title
stringlengths 1
250
| url
stringlengths 37
44
| text
stringlengths 1
4.81k
|
---|---|---|
Ngô Quyền | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1411 | Sách An Nam chí lược viết rằng: "Công Tiễn bị Ngô Quyền vây, sức yếu bị thua mới cầu cứu nhà Nam Hán". Vua Nam Hán là Lưu Cung nhân Giao Chỉ có loạn muốn chiếm lấy. Lưu Cung phong cho con mình là Vạn vương Lưu Hoằng Tháo làm Giao Vương, đem quân cứu Kiều Công Tiễn. Nhưng khi quân Nam Hán chưa sang, mùa thu năm 938, Ngô Quyền đã giết được Kiều Công Tiễn.
Lưu Cung tự làm tướng, đóng ở Hải Môn để làm thanh viện. Lưu Cung hỏi kế ở Sùng Văn sứ là Tiêu Ích, Tiêu Ích nói:
Song Lưu Cung không nghe theo.
Ngô Quyền nghe tin Hoằng Tháo sắp đến, bảo các tướng tá rằng:
Ngô Quyền định kế rồi, bèn cho đóng cọc ở hai bên cửa biển. Khi nước triều lên, Ngô Quyền sai người đem thuyền nhẹ ra khiêu chiến, giả thua chạy để dụ quân Nam Hán đuổi theo. Hoằng Tháo quả nhiên tiến quân vào. Khi binh thuyền đã vào trong vùng cắm cọc, nước triều rút, cọc nhô lên, Ngô Quyền bèn tiến quân ra đánh, ai nấy đều liều chết chiến đấu. Quân Nam Hán không kịp sửa thuyền mà nước triều rút xuống rất gấp, thuyền đều mắc vào cọc mà lật úp, rối loạn tan vỡ, quân lính chết đuối quá nửa. Ngô Quyền thừa thắng đuổi đánh, bắt được Hoằng Tháo giết đi. Vua Nam Hán Cao Tổ (Lưu Cung) đồn trú ở cửa biển để cứu trợ nhưng không làm gì được; thương khóc, thu nhặt quân lính còn sót rút về.
Nguyễn Trãi trong Bình Ngô đại cáo có câu:
Hai chữ "tham công" này tức là ngụ ý việc Lưu Cung muốn lập công cho người Trung Quốc khi cố gắng đánh chiếm lại Tĩnh Hải quân.
Sử gia Ngô Sĩ Liên nhận định trong sách Đại Việt Sử ký Toàn thư:
Ngô Thì Sĩ nhận định trong sách Việt sử tiêu án:
Cai trị.
Ngô Quyền lên ngôi ngày 10 tháng 1 năm Kỷ Hợi (tức ngày 1 tháng 2 năm 939). Mùa xuân năm 939, Ngô Quyền xưng là Ngô Vương, xây dựng nhà nước tự chủ, trở thành vị vua sáng lập ra nhà Ngô, sách Đại Việt Sử ký Toàn thư gọi Ngô Quyền là Tiền Ngô Vương. |
Ngô Quyền | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1411 | Sách Đại Việt Sử ký Toàn thư chép rằng: "Mùa xuân, vua bắt đầu xưng vương, lập Dương thị làm hoàng hậu, đặt trăm quan, chế định triều nghi phẩm phục." Sách Việt sử tiêu án chép: "Vương giết Công Tiễn, phá Hoằng Tháo, tự lập làm vua, tôn Dương thị làm Hoàng hậu, đặt đủ 100 quan, dựng ra nghi lễ triều đình, định các sắc áo mặc, đóng đô Cổ Loa thành, làm vua được 6 năm rồi mất."
Về lãnh thổ, học giả Đào Duy Anh cho rằng các triều đại phong kiến đầu tiên cai trị 8 châu: Giao, Lục, Phong, Trường, Ái, Diễn, Hoan, Phúc Lộc nằm trên đất Giao Châu cũ. Ngô Quyền chỉ có quyền lực ở các châu miền trung du và miền đồng bằng Bắc bộ, vùng Thanh Nghệ; còn miền thượng du là các "châu ky my" (châu tự trị, chỉ phải cống nạp), của nhà Đường trước kia, do các tù trưởng nắm giữ mà độc lập.
Những người thân cận, các tướng tá cùng các hào trưởng địa phương quy phục đã được nhà Ngô phong tước, cấp đất, như Phạm Lệnh Công ở Trà Hương (Nam Sách, Hải Dương), Lê Lương ở Ái châu, Đinh Công Trứ (cha của Đinh Bộ Lĩnh) ở Hoan Châu.
Kinh đô.
Nhà Đường cai trị nước Việt, dùng huyện Tống Bình và xây thành Tống Bình làm trị sở của họ, tức phần đất thuộc Giao Châu, bên sông Tô Lịch (Hà Nội ngày nay). Sau khi lên ngôi, Ngô Quyền không đóng đô ở trị sở cũ của nhà Đường như họ Khúc hay Dương Đình Nghệ nữa mà chuyển kinh đô lên Cổ Loa thuộc Phong Châu (thuộc huyện Đông Anh, tỉnh Phúc Yên cũ). Lý giải cho việc Ngô Quyền không chọn Đại La sầm uất và có truyền thống nhiều thế kỷ là trung tâm chính trị trước đó, các sử gia cho rằng có 2 nguyên nhân: "tâm lý tự tôn dân tộc" và "ý thức bảo vệ độc lập chủ quyền của đất nước" từ kinh nghiệm cũ để lại:
Theo Tạ Chí Đại Trường: "Chiếm giữ Đại La xong, Ngô Quyền không đóng đô nơi phủ trị cũ mà lại tìm một vị trí bên lề để canh chừng. Tại sao? Vì còn tự ti thấy mình chưa đủ sức thay thế chủ cũ? |
Ngô Quyền | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1411 | Hay vì cái thế Đại La trống trải trong tầm sông nước dễ dàng cho sự xâm lấn của Nam Hán so với Cổ Loa khuất lấp hơn một ít mà vẫn còn có ngôi thành Kén của Mã Viện làm thế đương cự? Dù sao thì sự từ chối Đại La cũng là một dấu vết co cụm để tính chất địa phương nổi lên không những chỉ trong gia đình ông mà còn thấy trong cách ứng xử của các tập đoàn quyền lực khác ở phủ Đô hộ cũ nữa".
Qua đời.
Ngô Quyền mất ngày 18 tháng 1 năm Giáp Thìn (14 tháng 2 năm 944), hưởng dương 47 tuổi; trước khi chết ông di chúc cho Dương Tam Kha phò tá con của mình là Ngô Xương Ngập. Ông không có miếu hiệu và thụy hiệu, sử sách xưa nay chỉ gọi ông là Tiền Ngô Vương. Sách "Thiền Uyển tập anh", phần truyện Quốc sư Khuông Việt có nhắc Ngô Thuận Đế.
Dương Tam Kha cướp ngôi cháu, tự lập mình làm vua, xưng là Dương Bình Vương, lấy Ngô Xương Văn, con thứ hai của Ngô Quyền làm con nuôi. Ngô Xương Văn sau dẫn quân quay lại lật đổ Dương Tam Kha. Năm 950, Ngô Xương Văn tự xưng làm Nam Tấn Vương, đóng đô ở Cổ Loa. Ngô Xương Văn cho người đón anh trai Ngô Xương Ngập đang trốn ở Nam Sách trở về. Ngô Xương Ngập cũng làm vua, tự xưng là Thiên Sách Vương (951–954). Từ năm 951 đến 956, lần lượt các thế lực họ Đinh, họ Dương và hoàng tộc nhà Ngô cát cứ, chống đối với triều đình Cổ Loa, mở đầu cho loạn 12 sứ quân.
Tồn nghi về quê hương.
Vào thế kỷ 13, Lê Tắc, một vị quan nhà Trần đào ngũ theo quân Nguyên, khi quân Nguyên thua trận ông đã sang Trung Quốc và viết quyển sách sử An Nam chí lược, sách này viết rằng: "Ngô Quyền, người Châu Ái, nha tướng của Đình Nghệ, giết Công Tiện, tự lập làm vua."
Vào thế kỷ 15, nhà Minh xâm chiếm Việt Nam, đã đốt toàn bộ sách vở hoặc thu sách vở đem về Trung Quốc. Lê Lợi đánh đuổi người Minh, dựng nên nhà Lê, đến đời cháu ông là Lê Thánh Tông đã sai Sử quan Ngô Sỹ Liên biên soạn bộ sách chính sử là Đại Việt Sử ký Toàn thư. Sách chép rằng Ngô Quyền là người ở châu Đường Lâm nhưng Ngô Sỹ Liên chỉ chép mỗi tên châu Đường Lâm chứ không chép rõ Đường Lâm ở đâu. |
Ngô Quyền | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1411 | Các học giả Việt Nam đời sau đã có nhiều ý kiến về vị trí của châu Đường Lâm, nay trích dưới đây.
1. Đường Lâm (Hà Nội).
Vào thế kỷ 19, một học giả là Nguyễn Văn Siêu trong sách Đại Việt địa dư toàn biên viết: "Nay xét sử cũ chép: Bố Cái Đại Vương là Phùng Hưng, Tiền Ngô Vương Quyền đều là người Đường Lâm. Nay xã Cam Lâm, tổng Cam Giá, huyện Phúc Thọ (xã Cam Lâm trước là xã Cam Tuyền) có hai đền thờ Bố Cái Đại Vương và Tiền Ngô Vương. Còn có một bia khắc rằng: Bản xã đất ở rừng rậm, đời xưa gọi là Đường Lâm, đời đời có anh hào. Đời nhà Đường có Phùng Vương tên húy Hưng, đời Ngũ Đại có Ngô Vương tên húy Quyền. Hai vương cùng một làng, từ xưa không có. Uy đức còn mãi, miếu mạo như cũ. Niên hiệu đề là Quang Thái năm thứ ba mùa xuân tháng hai, ngày 18 làm bia này".
Nguyễn Văn Siêu đã khẳng định châu Đường Lâm quê hương của Ngô Quyền nằm ở xã Cam Lâm, tổng Cam Giá, huyện Phúc Thọ, phủ Quảng Oai, tỉnh Sơn Tây tức nay là làng cổ Đường Lâm thuộc Hà Nội. Đại Nam nhất thống chí cũng ghi tương tự. Đến thời hiện đại, một người làm trong Viện Sử học Việt Nam là giáo sư sử học Trần Quốc Vượng khẳng định mà theo như chính ông nhận xét thì nó được "tiếp thu ngay", trở thành kiến thức lịch sử chính thống đưa vào giảng dạy trong nhà trường và phổ biến trên các phương tiện thông tin đại chúng. Làng cổ Đường Lâm cũng được mệnh danh là "đất hai vua".
Theo Ngô Thì Sĩ trong Việt sử tiêu án thì Đường Lâm thuộc Phong Châu tức là Hà Nội ngày nay.
2. Đường Lâm (Bắc Trung Bộ).
Người đầu tiên nghi ngờ ý kiến cho rằng quê hương Đường Lâm ở Sơn Tây là học giả Đào Duy Anh. Trong sách "Đất nước Việt Nam qua các đời", xuất bản năm 1964, ông viết:
Sau đó, khi phê bình Đại Việt sử ký toàn thư, Văn Tân nhận xét: ""Ý kiến bạn Đào-duy-Anh rất đáng cho chúng ta để ý. [...] Ngô Quyền là người huyện Đường-lâm thuộc Hoan-châu chứ không phải là người huyện Phúc-thọ tỉnh Hà-tây. |
Ngô Quyền | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1411 | [...] Ngô Quyền là quý tộc con Ngô Mân quê ở Hoan-châu (có chỗ nói Ái-châu) đã dấy quân từ Hoan-châu tiến ra bắc phá quân Nam Hán ở cửa Bạch-đằng. Như vậy Ngô Quyền phải là người huyện Đường-lâm châu Phúc-lộc (Hà-tĩnh) chứ không phải người xã Đường-lâm huyện Phúc-thọ (Sơn-tây). Có thế mới phù hợp với tình hình xã hội hồi thế kỷ VIII, IX và X"".
Năm 1967, với bài viết "Về quê hương của Ngô Quyền", Trần Quốc Vượng đã phản bác lại ý kiến của Đào Duy Anh và Văn Tân, đồng thời khẳng định quê hương Ngô Quyền nằm ở làng cổ Đường Lâm, thị xã Sơn Tây, Hà Nội hiện thời. Có thể coi đây là tiếng nói quan trọng nhất của giới sử học Việt Nam Dân chủ Cộng hòa lúc bấy giờ để quyết định vấn đề quê hương Ngô Quyền.
Vào thế kỷ 13, Lê Tắc, người Ái Châu (Đông Sơn, Thanh Hóa), viết trong An Nam chí lược rằng: "Ngô Quyền, người châu Ái".
Trong tập kỷ yếu hội thảo "Quốc sư Khuông Việt và Phật giáo Việt Nam đầu kỷ nguyên độc lập" tổ chức vào tháng 3 năm 2011, các nhà nghiên cứu Trần Ngọc Vượng, Trần Trọng Dương, Nguyễn Tô Lan thuộc Viện Nghiên cứu Hán Nôm, với bài viết "Đường Lâm là Đường Lâm nào?" cùng nhiều luận cứ lịch sử, đã chứng minh tấm bia cổ "Phụng tự bi" 奉祀碑 (ký hiệu 36002 trong kho lưu trữ bản dập của Viện Nghiên cứu Hán Nôm) được coi là có niên đại từ đời Trần mà Nguyễn Văn Siêu đề cập tới, hiện ở đền thờ Ngô Quyền tại xã Đường Lâm ở Sơn Tây, cứ liệu quan trọng mà Trần Quốc Vượng dựa vào trong bài viết "Về quê hương của Ngô Quyền", kì thực chỉ được dựng vào đầu thời Nguyễn.
Và cái tên Đường Lâm của xã Đường Lâm hiện thời mới chỉ xuất hiện từ năm 1964, năm mà Quốc hội Việt Nam chính thức ra quyết định đổi tên xã này thành xã Đường Lâm, trước đó, đất này có tên là xã Cam Lâm. Từ đó, các nhà nghiên cứu này khẳng định rằng "quê Ngô Quyền nằm loanh quanh giữa vùng Thanh Hóa – Nghệ An ngày nay mà khó có thể ở vị trí Sơn Tây (khi đó là huyện Gia Ninh của Phong Châu) được". |
Ngô Quyền | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1411 | Phả hệ họ Ngô Việt Nam xác định khởi tổ họ Ngô Việt Nam là Ngô Nhật Đại tham gia cuộc khởi nghĩa của Mai Thúc Loan năm 722 chống lại nhà Đường. Cuộc khởi nghĩa thất bại thì Ngô Nhật Đại chạy ra châu Ái lập nghiệp bằng nghề nông. Ngô Quyền là đời thứ sáu, sinh ra ở Đường Lâm, Sơn Tây. Địa danh Cam Lâm có lẽ có xuất xứ từ Thanh Hóa. Hiện ở đó còn có làng Mía thuộc xã Thịnh Mỹ huyện Lôi Dương xưa, nay là huyện Thọ Xuân, Thanh Hóa.
Tuy vậy, hiện nay suốt từ Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh đều không có bất cứ ngôi đền nào thờ Ngô Quyền hay Phùng Hưng cả. Xem "Các cơ sở thờ tự Ngô Quyền" trong mục "Tuyên truyền và tưởng niệm" bên dưới.
Xem thêm.
Trần Ngọc Vương, Nguyễn Tô Lan, Trần Trọng Dương (2011), Đường Lâm là Đường Lâm nào? (Tìm về quê hương Đại Sư Khuông Việt Ngô Chân Lưu) (kỳ 1 và kỳ 2), Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, Huế, Số 02- 2011.
Gia đình.
Vợ.
Ngô Quyền chỉ có duy nhất một người vợ là con gái Dương Đình Nghệ. Bà có tên là "Dương Thị Vy", hiện được thờ ở đình làng Nguyễn Xá (trước là Ngô Xá) xã Bồ Đề, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam.
Bà Đỗ Thị Sa người làng Dục Tú, huyện Đông Anh thì theo Gia phả họ Đỗ tại đây bà là Cung phi vương phủ tức là phi của một vị chúa nào đó sống cách thời Ngô Quyền chừng 700 năm chứ không phải phi của Ngô Quyền. Kết quả nghiên cứu nói trên do nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Chiến thực hiện và báo cáo trong Hội thảo khoa học "Ngô Quyền với Cổ Loa", sau đó được in thành sách với tên như trên vào năm sau, 2014 do Nhà Xuất bản Giáo dục Việt Nam ấn hành.
Tưởng niệm.
Hiện nay ở làng Đường Lâm (Sơn Tây, Hà Nội) có đền và lăng thờ Ngô Quyền. Ngoài ra còn có gần 50 nơi khác có liên quan thờ Ngô Quyền và các tướng lĩnh thuộc triều đại Ngô Vương, trong đó nhiều nhất thuộc vùng đất Hải Phòng (34 di tích), Thái Bình (3 di tích), Hà Nam (1 di tích), Phú Thọ (1 di tích), Hưng Yên (3 di tích).
Đền thờ và lăng Ngô Quyền ở thôn Cam Lâm, xã Đường Lâm, thị xã Sơn Tây là một địa chỉ du lịch và tâm linh nổi tiếng của làng cổ này. |
Ngô Quyền | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1411 | Đền được xây dựng bằng gạch, lợp ngói mũi hài, quay về hướng đông, có tường bao quanh. Qua tam quan, hai bên có tả mạc, hữu mạc, mỗi dãy nhà gồm năm gian nhỏ. Đại bái có hoành phi khắc bốn chữ "Tiền Vương bất vọng". Ngày nay tòa đại bái được dùng làm phòng trưng bày về thân thế, sự nghiệp của Ngô Quyền và nhà triển lãm chiến thắng Bạch Đằng. Hậu cung kiến trúc theo kiểu chữ "đinh" (丁), có tượng Ngô Quyền, đã được tu tạo vào năm 1877. Lăng Ngô Quyền có mái che, cao 1,5 mét, bia đá được khắc thời Tự Đức, có ghi bốn chữ Hán "Tiền Ngô Vương lăng". Tiền Ngô vương lăng đã được trùng tu năm 2013 với vốn đầu tư trùng tu lăng là 29 tỉ đồng, trong đó gia tộc họ Ngô đóng góp 30%.
Trước năm 1945, đền thờ Ngô Quyền có hai mẫu ruộng do ba xóm Đông, Tây, Nam của làng Cam Lâm thay nhau cấy lúa để sửa soạn tế lễ. Lễ vật gồm một con lợn nặng 50 kg, 30 đấu gạo nếp để thổi xôi, trầu cau, hương hoa… Trong hai ngày tế lớn (14 và 15 tháng 8 âm lịch), làng cử một thủ từ và tám tuần phiên để canh gác nhà thờ.
Tại thành phố Hải Phòng có nhiều di tích gắn liền với Ngô Quyền cùng với chiến thắng năm 938. Tương truyền trước khi đánh quân Nam Hán, Ngô Quyền đã đóng đại bản doanh, chiêu binh tập mã ở khu vực Từ Lương Xâm (nay thuộc quận Hải An Hải Phòng), khu vực Vườn Quyến (quận Ngô Quyền) tương truyền xưa kia từng là nơi Ngô Quyền cho binh sĩ tập luyện để chuẩn bị chiến đấu, tại đây Ngô Quyền đã cho bắc một cây cầu gọi là cầu Gù nối liền doanh trại với làng Đông Khê để thuận tiện cho việc đi lại và tiếp tế của nghĩa quân và nhân dân. Nhân dân các làng quanh khu vực nghĩa quân đóng trại cũng đã hăng hái xung phong làm quân cận vệ và tham gia vào công việc chuẩn bị, gọt đẽo và đóng những cọc gỗ xuống lòng sông Bạch Đằng để đánh quân Nam Hán. Hằng năm vào trung tuần tháng hai âm lịch, đình, miếu các làng ở quanh khu vực này đều mở hội, cúng tế rất linh đình, ngoài ra còn có hát ả đào, hát chèo, múa hạc gỗ và nhiều trò dân gian khác. |
Ngô Quyền | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1411 | Quanh khu vực hạ lưu sông Bạch Đằng có đến hơn 30 đền miếu thờ Ngô Quyền và các tướng của ông, trong đó nhiều nhất là ở thành phố Hải Phòng.
Các cơ sở thờ tự Ngô Quyền.
Nhiều đường phố mang tên Ngô Quyền như tại quận Hoàn Kiếm và Hà Đông, Hà Nội, thành phố Thanh Hóa, thị xã Quảng Yên, thành phố Đà Nẵng, thành phố Quy Nhơn... Tên ông cũng là tên của một quận nội thành của Hải Phòng. Nhiều trường học ở Việt Nam cũng mang tên Ngô Quyền. |
Gangnihessou | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1412 | Gangnihessou hay Ganye Hessou là vị quốc vương đầu tiên của "12 quốc vương của Dahomey" cận đại (ngày nay là Bénin).
Có thể là Gangnihessou cai trị vào khoảng những năm 1620. Biểu trưng của ông là con chim gangnihessou đực (con đó có tên bằng hình vẽ), cái trống và đôi gậy để ném và đi săn.
Theo sử sách thì chưa chắc chắn là ông có thực sự là quốc vương hay không. Có thể ông chỉ là một cố vấn có ảnh hưởng, sử dụng những lời khuyên để điều hành vương quốc cùng em trai, tên là Dakodonou, một điều rõ ràng là ông này (Dakodonou) được công nhận như là quốc vương trong thời đại của mình (1620-1645). |
HTML | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1414 | HTML (viết tắt của từ HyperText Markup Language, hay còn gọi là "Ngôn ngữ Đánh dấu Siêu văn bản") là một ngôn ngữ đánh dấu được thiết kế ra để tạo nên các trang web trên World Wide Web. Nó có thể được trợ giúp bởi các công nghệ như CSS và các ngôn ngữ kịch bản giống như JavaScript.
Các trình duyệt web nhận tài liệu HTML từ một web server hoặc một kho lưu trữ cục bộ và render tài liệu đó thành các trang web đa phương tiện. HTML mô tả cấu trúc của một trang web về mặt ngữ nghĩa và các dấu hiệu ban đầu được bao gồm cho sự xuất hiện của tài liệu.
Các phần tử HTML là các khối xây dựng của các trang HTML. Với cấu trúc HTML, hình ảnh và các đối tượng khác như biểu mẫu tương tác có thể được nhúng vào trang được hiển thị. HTML cung cấp một phương tiện để tạo tài liệu có cấu trúc bằng cách biểu thị ngữ nghĩa cấu trúc cho văn bản như headings, paragraphs, lists, links, quotes và các mục khác. Các phần tử HTML được phân định bằng các "thẻ", được viết bằng dấu ngoặc nhọn. Các thẻ như và giới thiệu trực tiếp nội dung vào trang. Các thẻ khác như bao quanh và cung cấp thông tin về văn bản tài liệu và có thể bao gồm các thẻ khác làm phần tử phụ. Các trình duyệt không hiển thị các thẻ HTML, nhưng sử dụng chúng để diễn tả nội dung của trang.
HTML có thể nhúng các chương trình được viết bằng scripting như JavaScript, điều này ảnh hưởng đến hành vi và nội dung của các trang web. Việc bao gồm CSS xác định giao diện và bố cục của nội dung. World Wide Web Consortium (W3C), trước đây là đơn vị bảo trì HTML và là người duy trì hiện tại của các tiêu chuẩn CSS, đã khuyến khích việc sử dụng CSS trên HTML trình bày rõ ràng
Lịch sử.
Phát triển.
Năm 1980, nhà vật lý Tim Berners-Lee, một nhà thầu tại CERN, đã đề xuất và tạo mẫu ENQUIRE, một hệ thống cho các nhà nghiên cứu CERN sử dụng và chia sẻ tài liệu. Năm 1989, Berners-Lee đã viết một bản ghi nhớ đề xuất một hệ thống siêu văn bản dựa trên Internet. Berners-Lee xác định rõ HTML và viết phần mềm trình duyệt và máy chủ vào cuối năm 1990. Năm đó, Berners-Lee và kỹ sư hệ thống dữ liệu CERN Robert Cailliau đã hợp tác để cùng yêu cầu tài trợ, nhưng dự án không được CERN chính thức thông qua. |
HTML | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1414 | Trong ghi chú cá nhân của mình từ năm 1990, ông đã liệt kê "một số trong nhiều lĩnh vực mà siêu văn bản được sử dụng" và đặt một cuốn bách khoa toàn thư lên hàng đầu
Mô tả HTML công khai đầu tiên là một tài liệu có tên "HTML Tags", lần đầu tiên được đề cập trên Internet bởi Tim Berners-Lee vào cuối năm 1991. Nó mô tả 18 phần tử bao gồm thiết kế ban đầu, tương đối đơn giản của HTML. Ngoại trừ thẻ siêu liên kết, chúng bị ảnh hưởng mạnh bởi SGMLguid, một định dạng tài liệu dựa trên Standard Generalized Markup Language (SGML) tại CERN. Mười một trong số các phần tử này vẫn tồn tại trong HTML 4.
HTML là một ngôn ngữ đánh dấu mà các trình duyệt web sử dụng để giải thích và soạn văn bản, hình ảnh và các tài liệu khác thành các trang web trực quan hoặc nghe được. Các đặc điểm mặc định cho mọi mục của đánh dấu HTML được xác định trong trình duyệt và các đặc điểm này có thể được thay đổi hoặc nâng cao bằng cách sử dụng thêm CSS của nhà thiết kế trang web. Nhiều thành phần văn bản được tìm thấy trong báo cáo kỹ thuật 1988 ISO TR 9537 "Techniques for using SGML", lần lượt đề cập đến các tính năng của các ngôn ngữ định dạng văn bản ban đầu, chẳng hạn như được sử dụng bởi lệnh RUNOFF được phát triển vào đầu những năm 1960 cho hệ điều hành CTSS (Compatible Time-Sharing System): các lệnh định dạng này bắt nguồn từ các lệnh được sử dụng bởi các bộ sắp chữ để định dạng tài liệu theo cách thủ công. Tuy nhiên, khái niệm SGML về đánh dấu tổng quát dựa trên các phần tử (các phạm vi được chú thích lồng nhau với các thuộc tính) chứ không chỉ đơn thuần là các hiệu ứng in, với sự phân tách của cấu trúc và đánh dấu, HTML đã được chuyển dần theo hướng này với CSS.
Berners-Lee xem xét HTML là một ứng dụng của SGML. Nó chính thức được định nghĩa như vậy bởi Internet Engineering Task Force (IETF) với việc xuất bản vào giữa năm 1993 về đề xuất đầu tiên cho một đặc tả HTML, Bản thảo trên Internet "Hypertext Markup Language (HTML)" của Berners-Lee và Dan Connolly, bao gồm định nghĩa kiểu SGML Document type definition để xác định ngữ pháp. |
HTML | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1414 | Bản dự thảo hết hạn sau sáu tháng, nhưng đáng chú ý vì nó đã thừa nhận thẻ tùy chỉnh của trình duyệt NCSA Mosaic để nhúng hình ảnh trong dòng, phản ánh triết lý của IETF về việc dựa trên các tiêu chuẩn trên các nguyên mẫu thành công. Tương tự, Bản thảo Internet cạnh tranh của Dave Raggett, "HTML+ (Hypertext Markup Format)", ừ cuối năm 1993, đề xuất tiêu chuẩn hóa các tính năng đã được triển khai như bảng và biểu mẫu điền vào.
Sau khi các bản thảo HTML và HTML+ hết hạn vào đầu năm 1994, IETF đã tạo một HTML Working Group, nhóm này vào năm 1995 đã hoàn thành "HTML 2.0", đặc tả HTML đầu tiên dự định sẽ được coi là tiêu chuẩn dựa trên việc triển khai trong tương lai.
Sự phát triển hơn nữa dưới sự bảo trợ của IETF đã bị đình trệ bởi các lợi ích cạnh tranh. các đặc tả ký thuật HTML đã được duy trì, với đầu vào từ các nhà cung cấp phần mềm thương mại, bởi World Wide Web Consortium (W3C). Tuy nhiên, vào năm 2000, HTML cũng đã trở thành tiêu chuẩn quốc tế (ISO/IEC 15445:2000). HTML 4.01 được xuất bản vào cuối năm 1999, với các bản tiếp theo được xuất bản đến năm 2001. Năm 2004, sự phát triển bắt đầu trên HTML5 trong Web Hypertext Application Technology Working Group (WHATWG), nhóm này đã trở thành một nhóm có thể phân phối chung với W3C vào năm 2008, và được hoàn thiện và chuẩn hóa trên Ngày 28 tháng 10 năm 2014.
Dòng thời gian các bản dự thảo HTML.
Đánh dấu.
Có bốn loại phần tử đánh dấu trong HTML:
Tách phần trình bày và nội dung.
Nỗ lực tách phần nội dung ra khỏi phần hình thức trình bày của trang HTML đã đưa đến sự xuất hiện của các chuẩn mới như XHTML. Các chuẩn này nhấn mạnh vào việc sử dụng thẻ đánh dấu vào việc xác định cấu trúc tài liệu như phần đề mục, đoạn văn, khối văn bản trích dẫn và các bảng, chứ không khuyên dùng các thẻ đánh dấu mang tính chất trình bày trực quan, như codice_1, codice_2 (in đậm), và codice_3 (in nghiêng). Những mã mang tính chất trình bày đó đã được loại bỏ khỏi HTML 4.01 Strict và các đặc tả XHTML nhằm tạo điều kiện cho CSS. CSS cung cấp một giải pháp giúp tách cấu trúc HTML ra khỏi phần trình bày của nội dung của nó. Xem phần tách nội dung và trình bày.
Cấu trúc trang HTML. |
HTML | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1414 | Cấu trúc trang HTML.
<!DOCTYPE html>
<html lang="en">
<head>
<meta charset="UTF-8">
<meta name="viewport" content="width=device-width, initial-scale=1.0">
<meta http-equiv="X-UA-Compatible" content="ie=edge">
<title></title><script data-ad-client="ca-pub-2883196244040435" async src="https://pagead2.googlesyndication.com/pagead/js/adsbygoogle.js"></script>
</head>
<body>
</body>
</html> |
XHTML | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1415 | XHTML (viết tắt của tiếng Anh "Extensible HyperText Markup Language", "Ngôn ngữ Đánh dấu Siêu văn bản Mở rộng") là một ngôn ngữ đánh dấu có cùng các khả năng như HTML, nhưng có cú pháp chặt chẽ hơn. XHTML 1.0 là Khuyến cáo của World Wide Web Consortium (W3C) vào ngày 26 tháng 2 năm 2000.
Tổng quan.
Về phương diện kĩ thuật, XHTML là một họ các kiểu tài liệu hiện tại và tương lai cùng các mô đun nhằm tái tạo lại, mở rộng, thâu nạp HTML, tái cấu trúc lại dưới dạng XML. Các dạng tài liệu thuộc họ XHTML tất cả đều dựa trên XML, và được thiết kế để làm việc tuyệt đối với các trình đại diện người dùng hiểu XML. XHTML là thế hệ kế tiếp HTML, và đã có một loại các đặc tả được phát triển cho XHTML.
Một số khác biệt giữa HTML và XHTML.
Các phần tử phải được lồng nhau đúng cách.
Trong HTML một số phần tử có thể được lồng vào nhau không đúng cách như thế này.
<b><i>This text is bold and italic</b></i>
Trong XHTML tất cả các phần tử phải được lồng vào nhau đúng cách như thế này:
<b><i>This text is bold and italic</i></b>
Chú ý: Một lỗi thường thấy ở các danh sách gạch đầu dòng lồng vào nhau mà quên mất rằng danh sách bên trong phải được đặt trong phần tử li. Ví dụ:
<ul>
<li>Coffee</li>
<li>Tea
<ul>
<li>Black tea</li>
<li>Green tea</li>
</ul>
<li>Milk</li>
</ul>
Đây mới là đúng:
<ul>
<li>Coffee</li>
<li>Tea
<ul>
<li>Black tea</li>
<li>Green tea</li>
</ul>
</li>
<li>Milk</li>
</ul>
Phải có đặt ở dạng chuẩn ("well-formed").
Tất cả các phần tử XHTML phải được đặt lồng bên trong phần tử gốc . Tất cả các phần tử khác có thể có các phần tử con. Các phần tử con phải đi theo cặp và phải được đặt lồng nhau đúng cách bên trong phần tử mẹ. Cấu trúc tài liệu cơ bản là:
<html>
<head>... </head>
<body>... </body>
</html>
Tên gọi của thẻ đều phải viết thường.
Do XHTML kế thừa cú pháp của XML và mỗi trang XHTML đều là các ứng dụng XML cho nên XHTML có phân biệt chữ hoa chữ thường, điều không có ở HTML. |
XHTML | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1415 | Với HTML thì các thẻ như codice_1 và codice_2 là hiểu là giống nhau nhưng một khi bạn đã xác định trang web của bạn là XHTML thì trình duyệt sẽ dịch hai thẻ này là khác nhau.
HTML chấp nhận cách viết dưới:
<BODY>
<P>This is a paragraph</P>
</BODY>
XHTML đòi hỏi phải viết lại phần trên thành:
<body>
<p>This is a paragraph</p>
</body>
Tất cả các phần tử XHTML phải được đóng lại.
Phần tử không rỗng phải có một thẻ đóng. HTML chấp nhận cách viết dưới:
<p>This is a paragraph
<p>This is another paragraph
XHTML đòi hỏi phải viết lại phần trên thành:
<p>This is a paragraph</p>
<p>This is another paragraph</p>
Các phần tử rỗng cũng phải được đóng lại.
Các phần tử rỗng hoặc là phải có thể đóng hoặc là thẻ khởi đầu phải được kết thúc bằng codice_3. HTML chấp nhận cách viết dưới:
This is a break<br>
Here comes a horizontal rule:<hr>
Here's an image<img src="happy.gif" alt="Happy face">
XHTML đòi hỏi phải viết lại phần trên thành:
This is a break<br />
Here comes a horizontal rule:<hr />
Here's an image<img src="happy.gif" alt="Happy face" />
Chú ý quan trọng.
Để làm cho trang XHTML tương thích với các trình duyệt hiện nay thì nên đặt một khoảng trắng thêm vào trước ký tự kiểu như , và
Các giá trị của thuộc tính phải được đặt trong dấu nháy kép.
HTML chấp nhận cách viết dưới:
<table width="100%">
XHTML đòi hỏi phải viết lại phần trên thành:
<table width="100%" />
Việc tối giản thuộc tính là bị nghiêm cấm.
HTML chấp nhận cách viết dưới:
XHTML đòi hỏi phải viết lại phần trên thành: |
Phong trào Chữ thập đỏ và Trăng lưỡi liềm đỏ quốc tế | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1418 | Phong trào Chữ thập đỏ – Trăng lưỡi liềm đỏ quốc tế là một phong trào nhân đạo quốc tế với khoảng 97 triệu tình nguyện viên, thành viên và nhân viên trên toàn thế giới được thành lập để bảo vệ cuộc sống và sức khỏe của con người, để đảm bảo tôn trọng mọi người, nhằm ngăn chặn và làm giảm bớt đau khổ của con người.
Phong trào này bao gồm một số tổ chức riêng biệt độc lập về mặt pháp lý với nhau, nhưng được hợp nhất trong phong trào thông qua các nguyên tắc cơ bản chung, mục tiêu, biểu tượng, đạo luật và tổ chức quản lý. Các bộ phận của phong trào là:
Lịch sử.
Ủy ban Chữ thập đỏ quốc tế (ICRC).
Solferino, Jean-Henri Dunant và thành lập tổ chức.
Cho đến giữa thế kỷ 19, không có hệ thống điều dưỡng quân đội có tổ chức và/hoặc được thiết lập tốt cho thương vong và không có các tổ chức an toàn và được bảo vệ để tiếp nhận và chữa trị cho những người bị thương trên chiến trường. Một Kitô hữu cải cách sùng đạo, doanh nhân người Thụy Sĩ Jean-Henri Dunant, vào tháng 6 năm 1859, đã tới Ý để gặp hoàng đế Pháp Napoléon III với ý định thảo luận về những khó khăn khi tiến hành kinh doanh tại Algeria, lúc đó bị Pháp chiếm đóng. Anh đến thị trấn nhỏ Solferino vào tối ngày 24 tháng 6 sau Trận Solferino, một cuộc tấn công trong Chiến tranh Austro-Sardinian. Trong một ngày, khoảng 40.000 binh sĩ ở cả hai phía đã chết hoặc bị thương. Jean-Henri Dunant đã bị sốc bởi hậu quả khủng khiếp của trận chiến, sự đau khổ của những người lính bị thương và gần như thiếu sự tham gia y tế và chăm sóc cơ bản. Ông hoàn toàn từ bỏ ý định ban đầu của chuyến đi và trong vài ngày, Dunant đã tận tình giúp đỡ điều trị và chăm sóc những người bị thương. Ông đã tham gia tổ chức một mức độ hỗ trợ cứu trợ rất lớn cùng với dân làng địa phương để hỗ trợ các binh sĩ mà không bị phân biệt đối xử.
Trở về nhà ở Geneva, ông quyết định viết một cuốn sách có tựa đề "Ký ức về Solferino" mà ông đã xuất bản bằng tiền riêng của mình vào năm 1862. |
Phong trào Chữ thập đỏ và Trăng lưỡi liềm đỏ quốc tế | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1418 | Ông đã gửi các bản sao của cuốn sách cho các nhân vật chính trị và quân sự hàng đầu khắp châu Âu, và những người mà ông nghĩ có thể giúp ông tạo ra sự thay đổi. Ngoài việc viết một mô tả sống động về những trải nghiệm của ông ở Solferino vào năm 1859, ông còn chủ trương thành lập các tổ chức cứu trợ tự nguyện quốc gia để giúp các y tá bị thương trong trường hợp chiến tranh, một ý tưởng được truyền cảm hứng từ giáo huấn Kitô giáo về trách nhiệm xã hội. như kinh nghiệm của anh sau chiến trường Solferino. Ngoài ra, ông kêu gọi xây dựng một hiệp ước quốc tế để đảm bảo việc bảo vệ y tế và bệnh viện dã chiến cho các binh sĩ bị thương trên chiến trường.
Năm 1863, Gustave Moynier, một luật sư tại Geneva và chủ tịch của Hiệp hội phúc lợi công cộng Geneva, đã nhận được một bản sao của cuốn sách của Dunant và giới thiệu nó để thảo luận tại một cuộc họp của xã hội đó. Do kết quả của cuộc thảo luận ban đầu này, xã hội đã thành lập một ủy ban điều tra để xem xét tính khả thi của các đề xuất của Dunant và cuối cùng là tổ chức một hội nghị quốc tế về việc thực hiện có thể của họ. Các thành viên của ủy ban này, sau đó được gọi là "Ủy ban của năm", ngoài Dunant và Moynier là bác sĩ Louis Appia, người có kinh nghiệm quan trọng làm việc như một bác sĩ phẫu thuật; Bạn của Appia và đồng nghiệp Théodore Maunoir, từ Ủy ban Sức khỏe và Vệ sinh Geneva; và Guillaume-Henri Dufour, một vị tướng quân đội Thụy Sĩ nổi tiếng. Tám ngày sau, năm người đàn ông quyết định đổi tên ủy ban thành "Ủy ban quốc tế cứu trợ người bị thương". Vào tháng 10 (26 Ném29) 1863, hội nghị quốc tế do ủy ban tổ chức đã được tổ chức tại Geneva để phát triển các biện pháp khả thi để cải thiện các dịch vụ y tế trên chiến trường. Hội nghị có sự tham gia của 36 cá nhân: mười tám đại biểu chính thức từ các chính phủ quốc gia, sáu đại biểu từ các tổ chức phi chính phủ khác, bảy đại biểu nước ngoài không chính thức và năm thành viên của Ủy ban quốc tế. |
Phong trào Chữ thập đỏ và Trăng lưỡi liềm đỏ quốc tế | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1418 | Các quốc gia và vương quốc được đại diện bởi các đại biểu chính thức là: Đế quốc Áo, Đại công tước xứ Baden, Vương quốc Bavaria, Đế quốc Pháp, Vương quốc Hanover, Đại công quốc xứ Hắc bang, Vương quốc Ý, Vương quốc Hà Lan, Vương quốc Phổ, Đế quốc Nga, Vương quốc Sachsen, Vương quốc Tây Ban Nha, Vương quốc Thụy Điển và Na Uy, và Vương quốc Liên hiệp Anh và Ireland.
Các đề xuất được đưa ra trong các nghị quyết cuối cùng của hội nghị, được thông qua vào ngày 29 tháng 10 năm 1863, là:
Chỉ một năm sau, chính phủ Thụy Sĩ đã mời chính phủ của tất cả các nước châu Âu, cũng như Hợp chủng quốc Hoa Kỳ, Đế quốc Brazil và Đế chế Mexico, tham dự một hội nghị ngoại giao chính thức. Mười sáu quốc gia đã gửi tổng cộng hai mươi sáu đại biểu đến Geneva. Vào ngày 22 tháng 8 năm 1864, hội nghị đã thông qua Công ước Genève đầu tiên "cho việc cải thiện tình trạng thương binh trong quân đội". Đại diện của 12 tiểu bang và vương quốc đã ký kết công ước:
Công ước bao gồm mười điều khoản, lần đầu tiên thiết lập các quy tắc ràng buộc về mặt pháp lý đảm bảo tính trung lập và bảo vệ cho các binh sĩ bị thương, nhân viên y tế hiện trường và các tổ chức nhân đạo cụ thể trong một cuộc xung đột vũ trang.
Ngay sau khi thành lập Công ước Geneva, các xã hội quốc gia đầu tiên được thành lập tại Bỉ, Đan Mạch, Pháp, Oldenburg, Phổ, Tây Ban Nha và Wurmern. Cũng trong năm 1864, Louis Appia và Charles van de Velde, một đại úy của Quân đội Hà Lan, đã trở thành những đại biểu độc lập và trung lập đầu tiên làm việc theo biểu tượng của Hội Chữ thập đỏ trong một cuộc xung đột vũ trang. Ba năm sau, vào năm 1867, Hội nghị quốc tế đầu tiên của các Hiệp hội viện trợ quốc gia về điều dưỡng thương binh chiến tranh đã được triệu tập. Cũng trong năm 1867, Jean-Henri Dunant bị buộc phải tuyên bố phá sản do thất bại trong kinh doanh ở Algeria, một phần vì ông đã bỏ bê lợi ích kinh doanh của mình để tập trung vào các hoạt động không mệt mỏi của mình cho Ủy ban Quốc tế. |
Phong trào Chữ thập đỏ và Trăng lưỡi liềm đỏ quốc tế | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1418 | Tranh cãi xung quanh các thỏa thuận kinh doanh của Dunant và kết quả dư luận tiêu cực, kết hợp với một cuộc xung đột đang diễn ra giữa Dunant với Gustave Moynier, dẫn đến việc Dunant bị trục xuất khỏi vị trí là một thành viên và thư ký của tổ chức này. Dunant bị buộc tội phá sản gian lận và lệnh bắt giữ ông đã được ban hành. Do đó, Dunant buộc phải rời Geneva và không bao giờ trở về thành phố quê nhà của ông.
Trong những năm tiếp theo, các xã hội quốc gia được thành lập ở hầu hết các quốc gia ở Châu Âu. Dự án đã cộng hưởng tốt với những tình cảm yêu nước đang trỗi dậy vào cuối thế kỷ XIX, và các xã hội quốc gia thường được khuyến khích như là dấu hiệu của ưu thế đạo đức quốc gia. Năm 1876, ủy ban đã thông qua cái tên "Ủy ban Chữ thập đỏ quốc tế" (ICRC), vẫn là tên gọi chính thức của nó ngày nay. Năm năm sau, Hội Chữ thập đỏ Hoa Kỳ được thành lập thông qua những nỗ lực của Clara Barton. Ngày càng có nhiều quốc gia ký kết Công ước Geneva và bắt đầu tôn trọng nó trong thực tế trong các cuộc xung đột vũ trang. Trong một khoảng thời gian khá ngắn, Hội Chữ thập đỏ đã đạt được động lực lớn khi là một phong trào được quốc tế tôn trọng, và các xã hội quốc gia ngày càng trở nên phổ biến như một địa điểm cho công việc tình nguyện.
Khi giải Nobel Hòa bình đầu tiên được trao vào năm 1901, Ủy ban Nobel Na Uy đã chọn trao nó cho Jean-Henri Dunant và Frédéric Passy, một nhà hòa bình quốc tế hàng đầu. Quan trọng hơn cả danh dự của giải thưởng, giải thưởng này đã đánh dấu sự phục hồi quá hạn của Jean-Henri Dunant và thể hiện sự tôn vinh vai trò quan trọng của ông trong việc hình thành Hội Chữ thập đỏ. Dunant đã chết 9 năm sau đó trong khu nghỉ dưỡng sức khỏe ở Heiden, Thụy Sĩ. Chỉ hai tháng trước đó, đối thủ lâu đời của ông, Gustave Moynier cũng đã qua đời, để lại dấu ấn trong lịch sử của Ủy ban với tư cách là chủ tịch phục vụ lâu nhất từ trước đến nay.
Năm 1906, Công ước Geneva 1864 lần đầu tiên được sửa đổi. |
Phong trào Chữ thập đỏ và Trăng lưỡi liềm đỏ quốc tế | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1418 | Một năm sau, Công ước Hague X, được thông qua tại Hội nghị Hòa bình Quốc tế lần thứ hai ở The Hague, đã mở rộng phạm vi của Công ước Geneva cho chiến tranh hải quân. Ngay trước khi bắt đầu Chiến tranh thế giới thứ nhất vào năm 1914, 50 năm sau khi thành lập ICRC và thông qua Công ước Geneva đầu tiên, đã có 45 xã hội cứu trợ quốc gia trên toàn thế giới. Phong trào đã mở rộng ra ngoài Châu Âu và Bắc Mỹ đến Trung và Nam Mỹ (Cộng hòa Argentina, Hoa Kỳ Brazil, Cộng hòa Chile, Cộng hòa Cuba, Hoa Kỳ Mexico, Cộng hòa Peru, Cộng hòa El Salvador, Cộng hòa phương Đông của Uruguay, Venezuela), Châu Á (Cộng hòa Trung Quốc, Đế quốc Nhật Bản và Vương quốc Xiêm) và Châu Phi (Liên minh Nam Phi).
Thế Chiến thứ nhất.
Khi Chiến tranh thế giới thứ nhất bùng nổ, ICRC đã phải đương đầu với những thách thức to lớn mà họ chỉ có thể xử lý bằng cách hợp tác chặt chẽ với các xã hội Chữ thập đỏ quốc gia. Các y tá Hội Chữ thập đỏ từ khắp nơi trên thế giới, bao gồm Hoa Kỳ và Nhật Bản, đã đến để hỗ trợ các dịch vụ y tế của các lực lượng vũ trang của các nước châu Âu tham gia vào cuộc chiến. Vào ngày 15 tháng 8 năm 1914, ngay sau khi bắt đầu chiến tranh, ICRC đã thành lập Cơ quan Tù nhân Quốc tế (POW), có khoảng 1.200 nhân viên tình nguyện chủ yếu vào cuối năm 1914. Đến cuối cuộc chiến, Cơ quan đã chuyển khoảng 20 triệu thư và tin nhắn, 1,9 triệu bưu kiện và khoảng 18 triệu franc Thụy Sĩ để quyên góp tiền cho tù binh của tất cả các nước bị ảnh hưởng. Hơn nữa, do sự can thiệp của Cơ quan, khoảng 200.000 tù nhân đã được trao đổi giữa các bên tham chiến, được thả ra khỏi nơi giam cầm và trở về nước họ. Chỉ số thẻ tổ chức của Cơ quan tích lũy được khoảng 7 triệu hồ sơ từ 1914 đến 1923. Chỉ số thẻ dẫn đến việc xác định khoảng 2 triệu tù binh và khả năng liên lạc với gia đình của họ. Chỉ số hoàn chỉnh được cho mượn ngày hôm nay từ ICRC đến Bảo tàng Chữ thập đỏ và Trăng lưỡi liềm đỏ quốc tế tại Geneva. Quyền truy cập vào chỉ mục vẫn bị hạn chế nghiêm ngặt đối với ICRC. |
Phong trào Chữ thập đỏ và Trăng lưỡi liềm đỏ quốc tế | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1418 | Trong toàn bộ cuộc chiến, ICRC đã theo dõi sự tuân thủ của các bên tham chiến với Công ước Geneva về sửa đổi năm 1907 và chuyển các khiếu nại về các vi phạm đối với quốc gia tương ứng. Khi vũ khí hóa học được sử dụng trong cuộc chiến này lần đầu tiên trong lịch sử, ICRC đã phản đối mạnh mẽ chống lại loại chiến tranh mới này. Ngay cả khi không có sự ủy nhiệm từ các Công ước Geneva, ICRC đã cố gắng cải thiện sự đau khổ của dân số. Trong các lãnh thổ được chính thức chỉ định là "lãnh thổ bị chiếm đóng", ICRC có thể hỗ trợ người dân trên cơ sở "Luật pháp và Phong tục chiến tranh trên đất liền" của Công ước Hague năm 1907. Công ước này cũng là cơ sở pháp lý cho công việc của ICRC dành cho các tù nhân chiến tranh. Ngoài công việc của Cơ quan Tù nhân Quốc tế như được mô tả ở trên, bao gồm các chuyến thăm kiểm tra đến các trại tù binh. Tổng cộng có 524 trại trên khắp châu Âu đã được viếng thăm bởi 41 đại biểu từ ICRC cho đến khi kết thúc chiến tranh.
Từ năm 1916 đến 1918, ICRC đã xuất bản một số bưu thiếp với hình ảnh lấy từ các trại tù binh. Các bức ảnh cho thấy các tù nhân trong các hoạt động hàng ngày như phân phát thư từ nhà. Mục đích của ICRC là cung cấp cho gia đình của các tù nhân một số hy vọng và sự an ủi và làm giảm bớt sự không chắc chắn của họ về số phận của những người thân yêu của họ. Sau khi kết thúc chiến tranh, từ năm 1920 đến 1922, ICRC đã tổ chức đưa khoảng 500.000 tù nhân trở về nước họ. Năm 1920, nhiệm vụ hồi hương được giao cho Liên đoàn các quốc gia mới thành lập, đã bổ nhiệm nhà ngoại giao và nhà khoa học người Na Uy Fridtjof Nansen làm "Cao ủy hồi hương tù nhân chiến tranh". Nhiệm vụ pháp lý của ông sau đó đã được mở rộng để hỗ trợ và chăm sóc cho những người tị nạn chiến tranh và những người phải di dời khi văn phòng của ông trở thành "Cao ủy cho người tị nạn" của Liên minh các quốc gia. Nansen, người đã phát minh ra hộ chiếu Nansen cho những người tị nạn không quốc tịch và được trao giải Nobel Hòa bình năm 1922, đã bổ nhiệm hai đại biểu từ ICRC làm đại biểu của mình. |
Phong trào Chữ thập đỏ và Trăng lưỡi liềm đỏ quốc tế | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1418 | Một năm trước khi kết thúc chiến tranh, ICRC đã nhận được giải thưởng Nobel Hòa bình năm 1917 cho công trình thời chiến xuất sắc. Đó là giải thưởng Nobel Hòa bình duy nhất được trao trong giai đoạn 1914 đến 1918. Năm 1923, Ủy ban Chữ thập đỏ quốc tế đã thông qua thay đổi chính sách liên quan đến việc lựa chọn thành viên mới. Cho đến lúc đó, chỉ có công dân từ thành phố Geneva có thể phục vụ trong Ủy ban. Hạn chế này đã được mở rộng để bao gồm các công dân Thụy Sĩ. Do hậu quả trực tiếp của Chiến tranh thế giới thứ nhất, một hiệp ước đã được thông qua vào năm 1925, ngoài vòng pháp luật sử dụng khí độc và các chất độc sinh học làm vũ khí. Bốn năm sau, Công ước ban đầu đã được sửa đổi và Công ước Genève thứ hai "liên quan đến việc cải thiện tình trạng các thành viên bị thương, bị ốm và đắm tàu trên biển" được thành lập. Các sự kiện trong Thế chiến I và các hoạt động tương ứng của ICRC đã làm tăng đáng kể uy tín và quyền hạn của Ủy ban trong cộng đồng quốc tế và dẫn đến việc mở rộng các năng lực của nó.
Ngay từ năm 1934, một dự thảo đề xuất về một công ước bổ sung để bảo vệ dân số ở các vùng bị chiếm đóng trong một cuộc xung đột vũ trang đã được Hội nghị Chữ thập đỏ quốc tế thông qua. Thật không may, hầu hết các chính phủ ít quan tâm đến việc thực hiện quy ước này, và do đó nó đã bị ngăn không cho có hiệu lực trước khi bắt đầu Thế chiến II.
Thế chiến thứ hai.
Phản ứng của Hội Chữ thập đỏ đối với Holocaust là chủ đề gây tranh cãi và chỉ trích đáng kể. Ngay từ tháng 5 năm 1944, ICRC đã bị chỉ trích vì sự thờ ơ với sự đau khổ và cái chết của người Do Thái. Các chỉ trích ICRC trở nên mạnh mẽ sau khi kết thúc chiến tranh, khi toàn bộ Holocaust trở nên không thể phủ nhận. Một biện pháp bảo vệ cho những cáo buộc này là Hội Chữ thập đỏ đã cố gắng giữ gìn danh tiếng của mình như một tổ chức trung lập và vô tư bằng cách không can thiệp vào những gì được coi là vấn đề nội bộ của Đức. Hội Chữ thập đỏ cũng coi trọng tâm chính của mình là tù nhân chiến tranh mà các quốc gia đã ký Công ước Geneva. |
Phong trào Chữ thập đỏ và Trăng lưỡi liềm đỏ quốc tế | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1418 | Cơ sở pháp lý của công việc của ICRC trong Thế chiến II là Công ước Geneva trong bản sửa đổi năm 1929. Các hoạt động của Ủy ban tương tự như trong Thế chiến I: thăm và giám sát các trại tù binh, tổ chức hỗ trợ cứu trợ cho dân cư và quản lý việc trao đổi tin nhắn liên quan đến tù nhân và người mất tích. Đến cuối cuộc chiến, 179 đại biểu đã thực hiện 12.750 chuyến thăm trại tù binh ở 41 quốc gia. Cơ quan Thông tin Trung ương về Tù nhân Chiến tranh ("Agence centrale des prisonniers de guerre") có một đội ngũ 3.000 người, chỉ số thẻ theo dõi các tù nhân chứa 45 triệu thẻ và 120 triệu tin nhắn đã được Cơ quan trao đổi. Một trở ngại lớn là Hội Chữ thập đỏ Đức do Đức Quốc xã kiểm soát đã từ chối hợp tác với các đạo luật Geneva bao gồm các hành vi vi phạm trắng trợn như trục xuất người Do Thái khỏi Đức và các vụ giết người hàng loạt được tiến hành tại các trại tập trung của Đức Quốc xã. Hơn nữa, hai quốc gia chính khác của cuộc xung đột là Liên Xô và Nhật Bản không tham gia Công ước Genève 1929 và không bắt buộc phải tuân theo các quy tắc của công ước.
Trong chiến tranh, ICRC không thể đạt được thỏa thuận với Đức Quốc xã về việc đối xử với những người bị giam giữ trong các trại tập trung, và cuối cùng họ đã từ bỏ áp lực để tránh làm gián đoạn công việc của họ với tù binh. ICRC cũng không thể có được phản hồi về thông tin đáng tin cậy về các trại hủy diệt và giết hại hàng loạt người Do Thái châu Âu, Roma, et al. Sau tháng 11 năm 1943, ICRC đã đạt được sự cho phép gửi bưu kiện đến những người bị giam giữ tại trại tập trung với tên và địa điểm được biết đến. Bởi vì các thông báo nhận các bưu kiện này thường được ký bởi các tù nhân khác, ICRC đã quản lý để đăng ký danh tính của khoảng 105.000 tù nhân trong các trại tập trung và chuyển khoảng 1,1 triệu bưu kiện, chủ yếu đến các trại Dachau, Buchenwald, Ravensbrück và Sachsenhausen.
Maurice Rossel được gửi đến Berlin với tư cách là đại biểu của Hội Chữ thập đỏ Quốc tế; ông đến thăm Theresienstadt vào năm 1944. |
Phong trào Chữ thập đỏ và Trăng lưỡi liềm đỏ quốc tế | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1418 | Sự lựa chọn của Rossel thiếu kinh nghiệm cho nhiệm vụ này đã được giải thích là biểu hiện cho sự thờ ơ của tổ chức của ông đối với "vấn đề Do Thái", trong khi báo cáo của ông được mô tả là "biểu tượng cho sự thất bại của ICRC" để biện hộ cho người Do Thái trong thời kỳ Holocaust. Báo cáo của Rossel được ghi nhận cho sự chấp nhận thô tục của nó đối với tuyên truyền của Đức Quốc xã. Ông nói sai rằng người Do Thái không bị trục xuất khỏi Theresienstadt. Claude Lanzmann đã ghi lại những trải nghiệm của mình vào năm 1979, sản xuất một bộ phim tài liệu mang tên "Một vị khách đến từ cuộc sống".
Vào ngày 12 tháng 3 năm 1945, chủ tịch ICRC Jacob Burckhardt nhận được tin nhắn từ SS General Ernst Kaltenbrunner cho phép các đại biểu của ICRC đến thăm các trại tập trung. Thỏa thuận này bị ràng buộc bởi điều kiện những đại biểu này sẽ phải ở trong các trại cho đến khi kết thúc chiến tranh. Mười đại biểu, trong đó có Louis Haefliger (Mauthausen-Gusen), Paul Dunant (Theresienstadt) và Victor Maurer (Dachau), đã nhận nhiệm vụ và đến thăm các trại. Louis Haefliger đã ngăn chặn việc trục xuất mạnh mẽ hoặc nổ mìn Mauthausen-Gusen bằng cách cảnh báo quân đội Mỹ.
Friedrich Sinh (1903-1963), một đại biểu của ICRC tại Budapest, người đã cứu sống khoảng 11.000 đến 15.000 người Do Thái ở Hungary. Marcel Junod (1904-1961), một bác sĩ từ Geneva là một trong những người nước ngoài đầu tiên đến thăm Hiroshima sau khi bom nguyên tử được thả xuống.
Năm 1944, ICRC đã nhận được giải thưởng Nobel Hòa bình thứ hai. Như trong Thế chiến I, nó đã nhận được giải thưởng Hòa bình duy nhất được trao trong thời kỳ chiến tranh chính, 1939 đến 1945. Vào cuối cuộc chiến, ICRC đã làm việc với các xã hội Chữ thập đỏ quốc gia để tổ chức hỗ trợ cứu trợ cho những quốc gia bị ảnh hưởng nặng nề nhất. Năm 1948, Ủy ban đã xuất bản một báo cáo xem xét các hoạt động thời chiến tranh từ ngày 1 tháng 9 năm 1939 đến ngày 30 tháng 6 năm 1947. ICRC đã mở tài liệu lưu trữ từ Thế chiến II năm 1996.
Sau Thế chiến II.
Vào ngày 12 tháng 8 năm 1949, các bản sửa đổi tiếp theo của hai Công ước Geneva hiện tại đã được thông qua. |
Phong trào Chữ thập đỏ và Trăng lưỡi liềm đỏ quốc tế | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1418 | Một công ước bổ sung "cho việc cải thiện tình trạng các thành viên bị thương, bị ốm và đắm tàu trên biển", hiện được gọi là Công ước Geneva thứ hai, được đưa ra dưới chiếc ô Công ước Geneva với tư cách là người kế thừa Công ước Hague 1907. Công ước Genève 1929 "liên quan đến việc đối xử với tù nhân chiến tranh" có thể là Công ước Genève thứ hai theo quan điểm lịch sử (vì nó thực sự được xây dựng ở Geneva), nhưng sau năm 1949, nó được gọi là Công ước thứ ba vì nó được gọi là Công ước thứ ba vì nó đến sau về mặt thời gian hơn Công ước Hague. Phản ứng với kinh nghiệm của Thế chiến II, Công ước Geneva lần thứ tư, một Công ước mới "liên quan đến bảo vệ người dân trong thời chiến", đã được thành lập. Ngoài ra, các giao thức bổ sung của ngày 8 tháng 6 năm 1977 nhằm mục đích làm cho các công ước được áp dụng cho các cuộc xung đột nội bộ như nội chiến. Ngày nay, bốn quy ước và các giao thức được thêm vào của chúng chứa hơn 600 điều, một sự mở rộng đáng chú ý khi so sánh với 10 điều chỉ trong quy ước năm 1864 đầu tiên.
Biểu trưng.
Lá cờ của phong trào này là Chữ thập đỏ trên nền trắng, vốn là Quốc kỳ Thụy Sĩ đảo màu. Do biểu tượng này không thích hợp với niềm tin tôn giáo ở một số nước, nên biểu tượng Trăng lưỡi liềm đỏ được dùng thay ở các nước Hồi giáo phần nhiều. Ngày 8 tháng 12 năm 2005, một hội nghị ngoại giao bổ sung Hiệp định Genève thứ nhất, để những hội quốc gia của phong trào sử dụng lá Tinh thể Đỏ (cũng được gọi là "Pha lê Đỏ"), biểu trưng thứ ba của Phong trào, với biểu trưng đặc biệt của hội ghép vào giữa. Hành động này để hội Magen David Adom của Israel gia nhập, tại vì trước đây họ sử dụng và đặt tên theo biểu trưng Ngôi sao David đỏ. Trước đây, Iran còn dùng biểu tượng sư tử đỏ. Ngoài ra, các hội chữ thập đỏ quốc gia còn có thể dùng biểu trưng riêng bên cạnh chữ thập đỏ truyền thống. |
Vật lý học | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1419 | Vật lý học hay vật lý (gọi tắt là lý hay “lí”) (tiếng Anh: "physics", từ tiếng Hi Lạp cổ: "φύσις" có nghĩa là "kiến thức về tự nhiên") là một môn khoa học tự nhiên tập trung vào sự nghiên cứu vật chất và chuyển động của nó trong không gian và thời gian, cùng với những khái niệm liên quan như năng lượng và lực. Vật lí học là một trong những bộ môn khoa học lâu đời nhất, với mục đích tìm hiểu sự vận động của vũ trụ.
Vật lí là một trong những ngành hàn lâm sớm nhất, và có lẽ là sớm nhất khi tính chung với thiên văn học. Trong hai thiên niên kỷ vừa qua, vật lí là một phần của triết học tự nhiên cùng với hóa học, vài nhánh cụ thể của toán học và sinh học, nhưng trong cuộc Cách mạng khoa học bắt đầu từ thế kỷ XVII, các môn khoa học tự nhiên nổi lên như các ngành nghiên cứu riêng độc lập với nhau. Vật lí học giao nhau với nhiều lĩnh vực nghiên cứu liên môn ngành khác nhau, như vật lí sinh học và hóa học lượng tử, giới hạn của vật lí cũng không rõ ràng. Các phát hiện mới trong vật lí thường giải thích những cơ chế cơ bản của các môn khoa học khác đồng thời mở ra những hướng nghiên cứu mới trong các lĩnh vực như toán học hoặc triết học.
Vật lí học cũng có những đóng góp quan trọng qua sự tiến bộ các công nghệ mới đạt được do những phát kiến lí thuyết trong vật lí. Ví dụ, sự tiến bộ trong hiểu biết về điện từ học hoặc vật lí hạt nhân đã trực tiếp dẫn đến sự phát minh và phát triển những sản phẩm mới, thay đổi đáng kể bộ mặt xã hội ngày nay, như ti vi, máy vi tính, laser, internet, các thiết bị gia dụng, hay là vũ khí hạt nhân; những tiến bộ trong nhiệt động lực học dẫn tới sự phát triển cách mạng công nghiệp; và sự phát triển của ngành cơ học thúc đẩy sự phát triển phép tính vi tích phân.
Lịch sử.
Triết học tự nhiên được đề cập đến trong nhiều nền văn minh khác nhau. Trong giai đoạn 650 TCN – 480 TCN, khi các nhà triết học Hi Lạp trước Sokrates như Thales phản đối cách giải thích chủ quan duy ý chí cho các hiện tượng tự nhiên và ông cho rằng mọi sự kiện phải có nguyên nhân từ tự nhiên. |
Vật lý học | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1419 | Họ đề xuất ra những ý tưởng nhằm lí giải các quan sát và hiện tượng, và nhiều giả thuyết của họ đã được chứng minh thành công bằng thí nghiệm, ví dụ như Nguyên tử luận.
Vật lí cổ điển trở thành khoa học riêng khi người châu Âu cận đại sử dụng các phương pháp thực nghiệm và định lượng nhằm phát hiện ra các quy luật mà ngày nay gọi là các định luật vật lí. Johannes Kepler, Galileo Galilei và Isaac Newton đã phát hiện và thống nhất nhiều định luật chuyển động khác nhau. Trong thời gian diễn ra cuộc cách mạng công nghiệp, khi mà các thiết bị cần tiêu thụ nhiều năng lượng hơn, do vậy các nhà vật lí đã tiến hành nghiên cứu và phát hiện ra những định luật mới của nhiệt động lực học, hóa học và điện từ học.
Vật lí hiện đại bao gồm thuyết lượng tử do Max Planck khai sinh và Albert Einstein với thuyết tương đối, và những người tiên phong trong cơ học lượng tử như Werner Heisenberg, Erwin Schrödinger, Paul Dirac và rất nhiều nhà khoa học lớn khác.
Triết học vật lí.
Theo nhiều cách, vật lí học bắt nguồn từ Triết học Hi Lạp cổ đại. Từ những cố gắng đầu tiên của Thales nhằm phân loại vật chất, cho đến lập luận của Democritus về vật chất cấu tạo bởi những hạt nhỏ không thể phân chia được, mô hình địa tâm của Ptolemy trong đó bầu trời là mái vòm đặc, và đến cuốn sách "Vật lí" của Aristotle (một trong những cuốn sách đầu tiên về vật lí, với nội dung mô tả và phân tích các chuyển động theo quan điểm triết học), và nhiều nhà triết học Hi Lạp khác đã tự phát triển những lí thuyết khác nhau về tự nhiên. Vật lí được coi là một ngành của triết học tự nhiên cho đến tận cuối thế kỷ XVIII.
Cho đến thế kỷ XIX, vật lí đã tách ra khỏi triết học và trở thành một ngành khoa học riêng. Vật lí, cũng như các ngành khoa học khác, dựa trên triết học của khoa học để đưa ra những miêu tả phù hợp cho phương pháp khoa học. Phương pháp khoa học áp dụng lí luận "tiên nghiệm" và "hậu nghiệm" và sử dụng suy luận Bayes trong đó các quan sát hay bằng chứng được dùng để cập nhật hoặc suy luận ra xác suất cho việc xem xét một giả thuyết có thể là đúng hay không.
Sự phát triển của vật lí học đã mang lại câu trả lời cho nhiều câu hỏi của các nhà triết học trước đây, nhưng cũng đặt ra nhiều câu hỏi mới. |
Vật lý học | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1419 | Các vấn đề của triết học trong vật lí, triết học của vật lí, bao gồm bản chất của không gian và thời gian, quyết định luận, và những lí thuyết trừu tượng như chủ nghĩa kinh nghiệm, chủ nghĩa tự nhiên và thực tại luận.
Nhiều nhà vật lí cũng đã viết về ý nghĩa triết học trong các công trình của họ, như Laplace, người đưa ra học thuyết quyết định luận nhân quả, và Erwin Schrödinger, khi ông viết về ý nghĩa thực tại của cơ học lượng tử. Stephen Hawking đã gọi nhà toán lí Roger Penrose là người theo chủ nghĩa Plato. Trong thảo luận ở cuốn sách của Penrose, "The Road to Reality". Hawking coi Penrose là "người theo chủ nghĩa giản lược không biết đến xấu hổ" và không đồng tình với những quan điểm của Penrose.
Những lí thuyết cốt lõi.
Mặc dù vật lí bao hàm rất nhiều hiện tượng trong tự nhiên, nhưng các nhà vật lí chỉ cần một số lí thuyết để miêu tả những hiện tượng này. Những lí thuyết này không những được kiểm tra bằng thực nghiệm rất nhiều lần với kết quả đúng xấp xỉ trong những phạm vi nhất định mà còn mang lại nhiều ứng dụng cho xã hội. Ví dụ, cơ học cổ điển miêu tả chính xác chuyển động của những vật vĩ mô lớn hơn nguyên tử nhiều lần và di chuyển với vận tốc nhỏ hơn nhiều tốc độ ánh sáng. Những lí thuyết này vẫn còn được nghiên cứu áp dụng cho tới ngày nay, và một nhánh của cơ học cổ điển là lí thuyết hỗn loạn mới chỉ hình thành từ thế kỷ XX, ba thế kỷ sau khi cơ học cổ điển ra đời từ những công trình của Isaac Newton (1642–1727).
Những lí thuyết trung tâm này là công cụ quan trọng cho nghiên cứu những vấn đề cụ thể, và đối với bất kỳ nhà vật lí nào, không kể họ quan tâm tới lĩnh vực nghiên cứu nào, cũng đều được học những lí thuyết này ở trường đại học. Chúng bao gồm cơ học cổ điển, cơ học lượng tử, nhiệt động lực học và cơ học thống kê, điện từ học, và thuyết tương đối hẹp.
Vật lí cổ điển.
Vật lí cổ điển bao gồm những nhánh và chủ đề truyền thống đã được công nhận và phát triển hoàn thiện trước thế kỷ XX—cơ học cổ điển, âm học, quang học, nhiệt động lực học, và điện từ học. |
Vật lý học | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1419 | Cơ học cổ điển nghiên cứu vật thể chịu tác dụng của lực cũng như trạng thái chuyển động của chúng; và có thể chia ra thành môn tĩnh học (nghiên cứu trạng thái đứng yên của vật), động học (nghiên cứu chuyển động của vật mà không xét tới nguyên nhân gây ra chuyển động), và động lực học (nghiên cứu chuyển động và lực ảnh hưởng lên vật); cơ học cũng có thể chia thành các môn cơ học vật rắn và cơ học chất lưu (cả hai môn này thuộc về cơ học môi trường liên tục), và cơ học chất lưu có những nhánh con như thủy tĩnh học, thủy động lực học, khí động lực học, và khí nén học (pneumatics).
Âm học, ngành nghiên cứu âm thanh, mà các nhà vật lí thường coi là một nhánh của cơ học bởi vì âm thanh là do chuyển động của các hạt hay phân tử trong không khí hoặc trong môi trường khác gây ra sóng âm và do đó có thể giải thích theo các định luật của cơ học. Một trong những nhánh quan trọng của âm học là siêu âm học, nghiên cứu sóng siêu âm với tần số cao hơn tần số nghe của con người.
Quang học, bộ môn nghiên cứu chuyển động của ánh sáng, không những chỉ nghiên cứu ánh sáng khả kiến mà còn bao gồm bức xạ hồng ngoại và tử ngoại, mà có tính chất tương tự như ánh sáng ngoại trừ mắt người không thể thấy được, như tính phản xạ, khúc xạ, giao thoa, nhiễu xạ, phân cực và khuếch tán ánh sáng.
Nhiệt lượng là một dạng năng lượng dự trữ trong vật chất nhờ vào chuyển động nhiệt hỗn loạn của các hạt cấu tạo nên vật chất; nhiệt động lực học nghiên cứu các mối liên hệ giữa nhiệt lượng và những dạng năng lượng khác hoặc với các khái niệm như entropy và môn này có liên hệ mật thiết với cơ học thống kê.
Điện học và từ học trở thành một ngành riêng của vật lí kể từ những khám phá mới liên quan đến chúng vào đầu thế kỷ XIX; với quy luật dòng điện chạy qua dây dẫn sinh ra từ trường và một từ trường biến đổi sinh ra dòng điện cảm ứng. Tĩnh điện học nghiên cứu các hạt điện tích đứng yên, Điện động lực học nghiên cứu hành xử của các điện tích chuyển động, và tĩnh từ học nghiên cứu các cực từ đứng yên, như nam châm.
Vật lí hiện đại. |
Vật lý học | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1419 | Vật lí hiện đại.
Vật lí cổ điển nói chung nghiên cứu vật chất và chuyển động ở phạm vi mà con người có thể quan sát và tiếp cận hàng ngày, trong khi vật lí hiện đại nghiên cứu hành trạng của vật chất và tương tác ở những khoảng cách vi mô và vĩ mô. Ví dụ, vật lí nguyên tử và hạt nhân nghiên cứu vật chất ở cấp độ vi mô mà tại đó các nguyên tố hóa học được phân loại một cách cơ bản. Vật lí hạt cơ bản nghiên cứu ở khoảng cách nhỏ hơn nữa về những thành phần cơ bản nhất của vật chất; nhánh vật lí này cũng được gọi là vật lí năng lượng cao bởi vì các nhà khoa học sử dụng máy gia tốc cho các hạt có năng lượng cao va chạm vào nhau để tìm hiểu hành trạng và tính chất của hạt cơ bản. Ở thang khoảng cách vi mô này, những khái niệm thông thường theo trực giác hàng ngày không còn đúng nữa.
Hai lí thuyết trụ cột của vật lí hiện đại miêu tả các khái niệm về không gian, thời gian và vật chất khác với bức tranh miêu tả của vật lí cổ điển. Cơ học lượng tử miêu tả các hạt rời rạc, bản chất của nhiều hiệu ứng cấp nguyên tử và hạ nguyên tử, chi phối bởi nguyên lí bất định và lưỡng tính sóng hạt. Thuyết tương đối miêu tả các hiện tượng xảy ra trong những hệ quy chiếu khác nhau chuyển động so với người quan sát; trong đó thuyết tương đối hẹp miêu tả các hệ quy chiếu chuyển động quán tính và thuyết tương đối tổng quát miêu tả hệ quy chiếu chuyển động gia tốc và tương tác hấp dẫn là do độ cong của không thời gian. Cả lí thuyết lượng tử và thuyết tương đối đều có nhiều ứng dụng trong mọi ngành của vật lí hiện đại và trong đời sống hàng ngày như laser, máy tính hoặc GPS...
Sự khác nhau giữa vật lí cổ điển và vật lí hiện đại.
Trong khi vật lí học hướng đến phát hiện ra những định luật tổng quát miêu tả và giải thích các hiện tượng, thì các lí thuyết của nó áp dụng và đúng cho những phạm vi cụ thể. Nói một cách ngắn gọn, các định luật của vật lí cổ điển miêu tả chính xác những hệ thống có khoảng cách lớn hơn thang đo nguyên tử và chuyển động với vận tốc rất nhỏ so với tốc độ ánh sáng. Bên ngoài phạm vi này, những quan sát thực nghiệm không còn đúng với tiên đoán của cơ học cổ điển. |
Vật lý học | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1419 | Albert Einstein đóng góp vào khuôn khổ của thuyết tương đối hẹp, thay thế một không gian và thời gian tuyệt đối bằng không thời gian phụ thuộc vào tốc độ của hệ quy chiếu và miêu tả chính xác những hệ có vận tốc xấp xỉ tốc độ ánh sáng. Max Planck, Erwin Schrödinger, và những nhà khoa học khác khai phá cơ học lượng tử, với khái niệm phân bố xác suất liên quan đến các tính chất của hạt cũng như tương tác trao đổi giữa chúng và lí thuyết miêu tả một cách chính xác hành trạng của thế giới nguyên tử và hạt hạ nguyên tử. Sau đó, lí thuyết trường lượng tử thống nhất cơ học lượng tử và thuyết tương đối hẹp miêu tả các hạt vi mô chuyển động gần và bằng tốc độ ánh sáng. Thuyết tương đối rộng tổng quát thuyết tương đối hẹp, miêu tả không thời gian cong có tính động lực và phụ thuộc vào sự có mặt và tính chất của vật chất, nó miêu tả những vật thể khối lượng lớn và cấu trúc vĩ mô của toàn vũ trụ cũng như tiên đoán phù hợp với thực nghiệm về sự tiến hóa của vũ trụ. Các nhà vật lí lí thuyết vẫn chưa thống nhất được thuyết tương đối tổng quát miêu tả trường hấp dẫn với ba tương tác cơ bản miêu tả bởi cơ học lượng tử: tương tác mạnh, tương tác yếu và tương tác điện từ; và một vài lí thuyết về hấp dẫn lượng tử đã được đề xuất.
Liên hệ với những lĩnh vực khác.
Tiền đề.
Toán học là ngôn ngữ để miêu tả một cách gọn gàng và logic thứ bậc trong tự nhiên, đặc biệt là các định luật của vật lí. Điều này được chú ý và ủng hộ bởi Pythagoras, Plato, Galileo, và Newton.
Các lí thuyết vật lí sử dụng ngôn ngữ toán học để nhận được những công thức chính xác miêu tả các đại lượng vật lí, thu được những nghiệm chính xác hay những giá trị ước lượng và tiên đoán những hệ quả. Những kết quả thí nghiệm hay thực nghiệm của vật lí đều biểu hiện bằng giá trị số. Những công nghệ dựa trên toán học và máy tính, như khoa học tính toán đã đưa ngành vật lí tính toán trở thành lĩnh vực nhiều triển vọng.
Bản thể luận là một lí thuyết tiên quyết cho vật lí học, nhưng không phải cho toán học. |
Vật lý học | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1419 | Điều đó có nghĩa là vật lí hoàn toàn chỉ mô tả thế giới thực tại, trong khi toán học phát triển đưa ra nhiều ngành trừu tượng, thậm chí vượt khỏi phạm vi thế giới thực. Do vậy những phát biểu vật lí mang tính tổng hợp, trong khi các phát biểu toán học mang tính phân tích. Toán học chứa những tiên đề và giả thuyết, trong khi vật lí học dựa trên những định luật, các nguyên lí cơ bản và công cụ toán học. Các phát biểu toán học chỉ cần thỏa mãn về mặt logic, trong khi các tiên đoán của phát biểu vật lí phải phù hợp với dữ liệu quan sát và thực nghiệm.
Sự khác biệt giữa hai khoa học là rõ ràng, nhưng không phải lúc nào cũng vậy. Ví dụ, ngành vật lí toán áp dụng các công cụ toán học vào vật lí. Phương pháp nghiên cứu của nó bằng toán học, nhưng các đối tượng quan tâm thuộc về vật lí học. Vấn đề trong ngành này bắt đầu bằng "mô hình hóa toán học một hệ vật lí" và "miêu tả các định luật vật lí bằng toán học". Mỗi phát biểu toán học cho mỗi lời giải thường khó tìm được ý nghĩa vật lí trong đó. Lời giải toán học cuối cùng phải thể hiện ý nghĩa vật lí một cách dễ hiểu hơn bởi nó là điều mà người giải đang tìm.
Vật lí là một ngành khoa học cơ bản, không phải là khoa học ứng dụng. Nó là "khoa học cơ bản" bởi vì lĩnh vực nghiên cứu của mọi ngành khoa học tự nhiên như hóa học, thiên văn học, địa chất học, sinh học... đều bị chi phối bởi các định luật vật lí. Ví dụ, hóa học nghiên cứu tính chất, cấu trúc và phản ứng của vật chất (hóa học tập trung nghiên cứu thang nguyên tử và phân tử). Những cấu trúc và hợp chất hóa học hình thành và tuân theo tương tác điện từ, cũng như các định luật bảo toàn năng lượng, khối lượng và điện tích.
Ứng dụng và ảnh hưởng.
Vật lí ứng dụng là một ngành nghiên cứu áp dụng vật lí học cho mục đích và yêu cầu của con người. Vật lí ứng dụng thường chứa một vài lĩnh vực vật lí lí thuyết, như địa chất học hay kỹ thuật điện. |
Vật lý học | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1419 | Ngành này thường khác với ngành kĩ thuật ở chỗ nhà vật lí ứng dụng không hẳn thiết kế một thiết bị gì mới, mà họ sử dụng kiến thức vật lí để thực hiện các nghiên cứu hỗ trợ cho những công nghệ mới hoặc giải quyết một vấn đề kĩ thuật nào đó.
Cách tiếp cận này giống với toán học ứng dụng. Các nhà vật lí ứng dụng cũng quan tâm cách ứng dụng vật lí cho nghiên cứu khoa học. Ví dụ, những kĩ sư tham gia thiết kế và vận hành máy gia tốc thường có mục đích nâng cao hiệu năng hoạt động của máy dò hạt nhằm phục vụ cho vật lí lí thuyết.
Vật lí kĩ thuật dựa nhiều vào cơ sở vật lí học. Ví dụ, cơ học vật rắn, cơ học đất và cơ học kết cấu... là lí thuyết nền tảng cho các kĩ sư thiết kế công trình xây dựng. Bộ môn vật lí kiến trúc bao gồm lí thuyết về âm học, ánh sáng, nhiệt... giúp thiết kế công trình một cách tối ưu, chống tiếng ồn, nâng cao khả năng cách nhiệt và bố trí đèn chiếu sáng hiệu quả. Ngành khí động lực học giúp các kĩ sư hàng không thiết kế máy bay tốt hơn cũng như thực hiện các mô phỏng trước khi cho sản xuất hàng loạt. Trong lĩnh vực giải trí, hình ảnh ti vi và máy tính đạt chuẩn nét cao là nhờ công nghệ nano và điện tử học...
Đa số các nhà vật lí hiện nay chấp nhận rằng các định luật vật lí cũng như các hằng số vật lí là phổ quát và không thay đổi theo thời gian, do vậy những ứng dụng vật lí có thể áp dụng trong nhiều tình huống giả định trước và ở nhiều nơi trên địa cầu. Ví dụ, trong nghiên cứu về lịch sử Trái Đất, các nhà khoa học có thể mô hình hóa khối lượng, nhiệt độ, tốc độ tự quay... của hành tinh theo thời gian tiến hóa của nó. Vật lí học cũng mang lại những tiến triển không ngừng của sự phát triển các công nghệ mới, giảm thiểu tiêu thụ năng lượng, tiết kiệm vật liệu cũng như chi phí sản xuất.
Cũng có những ngành nghiên cứu tổng hợp từ nhiều lĩnh vực khác nhau trong đó có vật lí học, như vật lí kinh tế ("econophysics") hay vật lí xã hội ("sociophysics").
Nghiên cứu.
Phương pháp khoa học. |
Vật lý học | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1419 | Nghiên cứu.
Phương pháp khoa học.
Các nhà vật lí sử dụng các phương pháp khoa học để kiểm chứng một lí thuyết vật lí là đúng hay bác bỏ nó, sử dụng cách tiếp cận phương thức luận nhằm so sánh kết quả tiên đoán của lí thuyết với những giá trị thu được từ thí nghiệm hay quan trắc kiểm chứng nó; và do vậy hỗ trợ các nhà khoa học đi đến quyết định lí thuyết đó là đúng trong một phạm vi nhất định hay phải loại bỏ nó và đi tìm một lí thuyết khác lí giải các kết quả thực nghiệm.
Một định luật khoa học là một phát biểu súc tích hoặc thể hiện dưới công thức toán học liên hệ các đại lượng trong một nguyên lí cơ bản của lí thuyết, như định luật vạn vật hấp dẫn của Newton.
Lí thuyết và thực nghiệm.
Các nhà vật lí hướng tới phát triển những mô hình toán học không những thỏa mãn kết quả của những thí nghiệm đã có mà còn tiên đoán thành công những kết quả mới hay những hiện tượng mới; trong khi đó các nhà vật lí thực nghiệm không những thiết kế và lắp đặt những thí nghiệm kiểm chứng kết quả lí thuyết mà họ còn thực hiện những thí nghiệm mới cho kết quả không phù hợp với những lí thuyết hiện tại hoặc phát hiện ra hiện tượng hay hiệu ứng mới. Mặc dù lí thuyết và thực nghiệm được phát triển tách biệt nhau, chúng lại phụ thuộc mạnh vào lẫn nhau. Sự tiến triển của vật lí học thường bước sang chương mới khi các nhà thực nghiệm phát hiện ra những hiện tượng mới, hoặc khi một lí thuyết mới tiên đoán kết quả mà các nhà thực nghiệm có thể thực hiện được các thí nghiệm kiểm chứng mang lại kết quả ủng hộ lí thuyết mới.
Cũng có những nhà vật lí nghiên cứu trên cả hai phạm vi lí thuyết và thực nghiệm, nhà hiện tượng học, họ khai phá những kết quả thí nghiệm phức tạp và tìm cách liên hệ chúng với lí thuyết cơ sở.
Về mặt lịch sử, vật lí lí thuyết có cảm hứng xuất phát từ triết học; như điện từ học được thống nhất từ quan điểm triết học. Ngoài những hiện tượng đã biết trong vũ trụ, lĩnh vực vật lí lí thuyết cũng đặt ra những giả thuyết, ví dụ giả thuyết vũ trụ song song, một vũ trụ có nhiều hơn 3 chiều không gian. Các nhà lí thuyết đưa ra những giả thuyết như vậy để hi vọng giải quyết được những vấn đề hóc búa trong vật lí học. |
Vật lý học | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1419 | Sau đó họ khám phá ra những hệ quả của giả thuyết và tìm kiếm những kết quả tiên đoán của nó mà có thể kiểm chứng được.
Vật lí thực nghiệm mang lại cơ sở và thông tin cũng như nhận lại từ ngành kĩ thuật và công nghệ. Các nhà vật lí thực nghiệm tham gia vào những nghiên cứu cơ bản nhằm thiết kế và thực hiện các thí nghiệm với các thiết bị tiên tiến như máy gia tốc hạt và laser, cũng như họ tham gia vào nghiên cứu ứng dụng trong công nghiệp, phát triển các công nghệ mới như chụp ảnh cộng hưởng từ (MRI) và thiết kế transistor và vi mạch. Nhà vật lí lí thuyết Feynman từng nói rằng các nhà thực nghiệm thường thích làm thí nghiệm trên những phạm vi chưa được hiểu tốt bởi các nhà lí thuyết.
Phạm vi và mục đích.
Vật lí học nghiên cứu nhiều hiện tượng, từ các hạt cơ bản (như quark, neutrino và electron) cho đến những siêu đám thiên hà. Bao quát những hiện tượng và vật chất cơ bản này là những thứ cấu thành lên mọi sự vật và hiện tượng khác. Do vậy vật lí còn được gọi là "khoa học cơ bản". Vật lí học có mục đích miêu tả càng nhiều hiện tượng khác nhau trong tự nhiên chỉ bằng một số nhỏ các quy luật đơn giản nhất. Do vậy, vật lí học nhằm mục đích liên hệ những thứ mà con người quan sát được với nguyên nhân gây ra chúng, và sau đó kết nối những nguyên nhân này với nhau.
Ví dụ, người Hi Lạp cổ đại đã biết rằng những vật như hổ phách khi chà vào lông thú có thể khiến hai vật hút nhau. Hiệu ứng này lần đầu tiên được nghiên cứu vào thế kỷ XVII, và gọi là điện học. Trong khi đó, từ lâu người ta cũng biết có những cục nam châm có thể hút thanh sắt và sử dụng làm la bàn, hay môn từ học. Do vậy, vật lí có mục đích hiểu được bản chất của hai hiện tượng theo một số nguyên nhân nào đó. Tuy vậy, những nghiên cứu sâu hơn trong thế kỷ XIX cho thấy hai lực này chỉ là những khía cạnh khác nhau của cùng một lực—lực điện từ. Quá trình "thống nhất" các lực vẫn còn tiếp tục cho đến ngày nay, và lực điện từ và lực hạt nhân yếu hiện nay được thống nhất thành tương tác điện yếu. |
Vật lý học | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1419 | Các nhà vật lí hy vọng cuối cùng sẽ tìm ra được lí thuyết thống nhất được cả bốn tương tác cơ bản trong tự nhiên (xem "Nghiên cứu hiện tại" ở dưới).
Lĩnh vực nghiên cứu.
Những nghiên cứu hiện nay có thể chia thành một số lĩnh vực chính như vật lí vật chất ngưng tụ; vật lí nhiệt độ thấp, vật lí plasma; vật lí nguyên tử, phân tử, nano, quang học, laser, vật lí bán dẫn; vật lí hạt; vật lí thiên văn; địa vật lí và vật lí sinh học... Một số nhà vật lí cũng tham gia nghiên cứu trong giáo dục vật lí học.
Từ thế kỷ XX, nhiều lĩnh vực vật lí mới xuất hiện và ngày càng chuyên biệt hóa hơn, và ngày nay đa số các nhà vật lí chỉ nghiên cứu trong lĩnh vực hẹp trong toàn sự nghiệp của họ. Những "nhà bác học" như Albert Einstein (1879–1955), Enrico Fermi (1901-1954), Lev Landau (1908–1968)... mà họ nghiên cứu trong nhiều lĩnh vực của vật lí học, hiện nay là rất hiếm.
Vật chất ngưng tụ.
Vật lí vật chất ngưng tụ là một ngành của vật lí học nghiên cứu các tính chất vật lí vĩ mô của vật chất. Đặc biệt, nó xét đến các pha "ngưng tụ" xuất hiện bất cứ khi nào số hạt trong hệ là rất lớn và tương tác giữa chúng là mạnh.
Những ví dụ quen thuộc nhất của pha ngưng tụ đó là chất rắn và chất lỏng, chúng xuất hiện do lực điện từ liên kết giữa các nguyên tử. Những pha ngưng tụ kỳ lạ bao gồm trạng thái siêu chảy và ngưng tụ Bose–Einstein xuất hiện trong những hệ nguyên tử cụ thể ở nhiệt độ rất thấp gần 0 K, pha siêu dẫn thể hiện bởi các electron dẫn trong một số vật liệu, và vật liệu sắt từ và phản sắt từ do tính chất spin trong mạng tinh thể nguyên tử.
Vật lí vật chất ngưng tụ là một trong những ngành lớn nhất của vật lí học hiện nay. Về mặt lịch sử, ngành này bắt đầu trưởng thành từ ngành vật lí trạng thái rắn, và hiện nay được các nhà khoa học coi là chủ đề chính của vật lí vật chất ngưng tụ. Thuật ngữ "vật lí vật chất ngưng tụ" do Philip Anderson nêu ra khi ông đổi tên nhóm nghiên cứu của ông—trước đó là "lí thuyết trạng thái rắn"—vào năm 1967. Năm 1978, Nhóm Vật lí Trạng thái Rắn của Hội Vật lí Mỹ đổi tên thành Nhóm Vật lí Vật chất Ngưng tụ. |
Vật lý học | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1419 | Ngành này bao quát rất nhiều lĩnh vực bao gồm hóa học, khoa học vật liệu, công nghệ nano và kỹ thuật.
Vật lí nguyên tử, phân tử, và quang học.
Vật lí nguyên tử, phân tử, và quang học (AMO) nghiên cứu tương tác giữa vật chất–vật chất và ánh sáng–vật chất trên cấp độ nguyên tử và phân tử. Cả ba ngành này có sự trao đổi qua lại lẫn nhau, chúng có thể sử dụng phương pháp nghiên cứu tương tự nhau, giống nhau về mức năng lượng của hệ nghiên cứu. Cả ba ngành đều có cách tiếp cận bao gồm của vật lí cổ điển, bán cổ điển và lượng tử; các nhà vật lí có thể xét ba lĩnh vực này từ cấp độ vi mô (ngược với quan điểm vĩ mô).
Vật lí nguyên tử nghiên cứu các lớp vỏ electron trong nguyên tử. Những nghiên cứu hiện tại tập trung vào điều khiển lượng tử, làm lạnh và bẫy nguyên tử và ion, động lực học va chạm giữa những hệ nhiệt độ thấp và hiệu ứng tương quan eletron trên cấu trúc và động lực của hệ. Vật lí nguyên tử cũng bị ảnh hưởng bởi kết quả nghiên cứu của vật lí hạt nhân (ví dụ như, cấu trúc siêu tinh tế), nhưng các hiệu ứng liên hạt nhân như phân hạch và tổng hợp hạt nhân được xem là thuộc về lĩnh vực vật lí năng lượng cao.
Vật lí phân tử tập trung vào các cấu trúc đa nguyên tử và những tương tác nội và ngoại phân tử với vật chất và ánh sáng. Vật lí quang học và ngành con quang học lượng tử khác với quang học cổ điển đó là nó không nghiên cứu cách điều khiển trường ánh sáng bằng phương pháp vĩ mô, thay vào đó là nghiên cứu các tính chất cơ bản của trường quang học và tương tác của chúng với vật chất trong thang vi mô.
Vật lí năng lượng cao (vật lí hạt) và vật lí hạt nhân.
Vật lí hạt nghiên cứu các hạt cơ bản cấu tạo nên vật chất và năng lượng, cũng như tương tác giữa chúng. Thêm vào đó, các nhà vật lí hạt cùng phối hợp với các kỹ sư nhằm thiết kế và lắp đặt các máy gia tốc, máy dò hạt, và các chương trình phần mềm chạy trên siêu máy tính nhằm phân tích dữ liệu thu được. |
Vật lý học | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1419 | Ngành này còn được gọi là "vật lí năng lượng cao" bởi vì nhiều hạt cơ bản không xuất hiện hay tồn tại "lâu" trong tự nhiên, và để nghiên cứu chúng các nhà vật lí phải bắn những hạt có năng lượng cao va chạm với nhau để sinh ra những hạt này.
Hiện nay, các tương tác của những hạt cơ bản và trường được miêu tả khá hoàn chỉnh trong Mô hình chuẩn. Trong mô hình này có 12 hạt cơ bản cấu thành lên thế giới vật chất (quark và lepton), chúng tương tác với nhau thông qua các hạt truyền tương tác của ba loại tương tác mạnh, yếu, và điện từ. Những tính chất của các tương này được miêu tả bởi các hạt trao đổi boson gauge (tương ứng các gluon, boson W và Z, và photon). Mô hình chuẩn cũng tiên đoán tồn tại hạt boson Higgs, hạt có vai trò giải thích tại sao các hạt cơ bản lại có khối lượng thông qua "cơ chế phá vỡ đối xứng tự phát". Ngày 4 tháng 7 năm 2012, cơ quan CERN, phòng thí nghiệm châu Âu về vật lí hạt, thông báo phát hiện một hạt có những tính chất giống với boson Higgs, và dường như đây chính là hạt mà bấy lâu nay các nhà thực nghiệm vật lí hạt săn lùng.
Vật lí hạt nhân là ngành nghiên cứu thành phần cấu tạo nên hạt nhân nguyên tử như proton, neutron và tương tác giữa các hạt nhân. Ứng dụng được biết đến nhiều nhất của ngành này đó là năng lượng hạt nhân sinh ra trong các lò phản ứng hạt nhân và công nghệ vũ khí nguyên tử, nhưng nó cũng xuất hiện trong những ngành khác như xạ trị ung thư trong y học hạt nhân, chụp cộng hưởng từ, cấy ghép ion trong khoa học vật liệu, phương pháp xác định niên đại bằng các nguyên tố phóng xạ trong địa chất và khảo cổ học, nghiên cứu tạo ra các nguyên tố siêu urani và đảo bền những nguyên tố này.
Vật lí thiên văn.
Thiên văn học và thiên văn vật lí là một ngành ứng dụng các lí thuyết và phương pháp của vật lí học để nghiên cứu cấu trúc sao, tiến hóa sao, nguồn gốc và sự hình thành Hệ Mặt Trời, sự hình thành các hành tinh, thiên hà, cho đến những cấu trúc lớn trong vũ trụ. |
Vật lý học | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1419 | Nó cũng nghiên cứu lịch sử khởi đầu và kết thúc của vũ trụ... Thiên văn vật lí là một ngành rộng, các nhà vật lí thiên văn phải áp dụng nhiều nhánh của vật lí học bao gồm cơ học thiên thể, điện từ học, cơ học thống kê, nhiệt động lực học, cơ học lượng tử, thuyết tương đối, vật lí hạt...
Thiên văn học ban đầu gồm những nghiên cứu quan sát qua kính thiên văn mặt đất với hạn chế trong độ phân giải và phạm vi hẹp của bước sóng quang học. Năm 1931 nhà thiên văn Karl Jansky phát hiện ra tín hiệu vô tuyến có nguồn gốc từ các thiên thể trên bầu trời và mở đầu cho một ngành mới là thiên văn vô tuyến. Trong những thập niên gần đây, tiền phương của thiên văn học đã được mở rộng hơn khi con người bước vào kỷ nguyên thám hiểm vũ trụ với các công nghệ tiên tiến áp dụng từ những ngành khác của vật lí học cho phép xây dựng được những kính thiên văn không gian, tàu thăm dò liên hành tinh, và Trạm vũ trụ Quốc tế ISS. Không những thế, phạm vi bước sóng quan sát đã được thực hiện trên toàn miền bước sóng điện từ, vô tuyến, hồng ngoại, quang học, tử ngoại, tia X cho đến tia gamma. Thậm chí các nhà thiên văn vật lí thực nghiệm đang xây dựng những đài quan trắc neutrino, máy dò tia vũ trụ như AMS-02, hay thậm chí là cơ sở mặt đất cũng như thiết bị không gian thăm dò sóng hấp dẫn.
Vật lí vũ trụ học nghiên cứu sự hình thành và tiến hóa của vũ trụ trên phạm vi lớn nhất của nó. Trong lĩnh vực này thuyết tương đối rộng của Albert Einstein đóng vai trò trung tâm của các lí thuyết vũ trụ học hiện đại. Đầu thế kỷ XX, các khám phá của Hubble cùng một số nhà khoa học khác cho thấy vũ trụ đang giãn nở, như được chỉ ra bằng định luật Hubble. Khám phá này cùng với phát hiện về bức xạ phông vi sóng vũ trụ là một trong những chứng cứ mạnh mẽ ủng hộ thuyết Vụ Nổ Lớn về sử khởi đầu của vũ trụ và loại bỏ lí thuyết trạng thái dừng của vũ trụ. |
Vật lý học | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1419 | Cuối thế kỷ XX, dựa trên quan sát các siêu tân tinh loại Ia các nhà vật lí thiên văn đã bất ngờ phát hiện ra vũ trụ không những đang giãn nở mà sự giãn nở đang tăng tốc, không như trước đây cho rằng sự giãn nở này phải chậm lại.
Lí thuyết Big Bang trở lên thành công với những tiên đoán của sự sinh ra các nguyên tố nhẹ trong tổng hợp hạt nhân Vụ Nổ Lớn, về bức xạ tàn dư vi ba phát hiện năm 1964 và về cấu trúc lớn của vũ trụ quan sát được. Mô hình Vụ Nổ Lớn dựa trên hai trụ cột chính: thuyết tương đối tổng quát của Albert Einstein và nguyên lí vũ trụ học. Các nhà vũ trụ học hiện nay đưa ra mô hình ΛCDM, mô hình bao gồm Vụ Nổ Lớn như là điểm khởi đầu khai sinh vũ trụ - hay mô hình chuẩn của vũ trụ học. Mô hình miêu tả về sự tiến hóa và thành phần của vũ trụ cũng như trạng thái tối hậu của nó, với các lí thuyết phụ thêm như vũ trụ lạm phát ở thời điểm Big Bang; các thành phần năng lượng tối, vật chất tối và vật chất baryon.
Nhiều khám phá mới xuất phát từ việc thu thập dữ liệu và phân tích chúng do những kính thiên văn không gian gửi về. Ví dụ dữ liệu từ Kính thiên văn không gian tia gamma Fermi quan sát trong nhiều năm mang lại cho các nhà vật lí thiên văn cái nhìn mới về hoạt động của vũ trụ và cho phép họ đánh giá những mô hình lí thuyết trong vật lí vũ trụ học. Đặc biệt hơn, với những dự án kính thiên văn mặt đất và trong không gian mới khi đi vào hoạt động sẽ giúp các nhà khoa học vén được bức màn bí ẩn của vật chất tối và năng lượng tối trong thập niên tới. Kính thiên văn Fermi cũng như máy đo phổ kế từ alpha AMS-02 sẽ tìm kiếm manh mối tồn tại của những hạt khối lượng lớn tương tác rất yếu với vật chất baryon, bên cạnh đó dữ liệu bổ sung từ ngành vật lí hạt ở các thí nghiệm trên các máy gia tốc như LHC và những máy dò khác sẽ mang lại cái nhìn bao quát cho các nhà vật lí từ cấp vi mô đến vĩ mô. Khi kính thiên văn không gian James Webb được phóng lên, nó sẽ nhìn xa hơn vào quá khứ của vũ trụ và các nhà khoa học sẽ tìm hiểu được tốt hơn lịch sử sơ khai của vũ trụ. |
Vật lý học | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1419 | Trong phạm vi Hệ Mặt Trời, các tàu thăm dò đã viếng thăm gần hết các hành tinh chính và đang hành trình đến những vùng rìa Hệ Mặt Trời và không gian liên sao. Một số tàu như Voyager 1 đã gửi về những dữ liệu quý giá về vùng nhật quyển và gió Mặt Trời ở những nơi xa nhất, giúp cho các nhà vật lí thiết lập mô hình chính xác hơn về cấu trúc hệ Mặt Trời ở phạm vi ngoài xa xôi.
Nghiên cứu hiện tại.
Những tiến trình phát triển của vật lí tiếp tục với những vấn đề chưa giải được và nhu cầu thúc đẩy các tiến bộ công nghệ mới.
Trong vật lí vật chất ngưng tụ, một vấn đề lí thuyết quan trọng chưa giải được đó là giải thích hiệu ứng siêu dẫn nhiệt độ cao ở một số vật liệu gốm và tìm cách ứng dụng hiện tượng này tiến sát tới siêu dẫn ở nhiệt độ khí quyển. Một số thí nghiệm vật lí đang hướng đến tạo ra thành công máy tính lượng tử đầu tiên hay tạo ra các linh kiện mới dựa trên việc điều khiển và thao tác spin của điện tử. Các nhà thực nghiệm lượng tử cũng đang cố gắng hiện thực hóa được quá trình viễn tải lượng tử trên những khoảng cách lớn và không những đối với photon mà với cả hệ nhiều nguyên tử dựa trên sự vướng víu lượng tử.
Trong vật lí hạt, những thí nghiệm mang lại manh mối đầu tiên về nền vật lí bên ngoài Mô hình chuẩn đang dần hé lộ. Một trong những chứng cứ nổi bật nhất đó là neutrino có khối lượng khác 0 nhưng rất nhỏ. Việc hạt neutrino có khối lượng giúp giải quyết nghịch lí từ lâu về vấn đề neutrino Mặt Trời, trong đó các nhà vật lí thực nghiệm chỉ đếm được 1/3 số hạt như Mô hình chuẩn tiên đoán, và thực chất neutrino có thể biến đổi thành hai loại neutrino khác. Các máy gia tốc đã đạt đến mức năng lượng gia tốc các hạt tới năng lượng TeV, và họ đã tìm thấy hạt có tính chất tương tự như hạt Higgs cũng như đang ráo riết săn lùng những hạt siêu đối xứng của các hạt cơ bản. |
Vật lý học | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1419 | Trên lĩnh vực lí thuyết, mục đích của nhiều nhà vật lí lí thuyết đó là tìm ra được thuyết hấp dẫn lượng tử thống nhất cơ học lượng tử và thuyết tương đối tổng quát, một mong muốn xuất phát từ những năm 1920 khi Einstein muốn thống nhất thuyết của ông với thuyết điện từ cổ điển, và quá trình này đang tiến triển rất năng động. Một số lí thuyết nổi bật lên đó là thuyết M, lí thuyết dây và hấp dẫn lượng tử vòng.
Nhiều hiện tượng trong thiên văn học và vũ trụ học đang dần dần được giải thích, bao gồm sự xuất hiện của những tia vũ trụ năng lượng rất cao, những nguồn quasar bức xạ mạnh, dị thường hấp dẫn của tàu Pioneer. Và các nhà vũ trụ học đang tìm kiếm và giải thích vật chất tối chịu trách nhiệm cho tốc độ tự quay bất thường ở vùng rìa trong mỗi thiên hà. Sự kiện phát hiện ra vũ trụ đang giãn nở gia tốc cũng là khám phá mới cho thấy vũ trụ còn rất nhiều điều bí ẩn.
Tuy đã có nhiều thành tự từ cơ học lượng tử cho đến vật lí thiên văn, ngay cả những hiệu ứng và hiện tượng hàng ngày vẫn còn chưa được hiểu đầy đủ như những hệ phức tạp, hỗn loạn, hay nhiễu loạn trong môi trường chất lưu... Những vấn đề phức hợp tưởng như chúng có thể giải bằng cách khéo léo áp dụng các phương trình vi phân cơ học động lực vẫn chưa giải quyết được; ví dụ như sự hình thành những đốm sáng khi cho sóng âm kích thích nước lỏng, hình dạng của các giọt nước, cơ chế phá hủy sức căng bề mặt các chất lỏng, hay thậm chí các nhà khí tượng học chưa thể tiên đoán chính xác hoạt động thời tiết của khí quyển nếu quá ba ngày với những kiến thức liên quan về vật lí hiện nay.
Những hiện tượng phức hợp này nhận được sự chú ý từ thập niên 1970 vì một vài lí do, bao gồm sự ra đời của máy tính điện từ và các phương pháp toán học mới, cho phép các nhà vật lí thực hiện được mô phỏng chúng trên máy tính nhằm phát hiện những tính chất và hành trạng của các hệ phức hợp này. |
Vật lý học | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1419 | Phương pháp mô phỏng trên máy tính cần sự hợp tác của nhiều nhà khoa học trên nhiều lĩnh vực khác nhau, từ những lập trình viên cho đến các chuyên gia trong một lĩnh vực riêng, như nghiên cứu tính nhiễu loạn trong khí động lực học của máy bay hay sự hình thành tế bào trong sinh học. Năm 1932, Horace Lamb viết:
Bây giờ tôi đã cao tuổi, một khi tôi qua đời và lên thiên đàng có hai điều mà tôi hi vọng muốn được làm sáng tỏ. Một là điện động lực học lượng tử, và hai là chuyển động nhiễu loạn của chất lưu. Và về những thứ khác tôi tin tưởng lạc quan hơn.
Năm 2005 là năm được tổ chức UNESCO của Liên Hợp Quốc chọn làm Năm vật lí thế giới. Đây là một hoạt động nhằm kỉ niệm và tôn vinh những thành tựu quan trọng của vật lí đã đạt được đối với khoa học cũng như đối với cuộc sống thường ngày trong những năm qua. |
Quần đảo Trường Sa | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1421 | Quần đảo Trường Sa (tiếng Anh: "Spratly Islands"; ; tiếng Mã Lai và tiếng Indonesia: "Kepulauan Spratly"; tiếng Tagalog: "Kapuluan ng Kalayaan") là một tập hợp các thực thể địa lý được bao quanh bởi những vùng ngư nghiệp trù phú đồng thời sở hữu trữ lượng dầu mỏ, khí đốt lớn thuộc biển Đông. Ngày nay, quần đảo này đang ở trong tình trạng tranh chấp lãnh thổ ở các mức độ khác nhau giữa 6 quốc gia, lần lượt là Brunei, Đài Loan, Trung Quốc, Malaysia, Philippines và Việt Nam.
Ở cấp độ quốc tế, phạm vi của khái niệm "Spratly Islands" vẫn chưa được xác định rõ và đang trong vòng tranh cãi. Ở cấp độ quốc gia cũng có các cách hiểu khác nhau. Tuy Đài Loan, Trung Quốc và Việt Nam trên danh nghĩa đều tuyên bố chủ quyền đối với toàn bộ quần đảo, nhưng khái niệm "quần đảo Nam Sa" trong nhận thức của Đài Loan và Trung Quốc là bao hàm toàn bộ các thực thể địa lý nằm bên trong phần phía nam của đường chín đoạn. Đối với Philippines, phạm vi tuyên bố chủ quyền của nước này bao trùm hầu hết quần đảo và được gọi là "Nhóm đảo Kalayaan". Về phần Malaysia, nước này đòi hỏi một số thực thể ở phía nam của quần đảo. Cuối cùng, với Brunei, hiện chưa rõ nước này đòi hỏi cụ thể thực thể địa lý nào vì Brunei mới chỉ đưa ra yêu sách về vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa mà trong vùng đó có vài thực thể thuộc vào quần đảo này.
Tại Hội nghị San Francisco năm 1951 về việc phân định các vùng lãnh thổ, hải đảo mà Đế quốc Nhật Bản từng chiếm giữ, quần đảo Trường Sa là đối tượng tuyên bố chủ quyền của nhiều bên tranh chấp bao gồm Liên hiệp Pháp, Trung Quốc, Đài Loan, Philippines, Malaysia và Indonesia. Kết quả là Hội nghị không công nhận chủ quyền của quốc gia nào, quần đảo này được coi là vô chủ và càng gây ra tranh chấp dữ dội hơn sau này.
Tất cả những nước tham gia tranh chấp quần đảo này, trừ Brunei, đều có quân đội cùng vũ khí, khí tài, thiết bị và nhân viên quân sự đồn trú tại nhiều căn cứ trên các đảo nhỏ và đá ngầm khác nhau. Năm 1956, Đài Loan chiếm giữ đảo Ba Bình. Đầu thập niên 1970, Philippines chiếm 7 đảo và các rạn đá thuộc khu vực phía đông quần đảo. |
Quần đảo Trường Sa | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1421 | Tháng 3 năm 1988, Việt Nam và Trung Quốc đụng độ quân sự tại ba rạn đá là Gạc Ma, Cô Lin và Len Đao. Tháng 2 năm 1995 và tháng 11 năm 1998, giữa Trung Quốc và Philippines đã hai lần bùng phát căng thẳng chính trị do hành động giành và củng cố quyền kiểm soát đá Vành Khăn của phía Trung Quốc. Dù rằng Công ước Liên Hợp Quốc về Luật biển đã ra đời nhằm xác định các vấn đề về ranh giới trên biển nhưng bản thân Công ước lại không có điều khoản nào quy định cách giải quyết các tranh chấp về chủ quyền đối với các thực thể thuộc quần đảo.
Địa lý tự nhiên.
Quần đảo Trường Sa là một tập hợp gồm nhiều đảo san hô, cồn cát, rạn đá (ám tiêu) san hô nói chung (trong đó có rất nhiều rạn san hô vòng, tức "rạn vòng" hay rạn đá san hô vòng, "đảo" san hô vòng) và bãi ngầm rải rác từ 6°12' đến 12°00' vĩ Bắc và từ 111°30' đến 117°20' kinh Đông, trên một diện tích gần 160.000 km² (nguồn khác: 410.000 km²) ở giữa biển Đông. Quần đảo này có độ dài từ tây sang đông là 800 km, từ bắc xuống nam là 600 km với độ dài đường bờ biển đạt 926 km. Mỗi tài liệu lại có một con số thống kê riêng về số lượng thực thể địa lý của quần đảo này: hơn 100 đảo và rạn đá ngầm (CIA), 137 "đảo-đá-bãi" (Nguyễn Hồng Thao), khoảng 160 đảo nhỏ-cồn cát-rạn đá ngầm-bãi cát ngầm/bãi cạn-bãi ngầm đã đặt tên (Trung Quốc).
Tổng diện tích đất nổi của quần đảo rất nhỏ, không quá 5 km² (nguồn khác: 11 km² ) do số lượng đảo thực sự rất ít mà chủ yếu là các rạn san hô thường và rạn san hô vòng chìm ngập dưới nước khi thủy triều lên. Các hòn đảo san hô ở Trường Sa tương đối bằng phẳng và thấp, ngay cả khi so sánh với một quần đảo san hô khác gần đó là quần đảo Hoàng Sa. Theo CIA, điểm cao nhất của Trường Sa nằm trên đảo Song Tử Tây với cao độ 4 m so với mực nước biển.
Địa hình và địa chất.
Quần đảo Trường Sa là một vỉ lục địa bị nhận chìm vào đầu đại Kainozoi do tách giãn lục địa Đông Nam Á, xoay chuyển và trượt dần về phía tây nam. |
Quần đảo Trường Sa | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1421 | Thềm lục địa Trường Sa là một dải địa hình tương đối hẹp, kéo dài tự nhiên của các đảo từ độ sâu 0–200 m quanh đảo, sâu từ 60 đến 80 m. Thành phần cấu tạo dải này thường là các mảnh vụn san hô, chủ yếu là hạt thô. Trong khi đó, sườn lục địa Trường Sa là một dải bao quanh thềm lục địa, kéo dài từ mép thềm lục địa đến độ sâu 2.500 m, có nơi lên tới hơn 3.000 m; thành phần cấu tạo chủ yếu là từ đá gốc. Các bãi ngầm có bề mặt sườn là các bề mặt đổ dốc từ độ sâu 170 đến 1.500 m. Sườn của các rạn đá ngầm như đá Tây, Vành Khăn, Phan Vinh có sườn dốc gần như thẳng đứng.
Cả quần đảo bị chia cắt bởi các hệ thống đứt gãy có phương đông bắc - tây nam và tây bắc - đông nam, gồm ba nhóm chính là nhóm đứt gãy đông bắc - tây nam (nổi bật nhất), nhóm đứt gãy tây bắc - đông nam và nhóm đứt gãy hướng kinh tuyến - á vĩ tuyến (lệch so với vĩ tuyến). Ba nhóm này chia quần đảo Trường Sa thành ba cụm đảo có quy mô khác nhau:
Lịch sử hình thành các đảo thuộc quần đảo Trường Sa bắt đầu từ cuối thế Pleistocen, đầu thế Holocen, và đa số chúng là phần nhô cao của các rạn vòng. Theo Nguyễn (1985), các rạn vòng nơi đây được đặc trưng bởi dạng kéo dài theo hướng đông bắc-tây nam, trong khi các đảo và mỏm đá ngầm thường nằm trên góc tây bắc, trái ngược với quy luật phân bố đảo trên các rạn vòng khác trên thế giới. Nguyên nhân của các hiện tượng vừa đề cập có thể là vì hướng gió đông bắc - tây nam và hoạt động kiến tạo trong kỉ Đệ tứ. Tại các rạn vòng này, cấu tạo của đảo nổi và hành lang san hô xung quanh đảo có ít sự khác biệt. Hành lang này thường có diện tích gấp từ 4 đến 35 lần so với diện tích đảo.
Các nhà khoa học Việt Nam đã nghiên cứu một số đảo như Nam Yết, Song Tử Tây, Trường Sa và phân chia địa hình tại đây thành ba mực địa hình theo độ cao, gồm 0,5-1,5 m; 2,0-3,5 m và 4,5–6 m, trong đó mực địa hình 4,5–6 m chỉ có ở phía tây đảo Song Tử Tây (cao nhất quần đảo). |
Quần đảo Trường Sa | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1421 | Trên một số đảo có một số túi nước ngọt ngầm ở tầng nông, hình thành khi nước mưa ngấm xuống. Tuy nhiên, trữ lượng và chất lượng loại nước này thay đổi theo không gian - thời gian và bị lẫn tạp chất ở tầng đất mặt cũng như lẫn nước biển; tính kiềm yếu là đặc trưng của nguồn nước này. Ngoài ra, diện tích các đảo cũng thay đổi tùy theo mùa; vào mùa đông diện tích giảm và tăng vào mùa hè. Sự sống còn của đảo lệ thuộc vào sự phát triển của san hô; nếu san hô chết sẽ khiến đảo dễ bị sóng và gió bão bào trụi.
Khí hậu.
Quần đảo Trường Sa nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới với hai mùa. Gió mùa đông nam thổi qua Trường Sa từ tháng 3 đến tháng 4 trong khi gió mùa tây nam thổi từ tháng 5 đến tháng 11. Theo số liệu của McManus, Shao & Lin (2010), nhiệt độ không khí trung bình trong năm của quần đảo vào khoảng 27 °C. Tại Trạm khí tượng trên đảo Trường Sa, nhiệt độ trung bình đo được là 27,7 °C. Về mùa hè (tháng 5 đến tháng 10) nhiệt độ trung bình đạt 28,2 °C; giá trị cực đại đo được là 29,3 °C vào tháng 9. Về mùa đông (tháng 10 đến tháng 4), nhiệt độ trung bình là 28,8 °C, trong đó giá trị cực tiểu đo được là 26,4 °C vào tháng 2. Nhiệt độ trung bình tháng 4 (tháng chuyển tiếp từ mùa đông sang mùa hè) là 28,8 °C, còn nhiệt độ trung bình tháng 10 (tháng chuyển tiếp từ mùa hè sang mùa đông) là 27,8 °C, gần xấp xỉ với nhiệt độ trung bình năm. Nhìn chung biên độ dao động của nhiệt độ không khí vùng đảo Trường Sa không quá 4 °C.
Nhiệt độ nước biển bị ảnh hưởng rất lớn bởi yếu tố thời tiết. Do nằm trong vùng nhiệt đới nên tầm nhiệt độ cao là đặc trưng cho nước biển Trường Sa. Vào mùa đông, nhiệt độ trung bình là 26-28 °C và đạt cực tiểu 25-26 °C vào tháng 12 và tháng 1. Vào mùa hè, nhiệt độ trung bình tầng mặt là 29-31 °C và đạt cực đại là 31-32 °C vào tháng 5.
Mùa khô tại quần đảo kéo dài từ tháng 2 đến tháng 4 còn mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 1 năm sau. |
Quần đảo Trường Sa | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1421 | Lượng mưa dao động từ 1.800 đến 2.200 mm. Trong giai đoạn 1954-1998, có tổng cộng 498 cơn bão ở biển Đông, trong đó có 89 trận đi qua hoặc phát sinh từ quần đảo Trường Sa. Một đặc điểm quan trọng là bão có xu hướng muộn dần từ bắc xuống nam. Cụ thể, bão chủ yếu xuất hiện ở phía bắc và trung tâm quần đảo trong tháng 10, trong khi bão đi qua phía nam rất ít và nếu có thì chủ yếu là trong tháng 11. Trong cơn bão, tốc độ gió cực đại ghi nhận trong giai đoạn 1977-1985 có thể lên đến 34 m/s so với mức trung bình mọi thời điểm là 5,9 m/s.
Phân cụm.
Do sở hữu rất nhiều thực thể địa lý nên quần đảo Trường Sa được các nhà hàng hải quốc tế cũng như một số quốc gia phân chia thành nhiều cụm riêng biệt dựa trên sự gần gũi hoặc tương đồng về mặt địa lý hay đơn thuần chỉ là phân chia tương đối.
Việt Nam phân chia.
Việt Nam chia quần đảo Trường Sa thành tám cụm là cụm Song Tử, cụm Thị Tứ, cụm Loại Ta, cụm Nam Yết, cụm Sinh Tồn, cụm Trường Sa, cụm An Bang (trước đây gọi là cụm Thám Hiểm) và cụm Bình Nguyên.
Cụm Song Tử là một tập hợp các thực thể địa lý nằm ở phần tây bắc của quần đảo Trường Sa. Gọi là Song Tử vì hai đảo Song Tử Đông và Song Tử Tây như một cặp đảo song sinh, vừa nằm gần nhau vừa có kích thước gần như tương đương. Cặp đảo này hợp cùng các rạn đá san hô như đá Nam, đá Bắc ở khu vực lân cận để tạo nên một vòng cung san hô lớn mà tài liệu hàng hải quốc tế gọi là "(cụm) rạn Nguy Hiểm phía Bắc" (; ). Tuy nhiên, Việt Nam còn gộp hai rạn vòng ngầm dưới nước ở phía đông của "rạn Nguy Hiểm phía Bắc" vào cụm Song Tử, cụ thể là bãi Đinh Ba và bãi Núi Cầu.
Cụm Thị Tứ là một tập hợp các thực thể địa lý nằm ở phía nam của cụm Song Tử và phía bắc của cụm Loại Ta. Cụm này chỉ có một đảo san hô là Thị Tứ (đứng thứ hai về diện tích trong quần đảo), còn lại đều là các rạn đá như đá Hoài Ân, đá Vĩnh Hảo, đá Xu Bi... Đá Xu Bi là trường hợp cá biệt do tách biệt hẳn về phía tây nam so với tất cả các thực thể còn lại. |
Quần đảo Trường Sa | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1421 | Trừ đá Xu Bi thì đảo Thị Tứ và các rạn đá lân cận cùng nhau tạo thành "cụm rạn Thị Tứ" (; ) theo tài liệu hàng hải quốc tế.
Cụm Loại Ta là một tập hợp các thực thể địa lý nằm ở phía nam của cụm Thị Tứ và phía bắc của cụm Nam Yết. Cụm này có hai đảo lớn là Loại Ta và Bến Lạc. Đảo Loại Ta là trung tâm của "bãi san hô Loại Ta" (; ) theo cách gọi của tài liệu hàng hải quốc tế; về hai phía đông-tây của đảo là các cồn cát và rạn san hô như bãi An Nhơn, bãi An Nhơn Bắc, bãi Loại Ta... Về phía đông bắc của "bãi san hô Loại Ta" là một rạn đá ngầm lớn có tên là bãi Đường; tại đầu mút phía bắc của bãi này là một rạn đá ngầm với tên gọi đá An Lão. Trong khi đó, đảo Bến Lạc (đứng thứ ba về diện tích trong quần đảo) và đá Cá Nhám lại nằm tách biệt hẳn về phía đông của các thực thể trên.
Cụm Nam Yết là một tập hợp các thực thể địa lý nằm ở phía nam cụm Loại Ta và phía bắc của cụm Sinh Tồn, gồm hàng loạt thực thể nổi bật như đảo Ba Bình (lớn nhất quần đảo), đảo Nam Yết, đảo Sơn Ca, đá Én Đất, đá Ga Ven... Đa số các thực thể địa lý thuộc cụm này hợp thành một bãi san hô dạng vòng có tên gọi "bãi san hô Tizard" (; ) theo tài liệu hàng hải quốc tế. Ngoài ra, về phía tây của bãi san hô Tizard còn có một số thực thể nằm riêng biệt như đá Lớn, đá Chữ Thập...
Cụm Sinh Tồn là một tập hợp các thực thể địa lý nằm ở phía nam cụm Nam Yết. Khái niệm "cụm Sinh Tồn" hầu như đồng nhất với khái niệm "bãi san hô Liên Minh" hay "cụm rạn Liên Minh" (; ) của tài liệu hàng hải quốc tế. Cụm này chỉ có một đảo san hô là đảo Sinh Tồn, một cồn cát là đảo Sinh Tồn Đông, còn lại là rất nhiều rạn đá như đá Cô Lin, đá Gạc Ma, đá Len Đao... Trong số này, đá Ba Đầu là rạn đá lớn nhất.
Cụm Trường Sa là một tập hợp các thực thể địa lý nằm dàn trải theo chiều ngang từ tây sang đông ở phía nam của các cụm Nam Yết, Sinh Tồn và phía bắc của cụm Thám Hiểm, chủ yếu giữa hai vĩ tuyến 8° Bắc và 9° Bắc. |
Quần đảo Trường Sa | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1421 | Cụm này chỉ có một đảo san hô là đảo Trường Sa (biệt danh: Trường Sa Lớn), còn lại đều là rạn thường nói chung và rạn vòng nói riêng như đá Tây, đá Tiên Nữ, đảo Phan Vinh, đảo Trường Sa Đông... Bốn thực thể theo thứ tự từ tây sang đông gồm đá Tây, đảo Trường Sa Đông, đá Đông và đá Châu Viên cấu thành khái niệm "cụm rạn Luân Đôn" (; ) theo tài liệu hàng hải quốc tế.
Cụm An Bang (hay cụm Thám Hiểm) là một tập hợp các thực thể địa lý ở phía nam của quần đảo Trường Sa. Cụm này không có đảo san hô nào ngoài một cồn cát nổi bật là An Bang (quen gọi là đảo An Bang). Nhìn chung phần lớn thực thể địa lý của cụm này tạo thành một vòng cung lớn với phần lõm hướng về phía đông nam, trải dài từ đá Sác Lốt, qua đá Công Đo đến bãi Trăng Khuyết gần sát với Philippines. Một máng biển ngăn cách vòng cung này với thềm lục địa của đảo Borneo.
Cụm Bình Nguyên là một tập hợp các thực thể địa lý hợp thành từ phần phía đông của quần đảo Trường Sa, trong khu vực gần với đảo Palawan, Philippines. Tuy cụm này có nhiều thực thể địa lý nhất so với các cụm còn lại nhưng số này lại phân tán rải rác trên một vùng biển rộng lớn. Vĩnh Viễn và Bình Nguyên là hai đảo duy nhất của cụm, trong đó đảo Bình Nguyên đang chịu tác động của hiện tượng xói mòn. Số thực thể còn lại đều là những dạng rạn đá (ví dụ rạn vòng) và các bãi cát ngầm/bãi cạn cùng bãi ngầm.
Trung Quốc phân chia.
Ngày 25 tháng 4 năm 1983, Nhân dân Nhật báo của Trung Quốc đã công khai danh sách 287 địa danh thuộc biển Đông, trong đó có tổng cộng 193 địa danh liên quan đến "quần đảo Nam Sa". Về mặt tên gọi, địa danh do Trung Quốc đặt thể hiện một phần tính chất của thực thể như đảo, cồn cát ("sa châu"), rạn đá ngầm ("ám tiêu"), bãi cát ngầm/bãi cạn ("ám sa"), bãi ngầm ("ám than") và cả các luồng lạch ("môn", "thủy đạo") cho tàu thuyền. Nghiên cứu đăng tải trên mạng "Hải Nam sử chí" thể hiện rằng Trung Quốc phân biệt cả các loại hình rạn đá khác nhau như rạn mặt bàn ("đài tiêu") hay rạn vòng ("hoàn tiêu") để làm cơ sở phân loại chi tiết hơn. |
Quần đảo Trường Sa | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1421 | Cách hiểu của Trung Quốc về "quần đảo Nam Sa" khác so với cách hiểu hiện thời của bản đồ hành chính Việt Nam về "quần đảo Trường Sa" ở chỗ nước này còn gộp rất nhiều thực thể địa lý trong khu vực gần Malaysia và Brunei (hầu như đều là bãi cát ngầm/bãi cạn và bãi ngầm) vào tổng thể "Nam Sa". Dưới đây là danh sách nhóm và phân nhóm của khái niệm "Nam Sa" theo mạng Hải Nam sử chí (Trung Quốc):
Hệ động thực vật.
Do sở hữu hàng trăm rạn san hô rải rác khắp một vùng biển rộng lớn nên quần đảo Trường Sa là nơi có đa dạng sinh học cao. Ước tính có đến mười nghìn loài sinh vật sinh sống tại vùng biển Trường Sa. Theo Nguyễn & Đặng (2009), có 329 loài san hộ thuộc 69 chi và 15 họ cùng nhau tạo lập nên các rạn san hô Trường Sa. Tuy nhiên, phân bố loài san hô rất không đồng đều và chỉ tập trung vào một số họ như họ San hô lỗ đỉnh (66 loài), họ San hô não (46 loài), họ San hô khối (17 loài), họ San hô nấm (14 loài)... Các hệ sinh thái rạn san hô nơi đây không chỉ là nơi cư ngụ lý tưởng cho các sinh vật biển mà còn là nơi nuôi dưỡng nguồn lợi thủy sản dồi dào cho toàn vùng biển Đông.
Về động vật, nghiên cứu của McManus, Shao & Lin (2010) cho biết rằng tại khu vực xung quanh đảo Ba Bình cho biết có 399 loài cá rạn san hô đến từ 49 họ; 190 loài san hô từ 69 chi thuộc 25 họ; 99 loài động vật thân mềm; 91 loài động vật không xương sống thuộc 72 chi; 27 loài động vật giáp xác; 14 loài giun nhiều tơ và 4 loài động vật da gai. Người ta cũng ghi nhận 59 loài chim khác nhau tại đảo này, trong đó chủ yếu là chim điên nâu, chim điên chân đỏ, hải âu mặt trắng, nhàn mào và nhàn trắng. Hai loài bò sát là đồi mồi và đồi mồi dứa cũng thường lên đảo Ba Bình để đẻ trứng. Tại khu vực phía đông quần đảo, có 314 loài cá rạn san hô, trong đó có 156 loài có giá trị thương mại (McManus & Meñez, 1997, dẫn lại số liệu của Castañeda, 1988). Một nghiên cứu của Malaysia tại đá Hoa Lau đã chỉ ra rằng có 205 loài cá thuộc 61 họ, trong đó nhiều nhất là họ Bàng chài, họ Cá thia, họ Cá đuôi gai và họ Cá bướm. |
Quần đảo Trường Sa | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1421 | Nghiên cứu về các loài cá rạn san hô sống tại biển Trường Sa của Nguyễn (1994) cho thấy có 326 loài cá rạn san hô thuộc 117 chi, đến từ 44 họ và 13 bộ. Trong đó, các họ có sự đa dạng về loài nhất là họ Cá thia (53 loài, 12 chi), họ Bàng chài (32 loài, 14 chi), họ Cá mó (27 loài, 3 chi), họ Cá bướm (24 loài, 6 chi), họ Cá hồng (18 loài, 7 chi), họ Cá mú (18 loài, 6 chi) và họ Cá đuôi gai (16 loài, 4 chi). Ngoài cá rạn san hô, nhiều loài cá nổi biển khơi xa bờ cũng hiện diện tại Trường Sa, đến từ một số họ như họ Cá khế, họ Cá thu ngừ, họ Cá nhám (Carchahinidae) và họ Cá thu rắn.
Về thực vật, McManus, Shao & Lin (2010) thống kê được 109 loài thực vật có mạch ở khu vực đảo Ba Bình. Nurridan (2004) đã nghiên cứu phá nước (vụng biển) của đá Hoa Lau và xác định được 2 loài cỏ biển và 19 loài tảo biển, trong đó lớp tảo lục có 12 loài, lớp tảo nâu có 2 loài và lớp tảo đỏ có 5 loài. Tại một số đảo do Việt Nam kiểm soát, người ta ghi nhận một số loài thực vật hợp với thổ nhưởng khô cằn và nhiễm mặn như bàng vuông, bão táp, muống biển, phi lao, phong ba... Nhìn chung, thảm thực vật trên các đảo có tuổi rất trẻ vì đảo mới hình thành trong thời kì địa chất gần đây. Các đảo ở phía nam như An Bang, Trường Sa có thảm thực vật kém phát triển hơn các đảo ở phía bắc như Sơn Ca, Ba Bình, Song Tử Tây.
Môi trường của quần đảo Trường Sa bị xâm hại nghiêm trọng do ngư dân từ Việt Nam, Philippines và miền nam Trung Quốc khai thác thủy sản bằng các phương pháp tận diệt như vét cá, đánh cá bằng thuốc nổ và bằng chất độc natri xyanua. Binh lính các quốc gia đóng quân tại đây khai thác rùa biển và trứng của chúng, đồng thời còn đe dọa các sinh vật nhạy cảm sống ở nơi nước nông khi họ xây dựng công sự và đường băng.
Nhiều năm qua đã có một số nỗ lực nhằm bảo vệ môi trường sinh thái ở quần đảo. |
Quần đảo Trường Sa | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1421 | Ngày 8 tháng 6 năm 1982, Bộ Tài nguyên Philippines lập hai khu bảo tồn rùa biển ở đảo Loại Ta và đá An Nhơn; từ tháng 8 năm 2008, có thêm khu bảo vệ rùa biển đẻ trứng trên đảo Thị Tứ; trên Vĩnh Viễn có khu bảo tồn chim. Ngày 3 tháng 3 năm 2007, Đài Loan lập khu bảo vệ rùa biển đẻ trứng, lấy đảo Ba Bình là trung tâm rồi mở rộng ra 12 hải lý xung quanh. Việt Nam thì có kế hoạch lập khu bảo tồn biển xung quanh đảo Nam Yết với diện tích 35.000 ha từ năm 2010.
Lịch sử.
Từ thế kỷ 16 đến 18, người châu Âu từ các quốc gia như Bồ Đào Nha, Hà Lan, Anh Quốc và Pháp vẫn chưa phân biệt rõ sự khác nhau giữa quần đảo Trường Sa với quần đảo Hoàng Sa. Trên bản đồ thường ghi "I de Pracell" như bản đồ Bartholomen Velho (1560), bản đồ Fernao Vaz Dourado (1590), bản đồ Van Langren (1595)... Cho đến năm 1787-1788, đoàn khảo sát Kergariou Locmaria mới xác định rõ vị trí của quần đảo "Paracel" (chính xác là quần đảo Hoàng Sa hiện nay) và từ đó người phương Tây mới bắt đầu phân biệt quần đảo Hoàng Sa ở phía bắc với một quần đảo khác ở phía nam, tức quần đảo Trường Sa.
Tên gọi.
Sang thế kỷ 18 và thế kỷ 19 thì các nhà hàng hải châu Âu thỉnh thoảng đi ngang qua vùng Trường Sa. Đến năm 1791 thì Henry Spratly người Anh du hành qua quần đảo và đặt tên cho đá Vành Khăn là "Mischief". Năm 1843 Richard Spratly đặt tên cho một số thực thể địa lý thuộc Trường Sa, trong đó có "Spratly's Sandy Island" cho đảo Trường Sa. Kể từ đó "Spratly" dần trở thành tên tiếng Anh của cả quần đảo.
Đối với người Việt thì thời nhà Lê các hải đảo ngoài khơi phía đông được gọi chung là "Đại Trường Sa đảo". Đến thời nhà Nguyễn triều vua Minh Mạng thì tên "Vạn Lý Trường Sa" (萬里長沙) xuất hiện trong bản đồ "Đại Nam nhất thống toàn đồ" của Phan Huy Chú. Bản đồ này đặt nhóm Vạn Lý Trường Sa ở phía nam nhóm Hoàng Sa (黄沙). Về mặt địa lý thì cả hai nhóm đều được khoanh lại thành một quần đảo lớn nằm dọc bờ biển miền trung nước Đại Nam. |
Quần đảo Trường Sa | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1421 | Tên gọi theo phía Trung Quốc: "Hỗn nhất cương lý lịch đại quốc đô chi đồ" (混一疆理歷代國都之圖) thời nhà Minh có đánh dấu vị trí của Thạch Đường, và vị trí này hiện được phía Trung Quốc cho là tương ứng với Nam Sa (Trường Sa) hiện tại. Bản đồ "The Selden Map of China" được lưu trữ tại thư viện Đại học Oxford (Anh), được cho là "Thiên hạ hải đạo toàn đồ" hay "Đông - Tây dương hàng hải đồ" và được làm ra vào khoảng năm Thiên Khải thứ 4 (1624), có ghi địa danh Vạn Lý Thạch Đường (萬里石塘), (phía đông của đảo mang tên "Ngoại La" (外羅), tức đảo Lý Sơn), ở kề cận phía nam-tây nam của Vạn Lý Trường Sa (萬里長沙). Năm 1935, Trung Hoa Dân Quốc đã xuất bản "Biểu đối chiếu tên gọi Hoa-Anh các đảo thuộc Nam Hải Trung Quốc", trong đó nước này gọi Trường Sa là "Đoàn Sa" (團沙) còn địa danh "Nam Sa" thời đó là để chỉ thứ mà ngày nay được gọi là "Trung Sa". Ngày 1 tháng 12 năm 1947, nước này công bố tên Trung Quốc cho hàng loạt thực thể thuộc biển Đông và đặt chúng dưới sự quản lý của mình. Trong tấm bản đồ mới, Trung Hoa Dân Quốc lần đầu tiên vẽ đường mười một đoạn đứt khúc (tiền thân của đường chín đoạn) thay cho đường vẽ bằng nét liền trước đây, đồng thời họ đổi tên Nam Sa thành Trung Sa và đổi tên Đoàn Sa thành Nam Sa.
Học giả Trung Hoa thế kỷ 19, khi viết và vẽ về địa lý các nước trên toàn thế giới cũng không cho rằng các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thuộc Trung Quốc, thậm chí vài người họ còn ngầm thể hiện cho độc giả hiểu là các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa ngày nay là thuộc Việt Nam. |
Quần đảo Trường Sa | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1421 | Từ Kế Dư (1795-1873), học giả Trung Quốc đầu tiên thời cận đại thực sự "mở mắt nhìn ra thế giới" ("khai nhãn khán thế giới") qua bộ sách lịch sư địa lý mang tên "Doanh hoàn chí lược" (瀛寰志略)ː đã vẽ bản đồ Trung Quốc thời nhà Thanh với cực nam là Quỳnh Châu (đảo Hải Nam), đồng thời trong tập Doanh hoàn chí lược/Á Tế Á Nam Dương tân hải các quốc (Châu Áː các nước ven bờ biển Nam Dương), phần viết về Việt Nam đề cập tới Vạn lý Trường Sa và Thiên lý Thạch Đường là những tên gọi người Trung Quốc thời đó gọi quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa, cũng viết rõ "Quỳnh (châu) là châu lớn địa đầu" Trung Quốc. Trong Doanh hoàn chí lược (1849), Từ Kế Dư viếtː
<poem>
"... 陳資齋《海國聞見錄》云:
「安南以交趾為東京,以廣南為西京。
由廈門赴廣南,取道南澳,見廣之魯萬山,瓊之大洲頭,過七洲洋,
取廣南外之咕嗶羅山,而至廣南,計水程七十二更。
赴交趾則由七洲洋西繞北而進,計水程七十四更。
七洲洋在瓊州府萬州之東南,往南洋者必經之路。
中國商舶行海,以望見山形為標識。
至七洲洋,則浩渺一水,無鳥嶼可認,偏東則犯萬里長沙、
千里石塘,偏西則溜入廣南灣。
舟行至此,罔不惕惕。風極順利,亦必六七日方能渡過。
七洲洋有神鳥,似海雁而小,紅嘴綠腳,尾帶一箭,長二尺許,名曰箭鳥。
行舟或迷所向,則飛來導之。」..."
"Trần Tư Trai《Hải quốc văn kiến lục》vân:
"An Nam dĩ Giao Chỉ vị Đông Kinh,dĩ Quảng Nam vị Tây kinh.
do Hạ Môn phó Quảng Nam,thủ đạo nam Áo,kiến quảng chi Lỗ Vạn sơn,Quỳnh chi đại châu đầu,quá Thất Châu Dương,
thủ Quảng Nam ngoại chi Cô Tất La sơn,nhi chí Quảng Nam, kế thủy trình thất thập nhị canh.
phó Giao Chỉ tắc do Thất Châu Dương tây nhiễu bắc nhi tiến,kế thủy trình thất thập tứ canh.
Thất Châu Dương tại Quỳnh Châu phủ Vạn châu chi đông nam,vãng Nam Dương giả tất kinh chi lộ. |
Quần đảo Trường Sa | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1421 | Trung Quốc thương bạc hành hải,dĩ vọng kiến sơn hình vị tiêu thức。chí Thất Châu Dương,tắc hạo miểu nhất thủy,vô điểu dữ khả nhận,thiên đông tắc phạm Vạn lý Trường Sa、
Thiên lý Thạch Đường,thiên tây tắc lưu nhập Quảng Nam loan.
chu hành chí thử,võng bất dịch dịch。phong cực thuận lợi,diệc tất lục thất nhật phương năng độ quá.
Thất Châu Dương hữu thần điểu,tự hải nhạn nhi tiểu,hồng chủy lục cước,vĩ đái nhất tiễn,trường nhị xích hứa,danh viết tiễn điểu。hành chu hoặc mê sở hướng,tắc phi lai đạo chi."").
</poem>
Dịch nghĩa làː "...Trần Tư Trai 《Hải quốc văn kiến lục》nói: 《An Nam lấy Giao Chỉ làm Đông Kinh, lấy Quảng Nam làm Tây kinh. Từ Hạ Môn đến Quảng Nam, đi theo đường nam Áo, nhìn rộng ra là Lỗ Vạn sơn, Quỳnh là châu lớn địa đầu, vượt qua Thất Châu Dương, đi theo phía ngoài Quảng Nam là Cô Tất La sơn, đến Quảng Nam, tính toán thủy trình hết khoảng 72 canh (giờ đi thuyền). Đi đến Giao Chỉ từ Thất Châu Dương tiến tới theo hướng tây vòng sang bắc, tính toán thủy trình hết khoảng 74 canh (giờ đi thuyền). Thất Châu Dương nằm ở phía đông nam của Vạn Châu thuộc phủ Quỳnh Châu, để đến Nam Dương ắt phải đi đường dọc xuống xuyên qua nó. Thuyền buôn Trung Quốc đi biển, trông vào hình non dạng đá (nổi trên mặt biển) làm tiêu dẫn đường. Tới Thất Châu Dương, lênh đênh trên biển nước bao la, không hề thấy đảo (cồn) chim nào, lệch về phía đông ắt tới Vạn lý Trường Sa và Thiên lý Thạch Đường, lệch về phía tây chắc chảy vào vịnh Quảng Nam. Thuyền đi đến đó (Thất Châu Dương), gặp tại nạn vì không thận trọng cảnh giác. Gió rất thuận lợi, cũng sẽ phải mất 6 đến 7 ngày để có thể vượt qua nó. Thất Châu Dương có chim thần, giống như một con ngỗng (nhạn) biển (lông nhỏ), mỏ đỏ chân xanh, vòng đuôi như mũi tên, dài khoảng hai thước, nên gọi là tiễn điểu. Giúp người đi thuyền hoặc lạc đường trên biển, dò đường theo hướng chim bay.》..."
Tranh chấp chủ quyền. |
Quần đảo Trường Sa | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1421 | Từ những thập niên đầu của thế kỉ 20, thời kì yên bình của quần đảo Trường Sa đã chấm dứt. Hàng loạt quốc gia từ châu Á đến châu Âu như Việt Nam, Pháp, các nhà nước Trung Quốc, Philippines, Malaysia, Brunei và trong một số giai đoạn lịch sử là Anh và Nhật Bản đều tham gia vào cuộc tranh chấp, dù là ở các mức độ khác nhau.
Việt Nam.
Luận cứ.
Việt Nam tuyên bố chủ quyền đối với quần đảo Trường Sa dựa trên các luận cứ về "hành động chiếm hữu thực tế", "quản lý liên tục và hòa bình" dưới các triều đại phong kiến đối với địa danh Hoàng Sa (nghĩa bao hàm Trường Sa) và sau này là sự nối tiếp của thực dân Pháp cùng các nhà nước hiện đại trên lãnh thổ Việt Nam. Ngoài ra, Việt Nam còn trưng ra các sử liệu về "sự công nhận" của các giáo sĩ, nhà hàng hải từ các quốc gia châu Âu, các quốc gia trên thế giới về chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo này.
Thứ nhất, các sử liệu cổ của Việt Nam ghi chép rằng các địa danh như "Bãi Cát Vàng", "Hoàng Sa", "Vạn Lý Hoàng Sa", "Đại Trường Sa" hoặc "Vạn Lý Trường Sa" thuộc lãnh thổ của Việt Nam, ít nhất là từ thế kỉ 17. Ví dụ:
Thứ hai, Việt Nam cho rằng sau Hòa ước Giáp Thân (1884) do nhà Nguyễn ký kết với Pháp thì nước Pháp đã đại diện cho Việt Nam về mặt ngoại giao và đã thi hành chủ quyền trên cả hai quần đảo là Trường Sa và Hoàng Sa thay cho Việt Nam.
Thứ ba, sau khi quân đội Pháp rút đi, chính phủ Việt Nam Cộng hòa ở phía nam vĩ tuyến 17 đã kế thừa Pháp để tiếp tục tuyên bố chủ quyền và thực hiện công tác quản lý cả về hành chính lẫn thực tế đối với quần đảo Trường Sa liên tục cho đến khi chấm dứt sự tồn tại vào tháng 4 năm 1975. Sau đó, nước Việt Nam thống nhất tiếp tục tuyên bố chủ quyền đối với quần đảo này.
Diễn biến.
Tháng 7 năm 1927, tàu "de Lanessan" của Pháp tiến hành một cuộc khảo sát khoa học trên quần đảo Trường Sa. Tháng 4 năm 1930, Pháp gửi tàu thông báo "la Malicieuse" đến quần đảo và treo quốc kỳ trên một gò đất cao thuộc île de la Tempête (đảo Trường Sa); tuy nhiên, dù nhìn thấy ngư dân Trung Quốc trên đảo này nhưng Pháp không tìm cách trục xuất họ. |
Quần đảo Trường Sa | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1421 | Ngày 23 tháng 9, Pháp thông báo cho các cường quốc khác rằng Pháp đã chiếm quần đảo Trường Sa.
Ngày 14 tháng 3 năm 1933, Pháp cho đội tàu gồm "Malicieuse", tàu pháo "Arlete" và hai tàu thủy văn "Astrobale" và "de Lanessan" từ Sài Gòn đến đảo Trường Sa và hàng loạt địa điểm khác như đá Chữ Thập, cụm rạn Luân Đôn, bãi san hô Tizard, bãi san hô Loại Ta, cụm rạn Thị Tứ và rạn Nguy Hiểm phía Bắc. Tại từng địa điểm đi qua, người Pháp đã tổ chức nghi lễ chiếm hữu các đảo chính thuộc nơi đó. Ngày 26 tháng 7, Bộ Ngoại giao Pháp ra bản thông tri về hành động trên, kèm theo danh sách liệt kê tên các đảo đã chiếm hữu cùng tọa độ, bao gồm:
và các tiểu đảo phụ thuộc từng đảo này.
Từ ngày 24 tháng 7 đến ngày 25 tháng 9, Pháp lần lượt thông báo cho các quốc gia có thể có lợi ích tại Trường Sa biết về hành động của Pháp. Theo bạch thư của Việt Nam Cộng hòa thì ngoại trừ Nhật Bản, tất cả các nước được thông báo đều không có lời nào phản đối Pháp; Trung Hoa Dân Quốc, Hà Lan (đang kiểm soát Indonesia) và Hoa Kỳ cũng đều giữ im lặng. Ngày 21 tháng 12 năm 1933, thống đốc Nam Kỳ Jean-Félix Krautheimer ký Nghị định số 4702-CP sáp nhập số đảo trên và "các đảo phụ thuộc" vào địa phận tỉnh Bà Rịa thuộc Liên bang Đông Dương. Sáu năm sau, Thứ trưởng Ngoại giao Anh Quốc là Butter tuyên bố rằng Pháp đã thực thi đầy đủ chủ quyền trên quần đảo.
Thời Chiến tranh thế giới thứ hai, Đế quốc Nhật Bản chiếm một số đảo và sử dụng đảo Ba Bình làm căn cứ tàu ngầm cho các chiến dịch ở Đông Nam Á. Sau cuộc chiến, Pháp và Trung Hoa Dân Quốc tái khẳng định chủ quyền đối với quần đảo Trường Sa. Trung Hoa Dân Quốc gửi hai tàu tới quần đảo và cho quân đổ bộ dựng bia trên đảo Ba Bình. Phản ứng lại hành động này, Pháp vài lần gửi tàu đến Trường Sa vào cuối năm 1946. Năm 1947, Pháp yêu cầu Trung Hoa Dân Quốc rút quân khỏi các đảo ngoài biển Đông nhưng cũng không làm gì để hiện thực hóa mong muốn của mình. |
Quần đảo Trường Sa | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1421 | Khi hệ thống thuộc địa của Pháp bắt đầu tan rã, nước này cũng chấm dứt tuần tra quần đảo Trường Sa vào năm 1948. Năm 1951, Nhật Bản ký vào Hiệp ước San Francisco và từ bỏ mọi quyền đối với quần đảo Trường Sa.
Cũng tại Hội nghị San Franciso này, Thủ tướng kiêm Ngoại trưởng Trần Văn Hữu của Quốc gia Việt Nam (thuộc Liên hiệp Pháp) đã tuyên bố rằng hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là lãnh thổ Việt Nam:
Không một đại biểu nào trong hội nghị bình luận gì về lời tuyên bố này. Việt Nam xem việc năm mươi phái đoàn nước khác tham dự Hội nghị San Francisco về hiệp ước hòa bình với Nhật Bản diễn ra ngày 7 tháng 7 năm 1951 (Trung Hoa Dân Quốc và Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa không dự) không bác bỏ hay bảo lưu ý kiến đối với lời phát biểu của Thủ tướng Trần Văn Hữu là một sự công nhận mang tính quốc tế về chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Trường Sa. Tuy nhiên, do tranh cãi giữa các nước có tuyên bố chủ quyền và xét thấy không nước nào có đủ chứng cứ pháp lý nên Hội nghị San Francisco đã "không công nhận" chủ quyền của bất kỳ nước nào ở Trường Sa, quần đảo được xem là vô chủ.
Sau khi người Pháp rời khỏi Việt Nam theo quy định của Hiệp định Genève 1954, quyền kiểm soát các đảo thuộc về Quốc gia Việt Nam và chính phủ kế tục của nó là Việt Nam Cộng hòa. Sau sự kiện Tomás Cloma, ngày 1 tháng 6 năm 1956, Ngoại trưởng Việt Nam Cộng hòa Vũ Văn Mẫu tái khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với Trường Sa và Hoàng Sa. Ngày 2 tháng 6, Pháp cũng nhắc lại cho Philippines biết về quyền của Pháp từ năm 1933. Ngày 22 tháng 8 năm 1956, tàu HQ-04 Tụy Động của Hải quân Việt Nam Cộng hòa viếng thăm một số đảo thuộc Trường Sa, thượng cờ và dựng bia ghi chủ quyền. Ngày 22 tháng 10 cùng năm, Tổng thống Ngô Đình Diệm ký sắc lệnh số 143-NV về việc đổi tên các tỉnh thành miền Nam Việt Nam; văn bản ghi "Hoàng Sa (Spratley)" (sic) thuộc tỉnh Phước Tuy.
Trong thời kì 1961-1963, Việt Nam Cộng hòa tiếp tục viếng thăm và dựng bia nhiều đảo. |
Quần đảo Trường Sa | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1421 | Năm 1961, tàu HQ-02 "Vạn Kiếp" và HQ-06 "Vân Đồn" thăm Song Tử Tây - Thị Tứ - Loại Ta - An Bang; năm 1962, tàu "Tụy Động" và HQ-05 "Tây Kết" thăm Trường Sa - Nam Ai (tức Nam Yết); năm 1963, ba tàu gồm HQ-404 "Hương Giang", HQ-01 "Chi Lăng" và HQ-09 "Kì Hòa" đã dựng bia trên Trường Sa (19 tháng 5), An Bang (20 tháng 5), Thị Tứ - Loại Ta (22 tháng 5) và Song Tử Đông - Song Tử Tây (24 tháng 5). Tuy nhiên, Hải quân Việt Nam Cộng hòa không duy trì sự hiện diện liên tục ở quần đảo Trường Sa do vướng phải cuộc chiến tranh Việt Nam.
Ngày 13 tháng 7 năm 1971, Bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam Cộng hòa Trần Văn Lắm đã nêu yêu sách của Việt Nam đối với quần đảo Trường Sa khi ông đang ở Manila (Philippines). Ngày 6 tháng 9 năm 1973, Bộ Nội vụ Việt Nam Cộng hòa ban hành nghị định số 420-BNV/HCĐP/26 sáp nhập một số đảo chính và các đảo phụ cận vào xã Phước Hải, quận Đất Đỏ, tỉnh Phước Tuy.
Đầu năm 1974, một thời gian ngắn sau thất bại trong trận chiến tại nhóm đảo Lưỡi Liềm thuộc quần đảo Hoàng Sa (còn gọi là Hải chiến Hoàng Sa 1974), chính quyền Việt Nam Cộng hòa ra quyết định tăng cường lực lượng tại Trường Sa và chỉ thị quân đội tiến hành chiến dịch "Trần Hưng Đạo 48" nhằm chiếm một số đảo. Liên tiếp trong các tháng 2 và tháng 3 cùng năm, Việt Nam Cộng hòa tái khẳng định lại chủ quyền của mình đối với hai quần đảo bằng nhiều con đường như thông qua đại sứ ở Manila, qua hội nghị của Liên Hợp Quốc về luật biển ở Caracas và hội nghị của Hội đồng Kinh tài Viễn Đông ở Colombia. Từ ngày 14 đến ngày 28 tháng 4 năm 1975, các lực lượng hải quân của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam và Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã hoàn toàn thay thế lực lượng Việt Nam Cộng hòa trên năm đảo là Song Tử Tây, Sơn Ca, Nam Yết, Sinh Tồn và Trường Sa.
Vào cuối thập niên 1970, trong các ngày 30 tháng 12 năm 1978 và 7 tháng 8 năm 1979, Việt Nam phản đối Trung Quốc và tái khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Trường Sa. |
Quần đảo Trường Sa | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1421 | Ngày 28 tháng 9 năm 1978, Việt Nam phản đối Philippines sáp nhập các đảo thuộc Trường Sa vào lãnh thổ của mình.
Sang thập niên 1980, Việt Nam tiếp tục nhiều lần lên tiếng để phản ứng lại hành động của một số quốc gia khác tại Trường Sa. Ngày 5 tháng 2 năm 1980, Việt Nam phản bác văn kiện ngày 30 tháng 1 năm 1980 của Trung Quốc về Nam Sa và Tây Sa. Trong năm 1982, Việt Nam sáp nhập huyện Trường Sa vào tỉnh Phú Khánh. Năm 1983, Việt Nam phản đối việc Malaysia chiếm đá Hoa Lau. Năm 1989, Việt Nam chia tách tỉnh Phú Khánh và quy thuộc Trường Sa vào tỉnh Khánh Hòa.
Năm 2007, Chính phủ Việt Nam ký nghị định thành lập ba đơn vị hành chính trực thuộc huyện Trường Sa. Ngày 21 tháng 6 năm 2012, Quốc hội Việt Nam khóa XIII (kì họp thứ 3) đã bỏ phiếu thông qua "Luật Biển Việt Nam" gồm 7 chương và 55 điều. Điều 1 của luật tái khẳng định tuyên bố chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Trường Sa.
Chỉ trích.
Nhiều học giả quốc tế phản bác các bằng chứng lịch sử mà Việt Nam đưa ra. Cụ thể, khi nhận định về các bằng chứng này, Valencia & ctg (1999) cho rằng chúng cũng "giống như Trung Quốc - thưa thớt, mang tính giai thoại và không thuyết phục". Lu (1995) cho rằng thư tịch cổ Việt Nam "không trưng ra bằng chứng rõ ràng nói lên hiểu biết của Việt Nam về quần đảo Trường Sa xét về tuyên bố chủ quyền riêng rẽ". Cũng theo Lu (1995), trong số vài ghi chép đề cập đến quần đảo Trường Sa thì "hầu hết chúng luôn luôn" xác định Trường Sa là một phần của "quần đảo Hoàng Sa"; tấm bản đồ năm 1838 (tức "Đại Nam nhất thống toàn đồ" của nhà Nguyễn, trong đó thể hiện "Hoàng Sa" và "Vạn Lý Trường Sa" thuộc Việt Nam) vẽ "các đảo nằm rất sát nhau đồng thời cũng gần bờ biển" Việt Nam, "thực tế là cùng một nhóm đảo". Cordner (1994) còn nhận xét tấm bản đồ 1838 thể hiện quần đảo Trường Sa nằm trong cương vực Việt Nam này là "không chính xác". Dzurek (1996) dẫn lại nhận xét của Heinzig (1976) rằng, lý luận lịch sử đến hết thế kỷ 19 của Việt Nam "chỉ đề cập độc nhất đến quần đảo Hoàng Sa ["Paracels"]". |
Quần đảo Trường Sa | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1421 | Cũng theo Dzurek (1996), quần đảo Trường Sa cách quần đảo Hoàng Sa đến 400 km, vì thế "sẽ là bất bình thường nếu xem cả hai là một thực thể duy nhất hoặc dùng một tên gọi duy nhất cho cả hai".
Học giả quốc tế và học giả Việt Nam cũng có những nhận định khác nhau về giá trị của luận điểm cho rằng Pháp chiếm hữu một số đảo lớn và các đảo phụ thuộc thuộc quần đảo Trường Sa và sáp nhập chúng vào tỉnh Bà Rịa thuộc Nam Kỳ vào năm 1933 là thực thi chủ quyền cho Việt Nam. Về phía Việt Nam, Nguyễn (2002) dẫn chứng: "Cố vấn pháp luật Bộ Ngoại giao Pháp đã viết rất rõ: "Việc chiếm hữu quần đảo Spratley do Pháp tiến hành năm 1931-1932 là nhân danh Hoàng Đế "An Nam"." Về phía nước ngoài, Chemillier-Gendreau (2000) đánh giá rằng thái độ của Pháp đối với quần đảo Trường Sa và quần đảo Hoàng Sa là khác nhau, vì Pháp khẳng định các quyền đối với Trường Sa thông qua tư cách người đầu tiên chiếm đóng các đảo, dựa vào nguyên tắc "đất vô chủ" ("terra nullius") chứ không phải là người kế thừa của An Nam. Valero (1993) dẫn chứng, vào giữa tháng 10 năm 1950, trong khi Pháp chính thức nhượng lại tuyên bố chủ quyền quần đảo Hoàng Sa cho Quốc gia Việt Nam [do Bảo Đại đứng đầu] thì nước Pháp không ra một văn bản chính thức nào thể hiện quyết định từ bỏ chủ quyền đối với quần đảo Trường Sa.
Năm 1956, trong khi Việt Nam Cộng hòa tự phản đối Tomás Cloma (xem thêm) tuyên bố quyền sở hữu đối với phần lớn quần đảo Trường Sa thì André-Jacques Boizet (đại biện Pháp tại Manila) báo cho Philippines biết rằng Pháp có chủ quyền đối với các đảo Trường Sa căn cứ trên hành động chiếm đảo trong thời kỳ 1932-1933. Đại biện bổ sung thêm: "trong khi Pháp nhượng lại [từ bỏ chủ quyền] quần đảo Hoàng Sa cho Việt Nam thì Pháp không nhượng quần đảo Trường Sa". Theo Kivimaki (2002) thì đến năm 1957, nước Pháp "không chính thức từ bỏ tuyên bố chủ quyền nhưng cũng không cố bảo vệ nó nữa"; cách hành xử này được cho là tương tự Anh Quốc thập niên 1930 (xem phần Các tuyên bố khác). |
Quần đảo Trường Sa | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1421 | Chemillier-Gendreau (2000) nhận định nếu các luận cứ dựa trên lịch sử thời phong kiến của Việt Nam đủ làm sáng tỏ chủ quyền đối với quần đảo Trường Sa thì sự kiện Pháp chiếm hữu quần đảo mới không làm phức tạp thêm vấn đề.
Một hướng phản bác khác đối với luận điểm Việt Nam thừa hưởng chủ quyền Trường Sa từ tuyên bố chủ quyền của Pháp lần đầu vào năm 1933, Joyner (1998) cho rằng Pháp không hề nỗ lực hoàn thiện danh nghĩa giữ chủ quyền đối với quần đảo Trường Sa bằng việc cho lính chiếm đóng quần đảo cả khi quân đội Nhật Bản rời đi (sau Chiến tranh thế giới thứ hai) lẫn khi Nhật Bản từ bỏ tuyên bố chủ quyền đối với quần đảo Trường Sa trong năm 1951. Ông kết luận: "hậu quả [của điều đó] là Pháp không có danh nghĩa sở hữu hợp pháp đối với quần đảo Trường Sa để mà Việt Nam thừa hưởng".
Furtado (1999) dẫn ra các lập luận được cho là của Trung Quốc, có nội dung bác bỏ lập luận Việt Nam thừa hưởng Trường Sa từ Pháp. Tác giả viết, Trung Quốc lý luận rằng "không có dấu hiệu cho thấy Việt Nam tiếp nhận danh nghĩa đối với quần đảo Trường Sa khi nước này độc lập", đồng thời vì "Pháp chưa bao giờ tuyên bố chủ quyền đối với toàn bộ quần đảo Trường Sa" nên Trung Quốc không nhận thấy "bất cứ nguyên do có thể hiểu được nào giải thích cho việc Việt Nam nên được hưởng danh nghĩa [chủ quyền] đối với toàn bộ quần đảo".
Trung Quốc.
Luận cứ.
Năm 1958, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa (Trung Quốc) tuyên bố chủ quyền của mình đối với các đảo thuộc biển Đông dựa vào cơ sở lịch sử. Họ cho rằng quần đảo Trường Sa đã từng là một phần của Trung Quốc trong gần 2.000 năm và đưa ra các đoạn trích trong các thư tịch cổ cũng như các bản đồ từ thời nhà Hán, nhà Đường, nhà Tống, nhà Nguyên, nhà Thanh và gần nhất là thời Trung Hoa Dân Quốc mà theo Trung Quốc là có nhắc tới quần đảo Trường Sa. Hiện vật khảo cổ như những mảnh đồ gốm Trung Quốc và tiền cổ được tìm thấy ở đó cũng được Trung Quốc sử dụng nhằm chứng minh cho tuyên bố của mình. |
Quần đảo Trường Sa | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1421 | Năm 1958, Thủ tướng Việt Nam Dân chủ Cộng hòa Phạm Văn Đồng đã gửi Tổng lý Quốc vụ viện Trung Quốc (Thủ tướng) một công hàm để ghi nhận và tán thành bản tuyên bố ngày 4 tháng 9 năm 1958 của chính phủ nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa về hải phận của nước này. Báo "Nhân dân" của Việt Nam cũng đăng công hàm này vào ngày 22 tháng 9 cùng năm. Theo Bộ Ngoại giao Trung Quốc, sự công nhận này "đương nhiên có giá trị với toàn bộ lãnh thổ Trung Quốc" vì báo Nhân dân trước đó đã đăng bài chi tiết về bản tuyên bố về lãnh hải của chính phủ Trung Quốc, trong đó nói rằng "kích thước lãnh hải của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa là 12 hải lý và điều này được áp dụng cho tất cả các vùng lãnh thổ của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, bao gồm tất cả các quần đảo trên biển Đông".
Ngoài ra, Trung Quốc còn khẳng định rằng Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và nhiều quốc gia khác đã nhiều lần công nhận chủ quyền của Trung Quốc đối với quần đảo Trường Sa trong quá khứ. Theo Trung Quốc thì:
Diễn biến.
Ngày 29 tháng 9 năm 1932, để đáp lại một văn bản đề cập đến quần đảo Hoàng Sa do Pháp gửi tới tòa công sứ Trung Quốc, Trung Hoa Dân Quốc gửi một văn bản không rõ ràng cho Pháp đề cập đến chủ quyền của họ đối với một quần đảo khác ở cách quần đảo Hoàng Sa 150 dặm dựa trên cơ sở là Công ước Pháp-Thanh 1887. Sau sự kiện Pháp chiếm hữu Trường Sa vào năm 1933, các bản đồ của Trung Hoa Dân Quốc đã thay đổi cách vẽ qua việc mở rộng đường giới hạn (vẽ bằng nét liền) tại biển Đông xuống khu vực giữa vĩ tuyến 7° Bắc và vĩ tuyến 9° Bắc nhằm nói lên rằng quần đảo Trường Sa là thuộc về Trung Quốc.
Cuối năm 1946, Trung Hoa Dân Quốc cho hai tàu chiến là "Thái Bình" và "Trung Nghiệp" đến quần đảo Trường Sa. Sau thất bại trong cuộc nội chiến Trung Quốc, Quốc dân Đảng đã rút quân khỏi đảo Ba Bình vào năm 1950. Tuy nhiên, sự kiện Tomás Cloma đã kích động Đài Loan quay lại giành quyền kiểm soát đảo Ba Bình vào năm 1956.
Tại đại lục Trung Quốc, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa ra đời vào ngày 1 tháng 10 năm 1949. |
Quần đảo Trường Sa | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1421 | Chỉ hai năm sau, vào ngày 15 tháng 8 năm 1951, Chu Ân Lai công khai khẳng định lại chủ quyền của Trung Quốc đối với Trường Sa và Hoàng Sa sau khi ông đọc được bản sơ thảo hiệp ước hòa bình với Nhật Bản. Tiếp sau đó, ngày 24 tháng 8 năm 1951, Tân Hoa xã của Trung Quốc đã lên tiếng tranh cãi về quyền của Pháp cũng như tham vọng của Philippines đối với Trường Sa và mạnh mẽ khẳng định quyền của Trung Quốc. Ngày 31 tháng 5 năm 1956, Trung Quốc phản ứng lại sự kiện Cloma và khẳng định sẽ không tha thứ cho bất cứ sự xâm phạm nào đối với quyền của nước này đối với Trường Sa.
Thập niên 1970, Trung Quốc nhiều lần lên tiếng phản hồi về hành động của các quốc gia khác: ngày 16 tháng 7 năm 1971, Trung Quốc phản đối việc Philippines có hành vi chiếm đóng một số đảo ở Trường Sa; ngày 14 tháng 1 năm 1974, Trung Quốc phản đối Việt Nam Cộng hòa sáp nhập các đảo Trường Sa vào tỉnh Phước Tuy. Ngày 19 tháng 1 năm 1974, Trung Quốc đánh chiếm các đảo trong nhóm Lưỡi Liềm của quần đảo Hoàng Sa mà Việt Nam Cộng hòa đang quản lí, gây ra trận Hải chiến Hoàng Sa.
Năm 1987, Trung Quốc cho tàu khảo sát hàng loạt địa điểm ở quần đảo Trường Sa và đi đến quyết định sẽ chọn đá Chữ Thập làm nơi đóng quân. Trong thời gian trước và sau cuộc xung đột vũ trang với Việt Nam tại Trường Sa vào năm 1988 (Hải chiến Trường Sa), hải quân Trung Quốc đã liên tục chiếm thêm nhiều rạn đá khác nhằm mở rộng tầm kiểm soát tại quần đảo.
Một điểm quan trọng trong chuỗi các diễn biến tại Trường Sa là sự phối hợp và tương trợ lẫn nhau của Đài Loan và Trung Quốc trong hoạt động tuyên bố chủ quyền và mở rộng tầm kiểm soát tại quần đảo. Tháng 3 năm 1988, quân đồn trú của Đài Loan trên đảo Ba Bình đã tham gia tiếp tế lương thực và nước uống cho Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc (trong Hải chiến Trường Sa 1988). Đương thời, Bộ trưởng Quốc phòng Đài Loan là Trịnh Vi Nguyên () từng công khai tuyên bố rằng "Nếu chiến tranh nổ ra, quân đội Quốc gia sẽ giúp quân đội Cộng sản kháng chiến". |
Quần đảo Trường Sa | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1421 | Đến năm 1995, khi Trung Quốc giành quyền kiểm soát đá Vành Khăn với Philippines vào tháng 2 thì Đài Loan cũng giành quyền kiểm soát bãi Bàn Than vào tháng 3. Ngoài ra, lực lượng Trung Quốc đóng tại Trường Sa còn nhận được nước ngọt từ quân đồn trú trên đảo Ba Bình.
Chỉ trích.
Tháng 7 năm 2012, báo chí Việt Nam đồng loạt đưa tin về tấm "Hoàng triều trực tỉnh địa dư toàn đồ" do nhà Thanh lập và Nhà Xuất bản Thượng Hải ấn hành năm 1904, trong đó điểm cực nam của Trung Quốc dừng lại ở đảo Hải Nam và không có "Nam Sa" (Trường Sa) hay "Tây Sa" (Hoàng Sa) mà Trung Quốc đang tuyên bố chủ quyền. Mai Ngọc Hồng, người tặng bản đồ này cho Bảo tàng Lịch sử Quốc gia Việt Nam, nói rằng tấm bản đồ này được lập trong vòng 196 năm, từ thời vua Khang Hi đến năm 1904 mới xuất bản; Nguyễn Hữu Tâm từ Viện Sử học Việt Nam bổ sung thêm là tỉ lệ xích của bản đồ chính xác. Báo chí Việt Nam lập luận rằng đây là bằng chứng cho thấy việc Trung Quốc tuyên bố chủ quyền lịch sử tại Trường Sa (và Hoàng Sa) là không có căn cứ.
Về công hàm của Phạm Văn Đồng, báo chí Việt Nam đã lên tiếng phản bác lại, việc lý lẽ Trung Quốc đã diễn giải công hàm một cách "xuyên tạc" bởi vì nội dung công hàm không đề cập đến Hoàng Sa - Trường Sa và không hề tuyên bố từ bỏ chủ quyền với hai quần đảo này mà chỉ công nhận "hải phận" 12 hải lý của Trung Quốc. Nhà nghiên cứu về châu Á là Balazs Szalontai thì cho rằng công hàm không có sức nặng ràng buộc pháp lý.
Philippines.
Luận cứ.
Philippines dựa trên các luận điểm là "terra nullius" (đất vô chủ) và sự gần gũi về khoảng cách địa lý để tuyên bố chủ quyền đối với "Nhóm đảo Kalayaan", tương đương với "phần lớn" quần đảo Trường Sa.
Thứ nhất, công dân Philippines Tomás Cloma đã đến nhiều đảo không người thuộc Trường Sa vào năm 1947 và tuyên bố sở hữu chúng vào năm 1956. Tuy Philippines chưa bao giờ chính thức ủng hộ tuyên bố về quyền sở hữu đảo của Cloma nhưng nước này lại dùng sự kiện Cloma làm căn cứ để tuyên bố chủ quyền. |
Quần đảo Trường Sa | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1421 | Cụ thể, Philippines cho rằng không có nỗ lực giành chủ quyền nào với các đảo cho tới thập niên 1930 khi quân đội Pháp và sau đó là quân đội đế quốc Nhật Bản chiếm đảo; khi Nhật Bản ký vào Hiệp ước San Francisco thì đã có một sự từ bỏ quyền đối với các đảo Trường Sa mà không có bất kỳ một bên yêu cầu chủ quyền nào. Vì thế, Philippines cho rằng các đảo Trường Sa đã trở thành "đất vô chủ" và có thể được sáp nhập vào lãnh thổ của họ.
Thứ hai, trong một văn bản gửi tới Đài Loan năm 1971, Philippines khẳng định rằng quần đảo Trường Sa nằm trong lãnh thổ quần đảo mà nước này tuyên bố chủ quyền. Trong Sắc lệnh Tổng thống 1596 ký năm 1978, Tổng thống Philippines Ferdinand Marcos cho rằng phần lớn các thực thể Kalayaan đều nằm trên rìa lục địa của quần đảo Philippines. Năm 1982, tài liệu của Bộ Quốc phòng Philippines cho rằng Nhóm đảo Kalayaan là riêng biệt khỏi các nhóm đảo khác ở biển Đông và không phải là một phần của quần đảo Trường Sa:
Diễn biến.
Trong Chiến tranh thế giới thứ hai, đế quốc Nhật Bản dùng quần đảo Trường Sa làm bàn đạp để tấn công Philippines. Năm 1947, Philippines kêu gọi giao cho nước này quần đảo Trường Sa nhưng Philippines lại không nhắc gì đến vấn đề này trong Hội nghị San Francisco năm 1951.
Năm 1947, luật sư và doanh nhân người Philippines là Tomás Cloma đã tìm thấy nhiều đảo không người và chưa bị chiếm đóng trong biển Đông. Ngày 15 tháng 5 năm 1956, ông tuyên bố lập ra một nhà nước mới với tên gọi là "Freedomland" (Vùng đất tự do), trải rộng trên phần phía đông của biển Đông. Ngày 6 tháng 7 năm 1956, Cloma tuyên bố với toàn thế giới về việc thành lập chính phủ riêng cho Lãnh thổ Tự do Freedomland với thủ phủ đặt tại đảo Bình Nguyên. Hành động này dù không được chính phủ Philippines xác nhận nhưng vẫn bị các nước khác coi là một hành động gây hấn của Philippines. Trung Hoa Dân Quốc (Đài Loan), Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa và Việt Nam Cộng hòa đều tuyên bố phản đối. Ngoài ra, Trung Hoa Dân Quốc còn gửi lực lượng hải quân tái chiếm đảo Ba Bình.
Trong buổi họp báo ngày 10 tháng 7 năm 1971, Tổng thống Philippines Ferdinand Marcos cáo buộc lính Đài Loan trên đảo Ba Bình đã bắn vào một tàu của Philippines khi tàu này định cập vào đảo Ba Bình, nhưng Đài Loan chối bỏ. |
Quần đảo Trường Sa | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1421 | Philippines còn gửi văn bản phản đối tới Đài Bắc với nội dung khẳng định một số ý chính như sau: (1) do hành động chiếm hữu của Cloma nên Philippines có danh nghĩa pháp lý đối với nhóm đảo; (2) hành động chiếm đóng của người Trung Quốc là phi pháp vì nhóm đảo này trên thực tế ("de facto") nằm dưới sự ủy trị của các lực lượng Đồng Minh trong Chiến tranh thế giới thứ hai; (3) quần đảo Trường Sa nằm trong lãnh thổ quần đảo mà Philippines tuyên bố chủ quyền. Tháng 4 năm 1972, Kalayaan chính thức sáp nhập với tỉnh Palawan và được quản lý như một "población" (tương đương một barangay) với Tomás Cloma là chủ tịch hội đồng khu vực. Năm 1978, Ferdinand Marcos ký Sắc lệnh số 1596 định rõ giới hạn của khái niệm Nhóm đảo Kalayaan.
Ngày 13 tháng 4 năm 2009, Tổng thống Gloria Macapagal-Arroyo ký thông qua Luật Đường cơ sở Quần đảo (Đạo luật Cộng hòa số 9522) để tái khẳng định "Nhóm đảo Kalayaan" là thuộc lãnh thổ của nước này. Lúc đầu, Philippines từng có ý định đưa Nhóm đảo Kalayaan vào đường cơ sở của mình. Tuy vậy, sau một số tranh luận, nước này từ bỏ ý định trên và quyết định chỉ xem Nhóm đảo Kalayaan là các đảo thuộc Philippines, tuân theo điều 121 về "Chế độ các đảo" của Công ước.
Chỉ trích.
Luận điểm thứ nhất về "đất vô chủ", cho rằng chưa có ai tuyên bố chủ quyền hoặc từ bỏ chủ quyền đối với các đảo Trường Sa và Tomás Cloma đã "khám phá" ra chúng vào năm 1947 là không thuyết phục bởi lẽ tuyên bố của Cloma đã vấp phải sự phản đối của Việt Nam Cộng hòa và [các] nhà nước Trung Quốc. Hơn nữa, Cloma chỉ là một cá nhân và không đại diện cho chính phủ Philippines. Năm 1951, Tòa án Công lý Quốc tế khi xét xử vụ tranh chấp giữa Anh và Na Uy về đặc quyền đánh cá đã tạo ra tiền lệ là "hoạt động độc lập của các cá thể tư nhân có ít giá trị trừ khi có thể chỉ ra rằng họ hành động khi đang theo đuổi... một số... quyền hành nhận được từ chính phủ của họ hoặc theo một cách nào đó mà chính phủ của họ khẳng định quyền tài phán thông qua họ". Khi Cloma thực hiện hành động của mình ở quần đảo Trường Sa thì chính phủ Philippines không hề tỏ ý đồng tình hay không đồng tình với ông. |
Quần đảo Trường Sa | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1421 | Luận điểm thứ hai về địa lý của Philippines cũng có điểm yếu bởi vì quần đảo Philippines bị máng biển Palawan ngăn cách khỏi quần đảo Trường Sa, không thỏa điều 76 của Công ước Liên Hợp Quốc về Luật biển (xem thêm) về sự "kéo dài tự nhiên" nên nước này không thể đòi hỏi đặc quyền vượt quá phạm vi 200 hải lý tính từ đường cơ sở. Ngoài ra, Dzurek (1996) cho rằng có vẻ Philippines đã không còn duy trì quan điểm cho rằng Nhóm đảo Kalayaan là riêng biệt với quần đảo Trường Sa nữa.
Malaysia.
Luận cứ.
Malaysia dựa trên hai luận điểm là thềm lục địa và khai phá sớm nhất để tuyên bố chủ quyền/đòi hỏi đặc quyền đối với một khu vực biển Đông ở phía nam Trường Sa, trong đó có 12 thực thể địa lý nổi bật là đảo An Bang, đá Công Đo, đá Én Ca, đá Hoa Lau, đá Kỳ Vân, đá Sác Lốt, đá Suối Cát, đá Thuyền Chài, bãi Kiêu Ngựa, bãi Thám Hiểm (thuộc Trường Sa) cùng rạn vòng Louisa và cụm bãi cạn Luconia (Bắc và Nam) (không thuộc Trường Sa).
Diễn biến.
Tuyên bố về thềm lục địa của Malaysia khởi nguồn từ Hội nghị Genève năm 1958. Trong các năm 1966 và 1969, Malaysia đã thông qua Đạo luật về Thềm lục địa.
Ngày 3 tháng 2 năm 1971, đại sứ quán Malaysia tại Sài Gòn gửi công hàm cho Bộ Ngoại giao Việt Nam Cộng hòa để hỏi rằng nước này có sở hữu hay yêu sách các "đảo" nằm trong khoảng giữa vĩ tuyến 9° Bắc và kinh tuyến 112° Đông "thuộc" lãnh thổ nước Cộng hòa Morac-Songhrati-Meads không. Ngày 20 tháng 4, Sài Gòn đáp lại rằng quần đảo Trường Sa thuộc chủ quyền của Việt Nam Cộng hòa.
Năm 1979, Malaysia xuất bản một tấm bản đồ mang tựa đề "Bản đồ Thể hiện Lãnh hải và Các ranh giới Thềm lục địa" để xác định thềm lục địa và tuyên bố chủ quyền đối với tất cả các "đảo" nổi lên từ thềm lục địa đó. Tháng 4 năm 1980, Malaysia tuyên bố yêu sách về vùng đặc quyền kinh tế nhưng chưa phân định ranh giới cụ thể. Tháng 5 năm 1983 (hay tháng 6), Malaysia đánh dấu việc chiếm đóng thực thể địa lý "đầu tiên" thuộc Trường Sa khi cho quân đội đổ bộ lên đá Hoa Lau. |
Quần đảo Trường Sa | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1421 | Tháng 11 năm 1986, nước này cho 20 lính chiếm đá Kiêu Ngựa (rạn đá nổi bật của bãi Kiêu Ngựa) và cho một trung đội chiếm đá Kỳ Vân (theo nguồn khác thì Malaysia chiếm đá Kỳ Vân vào năm 1987). Năm 1987 (hay 1986), Malaysia chiếm đá Suối Cát.
Tháng 3 năm 1998, Philippines phát hiện hoạt động xây dựng của phía Malaysia trên hai thực thể địa lý, song Bộ trưởng Ngoại giao Malaysia Abdullah bin Ahmad Badawi trấn an rằng, Chính phủ Malaysia không hề cấp phép cho hoạt động này. Tuy nhiên vào tháng 6 năm 1999, Malaysia chiếm hẳn bãi Thám Hiểm và đá Én Ca.
Ngày 5 tháng 3 năm 2009, Thủ tướng Malaysia khi đấy là Abdullah bin Ahmad Badawi có chuyến thăm đá Hoa Lau và tỏ ra ấn tượng với cơ sở hạ tầng dành cho du lịch tại đây. Đồng thời ông cũng khẳng định tuyên bố chủ quyền với đá này và vùng biển lân cận.
Chỉ trích.
Nhận định về luận điểm "thềm lục địa" của Malaysia, một số học giả cho rằng nước này đã "lầm lạc" (Dzurek 1996) trong cách suy diễn hay "khó có thể thanh minh" (Valencia & ctg 1999) nếu đối chiếu với Công ước Liên Hợp Quốc về Luật biển. Cụ thể, Điều 76 của Công ước quy định thềm lục địa chỉ bao gồm "đáy biển và lòng đất dưới đáy biển" chứ không phải các phần đất hay đá nổi phía trên thềm lục địa đó:
Một điểm nữa là tương tự như trường hợp Philippines, luận điểm về thềm lục địa của Malaysia cũng có thêm điểm yếu là máng biển Borneo-Palawan đã phá vỡ sự "kéo dài tự nhiên" của thềm lục địa của nước này. Nói cách khác, đa số các thực thể địa lý mà Malaysia đòi hỏi vẫn không thuộc thềm lục địa của nước này dù họ có diễn giải luận điểm về thềm lục địa như thế nào đi nữa.
Luận điểm thứ hai của Malaysia về "khai phá sớm nhất" cũng không thuyết phục vì nếu so với các nước khác thì Malaysia tham gia vào tranh chấp muộn hơn; khi tuyên bố chủ quyền đối với một phần của Trường Sa thì quốc gia này cũng vấp phải sự phản ứng từ các nước đó.
Brunei.
Luận cứ. |
Quần đảo Trường Sa | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1421 | Brunei.
Luận cứ.
Brunei dựa trên hai luận điểm là các điều 76-77 của Công ước Liên Hợp Quốc về Luật biển (về thềm lục địa) và sắc lệnh do Anh ban hành năm 1954 thể hiện biên giới biển của Brunei để đòi hỏi đặc quyền trên một vùng thuộc biển Đông, và trong vùng này có hai hoặc ba thực thể địa lý nổi bật tọa lạc: rạn vòng Louisa, bãi Vũng Mây và có nguồn còn kể thêm bãi Chim Biển. Về tính chất, rạn vòng Louisa là một rạn san hô vòng đa phần chìm dưới nước; tại đây Malaysia đã dựng một ngọn đèn hiệu và đang tuyên bố chủ quyền. Bãi Vũng Mây là một bãi ngầm dưới biển do Việt Nam kiểm soát thông qua các nhà giàn gọi là DK1 xây tại đá Ba Kè ở phần phía bắc của bãi Vũng Mây.
Không rõ Brunei có tuyên bố chủ quyền đối với rạn vòng Louisa hay chỉ đòi quyền tài phán với vùng biển xung quanh đó vì các nghiên cứu của quốc tế có cách viết khác nhau về vấn đề này; trong khi có nguồn cho rằng Brunei không đòi rạn vòng Louisa thì nguồn khác chỉ ra Brunei đã phản đối Malaysia khi Malaysia tuyên bố chủ quyền đối với rạn vòng này. Mặt khác, bãi ngầm (như bãi Vũng Mây) dù có được xem là thuộc quần đảo Trường Sa hay không thì theo Công ước, bãi này không phải đối tượng để các quốc gia có thể tuyên bố "chủ quyền" mà các nước đó chỉ có "quyền chủ quyền" (tức chỉ là một số bộ phận cấu thành chủ quyền) đối với bãi ngầm trên cơ sở chứng minh được bãi ngầm đó nằm trong vùng đặc quyền kinh tế hoặc thềm lục địa của mình một cách khoa học. Do vậy, nếu Brunei không đòi rạn vòng Louisa thì thực ra Brunei không tranh chấp một đảo hay đá nào "thuộc" quần đảo Trường Sa mà đơn thuần chỉ là một nước trên thềm lục địa và thềm lục địa bên dưới vùng biển Trường Sa. Khi đó, Brunei và các quốc gia khác sẽ tự đàm phán với nhau hoặc thông qua cơ quan tài phán quốc tế.
Diễn biến và chỉ trích.
Năm 1979, Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland đại diện cho vùng đất do mình bảo hộ là Brunei để lên tiếng phản đối tấm bản đồ do Malaysia xuất bản. Ngày 1 tháng 1 năm 1983, chính quyền sở tại ban hành "Đạo luật Các giới hạn vùng Nghề cá". |
Quần đảo Trường Sa | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1421 | Năm 1988, Brunei xuất bản bản đồ mở rộng thềm lục địa 350 hải lý từ đường cơ sở và vươn đến bãi Vũng Mây.
Điểm yếu của Brunei khi tuyên bố về thềm lục địa cũng tương tự với Philippines ở chỗ, máng biển Đông Palawan làm gián đoạn sự "kéo dài tự nhiên" của thềm lục địa cách bờ biển Brunei 60-100 dặm.
Các tuyên bố khác.
Anh.
Năm 1877, Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland từng sáp nhập hai thực thể là đảo Trường Sa và đảo An Bang vào lãnh thổ đế quốc Anh. Năm 1889, Anh cho Công ty Trách nhiệm Hữu hạn "Trung Borneo" (trụ sở tại Luân Đôn) thuê và khai thác phân chim tại hai nơi này.
Năm 1933, trước hành động chiếm hữu các đảo Trường Sa của Pháp, Anh đã nhắc cho Pháp biết rằng đảo Trường Sa và đảo An Bang vẫn là lãnh thổ của Anh trừ khi Hoàng gia Anh dứt khoát từ bỏ những phần đất này. Tuy vậy vào ngày 12 tháng 7 năm 1933, "Văn phòng Đối ngoại và Khối Thịnh vượng chung Anh" nêu ý kiến rằng Anh chỉ có vị thế pháp lý yếu ớt nếu đưa vụ này ra Tòa án Thường trực Công lý Quốc tế do nước Anh không tiến hành chiếm giữ hiệu quả đối với hai thực thể trên. Rốt cuộc, dù trên thực tế Anh không hề từ bỏ tuyên bố chủ quyền nhưng nước này đã chọn cách im lặng thay vì tuyên bố phản đối Pháp.
Trong một văn bản đề ngày 14 tháng 10 năm 1947 của Văn phòng Đối ngoại và Khối Thịnh vượng chung Anh (sau này trở thành tài liệu chính thức cho phái đoàn Anh đến dự Hội nghị San Francisco năm 1951), Anh tiếp tục duy trì tuyên bố chủ quyền nhưng chỉ thị phái đoàn Anh không phản đối lời tuyên bố chủ quyền của Pháp và "để cho Pháp giữ thế chủ động".
Năm 1950, dưới sự thúc đẩy của Úc, chính phủ Anh tiến hành nghiên cứu tầm quan trọng chiến lược của quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa nhằm quyết định xem có nên tiến hành biện pháp gì để ngăn các quần đảo này rơi vào tay "một nhà nước cộng sản nào đó" hay không. Sau đó, Anh kết luận rằng vì các đảo này hầu như không có giá trị kinh tế hay chiến lược gì nên Khối Thịnh vượng chung có thể an tâm giữ nguyên thế bị động như hiện thời.
Nhật Bản và Hà Lan. |
Quần đảo Trường Sa | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1421 | Nhật Bản và Hà Lan.
Năm 1917 (hay 1918), một nhóm thám hiểm người Nhật đến quần đảo Trường Sa và gặp một số ngư dân Trung Quốc đang sống ở đảo Song Tử Tây. Trong các thập niên 1920 và 1930 kế tiếp, Nhật Bản tự tiến hành hoạt động khai thác phân chim tại một số đảo, ví dụ An Bang, Loại Ta, Song Tử Tây. Khi Pháp chính thức chiếm Trường Sa vào năm 1933, Nhật Bản lên tiếng phản đối Pháp với lý lẽ là Nhật đã tổ chức khai thác phân chim trên một số đảo ở đây. Cuối thập niên 1930, đế quốc Nhật Bản chiếm giữ đảo Ba Bình để làm căn cứ tàu ngầm nhằm mục đích ngăn chặn tàu thuyền qua lại khu vực Trường Sa. Ngày 31 tháng 3 năm 1939, Bộ Ngoại giao Nhật Bản gửi thông báo cho Đại sứ Pháp, tuyên bố rằng Nhật Bản là nước đầu tiên thám hiểm Trường Sa vào năm 1917 và họ đang kiểm soát quần đảo. Thời đó, Nhật gọi các đảo này là và đặt chúng dưới sự cai trị của chính quyền thuộc địa tại đảo Đài Loan. Tuy nhiên, lời tuyên bố của Nhật Bản chỉ là trên giấy vì đến năm 1941 thì Nhật mới dùng vũ lực chiếm đóng quần đảo Trường Sa. Sau khi Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, Nhật Bản ký Hiệp ước San Francisco và đã từ bỏ mọi quyền đối với quần đảo Trường Sa:
Một sự kiện đơn lẻ khác diễn ra vào năm 1956 sau khi Tomás Cloma tuyên bố quyền sở hữu đối với phần lớn quần đảo Trường Sa. Hà Lan (khi này còn nắm quyền kiểm soát Tây Irian, tức là Tây New Guinea) đã gửi một thông báo cho Bộ Ngoại giao Philippines với nội dung rằng nước này sẽ sớm đòi hỏi quyền sở hữu các đảo này với sự ủng hộ của Anh.
Một số tranh chấp và xung đột.
Tranh chấp trong vùng quần đảo Trường Sa và các vùng gần đó không chỉ là tranh chấp chủ quyền đối với các đảo/đá mà còn là tranh chấp tài nguyên thiên nhiên như dầu khí và hải sản. Đã có nhiều cuộc xung đột xảy ra giữa các nước về những tàu đánh cá nước ngoài trong vùng đặc quyền kinh tế của nước khác và báo chí cũng thường đưa tin về những vụ bắt giữ ngư dân. |
Quần đảo Trường Sa | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1421 | Nhiều nước tuyên bố chủ quyền cũng chưa cấp phép khai thác tài nguyên tại vùng biển thuộc quần đảo vì lo ngại hậu quả là một cuộc xung đột ngay lập tức. Các công ty nước ngoài cũng không đưa ra bất kỳ một cam kết nào về việc khai thác vùng này cho đến khi tranh chấp về lãnh thổ được giải quyết hay các nước tham gia đạt được thoả thuận chung.
Việt Nam Cộng hòa và Philippines.
Từ 1956 - 1975, quần đảo Trường Sa thuộc quyền quản lý của Việt Nam Cộng hòa sau khi tiếp thu từ Pháp quyền kiểm soát quần đảo Trường Sa. Năm 1963, Hải quân Việt Nam Cộng hòa đưa tàu ra dựng bia ở một số đảo, nhưng sau đó rút đi và không đồn trú lâu dài.
Năm 1970 Philippines đã tổ chức chiếm giữ đảo Song Tử Đông, đảo Thị Tứ, đảo Loại Ta và 4 đảo nữa. Theo như Đại tá về hưu hải quân Philippines Domingo Tucay Jr kể lại thì các đảo, bãi khi đó hoàn toàn hoang vắng, Philippines chiếm đóng dễ dàng. Chỉ khi tới đảo Song Tử Tây, họ mới thấy quân Việt Nam Cộng hòa đóng ở đây. Quân Philippines báo về sở chỉ huy, được chỉ thị cứ để mặc quân Việt Nam Cộng hòa. Lính Việt Nam Cộng hòa ở đảo Song Tử Tây cũng để yên để cho quân Philippines hành động. Sau chiến dịch, Philippines chiếm được 6 đảo nổi và bãi đá mà không cần phải nổ súng, trong đó Thị Tứ là đảo lớn thứ nhì, Bến Lạc (Đảo Dừa) là đảo lớn thứ ba, Song Tử Đông là đảo lớn thứ năm ở quần đảo Trường Sa. Philippines giữ các đảo và bãi này từ đó đến nay.
Sau vụ chiếm đóng, chính phủ Việt Nam Cộng hòa cũng không hề lên tiếng phản đối hoặc có động thái quân sự gì để đáp trả vụ chiếm đóng đó. Theo như lời Tucay kể lại, nhiều tháng sau khi Philippines chiếm đóng 7 đảo ở quần đảo Trường Sa, các nước khác mới biết vụ việc này.
Việt Nam Cộng hòa và Đài Loan.
Năm 1956, Đài Loan điều tàu đến đảo Ba Bình khi đó thuộc quyền quản lý của Việt Nam Cộng hòa. Chính quyền Việt Nam Cộng hòa đã không có hành động gì để phản đối. |
Quần đảo Trường Sa | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1421 | Nhân dịp lễ Song Thập 10/10 của Trung Hoa Dân Quốc (tức Đài Loan), Tổng thống Ngô Đình Diệm đã ra lệnh cho quân rút khỏi đảo Ba Bình là đảo lớn nhất tại quần đảo, Đài Loan giành quyền kiểm soát đảo mà không cần phải nổ súng.
Thời điểm quân đội Đài Loan thực sự tái chiếm đảo Ba Bình chưa rõ ràng, bởi có rất nhiều thông tin khác nhau về thời điểm Đài Loan điều tàu đến đảo Ba Bình vào năm 1956 (ngày 20 tháng 5, tháng 7, tháng 9 hoặc tháng 10) và có nguồn tài liệu cho rằng từ năm 1971 thì Đài Loan mới thực sự đồn trú lâu dài trên đảo.
Ngày nay, đảo Ba Bình được Đài Loan biến thành một "pháo đài" với nhiều công sự phòng thủ kiên cố và có một đường băng cho phép máy bay vận tải C-130 Hercules lên xuống.
Việt Nam và Trung Quốc, Đài Loan.
Tháng 3 năm 1988, Việt Nam và Trung Quốc đụng độ vũ trang trên biển về quyền kiểm soát đá Gạc Ma, đá Cô Lin và đá Len Đao thuộc quần đảo Trường Sa (Hải chiến Trường Sa 1988). Trong sự kiện này, ba tàu frigate của Hải quân Trung Quốc là 502 "Nam Sung", 556 "Tương Đàm" và 531 "Ưng Đàm" đã đánh đắm ba tàu vận tải của Hải quân Việt Nam là HQ-505, HQ-604 và HQ-605, đồng thời làm chết 64 binh sĩ Việt Nam.
Tháng 5 năm 1992, Tổng công ty Dầu khí Hải dương Trung Quốc (CNOOC) và Crestone Energy (một công ty Mỹ có trụ sở ở Denver, tiểu bang Colorado) đã ký một hợp đồng hợp tác để cùng thăm dò một khu vực rộng 7.347 hải lý vuông (gần 25.200 km²) mà họ gọi là "Vạn An Bắc-21" (nằm giữa bãi ngầm Tư Chính và bãi ngầm Phúc Tần; cách bờ biển Việt Nam 160 hải lí), nơi Trung Quốc xem là một phần của quần đảo "Nam Sa" trong khi Việt Nam xem là một phần của vùng đặc quyền kinh tế - thềm lục địa và không liên quan đến quần đảo "Trường Sa". Tháng 9 năm 1992, Việt Nam cáo buộc Trung Quốc đã bắt giữ hai mươi tàu chở hàng từ Việt Nam đến Hồng Kông từ tháng 6 năm 1992 nhưng không thả hết số tàu này. |
Quần đảo Trường Sa | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1421 | Tháng 4 và tháng 5 năm 1994, Việt Nam phản đối công ty Crestone thăm dò địa chất ở bãi Tư Chính, tái khẳng định bãi này hoàn toàn nằm trong vùng đặc quyền kinh tế - thềm lục địa của Việt Nam và không có tranh chấp gì ở đây.
Ngày 10 tháng 4 năm 2007, trước câu hỏi của phóng viên về phản ứng của Trung Quốc trước việc chính phủ Việt Nam phân lô dầu khí, gọi thầu, hợp tác với hãng BP của Anh để xây dựng đường ống dẫn khí thiên nhiên (ở khu vực mà Trung Quốc quan niệm thuộc Nam Sa và Việt Nam quan niệm thuộc vùng đặc quyền kinh tế - thềm lục địa) đồng thời tổ chức bầu cử Quốc hội Việt Nam [khóa XII] tại quần đảo Trường Sa, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc Tần Cương trả lời rằng "Việt Nam đưa ra hàng loạt hành động mới xâm phạm chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán của Trung Quốc ở Nam Sa, đi ngược lại với đồng thuận mà lãnh đạo hai bên Trung-Việt đã đạt được về vấn đề trên biển", và "Trung Quốc đã biểu thị mối lo ngại sâu sắc và giao thiệp nghiêm khắc với Việt Nam" ngay trong thời gian Chủ tịch Quốc hội Việt Nam Nguyễn Phú Trọng đang thăm chính thức nước này. Ngày 9 tháng 7 năm 2007, tàu hải quân Trung Quốc đã nã súng vào một số thuyền đánh cá của ngư dân Việt Nam trong vùng biển gần Trường Sa, làm chìm một thuyền đánh cá của Việt Nam, khiến ít nhất một ngư dân thiệt mạng và một số người khác bị thương. Sau đó, Thứ trưởng Ngoại giao Việt Nam Vũ Dũng đã đến Bắc Kinh từ ngày 21 đến 23 tháng 7 để bàn về các vấn đề biên giới, đặc biệt là trên biển.
Ngày 31 tháng 5 năm 2011, chỉ vài ngày sau sự kiện tàu Bình Minh 02 khi tàu hải giám của Trung Quốc cắt cáp tàu địa chấn của Việt Nam, ba tàu Trung Quốc đã bắn đuổi các tàu cá Việt Nam tại một địa điểm nằm cách đá Đông 15 hải lý (27,8 km) về phía đông nam.
Ngày 20 tháng 4 năm 2012, Cục Cảnh sát biển Đài Loan cho biết ngày 22 tháng 3 năm 2012, tàu tuần tra của Việt Nam đã xâm nhập vào vùng biển hạn chế quanh đảo Ba Bình, và đã rời đi sau khi tàu cao tốc M8 của Cục Cảnh sát biển Đài Loan tới chặn. |
Quần đảo Trường Sa | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1421 | Đến ngày 26 cùng tháng, tiếp tục có hai tàu tuần tra của Việt Nam xâm nhập vào vùng biển gần đảo Ba Bình, các tàu này đã rời đi sau khi phát hiện mình bị Cảnh sát biển Đài Loan theo dõi bằng radar. Cục Cảnh sát biển Đài Loan cho biết không bên nào nổ súng trong cả hai sự cố. Trước đó, một số phương tiện truyền thông đưa tin phía Việt Nam đã dùng súng máy bắn khiêu khích trước và bị phía Đài Loan bắn trả. Ngày 21 tháng 5 năm 2012, Ủy viên Lập pháp thuộc Quốc dân Đảng Lâm Úc Phương cho biết tàu Việt Nam thường xâm nhập vào vùng biển hạn chế 6.000 m ở quanh đảo Ba Bình, năm 2011 có 106 chiếc tàu xâm nhập, từ tháng 1 đến tháng 4 năm 2012 có 41 tàu xâm nhập. Cục trưởng Cục An ninh Quốc gia Đài Loan Lâm Úc Phương phát biểu rằng Việt Nam đã mong muốn kiểm soát bãi Bàn Than (hiện do Đài Loan kiểm soát) từ lâu và cho rằng việc bãi này rơi vào tay Việt Nam sẽ chỉ còn là vấn đề thời gian nếu như chính phủ Đài Loan không có hành động tích cực như xây dựng cơ sở cố định trên bãi.
Ngày 6/11/2014, đại diện Bộ Ngoại giao Việt Nam đã gặp đại diện Đại sứ quán Trung Quốc tại Hà Nội trao công hàm phản đối Trung Quốc tiến hành các hoạt động cải tạo phi pháp trên đá Chữ Thập thuộc quần đảo Trường Sa của Việt Nam.
Ngày 9/4/2015, bà Hoa Xuân Oánh, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc, cho biết hoạt động cải tạo đất và xây dựng tại quần đảo Trường Sa của Trung Quốc là để "xây dựng nơi trú ẩn, hỗ trợ điều hướng, tìm kiếm và cứu hộ, dịch vụ dự báo khí tượng hàng hải, dịch vụ nghề cá cùng thủ tục hành chính cần thiết cho Trung Quốc, các nước láng giềng cũng như chính các tàu đang hoạt động trên Biển Đông". Việc này "là cần thiết do rủi ro từ những cơn bão gây ra với nhiều tuyến hàng hải xa đất liền" và còn "đáp ứng nhu cầu phòng thủ quân sự" của Trung Quốc. |
Quần đảo Trường Sa | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1421 | Ngày 16/4/2015, trả lời câu hỏi phản ứng của Việt Nam với phát biểu của người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc Hoa Xuân Oánh ngày 9/4/2015 về việc mở rộng các bãi đá ngầm ở Trường Sa thuộc chủ quyền Việt Nam, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Lê Hải Bình cho biết Việt Nam đã nhiều lần giao thiệp với phía Trung Quốc, kể cả ở cấp cao về vấn đề này. Theo ông, "Một lần nữa, chúng tôi tuyên bố Việt Nam có đầy đủ căn cứ pháp lý và bằng chứng lịch sử khẳng định chủ quyền của mình đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Mọi hành động xây dựng, mở rộng của nước ngoài ở các đảo, đá thuộc khu vực quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa mà không được sự cho phép của Chính phủ Việt Nam là hoàn toàn phi pháp và vô giá trị. Việt Nam kiên quyết phản đối các hành động nêu trên và yêu cầu các bên liên quan nghiêm túc thực hiện Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC), đóng góp thiết thực vào việc duy trì hòa bình, ổn định ở Biển Đông".
Ngày 28/4/2015, Chủ tịch Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ 26 ra tuyên bố chia sẻ lo ngại sâu sắc của các lãnh đạo ASEAN về việc tôn tạo, bồi đắp đang diễn ra ở Biển Đông, làm xói mòn lòng tin, sự tin cậy và phương hại đến hòa bình, an ninh và ổn định ở Biển Đông; khẳng định lại tầm quan trọng của việc duy trì hòa bình, ổn định, an ninh và tự do hàng hải và hàng không ở Biển Đông, nhấn mạnh các bên cần bảo đảm việc thực hiện đầy đủ và hiệu quả toàn vẹn Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC): nhằm xây dựng, duy trì và tăng cường lòng tin và sự tin cậy lẫn nhau; thực hiện kiềm chế trong các hành động; không đe dọa hoặc sử dụng vũ lực; các bên liên quan giải quyết những khác biệt và tranh chấp bằng biện pháp hòa bình, tuân thủ luật pháp quốc tế trong đó có Công ước Liên Hợp Quốc về Luật biển 1982. |
Quần đảo Trường Sa | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1421 | Thượng nghị sĩ Mỹ John McCain, Chủ tịch Ủy ban Quân lực Thượng viện Mỹ, lo ngại Trung Quốc sẽ quân sự hóa các đảo nhân tạo xây dựng phi pháp và tuyên bố một vùng nhận diện phòng không (ADIZ) ở Biển Đông để khẳng định yêu sách chủ quyền.
Thông cáo chung của Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao ASEAN (AMM) 48 ra ngày 06/08/2015 đã tuyên bố "Chúng tôi ghi nhận lo ngại sâu sắc của một số Bộ trưởng đối với việc tôn tạo, bồi đắp ở Biển Đông, làm xói mòn lòng tin và sự tin cậy, gia tăng căng thẳng và có thể gây phương hại tới hòa bình, an ninh và ổn định ở Biển Đông". Thông cáo khẳng định tầm quan trọng của việc duy trì hòa bình, an ninh, ổn định, tự do hàng hải và hàng không ở Biển Đông, nhấn mạnh sự cần thiết đối với tất cả các bên trong việc bảo đảm thực hiện đầy đủ và hiệu quả toàn bộ các điều khoản của Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC): xây dựng, duy trì và tăng cường lòng tin và sự tin cậy lẫn nhau; thực hiện kiềm chế đối với các hành động làm phức tạp và gia tăng các tranh chấp; không đe dọa hoặc sử dụng vũ lực; các bên liên quan giải quyết các bất đồng và tranh chấp bằng biện pháp hòa bình, phù hợp với các nguyên tắc được thừa nhận rộng rãi của luật pháp quốc tế, trong đó có Công ước Liên Hợp Quốc về Luật biển (UNCLOS) 1982. Thông cáo chung cũng nêu rõ các bên trông đợi việc thực hiện hiệu quả các biện pháp đã được nhất trí nhằm tăng cường lòng tin và sự tin cậy lẫn nhau cũng như tạo một môi trường thuận lợi cho việc duy trì hòa bình, an ninh và ổn định ở khu vực.
Philippines và Trung Quốc.
Tháng 2 năm 1995, xung đột diễn ra giữa Trung Quốc và Philippines khi Philippines tìm thấy một số kết cấu trên đá Vành Khăn, khiến chính phủ nước này phải đưa ra một kháng cáo chính thức đối với hành động chiếm đóng của Trung Quốc. Ngày 25 tháng 3 năm 1995, Hải quân Philippines bắt giữ bốn tàu Trung Quốc gần đá Suối Ngọc. Cũng trong ngày 25 tháng 3, Việt Nam nói rằng lính Đài Loan trên đảo Ba Bình bắn vào tàu chở hàng của Việt Nam đang trên đường từ đá Lớn đến đảo Sơn Ca. |
Quần đảo Trường Sa | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1421 | Thời gian sau đó, nhiều cuộc gặp gỡ đã diễn ra giữa các bên tham gia tranh chấp và cả Indonesia nhưng thu được rất ít kết quả. Đến năm 1998, Trung Quốc tuyên bố rằng "các chòi ngư dân" ở đá Vành Khăn bị hư hại do bão và điều 7 tàu đến vùng này để sửa chữa. Lần này Philippines tiếp tục có các hành động đáp trả như cho hải quân bắn chìm một số tàu cá của Trung Quốc mà nước này cho rằng đã xâm phạm vùng đặc quyền kinh tế của họ.
Tháng 6 năm 2012, Trung Quốc cũng đã chiếm thành công bãi cạn Scarborough, chỉ cách Vịnh Subic của Philippines khoảng 200 km về phía Tây.
Philippines và Malaysia, Việt Nam.
Tháng 6 năm 1999, Philippines phản đối Malaysia chiếm bãi Thám Hiểm và đá Én Ca, hai thực thể mà Philippines gọi là "Pawikan" và "Gabriela Silang". Đến tháng 10, nước này còn cho máy bay do thám bãi Thám Hiểm khiến Malaysia cũng chỉ thị máy bay bay theo. Tuy nhiên, không có đụng độ quân sự diễn ra.
Ngày 28 tháng 10 năm 1999, Philippines cáo buộc quân đội Việt Nam trên đá Tiên Nữ đã bắn vào máy bay của Philippines khi máy bay này bay thấp để nhìn rõ tòa nhà ba tầng của Việt Nam vào ngày 13 tháng 10.
Xoa dịu căng thẳng.
Những năm sau căng thẳng tại đá Vành Khăn, Trung Quốc và Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) đã thỏa thuận đàm phán để đưa ra một bộ quy tắc ứng xử nhằm giảm căng thẳng tại các đảo tranh chấp. Ngày 5 tháng 3 năm 2002, một văn kiện chính trị đã ra đời để thể hiện mong ước giải quyết vấn đề chủ quyền "mà không sử dụng thêm nữa vũ lực". Ngày 4 tháng 11 năm 2002, Tuyên bố về ứng xử của các bên ở biển Đông (DOC) được ký kết nhưng lại không mang tính ràng buộc về mặt pháp lý. Năm 2005, Bộ Ngoại giao Trung Quốc thông báo là vào ngày 14 tháng 3, Tổng công ty Dầu khí Hải dương Trung Quốc (CNOOC) cùng Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam và Công ty Dầu Quốc gia Philippines đã ký thỏa thuận thăm dò địa chất chung nhằm thi hành DOC 2002. |
Quần đảo Trường Sa | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1421 | Trong chuyến thăm Mỹ ngày 25/9/2015, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình tuyên bố với Tổng thống Mỹ Obama ""Những hoạt động xây dựng mà Trung Quốc đang triển khai ở Nam Sa không nhằm vào hay làm ảnh hưởng bất kỳ quốc gia nào và Trung Quốc không có ý định theo đuổi hoạt động quân sự hóa"."
Tổ chức hành chính tại Trường Sa.
Việt Nam.
Ngày 22 tháng 10 năm 1956, Tổng thống Việt Nam Cộng hòa Ngô Đình Diệm ra sắc lệnh thay đổi địa giới các tỉnh và tỉnh lị tại Nam Việt, trong đó gọi Trường Sa là "Hoàng Sa" và quy thuộc tỉnh Phước Tuy. Đến ngày 6 tháng 9 năm 1973, Bộ trưởng Bộ Nội vụ Việt Nam Cộng hòa đưa quần đảo Trường Sa vào phạm vi hành chính của xã Phước Hải, quận Đất Đỏ, tỉnh Phước Tuy.
Ngày 9 tháng 12 năm 1982, Chính phủ Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam thành lập huyện Trường Sa trên cơ sở toàn bộ khu vực quần đảo Trường Sa mà trước đây được quy thuộc huyện Long Đất, tỉnh Đồng Nai. Tuy nhiên, ngày 28 tháng 12 năm 1982, chính quyền Việt Nam đã chuyển huyện Trường Sa từ tỉnh Đồng Nai sang tỉnh Phú Khánh. Từ ngày 1 tháng 7 năm 1989, tỉnh Phú Khánh được tách ra thành hai tỉnh Phú Yên và Khánh Hòa; huyện Trường Sa trực thuộc tỉnh Khánh Hòa.
Ngày 11 tháng 4 năm 2007, Chính phủ Việt Nam thành lập thị trấn Trường Sa và hai xã Song Tử Tây và Sinh Tồn thuộc huyện Trường Sa. Các thị trấn và xã này được thành lập trên cơ sở các hòn đảo cùng tên và các đảo, đá, bãi phụ cận.
Trung Quốc.
Từ năm 1959, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa (Trung Quốc) đặt quần đảo Nam Sa (bao hàm quần đảo Trường Sa) cùng với quần đảo Tây Sa (tức quần đảo Hoàng Sa) và quần đảo Trung Sa (gồm bãi Macclesfield và một số thực thể địa lý thuộc biển Đông) thành một cấp gọi là Văn phòng quần đảo Tây Sa, Nam Sa và Trung Sa () dưới quyền quản lý của khu hành chính Hải Nam thuộc tỉnh Quảng Đông. |
Quần đảo Trường Sa | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1421 | Tháng 3 năm 1969, Văn phòng quần đảo Tây Sa, Nam Sa và Trung Sa đổi tên thành Ủy ban Cách mạng quần đảo Tây Sa, Nam Sa và Trung Sa tỉnh Quảng Đông (), đến tháng 10 năm 1981 lại đổi về tên Văn phòng quần đảo Tây Sa, Nam Sa và Trung Sa tỉnh Quảng Đông (tương đương cấp huyện). Đến năm 1988, khi Hải Nam tách khỏi Quảng Đông để trở thành một tỉnh riêng biệt, Văn phòng quần đảo Tây Sa, Nam Sa và Trung Sa trực thuộc tỉnh Hải Nam.
Tháng 11 năm 2007, có tin Trung Quốc đã thành lập đô thị cấp huyện Tam Sa để quản lý ba quần đảo trên biển Đông. Theo Trung Quốc, thực tế vì gặp phản ứng ở Việt Nam nên việc thành lập này bị dừng lại, tuy nhiên đô thị cấp huyện Tam Sa vẫn tồn tại trên danh nghĩa. Ngày 21 tháng 6 năm 2012, Quốc vụ viện Trung Quốc chính thức phê chuẩn thành lập thành phố cấp địa khu Tam Sa để thay thế Văn phòng quần đảo Tây Sa, Nam Sa và Trung Sa. Cơ quan chính quyền thành phố Tam Sa đóng trên đảo Phú Lâm, Hoàng Sa. Ngày 18 tháng 4 năm 2020, Trung Quốc tuyên bố thành phố Tam Sa thành lập hai quận: quận Tây Sa và quận Nam Sa, trong đó quận Nam Sa quản lý quần đảo Trường Sa, chính phủ nhân dân quận Nam Sa đóng trên đá chữ Thập.
Đài Loan.
Ngày 16 tháng 2 năm 1990, Hành chính viện Trung Hoa Dân Quốc (Đài Loan) chấp thuận cho thành phố Cao Hùng thành lập một Ủy ban quản lý để tiếp quản đảo Ba Bình của quần đảo Trường Sa, quy thuộc khu Kỳ Tân của thành phố. Ngày 28 tháng 1 năm 2000, Cục Tuần phòng Bờ biển (tức Tuần duyên) được thành lập và là cơ quan tiếp quản đảo Ba Bình, thực thi pháp luật chống buôn lậu, nhập cư trái phép và kiểm tra thương thuyền (ngư thuyền).
Philippines.
Năm 1978, Philippines thành lập đô thị tự trị Kalayaan thuộc tỉnh Palawan trên cơ sở Nhóm đảo Kalayaan. Hiện thời đơn vị hành chính này chỉ có một barangay là "Pag-asa" (tức đảo Thị Tứ), nằm cách đảo Palawan 285 hải lý về phía tây.
Dân cư.
Ngoài các nhân viên quân sự đồn trú, trên các đảo thuộc quần đảo Trường Sa còn có các cư dân. Theo kết quả của cuộc Tổng Điều tra Dân số và Nhà ở Việt Nam năm 2009, huyện Trường Sa có 195 cư dân (128 nam và 67 nữ), trong đó 82 cư dân sống ở thành thị (thị trấn Trường Sa). |
Quần đảo Trường Sa | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1421 | Theo điều tra dân số và nhà ở của Philippines vào năm 2010, đô thị tự trị Kalayaan có 222 cư dân, tất cả đều sinh sống trên đảo Thị Tứ (Pag-asa).
Phát triển kinh tế.
Quần đảo Trường Sa vốn không có đất trồng trọt và không có dân bản địa sinh sống. Nghiên cứu của một số học giả như Dzurek (1985), Bennett (1992), Cordner (1994) và Tư vấn Pháp lý cho Bộ Ngoại giao Philippines đều chỉ ra rằng các đảo thuộc Trường Sa thiếu khả năng duy trì đời sống kinh tế riêng đầy đủ bởi vì chúng quá nhỏ, khô cằn và có rất ít tài nguyên trên đảo.
Tuy trên các đảo chỉ có một vài tài nguyên (chẳng hạn phân chim) nhưng nguồn lợi thiên nhiên của vùng biển quần đảo Trường Sa thì lại rất có giá trị, ví dụ hải sản và tiềm năng dầu mỏ - khí đốt. Vào năm 1980, dân chúng trong vùng đánh bắt được 2,5 triệu tấn hải sản từ khu vực quần đảo Trường Sa. Từ tháng 5 năm 2005, Việt Nam đã cho xây dựng trung tâm dịch vụ hậu cần nghề cá tại bãi đá Tây; diện tích đến 2013 đã đạt 3.000 mét vuông, sở hữu trang bị hiện đại, hỗ trợ nhiều mặt cho ngư dân. Về tiềm năng dầu khí và khoáng sản khác, hiện địa chất vùng biển quần đảo vẫn chưa được khảo sát nhiều nên chưa có các số liệu đánh giá đáng tin cậy. Tuy nhiên, Bộ Địa chất và Tài nguyên Khoáng sản Trung Quốc ước tính vùng quần đảo Trường Sa có trữ lượng dầu và khí thiên nhiên rất lớn, lên đến 17,7 tỉ tấn so với con số 13 tỉ tấn của Kuwait, và họ xếp nó vào danh sách một trong bốn vùng có trữ lượng dầu khí lớn nhất thế giới. Tháng 6 năm 1976, Philippines khoan được dầu mỏ tại khu phức hợp Nido ở ngoài khơi đảo Palawan.
Vùng biển Trường Sa cũng là một trong những vùng có mật độ hàng hải đông đúc nhất trên thế giới. Trong thập niên 1980, mỗi ngày có ít nhất 270 lượt tàu đi qua quần đảo Trường Sa, và "hiện tại" hơn một nửa số tàu chở dầu siêu trọng của thế giới chạy qua vùng biển này hàng năm. Quần đảo Trường Sa hiện chưa có cảng lớn mà chỉ có một số cảng cá và đường băng nhỏ trên các đảo có vị trí chiến lược nằm gần tuyến đường vận chuyển tàu biển chính. |
Quần đảo Trường Sa | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1421 | Tuy nhiên, tàu thuyền lưu thông qua vùng này có thể gặp nhiều khó khăn do phải đối mặt với nguy hiểm từ gió bão, sóng lớn và nguy cơ bị mắc cạn hay va phải các rạn đá ngầm.
Nằm tại khu vực khí hậu nhiệt đới và có hệ sinh thái đa dạng, quần đảo Trường Sa có tiềm năng để thu hút khách du lịch. Tháng 6 năm 2011, Tổng cục Du lịch của Việt Nam mở hội thảo và công bố đề án phát triển du lịch hướng về biển đảo, trong đó đề cập đến dự định mở tuyến du lịch ra Trường Sa. Tháng 4 năm 2012, Philippines tuyên bố kế hoạch phát triển đảo Thị Tứ bằng cách sửa chữa lại đường băng trên đảo và biến nơi đây thành một khu du lịch. Tháng 9 năm 2012, Tân Hoa xã của Trung Quốc đưa tin về kế hoạch phát triển du lịch du thuyền giai đoạn 2012-2022 của thành phố Tam Á (tỉnh Hải Nam) đến quần đảo Trường Sa. Tuy vậy, các nước trên đều đi sau Malaysia bởi vào đầu thập niên 1990, nước này không những đã hoàn thành việc xây đảo nhân tạo tại đá Hoa Lau (gần cực nam của quần đảo Trường Sa) mà còn mở cửa một khu nghỉ mát đầy đủ tiện nghi dành cho du khách, đặc biệt là những người yêu thích lặn biển.
Cơ sở hạ tầng.
Trung Quốc xây đảo nhân tạo.
Theo báo cáo Chiến lược An ninh Hàng hải châu Á-Thái Bình Dương của Lầu Năm Góc, đầu tháng 12/2013, Trung Quốc bắt đầu xây đảo nhân tạo trên các đá và bãi đá ngầm do họ kiểm soát tại Trường Sa. Từ tháng 12/2013 cho tới tháng 6/2015, Trung Quốc đã mở rộng 1.170 ha đảo nhân tạo. Tại các nơi Trung Quốc xây cất đảo, nước này đào các kênh sâu cùng các điểm đậu để tàu cỡ lớn có thể cập bến. So với các nước xung quanh cũng cải tạo đảo, chỉ trong 20 tháng Trung Quốc cơi nới gấp 17 lần diện tích các nước khác gộp lại trong 40 năm và chiếm tới 95% tổng diện tích đảo nhân tạo trong Biển Đông. Cơ sở hạ tầng mà Trung Quốc đang xây dựng có thể giúp tăng sự hiện diện quyền lực của nước này ở Biển Đông. Các đảo nhân tạo sẽ giúp Trung Quốc tăng khả năng chiến đấu ở quần đảo Trường Sa. |
Quần đảo Trường Sa | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1421 | Nước này cũng có thể sử dụng chúng để săn tàu ngầm trong và ngoài vùng biển này nhằm bảo vệ các tàu ngầm của họ.
Ngày 16/9/2015, Bộ trưởng Quốc phòng Hoa Kỳ Ash Carter nói Hoa Kỳ sẽ hoạt động trên bất cứ khu vực nào mà luật pháp quốc tế cho phép. Việc biến một bãi đá ngầm thành sân bay không đồng nghĩa với quyền chủ quyền hoặc quyền hạn chế các phương tiện hàng không và hàng hải.
Giao thông vận tải.
Tại quần đảo Trường Sa có bốn đường băng được xây dựng từ trước và 3 đường băng do Trung Quốc mới xây dựng trên 3 hòn đảo nhân tạo.
Viễn thông.
Năm 2005, công ty Smart Communications của Philippines đã cử người ra đảo Thị Tứ để xây một tháp thu phát sóng di động GSM thông qua thiết bị đầu cuối có độ mở rất nhỏ (VSAT). Từ năm 2007, Tập đoàn Viễn thông Quân đội (Viettel) của Việt Nam đã cho khảo sát và lắp đặt các trạm thu phát sóng thông tin di động tại một số nơi thuộc Trường Sa. Sau khi được lắp đặt, phạm vi phủ sóng của các trạm là cách các đảo/đá 20 km và còn cho phép binh sĩ đồn trú truy cập Internet không dây công nghệ EDGE 2,75G. Từ tháng 5 năm 2010, Công ty Tập đoàn Thông tin Di động Trung Quốc (China Mobile) và hải quân Trung Quốc đã bắt đầu phủ sóng thông tin di động trên các rạn đá ngầm do nước này kiểm soát, bao phủ tổng diện tích là 280 km². Tại điểm đóng quân chính là đá Chữ Thập còn có một trạm dự phòng. Đầu tháng 2 năm 2013, Thông tấn xã Trung ương của Đài Loan thông báo công ty Trung Hoa Điện Tín (Chunghwa Telecom) đã hoàn tất lắp đặt hệ thống viễn thông tại đảo Ba Bình. Hoạt động thông qua vệ tinh ST-2, hệ thống này không những đáp ứng nhu cầu thông tin liên lạc cho nhân viên của Cục Tuần phòng Bờ biển Đài Loan trên đảo mà còn phủ sóng vùng biển lân cận, hỗ trợ tích cực cho các tàu tuần tra và tàu đánh cá.
Danh sách thực thể bị chiếm đóng. |
Quần đảo Trường Sa | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1421 | Danh sách thực thể bị chiếm đóng.
Hiện Việt Nam chiếm đóng 21 thực thể địa lý gồm 9 đảo/cồn cát san hô là Đảo Song Tử Tây, Đảo Nam Yết, Đảo Sơn Ca, Đảo Sinh Tồn, Đảo Sinh Tồn Đông, Đảo Trường Sa, Đảo Trường Sa Đông, Đảo Phan Vinh, Đảo An Bang; cùng 12 bãi đá san hô là Đá Nam, Đá Lớn, Đá Núi Thị, Đá Cô Lin, Đá Len Đao, Đá Lát, Đá Tây, Đá Đông, Đá Núi Le, Đá Tốc Tan, Đá Tiên Nữ, Bãi Thuyền Chài.
Philippines chiếm đóng 9 thực thể địa lý gồm 7 đảo/cồn cát san hô là Đảo Song Tử Đông, Đảo Thị Tứ, Đảo Bến Lạc, Đảo Loại Ta, Đảo Loại Ta Tây, Đảo Bình Nguyên, Đảo Vĩnh Viễn; cùng 2 bãi đá san hô là Đá Công Đo, Bãi Cỏ Mây.
Trung Quốc chiếm đóng 7 bãi đá san hô: Đá Xu Bi, Đá Chữ Thập, Đá Ga Ven, Đá Gạc Ma, Đá Tư Nghĩa, Đá Châu Viên, Đá Vành Khăn.
Malaysia chiếm đóng 5 bãi đá san hô: Đá Én Ca, Đá Hoa Lau, Đá Kỳ Vân, Đá Kiêu Ngựa, Bãi Thám Hiểm.
Đài Loan chiếm đóng 1 đảo san hô là đảo Ba Bình. |
Quần đảo Hoàng Sa | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1424 | Quần đảo Hoàng Sa (theo cách gọi của Việt Nam) hay quần đảo Tây Sa (, theo cách gọi của Trung Quốc và Đài Loan, còn được biết đến thông qua tên gọi quốc tế phổ biến bằng tiếng Anh là Paracel Islands) là một nhóm khoảng 30 đảo, rạn san hô, cồn cát và bãi đá ngầm ở biển Đông, là đối tượng tranh chấp chủ quyền giữa Trung Quốc, Đài Loan và Việt Nam. Hiện nay, Trung Quốc là quốc gia đang duy trì sự kiểm soát cũng như quyền tài phán trên thực tế đối với toàn bộ quần đảo này.
Quần đảo nằm cách miền Trung Việt Nam khoảng một phần ba khoảng cách đến những đảo phía bắc của Philippines; cách đảo Lý Sơn của Việt Nam khoảng 200 hải lý và cách đảo Hải Nam của Trung Quốc khoảng 230 hải lý. Chữ "Hoàng Sa" () có nghĩa là "cát vàng".
Phía Việt Nam cho rằng các chính quyền của họ từ thế kỷ 16-18 (thời kỳ nhà Hậu Lê) đã tổ chức khai thác trên quần đảo hàng năm kéo dài theo mùa (6 tháng). Đến đầu thế kỷ XIX, nhà Nguyễn (Việt Nam) với tư cách nhà nước đã tiếp tục thực thi chủ quyền trên quần đảo. Các hoạt động thực thi chủ quyền của nhà Nguyễn được bắt đầu có thể muộn hơn các triều đại Trung Hoa nhưng với mật độ mau hơn trong thế kỷ XIX với các năm 1803, 1816, 1821, 1835, 1836, 1837, 1838, 1845, 1847 và 1856. Không chỉ là kiểm tra chớp nhoáng trên các đảo hoang nhỏ vô chủ rồi về, mà hoạt động chủ quyền cấp nhà nước của nhà Nguyễn từ năm 1816 bao gồm cả việc khảo sát đo đạc thủy trình, đo vẽ bản đồ dài ngày, xây xong sau nhiều ngày quốc tự trên đảo thuộc quần đảo Hoàng Sa, cắm bia chủ quyền và cứu hộ hàng hải quốc tế. Cuối thế kỷ 19, do suy yếu và mất nước bởi Đế quốc Pháp xâm lược, hoạt động chủ quyền của nhà Nguyễn đối với quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa cũng do đó mà bị gián đoạn. |
Quần đảo Hoàng Sa | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1424 | Ngược lại, phía Trung Quốc và Đài Loan cũng cho rằng quần đảo Hoàng Sa kể từ khi bắt đầu thời kỳ nhà Hán (năm 206 trước công nguyên) đã là lãnh thổ của Trung Quốc, các triều đại về sau vẫn có các hoạt động phát triển, các nhà nước phong kiến Trung Hoa, thỉnh thoảng với tần suất vài lần trong nhiều thế kỷ hay một lần trong mỗi thế kỷ, đã gửi quân kiểm tra hay các đoàn sứ thần ngoại giao đi sứ ngang qua quần đảo này. Đỉnh điểm của hoạt động tuần tra cấp nhà nước là vào đầu thời đại nhà Minh với các chuyến thám hiểm từ năm 1405-1433, đi ngang qua quần đảo, đến Đông Nam Á và Ấn Độ Dương (Ấn Độ và các nước Ả rập) của Trịnh Hòa. Sau thời Trịnh Hòa (năm 1433) đến cuối triều đại nhà Thanh (năm 1911), hoạt động tuần tra quần đảo này chỉ còn chủ yếu là do chính quyền địa phương của thành phố Quảng Châu (thuộc tỉnh Quảng Đông) thực hiện, các nhà nước Trung Hoa không còn lưu tâm đến lãnh vực hàng hải, để các đảo, đá san hô ở biển Nam Hải (biển Đông) trở về nguyên vẹn là các đảo hoang (). Các cuộc tuần tra của chính quyền địa phương Quảng Châu trong thời Minh Thanh sau năm 1433 là: Cuộc tuần tra tại các đảo ven bờ Quỳnh Châu (Hải Nam) nằm trong Thất Châu Dương (phần đông bắc Biển Đông) của Ngô Thăng ("吳昇") đầu thời nhà Thanh (năm 1710-1712), và cuộc tuần tra một ngày của Lý Chuẩn (năm 1909) cuối nhà Thanh. Một cuộc đi sứ Anh Quốc ngang qua (nhìn thấy trên hành trình nội nhật trong 1 ngày) các đảo, đá, bãi ngầm san hô được cho là quần đảo Hoàng Sa (Tây Sa) năm 1876 của Quách Tung Đảo. Trên quần đảo vẫn còn những di tích từ thời nhà Đường và nhà Tống.
Vào đầu thế kỷ 20, Liên bang Đông Dương thuộc Pháp kiểm soát quần đảo, nhưng đã bắt đầu có sự tranh chấp chủ quyền với chính quyền Trung Hoa Dân Quốc. Sau đó, quần đảo rơi vào tay Đế quốc Nhật Bản và được gộp chung vào với Đài Loan thuộc Nhật trong giai đoạn 1941-1945. |
Quần đảo Hoàng Sa | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1424 | Tại Hội nghị San Francisco năm 1951 về việc phân định các lãnh thổ mà Đế quốc Nhật Bản chiếm giữ, quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là đối tượng tuyên bố chủ quyền của nhiều bên tranh chấp bao gồm Liên hiệp Pháp, Trung Quốc, Đài Loan và Philippines. Kết quả Hội nghị không công nhận chủ quyền của quốc gia nào, các quần đảo được coi là vô chủ và càng gây ra tranh chấp dữ dội hơn sau này.
Năm 1956, Việt Nam Cộng hòa tiếp nối Liên hiệp Pháp thực hiện kiểm soát một số đảo thuộc quần đảo Hoàng Sa, nhưng Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa đã đem quân kiểm soát nửa phía Đông quần đảo từ trước đó vài tháng. Năm 1958, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa ra tuyên bố về hải phận, trong đó có khẳng định đảo Đài Loan, quần đảo Bành Hồ, quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa đều thuộc về lãnh thổ của mình. Năm 1974, Hải quân Trung Quốc đánh bại Hải quân Việt Nam Cộng hòa, giành quyền kiểm soát toàn bộ quần đảo Hoàng Sa.
Chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa hiện nay vẫn đang trong tình trạng tranh chấp lãnh thổ giữa Việt Nam, Trung Quốc và Đài Loan.
Địa lý tự nhiên.
Quần đảo Hoàng Sa là một tập hợp trên 30 đảo san hô, cồn cát, ám tiêu (rạn) san hô nói chung (trong đó có nhiều ám tiêu san hô vòng hay còn gọi là rạn vòng) và bãi ngầm thuộc biển Đông, ở vào khoảng một phần ba quãng đường từ miền Trung Việt Nam đến phía bắc Philippines. Quần đảo trải dài từ 15°43′10" đến 17°06′53" Bắc và từ 111°11′12" đến 112°53′20" Đông, có bốn điểm cực bắc-nam-tây-đông lần lượt tại đá Bắc, bãi Ốc Tai Voi, đảo Tri Tôn và bãi Gò Nổi. Độ dài đường bờ biển đạt 518 km. Điểm cao nhất của quần đảo là một vị trí trên đảo Đá với cao độ 14 m (hay 15,2 m). Vùng biển Hoàng Sa trong biển Đông nằm trong vùng "xích đạo từ".
Về khoảng cách đến đất liền, quần đảo Hoàng Sa nằm gần Việt Nam hơn. Cụ thể, khoảng cách từ đảo Tri Tôn (15°47'B 111°12'Đ) tới đảo Lý Sơn (15°22'B 109°07'Đ) là 121,1 hải lý (224,3 km). |
Quần đảo Hoàng Sa | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1424 | Nếu lấy toạ độ của cù lao Ré (tên cũ của Lý Sơn) là 15°23,1'B 109°09,0'Đ từ bản tuyên cáo đường cơ sở của nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam (ngày 12 tháng 11 năm 1982) thì khoảng cách đến bờ Lý Sơn thu ngắn lại dưới 121 hải lý. Ngoài ra, khoảng cách từ đảo Tri Tôn này đến mũi Ba Làng An (15°14'B 108°56'Đ) thuộc đất liền Việt Nam là 134,6 hải lý (249,3 km). Trong khi đó, khoảng cách từ đảo Hoàng Sa (đảo thuộc Quần đảo Hoàng Sa gần Trung Quốc nhất) đến Lăng Thủy giác () thuộc đảo Hải Nam của Trung Quốc là 142,5 hải lý (263,9 km). Khoảng cách từ đảo Hoàng Sa tới đất liền lục địa Trung Quốc tối thiểu là 235 hải lý. Nếu Trung Quốc dùng "rạn đá ngầm" (đá Bắc) làm chuẩn để đo đến bờ "đảo" Hải Nam tại Lăng Thủy giác thì khoảng cách là 111,9 hải lý (207,2 km), nhưng do đá ngầm không có giá trị như đảo trong việc chuẩn định ranh giới nên lý lẽ này không thuyết phục.
Phân nhóm.
Quần đảo Hoàng Sa được chia làm hai nhóm đảo là nhóm đảo An Vĩnh và nhóm đảo Lưỡi Liềm. Có tài liệu chia quần đảo làm ba phần, trong đó ngoài hai nhóm trên thì còn có một nhóm nữa gọi là nhóm Linh Côn.
Nhóm An Vĩnh.
Nhóm đảo An Vĩnh (tiếng Anh: "Amphitrite Group"; , Hán-Việt: "Tuyên Đức quần đảo") bao gồm các thực thể địa lý ở phía đông của quần đảo (theo cách chia thứ hai: nhóm An Vĩnh ở phía đông bắc của quần đảo, nhóm Linh Côn ở phía đông và đông nam của quần đảo). Nhóm này bao gồm đảo Bắc, đảo Cây (đảo Cù Mộc), đảo Trung (đảo Giữa), đảo Đá, đảo Linh Côn, Đảo Nam, đảo Phú Lâm, đá Bông Bay, cồn cát Bắc, cồn cát Nam, cồn cát Tây, cồn cát Trung, hòn Tháp, đá Trương Nghĩa, bãi Bình Sơn, bãi Châu Nhai, bãi Gò Nổi, bãi La Mác (phần kéo dài phía nam của bãi ngầm chứa đảo Linh Côn), bãi Quảng Nghĩa, bãi Thủy Tề, bãi Ốc Tai Voi. |
Quần đảo Hoàng Sa | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1424 | Theo Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú, An Vĩnh là tên một xã vào thời chúa Nguyễn (Đàng Trong), thuộc huyện Bình Dương (tức huyện Bình Sơn) phủ Tư Nghĩa trấn Quảng Nam (Tư Nghĩa tức phủ Hòa Nghĩa, đến thời nhà Nguyễn thì trở thành tỉnh Quảng Ngãi). Sách Đại Nam thực lục (tiền biên, quyển 10) ghi chép về xã này như sau:
Tên quốc tế của nhóm đảo là Amphitrite. Tên này là đặt theo tên một chiếc tàu Pháp trên đường đưa các giáo sĩ châu Âu sang Viễn Đông, gặp nạn rồi đắm ở vùng Hoàng Sa vào cuối thế kỷ 17.
Nhóm Lưỡi Liềm.
Nhóm đảo Lưỡi Liềm (tiếng Anh: "Crescent Group"; , Hán-Việt: "Vĩnh Lạc quần đảo") bao gồm các thực thể địa lý ở phía tây nam của quần đảo. Nhóm này còn được gọi là nhóm Trăng Khuyết hay nhóm Nguyệt Thiềm. Nhóm Lưỡi Liềm bao gồm đảo Ba Ba, đảo Bạch Quy, đảo Duy Mộng, đảo Hoàng Sa, đảo Hữu Nhật, đảo Lưỡi Liềm (là bãi đá trên có đảo Duy Mộng), đảo Ốc Hoa, đảo Quang Ảnh, đảo Quang Hòa, đảo Tri Tôn, đá Bắc, đá Chim Én (Yến), đá Hải Sâm, đá Lồi, đá Sơn Kỳ, đá Trà Tây, bãi Đèn Pha là bãi đá trên có đảo Hoàng Sa), bãi Ngự Bình (là bãi ngầm nằm giữa đá Hải Sâm và cặp đảo Quang Hòa), bãi Xà Cừ...
Khí tượng.
Nhờ nằm giữa biển Đông nên quần đảo Hoàng Sa có khí hậu điều hòa, không quá lạnh về mùa đông, không quá nóng về mùa hè nếu so với những vùng đất cùng vĩ độ trong lục địa. Mưa ngoài biển qua nhanh, ở Hoàng Sa không có mùa nào ảm đạm kéo dài, buổi sáng cũng ít khi có sương mù. Lượng mưa trung bình trong năm là 1.170 mm. Tháng 10 có 17 ngày mưa / 228 mm và là tháng mưa nhiều nhất. Không khí Biển Đông tương đối ẩm thấp hơn những vùng biển khác trên thế giới. Ở cả Hoàng Sa lẫn Trường Sa, độ ẩm đều cao, ít khi nào độ ẩm xuống dưới 80%. Trung bình vào tháng 6, độ ẩm ở Hoàng Sa suýt soát 85%.
Bão Biển Đông là bão nhiệt đới theo mùa, thường xảy ra những lúc giao mùa, nhất là từ tháng 6 đến tháng 8. |
Quần đảo Hoàng Sa | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1424 | Gió mạnh đến 90 gút. Bão giảm đi từ tháng 9 nhưng cũng vẫn còn đến tháng 1. Tuy vậy, vào giữa mùa gió Đông-Bắc, bão làm biển trở nên động dữ dội hơn và kéo dài trong nhiều ngày.
Khi bão phát xuất từ đảo Luzon đi ngang Hoàng Sa thì binh sĩ Việt Nam Cộng hòa đóng trên đảo thấy các triệu chứng như sau: Trời oi, khí áp tụt xuống rất nhanh. Trên bầu trời xuất hiện những mây cao tầng bay nhanh như bó lông (cirrus panachés). Vài giờ sau bầu trời bị che phủ bởi một lớp sương mù mây rất mỏng (cirro status), mặt trời chung quanh có quầng, rồi dần dần bầu trời trắng nhạt. Sau đó đến lượt những mây "quyển tầng" thấp có hình vẩy cá (cirro cumulus). Rồi đến một lớp mây "quyển tích" đen hình như tảng đe phát triển rất nhanh hình đe dày lên cao lối 3.000m (altostatus), "tằng tích" [Cumulus N...], tất cả trở nên đen, u ám; mưa bắt đầu rơi, gió thổi, khí áp xuống nhanh. Trần mây thấp dần xuống (100m hay 50m), mây bay nhanh, gió thổi mạnh từng cơn, bão đã tới... Cường độ gió bão có thể lối 50 gút đến 90 gút. Khi sấm sét đã xuất hiện thì có thể coi như cơn bão đã qua...
Lịch sử.
Diễn biến cuộc tranh chấp chủ quyền theo thời gian:
Quan điểm của Trung Quốc và Đài Loan.
Theo quan điểm của Trung Quốc và Đài Loan, họ tuyên bố có chủ quyền lâu đời đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa:
Tuy Đài Loan và Trung Quốc có mâu thuẫn về mặt chính trị, nhưng cả hai đều nhất trí trong hoạt động tuyên bố chủ quyền và mở rộng tầm kiểm soát tại quần đảo Theo quan điểm của Trung Quốc và Đài Loan, trận đánh năm 1974 không phải là hành vi xâm chiếm lãnh thổ Việt Nam mà là hành động chính đáng nhằm thu hồi chủ quyền của dân tộc Trung Hoa tại quần đảo này.
Quan điểm của Việt Nam.
Thời chúa Nguyễn, nhà Tây Sơn và nhà Nguyễn.
Vào thế kỉ thứ 18, bộ sách "Phủ Biên Tạp Lục" của Lê Quý Đôn đã có nói tới Hoàng Sa và Trường Sa. Cuốn sách này cũng kể việc người Việt Nam đã khai thác hai quần đảo này ngay từ thời Lê mạt. |
Quần đảo Hoàng Sa | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1424 | Các tài liệu khác nói về chủ quyền của Việt Nam tại Hoàng Sa và Trường Sa là bộ "Hoàng Việt Địa Dư Chí" được ấn hành vào năm Minh Mạng thứ 16 tức là năm 1834 và "Lịch Triều Hiến Chương Loại Chí" của Phan Huy Chú (1782-1840). Sách "Hoàng Việt địa dư chí" có chép:
Theo Việt Nam, các học giả Trung Hoa thế kỷ 19, khi viết và vẽ về địa lý các nước trên toàn thế giới cũng không cho rằng các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thuộc Trung Quốc, thậm chí vài người họ còn ngầm thể hiện cho độc giả hiểu là các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa ngày nay là thuộc Việt Nam. Từ Kế Dư (1795-1873), học giả Trung Quốc đầu tiên thời cận đại thực sự "mở mắt nhìn ra thế giới" ("khai nhãn khán thế giới") qua bộ sách lịch sư địa lý mang tên "Doanh hoàn chí lược" (瀛寰志略)ː đã vẽ bản đồ Trung Quốc thời nhà Thanh với cực nam là Quỳnh Châu (đảo Hải Nam), đồng thời trong tập Doanh hoàn chí lược/Á Tế Á Nam Dương tân hải các quốc (Châu Áː các nước ven bờ biển Nam Dương), phần viết về Việt Nam đề cập tới Vạn lý Trường Sa và Thiên lý Thạch Đường là những tên gọi người Trung Quốc thời đó gọi quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa, cũng viết rõ "Quỳnh (châu) là châu lớn địa đầu" Trung Quốc. |
Quần đảo Hoàng Sa | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1424 | Trong Doanh hoàn chí lược (1849), Từ Kế Dư viếtː "... 陳資齋《海國聞見錄》云:「安南以交趾為東京,以廣南為西京。由廈門赴廣南,取道南澳,見廣之魯萬山,瓊之大洲頭,過七洲洋,取廣南外之咕嗶羅山,而至廣南,計水程七十二更。赴交趾則由七洲洋西繞北而進,計水程七十四更。七洲洋在瓊州府萬州之東南,往南洋者必經之路。中國商舶行海,以望見山形為標識。至七洲洋,則浩渺一水,無鳥嶼可認,偏東則犯萬里長沙、千里石塘,偏西則溜入廣南灣。舟行至此,罔不惕惕。風極順利,亦必六七日方能渡過。七洲洋有神鳥,似海雁而小,紅嘴綠腳,尾帶一箭,長二尺許,名曰箭鳥。行舟或迷所向,則飛來導之。」..."("Trần Tư Trai《Hải quốc văn kiến lục》vân:「An Nam dĩ Giao Chỉ vị Đông Kinh,dĩ Quảng Nam vị Tây kinh。do Hạ Môn phó Quảng Nam,thủ đạo nam Áo,kiến quảng chi Lỗ Vạn sơn,Quỳnh chi đại châu đầu,quá Thất Châu Dương,thủ Quảng Nam ngoại chi Cô Tất La sơn,nhi chí Quảng Nam, kế thủy trình thất thập nhị canh。phó Giao Chỉ tắc do Thất Châu Dương tây nhiễu bắc nhi tiến,kế thủy trình thất thập tứ canh。Thất Châu Dương tại Quỳnh Châu phủ Vạn châu chi đông nam,vãng Nam Dương giả tất kinh chi lộ。Trung Quốc thương bạc hành hải,dĩ vọng kiến sơn hình vị tiêu thức。chí Thất Châu Dương,tắc hạo miểu nhất thủy,vô điểu dữ khả nhận,thiên đông tắc phạm Vạn lý Trường Sa、Thiên lý Thạch Đường,thiên tây tắc lưu nhập Quảng Nam loan。chu hành chí thử,võng bất dịch dịch。phong cực thuận lợi,diệc tất lục thất nhật phương năng độ quá。Thất Châu Dương hữu thần điểu,tự hải nhạn nhi tiểu,hồng chủy lục cước,vĩ đái nhất tiễn,trường nhị xích hứa,danh viết tiễn điểu。hành chu hoặc mê sở hướng,tắc phi lai đạo chi。」"). |
Quần đảo Hoàng Sa | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1424 | Dịch nghĩa làː "...Trần Tư Trai 《Hải quốc văn kiến lục》nói: 《An Nam lấy Giao Chỉ làm Đông Kinh, lấy Quảng Nam làm Tây kinh. Từ Hạ Môn đến Quảng Nam, đi theo đường nam Áo, nhìn rộng ra là Lỗ Vạn sơn, Quỳnh là châu lớn địa đầu, vượt qua Thất Châu Dương, đi theo phía ngoài Quảng Nam là Cô Tất La sơn, đến Quảng Nam, tính toán thủy trình hết khoảng 72 canh (giờ đi thuyền). Đi đến Giao Chỉ từ Thất Châu Dương tiến tới theo hướng tây vòng sang bắc, tính toán thủy trình hết khoảng 74 canh (giờ đi thuyền). Thất Châu Dương nằm ở phía đông nam của Vạn Châu thuộc phủ Quỳnh Châu, để đến Nam Dương ắt phải đi đường dọc xuống xuyên qua nó. Thuyền buôn Trung Quốc đi biển, trông vào hình non dạng đá (nổi trên mặt biển) làm tiêu dẫn đường. Tới Thất Châu Dương, lênh đênh trên biển nước bao la, không hề thấy đảo (cồn) chim nào, lệch về phía đông ắt tới Vạn lý Trường Sa và Thiên lý Thạch Đường, lệch về phía tây chắc chảy vào vịnh Quảng Nam. Thuyền đi đến đó (Thất Châu Dương), gặp tại nạn vì không thận trọng cảnh giác. Gió rất thuận lợi, cũng sẽ phải mất 6 đến 7 ngày để có thể vượt qua nó. Thất Châu Dương có chim thần, giống như một con ngỗng (nhạn) biển (lông nhỏ), mỏ đỏ chân xanh, vòng đuôi như mũi tên, dài khoảng hai thước, nên gọi là tiễn điểu. Giúp người đi thuyền hoặc lạc đường trên biển, dò đường theo hướng chim bay.》..." "Đại Thanh đế quốc toàn đồ" xuất bản năm 1905, tái bản lần thứ tư năm 1910 chỉ vẽ đế quốc Đại Thanh đến đảo Hải Nam. Một tấm bản đồ "Hoàng triều trực tỉnh địa dư bản đồ" xuất bản năm 1904 dưới thời nhà Thanh được tìm thấy gần đây cũng cho thấy quần đảo Hoàng Sa không thuộc Trung Quốc (bản đồ này ghi rõ cực nam của Trung Quốc là đảo Hải Nam. "Trung Quốc địa lý học Giáo khoa thư" xuất bản năm 1906 viết: "Điểm mút của Trung Hoa ở Đông Nam là bờ biển Nhai Châu, đảo Quỳnh Châu, vĩ tuyến 18°13' Bắc". |
Quần đảo Hoàng Sa | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1424 | Một trong những nghiên cứu mới nhất của Việt Nam được công bố về Hoàng Sa là luận án tiến sĩ của ông Nguyễn Nhã, đề tài "Quá trình xác lập chủ quyền của Việt Nam tại quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa", bảo vệ ngày 18 tháng 1 năm 2003 (29 năm sau trận hải chiến giữa Trung Quốc và Việt Nam Cộng hòa) tại trường Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn - Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh. Ông Nguyễn Nhã nói: "Với luận án tiến sĩ này, tôi thách thức các nhà nghiên cứu các nước, kể cả Trung Quốc, có một đề tài xác lập chủ quyền Hoàng Sa mang tính khoa học được như tôi.".
Tranh chấp chủ quyền.
Quần đảo Hoàng Sa nằm giữa một khu vực có tiềm năng cao về hải sản nhưng không có dân bản địa sinh sống. Vào năm 1932, chính quyền Pháp ở Đông Dương chiếm giữ quần đảo này và Việt Nam tiếp tục nắm giữ chủ quyền cho đến năm 1974 (trừ hai đảo Phú Lâm và Linh Côn do Trung Quốc chiếm giữ từ năm 1956). Trung Quốc chiếm giữ toàn bộ Hoàng Sa từ năm 1974 sau khi dùng hải quân, lính thủy đánh bộ và không quân tấn công căn cứ quân sự của Việt Nam Cộng Hoà ở nhóm đảo phía tây trong Hải chiến Hoàng Sa 1974. Đài Loan và Việt Nam cũng đang tuyên bố chủ quyền đối với quần đảo này.
Tháng 1 năm 1982, Bộ Ngoại giao Việt Nam đã công bố sách trắng "Quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa: lãnh thổ Việt Nam", trong đó nêu nhiều lý lẽ chứng minh Hoàng Sa là của Việt Nam.
Theo chính phủ Việt Nam, có rất nhiều bằng chứng nghiên cứu độc lập khác cho thấy Hoàng Sa là của Việt Nam. Gần đây nhất đã phát hiện chứng cứ rất rõ ràng là sắc chỉ của triều đình nhà Nguyễn liên quan đến việc canh giữ quần đảo Hoàng Sa được gia tộc họ Đặng ở huyện đảo Lý Sơn, Quảng Ngãi, gìn giữ suốt 174 năm qua, nay trao lại cho Sở Văn hóa - Thể thao và Du lịch tỉnh. Đây là sắc chỉ của vua Minh Mạng (triều Nguyễn), phái một đội thuyền gồm 3 chiếc với 24 lính thủy ra canh giữ đảo Hoàng Sa vào ngày 15 tháng 4 năm Minh Mạng thứ 15 (tức năm Ất Mùi, 1835). |
Quần đảo Hoàng Sa | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1424 | Vào tháng 7/2012, báo chí Việt Nam đưa ra bằng chứng về chủ quyền của Việt Nam đối với các quần đảo ở Biển Đông đó là tấm bản đồ của Nhà Thanh xuất bản năm 1904 trong đó điểm cực nam của Trung Hoa chỉ dừng lại ở đảo Hải Nam mà không hề có Tây Sa hay Nam Sa mà Trung Quốc đang cố gắng chiếm giữ.
Tuy nhiên bên phía Trung Quốc cũng khẳng định chủ quyền bằng cách đưa ra các thông tin về một quần đảo ngoài khơi biển Nam Hải theo nhiều tài liệu xuất hiện từ rất sớm về như "Nguyên sử" (元史) hay "Trịnh Hòa hàng hải đồ" (郑和航海图). Trong bản đồ thời Trịnh Hòa phía Trung Quốc đưa ra nhằm chứng minh cho chủ quyền của Trung Quốc, họ cho rằng địa danh Vạn Lý Thạch Đường (万里石塘) là quần đảo Hoàng Sa ngày nay (塘/唐 chữ Hán nôm đều được dịch là "đường" hay "đàng"), điều này đã được nhiều tài liệu của Việt Nam phản bác lại, trong bản đồ này không hề tồn tại cái tên Tây Sa Quần Đảo (西沙群島).
Vào ngày 1 tháng 5 năm 2014, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa đưa giàn khoan HD-981 vào khu vực biển Đông gần quần đảo Hoàng Sa dẫn tới việc nhà nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam ra tuyên bố phản đối, đồng thời tàu thuyền của hai quốc gia đã xảy ra một số va chạm.
Nhiều học giả quốc tế đã nghiên cứu về các các bằng chứng mà 2 bên đưa ra. Valencia & ctg (1999) cho rằng các bằng chứng của Việt Nam cũng giống như Trung Quốc - "thưa thớt, mang tính giai thoại và không thuyết phục".
Quan điểm của Hoa Kỳ.
Hoa Kỳ không phải là một bên tranh chấp chủ quyền ở quần đảo Hoàng Sa, cũng không tuyên bố ủng hộ bất kỳ nước nào có tranh chấp ở quần đảo này, và Hoa Kỳ còn tuyên bố tàu thuyền của các nước có quyền hàng hải tự do trên biển Đông phù hợp với luật pháp quốc tế. Năm 2016 Hoa Kỳ đã 4 lần thực hiện quyền tự do hành hải trên những vùng biển của biển Đông gần các quần đảo Trường Sa và quần đảo Hoàng Sa mà Trung Quốc có tranh chấp chủ quyền với các quốc gia khác, trong đó có Việt Nam. |
Quần đảo Hoàng Sa | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1424 | Nhiều lần Hoa Kỳ cho tàu đi gần quần đảo Hoàng Sa, dưới đây là danh sách có thể chưa đầy đủ:
Tháng 2/2021, tàu khu trục USS John S. McCain chạy ngang qua biển Đông, chính phủ Hoa Kỳ tuyên bố hành động này "đã khẳng định các quyền và tự do hàng hải trong vùng lân cận của quần đảo Hoàng Sa, phù hợp với luật pháp quốc tế" và thách thức "những hạn chế bất hợp pháp và vô căn cứ đối với việc hải hành trên biển do Trung Quốc, Đài Loan và Việt Nam áp đặt".
Tổ chức hành chính.
Việt Nam.
Việt Nam tổ chức quần đảo thành huyện đảo Hoàng Sa thuộc thành phố Đà Nẵng.
Huyện đảo Hoàng Sa, được thành lập từ tháng 1 năm 1997, là một quần đảo san hô nằm cách thành phố Đà Nẵng 170 hải lý (khoảng 315 km), bao gồm các đảo: đảo Hoàng Sa, đá Bắc, đảo Hữu Nhật, đảo Đá Lồi, đảo Bạch Quy, đảo Tri Tôn, đảo Cây, đảo Bắc, đảo Giữa, đảo Nam, đảo Phú Lâm, đảo Linh Côn, đảo Quang Hòa, cồn Bông Bay, cồn Quan Sát, cồn cát Tây, đá Chim Yến. Huyện đảo Hoàng Sa có diện tích: 305 km², chiếm 24,29% diện tích thành phố Đà Nẵng.
Ngày 21 tháng 4 năm 2009, Chủ tịch ủy ban nhân dân thành phố Đà Nẵng ký quyết định bổ nhiệm Chủ tịch ủy ban nhân dân huyện đảo Hoàng Sa nhiệm kỳ 2009-2014 đối với ông Đặng Công Ngữ. Cùng ngày, thành phố Đà Nẵng cũng tổ chức lễ bổ nhiệm chủ tịch huyện đảo Hoàng Sa. Bộ máy cán bộ chuyên trách của chính quyền huyện đảo Hoàng Sa sẽ được thiết lập theo quy định của pháp luật Việt Nam. Trước mắt, chính quyền huyện đảo Hoàng Sa sẽ hoạt động tại trụ sở của Sở Nội vụ Đà Nẵng.
Tại Thành phố Hồ Chí Minh, một con đường dọc bờ kênh Nhiêu Lộc - Thị Nghè được đặt tên là Hoàng Sa.
Trung Quốc.
Về mặt hành chính, từ năm 1959, chính quyền Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa quy thuộc quần đảo Hoàng Sa vào Văn phòng quần đảo Tây Sa, Nam Sa và Trung Sa (西南中沙群岛办事处 "Tây Nam Trung Sa quần đảo biện sự xứ"), đặt dưới quyền quản lý của khu hành chính Hải Nam thuộc tỉnh Quảng Đông. |
Quần đảo Hoàng Sa | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1424 | Đến năm 1988, khi Hải Nam tách khỏi Quảng Đông để trở thành một tỉnh riêng biệt, Văn phòng quần đảo Tây Sa, Nam Sa và Trung Sa trực thuộc tỉnh Hải Nam. Ngày 21 tháng 6 năm 2012, Quốc vụ viện Trung Quốc đã chính thức phê chuẩn thành lập thành phố cấp địa khu Tam Sa, thay thế Văn phòng quần đảo Tây Sa, Nam Sa và Trung Sa. Đảo Phú Lâm là nơi đặt trụ sở các cơ quan của chính quyền nhân dân thành phố Tam Sa. Ngày 18 tháng 4 năm 2020, Trung Quốc tuyên bố thành phố Tam Sa thành lập hai quận: quận Tây Sa và quận Nam Sa, trong đó quận Tây Sa quản lý quần đảo Hoàng Sa và bãi Macclesfield (Trung Quốc gọi là quần đảo Trung Sa), chính phủ nhân dân quận Tây Sa đóng trên đảo Phú Lâm.
Trung Quốc tuyên bố kế hoạch mở cửa du lịch quần đảo vào năm 1997, mở rộng những cảng nhỏ ở đảo Phú Lâm và đảo Quang Ảnh. Tại Phú Lâm có một sân bay với đường băng dài 1.200 m.
Các tài liệu từ các nước khác.
Ngoài các sử gia bản xứ, một số các tác giả người Pháp cũng nói tới chủ quyền của Việt Nam tại Hoàng Sa và Trường Sa. Vào năm 1836 Giám mục Taberd đã viết trong cuốn sách "Địa dư, lịch sử và mô tả mọi dân tộc cùng với tôn giáo và phong tục của hội" ("Univer, histoire et description de tous les peuples, de leurs religion et coutumes") như sau:
Trong tác phẩm "Hồi ký về Đông Dương", tác giả Jean Baptiste Chaigneau ghi rằng vua Gia Long đã chính thức thu nhận quần đảo Hoàng Sa vào năm 1816. Khi người Pháp đặt nền bảo hộ trên toàn cõi Đông Dương, họ cũng tiếp tục lãnh nhiệm vụ bảo vệ Hoàng Sa. Vào các năm 1895 và 1896, có hai chiếc thương thuyền tên Bellona và Iruezi Maru chở đồng cho người Anh bị đắm tại nhóm đảo An Vĩnh và bị người Trung Hoa đến đánh cướp. Đại diện người Anh tại Bắc Kinh đòi nhà Thanh phải bồi thường vì có một số đồng được đem về bán tại đảo Hải Nam. Tuy nhiên, chính quyền nhà Thanh không chịu bồi thường, viện cớ quần đảo Hoàng Sa không thuộc chủ quyền của Trung Hoa. |
Quần đảo Hoàng Sa | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=1424 | Về phía Anh Quốc, J.W.Reed, W.king:China Sea Directory, 1868 của Hải quân Anh Quốc có ghi rằng các thuyền của Hải Nam hàng năm thường đến các đảo, mang theo gạo và các nhu yếu phẩm khác và trao đổi với ngư dân đang đánh bắt tại các đảo; thuyền rời Hải Nam vào tháng 12 hay tháng 1 mỗi năm và sẽ trở về khi có đợt gió mùa tây nam đầu tiên. Trong ấn phẩm "China Sea Pilot" vào năm 1912, Hải quân Hoàng gia Anh Quốc đã mô tả về các hoạt động của ngư dân Trung Quốc tại một số nơi ở Trường Sa.
Le Monde Colonial Illustre của Pháp từng đăng bài về sự kiện tháng 9 năm 1933, theo đó khi một tàu chiến Pháp khảo sát đảo Trường Sa Lớn vào năm 1930, họ thấy ba người Trung Quốc ở trên đảo. Khi Pháp đưa quân ra Trường Sa vào năm 1933, họ thấy tất cả những người trên các đảo là người Trung Quốc: bảy người ở Song Tử Tây, năm người ở Thị Tứ, 4 người ở Trường Sa Lớn, và các ngôi nhà tranh, giếng nước và một tượng thần do người Trung Quốc để lại ở Trường Sa Lớn và một biển hiệu chữ Hán trên đảo Ba Bình đánh dấu ký hiệu của một kho dự trữ lương thực trên đảo. Atlas International Larousse xuất bản năm 1965 tại Pháp đã ghi tên "Tây Sa" (Xisha) và "Nam Sa" (Nansha) cho hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa và trong dấu ngoặc đã thể hiện chủ quyền của Trung Quốc với hai quần đảo.
Ngoài ra, cũng có nhiều bản đồ đã thể hiện các quần đảo trên Biển Đông là lãnh thổ của Trung Quốc: "Welt-Atlas" do Cộng hòa Liên bang Đức xuất bản vào các năm 1954, 1961 và 1970; Át-lát thế giới do Liên Xô xuất bản vào năm 1954 và 1967; Át-lát thế giới do Romania xuất bản vào năm 1957; Oxford Australian Atlas và Philips Record Atlas xuất bản tại Anh Quốc vào năm 1957 và Encyclopaedia Britannica World Atlas xuất bản tại Anh Quốc vào năm 1958; "Haack Welt Atlas" do Cộng hòa Dân chủ Đức xuất bản năm 1968; Daily Telegraph World Atlas xuất bản tại Anh Quốc vào năm 1968; Atlas International Larousse xuất bản tại Pháp vào năm 1968 và 1969; bản đồ thế giới thông thường của Institut Géographique National của Pháp vào năm 1968; Tập bản đồ Trung Quốc của Neibonsya tại Nhật Bản năm 1973. |
Subsets and Splits
No community queries yet
The top public SQL queries from the community will appear here once available.