title
stringlengths
1
250
url
stringlengths
37
44
text
stringlengths
1
4.81k
Liên bang Đông Dương
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1293
Họ sẽ đóng trong một thành và trong mọi trường hợp, ngay trong phạm vi dành cho các quan; nếu cần, họ sẽ được cấp một đội quân tùy tùng Pháp hoặc An Nam. Điều 7: Các công sứ sẽ tránh không can thiệp các công việc hành chính nội bộ các tỉnh. Các quan chức An Nam mọi ngạch sẽ tiếp tục cai trị và điều hành công việc dưới sự kiểm soát của các viên công sứ; nhưng khi có yêu cầu của các nhà chức trách Pháp thì họ sẽ bị cách chức. Điều 8: Các công chức và nhân viên người Pháp "ở" mọi ngạch chỉ được liên hệ với các quan chức An Nam qua trung gian các công sứ. Điều 9: Một đường dây điện tín sẽ được bắc từ Sài Gòn ra Hà Nội và khai thác bởi những nhân viên người Pháp. Một phần các lệ phí thu được sẽ chuyển cho chính phủ An Nam; đáp lại, chính phủ An Nam sẽ cấp cho những đất đai cần thiết để xây dựng các trạm điện tín. Điều 10: Tại Trung Kỳ (An Nam) cũng như Bắc Kỳ, tất cả những người nước ngoài thuộc bất cứ quốc tịch nào cũng đều đặt dưới quyền tài phán của người Pháp. Các nhà chức trách Pháp sẽ quyết định, căn cứ trên những tranh chấp, bất cứ là loại nào, sẽ xảy ra giữa người An Nam và người nước ngoài cũng như giữa nước ngoài với nhau. Điều 11: Tại Trung Kỳ, các quan bố chánh sẽ thu thuế cũ dưới sự kiểm soát của các quan chức Pháp, cho triều đình Huế. Tại Bắc Kỳ, các công sứ với sự cộng tác của các quan bố chánh, sẽ tập trung cũng một công việc thuế ấy, và họ sẽ kiểm soát cả hai mặt thu và chi. Một tiểu ban gồm công chức Pháp và Nam sẽ ấn định những số tiền dành cho các ngành hành chính sự nghiệp khác nhau và cho các công trình công cộng. Phần còn lại sẽ nộp vào ngân khố của triều đình Huế. Điều 12: Trên toàn cõi đất nước, công tác thuế quan được tổ chức lại sẽ hoàn toàn giao phó cho các nhà cai trị Pháp. Chỉ có thuế quan cửa biển và cửa khẩu biên giới đặt bất cứ nơi nào cảm thấy cần. Sẽ không chấp nhận bất cứ một khiếu nại nào liên quan đến những biện pháp mà các nhà chức trách quân sự đã thi hành về mặt thuế quan.
Liên bang Đông Dương
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1293
Các luật lệ và quy chế liên đến những thuế gián tiếp, đến chế độ bảng giá thuế quan và chế độ y tế của Nam Kỳ sẽ được áp dụng cho cả lãnh thổ Trung Kỳ và Bắc Kỳ. Điều 13: Các công dân hay dân bảo hộ của nước Pháp đều có thể đi lại tự do, buôn bán, tạo sự mua bán và sử dụng tùy ý những động sản và bất động sản... trên toàn cõi Bắc Kỳ và trong các cảng mở cửa của Trung Kỳ. Đức vua An Nam xác nhận bằng văn bản những cam kết đã được quy định bởi Hiệp ước 15/3/1874 vì quyền lợi của các giáo sĩ và giáo dân. Điều 14: Những người muốn đi du lịch đó đây trong nội địa nước An Nam chỉ có thể được cấp giấy phép qua sự trung gian của khâm sứ tại Huế hoặc của chính phủ Nam Kỳ. Các nhà đương cục đó sẽ cấp giấy phép thông hành cho họ, giấy thông hành phải được trình với chính phủ Việt Nam để được đóng dấu thị thực. Điều 15: Nước Pháp cam kết từ đây sẽ bảo đảm sự nguyên vẹn lãnh thổ của Đức vua An Nam, bảo vệ Đức vua chống lại những cuộc tấn công từ bên ngoài và những vụ nổi loạn bên trong. Hướng vào mục đích đó, các nhà chức trách Pháp có thể chiếm đóng quân sự trên lãnh thổ Trung Kỳ và Bắc Kỳ những đại điểm xét thấy cần thiết cho sự thực thi chế độ bảo hộ. Điều 16: Đức vua An Nam sẽ tiếp tục lãnh đạo công cuộc nội trị của đất nước như cũ, trừ những hạn chế quy định trong bản hiệp ước này. Điều 17: Những món nợ hiện nay An Nam còn nợ Pháp sẽ được giải quyết bằng những đợt thanh toán theo hình thức cụ thể sẽ được quy định sau. Đức vua An Nam sẽ không được ký kết một sự vay mượn nào của nước ngoài nếu không có phép của chính phủ Pháp. Điều 18: Những cuộc hội nghị sau này sẽ ấn định giới hạn của các cảng mở cửa và những khu đất nhượng cho nước Pháp trong những cảng này; việc xây dựng các hải đăng trên bờ biển Trung Kỳ và Bắc Kỳ; chế độ và việc khai thác mỏ; chế độ tiền tệ; phần tỷ lệ dành cho chính phủ An Nam trên tổng số thu nhập về quan thuế, về các ty; về các phí điện tín và về những khoản thu nhập khác không nói đến trong điều II của hiệp ước này.
Liên bang Đông Dương
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1293
Hiệp ước này sẽ đệ trình lên chủ tịch nước Cộng hòa Pháp và Qụốc vương An Nam phê chuẩn. Việc trao đổi phê chuẩn sẽ được tiến hành càng sớm càng hay. Điều 19: Hiệp ước này sẽ thay thế cho các Hiệp ước ngày 15/3, 31/8 và 23/11/1864. Một năm sau (1885), chính phủ Pháp và triều đình nhà Thanh đã đi đến ký kết bản hiệp ước chính thức, được gọi là chính thức hòa ước Thiên Tân 1885. Trung Hoa chính thức từ bỏ mọi quyền lực thiên triều đối với chư hầu An Nam và trao cho nước Pháp toàn quyền cai trị, biến An Nam thành thuộc địa của họ tại Đông Nam Á. Khởi nghĩa Cần Vương (1885-1889). Từ cuối năm 1884, phe chủ chiến ở Huế do Tôn Thất Thuyết đứng đầu đã nhân danh vua Hàm Nghi phản đối việc 300 quân Pháp kéo vào Huế lập căn cứ Mang Cá ngay trong Hoàng thành. Đáp lại, người Pháp tăng thêm số quân đóng ở Mang Cá lên hàng ngàn người. Tôn Thất Thuyết huy động số quân ở các địa phương tập trung về Huế, bí mật tổ chức một cuộc phản công. Ngày 27/6/1885, de Courcy (tổng chỉ huy vừa được cử sang) chủ động đem 4 đại đội và 2 tàu chiến từ Hải Phòng vào Huế nhằm loại trừ phe chủ chiến và dự định bắt sống Tôn Thất Thuyết. Ngày 2/7 cùng năm, de Courcy đến cửa Thuận An rồi đến Huế yêu cầu Hội đồng phụ chính đến hội thương. Tôn Thất Thuyết cáo bệnh không đến, gấp rút chấn chỉnh quân sĩ, đào hào đắp lũy trong thành và bố trí hai đạo quân đặc biệt phòng thủ hoàng thành, nhằm giành thế chủ động trước khi de Courcy vào hoàng thành. Đêm ngày 4/7, giữa lúc de Courcy đang dự tiệc ở sứ quán bên kia sông Hương, Tôn Thất Thuyết bí mật chia quân làm hai cánh. Cánh thứ nhất (do Tôn Thất Lệ chỉ huy) có nhiệm vụ tấn công sứ quán Pháp. Cánh thứ hai (do Tôn Thất Thuyết đích thân chỉ huy) sẽ tập kích, tiêu diệt toàn bộ lính Pháp ở đồn Mang Cá. Đúng 1 giờ sáng hôm sau (5/7), quân của Tôn Thất Thuyết nổ súng hiệu đột nhập đồn Mang Cá, khiến lính Pháp rối loạn. Vài sĩ quan của họ bị thương vong. Đồng thời, sứ quán Pháp bên kia bờ sông Hương cũng bị tấn công, các trại lính Pháp bốc cháy dữ dội.
Liên bang Đông Dương
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1293
De Courcy chỉ huy quân Pháp cố gắng cầm cự đến lúc trời gần sáng. Lợi dụng quân Nguyễn chuyển hướng tấn công sang sứ quán, quân Pháp kéo 3 đội quân vào chiếm thành Huế, đốt phá dinh thự, tàn sát dân chúng và vượt qua các ổ phục kích để tiến vào Hoàng Thành. Trên đường tiến quân, nhiều binh lính Pháp cướp bóc của cải và sát hại người dân vô tội. Trong ngày hôm đó, hầu như nhà nào cũng có người bị giết. Về sau, hàng năm người dân Huế lấy ngày 23 tháng 5 Âm lịch làm ngày giỗ chung cho những dân bị thảm sát trong ngày này. Tiến vào Hoàng Thành, quân Pháp chiếm được một số lớn của cải mà triều đình chưa kịp chuyển đi, gồm 2,6 tấn vàng và 30 tấn bạc, trong số này chỉ có một phần rất nhỏ sau này được hoàn lại cho triều đình Huế. Còn lại, số 700.000 lạng bạc phải được 5 lính Pháp đóng hòm trong 5 ngày mới xong và chở về Pháp. Lúc đó, Tôn Thất Thuyết đã đưa vua Hàm Nghi cùng đoàn tùy tùng dời kinh đô Huế chạy ra sơn phòng Tân Sở. Tại đây, ngày 13/7/1884, Tôn Thất Thuyết nhân danh vua Hàm Nghi, đã hạ chiếu Cần Vương lần thứ nhất, kêu gọi sĩ phu, văn thân và nhân dân cả nước đứng lên kháng chiến giúp vua bảo vệ quê hương đất nước. Để tránh sự truy lùng gắt gao của quân Pháp, Tôn Thất Thuyết lại đưa Hàm Nghi vượt qua đất Lào đến sơn phòng Ấu Sơn (nay là Hương Khê, Hà Tĩnh). Tại đây, vua Hàm Nghi lại xuống chiếu Cần Vương lần hai ngày 20/9 năm đó. Đây là thời kỳ của những phong trào kháng chiến tự phát, nhỏ lẻ, hoàn toàn không có sự tham gia của quân đội triều đình. Lãnh đạo các cuộc khởi nghĩa Cần Vương không phải là các võ quan triều Nguyễn như trong thời kì đầu chống Pháp, mà là các trí thức, sĩ phu văn thân yêu nước đã tự nguyện hưởng ứng lời kêu gọi của vua, đứng lên kháng chiến nhằm đánh bại quân Pháp đang cai trị đất nước họ. Các cuộc khởi nghĩa đó là: Tuy nhiên, tất cả các cuộc kháng chiến này đều thất bại. Đêm ngày 30 tháng 10 năm 1888, vua Hàm Nghi bị người Pháp bắt trong lúc đang ngủ say.
Liên bang Đông Dương
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1293
Sau đó, thực dân Pháp ra sức thuyết phục nhà vua trẻ cộng tác nhưng vua Hàm Nghi đã từ chối quyết liệt. Sao đó, thực dân Pháp quyết định đưa vua Hàm Nghi đi đày tại Algeria, một thuộc địa của Pháp ở Bắc Phi (châu Phi), các cuộc khởi nghĩa chống Pháp vẫn tiếp tục. Tuy nhiên, phong trào Cần Vương suy yếu dần; từng cuộc khởi nghĩa lần lượt bị tiêu diệt. Đông Dương thuộc Pháp được thành lập vào ngày 17/6/1885 từ Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ (thuộc Việt Nam ngày nay) và Vương quốc Campuchia. Thực dân Pháp chính thức giữ lại vị thế của giới cai trị địa phương là hoàng đế Việt Nam và quốc vương Campuchia, nhưng thực tế đã tập hợp mọi quyền lực trong tay họ; các nhà cai trị địa phương chỉ giải quyết các vấn đề không mấy quan trọng giữa các thứ dân người Việt, nên được xem như chính phủ bù nhìn do Pháp lập nên. Chính trị. Thể chế chính trị. Chính trị Đông Dương thuộc thể chế thuộc địa và bảo hộ nên không có quyền tự quyết. Riêng ở Nam Kỳ thì có bầu cử định kỳ và vận động cử tri. Tuy nhiên số cử tri rất khiêm nhường. Vào khoảng thập niên 1910 thì chỉ có 1.000 cử tri người Việt, tức những người được vào Pháp tịch. Số người Pháp thì có khoảng 3.000 người ghi danh đi bầu. Sau cuộc cải tổ năm 1922, đặc quyền bầu cử được nới rộng và số cử tri người Việt tăng lên khoảng 20.000, đa số thuộc giới thượng lưu Tây học. Đây là thành phần cử tri bỏ phiếu trong những cuộc tuyển cử Hội đồng Quản hạt so với 2-3 triệu dân của toàn xứ Nam Kỳ. Về mặt thông tin, báo chí thì chính phủ Bảo hộ áp dụng chính sách kiểm duyệt sách báo. Lệ này đến năm 1935 mới nới lỏng hơn khi Đảng Xã hội Pháp của thủ tướng Léon Blum lên chấp chính. Bộ máy hành chính. Liên bang Đông Dương được đặt dưới quyền của hai cơ quan ở chính quốc Pháp. Nam Kỳ, Cao Miên và Lào phụ thuộc Bộ Thuộc địa Pháp dưới sự cai trị quân sự trong khi Trung và Bắc Kỳ phụ thuộc Bộ Ngoại giao Pháp do của nhà chức trách dân sự. Dưới thời Toàn quyền Doumer việc cai trị mới được gộp lại trực thuộc Bộ Thuộc địa. Cấp liên bang.
Liên bang Đông Dương
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1293
Cấp liên bang. Đứng đầu liên bang Đông Dương là viên Toàn quyền và Tổng thư ký, tức Phó Toàn quyền. Sau năm 1945 chức vụ Toàn quyền Đông Dương đổi thành Cao ủy Pháp tại Đông Dương ("Hauts commissaires de France en Indochine") và đến năm 1953 thì gọi là Tổng ủy ("Commissaires généraux"). Chức toàn quyền được giao quyền lực rất lớn vì là người đứng đầu về hành chính lẫn quân sự. Hỗ trợ cho chức vụ này là Hội đồng Tối cao ("Conseil supérieur"). Cơ quan này gồm có: Hội đồng Tối cao họp hai năm một lần, một tại Hà Nội và một tại Sài Gòn, để ban hành các đạo luật và tính toán ngân sách chung và riêng của từng xứ. Mười một bộ ở cấp liên bang gọi là tổng nha môn ("services généraux") được giao việc điều hành các công vụ của nhà nước. Hệ thống lập pháp cấp liên bang còn có hai nghị hội: Hội đồng Chính phủ ("Conseil de Gouvernement de l'Indochine") và Đại hội đồng Kinh tế Tài chính Đông Dương ("Grand Conseil des Intérêts économiques et Financiers de I’Indochine"), thành lập năm 1928. Hội đồng Kinh tế có 51 thành viên: 28 người Pháp và 23 đại biểu của ba xứ Việt, Miên, Lào. Trong số 23 người bản xứ thì người Việt chiếm tối đa 18 ghế. Hai hội đồng này chủ yếu là cơ quan tư vấn và thảo nghị chứ không phải viện lập pháp. Về mặt tư pháp, có hai tòa án thượng thẩm cấp liên bang đặt tại Hà Nội và Sài Gòn để nhận các bản kháng án từ những tòa án địa phương. Hệ thống tư pháp này duy trì trật tự công lý. Trong các vụ kháng án, các quan tòa người Âu được sự hỗ trợ từ quan lại người bản xứ. Về nguyên tắc, Liên bang này hoàn toàn theo luật pháp "mẫu quốc". Ngoài quyền đại diện liên lạc với chính quốc, ứng xử ngoại giao và điều hành quân đội, chính quyền Liên bang còn có toàn quyền tài chính. Triều đình Huế "lãnh lương" từ chính phủ Bảo hộ. Tổng cộng trên toàn cõi Đông Dương vào năm 1936 chính quyền có khoảng 3.300 công chức người Pháp trong guồng máy cai trị, trong số đó 400 thuộc cấp liên bang tập trung ở Hà Nội; số còn lại phụ thuộc cấp địa phương. Đa số xuất thân từ Trường Thuộc địa (École Coloniale ở Paris). Cấp địa phương thuộc địa.
Liên bang Đông Dương
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1293
Cấp địa phương thuộc địa. Trong sáu xứ thuộc Liên bang Đông Dương, riêng Nam Kỳ trực thuộc chế độ thuộc địa do Pháp cai trị trực tiếp. Đứng đầu Nam Kỳ là thống đốc ("gouverneur"). "Hội đồng Tư mật" và Hội đồng Thuộc địa là hai nghị hội tại đây. Ở cấp nhỏ hơn thì có Chánh Tham biện ("administrateur") đứng đầu mỗi địa hạt ("arrondissement"), sau đổi thành Chủ tỉnh (Tỉnh trưởng) ("chef de la province") và tỉnh ("province"). Dưới tỉnh là quận ("circonscription") và cơ sở phái viên hành chính ("délégation administrative"), đứng đầu là viên Chủ quận ("Chef de la circonscription") và vị Phái viên hành chính ("Délégué administratif") tương ứng; rồi đến cấp tổng ("canton") với cai tổng quản lý. Dân Nam Kỳ hưởng quy chế "thuộc dân Pháp" ("sujets français") và được hưởng quyền lợi nhiều hơn các xứ khác. Muốn vào Pháp tịch để bình đẳng như dân mẫu quốc thì phải nộp đơn để thành "citoyens français". Nam Kỳ cũng là xứ có bầu cử định kỳ và vận động cử tri. Người có Pháp tịch hoặc hội đủ một số điều kiện tài chánh mới có quyền đi bầu. Ở cấp tỉnh thì hội đồng tỉnh ở Nam Kỳ bắt đầu hoạt động từ năm 1882. Thôn xã được tổ chức với khái niệm dân chủ đầu phiếu từ năm 1927. Về mặt luật pháp thì Nam Kỳ chiếu theo bộ hình luật của Pháp ban hành năm 1912. Cấp địa phương bảo hộ. Bốn xứ Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Lào và Miên thuộc chế độ bảo hộ, tức chế độ hành chính bản xứ do người Pháp cai trị gián tiếp qua ngạch quan lại địa phương. Vì lẽ đó mà có hai hệ thống song hành, một của Pháp và một của người bản xứ, trên pháp lý là bình quyền chính trị, nhưng khi thi hành thì chế độ bản xứ tùy thuộc vào quyền phán quyết của người Pháp. Bộ Ngoại giao Pháp đảm nhiệm việc hành chính nhưng sang đầu thế kỷ 20 thì giao lại cho Bộ Thuộc địa Pháp, phản ảnh quan điểm và chính sách của Pháp đối với các xứ bảo hộ. Dân cư của các xứ Trung Kỳ, Bắc Kỳ, Lào và Miên trên mặt pháp lý thuộc hạng "protéges français", thấp nhất trong ba hạng "citoyens" (công dân), "sujets" (thuộc dân), và "protéges" (dân bảo hộ) ở Đông Dương.
Liên bang Đông Dương
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1293
Tại Bắc Kỳ, đứng đầu nền bảo hộ Bắc Kỳ là Thống sứ người Pháp ("Résidents supérieurs") (1889-1955) cùng ba nghị hội "Hội đồng Bảo hộ", "Hội đồng Pháp nhân" (đại diện người Pháp), và "Viện Dân biểu Bắc Kỳ" (đại diện người Việt). Viên thống sứ tuy là người Pháp nhưng kể từ ngày 26 Tháng Bảy năm 1897 kiêm cả chức đại diện cho Nam triều, tức là kinh lược sứ của vua nhà Nguyễn. Các quan lại bản xứ trên danh nghĩa là quan của triều đình Huế nhưng đều trực thuộc quyền viên thống sứ. Chủ quyền của triều đình Huế ở Bắc Kỳ từ đó càng bị thu hẹp. Trước năm 1889, khâm sứ Trung Kỳ đại diện cho cả hai xứ Bắc và Trung Kỳ. Kể từ năm 1900, Thống sứ Bắc Kỳ kiêm luôn chức quản trị Quảng Châu Loan tuy đây là một nhượng địa riêng với hạn kỳ 99 năm. Cấp tỉnh thì hội đồng tỉnh bắt đầu hiện diện từ năm 1886 nhưng hoạt động yếu ớt. Ở cấp làng xã thì cũng như tiền triều nhà Nguyễn, người dân được tự trị. Mãi đến năm 1941 ở Bắc Kỳ mới thực hiện cải cách, cho dân chúng đầu phiếu bầu hội đồng xã. Ở Trung Kỳ, đứng đầu nền bảo hộ Trung Kỳ là Khâm sứ người Pháp. Chức vụ này từ năm 1884 đến 1889 có tên là "Résidents généraux d'Annam". Sau năm 1889 thì đổi thành "Résidents supérieurs" (1889-1953). Hành dinh của Khâm sứ Pháp đặt ở Huế. Sang thập niên 1950 thì chuyển vào Đà Lạt. Khâm sứ Trung Kỳ tham gia hội đồng phụ chính từ năm 1887, đến Tháng Sáu năm 1895 thì có đặc quyền chủ tọa Hội đồng Cơ mật và cả Tôn nhân phủ. Tất cả các công văn sắc dụ ban hành đều phải có chữ ký phê thuận của viên khâm sứ. Ngoài ra Triều đình Huế kể từ Tháng Chín 1897 phải chịu cho một viên hội lý người Pháp làm quản sự cho mỗi vị thượng thư trong Lục bộ cũ. Hiệp sức với viên Khâm sứ là "Hội đồng Bảo hộ" và "Hội đồng Pháp nhân" (đại diện người Pháp). Trung Kỳ cũng có "Viện Dân biểu Trung Kỳ" thành lập năm 1926 nhưng cơ quan này kể từ năm 1932 không thuộc chính phủ bảo hộ nữa mà thuộc triều đình Huế kiểm soát.
Liên bang Đông Dương
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1293
Trước năm 1932 Viện Dân biểu trực thuộc viên Khâm sứ Pháp. Thống sứ Bắc Kỳ hay Khâm sứ Trung Kỳ là hai cách gọi khác nhau của người Việt nhưng chức vị và quyền hành trong chính phủ Bảo hộ thì giống nhau. Tiếng Pháp gọi chức vụ này là "résident supérieur", đúng ra dịch sát nghĩa là "lưu trú quan đại thần". Ở cấp tỉnh thì có hội đồng tỉnh, thành lập từ năm 1913, muộn hơn Bắc Kỳ 27 năm, và mãi đến năm 1942 mới bắt đầu tổ chức lại thôn xã và cho phép người dân đầu phiếu hội đồng xã. Vùng duyên hải thì hệ thống quan lại và hành chính của người Việt thì giữ nguyên nhưng ở trên Cao nguyên thì người Pháp lập một khu riêng, không do người Việt quản trị, gọi là "Pays Montagnards du Sud" bắt đầu vào thập niên 1920. Người Việt không có giấy phép không được lên vùng này. Ở Lào và Miên cũng có khâm sứ như Trung Kỳ. Khâm sứ Pháp ở Cao Miên kể từ năm 1897 có quyền hành rộng lớn như khâm sứ ở Huế. Ở Cao Miên thì "khet" (tương đương với "tỉnh") thì có "chau-faikhet". ở Lào không có cấp tỉnh mà chỉ có cấp tương đương với phủ huyện (tiếng Pháp: "préfecture") gọi là "mouang" hay "muang", có "chao-muang" đứng đầu. Công sứ Pháp ở Cao Miên so với Việt Nam thì việc cai trị có tính trực tiếp hơn tuy vẫn là trên danh nghĩa "bảo hộ". Công sứ ở Miên có thực quyền trị an, thu thuế, mở mang kinh tế mà không cần sự ưng thuận của Miên triều. Cấp địa phương tô giới. Đạo dụ 1 Tháng Mười năm 1888 triều vua Đồng Khánh (toàn quyền Richaud) nhượng thêm ba thành phố Hà Nội, Hải Phòng, và Đà Nẵng (người Pháp gọi là Tourane) làm tô giới ("concession") của Pháp, tức là cùng thể chế trực trị như Nam Kỳ tuy nằm trong lãnh thổ bảo hộ bản xứ. Đứng đầu hai thành phố Sài Gòn và Chợ Lớn là viên Thị trưởng người Pháp ("Maire"). Hai thành phố Hà Nội và Hải Phòng tại Bắc Kỳ cùng thành phố Tourane (Đà Nẵng) tại Trung Kỳ, đứng đầu là viên Đốc lý người Pháp ("Résident-maire"). Bên cạnh viên Thị trưởng hay Đốc lý là Hội đồng thành phố ("Conseil Municipal") đối với thành phố loại I hoặc Ủy hội thành phố ("Commission Municipale") đối với thành phố loại II.
Liên bang Đông Dương
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1293
Thành viên của Hội đồng hoặc Uỷ hội gồm cả người Pháp lẫn người Việt; Hội đồng thành phố Sài Gòn được lập năm 1869, Ủy hội thành phố Chợ Lớn lập năm 1879, Hội đồng thành phố Hà Nội và Hải Phòng lập năm 1891 và Ủy hội thành phố Tourane lập năm 1908. Ngoài ra bốn quân khu vùng biên giới Việt-Hoa và Lào-Hoa, gọi là các đạo quan binh ("territoire militaire"), cũng thuộc dạng cai trị trực tiếp. Cao nguyên Trung phần gồm các tỉnh Darlac (lập năm 1904), Kontum (1913), Donnai Thượng, Lang Bian (1920), và Pleiku (1932) cũng đặt ngoài quyền quản trị của người Việt. Pháp luật. Pháp luật ở Trung Kỳ thì dùng bộ luật Gia Long bổ sung với hình luật và dân luật của Pháp. Ở cấp dưới thì quan tri phủ và tri huyện đứng làm quan tòa sơ thẩm, quan tỉnh xét phúc thẩm và công sứ Pháp có nhiệm vụ kiểm sát. Chung thẩm thì có bộ Hộ và bộ Hình cùng khâm sứ Pháp. Ở Bắc Kỳ thì có bộ "Hoàng Việt Tân luật" ban hành năm 1918 dùng bộ luật Gia Long nhưng sửa đổi theo thích ứng của chính quyền Pháp. Cũng giống như Trung Kỳ, quan tri phủ và tri huyện xét sơ thẩm. Đệ nhị cấp thì có công sứ Pháp làm chính thẩm còn quan tổng đốc và tuần phủ làm bồi thẩm. Trên hết là tòa Phúc thẩm Hà Nội. Ở Nam Kỳ thì dùng "Pháp quy giản yếu 1883" dựa trên luật pháp bên chính quốc. Đối với người Pháp thì luật lệ bản xứ không áp dụng cho họ vì họ được xét xử dưới bộ luật Pháp như ở bên Pháp. An ninh-quân sự. Lực lượng quân sự của Pháp ở Đông Dương vào năm 1937 là 10.779 lính da trắng. Đến năm 1940 trước Chiến tranh thế giới thứ hai thì con số này tăng lên thành 14.500, trong đó có 3.600 sĩ quan chỉ huy và 4.000 quân Lê dương ("Legionnaires étrangères"). Tổng số quân lính kể cả lính bản xứ là 90.000. Ngoài ra chính quyền Đông Dương còn dùng Sở Liêm phóng Đông Dương làm cơ quan tình báo và công an, kiểm soát và phá hoại các hoạt động chống lại chính quyền, nhất là các tổ chức chính trị. Phân cấp hành chính. Trước cả khi Liên bang Đông Dương được thành lập, vào thập kỷ 1870 Pháp đã tiến hành phân chia địa giới giữa Nam Kỳ thuộc Pháp và Cao Miên do Pháp bảo hộ.
Liên bang Đông Dương
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1293
Năm 1870 Pháp cùng Cao Miên điều chỉnh ranh giới tại vùng thượng nguồn giữa hai sông Vàm Cỏ Tây, Vàm Cỏ Đông: Phần lớn đất đai vùng này là vùng lồi Svay Tieep-Svay Rieng (nay thuộc tỉnh Svay Rieng) trả về Campuchia; bù lại một dải đất nhỏ dọc bờ tây nam rạch Cái Cậy (thượng lưu của sông Vàm Cỏ Đông) vốn thuộc tỉnh Prey Veng thì trao cho Nam Kỳ. Dải đất này đến năm 1914 thì lại nhập vào Campuchia bởi nghị định của Toàn quyền Đông Dương. Năm 1873 hoàn thành việc cắt chỉnh địa giới hai hạt Hà Tiên và Châu Đốc của Nam Kỳ, phần đất phía bắc kênh Vĩnh Tế và thị xã Hà Tiên ngày nay, về cho Campuchia. Dưới sự cai trị của Pháp, địa giới các xứ Đông Dương được phân định lại. Công ước Pháp-Thanh 1887 lấy đông kinh tuyến 105º43’ làm giới hạn bên bờ Vịnh Bắc Việt nên một dải đất Trường Bình, Bạch Long ở phía bắc sông Bắc Luân thuộc tổng Vạn Ninh bị nhượng cho nhà Thanh. Việc đóng mốc phân định biên giới hoàn thành năm 1896. Vì sự chia cắt đó đến năm 2000 có 22.000 người Kinh là hậu duệ người Việt cũ vẫn sinh sống ở đất Quảng Tây. Ngược lại đất các vùng Điện Biên, Lai Châu, Lào Cai xưa là phên giậu biên thùy, từng triều cống Lão Qua, thì nay được sáp nhập vào Bắc Kỳ. Đất Trấn Ninh và Sầm Châu mặc dù có quan Việt cai quản thì người Pháp lại cắt cho Lào kể từ năm 1895 và 1903. Vùng Cao nguyên Trung phần thì người Pháp năm 1893 buộc triều đình Huế cắt ra và cho phụ thuộc Lào. Năm 1904 thì Darlac (Ban Mê Thuột) mới được trả lại Trung Kỳ; Kontum theo chân năm 1905. Tuy nhiên khu vực cao nguyên này gần như trực thuộc người Pháp cai trị. Triều đình Huế có quyền bổ nhiệm viên quan quản đạo nhưng thực quyền nằm trong tay công sứ Pháp. Năm 1923 chính công sứ Darlac là Léopold Sabatier đã ra lệnh tuyệt cấm người Việt lên lập nghiệp ở Darlac rồi lại vận động khâm sứ Trung Kỳ là Pierre Pasquier áp dụng chung chính sách này cho toàn cao nguyên Trung phần. Năm 1906 Xiêm trả lại hai tỉnh Battambang và Xiêm Riệp để nhập vào Cao Miên.
Liên bang Đông Dương
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1293
Năm 1916 vì bất ổn ở vùng biên giới Việt-Hoa, chính quyền Bảo hộ cho lập năm quân khu để kiểm soát vùng cực bắc xứ Bắc Kỳ và Lào. Từ thập niên 1890 chính quyền Bảo hộ nhân danh triều đình Huế đã có dự định dựng ngọn hải đăng để khẳng định chủ quyền của Pháp trên quần đảo Hoàng Sa nhưng đồ án không thực hiện được và mãi đến năm 1938 mới có lực lượng chính thức chiếm đóng quần đảo này. Dù vậy khi nhà Thanh gửi thuyền xâm phạm Hoàng Sa vào những năm đầu thế kỷ 20 thì Bộ Ngoại giao Pháp đã có công văn phản đối. Cuộc tranh chấp này kéo dài cho đến khi người Pháp mất chủ quyền ở Đông Dương và vẫn chưa kết thúc. Nhân khẩu. Dân số. Vào đầu thế kỷ 20, thành phần dân cư của Liên bang Đông Dương gồm có người Việt, người Khmer, người Thái, người Chăm và các dân tộc thiểu số khác. Trong số đó, người Việt là đông nhất với 15 triệu người, kế đến là người Khmer với 1,3 triệu người, người Thái 1,1 triệu và người Chăm 100.000, số dân tộc thiểu số ước khoảng 500.000 người. Ngoài số này, còn có khoảng 300.000 người Hoa và các dân tộc châu Á khác, 15.000 người Âu và 40.000 người Âu lai Á. Tính tổng cộng, dân số của Liên bang Đông Dương vào khoảng 18.370.000 người, mật độ trung bình 24 người trên một km². Tôn giáo. Các tôn giáo chính ở Đông Dương là Phật giáo, với Phật giáo Đại thừa và Phật giáo nguyên thủy. Ngoài ra, các nhà truyền giáo Công giáo tích cực đã lan rộng khắp Đông Dương và khoảng 10% dân số Bắc Kỳ được xác định là Công giáo vào cuối thời Pháp. Nho giáo và tín ngưỡng dân gian đều có nhiều ảnh hưởng. Nguồn gốc của đạo Cao Đài cũng bắt đầu trong thời kỳ này. Không giống như Algérie, sự định cư của Pháp ở Đông Dương không xảy ra ở quy mô lớn. Đến năm 1940, chỉ có khoảng 34.000 thường dân Pháp sống ở Đông Dương, cùng với một số ít nhân viên quân đội Pháp và nhân viên chính phủ.
Liên bang Đông Dương
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1293
Những lý do chính khiến cho việc định cư của Pháp không phát triển theo cách tương tự như ở Bắc Phi thuộc Pháp (nơi có dân số hơn 1 triệu dân thường Pháp) là vì Đông Dương được coi là một thuộc địa kinh tế của Pháp ("colonie d'exploitation économique") chứ không phải thuộc địa định cư ("colonie de peuplement") (thuộc địa định cư giúp chính quốc Pháp khỏi bị quá đông đúc), và vì Đông Dương đã ly thân từ Pháp. Ngôn ngữ. Tiếng Pháp là ngôn ngữ hàng đầu của Đông Dương trong giáo dục, chính trị, thương mại và truyền thông. Tiếng Pháp được sử dụng rộng rãi ở các khu vực thành thị và đã trở thành ngôn ngữ chính của giới thượng lưu có học thức. Văn hóa Pháp có tác động sâu rộng nhất đến Nam Kỳ và Bắc Kỳ, trong khi Campuchia, Lào và Trung Kỳ phải chịu những tác động tương đối ngắn hạn. Tuy nhiên, hầu hết người dân bản địa vẫn sử dụng ngôn ngữ bản địa trong thời kỳ thuộc địa. Sau thời kỳ thuộc địa, chính phủ miền Nam Việt Nam vẫn sử dụng tiếng Pháp. Ngay cả ngày nay, trí thức và người lớn tuổi địa phương vẫn nói tiếng Pháp. Ngày nay, chính phủ Campuchia và Lào đôi khi vẫn sử dụng tiếng Pháp. Kinh tế. Sau khi ký Hòa ước Giáp Thân (1884) thì quân đội Pháp tiến vào Kinh thành Huế tiếp thu các cơ quan hành chính kể cả kho bạc. Họ ghi nhận thu được hơn 6.000 nén vàng, 2.000 đồng vàng và vô số bạc nén. Phân nửa sau đó được hoàn lại triều đình Huế còn phân nửa được đưa lên tàu chở về chính quốc Pháp trang trải binh phí cuộc viễn chinh. Tổng cộng trọng lượng Pháp thâu nhận bằng biên bản là 14.630 kg bạc và 1.335 kg vàng, phần lớn mang nấu chảy để đúc lại sung vào công quỹ của Pháp. Kinh tế Đông Pháp từ đó được vận hành chủ yếu là một nền kinh tế thuộc địa để hỗ trợ cho kinh tế Pháp chứ không có kế hoạch tự túc hoặc phát triển theo khả năng bản xứ. Toàn quyền Pasquier đã khẳng định: "Il faut que les profits de l'Indochine reviennent aux Français" ("Lợi nhuận từ Đông Dương phải trao lại cho nước Pháp"). Đông Pháp là nguồn nguyên liệu và vật liệu bán chế trong khi chính quốc Pháp cung ứng những sản phẩm chế biến để bán lại sang Đông Pháp.
Liên bang Đông Dương
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1293
Về mặt nông lâm, cơ chế đồn điền nhất là đồn điền cao su để cung cấp cho thị trường Âu Mỹ là một điển hình cho mối tương quan giữa Pháp và Đông Pháp. Cây cao su "Hevea brasiliensis" đầu tiên đem từ Mã Lai sang trồng ở Đông Dương là vào năm 1897 ở Sài Gòn. Đến năm 1905 thì cạo mủ thấy sản xuất được nên bắt đầu phát động đem trồng nhiều nơi. Nhiều công ty lớn của Pháp như hãng Michelin đều đầu tư vào ngành này, sở hữu những đồn điền với diện tích rộng lớn, tổng cộng chiếm hơn 138.000 hecta trên toàn Đông Dương. Tính đến năm 1926 thì diện tích trồng cao su là hơn 166.000 ha với 13 triệu cây cao su. Số lượng nhân công cần để khai thác nguồn lợi này cũng đã làm dao động xã hội bản xứ. Lượng cao su xuất cảng đạt hơn 10 nghìn tấn vào năm 1929 và tiếp tục gia tăng đến khi Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ. Sản lượng cao su sau đó tụt xuống chỉ còn 15% sản lượng tiền chiến và không phục hồi được cho dù có đến cuối thập niên 1940 đã đạt khoảng 60% sản lượng cao nhất. Lượng nông phẩm lớn nhất của Đông Dương là lúa gạo, đạt 2.140.000 tấn xuất cảng năm 1937 với diện tích canh tác ở Nam Kỳ tăng mạnh từ 522.000 hecta năm 1880 đến 2 triệu 2 hecta năm 1937. Chính phủ Bảo hộ có tay trong việc phân phát đất đai. Tính đến năm 1940, 1.299.500 hecta được phát cho người bản xứ và 962.200 hecta cho người Âu châu. Trên tổng số đó, 63% là cho người Âu châu so với 89% đất phát cho người bản xứ là ở Nam Kỳ. Dân bản xứ tập trung lĩnh canh đất trồng lúa trong khi người Pháp lấy đất mở đồn điền trồng cao su, cà phê, chè. Vào thập niên 1950 trong số các địa chủ sở hữu hơn 100 ha, phần lớn tập trung ở Nam Kỳ thì 2033 người là người Việt và 430 là công dân Pháp. Những khu vực kinh tế khác được chính phủ Bảo hộ lưu ý là khoáng sản (than đá, chì, kẽm), chè, cà phê, hạt tiêu. Kỹ nghệ nhẹ như ngành dệt, thuốc lá, xi măng cũng được phát triển. Kỹ nghệ lớn nhất với khoảng 50.000 công nhân là ngành khai thác than đá, chủ yếu ở Hà Tu và Hòn Gai (Pháp gọi là Hongay) và Cẩm Phả của công ty "Société de Charbonnages du Tonkin".
Liên bang Đông Dương
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1293
Hãng "Société de Charbonnages du Đông Triều" thì khai thác ở Kê Bào. Năm 1930 sản lượng than đá khai thác là 1.890.000 tấn, trong đó 3/4 được xuất cảng. Những mặt hàng được nhập khẩu chính vào Đông Dương thời kỳ này là sữa đặc, thức ăn đóng hộp, bột mì, rau, đường, cà phê, trà, thuốc lá, chỉ bông, vải bông, rượu, than, dầu lửa, đồ kim loại, dược phẩm, xà phòng, đồ gốm, đồ thủy tinh và pha lê, giấy, máy móc, xe hơi, v.v. Các mặt hàng xuất khẩu quan trọng gồm có: gạo, cá (cá khô và cá muối), tiêu, quế, dầu thực vật, gỗ tếch, sợi bông (thô), than và kẽm, lụa (thô), xi măng, thảm chiếu, da, v.v. Cán cân xuất nhập khẩu vào năm 1914 là thặng dư gần 66 triệu đồng. Cơ quan điều hành kinh tế cho cả sáu xứ Đông Pháp là Ngân hàng Đông Dương (Banque de l'Indochine), thành lập từ năm 1875. Ngân hàng này có đặc quyền phát hành đồng bạc Đông Dương ("piastre indochinoise"). Chính quyền Bảo hộ còn giành độc quyền bán thuốc phiện, rượu, và muối, còn được gọi là thuế "môn bài". Ba khoản thu này cộng thêm quan thuế xuất nhập khẩu cung ứng 95% ngân sách để trả lương công chức. Lấy trường hợp thu ngân của chính phủ Bảo hộ ở Bắc Kỳ năm 1886 trên tổng số 134 triệu đồng thì bốn nguồn thuế chính là: Độc quyền nấu rượu thì giao cho công ty "Société des Distilleries d'Indochine" phân phối cho toàn Liên bang dưới hiệu "RA" ("Régie de Alcool"), tục gọi là "rượu ty". Những nguồn rượu khác thì bị liệt vào hạng rượu lậu và ai nấu hay mua thì bị truy tố và tài sản tịch thu. Đối với thuốc phiện thì quyền nhập cảng, chế biến và bán sỉ là do cơ quan Régie de l'Opium đảm nhận. Tính đến năm 1900 thì lợi nhuận chính phủ thu được từ thuốc phiện đạt hơn phân nửa số tiền thu nhập của toàn Liên bang Đông Dương. Riêng việc phân phối bán lẻ là để cho tư nhân, đa số là người Hoa. Cơ sở hạ tầng. Giao thông. Nỗ lực lớn nhất của nhà nước Bảo hộ là xây dựng hệ thống đường sắt. Đoạn đường sắt thiết lập trước tiên với kinh phí 11,6 triệu franc là ở Nam Kỳ, dài 71 cây số, hoàn tất Tháng Bảy năm 1885 nối liền Sài Gòn và Mỹ Tho.
Liên bang Đông Dương
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1293
Vào những năm 1897-1900 thì con đường sắt Hà Nội-Lạng Sơn hoàn thành ở Bắc Kỳ với giá trị chiến lược cao để củng cố vùng biên giới Việt-Hoa. Sau đó nhà nước chủ trương xây dựng một hệ thống đường sắt Xuyên Đông Dương ("Chemin de fer Transindochinois") nối liền Hà Nội và Sài Gòn. Dự án này đến năm 1936 mới xây xong, chạy dài từ Nam Quan đến Mỹ Tho với chiều dài 1714 km. Đây là tiền thân của đường sắt Bắc Nam của Việt Nam sau này. Hành trình Sài Gòn - Hà Nội mất 60 giờ đồng hồ, tức hai ngày và ba đêm. Ngoài ra còn có những nhánh đường sắt khác từ Nam Vang đến biên giới Xiêm; từ Sài Gòn đi Lộc Ninh; từ Tháp Chàm lên Đà Lạt; từ Phủ Ninh Giang qua Kẻ Sặt đến Cẩm Giàng. Riêng đoạn đường từ Hải Phòng lên Hà Nội rồi từ Hà Nội ngược sông Thao vượt biên giới Việt-Hoa sang Vân Nam thì do tư nhân hãng "Compagnie Française des Chemins de fer de l'Indochine et du Yunnan" khai thác. Tính đến năm 1939 thì toàn cõi Đông Dương có 3.372 km đường sắt. Ở hai đô thị chính, Sài Gòn và Hà Nội chính quyền còn cho thiết lập hệ thống "tàu điện" ("tramways"). Tàu điện Sài Gòn khánh thành năm 1881 lúc đầu chạy bằng hơi nước và đến năm 1923 mới chính thức chạy bằng điện. Lộ trình 7,2 km này nối Chợ Lớn, Sài Gòn (theo đường Galliéni, sau năm 1955 là đường Trần Hưng Đạo) rồi tỏa ra Hóc Môn, Gò Vấp, phục vụ đến năm 1953 mới tháo bỏ. Tàu điện Hà Nội với 29 km đường rày khởi dụng năm 1901 và mãi đến năm 1990 mới thôi. Để cung cấp năng lượng, người Pháp đặt hệ thống điện lực. Có lẽ sau Nhật Bản (1886) Hà Nội là thành phố đầu tiên ở Á châu có điện thắp sáng từ cuối thế kỷ 18. Năm 1897 công suất của công ty điện lực mà người Việt quen gọi là "sở nhà đèn" tăng lên thành 850 mã lực. Tư nhân cũng có thể đặt mua. Công trình phát triển đường sá thì có cầu Sông Cái dài hơn 1,600 m do công ty Daydé et Pillé thực hiện từ năm 1897 đến 1901 mới xong là công trình đáng kể nhất.
Liên bang Đông Dương
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1293
Ngoài ra còn có những xây cất nhỏ hơn như cầu Hàm Rồng bắc qua sông Mã ở Thanh Hóa; cầu Trường Tiền ngang sông Hương ở Huế; cầu Rạch Cát và cầu Gành (hay cầu Ghềnh) bắc qua sông Đồng Nai, nối liền Cù Lao Phố với thành phố Biên Hoà, v.v. Con đường thiên lý sau đó được rải nhựa dần để xe hơi có thể chạy suốt từ biên giới Việt-Hoa đến biên giới Miên-Xiêm. Tổng cộng trên toàn cõi có khoảng 28.000 km đường trải nhựa hoặc trải đá sỏi. Viễn thông. Chính phủ Pháp cũng cho thiết lập hệ thống dây thép điện tín, đoạn đầu tiên hoàn tất năm 1862 nối Sài Gòn, Biên Hòa và Chợ Lớn. Đến năm 1888 thì đường dây liên lạc Sài Gòn-Hà Nội cũng làm xong. Xã hội. Thực dân Pháp thực hiện chính sách kinh doanh thuốc phiện và rượu như một đặc quyền của nhà nước. Xã hội Việt Nam khi đối diện nền kinh tế mới của người Pháp biến đổi và phân hóa sâu sắc. Mâu thuẫn giữa giai cấp địa chủ và nông dân vẫn tồn tại và là mâu thuẫn chủ yếu trong xã hội, là tàn dư của nghìn năm phong kiến. Địa chủ sở hữu phần lớn ruộng đất, một số dựa vào thế lực của Pháp để thủ lợi. Nông dân là lực lượng đông đảo nhất trong xã hội Việt Nam (chiếm khoảng 90% dân số), cũng là thành phần gánh chịu phần lớn phí tổn của nền Bảo hộ. Giai cấp công nhân nhỏ hơn, hình thành từ cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất của thực dân Pháp. Họ tập trung ở các thành phố và khu vực khai thác mỏ. Cũng tập trung ở thành thị là giai cấp tư sản và tiểu tư sản bao gồm doanh nhân trong các ngành công nghiệp, thương nghiệp, và cả nông nghiệp. Ngoài ra trong nhóm này cũng là giới học sinh, trí thức, thợ thủ công, công chức và những người làm nghề tự do. Các thành phần xã hội tuy chung một khái niệm yêu nước nhưng cũng có khi đối chọi về kinh tế và văn hóa. Dân cư. Về dân cư, người Việt sống chủ yếu ở Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Nam Kỳ, người Khmer sống ở Campuchia, người Thái ở Lào, người Chăm ở Nam Kỳ và một phần Campuchia; những người thuộc dân tộc thiểu số sống rải rác dọc theo vùng núi cao trong lục địa.
Liên bang Đông Dương
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1293
Trong các sắc dân bản địa, người Việt có tổ chức xã hội cao hơn cả. Qua kinh nghiệm nhiều đời, họ đã có được những tập quán nông nghiệp phát triển, nhưng năng lực buôn bán yếu. Thương mại trên khắp Đông Dương nằm trong tay những người Hoa. Người Thái thích sống ở những vùng cao, với công việc chính là nuôi gia súc và săn bắn; họ kém văn minh hơn hẳn những người Việt. Người Khmer thì làm các nghề về gỗ, nông, ngư nghiệp, và săn bắn. Trên pháp lý, người dân Đông Dương chia thành ba hạng. Đứng đầu là công dân Pháp ("citoyens français") gồm những người Pháp và một số người bản xứ được nhập tịch. Thứ nhì là thuộc dân Pháp ("sujets français") là dân Nam Kỳ và dân chúng của ba thành phố Đà Nẵng, Hải Phòng và Hà Nội. Hạng ba mới là dân bảo hộ ("protégés français") tức là đại đa số dân chúng Trung, Bắc Kỳ, Lào, và Cao Miên. Di dân. Một hậu quả của chính sách nhà nước Bảo hộ khi hậu thuẫn việc thông thương với Trung Hoa là đà gia tăng số người Hoa nhập cảnh với nhiều ưu đãi. Từ tổng số 60.000 Hoa kiều vào cuối thế kỷ 19, đến năm 1921 thì số di dân người Hoa đã tăng thành 156.000 riêng ở Nam Kỳ Họ nắm tài lực và tận dụng khai thác hệ thống kinh tài khắp Đông Nam Á, nhất là ngành buôn gạo. Số thương gia tên tuổi lịch sử còn ghi lại có Wang-Tai, Hui Bon Hoa (tục gọi là "chú Hỏa"), Quách Đàm (xây chợ Bình Tây). Đến năm 1937 trong suốt ba Kỳ Trung, Nam, Bắc có 217.000 Hoa kiều, chiếm hơn 11% dân số. Theo hiệp ước ký giữa Pháp và nhà Thanh năm 1885 và 1886 thì người Tàu ngụ cư ở Đông Dương hưởng quy chế ngoại nhân ưu đãi ("etrangers bénéficiant d'un statut privilégié") được miễn sưu thuế, không phải bắt làm tạp dịch hay nhập ngũ lại được quyền đi lại tự do. Hơn nữa vì giữ quốc tịch Trung Hoa, quyền lợi của họ có chính phủ Bắc Kinh bênh vực. Cộng đồng người Hoa tổ chức theo nguyên quán, tục gọi là "bang" (tiếng Pháp: "congrégation"). Vào năm 1885 thì có bảy bang ở Nam Kỳ nhưng sau đó gộp lại thành năm bang căn cứ theo nguyên quán: Quảng Đông, Phúc Kiến, Hải Nam, Triều Châu, và Hẹ.
Liên bang Đông Dương
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1293
Ước tính dân số (1950) Hoa kiều của ba kỳ: Bắc, Trung, Nam thì có 337.500 người nói tiếng Quảng Đông, 225.000 nói tiếng Tiều, 75.000 nói tiếng Hẹ, 60.000 nói tiếng Phúc Kiến và 30.000 nói tiếng Hải Nam, tổng cộng là 727.500. Trong khi triều đình Huế phân biệt người Việt và Minh Hương, chính quyền Bảo hộ gộp người Minh Hương (hơn 80.000 vào năm 1944) vào bộ tịch người Việt. Ngoài ra có khoảng 5.000 Ấn kiều từ các thuộc địa của Pháp bên Ấn Độ. Giống như người Hoa, người Ấn đại đa số là thương nhân, cùng làm nghề cho vay nặng lãi. Số người Âu châu đến cuối thập niên 1930 là 39.000, đa số người Pháp, nắm giữ địa vị then chốt chính trị và kinh tế trong ba ngành xuất cảng gạo, cao su, và khoáng sản. Ba nhóm ngoại kiều Pháp, Hoa và Ấn tập trung ở thành thị trong khi dân bản xứ phần lớn sinh sống ở nông thôn. Một chính sách di dân nữa được đề ra là việc mộ dân ở Bắc và Trung Kỳ đưa vào Nam làm phu đồn điền cao su hoặc nông trại miền núi Cao nguyên Trung Kỳ hay thượng du Bắc Kỳ. Riêng niên khóa 1926-27, 35.000 người dân từ Bắc và Trung Kỳ được mộ làm phu và đưa vào Nam Kỳ làm công trong các đồn điền. Người Việt cũng được khuyến khích di cư sang Lào và Cao Miên. Thống kê năm 1908 ghi nhận 60.000 người Việt trên đất Miên. Đến năm 1921 thì tổng số người Việt ở Cao Miên là hơn 140.000 và 191.000 vào năm 1937. Cùng thời gian sau đó vào cuối thập niên 1930 thì số người Việt ở Lào đã tăng lên gần 40.000. Một số khác được đưa sang Tân Đảo và đảo Tân Thế giới làm phu mỏ và đồn điền của Pháp. Giáo dục. Một hậu quả khác rất đáng kể của cuộc bảo hộ đối với người Việt là việc thay đổi toàn diện về học thuật. Ở Nam Kỳ ngay từ năm 1867 người Pháp đã ngưng hẳn thể chế khoa cử bằng chữ Nho và đến năm 1878 thì các công văn bằng chữ Nho cũng bị loại bỏ, thay bằng chữ Pháp và chữ Quốc ngữ. Trường sở tại Nam Kỳ bắt đầu áp dụng theo mẫu trường công ở Pháp từ năm 1879.
Liên bang Đông Dương
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1293
Tuy nhiên ở Trung và Bắc Kỳ thì chữ Nho tiếp tục được giảng dạy dưới sự vận động của Giám đốc Học chính Gustave Dumoutier. Cải cách năm 1908. Đến năm 1908 thì Hội đồng Cải cách Học vụ (Conseil de Perfectionnement de l'enseignement indigène, lập năm 1905) thời Toàn quyền Beau lập Học bộ tức Nha Giám đốc Học chính (Direction de l'Enseignement) dưới sự điều hành của Henri Gourdon và quy hoạch lại việc giáo dục ở Trung và Bắc Kỳ, chia thành ba bậc: ấu học, tiểu học và trung học. Đây bước đầu của chữ Quốc ngữ trong ngành giáo dục của người Việt. Tổng số trường học ở Trung và Bắc Kỳ là khoảng 15.000 với 200.000 học sinh. Bắt đầu từ khoa thi hương năm 1909 thì thí sinh phải biết chữ Quốc ngữ để làm bài. Ở Hà Nội thì có thêm trường Bảo hộ và Huế thì có trường Hậu bổ cùng với trường Quốc học sẵn có để đào tạo thêm nhân sự. Cải cách năm 1915. Năm 1915 thì Bắc Kỳ rồi năm 1918 Trung Kỳ cũng theo Nam Kỳ bỏ khoa cử để theo chương trình do Nha Học chính Đông Dương soạn ra tức bộ học luật ("Code de l'instruction publique") ban hành ngày 21 Tháng 12 năm 1917. Theo đó thì tiếng Pháp được đưa vào giáo trình từ bậc tiểu học. Tiểu học chia thành ba cấp: Tính đến năm 1938 thì toàn cõi Đông Dương có 406.669 học sinh tiểu học (tỷ số 1/5 số trẻ em ở tuổi đi học). Đại đa số ghi danh học trường công nhưng cũng có khoảng 60.000 học sinh theo học ở các tư thục, trong đó 36.000 do Giáo hội Công giáo huấn luyện tại 650 trường sở. Trung học (ba năm) thì chỉ có bốn trường (lycée) đặt ở Phnôm Pênh (lycée Sisowath, 1935), Huế (lycée Khai-Dinh, 1936), Sài Gòn (lycée Petrus-Ky) và Hà Nội (lycée du Protectorat) mà thôi. Học xong hai năm thì thi lấy bằng Tú tài bản xứ. Ba năm thì lấy bằng "baccalauréat". Bằng "baccalauréat" được công nhận tương đương với bên chính quốc kể từ năm 1930. Số người đậu bằng "baccalauréat" rất ít oi, như năm 1942 tổng cộng chỉ có 75 người. Đại học thì có mở chỉ một cơ sở là Viện Đại học Đông Dương ở Hà Nội khai giảng từ năm 1907 nhưng hoạt động gián đoạn đến năm 1917 mới tái tục.
Liên bang Đông Dương
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1293
Điểm đáng lưu ý là chứng chỉ do Đại học Đông Dương cấp không được công nhận là tương xứng với các trường đại học bên Pháp. Sinh viên Đông Dương muốn sang Pháp học cũng bị gây khó dễ và hạn chế. Năm 1924 mở khóa học đầu tiên của Trường Mỹ thuật Đông Dương với hai phân khoa: 1) hội họa, điêu khắc & trang trí, 2) kiến trúc. Ở Phnôm Pênh thì người Pháp lập trường Bảo hộ từ năm 1893. Đến năm 1905 thì đổi thành Collège Sisowath. Những cải cách của chính quyền Pháp chỉ một phần là để nâng cao kiến thức dân chúng nhưng còn có dụng ý là để chuyển hướng tư duy của đại chúng. Thay vì trông đợi vào giới sĩ phu truyền thống dẫn dắt, nay người dân thường sẽ có nhà nước Bảo hộ đào tạo kiến thức. Người Pháp đã dồn nhiều nỗ lực vào việc cải tổ nền giáo dục bản xứ. Một chứng cứ là sách giáo khoa thời Pháp không dùng danh từ "Việt Nam" mà chỉ nhắc đến "Đông Pháp" và các xứ lệ thuộc Nghiên cứu, khoa học, & kỹ thuật. Chính phủ Bảo hộ cho thành lập một số cơ sở khoa học ở Đông Dương như Viện Pasteur (Institut Pasteur de Saigon, 1890 & Nha Trang, 1895), Nha Địa chất (Service géologique, 1918), Viện Canh nông Thuộc địa (Institut agronomie coloniale, 1918), Viện Hải dương học (Institut océanographique, 1922). Bác sĩ Alexandre Yersin qua Viện Pasteur đã có nhiều đóng góp về căn bệnh dịch hạch. Ông chọn sống tại Nha Trang, Trung Kỳ nơi ông tiếp tục những cuộc thí nghiệm khoa học cho đến khi mất. Nhà thương theo y học Tây phương đầu tiên ở Đông Dương là nhà thương Chợ Quán, bắt đầu hoạt động năm 1864 nhưng phải đợi đến năm 1914 thì số lượng y sĩ mới đủ để đáp ứng nhu cầu dịch vụ y khoa thường xuyên. Về văn hóa và lịch sử thì có Viện Viễn Đông Bác cổ (École française d'Extrême-Orient) lập năm 1900 ở Sài Gòn để nghiên cứu, thu thập, và lưu trữ nhiều cổ vật cùng khai quật các di chỉ khảo cổ. Năm 1902 thì Viện này chuyển ra Hà Nội với chi nhánh ở Sài Gòn, Huế, Đà Nẵng, Nam Vang, và Battambang.
Liên bang Đông Dương
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1293
Một trong những "khám phá" lớn nhất trong ngành khảo cổ vào thời điểm này là cuộc khai quật di tích Angkor Wat được nhà khoa học Henri Mouhot ghi lại và phổ biến đến thế giới Tây phương. Cổ hơn thì năm 1923 khai quật được di chỉ Đông Sơn, thuộc tỉnh Thanh Hóa nơi khám phá ra một số trống đồng tiêu biểu cho thời đại cổ đại của người Việt. Henri Parmentier thì có công khảo cổ trong việc nghiên cứu giải mã các cổ vật và di tích Chiêm Thành. Bốn viện bảo tàng lớn được thành lập để lưu trữ các di vật văn hóa: Chiến tranh Pháp-Xiêm. Sự mở rộng lãnh thổ của Pháp trên bán đảo Đông Dương đã kích hoạt Chiến tranh Pháp-Xiêm. Năm 1893, chính phủ Pháp đã sử dụng tranh chấp biên giới để kích động sự cố hải quân Paknam để gây ra một cuộc khủng hoảng. Pháo hạm Pháp xuất hiện tại Bangkok và yêu cầu nhượng lại các vùng lãnh thổ của Lào ở phía đông sông Mê Kông. Vua Rama V của Xiêm yêu cầu chính phủ Anh bảo hộ, nhưng sau đó yêu cầu người trước phải tuân thủ tất cả các yêu cầu của chính phủ Pháp. Chính phủ Anh sau đó đã đến chính phủ Pháp để đàm phán với vua Pháp. Hai bên đã đạt được thỏa thuận: Xiêm chỉ cần nhượng lại Lào chứ không phải các vùng lãnh thổ khác, trong khi Anh là một thỏa thuận với Pháp bảo đảm sự toàn vẹn của phần còn lại của Xiêm. Đổi lại, Xiêm phải nhượng vùng Shan nói tiếng Thái ở đông bắc Miến Điện cho đế quốc Anh và nhượng Lào cho người Pháp. Lào đã được thêm vào sau Chiến tranh Pháp-Xiêm năm 1893. Xâm lấn lãnh thổ Xiêm. Pháp không dung hòa được tham vọng của họ với Xiêm. Năm 1906, họ đã tạo ra một sự cố khác buộc Xiêm phải công nhận quyền kiểm soát lãnh thổ phía tây sông Mê Kông và qua Luang Prabang. Ngoài ra, Xiêm thừa nhận sự kiểm soát của Pháp đối với Champasak và Tây Campuchia. Hơn nữa, Pháp cũng đã đạt được tỉnh Chanthaburi dưới kiểm soát của phương Tây. Trước đó, vào năm 1904, Xiêm đã nhượng Trat và sang Pháp để đòi Chanthaburi. Hai năm sau, Xiêm lấy lại được Trat, nhưng họ đã nhượng lại rất nhiều vùng lãnh thổ ở biên giới phía đông nam, như Battambang, Siam Nakhon và Banteay Meanchey.
Liên bang Đông Dương
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1293
Vào cuối những năm 1930, Xiêm đã tiến hành một loạt các cuộc đàm phán với Pháp để cố gắng phục hồi lãnh thổ đã mất trước đó. Sau khi Pháp sụp đổ năm 1940, Xiêm đã xâm chiếm các vùng đất tranh chấp ở Lào và Campuchia. Chiến tranh Thái-Pháp bùng nổ vào tháng 1 năm 1941. Dưới sự bảo hộ hùng mạnh của Nhật Bản, chính phủ Đông Dương trung thành với chính phủ Vichy đã buộc phải đồng ý nhượng lại Angkor Thom, phía đông hồ Tonlé Sap và 14 độ vĩ bắc, Xiêm Riệp, Battambang và Lào nằm ở bờ phía tây sông Mê Kông đến Thái Lan. Đại diện hai nước đã tới Tokyo để ký hiệp định, sau đó Thái Lan giành lại quyền kiểm soát khu vực này. Việt Nam Quốc dân Đảng phát động khởi nghĩa. Vào ngày 10 tháng 2 năm 1930, những người lính Việt Nam đóng quân tại Yên Bái đã phát động một cuộc nổi dậy với sự hỗ trợ của Việt Nam Quốc dân Đảng. Cuộc tấn công là sự xáo trộn lớn nhất được tạo ra bởi phong trào phục hồi quân chủ Cần Vương vào cuối thế kỷ 19. Mục đích của cuộc nổi dậy là để truyền cảm hứng cho một cuộc nổi dậy rộng lớn hơn trong dân chúng nói chung trong nỗ lực lật đổ chính quyền thực dân. Việt Nam Quốc dân Đảng trước đó đã cố gắng tham gia vào các hoạt động bí mật để làm suy yếu chính quyền Pháp, nhưng tăng giám sát của Pháp hoạt động của mình dẫn đến nhóm lãnh đạo của họ lấy nguy cơ dàn dựng một cuộc tấn công quân sự quy mô lớn ở đồng bằng sông Hồng của miền Bắc Việt Nam. Chiến tranh Pháp-Thái. Trong chiến tranh thế giới thứ hai, Thái Lan đã nhân cơ hội cho các điểm yếu của Pháp để đòi lại các vùng lãnh thổ đã mất trước đó, dẫn đến Chiến tranh Pháp-Thái giữa tháng 10 năm 1940 và ngày 9 tháng 5 năm 1941. Các lực lượng Thái Lan thường làm tốt trên mặt đất, nhưng các mục tiêu của Thái Lan trong chiến tranh là hạn chế. Vào tháng 1, lực lượng hải quân Vichy Pháp đã quyết định đánh bại lực lượng hải quân Thái Lan trong trận Kong Chang. Cuộc chiến kết thúc vào tháng 5 do sự xúi giục của Nhật Bản, với việc Pháp buộc phải thừa nhận lợi ích lãnh thổ cho Thái Lan. Chiến tranh thế giới thứ hai.
Liên bang Đông Dương
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1293
Chiến tranh thế giới thứ hai. Vào tháng 6 năm 1940, Pháp đầu hàng Đức Quốc Xã, quân Đức chiếm đóng Pháp và chính phủ bù nhìn Vichy được thành lập ở miền nam. Trong khi Pháp bị Nhật Bản đánh bại, Nhật Bản đã nói với chính phủ Pháp mới thành lập vào tháng 9 rằng họ sẽ cho phép quân đội đế quốc Nhật Bản tiến vào vịnh Bắc Bộ, nhưng cuối cùng đã phát triển thành cuộc xâm lược Đông Dương. Động thái này đã tạo ra một nhân tố thuận lợi cho quân đội Nhật Bản chống lại Quốc dân Cách mệnh Quân. Đồng thời, đây cũng là một trong những bước để Nhật Bản thiết lập một khối Thịnh vượng chung Đại Đông Á. Thái Lan nhân cơ hội phát động cuộc chiến tranh Thái-Pháp lần thứ hai vào tháng 10 năm 1940, lấy lại lãnh thổ đã mất trước đó. Vào ngày 9 tháng 3 năm 1945, Nhật Bản được giải phóng tại Pháp và Hoa Kỳ quyết định kiểm soát hoàn toàn Đông Dương và tiến hành chiến dịch Đông Dương lần thứ hai của Pháp trong hoàn cảnh Hoa Kỳ có lợi thế ở Thái Bình Dương. Nhật Bản ủng hộ hoàng đế Bảo Đại thiết lập ngai vàng, thiết lập chế độ bù nhìn và kiểm soát khu vực này cho đến khi ông đầu hàng. Chiến tranh Đông Dương. Sau khi Chiến tranh thế giới lần thứ hai kết thúc, Pháp đã rút các vùng lãnh thổ bị mất trong chiến tranh Thái-Pháp và sẵn sàng nối lại chế độ thực dân, nhưng lại đụng độ với Việt Minh. Tổ chức này của những người cộng sản và những người theo chủ nghĩa dân tộc được lãnh đạo bởi Hồ Chí Minh. Hoa Kỳ đã viện trợ cho Việt Nam trong chiến tranh thế giới thứ hai để hỗ trợ cho sự kháng cự của nhóm này đối với sự cai trị của Nhật Bản. Tổng thống Hoa Kỳ Franklin Roosevelt và tướng Joseph Stilwell đã nói rõ rằng người Pháp không được hỏi lại Đông Dương của Pháp sau khi chiến tranh kết thúc. Ông nói với Ngoại trưởng Cordell Hull, người ở Đông Dương dưới sự cai trị tồi tệ hơn của Pháp gần 100 năm so với lúc ban đầu. Roosevelt hỏi Tưởng Giới Thạch nếu ông muốn Đông Dương, mà Tưởng Giới Thạch trả lời: "Trong mọi trường hợp!". Sau chiến tranh, quân đội Anh tiến vào miền nam Đông Dương để cho Pháp lấy lại đất.
Liên bang Đông Dương
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1293
Tưởng Giới Thạch đã phái tướng Lư Hán lãnh đạo 200.000 quân vào phía bắc Đông Dương để chấp nhận Nhật Bản đầu hàng. Chính phủ Trung Quốc ủng hộ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa mới thành lập và sử dụng Việt Nam Quốc dân Đảng để tăng ảnh hưởng trong chính phủ mới và gây áp lực lên Pháp. Pháp, dưới sự điều phối của Tưởng Giới Thạch, đã đạt được thỏa thuận hòa bình với Việt Minh và từ bỏ tất cả các đặc quyền, lợi ích và nhượng bộ của mình tại Trung Quốc. Tháng 3 năm 1946, Đông Dương bắt đầu dần dần trở lại thời kỳ cai trị của Pháp. Hiệp định Genève. Tại Hội nghị Genève diễn ra vào ngày 27 tháng 4 năm 1954, các quốc gia đã đưa ra một giải pháp cho vấn đề Đông Dương. Kết quả của cuộc họp đã ủng hộ sự toàn vẹn lãnh thổ của Đông Dương, và yêu cầu Pháp trao cho Việt Nam chủ quyền độc lập, cấm các nước can thiệp vào công việc nội bộ của khu vực và phân định khu vực giữa miền Bắc và miền Nam Việt Nam là khu vực phi quân sự. Cuối cùng, hiệp định quy định rằng miền Bắc và miền Nam Việt Nam đã tổ chức một cuộc trưng cầu dân ý vào tháng 7 năm 1956 để giải quyết vấn đề thống nhất đất nước. Pháp từ bỏ tất cả các yêu sách lãnh thổ chống lại Đông Dương tại cuộc họp. Cả Hoa Kỳ và Nam Việt Nam đều không ký hiệp định. Chỉ có Pháp và miền Bắc Việt Nam ký hiệp định. Miền Bắc thành một nước xã hội chủ nghĩa, trong khi miền Nam thành lập một chế độ mới do Mỹ hậu thuẫn. Hoa Kỳ bắt đầu thâm nhập vào các vấn đề của Việt Nam, cuối cùng dẫn đến sự bùng nổ của Chiến tranh Việt Nam. Năm 1954, Campuchia và Lào tuy đã độc lập nhưng cũng tham gia vào cuộc chiến này. Chiến tranh Việt Nam kết thúc năm 1975, kết thúc bằng việc Hoa Kỳ thất bại và phải rút quân khỏi miền Nam Việt Nam. Việt Nam đã được thống nhất đất nước vào năm 1976. Giải thể. Nhật Bản nhập cuộc. Năm 1941 Quân đội Đế quốc Nhật Bản thời Chiến tranh thế giới thứ hai tiếp thu Đông Dương với sự thỏa thuận của chính phủ Vichy theo thỏa ước giữa đại sứ Pháp Charles Arsènes-Henry ở Tokyo và ngoại trưởng Yōsuke Matsuoka ký hồi 30 Tháng Tám, 1940.
Liên bang Đông Dương
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1293
Theo đó thì Nhật Bản được rộng quyền điều hành quân sự trên toàn cõi Đông Dương chống lại phe Đồng Minh nhưng người Pháp vẫn duy trì bộ máy cai trị của nhà nước Bảo hộ và Nhật công nhận chủ quyền của Pháp. Tranh chấp với Xiêm. Trong khi đó thì triều đình Xiêm La của Thủ tướng Plaek Pibulsongkram nhân khi thấy quyền lực của Pháp ở Đông Dương bị suy yếu nên tìm cách đòi lại lãnh thổ cũ ở Lào và Cao Miên bị Pháp chiếm đoạt vào năm 1907. Thất bại về mặt ngoại giao, Xiêm điều quân đến gần biên giới rồi mở cuộc tấn công và chiếm toàn phần đất Lào ở hữu ngạn sông Mê Kông vào ngày 19 Tháng Giêng, 1941. Không quân Xiêm thì mở cuộc oanh kích nhiều địa điểm ở tỉnh Battambang và tiến chiếm được tỉnh lỵ. Về mặt bể thì hải quân Pháp và hải quân Xiêm nổ súng ở khu vực đảo Chang. Ba chiến thuyền của Xiêm bị đánh chìm nhưng vì áp lực của Đế quốc Nhật Bản, chính phủ Đông Dương của toàn quyền Jean Decoux phải giảng hòa rồi nhượng lại cho Xiêm những tỉnh Battambang, Sisophon và Siemreap của Cao Miên ngày 11 Tháng Ba, 1941, chấm dứt cuộc xung đột vũ trang giữa Xiêm và Đông Pháp. Nhật đảo chính Pháp. Thỏa hiệp giữa Pháp và Nhật kéo dài bốn năm cho đến ngày 9 tháng 3 năm 1945 thì Nhật Bản đột ngột tuyên bố trao quyền cho các chính quyền bản xứ và ra lệnh tống giam nhiều viên chức Pháp. Kiều dân Pháp bị hạn chế đi lại và phải tập trung ở bảy thị trấn, không được di chuyển ra nơi khác. Ngày 11 Tháng Ba, đại sứ Yokoyama Masayuki vào Đại Nội Huế yết kiến vua Bảo Đại và chứng kiến lời tuyên cáo độc lập của Đế quốc Việt Nam. Ngày 13 Tháng Ba, vua Cao Miên Norodom Sihanouk cũng theo gương Bảo Đại rồi đến ngày 8 Tháng Tư thì quốc vương Lào Sisavang Vong cũng tuyên bố độc lập. Ngày 17 Tháng Tư thì Thủ tướng Trần Trọng Kim trình diện với danh sách nội các để chấp chính nhưng đến Tháng Tám năm 1945 khi Nhật tuyên bố đầu hàng phe Đồng Minh thì Pháp xúc tiến việc tái chiếm Đông Dương đang do Việt Nam Dân chủ Cộng hòa kiểm soát và lập lại Liên bang Đông Dương.
Liên bang Đông Dương
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1293
Ngay từ Tháng Chạp năm 1943 Charles De Gaulle, người lãnh đạo lực lượng Pháp bấy giờ lưu vong ở Algiers đã tuyên bố ý định tái lập chủ quyền của Pháp trên các xứ Đông Dương. Lực lượng Việt Minh dã tiến hành đảo chính Phát-xit Nhật ngày 19/08/1945. Sau đó, chính quyền phát-xít tuyên bố trao toàn bộ quyền kiểm soát tại Việt Nam cho Việt Minh. Tại Nam Bộ, Nam Bộ kháng chiến kháng chiến nổ ra khi Việt Minh, trước đó đã thay Nhật kiểm soát khu vực này, đã cương quyết chống trả lại hành vi tái xâm lược của Pháp. Tới ngày 19/12/1946, sau những hành động khiêu khích của Pháp, Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến, chính thức bắt đầu giai đoạn 9 năm kháng chiến chống lại sự tái xâm lược của Pháp tại Đông Dương. Trong thời gian chín năm cuối, người Pháp có thay đổi cơ chế hành chính: bỏ chức vụ "Toàn quyền" và thay bằng "Cao ủy" rồi "Tổng ủy"; thống đốc Nam Kỳ, khâm sứ Trung Kỳ hay thống sứ Bắc Kỳ thì thay bằng "Ủy viên cộng hòa". Tuy nhiên, Đông Dương vẫn là một phần của Liên hiệp Pháp. Ngoài ra chính phủ Pháp cũng hứa hẹn cải tổ bằng cách phát triển giáo dục và hướng tới dân chủ tự trị trong khuôn khổ Liên hiệp Pháp.
World Wide Web
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1296
World Wide Web, gọi tắt là WWW, mạng lưới toàn cầu là một không gian thông tin toàn cầu mà mọi người có thể truy cập (đọc và viết) thông tin qua các thiết bị kết nối với mạng Internet; một hệ thống thông tin trên Internet cho phép các tài liệu được kết nối với các tài liệu khác bằng các liên kết siêu văn bản, cho phép người dùng tìm kiếm thông tin bằng cách di chuyển từ tài liệu này sang tài liệu khác. Thuật ngữ này thường được hiểu nhầm là từ đồng nghĩa với chính thuật ngữ "Internet". Nhưng Web thực ra chỉ là một trong các dịch vụ chạy trên Internet, ngoài Web ra còn các dịch vụ khác như thư điện tử hoặc FTP. Nhà khoa học người Anh Tim Berners-Lee được cho là đã phát minh ra World Wide Web khi làm việc cho CERN vào tháng 3 năm 1989 bằng cách gửi "Quản lý thông tin: Đề xuất" và viết trình duyệt web đầu tiên vào năm 1990. Trình duyệt được phát hành bên ngoài CERN năm 1991, lần đầu tiên cho các tổ chức nghiên cứu khác bắt đầu vào tháng 1 năm 1991 và công chúng trên Internet vào tháng 8 năm 1991. World Wide Web là trung tâm cho sự phát triển của Thời đại Thông tin và là công cụ chính mà hàng tỷ người sử dụng để tương tác trên Internet. Tài nguyên web có thể là bất kỳ loại phương tiện có thể tải xuống nào, nhưng "các trang web" là phương tiện siêu văn bản đã được định dạng bằng Ngôn ngữ đánh dấu siêu văn bản (HTML). Định dạng như vậy cho phép các siêu liên kết nhúng có chứa URL và cho phép người dùng dễ dàng điều hướng đến các tài nguyên web khác. Ngoài văn bản, các trang web có thể chứa các thành phần hình ảnh, video, âm thanh và phần mềm được hiển thị trong trình duyệt web của người dùng dưới dạng các trang kết hợp nội dung đa phương tiện. Nhiều tài nguyên web với một chủ đề chung, một tên miền chung hoặc cả hai, tạo nên một trang web. Trang web được lưu trữ trong các máy tính đang chạy chương trình gọi là máy chủ web đáp ứng các yêu cầu được thực hiện qua Internet từ các trình duyệt web chạy trên máy tính của người dùng. Nội dung trang web có thể được cung cấp phần lớn bởi nhà xuất bản hoặc tương tác nơi người dùng đóng góp nội dung. Các trang web cung cấp nội dung với vô số lý do như thông tin, giải trí, thương mại, chính phủ hoặc phi chính phủ... Lịch sử.
World Wide Web
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1296
Tầm nhìn của Tim Berners-Lee về một hệ thống thông tin siêu liên kết toàn cầu đã trở thành một khả năng thực tế vào nửa cuối thập niên 1980. Đến năm 1985, Internet toàn cầu bắt đầu phổ biến ở châu Âu và Hệ thống tên miền (trên đó Bộ định vị tài nguyên thống nhất được xây dựng) ra đời. Năm 1988, kết nối IP trực tiếp đầu tiên giữa châu Âu và Bắc Mỹ đã được thực hiện và Berners-Lee bắt đầu thảo luận cởi mở về khả năng của một hệ thống giống như web tại CERN. Khi làm việc tại CERN, Berners-Lee đã trở nên thất vọng với sự thiếu hiệu quả và khó khăn do tìm kiếm thông tin được lưu trữ trên các máy tính khác nhau. Vào ngày 12 tháng 3 năm 1989, ông đã gửi một bản ghi nhớ, có tiêu đề "Information Management: A Proposal", cho ban quản lý tại CERN cho một hệ thống có tên "Lưới" tham chiếu ENQUIRE, một dự án cơ sở dữ liệu và phần mềm mà ông đã xây dựng vào năm 1980, trong đó sử dụng thuật ngữ "web" và mô tả một hệ thống quản lý thông tin phức tạp hơn dựa trên các liên kết được nhúng trong văn bản có thể đọc được: "Hãy tưởng tượng, sau đó, các tài liệu tham khảo trong tài liệu này đều được liên kết với địa chỉ mạng của thứ mà chúng đề cập, do đó trong khi đọc tài liệu này, bạn có thể chuyển tới chúng bằng một cú click chuột." Một hệ thống như vậy, ông giải thích, có thể được truy cập đến bằng cách sử dụng một trong những ý nghĩa hiện có của từ "siêu văn bản", một thuật ngữ mà ông nói đã được đặt ra trong những năm 1950. Đề xuất tiếp tục giải thích tại sao các liên kết siêu văn bản như vậy không thể bao gồm các tài liệu đa phương tiện bao gồm đồ họa, lời nói và video, do đó Berners-Lee đưa ra việc sử dụng thuật ngữ "hypermedia". Với sự giúp đỡ từ đồng nghiệp và người say mê siêu văn bản Robert Cailliau, ông đã xuất bản một đề xuất chính thức hơn vào ngày 12 tháng 11 năm 1990 để xây dựng một "dự án siêu văn bản" có tên là "WorldWideWeb" (một từ) dưới dạng "web" của "tài liệu siêu văn bản" để xem "Trình duyệt" sử dụng kiến trúc máy chủ của khách hàng. Tại thời điểm này, HTML và HTTP đã được phát triển được khoảng hai tháng và máy chủ Web đầu tiên còn khoảng một tháng để hoàn thành thử nghiệm thành công đầu tiên.
World Wide Web
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1296
Đề xuất này ước tính rằng một trang web chỉ đọc sẽ được phát triển trong vòng ba tháng và phải mất sáu tháng để đạt được "việc tạo ra các liên kết mới và tài liệu mới của độc giả, [để] quyền tác giả trở nên phổ biến" cũng như "tự động thông báo cho độc giả khi có tài liệu mới mà anh ấy/cô ấy quan tâm". Trong khi mục tiêu là thông tin chỉ đọc được đáp ứng, quyền tác giả có thể truy cập của nội dung web mất nhiều thời gian hơn để hoàn thiện, với khái niệm wiki, WebDAV, blog, Web 2.0 và RSS/Atom. Đề xuất này được mô phỏng theo phần mềm đọc SGML Dynatext của Electronic Book Technology, một phần phụ của Viện Nghiên cứu Thông tin và Học bổng tại Đại học Brown. Hệ thống Dynatext, được CERN cấp phép, là nhân tố chính trong việc mở rộng SGML ISO 8879: 1986 cho Hypermedia trong HyTime, nhưng nó được coi là quá đắt và có chính sách cấp phép không phù hợp để sử dụng trong cộng đồng vật lý năng lượng cao nói chung, cụ thể là lệ phí cho mỗi tài liệu và từng lần cập nhật tài liệu. Máy tính NeXT đã được Berners-Lee sử dụng làm máy chủ web đầu tiên trên thế giới và cũng để viết trình duyệt web đầu tiên, WorldWideWeb vào năm 1990. Vào Giáng sinh năm 1990, Berners-Lee đã xây dựng tất cả các công cụ cần thiết cho một Web hoạt động: trình duyệt web đầu tiên (cũng là trình chỉnh sửa web) và máy chủ web đầu tiên. Trang web đầu tiên, mô tả chính dự án, được xuất bản vào ngày 20 tháng 12 năm 1990. Trang web đầu tiên có thể bị mất, nhưng Paul Jones của UNC-Chapel Hill ở Bắc Carolina đã thông báo vào tháng 5 năm 2013 rằng Berners-Lee đã đưa cho Jones những gì ông nói là trang web lâu đời nhất được biết đến trong chuyến thăm năm 1991 đến UNC. Jones đã lưu nó trên một ổ đĩa quang từ và trên máy tính NeXT của mình. Vào ngày 6 tháng 8 năm 1991, Berners-Lee đã xuất bản một bản tóm tắt ngắn về dự án World Wide Web trên nhóm tin "alt.hypertext". Ngày này đôi khi bị nhầm lẫn với lần xuất hiện công khai của các máy chủ web đầu tiên đã xảy ra vài tháng trước đó.
World Wide Web
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1296
Một ví dụ khác về sự nhầm lẫn như vậy, một số phương tiện truyền thông đã báo cáo rằng bức ảnh đầu tiên trên Web được Berners-Lee công bố vào năm 1992, một hình ảnh của ban nhạc nhà Cern Les Horribles Cernettes được chụp bởi Silvano de Gennaro; Gennaro đã từ chối câu chuyện này, viết rằng phương tiện truyền thông đã "hoàn toàn bóp méo lời nói của chúng tôi vì lợi ích của chủ nghĩa giật gân rẻ tiền". Các máy chủ đầu tiên bên ngoài châu Âu được lắp đặt tại Trung tâm Stanford Linear Accelerator (SLAC) ở Palo Alto, California, để lưu trữ các cơ sở dữ liệu Spires -HEP. Các nguồn khi nói đến ngày của sự kiện này có khác nhau đáng kể. Thời gian biểu của World Wide Web Consortium cho biết tháng 12 năm 1992, trong khi chính SLAC tuyên bố tháng 12 năm 1991, cũng như một tài liệu của W3C có tiêu đề "A Little History of the World Wide Web". Khái niệm cơ bản của siêu văn bản bắt nguồn từ các dự án trước đó từ những năm 1960, như Hệ thống chỉnh sửa siêu văn bản (HES) tại Đại học Brown, Dự án Xanadu của Ted Nelson và Hệ thống oN-Line (NLS) của Douglas Engelbart. Cả Nelson và Engelbart đã lần lượt lấy cảm hứng từ bản sao Bản ghi nhớ của Vannevar Bush, được mô tả trong luận văn năm 1945 'Như chúng ta có thể suy nghĩ'. Bước đột phá của Berners-Lee là kết hôn với siêu văn bản trên Internet. Trong cuốn sách "Weaving The Web", ông giải thích rằng ông đã nhiều lần đề xuất rằng một cuộc hôn nhân giữa hai công nghệ là có thể với các thành viên của "cả hai" cộng đồng kỹ thuật, nhưng khi không có ai nhận lời mời, cuối cùng ông đã tự nhận dự án. Trong quá trình đó, ông đã phát triển ba công nghệ thiết yếu: World Wide Web có một số khác biệt so với các hệ thống siêu văn bản khác có sẵn tại thời điểm đó. Web chỉ yêu cầu các liên kết đơn hướng chứ không phải liên kết hai chiều, khiến ai đó có thể liên kết đến tài nguyên khác mà không cần hành động của chủ sở hữu tài nguyên đó. Nó cũng làm giảm đáng kể khó khăn trong việc triển khai các máy chủ và trình duyệt web (so với các hệ thống trước đó), nhưng đến lượt nó lại đưa ra vấn đề kinh niên về "liên kết hỏng".
World Wide Web
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1296
Không giống như các phiên bản tiền nhiệm như HyperCard, World Wide Web không độc quyền, cho phép phát triển máy chủ và máy khách một cách độc lập và thêm tiện ích mở rộng mà không bị hạn chế cấp phép. Vào ngày 30 tháng 4 năm 1993, Cern tuyên bố rằng World Wide Web sẽ là miễn phí cho mọi người. Đến hai tháng sau khi thông báo rằng việc máy chủ thực hiện giao thức Gopher không còn miễn phí sử dụng, điều này đã tạo ra một sự thay đổi nhanh chóng từ bỏ Gopher và hướng tới Web. Một trình duyệt web phổ biến ban đầu là ViolaWWW cho Unix và X Window System. Các học giả thường đồng ý rằng một bước ngoặt của World Wide Web đã bắt đầu bằng việc giới thiệu trình duyệt web Mosaic vào năm 1993, một trình duyệt đồ họa được phát triển bởi một nhóm tại Trung tâm Ứng dụng siêu máy tính tại Đại học Illinois tại Urbana mật Champaign (NCSA-UIUC), do Marc Andreessen lãnh đạo. Tài trợ cho Mosaic đến từ Sáng kiến Điện toán và Truyền thông hiệu suất cao của Hoa Kỳ và Đạo luật tính toán hiệu năng cao năm 1991, một trong một số phát triển điện toán do Thượng nghị sĩ Hoa Kỳ Al Gore khởi xướng. Trước khi phát hành Mosaic, đồ họa thường không được trộn với văn bản trong trang web và phổ biến của web là ít hơn so với các giao thức cũ được sử dụng trên Internet, chẳng hạn như Gopher và Wide Area Information Servers (WAIS). Giao diện người dùng đồ họa của Mosaic cho phép Web trở thành giao thức Internet phổ biến nhất. World Wide Web Consortium (W3C) được Tim Berners-Lee thành lập sau khi ông rời Tổ chức nghiên cứu hạt nhân châu Âu (CERN) vào tháng 10 năm 1994. W3C được thành lập tại Viện Công nghệ Massachusetts Phòng thí nghiệm Khoa học máy tính (MIT / LCS) với sự hỗ trợ từ các dự án nghiên cứu nâng cao Cơ quan Quốc phòng (DARPA), vốn đã đi tiên phong trong Internet; một năm sau, một trang web thứ hai được thành lập tại INRIA (một phòng thí nghiệm nghiên cứu máy tính quốc gia của Pháp) với sự hỗ trợ của Ủy ban Châu Âu DG InfSo; và vào năm 1996, một trang web thứ ba đã được tạo ra tại Nhật Bản tại Đại học Keio. Đến cuối năm 1994, tổng số trang web vẫn còn tương đối ít, nhưng nhiều trang web đáng chú ý đã đi vào hoạt động, báo trước hoặc truyền cảm hứng cho các dịch vụ phổ biến nhất hiện nay. Được kết nối bởi Internet, các trang web khác đã được tạo ra trên khắp thế giới.
World Wide Web
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1296
Điều này thúc đẩy phát triển tiêu chuẩn quốc tế cho các giao thức và định dạng. Berners-Lee tiếp tục tham gia vào việc hướng dẫn phát triển các tiêu chuẩn web, chẳng hạn như các ngôn ngữ đánh dấu để soạn các trang web và ông ủng hộ tầm nhìn của mình về Semantic Web. World Wide Web cho phép truyền bá thông tin qua Internet thông qua định dạng linh hoạt và dễ sử dụng. Do đó, nó đóng một vai trò quan trọng trong việc phổ biến sử dụng Internet. Mặc dù hai thuật ngữ này đôi khi dùng lẫn nhau do được sử dụng phổ biến, "World Wide Web" là không đồng nghĩa với "Internet." Web là một không gian thông tin chứa các tài liệu siêu liên kết và các tài nguyên khác, được xác định bởi các URI của chúng. Nó được triển khai như cả phần mềm máy khách và máy chủ sử dụng các giao thức Internet như TCP / IP và HTTP. Berners-Lee được Nữ hoàng Elizabeth II phong tước hiệp sĩ năm 2004 vì "các dịch vụ cho sự phát triển toàn cầu của Internet". Ông không bao giờ xin cấp bằng sáng chế cho phát minh của mình. Chức năng. Các thuật ngữ "Internet" và "World Wide Web" thường được sử dụng mà không có nhiều sự khác biệt. Tuy nhiên, hai thuật ngữ không có nghĩa giống nhau. Internet là một hệ thống toàn cầu của các mạng máy tính được kết nối với nhau. Ngược lại, World Wide Web là một tập hợp toàn cầu các tài liệu và các tài nguyên khác, được liên kết bởi các siêu liên kết và URI. Tài nguyên web được truy cập bằng HTTP hoặc HTTPS, là các giao thức Internet cấp ứng dụng sử dụng các giao thức truyền tải của Internet. Việc xem một trang web trên World Wide Web thường bắt đầu bằng cách nhập URL của trang vào trình duyệt web hoặc bằng cách theo một siêu liên kết đến trang hoặc tài nguyên đó. Trình duyệt web sau đó khởi tạo một loạt các thông báo truyền thông nền để tìm nạp và hiển thị trang được yêu cầu. Vào những năm 1990, sử dụng trình duyệt để xem các trang web, và chuyển từ trang này sang trang khác thông qua các siêu liên kết, được biết đến như là 'duyệt web,' 'lướt web' (sau khi lướt kênh) hoặc 'điều hướng Web'. Những nghiên cứu ban đầu về hành vi mới này đã điều tra các mẫu người dùng trong việc sử dụng trình duyệt web.
World Wide Web
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1296
Một nghiên cứu, ví dụ, đã tìm thấy năm mẫu người dùng: lướt web khám phá, lướt web cửa sổ, lướt phát triển, điều hướng giới hạn và điều hướng mục tiêu. Ví dụ sau đây cho thấy chức năng của trình duyệt web khi truy cập một trang tại URL codice_1. Trình duyệt phân giải tên máy chủ của URL (codice_2) thành địa chỉ Giao thức Internet bằng Hệ thống tên miền (DNS) được phân phối toàn cầu. "Tra" cứu này trả về một địa chỉ IP như "203.0.113.4" hoặc "2001: db8: 2e:: 7334". Trình duyệt sau đó yêu cầu tài nguyên bằng cách gửi yêu cầu HTTP qua Internet đến máy tính tại địa chỉ đó. Nó yêu cầu dịch vụ từ một số cổng TCP cụ thể nổi tiếng với dịch vụ HTTP, để máy chủ nhận có thể phân biệt yêu cầu HTTP với các giao thức mạng khác mà nó có thể đang phục vụ. Giao thức HTTP thường sử dụng số cổng 80 và đối với giao thức HTTPS, thông thường nó là số cổng 443. Nội dung của yêu cầu HTTP có thể đơn giản như hai dòng văn bản: GET /home.html HTTP/1.1 Host: www.example.org Máy tính nhận yêu cầu HTTP chuyển nó đến phần mềm máy chủ web lắng nghe yêu cầu trên cổng 80. Nếu máy chủ web có thể thực hiện yêu cầu, nó sẽ gửi phản hồi HTTP trở lại trình duyệt cho thấy thành công: HTTP/1.1 200 OK Content-Type: text/html; charset=UTF-8 tiếp theo là nội dung của trang được yêu cầu. Ngôn ngữ đánh dấu siêu văn bản (HTML) cho một trang web cơ bản có thể trông như thế này: <html> <head> <title>www.Example.org – The World Wide Web</title> </head> <body> <p>The World Wide Web, abbreviated as WWW and commonly known...</p> </body> </html> Trình duyệt web phân tích cú pháp HTML và diễn giải đánh dấu (<title>, <p> cho đoạn văn,v.v...) bao quanh các từ để định dạng văn bản trên màn hình. Nhiều trang web sử dụng HTML để tham chiếu các URL của các tài nguyên khác như hình ảnh, phương tiện được nhúng khác, tập lệnh ảnh hưởng đến hành vi của trang và Biểu định kiểu xếp chồng ảnh hưởng đến bố cục trang. Trình duyệt thực hiện các yêu cầu HTTP bổ sung cho máy chủ web cho các loại phương tiện Internet khác. Khi nhận được nội dung của họ từ máy chủ web, trình duyệt sẽ dần dần hiển thị trang lên màn hình theo quy định của HTML và các tài nguyên bổ sung này. HTML.
World Wide Web
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1296
HTML. Ngôn ngữ đánh dấu siêu văn bản (HTML) là ngôn ngữ đánh dấu tiêu chuẩn để tạo các trang web và ứng dụng web. Với Cascading Style Sheets (CSS) và JavaScript, nó tạo thành một bộ ba công nghệ nền tảng cho World Wide Web. Trình duyệt web nhận tài liệu HTML từ máy chủ web hoặc từ bộ nhớ cục bộ và hiển thị tài liệu vào các trang web đa phương tiện. HTML mô tả cấu trúc của một trang web về mặt ngữ nghĩa và ban đầu bao gồm các tín hiệu cho sự xuất hiện của tài liệu. Các phần tử HTML là các khối xây dựng của các trang HTML. Với cấu trúc HTML, hình ảnh và các đối tượng khác như biểu mẫu tương tác có thể được nhúng vào trang được hiển thị. HTML cung cấp một phương tiện để tạo các tài liệu có cấu trúc bằng cách biểu thị ngữ nghĩa cấu trúc cho văn bản như tiêu đề, đoạn văn, danh sách, liên kết, trích dẫn và các mục khác. Các phần tử HTML được mô tả bằng "các thẻ", được viết bằng dấu ngoặc nhọn. Các thẻ như và trực tiếp giới thiệu nội dung vào trang. Các thẻ khác, chẳng hạn như bao quanh và cung cấp thông tin về văn bản tài liệu và có thể bao gồm các thẻ khác làm thành phần phụ. Các trình duyệt không hiển thị các thẻ HTML, nhưng sử dụng chúng để diễn giải nội dung của trang. HTML có thể nhúng các chương trình được viết bằng ngôn ngữ script như JavaScript, ảnh hưởng đến hành vi và nội dung của các trang web. Bao gồm CSS xác định giao diện và bố cục nội dung. World Wide Web Consortium (W3C), người duy trì cả hai tiêu chuẩn HTML và CSS, đã khuyến khích sử dụng CSS trên HTML trình bày rõ ràng. Liên kết. Hầu hết các trang web chứa siêu liên kết đến các trang liên quan khác và có lẽ các tệp có thể tải xuống, tài liệu nguồn, định nghĩa và các tài nguyên web khác. Trong HTML cơ bản, một siêu liên kết trông như thế này: <a href="http://www.example.org/home.html">www.Example.org Homepage</a> Một tập hợp các tài nguyên hữu ích, có liên quan, được kết nối với nhau thông qua các liên kết siêu văn bản được mệnh danh là một "mạng lưới" thông tin. Xuất bản trên Internet tạo ra thứ mà Tim Berners-Lee gọi là "WorldWideWeb" (trong CamelCase ban đầu, sau đó đã bị loại bỏ) vào tháng 11 năm 1990.
World Wide Web
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1296
Cấu trúc siêu liên kết của WWW được mô tả bởi webgraph: các nút của biểu đồ web tương ứng với các trang web (hoặc URL) các cạnh được định hướng giữa chúng với các siêu liên kết. Theo thời gian, nhiều tài nguyên web được chỉ ra bởi các siêu liên kết biến mất, di dời hoặc được thay thế bằng các nội dung khác nhau. Điều này làm cho các siêu liên kết trở nên lỗi thời, một hiện tượng được gọi trong một số vòng tròn là thối liên kết và các siêu liên kết bị ảnh hưởng bởi nó thường được gọi là liên kết chết. Bản chất bất ổn của Web đã thúc đẩy nhiều nỗ lực lưu trữ các trang web. Internet Archive, hoạt động từ năm 1996, được biết đến nhiều nhất với những nỗ lực như vậy. Tiền tố WWW. Nhiều tên máy chủ được sử dụng cho World Wide Web bắt đầu bằng "www" vì thông lệ đặt tên máy chủ Internet lâu dài theo các dịch vụ mà chúng cung cấp. Tên máy chủ của máy chủ web thường là "www", giống như cách mà nó có thể là "ftp" cho máy chủ FTP và "tin tức" hoặc "nntp" cho máy chủ tin tức Usenet. Các tên máy chủ này xuất hiện dưới dạng Hệ thống tên miền (DNS) hoặc tên miền phụ, như trong "www.example.com". Việc sử dụng "www" không được yêu cầu bởi bất kỳ tiêu chuẩn kỹ thuật hoặc chính sách nào và nhiều trang web không sử dụng nó; máy chủ web đầu tiên là "nxoc01.cern.ch". Theo Paolo Palazzi, người từng làm việc tại CERN cùng với Tim Berners-Lee, việc sử dụng phổ biến "www" làm tên miền phụ là tình cờ; trang dự án World Wide Web dự định được xuất bản tại www.cern.ch trong khi info.cern.ch được dự định là trang chủ của Cern, tuy nhiên các bản ghi DNS không bao giờ được chuyển đổi và việc thực hành trả trước "www" vào trang web của tổ chức tên miền sau đó đã được sao chép. Nhiều trang web được thiết lập vẫn sử dụng tiền tố hoặc họ sử dụng các tên miền phụ khác như "www2", "an toàn" hoặc "en" cho các mục đích đặc biệt. Nhiều máy chủ web như vậy được thiết lập sao cho cả tên miền chính (ví dụ: example.com) và tên miền phụ "www" (ví dụ: www.example.com) đề cập đến cùng một trang web; những người khác yêu cầu một hình thức này hoặc hình thức khác, hoặc họ có thể ánh xạ đến các trang web khác nhau.
World Wide Web
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1296
Việc sử dụng tên miền phụ rất hữu ích để tải cân bằng lưu lượng truy cập web đến bằng cách tạo bản ghi CNAME trỏ đến một cụm máy chủ web. Vì hiện tại, chỉ có một tên miền phụ có thể được sử dụng trong CNAME, kết quả tương tự không thể đạt được bằng cách sử dụng mở tên miền gốc. Khi người dùng gửi một tên miền chưa hoàn chỉnh cho trình duyệt web trong nhập thanh địa chỉ đầu vào của nó, một số trình duyệt web sẽ tự động thử thêm tiền tố "www" vào đầu của nó và có thể là ".com", ".org" và ".net "Ở cuối, tùy thuộc vào những gì có thể thiếu. Ví dụ: nhập ' microsoft ' có thể được chuyển đổi thành "http://www.microsoft.com/" và 'openoffice' thành "http://www.openoffice.org". Tính năng này bắt đầu xuất hiện trong các phiên bản đầu tiên của Firefox, khi nó vẫn có tiêu đề hoạt động 'Firebird' vào đầu năm 2003, từ một thực tiễn trước đó trong các trình duyệt như Lynx. ] Có thông tin rằng Microsoft đã được cấp bằng sáng chế của Hoa Kỳ cho ý tưởng tương tự vào năm 2008, nhưng chỉ dành cho thiết bị di động. Trong tiếng Anh, www thường được đọc là "double-u double-u double-u". Một số người dùng phát âm nó "dub-dub-dub", đặc biệt là ở New Zealand. Stephen Fry, trong loạt podcast "Podgrams" của mình, phát âm nó là "wuh wuh wuh". Nhà văn người Anh Douglas Adams đã từng châm biếm trong "tờ Độc lập vào Chủ nhật" (1999): "World Wide Web là điều duy nhất tôi biết về hình thức rút gọn của nó mất nhiều thời gian hơn ba lần để nói ngắn hơn" Trong tiếng Quan Thoại, "World Wide Web" thường được dịch qua liên kết ngữ nghĩa thành "Wan wǎng Wei" (), thỏa mãn "www" và nghĩa đen là "mạng vô số chiều", một bản dịch phản ánh khái niệm thiết kế và phổ biến của World Wide Web. Không gian web của Tim Berners-Lee tuyên bố rằng "World Wide Web" được chính thức đánh vần là ba từ riêng biệt, mỗi từ viết hoa, không có dấu gạch ngang. Việc sử dụng tiền tố www đã giảm dần, đặc biệt là khi các ứng dụng web Web 2.0 tìm cách tạo thương hiệu cho tên miền của chúng và làm cho chúng dễ phát âm. Khi Web di động ngày càng phổ biến, các dịch vụ như Gmail.com, Outlook.com, Myspace.com, Facebook.com và Twitter.com thường được đề cập nhất mà không cần thêm "www." (hoặc, thực sự, ".com") cho tên miền. Sơ đồ mô tả.
World Wide Web
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1296
Sơ đồ mô tả. Các chỉ định lược đồ "codice_3" và "codice_4" khi bắt đầu URI web tương ứng với Giao thức truyền siêu văn bản hoặc Bảo mật HTTP. Họ chỉ định giao thức truyền thông để sử dụng cho yêu cầu và phản hồi. Giao thức HTTP là nền tảng cho hoạt động của World Wide Web và lớp mã hóa được thêm vào trong HTTPS là điều cần thiết khi trình duyệt gửi hoặc truy xuất dữ liệu bí mật, như mật khẩu hoặc thông tin ngân hàng. Các trình duyệt web thường tự động thêm http: // vào các URI do người dùng nhập, nếu bị bỏ qua. Trang web. Một "trang web" (cũng được viết dưới dạng "trang web") là một tài liệu phù hợp với World Wide Web và các trình duyệt web. Trình duyệt web hiển thị một trang web trên màn hình hoặc thiết bị di động. Thuật ngữ "trang web" thường đề cập đến những gì có thể nhìn thấy, nhưng cũng có thể đề cập đến nội dung của chính tệp máy tính, thường là tệp văn bản chứa siêu văn bản được viết bằng HTML hoặc ngôn ngữ đánh dấu so sánh. Các trang web điển hình cung cấp siêu văn bản để duyệt đến các trang web khác thông qua các siêu liên kết, thường được gọi là "các liên kết". Các trình duyệt web sẽ thường xuyên phải truy cập nhiều yếu tố tài nguyên web, chẳng hạn như đọc biểu định kiểu, tập lệnh và hình ảnh, trong khi trình bày từng trang web. Trên mạng, trình duyệt web có thể truy xuất trang web từ máy chủ web từ xa. Máy chủ web có thể hạn chế quyền truy cập vào một mạng riêng như mạng nội bộ của công ty. Trình duyệt web sử dụng Giao thức truyền siêu văn bản (HTTP) để thực hiện các yêu cầu như vậy đến máy chủ web. Một trang web "tĩnh" được phân phối chính xác như được lưu trữ, như nội dung web trong hệ thống tệp của máy chủ web. Ngược lại, một trang web "động" được tạo bởi một ứng dụng web, thường được điều khiển bởi phần mềm phía máy chủ. Các trang web động giúp trình duyệt (máy khách) cải thiện trang web thông qua đầu vào của người dùng đến máy chủ. Trang web tĩnh. "Trang web tĩnh" (đôi khi được gọi là "trang phẳng/trang cố định") là trang web được phân phối cho người dùng chính xác như được lưu trữ, trái ngược với các trang web động được tạo bởi ứng dụng web.
World Wide Web
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1296
Do đó, một trang web tĩnh hiển thị cùng một thông tin cho tất cả người dùng, từ mọi bối cảnh, tùy thuộc vào khả năng hiện đại của máy chủ web để đàm phán loại nội dung hoặc ngôn ngữ của tài liệu có sẵn các phiên bản đó và máy chủ được cấu hình để làm như vậy. Trang web động. "Trang web động phía máy chủ" là trang web có cấu trúc được điều khiển bởi máy chủ ứng dụng xử lý các tập lệnh phía máy chủ. Trong kịch bản phía máy chủ, các tham số xác định cách tiến hành lắp ráp mỗi trang web mới, bao gồm cả việc thiết lập xử lý phía máy khách nhiều hơn. Một "trang web động phía máy khách" xử lý trang web bằng cách sử dụng tập lệnh HTML chạy trong trình duyệt khi tải. JavaScript và các ngôn ngữ kịch bản lệnh khác xác định cách HTML trong trang nhận được được phân tích cú pháp vào Mô hình đối tượng tài liệu hoặc DOM, đại diện cho trang web được tải. Các kỹ thuật phía máy khách tương tự sau đó có thể tự động cập nhật hoặc thay đổi DOM theo cùng một cách. Sau đó, một trang web động được tải lại bởi người dùng hoặc bởi một chương trình máy tính để thay đổi một số nội dung biến. Thông tin cập nhật có thể đến từ máy chủ hoặc từ các thay đổi được thực hiện cho DOM của trang đó. Điều này có thể hoặc không thể cắt bớt lịch sử duyệt web hoặc tạo một phiên bản đã lưu để quay lại, nhưng một "bản cập nhật trang web động" bằng công nghệ Ajax sẽ không tạo ra một trang để quay lại, cũng không cắt bớt lịch sử duyệt web về phía trước của trang được hiển thị. Sử dụng các công nghệ Ajax, người dùng cuối sẽ có "một trang động" được quản lý dưới dạng một trang trong trình duyệt web trong khi nội dung web thực tế được hiển thị trên trang đó có thể khác nhau. Máy Ajax định vị trên trình duyệt yêu cầu các bộ phận DOM của nó, "DOM," cho khách hàng của mình từ một máy chủ ứng dụng. DHTML là thuật ngữ chung cho các công nghệ và phương pháp được sử dụng để tạo các trang web không phải là trang web tĩnh, mặc dù nó đã không được sử dụng phổ biến kể từ khi phổ biến AJAX, một thuật ngữ mà hiện nay nó hiếm khi được sử dụng. Kịch bản phía máy khách, kịch bản phía máy chủ hoặc kết hợp những thứ này tạo nên trải nghiệm web động trong trình duyệt.
World Wide Web
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1296
JavaScript là ngôn ngữ kịch bản được phát triển lần đầu tiên vào năm 1995 bởi Brendan Eich, sau đó là Netscape, để sử dụng trong các trang web. Phiên bản tiêu chuẩn là ECMAScript. Để làm cho các trang web tương tác nhiều hơn, một số ứng dụng web cũng sử dụng các kỹ thuật JavaScript như Ajax (JavaScript không đồng bộ và XML). Tập lệnh phía máy khách được phân phối cùng với trang có thể thực hiện các yêu cầu HTTP bổ sung cho máy chủ, để đáp ứng với các hành động của người dùng như di chuyển chuột hoặc nhấp chuột hoặc dựa trên thời gian đã trôi qua. Phản hồi của máy chủ được sử dụng để sửa đổi trang hiện tại thay vì tạo một trang mới với mỗi phản hồi, do đó máy chủ chỉ cần cung cấp thông tin gia tăng, giới hạn. Nhiều yêu cầu Ajax có thể được xử lý cùng một lúc và người dùng có thể tương tác với trang trong khi dữ liệu được truy xuất. Các trang web cũng có thể thường xuyên thăm dò máy chủ để kiểm tra xem thông tin mới có sẵn hay không. Trang web. "Trang web" là tập hợp các tài nguyên web liên quan bao gồm các trang web, nội dung đa phương tiện, thường được xác định bằng một tên miền chung và được xuất bản trên ít nhất một máy chủ web. Ví dụ đáng chú ý là wikipedia.org, google.com và amazon.com. Một trang web có thể được truy cập thông qua mạng Giao thức Internet (IP) công cộng, chẳng hạn như Internet hoặc mạng cục bộ riêng (LAN), bằng cách tham chiếu một trình định vị tài nguyên thống nhất (URL) xác định trang web. Trang web có thể có nhiều chức năng và có thể được sử dụng trong nhiều thời trang khác nhau; một trang web có thể là một trang web cá nhân, một trang web công ty cho một công ty, một trang web của chính phủ, một trang web của tổ chức,v.v... Các trang web thường dành riêng cho một chủ đề hoặc mục đích cụ thể, từ giải trí và mạng xã hội đến cung cấp tin tức và giáo dục. Tất cả các trang web có thể truy cập công khai cùng nhau tạo thành World Wide Web, trong khi các trang web riêng, chẳng hạn như trang web của công ty dành cho nhân viên, thường là một phần của mạng nội bộ. Các trang web, là các khối xây dựng của trang web, là các tài liệu, thường được soạn thảo bằng văn bản thuần túy xen kẽ với các hướng dẫn định dạng của Ngôn ngữ đánh dấu siêu văn bản (HTML, XHTML). Họ có thể kết hợp các yếu tố từ các trang web khác với các neo đánh dấu phù hợp.
World Wide Web
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1296
Các trang web được truy cập và vận chuyển với Giao thức truyền siêu văn bản (HTTP), có thể tùy chọn sử dụng mã hóa (HTTP Secure, HTTPS) để cung cấp bảo mật và quyền riêng tư cho người dùng. Ứng dụng của người dùng, thường là trình duyệt web, hiển thị nội dung trang theo hướng dẫn đánh dấu HTML của nó lên thiết bị đầu cuối hiển thị. Siêu liên kết giữa các trang web chuyển đến người đọc cấu trúc trang web và hướng dẫn điều hướng của trang web, thường bắt đầu bằng một trang chủ chứa một thư mục của nội dung trang web. Một số trang web yêu cầu đăng ký người dùng hoặc đăng ký để truy cập nội dung. Ví dụ về các trang web đăng ký bao gồm nhiều trang web kinh doanh, trang web tin tức, trang web tạp chí học thuật, trang web trò chơi, trang web chia sẻ tệp, bảng tin, email dựa trên web, trang web mạng xã hội, trang web cung cấp dữ liệu thị trường chứng khoán theo thời gian thực, cũng như các trang web cung cấp dịch vụ khác nhau. Người dùng cuối có thể truy cập các trang web trên một loạt thiết bị, bao gồm máy tính để bàn và máy tính xách tay, máy tính bảng, điện thoại thông minh và TV thông minh. Trình duyệt web. "Trình duyệt web" (thường được gọi là "trình duyệt") là tác nhân người dùng phần mềm để truy cập thông tin trên World Wide Web. Để kết nối với máy chủ của trang web và hiển thị các trang của nó, người dùng cần phải có chương trình trình duyệt web. Đây là chương trình mà người dùng chạy để tải xuống, định dạng và hiển thị một trang web trên máy tính của người dùng. Ngoài việc cho phép người dùng tìm, hiển thị và di chuyển giữa các trang web, trình duyệt web thường sẽ có các tính năng như giữ dấu trang, ghi lịch sử, quản lý cookie ("xem bên dưới") và trang chủ và có thể có phương tiện để ghi lại mật khẩu để đăng nhập vào trang web. Các trình duyệt phổ biến nhất là Chrome, Firefox, Safari, Internet Explorer và Edge. Máy chủ web. Máy "chủ Web" là phần mềm máy chủ hoặc phần cứng dành riêng để chạy phần mềm nói trên, có thể đáp ứng các yêu cầu máy khách World Wide Web. Nói chung, một máy chủ web có thể chứa một hoặc nhiều trang web. Một máy chủ web xử lý các yêu cầu mạng đến qua HTTP và một số giao thức liên quan khác. Chức năng chính của máy chủ web là lưu trữ, xử lý và phân phối các trang web cho người truy cập.
World Wide Web
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1296
Giao tiếp giữa máy khách và máy chủ diễn ra bằng Giao thức truyền siêu văn bản (HTTP). Các trang được phân phối thường xuyên nhất là các tài liệu HTML, có thể bao gồm hình ảnh, biểu định kiểu và tập lệnh ngoài nội dung văn bản. Tác nhân người dùng, thường là trình duyệt web hoặc trình thu thập dữ liệu web, bắt đầu giao tiếp bằng cách yêu cầu một tài nguyên cụ thể bằng HTTP và máy chủ phản hồi với nội dung của tài nguyên đó hoặc thông báo lỗi nếu không thể thực hiện được. Tài nguyên thường là một tệp thực trên bộ lưu trữ thứ cấp của máy chủ, nhưng điều này không nhất thiết phải như vậy và phụ thuộc vào cách máy chủ web được triển khai. Mặc dù chức năng chính là phục vụ nội dung, nhưng việc triển khai HTTP đầy đủ cũng bao gồm các cách nhận nội dung từ khách hàng. Tính năng này được sử dụng để gửi biểu mẫu web, bao gồm việc tải lên tập tin. Nhiều máy chủ web chung cũng hỗ trợ tập lệnh phía máy chủ bằng Active Server Pages (ASP), PHP (Bộ xử lý siêu văn bản) hoặc các ngôn ngữ tập lệnh khác. Điều này có nghĩa là hành vi của máy chủ web có thể được viết thành kịch bản trong các tệp riêng biệt, trong khi phần mềm máy chủ thực tế vẫn không thay đổi. Thông thường, chức năng này được sử dụng để tạo các tài liệu HTML một cách linh hoạt ("đang hoạt động") thay vì trả lại các tài liệu tĩnh. Cái trước chủ yếu được sử dụng để lấy hoặc sửa đổi thông tin từ cơ sở dữ liệu. Cái sau thường nhanh hơn nhiều và dễ dàng lưu vào bộ nhớ cache hơn nhưng không thể cung cấp nội dung động. Máy chủ web cũng có thể thường xuyên được tìm thấy được nhúng trong các thiết bị như máy in, bộ định tuyến, webcam và chỉ phục vụ một mạng cục bộ. Sau đó, máy chủ web có thể được sử dụng như một phần của hệ thống để theo dõi hoặc quản trị thiết bị được đề cập. Điều này thường có nghĩa là không có phần mềm bổ sung nào phải được cài đặt trên máy khách vì chỉ cần một trình duyệt web (hiện đã có trong hầu hết các hệ điều hành). Cookie web. "Cookie HTTP" (còn được gọi là "cookie web", "Internet cookie", "cookie" "trình duyệt" hoặc đơn giản là "cookie") là một phần nhỏ dữ liệu được gửi từ một trang web và được trình duyệt web của người dùng lưu trữ trên máy tính của người dùng trong khi người dùng đang duyệt.
World Wide Web
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1296
Cookies được thiết kế để trở thành một cơ chế đáng tin cậy để các trang web ghi nhớ thông tin trạng thái (như các mục được thêm vào giỏ hàng trong cửa hàng trực tuyến) hoặc để ghi lại hoạt động duyệt của người dùng (bao gồm nhấp vào nút cụ thể, đăng nhập hoặc ghi lại trang nào đã được truy cập trong quá khứ). Chúng cũng có thể được sử dụng để ghi nhớ các mẩu thông tin tùy ý mà người dùng trước đây đã nhập vào các trường mẫu như tên, địa chỉ, mật khẩu và số thẻ tín dụng. Các loại cookie khác thực hiện các chức năng thiết yếu trong web hiện đại. Có lẽ quan trọng nhất, "cookie xác thực" là phương pháp phổ biến nhất được sử dụng bởi các máy chủ web để biết liệu người dùng có đăng nhập hay không và họ đăng nhập vào tài khoản nào. Nếu không có cơ chế như vậy, trang web sẽ không biết nên gửi một trang có chứa thông tin nhạy cảm hay yêu cầu người dùng tự xác thực bằng cách đăng nhập. Tính bảo mật của cookie xác thực thường phụ thuộc vào bảo mật của trang web phát hành và trình duyệt web của người dùng và vào việc dữ liệu cookie có được mã hóa hay không. Các lỗ hổng bảo mật có thể cho phép hacker đọc dữ liệu của cookie, được sử dụng để có quyền truy cập vào dữ liệu người dùng hoặc được sử dụng để có quyền truy cập (với thông tin xác thực của người dùng) vào trang web có cookie (xem kịch bản chéo và chéo trang trang web yêu cầu giả mạo). Cookie theo dõi, và đặc biệt là cookie theo dõi của bên thứ ba, thường được sử dụng làm cách để lập hồ sơ dài hạn về lịch sử duyệt web của cá nhân mối lo ngại về quyền riêng tư khiến Châu Âu và các nhà lập pháp Hoa Kỳ phải hành động vào năm 2011. Luật pháp châu Âu yêu cầu tất cả các trang web nhắm mục tiêu đến các quốc gia thành viên Liên minh châu Âu phải có được "sự đồng ý" từ người dùng trước khi lưu trữ cookie không cần thiết trên thiết bị của họ. Nhà nghiên cứu của Google Project Zero, Jann Horn mô tả cách các cookie có thể được đọc bởi một bên trung gian, như nhà cung cấp điểm truy cập Wi-Fi. Ông khuyến nghị sử dụng trình duyệt ở chế độ ẩn danh trong những trường hợp như vậy. Công cụ tìm kiếm.
World Wide Web
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1296
Công cụ tìm kiếm. "Công cụ tìm kiếm web" hoặc "công cụ tìm kiếm Internet" là một hệ thống phần mềm được thiết kế để thực hiện "tìm kiếm trên web" ("tìm kiếm Internet"), có nghĩa là tìm kiếm World Wide Web theo cách có hệ thống để biết thông tin cụ thể được chỉ định trong truy vấn tìm kiếm trên web. Các kết quả tìm kiếm thường được trình bày trong một dòng kết quả, thường được gọi là các trang kết quả của công cụ tìm kiếm (SERPs). Thông tin có thể là một hỗn hợp của các trang web, hình ảnh, video, infographics, bài viết, tài liệu nghiên cứu và các loại tệp khác. Một số công cụ tìm kiếm cũng khai thác dữ liệu có sẵn trong cơ sở dữ liệu hoặc thư mục mở. Không giống như các thư mục web, được duy trì bởi các biên tập viên của con người, các công cụ tìm kiếm cũng duy trì thông tin theo thời gian thực bằng cách chạy một thuật toán trên trình thu thập dữ liệu web. Nội dung Internet không có khả năng được tìm kiếm bởi một công cụ tìm kiếm web thường được mô tả là Web chìm. Deep web. Web chìm, "web vô hình", hoặc "web ẩn" là một phần của World Wide Web có nội dung không được lập chỉ mục bởi các công cụ tìm kiếm web tiêu chuẩn. Thuật ngữ ngược lại với web sâu là web bề mặt, có thể truy cập được đối với bất kỳ ai sử dụng Internet. Nhà khoa học máy tính Michael K. Bergman được cho là đã đặt ra thuật ngữ "deep web" vào năm 2001 như một thuật ngữ lập chỉ mục tìm kiếm. Nội dung của web sâu được ẩn đằng sau các biểu mẫu HTTP, và bao gồm nhiều cách sử dụng rất phổ biến như thư trên web, ngân hàng trực tuyến và các dịch vụ mà người dùng phải trả tiền và được bảo vệ bởi một Paywall, video theo yêu cầu, một số tạp chí và báo trực tuyến, trong số những loại khác. Nội dung của web sâu có thể được định vị và truy cập bằng một địa chỉ URL hoặc IP trực tiếp và có thể yêu cầu mật khẩu hoặc quyền truy cập bảo mật khác qua trang web công cộng. Bảo mật web. Đối với tội phạm, Web đã trở thành một địa điểm để phát tán phần mềm độc hại và tham gia vào một loạt các tội phạm mạng, bao gồm trộm cắp danh tính, lừa đảo, gián điệp và thu thập thông tin tình báo. Các lỗ hổng dựa trên web hiện vượt xa các mối lo ngại về bảo mật máy tính truyền thống, và theo đo lường của Google, khoảng một trong mười trang web có thể chứa mã độc.
World Wide Web
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1296
Hầu hết các cuộc tấn công dựa trên web diễn ra trên các trang web hợp pháp và hầu hết, được đo lường bởi Sophos, được lưu trữ tại Hoa Kỳ, Trung Quốc và Nga. Phổ biến nhất trong tất cả các mối đe dọa phần mềm độc hại là các cuộc tấn công tiêm nhiễm SQL vào các trang web. Thông qua HTML và URI, Web dễ bị tấn công như kịch bản chéo trang (XSS) đi kèm với việc giới thiệu JavaScript và bị thiết kế web Web 2.0 và Ajax làm cho việc sử dụng các tập lệnh bị trầm trọng hơn Ngày nay theo một ước tính, 70% tất cả các trang web được mở cho các cuộc tấn công XSS vào người dùng của họ. Lừa đảo là một mối đe dọa phổ biến khác đối với Web. Vào tháng 2 năm 2013, RSA (bộ phận bảo mật của EMC) ước tính thiệt hại toàn cầu từ lừa đảo ở mức 1,5 tỷ đô la vào năm 2012. Hai trong số các phương thức lừa đảo nổi tiếng là Covert Redirect và Open Redirect. Các công ty đã đề xuất các giải pháp khác nhau. Các công ty bảo mật lớn như McAfee đã thiết kế các bộ quản trị và tuân thủ để đáp ứng các quy định sau ngày 11/9, và một số, như Finjan đã khuyến nghị kiểm tra mã lập trình theo thời gian thực và tất cả nội dung bất kể nguồn gốc của nó là gì. Một số người lập luận rằng các doanh nghiệp coi bảo mật Web là cơ hội kinh doanh chứ không phải là trung tâm chi phí, trong khi những người khác kêu gọi "quản lý quyền kỹ thuật số luôn luôn phổ biến" được thi hành trong cơ sở hạ tầng để thay thế hàng trăm công ty bảo mật dữ liệu và mạng. Jonathan Zittrain đã nói rằng người dùng chia sẻ trách nhiệm về an toàn điện toán là tốt hơn nhiều so với việc khóa Internet. Tính riêng tư. Mỗi khi khách hàng yêu cầu một trang web, máy chủ có thể xác định địa chỉ IP của yêu cầu và thường ghi nhật ký. Ngoài ra, trừ khi được đặt không làm như vậy, hầu hết các trình duyệt web ghi lại các trang web được yêu cầu trong một tính năng "lịch sử" có thể xem được và thường lưu trữ nhiều nội dung cục bộ. Trừ khi giao tiếp trên trình duyệt máy chủ sử dụng mã hóa HTTPS, các yêu cầu và phản hồi web truyền đi trong văn bản thuần túy trên Internet và có thể được xem, ghi lại và lưu trữ bởi các hệ thống trung gian.
World Wide Web
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1296
Khi một trang web yêu cầu và người dùng cung cấp, thông tin nhận dạng cá nhân của Wapsuch là tên thật, địa chỉ, địa chỉ email,v.v...các thực thể dựa trên web có thể liên kết lưu lượng truy cập web hiện tại với cá nhân đó. Nếu trang web sử dụng cookie HTTP, xác thực tên người dùng và mật khẩu hoặc các kỹ thuật theo dõi khác, nó có thể liên quan đến các lượt truy cập web khác, trước và sau với thông tin nhận dạng được cung cấp. Theo cách này, một tổ chức dựa trên web có thể phát triển và xây dựng hồ sơ của từng người sử dụng trang web hoặc trang web của mình. Nó có thể có thể xây dựng một hồ sơ cho một cá nhân bao gồm thông tin về các hoạt động giải trí, sở thích mua sắm, nghề nghiệp của họ và các khía cạnh khác trong hồ sơ nhân khẩu học của họ. Những hồ sơ này rõ ràng là mối quan tâm tiềm năng cho các nhà tiếp thị, nhà quảng cáo và những người khác. Tùy thuộc vào các điều khoản và điều kiện của trang web và luật pháp địa phương áp dụng thông tin từ các hồ sơ này có thể được bán, chia sẻ hoặc chuyển cho các tổ chức khác mà không cần thông báo cho người dùng. Đối với nhiều người bình thường, điều này có nghĩa ít hơn một số e-mail bất ngờ trong hộp của họ hoặc một số quảng cáo có liên quan không đáng có trên một trang web trong tương lai. Đối với những người khác, điều đó có thể có nghĩa là thời gian dành cho một mối quan tâm bất thường có thể dẫn đến một sự tiếp thị mục tiêu tiếp theo có thể không được chào đón. Thực thi pháp luật, chống khủng bố và các cơ quan gián điệp cũng có thể xác định, nhắm mục tiêu và theo dõi các cá nhân dựa trên lợi ích hoặc thông tin của họ trên Web. Dịch vụ mạng xã hội cố gắng khiến người dùng sử dụng tên thật, sở thích và địa điểm của họ, thay vì bút danh, vì giám đốc điều hành của họ tin rằng điều này làm cho trải nghiệm mạng xã hội hấp dẫn hơn đối với người dùng. Mặt khác, các bức ảnh được tải lên hoặc các tuyên bố không được bảo vệ có thể được xác định cho một cá nhân, người có thể hối tiếc về sự phơi bày này.
World Wide Web
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1296
Nhà tuyển dụng, trường học, phụ huynh và người thân khác có thể bị ảnh hưởng bởi các khía cạnh của hồ sơ mạng xã hội, chẳng hạn như bài đăng văn bản hoặc ảnh kỹ thuật số, rằng cá nhân đăng bài không có ý định cho những khán giả này. Những kẻ bắt nạt trực tuyến có thể sử dụng thông tin cá nhân để quấy rối hoặc theo dõi người dùng. Các trang web mạng xã hội hiện đại cho phép kiểm soát chi tiết các cài đặt quyền riêng tư cho từng bài đăng riêng lẻ, nhưng chúng có thể phức tạp và không dễ tìm hoặc sử dụng, đặc biệt là cho người mới bắt đầu. Hình ảnh và video được đăng lên các trang web đã gây ra các vấn đề cụ thể, vì chúng có thể thêm khuôn mặt của một người vào hồ sơ trực tuyến. Với công nghệ nhận dạng khuôn mặt hiện đại và tiềm năng, sau đó có thể liên kết khuôn mặt đó với các hình ảnh, sự kiện và tình huống ẩn danh khác trước đây đã được chụp lại ở nơi khác. Do bộ nhớ đệm hình ảnh, bản sao mirror và sao chép, rất khó để xóa hình ảnh khỏi World Wide Web. Tiêu chuẩn. Các tiêu chuẩn web bao gồm nhiều tiêu chuẩn và thông số kỹ thuật phụ thuộc lẫn nhau, một số trong đó chi phối các khía cạnh của Internet, không chỉ World Wide Web. Ngay cả khi không tập trung vào web, các tiêu chuẩn như vậy trực tiếp hoặc gián tiếp ảnh hưởng đến sự phát triển và quản trị của các trang web và dịch vụ web. Cân nhắc bao gồm khả năng tương tác, khả năng truy cập và khả năng sử dụng của các trang web và trang web. Các tiêu chuẩn web, theo nghĩa rộng hơn, bao gồm những chuẩn sau đây: Các tiêu chuẩn web không phải là các bộ quy tắc cố định, mà là một bộ liên tục phát triển các thông số kỹ thuật hoàn thiện của các công nghệ web. Các tiêu chuẩn web được phát triển bởi các tổ chức tiêu chuẩn Nhóm nhóm của các bên quan tâm và thường cạnh tranh với nhiệm vụ tiêu chuẩn hóa không phải là công nghệ được phát triển và tuyên bố là tiêu chuẩn của một cá nhân hoặc công ty. Điều rất quan trọng để phân biệt các thông số kỹ thuật đang được phát triển với các thông số kỹ thuật đã đạt đến trạng thái phát triển cuối cùng (trong trường hợp thông số kỹ thuật của W3C, mức trưởng thành cao nhất). Khả năng tiếp cận.
World Wide Web
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1296
Khả năng tiếp cận. Có các phương pháp để truy cập Web theo các phương tiện và định dạng thay thế để tạo điều kiện cho những người khuyết tật sử dụng. Những khuyết tật này có thể là thị giác, thính giác, thể chất, liên quan đến lời nói, nhận thức, thần kinh hoặc một số kết hợp. Các tính năng trợ năng cũng giúp những người khuyết tật tạm thời, như gãy tay hoặc người dùng già khi khả năng của họ thay đổi. Web nhận thông tin cũng như cung cấp thông tin và tương tác với xã hội. World Wide Web Consortium tuyên bố rằng điều cần thiết là Web có thể truy cập được, vì vậy nó có thể cung cấp quyền truy cập như nhau và cơ hội bình đẳng cho người khuyết tật. Tim Berners-Lee từng lưu ý: "Sức mạnh của Web nằm ở tính phổ quát của nó. Truy cập bởi mọi người bất kể khuyết tật là một khía cạnh thiết yếu." Nhiều quốc gia quy định khả năng truy cập web như một yêu cầu cho các trang web. Hợp tác quốc tế trong Sáng kiến Khả năng truy cập Web của W3C đã dẫn đến các hướng dẫn đơn giản mà các tác giả nội dung web cũng như nhà phát triển phần mềm có thể sử dụng để làm cho Web có thể truy cập được đối với những người có thể hoặc không thể sử dụng công nghệ hỗ trợ. Quốc tế hóa. Hoạt động quốc tế hóa W3C đảm bảo rằng công nghệ web hoạt động trong tất cả các ngôn ngữ, chữ viết và văn hóa. Bắt đầu vào năm 2004 hoặc 2005, Unicode đã có được chỗ đứng và cuối cùng vào tháng 12 năm 2007 đã vượt qua cả ASCII và Tây Âu là mã hóa ký tự được sử dụng thường xuyên nhất trên Web. Ban đầu cho phép các tài nguyên được xác định bởi URI trong một tập hợp con của US-ASCII. RFC 3987 cho phép nhiều ký tự hơn nữa, bất kỳ ký tự nào trong Bộ ký tự phổ quát, và bây giờ tài nguyên có thể được IRI xác định bằng bất kỳ ngôn ngữ nào. Bộ nhớ đệm web. Bộ đệm web là một máy tính được đặt trên Internet công cộng hoặc trong một doanh nghiệp lưu trữ các trang web được truy cập gần đây để cải thiện thời gian phản hồi cho người dùng khi cùng một nội dung được yêu cầu trong một thời gian nhất định sau yêu cầu ban đầu.
World Wide Web
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1296
Hầu hết các trình duyệt web cũng triển khai bộ đệm của trình duyệt bằng cách ghi dữ liệu thu được gần đây vào thiết bị lưu trữ dữ liệu cục bộ. Các yêu cầu HTTP của trình duyệt chỉ có thể yêu cầu dữ liệu đã thay đổi kể từ lần truy cập cuối cùng. Các trang web và tài nguyên có thể chứa thông tin hết hạn để kiểm soát bộ nhớ đệm để bảo mật dữ liệu nhạy cảm, như trong ngân hàng trực tuyến hoặc để tạo điều kiện cho các trang web được cập nhật thường xuyên, như phương tiện tin tức. Ngay cả các trang web có nội dung rất năng động đôi khi cũng có thể cho phép các tài nguyên cơ bản được làm mới. Các nhà thiết kế trang web thấy đáng để đối chiếu các tài nguyên như dữ liệu CSS và JavaScript thành một vài tệp trên toàn trang web để chúng có thể được lưu trữ hiệu quả. Tường lửa doanh nghiệp thường lưu trữ tài nguyên web được yêu cầu bởi một người dùng vì lợi ích của nhiều người dùng. Một số công cụ tìm kiếm lưu trữ nội dung lưu trữ của các trang web thường xuyên truy cập.
Giê-su
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1299
Giêsu (chữ Nôm: 支秋, còn được viết là Giê-su, Giê-xu, Yêsu, Jesus, Gia-tô; khoảng 4 TCN – 3 tháng 4, 33 SCN), còn được gọi là Giêsu Kitô, Jesus Christ, hay Gia-tô Cơ-đốc là một nhân vật lịch sử người Do Thái, nhà giảng thuyết, người sáng lập ra Kitô giáo vào thế kỉ thứ 1. Tên gọi Giêsu trong tiếng Hebrew đọc là "Yehoshua" (יהושע – có nghĩa "Đức Chúa là Đấng Cứu Độ"), thường được gọi vắn tắt là "Yeshua" (ישוע). Đối với người đương thời, Giêsu còn được gọi là Giêsu thành Nazareth, hoặc Giêsu con ông Giuse. Từ "Kitô" (tiếng Latinh: "Christus", tiếng Hy Lạp: Χριστός "Khristós", hay "Cơ-đốc" theo phiên âm Hán Việt) là một danh hiệu của Giêsu, có nghĩa là "người được xức dầu", nhằm chỉ ông là đấng Messiah, đã được tiên báo trong Cựu Ước. Những gì chúng ta biết được về Giêsu là do được ghi chép trong Thánh Kinh Tân Ước, đặc biệt là trong bốn sách Phúc Âm. Những nguồn thông tin chính về cuộc đời và những lời dạy của Giêsu là bốn sách Phúc Âm quy điển, đặc biệt là trong Phúc Âm Nhất Lãm, mặc dù nhiều học giả cho rằng những văn bản như Phúc Âm Tôma và Phúc Âm Hebrew cũng xác đáng. Trong Hồi giáo, Giêsu (, chuyển tự là ) được xem là một nhà tiên tri quan trọng của Thiên Chúa, người mang lại Injil (Phúc Âm), và là người làm những phép lạ. Hồi giáo cũng xưng nhận Giêsu là Đấng Masih (Messiah), nhưng họ không dạy rằng Giêsu mang đặc tính thần linh. Quan điểm của Hồi giáo cho rằng Giêsu đã lên thiên đường cả linh hồn và thể xác nhưng không trải qua việc đóng đinh vào thập tự giá và phục sinh, khác với niềm tin truyền thống của Kitô giáo về cái chết và sự phục sinh của Giêsu. Tên và danh hiệu. Người Do Thái đương thời thường thêm tên người cha hoặc tên quê quán vào tên gọi cá nhân. Như vậy, trong Tân Ước, Giêsu cũng được gọi là "Giêsu thành Nazareth" (Mátthêu 26:71), "con ông Giuse" (Lc 4:22) hoặc đầy đủ nhất là "Giêsu con ông Giuse thành Nazareth" (Ga 1:45). Tuy nhiên, trong Máccô 6:3 thì lại gọi là "con bà Maria, và anh em của các ông Giacôbê, Giôxết, Giuđa và Simon".
Giê-su
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1299
Tên Giêsu ngày nay trong các ngôn ngữ hiện đại có nguồn gốc từ "Iesus" trong tiếng Latinh, đây là một hình thức chuyển tự của chữ ("") từ tiếng Hy Lạp. Hình thức thể hiện của tiếng Hy Lạp lại bắt nguồn từ chữ ישוע ("Yeshua") trong tiếng Aram, nhưng tựu trung có nguồn gốc từ chữ יהושע ("Yehoshua") của tiếng Do Thái. Tên "Yeshua" dường như đã được sử dụng trong xứ Judea tại thời điểm Giêsu ra đời. Theo giải thích của Tân Ước, tên gọi này nghĩa là "Giavê là sự cứu rỗi".Các tín đồ sơ khai đã thường gọi là "Chúa Giêsu Kitô". Từ "Ki-tô" (hay "Ki-ri-xi-tô", chữ Nôm: 基移吹蘇), cũng phiên âm là "Cơ-đốc" (hay "Cơ-lợi-tư-đốc", chữ Hán: 基利斯督), không phải là tên nhưng là một danh hiệu. Trong tiếng Hy Lạp, Χριστός ("Khristos") có nghĩa là "người được xức dầu", được dịch từ tiếng Hebrew "Messiah", để gọi vị lãnh đạo được Thiên Chúa sai đến giải cứu dân Chúa, trong ngôn ngữ hiện đại được hiểu là "Đấng cứu thế". Chữ Kitô hữu được chỉ những người tin và theo Chúa Kitô. Theo ký thuật của các sách Phúc Âm, Giêsu xưng mình là Con người ("the Son of man" - tức "Con của loài người", "Con chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng Con người không có chỗ tựa đầu" - Mt 8:20). Danh xưng này thường được cho là để khẳng định Giêsu là một con người trọn vẹn cũng như Giêsu được gọi là Con Thiên Chúa ("the Son of God", "Quả thật, người này là Con Thiên Chúa" - Mt 27:54) để khẳng định Giêsu đồng thời cũng là Thiên Chúa cách trọn vẹn.. Ngoài ra, Giêsu còn có một số danh xưng khác như "Đấng Tiên tri", "Chúa". Trong Phúc Âm Gioan 14:6 chép: "Đức Chúa Giêsu phán rằng: Thầy là đường, là sự thật và là sự sống, không ai đến được với Chúa Cha mà không qua Thầy" (Ga 14:6). Theo đức tin Kitô giáo, Giê-su là con Đức Chúa Trời, và được sinh ra trên Trái Đất và chịu đóng đinh, để cứu chuộc nhân loại khỏi tội lỗi, nên Giê-su còn được xưng tụng là "Đấng Cứu Thế, Đấng Cứu Rỗi", "Cứu Chúa" - "Nhưng Thiên Chúa tỏ lòng yêu thương của Ngài đối với chúng ta, khi chúng ta còn là người có tội, thì Chúa Cơ Đốc vì chúng ta chịu chết""." (Roma 5:8). Cuộc đời và giáo huấn theo Tân Ước.
Giê-su
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1299
Phúc Âm quy điển. Bốn cuốn Phúc Âm quy điển (Mátthêu, Máccô, Luca, và Gioan) là những nguồn văn liệu cực kỳ quan trọng về cuộc đời và thông điệp của Giêsu. Các phần khác trong Tân Ước cũng có đề cập qua một số giai đoạn trong cuộc đời của ông, chẳng hạn như sự kiện Bữa ăn tối cuối cùng được kể trong 1 Côrintô 11:23–26. Sách Công vụ Tông đồ đề cập đến thừa tác vụ ban sớm của Giêsu và dự tưởng của Gioan Tẩy Giả. Công vụ 1:1–11 kể chi tiết hơn các cuốn quy điển về sự kiện Giêsu thăng thiên. Giáo huấn của Giêsu được trích dẫn rất nhiều lần trong các lá thư Phaolô xác đáng, có niên đại trước cả các quy điển Phúc Âm. Một số nhóm Kitô hữu thuở sớm có những tác phẩm tường thuật khác về cuộc đời của Giêsu và giáo huấn khác Tân Ước. Chúng bao gồm Phúc Âm Tôma, Phúc Âm Phêrô, Phúc Âm Giuđa, Ngụy thư Giacôbê, và nhiều ngụy thư khác. Hầu hết học giả cho rằng những tác phẩm này được viết khá muộn và không đáng tin như bộ bốn cuốn Phúc Âm quy điển. Danh tính tác giả, niên đại, và độ tin cậy. Các tác giả viết bốn cuốn Phúc Âm quy điển đều khuyết danh. Theo truyền thống, những người này được xác định là bốn nhà thánh sử có liên hệ với Giêsu: cộng sự của Phêrô là Gioan Máccô viết cuốn Máccô; một trong những môn đệ của Giêsu viết cuốn Mátthêu; Thánh sử Luca, bằng hữu của Phaolô được nhắc đến trong một số tín thư, viết cuốn Luca; và một môn đệ khác của Giêsu, biệt danh là "môn đệ quý mến", viết cuốn Gioan. Theo giả thuyết ưu tiên Máccô, sách Phúc Âm quy điển đầu tiên được viết là Phúc Âm Máccô (60–75 CN), kế tiếp là Phúc Âm Mátthêu (65–85 CN), Phúc Âm Luca (65–95 CN), rồi Phúc Âm Gioan (75–100 CN). Hầu hết học giả đồng thuận rằng Mátthêu và Luca sử dụng cuốn Máccô làm tham chiếu để viết các tác phẩm của họ. Hơn nữa, vì tường thuật của Mátthêu và Luca chia sẻ một số chi tiết chung không có trong Máccô, nhiều nhà nghiên cứu suy đoán rằng hai tác giả kể trên đã tham khảo từ một nguồn nào đó khác nguồn Máccô – được giả sử là "nguồn Q". Phả hệ và giáng sinh.
Giê-su
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1299
Phả hệ và giáng sinh. Giêsu là người Do Thái, được hạ sinh bởi Maria, vợ của Giusê. Phúc Âm Mátthêu và Luca đưa ra hai ký thuật về phả hệ của Giêsu. Cuốn Mátthêu truy tổ tiên của Giêsu về Abraham thông qua David. Cuốn Luca truy tổ tiên của Giêsu về Thiên Chúa thông qua Adam. Danh sách họ hàng các đời giữa Abraham và David của Giêsu trong hai tác phẩm rất tương đồng, song từ đó trở đi thì khác biệt rất nhiều. Mátthêu liệt kê 27 thế hệ từ David đến Giusê, còn Luca khẳng định tồn tại tới tận 42 thế hệ, hơn nữa cũng có rất ít tên trùng lặp nhau. Nhiều giả thuyết đã được đề ra để giải thích cho những bất nhất này. Phúc Âm Mátthêu và Luca đều đề cập đến sự kiện Giêsu chào đời, đều khẳng định một thiếu nữ đồng trinh tên là Maria đã hạ sinh Giêsu ở Bethlehem nhằm hoàn bị một lời sấm. Ký thuật của Luca nhấn mạnh các sự kiện xảy ra trước khi Giêsu chào đời và xoay quanh Maria, trong khi Mátthêu tập trung chủ yếu vào những sự kiện sau đó và xoay quanh Giusê. Cả hai tác phẩm đều khẳng định Giusê và Maria là cha mẹ của Giêsu, và cùng ủng hộ học thuyết về sự ra đời đồng trinh của Giêsu, theo đó thì Maria được thụ thai một cách thần kỳ bởi Thánh Linh khi bà còn là một thiếu nữ đồng trinh. Đồng thời, ta cũng có bằng chứng, ít nhất là trong sách Công vụ Tông đồ Luca, rằng Giêsu được cho là có hai dòng cha, giống như nhiều hình tượng huyền sử thời ấy. Trong Phúc Âm Mátthêu, Giusê đã rất bối rối khi biết Maria mang thai, song một thiên sứ đã báo mộng an ủi ông rằng không có gì phải sợ, bởi lẽ đứa bé được thụ thai bởi quyền năng của Thánh Linh. Trong Phúc Âm Mátthêu 2:1–12, các nhà đạo sĩ từ phương Đông đã tới để dâng bái Giêsu vì tin rằng cậu là Vua của người Do Thái. Trong Phúc Âm Mátthêu, khi Hêrôđê Đại vương hay tin Giêsu ra đời, ông ta liền hạ lệnh cho giết tất cả các bé trai dưới 2 tuổi ở Bethlehem. Song một thiên sứ đã kịp thời cảnh báo Giusê trong giấc mơ thứ hai, giúp cho gia đình ông có thể chạy nạn sang Ai Cập – về sau lại an cư ở Nazareth. Trong Phúc Âm Luca 1:31–38, Maria nhận tin báo từ thiên thần Gabriel rằng, bà sẽ mang thai một đứa con tên là Giêsu nhờ quyền năng của Thánh Linh.
Giê-su
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1299
Lúc sắp sửa sinh, Maria và Giusê đang lữ hành từ Nazareth tới ngôi nhà tổ tiên của Giusê ở Bethlehem để khai hộ khẩu theo chỉ dụ của Hoàng đế La Mã Caesar Augustus. Tại đây, Maria hạ sinh Giêsu. Vì không tìm thấy hàng quán nào để nghỉ ngơi, bà đành đặt đứa con sơ sinh lên một máng cỏ. Thiên sứ liền thông cáo sự ra đời của Giêsu cho một đám mục đồng, khiến họ đến thăm Bethlehem và chứng kiến Giêsu, rồi lan truyền tin mừng này khắp nơi. Phúc Âm Luca 2:21 kể về việc Giusê và Maria cho đứa con mới sinh của họ được cắt bao quy đầu vào ngày thứ 8, rồi đặt tên là Giêsu, đúng theo chỉ bảo của Gabriel. Sau khi dâng Giêsu tại Đền Thánh, Giusê và Maria quay về Nazareth. Đầu đời, gia quyến, và nghề nghiệp. Sau khi sinh ra, gia đình Giêsu đã trốn sang Ai Cập và chỉ trở về sau khi vua Hêrôđê băng hà tại Giêricô. Giêsu trải qua thời niên thiếu tại làng Nazareth thuộc xứ Galilea. Chỉ có một sự kiện xảy ra trong thời gian này được ghi lại là khi cậu bé Giêsu theo gia đình lên Jerusalem trong một chuyến hành hương. Bị thất lạc khỏi cha mẹ, cuối cùng cậu bé Giêsu 12 tuổi được tìm thấy trong Đền thờ Jerusalem, đang tranh luận với các học giả Do Thái giáo. Theo tác giả Nicholas Notovitch, trong tác phẩm "Cuộc đời chưa được biết đến của Chúa", Giêsu, mang tên Isha, đã sang Ấn Độ học Phật giáo trong suốt thời thanh niên của ông. Có nghiên cứu cho rằng nhiều phân tích văn bản cho thấy có những sự tương đồng giữa những gì Giê-su nói và những gì Phật nói, giữa huyền thoại về Giê-su và những văn bản Phật giáo nên có thể kết luận tuy Giê-su không tự nhận mình là người theo Phật giáo nhưng ông nói như một Phật tử. Tuy thiếu chứng cứ lịch sử nhưng người ta có thể nghi ngờ ông đã học đạo Phật, những lời tiên tri và huyền thoại về ông được lấy từ những câu chuyện Phật giáo. Rửa tội và cám dỗ. Ngay sau khi chịu lễ Thanh Tẩy (lễ Rửa Tội) bởi Gioan Baotixita, Giêsu bắt đầu đi rao giảng, khi ấy khoảng ba mươi tuổi. Theo Phúc Âm Luca, Giêsu và Gioan Baotixita là anh em họ vì Maria và Elizabeth, mẹ của Gioan, là hai chị em họ. Thừa tác vụ công cộng. Theo Kinh Thánh, Giêsu đã cùng các môn đồ đi khắp xứ Galilea để giảng dạy và chữa bệnh.
Giê-su
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1299
Cung cách giảng dạy mang thẩm quyền, uy lực cùng với kỹ năng diễn thuyết điêu luyện, Giêsu sử dụng các dụ ngôn để giảng dạy quan điểm về tình yêu thương nên đã thu hút rất nhiều người. Họ tụ họp thành đám đông và tìm đến bất cứ nơi nào Giêsu có mặt. Đôi khi đám đông trở nên mất trật tự và ông buộc phải ngồi trên thuyền mà giảng dạy. Giêsu cũng tìm đến và thuyết giáo tại các hội đường Do Thái giáo ("synagogue"). Giêsu áp dụng các phương pháp khác nhau khi giảng dạy, phép nghịch lý, phép ẩn dụ và các truyện dụ ngôn. Ông thường tập trung vào Nước Trời (hay Thiên Quốc). Nổi tiếng nhất là Bài giảng trên núi, trong đó đề cập đến Tám Mối Phúc thật ("Beatitudes"). Trong số những dụ ngôn của Giêsu, được biết đến nhiều nhất là hai câu chuyện: Người Samaria nhân lành và Người con trai hoang đàng. Giêsu có nhiều môn đồ, thân cận nhất là mười hai sứ đồ (hoặc tông đồ), Phêrô được Công giáo Rôma cho là sứ đồ trưởng. Theo Tân Ước, Giêsu làm nhiều phép lạ như chữa bệnh, đuổi tà ma và khiến một người đàn ông tên là Lazarô sống lại khi đã chết. Giới lãnh đạo Do Thái giáo bao gồm các nhóm quyền lực đối nghịch nhau như nhóm Sadducee và nhóm Pharisêu (Pharisee) thường bất đồng với Giêsu. Ông vẫn thường vạch trần tính chuộng hình thức cũng như tinh thần đạo đức giả của người Pharisêu. Nhiều người xem Giêsu như một nhà cải cách xã hội, những người khác tỏ ra nhiệt tình vì tin rằng ông là vị vua đến để giải phóng dân Do Thái khỏi ách thống trị của Đế quốc La Mã, trong khi giới cầm quyền xem Giêsu như một thế lực mới đang đe dọa những định chế tôn giáo và chính trị đương thời. Nhiều người tin nhận Giêsu là "Đấng Cứu Tinh" (Messie, Messiah) đến để cứu chuộc nhân loại. Bị bắt và xét xử. Giêsu cùng các môn đồ lên thành Jerusalem vào dịp Lễ Vượt Qua ("Passover"); ông vào Đền thờ Jerusalem, đánh đuổi những người buôn bán và những kẻ đổi tiền, lật đổ bàn của họ và quở trách họ rằng: "Nhà ta được gọi là nhà cầu nguyện nhưng các ngươi biến thành hang ổ của bọn trộm cướp". Sau đó, Giêsu bị bắt giữ theo lệnh của Toà Công luận ("Sanhedrin") bởi viên Thượng tế Joseph Caiaphas.
Giê-su
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1299
Trong bóng đêm của khu vườn Getsemani ở ngoại ô Jerusalem, lính La Mã nhận diện Giêsu nhờ cái hôn của Judas Iscariot, một môn đồ đã phản ông để nhận được tiền. Tòa công luận cáo buộc Giêsu tội phạm thượng và giao ông cho các quan chức Đế quốc La Mã để xin y án tử hình, không phải vì tội phạm thượng nhưng vì cáo buộc xúi giục nổi loạn. Dưới áp lực của giới lãnh đạo tôn giáo Do Thái, Tổng đốc Pontius Pilatus (Philatô) miễn cưỡng ra lệnh đóng đinh Giêsu. Tuy nhiên, theo các sách Phúc Âm, một tấm bảng có hàng chữ viết tắt INRI (của câu: "Giêsu người Nazareth, vua dân Do Thái") được treo trên thập tự giá theo lệnh của Pilate. Sau khi Giêsu chết, Giuse người Arimathea đến gặp Pilate và xin được phép chôn với sự chứng kiến của Maria, Maria Magdalena và những phụ nữ khác. Phục sinh và Lên Trời. Các Kitô hữu tin rằng Giêsu sống lại vào ngày thứ ba sau khi chết trên thập tự giá. Sự kiện này được đề cập đến theo thuật ngữ Kitô giáo là sự phục sinh của Giêsu, được cử hành hằng năm vào ngày Lễ Phục sinh. Trong Kinh Thánh, Maria Madalena (đi một mình trong Phúc Âm Gioan nhưng có những người phụ nữ khác đi cùng trong Phúc Âm Nhất Lãm) đến ngôi mộ của Giêsu vào sáng sớm ngày Chủ nhật và bất ngờ thấy ngôi mộ rỗng. Mặc dù đã nghe lời dạy của Chúa Giêsu, các môn đệ vẫn không hiểu rằng Chúa Giêsu sẽ trỗi dậy. Hầu hết Kitô hữu chấp nhận câu chuyện phục sinh, như được ký thuật trong Tân Ước, là sự kiện lịch sử và xem đây là tâm điểm cho Đức tin Kitô giáo của họ mặc dù theo quan điểm của một số tín hữu thuộc trào lưu tự do ("liberalism"), đây chỉ là câu chuyện có tính ẩn dụ. Tuy nhiên lịch sử chứng minh đây là niềm tin bất di dịch của Kitô giáo. Tất cả Kitô hữu tin rằng Giêsu đã làm nhiều dấu kỳ phép lạ và các tông đồ được ban cho quyền lực siêu nhiên bởi ơn Chúa Thánh Thần để chữa lành bệnh tật cho nhiều người và nói được nhiều thứ tiếng khác nhau sau khi Giêsu về trời. Góc độ sử học. Trước thời kỳ Khai sáng ở phương Tây, các Phúc Âm được coi như là những tường thuật lịch sử mang tính người thật việc thật.
Giê-su
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1299
Song giới học giả hiện đại hầu như đều đặt nghi vấn về độ tin cậy của những kinh sách này; họ chủ trương kẻ ra ranh giới giữa Giêsu được tả trong các Phúc Âm và Giêsu thực sự trong lịch sử. Kể từ thế kỷ thứ 18 trở đi, ba cuộc điều tra hàn lâm riêng lẻ về Giêsu lịch sử đã được tiến hành, mỗi đợt một đặc thù và dựa trên các tiêu chí nghiên cứu khác nhau, gắn liền với thời đại riêng. Tuy phần đông học giả đồng thuận rằng Giêsu đã từng tồn tại, và cũng đều chấp nhận một số chi tiết cơ bản trong tiểu sử của ông, song chân dung Giêsu được phục dựng theo từng tác giả vẫn khác nhau ít nhiều, và cũng khác hoàn toàn so với ký thuật trong Phúc Âm. Niên biểu. Hầu hết các học giả đồng ý rằng Giêsu là một người Do Thái vùng Galilea, sinh vào khoảng đầu thế kỷ thứ nhất và qua đời trong khoảng từ năm 30 đến 36 SCN tại xứ Judea, ông chỉ sống và hoạt động tại Galilea và Judea chứ không ở nơi khác. Các sách Phúc Âm chỉ tập trung vào quãng đời ba năm cuối khi Giêsu sống dưới trần gian, đặc biệt là tuần lễ cuối cùng trước khi bị đóng đinh vào thập giá, nhưng chúng cũng cung cấp một số manh mối liên quan đến năm sinh của Chúa Giêsu. Đoạn Mátthêu 2:1 liên kết sự giáng sinh của Chúa Giêsu với sự cai trị của Herod Đại đế - người đã chết vào khoảng năm thứ 4 trước Công nguyên, và đoạn Luca 1:5 viết rằng Herod đã trị vì trước khi Chúa Giêsu giáng sinh, ngoài ra Phúc Âm này còn đề cập đến cuộc điều tra dân số của chính quyền La Mã diễn ra mười năm sau đó. Luke 3:1-2 và 3:23 viết rằng Chúa Giêsu bắt đầu sứ vụ khi ông khoảng ba mươi tuổi, và đó là năm thứ 15 của triều đại Tiberius (khoảng năm 28 hoặc 29 Công Nguyên). Qua những chi tiết này và bằng các phương pháp phân tích khác nhau, hầu hết các học giả đi đến đồng thuận rằng Chúa Giêsu sinh trong khoảng từ năm thứ 6 đến 4 trước Công nguyên, Về thời điểm qua đời, tức là sự kiện ông bị đóng đinh trên cây thập giá, hầu hết các học giả đồng ý rằng sự kiện này xảy ra trong khoảng từ năm 30 đến 33 Công nguyên.
Giê-su
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1299
Các sách Phúc Âm nói rằng sự kiện này xảy ra trong thành xứ Judea mà Pilate là tổng trấn thuộc quyền La Mã khoảng năm 26-36. Người ta tin rằng ngày mà Phaolô theo Kitô giáo (ước tính khoảng năm 33-36) có mối liên hệ nào đó đến cho ngày Chúa Giêsu bị đóng đinh qua việc phân tích thư của Thánh Phaolô và Sách Công vụ Tông đồ. Các nhà thiên văn từ thời Isaac Newton đã cố gắng ước lượng chính xác ngày Chúa Giêsu bị đóng đinh bằng cách phân tích chuyển động của Mặt Trăng và tính theo lịch sử của lễ Vượt Qua theo lịch của người Do Thái. Và ngày giả thiết được chấp nhận rộng rãi nhất theo phương pháp này là ngày 7 tháng 4, năm 30 AD; và ngày 3 tháng 4 năm 33 (kể cả lịch Julius). Di sản. Theo hầu hết các giải thích Kinh Thánh của Kitô giáo, các chủ đề cơ bản của những lời răn dạy của Giêsu là sự hối cải, tình yêu vô điều kiện, tha thứ tội lỗi và khoan dung và về Thiên đường. Khởi đầu như một giáo phái nhỏ của người Do Thái, nó đã phát triển và trở thành một tôn giáo riêng biệt so với đạo Do Thái vài thập kỷ sau cái chết của Giêsu. Kitô giáo đã lan rộng ra khắp đế chế La Mã dưới dạng được biết đến qua Tín điều Nicea và trở thành quốc giáo dưới thời Theodosius I. Qua hàng thế kỷ, nó lan rộng đến hầu hết châu Âu và trên toàn thế giới. C. S. Lewis và Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã bảo vệ niềm tin vào Giêsu trước những sự chỉ trích mang tính lịch sử. Nhận định. Kitô giáo. Hầu hết Kitô hữu tin rằng, Giêsu là Thiên Chúa, là Đấng Messiah mà sự xuất hiện đã được tiên báo trong Cựu Ước. Họ tin rằng Giêsu là Thiên Chúa hóa thân thành người, là Ngôi Hai trong Ba Ngôi; rằng Giêsu nhập thể bởi quyền phép Chúa Thánh Thần, xuống thế gian để cứu nhân loại khỏi tội lỗi và sự chết bởi máu của Giêsu đã đổ ra khi bị đóng đinh trên thập tự giá như là sinh tế chuộc tội cho loài người. Họ cũng tin rằng Giêsu đã sống lại từ cõi chết và sau đó trở lại Thiên Đàng. Hồi giáo. Khác với đức tin của người Kitô giáo, tín đồ Hồi giáo tin rằng, Giêsu là một trong những nhà tiên tri (ngôn sứ) đáng được tôn trọng, được Thiên Chúa sai đến và là Đấng Messiah; nhưng họ không tin Giêsu là "Con Thiên Chúa".
Giê-su
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1299
Họ cũng không tin về sự chết và sự phục sinh của Giêsu, xem đó chỉ là sự hóa phép của Thiên Chúa dành cho tiên tri Giêsu để đánh lừa người đương thời. Sau đó, Giêsu về trời cả hồn lẫn xác. Do Thái giáo. Do Thái giáo thì cực lực phản đối cả hai niềm tin của hai tôn giáo trên. Họ không xem Giêsu là Thiên Chúa xuống thế làm người cũng không nhận đó là nhà tiên tri, thậm chí coi đó là nhà tiên tri giả hay kẻ xúc phạm đến Thiên Chúa của họ. Họ cho rằng, kể từ sau sự sụp đổ lần thứ hai của Đền thờ Jerusalem, không có một tiên tri nào xuất hiện thêm nữa. Cho đến tận bây giờ, họ vẫn đang hy vọng có một Đấng Messiah từ trời xuống. Phật giáo. Phật giáo hầu như không đưa ra nhận định về vai trò của Giêsu trong tôn giáo họ. Đối với họ, dựa theo lịch sử, Giêsu chỉ là một con người. Tuy nhiên, một số tín đồ thuộc một số phái cho rằng, với những đức tính hiển nhiên của Giêsu, chắc chắn sau đó Giêsu cũng được sinh vào cõi trời dựa theo luật nhân quả. Do đó, những người tu theo Phật giáo cấp tiến, nhất là Tịnh độ tông, có thể tôn kính Giêsu như một vị A-la-hán hay Bồ tát. Một số Phật tử, trong đó có Tenzin Gyatso, Đạt-lại Lạt-ma thứ 14 xem Giêsu như một vị đại Bồ tát, người cống hiến đời mình cho hạnh phúc của nhân loại. Nga Sơn Thiều Thạc ở thế kỷ XIV của Tào Động tông ngụ ý rằng những lời dạy của Giêsu trong Sách Phúc Âm do một người đã được giải thoát (arahant) viết. Khác. Một người Nhật theo chủ nghĩa vô chính phủ, Kōtoku Shūsui có viết tác phẩm "Kirisuto Massatsuron" (基督抹殺論, "Cơ Đốc Mạt Sát Luận"). Trong tác phẩm này, Shūsui cho rằng Giêsu chỉ là một nhân vật thần thoại và không có thực.. Vì có vai trò đặc biệt trong một số tôn giáo này, Giêsu được nhìn nhận là một trong những nhân vật quan trọng nhất và có ảnh hưởng sâu rộng nhất trong lịch sử nhân loại.
Quảng Nam
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1328
Quảng Nam là một tỉnh ven biển nằm ở cực bắc khu vực duyên hải Nam Trung Bộ, miền Trung của Việt Nam. Quảng Nam nằm trong vùng kinh tế trọng điểm miền Trung. Năm 1997, tỉnh được tái lập trên cơ sở tách tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng (Quảng Đà) thành 2 đơn vị hành chính là tỉnh Quảng Nam và thành phố Đà Nẵng. Hiện nay tỉnh có 2 thành phố là Tam Kỳ (tỉnh lỵ) và Hội An. Năm 2019, Quảng Nam là đơn vị hành chính Việt Nam đông thứ 19 về số dân, xếp thứ 17 về Tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP), xếp thứ 17 về GRDP bình quân đầu người, đứng thứ 27 về tốc độ tăng trưởng GRDP. Với 1,495,812 người, GRDP đạt 91.677 tỉ Đồng (tương ứng với 3,9816 tỉ USD), GRDP bình quân đầu người đạt 61,07 triệu đồng (tương ứng với 2.632 USD), tốc độ tăng trưởng GRDP đạt 8,11%. Trong 6 tháng đầu năm 2021, Quảng Nam nằm trong nhóm 9 tỉnh của cả nước có tốc độ tăng trưởng kinh tế (GRDP) trên 2 con số (tăng 11,7%), đứng thứ 5 so với cả nước và cao nhất Vùng Kinh tế trọng điểm miền Trung. Quy mô nền kinh tế gần 51.973 tỷ đồng, đứng vị trí thứ 2 sau Đà Nẵng. Quảng Nam có Khu kinh tế mở Chu Lai nổi tiếng với nhà máy của THACO, là một đòn bẩy quan trọng của Vùng kinh tế trọng điểm Trung bộ. Năm 2018, khánh thành nhà máy sản xuất ô tô Thaco Mazda lớn nhất và hiện đại nhất Đông Nam Á tại Quảng Nam. Địa lý. Vị trí. Tỉnh Quảng Nam thuộc khu vực Nam Trung Bộ của miền Trung, nước Việt Nam, cách thủ đô Hà Nội 820 km về phía Bắc, cách thành phố Huế 235 km về phía Bắc, giáp với thành phố Đà Nẵng ở phía Bắc và cách Thành phố Hồ Chí Minh 900 km về phía Nam theo đường Quốc lộ 1A, có vị trí địa lý: Tỉnh lỵ của Quảng Nam đặt tại thành phố Tam Kỳ, có đô thị phố cổ Hội An. Quảng Nam nằm ở khoảng giữa Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh tính theo đường Quốc lộ 1A. Tỉnh Quảng Nam diện tích 10.574,86 km², lớn thứ 6 của Việt Nam, dân số năm 2019 là 1.495.812 người, mật độ dân số đạt 170 người/km². Địa hình.
Quảng Nam
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1328
Địa hình. Địa hình thấp dần từ tây sang đông và chia làm 3 vùng: vùng núi phía tây, trung du ở giữa và đồng bằng ven biển phía đông. Quảng Nam nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, nhiệt độ trung bình năm trên 25 °C, lượng mưa trung bình hàng năm đạt 2.000-2.500mm với hơn 70% tập trung vào 3 tháng mùa mưa (tháng 10, 11 và 12). Vu Gia - Thu Bồn và là hai lưu vực sông chính. Nhìn chung, điều kiện tự nhiên của Quảng Nam (thời tiết-khí hậu, địa hình, tài nguyên nước, biển) có nhiều thuận lợi, tiềm năng cho phát triển sự nghiệp văn hóa đa dạng, độc đáo (phát triển những tiểu vùng văn hóa), phát triển ngành du lịch (du lịch văn hóa, du lịch sinh thái). Quảng Nam có hướng địa hình nghiêng dần từ Tây sang Đông hình thành 3 kiểu cảnh quan sinh thái rõ rệt là kiểu núi cao phía Tây, kiểu trung du ở giữa và dải đồng bằng ven biển. Vùng đồi núi chiếm 72% diện tích tự nhiên với nhiều ngọn cao trên 2.000m như núi Lum Heo cao 2.045m, núi Tion cao 2.032m, núi Gole - Lang cao 1.855m (huyện Phước Sơn). Núi Ngọc Linh cao 2.598m nằm giữa ranh giới Quảng Nam, Kon Tum là đỉnh núi cao nhất của dãy Trường Sơn. Ngoài ra, vùng ven biển phía đông sông Trường Giang là dài cồn cát chạy dài từ Điện Ngọc, Điện Bàn đến Tam Quang, Núi Thành. Bề mặt địa hình bị chia cắt bởi hệ thống sông ngòi khá phát triển gồm sông Thu Bồn, sông Tam Kỳ và sông Trường Giang. Quảng Nam có đường bờ biển dài 125 km, ven biển có nhiều bãi tắm đẹp, nổi tiếng, như: Hà My (Điện Bàn), Cửa Đại (Hội An), Bình Minh (Thăng Bình), Tam Thanh (Tam Kỳ), Bãi Rạng (Núi Thành)... Cù Lao Chàm là cụm đảo ven bờ với hệ sinh thái phong phú được công nhận là khu dự trữ sinh quyển của thế giới. Khí hậu. Quảng Nam nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới, chỉ có 2 mùa là mùa mưa và mùa khô, chịu ảnh hưởng của mùa đông lạnh miền Bắc. Nhiệt độ trung bình năm 25,6 °C, Mùa đông nhiệt độ vùng đồng bằng có thể xuống dưới 12 °C và nhiệt độ vùng núi thậm chí còn thấp hơn.
Quảng Nam
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1328
Độ ẩm trung bình trong không khí đạt 84%. Lượng mưa trung bình 2000-2500mm. Mùa mưa thường kéo dài từ tháng 10 đến tháng 12, mùa khô kéo dài từ tháng 2 đến tháng 8, tháng 1 và tháng 9 là các tháng chuyển tiếp với đặc trưng là thời tiết hay nhiễu loạn và khá nhiều mưa. Mưa phân bố không đều theo không gian, mưa ở miền núi nhiều hơn đồng bằng. Vùng Tây Bắc thuộc lưu vực sông Bung (các huyện Đông Giang, Tây Giang và Nam Giang) có lượng mưa thấp nhất trong khi vùng đồi núi Tây Nam thuộc lưu vực sông Thu Bồn (các huyện Nam Trà My, Bắc Trà My, Tiên Phước và Hiệp Đức) có lượng mưa lớn nhất. Trà My là một trong những trung tâm mưa lớn nhất của Việt Nam với lượng mưa trung bình năm vượt quá 4,000 mm. Mưa lớn lại tập trung trong một thời gian ngắn trong 3 tháng mùa mưa trên một địa hình hẹp, dốc tạo điều kiện thuận lợi cho lũ các sông lên nhanh. Hiện có hai trạm khí tượng trên địa bàn tỉnh quan trắc đầy đủ các yếu tố khí tượng trong một thời gian dài (bắt đầu từ 1976) là trạm Tam Kỳ và trạm Trà My. Trạm Tam Kỳ đặt tại phường Hòa Thuận, thành phố Tam Kỳ được sử dụng để tính toán các yếu tố khí tượng liên quan cho vùng đồng bằng phía Đông của tỉnh. Trạm Trà My đặt tại thị trấn Trà My, huyện Bắc Trà My được sử dụng để tính toán các yếu tố khí tượng liên quan cho vùng núi phía Tây của tỉnh. Giá trị trung bình của các yếu thời tiết cơ bản tại Tam Kỳ, đại diện cho vùng đồng bằng phía Đông của tỉnh được trình bày trong bảng dưới đây: Giá trị trung bình của các yếu thời tiết cơ bản tại Trà My, đại diện cho vùng núi phía Tây của tỉnh được trình bày trong bảng dưới đây: Thủy văn. Quảng Nam có hai hệ thống sông lớn là Vu Gia - Thu Bồn (VG-TB) và Tam Kỳ. Diện tích lưu vực VG-TB (bao gồm một phần lưu vực thuộc tỉnh Kon Tum, Quảng Ngãi, thành phố Đà Nẵng là 10,350 km², là 1 trong 10 hệ thống sông có diện tích lưu vực lớn nhất Việt Nam và lưu vực sông Tam Kỳ là 735 km².
Quảng Nam
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1328
Các sông bắt nguồn từ sườn đông của dãy Trường Sơn, chảy chủ yếu theo hướng Tây-Đông và đổ ra biển Đông tại cửa Hàn (Đà Nẵng), cửa Đại (Hội An) và An Hòa (Núi Thành). Ngoài hai hệ thống sông trên, sông Trường Giang có chiều dài 47 km chảy dọc ven biển theo hướng Bắc - Nam kết nối hệ thống sông VG-TB và Tam Kỳ. Do địa hình đồi dốc và lượng mưa lớn nên mạng lưới sông ngòi của tỉnh Quảng Nam khá dày đặc. Mật độ sông ngòi trung bình là 0.47 km/km² cho hệ thống VG - TB và 0.6 km/km² cho các hệ thống sông khác. Các sông có lưu lượng dòng chảy lớn, đầy nước quanh năm. Lưu lượng dòng chảy trung bình năm của sông Vu Gia (tính đến thị trấn Thạnh Mỹ với diện tích lưu vực 1,850 km²) là 127 m³/s, của sông Thu Bồn (tính đến Nông Sơn với diện tích lưu vực 3,130 km²) là 281 m³/s. Chế độ dòng chảy của sông ngòi có sự phân mùa rõ rệt. Dòng chảy 3 tháng mùa lũ (tháng 10, 11, 12) chiếm 65 - 70% tổng dòng chảy cả năm trong khi dòng chảy vào mùa kiệt (từ tháng 2 đến tháng 8) rất thấp. Hai tháng 1 và 9 là các tháng chuyển tiếp với dòng chảy thất thường. Lưu lượng cực đại của Thu Bồn tại Nông Sơn là 10,600 m³/s và lưu lượng tối thiểu đo được là 15.7 m³/s trong khi đó lưu lượng cực đại của Vu Gia tại Thạnh Mỹ là 4,540 m³/s và cực tiểu là 10.5 m³/s. Lưu lượng lớn vào mùa mưa và thấp vào mùa khô là nguyên nhân chính gây nên lũ lụt và hạn hán trong vùng. Tài nguyên nước phong phú là tiền đề để phát triển thủy điện trên địa bàn. Tính đến 2015, trên địa bàn Quảng Nam có 8 dự án thủy điện có công suất lớn (trên 100 MW) và 35 thủy điện có công suất nhỏ. Nhiều nhà máy thủy điện công suất lớn như Sông Tranh 2, Đăk Mi 4, A Vương, Sông Bung 2, Sông Bung 4, Sông Kôn 2... đã và đang được xây dựng góp phần cung cấp điện cho nhu cầu ngày càng tăng của cả nước. Tài nguyên đất.
Quảng Nam
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1328
Tài nguyên đất. Sử dụng đất: Theo số liệu thống kê, kiểm kê đất đai vào ngày 01.01.2010, trong tổng diện tích tự nhiên 1.043.836 ha, diện tích đất nông nghiệp chiếm 798.790 ha, diện tích đất phi nông nghiệp là 87.765 ha và diện tích đất chưa sử dụng là 157.281 ha. Tổng diện tích tự nhiên của Quảng Nam là 1.043.803ha được hình thành từ chín loại đất khác nhau gồm cồn cát và đất cát ven biển, đất phù sa sông, đất phù sa biển, đất xám bạc màu, đất đỏ vàng, đất thung lũng, đất bạc màu xói mòn trơ sỏi đá... Nhóm đất phù sa ven sông là nhóm đất quan trọng nhất trong phát triển cây lương thực, thực phẩm và cây công nghiệp ngắn ngày. Nhóm đất đỏ vàng vùng đồi núi thuận lợi cho trồng rừng, cây công nghiệp và cây ăn quả dài ngày. Nhóm đất cát ven biển đang được khai thác cho mục đích nuôi trồng thủy sản. Tài nguyên rừng. Tỉnh Quảng Nam có 425.921 ha rừng, tỷ lệ che phủ đạt 40,9%; trữ lượng gỗ của tỉnh khoảng 30 triệu m3. Diện tích rừng tự nhiên là 388.803 ha, rừng trồng là 37.118 ha. Rừng giàu ở Quảng Nam hiện có khoảng 10 nghìn ha, phân bố ở các đỉnh núi cao, diện tích rừng còn lại chủ yếu là rừng nghèo, rừng trung bình và rừng tái sinh, có trữ lượng gỗ khoảng 69 m3/ha. Các khu bảo tồn thiên nhiên trên địa bàn tỉnh nằm ở sông Thanh thuộc huyện Nam Giang. Tháng Tư năm 2011 nhà chức trách tỉnh Quảng Nam cho thành lập Khu Bảo tồn Thiên nhiên Sao La (tiếng Anh: Saola Nature Reserve), mở hành lang cho các sinh vật vùng núi giữa Lào và Việt Nam, nhất là loài sao la đang bị đe dọa. Rừng nhiệt đới lá rộng thường xanh là kiểu sinh thái chủ đạo của Quảng Nam. Quảng Nam là tỉnh giàu tiềm năng rừng nhưng do bị khai thác quá mức trong một thời gian dài nên diện tích rừng nguyên sinh còn ít. Việc đẩy mạnh trồng rừng trong những năm gần đây đã tăng diện tích đất có rừng của Quảng Nam lên hơn 55% vào năm 2014. Đây là một trong những địa phương có diện tích đất có rừng cao nhất cả nước. Rừng đặc dụng sông Thanh là khu bảo tồn lớn nhất tỉnh, nơi mà các động vật hoang dã khu vực Trung Trường Sơn đang được bảo tồn.
Quảng Nam
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1328
Nhân sâm Ngọc Linh là cây dược liệu quý phân bố chủ yếu ở độ cao trên 1.000 m của núi Ngọc Linh. Lịch sử. Tên gọi Quảng Nam có nghĩa là "mở rộng về phương Nam". Quảng Nam là vùng đất giàu truyền thống văn hóa với hai di sản văn hóa thế giới là phố cổ Hội An và thánh địa Mỹ Sơn. Quảng Nam còn là vùng đất địa linh nhân kiệt, nơi sản sinh ra nhiều người con ưu tú cho đất nước. Năm 2008, Quảng Nam là tỉnh đầu tiên của vùng Duyên hải Nam Trung Bộ có 2 thành phố trực thuộc tỉnh (Tam Kỳ, Hội An). Đây cũng là tỉnh duy nhất của duyên hải Nam Trung Bộ vừa giáp biển vừa giáp biên giới, có đường biên giới quốc tế. Thời nhà Trần. Trước kia Quảng Nam là đất Chiêm Thành. Năm 1306 theo thỏa ước giữa vua Chiêm Thành là Chế Mân và vua Đại Việt là Trần Nhân Tông thì vua Chế Mân dâng hai châu, đó là: châu Ô tức Thuận Châu (nam Quảng Trị, Huế) và châu Lý tức Hóa Châu (một phần Huế, bắc sông Thu Bồn) làm sính lễ cưới con gái vua Trần Nhân Tông là công chúa Huyền Trân. Người Việt dần định cư tại hai vùng đất mới; người Chiêm Thành lùi dần về vùng đất còn lại phía Nam của vương quốc. Năm 1400, nhà Hồ thay thế nhà Trần. Nhà Hồ chia Hóa Châu thành 4 châu nhỏ hơn là Thăng Châu, Hóa Châu, Tư Châu và Nghĩa Châu và đặt An Phủ Sứ cai trị. Năm 1407, Trần Ngỗi khởi nghĩa ở Nghệ An xưng là Giản Định đế nhà Hậu Trần, có hai viên quan cũ nhà Hồ là Đặng Tất ở Hóa Châu (nay là Thừa Thiên - Huế) và Nguyễn Cảnh Chân ở Thăng Hoa (nay là Quảng Nam) theo giúp. Tháng Giêng âm lịch năm 1408, Trần Ngỗi cùng Đặng Tất chỉ huy quân nhà Hậu Trần đại phá 4 vạn quân Minh do Mộc Thạnh chỉ huy ở trận Bô Cô. Thời Lê. Năm 1471, sau khi chiếm vùng đất phía Nam Thuận Hóa cho đến đèo Cù Mông, vua Lê Thánh Tông lập thêm đơn vị hành chính thứ 13 - Thừa Tuyên Quảng Nam gồm 3 phủ: Thăng Hoa, Tư Nghĩa và Hoài Nhơn (nay là Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định). Danh xưng Quảng Nam xuất hiện từ đây. Thời chúa Nguyễn.
Quảng Nam
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1328
Thời chúa Nguyễn. Sang thời kỳ Trịnh-Nguyễn phân tranh, Quảng Nam thuộc quyền cai quản của chúa Nguyễn (từ năm 1570). Hội An được nhà chúa chọn là điểm giao thương duy nhất với thế giới khi đó nên nhiều thương gia nước ngoài hay gọi vùng đất này là "Quảng Nam Quốc". Biên niên sử thời Nguyễn đã chép về giai đoạn này như sau: "Chúa ở trấn hơn 10 năm, (chúa Tiên Nguyễn Hoàng) chính sự rộng rãi, quân lệnh nghiêm trang, nhân dân đều an cư lạc nghiệp, chợ không hai giá, không có trộm cướp. Thuyền buôn các nước đến nhiều. Trấn trở nên một đô hội lớn". Đến giữa thế kỷ 17, việc triều chính xứ Đàng Trong suy đồi. Thuế thì nặng; quan lại thì lợi dụng địa vị, sinh sự làm khổ dân. Trước hoàn cảnh đó, khi phong trào Tây Sơn bùng nổ, dân Quảng Nam cũng nổi dậy. Mùa thu năm 1773 khi quân Tây Sơn kéo ra Quảng Nam, dân Quảng Nam đã phối hợp cùng nghĩa quân phục kích ở Bến Đá (Thạch Tân, Thăng Hoa, Quảng Nam) đánh bại quân của chúa Nguyễn do các tướng Nguyễn Cửu Thống, Nguyễn Hữu Sách chỉ huy. Nhà Tây Sơn tuy vậy chỉ tồn tại trong thời gian ngắn ngủi. Thời nhà Nguyễn. Năm 1806 vua Gia Long thống nhất đất nước. Về hành chính, vua chia đất nước thành 23 trấn và 4 doanh thuộc đất kinh kỳ gồm Trực Lệ-Quảng Đức, Quảng Bình, Quảng Trị và Quảng Nam doanh. Năm 1831, vua Minh Mạng đổi trấn và doanh thành tỉnh. Quảng Nam chính thức trở thành tỉnh từ năm này. Tỉnh Quảng Nam được chia thành 2 phủ: Thăng Bình (升平) (trước là Thăng Hoa) (gồm các huyện Lễ Dương (醴陽) Tam Kỳ (三岐), Hà Đông (河東), Quế Sơn (桂山)) và Điện Bàn (奠磐) (gồm các huyện Hòa Vang (和榮), Duy Xuyên (濰川), Diên Phúc (延福) (sau đổi là Diên Phước), Đại Lộc (大祿)). Thời Pháp thuộc. Năm 1888, dưới triều vua Thành Thái, Đà Nẵng bị tách khỏi Quảng Nam để trở thành đất nhượng địa của thực dân Pháp. Thời Việt Nam Cộng Hòa.
Quảng Nam
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1328
Thời Việt Nam Cộng Hòa. Sau Hiệp định Genève, tỉnh Quảng Nam thời Việt Nam Cộng Hòa vào năm 1956 lại chia thành hai tỉnh mới lấy sông Rù Rì (tên gọi khác của sông Ly Ly) làm ranh giới là Quảng Nam ở phía Bắc gồm chín quận và Quảng Tín ở phía Nam gồm sáu quận. Chín (9) quận của Quảng Nam là: Tỉnh lỵ đóng tại Hội An thuộc quận Hiếu Nhơn (Hội An). Tỉnh Quảng Tín, từ sông Ly Ly vào đến Dốc Sỏi (ranh giới giữa Quảng Nam và Quảng Ngãi), gồm 6 quận: Dân số Quảng Tín lúc đó là 353.752 người; tỉnh lỵ đóng tại Tam Kỳ.  Sau năm 1975. Sau khi thống nhất đất nước, chính phủ Nhà Nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam quyết định sáp nhập 3 tỉnh: Quảng Nam, Quảng Tín và thành phố Đà Nẵng thành lập tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng (Quảng Đà) với Đà Nẵng là tỉnh lị. Sau khi thành lập tỉnh, có những thay đổi hành chính như sau: chuyển thị xã Đà Nẵng thành thành phố Đà Nẵng, hợp nhất thị xã Tam Kỳ và 2 huyện Bắc Tam Kỳ, Nam Tam Kỳ thành huyện Tam Kỳ. Đến năm 1980, tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng có thành phố Đà Nẵng (tỉnh lị), thị xã Hội An, 12 huyện: Đại Lộc, Điện Bàn, Duy Xuyên, Giằng, Hiên, Hòa Vang, Phước Sơn, Quế Sơn, Tam Kỳ, Thăng Bình, Tiên Phước, Trà My. Ngày 4 tháng 2 năm 1982, thành lập huyện đảo Hoàng Sa. Ngày 3 tháng 12 năm 1983, chia huyện Tam Kỳ thành thị xã Tam Kỳ và huyện Núi Thành. Ngày 31 tháng 12 năm 1985, thành lập huyện Hiệp Đức trên cơ sở tách 2 xã thuộc huyện Thăng Bình, 4 xã thuộc huyện Quế Sơn và 2 xã thuộc huyện Phước Sơn. Đến năm 1991, tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng gồm: thành phố Đà Nẵng (tỉnh lị), 2 thị xã: Tam Kỳ, Hội An và 14 huyện: Đại Lộc, Điện Bàn, Duy Xuyên, Giằng, Hiên, Hiệp Đức, Hòa Vang, Hoàng Sa, Núi Thành, Phước Sơn, Quế Sơn, Thăng Bình, Tiên Phước, Trà My. Năm 1997, theo Nghị quyết được ban hành tại kỳ họp thứ X của Quốc hội, tỉnh Quảng Đà được chia thành hai đơn vị hành chính độc lập gồm thành phố Đà Nẵng và tỉnh Quảng Nam.
Quảng Nam
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1328
Tỉnh Quảng Nam mới có 14 huyện gồm Đại Lộc, Điện Bàn, Duy Xuyên, Giằng, Hiên, Hiệp Đức, Núi Thành, Phước Sơn, Quế Sơn, Thăng Bình, Tiên Phước, Trà My và 2 thị xã: Tam Kỳ (tỉnh lị), Hội An. Ngày 16 tháng 8 năm 1999, huyện Giằng được đổi tên thành huyện Nam Giang. Ngày 20 tháng 6 năm 2003, chia huyện Trà My thành 2 huyện: Bắc Trà My và Nam Trà My; chia huyện Hiên thành 2 huyện: Đông Giang và Tây Giang. Ngày 5 tháng 1 năm 2005, chia thị xã Tam Kỳ thành thị xã Tam Kỳ và huyện Phú Ninh. Ngày 29 tháng 9 năm 2006, chuyển thị xã Tam Kỳ thành thành phố Tam Kỳ. Ngày 29 tháng 1 năm 2008, chuyển thị xã Hội An thành thành phố Hội An. Ngày 8 tháng 4 năm 2008, chia huyện Quế Sơn thành 2 huyện: Quế Sơn và Nông Sơn. Ngày 11 tháng 3 năm 2015, chuyển huyện Điện Bàn thành thị xã Điện Bàn. Tỉnh Quảng Nam có 2 thành phố, 1 thị xã và 15 huyện như ngày nay. Ngày 5 tháng 2 năm 2016, thành phố Tam Kỳ là thành phố tỉnh lị trực thuộc tỉnh Quảng Nam. Hành chính. Tỉnh Quảng Nam hiện có 18 đơn vị hành chính cấp huyện bao gồm 2 thành phố, 1 thị xã và 15 huyện, được chia thành 241 đơn vị hành chính cấp xã gồm: 30 phường, 14 thị trấn, 197 xã. Dân số. Tính đến ngày 1/4/2019, dân số Quảng Nam là 1.495.812 người, với mật độ dân số trung bình là 170 người/km², đây cũng là tỉnh đông dân thứ 3 vùng Duyên hải Nam Trung Bộ, 34,3% dân số sống ở đô thị và 65,7% dân số sống ở nông thôn. Dân cư phân bố trù mật ở dải đồng bằng ven biển, dọc quốc lộ 1A, đồng bằng Vu Gia Thu Bồn và Tam Kỳ. Mật độ dân số của Tam Kỳ, Hội An và Điện Bàn vượt quá 1.000 người/km². Trong khi rất thưa thớt ở các huyện miền núi phía Tây. Mật độ dân số trung bình của 6 huyện miền núi gồm Đông Giang, Tây Giang, Nam Giang, Phước Sơn, Bắc Trà My và Nam Trà My là dưới 30 người/km². Với 65,7% dân số sinh sống ở nông thôn, Quảng Nam có tỷ lệ dân số sinh sống ở nông thôn cao hơn tỷ lệ trung bình của cả nước.
Quảng Nam
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1328
Tuy nhiên quá trình đô thị hóa của tỉnh đang diễn ra mạnh mẽ sẽ tác động lớn đến sự phân bố dân cư nông thôn-thành thị trong thời gian tới. Theo cuộc tổng điều tra dân số ngày 1/4/2019, có 37 tộc người cùng sinh sống trên địa bàn Quảng Nam trong đó đông nhất là người Kinh (91,1%), người Cơ Tu (3,2%), người Xơ Đăng (2,7%), và người Gié Triêng (1,3%). 29 tộc người còn lại chỉ chiếm 0,9% dân số. Quảng Nam có lực lượng lao động dồi dào, với trên 887,000 người (chiếm 62% dân số toàn tỉnh), trong đó lao động ngành nông nghiệp chiếm 61,57%, ngành công nghiệp và xây dựng là 16,48% và ngành dịch vụ là 21,95%. Chất lượng nguồn lao động đang được cải thiện đáng kể. Tỷ lệ lao động được đào tạo nghề chiếm 30% tổng số lao động, trong đó nguồn nhân lực chất lượng cao là gần 18.000 người. Là một tỉnh với quy mô dân số trung bình, nhưng cơ cấu dân số trẻ và đa phần trong độ tuổi lao động sẽ đặt ra nhu cầu lớn về tiêu dùng và hưởng thụ văn hoá, nhất là các hoạt động văn hoá công cộng, các loại hình văn hoá, nghệ thuật mới, các hoạt động thể thao. Giai đoạn 2000-2010, dân số đô thị của tỉnh tăng chậm, từ 207.000 người (2000) lên hơn 260,000 người (2010). Việc hình thành các khu, cụm công nghiệp, khu kinh tế mở Chu Lai cùng với quá trình phát triển kinh tế nhằm đưa tỉnh trở thành tỉnh công nghiệp trước năm 2020 sẽ đẩy nhanh quá trình đô thị hóa. Quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa cùng với lực lượng lao động dồi dào sẽ làm tăng mức độ di động dân số trong nội tỉnh cũng như ngoại tỉnh. Quá trình di động dân số (nội tỉnh và ngoại tỉnh) sẽ làm tăng mức độ giao thoa văn hóa. Quá trình đô thị hóa và di động dân số trong những năm tới đặt ra những vấn đề cho phát triển sự nghiệp Văn hóa của tỉnh, như: xây dựng môi trường văn hóa ở các khu công nghiệp, khu dân cư; nhu cầu văn hóa ở các khu đô thị, cụm dân cư (các sản phẩm văn hóa, dịch vụ văn hóa...).
Quảng Nam
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1328
Tính đến ngày 1 tháng 4 năm 2019, toàn tỉnh có 11 tôn giáo khác nhau đạt 78,977 người, nhiều nhất là Công giáo có 37,526 người, tiếp theo là Phật giáo có 22,670 người, đạo Tin Lành có 11,730 người, đạo Cao Đài có 6,970 người. Còn lại các tôn giáo khác như Baha'i giáo có 36 người, Phật giáo Hòa Hảo có 17 người, Minh Sư đạo có 13 người, Bà La Môn có bảy người, Hồi giáo có năm người, Minh Lý đạo có hai người và 1 người theo Bửu Sơn Kỳ Hương. Kinh tế - xã hội. Tỉnh Quảng Nam phấn đấu trở thành tỉnh công nghiệp trước năm 2020. Năm 2018, Tỉnh có cơ cấu kinh tế: Công nghiệp và dịch vụ chiếm 88%, Nông-Lâm-Ngư Nghiệp 12%. Tỉnh có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, bình quân giai đoạn 2010-2015 là 16,3% (Năm 2015 là 11,53%). Quảng nam có 13 khu công nghiệp, kinh tế mở (Khu kinh tế mở Chu Lai). Do đó Quảng Nam hiện nay đang thiếu rất nhiều lao động-một nghịch lý khi tỷ lệ sinh viên không có việc làm trên cả nước rất lớn, Tổng sản phẩm nội địa 2010 khoảng hơn 23.000 tỷ đồng tăng lên hơn 89.900 tỷ đồng năm 2018.Thu ngân sách nhà nước tăng cao, năm 2018 thu ngân sách ướt đạt xấp xỉ 20.000 tỷ đồng (đứng 10/63 tỉnh thành, đứng thứ 2 các tỉnh miền trung từ Thanh Hóa đến Bình Thuận chỉ sau Thanh Hoá và Đà Nẵng. Năm 2018 chứng kiến nền kinh tế phát triển mạnh mẽ chỉ trong 9 tháng đầu năm thu ngân sách ướt đạt 16.300 tỷ đồng bằng 103,5% dự toán năm 2018 Dự kiến 2018 thu ngân sách khoảng xấp xỉ 26.000 tỷ đồng. Tuy nhiên thu ngân sách chủ yếu dựa vào khu phức hợp sản xuất và lắp ráp ô tô Trường Hải. Xuất khẩu 2018 ướt đạt trên 700 triệu USD. Tỉnh có cảng Kỳ Hà, Sân bay quốc tế Chu Lai. Phấn đấu đến năm 2020 GDP bình quân đầu người từ 3.400-3.600 USD (75-80 triệu đồng). Năm 2018 tỉnh này đón gần 5,4 triệu lượt khách du lịch (xếp thứ 2 miền trung sau Tp. Đà Nẵng với gần 6,1 triệu lượt). Năm 2019, tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt 3,81%.
Quảng Nam
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1328
Cơ cấu kinh tế bao gồm: Năm 2019, Quảng Nam là đơn vị hành chính Việt Nam đông thứ 19 về số dân, xếp thứ 17 về Tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP), xếp thứ 17 về GRDP bình quân đầu người, đứng thứ 27 về tốc độ tăng trưởng GRDP. Với 1,495,812 người, GRDP đạt 91.677 tỉ Đồng (tương ứng với 3,9816 tỉ USD), GRDP bình quân đầu người đạt 61,07 triệu đồng (tương ứng với 2.632 USD), tốc độ tăng trưởng GRDP đạt 8,11%. Tiềm năng phát triển thủy điện. Quảng Nam có hệ thống sông suối dày đặc với tiềm năng thủy điện lớn. Hệ thống sông Vu Gia - Thu Bồn với phần lớn lưu vực nằm trong địa giới tỉnh được đánh giá là có tiềm năng thủy điện lớn thứ tư cả nước đang được đầu tư khai thác. Hiện nay tỉnh có các nhà máy thủy điện đã và đang xây dựng như NMTĐ A Vương (210 MW - Tây Giang), Sông Bung 2 (100 MW), Sông Bung 4 (220 MW), Sông Giằng (60 MW), Đak Mi 1(255 MW), Đak Mi 4(210 MW), Sông Kôn 2 (60 MW), Sông Tranh 2 (135 MW)... Đa phần các nhà máy thủy điện nằm trên lưu vực sông Vu Gia nơi có địa hình dốc và tiềm năng thủy điện lớn. Việc xây dựng các công trình thủy điện thượng lưu Vu Gia - Thu Bồn ảnh hưởng lớn đến dòng chảy hạ lưu. Việc thủy điện Đăk Mi 4 chuyển nước từ Vu Gia sang Thu Bồn làm suy giảm đáng kể dòng chảy hạ lưu Vu Gia. Vào mùa kiệt từ tháng 2 đến tháng 8, vùng ven sông Vu Gia thường đối mặt với thiếu nước cho sinh hoạt và trồng trọt. dòng chảy bị suy giảm là nguyên nhân chính làm cho mặn xâm nhập sâu vào hạ lưu Vu Gia, Thu Bồn và Vĩnh Điện. Nạn lũ. Năm 2016. Hai đợt mưa lũ (kéo dài từ ngày 28-11 đến 17-12) đưa tới cái chết của 7 người, làm 33 người bị thương. Về nông nghiệp có 3.696 ha hoa màu, 823 ha lúa bị thiệt hại. Có gần 7.000 con gia súc, gia cầm bị chết trong lũ. Về giao thông các tuyến quốc lộ bị sạt lở với tổng khối lượng sạt lở, bồi lấp khoảng 180.000m3. Ước thiệt hại khoảng 473 tỉ đồng. Giao thông.
Quảng Nam
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1328
Giao thông. Quảng Nam có hệ thống giao thông khá phát triển với nhiều loại hình như đường bộ, đường sắt, đường sông, sân bay và cảng biển. Quảng Nam có tuyến Quốc lộ 1A đi qua. Đường bộ. Hệ thống đường quốc lộ và tỉnh lộ trên địa bàn tỉnh được xây dựng theo hướng Bắc - Nam và Đông - Tây. Quốc lộ 1A đi qua địa phận các huyện, thị xã và thành phố: Núi Thành, Tam Kỳ, Phú Ninh, Thăng Bình, Quế Sơn, Duy Xuyên và Điện Bàn. Quốc lộ 14 đi qua địa phận các huyện: Phước Sơn, Nam Giang, Đông Giang và Tây Giang. Quốc lộ 14B đi qua địa phận các huyện Đại Lộc và Nam Giang. Quốc lộ 14E đi qua địa phận các huyện: Thăng Bình, Hiệp Đức và Phước Sơn. Ngoài ra tỉnh còn có 1 hệ thống đường bộ gồm các tỉnh lộ như 604, 607, 609, 610, 611, 614, 615, 616, 617, 618 (mới và cũ), 620 và nhiều hương lộ, xã lộ... Tổng chiều dài 85 km, tiêu chuẩn đường cấp III đồng bằng với bề rộng nền đường 12 m, mặt đường 11 m kết cấu mặt bê tông nhựa. Tổng chiều dài toàn tuyến 190 km tiêu chuẩn đường cấp IV miền núi với bề rộng nền đường 7,5 m, mặt đường 5,5 m kết cấu bê tông nhựa. Đoạn qua thị trấn, thị tứ có mặt cắt 22,5 m. Tổng chiều dài toàn tuyến 42 km tiêu chuẩn cấp IV với bề rộng nền đường 9 m, mặt đường 8 m kết cấu mặt bê tông nhựa. Tổng chiều dài toàn tuyến 74,4 km tiêu chuẩn đường cấp V với bề rộng nền đường 6,5 m, mặt đường 3,5 m kết cấu mặt đá dăm láng nhựa. Tổng chiều dài toàn tuyến 78,4 km, đoạn km 0 - km 23 tiêu chuẩn đường cấp V nền đường 6,5 m, mặt 3,5 m kết cấu bê tông nhựa; đoạn km 23 - km 78,4 tiêu chuẩn đường cấp IV đồng bằng nền 9 m, mặt 6 m kết cấu bê tông nhựa. Đường sắt. Trục đường sắt Việt Nam đi qua tỉnh này: Đường hàng không. Năm 1965, người Mỹ xây dựng sân bay Chu Lai, nhằm mục đích phục vụ các hoạt động quân sự ở miền Trung và Tây Nguyên.
Quảng Nam
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1328
40 năm sau, ngày 02 tháng 3 năm 2005, sân bay Chu Lai đón chuyến bay thương mại đầu tiên từ Thành phố Hồ Chí Minh, đánh dấu một sự kiện lịch sử của tỉnh. Năm 2010, Vietnam Airlines có tuyến bay Chu Lai - Hà Nội. Việc sân bay Chu Lai vào hoạt động thương mại sẽ thúc đẩy mạnh mẽ sự phát triển không chỉ của Quảng Nam (với khu công nghiệp Chu Lai) mà còn của tỉnh Quảng Ngãi (với khu công nghiệp Dung Quất). Xa hơn nữa, sân bay Chu Lai sẽ được phát triển thành sân bay quốc tế phục vụ cho việc trung chuyển hành khách và hàng hóa trong khu vực. Ngoài ra, việc đưa sân bay Chu Lai vào hoạt động sẽ giúp cho du khách đến với hai di sản văn hóa thế giới Hội An và Mỹ Sơn dễ dàng hơn. Đường sông. Quảng Nam có 941 km sông ngòi tự nhiên, đang quản lý và khai thác 307 km sông (chiếm 32,62%), gồm 11 sông chính. Hệ thống sông hoạt động chính gồm 2 hệ thống: sông Thu Bồn và sông Trường Giang, hai hệ thống sông này đều đổ ra biển Đông theo 3 cửa sông: sông Hàn, Cửa Đại và Kỳ Hà - Sông Trung ương quản lý: dài 132 km, gồm: Đoạn 1 sông Thu Bồn, sông Trường Giang. - Toàn bộ đường sông đang khai thác vận tải thủy của tỉnh Quảng Nam dài 207 km, gồm 11 tuyến: Sông Thu Bồn, sông Trường Giang, sông Vu Gia, sông Yên, sông Vĩnh Điện, sông Hội An, sông Cổ Cò, sông Duy Vinh, sông Bà Rén, sông Tam Kỳ và sông An Tân. Sông Thu Bồn: dài 95 km gồm Đoạn:Đoạn 1 dài 65 km, điểm đầu là Nông Sơn, điểm cuối là Cửa Đại, do Trung ương quản lý. Đoạn 2: dài 30 km, điểm đầu là ngã ba sông Tranh, điểm cuối là Nông Sơn, do địa phương quản lý. Sông Trường Giang: Dài 67 km, điểm đầu là ngã ba An Lạc và điểm cuối là Kỳ Hà, do Trung ương quản lý. Trong đó có 16 km thuộc sông cấp V, 51 km là sông cấp VI. Tuyến sông chạy dọc theo bờ biển phía Đông tỉnh Quảng Nam, nối liền với thị xã Hội An, Tam Kỳ và các huyện Duy Xuyên, Thăng Bình, Núi Thành. Là tuyến sông có luồng lạch không ổn định do lòng sông bị bồi cạn, nguyên nhân do việc hình thành đập Cổ Linh làm ảnh hưởng đến chế độ thủy triều từ Cửa Đại tới cửa Kỳ Hà.
Quảng Nam
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1328
Hiện tại trên tuyến có nhiều chướng ngại vật và nhiều bãi cạn do các công trình vượt sông như cầu, đập thủy lợi, đường điện... không đảm bảo các thông số kỹ thuật. Sông Vu Gia: Dài 52 km, điểm đầu là ngã ba Quảng Huế, điểm cuối là bến Giằng, do địa phương quản lý. Là hợp lưu của sông Thu Bồn đạt tiêu chuẩn sông cấp VI, tuyến sông này chạy trên địa bàn huyện Nam Giang và huyện Đại Lộc. Đây là tuyến sông có vai trò quan trọng trong vận tải hàng hoá và hành khách đường sông của tỉnh Quảng Nam. Trên tuyến sông, vào mùa nước trung thì tàu thuyền có thể khai thác thuận lợi, sang mùa cạn chỉ khai thác được đến ngã ba Thượng Đức với chiều dài 23 km. Tuyến sông Vu Gia được chia thành 4 đoạn: Sông Yên: Dài 12 km, có điểm đầu là ngã ba Quảng Huế và điểm cuối là ranh giới thành phố Đà Nẵng, do địa phương quản lý. Tuyến sông trên địa bàn tỉnh Quảng Nam có dòng sông hẹp, nhiều đoạn cạn và có đập Pa Ra An Trạch chắn ngang. Đoạn từ ngã ba sông Yên đến Đại Hiệp đạt tiêu chuẩn VI. Sông Vĩnh Điện: Dài 12 km, điểm đầu tại km 43 + 500 sông Thu Bồn và điểm cuối là cầu Tứ Câu, do địa phương quản lý. Là sông cấp V, chảy qua 5 xã và 1 thị trấn thuộc huyện Điện Bàn. Đoạn sông này hẹp, có dòng chảy ổn định, thuận lợi cho việc khai thác vận tải thủy. Sông Vĩnh Điện nối giữa sông Thu Bồn và sông Hàn tạo thành tuyến vận tải thủy giữa thị xã Hội An, Vĩnh Điện và Đà Nẵng. Sông Hội An (sông Hoài): Dài 11 km, điểm đầu là ngã ba sông Thu Bồn tại km 54 + 400 và điểm cuối là km 63 + 00 sông Thu Bồn, do địa phương quản lý. Nằm trên địa phận thị xã Hội An, lòng sông có độ sâu ổn định thuận tiện cho các loại phương tiện hoạt động. Đạt tiêu chuẩn kỹ thuật sông cấp III. Sông Cổ Cò (sông Đế Võng): Dài 27,5 km có điểm đầu tại cửa Đại và điểm cuối nối vào sông Hàn thành phố Đà Nẵng do địa phương quản lý, tuyến chạy dọc bờ biển phía Bắc của tỉnh Quảng Nam bắt đầu từ ngã ba sông Hàn đến cửa Đại, được phân làm hai nhánh.
Quảng Nam
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1328
Sông Duy Vinh: Dài 12 km, điểm đầu tại km 50 + 800 sông Thu Bồn và điểm cuối là km 5 + 700 sông Trường Giang, do địa phương quản lý. Là sông cấp V chiều rộng bình quân 100 m, độ sâu 1 - 1,5 m. Về mùa kiệt độ sâu chạy tàu chỉ đạt 1 m. Trên tuyến có 2 bãi cạn và 2 cầu, đặc biệt cầu máng Duy Vinh có tĩnh không thông thuyền thấp hơn 2 m. Sông Bà Rén: Dài 32 km, điểm đầu tại km 5 + 700 sông Trường Giang và điểm cuối là ngã ba Vạn Lý (phân lưu của sông Thu Bồn).. Sông Tam Kỳ: Dài 16 km, điểm đầu tại km 58 + 200 sông Trường Giang và điểm cuối là đập phía trên cầu đường sắt Tam Kỳ, do địa phương quản lý, tuyến sông đạt cấp VI, bắt đầu từ hồ Phú Ninh đổ về sông Trường Giang (xã Tam Tiến - huyện Núi Thành). Sông An Tân: Dài 7,5 km, điểm đầu tại ngã ba sông Trường Giang và điểm cuối là cầu Tam Mỹ, đây là tuyến sông đang khai thác ở dạng tự nhiên với chiều dài 7,0 km (từ ngã ba Trường Giang đến cầu đường sắt An Tân), dòng sông chảy uốn khúc, có nhiều chi lưu tạo thành những bãi cạn, độ sâu trung bình của sông -0,8 đến -1,0m. Đặc sản ẩm thực.
Quảng Nam
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1328
Đặc sản ẩm thực. Quảng Nam là tỉnh có rất nhiều đặc sản, ẩm thực địa phương như: hải sản, mì Quảng, cao lầu Hội An, bê thui Cầu Mống, quế Trà My, bánh tổ Hội An, cá chuồn Núi Thành, sâm ngọc linh Nam Trà My, bánh nậm, đường bát Quảng Nam, gỏi bòn bon Tiên Phước, rượu Hồng Đào, bánh tráng Đại Lộc, măng rừng, cơm lam Tây Bắc, củ nén, bánh bèo, ớt a riêu Đông Giang, rượu cần Tây Nguyên, cơm gà Tam Kỳ, xí mà Hội An, bánh thuẫn, bưởi trụ lông Đại Bình, rau rừng, ba kích tím, bánh khô mè, tam hữu Trà Quế, khoai lang xứ Quảng, gà tre Đèo Le, chè dây ra den Đông Giang, mía Điện Bàn, côn trùng Tây Bắc, nộm dưa chuối chát, rau sen nấu hến Nông Sơn, bánh tráng cuốn thịt heo, hạt tiêu Tiên Phước, bánh bao - bánh vạc, mít hông Tam Kỳ, bánh đậu xanh mặn, rau xương rồng, chè Hội An, bánh sừng trâu Cơ Tu, món hến, bánh tráng nhúng đường, dưa kiệu Thăng Bình, ốc đá sông Tiên, kẹo đậu phộng (bánh cu đơ), cam Tây Giang, bánh mì Hội An, zơ rá Cơ Tu, bánh xèo, nước mắm Tam Thanh, mật ong rừng, bánh tráng Phú Triêm, xôi đường, chuối mốc Tiên Phước, bánh đập Hội An, măng núi trộn, mực cơm bãi Ngang, dứa Đại Lộc, rượu tr'đin Tây Giang, cháo lươn xanh, bánh bột lọc, nhộng ong miền Tây, cá niên, táo mèo Nam Trà My, hoành thánh Hội An, phở sắn Đông Phú, rượu tà vạt, ram tôm, nếp đắng Lộc Đại, nước mắm Cửa Khe, nấm lim xanh, yến sào Cù Lao Chàm.
Giang Trạch Dân
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1330
Giang Trạch Dân (chữ Anh: Jiang Zemin, chữ Trung phồn thể: 江澤民, chữ Trung giản thể: 江泽民, bính âm: Jiāng Zémín; 17 tháng 8 năm 1926 – 30 tháng 11 năm 2022), quê quán sinh trưởng tổ tiên của ông ở trấn Giang Loan, huyện Vụ Nguyên, tỉnh Giang Tây, nhưng ông ra đời ở thành phố cấp quận Dương Châu, tỉnh Giang Tô, Trung Quốc đại lục. Tháng 4 năm 1946, Giang Trạch Dân gia nhập Đảng Cộng sản Trung Quốc, tháng 6 năm 1989 ông trở thành hạt nhân lãnh đạo (leadership core) của tập thể lãnh đạo Trung ương đời thứ 3. Tháng 6 năm 1989 đến tháng 11 năm 2002 Giang đảm nhiệm Tổng thư kí Uỷ viên hội Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc; tháng 11 năm 1989 đến tháng 9 năm 2004 đảm nhiệm Chủ tịch Quân uỷ Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc . Tháng 3 năm 1990 đến tháng 3 năm 2005 đảm nhiệm Chủ tịch Quân uỷ Trung ương nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa; tháng 3 năm 1993 đến tháng 3 năm 2003 đảm nhiệm Chủ tịch nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa. Giang Trạch Dân lên nắm quyền lãnh đạo sau sự kiện những cuộc phản kháng trên Quảng trường Thiên An Môn năm 1989, thay thế Triệu Tử Dương, người bị thanh trừng vì quá khoan dung với những người phản kháng, với chức vụ Tổng bí thư. Với ảnh hưởng ngày càng suy giảm của Đặng Tiểu Bình vì tuổi tác, Giang Trạch Dân đã thực sự trở thành "lãnh đạo tối cao" trong thập niên 1990. Dưới sự lãnh đạo của ông, Trung Quốc đã trải qua một giai đoạn phát triển bền vững với các cải cách, thu hồi một cách hoà bình Hồng Kông từ Anh Quốc và Ma Cao từ Bồ Đào Nha, và cải thiện các quan hệ với thế giới bên ngoài trong khi Đảng Cộng sản vẫn duy trì được sự kiểm soát chặt chẽ với chính phủ. Được biết đến là một trong những khuôn mặt chính trị lôi cuốn của Trung Quốc, Giang Trạch Dân bị chỉ trích vì quá cẩn thận với hình ảnh đời sống cá nhân, và quá nhún nhường trước Nga và Hoa Kỳ. Những lời chỉ trích cũng tập trung vào sự bất lực của Giang Trạch Dân trong việc duy trì kiểm soát trên nhiều vấn đề và sự bất công xã hội trong nhiệm kỳ của ông.
Giang Trạch Dân
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1330
Các thành viên Đảng Cộng sản Trung Quốc theo đường lối cứng rắn buộc tội Giang Trạch Dân là một lãnh đạo quá thiên cải cách, người đã hợp pháp hoá hoàn toàn cho chủ nghĩa tư bản. Đóng góp của ông vào học thuyết Marx, một danh sách các lý luận mang tính chỉ đạo theo đó Đảng Cộng sản Trung Quốc lãnh đạo nhà nước, được gọi là lý thuyết Thuyết Ba Đại Diện, đã được đưa vào điều lệ đảng và hiến pháp nhà nước. Tiểu sử và sự thăng tiến. Dòng họ ông, một khái niệm quan trọng trong xã hội truyền thống Trung Quốc, nằm tại thôn Giang (江村), huyện Tinh Đức (旌德县) Huy Châu (徽州) cũ, phía nam tỉnh An Huy, đây cũng là quê hương của một số học giả và trí thức nổi tiếng Trung Quốc. Giang Trạch Dân lớn lên trong những năm chiếm đóng của Nhật Bản. Chú ông, Giang Thế Hầu, một cán bộ của Đảng Cộng sản Trung Quốc hy sinh trong khi chiến đấu với quân Nhật, và được coi là một người tử vì đạo. Giang Trạch Dân vào Đại học Trung ương Quốc gia (国立中央大学) tại vùng Nam Kinh dưới sự chiếm đóng của quân Nhật trước khi chuyển sang Đại học Giao thông Thượng Hải. Ông tốt nghiệp năm 1947 với tấm bằng kỹ sư điện. Ông gia nhập Đảng Cộng sản Trung Quốc khi còn đang là sinh viên. Sau khi nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa được thành lập, Giang Trạch Dân được đi học tại Nhà máy Ô tô Stalin ở Moskva trong thập niên 1950. Ông làm việc tại Xưởng ô tô thứ nhất tại Trường Xuân. Cuối cùng ông chuyển sang làm các công việc quản lý của chính phủ và bắt đầu thăng tiến, trở thành một thành viên Uỷ ban Trung ương Đảng Cộng sản, Bộ trưởng Công nghiệp Điện năm 1983. Năm 1985 ông trở thành Chủ tịch thành phố Thượng Hải, và sau đó là Bí thư thành uỷ Thượng Hải. Khi còn là chủ tịch thành phố Giang Trạch Dân nhận được nhiều lời khen chê khác nhau. Nhiều lời chỉ trích cho rằng ông là một "bình hoa", một thuật ngữ Trung Quốc được dùng để miêu tả người chỉ có chức vụ nhưng vô tích sự. Nhiều người cho rằng sự phát triển của Thượng Hải trong thời gian này là công của Chu Dung Cơ . Giang Trạch Dân là người tuyệt đối trung thành với Đảng, trong giai đoạn này, giữa các cuộc cải cách kinh tế của Đặng Tiểu Bình.
Giang Trạch Dân
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1330
Trong một nỗ lực nhằm kiềm chế những sinh viên bất bình năm 1986, Giang Trạch Dân đã viện dẫn Bài diễn văn Gettysburg bằng tiếng Anh trước một nhóm sinh viên phản kháng. Giang Trạch Dân được miêu tả là người có khả năng nói tạm đủ nhiều ngoại ngữ, gồm tiếng Rumani, tiếng Nga, và tiếng Anh. Một trong những sở thích của ông là tiếp đón các vị khách nước ngoài với những cuộc nói chuyện nhỏ về văn học và nghệ thuật bằng ngôn ngữ của họ, ngoài ra còn hát những bài hát ngoại quốc bằng nguyên ngữ. Ông trở nên thân thiết với Allen Broussard, vị thẩm phán người Mỹ gốc Phi tới thăm Thượng Hải năm 1987. Giang bắt đầu thăng tiến trong hệ thống chính trị quốc gia năm 1987, tự động trở thành một thành viên Bộ chính trị Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc vì theo truyền thống vị Bí thư thành uỷ Thượng Hải đương nhiên có chân trong Bộ chính trị. Năm 1989, Trung Quốc đối mặt với cuộc khủng hoảng vì những cuộc phản kháng trên Quảng trường Thiên An Môn, và Chính phủ Trung ương đang bối rối trước việc giải quyết cuộc khủng hoảng đó. (Chính sách mở cửa, do Đặng Tiểu Bình đưa ra, đã chứng tỏ là một điểm quan trọng và khôn ngoan trong lịch sử hiện đại Trung Quốc, giúp kinh tế phát triển ở mức độ đáng kinh ngạc trong nhiều thập kỷ.) Tháng 6, Đặng Tiểu Bình bãi chức nhân vật theo đường lối tự do Triệu Tử Dương, người bị cho là có đường lối quá ôn hoà trước các sinh viên phản kháng. Ở thời điểm đó, Giang Trạch Dân là Bí thư thành uỷ Thượng Hải, khu vực hàng đầu của trung tâm kinh tế mới Trung Quốc. Trong một vụ việc với "World Economic Herald", Giang Trạch Dân đã cho đóng cửa tờ báo này, lên án nó gây nguy hại. Việc xử lý vụ khủng hoảng ở Thượng Hải đã được Bắc Kinh chú ý, và vị lãnh đạo tối cao khi ấy là Đặng Tiểu Bình. Khi các cuộc phản kháng leo thang và vị Tổng thư ký Đảng cộng sản khi ấy là Triệu Tử Dương bị cách chức, Giang Trạch Dân được giới lãnh đạo Đảng chọn làm ứng cử viên thay cho Lý Thụy Hoàn ở Thiên Tân, Thủ tướng Lý Bằng, Trần Vân, và những vị lãnh đạo già cả khác để trở thành Tổng bí thư.
Giang Trạch Dân
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1330
Ở thời điểm đó ông bị coi là ứng cử viên không thích hợp. Trong vòng ba năm, Đặng Tiểu Bình đã chuyển hầu hết quyền lực trong Đảng, Nhà nước và quân đội vào tay Giang Trạch Dân. Những năm đầu nắm quyền. Giang Trạch Dân leo lên chức vụ cao nhất nước năm 1989 với một căn cứ quyền lực hậu thuẫn khá nhỏ trong Đảng, và vì thế, có ít quyền hành thực sự. Ông chỉ đơn giản được cho là một nhân vật chuyển tiếp tạm thời trước khi một chính phủ kế tục và ổn định hơn của Đặng Tiểu Bình xuất hiện. Các nhân vật nổi bật khác trong Đảng và Quân đội như Dương Thượng Côn và người em trai cùng cha khác mẹ Dương Bạch Băng được cho là đang lên kế hoạch một cuộc đảo chính. Giang Trạch Dân đã dùng Đặng Tiểu Bình làm hậu thuẫn cho mình trong những năm đầu cầm quyền. Vốn được coi là người có quan điểm tân bảo thủ, Giang Trạch Dân đã cảnh báo chống lại "tự do hoá tư sản". Tuy nhiên, Đặng Tiểu Bình cho rằng phương pháp duy nhất để Đảng Cộng sản tiếp tục nắm quyền cai trị trên toàn Trung Quốc là tiếp tục con đường cải cách kinh tế và hiện đại hoá, và vì thế có quan điểm trái ngược Giang Trạch Dân. Đặng Tiểu Bình đã làm gia tăng lời chỉ trích sự lãnh đạo của Giang Trạch Dân năm 1992. Trong chuyến đi thăm phương nam, ông đã khôn khéo gợi ý rằng tốc độ cải cách còn chưa đủ nhanh, và giới "lãnh đạo trung ương" (như Giang Trạch Dân) phải chịu trách nhiệm chính. Giang Trạch Dân trở nên cẩn thận hơn và hoàn toàn tuân thủ các cải cách của Đặng Tiểu Bình. Năm 1993, Giang Trạch Dân đưa ra thuật ngữ mới "Kinh tế Thị trường Xã hội chủ nghĩa", một tuyên bố bề ngoài có vẻ nghịch lý, để chuyển nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung của Trung Quốc sang một nền kinh tế thị trường tư bản có sự quản lý của nhà nước. Đây là một bước tiến vĩ đại của chủ trương "Chủ nghĩa xã hội mang màu sắc Trung Quốc" của Đặng Tiểu Bình. Cùng lúc ấy, sau khi đã lấy được lòng tin của Đặng Tiểu Bình, Giang Trạch Dân bổ nhiệm nhiều người thân tín ở Thượng Hải vào các chức vụ trong chính phủ.
Giang Trạch Dân
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1330
Ông xoá bỏ Uỷ ban Cố vấn Trung ương, một cơ quan cố vấn gồm các vị lãnh đạo cách mạng già cả nhằm tập trung quyền lực. Giang Trạch Dân nắm chức Chủ tịch Quân uỷ Trung ương năm 1989, sau khi đã được bầu làm Chủ tịch nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa tháng 3 năm 1993. Chức Chủ tịch nước. Đặng Tiểu Bình mất. Đặng Tiểu Bình mất đầu năm 1997, và Trung Quốc, dần phát triển từ các cuộc cải cách từ thời Đặng Tiểu Bình với sự ổn định khá vững chắc trong thập niên 1990, phải đối mặt với các vấn đề kinh tế và xã hội. Tại lễ tang Đặng Tiểu Bình, Giang Trạch Dân đọc bài ca ngợi chính thức, với cả những giọt nước mắt mà nhiều người Trung Quốc coi là giả dối. Giang Trạch Dân đã thừa hưởng một đất nước Trung Quốc với tình trạng tham nhũng nặng nề, các nền kinh tế địa phương phát triển quá nhanh cho sự ổn định của toàn thể đất nước. Ý tưởng của Đặng rằng "một số vùng có thể trở nên giàu có trước các vùng khác" đã khiến hố sâu ngăn cách giàu nghèo giữa các vùng ven biển và vùng nội địa càng rộng. Sự phát triển kinh tế thần kỳ đương nhiên dẫn tới tình trạng nhiều doanh nghiệp nhà nước (SOE) phải bị đóng cửa, tỷ lệ thất nghiệp lên tới 40% tại một số vùng thành thị. Các thị trường chứng khoán lên xuống bất thường. Tỷ lệ di cư từ nông thôn tới các vùng thành thị lớn chưa từng thấy và chính phủ không làm được gì nhiều để giảm hố sâu ngăn cách về kinh tế giữa thành thị và nông thôn. Các báo cáo chính thức về phần trăm GDP của Trung Quốc bị mất đi do các quan chức tham nhũng lên tới 10%. Một môi trường hỗn loạn các phiếu nợ bất hợp pháp do các quan chức dân sự và quân sự phát hành đã khiến đa số các tài sản bị tham nhũng được chuyển ra nước ngoài. Mức độ tham nhũng đã quay trở lại, nếu không nói là vượt quá so với tình trạng thời kỳ Quốc dân Đảng cầm quyền hồi thập niên 1940. Tỷ lệ tội phạm tăng vọt và sự tái xuất hiện của tội phạm có tổ chức bắt đầu trở thành tai hoạ tại các thành phố. Tình trạng phá hoại môi trường tự do càng khiến giới trí thức lo ngại và lên tiếng cảnh báo.
Giang Trạch Dân
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1330
Mục tiêu lớn nhất của Giang Trạch Dân trong điều hành kinh tế là sự ổn định, và ông tin rằng một chính phủ ổn định với quyền lực tập trung trung ương cao độ là điều kiện tiên quyết, chấp nhận trì hoãn cải cách chính trị, vốn là nguyên nhân gây ra rất nhiều vấn đề. Giang Trạch Dân tiếp tục rót vốn để phát triển các Vùng Kinh tế Đặc biệt và các vùng ven biển. Giang Trạch Dân được cho là vị lãnh đạo Trung Quốc đầu tiên thực sự biết sử dụng truyền hình để tăng cường hình ảnh cá nhân, giành được tiếng là người có sức lôi cuốn, dù không phải tuyệt đối. Bắt đầu từ năm 1996, Giang đưa ra một loạt các biện pháp cải cách với giới truyền thông đang thuộc quyền quản lý của nhà nước, với mục đích tăng cường "hạt nhân lãnh đạo" dưới quyền mình, và cùng lúc ấy đàn áp một số đối thủ chính trị. Việc tăng cường hình ảnh cá nhân trên các phương tiện truyền thông không được tán thành ở thời Đặng Tiểu Bình, và cũng không hề có ở thời Mao Trạch Đông và Hoa Quốc Phong hồi cuối thập niên 1970. Trên tờ Nhân dân Nhật Báo và bản tin lúc 7 giờ sáng của CCTV-1 đều có các sự kiện liên quan tới Giang, việc này kéo dài cho tới khi Hồ Cẩm Đào đưa ra những thay đổi trong quản lý truyền thông năm 2006. Ông xuất hiện bất ngờ trước truyền thông phương Tây và có một cuộc phỏng vấn chưa từng có tiền lệ với nhà báo Mike Wallace của kênh CBS năm 2000 tại Bắc Đới Hà. Giang Trạch Dân thường sử dụng tiếng nước ngoài trước các ống kính truyền thông phương tây, dù không phải lúc nào cũng trôi chảy. Trong một cuộc gặp với một phóng viên Hồng Kông năm 2000 về hành động rõ ràng kiểu "mệnh lệnh triều đình" của chính phủ trong việc ủng hộ Đổng Kiến Hoa tranh cử chức Chủ tịch Hành pháp Hồng Kông, Giang Trạch Dân đã gọi các nhà báo Hồng Kông một cách bất lịch sự là "too simple, sometimes naive" (quá đơn giản, thỉnh thoảng ngờ nghệch) bằng tiếng Anh. Sự kiện này đã được phát trên truyền hình Hồng Kông buổi tối hôm đó, và bị coi là một scandal ở bên ngoài Trung Quốc.
Giang Trạch Dân
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1330
Từ năm 1999, truyền thông cũng đóng một vai trò trung gian trong việc dẹp loạn Pháp Luân Công, được cho là một hành động dưới sự chỉ đạo trực tiếp của chính Giang, và bị chỉ trích mạnh mẽ ở phương Tây. Giang Trạch Dân được cho là đã xung đột với vị Thủ tướng khi ấy là Chu Dung Cơ về việc xử lý phong trào tinh thần phát triển nhanh chóng này. Giang cũng cho bắt giữ những người điều phối và dẹp tan các vụ biểu tình, dù có nhiều hành động phản kháng từ các nhóm nhân quyền. Ông cũng là bị đơn của nhiều cuộc kiện tụng liên quan tới vấn đề này. Chính sách đối ngoại. Giang Trạch Dân cũng đã bị chỉ trích bên trong Trung Quốc vì quá khoan nhượng với Hoa Kỳ và Nga. Ông đã tiến hành một chuyến Viếng thăm cấp nhà nước bất ngờ tới Hoa Kỳ năm 1997, có nhiều người đã phản đối từ Phong trào Độc lập Tây Tạng cho tới những người thực hành Pháp Luân Công. Giang Trạch Dân đã đọc một bài diễn văn tại Đại học Harvard, một phần bằng tiếng Anh, nhưng vẫn không tránh khỏi các câu hỏi về dân chủ và tự do. Trong cuộc gặp thượng đỉnh chính thức với Tổng thống Hoa Kỳ Bill Clinton, giọng điệu ngoại giao đã mềm mỏng hơn khi Giang Trạch Dân và Clinton cùng đề cập tới những lập trường chung và tránh đi các bất đồng. Clinton tới thăm Trung Quốc tháng 2 năm 1999, và nói rằng Trung Quốc cùng Hoa Kỳ là đối tác chứ không phải hai đối thủ. Khi khối NATO do Hoa Kỳ đứng đầu ném bom đại sứ quán Trung Quốc tại Belgrade năm 1999, Giang Trạch Dân dường như đã chuẩn bị một lập trường cứng rắn để thể hiện trong nước nhưng trên thực tế ông chỉ đưa ra những hành động phản kháng mang tính biểu tượng. Một hành động tương tự diễn ra khi một chiếc máy bay do thám của Mỹ va chạm với một chiếc máy bay phản lực Trung Quốc, khiến viên phi công Trung Quốc thiệt mạng. Giang Trạch Dân đã cho phép phi hành đoàn chiếc máy bay Mỹ ở tại một khách sạn sang trọng tại Hải Nam, và thả họ ba ngày sau đó mà không yêu cầu bất kỳ khoản bồi thường thiệt hại nào. Đa phần chính sách đối ngoại của Giang Trạch Dân chú trọng tới thương mại quốc tế chứ không phải hội nhập kinh tế.
Giang Trạch Dân
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1330
Là một người bạn của cựu Thủ tướng Canada Jean Chretien Giang Trạch Dân đã tăng cường vị thế kinh tế của Trung Quốc ở nước ngoài, tìm cách thiết lập quan hệ thân thiện với các quốc gia có nền thương mại tiếp giáp với nền kinh tế Mỹ. Phát triển kinh tế. Giang Trạch Dân không có chuyên môn về kinh tế, và vào năm 1997 đã giao nhiệm vụ điều hành kinh tế đất nước cho Chu Dung Cơ, người đã trở thành Thủ tướng, và tiếp tục giữ chức này trong suốt cuộc Khủng hoảng Tài chính châu Á. Dưới sự lãnh đạo chung của họ, Lục địa Trung Quốc đã duy trì được mức tăng trường GDP 8% mỗi năm, đạt được mức tăng trưởng kinh tế trên đầu người cao nhất so với các nền kinh tế lớn trên thế giới, khiến thế giới phải kinh ngạc về tốc độ tăng trưởng này. Điều này có được chủ yếu nhờ sự tiếp nỗi quá trình chuyển tiếp sang một nền kinh tế thị trường. Tuy nhiên, các nhà kinh tế, buộc tội Giang đã tạo ra một nền kinh tế bong bóng có thể bùng nổ bất kỳ lúc nào. Tuy nhiên, việc kiểm soát chặt chẽ kinh tế của chính phủ vẫn tiếp diễn, khi Giang Trạch Dân không ngừng tập trung quyền lực. Thành quả trong thời kỳ cầm quyền của Giang càng tăng với việc Trung Quốc gia nhập thành công vào Tổ chức Thương mại Thế giới và Bắc Kinh giành quyền đăng cai Olympics Mùa hè năm 2008. Thuyết Ba Đại Diện. Nội dung Thuyết Ba đại điện: Đảng cộng sản Trung Quốc đại diện cho lực lượng sản xuất tiên tiến, đại diện nền văn hóa tiên tiến và đại diện lợi ích của đông đảo nhân dân Trung Quốc. Trước khi chuyển giao quyền lực cho thế hệ lãnh đạo trẻ hơn, Giang Trạch Dân đã đưa Thuyết Ba Đại Diện của mình vào trong Điều lệ Đảng, cùng với Chủ nghĩa Mác Lênin, Tư tưởng Mao Trạch Đông, và Học thuyết Đặng Tiểu Bình Tại đại hội thứ 16 Đảng Cộng sản Trung Quốc năm 2002. Dù trái ngược với Chủ nghĩa Mao và Chủ nghĩa Mác ở một số khía cạnh, nó cũng được đưa vào trong Hiến pháp Trung Quốc. Những người chỉ trích tin rằng đây chỉ là một phần trong sự thần thánh hoá cá nhân Giang, những người khác coi việc áp dụng học thuyết là tư tưởng dẫn đường trong việc lãnh đạo tương lai của Đảng Cộng sản Trung Quốc.
Giang Trạch Dân
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1330
Học thuyết Ba Đại diện được nhiều nhà phân tích chính trị coi là nỗ lực của Giang Trạch Dân nhằm mở rộng các Nguyên tắc Mác xít Lêninít, và vì thế đưa ông lên ngang tầm với những triết gia Mác xít Trung Quốc thời trước như Mao Trạch Đông và Đặng Tiểu Bình. Giang Trạch Dân cũng bị nhiều nhóm chỉ trích, đáng chú ý nhất là bởi "Pháp Luân Công", một tổ chức tinh thần tố cáo Giang và Đảng Cộng sản Trung Quốc dưới sự lãnh đạo của ông đã đàn áp các thành viên của họ. Tờ "Epoch Times" đã xuất bản một cuốn sách chỉ trích mạnh mẽ Giang với tựa đề "Anything for Power: The Real Story of China’s Jiang Zemin" (Tất cả cho Quyền lực: Câu chuyện thực về Giang Trạch Dân của Trung Quốc), nêu ra nhiều vụ scandal và những hành động tàn bạo của Giang Trạch Dân trong thời kỳ nắm quyền, gồm cả lý lịch gia đình mơ hồ, hành động đàn áp dã man Pháp Luân Công, và cái gọi là mối quan hệ của ông với ca sĩ Song Zuying. Rút lui khỏi quyền lực. Năm 2002, Giang Trạch Dân rời khỏi Ban Thường trực Bộ chính trị Đảng Cộng sản Trung Quốc nhường đường cho một "thế hệ lãnh đạo thứ tư" đứng đầu là Hồ Cẩm Đào, đánh dấu sự khởi đầu quá trình chuyển tiếp quyền lực kéo dài trong vài năm. Hồ Cẩm Đào lên nắm chức vụ lãnh đạo Đảng, trở thành Tổng bí thư Đảng Cộng sản. Sáu trong số chín thành viên mới Ban Thường trực ở thời điểm ấy được coi là một phần trong cái gọi là "Nhóm Thượng Hải" của Giang, đáng chú ý nhất là vị Phó Chủ tịch Tăng Khánh Hồng và Phó Thủ tướng Hoàng Cúc. Dù vậy Giang Trạch Dân vẫn giữ chức chủ tịch cơ quan đầy quyền lực là Quân uỷ Trung ương, đa số các thành viên cơ quan này là các sĩ quan quân đội chuyên nghiệp. "Liberation Army Daily" (Nhật Báo Quân đội Giải phóng), một tờ báo được cho là đại diện cho các quan điểm của đa số quân đội Trung Quốc, ngày 11 tháng 3 năm 2003 đã có một bài trích dẫn hai đại biểu quân đội nói, "Có một trung tâm được gọi là 'trung thành', trong khi hai trung tâm sẽ dẫn tới 'các vấn đề.'" Điều này được hiểu là một lời chỉ trích nỗ lực của Giang nhằm thực hiện quyền lãnh đạo đối với Hồ Cẩm Đào theo mô hình của Đặng Tiểu Bình.
Giang Trạch Dân
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1330
Hồ Cẩm Đào kế tục Giang Trạch Dân làm Chủ tịch nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa ngày 15 tháng 3 năm 2003. Trước sự ngạc nhiên của nhiều nhà quan sát, bằng chứng về sự ảnh hưởng kéo dài của Giang Trạch Dân trên chính sách bỗng biến mất khỏi truyền thông. Giang Trạch Dân rõ ràng đã giữ im lặng trong cuộc khủng hoảng dịch SARS, đặc biệt rõ khi so sánh với Hồ Cẩm Đào và Ôn Gia Bảo. Đã có những tranh luận cho rằng các thoả thuận về định chế được đưa ra sau Đại hội đảng lần thứ 16 khiến Giang chỉ có một vị trí không còn nhiều ảnh hưởng nữa. Dù nhiều thành viên Ban Thường trực Bộ chính trị là đồng minh của ông, Ban Thường trực không có chức năng lãnh đạo với bộ máy quản lý dân sự. Ngày 19 tháng 9 năm 2004, sau một cuộc gặp bốn ngày với 198 thành viên Ban chấp hành Trung ương, Giang Trạch Dân đã từ chức Chủ tịch Quân uỷ Trung ương, vị trí cuối cùng trong Đảng của ông. Sáu tháng sau ông từ chức vụ cuối cùng, chủ tịch Quân ủy Trung ương (CMC). Điều này đã khiến trong nhiều tuần tiếp theo đã có những lời đồn rằng những người ủng hộ Hồ Cẩm Đào trong giới lãnh đạo Đảng Cộng sản đã gây sức ép buộc Giang Trạch Dân rút lui. Theo đúng quy định, Giang Trạch Dân chỉ hết nhiệm kỳ vào năm 2007. Hồ Cẩm Đào lên nắm chức chủ tịch CMC, nhưng, trong một thất bại chính trị rõ ràng của Giang Trạch Dân, Từ Tài Hậu, chứ không phải Tăng Khánh Hồng được chỉ định làm vị phó của Hồ Cẩm Đào. Cuộc chuyển tiếp quyền lực này chính thức đánh dấu sự kết thúc kỷ nguyên của Giang tại Trung Quốc, khoảng từ năm 1993 tới năm 2004. Dù Giang ít khi xuất hiện trước công chúng từ sau khi từ bỏ chức vụ chính thức cuối cùng hồi năm 2004, ông đã xuất hiện cùng Hồ Cẩm Đào trong lễ kỷ niệm lần thứ 80 ngày thành lập Quân đội Giải phóng Nhân dân , và đi thăm Bảo tàng Quân đội của Cách mạng Nhân dân Trung Quốc với Lý Bằng, Chu Dung Cơ, và các quan chức cao cấp khác. Gia đình. Tháng 12 năm 1949 ông kết hôn với Vương Dã Bình, hai người có hai đứa con trai, con trưởng là Giang Miên Hằng, hiện giữ chức Phó Viện trưởng Viện khoa học Trung Quốc.
Giang Trạch Dân
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1330
Kiêm nhiệm Viện trưởng Phân Viện Thượng Hải, đồng thời còn đảm nhiệm chức giám đốc Công ty Trách nhiệm Hữu hạn Tập đoàn Xe điện Thượng Hải, giám đốc Công ty Trách nhiệm Hữu hạn Tập đoàn Liên lạc Viễn thông Thượng Hải, giám đốc Công ty Trách nhiệm Hữu hạn Tập đoàn Sân bay Thượng Hải, con thứ hai là Giang Miên Khang nhậm chức tại một Trung tâm Nghiên cứu ở Thượng Hải, đồng thời còn giữ chức Tổng giám đốc Công ty Trách nhiệm Hữu hạn Địa lý thành phố Thượng Hải. Qua đời. Giang Trạch Dân qua đời vào ngày 30 tháng 11 năm 2022 tại Thượng Hải, hưởng thọ 96 tuổi. Theo Tân Hoa Xã ông qua đời lúc 12:13 chiều vì bệnh bạch cầu và suy đa tạng. Ngày 11 tháng 12 năm 2022, tro cốt của ông đã được rải xuống biển ở cửa sông Trường Giang theo nguyện vọng của ông và gia đình.
Wikipedia
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1345
Wikipedia ( hoặc ) là một bách khoa toàn thư mở trực tuyến đa ngôn ngữ được sáng lập và duy trì bởi một cộng đồng biên tập viên tình nguyện và chạy trên nền tảng wiki. Tính đến tháng 1 năm 2021, theo xếp hạng của Alexa, Wikipedia là một trong 15 trang web phổ biến nhất thế giới còn tạp chí "The Economist" xếp Wikipedia là "địa điểm được truy cập nhiều thứ 13 trên web". Wikipedia không chạy quảng cáo và do tổ chức phi lợi nhuận Wikimedia quản lý, nhận tài trợ chủ yếu thông qua quyên góp. Jimmy Wales và Larry Sanger đưa Wikipedia đi vào hoạt động từ ngày 15 tháng 1 năm 2001. Cái tên "Wikipedia" là do Sanger ghép từ "wiki" và "encyclopedia" (bách khoa toàn thư). Khởi đầu với phiên bản tiếng Anh nhưng nay Wikipedia đã có hơn 300 phiên bản với tổng cộng hơn 55 triệu bài viết, và thu hút hơn 1,7 tỷ lượt xem mỗi tháng. Trong số đó, Wikipedia tiếng Anh là phiên bản lớn nhất với hơn 6,2 triệu bài viết. Wikipedia được coi là tài liệu tham khảo viết chung lớn nhất và phổ biến nhất trên Internet. Năm 2016, tạp chí "Time" từng tuyên bố rằng tính chất mở của Wikipedia đã biến nó trở thành bách khoa toàn thư lớn nhất và tốt nhất thế giới, tương ứng với những gì Wales từng hình dung. Uy tín của dự án ngày càng tăng lên trong thập niên 2010 nhờ vào những nỗ lực cải thiện chất lượng và độ tin cậy. Năm 2018, Facebook và YouTube cũng thông báo rằng các nền tảng này sẽ giúp người đọc phát hiện tin giả bằng cách liên kết các video đến các bài viết tương ứng trên Wikipedia. Wikipedia ngày càng trở nên phổ biến và cũng bị chỉ trích về độ chính xác, thiên vị có tính hệ thống, và thiên kiến giới tính do có nhiều thành viên nam; trong các chủ đề gây tranh cãi, đã bị chính trị thao túng và bị truyền thông sử dụng để tuyên truyền. Lịch sử. Nupedia. Trước Wikipedia, các bách khoa toàn thư trực tuyến hợp tác khác cũng được thử nghiệm, nhưng không có dự án nào thành công như Wikipedia. Khởi thủy của Wikipedia là một dự án bổ trợ cho Nupedia, một dự án bách khoa toàn thư tiếng Anh trực tuyến tự do với các bài viết do các chuyên gia chấp bút và được xem xét dựa trên một quy trình chính thức. Dự án được thành lập vào ngày 9 tháng 3 năm 2000, thuộc quyền sở hữu của Bomis, một công ty cổng thông tin điện tử.
Wikipedia
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1345
Các nhân vật chính là Giám đốc điều hành Bomis, Jimmy Wales và Larry Sanger – tổng biên tập của Nupedia và Wikipedia sau này. Ban đầu Nupedia được cấp phép theo Giấy phép Nội dung Mở Nupedia của riêng mình, nhưng sau đó đã chuyển sang Giấy phép Tài liệu Tự do GNU do Richard Stallman thúc giục (lúc này Wikipedia chưa thành lập). Wales được ghi nhận là người thiết lập mục tiêu tạo ra một bách khoa toàn thư cho phép chỉnh sửa công khai, còn Sanger được ghi nhận là người nghĩ ra chiến lược sử dụng công nghệ wiki để đạt được mục tiêu đó. Ngày 10 tháng 1 năm 2001, trên danh sách gửi thư của Nupedia, Sanger đề xuất tạo ra một wiki như một dự án "trung chuyển" cho Nupedia. Khởi tạo và phát triển ban đầu. Các tên miền "wikipedia.com" và "wikipedia.org" lần lượt được đăng ký vào ngày 12 tháng 1 năm 2001, và ngày 13 tháng 1 năm 2001. Wikipedia ra mắt vào ngày 15 tháng 1 năm 2001 dưới dạng một ấn bản bằng ngôn ngữ tiếng Anh duy nhất tại www.wikipedia.com. Cái tên "Wikipedia" là do Sanger ghép từ "wiki" và "encyclopedia" (bách khoa toàn thư). Sanger công bố sự kiện này trên danh sách gửi thư Nupedia. Chính sách "quan điểm trung lập" của Wikipedia được hệ thống hóa trong vài tháng đầu. Ban đầu Wikipedia có tương đối ít quy tắc và hoạt động độc lập với Nupedia. Bomis vốn định biến Wikipedia thành một doanh nghiệp để kiếm lời. Những thành viên đóng góp thuở đầu của Wikipedia đến từ Nupedia, những tin nhắn tại Slashdot và các kết quả tìm kiếm. Các ấn bản ngôn ngữ cũng được tạo ra và lên đến 161 phiên bản vào cuối năm 2004. Nupedia và Wikipedia hoạt động song song cho đến khi các máy chủ cũ của Nupedia bị gỡ bỏ vĩnh viễn vào năm 2003 và cả nội dung của Nupedia được tích hợp vào Wikipedia. Ngày 9 tháng 9 năm 2007, Wikipedia tiếng Anh vượt mốc hai triệu bài viết để trở thành bách khoa toàn thư lớn nhất từng được tập hợp, vượt qua "Vĩnh Lạc đại điển" được tạo ra dưới thời nhà Minh năm 1408 (từng giữ kỷ lục này gần 600 năm). Do lo ngại quảng cáo thương mại có thể ảnh hưởng đến dự án và thiếu quyền hạn bảo quản tại Wikipedia, nhiều thành viên Wikipedia tiếng Tây Ban Nha tách khỏi Wikipedia để tạo ra bách khoa toàn thư Enciclopedia Libre vào tháng 2 năm 2002. Cùng năm, Wales thông báo rằng Wikipedia sẽ không hiển thị quảng cáo và trang web được đổi tên miền sang "wikipedia.org".
Wikipedia
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1345
Brion Vibber áp dụng các thay đổi này vào ngày 15 tháng 8 năm 2002. Từ Wikipedia và Nupedia, Quỹ Hỗ trợ Wikipedia được thành lập ngày 20 tháng 6 năm 2003. Từ đó đến nay, Wikipedia cùng các dự án liên quan đều thuộc tổ chức phi lợi nhuận này. Dự án liên quan đầu tiên của Wikipedia, "Kỷ niệm: Wiki 11 tháng 9", được thành lập vào tháng 10 năm 2002 để kể về những Tấn công khủng bố ngày 11 tháng 9; dự án từ điển Wiktionary mở cửa vào tháng 12 năm 2002; bộ sưu tập danh ngôn Wikiquote, một tuần sau khi Wikimedia được thành lập; và thư viện mở Wikibooks, tháng sau; cũng như các dự án khác. Mặc dù Wikipedia tiếng Anh đạt ba triệu bài vào tháng 8 năm 2009, nhưng nếu xét về số lượng bài mới và số người đóng góp thì dường như sự phát triển của phiên bản tiếng Anh lại đạt đỉnh khoảng đầu năm 2007. Năm 2006, mỗi ngày bách khoa toàn thư có khoảng 1.800 bài viết mới; đến năm 2013 mức trung bình đó là khoảng 800. Một nhóm nghiên cứu tại Trung tâm Nghiên cứu Palo Alto cho rằng tốc độ tăng trưởng chậm lại này là do tính độc quyền ngày càng tăng của dự án và xu hướng cưỡng lại sự thay đổi. Những người khác cho rằng sự phát triển đang đi ngang một cách tự nhiên bởi vì các bài viết thuộc chủ đề rõ ràng đủ nổi bật đều được tạo và có nội dung rồi. Tháng 11 năm 2009, một nhà nghiên cứu tại Đại học Rey Juan Carlos ở Madrid phát hiện Wikipedia tiếng Anh đã mất đi 49.000 biên tập viên trong ba tháng đầu năm 2009, so với việc mất đi 4.900 biên tập viên trong cùng kỳ năm 2008. "The Wall Street Journal" cho rằng một trong những lý do chính là một loạt các quy tắc được áp dụng cho việc biên tập và các tranh chấp liên quan đến nội dung. Wales phản bác những tuyên bố này vào năm 2009, phủ nhận sự suy giảm đồng thời nghi vấn phương pháp luận của nghiên cứu trên. Hai năm sau (2011), Wales thừa nhận một sự suy giảm nhẹ, từ "nhiều hơn 36.000 biên tập viên một chút" vào tháng 6 năm 2010 xuống còn 35.800 vào tháng 6 năm 2011, đồng thời tuyên bố số lượng biên tập viên là "ổn định và bền vững".
Wikipedia
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1345
Bài báo "Sự suy tàn của Wikipedia" năm 2013 trên "Technology Review" (Tạp chí Công nghệ) của MIT đặt câu hỏi về tuyên bố này và tiết lộ rằng, kể từ năm 2007, Wikipedia đã mất đi một phần ba số biên tập viên tình nguyện, những người ở lại Wikipedia thì ngày càng tập trung vào những điều vụn vặt. Tháng 7 năm 2012, "The Atlantic" báo cáo rằng số lượng quản trị viên Wikipedia cũng đang giảm dần. Trong số ra ngày 25 tháng 11 năm 2013 của tạp chí "New York", Katherine Ward cho biết "Wikipedia, trang web được sử dụng nhiều thứ sáu toàn cầu, đang đối mặt với một cuộc khủng hoảng nội bộ". Các cột mốc. Tháng 1 năm 2007 là lần đầu tiên Wikipedia lọt vào danh sách 10 trang web phổ biến nhất ở Mỹ, theo comScore Networks. Với 42,9 triệu lượt người truy cập, Wikipedia đứng vị trí thứ 9, vượt qua "The New York Times" (hạng 10) và Apple (hạng 11), gia tăng đáng kể so với tháng 1 năm 2006 (hạng 33), tức Wikipedia nhận được khoảng 18,3 triệu người truy cập. , theo Alexa Internet, Wikipedia có thứ hạng 13 trong số các trang web về mức độ phổ biến. Năm 2014, Wikipedia có tám tỷ lượt xem trang mỗi tháng. Ngày 9 tháng 2 năm 2014, "The New York Times" báo cáo rằng Wikipedia có 18 tỷ lượt xem trang và gần 500 triệu người truy cập mỗi tháng, "theo công ty xếp hạng comScore". Loveland và Reagle cho rằng trong cả quá trình phát triển này, Wikipedia tuân theo một truyền thống lâu đời của bách khoa toàn thư lịch sử tích lũy sự cải tiến tiến từng phần thông qua "tích lũy kỳ thị". Ngày 18 tháng 1 năm 2012, Wikipedia tiếng Anh tham gia vào một loạt các cuộc biểu tình phối hợp chống lại hai luật được đề xuất tại Quốc hội Hoa Kỳ — Đạo luật Ngừng vi phạm bản quyền trực tuyến (SOPA) và Đạo luật BẢO VỆ IP (PIPA) — bằng cách bôi đen các trang trong 24 giờ. Hơn 162 triệu người đã đọc thấy các trang giải thích tạm thời này. Ngày 20 tháng 1 năm 2014, báo cáo của Subodh Varma cho "The Economic Times" (Thời báo Kinh tế) chỉ ra rằng không chỉ sự tăng trưởng của Wikipedia bị đình trệ mà còn "mất gần 10 phần trăm lượt xem trang vào năm ngoái. Đã có sự sụt giảm khoảng hai tỷ lượt xem trong giai đoạn tháng 12 năm 2012 và tháng 12 năm 2013.
Wikipedia
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1345
Các phiên bản phổ biến nhất đang dẫn đầu trang: lượt xem trang của Wikipedia tiếng Anh giảm 12%, phiên bản tiếng Đức giảm 17% và phiên bản tiếng Nhật giảm 9%." Varma cũng nói rằng "Trong khi các nhà quản lý Wikipedia nghĩ rằng đây có thể là do sai sót trong khâu đếm, các chuyên gia khác cảm thấy rằng dự án Knowledge Graph (Sơ đồ Tri thức) của Google được khởi động vào năm ngoái có thể đang lấy mất người dùng Wikipedia." Khi được liên hệ về vấn đề này, Clay Shirky, phó giáo sư tại Đại học New York và đồng nghiệp tại Trung tâm Internet & Xã hội Berkman của Harvard cho biết rằng ông cho rằng phần lớn sự sụt giảm của số lượt xem trang là do Sơ đồ tri thức, nói rằng, "Nếu bạn có thể nhận được câu trả lời của mình từ trang tìm kiếm, bạn sẽ không cần nhấp vào [bất kỳ đường dẫn nào nữa]." Đến cuối tháng 12 năm 2016, Wikipedia được xếp hạng thứ năm trong các trang web phổ biến nhất trên toàn cầu. Tháng 1 năm 2013, một tiểu hành tinh được đặt tên theo Wikipedia; tháng 10 năm 2014, Wikipedia được vinh danh với "Tượng đài Wikipedia" tại thị trấn Słubice, Ba Lan; và tháng 7 năm 2015, 106 trong số 7.473 tập 700 trang của Wikipedia được in thành sách giấy (một phần của dự án Print Wikipedia). Năm 2019, một loài thực vật có hoa được đặt tên là "Viola wikipedia". Tháng 4 năm 2019, một tàu đổ bộ mặt trăng của Israel, Beresheet, đã rơi xuống bề mặt Mặt Trăng mang theo một bản sao của gần như toàn bộ Wikipedia tiếng Anh được khắc trên các tấm niken mỏng; các chuyên gia nói rằng những chiếc đĩa này có khả năng sống sót sau vụ va chạm. Tháng 6 năm 2019, các nhà khoa học đã báo cáo rằng toàn bộ 16 GB văn bản bài viết của Wikipedia tiếng Anh đã được mã hóa thành một DNA tổng hợp. Tính mở. Không giống như các bách khoa toàn thư truyền thống, Wikipedia tuân theo nguyên tắc trì hoãn về tính bảo mật của nội dung. Hạn chế sửa đổi. Do Wikipedia ngày càng trở nên phổ biến, một số phiên bản, bao gồm cả phiên bản tiếng Anh, đã đưa ra các hạn chế sửa đổi trong một số trường hợp, chẳng hạn như chỉ người dùng đã đăng ký mới có thể tạo một bài viết mới. Một số bài đặc biệt gây tranh cãi, nhạy cảm hoặc dễ bị phá hoại trên Wikipedia tiếng Anh và một số phiên bản khác đều được bảo vệ ở một mức độ nào đó.
Wikipedia
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1345
Một bài viết thường xuyên bị phá hoại có thể bị hoặc giới hạn cho các thành viên xác nhận mở rộng, có nghĩa là chỉ những ai đã có quyền hoặc mới có thể sửa đổi nó. Bài viết nào thường xuyên gây tranh cãi có thể bị khóa ở mức chỉ có quản trị viên mới biên tập được bài. Trong một số trường hợp nhất định, tất cả các biên tập viên được phép đề nghị các sửa đổi, nhưng một số biên tập viên khác phải xem xét lại, tùy thuộc vào các điều kiện nhất định. Ví dụ: Wikipedia tiếng Đức duy trì "phiên bản ổn định" của các bài viết, đã qua một số đánh giá nhất định. Sau các thử nghiệm kéo dài và thảo luận cộng đồng, Wikipedia tiếng Anh đã giới thiệu hệ thống "các thay đổi đang chờ được xử lý" vào tháng 12 năm 2012. Theo hệ thống này, tại một số bài viết dễ gây tranh cãi hoặc dễ bị phá hoại, các sửa đổi của người dùng mới và chưa đăng ký sẽ được thành viên có uy tín xét duyệt trước khi chúng được xuất bản. Xét duyệt các thay đổi. Mặc dù các thay đổi không được xem xét một cách có hệ thống, phần mềm hỗ trợ Wikipedia cung cấp các công cụ nhất định cho phép bất kỳ ai cũng có thể xem xét các thay đổi do người khác thực hiện. Trang "Lịch sử" của mỗi bài viết liên kết đến mỗi bản sửa đổi. Trên hầu hết các bài viết, bất kỳ ai cũng có thể hoàn tác các thay đổi của người khác bằng cách nhấp vào liên kết trên trang lịch sử của bài viết. Ai cũng có thể xem các của các bài viết và ai cũng có thể duy trì một "danh sách theo dõi" các bài viết mà họ quan tâm để nhận thông báo về các thay đổi liên quan. "Tuần tra các trang mới" là một quá trình để kiểm tra các bài viết mới tạo. Năm 2003, nghiên cứu sinh Tiến sĩ kinh tế học Andrea Ciffolilli lập luận rằng chi phí giao dịch thấp khi tham gia vào một wiki tạo ra chất xúc tác cho sự phát triển hợp tác và các tính năng như cho phép dễ dàng truy cập các phiên bản trước đây của một trang có lợi cho việc "xây dựng sáng tạo" hơn "phá hủy sáng tạo". Phá hoại. Bất kỳ thay đổi hoặc chỉnh sửa nào nhằm thao túng nội dung để tổn hại đến tính toàn vẹn của Wikipedia đều được coi là hành vi phá hoại.
Wikipedia
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1345
Các kiểu phá hoại phổ biến và rõ ràng nhất bao gồm thêm vào các lời tục tĩu hay hài hước thô thiển, quảng cáo và các loại thư rác khác; hoặc phá hoại bằng cách xóa một phần nội dung hoặc xóa trắng cả trang. Cũng có các loại phá hoại ít phổ biến hơn, chẳng hạn như thêm thông tin sai lệch vào bài viết, thay đổi định dạng chuẩn, sửa đổi ngữ nghĩa của trang như tiêu đề hoặc thể loại của trang, nghịch mã wiki của một bài viết hoặc sử dụng hình ảnh một cách gián đoạn. Các phá hoại hiển nhiên thường dễ bị xóa khỏi các bài viết trên Wikipedia; thời gian trung bình để phát hiện và khắc phục phá hoại là vài phút. Tuy nhiên, một số phá hoại cần nhiều thời gian hơn để khắc phục. Tháng 5 năm 2005, một người khuyết danh đã đưa thông tin sai lệch vào tiểu sử của chính khách Mỹ John Seigenthaler, mạo nhận Seigenthaler là một nghi phạm trong vụ ám sát John F. Kennedy, và nội dung sai này không được sửa trong bốn tháng, gây nên sự cố tiểu sử Seigenthaler. Seigenthaler – giám đốc biên tập sáng lập của "USA Today", sáng lập viên của First Amendment Center (Trung tâm Tu chính án Thứ nhất) của Freedom Forum (Diễn đàn Tự do) tại Đại học Vanderbilt, đã gọi điện cho đồng sáng lập Wikipedia Jimmy Wales, hỏi liệu Wales có thể tìm ra ai đã đưa thông tin sai lệch này hay không. Wales trả lời không, nhưng sau này thủ phạm đã được tìm ra. Sau vụ việc, Seigenthaler mô tả Wikipedia là "một công cụ nghiên cứu thiếu sót và vô trách nhiệm". Sự cố này đã dẫn đến những thay đổi về chính sách tại Wikipedia, thắt chặt mức độ kiểm chứng thông tin đối với các bài viết về nhân vật còn sống. Tranh chấp biên tập. Khi tranh chấp về nội dung trong một bài viết, các thành viên có thể liên tục thực hiện các thao tác lùi sửa đổi của đối phương, được gọi là . Quá trình này được đánh giá là làm tiêu tốn tài nguyên mà không bổ sung kiến thức hữu ích cho bài viết, cũng như tạo ra một nền văn hóa biên tập mang tính cạnh tranh, dựa trên xung đột gắn liền với vai trò giới tính nam tính truyền thống, góp phần vào sự thiên vị giới tính trên Wikipedia. Chính sách và luật lệ. Nội dung trong Wikipedia tuân theo luật (cụ thể là luật bản quyền) Hoa Kỳ và tiểu bang Virginia, nơi đặt phần lớn máy chủ của Wikipedia.
Wikipedia
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1345
Ngoài các vấn đề pháp lý, các nguyên tắc biên tập của Wikipedia được thể hiện trong "" và trong nhiều nhằm xác định nội dung một cách thích hợp. Các quy định này được ghi dưới dạng wiki, các biên tập viên của Wikipedia có thể viết và sửa đổi. Các thành viên quy định bằng cách lược bỏ hoặc sửa lại các nội dung không đạt chuẩn. Quy định của các phiên bản ngôn ngữ khác được dịch từ quy định của Wikipedia tiếng Anh; nhưng sau đó đã dần khác nhau. Theo quy định của Wikipedia tiếng Anh, mỗi mục từ trong Wikipedia phải nói về một chủ đề bách khoa và không phải là mục từ trong từ điển hoặc kiểu từ điển. Chủ đề này phải đáp ứng các tiêu chuẩn về "độ nổi bật" của Wikipedia, thường có nghĩa là chủ đề đó phải được đưa tin trên các phương tiện truyền thông chính thống hoặc xuất hiện trên các tạp chí học thuật lớn và độc lập. Wikipedia chỉ truyền đạt những kiến thức đã được công nhận, tức Wikipedia các nghiên cứu và ý tưởng mới. Một thông tin nào đó có thể bị nghi vấn thì cần được dẫn từ một . Do đó, đôi khi các thông tin đúng có thể bị xóa do không có nguồn. Ngoài ra, Wikipedia luôn mang thái độ trung lập, tức là Wikipedia tổng hợp quan điểm từ các nguồn độc lập và trình bày nó trong bài viết bách khoa một cách hợp lý. Quản trị. Chế độ vô chính phủ ban đầu của Wikipedia cũng đã dần tích hợp các yếu tố dân chủ và thứ bậc theo thời gian. Một bài viết trên Wikipedia không thuộc quyền sở hữu của ai – người tạo ra nó, các thành viên khác, hay chủ thể của bài viết. Các có uy tín trong cộng đồng có thể ứng cử một trong nhiều cấp quản lý tình nguyện: bắt đầu với "điều phối viên/bảo quản viên", những người dùng có đặc quyền xóa trang, khóa bài viết trong trường hợp bị phá hoại hoặc tranh chấp biên tập và chặn sửa đổi của một số người. Dù mang tên như vậy nhưng quản trị viên không được hưởng bất kỳ đặc quyền đặc biệt nào trong việc ra quyết định; thay vào đó, quyền hạn của họ chủ yếu bị giới hạn trong việc thực hiện các chỉnh sửa có ảnh hưởng trên toàn dự án và do đó không được phép đối với các biên tập viên thông thường và thực hiện các hạn chế nhằm ngăn chặn các chỉnh sửa gây rối (chẳng hạn như phá hoại).
Wikipedia
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1345
Ngày càng ít biên tập viên trở thành quản trị viên hơn những năm trước, một phần là do quá trình xét duyệt các quản trị viên tiềm năng của Wikipedia đã trở nên nghiêm ngặt hơn. Cộng đồng. Jimmy Wales lập luận rằng phần lớn các đóng góp cho Wikipedia đến từ "một cộng đồng ... một nhóm tận tâm gồm vài trăm tình nguyện viên", cho nên dự án cũng "giống như một tổ chức truyền thống". Năm 2008, một bài báo trên tạp chí "Slate" báo cáo rằng: "Theo các nhà nghiên cứu ở Palo Alto, một phần trăm người dùng Wikipedia chịu trách nhiệm cho khoảng một nửa số sửa đổi của trang web này." Sau này Aaron Swartz bàn cãi về các phương pháp đánh giá này, lưu ý rằng phần lớn nội dung (được đo bằng số ký tự) của một số bài viết mà anh lấy mẫu do những người dùng có số lượt sửa đổi thấp đóng góp. Một nghiên cứu năm 2007 của các nhà nghiên cứu Đại học Dartmouth cho thấy "những người đóng góp ẩn danh và không thường xuyên cho Wikipedia [...] cũng là một nguồn kiến thức đáng tin cậy như những người có đăng ký". Năm 2009, Jimmy Wales tuyên bố rằng "hóa ra hơn 50% tổng số chỉnh sửa là do 0,7% người dùng đóng góp...[tức] 524 người... Và trên thực tế, 2% tích cực nhất, tức là 1.400 người, đã thực hiện 73,4% tổng số sửa đổi." Tuy nhiên, vào năm 2009, biên tập viên kiêm nhà báo Henry Blodget của "Business Insider" chỉ ra rằng trong một mẫu bài viết ngẫu nhiên, hầu hết nội dung trên Wikipedia (đo bằng lượng văn bản đóng góp còn tồn tại cho đến lần chỉnh sửa mẫu mới nhất) được tạo bởi "người ngoài cuộc", còn hầu hết việc biên tập và định dạng được thực hiện bởi "người trong cuộc". Theo một nghiên cứu năm 2009, có "bằng chứng rằng cộng đồng Wikipedia có một sự phản kháng ngày càng tăng với các nội dung mới". Một số nghiên cứu chỉ ra rằng hầu hết những người đóng góp cho Wikipedia là nam giới; còn kết quả của một cuộc khảo sát của Quỹ Wikimedia vào năm 2008 cho thấy chỉ có 13% biên tập viên Wikipedia là nữ giới. Phiên bản ngôn ngữ. Hiện có 313 phiên bản ngôn ngữ của Wikipedia. Tính đến tháng 1 năm 2021, sáu phiên bản lớn nhất theo thứ tự là Wikipedia tiếng Anh, Cebuano, Thụy Điển, Đức, Pháp và Hà Lan.
Wikipedia
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1345
Các Wikipedia lớn thứ hai và thứ ba nhờ vào bot tạo bài viết Lsjbot, tính đến năm 2013 đã tạo ra khoảng một nửa số bài viết trên Wikipedia tiếng Thụy Điển và hầu hết các bài viết trên Wikipedia tiếng Cebuano và Waray. Hai phiên bản Cebuano và Waray là hai ngôn ngữ bản địa của Philippines. Ngoài sáu trang đứng đầu, có mười hai Wikipedias có hơn một triệu bài viết (tiếng Nga, tiếng Ý, tiếng Tây Ban Nha, tiếng Ba Lan, tiếng Waray, tiếng Việt, tiếng Nhật, tiếng Trung, tiếng Ả Rập Ai Cập, tiếng Ả Rập, tiếng Bồ Đào Nha và tiếng Ukraina), và sáu Wikipedia có hơn 500.000 bài viết (tiếng Ba Tư, Catalan, Serbia, Indonesia, Na Uy Bokmål và Hàn Quốc), 43 phiên bản Wikipedia khác có hơn 100.000 bài và 82 phiên bản Wikipedia khác có trên 10.000 bài. Wikipedia tiếng Anh là phiên bản lớn nhất với hơn 6,2 triệu bài viết. Tính đến tháng 1 năm 2019, theo Alexa, miền phụ tiếng Anh (en.wikipedia.org; Wikipedia tiếng Anh) nhận được khoảng 57% lưu lượng truy cập của Wikipedia, lượng còn lại thuộc về các ngôn ngữ tiếng Nga: 9%; tiếng Trung: 6%; Tiếng Nhật: 6%; tiếng Tây Ban Nha: 5%. Vì Wikipedia dựa trên nền tảng Web và có mặt trên toàn thế giới, các biên tập viên của cùng một ấn bản ngôn ngữ có thể sử dụng các phương ngữ khác nhau hoặc có thể đến từ các quốc gia khác nhau (ví dụ như phiên bản tiếng Anh). Những khác biệt này có thể dẫn đến xung đột về khác biệt chính tả trong tiếng Anh (ví dụ: "colour" hay "color") cũng như khác biệt về quan điểm. Các phiên bản ngôn ngữ tuân theo các chính sách toàn cục (như "thái độ trung lập") nhưng khác nhau về một số quan điểm chính sách và thực tiễn, đáng chú ý nhất là việc liệu hình ảnh không được cấp phép tự do có được sử dụng theo yêu cầu sử dụng hợp lý hay không. Jimmy Wales mô tả Wikipedia là "một nỗ lực để tạo ra và phân phối một bộ bách khoa toàn thư mở chất lượng cao nhất có thể cho mọi người trên hành tinh bằng ngôn ngữ của họ". Mỗi phiên bản ngôn ngữ ít nhiều hoạt động độc lập nhưng đều được điều phối và giám sát bởi Meta-Wiki – wiki của Quỹ Wikimedia dùng để duy trì tất cả các dự án của mình (Wikipedia và các dự án khác). Ví dụ: Meta-Wiki cung cấp số liệu thống kê quan trọng về tất cả các ấn bản ngôn ngữ của Wikipedia, và duy trì danh sách bài viết mà mọi Wikipedia nên có.
Wikipedia
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1345
Danh sách liên quan đến nội dung cơ bản theo chủ đề: tiểu sử, lịch sử, địa lý, xã hội, văn hóa, khoa học, công nghệ và toán học. Không hiếm các bài viết liên quan mạnh đến một ngôn ngữ cụ thể không có bài viết tương ứng trong một phiên bản khác. Ví dụ: các bài viết về các thị trấn nhỏ ở Hoa Kỳ có thể chỉ có ở bản tiếng Anh, dù đáp ứng các tiêu chí về độ nổi bật của các Wikipedia ngôn ngữ khác. Các bài viết đã dịch chỉ đại diện cho một phần nhỏ các bài viết trong hầu hết các phiên bản, một phần là do các phiên bản đó không cho phép dịch các bài viết một cách hoàn toàn tự động. Các bài viết có sẵn bằng nhiều ngôn ngữ có thể cung cấp "liên kết interwiki", liên kết đến các bài viết tương ứng trong các phiên bản khác. Một nghiên cứu do "PLOS ONE" công bố vào năm 2012 cũng ước tính tỷ lệ đóng góp cho các ấn bản Wikipedia khác nhau từ các khu vực khác nhau trên thế giới. Nghiên cứu này báo cáo rằng tỷ lệ các sửa đổi được thực hiện từ Bắc Mỹ là 51% đối với Wikipedia tiếng Anh và 25% đối với Wikipedia tiếng Anh đơn giản. Suy thoái tại Wikipedia tiếng Anh. Ngày 1 tháng 3 năm 2014, bài báo "Tương lai của Wikipedia" của "The Economist" trích dẫn một phân tích xu hướng liên quan đến dữ liệu do Wikimedia Foundation xuất bản: "[t] số biên tập viên cho phiên bản tiếng Anh đã giảm một phần ba trong 7 năm", tỷ lệ này về cơ bản là trái ngược với thống kê cho Wikipedia bằng các ngôn ngữ khác (không phải tiếng Anh). "The Economist" báo cáo rằng kể từ năm 2008, số lượng cộng tác viên có trung bình 5 chỉnh sửa trở lên mỗi tháng là tương đối ổn định đối với Wikipedia bằng các ngôn ngữ khác là khoảng 42.000 biên tập viên, chênh lệch nhỏ theo mùa là khoảng 2.000 biên tập viên trở lên. Bằng cách so sánh chi tiết, số lượng biên tập viên tích cực trên Wikipedia tiếng Anh được trích dẫn là đạt đỉnh vào năm 2007 với khoảng 50.000 người rồi giảm xuống 30.000 vào đầu năm 2014. Nếu sự sụt giảm này tiếp tục giữ nguyên với tỷ lệ xu hướng được trích dẫn là khoảng 20.000 biên tập viên bị mất trong vòng bảy năm, thì đến năm 2021 sẽ chỉ có 10.000 biên tập viên hoạt động trên Wikipedia tiếng Anh.
Wikipedia
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1345
Phân tích này cũng cho thấy Wikipedia các ngôn ngữ khác (không phải tiếng Anh) thành công trong việc giữ chân các biên tập viên tích cực bằng cơ sở tái tạo và duy trì, khi mà số lượng tương đối không đổi ở mức khoảng 42.000. Không có bình luận nào được đưa ra liên quan đến tiêu chuẩn chính sách chỉnh sửa khác biệt với Wikipedia bằng ngôn ngữ khác (không phải tiếng Anh) sẽ cung cấp một giải pháp thay thế khả thi cho Wikipedia tiếng Anh để cải thiện hiệu quả tỷ lệ hao hụt biên tập viên đáng kể trên Wikipedia tiếng Anh. Đón nhận. Nhiều biên tập viên đã chỉ trích bộ quy định ngày càng nhiều của Wikipedia, gồm hơn năm mươi chính sách và gần 150.000 từ (). Wikipedia cũng bị phê bình là sự thiên vị mang tính hệ thống. Vào năm 2010, nhà báo Edwin Black mô tả Wikipedia là một hỗn hợp của "sự thật, một nửa sự thật và vài sự giả dối". Các bài báo trong "Biên niên sử về Giáo dục Đại học" và "Tạp chí Thủ thư Học thuật" đã chỉ trích chính sách của Wikipedia, kết luận rằng thực tế là Wikipedia rõ ràng không được thiết kế để cung cấp thông tin chính xác về một chủ đề, mà là tập trung vào tất cả các quan điểm chính về chủ đề này, ít chú ý hơn đến những quan điểm phụ và tạo ra những thiếu sót có thể dẫn đến niềm tin sai lầm dựa trên thông tin không đầy đủ. Lần lượt vào năm 2010 và 2011, Oliver Kamm và Edwin Black cáo buộc rằng các bài viết bị chi phối bởi những biên tập viên ồn ào nhất và kiên trì nhất, thường là của một nhóm có "nhiều kiến thức" về chủ đề này. Một bài báo năm 2008 trên tạp chí "Education Next" kết luận rằng với tư cách là một nguồn tài nguyên về các chủ đề gây tranh cãi, Wikipedia có thể bị thao túng và bị chỉ đạo. Năm 2006, trang web phê bình "Wikipedia Watch" liệt kê hàng chục ví dụ về đạo văn trong Wikipedia tiếng Anh. Độ chính xác của nội dung. Các bài viết trong các bộ bách khoa toàn thư truyền thống như "Encyclopædia Britannica" được các chuyên gia viết cẩn thận, nên các bộ bách khoa đó nổi tiếng về độ chính xác. Nhưng một cuộc bình duyệt vào năm 2005 của tạp chí khoa học "Nature" đối với bốn mươi hai mục từ khoa học trên cả Wikipedia và "Encyclopædia Britannica" tìm thấy chỉ có ít sự khác biệt về độ chính xác, và kết luận rằng "các bài viết khoa học trung bình trong Wikipedia có khoảng bốn chỗ sai; còn "Britannica" có ba."
Wikipedia
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1345
Joseph Reagle cho rằng nghiên cứu có thể phản ánh "khả năng chuyên môn của những người đóng góp cho Wikipedia" trong mảng khoa học, nhưng "Wikipedia có thể không hoạt động tốt như vậy nếu lấy một mẫu ngẫu nhiên các bài viết thuộc chủ đề nhân văn." Những người khác đưa ra những lời chỉ trích tương tự. Sau này, "Encyclopædia Britannica" đã phản đối kết quả nghiên cứu này của "Nature"; "Nature" đáp lại bằng cách bác bỏ những luận điểm "Britannica" đưa ra. Ngoài những bất đồng quan điểm này, những người khác đã kiểm tra kích thước mẫu và phương pháp lựa chọn mẫu "Nature" từng sử dụng, và coi đó là một "thiết kế nghiên cứu sai lầm". Về phía mình, Wikipedia tự nhận là không chịu trách nhiệm cuối cùng cho các tuyên bố và nội dung trên Wikipedia. Nhà kinh tế học Tyler Cowen bình luận rằng: "Nếu trong một thời gian ngắn mà phải đoán xem liệu Wikipedia hay bài báo trung bình của tạp chí tham khảo về kinh tế học có nhiều khả năng đúng hơn, tôi nghĩ rằng tôi sẽ chọn Wikipedia." Tuy nhiên, ông cũng cảnh báo rằng các trang web Internet cũng thường chứa nhiều lỗi và các học giả và chuyên gia phải thận trọng trong việc khắc phục chúng. Các nhà phê bình cho rằng Wikipedia không đáng tin cậy do sở hữu tính chất mở và thiếu các nguồn tham khảo thích hợp cho phần lớn thông tin. Một số cho rằng Wikipedia có thể đáng tin cậy, nhưng độ tin cậy của một bài viết bất kỳ thì không rõ. Các biên tập viên của các tài liệu tham khảo truyền thống như "Encyclopædia Britannica" nghi vấn về tính khả dụng và địa vị của dự án với tư cách là một bách khoa toàn thư. Jimmy Wales tuyên bố rằng Wikipedia đã tránh được nhiều vấn nạn "tin giả" vì cộng đồng Wikipedia thường xuyên tranh luận về chất lượng của nguồn dẫn trong các bài viết. Cấu trúc mở của Wikipedia khiến nó trở thành mục tiêu cho những kẻ lừa đảo trên Internet, gửi thư rác cùng nhiều hình thức vận động có trả tiền, có thể khiến việc duy trì một bách khoa toàn thư trực tuyến trung lập và có thể kiểm chứng được trở nên khó khăn.