metadata
dict
passage
stringlengths
15
8.9k
id
int64
0
1.64M
{ "doc_id": "19848085", "split": 1, "title": "Chim cảnh", "token_count": 453, "url": "https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19848085" }
Title: Chim cảnh Màu lông của Chim Họa Mi thường là vàng hoặc màu hạt dẻ, phụ thuộc vào loại và vùng miền sinh sống. Để nhận biết loài chim cảnh này tại Việt Nam, bạn có thể tập trung quan sát mắt của chúng - dù màu lông có thể khác nhau, nhưng luôn có một đường viền trắng nhỏ quanh mắt. 3. Chim Chào Mào. Chim Chào Mào, một trong những loại chim cảnh được nhiều người ưa chuộng khi nuôi trong nhà, thường sống theo đàn và ăn chủ yếu là côn trung nhỏ và hoa quả. Khi xây tổ, chúng sử dụng sợi rơm để quấn quanh cây nhỏ, tạo thành một tổ hình cái cốc nhỏ. Điều nhận dạng dễ nhất của loài chim cảnh này tại Việt Nam chính là phần mào hình tam giác đặc trưng đứng lên từ đỉnh đầu, có lẽ từ đó mà tên gọi "Chào Mào" được đặt ra. Bộ lông của chúng thường có màu nâu nhạt, đặc biệt là ở phần đầu và mào. Ở Việt Nam, có hơn 20 loại Chào Mào khác nhau như Chào Mào Huế, Chào Mào Bạch, Chào Mào Nữ Hoàng, Chào Mào Bạch Tạng, và nhiều loại khác. Nếu bạn đang phân vân không biết nên chọn loài chim gì để nuôi trong nhà, thì Chào Mào có thể là một lựa chọn thú vị để tham khảo. 4. Chim Chích Chòe. Chim Chích Chòe, một trong những loài chim cảnh nhỏ phổ biến được nuôi rộng rãi tại Việt Nam, có thân hình nhỏ bé và đôi chân linh hoạt, thuần thục khi nhảy lên các cành cây. Thường thức dậy vào lúc giữa trưa hoặc tối muộn, chúng thường được chọn làm điểm trang trí âm nhạc tại các khu vực công cộng như quán cà phê, vườn chim, và các địa điểm khác. Ở Việt Nam, có hai loài Chích Chòe phổ biến là Chích Chòe Than và Chích Chòe Lửa. Hai loài này có ngoại hình khá tương đồng, tuy nhiên, vẫn tồn tại một số điểm khác biệt nhỏ giữa chúng.
1,639,000
{ "doc_id": "19848085", "split": 2, "title": "Chim cảnh", "token_count": 495, "url": "https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19848085" }
Title: Chim cảnh Chích Chòe Than có bộ lông đen đậm trải dài trên toàn bộ cơ thể, chỉ có hai vệt dài trên cánh và phần bụng màu trắng tinh khôi. Trong khi đó, Chích Chòe Lửa khác biệt ở màu vàng của phần bụng, trong khi lông phía trên cơ thể có thể nhạt màu hơn, đặc biệt là ở con cái. 5. Vẹt. Vẹt, một trong những loại chim cảnh đa dạng về chi và loài trên toàn thế giới, được ưa chuộng khi nuôi làm chim cảnh tại nhà. Chế độ ăn của chúng khá đơn giản, thường bao gồm các loại hạt, hoa quả, và thực vật. Tuy nhiên, cũng có một số loài vẹt ưa thích thức ăn là thịt sống và xác thối. Thời gian sống của loài chim này rất dài, từ 20-30 năm đối với con nhỏ, đến 60-80 năm đối với con to nếu được chăm sóc đúng cách. Trong việc nuôi chúng trong nhà, việc chọn lựa lồng hình chữ nhật hoặc vuông thường được khuyến khích, tránh sử dụng lồng hình tròn để không làm cho vẹt cảm thấy không an toàn. Vẹt được coi là loài chim cảnh đẹp và thông minh, có khả năng nhại tiếng người. Bộ lông của vẹt rất rực rỡ và đa sắc màu, có thể là đỏ, vàng, xanh, và nhiều màu sắc khác. Nuôi vẹt trong môi trường của loài chim cảnh Việt Nam đòi hỏi sự đầu tư công phu, do chúng có tính cách hoang dã, nghịch ngợm và thường không chịu nghe theo lời dạy của chủ nhân. 6. Chim Vàng Anh. Chim Vàng Anh, hay được biết đến là "Vàng Ảnh Vàng Anh" trong câu chuyện cổ tích Tấm Cám, là một trong những loài chim cảnh hót hay nhất. Thường được gọi là chim Hoàng Anh, chúng nổi tiếng với giọng hót thánh thót, làm say đắm trái tim của người nghe. Điều đặc biệt là màu lông vàng rực của Chim Vàng Anh, và có sự khác biệt nhỏ về màu sắc giữa chim mái và chim trống. Ngoài ra, loài chim này cũng thuộc dạng chim sâu ở Việt Nam, thường được nuôi để giúp kiểm soát sâu bệnh và làm đẹp cho môi trường xung quanh.
1,639,001
{ "doc_id": "19848085", "split": 3, "title": "Chim cảnh", "token_count": 116, "url": "https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19848085" }
Title: Chim cảnh Trong quá trình nuôi, việc chú ý đến chế độ thức ăn cho Chim Vàng Anh là rất quan trọng để giữ cho chúng trở nên thân thiện với chủ nhân. Loài chim cảnh này thường thể hiện sự nhút nhát và lảng tránh khi không được cung cấp thức ăn ngon. Ngoài ra còn một số loại phổ biến khác: Chim Sáo, Chim Khướu, Chim Cu Gáy, Chim Khuyên, Chim Yến Phụng, Chim Chìa Vôi...
1,639,002
{ "doc_id": "19848086", "split": 0, "title": "Beyond the Blackboard", "token_count": 229, "url": "https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19848086" }
Title: Beyond the Blackboard Beyond the Blackboard là một bộ phim chính kịch truyền hình Hallmark Hall of Fame với sự tham gia của Emily VanCamp và Treat Williams . Nó dựa trên cuốn hồi ký của Stacey Bess có tựa đề Không ai không yêu ai . Cốt truyện. Câu chuyện diễn ra vào năm 1987 và kể về một giáo viên trẻ và mẹ của hai đứa trẻ, mới tốt nghiệp đại học, cuối cùng lại dạy những đứa trẻ vô gia cư tại một ngôi trường không tên. Với sự hỗ trợ của chồng, cô đã vượt qua nỗi sợ hãi và định kiến ​​để mang lại cho những đứa trẻ này sự giáo dục xứng đáng. Quay phim. Bộ phim này được quay xung quanh bối cảnh tại Albuquerque, New Mexico. Đây là dự án đầu tiên của Emily VanCamp and Treat Williams since Everwood. Phát hành. Phim được phát sóng vào ngày 24 tháng 4 năm 2011 trên CBS ; đây là bộ phim Hallmark Hall of Fame cuối cùng được phát sóng trên mạng đó, bộ phim đã bị hủy loạt phim do xếp hạng thấp.
1,639,003
{ "doc_id": "19848087", "split": 0, "title": "Thế giới và Việt Nam (báo)", "token_count": 135, "url": "https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19848087" }
Title: Thế giới và Việt Nam (báo) Thế giới và Việt Nam là một cơ quan báo chí trực thuộc Bộ Ngoại giao Việt Nam. Lịch sử. Được thành lập vào năm 1989, tiền thân của báo "Thế giới và Việt Nam" là "Tạp chí Nghiên cứu Quốc tế" và "Báo Quốc tế". Người sáng lập ra tờ báo này là cố Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch. Ngày 30 tháng 9 năm 2016, báo điện tử "Thế giới và Việt Nam" chính thức ra mắt. Ngày 17 tháng 7 năm 2017, báo điện tử "Thế giới và Việt Nam" ra mắt phiên bản tiếng Anh.
1,639,004
{ "doc_id": "19848092", "split": 0, "title": "Thiết kế thời trang", "token_count": 441, "url": "https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19848092" }
Title: Thiết kế thời trang Thiết kế thời trang () là quá trình sáng tạo ra các mẫu trang phục, phụ kiện, nhằm thể hiện phong cách, cá tính và ý tưởng của nhà thiết kế. Quá trình này bao gồm việc nghiên cứu xu hướng thị trường, tạo ra bản vẽ hoặc mẫu, lựa chọn chất liệu, cắt may và thử nghiệm sản phẩm, từ đó tạo ra những bộ trang phục với những mục đích khác nhau. Lịch sử. Thiết kế thời trang phương Tây hiện đại xuất hiện từ thế kỷ 19, bắt đầu từ Charles Frederick Worth. Ông là người đầu tiên đặt nhãn mác của mình lên những bộ trang phục do ông thiết kế. Trước đây, những người thiết kế và may trang phục thường không được biết đến. Thời đó, thời trang cao cấp chủ yếu được các triều đình hoàng gia dẫn dắt. Worth là một nhà thiết kế tài năng và có tầm nhìn chiến lược. Ông đã biến thời trang cao cấp thành một ngành công nghiệp, với những nhà thiết kế nổi tiếng tạo ra những bộ trang phục độc đáo và hợp thời trang. Worth đạt được thành công đến mức ông có thể quyết định khách hàng của mình mặc gì. Ông là người đầu tiên được gọi là "couturier", một thuật ngữ dùng để chỉ nhà thiết kế thời trang cao cấp. Mặc dù tất cả các loại trang phục từ mọi thời kỳ đều được xem là thiết kế trang phục, nhưng chỉ có trang phục được tạo ra sau năm 1858 mới được coi là thời trang cao cấp. Điều này là do Worth là người đầu tiên biến thời trang thành một ngành công nghiệp và tạo ra những bộ trang phục độc đáo và hợp thời trang. Trong giai đoạn này, nhiều nhà thiết kế thuê họa sĩ vẽ phác thảo trang phục để khách hàng xem trước. Điều này giúp tiết kiệm thời gian và chi phí cho cả hai bên. Nếu khách hàng ưng ý, họ sẽ đặt hàng và nhà thiết kế sẽ sản xuất trang phục theo yêu cầu. Mối quan hệ này giữa nhà thiết kế và khách hàng đã khiến các nhà thiết kế thường phác thảo ý tưởng thay vì may trực tiếp trên người mẫu.
1,639,005
{ "doc_id": "19848093", "split": 0, "title": "Pha lê Lothair", "token_count": 391, "url": "https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19848093" }
Title: Pha lê Lothair Mặt pha lê Lothair (còn được gọi là Pha lê Lothar hoặc Pha lê Susanna) là một mặt tròn làm bằng thạch anh trắng được chạm khắc, nguồn gốc từ vùng Lotharingia ở tây bắc châu Âu. Mặt pha lê này khắc chạm mô tả những cảnh trong câu chuyện Kinh thánh về Susanna, có niên đại từ năm 855–869. Pha lê Lothair là một hiện vật trong bộ sưu tập của Bảo tàng Anh. Mô tả. Nguyên bản của vật phẩm là một mặt pha lê thạch anh tròn trong suốt ("tinh thể đá"), có đường kính 11,5 cm (4,5 inch). Mặt pha lê thạch anh được khắc chạm chìm với tám cảnh mô tả câu chuyện của Susanna và các Trưởng lão, được mô tả trong Sách Daniel (nhưng được người Kháng Cách/Tin Lành coi là một phần của Ngụy thư). Cảnh đầu tiên là Susanna bị các trưởng lão buộc tội và lên án vì tội ngoại tình. Daniel can thiệp để chấn vấn các trưởng lão, lật tẩy ra nhân chứng giả của họ và kết án tử hình họ bằng cách ném đá. Ở cảnh cuối cùng, Susanna được tuyên bố vô tội. Những cảnh này đi kèm với những dòng chữ ngắn gọn bằng tiếng La tinh được rút ra từ Kinh thánh Vulgate." Các hình khắc trên mặt pha lê được thực hiện theo phong cách năng động và độc đáo của vùng Rheims thời sơ kỳ trung cổ, bắt nguồn từ những bản phác thảo bằng tay chẳng hạn như trong Thi Thiên Utrecht. Mặt pha lê được bao quanh bởi một giá đỡ bằng đồng mạ vàng thế kỷ 15 với viền trang trí họa tiết lá, từng được cho rằng là của biểu tượng Thánh Eligius (khoảng 588 – 660), vị thánh bảo trợ của thợ kim hoàn. Niên đại.
1,639,006
{ "doc_id": "19848093", "split": 1, "title": "Pha lê Lothair", "token_count": 500, "url": "https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19848093" }
Title: Pha lê Lothair Mặt pha lê có khắc dòng chữ LOTHARIVS REX FRANCORVM IVSSIT ("Lothair, Vua của người Frank, đã sai khiến [vật phẩm này được làm ra]"). Dòng chữ ấy rõ ràng nói đến Lothair II, hay "Lothar" trong tiếng Đức. Lothair đời trước tự phong cho mình là imperator (hoàng đế), trong khi Lothair II chỉ tự gọi mình là rex (vua), giống như vị chủ nhân của viên pha lê được mô tả; do đó có khả năng là nó được tạo ra vào thời Lothair II, có lẽ là vào khoảng giữa thế kỷ thứ 9, làm cho nó trở thành một ví dụ muộn của nghệ thuật thời nhà đế quốc Carolus. Lịch sử. Không có thông tin gì về lịch sử của mặt pha lê Lothair trước thế kỷ thứ 10. Vào khoảng thời gian này, một bá tước đem cầm cho một giáo sĩ của Rheims để đổi lấy một con ngựa. Vị giáo sĩ sau đó phủ nhận việc sở hữu mặt pha lê. Sau đó, người ta phát hiện ra ông này sở hữu nó của ông khi ông bỏ chạy ra khỏi nhà thờ bị đốt cháy. Để chuộc tội, ông đã thành lập Tu viện Waulsort (nay thuộc nước Bỉ hiện đại), nơi lưu giữ viên pha lê cho đến thế kỷ 18. Đôi khi trong thời kỳ này, nó được các tu viện trưởng sử dụng để buộc chặt áo choàng của họ trong thánh lễ. Năm 1793, lực lượng cách mạng Pháp đã cướp phá Waulsort và ném mặt pha lê xuống sông Meuse, việc được cho là đã khiến mặt pha lê bị nứt. Vào thế kỷ 19, mặt pha lê Lothair đã bị đánh cắp và bị lột hết đồ trang sức trang trí. Nó xuất hiện trở lại trong tay một nhà buôn người Bỉ, người này tuyên bố rằng nó đã được vớt lên từ lòng sông và bán nó cho một nhà sưu tập Pháp với giá 12 franc. Nó được bán lại cho chính trị gia Đảng Tự do người Anh Ralph Bernal, người đã trả 10 bảng Anh cho nó. Năm 1855, mặt pha lê Lothair được Augustus Wollaston Franks đại diện cho Bảo tàng Anh mua lại trong một cuộc đấu giá bộ sưu tập của Bernal tại nhà đấu giá Christie's với giá 267 bảng Anh.
1,639,007
{ "doc_id": "19848093", "split": 2, "title": "Pha lê Lothair", "token_count": 423, "url": "https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19848093" }
Title: Pha lê Lothair Mặt pha lê Lothair là Hiện vật thứ 53 trong chương trình Lịch sử thế giới qua 100 vật thể ("A History of the World in 100 Objects") của BBC Radio 4 năm 2010, do Giám đốc Bảo tàng Anh, Neil MacGregor lựa chọn và trình bày. Diễn giải ý nghĩa. Mặt pha lê Lothair là một trong số ít ỏi những viên đá quý được chạm khắc kiểu Carolus được tạo ra cho các thành viên của triều đình, mặc dù hình dạng của nó không giống bất kỳ vật phẩm nào khác. Một viên đá quý có chân dung của Lothair II, có lẽ là con dấu cá nhân của ông, đã được đặt vào Lễ rước Thánh giá Lothair ở Nhà thờ Aachen một trăm năm sau khi ông qua đời. Một số cách giải thích đã được đưa ra về chức năng của viên pha lê cũng như ý nghĩa và tầm quan trọng của nó đối với triều đình nhà Lothair; ý nghĩa của nó không rõ ràng và nó là chủ đề gây tranh cãi liên tục giữa các học giả. Chủ đề của viên pha lê gợi ý rằng nó được dùng để trưng bày tại triều đình như một biểu tượng cho vai trò của nhà vua trong việc thực thi công lý. Thiết kế của nó có thể ám chỉ đến tấm giáp ngực của công lý mà Kohen Gadol (Thầy Thượng Tế) của người Do Thái đeo. Theo cách giải thích này, mặt pha lê có thể là một nỗ lực thể hiện một cách trực quan trách nhiệm của người cai trị trong việc cung cấp công lý, sử dụng câu chuyện song song trong Kinh thánh để khuyến khích nhà cai trị đề cao lý tưởng trị vì khôn ngoan được ví dụ bằng các vị vua công chính trong kinh Cựu Ước. Ngoài ra, chủ đề của viên pha lê tượng trưng cho mối quan hệ lý tưởng hóa giữa Giáo hội Công giáo La Mã và nhà nước, với Susanna đại diện cho Giáo hội Công giáo La Mã được bảo vệ khỏi kẻ thù bởi những quyết định chính đáng của người cai trị.
1,639,008
{ "doc_id": "19848093", "split": 3, "title": "Pha lê Lothair", "token_count": 156, "url": "https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19848093" }
Title: Pha lê Lothair Valerie Flint đã lập luận rằng mặt pha lê có liên quan đến cuộc ly hôn gay gắt của Lothair và người vợ Theutberga, người mà ông cáo buộc phạm tội loạn luân và phá thai. Câu chuyện Susana mô tả sự minh oan của một người vợ bị buộc tội sai về tội tình dục và loại tinh thể đá làm ra nó đã được người Frank sử dụng như một tấm bùa hộ mệnh. Flint gợi ý rằng viên pha lê được tạo ra vào năm 865, khi Lothar tạm thời hòa giải với vợ mình, vừa nhằm mục đích khiển trách nhà vua về hành vi của ông vừa như một tấm bùa bảo vệ vua và nữ vương khỏi cái xấu ác.
1,639,009
{ "doc_id": "19848096", "split": 0, "title": "Paola Andino", "token_count": 286, "url": "https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19848096" }
Title: Paola Andino Paola Nicole Andino (sinh ngày 22 tháng 3 năm 1998) là một nữ diễn viên người Mỹ được biết đến với vai chính Emma Alonso trong loạt phim Nickelodeon, "Every Witch Way". Tiểu sử. Andino sinh ra ở Bayamón, Puerto Rico, và chuyển đến Dallas, Texas, khi mới ba tuổi cùng với bố mẹ và anh trai. Khi còn nhỏ, cô đã khiêu vũ cạnh tranh với tư cách là thành viên của Studio khiêu vũ Footlights của Lewisville khi mới 10 tuổi, cô bắt đầu tham gia các lớp học diễn xuất với Antonia Denardo tại Denardo Talent Ventures ở Lewisville. Sau khi làm khách mời trong một tập của "Grey's Anatomy", vào năm 2011, cô đóng vai chính trong bộ phim Hallmark Hall of Fame của "Beyond the Blackboard". Vào tháng 12 năm 2013, cô nhận vai Emma Alonso, nữ chính trong loạt phim "Every Witch Way", bắt đầu phát sóng vào tháng 1 năm 2014. Andino tiếp tục trở thành khách mời trong phần phụ của chương trình Học viện Wits trong 2 tập. Cô cũng là ngôi sao khách mời định kỳ trên "Queen of the South". Với vai diễn này, cô đã được đề cử là Nữ diễn viên trẻ xuất sắc nhất tại Best Young Actress lần thứ 29 Imagen Awards.
1,639,010
{ "doc_id": "19848100", "split": 0, "title": "Charles Frederick Worth", "token_count": 79, "url": "https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19848100" }
Title: Charles Frederick Worth Charles Frederick Worth (13 tháng 10 năm 1825 – 10 tháng 3 năm 1895) là một nhà thiết kế thời trang người Anh, người sáng lập nên House of Worth, một trong những thương hiệu thời trang cao cấp của thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20. Worth cũng được ghi nhận là người cách mạng hóa ngành công nghiệp thời trang.
1,639,011
{ "doc_id": "19848104", "split": 0, "title": "Maria Walpole", "token_count": 426, "url": "https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19848104" }
Title: Maria Walpole Maria Walpole (10 tháng 7 năm 1736 – 22 tháng 8 năm 1807) là một thành viên của Vương thất Anh. Thông qua cuộc hôn nhân đầu với James Waldegrave, Bá tước Waldegrave thứ 2 từ năm 1759 đến năm 1766, Maria được gọi là Bá tước phu nhân Waldegrave. Thông qua cuộc hôn nhân với William Henry của Đại Anh, Công tước xứ Gloucester và Edinburgh năm 1766, Maria là Công tước phu nhân xứ Gloucester và Edinburgh. Những năm đầu đời. Maria Walpole là con gái ngoài giá thú của Edward Walpole và Dorothy Clement. Ông nội của Maria là Robert Walpole, Bá tước xứ Orford, được coi là Thủ tướng đầu tiên của Vương quốc Liên hiệp Anh (1721–1741). Maria lớn lên tại Frogmore House ở Windsor, nhưng cha mẹ của Maria không kết hôn và tình trạng là con ngoại hôn đã ảnh hưởng xấu đến địa vị xã hội của Maria, bất chấp gốc gác của bà. Bá tước phu nhân Waldegrave. Ngày 15 tháng 5 năm 1759, Maria kết hôn với James Waldegrave, Bá tước Waldegrave thứ 2 tại ngôi nhà ở Pall Mall của cha, Ngài Edward Walpole. Buổi lễ được cử hành bởi Frederick Keppel, Giám mục tương lai của Exeter, với các nhân chứng chính thức là Ngài Edward và em trai là Horace Walpole. Bá tước Waldegrave qua đời vào ngày 28 tháng 4 năm 1763. Hai vợ chồng có ba người con: Có một bức chân dung của Maria vào khoảng năm 1764–1765, ngay sau khi bà góa chồng, được vẽ bởi Joshua Reynolds, được trưng bày ở Triển lãm Nghệ thuật Công cộng Dunedin. Maria cũng ủy quyền cho Joshua Reynolds vẽ bức chân dung "The Ladies Waldegrave" vào năm 1780, với chủ thể là các con gái của Maria và James Waldegrave. Công tước phu nhân xứ Gloucester và Edinburgh.
1,639,012
{ "doc_id": "19848104", "split": 1, "title": "Maria Walpole", "token_count": 325, "url": "https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19848104" }
Title: Maria Walpole Ngày 6 tháng 9 năm 1766, Maria kết hôn với Vương tôn William Henry của Đại Anh, Công tước xứ Gloucester và Edinburgh, tại nhà riêng của Maria ở Pall Mall, Luân Đôn. Công tước là em trai của Quốc vương George III của Liên hiệp Anh. Cuộc hôn nhân được tiến hành bí mật vì Vương thất Anh sẽ không chấp thuận cuộc hôn nhân giữa một Vương tử và một góa phụ không thuộc dòng dõi Vương gia và xuất thân là con ngoại hôn. Hai vợ chồng sống tại Đồi Thánh Leonard ở Clewer, gần Windsor và có ba người con: Cuộc hôn nhân với một thường dân của một người em trai khác của William Henry là Vương tôn Henry của Đại Anh, Công tước xứ Cumberland, đã dẫn đến việc thông qua Đạo luật Hôn nhân Vương thất năm 1772, yêu cầu tất cả hậu duệ của George II phải được sự chấp thuận của quân chủ để được kết hôn. Chỉ đến tháng 9 năm 1772, năm tháng sau khi Đạo luật được thông qua, Quốc vương George III mới biết về cuộc hôn nhân của William với Maria. Vì các điều khoản của Đạo luật không thể được áp dụng với các trường hợp trước khi Đạo luật được thông qua nên cuộc hôn nhân của Maria và William được coi là hợp pháp. Tuy nhiên, do sự tức giận của George III đối với cuộc hôn nhân, Maria không bao giờ được tiếp đón tại triều đình. Caroline qua đời khi chỉ được 9 tháng tuổi, sau khi được tiêm phòng bệnh đậu mùa nhằm phòng tránh căn bệnh.
1,639,013
{ "doc_id": "19848105", "split": 0, "title": "Konrad II của Thánh chế La Mã", "token_count": 108, "url": "https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19848105" }
Title: Konrad II của Thánh chế La Mã Konrad II ( – 4 tháng 6 năm 1039), còn được biết đến với tên gọi và , là hoàng đế của Đế quốc La Mã Thần thánh từ năm 1027 cho đến khi qua đời năm 1039. Là vị hoàng đế đầu tiên trong số bốn hoàng đế nhà Salier trị vì trong một thế kỷ cho đến năm 1125, Konrad cai trị các vương quốc Đức (từ 1024), Ý (từ 1026) và Burgundy (từ 1033).
1,639,014
{ "doc_id": "19848114", "split": 0, "title": "Heinrich III của Thánh chế La Mã", "token_count": 78, "url": "https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19848114" }
Title: Heinrich III của Thánh chế La Mã Heinrich III (28 tháng 10 năm 1016 – 5 tháng 10 năm 1056) còn được gọi là the Black hay the Pious, là Hoàng đế La Mã Thần thánh từ năm 1046 cho đến khi qua đời năm 1056. Là thành viên của nhà Salier, ông là con trai cả của Konrad II và Gisela của Schwaben.
1,639,015
{ "doc_id": "19848123", "split": 0, "title": "Heinrich VI của Thánh chế La Mã", "token_count": 83, "url": "https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19848123" }
Title: Heinrich VI của Thánh chế La Mã Heinrich VI (tháng 11 năm 1165 – 28 tháng 9 năm 1197), thành viên của triều đại Hohenstaufen, là Vua của Đức (Vua La Mã Đức) từ năm 1169 và Hoàng đế La Mã Thần thánh từ năm 1191 cho đến khi qua đời. Từ năm 1194 ông cũng là Vua của Sicily.
1,639,016
{ "doc_id": "19848124", "split": 0, "title": "Anne Luttrell", "token_count": 404, "url": "https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19848124" }
Title: Anne Luttrell Anne Luttrell, Công tước phu nhân xứ Cumberland và Strathearn (24 tháng 1 năm 1743 – 28 tháng 12 năm 1808) là một thành viên của Vương thất Anh, vợ của Henry của Đại Anh, Công tước xứ Cumberland và Strathearn. Em gái của cô là Lady Elizabeth Luttrell, người bạn đồng hành và quản lý ngôi nhà của cô. Những năm đầu đời. Anne Luttrell sinh ra ở Marylebone, Luân Đôn, là con gái của Simon Luttrell, sau này là Bá tước đầu tiên xứ Carhampton, và Judith Maria Lawes, con gái của Ngài Nicholas Lawes. Anne được rửa tội vào ngày 17 tháng 2 năm 1742 tại St Marylebone, Westminster, Middlesex, Anh tuy nhien một số nguồn khác lại ghi nhận là ngày 24 tháng 1 năm 1743. Em gái và tri kỷ của Anne, Elizabeth, sinh ngày 3 tháng 2 năm 1744 tại Luân Đôn. Cha của Anne là một thành viên của Hạ viện Anh trước khi được phong làm Nam tước Irnham vào năm 1768, Tử tước Carhampton vào năm 1781 và Bá tước xứ Carhampton vào năm 1785. Hôn nhân. Anne kết hôn lần đầu với một Christopher Horton (đôi khi được gọi là Houghton) ở Catton Hall vào ngày 4 tháng 8 năm 1765. Sau đó, Anne trở thành góa phụ và sau đó tái hôn với Vương tôn Henry của Đại Anh, Công tước xứ Cumberland và Strathearn, người con thứ sáu của Frederick, Thân vương xứ Wales và Augusta xứ Sachsen-Gotha-Altenburg, và là em trai của George III của Liên hiệp Anh. Hai người kết hôn tại Phố Hertford ở Mayfair, Luân Đôn vào ngày 2 tháng 10 năm 1771.
1,639,017
{ "doc_id": "19848124", "split": 1, "title": "Anne Luttrell", "token_count": 483, "url": "https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19848124" }
Title: Anne Luttrell Quốc vương George III không chấp thuận cuộc hôn nhân vì Anne là thường dân và đã qua một đời chồng. Sau đó, nhà vua đã thông qua Đạo luật Hôn nhân Vương thất năm 1772 để cấm bất kỳ hậu duệ nào của Quốc vương George II kết hôn mà không có sự đồng thuận của quân chủ, có hiệu lực cho đến khi Đạo luật Kế vị năm 2013 được thông qua, cùng với một số sửa đổi khác, trong đó chỉ bắt buộc sáu người đầu tiên trong danh sách kế vị ngai vàng phải có được sự đồng thuạn của quốc chủ. Vì các điều khoản của Đạo luật không thể được áp dụng đối với các trường hợp trước khi Đạo luật được thông qua nên cuộc hôn nhân của Anne và Công tước được coi là hợp pháp. Gia đình Cumberland chuyển đến Dinh York, đổi tên thành Dinh Cumberland, ở Pall Mall và sống ở đó cho đến khi Henry qua đời vào năm 1790. Ngôi nhà trở thành tiều đình thay thế khi ngài Công tước có mâu thuẫn công khai với cha mẹ. Triều đình ở Cumberland là một thành công và em gái của Anne, Elizabeth Lutrell đã góp phần công lao không nhỏ. Elizabeth là nhân chứng trong đám cưới bí mật của chị gái và hai vợ chồng đã trao cho Elizabeth một gian phòng thuộc Dinh Cumberland. Tài chính của ngài Công tước được duy trì nhờ các bàn đánh bạc tại nhà của họ và Elizabeth đã quản lý chúng một cách tốt đẹp. Năm 1800, Bà Thái Công tước đã chuyển giao dinh thự cho các ngân hàng đang giữ cầm cố của dinh thự. Tính cách và ngoại hình. Horace Walpole đã viết "cử chỉ của cô ấy rất duyên dáng, rất đa dạng nhưng cũng vô cùng quen thuộc, đến nỗi thật dễ để nhìn thấu và cũng thật khó để cưỡng lại". Trong khi Anne thường được coi là một mỹ nhân, Horace Walpole lại nghĩ Anne chỉ "xinh xắn", ngoại trừ đôi mắt màu xanh lục mà Horace thừa nhận là bị mê hoặc. Đôi mắt của Anne có sức biểu cảm đáng chú ý và được thể hiện qua một số bức chân dung về Anne của Thomas Gainsborough, một trong số đó nằm trong bộ sưu tập của Hugh Lane.
1,639,018
{ "doc_id": "19848131", "split": 0, "title": "Friedrich III của Thánh chế La Mã", "token_count": 60, "url": "https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19848131" }
Title: Friedrich III của Thánh chế La Mã Friedrich III (21 tháng 9 năm 1415 – 19 tháng 8 năm 1493) là Hoàng đế La Mã Thần thánh từ năm 1452 cho đến khi qua đời vào năm 1493. Ông là vị vua thứ tư và hoàng đế đầu tiên của Nhà Habsburg.
1,639,019
{ "doc_id": "19848133", "split": 0, "title": "Nhạc nước nghệ thuật", "token_count": 300, "url": "https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19848133" }
Title: Nhạc nước nghệ thuật Nhạc nước nghệ thuật là hệ thống đài phun nước được thiết kế và lập trình phun nước theo nhạc, điều khiển màu đèn chiếu sáng theo nhạc. Đây là hệ thống đài phun nước có thiết kế và công nghệ hiện đại nhất hiện nay, thường được lắp đặt tại các địa điểm, vị trí trung tâm với mục đích trang trí cảnh quan và ngoài ra còn thu hút, thúc đẩy khách tham quan du lịch. Khác với các đài phun nước thông thường, khi xem trình diễn nhạc nước, bạn sẽ được thưởng thức cả về phần nhìn và phần nghe. Các hiệu ứng phun nước đẹp mắt di chuyển theo điệu nhạc sẽ mang đến những trải nghiệm rất thú vị. Thông thường hệ thống nhạc nước sẽ hoạt động theo một khung thời gian nhất định trong ngày, một show trình diễn có khoảng thời gian từ 10 tới 15 phút. Có những show được xem miễn phí và có show sẽ phải trả phí để được vào xem. Một số công trình nhạc nước nghệ thuật nổi tiếng trên thế giới và là điểm đến du lịch của du khách như Đài phun nước Dubai, Nhạc nước tại khách sạn Bellagio... Hay tại Việt Nam có thể đến xem miễn phí các show nhạc nước tại khu đô thị Vinhomes Times City, Nhạc nước phố đi bộ Nguyễn Huệ, Nhạc nước phố đi bộ TP Vinh, Nhạc nước tại các quảng trường như Võ Nguyên Giáp - Hồng Ngự, Quảng trường 26/3 Hà Giang...
1,639,020
{ "doc_id": "19848136", "split": 0, "title": "Hoa hậu Hoàn vũ Quốc tế", "token_count": 414, "url": "https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19848136" }
Title: Hoa hậu Hoàn vũ Quốc tế Hoa hậu Hoàn vũ Quốc tế (tiếng Anh: Miss Cosmo International) về sau được gọi tắt: "Miss Cosmo" là một trong cuộc thi sắc đẹp đẳng cấp quốc tế. Cuộc thi được bắt đầu vào năm 2024 do công ty TNHH Universe Media Vietnam ở Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam sáng lập. Cuộc thi được tổ chức bởi Tổ chức Hoa hậu Hoàn vũ Quốc tế ("Miss Cosmo International Organization"). Tân hoa hậu sẽ được trao vương miện vào tháng 9 năm 2024 tại Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam. Lịch sử. Chiều ngày 04 tháng 10 năm 2023, fanpage trên nền tảng Facebook của cuộc thi Hoa hậu Hoàn vũ Việt Nam chính thức công bố và giới thiệu cuộc thi quốc tế mang tên "Miss Cosmo International" (về sau gọi tắt là: "Miss Cosmo") - tên tiếng Việt là "Hoa hậu Hoàn vũ Quốc tế" được sáng lập bởi công ty TNHH Universe Media Vietnam, đứng đầu là ông Trần Việt Bảo Hoàng đồng thời cũng là giám đốc quốc gia "Miss Cosmo" tại Việt Nam.. Cuộc thi dự kiến được tổ chức tại các tỉnh thành của nước Việt Nam từ năm 2024 đến 2029. Sau đó, cuộc thi Hoa hậu Hoàn vũ Quốc tế dự kiến bắt đầu được tổ chức thay phiên tại nhiều quốc gia trên thế giới. Vào ngày 31 tháng 12 năm 2023, đêm chung kết Hoa hậu Hoàn vũ Việt Nam diễn ra, trong chương trình 2 MC chính thức công bố đến người hâm mộ Việt Nam và thế giới cuộc thi sẽ được tổ chức vào tháng 9 năm 2024 tại Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam.. Cuộc thi. Các thí sinh tham dự cuộc thi Hoa hậu Hoàn vũ Quốc tế sẽ phải tham gia nhiều phần thi khác nhau như áo tắm, trang phục dạ hội, trang phục dân tộc, tài năng, phỏng vấn và các hoạt động xã hội như trình diễn thời trang, làm từ thiện. Tiền thưởng dành cho Hoa Hậu Hoàn Vũ Quốc tế là 200,000 $.
1,639,021
{ "doc_id": "19848136", "split": 1, "title": "Hoa hậu Hoàn vũ Quốc tế", "token_count": 324, "url": "https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19848136" }
Title: Hoa hậu Hoàn vũ Quốc tế Tổ chức Hoa hậu Hoàn vũ Quốc tế là tổ chức hiện đang điều hành cuộc thi Hoa hậu Hoàn vũ Quốc tế (Miss Cosmo). Trụ sở của tổ chức tại Thành phố Hồ Chí Minh, tổ chức này thuộc sở hữu của công ty TNHH Universe Media Vietnam. Chủ tịch hiện tại là ông Trần Việt Bảo Hoàng. Tổ chức này có quyền bán bản quyền truyền hình cho các cuộc thi ở các nước khác. Hiện Tổ chức còn sở hữu một cuộc thi Hoa hậu Hoàn vũ Việt Nam (Miss Cosmo Vietnam). Cách chọn thí sinh. Thông thường, các quốc gia sẽ tổ chức một cuộc thi hoa hậu quốc gia và người chiến thắng của cuộc thi này sẽ đại diện quê hương mình đi tranh tài với đối thủ trên khuôn khổ cuộc thi Hoa hậu Hoàn vũ Quốc tế ("Miss Cosmo International Organization"). Bắt đầu ấn bản đầu tiên, thí sinh tham gia phải có độ tuổi từ 18 đến 30 tuổi, chưa kết hôn, sinh con, chiều cao từ 1m63 trở lên. Tại một số nước châu Âu, thí sinh 17 tuổi cũng có thể tham gia thi hoa hậu trong khi giới hạn tuổi của cuộc thi Hoa hậu Hoàn vũ Quốc tế là 18 tuổi. Do vậy, đã từng có trường hợp một số quốc gia phải cử Á hậu đi thay thế cho các Hoa hậu chưa đủ tuổi. Tổ chức Hoa hậu Hoàn vũ Quốc tế. Danh sách các Hoa hậu. Dưới đây là danh sách các Hoa hậu của những cuộc thi sắc đẹp do Tổ chức Hoa hậu Hoàn vũ thực hiện qua các năm: Danh sách đại diện Việt Nam. Chú thích
1,639,022
{ "doc_id": "19848139", "split": 0, "title": "Eternal Sunshine (album)", "token_count": 397, "url": "https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19848139" }
Title: Eternal Sunshine (album) Eternal Sunshine là album phòng thu thứ bảy của nữ ca sĩ người Mỹ Ariana Grande. Album được phát hành bởi hãng đĩa Republic Records vào ngày 8 tháng 3 năm 2024. Bài hát "Yes, And?" được phát hành như một bài hát đơn của album vào 12 tháng 1, 2024. Bối cảnh. Vào ngày 12 tháng 5, 2022, sau 19 tháng phát hành album phòng thu thứ sáu, "Positions" (2020), Ariana Grande đã chia sẻ rằng cô sẽ không thu âm thêm bất kỳ album phòng thu nào khác cho đến khi quay xong "Wicked" (2024), bộ phim được chuyển thể từ vở nhạc kịch Broadway cùng tên, trong đó, cô sẽ thủ vai nhân vật Glinda. Tháng 10 năm 2023, lần đầu tiên Grande đã bóng gió đùa giỡn về album mới sắp ra mắt bằng cách đăng tải một dòng chú thích trên nền tảng Instagram với nội dung "ag7: goat mother". Ngoài ra, một bộ ảnh bao gồm các bức ảnh của cô cùng nhà sản xuất cộng tác lâu năm người Thụy Điển Max Martin tại phòng thu Jungle City Studios ở Thành phố New York cũng xuất hiện. Vào ngày 7 và 17 tháng 12, Grande đã chia sẻ loạt bức ảnh và đoạn phim trong quá trình làm việc tại phòng thu cũng như các đoạn tập tin âm thanh đã chỉnh sửa của cô. Trái ngược với những lần trước, cô đã tuyên bố rằng sẽ không có đoạn nhạc nào được tung ra trước cho bản thu âm sắp tới. Vào ngày 27 tháng 12, nữ ca sĩ đã chính thức xác nhận về việc phát hành album vào năm 2024 thông qua những tài khoản mạng xã hội của mình. Cô đã đăng một loạt video lên tài khoản Instagram của mình cho thấy việc cô đã khóc trong phòng thu âm và mẹ của cô bà Joan đang nhảy theo một bài hát mới của cô bên cạnh những người khác.
1,639,023
{ "doc_id": "19848139", "split": 1, "title": "Eternal Sunshine (album)", "token_count": 442, "url": "https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19848139" }
Title: Eternal Sunshine (album) Tựa đề của album đã được nhá hàng thông qua hai Easter eggs. Đầu tiên là cảnh mở đầu trong MV đĩa đơn, "Yes, And?". Trong đó, có một tấm thẻ màu đỏ với dòng chữ viết tắt "AG7" ở mặt trước cùng tọa độ địa lý 41°03′59″N 71°95′45″W được đề cập bên dưới—được định vị tại Montauk, New York, địa điểm quay phim chính của bộ phim "Eternal Sunshine of the Spotless Mind" (2004) của ngôi sao Jim Carrey, người được Grande chia sẻ rằng cô chính là một người hâm mộ của anh. Lần thứ hai là khi Grande chia sẻ vài dòng thơ của Alexander Pope trong bài thơ "Eloisa to Abelard" trên Instagram của cô, và trong đó có ghi rằng: ""Eternal sunshine of the spotless mind!". Tựa đề "Eternal Sunshine" chính thức được tiết lộ vào ngày 17 tháng 1 năm 2024 cùng với nhiều ảnh bìa cho đĩa nhạc khác nhau. Phát hành và xây dựng thương hiệu. "Eternal Sunshine" được ra mắt vào ngày 8 tháng 3, 2024. Và sẽ được phat hành với bốn biến thể đĩa vinyl khác nhau. Đơn đặt hàng trước sẽ bắt đầu mở vào ngày 17 tháng 1, cũng là ngày album được công bố. Ảnh bìa album. Grande đã tiết lộ ảnh bìa album của ca khúc đơn chính, "Yes, And?" vào tháng 1 năm 2024 sẽ là một trong các biển thể của ảnh bìa album. Tuy nhiên vài ngày sau đó, nó cũng được xác nhận sẽ là ảnh bìa chính của đĩa nhạc lần này. Ảnh được chụp bởi nhiếp ảnh gia Katia Temkin. Ảnh bìa sẽ là một bức ảnh mờ ảo cận cảnh phía bên trái khuôn mặt của Grande, và trong bức ảnh đó, cô sẽ đánh son môi cổ điển màu đỏ "Attention" thuộc thương hiệu mỹ phẩm R.E.M. Beauty's "On Your Collar" của cô. Đĩa đơn.
1,639,024
{ "doc_id": "19848139", "split": 2, "title": "Eternal Sunshine (album)", "token_count": 144, "url": "https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19848139" }
Title: Eternal Sunshine (album) "Yes, And?", bài hát đơn chủ đạo của "Eternal Sunshine", được phát hành vào ngày 12 tháng 1, 2024, thông qua dịch vụ phát trực tuyến. Ngoài ra, nó cũng được phát hành ở những định dạng khác bao gồm 7-inch, đĩa đơn và băng cassette. Video âm nhạc của bài hát được đạo diễn bởi Christian Breslauer và phát hành cùng ngày thông qua kênh Vevo của Grande trên YouTube. Tựa đề của bài hát cũng đã được Grande nhá hàng trước vài ngày phát hành khi cô đã chụp một tấm hình khi đang mặc một chiếc áo len với tên bài hát được in ở đằng trước.
1,639,025
{ "doc_id": "19848149", "split": 0, "title": "Kamoenai, Hokkaidō", "token_count": 76, "url": "https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19848149" }
Title: Kamoenai, Hokkaidō là một ngôi làng thuộc huyện Furuu, phó tỉnh Shiribeshi, Hokkaidō, Nhật Bản. Tính đến ngày 1 tháng 10 năm 2020, dân số ước tính ngôi làng là 870 người và mật độ dân số là 5,9 người/km2. Tổng diện tích ngôi làng là 147,71 km2.
1,639,026
{ "doc_id": "19848161", "split": 0, "title": "Waruntorn Paonil", "token_count": 366, "url": "https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19848161" }
Title: Waruntorn Paonil Waruntorn Paonil (; sinh ngày 23 tháng 2 năm 1994), biệt danh Ink (), còn được biết đến với nghệ danh Ink Waruntorn, là một ca sĩ, diễn viên Thái Lan. Vào năm 2006, cô bắt đầu sự nghiệp trong một video ca nhạc, trước khi trở thành thành viên nhóm nhạc pop Chilli White Choc, sau đó cô rời nhóm vào năm 2009. Vào năm 2015, cô trở lại với vai trò nghệ sĩ và cũng đảm nhận vai chính trong bộ phim lãng mạn chính trị "Snap". Đĩa đơn solo đầu tiên của cô "Insomnia" đã đứng đầu bảng xếp hạng Thái Lan tại thời điểm đó. Vào năm 2020, cô nhận được Giải MAMA cho hạng mục Nghệ sĩ châu Á xuất sắc nhất. Năm sau đó, cô bắt đầu sự nghiệp lồng tiếng cho bộ phim hoạt hình "The Legend of Hei". Cuộc sống. Sau khi hoàn thành trung học tại Đại học Srinakharinwirot trường thực hành Prasarnmit, Waruntorn trở thành sinh viên tại Khoa Âm nhạc của Khoa Mỹ thuật và Ứng dụng, Đại học Chulalongkorn, nơi cô học chuyên ngành hát cổ điển (opera). Trong suốt thời gian cô học tại Chulalongkorn, cô cũng từng là tay trống chính cho Trận đấu bóng đá thường niên Chula–Thammasat lần thứ 70 vào năm 2015. Cô hoàn thành việc học vào năm 2016 và được trao tặng Cử nhân nghệ thuật âm nhạc (bằng danh dự hạng hai). Trước khi tốt nghiệp, cô đã tổ chức một buổi hòa nhạc opera trong vòng một giờ gọi là "Senior Voice Recital" tại trường đại học vào ngày 27 tháng 4 năm 2016.
1,639,027
{ "doc_id": "19848163", "split": 0, "title": "Oplopomops diacanthus", "token_count": 432, "url": "https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19848163" }
Title: Oplopomops diacanthus Oplopomops diacanthus là loài cá biển duy nhất thuộc chi Oplopomops trong họ Cá bống trắng. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1943. Từ nguyên. Tên chi này được ghép từ "Oplopomus", một chi khác trong họ Cá bống trắng và hậu tố "ópsis" trong tiếng Hy Lạp cổ đại (ὄψις; “tương đồng”). Từ định danh "diacanthus" được ghép bởi hai âm tiết trong tiếng Latinh: "di" (“hai”) và "acanthus" (“gai”), hàm ý đề cập đến hai ngạnh cứng, mỗi cái nằm phía trước mỗi vây lưng. Phân bố và môi trường sống. "O. diacanthus" được ghi nhận từ quần đảo Ryukyu (Nam Nhật Bản) trải dài về phía nam đến bờ bắc Úc, băng qua khu vực Đông Nam Á ở Tây Thái Bình Dương, phía đông đến quần đảo Marshall và quần đảo Phoenix, phía tây đến Maldives. Ở Việt Nam, "O. diacanthus" được ghi nhận tại khu vực vịnh Nha Trang–vịnh Vân Phong. "O. diacanthus" được tìm thấy trên nền cát và đá vụn nhuyễn gần các rạn san hô ở độ sâu khoảng 3–20 m. Mô tả. Chiều dài chuẩn lớn nhất được ghi nhận ở "O. diacanthus" là 7,5 cm. Thân màu xám, trong mờ, có đốm nâu và trắng bên dưới hàng vảy giữa. Vây đuôi tròn. Có vảy lược ở thân và gáy, má và nắp mang không có vảy. Số gai ở vây lưng: 7; Số tia ở vây lưng: 10; Số gai ở vây hậu môn: 1; Số tia ở vây hậu môn: 9–11. Sinh thái. "O. diacanthus" xuất hiện trên nền cát sáng màu, thường ẩn mình một phần trong cát.
1,639,028
{ "doc_id": "19848168", "split": 0, "title": "Soyuz 7K-TM", "token_count": 241, "url": "https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19848168" }
Title: Soyuz 7K-TM Phiên bản Dự án thử nghiệm Apollo–Soyuz (ASTP) năm 1975 của tàu vũ trụ Soyuz (Soyuz 7K-TM) đóng vai trò là cầu nối công nghệ cho tàu vũ trụ Soyuz-T thế hệ thứ ba (T - транспортный, "Transportnyi", nghĩa là vận chuyển) (1976–1986). Tàu vũ trụ Soyuz phiên bản ASTP được thiết kế để sử dụng trong Dự án thử nghiệm Apollo Soyuz với tên gọi Soyuz 19. Nó đã có những thay đổi về thiết kế để tăng khả năng tương thích với tàu vũ trụ của Hoa Kỳ. Soyuz ASTP sử dụng những tấm quang năng mới để đáp ứng việc gia tăng thời gian thực hiện nhiệm vụ, một cơ cấu ghép nối APAS-75 thay vì cơ chế chủ động tiêu chuẩn, và các chỉnh sửa đối với hệ thống kiểm soát môi trường để giảm áp suất cabin xuống 0,68 atm (69 kPa) trước khi ghép nối với Apollo. Một chiếc Soyuz ASTP dự phòng đã được phóng trong sứ mệnh Soyuz 22, với cổng ghép nối được thay bằng máy ảnh.
1,639,029
{ "doc_id": "19848176", "split": 0, "title": "Françoise xứ Alençon", "token_count": 232, "url": "https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19848176" }
Title: Françoise xứ Alençon Françoise xứ Alençon (1490 – 14 tháng 9 năm 1550) là con gái lớn của René I xứ Alençon và Marguerite xứ Lorraine-Vaudémont, cũng như là em gái của Charles IV xứ Alençon. Là em gái và là nữ thừa kế của Charles IV xứ Alençon, Françoise đã bị chị dâu là Marguerite xứ Angoulême, chị gái của Quốc vương François I của Pháp, chiếm lấy tước hiệu. Tuy nhiên, con trai của Françoise là Antoine xứ Bourbon-Vendôme đã kết hôn với Juana III của Navarra, con gái của Marguerite với người chồng thứ hai là Enrique II của Navarra. Cháu trai của Françoise và Marguerite, Enrique của Borbón chính là Quốc vương nước Pháp và Navarra. Gia đình. Năm 1505, Françoise kết hôn với François II xứ Longueville và có 2 người con: Vào ngày 18 tháng 5 năm 1513, Françoise kết hôn lần thứ hai với Charles IV xứ Vendôme và có 13 người con:
1,639,030
{ "doc_id": "19848178", "split": 0, "title": "Nakanoto, Ishikawa", "token_count": 67, "url": "https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19848178" }
Title: Nakanoto, Ishikawa là thị trấn thuộc huyện Kashima, tỉnh Ishikawa, Nhật Bản. Tính đến ngày 1 tháng 1 năm 2020, dân số ước tính thị trấn là 16.540 người và mật độ dân số là 180 người/km2. Tổng diện tích thị trấn là 89,45 km2.
1,639,031
{ "doc_id": "19848200", "split": 0, "title": "Heinrich VII của Thánh chế La Mã", "token_count": 77, "url": "https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19848200" }
Title: Heinrich VII của Thánh chế La Mã Heinrich VIII (Tiếng Latin thông tục: "Arrigo"; c. 1273 – 24 tháng 8 năm 1313), là Bá tước Luxembourg, Vua của Đức ("Vua La Mã Đức") từ năm 1308 và Hoàng đế La Mã Thần thánh từ năm 1312. Ông là hoàng đế đầu tiên của Nhà Luxembourg.
1,639,032
{ "doc_id": "19848202", "split": 0, "title": "Lothar III của Thánh chế La Mã", "token_count": 163, "url": "https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19848202" }
Title: Lothar III của Thánh chế La Mã Lothar III hay Lothar III còn được gọi là Lothair of Supplinburg (1075 – 4 tháng 12 năm 1137), là Hoàng đế La Mã Thần thánh từ năm 1133 cho đến khi ông qua đời. Ông được bổ nhiệm làm Công tước xứ Sachsen vào năm 1106 và Vua của Đức vào năm 1125 trước khi lên ngôi hoàng đế ở Rome. Là con trai của bá tước Saxon Gebhard xứ Supplinburg, triều đại của ông gặp nhiều biến động bởi hàng loạt những âm mưu của Hohenstaufens, Công tước Frederick II xứ Schwaben và Công tước Konrad xứ Franconia. Ông qua đời trên đường trở về sau một chiến dịch chống lại Vương quốc Sicily của người Norman.
1,639,033
{ "doc_id": "19848206", "split": 0, "title": "Lương Đống", "token_count": 463, "url": "https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19848206" }
Title: Lương Đống Lương Đống tên đầy đủ là Quách Lương Đống (sinh ngày 4 tháng 4 năm 1924 – mất ngày 28 tháng 9 năm 2011) là một họa sĩ thiết kế sân khấu Việt Nam. Ông là người tiên phong trong kỹ thuật thiết kế “sân khấu bục bệ” vào năm 1962. Ông được Nhà nước phong tặng danh hiệu Nghệ sĩ nhân dân năm 1993. Tiểu sử. Quách Lương Đống sinh ngày 4 tháng 4 năm 1924, tại xã Phước Long, huyện Hồng Dân, tỉnh Bạc Liêu (tỉnh Minh Hải cũ). Sự nghiệp. Trước 1975. Lương Đống tốt nghiệp Trường Mỹ thuật Gia Định, ông đi vẽ cho một hãng buôn tư nhân được một năm thì Cách mạng Tháng Tám xảy ra, ông lên đường tòng quân và được đã phân công ông làm họa sĩ trình bày tờ báo "Độc lập". Được hai năm, ông chuyển sang Sở Công an Nam bộ suốt thời kỳ chống Pháp, tham gia thiết kế sân khấu cho một số vở cải lương, kịch nói do đạo diễn Chi Lăng, Ba Du dàn dựng. Năm 1954, ông tập kết ra Bắc, nhờ có đạo diễn Chi Lăng giới thiệu, ông được Thứ trưởng Bộ Văn hóa Hà Huy Giáp điều từ ngành công an về Viện Nghiên cứu Mỹ thuật sân khấu cải lương thuộc Bộ Văn hóa. Nhờ có kiến thức về ngành mỹ thuật phương Tây, cộng với những kinh nghiệm thực tế trong quá trình thực hiện cảnh trí cho hơn 30 vở diễn thời đó, ông đã viết quyển sách "Hệ thống lý luận cơ bản về Mỹ thuật Sân khấu Việt Nam". Tác phẩm này được xem là cẩm nang cho những nghệ sĩ trẻ muốn chuyên tâm vào lĩnh vực mỹ thuật sân khấu ở Việt Nam. Năm 1958, Hội diễn Sân khấu chuyên nghiệp toàn quốc đầu tiên được tổ chức tại Hà Nội, ông được mời là họa sĩ thiết kế sân khấu cho vở cải lương "Nàng tiên Mẫu Đơn", do đạo diễn Chi Lăng dàn dựng. Vở này đoạt Huy chương vàng và phần thiết kế mỹ thuật của ông cũng được trao giải vàng. Từ đó về sau, mỗi mùa hội diễn, ông đều có tác phẩm thiết kế mỹ thuật đoạt giải Vàng.
1,639,034
{ "doc_id": "19848206", "split": 1, "title": "Lương Đống", "token_count": 457, "url": "https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19848206" }
Title: Lương Đống Trong suốt thời gian ở miền Bắc, Lương Đống đã thiết kế hơn 100 tác phẩm mỹ thuật cho cải lương, kịch nói, chèo, tuồng. Năm 1962, ông được Bộ Văn hóa giao phụ trách lớp nghiên cứu mỹ thuật sân khấu toàn miền Bắc. Trong năm này, vở "Câu chuyện Iếc-kút" được Đoàn kịch nói Trung Ương thực hiện với hơn 15 cảnh, phải chuyển đổi thật nhanh, không đủ thời gian để sử dụng trang trí tả thực với những hoa lá rườm rà. Ông sáng tạo ra “bục vạn năng”, có thể xoay chuyển, sắp xếp, hoán đổi rất nhanh. Năm 1964, ông được cử làm giám đốc Nhà hát Cải lương Việt Nam. Năm 1972, với vở "Âm mưu và hậu quả", ông tiếp tục sáng tạo thoát khỏi phương pháp tả thực bằng cách làm 2 cuộn vải tượng trưng cho 2 chiếc cột to, kéo lên kéo xuống là thay đổi nội thất. Sau 1975. Năm 1975, đất nước thống nhất, ông chuyển về Nam, cùng với đạo diễn Chi Lăng gầy dựng Nhà hát Cải lương Trần Hữu Trang. Ông cũng từng là người đóng vai Hương Quản trong vở diễn "Đời cô Lựu". Tháng 2 năm 1984, nghệ sĩ Lương Đống đã dẫn đầu đoàn nghệ sĩ của Thành phố Hồ Chí Minh đi biểu diễn "Đời cô Lựu" ở một số nước Tây Âu theo lời mời của UNESCO. Năm 1985, ông giữ chức Giám đốc của Nhà hát Cải lương Trần Hữu Trang. Năm 1988, ông nghỉ hưu. Năm 1989, ông đã thiết kế khán phòng khiêm tốn của Sân khấu nhỏ 5B Võ Văn Tần thành một sân khấu kịch chuyên nghiệp với những kỹ thuật xử lý sân khấu sáng tạo, đóng góp to lớn trong việc ra đời và phát triển của Sân khấu Kịch 5B (nay là Nhà hát Kịch Sân khấu nhỏ Thành phố Hồ Chí Minh). Vở "Tình nghệ sĩ" năm 1992 gây chấn động khán giả với thiết kế sân khấu độc đáo, đưa Nhà hát Hòa Bình thành sân khấu có danh tiếng.
1,639,035
{ "doc_id": "19848206", "split": 2, "title": "Lương Đống", "token_count": 461, "url": "https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19848206" }
Title: Lương Đống Ông là người có công truyền đạt đến thế hệ đạo diễn, diễn viên trẻ trong việc tận dụng không gian khán phòng làm sàn diễn, biến sân khấu nhỏ thành không gian sáng tạo để diễn viên và khán giả cùng sống trong đó. Những tác phẩm đã cuốn hút khán giả không chỉ vì tài năng diễn xuất của “thế hệ vàng” sân khấu kịch Thành phố Hồ Chí Minh mà còn nhờ vào bàn tay thiết kế sân khấu của họa sĩ Lương Đống. Ông còn tạo dấu son cho sân khấu cải lương thể nghiệm qua các vở độc diễn của tác giả Lê Duy Hạnh, đạo diễn Hồng Phúc và diễn viên Bạch Tuyết như "Diễn kịch một mình, Hoàng hậu hai vua, Độc thoại đêm, Lý Chiêu Hoàng"... và sau này là "Hồn thơ ngọc". Cuối đời. Ngày 20 tháng 2 năm 2004, trước sinh nhật lần thứ 80 của ông khoảng 2 tuần, Lương Đống được các bác sĩ trả về khi đã tắt thở. Trong lúc người nhà tổ chức tang lễ và chuẩn bị khâm liệm thì ông bất ngờ tỉnh lại. Một năm sau, ông được các đồng nghiệp tổ chức sinh nhật 1 tuổi, kỷ niệm ngày ông thoát khỏi cái chết. Ông mất ngày 28 tháng 9 năm 2011 tại Bệnh viện Nguyễn Tri Phương, Thành phố Hồ Chí Minh vì bệnh suy tủy - viêm phổi tắc nghẽn. Đời tư. Ông kết hôn với bà Thu, con gái của bà Nguyễn Thị Thập – Cán bộ phụ nữ miền Nam Việt Nam, người có công sáng lập Bảo tàng Phụ nữ Nam Bộ. Vinh danh. Ông được nhà nước phong tặng danh hiệu Nghệ sĩ nhân dân năm 1993 (đợt III) và trao huy hiệu 60 năm tuổi Đảng năm 2009. Tháng 6 năm 2023, Lương Đống cùng một số cố nghệ sĩ sân khấu được Hội Sân khấu Thành phố Hồ Chí Minh đề xuất đưa đặt tên cho đường phố của thành phố Hồ Chí Minh. Đánh giá. Lương Đống được giới chuyên môn ghi nhận là người rất có ý thức trong việc tận dụng không gian khán phòng làm sàn diễn, biến sân khấu nhỏ thành không gian sáng tạo để diễn viên và khán giả đều có thể "chung sống" trong đó.
1,639,036
{ "doc_id": "19848207", "split": 0, "title": "Ferdinand IV, Vua La Mã Đức", "token_count": 71, "url": "https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19848207" }
Title: Ferdinand IV, Vua La Mã Đức Ferdinand IV (8 tháng 9 năm 1633 – 9 tháng 7 năm 1654) được phong làm Vua của Bohemia năm 1646, Vua Hungary và Croatia năm 1647, và Vua La Mã vào ngày 31 tháng 5 năm 1653. Ông cũng từng là Công tước xứ Cieszyn.
1,639,037
{ "doc_id": "19848213", "split": 0, "title": "Lương Đống (định hướng)", "token_count": 19, "url": "https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19848213" }
Title: Lương Đống (định hướng) Lương Đống có thể là tên của:
1,639,038
{ "doc_id": "19848228", "split": 0, "title": "Isabella Poyntz, Hầu tước phu nhân xứ Exeter", "token_count": 334, "url": "https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19848228" }
Title: Isabella Poyntz, Hầu tước phu nhân xứ Exeter Isabella Poyntz (6 tháng 3 năm 1803 – 6 tháng 3 năm 1879), là Hầu tước phu nhân xứ Exeter với tư cách là vợ của Brownlow Cecil, Hầu tước thứ 2 xứ Exeter. Thân thế. Isabella Poyntz là con gái của William Stephen Poyntz, một nghị sĩ thuộc Đảng Tự do, và Elizabeth Mary Browne. Isabella có hai người chị gái, một là Elizabeth Georgina Poyntz, kết hôn với Frederick Spencer, Bá tước Spencer thứ 4. Một người chị khác là Frances Selina Isabella Poyntz, kết hôn với Robert Cotton St. John Trefusis, Nam tước Clinton thứ 18. Sau khi ngài Nam tước qua đời, Frances tái hôn với Ngài nghị sĩ Horace Seymour. Isabella còn có hai người anh nhưng họ bị chết đuối trong một vụ tai nạn chèo thuyền năm 1815. Gia đình Poyntz sở hữu những căn nhà ở Midgham House ở Berkshire và Cowdray Park ở West Sussex. Hôn nhân và con cái. Ngày 12 tháng 5 năm 1824, Isabella kết hôn với Brownlow Cecil, Hầu tước thứ 2 xứ Exeter. Hai vợ chồng có những người con sau: Năm 1867, chồng của Isabella qua đời. Isabella qua đời vào năm 1879, thọ 76 tuổi và được chôn cất cùng chồng trong nhà nguyện của gia đình Cecil tại Nhà thờ Thánh Martin, Stamford.
1,639,039
{ "doc_id": "19848231", "split": 0, "title": "Ludwig I, Đại công tước xứ Baden", "token_count": 483, "url": "https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19848231" }
Title: Ludwig I, Đại công tước xứ Baden Ludwig I (9 tháng 2 năm 1763 – 30 tháng 3 năm 1830) trở thành Đại công tước Baden vào ngày 8 tháng 12 năm 1818, sau cái chết của người cháu là Đại công tước Karl Ludwig Friedrich không có con. Bản thân ông cũng không có con trai nên cuối cùng ngai vàng đã được nhường lại cho người em cùng cha khác mẹ là Thân vương Leopold, một sản phẩm của quý tiện kết hôn vì mẹ của Leopold là người có tước vị không ngang hàng. Ông đã đảm bảo sự hoạt động liên tục của Đại học Freiburg vào năm 1820, sau đó trường đại học này được gọi là Đại học Albert-Ludwig. Ông cũng thành lập trường Bách khoa Hochschule Karlsruhe vào năm 1825. Hochschule là trường kỹ thuật lâu đời nhất ở Đức. Cái chết của Ludwig vào năm 1830 dẫn đến nhiều tin đồn. Cái chết của ông cũng đồng nghĩa với sự tuyệt tự của dòng họ Baden. Quyền kế vị sau đó thuộc về những đứa con của cuộc hôn nhân thứ hai quý tiện kết hôn của Đại công tước Karl Friedrich xứ Baden và Louise Karoline Geyer von Geyersberg, người được phong làm Nữ bá tước xứ Hochberg trong giới quý tộc Áo theo yêu cầu cá nhân của Karl Friedrich. Sau cái chết của Ludwig, có nhiều cuộc thảo luận về một người đàn ông mười bảy tuổi bí ẩn tên là Kaspar Hauser, người dường như không biết từ đâu xuất hiện vào năm 1828. Mười bảy năm trước, con trai đầu lòng của Đại công tước tương lai Karl và người vợ Pháp là Stéphanie de Beauharnais chết trong hoàn cảnh sau này được miêu tả là bí ẩn. Vào thời điểm đó và cho đến ngày nay (năm 2007) vẫn có suy đoán rằng Hauser, người đã chết (có lẽ bị sát hại) vào năm 1833, chính là đứa trẻ đó. Ludwig có một đứa con gái ngoài giá thú với tình nhân Katharina Werner (được trao tước vị Nữ bá tước xứ Langenstein và Gondelsheim năm 1818), Nữ bá tước Louise von Langenstein und Gondelsheim (1825–1900), người kết hôn năm 1848 với quý tộc Thụy Điển Carl Israel, Bá tước Douglas (1824–1898). Tham khảo.
1,639,040
{ "doc_id": "19848233", "split": 0, "title": "Albrecht II của Đức", "token_count": 100, "url": "https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19848233" }
Title: Albrecht II của Đức Albrecht II (10 tháng 8 năm 139727 tháng 10 năm 1439) là Vua của Đức (Vua La Mã Đức) từ năm 1438 đến 1439. Là thành viên Nhà Habsburg, ông trở thành Vương công Áo theo quyền thừa kế (với tên Albrecht V). Sau cái chết của cha vợ là hoàng đế Sigismund, Albrecht trở thành vua của Hungary, Croatia và Bohemia và giành được quyền cai trị Công quốc Luxembourg.
1,639,041
{ "doc_id": "19848237", "split": 0, "title": "Nguyễn Hữu Thí", "token_count": 410, "url": "https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19848237" }
Title: Nguyễn Hữu Thí Nguyễn Hữu Thí (1899 – ?) là bác sĩ người Việt Nam từng giữ chức Bộ trưởng Bộ Tiếp tế trong chính phủ Trần Trọng Kim của Đế quốc Việt Nam từ tháng 4 cho đến tháng 8 năm 1945. Tiểu sử. Nguyễn Hữu Thí sinh năm 1899, quê quán Đà Nẵng, Trung Kỳ, Liên bang Đông Dương, lúc thành niên ra Huế và Hà Nội học hành. Sau năm 1923, ông làm bác sĩ ở Phan Thiết cho đến năm 1934 rồi về lại Đà Nẵng mưu sinh. Ngày 9 tháng 3 năm 1945, Đế quốc Nhật tiến hành đảo chính lật đổ ách thống trị của thực dân Pháp trên toàn cõi Đông Dương. Ngày 17 tháng 4 năm 1945, Hoàng đế Bảo Đại đã ban bố đạo dụ số 5 chuẩn y thành phần nội các mới của Trần Trọng Kim. Ngay khi vừa nhậm chức Thủ tướng, Trần Trọng Kim cũng nhận thức rõ ràng về tầm quan trọng của công tác chống nạn đói, cứu tế dân nghèo ở Trung Kỳ và Bắc Kỳ. Vì vậy, nội các đã lập riêng một bộ gọi là Bộ Tiếp tế do chính Nguyễn Hữu Thí làm Bộ trưởng, có nhiệm vụ chuyên lo liệu việc vận chuyển thóc gạo từ Nam Kỳ ra cứu tế dân đói ngoài Bắc Kỳ. Ngay sau lễ nhậm chức, ông lập tức được cử vào miền Nam tổ chức thu mua thóc gạo, tập trung tại các bến cảng nhỏ để tránh bị không quân Anh, Mỹ oanh tạc, sau đó trưng dụng thuyền nhỏ men theo ven biển chở ngay ra Trung Kỳ và Bắc Kỳ cứu dân đói. Tuy vậy, thời kỳ ông đảm nhận chức Bộ trưởng Bộ Tiếp tế chỉ được một thời gian ngắn, sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công khiến Thủ tướng Trần Trọng Kim cùng toàn thể nội các phải giải thể vào cuối tháng 8 năm 1945, bản thân ông cũng đệ đơn từ chức rồi thu dọn đồ đạc trở về Đà Nẵng và sinh sống tại đây cho đến khi qua đời.
1,639,042
{ "doc_id": "19848242", "split": 0, "title": "Hoàng Hùng Sơn", "token_count": 198, "url": "https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19848242" }
Title: Hoàng Hùng Sơn Hoàng Hùng Sơn (1912 – 1946) là Đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa I. Cuộc đời. Hoàng Hùng Sơn là người Dao ở xã Lương Bằng, huyện Chợ Đồn, tỉnh Bắc Kạn. Năm 1943, Đảng Cộng sản Đông Dương và Mặt trận Việt Minh thành lập Khu Việt Minh Quang Trung trên địa phận các huyện Bạch Thông, Chợ Rã, Ngân Sơn và Chợ Đồn, ông hưởng ứng và tham gia phong trào. Cuộc họp của các đại biểu đã bầu ra Ủy ban Việt Minh khu Quang Trung, gồm Chủ nhiệm Lý Đức Thượng, Phó Chủ nhiệm Bàn Văn Hoan, hai Ủy viên Bàn Thành Công và Hoàng Hùng Sơn. Ngày 6 tháng 1 năm 1946, ông cùng với Nông Văn Lạc được cử tri Bắc Kạn bầu làm Đại biểu Quốc hội khóa đầu tiên của tỉnh. Ngày 26 tháng 3, ông qua đời một thời gian ngắn sau kỳ họp đầu tiên của Quốc hội.
1,639,043
{ "doc_id": "19848244", "split": 0, "title": "Karl, Đại công tước xứ Baden", "token_count": 461, "url": "https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19848244" }
Title: Karl, Đại công tước xứ Baden Karl (tiếng Đức: "Karl Ludwig Friedrich"; 8 tháng 6 năm 1786 – 8 tháng 12 năm 1818) là Đại công tước xứ Baden từ ngày 11 tháng 6 năm 1811, sau cái chết của ông nội là Karl Friedrich, tại vị cho đến khi qua đời vào năm 1818. Cha của ông là Đại công tử Karl Ludwig, người sẽ kế thừa ngai vàng Baden, nhưng đã qua đời trước cha của mình 10 năm, vì thế, ngai vàng đã để lại cho con trai trưởng của ông. Tiểu sử. Cha của ông là Đại công tử Karl Ludwig, người thừa kế của Bá quốc Baden, được nâng lên thành một đại công quốc sau khi Đế chế La Mã Thần thánh giải thể vào năm 1806. Mẹ ông là Amalie xứ Hessen-Darmstadt, con gái của Ludwig IX, Bá tước xứ Hessen-Darmstadt. Ông là em rể của những nhà cai trị Maximilian I Joseph của Bayern, Aleksandr I của Nga và Gustav IV Adolf của Thụy Điển. Chị gái ông Đại công nữ Karoline là vương hậu của Bayern, chị gái Đại công nữ Louise là hoàng hậu Nga và chị gái Đại công nữ Frederica là vương hậu của Thụy Điển. Năm 15 tuổi, Karl thực hiện chuyến hành trình đến thăm các em gái của mình tại St. Petersburg và Stockholm. Ông đang trên đường về nhà với cha thì cha ông qua đời do cú ngã từ xe vào ngày 15 tháng 12 năm 1801. Karl là nhân chứng cho vụ tai nạn này. Do ảnh hưởng mạnh mẽ của Pháp đối với triều đình Baden, Karl buộc phải kết hôn với con gái nuôi của Hoàng đế Napoléon I là Stéphanie de Beauharnais, tại Paris vào ngày 8 tháng 4 năm 1806, bất chấp sự phản đối của chính ông cũng như của mẹ và các em gái ông. Karl rõ ràng thích người em họ là Vương nữ Auguste của Bayern hơn. Phải 5 năm sau cặp đôi mới sinh được người thừa kế. Karl tham chiến năm 1807 với tư cách là người đứng đầu đội quân Baden dưới quyền Thống chế Lefebvre. Tại đây ông tham gia Vây hãm Danzig.
1,639,044
{ "doc_id": "19848244", "split": 1, "title": "Karl, Đại công tước xứ Baden", "token_count": 381, "url": "https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19848244" }
Title: Karl, Đại công tước xứ Baden Năm 1808, Karl trở về bên ông nội. Sức khoẻ của ông nội xuống cấp do tuổi tác và Karl trở thành đồng nhiếp chính vương. Khi Karl được 25 tuổi, ông đã kế vị ngai vàng Baden khi ông nội Karl Frederich qua đời vào ngày 11 tháng 6 năm 1811. Vào ngày 4 tháng 10 năm 1817, vì cả ông và những người con trai khác trong cuộc hôn nhân đầu tiên của ông nội đều không có con cháu nam nào còn sống, Karl xác nhận quyền kế vị của những người chú cùng cha khác mẹ của mình thuộc dòng dõi Hochberg - một cuộc hôn nhân quý tiện kết hôn, phong cho mỗi người tước hiệu Bá tử và Bá nữ xứ Baden, và địa vị "Highness". Ông yêu cầu Đại hội thân vương ở Aachen vào ngày 20 tháng 11 năm 1818, chỉ vài tuần trước khi ông qua đời, xác nhận quyền kế vị của các con trai của Louise Caroline, Nữ bá tước Hochberg, người vợ thứ hai quý tiện kết hôn của Đại công tước Karl Frederich. Nhưng tuyên bố kế vị Baden này đã gây ra những thách thức quốc tế. Đại hội Viên, vào năm 1815, đã công nhận các yêu sách cuối cùng của Đế quốc Áo và Vương quốc Bayern đối với các phần của Baden mà họ đã phân cắt cho Karl Frederich ở Thượng Pfalz và Breisgau, dự đoán rằng sau khi ông sắp chết, những vùng đất đó sẽ không còn là một phần của Đại công quốc Baden. Các tranh chấp đã được giải quyết bằng Hiệp ước Frankfurt năm 1819, theo đó Baden nhượng lại một phần Wertheim, vốn đã nằm trong Bayern, cho Vương quốc đó, sau đó quyền kế vị được giải quyết vào năm 1817 đã được Bayern và Áo công nhận. Tham khảo.
1,639,045
{ "doc_id": "19848247", "split": 0, "title": "Ludwig II, Đại công tước xứ Baden", "token_count": 160, "url": "https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19848247" }
Title: Ludwig II, Đại công tước xứ Baden Ludwig II (tiếng Đức: "Ludwig II"; 15 tháng 8 năm 1824 – 22 tháng 1 năm 1858) là Đại công tước xứ Baden từ ngày 24 tháng 4 năm 1852 cho đến khi qua đời năm 1858. Ông là con trai của Leopold, Đại công tước xứ Baden và Vương nữ Sophie của Thụy Điển. Ludwig kế vị cha mình làm Đại công tước xứ Baden vào ngày 24 tháng 4 năm 1852. Em trai ông là Đại công tử Friedrich giữ chức nhiếp chính vương và người thừa kế vì Ludwig mắc bệnh tâm thần. Đến năm 1856 Friedrich trở thành đại công tước trước khi Ludwig qua đời 2 năm. Ông cũng là công dân danh dự của Karlsruhe. Tham khảo.
1,639,046
{ "doc_id": "19848249", "split": 0, "title": "Alexandrine xứ Baden", "token_count": 108, "url": "https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19848249" }
Title: Alexandrine xứ Baden Alexandrine xứ Baden (tiếng Đức: "Alexandrine Luise Amalie Friederike Elisabeth Sophie"; 6 tháng 12 năm 1820 – 20 tháng 12 năm 1904) là Công tước phu nhân xứ Sachsen-Coburg và Gotha từ ngày 29 tháng 1 năm 1844 đến ngày 22 tháng 8 năm 1893 với tư cách là vợ của Công tước Ernest II. Cô là con cả của Leopold, Đại công tước xứ Baden và vợ ông là Công nữ Sophie của Thụy Điển.
1,639,047
{ "doc_id": "19848250", "split": 0, "title": "Stéphanie de Beauharnais", "token_count": 165, "url": "https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19848250" }
Title: Stéphanie de Beauharnais Stéphanie, Đại công tước phu nhân xứ Baden (tiếng Pháp: "Stéphanie Louise Adrienne de Beauharnais"; 28 tháng 8 năm 1789 – 29 tháng 1 năm 1860) là con gái nuôi của Hoàng đế Napoleon I vì thế giữ tước hiệu Hoàng nữ của Đệ Nhất Đế chế Pháp, được đích thân hoàng đế hôn phối cho Karl, Đại công tước xứ Baden. Bà là con gái của Claude de Beauharnais, Bá tước thứ 2 xứ Roches-Baritaud, anh họ của Alexandre de Beauharnais, vì thế bà là chị họ đời thứ 2 của Eugène de Beauharnais và Hortense de Beauharnais, và là dì họ của Hoàng đế Napoleon III.
1,639,048
{ "doc_id": "19848259", "split": 0, "title": "Sophie xứ Sachsen-Coburg-Saalfeld", "token_count": 502, "url": "https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19848259" }
Title: Sophie xứ Sachsen-Coburg-Saalfeld Sophie xứ Sachsen-Coburg-Saalfeld (16 tháng 8 năm 1778 – 9 tháng 7 năm 1835) là Công nữ xứ Sachsen-Coburg-Saalfeld. Thông qua hôn nhân, Sophie là Bá tước phu nhân xứ Mensdorff-Pouilly. Những năm đầu đời. Sophie sinh ra ở Coburg, là người con cả của Franz I xứ Sachsen-Coburg-Saalfeld và Augusta Reuß xứ Ebersdorf, chị gái của Ernst I xứ Sachsen-Coburg và Gotha, Victorie xứ Sachsen-Coburg-Saalfeld và Léopold I của Bỉ. Do đó, Sophie là bác gái bên ngoại của Victoria của Anh và bên nội của Albrecht xứ Sachsen-Coburg và Gotha. Sophie có mối quan hệ đặc biệt thân thiết với em gái Antoinette, và cả hai thường đến Lâu đài Fantaisie, nơi trú ẩn của những người Pháp di cư. Đó cũng là nơi Sophie gặp người chồng tương lai, Emmanuel von Mensdorff-Pouilly. Hôn nhân và đời sống sau kết hôn. Ngày 23 tháng 2 năm 1804, Sophie kết hôn với Emmanuel tại Coburg. Năm 1818, Emmanuel được thăng lên hiệu Bá tước. Năm 1806, Emmanuel cư trú ở Saalfeld, dinh thự phụ của triều đình Coburg. Vì vậy, rất có thể Emmanuel đã tham gia trận Saalfeld, ông đã lấy lại hài cốt của Louis Ferdinand của Phổ từ chiến trường và bảo vệ nơi ở của cha vợ và gia đình trước quân Pháp. Từ năm 1824 đến năm 1834, Sophie sống ở Mainz, nơi chồng là chỉ huy pháo đài liên bang; ở đây, Bà Bá tước thường được gọi là "Thân vương phi" ("Fürstin"). Sophie hoạt động tích cực với tư cách là một nhà văn và vào năm 1830, Sophie đã xuất bản tuyển tập truyện cổ tích lãng mạn có tên là "Mährchen und Erzählungen". Sophie cũng nhận được Huân chương Đại Thập tự thuộc Huân chương Thánh Yekaterina. Ngày 9 tháng 7 năm 1835, Sophie qua đời ở Tuschimitz, Bohemia và được chôn cất tại công viên Schloss Preitenstein, nơi ở của gia đình Mensdorff-Pouilly. Con cái. Emmanuel và Sophie có sáu người con trai:
1,639,049
{ "doc_id": "19848260", "split": 0, "title": "Antoinette xứ Sachsen-Coburg-Saalfeld", "token_count": 509, "url": "https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19848260" }
Title: Antoinette xứ Sachsen-Coburg-Saalfeld Antoinette xứ Sachsen-Coburg-Saalfeld (28 tháng 8 năm 1779 – 14 tháng 3 năm 1824) là Công nữ xứ Sachsen-Coburg-Saalfeld. Thông qua người con trai Alexander của mình, Antoinette là tổ tiên của nhánh Công giáo cùa Vương tộc Württemberg ngày nay. Thân thế. Antoinette sinh ra ở Coburg, là người con thứ hai của Franz I xứ Sachsen-Coburg-Saalfeld và Augusta Reuß xứ Ebersdorf, chị gái của Ernst I xứ Sachsen-Coburg và Gotha, Victorie xứ Sachsen-Coburg-Saalfeld và Léopold I của Bỉ. Do đó, Antoinette là bác gái bên ngoại của Victoria của Anh và bên nội của Albrecht xứ Sachsen-Coburg và Gotha. Ông bà ngoại của Antoinette là Heinrich XXIV Reuß xứ Ebersdorf và Karoline Ernestine xứ Erbach-Schönberg, và ông bà nội của Antoinette là Ernst Friedrich I xứ Sachsen-Coburg-Saalfeld, và Sophie Antoinette xứ Braunschweig-Wolfenbüttel. Ngày 17 tháng 11 năm 1798, Antoinette kết hôn với Alexander Friedrich Karl xứ Württemberg. Alexander là em trai của Sophie Dorothea xứ Württemberg, Hoàng hậu Nga, do đó là cậu của Aleksandr I và Nikolai I của Nga. Hai vợ chồng sống tại Nga và Alexander tiếp tục sự nghiệp quân sự và ngoại giao tại đây. Antoinette qua đời ở Sankt-Petersburg. Antoinette được chôn cất ở Hầm mộ Công tộc ở Lâu đài Friedenstein ở Gotha. Chồng và hai người con Paul và Friedrich cũng an nghỉ tại đây. Theo Vương hậu Luise của Phổ, Antoinette có thể có một người con ngoại hôn. Em trai của Vương hậu, Georg đã viết vào ngày 18 tháng 5 năm 1802 rằng: "" [...] Cặp vợ chồng Württemberg đã không nói chuyện với nhau trong 2 năm, nhưng nàng ta" (Antoinette) "đang mang thai và chắc chắn người cha là Herr von Höbel, một kinh sĩ. Ta biết tất cả điều này từ Công tước xứ Weimar, và đó là sự thật." " Huân chương. Antoinette được ghi nhận là một người có sức ảnh hưởng, được ban tặng Huân chương Đại Thập tự thuộc Huân chương Thánh Yekaterina của Nga.
1,639,050
{ "doc_id": "19848267", "split": 0, "title": "Park Hwan-hee", "token_count": 138, "url": "https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19848267" }
Title: Park Hwan-hee Park Hwan-hee (Hangul: 박환희, Hanja: 朴焕熙, Hán-Việt: Phác Hoán Hy; sinh ngày 13 tháng 10 năm 1990) là một nữ diễn viên và người mẫu người Hàn Quốc trực thuộc công ty giải trí Image9coms. Cô bắt đầu được biết đến khi tham gia bộ phim truyền hình ăn khách "Hậu duệ mặt trời" năm 2016. Đời tư. Park Hwan-hee kết hôn với rapper Bill Stax vào ngày 30 tháng 7 năm 2011 và ly hôn 15 tháng sau đó. Họ có với nhau bé trai tên là Shin Seop.
1,639,051
{ "doc_id": "19848277", "split": 0, "title": "Karina (ca sĩ)", "token_count": 445, "url": "https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19848277" }
Title: Karina (ca sĩ) Yoo Ji-min (Hangul: 유지민, Hanja: 劉知珉, Hán-Việt: Lưu Trí Mẫn; sinh ngày 11 tháng 4 năm 2000), thường được biết đến với nghệ danh Karina, là một ca sĩ người Hàn Quốc. Cô là trưởng nhóm của nhóm nhạc nữ Hàn Quốc aespa, được thành lập bởi SM Entertainment vào tháng 11 năm 2020. Cô cũng là thành viên của Got the Beat, ra mắt vào ngày 3 tháng 1 năm 2022. Tiểu sử. Karina sinh ra và lớn lên ở Suwon, Gyeonggi-do, Hàn Quốc, trong một gia đình gồm có bố mẹ và một chị gái. Cô theo học tại trường Trung học Hansol cho đến khi được một tuyển trạch viên tài năng của SM phát hiện thông qua mạng xã hội. Sau đó cô gác lại việc học để tập trung đào tạo và lấy được chứng chỉ GED. Sự nghiệp. Trước khi ra mắt. Karina lần đầu tiên được đại diện của SM Entertainment tuyển chọn thông qua mạng xã hội và được đào tạo 4 năm trước khi ra mắt. Trong thời gian làm thực tập sinh, Karina đã xuất hiện trong video âm nhạc của tiền bối cùng công ty Taemin với bài hát "Want" vào tháng 2 năm 2019 và trình diễn cùng anh trên một số chương trình âm nhạc trong những tuần quảng bá bài hát. Karina cũng xuất hiện cùng tiền bối Kai trong virtual showcase của Hyundai và SM, "The All-New Tucson, Beyond DRIVE". 2020–nay: Ra mắt cùng aespa, Got the Beat và hoạt động solo. Ngày 27 tháng 10 năm 2020, SM tiết lộ Karina là thành viên thứ hai của aespa. Cô ra mắt với tư cách trưởng nhóm vào ngày 17 tháng 11 năm 2020 với đĩa đơn kỹ thuật số "Black Mamba". Ngày 17 tháng 12 năm 2021, cô được công bố là một trong những thành viên của Got the Beat được ra mắt bởi SM cùng với Winter và các tiền bối khác như BoA, TaeYeon, Hyoyeon, Seulgi và Wendy.
1,639,052
{ "doc_id": "19848277", "split": 1, "title": "Karina (ca sĩ)", "token_count": 380, "url": "https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19848277" }
Title: Karina (ca sĩ) Ngày 22 tháng 9 năm 2023, Karina phát hành đĩa đơn "Sad Waltz" cho loạt phim truyền hình Netflix "Song of the Bandits". Ngày 30 tháng 11, có thông báo rằng Karina sẽ tham gia chương trình không có kịch bản của Netflix "Agents of Mystery" dự kiến phát sóng vào năm 2024. Đời tư. Karina là một người theo đạo Công giáo, cô nói rằng tên rửa tội của cô là Katarina, đây là nguồn cảm hứng cho tên người dùng instagram của cô. Hình ảnh và ảnh hưởng công chúng. Karina được SM giới thiệu là thành viên có nhiều tài năng từ vũ đạo, vocal và rap trước khi ra mắt. Tạp chí "Paper" ca ngợi Karina là một "vũ công với vũ đạo năng động, nhóm trưởng chu đáo và là một rapper thu hút trong nhóm của cô". Năm 2021, Karina đứng đầu trong bảng xếp hạng thương hiệu dành cho nghệ sĩ K-pop ở Hàn Quốc trong hai tháng liên tiếp. Cô cũng đứng đầu hạng mục thần tượng nữ của Star News trong 8 tuần. Trong "Bảng xếp hạng thương hiệu thành viên nhóm nhạc nữ cá nhân" hàng tháng của Viện nghiên cứu kinh doanh Hàn Quốc, Karina đứng đầu trong cả số tháng 6 và tháng 7 và đứng thứ tư trong số tháng 10. Cô cũng được giới thiệu trong "Chương trình quảng bá du lịch" của Chính quyền thủ đô Seoul nhằm "giúp khách du lịch chiêm ngưỡng toàn cảnh thành phố và Bức tường pháo đài lịch sử của Seoul cũng như nghề làm đồ gốm ở Mullae-dong". Danh sách đĩa nhạc. Sáng tác. Tất cả phần bản quyền của bài hát đều được điều chỉnh từ cơ sở dữ liệu của Hiệp hội Bản quyền Âm nhạc Hàn Quốc trừ khi có quy định khác.
1,639,053
{ "doc_id": "19848289", "split": 0, "title": "Valorant Champions 2023", "token_count": 452, "url": "https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19848289" }
Title: Valorant Champions 2023 Giải đấu 2023 Valorant Champions là 1 giải đấu thể thao điện tử của bộ môn "Valorant". Đây là lần thứ 3 giải đấu "Valorant" Champions được tổ chức, cũng là giải đấu toàn cầu quan trọng nhất của "Valorant" Champions Tour (VCT) trong mùa giải 2023. Giải đấu được tổ chức từ ngày 6 tháng 8 đến ngày 26 tháng 8, năm 2023 tại Los Angeles và Inglewood, California, Hoa Kỳ. 16 đội đủ điều kiện tham gia dựa trên kết quả của họ tại các giải đấu trong mùa giải, 2023 Masters Tokyo, và vòng loại khu vực (Last Chance Qualifiers). "Ticking Away" được công bố là bài hát chủ đề của giải đấu, được sáng tác, sản xuấ và biểu diễn bởi Grabbitz và bbno$. Evil Geniuses trở thành đội Bắc Mỹ đầu tiên vô địch giải đấu "Valorant" Champions sau khi đánh bại Paper Rex tại trận chung kết với tỷ số 3–1. Địa điểm. Los Angeles và Inglewood được lựa chọn làm nơi tổ chức giải đấu. Giải đấu được tổ chức tại Shrine Auditorium và Expo Hall trong phần lớn thời lượng giải đấu, và tại Kia Forum trong 3 ngày chung kết. Các đội tham gia. Mười sáu đội đủ điều kiện tham gia giải đấu dựa trên thành tích vượt qua vòng loại giải đấu tương ứng của họ hoặc thông qua Vòng loại khu vực (Last Chance Qualifiers - LCQ). Ở mỗi khu vực, 3 đội đứng đầu trong vòng loại trực tiếp của giải đấu khu vực hoặc Masters Tokyo của khu vực EMEA ngay lập tức đủ điều kiện tham dự Valorant Champions, trong khi 7 đội còn lại phải thi đấu trong Vòng loại Vòng loại khu vực ở các khu vực tương ứng của họ bao gồm cả Trung Quốc. Đội đứng đầu Vòng loại khu vực, riêng khu vực EMEA là 2 đội đứng đầu, sẽ đủ điều kiện tham dự Valorant Champions. Các đội sau đủ điều kiện tham gia sự kiện: Vòng bảng. Vòng bảng diễn ra từ ngày 7 – 14 tháng 8 năm 2023 (giờ Việt Nam).
1,639,054
{ "doc_id": "19848289", "split": 1, "title": "Valorant Champions 2023", "token_count": 470, "url": "https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19848289" }
Title: Valorant Champions 2023 16 đội sẽ được chia đều vào 4 bảng. Các đội sẽ thi đấu theo thể thức nhánh thắng nhánh thua GSL. 2 đội có thành tích cao nhất của mỗi bảng sẽ giành quyền vào Vòng loại trực tiếp (Play-off). Tất cả các trận đấu được phân định bằng thể thức . Thể thức bốc thăm chia bảng. 16 đội được bốc thăm chia thành 4 bảng, mỗi bảng 4 đội. Các đội cùng khu vực không thể xếp vào cùng một bảng. Nếu một đội được xếp vào cùng bảng với một đội khác trong khu vực của họ, họ sẽ được xếp vào nhóm hợp lệ tiếp theo ngoại trừ hạt giống EMEA LCQ #2 là Natus Vincere. Các trận đấu diễn ra dựa trên việc bốc thăm, trong đó các đội hạt giống số 1 đối đầu với các đội hạt giống số 4 và các đội hạt giống số 2 đối đầu với các đội hạt giống số 3 trong mỗi bảng. Những nhóm này được quyết định bởi thành tích của các đội tại Masters Tokyo và Vòng loại khu vực. Nhánh đấu. Các đội in đậm là đội vào vòng tiếp theo. Các số ở bên trái của mỗi đội là số mà đội được xếp hạt giống trong bảng của mình và các số ở bên phải cho biết số tỷ số trong trận đấu đó. Các đội có lựa chọn cấm/chọn bản đồ (tức là đội hạt giống cao hơn hoặc đội ở nhánh trên) được đánh dấu bằng dấu hoa thị. Vòng loại trực tiếp. Vòng loại trực tiếp diễn ra từ ngày 17 – 27 tháng 8 năm 2023 (giờ Việt Nam). Vòng loại trực tiếp đuợc thi đấu theo thể thức loại kép. Tất cả các trận đấu đều được phân định bằng thể thức , ngoại trừ trận Chung kết nhánh thua và trận Chung kết Tổng, được phân định bằng thể thức . Các đội tham gia. Tám đội đủ điều kiện tham dự vòng loại trực tiếp của giải đấu từ vòng bảng bao gồm : Nhánh đấu. Các đội in đậm tiến vào vòng tiếp theo. Các số ở bên trái của mỗi đội cho biết đội đó được xếp hạt giống trong nhánh, trong khi các số ở bên phải cho biết số ván mà đội đó đã thắng trong trận đấu đó.
1,639,055
{ "doc_id": "19848289", "split": 2, "title": "Valorant Champions 2023", "token_count": 169, "url": "https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19848289" }
Title: Valorant Champions 2023 Các đội có lựa chọn cấm/chọn bản đồ (tức là các đội hạt giống cao hơn hoặc nhóm trên) được đánh dấu bằng dấu hoa thị. Trong trường hợp các đội có cùng hạt giống từ các nhóm, sẽ tung đồng xu để xác định đội nào được chọn/cấm bản đồ. Các đội thắng khi tung đồng xu được biểu thị bằng hai dấu hoa thị. Đối với trận Chung kết tổng, đội tiến lên từ nhánh thắng sẽ được cấm hai bản đồ đầu tiên và có quyền lựa chọn cấm/chọn bản đồ. Tiền thưởng. Riot Games đã nâng tổng số tiền thưởng cho giải đấu Valorant Champions năm 2023 lên 2,25 triệu USD, tăng từ mức 1 triệu USD của năm 2022. Đội chiến thắng Champions nhận được 1 triệu USD.
1,639,056
{ "doc_id": "19848295", "split": 0, "title": "Trần Báo (định hướng)", "token_count": 15, "url": "https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19848295" }
Title: Trần Báo (định hướng) Trần Báo có thể là:
1,639,057
{ "doc_id": "19848304", "split": 0, "title": "Pasalubong", "token_count": 116, "url": "https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19848304" }
Title: Pasalubong Pasalubong là một truyền thống lâu đời của người Philippines, theo đó những người đi du lịch sẽ mang quà từ nơi họ đến về cho gia đình và bạn bè ở nhà. Pasalubong có thể là bất kỳ món quà gì, từ đồ ăn nhẹ địa phương đến đồ thủ công truyền thống. Pasalubong là một cách để thể hiện tình yêu và sự quan tâm của người đi du lịch dành cho những người ở nhà. Nó cũng là một cách để chia sẻ những trải nghiệm mới mẻ mà người đi du lịch đã có.
1,639,058
{ "doc_id": "19848311", "split": 0, "title": "Quà Giáng sinh", "token_count": 112, "url": "https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19848311" }
Title: Quà Giáng sinh Quà Giáng sinh, hay còn gọi là quà Noel, là những món quà được trao tặng trong dịp lễ Giáng sinh. Quà Giáng sinh thường được trao đổi vào đêm vọng Lễ Giáng Sinh (24 tháng 12), ngày Giáng sinh (25 tháng 12) hoặc Đêm hiển linh (5 tháng 1). Theo truyền thống của đạo Cơ Đốc, việc tặng quà trong mùa Giáng sinh tượng trưng cho việc ba nhà thông thái (ba vua) hiến lễ cho Chúa Giê-su Hài đồng.
1,639,059
{ "doc_id": "19848316", "split": 0, "title": "Ballerina (phim 2024)", "token_count": 483, "url": "https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19848316" }
Title: Ballerina (phim 2024) Ballerina là bộ phim điện ảnh thuộc thể loại hành động giật gân của Hoa Kỳ được đạo diễn bởi Len Wiseman với kịch bản do Shay Hatten chấp bút. Đây là phần phim ngoại truyện đầu tiên của loạt phim "John Wick" với bối cảnh xảy ra vào giữa (2019) và (2023). Phim sẽ có sự tham gia của dàn diễn viên chính bao gồm Ana de Armas, Anjelica Huston, Gabriel Byrne, Lance Reddick, Catalina Sandino Moreno, Norman Reedus, Ian McShane và Keanu Reeves. Trong phim, Armas sẽ thủ vai Rooney, một vũ công ba lê kiêm sát thủ, cô sẽ săn lùng những kẻ đã từng sát hại gia đình của cô. Đây cũng sẽ là bộ phim cuối cùng có sự tham gia của Reddick sẽ được phát hành sau khi ông qua đời vào năm 2023. Vào năm 2017, hãng phim Lionsgate đã mua bản quyền kịch bản đặc tả của Hatten, dẫn đền việc anh đã góp phần vào trong cốt truyện của phần phim "Chuẩn bị chiến tranh" và đồng thời cũng là biên kịch chính của phần phim "Phần 4". Vào tháng 10 năm 2019, Wiseman chính thức được thuê để ngồi vào vị trí chỉ đạo bộ phim, bên cạnh đó đạo diễn của loạt phim, Chad Stahelski cũng đã xác nhận sẽ tham gia với vai trò nhà sản xuất phim vào tháng 5 năm 2020. "Ballerina" chính thức được công bố vào tháng 4, 2022 với de Armas được xác nhận sẽ thay thế Unity Phelan, người đã từng thủ vai nhân vật này ở phần phim "Chuẩn bị chiến tranh", đảm nhận vai diễn chính của phim. Dàn diễn viên còn lại của bộ phim cũng lần lượt được tiết lộ vào tháng 11. Quá trình quay phim chính của phim được bắt đầu ngay sau đó tại Praha. Bộ phim được dự kiến sẽ công chiếu vào ngày 7 tháng 6, 2024. Tiền đề. Bối cảnh của phim được diễn ra giữa các sự kiện của hai phần phim và , nữ sát thủ kiêm vũ công ba lê Rooney sẽ săn lùng những kẻ đã sát hại gia đình của cô. Sản xuất. Phát triển.
1,639,060
{ "doc_id": "19848316", "split": 1, "title": "Ballerina (phim 2024)", "token_count": 233, "url": "https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19848316" }
Title: Ballerina (phim 2024) Vào tháng 7, 2017, Lionsgate Films đã mua bản quyến bộ phim hành động giật gân "Ballerina" của Shay Hatten, Thunder Road Films sẽ sản xuất phim và trong khi đó, Hatten sẽ viết lại kịch bản để bộ phim trở thành một phần của loạt phim "John Wick", với nhân vật tiêu đề, Rooney, sẽ trở thành nhân vật chính của phần phim thứ ba, tuy nhiên sau đó, nhân vật này đã được xuất hiện với vai trò vai diễn cameo trong và được thủ vai bởi Unity Phelan trước khi "Ballerina" được sản xuất. Tháng 10, 2019, Len Wiseman chính thức được thuê để ngồi vào vị trí đạo diễn của phim. Đến tháng 5 năm 2020, Stahelski đã cho biết rằng Wiseman đã được đọc kịch bản trước đó và ông đã tiếp cận hãng phim để trình bày cách mà ông sẽ phát triển dự án này dựa trên bản thảo của Hatten, và sự chứng minh khái niệm đó đã được đăng tải trước đó trên YouTube vào tháng 9, 2017. Tuyển vai.
1,639,061
{ "doc_id": "19848316", "split": 2, "title": "Ballerina (phim 2024)", "token_count": 509, "url": "https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19848316" }
Title: Ballerina (phim 2024) Vào tháng 5, 2020, đã có thông tin về việc hãng phim đang tìm kiếm một gương mặt mới cho vai diễn chính của phim và Chloë Grace Moretz chính là hình mẫu tài năng mà hãng phim hướng đến. Tháng 10, 2021, Ana de Armas đã tham gia đàm phán để đảm nhận vai diễn nhân vật tiêu đề của phim, một vũ công ba lê kiêm sát thủ mang tên Rooney, thay thế cho nữ diễn viên Unity Phelan, người đã từng thủ vai nhân vật này trong phần phim (2019). Tại sự kiện CinemaCon vào tháng 4 năm 2022, hãng phim Lionsgate đã chính thức thông báo về việc Armas sẽ thủ vai nhân vật chính của phim. Tháng 11, 2022, tiếp tục có thông báo về sự trở lại của các diễn viên bao gồm Keanu Reeves, Ian McShane, Lance Reddick và Anjelica Huston và họ vẫn sẽ tiếp tục thủ vai các nhân vật từ các phần phim trước của mình; lần lượt là Sát thủ John Wick, Winston Scott, Charon và "the Director"; ngoài ra, bộ phim chính đánh dấu lần thứ ba hợp tác giữa bộ đôi diễn viên de Armas và Reeves, trước đây họ đã từng cộng tác với nhau trong hai bộ phim là "Knock Knock" (2015) và "Exposed" (2016). Vào tháng 12 năm 2022, Gabriel Byrne, Norman Reedus và Catalina Sandino Moreno là những cái tên tiếp theo được xác nhận sẽ tham gia vào các vai diễn phụ của phim chưa được tiết lộ. Quay phim. Công đoạn quay phim ban đầu được dự kiến sẽ tiến hành vào mùa hè năm 2022, sau đó, quá trình quay phim chính cũng chính thức được bắt đầu vào ngày 7 tháng 11, 2022 tại Praha. "Ballerina" bắt đầu vào giai đoạn hậu kỳ vào tháng 2 năm 2023. Nhạc phim. Nhạc của phim được dựng bởi sự hợp tác giữa Marco Beltrami và Anna Drubich và họ bắt đầu vào ngày 17 tháng 4, 2023. Phát hành. "Ballerina" được chính thức công chiếu tại Hoa Kỳ và Vương quốc Anh vào ngày 7 tháng 6 năm 2024. Hậu truyện. Vào tháng 3 năm 2023, nhà sản xuất Erica Lee đã tuyên bố rằng hãng phim đang có những dự kiến để phát triển tiếp tục một phần hậu truyện với sự tham gia trở lại của Ana de Armas.
1,639,062
{ "doc_id": "19848318", "split": 0, "title": "Tirol (định hướng)", "token_count": 45, "url": "https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19848318" }
Title: Tirol (định hướng) Tirol hay Tyrol là một vùng lịch sử ở Đông Anpơ, chia cắt năm 1919 thành Tây Áo và Bắc Ý. Nó bao gồm: có thể đề cập đến:
1,639,063
{ "doc_id": "19848319", "split": 0, "title": "Đóng gói", "token_count": 95, "url": "https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19848319" }
Title: Đóng gói Đóng gói () là cách thức chứa đựng, bảo vệ, vận chuyển và bày bán sản phẩm bằng các vật liệu khác nhau. Bao bì có thể được làm từ nhiều loại vật liệu, tùy thuộc vào tính chất của sản phẩm và mục đích sử dụng. Đóng gói là một hoạt động quan trọng trong chuỗi cung ứng, giúp đảm bảo sản phẩm được vận chuyển an toàn và đến tay người tiêu dùng một cách nguyên vẹn.
1,639,064
{ "doc_id": "19848333", "split": 0, "title": "Ruprecht của Đức", "token_count": 83, "url": "https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19848333" }
Title: Ruprecht của Đức Ruprecht xứ Pfalz (; 5 tháng 5 năm 1352 – 18 tháng 5 năm 1410), đôi khi được gọi là Robert xứ Pfalz, một thành viên của Nhà Wittelsbach, là Tuyển đế hầu xứ Pfalz từ năm 1398 (với tên gọi Ruprecht III) và Vua nước Đức từ năm 1400 cho đến khi qua đời. Thư mục.
1,639,065
{ "doc_id": "19848343", "split": 0, "title": "Adolf, Vua La Mã Đức", "token_count": 126, "url": "https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19848343" }
Title: Adolf, Vua La Mã Đức Adolf (khoảng 1255 – 2 tháng 7 năm 1298) là bá tước xứ Nassau từ khoảng năm 1276, được bầu làm Vua La Mã Đức từ năm 1292 cho đến khi bị phế truất bởi các tuyển đế hầu năm 1298. Ông chưa bao giờ được giáo hoàng trao vương miện hoàng đế. Ông là vị vua đầu tiên của Đế quốc La Mã Thần thánh bị phế truất mà không bị Giáo hoàng vạ tuyệt thông. Adolf chết trong Trận Göllheim chống lại người kế nhiệm Albert của Habsburg.
1,639,066
{ "doc_id": "19848352", "split": 0, "title": "Sách Nê Phi thứ nhất", "token_count": 441, "url": "https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19848352" }
Title: Sách Nê Phi thứ nhất Sách Nê Phi thứ nhất ("1. Nê Phi 1" hay "First Nephi") tên đầy đủ là sách Nê Phi thứ nhất: Triều đại và Giáo vụ của ông ("The First Book of Nephi: His Reign and Ministry") là cuốn đầu tiên của bộ sách Mặc Môn và là một trong bốn cuốn sách mang tên Nê Phi. Sách Mặc Môn là văn bản thiêng liêng dành cho các giáo hội trong Mặc Môn giáo hay Phong trào Thánh Hữu Ngày Sau, trong đó Giáo Hội Các Thánh Hữu Ngày Sau của Chúa Giê Su Ky Tô (Giáo Hội LDS) là một phần quan trọng. Trong cuốn sách Nê Phi thứ nhất này, tác giả Nê Phi kể câu chuyện về những thử thách của gia đình ông và những phép lạ mà họ chứng kiến khi trốn thoát khỏi Giêrusalem, đấu tranh để sinh tồn trong vùng hoang dã, họ đóng một con tàu và đi thuyền đến vùng đất hứa (xứ Phong Phú), thường được đồng nhất là Châu Mỹ. Về mặt cấu trúc kỹ thuật trình bày thì cuốn sách Nê Phi thứ nhất bao gồm hai thể loại đan xen lẫn nhau gồm một bản tường thuật lịch sử mô tả các sự kiện và cuộc trò chuyện đã xảy ra giữa các nhân vật trong gia tộc Lê Hi và bản chép còn lại là bản biên chép ghi lại các khải tượng, thị kiến, bài giảng, bài thơ và bài giảng giáo lý được Nê Phi và tổ phụ Lê Hi chia sẻ, truyền đạt lại đối với những người thân trong gia đình.. Phần đầu tiên của "Nê Phi thứ nhất" bao gồm phần tóm lược của Nê Phi về biên sử của cha ông là Lê Hi ("1. Nê Phi 1-9"). Phần thứ hai là lời tường thuật của chính Nê Phi về các sự kiện đã diễn ra và họ cùng nhau trải qua ("1. Nê Phi 10-22"). Bộ sách sau đó mang tên sách Nê Phi thứ hai là phần tiếp theo của câu chuyện này và thời điểm diễn ra ngay sau cuốn sách Nê Phi thứ nhất này. Giới thiệu.
1,639,067
{ "doc_id": "19848352", "split": 1, "title": "Sách Nê Phi thứ nhất", "token_count": 418, "url": "https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19848352" }
Title: Sách Nê Phi thứ nhất Nê Phi (là con trai của Lê Hi và sau này là tổ phụ của người Nê Phi) chính là người đã viết ra cuốn sách này để đáp ứng lệnh truyền của Chúa là ông phải lưu giữ một biên sử của dân ông. Theo chính cuốn sách, đó là câu chuyện ở ngôi thứ nhất của một nhà tiên tri tên là Nê Phi về những sự kiện bắt đầu vào khoảng năm 600 trước Công nguyên và được ghi lại trên các bảng khắc của Nê Phi khoảng 30 năm sau. Nê Phi viết câu chuyện về sau trở thành cuốn "Nê Phi thứ nhất" vào khoảng năm 570 trước Công Nguyên, tức 30 năm sau khi ông và gia đình ông rời bỏ Giê Ru Sa Lem. Ông viết sách này khi đang ở trong xứ Nê Phi. Nê Phi có ý định viết sách này cho ba nhóm độc giả là các con cháu của cha ông, dân giao ước của Chúa trong những ngày sau cùng, và tất cả những người trên thế gian. Ông viết sách này để thuyết phục tất cả mọi người đến cùng Chúa Giê Su Ky Tô và được cứu. Nê Phi sử dụng những điều tương tự với Cuộc Xuất Hành của Môi-se như một kỹ thuật tu từ để khuyến khích và đoàn kết dân của ông, đây cũng là một mô típ về sự cải đạo. Nê Phi sử dụng cách thức xuất Hành để chứng minh quyền năng của Chúa và nói trắng ra là quyền năng tiên tri của chính ông ta. Nê Phi viết rằng Đức Chúa Trời đã ban cho Môi-se quyền năng rẽ Biển Đỏ, vậy tại sao Đức Chúa Trời không ban cho Nê Phi một quyền năng tương tự để biết ""những sự phán xét sẽ đến" ("1. Nê Phi 8:12").. Nê Phi nói rằng câu chuyện Xuất hành khỏi Ai Cập chứng minh rằng Đức Chúa Trời "quý trọng mọi xác thịt như một" và ưu ái cho những ai tuân giữ các lệnh truyền của Ngài.
1,639,068
{ "doc_id": "19848352", "split": 2, "title": "Sách Nê Phi thứ nhất", "token_count": 402, "url": "https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19848352" }
Title: Sách Nê Phi thứ nhất Nê Phi đã sống ở đó trong thời gian giáo vụ của tiên tri Giê Rê Mi và thời gian trị vì của vua Sê Đê Kia. Nê Phi đã vâng lời trở lại Giê Ru Sa Lem với các anh của mình hai lần. Lần thứ nhất là để lấy các bảng khắc bằng đồng và lần sau để thuyết phục gia đình của Ích Ma Ên đi theo họ vào vùng hoang dã. Với sự giúp đỡ của Chúa, Nê Phi đóng tàu để mang gia đình ông và những người khác vượt đại dương đến vùng đất hứa. Khi Lê Hi chết, Chúa đã chọn Nê Phi làm người lãnh đạo của dân ông. Lê Hi và dân của ông đã cảm nhận được lòng thương xót và các phước lành của Thượng Đế khi họ tuân theo các giáo lệnh của Ngài. Lê Hi và Nê Phi tìm kiếm sự hướng dẫn từ Thượng Đế và nhận được sự hướng dẫn này qua những giấc mơ, khải tượng, cái la bàn Liahona và sự hướng dẫn của Đức Thánh Linh. Nê Phi nhận được mục kích khải tượng và đã ghi lại toàn bộ thị kiến về lịch sử của thế gian cho ông thấy về khả năng toàn trí toàn thức của Thượng Đế, phép báp têm, giáo vụ của Chúa Giê Su Ky Tô, và việc Ngài bị đóng đinh, sự hủy diệt của dân Nê Phi. Thượng Đế đã giúp Nê Phi và các anh của ông lấy được các bảng khắc bằng đồng để họ có được thánh thư và cứu Lê Hi và dân của ông khỏi nạn đói trong vùng hoang dã và trên đại dương, an toàn mang họ đến đất hứa. Bản dịch gốc của tiêu đề không bao gồm tựa "Thứ nhất"". Tựa đề Thứ nhất và Thứ hai đã được Oliver Cowdery thêm vào tựa đề sách Nê Phi khi chuẩn bị in sách ra. Nội dung.
1,639,069
{ "doc_id": "19848352", "split": 3, "title": "Sách Nê Phi thứ nhất", "token_count": 269, "url": "https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19848352" }
Title: Sách Nê Phi thứ nhất Truyện ký về Lê Hi và vợ ông là Sa Ri A cùng bốn người con trai của ông là La Man (tổ phụ của người La Man), Lê Mu Ên, Sam, và Nê Phi. Chúa báo trước cho Lê Hi biết ông phải rời khỏi xứ Giê Ru Sa Lem vì ông đã tiên tri cho dân chúng biết về sự bất chính của họ và họ tìm cách hủy diệt mạng sống của ông. Ông cùng gia đình hành trình ba ngày trong vùng hoang dã. Nê Phi đem các anh mình trở lại xứ Giê Ru Sa Lem để tìm biên sử của người Do Thái. Truyện ký về những nỗi thống khổ của họ. Họ lấy các con gái của Ích Ma Ên làm vợ. Họ đem gia đình đi vào vùng hoang dã. Những sự đau đớn và những nỗi thống khổ của họ trong vùng hoang dã. Lộ trình của họ. Họ đến bên bờ đại dương. Các anh của Nê Phi nổi lên chống ông. Ông làm họ đuối lý và đóng một chiếc thuyền. Họ đặt tên nơi ấy là Phong Phú. Họ vượt đại dương đến đất hứa, và vân vân. Thiên ký thuật này viết theo truyện ký của Nê Phi, hay nói cách khác, thì Nê Phi đã ghi chép biên sử này.
1,639,070
{ "doc_id": "19848361", "split": 0, "title": "Tứ phương quán", "token_count": 494, "url": "https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19848361" }
Title: Tứ phương quán Tứ phương quán (tiếng Trung:  四方馆; tiếng Anh: Go East) là phim cổ trang hài của Trung Quốc được sản xuất vào năm 2023. Bộ phim được chuyển thể từ tiểu thuyết 《Tây Vực Liệt Vương Ký》của tác giả Trần Tiệm. Tứ Phương Quán do Triệu Khởi Thần làm đạo diễn cùng với sự tham gia của các diễn viên Đàn Kiện Thứ, Châu Y Nhiên, Đỗ Thuần, Hám Thanh Tử. Bộ phim là câu chuyện của Nguyên Mạc, A Thuật, Vương Côn Ngô, Uất Trì Hoa cùng các chí sĩ tứ phương, những người mang lý tưởng cao cả, vì quốc gia và chính nghĩa mà sẵn lòng rèn giũa trưởng thành, dũng cảm tiến lên. Bộ phim được khai máy vào ngày 5 tháng 7 năm 2023 và đóng máy vào 23 tháng 10 năm 2023 . Phim được dự kiến chiếu vào năm 2024. Nội dung. Tại thành Trường Nhạc ở vương quốc Đại Ung có một vị cư dân tên là Nguyên Mạc, người thường ở tại cửa thành làm công tác cung cấp chứng nhận nhập thành cho người ngoại quốc. Không ngờ một ngày Nguyên Mạc vô tình bắt được một người lưu dân tới từ ngoại quốc tên là A Thuật có ý đồ trà trộn vào thành. Nguyên Mạc còn vô tình gặp gỡ Vương Côn Ngô, một vị tướng quân nơi biên quan bởi vì phạm sai lầm mà tới Tứ Phương Quán báo cáo công tác. Từ đây cuộc đời của Nguyên Mạc đã rẽ sang một phương hướng khác. Xưa nay chỉ thích sống tản mạn, lấy uống rượu làm niềm vui như Nguyên Mạc đã bị chủ nhân của Tứ Phương Quán kéo tới Tây viện trực thuộc Tứ Phương Quán làm việc, trở thành người một vị quan nhỏ chuyên phụ trách xử lý công tác ngoại giao với các quốc gia khác. Trời xui đất khiến, A Thuật trở thành Nguyên Mạc "tiểu tỳ nữ", Vương Côn Ngô trở thành Nguyên Mạc cấp trên, ngoài ra còn có nữ bá vương Uất Trì Hoa xuất thân hầu môn cũng tới Tứ Phương Quán làm việc. Nguyên Mạc từ bị cười nhạo là "phế vật" Tây viện dần dần trưởng thành lên sau mỗi lần phá giải các vụ án khó khăn.
1,639,071
{ "doc_id": "19848363", "split": 0, "title": "Friedrich August II của Sachsen", "token_count": 76, "url": "https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19848363" }
Title: Friedrich August II của Sachsen Friedrich Augustus II (; 18 tháng 5 năm 1797 tại Dresden – 9 tháng 8 năm 1854 tại Brennbüchel, Karrösten, Tyrol), thành viên của Nhà Wettin, là Vua của Sachsen. Ông là con trai cả của Maximilian, Thân vương xứ Sachsen với người vợ đầu tiên Caroline xứ Bourbon.
1,639,072
{ "doc_id": "19848366", "split": 0, "title": "Mitane, Akita", "token_count": 64, "url": "https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19848366" }
Title: Mitane, Akita là thị trấn thuộc huyện Yamamoto, tỉnh Akita, Nhật Bản. Tính đến ngày 1 tháng 10 năm 2020, dân số ước tính thị trấn là 15.254 người và mật độ dân số là 62 người/km2. Tổng diện tích thị trấn là 247,98 km2.
1,639,073
{ "doc_id": "19848377", "split": 0, "title": "Vòng loại Cúp bóng đá châu Á 2000", "token_count": 373, "url": "https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19848377" }
Title: Vòng loại Cúp bóng đá châu Á 2000 Vòng loại Cúp bóng đá châu Á 2000 là vòng loại do Liên đoàn bóng đá châu Á (AFC) tổ chức để xác định các đội tham dự Cúp bóng đá châu Á 2000 (AFC Asian Cup 2000) cùng với đội chủ nhà và đương kim vô địch . 42 đội bóng là thành viên của AFC tham dự tranh tài để chọn ra 10 đội bóng tham dự AFC Asian Cup 2004. Thể thức. 42 đội được chia vào 10 bảng (3 bảng có 5 đội, 7 bảng có 4 đội và một bảng còn lại có 3 đội). Các đội thi đấu với nhau một hoặc hai lượt trận (tùy bảng đấu) để chọn ra đội nhất bảng tham dự AFC Asian Cup 2004. Các bảng đấu. Bảng 2. ----"Các trận đấu diễn ra ở Tehran, Iran." Bảng 3. "All matches played in Abu Dhabi, United Arab Emirates." Bảng 4. </onlyinclude> "All matches played in Doha, Qatar." Bảng 5. </onlyinclude> "All matches played in Kuwait." Note: At the time this match was the largest score difference in FIFA A-level matches. Bảng 6. </onlyinclude> "All matches played in Seoul, Korea Republic." Bảng 8. "Played in Kuala Lumpur, Malaysia." "Played in Bangkok, Thailand." Group 9. <onlyinclude></onlyinclude> "All matches played in Ho Chi Minh City, Vietnam." Note: At the time this match was the largest score difference in FIFA A-level matches. Bảng 10. </onlyinclude> "All matches played in Macau."
1,639,074
{ "doc_id": "19848379", "split": 0, "title": "Ngày của Cha Mẹ", "token_count": 339, "url": "https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19848379" }
Title: Ngày của Cha Mẹ Ngày của Cha Mẹ là một ngày lễ được tổ chức ở nhiều quốc gia trên thế giới nhằm tôn vinh và tri ân công lao sinh thành, dưỡng dục của cha mẹ. Ngày lễ này thường được tổ chức vào một ngày cụ thể trong năm, tùy thuộc vào phong tục của mỗi quốc gia. Vào năm 2012, Liên Hợp Quốc đã tuyên bố ngày 1 tháng 6 là Ngày Cha Mẹ trên toàn cầu. Đây là một ngày để ghi nhận "lòng hy sinh quên mình của cha mẹ dành cho con cái và sự cống hiến suốt đời để nuôi dưỡng mối quan hệ thiêng liêng này". Tại các quốc gia. Hàn Quốc. Ở Hàn Quốc, Ngày của Cha Mẹ ( "Eobeoinal") được tổ chức vào ngày 8 tháng 5 hàng năm. Trước đây, Hàn Quốc cũng có Ngày của Mẹ vào ngày 8 tháng 5. Tuy nhiên, vào năm 1973, hai ngày lễ này đã được gộp lại thành Ngày của Cha Mẹ. Sự thay đổi này nhằm thể hiện sự tôn kính, yêu thương và trân trọng của con cái dành cho cả cha và mẹ. Hoa Kỳ. Ở Hoa Kỳ, Ngày của Cha Mẹ được tổ chức vào Chủ nhật thứ tư của tháng Bảy hàng năm. Đây là ngày lễ chính thức do Quốc hội Hoa Kỳ lập ra vào năm 1994 dưới thời Tổng thống Bill Clinton. Nghị quyết thành lập ngày lễ này () nhằm mục đích "ghi nhận, tôn vinh và hỗ trợ vai trò của cha mẹ trong việc nuôi dạy con cái." Nghị quyết được Thượng nghị sĩ Cộng hòa Trent Lott đề xuất và nhận được sự ủng hộ của Giáo hội Thống nhất.
1,639,075
{ "doc_id": "19848383", "split": 0, "title": "Khao poon", "token_count": 512, "url": "https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19848383" }
Title: Khao poon Khao poon (, ); hay còn biết đến với tên gọi Bún cà ri Hoàng gia Lào hay Laksa Lào và đôi khi được đánh vần là kapoon, khao poun hoặc khao pun) là một món ăn trứ danh trong nền ẩm thực Lào. "Khao poon" là một loại bún gạo Lào thường được ăn kèm với thịt gà, cá hoặc thịt lợn giã nhuyễn trong nước dùng nước cốt dừa (hoặc không có) và nêm với các gia vị Lào truyền thống như nước mắm, padaek, lá chanh, riềng, tỏi, hành tím, ớt Lào và diếp cá. Các biến thể khác nhau của món ăn có mặt ở Malaysia, Thái Lan, Indonesia, Campuchia, Singapore và Hoa Kỳ. Lịch sử ra đời. Quá trình làm "khao poon" có thể do tổ tiên của người Lào mang lại khi họ di cư đến Tiểu vùng Sông Mekong Mở rộng từ miền Nam Trung Quốc. Cũng giống như món bún "khao poon" được các thương gia Trung Quốc giới thiệu đến Lào vì Luang Prabang và Viêng Chăn là một phần của tuyến đường thương mại cổ xưa với Trung Quốc. Người Lào đã làm món "khao poon" để bán ở chợ và để tiêu dùng từ rất lâu trước khi người Pháp vào những năm 1800. Cà ri nước cốt dừa có lẽ đã được du nhập vào Lào trong thời kỳ Ấn hóa Lan Xang vào thế kỷ 14 bởi người Khmer, các thương nhân Ấn Độ, hoặc thậm chí ngay từ thế kỷ 7 bởi các tu sĩ Phật giáo. Vài thế kỷ sau, Lan Xang đã ký một hợp đồng với Công ty Đông Ấn Hà Lan và giao thương trực tiếp với thế giới qua các cảng của Campuchia. "Khao poon" thường được mô tả là món bún cà ri dừa của Hoàng gia Lào do có màu đỏ tươi và vàng tượng trưng. Công thức truyền thống cho các loại "khao poon" khác nhau phục vụ hoàng gia Lào có thể được tìm thấy trong bộ sưu tập các công thức nấu ăn viết tay của Phia Sing (1898-1967), đầu bếp riêng của nhà vua và người chủ trì nghi lễ. Công thức viết tay của ông được xuất bản lần đầu tiên vào năm 1981.
1,639,076
{ "doc_id": "19848383", "split": 1, "title": "Khao poon", "token_count": 487, "url": "https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19848383" }
Title: Khao poon Nhà văn và nhà làm phim người Mỹ, Harry Hervey (1900-1951), đã mô tả "khao poon" là một loại bún nấu nước dùng trong lời kể của ông về bữa tối do hoàng tử Lào Phetsarath Rattanavongsa (1890-1959) mời tại Luang Prabang, Lào, trong chuyến du hành tới Đông Dương thuộc Pháp vào những năm 1920. Trong những năm 1950, André-Yvette Gouineau, chiến sĩ kháng chiến nổi tiếng người Pháp và anh hùng dân tộc của đất nước này, là một giáo sư tại Viêng Chăn, Lào, đã sưu tầm một số công thức nấu ăn truyền thống của Lào bao gồm cả khao poon. Gouineau mô tả "khao poon" là một "món bún ăn kèm với rau sống và nước xốt đặc biệt; rất bổ dưỡng." Công thức của Gouineau giống với công thức làm món "khao poon nam phrik" của Phia Sing. Hai công thức nấu ăn đều bao gồm: Sử dụng kết hợp thịt lợn và cá đã nấu chín rồi nghiền trong chày và cối cùng với gia vị và thảo mộc trước khi thêm hỗn hợp vào nước cốt dừa mới vắt, padaek và nước dùng. Món ăn được dùng kèm với hoa chuối thái mỏng, giá đỗ và bạc hà. Lớp cuối cùng của "khao poon" được mô tả tỉ mỉ trong công thức là "đổ bún vào đáy bát, thêm nhiều loại rau sống khác nhau tùy theo khẩu vị và sở thích và cùng với sự trợ giúp hào phóng của nước xốt kem." Biến thể. Có nhiều biến thể khác nhau của món "khao poon", bao gồm: "Khao poon nam phik," hay còn được gọi là "khao poon nam kathee" (kèm nước cốt dừa) Khao poon nam jaew (không có nước cốt dừa), "khao poon nam par" (kèm nước mắm) Khao poon nam ped - Bún cà ri vịt Lào Khao poon nam paa - Bún cà ri cá Lào Khao poon nam gai - Bún cà ri gà Lào
1,639,077
{ "doc_id": "19848384", "split": 0, "title": "2024 tại Lào", "token_count": 19, "url": "https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19848384" }
Title: 2024 tại Lào Dưới đây là sự kiện trong năm tại Lào 2024.
1,639,078
{ "doc_id": "19848387", "split": 0, "title": "Feodora Karola xứ Sachsen-Meiningen", "token_count": 485, "url": "https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19848387" }
Title: Feodora Karola xứ Sachsen-Meiningen Feodora Karola xứ Sachsen-Meiningen (Feodora Karola Charlotte Marie Adelheid Auguste Mathilde; 29 tháng 5 năm 1890 – 12 tháng 3 năm 1972) là con gái của Friedrich Johann xứ Sachsen-Meiningen và Adelheid xứ Lippe-Biesterfeld. Thông qua hôn nhân, Feodra là Công tước phu nhân xứ Sachsen-Weimar-Eisenach. Thân thế. Feodora Karola là người con cả của Friedrich Johann xứ Sachsen-Meiningen, con trai thứ của Georg II xứ Sachsen-Meiningen và Adelheid xứ Lippe-Biesterfeld, con gái của Ernst xứ Lippe-Biesterfeld và Karoline xứ Wartensleben. Hôn nhân. Trong chuyến thăm mùa hè tới cung điện Wilhelmshöhe, Feodora đã bị người họ hàng là Hoàng đế Wilhelm II của Đức thúc giục kết hôn với Wilhelm Ernst I xứ Sachsen-Weimar-Eisenach đang ở góa. Wilhelm Ernst đã phục vụ trong lực lượng pháo binh Phổ trong khoảng thời gian đó. Tuy nhiên, bất chấp là người có công tác hợp, Hoàng đế Wilhelm đã từ chối tham dự đám cưới. Điều này gây ra nhiều đồn đoán vì vợ chồng Hoàng đế rất thân thiết với Đại Công tước. Nhiều người cho rằng nguyên nhân là do sự thù địch giữa Wilhelm II và ông nội của Feodora là Georg II xứ Sachsen-Meiningen, người đã có một cuộc hôn nhân không đăng đối với Ellen Franz, dẫn đến gây đã làm mất lòng nhiều người, trong đó có Wilhelm II. Georg là người cai trị đương thời duy nhất của một lãnh thổ thuộc Đức chưa bao giờ đến thăm Hoàng đế khi Wilhelm II lên ngôi vào năm 1888, và cũng chưa bao giờ tiếp đón bất kỳ vị khách hoàng gia Đức nào tại triều đình của mình. Sự phản đối của Wilhelm thậm chí còn đáng ngạc nhiên hơn khi Hoàng đế đã cho phép người em họ Friedrich Wilhelm Viktor của Phổ kết hôn với một quý tộc có địa vị thấp hơn nhiều là Agatha xứ Hohenlohe-Schillingsfürst, đặc biệt hơn là khi cuộc hôn nhân giữa Friedrich Wilhelm Viktor và Agatha lại nghịch với quy định nghiêm ngặt của Vương tộc Hohenzollern.
1,639,079
{ "doc_id": "19848387", "split": 1, "title": "Feodora Karola xứ Sachsen-Meiningen", "token_count": 494, "url": "https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19848387" }
Title: Feodora Karola xứ Sachsen-Meiningen Việc Hoàng đế Wilhelm II tẩy chay đám cưới đã gây phẫn nộ mạnh mẽ ở Sachsen-Meiningen đến nỗi, khi báo chí đưa tin rằng Wilhelm II sẽ không tham dự đám cưới, cung điện đã chính thức tuyên bố rằng Hoàng đế Wilhelm II không hề được mời đến hôn lễ. Ngày 14 tháng 1 năm 1910 tại Meiningen, Feodora kết hôn với Wilhelm Ernst. Feodora là vợ thứ hai của Wilhelm Ernst (người vợ đầu tiên là Caroline Reuß xứ Grei, qua đời chỉ 18 tháng sau khi kết hôn và cũng không có con với Wilhelm Ernst). Cuộc hôn nhân đầu tiên của Wilhelm Ernst không hạnh phúc vì Caroline không thích triều đình Weimar, thậm chí là đã trốn sang Thụy Sĩ. Sau khi được thuyết phục trở lại triều đình, cái chết của Caroline ngay sau đó được một số người cho là do tự sát. Đời sống cung đình. Tuy nhiên, Feodora cũng có đời sống hôn nhân không hạnh phúc; Triều đình Weimar thường được coi là một trong những nơi ngột ngạt và trọng lễ nghi nhất ở Đức. Một nguồn đã kể lại rằng: "Triều đình ấy vây quanh các thành viên vương thất như một hình thức giam cầm, và trong khi Đại Công tước vẫn duy trì điều đó và quá bảo thủ để chấp nhận bất kỳ thay đổi nào, nó nghiền nát những thành viên có tâm hồn tự do hơn". Feodora không hạnh phúc trong không khí ngột ngạt của triều đình. Khi được 23 tuổi, có thông tin rò rỉ rằng Công tước phu nhân đang ở viện điều dưỡng để chăm sóc sức khỏe. Bà Đại Công tước đã mắc phải một cơn bệnh sởi và sốt ban đỏ nghiêm trọng khi đến thăm một trại tị nạn do Feodora thành lập. Sự quan tâm ngày càng lớn của Feodora đối với trại tị nạn đặc biệt này được cho là do Feodora không hạnh phúc tại triều đình và sự quan tâm này được coi là cách Feodora tìm kiếm lối thoát cho bản thân. Những nguyên tắc xã giao cực đoan cũng tạo nên khoảng cách giữa Feodora với chồng và các con. Mặc dù có các ghi nhận rằng Wilhelm Ernst không quá khắc nghiệt, nhưng một nguồn tin đã thuật về ngài Đại Công tước như sau:
1,639,080
{ "doc_id": "19848387", "split": 2, "title": "Feodora Karola xứ Sachsen-Meiningen", "token_count": 298, "url": "https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19848387" }
Title: Feodora Karola xứ Sachsen-Meiningen "Một trong những vị quân chủ giàu có nhất ở châu Âu; điềm tĩnh, hành xử đúng mực, thấm nhuần niềm tự hào về chủng tộc và rất coi trọng về việc được Chúa xức dầu. Ông cũng là một trong những vị quân chủ Đức được kính trọng và đứng đắn nhất... Đại Công tước lại là người rất buồn tẻ, triều đình và môi trường cũng phản ánh khía cạnh của ông đến mức Weimar đã trở thành thủ đô buồn tẻ nhất ở châu Âu". Feodora rất được tầng lớp trung lưu và hạ lưu ở Weimar yêu mến; điều này phần lớn là do sự duyên dáng và lòng tốt của Bà Đại Công tước đối với người nghèo khổ và những người gặp khó khăn. Cuộc sống sau này. Ngày 9 tháng 11 năm 1918, Wilhelm Ernst — cùng với các quân chủ Đức còn lại sau thất bại của Đức trong Chiến tranh thế giới thứ nhất — buộc phải thoái vị. Wilhelm Ernst do đó buộc phải từ bỏ ngai vàng và tất cả đất đai và cùng gia đình bỏ trốn đến điền trang riêng của gia đình ở Silesia, nơi cựu Đại Công tước qua đời 4 năm sau đó. Feodora qua đời vào ngày 12 tháng 3 năm 1972 tại Freiburg im Breisgau, Đức, thọ 81 tuổi. Con cái. Feodora và chồng có bốn người con:
1,639,081
{ "doc_id": "19848388", "split": 0, "title": "Nguyễn Văn Tĩnh", "token_count": 300, "url": "https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19848388" }
Title: Nguyễn Văn Tĩnh Nguyễn Văn Tĩnh (1911 – ?), thường gọi là Tinh Hoa, là một chính khách Việt Nam. Ông từng là Đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa I. Cuộc đời. Nguyễn Văn Tĩnh là một tín hữu Công giáo thuộc giai cấp tư sản dân tộc. Gia đình ông mở một tiệm kinh doanh vải sợi may mặc ở giữa con phố lớn trong thành phố Thanh Hóa (nay là đường Trần Phú). Tháng 8 năm 1945, gia đình ông hưởng ứng Cách mạng Tháng Tám. Tháng 9, khi Chính phủ phát động lời kêu gọi Tuần lễ vàng để gây quỹ ngân sách quốc gia, gia đình ông đã đóng góp 100 lạng vàng. Ngày 6 tháng 1 năm 1946, ông trúng cử Đại biểu Quốc hội tỉnh Thanh Hóa. Cuối tháng 2 năm 1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh bí mật đến Thanh Hóa để gặp mặt khích lệ tinh thần quần chúng cũng như đưa ra ý kiến để xây dựng Thanh Hóa thành tỉnh "kiểu mẫu". Ông hưởng ứng và đóng góp 400 vạn trong tổng 600 vạn quỹ xây dựng tỉnh "kiểu mẫu". Tháng 4 năm 1954, Nguyễn Văn Tĩnh bị bắt giữ và chịu án chung thân, bị Quốc hội truất tư cách Đại biểu. Năm 1957, ông được ân xá và tiếp tục công tác trong chính quyền tỉnh, trải qua hai cuộc kháng chiến. Ngày 1 tháng 4 năm 1976, ông nghỉ hưu ở tuổi 65 với mức lương chuyên viên bậc 3.
1,639,082
{ "doc_id": "19848400", "split": 0, "title": "Kieuk", "token_count": 111, "url": "https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19848400" }
Title: Kieuk Kieuk (ký tự: ㅋ; ) là một phụ âm trong bảng chữ cái hangul của tiếng Hàn. Mã Unicode củaㅋ là U+314B. Theo IPA, âm này đọc là khi là phụ âm đầu và khi là phụ âm cuối đọc là Sử dụng trong văn hóa đại chúng. Trong ngôn ngữ lóng dùng trên mạng xã hội ở Hàn Quốc, ㅋ (viết tắt của ) thể hiện tiếng cười. Khi ghép lại nhiều âm với nhau có thể hiểu như tiếng cười.
1,639,083
{ "doc_id": "19848401", "split": 0, "title": "Adelheid Erna xứ Sachsen-Meiningen", "token_count": 468, "url": "https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19848401" }
Title: Adelheid Erna xứ Sachsen-Meiningen Adelheid Erna xứ Sachsen-Meiningen (tiếng Đức: "Adelheid Erna von Sachsen-Meiningen"; 16 tháng 8 năm 1891 – 25 tháng 4 năm 1971), là con gái của Friedrich Johann xứ Sachsen-Meiningen và Adelheid xứ Lippe-Biesterfeld. Năm 1914, bà kết hôn với Vương tử Adalbert và trở thành "Vương tức Adalbert của Phổ". Thân thế. Adelheid Erna xứ Sachsen-Meiningen sinh vào ngày 16 tháng 8 năm 1891 tại Kassel, miền trung nước Đức. Adelheid Erna là người con thứ hai của Friedrich Johann xứ Sachsen-Meiningen và Adelheid xứ Lippe-Biesterfeld. Cha bà là con trai áp chót của Georg III xứ Sachsen-Meiningen và Feodora xứ Hohenlohe-Langenburg. Mẹ bà là con gái của Ernst, Bá tước xứ Lippe-Biesterfeld, nhiếp chính của Thân vương quốc Lippe từ năm 1897 cho đến khi qua đời, và Karoline xứ Wartensleben. Adelheid Erna có tổng cộng sáu anh chị em, trong đó có Georg, tù nhân chiến tranh mất tại Cherepovets vào năm 1892 và Bernhard, sau trở thành gia chủ nhà Sachsen-Meiningen. Trong gia đình, Công nữ được gọi là Adi. Hôn nhân. Vào ngày 3 tháng 8 năm 1914, khi chiến tranh thế giới thứ nhất bùng nổ, Adelheid kết hôn với Vương tử Adalbert của Phổ, con trai thứ ba của Hoàng đế Wilhelm II của Đức và Auguste Viktoria xứ Schleswig-Holstein-Sonderburg-Augustenburg, tại Wilhelmshaven, Schleswig-Holstein, Đức. Vào ngày 23 tháng 8 năm 1914, cha của Adelheid, Friedrich Johann xứ Sachsen-Meiningen mất do tham gia chiến tranh. Chưa đầy một tháng sau khi kết hôn, có tin đồn rằng Vương tử Adalbert thiệt mạng trong một trận chiến ở Bruxelles. Tháng 3 năm 1915, Vương tử Aldabert được thăng cấp thành Đại úy hải quân và Thiếu tá lục quân. Adelheid và Adalbert có ba người con: Cuộc sống sau này.
1,639,084
{ "doc_id": "19848401", "split": 1, "title": "Adelheid Erna xứ Sachsen-Meiningen", "token_count": 196, "url": "https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19848401" }
Title: Adelheid Erna xứ Sachsen-Meiningen Sau khi Wilhelm II thoái vị vào năm 1918, khi Chiến tranh thế giới thứ nhất kết thúc, Adalbert tìm nơi ẩn náu trên du thuyền của mình, nơi được một thủy thủ đoàn trung thành gìn giữ. Adelheid và các con nhanh chóng cố gắng đến với Aldabert bằng cách di chuyển bằng tàu hỏa từ Kiel. Tuy nhiên, kế hoạch buộc phải dời lại và ba mẹ con đến ở miền nam Bayern cùng với vợ chồng Vương tử Heinrich Franz của Bayern (cháu trai của Ludwig III của Bayern). Adelheid và các con sau đó đoàn tụ với chồng. Adelheid qua đời vào ngày 25 tháng 4 năm 1971 tại La Tour-de-Peilz, Thụy Sĩ. Chồng của Adelheid, Aldabert đã qua đời trước đó 23 năm, vào ngày 22 tháng 9 năm 1948, tại cùng nơi mà Adelheid Erna qua đời.
1,639,085
{ "doc_id": "19848406", "split": 0, "title": "Fernando I của Aragón", "token_count": 132, "url": "https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19848406" }
Title: Fernando I của Aragón Fernando I (27 tháng 11 năm 1380 - 2 tháng 4 năm 1416 tại Igualada, Òdenacòn) còn được gọi là Fernando của Antequerhay hay Người công bằng (Người trung thực), là vua của Aragon, Valencia, Majorca, Sardinia và (trên danh nghĩa) Corsica, vua của Sicilia, công tước (danh nghĩa) của Athens và Neopatria, bá tước xứ Barcelona, Roussillon và Cerdanya (1412–1416). Ông cũng là nhiếp chính của Castile (1406–1416).
1,639,086
{ "doc_id": "19848414", "split": 0, "title": "Alfonso V của Aragón", "token_count": 183, "url": "https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19848414" }
Title: Alfonso V của Aragón Alfonso Hào hiệp (tiếng Catalan: Alfons el Magnànim) (139627 tháng 6 năm 1458) là Vua của Aragon và Vua của Sicilia (với tên gọi Alfonso V), người cai trị Vương quyền Aragon từ năm 1416 và Vua của Napoli (với tên gọi Alfonso I) từ năm 1442 cho đến khi qua đời. Ông đã tham gia vào cuộc chiến tranh tranh giành ngai vàng Vương quốc Napoli với Louis III của Anjou, Joanna II của Napoli và những người ủng hộ họ, cuối cùng thất bại và mất Napoli vào năm 1424. Ông chiếm lại vương quốc này vào năm 1442 và lên ngôi vua của Napoli. Ông cũng hoạch định các mối quan hệ ngoại giao với Đế quốc Ethiopia và là một nhân vật chính trị nổi bật của thời kỳ đầu Phục hưng.
1,639,087
{ "doc_id": "19848415", "split": 0, "title": "Guildford Dudley", "token_count": 284, "url": "https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19848415" }
Title: Guildford Dudley Lãnh chúa Guildford Dudley (còn được đánh vần là Guilford) (k. 1535 – 12 tháng 2 năm 1554) là một nhà quý tộc người Anh kết hôn với Lady Jane Grey, người chiếm giữ ngai vàng nước Anh từ ngày 10 tháng 7 cho đến ngày 19 tháng 7 năm 1553 sau khi được tuyên bố là người thừa kế của vua Edward VI. Guildford Dudley được giáo dục theo chủ nghĩa nhân văn và kết hôn với Jane trong một lễ kỷ niệm hoành tráng khoảng sáu tuần trước khi nhà vua qua đời. Sau khi cha của Guildford, Công tước xứ Northumberland, sắp xếp việc lên ngôi của Jane, Jane và Guildford dành thời gian cai trị ngắn ngủi của mình tại Tháp Luân Đôn. Họ vẫn ở trong Tháp khi chế độ của họ sụp đổ và ở đó tại các khu khác nhau với tư cách là tù nhân. Họ bị kết án tử hình vì tội phản quốc vào tháng 11 năm 1553. Nữ hoàng Mary I có ý muốn tha mạng cho họ, nhưng cuộc nổi loạn của Thomas Wyatt chống lại kế hoạch kết hôn với Felipe của Tây Ban Nha của Mary đã dẫn đến việc xử tử cặp vợ chồng trẻ, một biện pháp được nhiều người coi là quá khắc nghiệt. Gia đình và hôn nhân.
1,639,088
{ "doc_id": "19848415", "split": 1, "title": "Guildford Dudley", "token_count": 563, "url": "https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19848415" }
Title: Guildford Dudley Guildford Dudley là con trai út thứ hai còn sống của John Dudley, sau này là Công tước xứ Northumberland và vợ ông, Jane Guildford. Dòng dõi Dudley có nguồn gốc từ một gia đình tên là Sutton. Vào đầu thế kỷ 14, họ trở thành lãnh chúa của Lâu đài Dudley, tước vị mà Guildford được thừa kế từ ông nội Edmund Dudley, ủy viên hội đồng của Henry VII, người bị xử tử vào năm 1510 sau khi Henry VIII lên ngôi. Thông qua bà nội, Elizabeth Grey, Nữ nam tước thứ 6 xứ Lisle, Guildford là hậu duệ của các anh hùng trong Chiến tranh Trăm năm, Richard Beauchamp, Bá tước thứ 13 xứ Warwick và John Talbot, Bá tước thứ nhất xứ Shrewsbury.Khi mười ba tuổi, Dudley lớn lên trong một gia đình theo đạo Tin lành và được giáo dục theo chủ nghĩa nhân văn. Dưới thời vị vua trẻ Edward VI, cha của Guildford trở thành Chủ tịch Hội đồng và trên thực tế đã cai trị nước Anh từ năm 1550 đến năm 1553. Nhà ghi chép biên niên sử Richard Grafton, người biết ông, đã mô tả Guildford là "một quý ông hài hước, đức độ và tốt bụng". Năm 1552, Northumberland cố gắng sắp xếp cuộc hôn nhân giữa Guildford và Margaret Clifford không thành công. Thay vào đó, vào mùa xuân năm 1553, Guildford đính hôn với Jane Grey, mười sáu tuổi. Jane Grey và Margaret Clifford đều là chắt gái của vua Henry VII, nhưng Jane có vị trí cao hơn trong hàng kế vị. Vào ngày 25 tháng 5 năm 1553, ba đám cưới được tổ chức tại Durham Place, dinh thự thị trấn của Công tước xứ Northumberland. Guildford kết hôn với Jane; em gái ông là Katherine kết hôn với Henry Hastings, người thừa kế của Bá tước xứ Huntingdon; và em gái của Jane là Katherine kết hôn với Lãnh chúa Herbert, người thừa kế của Bá tước Pembroke Đó là một lễ hội hoành tráng với những cuộc đấu ngựa đấu thương, trò chơi và hóa trang. Đối với trường hợp sau, hai công ty khác nhau đã được đặt chỗ, một nam, một nữ. Các đại sứ Venezia và Pháp là khách mời, và có "một số lượng lớn dân thường ... và những người đứng đầu vương quốc". Guildford và một số người khác bị ngộ độc thực phẩm do "một sai lầm của người đầu bếp đã nhổ lá này cho lá khác".
1,639,089
{ "doc_id": "19848415", "split": 2, "title": "Guildford Dudley", "token_count": 72, "url": "https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19848415" }
Title: Guildford Dudley Trong văn hóa đại chúng. Lãnh chúa Guildford Dudley được John Mills thể hiện trong bộ phim "Tudor Rose" năm 1936, Cary Elwes trong bộ phim "Lady Jane" năm 1986, và Jacob Avery trong bộ phim truyền hình dài tập năm 2022 "Become Elizabeth".
1,639,090
{ "doc_id": "19848417", "split": 0, "title": "Maria Ana của Bồ Đào Nha", "token_count": 328, "url": "https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19848417" }
Title: Maria Ana của Bồ Đào Nha Maria Ana của Bồ Đào Nha, hay Maria Ana của Bragança (; tiếng Bồ Đào Nha: "Maria Ana de Portugal" hay "Maria Ana de Bragança"; of Portugal; von Portugal; tên đầy đủ: "Maria Ana Fernanda Leopoldina Micaela Rafaela Gabriela Carlota Antónia Júlia Vitória Praxedes Francisca de Assis Gonzaga"; 21 tháng 8 năm 1843 – 5 tháng 2 năm 1884) là một Vương nữ Bồ Đào Nha, con gái Nữ vương Maria II của Bồ Đào Nha và Phối vương Fernando II của Bồ Đào Nha. Thân thế và thiếu thời. Maria Ana là con gái lớn và là người con thứ tư của Maria II của Bồ Đào Nha và Phối vương Fernando II của Bồ Đào Nha. Sau khi mẹ qua đời vào năm 1853, khi Maria Anna mới mười tuổi, bà đã trở thành quý cô nương có địa vị cao nhất trong triều đình cho đến khi anh cả của Maria Ana, Pedro V của Bồ Đào Nha, kết hôn với Stephanie xứ Hohenzollern-Sigmaringen vào tháng 5 năm 1858. Mặc dù trong giai đoạn đầu quen biết, hai chị em có mối quan hệ tốt, nhưng trong một bức thư viết năm 1859 gửi Albrecht xứ Sachsen-Coburg và Gotha, chồng của Victoria của Liên hiệp Anh, khi Stephanie đã qua đời, Pedro V đã đề cập rằng Maria Ana đã đưa ra những nhận xét không mấy tốt đẹp về vợ: "vì sự phù phiếm từ tính nữ của em ấy do địa vị thấp hơn (...)".
1,639,091
{ "doc_id": "19848417", "split": 1, "title": "Maria Ana của Bồ Đào Nha", "token_count": 231, "url": "https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19848417" }
Title: Maria Ana của Bồ Đào Nha Mối quan hệ chị dâu em chồng dường như đã có những thăng trầm kể từ khi Stephanie đến Bồ Đào Nha vào tháng 5 năm 1858 và kể từ đám cưới của Maria Anna vào tháng 5 năm 1859. Vương hậu viết về em chồng của mình như sau: "Về mọi mặt, em ấy giống Pedro hơn (...)", "Em ấy là một người quyến rũ, tốt bụng, rộng lượng, đặc biệt nhạy cảm so với tuổi, không có biểu hiện của sự ích kỷ, được tất cả chúng ta tôn trọng và yêu thương (...) Georg của Sachsen đã phát hiện ra một viên ngọc quý thực sự. Em ấy hạnh phúc và yêu Georg, nhưng con bé không thể nói về khoảnh khắc con bé sẽ rời xa gia đình mà không khóc. Điều chắc chắn là em ấy sẽ rời đi và để lại cho chúng ta một sự thiếu vắng khủng khiếp”. Anh trai của Maria Ana, Pedro V, cũng tuyên bố rằng Maria Ana là "viên ngọc quý của gia đình ta" , trong một bức thư gửi Vương phu Albrecht. Hôn nhân.
1,639,092
{ "doc_id": "19848417", "split": 2, "title": "Maria Ana của Bồ Đào Nha", "token_count": 493, "url": "https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19848417" }
Title: Maria Ana của Bồ Đào Nha Ngày 11 tháng 5 năm 1859, tại Cung điện Belém, Lisboa, Vương nữ Maria Ana kết hôn với Vương tử Georg của Sachsen (1832–1904), con trai thứ hai của Johann I của Sachsen, một người họ hàng từ nhánh Albrecht Công giáo của Vương tộc Wettin của Vương nữ. Vương hậu Stephanie đã cố gắng tổ chức một buổi lễ hoành tráng, nhưng cuối cùng, đám cưới diễn ra trong thầm lặng và không được chú ý ở cả Bồ Đào Nha và Sachsen. Đôi vợ chồng mới cưới trải qua những ngày đầu tiên tại Cung điện Belém. Trong thời gian ngắn ngủi ở Bồ Đào Nha sau lễ cưới, Vương tử George đã để lại ấn tượng không tốt với Vương thất Bồ Đào Nha vì "hầu như không nói chuyện với cô dâu" và không đến buổi biểu diễn kịch mà Vương tử được mời tham dự. Cũng trong buổi biểu diễn đó, nàng tân nương 15 tuổi Maria Ana được nhìn thấy đang khóc. Cặp đôi rời Sachsen vào ngày 14 tháng 5. Maria Ana không được phép đưa các thị tùng người Bồ Đào Nha đi cùng và chỉ được đi với anh trai Luís trong chuyến hành trình. Pedro V đã viết như sau về đám cưới:"Đám cưới của em gái ta với Vương tử George của Sachsen được tổ chức với nhiều sự phô trương hơn là hạnh phúc. Và theo đó là một sự đáng tiếc, vì cậu ta không để lại sự cảm thông nào và những người đã gặp cậu ta thường bỏ đi với ấn tượng không tốt". Cuộc hôn nhân của hai người không hạnh phúc, theo Nhà sử học Eduardo Nobre, Vương tử Georg "không đáp ứng được những kỳ vọng và phẩm chất của nàng Vương nữ Bồ Đào Nha". Bất chấp những vấn đề của hai vợ chồng, họ có với nhau tám người con. Mặc dù đã từ bỏ quyền kế vị ngai vàng Bồ Đào Nha khi kết hôn nhưng Maria Ana vẫn có thể trở thành Nữ vương nếu dòng nam tuyệt tự. Tình trạng này suýt xảy ra vào năm 1861, khi Pedro V và vài người anh em khác của Vương nữ qua đời vì bệnh thương hàn và không có con cái. Tuy nhiên, giả thuyết này hoàn toàn bị gạt sang một bên khi người anh trai là Luís I kết hôn với Maria Pia của Ý và có hai con trai là Carlos I và Afonso Henriques của Bồ Đào Nha.
1,639,093
{ "doc_id": "19848417", "split": 3, "title": "Maria Ana của Bồ Đào Nha", "token_count": 252, "url": "https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19848417" }
Title: Maria Ana của Bồ Đào Nha Khoảng năm 1883, con trai út của Maria Ana, Albert Karl của Sachsen lâm bệnh nặng. Maria Ana đã chăm sóc con trai trong vài tháng cho đến khi Vương tôn bình phục. Nỗ lực chăm con đã khiến Infanta qua đời vì kiệt sức vào ngày 5 tháng 2 năm 1884, trước khi chồng của Maria Ana trở thành Quốc vương. Chồng của Maria Ana, Georg không tái hôn trong suốt quãng đời còn lại. Ở Bồ Đào Nha, anh trai thứ hai của Vương nữ là Vương tử Luís, sớm kế vị người anh cả, Pedro V trở thành Quốc vương Bồ Đào Nha. Anh chồng của Maria Ana, Vương tử Albert kế vị cha chồng trở thành Quốc vương Sachsen và dựa vào việc Albert và vợ, Carola của Wasa, không thể có con. Con trai cả của Maria Ana gần như chắc chắn một ngày nào đó sẽ kế vị ngai vàng. Con cái. Maria Ana đã qua đời trước cha, chồng và anh chồng là Albert của Sachsen. Năm 1902, Georg kế vị anh trai trở thành Quốc vương Sachsen, và khi Georg qua đời vào năm 1904, con trai cả của Maria Ana trở thành Quốc vương Sachsen với trị hiệu Friedrich August III.
1,639,094
{ "doc_id": "19848419", "split": 0, "title": "Maria Ana Francisca của Bồ Đào Nha", "token_count": 368, "url": "https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19848419" }
Title: Maria Ana Francisca của Bồ Đào Nha Maria Ana Francisca của Bồ Đào Nha (tiếng Bồ Đào Nha: "Maria Ana Francisca de Portugal"; tên đầy đủ: "Maria Ana Francisca Josefa Rita Joana"; 7 tháng 10 năm 1736 – 16 tháng 5 năm 1813), là con gái của José I của Bồ Đào Nha và Mariana Victoria của Tây Ban Nha. Tiểu sử. Maria Ana Francisca được sinh ra ở Lisboa vào ngày 7 tháng 10 năm 1736, là con gái thứ hai trong số bốn cô con gái của José I của Bồ Đào Nha và Mariana Victoria của Tây Ban Nha. Maria Ana được coi là nàng dâu tiềm năng của Thái tử Louis Ferdinand của Pháp, nhưng Mariana Victoria đã từ chối mối hôn sự vì lịch sử chính Vương hậu đã từng được dự tính gả cho Louis XV của Pháp, cha của Louis Ferdinand và cũng là người đã hủy bỏ hôn ước với Mariana và gửi Vương hậu trở về Tây Ban Nha. Maria Ana Francisca không kết hôn, nhưng thay vào đó Vương nữ dành thời gian cho sở thích nghệ thuật của mình và xây dựng lại ngôi trường tu nổi tiếng Convento do Desagraveo do Santíssimo Sacramento ở Lisboa, nơi đã bị phá hủy trong trận động đất năm 1757, và Maria Ana đã khánh thành lại vào năm 1783. Vương nữ đã trốn thoát khỏi Bồ Đào Nha cùng gia đình khi Napoléon Bonaparte ra lệnh xâm lược Bồ Đào Nha. Giống như chị gái là Nữ vương Maria I, Vương nữ mắc bệnh tâm thần trong những năm cuối đời và được chăm sóc ở Brasil bởi em gái Maria Benedita vốn sống cùng Vương nữ. Maria Ana qua đời ở Rio de Janeiro vào ngày 16 tháng 5 năm 1813 và thi hài của Vương nữ được chuyển đến Lisboa.
1,639,095
{ "doc_id": "19848441", "split": 0, "title": "Bá tước Cadogan", "token_count": 147, "url": "https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19848441" }
Title: Bá tước Cadogan Bá tước Cadogan (tiếng Anh: "Earl Cadogan"; ) là một tước hiệu đã được tạo ra hai lần trong Đẳng cấp quý tộc Đại Anh, trao cho gia tộc Cadogan. Lần tạo ra thứ hai vào năm 1800, dành cho Charles Cadogan, Nam tước Cadogan thứ 3. Gia tộc Cadogan có nguồn gốc từ xứ Wales, họ này được đánh vần là Cadwgan cho đến thế kỷ XV. Trong môn đua ngựa, gia đình sở hữu ngựa sử dụng màu xanh Eton, tương tự như màu ngọc lam của Đại học Cambridge, đã đăng ký năm 1889.
1,639,096
{ "doc_id": "19848442", "split": 0, "title": "Drama (EP của aespa)", "token_count": 384, "url": "https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19848442" }
Title: Drama (EP của aespa) Drama là đĩa mở rộng thứ tư của nhóm nhạc nữ Hàn Quốc aespa. Album được phát hành bởi SM Entertainment vào ngày 10 tháng 11 năm 2023 với sáu bài hát, bao gồm cả đĩa đơn cùng tên. Bối cảnh và phát hành. Tháng 2 năm 2023, trong buổi concert đầu tiên của nhóm, , cả nhóm đã biểu diễn các bài hát chưa được phát hành khi đó: "Hot Air Balloon", "YOLO" và "Don't Blink". Ngày 10 tháng 10, SM Entertainment thông báo rằng nhóm sẽ phát hành đĩa mở rộng thứ tư có tên "Drama" vào ngày 10 tháng 11. Một video teaser giới thiệu cũng được phát hành cùng ngày. Sáu ngày sau, lịch trình quảng bá cũng được công bố. Ngày 30 tháng 10, video teaser mood sample được tung ra, tiếp theo là video teaser highlight medley vào ngày 3 tháng 11. Ngày 6 tháng 11, các video teaser được lấy cảm hứng từ ý tưởng phim của Winter và Giselle đã được phát hành, cùng với các đoạn giới thiệu của Karina và Ningning vào ngày hôm sau. Ngày 9 tháng 11, teaser video âm nhạc "Drama" đã được phát hành. Đĩa mở rộng được phát hành cùng với video âm nhạc của "Drama" vào ngày 10 tháng 11. Khái niệm. Theo SM Entertainment, "Drama" sẽ giới thiệu "những tính cách đang phát triển" của aespa với "âm nhạc mới mẻ" đồng thời "xây dựng [dựa trên] chủ đề tường thuật trước đó" vì nhóm "hiện đang thoát ra khỏi chấn thương do một loạt sự kiện gây ra với 'Synk Out' và 'Nhiệm vụ ảo ảnh' [trong cốt truyện của SMCU dành cho aespa]". Sáng tác.
1,639,097
{ "doc_id": "19848442", "split": 1, "title": "Drama (EP của aespa)", "token_count": 395, "url": "https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19848442" }
Title: Drama (EP của aespa) Phiên bản tiêu chuẩn của "Drama" bao gồm sáu bài hát thuộc nhiều thể loại khác nhau bao gồm hip hop, dance và acoustic pop. Giống như các sản phẩm trước của nhóm, "Drama" sẽ "mang đến một chương mới cho truyền thuyết SMCU của họ" bằng cách viết câu chuyện thông qua "âm nhạc và hình ảnh độc đáo". Đĩa đơn chính "Drama" được mô tả là một bài hát hip-hop và dance có đặc điểm "âm thanh trống mạnh mẽ và âm trầm tổng hợp phức tạp" với lời bài hát nói về "thái độ tự tin rằng mọi câu chuyện đều bắt đầu với aespa". Ca khúc thứ hai "Trick or Trick" là một ca khúc nhạc dance với "âm trầm nặng" và "sức quyến rũ gây thôi miên". Ca khúc thứ ba "Don't Blink" là một bài hát mang hơi hướng đồng quê với "rusty synth" tập trung vào "giọng hát của aespa". Ca khúc thứ tư "Hot Air Balloon" có lời bài hát "mô tả cuộc hành trình hướng tới bầu trời với một người đặc biệt". Ca khúc thứ năm "YOLO" là một ca khúc pop-punk với "sự kết hợp giữa pop và guitar metal". Ca khúc thứ sáu "You" mang ca từ tràn ngập "sự chân thành đối với [người hâm mộ của nhóm]". Trong phiên bản kỹ thuật số đĩa đơn tiếng Anh "Better Things" đã phát hành trước đó của nhóm sẽ là bonus track, nổi bật là một bài hát dance "có nhịp độ nhanh" đặc trưng bởi "âm thanh bộ gõ nhịp nhàng" với ca từ về việc "bỏ qua những chuyện vô bổ" và " tập trung thời gian nhất định vào những việc có giá trị hơn". Quảng bá.
1,639,098
{ "doc_id": "19848442", "split": 2, "title": "Drama (EP của aespa)", "token_count": 446, "url": "https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19848442" }
Title: Drama (EP của aespa) "Drama" ra mắt ở vị trí thứ ba trên Bảng xếp hạng Circle Album Chart của Hàn Quốc từ ngày 19–25 tháng 11 năm 2023. Tại Nhật Bản, EP ra mắt ở vị trí thứ 27 trên "Billboard Japan" Hot Albums ngày 15 tháng 11 năm 2023; trên bảng xếp hạng component, EP ra mắt ở vị trí thứ 11 ở Top Download Albums. Trên bảng xếp hạng Oricon, EP ra mắt ở vị trí thứ 11 trên Bảng xếp hạng Album, và vị trí thứ 10 trên Bảng xếp hạng Album tổng hợp ngày 27 tháng 11 năm 2023. Tại Hoa Kỳ, "Drama" ra mắt ở vị trí thứ 33 trên bảng xếp hạng "Billboard 200", và đứng thứ hai trên "Billboard World Albums" bảng xếp hạng ngày 25 tháng 11 năm 2023. Tại Vương quốc Anh, EP ra mắt ở vị trí thứ 10 trên Bảng xếp hạng lượt tải xuống album tại Vương quốc Anh của OCC, đứng thứ 33 về doanh số bán album tại Vương quốc Anh, và vị trí thứ 45 trên UK Physical Albums bảng xếp hạng ngày 17–23 tháng 11 năm 2023. Tại Úc, EP ra mắt ở vị trí thứ 4 trên ARIA Top 20 Hitseekers Albums Chart trong bảng xếp hạng ngày 20 tháng 11 năm 2023. Tại Pháp, EP ra mắt ở vị trí thứ 30 trên Album hàng đầu của SNEP trong bảng xếp hạng ngày 17 tháng 11 năm 2023. Tại Hungary, EP ra mắt ở vị trí thứ 19 trên Bảng xếp hạng MAHASZ Top Albums 40 trong bảng xếp hạng ngày 10–16 tháng 11 năm 2023. Tại Ba Lan, EP ra mắt ở vị trí thứ 28 trên OLiS của ZPAV trong bảng xếp hạng ngày 10–16 tháng 11 năm 2023. Tại Scotland, EP ra mắt ở vị trí thứ 43 trên Bảng xếp hạng Album Scotland của OCC trong bảng xếp hạng ngày 17–23 tháng 11 năm 2023. Tại Tây Ban Nha, EP ra mắt ở vị trí thứ 79 trên Bảng xếp hạng 100 Album hàng đầu của PROMUSICAE trên bảng xếp hạng ngày 10–16 tháng 11 năm 2023. Đánh giá chuyên môn.
1,639,099