hơn hoặc thi vị hơn như: Fuji-no-Yama (ふじの山), Fuji-no-Takane (ふじの高嶺), Fuyō-hō (芙蓉峰) và Fu-gaku (富岳 hoặc 富嶽). === Từ nguyên gốc === Chữ Kanji hiện nay của tên gọi "núi Phú Sĩ", 富 (phú) và 士 (sĩ), nhưng có vẻ như các chữ này được áp dụng cho một cách đọc sẵn có. Tên gốc của từ Phú Sĩ vẫn chưa được rõ, nhưng nó liên quan tới toàn bộ lịch sử với các chữ Hán khác nhau theo từ gốc dân gian. Một trong những từ gốc dân gian cổ nhất cho rằng từ Fuji xuất phát từ chữ 不二 (bất + nhị), có nghĩa là có một không hai. Một từ gốc dân gian khác cho rằng nó xuất phát từ chữ 不尽 (bất tận), có nghĩa là không bao giờ kết thúc. Có lẽ từ gốc phổ biến nhất là từ cho rằng tên của ngọn núi có chữ Hán là 富士 (phú sĩ). == Lịch sử == Người ta cho rằng người đầu tiên lên đến đỉnh ngọn núi này là một nhà sư khuyết danh. Trước thời đại Meiji, vì Phú Sĩ là một ngọn núi thiêng nên phụ nữ không được phép trèo lên đỉnh núi. Ngày nay, đây là một địa điểm du lịch nổi tiếng và lý tưởng cho rất nhiều nhà leo núi (xem bên dưới). Núi Phú Sĩ là một ngọn núi lửa hấp dẫn, thường là chủ đề của các tác phẩm nghệ thuật như bức "Nhìn về núi Phú Sĩ" của họa sĩ Hokusai. Ngọn núi này cũng góp mặt và là chủ đề của rất nhiều tác phẩm văn thơ Nhật Bản qua các thời kỳ. Núi Phú Sĩ cũng là một địa điểm truyền thống của các chiến binh xưa: các samurai đã dùng chân núi như một điểm tập luyện, gần thị trấn Gotemba ngày nay. Năm 2005, Cục Phòng vệ Nhật Bản và Lực lượng Hải quân Hoa Kỳ đã tiến hành tập trận ở gần chân núi Phú Sĩ. == Leo núi == Thời gian nhiều người đăng sơn Phú Sĩ nhất là trong khoảng hai tháng, từ mồng 1 tháng 7 đến 27 tháng 8. Có khoảng 200,000 lượt người leo lên ngọn núi này mỗi năm; trong số đó 30% là người nước ngoài. Hành trình trèo núi mất khoảng 3 đến 7 giờ, trong khi hạ sơn thì mau hơn, chỉ mất khoảng 2 đến 5 giờ. Đường đi có thể chia ra 10 trạm cơ bản; từ điểm khởi đầu lên tới trạm thứ 5 là đã trèo 2300 mét so với mực nước biển. Hầu hết các hành trình trèo núi là vào ban đêm để khi lên đến đỉnh thì gặp lúc mặt trời mọc buổi sớm mai. Vì lượng người leo núi rất đông, vấn nạn hàng năm là lượng rác thải dọc đường. Dù vậy, đăng sơn Phú Sĩ vẫn là một cuộc hành trình hấp dẫn đặc biệt. == Rừng Aokigahara == Aokigahara là một cánh rừng ở chân núi Phú Sĩ. Trong số những truyền thuyết về cánh rừng này, truyện dân gian Nhật Bản cho rằng chất đá ở đây có hàm lượng trầm tích sắt rất lớn, có thể làm vô hiệu hóa la bàn và các thiết bị định vị toàn cầu. Do vậy người đi rừng rất dễ lạc. Tuy nhiên theo khoa học thì trường điện từ do sắt gây ra rất yếu nên không mấy ảnh hưởng các thiết bị. Hiển nhiên là Cục Phòng vệ Nhật Bản và lính Thủy quân lục chiến Mỹ thường tập trận trong rừng mà la bàn cùng máy định vị toàn cầu và các thiết bị điện tử khác vẫn hoạt động không bị trở ngại. Đặc biệt rừng Aokigahara có những hang động đóng băng quanh năm. Theo truyền thuyết thì ma quỷ, yêu tinh phá rối vẫn thường xuất hiện trong rừng này. Phải chăng đó có liên hệ với việc địa điểm Aokigahara Jukai là một nơi thường có người tự tử và vong hồn người chết mãi mãi lảng vảng nơi này. Với hơn 78 xác người đã tự tử tại đây nhà chức trách đã phải cảnh báo về nạn tự tử trong rừng này. == Chuyện ngoài lề == Ca sĩ Kyu Sakamoto đã từng thuê người đem một cây đàn piano lên núi để thực hiện một buổi hòa nhạc. Logo của công ty Atari và Infiniti đều được thiết kế theo biểu tượng của núi Phú Sĩ. Núi Egmont ở New Zealand tương đối giống núi Phú Sĩ ở một số góc nhìn. Vì vậy nó đã được dùng thay thế cho núi Phú Sĩ trong một số phim, như phim The Last Samurai. Ngọn núi Volcan Osorno ở miền nam Chile cũng có những điểm hấp dẫn giống như núi Phú Sĩ. Một nhà hàng Nhật ở Tooting, London cũng được đặt tên là núi Phú Sĩ. Tên của tập đoàn máy ảnh - phim chụp ảnh nổi tiếng Fujifilm == Xem thêm == Núi lửa Địa lý Nhật Bản Phun trào núi lửa Phú Sĩ ở thời đại Hoei == Thư viện hình == == Liên kết ngoài == Live Webcams of Mt. Fuji Satellite picture by Google Maps PDMZ.com's year-round pictures of Mt. Fuji Núi Phú Sĩ == Ghi chú ==
promops.txt
Promops là một chi động vật có vú trong họ Dơi thò đuôi, bộ Dơi. Chi này được Gervais miêu tả năm 1856. Loài điển hình của chi này là Promops ursinus Gervais, 1856 (= Molossus nasutus Spix, 1823). == Các loài == Chi này gồm các loài: == Chú thích == == Tham khảo ==
when harry met sally....txt
When Harry Met Sally... (tạm dịch: Khi Harry gặp Sally...) là một bộ phim hài kịch lãng mạn của Hoa Kỳ năm 1989 do Nora Ephron viết kịch bản và Rob Reiner đạo diễn. Phim xoay quanh câu chuyện của hai nhân vật Harry (Billy Crystal) và Sally (Meg Ryan) từ lần gặp mặt đầu tiên của họ trong chuyến đi dọc đất nước cho đến mối quan hệ tình cảm giữa hai người 12 năm sau đó ở New York. Phim đặt nên câu hỏi "Liệu phụ nữ và đàn ông có thể chỉ là bạn bè?" và đề cập đến nhiều ý tưởng về mối quan hệ tình cảm quen thuộc trong đời sống. Phim bắt nguồn từ lúc Reiner trở lại cuộc sống độc thân sau khi ly hôn, tạo nên nền tảng cho nhân vật Harry, trong khi Sally dựa trên Ephron và một vài người bạn của bà ngoài đời thực. Crystal bắt tay vào dự án và có đóng góp vào phần kịch bản, mang tính hài hước cho nhân vật Harry. Ephron dựng nên cấu trúc cho bộ phim, với lời thoại dựa trên tình bạn ngoài đời giữa Reiner và Crystal. Nhạc phim chứa nhiều bản nhạc do Harry Connick, Jr. trình bày, với ban nhạc và dàn hòa tấu được Marc Shaiman điều khiển, giúp Connick giành giải Grammy cho "Trình diễn giọng nam jazz xuất sắc nhất". Columbia Pictures phát hành bộ phim thông qua kỹ thuật "nền tảng"—hãng công bố phim tại nhiều thành phố chọn lọc, sau đó tạo nên sức hút bằng những lời truyền miệng và sau cùng ra mắt mở rộng trong nhiều tuần. When Harry Met Sally... đạt doanh thu 92.8 triệu đô-la Mỹ tại khu vực Bắc Mỹ. Ephron nhận một giải BAFTA, một đề cử giải Oscar và một giải Nghiệp đoàn tác giả Hoa Kỳ cho kịch bản của bà. Phim nằm trong danh sách 100 phim hài của Viện phim Mỹ và danh sách "100 phim hài hước nhất" của Bravo's. Đầu năm 2004, phim được chuyển thể sân khấu với diễn xuất của Luke Perry và Alyson Hannigan. == Nội dung == Năm 1977, Harry Burns (Billy Crystal) và Sally Albright (Meg Ryan) tốt nghiệp từ Đại học Chicago và dùng chung xe đến thành phố New York, nơi Sally theo học trường báo chí và Harry xây dựng sự nghiệp. Harry đang hẹn hò với cô bạn của Sally, Amanda (Michelle Nicastro). Trong chuyến hành trình dài 18 tiếng, hai người tranh luận về mối quan hệ giữa nam giới và nữ giới. Theo Harry: "Đàn ông và đàn bà không bao giờ có thể trở thành bạn bè vì vấn đề tình dục luôn xen vào giữa mối quan hệ của họ". Sally không đồng ý, khẳng định hai phái hoàn toàn có thể trở thành bạn bè mà không dính dáng đến chuyện tình dục. Trong lúc dừng lại ăn tối, Sally bực tức khi Harry bảo rằng cô hấp dẫn; cô cáo buộc anh đang tán tỉnh cô. Tại New York, hai người chia tay trong gượng gạo. Năm năm sau, Harry và Sally tình cờ đi cùng một chuyến bay. Sally lúc này đang hẹn hò với một người đàn ông tên Joe (Steven Ford)—người ở cùng nhà với Harry trước đây—và Harry đang đính hôn với một người phụ nữ tên Helen, khiến Sally bất ngờ. Trong lần nói chuyện thứ hai, Harry thay đổi quan điểm về quan hệ nam nữ, anh đề nghị được kết bạn với Sally nhưng cô tỏ ra thờ ơ và họ lại chia tay mà không hẹn ngày gặp lại. Cả hai gặp lại tại một hiệu sách ở New York vào 5 năm sau đó. Họ cùng uống cà phê và kể về những mối tình trước đây; Sally đã chia tay Joe vì cô muốn một gia đình nhưng anh ta không muốn kết hôn; và cuộc tình của Harry và Helen kết thúc khi cô yêu một người đàn ông khác. Hai người đi dạo và quyết định làm bạn. Họ trò chuyện qua điện thoại suốt đêm khuya, đi ăn tối và thường xuyên ở bên nhau. Trải nghiệm hẹn hò của họ tiếp tục cho thấy sự khác biệt giữa tình yêu và tình dục của cả hai. Trong bữa tiệc cuối năm, họ thực sự bị hấp dẫn lẫn nhau. Dù cố giữ tình bạn, họ vẫn giới thiệu cho đối phương người bạn thân nhất, Marie (Carrie Fisher) và Jess (Bruno Kirby). Khi 4 người đến một nhà hàng, Marie và Jess lại vô cùng ăn ý; sau cùng họ đính hôn với nhau. Một đêm nọ, Sally òa khóc khi gọi điện cho Harry và kể về người bạn trai cũ của cô sắp lấy vợ. Harry chạy đến căn hộ của cô để an ủi và cả hai vô tình ngủ với nhau để rồi thức dậy sáng hôm sau với tâm trạng bối rối. Sự kiện này khiến quan hệ tốt đẹp giữa Harry và Sally trở nên căng thẳng. 3 tuần sau, cả hai cãi nhau rất lớn trong đám cưới của Jess và Marie. Sau đó, Harry liên tục hàn gắn tình bạn nhưng cô cảm thấy họ không thể làm bạn được nữa. Tại bữa tiệc năm mới, Sally lạc lõng khi không có Harry bên cạnh. Harry thì lang thang một mình trên những con phố. Khi Sally quyết định rời bữa tiệc, Harry xuất hiện và nói thật với Sally rằng anh yêu cô và cả những thói quen kì quặc của cô. Họ làm lành và kết hôn 3 tháng sau đó. Xen giữa phim là những đoạn trò chuyện ngắn của các cặp vợ chồng già về việc làm thế nào họ đến được với nhau. Phim kết thúc bằng cuộc trò chuyện của Harry và Sally, trong đó hai người nói rằng họ chỉ cần 3 tháng để làm đám cưới, nhưng đó là ba tháng cho 12 năm chờ đợi. == Diễn viên == Billy Crystal vai Harry Burns Meg Ryan vai Sally Albright Carrie Fisher vai Marie Bruno Kirby vai Jess Steven Ford vai Joe Lisa Jane Persky vai Alice Michelle Nicastro vai Amanda Reese Kevin Rooney vai Ira Stone Harley Kozak vai Helen Hillson Franc Luz vai Julian Tracy Reiner vai Emily Estelle Reiner vai Older Woman Customer == Sản xuất == Năm 1984, đạo diễn Rob Reiner, nhà sản xuất Andy Scheinman và biên kịch Nora Ephron bắt đầu bàn về một bộ phim chung của ba người. Reiner nảy ra một ý tưởng nhưng Ephron từ chối. Cuộc gặp gỡ thứ hai biến thành một buổi thảo luận dài hơi về đời sống độc thân của Reiner và Scheinman. Reiner nhớ lại: "Tôi lúc này đang sống độc thân sau khi ly dị được một thời gian ngắn và trải qua những mối quan hệ tình cảm tồi tệ". Lần gặp kế đến, Reiner nói rằng ông muốn làm một bộ phim về hai người muốn trở thành bạn bè mà không dính dáng đến tình dục vì sợ làm hỏng mối quan hệ để rồi cuối cùng họ lại ngủ với nhau. Ephron cảm thấy thích ý tưởng này và Reiner yêu cầu một bản hợp đồng tại xưởng phim. Bà sau đó phỏng vấn Reiner và Scheinman về cuộc sống của họ để lấy tư liệu viết kịch bản. Những buổi phỏng vấn cũng là nền tảng cho nhân vật Harry. Reiner liên tục chán nản, bi quan nhưng rất hài hước. Ephron cũng gặp nhiều khó khăn với lời thoại trong buổi phỏng vấn. Sally dựa trên hình tượng của Ephron và một vài người bạn của bà. Bà viết nhiều bản nháp trong nhiều năm trong khi Reiner thực hiện Stand By Me và The Princess Bride. Billy Crystal tham gia khi dự án này mang tên Boy Meets Girl và có đóng góp riêng đến kịch bản, khiến nhân vật Harry hài hước hơn. Crystal cũng từng có "trải nghiệm gián tiếp" với cuộc sống độc thân sau khi ly hôn diễn viên hài và nhà làm phim Penny Marshall và nghiên cứu cho vai Harry. Trong quá trình viết kịch bản, Ephron tham khảo cả ý kiến những nhân viên trong công ty sản xuất phim. Một vài buổi phỏng vấn xuất hiện trong bộ phim như những đoạn trò chuyện ngắn giữa các đôi vợ chồng về việc làm thế nào họ đến được với nhau, dù đã được viết lại và quay với các diễn viên. Ephron đưa vào cấu trúc phim nhiều lời thoại dựa trên tình bạn ngoài đời của Reiner và Crystal. Ví dụ như cảnh Sally và Harry trò chuyện điện thoại ở hai nửa màn ảnh, cùng nhau xem truyền hình, là điều mà Crystal và Reiner làm mỗi đêm. Lúc đầu, Ephron muốn gọi bộ phim này là How They Met và tiếp tục chuyển sang nhiều tựa đề khác. Reiner còn tổ chức một cuộc thi trong đoàn làm phim trong thời gian ghi hình—ai nghĩ ra cái tên hay nhất sẽ giành một hộp rượu champagne. Để nhập vai Harry trong tình trạng cô độc sau khi ly hôn, Crystal ở trong một phòng riêng, ngăn cách với cả đoàn làm phim trong suốt thời gian quay ở Manhattan. Kịch bản dự định kết thúc với việc Harry và Sally chỉ giữ tình bạn mà không tiến xa hơn thành tình yêu, vì Ephron và Reiner cảm thấy đó mới là "cái kết đúng nghĩa". Sau cùng, Ephron và Reiner nhận ra sẽ phù hợp hơn nếu để họ lấy nhau, dù không được thực tế. Khi đề cập đến câu hỏi trọng tâm của bộ phim, "Liệu phụ nữ và đàn ông có thể chỉ là bạn bè?", Ryan trả lời, "Có chứ, phụ nữ và đàn ông có thể chỉ là bạn bè. Tôi có nhiều người bạn là nam và tình dục không ảnh hưởng gì cả." Crystal nói, "Tôi có đôi chút lạc quan hơn Harry. Nhưng tôi nghĩ chuyện này rất khó." Trong một cảnh khi hai nhân vật ăn trưa tại Katz's Delicatessen, Manhattan, họ tranh cãi liệu một người đàn ông có thể nhận ra khi một người phụ nữ đang giả vờ đạt cực khoái hay không. Sally khẳng định đàn ông không thể biết và chứng minh khi giả vờ đạt cực khoái ngay giữa nhà hàng đông người. Cảnh phim kết thúc khi Sally thản nhiên tiếp tục ăn, khiến một người phụ nữ ngồi cạnh bên (do mẹ của Reiner thủ vai) đã đề nghị người hầu bàn: "Cho tôi một suất giống cô ấy" (Nguyên văn: "I'll have what she's having.") Khi Estelle Reiner qua đời vào năm 2008, The New York Times gọi bà là người phụ nữ "mang đến một trong những lời thoại hài hước dễ nhớ nhất lịch sử điện ảnh". Cảnh này được quay lại nhiều lần và Ryan phải diễn đạt cực khoái trong nhiều tiếng đồng hồ liền. Nhà hàng Katz's Deli vẫn còn đặt một tấm biển trên chiếc bàn này, ghi rằng "Nơi Harry gặp Sally... Chúc bạn sẽ có những gì cô ấy đạt được!" == Nhạc phim == Hãng Columbia Records phát hành album nhạc phim vào tháng 7 năm 1989 với âm hưởng chủ đạo là nhạc jazz. Nghệ sĩ trình bày chính là Harry Connick, Jr. cùng ban nhạc, nhạc đệm được soạn bởi Marc Shaiman. Khi Reiner nghe đoạn băng do Colomby gửi, ông bị thu hút bởi giọng hát của Connick và cho rằng rất giống với giọng của Frank Sinatra hồi trẻ. Phần trình diễn của Connick giúp ông giành giải Grammy đầu tiên cho "Trình diễn giọng nam jazz hay nhất". Connick cũng lưu diễn tại Bắc Mỹ để quảng bá album này. === Xếp hạng === === Chứng nhận doanh số === == Phát hành == Columbia Pictures phát hành bộ phim thông qua kỹ thuật "nền tảng"—hãng công bố phim tại nhiều thành phố chọn lọc, sau đó tạo nên sức hút bằng những lời truyền miệng và sau cùng ra mắt mở rộng trong nhiều tuần. Trong tuần đầu tiên phát hành, bộ phim thu về 1 triệu đô-la Mỹ tiền vé trên tổng số 41 rạp. Billy Crystal lo rằng phim có thể sẽ thất bại về doanh thu khi phải đối mặt với nhiều phim bom tấn mùa hè năm đó như Indiana Jones and the Last Crusade hay Người dơi. Bộ phim bắt đầu chiếu rộng rãi trên 775 rạp từ ngày 21 tháng 7 năm 1989 và thu về ở tuần đầu tiên 8.8 triệu đô-la Mỹ. Phim sau đó mở rộng đến 1.147 rạp chiếu và đạt tổng doanh thu 92.8 triệu đô-la Mỹ tính riêng ở khu vực Bắc Mỹ, so với khoản đầu tư 16 triệu đô-la Mỹ cho phim. When Harry Met Sally... lần đầu ra mắt dưới định dạng VHS vào cuối năm 1989, vài tháng sau khi công chiếu ở rạp. Phim tái phát hành trên VHS vào năm 1994 như là một phần trong bộ sưu tập của Billy Crystal và năm 1997 trong phiên bản Contemporary Classics. Phim phát hành dưới dạng DVD vào ngày 9 tháng 1 năm 2001. DVD bao gồm bộ phim, phần bình luận của Reiner, phóng sự dài 35 phút về việc thực hiện bộ phim ("Making Of", có cả các cuộc phỏng vấn ngắn với Reiner, Ephron, Ryan và Crystal), một số cảnh bị cắt khỏi bản phát hành ngoài rạp và một clip bài hát "It Had To Be You" do Harry Connick, Jr. biểu diễn. Ngày 15 tháng 1 năm 2008, một DVD đặc biệt cho người sưu tầm được phát hành với phần bình luận mới của Reiner, Ephron, Crystal, 8 cảnh bị cắt, 8 đoạn phim ngắn (featurette) chưa từng được phát hành (gồm It All Started Like This, Stories Of Love, When Rob Met Billy, Billy On Harry, I Love New York, What Harry Meeting Sally Meant, So Can Men And Women Really Be Friends?) và đoạn phim quảng cáo gốc. Trên định dạng Blu-ray phát hành ngày 5 tháng 7 năm 2011 còn có chứa những đoạn phim đặc biệt từ lần ra mắt DVD 2008. === Đánh giá === Các đánh giá đến When Harry Met Sally... đa phần là tích cực. Phim giành được tỉ lệ 89% tích cực trên Rotten Tomatoes, với lời tổng kết: "Bộ phim hài hước, cảm động của Rob Reiner đã nâng cao tiêu chuẩn cho thể loại hài kịch lãng mạn và thừa hưởng từ sự tương tác ăn ý giữa Billy Crystal và Meg Ryan". Trên Metacritic, bộ phim đạt 76 trên 100 điểm, dựa trên 17 bài nhận xét. Nhà phê bình phim hàng đầu Roger Ebert đã nhận xét Reiner là "một trong những đạo diễn phim hài xuất sắc nhất Hollywood" và rằng bộ phim "ngoài cấu trúc chuẩn mực theo đúng như mong đợi, còn trở nên đặc biệt nhờ sự phối hợp diễn xuất giữa Crystal và Ryan. Còn trên báo The New York Times, Caryn James lại cho rằng When Harry Met Sally... đã "lãng mạn hóa cuộc sống của những người New York thông minh, thành đạt nhưng đầu óc luôn căng thẳng", James cũng đánh giá đây là một "phiên bản hài kịch tình huống của Woody Allen, với đầy các câu thoại và cảnh phim hài hước, nhưng cũng làm người xem không thoải mái vì cảm giác có thể đoán trước được kết cục". Bài phê bình của Rita Kempley trên Washington Post thì ca ngợi Meg Ryan là "Melanie Griffith của mùa hè – một cô nàng tóc vàng đáng yêu cuối cùng cũng có cơ hội để bộc lộ sự cởi mở của mình. Mike Clark trên tờ USA Today đã chấm cho phim 3 trên 4 sao với nhận xét: "Crystal đủ hài hước để được khen ngợi bên cạnh diễn xuất của Ryan. Còn về Meg Ryan thì đây thực sự là vai diễn đột phá của cô, nó một lần nữa chứng tỏ con mắt tinh tế của Reiner trong việc chọn diễn viên". Một trong số các nhận xét tồi hiếm hoi về When Harry Met Sally... là của David Ansen trên Newsweek, ông cho rằng "không ngạc nhiên khi thấy Crystal nắm bắt rất tốt bộ phim hài này, tuy nhiên anh ta tỏ ra quá lạnh và thu mình cho một vai diễn lãng mạn như Harry", David cũng đánh giá bộ phim "có nhiều đoạn xuất sắc nhưng lại không được ghép nối tốt". == Di sản == Trong nhiều năm, When Harry Met Sally... đã trở thành "bộ phim tình cảm đương đại tinh túy vẫn sống cùng thời gian". Ephron chia sẻ mình vẫn nhận nhiều thư từ người hâm mộ bộ phim và "mọi người cứ liên tục kể với tôi rằng họ 'đang có một mối tình Harry-và-Sally với cô ấy hay anh ấy'." Phim nằm ở vị trí thứ 23 trong danh sách 100 phim hài của Viện phim Mỹ và danh sách "100 phim hài hước nhất" của Bravo's. Entertainment Weekly liệt bộ phim này vào danh sách "10 bộ phim lãng mạn hay nhất mọi thời đại", đạt hạng 75 tại danh sách "Phim hài hước nhất trong 25 năm qua" và thứ 3 trong danh sách "25 phim lãng mạn đương đại". Bộ phim được cho là nguồn cảm hứng với nhiều bộ phim lãng mạn hài hước khác như A Lot Like Love, Hum Tum và Definitely, Maybe. Ngoài ra, bộ phim cũng giúp truyền bá nhiều ý tưởng về mối quan hệ tình cảm quen thuộc trong đời sống. Vào tháng 6 năm 2008, Viện phim Mỹ công bố danh sách "Ten top Ten"—liệt kê 10 phim Mỹ "kinh điển" hay nhất thuộc 10 thể loại khác nhau—sau khi khảo sát 1.500 người trong ban chọn lọc. When Harry Met Sally đạt hạng 6 trong thể loại phim hài hước lãng mạn. Phim cũng đứng ở vị trí thứ 15 trong danh sách "25 phim lãng mạn hài hước hay nhất" trên trang Rotten Tomatoes. Nora Ephron đã giành nhiều đề cử và giải thưởng với kịch bản của When Harry Met Sally... Tại lễ trao giải Oscar lần thứ 62, bà được đề cử cho hạng mục "Kịch bản gốc hay nhất" nhưng thất bại trước Tom Schulman với kịch bản phim Dead Poets Society. Ephron chiến thắng giải giải thưởng của Viện Hàn lâm Nghệ thuật Điện ảnh và Truyền hình Anh quốc (BAFTA) cho "Kịch bản gốc hay nhất" vào năm 1990. Tại lễ trao giải Quả cầu vàng lần thứ 47, phim giành 5 đề cử cho "Phim ca nhạc hoặc hài kịch hay nhất", "Đạo diễn xuất sắc nhất" (cho Reiner), "Vai nam chính phim ca nhạc hoặc hài kịch xuất sắc nhất" (cho Billy Crystal), "Vai nữ chính phim ca nhạc hoặc hài kịch xuất sắc nhất" (cho Meg Ryan) và "Kịch bản xuất sắc nhất" (cho Nora Ephron). Đầu năm 2004, phim đã được chuyển thể thành vở kịch cùng tên và công chiếu tại Nhà hát Haymarket, hai người thủ vai Harry và Sally là Luke Perry và Alyson Hannigan, sau đó là Molly Ringwald và Michael Landes. == Tham khảo == == Liên kết ngoài == When Harry Met Sally... tại Internet Movie Database When Harry Met Sally... tại Allmovie When Harry Met Sally... tại Box Office Mojo When Harry Met Sally... tại Rotten Tomatoes When Harry Met Sally... tại Metacritic
tiếng hy lạp.txt
Tiếng Hy Lạp (Tiếng Hy Lạp hiện đại: ελληνικά [eliniˈka], elliniká, hoặc ελληνική γλώσσα [eliniˈci ˈɣlosa] (), ellinikí glóssa) là một ngôn ngữ Ấn-Âu, bản địa tại Hy Lạp, tây và đông bắc Tiểu Á, nam Ý, Albania và Síp. Nó có lịch sử ghi chép dài nhất trong tất cả ngôn ngữ còn tồn tại, kéo dài 34 thế kỷ. Bảng chữ cái Hy Lạp là hệ chữ viết chính để viết tiếng Hy Lạp; vài hệ chữ khác, như Linear B và hệ chữ tượng thanh âm tiết Síp, cũng từng được dùng. Bảng chữ cái Hy Lạp xuất phát từ bảng chữ cái Phoenicia, và sau đó đã trở thành cơ sở cho các hệ chữ Latinh, Kirin, Armenia, Copt, Goth và một số khác nữa. Tiếng Hy Lạp có một vị trí quan trọng trong lịch sử Thế giới phương Tây và Kitô giáo; nền văn học Hy Lạp cổ đại có những tác phẩm cực kỳ quan trọng và giàu ảnh hưởng lên văn học phương Tây, như Iliad và Odýsseia. Tiếng Hy Lạp cũng là ngôn ngữ mà nhiều văn bản nền tảng trong khoa học, đặc biệt là thiên văn học, toán học và logic, và triết học phương Tây, như những tác phẩm của Aristoteles, được sáng tác. Tân Ước trong Kinh Thánh được viết bằng tiếng Hy Lạp Koiné. Vào thời cổ đại Hy-La, tiếng Hy Lạp là một lingua franca, được sử dụng rộng rãi trong vùng ven Địa Trung Hãi. Nó trở thành ngôn ngữ chính thức của Đế quốc Byzantine, rồi phát triển thành tiếng Hy Lạp trung đại. Dạng hiện đại là ngôn ngữ chính thức của hai quốc gia, Hy Lạp và Síp, là ngôn ngữ thiểu số được công nhận tại bảy quốc gia khác, và là một trong 24 ngôn ngữ chính thức của Liên minh châu Âu. Ngôn ngữ này được nói bởi hơn 13 triệu người tại Hy Lạp, Síp, Ý, Albania, và Thổ Nhĩ Kỳ. == Lịch sử == Bài chính: Lịch sử tiếng Hy Lạp Tiếng Hy Lạp đã từng được nói ở bán đảo Balkan từ thiên niên kỷ thứ 2 trước CN. Bằng chứng sớm nhất được tìm thấy trên các bản Sách kẻ hàng B có từ năm 1500 TCN. Bảng chữ cái sử dụng đã được phỏng theo bảng chữ cái Phoenicia vào khoảng năm 1000 TCN và thông qua nhiều lần thay đổi, vẫn còn được dùng cho đến ngày nay. Ngôn ngữ này có hai thể chính đã được dùng kể từ thời trung cổ Hy Lạp: Dhimotiki (Δημοτική) là ngôn ngữ bình dân (tiếng bản xứ) và Katharevousa (Καθαρεύουσα) là ngôn ngữ mô phỏng tiếng Hy Lạp cổ điển và được dùng trong giới văn học, luật học và khoa học trong suốt thế kỷ thứ 19 đến đầu thế kỷ thứ 20. Tiếng Hy Lạp bình dân là ngôn ngữ chính thức của nhà nước Hy Lạp hiện đại, và là thứ tiếng được người Hy Lạp ngày nay sử dụng rộng rãi. Một vài học giả nhấn mạnh sự giống nhau giữa tiếng Hy Lạp hiện đại với các tiếng Hy Lạp cổ hàng thiên niên kỷ. Tuy nhiên, sự thông hiểu của nó với tiếng Hy Lạp cổ vẫn còn tranh luận. Người ta cho rằng một người nói tiếng Hy Lạp hiện đại "có trình độ" có thể đọc được các phương ngôn cổ, tuy vậy trình độ thế nào khi phải đối mặt với thứ từ vựng và ngữ pháp không còn dùng trong giao tiếp hàng ngày nữa là một vấn đề vẫn còn chưa rõ ràng. Tuy vậy người nói ngày nay vẫn có thể dễ dàng hiểu được. Tiếng Koinē hay Kiní (oi=ē=i) là một giai đoạn của tiếng Hy Lạp được dùng để viết Kinh thánh Tân Ước. Các dạng từ Hy Lạp tiếp tục có ảnh hưởng lớn đến từ vựng khoa học và kỹ thuật của thế giới, và thành phần lớn từ vựng kỹ thuật của nhiều thứ tiếng như Latinh, Ý, Đức, Pháp và Anh, v.d. astronomy, democracy, philosophy, thespian, anthropology, vân vân. Xem danh sách đầy đủ hơn tại Danh sách các từ tiếng Anh có gốc Hy Lạp và Danh sách các từ Hy Lạp với các từ phái sinh tiếng Anh. == Phân loại == Tiếng Hy Lạp là nguyên một nhánh độc lập của hệ Ấn-Âu và không có sinh ngữ nào có liên hệ gần với nó. Trong số các ngôn ngữ hiện đại, tiếng Armenia có vẻ là tiếng có liên hệ gần nhất. Tiếng Hy Lạp đã bị ảnh hưởng bởi các tiếng tại vùng Balkan và tiếng Thổ Nhĩ Kỳ. Đây là một ngôn ngữ chính thức của Hiệp hội Ngôn ngữ Balkan. == Địa vị chính thức == Hy Lạp là ngôn ngữ chính thức của Cộng hòa Hy Lạp là nơi có 98.5% dân số sử dụng. Nó cũng là ngôn ngữ chính thức của Cộng hòa Síp, cùng với tiếng Thổ Nhĩ Kỳ. == Phát âm == Phát âm của tiếng Hy Lạp hiện đại đã có thay đổi đáng kể so với tiếng Hy Lạp cổ, mặc dù chính tả hiện nay vẫn còn phản ánh những đặc điểm của thứ tiếng xưa. Những ví dụ dưới đây là để miêu tả tiếng Hy Lạp tại Aten vào thế kỷ thứ 5 trước CN. Mặc dù cách phát âm cổ không thể dựng lại chính xác, kể từ thời kỳ này tiếng Hy Lạp đặc biệt được ghi chép rất tốt, và giữa các học giả ít có bất đồng về trạng thái nguyên thủy của các âm. Xem W. Sidney Allen, Vox Graeca – một quyển sách hướng dẫn cách phát âm tiếng Hy Lạp cổ. Nhà xuất bản Đại học Cambridge, 1974. ISBN 0-521-20626-X. === Nguyên âm === Theo Bảng phiên âm quốc tế: ==== Tiếng Hy Lạp cổ đại – âm ngắn ==== Âm e ngắn (ε trong chính tả Hy Lạp) trong bảng này được coi là nguyên âm nửa kín [e] nhưng có lẽ là nó giống [ɛ] hơn. ==== Tiếng Hy Lạp cổ đại – âm dài ==== Âm [uː] (ου trong chính tả Hy Lạp) đã có thể là [oː] vào thế kỷ thứ năm. ==== Tiếng Hy Lạp hiện đại ==== Tiếng Hy Lạp hiện đại không còn phân biệt nguyên âm dài và nguyên âm ngắn. === Phụ âm === Theo Bảng phiên âm quốc tế: ==== Tiếng Hy Lạp cổ đại ==== Lưu ý: [z] là tha âm vị của [s], dùng trước các phụ âm kêu, và đặc biệt trong tổ hợp [zd] được viết như zêta (ζ). Âm [r ̥] (r không kêu) được viết như rho với hơi mạnh (ῥ) có thể là một tha âm vị của [r]. ==== Tiếng Hy Lạp hiện đại ==== === Âm vị học === Tiếng Hy Lạp có hiện tượng Sandhi, trong đó một số được viết ra còn một số thì không. ν trước âm đôi môi và vòm mềm được phát âm tương ứng là /m/ và /ŋ/, và được viết là μ (συμπάθεια) và γ (συγχρονίζω) khi có nó trong một từ. Từ ἐστὶ (estí, IPA /ˌɛsˈti/), có nghĩa là "là" trong tiếng Hy Lạp có được ν, còn mạo từ đổi cách τόν và τήν trong tiếng Hy Lạp hiện đại thì lại mất, tùy theo chữ bắt đầu của từ tiếp theo; hiện tượng này gọi là "nuy di động". Trong tón patéra (τον πατέρα), có nghĩa là "cha" (trạng đổi cách), từ đầu đọc là /tom/, còn trong tiếng Hy Lạp hiện đại (tiếng Hy Lạp cổ thì không thế, nó có âm /b/ riêng), từ sau đọc là /ˌbaˈtɛɾa/ do mp đọc là /mb/. === Thay đổi cách phát âm theo lịch sử === Thay đổi ngữ âm từ tiếng Hy Lạp cổ đại sang tiếng Hy Lạp hiện đại chủ yếu thể hiện ở sự giản lược hệ nguyên âm và một thay đổi ở một vài phụ âm nghiêng sang âm xát. Tiếng Hy Lạp cổ đại có năm nguyên âm ngắn, bảy nguyên âm dài, và rất nhiều nguyên âm đôi. Hệ thống này giờ giảm thành hệ năm nguyên âm. Đáng chú ý nhất là các nguyên âm i, ē, y, ei, oi đều biến thành i. Các nguyên âm b, d, g biến thành v, dh, gh (dh là /ð/ và gh là /ɣ/). Các nguyên âm bật hơi pʰ, tʰ, kʰ biến thành f, th, kh (trong đó cách phát âm mới của th là /θ/ và của kh là /x/). == Ngữ pháp == Tiếng Hy Lạp, như đa số các ngôn ngữ của hệ Ấn-Âu, biến tố khá mạnh. Chẳng hạn danh từ (bao gồm cả danh từ riêng) có năm cách (cách chủ ngữ, cách sở hữu, cách nhận, cách đổi và cách xưng hô), ba giống (đực, cái và trung), và ba số (số ít, số đôi và số nhiều). Động từ có bốn trạng (trạng trình bày, trạng mệnh lệnh, trạng cầu khẩn và trạng mong mỏi), ba thể (thể chủ động, thể trung gian và thể bị động), cũng như ba ngôi (ngôi thứ nhất, ngôi thứ hai và ngôi thứ ba) cùng nhiều biến tố khác. Tiếng Hy Lạp ngày nay nằm trong số ít các ngôn ngữ Ấn-Âu còn giữ được dạng bị động tổng hợp. Ngôn ngữ bình dân (Dhimotikí) đã không còn cách nhận, ngoại trừ trong một vài câu như εν τάξει (en táxei /ɛn ˈdaˌksi/), có nghĩa là "OK" (dịch sát nghĩa: "theo thứ tự"). Một thay đổi ngữ pháp đáng chú ý khác là việc mất trạng vô định, số đôi và sự giản lược của hệ tạo tiền tố ngữ pháp như thêm phụ tố và láy âm. == Hệ thống chữ viết == Về chữ viết, người Hy Lạp cổ đại đã dựa trên hệ thống chữ viết của người Phoenicia rồi cải tiến, bổ sung thành một hệ thống chữ cái mới gồm 24 chữ cái. Từ chữ cái Hy Lạp cổ sau này đã hình thành nên chữ cái Latinh và chữ cái Cyrill (của các ngôn ngữ gốc Slav). Đó là các cơ sở chữ cái mà nhiều dân tộc trên thế giới ngày nay đang sử dụng. Tiếng Hy Lạp viết bằng bảng chữ cái Hy Lạp có từ thế kỷ thứ 8 trước Công nguyên. Bảng chữ cái Hy Lạp bao gồm: Có 24 Chữ Hoa và 25 chữ thường (sigma có hai dạng, một dạng được dùng ở cuối từ): == Chữ số == Mỗi đơn vị (1, 2, …, 9), mỗi chục (10, 20, …, 90) và mỗi trăm (100, 200, …, 900) được biểu thị bằng một ký tự riêng. Điều này đòi hỏi có 27 ký tự, do đó 24 chữ cái Hy Lạp mở rộng bằng cách sử dụng ba ký tự cổ: digamma ϝ,(hoặc stigma ϛ hay trong tiếng Hy Lạp hiện đại là στ) cho số 6, qoppa ϟ cho số 90, và sampi ϡ cho số 900.. Trong tiếng Hy Lạp hiện đại, các ký tự viết hoa được ưa thích sử dụng hơn, ví dụ Φίλιππος Βʹ = Philip II. == Ví dụ == === Một vài từ và câu phổ biến === Người Hy Lạp (đàn ông): Έλληνας, IPA /ˈɛliˌnas/ Người Hy Lạp (đàn bà): Ελληνίδα /ˌɛliˈniða/ Tiếng Hy Lạp: Ελληνικά /ɛˌliniˈka/ hello: γειά /ʝa/ (thân mật), chỉ dùng để nói với người quen biết. Khi nói với người lạ phải dùng thể lịch sự hơn "chúc một ngày tốt lành": καλημέρα /ˌkaliˈmɛɾa/ tạm biệt: αντίο /aˈndiˌo/ (lịch sự), γειά /ʝa/ (thân mật, giống ở trên) làm ơn: παρακαλώ /paˌɾakaˈlo/ Làm ơn, tôi muốn ____: θα ήθελα ____ παρακαλώ /θa ˈiθɛˌla ____ paˌɾakaˈlo/ xin lỗi: συγνώμη /ˌsiˈɣnomi/ cảm ơn: ευχαριστώ /ɛˌfxaɾiˈsto/ đó/đây: αυτό /ˌaˈfto/ bao nhiêu?: πόσο; /ˈpoˌso/ nó giá bao nhiêu?: πόσο κοστίζει; /ˈpoˌso ˌkoˈstizi/ có: ναι /nɛ/ không: όχι /ˈoˌçi/ Tôi không hiểu: δεν καταλαβαίνω /ðɛŋ kaˌtalaˈvɛno/ Tôi không biết: δεν ξέρω /ðɛŋ ˈksɛˌɾo/ phòng tắm ở đâu?: πού είναι η τουαλέτα; /pu ˈiˌnɛ i ˌtuaˈlɛta/ bánh nướng: εις υγείαν! /is iˈʝiˌan/ nước trái cây: χυμός /ˌçiˈmos/ nước: νερό /ˌnɛˈɾo/ rượu: κρασί /ˌkɾaˈsi/ bia: μπύρα /ˈbiˌɾa/ sữa: γάλα /ˈɣaˌla/ Bạn nói được tiếng Anh không?: Μιλάτε Αγγλικά; /miˈlaˌtɛ ˌaŋgliˈka/ Anh (em) yêu em (anh): σ’ αγαπώ /ˌsaɣaˈpo/ Giúp tôi!: Βοήθεια! /voˈiθiˌa/ === Kinh của Chúa bằng tiếng Hy Lạp === Kinh của Chúa (Kinh Lạy Cha) bằng tiếng Hy Lạp, theo Matt. 6:9-13: Πάτερ ἡμῶν ὁ ἐν τοῖς οὐρανοῖς ἁγιασθήτω τὸ ὄνομά σου· ἐλθέτω ἡ βασιλεία σου· γενηθήτω τὸ θέλημά σου, ὡς ἐν οὐρανῷ καὶ ἐπὶ τῆς γῆς· τὸν ἄρτον ἡμῶν τὸν ἐπιούσιον δὸς ἡμῖν σήμερον· καὶ ἄφες ἡμῖν τὰ ὀφελήματα ἡμῶν, ὡς καὶ ἡμεῖς ἀφίεμεν τοῖς ὀφειλέταις ἡμῶν· καὶ μὴ εἰσενέγκῃς ἡμᾶς εἰς πειρασμόν, ἀλλὰ ρῦσαι ἡμᾶς ἀπὸ τοῦ πονηροῦ. Ὅτι σοῦ ἐστιν ἡ βασιλεία καὶ ἡ δύναμις καὶ ἡ δόξα εἰς τοὺς αἰῶνας· ἀμήν. Chuyển tự thành: Pater hēmōn, ho en tois ouranois hagiasthētō to onoma sou; elthetō hē basileia sou; genethetō to thelēma sou, hōs en ouranōi, kai epi tēs gēs; ton arton hēmōn ton epiousion dos hēmin sēmeron; kai aphes hēmin ta opheilēmata hēmōn, hōs kai hēmeis aphiemen tois opheiletais hēmōn; kai mē eisenenkēis hēmas eis peirasmon, alla rhusai hēmas apo tou ponērou. Hoti sou estin hē basileia, kai hē dúnamis, kai hē doxa eis tous aiōnas; amēn. === Kinh Tin Kính Nicaea bằng tiếng Hy Lạp === Kinh Tin Kính Nicaea bằng tiếng Hy Lạp: Πιστεύω εἰς ἕνα Θεόν, Πατέρα, παντοκράτορα, ποιητήν οὐρανοῦ καί γῆς, ὁρατῶν τε πάντων καί ἀοράτων. Καί εἰς ἕνα Κύριον Ἰησοῦν Χριστόν, τόν Υἱόν τοῦ Θεοῦ τόν μονογενῆ, τόν ἐκ τοῦ Πατρός γεννηθέντα πρό πάντων τῶν αἰώνων. Φῶς ἐκ φωτός, Θεόν ἀληθινόν ἐκ Θεοῦ ἀληθινοῦ, γεννηθέντα, οὐ ποιηθέντα, ὁμοούσιον τῷ Πατρί, δι’ οὗ τά πάντα ἐγένετο. Τόν δι’ ἡμᾶς τούς ἀνθρώπους καί διά τήν ἡμετέραν σωτηρίαν κατελθόντα ἐκ τῶν οὐρανῶν καί σαρκωθέντα ἐκ Πνεύματος Ἁγίου καί Μαρίας τῆς Παρθένου καί ἐνανθρωπήσαντα. Σταυρωθέντα τε ὑπέρ ἡμῶν ἐπί Ποντίου Πιλάτου καί παθόντα καί ταφέντα. Καί ἀναστάντα τῇ τρίτῃ ἡμέρᾳ κατά τάς Γραφάς. Καί ἀνελθόντα εἰς τούς οὐρανούς καί hκαθεζόμενον ἐκ δεξιῶν τοῦ Πατρός. Καί πάλιν ἐρχόμενον μετά δόξης κρῖναι ζῶντας καί νεκρούς, οὗ τῆς βασιλείας οὐκ ἔσται τέλος. Καί εἰς τό Πνεῦμα τό Ἅγιον, τό κύριον, τό ζωοποιόν, τό ἐκ τοῦ Πατρός ἐκπορευόμενον, ἐκπορευόμενον, καί Υἱῷ συμπροσκυνούμενον καί συνδοξαζόμενον, τό λαλῆσαν διά τῶν προφητῶν. Εἰς μίαν ἁγίαν, καθολικήν καί ἀποστολικήν Ἐκκλησίαν. Ὁμολογῶ ἕν βάπτισμα εἰς ἄφεσιν ἁμαρτιῶν. Προσδοκῶ ἀνάστασιν νεκρῶν. Καί ζωήν τοῦ μέλλοντος αἰῶνος. Ἀμήν. == Tham khảo == == Nguồn == W. Sidney Allen, Vox Graeca - sách hướng dẫn phát âm tiếng Hy Lạp cổ điển. Nhà xuất bản Đại học Cambridge, 1968-74. ISBN 0-521-20626-X Geoffrey Horrocks, Greek: A History of the Language and Its Speakers (Thư viện ngôn ngữ học Longman). Nhà xuất bản Addison Wesley, 1997. ISBN 0-582-30709-0 W. Sidney Allen, Vox Graeca - a guide to the pronunciation of classical Greek. Cambridge University Press, 1968-74. ISBN 0-521-20626-X Robert Browning, Medieval and Modern Greek, Cambridge University Press, 2nd edition 1983, ISBN 0-521-29978-0. An excellent and concise historical account of the development of modern Greek from the ancient language. Crosby and Schaeffer, An Introduction to Greek, Allyn and Bacon, Inc. 1928. A school grammar of ancient Greek Dionysius of Thrace, "Art of Grammar", "Τέχνη γραμματική", c.100 BC David Holton, Peter Mackridge, and Irene Philippaki-Warburton, Greek: A Comprehensive Grammar of the Modern Language, Routledge, 1997, ISBN 0-415-10002-X. A reference grammar of modern Greek. Geoffrey Horrocks, Greek: A History of the Language and Its Speakers (Longman Linguistics Library). Addison Wesley Publishing Company, 1997. ISBN 0-582-30709-0. From Mycenean to modern. Brian Newton, The Generative Interpretation of Dialect: A Study of Modern Greek Phonology, Cambridge University Press, 1972, ISBN 0-521-08497-0. Andrew Sihler, "A New Comparative Grammar of Greek and Latin", Oxford University Press, 1996. An historical grammar of ancient Greek from its Indo-European origins. Some eccentricities and no bibliography but a useful handbook to the earliest stages of Greek's development. Herbert Weir Smyth, Greek Grammar, Harvard University Press, 1956 (revised edition), ISBN 0-674-36250-0. The standard grammar of classical Greek. Focuses primarily on the Attic dialect, with comparatively weak treatment of the other dialects and the Homeric Kunstsprache. == Liên kết ngoài == Học đếm bằng tiếng Hy Lạp Hình động cùng âm thanh của các chữ cái trong bảng chữ cái Hy Lạp Tiểu sử Yiannis Psyxaris và tác động của quyển sách "Hành trình" của ông (Το ταξίδι μου) tới cuộc tranh luận về Ngôn ngữ thường và ngôn ngữ trong sáng Tiểu sử sơ lược Karkavitsas Văn học Hy Lạp hiện đại Văn học và ngôn ngữ Hy Lạp Lược sử tiếng Hy Lạp Tiếng Hy Lạp Dự án Perseus có nhiều thông tin bổ ích về văn học và ngôn ngữ cổ điển và từ điển. Tài liệu trực tuyến cho người học (tiếng Hy Lạp cổ đại và hiện đại) Athena, kiểu chữ Hy Lạp đa thanh âm thuộc sở hữu cộng đồng Gentium — một kiểu chữ cho các quốc gia, một kiểu chữ miễn phí có hỗ trợ tiếng Hy Lạp đa âm Câu hỏi và trả lời của cộng đồng về Hy Lạp và tiếng Hy Lạp Học các từ và câu Hy Lạp cơ bản và các văn tự của Xenophon Zolotas, Dr. Soukakos, Athnassopoulos và Kalaras Học tiếng Hy Lạp - Địa chỉ chính thức của Học viện Hy Lạp về ngôn ngữ và xử lý văn bản Học tiếng Hy Lạp trực tuyến, cho những người muốn khám phá vẻ đẹp của tiếng Hy Lạp hiện đại (có tập tin âm thanh, hoàn toàn miễn phí) Học tiếng Hy Lạp cổ Tại Textkit, bạn có thể tải xuống miễn phí các bài đọc và văn phạm tiếng Hy Lạp cổ. Bộ phát sinh văn bản in tiếng Hy Lạp Từ điển Hy Lạp–Anh, Anh–Hy Lạp. Từ điển Hy Lạp–Anh: lấy từ Từ điển trực tuyến Webster - bản Rosetta. Từ điển Hy Lạp–Tây Ban Nha. Từ điển Liên Hiệp châu Âu hai chiều giữa tiếng Hy Lạp với tất cả các ngôn ngữ của Liên Hiệp châu Âu (tiếng Đan Mạch, Hà Lan, Anh, Phần Lan, Pháp, Đức, Ý, Latinh, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Thụy Điển)
robert hooke.txt
Robert Hooke (1635 – 1703) là một nhà khoa học người Anh. Robert Hooke sinh ngày 18 tháng 9 năm 1635 tại đảo Wight ở ngoài khơi bờ biển phía nam của nước Anh. Cha của Robert là một giáo sĩ Tin Lành, qua đời khi cậu mới 13 tuổi. Vào lúc này, Robert chuyển lên thành phố London để học nghề với Sir Peter Lely, một họa sĩ đứng đầu về môn vẽ chân dung. Nhưng mặc dù Robert có tài, cây cọ và các chất liệu vẽ cũng như cách làm việc không thích hợp với sức khỏe yếu đuối của cậu. Robert Hooke đành thôi nghề hội họa, quay sang học một nghề chân tay khác. Tài khéo tay mà cậu được luyện tập vào thời gian này đã trở nên rất hữu ích cho Robert Hooke về sau. Khi qua đời, cha của Robert Hooke đã để lại cho con 100 bảng Anh. Đối với thời bấy giờ, đây là một số tiền rất lớn. Nhờ món tiền này, Robert theo học trường Westminster cho tới tuổi 18 rồi sau đó vào trường đại học Oxford. Trong các năm này, Robert làm nhiều công việc để kiếm thêm tiền đồng thời vẫn tỏ ra là một sinh viên xuất sắc. Trong khoảng thời gian theo đại học Oxford, Robert Hooke đã gặp Christopher Wren và Robert Boyle. Vào thời đó, Boyle hơn Hooke 8 tuổi và là một nhà khoa học xuất sắc lại giàu có. Boyle đã mướn Hooke làm người phụ tá cho mình trong phòng thí nghiệm. Nhiều người tin rằng các công trình nghiên cứu của Boyle, kể cả các định luật về chất khí, đều do khả năng tinh thần và tài khéo léo của Robert Hooke. Khi chiếc bơm chân không được chế tạo trong phòng thí nghiệm của Boyle và được mọi người gọi là chiếc máy của Boyle, chính ông Robert Boyle đã phải tuyên bố một cách công khai về công lao của Hooke trong việc thực hiện chiếc bơm này. Còn về Christopher Wren, nhà khoa học này rất nổi danh về Hình Học và vào năm 1660, trở nên Giáo sư Thiên Văn của trường đại học Oxford. Năm 1663, ông Wren bắt đầu vào nghề kiến trúc và đã nổi danh do vẽ kiểu nhà thờ Saint Paul của thành phố London. Tại nhà riêng của ông Wren, các nhà khoa học Anh đã tụ họp lại thành Trường Vô Hình để bàn luận về Khoa Học và sau đó, trường này trở thành Viện Khoa Học Hoàng Gia (The Royal Society). Vào năm 1662, Robert Hooke được bổ nhiệm làm trưởng ban khảo sát (curator of experiments) của Viện Khoa Học Hoàng Gia, lãnh nhiệm vụ thực hành lại các thí nghiệm cho các hội viên khác thấy rõ, nhờ vậy ông đã quen thuộc với mọi ngành khoa học thịnh hành vào thời bấy giờ. Robert Hooke được bầu làm hội viên của Viện Hoàng Gia vào năm 1663 và được bổ nhiệm làm Giáo sư Hình Học (Gresham Professor) của đại học Oxford vào năm 1665. Khi Viện Hoàng Gia nhận được các bức thư của Anton Van Leeuwenhoek mô tả những điều tìm thấy trong thế giới cực nhỏ, Viện đã hỏi mượn chiếc kính hiển vi của nhà phát minh người Hòa Lan kể trên nhưng bị khước từ. Robert Hooke được Viện giao phó cho việc kiểm chứng các khám phá của Van Leeuwenhoek, ông liền chế tạo một kính hiển vi kép rất hữu dụng rồi sau đó còn thực hiện hơn 60 công cuộc khảo sát bằng kính hiển vi, gồm cả sự khám phá ra tế bào thực vật. Hooke đã vẽ một cách rất tỉ mỉ những gì ông đã quan sát thấy, chẳng hạn như cách cấu tạo của lông chim, mắt ruồi, con rận, con bọ chét. Những bức vẽ giá trị này được ông phổ biến qua tác phẩm Micrographia xuất bản vào năm 1664. Như vậy Robert Hooke là người đã phổ biến cách chế tạo và cách dùng kính hiển vi, trong khi Van Leeuwenhoek được gọi là cha đẻ của thứ kính đó. Vào năm 1666, một trận hỏa hoạn rất lớn xảy ra tại thành phố London. 80 phần trăm thành phố bị thiêu rụi khi ngọn lửa được dập tắt. Công việc thiết kế lại thành phố được giao cho Christopher Wren và Wren đã thuê Robert Hooke làm phụ tá tại phòng kiến trúc. Chính Robert Hooke đã vẽ nhiều đồ án gồm những công sự xây cất vuông góc, với các đường phố thẳng góc với nhau. Nhưng mặc dù rất hoàn hảo, một số dự án bị bác bỏ vì sự phản đối của chủ nhân các tòa nhà còn lại. Cũng vì thế thành phố London ngày nay vẫn còn nhiều đường phố chật hẹp và nhọn góc. Robert Hooke là một nhà chế tạo dụng cụ khéo léo. Ông đã mang kiến thức về quang học của mình áp dụng vào việc đo lường thiên văn. Hooke cũng đã vẽ kiểu nhiều dụng cụ đo đạc hàng hải gồm cả dụng cụ đo bằng âm thanh và dụng cụ thu thập nước biển ở các chiều sâu khác nhau. Hooke còn cho ấn hành các tập san khí tượng dưới quyền bảo trợ của Viện Hoàng Gia. Ông cũng xác định sự ảnh hưởng tới thời tiết do cách xoay tròn của địa cầu và do sự bức xạ của mặt trời. Năm năm trước khi Isaac Newton phổ biến tác phẩm "Nguyên Lý" trong đó có nói về lực vạn vật hấp dẫn, Robert Hooke đã trình bày một bài về lực hấp dẫn trong vũ trụ. Tới khi tác phẩm của Newton ra đời, Hooke cho rằng Newton đã dùng kiến thức của mình mà không nói rõ ra. Vì vậy giữa hai nhà khoa học này đã xảy ra sự xích mích chua chát. Thực ra Newton đã lập ra công thức cho lý thuyết của ông 10 năm trước khi tác phẩm "Nguyên Lý" được xuất bản. Vào năm 1676, Robert Hooke phổ biến định luật đàn hồi theo đó độ dãn của lò xo thì tỉ lệ với sức kéo. Nguyên tắc này được áp dụng vào việc phát minh ra lò xo xoắn. Cách phân tích lò xo khiến cho ông phát minh ra đồng hồ. Vào thời bấy giờ, nhiều người đã dùng đồng hồ quả lắc nhưng phải đặt loại đồng hồ này tại một nơi cố định. Nếu mang lên tàu biển, đồng hồ sẽ chỉ sai giờ và sẽ chạy chậm lại nếu tới gần đường xích đạo do trọng lực giảm. Robert Hooke đã thay thế quả lắc bằng một bánh xe chao và dùng một lò xo cân bằng (balance spring) dao động theo nhịp độ đều đều chung quanh tâm. Lần này, Hooke đã thành công trong cách cải tiến đồng hồ nhưng một phát minh tương tự đã được Christian Huygens thực hiện và cầu chứng vào năm 1675, vì vậy lại xảy ra vụ xích mích, nhưng sau đó giới khoa học đều đồng ý rằng Hooke đã khám phá ra trước và bằng phát minh của Huygens vẫn có giá trị. Tại Viện Khoa Học Hoàng Gia, Robert Hooke đã giữ chân tổng thư ký cho tới năm 1682, rồi khi không còn đảm nhiệm chức vụ này, ông vẫn gửi các bài khảo cứu tới Viện. Robert Hooke không lập gia đình. Ông chỉ có một người cháu gái sinh sống với ông để coi sóc công việc nội trợ. Hai năm sau khi ông qua đời vào năm 1703, các tập sách ghi chú của ông được xuất bản với 400,000 chữ, chứng tỏ kiến thức của ông rất rộng rãi về nhiều phương diện khoa học./. Nguồn: http://vietsciences.free.fr/ == Tham khảo ==
gigabyte.txt
Bản mẫu:Quantities of bytes Gigabyte (từ tiền tố giga- của SI) là đơn vị thông tin hoặc khả năng lưu giữ thông tin của bộ nhớ máy tính, bằng một tỷ byte hoặc 230 byte (1024 mebibyte). Gigabyte thường được viết tắt là GB (không nhầm lẫn với Gb, có nghĩa là gigabit). Việc sử dụng từ "gigabyte" khá nhập nhằng, phụ thuộc vào ngữ cảnh. Khi đề cập đến kích thước RAM và tập tin, nó nguyên thủy là định nghĩa nhị phân, bằng 10243 byte (có thể đồng nhất hoặc xấp xỉ 10003, để thuận tiện). Với cách dùng khác, nó bằng chính xác 10003. Để thể hiện sự nhập nhằng này, hiện nay hầu hết các cơ quan tiêu chuẩn đề nghị sử dụng thuật ngữ "gibibyte" (viết tắt là GiB) để chỉ khái niệm nhị phân. == Định nghĩa == Có hai cách định nghĩa gigabyte hơi khác nhau tồn tại: 1.000.000.000 byte hay 109 byte là định nghĩa theo hệ thập phân dùng trong truyền thông (như tốc độ mạng) và phần lớn nhà sản xuất thiết bị lưu trữ (ổ cứng và ổ USB). Cách dùng này tuân thủ quy tắc của SI. 1.073.741.824 byte, bằng 10243, hoặc 230 byte. Định nghĩa này thường được dùng cho bộ nhớ máy tính, khoa học máy tính, hệ điều hành. Từ 1999, IEC đề nghị gọi đơn vị này là gibibyte (viết tắt là GiB) để phân biệt với tên gọi trong hệ SI. Microsoft sử dụng định nghĩa này để hiển thị kích thước ổ cứng, những hệ điều hành khác cũng vậy. Tất cả các hệ điều hành sử dụng định nghĩa này khi đề cập đến kích thước tập tin. == Gigabytes và gigabits == Trong cách quy ước hiện đại, một byte bằng 8 bit. Một gigabyte tương đương với 8 gigabit. == Sự rắc rối cho người dùng == Vào năm 2007, phần lớn ổ cứng được bán ra định nghĩa dung lượng theo gigabyte của họ. Dung lượng thật thường lớn hơn hay nhỏ cách dùng thông thường. Mặc dù phần lớn nhà sản xuất ổ cứng và ổ Flash định nghĩa 1 gigabyte là 1.000.000.000 byte, hệ điều hành máy tính mà phần lớn mọi người sử dụng thường tính một gigabyte bằng cách chia byte (bất kể nó là dung lượng ổ cứng, kích thước tập tin, hay RAM hệ thống) cho 1.073.741.824. Sự khác biệt này là lý do gây ra hoang mang, đặc biệt đối với những người không biết kỹ thuật, vì một ổ cứng mà nhà sản xuất quy định là có dung lượng 40 gigabyte có thể hệ điều hành báo chỉ có 37,2 GB, tùy vào loại báo cáo. Sự khác nhau giữa tiền tố SI và nhị phân là lôgarít — hay nói cách khác, một kilobyte SI bằng gần 98% một kibibyte, nhưng một megabyte thì bằng dưới 96% một mebibyte, và một gigabyte chỉ hơn 93% gibibyte. Điều đó có nghĩa là ổ cứng 500 GB sẽ chỉ hiển thị "465 GB". Khi kích thước lưu trữ ngày càng lớn và sử dụng đơn vị ngày càng cao, sự chênh lệch này sẽ càng ngày càng lớn. Chú ý rằng bộ nhớ máy tính được diễn tả bằng cơ số 2, theo như thiết kế, cho nên kích thước bộ nhớ luôn là lũy thừa của 2 (hoặc số liên quan gần, ví dụ như 384 MiB = 3×227 byte). Do đó thuận tiện khi làm việc với RAM bằng đơn vị nhị phân. Sự đo lường máy tính khác, như kích thước lưu trữ phần cứng, mức truyền dữ liệu, tốc độ xung đồng hồ, FLOP, vân vân..., không sử dụng cơ số đó, và thường được giới thiệu bằng đơn vị thập phân. Một ví dụ, có một ổ cứng có thể chứa chính xác 140×109 hay 140 tỷ byte sau khi định dạng. Nói chung, hệ điều hành tính kích thước đĩa và tập tin dùng số nhị phân, do đó ổ cứng 140 GB này sẽ được báo là "130,38 GB". Kết quả là có một sự không nhất quán rõ ràng giữa thứ mà người mua mua và thứ hệ điều hành nói họ đang có. Vài người dùng cảm thấy bị hớ khi thấy sự khác nhau, và cho rằng nhà sản xuất ổ cứng và thiết bị truyền dữ liệu đang sử dụng thước đo thập phân là một cách cố tình để giảm con số xuống, mặc dù sự đo lường là bình thường trong các lĩnh vực khác ngoài bộ nhớ máy tính. Vài tranh chấp pháp lý xuất phát từ sự nhập nhằng này. Cơ sở của rắc rối dĩ nhiên là định nghĩa chính thức của đơn vị SI không được biết đến rộng rãi, và vài sự hòa giải pháp lý bao gồm những cách để nhà sản xuất sử dụng thông tin rõ ràng hơn, như mô tả dung lượng ổ cứng bằng cả GB và GiB. == Việc sử dụng GB == Nhiễm sắc thể người chứa 0,791175 GB dữ liệu (3.1647×109 cặp [1] biểu diễn như 2-bit). Một đĩa định dạng DVD-5 có thể lưu trữ 4,7 gigabyte, hoặc xấp xỉ 4,38 gibibyte. Một DVD-9 có thể lưu trữ 8,5 gigabyte, hoặc xấp xỉ 7,92 gibibyte. Một gigabyte xấp xỉ bằng 18 giờ nhạc MP3 (ở 128 kbit/s). Một gigabyte tương đương xấp xỉ với 11 giờ, 40 phút phim Flash (ở phân giải 450x370). Phần lớn máy chơi game thế hệ 6 và tất cả máy thế hệ 7 có đĩa game khoảng 1 GB hay nhiều hơn: Dreamcast (1,1 GB), Nintendo GameCube (1,5 GB), PlayStation 2, Xbox, Xbox 360, and Wii (8,5 GB), and PlayStation 3 (25/50 GB). Đĩa hai lớp Blu-ray và HD DVD có thể chứa lần lượt khoảng 50 gigabyte và 30 gigabyte dữ liệu. == Xem thêm == Gibibyte Gigabit Tiền tố nhị phân Chuẩn bộ nhớ JEDEC Orders of magnitude (data) == Tham khảo ==
mặt trận tổ quốc việt nam.txt
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là một bộ phận cấu thành hệ thống chính trị của nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam , là tổ chức liên minh chính trị, liên hiệp tự nguyện của tổ chức chính trị, các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội và các cá nhân tiêu biểu trong các giai cấp, các tầng lớp xã hội, các dân tộc, các tôn giáo và người Việt Nam định cư ở nước ngoài. Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. == Vai trò == Điều 9 của Hiến pháp nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam (1992) quy định: Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân. Mặt trận phát huy truyền thống đoàn kết toàn dân, tăng cường sự nhất trí về chính trị và tinh thần trong nhân dân, tham gia xây dựng và củng cố chính quyền nhân dân, cùng Nhà nước chăm lo và bảo vệ lợi ích chính đáng của nhân dân, động viên nhân dân thực hiện quyền làm chủ, nghiêm chỉnh thi hành Hiến pháp và pháp luật, giám sát hoạt động của cơ quan Nhà nước, đại biểu dân cử và cán bộ, viên chức Nhà nước. Nhà nước tạo điều kiện để Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên hoạt động có hiệu quả. ...là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân, nơi thể hiện ý chí, nguyện vọng, tập hợp khối đại đoàn kết toàn dân, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, nơi hiệp thương, phối hợp và thống nhất hành động của các thành viên, góp phần giữ vững độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ, thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh. Trong các cuộc bầu cử quốc hội tại Việt Nam, các ứng cử viên đều phải được Mặt trận Tổ quốc phê chuẩn để đưa vào danh sách ứng cử viên. Đồng thời, Mặt trận Tổ quốc còn đảm nhiệm việc giám sát cuộc bầu cử. Cơ quan ngôn luận: Báo Đại đoàn kết Thạc sĩ Nguyễn Khắc Giang thuộc nhóm nghiên cứu của Viện Nghiên cứu Kinh tế và Chính sách (VEPR) qua công trình nghiên cứu “Ước lượng chi phí kinh tế cho các tổ chức QCC ở Việt Nam” cho biết, MTTQ được hưởng nhiều ưu đãi từ nhà nước và xã hội, được phân bổ ngân sách hoạt động, tuy vậy, chi phí kinh tế và hiệu quả hoạt động của tổ chức này vẫn là một câu hỏi lớn chưa có lời đáp.. == Lịch sử == === Các tổ chức tiền thân === Sau khi Đảng Cộng sản Việt Nam được thành lập, các lãnh đạo Đảng đã quyết định sẽ thành lập một tổ chức ngoại biên là Mặt trận Dân tộc thống nhất, nhằm tập hợp và lãnh đạo quần chúng. Trong Án nghị quyết về vấn đề phản đế tại Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương tháng 10 năm 1930 đã nêu rõ sự cấp thiết phải thành lập Mặt trận Thống nhất phản đế (một tên gọi được thay đổi của Mặt trận Dân tộc thống nhất). Ngay khi phong trào Xô viết Nghệ Tĩnh nổ ra, ngày 18 tháng 11 năm 1930, Ban thường vụ Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương ra Chỉ thị thành lập Hội phản đế đồng minh, hình thức đầu tiên của Mặt trận Dân tộc thống nhất, dưới sự lãnh đạo của Đảng. Về sau, ngày này trở thành ngày kỷ niệm truyền thống, còn gọi là Ngày hội đại đoàn kết toàn dân tộc, của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Xô viết Nghệ Tĩnh bị chính quyền thực dân đàn áp khốc liệt, nhanh chóng tan rã. Các tổ chức của Đảng Cộng sản bị truy lùng và khủng bố, hoạt động Hội phản đế đồng minh cũng vì thế mà bị tê liệt. Khi phong trào Mặt trận bình dân Pháp lên nắm quyền, có xu hướng thiên tả và cởi mở hơn tại thuộc địa. Các tổ chức của Đảng Cộng sản Đông Dương được phục hồi và hoạt động trở lại. Tháng 3 năm 1935, Đại hội Đảng lần thứ nhất đã thông qua nghị quyết về công tác Phản đế liên minh, quyết định thành lập và thông qua điều lệ của tổ chức nhằm tập hợp tất cả các lực lượng phản đế toàn Đông dương. Điều lệ của Phản đế liên minh rộng và linh hoạt hơn Điều lệ Hội phản đế đồng minh. Tháng 7 năm 1936, Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương họp tại Thượng Hải (Trung Quốc) đã quyết định thành lập Mặt trận nhân dân phản đế Đông Dương nhằm tập hợp rộng rãi các giai tầng, đảng phái, các đoàn thể chính trị, tôn giáo khác nhau để đấu tranh đòi những quyền dân chủ tối thiểu, phù hợp với Mặt trận Bình dân ở Pháp.. Tháng 8 năm 1936, Đảng Cộng sản Đông Dương gửi bức thư ngỏ gửi cho Chính phủ Mặt trận nhân dân Pháp, bày tỏ sự đồng minh với nhân dân Pháp, kêu gọi ban hành một số quyền tự do dân chủ cơ bản cho nhân dân Đông Dương và hô hào "tất cả các đảng phái chính trị, tất cả các tầng lớp nhân dân Đông Dương tham gia Mặt trận nhân dân Đông Dương".. Bức thư cũng nêu 12 nguyện vọng cụ thể làm cơ sở cho Đông Dương Đại hội, công khia việc tập hợp lực lượng của Mặt trận. Ngày 30 tháng 10 năm 1936, Mặt trận tuyên bố chính thức thành lập và phổ biến tài liệu Chung quanh vấn đề chính sách mới. Từ tháng 9 năm 1937, một loạt các tổ chức ngoại vi của Mặt trên như Thanh niên Dân chủ Đông Dương, Hội Cứu tế bình dân, Công hội, Nông hội ra đời cùng với việc hoạt động công khai và nửa công khai của các tổ chức quần chúng như hội ái hữu, tương tế, các hội hoạt động âm nhạc... Tháng 3 năm 1938, Mặt trận nhân dân phản đế Đông Dương đổi tên thành Mặt trận thống nhất dân chủ Đông Dương, gọi tắt là Mặt trận dân chủ Đông Dương. Sau khi chính phủ Mặt trận bình dân Pháp sụp đổ, chính quyền thực dân siết chặt hoạt động của các phong trào dân chủ. Tuy nhiên, dù rút vào bí mật, Đảng Cộng sản Đông Dương vẫn tiếp tục chỉ đạo các hoạt động công khai và bán công khai của Mặt trận, dần đưa từ hình thức phong trào, đi vào tính chất của một tổ chức. Tháng 9 năm 1939, Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ. Tại Đông Dương, chính quyền thực dân ban bố tình trạng thời chiến, đàn áp thẳng tay Mặt trận Dân chủ Đông Dương. Tháng 11 năm 1939, Đảng Cộng sản Đông Dương đã chuyển hướng chỉ đạo, chuyển các hoạt động của Mặt trận Dân chủ thành hoạt động của Mặt trận Dân tộc thống nhất phản đế Đông Dương, nhằm liên hiệp tất cả các dân tộc Đông Dương, các giai tầng, đảng phái, cá nhân có tinh thần phản đế muốn giải phóng dân tộc chống đế quốc, phát triển dưới hình thức bí mật và công khai. === Việt Minh và Liên Việt === Năm 1940, quân Nhật kéo vào Đông Dương. Tại Hội nghị Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương lần thứ 8, theo đề nghị của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, Mặt trận dân tộc thống nhất chống phát xít Pháp Nhật với tên gọi Việt Nam Độc lập đồng minh Hội, gọi tắt là Việt Minh, được thành lập ngày 19 tháng 5 năm 1941, lấy cờ đỏ sao vàng năm cánh làm cờ của Việt Minh và làm cờ tổ quốc "khi thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa". Chủ trương của Mặt trận bấy giờ là nhằm tranh thủ sự ủng hộ của lực lượng đồng minh (Liên Xô, Mỹ, Anh, Pháp, Trung Quốc), đồng thời tập hợp lực lượng, chờ thời cơ đấu tranh giành chính quyền về tay nhân dân. Lực lượng Việt Minh phát triển nhanh chóng, trở thành lực lượng chính trị quan trọng giành chính quyền tại Việt Nam khi Thế chiến kết thúc và quân Nhật đầu hàng Đồng Minh. Ngày 16 và 17 tháng 8 năm 1945, Tổng bộ Việt Minh đã tổ chức Đại hội Quốc dân tại Tân Trào, thông qua lệnh Tổng khởi nghĩa, quyết định quốc kỳ, quốc ca và cử ra Ủy ban giải phóng dân tộc, tức Chính phủ lâm thời do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch. Khi đã giành được chính quyền trên toàn quốc, ngày 2 tháng 9 năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ lâm thời đọc Tuyên ngôn độc lập, thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, đại biểu Tổng bộ Việt Minh Nguyễn Lương Bằng đọc lời hiệu triệu đồng bào cả nước. Khi quân Pháp tái chiếm Đông Dương, lực lượng Việt Minh là thành phần nòng cốt của chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, huy động dân chúng kháng chiến chống Pháp. Trên thực tế, các đảng viên Cộng sản đều hoạt động dưới danh nghĩa cán bộ Việt Minh do Đảng Cộng sản Đông Dương đã tuyên bố tự giải tán. Do đó, nhằm mở rộng hơn nữa khối đoàn kết dân tộc, các lãnh đạo Cộng sản đã hình thành một Ban vận động thành lập Hội liên hiệp quốc dân Việt Nam, gọi tắt là Hội Liên Việt, gồm 27 người, với đại biểu Việt Minh là Hồ Chí Minh, chính thức ra mắt ngày 29 tháng 5 năm 1946. Năm 1951, Đảng Lao động Việt Nam ra công khai. Mặt trận Việt Minh và Hội Liên Việt được hợp nhất thành Mặt trận Liên Việt ngày 3 tháng 3 năm 1951. === Các tổ chức ở hai miền Nam Bắc trong chiến tranh === Sau năm 1954, Việt Nam bị chia thành hai miền Nam Bắc với hai chính thể khác nhau. Mục tiêu của nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tại miền Bắc là tiến tới hòa hợp thống nhất đất nước. Đảng Lao động Việt Nam quyết định chủ trương thành lập một tổ chức chính trị mới là Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (gồm Đảng Lao động, Đảng Dân chủ, Đảng Xã hội,...) thay thế Mặt trận Liên Việt, tham gia cuộc tổng tuyển cử thống nhất đất nước. Sau đó nhiệm vụ của Mặt trận là huy động lực lượng toàn dân tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam. Ngày 10 tháng 9 năm 1955, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam ra đời với mục đích "đoàn kết mọi lực lượng dân tộc và dân chủ, đấu tranh đánh bại đế quốc Mỹ xâm lược và tay sai, xây dựng một nước Việt Nam hoà bình thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh". Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã động viên đồng bào và chiến sĩ chống chiến tranh phá hoại Mỹ và ủng hộ cuộc cách mạng tại miền Nam. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cũng tích cực tham gia cải tạo Xã hội chủ nghĩa đối với nông nghiệp, thủ công nghiệp, thương nghiệp nhỏ và giúp đỡ các nhà tư sản dân tộc thông suốt chính sách làm cho cuộc cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh tiến hành thuận lợi, đạt kết quả. Mặt trận cũng thực hiện việc động viên nhân dân tham gia bầu cử Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp, xây dựng chính quyền, phát triển sản xuất, xây dựng kinh tế, cải tạo văn hóa - tư tưởng tại miền Bắc. === Thống nhất === Sau khi Việt Nam thống nhất, các lãnh đạo của 3 tổ chức chính trị ngoại vi hợp pháp đang tồn tại ở Việt Nam gồm Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam, Liên minh các lực lượng Dân tộc Dân chủ và Hòa bình Việt Nam đã thành lập Ban trù bị Mặt trận Dân tộc thống nhất từ mùa thu năm 1976, gồm đại biểu của 3 tổ chức: Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam, Liên minh các lực lượng Dân tộc Dân chủ và Hoà bình Việt Nam để bàn việc thống nhất thành một tổ chức chính trị thống nhất. Trong kỳ họp từ 31 tháng 1 đến 4 tháng 2 năm 1977 tại thành phố Hồ Chí Minh, thống nhất ba tổ chức này thành một tổ chức chính trị duy nhất lấy tên là Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. == Biểu trưng == Biểu trưng của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam thống nhất được thông qua tại Kỳ họp thứ nhất Đại hội thứ nhất Mặt trận Tổ quốc Việt Nam năm 1977. Biểu trưng hình tròn tượng trưng cho khối thống nhất dân tộc chung mục đích xây dựng một nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh. Nền biểu trưng là lá cờ tổ quốc với sao vàng trên nền đỏ. Hoa sen trắng cách điệu tượng trưng cho hình tượng Hồ chủ tịch, vị lãnh tụ vĩ đại, người đã sáng lập ra Mặt trận Dân tộc thống nhất nay là Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Những cánh sen liên kết thành một khối chính là sự đoàn kết thống nhất chính trị của tất cả người Việt Nam yêu nước. Đường ngoài vòng cung cách điệu hai nhánh lúa nâng dòng chữ Mặt trận Tổ quốc. Phía dưới là nửa bánh xe cách điệu tượng trưng cho giai cấp công nhân, giai cấp tiên phong trong sự nghiệp cách mạng == Các kỳ đại hội của Mặt trận Tổ quốc (mới) == === Đại hội lần thứ I === Thời gian: 31/1 đến 4/2/1977 Địa điểm: Hội trường Thống nhất, Thành phố Hồ Chí Minh Nhân sự:Chủ tịch danh dự: Tôn Đức Thắng:Chủ tịch: Hoàng Quốc Việt:Tổng Thư ký: Nguyễn Văn Tiến === Đại hội lần thứ II === Thời gian: 12 đến 14/5/1983 Địa điểm: Hội trường Ba Đình, Hà Nội Nhân sự; Chủ tịch danh dự: Hoàng Quốc Việt:Chủ tịch: Huỳnh Tấn Phát:Tổng Thư ký: Nguyễn Văn Tiến === Đại hội lần thứ III === Thời gian: 2 đến 4/11/1988 Địa điểm: Hội trường Ba Đình, Hà Nội Nhân sự:Chủ tịch danh dự: Hoàng Quốc Việt:Chủ tịch: Nguyễn Hữu Thọ:Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký: Phạm Văn Kiết === Đại hội lần thứ IV === Thời gian: 17 đến 19/8/1994 Địa điểm: Hội trường Ba Đình, Hà Nội Nhân sự:Chủ tịch danh dự: Nguyễn Hữu Thọ:Chủ tịch: Lê Quang Đạo:Tổng Thư ký: Trần Văn Đăng === Đại hội lần thứ V === Thời gian: 26 đến 28/8/1999 Địa điểm: Hội trường Ba Đình, Hà Nội Nhân sự:Chủ tịch: Phạm Thế Duyệt:Tổng Thư ký: Trần Văn Đăng === Đại hội lần thứ VI === Thời gian: 21 đến 23/9/2004 Địa điểm: Hội trường Ba Đình, Hà Nội Nhân sự: Chủ tịch: Phạm Thế Duyệt đến ngày 9 tháng 1 năm 2008 - (xin nghỉ hưu) Huỳnh Đảm từ ngày 9 tháng 1 năm 2008 (tại Hội nghị lần thứ 5 Uỷ ban TW MTTQ Việt Nam (khoá IV)) Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký: Huỳnh Đảm đến ngày 9 tháng 1 năm 2008 (tại Hội nghị lần thứ 5 Uỷ ban TW MTTQ Việt Nam (khoá IV)) Vũ Trọng Kim từ ngày 9 tháng 1 năm 2008 (tại Hội nghị lần thứ 5 Uỷ ban TW MTTQ Việt Nam (khoá IV)) === Đại hội lần thứ VII === Thời gian: 28 đến 30/9/2009 Địa điểm: Trung tâm Hội nghị Quốc gia Mỹ Đình, Hà Nội Nhân sự:Chủ tịch: Huỳnh Đảm, Nguyễn Thiện Nhân từ ngày 05 tháng 9 năm 2013 (tại Hội nghị lần thứ 6 UBTW MTTQ VN) Phó chủ tịch kiêm tổng thư ký: Vũ Trọng Kim === Đại hội lần thứ VIII === Thời gian: 25 đến 27/9/2014 Địa điểm: Trung tâm Hội nghị Quốc gia Mỹ Đình, Hà Nội Nhân sự: Chủ tịch: Nguyễn Thiện Nhân Phó chủ tịch kiêm Tổng thư ký: Vũ Trọng Kim (đến 4/2016); Trần Thanh Mẫn (từ 04/2016) == Tổ chức thành viên == Đảng Cộng sản Việt Nam Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam Hội Nông dân Việt Nam Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam Hội Cựu chiến binh Việt Nam Quân đội Nhân dân Việt Nam Liên hiệp các hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam Hiệp hội các hội Văn học - Nghệ thuật Việt Nam Liên hiệp các tổ chức Hữu nghị Việt Nam Hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam Liên minh Hợp tác xã Việt Nam Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam Hội Chữ thập đỏ Việt Nam Hội Luật gia Việt Nam Hội Nhà báo Việt Nam Giáo hội Phật giáo Việt Nam Uỷ ban Đoàn kết Công giáo Việt Nam Hội Làm vườn Việt Nam Hội Người mù Việt Nam Hội Sinh vật cảnh Việt Nam Hội Đông y Việt Nam Tổng hội Y dược học Việt Nam Hội Người cao tuổi Việt Nam Hội Kế hoạch hoá gia đình Việt Nam Hội Khuyến học Việt Nam Hội Bảo trợ tàn tật và Trẻ mồ côi Việt Nam Hội Châm cứu Việt Nam Tổng hội Thánh Tin lành Việt Nam Hội Liên lạc với người Việt Nam ở nước ngoài Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam Hội Nạn nhân chất độc da cam/đioxin Việt Nam Hội Mỹ nghệ - Kim hoàn - Đá quý Việt Nam Hội Cựu Giáo chức Việt Nam Hội Xuất bản - In - Phát hành sách Việt Nam Hội Nghề cá Việt Nam Hiệp hội Sản xuất kinh doanh của Người tàn tật Việt Nam Hội Cứu trợ trẻ em tàn tật Việt Nam Hội Y tế Cộng đồng Việt Nam Hội Cựu Thanh niên xung phong Việt Nam Hiệp hội Các trường Đại học, Cao đẳng ngoài công lập Việt Nam Hiệp hội Doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam Hội Doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt-Đức Hiệp hội Làng nghề Việt Nam Đảng Cộng sản Việt Nam là tổ chức thành viên và hạt nhân lãnh đạo của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. == Hội đồng tư vấn == Hội đồng tư vấn về lĩnh vực Văn hoá - Xã hội Hội đồng tư vấn về Đối ngoại và Kiều bào Hội đồng tư vấn về Kinh tế Hội đồng tư vấn về Dân tộc Hội đồng tư vấn về Khoa học - Giáo dục Hội đồng tư vấn về Tôn giáo Hội đồng tư vấn về Dân chủ Pháp luật == Tham khảo == == Liên kết ngoài == Trang chính thức của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam Mặt trận Tổ quốc Việt Nam những chặng đường lịch sử qua các kỳ Đại hội, trên báo Nhân dân Trang chính thức của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Thành phố Hồ Chí Minh
sông niger.txt
Sông Niger là một con sông quan trọng ở tây châu Phi, có chiều dài 4470 km (hơn 3000 dặm). Con sông chảy theo hình lưỡi liềm qua Guinée, Mali, Niger, dọc biên giới Bénin rồi chảy vào Nigeria giữa một bình nguyên lớn, tức châu thổ sông Niger, rồi đổ vào vịnh Guinea. Đây là con sông lớn thứ ba ở châu Phi, chỉ kém sông Nin và sông Congo. Phụ lưu chính của nó là sông Benue. == Từ nguyên == Niger được gọi là Jeliba hay Joliba "sông lớn" trong tiếng Manding; Orimiri hay Orimili "sông lớn" trong tiếng Igbo; Egerew n-Igerewen "sông của các sông" trong tiếng Tuareg; Isa Ber "sông lớn" trong tiếng Songhay; Kwara trong tiếng Hausa; và Oya trong tiếng Yoruba. Nguồn gốc của tên gọi Niger, chỉ dùng cho đoạn sông giữa, không được rõ. Nhiều khả năng là sự thay đổi do ảnh hưởng của tiếng Latinh niger "đen", từ tên gọi trong tiếng Tuareg egerew n-igerewen, tên gọi đã được sử dụng từ lâu để chỉ đoạn sông giữa chảy qua Timbuktu. Vì Timbuktu từng là điểm cuối cùng phía nam của tuyến thương mại qua Sahara đến phía tây của Địa Trung Hải, nó là nguồn của kiến thức hầu hết về châu Âu của khu vực. Các bản đồ châu Âu thời Trung cổ dùng tên Niger cho đoạn giữa của sông, ở Mali hiện đại, nhưng Quorra (Kworra) đến hạ nguồn ở Nigeria hiện đại, vì chúng không được xem là cùng một con sông. Khi các thế lực thuộc địa châu Âu bắt đầu đưa tàu thuyền đến dọc theo bờ biển tây của châu Phi vào thế kỷ 16 và 17, sông Senegal thường được xem là phần cuối hướng ra biển của Niger. Châu thổ Niger, đổ nước vào Đại Tây Dương qua các đầm lầy rừng ngập mặn và hành ngàn chi lưu kéo dài song song hàng trăm dặm, từng được cho là không có các vùng đất ngập nước ven biển. Vào thế kỷ 18, Mungo Park đã đi dọc theo sông River và viếng thăm đế quốc Sahelian thời đó, do vậy người châu Âu xác định chính xác các đoạn của Niger, và dùng tên này cho cả con sông. Các quốc gia hiện nay như Nigeria và Niger lấy tên của họ từ tên sông, đánh dấu các ranh giới quốc gia của các cường quốc thực dân châu Âu gồm "thương lưu", "hạ lưu" và "trung lưu" của lưu vực sông Niger trong suốt Scramble for Africa vào cuối thế kỷ 19. == Địa lý == Sông Niger là một sông tương đối "trong", chỉ tải khoảng 1/10 so với lượng vật chất trong sông Nin do thượng nguồng của sông Niger nằm trên các đá cổ cung cấp rất ít hạt kích thước bột. Giống như sông Nin, sông Niger có lũ hàng năm, bắt đầu vào tháng 9, đạt đỉnh vào tháng 11 và kết thúc vào tháng 5. Các địa hình bất thường của sông là đồng bằng châu thổ nội Niger, nó hình thành nơi mà gradien dòng chảy giảm đột ngột. Kết quả là hình thành một vùng các sông bện tết, đầm lầy, và các hồ có kích thước cỡ nước Bỉ; lũ theo mùa làm cho năng suất về các và nông nghiệp rất cao. Dòng sông mất gần 2/3 năng lượng dòng chảy ở châu thổ này giữa Ségou và Timbuktu do thấm và bốc hơi. Tất cả nước từ sông Bani chảy vào châu thổ tại Mopti cũng không bù được lượng nước mất đi này. Khả năng mất trung bình ước tính khoảng 31 km3/năm, nhưng có sự thay đổi đáng kể giữa các năm. Dòng sông sau đó hợp lưu với rất nhiều nhánh, nhưng lại càng mất đi nhiều nước hơn do bốc hơi. Lượng nước chảy vào Nigeria đo tại Yola vào khoảng 25 km3/năm trước thập niên 1980 và khoảng 13,5 km3/năm trong suốt thập niên 1980. Chi lưu quan trọng nhất của sông Niger ở Nigeria là sông Benue, nó hợp chảy vào Niger tại Lokoja ở Nigeria. Tổng thể tích của các chi lưu ở Nigeria nhiều gắp 6 lần dòng chảy vào Nigeria, với dòng chảy tại cửa sông ở mức 177,0 km3/năm trước thập niên 1980 và 147,3 km3/năm trong thập niên 1980. == Hình dạng sông bất thường == Sông Niger có dòng chảy bất thường so với bất kỳ sông lớn nào trên thế giới, nó có hình giống boomerang làm cho các nhà địa lý châu Âu bối rối trong hai thế kỷ. Thượng nguồn của nó cách bờ biển Đại Tây Dương chỉ 240 km, nhưng dòng sông chảy ngược về phía đất liền theo hướng về sa mạc Sahara, sau đó vòng 90 độ sang phải gần thành phố cổ Timbuktu (Tombouctou) và thẳng tiến về phía đông nam đến vịnh Guinea. Yếu tố địa lý lạ này có thể là do sông Niger từng do hai con sông cổ nối vào nhau, phần sông Niger nằm cao hơn ở phía tây của Timbuktu đến khúc uốn cong của sông hiện tại ở gần Timbuktu, phần còn sót lại hiện là một hồ không ở đông-đông bắc của Timbuktu, trong khi phần sông Niger nằm thấp hơn đã từng bắt đầu từ phía nam của Timbuktu và chảy về phía nam vào vịnh Guinea. Theo thời gian, xâm thực về phía thượng nguồn của sông Niger thấp hơn gây ra sự cướp dòng hay đoạt dòng sông Niger nằm cao hơn. Phần phía bắc của dòng sông được gọi là Niger bend, là một khi vực quan trọng bởi vì nó là sông chính và là nguồn cung cấp nước cho một phần của sa mạc Sahara. Điều này làm cho nó là điểm tập trung của các tuyến thương mại qua vùng tây Sahara, và là trung tâm của vương quốc Sahelian của Mali và Gao. Xung quanh lưu vực sông Niger là một trong những phần địa lý riêng việt của tỉnh Sudan, vùng này lại là một phần của vùng địa lý riêng biệt khối châu Phi. == Chú thích == == Tham khảo == Reader, John (2001), Africa, Washington, D.C.: National Geographic Society, ISBN 0-620-25506-4 Thomson, J. Oliver (1948), History of Ancient Geography, Biblo & Tannen Publishers, ISBN 0-8196-0143-8 Welcomme, R.L. (1986), “The Niger River System”, trong Davies, Bryan Robert; Walker, Keith F., The Ecology of River Systems, Springer, tr. 9–60, ISBN 90-6193-540-7 == Liên kết == Information and a map of the Niger's watershed Map of the Niger River basin at Water Resources eAtlas Niger Currents: Exploring life and technology along the Niger River
dương ngọc thái.txt
Dương Ngọc Thái sinh ngày 26 tháng 6 năm năm 1979 tại Thành phố Hồ Chí Minh, quê gốc tại Quảng Ngãi. Anh được biết đến với vai trò là ca sĩ hát dòng nhạc trữ tình dân ca. == Cuộc đời và Sự nghiệp == Năm 1998, Dương Ngọc Thái thi đậu vào trường Cao đẳng văn hóa nghệ thuật Thành phố Hồ Chí Minh khoa thanh nhạc khóa 4. Trong 3 năm học ở trường, Ngọc Thái luôn giữ vững danh hiệu sinh viên xuất sắc và tốt nghiệp với cùng danh hiệu đó. Ra trường, với thành tích học tập nổi trội và được các thầy cô giáo tiến cử. Năm 2001, Dương Ngọc Thái được Sở Văn hóa Thông tin [[Thành phố Hồ Chí Minh|Thành phố Hồ Chí Minh]] chọn đi lưu diễn ở Nhật Bản trong chương trình "Osaka in the World" cùng với các ca sĩ đàn anh đàn chị. Sau một tháng ở Nhật trở về với sự ủng hộ nhiệt thành của kiều bào xa quê, cái tên Dương Ngọc Thái dù còn rất mới nhưng đã trở thành một lựa chọn hàng đầu của những người yêu mến dòng nhạc quê hương. Hãng đĩa Vafaco khi ấy đã làm hẳn một album nhạc Quê hương chọn lọc chủ đề "Đất khách quê người" với 3 giọng ca được "chọn mặt gửi vàng" là Hương Lan, Vân Khánh và Dương Ngọc Thái. Niềm vui của cậu sinh viên vừa tốt nghiệp như nhân lên khi bỗng nhiên được đứng chung với các ca sĩ đàn chị, cùng với sự động viên của thầy cô, bè bạn, và niềm đam mê dân ca từ nhỏ, Ngọc Thái quyết định sẽ gắn bó tên tuổi của mình với dòng nhạc quê hương. Năm 2003, Ngọc Thái phát hành album "Hương sắc miền nam" và đến năm 2005 thì có album song ca với Hương Lan là "Nợ em một khúc dân ca" chiếm được tình cảm của một bộ phận công chúng yêu thích dòng nhạc trữ tình dân ca. == Album đã phát hành == tyuy == LiveShow Một Thoáng Quê Hương == === Liveshow 2009 === Sau liveshow Một thoáng quê hương 2 gây nhiều ấn tượng với khán giả tại sân khấu Lan Anh. === Liveshow 2010 === Liveshow được chia làm 2 phần:"Tình yêu và tuổi trẻ" và "Tình yêu và quê hương",được tổ chức tại sân khấu nhà hát Hòa Bình (đường 3/2, quận 10, [[Thành phố Hồ Chí Minh|Thành phố Hồ Chí Minh]]) vào đêm 18 tháng 6 năm 2011 với sự tham gia của nhiều ca sĩ như Giao Linh, Ngọc Sơn, Phi Nhung, Cẩm Ly, Uyên Trang, Phạm Thanh Thảo, Hà My, Triệu Ái Vi, Nhật Kim Anh, Saka Trương Tuyền… cùng các danh hài nổi tiếng như Chí Tài, Tấn Beo – Tấn Bo, Hiếu Hiền và đặc biệt là nữ nghệ sĩ cải lương Quế Trân, Thanh Ngân. Chương trình còn có sự góp mặt của các người đẹp, diễn viên Thân Thúy Hà. == Chú thích ==
1976.txt
Theo lịch Gregory, năm 1976 (số La Mã: MCMLXXVI) là một năm nhuận bắt đầu từ ngày thứ năm. Bản mẫu:Tháng trong năm 1976 == Sự kiện == === Tháng 1 === 1 tháng 1: Rudolf Gnägi trở thành tổng thống Thụy Sĩ 24 tháng 1: Động đất ở Muradiye, Thổ Nhĩ Kỳ, khoảng 3,85 người chết === Tháng 2 === 19 tháng 2: Iceland cắt đứt quan hệ ngoại giao với Vương quốc Anh. 4 tháng 2: Động đất trong Guatemala, hơn 12 người chết === Tháng 3 === 29 tháng 3: Lực lượng quân đội cuối cùng của Anh rời khỏi Maldives === Tháng 4 === 1 tháng 4: Steve Jobs và Steve Wozniak thành lập công ty Apple Computer === Tháng 5 === 6 tháng 5: Động đất trong Ý, khoảng 1 người chết === Tháng 6 === 25 tháng 6: Động đất 7,1 độ trong Neuguinea, 1 người chết 29 tháng 6: Seychelles độc lập === Tháng 7 === 1 tháng 7: Adolfo Suárez trở thành thủ tướng Tây Ban Nha. 2 tháng 7: Quốc hội Việt Nam nhất trí lấy tên nước là Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam 16 tháng 7: Suriname trở thành thành viên trong UNESCO 27 tháng 7: Động đất 7,8 độ trong Tangshan, 150 km về phía nam của Bắc Kinh, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, khoảng 1 người chết; thiên tai lớn nhất của thế kỉ thứ 20 === Tháng 8 === 16 tháng 8: Động đất 7,9 độ Richter trong Mindanao, Philippines, khoảng 8.000 người chết === Tháng 9 === 21 tháng 9: Seychelles trở thành thành viên Liên Hiệp Quốc === Tháng 10 === 4 tháng 10: Papua-Neuguinea trở thành thành viên trong UNESCO 5 tháng 10: Hoa Quốc Phong, Diệp Kiếm Anh, Uông Đông Hưng mật nghị quyết trừ khử tứ nhân bang 6 tháng 10: Tứ nhân bang bị bắt, cách mạng văn hóa kết thúc 11 tháng 10: Mozambique trở thành thành viên trong UNESCO 18 tháng 10: Seychelles trở thành thành viên trong UNESCO === Tháng 11 === 24 tháng 11: Động đất 7,3 độ trong Nga và trong Iran, khoảng 5 người chết === Tháng 12 === 1 tháng 12: Angola trở thành thành viên Liên Hiệp Quốc 15 tháng 12: Samoa trở thành thành viên Liên Hiệp Quốc == Sinh == === Tháng 1 === 1 tháng 1: Nguyễn Xuân Anh, bí thư thành ủy Đà Nẵng (Việt Nam) 2 tháng 1: Danilo di Luca, tay đua xe đạp Ý 2 tháng 1: Paz Vega, nữ diễn viên Tây Ban Nha 3 tháng 1: Lee Hyung-Taik, vận động viên quần vợt Hàn Quốc 4 tháng 1: August Diehl, diễn viên Đức 6 tháng 1: David Di Michele, cầu thủ bóng đá Ý 7 tháng 1: Marcelo José Bordon, cầu thủ bóng đá Brasil 8 tháng 1: Jenny Lewis, nữ ca sĩ Mỹ 9 tháng 1: Simon Gosejohann, diễn viên Đức 9 tháng 1: Amy Gillett, nữ vận động viên đua xe đạp Úc (mất 2005) 13 tháng 1: Mario Yepes, cầu thủ bóng đá Colombia 16 tháng 1: Eva Habermann, nữ diễn viên Đức 16 tháng 1: Debbie Ferguson, nữ vận động viên điền kinh, huy chương Thế Vận Hội 17 tháng 1: Tonique Williams-Darling, nữ vận động viên điền kinh của Bahamas 20 tháng 1: Til Bettenstaedt, cầu thủ bóng đá Đức 21 tháng 1: Emma Bunton, nữ ca sĩ Anh 21 tháng 1: Igors Stepanovs, cầu thủ bóng đá 23 tháng 1: Carsten Schneider, chính trị gia Đức, nghị sĩ quốc hội liên bang 27 tháng 1: Diana Herold, người mẫu 29 tháng 1: Karsten Kroon, tay đua xe đạp Hà Lan 31 tháng 1: Traianos Dellas, cầu thủ bóng đá Hy Lạp === Tháng 2 === 5 tháng 2: John Aloisi, cầu thủ bóng đá Úc 5 tháng 2: Abhishek Bachchan, diễn viên Ấn Độ 9 tháng 2: Ionela Tîrlea-Manolache, nữ vận động viên điền kinh Romania 11 tháng 2: Alexandra Neldel, nữ diễn viên Đức 11 tháng 2: Ricardo, cầu thủ bóng đá Bồ Đào Nha 11 tháng 2: Alenka Dovzan, nữ vận động viên chạy ski Slovenia 12 tháng 2: Sylvia Saint, nữ diễn viên phim khiêu dâm 13 tháng 2: Leslie Feist, nữ ca sĩ nhạc pop Canada 15 tháng 2: Francisco Neri, cầu thủ bóng đá Brasil 15 tháng 2: Óscar Freire, tay đua xe đạp Tây Ban Nha 17 tháng 2: Benjamin-Immanuel Hoff, chính trị gia Đức 17 tháng 2: Almira Skriptschenko, người đánh cờ Pháp 22 tháng 2: Christopher Isegwe, vận động viên điền kinh 23 tháng 2: Kelly Macdonald, nữ diễn viên Scotland 24 tháng 2: Bradley McGee, tay đua xe đạp Úc 26 tháng 2: Andreas Nauroth, cầu thủ bóng đá Đức 26 tháng 2: Mauro Lustrinelli, cầu thủ bóng đá Thụy Sĩ 27 tháng 2: Ludovic Capelle, tay đua xe đạp Bỉ 27 tháng 2: Rhea Harder, nữ diễn viên Đức 29 tháng 2: Milaim Rama, cầu thủ bóng đá Thụy Sĩ === Tháng 3 === 2 tháng 3: França, cầu thủ bóng đá Brasil 3 tháng 3: Natalia Kukulska, nữ ca sĩ nhạc pop Ba Lan 4 tháng 3: Kristof Magnusson, nhà văn Đức 4 tháng 3: Christian Weidner, nhạc sĩ nhạc jazz Đức 5 tháng 3: Tomáš Martinec, vận động viên khúc côn cầu trên băng Đức 5 tháng 3: Carsten Cullmann, cầu thủ bóng đá Đức 8 tháng 3: Freddie Prinze jr., diễn viên Mỹ 9 tháng 3: Anier Garcia, vận động viên điền kinh Cuba 9 tháng 3: Francisco Mancebo, tay đua xe đạp Tây Ban Nha 10 tháng 3: Eladio Jiménez, tay đua xe đạp Tây Ban Nha 10 tháng 3: Barbara Schett, nữ vận động viên quần vợt Áo 12 tháng 3: Andreas Erm, vận động viên điền kinh Đức 14 tháng 3: Sarah Ulmer, tay đua xe đạp New Zealand 16 tháng 3: Pál Dárdai, cầu thủ bóng đá Hungary 19 tháng 3: Alessandro Nesta, cầu thủ bóng đá Ý 19 tháng 3: Rachel Blanchard, nữ diễn viên Canada 20 tháng 3: Jens Petersen, nhà văn Đức, bác sĩ 22 tháng 3: Sven Butenschön, vận động viên khúc côn cầu trên băng 22 tháng 3: Reese Witherspoon, nữ diễn viên Mỹ 24 tháng 3: Peyton Manning, cầu thủ football Mỹ 25 tháng 3: Wladimir Klitschko, võ sĩ quyền Anh Ukraina 26 tháng 3: Amy Smart, nữ diễn viên Mỹ 26 tháng 3: Alex Varas, cầu thủ bóng đá Chile 27 tháng 3: Natacza Boon, nữ diễn viên Anh 29 tháng 3: Igor Astarloa, tay đua xe đạp Tây Ban Nha 29 tháng 3: Jennifer Capriati, nữ vận động viên quần vợt Mỹ 30 tháng 3: Obadele Thompson, vận động viên điền kinh 31 tháng 3: Colin Farrell, diễn viên Ireland === Tháng 4 === 1 tháng 4: Gábor Király, cầu thủ bóng đá Hungary 3 tháng 4: Matthew Goode, diễn viên Anh 4 tháng 4: Ferreira da Rosa Emerson, cầu thủ bóng đá Brasil 5 tháng 4: Kai Michalke, cầu thủ bóng đá Đức 5 tháng 4: Patrick Dama, cầu thủ bóng đá Đức 5 tháng 4: Kim Collins, vận động viên điền kinh St. Kitts, Nevis 5 tháng 4: Fernando Morientes, cầu thủ bóng đá Tây Ban Nha 6 tháng 4: Candace Cameron, nữ diễn viên Mỹ 7 tháng 4: Martin Buß, vận động viên điền kinh Đức 8 tháng 4: Mathias Schober, cầu thủ bóng đá Đức 13 tháng 4: Jonathan Brandis, diễn viên Mỹ (mất 2003) 14 tháng 4: Françoise Mbango Etone, nữ vận động viên điền kinh, huy chương Thế Vận Hội 15 tháng 4: Markus Hausweiler, cầu thủ bóng đá Đức 15 tháng 4: Seigo Narazaki, cầu thủ bóng đá Nhật Bản 16 tháng 4: Igor Tudor, cầu thủ bóng đá Croatia 17 tháng 4: Sizzla, nam ca sĩ 22 tháng 4: Christian Wilhelmi, người đánh cờ Đức 24 tháng 4: Juan Manuel Gárate, tay đua xe đạp Tây Ban Nha 25 tháng 4: Rainer Schüttler, vận động viên quần vợt Đức 25 tháng 4: Gilberto da Silva Melo, cầu thủ bóng đá Brasil 25 tháng 4: Tim Duncan, cầu thủ bóng rổ Mỹ 26 tháng 4: Peter Kehl, chính trị gia Đức 28 tháng 4: Melissa Joan Hart, nữ diễn viên Mỹ === Tháng 5 === 2 tháng 5: Sabina Hank, nghệ sĩ dương cầm Áo, nhà soạn nhạc 3 tháng 5: Beto, cầu thủ bóng đá Bồ Đào Nha 4 tháng 5: Simon Jentzsch, cầu thủ bóng đá Đức 5 tháng 5: Juan Pablo Sorín, cầu thủ bóng đá Argentina 7 tháng 5: Jana Voosen, nữ diễn viên Đức 13 tháng 5: Marcelo Pletsch, cầu thủ bóng đá Brasil 14 tháng 5: Attila Tököli, cầu thủ bóng đá Hungary 14 tháng 5: Martine McCutcheon, nữ ca sĩ Anh, nữ diễn viên 14 tháng 5: Benjamin Quabeck, đạo diễn phim Đức 15 tháng 5: Jacek Krzynówek, cầu thủ bóng đá Ba Lan 18 tháng 5: Anna Ottosson, nữ vận động viên chạy ski Thụy Điển 19 tháng 5: Kevin Garnett, cầu thủ bóng rổ Mỹ 21 tháng 5: Deron Miller, nhạc sĩ Mỹ 25 tháng 5: Cillian Murphy, diễn viên Ireland 25 tháng 5: Stefan Holm, vận động viên điền kinh Thụy Điển 27 tháng 5: Jiří Štajner, cầu thủ bóng đá Séc 27 tháng 5: Rjd2, nhạc sĩ Mỹ 30 tháng 5: Magnus Norman, vận động viên quần vợt Thụy Điển 31 tháng 5: Steve Jenkner, người đua mô tô Đức === Tháng 6 === 1 tháng 6: Melanie Oßwald, nữ chính trị gia Đức, nghị sĩ quốc hội liên bang 1 tháng 6: Alexander Scheer, diễn viên Đức 3 tháng 6: Jens Kruppa, vận động viên bơi lội Đức 4 tháng 6: Kasey Chambers, nữ ca sĩ nhạc đồng quê Úc 8 tháng 6: Aziz Zakari, vận động viên điền kinh 8 tháng 6: Lindsay Davenport, nữ vận động viên quần vợt Mỹ 8 tháng 6: Eion Bailey, diễn viên Mỹ 12 tháng 6: Thomas Sørensen, cầu thủ bóng đá Đan Mạch 12 tháng 6: Katja Husen, nữ chính trị gia Đức, nghị sĩ quốc hội liên bang 18 tháng 6: Thomas Riedl, cầu thủ bóng đá Đức 20 tháng 6: Juliano Belletti, cầu thủ bóng đá Brasil 21 tháng 6: Miroslav Karhan, cầu thủ bóng đá Slovakia 23 tháng 6: Patrick Vieira, cầu thủ bóng đá Pháp 25 tháng 6: José Cancela, cầu thủ bóng đá 28 tháng 6: Hans Sarpei, cầu thủ bóng đá === Tháng 7 === 1 tháng 7: Szymon Ziółkowski, vận động viên điền kinh Ba Lan 1 tháng 7: Rigobert Song, cầu thủ bóng đá 1 tháng 7: Patrick Kluivert, cầu thủ bóng đá Hà Lan 1 tháng 7: Ruud van Nistelrooy, cầu thủ bóng đá Hà Lan 2 tháng 7: Tomáš Vokoun, vận động viên khúc côn cầu trên băng Séc 2 tháng 7: Krisztián Lisztes, cầu thủ bóng đá Hungary 3 tháng 7: Shane Lynch, nam ca sĩ Ireland 5 tháng 7: Nuno Gomes, cầu thủ bóng đá Bồ Đào Nha 8 tháng 7: Wang Liping, nữ vận động viên điền kinh Trung Hoa, huy chương Thế Vận Hội 9 tháng 7: Thomas Cichon, cầu thủ bóng đá Đức 9 tháng 7: Jochem Uytdehaage, vận động viên chạy đua trên băng Hà Lan 10 tháng 7: Lars Ricken, cầu thủ bóng đá Đức 10 tháng 7: Ludovic Giuly, cầu thủ bóng đá Pháp 10 tháng 7: Elijah Blue Allman, nam ca sĩ Mỹ, người chơi đàn ghita 11 tháng 7: Christina Scherwin, nữ vận động viên điền kinh Đan Mạch 14 tháng 7: Monique Covet, nữ diễn viên phim khiêu dâm Hungary 15 tháng 7: Diane Kruger, nữ diễn viên Đức 15 tháng 7: Fredrick Canon, vận động viên điền kinh 16 tháng 7: Claudia Riegler, nữ vận động viên chạy ski New Zealand 19 tháng 7: Nikita Denise, nữ diễn viên phim khiêu dâm Séc 20 tháng 7: Michal Kolomazník, cầu thủ bóng đá Séc 21 tháng 7: Wahid Haschemian, cầu thủ bóng đá 22 tháng 7: Janek Tombak, tay đua xe đạp Estonia 23 tháng 7: Judith Arndt, nữ vận động viên đua xe đạp Đức 23 tháng 7: Jörg Jaksche, tay đua xe đạp Đức 23 tháng 7: Judit Polgár, người đánh cờ Hungary 24 tháng 7: Josef Heynert, diễn viên Đức 24 tháng 7: Rafer Alston, cầu thủ bóng rổ Mỹ 25 tháng 7: Stephane Rideau, diễn viên Pháp 25 tháng 7: Tera Patrick, Mỹ người mẫu, nữ diễn viên phim khiêu dâm 26 tháng 7: Pavel Pardo, cầu thủ bóng đá Mexico 31 tháng 7: Paulo Wanchope, cầu thủ bóng đá === Tháng 8 === 1 tháng 8: Nwankwo Kanu, cầu thủ bóng đá 1 tháng 8: Liviu-Dieter Nisipeanu, người đánh cờ Romania 1 tháng 8: Hasan Şaş, cầu thủ bóng đá Thổ Nhĩ Kỳ 9 tháng 8: Rhona Mitra, nữ diễn viên Anh 9 tháng 8: Christoph Baumann, nhà sản xuất Đức, đạo diễn phim, diễn viên 15 tháng 8: Boudewijn Zenden, cầu thủ bóng đá Hà Lan 17 tháng 8: Olena Krasowska, nữ vận động viên điền kinh Ukraina 23 tháng 8: LaTasha Colander, nữ vận động viên điền kinh Mỹ 27 tháng 8: Sarah Chalke, nữ diễn viên Canada 27 tháng 8: Carlos Moya, vận động viên quần vợt Tây Ban Nha 29 tháng 8: Jon Dahl Tomasson, cầu thủ bóng đá Đan Mạch 31 tháng 8: Roque Junior, cầu thủ bóng đá Brasil 31 tháng 8: Vincent Delerm, nam ca sĩ Pháp, nhà soạn nhạc === Tháng 9 === 1 tháng 9: Ivano Brugnetti, vận động viên điền kinh Ý 3 tháng 9: Samuel Osei Kuffour, cầu thủ bóng đá 3 tháng 9: Sebastian Büttner, tác giả Đức, nhà báo 6 tháng 9: Tom Pappas, vận động viên điền kinh Mỹ 8 tháng 9: Sjeng Schalken, vận động viên quần vợt Hà Lan 9 tháng 9: Lucia Moniz, nữ ca sĩ Bồ Đào Nha, nữ diễn viên 11 tháng 9: Marco Rose, cầu thủ bóng đá Đức 12 tháng 9: Jolanda Čeplak, nữ vận động viên điền kinh Slovenia 13 tháng 9: José Théodore, vận động viên khúc côn cầu trên băng Canada 13 tháng 9: Reto von Arx, vận động viên khúc côn cầu trên băng Thụy Sĩ 19 tháng 9: Oscar Sevilla, tay đua xe đạp Tây Ban Nha 20 tháng 9: Stephanie McMahon, nữ doanh nhân Mỹ 21 tháng 9: Jana Kandarr, nữ vận động viên quần vợt Đức 22 tháng 9: Ronaldo, cầu thủ bóng đá Brasil 22 tháng 9: Yannick Pelletier, người đánh cờ Thụy Sĩ 25 tháng 9: Armando Teixeira, cầu thủ bóng đá Bồ Đào Nha 26 tháng 9: Michael Ballack, cầu thủ bóng đá Đức 27 tháng 9: Francesco Totti, cầu thủ bóng đá Ý 29 tháng 9: Andrij Schewtschenko, cầu thủ bóng đá Ukraina === Tháng 10 === 1 tháng 10: Ümit Karan, cầu thủ bóng đá Thổ Nhĩ Kỳ 3 tháng 10: Christian Hassa, cầu thủ bóng đá Đức 3 tháng 10: Seann William Scott, diễn viên Mỹ 4 tháng 10: Alicia Silverstone, nữ diễn viên Mỹ 5 tháng 10: Sven Lintjens, cầu thủ bóng đá Đức 7 tháng 10: Gilberto Silva, cầu thủ bóng đá Brasil 8 tháng 10: Renate Groenewold, nữ vận động viên chạy đua trên băng Hà Lan 9 tháng 10: Mia Aegerter, nữ ca sĩ nhạc pop Thụy Sĩ, nữ diễn viên 9 tháng 10: Roland Kollmann, cầu thủ bóng đá Áo 10 tháng 10: Lewan Tskitischwili, cầu thủ bóng đá 11 tháng 10: Emily Deschanel, nữ diễn viên Mỹ 11 tháng 10: Jochen Seitz, cầu thủ bóng đá Đức 18 tháng 10: Kjell Carlström, tay đua xe đạp Phần Lan 19 tháng 10: Omar Gooding, diễn viên 21 tháng 10: Mélanie Turgeon, nữ vận động viên chạy ski Canada 22 tháng 10: Jan Dittrich, chính trị gia Đức 31 tháng 10: José María Gutiérrez, cầu thủ bóng đá Tây Ban Nha === Tháng 11 === 1 tháng 11: Stefan Lexa, cầu thủ bóng đá Áo 4 tháng 11: Daniel Bahr, chính trị gia Đức 4 tháng 11: Alexander Popp, vận động viên quần vợt Đức 6 tháng 11: Robson Ponte, cầu thủ bóng đá Brasil 6 tháng 11: Pat Tillman, cầu thủ football Mỹ (mất 2004) 8 tháng 11: Jawhar Mnari, cầu thủ bóng đá 9 tháng 11: Danzel, nhạc sĩ 11 tháng 11: Mike Leon Grosch, nam ca sĩ Đức 12 tháng 11: Tevin Campbell, nam ca sĩ, nhà soạn nhạc 13 tháng 11: Kelly Sotherton, nữ vận động viên điền kinh Anh 14 tháng 11: Chris Demetral, diễn viên Mỹ 15 tháng 11: Virginie Ledoyen, nữ diễn viên Pháp, người mẫu 18 tháng 11: Tina bá tước, nữ diễn viên Đức 18 tháng 11: Ervin Skela, cầu thủ bóng đá Albania 19 tháng 11: Toby Stevenson, vận động viên điền kinh Mỹ 20 tháng 11: Pascal Roller, cầu thủ bóng rổ Đức 22 tháng 11: Torsten Frings, cầu thủ bóng đá Đức 22 tháng 11: Ville Valo, nhạc sĩ nhạc rock Phần Lan 24 tháng 11: Lu Chen, nữ vận động viên trượt băng nghệ thuật Trung Hoa 25 tháng 11: Norman Liebold, nhà văn Đức, nghệ nhân, diễn viên 27 tháng 11: Jaleel White, diễn viên Mỹ === Tháng 12 === 1 tháng 12: David Rasmussen, cầu thủ bóng đá Đan Mạch 4 tháng 12: Mbo Mpenza, cầu thủ bóng đá Bỉ 8 tháng 12: Dominic Monaghan, diễn viên Anh 11 tháng 12: László Bodrogi, tay đua xe đạp Hungary 12 tháng 12: Jana Ina Berenhauser, nữ diễn viên, người mẫu 12 tháng 12: Ivo Rüthemann, vận động viên khúc côn cầu trên băng Thụy Sĩ 23 tháng 12: Joanna Hayes, nữ vận động viên điền kinh Mỹ, người đoạt huy chương Thế Vận Hội 29 tháng 12: Michal Hvorecký, tác giả Slovakia, nhà báo 30 tháng 12: Karin Ammerer, nhà văn Áo == Mất == 5 tháng 1: Gustav Geierhaas, nhà soạn nhạc Đức (sinh 1888) 8 tháng 1: Chu Ân Lai, thủ tướng Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa (sinh 1898) 9 tháng 1: Rupert Wildt, nhà thiên văn học (sinh 1905) 10 tháng 1: Howlin' Wolf, nhạc sĩ blues Mỹ (sinh 1910) 11 tháng 1: Werner March, kiến trúc sư Đức (sinh 1894) 12 tháng 1: Agatha Christie, nữ nhà văn thể loại hình sự Anh (sinh 1890) 13 tháng 1: Mona Rüster, nữ vận động viên bóng bàn Đức (sinh 1901) 18 tháng 1: Friedrich Hollaender, nhà soạn nhạc Đức (sinh 1896) 18 tháng 1: Gertrud Gabl, nữ vận động viên chạy ski Áo (sinh 1948) 19 tháng 1: Hidetsugu Yagi, nhà vật lý học Nhật Bản (sinh 1886) 22 tháng 1: Charles Reznikoff, nhà thơ Mỹ (sinh 1894) 23 tháng 1: Paul Robeson, diễn viên Mỹ, nam ca sĩ, vận động viên thể thao, tác giả (sinh 1898) 24 tháng 1: Pinchas Lavon, chính trị gia Israel (sinh 1904) 25 tháng 1: Erwin Schoettle, chính trị gia Đức (sinh 1899) 30 tháng 1: Arnold Gehlen, triết gia Đức, nhà xã hội học (sinh 1904) 1 tháng 2: Werner Heisenberg, nhà vật lý học Đức, Giải Nobel (sinh 1901) 1 tháng 2: Hans quan toà, họa sĩ Đức (sinh 1888) 6 tháng 2: Vince Guaraldi, nhạc sĩ nhạc jazz Mỹ, nghệ sĩ dương cầm, nhà soạn nhạc (sinh 1928) 11 tháng 2: Lee J. Cobb, diễn viên Mỹ (sinh 1911) 12 tháng 2: Sal Mineo, diễn viên, nam ca sĩ (sinh 1939) 16 tháng 2: Franz Mühlenberg, chính trị gia Đức (sinh 1894) 20 tháng 2: Hans Luckey, nhà thần học, mục sư (sinh 1900) 20 tháng 2: René Cassin, luật gia Pháp, Giải Nobel hòa bình (sinh 1887) 22 tháng 2: Michael Polanyi, nhà hóa học, triết gia (sinh 1891) 23 tháng 2: Lawrence Stephen Lowry, nghệ nhân Anh (sinh 1887) 25 tháng 2: Paul May, đạo diễn phim Đức, nhà sản xuất (sinh 1909) 26 tháng 2: Efrem Forni, Hồng y Giáo chủ (sinh 1889) 29 tháng 2: Paul Schallück, nhà văn Đức (sinh 1922) 4 tháng 3: Walter Schottky, nhà vật lý học Đức (sinh 1886) 6 tháng 3: Pietro Berra, nhà soạn nhạc Ý, người điều khiển dàn nhạc (sinh 1879) 9 tháng 3: Hans Sutor, cầu thủ bóng đá Đức (sinh 1895) 10 tháng 3: Curt Querner, họa sĩ (sinh 1904) 13 tháng 3: Max Tau, nhà hoạt động nhân đạo, triết gia, thi sĩ (sinh 1897) 13 tháng 3: Murtala Mohammed, tổng thống Nigeria (sinh 1938) 14 tháng 3: Martha Saalfeld, nữ nhà thơ trữ tình Đức (sinh 1898) 17 tháng 3: Luchino Visconti, nhà văn Ý, đạo diễn (sinh 1906) 21 tháng 3: Joe Fulks, cầu thủ bóng rổ Mỹ (sinh 1921) 22 tháng 3: Hans Thirring, nhà vật lý học Áo (sinh 1888) 24 tháng 3: Bernard Montgomery, thống chế Anh (sinh 1887) 24 tháng 3: Ernest Shepard, họa sĩ vẽ tranh minh họa Anh (sinh 1879) 27 tháng 3: Georg August Zinn, chính trị gia Đức (sinh 1901) 31 tháng 3: Hans-Adolf Asbach, chính trị gia Đức (sinh 1904) 31 tháng 3: Fritz Rémond junior, diễn viên Đức, đạo diễn phim (sinh 1902) 1 tháng 4: Max Ernst, họa sĩ Đức (sinh 1891) 2 tháng 4: Carlo Grano, Hồng y Giáo chủ (sinh 1887) 4 tháng 4: Matthias Joseph Mehs, chính trị gia Đức (sinh 1893) 5 tháng 4: Howard Hughes, doanh nhân Mỹ (sinh 1905) 5 tháng 4: Wilder Penfield, nhà thần kinh học Canada (sinh 1891) 9 tháng 4: Akio Yashiro, nhà soạn nhạc Nhật Bản (sinh 1929) 10 tháng 4: Enrico Mainardi, nhà soạn nhạc, người điều khiển dàn nhạc (sinh 1897) 17 tháng 4: Soma Morgenstern, nhà văn Áo (sinh 1890) 18 tháng 4: Henrik Dam, nhà hóa sinh Đan Mạch, Giải Nobel (sinh 1895) 22 tháng 4: Jeanne Mammen, nữ họa sĩ Đức (sinh 1890) 23 tháng 4: Karl Schäfer, vận động viên trượt băng nghệ thuật Áo (sinh 1909) 25 tháng 4: Aquiles Nazoa, nhà văn, thi sĩ, nhà báo (sinh 1920) 25 tháng 4: Carol Reed, đạo diễn phim Anh (sinh 1906) 26 tháng 4: François Brassard, nghệ sĩ đàn ống (sinh 1908) 26 tháng 4: Sidney James, diễn viên (sinh 1913) 28 tháng 4: Richard Hughes, nhà văn Anh (sinh 1900) 28 tháng 4: Walther von Seydlitz-Kurzbach, tướng Đức (sinh 1888) 28 tháng 4: Eugen Roth, nhà thơ trữ tình Đức, thi sĩ (sinh 1895) 9 tháng 5: Floyd Council, nhạc sĩ blues Mỹ (sinh 1911) 9 tháng 5: Ulrike Meinhof, nữ nhà báo Đức, người khủng bố; đồng thành lập RAF (sinh 1934) 10 tháng 5: Karl Alfred Kihn, chính trị gia Đức (sinh 1887) 11 tháng 5: Alvar Aalto, kiến trúc sư Phần Lan, nhà thiết kế (sinh 1898) 14 tháng 5: Keith Relf, nhạc sĩ Anh (sinh 1943) 16 tháng 5: Hans Terofal, diễn viên Đức (sinh 1923) 17 tháng 5: Norbert Frýd, nhà văn, nhà xuất bản (sinh 1913) 19 tháng 5: Hermann Böhrnsen, chính trị gia Đức (sinh 1900) 19 tháng 5: Jeanette Wolff, nữ chính trị gia Đức (sinh 1888) 22 tháng 5: Otto Klötzer, chính trị gia Đức (sinh 1914) 26 tháng 5: Martin Heidegger, triết gia Đức (sinh 1889) 26 tháng 5: Heinz Musculus, họa sĩ biếm họa Đức, họa sĩ vẽ tranh minh họa (sinh 1917) 28 tháng 5: Steffan Danielsen, họa sĩ (sinh 1922) 31 tháng 5: Jacques Lucien Monod, nhà hóa sinh Pháp (sinh 1910) 2 tháng 6: Fred von Hoerschelmann, nhà văn Đức (sinh 1901) 4 tháng 6: Bruno Beye, họa sĩ (sinh 1895) 5 tháng 6: Robert Pohl, nhà vật lý học Đức (sinh 1884) 5 tháng 6: David Jacobs, vận động viên điền kinh Anh, huy chương Thế Vận Hội (sinh 1888) 7 tháng 6: Eckart Friedrichson, diễn viên Đức (sinh 1930) 7 tháng 6: Elisabeth Rethberg, nữ ca sĩ Đức (sinh 1894) 9 tháng 6: Gerd Gaiser, nhà văn Đức (sinh 1908) 10 tháng 6: Robert Bach, chính trị gia Đức, nghị sĩ quốc hội liên bang (sinh 1901) 10 tháng 6: Adolph Zukor, doanh nhân Mỹ (sinh 1873) 12 tháng 6: Peter Etzenbach, chính trị gia Đức (sinh 1889) 14 tháng 6: Géza Anda, nghệ sĩ dương cầm Thụy Sĩ (sinh 1921) 16 tháng 6: Reinhard Raffalt, nhà văn Đức, nhà báo (sinh 1923) 16 tháng 6: Ernst Flessa, nhà thơ trữ tình (sinh 1903) 22 tháng 6: Hans Rothfels, nhà sử học Đức (sinh 1891) 2 tháng 7: Heinz Matthes, chính trị gia Đức (sinh 1897) 3 tháng 7: Eugen Huth, chính trị gia Đức (sinh 1901) 3 tháng 7: Alexander Lernet-Holenia, nhà văn Áo (sinh 1897) 5 tháng 7: Anna Hübler, nữ vận động viên trượt băng nghệ thuật Đức (sinh 1885) 6 tháng 7: Fritz Lenz, nhà nhân loại học Đức (sinh 1887) Chu Đức đại nguyên soái quân giải phóng nhân dân Trung Quốc 7 tháng 7: Gustav Heinemann, chính trị gia Đức, tổng thống liên bang (sinh 1899) 9 tháng 7: Walter Scheidt, giáo sư (sinh 1895) 10 tháng 7: Mike Pratt, nhà soạn nhạc Anh, nhạc sĩ, diễn viên (sinh 1931) 13 tháng 7: Max Butting, nhà soạn nhạc Đức (sinh 1888) 15 tháng 7: Eva Schulze-Knabe, nữ họa sĩ (sinh 1907) 15 tháng 7: Paul Gallico, tác giả Mỹ (sinh 1897) 24 tháng 7: Julius Döpfner, Hồng y Giáo chủ (sinh 1913) 30 tháng 7: Rudolf Karl Bultmann, triết gia, nhà thần học Tin Lành (sinh 1884) 2 tháng 8: Fritz Lang, đạo diễn phim (sinh 1890) 9 tháng 8: José Lezama Lima, nhà văn Cuba (sinh 1910) 10 tháng 8: Karl Schmidt-Rottluff, họa sĩ Đức của Trường phái biểu hiện (sinh 1884) 10 tháng 8: Josef Mattauch, nhà vật lý học Đức (sinh 1895) 14 tháng 8: Werner Bräunig, nhà văn Đức (sinh 1934) 19 tháng 8: Alastair Sim, diễn viên Anh (sinh 1900) 22 tháng 8: Oskar Brüsewitz, mục sư Tin Lành (sinh 1929) 22 tháng 8: Juscelino Kubitschek, nhà y học Brasil, tổng thống (sinh 1902) 25 tháng 8: Eyvind Johnson, nhà văn Thụy Điển, Giải Nobel 1974 (sinh 1900) 2 tháng 9: Hans Schuberth, chính trị gia Đức (sinh 1897) 3 tháng 9: Kees Pijl, cầu thủ bóng đá Hà Lan (sinh 1897) 7 tháng 9: Daniel F. Galouye, nhà báo Mỹ, nhà văn (sinh 1920) 8 tháng 9: Willem Janssen, cầu thủ bóng đá Hà Lan (sinh 1880) 9 tháng 9: Mao Trạch Đông, chính trị gia Trung Hoa (sinh 1893) 15 tháng 9: Josef Sudek, nhiếp ảnh gia Séc (sinh 1896) 21 tháng 9: Nils Middelboe, cầu thủ bóng đá Đan Mạch (sinh 1887) 22 tháng 9: Samuel Münchow, chính trị gia (sinh 1893) 24 tháng 9: Wilhelm Kamlah, nhà thần học, triết gia (sinh 1905) 26 tháng 9: Lavoslav Ružička, nhà hóa học Thụy Sĩ, nhận Giải thưởng Nobel (sinh 1887) 27 tháng 9: Hans Burgeff, nhà thực vật học Đức, giáo sư đại học (sinh 1883) 1 tháng 10: Fritz Winter, nghệ nhân Đức (sinh 1905) 3 tháng 10: Hermann Pünder, chính trị gia Đức (sinh 1888) 10 tháng 10: Reinold von Thadden-Trieglaff, nhà thần học Đức (sinh 1891) 10 tháng 10: Lorenz Giovanelli, nhà soạn nhạc (sinh 1915) 11 tháng 10: Connee Boswell, ca sĩ, nữ diễn viên (sinh 1907) 12 tháng 10: Hertha Koenig, nhà văn nữ Đức, nữ nhà thơ trữ tình (sinh 1884) 19 tháng 10: Paul Baumgartner, nghệ sĩ dương cầm Thụy Sĩ (sinh 1903) 22 tháng 10: Else Brökelschen, nữ chính trị gia Đức (sinh 1890) 25 tháng 10: Raymond Queneau, thi sĩ Pháp, nhà văn (sinh 1903) 29 tháng 10: Richard Seewald, họa sĩ Đức, nhà văn (sinh 1889) 30 tháng 10: Alfred Landé, nhà vật lý học Đức (sinh 1888) 5 tháng 11: Willi Hennig, nhà động vật học Đức (sinh 1913) 9 tháng 11: Gottfried von Cramm, vận động viên quần vợt Đức (sinh 1909) 10 tháng 11: Wout Buitenweg, cầu thủ bóng đá Hà Lan (sinh 1893) 11 tháng 11: Alexander Calder, nhà điêu khắc Mỹ (sinh 1898) 12 tháng 11: Walter Piston, nhà soạn nhạc Mỹ (sinh 1894) 18 tháng 11: Man Ray, họa sĩ Mỹ, nhiếp ảnh gia (sinh 1890) 20 tháng 11: Walther Hasemann, chính trị gia Đức (sinh 1900) 20 tháng 11: Trofim Denissowitsch Lyssenko, nhà sinh vật học Ukraina (sinh 1898) 23 tháng 11: André Malraux, nhà văn Pháp, chính trị gia (sinh 1901) 26 tháng 11: Heinrich Otto Meisner, chuyên viên lưu trữ Đức, nhà sử học (sinh 1890) 27 tháng 11: Herbert thương gia, nhà báo Đức, nhà văn (sinh 1920) 29 tháng 11: José da Costa Nuñes, tổng Giám mục Goa, Hồng y Giáo chủ (sinh 1880) 29 tháng 11: Walter Hieber, nhà hóa học Đức (sinh 1895) 30 tháng 11: Friedrich Schulz, tướng Đức (sinh 1897) 1 tháng 12: Otto Wittenburg, chính trị gia Đức (sinh 1891) 4 tháng 12: Tommy Bolin, người chơi đàn ghita (sinh 1951) 4 tháng 12: Benjamin Britten, nhà soạn nhạc Anh (sinh 1913) 6 tháng 12: João Goulart, tổng thống Brasil từ 1961 đến 1964 (sinh 1918) 8 tháng 12: Rudolf Hotzenköcherle, nhà ngôn ngữ học Thụy Sĩ (sinh 1903) 12 tháng 12: Jack Cassidy, diễn viên Mỹ, nam ca sĩ (sinh 1927) 13 tháng 12: Lambert Schill, chính trị gia Đức (sinh 1888) 15 tháng 12: Grégoire Kayibanda, chính trị gia (sinh 1924) 16 tháng 12: Ilse Fürstenberg, nữ diễn viên Đức (sinh 1907) 28 tháng 12: Franz Seraph Reicheneder, nhà sử học Đức (sinh 1905) 28 tháng 12: Freddie King, nhạc sĩ nhạc blues (sinh 1934) 29 tháng 12: Ivo Van Damme, vận động viên điền kinh Bỉ (sinh 1954) 31 tháng 12: Sándor Bortnyik, họa sĩ Hungary (sinh 1893) == Giải thưởng Nobel == Hóa học - William Nunn Lipscomb, Jr Văn học - Saul Bellow Hòa bình - Betty Williams và Mairead Corrigan Vật lý - Burton Richter, Samuel Chao Chung Ting Y học - Baruch S. Blumberg, D Carleton Gajdusek Kinh tế - Milton Friedman == Xem thêm == Thế giới trong năm 1976, tình trạng thế giới trong năm này == Tham khảo ==
hoàng hải.txt
Hoàng Hải (tiếng Hán: 黄海, Wade-Giles: Huang-hai) là một biển nhỏ thuộc Thái Bình Dương nằm giữa bán đảo Triều Tiên và Trung Quốc, ở phía bắc Đông Hải. Tên "Hoàng Hải" (biển màu vàng) bắt nguồn từ tên con sông mang nặng phù sa đổ ra biển - sông Hoàng Hà. Người Triều Tiên gọi biển này là Hoàng Hải (Hangul: 황해; phiên âm Latinh cải tiến: Hwanghae; McCune-Reischauer: Hwanghae) hoặc Tây Hải (Hangul: 서해; phiên âm Latinh cải tiến: Seohae; McCune-Reischauer: Sŏhae). Vịnh nằm sâu trong cùng của Hoàng Hải là Bột Hải (trước kia gọi là vịnh Trực Lệ). Một vịnh nữa nằm giữa bán đảo Liêu Đông và bán đảo Triều Tiên là vịnh Triều Tiên. Các hải cảng chính: Thiên Tân, Thanh Đảo, Đại Liên (bao gồm cả Lữ Thuận) thuộc Trung Quốc, Incheon thuộc Hàn Quốc. == Xem thêm == Biển Trắng Biển Đen Biển Đỏ == Tham khảo ==
richard krajicek.txt
Richard Peter Stanislav Krajicek (sinh ngày 6 tháng 12 năm 1971) là tay vợt chuyên nghiệp đã giải nghệ người Hà Lan.Vào năm 1996 anh đã giành chức vô địch Wimbledon sau khi đánh bại MaliVai Washington trong trận chung kết,trên con đường đến với chức vô địch anh cũng đã đánh bại Pete Sampras ở tứ kết == Sự nghiệp == Richard Krajicek bắt đầu làm quen với quần vợt ở tuổi lên 4.Anh bắt đầu chới quần vợt chuyên nghiệp năm 1989 và giành danh hiệu đầu tiên tại Hong Kong năm 1991.Năm 1992 anh trở thành tay vợt Hà Lan đầu tiên vào đến bán kết một giải Grand Slam đó là Úc Mở rộng và phải chịu thua trước tay vợt sau đó đã lên ngôi vô địch là Jim Courier.Đỉnh cao nhất trong sự nghiệp của anh là chức vô địch Wimbledon năm 1996.Vị trí cao nhất của anh trên bảng xếp hạng ATP là số 4 thế giới vào năm 1999.Anh giải nghệ vào năm 2003.Trong sự nghiệp của mình anh giành được 17 danh hiệu đơn và 3 danh hiệu đôi == Danh hiệu == === Chung kết Grand Slam === ==== Đánh đơn: 1 (1–0) ==== == Thành tích == === Đơn: 26 (17–9) === Vô địch (17) == Tham khảo ==
giải bóng đá cúp quốc gia 2004.txt
Giải bóng đá Cúp Quốc gia 2004, còn được gọi là Giải bóng đá Cúp Quốc gia - Samsung Cup 2004 , là cúp quốc gia lần thứ 12 được tổ chức từ ngày 28 tháng 12 năm 2003 đến 10 tháng 7 năm 2004 với sự tham dự của 12 câu lạc bộ thuộc giải chuyên nghiệp và 12 câu lạc bộ thuộc giải hạng nhất Bình Định trở thành câu lạc bộ thứ 2 đoạt cúp 2 lần liên tiếp và cũng là đội bóng thứ 4 đoạt cúp 2 lần (ba đội trước là Công an Thành phố Hồ Chí Minh, Cảng Sài Gòn và Hải Quan). Cầu thủ Lê Công Vinh (Sông Lam Nghệ An) đoạt danh hiệu vua phá lưới với 5 bàn thắng. Theo lịch ban đầu [1], Thừa Thiên-Huế sẽ gặp LG-ACB ở vòng một, đội thắng sẽ gặp Hàng không Việt Nam ở vòng hai. Nhưng do LG-ACB sáp nhập với Hàng không Việt Nam và đổi tên thành LG.HN.ACB nên LG.HN.ACB thay thế vị trí của Hàng không Việt Nam ở vòng hai. Còn đội thay thế LG-ACB ở vòng một là Hòa Phát Hà Nội (mới thành lập với các cầu thủ thừa của 2 đội trên).. == Vòng 1 == == Vòng 2 == == Vòng chung kết == 8 đội bóng được chia làm 2 nhóm thi đấu vòng tròn một lượt trên hai sân vận động Thiên Trường (nhóm A) và Vinh (nhóm B). === Nhóm A === Thi đấu trên sân vận động Thiên Trường. === Nhóm B === Thi đấu trên sân vận động Vinh. == Bán kết == == Chung kết == Cầu thủ ghi bàn: Lê Thanh Phương 88' và Issawa 91' == Xem thêm == Giải bóng đá vô địch quốc gia 2004 Giải bóng đá hạng nhất quốc gia Việt Nam 2004 Giải bóng đá hạng Nhì Quốc gia 2004 Siêu cúp bóng đá Việt Nam 2004 == Chú thích == == Liên kết ngoài == Lịch thi đấu cúp bóng đá Việt Nam 2004 Nhìn lại vòng chung kết Cúp Quốc gia 2004: Nhiều bất ngờ, ít hấp dẫn
dili.txt
Dili, hay Díli, là thủ đô và là thành phố lớn nhất của Đông Timor. Thành phố này nằm ở bờ biển phía Bắc của đảo Timor, cực Đông của Các đảo Lesser Sunda. Dili là cảng chính và là trung tâm thương mại của Đông Timor, dân số khoảng 150.000. Có một sân bay ở Comoro, Sân bay quốc tế Presidente Nicolau Lobato, được đổi tên theo lãnh đạo giành độc lập Nicolau Lobato, được sử dụng cho các chuyến bay thương mại và quân sự. Dili có tọa độ 8°34' Nam, 125°34' Đông (-8.5667, 125.5667). Đây cũng là thủ phủ của Quận Dili. == Các tòa nhà và các tượng đài == Phần lớn các tòa nhà bị phá hủy năm 1999 bởi Quân đội Indonesia và các quân đội thân Indonesia. Tuy nhiên, thành phố vẫn còn nhiều tòa nhà tự thời Bồ Đào Nha. Văn phòng của thống đốc Bồ Đào Nha trước đây giờ là văn phòng thủ tướng Đông Timor. Tòa nhà này trước đây được Thống đốc được bổ nhiệm Đông Timor và Cục quản lý chuyển tiếp Liên Hiệp Quốc ở Đông Timor(United Nations Transitional Administration in East Timor - UNTAET). Dù trong thời kỳ nằm dưới sự cai trị của Indonesia, tiếng Bồ Đào Nha bị cấm vẫn có nhiều tên phố bằng tiếng Bồ Đào Nha như Avenida Marechal Carmona vẫn không đổi dù đã được pha tiếng Indonesia vào. == Lịch sử == Dili đã được người Bồ Đào Nha định cư khoảng năm 1520 và những người Bồ Đào Nha đã chọn nó là thủ đô của Timor Bồ Đào Nha năm 1596. Trong Chiến tranh thế giới thứ hai, Dili bị Nhật Bản chiếm đóng. Đông Timor đơn phương tuyên bố độc lập khỏi Bồ Đào Nha ngày 28 tháng 11 năm 1975. Tuy nhiên, 9 ngày sau, ngày 7 tháng 12 năm 1976, Indonesia xâm lược Đông Timor. Ngày 17 tháng 7 năm 1976, Indonesia đã sáp nhập Đông Timor vào lãnh thổ của mình làmn tỉnh thứ 27, Timor Timur (tiếng Bahasa Indonesia có nghĩa là "Đông Timor") với Dili là thủ phủ. Tuy nhiên, chiến tranh du kích đã nổ ra dai dẳng từ 1975 đến 1999 giữa Indonesia và các lực lượng đòi độc lập làm cho hàng chục ngàn Đông Timor và vài dân thường quốc tế bị sát hại. Dân Đông Timor tấn công vào tài sản của Indonesia dù nằm dưới kiểm soat của quân đội Indonesia với chiến thuật đánh và chạy. Các tiết lộ truyền thông năm 1991 về Thảm sát Dili đã làm tăng ủng hộ quốc tế cho phong trào độc lập của Đông Timor. Năm 1999, Đông Timor được đặt dưới sự giám sát của Liên Hiệp Quốc và ngày 20 tháng 5 năm 2002, Dili trở thành thủ đô của Đông Timor độc lập. == Giáo dục == Dili có các trường trung học Saint Josep (Colégio de São José) và Đại học Đông Timor (Universidade Nacional de Timor-Leste). == Tham khảo == == Liên kết ngoài == Discover Dili - Tourism promotion site 8°33′N 125°35′Đ
đội tuyển bóng đá quốc gia ma cao.txt
Đội tuyển bóng đá Ma Cao (tiếng Trung Quốc: 中國澳門足球代表隊; tiếng Bồ Đào Nha: Selecção Macaense de Futebol) là đại diện của Ma Cao - đặc khu hành chính của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa - trong các giải thi đấu bóng đá quốc tế với tên gọi Ma Cao, Trung Quốc. Đội Ma Cao do Hiệp hội bóng đá Ma Cao quản lý. == Thành tích quốc tế == === Giải vô địch bóng đá thế giới === 1930 đến 1978 - Không tham dự 1982 - Không vượt qua vòng loại 1986 - Không vượt qua vòng loại 1990 - Không tham dự 1994 đến 2018 - Không vượt qua vòng loại === Cúp bóng đá châu Á === 1956 đến 1976 - Không tham dự 1980 - Không vượt qua vòng loại 1984 - Không tham dự 1988 - Không tham dự 1992 đến 2004 - Không vượt qua vòng loại 2007 - Không tham dự 2011 đến 2019 - Không vượt qua vòng loại === Giải vô địch bóng đá Đông Á === 2003 - Hạng 6 2005 - Không tham dự 2008 - Hạng 7 2010 - Hạng 9 2013 - Hạng 9 === Cúp Challenge AFC === 2006 - Vòng 1 2008 đến 2014 - Không vượt qua vòng loại == Đội hình == Tính đến ngày 15 tháng 11 năm 2016 === Triệu tập gần đây === == Tham khảo == == Liên kết ngoài == Đội tuyển bóng đá quốc gia Ma Cao trên trang chủ của FIFA
quẩy.txt
Quẩy, còn gọi bánh quẩy, giò cháo quẩy (phương ngữ Nam bộ) hay dầu cháo quẩy (phương ngữ miền Trung), là một loại thực phẩm phổ biến ở châu Á làm từ bột mỳ, pha thêm bột nở, rán vừa chín có dạng một cặp gồm thanh bánh dài có kích thước bằng chiếc xúc xích nhỏ dính nhau, ăn bùi và giòn. Quẩy được dùng kèm theo các món ăn lương thực như: phở, bún, miến, mì, cháo... == Sự tích == Tại Quảng Đông, quẩy có tên 油炸鬼 (Yau ja gwai, Phiên âm Hán Việt: Du tạc quỷ) có nghĩa là quỷ sứ bị rán bằng dầu. Theo truyền thuyết Trung Quốc thì cái tên này bắt nguồn từ câu chuyện Nhạc Phi bị vợ chồng Tần Cối và Vương thị hãm hại. Để nguyền rủa hai vợ chồng Tần Cối, người Trung Quốc làm một món ăn gồm hai viên bột dài giống hình người được rán kỹ trong dầu, tượng trưng cho hình tượng vợ chồng Tần Cối là hai quỷ sứ bị rán trong vạc dầu ở địa ngục. Trong hai tên tiếng Việt giò cháo quẩy và dầu cháo quẩy hai chữ giò/dầu và quẩy là từ âm Hán-Việt (thường gọi âm như vậy là một loại của âm Nôm) của (油) và quỷ (鬼). Giò cháo quẩy là tên bắt nguồn từ tiếng Quảng Đông. == Cách làm == Trộn đều bột mì, bột nở, đường, muối, nước rồi nhồi với trứng gà và ủ trong khoảng 1 giờ. Vo khối bột thành dạng dài rồi cán thành từng đoạn cỡ 8 – 10 cm. Chồng hai đoạn bột tạo thành một chiếc quẩy sau đó thả vào chảo dầu sôi, hất qua lại đến khi quẩy có màu vàng là vừa. Quẩy vừa rán xong ăn có vị giòn và bùi. == Cách ăn == Tại Việt Nam, quẩy thường được dùng kèm với cháo (ở cả Sài Gòn và Hà Nội, thường gọi là món "cháo quẩy"), phở (Hà Nội) hoặc ăn riêng với nước chấm (pha từ nước mắm, dấm, đường có kèm đu đủ xanh). Tại Trung Quốc quẩy thường được dùng để ăn kèm với cháo hoặc ăn sáng với sữa đậu nành. Quẩy cũng là món ăn sáng phổ biến ở nhiều nước châu Á khác như Myanma, Lào, Thái Lan, Singapore,... == Hình ảnh == == Xem thêm == Doughnut, một loại bánh phổ biến ở Bắc Mỹ có cách chế biến ban đầu tương tự quẩy == Chú thích == == Liên kết ngoài == Những scandal thực phẩm 'bẩn' có nguồn gốc Trung Quốc
danh sách các loại tiền tệ đang lưu hành.txt
Danh sách này chứa 180 loại tiền tệ chính thức được lưu hành trên thế giới, thuộc 193 quốc gia là thành viên của Liên Hiệp Quốc, 2 nhà nước quan sát viên của Liên Hiệp Quốc, 9 vùng lãnh thổ độc lập trên thực tế và 33 vùng lãnh thổ phụ thuộc (lãnh thổ hải ngoại). Trong đó có một số quốc gia sử dụng cùng lúc nhiều loại tiền tệ, trong đó có một loại tiền tệ chính thức và một số loại tiền tệ được neo và công nhận. == Đọc thêm == Danh sách tiền tệ Tiền tệ Tiền == Chú thích == A This currency is not used in day to day commerce, but is legal tender. It is minted and/or printed as commemorative banknotes and/or coinage. B This currency is being phased out with a revalued version or another currency, but is still legal tender. C British banknotes are issued by the Bank of England and by some banks in Scotland và Northern Ireland. Laws on legal tender vary between various jurisdictions. D One cent equals ten mills (also spelled "mil" and "mille"), and (for the United States dollar) ten cents equal one dime. E One jiao equals ten fen. F One piastre equals ten millimes. G One sen equals ten rin. H One piastre equals ten fils and one dirham equals 10 piastres. I Although part of the Netherlands, the islands of Bonaire, Sint Eustatius, and Saba do not use the euro, they use the United States dollar. They are listed separately. J Four currencies circulate in the partially recognized state of the Sahrawi Arab Democratic Republic, which claims the territory of Western Sahara. The Moroccan dirham is used in the Moroccan-administered part of the territory and the Sahrawi peseta is the commemorative currency of the Sahrawi Republic. Additionally, some de facto currencies circulate in the territory: the Algerian dinar is used in Sahrawi refugee camps in Tindouf and the Mauritanian ouguiya is used in Lagouira, which is under Mauritanian administration. K Rappen is Tiếng Đức; in Tiếng Pháp it is centime; in Tiếng Ý it is centesimo. L One hundred Tongan paʻanga equal one hau. N No longer in active use after it was officially suspended by the government due to hyperinflation. The United States dollar, South African rand, Botswanan pula, British pound, and euro are now used instead. The United States dollar has been adopted as the official currency for all government transactions with the new power-sharing regime. O Currency code unrecognized by ISO 4217 but used commercially. == Tham khảo == == Liên kết == Circulating Coin Sets of the World Alphabetical list of circulating currencies with photos Google World Currencies Map Currencies of the countries of the world
viện tiêu chuẩn và kỹ thuật quốc gia (hoa kỳ).txt
Viện Tiêu chuẩn và Kĩ thuật Quốc gia (tiếng Anh: National Institute of Standards and Technology (NIST)), trước đây từ năm 1901 đến 1988 được gọi là Cục Tiêu chuẩn Quốc gia (National Bureau of Standards - NBS) là một phòng thí nghiệm tiêu chuẩn đo lường, thường được biết đến với tên gọi Viện Đo lường Quốc gia (National Metrological Institute - NMI). Đây là một cơ quan của Bộ Thương mại Hoa Kỳ có nhiệm vụ chính thức là: Thúc đẩy sự đổi mới và cạnh tranh công nghiệp của Hoa Kỳ bằng cách cải tiến hệ thống đo lường, tiêu chuẩn và công nghệ theo hướng nâng cao an ninh kinh tế và cải thiện chất lượng cuộc sống của người dân. NIST có ngân sách hoạt động năm tài chính 2007 (1 tháng 10 năm 2006-30 tháng 9 năm 2007) khoảng 843,3 triệu USD. Ngân sách năm 2009 là 992 triệu USD, và NIST cũng nhận được 610 triệu USD theo đạo luật Tái thiết và Tái đầu tư Hoa Kỳ năm 2009. NIST trả lương cho khoảng 2.900 nhà khoa học, kỹ sư, kỹ thuật viên và các nhân viên quản lý và hỗ trợ. Đóng góp vào đội ngũ nhân viên của NIST còn khoảng 1.800 cộng tác viên là các nhà nghiên cứu và kỹ sư khách mời đến từ các công ty của Mỹ và nước ngoài. == Tham khảo ==
dấu chấm hỏi.txt
Dấu chấm hỏi (?) là một trong các dấu kết thúc câu dùng để kết thúc một câu hỏi. Tuy là một ký tự Latin nhưng dấu này được sử dụng trong hấu hết các bộ chữ viết, nhiều chữ viết tượng hình cũng mượn dấu này. Trong các tài liệu, đôi khi dấu "?" được đặt trong ngoặc đơn (?), hoặc ngoặc vuông [?] để trỏ tới một lời giải thích. Trong tiếng Tây Ban Nha, câu hỏi có một dấu hỏi ngược ở đầu câu '¿' và kết thúc với một dấu hỏi thường '?'. == Tham khảo ==
giải vô địch bóng đá nữ u-20 bắc, trung mỹ và caribe.txt
Giải vô địch bóng đá nữ U-20 Bắc, Trung Mỹ và Caribe (tiếng Anh: CONCACAF Women's U-20 Championship) là giải bóng đá nữ do Liên đoàn bóng đá Bắc, Trung Mỹ và Caribe (CONCACAF) tổ chức dành cho các đội tuyển bóng đá nữ U-20 quốc gia tại khu vực này, đồng thời giữ vị thế vòng loại Giải vô địch bóng đá nữ U-20 thế giới với ba suất được trao cho CONCACAF. == Kết quả các vòng chung kết == A : Không tổ chức chung kết vào năm 2002; cả Hoa Kỳ và México đoạt suất tới Giải vô địch bóng đá nữ U-19 thế giới 2002. == Thành tích == == Vua phá lưới == == Xem thêm == Giải vô địch bóng đá nữ U-20 thế giới Giải vô địch bóng đá nữ U-17 Bắc, Trung Mỹ và Caribe Giải vô địch bóng đá U-20 Bắc, Trung Mỹ và Caribe == Tham khảo == == Liên kết ngoài == Trang chủ giải U-20 nữ CONCACAF
kinh tế brunei.txt
Brunei là nước sản xuất dầu mỏ lớn thứ 3 ở Đông Nam Á với trung bình 180.000 thùng (29.000 m³) mỗi ngày. Quốc gia này cũng là nhà sản xuất khí hóa lỏng lớn thứ 4 thế giới. GDP của Brunei đã tăng vọt cùng khi giá dầu mỏ tăng trong thập niên 1970 và sau đó có giảm nhẹ trong mỗi 5 năm tiếp theo, sau đó suy giảm gần 30% trong năm 1986. Sự suy giảm này là do giá dầu mỏ giảm mạnh trên thị trường thế giới và cũng do Brunei tự nguyện giảm sản lượng khai thác. GDP quốc gia này đã phục hồi kể từ năm 1986 và đạt mức tăng trưởng 12% năm 1987, 1% năm 1988, và 9% năm 1989. Trong những năm gần đây, GDP đạt mức tăng 3,5% năm 1996, 4,0% năm 1997, 1,0% năm 1998. == Tham khảo ==
danh sách hoàng hậu trung quốc.txt
Hoàng hậu (chữ Hán: 皇后, tiếng Anh: Empress) là một tước hiệu Hoàng tộc thời phong kiến được tấn phong cho vợ chính (chính cung, chính thất, thê thất) của Hoàng đế, do Hoàng đế sắc phong. Vương hậu là tước hiệu được phong cho vợ chính (chính cung, chính thất, thê thất) của Quốc vương, hoặc đôi khi một số người được Hoàng đế phong Vương tước (thường là người trong Hoàng tộc hay anh em trai của Hoàng đế) thì vợ chính của họ được phong ngôi Vương phi. Tuy nhiên, ngày nay nhiều người hay hiểu Hoàng hậu theo nghĩa là vợ chính của nhà Vua nói chung, bao gồm cả Quốc Vương lẫn Hoàng đế, điều này có thể gây ra một số nhầm lẫn. Trong lịch sử phong kiến Trung Quốc, thường chỉ có duy nhất một Hoàng hậu tại vị khi còn sống. Khi Hoàng hậu trước đã qua đời hoặc bị phế bỏ thì mới lập Hoàng hậu mới. Theo lịch sử Trung Quốc ghi lại thì Hoàng hậu chính thức đầu tiên là Lữ Trĩ của nhà Hán, vợ của Hoàng đế Hán Cao Tổ Lưu Bang. Vị Hoàng hậu cuối cùng là Quách Bố La Uyển Dung, vợ của Hoàng đế Phổ Nghi nhà Thanh. == Nhà Hán == === Tây Hán === === Đông Hán === == Tam Quốc == == Nhà Tấn == === Tây Tấn === === Đông Tấn === == Ngũ Hồ thập lục quốc == == Nam Bắc triều == == Nhà Tùy == === Tùy Mạt Quần Hùng === == Nhà Đường == == Ngũ đại thập quốc == == Nhà Tống == === Bắc Tống === === Nam Tống === == Các triều đại làm chủ một phần lãnh thổ == === Nhà Liêu === === Nhà Kim === === Nhà Tây Hạ === == Nhà Nguyên == == Nhà Minh == === Nam Minh === == Nhà Thanh == == Tham khảo == Nhị thập tứ sử Liệt nữ truyện
nhà hát opera.txt
Nhà hát Opera hay nhà hát lớn là một loại hình nhà hát hay sân khấu và là một công trình kiến trúc được xây dựng với quy mô tương đối lớn và sử dụng cho việc biểu diễn opera. Nhà hát lớn bao gồm một sân khấu cho các ca sĩ biểu diễn, nơi dành cho một dàn nhạc, những chỗ ngồi dành cho khán giả, các quan khách, quý vị đại biểu và hậu trường để cho các nghệ sĩ chuẩn bị, thay đổi trang phục. Hậu trường này thường thông với cánh gà được bố trí ở hai bên trên sân khấu. Nhà hát phải được trang bị đầy đủ các dàn máy, hệ thống âm thanh, ánh sáng....Một số địa điểm được xây dựng đặc biệt cho nhạc kịch, thì nhà hát lớn chủ yếu được xây dựng để phục vụ cho việc biểu diễn loại hình Opera. Nhà hát opera công cộng đầu tiên được xây dựng tại Teatro San Cassiano ở Venice, Ý, công trình này được mở cửa vào năm 1637 và chủ yếu phục vụ cho những khách hàng quen thân, giàu có. Nhà opera đầu tiên ở Đức được xây dựng tại Hamburg năm 1678. Trong thế kỷ 17 và 18, nhà hát thường được tài trợ bởi nhà cầm quyền, quý tộc, và những người giàu có đã sử dụng sự cho việc bảo trợ nghệ thuật để ủng hộ tham vọng chính trị và vị trí xã hội, uy tín của họ. Với sự nổi lên của giai cấp tư sản và hệ thống tư bản chủ nghĩa trong thế kỷ 19, nền văn hóa châu Âu chuyển từ bảo trợ sang hệ thống công khai và phục vụ đông đảo công chúng. == Tham khảo == Allison, John (ed.), Great Opera Houses of the World, supplement to Opera Magazine, London 2003 Beauvert, Thierry, Opera Houses of the World, The Vendome Press, New York, 1995. ISBN 0-86565-978-8 Beranek, Leo. Concert Halls and Opera Houses: Music, Acoustics, and Architecture, New York: Springer, 2004. ISBN 0-387-95524-0 Hughes, Spike. Great Opera Houses; A Traveller's Guide to Their History and Traditions, London: Weidenfeld & Nicholson, 1956. Kaldor, Andras. Great Opera Houses (Masterpieces of Architecture) Antique Collectors Club, 2002. ISBN 1-85149-363-8 Lynn, Karyl Charna, Opera: the Guide to Western Europe's Great Houses, Santa Fe, New Mexico: John Muir Publications, 1991. ISBN 0-945465-81-5 Lynn, Karyl Charna, Italian Opera Houses and Festivals, Lanham, Maryland: The Scarecrow Press, Inc., 2005. ISBN 0-8108-5359-0 Plantamura, Carol, The Opera Lover's Guide to Europe, Citadel Press, 1996, ISBN 0-8065-1842-1
công ước bern.txt
Công ước Berne về bảo hộ các tác phẩm văn học và nghệ thuật, còn được gọi ngắn gọn là Công ước Berne (phát âm tiếng Việt: Công ước Bơn hay Công ước Béc-nơ), được ký tại Bern (Thụy Sĩ) năm 1886, lần đầu tiên thiết lập và bảo vệ quyền tác giả giữa các quốc gia có chủ quyền. Nó được hình thành sau các nỗ lực vận động của Victor Hugo. Trước khi có công ước Bern, các quốc gia thường từ chối quyền tác giả của các tác phẩm ngoại quốc. Ví dụ, một tác phẩm xuất bản ở một quốc gia được bảo vệ quyền tác giả tại đó, nhưng lại có thể bị sao chép và xuất bản tự do không cần xin phép tại quốc gia khác. Các quốc gia tuân thủ công ước Bern công nhận quyền tác giả của các tác phẩm xuất bản tại các quốc gia khác cùng tuân thủ công ước này. Quyền tác giả, theo công ước Berne là tự động: không cần phải đăng ký tác quyền, không cần phải viết trong thông báo tác quyền. Ngoài ra, những quốc gia ký công ước Berne không được đặt ra các thủ tục hành chính sách nhiễu các tác giả trong việc thụ hưởng tác quyền. (Các quốc gia ký công ước Bern vẫn có quyền áp đặt các luật lệ riêng cho các tác giả trong nước họ hoặc từ những nước không ký công ước này). Công ước Berne cho phép tác giả được hưởng tác quyền suốt đời cộng thêm tối thiểu 50 năm sau đó. Tuy nhiên các quốc gia tuân thủ công ước được phép nâng thời hạn hưởng tác quyền dài hơn, như Cộng đồng châu Âu đã làm năm 1993. Hoa Kỳ cũng gia hạn tác quyền, như trong Đạo luật Kéo dài Bản quyền Sonny Bono năm 1998. Một số nước tuân thủ phiên bản cũ của công ước Bern cho phép tác giả được hưởng suốt đời cộng 70 năm. Thời hạn này có thể giảm đối với một số loại tác phẩm nghệ thuật (như điện ảnh) hoặc đối với các tác phẩm là công trình của một cơ quan thì thời hạn tác quyền là 95 năm sau lần xuất bản đầu tiên. Ngày 26 tháng 7 năm 2004, chính phủ Việt Nam đã nộp văn kiện gia nhập Công ước Berne. Trong văn kiện này, nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam tuyên bố bảo lưu các quy định tại Điều 33(1) của Công ước Berne và áp dụng chế độ ưu đãi dành cho các nước đang phát triển theo Điều II và Điều III của Phụ lục Công ước Berne. Công ước Berne có hiệu lực tại Việt Nam kể từ ngày 26 tháng 10 năm 2004. == Lịch sử == Công ước Berne đã được sửa chữa vài lần: Berlin (1908), Roma (1928), Brussels (1948), Stockholm (1967) và Paris (1971). Từ năm 1967, Công ước Berne được quản lý bởi Tổ chức Sở hữu Trí tuệ Thế giới (World Intellectual Property Organization, viết tắt là WIPO). Gần như tất cả các quốc gia thành viên của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) tuân thủ hầu hết các điều khoản của công ước này, theo thỏa thuận TRIPs. Cho đến ngày 20 tháng 11 năm 2004, có 157 quốc gia đã ký Công ước Berne. == Xem thêm == Phạm vi công cộng Công ước Geneva Công ước Roma == Liên kết ngoài == (bằng tiếng Việt) Cục Sở hữu Trí tuệ Việt Nam Cục Bản quyền Tác giả Văn học nghệ thuật (bằng tiếng Anh) WIPO Công ước Berne
sông tiền.txt
Sông Tiền hay Tiền Giang là nhánh hạ lưu bên trái (tả ngạn) của sông Mê Kông, chảy từ đất Campuchia vào đồng bằng miền Nam Việt Nam, qua các tỉnh An Giang, Đồng Tháp, Tiền Giang, Vĩnh Long, Trà Vinh và Bến Tre, rồi đổ ra biển Đông . == Địa lý == Sông Tiền (giống như sông Hậu) chảy theo hướng Tây Bắc – Đông Nam, tới tỉnh Vĩnh Long nó được tách làm 3 nhánh lớn: nhánh Hàm Luông (tức sông Hàm Luông), Cổ Chiên (tức sông Cổ Chiên) chảy qua địa phận của tỉnh Bến Tre và đổ ra biển bằng hai cửa cùng tên. Nhánh Mỹ Tho (tức sông Mỹ Tho) chảy qua địa phận Tiền Giang và đổ ra biển bởi ba cửa: cửa Tiểu, cửa Đại và cửa Ba Lai . Nối liền sông Tiền với sông Hậu là sông Vàm Nao (ranh giới giữa hai huyện Chợ Mới và Phú Tân của An Giang). Sông Mang Thít, còn gọi là sông Măng Thít hay sông Mân Thít, là một con sông nhỏ, dài khoảng 47 km, nốisông Tiền (nhánh Cung Hầu, Cổ Chiên) với sông Hậu, chảy trên địa phận tỉnh Vĩnh Long == Tác động == Do sự biến động của dòng chảy và sự tác động của thủy triều mặn thâm nhập sâu vào trong đất liền, trên dòng sông xuất hiện nhiều cồn bãi nổi và ngầm, làm cho việc đi lại của các tàu có trọng tải lớn chắc chắn gặp nhiều khó khăn. == Các cây cầu == Cầu Cao Lãnh, nối thành phố Cao Lãnh với huyện Lấp Vò, Đồng Tháp (đã khởi công) Cầu Mỹ Thuận, Tiền Giang - Vĩnh Long Cầu Rạch Miễu, Tiền Giang - Bến Tre Cầu Ba Lai, Bến Tre Cầu Ba Lai mới, Bến Tre Cầu Hàm Luông, nối thành phố Bến Tre, huyện Mỏ Cày, Bến Tre Cầu Cổ Chiên, Bến Tre - Trà Vinh (đã khánh thành) == Xem thêm == Mê Kông == Nguồn tham khảo ==
danh sách các pharaon.txt
Danh sách các pharaon của Ai Cập cổ đại bắt đầu từ giai đoạn Tiền Vương triều khoảng năm 3100 trước công nguyên tới Vương triều Ptolemy sau khi Ai Cập trở thành một tỉnh La Mã dưới thời Augustus vào năm 30 TCN. Niên đại trị vì của các Pharaon gần đúng. Danh sách các Pharaon được đưa theo bảng niên đại của Ai Cập cổ đại. == Các tài liệu cổ chính về các Pharaon == Các văn bản tài liệu gốc cổ về các Pharaon hiện vẫn chưa đầy đủ: Tấm bia đá Palermo Danh sách vua Turin Manetho's Aegyptiaca (lịch sử Ai Cập) Danh sách vua Abydos Danh sách vua Karnak Bia đá Nam Saqqara (phát hiện năm 1923, gồm Vương triều thứ Sáu) Danh sách Saqqara (phát hiện năm 1861, gồm Vương triều thứ 1-12) Archibald Sayce đã đưa dữ liệu để so sánh khảo nghiệm trong cuốn sách Các Đế chế cổ đại của phương Đông (1884), thêm vào đó các danh sách xuất hiện trong những tác phẩm của Herodotus, Diodorus, Eratosthenes và của các "nhà văn Ả Rập". Tuy nhiên danh sách không xuất hiện trong cuốn sách của Sayce mà được tìm thấy trong cuốn sách Sothis do George Syncellus dành tặng cho Manetho. == Thời đại huyền thoại == Trong các văn bia Palermo, Turin và danh sách vua của Manetho, có những phiên bản tên khác nhau của 8 vị thần này. Các vị bán thần cai trị: == Thời kỳ cổ xưa == Thời kỳ cổ xưa bao gồm thời kỳ Tiền Vương triều Ai Cập, khi Hạ Ai Cập và Thượng Ai Cập được cai trị như 2 quốc gia riêng biệt. === Tiền Vương triều: Hạ Ai Cập === Hạ Ai Cập được tính từ phía bắc sông Nile tới đồng bằng sông Nile. Danh sách sau không đầy đủ: === Tiền Vương triều: Thượng Ai Cập === ==== Vương triều 00 ==== ==== Vương triều 0 ==== Thượng Ai Cập gồm khu vực thung lũng sông Nile, phía nam đồng bằng sông Nile. Danh sách sau không đầy đủ và chắc chắn: === Vương triều thứ Nhất === Vương triều thứ Nhất bắt đầu từ khoảng năm 3150-2890 trước Công nguyên. (Không có thời gian chính xác để xác định niên đại cho giai đoạn Cổ và Trung vương quốc, và có sự khác biệt lớn trong việc ước lượng Vương triều giữa các nhà Ai Cập học khác nhau) Trong khoảng thời gian giữa Vương triều thứ Nhất và Vương triều thứ hai, có thể có hai pharaon từng trị vì: === Vương triều thứ Hai === Vương triều thứ Hai bắt đầu từ khoảng năm 2890-2686 TCN. == Cổ vương quốc == Cổ Vương quốc Ai Cập tồn tại trong thiên niên kỷ thứ Ba trước công nguyên khi Ai Cập đạt đến giai đoạn cực thịnh đầu tiên của nền văn minh cùng với những thành tựu vượt trội (đây là thời điểm đánh dấu giai đoạn đỉnh cao của nền văn minh sông Nile), khoảng thời gian từ Vương triều thứ Ba đến Vương triều thứ Sáu (từ năm 2686-2181 trước Công nguyên). Nhiều nhà Ai Cập học cho rằng cũng có thể bao gồm Vương triều thứ Bảy và 8 vì đây là giai đoạn tập trung quyền lực tại Memphis. Tiếp nối thời kỳ Cổ vương quốc là giai đoạn khủng hoảng chia rẽ và suy giảm văn hóa, các nhà Ai Cập học gọi đấy là thời kỳ chuyển tiếp đầu tiên hoặc thời kỳ đau ốm đầu tiên. Kinh đô của thời kỳ Cổ Vương quốc đặt tại Memphis, nơi Djoser thiết lập nên triều đình của ông. Thời kỳ Cổ Vương quốc được biết đến nhiều nhất thông qua việc xây dựng các kim tự tháp để chôn cất các pharaon. Thời đại này thường được gọi "thời đại các kim tự tháp". === Vương triều thứ Ba === Vương triều thứ Ba bắt đầu từ năm 2686 tới 2613 TCN. === Vương triều thứ Tư === Vương triều thứ Tư bắt đầu từ 2613 tới 2498 TCN bao gồm các Pharaon đã xây dựng Khu lăng mộ Giza như Khufu (Cheops), Khafra (Chephren), và Menkaura (Mycerinus). === Vương triều thứ Năm === Vương triều thứ Năm từ năm 2498 tới 2345 TCN. === Vương triều thứ Sáu === Vương triều thứ Sáu từ năm 2345 tới 2181 TCN. == Thời kỳ chuyển tiếp thứ nhất == Thời kỳ chuyển tiếp thứ nhất (2181-2060 TCN) là khoảng thời gian cuối Cổ vương quốc tới đầu thời kỳ Trung vương quốc. Cổ vương quốc nhanh chóng sụp đổ sau khi Pepi II qua đời. Ông trị vì 94 năm, lâu hơn bất kỳ quốc vương trong lịch sử, và qua đời ở tuổi 100. Những năm cuối Vương triều của ông đã được đánh dấu yếu kém do tuổi tác cao của ông. Sự thống nhất của hai vương quốc không còn và các lãnh chúa đã phải đối phó với nạn đói. Khoảng năm 2160 TCN, một triêu đại các vị pharaoh mới đã cố gắng thống nhất Hạ Ai Cập từ kinh đô Herakleopolis Magna của họ. Trong khi đó, một Vương triều khác tại Thebes đã tái thống nhất Thượng Ai Cập và một cuộc đụng độ giữa hai vương triều là điều không thể tránh khỏi. Khoảng năm 2055 TCN, Mentuhotep II, con trai của pharaoh Intef III đánh bại các vị pharaoh Herakleopolis và thống nhất hai lại vương quốc, mở đầu thời kỳ Trung vương quốc. === Vương triều thứ Bảy và thứ Tám === Vương triều thứ Bảy và 8 bắt đầu từ khoảng năm 2187 tới khoảng năm 2160 TCN. Bao gồm các nhà vị vua cai trị ở Memphis. Bảng này dựa theo danh sách vua Abydos có niên đại từ Vương triều Seti I. === Vương triều thứ Chín === Vương triều thứ Chín cai trị từ năm 2160-2130 TCN. Theo danh sách vua Turin, Vương triều 9 và 10 có tất cả 18 vị vua. Một số hiện nay chưa tìm được tên. === Vương triều thứ === Vương triều thứ là nhóm các lãnh chúa địa phương cai trị Hạ Ai Cập từ 2130-2040 TCN === Vương triều thứ Mười một === Vương triều thứ Mười một là các lãnh chúa địa phương cai trị khu vực Thượng Ai Cập từ 2134 tới 1991 TCN. Vương triều thứ Mười một có nguồn gốc từ các lãnh chúa Thebes phụng sự các vị vua Vương triều 8, 9 hoặc 10. Những vị vua kế vị Intef Già bắt đầu từ Mentuhotep I đã trở thành những vị vua độc lập ở phía nam và cuối cùng thống nhất Ai Cập vào Vương triều Mentuhotep II. == Trung vương quốc == Trung vương quốc (2060-1802 TCN) là giai đoạn giữa thời kỳ chuyển tiếp thứ nhất và thời kỳ chuyển tiếp thứ hai. Ngoài Vương triều thứ Mười hai, một số học giả cho rằng có thể gồm cả Vương triều thứ Mười một, 13 và 14. Giai đoạn Trung vương quốc đã ghi nhận sự mở rộng giao thương ra bên ngoài vương quốc trong thời gian này. Việc mở rộng giao thương đã dẫn tới sự sụp đổ của trung vương quốc, cũng như dẫn tới cuộc xâm lược của người Hyksos. === Vương triều thứ Mười một tiếp tục === Thời kỳ sau của Vương triều thứ Mười một được coi là một phần của trung vương quốc. === Các vị vua bí ẩn, xuất hiện tại Hạ Nubia === === Vương triều thứ Mười hai === Vương triều thứ Mười hai bắt đầu từ năm 1991 tới 1802 TCN. == Thời kỳ chuyển tiếp thứ Hai == Thời kỳ chuyển tiếp thứ hai (1802-1550 trước Công nguyên) là giai đoạn khủng hoảng kéo dài từ cuối thời kỳ trung vương quốc và đến đầu thời kỳ tân vương quốc. Thời kỳ này thường được biết đến với Vương triều thứ Mười lăm của người Hyksos. Vương triều thứ Mười ba yếu hơn hẳn Vương triều thứ Mười hai, và nó không thể kiểm soát được toàn bộ Ai Cập. Thời điểm bắt đầu Vương triều này là vào khoảng năm 1805 TCN hoặc trong giai đoạn khoảng năm 1710 TCN, gia tộc lãnh chúa địa phương tại Xois nằm trong khu vực đồng bằng phía đông, đã li khai khỏi chính quyền trung ương và lập nên Vương triều thứ Mười bốn của người Canaan. Người Hyksos bắt đầu xuất hiệu dưới Vương triều của Sobekhotep IV, vào khoảng năm 1720 TCN và kiểm soát thị trấn Avaris (ngày nay là Tell el-Dab'a/Khata'na), họ còn chinh phục vương triều thứ Mười bốn. Sau đó vào khoảng năm 1650 TCN người Hyksos, có thể dưới sự lãnh đạo của Salitis đã chinh phạt Memphis qua đó chấm dứt Vương triều thứ Mười ba. Khoảng trống quyền lực được tạo ra ở Thượng Ai Cập sau khi Vương triều thứ Mười ba sụp đổ đã dẫn tới sự ra đời vương triều thứ Mười sáu độc lập ở Thebes, nhưng cũng được không bao lâu sau thì lại bị người Hyksos tấn công và tiêu diệt. Sau khi người Hyksos rút khỏi Thượng Ai Cập, gia tộc lãnh chúa tại Thebes đã tự thiết lập vương triều của họ, Vương triều thứ Mười bảy ra đời. Vương triều này tiếp tục cuộc chiến tranh chống lại người Hyksos dưới Vương triều Seqenenre Tao, Kamose và kết thúc dưới Vương triều Ahmose, vị pharaon đầu tiên của thời kỳ tân vương quốc. === Vương triều thứ Mười ba === Vương triều thứ Mười ba (theo Danh sách vua Turin) cai trị từ năm 1802- năm 1649 TCN và kéo dài 153 hoặc 154 năm theo Manetho. Bảng này nên được đối chiếu với các vị vua đã biết thuộc Vương triều thứ Mười ba. Vị trí các vị vua sau đây lại không chắc chắn: === Vương triều thứ Mười bốn === Vương triều thứ Mười bốn là Vương triều độc lập ở phía đông khu vực đồng bằng châu thổ với căn cứ tại Avaris. Vương triều này kéo dài từ năm 1805 TCN hoặc 1710 TCN đến khoảng năm 1650 TCN. Nhiều vị vua Vương triều thứ Mười bốn có tên Semite và được cho là có nguồn gốc từ Canaan. Các vị vua không chắc chắn: === Vương triều thứ Mười lăm === Vương triều thứ Mười lăm được những người Hyksos đến từ khu vực Lưỡi liềm phì nhiêu dựng nên, họ đã từng cai trị toàn bộ khu vực thung lũng sông Nile trong một thời gian ngắn, Vương triều của họ kéo dài từ năm 1674-1535 trước Công nguyên. === Vương triều Abydos === Thời kỳ chuyển tiếp thứ Hai có thể bao gồm cả Vương triều Abydos tồn tại từ năm 1650 TCN cho đến năm 1600 TCN. Vương triều này gồm 4 vị vua nhưng chưa xác định được niên đại của họ. === Vương triều thứ Mười sáu === Vương triều thứ Mười sáu do một Vương triều bản địa ở Thebes lập lên sau sự sụp đổ của Vương triều thứ Mười ba ở Memphis vào khoảng năm 1650 TCN và cuối cùng bị người Hyksos của Vương triều thứ Mười lăm chinh phạt vào năm 1580 TCN. Vương triều thứ Mười sáu chỉ kiểm soát vùng thượng Ai Cập. Vương triều thứ Mười sáu có thể bao gồm Sneferankhre Pepi III và Nebmaatre. Niên biểu của họ chưa xác định được. === Vương triều thứ Mười bảy === Vương triều thứ Mười bảy cai trị Thượng Ai Cập trong giai đoạn từ năm 1650-1550 TCN == Tân Vương quốc == Thời kỳ Tân Vương quốc (1550-1077 TCN) là giai đoạn bao gồm các Vương triều 18, 19, 20 từ thế kỷ XVI tới thế kỷ XI TCN, giữa thời kỳ chuyển tiếp thứ Hai và 3. Bằng các hoạt động quân sự, các vị vua của Tân vương quốc đã mở rộng lãnh thổ Ai Cập tới đỉnh cao của nó, bao gồm Nubia ở phía Nam và những vùng lãnh thổ rộng lớn ở Cận đông. Quân đội Ai Cập đã giao tranh với quân đội Hittite để tranh giành quyền kiểm soát vùng đất Syria ngày nay. Hai vị pharaon nổi tiếng của thời kỳ này đó là Akhenaten, còn được biết tới với tên gọi khác là Amenhotep IV, thờ độc thần Aten. Và Ramesses II người đã cố gắng tái kiểm soát lại vùng đất Israel/Palestine, Lebanon và Syria ngày nay. Công cuộc tái chinh phục của ông đã dẫn tới trận chiến Qadesh và đích thân ông đã chỉ huy quân Ai Cập giao chiến với quân Hittite do vua Muwatalli II lãnh đạo. === Vương triều thứ Mười chín === Vương triều thứ Mười chín cai trị trong khoảng 1292-1186 TCN với vị vua nổi tiếng là Rameses II. === Vương triều thứ Hai mươi === Vương triều thứ Hai mươi cai trị trong khoảng 1190-1077 TCN == Thời kỳ chuyển tiếp thứ Ba == Thời kỳ chuyển tiếp thứ Ba (1077-732 trước Công nguyên) đánh dấu sự kết thúc của Tân vương quốc sau khi đế chế Ai Cập sụp đổ. Một số Vương triều của người Lybia đã cai trị trong thời gian này, thời kỳ này còn được gọi là thời kỳ Lybia. === Vương triều thứ Hai mươi mốt === Vương triều thứ Hai mươi mốt đóng đô tại Tanis. Về mặt lý thuyết Vương triều thứ Hai mươi mốt cai trị toàn bộ Ai Cập nhưng thực tế họ chỉ kiểm soát vùng Hạ Ai Cập. Vương triều này kéo dài từ năm 1069-943 TCN. === Theban Đại tư tế của Amun === Mặc dù không phải là các pharaon, các Đại tư tế của Amun tại Thebes lại là người cai trị thực tế của Thượng Ai Cập trong Vương triều thứ Hai mươi mốt và 22. Tên của họ được khắc trong đồ hình và chôn cất trong các lăng mộ hoàng gia. === Vương triều thứ Hai mươi hai === Các pharaon cai trị là người Lybia, kéo dài từ năm 943-728 TCN: === Vương triều thứ Hai mươi ba === Vương triều thứ Hai mươi ba là nhóm các vị vua địa phương, có nguồn gốc Libya, đóng đô tại Herakleopolis và Thebes trong giai đoạn từ năm 837-735 TCN Rudamun đã được kế vị ở Thebes bởi lãnh chúa địa phương: === Người Libu === Không được công nhận là một Vương triều, người Libu là nhóm dân tộc du mục từ phía Tây (Libya) chiếm đóng và kiểm soát phía Tây đồng bằng sông Nile từ năm 805-732 TCN. === Vương triều thứ Hai mươi tư === Vương triều thứ Hai mươi tư là Vương triều ngắn ngủi trong lịch sử nằm ở phía Tây đồng bằng sông Nile (Sais). Vương triều này chỉ có 2 vị vua cai trị từ 732-720 TCN. == Thời Hậu nguyên == Thời Hậu nguyên kéo dài từ năm 732 TCN cho đến khi Ai Cập trở thành tỉnh thuộc La Mã vào năm 30 TCN. Bao gồm các thời kỳ cai trị của người Nubia, Ba Tư, và Macedonia. === Vương triều thứ Hai mươi lăm === Người Nubia xâm chiếm Hạ Ai Cập và lên ngôi vua của Ai Cập dưới Vương triều Piye mặc dù họ đã kiểm soát vùng Thượng Ai Cập và Thebes vào giai đoạn đầu Vương triều của Piye. Piye chinh phạt Hạ Ai Cập và thiết lập Vương triều thứ Hai mươi lăm cai trị tới năm 656 TCN. Cuối cùng họ bị đẩy lui về Nubia, ở đây họ thành lập vương quốc tại Napata (656–590), và sau đó tại Meroë (590 TCN – thế kỷ thứ Tư công nguyên). === Vương triều thứ Hai mươi sáu === Vương triều thứ Hai mươi sáu cai trị khoảng từ năm 672-525 trước Công nguyên. === Vương triều thứ Hai mươi bảy (thời kỳ Ba Tư thứ nhất) === Ai Cập bị đế quốc Ba Tư chinh phạt vào năm 525 TCN và sát nhập vào Ba Tư tới năm 404 TCN. Các shahenshahs của Vương triều Achaemenes được công nhận là pharaon trong thời kỳ này. === Vương triều thứ Hai mươi tám === Vương triều thứ Hai mươi tám kéo dài từ năm 404-398 TCN chỉ với một pharaon. === Vương triều thứ Hai mươi chín === Vương triều thứ Hai mươi tám trị vì từ 398-380 TCN. === Vương triều thứ Ba mươi === Vương triều thứ Ba mươi kéo dài từ 380 TCN đến khi Ai Cập bị Ba Tư cai trị một lần nữa vào năm 343 TCN. === Vương triều thứ Ba mươi mốt (thời kỳ Ba Tư lần thứ Hai) === Ai Cập tiếp tục bị cai trị bởi Vương triều Achaemenes của Ba Tư. Theo Manetho, những vị vua Ba Tư cai trị từ năm 343 tới 332 TCN. === Vương triều Argead === Alexander Đại đế của Macedonia chinh phạt thành công Ba Tư và Ai Cập. Vương triều Argead cai trị từ 332-309 TCN. === Vương triều Ptolemaic === Vương triều của Hy Lạp thứ hai, nhà Ptolemaios đã cai trị từ năm 305 TCN đến khi Ai Cập trở thành một tỉnh của La Mã vào năm 30 TCN (có nhiều niên đại với thời gian chồng chéo lên nhau, có nghĩa là đã có một giai đoạn đồng trị vì). Thành viên nổi tiếng nhất của Vương triều này là Cleopatra VII, còn được gọi giản đơn là Cleopatra, từng là người tình của Julius Caesar, sau khi Julius Caesar qua đời thì bà đã cưới Mark Antony và có 2 người con với ông. Cleopatra đã cố gằng xây dựng mối liên minh giữa Ai Cập và La Mã nhưng với việc Julius Caesar bị ám sát và thất bại của Mark Antony đã khiến cho kế hoạch của bà sụp đổ. Caesarion (Ptolemy XV Philopator Philometor Caesar) là vị vua cuối cùng thuộc Vương triều Ptolemaios của Ai Cập, ông đã cùng cai trị với mẹ mình là Cleopatra VII của Ai Cập từ ngày 2 tháng 9 năm 47 TCN. Ông là con trai cả của Nữ hoàng Cleopatra VII, và có thể là con trai duy nhất của Julius Caesar. Sau cái chết của Cleopatra VII vào ngày 12 tháng 8, năm 30 TCN, ông trở thành người cai trị duy nhất. Sau đó ông bị hành quyết theo lệnh của Octavian vào ngày 23 tháng 8, năm 30 TCN, Ai Cập tiếp đó bị sát nhập thành một tỉnh La Mã. == La Mã == Cleopatra có cuộc tình với nhà độc tài của La Mã Julius Caesar và thống chế La Mã Mark Antony (Marcus Antonius). Sau khi Marcus Antonius bị sát hại bởi Octavian (sau này là hoàng đế Augustus) bà tự tử. Và Ai Cập sát nhập thành tỉnh của La Mã từ năm 30 TCN. Các Hoàng đế La Mã tiếp theo vẫn tiếp tục sử dụng danh hiệu Pharaon cho sự cai trị của mình tại Ai Cập. Danh sách Hoàng đế La Mã sử dụng danh hiệu pharaon và bao gồm cả Decius, xem tại Danh sách Hoàng đế La Mã. == Xem thêm == Danh sách các vương triều Ai Cập Pharaon == Chú thích == == Tham khảo == J. H. Breasted, History of Egypt from the Earliest Time to the Persian Conquest, 1909 J. Cerny, 'Egypt from the Death of Ramesses III to the End of the Twenty-First Dynasty' in The Middle East and the Aegean Region c.1380-1000 BC, Cambridge University Press, ISBN 0-521-08691-4 Clayton, Peter A. (1995). Chronicle of the Pharaohs: The Reign-by-Reign Record of the Rulers and Dynasties of Ancient Egypt. The Chronicles Series . London: Thames and Hudson. ISBN 978-0-500-05074-3. Bảo trì CS1: Văn bản dư (link) Dodson, Aidan and Hilton, Dyan. <chú thích>The Complete Royal Families of Ancient Egypt</chú thích>. Thames & Hudson. 2004. ISBN 0-500-05128-3 Sir Alan Gardiner Egyptian Grammar: Being an Introduction to the Study of Hieroglyphs, Third Edition, Revised. London: Oxford University Press, 1964. Excursus A, pp. 71–76. Nicolas Grimal, A History of Ancient Egypt, (Blackwell Books: 1992) Murnane, William J. Ancient Egyptian Coregencies, Studies in Ancient Oriental Civilization. No. 40. The Oriental Institute of the University of Chicago, 1977 Michael Rice, Who's Who in Ancient Egypt, Routledge 1999 Ryholt, Kim & Steven Bardrum. 2000. "The Late Old Kingdom in the Turin King-list and the Identity of Nitocris." Zeitschrift für ägyptische Sprache und Altertumskunde 127 Shaw, Ian. The Oxford History of Ancient Egypt., Oxford University Press, 2000. Shaw, Garry. The Pharaoh, Life at Court and on Campaign, Thames and Hudson, 2012. Toby A. H. Wilkinson, Early Dynastic Egypt, Routledge 1999, ISBN 0-415-18633-1 Verner, Miroslav, <chú thích>The Pyramids - Their Archaeology and History</chú thích>, Atlantic Books, 2001, ISBN 1-84354-171-8 Egypt, History & Civilisation By Dr. R Ventura. Published by Osiris, PO Box 107 Cairo. == Liên kết ngoài == Egyptian chronology site Egyptian Royal Genealogy Manetho and the King Lists Review of different primary king lists Chronology Table - 0 Dynasty&History Period, by Dariusz Sitek Multi-pages of list of pharaohs in different king lists, without the god kings, in Egyptian hieroglyphs and English Egyptian Journey 2003: History: King Lists Hyperlink texts of the Manetho, Abydos & Turin king lists, without the god-kings Digital Egypt for Universities List of all female Pharaohs
thành lộc.txt
Thành Lộc tên thật là Nguyễn Thành Lộc (sinh ngày 3 tháng 11 năm 1961) là một diễn viên hài - kịch người Việt Nam. Anh được biết đến nhiều qua các vai diễn như: Ông Kẹ và các bà mẹ, Những đứa con của rồng,... người lính Vorodin trong vở Đêm họa mi, Chu Xung trong vở kịch kinh điển Lôi Vũ, Ba Thư trong Đối mặt và vai ông Tư trong vở Dạ cổ hoài lang, ông Tư trong vở Tía ơi má dìa... Năm 2001, Thành Lộc được Nhà nước phong tặng danh hiệu Nghệ sĩ ưu tú vì những đóng góp lớn cho nền nghệ thuật nước nhà. Bên cạnh đó, anh còn được giới báo chí cũng như đồng nghiệp đặt cho biệt danh là "Phù thủy của những vai diễn". Ngoài thành công trong lĩnh vực sân khấu kịch, Thành Lộc còn đảm nhiệm nhiều vai trò khác nhau như: người dẫn chương trình, diễn viên điện ảnh, diễn viên hài, đạo diễn sân khấu, và hiện nay là Phó Giám đốc Sân khấu kịch Idecaf. Năm 2012, Thành Lộc được khán giả cả nước biết đến nhiều hơn với vai trò là một trong 3 vị giám khảo của cuộc thi Tìm kiếm Tài năng Việt Nam - Vietnam's Got Talent. == Tiểu sử == Thành Lộc sinh tại Sài Gòn trong một gia đình có truyền thống nghệ thuật, cha là Nghệ sĩ Nhân dân Thành Tôn, mẹ là nữ nghệ nhân hát bội Huỳnh Mai và ngay cả hai anh chị của anh - Bạch Long, Bạch Lê đều là những nghệ sĩ cải lương nổi tiếng tại miền Nam thời kỳ những năm 1970 - 1980. Năm 1969, khi vừa tròn 8 tuổi, Thành Lộc đã làm quen với sân khấu từ đội múa Nhà Thiếu nhi thành phố (Sài Gòn cũ), rồi ban kịch thiếu nhi của Đài Truyền hình Việt Nam Cộng hòa, anh lấy nghệ danh là Thành Tâm. Giai đoạn này, Thành Lộc từng góp mặt trong hai bộ phim Đất khổ và Tứ quái Sài Gòn với vai trò diễn viên nhí phụ họa. Năm 1982, Thành Lộc tốt nghiệp khoa diễn viên trường Cao đẳng Sân khấu Điện ảnh Thành phố Hồ Chí Minh và một năm sau anh về đầu quân cho đoàn kịch Tuổi Trẻ Tp. Hồ Chí Minh. Sau đó, vào năm 1983, Thành Lộc gia nhập Câu lạc bộ Kịch thể nghiệm Tp. Hồ Chí Minh (ngày nay gọi là nhà hát kịch Sân khấu nhỏ). Năm 1997, anh chuyển về biểu diễn tại sân khấu IDECAF (Viện trao đổi văn hóa với nước Pháp). Trong khoảng thời gian này, Thành Lộc dần dần khẳng định được tài năng của mình qua các vai diễn được đánh giá là "kinh điển" của sân khấu kịch Thành phố nói riêng và Việt Nam nói chung, anh lần lượt thể hiện nhiều loại vai với tính cách đa dạng như: vai anh chàng thư sinh Chu Xung bất hạnh trong vở Lôi Vũ, vai ông Tư - một ông già sống nơi xứ người, ẩn ức khi nghĩ đến con cháu "mất gốc" trong vở Dạ cổ hoài lang, vai ông Thiện trong Ngôi nhà không có đàn ông - một ông già tuy đã ngoài 50 nhưng yêu một cô gái mới chỉ 20 tuổi, đây là vai diễn mà Thành Lộc tâm đắc nhất. Anh tâm sự: "Lúc đầu có người ngộ nhận vai ông Thiện phải là một vai hài. Tôi nhận thức rõ ý tác giả và đã diễn khác. Ông Thiện xuất hiện ít nhưng là một vai diễn có chiều sâu trong tâm hồn và có nhiều đất để người diễn viên sáng tạo. Tôi rất thích những vai dù ít xuất hiện, nhưng có chiều sâu để mình tập trung sáng tạo và thể hiện đầy đủ tính cách của nhân vật". Tháng 4 năm 2000, Thành Lộc và ông bầu Huỳnh Anh Tuấn - Chủ nhiệm CLB Múa rối Nụ cười (Nhà thiếu nhi Quận 1) cùng nhau thành lập Công ty TNHH Sân khấu và Nghệ thuật Thái Dương (IDECAF), đây là một công ty gần như duy nhất tại Việt Nam chuyên dàn dựng những vở kịch dành riêng cho lứa tuổi thiếu nhi. Tại đây, anh vừa là phó chỉ đạo nghệ thuật, kiêm luôn diễn viên chính của đoàn. Thành Lộc tiếp tục đảm nhiệm thêm vị trí đạo diễn dàn dựng sân khấu. Với sân khấu kịch này, Thành Lộc đã dàn dựng rất thành công chương trình Ngày xửa ngày xưa - một chương trình hài kịch dành cho thiếu nhi. Với những vai rất hồn nhiên và nhí nhảnh như vai Thần Nhẫn trong Aladin và đủ thứ thần, Chó ghẻ trong Cậu bé rừng xanh, Cú mèo trong Nữ thần Lee Kim Chi, Ốc mượn hồn trong Sơn Tinh - Thủy Tinh... Ngoài sân khấu kịch, Thành Lộc còn tham gia vào nhiều lĩnh vực nghệ thuật khác trong đó có điện ảnh. Anh từng xuất hiện trong nhiều bộ phim với các vai diễn như: vai Lộc (giả gái) trong phim hài 2 trong 1, vai Lý Thông trong phim Thạch Sanh, vai thầy hiệu trưởng ưa thành tích trong phim Giải cứu thần chết, vai ông chủ tiệm phở Hoàng trong phim truyền hình dài hơn 100 tập Mùi ngò gai, và đặc biệt là vai chính trong bộ phim Thời thơ ấu của đạo diễn Lê Văn Duy, bộ phim kể về cuộc đời đầy thăng trầm của một cậu học trò miền sông nước đồng bằng sông Cửu Long, đây là bộ phim đầu tiên Thành Lộc thủ vai chính và đã gây được nhiều ấn tượng sâu sắc đến người xem. Gần đây nhất là vai diễn thầy Hoàn Sinh trong phim nhựa Lời nguyền huyết ngải được chiếu vào dịp Tết 2012. Trong năm 2008, Thành Lộc quyết định ra mắt một album ca nhạc mang tên "Những điều thần tiên". CD bao gồm những bài hát thiếu nhi do chính anh trình bày. Dự án này được thực hiện nhằm gây quỹ giúp các trẻ em không may mắn bị nhiễm căn bệnh ung thư của Bệnh viện Ung bướu Thành phố Hồ Chí Minh. === Thành tích và các giải thưởng === Với trên 200 vai diễn gồm những tính cách đa dạng trên sân khấu và cả điện ảnh, từ những vai chính diện đến phản diện, người già đến trẻ nhỏ, bi đến hài, con người đến muông thú... Thành Lộc được coi như là một trong những nghệ sĩ tài năng của sân khấu kịch Việt Nam. Anh đã đạt được nhiều giải thưởng như: Giải diễn viên xuất sắc, diễn viên được yêu thích trong năm trong các giải liên hoan kịch chuyên nghiệp của Tp. Hồ Chí Minh do báo Tuổi trẻ, Người Lao động, Thanh Niên tổ chức vào liên tiếp những năm từ 1989 đến 1999. Giải "Cù nèo vàng" năm 1997, một giải thưởng tổ chức thường niên, được trao tặng cho các nghệ sĩ hài có đóng góp lớn cho sân khấu Thành phố. Năm 2001, Thành Lộc được Nhà nước trao tặng danh hiệu Nghệ sĩ ưu tú. Cũng trong năm này, Thành Lộc được tạp chí "Mốt Việt Nam" bình chọn là nghệ sĩ ăn mặc thời trang nhất của năm. Huy chương "Vì Sự nghiệp Sân khấu" do Bộ Văn hóa - Thông tin tặng. Vở Bí mật vườn Lệ Chi - Giải thưởng Hội sân khấu Việt Nam năm 2000. Năm 2006, Thành Lộc đoạt giải Nam diễn viên kịch nói được yêu thích nhất HTV Awards. Năm 2007, Thành Lộc được trao giải Mai Vàng cũng cho chính vở "Bí mật vườn Lệ Chi". Năm 2010, nhân kỷ niệm 15 năm "Giải Mai Vàng" báo Người Lao động, Thành Lộc đã được trao giải "Đạo diễn được yêu thích nhất" cho vở "Ngàn năm tình sử" và giải "Thành tựu Mai Vàng". Năm 2013, Thành Lộc đoạt giải Nam diễn viên sân khấu được yêu thích nhất của giải Mai vàng lần thứ 18. == Phim đã tham gia == Đất khổ Tứ quái Sài Gòn Thạch Sanh Thời thơ ấu 2 trong 1 Mùi ngò gai Nụ hôn thần chết Giải cứu thần chết Khi yêu đừng quay đầu lại Lời nguyền huyết ngải Xì Trum 2 (lồng tiếng) Bếp hát Lạc giới Cha rơi Chàng trai năm ấy Ngày nảy ngày nay Vợ ơi... em ở đâu? Cậu bé rừng xanh (lồng tiếng) Tik Tak anh yêu em Tấm Cám: Chuyện chưa kể Lục Vân Tiên: Tuyệt đỉnh Kungfu == Tham khảo == Nghệ sĩ Thành Lộc: Tôi thất bại trong tình yêu Tôi ấp ủ ước mơ đưa hình ảnh má tôi lên sân khấu == Liên kết ngoài == Thành Lộc tại Internet Movie Database
kiến trúc.txt
Kiến trúc là một ngành nghệ thuật và khoa học về tổ chức sắp xếp không gian, lập hồ sơ thiết kế các công trình kiến trúc. Kiến trúc sư với kiến thức chuyên ngành kiến trúc, ngoài công tác thiết kế công trình có thể tham gia vào rất nhiều các lĩnh vực thiết kế quản lý khác, như quy hoạch đô thị, thiết kế đô thị, thiết kế cảnh quan, quản lý đô thị, quản lý giám sát dự án, thiết kế nội thất, thiết kế đồ họa hay thiết kế tạo dáng công nghiệp. Từ những vật liệu sẵn có, những tri thức khoa học, kinh nghiệm, nhu cầu thực tế, quan niệm về ý nghĩa và giá trị thẩm mỹ của các hình thức kiến trúc, mỗi nền văn hóa thường để lại hàng loạt các công trình kiến trúc có chung những phong cách kiến trúc riêng, đặc trưng cho các thời kỳ lịch sử. Kiến trúc hiện đại đi theo xu hướng tôn sùng công nghệ và vật liệu mới, công năng sử dụng, và năng lực sáng tạo cá nhân, do đó các công trình kiến trúc hiện đại thường không có nhiều liên hệ đến văn hóa bản địa. Sự khô cứng, vô tính của kiến trúc hiện đại bị phê phán mạnh mẽ trong những năm 1970 khiến trào lưu kiến trúc hậu hiện đại ra đời. Công nghệ và vật liệu mới vẫn được áp dụng mạnh mẽ trong kiến trúc hậu hiện đại, mà áp dụng chúng một cách khôn ngoan đầy cảm xúc hơn, nhằm nhấn mạnh các đặc thù của công trình và mối liên hệ của công trình đến khung cảnh tự nhiên văn hóa xã hội xung quanh. == Lịch sử kiến trúc == Bắt đầu buổi bình minh của lịch sử loài người, đứng trước nhu cầu tự bảo vệ mình trước các tác động thiên nhiên thời tiết, con người tiền sử đã phải tạo nên những dạng thức kiến trúc đầu tiên để tồn tại. Như vậy, kiến trúc trước tiên được nảy sinh từ trên nhu cầu công năng sử dụng của con người. Trong lịch sử kiến trúc châu Âu, giả thuyết về nguồn gốc của kiến trúc được Vitruvius đề cập đến trong tác phẩm Mười cuốn sách viết về kiến trúc. Theo đó, túp lều nguyên thủy được xem là điểm khởi thủy cho mọi dạng thức của kiến trúc sau này. Vào thời kỳ đồ đá mới, con người đã xây dựng những tường thành kiên cố để tự bảo vệ, ví dụ như bức tường thành bằng đá nổi tiếng được tìm thấy ở Jericho, có niên đại xây dựng vào năm 8000 trước Công nguyên. Người ta cũng đã khai quật được một cụm quần cư gồm những nhà tròn xây dựng bằng những tảng đá chồng xếp lên nhau ở làng Skara Brae ở Scotland. Vào thời đại đồ đồng, các loại hình kiến trúc đầu tiên đã ra đời. Đó là các loại hình sau đây: Phòng đá (Dolmen) Cột đá (Menhir hay Monolith) Lan can đá (Cromlech) Hình thức sơ khởi của đền thờ. == Kiến trúc và Xây dựng == == Các phong cách kiến trúc phương Tây nổi tiếng == Lịch sử kiến trúc đã trải qua nhiều giai đoạn với các phong cách khác nhau. Lịch sử kiến trúc châu Âu, nếu phân chia theo các giai đoạn lịch sử, người ta có các dòng kiến trúc chính: Kiến trúc Ai Cập cổ đại Kiến trúc Lưỡng Hà và Ba Tư Kiến trúc Hy Lạp cổ đại Kiến trúc La Mã cổ đại Kiến trúc Byzantine và kiến trúc Nga thời kỳ trung thế kỷ Kiến trúc Roman Kiến trúc Gothic Kiến trúc Phục hưng (Renaissance) Kiến trúc Baroque Kiến trúc Rococo Kiến trúc Tân cổ điển (Neoclassic) Kiến trúc Hiện đại (Modern architecture) Kiến trúc Hậu Hiện đại (Postmodern architecture) Chủ nghĩa Phê bình bản địa == Kiến trúc Việt Nam == Kiến trúc Việt Nam có thể chia ra làm các giai đoạn loại nổi bật sau đây: === Kiến trúc cổ Việt Nam === Kiến trúc cổ truyền Việt Nam đa phần sử dụng kết cấu khung gỗ như nhà gỗ truyền thống Việt Nam kết hợp với các vật liệu bổ trợ khác như gạch, đá, ngói, đất, rơm, tre... Trong thể loại kiến trúc này, thực sự không có sự khác biệt hoặc phân chia hoặc khác biệt nhiều về kết cấu của các thể loại công trình khác nhau. Dựa trên đặc điểm cũng như tính chất của hệ kết cấu cũng như vật liệu này, trong kiến trúc cổ truyền Việt Nam không thực sự tồn tại các công trình có kích thước lớn như ở các quốc gia khác. Trong suốt lịch sử, kiến trúc cổ truyền Việt Nam thực sự không có nhiều thay đổi hoặc có xuất hiện những trường phái như ở châu Âu. Vì là một quốc gia phải liên tục chịu đựng chiến tranh trải dài theo lịch sử, thời gian để hòa bình xây dựng rất ngắn, nên kiến trúc lớn hay bền vững tồn tại không có nhiều. Có thể phân loại kiến trúc Việt Nam ra các công trình hạng mục theo: Chức năng sử dụng: kiến trúc cung điện, tôn giáo (đình, chùa, miếu thờ...), văn hóa (bia, đền...), nhà ở dân gian,... Vật liệu xây dựng thì cũng ít có tính cách lâu dài, chỉ trừ các công trình công cộng: gạch, đá, gỗ quý (thiết mộc)... mà đa số dùng các vật liệu địa phương sẵn có như lá, tranh, tre, gỗ đẽo, đá kê nền cột, đất sét nung hoặc không nung, bùn trộn rơm,... Kết cấu: khung sườn gỗ, mộng và lỗ mộng (không dùng đinh), vĩ kèo gỗ đòn tay, rui mè, đòn vong, cột kê tán (không móng, cừ...) tùy theo điều kiện địa lý mà có thể nhà kết cấu nâng sàn, nửa nhà sàn nửa nền đất, hay trên nền đất, nhưng không có lầu hay nhiều tầng như các nước khác. Mái nhà thường có độ dốc cao do hay dùng lá, tranh, ngói (dốc lớn hơn 45 độ). Trang trí: công trình công cộng thì thường lợp ngói (hoàng cung, đình, miếu...), mái công ở góc mái có trang trí đầu đao, rồng, cá,... chạm trổ hoa văn trang trí các đầu đà xà gồ gỗ, các hình tượng trang trí thường từ thú họ tứ linh (Long, Ly, Qui, Phượng) hay cọp, cá,... Thiết kế bình đồ: công trình công cộng như chùa, đình thường có bình đồ dùng theo chiết tự Hán như nội công ngoại quốc,... còn nhà ở thì thường là 3 gian, 2 chái, hình chữ đinh, nhà chính (nhà trên) và nhà phụ (nhà dưới) có sân nước (sân thiên tỉnh)... và thường không ngăn chia ra các phòng nhỏ như ở tây phương, 1 cửa chính và 1 cửa đi phụ và rất ít cửa sổ. Nhà ở miền Nam nhiều sông rạch nên phương tiện đi lại chính là xuồng nên công trình phụ như nhà để ghe xuồng thường ở mé sông (xẽo) hay ụ tàu, và phía ngoài nhà có chuồng trâu bò, còn kho lúa thì thường đặt trong nhà. Vật lý kiến trúc: thông gió tự nhiên, tường và mái nhà thường trùm kín nhà do mưa rất nhiều, hơn nữa cửa đi và cửa sổ mở rất ít do an ninh ngừa trộm cắp nên chiếu sáng tự nhiên rất tối và kém sáng sủa, nhà ở thường hướng nam (đón gió nồm thổi mát vào mùa hè) và 2 chái phụ ở 2 đầu nhà sẽ là hướng đông tây chống hơi nóng mặt trời sáng và chiều. Trồng cây: trước nhà trồng cau (cau để đón gió nam mát) sau nhà trồng chuối (lá chuối ngăn bớt gió bấc lạnh mùa đông). === Kiến trúc thuộc địa === Thể loại kiến trúc này được du nhập từ các nước phương Tây, cùng với sự xuất hiện của người Pháp tại Việt Nam vào cuối thế kỉ 19 đầu thế kỉ 20. Loại hình kiến trúc này phát triển song song với quá trình khai thác thuộc địa của người Pháp. Do đặc điểm của riêng của điều kiện địa lý, khí hậu khác biệt nên các phong cách kiến trúc châu Âu đã phải có những chuyển biến nhất định để hòa hợp với điều kiện Việt Nam. === Kiến trúc mới === Thể loại kiến trúc này được hình thành từ giữa thế kỷ 20, sau khi nước Việt Nam thoát khỏi giai đoạn thuộc địa của thực dân Pháp. Dựa trên điều kiện lịch sử khác biệt, kiến trúc hai miền Nam và Bắc cũng phải chịu những ảnh hưởng nhất định. === Kiến trúc đương đại === Cùng với sự phát triển của kinh tế cũng như quá trình mở của hội nhập quốc tế sau giai đoạn Đổi mới và sự du nhập nhiều luồng kiến trúc khác nhau vào Việt Nam đã hình thành nên một khuynh hướng kiến trúc mới. Vào giai đoạn của mở cửa, phong cách kiến trúc này phần nhiều mang tính lai tạp sao chép các đặc điểm kiến trúc nước ngoài còn mang tính hỗn loạn. Hiện nay, các kiến trúc sư Việt Nam vẫn đang lần tìm một con đường cho riêng họ. Tuy nhiên, từ năm 2003 đến nay(2007) một số trào lưu kiến trúc mới theo phong cách hiện đại đã được hình thành. Tuy chưa rõ nét nhưng đã một phần thể hiện được sự hội nhập với thế giới của các kiến trúc sư Việt Nam. Bên cạnh các hình thức thường thấy ngoài đường phố, công năng sử dụng cũng được nghiên cứu nghiêm túc hơn, tạo tiện nghi cho người sử dụng tốt hơn. == Xem thêm == Công nghiệp văn hoá Công nghiệp sáng tạo == Liên kết ngoài == Hội kiến trúc sư Việt Nam - kienviet.net Hiệp hội kiến trúc sư Hoàng gia Australia Hiệp hội kiến trúc sư Hoàng gia Anh Worldarchitecture.org, World Architecture Database Archdaily.com Recopilation of thousands of recents projects Architectural centers and museums in the world, list of links from the UIA Batharchitecture.com Student Design Projects and Essays on Architectural Theory arch-library
đoàn chuẩn.txt
Đoàn Chuẩn (15 tháng 6 năm 1924 – 15 tháng 11 năm 2001) là một nghệ sĩ biểu diễn ghi-ta Hawaii, song được biết đến nhiều hơn cả như một nhạc sĩ Việt Nam với số lượng sáng tác ít ỏi nhưng đều trở thành những giai điệu thuộc nằm lòng của nhiều thế hệ. Sinh ra trong một gia đình tư sản nổi tiếng ở Hải Phòng, ông là con trai thứ hai của nhà tư sản Đoàn Đức Ban (Vạn Vân) - chủ hãng nước mắm Vạn Vân nổi tiếng và lớn nhất trên toàn cõi Đông Dương trước Cách mạng tháng Tám (1945). Ông lớn lên ở Hà Nội và là nghệ sĩ chơi đàn ghi-ta Hawaii. Ông sáng tác ca khúc đầu tiên là "Ánh trăng mùa thu" vào năm 1947 tại làng Đống Năm, Đông Hưng, Thái Bình. Ca khúc này gắn với một kỷ niệm về làng Khuốc (đất Chèo). Tất cả ca khúc của ông đều được ghi tên tác giả là "Đoàn Chuẩn-Từ Linh". Thực ra Từ Linh (? – 1992) không trực tiếp tham gia sáng tác, nhưng Đoàn Chuẩn ghi tên chung hai người để tôn vinh người bạn tri âm của mình, tôn vinh tình bạn đã góp phần tạo cảm hứng nghệ thuật. Từ Linh tên thật là Hà Đình Thâu - một nhiếp ảnh gia. Cái tên chung mà người nhạc sĩ này đã chọn để sử dụng vẫn là một ẩn số đối với công chúng. Đầu năm 2000, ông bị tai biến mạch máu não và hôn mê. Sau đó, ông tỉnh lại nhưng mất tiếng nói, chỉ có thể bút đàm cho đến lúc qua đời lúc 22 giờ, ngày 15 tháng 11 năm 2001. == Giai thoại và cuộc đời == Đoàn Chuẩn, theo lời kể của con trai là Đoàn Đính, nổi tiếng về tính cách phong lưu và hào hoa có thể so sánh như công tử Bạc Liêu ở miền Nam Việt Nam thời bấy giờ. Ông đã từng thuê rất nhiều ô để che nắng cho một trong hai chiếc Cadillac ở Việt Nam thời đó khi đi tắm biển ở Hải Phòng, diện tích ô che phủ bao nhiêu thì trả tiền bấy nhiêu. Cách ăn mặc của Đoàn Chuẩn cũng rất cầu kỳ: một ngày ông có thể thay vài bộ quần áo và hàng chục đôi giày; chỉ ăn tôm mới bắt 15 phút trước và đã được bóc nõn quấn mỡ kho. Đoàn Chuẩn rất đa tình. Ông đã sáng tác tặng một người đẹp của miền Bắc lúc đó sáu bài hát trong khi với vợ mình, ông chỉ viết tặng bà vỏn vẹn hai bài. Thời trẻ, ông đã từng dành ba năm thuê người mỗi ngày mang một bông hồng đến tặng người con gái mà ông yêu. Về sau, gia cảnh của nhà Đoàn Chuẩn có phần giảm sút nhưng ông vẫn sống rất vui vẻ và hạnh phúc bên vợ mình. == Tác phẩm == Hiện đã xác định được tổng cộng là mười chín ca khúc của nhạc sĩ Đoàn Chuẩn, trong đó các sáng tác của ông thường đề cập nhiều đến mùa thu. Tuy nhiên, ông tự nhận mình là "tay mơ" trong sáng tác nhạc và cả trong tình yêu. Có rất nhiều ca sĩ trình bày các sáng tác của Đoàn Chuẩn như Ngọc Bảo, Anh Ngọc, Ngọc Long, Mộc Lan, Thái Thanh, Lệ Thanh, Minh Hiếu, Lệ Thu, Khánh Ly, Mai Hương, Ánh Tuyết, Bằng Kiều, Tùng Dương... Nghệ sĩ Lê Dung đã thổi vào các sáng tác của Đoàn Chuẩn màu sắc của những tác phẩm cổ điển. == Chú thích == == Liên kết ngoài == Về chuyến đi xa của hai nghệ sĩ, Văn Quang] Đoàn Chuẩn, công tử Bạc Liêu xứ Bắc, VnExpress.net] Bản nhạc mới tìm thấy của Nhạc sĩ Đoàn Chuẩn
chợ lớn.txt
Chợ Lớn (Hán Việt: 堤岸 - Đê Ngạn; tiếng Quảng: Thày Ngòn), là tên của khu vực đông người Hoa sinh sống nằm ven kênh Tẻ trải dài từ Quận 5 và Quận 6 ở Sài Gòn, miền Nam Việt Nam. Khu vực này trước kia lập thành một thành phố riêng biệt với Sài Gòn: Chợ Lớn. Trong những năm 1930-1950 do quá trình đô thị hóa, Sài Gòn và Chợ Lớn dần dần sáp nhập với nhau. == Lịch sử == Từ trước năm 1698, ở Đề Ngạn (mà sau này gọi là Chợ Lớn) đã có làng Minh Hương của người Hoa (vì không thần phục nhà Thanh, họ đã rời bỏ Trung Quốc sang định cư ở miền Nam Việt Nam). Tuy nhiên, vùng đất ấy trở nên đông đúc kể từ khi người Hoa ở Cù Lao Phố (tức Biên Hòa ngày nay) chạy tới đây lánh nạn sau khi nơi ở của họ bị quân Tây Sơn tàn phá năm 1776 . Rồi do nhu cầu, người Hoa lập chợ (hay phát triển chợ có đã từ trước) để trao đổi hàng hóa. So với chợ Tân Kiểng của người Việt thì chợ Sài Gòn (khu vực Bưu điện Chợ Lớn ngày nay) có lớn hơn nên được người dân gọi là Chợ Lớn. Sau đó, tên chợ cũng được dùng để chỉ vùng đất mà nó tọa lạc. Theo học giả Vương Hồng Sển, thì "Chợ Lớn như nay ta còn gọi, đối với Hoa kiều là Thầy Ngòn (Đề Ngạn) hay Xấy Cung (Tây Cống:Sài Gòn); còn sách cũ Pháp viết là Cholon hay Cholen, Cho Leun". Thành phố Chợ Lớn thành lập ngày 6 tháng 6 năm 1865. Đến ngày 20 tháng 10 năm 1879, Thống đốc Nam Kỳ Le Myre de Vilers ra Nghị định công nhận thành phố Chợ Lớn (ville de Chợ Lớn) là đô thị loại 2 (municipalité de 2e classe) ngang cấp tỉnh, cùng với các thành phố Đà Nẵng và Phnom Penh được thành lập sau này của xứ Đông Dương thuộc Pháp. Đứng đầu thành phố là viên Thị trưởng (Maire), do Thống đốc Nam Kỳ đề cử và Toàn quyền Đông Dương bổ nhiệm. Thành phố Chợ Lớn là đơn vị hành chính tách biệt hẳn với tỉnh Chợ Lớn. Tuy nhiên trụ sở các cơ quan chính quyền của tỉnh Chợ Lớn đều đặt tại Thành phố Chợ Lớn. Ngày 1 tháng 7 năm 1882, tuyến đường xe điện đầu tiên ở Việt Nam dài 5 km, rộng 1 m, nối Sài Gòn và Chợ Lớn bắt đầu hoạt động. Theo Bến Nghé xưa của Sơn Nam thì Giữa Sài Gòn và Chợ Lớn phía đất thấp, chưa có dự kiến nên nối liền, còn ruộng lúa với người cày, ao nuôi vịt, ngọn rạch cạn, đợi đến năm 1916 mới bắt đầu đắp đường, trải đá ong... (Đó là đường Galliéni, nay là Trần Hưng Đạo). Đến năm 1930, hai Thành phố Sài Gòn và Chợ Lớn đã giáp nhau ở chỗ nay là đường Nguyễn Văn Cừ. Ngày 27 tháng 4 năm 1931, khu Sài Gòn-Chợ Lớn được thành lập lại theo Sắc lệnh của Tổng thống Pháp. Đứng đầu khu là một Khu trưởng, do Toàn quyền Đông Dương bổ nhiệm. Khu trưởng là Chủ tịch Hội đồng quản lý khu Sài Gòn-Chợ Lớn. Chức Thị trưởng vẫn còn tồn tại đến năm 1934, nhưng một số quyền hạn của chức này chuyển sang cho Khu trưởng. Kể từ năm 1956, theo học giả Vương Hồng Sển, Chợ Lớn bị lấy đi một phần nhập với Gia Định, còn một phần nhập với Tân An làm ra tỉnh Long An. Riêng thành phố Chợ Lớn (nơi có chợ Bình Tây ngày nay) thì nhập với Sài Gòn làm thành Đô thành Sài Gòn. == Các điểm tham quan == Ở đây có nhiều chùa, đình và hội quán của người Hoa, như: chùa Bà Thiên Hậu, đình Minh Hương Gia Thạnh, Hội quán Hà Chương, Hội quán Ôn Lăng, Hội Quán Nghĩa An, Hội Quán Nhị Phủ, Hội Quán Sùng Chính... Ngoài ra, ở đây còn các chợ luôn là những đầu mối bán sỉ của thành phố, như: chợ An Đông, chợ Xã Tây, chợ Bàu Sen, chợ Bình Tây, chợ Kim Biên, chợ vải Soái Kình Lâm... Tại đây có nhiều quán ăn và tiệm thuốc bắc của người Hoa lẫn thuốc nam của người Việt (Khu phố cổ Hải Thượng Lãn Ông). == Tài liệu liên quan == Ở những năm đầu của thế kỷ 19, vùng Chợ Lớn (khi ấy còn gọi là Sài Gòn) đã rất đông đúc và nhộn nhịp. Trong Gia Định thành thông chí (Thành trì chí) soạn khoảng năm 1820, tác giả là Trịnh Hoài Đức đã kể lại như sau: Phố chợ Sài Gòn: Cách trấn về phía nam 12 dặm ở hai bên tả hữu đường cái quan, là đường phố lớn, thẳng suốt 3 đường, giáp đến bến sông, một đường ngang ở giữa, một đường đi dọc theo sông. Các đường ấy đan xuyên nhau như chữ điền, phố xá liền mái nhau, người Việt và người Tàu ở chung lộn dài độ 3 dặm. Hàng hóa trong phố bày bán có: gấm, đoạn, đồ sứ, giấy má, châu báu trang sức, hàng sách vở, tiệm thuốc, tiệm trà, tiệm hủ tíu. Hai đầu nam bắc bến sông không gì là không có. Đầu phía bắc đường lớn của bổn phố có miếu Quan Đế và 3 hội quán: Phúc Châu, Quảng Đông, và Triều Châu chia đứng hai bên tả hữu; phía tây ở giữa đường lớn có miếu Thiên Hậu, gần phía tây có hội quán Ôn Lăng, đầu phía nam đường phố lớn về phía tây có hội quán Chương Châu. Gặp ngày tốt, đêm trăng, như Tam nguyên, rằm, mùng một thì treo đèn đặt án, tranh đua kỳ xảo trông như là cây lửa, cầu sao, thành gấm, hội quỳnh, kèn trống huyên náo, nam nữ dập dìu, thật là một phố lớn nơi đô hội náo nhiệt. Trong đường phố lớn có cái giếng xưa, nước ngọt tràn trề, bốn mùa không cạn. Sông nhỏ chảy ngang phố có bắc cầu ván lớn, trên có hai dãy hành lang mái ngói, treo màn che nắng, đường đi râm mát như đi dưới mái nhà cao. Giữa phố về phía đông đường lớn có chợ Bình An bán đủ sản vật quý ở núi biển và thổ sản các nơi, ban đêm còn thắp đèn mua bán . == Chú thích == == Xem thêm == Chợ Lớn (tỉnh cũ) Quận 5, Thành phố Hồ Chí Minh Thành phố Hồ Chí Minh Lịch sử Thành phố Hồ Chí Minh Tổ chức hành chính tại Thành phố Hồ Chí Minh Chợ Bình Tây == Liên kết ngoài == Ban Công tác người Hoa TP.HCM Website Chợ Bình Tây
timor-leste.txt
Đông Timor (tiếng Việt: Đông Ti-mo) cũng được gọi là Timor-Leste (từ tiếng Malaysia timor và tiếng Bồ Đào Nha leste, đều có nghĩa là "phía đông", phiên âm Tiếng Việt: Ti-mo Lex-te), tên đầy đủ: Cộng hòa Dân chủ Đông Timor, là quốc gia ở khu vực Đông Nam Á, bao gồm nửa phía Đông của đảo Timor, những đảo lân cận gồm Atauro và Jaco và Oecussi-Ambeno, một phần nằm ở phía Tây Bắc của đảo, trong Tây Timor của Indonesia. Đông Timor là một đất nước nhỏ bé với 15.410 km² cách thành phố Darwin, Úc khoảng 640 km về phía tây bắc. Tên "Timor" xuất phát từ chữ timur, nghĩa là "phía Đông" trong tiếng Indonesia và tiếng Malaysia rồi trở thành Timor trong tiếng Bồ Đào Nha. Tên theo tiếng Bồ Đào Nha Timor-Leste (IPA: [ti'moɾ 'lɛʃtɨ]) và tên không chính thức theo tiếng Tetum Timór Lorosa'e đôi khi được dùng trong tiếng Anh, và Liên Hợp Quốc chính thức gọi là Timor-Leste trong tiếng Anh. Lorosa'e ("phía đông" trong tiếng Tetum) nghĩa văn chương là "mặt trời mọc". Bị đô hộ bởi thực dân Bồ Đào Nha vào thế kỷ 16, Đông Timor được biết đến như Timor thuộc Bồ Đào Nha trong hàng thế kỷ. Nó bị xâm lăng và chiếm đóng bởi Indonesia vào năm 1975 và trở thành tỉnh thứ 27 của Indonesia một năm sau đó. Sau cuộc bỏ phiếu để tự quyết định số phận đất nước do Liên Hiệp Quốc tài trợ vào năm 1999, Indonesia rút khỏi lãnh thổ và Đông Timor trở thành quốc gia có chủ quyền được thành lập đầu tiên trong thế kỷ 21 và thiên niên kỷ thứ 3 vào ngày 20 tháng 5 năm 2002. Cùng với Philippines, Đông Timor là một trong hai nước ở châu Á có đa số người dân theo Công giáo. Ở mức $800, Đông Timor là một trong những nước có GDP trên đầu người thấp nhất thế giới. Tuy nhiên chỉ số phát triển con người (HDI) lại tương ứng với mức trung bình của sự phát triển con người và đặt Đông Timor thứ 142 trong các quốc gia trên thế giới. == Từ nguyên và các vấn đề về đặt tên == "Timor" xuất phát từ timur, từ có nghĩa "đông" trong tiếng Indonesia và tiếng Malay (vì thế từ tiếng Indonesia Timor Timur) đã trở thành Timor trong tiếng Bồ Đào Nha và xuất hiện trong tiếng Anh là Timor thuộc Bồ Đào Nha. Lorosa'e cũng là từ có nghĩa "đông" trong tiếng Tetum, dịch nghĩa "mặt trời mọc". Các tên chính thức theo hiến pháp gồm República Democrática de Timor-Leste trong tiếng Bồ Đào Nha (phát âm [tiˈmoɾ ˈlɛʃtɨ]), hầu như được sử dụng trong toàn đất nước, và trong tiếng Tetum, Repúblika Demokrátika Timór Lorosa'e, ít khi được sử dụng và không phải là tiêu chuẩn trong nhiều phương ngữ Tetum. Sau khi giành độc lập, chính phủ đã yêu cầu tên chính thức trong mọi ngôn ngữ là Timor-Leste, nhưng nó vẫn chưa được chấp nhận rộng rãi trong các quốc gia nói tiếng Anh trên toàn thế giới, tại đó cái tên "East Timor" vẫn thường được sử dụng. Cái tên tiếng Indonesia Timor Timur, viết tắt là Timtim, hiện không được dùng nhiều, và chính phủ cùng truyền thông Indonesia hiện dùng Timor Leste. Tên viết tắt chính thức của các nước trên thế giới do Tổ chức Tiêu chuẩn hoá Quốc tế (ISO) đặt ra. Tên ngắn chính thức ISO 3166-1 trong tiếng Anh và mọi ngôn ngữ khác là Timor-Leste. Định nghĩa của ISO đã được Liên hiệp quốc, tổ chức tiêu chuẩn quốc gia Pháp (AFNOR), Hoa Kỳ (ANSI), Anh Quốc (BSI), Đức (DIN) và Thuỵ Điển (SIS) chấp nhận và được sử dụng toàn cầu bởi các tổ chức phi chính phủ. Timor–Leste được dùng như một cái tên ngoại giao bởi các bộ ngoại giao nước ngoài của hầu hết các quốc gia, ví dụ Bộ ngoại giao Hoa Kỳ và Liên minh châu Âu, trường hợp khác biệt đáng chú ý nhất là Australia, sử dụng "East Timor". Cái tên ISO đã khiến xuất hiện tiêu chuẩn mã quốc gia ba chữ TLS và mã quốc gia hai chữ TL làm tên miền internet của quốc gia này. Mã quốc gia hai chữ cũ, TP, đang dần bị loại bỏ. == Lịch sử == === Buổi đầu lịch sử === Hòn đảo Timor ban đầu được sinh sống như một phần của các chuyến di cư của con người từng hình thành nên Australasia ở một mức độ lớn hơn. Mọi người tin rằng những hậu duệ của ít nhất ba làn sóng di cư vẫn sống tại nước này. Đợt di cư đầu tiên liên quan tới các nhóm bản xứ chính của New Guinea và Australia, và đã tới trước 40,000 năm trước. Khoảng năm 3000 TCN, người Nam Đảo (Austronesian) đã di cư tới Timor, và có lẽ liên quan tới sự phát triển của nông nghiệp tại đây. Đợt thứ ba, người tiền Mã Lai đã tới từ nam Trung Quốc và bắc Đông Dương. Địa hình núi non khiến các nhóm này bị chia tách với nhau, và điều này giải thích tại sao có sự đa dạng ngôn ngữ lớn ở Đông Timor ngày nay. Timor được tích hợp vào các mạng lưới thương mại của Trung Quốc và Ấn Độ ở thế kỷ 14 như một nhà xuất khẩu gỗ đàn hương, nô lệ, mật ong và sáp ong. Ghi chép lịch sử sớm nhất về hòn đảo Timor là Nagarakretagama ở thế kỷ 145, Canto 14, xác định Timur là một hòn đảo bên trong vương quốc của Majapahit. Những nhà thám hiểm châu Âu đầu tiên nói rằng hòn đảo có một số vị lãnh chúa hay hoàng thân ở đầu thế kỷ 16. Một trong những lãnh thổ lãnh chúa lớn nhất là vương quốc Wehali (Wehale) ở trung tâm Timor, có thủ đô tại Laran, Tây Timor, nơi các nhóm sắc tộc Tetum, Bunaq và Kemak sinh sống. === Chế độ thuộc địa Bồ Đào Nha === Người Bồ Đào Nha là những người châu Âu đầu tiên thực dân hoá Hàng hải Đông Nam Á khi họ tới đây vào thế kỷ 16. Họ đã thiết lập các tiền đồn tại (hiện là của Indonesia) Đảo Maluku và Timor và các hòn đảo xung quanh. Trong thời Nhà Habsburg cai trị Bồ Đào Nha (1580-1640), tất cả các tiền đồn xung quanh đều mất và cuối cùng rơi vào sự kiểm soát của người Hà Lan ở giữa thế kỷ 17. Sự chiếm đóng hoàn toàn của châu Âu với một phần nhỏ lãnh thổ chỉ bắt đầu sau năm 1769, khi thành phố Dili, thủ đô của cái gọi là Timor thuộc Bồ Đào Nha, được thành lập. Trong thế kỷ 19, người Hà Lan giành được chỗ đứng ở nửa phía tây hòn đảo Tây Timor, và chính thức nhận nó năm 1859 theo Hiệp ước Lisbon. Biên giới xác định được thành lập theo Hiệp ước Hague năm 1916, và nó vẫn tiếp tục là biên giới quốc tế giữa các nhà nước kế tục là Đông Timor và Indonesia. Với người Bồ Đào Nha, Đông Timor không có giá trị gì nhiều ngoài việc là một cơ sở thương mại đã bị thất thời cho tới tận cuối thế kỷ 19. Đầu tư vào hạ tầng, y tế và giáo dục ở mức tối thiểu. Gỗ đàn hương vẫn là mặt hàng xuất khẩu chính và cà phê cũng trở thành một mặt hàng xuất khẩu quan trọng từ giữa thế kỷ 19. Tại những nơi chế độ cầm quyền Bồ Đào Nha có vị thế vững chắc, sự cai trị thường mang tính khai thác và tàn bạo. Đầu thế kỷ 20, nền kinh tế suy giảm trong nước buộc người Bồ Đào Nha phải bòn rút nhiều hơn nữa từ các thuộc địa và điều này đã dẫn tới sự phản kháng của người Timor. Cuối năm 1941, Timor thuộc Bồ Đào Nha bị quân đội Hà Lan và Australia chiếm đóng trong một thời gian ngắn nhằm ngăn chặn trước một cuộc xâm lược của Nhật Bản vào hòn đảo này. Thống đốc người Bồ Đào Nha đã phản đối cuộc xâm lược, và các lực lượng Hà Lan đã quay trở về khu vực Hà Lan của hòn đảo. Người Nhật đổ bộ và đẩy lùi lực lượng nhỏ của Australia ra khỏi Dili, và những vùng nội địa núi non bắt đầu trở thành chiến trường của một cuộc chiến tranh du kích, được gọi là Trận Timor. Cuộc chiến đấu giữa các lực lượng Đồng Minh và người tình nguyện Timor chống lại Nhật Bản đã khiến khoảng từ 40,000 tới 70,000 người Timor thiệt mạng. Sau khi chiến tranh chấm dứt, quyền cai trị của Bồ Đào Nha được tái lập. Quá trình giải thực tại Timor thuộc Bồ Đào Nha bắt đầu năm 1974, sau sự thay đổi chính phủ tại Bồ Đào Nha trước Cách mạng Carnation. Trước sự bất ổn chính trị và những lo ngại ngày càng gia tăng về quá trình giải thực tại Angola và Mozambique, Bồ Đào Nha đã hoàn toàn từ bỏ Đông Timor và nước này đơn phương tuyên bố nền độc lập của mình ngày 28 tháng 11 năm 1975. Chín ngày sau, Đông Timor bị các lực lượng Indonesia xâm lược và chiếm đóng trước khi tuyên bố độc lập được quốc tế công nhận. === Chiếm đóng của Indonesia === Khi các đảng chính trị bắt đầu hình thành và xuất hiện trong nước, quân đội Indonesia đã thực hiện một chiến dịch hỗ trợ Apodeti, một đảng ủng hộ Indonesia khuyến khích sự chia rẽ giữa các đảng ủng hộ độc lập của Đông Timor. Một cuộc nội chiến ngắn diễn ra năm 1975. Indonesia cho rằng đảng FRETILIN của Đông Timor, nhận được một số sự hỗ trợ từ Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa, là cộng sản. Sợ rằng một hiệu ứng domino cộng sản ở Đông Nam Á và sau chiến dịch của họ ở Miền Nam Việt Nam —Hoa Kỳ, cùng với đồng minh của mình Australia, ủng hộ các hành động của chính phủ Indonesia theo phương Tây. Hội đồng Bảo an Liên hiệp quốc đã nhất trí bỏ phiếu đòi Indonesia ngừng cuộc xâm lược và rút quân lập tức khỏi các biên giới của Đông Timor, nhưng đã bị Mỹ ngăn cản không thể áp đặt bất kỳ lệnh cấm vận kinh tế hay các biện pháp nào để buộc thực hiện quyết định này. Đông Timor được tuyên bố trở thành tỉnh thứ 27 của Indonesia vào 17tháng 7 năm 1976. Vị thế danh nghĩa của nó tại Liên hiệp quốc còn lại là vị thế của một "lãnh thổ không tự quản dưới quyền hành chính của Bồ Đào Nha." Sự cai trị của Indonesia ở Đông Timor thường ghi dấu bởi bạo lực và tàn bạo đặc biệt; ước tính số người Đông Timor chết trong thời gian chiếm đóng từ 60,000 đến 200,000 người, Một báo cáo thống kê chi tiết được thực hiện cho Cao uỷ về Tiếp Nhận, Sự thật và Hoà giải tại Đông Timor đã chỉ ra con số tối thiểu 102,800 cái chết có liên quan tới cuộc xung đột trong giai đoạn 1974–1999, có nghĩa là, xấp xỉ 18,600 vụ giết hại và 84,200 cái chết 'thêm nữa' vì nạn đói và bệnh tật. Lực lượng du kích Đông Timor, Falintil, đã tổ chức một chiến dịch chống lại các lực lượng Indonesia trong giai đoạn 1975–1999, một số thành viên đã được các lực lượng đặc biệt của Bồ Đào Nha huấn luyện ở nước này. Vụ thảm sát Dili là thời điểm khiến sự nghiệp của người Đông Timor được biết đến trên trường quốc tế, và một phong trào đoàn kết Đông Timor tư sản đã phát triển ở Bồ Đào Nha, Australia và Hoa Kỳ. === Độc lập === Sau một thoả thuận được Liên hiệp quốc bảo trợ giữa Indonesia, Bồ Đào Nhà và Hoa Kỳ và một quyết định đáng ngạc nhiên của Tổng thống Indonesia B. J. Habibie, một cuộc trưng cầu dân ý do Liên hiệp quốc giám sát đã được tổ chức ngày 30 tháng 8 năm 1999, để lựa chọn giữa quy chế Tự trị Đặc biệt bên trong Indonesia và độc lập. 78.5% cử tri lựa chọn độc lập, nhưng với những vụ xung đột bạo lực, chủ yếu gây ra bởi các thành phần bên trong quân đội Indonesia và được sự hỗ trợ của các du kích Timor ủng hộ Indonesia do Eurico Guterres lãnh đạo, diễn ra ngay sau đó. Một lực lượng gìn giữ hoà bình (INTERFET dưới sự chỉ huy của Australia) can thiệp để tái lập trật tự. Các chiến binh du kích đã bỏ chạy qua biên giới để vào Tây Timor của Indonesia và lấy đó làm căn cứ để thỉnh thoảng tổ chức các cuộc tấn công vũ trang. Khi các cuộc tấn công đó bị đẩy lùi và áp lực quốc tế buộc Indonesia phải rút lui sự hỗ trợ ngầm của họ, quân du kích đã giải tán. INTERFET đã được thay thế bằng một lực lượng Cảnh sát Quốc tế của Liên hiệp quốc, sứ mệnh này được gọi là UNTAET, và UNTAET Crime Scene Detachment được thành lập để điều tra những cáo buộc về những hành động tàn bạo. UNTAET được Sérgio Vieira de Mello lãnh đạo với tư cách Hành chính viên Chuyển tiếp của Liên hiệp quốc từ tháng 12 năm 1999 tới tháng 5 năm 2002. Ngày 2 tháng 12 năm 1999, De Mello thành lập Hội đồng Tư vấn Quốc gia (NCC), một cơ cấu chính trị gồm 11 người Đông Timor và bốn thành viên UNTAET có trách nhiệm giám sát quá trình ra quyết định trong giai đoạn chuyển tiếp hướng tới độc lập. Tuy nhiên, ban đầu UNTAET đã gặp những khó khăn trong việc tạo lập sự tin cậy với nó trong giới lãnh đạo người Timor, dẫn tới tình trạng bạo lực đường phố. Một cuộc họp quan trọng ngày 1 tháng 3 năm 2000, đã tập hợp giới lãnh đạo người Timor và Liên hiệp quốc lại với nhau để đưa ra một chiến lược mới, và xác định những nhu cầu hiến pháp. Cuộc họp do Francis Martin O'Donnell tổ chức, và phái đoàn Timor dưới sự lãnh đạo của José Ramos-Horta, và gồm cả Mari Alkatiri. Kết quả là một kế hoạch chi tiết được đồng thuận về một sự đồng quản lý quyền lực hành pháp, gồm cả các lãnh đạo của Đại hội Quốc gia vì sự Tái thiết Timor (CNRT), dưới sự lãnh đạo của tổng thống tương lai Xanana Gusmão. Các chi tiết khác nữa được vạch ra trong một hội nghị tháng 5 năm 2000. De Mello đã đệ trình kế hoạch chi tiết mới cho một hội nghị các nhà tài trợ tại Lisbon, ngày 22 tháng 6 năm 2000, và tới Hội đồng Bảo an Liên hiệp quốc ngày 27 tháng 7 năm 2000. Ngày 12 tháng 7 năm 2000, NCC thông qua một quy tắc thành lập một Nội các Chuyển tiếp gồm bốn người Đông Timor và bốn đại diện của UNTAET. Cơ quan hành chính mới đã thành công trong việc đặt ra các nền tảng hiến pháp cho độc lập, và vào ngày 27 tháng 9 năm 2002, Đông Timor gia nhập Liên hiệp quốc. === Hậu độc lập === Tháng 4 năm 2006, những cuộc bạo động bùng phát ở Dili sau sự đối đầu giữa cảnh sát và quân đội; 40 người đã chết và 20,000 phải bỏ nhà cửa. Trận đánh giữa quân đội ủng hộ chính phủ và quân đội Falintil bất mãn nổ ra tháng 5 năm 2006. Theo lời kêu gọi của vị Thủ tướng, Australia, Malaysia, New Zealand, và Bồ Đào Nha đã gửi quân tới Timor, tìm cách giải quyết bạo lực. Ngày 26 tháng 6, Thủ tướng Mari Alkatiri từ chức, sau một tối hậu thư từ Tổng thống Xanana Gusmão rằng ông sẽ từ chức nếu Alkatiri không làm như vậy. José Ramos-Horta được chỉ định làm người kế vị Alkatiri ngày 8 tháng 7 năm 2006. Tháng 4 năm 2007, Gusmão thua khi tìm cách ở lại thêm một nhiệm kỳ tổng thống nữa. Trong thời gian chuẩn bị cho cuộc bầu cử tổng thống tháng 4 năm 2007 các đợt bạo lực lại bùng phát vào tháng 2 và tháng 3 năm 2007. José Ramos-Horta lên nhậm chức Tổng thống ngày 20 tháng 5 năm 2007, sau khi giành chiến thắng ở vòng hai cuộc bầu cử. Gusmão tuyên thệ trở thành Thủ tướng ngày 8 tháng 8 năm 2007. Tổng thống Ramos-Horta đã bị thương nặng trong một âm mưu ám sát ngày 11 tháng 2 năm 2008, trong một cuộc đảo chính không thành công rõ ràng do Alfredo Reinado lãnh đạo, một binh sĩ phản bội đã chết trong vụ tấn công. Thủ tướng Gusmão cũng bị bắn ở một địa điểm khác nhưng ông đã thoát nạn và không bị thương. Chính phủ Australia lập tức gửi các lực lượng tăng cường tới Đông Timor để giữ gìn trật tự. == Chính trị == Đông Timor theo chế độ cộng hoà. Đứng đầu nhà nước là Tổng thống, được bầu lên bằng phổ thông đầu phiếu với nhiệm kỳ 5 năm. Mặc dù vai trò chỉ mang tính biểu tượng, tổng thống có quyền phủ quyết đối với một vài loại đạo luật. Sau bầu cử, tổng thống sẽ chỉ định người đứng đầu đảng đa số hoặc liên minh đa số làm thủ tướng. Là người đứng đầu chính phủ, thủ tướng chịu trách nhiệm lãnh đạo Hội đồng Quốc gia hoặc nội các. Cơ quan lập pháp duy nhất ở Đông Timor là Nghị viện Quốc gia hay Parlamento Nacional, các Nghị sĩ được đầu phổ thông cho nhiệm kỳ 5 năm. Số ghế có thể thay đổi từ mức tối thiểu 52 đến mức tối đa 65 ghế, mặc dù có trường hợp ngoại lệ là 88 thành viên như hiện tại, do đây là nhiệm kỳ đầu tiên. Hiến pháp Đông Timor phỏng theo Bồ Đào Nha. Đất nước vẫn đang trong quá trình xây dựng hệ thống hành chính và cơ quan chính phủ. == Hành chính == Đông Timor được chia thành 13 quận hành chính: Các khu vực được chia thành 65 khu vực nhỏ, 443 sucos và 2.336 thị trấn, làng và thôn. [3]PDF (213 KiB) == Địa lý == Đảo Timor là một bộ phận của quần đảo Mã Lai và là phần lớn nhất và xa nhất về phía đông của cụm đảo Lesser Sunda. Về phía bắc của đảo nhiều núi đồi là eo biển Ombai và eo biển Wetar, về phía nam Biển Timor tách rời đảo với Úc, trong khi phía tây là tỉnh Đông Nusa Tenggara của Indonesia. Điểm cao nhất của Đông Timor là Núi Ramelau (còn được gọi là Núi Tatamailau ở độ cao 2.963 mét. Đông Timor nằm trong vùng nhiệt đới, nói chung là nóng và ẩm, có hai mùa mưa và mùa khô rõ rệt. Thủ đô, thành phố lớn nhất và là cảng chính là Dili, thành phố lớn thứ nhì là thành phố Baucau ở phía đông. Dili có sân bay quốc tế đang hoạt động duy nhất, mặc dù có các sân bay nhỏ ở Baucau và Oecusse được dùng cho các chuyến bay nội địa. Đường băng của sân bay Dili không thể chịu được các máy bay vận tải lớn. == Kinh tế == Trước và trong thời kỳ thực dân, Timor nổi tiếng nhất về gỗ đàn hương. Cuối năm 1999, khoảng 70% cơ sở hạ tầng kinh tế Đông Timor đã bị phá huỷ bởi quân đội Indonesia và các du kích chống độc lập, và 260,000 người đã phải bỏ chạy về phía tây. Từ năm 2002 tới năm 2005, một chương trình quốc tế do Liên hiệp quốc lãnh đạo, được quản lý bởi các cố vấn dân sự, 5,000 lính gìn giữ hoà bình (8,000 lúc cao điểm) và 1,300 sĩ quan cảnh sát, đã dần khôi phục cơ sở hạ tầng. Tới giữa năm 2002, hầu như toàn bộ 50,000 người tị nạn đã quay trở về. Một dự án dài hạn nhiều hứa hẹn là việc liên doanh phát triển các nguồn tài nguyên dầu mỏ và khí tự nhiên với Australia ở vùng lãnh hải phía đông nam Timor. Cơ quan hành chính thuộc địa Bồ Đào Nha đã nhượng cho Oceanic Exploration Corporation quyền khai thác các trầm tích này. Tuy nhiên, việc này đã bị cắt ngang bởi cuộc xâm lược của Indonesia năm 1976. Các nguồn tài nguyên đã được phân chia giữa Indonesia và Australia theo Hiệp ước đoạn nối Timor năm 1989. Hiệp ước lập ra những hướng dẫn cho việc đồng khai thác các nguồn tài nguyên ở đáy biển tại khu vực "nối" khi ấy do Timor thuộc Bồ Đào Nha để lại tại biên giới biển được đồng thuận giữa hai nước năm 1972. Các nguồn khu từ khu vực "chung" được chia 50%-50%. Woodside Petroleum và ConocoPhillips bắt đầu tìm kiếm một số nguồn tài nguyên ở Nối Timor thay cho hai chính phủ năm 1992. Đông Timor không được thừa hưởng các biên giới biển cố định khi họ giành được độc lập, coi Hiệp ước Nối Timor là bất hợp pháp. Một thoả thuận tạm thời (Hiệp ước Biển Timor, đã được ký kết khi Đông Timor trở thành độc lập ngày 20 tháng 5 năm 2002) xác định một Vùng Cùng Khai thác Dầu khí (JPDA), và trao 90% nguồn thu từ các dự án hiện hữu trong khu vực đó cho Đông Timor và 10% cho Australia. Phát triển đáng chú ý mới nhất trong JPDA từ khi Timor giành độc lập là nguồn dầu mỏ lớn nhất tại Biển Timor, Greater Sunrise gas field. Việc khai thác giếng dầu này là chủ đề của những thoả thuận riêng biệt năm 2003 và 2005. Chỉ 20% giếng dầu nằm trong JPDA và phần còn lại tại các lãnh hải không thuộc trong hiệp ước (dù được cả hai nước tuyên bố chủ quyền). Thoả thuận tạm thời ban đầu trao 82% nguồn thu cho Australia và chỉ 18% cho Đông Timor. Chính phủ Đông Timor đã tìm cách đàm phán một biên giới xác định với Australia tại đường một phần hai giữa hai nước, theo Công ước LIên hiệp quốc về Luật Biển. Chính phủ Australia thích thiết lập biên giới ở cuối thềm lục địa Australia rộng lớn, như đã đồng thuận với Indonesia năm 1972 và 1991. Thông thường một cuộc tranh cãi như thế sẽ được đưa ra trước Toà án Công lý Quốc tế hay Toà án Quốc tế về Luật Biển để tìm kiếm một quyết định công bằng, nhưng chính phủ Australia đã rút khỏi quyền tài phán của các tổ chức pháp lý quốc tế đó (chỉ về các vấn đề liên quan tới các biên giới biển) ngay trước khi Đông Timor độc lập. Tuy nhiên, dưới áp lực của công chúng và ngoại giao, chính phủ Australia thay vào đó đã đưa ra một nhượng bộ ở phút cuối cùng về riêng các khoản tiền chia tại Greater Sunrise gas field. Ngày 7 tháng 7 năm 2005, một thoả thuận được ký kết theo đó cả hai nước sẽ đặt sang bên cạnh cuộc tranh cãi về biên giới biển, và Đông Timor sẽ nhận được 50% lợi nhuận (ước tính A$26 tỷ hay khoảng US$20 tỷ trong cả thời gian dự án) từ việc khai thác giếng dầu Greater Sunrise. Tuy nhiên, các công việc khai thác khác bên trong vùng lãnh hải do Đông Timor tuyên bố chủ quyền nhưng bên ngoài JPDA (Laminaria-Corallina and Buffalo) tiếp tục do Australia đơn phương khai thác. Năm 2007 một vụ mất mùa khiến nhiều người chết ở nhiều vùng thuộc Timor-Leste. Tháng 11 năm 2007, mười một khu vực vẫn cần sự trợ giúp lương thực quốc tế. Đông Timor cũng có một ngành công nghiệp cà phê lớn và giàu tiềm năng, nước này bán cà phê cho nhiều nhà bán lẻ Fair Trade và trên thị trường tự do. Hiện tại ba ngân hàng nước ngoài có chi nhánh tại Dili: ANZ của Australia, Banco Nacional Ultramarino của Bồ Đào Nha, và Bank Mandiri của Indonesia. Đông Timor không có luật sở hữu trí tuệ. Tính đến năm 2016, GDP của Đông Timor đạt 2.501 USD, đứng thứ 163 thế giới, đứng thứ 43 châu Á và đứng thứ 11 Đông Nam Á. == Nhân khẩu == Dân số Đông Timor khoảng 1 triệu người. Gần đây đã có sự gia tăng khá mạnh vì tỷ lệ sinh cao, nhưng cũng bởi những người tị nạn quay trở về. Dân số đặc biệt tập trung tại các vùng xung quanh Dili. Người Timor được gọi là Maubere bởi một số tổ chức chính trị của họ, một cái tên ban đầu có nghĩa xúc phạm đã biến thành một cái tên kiêu hãnh bởi Fretilin. Họ gồm một số sắc tộc riêng biệt, chủ yếu là hậu duệ lai của người Malay-Polynesia và Melanesia/Papua. Các nhóm sắc tộc Malay-Polynesia lớn nhất là Tetum (hay Tetun) (100.000), chủ yếu ở bờ biển phía nam và xung quanh Dili; người Mambae (80,000), ở vùng núi non trung tâm; người Tukudede (63,170), ở vùng quanh Maubara và Liquiçá; người Galoli (50,000), giữa các bộ lạc Mambae và Makasae; người Kemak (50,000) ở hòn đảo trung bắc Timor; và người Baikeno (20,000), ở vùng quanh Pante Macassar. Các bộ tộc chính chủ yếu có nguồn gốc Papuan gồm Bunak (50,000), ở vùng nội địa trung tâm của đảo Timor; người Fataluku (30,000), ở mũi phía đông hòn đảo gần Lospalos; và người Makasae, ở phía đông cuối hòn đảo. Ngoài ra, như một số cựu thuộc địa Bồ Đào Nha khác nơi các cuộc hôn nhân giữa các sắc tộc thường diễn ra, có một phần nhỏ dân cư là người lai Timor và Bồ Đào Nha, được gọi trong tiếng Bồ Đào Nha là mestiço. Người mestiço Đông Timor nổi tiếng nhất thế giới là José Ramos-Horta, người phát ngôn phong trào kháng chiến hải ngoại, và hiện là Tổng thống Đông Timor. Mário Viegas Carrascalão, thống đốc được Indonesia chỉ định từ năm 1987 tới năm 1992, cũng là một mestiço. Đông Timor cũng có một số lượng nhỏ người Trung Quốc, chủ yếu là người Hakka. Đa số đã ra đi sau cuộc xâm lược của Indonesia, hầu hết sống ở Australia dù một số người Trung Quốc-Timor đã quay trở lại, gồm cả Pedro Lay, Bộ trưởng Hạ tầng. === Tôn giáo === Sau khi độc lập, Đông Timor trở thành nước thứ hai ở Châu Á mà số người theo Công giáo Rôma chiếm đa số (cùng với Philippines). Đa số dân chúng được xác định là theo Công giáo Rôma (90%), mặc dù truyền thống duy linh địa phương có một tác động vững chắc và mạnh mẽ lên văn hóa. Các tôn giáo khác bao gồm Hồi giáo(5%), là tôn giáo của cựu Thủ tướng Đông Timor Mari Alkatiri, và Tin Lành (3%). Còn lại là đạo Hindu (0,3%), đạo Phật (0,1%) và tín ngưỡng duy linh truyền thống. Số người theo Công giáo tăng nhanh chóng dưới thời trị vì của Indonesia, vì tư tưởng quốc gia của Indonesia Pancasila không công nhận đức tin truyền thống và yêu cầu tất cả công dân phải tin vào Chúa trời. Mặc dù sự đấu tranh không phải về tôn giáo, nhưng với tư cách là bộ phận ăn sâu vào nhân dân, Giáo hội Công giáo không chỉ tượng trưng cho sự khác biệt của Đông Timor với đa số Hồi giáo của Indonesia, mà còn đóng một vai trò quan trọng trong các phong trào phản kháng, đại diện là Linh mục Carlos Filipe Ximenes Belo, người đoạt giải Nobel Hòa bình. Hiến pháp hiểu được vai trò của Giáo hội trong nhân dân Đông Timor mặc dù họ cũng quy định nguyên tắc không đổi là đảm bảo tự do tôn giáo cho mọi người. === Ngôn ngữ === Có khoảng 16 ngôn ngữ bản địa, trong đó tiếng Tetum (ngôn ngữ chính thức), Galole, Mambae và Kemak được nhiều người sử dụng nhất. Ngoài ra, tiếng Bồ Đào Nha (ngôn ngữ chính thức), tiếng Indonesia, tiếng Anh cũng được sử dụng. Hai ngôn ngữ chính thức của Đông Timor là tiếng Bồ Đào Nha và tiếng Tetum, một ngôn ngữ thuộc nhóm Mã Lai-Đa Đảo. Một dạng ngôn ngữ Tetum chiếm ưu thế, còn được biết đến như Tetun-Dili, phát triển như một phương ngữ được dùng bởi thực dân ở Dili, và do đó bị tác động mạnh bởi tiếng Bồ, nhưng những phương ngữ khác của Tetum vẫn còn được dùng khắp đất nước, trong đó Tetun-Terik ở bờ biển tây nam. Tiếng Indonesia và tiếng Anh được xem là ngôn ngữ đi làm theo Hiến pháp trong Điều khoản Cuối cùng và Chuyển tiếp, mà không có hạn chót. Mặc dù đất nước có khoản 1 triệu cư dân (tháng 8 năm 2005; ước lượng của UNDP ở Dili), có đến 15 ngôn ngữ bản xứ khác được nói: Bekais, Bunak, Dawan, Fataluku, Galoli, Habun, Idalaka, Kawaimina, Kemak, Lovaia, Makalero, Makasai, Mambai, Tokodede và Wetarese. Dưới thời của Indonesia, việc sử dụng tiếng Bồ Đào Nha bị cấm, nhưng nói được dùng trong sự bí mật để thể hiện sự phản kháng, đặc biệt khi liên lạc với thế giới bên ngoài. Ngôn ngữ này, cùng với tiếng Tetum, có được tầm quan trọng như một biểu tượng của sự chống đối và tự do và được quy định là một trong hai ngôn ngữ chính thức vì lý do này, và như một liên kết tới những quốc gia trên thế giới. Hiện nay nó được dạy và đề cao rộng rãi với sự giúp đỡ của Brasil, Bồ Đào Nha và Hiệp hội Latinh, mặc dù sự đề cao nó trong khu vực công cộng và hành chính đã gặp phải sự phản đối của những người Timor trẻ được giáo dục dưới thời Indonesia. Theo Báo cáo Phát triển LHQ năm 2006 (sử dụng dữ liệu từ điều tra dân số chính thức), dưới 5% dân số Timor thành thạo tiếng Bồ Đào Nha. Tuy nhiên, giá trị của bảng báo cáo này bị nghi vấn bởi những thành viên của Viện Ngôn ngữ Quốc gia Timor, dứt khoát rằng tiếng Bồ Đào Nha được nói đến 25%, với lượng người nói gấp đôi so với 5 năm trước. Cùng với ngôn ngữ bản địa khác, Tetum vẫn là phương thức liên lạc phổ biến nhất giữa người Timor bình thường, trong khi tiếng Indo vẫn được dùng rộng rãi trong truyền thông và nhà trường từ Trung học đến Đại học. Phần lớn từ vựng trong tiếng Tetum xuất phát từ tiếng Bồ Đào Nha, nhưng nó cũng chia sẻ nhiều từ xuất phát từ tiếng Mãlai của Indonesia. Nhiều từ Indonesia vẫn còn đường dùng thường xuyên trong Tetum và những ngôn ngữ Timor khác, đặc biệt là số đếm. Đông Timor là thành viên của Cộng đồng các Quốc gia nói tiếng Bồ Đào Nha (CPLP), còn được biết tới như Khối Thịnh vượng chung Lusophone, và là thành viên của Liên hiệp Latinh. Nó là quốc gia độc lập duy nhất ở châu Á mà ngôn ngữ chính thức là tiếng Bồ Đào Nha, mặc dù nó cũng là một trong những ngôn ngữ chính thức của Đặc khu Hành chính Ma Cao của Trung Quốc. === Văn hoá === Văn hoá Đông Timor phản ánh nhiều ảnh hưởng, gồm Bồ Đào Nha, Công giáo La mã, và Malaysia, trên các văn hoá Nam Đảo (Austronesia) và Melanesia của Timor. Truyền thuyết cho rằng một con cá sấu khổng lồ đã biến thành hòn đảo Timor, hay Đảo Cá sấu, như nó thường được gọi. Văn hoá Đông Timor bị ảnh hưởng mạnh bởi các truyền thuyết Nam Đảo, dù ảnh hưởng của Ki-tô giáo cũng khá mạnh mẽ. Nước này có truyền thống mạnh về thi ca. Ví dụ, Thủ tướng Xanana Gusmão, là một nhà thơ nổi tiếng. Về kiến trúc, có một số công trình kiến trúc Bồ Đào Nha, cùng với những ngôi nhà totem truyền thống ở vùng phía đông. Chúng được gọi là uma lulik (những ngôi nhà linh thiêng) trong tiếng Tetum, và lee teinu (những ngôi nhà có chân) tại Fataluku. Nghề thủ công cũng phổ biến, như dệt khăn quàng truyền thống hay tais. === Giáo dục === Khoảng một nửa dân số trưởng thành mù chữ. Tỷ lệ mù chữ ở nữ giới cao hơn. Mù chữ chiếm 90% ở cuối thời kỳ cai trị Bồ Đào Nha . Năm 2006, 10-30% trẻ em ở độ tuổi đi học tiểu học không tới trường. Nước này có Đại học Quốc gia Đông Timor. Tiếng Indonesia đóng một vai trò quan trọng trong ngành giáo dục . === Sức khoẻ === Tuổi thọ khi sinh khoảng 60.7 tuổi năm 2007. Tỷ lệ sinh khoảng 6 trẻ trên một phụ nữ. Tuổi thọ khoẻ mạnh khi sinh là 55 tuổi năm 2007. Chi tiêu chính phủ cho y tế ở mức US$ 150 (PPP) trên đầu người năm 2006. Nhiều người ở Đông Timor thiếu nước sạch. == Thể thao == Đông Timor đã gia nhập nhiều hiệp hội thể thao quốc tế, gồm cả Hội đồng Olympic Quốc tế (IOC). Ban giám đốc IOC đã trao quyền công nhận đầy đủ cho Uỷ ban Olympic Đông Timor (COTL). IOC đã cho phép một đội bốn thành viên chủ yếu mang tính biểu tượng tham gia Olympic Sydney năm 2000 dưới lá cờ Olympic "Các vận động viên Olympic độc lập." Federação de Timor-Leste de Atletismo đã gia nhập Hiệp hội các Liên đoàn Điền kinh Quốc tế (IAAF). Federação de Badminton de Timor-Leste đã gia nhập Liên đoàn Cầu lông Quốc tế (IBF) vào tháng 4 năm 2003. Liên đoàn Đua xe đạp Đông Timor đã gia nhập Union Cycliste Internationale. Confederação do Desporto de Timor Leste đã gia nhập Liên đoàn Cử tạ Quốc tế. Đông Timor cũng là một thành viên đầy đủ của Liên đoàn Bóng bàn Quốc tế (ITTF). Tháng 9 năm 2005, Đội tuyển bóng đá quốc gia Đông Timor đã gia nhập FIFA. Đông Timor đã tham gia vào nhiều sự kiện thể thao. Dù không đạt được huy chương, các vận động viện Đông Timor đã có cơ hội cạnh tranh với các vận động viên Đông Nam Á khác tại SEA Games 2003 được tổ chức tại Việt Nam năm 2003. Trong Paralympics Games 2003 ASEAN, cũng được tổ chức ở Việt Nam, Đông Timor đã giành một huy chương đồng. Tại Olympic Athens năm 2004, sáu vận động viên nước này đã tham gia ba môn: điền kinh, cử tạ và đấm bốc. Đông Timor đã giành ba huy chương môn Arnis tại SEA Games 2005. Đông Timor cũng là một trong các quốc gia tranh tài tại Lusophony Games đầu tiên, giành được một huy chương đồng môn bóng chuyền nữ (đứng thứ ba trong ba đội), dù thực tế đội tuyển đã thua cả ba trận đấu. Ngày 30 tháng 10 năm 2008, Đông Timor đã giành được điểm quốc tế đầu tiên trong một trận đấu của FIFA với tỷ số hoà 2-2 trước Campuchia.Tại Sea Games 26 tổ chức tại Indonesia, đội tuyển U23 Đông Timor đã gây bất ngờ khi lần lượt đánh bại hai đối thủ là U23 Brunei và U23 Philippines. Đây là những chiến thắng đầu tiên của U23 Đông Timor tại đấu trường này. == Ngày lễ == Đông Timor hiện có những ngày lễ kỷ niệm các sự kiện lịch sử trong cuộc đấu tranh giành độc lập, cũng như những ngày lễ của Công giáo và Hồi giáo. Chúng được xác định trong Timor-Leste Law no. 10/2005PDF (16.7 KiB). Ngoài ra, luật xác định "các ngày kỷ niệm chính thức" không được coi là ngày lễ nhưng có thể được nghỉ làm: == Xem thêm == === Các danh sách === Danh sách các chủ đề liên quan tới Đông Timor Danh sách thành phố Timor Danh sách nhân vật Timor == Tham khảo == == Thư mục == Cashmore, Ellis (1988). Dictionary of Race and Ethnic Relations. New York: Routledge. ASIN B000NPHGX6 Charny, Israel W. Encyclopedia of Genocide Volume I. Denver: Abc Clio. Dunn, James (1996). East Timor: A People Betrayed. Sydney: ABC Books. Levinson, David. Ethnic Relations. Denver: Abc Clio. Rudolph, Joseph R. Encyclopedia of Modern Ethnic Conflicts. Westport: Greenwood P, 2003. 101-106. Shelton, Dinah. Encyclopedia of Genocide and Crimes Against Humanity. Thompson Gale. Taylor, John G. (1999). East Timor: The Price of Freedom. Australia: Pluto Press. ISBN 1-85649-840-9. == Liên kết ngoài == Chính phủ Timor-Leste Official government site Chief of State and Cabinet Members Thông tin chung Mục “Timor-Leste” trên trang của CIA World Factbook. East Timor from UCB Libraries GovPubs Timor-Leste tại DMOZ Wikimedia Atlas của East Timor, có một số bản đồ liên quan đến East Timor.
giấy.txt
Giấy là một loại vật liệu mỏng được làm từ chất xơ dày từ vài trăm µm cho đến vài cm, thường có nguồn gốc thực vật, và được tạo thành mạng lưới bởi lực liên kết hiđrô không có chất kết dính. Thông thường giấy được sử dụng dưới dạng những lớp mỏng nhưng cũng có thể dùng để tạo hình các vật lớn (papier-mâché). Trên nguyên tắc giấy được sản xuất từ bột gỗ hay bột giấy. Loại giấy quan trọng nhất về văn hóa là giấy viết. Bên cạnh đó giấy được sử dụng làm vật liệu bao bì, trong nội thất như giấy dán tường, giấy vệ sinh hay trong thủ công trang trí, đặc biệt là ở Nhật và Trung Quốc. Trước khi phát minh ra giấy, con người đã ghi chép lại các văn kiện là các hình vẽ trong các hang động hoặc khắc lên các tấm bia bằng đất sét, và sau đó nữa là người ta dùng da để lưu trữ các văn kiện. Kể từ khi người Trung Quốc phát minh ra giấy vào năm 105, giấy đã bắt đầu được sử dụng rộng rãi ở Trung Quốc và mãi cho đến năm 750, kỹ thuật sản xuất giấy mới lan truyền đến phương Tây thông qua Samarkand bởi các tù binh người Trung Quốc bị bắt trong Trận Đát La Tư giữa nhà Đường và nhà Abbas của người Hồi giáo. Giấy được mang đến châu Âu từ thế kỷ thứ 12 qua các giao lưu văn hóa giữa phương Tây Thiên chúa giáo và phương Đông Ả Rập cũng như qua nước Tây Ban Nha thời kỳ Hồi giáo. == Lịch sử == === Trước khi có giấy === Các hình vẽ trong hang động là những văn kiện lâu đời nhất do con người vẽ bằng bột màu. Người Sumer, có nền văn hóa cao lâu đời nhất được biết đến, viết trên những tấm bia bằng đất sét (văn tự hình nêm, bắt đầu từ khoảng 3300 năm trước Công nguyên). Các vật liệu hữu cơ dùng để viết lên sau đó ít bền hơn. Nếu không có những tấm bia bằng đất sét của người Sumer chúng ta biết rất ít về thời gian này. Da, giấy da (parchment), gỗ, vỏ cây, giấy cói (giấy chỉ thảo) - có ở Ai Cập khoảng 3000 năm trước Công nguyên - và giấy đều có thể cháy và bị phân hủy sinh học. Giấy cói (giấy chỉ thảo) làm bằng một loại lau sậy (cây cói giấy hay cây chỉ thảo – cyperus papyrus, họ Cói) được buộc vào với nhau và đặt chéo lên nhau trước khi được ép lại. Người ta viết trên đó bằng mực đỏ hay đen. Mực đen bao gồm bồ hóng và một dung dịch từ nhựa của cây keo (gummi arabicum). Mực đỏ được làm từ hoàng thổ. Người ta dùng một cây cọ làm từ cây sậy (cây lau) để viết. Mặc dù cây cói giấy (cây chỉ thảo) cũng có ở Hy Lạp nhưng không được lan truyền ra ngoài nước. Trong thế kỷ thứ 3 người Hy Lạp thay thế cọ viết bằng lông chim. Từ giấy trong các thứ tiếng ở châu Âu (papier, paper...) dẫn từ tên của cây cói giấy - papyrus. Ngoài ra người ta còn viết trên giấy da (parchment) là loại da mỏng chưa được thuộc. Ở Roma người ta sử dụng cả giấy cói (giấy chỉ thảo) lẫn bảng làm bằng sáp, văn thơ được khía lên bằng một cây nhọn. Dùng một tấm cạo có thể làm phẳng sáp lại và lại có thể viết lên trên tấm bảng này. Ở Ấn Độ người ta dùng lá cây cọ. Ở Trung Quốc, trước khi phát minh ra giấy, xương, vỏ sò ốc, ngà voi, sau đó là đồng thau, sắt, vàng, bạc, thiếc, thạch anh, đá, đất sét, tre và tơ lụa đều được dùng đến. Trong thế kỷ thứ 5 (triều nhà Hậu Hán) Phạm Diệp (范曄) đã tường thuật lại: Từ xưa người ta đã dùng thanh tre để viết, được cột lại với nhau. Cũng có một loại giấy làm từ phế phẩm của tơ lụa. Nhưng tơ lụa quá đắt còn các thanh tre thì quá nặng nên không sử dụng thích hợp. Vì thế Thái Luân (蔡倫) nghĩ ra kế làm giấy từ các vỏ thân cây, sợi thân cây, từ cây gai dầu cũng như từ vải và lưới đánh cá cũ. Năm 105 Công nguyên ông tâu lên Hoàng thượng và được ngài khen thưởng cho tài năng của ông. Từ đấy giấy trở nên thông dụng và trong cả vương quốc mọi người đều gọi đó là giấy của quý nhân Thái. Các khám phá về khảo cổ ở Trung Hoa cộng với phép tính tuổi bằng carbon phóng xạ chứng minh rằng giấy đã hiện diện từ hai thế kỷ trước Thái Luân, nhưng người ta vẫn cho Thái Luân là người phát minh ra giấy thực thụ như ngày nay. === Phát minh ra giấy === Như vậy giấy làm từ tơ lụa đã được biết đến trước khi Thái Luân phát minh ra giấy trong thế kỷ thứ 1, khoảng năm 105, chủ yếu làm từ sợi bên trong của vỏ cây dâu (dâu tằm). Trước đó cũng đã có giấy làm từ cây gai dầu (Cannabis), còn được gọi là cây cần sa, như năm mẩu giấy được tìm thấy trong những năm từ 1973 đến 1978 đã chứng minh. Các ghi định thời gian được so sánh lại cho thấy các mẩu giấy này phải có nguồn gốc từ khoảng năm 140 đến 87 trước Công nguyên. Một loại nguyên liệu giấy khác là cây thụy hương (Daphne). Cây gai dầu và thụy hương có sợi dài hơn những loại gỗ được sử dụng ngày nay và qua đó mà có độ bền cao. Hai tính chất này cho phép giấy được sử dụng vào những mục đích khác ngoài mục đích để viết. Các đồ vật để trang trí và quần áo cũng được sản xuất theo truyền thống từ giấy ở Đông Á. Nguyên liệu làm giấy được cắt vụn ra và giã nhỏ trong nước thành bột lỏng. Các sợi được phân tán mỏng trong nước. Đầu tiên giấy được múc ra bằng một cái rây nổi trên mặt nước. Lưới ở dưới đáy rây được gắn chặt vào khung. Mỗi tờ giấy được múc ra phải được làm khô trong rây và chỉ được đem ra sau khi khô. Vì thế mà cần đến rất nhiều rây. Kỹ thuật này lan truyền đến người Thái vào khoảng năm 300. Vào khoảng năm 600 kỹ thuật múc giấy cải tiến dùng loại rây múc lan truyền đến Triều Tiên và sau đó đến Nhật. Ở loại rây múc này khung rây có thể gỡ ra khỏi rây. Tờ giấy vừa được múc có thể được lấy ra khi còn ẩm và đem đi phơi khô. Kỹ thuật này còn được sử dụng cho đến ngày nay ở các loại giấy múc bằng tay và nói chung nguyên tắc sản xuất giấy (cắt vụn, giã nhỏ trong nước, múc và hong khô) vẫn không thay đổi cho đến ngày nay. Ở Nhật người ta cải tiến kỹ thuật này và pha vào bột của sợi giấy nhựa từ rễ của cây bụp mì (Abelmoschus manihot). Các sợi được phân tán đều hơn và không còn bị vón cục nữa. Loại giấy này được gọi là giấy Nhật (Washi-和紙). Ở châu Âu sau này giấy được ép từng chồng, giữa hai tờ giấy có lót một tấm vải hay nỉ (phớt). Qua đó mà quá trình làm khô giấy được tăng nhanh hơn và giấy được nén chặt lại. === Sử dụng giấy lan rộng === Ngay từ thế kỷ thứ 2 đã có khăn tay giấy ở Trung Quốc. Tờ Báo Bắc Kinh phát hành số đầu tiên vào năm 363 (ngưng phát hành vào năm 1936). Trong thế kỷ thứ 6 người ta đã sản xuất giấy vệ sinh từ giấy rơm rạ rẻ tiền nhất. Xưởng trong cung đã sản xuất cho triều đình 720.000 tấm giấy vệ sinh và thêm vào đó là 15.000 tấm giấy vệ sinh tẩm hương thơm, mềm và có màu vàng nhạt cho hoàng gia. ==== Tiền giấy ==== Ở Trung Quốc vua Đường Cao Tông (650–683) phát hành tiền giấy lần đầu tiên, được công nhận là tiền tệ trong thế kỷ thứ 10. Vào khoảng năm 1300 tiền giấy cũng được ban hành ở Nhật, Ba Tư và Ấn Độ. Ở Việt Nam, trong quyển Khâm định Việt sử Thông giám cương mục có ghi lại Bính Tý, năm thứ 9 (1396). (Minh, năm Hồng Vũ thứ 29) Tháng 4, mùa hạ. Bắt đầu ban hành tiền "thông bảo hội sao". Thiếu bảo Vương Nhữ Chu đề nghị đổi lại chế độ. Quý Ly nghe theo, mới định chế độ tiền giấy như sau: loại 10 đồng vẽ rau rong; loại 30 đồng vẽ thủy ba; loại một tiền vẽ đám mây, loại hai tiền vẽ con rùa; loại ba tiền vẽ con lân; loại 5 tiền vẽ con phượng; loại một quan vẽ con rồng. Người nào làm giả phải tội tử hình, tịch thu điền sản sung công. Khi tiền giấy đã in xong, hạ lệnh cho dân được đem tiền thực đổi lấy tiền giấy: cứ một quan tiền thực chất đổi lấy tiền giấy một quan hai tiền. Cấm chỉ dân gian không được dùng tiền đồng, bao nhiêu tiền đồng đều nộp vào quan, nếu như người nào tàng trữ riêng hoặc tiêu dùng riêng cũng phải tội như người làm giả tiền giấy. Năm 1298 Marco Polo đã tường thuật lại việc lan truyền rộng rãi của tiền giấy. Trong thời gian này đã có nạn lạm phát làm giảm giá trị xuống chỉ còn vào khoảng 1% của giá trị ban đầu. Để chống nạn làm tiền giả, có thời gian tiền giấy được làm từ giấy đặc biệt có các chất phụ gia như sợi tơ, thuốc trừ sâu và chất màu. ==== Giấy trong thế giới Ả Rập ==== Vào năm 750 hay 751, kỹ thuật sản xuất giấy lan truyền đến Samarkand, có lẽ qua các tù binh người Trung Quốc trong một cuộc tranh chấp biên giới, và từ đấy kỹ thuật này lan rộng khắp thế giới Ả Rập. Nhờ vào các khám phá mới, người ta cho rằng ở Samarkand giấy đã được biết đến và sản xuất trước đó 100 năm. Cây lanh (Linum usitatissinum) và cây gai dầu (Cannabis L.) cũng như nước đều có đầy đủ, chẳng bao lâu người Ả Rập đã xây dựng lên một công nghiệp giấy phát đạt. Giấy lan truyền nhanh chóng đến Maroc. Một cối xay giấy đã được xây ở Bagdad vào năm 795, năm 870 quyển sách làm bằng giấy đầu tiên được phát hành ở đây. Trong văn phòng của hoàng đế Harun al-Rashid người ta đã dùng giấy để viết. Sau đó là các xưởng sản xuất ở Damascus, Cairo, ở các tỉnh Bắc Phi cho đến cả phía tây. Người Ả Rập tiếp tục cải tiến kỹ thuật sản xuất. Nhờ vào các rây múc làm bằng dây kim loại mà người ta đã có thể tạo được hình chìm trên giấy (watermark). Giấy được phủ keo tốt hơn nhờ sử dụng tinh bột. (Phủ keo là tráng một lớp mỏng keo trên mặt giấy hay pha keo vào bột giấy lỏng trước khi múc giấy để giấy láng hơn và ít hút nước hơn, mực viết lem ít hơn.) Các đơn vị đo lường diện tích được tiêu chuẩn hóa. 500 tờ giấy là một ram giấy (thếp giấy) – rizmar. Từ này là nguồn gốc cho khái niệm về đơn vị giấy vẫn còn thông dụng cho đến ngày nay trong ngành giấy: một ram giấy (tiếng Anh: ream, tiếng Đức: Ries, tiếng Pháp: rame, tiếng Tây Ban Nha: resma...). ==== Giấy ở châu Âu ==== Qua các giao lưu văn hóa giữa phương Tây Thiên chúa giáo và phương Đông Ả Rập cũng như qua nước Tây Ban Nha thời kỳ Hồi giáo giấy được mang đến châu Âu từ thế kỷ thứ 12. Theo như Al-Idrisi tường thuật lại sau các chuyến du lịch, ngay từ giữa thế kỷ thứ 12 ở San Felipe (Xativa) gần Valencia đã có một nền công nghiệp giấy phát đạt, xuất khẩu các loại giấy cao cấp sang cả các nước láng giềng. Sau khi người Ả Rập bị đánh đuổi khỏi Tây Ban Nha, vùng quanh Valencia vẫn còn là nơi có tầm quan trọng trong công nghiệp giấy vì ở đây người ta trồng được cây lanh (Linum), một nguyên liệu dùng làm giấy rất tốt. Cùng với việc sử dụng văn bản ngày càng phổ biến trong các lãnh vực khác của văn hóa (kinh tế, luật, hành chánh,...), từ giữa thế kỷ thứ 14 giấy bắt đầu cuộc tranh đua với giấy da (parchment). Kỹ thuật in sách ra đời từ giữa thế kỷ thứ 15 đã đánh dấu cho vai trò của giấy da trở thành vật liệu để viết xa xỉ. Mặc dù rẻ tiền, mãi cho đến thế kỷ thứ 17 giấy, trong vai trò là vật liệu để viết, mới đẩy lùi được giấy da tương đối đắt tiền hơn. == Các phương pháp sản xuất giấy == Giấy có thể sản xuất thủ công hay bằng máy không phụ thuộc vào sợi dùng làm nguyên liệu. Thành phần chính của giấy là các sợi cellulose. Trước tiên tinh bột, nhựa cây và các thành phần khác của cây được tách ra khỏi cellulose. Sau khi tách ra, cellulose được pha loãng trong nước và giã thành sợi. Khi chế bột này (khoảng 95% là nước) lên một cái rây, phần lớn nước chảy thoát đi. Rây phải được lắc đều, các sợi sẽ nằm chồng lên nhau và tạo thành một tấm giấy. Nếu trên lưới rây có làm một hình mẫu, sợi sẽ nằm chồng ở các chỗ đó ít hơn và khi soi tấm giấy trước ánh sáng có thể nhận thấy được hình chìm trên giấy. === Sản xuất trước khi công nghiệp hóa === Cho đến nửa sau thế kỷ thứ 19 các sợi cellulose cần dùng được người làm giấy thu lượm từ quần áo cũ làm từ sợi lanh. Những người thu mua và buôn bán quần áo cũ là những người cung cấp nguyên liệu cho các xưởng xay giấy. Có thời gian quần áo cũ hiếm đến độ đã bị cấm xuất khẩu và người ta đã dùng đến vũ lực để ngăn chặn việc này. Trong các xưởng xay giấy giẻ được cắt thành mảnh vụn, đôi khi được rửa sạch và làm cho mục nát và sau đó được đưa vào máy giã nhỏ thành sợi. Máy giã hoạt động bằng sức nước. Trong nửa đầu của thế kỷ thứ 19 người ta chuyển qua tẩy bằng clo thay vì làm cho mục nát rồi rửa sạch. Sợi thất thoát rất ít và ngoài ra còn có thể dùng các loại vải có màu. Người thợ làm giấy múc tờ giấy từ bột giấy loãng này bằng một cái rây thấp, làm bằng đồng hình chữ nhật có lưới rất tinh, thành rây có thể tháo ra được. Sau đó một người thợ khác ép tờ giấy từ ray lên trên một tấm nỉ trong khi thợ làm giấy múc tờ giấy kế tiếp. Sau khi ép xong các tờ giấy được treo lên để phơi khô trong các phòng lớn và khô ráo, chủ yếu là trong các nhà kho hay trên gác xép. Sau đó giấy được ép thêm một lần nữa, vuốt phẳng, phân loại rồi đóng gói. Nếu là giấy viết thì phải tráng keo bằng cách nhúng vào keo, ép rồi phơi khô. Qua cách làm bằng tay này, ngày nay chỉ áp dụng cho các loại sợi – và qua đó là giấy – có chất lượng cao, các sợi nằm theo các hướng đều nhau. Máy Hà Lan (một phát minh của các thợ làm giấy người Hà Lan vào khoảng năm 1670) là bước đột phá kỹ thuật hiện đại. Đấy là một máy sản xuất ra bột giấy không còn dùng giẻ cũ làm vật liệu ban đầu để sản xuất giấy nữa mà phần lớn là từ các dây thừng, dây cáp và lưới đánh cá. Các vật liệu rất cứng này trước tiên được cắt nhỏ trong một máy giã có một ít búa đập và nhiều dao nhọn (Kapperij) rồi được đưa vào một máy xay (Kollergang) để được tiếp tục cắt nhỏ đi. === Công nghiệp hóa việc sản xuất giấy === Từ khoảng năm 1850 máy mài gỗ được đưa vào sử dụng, mở ra khả năng sản xuất giấy có tầm cỡ công nghiệp từ nguyên liệu gỗ rẻ tiền. Vào khoảng năm 1879 chỉ ở Đức thôi đã có khoảng 340 xưởng mài gỗ như vậy. Loại bột gỗ mài dùng làm giấy này còn chứa chất linhin (lignin) sẽ làm giấy bị ố vàng sau một thời gian. Friedrich Gottlob Keller (1816 – 1895) là người phát minh ra loại giấy làm từ bột gỗ này. === Sản xuất giấy trong công nghiệp === ==== Nguyên liệu ==== Người ta có thể sản xuất giấy từ nguồn nguyên liệu mới là gỗ, hoặc cũng có thể sử dụng giấy đã sử dụng làm nguyên liệu. Trong sản xuất mới, nguyên liệu chính để làm giấy là sợi cellulose từ gỗ hoặc rơm rạ. Ngoài ra còn cần dùng đến keo và các chất độn. Độ dài của các sợi cellulose thay đổi tùy theo nguyên liệu làm giấy và có ảnh hưởng lớn đến chất lượng và độ bền về thời gian của giấy. Không phải loại gỗ nào cũng có thể dùng làm giấy trong công nghiệp được. Gỗ từ các loại cây trong bảng dưới đây được coi là thích hợp để dùng làm giấy: Điều kiện ở từng địa phương và số lượng có sẵn quyết định loại gỗ nào được sử dụng làm nguyên liệu nguyên thủy. Các loại cây tăng trưởng nhanh thí dụ như cây dương đáp ứng được nhu cầu lớn của công nghiệp. Trên nguyên tắc tất cả các loại có cellulose đều có khả năng được sử dụng để sản xuất giấy. Giấy cũ ngày càng được sử dụng nhiều hơn để làm nguyên liệu. Tại Đức, giấy cũ chiếm gần 50% các nguyên liệu được sử dụng để làm các loại giấy, bìa cứng và các tông. Ở châu Âu và châu Mỹ người ta còn sử dụng cây lúa mì và lúa mạch đen để lấy sợi, ở Bắc Phi một số loại cỏ, tại Nhật cho tới ngày nay rơm từ cây lúa vẫn được sử dụng và ở Ấn Độ là cây tre. Việc dùng giấy đã qua sử dụng làm nguyên liệu sản xuất giấy hiện là phương hướng đang phát triển của công nghiệp giấy. Ưu điểm: việc sử dụng giấy phế liệu làm bột giấy chỉ cần đánh tơi và nghiền với thời gian ngắn hơn sử dụng gỗ (28 phút so với 45 phút); góp phần giải quyết các vấn đề về môi trường. Nhược điểm: bột giấy loại này có độ bụi cao - trên 10 hạt với kích thước 0.4mm²/1m² === Sản xuất bột giấy === Gỗ có thể được xử lý cơ học hay hóa học ==== Xử lý cơ học ==== Bột gỗ mài trắng: được mài từ gỗ đã được bóc vỏ trong các máy mài gỗ. Bột gỗ mài nâu: hình thành khi các cuống cây được thấm ướt trong các nồi nấu trước khi được mài. Bột nhiệt cơ: được sản xuất từ phế liệu gỗ được băm nhỏ và vỏ bào của các xưởng cưa. Theo phương thức TMP (thermo-mechanical pulp), hay "bột nhiệt cơ", chúng được làm thấm ướt ở 130 °C. Các liên kết linhin (lignin) nhờ vậy bị yếu đi. Sau đó nước được thêm vào và các miếng gỗ này được nghiền trong các máy nghiền (refiner). Nếu hóa chất được sử dụng thêm vào trong lúc thấm ướt phương pháp này được gọi là phương pháp CTMP (chemo-thermo- mechanical pulp), hay "bột hóa nhiệt cơ". Nếu chỉ dùng các phương thức cơ để sản xuất, thành phần của bột gỗ không phải là các sợi cellulose mà là các liên kết sợi đã được mài và nghiềm nhỏ ra. Để có thể lấy được sợi nguyên thủy phải dùng đến các biện pháp xử lý gỗ bằng hóa học. ==== Xử lý hóa học ==== Các mảnh gỗ được xử lý hóa học bằng cách nấu. Sau khi nấu 12 đến 15 tiếng các sợi sẽ được tách ra khỏi các thành phần cứng đi cùng với cellulose. Nhìn theo phương diện hóa học, gỗ bao gồm: 40% - 50% cellulose 10% - 55% hemicellulose 20% - 30% linhin (lignin) 6% - 12% các hợp chất hữu cơ khác 0,3% - 0,8% hợp chất vô cơ Tùy theo hóa chất được dùng để nấu, người ta phân biệt ra các phương pháp kiềm, sunfit (sulfit) và sunfat (sulfat). Phần linhin còn sót lại sau khi nấu sẽ làm cho bột giấy có màu vàng hay nâu vì thế mà phải rửa sạch và tẩy bột giấy. Sản lượng sản xuất bột giấy theo phương pháp hóa học ít hơn là sản xuất bột gỗ. Các sợi cellulose có ưu điểm là dài hơn, bền và mềm mại hơn. Các sợi cellulose từ các cây lá kim thường dài khoảng 2,5 cho đến 4 mm, sợi từ các cây lá rộng dài khoảng 1 mm. Bột giấy sunfat so với bột giấy sunfit thì dài hơn và bền hơn vì thế chủ yếu được sử dụng để làm giấy in và giấy viết có độ trắng cao. Bột giấy sunfit đa số được dùng để sản xuất các loại giấy vệ sinh mềm. Bột giấy cần phải được tẩy để làm giấy trắng. Bột giấy sunfat thông thường được tẩy bằng clo, vì thế mà nước thải sẽ nhiễm các hợp chất cácbon của clo. Cl2 + H2O → H+ + Cl- + HClO 2 NaOH + Cl2 → NaOCl + NaCl + H2O Bột sunfit được tẩy bằng hiđrô perôxít hay bằng ôxy. Kỹ thuật thân thiện hơn với môi trường, thay thế tẩy sử dụng clo bằng sử dụng ôxy và điôxít clo. 2 NaClO3 + H2SO4 + SO2 → 2 ClO2 + 2 NaHSO4 Bột giấy tẩy không có clo có độ bền của sợi kém hơn là tẩy bằng clo, nhưng do ít ô nhiễm đến môi trường hơn nên ngày càng được dùng nhiều hơn. ==== Phương pháp organocell ==== Phương pháp organocell sản xuất bột giấy không có lưu huỳnh và vì thế mà thân thiện với môi trường hơn. Các mảnh gỗ được nấu với hỗn hợp nước và mêtanol (methanol) có cho thêm dung dịch kiềm qua nhiều giai đoạn dưới áp suất và ở nhiệt độ đến 190 °C. Qua đó linhin và hemicellulose được hòa tan ra. Sau đó phải rửa sạch qua nhiều giai đoạn rồi tẩy và tháo nước. Mêtanol và kiềm được lấy lại qua một phương pháp tái chế được tiến hành song song với sản xuất bột giấy. Ngoài ra còn thu được linhin và hemicellulose không chứa lưu huỳnh được sử dụng tiếp tục trong công nghiệp hóa học. ==== Khử mực giấy cũ ==== Các phương pháp khử mực giấy loại có mục đích chính là nhằm loại bỏ các hạt mực cũng như các chất phụ gia khác như chất độn, các hạt mang màu trong quá trình tráng phủ ra khỏi thành phần sơ xợi. Hai phương pháp khử mực giấy loại (de-inking) được sử dụng phổ biến rộng rãi ngày nay trên thế giới là phương pháp tuyển nổi (flotation) và rửa (washing). Phương pháp tuyển nổi thích hợp với các hạt mực và các hạt phụ gia có kích thước từ 10 đến 250 µm trong khi phương pháp rửa thích hợp với kích thước hạt mực và phụ gia từ 30 µm trở xuống. Ngày nay phần lớn các nhà máy tái chế giấy loại thường ứng dụng cả hai phương pháp khử mực bằng tuyển nổi và rửa trong quá trình sản xuất. Phương pháp tuyển nổi Sử dụng nguyên lý bám dính của các hạt vật chất vào bong bóng khí để loại bỏ mực in và các chất phụ gia của giấy loại như chất độn, các hạt mang màu...Có thể chia ra các công đoạn chính trong quá trình tuyển nổi như sau Giai đoạn tách mực ra khỏi sơ xơi Mực in được in vào bề mặt của sơ xợi bằng nhiều phương pháp khác nhau như in offset, in gravure, in UV-Curing, in letter press hay in flexo và trong giai đoạn đầu tiên của phương pháp khử mực, người ta phải tách các hạt mực in này cùng với các hạt phụ gia ra khỏi bề mặt của sơ xợi. Giai đoạn này trong sản xuất được thực hiện ở máy nghiền thủy lực với sự hỗ trợ của một số hóa chất khử mực như NaOH (sodium hydroxide), Na2CO3 (sodium silicate), H2O2 (Hydrogen peroxide), các chất hoạt tính bề mặt (surfactant)... Dưới tác dụng của các hóa chất khử mực, mối liên kết giữa mực in và sơ xợi bị lỏng đi, trở nên kém bền vững đồng thời các hạt mực cũng trở nên kỵ nước, bị xé nhỏ và tách ra khỏi sơ xợi dưới tác dụng của các dao trong quá trình nghiền thủy lực. Giai đoạn loại bỏ mực ra khỏi sơ sợi trong quán trình tuyển nổi Sau khi mực và các hạt phụ gia được tách ra khỏi bề mặt sơ xợi, chúng ta sẽ phải loại bỏ chúng để thu được sơ xợi "sạch" để sản xuất giấy. Như đã trình bày ở trên, phương pháp tuyển nổi dùng các bọt khí để loại bỏ các hạt mực và các hạt phụ gia. Về lý thuyết có thể ứng dụng với các hạt chất rắn có kích thước từ 10 đến 500 µm nhưng hiệu quả nhất đối với tuyển nổi giấy tái chế là từ 10 đến 250 µm. Do tác dụng của hóa chất (các chất lựa chọn) và đặc biệt là sự có mặt của các ion canxi mang điện dương 2+ trong nước, các phân tử của xà phòng kết hợp với các ion Canxi này tạo ra các hạt vật chất nhỏ điện tích mang điện dương, qua đó dễ dàng đính với các hạt mực (điện âm). Bởi vì các chất lựa chọn như soap là một chuỗi hydrocacbon gồm cả phần kỵ nước và háo nước (ví dụ như stearic acid)nên các hạt mực được đính kèm với các hạt vật chất nhỏ mang điện dương (sản phẩm của soap collector and calcium có trong nước), rồi qua đó tiếp tục đính với các hạt mực khác (cũng đã được đính với các hạt mang điện dương) và tạo thành các cụm mực nhỏ và các cụm mực nhỏ này tiếp tục được đính vào các bong bóng khí nhờ tính kỵ nước và háo nước của soap collector. ==== Xử lý bột trước khi sản xuất giấy ==== Bột giấy được nghiền trong các máy nghiền (refiner) trước khi đưa qua máy giấy. Bên trong máy nghiền dung dịch bột giấy đậm đặc chảy qua giữa một trục lăn có dao và các dao gắn cố định. Sợi sẽ được cắt (nghiền thô) hay ép (nghiền tinh) tùy theo các điều chỉnh dao. Hai đầu của sợi cellulose sẻ bị tưa ra giúp cho các sợi liên kết với nhau tốt hơn khi tấm giấy hình thành. Các loại giấy hút nước, có thể tích cao và mềm mại hình thành từ các sợi được nghiền thô như giấy thấm. Sợi được nghiền tinh được dùng để sản xuất các loại giấy cứng và bền, ít thấm nước có tính trong suốt thí dụ như giấy vẽ kỹ thuật. Ngoài ra khi nghiền các sợi cellulose còn có thể được cắt ngắn đi. Chiều dài của sợi và cách nghiền bột quyết định chất lượng của giấy. ==== Máy xeo giấy ==== Giấy được tạo thành tấm trên máy xeo giấy. Dung dịch bột giấy (99% là nước) sau khi được làm sạch nhiều lần chảy lên mặt lưới. Trên lưới này phần lớn nước chảy thoát đi và cấu trúc của tờ giấy bắt đầu thành hình. Bên dưới lưới có đặt máy hút nước để giúp thoát nước. Giấy sản xuất công nghiệp có hai mặt: mặt lưới và mặt láng, các sợi giấy hầu như đều hướng về một chiều: chiều chạy của lưới. Sau đó giấy được ép rồi đưa qua phần sấy tiếp theo là được ép láng và cuộn tròn. ==== Chất độn ==== Ngoài sợi cellulose ra bột giấy còn được trộn thêm đến 30% các chất độn: Cao lanh (China clay) Tinh bột Blanc fixe Điôxít titan Phấn Các chất độn làm đầy phần không gian giữa các sợi giấy và làm cho giấy mềm mại và có bề mặt láng hơn. Thành phần của chất độn sẽ quyết định độ trong suốt hay độ mờ đục của giấy. Để chống không lem mực phải cần đến keo. == Tiêu chuẩn kích thước giấy == Khổ giấy theo tiêu chuẩn quốc tế EN ISO 216 xuất phát từ chuẩn DIN 476 do Viện tiêu chuẩn Đức (Deutschen Institut für Normung - DIN) đưa ra năm 1922. Song song với tiêu chuẩn này còn có các hệ thống khác như tại Hoa Kỳ hay Canada. == Phân loại giấy tại Việt Nam theo HS == === Chương 48 === Theo bảng phân loại HS, giấy chủ yếu được xếp vào nhóm 48 1. Giấy in báo, dạng cuộn hoặc tờ: Là loại giấy không tráng dùng để in báo, có tỷ trọng sợi gỗ thu được từ phương pháp chế biến cơ học hoặc cơ-hoá học lớn hơn hoặc bằng 65% tổng lượng sợi, không hồ hoặc dát rất mỏng, có độ ráp bề mặt Parker Print Surt (IMPa) trên 2.5 micromet, định lượng không dưới 40 g/m², nhưng không quá 65 g/m². 2. Giấy không tráng (uncoated paper) được dùng để viết, in và các mục đích in ấn khác; giấy làm thẻ hoặc dải đục lỗ: Nhóm này bao gồm giấy được làm từ bột giấy đã tẩy trắng hoặc bột giấy thu được từ phương pháp chế biến cơ học hoặc hóa cơ, thoả mãn một trong những tiêu chuẩn sau đây: 2.1. Đối với giấy định lượng ≤ 150g/m²: 2.1.1. Chứa ≥ 10% lượng sợi thu được bằng phương pháp cơ học hoặc hóa cơ, và: 2.1.1.1. Định lượng ≤ 80g/m²; hoặc 2.1.1.2. Nhuộm màu toàn bộ 2.1.2. Chứa ≥ 8% cặn, và: 2.1.2.1. Định lượng ≤ 80g/m²; hoặc 2.1.2.2. Nhuộm màu toàn bộ 2.1.3. Chứa ≥ 3% cặn, có độ sáng ≥ 60% 2.1.4. Chứa ≥ 3% và ≤ 8% cặn, có độ sáng ≤ 60% và chỉ số bục (burst index) ≤ 2.5 kPa.m²/g 2.1.5 Chứa ≤ 3% cặn, có độ sáng ≥ 60%, chỉ số bục (burst index) ≤ 2.5 kPa.m²/g 2.2. Đối với giấy định lượng ≥ 150g/m²: 2.2.1. Nhuộm màu toàn bộ 2.2.2. Có độ sáng ≥ 60% và: 2.2.2.1. Độ dày ≤ 225 micromet, hoặc 2.2.2.2. Độ dày ≥ 225 micromet nhưng ≤ 508 micromet và lượng cặn ≥ 3% 2.2.3. Có độ sáng ≤ 60%, dộ dày 254 micromet và lượng cặn ≥ 8% 3. Giấy vệ sinh, khăn lau mặt, lau tay, khăn ăn và các loại tương tự dùng cho mục đích nội trợ, vệ sinh; giấy nỉ xenlulô và giấy nỉ mỏng bằng sợi xenlulô; có thể đã được làm nhăn, dập nổi, tạo lỗ châm kim, nhuộm màu bề mặt, trang trí hoặc in bề mặt, dạng cuộn hoặc tờ 4. Giấy và bìa Kraft không hồ trắng, dạng cuộn hoặc tờ: Giấy có tỷ trọng sợi gỗ thu được bằng phương pháp chế biến hoá học soda hoặc sunphat chiếm ≥ 80% tổng lượng sợi. Trong nhóm này có nhóm 4804.11 và 4804.19 giấy gói hàng được hiểu là giấy được hoàn thiện bằng máy hoặc được láng bằng máy, có tỷ trọng sợi gỗ thu được từ phương pháp chế biến hoá học soda hoặc sunphat chiếm ≥ 80%, dạng cuộn, định lượng xấp xỉ 115g/m², có chỉ số cháy Mullerf tối thiểu được tính bằng phương pháp nội suy hoặc ngoại suy tuyến tính theo bảng kết quả dưới đây: Định lượng (g/m²): 115; 125; 200; 300; 400 Chỉ số cháy Mullerf tối thiểu: 393; 417; 637; 824; 961 Trong nhóm này có nhóm 4804.21 và 4804.29 "giấy kraft làm bao" là giấy được hoàn thiện bằng máy có tỷ trọng sợi gỗ thu được từ phương pháp ché biến hoá học soda hoặc sunphat ≥ 80%, dạng cuộn, định lượng ≥ 60g/m² và ≤ 115 g/m², thoả mãn một trong các điều kiện sau: 4.1. Có chỉ số cháy Mullen ≥ 3.7 kPa.m²/g và hệ số căng ≥ 4.5% theo chiều ngang và ≥ 2% theo chiều máy 4.2. Có chỉ số độ dai và độ giãn được tính bằng phương pháp nội suy - ngoại suy tuyến tính từ bảng tính dưới đây: 5. Giấy và bìa không tráng khác, không hồ khác, dạng cuộn hoặc tờ, chưa được gia công thêm hoặc xử lý khác 6. Giấy đã sunphua hoá, giấy không thấm mỡ, giấy can (tracing paper) và giấy bóng kính, các giấy bóng trong và giấy bóng mờ khác, dạng cuộn hoặc tờ 7. Giấy hỗn hợp được làm bằng cách dán các lớp giấy phẳng lại với nhau bởi một lớp keo dính, không hồ trắng hoặc thấm tẩm bề mặt, có hoặc không có gia cố bên trong, dạng cuộn hoặc tờ. 8. Giấy đã gấp nếp làn sóng (có thể đã được dán các tờ phẳng lên mặt) đã làm vân, làm nhăn, dập nổi hoặc soi lỗ, dạng cuộn hoặc tờ 9. Giấy than, giấy tự copy và các loại giấy để sao chụp khác (kể cả giấy đã hồ trắng hoặc thấm tẩm dùng cho máy đánh giấy nến hoặc in bản kẽm) đã hoặc chưa in, dạng cuộn hoặc tờ 10. Giấy đã hồ trắng (giấy tráng - coated paper) 1 hoặc cả 2 mặt bằng một lớp cao lanh hoặc các chất vô cơ khác, có thể có thêm chất kết dính, không có lớp phủ ngoài nào khác, có thể đã nhuộm màu bề mặt, trang trí hoặc in bề mặt, dạng cuộn hoặc tờ 11. Giấy nỉ xenlulô, giấy nỉ mỏng bằng sợi xenlulô đã hồ trắng, thấm tẩm, phu nhuộm màu bề mặt, có thể được trang trí hoặc in bề mặt, dạng cuộn hoặc tờ 12. Khối lọc, thanh tấm lọc, bột giấy dạng tấm 13. Giấy cuốn thuốc lá, có thể đã được chia cắt thành miếng nhỏ hoặc cuốn sẵn thành ống 14. Giấy dán tường và các loại giấy phủ tường tương tự 15. Tấm phủ sàn 16. Giấy than, giấy tự copy và các loại giấy dùng để sao chụp khác, giấy nến và các bản in offset bằng giấy 17. Phong bì, thiếp mời, bưu thiếp, danh thiếp, các loại hộp, túi và các sản phẩm tương tự bằng giấy khác để đựng thư từ trao đổi 18. Giấy dùng cho vệ sinh và các loại giấy tương tự, giấy nỉ, giấy nỉ mỏng bằng sợi xenlulô dùng mục đích cắt theo hình dạng, kích thước khăn lau tay, khăn mặt, khăn trải bàn, khăn ăn, tã lót, băng vệ sinh, khăn trải giường, đồ dùng nội trợ, vệ sinh và một số, các vật phẩm trang trí, đồ phụ tùng tương tự 19. Thùng, sắc, túi nhỏ và các loại bao bì khác bằng giấy 20. Sổ đăng ký, sổ sách kế toán, vở ghi chép (Sổ đặt hàng, biên lai), sổ ghi nhớ, nhật ký, vở bài tập... 21. Các loại nhãn bằng giấy hoặc bìa, đã hoặc chưa in 22. Ống lõi, tuýp, suốt, cửi và các loại tương tự bằng bột giấy, giấy hoặc bìa, đã hoặc chưa đục lỗ hoặc làm cứng. 23. Giấy bìa, giấy xenlulo và giấy nỉ mỏng sợi xenlulo khác, cắt theo kích cỡ hoặc mẫu, các vật phẩm khác bằng bột giấy, giấy hoặc bìa giấy, giấy nỉ xenlulo hoặc giấy nỉ mỏng sợi xenlulo === Chương khác === Ngoài ra, có một số loại giấy được phân vào các nhóm khác: 24. Giấy thơm, các loại giấy đã thấm tẩm mỹ phẩm: nhóm 33 25. Giấy hoặc tấm lót xenlulo đã thấm tẩm, tráng, phủ bằng xà phòng hoặc chất tẩy (nhóm 34.01), hoặc bằng các chất đánh bóng, kem hoặc các chế phẩm tương tự: nhóm 34.05) 26. Giấy hoặc cáctông có phủ lớp chất nhạy (Photographic paper): nhóm 37.01 đến 37.04, chưa phơi sáng hoặc đã phơi sáng nhưng chưa tráng 27. Giấy được thấm tẩm chất thử chẩn đoán (Paper chromatography) hoặc chất thử thí nghiệm: nhóm 38.22 28. Giấy được gia cố bằng tấm plastic, hoặc một lớp giấy hoặc cáctông được tráng hoặc phủ một lớp plastic, lớp plastic này dày hơn 1/2 tổng bề dày, hoặc các sản phẩm làm bằng loại giấy này (trừ các tấm phủ tường thuộc nhóm 48.14): nhóm 39 29. Giấy hoặc các tông ráp (Sandpaper): nhóm 68.05; giấy hoặc cáctông bồi mica: nhóm 68.14 == Các tiêu chuẩn đánh giá chất lượng giấy == Các tiêu chuẩn dùng để đánh giá chất lượng giấy bao gồm: độ trắng, định lượng giấy, độ dày, độ cứng, độ đục, độ trong, độ bền xé, độ bền gấp, chiều dài đứt, độ ẩm, độ hút nước, độ kiềm, độ sần, độ nhám, độ tro và khối lượng riêng. === Theo định lượng === Giấy lụa, giấy mỏng: ≤40 g/m² Giấy: 40 - 120 g/m² Giấy bìa: 120 - 200 g/m² Bìa: >200 g/m² === Theo màu sắc === Nâu: giấy chưa tẩy trắng Trắng: giấy đã tẩy trắng Giấy màu: giấy đã tẩy trắng và nhuộm màu dye hoặc pigment. === Theo ứng dụng === Công nghiệp: giấy bao bì, giấy gói, giấy lọc, giấy cách điện... Văn hóa: giấy viết, giấy in, giấy báo, giấy in tiền... Lương thực: giấy gói thực phẩm, giấy gói kẹo, giấy túi chè... === Theo vật liệu === Sợi gỗ: giấy sản xuất từ sợi gỗ Nông sản: rơm, cỏ... Tái chế: rác thải hoặc bột giấy thứ cấp === Theo xử lý bề mặt === Giấy tráng: tráng cao lanh hoặc các hợp chất vô cơ khác Giấy không tráng: không tráng cao lanh hoặc các hợp chất vô cơ khác Giấy tráng nhôm, thiếc, hợp chất cao phân tử... === Theo kỹ thuật kết thúc quá trình sản xuất === Giấy cán láng và siêu cán láng Giấy tráng men Giấy có bề mặt được làm bóng 1 mặt hoặc cả 2 mặt == Đọc thêm == In ấn In lưới In offset In thạch bản Nghệ thuật gấp giấy Origami Nghệ thuật cuốn giấy tại Việt Nam == Chú thích == == Liên kết ngoài == Tiếng Việt: Giấy tại Từ điển bách khoa Việt Nam Giấy siêu bền không cháy T. An, VnExpress 27/9/2006, 07:00 GMT+7 (theo Discovery) Nanowire-Paper Offers Strength, Flexibility University of Arkansas, Aug. 22, 2006 Tẩy trắng bột giấy bằng chất xúc tác B.H. VnExpress 9/11/2001, 12:53 GMT+7 (theo Nature) Hiệp hội Giấy và Bột giấy Việt Nam Tiếng Anh: Paper tại Encyclopædia Britannica (tiếng Anh) Papermaking tại Encyclopædia Britannica (tiếng Anh) Một số chủng loại giấy của APP, một trong 10 nhà sản xuất giấy lớn nhất thế giới bản lưu Guide to International Paper Sizes Concise Tables of Measurements | Hướng dẫn về khổ giấy tiêu chuẩn quốc tế EDS Inc., Editorial & Design Services. Last updated ngày 15 tháng 1 năm 2004. Basis Weight and Grammage Conversion Tables Of Use in the Publishing Industry | Một số định lượng giấy tiêu chuẩn và ứng dụng EDS Inc. Last updated ngày 15 tháng 1 năm 2004 The Arches Mill: Early Beginnings | Lịch sử sản xuất giấy Arches bản lưu Đại học Stanford
hệ mặt trời.txt
Hệ Mặt Trời (cũng được gọi là Thái Dương Hệ) là một hệ hành tinh có Mặt Trời ở trung tâm và các thiên thể nằm trong phạm vi lực hấp dẫn của Mặt Trời, tất cả chúng được hình thành từ sự suy sụp của một đám mây phân tử khổng lồ cách đây gần 4,6 tỷ năm. Đa phần các thiên thể quay quanh Mặt Trời, và khối lượng tập trung chủ yếu vào 8 hành tinh có quỹ đạo gần tròn và mặt phẳng quỹ đạo gần trùng khít với nhau gọi là mặt phẳng hoàng đạo. Bốn hành tinh nhỏ vòng trong gồm: Sao Thủy, Sao Kim, Trái Đất và Sao Hỏa - người ta cũng còn gọi chúng là các hành tinh đá do chúng có thành phần chủ yếu từ đá và kim loại. Bốn hành tinh khí khổng lồ vòng ngoài có khối lượng lớn hơn rất nhiều so với 4 hành tinh vòng trong. Hai hành tinh lớn nhất, Sao Mộc và Sao Thổ có thành phần chủ yếu từ heli và hiđrô; và hai hành tinh nằm ngoài cùng, Sao Thiên Vương và Sao Hải Vương có thành phần chính từ băng, như nước, amoniac và mêtan, và đôi khi người ta lại phân loại chúng thành các hành tinh băng đá khổng lồ. Có sáu hành tinh và ba hành tinh lùn có các vệ tinh tự nhiên quay quanh,. Các vệ tinh này được gọi là "Mặt Trăng" theo tên gọi của Mặt Trăng của Trái Đất. Mỗi hành tinh vòng ngoài còn có các vành đai hành tinh chứa bụi, hạt và vật thể nhỏ quay xung quanh. Hệ Mặt Trời cũng chứa hai vùng tập trung các thiên thể nhỏ hơn. Vành đai tiểu hành tinh, nó nằm giữa Sao Hỏa và Sao Mộc, có thành phần tương tự như các hành tinh đá với đa phần là đá và kim loại. Bên ngoài quỹ đạo của Sao Hải Vương là các vật thể ngoài Sao Hải Vương có thành phần chủ yếu từ băng như nước, amoniac, mêtan. Giữa hai vùng này, có 5 thiên thể điển hình về kích cỡ, Ceres, Pluto, Haumea, Makemake và Eris, được coi là đủ lớn đủ để có dạng hình cầu dưới ảnh hưởng của chính lực hấp dẫn của chúng, và được các nhà thiên văn phân loại thành hành tinh lùn. Ngoài ra có hàng nghìn thiên thể nhỏ nằm giữa hai vùng này, có kích thước thay đổi, như sao chổi, centaurs và bụi liên hành tinh, chúng di chuyển tự do giữa hai vùng này. Mặt Trời phát ra các dòng vật chất plasma, được gọi là gió Mặt Trời, dòng vật chất này tạo ra một bong bóng gió sao trong môi trường liên sao gọi là nhật quyển, nó mở rộng ra đến tận biên giới của đĩa phân tán. Đám mây Oort giả thuyết, được coi là nguồn cho các sao chổi chu kỳ dài, có thể tồn tại ở khoảng cách gần 1.000 lần xa hơn nhật quyển. == Cấu trúc == Thiên thể chính trong hệ Mặt Trời là Mặt Trời, một ngôi sao kiểu G2 thuộc dãy chính chứa 99,86% khối lượng của cả hệ và vượt trội về lực hấp dẫn. Bốn hành tinh khí khổng lồ của hệ chiếm 99% khối lượng còn lại, và khối lượng Sao Mộc kết hợp với khối lượng Sao Thổ thì chiếm hơn 90% so với khối lượng tất cả các thiên thể khác. Hầu hết các thiên thể lớn có mặt phẳng quỹ đạo gần trùng mặt phẳng quỹ đạo của Trái Đất, gọi là mặt phẳng hoàng đạo. Mặt phẳng quỹ đạo của các hành tinh nằm rất gần với mặt phẳng hoàng đạo, trong khi các sao chổi và vật thể trong vành đai Kuiper thường có mặt phẳng quỹ đạo nghiêng một góc lớn so với mặt phẳng hoàng đạo. Mọi hành tinh và phần lớn các thiên thể khác quay quanh Mặt Trời theo chiều tự quay của Mặt Trời (ngược chiều kim đồng hồ, khi nhìn từ trên cực bắc của Mặt Trời). Nhưng cũng có một số ngoại lệ, như sao chổi Halley lại quay theo chiều ngược lại. Cấu trúc tổng thể của những vùng trong hệ Mặt Trời được vẽ ở hình bên chứa Mặt Trời, bốn hành tinh vòng trong tương đối nhỏ được bao xung quanh bởi một vành đai các tiểu hành tinh đá, bốn hành tinh khí khổng lồ được bao xung quanh bởi vành đai Kuiper chứa các thiên thể băng đá. Các nhà thiên văn học đôi khi không chính thức chia cấu trúc hệ Mặt Trời thành các vùng tách biệt. Hệ Mặt Trời bên trong bao gồm bốn hành tinh đá và vành đai tiểu hành tinh chính. Hệ Mặt Trời bên ngoài nằm bên ngoài vành đai tiểu hành tinh chính, bao gồm bốn hành tinh khí khổng lồ. Từ khi khám phá ra vành đai Kuiper, phần bên ngoài của hệ Mặt Trời được coi là một vùng riêng biệt chứa các vật thể nằm bên ngoài Sao Hải Vương. Những định luật của Kepler về chuyển động thiên thể miêu tả quỹ đạo của các vật thể quay quanh Mặt Trời. Theo định luật Kepler, mỗi vật thể chuyển động theo quỹ đạo hình elip với Mặt Trời là một tiêu điểm. Các vật thể gần Mặt Trời hơn (với bán trục lớn nhỏ hơn) sẽ chuyển động nhanh hơn, do chúng chịu nhiều ảnh hưởng của trường hấp dẫn Mặt Trời hơn. Trên quỹ đạo elip, khoảng cách từ thiên thể tới Mặt Trời thay đổi trong một chu kỳ quỹ đạo. Vị trí thiên thể gần nhất với Mặt Trời gọi là cận điểm quỹ đạo, trong khi điểm trên quỹ đạo xa nhất so với Mặt Trời gọi là viễn điểm quỹ đạo. Trong hệ Mặt Trời, quỹ đạo của các hành tinh gần tròn, trong khi nhiều sao chổi, tiểu hành tinh và các vật thể thuộc vành đai Kuiper có quỹ đạo hình elip rất dẹt. Khoảng cách thực tế giữa các hành tinh là rất lớn, tuy nhiên nhiều minh họa về hệ Mặt Trời vẽ khoảng cách quỹ đạo của các hành tinh đều nhau. Thực tế, đối với các hành tinh hay vành đai nằm càng xa Mặt Trời, thì khoảng cách giữa quỹ đạo của chúng càng lớn. Ví dụ, Sao Kim có khoảng cách đến Mặt Trời lớn hơn 0,33 đơn vị thiên văn (AU) so với khoảng cách từ Sao Thủy đến Mặt Trời, trong khi của Sao Thổ cách xa 4,3 AU so với Sao Mộc, và Sao Hải Vương cách xa 10,5 AU so với Sao Thiên Vương. Nhiều nỗ lực đã thực hiện nhằm xác định tương quan khoảng cách giữa quỹ đạo của các hành tinh (ví dụ, quy luật Titius-Bode), nhưng chưa có một lý thuyết nào được chấp nhận. Đa phần các hành tinh trong hệ Mặt Trời sở hữu một hệ thứ cấp của chúng, có các vệ tinh tự nhiên hoặc vành đai hành tinh quay quanh hành tinh. Các vệ tinh này còn được gọi là Mặt Trăng. Hai vệ tinh tự nhiên Ganymede của Sao Mộc và Titan của Sao Thổ còn lớn hơn cả Sao Thủy). Các hành tinh khí khổng lồ như Sao Mộc, Sao Thổ, Sao Thiên Vương và Sao Hải Vương, thậm chí cả một vệ tinh của Sao Thổ còn có các vành đai hành tinh là những dải mỏng chứa các hạt vật chất nhỏ quay quanh chúng. Hầu hết các vệ tinh tự nhiên lớn nhất đều quay đồng bộ với một mặt bán cầu luôn hướng về phía hành tinh. Những thiên thể vòng trong có thành phần chủ yếu là đá, tên gọi chung cho các hợp chất có điểm nóng chảy cao, như silicat, sắt hay nikel, tất cả vẫn duy trì ở trạng thái rắn từ khi trong giai đoạn tinh vân tiền hành tinh. Sao Mộc và Sao Thổ có thành phần chủ yếu là khí, thuật ngữ thiên văn học cho những vật liệu có điểm nóng chảy cực thấp và áp suất hơi cao như hiđrô, heli, và neon, chúng luôn luôn ở pha khí trong các tinh vân. Băng, như nước, mêtan, ammoniac, hiđrô sunfua và cacbon điôxít, có điểm nóng chảy lên tới vài trăm Kelvin, trong khi pha của chúng lại phụ thuộc vào áp suất và nhiệt độ môi trường xung quanh. Chúng có thể tìm thấy dưới dạng băng, chất lỏng, hay khí trong nhiều nơi thuộc hệ Mặt Trời, trong khi trong các tinh vân chúng chỉ ở trạng thái băng (rắn) hoặc khí. Các chất băng đá là thành phần chủ yếu trên các Mặt Trăng của các hành tinh khí khổng lồ, cũng như chiếm phần lớn trong thành phần của Sao Thiên Vương và Sao Hải Vương (gọi là các "hành tinh băng đá khổng lồ") và trong rất nhiều các vật thể nhỏ nằm bên ngoài quỹ đạo của Sao Hải Vương. Các chất khí và băng trong thiên văn học cùng được gọi là chất dễ bay hơi (volatiles). == Mặt Trời == Mặt Trời là ngôi sao ở trung tâm và nổi bật nhất trong Thái Dương Hệ. Khối lượng khổng lồ của nó (332.900 lần khối lượng Trái Đất) tạo ra nhiệt độ và mật độ đủ lớn tại lõi để xảy ra phản ứng tổng hợp hạt nhân, làm giải phóng một lượng năng lượng khổng lồ, phần lớn phát xạ vào không gian dưới dạng bức xạ điện từ, với cực đại trong dải quang phổ từ 400 tới 700 nm mà chúng ta gọi là ánh sáng khả kiến. Mặt Trời được phân loại thành sao lùn vàng kiểu G2, nhưng tên gọi này hay gây ra sự hiểu nhầm khi so sánh nó với đại đa số các sao trong Ngân Hà, Mặt Trời lại là một ngôi sao lớn và sáng. Các ngôi sao được phân loại theo biểu đồ Hertzsprung-Russell, biểu đồ thể hiện độ sáng của sao với nhiệt độ bề mặt của nó. Nói chung, các sao sáng hơn thì nóng hơn. Mặt Trời nằm ở bên phải của đoạn giữa một dải gọi là dải chính trên biểu đồ. Tuy nhiên, số lượng các sao sáng hơn và nóng hơn Mặt Trời là hiếm, trong khi đa phần là các sao mờ hơn và lạnh hơn, gọi là sao lùn đỏ, chúng chiếm tới 85% số lượng sao trong dải thiên hà. Người ta tin rằng với vị trí của Mặt Trời trên dải chính như vậy thì đây là một ngôi sao đang trong "cuộc sống mãnh liệt", nó vẫn chưa bị cạn kiệt nguồn nhiên liệu hiđrô cho các phản ứng tổng hợp hạt nhân. Mặt Trời đang sáng hơn; trong buổi đầu của sự tiến hóa nó chỉ sáng bằng 70% so với độ sáng ngày nay. Mặt Trời còn là sao loại I về đặc tính kim loại; do nó sinh ra trong giai đoạn muộn của sự tiến hóa vũ trụ, và nó chứa nhiều nguyên tố nặng hơn hiđrô và heli (trong thiên văn học, những nguyên tố nặng hơn hiđrô và heli được gọi là nguyên tố "kim loại") so với các ngôi sao già loại II. Các nguyên tố nặng hơn hiđrô và heli được hình thành tại lõi của các sao già và sao nổ tung, do vậy thế hệ sao đầu tiên đã phải chết trước khi vũ trụ được làm giàu bởi những nguyên tố nặng này. Những sao già nhất chứa rất ít kim loại, trong khi những sao sinh muộn hơn có nhiều hơn. Tính kim loại cao được cho là yếu tố quan trọng cho sự phát triển thành một hệ hành tinh quay quanh Mặt Trời, do các hành tinh hình thành từ sự bồi tụ các nguyên tố "kim loại". === Môi trường liên hành tinh === Cùng với ánh sáng, Mặt Trời phát ra một dòng liên tục các hạt tích điện (plasma) gọi là gió Mặt Trời. Dòng hạt này trải rộng ra bên ngoài với vận tốc gần 1,5 triệu kilômét trên giờ, tạo ra vùng khí quyển loãng (Nhật quyển) thấm vào toàn bộ Hệ Mặt Trời đến khoảng cách ít nhất 100 AU (xem Nhật quyển). Đây chính là môi trường liên hành tinh. Các bão từ trên bề mặt Mặt Trời, như bùng nổ Mặt Trời (en:solar flare) và sự giải phóng vật chất ở vành nhật hoa (en:coronal mass ejection), gây nhiễu loạn nhật quyển, tạo ra thời tiết không gian. Cấu trúc lớn nhất bên trong nhật quyển là dải dòng điện nhật quyển (en:heliospheric current sheet), một dạng xoắn ốc được tạo ra do hoạt động của từ trường quay của Mặt Trời lên môi trường liên hành tinh. Từ trường Trái Đất bảo vệ bầu khí quyển của nó không bị gió Mặt Trời tước đi. Sao Kim và Sao Hỏa có từ trường rất nhỏ hoặc không tồn tại, do vậy gió Mặt Trời dần dần đã thổi bay bầu khí quyển của các hành tinh này. Sự kiện đại giải phóng vật chất ở vành nhật hoa và những sự kiện tương tự đẩy một lượng lớn vật chất từ bề mặt Mặt Trời vào không gian. Tương tác của dải dòng điện nhật quyển và gió Mặt Trời với từ trường của Trái Đất tạo ra những va chạm của dòng các hạt tích điện với phía trên của bầu khí quyển Trái Đất, tạo ra hiện tượng cực quang ở những vùng gần các cực từ địa lý. Tia vũ trụ có nguồn gốc từ bên ngoài hệ Mặt Trời. Nhật quyển là lá chắn bảo vệ một phần cho hệ Mặt Trời, và từ trường của các hành tinh cũng ngăn chặn bớt các tia vũ trụ cho hành tinh. Mật độ của tia vũ trụ trong môi trường liên hành tinh và cường độ của từ trường Mặt Trời thay đổi theo thời gian, do vậy mức độ các tia vũ trụ trong hệ Mặt Trời cũng thay đổi mặc dù người ta không biết rõ lượng thay đổi là bao nhiêu. Môi trường liên hành tinh cũng chứa ít nhất hai vùng bụi vũ trụ có hình đĩa. Đĩa thứ nhất, đám mây bụi liên hành tinh nằm ở hệ Mặt Trời bên trong và gây ra ánh sáng hoàng đạo. Đĩa này có khả năng hình thành bên trong vành đai tiểu hành tinh gây ra bởi sự va chạm với các hành tinh. Đĩa thứ hai nằm trong khoảng từ 10 AU đến 40 AU, và có lẽ được tạo ra từ sự va chạm tương tự với bên trong vành đai Kuiper. == Vòng trong Hệ Mặt Trời == Vòng trong Hệ Mặt Trời bên trong bao gồm các hành tinh đất đá và vành đai tiểu hành tinh., có thành phần chủ yếu từ silicat và các kim loại. Các thiên thể thuộc vùng này nằm khá gần Mặt Trời; bán kính của vùng này nhỏ hơn khoảng cách giữa Sao Mộc và Sao Thổ. === Các hành tinh vòng trong === Bốn hành tinh vòng trong là hành tinh đá có trong lượng riêng khá cao, với thành phần từ đá, có ít hoặc không có Mặt Trăng, và không có hệ vành đai quay quanh như các hành tinh vòng ngoài. Thành phần chính của chúng là các khoáng vật khó nóng chảy, như silicat tạo nên lớp vỏ và lớp phủ, và những kim loại như sắt và niken tạo nên lõi của chúng. Ba trong bốn hành tinh (Sao Kim, Trái Đất và Sao Hỏa) có bầu khí quyển đủ dày để sinh ra các hiện tượng thời tiết; tất cả đều có những hố va chạm và sự kiến tạo bề mặt như thung lũng tách giãn và núi lửa. Thuật ngữ hành tinh vòng trong không nên nhầm lẫn với hành tinh bên trong, ám chỉ những hành tinh gần Mặt Trời hơn Trái Đất (như Kim Tinh và Thủy Tinh). ==== Sao Thủy ==== Sao Thủy (cách Mặt Trời khoảng 0,4 AU) là hành tinh gần Mặt Trời nhất và là hành tinh nhỏ nhất trong Hệ Mặt Trời (0,055 lần khối lượng Trái Đất). Sao Thủy không có vệ tinh tự nhiên, và nó chỉ có các đặc trưng địa chất bên cạnh các hố va chạm đó là các sườn và vách núi, có lẽ được hình thành trong giai đoạn co lại đầu tiên trong lịch sử của nó. Sao Thủy hầu như không có khí quyển do các nguyên tử trong bầu khí quyển của nó đã bị gió Mặt Trời thổi bay ra ngoài không gian. Hành tinh này có lõi sắt tương đối lớn và lớp phủ khá mỏng mà vẫn chưa được các nhà thiên văn giải thích được một cách đầy đủ. Có giả thuyết cho rằng lớp phủ bên ngoài đã bị tước đi sau một vụ va chạm khổng lồ, và quá trình bồi tụ vật chất của Sao Thủy bị ngăn chặn bởi năng lượng của Mặt Trời trẻ. ==== Sao Kim ==== Sao Kim (cách Mặt Trời khoảng 0,7 AU) có kích cỡ khá gần với kích thước Trái Đất (với khối lượng bằng 0,815 lần khối lượng Trái Đất) và đặc điểm cấu tạo giống Trái Đất, nó có một lớp phủ silicat dày bao quanh một lõi sắt. Sao Kim có một bầu khí quyển dày và có những chứng cứ cho thấy hành tinh này còn sự hoạt động của địa chất bên trong nó. Tuy nhiên, Sao Kim khô hơn Trái Đất rất nhiều và mật độ bầu khí quyển của nó gấp 90 lần mật độ bầu khí quyển của Trái Đất. Sao Kim không có vệ tinh tự nhiên. Nó là hành tinh nóng nhất trong hệ Mặt Trời với nhiệt độ của bầu khí quyển trên 400 °C, nguyên nhân chủ yếu là do hiệu ứng nhà kính của bầu khí quyển. Không có dấu hiệu cụ thể về hoạt động địa chất gần đây được phát hiện trên Sao Kim (một lý do là nó có bầu khí quyển quá dày), mặt khác hành tinh này không có từ trường để ngăn chặn sự suy giảm đáng kể của bầu khí quyển, và điều này gợi ra rằng bầu khí quyển của nó thường xuyên được bổ sung bởi các vụ phun trào núi lửa. ==== Trái Đất ==== Trái Đất (cách Mặt Trời 1 AU) là hành tinh lớn nhất và có mật độ lớn nhất trong số các hành tinh vòng trong, cũng là hành tinh duy nhất mà chúng ta biết còn có các hoạt động địa chất gần đây, và là hành tinh duy nhất trong vũ trụ được biết đến là nơi có sự sống tồn tại. Trái Đất cũng là hành tinh đá duy nhất có thủy quyển lỏng, và cũng là hành tinh duy nhất nơi quá trình kiến tạo mảng đã được quan sát. Bầu khí quyển của Trái Đất cũng khác căn bản so với các hành tinh khác với thành phần phân tử ôxy tự do thiết yếu cho sự sống chiếm tới 21% trong bầu khí quyển. Trái Đất có một vệ tinh tự nhiên là Mặt Trăng, nó là vệ tinh tự nhiên lớn nhất trong số các vệ tinh của các hành tinh đá trong hệ Mặt Trời. ==== Sao Hỏa ==== Sao Hỏa (cách Mặt Trời khoảng 1,5 AU) có kích thước nhỏ hơn Trái Đất và Sao Kim (khối lượng bằng 0,107 lần khối lượng Trái Đất). Nó có một bầu khí quyển chứa chủ yếu là cacbon điôxít với áp suất khí quyển tại bề mặt bằng 6,1 millibar (gần bằng 0,6% áp suất khí quyển tại bề mặt của Trái Đất). Trên bề mặt hành tinh đỏ có những ngọn núi khổng lồ như Olympus Mons (cao nhất trong hệ Mặt Trời) và những rặng thung lũng như Valles Marineris, với những hoạt động địa chất có thể đã tồn tại cho đến cách đây 2 triệu năm về trước. Bề mặt của nó có màu đỏ do trong đất bề mặt có nhiều sắt ôxít (gỉ). Sao Hỏa có hai Mặt Trăng rất nhỏ (Deimos và Phobos) được cho là các tiểu hành tinh bị Sao Hỏa bắt giữ. === Vành đai tiểu hành tinh === Tiểu hành tinh hầu hết là những vật thể nhỏ trong hệ Mặt Trời với thành phần chủ yếu là đá khó nóng chảy và khoáng vật kim loại. Vành đai tiểu hành tinh chính nằm giữa quỹ đạo của Sao Hỏa và Sao Mộc, khoảng cách từ 2,3 đến 3,3 AU tính từ Mặt Trời. Các nhà thiên văn cho rằng vành đai này là tàn dư từ sự hình thành hệ Mặt Trời mà chúng không thể hợp lại thành một thiên thể do sự giao thoa hấp dẫn với Sao Mộc. Các tiểu hành tinh có kích cỡ từ vài trăm kilômét đến kích cỡ vi mô. Mọi tiểu hành tinh, ngoại trừ Ceres, được phân loại thành các thiên thể nhỏ trong hệ Mặt Trời, nhưng một số tiểu hành tinh như Vesta và Hygieia có thể được phân loại lại thành hành tinh lùn nếu chúng có thể hiện đã trải qua trạng thái cân bằng thủy tĩnh. Vành đai tiểu hành tinh chứa vài chục nghìn, có thể tới vài triệu các vật thể có đường kính trên 1 kilômét. Mặc dù thế, tổng khối lượng của vành chính chỉ hơi lớn hơn một phần nghìn khối lượng của Trái Đất. Vành đai chính có các tiểu hành tinh phân bố khá thưa thớt; các tàu thám hiểm không gian dễ vượt qua vành đai này mà không bị va chạm với các vật thể. Tiểu hành tinh với đường kính từ 10−4 đến 10 m được phân loại thành thiên thạch. ==== Ceres ==== Ceres (khoảng cách đến Mặt Trời 2,77 AU) là thiên thể lớn nhất trong vành đai tiểu hành tinh và được xếp thành hành tinh lùn. Đường kính của nó hơi nhỏ hơn 1.000 km và nó có khối lượng đủ lớn để cho lực hấp dẫn của chính nó kéo các vật liệu trên Ceres về tâm để tạo thành hình cầu. Ceres đã từng được coi là hành tinh khi nó được phát hiện vào thế kỷ 19, nhưng sau đó được phân loại lại thành tiểu hành tinh vào thập niên 1850 khi những quan sát kĩ lưỡng đã cho thấy có thêm nhiều tiểu hành tinh khác. Năm 2006 Ceres được phân loại thành hành tinh lùn. ==== Nhóm tiểu hành tinh ==== Những tiểu hành tinh trong vành đai chính được chia thành nhóm tiểu hành tinh và họ tiểu hành tinh dựa trên các đặc tính quỹ đạo của chúng. Mặt Trăng tiểu hành tinh là những tiểu hành tinh quay quanh tiểu hành tinh lớn hơn. Chúng không được phân biệt rõ ràng với Mặt Trăng của các hành tinh, thỉnh thoảng các Mặt Trăng tiểu hành tinh có kích cỡ lớn bằng tiểu hành tinh mà nó quay quanh. Vành đai tiểu hành tinh cũng chứa sao chổi mà có khả năng các sao chổi từ vành đai này là nguồn cung cấp nước cho Trái Đất. Các tiểu hành tinh trojan nằm ở vùng lân cận với các điểm Lagrange L4 và L5 của Sao Mộc (những vùng ổn định về hấp dẫn, có thể đi trước hoặc theo sau hành tinh trên quỹ đạo của nó); thuật ngữ "Trojan" cũng sử dụng cho các vật thể nhỏ đối với các hành tinh khác hoặc cho các vệ tinh nhân tạo của Trái Đất. Các tiểu hành tinh Hilda có cộng hưởng quỹ đạo 2:3 với Sao Mộc; tức là chúng chuyển động quanh Mặt Trời được 3 vòng quỹ đạo thì Sao Mộc quay quanh Mặt Trời được 2 vòng quỹ đạo. Vòng trong hệ Mặt Trời cũng có các tiểu hành tinh gần Trái Đất chuyển động hỗn loạn, rất nhiều trong số chúng có quỹ đạo cắt với quỹ đạo của các hành tinh bên trong. == Vòng ngoài Hệ Mặt Trời == Vùng bên ngoài của hệ Mặt Trời gồm các hành tinh khí khổng lồ và các vệ tinh tự nhiên của chúng. Nhiều sao chổi chu kỳ ngắn, bao gồm các tiểu hành tinh centaur, cũng nằm trong vùng này. Do khoảng cách đến Mặt Trời lớn, các thiên thể lớn trong vùng bên ngoài hệ Mặt Trời chứa tỉ lệ cao các chất dễ bay hơi như nước, amoniac và mêtan so với các vật liệu đá của thành phần các hành tinh bên trong hệ Mặt Trời, và khi nhiệt độ càng thấp cho phép các hợp chất dễ bay hơi tồn tại được dưới dạng rắn. === Hành tinh bên ngoài === Bốn hành tinh bên ngoài, hay bốn hành tinh khí khổng lồ (hoặc các hành tinh kiểu Mộc Tinh), chiếm tới 99% tổng khối lượng của các thiên thể quay quanh Mặt Trời. Sao Mộc và Sao Thổ là hai hành tinh lớn nhất và chứa đại đa số hiđrô và heli; Sao Thiên Vương và Sao Hải Vương có khối lượng nhỏ hơn (<20 lần khối lượng Trái Đất) và trong thành phần của chúng chứa nhiều băng hơn. Vì lý do này, một số nhà thiên văn học cho rằng chúng thuộc về một lớp "hành tinh băng đá khổng lồ". Bốn hành tinh khí khổng lồ đều có hệ vành đai, mặc dù chỉ có vành đai của Sao Thổ là có thể quan sát được từ Trái Đất qua các kính thiên văn nghiệp dư. Thuật ngữ hành tinh bên ngoài không nên nhầm lẫn với thuật ngữ hành tinh trên, ám chỉ các hành tinh nằm bên ngoài quỹ đạo của Trái Đất trong đó bao gồm Sao Hỏa và các hành tinh bên ngoài. ==== Sao Mộc ==== Sao Mộc (khoảng cách đến Mặt Trời 5,2 AU), với khối lượng bằng 318 lần khối lượng Trái Đất và bằng 2,5 lần tổng khối lượng của 7 hành tinh còn lại trong Thái Dương Hệ. Mộc Tinh có thành phần chủ yếu hiđrô và heli. Nhiệt lượng khổng lồ từ bên trong Sao Mộc tạo ra một số đặc trưng bán vĩnh cửu trong bầu khí quyển của nó, như các dải mây và Vết đỏ lớn. Sao Mộc có 63 vệ tinh đã biết. Bốn vệ tinh lớn nhất, Ganymede, Callisto, Io, và Europa (các vệ tinh Galileo) có các đặc trưng tương tự như các hành tinh đá, như núi lửa và nhiệt lượng từ bên trong. Ganymede, vệ tinh tự nhiên lớn nhất trong hệ Mặt Trời, có kích thước lớn hơn Sao Thủy. ==== Sao Thổ ==== Sao Thổ (khoảng cách đến Mặt Trời 9,5 AU), có đặc trưng khác biệt rõ rệt đó là hệ vành đai kích thước rất lớn, và những đặc điểm giống với Sao Mộc, như về thành phần bầu khí quyển và từ quyển. Mặc dù thể tích của Thổ Tinh bằng 60% thể tích của Mộc Tinh, nhưng khối lượng của nó chỉ bằng một phần ba so với Mộc Tinh, hay 95 lần khối lượng Trái Đất, khiến nó trở thành hành tinh có mật độ nhỏ nhất trong hệ Mặt Trời (nhỏ hơn cả mật độ của nước lỏng). Vành đai Sao Thổ chứa bụi cũng như các hạt băng và đá nhỏ. Sao Thổ có 62 vệ tinh tự nhiên được xác nhận; hai trong số đó, Titan và Enceladus, cho thấy có các dấu hiệu của hoạt động địa chất, mặc dù đó là các núi lửa băng. Titan, vệ tinh tự nhiên lớn thứ hai trong Thái Dương Hệ, cũng lớn hơn Sao Thủy và là vệ tinh duy nhất trong hệ Mặt Trời có tồn tại một bầu khí quyển đáng kể. ==== Sao Thiên Vương ==== Sao Thiên Vương (khoảng cách đến Mặt Trời 19,6 AU), khối lượng bằng 14 lần khối lượng Trái Đất, là hành tinh bên ngoài nhẹ nhất. Trục tự quay của nó có đặc trưng lạ thường duy nhất so với các hành tinh khác, độ nghiêng trục quay trên 90 độ so với mặt phẳng hoàng đạo. Thiên Vương Tinh có lõi lạnh hơn nhiều so với các hành tinh khí khổng lồ khác và nhiệt lượng bức xạ vào không gian cũng nhỏ. Sao Thiên Vương có 27 vệ tinh tự nhiên đã biết, lớn nhất theo thứ tự từ lớn đến nhỏ là Titania, Oberon, Umbriel, Ariel và Miranda. ==== Sao Hải Vương ==== Sao Hải Vương (khoảng cách đến Mặt Trời 30 AU), mặc dù kích cỡ hơi nhỏ hơn Sao Thiên Vương nhưng khối lượng của nó lại lớn hơn (bằng 17 lần khối lượng của Trái Đất) và do vậy khối lượng riêng lớn hơn. Nó cũng bức xạ nhiều nhiệt lượng hơn nhưng không lớn bằng của Sao Mộc hay Sao Thổ. Hải Vương Tinh có 13 vệ tinh tự nhiên đã biết. Triton là vệ tinh lớn nhất vầ còn sự hoạt động địa chất với các mạch phun nitơ lỏng. Triton cũng là vệ tinh tự nhiên duy nhất có qũy đạo nghịch hành. Trên cùng quỹ đạo của Sao Hải Vương cũng có một số hành tinh vi hình (en:minor planet), gọi là Trojan của Sao Hải Vương (en:Neptune Trojan), chúng cộng hưởng quỹ đạo 1:1 với Hải Vương Tinh. === Sao chổi === Sao chổi là các vật thể nhỏ trong Thái Dương Hệ, đường kính điển hình chỉ vài kilômét, thành phần chủ yếu là những hợp chất băng dễ bay hơi. Chúng có độ lệch tâm quỹ đạo khá lớn, đa phần có điểm cận nhật nằm bên trong quỹ đạo của các hành tinh bên trong và điểm viễn nhật nằm bên ngoài Pluto. Khi một sao chổi đi vào vùng hệ Mặt Trời bên trong, do đến gần Mặt Trời hơn làm cho bề mặt băng của nó chuyển tới trạng thái thăng hoa và ion hóa, tạo ra một dải bụi và khí dài thoát ra từ nhân sao chổi, hay là đuôi sao chổi, và có thể nhìn thấy bằng mắt thường. Sao chổi chu kỳ ngắn có chu kỳ nhỏ hơn 200 năm. Sao chổi chu kỳ dài có chu kỳ hàng nghìn năm. Sao chổi chu kỳ ngắn được tin là có nguồn gốc từ vành đai Kuiper trong khi các sao chổi chu kỳ dài như Hale-Bopp, nó được cho là có nguồn gốc từ đám mây Oort. Nhiều nhóm sao chổi, như nhóm sao chổi Kreutz, hình thành từ sự tách vỡ của sao chổi lớn hơn. Một số sao chổi có quỹ đạo hyperbol có nguồn gốc từ ngoài Hệ Mặt Trời và vấn đề xác định chu kỳ quỹ đạo chính xác của chúng là việc khó khăn. Một số sao chổi trước đây có các chất dễ bay hơi ở bề mặt bị thổi ra ngoài bởi gió Mặt Trời ấm được xếp loại vào tiểu hành tinh. ==== Centaur ==== Centaur là những vật thể băng đá có tính chất giống cả sao chổi và tiểu hành tinh, với bán trục lớn lớn hơn bán kính quỹ đạo của Sao Mộc (5,5 AU) và nhỏ hơn bán kính quỹ đạo Sao Thiên Vương (30 AU). Centaur lớn nhất được biết đến, 10199 Chariklo, có đường kính khoảng 250 km. Centaur đầu tiên được phát hiện, 2060 Chiron, cũng đã được xếp loại thành sao chổi (95P) do nó phát ra những dải bụi (đuôi bụi) khi nó đến gần Mặt Trời. == Vùng bên ngoài Sao Hải Vương == Vùng bên ngoài Sao Hải Vương chứa các "vật thể ngoài Sao Hải Vương", và là một vùng còn chưa được thám hiểm nhiều. Nó bao gồm phần lớn các vật thể nhỏ (thiên thể lớn nhất có đường kính chỉ bằng một phần năm so với đường kính của Trái Đất và khối lượng nhỏ hơn nhiều so với Mặt Trăng) thành phần chính là băng và đá. Vùng này thỉnh thoảng gọi là "hệ Mặt Trời phía ngoài", nhưng thuật ngữ này thường được hiểu là vùng bên ngoài vành đai tiểu hành tinh. === Vành đai Kuiper === Vành đai Kuiper, vùng hình thành đầu tiên, là một vành đai lớn chứa các mảnh vụn tương tự như vành đai tiểu hành tinh, nhưng nó chứa chủ yếu là băng. Nó mở rộng từ 30 đến 50 AU từ Mặt Trời. Trong vùng này có ít nhất ba hành tinh lùn và còn lại là các vật thể nhỏ trong hệ Mặt Trời. Tuy thế nhiều vật thể lớn nhất trong vành đai Kuiper, như Quaoar, Varuna, và Orcus có thể sẽ được phân loại lại thành các hành tinh lùn. Các nhà thiên văn học ước lượng có trên 100.000 vật thể trong vành đai Kuiper có đường kính lớn hơn 50 km, nhưng tổng khối lượng của vành đai này chỉ bằng khoảng một phần mười hoặc thậm chí một phần trăm khối lượng của Trái Đất. Nhiều vật thể thuộc vùng này có các vệ tinh quay quanh, và nhiều vật thể có mặt phẳng quỹ đạo nằm bên ngoài mặt phẳng hoàng đạo. Vành đai Kuiper sơ bộ có thể chia thành vành đai "chính" và vành đai "cộng hưởng". Vành đai cộng hưởng có quỹ đạo liên kết với Sao Hải Vương (ví dụ chúng quay trên quỹ đạo được 2 lần thì Sao Hải Vương đã quay trên quỹ đạo được 3 lần, hoặc 1 lần đối với 2 lần vòng quay của Hải Vương Tinh). Vành đai cộng hưởng đầu tiên nằm trong cùng quỹ đạo của Sao Hải Vương. Các vật thể trong vành đai "chính" không có quỹ đạo cộng hưởng với Sao Hải Vương, nằm trong phạm vi gần 39,4 AU tới 47,7 AU. Các vật thể trong vành đai "chính" còn được gọi là cubewanos, bắt nguồn từ vật thể đầu tiên trong vùng này được phát hiện, (15760) 1992 QB1, và nó vẫn còn ở trạng thái gần nguyên thủy với độ lệch tâm quỹ đạo nhỏ. ==== Pluto và Charon ==== Pluto (khoảng cách trung bình đến Mặt Trời 39 AU) là một hành tinh lùn, và là thiên thể lớn nhất đã từng được biết tới trong vành đai Kuiper. Khi nó được phát hiện ra vào năm 1930, nó đã được coi là hành tinh thứ chín trong hệ Mặt Trời; nhưng điều này đã thay đổi vào năm 2006 với định nghĩa mới về hành tinh. Pluto có quỹ đạo với độ lệch tâm lớn và nghiêng 17 độ so với mặt phẳng hoàng đạo với điểm cận nhật cách Mặt Trời 29,7 AU (nằm bên trong quỹ đạo của Sao Hải Vương) và điểm viễn nhật cách Mặt Trời 49,5 AU.: Pluto cộng hưởng quỹ đạo 3:2 với Hải Vương Tinh. Các vật thể trong vành đai Kuiper mà quỹ đạo có cùng đặc điểm cộng hưởng này được gọi là các vật thể plutino. Charon, vệ tinh lớn nhất của Pluto, đôi khi được miêu tả nó là một phần của hệ đôi với Pluto, do hai thiên thể quay quanh một khối tâm hấp dẫn bên trên bề mặt của chúng (do vậy chúng hiện lên như là quay quanh nhau). Xa hơn Charon, hai vệ tinh nhỏ hơn rất nhiều là Nix và Hydra quay quanh hệ này. ==== Haumea và Makemake ==== Haumea (khoảng cách trung bình đến Mặt Trời 43,34 AU), và Makemake (khoảng cách trung bình đến Mặt Trời 45,79 AU), tuy nhỏ hơn Pluto, nhưng chúng là những vật thể lớn nhất trong vành đai Kuiper chính (tức là chúng không có quỹ đạo cộng hưởng với Sao Hải Vương). Haumea là một vật thể có hình quả trứng với hai vệ tinh quay quanh. Makemake là vật thể sáng nhất trong vành đai Kuiper sau Pluto. Ban đầu chúng được gán tên lần lượt là 2003 EL61 và 2005 FY9, sau đó chúng được đặt tên và phân loại thành hành tinh lùn vào năm 2008. Độ nghiêng quỹ đạo của chúng lớn hơn rất nhiều so với của Pluto, lần lượt là 28° và 29°. === Đĩa phân tán === Đĩa phân tán chồng lên vành đai Kuiper và mở rộng ra khoảng cách xa hơn được cho là nơi xuất phát của nhiều sao chổi có chu kỳ ngắn. Các vật thể trong đĩa phân tán được cho là đã bị đẩy vào quỹ đạo bất thường do ảnh hưởng của lực hấp dẫn của sự di cư ra bên ngoài của Sao Hải Vương. Hầu hết các vật thể trong đĩa phân tán (SDOs) có điểm cận nhật nằm trong vành đai Kuiper nhưng điểm viễn nhật cách xa 150 AU so với Mặt Trời. Quỹ đạo của SDOs cũng có độ nghiêng lớn so với mặt phẳng hoàng đạo, và thường vuông góc với nó. Một số nhà thiên văn học coi đĩa phân tán chỉ là một vùng khác của vành đai Kuiper, và họ miêu tả các vật thể thuộc đĩa phân tán là "vật thể phân tán trong vành đai Kuiper." Một số nhà thiên văn cũng phân loại các vật thể centaur như là các vật thể thuộc vành đai Kuiper phân tán bên trong cùng với các vật thể phân tán bên ngoài của đĩa phân tán. ==== Eris ==== Eris (khoảng cách trung bình đến Mặt Trời 68 AU) là vật thể lớn nhất từng được biết trong đĩa phân tán, với khối lượng lớn hơn của Pluto 25% và đường kính bằng với đường kính của Pluto. Nó là hành tinh lùn có khối lượng lớn nhất trong số các hành tinh lùn đã biết. Eris có một vệ tinh là Dysnomia. Cũng như Pluto, quỹ đạo của nó có độ lệch tâm lớn với điểm cận nhật cách Mặt Trời 38,2 AU (gần bằng khoảng cách từ Mặt Trời đến Pluto) và điểm viễn nhật cách Mặt Trời 97,6 AU, đồng thời mặt phẳng quỹ đạo của nó nghiêng một góc lớn so với mặt phẳng hoàng đạo. == Những vùng xa nhất == Điểm mà hệ Mặt Trời kết thúc và môi trường liên sao bắt đầu vẫn không được định nghĩa chính xác, biên giới này được cho là nơi áp suất đẩy ra của gió Mặt Trời cân bằng với trường hấp dẫn từ Mặt Trời. Giới hạn ảnh hưởng bên ngoài của gió Mặt Trời gần bằng bốn lần khoảng cách từ Pluto đến Mặt Trời; vùng nhật mãn này được coi là sự bắt đầu của môi trường liên sao. Tuy nhiên, mặt cầu Roche của Mặt Trời, phạm vi ảnh hưởng của trường hấp dẫn của nó, được cho là mở rộng xa hơn hàng nghìn lần. === Nhật quyển === Nhật quyển được chia thành hai vùng tách biệt. Vùng bên trong được giới hạn bởi biên giới kết thúc sốc (termination shock). Vùng ngoài giới hạn bởi biên giới kết thúc sốc và nhật mãn gọi là nhật bao. Gió Mặt Trời chuyển động với vận tốc gần 400 km/s cho đến khi nó va chạm với gió liên sao hay chính là dòng plasma trong môi trường liên sao. Tại điểm mà gió Mặt Trời có vận tốc nhỏ hơn vận tốc của âm thanh được gọi là biên giới kết thúc sốc (termination shock), cách Mặt Trời gần 80–100 AU theo hướng ngược với hướng gió Mặt Trời (ngược với hướng chuyển động của Mặt Trời trong môi trường liên sao) và gần 200 AU theo hướng gió Mặt Trời. Ở vùng này vận tốc gió Mặt Trời giảm xuống rõ rệt, tập trung dòng plasma đậm đặc hơn và trở lên nhiễu loạn hơn, tạo thành một cấu trúc hình bầu dục khổng lồ gọi là nhật bao. Cấu trúc này ban đầu được cho là tương tự như đuôi sao chổi, nó mở rộng về phía trước khoảng 40 AU và kéo thành một đuôi rất dài về phía sau; nhưng những dữ liệu mới thu thập từ các tàu Cassini và Interstellar Boundary Explorer cho thấy nhật bao lại có hình dáng bong bóng do sự tác động của từ trường liên sao. Cả Voyager 1 và Voyager 2 đều đã vượt qua biên giới kết thúc sốc và đi vào nhật bao, ở các khoảng cách tương ứng 94 và 84 AU tính từ Mặt Trời. Biên giới ngoài cùng của nhật quyển, nhật mãn, là vị trí mà gió Mặt Trời hầu như không còn và là điểm bắt đầu cho môi trường liên sao. Sự hình thành và hình dáng của biên giới nhật quyển được cho là ảnh hưởng bởi tương tác kiểu thủy động lực học của gió Mặt Trời với môi trường liên sao. Bên ngoài nhật mãn, ở khoảng cách 230 AU, người ta cho rằng tồn tại vùng sốc hình cung (bow shock), vùng plasma hình thành lên do Mặt Trời chuyển động trong Ngân Hà. Chưa có tàu không gian nào vượt qua biên giới nhật mãn, do vậy người ta vẫn chưa biết những đặc tính cụ thể trong môi trường liên sao địa phương. Trong vài thập kỉ tới các tàu Voyager của NASA sẽ vượt qua nhật mãn và gửi về Trái Đất các thông tin giá trị về mức độ bức xạ và đặc điểm môi trường liên sao. Hiểu biết về vấn đề làm thế nào mà lá chắn nhật quyển bảo vệ Hệ Mặt Trời khỏi tia vũ trụ vẫn còn nghèo nàn. Một nhóm nghiên cứu được NASA hỗ trợ ngân sách đã phát triển sơ bộ dự án "Vision Mission" nhằm gửi một tàu thám hiểm đến vùng nhật quyển xa xôi. === Đám mây Oort === Đám mây Oort là một đám mây giả thuyết có dạng cầu chứa tới 1 nghìn tỉ vật thể cấu tạo từ băng. Người ta cho rằng đám mây này là nơi xuất phát của các sao chổi chu kỳ dài và đám mây nằm cách Mặt Trời khoảng 50.000 AU (gần 1 năm ánh sáng (LY)), và có khả năng cách xa tới 100.000 AU (1,87 LY). Có thể đám mây này được hình thành từ các vật thể và sao chổi mà đã bị đẩy ra từ hệ Mặt Trời bên trong do tương tác hấp dẫn với các hành tinh bên ngoài. Các vật thể trong đám mây Oort chuyển động rất chậm, bị nhiễu loạn bởi các sự kiện xảy ra thường xuyên như va chạm, ảnh hưởng hấp dẫn của các sao ở gần hay lực thủy triều có nguồn gốc từ Ngân Hà. ==== Sedna ==== 90377 Sedna (khoảng cách trung bình đến Mặt Trời 525,86 AU) là một thiên thể kích cỡ Pluto màu đỏ, quay trên một quỹ đạo elip khổng lồ với điểm cận nhật cách 76 AU và điểm viễn nhật cách 928AU, nó mất khoảng 12.050 để hoàn thành một vòng quỹ đạo. Mike Brown, người đã phát hiện ra nó vào năm 2003, cho rằng thiên thể này không thể là một phần của đĩa phân tán hay vành đai Kuiper do điểm viễn nhật của nó quá xa để có thể chịu ảnh hưởng của sự di trú Sao Hải Vương. Brown và các nhà thiên văn khác xem nó là vật thể đầu tiên trong một lớp các vật thể mới, bao gồm cả vật thể 2000 CR105 có điểm cận nhật 45 AU và điểm viễn nhật 415 AU với chu kỳ quỹ đạo của nó là 3.420 năm. Brown xếp các vật thể này vào "Đám mây Oort bên trong" do đám mây này có thể được hình thành thông qua một quá trình tương tự với đám mây Oort mặc dù nó gần hơn rất nhiều so với Mặt Trời. Sedna có khả năng là một hành tinh lùn tuy nhiên hình dạng của vật thể này vẫn chưa được xác định rõ ràng. === Biên giới === Biên giới hay rìa của hệ Mặt Trời vẫn chưa được xác định rõ ràng. Có thể định nghĩa biên giới của hệ bằng ảnh hưởng của trường hấp dẫn của Mặt Trời, và các nhà thiên văn ước lượng lực hấp dẫn Mặt Trời vượt trội so với hấp dẫn của các ngôi sao ở gần là khoảng 2 năm ánh sáng (125.000 AU). Ngược lại, có những đánh giá thấp cho bán kính của đám mây Oort không lớn hơn 50.000 AU. Mặc dù có những vật thể như Sedna được khám phá, nhưng vùng giữa vành đai Kuiper và đám mây Oort, vùng có bán kính vài chục nghìn AU, vẫn chưa được phác họa đầy đủ. Cũng có những nghiên cứu, tìm hiểu hiện nay về vùng nằm giữa Sao Thủy và Mặt Trời. Nhiều vật thể có lẽ chưa được phát hiện trong vùng xa xôi của Hệ Mặt Trời. == Trong dải Ngân Hà == Hệ Mặt Trời nằm trong dải Ngân Hà, một thiên hà xoắn ốc có thanh với đường kính khoảng 100.000 năm ánh sáng và chứa khoảng 200 tỷ ngôi sao. Mặt Trời nằm ở một trong các nhánh xoắn ốc rìa ngoài của Ngân Hà, gọi là nhánh Lạp Hộ hay Móng Địa phương (Local Spur). Khoảng cách từ Mặt Trời đến trung tâm thiên hà vào khoảng 25.000 và 28.000 năm ánh sáng, nó chuyển động với vận tốc 220 kilômét trên giây, và hoàn tất một chu kỳ trong khoảng 225–250 triệu năm. Chu kỳ này được gọi là năm thiên hà của hệ Mặt Trời. Nhật đỉnh (solar apex), điểm chỉ hướng di chuyển của Mặt Trời trong không gian liên sao, nằm gần chòm sao Hercules theo hướng của vị trí hiện tại của ngôi sao sáng Vega. Mặt phẳng chứa đường hoàng đạo của hệ Mặt Trời (mặt phẳng hoàng đạo) nghiêng một góc khoảng 60° so với mặt phẳng thiên hà. Vị trí của Thái Dương hệ trong thiên hà cũng là một nhân tố quan trọng trong sự tiến hóa của sự sống trên Trái Đất. Quỹ đạo của hệ có hình gần tròn và hệ quay với vận tốc bằng với vận tốc của các nhánh xoắn ốc, điều này có nghĩa là khả năng hệ Mặt Trời đi xuyên qua nhánh xoắn ốc là rất hiếm. Mặt khác các siêu tân tinh nguy hiểm tiềm tàng ở trong nhánh xoắn ốc cũng nằm ở xa Thái Dương hệ, điều này cho phép Trái Đất có một chu kỳ dài về sự ổn định của môi trường liên sao giúp cho sự sống tiến hóa. Hệ Mặt Trời cũng nằm ở phía ngoài của vùng tập trung đông đúc các ngôi sao trong trung tâm Ngân Hà. Khi ở gần trung tâm thiên hà, lực kéo hấp dẫn từ các sao ở gần gây nhiễu loạn các vật thể thuộc đám mây Oort và đẩy nhiều sao chổi về phía hệ Mặt Trời bên trong, làm tăng khả năng xảy ra những va chạm thảm họa giữa Trái Đất và các vật thể gây hủy hoại sự sống. Bức xạ với cường độ mạnh từ trung tâm thiên hà cũng tác động mạnh đến sự phát triển của các tổ chức sống phức tạp. Ngay cả với vị trí của hệ Mặt Trời hiện nay, một số nhà khoa học giả thuyết là những vụ nổ siêu tân tinh gần đây cũng ảnh hưởng đến sự sống trong quá khứ 35.000 năm trước do những mảnh vụn từ siêu tân tinh, hạt bụi chứa phóng xạ mạnh và các sao chổi kích thước lớn hướng về phía Mặt Trời. === Môi trường lân cận === Môi trường lân cận của hệ Mặt Trời trong thiên hà còn được gọi là Đám mây liên sao địa phương hay Bông Địa phương, một vùng đám mây đậm đặc nằm trong một vùng thưa thớt hơn gọi là Bong bóng địa phương, một hốc có hình dáng chiếc đồng hồ cát trong môi trường liên sao với kích cỡ gần 300 năm ánh sáng. Bong bóng này bị xáo trộn bởi plasma nhiệt độ cao cho thấy nó là sản phẩm của một vài vụ nổ siêu tân tinh gần đây. Có tương đối ít các ngôi sao trong vòng 10 năm ánh sáng (95 nghìn tỷ km) so với Mặt Trời. Những sao gần nhất là hệ ba ngôi sao Alpha Centauri, nằm cách xa 4,4 năm ánh sáng. Alpha Centauri A và B là cặp sao có kích cỡ gần bằng Mặt Trời nằm gần nhau, trong khi sao lùn đỏ nhỏ Alpha Centauri C (còn gọi là Proxima Centauri) quay quanh cặp sao này ở khoảng cách 0,2 năm ánh sáng và là ngôi sao gần Mặt Trời nhất. Những ngôi sao gần tiếp theo là sao lùn đỏ Barnard (cách xa 5,9 năm ánh sáng), Wolf 359 (7,8 ly) và Lalande 21185 (8,3 ly). Ngôi sao lớn nhất trong vòng bán kính 10 năm ánh sáng là Sirius, một ngôi sao sáng trong dãy chính với khối lượng gần bằng 2 lần khối lượng Mặt Trời. Sao lùn trắng Sirius B quay quanh ngôi sao này. Hệ sao đôi này nằm cách Mặt Trời 8,6 năm ánh sáng. Còn lại là hệ sao đôi lùn đỏ Luyten 726-8 (8,7 ly) và một sao lùn đỏ Ross 154 (9,7 ly). Ngôi sao đơn giống Mặt Trời gần chúng ta nhất là sao Tau Ceti nằm cách xa 11,9 năm ánh sáng. Nó có khối lượng bằng 80 phần trăm khối lượng Mặt Trời nhưng độ sáng chỉ bằng 60 phần trăm so với độ sáng của Mặt Trời. Ngôi sao gần nhất có hành tinh ngoại hệ quay quanh là sao Epsilon Eridani, một ngôi sao đỏ hơn và mờ hơn so với Mặt Trời nằm cách Thái Dương hệ 10,5 năm ánh sáng. Ngôi sao này có một hành tinh quay quanh được xác nhận là Epsilon Eridani b, với khối lượng bằng 1,5 lần khối lượng của Mộc Tinh và quay quanh ngôi sao mất 6,9 năm. == Sự hình thành và tiến hóa == Hệ Mặt Trời hình thành từ sự suy sụp hấp dẫn của một đám mây phân tử khổng lồ cách đây 4,568 tỷ năm trước. Đám mây tổ tiên này có kích cỡ vài năm ánh sáng và có khả năng một vài ngôi sao đã sinh ra từ đám mây này. Tinh vân Mặt Trời có khả năng hình thành từ mảnh vụn của vụ nổ sao siêu mới thế hệ trước. Khi vùng mà trong tương lai sẽ trở thành hệ Mặt Trời, gọi là tinh vân tiền Mặt Trời, suy sụp, theo định luật bảo toàn động lượng thì đĩa tinh vân này sẽ quay nhanh hơn. Vùng trung tâm, nơi tập trung nhiều khối lượng nhất, sẽ trở lên nóng hơn so với đĩa quay xung quanh. Khi tinh vân này co lại và quay nhanh hơn, nó trở lên phẳng hơn và hình thành đĩa tiền hành tinh quay quanh tâm với đường kính gần 200 AU và một vùng trung tâm nóng, đậm đặc chứa tiền sao. Ở thời điểm này trong sự tiến hóa của nó, Mặt Trời được cho là ngôi sao thuộc kiểu sao T Tauri. Việc nghiên cứu sao T Tauri cho thấy chúng thường đi kèm với một đĩa tiền hành tinh với khối lượng đĩa bằng 0,001–0,1 khối lượng Mặt Trời, và phần lớn khối lượng của tinh vân thuộc về ngôi sao. Các hành tinh hình thành từ sự bồi tụ từ đĩa này. Trong vòng 50 triệu năm, áp suất và mật độ của hiđrô trong lõi của tiền sao trở lên đủ lớn để bắt đầu thực hiện phản ứng tổng hợp hạt nhân. Nhiệt độ, tốc độ phản ứng, áp suất và mật độ tăng cho đến khi đạt đến sự cân bằng thủy tĩnh, trong đó nhiệt năng cân bằng với lực hút hấp dẫn của chính ngôi sao. Ở giai đoạn này, Mặt Trời trở thành một ngôi sao thuộc dãy chính. Hệ Mặt Trời như chúng ta biết ngày nay sẽ còn tồn tại cho đến khi Mặt Trời kết thúc sự tiến hóa của nó trong dãy chính của biểu đồ Hertzsprung-Russell. Khi Mặt Trời bị giảm hiđrô nhiên liệu, nhiệt năng từ các phản ứng tổng hợp hạt nhân bị giảm khiến cho Mặt Trời bắt đầu bị suy sụp. Sự suy sụp này làm tăng áp suất tại lõi, giúp cho quá trình phản ứng tổng hợp hạt nhân diễn ra nhanh hơn. Kết quả là Mặt Trời tăng độ sáng với tốc độ khoảng 10 phần trăm trong mỗi 1,1 tỷ năm. Trong vòng khoảng 5,4 tỷ năm tới, hiđrô tại lõi Mặt Trời sẽ bị biến đổi toàn bộ thành heli, và Mặt Trời kết thúc giai đoạn ở dãy chính. Khi phản ứng tổng hợp hiđrô ngừng lại, lõi sẽ tiếp tục co lại, làm tăng áp suất và nhiệt độ, gây ra phản ứng tổng hợp heli. Heli bị tổng hợp trong một lõi nóng hơn và năng lượng giải phóng từ quá trình tổng hợp này sẽ lớn hơn so với quá trình tổng hợp hiđrô. Ở giai đoạn này, lớp bên ngoài của Mặt Trời sẽ mở rộng gấp 260 lần so với đường kính hiện tại; Mặt Trời sẽ trở thành sao khổng lồ đỏ. Vì sự tăng diện tích bề mặt khổng lồ của nó, bề mặt Mặt Trời sẽ lạnh hơn đáng kể so với khi nó ở dãy chính (lạnh nhất với nhiệt độ 2600). Thậm chí, heli tại lõi cũng sẽ cạn kiệt với tốc độ nhanh hơn so với hiđrô, và thời gian Mặt Trời tổng hợp heli chỉ bằng phần nhỏ so với thời gian của giai đoạn tổng hợp hiđrô. Mặt Trời có khối lượng không đủ lớn để tiếp tục thực hiện phản ứng tổng hợp các nguyên tố nặng hơn, và phản ứng hạt nhân tại lõi sẽ tắt. Các lớp bên ngoài sẽ bị thổi vào không gian, để lại sao lùn trắng, một thiên thể rất đậm đặc, có khối lượng bằng một nửa khối lượng Mặt Trời nhưng kích thước chỉ bằng kích thước của Trái Đất. Những lớp vật chất bị thổi vào không gian sẽ hình thành tinh vân hành tinh, trả lại môi trường liên sao vật liệu đã hình thành nên hệ Mặt Trời. == Khám phá và thám hiểm == === Lịch sử === Các hành tinh tính từ Sao Thổ vào đến Mặt Trời từng được các nhà thiên văn ngày xưa biết đến, họ quan sát sự di chuyển của những vật thể đó so với những vùng có vẻ đứng im gồm các ngôi sao. Sao Kim và Sao Thuỷ vốn đã được quan sát là hai vật thể riêng biệt dù có khó khăn trong việc kết nối "Sao hôm" và "Sao mai". Họ cũng biết rằng hai vật thể không phải một điểm, Mặt Trời và Mặt Trăng, di chuyển trên cùng một cái nền đứng im. Tuy nhiên, sự hiểu biết về trạng thái của những vật thể đó hoàn toàn thiếu chính xác. Trạng thái và cấu trúc của Hệ Mặt Trời vẫn còn bị hiểu biết chưa chính xác vì ít nhất là hai lý do. Trái Đất đã bị coi là đứng im, và sự di chuyển của các vật thể trên trời vì thế cũng chỉ là bên ngoài. Mặt Trời đã bị coi là quay quanh Trái Đất, giống như các hành tinh hay thiên thể khác. Quan niệm này về vũ trụ, với Trái Đất ở trung tâm, được goi là hệ địa tâm. Nhiều vật thể trong hệ mặt trời và các hiện tượng không được nhận thức đầy đủ nếu không có trợ giúp của kỹ thuật. Trong vài trăm năm qua, các tiến bộ về nhận thức và kỹ thuật đã giúp con người hiểu thêm nhiều về hệ mặt trời. Sự nhận thức đầu tiên và có tính nền tảng là cuộc cách mạng của Nicolaus Copernicus cho rằng các hành tinh quay quanh Mặt Trời - hệ nhật tâm - với Mặt Trời ở trung tâm. Điều đã gây sốc nhất và gây ra nhiều tranh cãi nhất không phải là việc Mặt Trời ở trung tâm mà là Trái Đất thuộc ngoại biên, và có quỹ đạo. Các hành tinh vốn chỉ bị coi đơn giản là các điểm trên bầu trời, nhưng nếu chính Trái Đất là một hành tinh, có lẽ những hành tinh khác, giống như Trái Đất, chỉ là những hình cầu to lớn và cứng chắc. Về mặt triết học, có một số sự chống đối thuyết nhật tâm. Tình trạng tự nhiên của các vật khoáng, nặng giống như Trái Đất được tin rằng sẽ nằm im. Các hành tinh được cho rằng được cấu tạo từ vật liệu riêng biệt, phù du (sớm nở tối tàn) và nhẹ. Mọi người từng tin rằng sự chuyển động của Trái Đất quanh Mặt Trời làm cho không khí biến mất khỏi bề mặt. Nếu Trái Đất đang chuyển động, các nhà thiên văn học đã có thể quan sát thị sai của các ngôi sao, như việc các ngôi sao xuất hiện và thay đổi vị trí so với các vật thể ở xa hơn vì lý do Trái Đất thay đổi vị trí. Sự phát minh ra kính viễn vọng cho phép một sự tiến bộ căn bản về kỹ thuật trong việc khám phá Hệ Mặt Trời, với kính viễn vọng đã được cải tiến của Galileo Galilei đã cho phép nhiều lợi ích trong việc khám phá các vệ tinh của các hành tinh khác, đặc biệt là bốn vệ tinh lớn của Sao Mộc. Điều này cho thấy tất cả các vật thể trong vụ trụ không quay quanh Trái Đất. Tuy nhiên, có thể phát minh lớn nhất của Galileo là việc hành tinh Sao Kim có các pha giống như Mặt Trăng, chứng minh rằng nó phải quay quanh Mặt Trời. Sau đó, vào năm 1678, Isaac Newton dùng định luật vạn vật hấp dẫn của mình giải thích lực vừa giữ Trái Đất quay quanh Mặt Trời vừa giữ không khí không bị cuốn đi mất. Cuối cùng, năm 1838, nhà thiên văn Friedrich Wilhelm Bessel đã thành công trong việc đo đạc thị sai của ngôi sao 61Cygni, chứng minh một cách thuyết phục rằng Trái Đất đang chuyển động. === Ngày nay === Với sự khởi đầu thời đại vũ trụ, một thời đại vĩ đại trong thám hiểm đã được thực hiện bởi các chuyến thăm dò vũ trụ không người lái được tổ chức và thực hiện bởi nhiều cơ quan vũ trụ. Tàu thăm dò vũ trụ đầu tiên hạ cánh xuống một vật thể ngoài trái đất trong Hệ Mặt Trời là tàu thám hiểm Luna 2 của Liên Xô, nó hạ cánh xuống Mặt Trăng năm 1959. Từ đó, ngày càng có nhiều hành tinh khác ở xa hơn được khám phá, với việc tàu vũ trụ đáp xuống Sao Kim năm 1965, Sao Hoả năm 1976, tiểu hành tinh 433 Eros năm 2001, và vệ tinh Titan của Sao Thổ năm 2005. Các tàu vũ trụ cũng đã tiến gần tới các hành tinh khác như Mariner 10 đi qua Sao Thuỷ năm 1973. Tàu vũ trụ đầu tiên khám phá các hành tinh vòng ngoài là Pioneer 10, bay qua Sao Mộc năm 1973. Pioneer 11 là tàu đầu tiên đến Sao Thổ năm 1979. Các tàu vũ trụ Voyager đã làm một cuộc hành trình vĩ đại đến các hành tinh vòng ngoài sau khi chúng được phòng lên năm 1977, với hai tàu bay qua Sao Mộc năm 1979 và Sao Thổ năm 1980-1981. Voyager 2 sau đó tiến sát đến Sao Thiên Vương năm 1986 và Sao Hải Vương năm 1989. Các tàu Voyager hiện đang ở bên ngoài quỹ đạo của Sao Diêm Vương, và đến tháng 6 năm 2006, tàu Voyager 1 đã vượt qua ranh giới của Hệ Mặt Trời. Sao Diêm Vương vẫn chưa được thăm viếng bởi một tàu vũ trụ nào của con người dù việc NASA phóng tàu New Horizons vào tháng 1 năm 2006 có thể làm thay đổi điều này. Tàu dự tính sẽ bay qua Sao Diêm Vương vào tháng 7 năm 2015 và sau đó sẽ nghiên cứu thêm càng nhiều càng tốt về các vật thể trong vành đai Kuiper. Thông qua những vụ khám phá không người lái đó, con người đã có thể có những ảnh chụp gần hơn về đa số các hành tinh và trong trường hợp có thể hạ cánh, tiến hành các xét nghiệm về đất đá và khí quyển của chúng. Các cuộc thám hiểm có người lái, dù sao, cũng chỉ đưa con người tới được Mặt Trăng, trong chương trình Apollo. Lần cuối con người đáp tàu lên Mặt Trăng là vào năm 1972, nhưng những sự khám phá gần đây về băng trong những miệng núi lửa sâu ở các vùng cực của Mặt Trăng đã gợi nên ý tưởng suy đoán rằng tàu vũ trụ có người lái có thể quay lại Mặt Trăng trong thập kỷ tới hoặc sau đó. Chương trình phòng tàu vũ trụ có người lái đến Sao Hoả đã được dự đoán từ nhiều thế hệ những người yêu thích thiên văn. Châu Âu (ESA) hiện đang đặt kế hoạch phóng tàu có người lái khám phá Mặt Trăng và Sao Hoả như một phần của Chương trình thám hiểm Aurora được xác nhận vào năm 2001. Hoa Kỳ cũng có một chương trình tương tự gọi là Tầm nhìn Thám hiểm Vũ trụ năm 2004. Tàu Rosetta sau 10 năm 8 tháng du hành đã tiếp cận sao chổi 67P/Churyumov-Gerasimenko năm 2014 và thả tàu thăm dò robot Philae xuống đó ngày 12 tháng 11, trở thành lần đầu tiên thiết bị của con người chạm sao chổi ngoài vũ trụ. == Xem thêm == Mặt Trăng Trái Đất Danh sách các hệ hành tinh == Chú thích == == Tham khảo == == Liên kết ngoài == Hệ Mặt Trời tại Encyclopædia Britannica (tiếng Anh) Hệ Mặt Trời tại Từ điển bách khoa Việt Nam Solar System Exploration Các chương trình thám hiểm hệ Mặt Trời của NASA NASA/JPL Solar System Simulator Thiết lập giả tưởng hệ Mặt Trời của NASA Solar System - NASA Jet Propulsion Laboratory Trang hợp tác NASA/JPL về hệ Mặt Trời Views of The Solar System Toàn cảnh hệ Mặt Trời Celestia Du hành giả tưởng thời gian thực miễn phí (OpenGL) Chín hành tinh hệ Mặt Trời của Bill Arnett Dữ liệu về các hành tinh Các ngôi sao và những hành tinh có thể có sự sống Thời gian biểu khám phá hệ Mặt Trời Time Line of Space Exploration Kho lưu trữ các hình ảnh về Hệ Mặt Trời của NASA
quyền tuyển cử của phụ nữ tại new zealand.txt
Quyền tuyển cử của phụ nữ tại New Zealand là một vấn đề chính trị quan trọng vào cuối thế kỷ 19. Vào đầu thời kỳ thuộc địa, phụ nữ New Zealand không được tham chính giống như trong các xã hội khác của người châu Âu. Tuy nhiên, quan điểm của công chúng bắt đầu biến đổi trong nửa sau của thế kỷ 19, và sau nhiều năm nỗ lực của các nhà vận động do Kate Sheppard lãnh đạo, New Zealand trở thành quốc gia đầu tiên trên thế giới trao quyền tuyển cử cho toàn bộ phụ nữ trong tổng tuyển cử nghị viện. Dự luật Tuyển cử cấp cho phụ nữ quyền tuyển cử được Thống đốc David Boyle ngự chuẩn vào ngày 19 tháng 9 năm 1893. Phụ nữ New Zealand lần đầu tiên bỏ phiếu trong tổng tuyển cử tổ chức vào ngày 28 tháng 11 năm 1893. Năm 1893, Elizabeth Yates cũng trở thành Thị trưởng của Onehunga, đó là lần đầu tiên một phụ nữ trở thành thị trưởng trong Đế quốc Anh. == Lịch sử == === Đấu tranh vì quyền tuyển cử cho phụ nữ === Quyền tuyển cử của phụ nữ được phê chuẩn sau khoảng hai thập niên phụ nữ New Zealand tiến hành vận động, các cá nhân nổi bật là Kate Sheppard và Mary Ann Müller. Chi nhánh New Zealand của Hiệp hội Điều độ Cơ Đốc Phụ nữ WCTU do Anne Ward lãnh đạo là tổ chức cụ thể tiến hành chiến dịch. Dưới ảnh hưởng từ chi nhánh Hoa Kỳ của Hiệp hội, và triết lý của các nhà tư tưởng như Harriet Taylor Mill và John Stuart Mill, phong trào lập luận rằng phụ nữ có thể đưa đạo đức vào chính trường dân chủ. Những người phản đối lập luận rằng chính trường nằm ngoài môi trường tự nhiên của phụ nữ là gia đình. Những người tán thành quyền tuyển cử cho phụ nữ phản bác rằng cho phép phụ nữ bỏ phiếu sẽ cổ vũ các chính sách giúp các gia đình được bảo vệ và vun đắp. Các nhà vận động thuộc WCTU và những phụ nữ khác yêu cầu quyền tuyển cử tổ chức và trình một loạt đơn kiến nghị lên Nghị viện: trên 9.000 chữ ký được đệ trình vào năm 1891, tiếp đó là một đơn kiến nghị với gần 20.000 chữ ký vào năm 1892, và cuối cùng vào năm 1893 có gần 32.000 chữ ký được trình – chiếm gần một phần tư số nữ giới trưởng thành gốc Âu tại New Zealand. Từ năm 1887, nhiều nỗ lực được tiến hành để thông qua các dự luật cấp quyền tuyển cử cho nữ giới, đầu tiên là do Thủ tướng thứ tám là Julius Vogel đưa ra, chúng đều suýt được thông qua. Một vài dự luật tuyển cử có nội dung cấp cho phụ nữ thành viên quyền bỏ phiếu được Hạ nghị viện thông qua song thất bại tại Hội đồng Lập pháp (Thượng nghị viện). Năm 1891, Walter Carncross đề nghị sửa đổi với mục đích biến một dự luật mới bị thất bại tại Hội đồng lập pháp. Sửa đổi của ông là cho phụ nữ có tư cách được bầu vào Hạ nghị viện, bằng cách này Carncross đảm bảo rằng Thượng nghị viện bảo thủ sẽ bác bỏ dự luật. Thủ đoạn này chọc tức nhà vận động Catherine Fulton, bà tổ chức một cuộc kháng nghị trong tổng tuyển cử năm 1893. Một Dự luật Tuyển cử 1892 do John Ballance đệ trình cấp quyền tuyển cử cho toàn thể phụ nữ, song tranh luận quanh một sửa đổi bỏ phiếu bưu chính phi thực tế khiến nó bị từ bỏ. Đến năm 1893, quyền tuyển cử của phụ nữ có được sự ủng hộ đáng kể từ công chúng. Đơn kiến nghị quyền tuyển cử cho phụ nữ 1893 được trình lên Nghị viện và một Dự luật Tuyển cử mới được thông qua tại Hạ nghị viện với đa số lớn. Trong tranh luận, đa số ủng hộ cấp quyền bầu cử cho người Maori cũng như phụ nữ gốc Âu. Những người vận động cho ngành công nghiệp rượu lo lắng rằng phụ nữ sẽ bắt Nghị viện cấm đồ uống có cồn, do đó họ trình kiến nghị lên Thượng nghị viện để bác dự luật. Những nhà vận động cho quyền bầu cử của phụ nữ phản ứng bằng các cuộc tập hợp quy mô lớn và gửi điện tín cho các nghị viên. Họ trao hoa bạch trà cho các nghị viên ủng hộ mình để những người này cài lên khuyết áo. Thượng nghị viên bị chia rẽ về vấn đề này, và Thủ tướng Richard Seddon hy vọng chặn dự luật. Seddon cần thêm một phiếu để đánh bại phương sách tại Thượng nghị viện. Một ủy viên thuộc Đảng Tự do là Thomas Kelly đã quyết định bỏ phiếu ủng hộ phương sách, song Seddon thuyết phục được ông ta thay đổi quan điểm. Sự vận động của Seddon chọc giận hai ủy viên khác là William Hunter Reynolds và Edward Cephas John Stevens, do đó họ đổi phe và ủng hộ dự luật, khiến nó được thông qua với 20 phiếu thuận so với 18 phiếu chống vào ngày 8 tháng 9 năm 1893. Hai ủy viên này từng phản đối quyền tuyển cử của phụ nữ do không bảo vệ quyền tuyển cử cho bỏ phiếu qua bưu chính; được nhìn nhận là cần thiết để cho phép toàn thể phụ nữ tại các khu vực nông thôn cô lập được bỏ phiếu, song bị các nghị viên Tự do cho là khiến những người chồng hoặc người sử dụng lao động lợi dụng trong bầu cử. Mười tám ủy viên hội đồng lập pháp kiến nghị đến tân thống đốc là Huân tước Glasgow, nhằm ngăn ông tán thành ban hành luật, song vào ngày 18 tháng 9 năm 1893 thống đốc tán thành và Đạo luật Tuyển cử 1893 trao cho toàn thể phụ nữ tại New Zealand quyển bầu cử. Cả Chính phủ Tự do và phe đối lập sau đó đều yêu cầu công nhận quyền tuyển cử của phụ nữ, dựa vào đó để kiếm phiếu bầu của các cử tri mới này. === Tiến bộ hơn nữa trong quyền chính trị của phụ nữ === Năm 1893, Elizabeth Yates trở thành người phụ nữ đầu tiên trong Đế quốc Anh trở thành thị trưởng, bà giữ chức thị trưởng trong khoảng một năm của Onehunga- nay là bộ phận của Auckland. Phụ nữ không có tư cách được bầu vào Chúng nghị viện cho đến tổng tuyển cử năm 1919, trong kỳ bầu cử này có ba người phụ nữ tranh cử như Ellen Melville. Elizabeth McCombs trở thành người phụ nữ đầu tiên thắng cử (ghế của khu vực Lyttelton nguyên do chồng bà nắm giữ) trong bầu cử bổ sung năm 1933, tiếp nối là Catherine Stewart (1938), Mary Dreaver (1941), Mary Grigg (1942) và Mabel Howard (1943). Melville tranh cử bên Đảng Cải cách và Grigg tranh cử bên Đảng Dân tộc, còn Stewart, Dreaver và Howard đều là đảng viên Lao động. Người phụ nữ Maori đầu tiên đắc cử làm nghị viên là Iriaka Ratana vào năm 1949; bà kế nhiệm ghế của chồng mình. Phụ nữ không đủ tư cách được bổ nhiệm vào Hội đồng Lập pháp New Zealand (tức Thượng nghị viện) cho đến năm 1941. Hai người phụ nữ đầu tiên (Mary Dreaver và Mary Patricia Anderson) được Chính phủ Lao động bổ nhiệm vào năm 1946. Năm 1950 "suicide squad" được Chính phủ Dân tộc bổ nhiệm nhằm bãi bỏ Hội đồng lập pháp, trong tổ này có ba phụ nữ là Cora Louisa Burrell, Ethel Marion Gould và Agnes Louisa Weston. Năm 1989, Helen Clark trở thành nữ phó thủ tướng đầu tiên. Đến năm 1997, thủ tướng đương nhiệm là Jim Bolger mất đi sự ủng hộ trong Đảng Dân tộc và bị Jenny Shipley thay thế, bà trở thành nữ thủ tướng đầu tiên của New Zealand. Năm 1999, Clark trở thành nữ thủ tướng thứ nhì của New Zealand, và là người phụ nữ đầu tiên giành được chức vụ này thông qua tuyển cử. Huy chương 50 năm quyền tuyển cử New Zealand 1993 được Nữ vương ủy quyền vào ngày 1 tháng 7 năm 1993, và được trao tặng cho 546 cá nhân được lựa chọn để công nhận các đóng góp của họ cho quyền lợi của phụ nữ tại New Zealand hoặc cho các vấn đề của phụ nữ tại New Zealand hoặc cả hai. == Tham khảo == == Đọc thêm == Dalziel, Raewynn. "Presenting the Enfranchisement of New Zealand Women Abroad" in Caroline Daley, and Melanie Nolan, eds. Suffrage and Beyond: International Feminist Perspectives (New York University Press, 1994) 42–64. Grimshaw, Patricia. Women's Suffrage in New Zealand (1988), the standard scholarly study Grimshaw, Patricia. "Women’s Suffrage in New Zealand Revisited: Writing from the Margins," Caroline Daley, and Melanie Nolan, eds. Suffrage and Beyond: International Feminist Perspectives (New York University Press, 1994) pp 25–41. Markoff, John. "Margins, Centers, and Democracy: The Paradigmatic History of Women's Suffrage," Signs: Journal of Women in Culture & Society (2003) 29#1 pp 85–116. compares NZ with Cook Islands & Finland in JSTOR Ramirez, Francisco O., Yasemin Soysal, and Suzanne Shanahan. "The Changing Logic of Political Citizenship: Cross-National Acquisition of Women’s Suffrage Rights, 1890 to 1990," American Sociological Review (1997) 62#5 pp 735–45. in JSTOR === Nguồn chủ yếu === Lovell-Smith, Margaret, ed. The Woman Question: Writings by the Women Who Won the Vote (Auckland: New Women’s Press, 1992) == Liên kết ngoài == Cartoons and article on women's suffrage in New Zealand Female MPs 1933–2002 (graph from above website) Women in Parliament 1933–2005 on elections website
11 tháng 1.txt
Ngày 11 tháng 1 là ngày thứ 11 trong lịch Gregory. Còn 354 ngày trong năm (355 ngày trong năm nhuận). == Sự kiện == 937 – Cho rằng không thể chống lại nổi liên quân Khiết Đan-Thạch Kính Đường, Hoàng đế Lý Tòng Kha của triều Hậu Đường cùng hoàng hậu, thái hậu lên lầu Huyền Vũ tại kinh thành tự thiêu, tức ngày Tân Tị (26) tháng 11 nhuận năm Bính Thân. 947 – Quân Khiết Đan đánh chiếm kinh thành của triều Hậu Tấn, Hoàng đế Thạch Trọng Quý bị bắt giữ, Hoàng đế Khiết Đan Da Luật Đức Quang lệnh Thạch Trọng Quý cởi bỏ hoàng bào, tức ngày Quý Dậu (17) tháng 12 năm Bính Ngọ. 1551 – Bayinnaung trở thành vị quân chủ thứ ba của triều đại Taungoo tại Miến Điện. 1787 – William Herschel phát hiện ra hai vệ tinh của sao Thiên Vương là Titania và Oberon. 1805 – Lãnh thổ Michigan của Hoa Kỳ được hình thành. 1851 – Vào dịp kỷ niệm sinh nhật theo âm lịch của mình, Hồng Tú Toàn bái Thượng đế hội chúng tại Kim Điền thôn, Quế Bình, Quảng Tây, tiến hành khởi nghĩa, đặt hiệu là Thái Bình Thiên Quốc, tức 10 tháng 12 năm Canh Tuất. 1861 – Alabama thoát ly khỏi Hoa Kỳ. 1908 – Vườn quốc gia Grand Canyon tại Hoa Kỳ được hình thành. 1913 – Mông Cổ và Tây Tạng ký kết việc thừa nhận độc lập chủ quyền lẫn nhau tại Ulan Bator, tức Điều ước Mông-Tạng. 1919 – România tái sáp nhập Transilvania. 1922 – Insulin lần đầu tiên được sử dụng để điều trị bệnh đái tháo đường trên người. 1923 – Quân đội Pháp và Bỉ xâm lược vùng Ruhr nhằm buộc Cộng hòa Weimar bồi thường hậu quả sau Chiến tranh thế giới thứ nhất. 1927 – Người đứng đầu hãng Metro-Goldwyn-Mayer (MGM) là Louis B. Mayer tuyên bố thành lập Viện Hàn lâm Khoa học và Nghệ thuật Điện ảnh tại Los Angeles, Hoa Kỳ. 1935 – Amelia Earhart trở thành người đầu tiên trên thế giới một mình bay từ Hawaii tới California. 1940 – Chiến tranh Trung-Nhật: Trận chiến đèo Côn Lôn ở Quảng Tây kết thúc. 1946 – Tổng Bí thư Đảng Lao động Albania Enver Hoxha tuyên bố thành lập Cộng hòa Nhân dân Xã hội chủ nghĩa Albania, bản thân ông trở thành nguyên thủ quốc gia. 1972 – Đông Pakistan đổi tên thành Bangladesh. 2007 - Việt Nam chính thức trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) == Ngày sinh == 347 – Theodosius I, hoàng đế của Đế quốc La Mã (m. 395) 889 – Abd-al-Rahman III, Emir và Khalip của Córdoba (m. 961) 1757 – Alexander Hamilton, nhà kinh tế học, chính trị gia, triết gia người Mỹ (m. 1804) 1842 – William James, triết gia, nhà tâm lý học người Mỹ (m. 1910) 1868 – Thái Nguyên Bồi, nhà giáo dục người Trung Quốc, tức 17 tháng 12 năm Đinh Mão (m. 1940) 1924 – Roger Guillemin, nhà thần kinh học người Pháp, đoạt giải Nobel 1934 – Jean Chrétien, chính trị gia người Canada, thủ tướng của Canada 1934 – Charles Antony Richard Hoare, nhà khoa học máy tính người Sri Lanka-Anh 1941 – Gérson, cầu thủ bóng đá người Brasil 1951 – Nguyễn Thị Doan, nhà giáo dục, chính trị gia người Việt Nam 1957 – Bryan Robson, cầu thủ và huấn luyện viên bóng đá người Anh 1961 – Karl von Habsburg, chính trị gia người Đức-Áo 1971 – Mary J. Blige, ca sĩ-người viết ca khúc, diễn viên người Mỹ 1972 – Amanda Peet, diễn viên người Mỹ 1972 – Marc Blucas, diễn viên người Mỹ 1972 – Konstantin Yuryevich Khabensky, diễn viên người Nga 1977 – Jérôme Kerviel, giao dịch viên chứng khoán người Pháp 1982 – Son Ye Jin, diễn viên người Hàn Quốc 1982 – Denis Alexeyevich Kolodin, cầu thủ bóng đá người Nga 1983 – Hàn Tuyết, diễn viên, ca sĩ người Trung Quốc 1985 – Trương Lỗi, cầu thủ bóng chuyền người Trung Quốc 1993 – Will Keane, cầu thủ bóng đá người Anh 1997 – Cody Simpson, ca sĩ-người viết ca khúc, nhạc công guitar người Úc == Ngày mất == 314 – Giáo hoàng Miltiadê 705 – Giáo hoàng Gioan VI (m. 655) 1753 – Hans Sloane, thầy thuốc người Ireland (m. 1660) 1882 – Theodor Schwann, nhà sinh lý học người Đức (m. 1810) 1891 – Georges Eugène Haussmann, chính trị gia và quy hoạch sư người Pháp (s. 1809) 1952 – Jean de Lattre de Tassigny, tướng lĩnh người Pháp (s. 1889) 1966 – Alberto Giacometti, nhà điêu khắc người Thụy Sĩ (s. 1901) 1988 – Isidor Isaac Rabi, nhà vật lý học người Ba Lan-Mỹ, đoạt giải Nobel (s. 1898) 1991 – Carl David Anderson, nhà vật lý học người Mỹ, đoạt giải Nobel (s. 1905) 2008 – Edmund Hillary, nhà thám hiểm người New Zealand (s. 1919) 2013 – Nguyễn Khánh, tướng lĩnh và chính trị gia người Việt Nam, nguyên thủ của Việt Nam Cộng hòa (s. 1927) 2013 – Aaron Swartz, lập trình viên máy tính và nhà hoạt động Internet người Mỹ (s. 1986) 2014 – Ariel Sharon, chính trị gia và tướng lĩnh người Israel, thủ tướng của Israel (s. 1928) == Những ngày lễ và kỷ niệm == Albania – Ngày Cộng hòa (1946) == Tham khảo ==
trường đại học khoa học tự nhiên, đại học quốc gia hà nội.txt
Trường Đại học Khoa học Tự nhiên Hà Nội là một trường đại học thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội, Việt Nam. Đây nơi đào tạo các ngành khoa học cơ bản như: Toán Học, Toán Cơ, Vật Lý Học, Hóa Học, Sinh Học, Khí Tượng, Thủy Văn, Hải Dương Học, Địa Lý Học, Khoa Học Môi trường,... Trường có cơ sở chính đặt tại 334 Nguyễn Trãi, quận Thanh Xuân, Hà Nội. Ngoài ra còn có khuôn viên ở 19 Lê Thánh Tông và 182 Lương Thế Vinh. Hiện nay, Nhà trường có trên 10.000 sinh viên và gần 700 cán bộ giảng dạy, nghiên cứu và quản lý với 40 Giáo sư, 120 Phó Giáo sư, trên 300 Tiến sĩ và Tiến sĩ Khoa học. == Lịch sử == Trường Đại học Khoa học Tự nhiên thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội được thành lập theo nghị định số 97/CP ngày 10/12/1993 của chính phủ. Trường ra đời là sự tiếp nối, kế thừa và phát huy truyền thống hơn 40 năm của trường Đại học Tổng hợp Hà Nội. Trường Đại học Khoa học Tự nhiên hiện nay là sự tiếp nối truyền thống của các trường: Đại học Khoa học (1941), Đại học Khoa học Cơ bản (1946) và Đại học Tổng hợp Hà Nội (1956), là trường đào tạo và nghiên cứu Khoa học Cơ bản, Công nghệ mũi nhọn trong lĩnh vực Khoa học Tự nhiên. === Tên gọi === Năm 1904: Trường Đại học Đông Dương. Năm 1946: Trường Đại học Khoa học. Năm 1956: Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội. Năm 10/12/1993: Trường Đại học Khoa học Tự nhiên - Đại học Quốc gia Hà Nội. === Hiệu trưởng qua các thời kì. === VS.GS.TSKH. Đào Trọng Thi (1993-12/1996) NGND-GS.TSKH. Nguyễn Văn Mậu (1/1997-5/2008). NGƯT-PGS.TS Bùi Duy Cam.(5/2008-1/2014). NGƯT-PGS.TS Nguyễn Văn Nội.(1/2014-2019). == Cơ cấu tổ chức == === Hệ thống Hành chính === Ban Giám hiệu Phòng Chính trị và Công tác sinh viên Phòng Đào tạo Phòng Hành chính - Đối ngoại Phòng Kế hoạch Tài vụ Phòng Khoa học công nghệ Phòng Quản trị và Bảo vệ Phòng Sau đại học Phòng Tổ chức cán bộ Phòng Thanh tra và Đảm bảo chất lượng === Hệ thống Đảng, Đoàn thể === Đảng ủy Công đoàn Đoàn Thanh niên Hội Sinh viên === Hệ thống đào tạo. === Khoa Toán-Cơ-Tin học Ngành Toán học Ngành Toán cơ Ngành Toán tin ứng dụng Ngành Máy tính và khoa học thông tin Khoa Vật lý Ngành Công nghệ hạt nhân Ngành Khoa học vật liệu Khoa Hóa học Ngành Hóa học Ngành Công nghệ kỹ thuật hóa học Ngành Hóa dược Khoa Sinh học Ngành Công nghệ sinh học Khoa Môi trường Ngành Khoa học Môi trường Ngành Công nghệ kỹ thuật môi trường Ngành Khoa học Đất Khoa Địa chất Ngành Kỹ thuật địa chất Ngành Quản lý tài nguyên và môi trường Khoa Địa lý Ngành Địa lý tự nhiên Ngành Quản lý đất đai Khoa Khí tượng thủy văn và Hải dương học Ngành Khí tượng học Ngành Thủy văn học Ngành Hải dương học Ngành Kỹ thuật công trình biển Hệ Đào tạo Cử nhân Khoa học Tài năng 1 Tài năng ngành Toán học 2. Tài năng ngành Vật lý 3. Tài năng ngành Hóa học 4. Tài năng ngành Sinh học Hệ chất lượng cao 1. CLC Địa lý tự nhiên 2. CLC Khoa học Môi trường 3. CLC Khí tượng học 4. CLC Thủy văn 5. CLC Hải dương học Hệ Chuẩn Quốc tế 1. Ngành Vật lý 2. Ngành Sinh học 3. Ngành Địa chất Hệ tiên tiến 1. Tiên tiến Toán học 2. Tiên tiến Hóa học 3. Tiên tiến Khoa học Môi trường Trường Trung học phổ thông chuyên Khoa học Tự nhiên, Đại học Quốc gia Hà Nội. === Hệ thống Trung tâm. === Trung tâm Đa dạng Sinh học và Phát triển bền vững Trung tâm Động lực học thủy khí môi trường Trung tâm Hóa dầu Trung tâm Khoa học vật liệu Trung tâm Nghiên cứu Công nghệ môi trường và Phát triển bền vững Trung tâm Nghiên cứu Địa chất ứng dụng Trung tâm Nghiên cứu Quan trắc và mô hình hóa môi trường Trung tâm Nghiên cứu ứng dụng Viễn thám và hệ thông tin địa lý Trung tâm Ngoại ngữ Trung tâm Sinh học phân tử và Công nghệ tế bào Trung tâm Ứng dụng tin học trong hóa học Trung tâm Tính toán hiệu năng cao === Hệ thống Dự án và công ty === Công ty TNHH Khoa học Tự nhiên Đội khảo sát và thi công Địa kỹ thuật và Môi trường Trung tâm Triển khai sản xuất màng lọc Diamond Trung tâm Triển khai sản xuất phân bón vi sinh Trung tâm Ứng dụng công nghệ sản xuất các sản phẩm từ nấm và vi khuẩn Xưởng nghiên cứu Công nghệ các sản phẩm gốm xốp Dự án quốc tế Dự án với Trường ĐHCN Wroslaw (Ba Lan) Dự án với Trường Greifswald (Đức) Dự án với Trường Kwuangju (Hàn Quốc) Dự án TRIG. == Các đối tác quốc tế == Australia China South Korea Japan Singapore Thailand USA Canada Belarus England Denmark France Germany Italy Malaysia Nauru Tonga Chile Nepal Cuba India Indonesia Laos Brunei Tahiti Kiribati Fiji Mexico Honduras Cuba Myanmar Nepal == Thành tích == Năm 1995: Huân chương Độc lập hạng II Huân chương lao động hạng III do Tổng liên đoàn lao động Việt Nam tặng Ngày 20 tháng 11 năm 2000 Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng Lao động Năm 2001: Nhà nước phong tặng == Xem thêm == Danh sách trường đại học và cao đẳng tại Hà Nội == Chú thích == == Liên kết ngoài == Trang web chính thức ĐHQGHN Khoa Toán - Cơ Khoa Hóa học Khoa Vật lý
cameroon.txt
Cameroon hay Cameroun, tên chính thức là nước Cộng hòa Cameroon (phiên âm tiếng Việt: Ca-mơ-run, tiếng Pháp: République du Cameroun, tiếng Anh: Republic of Cameroon, là một quốc gia ở phía tây của khu vực Trung Phi. Cameroon có biên giới quốc tế với Nigeria ở phía tây; với Tchad ở phía đông bắc; với nước Cộng hòa Trung Phi ở phía đông; và với Guinea Xích Đạo, Gabon, và nước Cộng hòa Congo ở phía nam. Bờ biển của Cameroon nằm ven vùng lõm Bonny thuộc vịnh Guinea và Đại Tây Dương. Quốc gia này thường được gọi là "châu Phi thu nhỏ" do đa dạng về địa chất và văn hóa. Các đặc điểm tự nhiên của Cameroon gồm có các bãi biển, hoang mạc, dãy núi, rừng mưa, và xa van. Đỉnh cao nhất quốc gia là núi Cameroon ở phía tây nam, và các thành thị lớn nhất là Douala, Yaoundé và Garoua. Cameroon là nơi có trên 200 nhóm ngôn ngữ khác nhau. Quốc gia nổi tiếng với các phong cách âm nhạc bản địa, đặc biệt là makossa và bikutsi, và sự thành công của đội tuyển bóng đá quốc gia. Tiếng Pháp và tiếng Anh là các ngôn ngữ chính thức của Cameroon. Các cư dân ban đầu trên khu vực này gồm các cư dân thuộc nền văn minh Sao quanh hồ Tchad và những người Baka săn bắn-hái lượm tại rừng mưa đông nam bộ. Các nhà thám hiểm người Bồ Đào Nha đến bờ biển của khu vực vào thế kỷ 15 và đặt tên cho khu vực là Rio dos Camarões (sông Tôm), rồi trở thành Cameroon trong tiếng Anh. Các quân nhân người Fula thành lập nên Tù trưởng quốc Adamawa ở phía bắc khu vực trong thế kỷ 19, và nhiều dân tộc ở phía tây và tây bắc thành lập nên các tù bang hùng mạnh. Cameroon trở thành một thuộc địa của Đức vào năm 1884. Sau Chiến tranh thế giới thứ nhất, lãnh thổ Kamerun thuộc Đức được phân chia giữa Pháp và Anh Quốc với danh nghĩa Hội Quốc Liên ủy thác. Chính đảng Liên minh Nhân dân Cameroun (UPC) chủ trương đòi độc lập, song bị người Pháp cấm vào thập niên 1950. Năm 1960, phần lãnh thổ Cameroon do Pháp quản lý được độc lập với tên nước Cộng hòa Cameroun, dưới quyền Tổng thống Ahmadou Ahidjo. Phần phía nam của các lãnh thổ Cameroon thuộc Anh hợp nhất với Cộng hòa Cameroun vào năm 1961 để hình thành Cộng hòa Liên bang Cameroon. Quốc gia đổi tên thành Cộng hòa Liên hiệp Cameroon vào năm 1972 rồi Cộng hòa Cameroon vào năm 1984. So với các quốc gia khác tại châu Phi, Cameroon có ổn định tương đối cao về chính trị và xã hội. Điều này cho phép sự phát triển của nông nghiệp, đường bộ, đường sắt, và các ngành công nghiệp dầu mỏ và đốn gỗ. Tuy thế, một số lượng lớn người dân Cameroon sống trong nghèo khổ với sinh kế là nông nghiệp. Kể từ năm 1982, quyền lực nằm chắc trong Tổng thống Paul Biya, và Đảng Phong trào Dân chủ Nhân dân Cameroon của ông. Các lãnh thổ nói tiếng Anh của Cameroon ngành cáng xa lánh chính phủ trung ương, và các chính trị gia từ các khu vực này đã yêu cầu về việc phân quyền lớn hơn hay thậm chí là ly khai. == Lịch sử == Lãnh thổ nay là Cameroon có người định cư đầu tiên từ thời đại đồ đá mới. Các cư dân sinh sống liên tục lâu nhất là các nhóm người như Baka (một nhóm người Pygmy). Từ đây, các cuộc di cư của người Bantu đến phía đông, phía nam, và trung bộ châu Phi được cho là bắt đầu khoảng 2.000 năm trước. Văn hóa Sao xuất hiện quanh hồ Tchad vào khoảng năm 500 CN và bị Kanem thay thế, quốc gia kế thừa của Kanem là Bornu. Các vương quốc, tù bang xuất hiện tại phía tây. Các thủy thủ người Bồ Đào Nha đến bờ biển khu vực vào năm 1472, họ nhận thấy có nhiều tôm ma Lepidophthalmus turneranus trên sông Wouri và đặt tên cho sông là Rio dos Camarões (sông Tôm), tên gọi này trở thành Cameroon trong tiếng Anh. Trong vài thế kỷ sau, người châu Âu quan tâm đến mậu dịch chính quy hóa với các cư dân duyên hải, và các nhà truyền giáo Ki-tô mở rộng vào nội địa. Vào đầu thế kỷ 19, Modibo Adama lãnh đạo các quân nhân người Fula trong một thánh chiến ở phía bắc chống lại các dân tộc phi Hồi giáo và cục bộ Hồi giáo và thiết lập nên Tù trưởng quốc Adamawa. Việc định cư những người chạy trốn quân Fula tạo ra một sự tái phân bổ nhân khẩu lớn. Phần phía bắc của Cameroon là một phần quan trọng trong mạng lưới buôn bán nô lệ. Đế quốc Đức tuyên bố chủ quyền đối với lãnh thổ với địa vị là thuộc địa Kamerun vào năm 1884 và bắt đầu thúc đẩy bình định vùng nội địa. Họ đề xướng các kế hoạch nhằm cải tiến cơ sở hạ tầng của thuộc địa, dựa trên một hệ thống lao động cưỡng bách khắc nghiệt. Với việc Đức chiến bại trong Chiến tranh thế giới thứ nhất, Kamerun trở thành một lãnh thổ ủy thác của Hội Quốc Liên, và được phân chia thành Cameroun thuộc Pháp và các lãnh thổ Cameroon thuộc Anh vào năm 1919. Pháp tích hợp kinh tế Cameroun vào kinh tế Pháp và cải tiến cơ sở hạ tầng với các đầu tư tư bản, công nhân lành nghề, và tiếp tục duy trì lao động cưỡng bách. Người Anh quản lý các lãnh thổ Cameroon của họ từ Nigeria, người địa phương than phiền rằng việc này khiến họ bị sao lãng khi là một "thuộc địa của một thuộc địa". Các công nhân nhập cư người Nigeria đổ xô đến Nam Cameroon, kết thúc tình trạng lao động cưỡng bách song khiến nhân dân bản địa giận dữ. Trách nhiệm ủy thác của Hội Quốc Liên được chuyển đổi sang trách nhiệm ủy trị của Liên Hiệp Quốc vào năm 1946, và độc lập trở thành một vấn đề cấp bách tại Cameroun thuộc Pháp. Pháp cấm chính đảng cấp tiến nhất là Liên minh Nhân dân Cameroun (UPC), vào năm 1955. Hành động này thúc đẩy một cuộc chiến du kích kéo dài và vụ ám sát thủ lĩnh đảng là Ruben Um Nyobé. Tại các lãnh thổ Cameroon thuộc Anh, vấn đề là thống nhất với Cameroun thuộc Pháp hay gia nhập Nigeria. Ngày 1 tháng 1 năm 1960, Cameroun thuộc Pháp giành được độc lập từ Pháp, nằm dưới quyền Tổng thống Ahmadou Ahidjo. Đến ngày 1 tháng 10 năm 1961, Nam Cameroon thuộc Anh cũ hợp nhất với Cameroun thuộc Pháp cũ để hình thành Cộng hòa Liên bang Cameroon. Ahmadou Ahidjo sử dụng cuộc chiến đang diễn ra với UPC để tập trung quyền lực về tổng thống, song điều này vẫn tiếp tục sau khi UPC bị đàn áp vào năm 1971. Ahmadou Ahidjo là thành viên của Liên minh Dân tộc Cameroon (CNU), tổ chức này trở thành chính đảng hợp pháp duy nhất vào ngày 1 tháng 10 năm 1966 và đến năm 1972, hệ thống chính phủ theo thể thức liên bang bị bãi bỏ để hình thành Cộng hòa Thống nhất Cameroon, với thủ đô là Yaoundé. Ahmadou Ahidjo theo đuổi một chính sách kinh tế tự do chủ nghĩa kế hoạch, ưu tiên các cây trồng kinh tế và khai thác dầu mỏ. Chính phủ sử dụng lợi nhuận từ dầu mỏ để tạo nên dự trữ tiền mặt quốc gia, chi trả cho nông dân, và cung cấp tài chính cho các dự án lớn về phát triển; tuy nhiên, nhiều sáng kiến thất bại do Ahmadou Ahidjo bổ nhiệm các đồng minh không đủ trình độ của ông làm người chỉ đạo chúng. Ahmadou Ahidjo từ chức vào ngày 4 tháng 11 năm 1982 và giao lại quyền lực cho Paul Biya. Tuy nhiên, Ahmadou Ahidjo duy trì quyền kiểm soát CNU và cố gắng nhằm điều hành quốc gia trong hậu trường. Paul Biya và các đồng minh của người này sau đó buộc Ahmadou Ahidjo phải từ chức, Paul Biya bắt đầu thời kỳ quản lý quốc gia của mình với việc chuyển đổi hướng đến một chính phủ dân chủ hơn, song một đảo chính bất thành khiến ông lại hướng sang phong cách lãnh đạo của người tiền nhiệm. Một khủng hoảng kinh tế diễn ra tại Cameroon từ giữa thập niên 1980 đến cuối thập niên 1990, bắt nguồn từ tình hình kinh tế quốc tế, hạn hán, giá dầu thô suy giảm, và nhiều năm tham nhũng, quản lý yếu kém, và nhậm dụng thân tín. Cameroon chuyển sang nhận viện trợ nước ngoài, cắt giảm chi tiêu công, và tư hữu hóa công nghiệp. Tháng 12 năm 1990, Cameroon chuyển sang chính trị đa đảng, từ đó có các nhóm từ những khu vực Cameroon từng thuộc Anh đòi hỏi quyền tự trị lớn hơn, và Hội đồng Dân tộc Nam Cameroons thì chủ trương ly khai hoàn toàn để trở thành nước Cộng hòa Ambazonia. == Địa lý == Cameroon có tổng diện tích 475.442 kilômét vuông (183.569 sq mi), là quốc gia rộng thứ 53 trên thế giới. Quốc gia này nằm ở vùng Trung Phi và Tây Phi, bên vũng Bonn thuộc vịnh Guinea và Đại Tây Dương. Tài liệu du lịch miêu tả Cameroon là "châu Phi thu nhỏ" vì nơi này có tất cả các khí hậu và hệ thực vật chính của lục địa: duyên hải, hoang mạc, núi, rừng mưa, và xa van. Các quốc gia lân cận là Nigeria ở phía tây; Tchad ở phía đông bắc; nước Cộng hòa Trung Phi ở phía đông; và Guinea Xích Đạo, Gabon, và nước Cộng hòa Congo ở phía nam. Cameroon được phân thành ba đới địa lý chính, phân biệt qua các đặc điểm về tự nhiên, khí hậu, và thực vật. Đồng bằng duyên hải trải rộng 15 đến 150 kilômét (9 đến 93 mi) vào nội địa tính từ vịnh Guinea và có cao độ trung bình là 90 mét (295 ft). Dải đồng bằng này rất nóng và ẩm và có một mùa khô ngắn, có mật độ rừng dày đặc và có một số trong số những nơi ẩm nhất trên Trái Đất, và là một phần của vùng rừng duyên hải Cross-Sanaga-Bioko. Đồng bằng Nam Cameroon nổi lên từ đồng bằng duyên hải đến cao độ bình quân 650 mét (2.133 ft). Rừng mưa Xích Đạo chiếm ưu thế tại khu vực này, song do có mùa mưa và mùa khô luân phiên nên khu vực này kém ẩm hơn vùng duyên hải. Khu vực này là một phần của vùng sinh thái rừng duyên hải Xích Đạo Đại Tây Dương. Mỗi chuỗi các núi, đồi, và cao nguyên không đều được gọi là dãy Cameroon kéo dài từ núi Cameroon (đỉnh cao nhất tại Cameroon với cao độ 4.095 mét (13.435 ft)) gần đến hồ Tchad tại biên giới bắc bộ của Cameroon. Khu vực này có khí hậu ôn hòa, đặc biệt tại Cao nguyên Tây bộ, song có lượng mưa lớn. Đất đai của khu vực này thuộc vào hàng phỉ nhiêu nhất tại Cameroon, đặc biệt là quanh núi lửa Cameroon. Các hiện tượng núi lửa tạo ra hồ miệng núi lửa, một trong số đó là hồ Nyos từng phun ra Cacbon điôxít và khiến từ 1.700 đến 2.000 người thiệt mạng vào năm 1986. Quỹ Quốc tế Bảo vệ Thiên nhiên mô tả khu vực này là vùng sinh rái rừng cao địa Cameroon. Cao nguyên nam bộ nổi lên về phía bắc cho đến cao nguyên Adamawa đầy cỏ và gồ ghề. Đặc điểm này trải dài từ vùng núi tây bộ và tạo thành một rào chắn giữa bắc và nam Cameroon. Cao độ trung bình là 1.100 mét (3.609 ft), và nhiệt độ trung bình dao động từ 22 °C (71,6 °F) đến 25 °C (77 °F) và có mưa nhiều từ tháng 4 đến tháng 10 với cao điểm là tháng 7 và tháng 8. Vùng đất thấp bắc bộ kéo dài từ rìa của Adamawa đến hồ Tchad với cao độ trung bình là 300 đến 350 mét (984 đến 1.148 ft). Thực vật đặc trưng của khu vực là cây bụi xa van và đồng cỏ. Đây là khu vực khô hạn với mưa rải rác và nhiệt độ trung bình ở mức cao. Cameroon có bốn lưu vực: Tại phía nam, các sông chính là Ntem, Nyong, Sanaga, và Wouri, chúng chảy theo hướng tây nam hoặc theo hướng tây và đổ trực tiếp vào vịnh Guinea. Sông Dja và Kadéï chảy theo hướng đông nam rồi hợp lưu với sông Congo. Tại bắc bộ Cameroon, sông Bénoué River chảy theo hướng bắc và tây rồi hợp lưu với sông Niger. Sông Logon chảy theo hướng bắc và đổ vào hồ Tchad, hồ này được phân chia giữa Cameroon và ba quốc gia khác. == Chính trị và chính phủ == Tổng thống Cameroon có quyền lực rộng, đơn phương trong việc hoạch định chính sách, quản lý các cơ quan chính phủ, chỉ huy các lực lượng vũ trang, đàm phán và ký kết các hiệp định, và tuyên bố tình trạng khẩn cấp. Tổng thống bổ nhiệm các quan chức chính phủ ở mọi cấp, từ thủ tướng đến người đứng đầu các đơn vị hành chính cấp dưới. Tổng thống được bầu theo thể thức phổ thông đầu phiếu cho mỗi nhiệm kỳ bảy năm. Hệ thống tư pháp của Cameroon dựa phần lớn vào dân luật Pháp và chịu các ảnh hưởng của thông luật. Bộ máy tư pháp độc lập trên danh nghĩa, song nằm dưới quyền uy của Bộ Tư pháp thuộc nhánh hành pháp. Tổng thống bổ nhiệm các thẩm phán ở mọi cấp. Bộ máy tư pháp về chính thức được phân thành tòa án sơ thẩm, tòa án thượng tố, và tòa án tối cao. Quốc hội bầu ra chín thành viên của Tòa án Công lý cao đẳng, Tòa án này xét xử các thành viên cấp cao trong chính phủ trong trường hợp họ bị buộc tội phản quốc hoặc gây tổn hại đến an ninh quốc gia. Quốc hội là cơ quan lập pháp, và gồm có 180 thành viên được bầu cho mỗi nhiệm kỳ 5 năm, họp ba lần mỗi năm. Các đạo luật được thông qua theo nguyên tắc đa số phiếu, hiếm khi quốc hội thay đổi hoặc chặn các dự luật do tổng thống đệ trình. Hiến pháp năm 1996 thiết lập Tham nghị viện gồm 100 ghế, cơ quan này được thành lập chính thức vào tháng 4 năm 2013, theo hiến pháp thì chủ tịch tham nghị viện là người kế vị tổng thống trong trường hợp chức vụ này bị khuyết. Chính phủ công nhận quyền uy của các tù trưởng trong việc cai quản ở cấp địa phương và giải quyết tranh chấp, miễn là những sự cai trị này không xung đột với luật pháp quốc gia. Phong trào Dân chủ Nhân dân Cameroon (CPDM) là chính đảng hợp pháp duy nhất cho đến tháng 12 năm 1990, sau đó một số phe nhóm chính trị cấp địa phương được hình thành. Tổ chức đối lập chính là Mặt trận Xã hội Dân chủ (SDF), căn cứ của nhóm này phần lớn nằm tại khu vực Anh ngữ của quốc gia và John Fru Ndi giữ chức chủ tịch từ năm 1990. Paul Biya và CPDM của ông duy trì quyền kiểm soát đối với chức vụ tổng thống và quốc hội thông qua các cuộc bầu cử, song các đối thủ cho rằng các cuộc bầu cử này không công bằng. Các tổ chức nhân quyền cáo buộc rằng chính phủ Cameroon đàn phán các quyền tự do của các nhóm đối lập bằng cách ngăn cản biểu tình, làm gián đoạn các cuộc họp, và bắt giữ các lãnh đạo và ký giả đối lập. Cameroon là thành viên của cả Thịnh vượng chung các quốc gia và Cộng đồng Pháp ngữ. Chính sách ngoại giao của quốc gia là gắn chặt với đòng minh chính là Pháp. Cameroon phụ thuộc nhiều vào Pháp về quốc phòng, song chi tiêu quân sự của quốc gia này ở mức cao so với chi tiêu trong các lĩnh vực khác. == Hành chính == Hiến pháp phân chia Cameroon thành 10 vùng bán tự trị, mỗi vùng nắm dưới quyền quản lý của một hội đồng khu vực được bầu lên. Một sắc lệnh tổng thống vào ngày 12 tháng 11 năm 2008 chính thức bắt đầu việc chuyển từ tỉnh (province) sang vùng. Đứng đầu mỗi vùng là một thống đóc do tổng thổng bổ nhiệm. Các lãnh đạo này có bổn phận thi hành ý định của tổng thống, báo cáo tình hình và điều kiện chung của vùng, quản lý công vụ, duy trì hòa bình, và giám sát người đứng đầu của các đơn vị hành chính nhỏ hơn. Thống đốc có quyền hạn rộng lớn: họ có thể ra lệnh tuyên truyền trong địa bàn của họ và triệu tập quân đội, hiến binh, và cảnh sát. Toàn bộ quan chức chính phủ địa phương là nhân viên của Bộ Quản lý lãnh thổ của chính phủ trung ương, chính phủ địa phương cũng nhận được hầu hết ngân sách của họ từ bộ này. Các vùng được chia thành 58 tỉnh (French département). Đứng đầu mỗi tỉnh là tỉnh trưởng (préfets) do tổng thống bổ nhiệm. Các tỉnh được chia tiếp thành các phân vùng (arrondissements), đứng đầu là phó tỉnh trưởng (sous-prefets). Các huyện trưởng (chefs de district) là người đứng đầu các huyện, đây là đơn vị hành chính nhỏ nhất. Ba vùng ở viễn bắc là Viễn Bắc (Extrême Nord), Bắc (Nord), và Adamawa (Adamaoua). Thẳng phía nam của chúng là Trung (Centre) và Đông (Est). Nam (Sud) nằm ven vịnh Guinea và biên giới phía nam. Khu vực tây bộ của Cameroon được phân chia giữa bốn vùng nhỏ hơn: Littoral và Tây Nam (Sud-Ouest) nằm ven biển, và các vùng Tây Bắc (Nord-Ouest) cùng Tây (Ouest) nằm trên thảo nguyên tây bộ. == Kinh tế == Trong một phần tư thế kỷ sau khi giành lại độc lập, Cameroon là một trong những nước đông dân nhất tại châu Phi. Sự hạ giá các mặt hàng xuất khẩu chính của nước này — dầu mỏ, dừa, cà phê, và bông — ở giữa thập niên 1980, cộng với một đồng tiền tệ được đánh giá quá cao, tham nhũng tràn lan cũng như quản lý kinh tế kém cỏi đã dẫn tới sự giảm phát kéo dài một thập kỷ. GDP thực trên đầu người giảm hơn 60% trong giai đoạn 1986 tới 1994. Tiền gửi, thâm hụt tài chính cũng như nợ nước ngoài tăng cao. Tuy vậy nhờ nguồn tài nguyên dầu mỏ và các điều kiện thuận lợi cho nông nghiệp, Cameroon vẫn là một trong những nền kinh tế tốt nhất vùng Hạ Saharan châu Phi. Như trường hợp nhiều nước đang phát triển khác, quá trình đô thị hóa nhanh chóng đã tạo ra sức ép lên nền kinh tế. Hoạt động kinh tế lớn nhất tại Cameroon vẫn là nông nghiệp. Nhiều trở ngại khác đang cản trở sự phát triển của Cameroon; mức độ quan liêu cao, hạ tầng cơ sở kém cỏi, tham nhũng ăn sâu. Gần đây, chính phủ đã tuyên bố đang nỗ lực tiêu diệt tham nhũng và tạo ra môi trường kinh doanh minh bạch hơn. == Nhân khẩu == Dân cư Cameroon được ước tính gồm 250 sắc tộc riêng biệt, có thể chia thành năm vùng văn hóa chính: dân cư cao nguyên phía tây (Bán-Bantu hay dân sống trên đồng cỏ), gồm người Bamileke, Bamun (hay Bamoun), và các nhóm Tikar nhỏ hơn khác ở phía tây bắc (ước tính 38% tổng dân số); dân cư vùng rừng nhiệt đới ven biển, gồm người Bassa, Duala (hay Douala), và nhiều nhóm nhỏ hơn khác ở phía tây nam (12%); dân cư vùng rừng nhiệt đới phía nam, gồm Beti-Pahuin, Bulu (một phụ nhánh của Beti-Pahuin), Fang (phụ nhánh của Beti-Pahuin), Maka, Njem, và các nhóm người pygmy Baka (18%); đa số dân Hồi giáo vùng bán khô cằn phía bắc (Sahel) và cao nguyên trung tâm, gồm Fulani (hay Peuhl trong tiếng Pháp) (14%); và "Kirdi", người không Hồi giáo hay mới theo Hồi giáo ở xa mạc phía bắc và cao nguyên trung tâm (18%). == Tôn giáo == Cameroon là nước đa dạng tôn giáo và hiến pháp nước này đảm bảo sự tự do tôn giáo của người dân. Tôn giáo chủ yếu của Cameroon chủ yếu là Kitô giáo, được thực hành bởi khoảng 2/3 dân số, trong khi Hồi giáo là một tôn giáo thiểu số, chiếm khoảng 1/5 dân số. Ngoài ra, tín ngưỡng truyền thống bản địa cũng được nhiều người dân thực hiện. Người Hồi giáo tập trung nhiều nhất ở miền Bắc, trong khi các Kitô hữu tập trung chủ yếu ở khu vực phía nam và phía tây, tuy nhiên tín đồ của hai tôn giáo này cũng có thể được tìm thấy trên khắp đất nước. Hầu hết các thành phố lớn đều có tín đồ của hai tôn giáo này. Người dân ở phía Tây Bắc và các tỉnh miền Tây Nam phần lớn là Tin Lành, và các vùng nói tiếng Pháp của khu vực phía nam và phía tây chủ yếu là Công giáo Rôma. các dân tộc miền Nam chủ yếu theo tín ngưỡng vật linh Phi Kitô giáo hoặc truyền thống, hoặc một sự kết hợp giữa tín ngưỡng bản địa và Kitô giáo. Ở miền Bắc, nơi người Fulani là dân tộc chiếm ưu thế chủ yếu theo Hồi giáo, nhưng tổng dân số là khá đồng đều phân chia giữa người Hồi giáo, Thiên chúa giáo và những người theo tín ngưỡng tôn giáo bản địa (gọi là Kirdi ("ngoại đạo") của Fulani). Người Bamum của khu vực Tây phần lớn là Hồi giáo. Tôn giáo truyền thống bản địa được thực hành ở các vùng nông thôn trong cả nước nhưng hiếm khi được thực hành công khai ở các thành phố. Người Hồi giáo chiếm khoảng 24% trong tổng số 21 triệu dân của Cameroon. Khoảng 27% trong số đó tự nhận mình là người Hồi giáo Sunni và 3% là người Hồi giáo Shia, trong khi phần lớn số tín đồ còn lại không liên kết mình với một giáo phái nào cụ thể. Người Fulani, một nhóm dân tộc du mục, đã truyền bá Hồi giáo vào Cameroon đầu thế kỷ 19 chủ yếu thông qua hoạt động thương mại. Ở các tỉnh phía Bắc, nơi người Fulani chiếm ưu thế tôn giáo áp đảo là Hồi giáo. Các dân tộc khác, được gọi chung là Kirdi, thường thực hành một số hình thức của đạo Hồi. Các tộc người Bamoun ở các tỉnh phía Tây cũng phần lớn là người Hồi giáo. Ước tính có khoảng 4,25 triệu người Công giáo Rôma được rửa tội tại Cộng hòa Cameroon, chiếm 26% dân số. Cả nước có 24 giáo phận, 1.350 linh mục và 2.600 tu sĩ nam nữ trong các dòng tu. Enoch Olinga, người Uganda là người đầu tiên đưa đạo Bahá'í đến nước này năm 1953. Năm 2003, ước tính có khoảng 40.000 tín đồ của đạo Bahá'í ở Cameroon và đã tăng lên 50.800 người trong năm 2005. == Văn hóa == Người Kirdi và người Matakam ở các vùng núi phía tây sản xuất ra các loại đồ gốm riêng biệt. Các mặt nạ có nhiều uy quyền của Bali, theo hình dạng đầu voi, thường được sử dụng trong những dịp tang lễ và các bức tượng Bamileke nhỏ được tạc có mặt người hay động vất. Người Tikar nổi tiếng vì có những chiếc tẩu trang trí rất đẹp, người Ngoutou nổi tiếng về các mặt nạ hai mặt và người Bamum về các mặt nạ cười. Viện châu Phi Đen của Pháp có một thư viện tại Douala chuyên ngành xã hội học, dân tộc học và Lịch sử châu Phi. Trong số nhiều bảo tàng, Bảo tàng Diamare và Maroua có nhiều bộ sưu tập nhân loại học liên quan tới những người Sudan và Bảo tàng Cameroon tại Douala có trưng bày nhiều đồ vật tiền sử và lịch sử tự nhiên. Các tổ chức văn hóa gồm Hiệp hội Văn hóa Cameroun, Tổ chức Xã hội Cameroun, và Trung tâm Văn hóa và Ngôn ngữ. Ngoài ra cũng có nhiều hiệp hội phụ nữ (gồm Hiệp hội phụ nữ Tây bắc vì sự phát triển nông thôn), các tổ chức thanh niên và tổ chức thể thao. Không giống như các tổ chức phụ nữ mới được các cơ quan phát triển phương Tây thành lập gần đây ở các nơi như Trung Á, các hiệp hội phụ nữ Tây Phi đã có một lịch sử phát triển lâu dài. Ở nước Cameroon hiện nay, chúng thường được đăng ký như những Nhóm Cộng đồng Sáng kiến hay CIG's, vì thế chúng tiếp tục truyền thống đoàn kết phụ nữ để hỗ trợ tình cảm và kinh tế lẫn nhau. Dù các nhóm đó dựa trên cơ sở phụ nữ giải quyết vấn đề của phụ nữ (như chăm sóc trẻ em, làm ruộng/tích trữ lương thực gia đình, công bằng xã hội vân vân) chúng không phải là độc quyền của phụ nữ và trẻ em cũng như đàn ông đều có thể gia nhập. Ngoài ra, những ngày nghỉ lễ khác gồm: Thiên chúa giáo: Thứ sáu rộng lượng, Chủ nhật Phục sinh và Thứ hai Phục sinh Hồi giáo: 'Id al-Fitr và 'Id al-Adha Xem thêm: Âm nhạc Cameroon, Ẩm thực Cameroon, Danh sách các nhà văn Cameroon == Giáo dục == Sau khi giành độc lập Cameroon đã sử dụng hai hệ thống giáo dục riêng biệt. Hệ thống Đông Cameroon dựa trên mô hình của Pháp, Tây Cameroon dựa trên mô hình của Anh. Hai hệ thống này đã được sáp nhập với nhau năm 1976. Các trường dòng Thiên chúa giáo luôn đóng một vai trò quan trọng trong hệ thống giáo dục. Cameroon nổi tiếng vì có một trong những hệ thống giáo dục tốt nhất châu Phi. Giáo dục tiểu học là tự do và bắt buộc. Những con số thống kê cho thấy 70% trẻ em trong độ tuổi 6-12 tới trường, trong khi 79% dân cư Cameroon biết đọc, viết. Ở những vùng phía nam đất nước hầu như toàn bộ trẻ em ở tuổi đến trường đều đi học. Tuy nhiên, ở phía bắc, là những vùng biệt lập nhất tại Cameroon, con số này thấp hơn nhiều. Đa số học sinh Cameroon không học quá mức tiểu học. Đất nước này có nhiều viện đào tạo giáo viên và kỹ thuật. Mức giáo dục cao nhất là trường Đại học Yaoundé. Tuy nhiên, hiện nay có một khuynh hướng ngày càng phát triển là những sinh viên giỏi nhất, giàu có nhất đều đi ra sống tại nước ngoài, gây ra tình trạng chảy máu chất xám. == Liên kết ngoài == Giáo dục The Cameroonian Association of Engineers and Computer Scientists Web site of the Association of Cameroonian Engineers in Germany Chính phủ Presidency of the Cộng hòa of Cameroon official government site National Assembly of Cameroon official site NGO's & Community Initiative Groups North West Women in Agriculture & Development official site Tin tức allAfrica - Cameroon news headline links CRTV - Cameroon Radio Television state-run The Post - leading newspaper in English, published in Buea Le Messager privately-owned newspaper (bằng tiếng Pháp) Radio Siantou privately-owned radio (in French and English) [1] [2] Tổng quan BBC News - Country Profile: Cameroon Encyclopaedia Britannica's Cameroon Country Page CIA World Factbook - Cameroon Ngôn ngữ List of 280+ languages of Cameroon Các nhóm dân tộc Baka Pygmies of Cameroon Culture and music of the first inhabitants of Cameroon Anthropological researches in Cameroon Fieldwork among Cameroonian populations The Bamileke people of Cameroon The Bakweri People of the former British Cameroons Chỉ dẫn CMCLICK Online! Cameroon Portal - Cameroon Cameroon Internet Community. Cameroon Business Directory. Cameroon Information. Cameroon Culture. Open Directory Project - Cameroon directory category Stanford University - Africa South of the Sahara: Cameroon directory category University of Pennsylvania - African Studies Center: Cameroon directory category Yahoo! - Cameroon directory category Du lịch Cameroon tourism Information and pictures Cameroon In Colour Cameroon pictures. Largest Online picture collection of Cameroon. Images of Cameroon. Cameroon Photos.
mutua madrid open 2017 - đôi nữ.txt
Cặp đôi Caroline Garcia và Kristina Mladenovic là đương kim vô địch, nhưng Garcia không tham gia giải năm nay. Mladenovic đứng chung đôi với Svetlana Kuznetsova, nhưng thua ở vòng một trước Kiki Bertens và Johanna Larsson. Chan Yung-jan và Martina Hingis dành danh hiệu Premier Mandatory thứ hai của họ trong năm, đánh bại Tímea Babos và Andrea Hlaváčková ở chung kết với tý số 6–4, 6–3. == Hạt giống == 4 đôi hạt giống đầu tiên được đặc cách vào vòng hai. == Draw == === Chú giải === === Chung kết === === Nửa trên === === Nửa dưới === == Tham khảo == Main Draw Bản mẫu:2017 WTA Tour
kiev.txt
Kiev, hay Kyiv, (tiếng Ukraina: Київ Kyyiv; tiếng Nga: Ки́ев Kiyev) là thủ đô và là thành phố lớn nhất của Ukraina. Thành phố tọa lạc tại Bắc Trung bộ của quốc gia này, dọc hai bên bờ sông Dnepr. Với dân số 2.847.200 (7/2013), Kiev trải rộng trên diện tích 839 km². Nếu tính cả số dân đăng ký không chính thức thì dân số của Kiev là 3 triệu người Kiev là thành phố trực thuộc trung ương, không thuộc trong khu vực hành chính tỉnh Kiev. Kiev là một trung tâm công nghiệp, khoa học và văn hóa của Đông Âu. Nơi đây có nhiều viện nghiên cứu, trường đại học và nhiều di tích lịch sử nổi tiếng trên thế giới. Giao thông thành phố phát triển cao, nhất là giao thông công cộng như xe buýt, tàu điện ngầm. Tên của thành phố bắt nguồn từ tên của Kyi, là một trong 4 người sáng lập thành phố. Thành phố Kiev một trong những thành phố lâu đời nhất Đông Âu đã trải qua nhiều giai đoạn thăng trầm và những biến cố lịch sử. Thành phố là 1 trung tâm thương mại vào đầu thế kỷ thứ 5. Là một khu định cư của người Slav ở trên con đường thương mại giữa Scandinavia và Constantinopolis, Kiev là một nhánh của Khazars, cho đến khi bị những người Varangia (Vikings) chiếm giữ vào thế kỷ 9. Dưới thời cai trị của Varangia, thành phố đã trở thành thủ phủ của Rus', quốc gia Đông Slav đầu tiên. Hoàn toàn bị phá hủy trong thời kỳ xâm lược của người Mông Cổ vào năm 1240, thành phố mất hết ảnh hưởng của mình trong hàng thế kỷ sau đó. Lãnh thổ của nó bị kiểm soát bởi các cường quốc hùng mạnh; ban đầu là Đại Công quốc Litva, sau đó là bởi Ba Lan và Đế quốc Nga. Thành phố thịnh vượng một lần nữa trong thời kỳ cách mạng công nghiệp của Đế quốc Nga cuối thế kỷ 19. Năm 1917, sau khi Cộng hòa Dân tộc Ukraina tuyên bố độc lập khỏi Đế quốc Nga, Kiev trở thành thủ đô. Từ năm 1921 trở về sau, Kiev là một thành phố quan trọng của Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô Viết Ukraina và từ 1934 là thủ đô nước cộng hòa này. Trong thế chiến II, thành phố lại bị hư hại nhưng nhanh chóng hồi phục trong những năm sau chiến tranh, là thành phố lớn thứ 3 ở Liên Xô. Sau sự sụp đổ của Liên Xô, Ukraina giành độc lập, Kiev là thủ đô của Ukraina. Sau sự sụp đổ của Liên Xô và người Ukraina giành được độc lập vào năm 1991, Kiev vẫn là thủ đô của Ukraina và tiếp nhận đều đặn làn sóng người di cư từ các vùng khác của đất nước. Trong quá trình chuyển đổi đất nước sang nền kinh tế thị trường và dân chủ, Kiev vẫn tiếp tục là lớn nhất và giàu có nhất thành phố của Ukraina. Sản lượng công nghiệp về trang bị vũ khí quân sự giảm mạnh khi Liên Xô sụp đổ, nhưng nó cũng là động lực để nền kinh tế phát triển sang lĩnh vực mới như các dịch vụ tài chính và tiếp tục tạo tăng trưởng cho Kiev. Là hành lang kết nối Đông và Tây châu Âu Kiev nhận được sự đầu tư lớn và liên tục vào nhà ở và cơ sở hạ tầng đô thị, là nơi chịu ảnh hưởng đan xen của lực lượng ủng hộ xích gần với phương Tây và lực lượng muốn giữ quan hệ với Nga trong không gian thuộc Liên Xô cũ. == Nguồn gốc tên gọi == Là một thành phố nổi tiếng với bề dày lịch sử, tên tiếng Anh của nó là hình thành dần dần theo thời gian. Cách viết tiếng Anh đầu được bắt nguồn từ ngôn ngữ cổ của Đông Slav với cái tên là Kyjev (Cyrillic: Къıєвъ) là tên của Kyi (Кий), người sáng lập huyền thoại của thành phố. Cái tên Kyiv/Kiev có nghĩa là "thuộc về Kyi". == Lịch sử == Kiev là một trong những thành phố cổ nhất của Đông Âu, từng đóng một vai trò quan trọng trong sự phát triển của nền văn minh Đông Slav thời trung cổ cũng như trong quốc gia Uraine hiện đại. Người ta tin rằng Kiev được thành lập vào cuối thế kỷ thứ 9. Nguồn gốc của thành phố đang bị che phủ bởi những huyền sử, một trong số đó nói về sự thành lập của 1 bộ tộc Slav lãnh đạo đạo bởi Kyi. Kyi là người lớn tuổi nhất trong các anh em của mình, Kyi có 2 người em trai là Shchek và Khoryv, và 1 em gái là Lybid, là người sáng lập thành phố (The Primary Chronicle). Người ta tìm thấy trong tài liệu của Ptolemy có ghi tên của thành phố là Metropotity (TK thứ 2). 1 truyền thuyết khác nói rằng thánh Andrew qua khu vực này và ông dựng lên ở nơi đây một cây thánh giá, xây dựng một nhà thờ. Từ thời Trung cổ hình ảnh của thánh Michael đại diện cho thành phố cũng như đất đai của các vị công tước. Người Slav định cư rải rác xung quanh khắp khu vực này từ thế kỷ thứ 6. Có rất ít bằng chứng lịch sử liên quan đến thời gian khi thành phố được thành lập và đượcj phát triên sau đó. Vào thế kỷ thứ 8, có nhiều công sự được xây dựng trên khu vực người Slav sinh sống đã bị bỏ hoang cả vài thập kỷ. == Địa lý == Về mặt địa lý, Kiev thuộc vùng sinh thái Polesia (một phần của rừng gỗ hỗn hợp châu Âu). Tuy nhiên, cảnh quan độc nhất của thành phố khác biệt với vùng xung quanh. Kiev nằm ở bai bên sông Dnieper, sông này chảu về phía nam và đổ vào biển Đen. Phần bên bờ phải hay bờ tây cổ hơn, đặc trưng bởi những đồi gỗ, kheo nút và các sông nhỏ. Kiev đã mở rộng về phía vùng đất thấp của bờ trái (về phía đông) chỉ trong thế kỷ 20. Những vùng quan trọng của thung lũng Dnieper thuộc bờ trái được tích tụ bởi cát nhân tạo và được bảo vệ bởi các đập. Sông Dnieper hình thành hệ thống phụ lưu, doi, và cảng bên trong ranh giới thành phố. Địa hình thành phố là cầu nối giữa sông Desna và hồ chứa Kiev ở phía bắc, và hồ chứa Kaniv ở phía nam. Cả hai sông Dnieper và Desna đều có thể đi đến Kiev, mặc dù bị hạn chế bởi quy định vật hành khóa thuyền của các hồ chứa và giới hạn bị đóng băng trong mùa đông. Tổng cộng có 448 vực nước mở trong ranh giới Kiev, bao gồm sông Dnieper, các hồ chứa nước, và nhiều sông nhỏ, hàng chục hồ và các hồ nhân tạo. Chúng chiếm 7949 ha lãnh thổ. Thêm vào đó, điểm nổi bật của thành phố là 16 bãi biển nhân tạo (tổng 140 ha) và 35 khu vui chơi giải trí gần vực nước (chiếm hơn 1000 ha). Nhiều vực nước được sử dụng cho các trò chơi giải trí, mặc dù một số không thích hợp cho bơi lội. Theo đánh giá của UN năm 2011, không có những mối nguy hiểm về các thảm họa tự nhiên ở Kiev và vùng đô thị Kiev === Khí hậu === Kiev có khí hậu lục địa ẩm (Köppen Dfb). Các tháng ấm nhất là tháng 6, 7, và 8 với nhiệt độ trung bình 13,8 đến 24,8 độ C. Các tháng lạnh nhất là tháng 12, 1, và tháng 2 với nhiệt độ trung bình -4,6 đến -1,1 độ C. Nhiệt độ cao nhất ghi nhận được là 39,4° vào 31 tháng 7 năm 1936. Nhiệt độ lạnh nhất ghi nhận được là -32,2 °C vào ngày 7 & 9 tháng 2 năm 1929. Tuyết thường phủ từ giữa tháng 11 đến cuối tháng 3, với thời gian đóng băng kéo dài trung bình 180 ngày, nhưng không quá 200 ngày trong những năm gần đây. == Nhân chủng học == Theo thống kê dân số chính thức, thành phố có 2.847.200 dân đến tháng 7 năm 2013 === Lịch sử dân số === Theo thống kê năm 2001, dân số Kiev là 2.611.300. Những thay đổi về dân số thể hiện trong bảng kế bên. Theo thống kê, nam là 1.219.000 hay 46,7%, và 1.393.000 người hay 53,3%. So với số thống kê năm 1989, dân số thành phố đang trong tình trạng lão hóa, trong khi phổ biến trong cả nước thì một lượng đáng kể dân Kiev được bù bởi dòng người di cư trong độ tuổi lao động từ những vùng khác. Có khoảng 1.069.700 dân có trình độ trên hoặc đã hoàn thành trung học, tăng 21,7% so với năm 1989. Một đáng giá về dân số không chính thức tháng 6 năm 2007 dựa trên lượng sản phẩm bánh ngọt bán ra trong thành phố (số liệu này bao gồm cả khách và người đi đường) với con số ít nhất 3,5 triệu. === Thành phần dân tộc === Theo số liệu thống kê năm 2001, có hơn 130 quốc tịch và các nhóm dân tộc sống bên trong lãnh thổ Kiev. Người Ukraina là nhóm dân tộc lớn nhất ở Kiev với khoảng 2.110.800 người, chiếm 82,2% dân số thành phố. Các sắc dân khác: người Nga 337.300 người (13,1%), người Do Thái 17.900 (0,7%), người Belarus 16.500 (0,6%), người Ba Lan 6.900 (0,3%), người Armenia 4.900 (0,2%), người Azerbaijan 2.600 (0,1%), người Tatar 2.500 (0,1%), Người Gruzia 2.400 (0,1%), người Moldova 1.900 (0,1%). Cả hai thứ tiếng Ukraina và Nga được sử dụng phổ biến trong thành phố; khoảng 75% dân số Kiev nói họ sử dụng tiếng Ukraina làm tiếng mẹ đẻ theo số liệu năm 2001, gần 25% người coi tiếng Nga là tiếng mẹ đẻ. Theo một cuộc khải sát năm 2006, tiếng Ukraina được 23% người Kiev sử dụng ở nhà, 52% tiếng Nga và 24% dùng cả hai. Trong cuộc khải sát xã hội học năm 2003, khi được hỏi 'ngôn ngữ nào bạn sử dụng trong cuộc sống hàng ngày?', 52% nói họ 'chủ yếu dùng tiếng Nga', 32% 'cả hai Nga và Ukraina sử dụng ngang nhau', 14% 'chủ yếu dùng tiếng Ukraina', và 4,3% 'chỉ sử dụng tiếng Ukraina'. == Tham khảo == == Liên kết ngoài == === Thông tin chung === Київська міська державна адміністрація - trang web chính thức của chính quyền thành phố (tiếng Ukraina) Kyiv tourist - trang du lịch chính thức === Kiev hay Kyiv? === ==== Các tài liệu chính thức ==== Kiev or Kyiv? – Resolution of the Ukrainian commission for legal terminology U.S. Board of Geographic Names Decision to Change Official Spelling of Kiev to Kyiv originally at U.S. Board of Geographic Names Decision to Change Official Spelling of Kiev to Kyiv ==== Tài liệu khác ==== Adam Taylor (ngày 24 tháng 1 năm 2014). “Is It Time For The West To Stop Calling It 'Kiev' And Start Calling It 'Kyiv'?”. Business Insider. Truy cập ngày 13 tháng 2 năm 2014. Kiev or Kyiv? Turin or Torino? – Bài viết của CBC News về các tên gọi của thành phố Fred Weir, Kiev or Kyiv: language an issue in Ukraine. Kyiv, of Course! – Bộ sưu tập tài liệu chính thức về sử dụng tên gọi "Kyiv".
vanadi.txt
Vanadi (tên La tinh: Vanadium) là một nguyên tố hóa học đặc biệt trong bảng tuần hoàn có ký hiệu V và số hiệu nguyên tử 23. Nó làm chất xúc tác cho nhiều phản ứng hóa học. Là một kim loại hiếm, mềm và dễ kéo thành sợi, vanađi là một thành phần được tìm thấy trong nhiều khoáng chất và được sử dụng để sản xuất một số hợp kim. == Lịch sử == Vanadi được phát hiện năm 1801 bởi Andrés Manuel del Río, một nhà khoáng vật học Mexico sinh tại Tây Ban Nha. Del Río tách nguyên tố từ một mẫu quặng "chì đen" Mexico, sau đó được đặt tên là vanadinit. Ông phát hiện rằng các muối của nó có nhiều màu khác nhau, và sau đó ông đặt tên cho nguyên tố là panchromium (Greek: παγχρώμιο "tất cả màu sắc"). Sau đó, Del Río đổi tên thành erythronium (Greek: ερυθρός "màu đỏ") do hầu hết các muối của nó chuyển sang màu đỏ khi nung. Năm 1805, nhà hóa học Pháp Hippolyte Victor Collet-Descotils, được sự ủng hộ bởi người bạn của Río là Baron Alexander von Humboldt, đã tuyên bố không chính xác rằng nguyên tố mới do Río phát hiện chỉ là một mẫu crom không tinh khiết. Del Río đồng ý đề nghị của Collet-Descotils, và rút lại tuyên bố của mình. Năm 1831, nhà hóa học Thụy Điển, Nils Gabriel Sefström, phát hiện lại nguyên tố ở dạng ôxit mới, ông phát hiện ra nó khi xử lý với quặng sắt. Cuối năm đó, Friedrich Wöhler xác nhận rằng công trình trước đây của del Río. Sefström chọn tên bắt đầu bằng ký tự V, lúc này chưa đặt cho nguyên tố nào khác. Ông gọi nguyên tố đó là vanadium theo tên của Old Norse Vanadís, do nhiều hợp chất hóa học có màu sắc đẹp mà nó tạo ra. Năm 1831, nhà địa chất học George William Featherstonhaugh đề nghị rằng vanadium nên được đổi tên là "rionium" theo tên của del Río, nhưng đề nghị này không được ủng hộ. Việc cô lập kim loại vanadi gặp khó khăn. Năm 1831, Berzelius thông báo về việc sản xuất kim loại, như Henry Enfield Roscoe cho biết rằng Berzelius đã tạo ra được nhưng thực chất là một nitrua, vanadi nitrua (VN). Roscoe từ từ đã tạo ra kim loại năm 1867 bằng cách khử vanadi(II) clorua, VCl2, với hydro. Năm 1927, vanadi nguyên chất được tạo ra bằng cách khử vanadi pentoxit với canxi. Lượng vanadi dùng trong công nghiệp với quy mô lớn đầu tiên trong thép được tìm thấy trong khung của Ford Model T, lấy cảm hứng từ các xe đua của Pháp. Thép vanadi làm giảm trọng lượng và tăng độ bền kéo. == Đặc điểm == Vanadi là một kim loại màu xám bạc mềm, dễ uốn. Nó có khả năng chống ăn mòn tốt, và bền đối với các chất kiềm và các axít sulfuric và axít clohiđric. Nó bị ôxy hóa trong không khí ở 933 K (660 °C, 1220 °F), mặc dù một lớp ôxít được tạo thành ở nhiệt độ phòng. === Đồng vị === Vanadi xuất hiện trong tự nhiên là hỗn hợp của một đồng vị bền 51V và một đồng vị phóng xạ 50V. Đồng vị phóng xạ có chu kỳ bán rã 1,5×1017 năm và chiềm 0,25%.51V có spin hạt nhân 7/2, có ích cho quang phổ học NMR. Có 24 đồng vị nhân tạo đã được miêu tả đặc điểm với số khối từ 40 đến 65. Đồng vị bền nhất trong số này là 49V, có chu kỳ bán rã 330 ngày, và 48V là 16,0 ngày. Tất cả các đồng vị phóng xạ còn lại có chu kỳ bán rã nhỏ hơn 1 giờ, và đa số trong đó có chu kỳ bán rã nhỏ hơn 10 giây. Có ít nhất 4 đồng vị có các trạng thái kích thích. Bắt electron là cơ chế phân rã chính đối với các đồng vi nhẹ hơn 51V, còn các đồng vị nặng hơn thì cơ chế chủ yếu là phân rã beta. Các phản ứng bắt electron sẽ tạo thành các đồng vị của nguyên tố 22 (titan), trong khi phân rã beta thì tạo thành các đồng vị của nguyên tố 24 (crom). === Các hợp chất === Đặc điểm hóa học của vanadi đáng chú ý là 4 trạng thái ôxy hóa. Các trạng thái ôxy hóa phổ biến nhất là +2 (tử đinh hương), +3 (lục), +4 (lam) và +5 (vàng). Các hợp chất vanadi(II) là các hất khử, và vanadi(V) là các chất ôxy hóa, trong khi các hợp chất vanadi(IV) thường tồn tại dạng các dẫn xuất vanadyl chứa VO2+ ở tâm. vanadat(V) ammoni (NH4VO3) có thể bị hoàn toàn với kẽm tạo ra các màu khác nhau của vanadi ở bốn trạng thái ôxy hóa phổ biến. Các trạng thai ôxy hóa thấp hơn ở dạng hợp chất như V(CO)6, [V(CO)6]− và các dẫn xuất bị thay thế. Pin khử vanadi kết hợp các trạng thái ôxy hóa này; sự chuyển đổi của các trạng thái ôxy hóa này được minh họa bởi sự khử của các dung dịch axit mạnh của hợp chất vanadi(V) với bột kẽm. Đặc điểm màu vàng ban đaa62u của ion vanadat, VO3−4, bị thay thế bằng màu xanh dương của [VO(H2O)5]2+, sau đó là màu lục của [V(H2O)6]3+ và sau cùng là màu tím của [V(H2O)6]2+. Hợp chất thương mại quan trọng nhất là vanadi pentôxít, được dùng làm chất xúc tác trong sản xuất axit sulfuric. Hợp chất này ôxy hóa sulfur điôxít (SO2) tạo thành trioxit (SO3). Trong phản ứng ôxy hóa khử này, lưu huỳnh bị ôxy hóa từ trạng thái +4 thành +6, và vanadi bị khử từ +5 xuống +3: V2O5 + 2 SO2 → V2O3 + 2 SO3 Chất xúc tác được tạo thành bằng cách ôxy hóa vanadi trong không khí: V2O3 + O2 → V2O5 == Tham khảo == == Liên kết ngoài == The periodic table of videos videos of the chemistry of the elements WebElements.com – Vanadium ATSDR – ToxFAQs: Vanadium
hệ ngôn ngữ nam á.txt
Ngữ hệ Nam Á hay hệ ngôn ngữ Nam Á là một tổng hợp bao gồm khoảng 168 ngôn ngữ (theo Ethnologue) tại miền nam của châu Á, tập trung tại Đông Nam Á và rải rác tại Ấn Độ cùng Bangladesh. == Hiện trạng == Ngôn ngữ có nhiều người dùng nhất trong hệ thống này là tiếng Việt, với trên 80 triệu người, sau đó là tiếng Khmer, với khoảng 16 triệu người. Trong số các ngôn ngữ của ngữ hệ, chỉ có tiếng Việt, tiếng Khmer và tiếng Môn là có lịch sử được ghi chép lại lâu dài và chỉ có tiếng Việt cùng tiếng Khmer là các ngôn ngữ có địa vị ngôn ngữ chính thức ở cấp độ quốc gia (tương ứng tại Việt Nam và Campuchia). Riêng tiếng Santal tuy không phải là ngôn ngữ phổ biến ở cấp quốc gia vẫn được phụ lục 8 của hiến pháp Ấn Độ công nhận là 1 trong nhiều quốc ngữ của nước này. Một vài ngôn ngữ Nam Á khác ở Ấn Độ như tiếng Munda, các ngôn ngữ Nicobar, tiếng Ho và tiếng Khasi cũng đang được đề xuất thêm vào phụ lục trên. Ở cấp bang, tiếng Khasi cũng là một trong các ngôn ngữ chính thức và là ngôn ngữ phổ biến nhất tại bang Meghalaya, Ấn Độ. Ngoài ra tiếng Santal, tiếng Ho và tiếng Munda cũng là 2 trong số các ngôn ngữ chính thức của bang Jharkhand, Ấn Độ. Còn tại Myanmar, do tình hình nội chiến, nên người Wa duy trì được 1 lãnh thổ bán độc lập với chính quyền trung ương gọi là Bang Wa, tiếng Wa do vậy là ngôn ngữ chính thức trên thực tế ở đây dù không được chính phủ Myanmar công nhận. Các ngôn ngữ còn lại chỉ được một thiểu số người sử dụng và không có địa vị chính thức. == Khái quát == Các ngôn ngữ trong ngữ hệ này có sự phân bố rời rạc xuyên suốt Ấn Độ, Bangladesh và Đông Nam Á, bị chia tách theo các khu vực trong đó các ngôn ngữ thuộc các ngữ hệ khác được sử dụng. Người ta nói chung cho rằng các ngôn ngữ trong ngữ hệ Nam Á là các ngôn ngữ bản địa của khu vực Đông Nam Á và miền đông tiểu lục địa Ấn Độ, còn các ngôn ngữ khác trong khu vực, bao gồm các ngôn ngữ của ngữ hệ Ấn-Âu, ngữ hệ Tai-Kadai, ngữ hệ Dravida và ngữ hệ Hán-Tạng chỉ là kết quả của các đợt di cư muộn hơn của con người. Chẳng hạn, tồn tại các từ nguồn gốc từ ngữ hệ Nam Á trong các ngôn ngữ Tạng-Miến ở miền đông Nepal. Một số nhà ngôn ngữ học; như Wilhelm Schmidt hay Paul K. Benedict; cố gắng chứng minh rằng ngữ hệ Nam Á có liên quan với ngữ hệ Nam Đảo (Austronesia), và như thế tạo thành một siêu hệ ngôn ngữ gọi là Austric. Ngữ hệ Nam Á được biết đến vì kiểu "âm tiết rưỡi" (hay "bán âm tiết"), với các danh từ và động từ cơ bản bao gồm một âm tiết đầy đủ cộng với một âm tiết phụ giảm nhẹ. Nhiều từ trong số này cũng có các trung tố. == Phân loại == Theo truyền thống, các nhà nghiên cứu ngôn ngữ chia hệ Nam Á thành 2 nhóm chính gọi là Munda (Đông và Trung Ấn Độ cùng Bangladesh) và Môn-Khmer (Đông Nam Á, đông bắc Ấn Độ và quần đảo Nicobar), nhưng hai nghiên cứu phân loại gần đây đã loại bỏ nhánh Mon-Khmer như là một nút hợp lệ, mặc dù nó vẫn chưa được công nhận chắc chắn và rộng khắp. === Truyền thống === Theo truyền thống, các nhà nghiên cứu ngôn ngữ chia hệ Nam Á thành 2 nhóm chính gọi là Munda (Đông và Trung Ấn Độ cùng Bangladesh) và Môn-Khmer (Đông Nam Á, đông bắc Ấn Độ và quần đảo Nicobar). Tuy nhiên, không có chứng cứ nào cho kiểu phân loại này đã từng được công bố, và rất có thể là phân loại ngôn ngữ này chịu ảnh hưởng từ nhận thức chủ quan của các nhà nghiên cứu về sự phân đôi theo chủng tộc giữa những người nói các ngôn ngữ theo truyền thống được gọi là nhóm Mon-Khmer và những người theo truyền thống được gọi là nhóm Munda. Mỗi một nhóm được viết chữ đậm dưới đây được chấp nhận như là nhánh hợp lệ. Tuy nhiên, các mối quan hệ giữa các nhóm này trong phạm vi ngữ hệ Nam Á vẫn gây tranh cãi. Munda: bao gồm khoảng 20 ngôn ngữ tại miền đông của Ấn Độ. Nhóm này được chia ra làm 2 nhánh: Nhánh phía Bắc Nhánh phía Nam Môn-Khmer: bao gồm khoảng 150 ngôn ngữ đa số tập trung tại Đông Nam Á. Nhóm này được chia ra làm các nhánh sau đây: Khasi Khơ Mú Palaung Tiếng Mảng tại Việt Nam. Ba Na Cơ Tu (Katu) Pear Tiếng Khmer của Campuchia. Asli Môn Nicobar Việt (Việt-Mường) Tiếng Palyu === Đề xuất gần đây === Bổ sung cho kiểu phân loại truyền thống là 2 đề xuất gần đây, trong đó không một đề xuất nào chấp nhận nhóm Môn-Khmer truyền thống như là một đơn vị phân loại hợp lệ. Cũng cần lưu ý rằng chỉ một ít dữ liệu (được sử dụng cho các phân loại cạnh tranh lẫn nhau này) đã từng được công bố, và vì thế hiện tại không thể đánh giá chúng theo kiểu xem xét phê bình ngang hàng. ==== Gérard Diffloth (2005) ==== Diffloth so sánh các tái tạo của các nhánh khác nhau và cố gắng phân loại chúng dựa theo các điểm mới được chia sẻ. Dưới dạng sơ đồ như sau: Hay biểu diễn chi tiết như sau: Munda (Ấn Độ) Koraput: 7 ngôn ngữ Munda lõi Kharia-Juang: 2 ngôn ngữ Bắc Munda Korku Kherwari: 12 ngôn ngữ Nhóm Khasi-Khơ Mú (Bắc Môn-Khmer) Khasi: 3 ngôn ngữ miền đông Ấn Độ và Bangladesh Nhóm Khơ Mú Khơ Mú: 13 ngôn ngữ tại Lào, Thái Lan và Việt Nam Nhóm Palaung-Pakan Pakan hay Palyu: 4-5 ngôn ngữ miền nam Trung Quốc và Việt Nam Palaung: 21 ngôn ngữ tại Myanma, miền nam Trung Quốc, Thái Lan Môn-Khmer hạt nhân Nhóm Khmer-Việt (Đông Môn-Khmer) Nhóm Việt-Katu ?Việt: 10 ngôn ngữ tại Việt Nam và Lào, bao gồm cả tiếng Việt, ngôn ngữ đông người sử dụng nhất trong ngữ hệ Nam Á. Nhóm này cũng là nhóm ngôn ngữ duy nhất trong ngữ hệ Nam Á có hệ thống thanh điệu phát triển cao. Katu: 19 ngôn ngữ tại Lào, Việt Nam, Thái Lan. Nhóm Khmer-Ba Na Ba Na: 40 ngôn ngữ tại Việt Nam, Lào, Campuchia. Nhóm Khmer Các phương ngữ Khmer tại Campuchia, Thái Lan, Việt Nam. Pear: 6 ngôn ngữ tại Campuchia. Nhóm Nicobar-Môn (Nam Môn-Khmer) Nicobar: 6 ngôn ngữ tại quần đảo Nicobar, lãnh thổ thuộc Ấn Độ. Nhóm Asli-Môn Asli: 19 ngôn ngữ trên bán đảo Mã Lai và Thái Lan. Môn: 2 ngôn ngữ, tiếng Môn của Myanma và tiếng Nyah Kur ở Thái Lan. ==== Gérard Diffloth (1974) ==== Phân loại của Diffloth năm 1974 được trích dẫn rộng rãi, nhưng hiện nay bị chính ông bác bỏ, được sử dụng trong Encyclopædia Britannica và trong Ethnologue (ngoại trừ phần chia tách Nam Môn-Khmer). Munda Bắc Munda Korku Kherwari Nam Munda Kharia-Juang Koraput Munda Môn-Khmer Đông Môn-Khmer Khmer (Campuchia) Pear Ba Na Katu Việt (bao gồm cả tiếng Việt, tiếng Mường) Bắc Môn-Khmer Khasi (Meghalaya, Ấn Độ) Palaung Khơ Mú Nam Môn-Khmer Môn Asli (Malaya) Nicobar (quần đảo Nicobar) ==== Ilia Peiros (2004) ==== Peiros đưa ra phân loại thống kê từ vựng, dựa trên tỷ lệ phần trăm từ vựng chia sẻ chung. Điều này có nghĩa là hai ngôn ngữ trên thực tế có thể có quan hệ họ hàng xa hơn là trên lý thuyết do tiếp xúc ngôn ngữ, vì thế chỉ nên coi nó là điểm khởi đầu cho một phân loại phả hệ chính xác hơn. Nicobar Munda-Khmer Munda Môn-Khmer Khasi Môn-Khmer hạt nhân Nhóm Mảng (Mảng + Palyu) (có lẽ trong nhánh Bắc MK) Việt (có lẽ trong nhánh Bắc MK) Bắc Môn-Khmer (Bắc MK) Palaung Khơ Mú' Trung Môn-Khmer Khmer Pear Asli-Ba Na Asli Môn-Ba Na Môn Katu-Ba Na Katu Ba Na == Ghi chú == == Tham khảo == Adams K. L. (1989). Systems of numeral classification in the Mon-Khmer, Nicobarese and Aslian subfamilies of Austroasiatic. Canberra, A.C.T., Australia: Dept. of Linguistics, Research School of Pacific Studies, Australian National University. ISBN 0-85883-373-5 Byomkes Chakrabarti, A Comparative Study of Santali and Bengali, 1994 Filbeck D. (1978). T'in: a historical study. Pacific linguistics, no. 49. Canberra: Dept. of Linguistics, Research School of Pacific Studies, Australian National University. ISBN 0-85883-172-4 Hemeling K. (1907). Die Nanking Kuanhua. (German language) Peck B. M., Comp. (1988). An Enumerative Bibliography of South Asian Language Dictionaries. Peiros Ilia. 1998. Comparative Linguistics in Southeast Asia. Pacific Linguistics Series C-142. Canberra, Australian National University. Shorto Harry L. edited by Sidwell, Paul, Cooper, Doug and Bauer, Christian (2006). A Mon-Khmer comparative dictionary. Canberra: Australian National University. Pacific Linguistics. ISBN 0-85883-570-3 Shorto H. L. Bibliographies of Mon-Khmer and Tai Linguistics. London oriental bibliographies, v. 2. London: Oxford University Press, 1963. Sidwell Paul (2005) "Proto-Katuic Phonology and the Sub-grouping of Mon-Khmer Languages". In Sidwell, ed., SEALSXV: papers from the 15th meeting of the Southeast Asian Linguistic Society. Zide Norman H., and Milton E. Barker. (1966) Studies in Comparative Austroasiatic Linguistics, The Hague: Mouton (Indo-Iranian monographs, v. 5.). == Xem thêm == Danh sách ngôn ngữ Danh sách các nước theo ngôn ngữ nói == Liên kết ngoài == Mon-Khmer.com: Bài giảng của Paul Sidwell Phân loại trên Ethnologue Ngữ tộc Môn-Khmer tại SEAlang
hướng đông.txt
Hướng Đông là một trong bốn hướng chính của la bàn, theo quy định chung trong địa lý. Ba hướng kia là hướng Tây, hướng Nam và hướng Bắc. Ở toàn cầu, Mặt Trời mọc từ phía đông và lặn về phía tây. Nếu bạn đứng thẳng trên mặt đất, nhìn thẳng về hướng Mặt Trời mọc và dang rộng hai tay, thì mắt bạn nhìn về phía đông, tay phải chỉ phía nam, tay trái chỉ phía bắc và lưng bạn hướng phía tây. == Tham khảo ==
sóc sơn.txt
Sóc Sơn là một huyện nằm ở phía bắc của thành phố Hà Nội. == Lịch sử == Huyện Sóc Sơn được thành lập trên cơ sở sáp nhập hai huyện Đa Phúc và Kim Anh thuộc tỉnh Vĩnh Phú (nay đã tách thành hai tỉnh Vĩnh Phúc và Phú Thọ) cùng với thị trấn Xuân Hòa thuộc tỉnh theo Quyết định số 178/QĐ ngày 5 tháng 7 năm 1977 của Hội đồng Chính phủ Việt Nam. Khi ấy huyện Sóc Sơn vẫn thuộc tỉnh Vĩnh Phú, gồm thị trấn Xuân Hòa và 29 xã: Bắc Phú, Bắc Sơn, Cao Minh, Đông Xuân, Đức Hòa, Hiền Ninh, Hồng Kỳ, Kim Lũ, Mai Đình, Minh Phú, Minh Trí, Nam Sơn, Nam Viêm, Ngọc Thanh, Phú Cường, Phù Linh, Phù Lỗ, Phú Minh, Phúc Thắng, Quang Tiến, Tân Dân, Tân Hưng, Tân Minh, Thanh Xuân, Tiên Dược, Trung Giã, Việt Long, Xuân Giang, Xuân Thu. Ngày 29 tháng 12 năm 1978, huyện Sóc Sơn được chuyển về Hà Nội. Ngày 17 tháng 2 năm 1979, chuyển thị trấn Xuân Hòa và 4 xã Ngọc Thanh, Cao Minh, Nam Viêm, Phúc Thắng về huyện Mê Linh quản lý (sau 5 đơn vị hành chính này trở thành thị xã Phúc Yên của tỉnh Vĩnh Phúc).. Huyện Sóc Sơn còn lại 25 xã: Bắc Phú, Bắc Sơn, Đông Xuân, Đức Hòa, Hiền Ninh, Hồng Kỳ, Kim Lũ, Mai Đình, Minh Phú, Minh Trí, Nam Sơn, Phú Cường, Phù Linh, Phù Lỗ, Phú Minh, Quang Tiến, Tân Dân, Tân Hưng, Tân Minh, Thanh Xuân, Tiên Dược, Trung Giã, Việt Long, Xuân Giang, Xuân Thu. Ngày 3 tháng 3 năm 1987, thành lập thị trấn Sóc Sơn, gồm 54 ha diện tích tự nhiên với 335 người của xã Phù Linh và 26 ha diện tích tự nhiên với 284 người của xã Tiên Dược. Như vậy, huyện Sóc Sơn có 1 thị trấn và 25 xã, giữ ổn định cho đến nay. == Địa lý == Sóc Sơn giáp thị xã Phổ Yên thuộc tỉnh Thái Nguyên về phía bắc, huyện Yên Phong thuộc tỉnh Bắc Ninh và huyện Hiệp Hòa thuộc tỉnh Bắc Giang về phía đông và đông bắc, về phía tây bắc giáp thị xã Phúc Yên tỉnh Vĩnh Phúc và phía nam giáp các huyện Mê Linh và Đông Anh của Hà Nội. == Hành chính == Huyện Sóc Sơn có thị trấn Sóc Sơn và 25 đơn vị hành chính cấp xã gồm: Bắc Phú, Bắc Sơn, Đông Xuân, Đức Hòa, Hiền Ninh, Hồng Kỳ, Kim Lũ, Mai Đình, Minh Phú, Minh Trí, Nam Sơn, Phú Cường, Phù Linh, Phù Lỗ, Phú Minh, Quang Tiến, Tân Dân, Tân Hưng, Tân Minh, Thanh Xuân, Tiên Dược, Trung Giã, Việt Long, Xuân Giang, Xuân Thu. == Đường phố == Đa Phúc Khuông Việt Lưu Nhân Chú Núi Đôi Thân Nhân Trung Võ Nguyên Giáp Võ Văn Kiệt == Giao thông == Có tuyến quốc lộ 3, quốc lộ 2, một số tuyến tỉnh lộ, đường cao tốc Hà Nội – Thái Nguyên, đường cao tốc Nội Bài – Lào Cai và đường cao tốc Nội Bài - Hạ Long - Móng Cái (quốc lộ 18) đi qua. Ở đây có sân bay quốc tế Nội Bài nằm ở phía tây quốc lộ 3. Các dự án đường sắt đô thị đi qua địa bàn huyện (dự kiến) là các tuyến số 2 (Nội Bài - Thượng Đình), tuyến số 6 (Nội Bài - Ngọc Hồi). == Du lịch == Hồ Hàm Lợn: Núi Hàm Lợn là đỉnh núi cao nhất (khoảng 462m), nằm trên dãy núi Độc Tôn thuộc địa phận Sóc Sơn - Hà Nội, cách khoảng 40 km theo hướng đường cao tốc Nội Bài. Dưới chân núi Hàm Lợn là hồ Núi Bàu rất rộng, nước trong xanh, sạch, thích hợp để các phượt thủ hoặc nhóm pic-nic cắm trại qua đêm. Trong 1,2 năm trở lên đây, núi Hàm Lợn trở thành một địa chỉ khá nổi trong giới phượt Đền Sóc: đền thờ Thánh Gióng một vị thánh có công đánh đuổi giặc Ân sang xâm lược nước Văn Lang vào đời vua Hùng Vương thứ sáu. sau khi đánh đuổi quân xâm lược ông đã phi ngựa đến chân núi Sóc Sơn, ghìm cương, cởi giáp và nón treo lên một cành cây, rồi quay chào bốn phía quê hương. Cả người lẫn ngựa từ từ bay thẳng lên trời, từ bấy đến giờ không còn thấy trở về dân gian. Từ đó hàng năm người dân tổ chức hội đền Sóc Sơn vào ngày mồng 6 tháng giêng âm lịch. Hiện nay, trên đỉnh núi Đá Chồng, Thành phố Hà Nội và Giáo hội Phật giáo Việt Nam đã xây dựng Tượng đài Thành Gióng bằng đồng cao hơn 10 m, nặng gần 80 tấn. Người xưa có câu thơ về đền Sóc và Thánh Gióng: Sóc Sơn là ngọn núi nàoCó ông Thánh Gióng bay vào trời xanh. Chùa Non: Chùa Non (tên chữ là Sóc Thiên Vương Thiền tự) nằm trong quần thể khu di tích Ðền Sóc ở độ cao hơn 110 m so với chân núi. Chùa nằm chính giữa dãy nũi hình vòng cung, tựa như người ngồi trên chiếc ngai, hướng nhìn xuống vùng hồ nước trong xanh, và những xóm làng trù phú của xã Phù Linh, huyện Sóc Sơn, Hà Nội. Theo Thuyền Uyển Tập Anh và Ðại Việt Sử ký toàn thư, vị thiền sư đầu tiên trụ trì chùa này tên là Ngô Chân Lưu (933-1011), hậu duệ của Ngô Quyền. Năm 971, được vua Ðinh Tiên Hoàng phong hiệu Khuông Việt Quốc sư. Ðó là vị thiền sư đầu tiên được Nhà nước phong kiến phong tặng danh hiệu Quốc sư. Lịch sử ghi nhận, vị Quốc sư này cùng Vạn Hạnh Thiền sư đã phù trợ đưa Lý Công Uẩn lên ngôi chấn hưng đất nước. Năm 1010 Lý Công Uẩn rời đô từ Hoa Lư - Ninh Bình ra Thăng Long mở đầu cho thời kỳ hưng thịnh nhất của lịch sử Nhà nước phong kiến Việt Nam. Khuông Việt Quốc sư trở thành Việt Nam tam triều Quốc sư (trải ba triều Ðinh - Lê - Lý). Chùa Non được xây dựng lại, dự kiến hoàn thành vào cuối năm nay, sẽ trở thành một trong những ngôi chùa to, đẹp nhất của Hà Nội. Pho tượng Phật tổ Như Lai bằng đồng đúc liền khối nặng 30 tấn, cao 6,50 m, nếu kể cả bệ đá, chiều cao hơn 8m được khởi công ngày 8-4 Tân Tỵ (2001) được rước từ cơ sở đúc đồng huyện Ý Yên, tỉnh Nam Ðịnh về Sóc Sơn, an tọa tại chùa Non. == Danh nhân == Lê Văn Chụp Lê Văn Cừ Hoàng Văn Đồng, chính ủy Cảnh Sát Biển Việt Nam Tiến sĩ Nguyễn Đức Khương, chủ tịch Hội các nhà khoa học và chuyên gia người Việt tại Pháp (2011-2016), Chủ tịch Hội Tài chính quốc tế Việt Nam. == Tham khảo == == Liên kết ngoài == Trang web chính thức UBND huyện Sóc Sơn Huyện Sóc Sơn trên Cổng giao tiếp điện tử thành phố Hà Nội. Bản đồ Hà Nội online Bản mẫu:Danh sách huyện thị Đồng bằng sông Hồng
puerto rico.txt
Puerto Rico (phiên âm tiếng Việt: Pu-éc-tô Ri-cô), tên gọi chính thức là Thịnh vượng chung Puerto Rico (tiếng Tây Ban Nha: Estado Libre Asociado de Puerto Rico) là một vùng quốc hải thuộc chủ quyền của Hoa Kỳ nhưng chưa được hợp nhất vào Hoa Kỳ. Puerto Rico nằm ở phía đông bắc vùng biển Caribbean, phía đông nước Cộng hòa Dominicana và phía tây Quần đảo Virgin. Lãnh thổ Puerto Rico bao gồm một quần đảo trong đó bao gồm đảo chính Puerto Rico và nhiều đảo nhỏ hơn xung quanh, lớn nhất là các đảo Vieques, Culebra và Mona. Trong nhóm 4 đảo Đại Antilles (bao gồm các đảo Cuba, Hispaniola, Jamaica và Puerto Rico), Puerto Rico là hòn đảo có diện tích nhỏ nhất nhưng lại đứng thứ ba về dân số. Tính đến năm 2008, dân số của Puerto Rico ước tính khoảng gần 4 triệu người. Lịch sử của đất nước Puerto Rico bắt đầu với những cộng đồng da đỏ bản địa, trong đó người Taino có một nền văn hóa khá phát triển và chiếm ưu thế tại hòn đảo trong thời gian dài. Năm 1493, Christopher Columbus đặt chân đến Puerto Rico trong chuyến hành trình thứ hai đến Tân thế giới. Hòn đảo này nhanh chóng được sáp nhập thành một thuộc địa của Đế chế Tây Ban Nha và những người dân da đỏ Taino dần dần bị tiêu diệt và thay thế bởi người châu Âu da trắng và các nô lệ da đen đến từ châu Phi. Trong cuộc chiến tranh Mỹ-Tây Ban Nha 1898, Mỹ chiếm đảo Puerto Rico làm thuộc địa. Ngày nay Puerto Rico là một nhà nước cộng hòa tồn tại dưới hình thức lãnh thổ thịnh vượng chung và chưa được hợp nhất chính thức vào nước Mỹ. Người dân Puerto Rico có chính phủ riêng và có một ủy viên cư dân không có quyền biểu quyết (non-voting resident commissioner) tại Quốc hội Hoa Kỳ. Tất cả người Puerto Rico đều là công dân Hoa Kỳ. Tuy nhiên người Puerto Rico không được tham gia bầu cử tổng thống Hoa Kỳ tại chính Puerto Rico nhưng họ có quyền bầu cử hay tranh cử tại bất cứ tiểu bang nào của Hoa Kỳ mà họ đến cư ngụ. Tình trạng chính trị hiện nay của hòn đảo, bao gồm khả năng trở thành một tiểu bang của Hoa Kỳ hay được độc lập, đang được bàn cãi rất nhiều tại Puerto Rico. Từ năm 1967, cử tri Puerto Rico đã bốn lần tham gia trưng cầu dân ý để xác định tình trạng của nó, nhưng đều với kết quả là giữ tình trạng như cũ cho đến cuộc trưng cầu dân ý năm 2012. Cuộc trưng cầu dân ý không có tính ràng buộc về mật pháp lý về tình trạng chính trị của hòn đảo mới nhất đã được tổ chức vào ngày 6 tháng 11 năm 2012. Kết quả là cử tri Puerto Rico đã bác bỏ sít sao tình trạng chính trị hiện tại (câu hỏi thứ nhất) và chấp thuận áp đảo việc trở thành tiểu bang của Hoa Kỳ như là một chọn lựa ưng ý (câu hỏi thứ hai). Ngoài tên gọi chính thức là Puerto Rico, người dân còn gọi hòn đảo này với tên gọi Borinquen, theo từ Borikén là cái tên người Taino bản địa gọi hòn đảo. Bên cạnh đó, Puerto Rico còn được biết đến với biệt hiệu La Isla del Encanto, có nghĩa là "Hòn đảo diệu kỳ". == Lịch sử == === Thời kỳ Tiền Columbus === Lịch sử của quần đảo Puerto Rico (tiếng Tây Ban Nha có nghĩa là "Bến cảng giàu có") trước khi Christopher Columbus khám phá ra hòn đảo được rất it người biết đến. Những hiểu biết ngày nay về những cư dân đầu tiên của hòn đảo chủ yếu được khám phá sau này bởi người Tây Ban Nha. Cuốn sách lịch sử đầy đủ đầu tiên về đất nước này được viết bởi Fray Iñigo Abbad y Lasierra vào năm 1786, 293 năm sau khi người Tây Ban Nha đầu tiên đặt chân lên hòn đảo. Những cư dân đầu tiên của đảo Puerto Rico là những thổ dân da đỏ thuộc bộ lạc Ortoiroid làm nghề sắn bắt và đánh cá. Những di chỉ tìm được về người Ortoiroid, hay người Arcaico được phát hiện năm 1990 được xác định có niên đại 2000 năm trước công nguyên. Trong khoảng giữa năm 120 và 400 sau công nguyên, người Igneri, một bộ lạc xuất xứ từ vùng châu thổ sông Orinoco, nơi ngày nay là Venezuela đã đến hòn đảo này. Giữa thế kỉ 4 và thế kỉ 10, người Arcaico và người Igneri đã cũng tồn tại trên hòn đảo, nhưng cũng có lẽ đã xung đột với nhau. Trong khoảng giữa thế kỉ 7 và thế kỉ 10, nền văn hóa Taino bắt đầu phát triển mạnh mẽ trên hòn đảo và đến khoảng năm 1000 thì lấn át hoàn toàn các nền văn hóa trước đó. Giai đoạn phát triển thịnh vượng của người Taino kéo dài cho đến khi người châu Âu phát kiến ra châu Mỹ năm 1492. === Thuộc địa của Tây Ban Nha === Ngày 19 tháng 11 năm 1493, Christopher Columbus trong chuyến thám hiểm lần thứ hai của mình đã phát hiện ra đảo Puerto Rico. Lúc này, cư dân của hòn đảo là những người da đỏ châu Mỹ thuộc nền văn hóa Taino và họ gọi hòn đảo của mình là "Borikén", hay trong tiếng Tây Ban Nha là "Boriquen". Columbus đã đặt cái tên mới cho hòn đảo là San Juan Bautista để tưởng niệm thánh John Baptist. Sau đó, hòn đảo được đổi tiên thành Puerto Rico còn San Juan thì trở thành tên thủ phủ của hòn đảo. Năm 1508, Juan Ponce de Leon trở thành thống đốc đầu tiên của đảo Puerto Rico. Người Tây Ban Nha nhanh chóng chiếm toàn bộ đảo Puerto Rico làm thuộc địa. Những người thổ dân Taino hoặc bị giết trong những trận chiếm đẫm máu mà ưu thế thuộc về người Tây Ban Nha hay những bệnh dịch chết người từ châu Âu mà họ chưa tiếp xúc bao giờ, hoặc bị người Tây Ban Nha bắt làm nô lệ. Dân số Taino sụt giảm nhanh chóng đã buộc người Tây Ban Nha phải buôn nô lệ da đen từ châu Phi sang làm việc. Puerto Rico do vị trí địa lý chiến lược của mình trở thành một pháo đài phòng thủ quan trọng cho hệ thống thuộc địa to lớn của Tây Ban Nha tại Mỹ Latinh. Nhiều đồn lũy và các bức tường thành lớn được xây dựng như La Fortaleza, El Castillo, San Felipe del Morro hay El Castillo de San Cristobal để bảo vệ Puerto Rico khỏi sự dòm ngó của các cường quốc thù địch như Pháp, Hà Lan và Anh. Những nước này cũng từng cố chiếm Puerto Rico những đều không thành công. Tuy nhiên, sự giàu có tài nguyên của Puerto Rico chủ yếu mang lại sự thịnh vượng cho chính quốc chứ cư dân hòn đảo thì sống trong tình trạng nghèo khó. Cuộc chiến tranh Iberia nổ ra giữa Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha và Anh với quân Pháp đã tạo điều kiện cho nhiều thuộc địa của Tây Ban Nha ly khai đòi độc lập. Năm 1809, Ủy ban Trung ương Tối cao tại Cadiz ra quyết định công nhận Puerto Rico là một tỉnh hải ngoại của Tây Ban Nha và đảo này có quyền gửi đại diện đến quốc hội Tây Ban Nha. Tuy nhiên chính sách tiến bộ này chỉ được thực thi trong khoảng các năm 1810-1814 và 1820-1823 rồi bãi bỏ do sự trở lại nắm quyền của triều đình quân chủ của vua Ferdinand VII. Tuy nhiên nó cũng đã góp phần nâng cao tính dân tộc của người dân hòn đảo. Cuối thế kỉ 19, Puerto Rico và Cuba là hai thuộc địa cuối cùng còn ở lại với Tây Ban Nha tại châu Mỹ. Tuy nhiên, mâu thuẫn chính trị và sự nghèo đói của hòn đảo đã càng làm căng thẳng thêm mối quan hệ với chính quốc Tây Ban Nha. Năm 1868, cuộc nổi dậy "Grito de Lares" nổ ra tại thị trấn Lares, được lãnh đạo bởi người anh hùng Ramon Emeterio Betances, "người cha" của phong trào độc lập cho Puerto Rico. Nhưng khi tiến sang thị trấn San Sebatian, cuộc khởi nghĩa nhanh chóng bị dập tắt. Năm 1897, Luis Munoz Rivera cùng một số người khác đã thuyết phục thành công chính phủ Tây Ban Nha trao quy chế tự trị cho người dân Cuba và Puerto Rico. Ngày 17 tháng 7 năm 1898, chính phủ tự trị đầu tiên của Puerto Rico nhậm chức nhưng chỉ tồn tại được một thời gian ngắn ngủi. === Thuộc địa của Hoa Kỳ === Chiến tranh Mỹ-Tây Ban Nha bùng nổ năm 1898 đã dẫn đến sự việc ngày 25 tháng 7 năm 1898, Puerto Rico bị quân đội Mỹ xâm chiếm. Tây Ban Nha đã buộc phải nhường lại các thuộc địa của mình cho Mỹ là Cuba, Puerto Rico ở Caribbean và Guam, Philippines ở châu Á theo Hiệp ước Paris 1898. Đầu thế kỉ 20, Puerto Rico nằm dưới sự cai trị của quân đội Mỹ và thống đốc Puerto Rico đều là người được Tổng thống Mỹ chỉ định. Năm 1900, Đạo luật Foraker cho phép Puerto Rico có một số quyền lập chính phủ dân sự gồm có hạ viện do dân bầu. Đến năm 1917, Đạo luật Jones-Shafroth trao quyền công dân Mỹ cho người Puerto Rico cũng như cho phép lập ra thượng viện do dân bầu để Puerto Rico có đầy đủ một quốc hội lưỡng viện của riêng mình. Với quyền công dân Mỹ, nhiều thanh niên Puerto Rico đã tham gia quân đội Mỹ trong Chiến tranh thế giới thứ nhất và những cuộc chiến của Mỹ sau đó nữa. Những thập niên đầu tiên dưới sự cai trị của Mỹ, nhiều thảm họa tự nhiên liên tiếp xảy ra như động đất, sóng thần, các cơn bão nhiệt đới cũng như cuộc Đại khủng hoảng 1929 đã tàn phá nền kinh tế của đảo Puerto Rico. Trong nhân dân bắt đầu xuất hiện tư tưởng chống lại sự cai trị của Mỹ. Ngày 30 tháng 10 năm 1950, Pedro Albizu Campos, lãnh đạo Đảng Dân tộc Puerto Rico đã phát động cuộc khởi nghĩa Jayuya chống Mỹ. Hoa Kỳ tuyên bố tình trạng thiết quân luật và chấm dứt cuộc khởi nghĩa sau 3 ngày với việc sử dụng nhiều bộ binh, pháo binh và máy bay ném bom vào thị trấn Jayuya. Pedro Albizu Campos sau đó bị bắt giam vì tội âm mưu phản loạn nhằm lật độ chính phủ Mỹ tại Puerto Rico. Bên cạnh đó, những âm mưu ám sát tổng thống Harry Truman trong cùng năm 1950 cũng được những người dân tộc chủ nghĩa Puerto Rico thực hiện nhưng thất bại. Sự nhượng bộ giữa Mỹ và Puerto Rico trong giai đoạn giao thời giữa Roosevelt và Truman đã dẫn đến việc năm 1946, tổng thống Truman đã chỉ định Jesus Pinero, một người sinh ra ở Puerto Rico làm thống đốc hòn đảo này. === Trở thành thịnh vượng chung === Năm 1947 đánh dấu một bước ngoặt lớn trong lịch sử Puerto Rico khi chính phủ Mỹ trao quyền bầu cử thống đốc cho người dân hòn đảo. Luis Munoz Marin, người có công trong việc đàm phán với Mỹ trước đó đắc cử và trở thành thống đốc dân cử đầu tiên của Puerto Rico vào năm 1948. Năm 1950, tổng thống Truman cho phép Puerto Rico tổ chức cuộc trưng cầu ý dân về quyền thành lập hiến pháp riêng của nước này. Hiến pháp địa phương của Puerto Rico chính thức được chính phủ Mỹ phê chuẩn vào ngày 6 tháng 2 năm 1952. Tổng thống Truman cũng thông qua hiến pháp này vào ngày 3 tháng 7 rồi được tuyên bố chính thức bởi thống đốc Munoz Marin vào ngày 25 tháng 7 cùng năm đó. Như vậy, Puerto Rico chính thức có bản hiến pháp của riêng mình và nước này phê chuẩn tên gọi Estado Libre Asociado, tạm dịch là "Thịnh vượng chung". Cùng với sự tự do chính trị, thập niên 1950 đã đánh dấu giai đoạn phát triển kinh tế vượt bậc của Puerto Rico. Kế hoạch Operación Manos a la Obra đầy tham vọng được thực hiện đã biến Puerto Rico từ một hòn đảo nghèo nàn chủ yếu dựa vào nông nghiệp sang một hòn đảo thịnh vượng với nền công nghiệp chế biến phát triển. Ngày nay, Puerto Rico là một địa điểm du lịch hấp dẫn thế giới và đồng thời là một trung tâm về dược phẩm và sản xuất hàng hóa. Về mặt chính trị, những tranh cãi xung quanh quy chế chính trị của Puerto Rico vấn tiếp diễn. Ba xu hướng chính của chính trị Puerto Rico hiện nay là giữ nguyên hiện trạng thịnh vượng chung, trở thành một tiểu bang Hoa Kỳ và trở thành một quốc gia độc lập. Đã có tới 3 cuộc trưng cầu dân ý được tổ chức và người dân Puerto Rico vẫn quyết định giữ nguyên hiện trạng chính trị như hiện nay. Hiến pháp Puerto Rico công nhận khái niệm "công dân Puerto Rico". == Chính trị == Puerto Rico là một lãnh thổ chưa hợp nhất của Hoa Kỳ theo thể chế cộng hòa. Tất cả các quyền lực hiện tại của Puerto Rico là do Quốc hội Hoa Kỳ ủy quyền. Puerto Rico thiếu sự bảo vệ toàn phần từ Hiến pháp Hoa Kỳ vì không phải là một tiểu bang của Hoa Kỳ. Người đứng đầu nhà nước của Puerto Rico là tổng thống Mỹ. Chính quyền Puerto Rico theo chế độ cộng hòa, được tổ chức theo hệ thống tam quyền phân lập gồm ba nhánh: lập pháp, hành pháp và tư pháp. Nhánh hành pháp được đứng đầu bởi thống đốc Puerto Rico, hiện nay là ngài Anibal Acevedo Vila. Nhánh lập pháp bao gồm Quốc hội Puerto Rico được chia làm hai viện: Thượng viện và Hạ viện. Người đứng đầu Thượng viện Puerto Rico là Chủ tịch Thượng viện, còn người đứng đầu Hạ viện là Chủ tịch Hạ viện (Speaker of the House) Puerto Rico. Nhánh tư pháp đứng đầu bởi Thấm phán trưởng Tòa án Tối cao Puerto Rico. Chức thống đốc và các đại biểu quốc hội được nhân dân bầu ra bốn năm một lần. Những thành viên của tòa án tối cao được thống đốc chỉ định với sự thông qua của Thượng viện. Puerto Rico chỉ được phép có một đại biểu không có quyền biểu quyết (non-voting delegate) duy nhất tại Hạ viện Hoa Kỳ, gần đây nhất là ông Luis Fortuno. Người dân Puerto Rico không được quyền tham gia bỏ phiếu bầu tổng thống Mỹ, nhưng được phép bầu trong các cuộc bầu cử tổng thống sơ bộ (là bầu cử của các đảng phái chính trị để tìm ứng cử viên trong từng đảng). Người Puerto Rico có quyền tham gia bầu cử và tranh cử ở tại bất cứ tiểu bang nào mà họ đến sinh sống. Từ năm 1952 đến này, chính trường Puerto Rico có sự phân chia giữa 3 đảng phái chính đại diện cho ba xu hướng chính trị khác nhau của đất nước này. Đảng Dân chủ Nhân dân Puerto Rico (PPD) muốn duy trì hiện trạng Puerto Rico với vai trò hiện nay là một lãnh thổ thịnh vượng chung thuộc Hoa Kỳ. Đảng thứ hai, Đảng Cấp tiến Mới Puerto Rico (PNP) muốn đưa Puerto Rico trở thành một tiểu bang của Hoa Kỳ còn trong khi đó, Đảng Độc lập Puerto Rico (PIP) lại muốn vùng đất này tách ra và trở thành một quốc gia độc lập. Năm 2007, một đảng thứ tư nữa là Đảng Puerto Rico cho người Puerto Rico (PPR) xuất hiện trên chính trường. Trải qua nhiều cuộc trưng cầu dân ý trong suốt 6 thập kỉ qua, người dân Puerto Rico chọn lựa giữ nguyên hiện trạng chính trị như hiện nay như một vùng lãnh thổ quốc hải của Hoa Kỳ. == Địa lý == Puerto Rico bao gồm đảo Puerto Rico và một số hòn đảo nhỏ hơn xung quanh như đảo Vieques, Culebra, Mona, Desecheo và Caja de Muertos. Trong 5 đảo trên, chỉ có đảo Culebra và đảo Vieques là có cư dân sinh sống quanh năm. Puerto Rico có tổng diện tích 9.104 km². Chiều dài nhất của đảo từ tây sang đông là 180 km, chiều rộng nhất của đảo từ bắc xuống nam là 64 km. Trong quần đảo Đại Antilles, Puerto Rico là hòn đảo nhỏ nhất, chỉ bằng 8/10 diện tích của Jamaica và 8/100 diện tích của Cuba. Nếu so sánh với một số bang khác của Mỹ thì Puerto Rico rộng hơn so với cả hai bang Delaware và Rhode Island cộng lại, nhưng nhỏ hơn một chút so với bang Connecticut. Đảo Puerto Rico có hình chữ nhật với khoảng 60% diện tích là đồi núi. Phần trung tâm hòn đảo là một vùng núi cao với nhiều dãy núi lớn tiêu biểu như dãy La Cordillera Central ("Dãy núi Trung tâm"). Điểm cao nhất của Puerto Rico, núi Cerro de Punta cao 1338 m tọa lạc trên dãy núi này. Ở phía bắc Puerto Rico có một vùng núi đá vôi khá lớn. Phía bắc và phía nam hòn đảo mỗi bên có một vùng bờ biển hẹp. Về mặt địa chất, hòn đảo Puerto Rico nằm trên đường giáp ranh giữa hai địa mảng lớn là địa mảng Bắc Mỹ và địa mảng Caribbean. Chính vị trí giao giữa hai địa mảng này là nguyên nhân gây ra những trận động đất và sóng thần kèm theo nạn lở đất gây thiệt hại lớn về người và của. Trận động đất lớn xảy ra gần đây nhất tại Puerto Rico diễn ra vào ngày 11 tháng 10 năm 1918 mạnh đến 7,5 độ Richter và gây ra sóng thần đã gây ra thiệt hại lớn cho hòn đảo: 116 người thiệt mạng và thiệt hại 4 triệu USD. Nằm trong vành đai khí hậu nhiệt đới, Puerto Rico có khí hậu ấm áp quanh năm với nhiệt độ trung bình năm khoảng 26 °C (80 °F). Sự khác biệt về nhiệt độ giữa các tháng trong năm thường không lớn. Miền nam Puerto Rico có nhiệt độ cao hơn vài độ so với miền bắc, trong khi đó vùng cao nguyên và đồi núi trung tâm Puerto Rico thường có khí hậu mát mẻ hơn so với những vùng còn lại. Mùa khô kéo dài từ tháng 11 đến tháng 5 còn mùa mưa diễn ra trong khoảng tháng 6 đến tháng 10, trùng với thời điểm hoạt động mạnh của những cơn bão từ Đại Tây Dương đổ vào, mang theo một lượng mưa lớn cho Puerto Rico. == Kinh tế == Cho đến tận đầu thế kỉ 20, nguồn lợi kinh tế chủ yếu của Puerto Rico vẫn chủ yếu xoay quanh ngành trồng và xuất khẩu mía đường. Thế nhưng đến thập niên 1940, một chính sách kinh tế mới đã được ban hành nhằm thay đổi hoàn toàn cục diện nền kinh tế hòn đảo với sự chuyển mình mạnh mẽ từ nền kinh tế nông nghiệp sang nền kinh tế công nghiệp đa dạng và được chính phủ Mỹ miễn thuế. Kinh tế Puerto Rico thời gian đầu tuy chịu nhiều biến động lớn, đặc biệt là cuộc Đại Khủng hoảng 1929 từ nước Mỹ nhưng sau đó đã phục hồi rất nhanh và hiện là một trong các nước có thu nhập bình quân đầu người cao nhất châu Mỹ. Tuy nhiên càng về sau, những điểm yếu của nền kinh tế Puerto Rico cũng dần bộc lộ và gây ra nhiều biến động khá lớn. Puerto Rico phải đối mặt với việc các doanh nghiệp chuyển địa điểm sang các nước Mỹ Latinh khác có giá nhân công rẻ hơn. Tình trạng kinh tế khó khăn giữa các cuộc khủng hoảng kinh tế khiến người dân Puerto Rico có chiều hướng di dân ra nước ngoài, đặc biệt là tới Mỹ để tìm kiếm công việc tốt hơn. Đặc biệt vào năm 2006, Puerto Rico diễn ra cuộc khủng hoảng ngân quỹ trầm trọng khiến nhiều cơ quan chính phủ và 1536 trường công phải đóng cửa, gần 96 000 người bị cho nghỉ việc. Những chính sách thuế mới sau đó đã giẩi quyết cuộc khủng hoảng này nhưng vẫn còn nhiều thách thức khó khắc phục. Vài năm trở lại đây, Puerto Rico rơi vào tình trạng suy giảm kinh tế. Nếu như năm 2006, mức tăng GDP còn ở mức 0,5% thì đến năm 2007 xuống còn -1,8%, năm 2008 xuống đến -2%. Ngày nay Puerto Rico là một quốc gia có nền kinh tế cơ cấu hiện đại với nông nghiệp chỉ chiếm 1%, công nghiệp chiếm 45% và dịch vụ chiếm 54%. Ngành trồng mía đường nay đã nhường lại cho ngành chăn nuôi lấy sản phẩm từ thịt và sữa. Công nghiệp của Puerto Rico phát triển đa dạng và nhấn mạnh các ngành hóa dầu, dược phẩm và khoa học công nghệ. Du lịch là một trong những ngành dịch vụ chủ đạo của Puerto Rico với việc nước này đón tiếp 5,9 triệu lượt du khách vào năm 2007, đem lại một nguồn doanh thu lớn cho hòn đảo. Nhiều khách sạn, các khu nghỉ dưỡng, trung tâm hội thảo lớn như Trung tâm Hội nghị Puerto Rico được xây dựng đã tận dụng triệt để ưu thế du lịch của đất nước tươi đẹp này. Tuy gặp nhiều khó khăn trong những năm gần đây, song Puerto Rico vẫn là một trong những nền kinh tế phát triển nhất khu vực Mỹ Latinh. Puerto Rico là một trong những đầu tàu kinh tế vùng Caribbean cùng với Cuba và Cộng hòa Dominicana, và Ngân hàng Thế giới xếp Puerto Rico vào nhóm các nước có thu nhập bình quân cao. Năm 2007, thu nhập bình quân của nước này là 19.600 USD, tuy nhiên vẫn còn thua nếu so với bang nghèo nhất của nước Mỹ là Mississippi với thu nhập 24.062 USD. Tỉ lệ thất nghiệp của Puerto Rico cũng ở mức khá cao 11,7%, trong khi bang thất nghiệp nhiều nhất nước Mỹ là Michigan có tỉ lệ 7,7% và mức trung bình của nước Mỹ là 4,4%. Năm 1998, Chỉ số Phát triển Con người của Puerto Rico đạt 0,942 điểm, con số cao nhất vùng Mỹ Latinh. Hiện tại (2016), GDP của Puerto Rico đạt 100.852 USD, lớn thứ 61 thế giới và lớn thứ 8 khu vực Mỹ Latin. == Nhân khẩu == === Dân số và chủng tộc === Những cư dân đầu tiên sinh sống tại Puerto Rico là người da đỏ châu Mỹ, sau đó được tiếp nối bởi người da trắng gốc châu Âu và người da đen gốc châu Phi. Thế kỉ 19 đánh dấu một giai đoạn bùng nổ dân nhập cư vào Puerto Rico khi hàng trăm gia đình đổ vào đất nước này để được cấp đất theo Sắc lệnh năm 1815, theo đó cung cấp một lượng đất đai cho những người dân gốc châu Âu theo Công giáo Rôma. Chủ yếu người da trắng tại Puerto Rico có tổ tiên là người Tây Ban Nha, bên cạnh đó cũng có một số dân tộc khác như Bồ Đào Nha, Ý, Scotland, Ireland, Đức... Người da đen đến Puerto Rico trên những con tàu buôn nô lệ đã góp phần làm nên sự đa dạng chủng tộc tại hòn đảo này. Bên cạnh đó, Puerto Rico còn có một cộng đồng người gốc châu Á với các sắc dân Trung Quốc, Liban. Người dân các nước Mỹ Latinh cũng góp thêm vào các dòng người nhập cư từ Colombia, Venezuela, Argentina, Cuba và Cộng hòa Dominicana. Tình trạng nhập cư vào thế kỉ 19 này đã khiến dân số Puerto Rico tăng nhanh, từ 155.000 người vào năm 1800 đến gần 1 triệu người vào cuối thể kỉ 19. Cuộc thống kê điều tra dân số năm 1858 đã cho thấy tỉ lệ chủng tộc tại Puerto Rico như sau: 300.430 người da trắng, 341.015 người da màu tự do và 41.736 nô lệ. Sang thế kỉ 20, Puerto Rico lại xuất hiện tình trạng di dân ra nước ngoài khi người dân Puerto Rico nhập cư vào Hoa Kỳ để tìm cuộc sống tốt hơn, đặc biệt là từ sau Thế chiến Thứ hai. Họ chủ yếu nhập cư vào các bang New York, New Jersey, Illinois, Massachusetts, Florida, Pennsylvania, Connecticut, Washington, D.C., California... và tạo nên một cộng đồng người Mỹ gốc Puerto Rico rất lớn. Hiện số người Puerto Rico sống tại Mỹ đã nhiều hơn cả trong nước. Nghiên cứu di truyền học năm 2002 trên DNA ty thể với 800 người Puerto Rico cho thấy 61,1% người Puerto Rico thừa hưởng DNA ty thể mẹ từ người thổ dân bản địa, 26,4% châu Phi và 12,5% da trắng. Ngược lại, 70% đàn ông Puerto Rico có nhiễm sắc thể Y của người châu Âu, 20% của tổ tiên châu Phi và ít hơn 10% của người bản địa châu Mỹ. Phát hiện này cho thấy việc lai chủng tại Puerto Rico ở mức độ khá cao và tạo nên sự hòa trộn sắc tộc độc đáo. Theo cuộc điều tra nhân khẩu năm 2000, dân số của Puerto Rico ước tính khoảng 4 triệu dân. Phân bố chủng tộc của Puerto Rico như sau: Người da trắng: 80,5% Người da đen: 8,0% Người da đỏ: 0,4% Người châu Á: 0,2% Một số chủng tộc khác: 6,8% Người nhiều hơn 2 chủng tộc: 4,2% === Ngôn ngữ === Ở Puerto Rico, tiếng Tây Ban Nha và tiếng Anh là hai ngôn ngữ được công nhận là ngôn ngữ chính thức. Tiếng Tây Ban Nha là ngôn ngữ mẹ đẻ của người dân và được sử dụng phổ biến tại gia đình cũng như các trường học, cơ quan hành chính. Tiếng Anh được dạy như ngôn ngữ thứ hai tại hầu hết các trường tiểu học, trung học và đại học ở Puerto Rico. Nhìn chung, tiếng Tây Ban Nha ở Puerto Rico vẫn có một số sự khác biệt so với ở các nước nói tiếng Tây Ban Nha khác do ảnh hưởng từ các ngôn ngữ da đỏ bản địa, những ngôn ngữ Phi châu và cả sự ảnh hưởng từ tiếng Anh do quan hệ chặt chẽ giữa hòn đảo với nước Mỹ. === Tôn giáo === Công giáo Rôma là tôn giáo lớn lâu đời nhất tại Puerto Rico (nếu không kể những tôn giáo bản địa) và cho đến ngày nay vẫn là tôn giáo chủ yếu tại nước này. Mỗi thành phố tự trị của Puerto Rico đều có ít nhất một nhà thờ tại khu trung tâm, hay được gọi là plaza. Dưới sự cai trị của người Tây Ban Nha, Đạo Tin lành bị đàn áp nhưng lại được khuyến khích khi gia nhập nước Mỹ. Người Taino bản địa gần đây đang khôi phục lại một số truyền thống tôn giáo của họ, trong khi một số người châu Phi cũng gìn giữ những tôn giáo xa xưa của tổ tiên. == Văn hóa == Văn hóa Puerto Rico là sự hòa trộn giữa bốn dòng văn hóa: văn hóa Taino bản địa, văn hóa Tây Ban Nha, văn hóa Châu Phi và văn hóa Mỹ. Người Taino ngày nay tuy chỉ chiếm một tỉ lệ dân số nhỏ bé song họ vẫn giữ một số tên gọi truyền thống về địa danh, các món ăn, nhạc cụ và một số lượng từ vựng trong tiếng Tây Ban Nha ngày nay của Puerto Rico. Người da đen gốc châu Phi lại có ảnh hưởng trong lĩnh vực âm nhạc với "bomba và plena", một thể loại loại âm nhạc và nhảy múa với các nhạc cụ bộ gõ và maraca. Người Tây Ban Nha mang đến tiếng Tây Ban Nha, đạo Thiên chúa và những giá trị tinh thần và văn hóa của châu Âu cổ kính. Dòng văn hóa thứ tư đến từ nước Mỹ với tiếng Anh, hệ thống giáo dục đại học và các giá trị văn hóa hiện đại thể hiện trong điện ảnh, âm nhạc. Năm 1903, Trường Đại học Puerto Rico được chính quyền Mỹ thành lập, 5 năm sau khi Puerto Rico trở thành một bộ phần của nước này. === Thể thao === Bóng chày là môn thể thao phổ biến nhất tại Puerto Rico và nước này có hẳn một mùa giải bóng chày chuyên nghiệp riêng được tổ chức vào mùa đông. Quyền anh, bóng rổ và bóng chuyền cũng là những môn thể thao rất phổ biến tại đất nước này. Puerto Rico tham dự hầu hết các giải thi đấu thể thao quốc tế như Thế vận hội Mùa hè, Thế vận hội Mùa đông, Đại hội Thể thao châu Mỹ (Pan American Games), Đại hội Thể thao Trung Mỹ và Caribbean. Puerto Rico đã từng giành được 6 huy chương (1 bạc, 5 đồng) trong lịch sử tham dự các kỳ Thế vận hội, lần đầu tiên vào năm 1948 với chiếc huy chương đồng môn quyền anh của Juan Evangelista Venegas. Bóng chày là môn thể thao thế mạnh của Puerto Rico và nước này đã từng 1 lần giành huy chương vàng tại Giải vô địch bóng chày thế giới vào năm 1951. Những vận động viên bóng chày nổi tiếng nhất của Puerto Rico là Roberto Clemente và Orlando Cepeda. Quyền anh cũng là môn thể thao rất được ưa chuộng tại Puerto Rico. Nếu tình bình quân đầu người, Puerto Rico là nước có số lượng nhà vô địch quyền anh nhiều nhất thế giới và đứng thứ ba về tổng số. Các vận động viên tiêu biểu trong môn thể thao này là Miguel Cotto, Félix Trinidad, Wilfred Benítez và Wilfredo Gómez. Puerto Rico còn là thành viên của FIFA và CONCACAF. Năm 2008, Liên đoàn Bóng đá Puerto Rico chính thức được thành lập. == Liên kết ngoài == Chính phủ Puerto Rico Văn phòng Thống đốc Puerto Rico Thượng Nghị viện Puerto Rico Các đảng chính trị chính thức: Đảng Độc lập Puerto Rico (PIP) Đảng Dân chủ Nhân dân (PPD) Đảng Cấp tiến Mới (PNP) == Tham khảo ==
khảo cổ học.txt
Khảo cổ học (tiếng Hán 考古学, bính âm, tiếng Hy Lạp cổ đại ἀρχαιολογία archaiologia, ἀρχαῖος, arkhaios "cổ", -λογία, -logia, "khoa học") là ngành khoa học nghiên cứu hoạt động của con người trong quá khứ, thường bằng cách tìm kiếm, phục chế, sắp xếp và nghiên cứu những chi tiết văn hóa và dữ liệu môi trường mà họ để lại, bao gồm vật tạo tác, kiến trúc, hiện vật sinh thái và phong cảnh văn hóa. Khảo cổ học được coi là một Khoa học xã hội và Nhân văn, tại Hoa Kỳ, khảo cổ học được coi là một phân ngành của Nhân học nhưng tại châu Âu, nó được coi là một ngành khoa học riêng biệt. Khảo cổ học nghiên cứu về thời Tiền sử và lịch sử loài người từ khi tạo nên công cụ đá đầu tiên Đông Phi 4 triệu năm trước cho đến vài thập niên gần đây (Khảo cổ không bao gồm Cổ sinh vật học). Khảo cổ đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong việc nghiên cứu về xã hội nguyên thủy, từ thời Đồ đá cũ cho đến khi chữ viết xuất hiện, chiếm tới 99% lịch sử loài người nhưng không có văn bản nào để nghiên cứu. Khảo cổ học có rất nhiều mục đích, từ tìm hiểu Sự tiến hóa của loài người đến Sự phát triển của văn hóa. Nghiên cứu trên một phạm vi rộng lớn, khảo cổ sử dụng những thành quả và tác động lên nhiều ngành học khác nhau như: Nhân học, Lịch sử, Lịch sử nghệ thuật, Học thuật cổ điển, Dân tộc học, Địa lý, Địa chất học, Ngôn ngữ học, Ký hiệu học, Vật lý, Hóa học, Khoa học thông tin, Khoa học thống kê, Cổ sinh thái học, Cổ sinh vật học, Cổ động vật học, Cổ thực vật học và Cổ dân tộc thực vật học. Phát triển từ Antiquarius ở châu Âu trong thế kỉ 19, ngày nay khảo cổ học đã được nghiên cứu và ứng dụng rộng rãi khắp thế giới. Từ buổi sơ khai, khảo cổ đã có nhiều phân ngành khác nhau, được ứng dụng những phương pháp khoa học và kĩ thuật tiên tiến vào nghiên cứu. Những vấn đề mà các nhà khảo cổ phải đối mặt hiện nay là: giả khảo cổ, hư hỏng, mất mát hiện vật, sự thiếu quan tâm của xã hội và sai lầm khi khai quật. == Lịch sử == === Sơ khai === Ban đầu, Khảo cổ học xuất phát từ Sử học và những người ham mê nghiên cứu về quá khứ. Herodotus (c. 484-c. 425 TCN) là học giả đầu tiên nghiên cứu khảo cổ có hệ thống. Ông được biết đến với bộ sách 9 cuốn có tên tiếng Hy Lạp: Ἱστορίαι, "Historiai", trong đó ông viết về mọi hiện vật được tìm thấy ở nhiều vùng khác nhau. Từ đó, ông có thể tìm thấy nguyên nhân và diễn biến của một số sự kiện lịch sử như Chiến tranh Hy Lạp - Ba Tư. Tuy nhiên các học giả đã tìm thấy một số lỗi trong ghi chép của Herodotus, ví dụ như ông đã không đi xa về phía nam dòng Nile như ông viết. Khảo cổ học sau đó gắn với Antiquarius: là học thuật về lịch sử, có sự quan tâm về việc nghiên cứu những hiện vật, tư liệu cùng với di tích lịch sử. Các học giả cũng dùng những dấu hiệu được kiểm chứng để hiểu quá khứ. Nhà cổ học thế kỉ 18 Richard Colt Hoare nói "Chúng ta nói từ sự thật, không phải giả thuyết". Những thử nghiệm để hệ thống hóa, dần đưa khảo cổ trở thành một khoa học diễn ra vào Kỉ nguyên ánh sáng ở châu Âu trong thế kỉ 17 và 18. Sự quan tâm học thuật về phần còn lại của nền văn minh Hy - La và những cuộc tái khám phá văn hóa cổ điển bắt đầu từ cuối thời kì Trung Cổ. Nhà sử học nhân văn Phục Hưng Ý Flavio Biondo đã tiến hành cuộc khám phá có hệ thống các phế tích và nghiên cứu Cổ địa hình vào đầu thế kỉ 15. Ông được coi là một trong những người sáng lập Khảo cổ học. Các nhà cổ học như John Leland và William Camden khảo sát vùng nông thôn nước Anh, vẽ, mô tả và giải thích những di tích mà họ phát hiện được. === Những cuộc khai quật đầu tiên === Những địa điểm được tiến hành khai quật đầu tiên là Stonehenge và những di tích cự thạch khác ở Anh. John Aubrey, một nhà khảo cổ tiên phong đã ghi nhận nhiều cự thạch và những di tích lộ thiên khác ở miền Nam nước Anh. Ông là người đi trước thời đại qua việc phân tích những kết quả khám phá. Ông cố gắng sắp xếp theo thời gian và loại sự tiến hóa của văn bản, kiến trúc, trang phục và hình lá chắn. Những cuộc khai quật khác cũng được tiến hành tại hai thành phố cổ Pompeii và Herculaneum, nơi từng bị chôn vùi bởi dung nham sau vụ phun trào núi Vesuvius năm 79. Pompeii được khai quật từ năm 1748 trong khi Herculaneum được khám phá từ 1738. Việc tìm thấy toàn bộ thành phố cùng với dụng cụ, phần cơ thể người và những bức bích họa dưới lòng đất gây ảnh hưởng mạnh mẽ trên toàn châu Âu. Tuy nhiên, trước khi kĩ thuật khảo cổ hiện đại ra đời, công việc khai quật còn kém hiệu quả. Sự quan trọng của nhận thức về phân tầng và đơn vị địa tầng bị bỏ qua. === Sự phát triển của phương pháp khảo cổ === Cha đẻ của kĩ thuật khai quật hiện đại là William Cunnington (1754–1810). Với sự tài trợ của Richard Colt Hoare, ông đã tiến hành một số cuộc khai quật tại Wiltshire trong năm 1798. Ông ghi nhận tỉ mỉ về nấm mồ thời Đá mới và Đồ Đồng, những khái niệm mà ông sử dụng để phân loại và mô tả vẫn được dùng bởi các nhà khảo cổ hiện đại. Một trong những thành tựu quan trọng trong thế kỉ 19 là việc sử dụng và phát triển khái niệm địa tầng. Ý tưởng về các tầng đá được sử dụng từ những nghiên cứu mới về địa chất học và cổ sinh vật học của một số học giả như William Smith, James Hutton và Charles Lyell. Với các cuộc khai quật di chỉ thời Tiền sử và Đồ đồng, địa tầng đã trở thành một khái niệm căn bản của khảo cổ học. Vào những thập niên cuối thế kỉ 19, các nhà khảo cổ như Jacques Boucher de Perthes và Christian Jürgensen Thomsen đã sắp xếp những hiện vật phát hiện được theo thứ tự thời gian. Khái niệm niên đại địa chất cũng được đưa ra trong thời gian này, phá vỡ thành kiến của mọi người cho rằng tuổi Trái Đất khá thấp. Trước khoảng giữa thế kỉ 19, khảo cổ vẫn được coi là hoạt động thêm của các học giả. Nhân vật quan trọng đưa khảo cổ trở thành một khoa học hoàn chỉnh là Augustus Pitt Rivers, sĩ quan quân đội và nhà dân tộc học người Anh. Ông tiến hành khai quật trên lãnh địa của mình từ thập niên 1880. Phương pháp tiếp cận, sắp xếp hiện vật theo tính chất vật lý và thứ tự thời gian làm nổi bật sự tiến hóa của loài người và không loại trừ bất kì hiện vật nào của ông rất tiên tiến so với thời bấy giờ (trước đó, những hiện vật đẹp và độc đáo mới được thu thập và phân loại). Ông là người đầu tiên được coi là nhà khảo cổ học thực thụ. Một nhà khoa học khác được coi như Cha đẻ Khảo cổ học là William Flinders Petrie, người đầu tiên khảo sát Kim tự tháp Kheops một cách khoa học, nhờ đó ông đã khám phá ra cách xây dựng Kim tự tháp. Petrie đã xây dựng hệ thống phân loại hiện vật, làm cách mạng hóa nền móng của Ai Cập học, đồng thời tạo dựng nên các nhà Ai Cập học tiêu biểu, trong đó có Howard Carter, người khám phá hầm mộ của Pharaon Tutankhamun. Cuộc khai quật di chỉ Hissalirk, một phần của thành Troy tiến hành bởi Heinrich Schliemann, Frank Calvert, Wilhelm Dörpfeld và Carl Blegen vào thập niên 1870, là cuộc khai quật đầu tiên được biết đến rộng rãi. Họ đã tìm thấy 9 di chỉ văn hóa khác nhau, từ thời Tiền sử đến thời kỳ Hy Lạp hóa. Cùng thời gian, cuộc khai quật ở Knossos trên đảo Crete do Author Evans tổ chức đã phát hiện nền văn minh Minoan. === Khảo cổ học hiện đại === Một thành tựu quan trọng khác là sự ra đời của phương pháp Wheeler-Kenyon do Mortime Wheeler sáng lập và Kathleen Kayon, học trò của ông phát triển trong nửa đầu thế kỉ 20. Nó đánh dấu sự tiến bộ của phương pháp khai quật, làm khảo cổ phát triển nhanh chóng. Khảo cổ trở thành một ngành chuyên nghiệp từ nửa đầu thế kỉ 20 và bắt đầu trở thành một bộ môn tại trường đại học, thậm chí các cấp học thấp hơn. Vào cuối thế kỉ 20, hầu hết các nhà khảo cổ chuyên nghiệp đều được đào tạo và có chứng chỉ. Khảo cổ tiếp tục phát triển mạnh mẽ nhờ có thêm ứng dụng và kĩ thuật hiện đại: Định tuổi bằng đồng vị cacbon 14C, kĩ thuật không ảnh và ảnh vệ tinh, GIS, bộ cảm biến ánh sáng (LIDAR), bộ cảm ứng dưới lòng đất và kĩ thuật phân tích DNA. == Mục đích == Mục đích của khảo cổ học là nghiên cứu về sự tiến hóa của loài người và hoạt động của con người trong quá khứ. Gần như toàn bộ lịch sử loài người nằm trong thời nguyên thủy. Nhiều bước tiến vĩ đại diễn ra trong thời kì này như: sự tiến hóa từ vượn cổ phương Nam đến người hiện đại, những tiến bộ kĩ thuật và tiến bộ về xã hội, nhưng không có văn bản nào để nghiên cứu. Chúng ta không thể hiểu được thời đại này nếu không dùng đến những phương pháp khảo cổ. Không chỉ thời Tiền sử, mà thời kì con người đã có lịch sử và văn hóa vẫn cần đến khảo cổ học, thông qua phân ngành khảo cổ học lịch sử. Vì nhiều nền văn minh như Hy Lạp cổ đại hay Lưỡng Hà, văn bản thường chưa hoàn thiện và có sự thiên vị. Học vấn trong nhiều xã hội rất hạn chế, thường chỉ giới hạn ở tầng lớp quý tộc và tăng lữ. Thị hiếu và thế giới quan của nhóm người này khác biệt rất lớn với phần còn lại của xã hội. Văn bản đại diện cho quan điểm và nhận thức chung của xã hội rất hiếm, hầu như không được lưu trữ. Bởi vậy, văn bản không được tin cậy như nguồn nghiên cứu độc nhất. === Học thuyết === Không có một phương pháp tiếp cận nào được tất cả nhà khảo cổ tán thành. Khi khảo cổ mới được hoàn thiện cuối thế kỉ 19, phương pháp tiếp cận đầu tiên là khảo cổ lịch sử - văn hóa, chú trọng giải thích nguyên nhân văn hóa thay đổi và thích nghi nhiều hơn là tìm sự thật về những gì đã diễn ra, vì vậy nó nhấn mạnh chủ nghĩa cá biệt lịch sử, cho rằng các nền văn hóa có thể đến cùng một đích qua nhiều con đường khác nhau. Đầu thế kỉ 20, các nhà khảo cổ dùng phương pháp tiếp cận trực tiếp lịch sử, khảo sát di tích từ thời Tiền sử đến hiện đại. Vào thập niên 60 thế kỉ 20, trào lưu khảo cổ mới xuất hiện bởi các nhà khảo cổ Mĩ, tiêu biểu là Lewis Binford và Kent Flannery, đối nghịch lại khảo cổ lịch sử - văn hóa. Khảo cổ mới được coi là khoa học hơn, nhân học hơn với sự sử dụng giả thuyết và các phương pháp nghiên cứu khoa học hiện đại. Đến thập niên 80, trào lưu hậu khảo cổ mới xuất hiện dưới sự lãnh đạo của các nhà khảo cổ Anh Michael Shanks, Christopher Tilley, Daniel Miller và Ian Hodder , đặt dấu hỏi cho khảo cổ mới về sức hấp dẫn của chủ nghĩa thực chứng và tính khách quan và nó nhấn mạnh quy luật nhân quả. Tuy nhiên các nhà khảo cổ mới cho rằng hậu khảo cổ mới thiếu tính khoa học cần thiết, tính đúng đắn của khảo cổ mới và hậu khảo cổ mới vẫn còn được tranh cãi. Ngày nay, lý thuyết khảo cổ chịu ảnh hưởng từ rất nhiều học thuyết như thuyết Tân Darwin, thuyết hiện tượng, thuyết hậu hiện đại, thuyết can thiệp, khoa học nhận thức, thuyết chức năng, khảo cổ các học giả tính, khảo cổ học nữ quyền và thuyết hệ thống. == Phương pháp == Một cuộc khảo sát khảo cổ bao gồm nhiều giai đoạn khác nhau, mỗi giai đoạn cần đến nhiều phương pháp. Trước khi cuộc khảo sát bắt đầu, di tích cần được làm rõ và được sự nhất trí giữa các nhà khảo cổ. Sau đó, họ tiến hành thăm dò thực địa để tìm kiếm vị trí xác thực nhất của di tích. Di tích được khai quật và thu thập tất cả những hiện vật phát hiện được. Thông tin từ cuộc khai quật được phân tích, nghiên cứu và đánh giá để đạt được mục đích nghiên cứu ban đầu. Sau đó, kết quả khảo cổ được coi là có thể công khai và trở thành nguồn tư liệu cho sử gia và các nhà khảo cổ khác, nhưng nó vẫn bị bác bỏ trong một số trường hợp. === Quan sát từ xa === Trước khi tiến hành khai quật, di tích được tìm kiếm bằng kĩ thuật ảnh vệ tinh trên một vùng rộng lớn. === Thăm dò thực địa === Dự án được tiếp tục (hay bắt đầu) bằng cuộc thăm dò thực địa. Thăm dò khu vực là xác định vị trí di chỉ trên một vùng, trong khi thăm dò di chỉ là xác định những di vật có trong một di chỉ, ví dụ: nhà cửa hay hầm mộ. Hai kiểu thăm dò này sử dụng rộng rãi những phương pháp giống nhau. Thời gian đầu, các nhà khảo cổ vẫn chưa ứng dụng rộng rãi thăm dò thực địa. Họ xác định di chỉ nhờ dân địa phương và chỉ khai quật khi có thể nhìn thấy tận mắt. Gordon Willey, người đi tiên phong, đã tiến hành thăm dò toàn bộ khu vực thay vì khảo sát từng di chỉ trong cuộc khảo sát thung lũng Viru, Peru năm 1949. Từ đó, thăm dò thực địa ngày càng tiến bộ cùng với sự ra đời của lý thuyết khảo cổ mới vài năm sau đó. Thăm dò có nhiều lợi ích khi nó được tiến hành như một cuộc tập dượt trước khai quật. Thời gian ngắn, chi phí thấp do không phải đào một khối lượng khổng lồ đất đá để tìm hiện vật (tuy nhiên các nhà khảo cổ dùng phương pháp lấy mẫu để tìm kiếm trong một khu vực rộng lớn, khi thăm dò trở nên đắt đỏ). Ngoài ra, thăm dò còn ngăn ngừa sự tàn phá của con người đối với di chỉ và là cách duy nhất để thu thập một vài dạng thông tin như điểm dân cư. Thông tin thăm dò thường được ghi lại dưới dạng bản đồ, nhờ đó nhà khảo cổ có thể dễ dàng xác định các vị trí cần thiết. Phương pháp thăm dò đơn giản nhất là thăm dò bề mặt, được thực hiện bằng cách lùng tìm những di chỉ, hiện vật có thể quan sát bằng mắt thường trên mặt đất. Nhà khảo cổ thường đi bộ hay sử dụng một số phương tiện giao thông và dùng những công cụ khai quật đơn giản như khoan, xẻng khai quật và dụng cụ lấy lõi. Nếu không phát hiện được vật gì, vùng thăm dò bị coi là trống rỗng. Thăm dò từ trên không được thực hiện bằng cách gắn camera trên các phương tiện bay như máy bay, khinh khí cầu hay diều. Phương pháp này giúp xác định được hiện vật ẩn dưới lòng đất, nhờ tính chất của thực vật khi mọc trên các loại đất khác nhau. Kĩ thuật thăm dò từ trên không còn bao gồm sử dụng tia cực tím, tia hồng ngoại, LIDAR, cảm ứng nhiệt. Thăm dò địa vật lý là phương pháp tốt nhất để dò tìm những vật dưới lòng đất, bằng việc sử dụng một số phương pháp như radar quét (GPR), từ trường, điện từ cảm ứng,... có thể thấy được sự khác biệt giữa hiện vật với đất và các hiện vật khác nhau. Đo radar quét 3D có thể dựng lại hình ảnh khu vực bị chôn vùi do bùn hay tro núi lửa. Trong khảo cổ dưới mặt nước, một số công cụ dùng để thăm dò là: từ kế hải dương, sonar quét sườn, sonar quét đáy. === Khai quật === Khai quật được bắt đầu khi di chỉ vẫn chưa được đi sâu và phần lớn thông tin còn nằm dưới lòng đất, điều này thường thấy ở đa số dự án khảo cổ. Khai quật đem lại những thứ mà thăm dò không thể phát hiện như địa tầng, cấu trúc không gian và đơn vị địa tầng được thẩm định trước. Kĩ thuật khảo cổ hiện đại yêu cầu nguồn gốc của di tích và các vật thể liên quan phải được ghi nhận. Các nhà khảo cổ xác định vị trí cụ thể trong không gian của từng hiện vật trong di tích, tìm mối liên hệ và tổ chức giữa chúng để tiếp tục phân tích. Nhờ đó, họ xác định được chính xác thông tin cần tìm hiểu về di tích. Ví dụ: Vật thể có niên đại nhỏ hơn thường nằm phía trên vật thể có niên đại lớn. Khai quật là công đoạn tốn nhiều chi phí nhất trong dự án. Khai quật mang tính phá hủy và đi kèm một số tác động tiêu cực của con người. Vì thế rất ít di tích được khám phá toàn bộ. Hiệu suất khai quật phổ biến trong khoảng 90%, phụ thuộc vào điều kiện tự nhiên, xã hội và phương pháp làm việc. Máy xúc được sử dụng rộng rãi để đào tầng đất mặt, tuy nó được cảnh báo về sự nguy hiểm đối với di tích. Sau khi đào xong tầng mặt, khu đất mới phát lộ được làm sạch bằng phương pháp thủ công như dùng bay hay cuốc để đảm bảo tất cả vật thể cần tìm kiếm đều xuất hiện. Nhiệm vụ tiếp theo là thiết lập bản vẽ của di tích để quyết định phương pháp cho công đoạn khai quật sau. Người ta đào bới thủ công tầng đất tự nhiên để tạo ra khung cảnh thích hợp cho việc ghi nhận thông tin, thường là hố hay hào. Những khung cảnh này gồm 2 phần cắt và lấp. Cắt là đường bao của khung cảnh còn lấp là cái bao phủ nó trước khi khai quật, hơi khác với đất tự nhiên. Chúng cùng với hiện vật được thu thập được đo đạc, vẽ, chụp ảnh và ghi chú cẩn thận. Thông tin này được coi như chứng cứ vĩnh viễn để nghiên cứu di tích. === Sau khai quật === Di tích cùng với những thứ liên quan cần được nghiên cứu chính xác ngay sau khi khai quật để thu thập nhiều thông tin nhất có thể. Công đoạn này gọi là phân tích sau khai quật, tốn nhiều thời gian nhất trong toàn dự án. Những di tích lớn cần hàng năm liền để hoàn tất kết quả nghiên cứu. Cách phân tích giản đơn nhất là làm sạch, lập danh mục, so sánh với kết quả nghiên cứu trước đó, phân loại và tìm kiếm di tích có cùng hiện vật. Những phương pháp phức tạp hơn được khảo cổ khoa học nghiên cứu. Nhờ đó, ta có thể biết mọi thứ liên quan đến những mẩu xương, lá cây hay phấn hoa bị chôn vùi từ hàng ngàn năm trước (cùng với công cụ của Cổ động vật học, Cổ dân tộc thực vật học và Phấn hoa học) hay giải nghĩa các văn tự cổ đại. === Điện tử và tự động hóa === Khoảng năm 1995, các nhà khảo cổ bắt đầu sử dụng đồ họa máy tính để thiết lập mô hình 3D của di tích, ví dụ như phòng ngai của cung điện La Mã cổ đại, bằng cách sưu tập hình ảnh kết hợp với công nghệ đồ họa. Thậm chí, họ còn thiết lập được điều kiện sống và môi trường xung quanh thời đó hay cách các loài cây cổ đại mọc, sự liên hệ đối với các hiện tượng thiên văn như nhật thực. Máy bay không người lái đang dần thay thế máy bay, khinh khí cầu và diều trong việc thăm dò. Nó có giá khoảng 650 bảng nhưng bay cao từ 3000-4000m và có thể thiết lập mô hình 3D thay vì bản đồ phẳng, việc đó tiết kiệm rất nhiều thời gian so với trước đây - vài ngày, vài tuần thay vì hàng tháng hoặc hàng năm. Trong năm 2013, máy bay không người lái đã bay trên ít nhất 6 điểm khảo cổ tại Peru, trong đó có thị trấn thời thuộc địa Machu Llacta cao 4000m trên mực nước biển. Máy bay không người lái góp phần giải quyết vấn đề độ cao trên dãy Andes. Tháng 9 năm 2014, máy bay không người lái được dùng để thiết lập mô hình 3D của phế tích thành phố Hi Lạp cổ đại Aphrodisias. Dữ liệu được phân tích tại Học viện khảo cổ Áo, Vienna. == Phân ngành == Giống với những cách phân ngành học thuật khác, các phân ngành của khảo cổ học được phân chia theo phương pháp nghiên cứu, loại đối tượng (phân tích công cụ đá, khảo cổ học thực vật), vị trí địa lý (Khảo cổ học Cận Đông) hay thời gian (Khảo cổ học Trung Cổ) và một số chủ đề khác (khảo cổ học chiến trường, khảo cổ học phong cảnh) đặc biệt là khảo cổ văn hóa và nền văn minh (Ai Cập học, Ấn Độ học) === Khảo cổ học lịch sử === Khảo cổ học lịch sử nghiên cứu văn hóa với một số dạng văn tự. === Khảo cổ học dân tộc === Khảo cổ học dân tộc ứng dụng phương pháp của dân tộc ký để nghiên cứu khảo cổ học. === Khảo cổ học thí nghiệm === Khảo cổ học thí nghiệm sử dụng những phương pháp thực nghiệm khoa học để thử nghiệm và chứng minh những giả thuyết khảo cổ, nâng cao kết quả nghiên cứu. Với việc thử nghiệm những kiến trúc, hiện vật được phục chế, nó làm tăng tính khoa học và nhận thức khảo cổ. === Khảo cổ khoa học === Khảo cổ khoa học ứng dụng những phương pháp khoa học vào phân tích sau khai quật, trợ giúp việc xác định niên đại hiện vật. === Quản lý di sản văn hóa === == Vấn đề khảo cổ == === Công cộng === === Giả khảo cổ === Giả khảo cổ là những hoạt động được tuyên bố như nghiên cứu khảo cổ học nhưng thực tế là chống lại khoa học khảo cổ. Nó bao gồm tiểu thuyết khảo cổ hay một số hoạt động thực tế có liên quan. === Mất mát hiện vật === Mất mát hiện vật là một vấn đề cổ xưa. === Hậu duệ === === Hồi hương và chôn lại hiện vật === == Khảo cổ học trong văn hóa đại chúng == == Xem thêm == == Tham khảo ==
franz beckenbauer.txt
Franz Anton Beckenbauer (sinh 11 tháng 9 năm 1945) là huấn luyện viên, quản lý, cựu cầu thủ bóng đá người Đức. Ông có biệt danh "der Kaiser", trong tiếng Đức có nghĩa là hoàng đế, bởi ông có một phong cách thanh lịch, khả năng lãnh đạo nổi tiếng. Tên đầu của ông, Franz, làm liên tưởng đến các hoàng đế nước Áo. Nhờ khả năng chiếm lĩnh sân cỏ xuất sắc của ông, ông được coi là cầu thủ bóng đá người Đức vĩ đại nhất của mọi thời đại và cũng là một trong những cầu thủ vĩ đại nhất trong lịch sử môn thể thao này. Cầu thủ đa tài này khởi đầu ở vị trí tiền vệ, tuy nhiên ông có khả năng thích nghi với nhiều vị trí trên sân. Ông được công nhận là người đã sáng tạo ra vị trí libero (hay còn gọi là hậu vệ quét) hiện đại và nổi tiếng khi thi đấu trong vị trí này. Đã hai lần từng được bầu là cầu thủ xuất sắc nhất châu Âu, ông đã 103 lần khoác áo đội tuyển Tây Đức và ghi 5 bàn trong hai giải World Cup. Ông đoạt chức vô địch World Cup với tư cách đội trưởng năm 1974 và lặp lại kỳ tích tương tự với tư cách huấn luyện viên năm 1990. Cùng với Bayern München, ông giành được ba lần chức vô địch châu Âu, liên tiếp từ 1974 đến 1976 và cúp C2 năm 1967. Sau đó ông trở thành huấn luyện viên và chủ tịch liên đoàn bóng đá. Năm 1990 ông đã dẫn dắt đội tuyển Đức đến chức vô địch World Cup 1990, trở thành người thứ hai sau Mario Zagallo giành được danh hiệu vô địch World Cup trên cương vị cầu thủ (World Cup 1974) và huấn luyện viên. Ông cũng là một thành viên của National Soccer Hall of Fame. Năm 1994, Beckenbauer dẫn dắt Bayern Munich và giúp câu lạc bộ này đoạt chức vô địch Bundesliga. Ông từ giã sự nghiệp cầm quân vào năm 1996. Năm 1999, ông được bình chọn vị trí thứ hai bên cạnh Johan Cruijff của Hà Lan trong cuộc bầu chọn cầu thủ châu Âu xuất sắc nhất thế kỷ, tổ chức bởi IFFHS, ông tiếp tục được bầu chọn ở vị trí thứ 4 bên cạnh Pelé, Maradona, và Johan Cruijff trong cuộc bầu cầu thủ xuất sắc nhất thế giới thế kỉ 20, cũng do IFFHS tổ chức. Ngày nay, Beckenbauer vẫn là một nhân vật quan trọng đối với cả bóng đá Đức cũng như bóng đá thế giới. Ông đóng vai trò quan trọng giúp Đức thắng lợi trong việc được đăng cai giải World Cup năm 2006 và ông kiêm chức vụ chủ tịch ủy ban điều hành của ngày hội bóng đá lớn nhất hành tinh năm 2006. Ông có 1 câu nói nổi tiếng và được xem là một trong những triết lý trong bóng đá: Kẻ mạnh chưa chắc đã là kẻ chiến thắng, mà kẻ chiến thắng mới chính là kẻ mạnh. == Thống kê sự nghiệp == == Chú thích == == Liên kết ngoài ==
kinh tế luxembourg.txt
Kinh tế Luxembourg là nền kinh tế phát triển, phụ thuộc chủ yếu vào lĩnh vực ngân hàng và thép. Luxembourg có GDP bình quân đầu người cao thứ hai thế giới sau Qatar, với 104,906 USD/đầu người. Mặc dù trong văn hóa du lịch, Luxembourg thực sự là trung tâm của châu Âu nhưng các vùng đất đồng cỏ vẫn tồn tại cùng với sự công nghiệp hóa và nền kinh tế xuất khẩu. Luxembourg có mức độ phồn thịnh về kinh tế độc nhất trong số các nước công nghiệp theo chế độ dân chủ. == Chú thích ==
đại học virginia.txt
Viện Đại học Virginia hay Đại học Virginia (tiếng Anh: University of Virginia, còn được gọi là U.Va., UVA, Mr. Jefferson's University, hay đơn giản là The University) là một viện đại học công lập ở Charlottesville, Virginia, do Thomas Jefferson thành lập. U.Va. là viện đại học duy nhất ở Bắc Mỹ được công nhận là di sản thế giới và khá nổi tiếng trong lịch sử Hoa Kỳ do nơi đây cung cấp các khóa học chuyên sâu về những lĩnh vực mà ngày nay trở thành thông dụng như kiến trúc, thiên văn học, triết học và cũng là viện đại học đầu tiên tách biệt giữa nhà thờ và trường học. Trường kỹ nghệ và khoa học ứng dụng của viện đại học này là trường kỹ nghệ đầu tiên ở Hoa Kỳ kết hợp với viện đại học. == Tham khảo ==
28 tháng 2.txt
Ngày 28 tháng 2 là ngày thứ 59 trong lịch Gregory. Còn 306 ngày trong năm (307 ngày trong năm nhuận). == Sự kiện == 202 TCN – Sau khi đánh bại Hạng Vũ, Hán vương Lưu Bang xưng đế, sáng lập ra triều Tây Hán, tức Hán Cao Tổ. 628 – Đại vương Khosrau II của Đế quốc Sassanid bị sát hại trong một cuộc binh biến do con là Kavadh II tiến hành. 926 – Bột Hải diệt vong khi Quốc vương Đại Nhân Soạn cùng quan lại ra khỏi kinh thành đầu hàng quân Khiết Đan dưới quyền A Bảo Cơ. 1077– Trận Như Nguyệt kết thúc, nhà Lý nước Đại Việt thắng lợi trong kháng chiến chống nhà Tống (Trung Hoa). 1845– Quốc hội Hoa Kỳ thông qua một đạo luật cho phép Hoa Kỳ sáp nhập Cộng hòa Texas, một nước cộng hòa ly khai từ Mexico. 1959– Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tiến hành cuộc đổi tiền với 1000 đồng cũ ăn một đồng mới. Đây là cuộc đổi tiền đầu tiên lần thứ ba sau năm 1945. 1972 – Tổng thống Hoa Kỳ Richard Nixon và Thủ tướng Trung Quốc Chu Ân Lai cùng ban bố "Công báo Liên hiệp" tại Thượng Hải. 1991 – Tổng thống Hoa Kỳ George H. W. Bush tuyên bố ngừng bắn và Kuwait được giải phóng, Chiến tranh vùng Vịnh lần thứ nhất kết thúc. 2013 – Giáo hoàng Biển Đức XVI từ vị giáo hoàng của Giáo hội Công giáo Rôma, trở thành giáo hoàng duy nhất từ vị kể từ năm 1415. == Sinh == 1906 – Bugsy Siegel, một tay lưu manh nổi tiếng người Mỹ (m. 1947) 1939 - Trịnh Công Sơn, nhạc sĩ Việt Nam (m. 2001) 1947 - Quách Lê Thanh, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa IX, Đại biểu Quốc hội khóa XI, Tổng Thanh tra Chính phủ nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam (m. 2010) == Mất == 1882 – John Thomas Romney Robinson, nhà thiên văn và nhà vật lý người Ireland (s. 1792) 1968 - Nikolai Voronov, nguyên soái, anh hùng Liên Xô (s. 1899) == Những ngày lễ và kỷ niệm == == Tham khảo ==
movistar.txt
Movistar là một nhà mạng do Telefónica Móviles sở hữu. Movistar được điều hành tại Tây Ban Nha và rất nhiều các quốc gia Mỹ Latinh. Rất nhiều các mạng lưới Movistar được mua lại từ BellSouth. Tên Movistar được sử dụng tại Tây Ban Nha kể từ khi khởi công dịch vụ GSM vào năm 1995. Sau khi mua lại nhà mạng BellSouth ở Nam Mỹ, tên này ảnh hưởng trên toàn thế giới kể từ ngày 5 tháng 4 năm 2005. Sau khi mua O2 năm 2005 bởi Telefónica S.A., công ty thông báo rằng O2 sẽ vẫn được sử dụng tại Vương quốc Anh, Đức và Cộng hòa Ireland, như một nhãn hiệu được tách ra với ủy ban và ban điều hành riêng. Eurotel ở Cộng hòa Séc đổi nhãn hiệu này thành Telefónica O2 Czech Republic, để phủ nhận Telefónica Móvistar. Movistar là nhà mạng lớn nhất tại Tây Ban Nha với hơn 22 triệu khách hàng và có độ phủ sóng rộng nhất Tây Ban Nha. Movistar cung cấp dịch vụ mạng GSM 900/1800 MHz (2G), UMTS 2100 MHz (3G) và HSDPA (3.5G). Các đối thủ cạnh tranh quan trọng của Movistar ở Mỹ Latinh là America Movil, tiếp cận thị trường dưới các tên: Claro, Telcel, Porta và Comcel == Các quốc gia mà Telefónica Móviles điều hành mạng viễn thông mang nhãn hiệu Movistar == Argentina (trước là Telefónica Unifón và Movicom BellSouth) Chile (trước là Telefónica Móvil và BellSouth) Colombia (trước là BellSouth) Ecuador (trước là BellSouth) El Salvador (trước là Telefónica Móviles hay Telefonica MoviStar) Guatemala (trước là Telefónica MoviStar và BellSouth) México (trước là Cedetel, Bajacel, Movitel, Norcel và Pegaso) Nicaragua (trước là BellSouth) Panama (trước là BellSouth) Peru (trước là Telefónica Móviles và BellSouth) Tây Ban Nha (trước là Telefónica MoviStar) Uruguay (trước là Movicom) Venezuela (trước là Telcel Bellsouth) == Quốc gia mà Telefónica Móviles có mạng lưới mang tên nhãn hiệu khác == Brasil (trước là Movistar ở một số nơi, giờ mang tên Vivo liên doanh với Portugal Telecom) Maroc (mang nhãn hiệu Meditel Telecom) là nhãn hiệu liên doanh với Portugal Telecom, BMCE Bank và một số khác == Quốc gia mà Telefónica có mạng lưới mang tên nhãn hiệu khác == Cộng hòa Czech (mang tên O2) Slovakia (mang tên O2) Đức (mang tên O2) Cộng hòa Ireland (mang tên O2) Vương quốc Anh (mang tên O2) Đảo Man (mang tên Manx Telecom) == Điện thoại băng rộng == : HSDPA: ZTE MF620 và Huawei E220. HSUPA: Novatel MC950D và Huawei E270. == Tham khảo == == Liên kết ngoài == (tiếng Tây Ban Nha) movistar Global Website (tiếng Tây Ban Nha) movistar mobile-compatible website (tiếng Tây Ban Nha) movistar Tây Ban Nha (tiếng Tây Ban Nha) movistar Argentina (tiếng Tây Ban Nha) movistar Chile (tiếng Tây Ban Nha) movistar Colombia (tiếng Tây Ban Nha) movistar Ecuador (tiếng Tây Ban Nha) movistar Mexico (tiếng Tây Ban Nha) movistar Guatemala (tiếng Tây Ban Nha) movistar El Salvador (tiếng Tây Ban Nha) movistar Nicaragua (tiếng Tây Ban Nha) movistar Panamá (tiếng Tây Ban Nha) movistar Perú (tiếng Tây Ban Nha) movistar Uruguay (tiếng Tây Ban Nha) movistar Venezuela (tiếng Anh) O2 plc (tiếng Anh) O2 Ireland (tiếng Anh) O2 UK (tiếng Đức) O2 Germany (tiếng Bồ Đào Nha) Vivo (Brazil)
nguyễn huệ.txt
Nguyễn Huệ (1753 – 1792), còn được biết đến là Quang Trung Hoàng đế hay Bắc Bình Vương, là vị hoàng đế thứ hai của nhà Tây Sơn, bên cạnh Thái Đức Hoàng đế Nguyễn Nhạc. Ông không những là một trong những vị tướng lĩnh quân sự xuất sắc mà còn là một nhà cai trị tài giỏi, đưa ra nhiều cải cách kinh tế, xã hội nổi bật trong lịch sử Việt Nam. Nguyễn Huệ và hai người anh em của ông, được biết đến với tên gọi Anh em Tây Sơn, là những lãnh đạo của cuộc khởi nghĩa Tây Sơn đã chấm dứt cuộc nội chiến Trịnh-Nguyễn phân tranh giữa hai tập đoàn phong kiến Trịnh ở phía bắc và Nguyễn ở phía nam, lật đổ hai tập đoàn này cùng nhà Hậu Lê, chấm dứt tình trạng phân liệt Đàng Trong - Đàng Ngoài kéo dài suốt 2 thế kỷ. Ngoài ra, Nguyễn Huệ còn là người đánh bại các cuộc xâm lược Đại Việt của Xiêm La từ phía nam, của Đại Thanh từ phía bắc; đồng thời còn là vị vua có tài cai trị khi đề ra nhiều kế hoạch cải cách tiến bộ xây dựng Đại Việt. (xem những cải cách của vua Quang Trung) Sau 20 năm liên tục chinh chiến và trị quốc, Nguyễn Huệ lâm bệnh và đột ngột qua đời ở tuổi 40, khi nhiều dự định còn dang dở. Sau cái chết của ông, nhà Tây Sơn suy yếu nhanh chóng. Những người kế thừa ông không đủ bản lĩnh để lãnh đạo Đại Việt, lâm vào mâu thuẫn nội bộ và thất bại trong việc tiếp tục chống lại kẻ thù của Tây Sơn. Cuộc đời hoạt động của Nguyễn Huệ được một số sử gia đánh giá là đã đóng góp quyết định vào sự nghiệp thống nhất đất nước của triều đại Tây Sơn. Cuộc đời ông được biết đến qua các bộ sử của nhà Hậu Lê và nhà Nguyễn, các sử gia cận đại, hiện đại và cả trong văn học dân gian. Khi Nguyễn Huệ mất, nhân dân nhiều nơi đã xây lăng, lập đền thờ, dựng tượng đài và bảo tàng Nguyễn Huệ để tưởng nhớ công lao của ông. Dù sau này nhà Nguyễn (đối thủ của nhà Tây Sơn) tìm nhiều cách xóa bỏ uy tín của Quang Trung (phá bỏ đền thờ, cấm người dân thờ cúng, truy lùng các bề tôi của Quang Trung...) và gọi ông là "giặc" trong các tài liệu triều đình, nhưng ký ức về các chiến công của ông vẫn được những người mến mộ ông truyền tụng suốt 150 năm. Ngày nay, Nguyễn Huệ được coi là một vị anh hùng dân tộc của Việt Nam, nhiều đường phố ở các địa phương được đặt theo tên ông, riêng ở Thành phố Hồ Chí Minh có một đường phố, một đường hoa và một phố đi bộ mang tên Nguyễn Huệ. == Thân thế == Có giả thuyết cho rằng tổ tiên nhà Tây Sơn vốn họ Hồ ở làng Hương Cái, huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An, dòng dõi Hồ Quý Ly. Họ theo chân chúa Nguyễn vào lập nghiệp miền Nam khi chúa Nguyễn vượt Lũy Thầy đánh ra đất Lê - Trịnh tới Nghệ An (năm 1655). Ông cố (cụ nội) của Nguyễn Huệ tên là Hồ Phi Long (vào giúp việc cho nhà họ Đinh ở thôn Bằng Châu, huyện Tuy Viễn, tức An Nhơn) cưới vợ họ Đinh và sinh được một trai tên là Hồ Phi Tiễn. Hồ Phi Tiễn không theo việc nông mà bỏ đi buôn trầu ở ấp Tây Sơn, cưới vợ và định cư tại đó. Vợ của Hồ Phi Tiễn là Nguyễn Thị Đồng, con gái duy nhất của một phú thương đất Phú Lạc, do đó họ đổi họ của con cái mình từ họ Hồ sang họ Nguyễn của mẹ. Người con là Nguyễn Phi Phúc cũng chuyên nghề buôn trầu và làm ăn phát đạt. Cũng có tài liệu cho rằng họ Hồ đã đổi theo họ chúa Nguyễn ngay từ khi mới vào Nam. Ông Nguyễn Phi Phúc có 8 người con, trong đó có 3 con trai: Nguyễn Văn Nhạc, Nguyễn Văn Lữ và Nguyễn Văn Huệ. Nguyễn Huệ sinh năm Quý Dậu tức năm 1753 niên hiệu Cảnh Hưng thứ 13 dưới triều vua Lê Hiển Tông nhà Hậu Lê. Ông còn có tên là Quang Bình, Văn Huệ hay Hồ Thơm. Sau này, người dân địa phương thường gọi ông là Đức ông Bình hoặc Đức ông Tám. Theo Quang Trung anh hùng dân tộc thì “Nguyễn Huệ tóc quăn, da sần, mắt như chớp sáng, tiếng nói sang sảng như tiếng chuông, nhanh nhẹn, khỏe mạnh, can đảm”. Sách Tây Sơn lược còn miêu tả đôi mắt Quang Trung “ban đêm khi ngồi không có đèn thì ánh sáng từ đôi mắt soi sáng cả chiếu”. Về thứ tự của Nguyễn Huệ và Nguyễn Lữ trong các anh em, các nguồn tài liệu ghi không thống nhất: Các sách Đại Nam thực lục chính biên, Đại Nam chính biên liệt truyện, Tây Sơn thuỷ mạt khảo đều thống nhất ngôi thứ trong ba anh em Tây Sơn đã khẳng định rằng: "Con trưởng là Nhạc, kế là Lữ, kế nữa là Huệ". Dân phủ Quy Nhơn xưa truyền lại rằng: Nguyễn Nhạc thuở đi buôn trầu nên gọi anh Hai Trầu; Nguyễn Huệ còn có tên là Thơm nên gọi là chú Ba Thơm; Nguyễn Lữ gọi là thầy Tư Lữ. Theo thư từ của các giáo sĩ phương Tây hoạt động ở Đại Việt khi đó như Labartette, Eyet và Varen thì Nguyễn Huệ là em của Nguyễn Lữ. Nguyễn Lữ được gọi là Đức Ông Bảy còn Nguyễn Huệ là Đức Ông Tám. Lê Trọng Hàm trong sách Minh đô sử lại cho rằng Hồ Phi Phúc sinh "Nhạc, Lữ đến hai cô con gái rồi đến Huệ". Lớn lên, ông và Nguyễn Nhạc, Nguyễn Lữ được đưa đến thụ giáo cả văn lẫn võ với thầy Trương Văn Hiến. Trương Văn Hiến là môn khách của Trương Văn Hạnh, còn Trương Văn Hạnh là thầy dạy của Nguyễn Phúc Luân - cha của Nguyễn Ánh. Sau khi Trương Văn Hạnh bị quyền thần Trương Phúc Loan hãm hại, Trương Văn Hiến chạy vào Bình Định. Chính người thầy này đã phát hiện được khả năng của Nguyễn Huệ và khuyên bảo ba anh em khởi nghĩa để xây dựng đại nghiệp. Tương truyền câu sấm "Tây khởi nghĩa, Bắc thu công" là của Trương Văn Hiến. Tương truyền Nguyễn Huệ, Nguyễn Nhạc và Nguyễn Lữ đều là những người rất giỏi võ nghệ và là những người khai sáng ra một số võ phái Bình Định. Nguyễn Huệ khai sáng Yến phi quyền, Nguyễn Lữ sáng tạo Hùng kê quyền, và cả ba anh em Tây Sơn sáng tạo Độc lư thương. Tây Sơn tam kiệt có vai trò rất lớn cho sự hình thành, phát triển võ phái Tây Sơn Bình Định, là những đầu lĩnh sáng tạo, cải cách các bài quyền, bài binh khí để truyền dạy cho ba quân trong giai đoạn đầu khởi nghĩa. == Tiêu diệt chính quyền chúa Nguyễn == === Tham gia khởi nghĩa === Lấy lý do chống lại sự áp bức của quyền thần Trương Phúc Loan, ủng hộ hoàng tôn Nguyễn Phúc Dương, Nguyễn Nhạc cất binh khởi nghĩa năm 1771, xây dựng căn cứ chống chính quyền chúa Nguyễn tại Tây Sơn. Trong giai đoạn xây dựng thế lực, Nguyễn Huệ đã giúp Nguyễn Nhạc xây dựng kinh tế và huấn luyện quân sự. Với sự ngầm trợ giúp về mặt tâm lý của thầy giáo Hiến và bản lĩnh cá nhân, Nguyễn Huệ đã nhanh chóng xây dựng được uy tín cho lực lượng Tây Sơn và cả cho cá nhân mình. Chẳng bao lâu sau, lực lượng của nhà Tây Sơn mỗi ngày mỗi lớn và vững vàng. Những người hợp tác đầu tiên với nhà Tây Sơn có Nguyễn Thung, Bùi Thị Xuân, Võ Văn Dũng, Võ Đình Tú, Trần Quang Diệu, Trương Mỹ Ngọc, Võ Xuân Hoài. Về sau, kẻ sĩ gần xa đến hưởng ứng thêm đông. Lực lượng Tây Sơn không những đánh đâu thắng đó mà còn nổi tiếng vì bình đẳng, bình quyền, không tham ô của dân và lấy của người giàu chia cho người nghèo Theo Tây Sơn tiềm long lục của Nguyễn Bá Huân, một danh sĩ người Bình Định (1848-1899) sống thời nhà Nguyễn, thấy quân Tây Sơn đánh chiếm các huyện, thành, thôn ấp, tuần phủ Quy Nhơn của chúa Nguyễn là Nguyễn Khắc Tuyên cùng đề đốc Lý Trình đi đánh dẹp. Quân Khắc Tuyên đến Phù Ly gặp quân Tây Sơn do Nguyễn Huệ chỉ huy. Hai bên giao chiến, Lý Trình bị Nguyễn Huệ chém chết, Khắc Tuyên bỏ chạy về Quy Nhơn. Năm 1773, anh em Tây Sơn hạ được thành Quy Nhơn (kinh thành Đồ Bàn cũ của Chiêm Thành). Từ đó, quân Tây Sơn đánh ra các vùng lân cận và tới cuối năm 1773 đã kiểm soát từ Quy Nhơn đến Bình Thuận, làm suy yếu chính quyền chúa Nguyễn. === Tái chiếm Phú Yên === ==== Tây Sơn lâm nguy ==== Không lâu sau khi làm chủ phần lớn khu vực Nam Trung Bộ, anh em Tây Sơn bắt đầu gặp khó khăn trước những diễn biến mới. Giữa năm 1774, chúa Nguyễn cử Tống Phúc Hiệp mang quân từ Gia Định theo hai đường thủy bộ ra đánh Nam Trung bộ, và nhanh chóng lấy lại được Bình Thuận, Diên Khánh và Bình Khang. Tây Sơn từ đó chỉ còn làm chủ từ Phú Yên ra Quảng Ngãi. Nhân cơ hội chúa Nguyễn suy yếu, tháng 10 năm 1774, chúa Trịnh Sâm sai Việp quận công Hoàng Ngũ Phúc dẫn 3 vạn quân tiến đánh Đàng Trong. Quân Trịnh vượt sông Gianh đánh chiếm Phú Xuân. Định Vương Nguyễn Phúc Thuần và các quan phải chạy vào Quảng Nam, nhưng bị Nguyễn Nhạc mang quân hai đường thủy bộ tiến ra đánh, vội theo đường biển trốn vào Gia Định, để Nguyễn Phúc Dương ở lại. Tháng 2 năm 1775, quân Trịnh vượt đèo Hải Vân đã đụng độ với quân Tây Sơn cũng đang tiến ra để lùng bắt Phúc Dương. Hoàng Ngũ Phúc đang đà thắng lợi, đánh bại quân Tây Sơn ở Cẩm Sa. Nguyễn Nhạc phải rút quân về Quy Nhơn, sau khi đã bắt được Phúc Dương. Lợi dụng Nguyễn Nhạc thua trận, Tống Phúc Hiệp từ Bình Khang tiến ra đánh Phú Yên, quân Tây Sơn thua trận phải co về Quy Nhơn. Phần lãnh thổ mà anh em Tây Sơn còn kiểm soát chỉ còn Quy Nhơn và Quảng Ngãi. Tình thế của quân Tây Sơn lúc đó rất nguy ngập, nếu mang quân ra đương đầu với cả hai phía thì chắc chắn Tây Sơn sẽ bị tiêu diệt. Nguyễn Nhạc quyết định xin giảng hoà với chúa Trịnh để tập trung vào chiến trường phía nam, bèn sai người đến chỗ Hoàng Ngũ Phúc xin đầu hàng và làm tiên phong cho chúa Trịnh để đánh chúa Nguyễn. Hoàng Ngũ Phúc cũng muốn mượn sức Tây Sơn diệt họ Nguyễn nên nhân danh chúa Trịnh thuận cho Nguyễn Nhạc hàng, phong làm "Tây Sơn trưởng hiệu tráng tiết tướng quân". Dù thế, Hoàng Ngũ Phúc vẫn không cho lui quân, đóng sát địa giới Quảng Ngãi, có ý chờ nếu Tây Sơn bại trận sẽ tiến vào chiếm Quảng Ngãi và Quy Nhơn. ==== Xuất quân thắng trận ==== Tạm yên phía bắc nhưng Tây Sơn vẫn còn ở vào tình thế nguy hiểm, chỉ có một lựa chọn là phải thắng trận để chiếm lại Phú Yên từ tay quân Nguyễn, nếu không sẽ bị quân Trịnh đánh từ phía sau. Trong tình thế các tướng đều bạc nhược do thua trận, Nguyễn Nhạc quyết định cử Nguyễn Huệ khi đó mới 23 tuổi, làm chủ tướng mang quân vào Nam. Để hỗ trợ cho Nguyễn Huệ, nhân nắm con bài Nguyễn Phúc Dương trong tay, Nguyễn Nhạc gả con gái cho Dương, rồi sai người vào Phú Yên điều đình với Tống Phúc Hiệp bàn việc lập Phúc Dương làm chúa và cùng đánh Trịnh. Việc đàm phán đến nửa chừng thì Nguyễn Huệ kéo quân tới đánh khiến Hiệp không kịp trở tay. Nguyễn Huệ bắt sống Nguyễn Khoa Kiên, giết Nguyễn Văn Hiền, riêng Hiệp chạy thoát. Tướng của chúa Nguyễn ở Bình Khang là Bùi Công Kế mang quân ra cứu bị Nguyễn Huệ bắt sống. Tướng chúa Nguyễn khác là Tống Văn Khôi ở Khánh Hoà ra đánh cũng bị Nguyễn Huệ giết tại trận. Hoàng Ngũ Phúc nhân lúc Tây Sơn mang quân vào Nam liền lấn tới đóng quân ở Châu Ổ thuộc Quảng Ngãi, nhưng sau khi nghe tin Nguyễn Huệ thắng trận không dám tiến nữa. Để tăng thêm thanh thế, Nguyễn Nhạc yêu cầu quận Việp phong chức cho em. Quận Việp phong Nguyễn Huệ làm "Tây Sơn hiệu tiền tướng quân". Ít lâu sau vì tuổi già sức yếu, quận Việp bỏ Quảng Nam lui về Phú Xuân rồi giao lại thành này cho các tướng dưới quyền, còn mình dẫn đại quân về Bắc. Nhân lúc quân Trịnh rút khỏi Quảng Nam, các tướng cũ của họ Nguyễn lại nổi dậy chiếm nơi này. Nguyễn Nhạc bèn điều Nguyễn Huệ từ Phú Yên ra đánh tan quân Nguyễn, lấy lại Quảng Nam. Chiến thắng Phú Yên là dấu ấn đầu tiên của Nguyễn Huệ trên con đường binh nghiệp của ông sau này. Từ đây ông trở thành chỗ dựa vững chắc cho nhà Tây Sơn. === Tiến công Gia Định === Những chiến dịch tấn công Gia Định của Tây Sơn đều là những chiến dịch lớn. Ngoại trừ lần đầu tiên mang tính đánh tập kích do Nguyễn Lữ chỉ huy, những chiến dịch sau đều có quy mô lớn, có vai trò tham gia then chốt của Nguyễn Huệ. Oanh liệt hơn cả là trận đánh năm 1777. Nguyễn Huệ ra Bắc để lại tướng người Hoa là Lý Tài giữ thành Phú Yên. Tài bất mãn vì mất chức chánh tướng về tay Nguyễn Huệ nên nghe theo lời dụ của Tống Phúc Hiệp, sang hàng chúa Nguyễn. Để chia thế quân Nguyễn, đầu năm 1776, Nguyễn Nhạc sai Nguyễn Lữ mang quân theo đường thuỷ vào đánh Gia Định. Nguyễn Lữ liền thu hết kho tàng của chúa Nguyễn rồi rút về Quy Nhơn. Tháng 10 năm 1776, Nguyễn Phúc Dương bỏ trốn từ Quy Nhơn về Gia Định, gọi Lý Tài làm vây cánh. Đỗ Thanh Nhân không thừa nhận một hàng tướng từ Tây Sơn thế là ông nhục mạ Lý Tài, bị nhục Lý Tài chiêu mộ lính rồi đánh nhau với Đỗ Thanh Nhân. Nhân thua bỏ Gia Định về Ba Giòng. Lý Tài ép Nguyễn Phúc Thuần nhường ngôi cho Nguyễn Phúc Dương làm Tân chính vương, còn Nguyễn Phúc Thuần làm Thái thượng vương, Lý Tài trở thành Bảo giá Đại tướng quân. Tháng 3 năm 1777, Nguyễn Nhạc lại cử Nguyễn Huệ làm tướng mang thủy quân vào đánh Gia Định. Lý Tài thua trận bỏ chạy khỏi thành và đưa 2 chúa Nguyễn về Hóc Môn. Sau Lý Tài rút khỏi Hóc Môn về Ba Giồng bị Đỗ Thanh Nhân đón đường giết chết. Nguyễn Phúc Thuần theo Đỗ Thanh Nhân giữ Tranh Giang, Nguyễn Phúc Dương theo tướng Trương Phúc Thận giữ Tài Phụ. Nguyễn Huệ chia đường đánh bại cả hai cánh quân Nguyễn. Nguyễn Phúc Thuần và Đỗ Thanh Nhân phải bỏ chạy về Cần Thơ cầu viện Tổng binh Hà Tiên là Mạc Thiên Tứ, còn Nguyễn Phúc Dương bỏ chạy về Ba Việt (Bến Tre). Nguyễn Huệ đánh bại Mạc Thiên Tứ. Nguyễn Phúc Thuần sai Đỗ Thanh Nhân lẻn ra Bình Thuận cầu cứu Chu Văn Tiếp, Trần Văn Thức. Nguyễn Nhạc nhân lúc Nguyễn Huệ thắng trận ở Nam Bộ cũng cử binh đánh Phú Yên, Bình Thuận. Trần Văn Thức chưa ra khỏi Bình Thuận đã bị quân Tây Sơn giết chết, Chu Văn Tiếp bỏ chạy. Nguyễn Nhạc chiếm lại Phú Yên đến Bình Thuận. Tháng 9 năm 1777, Nguyễn Huệ mang quân bao vây tấn công Ba Việt, bắt sống Nguyễn Phúc Dương và toàn bộ quân tướng. Dương và 18 tướng tuỳ tùng bị đưa về Gia Định xử tử (vào tháng 10 năm 1777). Nguyễn Phúc Thuần bại trận bỏ Cần Thơ sang Long Xuyên, định chờ Mạc Thiên Tứ lấy tàu để chạy sang Trung Quốc cầu viện nhà Thanh nhưng bị quân Tây Sơn đuổi đến nơi, bắt được Nguyễn Phúc Thuần mang về Gia Định xử tử tháng 10 năm 1777. Nguyễn Ánh, Đỗ Thanh Nhân và Mạc Thiên Tứ trốn thoát mỗi người một nơi. Như vậy trong vòng 7 tháng, Nguyễn Huệ đánh thắng và bắt giết được cả 2 chúa Nguyễn, nhà Tây Sơn từ chỗ bị dồn về Quy Nhơn đã chủ động giành lại không những Nam Trung Bộ mà cả Nam Bộ, tiêu diệt chính quyền chúa Nguyễn. Sau khi Nguyễn Huệ rút đại quân về, Nguyễn Nhạc lên ngôi hoàng đế (1778), niên hiệu là Thái Đức, ông phong cho Nguyễn Huệ là Long Nhương tướng quân. Các tướng họ Nguyễn lại lập Nguyễn Ánh làm chúa, chiếm lại Gia Định. Được các lực lượng phương Tây như Pháp, Bồ Đào Nha giúp sức, Nguyễn Ánh lại mạnh lên. Thái Đức hoàng đế sai tướng vào đánh nhưng lại bị thua và mất thêm Bình Thuận. Tháng 3 năm 1782, Nguyễn Huệ cùng vua Thái Đức mang quân thuỷ bộ Nam tiến, phá tan quân Nguyễn, giết chết cai cơ người Pháp là Manuel (Mạn Hoè). Nguyễn Ánh bỏ chạy về Hậu Giang. Vua Thái Đức chiếm lại Nam bộ, sai người giao hảo với Chân Lạp (Campuchia) và đề nghị hợp tác đánh Nguyễn Ánh. Chân Lạp chia quân đón bắt được đoàn cầu viện Xiêm La của Nguyễn Ánh và suýt bắt được ông. Nguyễn Ánh trốn ra đảo Phú Quốc. Anh em Tây Sơn rút quân về Bắc, Chu Văn Tiếp lại từ Bình Thuận mang quân vào đánh chiếm được Gia Định và đón Nguyễn Ánh trở về. Tháng 2 năm 1783, Nguyễn Nhạc lại sai Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ mang quân Nam tiến. Dù Nguyễn Ánh đã lập tuyến phòng thủ trước vẫn bị quân Tây Sơn phá tan và Ánh buộc phải bỏ chạy về Đồng Tuyên. Nguyễn Huệ đánh phá Đồng Tuyên, Nguyễn Ánh lại bỏ chạy ra Hà Tiên rồi trốn ra đảo Phú Quốc. Tháng 8 năm 1783, quân Tây Sơn truy kích, Nguyễn Ánh chạy một vòng ra các đảo Cổ Long, Cổ Cốt rồi lại quay về Phú Quốc. Quân Tây Sơn vây đánh nhưng lúc đó có bão biển, các thuyền Tây Sơn phải giãn ra, sau 7 ngày đêm lênh đênh trên biển, Nguyễn Ánh thừa cơ lại trốn thoát, chạy hẳn ra đảo Thổ Chu cách xa đất liền rồi đầu năm sau tự mình sang Xiêm cầu viện. == Trận Rạch Gầm - Xoài Mút == Tháng 2 năm Giáp Thìn (1784), Nguyễn Ánh sang Xiêm La hội kiến với vua Xiêm La là Chất Tri (Chakri, Rama I) tại Vọng Các (Bangkok). Vua Xiêm sai hai tướng là Chiêu Tăng, Chiêu Sương đem 2 vạn quân thủy cùng 300 chiếc thuyền sang giúp. Ngoài ra còn có 3 vạn quân bộ tiến sang Chân Lạp với danh nghĩa giúp vua Chân Lạp, nhưng thực chất ý đồ nhằm tạo gọng kìm phía tây, chờ cơ hội tiêu diệt quân Tây Sơn. Quân Xiêm nhanh chóng lấy được Rạch Giá, Ba Thắc, Trà Ôn, Mân Thít, Sa Đéc, ra tay cướp phá bừa bãi. Tướng Tây Sơn giữ đất Gia Định là phò mã Trương Văn Đa, thấy quân Xiêm thế lực mạnh, bèn cố thủ tại Gia Định và sai người về Quy Nhơn báo. Vua Tây Sơn sai Nguyễn Huệ đem binh vào chống giữ. Sau khi vào Gia Định, Nguyễn Huệ đánh vài trận nhưng không thắng có ý rút binh nhưng gặp dịp một tướng của Nguyễn Ánh là Lê Xuân Giác về hàng bày mưu phục binh. Mưu hợp với Nguyễn Huệ nên ông nghe theo liền cho bố trí trận địa và nhử quân Xiêm đến gần Rạch Gầm và Xoài Mút (ở phía trên Mỹ Tho) để đánh một trận lớn tiêu diệt quân Xiêm. Đêm 19 rạng 20 tháng 1 năm 1785 (đêm 9 rạng 10 tháng 12 năm Giáp Thìn), quân Xiêm lợi dụng thủy triều xuôi theo dòng sông để tấn công Mỹ Tho nhằm phá vỡ đội thuyền phòng thủ của Tây Sơn. Quân Tây Sơn giả thua rút dần về hướng Mỹ Tho, nhử đối phương lọt vào trận địa mai phục đoạn Rạch Gầm-Xoài Mút. Quân Xiêm quen mùi thắng nên tiến vào trận mai phục của Tây Sơn, khi quân Xiêm lọt vào trận mai phục, bất ngờ quân Tây Sơn sử dụng pháo bắn uy hiếp dữ dội ở cù lao Thới Sơn và bờ sông Tiền, khóa chặt hai đầu, dồn quân Xiêm vào thế "tiến thoái lưỡng nan". Bên cạnh đó, hỏa hổ ở hai bên bờ nã đạn tới tấp vào đội hình làm quân Xiêm rối loạn, tinh thần hoang mang rồi bỏ chạy. Cùng lúc đó, một đội thuyền cảm tử chở đầy rơm và những vật liệu dễ cháy đâm thẳng vào thuyền quân Xiêm làm cho số bị chìm, số bị cháy. Trong khi đó, cánh quân bộ Xiêm La ngay từ đầu đã bị quân Tây Sơn chặn đánh không cho cứu viện. Một trận quyết chiến diễn ra trong không đầy một ngày đã tiêu diệt gần như hoàn toàn 2 vạn quân Xiêm, số còn sống sót chỉ được vài nghìn người chạy theo đường thượng đạo trốn về nước. Cánh quân bộ nghe tin thất trận cũng tan rã và tháo chạy. Nhị vương Xiêm La Chiêu Tăng, Chiêu Sương chạy theo đường bộ về Xiêm; còn Nguyễn Ánh phải chạy ra đảo Thổ Chu rồi về Cổ Cốt được Cai cơ Trung đón sang Xiêm. Sau trận đánh này, quân Xiêm khiếp đảm trước sức mạnh của Tây Sơn, "sợ Tây Sơn như sợ cọp". Đánh dẹp xong, Nguyễn Huệ đem quân về Quy Nhơn để đô đốc là Đặng Văn Trấn ở lại trấn đất Gia Định. == Tiêu diệt chính quyền chúa Trịnh == === Đánh chiếm Phú Xuân === Tại Bắc Hà, năm 1782, Tĩnh Đô vương Trịnh Sâm qua đời, thế tử Trịnh Cán được lập làm Điện Đô vương. Phe của người con lớn là Trịnh Tông làm binh biến, giết quan phụ chính là quận Huy Hoàng Tố Lý (cháu lão tướng Hoàng Ngũ Phúc) đưa Trịnh Tông lên ngôi, tức là Đoan Nam vương (1782-1786). Một tướng theo phe quận Huy là Nguyễn Hữu Chỉnh không hợp tác với Trịnh Tông, bỏ chạy vào Nam hàng Tây Sơn và được Nguyễn Nhạc rất tín nhiệm. Bắc Hà ngày một suy yếu. Nguyễn Nhạc quyết định đánh chiếm Phú Xuân (đất cũ của chúa Nguyễn). Năm 1786, Nguyễn Huệ được cử làm tổng chỉ huy cùng Nguyễn Lữ đánh ra Bắc. Về phía Trịnh, sau khi nhận hàng Nguyễn Nhạc, lão tướng Hoàng Ngũ Phúc rút đại quân về Bắc (1775), để lại Phạm Ngô Cầu và Hoàng Đình Thể giữ thành Phú Xuân. Sau đó không lâu, Hoàng Ngũ Phúc qua đời. Nguyễn Huệ lập kế lung lạc chủ tướng Phạm Ngô Cầu. Nguyễn Hữu Chỉnh lại dùng kế ly gián Phạm Ngô Cầu và phó tướng Hoàng Đình Thể. Quân Tây Sơn bất ngờ đánh úp thành Phú Xuân. Phạm Ngô Cầu bỏ mặc Hoàng Đình Thể chết trận và quyết định dâng thành hàng Tây Sơn. Trong khi đó thì Nguyễn Lữ đem quân thủy đánh xong các đồn từ sông Gianh trở vào (xem thêm bài về nhà Tây Sơn và Nguyễn Lữ). === Tiến ra Thăng Long === Do sự thuyết phục của Nguyễn Hữu Chỉnh, Nguyễn Huệ quyết định đem quân ra Bắc đánh Thăng Long để diệt họ Trịnh dù chưa được lệnh của vua anh Nguyễn Nhạc. Với danh nghĩa "Phù Lê diệt Trịnh", Nguyễn Huệ sai Nguyễn Hữu Chỉnh làm tiên phong Bắc tiến. Quân Trịnh rệu rã nhanh chóng tan vỡ, các danh tướng phần nhiều nghe tin Phú Xuân thất thủ đã khiếp sợ, đến khi nghe quân Tây Sơn kéo ra đa số bỏ trốn. Chúa Trịnh bỏ thành Thăng Long chạy và bị dân bắt đem nộp Tây Sơn. Trên đường áp giải, Trịnh Tông đã tự sát. Nguyễn Huệ vào thành Thăng Long yết kiến vua Lê Hiển Tông. Tuy về danh nghĩa Nguyễn Huệ trao trả quyền chính lại cho vua Lê và nhận phong Nguyên súy Dực chính phù vận Uy quốc công, nhưng trong thực tế ông nắm toàn bộ quyền chính ở Bắc Hà. Do sự sắp xếp của Nguyễn Hữu Chỉnh, vua Lê Hiển Tông gả công chúa Lê Ngọc Hân cho Nguyễn Huệ. Tháng 7 năm 1786, vua Lê Hiển Tông qua đời, thọ 70 tuổi. Thể theo ý kiến của công chúa Ngọc Hân thiên về lập hoàng thân Lê Duy Cận (anh Ngọc Hân), Nguyễn Huệ muốn tôn lập Duy Cận làm vua. Tuy vậy, do áp lực của tôn thất nhà Lê đối với Ngọc Hân, Nguyễn Huệ đành thu xếp cho Lê Duy Kỳ lên ngôi vua, đó là vua Lê Chiêu Thống. Ít lâu sau, Nguyễn Huệ đem công chúa Ngọc Hân cùng Nguyễn Nhạc rút quân về Nam. == Bất hòa với vua anh == Về Nam Hà, Nguyễn Nhạc chia vùng đất phía nam ra làm 3: Nguyễn Nhạc xưng là Trung ương Hoàng đế, đóng đô ở Quy Nhơn. Phong Nguyễn Lữ làm Đông Định Vương, cai quản vùng đất Gia Định. Phong Nguyễn Huệ làm Bắc Bình Vương, cai quản vùng đất Thuận Hóa trở ra đèo Hải Vân. Mâu thuẫn của anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ ngày càng lớn. Vua Tây Sơn vốn không có ý đánh ra Bắc Hà, chỉ muốn chiếm Nam Hà; việc Huệ đánh Bắc Hà là trái ý Nguyễn Nhạc, lại thấy Nguyễn Huệ ở Bắc Hà lâu quá sau khi thắng nên Nguyễn Nhạc đâm ra lo sợ vì khó kiềm chế được Nguyễn Huệ. Nguyễn Nhạc tuyển một đội lính hộ tống đi ra Bắc và đòi Nguyễn Huệ về. Dù chính Nguyễn Huệ đã ra tận ngoài cửa ô tiếp đón, cả hai cùng đi triều kiến vua Lê rồi về Nam nhưng Nguyễn Nhạc vẫn chưa bằng lòng. Tới Phú Xuân, Nguyễn Huệ ở lại còn Nguyễn Nhạc trở về Quy Nhơn. Nguyễn Nhạc đưa ra nhiều đòi hỏi tỏ uy quyền mà Nguyễn Huệ từ chối: bắt Nguyễn Huệ đi chầu, nộp chiến lợi phẩm và nộp đất Quảng Nam.. Nguyễn Huệ tỏ ra chống đối Nguyễn Nhạc và binh lính lại rất trung thành với ông. Nguyễn Nhạc phẫn chí, giết công thần Nguyễn Thung, hiếp vợ Nguyễn Huệ. Nguyễn Huệ chiếm nốt kho vàng của Tây Sơn ở Quy Nhơn để vận hành chiến tranh, thế là chiến tranh xảy ra. Nguyễn Huệ đánh nhau với Nguyễn Nhạc trong vài tháng đầu năm 1787, ông tổng động viên chừng 6 vạn tới 10 vạn quân. Họ đánh nhau dữ dội và sau đó Nguyễn Huệ tiến đến vây thành Quy Nhơn, đắp thành đất, bắn đại bác vào thành. Nguyễn Nhạc bị vây bức quá phải vào đền thờ cha mẹ khóc rồi kêu Đặng Văn Chân từ Gia Định về cứu nhưng quân Đặng Văn Chân tới nơi lại bị Nguyễn Huệ đánh tan, buộc Đặng Văn Chân phải tới hàng. Tuy quân của Nguyễn Huệ trong các cuộc công thành thương vong đến phân nửa nhưng tình thế buộc Nguyễn Nhạc phải lên mặt thành khóc xin em "Nỡ lòng nào mà nồi da xáo thịt như thế". Nguyễn Huệ nể tình anh em, thôi hãm thành và bằng lòng giảng hòa với vua anh, rồi rút về Thuận Hóa == Lưỡng đầu thọ địch == Sự xung đột, bất hòa giữa hai anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ khiến kẻ địch lợi dụng ở cả hai miền Nam Bắc. Ở Bắc Hà, sau khi quân Tây Sơn rút đi, các thế lực của chúa Trịnh trỗi dậy lập Trịnh Bồng lên ngôi vương, tái lập chính quyền chúa Trịnh. Vua Lê Chiêu Thống mời Nguyễn Hữu Chỉnh đang trấn ở Nghệ An ra dẹp Trịnh Bồng. Nguyễn Hữu Chỉnh nhanh chóng đánh tan quân Trịnh, đốt phủ chúa, Trịnh Bồng bỏ đi mất tích. Nguyễn Hữu Chỉnh nhân lúc Tây Sơn có biến bèn chuyên quyền, muốn chống lại Tây Sơn. Trong khi đó tại miền Nam, giữa năm 1787, Nguyễn Ánh từ Xiêm quay trở lại Gia Định. Nguyễn Lữ bỏ Phạm Văn Tham một mình chiến đấu với quân Nguyễn và tự ý rút về Quy Nhơn (xem thêm bài Nguyễn Lữ). Trước tình hình Nam, Bắc đều có biến, Nguyễn Huệ quyết định giải quyết vấn đề phía bắc trước. Ông phái Vũ Văn Nhậm, con rể của Nguyễn Nhạc, ra tiêu diệt Nguyễn Hữu Chỉnh. Tuy nhiên, tình hình vẫn không sáng sủa, đến lượt Vũ Văn Nhậm chuyên quyền và có ý chống Nguyễn Huệ. Tháng 4 năm 1788, Lê Chiêu Thống đã bỏ kinh đô lưu vong, Nguyễn Huệ phải đem quân ra Bắc lần thứ hai nhằm giết Vũ Văn Nhậm. Ông đã tổ chức lại hệ thống cai trị ở Bắc Hà, mời các danh sĩ có tên tuổi như Ngô Thì Nhậm, Phan Huy Ích và Đại tư mã Ngô Văn Sở đảm đương công việc. Sau khi đã lập Sùng nhượng công Lê Duy Cận làm Giám quốc, Nguyễn Huệ lại rút quân về Phú Xuân vì tình hình chiến trường Nam Bộ rất gay go. Phạm Văn Tham không chống nổi các tướng của Nguyễn Ánh, thành Gia Định thất thủ và sau đó ông liên tiếp thua trận. Nguyễn Nhạc tuổi cao lắm bệnh, bất lực không thể cứu ứng Nam Bộ, xin nhường ngôi hoàng đế, đất đai và binh quyền cho Nguyễn Huệ và thỉnh cầu ông vào cứu. Để chuẩn bị Nam tiến, Nguyễn Huệ tổng động viên binh lính ở Thuận Hoá, ngày đêm tập luyện. Tuy nhiên, khi ông chưa kịp tiến vào Nam thì lại nghe tin nhà Thanh nghe lời Lê Chiêu Thống cầu viện, sai Tôn Sĩ Nghị mang chừng 29 vạn quân và dân công vượt ải Nam Quan vào Đại Việt. Các tướng giữ Bắc Hà của ông lui về giữ Biện Sơn cố thủ. Nguyễn Huệ đứng trước hai lựa chọn: Nam tiến hoặc Bắc tiến. Cả hai mặt trận đều nước sôi lửa bỏng và cần đến ông, tuy nhiên, nếu ông quá sa vào một mặt trận thì mặt trận kia sẽ vỡ. Mặc dù nhận thức được quân Mãn Thanh phía bắc là nguy cơ lớn hơn và gấp gáp hơn nhưng Nguyễn Huệ không thể đánh địch theo chiến thuật trường kỳ như triều đại nhà Lý, nhà Trần trước đó đã làm để chống quân phương Bắc. Vì vậy ông quyết định chọn cách đánh thần tốc để sớm giải quyết chiến trường miền Bắc. Sau khi lên ngôi hoàng đế, lấy niên hiệu Quang Trung, ngay hôm sau ông cất đại quân ra Bắc. Ngay trước khi đi, ông sai một bầy tôi tin cẩn là Diệm cầm thư của ông vào Nam dặn tướng Phạm Văn Tham cố phòng thủ chờ tiếp viện. == Thống nhất nhà Tây Sơn, lên ngôi Hoàng đế == === Quang Trung lên ngôi Hoàng đế === Cuối năm 1788, Nguyễn Nhạc tuổi cao lắm bệnh, bất lực không thể cứu ứng Nam Bộ, xin nhường ngôi hoàng đế, đất đai và binh quyền cho Nguyễn Huệ và thỉnh cầu ông vào cứu. Nguyễn Lữ thì đã bệnh mất, như vậy toàn bộ nhà Tây Sơn đã được thống nhất dưới quyền chỉ huy của Nguyễn Huệ. Để chuẩn bị cho chiến dịch Nam tiến nhằm tiêu diệt nốt thế lực của Nguyễn Ánh và thống nhất đất nước, Nguyễn Huệ tổng động viên binh lính ở Thuận Hoá, ngày đêm tập luyện. Tuy nhiên, khi ông chưa kịp tiến vào Nam thì lại nghe tin nhà Thanh nghe lời Lê Chiêu Thống cầu viện, sai Tôn Sĩ Nghị mang chừng 29 vạn quân và dân công sang đánh vào Đại Việt Lê Chiêu Thống chạy sang Trung Quốc, cầu viện hoàng đế nhà Thanh là Càn Long. Cuối năm 1788, Càn Long sai Tổng đốc Lưỡng Quảng Tôn Sĩ Nghị chỉ huy 20 vạn quân Thanh hộ tống Lê Chiêu Thống về Đại Việt với danh nghĩa "phù Lê", vào chiếm đóng Thăng Long. Quân Tây Sơn do Đại tư mã Ngô Văn Sở, theo mưu kế của Ngô Thì Nhậm, Phan Huy Ích và các mưu thần khác, chủ động rút quân về đóng ở Tam Điệp - Biện Sơn cố thủ chờ lệnh. xxxxnhỏ|phải|280px|Phỏng dựng hình ảnh Tây Sơn triều Thái Tổ Vũ Hoàng Đế - Quang Trung mặc cổn miện trong lễ lên ngôi tại núi Bân]] Nghe tin báo, ngày 25 tháng 11 năm Mậu Thân (22 tháng 12 năm 1788), Nguyễn Huệ xuất quân tiến ra Bắc Hà. Để lấy danh nghĩa chính thống, Nguyễn Huệ quyết định lên ngôi Hoàng đế. Nguyễn Huệ tức tốc cho lập đàn Nam Giao ở núi Bân (cạnh núi Ngự Bình) làm lễ tế trời đất, tuyên bố lên ngôi Hoàng đế, lấy niên hiệu Quang Trung, nhằm vào ngày 25 tháng 11 năm Mậu Thân (22/12/1788). Chiếu lên ngôi của vua Quang Trung viết: Nước Việt ta từ đời Đinh, Lê, Lý, Trần gây dựng ra nước cho đến ngày nay, thánh minh dấy lên không phải là một họ, nhưng thịnh suy, dài ngắn, vận mệnh do trời, không phải sức người tạo ra được. Trước đây nhà Lê mất chính quyền, họ Trịnh và cựu Nguyễn chia bờ cõi. Hơn hai trăm năm nay, kỷ cương rối loạn, vua Lê chỉ là hư vị, cường thần tự ý vun trồng, giềng mối của trời đất một phen rơi xuống không nâng lên được, chưa có lúc nào hư hỏng quá như lúc này vậy. Vả lại mấy năm gần dây, nam bắc gây việc binh đao, nhân dân rơi vào chốn bùn than. Trẫm hai lần gây dựng họ Lê, thế mà tự quân họ Lê không biết giữ xã tắc, bỏ nước đi bôn vong, sĩ dân Bắc Hà không hướng về họ Lê, chỉ trông mong vào trẫm, về phần đại huynh (Nguyễn Nhạc) có ý mỏi mệt, tình nguyện giữ một phủ Quy Nhơn, tự nhún xưng là Tây vương, mấy nghìn dặm đất về phương nam thuộc hết về trẫm. Trẫm tự nghĩ tài đức không bằng người xưa, mà đất đai thì rộng, nhân dân thì nhiều, ngẫm nghĩ cách thống trị, lo ngay ngáy như dây cương mục chỉ huy sáu ngựa. Nay xem khí thần rất hệ trọng, ngôi trời thật khó khăn, trẫm chỉ lo không kham nổi, nhưng ức triệu người trong bốn bể đều xúm quanh cả vào thân trẫm, đó là ý trời đã định, không phải do người làm ra. Trẫm nay ứng mệnh trời, thuận lòng người không thể khăng khăng cố giữ sự khiêm nhường. Trẫm chọn ngày 22 tháng 11 năm nay lên ngôi thiên tử, đặt niên hiệu là Quang Trung năm đầu, truyền bảo cho trăm họ muôn dân phải tuân theo giáo lệnh của nhà vua. Nhân nghĩa, trung chính là đạo lớn của người, trẫm nay cùng dân đổi mới, vâng theo mưu mô sáng suốt của vua thánh đời trước, lấy giáo hóa trị thiên hạ. Ngay tại lễ lên ngôi, vua Quang Trung đọc lời hịch đánh Thanh: Đánh cho để dài tóc Đánh cho để đen răng Đánh cho nó chích luân bất phản Đánh cho nó phiến giáp bất hoàn Đánh cho sử tri Nam quốc anh hùng chi hữu chủ”Dịch nghĩa: Đánh cho để dài tóc Đánh cho để đen răng Đánh cho nó bánh xe không quay lại Đánh cho nó manh giáp không trở về Đánh cho sử biết nước Nam anh hùng có chủ === Thần tốc bắc tiến, Chiến thắng Kỷ Dậu (1789) === Ngày 29 tháng 11 năm Mậu Thân (26 tháng 12 năm 1788), đại quân của hoàng đế Quang Trung tới Nghệ An, dừng quân tại đó hơn 10 ngày để tuyển quân và củng cố lực lượng, nâng quân số lên tới 10 vạn, tổ chức thành 5 đạo quân: tiền, hậu, tả, hữu và trung quân, ngoài ra còn có một đội tượng binh gồm 200 voi chiến. Quang Trung còn tổ chức lễ duyệt binh ngay tại Nghệ An để khích lệ tinh thần và ý chí quyết chiến, quyết thắng của tướng sĩ đối với quân xâm lược Mãn Thanh. Ngay sau lễ duyệt binh, Quang Trung tiến quân ra Bắc Hà. Tôn Sĩ Nghị coi thường quân Tây Sơn, sau nghe lời các tướng của Chiêu Thống thì có lo đôi phần, hẹn mồng 6 Tết ra quân đánh Tây Sơn. Ngày 20 tháng 12 năm Mậu Thân (15 tháng 1 năm 1789), đại quân của Quang Trung đã ra đến Tam Điệp. Sau khi xem xét tình hình, Quang Trung hẹn ba quân ngày mồng 7 Tết sẽ quét sạch quân Thanh, vào ăn Tết ở Thăng Long. Quang Trung chia quân làm 5 đạo. Một cánh do đô đốc Long chỉ huy từ làng Nhân Mục tập kích đồn Khương Thượng và phía tây Thăng Long. Cánh đô đốc Bảo tiến đánh các đồn phía nam Thăng Long. Trung quân do đích thân Quang Trung chỉ huy, phối hợp với đô đốc Bảo đánh diệt các đồn phía nam Thăng Long. Cánh đô đốc Tuyết và đô đốc Lộc theo đường biển ra Bắc, chặn đường lui của địch ở phía bắc sông Nhị Hà và huyện Phượng Nhãn. Đêm 30 tháng Chạp âm lịch, quân Tây Sơn đánh diệt đồn Gián Khẩu của các tướng Lê Chiêu Thống. Sau đó Quang Trung đánh diệt các đồn Nguyệt Quyết, Nhật Tảo, dụ hàng được đồn Hà Hồi. Đêm mồng 4 Tết, Quang Trung tiến đến trước đồn lớn nhất của quân Thanh là Ngọc Hồi nhưng dừng lại chưa đánh khiến quân Thanh lo sợ, phần bị động không dám đánh trước nhưng cũng không biết bị đánh lúc nào. Trong khi đó cánh quân của đô đốc Long bất ngờ tập kích đồn Khương Thượng khiến quân Thanh không kịp trở tay, hàng vạn lính bỏ mạng. Chủ tướng Sầm Nghi Đống tự vẫn. Xác quân Thanh chết sau xếp thành 13 gò đống lớn, có đa mọc um tùm nên gọi là gò Đống Đa. Đô đốc Long tiến vào đánh phá quân địch phòng thủ ở Tây Long. Sáng mồng 5, Quang Trung mới cùng đô đốc Bảo tổng tấn công vào đồn Ngọc Hồi. Trước sức tấn công mãnh liệt của Tây Sơn, quân Thanh bị động thua chết hàng vạn, phần lớn các tướng bị giết. Trong khi Quang Trung chưa đánh Ngọc Hồi thì Tôn Sĩ Nghị nghe tin đô đốc Long đánh vào Thăng Long, cuống cuồng sợ hãi đã bỏ chạy trước. Đến sông Nhị Hà, sợ quân Tây sơn đuổi theo, Tôn Sĩ Nghị hạ lệnh cắt cầu khiến quân Thanh rơi xuống sông chết rất nhiều làm dòng sông bị nghẽn dòng chảy. Trên đường tháo chạy, Tôn Sĩ Nghị bị hai cánh quân Tây Sơn của đô đốc Tuyết và đô đốc Lộc chặn đánh, tơi tả chạy về. Lê Chiêu Thống hớt hải chạy theo Nghị thoát sang bên kia biên giới. Quân Tây Sơn đuổi theo và rao lên rằng sẽ đuổi qua biên giới đến khi bắt được Tôn Sĩ Nghị và Chiêu Thống mới thôi. Bởi thế dân Trung Quốc ở biên giới dắt nhau chạy làm cho suốt vài chục dặm không có người. Như vậy, sớm hơn dự kiến, chỉ trong vòng 6 ngày, quân Tây Sơn đã đánh tan quân Thanh. Trưa mồng 5 Tết, Quang Trung tiến vào thành Thăng Long trong sự chào đón của nhân dân. Ngô Ngọc Du là một nhà thơ đương thời, đã ghi lại không khí tưng bừng của ngày chiến thắng oanh liệt đó trong một bài thơ: === Giai thoại về việc ra quân === Tương truyền, trước khi ra quân đánh quân Thanh, tại lễ đăng quang ở Phú Xuân, Nguyễn Huệ lập kế để động viên quân sĩ. Sau lúc làm lễ, Quang Trung sai mang đến cái mâm, trên để các đồng tiền, có phủ vải điều, rồi tuyên bố với quân sĩ: Ba quân hãy cùng ta quan sát, nếu cả hai trăm đồng tiền này đều sấp, thì đó là điềm trời báo chúng ta đại thắng. Nhược bằng, có đồng ngửa, thì đó là đại sự của chúng ta có điều trắc trở. Nguyễn Huệ chắp tay khấn vái, đặng bưng mâm tiền, cung kính dâng lên cao, rồi hất tung xuống sân. Quân sĩ thấy các đồng tiền nhất loạt đều sấp, reo hò mừng rỡ, tin chắc trận ra bắc sẽ thắng quân Thanh. Kỳ thực, Nguyễn Huệ đã sai đúc 200 đồng tiền có cả 2 mặt đều là mặt sấp. == Chính sách thời hậu chiến == === Bang giao với nhà Thanh === Ngay sau chiến thắng Kỷ Dậu, Quang Trung vội trở lại Phú Xuân để lo việc diệt Nguyễn Ánh, ông trao lại binh quyền cho Ngô Văn Sở và Ngô Thì Nhậm. Từ trước khi giao chiến với quân Thanh, Quang Trung đã tính đến chiến lược ngoại giao với nhà Thanh. Theo phương lược vạch sẵn, với tài ngoại giao khéo léo của Ngô Thì Nhậm, Tây Sơn nhanh chóng bình thường hóa bang giao với phương Bắc. Vua Càn Long nhà Thanh đã cho sứ giả sang Đại Việt phong vương cho Nguyễn Huệ; rồi hoàng đế Quang Trung giả đã sang triều kiến và dự lễ mừng thọ 80 tuổi của Càn Long. Tháng 1 năm 1790, theo phương kế của Ngô Thì Nhậm, Quang Trung sai người đóng giả làm mình cầm đầu đoàn sứ gồm 150 người sang Yên Kinh (Bắc Kinh sau này) triều kiến Càn Long. Các tài liệu ghi khác nhau về nhân vật đóng giả Quang Trung. Theo Hoàng Lê nhất thống chí và Việt Nam Sử Lược, người đóng Nguyễn Huệ tên là Phạm Công Trị, cháu gọi Nguyễn Huệ bằng cậu; theo Đại Nam chính biên liệt truyện thì người đó là tướng Nguyễn Quang Thực người Nghệ An. Mục đích của đoàn sứ là thăm dò thái độ của nhà Thanh đối với vị vua lưu vong Chiêu Thống của nhà Lê. Đại quan nhà Thanh là Phúc Khang An, từng sang chiến trường Đại Việt, bị Quang Trung mua chuộc đứng sau lưng đoàn sứ bộ, nên nhiều tướng lĩnh nhà Thanh biết người cầm đầu sứ bộ không phải là Nguyễn Huệ, nhưng vì ngại gây hấn nên không nói ra. Vua Càn Long đón tiếp trọng thể đoàn sứ bộ An Nam. Theo "Đại Thanh thực lục", nhà Thanh chi phí cho sứ đoàn mỗi ngày hết 4.000 lạng bạc (tổng cộng lên đến 800.000 tính cho tới khi sứ đoàn về). Càn Long làm thơ, như sau: Phan Huy Ích tham gia sứ bộ cũng làm thơ có câu: Tới tháng 11 năm 1790, đoàn sứ bộ trở về Thăng Long. Theo các nhà nghiên cứu, phái bộ này đã có ảnh hưởng tới thái độ của nhà Thanh đối với Lê Duy Kỳ. Sang năm 1791, nhà Thanh sai phân tán các quan lại cũ của nhà Lê đi các nơi để tách biệt không liên lạc được với nhau và cô lập Lê Duy Kỳ; bản thân Duy Kỳ bị giam lỏng ở "Tây An Nam dinh" tại Yên Kinh và sau ốm mà chết yểu. Nhà Tây Sơn chính thức nhận được sự công nhận của nhà Thanh. Quang Trung không chỉ muốn hòa hoãn với Càn Long mà còn muốn xuất quân đánh nhà Thanh. Trước khi tính chuyện đánh Thanh, nhà vua cho quấy rối nội địa Trung Quốc bằng cách lợi dụng đảng "Thiên Địa Hội" khiêu khích người Thanh. Các biên thần nhà Thanh như Phúc Khang An (mới thay Tôn Sĩ Nghị) tuy biết rõ Tây Sơn có bí mật nhúng tay, nhưng cũng chịu nhịn cho qua chuyện. Ông cũng cầu hôn với công chúa Thanh và xin đất Lưỡng Quảng để thử ý vua Thanh. Dù vậy ý định này không kịp trở thành hiện thực do cái chết đột ngột của ông. === Sắp đặt đơn vị hành chính === Quang Trung chia vùng cai quản thuộc đất nhà Lê cũ thành các xứ (trấn) như sau: Ngoài ra, vùng đất Quang Trung quản lý còn có Thuận Hóa và Quảng Nam. Trừ Xứ Sơn Nam và Thanh Hóa tách làm hai, các xứ khác đều đại thể giữ nguyên như thời Hậu Lê. Trước kia Phố Hiến là lỵ sở của Sơn Nam, tới thời Quang Trung thì Hạ Trấn đóng ở Vị Hoàng, cách dưới phố Hiến. Trong các trấn trên thì các trấn Lạng Sơn, Cao Bằng, Tuyên Quang, Hưng Hóa, Thái Nguyên và Yên Quảng là ngoại trấn; các trấn Thanh Hóa ngoại, Sơn Nam Thượng, Sơn Nam Hạ, Kinh Bắc, Hải Dương và Phụng Thiên là nội trấn. Mỗi xứ (trấn) chia làm nhiều phủ, mỗi phủ chia làm nhiều huyện, mỗi huyện chia làm nhiều tổng, mỗi tổng chia làm nhiều xã, mỗi xã lại chia nhiều thôn. Thành Thăng Long gồm 1 phủ, 2 huyện, 18 phường. === Tổ chức bộ máy === Bộ máy hành chính thời Quang Trung gồm: Tam công, Tam thiếu, Đại chủng tể, Đại Tư đồ, Đại Tư khấu, Đại Tư mã, Đại Tư không, Đại Tư Lệ, Thái úy, Ngự úy, Đại Tổng quản, Đại Đô hộ, Đại đô đốc, Đô đốc, Nội hầu, Hộ giá, Điểm kiểm, Chỉ huy sứ, Đô ty, Đô úy, Trung úy, Vệ Úy, Tham đốc, Tham lĩnh, Trung Thư lệnh, Phụng Chính, Thị Trung đại học sĩ, Hiệp biện đại học sĩ, Lục Bộ Thượng thư, Tả - Hữu đồng nghi, Tả - Hữu phụng nghi, Thị Lang, Tư vụ, Hàn Lâm... Mỗi trấn đặt một trấn thủ về hàng võ và một hiệp trấn về hàng văn. Mỗi huyện đặt một văn phân tri, một võ phân suất, một tả quản lý và một hữu quản lý. Công việc của quan văn là trưng đốc binh lương, xét xử từ tụng. Phận sự của quan võ là coi quản và thao diễn quân lính từ Đạo đến Cơ, từ Cơ đến Đội. Trong các xã, thôn thì có xã trưởng, thôn trưởng. Hàng tổng thì đặt Tổng trưởng (như chức Chánh Tổng về sau) để giữ việc hành chính trong một tổng. Ông đồng thời cũng cho soạn một bộ luật tên là "Hình luật thư", nhưng chưa xong thì ông đột ngột mất nên mãi không hoàn thành. === Thu hút nhân tài === Để phát triển quốc gia, Quang Trung rất chú trọng thu dụng các nhân tài từng phục vụ nhà Lê. Ông ban "Chiếu cầu hiền" có đoạn: Các cựu thần nhà Lê cũ, tiêu biểu là các tiến sĩ Đoàn Nguyễn Tuấn, Vũ Huy Tấn, Nguyễn Nễ, Nguyễn Huy Lượng, Bùi Dương Lịch... đã ra giúp nhà Tây Sơn. Danh sĩ Nguyễn Thiếp sau nhiều lần từ chối, cuối cùng cũng nhận lời xuống núi giúp vua Quang Trung. === Giáo dục === Quang Trung bỏ Hán ngữ như là ngôn ngữ chính thức trong các văn bản của quốc gia. Ngôn ngữ chính thức được sử dụng là tiếng Việt và được viết trong các văn kiện hành chính bằng hệ thống chữ Nôm. Quang Trung quy định các bài hịch, chiếu chỉ phải soạn bằng chữ Nôm; đề thi viết bằng chữ Nôm, và các sĩ tử phải làm bài bằng chữ Nôm. Ông còn chủ trương thay toàn bộ sách học chữ Hán sang chữ Nôm nên năm 1791 đã cho lập "Sùng chính viện" để dịch kinh sách từ Hán sang Nôm. Theo sách Tây Sơn lược thuật, ông chọn một quan văn "5 ngày một lần vào cấm cung để giảng giải kinh sách". Ngoài ra, Quang Trung quan tâm đưa việc học đến tận thôn xã. Trong "Chiếu lập học" ông lệnh cho các xã:: "Phải chọn Nho sĩ bản địa có học thức, có hạnh kiểm đặt làm thầy dạy, giảng tập cho học trò". === Tôn giáo === Quang Trung có một chính sách tôn giáo rất tự do và rộng rãi: dù là người đề cao Nho giáo nhưng ông vẫn bảo đảm hoạt động cho các tôn giáo khác như Phật giáo và các tín ngưỡng khác. Về Công giáo, các giáo sĩ tự do hoạt động, truyền đạo, xây dựng nhà thờ. Nhưng đồng thời ông cũng thi hành chính sách bài trừ mê tín dị đoan rất mạnh, chấn chỉnh lại việc tu hành: nhiều chùa ở các làng có mà người tu hành lạm dụng để truyền bá mê tín dị đoan bị đập bỏ để xây duy nhất một ngôi chùa ở huyện cấp trên, đồng thời những người tu hành không đạo đức, những kẻ lưu manh, lười biếng đều phải hoàn tục. === Kinh tế === Một mặt lo chống thù trong giặc ngoài, mặt khác vua Quang Trung rất quan tâm tới việc xây dựng đất nước. Vua phân phối đất đai cho những người nông dân nghèo, thúc đẩy thủ công nghiệp từng bị cấm trước kia. Vua Quang Trung không đi theo con đường "trọng nông ức thương" của tư tưởng Nho Giáo, ông có chủ trương đề cao thương nghiệp và mở rộng quan hệ buôn bán giữa Đại Việt với nước ngoài. Năm 1790, ông thương thuyết với nhà Thanh để mở một thương điếm tại Nam Ninh (Quảng Tây) mua bán hàng hoá giữa hai nước. Ông khuyến khích giao thương giữa các thuyền của thương thuyền nước ngoài và các thương thuyền của Đại Việt. Quang Trung có một chính sách thuế đơn giản với thuế ruộng là chính: ruộng chia ra làm ba hạng để đánh thuế nhất đẳng điền (150 bát thóc), nhị đẳng điền (80 bát thóc), tam đẳng điền (50 bát thóc). Lại thu tiền thập vật, mỗi mẫu một tiền và tiền khoán khố mỗi mẫu 50 đồng. Ruộng tư điền cũng đánh thuế: nhất đẳng điền mỗi mẫu nộp 40 bát thóc, nhị đẳng điền mỗi mẫu 30 bát, tam đẳng điền mỗi mẫu 20 bát. Tiền thập vật cũng theo như ruộng công điền, còn tiền khoán khố thì mỗi mẫu phải nộp 30 đồng Các loại thuế khác như thuế điệu, thuế nhân đinh được giảm để giảm bớt gánh nặng của dân chúng và phòng ngừa tham nhũng. === Quản lý nhân khẩu === Năm 1790, ông cho lập sổ theo dõi nhân khẩu (hay hộ khẩu). Người dân được phân 4 hạng theo lứa tuổi: 9-17 tuổi là hạng "vị cập cách"; 18-55 tuổi là hạng "tráng"; 55-60 tuổi là hạng "lão"; 60 tuổi trở lên là hạng "lão nhiêu". Ông còn cho làm thẻ bài "Thiên hạ đại tín" bằng gỗ có khắc họ tên, quê quán của người mang không phân biệt giàu sang nghèo hèn. == Kế hoạch thống nhất đất nước dở dang == === Thống nhất nhà Tây Sơn === Sau cái chết của Nguyễn Văn Duệ và sau đó là Vũ Văn Nhậm và diễn biến chiến trường Nam Bộ, vua Thái Đức (Nguyễn Nhạc) đã tỏ ra buông xuôi và không gượng dậy được. Không thể kìm chế người em tài ba hơn mình, cuối năm 1788, ông từ bỏ đế hiệu và niên hiệu Thái Đức, chỉ xưng là "Tây Sơn vương". Ông viết thư cho Nguyễn Huệ, chỉ xin giữ Quy Nhơn và nhường toàn bộ binh quyền, đất đai trong cả nước cho vua em; đồng thời ông cầu khẩn Nguyễn Huệ mang gấp đại binh vào cứu Nam bộ (chiếu lên ngôi của Quang Trung nói rõ vấn đề này). Tuy nhiên lúc đó Nguyễn Huệ dù biết lời cầu khẩn của anh nhưng không thể vào nam tham chiến vì 20 vạn quân Thanh do Lê Chiêu Thống rước về đã vượt qua biên giới. Nguy cơ phía bắc rõ ràng lớn và gấp hơn nên Nguyễn Huệ đã lên ngôi Hoàng đế, lấy hiệu là Quang Trung rồi kéo quân ra bắc và đã nhanh chóng đánh bại quân Thanh. Sau khi đánh bại quân Thanh, Quang Trung trở thành lãnh đạo chung của nhà Tây Sơn và là vị Hoàng đế duy nhất tại Việt Nam (vua Lê Chiêu Thống đã chạy sang Trung Quốc, còn Nguyễn Ánh khi đó địa bàn còn nhỏ hẹp và chưa xưng đế). Tình hình với Quang Trung rất thuận lợi: ông có được uy tín lớn sau chiến công chống quân Thanh, được nhà Thanh công nhận là vị vua chính thống của Việt Nam (thay thế địa vị của nhà Hậu Lê), lại dẹp bỏ được mâu thuẫn trong nội bộ nhà Tây Sơn (Nguyễn Nhạc đã bỏ đế hiệu, tự giáng xuống làm vương để tỏ ý quy nhận quyền lãnh đạo của ông). Trên cơ sở đó, Quang Trung đã lên kế hoạch cho một chiến dịch Nam tiến rất lớn nhằm triệt để đánh bại thế lực của Nguyễn Ánh, thu phục miền Nam bộ và thống nhất đất nước. === Kế hoạch Nam tiến dở dang === Mặc dù đã đại thắng quân Mãn Thanh nhưng sau đó Quang Trung vẫn phải lo ổn định tình hình Bắc Hà do tàn dư của nhà Lê còn sót lại. Trước đó, ngày 25 tháng 1 năm 1787, Bá Đa Lộc (giáo sĩ người Pháp làm cố vấn cho Nguyễn Ánh) đã thay mặt Nguyễn Ánh ký Hiệp ước Versailles (1787) với Pháp. Theo đó, vua Pháp đồng ý cử sang 4 chiếc tàu chiến và một đạo binh: 1.200 lục quân, 200 pháo binh, 250 lính da đen ở Phi Châu (Cafres) và đủ các thứ súng ống thuốc đạn để đánh Tây Sơn. Ngược lại, sau khi chiến thắng, Nguyễn Ánh phải nhường đứt cho nước Pháp cửa Hội An (Faifo) và đảo Côn Lôn (Poulo-Condore), chủ quyền các vùng đất đó sẽ vĩnh viễn thuộc về nước Pháp ngay lúc quân đội Pháp chiếm đóng hòn đảo nói trên. Đúng lúc đó thì nước Pháp xảy ra Cách mạng, vua Pháp không thực hiện Hiệp ước nhưng Bá đa lộc đã kêu gọi các thương nhân người Pháp trợ giúp cho Nguyễn Ánh. Các hoạt động quyên góp tiền sau này hay xây dựng, sửa sang thành Gia Định, Vĩnh Long, Châu Đốc, Hà Tiên, Biên Hòa, Bà Rịa, huấn luyện cơ đội pháo thủ, tổ chức bộ binh và rèn luyện tập binh lính theo lối châu Âu, trung gia mua tàu chiến và vũ khí... đều có sự góp sức của những người Pháp mà do Bá Đa Lộc chiêu mộ, kêu gọi. Việc củng cố Gia Định cộng thêm sự giúp đỡ của người Pháp đã giúp cho thế lực của Nguyễn Ánh ngày càng mạnh, có thể đối đầu với Tây Sơn. Quân Nguyễn Ánh được người Pháp hỗ trợ kéo ra đánh Bình Thuận, Bình Khang, Diên Khánh, quân của Tây Sơn vương Nguyễn Nhạc liên tiếp bại trận và mất mấy thành này. Cho tới năm 1791, Nguyễn Nhạc chỉ còn cai quản Quy Nhơn, Phú Yên và Quảng Ngãi. Sau khi ổn định tình hình Bắc Hà, Quang Trung quyết tâm tiêu diệt Nguyễn Ánh. Ông ra sức trấn an Nguyễn Nhạc và nhân dân trong vùng do Nguyễn Nhạc cai quản để chuẩn bị Nam tiến. Theo nhiều nhà nghiên cứu, việc Quang Trung sai Vũ Văn Dũng đi "xin" Càn Long đất Quảng Đông, Quảng Tây thực ra chỉ là một thủ thuật về chính trị. Quang Trung không có dụng tâm lấy đất Trung Quốc vì ông biết thực lực không thể, hay ít ra là chưa thể làm lúc đó. Hơn nữa, ông thu dụng quân lục lâm "Tàu ô", sai đánh phá biên giới Trung Quốc cốt để nhà Thanh bị cuốn vào hoạt động ngoại giao và chống giặc cướp để cho ông có thời gian hỗ trợ vua anh dồn lực lượng vào chiến trường miền Nam mà thôi. Để chuẩn bị phối hợp với Quang Trung, năm 1792, Nguyễn Nhạc đóng nhiều tàu thuyền đóng ở cửa Thi Nại để Nam tiến. Nhưng lúc đó là mùa gió nồm chỉ thuận cho quân Nam ra, phải đợi đến mùa đông mới thuận gió cho quân Tây Sơn vào. Nguyễn Ánh thừa dịp cùng quân Pháp, Bồ Đào Nha đánh úp cửa Thi Nại, đốt cháy nhiều thuyền chiến của Tây Sơn. Tây Sơn vương không phòng bị, lại phải thu quân về Quy Nhơn. Để báo thù trận đó, Quang Trung dự định phát động chiến dịch rất lớn, huy động hơn 20-30 vạn quân thuỷ bộ, chia làm ba đường: Nguyễn Nhạc và quân "Tàu ô" (hải tặc Trung Hoa) cùng theo đường bộ từ Phú Yên vào đánh Gia Định Quân bộ của Quang Trung từ Phú Xuân đi thẳng qua lãnh thổ Vạn Tượng tới Nam Vang (Chân Lạp), từ đó cùng quân Chân Lạp kéo về Gia Định, bao bọc đường chạy của Nguyễn Ánh không cho sang Xiêm Quân thuỷ của Quang Trung sẽ tiến vào đón lõng tận Hà Tiên đổ bộ lên đất liền để ngăn Nguyễn Ánh chạy ra biển. Chính các giáo sĩ Pháp giúp Nguyễn Ánh lúc đó cũng rất lo lắng và dự liệu Nguyễn Ánh khó lòng chống lại được Tây Sơn trận này. Tuy nhiên trong khi chờ gió đổi chiều thì cái chết đột ngột vì lo lắng cho cuộc viễn chinh của Quang Trung vào tháng 9 dương lịch năm 1792 khiến kế hoạch Nam tiến này không bao giờ trở thành hiện thực. === Lo việc hậu thế === Tương truyền, vào một buổi chiều đầu thu năm 1792, vua Quang Trung đang ngồi làm việc, bỗng hoa mắt, tối sầm mặt mũi, mê man bất tỉnh. Khi tỉnh dậy, nhà vua cho triệu trấn thủ Nghệ An là Trần Quang Diệu về triều bàn việc thiên đô ra Phượng Hoàng Trung Đô. Nhưng việc chưa quyết xong thì bệnh tình nhà vua đã nguy kịch. Trước khi mất, nhà vua đã căn dặn Trần Quang Diệu và các quần thần: Ngày 29 tháng 7 năm Nhâm Tý (16 tháng 9 năm 1792), vào khoảng 11-12 giờ đêm, Quang Trung Nguyễn Huệ qua đời, ở ngôi được 4 năm, hưởng thọ 40 tuổi, miếu hiệu là Thái Tổ Vũ hoàng đế. Thời điểm mất của vua Quang Trung được các tài liệu cổ ghi khác nhau. Sách Đại Nam thực lục của nhà Nguyễn ghi ông mất tháng 7 âm lịch năm 1792, Hoàng Lê nhất thống chí ghi ông mất tháng 8 âm lịch năm 1792. Theo lý giải của Hoàng Xuân Hãn trong La Sơn phu tử, cả hai sách ghi đều không sai. Quang Trung mất vào khoảng 11 giờ đêm ngày 29 tháng 7 âm lịch, khoảng đó là giờ tý, nghĩa là bắt đầu được tính sang hôm sau; mà tháng 7 năm đó là tháng thiếu, ngày 29 là ngày cuối tháng, nên sau 11 giờ đêm đã chuyển sang tháng 8. Theo Hoàng Xuân Hãn: "Ghi tháng 7 hay tháng 8 thực ra chỉ chênh nhau khoảng nửa giờ". Bắc cung hoàng hậu Lê Ngọc Hân đã viết bài "Tế vua Quang Trung" và bài "Ai Tư Vãn" để bày tỏ nỗi đau khổ và tiếc thương cho người chồng anh hùng sớm ra đi. == Những giả thuyết về cái chết == Cho đến nay, đã có nhiều giả thuyết về cái chết của vua Quang Trung được đưa ra nhưng chưa giả thuyết nào có được chứng cứ xác thực, đủ sức thuyết phục. === Áo thêu của Càn Long === Theo Hoàng Lê nhất thống chí, khi Quang Trung giả sang Yên Kinh gặp Càn Long, được Càn Long tặng cho chiếc áo, có thêu 7 chữ: Xa tâm chiết trục, đa điền thử (車心折軸多田鼠) Nghĩa là: Bụng xe gãy trục, nhiều chuột đồng Theo phép chiết tự, chữ "xa" (車) và chữ "tâm" (心) ghép lại thành chữ "Huệ" (惠) là tên của Nguyễn Huệ; "chuột" nghĩa là năm tý (Nhâm tý 1792). Ý của dòng chữ trên áo là Nguyễn Huệ sẽ chết vào năm Tý. Giả thiết này ý nói rằng: Nguyễn Huệ chết do áo bị yểm bùa. === Bệnh === Sách Ngụy Tây liệt truyện, một tài liệu chính sử của Sử quán triều Nguyễn ghi giải thích cái chết của vua Quang Trung như sau: "Một hôm, về chiều, Quang Trung đang ngồi bỗng xây xẩm, tối tăm, thấy một ông già đầu bạc từ trên trời xuống, mặc áo trắng, cầm gậy sắt, mắng rằng: "Ông cha người sống ở đất của Chúa, đời đời làm dân Chúa Nguyễn, sao phạm đến lăng tẩm...". Rồi lấy gậy đánh vào trán Quang Trung, mê man ngã xuống, bất tỉnh nhân sự lâu lắm... Từ đó, bệnh chuyển nặng..." Sách Tây Sơn thực lục cũng có ghi "Huệ mắc bệnh nặng, chữa không khỏi...". Và sau khi Quang Trung mất, vào tháng 1 năm Càn Long thứ 58 (1793), Quách Thế Huân cũng báo cáo với Càn Long: "Quang Trung đã chết vì bệnh". Cũng một giả thuyết được truyền lại nhiều nhất là một buổi chiều thu năm 1792, vua Quang Trung đang ngồi làm việc, bỗng hoa mắt, tối sầm mặt mũi, mê man bất tỉnh. Người xưa gọi là chứng "huyễn vận", còn ngày nay y học gọi là tai biến mạch máu não. Một giáo sĩ tên Longer, có mặt ở Đàng Ngoài vào những thời điểm này, đã viết trong một bức thư đề ngày 21 tháng 12 năm 1792 là vua Quang Trung chết vì bệnh, nhưng không rõ là bệnh gì. Các nhà nghiên cứu về sau gạt bỏ các chi tiết mê tín trong Ngụy Tây liệt truyện thì họ cho rằng Quang Trung đã bị một cơn tăng huyết áp đột ngột. Bác sĩ Bùi Minh Đức qua khảo cứu các nguồn tư liệu lịch sử, kết luận rằng Nguyễn Huệ "Xuất huyết não dưới màng nhện; nguyên nhân tử vong: do viêm phổi sặc" (tràn dịch màng phổi) == An táng == === Viếng Quang Trung === Thi hài Quang Trung được táng ngay tại Phú Xuân, tại một cung điện của ông tên là Đan Dương. Nguyễn Quang Toản lên nối ngôi, tức là vua Cảnh Thịnh, sai sứ sang nhà Thanh báo tang và xin tập phong. Đô đốc Vũ Văn Dũng đang đi sứ nhà Thanh ở Bắc Kinh, nghe tin Quang Trung mất liền làm bài thơ viếng như sau: Bố y phân tích ngũ niên trung Mai cố thi vi tự bất đồng Thiên vị ngô hoàng tăng nhất kỷ Bất y Đường Tống thuyết anh hùng Dịch: Năm năm dấy nghiệp tự thân nông Thời trước thời sau khó sánh cùng Trời để vua ta thêm chục tuổi Anh hùng Đường, Tống hết khoe hùng. Vua Càn Long tặng tên hiệu cho ông là Trung Thuần, lại thân làm một bài thơ viếng và cho một pho tượng, 300 lạng bạc để sửa sang việc tang. Sứ nhà Thanh đến tận mộ ở Linh Đường (mộ giả) thuộc huyện Thanh Trì (Hà Nội) để viếng. === Lăng mộ bị phá === Thời Cảnh Thịnh, triều đình Tây Sơn sinh ra lục đục. Nguyễn Ánh nhân thời cơ đó kéo ra đánh bại nhà Tây Sơn. Mười năm sau ngày Quang Trung qua đời, nhà Tây Sơn sụp đổ hoàn toàn (xem thêm bài về nhà Tây Sơn). Để trả thù, Nguyễn Ánh sai đào mộ Nguyễn Huệ và Nguyễn Nhạc, tán hài cốt thành bột nhồi thuốc súng bắn và bỏ xương sọ vào vò, giam trong ngục tối. Người đời thương tiếc nhà Tây Sơn gọi là "Ông Vò". Nơi đặt lăng mộ của Quang Trung cũng bị san phẳng, không cho để lại dấu tích, nên sau này có một số nhà nghiên cứu đã dày công tra cứu, khảo sát, tìm tòi song không thể xác định được mộ vua Quang Trung ở địa điểm nào Khảo sát trong thời gian gần đây của các nhà nghiên cứu đã tìm ra bài thơ Kiến Quang Trung linh cữu (Nhìn thấy linh cữu vua Quang Trung) của nhà thơ Lê Triệu (1771-1846), người sống dưới thời Tây Sơn và thời Nguyễn. Bài thơ nói về cảm xúc của tác giả khi đứng trước nơi từng là lăng mộ của Quang Trung, chỉ sau mấy năm bị Nguyễn Ánh khai quật (theo các nhà nghiên cứu là năm 1801 hay 1802): Dịch thơ (Hồng Phi phiên âm và dịch): Ấp Tây Sơn nơi ông khởi nghĩa cùng vua anh, tới tháng 9 năm 1819, Nguyễn Ánh lệnh đổi thành An Tây, sau đó lại đổi thành An Sơn. === Câu chuyện về "Ông Vò" === Trong vòng 20 năm từ 1802 - 1821, đầu lâu của các vua Tây Sơn (Thái Đức, Quang Trung và Quang Toản) bị bỏ vào 3 cái vò, giam ở nhà Đồ Ngoại, tức là Võ Khố sau này Từ năm 1822 - 1885, các vò bị giam vào Khám đường, ở phía tây bắc kinh thành Huế, khoảng giữa cửa chính Tây và An Hòa. Ba chiếc vò bị xiềng và giam riêng, ngăn cách nhau, ngoài có niêm phong, hàng tháng có đoàn của triều Nguyễn xuống kiểm tra. Ba chiếc vò được các tù nhân tôn kính gọi là "Ông Vò", còn những người gác ngục gọi là "chúa ngụy". Những người sống ở gần Khám đường đều tỏ ra kính cẩn ba Ông Vò, họ thường cúng bái và coi như thần hộ mệnh. Năm 1885, kinh thành Huế biến động bởi chiến tranh giữa phe chủ chiến của nhà Nguyễn với người Pháp, ba chiếc vò bị mất tích. Các nhà nghiên cứu vẫn tiếp tục tìm tòi, nghiên cứu về vấn đề này nhưng chưa có kết luận cuối cùng. Theo Báo Đất Việt thì vào đêm 22 rạng 23 tháng năm Ất Dậu (1885), phòng thành Huế thất thủ, vua Hàm Nghi cùng hoàng gia phải rời khỏi phòng thành, quân Pháp tràn vào thành. Lúc đó, có người mang 3 vò chạy trốn. Riêng một vò (hộp sọ vua Quang Trung) được một ông họ Phan, người ở gần Cầu Ngói đã theo hào, lạch, sông đưa về Cầu ngói Thanh Toàn. == Cuộc sống cá nhân == === Ngoại hình và tính cách === Trong "Tây sơn thuật lược" (西山述略), người ta miêu tả Nguyễn Huệ "Tóc Huệ quăn, mặt mụn đầy, có một con mắt nhỏ, nhưng mà cái tròng rất lạ, ban đêm ngồi không có đèn thì ánh sáng từ mắt soi sáng cả chiếu...". Sử gia Tạ Chí Đại Trường bình luận "tóc quăn", "mặt mụn", "mắt nhỏ" là dấu vết thân xác; còn "chuyện tròng mắt có ánh sáng phát ra, ban đêm soi sáng cả chỗ ngồi là cảm tưởng của người nhìn khiếp sợ trước oai vũ của "Thượng công"". Sách Hoàng Lê Nhất Thống Chí miêu tả anh em Nguyễn Huệ "trò chuyện, kẻ hỏi người đáp cực kỳ ôn tồn (?) y như anh em các nhà thường dân" khác hẳn kiểu bệ vệ, tôn nghiêm của triều đình Lê - Trịnh. Ngoài ra, Hoàng Lê Nhất Thống Chí còn miêu tả Nguyễn Huệ là một người dễ gần, hay đùa với binh lính. Trong cuộc sống tình cảm cá nhân, giáo sĩ Labartette mô tả Nguyễn Huệ là người mềm yếu khi mà công chúa Lê Ngọc Hân thường xuyên ""mếu khóc" vuốt ve tự ái đấng trượng phu" khi muốn đòi hỏi gì đó; hay Nguyễn Huệ phát cuồng vì có người vợ mất ở Phú Xuân. Chính tấm lòng say mê đó đem đổ vào cuộc đời Nguyễn Huệ, vào triều chính, ở chỗ chiến trường trở thành một sức quyến rũ lôi cuốn người khác. Về chiến trận, cũng sách này miêu tả Nguyễn Huệ "...là bực lão thủ hung tợn và giỏi cầm quân. Coi y ra Bắc vào Nam thật là xuất thần quỷ nhập. Không ai có thể dò biết. Y bắt Nguyễn Hữu Chỉnh như bắt trẻ con, giết Vũ Văn Nhậm như giết con lợn, không một người nào dám trông thẳng vào mặt. Nghe lệnh y, ai cũng mất cả hồn vía, sợ hơn cả sấm sét... " Nguyễn Đình Giản, thuộc quan của Nguyễn Hữu Chỉnh, khi bàn về Nguyễn Huệ nhận định "Bắc Bình vương [Nguyễn Huệ] là một tay anh hùng". Nguyễn Đình Giản và Phạm Đình Dư, quan nhà Lê, nhận định "Bắc Bình vương là người rất quyệt, hay dùng trí thuật lao lung người khác, trong lúc bàn luận, khi xuống lại nâng lên người ta không biết đâu mà dò". Vị quan khác Trần Công Xán nhận định "[Nguyễn Huệ là] người huyền bí khó lường". Ngay chính sử nhà Nguyễn cũng phải mô tả "Nguyễn Văn Huệ là em Nhạc, tiếng nói như chuông, mắt sáng như điện, giảo, kiệt, thiện chiến? ai cũng phải sợ... Bốn lần đánh Gia Định, lúc ra trận đều đi trước, sĩ tốt hiệu lệnh nghiêm minh, thuộc hạ ai nấy dốc lòng vâng mệnh". === Gia quyến === ==== Vợ ==== Các nguồn tài liệu, chủ yếu là Đại Nam chính biên liệt truyện của nhà Nguyễn về gia quyến của Nguyễn Huệ, đã ghi nhận ông có ít nhất 6 người vợ trong đó có ba hoàng hậu là: Chính cung hoàng hậu Phạm Thị Liên Không rõ Nguyễn Huệ lập gia đình khi nào, nhưng trong những năm tháng chiến tranh, Nguyễn Huệ đã có một bà vợ, tên là Phạm Thị Liên, quê ở Quy Nhơn, sinh khoảng năm 1759, là con cùng mẹ khác cha với Thái sư Bùi Đắc Tuyên. Năm 16 tuổi bà Phạm Thị Liên được Nguyễn Huệ chọn làm vợ. Năm 30 tuổi (1789) bà được phong làm Chính cung hoàng hậu, bà kém Nguyễn Huệ khoảng chừng 5–6 tuổi. Phạm hậu đã có với Nguyễn Huệ 5 con, 3 trai 2 gái. Một trong 3 người con trai được lập thái tử, là Quang Toản – về sau kế tục sự nghiệp của Quang Trung. Khi bà bị bệnh nặng, ông đã mời một thầy thuốc người phương Tây tên là Gi-ra vào chữa. Nhưng khi Gi-ra đến nơi thì bà đã mất trước đó, vào ngày 29 tháng 3 năm 1791. Trong một bức thư viết ngày 17 tháng 7 năm 1791, giáo sĩ Sécrard đã kể: "Chánh hậu của Tiên vương (Quang Trung) mất vào khoảng tháng ba và ông đã khóc bà một cách sầu thảm. Ông đã cử hành tang lễ vô cùng linh đình trang trọng cho bà vào cuối tháng sáu. Dân Nam Hà đồn khắp nơi rằng ông đã băng hà vì quá đau buồn". Hoàng hậu họ Phạm đã gắn bó với Nguyễn Huệ trong những chặng đường chinh Nam phạt Bắc nên được Nguyễn Huệ rất mực quý trọng yêu thương. Mộ chôn ở dưới chân núi Kim Phụng, phía tây thành phố Huế. Bà được đặt thụy là Nhân Cung Ðoan Tĩnh Trinh Thục Nhu Thuần Vũ hoàng hậu. Bùi Thị Nhạn Theo nguồn tài liệu khác thì sau khi bà Phạm Thị Liên qua đời, Nguyễn Huệ lấy bà Bùi Thị Nhạn làm Chính cung hoàng hậu. Bùi Thị Nhạn người thôn Xuân Hòa, huyện Tuy Viễn (nay là Tây Sơn), tỉnh Bình Định, là em của Bùi Đắc Tuyên, cô ruột của nữ tướng Bùi Thị Xuân và là con gái út của Bùi Đắc Lương, như vậy bà còn là chị em cùng mẹ với Phạm hậu. Bà là một trong 5 người phụ nữ nổi tiếng thời Tây Sơn được mệnh danh là Tây Sơn ngũ phụng thư. Theo giả thuyết này, chính bà Bùi Thị Nhạn mới là mẹ của Nguyễn Quang Toản, Nguyễn Quang Thiệu và Nguyễn Quang Khanh; còn bà Phạm Thị Liên lại là mẹ của Nguyễn Quang Thùy và Nguyễn Quang Bàn (nên Quang Thuỳ lớn hơn Quang Toản). Ngoài ra, bà còn là mẹ của 2 công chúa - trong đó có 1 người lấy Nguyễn Văn Trị. Bà tự sát năm 1802 khi Cảnh Thịnh thua trận và bà không muốn lọt vào tay quân Nguyễn Ánh. Cũng theo giả thuyết này, bà lấy Nguyễn Huệ khi ông chưa làm hoàng đế; còn bà Phạm Thị Liên đã mất sớm vì bệnh khi Quang Thuỳ còn nhỏ. Như vậy, theo giả thuyết này, hầu hết những người con của bà Phạm Thị Liên lại là con bà Bùi Thị Nhạn, còn bà Phạm Thị Liên lại là mẹ Quang Thuỳ. Bắc cung hoàng hậu Công chúa Lê Ngọc Hân, con gái thứ chín vua Lê Hiển Tông. Ngọc Hân sinh ngày 27 tháng 4 năm Canh Dần (tức 22 tháng 5 năm 1770), là người có sắc đẹp và nết na hơn cả trong số các công chúa con vua Lê Hiển Tông. Năm 1786, sau cuộc mai mối chớp nhoáng 3 ngày của Nguyễn Hữu Chỉnh, lễ cưới Ngọc Hân công chúa và Nguyễn Huệ đã được tổ chức ở Thăng Long. Ngọc Hân đã có với Quang Trung hai người con, một trai và một gái: hoàng tử tên là Nguyễn Quang Đức và công chúa là Nguyễn Thị Ngọc Bảo. Lúc Ngọc Hân lấy Nguyễn Huệ, bà 16 tuổi còn Nguyễn Huệ đã 33 và cũng đã có nhiều đời vợ. Sau khi lên ngôi vua, năm 1789, Nguyễn Huệ đã phong bà làm Bắc cung hoàng hậu. Ngọc Hân mất năm Kỷ Mùi (1799). Hai người con của bà sau này đều bị triều đình nhà Nguyễn giết hại. Các bà vợ khác Ngoài Chính cung hoàng hậu và Bắc cung hoàng hậu, Nguyễn Huệ còn có ít nhất thêm 4 bà vợ nữa. Bà mẹ của Nguyễn Quang Thuỳ Có ý kiến cho rằng bà mẹ của Nguyễn Quang Thuỳ này chính là một nàng hầu. Quang Thuỳ lớn hơn Quang Toản, nhưng không phải là con của Phạm hoàng hậu và cũng không phải là con của Ngọc Hân công chúa. Vua Càn Long (nhà Thanh) từng lầm tưởng Quang Thuỳ là con trưởng của vua Quang Trung khi Thuỳ trong đoàn sứ bộ sang chúc thọ bát tuần vua Thanh (1790). Bà phi họ Lê người Quảng Ngãi: Bà này có một con trai với vua Quang Trung, cuộc đời của bà đến nay vẫn không rõ, vị hoàng tử con bà bị Nguyễn Ánh giết năm 1801. Bà Trần Thị Quỵ người Quảng Nam: Không rõ bà Trần Thị Quỵ được Nguyễn Huệ chọn làm thứ phi năm nào và có con với ông hay không. Tương truyền, trong những ngày Tây Sơn thất thế, bà bị quân của Nguyễn Ánh bắt được đưa lên bãi cát Kim Bồng chém đầu rồi thả trôi sông. Thi hài của bà được nhân dân bí mật vớt lên khâm liệm và mai táng cẩn thận ở cánh đồng thuộc xứ Trà Quân, làng Thanh Đông (Quảng Nam – Đà Nẵng). Bà Nguyễn Thị Bích người Quảng Trị: Bà là con gái út thứ 16 của viên quan nhỏ vào mạt kỳ thời Chúa Nguyễn ở Phú Xuân. Bà cũng có một con trai với vua Quang Trung. Sau khi triều Tây Sơn sụp đổ, bà trốn về Vĩnh Ân (nay thuộc xã Cát Hanh huyện Phù Cát tỉnh Bình Định) để nương thân, lúc chết được chôn ở gò Thỏ, Vĩnh Ân. Ngoài các bà vợ kể trên, vua Quang Trung còn dự định cầu hôn với công chúa nhà Thanh nhưng việc không thành vì ông qua đời đột ngột. ==== Các con ==== Theo các nhà nghiên cứu, số con của vua Quang Trung khoảng 20 người Nguyễn Quang Toản (sau là Cảnh Thịnh đế - Con bà Phạm Thị Liên hoặc Bùi Thị Nhạn) Nguyễn Quang Bàn (Con bà Phạm Thị Liên) Nguyễn Quang Thiệu (Con bà Phạm Thị Liên hoặc Bùi Thị Nhạn) 2 công chúa, trong đó có 1 người lấy Nguyễn Văn Trị (Con bà Phạm Thị Liên hoặc Bùi Thị Nhạn) Nguyễn Quang Khanh (con bà Bùi Thị Nhạn) Nguyễn Quang Đức (Con bà Lê Ngọc Hân) Công chúa Nguyễn Bảo Ngọc (Con bà Lê Ngọc Hân) 1 người con trai con bà phi họ Lê 1 người con trai con bà phi Nguyễn Thị Bích Nguyễn Quang Thuỳ (Con bà Phạm Thị Liên hoặc 1 nàng hầu) Nguyễn Quang Cương (không rõ mẹ) Nguyễn Quang Tự (không rõ mẹ) Nguyễn Quang Điện (không rõ mẹ) Nguyễn Thất (không rõ mẹ) Nguyễn Quang Duy: làm chức Thái tể thời Cảnh Thịnh (không rõ mẹ) 5 công chúa khác cùng bị bắt với vợ Nguyễn Văn Trị, nhưng sử không nêu rõ có những người nào chính là người trong số công chúa khác con bà Phạm Thị Liên, Bùi Thị Nhạn và con bà Ngọc Hân hay không. Trừ Quang Thuỳ tự vẫn khi Cảnh Thịnh bị bắt, những người còn lại (kể cả các công chúa - cùng phò mã Nguyễn Văn Trị) đều bị Nguyễn Ánh bắt và bị hành hình năm 1802. == Nhận định == Tác giả Tạ Trí Đại Trường tổng kết rằng Nguyễn Huệ nhận được lời khen ngợi của không chỉ những người bầy tôi dưới quyền mà ngay cả của "đám thù nghịch từng chịu điên đảo vì ông" cũng phải khen ngợi ông Sử quan nhà Nguyễn là Trần Trọng Kim viết năm 1920, trong tác phẩm Việt Nam sử lược đã đánh giá phân minh rằng: xét riêng với nhà Nguyễn thì vua Quang Trung là kẻ địch (vì ông đã đánh đổ chúa Nguyễn), nhưng xét về công lao với đất nước, với dân tộc thì vua Quang Trung là một anh hùng sánh ngang với vua Đinh Tiên Hoàng, vua Lê Thái Tổ: Khi biết tin vua Quang Trung qua đời (1792), tại sân điện vua nhà Thanh, tướng Võ Văn Dũng đã ngất đi. Khi tỉnh dậy, ông đã làm ngay một bài thơ than tiếc nhà vua, rằng nếu Quang Trung sống thêm được 10 năm thì sự nghiệp của ông sẽ không kém những Đường Thái Tông, Tống Thái Tổ: Trong bài thơ Lịch sử nước ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh ca ngợi ông: === So sánh với đối thủ là Nguyễn Ánh === Tác giả Trần Cao Sơn so sánh Nguyễn Huệ với đối thủ của ông là Nguyễn Ánh: Người ta còn truyền rằng khi nữ tướng Bùi Thị Xuân bị bắt, Nguyễn Ánh bèn sai người áp giải bà đến trước mặt rồi hỏi với giọng đắc chí: "Ta và Nguyễn Huệ ai hơn?". Bùi Thị Xuân trả lời: === Tài năng quân sự === Quang Trung Nguyễn Huệ là hoàng đế bách chiến bách thắng, lập nhiều chiến tích quân sự nhất trong lịch sử Việt Nam. Cả cuộc đời binh nghiệp của ông, dù dưới danh hiệu Long Nhương tướng quân, Bắc Bình vương hay hoàng đế Quang Trung, ông đều lập công trạng hiển hách, chưa từng thất bại một trận nào. Do những chiến tích vang dội, Nguyễn Huệ được các giáo sĩ Tây phương so sánh với Alexandros Đại đế và Attila. Chính sử của nhà Nguyễn cũng phải thừa nhận: Sách Đại Nam thực lục của nhà Nguyễn chép lại lời tâu của bề tôi Nguyễn Ánh về Tây Sơn: "Kẻ kia, Nhạc, Huệ, anh em từ dân áo vải, không tấc đất cắm dùi, vươn tay hô một tiếng, người theo có cả vạn, chẳng đầy 5-6 năm mà có được nước. Họ không có tài đức hơn người thì vì lẽ gì mà lại hưng thịnh dữ dội như vậy?". Gras de Préville, thuyền trưởng tàu Pandour của Pháp ở Gia Định năm 1788 đã viết về Nguyễn Huệ và quân đội của ông như sau: Gần như toàn bộ chiến thắng của nhà Tây Sơn đều gắn với tên tuổi ông. Những chiến công nổi bật nhất của Nguyễn Huệ: Đánh Gia Định, bắt hai chúa Nguyễn (1777). Chiến thắng 5 vạn quân Xiêm ở Rạch Gầm, Xoài Mút (1785) Hạ thành Phú Xuân (1786) Tiến đánh Thăng Long (1786) Cuộc chiến với 30 vạn quân nhà Thanh (1789): Trận Ngọc Hồi, Trận Đống Đa === Tài năng chính trị === Trần Trọng Kim trong tác phẩm Việt Nam sử lược viết năm 1920, dù là quan nhà Nguyễn nhưng đã giành riêng một chương về vua Quang Trung để ca ngợi ông: ==== Đối ngoại ==== Đối với việc Nguyễn Huệ mang quân ra Bắc Hà đánh họ Trịnh chuyên quyền, ông dùng khẩu hiệu "Phù Lê diệt Trịnh" để tranh thủ sự ủng hộ của nhân dân Bắc Hà. Khi diệt được họ Trịnh, ông vẫn tôn thờ vua Lê. Việc làm đó được sử gia Trần Trọng Kim nhận định "Ấy là đã có sức mạnh mà đã biết làm việc nghĩa vậy". Cũng theo sử gia Trần Trọng Kim: "vì vua nhà Lê nhu nhược, triều thần lúc bấy giờ không ai có tài kinh luân, lại để cho Trịnh Bồng và Nguyễn Hữu Chỉnh nối nhau mà chuyên quyền, đến nỗi thành ra tán loạn. Dẫu thế mặc lòng, khi Nguyễn Huệ giết Vũ Văn Nhậm rồi, không nỡ dứt nhà Lê, đặt Giám Quốc để giữ tông miếu tiền triều; như thế thì cách ở với nhà Lê không lấy gì làm bạc". Ngay sau khi đại phá quân Thanh ở trận Ngọc Hồi - Đống Đa, vua Quang Trung tìm cách xóa bỏ thù hằn bằng việc chiêu hàng, nuôi dưỡng hàng vạn tù binh nhà Thanh và thu dọn, cúng tế chiêu hồn quân Thanh; thực thi chính sách hòa giải với cường quốc phương Bắc và triều cống, xin phong vương. Bằng một kế sách ngoại giao khôn khéo, mua chuộc được các cận thần nhà Thanh (Phúc Khang An, Hòa Thân...), Nguyễn Huệ đã được vua Thanh chấp nhận cầu phong để nhà Tây Sơn chính thức thay thế nhà Lê làm chủ Đại Việt. ==== Đối nội và những cải cách ==== Ở trong nước, Quang Trung đã cho thi hành nhiều cải cách quan trọng: Về quân sự, ở mỗi trấn, vua Quang Trung cho đặt quan trấn thủ và quan hiệp trấn. Mỗi huyện, văn thì đặt chức phân tri để xét việc kiện cáo, võ thì đặt chức phân suất để coi việc binh lương. Quân đội chia làm 5 doanh: trung, tiền, hậu, tả, hữu. Ngoài ra còn có thêm một số quân hiệu khác như tả bật, hữu bật, kiều thanh, thiên cán. Quân đội được trang bị hiện đại, vũ khí có nhiều loại, có loại được cải tiến như hỏa hổ (một loại ống phun lửa), có cả súng trường, đại bác. Hải quân Tây Sơn rất mạnh với nhiều loại tàu chiến, loại lớn chở được cả voi, trang bị từ 50 đến 60 khẩu đại bác, chở được từ 500 đến 700 lính. Về nông nghiệp, ông cho cải cách chế độ đinh điền và ruộng đất. Năm 1789, Quang Trung bãi bỏ thuế điền cho nhân dân từ sông Gianh ra Bắc, động viên nhân dân lao động sản xuất. Chỉ trong vòng 3 năm sau, nông nghiệp được phục hồi. Năm 1791, "mùa màng trở lại phong đăng, năm phần mười trong nước khôi phục được cảnh thái bình". Về công thương nghiệp, Quang Trung khuyến khích đẩy mạnh sản xuất thủ công nghiệp, mở rộng ngoại thương, phát triển mọi ngành sản xuất nhằm xây dựng một nền kinh tế phồn vinh, tự chủ trong đó có công thương nghiệp. Đối với thuyền buôn của các nước phương Tây, Quang Trung tỏ ra rộng rãi, mong muốn họ tăng cường quan hệ ngoại thương với Việt Nam, nhờ vậy tình hình thương nghiệp thời Quang Trung được phục hưng và phát triển. Tư tưởng thông thương tiến bộ của Quang Trung đã thể hiện nhãn quan kinh tế rộng mở, phù hợp với xu thế phát triển "mở cửa ải, thông thương buôn bán, khiến cho các hàng hoá không ngừng đọng để làm lợi cho dân chúng". Về giáo dục, Quang Trung đã ban hành chính sách "khuyến học", trường học được mở rộng đến các làng xã, cho phép các địa phương sử dụng một số đền chùa không cần thiết làm trường học. Về nội dung, bỏ lối học thuộc theo khuôn sáo, cải tiến dần theo hướng thiết thực, bắt các nho sinh, sinh đồ ở các triều đại trước phải thi để đánh giá lại, còn danh hiệu sinh đồ quan do bỏ tiền ra mua trước đó (thời Lê - Trịnh) đều bị loại bỏ. Nhà vua muốn rằng người Việt Nam thì phải dùng tiếng Việt Nam, để gây dựng tinh thần của nước nhà, và văn chương Việt Nam không phải đi mượn tiếng mượn chữ của nước Tàu. Vậy nên khi thi cử, ông thường yêu cầu quan ra bài chữ nôm và bắt sĩ tử làm bài bằng chữ nôm. Về văn hóa, Vua Quang Trung thấy làng nào cũng có chùa chiền, nhiều người đi tu hành chỉ mượn tiếng thần thánh mà lừa bịp người dân, nên ông xuống chiếu bắt bỏ những chùa nhỏ ở các làng, đem gỗ gạch làm ở mỗi phủ huyện một chùa thật to đẹp, rồi chọn lấy những tăng nhân có học thức, có đạo đức coi chùa thờ Phật. Còn những người không xứng đáng thì bắt hoàn tục về làm ăn. Vua Quang Trung muốn rằng chỗ thờ Phật phải tôn nghiêm, những người đi tu hành thì phải chân tu mộ đạo, như vậy mới dẹp bỏ được mê tín dị đoan và giáo hóa tốt cho người dân. Những cải cách của Quang Trung có nhiều mặt tích cực, đã đưa đất nước nhanh chóng vượt qua cuộc khủng hoảng sau chiến tranh kéo dài. Tuy nhiên, những chính sách cải cách của Quang Trung chỉ được thực hiện chưa đầy 3 năm thì ông đã qua đời. Con ông là Quang Toản còn quá nhỏ tuổi nên bất lực, không tiếp tục thực hiện được những cải cách đó. Sau này, khi tiêu diệt được nhà Tây Sơn, nhà Nguyễn của Nguyễn Ánh đã xóa bỏ phần lớn những cải cách này. ==== Quyền biến ==== Trong thời loạn lạc của Nguyễn Huệ cuối thế kỷ 18 - một trong những thời kỳ rối ren, nhiều bè phái và phân liệt nhiều nhất trong lịch sử Việt Nam, ngoài tàn dư của các lực lượng tồn tại lâu đời, trong quá trình tranh chấp giữa các phe phái còn nhiều phần tử nảy sinh ý đồ xưng hùng xưng bá trước những cơ hội do hoàn cảnh mang lại, nhất là khi địa bàn kiểm soát của ông nằm giữa hai vùng Nam Bộ và Bắc Bộ - đất kiểm soát của các lực lượng chống đối. Nguyễn Huệ, trong quá trình đánh Nam dẹp Bắc cũng phải đối phó với những tư tưởng ly khai của các tướng lĩnh dưới quyền, song ông luôn có cách xử lý chứng tỏ bản lĩnh của một chính trị gia già giặn. Đối với Nguyễn Huệ, ai chưa theo, chưa phục, ông để người ta suy nghĩ kỹ (Nguyễn Thiếp ban đầu chưa chịu ra làm việc với ông nhưng rồi chấp thuận sau khi suy ngẫm lại). Nếu cuối cùng vẫn không theo thì Nguyễn Huệ vẫn để họ sống chứ không đe dọa hoặc bắt giữ (ví dụ như Nguyễn Du, Ôn Như Hầu Nguyễn Gia Thiều...). Ông cũng sẵn sàng thu dụng cả tướng địch bị bắt và tôn trọng lòng trung thành của họ với chủ cũ (ví dụ như trường hợp của Nguyễn Huỳnh Đức). Vậy có thể nói Nguyễn Huệ là một người bao dung, một đức tính lớn của một vị vua. Biết Nguyễn Hữu Chỉnh là người dễ thay lòng đổi dạ nhưng Nguyễn Huệ vẫn tận dụng tài năng, mưu lược và sự thông thạo đất Bắc Hà của Nguyễn Hữu Chỉnh để đánh đổ chúa Trịnh. Đánh xong họ Trịnh, ông không thẳng tay giết Nguyễn Hữu Chỉnh mà mượn tay các thế lực thân họ Trịnh cũ (những người đó oán Chỉnh) để giết Nguyễn Hữu Chỉnh bằng việc cùng vua anh Nguyễn Nhạc âm thầm rút quân về nam, bỏ Nguyễn Hữu Chỉnh ở lại. Tới khi Nguyễn Hữu Chỉnh lẽo đẽo chạy theo kịp, Nguyễn Huệ không thể bỏ mặc bèn lưu lại ở Nghệ An cho trấn thủ, chờ biến cố. Lúc Nguyễn Hữu Chỉnh "Phù Lê" đánh được Trịnh Bồng, ra mặt chống Tây Sơn với việc sai người vào Phú Xuân đòi ông giao trả đất Nghệ An, ông mới công khai cử binh đánh Nguyễn Hữu Chỉnh. Nguyễn Hữu Chỉnh bị diệt nhanh chóng. Vũ Văn Nhậm tiếp quản Thăng Long từ tay Nguyễn Hữu Chỉnh cũng nảy ý xưng hùng - chuyên quyền và tự ý đúc ấn riêng. Lúc đó Nguyễn Huệ đã điều bớt binh cho Vũ Văn Nhậm và phải đề phòng mặt Nam, nên không thể dàn quân đi đánh Vũ Văn Nhậm như đánh Nguyễn Hữu Chỉnh. Ông lặng lẽ đi gấp ra Bắc và lập tức trừ khử Vũ Văn Nhậm. Hai viên tướng tài có ý đồ chống lại bị loại trừ với những lý do chính đáng bằng những cách thức không giống nhau, khó lường trước. Các tướng bên dưới như Ngô Văn Sở, Phan Văn Lân lập tức được đôn lên thay trọng trách. Việc Nguyễn Huệ khiển tướng điều binh khiến các tướng lĩnh tâm phục và từ đó không còn ai mang ý đồ cát cứ. === Tài cai trị === Không chỉ là một viên tướng thiện chiến, Quang Trung còn là một nhà cai trị tài ba. Ông giỏi chiến thuật quân sự, giỏi về chiến lược ngoại giao và lại biết thu dụng nhân tài để xây dựng đất nước. Trong ba anh em Tây Sơn, Nguyễn Huệ không chỉ trội hơn về tài năng quân sự mà ngay cả trong việc trị nước, ông cũng tỏ ra là người xuất sắc nhất. Sau là một vài lời nhận xét về công cuộc cai trị của Quang Trung: Sự ra đi của Nguyễn Huệ là tổn thất không thể bù đắp và là điều không may cho nhà Tây Sơn. Cơ nghiệp ông để lại không được người thừa kế xứng đáng bảo tồn, nên đã nhanh chóng mất về tay Nguyễn Ánh. Cái chết đột ngột của ông khiến đời sau còn tiếc cho nhiều dự định lớn lao chưa thành hiện thực. Dù sau này nhà Nguyễn tìm nhiều cách để bôi nhọ và xoá bỏ những chứng tích liên quan tới Nguyễn Huệ nói riêng và nhà Tây Sơn nói chung, nhưng tên tuổi ông không hề bị mai một. Người Việt Nam ghi nhận ông là người anh hùng áo vải dân tộc, là một trong những vị vua vĩ đại nhất trong lịch sử nước nhà. == Ghi công từ hậu thế == Quang Trung được thờ tại chùa Bộc ở Hà Nội. Bức tượng Quang Trung trong chùa được tạc vào thời kì nhà Nguyễn đang truy diệt tất cả những gì liên quan đến nhà Tây Sơn, tượng có dòng chữ "Bính Ngọ tạo Quang Trung tượng". Hàng năm, vào ngày mồng 5 Tết âm lịch, tại quận Đống Đa - Hà Nội thường tổ chức hội Gò Đống Đa để kỷ niệm chiến thắng Ngọc Hồi - Đống Đa đánh tan quân Thanh của vua Quang Trung. Dịp kỷ niệm 200 năm chiến thắng Đống Đa, khu tượng đài Quang Trung được xây dựng tại khu vực này. Phòng tuyến Tam Điệp ở thành phố Tam Điệp tỉnh Ninh Bình là một quần thể các di tích lịch sử ghi dấu cuộc chiến tranh giữa nghĩa quân Tây Sơn và nhà Thanh. Quần thể di tích này thuộc khu vực dãy núi Tam Điệp, là ranh giới tự nhiên hiểm yếu ngăn cách hai miền Trung - Bắc. Đây là nơi hội quân một thời oai hùng của Quang Trung với những cái tên đèo Ba Dội, núi Gióng Than, đồi Hầu Vua, đồi Chuông, đền Cao Sơn, đền Quán Cháo, chùa Dâu… Những đồn luỹ Tam Điệp, Quèn Rẻ, Quèn Thờ, Luỹ Chẹn, Luỹ Đệm, Luỹ Đền…, ải Quang Trung, Kẽm Đó – cổ họng hiểm yếu nhất Tam Điệp… Luỹ Quèn Thờ là vùng đồi núi, rừng rú hoang vu, năm xưa khi thân chinh ra Bắc, vua Quang Trung đã lên thắp hương xin kế phá giặc ở đây. Tương truyền ngôi đền thờ thần Cao Sơn trước đó ở giữa lưng chừng núi. Vua Quang Trung đã được thần báo mộng và nhắc nhở xây đền lên đỉnh núi nếu thắng trận. Sau khi thắng trận vị vua này đã cho di dời Đền lên đỉnh núi. Đền Quán Cháo là ngôi đền gắn với sự tích tiên nữ dâng cháo cho quân lính Tây Sơn trước giờ xung trận. Đền thờ Quang Trung được xây dựng ở thành cổ Tam Điệp ngay trong thời nhà Nguyễn. Quảng trường, tượng đài Hoàng đế Quang Trung được nhân dân Ninh Bình xây dựng tại xã Quang Sơn, thành phố Tam Điệp. Tại thành phố Quy Nhơn, tỉnh Bình Định cũng có tượng đài Hoàng Đế Quang Trung, đặt tại Bảo Tàng Quang Trung. Tên Nguyễn Huệ hoặc niên hiệu Quang Trung của ông được đặt cho các đường phố, phường xã ở các thành phố lớn Việt Nam (Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Cần Thơ, Vinh, Phan Thiết, Hạ Long, Uông Bí, Quảng Yên...). Ở Hà Nội, phố Quang Trung được đặt trên di chỉ cũ của phủ chúa Trịnh là nơi ông từng đóng quân khi tiến vào Thăng Long năm 1786 và cũng là nơi cử hành hôn lễ giữa ông và công chúa Lê Ngọc Hân. Ở Thành phố Hồ Chí Minh, có một ngôi miếu nhỏ của ông tọa lạc tại Quận 12, gần Công viên phần mềm Quang Trung. == Những di ngôn nổi tiếng == == Hình tượng Nguyễn Huệ trong điện ảnh == Bộ phim dã sử - võ thuật đầu tiên của điện ảnh Việt Nam về Vua Quang Trung là bộ phim "Tây Sơn hào kiệt" được thực hiện bởi hãng phim Lý Huỳnh phối hợp cùng Hãng phim Thanh Niên hợp tác sản xuất với sự góp mặt của các diễn viên: Thùy Lâm, Nghệ sĩ nhân dân Thế Anh, Nghệ sĩ nhân dân Đoàn Dũng, Nghệ sĩ ưu tú Lý Huỳnh, Công Hậu, Mộng Vân,... và vai Nguyễn Huệ được giao cho nam diễn viên Lý Hùng. Phim được khởi quay từ ngày 7 tháng 3 năm 2009. Bộ phim dài 90 phút, dựng lại một quãng thời gian trong cuộc đời của Nguyễn Huệ - Quang Trung. Đó là thời gian người anh hùng Nguyễn Huệ chạm mặt và bắt đầu mối tình với Công chúa Lê Ngọc Hân, Nguyễn Huệ kéo quân ra Bắc phò Lê - diệt Trịnh và phim kết lại với hình ảnh chiến thắng Ngọc Hồi - Đống Đa lịch sử khi 10 vạn quân Tây Sơn đánh tan 20 vạn quân lính nhà Thanh, tiến đến giải phóng Thăng Long vào mùa xuân Kỷ Dậu 1789. Bộ phim đã được đầu tư trên 12 tỉ đồng, thực hiện ròng rã trong ba năm và là phim đầu tiên của Hãng phim Lý Huỳnh được làm hậu kỳ tại Hồng Kông. Ngoài ra phim còn có sự tham gia của 200 võ sư (vovinam, võ cổ truyền), 50 con voi ở Buôn Đôn, 38 tuấn mã từ trường đua, may 2.000 bộ trang phục cho bốn sắc lính, đúc 10 cây súng thần công và cảnh quay đông nhất có trên 3.000 diễn viên. Phim được chiếu ra mắt ngày 22 tháng 4 năm 2010 và chính thức công chiếu toàn quốc vào ngày 30 tháng 4. == Xem thêm == Nhà Tây Sơn Nguyễn Nhạc Nguyễn Lữ Nguyễn Ánh Trận Rạch Gầm - Xoài Mút Chiến thắng Kỷ dậu (1789) Phòng tuyến Tam Điệp Núi Bân == Chú giải == == Chú thích và tham khảo == === Thư mục tham khảo === == Đọc thêm == == Liên kết ngoài == Quang Trung tại Encyclopædia Britannica (tiếng Anh) Nguyễn Huệ tại Từ điển bách khoa Việt Nam Nguyễn Duy Chính, Hoàng Đế Quang Trung ra Bắc, nghiên cứu mới 26 Tháng 1 2006 - Cập nhật 14h05 GMT. BBC Những bà vợ của Hoàng đế Quang Trung Thúc Giáp, (theo Đại Nam chính biên liệt truyện và một số tài liệu khác) báo Bình Định Bí mật quanh cái chết của vua Quang Trung - Lê Văn Qu, Nguyệt san Pháp luật số 51 - tháng 3/2001, trang 16 - 20 (3.159), thư viện tỉnh Bình Định Nguyễn Huệ với nhân tài - Hồ Khang, Lịch sử quân sự.- 1989.- Tháng 7 (43).- Tr. 28 - 31 (3.151), thư viện tỉnh Bình Định Bình Định: Khánh thành tượng đài Hoàng đế Quang Trung BTK-TTX, báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam, 21:30, 20/01/2008 Mối 'thâm thù' Gia Long - Tây Sơn: Gậy ông đập lưng ông? Báo Đất Việt. Cập nhật lúc 13:35, 20/08/2011
giải bóng đá u19 quốc gia.txt
Giải vô địch bóng đá U19 Việt Nam là giải bóng đá quốc gia hàng năm cho lứa tuổi dưới 19 do Liên đoàn bóng đá Việt Nam tổ chức. Từ năm 2005 trở về trước, giải dành cho các cầu thủ dưới 18 tuổi. Nhà vô địch hiện tại năm 2016 đó là U19 Hà Nội T&T. == Các đội đoạt huy chương == == Vua phá lưới == == Chú thích == == Liên kết ngoài == Liên đoàn bóng đá Việt Nam
siêu nhân (nhân vật).txt
Siêu Nhân (Superman) là một nhân vật anh hùng trong một series truyện tranh cùng tên nổi tiếng ở Mỹ do hãng DC Comics phát hành. Ban đầu, Siêu Nhân do nhà văn Mỹ Jerry Siegel và nghệ sĩ gốc Canada Joe Shuster viết lên và được nhà xuất bản Mỹ DC Comics phát hành. Anh được người hâm mộ đề cao bằng những cụm từ hoa mỹ như "Người đàn ông Thép" hay "Con trai cuối cùng của Krypton". == Tiểu sử == Siêu Nhân có tên thật là Kal-El được sinh ra ở hành tinh Krypton cách xa Trái Đất. Anh được gởi đến trái đất bởi cha của mình - Jor-El (một nhà khoa học) bằng một tên lửa trước khi hành tinh của họ bị hủy diệt. Đến trái đất, đứa trẻ được làm con của một cặp vợ chồng nông dân ở Kansas, họ đặt tên đứa trẻ là Clark Kent. Khi trưởng thành, Clark đến Metropolis, làm việc tại toà soạn Daily Planet nổi tiếng và sử dụng những khả năng đặc biệt có được khi ở Trái Đất để chiến đấu trừ gian diệt bạo. Siêu Nhân yêu một cô gái có tên là Lois Lane, là một phóng viên cùng tòa soạn báo với anh và sau này là vợ của anh, ngoài ra hai kẻ thù chính của Siêu Nhân là Lex Luthor (từ trái đất) và Darkseid (từ vũ trụ) == Sức ảnh hưởng trong văn hóa đại chúng == Ngoài truyện tranh, đã có vô số bộ phim hoạt hình và phim điện ảnh lấy nguồn cảm hứng từ Siêu Nhân. Siêu Nhân ngày nay được coi là một trong những anh hùng nổi tiếng và phổ biến nhất mọi thời đại, trở thành một biểu tượng văn hóa Mỹ. Trong danh sách "200 nhân vật truyện tranh vĩ đại nhất mọi thời đại" ("200 Greatest Comic Book Characters of All Time") của tạp chí Wizard năm 2008 Superman đứng ở vị trí số 4. IGN xếp Superman vị trí thứ một trong danh sách "Top 100 siêu anh hùng mọi thời đại trong thế giới truyện tranh" ("Top 100 Comic Book Heroes of All Time"). Tạp chí Empire cũng xếp Superman vị trí số một trong danh sách "Top 50 nhân vật truyện tranh của mọi thời đại" ("Top 50 Comic Book Characters") của họ. == Xem thêm == Người Dơi Người Nhện == Tham khảo ==
thế kỷ 13.txt
Thế kỷ 13 là khoảng thời gian tính từ thời điểm năm 1201 đến hết năm 1300, nghĩa là bằng 100 năm, trong lịch Gregory. == Lịch sử == Thế kỷ này nổi tiếng với sự xâm lược của Đế quốc Mông Cổ trên khắp lục địa Á - Âu. == Xem thêm == === Thời gian === Thế kỷ Thiên niên kỉ === Lịch sử === Đế quốc Mông Cổ == Tham khảo ==
21 tháng 12.txt
Ngày 21 tháng 12 là ngày thứ 355 (356 trong năm nhuận) trong lịch Gregory. Còn 10 ngày trong năm. == Sự kiện == 69 – Viện nguyên lão tuyên bố Vespasianus là Hoàng đế La Mã, vị hoàng đế cuối cùng trong năm tứ đế. 1832 – Quân Ai Cập giành thắng lợi quyết định trước quân Ottoman tại Trận Konya diễn ra tại lãnh thổ nay thuộc Thổ Nhĩ Kỳ. 1919 – Nhân vật vô chính phủ người Mỹ Emma Goldman bị trục xuất đến Nga. 1936 – Máy bay ném bom Ju 88 của Đức có chuyến bay thử nghiệm đầu tiên. 1937 – Phim hoạt hình Nàng Bạch Tuyết và bảy chú lùn được trình chiếu tại Los Angeles, phim đầu tiên trong loạt phim hoạt hình kinh điển của Walt Disney. 1941 – Chiến tranh thế giới thứ hai: Một hiệp ước chính thức về đồng minh giữa Thái Lan và Nhật Bản được ký kết tại Wat Phra Kaew, Thái Lan. 1944 – Chiến tranh thế giới thứ hai: Trận chiến vịnh Ormoc tại Philippines kết thúc với thắng lợi của Quân đội Hoa Kỳ trước Quân đội Nhật Bản. 1949 – Đoàn chủ tịch Xô viết Tối cao Liên Xô ra nghị quyết hình thành Giải thưởng Quốc tế Stalin vì sự củng cố hòa bình giữa các dân tộc 1995 – Quyền kiểm soát thành phố Bethlehem được Israel chuyển giao cho Chính quyền Quốc gia Palestine == Sinh == 1804 – Benjamin Disraeli, chính trị gia người Anh, Thủ tướng Anh Quốc (m. 1881) 1833 – Walther Bronsart von Schellendorff, tướng lĩnh người Đức (m. 1914) 1897 – Iosif Stalin (sinh nhật chính thức), lãnh đạo Liên Xô (m. 1953) 1896 – Konstantin Rokossovsky, tướng lĩnh người Ba Lan-Liên Xô, tức ngày 3 tháng 12 theo lịch Julius (m. 1968) 1917 – Heinrich Böll, nhà văn người Đức, đoạt giải Nobel (m. 1985) 1918 – Kurt Waldheim, chính trị gia người Áo, Tổng thống thứ 9 của Áo, Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc (m. 2007) 1937 – Jane Fonda, diễn viên người Mỹ 1940 – Frank Zappa, nhạc sĩ người Mỹ (m. 1993) 1942 – Hồ Cẩm Đào, chính trị gia người Trung Quốc, Chủ tịch nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa và Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Trung Quốc 1944 – Trịnh Tiêu Du, nhà ngoại giao người Trung Quốc (m. 2007) 1944 – Hwang Jeong-ri, võ sư và diễn viên người Hàn Quốc 1947 – Ngô Văn Dụ, chính trị gia người Việt Nam 1948 – Samuel L. Jackson, diễn viên người Mỹ 1953 – Nguyễn Tấn Quyên, chính trị gia người Việt Nam 1954 – Chris Evert, vận động viên quần vợt người Mỹ 1966 – Kiefer Sutherland, tác gia, đạo diễn và nhà sản xuất người Anh-Canada 1967 – Mikhail Saakashvili, chính trị gia người Gruzia, tổng thống thứ ba của Gruzia 1969 – Julie Delpy, diễn viên, người mẫu, đạo diễn, và nhà biên kịch người Pháp-Mỹ == Mất == 72 – Tôma Tông đồ (s. 1 CN) 1375 – Giovanni Boccaccio, tác gia và thi nhân người Ý (s. 1313) 1576 – Gerolamo Cardano, nhà toán học, thầy thuốc, nhà chiêm tinh học người Ý (s. 1501) 1807 – John Newton, chiến binh và tu sĩ người Anh (s. 1725) 1839 – Anrê Dũng Lạc, linh mục Công giáo Rôma người Việt Nam (s. 1795) 1873 – Francis Garnier, nhà thám hiểm người Pháp (s. 1839) 1937 – Frank Billings Kellogg, chính trị gia người Mỹ, Bộ trưởng Ngoại giao Hoa Kỳ, đoạt giải Nobel Hòa bình (s. 1856) 1939 – Wen Ho Lee, nhà khoa học và gián điệp người Mỹ gốc Đài Loan 1940 – F. Scott Fitzgerald, nhà văn người Mỹ (s. 1896) 1945 – George S. Patton, tướng lĩnh người Mỹ (s. 1885) 1967 – Nam Trân, nhà thơ người Việt Nam (s. 1907) 1968 – Vittorio Pozzo, huấn luyện viên bóng đá người Ý (s. 1886) 1992 – Quách Tấn, nhà thơ người Việt Nam (s. 1910) 2005 – Viễn Phương, nhà thơ người Việt Nam (s. 1928) 2006 – Saparmurat Niyazov, tổng thống đầu tiên của Turkmenistan (s. 1940) 2009 – Christos Lambrakis, doanh nhân người Hy Lạp (s. 1934) 2009 – Edwin G. Krebs, nhà hóa sinh học người Mỹ (s. 1918) 2010 - Enzo Bearzot, HLV người Ý - vô địch WC 1982 (s. 1927) == Những ngày lễ và kỷ niệm == == Tham khảo ==
âm vật.txt
Âm vật (tiếng Anh: clitoris), tên gọi dân gian là hột le, mồng đốc, hay bướm, hoặc bím, là một phần của cơ quan sinh dục của nữ giới. Âm vật là một khối mô cứng dài khoảng 1,5 cm, nằm ở giữa và phía trên của âm hộ, đầu âm vật được che một phần bởi nơi hai môi nhỏ hợp lại. Âm vật là cơ quan nhạy cảm nhất trong cơ thể con người (cùng hạng với dương vật ở nam và lưỡi), nơi đây tập trung nhiều (khoảng 8000) đầu dây thần kinh có chức năng mang lại khoái cảm tình dục. Âm vật được mô tả theo y học đầu tiên bởi một nhà khảo cứu cơ thể người Ý năm 1559. == Tham khảo == == Liên kết ngoài == Phương tiện liên quan tới Clitoris tại Wikimedia Commons
phong trào nghĩa hòa đoàn.txt
Phong trào Nghĩa Hòa Đoàn hay còn gọi là Khởi nghĩa Nghĩa Hòa Đoàn (chữ Hán: 義和團運動; giản thể: 义和团运动; bính âm: Yìhétuán Yùndòng; có nghĩa nôm na: "phong trào xã hội công bằng và hòa hợp") là một phong trào bạo lực tại Trung Quốc (tháng 11 năm 1899 đến 7 tháng 9 năm 1901) do Nghĩa Hòa Đoàn khởi xướng, chống lại sự ảnh hưởng của thế lực nước ngoài trong các lĩnh vực giao thương, chính trị, văn hóa, công nghệ và bài Kitô giáo, trong bối cảnh hạn hán khắc nghiệt và kinh tế suy sụp. Cuộc nổi dậy xảy ra tại Trung Quốc trong suốt những năm cuối của triều đại Mãn Thanh. Các thành viên Nghĩa Hòa Đoàn gieo rắc lòng căm thù đối với những thương nhân nước ngoài và các vị cố đạo truyền giáo và kêu gọi mọi người thanh toán những nhóm người này. Sự thù hận này có nguồn gốc từ cuộc Chiến tranh Nha phiến và sự xâm nhập kinh tế của người nước ngoài, cùng với chính sách truyền đạo mà chính quyền nhà Thanh bất lực không ngăn cản được. Những người nổi dậy xông vào các nhà thờ ở khắp miền Bắc Trung Quốc giết hại các nhà truyền giáo mà họ gọi là "những kẻ đi gieo rắc tội ác". Quân Nghĩa Hòa Đoàn thắt khăn đỏ ở cổ tay hay chân dùng dao hoặc giáo mác chặt đầu những người bị hành hình rồi bêu đầu lên ngọn giáo. Tại Sơn Tây họ đã giết tới 200 người nước ngoài, chủ yếu là những nhà truyền giáo và thân nhân của họ. Chỉ trong vòng 1 ngày có tới 45 người bị giết. Tháng 6 năm 1900, quân Nghĩa Hòa chiếm đóng Bắc Kinh và giết 230 người ngoại quốc. Hàng chục nghìn tín đồ Cơ Đốc giáo Trung Quốc, gồm Công giáo và Tin Lành đều bị giết phần lớn tại hai tỉnh Sơn Đông và Sơn Tây như là một phần của cuộc nổi dậy. Chính quyền của Từ Hi Thái Hậu tỏ ra bất lực khi các nhà ngoại giao và binh sĩ cũng như thường dân nước ngoài và một vài tín đồ Cơ Đốc giáo người Hoa phải rút lui tới các tòa công sứ và cầm cự 55 ngày cho đến khi liên quân 8 nước (Bát Quốc liên quân) gửi 20.000 quân tới giải cứu. Liên quân đánh bại quân chính quy nhà Thanh, chiếm đóng Bắc Kinh ngày 14 tháng 8, giải vây khu lãnh sự. Tiếp đó Liên quân cướp phá Bắc Kinh và các khu vực lân cận, hành quyết các tù binh tình nghi là thành viên Nghĩa Hòa bị bắt. Chính quyền Trung Quốc bị ép phải bồi thường cho các nạn nhân và thực hiện thêm các nhượng bộ bổ sung. Hòa ước 7 tháng 9 năm 1901 buộc nhà Thanh phải xử tử các quan lại ủng hộ Nghĩa Hòa đoàn, cung cấp cho binh lính ngoại quốc đóng tại Bắc Kinh, bồi thường chiến phí 67 triệu bảng Anh (tương đương với 450 triệu lạng bạc), tức nhiều hơn tiền thuế của triều đình trong một năm, trả trong 39 năm cho liên minh 8 nước Cuộc cải tổ được thi hành sau những chỉ trích năm 1900 đã đặt nền tảng cho dấu chấm hết của triều đại Mãn Thanh và mở đầu cho sự thành lập Trung Hoa Dân Quốc. == Sự hình thành tổ chức Nghĩa Hòa Đoàn == Nghĩa Hòa Đoàn là một tổ chức tôn giáo thần bí và đồng thời là một tổ chức chính trị đã lãnh đạo phong trào Nghĩa Hòa Đoàn do Chu Hồng Đăng lãnh đạo. Có thuyết cho rằng tổ chức này liên quan tới Bạch Liên giáo. Lực lượng nòng cốt của Nghĩa Hòa Đoàn bao gồm nhiều người giỏi võ nghệ. Do đó, Nghĩa Hòa Đoàn còn bị những người không ưa nó gọi bằng cái tên "quyền phỉ". Sách giáo khoa trung học cơ sở của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa gọi Nghĩa Hòa Đoàn là những người yêu nước. Tuy nhiên, có không ít người mà chủ yếu là người nước ngoài lên án Nghĩa Hòa Đoàn và quy kết tổ chức này đã gây ra sự thảm sát hàng chục ngàn người mà phần lớn là người nước ngoài. Khẩu hiệu hành động của tổ chức này là "phù Thanh diệt Dương" nghĩa là "ủng hộ Thanh triều, tiêu diệt người Tây". == Xem thêm == Phong trào Văn Thân == Chú thích == == Liên kết ngoài == 55 Days at Peking tại Internet Movie Database Pa kuo lien chun tại Internet Movie Database University of Washington Libraries Digital Collections – Robert Henry Chandless Photographs
tiếng nga.txt
Tiếng Nga (русский язык; phát âm theo ký hiệu IPA là /ruskʲə: jɪ'zɨk/) là ngôn ngữ được nói nhiều nhất của những ngôn ngữ Slav. Tiếng Nga thuộc hệ ngôn ngữ Ấn-Âu, nghĩa là nó liên quan với tiếng Phạn, tiếng Hy Lạp và tiếng Latinh, với những ngôn ngữ trong nhóm Giécman, nhóm gốc Celt và nhóm Rôman, kể cả tiếng Anh, tiếng Pháp và tiếng Gaeilge (tiếng Ái Nhĩ Lan). Mẫu chữ viết của tiếng Nga có từ thế kỷ 10 đến nay. Dù cho nó vẫn còn giữ nhiều cấu trúc biến tố tổng hợp cổ và gốc từ một tiếng Slav chung, tiếng Nga hiện đại cũng có nhiều phần của từ vựng quốc tế về chính trị, khoa học, và kỹ thuật. Tiếng Nga là một trong những ngôn ngữ chính của Liên Hiệp Quốc và là một ngôn ngữ quan trọng trong thế kỷ 20. == Phân loại == Tiếng Nga là ngôn ngữ gốc Slav thuộc hệ Ấn-Âu. Các ngôn ngữ gần nhất với tiếng Nga là tiếng Belarus và tiếng Ukrain, cả hai đều thuộc nhánh phía đông của nhóm gốc Slav. == Bảng chữ cái == == Phụ âm == == Ví dụ == Зи́мний ве́чер IPA: [ˈzʲimnʲɪj ˈvʲetɕɪr] Бу́ря мгло́ю не́бо кро́ет, [ˈburʲɐ ˈmɡloju ˈnʲɛbɐ ˈkroɪt] Ви́хри сне́жные крутя́; [ˈvʲixrʲɪ ˈsʲnʲɛʐnɨɪ kruˈtʲa] То, как зверь, она́ заво́ет, [to kak zvʲerʲ ɐˈna zɐˈvoɪt] То запла́чет, как дитя́, [to zɐˈplatɕɪt, kak dʲɪˈtʲa] То по кро́вле обветша́лой [to po ˈkrovlʲɪ ɐbvʲɪˈtʂaləj] Вдруг соло́мой зашуми́т, [vdruk sɐˈloməj zəʂuˈmʲit] То, как пу́тник запозда́лый, [to kak ˈputnʲɪk zəpɐˈzdalɨj] К нам в око́шко застучи́т. [knam vɐˈkoʂkə zəstuˈtɕit] == Thống kê == == Số người nói tại các quốc gia == == Xem thêm == Bảng chữ cái tiếng Nga Văn học Nga == Chú thích == == Tham khảo == === Tiếng Anh === Comrie, Bernard, Gerald Stone, Maria Polinsky (1996). The Russian Language in the Twentieth Century (ấn bản 2). Oxford: Oxford University Press. 019824066X. Timberlake, Alan (2004). “A Reference Grammar of Russian”. Cambridge, UK: Cambridge University Press. 0521772923. Carleton, T.R. (1991). Introduction to the Phonological History of the Slavic Languages. Columbus, Ohio: Slavica Press. Cubberley, P. (2002). Russian: A Linguistic Introduction (ấn bản 1). Cambridge: Cambridge University Press. Halle, Morris (1959). Sound Pattern of Russian. MIT Press. Ladefoged, Peter và Maddieson, Ian (1996). The Sounds of the World's Languages. Blackwell Publishers. Matthews, W.K. (1960). Russian Historical Grammar. London: University of London, Athlone Press. Stender-Petersen, A. (1954). Anthology of old Russian literature. New York: Columbia University Press. Wade, Terrence (2000). A Comprehensive Russian Grammar (ấn bản 2). Oxford: Blackwell Publishing. ISBN 0631207570. === Tiếng Nga === Востриков О.В., Финно-угорский субстрат в русском языке: Учебное пособие по спецкурсу.- Свердловск, 1990. – 99c. – В надзаг.: Уральский гос. ун-т им. А. М. Горького. Жуковская Л.П., отв. ред. Древнерусский литературный язык и его отношение к старославянскому. М., «Наука», 1987. Иванов В.В. Историческая грамматика русского языка. М., «Просвещение», 1990. Михельсон Т.Н. Рассказы русских летописей XV–XVII веков. М., 1978.? Новиков Л.А. Современный русский язык: для высшей школы.- Москва: Лань, 2003. Филин Ф. П., О словарном составе языка Великорусского народа; Вопросы языкознания. – М., 1982, № 5. – С. 18–28 Цыганенко Г.П. Этимологический словарь русского языка, Киев, 1970. Шанский Н.М., Иванов В.В., Шанская Т.В. Краткий этимологический словарь русского языка. М. 1961. Шицгал А., Русский гражданский шрифт, М., «Исскуство», 1958, 2-e изд. 1983. == Liên kết ngoài == Russian Language tại DMOZ Free Princeton Russian Course Download Chuyển tự trực tuyến ký tự tiếng Nga sang ký tự Latin
sao kim.txt
Sao Kim hay Kim tinh (chữ Hán: 金星), còn gọi là sao Thái Bạch (太白), Thái Bạch Kim tinh (太白金星) (thường dùng khi xem tướng mệnh), là hành tinh thứ hai trong hệ Mặt Trời, tự quay quanh nó với chu kỳ 224,7 ngày Trái Đất. Xếp sau Mặt Trăng, nó là thiên thể tự nhiên sáng nhất trong bầu trời tối, với cấp sao biểu kiến bằng −4.6, đủ sáng để tạo nên bóng trên mặt nước. Bởi vì Sao Kim là hành tinh phía trong tính từ Trái Đất, nó không bao giờ xuất hiện trên bầu trời mà quá xa Mặt Trời: góc ly giác đạt cực đại bằng 47,8°. Sao Kim đạt độ sáng lớn nhất ngay sát thời điểm hoàng hôn hoặc bình minh, do vậy mà dân gian còn gọi là sao Hôm, khi hành tinh này mọc lên lúc hoàng hôn, và sao Mai, khi hành tinh này mọc lên lúc bình minh. Sao Kim được xếp vào nhóm hành tinh đất đá và đôi khi người ta còn coi nó là "hành tinh chị em" với Trái Đất do kích cỡ, gia tốc hấp dẫn, tham số quỹ đạo gần giống với Trái Đất. Tuy nhiên, người ta đã chỉ ra rằng nó rất khác Trái Đất trên những mặt khác. Sao Kim bị bao bọc bởi lớp mây dày có tính phản xạ cao chứa axít sunfuric, và khiến chúng ta không thể quan sát bề mặt của nó dưới bước sóng ánh sáng khả kiến. Mật độ không khí trong khí quyển của nó lớn nhất trong số bốn hành tinh đất đá, thành phần chủ yếu là cacbon điôxít. Áp suất khí quyển tại bề mặt hành tinh cao gấp 92 lần so với của Trái Đất. Với nhiệt độ bề mặt trung bình bằng 735 K (462 °C), Sao Kim là hành tinh nóng nhất trong Hệ Mặt Trời. Nó không có chu trình cacbon để đưa cacbon trở lại đá và đất trên bề mặt, do vậy không thể có một tổ chức sống hữu cơ nào có thể hấp thụ nó trong sinh khối. Một số nhà khoa học từng cho rằng Sao Kim đã có những đại dương trong quá khứ, nhưng đã bốc hơi khi nhiệt độ hành tinh tăng lên do hiệu ứng nhà kính mất kiểm soát. Nước có thể đã bị quang ly, và bởi vì không có từ quyển hành tinh, hiđrô tự do có thể thoát vào vũ trụ bởi tác động của gió Mặt Trời. Toàn bộ bề mặt của Sao Kim là một hoang mạc khô cằn với đá và bụi và có lẽ vẫn còn núi lửa hoạt động trên hành tinh này. == Đặc trưng == Sao Kim là một trong bốn hành tinh đất đá trong hệ Mặt Trời. Theo khối lượng và kích thước, nó gần giống với Trái Đất và có lúc gọi là "hành tinh chị em" hoặc "hành tinh sinh đôi" với Trái Đất. Đường kính của Sao Kim bằng 12.092 km (chỉ nhỏ hơn 650 km của Trái Đất) và khối lượng của nó bằng 81,5% khối lượng Trái Đất. Địa mạo trên bề mặt hành tinh khác xa so với địa hình trên Trái Đất, do hành tinh có một bầu khí quyển cacbon điôxít rất dày. Tổng khối lượng của cacbon điôxít chiếm tới 96,5% khối lượng khí quyển, và đa số khối lượng còn lại là 3,5% của nitơ. === Địa lý === Nghiên cứu bề mặt Sao Kim vẫn còn có nhiều vấn đề mang tính phỏng đoán cho đến khi một số bí mật của nó được khám phá trong ngành khoa học hành tinh ở thế kỷ 20. Bề mặt hành tinh đã được vẽ chi tiết từ tàu Magellan năm 1990–91. Trên bản đồ hành tinh hiện lên những chi tiết cho thấy khả năng có hoạt động của núi lửa, và sự có mặt của lưu huỳnh trong khí quyển còn cho thấy khả năng có một số vụ phun trào gần đây. Khoảng 80% diện tích bề mặt Sao Kim bao phủ bởi những đống bằng núi lửa phẳng, hay 70% đồng bằng có những rặng núi và 10% đồng bằng có thùy. Hai "lục địa" cao nguyên chiếm phần còn lại của diện tích bề mặt, một lục địa nằm ở bán cầu bắc và lục kia nằm ở ngay phía nam xích đạo hành tinh. Các nhà khoa học đặt tên lục địa phía bắc là Ishtar Terra, theo tên thần Ishtar, thần tình yêu của người Babylon, lục địa có diện tích xấp xỉ Australia. Ngọn Maxwell Montes, núi cao nhất trên Sao Kim, nằm ở lục địa Ishtar Terra. Chiều cao của nó xấp xỉ 11 km tính từ độ cao trung bình của bề mặt hành tinh. Lục địa bán cầu nam có tên Aphrodite Terra, theo tên của thần tình yêu trong thần thoại Hy Lạp, và là lục địa cao nguyên lớn nhất với diện tích xấp xỉ lục địa Nam Mỹ. Có rất nhiều dấu vết đứt gãy địa chất ở lục địa này. Sự thiếu đi chứng cứ về những dòng chảy dung nham cũng như những miệng núi lửa (caldera) vẫn còn là một bí ẩn đối với các nhà khoa học. Hành tinh này có một vài hố va chạm, và do đó bề mặt hành tinh còn tương đối trẻ, xấp xỉ khoảng 300–600 triệu năm tuổi. Ngoài các hố va chạm, núi và thung lũng thường gặp trên các hành tinh đất đá, Sao Kim cũng có những nét đặc trưng riêng. Một trong số đó là những địa hình dạng núi lửa phẳng gọi là "farra", nhìn giống như bánh đa với đường kính 20–50 km, và cao 100–1.000 m; hệ thống những vết nứt hướng về tâm hình cánh sao gọi là "novae"; những vết nứt gãy đặc trưng hướng về tâm và bao bởi những vết nứt đồng tâm giống như mạng nhện hay gọi là "arachnoids"; và "coronae", những đường nứt gãy vòng tròn đôi khi bao quanh chỗ lõm. Những đặc trưng riêng này có nguồn gốc liên quan đến núi lửa. Đa số các đặc điểm trên bề mặt Sao Kim được đặt tên theo phụ nữ trong lịch sử và thần thoại. Ngoại trừ ngọn Maxwell Montes, theo tên của James Clerk Maxwell, và những vùng cao nguyên Alpha Regio, Beta Regio và Ovda Regio. Ba tên gọi sau được đặt trước khi hệ thống tên gọi hiện tại do Hiệp hội Thiên văn Quốc tế áp dụng, cơ quan ban hành quy định và chứng nhận tên gọi cho các thiên thể và vật thể trong thiên văn học. Kinh độ địa lý của các đặc điểm trên bề mặt Sao Kim được lấy theo kinh tuyến gốc của nó. Ban đầu các nhà khoa học lấy kinh tuyến gốc đi qua một điểm sáng trên ảnh radar tại tâm của đặc điểm Eve hình oval, nằm ở phía nam của Alpha Regio. Sau khi phi vụ Venera hoàn thành, kinh tuyến gốc được định nghĩa lại khi nó đi qua đỉnh trung tâm của hố va chạm Ariadne. === Địa chất bề mặt === Địa mạo Sao Kim hiện lên cho thấy có sự ảnh hưởng của hoạt động núi lửa. Sao Kim từng có số núi lửa nhiều như của Trái Đất, và có 167 núi lửa có đường kính trên 100 km. Vùng chứa nhiều núi lửa như thế duy nhất trên Trái Đất tại đảo Lớn của Hawaii. Đây không phải vì Sao Kim có nhiều hoạt động núi lửa hơn Trái Đất mà bởi vì lớp vỏ của nó già hơn. Vỏ đại dương của Trái Đất liên tục được tái tạo thông qua sự hút chìm tại biên giới giữa các mảng kiến tạo, và có tuổi trung bình bằng 100 triệu năm, trong khi các nhà khoa học tính toán bề mặt Kim Tinh có tuổi 300–600 triệu năm. Có một số manh mối thể hiện vẫn còn hoạt động núi lửa trên Sao Kim. Trong chương trình Venera của Liên Xô, các tàu Venera 11 và Venera 12 đã ghi nhận được các luồng tia sét, và Venera 12 còn ghi được tiếng sét nổ mạnh ngay sau khi nó đổ bộ. Tàu Venus Express của Cơ quan vũ trụ châu Âu cũng chụp được hình ảnh tia sét trong lớp khí quyển trên cao. Có thể tro bay ra từ núi lửa đã gây ra sét trong bầu khí quyển hành tinh. Một dữ liệu khác đến từ mật độ tập trung của lưu huỳnh điôxit trong khí quyển, mà các nhà khoa học nhận thấy đã giảm đi 10 lần trong giai đoạn 1978 đến 1986. Hiện tượng này có thể giải thích bằng núi lửa hoạt động trước đó đã phun lưu huỳnh điôxit ra khí quyển. Có khoảng 1.000 hố va chạm phân bố khắp bề mặt Sao Kim. Trên những thiên thể khác như Trái Đất hay Mặt Trăng, các hố va chạm thể hiện quá trình biến mất dần của chúng. Trên Mặt Trăng, sự biến mất là do những thiên thạch theo thời gian rơi xuống làm mờ đi hố già tuổi hơn, trong khi trên Trái Đất, miệng hố bị phong hóa bởi mưa và gió. Trên Sao Kim, khoảng 85% hố va chạm vẫn còn ở trạng thái nguyên thủy. Số lượng hố va chạm, cùng với điều kiện được "bảo tồn" tốt của chúng, cho thấy hành tinh trải qua lần tái tạo bề mặt gần đây nhất cách khoảng 300–600 triệu năm trước, đi kèm với sự tắt dần của các núi lửa. Trong khi lớp vỏ Trái Đất liên tục chuyển động, các nhà khoa học nghĩ rằng trên Sao Kim các vỏ không có sự di chuyển này. Không có hoạt động kiến tạo mảng để tiêu tán nhiệt ra khỏi lớp phủ, thay vào đó Sao Kim trải qua chu trình tuần hoàn trong đó nhiệt độ lớp phủ tăng cao cho đến khi đạt nhiệt độ tới hạn làm yếu/tan chảy lớp vỏ. Do vậy trong chu kỳ trên 100 triệu năm, sự hút chìm xuất hiện trên hầu như toàn bộ hành tinh, làm tái tạo mới hoàn toàn bề mặt lớp vỏ. Các hố va chạm trên Sao Kim có đường kính từ 3 km đến 280 km. Không có hố nào với đường kính nhỏ hơn 3 km, bởi vì do khí quyển dày đặc cản trở các vật thể rơi từ ngoài vũ trụ. Các vật với động năng nhỏ hơn một giá trị xác định bị hãm chậm lại khi nó rơi vào bầu khí quyển, và nếu động năng hoặc kích cỡ nhỏ chúng không tạo ra một hố va chạm đưọc. Mưa axit: Thành phần khí quyển chủ yếu của sao Kim là cacbonic và những lớp mây nóng bỏng dày đặc chứa sunfuric đã hình thành các trận mưa axit sunfuric tàn phá bề mặt hành tinh. Ngoài ra địa hình của Sao Kim Khoảng 80% diện tích bề mặt Sao Kim bao phủ bởi những đống bằng núi lửa phẳng, hay 70% đồng bằng có những rặng núi và 10% đồng bằng có thùy. Do áp lực khí quyển đè lên hành tinh này khá lớn nên ngay cả khi các thiên thạch rơi vào hành tinh cũng không tạo ra nhiêu biến dạng vì đất đá bị không khí ném chặt xuống khiến chúng không thể rơi vãi lung tung. === Cấu trúc bên trong === Không có những dữ liệu địa chấn hoặc về mô men quán tính hành tinh, các nhà khoa học có ít thông tin trực tiếp liên quan đến cấu trúc bên trong và địa hóa học của Sao Kim. Sự gần giống về đường kính và khối lượng riêng giữa Sao Kim và Trái Đất gợi ra khả năng chúng có cấu trúc bên trong cũng tương tự nhau: gồm lõi hành tinh, lớp phủ, và lớp vỏ. Giống như Trái Đất, lõi Sao Kim ít nhất ở trạng thái lỏng một phần bởi vì hai hành tinh có quá trình lạnh/tiêu tán nhiệt bên trong với cùng một tốc độ. Đường kính nhỏ hơn của Sao Kim cho thấy những phần sâu bên trong hành tinh chịu áp suất nhỏ hơn so với của Trái Đất. Sự khác nhau chính yếu giữa hai hành tinh đó là các nhà khoa học chưa có chứng cứ về hoạt động kiến tạo mảng trên Sao Kim, có thể bởi vì lớp vỏ quá cứng để có thể xảy ra hút chìm mảng lục địa, mà không có nước lỏng để chúng có thể trượt lên nhau. Kết quả này dẫn đến giảm sự mất mát nội nhiệt hành tinh, kéo dài thời gian hành tinh bị lạnh đi và có thể là một phần giải thích cho hành tinh không có một từ trường toàn cầu. Thay vì vậy, nội nhiệt của Sao Kim bị mất trong quá trình tái tạo bề mặt tuần hoàn theo chu kỳ hàng trăm triệu năm. === Khí quyển và khí hậu === Sao Kim có khí quyển rất dày, chứa chủ yếu CO2 và lượng nhỏ N2. Khối lượng khí quyển của hành tinh này lớn gấp 93 lần so với khối lượng khí quyển của Trái Đất, trong khi áp suất bề mặt cao gấp 92 so với của Trái Đất—áp này tương đương với độ sâu gần bằng 1 kilômét tính từ bề mặt đại dương trên Trái Đất. Khối lượng riêng/mật độ của không khí tại nơi gần bề mặt bằng 65 kg/m³ (bằng 6,5% của nước). Khí quyển giàu CO2, cùng với đám mây dày SO2, tạo ra hiệu ứng nhà kính mạnh nhất trong các hành tinh trong Hệ Mặt Trời, với nhiệt độ tại bề mặt ít nhất bằng 462 °C. Điều này khiến cho bề mặt của Sao Kim nóng hơn so với của Sao Thủy, với nhiệt độ bề mặt cực tiểu −220 °C và cực đại bằng 420 °C, ngay cả khi khoảng cách từ Sao Kim đến Mặt Trời gần bằng hai lần khoảng cách đó đến Sao Thủy và do vậy hành tinh này chỉ nhận được khoảng 25% năng lượng bức xạ Mặt Trời so với năng lượng Sao Thủy nhận được. Do vậy người ta thường miêu tả bề mặt Sao Kim là địa ngục nóng rực. Nhiệt độ này thậm chí còn cao hơn nhiệt độ cần thiết trong một số quá trình khử trùng. Nghiên cứu của các nhà khoa học cho thấy hàng tỷ năm trước khí quyển của Sao Kim từng khá giống với khí quyển Trái Đất hơn so với ngày nay, và một số người giả thuyết đã tồn tại nước lỏng trên bề mặt hành tinh, nhưng sau chu kỳ từ 600 triệu đến vài tỷ năm, hiệu ứng nhà kính mất kiểm soát (runaway greenhouse effect) khiến bốc hơi hoàn toàn lượng nước này, và sinh ra lượng khí nhà kính tới mức giới hạn trong bầu khí quyển của nó. Mặc dù những điều kiện vật lý trên hành tinh không còn thích hợp để duy trì những dạng sống nguyên thủy như của Trái Đất nhưng có thể trước đây chúng đã từng tồn tại, và khả năng có những dạng sống bậc thấp tồn tại trong trung tầng và thượng tầng khí quyển vẫn chưa bị bác bỏ. Quán tính nhiệt (thermal inertia) và sự truyền nhiệt bởi gió trong khí quyển gần bề mặt cho thấy nhiệt độ bề mặt Sao Kim không biến đổi lớn giữa phía ngày và đêm, cho dù hành tinh có tốc độ tự quay cực thấp. Tốc độ gió gần bề mặt là thấp, thổi với vận tốc vài kilômét trên giờ, nhưng do mật độ khí quyển gần bề mặt cao, luồng gió tác động một lực lớn lên những chướng ngại vật nó thổi qua, và vận chuyển bụi và đá nhỏ đi khắp bề mặt hành tinh. Chỉ riêng điều này cũng khiến cho con người đi bộ trên bề mặt hành tinh này cũng rất khó khăn, ngay cả khi nhiệt độ, áp suất và sự thiếu hụt ôxy không còn là một vấn đề. Bên trên tầng khí quyển CO2 đậm đặc là những lớp mây chứa chủ yếu SO2 và những giọt axít sunfuric. Những đám mây này phản xạ và tán xạ khoảng 90% ánh sáng Mặt Trời đẩy ngược chúng vào không gian vũ trụ, và ngăn cản các nhà khoa học quan sát bề mặt hành tinh này. Các đám mây vĩnh cửu bao phủ toàn bộ Sao Kim có nghĩa rằng mặc dù Sao Kim gần Mặt Trời hơn so với Trái Đất, bề mặt hành tinh không được chiếu sáng nhiều. Những cơn gió mạnh ở những đám mây trên cao với vận tốc 300 km/h có thể thổi đi vòng quanh hành tinh trong thời gian từ bốn đến năm ngày. Những cơn gió trong khí quyển Sao Kim có tốc độ cao gấp 60 lần tốc độ tự quay của hành tinh này, trong khi đó những cơn gió mạnh nhất trên Trái Đất có tốc độ chỉ bằng 10% đến 20% tốc độ tự quay của nó. Quá trình đẳng nhiệt trong khí quyển Sao Kim rất hữu hiệu; nó duy trì sự không đổi của nhiệt độ khí quyển không những giữa phía ngày và đêm mà còn giữa vùng xích đạo và hai vùng cực. Độ nghiêng trục quay của Sao Kim nhỏ (ít hơn 3 độ, so với 23 độ của Trái Đất) cũng là một nguyên nhân làm sự biến đổi nhiệt độ theo mùa của hành tinh là rất nhỏ. Sự biến đổi rõ rệt của nhiệt độ chỉ xảy ra theo độ cao. Năm 1995, tàu Magellan chụp được ảnh những vùng có độ phản xạ cao tại đỉnh của các ngọn núi cao nhất mà tại những vùng này có phân bố những chất có tính phản xạ như tuyết ở trên Trái Đất. Các nhà khoa học lập luận rằng chất này hình thành trong quá trình tương tự như tuyết, mặc dù trong điều kiện nhiệt độ rất cao. Quá nhiều chất bay hơi ngưng tụ trên gần bề mặt sẽ đẩy khí bay lên và bị lạnh đi hình thành tại những nơi cao hơn, và tại đây chúng lại rơi xuống như mưa. Các nhà khoa học vẫn chưa biết chính xác chất này là gì, nhưng có thể là telua cho tới chì sunfit (galena). Các đám mây trên Sao Kim cũng phóng tia sét nhiều như trên Trái Đất. Sự tồn tại của sét đã gây tranh cãi khi lần đầu tiên tàu Venera của Liên Xô phát hiện ra những chớp sáng này. Năm 2006–07 tàu Venus Express chụp được rõ ràng sóng electron điện từ, dấu hiệu cho thấy có tia sét. Hình ảnh xuất hiện rời rạc của chúng cho thấy những tia sét này đi kèm với hoạt động của thời tiết. Tốc độ tia sét bằng ít nhất một nửa của nó trên Trái Đất. Năm 2007, tàu Venus Express phát hiện ra hai xoáy khí quyển khổng lồ tồn tại ở cực nam hành tinh. Một khám phá khác từ tàu Venus Express trong năm 2011 đó là có một tầng ozone ở trên cao khí quyển của Sao Kim. Ngày 29 tháng 1 năm 2013, các nhà khoa học ESA thông báo tầng điện li của Sao Kim thổi hướng ra ngoài theo cách tương tự như "đuôi các hạt ion phóng ra từ một sao chổi dưới những điều kiện tương tụ." === Từ trường và lõi hành tinh === Năm 1967, tàu Venera-4 phát hiện ra từ trường Sao Kim yếu hơn nhiều so với của Trái Đất. Từ trường này cảm ứng bởi tương tác giữa tầng điện ly và gió Mặt Trời, hơn là bởi chu trình dynamo trong lõi hành tinh giống như từ trường của Trái Đất. Từ quyển cảm ứng nhỏ của Sao Kim không thể bảo vệ bầu khí quyển của nó tránh khỏi sự bắn phá của các tia vũ trụ. Bức xạ này cũng là một trong các nguyên nhân gây ra sự phóng điện tia sét giữa các đám mây. Các nhà khoa học đã ngạc nhiên khi Sao Kim không có từ trường mạnh (từ trường Sao Kim gần như bằng 0) khi nó có cùng kích cỡ với Trái Đất, và họ cũng đã nghĩ nó cũng có một lõi nóng chảy-yếu tố quan trọng trong lý thuyết dynamo. Lý thuyết dynamo có ba yếu tố chính: Đó là phải có một chất lỏng dẫn điện, quay, và chuyển động đối lưu. Lõi hành tinh có khả năng dẫn điện và trong khi hành tinh tự quay rất chậm, các mô phỏng trên máy tính cho thấy nó vẫn đủ để tạo ra sự quay cần thiết trong thuyết dynamo. Từ đây chúng ta có thể thấy dynamo không hoạt động bởi vì không có sự đối lưu trong lõi hành tinh. Trên Trái Đất, sự đối lưu xuất hiện trong lớp vật liệu dạng lỏng phủ bên ngoài lõi có tính đối lưu bởi vì đáy của lớp phủ nóng hơn phía bên trên gần bề mặt. Trên Sao Kim, sự kiện tái tạo bề mặt toàn cầu có thể làm tắt sự kiến tạo mảng và dẫn đến giảm thông lượng nhiệt truyền qua lớp vỏ. Điều này làm nhiệt độ lớp phủ tăng, do đó làm giảm thông lượng nhiệt qua lõi hành tinh. Kết quả là, không có quá trình dynamo địa hành tinh để sinh ra từ trường. Thay vào đó, năng lượng nhiệt từ lõi làm nóng lại lớp vỏ. Các nhà khoa học nêu ra có một khả năng Sao Kim không có lõi cứng bên trong, hoặc hiện tại lõi của nó không còn quá trình tiêu tán nhiệt, do vậy toàn bộ phần vật chất lỏng quay lõi có nhiệt độ xấp xỉ bằng nhau. Một khả năng khác đó là lõi của nó đã hoàn toàn hóa rắn. Trạng thái của lõi phụ thuộc cao vào độ tập trung của lưu huỳnh, mà cho tới nay các nhà khoa học chưa biết được giá trị này. Từ quyển rất yếu bao quanh Sao Kim có nghĩa là gió Mặt Trời tương tác trực tiếp với tầng thượng quyển của hành tinh. Tại đây, các ion hiđrô và ôxy liên tục được sinh ra từ sự phân ly các phân tử trung hòa do tác động của tia tử ngoại. Tiếp đó gió Mặt Trời cung cấp năng lượng đủ lớn giúp cho những ion này có vận tốc đủ để thoát ra khỏi trường hấp dẫn của hành tinh. Sự mất mát này dẫn đến kết quả lượng ion các nguyên tố nhẹ như hiđrô, heli, và ôxy liên tục giảm đi, trong khi các phân tử khối lượng lớn hơn như cacbon điôxít vẫn nằm lại trong khí quyển hành tinh. Sự xói mòn khí quyển hành tinh bởi gió Mặt Trời dẫn đến khí quyển mất đa số lượng nước trong suốt lịch sử hàng tỷ năm của hành tinh này. Quá trình này cũng làm tăng tỷ lệ deuteri so với hiđrô trong tầng thượng quyển cao gấp 150 lần của tỷ số này ở tầng dưới của khí quyển. == Quỹ đạo và sự tự quay == Quỹ đạo Sao Kim quanh Mặt Trời có khoảng cách trung bình bằng 0,72 AU (108.000.000 km; 67.000.000 mi), và hoàn thành một chu kỳ quỹ đạo khoảng 224,65 ngày. Mặc dù mọi hành tinh có quỹ đạo hình elip, quỹ đạo Sao Kim có dạng gần tròn nhất, với độ lệch tâm quỹ đạo nhỏ hơn 0,01. Do Sao Kim nằm giữa Trái Đất và Mặt Trời, có một vị trí của hành tinh đó là giao hội trong, khi đó khoảng cách giữa nó với Trái Đất là khoảng cách ngắn nhất từ Trái Đất đến các hành tinh khác với giá trị 41 triệu km. Trung bình, hai hành tinh đạt đến vị trí giao hội trong khoảng thời gian cách nhau 584 ngày. Do hiện nay độ lệch tâm quỹ đạo của Trái Đất đang giảm dần, khoảng cách cực tiểu này sẽ tăng nhiều hơn trong hàng chục nghìn năm tới. Từ năm 1 tới 5383, đã và sẽ có tổng cộng 526 lần tiếp cận với khoảng cách nhỏ hơn 40 triệu km; sau đó không có một lần nào với khoảng cách nhỏ hơn 40 triệu km trong vòng 60.158 năm. Trong thời gian có độ lệch tâm quỹ đạo lớn hơn, Sao Kim có thể đến gần Trái Đất với khoảng cách bằng 38,2 triệu km. Mọi hành tinh trong Hệ Mặt Trời quay trên quỹ đạo theo chiều ngược chiều kim đồng hồ khi nhìn từ trên cực bắc của Mặt Trời. Hầu hết các hành tinh có chiều tự quay quanh trục của nó theo chiều ngược chiều kim đồng hồ, nhưng Sao Kim lại quay quanh trục cùng chiều kim đồng hồ (gọi là sự quanh nghịch hành) với khoảng thời gian 243 ngày Trái Đất—tốc độ tự quay chậm nhất của mọi hành tinh trong Hệ Mặt Trời. Do vậy một "ngày" (thời gian sao-sidereal day) trên Sao Kim dài hơn một "năm" của Sao Kim (243 ngày so với 224,7 ngày Trái Đất). Tại đường xích đạo Sao Kim tốc độ tự quay của nó bằng bằng 6,5 km/h, trong khi tốc độ quay tại xích đạo của Trái Đất bằng 1.670 km/h. Các nhà khoa học cũng nhận thấy tốc độ tự quay của Sao Kim đã chậm đi 6,5 phút trên một "ngày" Sao Kim kể từ khi tàu Magellan tới hành tinh tháng 10 năm 1990. Bởi vì sự quay nghịch hành, độ dài một ngày Mặt Trời (solar day) trên Sao Kim ngắn hơn nhiều ngày sao (sidereal day), bằng 116,75 ngày Trái Đất (ngày mặt trời của Sao Kim ngắn hơn ngày mặt trời của Sao Thủy bằng 176 ngày Trái Đất); một năm Sao Kim bằng 1,92 ngày mặt trời Sao Kim. Nếu một người có thể đứng trên Sao Kim và bầu khí quyển khá loãng, anh/chị ta sẽ thấy Mặt Trời mọc ở đằng tây và lặn ở đằng đông. Sao Kim có thể đã hình thành từ một đám mây phân tử với chu kỳ quay và độ nghiêng trục quay khác, và nó đạt đến trạng thái hiện tại bởi vì sự thay đổi tốc độ sự tự quay một cách hỗn loạn do nhiễu loạn giữa các hành tinh và hiệu ứng thủy triều tác dụng lên khí quyển dày đặc của nó, sự thay đổi trở thành đáng kể sau thời gian hàng tỷ năm lịch sử. Chu kỳ tự quay của Sao Kim thể hiện trạng thái cân bằng giữa hiện tượng khóa thủy triều do ảnh hưởng hấp dẫn của Mặt Trời, có xu hướng làm chậm sự tự quay của hành tinh, và bởi hiện tượng thủy triều trong khí quyển hành tinh do tác động nhiệt của bức xạ năng lượng Mặt Trời làm nóng bầu khí quyền dày của hành tinh trong quá khứ. Một điểm kỳ lạ giữa chu kỳ quỹ đạo và chu kỳ tự quay của Sao Kim đó là khoảng thời gian trung bình 584 ngày giữa hai lần tiếp cận gần nhau với Trái Đất bằng gần như chính xác 5 ngày mặt trời Sao Kim. Tuy nhiên, giả thuyết cộng hưởng quỹ đạo và sự tự quay của Sao Kim với Trái Đất đã bị bác bỏ. Sao Kim không có vệ tinh tự nhiên, mặc dù tiểu hành tinh 2002 VE68 hiện tại đang có mối liên hệ giả quỹ đạo với hành tinh này. Bên cạnh giả vệ tinh này, nó cũng có hai vật thể cùng quay trên quỹ đạo, 2001 CK32 và 2012 XE133. Trong thế kỷ 17, nhà thiên văn Giovanni Cassini công bố ông đã phát hiện ra một vệ tinh quay quanh Sao Kim, mà ông đặt tên là Neith và đã có nhiều cố gắng quan sát và công bố trong suốt 200 năm sau đó, nhưng đa số những phát hiện kiểu này là do nhầm lẫn vệ tinh giả thuyết với một ngôi sao ở xa khi Sao Kim đến gần nó. Trong một mô hình nghiên cứu của Alex Alemi David Stevenson năm 2006 về Hệ Mặt Trời sơ khai tại Học viện công nghệ California cho thấy Sao Kim có thể đã từng có ít nhất một Mặt Trăng hình thành từ sự va chạm giữa nó và một thiên thể khác hàng tỷ năm trước. Khoảng thời gian 10 triệu năm sau cú va chạm, theo nghiên cứu của họ, một vụ va chạm khác xảy ra làm đảo ngược hướng tự quay của hành tinh và làm cho vệ tinh tự nhiên của Sao Kim dần dần theo thời gian tiến về phía hành tinh và cuối cùng va chạm vào Sao Kim. Nếu cú va chạm sau sinh ra một Mặt Trăng khác, nó cũng sẽ bị rơi và hấp thụ theo như cách của vệ tinh trước. Một phương án giải thích khác, do ảnh hưởng hấp dẫn thủy triều rất mạnh của Mặt Trời dẫn đến sự mất ổn định trong quỹ đạo của vệ tinh quay quanh Sao Kim hoặc Sao Thủy, nên theo thời gian hai hành tinh này hoặc hút và va chạm với vệ tinh hoặc vệ tinh bay thoát khỏi lực hút hấp dẫn của chúng. == Quan sát == Sao Kim luôn luôn sáng hơn bất kỳ một ngôi sao nào ngoài Mặt Trời. Độ sáng lớn nhất của nó, cấp sao biểu kiến có giá trị −4,9, xuất hiện ở pha hình lưỡi liềm khi nó ở gần Trái Đất. Sao Kim mờ dần về cấp sao −3 khi nó ngược sáng so với Mặt Trời. Hành tinh này đủ sáng để có thể nhìn thấy vào buổi trưa khi trời quang đãng vào thời điểm thích hợp, và nó có thể dễ dàng nhìn thấy khi Mặt Trời ở dưới đường chân trời. Là một hành tinh ở phía trong, góc ly giác của nó luôn luôn nằm dưới góc 47° khi nhìn về phía Mặt Trời. Sao Kim "vượt qua" Trái Đất cứ mỗi 584 ngày Trái Đất trên quỹ đạo quanh Mặt Trời. Trong mỗi chu kỳ này, nó thay đổi từ "Sao Hôm", hiện lên sao khi Mặt Trời lặn, thành "Sao Mai", nhìn thấy được trước khi Mặt Trời mọc. Trong khi Sao Thủy, một hành tinh phía trong khác, có góc ly giác cực đại bằng 28° và thường khó quan sát duói ánh sáng lúc chạng vạng, Sao Kim rất dễ nhận ra khi nó ở thời điểm sáng nhất. Góc ly giác của nó lớn hơn có nghĩa là nó ở trên bầu trời tối lâu hơn sau khi Mặt Trời lặn. Là một điểm sáng nhất trên bầu trời đêm, đôi khi người ta nhầm lẫn Sao Kim với những "vật thể bay không xác định". Tổng thống Hoa Kỳ Jimmy Carter đã từng nói ông đã trông thấy một UFO năm 1969, mà sau khi phân tích thì khả năng đó là hình ảnh của Kim Tinh. Và vô số những báo cáo kỳ lạ khác liên quan đến Sao Kim. Khi Sao Kim chuyển động trên quỹ đạo, hình ảnh của nó hiện lên qua kính thiên văn với những pha khác nhau giống như pha Mặt Trăng: Trong pha Sao Kim, hành tinh có hình ảnh tròn "đầy" nhỏ khi Mặt Trời ở giữa tương đối Sao Kim và Trái Đất. Nó có pha phần tư lớn dần khi tiến đến vị trí có góc ly giác lớn nhất tính từ Mặt Trời, và chính là vị trí nó có độ sáng lớn nhất, và hiện lên với hình lưỡi liềm mỏng dần khi quan sát qua thấu kính khi nó tiến về phía gần Trái Đất. Hình ảnh của Sao Kim lớn nhất khi nó ở "pha mới", lúc hành tinh ở giữa Trái Đất và Mặt Trời. Khí quyển của nó có thể nhìn qua kính thiên văn và chúng ta sẽ nhận thấy một vành sáng phản xạ của ánh sáng Mặt Trời trên khí quyển hành tinh. === Sự đi qua của Sao Kim === Mặt phẳng quỹ đạo Sao Kim hơi nghiêng so với của Trái Đất; do vậy khi hành tinh vượt qua giữa Trái Đất và Mặt Trời, nó thường không đi qua đĩa Mặt Trời. Hiện tượng Sao Kim đi qua Mặt Trời xuất hiện khi thời điểm giao hội trong của hành tinh trùng với vị trí có mặt của nó trên mặt phẳng quỹ đạo của Trái Đất. Sự đi qua này có chu kỳ 243 năm trong đó có cặp hiện tượng đi qua cách nhau 8 năm, mỗi cặp hiện tượng này cách nhau khoảng 105,5 năm hoặc 121,5 năm—hiện tượng Sao Kim đi qua Mặt Trời do nhà thiên văn học Jeremiah Horrocks tính toán và phát hiện đầu tiên vào năm 1639. Cặp hiện tượng đi qua gần đây nhất là vào ngày 8 tháng 6 năm 2004 và 5–6 tháng 6 năm 2012. Sự kiện này đã được cộng đồng những người yêu thích thiên văn nghiệp dư cũng như các nhà thiên văn đón nhận và tận dụng cơ hội để quan sát. Cặp trước đó xảy ra vào tháng 12 năm 1874 và tháng 12 năm 1882; trong khi cặp hiện tượng tiếp theo sẽ diễn ra vào tháng 12 năm 2117 và tháng 12 năm 2125. Về mặt lịch sử, sự kiện Sao Kim đi qua Mặt Trời là một hiện tượng hiếm có cho phép các nhà thiên văn học xác định được trực tiếp giá trị của 1 đơn vị thiên văn, và từ đó xác định được kích cỡ của Hệ Mặt Trời như được chỉ ra bởi Horrocks năm 1639. Chuyến thám hiểm của thuyền trưởng Cook đến bờ đông của Australia sau khi ông đã đến Tahiti năm 1768 nhằm quan sát hiện tượng này. === Ánh sáng xám === Có một bí ẩn từ lâu trong khi quan sát Sao Kim đó là hiện tượng ánh sáng xám - một hình ảnh được chiếu sáng yếu của mặt tối hành tinh, khi hành tinh ở pha lưỡi liềm. Lần đầu tiên hiện tượng này được phát hiện đó là vào năm 1643, nhưng sự tồn tại của ánh sáng xanh vẫn chưa được xác nhận một cách tin cậy. Những người quan sát nghĩ rằng hiện tượng này là do những hoạt động có sự tham gia của luồng điện tích trong khí quyển Sao Kim, hoặc nó cũng có thể là một ảo ảnh, một hiệu ứng liên quan đến thị giác khi người quan sát nhìn vào hình ảnh lưỡi liềm của nó. == Nghiên cứu == === Nghiên cứu ban đầu === Người cổ đại đã biết đến Sao Kim với những tên gọi "sao hôm" và "sao mai", phản ánh những hiểu biết ban đầu của họ về sự xuất hiện của hai thiên thể khác nhau. Bản quan sát Sao Kim của Ammisaduqa]], từ năm 1581 trước Công nguyên, cho thấy người Babylon đã hiểu được hai vật thể tách biệt này thực ra là một, và họ coi nó là "nữ hoàng ánh sáng của bầu trời" khi ghi trên bảng, và cho phép hỗ trợ cũng như tiên đoán trong các quan sát sau. Người Hy Lạp cũng từng nghĩ đây là hai thiên thể riêng biệt, sao Phosphorus và sao Hesperus, cho đến khi Pythagoras mới phát hiện ra điều này ở thế kỷ thứ 6 trước Công nguyên. Người La Mã coi sao hôm là Lucifer, hay "Người mang lại ánh sáng", và sao hôm là Vesper. Hiện tượng Sao Kim đi qua Mặt Trời lần đầu tiên được quan sát và ghi chép lại bởi nhà thiên văn Jeremiah Horrocks ngày 4 tháng 12 năm 1639 (24 tháng 11 theo lịch Julius thời đó), cùng với người bạn của ông là William Crabtree, mỗi người quan sát tại nhà riêng của họ. Khi nhà bác học Galileo Galilei lần đầu tiên hướng ống kính quan sát Sao Kim vào năm 1610, ông đã nhận ra hành tinh này cũng có các pha giống như pha Mặt Trăng, hình ảnh của nó biến đổi từ gần tròn cho đến hình lưỡi liềm và ngược lại. Khi Sao Kim ở cách xa Mặt Trời nhất, nó hiện lên là hình nửa hình tròn, và khi nó tiến gần đến Mặt Trời trên nền bầu trời, nó có hình lưỡi liềm và tròn. Điều này chỉ có thể xảy ra khi Sao Kim quay quanh Mặt Trời trên quỹ đạo, và là một trong những quan sát đầu tiên mâu thuẫn với mô hình địa tâm của Ptolemy. Nhà khoa học Mikhail Lomonosov là người đầu tiên phát hiện Sao Kim có khí quyển vào năm 1761. Cho tới năm 1790, khí quyển của hành tinh mới được quan sát rõ ràng bởi nhà thiên văn Johann Schröter. Schröter phát hiện thấy khi hành tinh ở pha lưỡi liềm, hai đỉnh nhọn của cung lưỡi liềm kéo dài hơn 180°. Ông đoán chính xác điều này là do ánh sáng Mặt Trời tán xạ từ khí quyển dày đặc. Sau đó, nhà thiên văn Chester Smith Lyman quan sát thấy một vòng sáng đầy đủ trong pha tối Sao Kim khi nó ở vị trí giao hội trong, cung cấp thêm bằng chứng nữa cho khẳng định trên Sao Kim có khí quyển. Do khí quyển dày đặc nên nhiều nhà thiên văn đã nỗ lực để xác định chu kỳ tự quay của hành tinh, như Giovanni Cassini và Schröter đã tính sai chu kỳ tự quay của nó bằng khoảng 24 giờ khi hai ông dựa trên những đặc điểm sáng từ hình ảnh quan sát hành tinh. === Nghiên cứu thời hiện đại dưới mặt đất === Ít có thêm khám phá về Sao Kim cho đến tận thế kỷ 20. Do khí quyển quá dày nên nó chỉ hiện ra là một cái đĩa tròn hoặc hình lưỡi liềm, và người ta vẫn không biết hình ảnh bề mặt của nó như thế nào. Chỉ đến khi các thiết bị như phổ kế, radar và quan sát qua tia tử ngoại thì các nhà thiên văn mới phát hiện thêm nhiều đặc điểm của hành tinh. Quan sát bằng UV đầu tiên được thực hiện trong thập niên 1920, khi Frank Ross phát hiện thấy sử dụng tia UV các hình ảnh cho nhiều chi tiết hơn khi quan sát bằng ánh sáng khả kiến và hồng ngoại. Ông nêu ra là điều này do khí quyển của hành tinh rất dày đặc, tầng thấp khí quyển màu vàng với những đám mây ti ở trên cao. Quan sát qua phổ kế từ thập niên 1900 đưa ra manh mối đầu tiên về sự tự quay của hành tinh. Vesto Slipher cố gắng đo dịch chuyển Doppler từ ánh sáng phản xạ từ Sao Kim, nhưng ông đã không thể tìm ra hành tinh tự quay. Do vậy ông đoán rằng hành tinh phải có tốc độ tự quay rất chậm so với trước đây người ta từng nghĩ. Những nghiên cứu về sau trong những năm 1950 chỉ ra Sao Kim tự quay nghịch hành. Những quan sát bằng ra đa thực hiện đầu tiên trong những năm 1960 cho những kết quả đầu tiên về tốc độ tự quay của hành tinh và đã rất gần với giá trị chính xác ngày nay. Kết quả từ quan trắc ra đa những năm 1970 lần đầu tiên còn cho những hình ảnh chi tiết về bề mặt Sao Kim. Những xung của sóng vô tuyến được phát lên hành tinh và đo tín hiệu phản hồi lại thu tại kính thiên văn vô tuyến đường kính 300 m ở đài quan sát Arecibo, và các nhà khoa học nhận thấy tiếng vọng ra đa thể hiện khá mạnh ở hai vùng, mà họ đặt là các vùng Alpha và Beta. Sau các phân tích thì những vùng sáng trên ảnh ra đa là các rặng núi, mà họ đặt tên là ngọn Maxwell Montes. Ba đặc điểm duy nhất này trên Sao Kim được đặt tên không thuộc về phái nữ. == Thám hiểm == === Những nỗ lực ban đầu === Phi vụ tàu không gian robot đầu tiên gửi đến Sao Kim và cũng là hành tinh đầu tiên một tàu của con người đến thăm dò, bắt đầu vào ngày 12 tháng 2 năm 1961, với tàu Venera 1 được phóng lên. Con tàu phóng lên thành công trong chương trình Venera theo quỹ đạo trực tiếp nhưng đã mất liên lạc với mặt đất bày ngày sau khi phóng, khi con tàu ở cách Trái Đất 2 triệu km. Các nhà khoa học Nga dự tính nó đi qua Sao Kim ở khoảng cách 100.000 km vào trung tuần tháng 5 năm 1961. Chương trình thám hiểm Sao Kim của Hoa Kỳ cũng khởi đầu bằng thất bại của tàu Mariner một trong lúc phóng. Tàu Mariner 2 thành công hơn khi nó tồn tại được 109 ngày sau khi phóng lên quỹ đạo và ngày 14 tháng 12 năm 1962 nó trở thành phi vụ thám hiểm hành tinh đầu tiên thành công, khi tiếp cận đến Sao Kim ở khoảng cách 34.833 km. Các thiết bị đo bức xạ vi ba và hồng ngoại cho thấy trong khí các đám mây trên cao của khí quyển Sao Kim rất lạnh thì nhiệt độ bề mặt dưới hành tinh rất nóng ít nhất 425 °C, xác nhận những kết quả quan sát trước đó trên Trái Đất và cuối cùng kết thúc mọi hi vọng của nhiều người về tồn tại một sự sống trên hành tinh này. Tàu Mariner 2 cũng gửi về các số liệu khối lượng hành tinh và đơn vị hành tinh, nhưng nó đã không phát hiện thấy bất kỳ sự tồn tại nào của từ trường hành tinh hay vành đai bức xạ. === Rơi vào khí quyển === Tàu Venera 3 của Liên Xô đổ bộ xuống Sao Kim ngày 1 tháng 3 năm 1966. Nó là thiết bị nhân tạo đầu tiên đi vào khí quyển và va chạm xuống bề mặt hành tinh khác, mặc dù hệ thống liên lạc của nó đã bị hỏng và người ta không nhận được một dữ liệu gì của nó gửi về. Ngày 18 tháng 10 năm 1967, Venera 4 đã đi vào khí quyển thành công và thực hiện một số thí nghiệm khoa học. Venera 4 cho thấy tại vị trí nó đi vào khí quyển nhiệt độ đo được cao hơn giá trị mà tàu Mariner 2 trước đo gửi về và Venera 4 đo được 500 °C, bầu khí quyển hành tinh chứa 90 đến 95% cacbon điôxít. Khí quyển Sao Kim dày hơn đáng kể so với giá trị mà những kĩ sư thiết kế Venera 4 sử dụng để tính toán, và nó rơi xuống chậm hơn với dù bung hay lượng điện trong pin tích trữ hết sớm hơn trước khi nó có thể rơi chạm mặt đất. Sau khi gửi dữ liệu trong 93 phút hành trình, giá trị áp suất cuối cùng mà Venera 4 đo được bằng 18 bar tại độ cao 24,96 km so với bề mặt. Đúng 1 ngày sau, 19 tháng 10 năm 1967, Mariner 5 bay qua hành tinh ở khoảng cách 4000 km bên trên các đám mây. Tàu Mariner 5 ban được chế tạo để phóng lên Sao Hỏa-cùng Mariner 4, nhưng khi phi vụ này thành công, những người đứng đầu NASA quyết định sử dụng nó nhằm thám hiểm Sao Kim. Với những thiết bị nhạy hơn tàu Mariner 2, dặc biệt là thiết bị khảo sát sự che khuất tín hiệu vô tuyến, đã gửi dữ liệu về thành phần, áp suất và mật độ khí quyển Sao Kim. Dữ liệu từ sự hợp tác giữa Venera 4 – Mariner 5 đã được phân tích bởi một đội các nhà khoa học Liên Xô và Hoa Kỳ trong những năm sau đó, và thể hiện sự hợp tác nghiên cứu khoa học đa quốc gia trong những năm đầu của kỷ nguyên vũ trụ. Thu được kinh nghiệm từ tàu Venera 4, Liên Xô đã phóng hai tàu giống nhau Venera 5 và Venera 6 cách nhau năm ngày trong tháng 1 năm 1969; chúng đi vào khí quyển Kim Tinh các ngày 16 và 17 tháng 5 trong cùng năm. Lớp bảo vệ tàu và thiết bị khoa học đã được gia cường để tăng khả năng chịu áp suất lên tới 25 bar và hai tàu được trang bị dù nhỏ hơn cho phép chúng rơi nhanh hơn. Do ngày nay chúng ta ước tính khí quyển Sao Kim có áp suất bề mặt từ 75 đến 100 bar, cho lên hai tàu đã không còn hoạt động khi tiếp đất. Sau khi gửi về 50 phút dữ liệu khí quyển, cả hai đã bị bẹp nát ở độ cao xấp xỉ 20 km trước khi kịp chạm đất ở phía mặt tối của Sao Kim. === Nghiên cứu bề mặt và khí quyển === Các kĩ sư Liên Xô tiếp tục tham vọng đổ bộ thành công lên bề mặt với Venera 7 và thu được dữ liệu từ bề mặt. Con tàu được lắp ráp với mô đun kiên cố có khả năng chịu được áp suất tới 180 bar. Mô đun này được làm lạnh trước khi con tàu Venera 7 đi vào khí quyển và nó được trang bị dù cánh buồm cho phép thời gian rơi dự kiến của tàu là 35 phút. Trong khi đi vào khí quyển ngày 15 tháng 12 năm 1970, các kĩ sư tin rằng dù này đã bị rách một phần, và con tàu đã va chạm mạnh xuống bề mặt, tuy không bị phá hủy hoàn toàn. Nó vẫn gửi được tín hiệu yếu về Trái Đất và tồn tại trong khoảng 23 phút, và đây là lần đầu tiên tín hiệu vô tuyến nhận được từ bề mặt một hành tinh khác. Chương trình Venera tiếp tục với phi vụ Venera 8 khi nó gửi được dữ liệu từ thời điểm chạm đất trong khoảng 50 phút, sau khi đi vào khí quyển ngày 22 tháng 7 năm 1972. Venera 9, đi vào khí quyển ngày 22 tháng 10 năm 1975, và ba ngày sau 25 tháng 10 tàu Venera 10, gửi những hình ảnh đầu tiên về quang cảnh Sao Kim. Hai vị trí đổ bộ có địa hình khác nhau xung quanh hai tàu: Venera 9 rơi xuống một sườn dốc 20 độ với những tảng đá đường kính 30–40 cm nằm rải rác xung quanh; Venera 10 rơi trên phiến đá phẳng kiểu bazan bao quanh bởi đất đá bị phong hóa. Trong thời gian này, Hoa Kỳ đã gửi tàu Mariner 10 có quỹ đạo bay qua Sao Kim nhằm lợi dụng hỗ trợ hấp dẫn để đến Sao Thủy. Ngày 5 tháng 2 năm 1974, Mariner 10 đi qua hành tinh ở khoảng cách 5790 km, và gửi về trung tâm điều khiển hơn 4.000 bức ảnh. Các bức ảnh với chất lượng tốt nhất từ trước đó, cho thấy hành tinh hiện lên không có gì nổi bật dưới ánh sáng khả kiến, nhưng qua bước sóng tử ngoại các nhà khoa học có thể nhận ra các đám mây mà chưa từng được quan sát từ các đài quan trắc trên Trái Đất. Dự án Pioneer Venus bao gồm hai phi vụ riêng. Tàu quỹ đạo Pioneer Venus Orbiter đi vào quỹ đạo elip quanh Sao Kim ngày 4 tháng 12 năm 1978, và tồn tại ở đó trong 13 năm, nó nghiên cứu khí quyển và chụp ảnh bề mặt bằng sóng ra đa. Tàu Pioneer Venus Multiprobe thả ra tổng cộng 4 thiết bị thăm dò đi xuống khí quyển Sao Kim ngày 9 tháng 12 năm 1978, và chúng đã gửi dữ liệu về thành phần, sức gió và thông lượng nhiệt trong khí quyển hành tinh. Có thêm bốn phi vụ đổ bộ nữa diễn ra trong bốn năm tiếp theo, mà các tàu Venera 11 và Venera 12 phát hiện ra những cơn bão điện tích trong khí quyển; và Venera 13 và Venera 14, đổ bộ cách nhau bốn ngày 1 và 5 tháng 3 năm 1982, gửi về những bức ảnh màu đầu tiên về bề mặt hành tinh. Cả bốn phi vụ đều sử dụng dù bung để hãm tàu rơi trong khí quyển, nhưng sau đó thả chúng ra tại độ cao 50 km, nơi khí quyển có mật độ dày đặc hơn và cho phép các tàu chạm đất nhẹ nhàng dựa vào ma sát với không khí mà không cần sự hỗ trợ của dù. Cả Venera 13 và 14 đều thực hiện nhiệm vụ phân tích mẫu đất bằng phổ kế huỳnh quang tia X gắn trên tàu, cũng như đo tính nén của đất nơi chúng đổ bộ bằng một thiết bị va chạm. Venera 14 bị hỏng lắp chụp camera và thiết bị của nó không thể tiếp xúc với đất được. Chương trình Venera kết thúc vào tháng 10 năm 1983, khi Venera 15 và Venera 16 đi vào quỹ đạo quanh Sao Kim nhằm vẽ bản đồ địa hình hành tinh thông qua phương pháp tổng hợp tín hiệu ra đa. Năm 1985, Liên Xô đã kết hợp nhiệm vụ thám hiểm Sao Kim với thăm dò sao chổi Halley, sao chổi đi vào vùng bên trong Hệ Mặt Trời năm đó. Trên đường đến sao chổi Halley, ngày 11 và 15 tháng 6 năm 1985, hai tàu không gian của chương trình Vega mỗi tàu đã thả một thiết bị thăm dò từng thiết kế trong chương trình Venera và giải phóng một robot bay trong khí quyển nhờ khí cầu. Robot khí cầu này hoạt động trên độ cao khoảng 53 km, nơi áp suất và nhiệt độ tương đương trên bề mặt Trái Đất. Hai robot đã hoạt động trong khoảng 46 giờ, và khám phá ra khí quyển Sao Kim hỗn loạn hơn rất nhiều so với trước đó từng nghĩ, với những luồng gió mạnh và những ô đối lưu khí quyển mạnh. === Vẽ bản đồ bằng ra đa === Những nghiên cứu bằng tín hiệu ra đa từ Trái Đất đã cung cấp những hình ảnh cơ bản về bề mặt hành tinh này. Các tàu Pioneer Venus và Venera cũng đã gửi về những bức ảnh có độ phân giải cao hơn. Tàu không gian Magellan của Hoa Kỳ phóng lên ngày 4 tháng 5 năm 1989, với mục đích thu được hình ảnh bề mặt Sao Kim bằng phương pháp ảnh ra đa. Con tàu đã gửi những bức ảnh phân giải cao trong suốt 4,5 năm hoạt động với lượng dữ liệu gửi về vượt qua tất cả các phi vụ thám hiểm hành tinh này trước đó. Magellan chụp được hơn 98% diện tích bề mặt bằng ra đa, và vẽ ra 95% bản đồ phân bố khối lượng trong hành tinh bằng cách đo tác dụng của trường hấp dẫn lên con tàu. Năm 1994, thời điểm kết thúc của phi vụ, các kĩ sư đã gửi Magellan rơi vào khí quyển Sao Kim nhằm đánh giá mật độ khí quyển hành tinh. Sao Kim cũng đã được chụp ảnh từ các tàu Galileo và Cassini trong thời gian chúng bay qua hành tinh để đến lần lượt Sao Mộc và Sao Thổ, nhưng tàu Magellan là phi vụ cuối cùng của thể kỷ nhằm để nghiên cứu riêng Sao Kim. === Những phi vụ hiện tại và tương lai === Tàu không gian MESSENGER của NASA trên đường đến Sao Thủy đã hai lần thực hiện bay qua Sao Kim vào tháng 10 năm 2006 và tháng 6 năm 2007, nhằm giảm vận tốc trên quỹ đạo để nó có thể bị bắt bởi Sao Thủy khi đi vào quỹ đạo hành tinh này tháng 3 năm 2011. MESSENGER cũng đã thu thập và gửi về một số dữ liệu. Tàu Venus Express được thiết kế và chế tạo bởi ESA, phóng lên ngày 9 tháng 11 năm 2005 bằng tên lửa Soyuz-Fregat của Nga thông qua công ty sở hữu chung của Nga và ESA là "Starsem", nó đã đi vào quỹ đạo cực quanh Sao Kim ngày 11 tháng 4 năm 2006. Nhiệm vụ của con tàu là nghiên cứu chi tiết khí quyển cũng như các đám mây, bao gồm lập ra bản đồ môi trường plasma bao quanh và các đặc điểm bề mặt hành tinh, đặc biệt là nhiệt độ. Một trong những khám phá của Venus Express hai xoáy khí quyển khổng lồ tồn tại trong khí quyển ở cực nam Sao Kim. Cơ quan nghiên cứu và phát triển hàng không vũ trụ Nhật Bản (JAXA) đã thiết kế và chế tạo một tàu quỹ đạo, Akatsuki (tên gọi cũ "Hành tinh-C"), phóng lên ngày 20 tháng 5 năm 2010, nhưng nó đã thất bại khi không đi vào quỹ đạo Sao Kim tháng 12 năm 2010. Hy vọng vẫn còn khi các kĩ sư đặt con tàu vào chế độ đóng băng và họ cố gắng thử đưa tàu vào quỹ đạo một lần nữa vào năm 2016. Nhiệm vụ nghiên cứu của nó bao gồm chụp ảnh bề mặt bằng một camera hồng ngoại và phát hiện ra tia sét trong khí quyển, cũng như phát hiện ra những núi lửa còn khả năng hoạt động. Cơ quan ESA đang triển khai kế hoạch phóng một tàu quỹ đạo lên Sao Thủy năm 2014, tàu BepiColombo, và nó sẽ thực hiện hai lần bay qua Sao Kim trước khi đi vào quỹ đạo Sao Thủy năm 2020. Trong Chương trình New Frontiers, NASA đề xuất một phi vụ đổ bộ "Venus In-Situ Explorer" nhằm nghiên cứu điều kiện bề mặt và khảo sát khoáng chất của regolith. Robot sẽ được trang bị một máy khoan lấy mẫu để nghiên cứu đất và những mẫu đá chưa bị phong hóa dưới điều kiện khắc nghiệt tại bề mặt hành tinh. Một phi vụ khác nhằm nghiên cứu bề mặt và khí quyển, "Surface and Atmosphere Geochemical Explorer" (SAGE), là một ứng cử viên trong New Frontiers năm 2009, nhưng nó đã không được lựa chọn để triển khai. Vệ tinh Venera-D (tiếng Nga: Венера-Д) do cơ quan hàng không không gian Nga thiết kế có thể được phóng lên trong năm 2016, với nhiệm vụ nghiên cứu môi trường bao quanh Sao Kim cũng như thả một thiết bị đổ bộ, dựa trên thiết kế cũ của chương trình Venera, với mục tiêu tồn tại lâu trên bề mặt hành tinh. Những đề xuất nghiên cứu thăm dò Sao Kim khác bao gồm các robot tự hành, khí cầu, và máy bay trong khí quyển. === Ý tưởng về chuyến bay có người lái === Một phi vụ có người lái đến Sao Kim, sử dụng các con tàu và tên lửa có từ chương trình Apollo, đã được đề xuất cuối những năm 1960. Kế hoạch của chương trình là phóng tên lửa đưa người lên vào tháng 10 hoặc tháng 11 của năm 1973, và sử dụng tên lửa Saturn V để đưa ba phi hành gia đến Sao Kim trong khoảng thời gian 1 năm. Con tàu sẽ bay qua bề mặt Sao Kim ở khoảng cách 5.000 kilômét trong khoảng bốn tháng trước khi quay trở lại Trái Đất. Tuy nhiên ý tưởng đã bị hủy bỏ vì có quá nhiều khó khăn về mặt kỹ thuật và tài chính. === Thời gian các phi vụ thám hiểm === Dưới đây là danh sách các phi vụ tàu không gian tới thám hiểm trực tiếp hoặc là thực hiện bay qua Sao Kim. Sao Kim cũng được chụp bởi Hubble, và những kính thiên văn khác cũng đã thu thập dữ liệu về hành tinh qua các dải bước sóng khác nhau. == Trong văn hóa == Theo hệ thống đặt tên hành tinh của IAU, Sao Kim là hành tinh duy nhất trong Hệ Mặt Trời đặt tên theo hình ảnh của phái nữ. Ba hành tinh lùn;– Ceres, Eris và Haumea – cùng với những tiểu hành tinh đầu tiên được phát hiện ra và một số vệ tinh (như các vệ tinh Galilei) cũng mang tên giống cái/phái nữ. Trái Đất và Mặt Trăng cũng có tên phái nữ trong nhiều ngôn ngữ—Gaia/Terra, Selene/Luna— nhưng tên gọi của các vị thần nữ trong thần thoại dùng để đặc cho một thiên thể, chứ không phải họ được đặt tên theo thiên thể đó. === Biểu tượng Sao Kim === Ký hiệu thiên văn học cho Sao Kim giống như ký hiệu sử dụng trong sinh học cho giống cái: một hình tròn với chữ thập ở bên dưới. Biểu tượng của Sao Kim cũng thể hiện sự yếu đuối, và các nhà giả kim phương Tây trung đại còn dùng ký hiệu này cho kim loại đồng. Đồng được đánh bóng cũng được sử dụng làm gương soi ở thời cổ đại, và biểu tượng Sao Kim đôi khi còn được hiểu là chiếc gương soi của các vị thần. === Trong văn hóa === Là một trong những thiên thể sáng nhất trên bầu trời, Sao Kim đã được con người biết đến từ lâu và nó có vị trí vững chắc trong tư tưởng văn hóa xuyên suốt lịch sử loài người. Nó được miêu tả trong các văn bản của người Babylon như Bảng Sao Kim của Ammisaduqa, văn bản này liên quan đến những quan sát về ngôi sao này có thể vào thời điểm năm 1600 TCN. Những người Babylon đặt tên cho nó là Ishtar (thần Inanna của người Sumer), là hiện thân của phái nữ, và nữ thần tình yêu. Bà còn là nữ thần chiến tranh, đại diện cho vị thần trông coi sinh và tử. Người Ai Cập cổ đại tin rằng có hai thiên thể khác nhau và gọi nó là Tioumoutiri khi nó xuất hiện vào buổi sáng (trong tiếng Việt là sao Mai) và khi xuất hiện vào buổi tối gọi là Ouaiti (sao Hôm). Tương tự người Hy Lạp cũng tin rằng Sao Kim cũng gọi là sao Mai Φωσφόρος, Phosphoros (Latin hóa Phosphorus), "Bringer of Light" Ἐωσφόρος, Eosphoros (Latin hóa Eosphorus), "Bringer of Dawn". Sao vào buổi tối được gọi là Hesperos (Latin hóa Hesperus) (Ἓσπερος, "sao hôm"). Người Hy Lạp cổ đại đã nhận ra rằng, hai thiên thể này thực chất là một hành tinh, được đặt theo tên nữ thần tình yêu của họ là Aphrodite (Αφροδίτη) (thần Astarte của Phoenicia), tên hành tinh được giữ lại trong tiếng Hy Lạp hiện đại. Người La Mã cổ đại có xuất phát tôn giáo phần lớn từ Hy Lạp đã đặt tên cho hành tinh theo Venus, một vị thần tình yêu của họ. Gaius Plinius Secundus (Natural History, ii,37) đã xác định Sao Thủy với Isis. === Xâm lược thuộc địa === Do những điều kiện vật lý khắc nghiệt, việc xâm lược lên bề mặt Sao Kim là không thể đối với công nghệ hiện nay. Tuy nhiên, ở độ cao xấp xỉ 50 kilômét áp suất khí quyển và nhiệt độ tại đó gần bằng so với tại bề mặt Trái Đất với ôxy và nitơ được thay bằng CO2. Do vậy có người đề xuất xây dựng "những thành phố nổi" trên khí quyển Sao Kim. Những khí cầu Aerostat có thể được sử dụng nhằm thám hiểm và cuối cùng dừng để nâng đỡ các thành phố nổi này. Những khó khăn về mặt kỹ thuật đó là có quá nhiều axít sunfuric hay thiếu ôxy tại những độ cao này. Ngoài ra còn có sự nhiễu động mạnh của bầu khí quyển cũng như tác động của tia vũ trụ khi hành tinh không có từ quyển bao quanh. == Ảnh == == Xem thêm == 2001 CK32 2002 VE68 2012 XE133 == Tham khảo == == Liên kết ngoài == (tiếng Anh) Venus Profile at NASA's Solar System Exploration site Missions to Venus (Hosted by NASA) Gallery of Venus exploration images (Hosted by NASA) Sao Kim tại Encyclopædia Britannica (tiếng Anh) The Soviet Exploration of Venus, Image catalog Venus page at The Nine Planets NASA page about the Venera missions Magellan mission home page Pioneer Venus information from NASA NASA - 2004 and 2012 Transits of Venus 18-21/6/2002 lưu 6/8/2002 Geody Venus, a search engine for surface features Maps of Venus in NASA World Wind Chasing Venus, Observing the Transits of Venus Smithsonian Institution Libraries Venus Crater Database Lunar and Planetary Institute Calculate/show the current phase of Venus: Apparent Disk of Solar System Object (U.S. Naval Observatory) 06 tháng 12 năm 2012 16:19 lưu 22/9/2007 Venus Astronomy Cast episode No. 50, includes full transcript. Thorsten Dambeck: The Blazing Hell Behind the Veil, MaxPlanckResearch, 4/2009, p. 26–33 === Bản đồ === PDS Map-a-Planet Venus Nomenclature Gazeteer of Planetary Nomenclature – Venus (USGS) Map of Venus Movie of Venus at National Oceanic and Atmospheric Administration (tiếng Việt) Kim Tinh tại Từ điển bách khoa Việt Nam Sao Kim hé mở "dung nhan" VnExpress 15/5/2001 (Theo Sciences & Avenir) Tại sao Sao Kim quay ngược chiều? VnExpress 15/6/2001 (Theo Nature, 15/6) Lần đầu tiên chụp được ảnh Sao Kim bằng tia X Minh Hy VnExpress 1/12/2001 (theo dpa) Châu Âu lật lại sứ mệnh thám hiểm Sao Kim B.H., VnExpress, theo CNN, 18/7/2002 Có thể có sự sống trên những đám mây Sao Kim 27/05/2004, Anh Quý, báo Tuổi Trẻ Giả thiết về sự sống trên Sao Kim: Sao Kim từng có sự sống trong vòng 2 tỷ năm? B.H. VnExpress 9/9/2003 (theo NewScientist) Chuẩn bị đón sự kiện thiên văn hiếm gặp: Sao Kim đi qua giữa mặt trời và Trái Đất B.H. VnExpress 12/5/2004 (theo Reuters) Sao Kim không phải là Vệ Nữ, mà là... địa ngục Thể thao Văn hóa (theo BBC) 26/10/2005 Tàu thăm dò chạm trán Sao Kim T. An, VnExpress, (theo BBC), 12/4/2006 Sao Kim giống Trái Đất hơn người ta tưởng T. An (theo SPACE.com)
đại học new south wales.txt
Viện Đại học New South Wales hay Đại học New South Wales (tiếng Anh: University of New South Wales, còn được biết đến qua các tên UNSW hay New South) là một viện đại học ở khu Kensington, một vùng phía đông thành phố Sydney, New South Wales, Úc Đại Lợi. Thành lập năm 1949, ngày nay UNSW được công nhận là một trong những trường và viện đại học hàng đầu trong việc nghiên cứu và giảng dạy ở Úc, và đã phát triển danh tiếng trong nhiều ngành bao gồm tái sinh năng lượng, lượng tử điện toán và công nghệ nano(công nghệ siêu vi), công nghệ thông tin, truyền thông kỹ thuật số, điện tử, kỹ thuật y sinh, khả trì phát triển, nghiên cứu HIV/AIDS(bệnh liệt kháng), bình đẳng xã hội và các nghiên cứu về khoa học xã hội. == Chú thích == == Tham khảo == Willis, A.H. (1983). The University of New South Wales: The Baxter Years. ISBN 0-86840-057-2. == Liên kết ngoài == University website Source UNSW Student Guild UNSW Sports Association COFA Students Association Campus map Audit report on the University of New South Wales More on the Atomic Fabrication Facility (AFF), the National Magnet Laboratory (NML) and the Semiconductor Nanofabrication Facility (SNF) Google Maps satellite image of the Kensington Campus Google Maps satellite image of the Canberra Campus
barcelona open banco sabadell 2017 - đơn.txt
Rafael Nadal là đương kim vô địch và đã thành công bảo vệ chức vô địch của mình, đánh bại Dominic Thiem ở trận chung kết, 6–4, 6–1. == Hạt giống == Tất cả hạt giông đặc cách vào vòng hai. Nhấn vào số hạt giống của cặp vận động viên để tới phần thi đấu của họ. == Draw == === Chú giải === === Chung kết === === Nửa trên === ==== Bảng 1 ==== ==== Bảng 2 ==== === Nửa dưới === ==== Bảng 3 ==== ==== Bảng 4 ==== == Qualifying == === Hạt giống === === Vòng loại === === Người thua cuộc may mắn === == Tham khảo == Main Draw Qualifying Draw
văn học.txt
Văn học là một loại hình sáng tác, tái hiện những vấn đề của đời sống xã hội và con người. Phương thức sáng tạo của văn học được thông qua sự hư cấu, cách thể hiện nội dung các đề tài được biểu hiện qua ngôn ngữ. Khái niệm văn học đôi khi có nghĩa tương tự như khái niệm văn chương và thường bị dùng lẫn lộn. Tuy nhiên, về mặt tổng quát, khái niệm văn học thường có nghĩa rộng hơn khái niệm văn chương, văn chương thường chỉ nhấn mạnh vào tính thẩm mĩ, sự sáng tạo của văn học về phương diện ngôn ngữ, nghệ thuật ngôn từ. Văn chương dùng ngôn từ làm chất liệu để xây dựng hình tượng, phản ánh và biểu hiện đời sống. Văn học có các thể loại khác nhau như: tiểu thuyết, truyện ngắn, thơ, Từ, kịch bản, lý luận phê bình. == Đặc trưng văn học == Đặc trưng đối tượng và nội dung của văn nghệ Đặc trưng của tư duy nghệ thuật Cấu trúc chỉnh thể của hình tượng nghệ thuật == Tác phẩm văn học == === Các khái niệm chung === Đề tài: khái niệm chỉ loại các hiện tượng đời sống được miêu tả, phản ánh trực tiếp trong sáng tác văn học. Đề tài là phương diện khách quan của nội dung tác phẩm. Chủ đề: Vấn đề cơ bản, vấn đề trung tâm được tác giả nêu lên, đặt ra qua nội dung cụ thể của tác phẩm văn học. Tư tưởng tác phẩm văn học: Nhận thức, lý giải và thái độ đối với toàn bộ nội dung cụ thể sống động của tác phẩm văn học, cũng như những vấn đề nhân sinh đặt ra ở trong đó. Nhân vật văn học: Con người cụ thể được miêu tả trong tác phẩm văn học. Nhân vật văn học có thể có tên riêng hoặc không có tên riêng. Khái niệm nhân vật văn học có khi được sử dụng như một ẩn dụ, không chỉ một con người cụ thể nào cả, mà chỉ một hiện tượng nổi bật náo đó trong tác phẩm. Chẳng hạn có thể nói: nhân dân là nhân vật chính trong "Đất nước đứng lên" của Nguyên Ngọc. Kết cấu: là toàn bộ tổ chức phức tạp và sinh động của tác phẩm. Cần phân biệt bố cục và kết cấu của tác phẩm. Thuật ngữ bố cục nhằm chỉ sự sắp xếp, phân bố các chương đoạn, các bộ phận của tác phẩm theo một trình tự nhất định. Thuật ngữ kết cấu thể hiện một nôi dung rộng rãi phức tạp hơn. Tổ chức tác phẩm không chỉ giới hạn ở sự tiếp nối bề mặt, ở những tương quan bên ngoài giữa các bộ phận, chương đoạn mà còn bao hàm sự liên kết bên trong, nghệ thuật kiến trúc nội dung cụ thể của tác phẩm. Bố cục là một phương diện của kết cấu. Ngôn từ nghệ thuật: === Thể loại văn học === ==== Trữ tình ==== Thơ: là một loại hình nghệ thuật dùng từ, dùng chữ trong ngôn ngữ làm chất liệu, và sự chọn lọc từ cũng như tổ hợp của chúng được sắp xếp dưới một hình thức lôgíc nhất định tạo nên hình ảnh hay gợi cảm âm thanh có tính thẩm mỹ cho người đọc, người nghe. Thơ là loại sáng tác văn học có vần điệu, có đặc điểm ngắn gọn, súc tích, nhiều ý cô đọng, tuân theo các quy luật các quy luật nhất định. Thơ thường dùng như một hình thức biểu tả cảm xúc trữ tình, hoặc tình cảm xúc động trước một hiện tượng xảy ra trong cuộc sống, như khi người ta đứng trước một phong cảnh ngoạn mục, hoặc đứng trước một thảm cảnh. Ca dao. Từ khúc Truyện thơ Trường ca Thơ trường thiên ==== Tác phẩm tự sự ==== Truyện vừa Truyện ngắn và truyện cực ngắn Sử thi Ngụ ngôn ==== Kịch bản văn học ==== Bi kịch Hài kịch Kịch tự sự ==== Loại thể khác ==== Ký Văn chính luận Từ (thể loại văn học) == Trào lưu, trường phái == Khi nghiên cứu về văn học, người ta cũng phân chia văn học theo các dòng, các trường phái khác nhau: Văn học hiện thực, Văn học lãng mạn, Văn học cổ điển, Văn học dân gian, Văn học hiện đại, Văn học mới, văn học hậu hiện đại, Văn học phương Đông, Văn học phương Tây, Văn học Trung Quốc, Văn học Nga, Văn học Việt Nam, Văn học Pháp. Văn học Nhật == Xem thêm == == Tham khảo == == Liên kết ngoài ==
tưởng giới thạch.txt
Tưởng Trung Chính (giản thể: 蒋中正; phồn thể: 蔣中正; 31 tháng 10 năm 1887 - 5 tháng 4 năm 1975), tên chữ Giới Thạch (介石) nên còn gọi là Tưởng Giới Thạch, tên ban đầu Thụy Nguyên (瑞元) là nhà chính trị và nhà quân sự nổi tiếng trong lịch sử Trung Quốc cận đại. Ông sinh tại Ninh Ba, Chiết Giang, mất tại Đài Bắc, đảo Đài Loan. Thời trẻ ông sang Nhật Bản học tập quân sự, đồng thời gia nhập Trung Quốc Đồng minh hội. Tưởng Giới Thạch đầu tiên tham gia phản kháng triều đình Thanh, sau đó là Quân phiệt hỗn chiến, tiếp đến là kháng cự chủ nghĩa đế quốc Nhật Bản xâm nhập. Tưởng Giới Thạch từng giữ các chức vụ Tham mưu trưởng phủ Đại nguyên soái, Tham mưu trưởng Đại bản doanh, Hiệu trưởng Trường sĩ quan lục quân (Trường quân sự Hoàng Phố), Tổng tư lệnh Quốc dân Cách mệnh Quân, Viện trưởng Hành chính viện, Ủy viên trưởng Ủy ban Quân sự Chính phủ Quốc dân, Tổng tài Quốc dân Đảng Trung Quốc, Chủ tịch Chính phủ Quốc dân, đoàn trưởng Đoàn Thanh niên Tam Dân chủ nghĩa, thống soái tối cao chiến khu Trung-Miến của Đồng Minh trong Chiến tranh thế giới thứ hai, Tổng thống Trung Hoa Dân Quốc. Tưởng Giới Thạch thống trị Trung Quốc đại lục trong gần 22 năm, đến khi Đảng Cộng sản Trung Quốc lập chính phủ vào năm 1949. Ông liên tục nhậm chức tổng thống từ nhiệm kỳ 1 đến nhiệm kỳ 5, đồng thời liên tục được bầu làm Tổng tài Quốc dân Đảng Trung Quốc. Ngày 1 tháng 3 năm 1950, Tưởng Giới Thạch tuyên bố tái nhậm chức Tổng thống Trung Hoa Dân Quốc tại Đài Loan, giữ chức vụ này cho đến khi mất vào năm 1975. == Danh hiệu và xưng hô == == Thời kỳ thanh thiếu niên == === Thiếu thời === Tưởng Giới Thạch sinh vào giờ Ngọ ngày 15 tháng 9 năm Quang Tự thứ 39 (tức ngày 31 tháng 10 năm 1887) tại hiệu muối Ngọc Thái, trấn Khê Khẩu, huyện Phụng Hóa, tỉnh Chiết Giang . Tự nhận rằng "trẻ tính ngu dại, chẳng chịu trói buộc". Năm 1893, Tưởng Giới Thạch lúc này đã kha khá mở mang tri thức, thích múa nghịch dao gậy, gọi con nhà hàng xóm đến chơi trò chiến đấu, tự mình làm đại tướng chỉ huy, lên bục kể chuyện xưa, lấy đó làm niềm vui. Năm 1892, Tưởng Giới Thạch bắt đầu theo học tại trường tư; lần lượt đọc "Đại Học", "Trung Dung", "Luận ngữ", "Mạnh Tử", "Lễ ký". Từ năm 1896, lần lượt đọc "Hiếu Kinh", "Xuân Thu", "Tả truyện", "Thi kinh", "Thượng thư", "Dịch Kinh". Thời kỳ thanh niên và trung niên, Tưởng đã đọc qua một số sách báo cận đại. Khi Tưởng Giới Thạch học tập giáo lý Trung Quốc học, việc tiếp nhận tri thức hiện đại là rất ít; hiển nhiên không thể nói Tưởng Giới Thạch vào thời thanh thiên thiếu hoàn toàn không cảm nhận được ảnh hưởng của tư tưởng mới; thông qua ảnh hưởng của báo chí và tin tức khác, Tưởng Giới Thạch trù tính tìm cách đi ra thế giới bên ngoài Năm 1901, ông kết hôn với người vợ đầu Mao Phúc Mai 毛福梅; năm 1902, ông tham gia "đồng tử thí", thấy trường thi có quy tắc dung tục và vô giá trị; năm 1903, Tưởng Giới Thạch lên huyện lỵ, theo học tại Học đường Phụng Lộc, tiếp nhận giáo dục kiểu mới; tháng 1 năm 1906, Tưởng Giới Thạch lại đến huyện lị, theo học tại Học đường Long Tân. Học đường Phụng Lộc và Học Đường Long Tân là hai trường mới thành lập tại Phụng Hóa, học đường mở các môn học mới như Anh văn, toán học, song trọng tâm giáo dục vẫn là cựu học kinh sử. Giáo viên Anh văn từng dạy Tưởng Giới Thạch tại Học đường Long Tân nhớ lại, Tưởng Giới Thạch để lại cho mình ấn tượng khó quên, rằng ông háo hức với báo chí xuất bản tại Thượng Hải === Tham gia quân đội === Tháng 3 năm 1906, Tưởng Giới Thạch quyết chí tham gia cách mạng, tự cắt đuôi sam, nhờ bạn báo tin cho gia đình để thể hiện quyết tâm; tháng 4, ông sang Nhật Bản, theo học tại Trường Thanh Hoa Tokyo, tại đó quen biết Trần Kỳ Mỹ. Tưởng Giới Thạch không giống với rất nhiều người đương thời là chọn các ngành liên quan đến phát triển xã hội như khoa học-công nghệ và giáo dục, song lựa chọn đó và con người văn hóa truyền thống Trung Quốc như ông lại không thích hợp với nhau. Tưởng Giới Thạch có ý định học trường quân sự, song do Hiệp nghị Nhật-Thanh, ông không phải là người được chính phủ Thanh chính thức cử đi, sau khi đến Nhật Bản, do không có công phí lưu học nên không được vào trường quân sự. Mùa đông năm 1906, Tưởng Giới Thạch trở về Trung Quốc; đến mùa hè năm 1907, Tưởng Giới Thạch đến Bảo Định, theo học Trường cấp tốc Lục quân Toàn quốc Bộ Lục quân (陸軍部陸軍速成學堂); cuối năm đó tham gia thi để sang Nhật Bản học quân sự và được tuyển; năm 1908, Tưởng Giới Thạch lại sang Nhật Bản, theo học tại Trường Shinbu Tokyo; nghỉ hè về nước thăm thân; do được Trần Kỳ Mỹ giới thiệu, ông gia nhập Đồng Minh hội. Năm 1909, Tưởng Giới Thạch lần đầu gặp Tôn Trung Sơn, đàm luận quốc sự. Năm 1910, Tưởng Giới Thạch tốt nghiệp Trường Shinbu Tokyo, trở thành học sinh sĩ quan dự bị tại Liên đội Pháo dã chiến số 19 thuộc Sư đoàn 13 Lục quân Takata。. Chương trình học chủ yếu là môn học quân sự và tiếng Nhật; giáo dục quân sự hóa cao độ khiến cho Tưởng Giới Thạch có tư duy quân sự hóa mãnh liệt. Doanh trại thực tập đặt tại địa bàn nay thuộc Jōetsu, Niigata, quân hàm thực tập sinh là "nhị đẳng binh", về sau được thăng làm "thượng đẳng binh". Trong quá trình học, Tưởng Giới Thạch tiếp xúc với tác phong quân phiệt Nhật Bản; sau khi ông nắm đại quyền, yêu cầu cấp dưới đối với mình "phục tùng cần đến mức độ mù quáng, tin phục cần đến mức độ mê tín". === Tham gia cách mạng === Tháng 10 năm 1911, sau khi tin tức về Khởi nghĩa Vũ Xương được truyền đến Nhật Bản, Tưởng Giới Thạch liền lên thuyền từ Nagasaki về Trung Quốc; ngày 30 tháng 10 thuyền đến Thượng Hải, ngày 3 tháng 11, Trần Kỳ Mỹ chiếm được Thượng Hải, đồng thời tập hợp lực lượng nhằm công chiếm Nam Kinh, Tưởng Giới Thạch tham gia các hoạt động này, được Trần Kỳ Mỹ đánh giá cao và thăng cho làm sĩ quan chỉ huy đội tiên phong đánh Chiết Giang; Tưởng Giới Thạch thuộc sư đoàn số hai, sư đoàn trưởng là Hoàng Phu, lữ đoàn trưởng là Trương Tông Xương. Tưởng Giới Thạch dẫn đội cảm tử tấn công trụ sở của tuần phủ Chiết Giang, bắt giữ Tuần phủ Tăng Uẩn; trở về Thượng Hải, Tưởng Giới Thạch nhậm chức Trung đoàn trưởng Trung đoàn 5 Hỗ quân (quân đội Thượng Hải), giúp Trần Kỳ Mỹ tính kế bình định toàn Giang Tô . Tưởng Giới Thạch được nhận định nằm trong số nhân tài quân sự trong đảng. Ngày 14 tháng 1 năm 1912, do tranh chấp phe phái, Trần Kỳ Mỹ lệnh cho Tưởng Giới Thạch tiến hành ám sát thủ lĩnh Quang Phục hội Đào Thành Chương tại Bệnh viện Quảng Từ Thượng Hải. Tôn Trung Sơn hạ lệnh cấp tốc truy bắt, Tưởng Giới Thạch do vụ án Đào Thành Chương phải tránh sang Nhật Bản. Tưởng Giới Thạch tại Nhật Bản học tiếng Đức, sáng lập tạp chí "Quân thanh", viết các bài như "Nghị luận hạn hẹp về tác chiến chinh phạt Mông Cổ", "Vấn đề thống nhất quân-chính", "Quản trị quân-chính sau chiến tranh cách mạng", "Giải quyết căn bản vấn đề Mông Cổ-Tây Tạng", "Ảnh hưởng của Chiến cục Balkan đến ngoại giao Trung Quốc và các nước", mùa đông cùng năm, ông trở về Trung Quốc cư trú. Tháng 3 năm 1913, Viên Thế Khải bãi miễn bốn vị đô đốc là đảng viên của Quốc dân Đảng (chính đảng tồn tại từ 1912-1913), ký kết các khoản vay lớn với ngân hàng năm quốc gia, âm mưu lật đổ Dân quốc; Quốc dân Đảng công khai chỉ trích, cử Trần Kỳ Mỹ thảo phạt quân của Viên Thế Khải, Tưởng Giới Thạch phụng lệnh tấn công Cục Chế tạo Giang Nam song bất thành. Tưởng Giới Thạch chiến bại nên triệt thoái đến Áp Bắc, song lại bị lính tuần Anh Quốc tước vũ khí, Đô đốc Hỗ quân Dương Thiện Đức hạ lệnh lùng bắt Tưởng. Trong thời gian này, Tưởng Giới Thạch lấy một kỹ nữ, không lâu sau thì bỏ. Mùa hè năm 1914, Tưởng Giới Thạch phụng lệnh của Tôn Trung Sơn, chủ trì thảo phạt lực lượng quân sự của Viên Thế Khải tại Thượng Hải-Nam Kinh, kiêm nhiệm Tư lệnh Đệ nhất lộ, phụ trách nhiệm vụ tấn công miền Tây Thượng Hải, sự việc bị lộ, Viên Thế Khải truy bắt rất gắt gao. Viên Thế Khải ra lệnh khẩn cấp bắt Tưởng Giới Thạch, đồng thời mua người trong Quốc dân Đảng là Vương Kim Phát, Tưởng Giới Thạch biết được âm mưu, nghe theo điện của Trần Kỳ Mỹ sang Nhật Bản. Tưởng Giới Thạch sau đó theo lệnh đến Cáp Nhĩ Tân, thị sát tình hình Đông Bắc; gửi thư báo cáo Tôn Trung Sơn, nói về xu thế chiến tranh tại châu Âu cùng kế hoạch lật đổ Viên Thế Khải. Tại Đông Bắc, Tưởng Giới Thạch lập kế hoạch thảo phạt Viên Thế Khải, song do thế lực Nhật Bản khống chế Đông Bắc nên khó tiến triển, đến khoảng mùa thu thì lại sang Nhật Bản. Tưởng Giới Thạch từng tiếp xúc với phía quân Nhật Bản tại Trung Quốc, để cảnh báo họ không được chiếm lĩnh Đông Bắc, không được cản trở cách mạng. Năm 1915, ý chí thảo phạt Viên Thế Khải chưa thành, Tưởng Giới Thạch sống gò bó tại Tokyo, quyết tâm học tập, đồng thời bắt đầu viết nhật ký; Trần Kỳ Mỹ nhậm chức Tư lệnh Tùng Hỗ (tức Thượng Hải), triệu Tưởng Giới Thạch về nước làm công việc cơ yếu, âm mưu vận động tàu Triệu Hòa và chiếm tàu Ứng Thụy, đồng thời đánh chiếm các sở quan trên đất liền, song không thành Tháng 9, Trần Kỳ Mỹ mắc kẹt tại Thượng Hải, đặt tổng cơ quan tại tô giới Pháp, do Tưởng Giới Thạch đảm nhiệm chức vụ quân sự; tháng 10, Tưởng Giới Thạch phụng lệnh Tôn Trung Sơn trở về Thượng Hải, viết ra "thư kế hoạch quân sự khởi nghĩa Tùng Hỗ", đưa cho Trần Kỳ Mỹ tham khảo, ngày 10 tháng 11, Trần Kỹ Mỹ phái nhóm Vương Minh Sơn ám sát Trịnh Nhữ Thành thuộc phe Viên Thế Khải; lực lượng quân sự tại Cục Chế tác không thể hưởng ứng kịp thời; Trần Kỳ Mỹ và Tưởng Giới Thạch triệt thoái về cơ quan, song lúc này bị lính tuần Pháp đến lùng bắt nên phải chạy trốn. Ngày 14 tháng 12 năm 1916, Tưởng Giới Thạch dẫn đám Dương Hổ đánh chiếm công sự Giang Âm, để làm căn cứ chiếm lấy khu vực Trường Giang, đồng thời tuyên bố độc lập. Sau khi chiếm được năm ngày, do nội bộ có loạn, người đồng hành đều trốn đi lúc đêm tối; Tưởng Giới Thạch một mình trong lũy, đến đêm khuya, hai binh sĩ đến báo cáo "lũy đã trống, sao chưa đi mau". Tưởng bèn lệnh cho hai người dẫn đường, rời pháo đài về Thượng Hải. Ngày 8 tháng 5, Trần Kỳ Mỹ bị ám sát. Tưởng Giới Thạch chủ trì tang lễ, viết văn than khóc; tháng 7, Tưởng Giới Thạch phụng lệnh Tôn Trung Sơn đi đến huyện Duy thuộc tỉnh Sơn Đông để nhậm chức Tham mưu trưởng Đông Bắc quân của Trung Hoa Cách mạng Quân. Tưởng Giới Thạch đến chỉ huy tác chiến, song quyền lực không tập trung, khó có hiệu quả; Tưởng Giới Thạch bèn đến Bắc Kinh quan sát chính cục, mùa thu cùng năm lại trở về Thượng Hải。 Tháng 7 năm 1917, Tôn Trung Sơn đến Quảng Châu lãnh đạo Phong trào Hộ pháp, Hải quân hưởng ứng trước tiên, kinh phí thuyết phục Hải quân đến từ Công sứ Đức, tài chính do Tôn Trung Sơn giao cho Tưởng Giới Thạch một tay lo liệu tại Thượng Hải, mở ra cho Tưởng Giới Thạch cơ hội thiết lập kênh liên hệ với giới tài chính Thượng Hải. ==== Phong trào Hộ pháp ==== Mùa xuân năm 1917, Tưởng Giới Thạch ở tại Thượng Hải, liên lạc với đồng chí tại Nam Kinh và Thiệu Hưng mưu tính diệt trừ thế lực tàn dư của Viên Thế Khải; mùa xuân năm 1918, Tưởng Giới Thạch nhận lệnh đến Quảng Đông, trên đường đi ông soạn ra "thư phán đoán hành động hai quân nam-bắc về sau" 今後南北兩軍行動之判斷書. Đến Quảng Đông, ông nhậm chức Trưởng ban tác chiến Bộ Tổng tư lệnh Mân-Việt quân, lập kế hoạch tác chiến thời kỳ thứ nhất và thứ hai, đồng thời tự mình đốc chiến; đến mùa hè thì ông từ chức và trở về Thượng Hải, song lại phụng lệnh đến Phúc Kiến nhậm chức Tư lệnh chi đội số hai Việt quân; đến mùa đông, ông đánh chiếm được Vĩnh Thái, song lại nhận lệnh đình chiến. Sau khi rời Phúc Kiến, Tưởng Giới Thạch lập ra một sở giao dịch thương nghiệp tại Thượng Hải; trải qua thời gian một năm, thu được một triệu đồng, huy động được một khoản tài trợ cho Tôn Trung Sơn Mùa thu năm 1919, Tưởng Giới Thạch từ chức và trở về Thượng Hải; đến mùa đông, ông sang Nhật Bản rồi lại về nước; năm 1920, Tưởng Giới Thạch nhận lệnh đến Phúc Kiến, tham gia sự vụ tác chiến cơ yếu, đồng thời trình lên kế hoạch công kích và tác chiến thời kỳ thứ ba; Trần Quýnh Minh bổ nhiệm Tưởng Giới Thạch là sĩ quan tổng chỉ huy tiền tuyến quân đoàn số hai của Việt quân, song Tưởng Giới Thạch không nhận chức mà về quê chăm sóc mẹ. Sau đó, Tưởng Giới Thạch phụng lệnh đến Chương Châu thuộc Phúc Kiến, thúc giục nhóm Trần Quýnh Minh đưa quân về Quảng Châu; ngày 5 tháng 10; Tưởng Giới Thạch đến Tổng bộ Sán Đầu. === Nổi lên trên chính trường === Năm 1922, Tưởng Giới Thạch đến Quảng Tây gặp Tôn Trung Sơn, thảo luận về thời điểm xuất quân, kiến nghị dời đại bản doanh đến Thiều Châu; do Trần Quýnh Minh có ý đồ khác, cản trở Bắc phạt, Tưởng Giới Thạch hết sức tức giận, cáo biệt quay về. Tháng 6, Trần Quýnh Minh làm phản, Tôn Trung Sơn tị nạn trên tàu Vĩnh Phong. Ngày 29 tháng 6, Tưởng Giới Thạch đến Quảng Đông, từ đó mỗi ngày Tưởng Giới Thạch đi theo Tôn Trung Sơn, chỉ huy hải quân tấn công phản quân, đến ngày 9 tháng 8 biết được tin quân Bắc phạt thất bại quay về, Tưởng Giới Thạch mới cùng với Tôn Trung Sơn rời Quảng Đông đến Thượng Hải, ngày 14 tháng 8 thì đến nơi. Ở trên tàu trong hơn 40 ngày, Tưởng Giới Thạch hộ giá Tôn Trung Sơn thoát hiểm đến Thượng Hải, đồng thời sáng tác "Ký sự Tôn đại tổng thống gặp nguy tại Quảng Châu" 孫大總統廣州蒙難記, nhằm vạch trần tội trạng của Trần Quýnh Minh. Đến mùa đông Tưởng Giới Thạch tuân lệnh nhậm chức Tham mưu trưởng Quân đoàn 2 Đông lộ thảo tặc quân, đến Phúc Kiến lập kế dẹp loạn. Đương thời, Tôn Trung Sơn phái Tưởng Giới Thạch đi Phúc Kiến, lập liên hệ cùng An Phúc hệ quân phiệt; dưới sự bang trợ của họ, Tôn Trung Sơn trở về Quảng Châu vào năm 1923. Tại Thượng Hải, đồng hương Ngu Hiệp Khanh chỉ dạy Tưởng Giới Thạch: Bái thủ lĩnh Thanh bang Hoàng Kim Vinh làm thầy. Ngày 22 tháng 11, Tôn Trung Sơn trong thư khích lệ Tưởng Giới Thạch hãy kiên nhẫn Năm 1923, Ủy ban Quân sự Tổng bộ Trung Quốc Quốc dân Đảng được thành lập, Tưởng được làm ủy viên, cũng nhậm chức tham mưu trưởng đại bản doanh. Tưởng từ chức tham mưu trưởng Đông lộ thảo tặc quân, chuyên tâm xử lý công tác cơ yếu của đại bản doanh, theo Tôn Trung Sơn thân chinh. Ngày 17 tháng 2, Tôn Trung Sơn bổ nhiệm đặc biệt Tưởng Giới Thạch làm tham mưu trưởng hành doanh đại nguyên soái. Tháng 2 năm 1925, Tưởng Giới Thạch dẫn Đoàn giáo đạo trường quân sự Hoàng Phố (tư lệnh kiêm tổng giáo quan, về sau Hà Ứng Khâm nhậm chức tổng giáo quan, phân thành "giáo đạo đệ nhất đoàn", "giáo đạo đệ nhị đoàn") cùng Việt quân lần đầu tiên đông chinh Trần Quýnh Minh, chưa đầy một tháng, họ đánh thẳng đến Triều Châu, Sán Đầu, Mai huyện; đến tháng 9, Tưởng Giới Thạch nhận lệnh làm tổng chỉ huy quân đông chinh. Ngày 24 tháng 1 năm 1924, Tôn Trung Sơn lấy danh nghĩa đại nguyên soái, giao cho Tưởng Giới Thạch làm ủy viên trưởng Ủy ban trù bị Trường quân sự Lục quân. Ngày 6 tháng 2, Tưởng Giới Thạch lập ban trù bị Trường quân sự Lục quân tại Quảng Châu. Một tháng sau, Tưởng Giới Thạch từ chức, bắt đầu phát phí giải tán; tháng 4, Tôn Trung Sơn gửi công văn cho Tưởng Giới Thạch nói rằng nhất thiết phải làm việc không ngại gian khổ, oán thán, kiên trì phấn đấu, không cho phép từ chức. Ngày 21 tháng 4, Tưởng Giới Thạch trở lại Quảng Châu. Mùa hè cùng năm, Tưởng Giới Thạch đến trường nhậm chức, ngày 3 tháng 5, tuân lệnh nhậm chức hiệu trưởng Trường quân sự Lục quân (Trường quân sự Hoàng Phố), kiêm Tham mưu trưởng Bộ Tổng tư lệnh Việt quân; sang mùa thu, ông kiêm nhiệm Tư lệnh yếu địa Trường Châu; khi ủy ban quân sự cải tổ, Tưởng Giới Thạch vẫn là ủy viên, còn được phái làm ủy viên trưởng ủy ban trù bị huấn luyện quân sự các quân, còn nhận lệnh kiêm nhiệm Bộ trưởng Bộ Huấn luyện Bộ Tổng tư lệnh Việt quân; đến mùa đông, Ủy ban Cách mạng thành lập, Tưởng được bổ nhiệm làm ủy viên toàn quyền Ủy ban cách mạng, phụ trách sự biến Thương đoàn Nhị Bình. Mao Trạch Đông từng nói rằng Tưởng Giới Thạch dựa vào Trường quân sự Hoàng Phố mà gây dựng sự nghiệp. Tân quân đổi thành Đảng quân, Tưởng Giới Thạch được bổ nhiệm làm bí thư quân sự. Tháng 3 năm 1925, Tôn Trung Sơn từ trần tại Bắc Kinh, Tưởng Giới Thạch phát thư thương tiếc trong quân đội, về Quảng Châu cúng tế, đồng thời chỉnh lý giáo vụ, khi trở lại quân đội ông nhậm chức Triều Sán thiện hậu đốc biện; tháng 4, Trung ương bổ nhiệm Tưởng Giới Thạch làm Tư lệnh quan Đảng quân; đến tháng 6, Dương Hy Mẫn, Lưu Chấn Hoàn làm phản, Tưởng Giới Thạch theo lệnh kiêm nhiệm Tư lệnh quân đồn trú Quảng Châu, đem quân bình loạn; sang tháng 7, ủy ban quân sự thành lập, Tưởng Giới Thạch nhậm chức ủy viên, kiến nghị sáu đại kế hoạch cách mạng; tháng 8, một thủ lĩnh Trung Quốc Quốc dân Đảng là Liệu Trọng Khải bị ám sát, dư luận căm phẫn, trung ương tổ chức ủy ban đặc biệt, bổ nhiệm Tưởng Giới Thạch làm ủy viên, phụ trách toàn quyền chính trị quân sự và cảnh sát, xử lý vụ án Liệu Trọng Khải, bình định thời cục; Đảng quân đổi thành Đệ nhất quân của Quốc dân Cách mạng Quân, Tưởng Giới Thạch nhậm chức quân trưởng. Ngày 24 tháng 8, Tưởng Giới Thạch lại trở thành Tư lệnh quân đồn trú Quảng Châu. Đương thời, Tưởng nhậm chức ủy viên trung ương hậu bổ, Mao Trạch Đông chính là quyền bộ trưởng tuyên truyền của Trung ương Quốc dân Đảng。 Tháng 12 năm 1925, Tưởng Giới Thạch chiến thắng trở về Quảng Châu; tháng 1 năm 1926, đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ hai của Quốc dân Đảng khai mạc, bầu cử ủy viên ủy ban chấp hành trung ương khóa hai, Tưởng Giới Thạch đắc cử làm ủy viên chấp hành, lại được chọn làm ủy viên thường vụ; tháng 2, ủy ban quân sự bổ nhiệm Tưởng Giới Thạch làm Tổng giám Quốc dân Cách mạng quân, Tưởng Giới Thạch từ chối không nhận; tháng 3, Trường quân sự Hoàng Phố đổi tên thành Trường Quân sự Chính trị Trung ương, Tưởng Giới Thạch vẫn giữ chức hiệu trưởng. Trong sự kiện biến loạn tàu Trung Sơn ngày 18 tháng 3 nhằm hãm hại Tưởng Giới Thạch, Tưởng Giới Thạch sau khi phát giác liền nhanh chóng xử trí, biến loạn bị dẹp yên; Uông Triệu Minh rời Quảng Đông để tránh nghi ngờ; tháng 4, phái hội nghị Tây Sơn làm trái điều lệ đảng, mở đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ hai Trung Quốc Quốc dân Đảng tại Thượng Hải, Tưởng Giới Thạch gửi điện phản đối. == Thời kỳ trung niên == === Bắc phạt lần thứ nhất === Tháng 4 năm 1926, Tưởng Giới Thạch kiến nghị với Trung ương Quốc dân Đảng, thỉnh cầu chỉnh đốn quân đội và thanh lọc đảng, chấp thuận kỳ hạn Bắc phạt; ngày 16 tháng 4, Hội nghị liên tịch đảng-chính trung ương Quốc dân Đảng bầu Tưởng Giới Thạch làm chủ tịch ủy ban quân sự; tháng 5, Hội nghị Ban chấp hành toàn thể lần thứ hai khai mạc, Tưởng Giới Thạch là chủ tịch, quyết định chấp thuận vấn đề Bắc phạt, ra tuyên bố; ngày 1 tháng 6, Ủy ban Thường vụ Trung ương quyết định bổ nhiệm Tưởng Giới Thạch là Bộ trưởng Bộ Tổ chức Trung ương; ngày 4 tháng 6, hội nghị liên tịch ủy ban chấp hành toàn thể trung ương và đảng bộ các tỉnh thành và hải ngoại quyết định lập tức xuất quân Bắc phạt, đồng thời bổ nhiệm Tưởng Giới Thạch làm Tổng tư lệnh Quốc dân Cách mạng quân. Tháng 5, Tưởng Giới Thạch đề xuất "vấn đề chỉnh lý đảng", đả kích và bài xích đảng viên Đảng Cộng sản Trung Quốc; trong khi Bắc phạt Tưởng Giới Thạch được trợ giúp của cố vấn Liên Xô, ông định ra các phương châm đánh bại kẻ địch. "Tiểu sử tướng lĩnh cao cấp Dân Quốc" 民国高级将领列传 của Nhà xuất bản Giải phóng quân nhận định Tưởng Giới Thạch dần giành được quyền lực chính trị và quân sự trong đảng, là đầu nguồn của quá trình Tưởng Giới Thạch hướng đến độc tài. Tháng 6, Ủy ban Chính trị quyết định bổ nhiệm Tưởng Giới Thạch làm Ủy viên Chính phủ Quốc dân; ngày 5 tháng 7, Trung ương quyết định bổ nhiệm Tưởng Giới Thạch làm Bộ trưởng Bộ Quân nhân Đảng bộ Trung ương, ngày 6 tháng 7 lại cho Tưởng Giới Thạch làm Chủ tịch Ủy ban Thường vụ; ngày 9 tháng 7 Tưởng Giới Thạch nhậm chức tổng tư lệnh của Quốc dân Cách mạng quân, tuyên thệ Bắc phạt. Tháng 8, đóng quân tại Trường Sa, ra tuyên ngôn thảo phạt Ngô Bội Phu, lệnh các quân tiến công, lần lượt đánh chiếm được Đinh Tứ Kiều, Hạ Thắng Kiều tại Hồ Bắc. Tháng 9, Tưởng Giới Thạch ra lệnh đánh chiếm Hán Khẩu, Hán Dương, bao vây Vũ Xương và sắp hạ được thành; song do nhận được cáo cấp về tình hình Giang Tây, Tưởng Giới Thạch truyền lại chiến lược công thành xong thì đến Giang Tây đốc quân. Đầu tháng 12, thành viên Ban Phương Đông của Ủy ban Quốc tế Thanh niên cộng sản là C.A. Dalin và Cố vấn Liên Xô Borodin và những người khác theo mệnh lệnh của Tưởng Giới Thạch triệu tập hội nghị khẩn cấp tại Nam Xương, thông qua nghị quyết: thứ nhất, thừa nhận công trái trước đây, đồng thời cho phép lưu thông một số đợt tiền giấy của chính phủ trước đây; thứ hai là lệnh cho thương nhân vào ngày 7 tháng 12 đều phải bắt đầu hành nghề, ai không tuân thủ sẽ bị cưỡng chế; thứ ba là kiến nghị thương hội và toàn bộ tổ chức sử dụng đồng bạc do họ lưu giữ; mở lại Ngân hàng Giang Tây đã phá sản. Tháng 1 năm 1927, Bộ tổng chỉ huy Tiền tuyến Đông lộ quân được thành lập, Tưởng Giới Thạch chỉ thị phương châm tiến chiếm toàn Chiết Giang; Hội nghị Chính trị quyết định Đảng bộ và Chính phủ Trung ương tạm trú tại Nam Xương, các ủy viên tại Hồ Bắc kiên trì phản đối, Tưởng Giới Thạch nỗ lực điều đình, đến Cổ Lĩnh (thuộc khu vực Lư Sơn, Giang Tây) mời các ủy viên hội ngộ, loại bỏ được trở ngại. Quân Anh tại Cửu Giang tàn sát nhân dân, Tưởng Giới Thạch kiến nghị phương châm đối ngoại lấy chủ đạo là hòa bình song không để nước phải chịu nhục. Tháng 2, Tưởng Giới Thạch giúp đỡ Chính phủ Quốc dân trú tại Vũ Xương, Đảng bộ Trung ương trú tại Hán Khẩu. Tháng 3, chiếm lĩnh Tô Châu; Tưởng Giới Thạch ra một tuyên cáo quan trọng, khích lệ đồng chí giữ vững lập trường cách mạng quốc dân, duy trì trật tự xã hội quốc gia, đoàn kết nhất trí, giải cứu dân chúng khỏi thống khổ. Binh sĩ tiến chiếm Nam Kinh và người Anh phát sinh xung đột, tàu Anh pháo kích Nam Kinh, Tưởng Giới Thạch lập tức đánh điện ngăn cản sự việc thêm nghiêm trọng, giữ yên để chính phủ dùng phương thức ngoại giao giải quyết. Hội nghị toàn thể lần thứ ba của Ủy ban Chấp hành Trung ương khóa II Quốc dân Đảng bầu Tưởng Giới Thạch làm Ủy viên Chính phủ Quốc dân Vũ Hán. Ngày 5 tháng 4, Tưởng Giới Thạch thành lập "Hội Liên hiệp Công giới Thượng Hải" và "Hội Liên hiệp Tiến bộ Toàn diện Trung Quốc". Tháng 4 năm 1927, Chính phủ Vũ Hán (tức phái đối lập) hạ lệnh đột ngột miễn chức của Tưởng Giới Thạch. Tưởng Giới Thạch cho giải tán các tổ chức phi pháp như Tổng công hội Thượng Hải, thanh trừ triệt để phần tử Đảng Cộng sản Trung Quốc. Ngày 18 tháng 4, Chính phủ Quốc dân định đô tại Nam Kinh, Tưởng Giới Thạch ra văn kiện bố cáo dân chúng. Tưởng Giới Thạch lấy danh nghĩa điều giải tranh chấp nội bộ công nhân, cho giải trừ vũ trang đội quân cảnh công nhân. === Mất chức lần đầu === Tháng 5 năm 1927, Tưởng Giới Thạch quyết định tiếp tục phương án tác chiến Bắc phạt, phân toàn quân thành ba lộ tấn công; tổ chức Ủy ban Thanh Đảng, các tỉnh toàn quốc nghiêm túc thi hành thanh trừ trong đảng. Tháng 6, Tưởng Giới Thạch đến Từ Châu, Phùng Ngọc Tường đến họp, cử hành Hội nghị Từ Châu, quyết định liên danh ra thông điện Bắc phạt, đồng thời do Phùng Ngọc Tường khuyến nghị nên Chính phủ Vũ Hán định ngày giải thể. Con trai của Tưởng Giới Thạch là Tưởng Kinh Quốc khi đó ở Liên Xô viết thư ngỏ cho Tưởng Giới Thạch, tuyên bố đoạn tuyệt quan hệ cha con; Tưởng Kinh Quốc sau khi về Trung Quốc thì thanh minh rằng đó là do ông chịu áp lực từ Liên Xô mà ra. Tháng 7, Tưởng Giới Thạch theo lệnh làm ủy viên quân sự Chính phủ Quốc dân; Từ Châu thất thủ, Tưởng Giới Thạch vượt Trường Giang đốc chiến. Lý Tông Nhân và Bạch Sùng Hy thuộc Điền hệ quân phiệt (Quảng Tây) có binh sĩ ủng hộ lớn mạnh, họ thừa cơ buộc Tưởng Giới Thạch từ chức; Uông Tinh Vệ và Đường Sinh Trí tại Vũ hán cũng tổ chức Đông chinh quân, ra thông điện thảo phạt Tưởng Giới Thạch; Thân tín các hệ như của Hà Ứng Khâm cũng không muốn duy trì địa vị của Tưởng Giới Thạch. Tháng 8, phản công Từ Châu thất bại, Tưởng Giới Thạch hạ lệnh triệt thoái, gửi điện cho Chính phủ Quốc dân, tự xin phân xử; Ninh-Hán phân liệt (giữa Chính phủ Nam Kinh và Vũ Hán) ngày càng nhiều, Tưởng vì muốn tránh thêm căng thẳng, mong có lợi cho đoàn kết, nên ra tuyên bố từ chức và thôi các chức vụ kiêm nhiệm, về quê tảo mộ. Ngày 17 tháng 9, Đại hội đại biểu lần thứ hai Ủy ban Đặc biệt Trung ương Trung Quốc Quốc dân Đảng bầu Tưởng Giới Thạch nhậm chức ủy viên Chính phủ Quốc dân Nam Kinh. Trong tháng 9, Tưởng Giới Thạch quyết định ra nước ngoài khảo sát ngoại giao, đồng thời nghiên cứu học tập kinh tế, chính trị, xã hội, triết học, quân sự. Ngày 28 tháng 9, Tưởng Giới Thạch từ Thượng Hải sang Nhật Bản. Tháng 10, tại Nhật Bản, Tưởng Giới Thạch nghiên cứu chính sách của nước này đối với Trung Quốc, đến Kobe thăm hỏi Tống thái phu nhân để thảo luận hôn sự. Tháng 11, Tưởng Giới Thạch và Thủ tướng Nhật Bản Tanaka Giichi hội đàm; đến ngày 10 tháng 11, Tưởng Giới Thạch về Trung Quốc; ngày 1 tháng 12 Tưởng Giới Thạch và Tống Mỹ Linh kết hôn tại Thượng Hải. === Bắc phạt lần thứ hai === Ngày 3 tháng 1 năm 1928, Tưởng Giới Thạch nhậm chức ủy viên thường vụ Chính phủ Quốc dân. Tháng 12 năm 1927, Hội nghị Dự bị Hội nghị Toàn thể lần thứ tư khóa II Quốc dân Đảng ra quyết định mời Tưởng Giới Thạch phục chức, đồng thời phụ trách trù bị đại hội toàn thể lần thứ tư, các nơi gửi điện hối thúc Tưởng Giới Thạch trở lại, Tưởng Giới Thạch quyết định về Nam Kinh. Ngày 4 tháng 1 năm 1928, Tưởng Giới Thạch đến Nam Kinh trình báo chính thức phục chức; Ủy ban Chính trị Trung ương Quốc dân Đảng quyết định bổ nhiệm Tưởng Giới Thạch làm tổng tư lệnh toàn quân Bắc phạt. Tưởng Giới Thạch nhiều lần gửi điện cho Phùng Ngọc Tường, Diêm Tích Sơn cùng các tướng lĩnh chuẩn bị Bắc phạt. Ngày 7 tháng 2, Hội nghị toàn thể lần thứ tư của Ủy ban Chấp hành Trung ương khóa II bầu Tưởng Giới Thạch làm chủ tịch của ủy ban quân sự. Ngày 9 tháng 2, Tưởng Giới Thạch dù bị ốm song vẫn vượt sông, thị sát tiền tuyến; ngày 15 tháng 2, Tưởng Giới Thạch đến Khai Phong cùng Phùng Ngọc Tường xác định đại kế Bắc phạt. Ngày 28 tháng 2, Ủy ban Chính trị Trung ương Quốc dân Đảng quyết định bổ nhiệm Tưởng Giới Thạch kiêm tổng tư lệnh tập đoàn quân số 1. Đến tháng ba, bố trí quân sự hoàn tất; đến ngày 31 tháng 3 Tưởng Giới Thạch vượt Trường Giang Bắc phạt. Tháng 4, Tưởng Giới Thạch đóng quân tại Từ Châu, đồng thời gửi điện cho Bộ Ngoại giao thiết thực phụ trách bảo hộ ngoại kiều. Đại cương tổ chức Bộ tổng tư lệnh quy định "Tổng tư lệnh Quốc dân Cách mạng Quân sẽ kiêm nhiệm Chủ tịch Ủy ban Quân sự". Tưởng Giới Thạch tập trung ưu thế về binh lực, tập trung tấn công quân Phụng-Lỗ bạc nhược để phân mảng khu vực Sơn Đông; song tại khu vực Hà Bắc, Sơn Tây thì chọn thế phòng thủ, chỉ đưa đến binh lực hạn chế, so với bố trí chiến lược của Trương Tác Lâm thì cao tay hơn một chút. Tháng 4 năm 1928, Nhật Bản xuất binh đến Sơn Đông cản trở Bắc phạt, Tưởng Giới Thạch một mặt giao thiệp với Nhật Bản, một mặt ủy nhiệm Chu Bồi Đức làm tổng chỉ huy tiền tuyến, tích cực bắc tiến; liên quân Trực-Lỗ phản công Tế Ninh, Tưởng Giới Thạch đích thân đến sông ranh giới, chỉ đạo tấn công Duyện Châu nhằm giải cứu. Tưởng Giới Thạch đến Thái Ân, chỉ đạo tấn công Tế Nam, đồng thời quyết định sau khi chiếm Tế Nam sẽ lập tức vượt Hoàng Hà truy kích. Từ ngày 3 đến ngày 5 tháng 5, quân Nhật hoành hành gây rối, tập kích gây hấn với Quốc quân, Tưởng Giới Thạch yêu cầu Quốc quân chớ đánh trả, đồng thời lệnh cho bộ đội tiến vào Tế Nam vào tối ngày 3 tháng 5 triệt thoái ra ngoại thành; ngày 4-5 tháng 5, quân Nhật vẫn tiếp tục khai hỏa, đồng thời dẫn Trương Tông Xương dùng phi cơ oanh tạc Bộ tư lệnh Quốc quân. Tưởng Giới Thạch vì mục tiêu hoàn thành Bắc phạt nên nhẫn nhục, lệnh cho Quốc quân đến đêm vượt sông, chỉ để lại bộ binh dưới quyền Lý Diên Niên đóng quân; ngày 6 tháng 5, chuyển đến Đảng Gia Trang, tiếp tục lấy quân bắc tiến, đồng thời kêu gọi Uông Tinh Vệ, Hồ Hán Dân về nước, lại ra thông cáo Phụng hệ hãy sớm giác ngộ; Tưởng Giới Thạch đóng quân tại Thạch Gia Trang chỉ huy. Tháng 6 năm 1928, sau khi chiếm được Bắc Bình-Thiên Tân, Tưởng đã hoàn thành nhiệm vụ nên về Nam Kinh, đề xuất giải trừ chức vụ tổng tư lệnh Quốc dân Cách mạng Quân, Trung ương muốn giữ lại. Tưởng Giới Thạch đề xuất lập ủy ban giải trừ quân bị và khôi phục hậu chiến. Đến tháng 7, Tưởng Giới Thạch đến Bắc Bình, cúng tế Tôn Trung Sơn, đồng thời đến Nam Khẩu truy điệu tướng sĩ hy sinh. Tháng 8, chuẩn bị khai mạc Hội nghị Toàn thể lần thứ năm khóa II Quốc dân Đảng, tranh chấp liên miên, Tưởng Giới Thạch đến Thượng Hải điều đình. Hội nghị quyết định bắt đầu "huấn chính", thi hành các dự án kiến thiết quan trọng; hội nghị thông qua tổ chức của Chính phủ Quốc dân, đồng thời bầu Tưởng Giới Thạch nhậm chức Chủ tịch Chính phủ Quốc dân, Tưởng nhậm chức vào ngày 10 tháng 10. Đến tháng 11, Tưởng Giới Thạch đi thị sát Giang Tô, Sơn Đông, An Huy, duyệt binh, đồng thời khảo sát chính trị-tôn giáo địa phương và tình hình dân sinh. === Huấn chính Trung Quốc === Sau khi quốc gia thống nhất, nền thống trị của Trung Quốc Quốc dân Đảng bước vào thời kỳ "huấn chính". Tháng 6 năm 1929, Tưởng Giới Thạch tới Bắc Bình. Ngày 1 tháng 6, Tưởng Giới Thạch nhậm chức ủy viên Ủy ban Kiến thiết Thủ đô Chính phủ Quốc dân. Cuối tháng 12 năm 1932, Tưởng Giới Thạch thị sát Hồ Nam. Năm 1934, Tưởng Giới Thạch đích thân chỉ huy, điều động trọng binh tiến hành bao vây và tiêu diệt Hồng quân công-nông Trung Quốc và căn cứ địa cách mạng nông thôn "Xô viết Trung ương". Ngày 1 tháng 1 năm 1929, Ủy ban Biên khiển Quốc quân (tức tái cấu trúc và tinh giản) được thành lập, Tưởng Giới Thạch cùng các ủy viên tuyên thệ nhậm chức; ngày 7 tháng 1, Chính phủ Quốc dân cho Tưởng Giới Thạch kiêm nhiệm ủy viên trưởng Ủy ban Đạo Hoài (kiểm soát tài nguyên nước Hoài Hà); tháng 3, Tưởng Giới Thạch ra thông lệnh triệt tiêu Bộ tổng tư lệnh Quốc dân Cách mạng quân và Bộ tổng tư lệnh Tập đoàn quân số 1, đồng thời thành lập văn phòng biên khiển trung ương và số 1; tháng 4, Tưởng Giới Thạch bắt đầu dùng ấn Tổng tư lệnh Lục-hải-không quân, đến Hoàng Châu đốc quân. Ngày 27 tháng 6, Ủy ban Thường vụ Trung ương Quốc dân Đảng quyết định Trường Đảng vụ Trung ương đổi thành Trường Chính trị Trung ương, Tưởng Giới Thạch làm hiệu trưởng.. Tháng 2 năm 1930, Chính phủ Quốc dân trao cho Tưởng Giới Thạch Huân chương Thanh Thiên Bạch Nhật và Huân chương Bảo Đỉnh nhất đẳng đại thụ. Tháng 3, Tưởng Giới Thạch với vấn đề Tây Bắc quyết giữ thế phòng thủ. Trung Nguyên đại chiến bùng phát trong nội bộ Quốc dân Đảng từ tháng 5 đến tháng 11 năm 1930, Phái của Tưởng Giới Thạch hỗn chiến với liên minh Diêm Tích Sơn, Phùng Ngọc Tường, Lý Tông Nhân tại các tỉnh Hà Nam, Sơn Đông, An Huy, kết quả là Tưởng Giới Thạch giành thắng lợi. Đến tháng 10, Tưởng Giới Thạch từ tiền phương thỉnh cầu Chính phủ Quốc dân xá miễn cho tội phạm chính trị, đồng thời đánh điện thỉnh cầu Trung ương sớm triệu tập hội nghị quốc dân. Ngày 23 tháng 10, Tưởng Giới Thạch tại Thượng Hải chính thức chịu lễ thanh tẩy Cơ Đốc giáo. Ngày 18 tháng 11, Hội nghị toàn thể lần thứ 4 khóa III Trung Quốc Quốc dân Đảng quyết định để Tưởng Giới Thạch kiêm nhiệm Viện trưởng Hành chính viện (thủ tướng). Tháng 12, Tưởng Giới Thạch tuần thị Giang Tây, Hồ Bắc; kiêm nhiệm Bộ trưởng Giáo dục, sáng lập Không quân. Ngày 23 tháng 7 năm 1930, Tưởng Giới Thạch cho ban bố "Thư thông cáo đồng bào toàn quốc nhất trí an nội nhương ngoại". Tưởng Giới Thạch vào tháng 9 ra mật lệnh cấm chỉ đoàn thể cánh tả; đến tháng 12 hạ lệnh ban bố "luật xuất bản", cấm sách "tuyên truyền chủ nghĩa cộng sản", "cổ xúy đấu tranh giai cấp". Tháng 6 năm 1931, Hội nghị toàn thể lần thứ 5 khóa III Trung Quốc Quốc dân Đảng bầu Tưởng Giới Thạch làm Chủ tịch Chính phủ Quốc dân kiêm Viện trưởng Hành chính viện. Tưởng Giới Thạch nhậm chức ủy viên thường vụ Ủy ban Kinh tế Toàn quốc. Tháng 12, Hội nghị toàn thể lần thứ nhất Ủy ban Trung ương khóa IV Trung Quốc Quốc dân Đảng khai mạc, đại biểu Quảng Đông chỉ còn là một bộ phận tham dự, Hồ Hán Dân và những người khác tại Thượng Hải kiên trì yêu cầu Tưởng Giới Thạch từ chức. Nhằm thúc đẩy đoàn kết trong đảng, Tưởng Giới Thạch từ chức Chủ tịch Chính phủ Quốc dân, dời Nam Kinh về quê. Ngày 18 tháng 3 năm 1932, Tưởng Giới Thạch nhậm chức ủy viên trưởng, đồng thời kiêm nhiệm Tổng tham mưu trưởng Bộ tổng tham mưu. Tháng 9, phát sinh xung đột nội tỉnh giữa Hàn Phúc Củ và Lưu Trân Niên tại Sơn Đông, Dương Hổ Thành và Mã Thanh Uyển tại Thiểm Tây, Lưu Tương và Lưu Văn Huy tại Tứ Xuyên, Tưởng Giới Thạch gửi điện khuyên giải, do đó sự việc được giải quyết ổn thỏa; Tưởng nhậm chức hiệu trưởng Trường Hàng không Trung ương. Tháng 1 năm 1933, Tưởng Giới Thạch lập kế hoạch chuẩn bị đối sách trước quân Nhật và quân cộng sản giáp kích, quyết định về đối ngoại sẽ tích cực chuẩn bị, về đối nội sẽ tăng cường tiêu diệt Đảng Cộng sản Trung Quốc. Tháng 3 năm 1936, Tưởng gia lệnh tiêu diệt Hồng quân Sơn Tây, đồng thời tăng cường phòng thủ Tuy Viễn (nay thuộc miền tây Nội Mông). Tháng 7, Hội nghị toàn thể lần thứ 2 Ủy ban Trung ương khóa V Quốc dân Đảng khai mạc, Tưởng Giới Thạch diễn giảng sự tất yếu của việc thống nhất cứu quốc. Tháng 8, điều chỉnh quân sự tỉnh Vân Nam, cải tổ chính phủ tỉnh Quý Châu; Tưởng Giới Thạch đến Quảng Châu, xử lý hậu quả quân sự chính trị tỉnh Quảng Đông, đồng thời khuyến cáo tỉnh Quảng Tây phục tùng trung ương. Tháng 10, Tưởng Giới Thạch tuần thị Hà Nam, Thiểm Tây, lưu lại Lạc Dương, chỉ đạo tiêu diệt tàn dư hồng quân. Nhân dịp kỷ niệm sinh nhật thứ 50 của Tưởng Giới Thạch (1887-1936), toàn quốc phát động hiến kế để chúc thọ. Tháng 5 năm 1934, Tưởng Giới Thạch nhậm chức ủy viên trưởng Ủy ban Hàng không. Ngày 15 tháng 5, Tưởng Giới Thạch tại Nam Xương ban bố "Cương yếu phong trào Tân sinh hoạt". Tháng 1 năm 1935, Tưởng Giới Thạch kiêm nhiệm hiệu trưởng Đại học Lục quân. Ngày 1 tháng 4, Chính phủ Quốc dân bổ nhiệm Tưởng Giới Thạch làm thượng tướng đặc cấp (đại nguyên soái). Đến tháng 7, Tưởng Giới Thạch tại Thành Đô lập kế hoạch đoàn huấn luyện Nga Mi; tháng 8, ông chủ trì đoàn huấn luyện Nga Mi, lần lượt có hai kỳ tốt nghiệp. Tháng 9, ông phân bổ các quân Tứ Xuyên phòng thủ, nghiêm cấm quân nhân can thiệp hành chính, tài chính, đả phá tình trạng cát cứ phân liệt kéo dài trong quá khứ; chỉnh lý tiền giấy địa phương Tứ Xuyên, do Trung ương phát hành công trái thu hồi. Tháng 10, Tưởng Giới Thạch kiêm nhiệm Tổng tư lệnh Tiễu phỉ Tây Bắc; Tưởng đi từ Tứ Xuyên đến Thiểm Tây, rồi tuần thị Hà Nam, Sơn Tây, cùng Diêm Tích Sơn thương lượng kế hoạch an định Tây Bắc. Ngày 1 tháng 11, thích khách của tập đoàn Vương Á Tiều, đồng thời là nhà báo của Thông tấn xã Thần Quang tên là Tôn Phượng Ô 孫鳳嗚 ám sát bất thành Tưởng Giới Thạch khi diễn ra nghi thức khai mạc Hội nghị toàn thể lần thứ 6 Ủy ban Trung ương khóa IV Quốc dân Đảng tại Nam Kinh, Uông Tinh Vệ bị trọng thương. Ngày 30 tháng 12, Chính phủ Quốc dận trao Huân chương Vân Huy cho 47 người, trong đó có Tưởng Giới Thạch. Tuy nhiên, kinh tế tăng trưởng yếu kém, không theo kịp với chi tiêu quân phí ngày càng lớn, tài chính thu về không đủ chi. === Chiến tranh kháng Nhật === Sau Sự biến Phụng Thiên tại Mãn Châu vào ngày 18 tháng 9 năm 1931, Nhật Bản chiếm đóng Đông Bắc Trung Quốc. Ngày 7 tháng 11 năm 1934, tại Tuy Viễn, Tưởng Giới Thạch hội kiến các nhân sĩ người Mông Cổ như Đức vương Demchugdongrub và các nhân viên đảng-chính quyền, đồng thời chỉ đạo toàn bộ các chủ tịch và tướng lĩnh biên cảnh. Mùa xuân năm 1936, Tưởng Giới Thạch điều động 5 sư đoàn trung ương vào Sơn Tây, chuẩn bị tấn công Hồng quân vừa trải qua Trường chinh đến Tây Bắc, đồng thời cũng chuẩn bị kháng cự có mức độ nếu Nhật Bản xâm phạm Tuy Viễn. Tháng 3 năm 1932, Hội nghị toàn thể lần thứ 2 Ủy ban Trung ương khóa IV Trung Quốc Quốc dân Đảng khai mạc tại Lạc Dương, quyết định bổ nhiệm Tưởng Giới Thạch làm ủy viên trưởng Ủy ban Quân sự Chính phủ Quốc dân. Tại khu vực do mình kiểm soát, Tưởng Giới Thạch tiến hành lùng diệt quy mô lớn người của Đảng Cộng sản Trung Quốc, cấm đoán sách vở; Ông phái Tống Tử Văn sang Hoa Kỳ ký kết hiệp định vay bông và lúa mì trị giá 50 triệu USD, trên thực tế là tìm kiếm viện trợ kinh tế cho nội chiến. Tháng 2 năm 1933, Tưởng Giới Thạch một mặt phái binh đến phía bắc phòng ngự Nhật Bản, một mặt gia tăng tiêu diệt không ngừng Đảng Cộng sản Trung Quốc. Tháng 3, ông giải trừ chức vụ quân sự của Trương Học Lương. Tháng 4, Tưởng Giới Thạch đến Giang Tây chủ trì công tác tiêu diệt Đảng Cộng sản Trung Quốc. Tháng 10, Tưởng Giới Thạch triệu tập hội nghị tướng lĩnh tại Nam Xương. Trong cùng tháng, việc xây dựng Đường sắt Hàng Châu-Giang Sơn hoàn thành; hội nghị lương thực tám tỉnh khai mạc; quy hoạch xây cất các công sự phòng thủ đường sông và đường biển. Tháng 11, Tưởng Giới Thạch ra lệnh triệu tập thanh niên Mông Cổ tham dự huấn luyện; cũng ra lệnh có biện pháp di dân thích hợp, thiết thực chỉnh lý thuế ruộng. Tưởng Giới Thạch thi hành nguyên tắc bảo lãnh- liên đới, yêu cầu các hộ gia đình giám sát lẫn nhau. Tháng 12 năm 1936, Tưởng lưu lại Tây An, triệu tập các tướng lĩnh hội đàm tại Tây An, đồng thời đốc thúc Trương Học Lương, Dương Hổ Thành tăng cường trấn áp cộng sản. Ngày 12 tháng 12, Trương Học Lương và Dương Hổ Thành phát động Sự biến Tây An, thi hành binh biến, khiến Tưởng Giới Thạch đình chỉ chặn diệt lực lượng cộng sản. Tưởng bị bắt trong lúc đang ngủ. Ngày 25 tháng 12, Trương Học Lương quyết định phóng thích Tưởng Giới Thạch, Tưởng Giới Thạch đi máy bay về Nam Kinh. Tưởng Giới Thạch bị buộc phải chấp nhận đình chỉ nội chiến với Đảng Cộng sản Trung Quốc, nhất trí chủ trương kháng Nhật, bắt đầu Quốc-Cộng hợp tác lần thứ nhì. Tháng 6 năm 1937, Tưởng Giới Thạch hạ lệnh thúc giục các địa phương hoàn thành xây dựng quốc phòng; ra lệnh thiết lập Hiệp hội Phòng không Toàn quốc. Tháng 7 năm 1937, bùng phát sự kiện Lư Câu Kiều tại Bắc Bình, Chiến tranh Trung-Nhật bùng phát; tháng 8, Tưởng Giới Thạch quyết định các vấn đề trọng yếu về quân sự-chính trị trong thời kỳ kháng chiến, đồng thời quyết định lấy Ủy ban Quân sự là bộ thống soái tối cao trong kháng chiến. Ngày 20 tháng 11 năm 1937, Tưởng Giới Thạch tuyên bố dời đô về Trùng Khánh, xem đó là bồi đô. Ngày 1 tháng 1 năm 1938, Tưởng từ chức Viện trưởng Hành chính viện, chú tâm vào chỉ huy kháng chiến với Nhật; ông triệu tập hội nghị quân sự. Đến ngày 29 tháng 3, Đại hội Đại biểu Toàn quốc Lâm thời được khai mạc tại Vũ Xương; đại hội sửa đổi quy tắc chung, xác định chế độ tổng tài, bầu cử Tưởng Giới Thạch làm Tổng tài Trung Quốc Quốc dân Đảng. Tháng 4, trù bị thành lập Đoàn Thanh niên Tam Dân chủ nghĩa. Tháng 1 năm 1939, Hội nghị toàn thể lần thứ 5 Ủy ban Trung ương khóa V Trung Quốc Quốc dân Đảng khai mạc, quyết định tổ chức Ủy ban Tối cao Quốc phòng, bầu Tưởng Giới Thạch làm ủy viên trưởng, thống nhất chỉ huy chính phủ-quân đội. Tháng 3, Ban Huấn luyện Đảng-Chính Đoàn Huấn luyện Trung ương thành lập, Tưởng Giới Thạch là đoàn trưởng. Tháng 4, phê chuẩn thể chế tổ chức đảng-chính quyền cấp cơ sở dưới huyện. Tháng 9, Hội Tham chính Quốc dân khai mạc, Tưởng Giới Thạch có bài diễn thuyết. Cùng tháng, Tưởng Giới Thạch kiêm nhiệm Chủ tịch chính phủ tỉnh Tứ Xuyên. Tháng 10, Tưởng Giới Thạch đến Thành Đô, đích thân xử lý chính sự trong tỉnh. Tháng 11, Hội nghị toàn thể lần thứ 6 Ủy ban Trung ương khóa V Trung Quốc Quốc dân Đảng khai mạc, quyết định để Tưởng Giới Thạch kiêm nhiệm Viện trưởng Hành chính viện. Tưởng Giới Thạch nhậm chức chủ tịch tổng văn phòng liên hiệp bốn ngân hàng Trung ương, Trung Quốc, Giao thông, Nông dân. Tháng 3 năm 1943, Đào Hi Thánh sáng tác "Trung Quốc chi mệnh vận" lấy danh nghĩa Tưởng Giới Thạch xuất bản. Tháng 8, Chủ tịch Chính phủ Quốc dân Lâm Sâm từ trần, Tưởng Giới Thạch được bầu kế nhiệm. Tưởng Giới Thạch nói rằng chủ nghĩa cộng sản và chủ nghĩa tự do là đường lối tùy tiện, chủ trương lệch lạc có hại cho quốc gia dân tộc, là lần thứ ba chuẩn bị tạo dư luận chống cộng. Ngày 10 tháng 10, Tưởng Giới Thạch nhậm chức Chủ tịch Chính phủ Quốc dân. Tháng 3 năm 1940, Chính quyền Uông Tinh Vệ thân Nhật thành lập tại Nam Kinh. Tháng 11, Tưởng Giới Thạch từ chức Chủ tịch tỉnh Tứ Xuyên, ủy quyền Trương Quần kế nhiệm. Tháng 1 năm 1941, Tân Tứ quân (gồm các binh sĩ cộng sản) công khai phản biến tại miền nam tỉnh An Huy, Tưởng hạ lệnh giải tán đạo quân mới biên chế này. Ngày 27 tháng 12, Tưởng Giới Thạch kiêm nhiệm Bộ trưởng Bộ Ngoại giao. Tháng 1 năm 1942, Đồng Minh bầu chọn Tưởng Giới Thạch làm thống soái tối cao chiến khu Trung Quốc quân Đồng Minh. Tháng 2, Tưởng Giới Thạch và phu nhân Tống Mỹ Linh đến Ấn Độ công du, hội đàm với Mahatma Gandhi, đồng thời tiếp kiến lãnh tụ Hồi giáo Ấn Độ, xúc tiến cùng chống Nhật, tăng cường bang giao Trung-Ấn. Tháng 8, Tưởng Giới Thạch đến các nơi như Lan Châu, Tây Ninh tuần thị. Tháng 10, Hoa Kỳ, Anh Quốc và Na Uy tuyên bố từ bỏ quyền tài phán lãnh sự và đặc quyền hữu quan tại Trung Quốc. Tưởng Giới Thạch tiếp nhận thỉnh cầu của quân Anh tại Miến Điện, phái quân viễn chinh sang Miến Điện chi viện liên minh Anh-Mỹ tác chiến với quân Nhật. Tháng 1 năm 1943, Tưởng Giới Thạch công bố đến quốc dân toàn quốc, khuyến khích nỗ lực tự lập tự cường sau khi phế bỏ các điều ước bất bình đẳng. Tháng 10, bốn quốc gia là Trung Quốc, Hoa Kỳ, Anh Quốc và Liên Xô tại Moskva ký kết tuyên bố chung, mặt trận phản xâm lược ngày càng được củng cố. Tháng 11, Tưởng Giới Thạch đến Cairo, cùng Roosevelt và Churchill cử hành hội nghị, thương lượng phương thức tác chiến liên hiệp, và các điều kiện hậu chiến như trao trả các lãnh thổ bị mất của Trung Quốc. Tháng 12, Trung Quốc tuyên bố Công báo Liên hiệp Hội nghị Cairo Trung-Mỹ-Anh. Tháng 10 năm 1944, phát động trăm nghìn thanh niên tri thức tòng quân. Tháng 2 năm 1945, ba cường quốc Hoa Kỳ, Anh và liên Xô cử hành hội nghị tại Yalta. Tháng 10, kỷ yếu hội đàm Quốc-Cộng được công bố. Tháng 12, Tưởng Giới Thạch cùng phu nhân đến Bắc Bình, Nam Kinh tuần thị. Trước đó, vào ngày 14 tháng 8, Chính phủ Trung Quốc và Chính phủ Liên Xô ký kết Điều ước Đồng minh Hữu hảo Trung-Xô. Ngày 17 tháng 9, "Giải phóng nhật báo" tại Diên An tuyên bố "Kẻ thù chung của nhân dân Tưởng Giới Thạch phát ra tín hiệu nội chiến". Ngày 20 tháng 10, Ngoại Mông Cổ cử hành công dân đầu phiếu, kết quả là nhân dân Ngoại Mông Cổ tán thành độc lập, Ngày 5 tháng 1 năm 1946, Chính phủ Quốc dân thừa nhận Ngoại Mông Cổ độc lập. === Nội chiến tái diễn === Tháng 8 năm 1945, Tưởng Giới Thạch gửi điện hẹn Mao Trạch Đông đến Trùng Khánh hội đàm, Mao Trạch Đông lưu lại đó hơn một tháng rồi về Diên An. Ngày 14 tháng 8, Tưởng Giới Thạch gửi điện mời đầu tiên, viết rằng Nhật Bản đã đầu hàng, cục diện hòa bình vĩnh viễn cho thế giới có thể thực hiện, các vấn đề trọng yếu của quốc tế và quốc nội cần giải quyết gấp, mời Mao đến bồi đô cùng thương thảo. Dưới áp lực dư luận quốc tế và quốc nội, ngày 31 tháng 12 năm 1945 Tưởng Giới Thạch buộc phái ký kết "Hiệp nghị về biện pháp đình chỉ xung đột quan sự quốc nội". Tháng 3 năm 1946, Hoa Kỳ trao Huân chương Công lao hạng đặc biệt cho Tưởng Giới Thạch. Tháng 4, ông lần lượt đến Quý Dương, Thành Đô, thăm hỏi dân chúng. Tháng 5, Chính phủ Quốc dân dời đô về Nam Kinh, Tướng dẫn nhân viên dân sự và quân sự trước Lăng Tôn Trung Sơn cử hành lễ tắng lợi hoàn đô. Ông diễn thuyết với dân chúng thủ đô về tính cấp thiết của việc kiến quốc sau chiến tranh. Tháng 6, ông lần lượt tuần thị Thẩm Dương, Trường Xuân, Bắc Bình. Ngày 16 tháng 6, ông thiết lập Trường quân sự Hải quân tại Thượng Hải, bản thân kiêm nhiệm hiệu trưởng. Lúc 8h sáng ngày 18 tháng 3 năm 1946, Tưởng Kinh Quốc đến Cơ Long, lần đầu tiên đặt chân lên đất Đài Loan, do Tư lệnh Sử Hoành Hi đi cùng thị sát. Tháng 9, Tưởng Giới Thạch tiếp kiến đoàn thăm hỏi từ Đài Loan; tháng 10, Tưởng Giới Thạch cùng phu nhân đến Đài Loan tuần thị; tháng 12, Tưởng Giới Thạch và nhân sĩ Đảng Thanh niên Trung Quốc cùng Đảng Dân chủ Xã hội trao đổi ý kiến về cải tổ chính phủ Quốc dân. Tháng 2 năm 1947, Tưởng Giới Thạch tuần thị Từ Châu, Trịnh Châu, đều trở về Nam Kinh trong ngày; ngày 28 tháng 2, Đài Loan phát sinh sự kiện náo loạn. Mâu thuẫn được châm ngòi vào ngày 27/2/1947 khi cảnh sát bắn chết một phụ nữ trong chiến dịch truy quét thuốc lá lậu. Tưởng Giới Thạch tuyên bố phương châm xử lý và gửi lực lượng đến hỗ trợ toàn quyền Đài Loan Trần Nghi trấn áp các cuộc nổi dậy. Trong cuộc trấn áp, quân đội Tưởng Giới Thạch đã thảm sát hàng chục ngàn người. Đến ngày nay, vẫn chưa có thống kê chính xác về số người thiệt mạng trong các cuộc trấn áp và truy quét, ước chừng từ 18.000 - 28.000 người, có số liệu khác cho rằng số người thiệt mạng là hơn 30.000 người. Tưởng Giới Thạch có ra lệnh tàn sát dân chúng hay không vẫn luôn là câu hỏi của nhiều người. Sự kiện này được lịch sử ghi lại bằng cái tên “Sự kiện 228” Tháng 1 năm 1947, George Marshall trở về Hoa Kỳ, trước đó ông từng liên hệ vấn đề Hoa Kỳ cho Trung Quốc vay mượn với việc cải tổ chính phủ. Tưởng Giới Thạch khó mà chấp nhận cưỡng bách của Hoa Kỳ nên không nhận được viện trợ vay mượn, cùng với đó dư luận đều cho rằng Trung Quốc có thể sẽ bị bắt nạt. Ngày 23 tháng 1, Chính phủ Quốc dân bổ nhiệm Tưởng Giới Thạch kiêm nhiệm hiệu trưởng Đại học Chính trị Quốc lập. Cuối tháng hai, Tưởng Giới Thạch hạ lệnh trục xuất đại biểu đàm phán của Đảng cộng sản Trung Quốc trú tại các địa phương như Nam Kinh, Thượng Hải, Trùng Khánh, cuối cùng đóng cánh cửa hòa đàm. Ngày 1 tháng 3, Tưởng Giới Thạch chủ trì cử hành hội nghị Ủy ban Quốc phòng Tối cao, quyết định: chuẩn thuận Viện trưởng Hành chính viện Tống Tử Văn từ chức; Tưởng Giới Thạch kiêm nhiệm Viện trưởng Hành chính viện, Trương Quần nhậm chức phó viện trưởng; Đại học Chính trị Trung ương và Trường Cán bộ Trung ương hợp nhất cải tổ thành Đại học Chính trị Quốc lập, Tưởng Giới Thạch kiêm nhiệm hiệu trưởng. Ngày 4 tháng 7, tại Hội nghị Quốc vụ lần thứ sáu thông qua đề nghị của Tưởng Giới Thạch về tổng động viên toàn quốc nhằm bình định cộng sản, sau đó lại công bố "lệnh diệt cộng dẹp loạn". Ngày 18 tháng 5, nhằm thống nhất tổ chức đảng đoàn, Tưởng Giới Thạch ban bố "thư thông cáo đồng chí đảng đoàn", kêu gọi hợp nhất tổ chức đảng đoàn, tạo thành động lực dẹp loạn kiến quốc, đặc biệt là trong bối cảnh cấp thiết đương thời. Ngày 29 tháng 11, Tưởng Giới Thạch đi máy bay từ Bắc Bình về Nam Kinh. Tháng 7 năm 1947, Hội nghị Quốc vụ thông qua thi hành phương án tổng động viên toàn quốc, Tưởng Giới Thạch đích thân chủ trì, đồng thời phát biểu cần phải thực thi tổng động viên toàn quốc để "cứu giúp nhân dân trong khu vực cộng sản chiếm lĩnh, bảo vệ sinh tồn dân tộc, củng cố thống nhất quốc gia, dẹp yên Đảng Cộng sản Trung Quốc, thực thi hiến chính theo kế hoạch". Tháng 11, Tưởng Giới Thạch được bầu làm đại biểu Quốc dân đại hội đại diện cho huyện Phụng Hóa quê nhà. Ngày 4 tháng 4 năm 1948, Tưởng Giới Thạch lấy thân phận tổng tài chủ trì triệu tập Đại hội Toàn thể Trung ương Quốc dân Đảng, thảo luận đề cử tổng thống, phó tổng thống, ủy viên trung ương nhất trí ủng hộ Tưởng Giới Thạch là ứng cử viên tổng thống; Tưởng Giới Thạch phát biểu: Tổng thống khóa một không nhất định bầu ra từ trong đảng ta, cần bầu người ngoài đảng; người ngoài đảng có các điều kiện sau đây có thể được bầu: trung thành với hiến pháp, nỗ lực thi hành hiến chính, có tinh thần dân chủ, có tư tưởng quốc gia dân tộc, có nhận thức sâu sắc đối với văn hóa lịch sử Trung Quốc. Ngày 19 tháng 4, Quốc dân đại hội khóa một bầu cử tổng thống, Tưởng Giới Thạch được bầu làm tổng thống thứ nhất của Trung Hoa Dân Quốc; ngày 20 tháng 5, Tưởng Giới Thạch tại lễ đường Quốc dân đại hội nhậm chức tổng thống; tháng 7, Tưởng Giới Thạch đi máy bay đến tuần thị huyện Kỷ, Từ Châu, có chỉ thị với chiến sự khu vực ngập lụt Hoàng Hà。 Ngày 31 tháng 12 năm 1948, Tưởng Giới Thạch triệu tập nhân sĩ trọng yếu trong đảng, chính quyền và quân đội, nghiên cứu văn cáo từ chức, soạn bốn dự thảo. Năm 1949, tình thế Chiến tranh Quốc-Cộng chuyển biến xấu cho phái Quốc dân Đảng, chức vụ tổng thống của Tưởng Giới Thạch vừa mới có được, do quân sự-chính trị thất bại toàn diện nên lung lay. Ngày 24 tháng 1, Trung ương Quốc dân Đảng ra "Thông báo tuyên truyền khẩn cấp đặc biệt" nói rằng "tổng tài tuy tạm không thi hành chức quyền tổng thống, song vẫn dùng địa vị tổng tài lãnh đạo bản đảng" ==== Mất chức lần ba ==== Tháng 3 năm 1947, Tưởng Giới Thạch hạ lệnh hơn 20 vạn người dưới quyền Hồ Tông Nam tiến vào miền bắc Thiểm Tây, ngày 19 tháng 3 chiếm lĩnh Diên An, song nơi này đã bị bỏ hoang nên thắng lợi là không thực sự. Tháng 7, Tưởng Giới Thạch tuần thị Khai Phong; tháng 8, ông tuần thị Diên An; tháng 9, Tưởng Giới Thạch từ Cổ Lĩnh trở về Nam Kinh, quyết định vấn đề hợp nhất Đảng và Đoàn Thanh niên, hội nghị thông qua cương lĩnh tổ chức Trung Quốc Quốc dân Đảng hiện hành, thực thi thống nhất tổ chức đảng đoàn, nhằm tăng cường lực lượng cách mạng. Ông cũng tuần thị Bắc Bình, Thẩm Dương. Tháng 10, Tưởng Giới Thạch đến Thanh Đảo tuần thị. Sang tháng 11, ông lại đến tuần thị Bắc Bình, lập quy hoạch tiêu diệt lực lượng quân sự của Đảng Cộng sản Trung Quốc, đồng thời tập hợp nhân sĩ giới giáo dục Bắc Bình đàm thoại. Tháng 12, ông tuần thị Vũ Hán, chỉ thị công tác phòng thủ. Chi tiêu quân sự lớn khiến tài chính kinh tế bên bờ sụp đổ, thiếu hụt ngân sách vào năm 1947 đạt đến 90% tổng chi ngân sách, gây ra lạm phát phi mã và vật giá tăng cao. Tháng 1 năm 1948, Tưởng Giới Thạch tiếp kiến nhân sĩ biên cương chùa Labrang, tỉnh Thanh Hải, lắng nghe tình hình chính trị biên cương và đau khổ của nhân dân vùng biên; cùng tháng ông đi tuần thị Thẩm Dương. Tháng 2, Tưởng Giới Thạch tuần thị Bắc Bình; tháng 4, ông tập hợp các hiệu trưởng đại học đến nam Kinh, hỏi thăm tình hình các đại học, đồng ý tìm cách gia tăng kinh phí giáo dục. Tưởng Giới Thạch lệnh cho quốc quân, cảnh sát, hiến binh, đặc vụ tăng cường thống trị và trấn áp, khu vực do Chính phủ Trung Hoa Dân Quốc kiểm soát lâm vào "khủng bố trắng". Ngày 28 tháng 6, Tưởng Giới Thạch từ Tây An qua Trịnh Châu đi máy bay về Nam Kinh. Tháng 10, Tưởng Giới Thạch đến Bắc Bình triệu tập hội nghị tướng lĩnh cao cấp, đồng thời lần lượt tuần thị công tác phòng thủ Thẩm Dương, Lư Câu Kiều, Thiên Tân, Đường Cô, Hồ Lô Đảo; ông lại đến tuần thị Thẩm Dương, Bắc Bình; tuần thị Thừa Đức rồi từ Bắc Bình về Nam Kinh. Tài chính kinh tế hoàn toàn phá sản, tiền giấy "kim viên khoán" nhanh chóng bị giảm giá thành giấy vụn, xã hội càng thêm náo loạn bất ổn. Tháng 12, Tưởng Giới Thạch ban lệnh toàn quốc thi hành giới nghiêm; Tống Mỹ Linh cùng tháng hội kiến Tổng thống Hoa Kỳ Harry S. Truman; Lý Tông Nhân, Trình Tiềm thừa cơ tình thế quân sự nghịch chuyển, bỗng chủ trương hòa đàm, và Bạch Sùng Hy từ Hán Khẩu gửi bức điện "hợi kính", thúc giục chính phủ kiến tạo hòa bình, thực ra là buộc Tưởng Giới Thạch từ chức. Tháng 1 năm 1949, Tưởng Giới Thạch tiếp kiến Tôn Khoa, Trương Quần, thương lượng cục thế chính trị. Ngày 10 tháng 1, ông lệnh cho Ngân hàng Trung ương lấy vàng dự trữ trong kho dời sang Đài Loan. Khi Tưởng Giới Thạch khảo sát về việc từ chức, cũng cùng với thiểu số thân tín thảo luận vấn đề pháp luật, làm thế nào để bảo lưu chức vụ tổng thống. Ngày 21 tháng 1 năm 1949, trong Hội nghị lâm thời Ủy ban Thường vụ Trung ương Quốc dân Đảng, Tưởng Giới Thạch tuyên bố tạm thời rút lui, đồng thời ra tuyên cáo; đến buổi chiều Tưởng Giới Thạch đi chuyên cơ rời Nam Kinh đến Hàng Châu, về quê nhà tại huyện Phụng Hóa. Ngày 22 tháng 1, Tưởng Giới Thạch về đến quê nhà Khê Khẩu. Tháng 3, ông nghiên cứu vấn đề cải cách công tác đảng, phân ra tiến hành ba giai đoạn là chính lý, cải tạo, tân sinh, thời kỳ quá độ trước tiên thiết lập ủy ban bất thường xử lý công tác đảng. ==== Triệt thoái Đài Loan ==== Tháng 4 năm 1949, Tưởng Giới Thạch vẫn đứng sau hậu trường để chỉ huy, cự tuyệt tiếp nhận "Hiệp định Hòa bình Quốc nội" do đại biểu hai bên Quốc-Cộng đàm phán phác thảo ra. Tưởng Giới Thạch mặc dù từ chức tổng thống song vẫn giữ chức vụ tổng tài Quốc dân Đảng. Tháng 4, Chính phủ tuyên bố kiên quyết chiến đấu; Tưởng nhận thấy đại cục nghiêm trọng nên vào ngày 22 tháng 4 từ Khê Khẩu đến Hàng Châu thương thảo với Lý Tông Nhân, Hà Ứng Khâm, quyết định thiết lập ủy ban bất thường trong đảng, Tưởng Giới Thạch lấy thân phận tổng tài chủ trì liên hệ đảng- chính quyền, để Hà Ứng Khâm làm tổng tư lệnh lục-hải-không quân, quyết định chính phủ từ nay về sau đối với Đảng Cộng sản Trung Quốc chỉ có kiên quyết chiến đấu, phấn đấu đến cùng vì tự do nhân dân và độc lập quốc gia. Tháng 5, Tưởng Giới Thạch từ Quần đảo Chu Sơn đi máy bay đến Mã Công thuộc Bành Hồ. Ngày 23 tháng 4, Tưởng Giới Thạch trở về Khê Khẩu. Ngày 25 tháng 4, Tưởng Giới Thạch bái biệt mộ mẹ, sau đó đi lên núi Phượng Hoàng, nhìn toàn cảnh quê hương lần cuối. Cha con Tưởng Giới Thạch rời Khê Khẩu, sau đó đi thuyền đến Thượng Hải. Ngày 26 tháng 4, Tưởng Giới Thạch mạo hiểm đến Thượng Hải chỉ huy quân sự, trú tại đảo Phục Hưng trên sông Hoàng Phố. Tuy nhiên, trước đà tấn công nhanh và mạnh của Quân Giải phóng Nhân dân, 20 vạn Quốc quân có ý đồ lợi dụng công sự kiên cố để tác chiến nay không còn ý chí chiến đấu. Ngày 28 tháng 4, Ủy ban Thường vụ Trung ương Quốc dân Đảng thông qua "Điều lệ tổ chức Ủy ban bất thường Trung ương" để giữ vai trò của Ủy ban Chính trị Trung ương, do Tưởng Giới Thạch làm chủ tịch, Lý Tông Nhân làm phó chủ tịch. Tuy nhiên, việc thành lập ủy ban này cũng không thể cứu vãn vận mệnh diệt vong của chính quyền Tưởng Giới Thạch. Ngày 7 tháng 5 năm 1949, Tưởng Giới Thạch lên tàu thủy khởi hành từ Thượng Hải đến quần đảo Chu Sơn, nhằm sắp xếp trước việc Quốc quân triệt thoái từ Thượng Hải. Ngày 25 tháng 5, Tưởng Giới Thạch từ Mã Công đi máy bay đến Cao Hùng, tạm thời lưu lại Thọ Sơn. Ngày 24 tháng 6, Tưởng Giới Thạch đến Đài Bắc, đến ở tại nhà khách số 1 Thảo Sơn. Tháng 7 năm 1949, Tưởng Giới Thạch đứng đầu, cùng các đảng phái liên danh ra tuyên ngôn phản cộng cứu quốc. Ngày 10 tháng 7, Tưởng Giới Thạch từ Đài Loan sang thăm Philippines, cùng Tổng thống Philippines Elpidio Quirino hội đàm tại Baguio, hai bên ra tuyên bố chung, hiệu triệu các quốc gia Đông Á tổ chức "Liên minh Thái Bình Dương" nhằm kiềm chế uy hiếp của chủ nghĩa cộng sản. Ngày 12 tháng 7, sau khi về Đài Loan ông lập tức đến Quảng Châu, đi tàu thủy tuần thị Hạ Môn rồi trở về Đài Loan. Tháng 8, Văn phòng Tổng tài Trung Quốc Quốc dân Đảng được thành lập tại Thảo Sơn, Đài Bắc. Ngày 16 tháng 7, Tưởng Giới Thạch lấy thân phận tổng tài triệu tập Ủy ban Bất thường Trung ương Quốc dân Đảng, quy định nếu không qua ủy ban này phê chuẩn, toàn bộ sắc lệnh của Chính phủ Quốc dân đều vô hiệu. Ngày 3 tháng 8 năm 1949, Tưởng Giới Thạch đến Định Hải thuộc Chu Sơn. Trong cùng tháng, Tưởng Giới Thạch lại đến Quảng Châu triệu tập hội nghị quân sự, phác thảo kế hoạch phản công; ông cũng bay đến Trùng Khánh, chủ trì hội nghị nhân viên quân chính, từ Trùng Khánh đến Thành Đô tuần thị, ở lại trong 5 ngày rồi về Trùng Khánh. Tưởng Giới Thạch trao đổi với nhân viên trọng yếu đảng-chính quyền thương thảo quốc sự, chỉ ra từ nay về sau đại bộ phận lực lượng sẽ hành sự tại hậu phương Đảng Cộng sản Trung Quốc. Tháng 10, Tưởng Giới Thạch về Đài Bắc; cùng tháng ông đi tuần thị Hạ Môn, sắp xếp công tác phòng thủ Hạ Môn, Phúc Kiến. Ngày 14 tháng 11 năm 1949, Tưởng Giới Thạch từ Đài Bắc đi máy bay đến Trùng Khánh, cùng chính phủ chung hoạn nạn. Tưởng Giới Thạch lần lượt tại Hạ Môn, Quảng Châu, Trùng Khánh tiến hành bố trí phòng ngự, trù tính dựa thế hiểm chống cự, song các lộ quân đều chiến bại như núi lở. Ngày 29 tháng 11, Tưởng Giới Thạch triệu tập hội nghị quân sự, quyết định kế hoạch tác chiến mới, tiếng súng bùng lên, xưởng công binh phát nổ, bèn quyết định đến sân bay. Ngày 30 tháng 11, Tưởng Giới Thạch đi máy bay đến Thành Đô, ở tại Trường Quân sự Trung ương. Ngày 6 tháng 12 năm 1949, Tưởng Giới Thạch hẹn gặp Khâu Xương Vị và Lưu Sĩ Nghị, đề nghị hai người theo chính phủ đến Tây Xương trước. Đến tối, Tưởng Giới Thạch nhận thấy Tây Xương quyết không thể làm nơi Chính phủ Quốc dân lưu lại. Ngày 7 tháng 12, Tưởng Giới Thạch chỉ thị Diêm Tích Sơn chuẩn bị đến tối thì rời khỏi Thành Đô. Tưởng Giới Thạch lập tức quyết định Chính phủ Quốc dân dời đến Đài Bắc, chỉ thị Hành chính viện triệu tập hội nghị khẩn cấp. Đến tối, Hành chính viện cử hành hội nghị, thông qua việc Chính phủ Quốc dân dời đến Đài Bắc, tức thì ban bố "lệnh tổng thống": "Chính phủ chuyển đến Đài Bắc, đồng thời lập đại bản doanh tại Tây Xương, thống soái lục-hải-không quân tại Đại lục chỉ huy tác chiến." Ngày 10 tháng 12, Tướng đi máy bay đến Đài Bắc. == Thời kỳ cuối đời == Tưởng Giới Thạch từng liên tục nhậm chức tổng thống và tổng tài Quốc dân Đảng. Từ thời trung niên, ngoại trừ tình huống đặc biệt, Tưởng Giới Thạch về cơ bản không uống rượu, không hút thuốc lá, thi hành nghiêm ngặt quy tắc sinh hoạt khuôn mẫu. Tưởng Giới Thạch cũng chuyên tâm thành lập "Ủy ban Công tác Địch hậu" và "Bộ Tổng chỉ huy Du kích Đại lục" để phụ trách cụ thể hoạt động xâm nhập quấy nhiễu Trung Quốc đại lục. Tưởng Giới Thạch sinh hoạt gần như bủn xỉn, số táo ăn phải được kiểm kê; một bộ y phục thông thường mặc trong 5-6 năm, lúc bình thường không mặc y phục có chất liệu cao cấp, trừ trường hợp cá biệt đi thăm viếng thì không mặc Âu phục. Đồng thời, ông cho xây dựng hơn 30 hành quán tại Đài Loan, có chỗ ông chưa ở qua lần nào. Tưởng Giới Thạch nghĩ cách khiến Lý Tông Nhân về Đài Loan từ chức, song họ Lý dùng nhiều biện pháp để thoái thác. Tháng 2 năm 1950, cử hành hội nghị liên tịch của Ủy ban Thường vụ Trung ương, Ủy ban Giám sát Tung ương, Ủy ban Chính trị Trung ương, Ủy ban Bất thường Trung ương Trung Quốc Quốc dân Đảng, do Lý Tông Nhân bỏ chức vụ ra ngoại quốc, thiếu người chỉ huy then chốt, nên nhất trí yêu cầu mời Tưởng Giới Thạch sớm khôi phục chức quyền hành pháp, đứng ra làm chủ chính sự, hơn 300 ủy viên lập pháp cũng liên danh gửi điện thỉnh cầu. Ngày 1 tháng 3, Tưởng Giới Thạch tuyên bố phục hồi đảm nhiệm chức vụ tổng thống, đồng thời ra thông cáo, nói về nguyên nhân tiến thoái, rằng lúc này đang nguy cấp, được quốc dân đồng bào trao cho trách nhiệm, thấy không thể thoái thác nên quyết định phục chức. Tưởng Giới Thạch sau khi phục hồi chức vụ hành pháp, cùng với ủy viên trung ương và đại biểu dân ý trao đổi ý kiến về sự nghiệp chống cộng, công bố trọng điểm hành pháp. Ngày 28 tháng 2, Ủy ban Thường vụ Trung ương Trung Quốc Quốc dân Đảng triệu tập tại Đài Bắc, thảo luận cuối cùng về việc phục chức; Tưởng Giới Thạch tại hội nghị nói rằng trong một năm qua, sức khỏe của ông trông có vẻ giống như trước song trí nhớ đã cao hơn Tháng 3 năm 1950, Tưởng Giới Thạch thị sát Căn cứ Hải quân Tả Doanh. Tháng 4, Tổng hội cứu tế đồng bào gặp nạn Trung Quốc đại lục được thành lập. Ngày 5 tháng 4, căn cứ chỉ thị của Tưởng Giới Thạch, Hành chính viện quyết định cho phạm nhân Sự kiện 28 tháng 2 năm 1947 nhanh chóng bảo lãnh. Tưởng Giới Thạch dựa vào vị trí chiến lược của Đài Loan, một lần nữa nhận được ủng hộ và che chở của Hoa Kỳ. Tưởng Giới Thạch không ngừng tuyên bố phải "phản công Đại lục", cự tuyệt kiến nghị hai đảng hiệp thương "giải phóng hòa bình Đài Loan" do Đảng Cộng sản Trung Quốc đề xuất. Ngày 31 tháng 10 năm 1952, "Đoàn Thanh niên Phản cộng Cứu quốc Trung Quốc" tuyên bố thành lập, Tưởng Giới Thạch kiêm nhiệm đoàn trưởng. Ngày 26 tháng 1 năm 1953, Tưởng Giới Thạch công khai tuyên bố "thực thi điều lệ người cày có ruộng". Ngày 8 tháng 2 năm 1955, Tưởng Giới Thạch tuyên bố với đồng bào trong và ngoài nước, bày tỏ để phối hợp với chiến lược mới, sắp xếp lại trận tuyến Quốc quân, sẽ triệt thoái khỏi Quần đảo Đại Trần, di chuyển binh lực, tăng cường công tác phòng thủ Kim Môn, Mã Tổ Tháng 2 năm 1954, tháng 2 năm 1960, tháng 2 năm 1966, tháng 2 năm 1972, Quốc dân Đại hội cử hành các hội nghị lần thứ 2, 3, 4, 5, Tưởng Giới Thạch được bầu liên tục nhậm chức tổng thống. Tháng 10 năm 1957, tháng 11 năm 1963, tháng 3 năm 1969, Trung Quốc Quốc dân đảng cử hành Đại hội Đại biểu Toàn quốc lần thứ 8, 9, 10, đều thông qua việc mời Tưởng Giới Thạch liên nhiệm chức tổng tài, đồng thời chế định cương lĩnh chính trị và cương lĩnh công tác giai đoạn hiện hành. Đài Loan có bước nhảy vọt về các hạng mục kiến thiết, không chỉ là tỉnh kiểu mẫu chủ nghĩa Tam Dân, việc phổ cập toàn diện giáo dục quốc dân trên đảo có thể là hình mẫu để các quốc gia trên thế giới học tập. Đài Loan bắt đầu xây dựng kinh tế, mục tiêu là gia tăng sản xuất nông nghiệp, công nghiệp. Dưới quyền lãnh đạo của chính quyền Tưởng Giới Thạch, Đài Loan trên các phương diện đều có sự kiến thiết, có ảnh hưởng sâu rộng là thi hành giáo dục nghĩa vụ quốc dân trong chín năm, giảm tô còn 37,5%, người cày có ruộng. Ngoài ra, còn có thi hành cơ giới hóa nông nghiệp và cải tiến kỹ thuật nông nghiệp, phát triển ngư nghiệp viễn dương, xây dựng nhà máy kiểu mới, xây dựng nhà ở quốc dân, hồ chứa nước quy mô lớn, cầu vượt biển và vượt sông cùng đường xá các địa phương, đồng thời thực thi việc bầu cử huyện-thị trưởng và nghị viên cấp tỉnh, cử hành đại hội cư dân cấp thôn tại địa phương. Là một nhân vật chính trị, rất nhiều hoạt động của Tưởng Giới Thạch có xuất phát điểm là thực hiện mục tiêu chính trị do ông đặt ra, do đó, quan điểm văn hóa của ông có tính chất chính trị mạnh mẽ. Chỉ có thông qua bức màn chính trị, nhìn sâu ý nghĩa văn hóa của nó, mới có thể hiểu được việc trong hành trình lịch sử Trung Quốc hiện đại xuất hiện hiện tượng Tưởng Giới Thạch, đưa ra đánh giá khoa học. Ngày 1 tháng 2 năm 1967, Tưởng Giới Thạch công khai tuyên bố lập Hội nghị An ninh Quốc gia thời kỳ động viên dẹp loạn, do Hoảng Thiểu Cốc làm bí thư trưởng. Ngày 28 tháng 7, các giới Đài Loan cử hành đại hội thành lập Ủy ban Thi hành Vận động Phục hưng Văn hóa Trung Hoa, Tưởng Giới Thạch nhậm chức hội trưởng, vận động phục hưng văn hóa Trung Hoa lập tức thi hành. Tưởng Giới Thạch liên kết chặt chẽ chính trị và văn hóa, khiến Trung Quốc hiện đại đã sản sinh một loại văn hóa phụ thuộc vào thể chế quyền uy chính trị, đồng thời cũng rèn đúc ra một lực lượng văn hóa mới tích cực dấn thân vào phản đối chính trị đen tối, chính trị hiện thực. Xây dựng văn hóa đơn thuần và nhân vật văn hóa tuần túy khó mà có chỗ đứng trong xã hội, đó là kết quả tất yếu của việc Tưởng Giới Thạch chính trị hóa văn hóa. Ngày 25 tháng 10 năm 1971, do hoàn cảnh quốc tế chuyển biến, tình hình ngoại giao ngày càng nguy khốn, Trung Hoa Dân Quốc rời khỏi Liên Hiệp Quốc. Trước ảnh hưởng của Trung Quốc đại lục đối với các quốc gia thế giới thứ ba cùng tình hình quốc tế phát triển và biến hóa, tại Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc khóa XXVI, Trung Hoa Dân Quốc bị trục xuất. Ngày 26 tháng 10, Tưởng Giới Thạch ra "thư thông cáo đồng bào toàn quốc", tuyên bố thi hành chủ quyền độc lập, quyết không chịu quấy nhiễu từ bên ngoài. Ngày 5 tháng 4 năm 1975, Tưởng Giới Thạch đột ngột phát bệnh tim, đến 11:50' tối thì từ trần tại dinh thự Sỹ Lâm. Ngày 16 tháng 4, cử hành lễ bái truy điệu, các nước có bang giao đều cử đoàn đại biểu đến viếng. Linh cữu của Tưởng Giới Thạch được tạm đặt tại phòng chính Nhà khách Từ Hồ tại Đại Khê, Đào Viên, đợi sau khi tái chiếm Đại lục sẽ di chuyển. == Đánh giá == Trung Quốc Quốc dân Đảng nhận định, sau khi Tôn Trung Sơn mất, Tưởng Giới Thạch lãnh đạo Chính phủ Quốc dân và Quốc dân Cách mạng Quân Bắc phạt, diệt trừ Quân phiệt Bắc Dương, thống nhất Trung Quốc đại lục trên danh nghĩa, kết thúc quân phiệt cát cứ và Nam-Bắc phân liệt, bảo vệ nền cộng hòa, tái lập Trung Hoa Dân Quốc. Năm 1947, ông thực thi thể chế hiến chính lấy hiến pháp ngũ quyền làm cơ sở. Tưởng Giới Thạch có địa vị trọng yếu trong lịch sử Trung Quốc cận đại, kế thừa Tôn Trung Sơn làm lãnh tụ, lãnh đạo đảng, chính quyền và quân sự của Trung Quốc Quốc dân Đảng. Ngày 7 tháng 7 năm 1937, quân Nhật xâm chiếm Lư Câu Kiều, chiến sự bùng phát, Tưởng Giới Thạch phái binh về phía bắc. Tưởng lựa chọn tổng đối sách là "phương châm không khuất phục, không khuếch đại". Đầu tháng 10 năm 1942, Tưởng Giới Thạch thúc giục Hoa Kỳ tiên phong tự động từ bỏ điều ước bất bình đẳng đối với Trung Quốc, đến ngày 9 tháng 10 Hoa Kỳ, Anh Quốc báo tin cho Tưởng Giới Thạch về nguyện cùng Trung Quốc đàm phán về điều ước mới. Tưởng Giới Thạch đề xướng "dân chủ hóa chính trị, quốc gia hóa quân đội", triệu tập hội nghị hiệp thương chính trị. Thời kỳ Quốc dân Đảng chấp chính trong thế kỷ 20, Chính phủ Trung Hoa Dân Quốc sùng bái cá nhân với Tưởng Giới Thạch, và Trung Chính cùng Giới Thọ là các tên đường thường thấy nhất tại Đài Loan. Ngoài ra, tượng đồng Tưởng Giới Thạch còn xuất hiện nhiều tại các nhà ga, trường học các cấp và cơ quan công cộng. Hình vẽ Tưởng Giới Thạch xuất hiện phổ biến trên tiền giấy và tiền xu Tân Đài tệ. Ngày 1 tháng 11 năm 2007, Chủ tịch Quốc dân Đảng Mã Anh Cửu phát biểu nhận định cống hiến của Tưởng Giới Thạch đối với Đài Loan có ba phương diện: Thu hồi Đài Loan, kiến thiết Đài Loan và bảo vệ Đài Loan. Trên phương diện kiến thiết, ngoại trừ cải cách ruộng đất, giáo dục quốc dân 9 năm và phát triển kinh tế, ông còn không do dự thúc đẩy tự trị địa phương, có cống hiến to lớn cho nền tảng dân chủ Đài Loan. Tưởng còn ủng hộ giải phóng phụ nữ, phế trừ chế độ con dâu trẻ em, có cống hiến to lớn cho tiến bộ nhân quyền của Đài Loan. Nếu như Tưởng Giới Thạch không kiên quyết giữ Đài Loan, Đài Loan có khả năng rơi vào bức màn sắt của Đảng Cộng sản Trung Quốc, không có được phát triển kinh tế và phổ cập giáo dục sau này. Mã Anh Cửu nói rằng cống hiến lớn nhất của Tưởng Giới Thạch là chế định và thực thi hiến pháp Trung Hoa Dân Quốc, vì nó bao hàm toàn Trung Quốc nên hiện tại là căn cứ trọng yếu để xử lý quan hệ hai bờ eo biển Đài Loan. Đảng Cộng sản Trung Quốc định nghĩa Tưởng Giới Thạch là nhân vật phản diện, phê phán Tưởng Giới Thạch trong chiến tranh kháng Nhật "kháng chiến tiêu cực, chống cộng tích cực". Đảng Cộng sản Trung Quốc và một bộ phận học giả đưa Tưởng Giới Thạch vào hạng tội phạm chiến tranh và kẻ bán nước số 1 Trung Quốc. Mưu kế chính trị và cách thống trị độc đoán của ông cũng bị phê bình. Tháng 6 năm 1826, Tưởng Giới Thạch sắp đặt "sự kiện tàu Trung Sơn". Năm 1929, Tưởng Giới Thạch lấy danh nghĩa giải trừ quân sự để trù tính tướng giảm các phái quân đội khác. Sau sự kiện 18 tháng 9 năm 1931, Tưởng Giới Thạch nhượng bộ chủ nghĩa đế quốc Nhật Bản xâm lược vũ trang, trong khi gia tăng trấn áp Đảng Cộng sản Trung Quốc. Tưởng Giới Thạch cho rằng muốn dẹp trừ ngoại bang phải an định quốc nội trước, tiếp tục nội chiến chống cộng, lần lượt tiến hành năm cuộc vây diệt căn cứ địa cách mạng và hồng quân Công nông của Đảng Cộng sản Trung Quốc. Thời kỳ Chiến tranh kháng Nhật, dưới quyền thống soái của Tưởng Giới Thạch, Quân đội Trung Quốc lần lượt tác chiến tại Tùng Hỗ, Hán Khẩu, Nam Kinh, Từ Châu, Vũ Hán, Trường Sa, Nam Xương, ngăn chặn bước tiến của quân Nhật. Tưởng Giới Thạch phản đối "Đài Loan độc lập", "Quốc tế ủy trị", và "hai nước Trung Quốc", kiên trì lập trường một nước Trung Quốc. Từ thập niên 1990 trở về trước, Tưởng Giới Thạch bị Đảng Cộng sản Trung Quốc phê phán là "kẻ đâm chém lưu manh", hóa thân thế lực cũ", "công cụ của quân phiệt", "kẻ thù của quần chúng", "phản cách mạng", "phản động", "vô sỉ", "đại biểu của các thế lực phản động chủ nghĩa đế quốc Mỹ, giai cấp địa chủ phong kiến, giai cấp tư sản quan liêu, giai cấp mại bản". Chủ tịch Đảng Cộng sản Trung Quốc Mao Trạch Đông đánh giá Tưởng Giới Thạch là "đại biểu chính trị của giai cấp đại địa chủ đại tư sản", "đầu sỏ phát-xít Trung Quốc". Tháng 12 năm 1971, Mao Trạch Đông khi đàm thoại nội bộ có nói "Tưởng Giới Thạch có một số ưu điểm là sự thực lịch sử khách quan, chúng ta giảng sử cần phải lưu tâm, một là Bắc phạt thống nhất Trung Quốc, hai là Chiến tranh kháng Nhật, ba là thu hồi Đài Loan-Bành Hồ, bốn là mở mang biên cương trên biển. Năm 1946, Tưởng thu hồi các đảo Nam Hải từ trong tay Pháp, vùng biển 3,7 triệu km² đó tương đương với ba lần Ngoại Mông...". Chu Ân Lai nhiều lần thay mặt Chính phủ nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa ky vọng Tưởng Giới Thạch trở về Đại lục, thưc hiện thống nhất toàn quốc, nói rằng Tưởng Giới Thạch và tập đoàn của ông ta là người Trung Quốc và không muốn thấy phân ly vĩnh viễn giữa người Trung Quốc. Sau khi Tưởng Giới Thạch từ trần, lăng mộ Từ Hồ và Nhà kỷ niệm Trung Chính có Đội danh dự Quốc quân Trung Hoa Dân Quốc đứng gác, nghỉ một ngày vào ngày mất của ông (trùng với tiết Thanh minh). Đương thời, chính phủ quy định khi hành văn phải kiêng kỵ mà gọi ông là "Tưởng công", nhằm thể hiện ý súng kính đối với ông. Tại Đài Loan, sau khi giải trừ giới nghiêm năn 1987, chính trị dân chủ hóa, chủ nghĩa tự do và chủ nghĩa cá nhân thịnh hành trong xã hội, đánh giá của dân chúng đối với Tưởng Giới Thạch dần từ "thần thánh hóa" trở về bình thường hóa. Nhiều người bắt đầu truy cứu trách nhiệm của Tưởng Giới Thạch trong Sự kiện 28 tháng 2 năm 1947 và thời kỳ khủng bố trắng. Đến thời kỳ Đảng Dân Tiến cầm quyền, Tổng thống Trần Thủy Biển nỗ lực thi loại loại bỏ ảnh hưởng của Tưởng Giới Thạch, đồng thời Nhà kỷ niệm Trung Chính được đổi tên thành Viên khu kỷ niệm Dân chủ Đài Loan, đến năm 2008 thời Tổng thống Mã Anh Cửu mới phục hồi tên cũ là Nhà Kỷ niệm Trung Chính == Bối cảnh gia đình == Tưởng Giới Thạch tự xưng là hậu duệ của Minh châu bình sự Tưởng Tông Bá của Hậu Lương (907-923), và của Quang lộc đại phu Tưởng Tuấn Minh thời Tống (960-1279). Cụ nội là Tưởng Kì Tăng 蔣祈增, tự Hoài Thịnh 懷盛; ông nội là Tưởng Tư Thiên 蔣斯千, tự Ngọc Biểu 玉表; cha là Tưởng Triệu Thông 蔣肇聰, trại hiệu Túc Am 肅庵, hoặc tự Túc Am 肅菴; mẹ là Vương Thái Ngọc 王采玉. Có thuyết cho rằng Tưởng Giới Thạch có quê quán tại Hứa Xương, Hà Nam; tiểu thuyết chương hồi "Kim lăng xuân mộng" của Nghiêm Khánh Chú sử dụng thuyết này, có nhiều ảnh hưởng tại Trung Quốc đại lục. Năm 1901, Tưởng Giới Thạch khi ấy 14 tuổi thành thân với Mao Phúc Mai 毛福梅, đến năm 1910 bà sinh Tưởng Kinh Quốc. Năm 1911, Diêu Dã Thành 姚冶誠 trở thành thiếp của Tưởng Giới Thạch. Năm 1913, khi đang ở Nhật Bản, Tưởng Giới Thạch kết bái với Đái Quý Đào thuê chung phòng. Đái Quý Đào có bạn gái là một y tá người Nhật tên là Shigematsu Kaneko, Shigematsu Kaneko cùng với hai người Đái Quý Đào và Tưởng Giới Thạch đều có "kết giao thân mật", Shigematsu Kaneko có một con trai với Đái Quý Đào, liền cho Tưởng Giới Thạch làm con nuôi, do thiếp của Tưởng là Diêu Dã Thành nuôi dưỡng, chính là Tưởng Vĩ Quốc. Ngày 14 tháng 6 năm 1921, mẹ của Tưởng Giới Thạch là Vương Thái Ngọc mất, Tưởng Giới Thạch xin về chịu tang mẹ. Ngày 5 tháng 12 năm 1921, hôn lễ giữa Tưởng Giới Thạch và Trần Khiết Như 陳潔如 được cử hành tại Lữ xã Đại Đông trong Tòa nhà Công ty Vĩnh An Thượng Hải, Trương Tĩnh Giang 張靜江 là người chứng hôn. Ngày 8 tháng 1927, Trần Khiết Như bị thuyết phục rời Thượng Hải sang Hoa Kỳ. Ngày 16 tháng 9 năm 1927, Tống Ái Linh triệu tập họp báo tại Thượng Hải, công khai tuyên bố "Tưởng tổng tư lệnh sắp kết hôn với em gái thứ ba của tôi". Tưởng Giới Thạch sang Nhật Bản diện kiến mẹ của Tống gia để cầu hôn. Ngày 28, 29 và 30 tháng 9, "Thân báo" Thượng Hải liên tục đăng bài nhan đề "Tưởng Trung Chính khải sự" nói rằng ông độc thân vì đã sớm chia lìa với Mao Phúc Mai, còn Diêu Dã Thành và Trần Khiết Như là thiếp, không có hôn thú Ngày 1 tháng 12 năm 1927, Tưởng Giới Thạch lúc này 40 tuổi và Tống Mỹ Linh lúc này 30 tuổi kết hôn tại Thượng Hải. Ngày hôm đó, số báo "Thân báo" Thượng Hải đăng hai bài viết bố cáo, một là hôn nhân Tưởng-Tống, một là tuyên bố ly hôn của Tưởng với vợ cũ. Lễ kết hôn trước tiên theo phương thức Cơ Đốc giáo tiến hành tại nhà họ Tống, người chứng hôn là Tổng cán sự Hiệp hội Thanh niên Cơ Đốc Toàn quốc Trung Hoa Dư Nhật Chương, hôn lễ rất yên tĩnh, người tham gia có 51 người nhà và thân thích bạn hữu như Tống lão phu nhân, Tống Ái Linh, Khổng Tường Hy, Tống Tử Văn, Tống Tử Lương, Tống Tử An. Đương thời, Tống Khánh Linh đang ở Moskva, không đến tham gia; hôn lễ thế tục cử hành tại khu vực bến Thượng Hải, 4h20' chiều bắt đầu và kết thúc sau 20 phút, người chứng hôn là Viện trưởng Viện Đại học Chính phủ Quốc dân Thái Nguyên Bồi. Tưởng Giới Thạch cùng ngày phát biểu trên báo rằng "hôm nay được kết hôn với Mỹ Linh hết sức kính ái, là một ngày quang vinh nhất, hân hoan nhất từ khi sinh ra tới nay"; ông tin sâu sắc rằng đời người nếu không có nhân duyên mĩ mãn, tất cả đều vô ý vị, do đó cách mạng bắt đầu từ gia đình. Cuối cùng quy kết rằng kết hôn hôm nay thực là xây dựng cơ sở cách mạng cho hai người. Hôn nhân Tưởng-Tống là cuộc hôn nhân chính trị lớn nhất của Trung Hoa Dân Quốc, Tưởng được vợ đẹp, nắm được tài nguyên xã hội to lớn của gia tộc họ Tống, đồng thời là anh em đồng hao với Tôn Trung Sơn và Khổng Tường Hy. == Chú thích == == Liên kết ngoài == Obituary, NY Times, ngày 6 tháng 4 năm 1975, The Life of Chiang Kai-shek: A Leader Who Was Thrust Aside by Revolution ROC Government Biography Time magazine's "Man and Wife of the Year", 1937 The National Chiang Kai-shek Memorial Hall Official Site The Chungcheng Cultural and Educational Foundation Generalissimo Chiang Kai-shek Association Hong Kong Order of Generalissimo Chiang Kai-shek supplementing the Act of Surrender—by Japan on ngày 9 tháng 9 năm 1945 Family tree of his descendants (in Simplified Chinese) 1966 GIO Biographical video "The Memorial Song of Late President Chiang Kai-shek" (Ministry of National Defence of ROC) Chiang Kai-shek Biography—From Spartacus Educational The Collected Wartime Messages Of Generalissimo Chiang Kai Shek at archive.org The National Chiang Kai-shek Cultural Center Official Site Chiang Kai-shek Diaries at the Hoover Institution Archives
dãy núi rocky.txt
Dãy núi Rocky hay đơn giản là Rockies (phát âm như "Roóc-ky", đôi khi còn được biết đến với tên Rặng Thạch Sơn), là dãy núi khá rộng ở miền Tây Bắc Mỹ. Dãy núi Rocky chạy dài hơn 4.800 kilômét (3.000 dặm) từ cực bắc British Columbia (Canada) đến New Mexico (Hoa Kỳ). Đỉnh cao nhất là Núi Elbert ở Colorado cao 4.401 mét (14.440 foot) trên mực nước biển. Núi Robson ở British Columbia có độ cao 3.954 m (12.972 foot) là đỉnh cao nhất của Dãy núi Rocky phần phía Canada. Song song với dãy Rocky nhưng lui về phía tây là dãy núi Cascade và dãy núi Duyên hải Thái Bình Dương (Pacific Coast Ranges). Dãy núi Rocky hình thành cách đây 80 đến 55 triệu năm bởi biến động địa thể "Laramide" khi những mảng kiến tạo từ phía tây bị dồn vùi xuống dưới mảng Bắc Mỹ, đôn cao mặt đất sinh ra rặng núi cao. Kể từ đó, do quá trình xói mòn thiên nhiên của nước và băng mà đất đá bị rạn nứt, chỗ thì khoét sâu thành thung lũng và lòng chảo, chỗ thì tỉa gọt đỉnh núi thêm chót vót. Cuối thời kỳ băng hà gần đây nhất, con người mới đặt chân đến vùng núi Rocky; đó là thổ dân châu Mỹ. Sau đó, người gốc châu Âu, như Alexander MacKenzie, Meriwether Lewis và William Clark dần dẫn cuộc xâm nhập dãy núi, thám hiểm địa hình cùng tìm kiếm khoáng sản và lông thú (những nguồn tài nguyên giá trị rất được ưa chuộng vào thế kỷ 18-19). Cho đến nay vùng núi Rocky vẫn là miền đất tương đối thưa dân cư, không như vùng đồng bằng phía đông lục địa hay duyên hải Thái Bình Dương phía tây. Ngày nay, một phần lớn vùng núi Rocky thuộc khu vực bảo tồn thiên nhiên và vườn quốc gia, thu hút khách du lịch muốn đi bộ đường dài, cắm trại, leo núi, câu cá, săn bắt, xe đạp leo núi, trượt tuyết, và trượt ván trên tuyết. == Địa lý == Dãy núi Rocky được ấn định là rặng núi chạy dài từ sông Liard, British Columbia ở phía bắc đến sông Rio Grande, New Mexico ở phía nam. Chạy tiếp về hướng bắc sông Liard là dãy núi Selwyn ở Yukon và dãy núi Brooks ở Alaska. Xuôi về nam sông Rio Grande là dãy núi Sierra Madre México. Tất cả có thể được gom vào một rặng núi khổng lồ là rặng núi Bắc Mỹ (American cordillera), trải dài từ Alaska xuống Trung Mỹ. Ngoài chuỗi núi chính, những dãy Cabinet, Salish (thuộc Idaho và Montana), và Columbia (thuộc British Columbia) cũng là những nhánh núi phụ tỏa ra, nằm lui về phía tây sống núi chính từ trung lưu sông Flathead dàn ra đến tận phía nam sông Liard. Dãy Rocky có bề rộng từ 110 đến 480 km. Cũng như phần phía tây của Rocky Mountain Trench, đi xa về phía bắc và đối diện với dãy Muskwa cắt qua rãnh này, là dãy Stikine và Omineca Mountains thuộc hệ thống dãy núi Interior ở British Columbia.Một khu vực nhỏ phía đông Prince George, British Columbia ở sườn phía đông của Trench, là cao nguyên McGregor, giống với dãy Rocky nhưng được xem là một phần của cao nguyên Interior. Rìa phía đông của dãy núi Rocky nằm cao hơn đáng kể so với đồng bằng trung tâm ở miền trung Bắc Mỹ, gồm dãy núi Front thuộc Colorado, dãy núi sông Wind và dãy núi Big Horn thuộc Wyoming, các dãy núi Absaroka-Beartooth và Rocky Mountain Front thuộc Montana, đỉnh Dunnick (Colorado) và dãy núi Clark thuộc Alberta. Ở Canada, các nhà địa lý học định nghĩa 3 nhóm dãy núi chính gồm: Dãy núi Continental, dãy núi Hart và dãy núi Muskwa. == Khí hậu và sinh thái == Có nhiều nhân tố môi trường phân bố rộng khắp trong dãy núi Rockey. Dãy Rocky nằm ở vĩ độ giữa sông Liard ở British Columbia (59° B) và Rio Grande ở New Mexico (35° B). Đồng đỏ lớn xuất hiện ở độ cao bằng hoặc nhỏ hơn 1.800 foot (550 m), trong khi đỉnh cao nhất trong dãy núi là núi Elbert ở độ cao 14.440 foot (4.400 m). Giáng thủy dao động từ 10 inch (250 mm) mỗi năm ở các thung lũng phía nam đến 60 inch (1.500 mm) mỗi năm theo khu vực ở các đỉnh phía bắc. Nhiệt độ trung bình hàng năm có thể dao động từ 20 °F (−7 °C) ở Prince George, British Columbia đến 43 °F (6 °C) ở Trinidad, Colorado. Vì vậy, không có một hệ sinh thái nguyên khối duy nhất cho toàn bộ dãy núi Rocky. Thay vào đó, các nhà sinh thái học chia dãy núi Rocky thành một số đới sinh học. Mỗi đới được xác định nếu chúng có thể hỗ trợ cho các loại cây thân gỗ, và sự có mặt của một hoặc nhiều loài cây chỉ thị. Hai đới không hỗ trợ sự sống của cây thân gỗ là các đồng cỏ và Alpine tundra. Đại Bình nguyên Bắc Mỹ nằm ở phía đông của dãy Rocky, và đặc trưng bởi các đồng cỏ lớn (ở độ cao dưới 1.800 foot (550 m)). Alpine tundra phân bố ở những khu vực cao hơn đường ranh cây thân gỗ ở dãy núi Rocky dao động từ 12.000 foot (3.700 m) ở New Mexico đến 2.500 foot (760 m) ở đầu tân cùng phía bắc của dãy Rocky (gần Yukon). USGS xác định có 10 vùng có rừng bao phủ trong dãy Rocky. Những vùng ở phía nam, những khu vực ấm hơn, hoặc khô hơn được xác định bởi sự có mặt của các loài pinyon pine/juniper, ponderosa pine, hoặc sồi hỗn tạp với thông. Xa về phía bắc, lạnh hơn, hoặc những khu vực lạnh hơn hoặc ẩm ướt được xác định bởi sự có mặt của các loài Douglas-fir, loài thuộc dãy núi Cascade (như western hemlock), lodgepole pine/quaking aspen, hoặc fir hỗn tạp với spruce. Gần đường ranh cây thân gỗ, các đới có thể bao gồm các loài thông trắng (như whitebark pine hoặc bristlecone pine); hoặc hỗn tạp của các loài thông trắng, fir, và spruce giống như loài krummholz thân bụi. Cuối cùng, các dòng sông và hẻm vực có thể tạo thành một khu vực rừng thuần nhất ở các vùng khô hơn trong dãy núi. Dãy núi Rocky là môi trường sống quan trọng của các loài động vật hoang dã nổi tiếng như elk, nai sừng tấm châu Âu, nai đuôi đen và nai đuôi trắng, linh dương gạc nhiều nhánh, dê núit, cừu sừng to, gấu đen Bắc Mỹ, gấu đen Bắc Mỹ, sói đồng cỏ Bắc Mỹ, linh miêu, và chồn gulô. Ví dụ, đàn nai sừng tấm lớn nhất Bắc Mỹ sống trong các khu rừng đồi Alberta-British Columbia. Hiện trạng sinh tồn của hầu hết các loài ở dãy núi Rocky không được biết rõ do thông tin không đầy đủ. Những khu định cư của người Âu-Mỹ trong dãy núi đã có những ảnh hưởng tiêu cực đến các loài bản địa. Ví dụ như một vài loài đã bị suy giảm như cóc Tây Bắc Mỹ (Anaxyrus boreas), Oncorhynchus clarki stomias (cá hồi lưng xanh?), cá tầm trắng, trĩ đuôi trắng (Lagopus leucura), thiên nga kèn, và cừu sừng to. Trong phần dãy núi thuộc Hoa Kỳ, các loài động vật ăn thịt đầu bảng gấu xám Bắc Mỹ và sói xám đã bị tiêu diệt ở những nơi phân bố nguyên thủy của chúng, nhưng một phần đã được hồi phục do chính sách bảo tồn và tái du nhập. Các loài đang dần hồi phục khác như đại bàng đầu trắng và cắt lớn. == Tham khảo == == Liên kết ngoài == Các "Tỉnh" Địa chất Hoa Kỳ: Dãy Rocky – Trung tâm Khảo sát Địa chất Hoa Kỳ (USGS)