title
stringlengths 1
250
| url
stringlengths 37
44
| text
stringlengths 1
4.81k
|
---|---|---|
Wikipedia | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1345 | Để đối phó với vấn nạn biên tập được tài trợ và biên tập được tài trợ ngầm, "The Wall Street Journal" (Tạp chí Phố Wall) báo cáo là Wikipedia đã tăng cường các quy định chống lại việc biên tập được tài trợ ngầm – "Bắt đầu từ thứ Hai [16 tháng 6 năm 2014], những thay đổi trong điều khoản sử dụng của Wikipedia yêu cầu rằng ai được trả tiền để biên tập bài phải tiết lộ việc đó. Giám đốc truyền thông của Wikimedia Katherine Maher cho biết thay đổi này nhằm giải quyết bức xúc của các biên tập viên tình nguyện rằng "chúng ta không phải là một dịch vụ quảng cáo; chúng ta là một bách khoa toàn thư."
Một quyển sách giáo khoa luật của Harvard "Legal Research in a Nutshell" (2011) giới thiệu Wikipedia là một "nguồn tham khảo chung", "có thể giúp ích" trong việc "tăng tốc trong luật pháp liên quan một tình huống" và "dù không có thẩm quyền, nhưng có thể cung cấp thông tin cơ bản cũng như dẫn đến các nguồn tài liệu chuyên sâu hơn".
Không được khuyến khích trong giáo dục.
Hầu hết các giảng viên đại học không khuyến khích sinh viên dẫn nguồn từ điển bách khoa nào trong các bài viết học thuật, ưu tiên các nguồn sơ cấp; một số còn cấm trích dẫn Wikipedia. Wales nhấn mạnh rằng bách khoa toàn thư nào cũng không thích hợp để làm nguồn và đừng dựa vào nó để làm nguồn uy tín. Wales cho biết (2006 hoặc trước đó) hàng tuần ông nhận được khoảng mười email từ các sinh viên nói rằng bài luận của họ bị điểm kém vì dẫn nguồn Wikipedia; ông đáp rằng họ bị vậy là xứng đáng. "Vì Chúa, bạn đang học đại học kia mà; đừng dẫn nguồn từ điển bách khoa", Wales nói.
Tháng 2 năm 2007, một bài báo trên "The Harvard Crimson" báo cáo rằng một số giáo sư tại Đại học Harvard đã đưa các bài viết trên Wikipedia vào giáo trình của họ mà không nhận ra rằng các bài viết này có thể bị thay đổi. Tháng 6 năm 2007, cựu chủ tịch của Hiệp hội Thư viện Hoa Kỳ Michael Gorman đã lên án Wikipedia và Google, tuyên bố rằng các học giả ủng hộ việc sử dụng Wikipedia là "các nhà tri thức ngang tầm với một chuyên gia dinh dưỡng khuyến nghị một chế độ ăn kiêng ổn định gồm Big Mac với đủ thứ hầm bà lằng."
Thông tin y học. |
Wikipedia | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1345 | Thông tin y học.
Ngày 5 tháng 3 năm 2014, Julie Beck viết bài "Nguồn thông tin chăm sóc sức khỏe số 1 của bác sĩ: Wikipedia" cho tạp chí "The Atlantic", tuyên bố rằng "Năm mươi phần trăm bác sĩ tra cứu tình trạng bệnh trên trang (Wikipedia) và một số còn tham gia biên tập các bài viết để nâng cao chất lượng thông tin sẵn có." Beck tiếp tục trình bày chi tiết rằng các chương trình mới của Amin Azzam tại Đại học San Francisco nhằm cung cấp các khóa học của trường y cho sinh viên y để học cách biên tập và cải thiện các bài viết về sức khỏe trên Wikipedia, cũng như các chương trình kiểm soát chất lượng nội bộ do Wikipedia tổ chức của James Heilman để cải thiện một nhóm 200 bài viết liên quan đến sức khỏe có tầm quan trọng y tế trung tâm theo tiêu chuẩn cao nhất của Wikipedia về các bài viết bằng cách sử dụng Quy trình đánh giá Bài viết chọn lọc và Bài viết tốt. Trong một bài báo tiếp theo vào ngày 7 tháng 5 năm 2014 trên "tờ The Atlantic" có tiêu đề "Liệu Có Bao Giờ Wikipedia Là Một Văn Bản Y Khoa Rõ Ràng?", Julie Beck trích lời James Heilman của (Dự án Y học trên Wikipedia): "Chỉ vì một tham khảo đã qua bình duyệt chưa đồng nghĩa với việc đó là một tham khảo chất lượng cao." Beck bổ sung: "Wikipedia có quy trình bình duyệt riêng trước khi các bài viết được xếp hạng 'tốt' hay 'chọn lọc'. Heilman từng tham gia vào quá trình đó và nói rằng 'ít hơn một phần trăm' các bài viết y học trên Wikipedia đã đậu."
Phạm vi các chủ đề và thiên vị hệ thống.
Vì là bách khoa toàn thư trực tuyến với hàng terabyte dung lượng, Wikipedia có thể chứa nhiều chủ đề hơn so với bất kỳ bách khoa toàn thư giấy nào. Các biên tập viên liên tục xem xét mức độ và cách thức bao phủ chính xác trên Wikipedia và bất đồng cũng diễn ra (xem chủ nghĩa xóa và chủ nghĩa thêm). Wikipedia chứa các tài liệu mà một số người có thể thấy phản cảm, xúc phạm hoặc khiêu dâm. Chính sách " đôi khi gây tranh cãi: vào năm 2008, Wikipedia đã từ chối một kiến nghị trực tuyến chống lại việc đưa hình ảnh của Muhammad vào bài viết Muhammad của ấn bản tiếng Anh, trích dẫn chính sách này. Một số tài liệu nhạy cảm về mặt chính trị, tôn giáo và khiêu dâm trên Wikipedia đã khiến Wikipedia bị kiểm duyệt bởi chính phủ ở Trung Quốc, Pakistan, cùng các quốc gia khác. |
Wikipedia | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1345 | Một nghiên cứu năm 2008 do các nhà nghiên cứu tại Đại học Carnegie Mellon và Trung tâm Nghiên cứu Palo Alto thực hiện đã đưa ra sự phân bố các chủ đề cũng như sự phát triển trong từng lĩnh vực (từ tháng 7 năm 2006 đến tháng 1 năm 2008):
Những con số này chỉ đề cập đến số lượng bài viết: một chủ đề có thể chứa một số lượng lớn các bài viết ngắn và một chủ đề khác chứa một số lượng nhỏ các bài viết dài. Thông qua chương trình "Wikipedia Loves Libraries", Wikipedia hợp tác với các thư viện công cộng lớn như Thư viện Công cộng New York về Nghệ thuật Biểu diễn để mở rộng phạm vi nội dung của mình đến các chủ đề và bài viết ít được quan tâm.
Một nghiên cứu năm 2011 của các nhà nghiên cứu tại Đại học Minnesota chỉ ra rằng các biên tập viên nam và nữ tập trung vào các chủ đề khác nhau. Nữ giới tập trung nhiều hơn vào thể loại Con người và Nghệ thuật, còn nam giới tập trung nhiều hơn vào Địa lý và Khoa học.
Độ bao phủ và khuynh hướng.
Nghiên cứu của Viện Internet Oxford do Mark Graham thực hiện vào năm 2009 chỉ ra rằng sự phân bố địa lý của các chủ đề là rất không đồng đều. Châu Phi là khu vực ít có bài nhất. Trên 30 phiên bản ngôn ngữ của Wikipedia, các bài viết lịch sử và đề mục nói về lịch sử (hình thành) thường xoay quanh lĩnh vực liên quan đến châu Âu và tập trung vào các sự kiện gần đây.
Một bài xã luận năm 2014 trên tờ "The Guardian" cho rằng người ta dành nhiều công sức để cung cấp nguồn tham khảo cho danh sách diễn viên khiêu dâm nữ hơn là danh sách nhà văn nữ.
Thiên vị hệ thống.
Khi nhiều biên tập viên đóng góp vào một chủ đề hoặc một tập hợp các chủ đề, có thể phát sinh thiên vị hệ thống, do nền tảng nhân khẩu học của các biên tập viên. Năm 2011, Wales tuyên bố rằng mức độ phủ sóng không đồng đều phản ánh nhân khẩu học của các biên tập viên, trích dẫn ví dụ "tiểu sử của những phụ nữ nổi tiếng trong lịch sử và các vấn đề xung quanh việc chăm sóc trẻ sơ sinh". |
Wikipedia | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1345 | Ngày 22 tháng 10 năm 2013, bài luận "Sự suy giảm của Wikipedia" của Tom Simonite trên "Technology Review" (Tạp chí Công nghệ) của MIT thảo luận về ảnh hưởng của sự thiên vị hệ thống và chính sách leo thang đối với xu hướng giảm số lượng biên tập viên.Năm 2013, Taha Yasseri thuộc Đại học Oxford nghiên cứu các xu hướng thống kê của sự thiên lệch hệ thống trên Wikipedia được giới thiệu bằng cách biên tập các xung đột kèm cách giải quyết. Nghiên cứu của ông xem xét hành vi làm việc phản tác dụng của việc bút chiến. Yasseri cho rằng các thao tác lùi sửa hoặc "hoàn tác" đơn giản không phải là thước đo quan trọng nhất cho hành vi phản tác dụng trên Wikipedia và thay vào đó dựa vào phép đo thống kê để phát hiện "các cặp nội dung lùi sửa" hoặc "các cặp lùi sửa lẫn nhau". "Cặp lùi sửa lẫn nhau" là một biên tập viên lùi sửa nội dung của một biên tập viên khác, sau đó biên tập viên kia lại lùi sửa đưa bài viết trở lại nội dung cũ. Kết quả được lập bảng cho một số phiên bản ngôn ngữ của Wikipedia. Ba bài viết có tỷ lệ xung đột lớn nhất trên Wikipedia tiếng Anh là George W. Bush, Chủ nghĩa vô chính phủ và Muhammad. Còn tại Wikipedia tiếng Đức, ba tỷ lệ xung đột lớn nhất tại thời điểm đó là các bài về Croatia, Scientology và thuyết âm mưu về sự kiện 11 tháng 9.
Các nhà nghiên cứu từ Đại học Washington phát triển một mô hình thống kê để đo lường sự thiên vị có hệ thống trong hành vi của người dùng Wikipedia liên quan đến các chủ đề gây tranh cãi. Các tác giả tập trung vào những thay đổi hành vi của các quản trị viên bách khoa toàn thư sau khi giữ cương vị quản trị, và cho rằng sự thiên vị có hệ thống xảy ra sau khi họ nắm vị trí quản trị viên.
Nội dung khiêu dâm.
Bài viết trên Wikipedia về album năm 1976 "Virgin Killer" của ban nhạc Scorpions có ảnh bìa gốc của album – hình ảnh khỏa thân của một bé gái chưa dậy thì. Bìa album này đã gây ra tranh cãi và đã được thay thế ở một số quốc gia. Tháng 12 năm 2008, Internet Watch Foundation (Tổ chức Giám sát Internet) quyết định rằng bìa album là một hình ảnh khiếm nhã có thể bất hợp pháp và thêm URL của bài viết vào một "danh sách đen" mà tổ chức này cung cấp cho các nhà cung cấp dịch vụ internet của Liên hiệp Anh, kết quả là hầu hết các nhà cung cấp ở Anh chặn truy cập vào bài viết "Virgin Killer" trong bốn ngày. |
Wikipedia | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1345 | Tháng 4 năm 2010, Sanger viết thư cho Cục Điều tra Liên bang Mỹ, nêu rõ lo ngại của mình rằng hai thể loại hình ảnh trên Wikimedia Commons có chứa nội dung khiêu dâm trẻ em, tức vi phạm luật khiêu dâm của Hoa Kỳ. Sanger giải thích rằng những hình ảnh liên quan đến ấu dâm và lolicon này không phải của trẻ em thật, mà được dùng cho mục đích "thể hiện hình ảnh nạn lạm dụng tình dục trẻ em", theo Đạo luật PROTECT năm 2003. Luật này cấm chụp ảnh khiêu dâm trẻ em và hình ảnh hoạt hình và hình vẽ của trẻ em có nội dung tục tĩu. Sanger cũng bày tỏ lo ngại về khả năng tiếp cận các hình ảnh trên Wikipedia trong trường học. Phát ngôn viên của Quỹ Wikimedia Jay Walsh đã bác bỏ cáo buộc của Sanger, nói rằng Wikipedia không có "tài liệu mà chúng tôi cho là bất hợp pháp. Nếu có thì chúng tôi sẽ xóa." Sau khiếu nại của Sanger, Wales đã xóa các hình ảnh tình dục mà không hỏi ý kiến cộng đồng. Một số biên tập viên lập luận rằng quyết định xóa đã quá vội vàng, sau đó Wales đã tự nguyện từ bỏ một số quyền hạn mà đó giờ ông nắm giữ vì là đồng sáng lập của dự án. Trong một tin nhắn gửi đến Quỹ Wikimedia, Wales viết rằng hành động này "nhằm mục đích khuyến khích thảo luận về các vấn đề xoay quanh nội dung/tư tưởng, hơn là về tôi và tôi đã hành động nhanh như thế nào". Các nhà phê bình, trong đó có Wikipediocracy, nhận thấy rằng nhiều hình ảnh khiêu dâm bị xóa khỏi Wikipedia từ năm 2010 đã xuất hiện trở lại.
Quyền riêng tư.
Có lo ngại rằng trong mắt luật pháp, quyền riêng tư của một công dân cá nhân liệu vẫn còn là quyền riêng tư một "công dân cá nhân" không, hay là của một "nhân vật của công chúng".
Tháng 1 năm 2006, một tòa án Đức ra lệnh đóng cửa Wikipedia tiếng Đức trong phạm vi lãnh thổ Đức vì khai tên đầy đủ của hacker quá cố Boris Floricic (còn gọi là "Tron"). Ngày 9 tháng 2 năm 2006, đơn chống lại Wikimedia Deutschland bị lật lại, tòa án không cho rằng quyền riêng tư của Tron hay của cha mẹ anh đang bị xâm phạm. |
Wikipedia | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1345 | Wikipedia có "" (Đội ngũ Phản hồi Tình nguyện) sử dụng hệ thống để xử lý các yêu cầu mà không cần phải tiết lộ danh tính của các bên liên quan; ví dụ như để xác nhận quyền sử dụng hình ảnh cá nhân và các phương tiện khác trong dự án.
Phân biệt giới tính.
Wikipedia đã bị báo chí lên án là phân biệt giới tính, quấy rối phái nữ và chứa đầy thiên kiến giới tính. Thái độ được cho là độc hại cùng sự khoan nhượng ngôn ngữ bạo lực và lạm dụng cũng góp phần giải thích cho khoảng cách giới tính trong cộng đồng Wikipedia.
Hoạt động.
Wikimedia Foundation.
Wikipedia được điều hành và tài trợ bởi Quỹ Wikimedia Foundation, một tổ chức phi lợi nhuận cũng điều hành các dự án liên quan như Wikitionary và Wikibooks, vận hành bằng đóng góp và tài trợ của công chúng. Biểu mẫu 990 IRS năm 2013 của quỹ cho thấy doanh thu là 39,7 triệu USD, chi phí là gần 29 triệu USD, số tài sản là 37,2 triệu USD còn nợ phải trả rơi vào khoảng 2,3 triệu USD.
Tháng 5 năm 2014, Quỹ Wikimedia bổ nhiệm Lila Tretikov làm giám đốc điều hành thứ hai, thế chỗ Sue Gardner. Ngày 1 tháng 5 năm 2014, tờ "The Wall Street Journal" (TWSJ) đưa tin rằng việc Tretikov xuất thân từ ngành công nghệ thông tin từ những năm ở Đại học California đã giúp Wikipedia phát triển theo các hướng tập trung hơn, nương theo tuyên ngôn định vị thường trực của Tretikov "Thông tin cũng giống như không khí, nó muốn được tự do." Cũng trong bài báo, phát ngôn viên Jay Walsh của Wikimedia "cho biết Tretikov sẽ ưu tiên giải quyết vấn đề đó (viết bài có trả tiền). 'Chúng tôi thực sự đang thúc đẩy sự minh bạch... Chúng tôi đang nhấn mạnh rằng việc viết bài trả phí không được hoan nghênh.' Chúng tôi đang ưu tiên các sáng kiến thu hút người dùng đa dạng hơn, hỗ trợ Wikipedia trên thiết bị di động tốt hơn, các công cụ vị trí địa lý mới để tìm kiếm nội dung địa phương dễ dàng hơn, cũng như ưu tiên nhiều công cụ hơn cho người dùng ở thế giới thứ hai và thứ ba", Walsh nói.
Sau khi Tretikov rời Wikipedia do các vấn đề liên quan đến việc sử dụng tính năng "siêu bảo vệ" mà một số phiên bản ngôn ngữ của Wikipedia đã áp dụng, Katherine Maher trở thành giám đốc điều hành thứ ba của Wikimedia vào tháng 6 năm 2016. |
Wikipedia | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1345 | Maher tuyên bố một trong những ưu tiên của cô là vấn đề quấy rối biên tập viên đặc hữu của Wikipedia mà hội đồng quản trị Wikipedia từng xác định vào tháng 12.
Hoạt động và hỗ trợ phần mềm.
Wikipedia dựa trên MediaWiki, một nền tảng phần mềm wiki chuyên biệt, tự do và có mã nguồn mở, viết bằng ngôn ngữ PHP và xây trên cơ sở dữ liệu MySQL. Phần mềm này bao gồm những tính năng lập trình như ngôn ngữ macro, biến số, hệ thống nhúng bản mẫu ("template transclusion"), và đổi hướng URL. MediaWiki được phát hành theo Giấy phép Công cộng GNU (GPL) và được các dự án Wikimedia sử dụng, cũng như nhiều dự án wiki khác. Ban đầu Wikipedia chạy trên UseModWiki, một chương trình Perl của Clifford Adams ("Phase I"). Nó bắt phải viết hoa theo kiểu CamelCase để tạo ra siêu liên kết giữa các bài; sau này mới xuất hiện cú pháp hai dấu ngoặc vuông. Từ tháng 1 năm 2002 ("Phase II"), Wikipedia bắt đầu sử dụng chương trình PHP wiki với cơ sở dữ liệu MySQL; phần mềm này do Magnus Manske viết riêng cho Wikipedia. Phần mềm Phase II được sửa nhiều lần để thỏa mãn nhu cầu đang tăng trưởng theo cấp số nhân. Tháng 7 năm 2002 ("Phase III"), Wikipedia đổi qua phần mềm thế hệ thứ ba MediaWiki, vốn do Lee Daniel Crocker viết.
Một số phần mở rộng MediaWiki được cài đặt để mở rộng chức năng của phần mềm MediaWiki.
Tháng 4 năm 2005, một phần mở rộng Lucene được thêm vào tìm kiếm tích hợp của MediaWiki. Wikipedia chuyển từ MySQL sang Lucene nhằm thực hiện các lệnh tìm kiếm và hiện đang sử dụng Lucene Search 2.1, được viết bằng Java và dựa trên thư viện Lucene 2.3.
Tháng 7 năm 2013, sau khi thử nghiệm beta rộng rãi, một tiện ích mở rộng WYSIWYG, VisualEditor, được mở nhằm sử dụng công khai. Nó đã vấp phải nhiều sự phản đối và chỉ trích, và được mô tả là "chậm chạp và đầy lỗi".
Sửa đổi tự động.
Wikipedia dùng các chương trình máy tính (được gọi là bot) để thực hiện các tác vụ đơn giản và lặp đi lặp lại, chẳng hạn như sửa các lỗi chính tả phổ biến, các vấn đề về văn phong, hoặc khởi tạo các bài viết mới về địa lý với một định dạng chuẩn có sẵn lấy từ dữ liệu thống kê. Tại Wikipedia tiếng Thụy Điển, biên tập viên từng dùng bot để tạo bài mới và được báo cáo là đã tạo ra tới 10.000 bài viết vào một số ngày nhất định. |
Wikipedia | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1345 | Có những bot được thiết kế để thông báo một cách tự động khi biên tập viên mắc các lỗi thường gặp như dấu ngoặc kép hoặc dấu ngoặc đơn chưa khớp. Khi bot chạy sai và gây ra lỗi, các biên tập viên khác có thể hủy các lỗi đó và khôi phục nội dung gốc. Một bot chống phá hoại sẽ được lập trình để phát hiện và hủy các sửa đổi phá hoại một cách nhanh chóng. Bot cũng có thể chỉ ra chỉnh sửa đến từ các tài khoản hoặc dải địa chỉ IP cụ thể, như đã xảy ra vào thời điểm xảy ra vụ máy bay MH17 bị bắn rơi vào tháng 7 năm 2014 khi người ta báo cáo rằng các chỉnh sửa đã được thực hiện thông qua IP do chính phủ Nga kiểm soát. Trên Wikipedia, các bot phải được phê duyệt trước khi kích hoạt.
Theo Andrew Lih, nếu không sử dụng các bot thì khó mà mở rộng Wikipedia lên hàng triệu bài viết.
Hoạt động và hỗ trợ phần cứng.
Wikipedia nhận 25.000 đến 60.000 yêu cầu đọc trang mỗi giây, tùy thuộc vào thời gian trong ngày. mới là lần đầu tiên các yêu cầu trang được chuyển đến lớp front-end của máy chủ bộ nhớ đệm Varnish. Các số liệu thống kê khác, dựa trên dấu vết truy cập Wikipedia 3 tháng công khai cũng có sẵn. Yêu cầu không thể được phân phát từ bộ đệm Varnish được gửi đến máy chủ cân bằng tải chạy phần mềm Máy chủ ảo Linux, máy chủ này sẽ chuyển chúng đến một trong các máy chủ web Apache để hiển thị trang từ cơ sở dữ liệu. Máy chủ web cung cấp các trang theo yêu cầu, thực hiện kết xuất trang cho tất cả các phiên bản ngôn ngữ của Wikipedia. Nhằm tăng tốc độ, các trang đã kết xuất được lưu vào bộ nhớ đệm trong bộ nhớ đệm phân tán cho đến khi hết hiệu lực, cho phép hoàn toàn bỏ qua kết xuất trang đối với hầu hết các truy cập tới các trang phổ biến.
Wikipedia hiện chạy trên các cụm máy chủ Linux chuyên dụng (chủ yếu là Ubuntu). , có 300 cụm máy ở Florida và 44 cụm máy ở Amsterdam. Ngày 22 tháng 1 năm 2013, trung tâm dữ liệu chính của Wikipedia được chuyển đến một cơ sở Equinix ở Ashburn, Virginia. Năm 2017, Wikipedia cài đặt một cụm bộ nhớ đệm trong một cơ sở Equinix ở Singapore, đây là cơ sở đầu tiên thuộc loại này ở châu Á.
Nghiên cứu nội bộ và phát triển hoạt động. |
Wikipedia | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1345 | Sau khi số lượng tài trợ cho Wikipedia ngày càng tăng vượt quá bảy chữ số trong năm 2013 như được báo cáo gần đây, Quỹ Wikipedia đã đạt đến ngưỡng tài sản đủ điều kiện để xem xét theo các nguyên tắc kinh tế tổ chức công nghiệp để chỉ ra sự cần thiết tái đầu tư các khoản đóng góp vào nghiên cứu và phát triển nội bộ của Quỹ. Hai trong số các dự án gần đây của nghiên cứu và phát triển nội bộ như vậy là tạo Trình chỉnh sửa trực quan và tab "Cảm ơn" chưa được sử dụng nhiều, được phát triển để cải thiện các vấn đề về tiêu hao trình chỉnh sửa, vốn không thành công lắm. Adam Jaffe nghiên cứu ước tính tái đầu tư của các tổ chức công nghiệp vào nghiên cứu và phát triển nội bộ, và khuyến nghị phạm vi từ 4% đến 25% hàng năm, còn công nghệ cao cấp sẽ đòi hỏi mức độ hỗ trợ cao hơn cho việc tái đầu tư nội bộ. Ở mức độ đóng góp năm 2013 cho Wikimedia hiện nay được ghi nhận là 45 triệu USD, Jaffe và Caballero đề xuất mức ngân sách tính toán để tái đầu tư vào nghiên cứu và phát triển nội bộ là từ 1,8 triệu và 11,3 hàng triệu USD hàng năm. Năm 2016, "Bloomberg News" báo cáo mức đóng góp là 77 triệu USD hàng năm, cập nhật ước tính của Jaffe để có mức hỗ trợ cao hơn lên đến từ 3,08 triệu tới 19,2 triệu USD hàng năm.
Ấn phẩm tin tức nội bộ.
Các ấn phẩm tin tức do cộng đồng sản xuất bao gồm của Wikipedia tiếng Anh, được thành lập vào năm 2005 bởi Michael Snow, một luật sư, quản trị viên Wikipedia, và cựu chủ tịch hội đồng quản trị của Wikimedia Foundation.
Truy cập nội dung.
Cấp phép nội dung.
Khi bắt đầu vào năm 2001, tất cả văn bản trên Wikipedia đều dùng Giấy phép Tài liệu Tự do GNU (GFDL), một giấy phép copyleft cho phép phân phối lại, tạo ra các tác phẩm phái sinh và sử dụng nội dung cho mục đích thương mại, còn tác giả vẫn giữ bản quyền tác phẩm. Giấy phép này vốn là hướng dẫn sử dụng phần mềm đi kèm các chương trình phần mềm miễn phí được cấp phép theo GPL. Do đó đây là một lựa chọn tồi cho một tài liệu tham khảo phổ thông: ví dụ, GFDL yêu cầu các tài liệu tái bản từ Wikipedia phải đi kèm với một bản sao đầy đủ của văn bản GFDL. |
Wikipedia | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1345 | Tháng 12 năm 2002 phát hành giấy phép Creative Commons, được thiết kế không chỉ cho hướng dẫn sử dụng phần mềm mà đặc biệt dành cho các tác phẩm sáng tạo nói chung. Giấy phép này trở nên phổ biến trong giới blogger cũng như những người phân phối các tác phẩm sáng tạo trên Web. Wikipedia đã tìm cách chuyển sang Creative Commons. Vì GFDL và Creative Commons không tương thích nhau nên vào tháng 11 năm 2008, theo yêu cầu của dự án, Tổ chức Phần mềm Tự do (FSF) đã phát hành một phiên bản mới của GFDL được thiết kế đặc biệt để cho phép Wikipedia cấp phép nội dung theo CC BY-SA vào ngày 1 tháng 8 năm 2009. (Phiên bản mới của GFDL sẽ tự động bao gồm nội dung Wikipedia.) Tháng 4 năm 2009, Wikipedia cùng các dự án chị em tổ chức một cuộc trưng cầu dân ý toàn cộng đồng để quyết định việc chuyển đổi vào tháng 6 năm 2009.
Các phiên bản ngôn ngữ có các cách xử lý các tệp phương tiện (ví dụ: tệp hình ảnh) khác nhau. Một số phiên bản, chẳng hạn như Wikipedia tiếng Anh, chứa các tệp hình ảnh không miễn phí theo thuyết sử dụng hợp lý, còn những phiên bản khác thì không, một phần vì thiếu học thuyết sử dụng hợp pháp ở quốc gia của họ (ví dụ: trong luật bản quyền của Nhật Bản). Các tệp phương tiện được cấp phép nội dung tự do (ví dụ: Creative Commons 'CC BY-SA) được chia sẻ trên các phiên bản ngôn ngữ thông qua kho lưu trữ Wikimedia Commons, một dự án do Wikimedia Foundation điều hành. Wikipedia tuân theo các luật bản quyền quốc tế khác nhau liên quan đến hình ảnh khiến một số người nhận thấy rằng phạm vi ảnh về các chủ đề của Wikipedia thua kém chất lượng của văn bản bách khoa.
Wikimedia Foundation không phải là người cấp phép cho nội dung mà chỉ là một dịch vụ lưu trữ cho những người đóng góp (và người cấp phép) cho Wikipedia. Vị trí này đã được bảo vệ thành công trước tòa.
Phương thức truy cập.
Nội dung Wikipedia được phân phối theo giấy phép mở và ai cũng có thể sử dụng lại hoặc phân phối lại nội dung này miễn phí. Nội dung của Wikipedia đã được xuất bản dưới nhiều hình thức, cả trực tuyến và ngoại tuyến, hay bên ngoài trang web Wikipedia.
Có những thách thức trong việc lấy lại toàn bộ nội dung của Wikipedia để tái sử dụng, vì việc nhân bản trực tiếp qua trình thu thập thông tin web là không được khuyến khích. |
Wikipedia | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1345 | Wikipedia công bố các nội dung ở dạng văn bản; trước năm 2007 Wikipedia còn không có sẵn kho lưu hình ảnh.
Một số phiên bản Wikipedia có , nơi các tình nguyện viên trả lời câu hỏi của độc giả. Theo một nghiên cứu của Pnina Shachaf trên "Tạp chí Tài liệu", chất lượng của bàn tham khảo Wikipedia có thể sánh với bàn tham khảo thư viện tiêu chuẩn, với độ chính xác là 55%.
Truy cập di động.
Phương tiện ban đầu của Wikipedia là để người dùng đọc và chỉnh sửa nội dung bằng bất kỳ trình duyệt web tiêu chuẩn nào bằng kết nối Internet cố định. Nội dung Wikipedia đã có thể truy cập thông qua web di động từ tháng 7 năm 2013; nhưng ngày 9 tháng 2 năm 2014, "The New York Times" trích lời phó giám đốc Quỹ Wikimedia Erik Möller rằng sự chuyển đổi lưu lượng truy cập internet từ máy tính để bàn sang thiết bị di động là đáng kể và là một nguyên nhân để quan ngại. Bài báo này cũng báo cáo thống kê so sánh về các chỉnh sửa trên thiết bị di động, "Chỉ 20 phần trăm độc giả của Wikipedia tiếng Anh đến qua thiết bị di động, một con số thấp hơn phần trăm lưu lượng truy cập di động cho các trang web phương tiện khác, nhiều trang web còn đạt đến 50%. Và việc chuyển sang chỉnh sửa trên thiết bị di động thậm chí còn bị tụt hậu hơn nữa." "The New York Times" báo cáo rằng Möller đã chỉ định "một nhóm gồm 10 nhà phát triển phần mềm tập trung vào di động", đồng thời trích dẫn một mối quan tâm chính là làm sao để Wikipedia giải quyết các vấn đề về số lượng biên tập viên mà Wikipedia thu hút cũng như duy trì nội dung trong môi trường truy cập di động.
Tháng 7 năm 2014, "Bloomberg Businessweek" báo cáo rằng các ứng dụng di động Android của Google đã thống trị thị phần lớn nhất trong các lô hàng điện thoại thông minh toàn cầu cho năm 2013 với 78,6% thị phần, đối thủ cạnh tranh sát sao nhất là iOS (với 15,2% thị phần). Vào thời điểm Tretikov được hẹn và cuộc phỏng vấn trên web của cô với Sue Gardner vào tháng 5 năm 2014, đại diện Wikimedia đưa ra một thông báo kỹ thuật liên quan đến số lượng hệ thống truy cập di động trên thị trường đang tìm kiếm quyền truy cập vào Wikipedia. |
Wikipedia | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1345 | Ngay sau cuộc phỏng vấn trên web được đăng tải, các đại diện tuyên bố rằng Wikimedia sẽ áp dụng cách tiếp cận toàn diện để cung cấp nhiều hệ thống truy cập di động nhất có thể nhằm mở rộng truy cập di động nói chung, bao gồm BlackBerry và hệ thống Windows Phone, giúp thị phần trở thành vấn đề thứ yếu. Phiên bản mới nhất của ứng dụng Android dành cho Wikipedia được phát hành vào ngày 23 tháng 7 năm 2014, nhìn chung là nhận được các đánh giá tích cực, đồng thời nhận điểm trên 4/5 trong một cuộc thăm dò với khoảng 200.000 người dùng tải xuống từ Google. Phiên bản mới nhất cho iOS phát hành vào ngày 3 tháng 4 năm 2013 và nhận các đánh giá tương tự.
Người dùng có thể truy cập Wikipedia từ điện thoại di động vào đầu năm 2004, thông qua Giao thức Ứng dụng Không dây (WAP), thông qua dịch vụ Wapedia. Tháng 6 năm 2007, Wikipedia ra mắt en.mobile.wikipedia.org, một trang web chính thức dành cho các thiết bị không dây. Năm 2009, một dịch vụ di động mới hơn chính thức được phát hành tại địa chỉ en.m.wikipedia.org, phục vụ cho các thiết bị di động cao cấp hơn như iPhone, thiết bị dựa trên Android hoặc thiết bị dựa trên WebOS. Một số phương pháp truy cập Wikipedia di động khác cũng xuất hiện. Nhiều thiết bị và ứng dụng tối ưu hóa hoặc tăng cường hiển thị nội dung Wikipedia cho thiết bị di động, một số còn kết hợp các tính năng bổ sung như sử dụng siêu dữ liệu Wikipedia, chẳng hạn như thông tin địa lý.
Wikipedia Zero là một sáng kiến của Wikimedia Foundation nhằm mở rộng phạm vi tiếp cận của bách khoa toàn thư tới các nước đang phát triển và đã ngừng hoạt động vào tháng 2 năm 2018.
Andrew Lih và Andrew Brown đều coi việc chỉnh sửa Wikipedia bằng điện thoại thông minh là rất khó và việc này sẽ không khuyến khích các thành viên tiềm năng. Số lượng biên tập viên Wikipedia đã giảm sau vài năm và Tom Simonite của "MIT Technology Review" tuyên bố cấu trúc quan liêu cùng bộ quy định là một yếu tố dẫn đến điều này. Simonite cáo buộc một số người dùng Wikipedia sử dụng các quy tắc và hướng dẫn rối rắm nhằm áp đảo những người khác và họ còn được lợi trong việc giữ nguyên hiện trạng. Lih cáo buộc rằng cộng đồng hiện đang bất đồng nghiêm trọng về cách giải quyết vấn đề này. |
Wikipedia | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1345 | Lih lo sợ cho tương lai lâu dài của Wikipedia; còn Brown lo ngại Wikipedia không thể giải quyết các vấn đề này trong khi các bách khoa toàn thư đối thủ lại không có khả năng thay thế Wikipedia.
Ảnh hưởng văn hoá.
Nguồn đáng tin cậy để chống lại tin giả.
Những năm 2017–18, sau một loạt các báo cáo tin tức sai lệch, cả Facebook và YouTube đều tuyên bố sẽ dựa vào Wikipedia để giúp người dùng đánh giá các báo cáo và bác bỏ tin tức sai lệch. Viết trên "tờ The Washington Post," Noam Cohen cho biết, "Việc YouTube dựa vào Wikipedia để lập kỷ lục được xây dựng trực tiếp dựa trên suy nghĩ của một nền tảng thách thức thực tế khác, mạng xã hội Facebook, năm ngoái đã thông báo rằng Wikipedia sẽ giúp người dùng loại bỏ tin giả." Kể từ tháng 11 năm 2020, Alexa ghi lại số lần xem trang hàng ngày trên mỗi khách truy cập là 3,03 và thời gian trung bình hàng ngày trên trang web là 3:46 phút.
Lượng người xem.
Tháng 2 năm 2014, "The New York Times" báo cáo rằng Wikipedia xếp hạng năm toàn cầu trong số tất cả các trang web, cho biết "Với 18 tỷ lượt xem trang và gần 500 triệu lượt người truy cập mỗi tháng [... ] Wikipedia chỉ kém Yahoo, Facebook, Microsoft và Google, những trang lớn nhất với 1,2 tỷ người truy cập." Nhưng thứ hạng này đã giảm xuống thứ 13 trên toàn cầu vào tháng 6 năm 2020 chủ yếu do sự gia tăng phổ biến của các trang web Trung Quốc chuyên về mua sắm trực tuyến.
Bên cạnh sự tăng trưởng logistic về số lượng bài viết, Wikipedia đã dần dần đạt được vị thế là một trang web tham khảo chung kể từ khi thành lập vào năm 2001. Khoảng 50% lưu lượng truy cập từ công cụ tìm kiếm đến Wikipedia đến từ Google, một lượng lớn người dùng Wikipedia để tra cứu bài tập về nhà. Số lượng người đọc Wikipedia trên toàn thế giới đạt 365 người triệu vào cuối năm 2009. Dự án "Pew Internet and American Life" cho thấy 1/3 người dùng Internet ở Mỹ đã tham khảo Wikipedia. Năm 2011, "Business Insider" định giá Wikipedia là 4 tỷ đô la nếu nó chạy quảng cáo.
Theo "Wikipedia Readership Survey 2011" (Khảo sát độc giả Wikipedia năm 2011), độ tuổi trung bình của người đọc Wikipedia là 36, tương đương ở các giới tính khác nhau. Gần một nửa số độc giả Wikipedia truy cập trang này hơn năm lần một tháng và một số lượng độc giả tương tự đặc biệt tìm đến Wikipedia trong danh sách kết quả của công cụ tìm kiếm. Khoảng 47% độc giả không nhận ra rằng Wikipedia là một tổ chức phi lợi nhuận. |
Wikipedia | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1345 | Đại dịch Covid-19.
Trong thời gian diễn ra đại dịch COVID-19, mức độ đưa tin của Wikipedia về đại dịch này đã nhận được sự chú ý của giới truyền thông quốc tế và làm tăng lượng người đọc Wikipedia nói chung.
Ý nghĩa văn hóa.
Nội dung của Wikipedia được sử dụng trong các nghiên cứu hàn lâm, sách, hội nghị và các phiên tòa, làm nguồn tham khảo trong báo chí, cũng như trở thành tâm điểm trong chiến dịch bầu cử năm 2008 của Hoa Kỳ. Tháng 9 năm 2008, Wikipedia nhận giải thưởng Quadriga "Một Sứ mệnh Khai sáng" của Werkstatt Deutschland, rồi giải Erasmus vào năm 2015 cho các đóng góp đặc biệt cho văn hóa, xã hội hoặc khoa học xã hội, cũng như giải Công chúa Asturias của Tây Ban Nha về Hợp tác Quốc tế.
Wikipedia cũng là đối tượng châm biếm trong các bộ phim hài truyền hình Mỹ "The Office", "Scrubs", trang web hài hước "CollegeHumor". Tháng 7 năm 2009, BBC Radio 4 phát sóng một loạt phim hài có tên là "Bigipedia", lấy bối cảnh trên một trang web nhại lại Wikipedia.
Các dự án chị emWikimedia.
Quỹ Wikimedia cũng tạo ra và điều hành các dự án chị em với Wikipedia, bao gồm Wiktionary (một dự án từ điển được khởi động vào tháng 12 năm 2002), Wikiquote (một bộ sưu tập các câu danh ngôn được tạo ra một tuần sau khi Wikimedia ra mắt), Wikibooks (một bộ sưu tập các sách giáo khoa và văn bản mở), Wikimedia Commons (một trang dành cho đa phương tiện), Wikinews (dành cho tin tức), Wikiversity (một dự án tạo ra các tài liệu học tập miễn phí và cung cấp các hoạt động học tập trực tuyến), và Wikispecies (một danh mục các loài). Năm 2012 ra mắt Wikivoyage (một hướng dẫn du lịch chỉnh sửa tự do) và Wikidata, một cơ sở dữ liệu kiến thức mở.
Xuất bản.
Cái chết của các bách khoa toàn thư thương mại là minh chứng rõ ràng nhất cho hiệu quả kinh tế của Wikipedia, đặc biệt là các ấn bản giấy, ví dụ "Encyclopædia Britannica" cũng không thể cạnh tranh với một sản phẩm miễn phí. Trong bài luận "Sự vô luân của Web 2.0" năm 2005, Nicholas Carr chỉ trích các trang web có nội dung do người dùng tạo như Wikipedia có thể khiến các nhà sản xuất nội dung chuyên nghiệp (và theo ông là cũng có chất lượng cao hơn) phá sản, vì "miễn phí sẽ luôn chiến thắng chất lượng". Carr viết rằng: "Tiềm ẩn trong những viễn cảnh xuất thần của Web 2.0 là sự thống trị của giới nghiệp dư. |
Wikipedia | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1345 | Tôi không thể tưởng tượng được điều gì đáng sợ hơn thế." Những người khác không cho rằng Wikipedia sẽ có thể thay thế hoàn toàn các ấn phẩm truyền thống. Tổng biên tập tạp chí "Wired" Chris Anderson viết trên "Nature" rằng phương thức "trí tuệ đám đông" của Wikipedia sẽ không thay thế được các tạp chí khoa học hàng đầu có quy trình bình duyệt nghiêm ngặt.
Người ta cũng đang tranh luận về ảnh hưởng của Wikipedia đối với hoạt động kinh doanh xuất bản tiểu sử. Kathryn Hughes, giáo sư viết tiểu sử tại Đại học East Anglia, đồng thời là tác giả của "The Short Life and Long Times of Mrs Beeton" và "George Eliot: the Last Victorian" đặt câu hỏi "Điều đáng lo ngại là, nếu bạn có thể đọc được tất cả thông tin đó từ Wikipedia, thì còn lại gì để viết tiểu sử?".
Sử dụng trong nghiên cứu.
Wikipedia được sử dụng một cách rộng rãi như một kho ngữ liệu để nghiên cứu ngôn ngữ trong ngôn ngữ học tính toán, truy xuất thông tin và xử lý ngôn ngữ tự nhiên. Wikipedia thường đóng vai trò là cơ sở tri thức đích cho vấn đề liên kết thực thể, sau này được gọi là "wikification", và cho vấn đề liên quan của việc phân định nghĩa từ. Các phương pháp tương tự wikification có thể được sử dụng để tìm các liên kết "bị thiếu" trong Wikipedia.
Năm 2015, các nhà nghiên cứu người Pháp, Tiến sĩ José Lages của Đại học Franche-Comté tại Besançon và Dima Shepelyansky của Đại học Paul Sabatier tại Toulouse công bố bảng xếp hạng đại học toàn cầu dựa trên các trích dẫn học thuật trên Wikipedia. Họ sử dụng PageRank (xếp hạng trang) "theo sau là số lần xuất hiện trong 24 phiên bản ngôn ngữ khác nhau của Wikipedia (thứ tự giảm dần) và thế kỷ mà chúng được thành lập (thứ tự tăng dần)".
Một nghiên cứu năm 2017 của Viện Công nghệ Massachusetts gợi ý rằng các từ được sử dụng trên các bài viết Wikipedia sẽ xuất hiện trong các ấn phẩm khoa học.
Các nghiên cứu liên quan đến Wikipedia đã sử dụng học máy và trí tuệ nhân tạo để hỗ trợ các hoạt động khác nhau. Một trong những lĩnh vực quan trọng nhất — tự động phát hiện hành vi phá hoại và đánh giá chất lượng dữ liệu trong Wikipedia.
Dự án liên quan.
Một số bách khoa toàn thư đa phương tiện tương tác kết hợp các mục được viết bởi công chúng đã tồn tại rất lâu trước khi Wikipedia được thành lập. |
Wikipedia | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1345 | Dự án đầu tiên trong số này là Dự án Domesday của BBC năm 1986, bao gồm văn bản (được nhập trên máy tính BBC Micro) và ảnh từ hơn một triệu người đóng góp ở Anh Quốc, và bao gồm địa lý, nghệ thuật và văn hóa của Anh Quốc. Đây là bách khoa toàn thư đa phương tiện tương tác đầu tiên (và cũng là tài liệu đa phương tiện lớn đầu tiên được kết nối thông qua các liên kết nội bộ); phần lớn các bài báo có thể truy cập được thông qua bản đồ tương tác của Anh Quốc. Giao diện người dùng và một phần nội dung của Dự án Domesday đã được mô phỏng trên một trang web cho đến năm 2008.
Một số bách khoa toàn thư cộng tác, có nội dung miễn phí được tạo ra cùng thời với Wikipedia (ví dụ: Everything2), rồi nhiều thứ được hợp nhất vào dự án (ví dụ: GNE). Một trong những bách khoa toàn thư trực tuyến đầu tiên thành công nhất kết hợp các mục nhập vào của công chúng là h2g2, do Douglas Adams tạo ra vào năm 1999. Từ điển bách khoa h2g2 tương đối nhẹ nhàng, tập trung vào các bài viết vừa dí dỏm vừa nhiều thông tin.
Các trang web kiến thức do người dùng hợp tác phát triển tiếp theo đã lấy cảm hứng từ Wikipedia. Một số, chẳng hạn như Susning.nu, Enciclopedia Libre, Hudong và Baidu Baike cũng không áp dụng quy trình đánh giá chính thức, còn một số như Conservapedia thì tính mở không mạnh bằng. Những trang web khác sử dụng bình duyệt truyền thống hơn, chẳng hạn như "Encyclopedia of Life", bách khoa toàn thư wiki trực tuyến "Scholarpedia" và Citizendium. Sanger tạo ra Citizendium để trở thành một giải pháp thay thế đáng tin cậy cho Wikipedia. |
Bỉ | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1351 | Bỉ ( ; ; ; ), tên chính thức là Vương quốc Bỉ, là một quốc gia có chủ quyền tại Tây Âu. Bỉ có biên giới với Pháp, Hà Lan, Đức, Luxembourg, và có bờ biển ven biển Bắc. Đây là một quốc gia có diện tích nhỏ, mật độ dân số cao, dân số khoảng 11 triệu người. Bỉ thuộc cả hai vùng văn hoá châu Âu German và châu Âu Latinh, với hai nhóm ngôn ngữ chính: Tiếng Hà Lan hầu hết được nói tại cộng đồng người Vlaanderen, đây là bản ngữ của 59% dân số; tiếng Pháp hầu hết được nói trong cư dân vùng Wallonie và là bản ngữ của khoảng 40% dân số; ngoài ra có khoảng 1% dân số là người nói tiếng Đức.
Về mặt lịch sử, Bỉ nằm tại một khu vực được gọi là Các vùng đất thấp (Nederlanden), lớn hơn một chút so với liên minh Benelux hiện nay. Khu vực này được gọi là Belgica trong tiếng Latinh theo tên tỉnh Gallia Belgica của La Mã (Roma). Từ cuối thời Trung cổ cho đến thế kỷ XVII, khu vực Bỉ là một trung tâm thương nghiệp và văn hoá thịnh vượng và có tính chất thế giới. Từ thế kỷ XVI cho đến khi Bỉ độc lập từ Hà Lan bằng Cách mạng Bỉ vào năm 1830, khu vực này trở thành chiến trường giữa các cường quốc chính tại châu Âu, do đó được mệnh danh là "Chiến trường của châu Âu", danh tiếng này được củng cố trong hai thế chiến của thế kỷ XX.
Ngày nay, Bỉ theo chế độ quân chủ lập hiến liên bang, có một hệ thống nghị viện. Quốc gia này được chia thành ba vùng và ba cộng đồng tồn tại cạnh nhau. Hai vùng lớn nhất là Vlaanderen tại miền bắc có cư dân nói tiếng Hà Lan, và Wallonie tại miền nam có hầu hết dân chúng nói tiếng Pháp. Vùng Thủ đô Bruxelles có quy chế song ngữ chính thức, và được vùng Vlaanderen bao quanh. Cộng đồng nói tiếng Đức nằm tại miền đông Wallonie. Các xung đột về đa dạng ngôn ngữ và chính trị liên quan tại Bỉ được phản ánh trong lịch sử chính trị và hệ thống quản lý phức tạp tại đây, với sáu chính quyền khác nhau.
Bỉ tham gia cách mạng công nghiệp, và trong thế kỷ XX từng sở hữu một số thuộc địa tại châu Phi. |
Bỉ | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1351 | Nửa sau thế kỷ XX có dấu ấn là gia tăng căng thẳng giữa các công dân nói tiếng Hà Lan và nói tiếng Pháp, được thúc đẩy do khác biệt về ngôn ngữ và văn hoá cũng như phát triển kinh tế không đồng đều của Vlaanderen và Wallonie. Sự đối lập liên tục này dẫn đến một vài cải cách sâu rộng, kết quả là chuyển đổi Bỉ từ một nhà nước đơn nhất sang nhà nước liên bang trong giai đoạn từ 1970 đến 1993. Bất chấp các cải cách này, căng thẳng giữa các nhóm vẫn tồn tại; chủ nghĩa ly khai có quy mô đáng kể tại Bỉ, đặc biệt là trong cộng đồng Vlaanderen; tồn tại pháp luật về ngôn ngữ gây tranh luận trong các khu tự quản đa ngôn ngữ.
Bỉ là một trong sáu quốc gia sáng lập của Liên minh châu Âu, và là nơi đặt trụ sở của Ủy ban châu Âu, Hội đồng Liên minh châu Âu, Hội đồng châu Âu và Nghị viện châu Âu và nhiều tổ chức quốc tế lớn khác. Bỉ cũng là một thành viên sáng lập của Khu vực đồng euro, NATO, OECD và WTO, và là bộ phận của Liên minh Benelux và Khu vực Schengen. Bỉ là một quốc gia phát triển, có kinh tế thu nhập cao với trình độ tiên tiến, và được phân loại là "rất cao" trong chỉ số phát triển con người.
Tên gọi.
Tên gọi của nước Bỉ trong tiếng Việt bắt nguồn từ tên gọi của nước Bỉ trong tiếng Trung. Trong tiếng Trung nước Bỉ được gọi là "比利時" (Bǐlìshí, âm Hán Việt: "Bỉ Lợi Thời"). Tên gọi "Bỉ" trong tiếng Việt là gọi tắt của "Bỉ Lợi Thời". Tiếng Việt cuối thế kỷ 19 còn phiên âm địa danh này là Bắc Lợi Thì.
Quốc hiệu nước Bỉ ( ; ; ) bắt nguồn từ "Gallia Belgica", tên gọi của một tỉnh của La Mã ở phần cực bắc của Gallia nơi người "Belgae" sinh sống.
Lịch sử.
Tiền độc lập.
Trước khi người La Mã (Roma) xâm chiếm khu vực vào năm 100 TCN, đây là nơi cư trú của người "Belgae", pha trộn giữa các dân tộc Celt và German. Các bộ lạc Frank thuộc nhóm German dần di cư đến trong thế kỷ V, đưa khu vực vào phạm vi cai trị của các quốc vương Meroving. Thay đổi từng bước về quyền lực trong thế kỷ VIII khiến vương quốc của người Frank phát triển thành Đế quốc Caroling. |
Bỉ | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1351 | Hiệp ước Verdun năm 843 phân chia khu vực giữa Trung Frank và Tây Frank, khu vực này trở thành một tập hợp các thái ấp có tính độc lập ít nhiều, và là chư hầu của Quốc vương Pháp hoặc của Hoàng đế La Mã Thần thánh. Nhiều thái ấp trong số này thống nhất thành Nederlanden thuộc Bourgogne trong các thế kỷ XIV và XV.
Hoàng đế Karl V mở rộng liên minh cá nhân của Mười bảy tỉnh trong thập niên 1540, khiến nó vượt xa khỏi một liên minh cá nhân theo sắc lệnh năm 1549 và gia tăng ảnh hưởng của ông đối với Lãnh địa Thân vương-Giám mục Liège.
Chiến tranh Tám mươi Năm (1568–1648) phân chia Các Vùng đất thấp thành Các tỉnh Liên hiệp ("Belgica Foederata" trong tiếng Latin, "Nederlanden Liên bang") và Miền Nam Nederlanden ("Belgica Regia", "Nederlanden Hoàng gia"). Miền Nam Nederlanden nằm dưới quyền cai trị liên tiếp của gia tộc Habsburg Tây Ban Nha và Habsburg Áo, bao gồm hầu hết lãnh thổ nay là Bỉ. Đây là chiến trường trong hầu hết chiến tranh Pháp-Tây Ban Nha và Pháp-Áo vào thế kỷ XVII-XVIII.
Sau các chiến dịch trong năm 1794 của Chiến tranh Cách mạng Pháp, Đệ Nhất Cộng hòa Pháp sáp nhập Các vùng đất thấp, kể cả các lãnh thổ chưa từng do gia tộc Habsburg cai trị trên danh nghĩa như Lãnh địa Thân vương-Giám mục Liège, kết thúc quyền cai trị của Áo trong khu vực. Các vùng đất thấp thống nhất thành Vương quốc Liên hiệp Hà Lan (Nederlanden) khi Đệ Nhất Đế chế Pháp giải thể vào năm 1815 sau thất bại của Napoléon Bonaparte.
Độc lập.
Năm 1830, Cách mạng Bỉ dẫn đến các tỉnh miền nam ly khai khỏi Hà Lan và hình thành quốc gia Bỉ độc lập theo Công giáo và nằm dưới quyền giai cấp tư sản, có ngôn ngữ chính thức là tiếng Pháp, và trung lập.
Leopold I đăng cơ làm quốc vương vào ngày 21 tháng 7 năm 1831, ngày này hiện là ngày quốc khánh Bỉ, kể từ đó Bỉ theo chế độ quân chủ lập hiến và dân chủ nghị viện, có hiến pháp thế tục dựa theo bộ luật Napoléon. Quyền bầu cử vào lúc đầu bị hạn chế, song nam giới được cấp quyền phổ thông đầu phiếu sau tổng đình công năm 1893, còn với nữ giới là vào năm 1949.
Các chính đảng chủ yếu trong thế kỷ XIX là Đảng Công giáo và Đảng Tự do, còn Công đảng xuất hiện vào cuối thế kỷ XIX. |
Bỉ | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1351 | Tiếng Pháp lúc đầu là ngôn ngữ chính thức duy nhất, ngôn ngữ này được giai cấp quý tộc và tư sản chấp thuận. Tuy nhiên, tiếng Pháp dần để mất tầm quan trọng về tổng thể từ khi tiếng Hà Lan cũng được công nhận. Sự công nhận này được chính thức hoá vào năm 1898 và đến năm 1967 thì Quốc hội chấp nhận một phiên bản tiếng Hà Lan của Hiến pháp.
Hội nghị Berlin 1885 nhượng quyền kiểm soát Nhà nước Tự do Congo cho Quốc vương Leopold II với tư cách là tài sản cá nhân của ông. Từ khoảng năm 1900 quốc tế gia tăng quan tâm về đối xử khắc nghiệt và dã man đối với cư dân Congo dưới quyền Leopold II, đối với ông Congo chủ yếu là một nguồn thu nhập từ ngà voi và cao su. Năm 1908, những phản đối này khiến nhà nước Bỉ đảm nhận trách nhiệm cai trị thuộc địa, từ đó lãnh thổ này được gọi là Congo thuộc Bỉ.
Đức xâm chiếm Bỉ vào tháng 8 năm 1914, động thái này nằm trong Kế hoạch Schlieffen nhằm tấn công Pháp, và hầu hết giao tranh trên Mặt trận phía Tây trong Chiến tranh thế giới thứ nhất diễn ra tại miền tây của Bỉ. Bỉ nắm quyền kiểm soát các thuộc địa Ruanda-Urundi của Đức (nay là Rwanda và Burundi) trong chiến tranh, và đến năm 1924 Hội Quốc Liên uỷ thác chúng cho Bỉ. Sau Chiến tranh thế giới thứ nhất, Bỉ sáp nhập các huyện Eupen và Malmedy của Phổ vào năm 1925, đây là nguyên nhân xuất hiện một thiểu số nói tiếng Đức trong nước.
Người Đức lại xâm chiếm Bỉ vào tháng 5 năm 1940, và 40.690 người Bỉ bị giết trong cuộc chiếm đóng và nạn diệt chủng sau đó, hơn một nửa trong số đó là người Do Thái. Đồng Minh tiến hành giải phóng Bỉ từ tháng 9 năm 1944 đến tháng 2 năm 1945. Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, một cuộc tổng đình công buộc Quốc vương Leopold III phải thoái vị vào năm 1951, do nhiều người Bỉ cảm thấy ông đã cộng tác với Đức trong chiến tranh. Congo thuộc Bỉ giành độc lập vào năm 1960 trong Khủng hoảng Congo; Ruanda-Urundi tiếp bước độc lập hai năm sau đó. Bỉ gia nhập NATO với tư cách thành viên sáng lập, và thành lập nhóm Benelux cùng Hà Lan và Luxembourg. |
Bỉ | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1351 | Bỉ trở thành một trong sáu thành viên sáng lập của Cộng đồng Than Thép châu Âu vào năm 1951 và của Cộng đồng Năng lượng nguyên tử châu Âu và Cộng đồng Kinh tế châu Âu thành lập năm 1957. Bỉ hiện là nơi đặt trụ sở các cơ quan hành chính và tổ chức chủ yếu của Liên minh châu Âu, như Ủy ban châu Âu, Hội đồng Liên minh châu Âu cùng các phiên họp đặc biệt và uỷ ban của Nghị viện châu Âu.
Địa lý.
Bỉ có biên giới với Pháp (), Đức (), Luxembourg () và Hà Lan (). Tổng diện tích là 30.528 km², trong đó diện tích đất là 30.278 km². Lãnh thổ Bỉ giới hạn giữa vĩ tuyến 49°30 và 51°30 Bắc, giữa kinh tuyến 2°33 và 6°24 Đông.
Bỉ có ba vùng địa lý chính; đồng bằng duyên hải nằm tại tây bắc và cao nguyên trung tâm đều thuộc bồn địa Anh-Bỉ, còn vùng cao Ardenne tại đông nam thuộc vành đai kiến tạo sơn Hercynia. Ngoài ra, bồn địa Paris vươn tới một khu vực nhỏ tại mũi cực nam của Bỉ, gọi là Lorraine thuộc Bỉ.
Đồng bằng ven biển gồm chủ yếu là các đụn cát và đất quai đê. Vùng nội lục sâu hơn có cảnh quan bằng phẳng và dần cao lên, có nhiều sông chảy qua, với các thung lũng phì nhiêu và đồng bằng nhiều cát Campine ("Kempen") tại đông bắc. Các vùng đồi và cao nguyên có rừng rậm rạp thuộc khu vực Ardenne có địa hình gồ ghề và nhiều đá hơn, với các hang động và hẻm núi nhỏ. Ardenne trải dài về phía tây sang Pháp, còn về phía đông nối liền đến Eifel tại Đức qua cao nguyên Hautes Fagnes/Hohes Venn, trên đó có đỉnh Signal de Botrange cao nhất Bỉ với độ cao 694 m.
Bỉ thuộc vùng khí hậu đại dương, có lượng mưa đáng kể trong tất cả các mùa (phân loại khí hậu Köppen: "Cfb"), giống như hầu hết phần tây bắc châu Âu. Nhiệt độ trung bình thấp nhất là trong tháng 1 với 3 °C, và cao nhất là trong tháng 7 với 18 °C. Lượng giáng thủy trung bình tháng dao động từ 54 mm vào tháng 2 và tháng 4 đến 78 mm vào tháng 7. |
Bỉ | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1351 | Tính trung bình trong giai đoạn 2000-2006, nhiệt độ thấp nhất trong ngày là 7 °C và cao nhất là 14 °C, còn lượng mưa hàng tháng là 74 mm; lần lượt cao hơn khoảng 1 °C và 10 mm so với các giá trị bình thường của thế kỷ trước.
Về địa lý thực vật, Bỉ nằm giữa các tỉnh châu Âu Đại Tây Dương và Trung Âu thuộc khu vực Circumboreal trong giới Boreal. Theo Quỹ Quốc tế Bảo vệ Thiên nhiên, lãnh thổ Bỉ thuộc vùng sinh thái rừng hỗn hợp Đại Tây Dương. Do Bỉ có mật độ dân số cao, công nghiệp hoá và có vị trí tại trung tâm của Tây Âu, nên quốc gia này vẫn phải đối diện với một số vấn đề về môi trường. Tuy nhiên, do các nỗ lực kiên định của các cấp chính quyền, nên tình trạng môi trường tại Bỉ dần được cải thiện. Hơn thế, Bỉ còn là một trong các quốc gia có tỷ lệ tái chế chất thải cao nhất tại châu Âu, đặc biệt là vùng Vlaanderen có tỷ lệ phân loại chất thải cao nhất châu lục. Gần 75% chất thải sinh hoạt được tái sử dụng, tái chế hoặc dùng làm phân bón.
Các tỉnh.
Lãnh thổ Bỉ được phân thành ba vùng, trong đó vùng Vlaanderen và vùng Wallonie được chia tiếp thành các tỉnh; riêng vùng Thủ đô Bruxelles không phải là một tỉnh hoặc là một phần của tỉnh nào.
Chính trị.
Bỉ có chế độ quân chủ lập hiến và quốc dân, và chế độ dân chủ nghị viện liên bang. Nghị viện liên bang Bỉ gồm có một tham nghị viện (thượng viện) và chúng nghị viện (hạ viện). Thượng viện gồm có 50 thượng nghị sĩ được bổ nhiệm từ nghị viện của các cộng đồng và vùng, cùng 10 thượng nghị sĩ được bầu thêm. Trước năm 2014, hầu hết thành viên Thượng viện được bầu cử trực tiếp. 150 đại biểu của Hạ viện được bầu theo một hệ thống đại diện tỷ lệ từ 11 khu vực bầu cử. Bỉ quy định nghĩa vụ bầu cử và do đó duy trì tỷ lệ cử tri bỏ phiếu vào hàng cao nhất thế giới.
Quốc vương (hiện là Philippe) là nguyên thủ quốc gia, song chỉ được hưởng đặc quyền hạn chế. Ông bổ nhiệm các bộ trưởng cùng thủ tướng theo tín nhiệm của Hạ viện để hình thành chính phủ liên bang. Hội đồng Bộ trưởng gồm không quá 15 thành viên. |
Bỉ | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1351 | Hội đồng Bộ trưởng phải gồm một số lượng cân bằng các thành viên nói tiếng Hà Lan và nói tiếng Pháp, thủ tướng có thể được ngoại lệ. Hệ thống tư pháp dựa trên dân luật và có nguồn gốc từ bộ luật Napoléon. Toà huỷ án (Cour de cassation) là toà án cấp cuối cùng, còn Toà chống án (Cour d'appel) dưới đó một cấp.
Văn hoá chính trị.
Các thể chế chính trị tại Bỉ có tính phức tạp, hầu hết quyền lực chính trị được tổ chức xoay quanh nhu cầu đại diện cho các cộng đồng văn hoá chủ yếu.
Kể từ khoảng năm 1970, các chính đảng quốc gia quan trọng tại Bỉ bị phân chia thành các bộ phận riêng biệt, chủ yếu đại diện cho các lợi ích chính trị và ngôn ngữ của các cộng đồng tương ứng.
Các chính đảng chủ yếu trong mỗi cộng đồng gần với chính trị trung dung, song vẫn được phân thành ba nhóm chính: Dân chủ Cơ Đốc giáo, Tự do và Dân chủ Xã hội.
Các đảng đáng chú ý hơn phát triển mạnh từ giữa thế kỷ trước, chủ yếu xoay quanh chủ đề ngôn ngữ, dân tộc hay môi trường và gần đây có các đảng nhỏ hơn tập trung vào một số tính chất tự do riêng biệt.
Một chuỗi các chính phủ liên minh Dân chủ Cơ Đốc giáo tồn tại suốt từ năm 1958 đã bị phá vỡ vào năm 1999 sau khủng hoảng dioxin lần thứ nhất, đây là một vụ bê bối ô nhiễm thực phẩm quy mô lớn. Một "liên minh cầu vồng" xuất hiện từ sáu đảng: Tự do, Dân chủ Xã hội và Xanh của Vlaanderen và Pháp ngữ. Sau đó, một "liên minh tía" gồm lực lượng Tự do và Dân chủ Xã hội được hình thành sau khi các Đảng Xanh mất hầu hết ghế trong bầu cử năm 2003.
Chính phủ dưới quyền Thủ tướng Guy Verhofstadt từ năm 1999 đến năm 2007 đạt được cân bằng ngân sách, có một số cải cách thuế, một cải cách thị trường lao động, lên kế hoạch kết thúc sử dụng năng lượng hạt nhân và đưa ra khung pháp lý cho phép truy tố nghiêm ngặt hơn tội phạm chiến tranh và khoan dung hơn đối với sử dụng ma tuý nhẹ. Những giới hạn nhằm cản trở an tử được giảm bớt và đồng tính tuyến ái được hợp pháp hoá. Chính phủ thúc đẩy ngoại giao tích cực tại châu Phi và phản đối xâm chiếm Iraq. Đây là quốc gia duy nhất không có giới hạn tuổi về an tử. |
Bỉ | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1351 | Liên minh của Verhofstadt đạt được kết quả kém trong bầu cử vào tháng 6 năm 2007, và Bỉ lâm vào khủng hoảng chính trị trong hơn một năm. Nhiều nhà quan sát suy đoán cuộc khủng hoảng có thể khiến nước Bỉ bị phân chia. Từ 21 tháng 12 năm 2007 đến 20 tháng 3 năm 2008, chính phủ lâm thời của Verhofstadt nắm quyền. Sau đó, chính phủ mới dưới quyền Yves Leterme thuộc phe Dân chủ Cơ Đốc giáo Vlaanderen nhậm chức. Tuy nhiên, đến ngày 15 tháng 7 năm 2008, Leterme tuyên bố nội các từ chức vì không có tiến triển trong cải cách hiến pháp. Đến tháng 12 năm 2008, ông lại đề xuất từ chức trước quốc vương sau một cuộc khủng hoảng quanh việc bán Fortis cho BNP Paribas. Lần này, đề xuất từ chức của ông được chấp thuận và nhân vật cùng đảng là Herman Van Rompuy tuyên thệ làm thủ tướng vào ngày 30 tháng 12 năm 2008.
Sau khi Herman Van Rompuy được bổ nhiệm làm Chủ tịch Hội đồng châu Âu vào năm 2009, ông đề xuất được từ chức vào ngày 25 tháng 11 năm 2009. Ngay sau đó, chính phủ mới dưới quyền Thủ tướng Yves Leterme tuyên thệ. Đến ngày 22 tháng 4 năm 2010, Leterme lại đề xuất với quốc vương cho nội các của ông từ chức sau khi một đối tác là OpenVLD rút khỏi chính phủ, và được quốc vương chính thức chấp thuận vào ngày 26 tháng 4.
Bỉ tổ chức bầu cử nghị viện vào ngày 13 tháng 6 năm 2010, Đảng N-VA theo đường lối dân tộc chủ nghĩa Vlaanderen trở thành đảng lớn nhất tại Vlaanderen, còn Đảng Xã hội trở thành đảng lớn nhất tại Wallonie. Cho đến tháng 12 năm 2011, Bỉ nằm dưới quyền chính phủ tạm thời của Leterme do cuộc đàm phán nhằm thành lập chính phủ mới gặp bế tắc. Đến ngày 30 tháng 3 năm 2011, Bỉ lập kỷ lục thế giới về thời gian không có chính phủ chính thức. Đến tháng 12 năm 2011, chính phủ dưới quyền chính trị gia xã hội Wallonie Elio Di Rupo tuyên thệ nhậm chức. |
Bỉ | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1351 | Trong bầu cử liên bang năm năm 2014 (diễn ra đồng thời với bầu cử địa phương), kết quả là Đảng N-VA giành được nhiều cử tri hơn nữa, song liên minh cầm quyền (gồm các thế lực Dân chủ Xã hội, Tự do và Dân chủ Cơ Đốc giáo của Vlaanderen và Pháp ngữ) duy trì thế đa số vững chắc trong Nghị viện. Ngày 22 tháng 7 năm 2014, Quốc vương Philippe bổ nhiệm Charles Michel (MR) và Kris Peeters (CD&V) chỉ đạo thành lập nội các liên bang mới gồm các đảng N-VA, CD&V, Open Vld của Vlaanderen và MR của cộng đồng Pháp ngữ. Đây là lần đầu tiên N-VA nằm trong nội các liên bang, còn phía Pháp ngữ chỉ có MR là đại diện dù đảng này chiếm thế thiểu số tại Wallonie.
Cộng đồng và vùng.
Theo một tập quán có thể truy nguồn gốc từ thời các triều đình Bourgogne và Habsburg, trong thế kỷ XIX, cần phải biết tiếng Pháp nếu muốn thuộc về tầng lớp thượng lưu cai trị, và những người chỉ có thể nói tiếng Hà Lan trên thực tế là những công dân hạng hai. Đến cuối thế kỷ XIX, và tiếp tục sang thế kỷ XX, các phong trào Vlaanderen tiến triển nhằm phản đối tình trạng này.
Cư dân miền nam Bỉ nói tiếng Pháp hoặc các phương ngữ của tiếng Pháp, và hầu hết cư dân Bruxelles tiếp nhận tiếng Pháp làm ngôn ngữ thứ nhất của họ, song người Vlaanderen từ chối làm như vậy và từng bước thành công trong việc đưa tiếng Hà Lan trở thành một ngôn ngữ bình đẳng trong hệ thống giáo dục. Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, chính trường Bỉ ngày càng chịu sự chi phối bởi quyền tự trị của hai cộng đồng ngôn ngữ chính. Xung đột giữa các cộng đồng nổi lên và hiến pháp được sửa đổi nhằm giảm thiểu tiềm năng xung đột.
Dựa trên bốn khu vực ngôn ngữ được xác định vào năm 1962–63 (tiếng Hà Lan, song ngữ, tiếng Pháp, tiếng Đức), hiến pháp quốc gia liên tục được sửa lại vào năm 1970, 1980, 1988 và 1993 nhằm tạo thành một hình thức nhà nước liên bang độc nhất với quyền lực chính trị tách biệt thành ba cấp:
Các khu vực ngôn ngữ theo hiến pháp sẽ xác định ngôn ngữ chính thức trong các khu tự quản của họ, cũng như giới hạn địa lý của các thể chế được cấp quyền về các công việc cụ thể. |
Bỉ | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1351 | Mặc dù điều này cho phép có bảy nghị viện và chính phủ, song khi các cộng đồng và vùng được hình thành vào năm 1980, các chính trị gia Vlaanderen quyết định sáp nhập cả hai. Do đó người Vlaanderen chỉ có một thể chế cơ quan và chính phủ duy nhất được cấp quyền trong toàn bộ các vấn đề theo thẩm quyền.
Biên giới chồng chéo của các vùng và cộng đồng tạo ra hai nơi đặc biệt: Lãnh thổ Bruxelles-Vùng thủ đô (tồn tại sau các vùng khác gần một thập niên) thuộc cả hai cộng đồng Vlaanderen và Pháp, còn lãnh thổ của Cộng đồng nói tiếng Đức hoàn toàn nằm trong Vùng Wallonie. Xung đột về thẩm quyền giữa các thể chế được giải quyết thông qua Toà án Hiến pháp Bỉ. Cấu trúc được dự tính là một thoả hiệp nhằm cho phép các nền văn hoá khác biệt cùng tồn tại hoà bình.
Phân cấp thẩm quyền.
Thẩm quyền của liên bang gồm có tư pháp, phòng thủ, cảnh sát liên bang, an sinh xã hội, năng lượng hạt nhân, chính sách tiền tệ và nợ công, và các khía cạnh khác của tài chính công. Các công ty quốc hữu gồm có Tập đoàn Bưu chính Bỉ (Bpost) và Công ty Đường sắt Quốc gia Bỉ (SNCB/NMBS). Chính phủ liên bang chịu trách nhiệm về các nghĩa vụ của Bỉ và của các thể chế liên bang trước Liên minh châu Âu và NATO. Họ kiểm soát một bộ phận đáng kể trong y tế công cộng, nội vụ và ngoại vụ. Ngân sách (không tính nợ) do chính phủ liên bang kiểm soát chiếm khoảng 50% thu nhập công khố quốc gia. Chính phủ liên bang sử dụng khoảng 12% công vụ viên.
Các cộng đồng thi hành thẩm quyền trong ranh giới định lý xác định dựa theo ngôn ngữ, ban đầu chúng có định hướng là các cá nhân của một ngôn ngữ cộng đồng, gồm văn hoá (bao gồm truyền thông nghe nhìn), giáo dục và sử dụng ngôn ngữ thích hợp. Sau đó, mở rộng đến các vấn đề cá nhân ít có liên quan trực tiếp đến ngôn ngữ, gồm chính sách y tế (trị bệnh và phòng bệnh) và trợ giúp cho các cá nhân (bảo hộ thanh thiếu niên, phúc lợi xã hội, hỗ trợ gia đình hay dịch vụ giúp đỡ người nhập cư.). |
Bỉ | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1351 | Các vùng có thẩm quyền trên các lĩnh vực có thể liên kết rộng rãi đến lãnh thổ của họ, gồm có kinh tế, việc làm, nông nghiệp, chính sách nước, nhà ở, công trình công cộng, năng lượng, giao thông, môi trường, quy hoạch đô thị và nông thôn, bảo tồn tự nhiên, tín dụng và ngoại thương. Họ giám sát các tỉnh, khu tự quản và các công ty công ích liên cộng đồng.
Trong một số lĩnh vực, mỗi cấp lại có nhiều mức độ tiếp cận khác nhau với các vấn đề riêng biệt. Chẳng hạn như trong giáo dục, quyền tự trị của các cộng đồng không bao gồm quyền quyết định về khía cạnh bắt buộc hay được phép định ra các yêu cầu tối thiểu về trao bằng cấp, chúng vẫn là công việc của liên bang. Mỗi cấp chính quyền có thể tham gia vào nghiên cứu khoa học và quan hệ quốc tế có liên hệ với quyền lực của họ. Quyền chế định các hiệp ước của chính phủ các vùng và cộng đồng tại Bỉ ở mức rộng rãi nhất so với các đơn vị liên bang trên thế giới.\
Ngoại giao.
Do có vị trí trung tâm tại Tây Âu, trong quá khứ Bỉ nằm trên tuyến đường tiến quân của các đội quân xâm lược đến từ các láng giềng hùng mạnh. Do biên giới của Bỉ hầu như không có khả năng phòng thủ, nên quốc gia này có truyền thống về chính sách hoà giải nhằm tránh bị các cường quốc hùng mạnh lân cận thống trị. Điều đình giữa các cường quốc châu Âu chấp thuận cho thành lập nước Bỉ vào năm 1831 với điều kiện quốc gia này duy trì tính trung lập nghiêm ngặt. Chính sách trung lập của Bỉ kết thúc sau khi quốc gia này bị Đức chiếm đóng trong Chiến tranh thế giới thứ nhất. Trong những năm trước Chiến tranh thế giới thứ hai, Bỉ cố gắng trở lại chính sách trung lập, song sau đó vẫn bị Đức xâm chiếm. Năm 1948, Bỉ ký kết Hiệp ước Bruxelles với Anh, Pháp, Hà Lan và Luxembourg, và một năm sau trở thành một trong các thành viên sáng lập của Liên minh Đại Tây Dương.
Người Bỉ mạnh mẽ tán thành nhất thể hoá châu Âu, và hầu hết các khía cạnh trong chính sách ngoại giao, kinh tế và mậu dịch của quốc gia này được điều phối thông qua Liên minh châu Âu có trụ sở tại Bruxelles. Ngoài ra, Bỉ còn có trụ sở của Ủy ban châu Âu, Hội đồng Liên minh châu Âu và các phiên họp của Nghị viện châu Âu. |
Bỉ | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1351 | Liên minh thuế quan hậu chiến của Bỉ với Hà Lan và Luxembourg mở đường cho việc thành lập Cộng đồng châu Âu (tiền thân của Liên minh châu Âu). Tương tự, việc bãi bỏ kiểm soát biên giới nội bộ Benelux là một hình mẫu cho Hiệp ước Schengen có quy mô rộng hơn, nhằm mục đích chính sách thị thực chung và di chuyển tự do của nhân dân qua biên giới chung. Người Bỉ nhận thức được vai trò nhỏ bé của họ trên trường quốc tế, họ tán thành mạnh mẽ củng cố nhất thể hoá kinh tế và chính trị trong Liên minh châu Âu. Bỉ tích cực tìm cách cải thiện quan hệ với các chế độ dân chủ mới tại Trung và Đông Âu thông qua các diễn đàn như OSCE, các thoả thuận liên quan của EU, và Quan hệ Đối tác vì Hoà bình của NATO.
Một đặc điểm khác thường của chủ nghĩa liên bang Bỉ là việc các cộng đồng và vùng của Bỉ duy trì các quan hệ quốc tế riêng của họ, bao gồm ký kết các hiệp ước. Do đó, có một số thể chế quốc tế Hà Lan-Vlaanderen như Liên minh tiếng Hà Lan hoặc các thể chế kiểm soát sông Scheldt, trong đó chỉ có Vlaanderen tham gia. Tương tự như vậy, chỉ có Cộng đồng người Bỉ nói tiếng Pháp tham gia Cộng đồng Pháp ngữ. Bỉ duy trì các quan hệ đặc biệt với các cựu thuộc địa của họ là Cộng hoà Dân chủ Congo, Rwanda và Burundi, song thường có sóng gió.
Quân đội.
Các lực lượng vũ trang Bỉ gồm khoảng 47.000 binh sĩ tại ngũ. Năm 2010, ngân sách quốc phòng của Bỉ đạt tổng cộng 3,95 tỉ euro (chiếm 1,12% GDP). Họ được tổ chức thành một cấu trúc thống nhất gồm bốn thành phần: Lục quân, Không quân, Hải quân và Quân y. Quyền chỉ huy điều hành bốn binh chủng thuộc về Bộ tham mưu về hành quân và huấn luyện thuộc Bộ Quốc phòng, đứng đầu là Phó tham mưu trưởng hành quân và huấn luyện, và thuộc về Tổng tư lệnh Quốc phòng (Chef de la Défense).
Ảnh hưởng từ Chiến tranh thế giới thứ hai khiến cho an ninh tập thể là một ưu tiên trong chính sách đối ngoại của Bỉ. Bỉ ký kết Hiệp ước Bruxelles và gia nhập NATO vào năm 1948. Tuy nhiên, công việc nhất thể hoá lực lượng vũ trang vào NATO chỉ bắt đầu từ sau Chiến tranh Triều Tiên. Bỉ cùng với Luxembourg phái một phân đội tiểu đoàn đi chiến đấu tại Triều Tiên với tên gọi là Bộ tư lệnh Liên Hợp Quốc Bỉ. |
Bỉ | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1351 | Đây là sứ mệnh đầu tiên trong số các sứ mệnh của Liên Hợp Quốc được Bỉ hỗ trợ. Hiện nay, Hải quân Bỉ hoạt động gắn bó mật thiết với Hải quân Hà Lan theo quyền chỉ huy của Đô đốc Benelux.
Kinh tế.
Nền kinh tế có tính toàn cầu mạnh mẽ và hạ tầng giao thông của Bỉ được tích hợp với phần còn lại của châu Âu. Bỉ có vị trí nằm tại trung tâm của một khu vực công nghiệp hoá cao độ, giúp quốc gia này đứng thứ 15 thế giới về xuất nhập khẩu vào năm 2007. Kinh tế Bỉ có đặc điểm là lực lượng lao động năng suất cao, tổng sản lượng quốc gia (GNP) cao và xuất khẩu bình quân ở mức cao. Các mặt hàng nhập khẩu chính của Bỉ là nguyên liệu thô, máy móc và thiết bị, hoá chất, kim cương thô, dược phẩm, thực phẩm, thiết bị giao thông và sản phẩm dầu. Các mặt hàng xuất khẩu chính của Bỉ là máy móc và thiết bị, hoá chất, kim cương gia công, kim loại và các sản phẩm kim loại, cùng thực phẩm.
Kinh tế Bỉ có định hướng dịch vụ mạnh mẽ, và thể hiện tính chất kép: Kinh tế Vlaanderen năng động còn kinh tế Wallonie bị tụt hậu. Với tư cách là một thành viên sáng lập của Liên minh châu Âu, Bỉ ủng hộ mạnh mẽ đối với kinh tế mở và mở rộng quyền lực của các thể chế EU nhằm tích hợp các nền kinh tế thành viên. Từ năm 1922, thông qua Liên minh Kinh tế Bỉ-Luxembourg, Bỉ và Luxembourg có một thị trường mậu dịch duy nhất với liên minh thuế quan và tiền tệ.
Bỉ là quốc gia đầu tiên tại châu Âu lục địa trải qua cách mạng công nghiệp, đó là vào đầu thế kỷ XIX. Liège và Charleroi nhanh chóng phát triển ngành khai mỏ và sản xuất thép, các ngành này phát đạt cho đến giữa thế kỷ XX tại thung lũng sông Sambre và Meuse và khiến Bỉ nằm trong nhóm ba quốc gia có mức độ công nghiệp hoá lớn nhất trên thế giới từ năm 1830 đến năm 1910. Tuy nhiên, đến thập niên 1840 thì ngành dệt của Vlaanderen lâm vào khủng hoảng nghiêm trọng, và vùng này trải qua nạn đói từ năm 1846 đến năm 1850.
Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, các ngành hoá chất và dầu mỏ được mở rộng nhanh chóng tại Gent và Antwerpen. |
Bỉ | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1351 | Các cuộc khủng hoảng dầu mỏ vào năm 1973 và 1979 khiến kinh tế lâm vào một cuộc suy thoái; giai đoạn này đặc biệt kéo dài tại Wallonie, ngành thép trong vùng này trở nên kém cạnh tranh và phải trải qua sụt giảm nghiêm trọng. Trong các thập niên 1980 và 1990, trung tâm kinh tế của quốc gia tiếp tục chuyển về phía bắc và hiện tập trung tại khu vực Kim cương Vlaanderen (Vlaamse Ruit) đông dân.
Đến cuối thập niên 1980, các chính sách kinh tế vĩ mô của Bỉ dẫn đến nợ chính phủ luỹ tích đạt khoảng 120% GDP. Năm 2006, ngân sách được cân bằng và nợ công ngang với 90,3% GDP. Năm 2005 và 2006, mức tăng trưởng GDP thực lần lượt là 1,5% và 3,0%, cao hơn một chút khu vực đồng euro. Tỷ lệ thất nghiệp là 8,4% vào năm 2005 và 8,2% vào năm 2016, gần với trung bình khu vực. Đến tháng 10 năm 2010, tỷ lệ này tăng lên 8,5% trong khi mức trung bình của Liên minh châu Âu là 9,6%. Từ năm 1832 đến năm 2002, đơn vị tiền tệ của Bỉ là franc Bỉ. Bỉ chuyển sang dùng đồng euro vào năm 2002.
Mặc dù suy giảm 18% từ năm 1970 đến năm 1999, song vào năm 1999 Bỉ vẫn có mạng lưới đường sắt dày đặc nhất trong Liên minh châu Âu với 11,38 km/1.000 km². Mặt khác, trong cùng giai đoạn này có sự phát triển lớn (+56%) về mạng lưới xa lộ. Năm 1999, Bỉ có 55,1 km xa lộ mỗi 1.000 km² và 16,5 km xa lộ mỗi 1.000 cư dân, cao hơn đáng kể các mức trung bình của Liên minh châu Âu là 13,7 và 15,9.
Giao thông tại một số nơi tại Bỉ nằm vào hàng đông đúc nhất tại châu Âu. Vào năm 2010, người đến làm việc hàng ngày tại các thành phố Bruxelles và Antwerpen lần lượt phải mất 65 và 64 tiếng mỗi năm do tắc đường. Giống như hầu hết các quốc gia nhỏ khác tại châu Âu, có trên 80% giao thông hàng không tại Bỉ là thông qua một sân bay duy nhất, sân bay Bruxelles. Các cảng Antwerpen và Zeebrugge (Brugge)]] chiếm hơn 80% giao thông hàng hải của Bỉ, Antwerpen là bến cảng lớn thứ nhì tại châu Âu với tổng khối lượng hàng hoá xử lý là 115.988.000 tấn vào năm 2000 sau khi tăng trưởng 10,9% trong suốt 5 năm trước đó. |
Bỉ | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1351 | Năm 2016, cảng Antwerpen xử lý 214 triệu tấn hàng hoá, tăng trưởng 2,7% so với năm trước.
Tồn tại cách biệt lớn về kinh tế giữa Vlaanderen và Wallonie. Wallonie trong quá khứ từng thịnh vượng hơn so với Vlaanderen, hầu hết là do có các ngành công nghiệp nặng, song việc ngành thép sụt giảm sau Chiến tranh thế giới thứ hai khiến vùng này suy thoái nhanh chóng, trong khi Vlaanderen thì nổi lên nhanh chóng. Từ đó, Vlaanderen có kinh tế thịnh vượng, nằm trong các vùng giàu nhất châu Âu, trong khi Wallonie thì tiêu điều. Năm 2007, tỷ lệ thất nghiệp của Wallonie cao gấp đôi so với Vlaanderen. Phân chia này góp một phần quan trọng trong căng thẳng giữa hai vùng bên cạnh phân chia ngôn ngữ vốn có. Các phong trào ủng hộ độc lập giành được mức ủng hộ cao tại Vlaanderen là một kết quả của tình trạng này. Liên minh Vlaanderen Mới (N-VA) theo chủ nghĩa phân lập trở thành chính đảng lớn nhất tại Vlaanderen.
Khoa học và kỹ thuật.
Trong tiến trình lịch sử quốc gia, Bỉ luôn có các đóng góp cho sự phát triển của khoa học và kỹ thuật. Tây Âu trong thế kỷ XVI thời cận đại có bước phát triển mạnh về khoa học, trong đó Bỉ có nhà bản đồ học Gerardus Mercator, nhà giải phẫu học Andreas Vesalius, nhà y học thảo dược Rembert Dodoens và nhà toán học Simon Stevin cùng các nhà khoa học nổi tiếng khác.
Nhà hoá học Ernest Solvay và kỹ sư Zenobe Gramme (École Industrielle de Liège) lần lượt được đặt tên cho phương pháp Solvay và máy phát điện Gramme trong thập niên 1860. Bakelit được phát triển vào năm 1907–1909 bởi Leo Baekeland. Ernest Solvay cũng đóng vai trò là một nhà nhân đạo lớn và được đặt tên cho Viện Xã hội học Solvay, Trường Kinh tế và Quản trị Solvay Bruxelles, và Viện Vật lý và Hoá học Solvay Quốc tế, nay thuộc Đại học Tự do Bruxelles. Năm 1911, ông khởi đầu một loạt hội nghị, gọi là các hội nghị Solvay về vật lý và hoá học, chúng có tác động sâu sắc đến tiến triển của vật lý và hoá học lượng tử. Một người Bỉ khác cũng có đóng góp lớn cho khoa học cơ bản là Georges Lemaître (Đại học Công giáo Leuven), ông có danh tiếng nhờ đề xuất thuyết Big Bang về nguồn gốc của vũ trụ vào năm 1927. |
Bỉ | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1351 | Có ba cá nhân Bỉ từng được nhận giải Nobel về sinh lý học và y học, đó là Jules Bordet (Đại học Tự do Bruxelles) vào năm 1919, Corneille Heymans (Đại học Gent) vào năm 1938 và Albert Claude (Đại học Tự do Bruxelles) cùng với Christian de Duve (Đại học Công giáo Louvain) vào năm 1974. François Englert (Đại học Tự do Bruxelles) được trao giải Nobel vật lý vào năm 2013. Ilya Prigogine (Đại học Tự do Bruxelles) được trao giải Nobel hoá học vào năm 1977. Hai nhà toán học Bỉ từng được được trao Huy chương Fields: Pierre Deligne vào năm 1978 và Jean Bourgain vào năm 1994.
Nhân khẩu.
, tổng dân số Bỉ theo đăng ký dân số là 11.190.845. Hầu như toàn bộ dân chúng sống trong đô thị, đạt 97% vào năm 2004. Mật độ dân số của Bỉ là 365 người/km² tính đến tháng 3 năm 2013. Vlaanderen có mật độ dày đặc nhất. Còn vùng đồi núi Ardenne có mật độ thấp nhất. , vùng Vlaanderen có dân số là 6.437.680, các thành phố lớn nhất trong vùng là Antwerpen (511.771), Gent (252.274) và Brugge (117.787). Wallonie có 3.585.214 người, các thành phố lớn nhất là Charleroi (202.021), Liège (194.937) và Namur (110.447). Bruxelles có 1.167.951 cư dân tại 19 khu tự quản của Vùng Thủ đô, ba trong số đó có trên 100.000 cư dân.
, 89% cư dân là công dân Bỉ. Tính đến năm 2007, công dân các thành viên Liên minh châu Âu khác chiếm khoảng 6% dân số Bỉ. Các cộng đồng ngoại kiều đông đảo nhất lần lượt là người Ý, người Pháp, người Hà Lan, người Maroc, người Bồ Đào Nha, người Tây Ban Nha, người Thổ Nhĩ Kỳ và người Đức. Năm 2007, Bỉ có 1,38 triệu cư dân sinh tại ngoại quốc, chiếm 12,9% dân số. Trong đó, 685.000 (6,4%) sinh bên ngoài Liên minh châu Âu và 695.000 (6,5%) sinh tại các quốc gia thành viên EU khác.
Đầu năm 2012, cư dân có xuất thân ngoại quốc cùng các hậu duệ của họ được ước tính chiếm khoảng 25% tổng dân số, tức có 2,8 triệu "người Bỉ mới". Trong số người Bỉ mới này, 1,2 triệu có nguồn gốc châu Âu và 1,35 triệu có nguồn gốc từ bên ngoài phương Tây (hầu hết là từ Maroc, Thổ Nhĩ Kỳ, Cộng hoà Dân chủ Congo). Từ khi luật quốc tịch Bỉ được sửa đổi vào năm 1984, đã có trên 1,3 triệu người nhập cư nhận được quyền công dân Bỉ. |
Bỉ | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1351 | Nhóm người nhập cư cùng hậu duệ đông đảo nhất tại Bỉ là người Maroc. 89,2% số cư dân có nguồn gốc Thổ Nhĩ Kỳ đã nhập tịch, tỷ lệ của người gốc Maroc là 88,4%, của người Ý là 75,4%, của người Pháp là 56.2% và của người Hà Lan là 47,8% theo số liệu năm 2012.
Ngôn ngữ.
Bỉ có ba ngôn ngữ chính thức là tiếng Hà Lan, tiếng Pháp và tiếng Đức, ngoài ra một số ngôn ngữ thiểu số phi chính thức cũng được nói tại đây. Không có số liệu thống kê chính thức về phân bố hoặc sử dụng ba ngôn ngữ chính thức hoặc các phương ngữ của chúng. Tuy nhiên, các tiêu chuẩn như ngôn ngữ của cha mẹ, của giáo dục, hoặc tình trạng ngôn ngữ thứ hai của người sinh tại nước ngoài có thể đưa đến các con số giả thuyết. Một ước tính cho rằng 60% dân số Bỉ nói tiếng Hà Lan (thường gọi là tiếng Vlaanderen), và 40% nói tiếng Pháp. Người Bỉ nói tiếng Pháp thường được gọi là người Wallonie, song người nói tiếng Pháp tại Bruxelles không phải người Wallonie.
Tổng số người nói tiếng Hà Lan là hơn 6,2 triệu, tập trung tại vùng Vlaanderen miền bắc, còn người nói tiếng Pháp có hơn 3,3 triệu tại Wallonie và ước tính có 870.000 (chiếm 85%) tại Bruxelles-Vùng thủ đô. Cộng đồng nói tiếng Đức gồm 73.000 người tại phía đông của vùng Wallonie; với khoảng 10.000 người Đức và 60.000 công dân Bỉ nói tiếng Đức. Có khoảng 23.000 người nói tiếng Đức nữa sống trong các khu tự quản gần ranh giới chính thức của cộng đồng này.
Tiếng Hà Lan-Bỉ và tiếng Pháp-Bỉ đều có khác biệt nhỏ về từ vựng và sắc thái ngữ nghĩa với các dạng được nói tại Hà Lan và Pháp. Nhiều người Vlaanderen vẫn nói các phương ngữ của tiếng Hà Lan trong môi trường địa phương của họ. Tiếng Wallon được nhìn nhận là một phương ngữ của tiếng Pháp hoặc là một ngôn ngữ Roman riêng biệt, song hiện nay chỉ thỉnh thoảng được hiểu và nói, hầu hết là trong nhóm người cao tuổi. Tiếng Walloon là tên gọi chung cho bốn phương ngữ tiếng Pháp tại Bỉ. Các phương ngữ của tiếng Wallonie, cùng với các phương ngữ của tiếng Picard, không được sử dụng trong đời sống công cộng và đã bị tiếng Pháp thay thế.
Tôn giáo. |
Bỉ | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1351 | Tôn giáo.
Từ khi Bỉ độc lập, Công giáo La Mã giữ thế cân bằng với các phong trào tự do tư tưởng mạnh, và có được một vai trò quan trọng trong nền chính trị Bỉ. Tuy nhiên, Bỉ là một quốc gia thế tục ở mức độ lớn do hiến pháp thế tục quy định tự do tôn giáo, và chính phủ nói chung đều tôn trọng quyền này trong thực tiễn. Dưới thời trị vì của Albert I và Baudouin, quân chủ Bỉ có danh tiếng vì sùng bái Công giáo.
Công giáo La Mã có truyền thống là tôn giáo đa số tại Bỉ; đặc biệt mạnh mẽ tại Vlaanderen. Tuy nhiên, tỷ lệ dự lễ nhà thờ ngày Chủ nhật vào năm 2009 chỉ là 5% trên toàn quốc; riêng Bruxelles là 3%, còn Vlaanderen là 5,4%. Mức dự lễ nhà thờ năm 2009 tại Bỉ bằng khoảng một nửa so với mức năm 1998 (11%). Mặc dù mức dự lễ nhà thờ giảm sút, song bản sắc Công giáo vẫn là một phần quan trọng trong văn hoá Bỉ.
Theo Eurobarometer 2010, 37% công dân Bỉ cho biết rằng họ tin có Thượng đế, 31% tin rằng có một số loại linh hồn hoặc lực sống, 27% không tin rằng có bất kỳ loại linh hồn nào, cũng như Thượng đế hay lực sống nào. Theo Eurobarometer 2015, 60,7% tổng dân số Bỉ trung thành với Cơ Đốc giáo, trong đó Công giáo La Mã là giáo phái lớn nhất với 52,9%, Tin Lành chiếm 2,1% còn Chính thống giáo là 1,6%. Lượng người không theo tôn giáo nào chiếm 32% dân số và gồm người theo thuyết vô thần (14,9%) và thuyết bất khả tri (17.1%). 5,2% dân số là người Hồi giáo và 2,1% tin vào các tôn giáo khác. Một khảo sát tương tự vào năm 2012 cho thấy rằng Cơ Đốc giáo là tôn giáo lớn nhất tại Bỉ, với 65% dân số là tín đồ.
Về mặt tượng trưng cũng như hữu hình, Giáo hội Công giáo La Mã vẫn có một vị trí thuận lợi. Bỉ công nhận chính thức ba tôn giáo: Cơ Đốc giáo (Công giáo, Tin Lành, Chính thống giáo và Anh giáo), Hồi giáo và Do Thái giáo.
Vào đầu thập niên 2000, có khoảng 42.000 người Do Thái tại Bỉ. |
Bỉ | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1351 | Cộng đồng người Do Thái tại Antwerpen (khoảng 18.000 người) là một trong các cộng đồng lớn nhất tại châu Âu, và là một trong những cộng đồng lớn cuối cùng trên thế giới có ngôn ngữ chính là tiếng Yiddish. Hầu hết trẻ em Do Thái tại Antwerpen tiếp nhận một chương trình giáo dục Do Thái. Có một vài tờ báo Do Thái và hơn 45 thánh đường Do Thái hoạt động trên toàn quốc (30 trong số này là tại Antwerpen).
Một cuộc điều tra vào năm 2006 tại Vlaanderen, là vùng được cho là sùng đạo hơn so với Wallonie, cho thấy rằng 55% nhận mình theo tôn giáo và 36% tin rằng Thượng đế tạo ra vũ trụ. Mặt khác, Wallonie trở thành một trong các vùng thế tục nhất/ít sùng đạo nhất tại châu Âu, hầu hết cư dân của vùng nói tiếng Pháp không cho rằng tôn giáo là một phần quan trọng trong cuộc đời họ, và có đến 45% dân số nhận rằng họ không theo tôn giáo. Điều này đặc biệt chính xác tại miền đông Wallonie và các khu vực dọc biên giới với Pháp.
Một ước tính vào năm 2008 cho thấy rằng khoảng 6% dân số Bỉ (628.751 người) là người Hồi giáo. Người Hồi giáo chiếm 23,6% dân số tại Bruxelles, 4,9% dân số Wallonie và 5,1% dân số Vlaanderen. Đa số người Hồi giáo tại Bỉ sống trong các thành phố lớn như Antwerpen, Bruxelles và Charleroi. Nhóm người nhập cư lớn nhất tại Bỉ là người Maroc, còn người Thổ Nhĩ Kỳ là nhóm Hồi giáo lớn thứ nhì.
Y tế.
Người Bỉ có sức khoẻ tốt, theo ước tính năm 2012 thì tuổi thọ dự tính trung bình của họ là 79,65 năm. Từ năm 1960, tuổi thọ dự tính của người Bỉ tăng lên hai tháng mỗi năm, giống với trung bình của châu Âu. Tử vong tại Bỉ chủ yếu là do rối loạn tim mạch, ung thư, rối loạn hệ thống hô hấp và các nguyên nhân phi tự nhiên (tai nạn, tự vẫn). Các nguyên nhân tử vong phi tự nhiên và ung thư là các nguyên nhân tử vong phổ biến nhất đối với nữ giới từ 24 tuổi trở xuống và nam giới từ 44 tuổi trở xuống.
Y tế tại Bỉ được tài trợ thông qua đóng góp an sinh xã hội và thuế. Bảo hiểm y tế có tính chất bắt buộc. Dịch vụ y tế được đáp ứng bởi một hệ thống hỗn hợp công lập và tư nhân gồm các thầy thuốc độc lập, các bệnh viện công lập, đại học và bán tư nhân. |
Bỉ | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1351 | Bệnh nhân phải thanh toán cho dịch vụ y tế, sau đó sẽ được các thể chế bảo hiểm y tế hoàn trả, song với các hạng mục không đủ tiêu chuẩn (của bệnh nhân và dịch vụ) thì sẽ tồn tại cái gọi là hệ thống thanh toán bên thứ ba. Hệ thống y tế Bỉ được chính phủ liên bang, chính phủ cấp vùng Vlaanderen và Wallonie giám sát và tài trợ; Cộng đồng nói tiếng Đức cũng giám sát và chịu trách nhiệm gián tiếp.
Giáo dục.
Giáo dục tại Bỉ có tính chất nghĩa vụ đối với người từ 6 đến 18 tuổi. Trong số các quốc gia OECD vào năm 2002, Bỉ có tỷ lệ cao thứ ba về số người từ 18 đến 21 tuổi nhập học tại bậc giáo dục sau trung học, với 42%. Mặc dù theo ước tính có 99% dân số trưởng thành Bỉ biết chữ, song có lo ngại gia tăng về vấn đề mù chữ chức năng. Chương trình đánh giá học sinh quốc tế (PISA), phối hợp với OECD, vào năm 2016 xếp hạng giáo dục Bỉ tốt thứ 19 trên thế giới, cao hơn đáng kể mức trung bình của OECD. Giáo dục được tổ chức riêng biệt bởi mỗi cộng đồng, Cộng đồng Vlaanderen có thành tích giáo dục cao hơn đáng kể so với các Cộng đồng Pháp và Cộng đồng nói tiếng Đức.
Phán ánh cấu trúc kép của bối cảnh chính trị Bỉ trong thế kỷ XIX, do các đảng Tự Do và Công giáo xác định đặc điểm, hệ thống giáo dục Bỉ được tách biệt trong một phân đoạn thế tục và một phân đoạn tôn giáo. Nhánh giáo dục thế tục nằm dưới quyền kiểm soát của các cộng đồng, các tỉnh hay các khu tự quản; còn nhánh giáo dục tôn giáo, chủ yếu là Công giáo, được tổ chức bởi giới chức tôn giáo, song được các cộng đồng trợ cấp và giám sát.
Văn hoá.
Các phong trào nghệ thuật lớn từng có bước phát triển mạnh mẽ tại khu vực nay là Bỉ, tạo được ảnh hưởng to lớn đến nghệ thuật và văn hoá của châu Âu, bất chấp việc tại đây có phân chia về chính trị và ngôn ngữ. Hiện nay, trên một phạm vi nhất định, sinh hoạt văn hoá được tập trung trong mỗi cộng đồng ngôn ngữ, và nhiều rào cản khiến cho không gian văn hoá chung ít được thể hiện. |
Bỉ | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1351 | Kể từ thập niên 1970, không còn các đại học hoặc cao đẳng song ngữ tại Bỉ, ngoại lệ là Học viện Quân sự Hoàng gia và Học viện Hàng hải Antwerpen, và cũng không có cơ quan truyền thông chung không có tổ chức đơn lẻ quy mô lớn nào về văn hoá hay khoa học chung giữa các cộng đồng lớn.
Nghệ thuật.
Bỉ có đóng góp đặc biệt phong phú cho hội họa và kiến trúc. Nghệ thuật Mosa, hội họa sơ kỳ Vlaanderen, Phục hưng Vlaanderen và Baroque và các điển hình về Kiến trúc Roman, Gothic, Renaissance và Baroque là những dấu mốc trong lịch sử nghệ thuật. Nghệ thuật tại Các vùng đất thấp vào thế kỷ XV chịu sự chi phối từ hội họa tôn giáo của Jan van Eyck và Rogier van der Weyden, đến thế kỷ XVI thì có đặc điểm là đa dạng hơn về phong cách như tranh phong cảnh của Pieter Bruegel còn Lambert Lombard tiêu biểu cho phong cách cổ điển. Phong cách Baroque của Peter Paul Rubens và Anthony van Dyck thăng hoa vào đầu thế kỷ XVII tại miền nam Nederland, song về sau dần bị suy thoái.
Trong thế kỷ XIX và XX, nhiều họa sĩ lãng mạn, biểu hiện và siêu thực của Bỉ nổi lên, như James Ensor và các nghệ sĩ khác thuộc nhóm Les XX, Constant Permeke, Paul Delvaux và René Magritte. Phong trào CoBrA có tính tiên phong xuất hiện trong thập niên 1950, còn nhà điêu khắc Panamarenko vẫn là một nhân vật xuất sắc của nghệ thuật đương đại. Các nghệ sĩ đa lĩnh vực Jan Fabre, Wim Delvoye và Luc Tuymans là các nhân vật nổi tiếng quốc tế khác trong lĩnh vực nghệ thuật đương đại.
Đóng góp của Bỉ cho kiến trúc tiếp tục trong thế kỷ XIX và XX, bao gồm các công trình của Victor Horta và Henry van de Velde, họ là những người khởi xướng chính của phong cách Art Nouveau.
Thanh nhạc thuộc trường phái Pháp-Vlaanderen phát triển tại phần phía nam của Các vùng đất thấp và là một đóng góp quan trọng cho văn hoá Phục hưng. Vào thế kỷ XIX và XX, xuất hiện các nghệ sĩ vĩ cầm lớn như Henri Vieuxtemps, Eugène Ysaÿe và Arthur Grumiaux, trong khi Adolphe Sax phát minh saxophone vào năm 1846. Nhà soạn nhạc César Franck sinh tại Liège vào năm 1822. Âm nhạc đại chúng đương đại tại Bỉ cũng có danh tiếng. Nhạc sĩ Jazz Toots Thielemans và ca sĩ Jacques Brel có được danh tiếng toàn cầu. Ngày nay, ca sĩ Stromae là một ngôi sao âm nhạc tại châu Âu và thế giới, có được thành công lớn. |
Bỉ | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1351 | Trong thể loại nhạc rock/pop, Telex, Front 242, K's Choice, Hooverphonic, Zap Mama, Soulwax và dEUS cũng nổi tiếng. Trong sân khấu heavy metal, các ban nhạc như Machiavel, Channel Zero và Enthroned có người hâm mộ trên toàn cầu.
Bỉ sản sinh một số tác giả nổi tiếng, như các nhà thơ Emile Verhaeren, Robert Goffin và các nhà tiểu thuyết Hendrik Conscience, Georges Simenon, Suzanne Lilar, Hugo Claus và Amélie Nothomb. Nhà thơ và biên kịch Maurice Maeterlinck thắng giải Nobel văn học vào năm 1911. "Những cuộc phiêu lưu của Tintin" của Hergé là tác phẩm nổi tiếng nhất của truyện tranh Pháp-Bỉ, song còn có nhiều tác giả lớn khác như Peyo ("Xì Trum"), André Franquin ("Gaston Lagaffe"), Dupa ("Cubitus"), Morris ("Lucky Luke"), Greg ("Achille Talon"), Lambil ("Les Tuniques Bleues"), Edgar P. Jacobs và Willy Vandersteen, khiến ngành truyện tranh của Bỉ giành được tiếng tăm trên thế giới.
Điện ảnh Bỉ đã đưa một số tiểu thuyết Vlaanderen lên màn ảnh rộng. Các đạo diễn Bỉ phải kể đến là André Delvaux, Stijn Coninx, Luc và Jean-Pierre Dardenne; các diễn viên nổi tiếng là Jean-Claude Van Damme, Jan Decleir và Marie Gillain; các bộ phim thành công gồm có "Rundskop, "C'est arrivé près de chez vous" và "De Zaak Alzheimer". Trong thập niên 1980, Viện hàn lâm Mỹ thuật Hoàng gia tại Antwerpen sản sinh những người tiên phong quan trọng về thời trang, gọi là Antwerpen Sáu.
Dân gian.
Văn hoá dân gian có vị thế lớn trong đời sống văn hoá Bỉ, quốc gia này có một số lượng tương đối cao các đám rước, đoàn cưỡi ngựa, cuộc diễu hành, 'ommegangs' và 'ducasses', 'kermesse' và các lễ hội địa phương khác, chúng gần như luôn có nguồn gốc tôn giáo hoặc thần thoại. Carnival Binche cùng với các Gilles nổi tiếng của lễ hội này; và những người khổng lồ và rồng trong đám rước tại Ath, Bruxelles, Dendermonde, Mechelen và Mons được UNESCO công nhận là kiệt tác di sản truyền khẩu và phi vật thể của nhân loại.
Các điển hành khác là Carnival Aalst; các đám rước vẫn còn mang tính sùng đạo rất cao mang tên Thánh Huyết (Heilig Bloedprocessie) tại Brugge, Vương cung thánh đường Virga Jesse tại Hasselt và Vương cung thánh đường Đức mẹ Hanswijk tại Mechelen; lễ hội ngày 15 tháng 8 tại Liège; và lễ hội Walloon tại Namur. Có nguồn gốc từ năm 1832 và được phục dựng trong thập niên 1960, Gentse Feesten đã trở thành một truyền thống hiện đại. |
Bỉ | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1351 | Một ngày lễ phi chính thức quan trọng là ngày Thánh Nicholas, đây là một ngày hội cho trẻ em, còn tại Liège là cho sinh viên.
Ẩm thực.
Nhiều nhà hàng Bỉ được xếp hạng cao được xuất hiện trong các sách chỉ dẫn nhà hàng có ảnh hưởng nhất như sách Michelin Guide. Bỉ nổi tiếng với bia, sô-cô-la, waffel và khoai tây chiên với mayonnaise. Khoai tây chiên có nguồn gốc tại Bỉ, song không rõ địa điểm chính xác. Các món ăn quốc gia là "thịt nướng và khoai tây chiên với salad", và "trai với khoai tây chiên".
Các nhãn hiệu sô-cô-la và kẹo nhân quả của Bỉ như Côte d'Or, Neuhaus, Leonidas và Godiva có được danh tiếng, cũng như các nhà sản xuất độc lập như Burie và Del Rey tại Antwerpen và Mary's tại Bruxelles. Bỉ sản xuất trên 1.100 loại bia khác nhau. Bia Trappist (tu sự dòng Luyện tâm) của Tu viện Westvleteren nhiều lần được xếp hạng là bia tuyệt nhất thế giới. Hãng rượu bia lớn nhất thế giới xét về dung tích là Anheuser-Busch InBev, có trụ sở tại Leuven.
Thể thao.
Kể từ thập niên 1970, các câu lạc bộ và liên đoàn thể thao tại Bỉ được tổ chức riêng biệt trong mỗi cộng đồng ngôn ngữ. Bóng đá là môn thể thao phổ biến nhất trên toàn nước Bỉ; các môn thể thao rất phổ biến khác là đua xe đạp, quần vợt, bơi, judo và bóng rổ.
Bỉ có số lượng tay đua vô địch Tour de France chỉ sau Pháp. Họ cũng có nhiều chiến thắng nhất tại giải vô địch thế giới đường trường UCI, Philippe Gilbert là nhà vô địch thế giới vào năm 2012. Một tay đua Bỉ khác đang nổi tiếng là Tom Boonen. Với năm chiến thắng tại Tour de France và nhiều thành tích đua xe đạp khác, tay đua người Bỉ Eddy Merckx được xem là một trong các tay đua vĩ đại nhất mọi thời đại. Cựu thủ môn người Bỉ Jean-Marie Pfaff được nhìn nhận là một trong những thủ môn vĩ đại nhất trong lịch sử bóng đá.
Bỉ từng đăng cai Giải vô địch bóng đá châu Âu 1972, và đồng đăng cai Giải vô địch bóng đá châu Âu 2000 cùng Hà Lan. Đội tuyển bóng đá quốc gia Bỉ từng đứng thứ nhất trong bảng xếp hạng của FIFA vào tháng 11 năm 2015 và tháng 9 năm 2018.
Kim Clijsters và Justine Henin đều từng nhận được danh hiệu vận động viên của năm do Hiệp hội quần vợt nữ trao tặng, họ là những nữ vận động viên quần vợt hạng nhất. |
Bỉ | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1351 | Trường đua ô tô Spa-Francorchamps tổ chức Grand Prix Bỉ thuộc giải vô địch công thức một thế giới. Tay đua Bỉ Jacky Ickx từng chiến thắng tám cuộc đua Grands Prix và sáu cuộc đua 24 Hours of Le Mans và hai lần là á quân tại giải vô địch công thức một thế giới. Bỉ cũng có nhiều tiếng tăm về đua mô tô địa hình với tay đua Stefan Everts. Các sự kiện thể thao được tổ chức thường niên tại Bỉ gồm giải điền kinh Memorial Van Damme, giải Grand Prix Bỉ, một số cuộc đua xe đạp cổ điển như Ronde van Vlaanderen và Liège–Bastogne–Liège. Thế vận hội Mùa hè 1920 được tổ chức tại Antwerpen. |
Toán học | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1353 | Toán học hay toán là ngành nghiên cứu trừu tượng về những chủ đề như: lượng (các con số), cấu trúc, không gian, và sự thay đổi. Các nhà toán học và triết học có nhiều quan điểm khác nhau về định nghĩa và phạm vi của toán học.
Các nhà toán học tìm kiếm các mô thức và sử dụng chúng để tạo ra những giả thuyết mới. Họ lý giải tính đúng đắn hay sai lầm của các giả thuyết bằng các chứng minh toán học. Khi những cấu trúc toán học là mô hình tốt cho hiện thực, lúc đó suy luận toán học có thể cung cấp sự hiểu biết sâu sắc hay những tiên đoán về tự nhiên. Thông qua việc sử dụng những phương pháp trừu tượng và lôgic, toán học đã phát triển từ việc đếm, tính toán, đo lường đến việc nghiên cứu có hệ thống những hình dạng và chuyển động của các đối tượng vật lý. Con người đã ứng dụng toán học trong đời sống từ xa xưa. Việc tìm lời giải cho những bài toán có thể mất hàng năm, hay thậm chí hàng thế kỷ.
Những lập luận chặt chẽ xuất hiện trước tiên trong nền toán học Hy Lạp cổ đại, đáng chú ý nhất là trong tác phẩm "Cơ sở" của Euclid. Kể từ những công trình tiên phong của Giuseppe Peano (1858–1932), David Hilbert (1862–1943), và của những nhà toán học khác trong thế kỷ 19 về các hệ thống tiên đề, nghiên cứu toán học trở thành việc thiết lập chân lý thông qua suy luận logic chặt chẽ từ những tiên đề và định nghĩa thích hợp. Toán học phát triển tương đối chậm cho tới thời Phục hưng, khi sự tương tác giữa những phát minh toán học với những phát kiến khoa học mới đã dẫn đến sự gia tăng nhanh chóng những phát minh toán học vẫn tiếp tục cho đến ngày nay.
Toán học được sử dụng trên khắp thế giới như một công cụ thiết yếu trong nhiều lĩnh vực, bao gồm khoa học, kỹ thuật, y học, và tài chính. Toán học ứng dụng, một nhánh toán học liên quan đến việc ứng dụng kiến thức toán học vào những lĩnh vực khác, thúc đẩy và sử dụng những phát minh toán học mới, từ đó đã dẫn đến việc phát triển nên những ngành toán hoàn toàn mới, chẳng hạn như thống kê và lý thuyết trò chơi. Các nhà toán học cũng dành thời gian cho toán học thuần túy, hay toán học vị toán học. |
Toán học | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1353 | Không có biên giới rõ ràng giữa toán học thuần túy và toán học ứng dụng, và những ứng dụng thực tiễn thường được khám phá từ những gì ban đầu được xem là toán học thuần túy.
Lịch sử.
Từ "mathematics" trong tiếng Anh bắt nguồn từ "μάθημα" ("máthēma") trong tiếng Hy Lạp cổ, có nghĩa là "thứ học được", "những gì người ta cần biết," và như vậy cũng có nghĩa là "học" và "khoa học"; còn trong tiếng Hy Lạp hiện đại thì nó chỉ có nghĩa là "bài học." Từ "máthēma" bắt nguồn từ μανθάνω ("manthano"), từ tương đương trong tiếng Hy Lạp hiện đại là μαθαίνω ("mathaino"), cả hai đều có nghĩa là "học." Trong tiếng Việt, "toán" có nghĩa là "tính"; "toán học" là "môn học về toán số." Trong các ngôn ngữ sử dụng từ vựng gốc Hán khác, môn học này lại được gọi là "số học".
Sự tiến hóa của toán học có thể nhận thấy qua một loạt gia tăng không ngừng về những phép trừu tượng, hay qua sự mở rộng của nội dung ngành học. Phép trừu tượng đầu tiên, mà nhiều loài động vật có được, có lẽ là về các con số, với nhận thức rằng, chẳng hạn, một nhóm hai quả táo và một nhóm hai quả cam có cái gì đó chung, ở đây là số lượng quả trong mỗi nhóm.
Các bằng chứng khảo cổ học cho thấy, ngoài việc biết đếm những vật thể vật lý, con người thời tiền sử có thể cũng đã biết đếm những đại lượng trừu tượng như thời gian - ngày, mùa, và năm.
Đến khoảng năm 3000 trước Tây lịch thì toán học phức tạp hơn mới xuất hiện, khi người Babylon và người Ai Cập bắt đầu sử dụng số học, đại số, và hình học trong việc tính thuế và những tính toán tài chính khác, trong xây dựng, và trong quan sát thiên văn. Toán học được sử dụng sớm nhất trong thương mại, đo đạc đất đai, hội họa, dệt, và trong việc ghi nhớ thời gian.
Các phép tính số học căn bản trong toán học Babylon (cộng, trừ, nhân, và chia) xuất hiện đầu tiên trong các tài liệu khảo cổ. Giữa năm 600 đến 300 trước Tây lịch, người Hy Lạp cổ đã bắt đầu nghiên cứu một cách có hệ thống về toán học như một ngành học riêng, hình thành nên toán học Hy Lạp. |
Toán học | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1353 | Kể từ đó toán học đã phát triển vượt bậc; sự tương tác giữa toán học và khoa học đã đem lại nhiều thành quả và lợi ích cho cả hai. Ngày nay, những phát minh toán học mới vẫn tiếp tục xuất hiện làm cho toán học ngày càng đa dạng hơn.
Cảm hứng, thuần túy ứng dụng, và vẻ đẹp.
Toán học nảy sinh ra từ nhiều kiểu bài toán khác nhau. Trước hết là những bài toán trong thương mại, đo đạc đất đai, kiến trúc, và sau này là thiên văn học; ngày nay, tất cả các ngành khoa học đều gợi ý những bài toán để các nhà toán học nghiên cứu, ngoài ra còn nhiều bài toán nảy sinh từ chính bản thân ngành toán. Chẳng hạn, nhà vật lý Richard Feynman đã phát minh ra tích phân lộ trình (path integral) cho cơ học lượng tử bằng cách kết hợp suy luận toán học với sự hiểu biết sâu sắc về mặt vật lý, và lý thuyết dây - một lý thuyết khoa học vẫn đang trong giai đoạn hình thành với cố gắng thống nhất tất cả các tương tác cơ bản trong tự nhiên - tiếp tục gợi hứng cho những lý thuyết toán học mới. Một số lý thuyết toán học chỉ có ích trong lĩnh vực đã giúp tạo ra chúng, và được áp dụng để giải các bài toán khác trong lĩnh vực đó. Nhưng thường thì toán học sinh ra trong một lĩnh vực có thể hữu ích trong nhiều lĩnh vực, và đóng góp vào kho tàng các khái niệm toán học.
Các nhà toán học phân biệt ra hai ngành toán học thuần túy và toán học ứng dụng. Tuy vậy các chủ đề toán học thuần túy thường tìm thấy một số ứng dụng, chẳng hạn như lý thuyết số trong ngành mật mã học. Việc ngay cả toán học "thuần túy nhất" hóa ra cũng có ứng dụng thực tế chính là điều mà Eugene Wigner gọi là "sự hữu hiệu đến mức khó tin của toán học". Giống như trong hầu hết các ngành học thuật, sự bùng nổ tri thức trong thời đại khoa học đã dẫn đến sự chuyên môn hóa: hiện nay có hàng trăm lĩnh vực toán học chuyên biệt và bảng phân loại các chủ đề toán học đã dài tới 46 trang. Một vài lĩnh vực toán học ứng dụng đã nhập vào những lĩnh vực liên quan nằm ngoài toán học và trở thành những ngành riêng, trong đó có xác suất, vận trù học, và khoa học máy tính. |
Toán học | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1353 | Những ai yêu thích ngành toán thường thấy toán học có một vẻ đẹp nhất định. Nhiều nhà toán học nói về "sự thanh lịch" của toán học, tính thẩm mỹ nội tại và vẻ đẹp bên trong của nó. Họ coi trọng sự giản đơn và tính tổng quát. Vẻ đẹp ẩn chứa cả bên trong những chứng minh toán học đơn giản và gọn nhẹ, chẳng hạn chứng minh của Euclid cho thấy có vô hạn số nguyên tố, và trong những phương pháp số giúp đẩy nhanh các phép tính toán, như phép biến đổi Fourier nhanh. Trong cuốn sách "Lời bào chữa của một nhà toán học" (A Mathematician's Apology) của mình, G. H. Hardy tin rằng chính những lý do về mặt thẩm mỹ này đủ để biện minh cho việc nghiên cứu toán học thuần túy. Ông nhận thấy những tiêu chuẩn sau đây đóng góp vào một vẻ đẹp toán học: tầm quan trọng, tính không lường trước được, tính không thể tránh được, và sự ngắn gọn. Sự phổ biến của toán học vì mục đích giải trí là một dấu hiệu khác cho thấy nhiều người tìm thấy sự sảng khoái trong việc giải toán...
Ký hiệu, ngôn ngữ, tính chặt chẽ.
Hầu hết các ký hiệu toán học đang dùng ngày nay chỉ mới được phát minh vào thế kỷ 16. Trước đó, toán học được viết ra bằng chữ, quá trình nhọc nhằn này đã cản trở sự phát triển của toán học. Euler (1707–1783) là người tạo ra nhiều trong số những ký hiệu đang được dùng ngày nay. Ký hiệu hiện đại làm cho toán học trở nên dễ hơn đối với chuyên gia toán học, nhưng người mới bắt đầu học toán thường thấy nản lòng. Các ký hiệu cực kỳ ngắn gọn: một vài biểu tượng chứa đựng rất nhiều thông tin. Giống ký hiệu âm nhạc, ký hiệu toán học hiện đại có cú pháp chặt chẽ và chứa đựng thông tin khó có thể viết theo một cách khác đi.
Ngôn ngữ toán học có thể khó hiểu đối với người mới bắt đầu. Những từ như "hoặc" và "chỉ" có nghĩa chính xác hơn so với trong lời nói hàng ngày. Ngoài ra, những từ như "mở" và "trường" đã được cho những nghĩa riêng trong toán học. Những thuật ngữ mang tính kỹ thuật như "phép đồng phôi" và "khả tích" có nghĩa chính xác trong toán học. Thêm vào đó là những cụm từ như "nếu và chỉ nếu" nằm trong thuật ngữ chuyên ngành toán học. |
Toán học | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1353 | Có lý do tại sao cần có ký hiệu đặc biệt và vốn từ vựng chuyên ngành: toán học cần sự chính xác hơn lời nói thường ngày. Các nhà toán học gọi sự chính xác này của ngôn ngữ và logic là "tính chặt chẽ."
Các lĩnh vực toán học.
Trước thời kì Phục Hưng, toán học chỉ được phân ra thành hai lĩnh vực chính là số học - nghiên cứu các phép toán với những con số và hình học - nghiên cứu về các hình dạng. Kể cả những ngành ngụy khoa học như thần số học và thiên văn học, khi đó cũng chưa được tách biệt rõ ràng khỏi toán học.
Trong thời kì Phục Hưng, hai lĩnh vực mới xuất hiện. Các kí hiệu toán học làm nảy sinh đại số, ngành mà ở đó nghiên cứu tập trung vào các công thức. Giải tích - với giới hạn và tích phân - nghiên cứu tập trung vào các hàm số liên tục, và sự thay đổi của chúng theo các biến cho trước. Một vài lĩnh vực như cơ học thiên thể hay cơ học vật rắn khi đó cũng được nghiên cứu bởi toán, nhưng giờ lại là các phân ngành chính của vật lý học.Tổ hợp cũng được nghiên cứu nhiều trong lịch sử, nhưng chỉ trở thành một lĩnh vực riêng kể từ thế kỉ thứ mười bảy.
Cuối thế kỉ mười chín, những nghiên cứu triết học về nguồn gốc của toán học và kết quả của sự hệ thống hóa của các tiên đề đã tạo ra nhiều ngành toán học mới. Phân lớp Lĩnh vực Toán học (tiếng Anh: Mathematics Subject Classification - MSC) năm 2020 đã chỉ ra rằng có ít nhất sáu mươi ba ngành toán học độc lập, một vài trong số đó chỉ xuất hiện từ thế kỉ XX là logic toán học và nguồn gốc toán học.
Nền tảng và triết học.
Để làm rõ nền tảng toán học, lĩnh vực logic toán học và lý thuyết tập hợp đã được phát triển. Logic toán học bao gồm nghiên cứu toán học về logic và ứng dụng của logic hình thức trong những lĩnh vực toán học khác. Lý thuyết tập hợp là một nhánh toán học nghiên cứu các tập hợp hay tập hợp những đối tượng. Lý thuyết phạm trù, liên quan đến việc xử lý các cấu trúc và mối quan hệ giữa chúng bằng phương pháp trừu tượng, vẫn đang tiếp tục phát triển. Cụm từ "khủng hoảng nền tảng" nói đến công cuộc tìm kiếm một nền tảng toán học chặt chẽ diễn ra từ khoảng năm 1900 đến 1930. |
Toán học | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1353 | Một số bất đồng về nền tảng toán học vẫn còn tồn tại cho đến ngày nay. Cuộc khủng hoảng nền tảng nổi lên từ một số tranh cãi thời đó, trong đó có những tranh cãi liên quan đến lý thuyết tập hợp của Cantor và cuộc tranh cãi giữa Brouwer và Hilbert.
Khoa học máy tính lý thuyết bao gồm lý thuyết khả tính (computability theory), lý thuyết độ phức tạp tính toán, và lý thuyết thông tin. Lý thuyết khả tính khảo sát những giới hạn của những mô hình lý thuyết khác nhau về máy tính, bao gồm mô hình máy Turing nổi tiếng. Lý thuyết độ phức tạp nghiên cứu khả năng có thể giải được bằng máy tính; một số bài toán, mặc dù về lý thuyết có thể giải được bằng máy tính, cần thời gian hay không gian tính toán quá lớn, làm cho việc tìm lời giải trong thực tế gần như không thể, ngay cả với sự tiến bộ nhanh chóng của phần cứng máy tính. Một ví dụ là bài toán nổi tiếng "". Cuối cùng, lý thuyết thông tin quan tâm đến khối lượng dữ liệu có thể lưu trữ được trong một môi trường lưu trữ nhất định, và do đó liên quan đến những khái niệm như nén dữ liệu và entropy thông tin.
Toán học thuần túy.
Lượng.
Việc nghiên cứu về lượng (quantity) bắt đầu với các con số, trước hết với số tự nhiên và số nguyên và các phép biến đổi số học, nói đến trong lĩnh vực số học. Những tính chất sâu hơn về các số nguyên được nghiên cứu trong lý thuyết số, trong đó có định lý lớn Fermat nổi tiếng. Trong lý thuyết số, giả thiết số nguyên tố sinh đôi và giả thiết Goldbach là hai bài toán chưa giải được.
Khi hệ thống số được phát triển thêm, các số nguyên được xem như là tập con của các số hữu tỉ. Các số này lại được bao gồm trong số thực vốn được dùng để thể hiện những đại lượng liên tục. Số thực được tổng quát hóa thành số phức. Đây là những bước đầu tiên trong phân bố các số, sau đó thì có các "quaternion" (một sự mở rộng của số phức) và "octonion". Việc xem xét các số tự nhiên cũng dẫn đến các số vô hạn (transfinite numbers), từ đó chính thức hóa khái niệm "vô hạn". Một lĩnh vực nghiên cứu khác là kích cỡ (size), từ đó sinh ra số đếm (cardinal numbers) và rồi một khái niệm khác về vô hạn: số "aleph", cho phép thực hiện so sánh có ý nghĩa kích cỡ của các tập hợp lớn vô hạn. |
Toán học | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1353 | Cấu trúc.
Nhiều đối tượng toán học, chẳng hạn tập hợp những con số và những hàm số, thể hiện cấu trúc nội tại toát ra từ những phép biến đổi toán học hay những mối quan hệ được xác định trên tập hợp. Toán học từ đó nghiên cứu tính chất của những tập hợp có thể được diễn tả dưới dạng cấu trúc đó; chẳng hạn lý thuyết số nghiên cứu tính chất của tập hợp những số nguyên có thể được diễn tả dưới dạng những phép biến đổi số học. Ngoài ra, thường thì những tập hợp có cấu trúc (hay những cấu trúc) khác nhau đó thể hiện những tính chất giống nhau, khiến người ta có thể xây dựng nên những tiên đề cho một lớp cấu trúc, rồi sau đó nghiên cứu đồng loạt toàn bộ lớp cấu trúc thỏa mãn những tiên đề này. Do đó người ta có thể nghiên cứu các nhóm, vành, trường, và những hệ phức tạp khác; những nghiên cứu như vậy (về những cấu trúc được xác định bởi những phép biến đổi đại số) tạo thành lĩnh vực đại số trừu tượng. Với mức độ tổng quát cao của mình, đại số trừu tượng thường có thể được áp dụng vào những bài toán dường như không liên quan gì đến nhau. Một ví dụ về lý thuyết đại số là đại số tuyến tính, lĩnh vực nghiên cứu về các không gian vectơ, ở đó những yếu tố cấu thành nó gọi là vectơ có cả lượng và hướng và chúng có thể được dùng để mô phỏng các điểm (hay mối quan hệ giữa các điểm) trong không gian. Đây là một ví dụ về những hiện tượng bắt nguồn từ những lĩnh vực hình học và đại số ban đầu không liên quan gì với nhau nhưng lại tương tác rất mạnh với nhau trong toán học hiện đại. Toán học tổ hợp nghiên cứu những cách tính số lượng những đối tượng có thể xếp được vào trong một cấu trúc nhất định.
Không gian.
Việc nghiên cứu không gian bắt đầu với hình học - cụ thể là hình học Euclid. Lượng giác là một lĩnh vực toán học nghiên cứu về mối quan hệ giữa các cạnh và góc của tam giác và với các hàm lượng giác; nó kết hợp không gian và các con số, và bao gồm định lý Pythagore nổi tiếng. |
Toán học | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1353 | Ngành học hiện đại về không gian tổng quát hóa những ý tưởng này để bao gồm hình học nhiều chiều hơn, hình học phi Euclide (đóng vai trò quan trọng trong lý thuyết tương đối tổng quát), và tô pô. Cả lượng và không gian đều đóng vai trò trong hình học giải tích, hình học vi phân, và hình học đại số. Hình học lồi và hình học rời rạc trước đây được phát triển để giải các bài toán trong lý thuyết số và giải tích phiếm hàm thì nay đang được nghiên cứu cho các ứng dụng trong tối ưu hóa (tối ưu lồi) và khoa học máy tính (hình học tính toán). Trong hình học vi phân có các khái niệm bó sợi (fiber bundles) và vi tích phân trên các đa tạp, đặc biệt là vi tích phân vectơ và vi tích phân tensor. Hình học đại số thì mô tả các đối tượng hình học dưới dạng lời giải là những tập hợp phương trình đa thức, cùng với những khái niệm về lượng và không gian, cũng như nghiên cứu về các nhóm tô-pô kết hợp cấu trúc và không gian. Các nhóm Lie được dùng để nghiên cứu không gian, cấu trúc, và sự thay đổi. Tô pô trong tất cả những khía cạnh của nó có thể là một lĩnh vực phát triển vĩ đại nhất của toán học thế kỷ 20; nó bao gồm tô-pô tập hợp điểm (point-set topology), tô-pô lý thuyết tập hợp (set-theoretic topology), tô-pô đại số và tô-pô vi phân (differential topology). Trong đó, những chủ đề của tô-pô hiện đại là lý thuyết không gian mêtric hóa được (metrizability theory), lý thuyết tập hợp tiên đề (axiomatic set theory), lý thuyết đồng luân (homotopy theory), và lý thuyết Morse. Tô-pô cũng bao gồm giả thuyết Poincaré nay đã giải được, và giả thuyết Hodge vẫn chưa giải được. Những bài toán khác trong hình học và tô-pô, bao gồm định lý bốn màu và giả thiết Kepler, chỉ giải được với sự trợ giúp của máy tính.
Sự thay đổi.
Hiểu và mô tả sự thay đổi là chủ đề thường gặp trong các ngành khoa học tự nhiên. Vi tích phân là một công cụ hiệu quả đã được phát triển để nghiên cứu sự thay đổi đó. Hàm số từ đây ra đời, như một khái niệm trung tâm mô tả một đại lượng đang thay đổi. Việc nghiên cứu chặt chẽ các số thực và hàm số của một biến thực được gọi là giải tích thực, với số phức thì có lĩnh vực tương tự gọi là giải tích phức. |
Toán học | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1353 | Giải tích phiếm hàm (functional analysis) tập trung chú ý vào những không gian thường là vô hạn chiều của hàm số. Một trong nhiều ứng dụng của giải tích phiếm hàm là trong cơ học lượng tử (ví dụ: lý thuyết phiếm hàm mật độ). Nhiều bài toán một cách tự nhiên dẫn đến những mối quan hệ giữa lượng và tốc độ thay đổi của nó, rồi được nghiên cứu dưới dạng các phương trình vi phân. Nhiều hiện tượng trong tự nhiên có thể được mô tả bằng những hệ thống động lực; lý thuyết hỗn độn nghiên cứu cách thức theo đó nhiều trong số những hệ thống động lực này thể hiện những hành vi không tiên đoán được nhưng vẫn có tính tất định.
Toán học ứng dụng.
Toán học ứng dụng quan tâm đến những phương pháp toán học thường được sử dụng trong khoa học, kỹ thuật, kinh doanh, và công nghiệp. Như vậy, "toán học ứng dụng" là một ngành khoa học toán học với kiến thức đặc thù. Thuật ngữ toán học ứng dụng cũng được dùng để chỉ lĩnh vực chuyên nghiệp, ở đó các nhà toán học giải quyết các bài toán thực tế. Với tư cách là một ngành nghề chú trọng vào các bài toán thực tế, toán học ứng dụng tập trung vào "việc thiết lập, nghiên cứu, và sử dụng những mô hình toán học" trong khoa học, kỹ thuật, và những lĩnh vực thực hành toán học khác. Trước đây, những ứng dụng thực tế đã thúc đẩy sự phát triển các lý thuyết toán học, để rồi sau đó trở thành chủ đề nghiên cứu trong toán học thuần túy, nơi toán học được phát triển chủ yếu cho chính nó. Như vậy, hoạt động của toán học ứng dụng nhất thiết có liên hệ đến nghiên cứu trong lĩnh vực toán học thuần túy.
Thống kê và những lĩnh vực liên quan.
Toán học ứng dụng có nhiều phần chung với thống kê, đặc biệt với lý thuyết xác suất. Các nhà thống kê, khi làm việc trong một công trình nghiên cứu, "tạo ra số liệu có ý nghĩa" sử dụng phương pháp tạo mẫu ngẫu nhiên (random sampling) và những thí nghiệm được ngẫu nhiên hóa (randomized experiments); việc thiết kế thí nghiệm hay mẫu thống kê xác định phương pháp phân tích số liệu (trước khi số liệu được tạo ra). |
Toán học | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1353 | Khi xem xét lại số liệu từ các thí nghiệm và các mẫu hay khi phân tích số liệu từ những nghiên cứu bằng cách quan sát, các nhà thống kê "làm bật ra ý nghĩa của số liệu" sử dụng phương pháp mô phỏng và suy luận – qua việc chọn mẫu và qua ước tính; những mẫu ước tính và những tiên đoán có được từ đó cần được thử nghiệm với những số liệu mới.
Lý thuyết thống kê nghiên cứu những bài toán liên quan đến việc quyết định, ví dụ giảm thiểu nguy cơ (sự tổn thất được mong đợi) của một hành động mang tính thống kê, chẳng hạn sử dụng phương pháp thống kê trong ước tính tham số, kiểm nghiệm giả thuyết, và chọn ra tham số cho kết quả tốt nhất. Trong những lĩnh vực truyền thống này của thống kê toán học, bài toán quyết định-thống kê được tạo ra bằng cách cực tiểu hóa một hàm mục tiêu (objective function), chẳng hạn giá thành hay sự mất mát được mong đợi, dưới những điều kiện nhất định. Vì có sử dụng lý thuyết tối ưu hóa, lý thuyết toán học về thống kê có chung mối quan tâm với những ngành khoa học khác nghiên cứu việc quyết định, như vận trù học, lý thuyết điều khiển, và kinh tế học toán.
Toán học tính toán.
Toán học tính toán đưa ra và nghiên cứu những phương pháp giải các bài toán toán học mà con người thường không có khả năng giải số được. Giải tích số nghiên cứu những phương pháp giải các bài toán trong giải tích sử dụng giải tích phiếm hàm và lý thuyết xấp xỉ; giải tích số bao gồm việc nghiên cứu xấp xỉ và rời rạc hóa theo nghĩa rộng, với sự quan tâm đặc biệt đến sai số làm tròn (rounding errors). Giải tích số và nói rộng hơn tính toán khoa học (scientific computing) cũng nghiên cứu những chủ đề phi giải tích như khoa học toán học, đặc biệt là ma trận thuật toán và lý thuyết đồ thị. Những lĩnh vực khác của toán học tính toán bao gồm đại số máy tính (computer algebra) và tính toán biểu tượng (symbolic computation).
Giải thưởng toán học và những bài toán chưa giải được.
Có thể nói giải thưởng toán học danh giá nhất là Huy chương Fields, thiết lập vào năm 1936 và nay được trao bốn năm một lần cho 2 đến 4 nhà toán học có độ tuổi dưới 40. Huy chương Fields thường được xem là tương đương với Giải Nobel trong những lĩnh vực khác. |
Toán học | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1353 | (Giải Nobel không xét trao thưởng trong lĩnh vực toán học) Một số giải thưởng quốc tế quan trọng khác gồm có: Giải Wolf về Toán học (thiết lập vào năm 1978) để ghi nhận thành tựu trọn đời; Giải Abel (thiết lập vào năm 2003) dành cho những nhà toán học xuất chúng; Huy chương Chern (thiết lập vào năm 2010) để ghi nhận thành tựu trọn đời.
Năm 1900, nhà toán học người Đức David Hilbert biên soạn một danh sách gồm 23 bài toán chưa có lời giải (còn được gọi là Các bài toán của Hilbert). Danh sách này rất nổi tiếng trong cộng đồng các nhà toán học, và ngày nay có ít nhất chín bài đã được giải. Một danh sách mới bao gồm bảy bài toán quan trọng, gọi là "Các bài toán của giải thiên niên kỷ" (Millennium Prize Problems), đã được công bố vào năm 2000, ai giải được một trong số các bài toán này sẽ được trao giải một triệu đô-la. Chỉ có một bài toán từ danh sách của Hilbert (cụ thể là giả thuyết Riemann) trong danh sách mới này. Tới nay, một trong số bảy bài toán đó (giả thuyết Poincaré) đã có lời giải.
Mối quan hệ giữa toán học và khoa học.
Gauss xem toán học là "hoàng tử của các ngành khoa học". Trong cụm từ La-tinh "Regina Scientiarum" và cụm từ tiếng Đức "Königin der Wissenschaften" (cả hai đều có nghĩa là "nữ hoàng của các ngành khoa học"), từ chỉ "khoa học" có nghĩa là "lĩnh vực tri thức," và đây cũng chính là nghĩa gốc của từ "science" (khoa học) trong tiếng Anh; như vậy toán học là một lĩnh vực tri thức. Sự chuyên biệt hóa giới hạn nghĩa của "khoa học" vào "khoa học tự nhiên" theo sau sự phát triển của phương pháp luận Bacon, từ đó đối lập "khoa học tự nhiên" với phương pháp kinh viện, phương pháp luận Aristotle nghiên cứu từ những nguyên lý cơ sở. So với các ngành khoa học tự nhiên như sinh học hay vật lý học thì thực nghiệm và quan sát thực tế có vai trò không đáng kể trong toán học. Albert Einstein nói rằng "khi các định luật toán học còn phù hợp với thực tại thì chúng không chắc chắn; và khi mà chúng chắc chắn thì chúng không còn phù hợp với thực tại." Mới đây hơn, Marcus du Sautoy đã gọi toán học là "nữ hoàng của các ngành khoa học;... động lực thúc đẩy chính đằng sau những phát kiến khoa học." |
Toán học | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1353 | Nhiều triết gia tin rằng, trong toán học, tính có thể chứng minh được là sai (falsifiability) không thể thực hiện được bằng thực nghiệm, và do đó toán học không phải là một ngành khoa học theo như định nghĩa của Karl Popper. Tuy nhiên, trong thập niên 1930, các định lý về tính không đầy đủ (incompleteness theorems) của Gödel đưa ra gợi ý rằng toán học không thể bị quy giảm về logic mà thôi, và Karl Popper kết luận rằng "hầu hết các lý thuyết toán học, giống như các lý thuyết vật lý và sinh học, mang tính giả định-suy diễn: toán học thuần túy do đó trở nên gần gũi hơn với các ngành khoa học tự nhiên nơi giả định mang tính chất suy đoán hơn hơn mức mà người ta nghĩ."
Một quan điểm khác thì cho rằng một số lĩnh vực khoa học nhất định (như vật lý lý thuyết) là toán học với những tiên đề được tạo ra để kết nối với thực tại. Thực sự, nhà vật lý lý thuyết J. M. Ziman đã cho rằng khoa học là "tri thức chung" và như thế bao gồm cả toán học. Dù sao đi nữa, toán học có nhiều điểm chung với nhiều lĩnh vực trong các ngành khoa học vật lý, đáng chú ý là việc khảo sát những hệ quả logic của các giả định. Trực giác và hoạt động thực nghiệm cũng đóng một vai trò trong việc xây dựng nên các giả thuyết trong toán học lẫn trong những ngành khoa học (khác). Toán học thực nghiệm ngày càng được chú ý trong bản thân ngành toán học, và việc tính toán và mô phỏng đang đóng vai trò ngày càng lớn trong cả khoa học lẫn toán học.
Ý kiến của các nhà toán học về vấn đề này không thống nhất. Một số cảm thấy việc gọi toán học là khoa học làm giảm tầm quan trọng của khía cạnh thẩm mỹ của nó, và lịch sử của nó trong bảy môn khai phóng truyền thống; một số người khác cảm thấy rằng bỏ qua mối quan hệ giữa toán học và các ngành khoa học là cố tình làm ngơ trước thực tế là sự tương tác giữa toán học và những ứng dụng của nó trong khoa học và kỹ thuật đã là động lực chính của những phát triển trong toán học. Sự khác biệt quan điểm này bộc lộ trong cuộc tranh luận triết học về chuyện toán học "được tạo ra" (như nghệ thuật) hay "được khám phá ra" (như khoa học). Các viện đại học thường có một trường hay phân khoa "khoa học và toán học". |
Toán học | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1353 | Cách gọi tên này ngầm ý rằng khoa học và toán học gần gũi với nhau nhưng không phải là một. |
Khoa học tự nhiên | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1354 | Khoa học tự nhiên, hay Tự nhiên học, (tiếng Anh:"Natural science") là một nhánh của khoa học, có mục đích nhận thức, mô tả, giải thích và tiên đoán về các hiện tượng và quy luật tự nhiên, dựa trên những dấu hiệu được kiểm chứng chắc chắn. Trong khoa học tự nhiên, giả thuyết được sử dụng rộng rãi để xây dựng những lý thuyết khoa học.
Giải thích.
Các môn khoa học tự nhiên tạo nên cơ sở cho các khoa học ứng dụng. Các khoa học tự nhiên và ứng dụng lại được phân biệt với các ngành khoa học xã hội, nhân văn, thần học, và nghệ thuật.
Các ngành Toán học, Thống kê và Tin học cung cấp nhiều công cụ và khung làm việc được sử dụng trong các ngành khoa học tự nhiên. Ở Việt Nam, ba ngành này được xếp vào loại khoa học tự nhiên. Tuy nhiên, nhiều nước trên thế giới, đặc biệt là các nước nói tiếng Anh, không có quan điểm như vậy.
Lịch sử.
Từ thời xa xưa cho đến thời Trung cổ, đối tượng nghiên cứu của Khoa học tự nhiên được biết đến như là các triết lý tự nhiên. Đến cuối thời Trung cổ và thời hiện đại, việc giải thích một cách triết học về tự nhiên dần dần được thay thế bởi sự tiếp cận một cách khoa học sử dụng phương pháp luận quy nạp. Các nghiên cứu của Ibn al-Haytham và Sir Francis Bacon phổ biến trong các tiếp cân này, do đó đã giúp cho việc tiến lên cuộc cách mạng khoa học của nhân loại.
Trước thế kỷ 19, việc nghiên cứu khoa học đã trở nên chuyên nghiệp và có các tổ chức, và các tổ chức này dần dần đạt được tiếng tăm trong nghiên cứu khoa học tự nhiên. Nhóm nghiên cứu khoa học được tạo ra bởi William Whewell vào năm 1834 dựa trên tổ chức Mary Somerville's On the Connexion of the Sciences. |
Hình học | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1355 | Hình học là một phân nhánh của toán học liên quan đến các câu hỏi về hình dạng, kích thước, vị trí tương đối của các hình khối, và các tính chất của không gian. Hình học phát triển độc lập trong một số nền văn hóa cổ đại như một phần của kiến thức thực tiễn liên quan đến chiều dài, diện tích, và thể tích, với một phần các yếu tố của khoa học Toán học đến từ phương Tây như các định lý của Thales (thế kỷ VI TCN). Đến thế kỷ thứ III TCN, hình học đã được Euclid hệ thống hóa dưới một hình thức tiên đề mang tên ông – Hình học Euclid đã trở thành chuẩn mực cho nhiều thế kỷ sau đó. Archimedes phát triển các kỹ thuật rất khéo léo để tính diện tích và khối lượng, theo một cách nào đó đã áp dụng phép tính tích phân. Thiên văn học khi tính toán vị trí của các ngôi sao và hành tinh trên bản đồ thiên cầu và mô tả mối quan hệ giữa chuyển động của các thiên thể, đã trở thành một nguồn quan trọng cung cấp các bài toán hình học trong suốt 1500 năm tiếp theo. Trong thế giới cổ điển, cả hình học và thiên văn học đã được coi là một phần của quadrivium, một tập hợp con của bảy môn giáo dục khai phóng cần thiết cho mọi công dân phải nắm vững.
Việc giới thiệu hệ tọa độ của René Descartes và sự phát triển đồng thời của đại số đánh dấu một giai đoạn phát triển mới cho hình học, kể từ khi các hình hình học như các đường cong phẳng không thể được mô tả bằng giải tích theo dạng phương trình và hàm. Điều này đóng một vai trò quan trọng trong sự xuất hiện của vi tích phân vào thế kỷ XVII. Sau đó, lý thuyết của phối cảnh cho thấy rằng có nhiều yếu tố hình học hơn là chỉ các thuộc tính số liệu của các hình vẽ: phối cảnh đã trở thành nguồn gốc của hình học projective. Các đối tượng nghiên cứu của hình học đã được tiếp tục mở rộng bằng việc nghiên cứu các cấu trúc nội tại của các đối tượng hình học của Euler và Gauss, điều này dẫn đến việc tạo ra các nhánh tô pô học và hình học vi phân.
Trong thời của Euclid, không sự phân biệt rõ ràng giữa không gian vật lý và không gian hình học. Kể từ khi phát hiện hình học phi Euclid vào thế kỷ 19, các khái niệm về không gian đã trải qua một sự thay đổi cơ bản và nêu lên câu hỏi: không gian hình học nào là thích hợp nhất với không gian vật lý. |
Hình học | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1355 | Với sự phát triển của toán học lý thuyết trong thế kỷ 20, 'không gian' (cho dù là 'điểm', 'đường', hoặc 'mặt phẳng') bị mất nội dung trực quan của nó, vì vậy người đọc phải phân biệt giữa không gian vật lý và không gian hình học (trong đó 'không gian', 'điểm', v.v... vẫn còn có ý nghĩa trực quan) và không gian trừu tượng. Hình học hiện đại xem xét không gian đa tạp - không gian có mức độ trừu tượng đáng kể hơn so với không gian Euclid quen thuộc. Những không gian trên có thể có sẵn các cấu trúc bổ sung nhằm cho phép đo chiều dài. Hình học hiện đại có nhiều mối quan hệ với
vật lý như được minh họa bằng các liên kết giữa hình học giả Riemann và thuyết tương đối rộng. Một trong những lý thuyết vật lý mới nhất, lý thuyết dây, cũng rất gần gũi với hình học.
Trong khi bản chất thị giác của hình học làm cho nó dễ dàng tiếp cận hơn so với các môn toán học khác như đại số hay lý thuyết số, ngôn ngữ hình học cũng được sử dụng trong bối cảnh xa rời truyền thống nguồn gốc Euclide của nó (ví dụ như trong hình học fractal và hình học đại số).
Tổng quan.
Sự phát triển của hình học ghi nhận được kéo dài hơn hai thiên niên kỷ. Bởi vậy, nhận thức hình học luôn tiến hóa dần qua các thời đại:
Hình học thực tiễn.
Hình học có nguồn gốc là một khoa học thực tiễn liên quan đến khảo sát, đo đạc, diện tích, và khối lượng. Những thành tích đáng chú ý nhất trong giai đoạn đầu của hình học bao gồm các công thức về độ dài, diện tích và thể tích, như là định lý Pytago, chu vi hình tròn và diện tích hình tròn, diện tích tam giác, thể tích của hình trụ tròn, hình cầu và hình chóp. Một phương pháp tính toán các khoảng cách và chiều cao không thể tiếp cận dựa trên sự đồng dạng về hình học là định lý Thales. Sự phát triển của thiên văn học dẫn đến sự ra đời của lượng giác phẳng và lượng giác cầu, cùng với các kỹ thuật tính toán.
Hình học tiên đề.
Euclid sử dụng một phương pháp trừu tượng hơn trong tác phẩm Cơ sở của ông, một trong những tác phẩm có sức ảnh hưởng lớn nhất của nhân loại. |
Hình học | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1355 | Ông đã giới thiệu các tiên đề nhất định, thể hiện tính chất cơ bản hoặc hiển nhiên đúng của điểm, đường thẳng, và mặt phẳng. Ông tiến hành suy luận một cách chặt chẽ để rút ra các định lý khác bằng cách lý luận toán học. Tính năng đặc trưng của phương pháp tiếp cận của hình học Euclid là sự chặt chẽ của nó, và nó đã được biết đến như hình học tiên đề hoặc hình học tổng hợp. Vào đầu thế kỷ 19, việc khám phá hình học phi Euclid của Nikolai Ivanovich Lobachevsky (1792–1856), János Bolyai (1802–1860), Carl Friedrich Gauss (1777–1855) và những người khác dẫn đến một sự quan tâm trở lại trong phương pháp tiếp cận này, và trong thế kỷ 20, David Hilbert (1862–1943) đã áp dụng lý luận tiên đề nhằm cung cấp một nền tảng hiện đại của hình học.
Các số trong hình học.
Trong thời Hy Lạp cổ đại trường phái Pythagoras đã đánh giá vai trò của các số trong hình học. Tuy nhiên, việc phát hiện chiều dài vô tỉ, vốn mâu thuẫn với quan điểm triết học của họ, làm cho họ từ bỏ con số trừu tượng và chuyển sang sử dụng tham số hình học cụ thể, chẳng hạn như độ dài và diện tích các hình. Các số đã được giới thiệu trở lại trong hình học dưới hình thức hệ tọa độ của Descartes, người đã nhận ra rằng việc nghiên cứu các hình dạng hình học có thể được hỗ trợ bằng các diễn đạt đại số của chúng, và hệ tọa độ Descartes đã được đặt theo tên ông. Hình học giải tích ứng dụng các phương pháp của đại số để giải quyết các bài toán hình học, bằng cách liên hệ các đường cong hình học với các phương trình đại số. Những ý tưởng này đóng một vai trò quan trọng trong sự phát triển của vi phân và tích phân trong thế kỷ XVII và đã dẫn đến việc phát hiện ra nhiều đặc tính mới của đường cong phẳng. Hình học đại số hiện đại xem xét những câu hỏi tương tự như trên ở một mức độ trừu tượng cao hơn.
Hình học vị trí.
Ngay trong thời cổ đại, các nhà toán học đã giải các bài toán về vị trí tương đối hoặc mối quan hệ không gian của các hình hình học. Một số ví dụ được đưa ra bởi các đường tròn nội ngoại tiếp của đa giác, đường giao nhau và tiếp tuyến với đường conic,các cấu hình Pappus và Menelaus của các điểm và đường. |
Hình học | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1355 | Trong thời Trung cổ, những bài toán mới và phức tạp hơn được đặt ra: số lượng tối đa của hình cầu, đồng thời tiếp xúc với một hình cầu nhất định mà có cùng một bán kính? Việc lèn chặt hàng loạt hình cầu kích thước bằng nhau trong không gian sẽ tạo ra cái gì? Hầu hết các câu hỏi liên quan đến các khối hình học 'cố định', chẳng hạn như các đường hoặc mặt cầu. Hình học projective, tổ hợp lồi, và hình học rời rạc là ba phân nhánh trong hình học ngày nay để xử lý các bài toán trên.
Leonhard Euler, trong khi nghiên cứu bài toán bảy cây cầu ở Königsberg, đã xem xét các thuộc tính cơ bản nhất của hình học chỉ dựa vào hình dạng, độc lập với các thuộc tính số liệu của chúng. Euler gọi chi nhánh mới này của hình học là "geometria situs" (hình học vị trí), nhưng hiện nay nó được biết đến với tên là tô pô học. Tô pô học phát triển từ hình học, nhưng biến thành một ngành độc lập lớn. Nó không quan tâm đến sự khác biệt giữa đối tượng có thể liên tục bị biến dạng thành các hình khác nhau. Các đối tượng có thể vẫn giữ lại một số tính chất hình học, như trong trường hợp của nút thắt hyperbol.
Dựng hình.
Hình học cổ điển đặc biệt quan tâm đến việc dựng một hình hình học đã được mô tả trong một số cách khác. Hình học cổ điển chỉ cho phép dựng hình sử dụng compa và thước kẻ.
Ngoài ra, mỗi bài dựng hình phải được hoàn thành trong một số hữu hạn các bước. Tuy nhiên, một số bài dựng hình khó hoặc không thể giải quyết chỉ bằng các phương tiện này, và các phép dựng hình sử dụng parabol và đường cong khác, cũng như các thiết bị cơ khí, đã được áp dụng.
Hình học hậu Euclid.
Trong gần hai ngàn năm kể từ Euclid, trong khi phạm vi của các bài toán hình học đã được mở rộng rõ rệt, sự hiểu biết cơ bản về không gian vẫn là giống nhau. Immanuel Kant tranh luận rằng chỉ có một hình học "tuyệt đối" mà được tâm trí cho là đúng ("a priori)": hình học Euclid là sự tổng hợp và phát triển của cái được cho là đúng. Tư tưởng thống trị này đã bị lật đổ bởi khám phá mang tính cách mạng của hình học phi Euclid với công trình nghiên cứu của Bolyai, Lobachevsky, và Gauss (Gauss không bao giờ công bố nghiên cứu này của ông). |
Hình học | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1355 | Ba nhà toán học trên đã chứng minh không gian Euclid chỉ là một khả năng cho sự phát triển của hình học. Một tầm nhìn rộng lớn hơn của hình học sau đó đã được Riemann phân tích trong bài giảng năm 1867 khi nhậm chức "Über die Hypothesen, welche der Geometrie zu Grunde liegen" (Bàn về các giả thuyết mà hình học dựa vào) Bài luận này chỉ được xuất bản sau khi ông chết. Ý tưởng mới của Riemann về không gian tỏ ra rất quan trọng trong thuyết tương đối rộng của Einstein và hình học Riemann. Hình học Riemann xem xét không gian theo một cách rất chung chung, trong đó các khái niệm về chiều dài được định nghĩa. Đây là một hướng đi chính của hình học hiện đại.
Chiều không gian.
Trong hình học cổ điển cho phép số chiều không gian là 1 (đường thẳng), 2 (mặt phẳng) và 3 (thế giới chúng ta đang sống được coi là không gian ba chiều), các nhà toán học đã sử dụng các [[chiều cao]] hơn trong hơn hai thế kỷ qua. Số chiều đã trải qua các giai đoạn là bất kỳ số tự nhiên "n", có thể là vô hạn với sự ra đời của không gian Hilbert, và bất kỳ số thực dương nào trong hình học fractal. Lý thuyết về chiều là một lĩnh vực kỹ thuật, ban đầu nằm trong tô pô học nói chung, thảo luận về "các định nghĩa"; cùng với hầu hết các ý tưởng toán học, khái niệm chiều hiện nay được định nghĩa chứ không còn là cảm nhận trực giác. Kết nối đa tạp topo có số chiều được xác định rõ; đây là một định lý (bất biến của miền xác định) thay vì cái gì đó tự được coi là đúng.
Các vấn đề về chiều vẫn rất quan trọng đối với hình học, khi mà không có câu trả lời đầy đủ cho các bài toán cổ điển. Kích thước 3 của không gian và 4 của không-thời gian là các trường hợp đặc biệt trong tô pô hình học. Chiều 10 và 11 là con số quan trọng trong lý thuyết dây. Nghiên cứu có thể mang lại một lý do hình học thỏa đáng cho ý nghĩa của chiều 10 và 11.
Tính đối xứng.
Mô hình đối xứng trong hình học có lịch sử lâu đời cũng gần như chính hình học. Các hình hình học như đường tròn, đa giác đều và các khối đa diện đều Platon có ý nghĩa sâu sắc đối với nhiều nhà triết học cổ đại và chúng đã được nghiên cứu chi tiết trước thời của Euclid. |
Hình học | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1355 | Mô hình đối xứng xảy ra trong tự nhiên và đã được mô phỏng nghệ thuật trong vô số các hình thức, bao gồm cả đồ họa của M. C. Escher. Tuy nhiên, chỉ đến nửa sau của thế kỷ 19, các vai trò thống nhất của tính đối xứng trong nền tảng của hình học mới được công nhận. Chương trình Erlangen của Felix Klein tuyên bố rằng, trong một ý nghĩa rất chính xác, đối xứng, thể hiện qua các khái niệm về một sự biến đổi nhóm, cho thấy hình học" là gì". Sự đối xứng trong hình học Euclid cổ điển được thể hiện qua tính tương đẳng và chuyển động cứng nhắc, trong khi trong hình học xạ ảnh một vai trò tương tự được thực hiện bởi phép cộng tuyến, biến đổi hình học chuyển đường thẳng thành đường thẳng. Tuy nhiên trong hình học mới của Bolyai và Lobachevsky, Riemann, Clifford và Klein, và Sophus Lie rằng ý tưởng Klein 'xác định một hình học thông qua nhóm đối xứng của nó' đã có ảnh hưởng lớn nhất. Cả hai đối xứng rời rạc và liên tục đóng vai trò nổi bật trong hình học: đối xứng rời rạc có ý nghĩa trong tô pô học và trong lý thuyết nhóm hình học, còn đối xứng liên tục có ý nghĩa trong thuyết Lie và hình học Riemann.
Một loại khác của tính đối xứng là nguyên tắc của tính hai mặt trong hình học projective. Hiện tượng meta này có thể được mô tả đại khái như sau: trong bất kỳ định lý nào, đổi "điểm" thành "mặt phẳng", "gặp" thành "cắt", "nằm trong" thành "có chứa", và bạn sẽ có được một định lý mới cũng đúng. Một hình thức tương tự và có liên quan chặt chẽ của tính hai mặt tồn tại giữa một không gian vectơ và không gian hai mặt của nó.
Lịch sử.
Khởi đầu sớm nhất được ghi nhận của bộ môn hình học có thể được truy nguồn từ các nền văn minh cổ đại Lưỡng Hà và Ai Cập vào thiên niên kỷ thứ 2 TCN. Hình học sơ khai là một tập hợp các nguyên tắc thực nghiệm được phát minh liên quan đến độ dài, góc, diện tích, và khối lượng. Chúng được phát triển để đáp ứng một số nhu cầu thực tế trong khảo sát, xây dựng, thiên văn học và hàng loạt ngành nghề khác.
Các sách vở sớm nhất được biết đến về hình học là "giấy cói Rhind" (2000–1800 TCN) ở Ai Cập và "giấy cói Moscow" (khoảng 1890 TCN), các sách đất sét Babylon như "Plimpton 322" (1900 TCN). |
Hình học | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1355 | Ví dụ, giấy cói Moscow đưa ra một công thức tính thể tích của một hình chóp cụt. Các tấm đất sét sau đó (350–50 TCN) cho thấy các nhà thiên văn Babylon đã sử dụng hình thang để tính toán vị trí và li độ của sao Mộc trong không gian thời gian-vận tốc. Các phép tính hình học này đã đi trước các tính toán của Máy tính Oxford, bao gồm định lý tốc độ trung bình, những 14 thế kỷ. Người Nubia cổ đại ở Nam Ai Cập đã
thành lập một hệ thống hình học bao gồm cả phiên bản sơ khai của đồng hồ mặt trời.
Trong thế kỷ thứ 7 TCN, nhà toán học Hy Lạp Thales của Miletus sử dụng hình học để giải quyết các vấn đề như tính toán chiều cao của kim tự tháp và khoảng cách của tàu đến bờ biển. Ông được cho là người đầu tiên sử dụng lập luận áp dụng vào hình học, bằng cách rút ra bốn hệ quả từ định lý Thales.
Pytago thành lập Trường Pytago, được ghi công đã chứng minh định lý Pytago lần đầu tiên mặc dù định lý này có một lịch sử lâu dài. Eudoxus (408–khoảng 355 TCN) phát triển các phương pháp vét cạn dùng để tính toán diện tích và khối lượng của vật cong,
cũng như một lý thuyết về tỷ lệ nhằm tránh các số vô tỷ khi đo đạc, điều này đã cho phép hình học có những bước tiến bộ đáng kể. Khoảng năm 300 TCN, hình học được Euclid cách mạng hóa với tác phẩm "Cơ sở" của ông. Tác phẩm này được đánh giá là sách giáo khoa thành công và có ảnh hưởng nhất của mọi thời đại. Cuốn sách giới thiệu sự chặt chẽ của toán học thông qua các phương pháp tiên đề và là ví dụ sớm nhất của lối viết vẫn được sử dụng trong toán học ngày nay, đó là định nghĩa, tiên đề, định lý, và chứng minh. Mặc dù hầu hết các nội dung của "Cơ sở" đều đã được biết đến từ trước, Euclid đã sắp xếp chúng vào một khung tư duy logic và mạch lạc. Cuốn "Cơ sở"
được phổ cập tất cả những người có học vấn ở phương Tây cho đến giữa thế kỷ 20 và nội dung của nó vẫn được giảng dạy trong các lớp học hình học ngày nay. Archimedes (khoảng 287–212 TCN) của Syracuse đã sử dụng phương pháp vét cạn để tính toán diện tích dưới vòng cung của một parabol bằng tổng một chuỗi vô tận, và cho ra kết quả xấp xỉ khá chính xác của số pi. |
Hình học | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1355 | Ông cũng nghiên cứu các xoắn ốc mang tên ông và thu được công thức thể tích của các mặt quay quanh một trục.
Các nhà toán học Ấn Độ cũng có nhiều đóng góp quan trọng trong hình học. Cuốn sách "Satapatha Brahmana" (thế kỷ 3 TCN)
chứa các quy tắc cho công trình xây dựng hình học tương tự như cuốn "Sulba Sutras". Theo (, p. 363), cuốn "Śulba Sūtras" chứa "diễn đạt bằng lời nói tồn tại sớm nhất của định lý Pytago trên thế giới, mặc dù nó đã được những người Babylon cổ đại biết đến từ trước. Chúng chứa danh sách các bộ ba số Pythagore, vốn là trường hợp đặc biệt của phương trình Diophantos. Trong bản thảo Bakhshali, có một vài bài toán hình học (bao gồm cả các bài toán về khối lượng của các chất rắn bất thường). Bản thảo Bakhshali cũng "sử dụng một hệ thống số thập phân với một dấu chấm cho số không." Tác phẩm Aryabhatiya của Aryabhata (499)
bao gồm các công thức tính toán diện tích và khối lượng.
Brahmagupta đã viết tác phẩm thiên văn học "Brāhma Sphuṭa Siddhānta" năm 628. Chương 12 của cuốn này, có 66 câu tiếng Phạn, được chia thành hai phần: "Các phép toán cơ bản" (bao gồm khai căn bậc ba, phân số, tỷ lệ và tỷ lệ thuận) và "toán học thực tế" (bao gồm hỗn hợp, chuỗi toán học, hình học phẳng, xếp gạch, cưa gỗ, và xếp chồng gạo). Trong phần sau, ông nêu định lý nổi tiếng của mình về các đường chéo của một tứ giác nội tiếp. Chương 12 cũng bao gồm một công thức tính diện tích của một tứ giác nội tiếp (một trường hợp tổng quát của công thức Heron), cũng như mô tả đầy đủ các hình tam giác hữu tỷ (hình tam giác với cạnh và diện tích là các số hữu tỷ).
Trong thời kỳ Trung Cổ, các nhà toán học Hồi giáo đã đóng góp vào sự phát triển của hình học, đặc biệt là hình học đại số. Al-Mahani (sinh 853) hình thành các ý tưởng của việc giải các bài toán hình học như biến việc nhân đôi hình lập phương thành giải phương trình đại số. Thābit ibn Qurra (được biết đến với tên Thebit trong tiếng Latinh) (836–901) xử lý các phép tính áp dụng cho tỷ lệ của thông số hình học, và đóng góp cho sự phát triển của hình học giải tích. |
Hình học | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1355 | Omar Khayyám (1048–1131) tìm ra các giải pháp hình học để giải phương trình bậc ba. Định lý của Ibn al-Haytham (Alhazen), Omar Khayyam và Nasir al-Din al-Tusi về tứ giác,bao gồm các tứ giác Lambert và tứ giác Saccheri, là kết quả ban đầu trong hình học hyperbol, và cùng với những tiên đề thay thế của họ, chẳng hạn như tiên đề Playfair, các công trình trên đã có một ảnh hưởng đáng kể đến sự phát triển của hình học phi Euclid, và là tiền đề cho các công trình của các nhà toán học Witelo (c. 1230-c. 1314), Gersonides (1288-1344), Alfonso, John Wallis, và Giovanni Girolamo Saccheri.
Hình học đương đại.
Hình học Euclid.
Hệ tiên đề hình học đầu tiên được tập hợp hệ thống và công bố trong tác phẩm "Cơ sở" của Euclid. Hệ tiên đề này lấy mô hình từ không gian vật lý theo nhận thức của thời đó. Các khái niệm nguyên thủy trong hệ tiên đề này là "điểm","đường thẳng" và "mặt phẳng". Từ ba khái niệm cơ bản này và một số rất ít các tiên đề, Euclid đã xây dựng thành nội dung toàn bộ môn hình học ở phổ thông hiện nay, mà sau này các nhà toán học gọi là hình học Euclid.
Tuy nhiên, các tiên đề/định đề và một số khái niệm do Euclid xây dựng chưa đủ chặt chẽ do chưa có sự hoàn thiện về lý thuyết tập hợp. Sau này David Hilbert đã hoàn chỉnh lại thành một hệ tiên đề chặt chẽ và hoàn chỉnh. Môn hình học dạy trong chương trình phổ thông hiện nay thường chia ra hình học phẳng và hình học không gian.
Hình học là một trong những môn học xuất hiện khá sớm. Hàng ngàn năm trước Công nguyên, con người đã phải đo đạc các thửa ruộng, đong thóc gạo khi thu hoạch, xây dựng những kim tự tháp khổng lồ. Môn hình học lúc đầu ra đời có ý nghĩa là một khoa học về đo đạc. Nhưng rồi, con người không phải chỉ cần đo đất, mà cần nghiên cứu nhiều điều phức tạp hơn. Tuy nhiên, hình học chỉ trở thành môn khoa học thực sự khi con người nêu lên các tính chất hình học bằng con đường suy diễn chặt chẽ, chứ không phải từ đo đạc trực tiếp.
Tiên đề thứ năm của Euclid và Hình học phi Euclid.
Tiên đề thứ năm của Euclid gây nhiều sự chú ý của các nhà toán học vì nội dung của nó khá dài. |
Hình học | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1355 | Theo ngôn ngữ hiện nay thì định đề này có nội dung là:
Nhiều nhà toán học nghi ngờ rằng nó là một định lý, nghĩa là có thể suy ra từ các tiên đề khác và loay hoay tìm cách chứng minh nó. Nhưng không một ai thành công. Đến thế kỷ thứ 19, hầu như đồng thời và độc lập với nhau, ba nhà toán học ở Nga (Nikolai Ivanovich Lobachevsky), Đức (Carl Friedrich Gauss), và Hungary (János Bolyai) đã đặt ra một tư duy mới mẻ: "Chứng minh rằng nó không thể chứng minh được". Điều đó có nghĩa là ta có thể xây dựng một thứ hình học khác, trong đó tiên đề thứ năm là không đúng. Cả ba người đều đạt được kết quả. Từ đó ra đời hình học phi Euclid.
Hình học fractal.
Fractal là một thuật ngữ do nhà Toán học Mandelbrot đưa ra khi ông khảo sát những hình hoặc những hiện tượng trong thiên nhiên không có đặc trưng về độ dài. Mandelbrot là nhà toán học vĩ đại của thế kỷ 20. Ông nó rằng: "Các đám mây không phải là hình cầu, các ngọn núi không phải là hình nón". Theo ông Fractal là chỉ những đối tượng hình học có hình dáng gồ ghề, không trơn nhẵn trong thiên nhiên. Cụ thể hơn đó là những vật thể có tính đối xứng sắp xếp trong một phạm vi nhất định, có nghĩa là khi ta chia một vật thể fractal, với hình dáng gồ ghề, gãy góc ra thành những phần nhỏ thì nó vẫn có được đặc tính đối xứng trong một cấu trúc tưởng như hỗn đoạn. Hình dáng các đám mây, đường đi của các tia chớp là những ví dụ mà ta dễ nhìn thấy được.
Rất nhiều người, khi có dịp làm quen với hình học fractal đã nhanh chóng thích thú có khi đến say mê, bởi nhiều lý do:
Một là, hình học fractal ra đời và phát triển với nhiều ý tưởng mới lạ, độc đáo, gợi cho ta một cách nhìn thiên nhiên khác với cách nhìn quá quen thuộc do hình học Euclid đưa lại từ mấy nghìn năm nay.
Hai là, hình học fractal thường được xây dựng với quy tắc khá đơn giản, nhưng đưa đến những hình ảnh rất lạ mắt, rất đẹp.
Ba là, hình học fractal có nhiều ứng dụng phong phú, đa dạng, có khi rất bất ngờ vào rất nhiều lĩnh vực khác nhau, từ các ngành xây dựng, khai thác dầu khí, chế tạo dụng cụ chính xác… đến sinh lý học, ngôn ngữ học, âm nhạc. |
Hình học | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1355 | Bốn là, hình học fractal là một ngành toán học cao cấp, hiện đại nhưng một số ý tưởng của nó, một số kết quả đơn giản của nó có thể trình bày thích hợp cho đông đảo người đọc.
Hình học Euclid được giới thiệu ở trường trung học với việc khảo sát các hình đa giác, hình tròn, hình đa diện, hình cầu, hình nón…Hơn hai nghìn năm qua hình học Euclid đã có tác dụng to lớn đối với nền văn minh nhân loại, từ việc đo đạc ruộng đất đến vẽ đồ án xây dựng nhà cửa, chế tạo vật dụng và máy móc, từ việc mô tả quỹ đạo của các hành tinh trong hệ mặt trời đến mô tả cấu trúc của nguyên tử. Tuy nhiên, qua hình học Euclid ta nhìn mọi vật dưới dạng "đều đặn", "trơn nhẵn". Với những hình dạng trong hình học Euclid ta không thể hình dung và mô tả được nhiều vật thể rất quen thuộc xung quanh như quả núi, bờ biển, đám mây, nhiều bộ phận trong cơ thể như mạch máu… là những vật cụ thể cực kỳ không đều đặn không trơn nhẵn mà rất xù xì, gồ ghề. Một ví dụ đơn giản: bờ biển đảo Phú Quốc dài bao nhiêu? Ta không thể có được câu trả lời. Nếu dùng cách đo hình học quen thuộc dù thước đo có nhỏ bao nhiêu đi nữa ta cũng đã bỏ qua những lồi lõm giữa hai đầu của thước đo ấy, nhất là chỗ bờ đá nhấp nhô. Và với thước đo càng nhỏ ta có chiều dài càng lớn và có thể là… vô cùng lớn. |
Quốc gia | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1361 | Quốc gia (không nên nhầm với quốc gia tự trị vốn có vị thế nhỏ hơn vì chỉ là tự trị) là một khái niệm không gian, văn minh, xã hội và chính trị; trừu tượng về tinh thần, tình cảm và pháp lý, để chỉ về một lãnh thổ có chủ quyền, một chính quyền và những con người của các dân tộc có trên lãnh thổ đó; họ gắn bó với nhau bằng luật pháp, quyền lợi, văn hóa, tôn giáo, ngôn ngữ, chữ viết qua quá trình lịch sử lập quốc, và những con người chấp nhận nền văn hóa cũng như lịch sử lập quốc đó cùng chịu sự chi phối của chính quyền, và, họ cùng nhau chia sẻ quá khứ cũng như hiện tại và cùng nhau xây dựng một tương lai chung trên vùng lãnh thổ có chủ quyền.
Quốc gia cũng có khi được dùng để chỉ một nước hay đất nước, như "Nước Việt Nam là một quốc gia ở vùng Đông Nam Á". Hai khái niệm này, mặc dù vẫn thường được dùng thay cho nhau, có sắc thái khác nhau.
Tính từ "quốc gia" là dùng để chỉ mức độ quan trọng tầm cỡ quốc gia và/hoặc được chính phủ bảo trợ như "Thư viện quốc gia, Trung tâm lưu trữ quốc gia, Hội đồng quốc gia biên soạn từ điển..."
Về phương diện công pháp quốc tế thì một chủ thể được xem là quốc gia khi có đầy đủ các yếu tố sau: lãnh thổ, dân cư và có chính quyền. Quốc gia là chủ thể quan trọng của quan hệ pháp luật quốc tế.
Hiện nay thì thế giới có 195 quốc gia thuộc Liên Hiệp Quốc, bao gồm 193 quốc gia và 2 quan sát viên là Thành Vatican và Palestine. |
Địa lý | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1364 | Địa lý hay Địa lý học (hay còn gọi tắt là địa) (, nghĩa là "mô tả Trái Đất") là một lĩnh vực khoa học nghiên cứu về các vùng đất, địa hình, dân cư và các hiện tượng trên Trái Đất. Dịch sát nghĩa sẽ là "nhằm mô tả hoặc viết về Trái Đất". Người đầu tiên đề cập đến thuật ngữ này là Eratosthenes (276–194 TCN). Bốn lĩnh vực truyền thống nghiên cứu về địa lý là phân tích không gian của tự nhiên và các hiện tượng con người (như các nghiên cứu về phân bố), nghiên cứu khu vực, nghiên cứu về mối quan hệ con người đất, và nghiên cứu về "Khoa học Trái Đất". Địa lý hiện đại mang tính liên ngành bao gồm tất cả những hiểu biết trước đây về Trái Đất và tất cả những mối quan hệ phức tạp giữa con con người và tự nhiên - không chỉ đơn thuần là nơi có các đối tượng đó, mà còn về cách chúng thay đổi và đến được như thế nào. Địa lý đã được gọi là "ngành học về thế giới" và "cầu nối giữa con người và khoa học vật lý". Địa lý được chia thành hai nhánh chính: Địa lý nhân văn và địa lý tự nhiên.
Chủ đề này bao gồm:
Lịch sử.
Các bản đồ thế giới cổ nhất từng được biết đến có tuổi vào thời Babylon cổ vào thế kỷ IX TCN. Bản đồ thế giới Babylonia nổi tiếng nhất là "Imago Mundi" vào 600 TCN. Bản đồ được Eckhard Unger tái lập thể hiện vị trí của Babylon ở Euphrates, bao bọc xung quanh là các vùng đất có hình tròn gồm Assyria, Urartu và một vài thành phố, các thành phố và vùng đất bên ngoài lại được bao bọc bởi một con sông (Oceanus), có 7 hòn đảo xung quanh nó tạo thành một hình sao 7 đỉnh. Các văn bản kèm theo đề cập đến 7 khu vực bên ngoài đại dương bao la. Trong các miêu tả thì có 5 trong số đó vẫn còn tồn tại. Ngược lại với "Imago Mundi", một bản đồ thế giới Babylon trước đó có tuổi vào thể kỷ 9 TCNd mô tả Babylon nằm về phía bắc từ trung tâm thế giới, mặc dù nó không xác định rõ ràng cái gì là trung tâm.
Theo cách tiếp cận, địa lý được chia thành hai nhánh chính: địa lý chung và địa lý khu vực. |
Địa lý | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1364 | Địa lý nói chung là phân tích và nghiên cứu vật lý và địa lý nhân văn, trong khi các khu vực địa lý là súc tích và giải quyết các hệ thống lãnh thổ cụ thể. Tuy nhiên, sự kết nối giữa hai ngành có truyền thống là một vấn đề của cuộc tranh luận trong địa lý.
Địa lý khu vực.
Địa lý khu vực là nghiên cứu về các khu vực trên thế giới. Chú ý đến đặc điểm độc đáo của một vùng cụ thể như các yếu tố tự nhiên, yếu tố con người, và khu vực bao gồm các kỹ thuật phân định không gian vào khu vực.
Địa lý trong khu vực cũng là một phương pháp nhất định để nghiên cứu địa lý, địa lý so sánh với số lượng hoặc vị trí địa lý quan trọng. Cách tiếp cận này chiếm ưu thế trong nửa sau của thế kỷ XIX và nửa đầu thế kỷ XX, một thời gian khi mô hình địa lý sau đó khu vực là trung tâm trong các ngành khoa học địa lý. Sau đó bị chỉ trích vì tính miêu tả của nó và thiếu cơ sở lý thuyết. Chỉ trích mạnh mẽ trong những năm 1950 và cuộc cách mạng về số lượng. Các nhà chỉ trích chính là G. H. T. Kimble and Fred K. Schaefer.
Địa lý tự nhiên.
Địa lý tự nhiên là một phân ngành của địa lý chủ yếu hoạt động trong lĩnh vực nghiên cứu hệ thống hóa các mô hình và quá trình diễn ra trong thủy quyển, sinh quyển, khí quyển, thổ quyển và thạch quyển. Nó có ý định giúp người ta hiểu sự sắp xếp tự nhiên của Trái Đất, khí hậu và các kiểu mẫu hệ thực vật và động vật của nó. Nhiều lĩnh vực của địa lý tự nhiên sử dụng các kiến thức của địa chất học, cụ thể là trong nghiên cứu về phong hóa và xói mòn. Địa chất học các hành tinh khác trong hệ Mặt Trời, xem bài Đặc trưng địa chất của hệ Mặt Trời.
Địa lý tự nhiên trong vai trò của một ngành khoa học thông thường tương phản và bổ sung cho ngành khoa học chị em của nó là Địa lý nhân văn.
Địa lý nhân văn.
Địa lý nhân văn là một trong 2 phân ngành của địa lý. Địa lý nhân văn là một nhánh của khoa học xã hội nghiên cứu về thế giới, con người, cộng đồng và văn hóa có sự nhấn mạnh mối liên hệ của không gian và vị trí địa lý. |
Địa lý | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1364 | Địa lý nhân văn khác với địa lý tự nhiên chủ yếu tập trung nhiều vào nghiên cứu các hoạt động của con người và dễ tiếp thu các phương pháp nghiên cứu định lượng hơn. |
Cơ học cổ điển | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1376 | Cơ học cổ điển mô tả chuyển động của các vật thể vĩ mô, từ các vật phóng lên đến các bộ phận của máy móc và các vật thể thiên văn, như tàu vũ trụ, hành tinh, sao và thiên hà.
Nếu trạng thái hiện tại của một vật thể được biết đến, có thể dự đoán theo định luật cơ học cổ điển nó sẽ di chuyển như thế nào trong tương lai (tính xác định) và cách nó di chuyển trong quá khứ (tính thuận nghịch).
Sự phát triển sớm nhất của cơ học cổ điển thường được gọi là cơ học Newton. Nó bao gồm các khái niệm vật lý được sử dụng và các phương pháp toán học được phát minh bởi Isaac Newton, Gottfried Wilhelm Leibniz và những nhà khoa học khác trong thế kỷ 17 để mô tả chuyển động của các vật thể dưới ảnh hưởng của một hệ thống lực.
Sau đó, các phương pháp trừu tượng hơn đã được phát triển, dẫn đến các cải cách của cơ học cổ điển được gọi là cơ học Lagrange và cơ học Hamilton. Những tiến bộ này, được thực hiện chủ yếu trong thế kỷ 18 và 19, vượt xa đáng kể công việc của Newton, đặc biệt thông qua việc sử dụng cơ học phân tích. Các hệ cơ học này với một số sửa đổi, cũng được sử dụng trong tất cả các lĩnh vực vật lý hiện đại.
Cơ học cổ điển cung cấp kết quả cực kỳ chính xác khi nghiên cứu các vật thể lớn không cực lớn và tốc độ không đạt tới tốc độ ánh sáng. Khi các vật thể được kiểm tra có kích thước bằng đường kính nguyên tử, cần phải giới thiệu một lĩnh vực cơ bản chính khác: cơ học lượng tử. Để mô tả vận tốc không nhỏ so với tốc độ ánh sáng, cần có tính tương đối đặc biệt. Trong trường hợp các đối tượng trở nên cực kỳ lớn, thuyết tương đối rộng sẽ được áp dụng. Tuy nhiên, một số nguồn hiện đại bao gồm cơ học tương đối tính vào vật lý cổ điển, theo quan điểm của họ đại diện cho cơ học cổ điển ở dạng phát triển và chính xác nhất.
Mô tả lý thuyết.
Sau đây giới thiệu các khái niệm cơ bản của cơ học cổ điển. Để đơn giản, nó thường mô hình các đối tượng trong thế giới thực dưới dạng các hạt điểm (các đối tượng có kích thước không đáng kể). |
Cơ học cổ điển | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1376 | Chuyển động của một hạt điểm được đặc trưng bởi một số lượng nhỏ các tham số: vị trí, khối lượng của nó và các lực tác dụng lên nó. Mỗi tham số được thảo luận lần lượt.
Trong thực tế, các loại đối tượng mà cơ học cổ điển có thể mô tả luôn có kích thước khác không. (Vật lý của các hạt "rất" nhỏ, như electron, được mô tả chính xác hơn bằng cơ học lượng tử.) Các vật thể có kích thước khác không có hành vi phức tạp hơn các hạt điểm giả thuyết, vì mức độ tự do bổ sung, ví dụ, một quả bóng chày có thể quay trong khi nó đang di chuyển. Tuy nhiên, kết quả cho các hạt điểm có thể được sử dụng để nghiên cứu các vật thể đó bằng cách coi chúng là các vật thể tổng hợp, được tạo thành từ một số lượng lớn các hạt điểm tác động tập thể. Tâm khối lượng của một vật thể tổng hợp hoạt động giống như một hạt điểm.
Cơ học cổ điển sử dụng các khái niệm thông thường về cách vật chất và lực tồn tại và tương tác. Nó giả định rằng vật chất và năng lượng có các thuộc tính xác định, có thể biết được như vị trí trong không gian và tốc độ. Cơ học không tương đối cũng giả định rằng các lực có tác động tức thời.
Vị trí và các dẫn xuất của nó.
Vị "trí" của hạt điểm được xác định liên quan đến hệ tọa độ tập trung vào điểm tham chiếu cố định tùy ý trong không gian gọi là gốc "O." Một hệ tọa độ đơn giản có thể mô tả vị trí của hạt "P" với một vectơ được ký hiệu bởi một mũi tên có nhãn r chỉ từ gốc "O" đến điểm "P." Nói chung, hạt điểm không cần đứng yên so với "O." Trong trường hợp "P" di chuyển so với "O", r được định nghĩa là hàm của "t", thời gian. Trong thuyết tương đối tiền Einstein (được gọi là thuyết tương đối Galilê), thời gian được coi là tuyệt đối, tức là khoảng thời gian được quan sát để trôi qua giữa bất kỳ cặp sự kiện nào là giống nhau cho tất cả các nhà quan sát. Ngoài việc dựa vào thời gian tuyệt đối, cơ học cổ điển giả định hình học Euclide cho cấu trúc của không gian.
Vận tốc và tốc độ. |
Cơ học cổ điển | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1376 | Vận tốc và tốc độ.
"Vận tốc", hoặc tốc độ thay đổi vị trí theo thời gian, được định nghĩa là đạo hàm của vị trí theo thời gian:
formula_1
Trong cơ học cổ điển, vận tốc có thể trực tiếp cộng và trừ. Ví dụ: nếu một chiếc xe đi về hướng đông ở 60 km/h và vượt qua một chiếc xe khác đi cùng chiều ở 50 km/h, chiếc xe chậm hơn nhận thấy chiếc xe nhanh hơn khi đi về phía đông ở mức . Tuy nhiên, từ góc độ của chiếc xe nhanh hơn, chiếc xe chậm hơn đang di chuyển 10 km/h về phía tây, thường được ký hiệu là -10 km/h trong đó dấu hiệu ngụ ý ngược lại. Vận tốc là phụ gia trực tiếp như ; chúng phải được xử lý bằng cách sử dụng phân tích vector.
Về mặt toán học, nếu vận tốc của đối tượng thứ nhất trong cuộc thảo luận trước được biểu thị bằng vectơ và vận tốc của đối tượng thứ hai bởi vectơ , trong đó "u" là tốc độ của đối tượng thứ nhất, "v" là tốc độ của vật thứ hai và d và e là các vectơ đơn vị theo hướng chuyển động của từng vật tương ứng, khi đó vận tốc của vật thứ nhất mà vật thứ hai nhìn thấy là
formula_2
Tương tự, đối tượng thứ nhất nhìn thấy vận tốc của đối tượng thứ hai là
formula_3
Khi cả hai đối tượng đều chuyển động theo cùng một hướng, phương trình này có thể được đơn giản hóa thành
formula_4
Hoặc, bằng cách bỏ qua hướng, sự khác biệt chỉ có thể được đưa ra về mặt tốc độ:
formula_5
Gia tốc.
"Gia tốc", hoặc tốc độ thay đổi của vận tốc, là đạo hàm của vận tốc theo thời gian (đạo hàm thứ hai của vị trí đối với thời gian):
formula_6
Gia tốc thể hiện sự thay đổi của vận tốc theo thời gian. Vận tốc có thể thay đổi theo cường độ hoặc hướng hoặc cả hai. Đôi khi, việc giảm độ lớn của vận tốc " "v" " được gọi là "giảm tốc", nhưng nói chung, bất kỳ thay đổi nào về vận tốc theo thời gian, bao gồm cả giảm tốc, được gọi đơn giản là gia tốc.
Hệ quy chiếu. |
Cơ học cổ điển | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1376 | Hệ quy chiếu.
Trong khi vị trí, vận tốc và gia tốc của hạt có thể được mô tả đối với bất kỳ người quan sát nào trong bất kỳ trạng thái chuyển động nào, cơ học cổ điển giả định sự tồn tại của một hệ quy chiếu đặc biệt trong đó các quy luật cơ học của tự nhiên có dạng tương đối đơn giản. Những hệ quy chiếu đặc biệt này được gọi là hệ quy chiếu quán tính. hệ quy chiếu quán tính là một hệ quy chiếu lý tưởng hóa trong đó một đối tượng không có ngoại lực tác động lên nó. Do không có ngoại lực tác dụng lên nó nên vật có vận tốc không đổi; nghĩa là, nó ở trạng thái nghỉ hoặc di chuyển đồng đều theo một đường thẳng.
Một khái niệm chính của hệ quy chiếu quán tính là phương pháp để xác định chúng. Đối với các mục đích thực tế, các hệ quy chiếu không tăng tốc đối với các ngôi sao ở xa (một điểm cực kỳ xa) được coi là các xấp xỉ tốt cho các hệ quy chiếu quán tính. Các hệ quy chiếu không quán tính tăng tốc liên quan đến hệ quy chiếu quán tính hiện có. Chúng tạo thành nền tảng cho thuyết tương đối của Einstein. Do chuyển động tương đối, các hạt trong hệ quy chiếu không quán tính dường như di chuyển theo những cách không được giải thích bởi các lực từ các trường hiện có trong hệ quy chiếu. Do đó, dường như có các lực khác đi vào các phương trình chuyển động chỉ là kết quả của gia tốc tương đối. Các lực lượng này được gọi là lực lượng hư cấu, lực quán tính hoặc lực lượng giả.
Xét hai hệ quy chiếu "S" và S'. Đối với người quan sát trong mỗi hệ quy chiếu, một sự kiện có tọa độ không gian thời gian là ("x", "y", "z", "t") trong hệ quy chiếu "S" và (x ', y', z ', t') trong hệ quy chiếu S '. Giả sử thời gian được đo như nhau trong tất cả các hệ quy chiếu và nếu chúng ta yêu cầu khi , thì mối quan hệ giữa các tọa độ không gian thời gian của cùng một sự kiện được quan sát từ các hệ quy chiếu S' và "S", đang di chuyển với vận tốc tương đối của "u" theo hướng "x" là:
Tập hợp các công thức này xác định một phép biến đổi nhóm được gọi là phép biến đổi Galilê.. Nhóm này là một trường hợp giới hạn của nhóm Poincaré được sử dụng trong thuyết tương đối hẹp. Trường hợp giới hạn áp dụng khi vận tốc "u" rất nhỏ so với "c", tốc độ ánh sáng. |
Cơ học cổ điển | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1376 | Các biến đổi có hậu quả sau đây:
Đối với một số vấn đề, thuận tiện khi sử dụng tọa độ xoay (hệ quy chiếu). Do đó, người ta có thể giữ một ánh xạ tới một hệ quy chiếu quán tính thuận tiện, hoặc giới thiệu thêm một lực ly tâm hư cấu và lực Coriolis.
Lực; Định luật thứ hai của Newton.
Một lực trong vật lý là bất kỳ hành động nào làm cho vận tốc của vật thể thay đổi; đó là, để tăng tốc. Một lực bắt nguồn từ bên trong một trường, chẳng hạn như trường tĩnh điện (gây ra bởi điện tích tĩnh), từ trường điện (gây ra bởi điện tích chuyển động) hoặc trường hấp dẫn (gây ra bởi khối lượng), trong số những trường khác.
Newton là người đầu tiên thể hiện một cách toán học mối quan hệ giữa lực và động lượng. Một số nhà vật lý giải thích định luật chuyển động thứ hai của Newton là một định nghĩa về lực và khối lượng, trong khi những người khác coi đó là một định đề cơ bản, một định luật tự nhiên. Cả hai cách giải thích đều có cùng hậu quả toán học, trong lịch sử được gọi là "Định luật thứ hai của Newton":
formula_11
Đại lượng "m" v được gọi là động lượng. Do đó, lực ròng tác dụng lên một hạt bằng tốc độ thay đổi động lượng của hạt theo thời gian. Vì định nghĩa của gia tốc là , nên luật thứ hai có thể được viết dưới dạng đơn giản và quen thuộc hơn:
formula_12
Chừng nào lực tác dụng lên một hạt được biết đến, định luật thứ hai của Newton là đủ để mô tả chuyển động của hạt. Khi các quan hệ độc lập cho mỗi lực tác dụng lên một hạt có sẵn, chúng có thể được thay thế thành định luật thứ hai của Newton để có được phương trình vi phân thông thường, được gọi là "phương trình chuyển động".
Ví dụ, giả sử rằng ma sát là lực duy nhất tác dụng lên hạt và nó có thể được mô hình hóa như là một hàm của vận tốc của hạt:
formula_13
Trong đó "λ" là hằng số dương, dấu âm cho biết lực ngược chiều với cảm giác của vận tốc. Khi đó phương trình chuyển động là
formula_14
Biểu thức này có thể được tích phân để có được
formula_15
trong đó v 0 là vận tốc ban đầu. Điều này có nghĩa là vận tốc của hạt này phân rã theo cấp số mũ về 0 khi thời gian tăng. |
Cơ học cổ điển | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1376 | Trong trường hợp này, một quan điểm tương đương là động năng của hạt được hấp thụ bởi ma sát (chuyển đổi nó thành năng lượng nhiệt theo sự bảo toàn năng lượng) và hạt đang chậm lại. Biểu thức này có thể được tích hợp thêm để có được vị trí r của hạt như là một hàm của thời gian.
Các lực quan trọng bao gồm lực hấp dẫn và lực Lorentz cho lực điện từ. Ngoài ra, định luật thứ ba của Newton đôi khi có thể được sử dụng để suy ra các lực tác dụng lên một hạt: nếu biết rằng hạt "A" tác dụng một lực F lên một hạt "B khác", thì theo đó "B" phải tác dụng một "lực phản ứng" bằng nhau và ngược chiều, - F, trên "A." Dạng mạnh của định luật thứ ba của Newton yêu cầu F và - F hành động dọc theo đường nối "A" và "B", trong khi dạng yếu thì không. Minh họa về hình thức yếu của định luật thứ ba của Newton thường được tìm thấy cho lực từ.
Công và năng lượng.
Nếu một lực không đổi F được áp dụng cho một hạt mà làm cho một r chuyển Δ, "công được thực hiện" bởi các lực được định nghĩa là tích vô hướng của lực lượng và vectơ chuyển:
formula_16
Tổng quát hơn, nếu lực thay đổi theo chức năng của vị trí khi hạt di chuyển từ r 1 đến r 2 dọc theo đường "C", thì công thực hiện trên hạt được tính theo tích phân đường:
formula_17
Nếu công được thực hiện trong việc di chuyển hạt từ r1 đến r2 là như nhau cho dù con đường nào được thực hiện, thì lực được cho là bảo toàn. Trọng lực là một lực bảo toàn, cũng như lực do một lò xo lý tưởng hóa, được tính theo luật Hooke. Các lực do ma sát là không bảo toàn.
Động năng "E"k của hạt có khối lượng "m" di chuyển với tốc độ "v" được cho bởi
formula_18
Đối với các vật thể mở rộng gồm nhiều hạt, động năng của vật thể tổng hợp là tổng động năng của các hạt. |
Cơ học cổ điển | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1376 | Định lý năng lượng của công quy định rằng đối với một hạt có khối lượng "m" không đổi, tổng công "W" thực hiện trên hạt khi nó chuyển từ vị trí r1 sang r2 bằng với sự thay đổi động năng "E" k của hạt:
formula_19
Các lực bảo toàn có thể được biểu thị dưới dạng độ dốc của hàm vô hướng, được gọi là thế năng và ký hiệu là "E"p:
formula_20
Nếu tất cả các lực tác dụng lên một hạt đều là các lực bảo toàn và "E"p là tổng năng lượng tiềm năng (được định nghĩa là công của các lực liên quan để sắp xếp lại các vị trí lẫn nhau của các cơ thể), thu được bằng cách tổng hợp các năng lượng tiềm năng tương ứng với mỗi lực
formula_21
Sự giảm thế năng bằng với sự gia tăng của động năng
formula_22
Kết quả này được gọi là "bảo toàn năng lượng" và nói rằng tổng năng lượng,
formula_23
là không đổi trong thời gian. Nó thường hữu ích, bởi vì nhiều lực thường gặp là có tính bảo toàn.
Vượt ra ngoài các định luật của Newton.
Cơ học cổ điển cũng mô tả các chuyển động phức tạp hơn của các vật thể phi điểm mở rộng. Luật chuyển động của Euler cung cấp các phần mở rộng cho các định luật của Newton trong lĩnh vực này. Các khái niệm về động lượng góc dựa vào cùng một phép tính được sử dụng để mô tả chuyển động một chiều. Phương trình tên lửa mở rộng khái niệm tốc độ thay đổi động lượng của một vật thể để bao gồm các tác động của một vật thể "mất khối lượng".
Có hai công thức thay thế quan trọng của cơ học cổ điển: cơ học Lagrange và cơ học Hamilton. Chúng, và các công thức hiện đại khác, thường bỏ qua khái niệm "lực", thay vào đó đề cập đến các đại lượng vật lý khác, chẳng hạn như năng lượng, tốc độ và động lượng, để mô tả các hệ cơ học theo tọa độ tổng quát.
Các biểu thức được đưa ra ở trên cho động lượng và động năng chỉ có giá trị khi không có đóng góp điện từ đáng kể. Trong điện từ, định luật thứ hai của Newton đối với các dây mang dòng điện bị phá vỡ trừ khi người ta bao gồm sự đóng góp của trường điện từ cho động lượng của hệ thống như được biểu thị bởi vectơ Poynting chia cho "c"2, trong đó "c" là tốc độ ánh sáng trong chân không.
Lịch sử. |
Cơ học cổ điển | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1376 | Lịch sử.
Những viên gạch đầu tiên của bộ môn cơ học dường như được xây nền từ thời Hy Lạp cổ đại. Những kết quả nghiên cứu đầu tiên được ngày nay biết đến là của Archimedes (287-212 TCN). Chúng bao gồm định lý mang tên ông trong thủy tĩnh học, khái niệm về khối tâm và nghiên cứu cân bằng của đòn bẩy.
Cơ học chỉ được đánh thức vào thời kỳ Phục Hưng ở châu Âu với những tiến bộ vượt bậc vào thế kỉ 16. Trong suốt đêm trường thời Trung Cổ, những lý thuyết ngụy biện của Aristote (384-322 TCN) đã ngăn trở rất nhiều sự đi lên của khoa học đích thực. Vào thời này, có Leonardo da Vinci (1452-1519) với những nghiên cứu về tĩnh học. Tuy nhiên những tên tuổi lớn nhất của giai đoạn huy hoàng này chính là nhà khoa học người Ba Lan Nicolai Copernic (1473-1543) - người đã phủ nhận mô hình với Trái Đất là trung tâm vũ trụ của Ptolémée (xem thuyết địa tâm) và mô tả những chuyển động đúng đắn của hệ Mặt Trời, là nhà thiên văn học người Đức Johannes Kepler (1571-1630) - người đã phát biểu ba định luật mang tên ông về sự chuyển động của các hành tinh, là nhà bác học thiên tài người Ý Galileo Galilei (1564-1642). Có thể nói Galileo là ông tổ khai sáng ra động lực học: ông đã đưa ra khái niệm gia tốc, phát biểu vào năm 1632 nguyên lý tương đối Galileo và nguyên lý quán tính. Ông cũng đã nghiên cứu đến rất nhiều những vấn đề khác nhau của cơ học: con lắc, mặt phẳng nghiêng, sự rơi tự do.
Kế tiếp sau đó, sang thế kỉ 17, nhà khoa học người Pháp Blaise Pascal (1623-1662) đã có những nghiên cứu quan trọng về thủy tĩnh học. Nhà vật lý người Hà Lan Christiaan Huygens (1629-1695) đã phân tích chuyển động quay, đặc biệt là những dao động của con lắc và đưa ra khái niệm về động năng cũng như về lực hướng tâm. Đặc biệt, nhà bác học người Anh Isaac Newton (1642-1727) đã xuất bản cuốn sách "Philosphiae naturalis principia mathematica" ("Những nguyên lý toán học của triết học tự nhiên") trong đó có nêu lên ba định luật mang tên ông, tạo nên nền tảng của cơ học cổ điển. Chúng ta cũng biết đến Newton với định luật vạn vật hấp dẫn do một lần nhìn thấy táo rơi. |
Cơ học cổ điển | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1376 | Thế kỉ 18 được xem như là thế kỉ của cơ học giải tích. Nhà bác học người Thụy Sĩ Leonhard Euler (1707-1783) đã phát biểu những phương trình về cơ học chất lưu. Ông cũng tham gia vào việc xây dựng nên ngành cơ học giải tích cùng với Louis Joseph Lagrange (1736-1813) và Jean Le Rond d'Alembert (1717-1783).
Tiếp theo đó, sự phát triển của cơ học cổ điển đã đạt tới giới hạn với những ứng dụng tuyệt vời. Ví dụ như Pierre-Simon Laplace (1749-1827) đã cải thiện sự chính sáng về sự ra đời của chuyển động các hành tinh nhờ vào phương pháp nhiễu loạn. Urbain Le Verrier (1811-1877) đã tiên đoán trước sự tồn tại của Sao Hải Vương bằng chính phương pháp này. Ngoài ra, ông cũng đã khám phá ra sự gần lại của cận điểm của Sao Thủy. Tuy nhiên chính kết quả này lại đánh dấu một trong những giới hạn của cơ học Newton: kết quả này chỉ có thể được giải thích dựa vào cơ học tương đối. William Rowan Hamilton (1805-1865) đã đề xuất ra phép khai triển chính được biết đến với tên phương trình Hamilton. Chúng ta cũng có thể kể đến Henri Poincaré (1854-1912) với những đóng góp trong cơ học tính toán.
Cuối cùng có rất nhiều sự mở rộng của cơ học cổ điển trong lĩnh vực về các môi trường liên tục (thủy động lực học hoặc môi trường chịu biến dạng).
Chúng ta cũng không được phép quên rằng mặc dù ngày nay đã có rất nhiều những phát minh và khám phá trong cơ học lượng tử và cơ học tương đối ở thế kỉ 20 nhưng những nghiên cứu về hệ hỗn độn trong những năm 1970, về những áp dụng của cơ học cổ điển vẫn là một phần to lớn trong lâu đài vật lý học. Mặt khác, vẫn còn đó nguyên vẹn rất nhiều vấn đề chưa được giải quyết trong cơ học cổ điển, đặc biệt là những vấn đề liên quan đến dao động kép.
"xem Lịch sử cơ học"
Phát minh nghiên cứu.
Người ta phân biệt các phần khác nhau trong cơ học cổ điển:
Cũng có thể chia cơ học thành hai nhánh: |
Hóa hữu cơ | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1378 | Hóa hữu cơ hay hóa học hữu cơ là một phân ngành hóa học nghiên cứu về cấu trúc, tính chất, thành phần và phản ứng hóa học của những hợp chất hữu cơ và vật liệu hữu cơ (các hợp chất chứa cacbon). Nghiên cứu cấu trúc xác định thành phần hóa học và công thức của hợp chất. Nghiên cứu tính chất bao gồm các tính chất vật lý và hóa học, và đánh giá khả năng phản ứng hóa học để hiểu được hành vi của chúng. Nghiên cứu các phản ứng hữu cơ bao gồm tổng hợp hóa học các sản phẩm tự nhiên, thuốc và polyme, và nghiên cứu các phân tử hữu cơ riêng lẻ trong phòng thí nghiệm và thông qua nghiên cứu lý thuyết (trong silico).
Phạm vi của các hóa chất được nghiên cứu trong hóa học hữu cơ bao gồm hydrocarbon (hợp chất chỉ chứa cacbon và hydro) cũng như các hợp chất dựa trên cacbon, nhưng cũng chứa các nguyên tố khác, đặc biệt là oxi, nitơ, lưu huỳnh, phosphor (bao gồm nhiều trong ngành hóa sinh) và các halogen.
Trong kỷ nguyên hiện đại, phạm vi được mở rộng hơn nữa trong bảng tuần hoàn, với các nguyên tố thuộc nhóm chính, bao gồm:
Ngoài ra, các nghiên cứu đương đại tập trung vào hóa học hữu cơ còn liên quan đến các chất hữu cơ khác bao gồm lanthanide, nhưng đặc biệt là các kim loại chuyển tiếp như kẽm, đồng, palladi, niken, coban, titan và crôm.
Các hợp chất hữu cơ tạo thành nền tảng của tất cả sự sống trên Trái Đất và tạo thành phần lớn các hóa chất được biết đến. Các mô hình liên kết của cacbon, với hóa trị bốn - liên kết đơn, đôi và ba, cộng thêm các cấu trúc với các electron bất định - làm cho các hợp chất hữu cơ rất đa dạng về cấu trúc và phạm vi ứng dụng của chúng rất lớn. Chúng tạo thành cơ sở, hoặc là thành phần của nhiều sản phẩm thương mại bao gồm cả dược phẩm; hóa dầu và hóa chất nông nghiệp, và các sản phẩm làm từ chúng bao gồm dầu nhờn, dung môi; nhựa; nhiên liệu và chất nổ. Nghiên cứu về hóa học hữu cơ không chỉ chồng chéo với các ngành hóa học cơ kim và hóa sinh, mà còn với hóa học dược phẩm, hóa học polyme và khoa học vật liệu.[1]
Lịch sử. |
Hóa hữu cơ | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1378 | [1]
Lịch sử.
Trước thể kỷ 19, các nhà hóa học nhìn chung tin rằng các hợp chất thu được từ các sinh vật sống được thừa hưởng một sức sống có thể phân biệt chúng với những hợp chất vô cơ. Theo quan điểm về sức sống, các vật chất hữu cơ được sở hữu một "sức sống" (vital force). Trong suốt nửa đầu thế kỷ XIX, một vài nghiên cứu có hệ thống đầu tiên về các hợp chất hữu cơ đã được công bố. Khoảng năm 1816 Michel Chevreul đã nghiên cứu xà phòng làm từ nhiều loại mỡ khác nhau và kiềm. Ông đã tách các axit khác nhau, khi kết hợp với kiềm, để tạo ra xà phòng. Vì chúng là tất cả các hợp chất riêng biệt, nên ông đã minh họa rằng nó có thể tạo ra thay đổi về hóa học giữa những loại mỡ khác nhau (thường từ các nguồn hữu cơ), tạo ra các hợp chất mới, mà không có "sức sống". Năm 1828 Friedrich Wöhler đã tạo ra ure hóa hữu cơ (carbamide), một thành phần của urine, từ ammoni cyanat NH4CNO vô cơ, chất mà ngày nay được gọi là tổng hợp Wöhler. Mặc dù Wöhler luôn thận trọng trong việc tuyên bố rằng ông đã bác bỏ các lý thuyết về sức sống, sự kiện này được coi là một bước ngoặt.
Năm 1856 William Henry Perkin, trong khi đang cố gắng chế quinine, đã tạo ra chất nhuộm hữu cơ một cách tình cơ hiện được gọi là Perkin's mauve. Từ thành công về tài chính này của ông, sự phát hiện của ông đã tạo nên mối quan tâm lớn đối với hóa hữu cơ.
Bước đột phá quan trọng trong hóa hữu cơ là quan điểm về cấu trúc hóa học đã phát triển một cách độc lập và đồng thời bởi Friedrich August Kekulé và Archibald Scott Couper năm 1858.
Ngành công nghiệp dược bắt đầu trong cuối thập niên của thế kỷ XIX khi việc sản xuất ra axit acetylsalicylic (hay aspirin) ở Đức bắt đầu bởi Bayer.
Đặc điểm.
Chất hữu cơ thường tồn tại dưới dạng hỗn hợp, khoa học hiện đại đã phát triển nhiều phương pháp để đánh giá độ tinh sạch, đặc biệt quan trọng phải kể đến là kỹ thuật sắc ký như sắc ký lỏng hiệu năng cao (HPLC) và sắc ký khí. Bên cạnh đó là các phương pháp thông thường để tách chiết như chưng cất, kết tinh, và chiết bằng dung môi. |
Hóa hữu cơ | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1378 | Các hợp chất hữu cơ thông thường được định danh bằng các thí nghiệm hóa học, thường được gọi là "phương pháp ướt" (dùng nhiều các thuốc thử để định tính trong dung dịch). Tuy vậy các phương pháp đó đã dần được thay thế bằng các phương pháp quang phổ hay các máy phân tích chuyên sâu. Các phương pháp phân tích sau được liệt kê theo thứ tự tiện ích cũng tăng dần của phương pháp:
Các phương pháp quang phổ truyền thống như phổ hồng ngoại (IR), máy đo độ quay cực, phổ tử ngoại khả kiến (UV/VIS) tuy chỉ cung cấp những thông tin tương đối kém đặc hiệu về cấu trúc của hợp chất hữu cơ nhưng vẫn còn được sử dụng khá phổ biến để phân loại và nhận danh các hợp chất hữu cơ.
Tính chất.
Tính chất vật lý của các hợp chất hữu cơ thường bao gồm định tính và định lượng. Các thông số cho quá trình định lượng bao gồm điểm nóng chảy, điểm sôi, và chỉ số khúc xạ. Định tính bao gồm nhận biết về mùi, độ đồng nhất, độ tan, và màu sắc.
Điểm nóng chảy và điểm sôi.
Hợp chất hữu cơ rất dễ nóng chảy hay sôi. Ngược lại, trong khi các vật liệu vô cơ nói chung có thể bị nóng chảy, nhiều chất không thể đun sôi, thay vào đó có xu hướng phân hủy. Trước đây, điểm nóng chảy (m.p.) và điểm sôi (b.p.) cung cấp những thông tin cơ bản về độ tinh khiết và định danh sơ lược các hợp chất hữu cơ. Chúng có mối tương quan với tính phân cực của phân tử và khối lượng phân tử. Vài chất hữu cơ, đặc biệt là các hợp chất đối xứng dễ bay hơi hơn là tan chảy. Các chất hữu cơ thường không ổn định ở nhiệt độ trên 300 °C, nói cách khác, chúng dễ bị phân hủy khi vượt quá nhiệt độ trên, mặc dù có một số ngoại lệ.
Độ hòa tan.
Chất hữu cơ không phân cực có xu hướng kỵ nước, nghĩa là chúng ít tan trong nước và tan nhiều trong các dung môi hữu cơ khác. Có một vài ngoại lệ với một số chất hữu cơ có trọng lượng phân tử thấp như rượu, amine, và acid carboxylic nhờ các liên kết hydro. Các chất hữu cơ thường dễ tan trong dung môi hữu cơ. |
Hóa hữu cơ | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1378 | Dung môi có thể là ether tinh khiết hay rượu ethanol, hay hỗn hợp, cũng có thể là các dung môi thân dầu như ether dầu hỏa hoặc các dung môi có vòng benzen khác chưng cất phân đoạn và tinh chế lại từ dầu hỏa. Độ hòa tan trong các dung môi khác nhau tùy thuộc vào loại dung môi và các nhóm chức hiện diện.
Tính chất ở thể rắn.
Các tính chất đặc biệt khác nhau của tinh thể phân tử và polyme hữu cơ với các hệ liên hợp được quan tâm tùy thuộc vào các ứng dụng, ví dụ: cơ nhiệt và cơ điện như tính áp điện, tính dẫn điện (xem polyme dẫn điện và chất bán dẫn hữu cơ) và tính chất quang điện (ví dụ: quang học phi tuyến tính). Vì lý do lịch sử, các tính chất như vậy chủ yếu là chủ đề của các lĩnh vực khoa học polyme và khoa học vật liệu.
Danh pháp.
Tên của các hợp chất hữu cơ là có hệ thống, theo logic từ một tập hợp các quy tắc, hoặc không hệ thống, theo các truyền thống khác nhau. Danh pháp hệ thống được quy định bởi IUPAC. Danh pháp hệ thống bắt đầu bằng tên của cấu trúc cha mẹ trong phân tử quan tâm. Tên cha mẹ này sau đó được sửa đổi bởi các tiền tố, hậu tố và số để truyền tải rõ ràng cấu trúc. Cho rằng có hàng triệu hợp chất hữu cơ được biết đến, việc sử dụng nghiêm ngặt các tên có hệ thống có thể rất cồng kềnh. Do đó, khuyến nghị rằng tên IUPAC nên được theo dõi chặt chẽ hơn đối với các hợp chất đơn giản, nhưng không cần thiết để áp dụng cho các phân tử phức tạp hơn. Để sử dụng cách đặt tên có hệ thống, người ta phải biết các cấu trúc và tên của các cấu trúc cha mẹ. Cấu trúc cha mẹ bao gồm hydrocacbon không phân hủy, dị vòng và các dẫn xuất đơn chức của chúng.
Danh pháp không hệ thống đơn giản hơn và không mơ hồ, ít nhất là đối với các nhà hóa học hữu cơ. Tên không hệ thống không chỉ ra cấu trúc của hợp chất. Chúng phổ biến cho các phân tử phức tạp, bao gồm hầu hết các sản phẩm tự nhiên. Ví dụ, hợp chất LSD (tên không chính thức) có tên hệ thống là (6aR,9R)-N,N-diethyl-7-methyl-4,6,6a,7,8,9-hexahydroindolo-[4,3-fg] quinoline-9-carboxamide. |
Hóa hữu cơ | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1378 | Với việc sử dụng điện toán ngày càng tăng, các phương pháp đặt tên khác đã phát triển dự định sẽ được giải thích bằng máy móc. Hai định dạng phổ biến là SMILES và InChI.
Phác cấu trúc.
Các phân tử hữu cơ được mô tả phổ biến hơn bằng hình minh họa hoặc công thức cấu trúc, sự kết hợp của hình vẽ và ký hiệu hóa học. Công thức thu gọn nhất rất đơn giản và không mơ hồ. Trong hệ thống này, các điểm cuối và giao điểm của mỗi dòng đại diện cho một cacbon và các nguyên tử hydro có thể được ghi chú rõ ràng hoặc được giả sử là có mặt như được ngụ ý bởi hóa trị của cacbon.
Phân loại hợp chất hữu cơ.
Nhóm chức.
Khái niệm về các nhóm chức là trung tâm trong hóa học hữu cơ, vừa là phương tiện để phân loại các cấu trúc, vừa để dự đoán các thuộc tính của hợp chất. Một nhóm chức là một mô-đun phân tử, và khả năng phản ứng của nhóm chức đó được giả định, trong giới hạn, giống hệt nhau giữa nhiều loại phân tử. Các nhóm chức quyết định các tính chất hóa học và vật lý của các hợp chất hữu cơ. Các phân tử được phân loại dựa trên cơ sở các nhóm chức của chúng. Rượu, ví dụ, tất cả đều có nhóm C-O-H. Tất cả các loại rượu đều có xu hướng ưa nước, thường tạo thành este và thường có thể được chuyển đổi thành các halogen tương ứng. Hầu hết các nhóm chức có tính chất dị hợp tử (các nguyên tử khác với C và H). Các hợp chất hữu cơ được phân loại theo các nhóm chức bao gồm, rượu, axit cacboxylic, amin, vv.
Hợp chất không vòng.
Các hydrocarbon không vòng được chia thành ba nhóm dãy đồng đẳng theo trạng thái bão hòa của chúng:
Phần còn lại của nhóm được phân loại theo các nhóm chức năng có mặt. Các hợp chất này có thể là "chuỗi thẳng", mạch nhánh hoặc mạch vòng. Mức độ phân nhánh ảnh hưởng đến các đặc điểm, chẳng hạn như số octan hoặc số cetane trong hóa học dầu khí.
Hợp chất thơm.
Hydrocarbon thơm chứa liên kết đôi liên hợp. Điều này có nghĩa là mọi nguyên tử cacbon trong vòng được lai hóa sp2, tăng tính ổn định. Ví dụ quan trọng nhất là benzen, cấu trúc được phát hiện ra bởi Kekulé, người đầu tiên đề xuất nguyên tắc phân định hoặc cộng hưởng để giải thích cấu trúc của nó. |
Hóa hữu cơ | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1378 | Đối với các hợp chất vòng "thông thường", mùi thơm được tạo ra bởi sự có mặt của các electron pi 4n + 2 bất định, trong đó n là một số nguyên. Sự không ổn định đặc biệt (tính không thơm) được cho là do sự hiện diện của các electron pi liên hợp 4n.
Hợp chất dị vòng.
Các đặc tính của hydrocarbon mạch vòng một lần nữa bị thay đổi nếu có các dị hợp tử, có thể tồn tại dưới dạng các nhóm thế gắn vào vòng ở bên ngoài (exocyclic hay ngoại vòng) hoặc là thành viên của chính mạch vòng đó (endocyclic hay nội vòng). Ở trường hợp sau, vòng này được gọi là một dị vòng. Pyridine và furan là những ví dụ về dị vòng thơm trong khi piperidine và tetrahydrofuran là các dị vòng tương ứng. Các dị hợp tử của các phân tử dị vòng nói chung có thể là oxy, lưu huỳnh hoặc nitơ, nguyên tố cuối đặc biệt phổ biến trong các hệ thống sinh hóa.
Dị vòng thường được tìm thấy trong một loạt các sản phẩm bao gồm thuốc nhuộm anilin và thuốc. Ngoài ra, chúng phổ biến trong một loạt các hợp chất sinh hóa như alkaloids, vitamin, steroid và axit nucleic (ví dụ: DNA, RNA).
Các vòng có thể hợp nhất với các vòng khác với một cạnh để tạo ra các hợp chất đa vòng. Các nucleoside thuộc nhóm purine là dị vòng thơm đa vòng đáng chú ý. Các vòng cũng có thể hợp nhất trên một "góc" sao cho một nguyên tử (hầu như luôn luôn là cacbon) có hai liên kết với một vòng và hai liên kết với vòng kia. Các hợp chất như vậy được gọi là hợp chất xoắn hay hợp chất spiro và nó rất quan trọng trong một số sản phẩm tự nhiên.
Polime.
Một tính chất quan trọng của cacbon là nó dễ dàng tạo thành chuỗi, hoặc mạng, được liên kết bởi các liên kết cacbon-cacbon. Quá trình liên kết được gọi là trùng hợp, trong khi các chuỗi, hoặc mạng, được gọi là polyme. Các hợp chất nguồn được gọi là một monome.
Hai nhóm polyme chính tồn tại: polyme tổng hợp và polyme sinh học. Polyme tổng hợp được sản xuất nhân tạo và thường được gọi là polyme công nghiệp.[20] Polyme sinh học xảy ra trong một môi trường tự nhiên, hoặc không có sự can thiệp của con người.
Các polyme hữu cơ tổng hợp phổ biến là polyetylen (polythene), polypropylen, ni lông, polytetrafloetylen (PTFE), polystyren, polyesters, polymethylmethacrylate (được gọi là Perspex và plexiglas), và polyvinyl chloride (PVC).
Phản ứng trong hóa hữu cơ. |
Hóa hữu cơ | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1378 | Phản ứng trong hóa hữu cơ.
Các phản ứng hóa hữu cơ thường gặp là: |
Nguyễn Văn Thiệu | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1387 | Nguyễn Văn Thiệu (5 tháng 4 năm 1923 – 29 tháng 9 năm 2001) là một sĩ quan, chính khách người Việt Nam, người từng giữ chức Tổng thống Việt Nam Cộng hòa, Chủ tịch Đảng Dân chủ và Mặt trận Quốc gia Dân chủ Xã hội trong giai đoạn 1967–1975. Trong cương vị một trung tướng bộ binh của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, Nguyễn Văn Thiệu được hội đồng tướng lĩnh bầu làm Chủ tịch Ủy ban Lãnh đạo Quốc gia, trở thành Quốc trưởng Việt Nam Cộng hòa vào năm 1965. Là một chính trị gia theo đường lối chống cộng mạnh mẽ, ông đắc cử tổng thống sau khi giành chiến thắng trong một cuộc bầu cử diễn ra vào năm 1967 và nắm giữ cương vị này cho đến khi từ chức chỉ vài ngày trước khi chính quyền Sài Gòn đầu hàng chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam trong sự kiện 30 tháng 4 năm 1975.
Sinh ra tại Phan Rang, duyên hải Nam Trung Bộ Việt Nam, Nguyễn Văn Thiệu ban đầu gia nhập lực lượng Việt Minh vào năm 1945, nhưng ông đào ngũ và tìm đường vào Sài Gòn chỉ một năm sau đó. Tại đây, ông gia nhập lực lượng Quân đội Quốc gia Việt Nam thuộc Liên hiệp Pháp. Sau khi người Pháp rút khỏi Đông Dương, Quân đội Quốc gia dần chuyển đổi thành Quân lực Việt Nam Cộng hòa còn Nguyễn Văn Thiệu trở thành Chỉ huy trưởng Trường Võ bị Đà Lạt trước khi được thăng cấp đại tá và trở thành một tư lệnh sư đoàn. Tháng 11 năm 1963, Nguyễn Văn Thiệu tham gia đảo chính lật đổ anh em Ngô Đình Diệm, Ngô Đình Nhu. Sau đó, ông được thăng cấp bậc thiếu tướng và bắt đầu tham chính. Nền chính trị Việt Nam Cộng hòa bước vào một giai đoạn bất ổn khi các cuộc đảo chính thường xuyên diễn ra. Bằng cách hành xử khôn khéo, Nguyễn Văn Thiệu leo lên vị trí hàng đầu trong bộ máy quyền lực Sài Gòn giữa lúc các sĩ quan xung quanh ông vướng vào những cuộc đấu đá và thanh trừng nội bộ. Năm 1965, tại thời điểm Nguyễn Văn Thiệu được Hội đồng Quân lực bầu vào chức vụ quốc trưởng thì nền chính trị miền Nam đã dần ổn định trở lại. |
Nguyễn Văn Thiệu | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1387 | Năm 1967, quá trình chuyển dịch từ chính quyền quân sự thành một chính phủ dân sự ở miền Nam Việt Nam được lên kế hoạch. Sau những cuộc tranh giành quyền lực ngay bên trong nội bộ quân đội, Nguyễn Văn Thiệu, trong liên danh cùng Nguyễn Cao Kỳ, đã tham gia tranh cử tổng thống và giành chiến thắng. Tuy nhiên, căng thẳng bên trong bộ máy lãnh đạo ngày càng trở nên rõ rệt. Nguyễn Văn Thiệu tìm cách vô hiệu hóa Nguyễn Cao Kỳ bằng việc loại bỏ những người ủng hộ ông Kỳ ra khỏi các vị trí trọng yếu trong quân đội và nội các. Để nắm chắc phần thắng trong cuộc bầu cử năm 1971, Nguyễn Văn Thiệu tiến hành áp đặt các quy định mới, ngăn cấm quyền tham gia tranh cử của hầu hết ứng cử viên. Số người còn lại, trong đó có Nguyễn Cao Kỳ, đều tự rút tư cách ứng cử viên vì biết trước rằng cuộc bầu cử sẽ có gian lận. Là ứng cử viên duy nhất tham gia tranh cử tổng thống, Nguyễn Văn Thiệu tái đắc cử với 94% số phiếu.
Trong thời gian nắm quyền, Nguyễn Văn Thiệu bị chỉ trích là đã làm ngơ trước tệ nạn tham nhũng tràn lan. Ông cũng bị cáo buộc là chỉ bổ nhiệm những người trung thành với mình thay vì những sĩ quan có năng lực vào các vị trí chỉ huy trong quân đội. Trong Chiến dịch Lam Sơn 719 năm 1971 và Chiến dịch Xuân – Hè 1972, Quân lực Việt Nam Cộng hòa đã phải hứng chịu những tổn thất nặng nề do sự thiếu năng lực của các tướng lĩnh dưới trướng ông Thiệu. Sau khi Hiệp định Paris được ký kết vào năm 1973, chính quyền Sài Gòn tiếp tục chống cự thêm hai năm trước khi Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam phát động tổng tấn công. Trước sức tấn công mạnh mẽ của đối phương, Nguyễn Văn Thiệu, trên cương vị tổng tư lệnh, đã mắc phải những sai lầm chiến lược, trong đó có quyết định rút quân hoàn toàn khỏi Cao nguyên Trung phần, dẫn đến những cuộc tháo chạy hỗn loạn và sự tan rã dây chuyền của hàng loạt cứ điểm quân sự. |
Nguyễn Văn Thiệu | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1387 | Tuy tuyên bố tái ngũ với cấp bậc trung tướng và sẽ tiếp tục chiến đấu sau khi từ chức, nhưng Nguyễn Văn Thiệu đã bí mật rời khỏi Việt Nam, di tản ra nước ngoài rồi cuối cùng định cư ở Hoa Kỳ cho đến khi qua đời.
Thiếu thời.
Nguyễn Văn Thiệu sinh ngày 5 tháng 4 năm 1923 tại Phan Rang trong một gia đình khá giả thuộc tầng lớp trung lưu, quê gốc tại làng Tri Thủy, xã Tân Hải, quận Thanh Hải, tỉnh Ninh Thuận (nay là xã Tân Hải, huyện Ninh Hải, tỉnh Ninh Thuận). Ông là con út trong gia đình có 7 người con nên lúc nhỏ được gọi là "cậu Tám". Cha của Nguyễn Văn Thiệu là cụ Nguyễn Văn Trung, một nhân sĩ Nho học, mẹ là bà Bùi Thị Hành. Các anh chị của ông lần lượt là Nguyễn Văn Hiếu, Nguyễn Thị Phiếu, Nguyễn Văn Kiểu và Nguyễn Thị Phận; hai người còn lại đều không rõ tên tuổi. Dù hồi trẻ chưa theo đạo nhưng sau khi học hết lớp đệ tứ (tương đương lớp 9), ông nhập học trường dòng Công giáo Pellerin của người Pháp tại kinh thành Huế dưới sự hỗ trợ của anh cả Nguyễn Văn Hiếu. Khi ông Hiếu rời khỏi Huế vào năm 1939, Nguyễn Văn Thiệu theo chân người anh thứ hai là Nguyễn Văn Kiểu vào Sài Gòn, nhập học Trường Trung học Lê Bá Cang rồi tốt nghiệp với bằng Tú tài bán phần vào năm 1942. Khi Thế chiến thứ hai lan đến Đông Dương, Nguyễn Văn Thiệu về quê làm nông và đánh cá cùng gia đình.
Năm 1945, sau khi thế chiến kết thúc, Nguyễn Văn Thiệu gia nhập lực lượng Việt Minh do Hồ Chí Minh lãnh đạo. Ông cùng các đồng chí được huấn luyện quân sự trong rừng, dùng gậy tre tập bắn vì không có súng. Nhờ có năng lực quản lý, Nguyễn Văn Thiệu nhanh chóng trở thành một huyện đội trưởng. Tuy nhiên, chưa đến 1 năm sau, ông đào ngũ vào Nam khi quân đội Pháp quay trở lại Đông Dương. Trong một phỏng vấn với tạp chí "Time" sau này, Nguyễn Văn Thiệu tuyên bố ông đào ngũ vì biết "Việt Minh là Cộng sản […] họ bắn người dân, họ lật đổ các ủy ban xã, họ tịch thu đất đai". |
Nguyễn Văn Thiệu | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1387 | Nhờ sự giúp đỡ của anh cả là ông Hiếu – một luật sư được đào tạo ở Paris – Nguyễn Văn Thiệu vào Sài Gòn, theo học Trường Kỹ thuật trên đường Đỗ Hữu Vị (nay là Trường Cao đẳng Kỹ thuật Cao Thắng) rồi sau đó thì chuyển sang Trường Hàng hải Dân sự. Sau một năm, Nguyễn Văn Thiệu tốt nghiệp với tư cách một sĩ quan, nhưng từ chối làm việc trên một con tàu khi biết được chủ người Pháp sẽ trả lương cho ông thấp hơn so với sĩ quan Pháp.
Binh nghiệp.
Quân đội Quốc gia Việt Nam.
Tháng 9 năm 1949, Nguyễn Văn Thiệu rời ngành hàng hải và ghi danh khóa sĩ quan võ bị đầu tiên của Quân đội Quốc gia Việt Nam khai giảng ngày 1 tháng 10 năm 1948 tại Trường Võ bị Huế, tiền thân của Trường Võ bị Đà Lạt. Ngày 1 tháng 6 năm 1949, ông tốt nghiệp với cấp bậc thiếu úy, ra trường phục vụ trong một đơn vị Bộ binh của Quân đội Quốc gia nằm trong Liên hiệp Pháp. Chức vụ đầu tiên Nguyễn Văn Thiệu đảm nhiệm là Trung đội trưởng đồn trú tại Mỏ Cày, Bến Tre. Cùng năm đó, ông được cử sang Pháp học tại Trường Bộ binh Coëtquidan thuộc Trường Võ bị Liên quân Saint-Cyr.
Trong những cuộc đụng độ với Việt Minh, Nguyễn Văn Thiệu thể hiện mình là người có năng lực chỉ huy. Do chính sách chế tài đối với những sĩ quan ở miền Trung và miền Nam nên ông được điều ra Bắc. Đầu năm 1951, Nguyễn Văn Thiệu được thăng cấp trung úy, tham gia khóa học chỉ huy chiến thuật tại Trung tâm Huấn luyện Chiến thuật Hà Nội. Tháng 7 năm 1951, ông được điều về trường Võ bị Đà Lạt làm trung đội trưởng khóa sinh của khóa 5. Năm 1952, sau khi tham gia khoá đào tạo tiểu đoàn trưởng và Liên đoàn trưởng lưu động tại Hà Nội cùng Cao Văn Viên và Nguyễn Khánh, Nguyễn Văn Thiệu được thăng cấp đại úy và được điều chuyển về bộ chỉ huy mặt trận Hưng Yên và phục vụ tại đây trong vòng 1 năm.
Tháng 1 năm 1954, sau khi được thăng cấp thiếu tá, Nguyễn Văn Thiệu lên nắm quyền chỉ huy Liên đoàn Bộ binh số 11 và dẫn đầu một cuộc hành quân đánh vào quê nhà Thanh Hải. |
Nguyễn Văn Thiệu | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1387 | Việt Minh rút lui vào căn nhà cũ của gia đình Nguyễn Văn Thiệu và tin rằng ông sẽ không tấn công tiếp, nhưng họ đã nhầm. Nguyễn Văn Thiệu cho nổ mìn đánh bật được lực lượng Việt Minh ra khỏi khu vực, phá hủy luôn căn nhà nơi mình từng sinh ra và lớn lên. Sau ngày 20 tháng 7 năm 1954, Nguyễn Văn Thiệu làm trưởng phòng 3 Đệ nhị Quân khu Trung Việt do Đại tá Trương Văn Xương làm tư lệnh. Sau đó, ông trở thành tham mưu trưởng Đệ Nhị Quân khu sau khi bàn giao chức trưởng phòng 3 cho Thiếu tá Trần Thiện Khiêm, trở thành Tiểu khu trưởng Ninh Thuận thay Thiếu tá Đỗ Mậu vào cuối năm.
Quân đội Việt Nam Cộng hòa.
Năm 1955, chuyển sang thời Đệ Nhất Cộng hòa, Nguyễn Văn Thiệu được thăng cấp trung tá và được bổ nhiệm chức vụ chỉ huy trưởng Trường Võ bị Đà Lạt. Tháng 7 năm 1957, ông được cử đi học khóa Chỉ huy & Tham mưu cao cấp tại Leavenworth, Kansas, Hoa Kỳ. Năm 1958, ông tốt nghiệp về nước và tái nhiệm chức chỉ huy trưởng trường võ bị. Năm 1959, ông tiếp tục được cử đi học khóa Tình báo Tác chiến tại Okinawa, Nhật Bản. Kết thúc khóa học, ông được bổ nhiệm làm Tham mưu trưởng Hành quân tại Bộ Tổng tham mưu. Ngày Quốc khánh Đệ nhất Cộng hòa 26 tháng 10 cùng năm, ông được thăng cấp đại tá, ngay sau đó được cử đi du học lớp Phòng không tại Trường Fort Bliss, Texas, Hoa Kỳ.
Ngày 11 tháng 11 năm 1960, Trung tá Vương Văn Đông và Đại tá Nguyễn Chánh Thi tiến hành đảo chính chống lại Ngô Đình Diệm. Tuy nhiên, sau khi bao vây Dinh Độc Lập, phe đảo chính trì hoãn tấn công và quay sang đàm phán một thỏa thuận chia sẻ quyền lực. Ngô Đình Diệm giả vờ nhận lời để câu giờ, tạo cơ hội cho lực lượng trung thành với mình có đủ thời gian đến ứng cứu. Phe đảo chính cũng thất bại trong việc phong tỏa các tuyến đường tiến vào thủ đô để chặn quân tiếp viện của ông Diệm. Đây chính là sở hở để Đại tá Nguyễn Văn Thiệu điều động các đơn vị thuộc Sư đoàn 7 Bộ binh từ Biên Hòa tới Sài Gòn giải vây Ngô Đình Diệm. |
Nguyễn Văn Thiệu | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1387 | Trong lúc ông Diệm đọc bài diễn văn giả trên đài phát thanh thì lực lượng trung thành với tổng thống dưới trướng Trần Thiện Khiêm xông vào khuôn viên dinh. Nhận thấy tình hình chuyển biến theo chiều hướng bất lợi, nhiều binh sĩ đảo chính đổi phe. Cuộc giao tranh sau đó chớp nhoáng nhưng khốc liệt với khoảng 400 người chết, trong đó có nhiều thường dân tò mò xuống đường để xem hai phe giao chiến. Cuộc đảo chính kết thúc với thắng lợi thuộc về Tổng thống Diệm.
Ngày 21 tháng 10 năm 1961, Nguyễn Văn Thiệu được bổ nhiệm chức vụ tư lệnh Sư đoàn 1 Bộ binh. Cuối năm 1962, ông lại được điều động giữ tư lệnh Sư đoàn 5 Bộ binh.
Cuộc đảo chính năm 1963.
Với tư cách Tư lệnh Sư đoàn 5, Nguyễn Văn Thiệu tham gia lực lượng đảo chính lật đổ anh em Ngô Đình Diệm. Ngày 1 tháng 11 năm 1963, Nguyễn Văn Thiệu điều động 2 trung đoàn bộ binh, một tiểu đoàn pháo binh và một chi đoàn thiết giáp tiến vào Sài Gòn và bao vây Thành Cộng Hòa, mục đích gây áp lực ép Ngô Đình Diệm đầu hàng. Đêm hôm đó, Nguyễn Văn Thiệu chỉ huy lực lượng tiến về phía Dinh Gia Long – nơi ở của Ngô Đình Diệm. Tuy nhiên, vào lúc này, anh em Ngô Đình Diệm đã trốn khỏi Dinh bằng đường hầm bí mật và đến tá túc tại nhà của Mã Tuyên – một thương gia người Hoa. Khoảng 22 giờ, được yểm trợ bởi pháo binh và xe tăng, bộ binh của Nguyễn Văn Thiệu bắt đầu khai hỏa tấn công doanh trại của Lữ đoàn Phòng vệ Phủ Tổng thống. Hai bên đấu súng quyết liệt, quân đảo chính dùng súng phun lửa tấn công dinh. Sau một hồi im tiếng súng thì vào lúc 3 giờ sáng ngày 2 tháng 11, Nguyễn Văn Thiệu tái khởi động các đợt pháo kích. Đến 5 giờ 15 phút, lực lượng bảo vệ Dinh Gia Long được lệnh buông súng đầu hàng. Ít giờ sau, Ngô Đình Diệm và Ngô Đình Nhu từ Nhà thờ Cha Tam ra hàng. Vào khoảng 10 giờ, họ bị đưa lên một xe thiết giáp và được một số sĩ quan áp giải về Bộ Tổng tham mưu, song cả hai đã bị sát hại trên đường đi. |
Nguyễn Văn Thiệu | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1387 | Tuy Trung tướng Dương Văn Minh, người đứng đầu phe đảo chính, thường bị quy trách nhiệm là đã ra lệnh giết anh em Ngô Đình Diệm, nhưng cho tới hiện nay, các nhà nghiên cứu vẫn chưa đạt được đồng thuận về việc ai là người thực sự đứng sau sự kiện này. Sau khi Nguyễn Văn Thiệu trở thành tổng thống, Dương Văn Minh phát biểu rằng chính Nguyễn Văn Thiệu mới thực sự là người gây ra cái chết của Tổng thống Ngô Đình Diệm khi đã chần chừ và trì hoãn cuộc tấn công vào Dinh Gia Long. Ông Minh cho rằng nếu hai anh em Diệm, Nhu bị bắt ở Dinh Gia Long, họ sẽ tránh được việc bị sát hại khi đi cùng một nhóm người nhỏ. Tướng Trần Văn Đôn, một nhân vật chủ chốt khác trong cuộc đảo chính, được cho là đã gây sức ép với Nguyễn Văn Thiệu khi Sư đoàn 5 bao vây Dinh Gia Long. Trần Văn Đôn gọi điện nói với Nguyễn Văn Thiệu rằng: "Anh làm gì mà chậm thế? Có cần thêm quân không? Nếu cần thì gọi cho Đính, bảo anh ta điều thêm quân. Nhớ làm cho nhanh nhanh, xong xuôi mọi chuyện anh sẽ được thăng tướng!" Tuy nhiên, ông Thiệu cương quyết từ chối cáo buộc và tuyên bố Dương Văn Minh "phải chịu toàn bộ trách nhiệm cho cái chết của Ngô Đình Diệm" – một tuyên bố mà ông Minh chưa từng lên tiếng phủ nhận.
Ngô Đình Diệm tiếp tục là một chủ đề cấm kỵ tại miền Nam cho đến thời điểm Nguyễn Văn Thiệu trở thành tổng thống. Năm 1971, chính phủ Nguyễn Văn Thiệu lần đầu tiên chấp thuận các lễ tưởng niệm công khai cho vị cố tổng thống này nhân dịp kỷ niệm tám năm ngày mất của ông. Đệ nhất Phu nhân Nguyễn Thị Mai Anh được nhìn thấy là đã khóc trong một lễ cầu siêu cho Ngô Đình Diệm ở Nhà thờ Đức Bà Sài Gòn.
Con đường tiến tới quyền lực.
Chính quyền Nguyễn Khánh.
Sau cuộc đảo chính, sự nghiệp Nguyễn Văn Thiệu thăng tiến nhanh chóng. Nhờ những đóng góp của mình và sự hậu thuẫn mạnh mẽ từ Trung tướng Trần Thiện Khiêm, Nguyễn Văn Thiệu được thăng cấp bậc Thiếu tướng, trở thành một trong 12 thành viên của Hội đồng Quân nhân Cách mạng với vị trí ủy viên. |
Nguyễn Văn Thiệu | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1387 | Các nhân vật chủ chốt của Hội đồng này gồm có Dương Văn Minh, Trần Văn Đôn, Lê Văn Kim và Tôn Thất Đính.
Cuộc đảo chính lật đổ gia đình họ Ngô không đem lại sự ổn định tại miền Nam Việt Nam khi mà các tướng lĩnh Sài Gòn đầy tham vọng bước vào cuộc nội chiến tranh giành quyền lực chính trị. Dương Văn Minh bị chỉ trích là quá thân Pháp, thờ ơ trong việc điều hành đất nước, còn những nhân vật đứng đầu chính phủ như Thủ tướng Nguyễn Ngọc Thơ thì bị cáo buộc là "công cụ" của chính quyền quân sự. Ngày 30 tháng 1 năm 1964, Trung tướng Nguyễn Khánh dưới sự hỗ trợ của Hoa Kỳ đã tiến hành binh biến không đổ máu đoạt chính quyền. Nguyễn Khánh thế chỗ Dương Văn Minh làm chủ tịch Hội đồng Quân nhân Cách mạng, tuy nhiên vẫn giữ ông Minh làm quốc trưởng trên danh nghĩa do uy tín của ông này trong quân đội vẫn còn quá lớn. Sau cuộc chỉnh lý, Nguyễn Văn Thiệu trở thành Tham mưu trưởng liên quân. Tháng 8 năm 1964, cảm thấy đã đến lúc có thể nắm quyền hành tuyệt đối, Nguyễn Khánh ban bố tình trạng khẩn cấp trên phạm vi toàn quốc, ngăn cấm biểu tình, tái lập kiểm duyệt báo chí, tăng quyền hạn cho cảnh sát, cho phép họ có quyền khám xét và bắt bớ người tùy ý. Nguyễn Khánh ban hành Hiến chương Vũng Tàu – một hiến pháp trao cho ông ta quyền lực của tổng thống. Tuy nhiên, hành động này chỉ khiến Nguyễn Khánh thêm phần suy yếu khi rất đông sinh viên, tăng ni, Phật tử, và đối thủ chính trị đã xuống đường biểu tình phản đối hiến chương mới, kêu gọi chấm dứt tình trạng khẩn cấp và khôi phục lại chính phủ dân sự.
Lo ngại có thể bị lật đổ trước các cuộc biểu tình ngày càng gia tăng, Nguyễn Khánh chấp nhận nhượng bộ. Ông đồng ý bãi bỏ hiến chương mới và các đặc quyền cảnh sát, đồng thời cam kết sẽ khôi phục chính quyền dân sự và xóa bỏ Đảng Cần lao Nhân vị, một công cụ chính trị có tổ chức gần như bí mật, được dùng để duy trì chế độ Ngô Đình Diệm bằng cách tìm kiếm và loại bỏ những người bất đồng chính kiến. |
Nguyễn Văn Thiệu | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1387 | Nhiều sĩ quan cao cấp theo Công giáo như Trần Thiện Khiêm và Nguyễn Văn Thiệu lên tiếng chỉ trích cái mà họ gọi là "sự chuyển giao quyền lực sang người nhà Phật". Họ tìm cách loại bỏ Nguyễn Khánh, ủng hộ Dương Văn Minh và cố gắng lôi kéo nhiều sĩ quan khác tham gia âm mưu. Trần Thiện Khiêm và Nguyễn Văn Thiệu tìm kiếm sự ủng hộ từ Đại sứ Hoa Kỳ Maxwell Taylor cho một cuộc đảo chính mới. Tuy nhiên, Taylor không muốn có thêm bất kỳ xáo trộn nào trong bộ máy lãnh đạo, do lo ngại cuộc đảo chính thứ ba trong vòng 3 tháng sẽ làm suy yếu một chính phủ vốn không ổn định. Điều này khiến Trần Thiện Khiêm và Nguyễn Văn Thiệu không thể thực hiện kế hoạch đã định.
Sự chia rẽ giữa các tướng lĩnh bộc lộ rõ nét trong cuộc họp Hội đồng Quân sự Cách mạng. Nguyễn Khánh cho rằng tình trạng bất ổn hiện tại là do các thành viên và người ủng hộ Đại Việt Quốc dân Đảng – một chính đảng thân Công giáo – gây nên. Trần Thiện Khiêm và Nguyễn Văn Thiệu cũng là hai trong số những sĩ quan Công giáo dính líu tới Đảng Đại Việt. Trần Thiện Khiêm chỉ trích Nguyễn Khánh nhượng bộ phe Phật giáo quá mức dẫn đến rắc rối. Nguyễn Văn Thiệu và một viên tướng Công giáo khác là Nguyễn Hữu Có đòi Dương Văn Minh thay thế Nguyễn Khánh, song bị từ chối. Cảm thấy áp lực trước những lời lên án mạnh mẽ, Nguyễn Khánh cho biết sẽ từ chức. Tuy nhiên, sau khi tình hình lâm vào thế bế tắc, Nguyễn Khánh, Dương Văn Minh và Trần Thiện Khiêm đã thiết lập chế độ "Tam đầu chế" nhằm lập lại trật tự, nhưng căng thẳng vẫn còn khi ông Khánh vẫn chi phối việc đưa ra quyết định.
Ngày 15 tháng 9 năm 1964, Nguyễn Văn Thiệu trở thành Tư lệnh Quân đoàn IV và Vùng IV chiến thuật, kiểm soát 3 sư đoàn và các tỉnh thuộc khu vực Đồng bằng sông Cửu Long. Sự kiện trên diễn ra sau khi phe Phật giáo vận động Nguyễn Khánh loại bỏ Dương Văn Đức khỏi vị trí tư lệnh. |
Nguyễn Văn Thiệu | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1387 | Để đáp trả, Dương Văn Đức liên thủ cùng Lâm Văn Phát kéo quân về Sài Gòn thị uy, dự định lật đổ Chính phủ Nguyễn Khánh nhưng bất thành. Trong sự kiện trên, sự im lặng của Trần Thiện Khiêm lẫn Nguyễn Văn Thiệu, kết hợp với sự phản đối của họ đối với Nguyễn Khánh được xem là động thái ủng hộ ngầm đối với phe nổi dậy. Ghi chép của Đại sứ quán Hoa Kỳ vào trung tuần tháng 9 năm 1964 cho thấy Trần Thiện Khiêm và Nguyễn Văn Thiệu "có vẻ thụ động đến mức dường như đã ngầm ủng hộ Đức và Phát". Sau khi chuyện không thành, hai người đã thể hiện sự ủng hộ "có phần muộn màng" đối với ông Khánh.
Nhóm tướng lĩnh trẻ.
Thiếu tướng Lục quân Nguyễn Văn Thiệu, Thiếu tướng Không quân Nguyễn Cao Kỳ (Tư lệnh Không quân Việt Nam Cộng hòa), Thiếu tướng Lục quân Nguyễn Chánh Thi (Tư lệnh Quân đoàn I) và Đề đốc Chung Tấn Cang (Tư lệnh Quân chủng Hải quân) đều là những gương mặt nổi bật trong nhóm tướng lĩnh trẻ của Việt Nam Cộng hòa mà phía Hoa Kỳ thường gọi bằng cái tên "Young Turks". Nhóm này và Nguyễn Khánh muốn cưỡng chế những sĩ quan có trên 25 năm phục vụ trong quân đội về hưu, cho rằng họ lạc hậu, lỗi thời, thiếu hiệu quả, nhưng quan trọng hơn cả, việc loại bỏ những người này giúp họ có thể loại trừ những đối thủ cạnh tranh tiềm ẩn. Những nhân vật nằm trong danh sách này bao gồm các tướng Dương Văn Minh, Trần Văn Đôn, Lê Văn Kim và Mai Hữu Xuân.
Ngày 17 tháng 12 năm 1964, nhóm tướng lĩnh trẻ đệ trình yêu sách trên lên Quốc trưởng Phan Khắc Sửu. Ông Sửu chuyển vấn đề lên Thượng Hội đồng Quốc gia (một cơ quan chấp chính dân sự được thành lập nhằm chuyển dần sang chính phủ dân sự) để xin ý kiến. Tuy nhiên, Thượng Hội đồng đã từ chối. Một trong những nguyên nhân chính có thể do nhiều thành viên của Thượng Hội đồng đều đã có tuổi và họ không hài lòng trước thái độ của nhóm tướng lĩnh trẻ đối với những người thuộc thế hệ tiền nhiệm. Trước động thái trên, ngày 18 tháng 12, Nguyễn Khánh thành lập Hội đồng Quân lực để làm hậu thuẫn. |
Nguyễn Văn Thiệu | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1387 | Ngày 19 tháng 12, Nguyễn Khánh họp Hội đồng Quân lực và ra thông cáo giải thể Thượng Hội đồng Quốc gia, đồng thời cho bắt giữ một số chính khách dân sự đưa đi an trí tại Pleiku. Phan Khắc Sửu và Trần Văn Hương vẫn được lưu nhiệm Quốc trưởng và Thủ tướng. Đại sứ Hoa Kỳ Maxwell D. Taylor, người xem chính phủ dân sự như một bước tiến quan trọng trong quá trình tiến đến ổn định về chính trị tại miền Nam Việt Nam, không hài lòng với hành động của các tướng lĩnh. Trong một buổi họp riêng với 4 tướng trẻ (Nguyễn Văn Thiệu, Nguyễn Chánh Thi, Nguyễn Cao Kỳ, Chung Tấn Cang), Đại sứ Taylor đe dọa cắt viện trợ và có những câu nói chạm đến lòng tự ái của họ. Lợi dụng sự căng thẳng, Nguyễn Khánh họp báo chỉ trích hành động xâm phạm chủ quyền Việt Nam Cộng hòa như một "tên thực dân" của Taylor, yêu cầu Washington triệu hồi ông ta về nước. Vụ việc này khiến quan hệ giữa Nguyễn Khánh và Taylor rạn nứt không thể cứu vãn.
Tham chính.
Ngày 18 tháng 1 năm 1965, trước áp lực từ các tướng lĩnh, Thủ tướng Trần Văn Hương tiến hành cải tổ nội các với sự tham gia của Nguyễn Văn Thiệu (Đệ nhị Phó Thủ tướng), Trần Văn Minh (Tổng trưởng Quân lực), Linh Quang Viên (Tổng trưởng Tâm lý chiến) và Nguyễn Cao Kỳ (Tổng trưởng Thanh niên Thể thao). Đây là lần đầu Nguyễn Văn Thiệu xuất hiện với tư cách một chính trị gia, không phải trong vai trò một quân nhân. Cũng trong ngày hôm đó, Nguyễn Văn Thiệu được thăng cấp bậc hàm trung tướng. Trong thời gian này, chính phủ Trần Văn Hương phải đối mặt với sự chống đối mạnh mẽ từ phía Phật giáo. Các lãnh tụ Phật giáo như Thượng tọa Thích Trí Quang, Thích Tâm Châu bắt đầu tuyệt thực đòi Trần Văn Hương từ chức và giải tán chính phủ. Hàng loạt phật tử nối gót nhau xuống đường biểu tình và tổ chức tuyệt thực tập thể, có ni cô thậm chí tự thiêu phản đối. Nguyễn Khánh – người phải dựa vào sự ủng hộ của giới Phật giáo để duy trì quyền lực – đã không thực hiện biện pháp đáng kể nào để dập tắt các cuộc biểu tình. |
Nguyễn Văn Thiệu | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1387 | Thay vào đó, ông quyết định bãi nhiệm Trần Văn Hương vào ngày 27 tháng 1. Sau nhiều cuộc hội đàm cùng Hội đồng Quân lực, vào ngày 16 tháng 2, Tiến sĩ Phan Huy Quát được bổ nhiệm làm thủ tướng đứng đầu một nội các dân sự nhưng phải chịu sự giám sát từ phe quân nhân. Nguyễn Văn Thiệu ngay sau đó trở thành Đệ nhất Phó Thủ tướng trong nội các mới.
Hành động của Nguyễn Khánh đã vô hiệu hóa một âm mưu ngược chống lại ông. Lo sợ bị bãi nhiệm, Trần Văn Hương chống lưng một âm mưu do một số tướng lĩnh Công giáo thân Đảng Đại Việt như Nguyễn Hữu Có và Nguyễn Văn Thiệu cầm đầu, mưu đồ loại bỏ Nguyễn Khánh và đưa Trần Thiện Khiêm từ Washington quay trở về nước. Đại sứ quán Hoa Kỳ tại Sài Gòn không phản đối âm mưu bởi Taylor và Nguyễn Khánh kể từ sau vụ đảo chính hồi tháng 12 đã trở thành kẻ thù không đội trời chung. Tuy vậy, người Mỹ không hoàn toàn ủng hộ nước cờ này, cho rằng nó không được tính toán kỹ lưỡng và có thể gây ra một vụ bê bối chính trị do một số thành viên tham gia âm mưu sẽ phải dùng máy bay Mỹ để di chuyển qua lại giữa Sài Gòn và Washington. Do đó, người Mỹ chỉ hứa sẽ cho Trần Văn Hương tị nạn nếu cần thiết. Tuy nhiên, sau khi tìm thấy bằng chứng cho thấy Nguyễn Khánh muốn thỏa thuận với cộng sản, phía Hoa Kỳ đã bày tỏ thái độ ủng hộ âm mưu trên. Taylor cam kết với nhóm tướng lĩnh trẻ rằng Hoa Kỳ "sẽ không chống lưng hay ủng hộ tướng Khánh dưới bất kỳ hình thức nào". Tại thời điểm đó, Taylor và các nhân viên sứ quán ở Sài Gòn đánh giá cao ba người Nguyễn Văn Thiệu, Nguyễn Hữu Có và Chung Tấn Cang, xem họ là những người có thể thay thế Nguyễn Khánh. Theo một báo cáo của CIA, Nguyễn Văn Thiệu được một quan chức Mỹ giấu tên mô tả là người "thông minh, đầy tham vọng, và rất có thể sẽ vẫn tiếp tục tham gia âm mưu đảo chính để phục vụ cho mục đích cá nhân". |
Nguyễn Văn Thiệu | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1387 | Nguyễn Văn Thiệu đã không kịp thực hiện âm mưu khi Đại tá Phạm Ngọc Thảo – người trên thực tế là một điệp viên do Hà Nội cài cắm ở Sài Gòn – cùng Thiếu tướng Lâm Văn Phát, Đại tá Bùi Dzinh tiến hành đảo chính vào ngày 19 tháng 2, mục tiêu bắt sống Nguyễn Khánh. Tuy nhiên, Nguyễn Khánh kịp rời Sài Gòn bằng máy bay trước khi xe tăng của quân đảo chính kéo vào. Dưới sự hỗ trợ từ Hoa Kỳ, Nguyễn Chánh Thi, Nguyễn Văn Thiệu và Nguyễn Cao Kỳ đứng ra dập tắt âm mưu đảo chính. Nhân cơ hội, Thiệu–Kỳ "mượn gió phất cờ", nhóm họp Hội đồng Quân lực bỏ phiếu bất tín nhiệm và trục xuất Nguyễn Khánh ra nước ngoài với danh nghĩa là "đại sứ lưu động". Có cáo buộc cho rằng Nguyễn Văn Thiệu đã truy bắt và mưu sát Đại tá Phạm Ngọc Thảo một cách phi pháp vào năm 1965. Phóng sự điều tra năm 2012 của báo "Thanh Niên" cho rằng Nguyễn Văn Thiệu đơn thuần chỉ là đang loại bỏ một đối thủ đáng gờm, chứ không hề hay biết việc người này là cộng sản nằm vùng. Cuộc đảo chính bất thành ngày 19 tháng 2 năm 1965 chỉ là một phần của một loạt các cuộc đảo chính giữa các sĩ quan Quân lực Việt Nam Cộng hòa, diễn ra sau vụ mưu sát Ngô Đình Diệm cuối năm 1963. Giữa lúc các tướng lĩnh tranh giành quyền lực nội bộ trong các cuộc binh biến, mà kết quả là một số người phải đi đày biệt xứ, Nguyễn Văn Thiệu đã "tọa sơn quan hổ đấu", từng bước trở thành một trong những nhân vật quyền lực nhất Sài Gòn.
Quốc trưởng (1965–1967).
Lên nắm quyền.
Thủ tướng Phan Huy Quát thất bại trong việc đoàn kết các phe phái quân sự và dân sự đối địch ở miền Nam Việt Nam. Tuy thành công trong việc giải tán Hội đồng Quân lực, song Thủ tướng Quát không thể thay đổi cán cân quyền lực vốn đang nghiêng về phe quân nhân. Sau hơn 3 tháng giữ chức thủ tướng, Phan Huy Quát từ chức và tuyên bố giải tán chính phủ do mâu thuẫn với Quốc trưởng Phan Khắc Sửu. |
Nguyễn Văn Thiệu | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1387 | Quyết định của Phan Huy Quát buộc Phan Khắc Sửu cũng phải từ chức quốc trưởng, mở đường cho một giai đoạn quân nhân nắm chính quyền.
Ngày 14 tháng 6 năm 1965, hội đồng tướng lĩnh nhóm họp, bầu Nguyễn Văn Thiệu làm chủ tịch Ủy ban Lãnh đạo Quốc gia, đảm nhiệm cương vị quốc trưởng. Nguyễn Cao Kỳ được đề cử làm chủ tịch Ủy ban Hành pháp Trung ương, tức thủ tướng. Sự thành lập của chính phủ Thiệu–Kỳ đánh dấu sự kết thúc của một thời kỳ khủng hoảng chính trị tại miền Nam Việt Nam, với hàng loạt cuộc đảo chính và 8 lần thay đổi nhân sự diễn ra liên tiếp chỉ trong vòng một năm rưỡi kể từ vụ đảo chính lật đổ anh em Ngô Đình Diệm, Ngô Đình Nhu. Cương vị quốc trưởng mà Nguyễn Văn Thiệu đảm nhiệm là một vị trí tương đối "hữu danh vô thực" vì Nguyễn Cao Kỳ mới là người nắm quyền hành trên thực tế trong thời kỳ này.
Cuộc chuyển giao quyền lực lần này không gặp phải sự phản đối từ giới chức Washington do họ không đặc biệt ủng hộ Phan Huy Quát. Tuy nhiên, người Mỹ có những cách nhìn nhận khác nhau về nhóm tướng lĩnh trẻ lên nắm quyền ở miền Nam Việt Nam. Tổng thống Lyndon B. Johnson đặt nhiều hy vọng trước lời hứa "đánh bại kẻ thù, xây dựng lại nông thôn, ổn định kinh tế và cải thiện nền dân chủ miền Nam Việt Nam." Ngược lại, một số quan chức khác như Phó đại sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam là thì cho rằng nhóm tướng lĩnh trẻ gồm Nguyễn Văn Thiệu và Nguyễn Cao Kỳ đều là "những người theo chủ nghĩa dân tộc bài ngoại, chán ngán nền dân chủ."
Khủng hoảng Phật giáo.
Sau khi lên nắm quyền, chính phủ Thiệu–Kỳ tiếp tục phải đối mặt với những thách thức đã tạo nên sự bất ổn chính trị ở miền Nam Việt Nam trong những năm trước đó. Nội các mới tuy được đánh giá là có năng lực, song có nhiều phe phái chính trị cạnh tranh lẫn nhau. Phe Công giáo cảnh giác Nguyễn Cao Kỳ, một Phật tử, còn phe Phật giáo thì không hài lòng với Nguyễn Văn Thiệu, một Kitô hữu. |
Nguyễn Văn Thiệu | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1387 | Bên cạnh đó, miền Nam Việt Nam trong giai đoạn này giống như một nhà nước phong kiến, một liên minh giữa các lãnh chúa thay vì một nhà nước thực sự. Các tư lệnh quân đoàn cai trị khu vực của họ như một thái ấp riêng, nộp một phần thuế mà họ thu được cho chính quyền trung ương ở Sài Gòn và giữ phần còn lại.
Trong bối cảnh trên, lực lượng Phật giáo – dưới sự dẫn dắt của Thượng tọa Thích Trí Quang – một lần nữa nắm vai trò lãnh đạo quần chúng chống lại chính phủ quân quản, đòi hỏi thành lập Quốc hội Lập hiến để có hiến pháp cho miền Nam Việt Nam. Thích Trí Quang không phản đối sự can thiệp của Hoa Kỳ tại Việt Nam, nhưng không hài lòng khi thấy Nguyễn Văn Thiệu trở thành quốc trưởng vì ông từng là thành viên Cần lao Nhân vị dưới thời Ngô Đình Diệm. Nhà lãnh đạo Phật giáo này chỉ trích "khuynh hướng phát xít" của ông Thiệu, cho rằng các thành viên Cần lao đang phá hoại Nguyễn Cao Kỳ. Thích Trí Quang cũng xem Nguyễn Văn Thiệu như một biểu tượng của chế độ Công giáo trị Ngô Đình Diệm, đồng thời tố cáo ông đã phạm những tội ác chống lại Phật tử trong quá khứ. Thích Trí Quang công khai ủng hộ Trung tướng Nguyễn Chánh Thi – một vị tướng theo Phật giáo – đứng ra lãnh đạo đất nước.
Nhận định Nguyễn Chánh Thi là một đối thủ nguy hiểm, Nguyễn Cao Kỳ ra quyết định cách chức ông, song điều này chỉ khiến giới Phật giáo miền Trung phản ứng mạnh mẽ hơn. Thích Trí Quang dẫn nhiều phật tử xuống đường phản đối chính quyền Thiệu–Kỳ. Một số đơn vị trực thuộc Quân đoàn I không tuân theo mệnh lệnh từ Sài Gòn mà quay sang ủng hộ tướng Thi và phong trào Phật giáo. Sau khi đàm phán thất bại, Nguyễn Cao Kỳ sử dụng vũ lực dẹp yên vụ nổi loạn miền Trung. Thích Trí Quang bị đưa về Sài Gòn quản thúc tại gia, trong khi Nguyễn Chánh Thi thì phải sang Hoa Kỳ lưu vong. Thất bại này khiến phong trào tranh đấu Phật giáo nhanh chóng tan rã và không còn là mối đe dọa đối với chính quyền Sài Gòn.
Tranh cử tổng thống năm 1967. |
Subsets and Splits
No community queries yet
The top public SQL queries from the community will appear here once available.