topic
stringclasses
149 values
context
stringlengths
84
21k
Evidence
stringlengths
51
1.33k
Ấm lên toàn cầu
Một tập con của các mô hình khí hậu thêm các yếu tố xã hội vào một mô hình khí hậu tự nhiên đơn giản. Các mô hình này mô phỏng cách thức mà dân số, tăng trưởng kinh tế, sử dụng năng lượng tác động và tương tác với khí hậu tự nhiên. Với thông tin này, chúng có thể tạo ra những kịch bản mô tả biến động của khí thải nhà kính trong tương lai. Đầu ra này sau đó được dùng làm đầu vào cho mô hình khí hậu tự nhiên để tạo ra dự báo biến đổi khí hậu. Trong một số kịch bản, lượng khí thải tiếp tục tăng xuyên suốt thế kỷ còn số khác thì nhận định giảm. Các nguồn nhiên liệu hóa thạch quá phong phú khiến không thể trông chờ vào việc thiếu hụt chúng sẽ giúp hạn chế khí thải carbon trong thế kỷ 21. Các kịch bản phát thải có thể được kết hợp với việc lập mô hình chu kỳ carbon nhằm dự đoán nồng độ khí nhà kính thay đổi thế nào trong tương lai. Theo những mô hình kết hợp này thì đến năm 2100 nồng độ CO2 khí quyển có thể thấp đến 380 hoặc cao đến 1400 ppm, tùy vào kịch bản kinh tế xã hội và kịch bản giảm thiểu.Quỹ khí thải carbon còn dư được xác định bằng cách lập mô hình chu kỳ carbon và độ nhạy cảm của khí hậu với khí nhà kính. Theo IPCC, ấm lên toàn cầu có 2/3 cơ hội được giữ dưới ngưỡng 1,5 °C (2,7 °F) nếu sau năm 2018 lượng khí thải không vượt quá 420 hoặc 570 giga-tấn CO2, tùy vào nhiệt độ toàn cầu được xác định chính xác như thế nào. Con số này tương đương 10 đến 13 năm phát thải hiện tại. Có những sự không chắc chắn về quỹ carbon, ví dụ lượng CO2 có thể bớt đi 100 giga-tấn do sự giải phóng methane từ đất ngập nước và tầng băng giá vĩnh cửu.
Một tập con của các mô hình khí hậu thêm các yếu tố xã hội vào một mô hình khí hậu tự nhiên đơn giản. Các nguồn nhiên liệu hóa thạch quá phong phú khiến không thể trông chờ vào việc thiếu hụt chúng sẽ giúp hạn chế khí thải carbon trong thế kỷ 21.
Ấm lên toàn cầu
Biến đổi khí hậu có tác động quy mô và sâu sắc đến môi trường, cụ thể đến đại dương, băng, và thời tiết. Sự thay đổi có thể xảy ra dần dần hoặc nhanh chóng. Chứng cứ cho những tác động này đến từ công tác nghiên cứu biến đổi khí hậu trong quá khứ, từ mô hình hóa và những quan sát thời hiện đại. Kể từ thập niên 1950 hạn hán và sóng nhiệt đã xuất hiện đồng thời với tần suất gia tăng. Tình trạng cực kỳ khô hoặc ẩm trong thời kỳ gió mùa ngày càng thấy nhiều ở Ấn Độ và Đông Á. Sức gió và lượng mưa cao nhất từ xoáy thuận nhiệt đới có vẻ đang tăng lên.Mực nước biển đang dâng cao là hệ quả của việc sông băng cùng các phiến băng ở Greenland và châu Nam Cực tan chảy. Giai đoạn 1993 đến 2017 mức dâng tăng theo thời gian, trung bình 3,1 ± 0,3 mm một năm. IPCC dự báo trong kịch bản phát thải rất nhiều thì đến hết thế kỷ 21 mực nước biển có thể dâng cao đến 61–110 cm. Đại dương ấm lên đang đào mòn và đe dọa tháo rời phần cửa sông băng châu Nam Cực, dễ khiến phiến băng tan nhiều và khả năng mực nước biển dâng cao 2 mét vào năm 2100 dưới điều kiện mức phát thải cao.Vì biến đổi khí hậu, băng biển vùng Bắc Cực đã mỏng đi và thu hẹp qua hàng thập kỷ khiến nó trở nên mong manh trước những dị thường bầu khí quyển. Những mùa hè không băng được dự kiến hiếm gặp với mức ấm lên 1,5 °C (2,7 °F) nhưng sẽ xảy ra một lần mỗi ba đến mười năm với mức ấm lên 2,0 °C (3,6 °F). Hàm lượng CO2 khí quyển cao hơn dẫn đến những thay đổi trong hóa học đại dương. Lượng CO2 hòa tan tăng khiến đại dương bị acid hóa. Trong khi đó nồng độ oxy sụt giảm vì oxy ít hòa tan trong nước ấm hơn và những vùng chết thiếu oxy mở rộng do nhiệt độ cao kích thích tảo nở hoa, hàm lượng CO2 cao, khử oxy đại dương, và phú dưỡng.
Biến đổi khí hậu có tác động quy mô và sâu sắc đến môi trường, cụ thể đến đại dương, băng, và thời tiết. Đại dương ấm lên đang đào mòn và đe dọa tháo rời phần cửa sông băng châu Nam Cực, dễ khiến phiến băng tan nhiều và khả năng mực nước biển dâng cao 2 mét vào năm 2100 dưới điều kiện mức phát thải cao.Vì biến đổi khí hậu, băng biển vùng Bắc Cực đã mỏng đi và thu hẹp qua hàng thập kỷ khiến nó trở nên mong manh trước những dị thường bầu khí quyển.
Ấm lên toàn cầu
Khí hậu càng ấm thêm thì càng có nguy cơ đi quá các điểm tới hạn, ngưỡng mà nếu vượt qua đó những tác động nhất định là không thể tránh kể cả khi nhiệt độ có giảm. Một ví dụ là sự sụp đổ phiến băng Greenland và Tây Nam Cực, những nơi mà nhiệt độ tăng 1,5 đến 2,0 °C (2,7 đến 3,6 °F) có thể làm phiến băng tan chảy, dù vậy phạm vi thời gian là không rõ ràng và phụ thuộc vào diễn biến ấm lên tương lai. Một số thay đổi quy mô lớn có thể xảy ra trong thời gian ngắn, như việc Hoàn lưu Đảo lộn Kinh tuyến Đại Tây Dương sụp đổ sẽ kích hoạt những thay đổi lớn về khí hậu ở Bắc Đại Tây Dương, châu Âu và Bắc Mỹ.Tác động lâu dài của biến đổi khí hậu bao gồm băng tan, đại dương ấm lên, mực nước biển dâng, và acid hóa đại dương tiếp diễn. Xét quãng thời gian hàng thế kỷ đến hàng thiên niên kỷ, mức độ của biến đổi khí hậu được quyết định chủ yếu bởi hành vi phát thải CO2 của con người. Điều này là do CO2 tồn tại lâu trong khí quyển. Tốc độ hấp thu CO2 của đại dương đủ chậm để acid hóa đại dương tiếp tục trong hàng trăm đến hàng ngàn năm. Việc phát thải ước tính làm kéo dài thời kỳ gian băng hiện tại thêm ít nhất 100.000 năm. Nước biển vẫn sẽ dâng trong hàng thế kỷ tới với mức dâng ước tính 2,3 m ứng với mức nhiệt tăng 1 °C sau 2000 năm.
Khí hậu càng ấm thêm thì càng có nguy cơ đi quá các điểm tới hạn, ngưỡng mà nếu vượt qua đó những tác động nhất định là không thể tránh kể cả khi nhiệt độ có giảm. Một số thay đổi quy mô lớn có thể xảy ra trong thời gian ngắn, như việc Hoàn lưu Đảo lộn Kinh tuyến Đại Tây Dương sụp đổ sẽ kích hoạt những thay đổi lớn về khí hậu ở Bắc Đại Tây Dương, châu Âu và Bắc Mỹ.Tác động lâu dài của biến đổi khí hậu bao gồm băng tan, đại dương ấm lên, mực nước biển dâng, và acid hóa đại dương tiếp diễn.
Ấm lên toàn cầu
Diễn biến ấm lên gần đây đã dồn nhiều loài nước ngọt và trên cạn đến địa cực và những điểm cao hơn. Hàm lượng CO2 khí quyển tăng và mùa sinh trưởng kéo dài dẫn tới phủ xanh toàn cầu, trong khi các đợt sóng nhiệt và hạn hán làm giảm năng suất hệ sinh thái ở một số khu vực. Không rõ tính cân bằng của các hiệu ứng đối lập này trong tương lai ra sao. Biến đổi khí hậu góp phần làm các đới khí hậu khô hơn mở rộng, như việc sa mạc mở rộng ở những miền cận nhiệt đới. Quy mô và tốc độ của ấm lên toàn cầu dễ đang tạo ra những thay đổi đột ngột trong các hệ sinh thái. Tổng quan thì biến đổi khí hậu dự kiến sẽ làm nhiều loài tuyệt chủng.Đại dương ấm lên chậm hơn đất liền nhưng thực vật và động vật ở đại dương di cư đến địa cực nhanh hơn các loài trên cạn. Cũng như trên đất liền, sóng nhiệt ở đại dương xảy ra thường xuyên hơn do biến đổi khí hậu và có ảnh hưởng tiêu cực đến nhiều sinh vật như san hô, tảo bẹ, chim biển. Acid hóa đại dương đang tác động đến những sinh vật tạo vỏ và xương cũng như những rạn san hô, thứ bị tẩy trắng rộng khắp sau những đợt sóng nhiệt. Tảo nở hoa có hại sinh sôi nhờ biến đổi khí hậu cùng phú dưỡng gây thiếu oxy, phá vỡ lưới thức ăn và làm chết hàng loạt sinh vật biển. Các hệ sinh thái ven biển đặc biệt dễ tổn thương khi mà gần một nửa vùng đất ngập nước đã biến mất như hệ quả của biến đổi khí hậu và các tác động của con người.
Diễn biến ấm lên gần đây đã dồn nhiều loài nước ngọt và trên cạn đến địa cực và những điểm cao hơn. Cũng như trên đất liền, sóng nhiệt ở đại dương xảy ra thường xuyên hơn do biến đổi khí hậu và có ảnh hưởng tiêu cực đến nhiều sinh vật như san hô, tảo bẹ, chim biển.
Ấm lên toàn cầu
Tác động của biến đổi khí hậu đến con người đã được quan sát trên toàn cầu. Biến đổi khí hậu có những ảnh hưởng riêng biệt đến từng khu vực lục địa và đại dương, trong đó những địa bàn vĩ độ thấp, kém phát triển đối diện rủi ro lớn nhất. Nếu hành vi phát thải khí nhà kính tiếp diễn, Trái Đất sẽ ấm thêm và hệ thống khí hậu sẽ có những thay đổi lâu dài với tiềm năng "tác động nghiêm trọng, lan rộng và không thể đảo ngược" đến con người và các hệ sinh thái. Không phải đối tượng nào cũng hứng chịu rủi ro như nhau từ biến đổi khí hậu mà nhìn chung người có hoàn cảnh khó khăn ở các nước đang và đã phát triển sẽ gặp bất lợi hơn.
Tác động của biến đổi khí hậu đến con người đã được quan sát trên toàn cầu. Biến đổi khí hậu có những ảnh hưởng riêng biệt đến từng khu vực lục địa và đại dương, trong đó những địa bàn vĩ độ thấp, kém phát triển đối diện rủi ro lớn nhất.
Ấm lên toàn cầu
Ảnh hưởng của biến đổi khí hậu đến sức khỏe con người có thể là trực tiếp từ thời tiết cực đoan gây ra thương tật và tử vong, hay gián tiếp như kém dinh dưỡng có nguyên do từ mùa màng thất bát. Khí hậu ấm áp hơn dễ làm bùng phát các bệnh truyền nhiễm như sốt xuất huyết và sốt rét. Trẻ em là đối tượng nhạy cảm nhất với tình trạng thiếu lương thực và tương tự cùng với người già là nắng nóng cực đoan. Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) ước tính giai đoạn từ năm 2030 đến 2050, biến đổi khí hậu sẽ khiến thêm khoảng 250.000 người già tử vong mỗi năm do tiếp xúc với nắng nóng và làm gia tăng các bệnh tiêu chảy, sốt rét, sốt xuất huyết, cùng thiếu đói ở trẻ em. Hơn 500.000 người lớn được dự kiến tử vong mỗi năm đến năm 2050 do sụt giảm số lượng và chất lượng thực phẩm. Chất lượng nước và không khí cũng là những rủi ro sức khỏe lớn khác liên quan đến biến đổi khí hậu. WHO đánh giá tác động của biến đổi khí hậu là mối đe dọa lớn nhất đến sức khỏe toàn cầu trong thế kỷ 21.Biến đổi khí hậu đang ảnh hưởng đến an ninh lương thực và làm giảm sản lượng ngô, lúa mì và đậu nành toàn cầu trong khoảng 1981 đến 2010. Sản lượng những giống cây trồng chính sẽ còn giảm thêm nếu chiều hướng ấm lên tiếp diễn. Các quốc gia miền vĩ độ thấp dễ bị ảnh hưởng tiêu cực còn quốc gia ở phương bắc thì có thể là tích cực hoặc tiêu cực. Hậu quả là 183 triệu người trên khắp thế giới, đặc biệt người có thu nhập thấp, có nguy cơ lâm vào cảnh đói ăn. Ở đại dương, trữ lượng cá sụt giảm kéo theo sụt giảm sản lượng đánh bắt, duy chỉ trữ lượng vùng cực là biểu hiện tiềm năng gia tăng. Các khu vực phụ thuộc vào nước sông băng, khu vực vốn đã khô hạn, và những hòn đảo nhỏ đối diện nguy cơ thiếu nước do biến đổi khí hậu.
Ảnh hưởng của biến đổi khí hậu đến sức khỏe con người có thể là trực tiếp từ thời tiết cực đoan gây ra thương tật và tử vong, hay gián tiếp như kém dinh dưỡng có nguyên do từ mùa màng thất bát. Trẻ em là đối tượng nhạy cảm nhất với tình trạng thiếu lương thực và tương tự cùng với người già là nắng nóng cực đoan.
Ấm lên toàn cầu
Thiệt hại kinh tế do biến đổi khí hậu đã bị đánh giá thấp và có thể đến mức nghiêm trọng với xác suất những sự kiện rủi ro đuôi tai hại trở nên đáng kể. Có vẻ như biến đổi khí hậu đã khiến cho bất bình đẳng kinh tế toàn cầu gia tăng và điều này được dự đoán tiếp diễn. Các tác động nặng nề chủ yếu xảy ra ở châu Phi hạ Sahara và Đông Nam Á, những nơi mà nghèo đói vốn đã trở nên trầm trọng hơn. Ngân hàng Thế giới ước tính đến năm 2030 biến đổi khí hậu có thể khiến hơn 120 triệu người lâm vào cảnh nghèo khổ. Tình trạng bất bình đẳng hiện tại giữa nam và nữ, giữa người giàu và người nghèo, giữa các sắc tộc khác nhau đã được quan sát là tồi tệ hơn do khí hậu thay đổi. Vai trò của biến đổi khí hậu trong xung đột vũ trang là nhỏ so với những yếu tố như bất bình đẳng kinh tế-xã hội và năng lực nhà nước nhưng sự ấm lên trong tương lai sẽ khiến rủi ro gia tăng.Các cộng đồng ven biển và trên những hòn đảo trũng thấp bị đe dọa bởi những hiện tượng bắt nguồn từ việc mực nước biển dâng như ngập lụt và chìm vĩnh viễn. Điều này có thể khiến người dân các đảo quốc như Maldives và Tuvalu trở nên vô quốc tịch. Ở một số nơi, nhiệt độ và độ ẩm có thể tăng cao quá mức khiến con người không thích ứng được. Trong kịch bản tồi tệ nhất, các mô hình dự đoán gần một phần ba nhân loại sẽ sống trong khí hậu cực kỳ nóng và không thể cư ngụ, tương tự như khí hậu Sahara hiện tại. Các yếu tố này cộng thêm thời tiết cực đoan tiềm năng gây nên di cư do môi trường cả trong và giữa các quốc gia. Con người sẽ phải dịch chuyển nhiều hơn khi mà thời tiết cực đoan, mực nước biển dâng, và xung đột nảy sinh từ sự cạnh tranh tài nguyên thiên nhiên ngày càng gay gắt gia tăng tần suất. Tuy nhiên còn những nhóm người không thể rời đi do không đủ tiềm lực, họ sẽ bị kẹt lại và đối mặt với tương lai khốn khó và rủi ro.
Thiệt hại kinh tế do biến đổi khí hậu đã bị đánh giá thấp và có thể đến mức nghiêm trọng với xác suất những sự kiện rủi ro đuôi tai hại trở nên đáng kể. Tuy nhiên còn những nhóm người không thể rời đi do không đủ tiềm lực, họ sẽ bị kẹt lại và đối mặt với tương lai khốn khó và rủi ro.
Ấm lên toàn cầu
Tác động của biến đổi khí hậu có thể được giảm thiểu bằng biện pháp giảm phát thải khí nhà kính và tăng cường các bể chứa hấp thu khí nhà kính từ khí quyển. Để hạn chế ấm lên toàn cầu dưới ngưỡng 1,5 °C với cơ hội thành công cao thì đến năm 2050 lượng khí thải nhà kính toàn cầu cần là 0 ròng, hoặc đến năm 2070 với mục tiêu 2 °C. Điều này đòi hỏi những thay đổi hệ thống, sâu rộng trên một quy mô chưa từng có trong lĩnh vực năng lượng, đất đai, vận tải, xây dựng, công nghiệp. Các kịch bản hạn chế ấm lên toàn cầu ở 1,5 °C thường mô tả phát thải đạt âm ròng tại một số thời điểm. Để tiến tới mục tiêu hạn chế ấm lên ở 2 °C, Chương trình Môi trường Liên Hợp Quốc ước tính rằng trong thập kỷ tới các quốc gia cần giảm gấp ba lần lượng khí thải mà họ cam kết trong Hiệp định Paris hiện tại, tức là nếu muốn đạt mục tiêu 1,5 °C thì thậm chí còn phải giảm thêm nữa.Tuy chưa có giải pháp thiết thực để hạn chế ấm lên toàn cầu ở mức 1,5 hay 2 °C (2,7 hay 3,6 °F) nhưng đa số chiến lược và kịch bản trông thấy hành động đẩy mạnh sử dụng năng lượng tái tạo kết hợp với những biện pháp hiệu quả năng lượng nhằm làm giảm lượng khí nhà kính cần thiết. Để giải tỏa áp lực lên hệ sinh thái và củng cố năng lực thu giữ carbon của chúng thì cũng cần những thay đổi trong lĩnh vực như nông và lâm nghiệp.Các phương pháp giảm thiểu biến đổi khí hậu khác đi kèm mức độ rủi ro cao hơn. Những kịch bản hạn chế mức ấm lên là 1,5 °C thường dự báo việc áp dụng phương pháp loại bỏ carbon dioxide trên phạm vi phổ quát trong thế kỷ 21. Dẫu vậy tồn tại nỗi lo về việc quá phụ thuộc vào những công nghệ này cũng như tác động đến môi trường có thể xảy ra. Các cách quản trị bức xạ Mặt trời (SRM) cũng được tìm tòi như để bổ sung cho công tác giảm sâu lượng khí thải. Tuy nhiên phương án này sẽ làm nảy sinh những vấn đề pháp lý và đạo đức, đồng thời rủi ro cũng chưa được nắm tường tận.
Tác động của biến đổi khí hậu có thể được giảm thiểu bằng biện pháp giảm phát thải khí nhà kính và tăng cường các bể chứa hấp thu khí nhà kính từ khí quyển. Tuy nhiên phương án này sẽ làm nảy sinh những vấn đề pháp lý và đạo đức, đồng thời rủi ro cũng chưa được nắm tường tận.
Ấm lên toàn cầu
Các kịch bản loại bỏ carbon lâu dài chỉ dẫn đầu tư nhanh và nhiều vào năng lượng tái tạo, bao gồm năng lượng gió, năng lượng mặt trời, năng lượng sinh học, năng lượng địa nhiệt, và năng lượng nước. Nhiên liệu hóa thạch chiếm đến 80% năng lượng của thế giới trong năm 2018, phần còn lại là năng lượng hạt nhân và năng lượng tái tạo. Tỷ phần các dạng năng lượng được dự đoán thay đổi đáng kể trong 30 năm tới. Khai thác điện mặt trời và gió trên bờ là những cách bổ sung công suất phát điện mới tiết kiệm chi phí nhất ở đa số quốc gia. Năng lượng tái tạo chiếm 75% toàn bộ nguồn phát điện mới được lắp đặt trong năm 2019 mà hầu hết là năng lượng gió và mặt trời. Trong khi đó do chi phí đang tăng nên năng lượng hạt nhân hiện đắt đỏ hơn năng lượng gió và mặt trời vài lần mỗi megawatt-giờ.Để đến năm 2050 trung hòa được lượng carbon thì năng lượng tái tạo sẽ trở thành hình thức sinh điện chủ đạo, lên tới 85% hoặc hơn vào năm 2050 trong một số kịch bản. Điện sẽ là dạng năng lượng phục vụ nhiều nhất cho những nhu cầu khác như sưởi ấm. Con người sẽ chấm dứt đầu tư vào than đá và loại dần việc sử dụng than đến năm 2050.Có những trở ngại trong việc tiếp tục nhanh chóng phát triển năng lượng tái tạo. Đối với năng lượng gió và mặt trời, thách thức đáng kể nhất là chúng biến động theo mùa và có tính gián đoạn. Thường thì các đập nước kèm hồ chứa cùng nhà máy điện thông thường sẽ được sử dụng khi sản lượng năng lượng ở mức thấp. Các biện pháp như sử dụng tiết kiệm, phát triển kho lưu trữ điện và hệ thống truyền tải điện khoảng cách xa cũng góp phần giúp giải quyết vấn đề sản lượng không đều của năng lượng tái tạo ở những khu vực địa lý rộng hơn. Có một số lo ngại về sử dụng đất và môi trường liên hệ với những dự án năng lượng gió và mặt trời lớn, trong khi năng lượng sinh học thường là có carbon và có thể gây hậu quả tiêu cực cho an ninh lương thực. Năng lượng nước đang phát triển chậm lại và trên đà giảm thêm do những lo ngại về tác động xã hội và môi trường.Năng lượng sạch giúp con người khỏe mạnh hơn vì nó hạn chế tối đa biến đối khí hậu, đồng thời có lợi ích thấy ngay là làm giảm con số người chết do ô nhiễm không khí mà ước tính là 7 triệu mỗi năm vào năm 2016. Nếu đạt được những mục tiêu của Hiệp định Paris, cụ thể hạn chế ấm lên ở mức 2 °C có thể cứu khoảng một triệu sinh mạng mỗi năm cho đến năm 2050, trong khi hạn chế ấm lên ở mức 1,5 °C có thể cứu hàng triệu sinh mạng đồng thời củng cố an ninh năng lượng và làm giảm đói nghèo.
Các kịch bản loại bỏ carbon lâu dài chỉ dẫn đầu tư nhanh và nhiều vào năng lượng tái tạo, bao gồm năng lượng gió, năng lượng mặt trời, năng lượng sinh học, năng lượng địa nhiệt, và năng lượng nước. Nếu đạt được những mục tiêu của Hiệp định Paris, cụ thể hạn chế ấm lên ở mức 2 °C có thể cứu khoảng một triệu sinh mạng mỗi năm cho đến năm 2050, trong khi hạn chế ấm lên ở mức 1,5 °C có thể cứu hàng triệu sinh mạng đồng thời củng cố an ninh năng lượng và làm giảm đói nghèo.
Ấm lên toàn cầu
Giảm bớt nhu cầu năng lượng là một đặc điểm quan trọng khác của các kịch bản và kế hoạch loại bỏ carbon. Bên cạnh giảm khí thải trực tiếp, các biện pháp giảm nhu cầu năng lượng tạo thêm tính linh hoạt cho phát triển năng lượng ít carbon, hỗ trợ quản lý lưới điện và hạn chế tối đa phát triển cơ sở hạ tầng cần nhiều carbon. Trong vài thập kỷ tới, cần có sự gia tăng mạnh mẽ trong đầu tư hiệu quả năng lượng để đạt những mục tiêu giảm thiểu, tương tự mức đầu tư dự kiến vào năng lượng tái tạo. Tuy nhiên, một số thay đổi liên quan đến COVID-19 trong các hình mẫu sử dụng năng lượng, đầu tư hiệu quả năng lượng, và tài trợ khiến những dự báo cho thập kỷ này thêm khó khăn và không chắc chắn.Các chiến lược hiệu quả nhằm làm giảm nhu cầu năng lượng tùy vào lĩnh vực. Trong vận tải, lợi nhuận có thể thu được bằng cách chuyển hành khách và hàng hóa sang những phương thức di chuyển hiệu quả hơn như xe buýt và xe lửa, hay tăng cường sử dụng xe điện. Chiến lược công nghiệp nhằm làm giảm nhu cầu năng lượng bao gồm gia tăng hiệu quả năng lượng của động cơ và hệ thống sưởi, thiết kế những sản phẩm tiết kiệm năng lượng, gia tăng tuổi thọ sản phẩm. Trong xây dựng trọng tâm là thiết kế những tòa nhà mới tốt hơn và trang bị thêm công nghệ có mức hiệu quả năng lượng cao hơn cho công trình hiện có. Các tòa nhà sẽ được bổ sung điện khí hóa với việc áp dụng công nghệ như máy bơm nhiệt có hiệu quả cao hơn nhiên liệu hóa thạch.
Giảm bớt nhu cầu năng lượng là một đặc điểm quan trọng khác của các kịch bản và kế hoạch loại bỏ carbon. Chiến lược công nghiệp nhằm làm giảm nhu cầu năng lượng bao gồm gia tăng hiệu quả năng lượng của động cơ và hệ thống sưởi, thiết kế những sản phẩm tiết kiệm năng lượng, gia tăng tuổi thọ sản phẩm.
Ấm lên toàn cầu
Nông nghiệp và lâm nghiệp đối mặt ba thách thức: hạn chế phát thải khí nhà kính, ngăn chặn quá trình chuyển đổi rừng sang đất nông nghiệp, và đáp ứng nhu cầu lương thực gia tăng của thế giới. Một loạt hành động có thể làm giảm khí thải nhà kính có nguồn gốc nông lâm nghiệp đi 66% so với mức năm 2010 thông qua kìm hãm sự gia tăng trong nhu cầu lương thực và những sản phẩm nông nghiệp khác, tăng năng suất đất, bảo vệ và khôi phục rừng, giảm thiểu khí nhà kính từ hoạt động sản xuất nông nghiệp.Hai ngành sản xuất thép và xi măng mà cùng nhau tạo ra khoảng 13% khí thải CO2 công nghiệp trình bày những khó khăn cụ thể. Trong các ngành này, những vật liệu nhiều carbon như than cốc và vôi đóng vai trò không thể thiếu trong quá trình sản xuất. Để giảm bớt khí thải CO2 ở đây thì cần những nỗ lực nghiên cứu biện pháp khử carbon trong các quá trình. Trong vận tải, các kịch bản hình dung đến sự gia tăng đột ngột trong thị phần xe điện và việc thay thế nhiên liệu ít carbon cho những loại hình khác như vận chuyển hàng hóa.
Nông nghiệp và lâm nghiệp đối mặt ba thách thức: hạn chế phát thải khí nhà kính, ngăn chặn quá trình chuyển đổi rừng sang đất nông nghiệp, và đáp ứng nhu cầu lương thực gia tăng của thế giới. Trong vận tải, các kịch bản hình dung đến sự gia tăng đột ngột trong thị phần xe điện và việc thay thế nhiên liệu ít carbon cho những loại hình khác như vận chuyển hàng hóa.
Ấm lên toàn cầu
Các bể chứa carbon tự nhiên có thể được củng cố để cô lập lượng CO2 nhiều hơn đáng kể mức tự nhiên. Tái trồng rừng và trồng mới rừng là một trong những biện pháp quen thuộc nhất, dù vậy chúng làm dấy lên nỗi lo về an ninh lương thực. Cô lập carbon đất và carbon duyên hải là những phương án ít được nắm bắt hơn. Các mô hình không chắc chắn về tính khả thi của những phương pháp giảm khí thải trên mặt đất, IPCC nhận định chiến lược giảm thiểu dựa vào chúng là rủi ro.Ở những nơi CO2 dư thừa tiếp tục được tạo ra, nó có thể được thu hồi và lưu trữ thay vì để thoát vào khí quyển. Mặc dù hiện tại thu hồi và lưu trữ carbon (CCS) chưa phổ biến và tốn kém nhưng đến giữa thế kỷ nó có thể đóng vai trò quan trọng trong hạn chế khí thải CO2. Công nghệ này kết hợp với sản xuất năng lượng sinh học (BECCS) có thể đem tới phát thải ròng âm, tức là lượng khí nhà kính thải vào khí quyển ít hơn lượng được cô lập hay lưu trữ trong nhiên liệu năng lượng sinh học. Không rõ kỹ thuật loại bỏ carbon dioxide như BECCS có tác dụng nhiều trong việc hạn chế ấm lên ở mức 1,5 °C hay không và các quyết sách tin tưởng vào loại bỏ carbon dioxide làm tăng rủi ro ấm lên toàn cầu vượt quá các mục tiêu quốc tế.
Các bể chứa carbon tự nhiên có thể được củng cố để cô lập lượng CO2 nhiều hơn đáng kể mức tự nhiên. Cô lập carbon đất và carbon duyên hải là những phương án ít được nắm bắt hơn.
Ấm lên toàn cầu
Thích nghi hay thích ứng là "quá trình điều chỉnh với những thay đổi hiện tại hoặc dự kiến trong khí hậu và hiệu ứng của nó". Nếu không kết hợp cùng giảm thiểu, thích nghi không thể ngăn chặn nguy cơ xảy ra những tác động "nghiêm trọng, lan rộng và không thể đảo ngược". Biến đổi khí hậu càng khắc nghiệt thì thích nghi càng khó khăn, có thể tốn kém đến mức không thể đáp ứng. Khả năng và tiềm năng thích nghi của con người, gọi là năng lực thích nghi, không đồng đều giữa các khu vực và nhóm dân khác nhau, nhìn chung kém hơn ở các nước đang phát triển. Hai thập kỷ đầu tiên của thế kỷ 21 chứng kiến sự gia tăng trong năng lực thích nghi của các quốc gia thu nhập thấp và trung bình với việc điện và vệ sinh cơ bản trở nên dễ dàng tiếp cận hơn, song tiến độ còn chậm chạp. Có nhiều quốc gia đã thi hành những chính sách thích nghi, tuy nhiên nguồn kinh phí sẵn có còn kém xa mức cần thiết.Để thích nghi với mực nước biển dâng, biện pháp gồm có tránh những khu vực rủi ro, học cách sống chung với ngập lụt gia tăng, bảo vệ hoặc di dời nếu cần thiết. Trong khâu hạn chế tác động nguy hại của nắng nóng tồn tại những rào cản về kinh tế: khó mà làm việc nặng nhọc hoặc phải sử dụng điều hòa không khí điều mà không phải ở đâu cũng áp dụng được. Trong nông nghiệp, các phương án thích nghi bao gồm chuyển sang những chế độ ăn phù hợp hơn, đa dạng hóa, kiểm soát xói mòn và cải thiện về di truyền để chống chịu tốt hơn với khí hậu biến đổi. Bảo hiểm cho phép san sẻ rủi ro nhưng thường khó tiếp cận với người có thu nhập thấp. Giáo dục, di cư và những hệ thống cảnh báo sớm có thể giúp con người giảm thiểu đi các tác động của khí hậu.Các hệ sinh thái thích ứng với biến đổi khí hậu, quá trình mà con người có thể can thiệp hỗ trợ. Phản ứng có thể xảy ra là các hệ sinh thái kết nối với nhau hơn, cho phép các loài dịch chuyển đến những nơi có khí hậu phù hợp hơn và tái định cư. Việc bảo vệ và khôi phục những khu vực tự nhiên hay bán tự nhiên mang đến cơ hội phục hồi, giúp các hệ sinh thái dễ dàng thích ứng hơn. Có nhiều hành động thúc đẩy sự thích nghi trong các hệ sinh thái, đồng thời giúp con người thích nghi dựa vào hệ sinh thái. Ví dụ, khôi phục những chế độ cháy tự nhiên làm giảm tần suất các vụ cháy thảm khốc, qua đó con người cũng ít bị ảnh hưởng. Tạo thêm không gian cho sông thì nước được lưu trữ ngoài tự nhiên nhiều hơn giúp giảm nguy cơ lũ lụt. Rừng cây được phục hồi đóng vai trò bể chứa carbon, song trồng cây ở những địa bàn không phù hợp có thể làm trầm trọng thêm các tác động khí hậu.Có những sự hiệp lực và đánh đổi giữa thích nghi và giảm thiểu. Các biện pháp thích nghi thường đem lại lợi ích trước mắt trong khi giảm thiểu có lợi ích lâu dài hơn. Sử dụng nhiều điều hòa không khí giúp con người ứng phó tốt hơn với nắng nóng nhưng lại làm tăng nhu cầu năng lượng. Thiết kế đô thị nhỏ gọn có thể giúp giảm khí thải từ xây dựng và vận tải nhưng đồng thời còn làm tăng hiệu ứng đảo nhiệt đô thị dẫn đến nhiệt độ cao hơn và tiếp xúc nhiều hơn. Năng suất lương thực gia tăng mang lại lợi ích lớn cho cả giảm thiểu và thích nghi.
Thích nghi hay thích ứng là "quá trình điều chỉnh với những thay đổi hiện tại hoặc dự kiến trong khí hậu và hiệu ứng của nó". Có nhiều quốc gia đã thi hành những chính sách thích nghi, tuy nhiên nguồn kinh phí sẵn có còn kém xa mức cần thiết.Để thích nghi với mực nước biển dâng, biện pháp gồm có tránh những khu vực rủi ro, học cách sống chung với ngập lụt gia tăng, bảo vệ hoặc di dời nếu cần thiết.
Ấm lên toàn cầu
Các quốc gia nhạy cảm nhất với biến đổi khí hậu thường không phát thải nhiều khí nhà kính, làm nảy sinh câu hỏi về công bằng và công lý. Biến đổi khí hậu có liên hệ mật thiết với phát triển bền vững. Hạn chế ấm lên toàn cầu là đồng thời hướng đến đạt được các mục tiêu phát triển bền vững như xóa bỏ đói nghèo và giảm bất bình đẳng. Mối liên kết giữa hai vấn đề được công nhận trong Mục tiêu Phát triển Bền vững 13 đó là "hành động khẩn cấp để chống lại biến đổi khí hậu và các tác động của nó". Các mục tiêu về lương thực, nước sạch và bảo vệ hệ sinh thái có tính hòa hợp với giảm thiểu biến đổi khí hậu.Khía cạnh địa chính trị của biến đổi khí hậu là phức tạp và thường được đóng khung với vấn đề kẻ ăn không, tức là tất cả các nước hưởng lợi từ giảm thiểu do một số nước làm nhưng một số nước đó sẽ thua thiệt từ việc đầu tư vào chuyển đổi sang nền kinh tế ít carbon. Có những phản biện cho điều này. Ví dụ, lợi ích cải thiện môi trường địa phương và sức khỏe cộng đồng của việc loại dần than đá là lớn hơn chi phí ở gần như mọi khu vực. Một luận điểm phản bác khác là các nước nhập khẩu ròng nhiên liệu hóa thạch được lợi về kinh tế từ việc chuyển đổi, khiến các nước xuất ròng có nguy cơ mắc kẹt tài sản hay không thể bán nhiên liệu hóa thạch.
Các quốc gia nhạy cảm nhất với biến đổi khí hậu thường không phát thải nhiều khí nhà kính, làm nảy sinh câu hỏi về công bằng và công lý. Mối liên kết giữa hai vấn đề được công nhận trong Mục tiêu Phát triển Bền vững 13 đó là "hành động khẩn cấp để chống lại biến đổi khí hậu và các tác động của nó".
Ấm lên toàn cầu
Một phạm vi rộng các chính sách, quy tắc và luật lệ được áp dụng để làm giảm lượng khí nhà kính. Cơ chế định giá carbon gồm có thuế carbon và hệ thống mua bán khí thải. Kể từ năm 2019 có khoảng 20% lượng khí thải nhà kính được định giá carbon trên toàn cầu. Khoản trợ cấp nhiên liệu hóa thạch trực tiếp toàn cầu là 319 tỷ đôla trong năm 2017 và 5,2 ngàn tỷ đô nếu tính chi phí gián tiếp như ô nhiễm không khí. Chấm dứt việc làm này có thể làm giảm 28% lượng carbon phát thải toàn cầu và 46% số người tử vong do ô nhiễm không khí. Các khoản trợ cấp có thể được chuyển hướng sang hỗ trợ công tác chuyển đổi sang năng lượng sạch. Biện pháp có tính ép buộc hơn bao gồm tiêu chuẩn hiệu quả xe cộ, tiêu chuẩn nhiên liệu tái tạo và những quy định về ô nhiễm không khí trong ngành công nghiệp nặng. Một số quốc gia ban hành tiêu chuẩn danh mục đầu tư có thể tái tạo nhằm gia tăng tỷ lệ điện được tạo ra từ các nguồn năng lượng có thể tái tạo.Có những suy xét liên quan đến thách thức kinh tế và xã hội nảy sinh từ việc giảm sử dụng nhiên liệu hóa thạch. Một ví dụ là việc làm của người lao động trong những ngành công nghiệp bị ảnh hưởng cùng với lợi ích của cộng đồng lớn hơn liên quan. Công lý khí hậu là một khía cạnh quan trọng khác của chính sách giảm thiểu.
Một phạm vi rộng các chính sách, quy tắc và luật lệ được áp dụng để làm giảm lượng khí nhà kính. Cơ chế định giá carbon gồm có thuế carbon và hệ thống mua bán khí thải.
Ấm lên toàn cầu
Gần như tất cả quốc gia trên thế giới đều tham gia Công ước Khung Liên Hợp Quốc về Biến đổi Khí hậu (UNFCCC) 1994. Mục tiêu của UNFCCC là ngăn chặn can thiệp nguy hại của con người vào hệ thống khí hậu. Theo như nội dung công ước thì nồng độ khí nhà kính trong khí quyển phải được giữ ổn định ở mức mà các hệ sinh thái có thể thích ứng tự nhiên với biến đổi khí hậu, sản xuất lương thực không bị đe dọa, và phát triển kinh tế có thể duy trì. Khí thải toàn cầu đã tăng kể từ thời điểm ký kết UNFCCC, nó không thực sự hạn chế phát thải mà tạo ra một khuôn khổ cho những nghị định thư làm điều đó. Những hội nghị thường niên là cơ hội cho các cuộc đàm phán toàn cầu.Nghị định thư Kyoto 1997 mở rộng UNFCCC và bao gồm những cam kết ràng buộc pháp lý cho hầu hết các nước phát triển nhằm hạn chế lượng phát thải của họ. Trong các phiên đàm phán nghị định thư, G77 (đại diện các nước đang phát triển) xúc tiến một nhiệm vụ đòi hỏi các nước phát triển "đi đầu" trong công tác giảm thiểu khí thải vì các nước phát triển góp phần chủ yếu làm khí nhà kính tích lũy trong khí quyển, vì mức phát thải đầu người của các nước đang phát triển vẫn khá thấp và sẽ gia tăng để đáp ứng nhu cầu phát triển của họ.Hiệp ước Copenhagen 2009 bị nhiều người xem là nỗi thất vọng bởi những mục tiêu khiêm tốn và nó đã bị các nước nghèo bao gồm G77 bác bỏ. Các bên liên quan hướng đến hạn chế mức tăng của nhiệt độ trung bình toàn cầu dưới ngưỡng 2,0 °C (3,6 °F). Hiệp ước đặt mục tiêu gửi 100 tỷ đôla mỗi năm cho các nước đang phát triển đến năm 2020 nhằm hỗ trợ giảm thiểu và thích ứng, bên cạnh đó đề xuất sáng lập Quỹ Khí hậu Xanh. Tính đến năm 2020 quỹ này đã không đạt được mục tiêu kỳ vọng và có nguy cơ bị cắt giảm tài trợ.Vào năm 2015 tất cả quốc gia Liên Hợp Quốc cùng đàm phám Hiệp định Paris hướng đến giữ cho ấm lên toàn cầu không tiệm cận 2,0 °C (3,6 °F) đồng thời hàm chứa một mục tiêu mơ ước là giữ cho ấm lên dưới 15 °C. Hiệp định này đã thay thế Nghị định thư Kyoto. Không như Nghị định thư Kyoto, trong Hiệp định Paris không có mục tiêu phát thải ràng buộc nào. Thay vào đó là việc thường xuyên đặt ra những mục tiêu tham vọng chưa từng thấy và đánh giá lại những mục tiêu này sau mỗi năm năm. Hiệp định Paris nhắc lại rằng các nước đang phát triển phải được hỗ trợ tài chính. Tính đến năm 2021 đã có 194 quốc gia cùng Liên minh châu Âu ký hiệp định và 188 quốc gia cùng Liên minh châu Âu phê chuẩn hoặc tán thành hiệp định.Nghị định thư Montreal 1987, một hiệp định quốc tế nhằm ngăn chặn hành vi phát thải khí phá hủy ozone, có lẽ kìm chế phát thải khí nhà kính hiệu quả hơn là Nghị định thư Kyoto vốn được sáng lập để chuyên trách vấn đề này. Tu chính Kigali 2016 của Nghị định thư Montreal nhắm đến giảm phát thải hydrofluorocarbon, một nhóm khí nhà kính đáng kể mà đã được sử dụng để thay cho các khí phá hủy ozone bị cấm. Điều này biến Nghị định thư Montreal thành một thỏa thuận chống biến đổi khí hậu hiệu lực hơn.
Gần như tất cả quốc gia trên thế giới đều tham gia Công ước Khung Liên Hợp Quốc về Biến đổi Khí hậu (UNFCCC) 1994. Các bên liên quan hướng đến hạn chế mức tăng của nhiệt độ trung bình toàn cầu dưới ngưỡng 2,0 °C (3,6 °F).
Ấm lên toàn cầu
Có sự đồng thuận khoa học áp đảo về việc nhiệt độ bề mặt toàn cầu gia tăng trong những thập kỷ gần đây và nguyên nhân chủ yếu của diễn biến này là con người phát thải khí nhà kính với 90–100% các nhà khoa học về khí hậu đồng tình. Vào năm 2019 mức độ đồng thuận đã lên tới 100% giữa các nhà khoa học nghiên cứu ấm lên toàn cầu do con người. Không có cơ quan khoa học quốc gia hay quốc tế nào phản bác quan điểm này. Sự đồng thuận còn tiến xa hơn đến việc cần thực hiện một số hành động để bảo vệ con người trước những tác động của biến đổi khí hậu và các viện hàn lâm khoa học quốc gia đã kêu gọi những lãnh đạo thế giới cắt giảm lượng khí thải toàn cầu.Sự bàn luận khoa học diễn ra trong các bài đăng tạp chí được bình duyệt, ở đó các nhà khoa học căn cứ vào đánh giá trong những bản báo cáo của IPCC. Vào năm 2013, Báo cáo Đánh giá lần 5 của IPCC phát biểu rằng gần như chắc chắn tác động của con người là nguyên nhân chính gây ra sự ấm lên đã quan sát từ giữa thế kỷ 20. Báo cáo 2018 đi tới kết luận dứt khoát hơn thể hiện sự đồng thuận khoa học: "tác động của con người đến khí hậu là nguyên nhân chính gây ra sự ấm lên đã quan sát kể từ giữa thế kỷ 20". Các nhà khoa học đã đưa ra hai cảnh báo đến nhân loại vào năm 2017 và 2019, bày tỏ lo ngại về lộ trình đi đến biến đổi khí hậu thảm khốc tiềm tàng hiện tại và hậu quả là nỗi thống khổ không kể xiết mà con người phải hứng chịu.
Có sự đồng thuận khoa học áp đảo về việc nhiệt độ bề mặt toàn cầu gia tăng trong những thập kỷ gần đây và nguyên nhân chủ yếu của diễn biến này là con người phát thải khí nhà kính với 90–100% các nhà khoa học về khí hậu đồng tình. Các nhà khoa học đã đưa ra hai cảnh báo đến nhân loại vào năm 2017 và 2019, bày tỏ lo ngại về lộ trình đi đến biến đổi khí hậu thảm khốc tiềm tàng hiện tại và hậu quả là nỗi thống khổ không kể xiết mà con người phải hứng chịu.
Ấm lên toàn cầu
Công chúng quốc tế bắt đầu chú ý đến biến đổi khí hậu từ cuối thập niên 1980. Do tin tức truyền thông nhập nhằng hồi đầu thập niên 1990, nhiều người đã nhận thức biến đổi khí hậu chung với những vấn đề môi trường khác như suy giảm ozone. Trong văn hóa đại chúng, The Day After Tomorrow là phim đầu tiên về đề tài này đến với đông đảo quần chúng vào năm 2004 và sau đó một năm là phim tài liệu An Inconvenient Truth. Sách, truyện và phim về biến đổi khí hậu thuộc thể loại khí hậu viễn tưởng.Sự hiểu biết và quan tâm của công chúng đến biến đổi khí hậu khác biệt đáng kể giữa các khu vực. Vào năm 2015, trung vị 54% người được hỏi cho rằng đó là "một vấn đề rất nghiêm trọng", nhưng người Trung Quốc và người Mỹ (người thuộc các nền kinh tế có lượng khí thải CO2 hàng năm lớn nhất) thì lại thuộc hàng ít quan tâm nhất. Một cuộc khảo sát năm 2018 phát hiện người dân ở đa số quốc gia đã quan tâm đến vấn đề này hơn so với năm 2013. Số người có học thức gia tăng và tại một số nước, phụ nữ và người trẻ thấy rõ hơn rằng biến đổi khí hậu là một hiểm họa thực sự. Ở Hoa Kỳ có một cách biệt phe phái lớn trong dư luận.
Công chúng quốc tế bắt đầu chú ý đến biến đổi khí hậu từ cuối thập niên 1980. Do tin tức truyền thông nhập nhằng hồi đầu thập niên 1990, nhiều người đã nhận thức biến đổi khí hậu chung với những vấn đề môi trường khác như suy giảm ozone.
Ấm lên toàn cầu
Tranh cãi của công chúng về biến đổi khí hậu bị tác động mạnh mẽ bởi hành vi phủ nhận và thông tin sai lệch có nguồn gốc ở Hoa Kỳ và từ đó lan ra các nước khác, đặc biệt là Canada và Australia. Các nhân vật đứng sau trào lưu phủ nhận biến đổi khí hậu thành lập một liên minh được tài trợ và hợp tác tương đối gồm các công ty nhiên liệu hóa thạch, nhóm công nghiệp, viện chính sách bảo thủ và các nhà khoa học đối lập. Cũng như ngành công nghiệp thuốc lá trước kia, chiến lược chủ đạo của các nhóm này là bịa ra những nghi ngờ về kết quả và dữ liệu khoa học. Người phủ nhận, chối bỏ, hoặc lưu giữ quan điểm ngờ vực không lý do về biến đổi khí hậu do con người được gọi là "người hoài nghi biến đổi khí hậu", nhưng một số nhà khoa học cho rằng cách gọi đó không đúng.Tồn tại những hình thức phủ nhận khác nhau: một số cho rằng khí hậu không hề ấm lên, số khác thì đồng ý là ấm lên nhưng quy bởi những ảnh hưởng tự nhiên, và một số thì tối thiểu hóa các tác động tiêu cực của biến đối khí hậu. Sự không chắc chắn bịa đặt về khoa học về sau phát triển thành tranh luận bịa đặt: tạo niềm tin rằng cộng đồng khoa học còn nghi ngờ đáng kể về biến đổi khí hậu nhằm trì hoãn những thay đổi chính sách. Chiến lược để xúc tiến ý đồ này bao gồm chỉ trích các tổ chức khoa học và nêu nghi vấn về động cơ của các nhà khoa học. Các blog mạng càng xúi bẩy thêm những sự hiểu lầm về biến đổi khí hậu và hậu quả của nó.
Tranh cãi của công chúng về biến đổi khí hậu bị tác động mạnh mẽ bởi hành vi phủ nhận và thông tin sai lệch có nguồn gốc ở Hoa Kỳ và từ đó lan ra các nước khác, đặc biệt là Canada và Australia. Các blog mạng càng xúi bẩy thêm những sự hiểu lầm về biến đổi khí hậu và hậu quả của nó.
Ấm lên toàn cầu
Hoạt động chống biến đổi khí hậu đã trở nên phổ biến trong thập niên 2010 dưới hình thức như biểu tình công cộng, bài trừ nhiên liệu hóa thạch và kiện tụng. Các cuộc biểu tình nổi bật gần đây gồm bãi khóa vì khí hậu và bất tuân dân sự. Trong phong trào bãi khóa, thanh niên toàn thế giới bỏ học để phản đối và được truyền cảm hứng bởi Greta Thunberg. Các chiến dịch bất tuân dân sự đông đảo của những nhóm như Extinction Rebellion thường gây rối loạn trật tự. Hành vi kiện cáo đang ngày một nhiều nhắm đến yêu cầu chính phủ có giải pháp quyết liệt hơn hoặc thi hành những luật lệ hiện tại liên quan đến biến đổi khí hậu. Việc kiện tụng chống lại công ty nhiên liệu hóa thạch, cổ đông, nhà đầu tư từ các nhà hoạt động nhìn chung đòi bồi thường cho tổn thất và mất mát.
Hoạt động chống biến đổi khí hậu đã trở nên phổ biến trong thập niên 2010 dưới hình thức như biểu tình công cộng, bài trừ nhiên liệu hóa thạch và kiện tụng. Việc kiện tụng chống lại công ty nhiên liệu hóa thạch, cổ đông, nhà đầu tư từ các nhà hoạt động nhìn chung đòi bồi thường cho tổn thất và mất mát.
Ấm lên toàn cầu
Để lý giải tại sao nhiệt độ Trái Đất cao hơn dự liệu trong bối cảnh chỉ có bức xạ Mặt trời chiếu tới, Joseph Fourier đã đề xuất sự tồn tại của hiệu ứng nhà kính. Năng lượng Mặt trời đến bề mặt do khí quyển không cản trở bức xạ Mặt trời. Bề mặt ấm phát bức xạ hồng ngoại nhưng nó lại bị cản trở tương đối bởi khí quyển và năng lượng bị chậm giải phóng, khiến hành tinh ấm lên. Kể từ năm 1859, John Tyndall xác định rằng nitơ và oxy (99% không khí khô) không cản trở bức xạ hồng ngoại nhưng hơi nước và lượng nhỏ các khí (đáng kể nhất là methane và carbon dioxide) hấp thụ và khi ấm lên phát bức xạ hồng ngoại. Sự thay đổi nồng độ những khí này có thể gây "tất cả đột biến về khí hậu mà các nhà nghiên cứu địa chất phát hiện" bao gồm các kỷ băng hà.Svante Arrhenius để ý thấy hơi nước trong không khí không ngừng đa dạng nhưng carbon dioxide thì do những quá trình địa chất lâu dài quyết định. Tại điểm kết của một kỷ băng hà, sự ấm lên do CO2 gia tăng sẽ làm tăng lượng hơi nước, khuếch đại hiệu ứng trong một quá trình phản hồi. Vào năm 1896, ông công bố mô hình khí hậu đầu tiên về hiện tượng này, chỉ ra giảm một nửa CO2 có thể khiến nhiệt độ giảm một mức đủ để khởi động kỷ băng hà. Arrhenius tính toán rằng nếu gấp đôi lượng CO2 thì nhiệt độ sẽ tăng cỡ 5–6 °C (9,0–10,8 °F). Các nhà khoa học khác lúc đầu nghi ngờ và tin rằng hiệu ứng nhà kính bị bão hòa nên có thêm thêm CO2 thì cũng không khác gì. Họ nghĩ khí hậu sẽ tự điều chỉnh. Từ năm 1938 Guy Stewart Callendar công bố bằng chứng chỉ ra khí hậu đang ấm lên và hàm lượng CO2 đang tăng nhưng những tính toán của ông cũng vấp phải sự phản đối tương tự.Vào thập niên 1950, Gilbert Plass tạo ra một mô hình máy tính chi tiết tính đến các lớp khí quyển khác nhau và phổ hồng ngoại, phát hiện hàm lượng CO2 tăng sẽ khiến khí hậu ấm lên. Cùng thời gian, Hans Suess tìm thấy bằng chứng về việc CO2 đã đang tăng, Roger Revelle chỉ ra đại dương sẽ không hấp thu lượng tăng và họ cùng nhau hỗ trợ Charles Keeling bắt đầu ghi chép sự gia tăng tiếp diễn thể hiện qua Đường cong Keeling. Giới khoa học cảnh báo công chúng và nguy cơ được trình bày tại phiên chứng nhận trước Quốc hội của James Hansen năm 1988. Ủy ban Liên chính phủ về Biến đổi Khí hậu được thành lập năm 1988 để đưa ra lời khuyên chính thức cho các chính phủ trên thế giới và thúc đẩy nghiên cứu liên ngành.
Để lý giải tại sao nhiệt độ Trái Đất cao hơn dự liệu trong bối cảnh chỉ có bức xạ Mặt trời chiếu tới, Joseph Fourier đã đề xuất sự tồn tại của hiệu ứng nhà kính. Cùng thời gian, Hans Suess tìm thấy bằng chứng về việc CO2 đã đang tăng, Roger Revelle chỉ ra đại dương sẽ không hấp thu lượng tăng và họ cùng nhau hỗ trợ Charles Keeling bắt đầu ghi chép sự gia tăng tiếp diễn thể hiện qua Đường cong Keeling.
Vương quốc Macedonia
Trước thế kỷ thứ 4 TCN, Macedonia là một vương quốc nhỏ nằm bên ngoài khu vực bị thống trị bởi các thành bang hùng mạnh là Athens, Sparta, và Thebes, và lệ thuộc nhà Achaemenes trong một thời gian ngắn. Dưới triều đại của vị vua nhà Argead là Philip II (359–336 TCN), Macedonia chinh phục khu vực đại lục Hy Lạp và Thrace thông qua chinh phạt và ngoại giao. Cùng với một đạo quân được cách tân với nòng cốt là đội hình chiến đấu phalanx sử dụng những ngọn giáo sarissa, Philippos II đã đánh bại các thế lực bá quyền cũ là Athens và Thebes trong Trận Chaeronea vào năm 338 TCN. Người con trai của Philippos II là Alexandros Đại đế, lãnh đạo một liên minh các thành bang Hy Lạp, đã hoàn thành mục tiêu thống trị toàn bộ thế giới Hy Lạp của cha mình khi ông hủy diệt Thebes sau khi thành phố này nổi loạn. Trong chiến dịch chinh phạt tiếp theo sau đó của mình, Alexandros đã lật đổ đế quốc Achaemenes và chinh phục một vùng lãnh thổ kéo dài tới tận sông Ấn. Trong một thời gian ngắn, đế quốc của ông trở thành vương quốc hùng mạnh nhất thế giới – một vương quốc Hy Lạp hóa hoàn toàn, mở đầu sự chuyển tiếp tới một thời kỳ mới của nền Văn minh Hy Lạp cổ đại. Nghệ thuật Hy Lạp và văn học phát triển rực rỡ ở những vùng đất mới bị chinh phục và những tiến bộ trong triết học, kỹ thuật và khoa học được truyền bá tới khắp mọi nơi trong thế giới cổ đại. Đặc biệt quan trọng là những đóng góp của Aristotle, người thầy của Alexandros, các tác phẩm của ông đã trở thành nguyên tắc cơ bản của triết học Phương Tây.
Trước thế kỷ thứ 4 TCN, Macedonia là một vương quốc nhỏ nằm bên ngoài khu vực bị thống trị bởi các thành bang hùng mạnh là Athens, Sparta, và Thebes, và lệ thuộc nhà Achaemenes trong một thời gian ngắn. Đặc biệt quan trọng là những đóng góp của Aristotle, người thầy của Alexandros, các tác phẩm của ông đã trở thành nguyên tắc cơ bản của triết học Phương Tây.
Vương quốc Macedonia
Sau cái chết của Alexandros Đại đế vào năm 323 TCN, kế tiếp là các cuộc chiến tranh Diadochi, đế quốc tồn tại ngắn ngủi của Alexandros bắt đầu phân chia, Macedonia vẫn là một trung tâm chính trị và văn hóa của người Hy Lạp ở khu vực Địa Trung Hải cùng với triều đại Ptolemaios, đế quốc Seleukos và vương quốc Pergamon. Những thành phố quan trọng như Pella, Pydna và Amphipolis đã tham gia vào các cuộc chiến tranh giành quyền lực để kiếm soát vùng lãnh thổ này. Nhiều thành phố mới đã được thành lập chẳng hạn như Thessalonica bởi Kassandros (nó được đặt tên theo tên người vợ của ông ta là Thessalonike của Macedonia). Sự suy yếu của Macedonia bắt đầu với các cuộc chiến tranh Macedonia và sự trỗi dậy của Rome với tư cách là cường quốc số một ở Địa Trung Hải. Khi cuộc chiến tranh Macedonia lần thứ Ba kết thúc vào năm 168 TCN, chế độ quân chủ của Macedonia bị bãi bỏ và được thay thế bằng các chư hầu của La Mã. Một giai đoạn ngắn phục hồi của chế độ quân chủ trong cuộc chiến tranh Macedonia lần thứ Tư vào năm 150–148 TCN kết thúc bằng việc thiết lập tỉnh Macedonia của La Mã.
Sau cái chết của Alexandros Đại đế vào năm 323 TCN, kế tiếp là các cuộc chiến tranh Diadochi, đế quốc tồn tại ngắn ngủi của Alexandros bắt đầu phân chia, Macedonia vẫn là một trung tâm chính trị và văn hóa của người Hy Lạp ở khu vực Địa Trung Hải cùng với triều đại Ptolemaios, đế quốc Seleukos và vương quốc Pergamon. Nhiều thành phố mới đã được thành lập chẳng hạn như Thessalonica bởi Kassandros (nó được đặt tên theo tên người vợ của ông ta là Thessalonike của Macedonia).
Vương quốc Macedonia
Tên gọi Macedonia (tiếng Hy Lạp: Μακεδονία, Makedonía) xuất phát từ tên dân tộc Μακεδόνες (Makedónes), mà bản thân nó lại có nguồn gốc từ tính từ μακεδνός (makednós) trong tiếng Hy Lạp cổ đại, nghĩa là "cao", có thể dùng để mô tả dân tộc này. Nó có cùng gốc như tính từ μακρός (makros), nghĩa là "dài" hoặc "cao" trong tiếng Hy Lạp cổ đại. Tên gọi này ban đầu được cho là có nghĩa hoặc là "người vùng cao nguyên", "người cao", hoặc "người to cao". Nhà ngôn ngữ học Robert S. P. Beekes tuyên bố rằng cả hai thuật ngữ trên đều có gốc gác từ ngôn ngữ Tiền Hy Lạp nào đó và không giải thích được cả khi nhìn nhận hình thái học ngôn ngữ Ấn-Âu, song De Decker cho rằng lập luận này còn thiếu sót.
Tên gọi Macedonia (tiếng Hy Lạp: Μακεδονία, Makedonía) xuất phát từ tên dân tộc Μακεδόνες (Makedónes), mà bản thân nó lại có nguồn gốc từ tính từ μακεδνός (makednós) trong tiếng Hy Lạp cổ đại, nghĩa là "cao", có thể dùng để mô tả dân tộc này. Nó có cùng gốc như tính từ μακρός (makros), nghĩa là "dài" hoặc "cao" trong tiếng Hy Lạp cổ đại.
Vương quốc Macedonia
một trong những vị tổ tiên của họ cũng như là một hậu duệ trực tiếp từ Zeus, vị thần đứng đầu hệ thống các vị thần của người Hy Lạp. Các truyền thuyết mâu thuẫn thì lại nói rằng Perdiccas I của Macedonia hoặc Karanos của Macedonia mới là người đã sáng lập nên triều đại Argead, cùng với đó là 5 hoặc 8 vị vua trước thời Amyntas I. Các giám khảo Hellanodikai của Thế vận hội Olympic cổ đại đã cho phép Alexandros I của Macedonia tham gia vào các cuộc tranh tài sau khi ông ta khẳng định rằng nhà Argead có nguồn gốc từ Temenos. Ít điều được biết đến về vương quốc trước triều đại của cha Alexandros I là Amyntas I của Macedon trong thời kỳ Cổ xưa.Vương quốc Macedonia nằm dọc theo sông Haliacmon và Axius ở Hạ Macedonia, phía bắc của núi Olympus. Sử gia Robert Malcolm Errington cho rằng một trong số những vị vua nhà Argead đầu tiên đã chọn Aigai (ngày nay là Vergina) làm kinh đô của họ vào giữa thế kỷ thứ 7 TCN. Trước thế kỷ thứ 4 TCN, vương quốc này bao phủ một khu vực tương ứng với phần phía Tây và miền trung của vùng đất Macedonia thuộc Hy Lạp ngày nay. Nó dần dần mở rộng sang khu vực Thượng Macedonia vốn là nơi sinh sống của những bộ lạc Hy Lạp là người Lyncestae và Elimiotae và đến các vùng đất Emathia, Eordaia, Bottiaea, Mygdonia, Crestonia, và Almopia, vốn được định cư bởi nhiều bộ lạc khác nhau như là người Thrace và Phrygia. Những người hàng xóm không phải người Hy Lạp của người Macedonia bao gồm người Thrace sinh sống ở những vùng đất phía đông bắc, người Illyri ở phía Tây Bắc, và người Paeonia ở phía bắc, trong khi vùng đất Thessaly ở phía Nam và Ipiros ở phía Tây được định cư bởi người Hy Lạp với những nét tương đồng về văn hóa với của người Macedonia.
một trong những vị tổ tiên của họ cũng như là một hậu duệ trực tiếp từ Zeus, vị thần đứng đầu hệ thống các vị thần của người Hy Lạp. Nó dần dần mở rộng sang khu vực Thượng Macedonia vốn là nơi sinh sống của những bộ lạc Hy Lạp là người Lyncestae và Elimiotae và đến các vùng đất Emathia, Eordaia, Bottiaea, Mygdonia, Crestonia, và Almopia, vốn được định cư bởi nhiều bộ lạc khác nhau như là người Thrace và Phrygia.
Vương quốc Macedonia
Một năm sau khi Darius I của Ba Tư (522-486 TCN) phát động một cuộc xâm lược vào châu Âu nhằm chống lại người Scythia, người Paeonia, người Thrace, và một vài thành bang Hy Lạp ở khu vực Balkan, vị tướng người Ba Tư Megabazus đã sử dụng ngoại giao để thuyết phục Amyntas I quy phục như là một chư hầu của đế quốc Achaemenes, điều này mở ra thời kỳ Macedonia thuộc Achaemenes. Bá quyền của nhà Achaemenes đối với Macedonia đã bị gián đoạn trong một thời gian ngắn bởi cuộc nổi dậy của người Ionia (499–493 TCN), dẫu vậy vị tướng Ba Tư Mardonius đã đưa nó quay trở lại nằm dưới quyền bá chủ của nhà Achaemenes.Mặc dù Macedonia được hưởng một mức độ tự trị rộng rãi và chưa bao giờ bị biến trở thành một satrap (tức một tỉnh) của đế quốc Achaemenes, nó được cho là đã cung cấp binh lính cho quân đội nhà Achaemenes. Alexandros I đã hỗ trợ về mặt quân sự cho Xerxes I (486-465 TCN) trong cuộc xâm lược Hy Lạp lần thứ hai của người Ba Tư vào năm 480–479 TCN, và những binh sĩ người Macedonia đã chiến đấu ở bên phía người Ba Tư tại Trận Platea vào năm 479 TCN. Sau chiến thắng của người Hy Lạp tại Salamis vào năm 480 TCN, Alexandros I đã đóng vai trò là một đại sứ của nhà Achaemenes để đề xuất một hiệp ước hòa bình và liên minh với người Athens, tuy nhiên đề nghị này đã bị từ chối. Ngay sau đó, quân đội của nhà Achaemenes đã buộc phải triệt thoái khỏi khu vực lục địa châu Âu, điều này đánh dấu sự chấm dứt quyền kiểm soát của người Ba Tư đối với Macedonia.
Một năm sau khi Darius I của Ba Tư (522-486 TCN) phát động một cuộc xâm lược vào châu Âu nhằm chống lại người Scythia, người Paeonia, người Thrace, và một vài thành bang Hy Lạp ở khu vực Balkan, vị tướng người Ba Tư Megabazus đã sử dụng ngoại giao để thuyết phục Amyntas I quy phục như là một chư hầu của đế quốc Achaemenes, điều này mở ra thời kỳ Macedonia thuộc Achaemenes. Sau chiến thắng của người Hy Lạp tại Salamis vào năm 480 TCN, Alexandros I đã đóng vai trò là một đại sứ của nhà Achaemenes để đề xuất một hiệp ước hòa bình và liên minh với người Athens, tuy nhiên đề nghị này đã bị từ chối.
Vương quốc Macedonia
Mặc dù ban đầu là một chư hầu của Ba Tư, Alexandros I của Macedonia đã xây dựng những mối quan hệ ngoại giao thân thiện với các kẻ thù Hy Lạp trước đây của ông, người Athen và Sparta-những thế lực lãnh đạo liên minh các thành bang Hy Lạp. Người kế vị của ông ta, vua Perdiccas II (454-413 TCN) đã lãnh đạo người Macedonia tham gia vào bốn cuộc chiến tranh khác nhau chống lại Athens, thành bang lãnh đạo liên minh Delos, cùng lúc đó vị vua người Thrace Sitalces của vương quốc Odrysia lại tiến hành các cuộc xâm lược đe dọa sự toàn vẹn lãnh thổ của Macedonia ở phía đông bắc. Chính trị gia người Athen, Pericles đã thúc đẩy quá trình thuộc địa hóa khu vực sông Strymon gần vương quốc Macedonia, tại đây thành phố thuộc địa Amphipolis đã được thành lập vào năm 437/436 TCN để nó có thể cung cấp cho Athens một nguồn cung vàng và bạc ổn định cũng như là gỗ và dầu hắc ín để cung cấp cho hải quân Athen. Ban đầu Perdiccas II đã không có bất cứ hành động nào và có thể đã chào đón người Athen, vì người Thrace là kẻ thù chung của họ. Điều này đã thay đổi khi người Athen thiết lập liên minh với một người em trai và em họ của Perdiccas II, những người đã nổi loạn chống lại ông. Do đó, hai cuộc chiến tranh riêng biệt chống lại người Athens đã nổ ra trong khoảng thời gian từ năm 433 tới năm 431 TCN. Vị vua Macedonia trả đũa bằng cách kích động cuộc nổi loạn của các đồng minh Athens ở Chalcidice và tiếp sau đó giành được sự ủng hộ từ thành phố có vị trí chiến lược là Potidaea. Sau khi chiếm được các thành phố của người Macedonia là Therma và Beroea, Athens vây hãm Potidaea nhưng thất bại trong việc chiếm nó; Therma đã được trao trả lại cho Macedonia và phần lớn khu vực Chalcidice trở về tay của người Athens trong một hiệp ước hòa bình được trung gian bởi Sitalces, ông ta đã trợ giúp về quân sự cho người Athens đổi lại là có được các đồng minh Thrace mới.Perdiccas II đã đứng về phía Sparta trong cuộc chiến tranh Peloponnisos (431–404 TCN) giữa Athens và Sparta, vào năm 429 TCN Athens đã trả đũa ông bằng cách thuyết phục Sitalces xâm lược Macedonia, thế nhưng ông ta đã phải rút lui do không có đủ quân lương vào mùa đông. Vào năm 424 TCN, Arrhabaeos, một vị vua địa phương ở Lynkestis thuộc Thượng Macedonia, đã nổi loạn chống lại Perdiccas, và người Sparta đã đồng ý giúp đỡ ông để dập tắt cuộc nổi loạn. Tại Trận Lyncestis người Macedonia đã hoảng sợ và bỏ chạy trước khi cuộc chiến bắt đầu, khiến cho vị tướng Sparta là Brasidas nổi giận, binh sĩ của ông ta đã cướp bóc đoàn xe chở quân nhu vô chủ của người Macedonia. Perdiccas sau đó đổi phe và ủng hộ người Athens, và ông đã thành công trong việc dẹp tan cuộc nổi loạn của Arrhabaeos.
Mặc dù ban đầu là một chư hầu của Ba Tư, Alexandros I của Macedonia đã xây dựng những mối quan hệ ngoại giao thân thiện với các kẻ thù Hy Lạp trước đây của ông, người Athen và Sparta-những thế lực lãnh đạo liên minh các thành bang Hy Lạp. Người kế vị của ông ta, vua Perdiccas II (454-413 TCN) đã lãnh đạo người Macedonia tham gia vào bốn cuộc chiến tranh khác nhau chống lại Athens, thành bang lãnh đạo liên minh Delos, cùng lúc đó vị vua người Thrace Sitalces của vương quốc Odrysia lại tiến hành các cuộc xâm lược đe dọa sự toàn vẹn lãnh thổ của Macedonia ở phía đông bắc.
Vương quốc Macedonia
Brasidas qua đời vào năm 422 TCN, cùng năm này Athens và Sparta đã đạt được một hiệp ước, hiệp ước Hòa bình của Nicias, nó đã giải thoát Macedonia khỏi giao ước là một đồng minh của Athen. Sau trận Mantinea vào năm 418 TCN, những người Sparta chiến thắng đã thiết lập một liên minh với Argos, Perdiccas II đã nhiệt tình tham gia vào liên minh quân sự này vì mối đe dọa của các đồng minh Sparta còn lại ở Chalcidice. Khi Argos đột nhiên đổi phe với tư cách là một nền dân chủ thân Athen, hạm đội Athen đã có thể thiết lập một cuộc phong tỏa chống lại các hải cảng của Macedonia và xâm lược Chalcidice vào năm 417 TCN. Perdiccas II đã cầu hòa vào năm 414 TCN và thiết lập một liên minh với Athens, con trai và cũng là người kế vị của ông là Archelaos I (413-399 TCN) đã tiếp tục đường lối này. Athens sau đó đã hỗ trợ về mặt hải quân cho Archelaos I trong cuộc vây hãm Pydna của người Macedonia vào năm 410 TCN, đổi lại cho điều này đó là nguồn gỗ và các trang bị cho hải quân của Athens.Dẫu cho Archelaos I đã phải đối mặt với một số cuộc nổi loạn và phải chống lại một cuộc xâm lược của người Illyri dưới sự lãnh đạo bởi Sirras của Lynkestis, ông ta đã có thể mở rộng ảnh hưởng của Macedonia tới Thessaly bằng việc gửi hỗ trợ về mặt quân sự cho các đồng minh của mình. Mặc dù ông vẫn giữ lại Aigai như là một trung tâm về tôn giáo và nghi lễ, Archelaos I đã dời kinh đô của vương quốc về Pella, vào thời điểm đó nó được xác định vị trí bởi một hồ nước và một con sông nối với biển Aegea. Ông đã nâng cao chất lượng đồng tiền của Macedonia bằng cách đúc những đồng tiền xu với một hàm lượng bạc cao hơn cũng như ban hành loại tiền xu bằng đồng riêng biệt. Triều đình hoàng gia của ông đã thu hút sự có mặt của những học giả nổi tiếng như là nhà soạn kịch người Athen Euripides. Khi Archelaos I bị ám sát, vương quốc của ông rơi vào sự hỗn loạn kéo dài từ năm 399 tới năm 393 TCN và gồm triều đại của bốn vị vua khác nhau: Orestes, con trai của Archelaos I; Aeropos II,người chú, nhiếp chính, và cũng là người đã sát hại Orestes; Pausanias, con trai của Aeropos II; và Amyntas II, ông ta đã cưới người con gái út của Archelaos I. Chúng ta biết rất ít về thời kỳ hỗn loạn này; nó kết thúc khi Amyntas III (393-370 TCN), con trai của Arrhidaeos và cháu nội của Amyntas I, giết chết Pausanias và giành lấy ngai vàng của Macedonia.
Brasidas qua đời vào năm 422 TCN, cùng năm này Athens và Sparta đã đạt được một hiệp ước, hiệp ước Hòa bình của Nicias, nó đã giải thoát Macedonia khỏi giao ước là một đồng minh của Athen. Triều đình hoàng gia của ông đã thu hút sự có mặt của những học giả nổi tiếng như là nhà soạn kịch người Athen Euripides.
Vương quốc Macedonia
Amyntas III đã buộc phải bỏ chạy khỏi vương quốc của mình vào năm 393 hoặc 383 TCN (dựa theo các nguồn khác nhau) do một cuộc xâm lược ồ ạt của bộ tộc Dardani người Illyria dưới sự lãnh đạo của Bardylis. Một người tiếm vị tên là Argaeos đã cai trị khi ông vắng mặt, nhưng cuối cùng Amyntas III đã quay trở về vương quốc của mình với sự trợ giúp từ các đồng minh Thessaly Amyntas III cũng suýt chút nữa bị lật đổ bởi quân đội của thành phố Olynthos ở Chalcidice nhưng với sự trợ giúp từ Teleutias, em trai của vị vua Sparta Agesilaos II, người Macedonia đã buộc Olynthos phải đầu hàng và giải tán liên minh Chalcidice của họ vào năm 379 TCN.Alexandros II (370-368 TCN), con trai của Eurydice I và Amyntas III, đã kế vị cha của mình và ngay lập tức xâm lược Thessaly để gây chiến chống lại tagos (lãnh đạo quân sự tối cao của người Thessaly) Alexandros của Pherae, ông đã chiếm được thành phố Larissa. Người Thessaly không muốn cả Alexandros II lẫn Alexandros của Pherae cai trị họ và đã kêu gọi sự trợ giúp từ Pelopidas của Thebes; ông ta đã thành công trong việc chiếm lại Larissa và tiếp nhận các con tin thuộc tầng lớp quý tộc bao gồm người em trai của Alexandros II và cũng là vị vua tương lai Philippos II (359–336 TCN) theo hiệp định hòa bình được thu xếp với Macedonia. Alexandros sau đó bị người em rể Ptolemaios của Aloros ám sát, ông ta đã giữ vai trò như là một nhiếp chính độc đoán cho Perdiccas III (368-359 TCN), em trai của Alexandros II, tuy nhiên Perdicass III cuối cùng đã xử tử Ptolemaios khi đạt đến tuổi trưởng thành vào năm 365 TCN. Khoảng thời gian còn lại của triều đại Perdiccas III cho thấy một sự ổn định về chính trị và sự hồi phục về kinh tế. Tuy nhiên, một cuộc xâm lược của người Athen dưới sự lãnh đạo của Timotheos, con trai của Conon đã thành công trong việc chiếm được Methone và Pydna, một cuộc xâm lược khác của người Illyri dưới sự lãnh đạo của Bardylis đã khiến cho Perdiccas III cùng với 4,000 binh sĩ Macedonia tử trận.
Amyntas III đã buộc phải bỏ chạy khỏi vương quốc của mình vào năm 393 hoặc 383 TCN (dựa theo các nguồn khác nhau) do một cuộc xâm lược ồ ạt của bộ tộc Dardani người Illyria dưới sự lãnh đạo của Bardylis. Khoảng thời gian còn lại của triều đại Perdiccas III cho thấy một sự ổn định về chính trị và sự hồi phục về kinh tế.
Vương quốc Macedonia
Philippos II lên ngôi vua khi ông mới 24 tuổi vào năm 359 TCN. Bằng tài ngoại giao khéo léo, ông đã có thể thuyết phục người Thraci dưới sự cai trị của Berisades ngừng ủng hộ cho Pausanias, một người tranh giành ngai vàng, và đối với người Athen là ngừng sự ủng hộ cho một người tiếm vị khác. Ông đã thực hiện được những việc này bằng cách hối lộ người Thraci và đồng minh người Paeonia của họ và thiết lập một hiệp ước với Athens mà trong đó từ bỏ yêu sách của ông đối với Amphipolis. Ông cũng đã có thể giảng hòa với người Illyri mà đã đe dọa biên giới của ông.Philippos II đã dành hoàn toàn những năm đầu tiên của mình để thay đổi quân đội Macedonia. Một sự cải cách về tổ chức, trang bị, huấn luyện của nó, bao gồm cả việc giới thiệu đội hình phalanx Macedonia được trang bị với những cây giáo dài (tức là sarissa), nó đã chứng tỏ sự thành công ngay lập tức khi được thử nghiệm chống lại các kẻ thù người Illyri và Paeonia của ông. Những ghi chép lẫn lộn trong các nguồn cổ đại đã dẫn tới việc các học giả ngày nay tranh cãi về việc những vị tiên vương của Philippos II đã đóng góp đáng kể như thế nào cho những cải cách này và sự phát triển của những ý tưởng của ông đã chịu sự ảnh hưởng từ những năm tháng tuổi trẻ khi đang bị giam cầm ở Thebes như là một con tin chính trị trong thời kỳ quyền bá chủ của Thebes, đặc biệt là sau cuộc gặp với vị tướng Epaminondas.Người Macedonia theo chế độ một vợ một chồng theo truyền thống giống như những người Hy Lạp khác, thế nhưng Philippos II lại thực hiện chế độ đa thê và cưới 7 người vợ với chỉ duy nhất một người không có liên quan tới sự trung thành của các quý tộc thần dân của ông hoặc là các đồng minh mới. Cuộc hôn nhân đầu tiên của ông là với Phila của Elimeia thuộc tầng lớp quý tộc ở Thượng Macedonia cũng như là công chúa người Illyria Audata để đảm bảo một liên minh hôn nhân. Để thiết lập liên minh với Larissa ở Thessaly, ông đã kết hôn với một nữ quý tộc người Thessaly tên là Philinna vào năm 358 TCN, bà đã sinh cho ông một người con trai là Philippos III Arrhidaeos (323-317 TCN). Vào năm 357 TCN, ông đã kết hôn với Olympias để đảm bảo một liên minh với Arybbas, Vua của Ipiros và người Molossoi. Cuộc hôn nhân này sẽ sinh ra một người con trai và sẽ cai trị với tên gọi là Alexandros III (được biết đến nhiều hơn với tên gọi là Alexandros Đại đế), ông ta tuyên bố là hậu duệ của Achilles huyền thoại thông qua huyết thống triều đại của mình từ Ipiros. Chúng ta không rõ liệu rằng các vị vua của nhà Achaemenes Ba Tư có ảnh hưởng đến việc thực hiện chế độ đa thê của Philippos II hay không, mặc dù vậy vị tiên vương Amyntas III của ông đã có ba người con trai với một người vợ hai có thể tên là Gygaea: Archelauos, Arrhidaeos, và Menelaos. Philippos II đã xử tử Archelaos vào năm 359 TCN, trong khi hai người em cùng cha khác mẹ với Philippos II bỏ chạy tới Olynthos, điều này sẽ đóng vai trò như là một casus belli cho cuộc chiến tranh Olynthos (349–348 TCN) chống lại liên minh Chalcidice của ông ta.Trong khi Athens đang bận rộn với cuộc Chiến tranh Đồng Minh (357–355 TCN), Philippos II đã tái chiếm lại Amphipolis từ tay họ vào năm 357 TCN và trong năm tiếp theo là Pydna và Potidaea, thành phố này đã được ông trao lại cho liên minh Chalcidice như đã hứa trong một hiệp ước. Vào năm 356 TCN, ông đã chiếm Crenides, tái thành lập nó lại với tên gọi là Philippi, trong khi vị tướng Parmenion của ông đánh bại vị vua Illyria tên là Grabos của người Grabaei. Trong cuộc vây hãm Methone vào năm 355–354 TCN, Philippos II mất mắt phải của mình từ một vết thương do tên bắn, nhưng ông đã thành công trong việc chiếm thành phố và đối xử với cư dân của nó một cách thân mật, không giống với người Potidaea đã bị bắt làm nô lệ.Philippos II và Macedonia sau đó đã tham gia vào Cuộc chiến tranh Thần Thánh (356–346 TCN). Nó bắt đầu khi Phocis chiếm giữ và cướp phá ngôi đền thờ Apollo tại Delphi thay vì nộp các khoản tiền phạt phải trả, điều này khiến cho Đại nghị liên minh tuyên chiến với Phocis và một cuộc nội chiến đã nổ ra giữa các thành viên của liên minh Thessaly hoặc là đứng về phía Phocis hoặc Thebes. Chiến dịch ban đầu của Philippos II là chống lại Pherae ở Thessaly vào năm 353 TCN theo lời yêu cầu của Larissa đã kết thúc bằng hai thất bại tai hại trước vị tướng người Phocis là Onomarchos. Philippos II sau đó đánh bại Onomarchos vào năm 352 TCN tại Trận cánh đồng Crocus, điều này đã dẫn đến việc Philippos II được bầu làm nhà lãnh đạo (archon) của liên minh Thessaly và cho phép ông có được một ghế trong hội đồng Đại nghị liên minh cùng với đó là một hôn nhân liên minh với Pherae thông qua việc cưới Nicesipolis, cháu gái vị bạo chúa Jason của Pherae.Philippos II đã sớm dính dáng tới đế quốc Achaemenes, đặc biệt là bằng việc trợ giúp các phó vương và lính đánh thuê nổi dậy chống lại chính quyền trung ương của vị vua nhà Achaemenes. Vị phó vương của Hellespontine Phrygia là Artabazos II, người tham gia vào cuộc nổi loạn chống lại Artaxerxes III, đã có thể ẩn náu như là một người bị lưu đày tại triều đình Macedonia từ năm 352 tới năm 342 TCN. Đi cùng với ông ta là gia đình và vị tướng đánh thuê Memnon của Rhodes. Barsine, con gái của Artabazos, và là người vợ tương lai của Alexandros Đại đế đã lớn lên tại triều đình Macedonia.Sau chiến dịch chống lại vị vua người Thrace Cersobleptes, vào năm 349 TCN, Philippos II đã bắt đầu cuộc chiến tranh chống lại liên minh Chalcidice, nó đã được tái lập vào năm 375 TCN sau một thời gian bị giải tán. Bất chấp sự can thiệp của người Athen dưới quyền Charidemos, Olynthos đã bị Philippos II chiếm vào năm 348 TCN, và cư dân của nó đã bị bán làm nô lệ, bao gồm cả một số công dân Athen. Người Athen, đặc biệt là bằng một loạt bài diễn văn của Demosthenes mà được biết đến với tên gọi là Olynthiacs, đã không thành công trong việc thuyết phục các đồng minh của họ phản công và vào năm 346 TCN, họ đã ký kết một hiệp ước hòa bình với Macedonia được biết đến với tên gọi Hòa ước của Philocrates. Hiệp ước này quy định rằng Athens sẽ từ bỏ yêu sách đối với các vùng lãnh thổ ven biển của Macedonia, khu vực Chalcidice, và Amphipolis đổi lại bằng việc giải phóng những người Athen bị bắt làm nô lệ cũng như đảm bảo rằng Philippos II sẽ không tấn công các khu định cư của người Athen ở khu vực Thracian Chersonese. Trong khi đó, Phocis và Thermopylae đã bị quân đội Macedonia chiếm đóng, và những người đã cướp bóc ngôi đền Delphi bị xử tử, Philippos II đã được trao tặng hai ghế của người Phocis trong hội đồng Đại Nghị liên minh và vị trí người chủ trì toàn bộ thế vận hội Pythia. Athens ban đầu phản đối quyền thành viên của ông trong hội đồng và từ chối tham dự thế vận hội để phản đối, nhưng cuối cùng họ đã chấp nhận những điều này, có lẽ sau sự thuyết phục đáng kể của Demosthenes trong bài diễn thuyết Về Hòa bình của ông ta.
Philippos II lên ngôi vua khi ông mới 24 tuổi vào năm 359 TCN. Chiến dịch ban đầu của Philippos II là chống lại Pherae ở Thessaly vào năm 353 TCN theo lời yêu cầu của Larissa đã kết thúc bằng hai thất bại tai hại trước vị tướng người Phocis là Onomarchos.
Vương quốc Macedonia
Trong vài năm tiếp theo, Philippos II đã bận rộn với việc tổ chức lại hệ thống chính quyền ở Thessaly, ông còn tiến hành chiến dịch chống lại vị vua người Illyri là Pleuratos I và lật đổ Arybbas ở Ipiros để thay thế bằng người em vợ là Alexandros I (thông qua cuộc hôn nhân của Philippos II với Olympias), ông cũng đã đánh bại Cersebleptes ở Thrace. Điều này cho phép ông mở rộng quyền kiểm soát của người Macedonia đối với Hellespont nhằm phục vụ cho dự định sẽ mở một cuộc xâm lược vào khu vực Anatolia của nhà Achaemenes sau này. Vào năm 342 TCN, Philippos II đã chinh phục một thành phố Thrace ở khu vực ngày nay là Bulgaria và đổi tên nó là Philippopolis (ngày nay là Plovdiv). Chiến tranh đã nổ ra với Athens vào năm 340 TCN trong lúc Philippos II đang tham gia vào hai cuộc vây hãm không thành công cuối cùng đối với Perinthus và Byzantion, tiếp theo sau đó là một chiến dịch thành công chống lại người Scythia dọc theo sông Danube và sự tham gia của Macedonia vào cuộc Chiến tranh Thần Thánh lần thứ Tư chống lại Amphissa vào năm 339 TCN. Thebes đã đánh đuổi một đơn vị đồn trú người Macedonia khỏi Nicaea (gần Thermopylae), điều này dã dẫn đến việc Thebes liên kết với Athens, Megara, Corinth, Achaea, và Euboea trong một cuộc chạm trán cuối cùng chống lại Macedonia tại Trận Chaeronea vào năm 338 TCN. Sau chiến thắng của người Macedonia tại đó, Philippos II đã thiết lập một chế độ đầu xỏ ở Thebes, nhưng vẫn khoan dung đối với Athens, với hy vọng sử dụng hải quân của họ trong một kế hoạch xâm lược nhằm vào đế quốc Achaemenes. Sau đó ông chịu trách nhiệm chính cho việc thành lập liên minh Corinth mà bao gồm các thành bang Hy Lạp chủ chốt ngoại trừ Sparta. Bất chấp việc vương quốc Macedonia không có mặt chính thức trong liên minh này, vào năm 337 TCN, Philippos II đã được bầu làm nhà lãnh đạo (hegemon) hội đồng của nó (synedrion) và tổng tư lệnh (strategos autokrator) của chiến dịch sắp tới nhằm xâm lược đế quốc Achaemenes. Kế hoạch của Philippos là để trừng phạt người Ba Tư vì sự đau khổ gây ra cho người Hy Lạp và để giải phóng các thành bang Hy Lạp ở Tiểu Á cũng có thể là nỗi sợ hãi của toàn Hy Lạp về một cuộc xâm lược Hy Lạp khác của người Ba Tư, đã góp phần vào quyết định xâm lược đế quốc Achaemenes của ông. Người Ba Tư đã trợ giúp cho Perinthus và Byzantion vào năm 341–340 TCN, chiến lược của Macedonia nêu rõ là cần chiếm được Thrace và khu vực biển Aegea chống lại sự xâm lấn ngày càng tăng của nhà Achaemenes, khi mà vị vua Ba Tư Artaxerxes III tiến hành củng cố thêm sự kiểm soát của mình đối với các tổng trấn ở miền Tây Anatolia. Khu vực này, mang tới sự giàu có và nhiều nguồn tài nguyên giá trị hơn khu vực Balkans, nó cũng được vị vua của Macedonia khao khát vì tiềm năng kinh tế vô hạn của mình.Khi Philippos II cưới Cleopatra Eurydice, cháu gái của vị tướng Attalos, và nói về việc sinh ra những người kế vị tiềm năng mới tại bữa tiệc cưới, điều này đã khiến cho người con trai của Philippos II là Alexandros, một người từng tham gia trận Chaeronea, và mẹ của ông ta là Olympias nổi giận. Họ đã cùng bỏ về Ipiros trước khi Alexandros được triệu về Pella bởi Philippos II. Khi Philippos II sắp xếp một cuộc hôn nhân giữa người con trai của ông là Arrhidaeos với Ada của Caria, con gái của Pixodaros, vị tổng trấn Ba Tư của Caria, Alexandros đã can thiệp và thay vào đó ông đề nghị cưới Ada cho mình. Philippos II sau đó đã hủy bỏ hoàn toàn đám cưới và lưu đày các cố vấn của Alexandros là Ptolemaios, Nearchos, và Harpalos. Để hòa giải với Olympias, Philippos II đã gả con gái của họ là Cleopatra cho người em trai của Olympias (và là chú của Cleopatra) là Alexandros I của Ipiros, nhưng Philippos II đã bị người cận vệ của mình là Pausanias của Orestis ám sát ngay trong bữa tiệc đám cưới của họ và Alexandros đã kế vị ông vào năm 336 TCN.
Trong vài năm tiếp theo, Philippos II đã bận rộn với việc tổ chức lại hệ thống chính quyền ở Thessaly, ông còn tiến hành chiến dịch chống lại vị vua người Illyri là Pleuratos I và lật đổ Arybbas ở Ipiros để thay thế bằng người em vợ là Alexandros I (thông qua cuộc hôn nhân của Philippos II với Olympias), ông cũng đã đánh bại Cersebleptes ở Thrace. Chiến tranh đã nổ ra với Athens vào năm 340 TCN trong lúc Philippos II đang tham gia vào hai cuộc vây hãm không thành công cuối cùng đối với Perinthus và Byzantion, tiếp theo sau đó là một chiến dịch thành công chống lại người Scythia dọc theo sông Danube và sự tham gia của Macedonia vào cuộc Chiến tranh Thần Thánh lần thứ Tư chống lại Amphissa vào năm 339 TCN.
Vương quốc Macedonia
Các học giả ngày nay đã tranh luận về vai trò có thể của Alexandros III "Đại đế" và người mẹ của ông là Olympias trong vụ ám sát Philippos II, lưu ý từ lựa chọn của Philippos trong việc loại bỏ Alexandros khỏi kế hoạch xâm chiếm châu Á của ông ta, thay vào đó lựa chọn ông giữ vai trò là nhiếp chính của Hy Lạp và phó hegemon của Liên minh Corinth, và tiềm năng của việc sinh ra một người kế vị nam khác giữa Philippos II và người vợ mới của ông ta, Cleopatra Eurydice. Alexandros III (336-323 TCN) đã lập tức được tuyên bố làm vua bởi một hội đồng của quân đội và các quý tộc chủ chốt, đứng đầu trong số họ là Antipatros và Parmenion. Vào thời điểm kết thúc triều đại và sự nghiệp quân sự của mình vào năm 323 TCN, Alexandros sẽ cai trị một đế quốc bao gồm khu vực lục địa Hy Lạp, Tiểu Á, Cận Đông, Ai Cập cổ đại, Mesopotamia, Persia, và phần lớn khu vực Trung và Nam Á (tức khu vực Pakistan ngày nay). Một trong những việc làm đầu tiên của ông đó là chôn cất cha của mình tại Aigai. Các thành viên của liên minh Corinth đã nổi dậy khi nghe tin về cái chết của Philippos II, nhưng sớm bị dẹp yên bằng vũ lực bên cạnh việc ngoại giao thuyết phục, đã bầu chọn Alexandros là hegemon của liên minh để thực hiện kế hoạch xâm lược Ba Tư.Vào năm 335 TCN, Alexandros đã tiến đánh bộ lạc người Thrace Triballi ở khu vực dãy núi Haemus và dọc theo sông Danube, ông đã buộc họ phải đầu hàng trên đảo Peuce. Ngay sau đó, vị vua người Illyria là Cleitos của người Dardani đã đe dọa tấn công Macedonia, nhưng Alexandros đã nắm thế chủ động và vây hãm người Dardani tại Pelion (ngày nay thuộc Albania). Khi Thebes một lần nữa nổi loạn tách khỏi liên minh Corinth và đang vây hãm đội quân đồn trú Macedonia ở Cadmea, Alexandros đã rời mặt trận Illyria và hành quân tiến về Thebes, tại đây ông đã vây hãm thành phố này. Sau khi phá vỡ các bức tường thành, quân đội của Alexandros đã tàn sát 6,000 người Thebes, bắt 30,000 cư dân làm tù binh, và thiêu trụi hoàn toàn thành phố như là một lời cảnh cáo mà khiến cho toàn bộ các thành bang Hy Lạp khác ngoại trừ Sparta không dám thách thức Alexandros thêm một lần nào nữa.Trong suốt sự nghiệp quân sự của mình, Alexandros đã giành chiến thắng tất cả các trận đánh do đích thân ông chỉ huy. Chiến thắng đầu tiên của ông trước người Ba Tư ở Tiểu Á là Trận Granicus vào năm 334 TCN, ông đã sử dụng một đội kỵ binh nhỏ như là một mồi nhử để cho phép lực lượng bộ binh của mình vượt qua sông tiếp nối bằng một cuộc đột kích của kỵ binh từ lực lượng chiến hữu kỵ binh của ông. Alexandros đã chỉ huy cuộc đột kích bằng kỵ binh tại trận Issus vào năm 333 TCN, buộc vị vua Ba Tư Darius III và đạo quân của ông ta phải tháo chạy. Bất chấp việc có quân lực áp đảo, Darius III lại một lần nữa bỏ chạy trong trận Gaugamela vào năm 331 TCN. Vị vua Ba Tư sau đó bị bắt và hành quyết bởi chính vị satrap của Bactria và cũng là người họ hàng của ông ta, Bessus, vào năm 330 TCN. Vị vua của Macedonia sau đó đã săn đuổi và hành quyết Bessus ở nơi mà ngày nay là Afghanistan, chiếm luôn vùng đất Sogdia trong quá trình này. Tại Trận Hydaspes vào năm 326 TCN, (ngày nay ở Punjab), khi những con voi chiến của vua Porus xứ Pauravas đe dọa các binh sĩ của Alexandros, ông đã ra lệnh cho họ tách rời hàng ngũ và vây quanh những con voi rồi tấn công những viên quản tượng của chúng bằng những ngọn giáo sarissa. Khi những binh sĩ người Macedonia đe dọa binh biến vào năm 324 TCN tại Opis, Babylonia (gần Baghdad, Iraq), Alexandros đã phong các tước hiệu quân đội của người Macedonia cùng với những trọng trách quan trọng hơn cho các tướng lĩnh Ba Tư và đơn vị của họ để thay thế, điều này buộc binh sĩ của ông phải thỉnh cầu sự tha thứ tại một buổi tiệc hòa giải được tổ chức giữa người Ba Tư và Macedonia.
Các học giả ngày nay đã tranh luận về vai trò có thể của Alexandros III "Đại đế" và người mẹ của ông là Olympias trong vụ ám sát Philippos II, lưu ý từ lựa chọn của Philippos trong việc loại bỏ Alexandros khỏi kế hoạch xâm chiếm châu Á của ông ta, thay vào đó lựa chọn ông giữ vai trò là nhiếp chính của Hy Lạp và phó hegemon của Liên minh Corinth, và tiềm năng của việc sinh ra một người kế vị nam khác giữa Philippos II và người vợ mới của ông ta, Cleopatra Eurydice. Alexandros đã chỉ huy cuộc đột kích bằng kỵ binh tại trận Issus vào năm 333 TCN, buộc vị vua Ba Tư Darius III và đạo quân của ông ta phải tháo chạy.
Vương quốc Macedonia
Alexandros có lẽ đã hủy hoại sự cai trị của mình bằng việc thể hiện các dấu hiệu của chứng hoang tưởng tự đại. Trong khi đang sử dụng các hành động tuyên truyền hiệu quả chẳng hạn như là việc chặt đứt nút thắt Gordium, ông cũng cố gắng thể hiện bản thân mình như là một vị thần sống và một người con trai của Zeus sau chuyến thăm của ông tới nhà tiên tri tại Siwah trong sa mạc Libya (ở Ai Cập ngày nay) vào năm 331 TCN. Nỗ lực của ông nhằm bắt mọi người phải phủ phục trước ông ở Bactra vào năm 327 TCN bắt chước theo nghi lễ proskynesis của các vị vua Ba Tư đã không được các thần dân Macedonia và Hy Lạp của ông chấp nhận vì sự báng bổ tôn giáo của nó sau khi vị sử quan của ông Callisthenes từ chối thực hiện lễ nghi này. Khi Alexandros ra lệnh sát hại Parmenion tại Ecbatana (gần Hamadan ngày nay, Iran) vào năm 330 TCN, Errington đã cho rằng đây là "dấu hiệu của hố sâu ngăn cách ngày càng lớn giữa các lợi ích của nhà vua với của vương quốc và người dân của ông". Sự kiện ông sát hại Cleitos Đen vào năm 328 TCN được miêu tả là "đầy căm thù và hấp tấp" bởi Dawn L. Gilley và Ian Worthington. Tiếp tục chính sách đa thê của cha mình, Alexandros đã khuyến khích mọi người kết hôn với những người phụ nữ châu Á, ví dụ như ông đã cưới Roxana, một công chúa người Sogdia của Bactria. Tiếp sau đó ông đã cưới Stateira II, người con gái đầu của Darius III, và Parysatis II, người con gái út của Artaxerxes III, tại lễ cưới Susa vào năm 324 TCN.Trong khi đó, ở Hy Lạp, vị vua Sparta Agis III đã cố gắng lãnh đạo một cuộc nổi dậy của người Hy Lạp chống lại Macedonia. Ông ta đã bị đánh bại vào năm 331 TCN tại Trận Megalopolis bởi Antipatros, người đang giữ vai trò là nhiếp chính của Macedonia và phó hegemon của liên minh Corinth thay cho Alexandros. Trước khi Antipatros bắt đầu chiến dịch của mình ở Peloponnese, ông ta đã thuyết phục viên tổng đốc của Thrace tên là Memnon không nổi loạn bằng biện pháp ngoại giao. Antipatros đã trì hoãn việc trừng phạt Sparta và thay vào đó là để việc này cho Liên minh Corinth đứng đầu bởi Alexandros, ông cuối cùng đã tha thứ cho người Sparta với điều kiện là họ giao nộp 50 quý tộc làm con tin. Quyền lãnh đạo của Antipatros có phần không được lòng người dân ở Hy Lạp do ông ta ủng hộ (có lẽ theo lệnh của Alexandros) những kẻ bất mãn bị lưu đày và đồn trú các thành phố với các đội quân Macedonia, tuy vậy vào năm 330 TCN, Alexandros đã tuyên bố rằng những chính thể chuyên chế được thiết lập ở Hy Lạp sẽ bị bãi bỏ và quyền tự do của người Hy Lạp sẽ được khôi phục.
Alexandros có lẽ đã hủy hoại sự cai trị của mình bằng việc thể hiện các dấu hiệu của chứng hoang tưởng tự đại. Sự kiện ông sát hại Cleitos Đen vào năm 328 TCN được miêu tả là "đầy căm thù và hấp tấp" bởi Dawn L. Gilley và Ian Worthington.
Vương quốc Macedonia
Khi Alexandros Đại đế qua đời ở Babylon vào năm 323 TCN, người mẹ của ông Olympias đã ngay lập tức buộc tội Antipatros và phe của ông ta đã đầu độc ông, mặc dù vậy không có bằng chứng để chứng minh điều này. Với việc không có ai được phong làm hoàng thái tử, các chỉ huy quân đội Macedonia đã chia thành hai phe, một bên tuyên bố rằng người anh trai cùng cha khác mẹ với Alexandros là Philippos III Arrhidaeos (323-317 TCN) là vua và một bên là đứng về phía người con trai sơ sinh của Alexandros và Roxana, Alexandros IV (323-309 TCN). Ngoại trừ người Euboea và Boeotia, người Hy Lạp đã ngay lập tức nổi dậy tiến hành một cuộc khởi nghĩa chống lại Antipatros mà được biết đến với tên gọi cuộc chiến tranh Lamia (323–322 TCN). Khi Antipatros bị đánh bại trong Trận Thermopylae vào năm 323 TCN, ông đã bỏ chạy tới Lamia và bị vị tướng người Athen là Leosthenes vây hãm tại nơi này. Một đạo quân Macedonia dưới sự chỉ huy của Leonnatos sau đó đã giải vây cho Antipatros. Antipatros đã dẹp được cuộc nổi loạn nhưng cái chết của ông vào năm 319 TCN đã để lại một khoảng trống quyền lực và do đó hai vị vua Macedonia được dựng lên đã trở thành những con tốt thí trong một cuộc chiến tranh giành quyền lực giữa các diadochi, những vị tướng lĩnh cũ trong quân đội của Alexandros.Một hội đồng của quân đội đã được triệu tập ở Babylon ngay sau cái chết của Alexandros, họ đã tuyên bố Philippos III là vua và viên chiliarch Perdiccas là nhiếp chính của ông. Antipatros, Antigonos Monophthalmos, Crateros, và Ptolemaios đã thiết lập một liên minh để chống lại Perdiccas trong một cuộc nội chiến được khởi đầu bằng việc Ptolemaios chiếm đoạt cỗ xe tang của Alexandros Đại đế. Perdiccas đã bị chính các sĩ quan của mình ám sát vào năm 321 TCN trong một chiến dịch thất bại ở Ai Cập chống lại Ptolemaios, cuộc hành quân dọc theo sông Nile của ông đã khiến cho 2,000 binh sĩ của ông bị chết đuối. Mặc dù Eumenes của Cardia đã thành công trong việc giết chết Crateros trên chiến trường, điều này ít có ảnh hưởng đến cuộc phân chia Triparadisus ở Syria vào năm 321 TCN, tại đây phe liên minh chiến thắng đã giải quyết vấn đề về một chế độ nhiếp chính mới và những quyền lợi về lãnh thổ. Antipatros đã được bổ nhiệm làm nhiếp chính cho cả hai vị vua. Trước khi Antipatros qua đời vào năm 319 TCN, ông ta đã bổ nhiệm người bề tôi trung thành với nhà Argead là Polyperchon làm người kế tục mình, bỏ qua người con trai của ông ta là Kassandros và bỏ qua quyền được chọn một nhiếp chính mới của nhà vua (bởi vì Philippos III được cho là bất ổn về mặt tâm thần)Thiết lập một liên minh với Ptolemaios, Antigonos, và Lysimachos, Kassandros đã lệnh cho tướng Nicanor chiếm pháo đài Munichia ở thị trấn cảng Piraeus của Athens bất chấp sắc lệnh của Polyperchon rằng các thành bang Hy Lạp sẽ không còn các đơn vị đồn trú Macedonia, điều này đã khơi mào cho cuộc chiến tranh Diadochi lần thứ Hai (319–315 TCN). Sau một chuỗi các thất bại quân sự của Polyperchon, vào năm 317 TCN, Philippos III, thông qua người vợ mưu mô của mình là Eurydice II của Macedonia, đã chính thức phong Kassandros làm nhiếp chính thay cho ông ta. Sau đó, Polyperchon đã tìm kiếm sự giúp đỡ từ Olympias ở Ipiros. Một liên quân gồm người Ipirot, Aetolia, và quân của Polyperchon đã xâm lược Macedonia và buộc quân đội của Philippos III và Eurydice phải đầu hàng, điều này đã cho phép Olympias xử tử vị vua này và buộc hoàng hậu của ông phải tự tử. Olympias sau đó đã xử tử Nicanor cùng với nhiều quý tộc Macedonia khác, nhưng vào mùa xuân năm 316 TCN, Kassandros đã đánh bại lực lượng của bà, bắt giữ bà, và đưa bà ra xét xử với tội giết người rồi sau đó kết án tử hình bà.Kassandros đã cưới người con gái của Philippos II là Thessalonike và đã mở rộng sự kiểm soát của Macedonia cho tới tận Epidamnos ở Illyria. Tới năm 313 TCN, vị vua người Illyria là Glaukias của Taulantii đã tái chiếm lại thành phố này. Vào năm 316 TCN, Antigonos đã đoạt được những vùng lãnh thổ của Eumenes và thành công trong việc đánh đuổi Seleukos I Nikator khỏi Babylon, điều này đã khiến cho Kassandros, Ptolemaios, và Lysimachos gửi một tối hậu thư chung cho Antigonos vào năm 315 TCN, yêu cầu ông ta phải giao nộp những vùng lãnh thổ khác ở châu Á. Antigonos đã ngay lập tức liên minh với Polyperchon, lúc này đang đóng quân ở Corinth, và gửi một tối hậu thư của riêng ông cho Kassandros, buộc tội ông ta tội giết người vì đã xử tử Olympias và yêu cầu ông ta giao nộp gia đình hoàng gia, vua Alexandros IV cùng thái hậu Roxana. Cuộc xung đột diễn ra tiếp sau đó đã kéo dài cho tới mùa đông năm 312/311 TCN, khi mà một thỏa thuận hòa bình mới đã công nhận Kassandros là tướng quân của châu Âu, Antigonos là "số một ở Châu Á", Ptolemaios là tướng quân của Ai Cập, và Lysimachos là tướng quân của Thrace. Kassandros đã xử tử Alexandros IV và Roxana vào mùa đông năm 311/310 TCN, và tới năm 306–305 TCN, các diadochi đã tự xưng là vua ở lãnh thổ của mình.
Khi Alexandros Đại đế qua đời ở Babylon vào năm 323 TCN, người mẹ của ông Olympias đã ngay lập tức buộc tội Antipatros và phe của ông ta đã đầu độc ông, mặc dù vậy không có bằng chứng để chứng minh điều này. Một đạo quân Macedonia dưới sự chỉ huy của Leonnatos sau đó đã giải vây cho Antipatros.
Vương quốc Macedonia
Sự khởi đầu của Hy Lạp thời kỳ Hy Lạp hóa được xác định bởi cuộc xung đột giữa nhà Antipatros, đầu tiên được lãnh đạo bởi Kassandros (trị vì từ 305-297 TCN), con trai của Antipatros, và nhà Antigonos, dưới sự lãnh đạo của vị tướng người Macedonia là Antigonos I Monophthalmos (trị vì từ 306-301 TCN) và người con trai của ông ta, vị vua tương lai Demetrios I (trị vì từ 294-288 TCN). Kassandros đã vây hãm Athens vào năm 303 TCN, nhưng khi Demetrios xâm lược Boeotia để nhằm cắt đứt con đường rút lui của ông, Kassandros đã buộc phải triệt thoái về Macedonia. Khi Antigonos và Demetrios cố gắng tái lập lại Liên minh Hy Lạp của Philippos II với bản thân họ là hai hegemon, một liên minh được tái lập lại của Kassandros, Ptolemaios I Soter (trị vì từ 305-283 TCN) của nhà Ptolemaios ở Ai Cập, Seleukos I Nikator (trị vì từ 305-281 TCN) của đế quốc Seleukos, và Lysimachos (trị vì từ 306-281 TCN), Vua của Thrace, đã đánh bại nhà Antigonos tại trận Ipsus vào năm 301 TCN, Antigonos đã tử trận còn Demetrios đã buộc phải tháo chạy.Kassandros qua đời vào năm 297 TCN, và người con ốm yếu của ông là Philippos IV cũng qua đời ngay trong năm đó, những người con trai khác của Kassandros là Alexandros V của Macedonia (trị vì từ 297-294 TCN) và Antipatros II của Macedonia (trị vì từ 297-294 TCN) đã kế vị cùng với người mẹ của họ là Thessalonike của Macedonia giữ vai trò là nhiếp chính. Trong lúc Demetrios giao chiến với lực lượng của nhà Antipatros ở Hy Lạp, Antipatros II đã giết chết người mẹ của mình để giành quyền lực. Người em trai tuyệt vọng của ông, Alexandros V sau đó đã cầu xin sự trợ giúp tới từ Pyrros của Ipiros (trị vì từ 297-272 TCN), ông ta đã từng sát cánh bên cạnh Demetrios tại trận Ipsus nhưng sau đó đã được gửi tới Ai Cập làm con tin như là một phần của thỏa thuận giữa Demetrios và Ptolemaios I. Để đổi lại cho việc đánh bại lực lượng của Antipatros II và buộc ông ta phải chạy trốn tới triều đình của Lysimachos ở Thrace, Pyrros đã nhận được phần thưởng đó là phần cực tây của vương quốc Macedonia. Demetrios sau đó đã ám sát người cháu họ Alexandros V của ông ta rồi tự tuyên bố là vua của Macedonia, thế nhưng thần dân lại phản đối sự xa lánh, độc đoán theo kiểu phương đông của ông ta.Chiến tranh đã sớm nổ ra giữa Pyrros và Demetrios vào năm 290 TCN khi Lanassa, vợ của Pyrros, con gái của Agathocles của Syracuse, bỏ ông để lấy Demetrios và đem đến cho ông ta hòn đảo Corcyra vốn là của hồi môn của bà. Cuộc chiến kéo dài đến năm 288 TCN, khi Demetrios đánh mất sự ủng hộ từ người Macedonia và bỏ trốn khỏi vương quốc. Macedonia sau đó được phân chia giữa Pyrros và Lysimachos, với việc Pyrros chiếm phần phía Tây Macedonia còn Lysimachos là phần phía đông Macedonia. Đến năm 286 TCN, Lysimachos đã đánh đuổi Pyrros và quân đội của ông ta ra khỏi Macedonia. Năm 282 TCN, một cuộc chiến tranh mới đã bùng nổ giữa Seleukos I và Lysimachos; Lysimachos sau đó đã tử trận trong trận Corupedion và điều này cho phép Seleukos I nắm quyền kiểm soát Thrace và Macedonia. Nhưng Seleukos I lại bị ám sát ngay sau đó vào năm 281 TCN bởi viên sĩ quan của mình là Ptolemaios Keraunos, con trai của Ptolemaios I và cháu nội của Antipatros, ông ta tiếp đó tự xưng là vua của Macedonia trước khi bị người Celt giết chết trên chiến trường trong cuộc xâm lược Hy Lạp của họ. Quân đội Macedonia đã tôn vị tướng Sosthenes của Macedonia lên làm vua, mặc dù vậy dường như ông đã từ chối tước hiệu này. Sau khi đánh bại vị thủ lĩnh người Gaul là Bolgios và đánh đuổi đội quân cướp bóc của Brennus, Sosthenes đã qua đời và lại khiến cho Macedonia rơi vào tình trạng hỗn loạn. Những người Gaul xâm lược đã tàn phá Macedonia cho tới khi Antigonos II Gonatas, con trai của Demetrios, đánh bại họ ở Thrace tại trận Lysimachia vào năm 277 TCN và sau đó ông đã được tuyên bố là vua của Macedonia.Năm 280 TCN, Pyrros đã phát động một chiến dịch ở Magna Graecia (tức là khu vực Nam Ý) chống lại Cộng hòa La Mã, nó được biết đến với tên gọi cuộc chiến tranh Pyrros, tiếp sau là cuộc xâm lược Sicily của ông. Ptolemaios Keraunos đã bảo đảm ngai vàng Macedonia của mình bằng cách giao cho Pyrros 5000 binh sĩ và 20 con voi chiến cho nỗ lực này của ông ta. Pyrros đã quay trở về Ipiros vào năm 275 TCN sau khi thất bại hoàn toàn trong cả hai chiến dịch, điều này đã góp phần cho sự trỗi dậy của Rome bởi vì các thành bang Hy Lạp ở miền Nam Ý chẳng hạn như Tarentum lúc này đã trở thành đồng minh La Mã. Pyrros đã xâm lược Macedonia vào năm 274 TCN, ông đã đánh bại đạo quân chủ yếu là lính đánh thuê của Antigonos II tại Trận Aous và đánh đuổi ông ta khỏi Macedonia, buộc ông ta phải tìm kiếm nơi ẩn náu cùng hạm đội hải quân của mình ở khu vực biển Aegean.
Sự khởi đầu của Hy Lạp thời kỳ Hy Lạp hóa được xác định bởi cuộc xung đột giữa nhà Antipatros, đầu tiên được lãnh đạo bởi Kassandros (trị vì từ 305-297 TCN), con trai của Antipatros, và nhà Antigonos, dưới sự lãnh đạo của vị tướng người Macedonia là Antigonos I Monophthalmos (trị vì từ 306-301 TCN) và người con trai của ông ta, vị vua tương lai Demetrios I (trị vì từ 294-288 TCN). Pyrros đã xâm lược Macedonia vào năm 274 TCN, ông đã đánh bại đạo quân chủ yếu là lính đánh thuê của Antigonos II tại Trận Aous và đánh đuổi ông ta khỏi Macedonia, buộc ông ta phải tìm kiếm nơi ẩn náu cùng hạm đội hải quân của mình ở khu vực biển Aegean.
Vương quốc Macedonia
Pyrros đã đánh mất phần lớn sự ủng hộ của mình từ người Macedonia vào năm 273 TCN khi những lính đánh thuê ngỗ ngược người Gaul của ông cướp phá khu nghĩa trang hoàng gia ở Aigai. Pyrros đã truy kích Antigonos II ở Peloponnese, tuy nhiên cuối cùng Antigonos II đã có thể giành lại được Macedonia. Pyrros sau đó tử trận khi đang vây hãm Argos vào năm 272 TCN, điều này cho phép Antigonos II giành lại phần còn lại của Hy Lạp. Ông sau đó đã khôi phục lại các ngôi mộ của triều đại Argead ở Aigai và sáp nhập vương quốc Paeonia.Liên minh Aetolia đã ngăn trở sự kiểm soát của Antigonos II đối với khu vực miền Trung Hy Lạp, và sự thành lập của liên minh Achaea vào năm 251 TCN đã đẩy lùi các lực lượng của người Macedonia ra khỏi phần lớn bán đảo Peloponnese và đôi lúc đã sáp nhập cả Athens và Sparta. Khi đế quốc Seleukos đứng về phía nhà Antigonos của Macedonia chống lại nhà Ptolemaios của Ai Cập trong các cuộc chiến tranh Syria, hải quân của nhà Ptolemaios đã gây gián đoạn nghiêm trọng những nỗ lực của Antigonos II nhằm kiểm soát khu vực lục địa Hy Lạp. Với sự trợ giúp từ hải quân của nhà Ptolemaios, vị chính trị gia người Athen là Chremonides đã lãnh đạo một cuộc nổi dậy chống lại uy quyền của người Macedonia mà được biết đến với tên gọi là cuộc chiến tranh Chremonides (267–261 TCN). Vào năm 265 TCN, Athens đã bị bao vây và vây hãm bởi lực lượng của Antigonos II, và một hạm đội của nhà Ptolemaios đã bị đánh bại trong Trận Cos. Athens cuối cùng đã đầu hàng vào năm 261 TCN. Sau khi Macedonia thiết lập một liên minh với vị vua nhà Seleukos là Antiochos II, một thỏa thuận hòa bình giữa Antigonos II và Ptolemaios II Philadelphos của Ai Cập cuối cùng đã được ký kết vào năm 255 TCN.
Pyrros đã đánh mất phần lớn sự ủng hộ của mình từ người Macedonia vào năm 273 TCN khi những lính đánh thuê ngỗ ngược người Gaul của ông cướp phá khu nghĩa trang hoàng gia ở Aigai. Pyrros sau đó tử trận khi đang vây hãm Argos vào năm 272 TCN, điều này cho phép Antigonos II giành lại phần còn lại của Hy Lạp.
Vương quốc Macedonia
Năm 251 TCN, Aratos của Sicyon đã lãnh đạo một cuộc nổi dậy chống lại Antigonos II, và vào năm 250 TCN, Ptolemaios II đã tuyên bố ủng hộ vị vua tự xưng Alexandros của Corinth. Mặc dù Alexandros đã qua đời vào năm 246 TCN và Antigonos đã có thể giành được một chiến thắng hải quân trước nhà Ptolemaios tại Andros, người Macedonia đã để mất Acrocorinth vào tay lực lượng của Aratos vào năm 243 TCN, tiếp theo sau đó Corinth đã được kết nạp vào liên minh Achaea. Antigonos II đã giảng hòa với liên minh Achaea vào năm 240 TCN, nhượng lại những vùng lãnh thổ mà ông đã mất ở Hy Lạp. Antigonos II qua đời vào năm 239 TCN và đã được kế vị bởi người con trai của ông là Demetrios II của Macedonia (trị vì từ 239-229 TCN). Nhằm tìm kiếm một liên minh với Macedonia để chống lại người Aetolia, thái hậu và nhiếp chính của Ipiros, Olympias II, đã đề nghị gả người con gái của bà là Phthia của Macedonia cho Demetrios II. Demetrios II đã chấp nhận lời đề nghị của bà, nhưng ông lại gây tổn hại đến mối quan hệ với nhà Seleukos bằng cách ly dị Stratonike của Macedonia. Mặc dù người Aetolia đã thiết lập một liên minh với liên minh Achaea như là một hệ quả của điều này, Demetrios II đã có thể xâm lược Boeotia và chiếm nó từ tay của người Aetolia vào năm 236 TCN.Liên minh Achaea đã thành công trong việc chiếm Megalopolis vào năm 235 TCN, và vào giai đoạn cuối triều đại của Demetrios II thì người Macedonia đã để mất gần như toàn bộ bán đảo Peloponnese ngoại trừ Argos. Demetrios II còn mất đi một đồng minh ở Ipiros khi mà chế độ quân chủ bị lật đổ trong một cuộc cách mạng cộng hòa. Demetrios II đã tranh thủ sự trợ giúp của vị vua Illyria là Agron để bảo vệ Acarnania chống lại người Aetolia, và vào năm 229 TCN, họ đã thành công trong việc đánh bại hạm đội liên hợp của người Aetolia và liên minh Achaea tại trận Paxos. Một vị vua người Illyria khác, Longarus của vương quốc Dardania, đã xâm lược Macedonia và đánh bại một đạo quân của Demetrios II ngay trước khi ông qua đời vào năm 229 TCN. Mặc dù người con trai còn nhỏ tuổi của ông là Philippos đã ngay lập tức kế vị ngai vàng, nhiếp chính của ông ta Antigonos III Doson (trị vì từ 229-221 TCN) vốn là người cháu họ của Antigonos II, đã được quân đội tôn lên làm vua và Philippos là người thừa kế của ông sau khi Antigonos giành được một loạt các chiến thắng quân sự trước người Illyria ở phía Bắc và người Aetolia ở Thessaly.
Năm 251 TCN, Aratos của Sicyon đã lãnh đạo một cuộc nổi dậy chống lại Antigonos II, và vào năm 250 TCN, Ptolemaios II đã tuyên bố ủng hộ vị vua tự xưng Alexandros của Corinth. Nhằm tìm kiếm một liên minh với Macedonia để chống lại người Aetolia, thái hậu và nhiếp chính của Ipiros, Olympias II, đã đề nghị gả người con gái của bà là Phthia của Macedonia cho Demetrios II.
Vương quốc Macedonia
Aratos đã phái một sứ thần tới chỗ Antigonos III vào năm 226 TCN để thiết lập một liên minh vốn không ai ngờ tới vào thời điểm đó khi mà vị vua cải cách Cleomenes III của Sparta đang đe dọa phần còn lại của Hy Lạp trong cuộc chiến tranh Cleomenes (229–222 TCN). Để đổi lại cho sự trợ giúp về mặt quân sự, Antigonos III yêu cầu Corinth phải được trao trả lại cho người Macedonia, Aratos cuối cùng đã đồng ý vào năm 225 TCN. Năm 224 TCN, quân đội của Antigonos III đã chiếm Arcadia từ tay người Sparta. Sau khi thiết lập một liên minh Hy Lạp theo cùng cách thức giống như liên minh Corinth của Philippos II, ông đã thành công trong việc đánh bại người Sparta tại trận Sellasia vào năm 222 TCN. Đây là lần đầu tiên trong suốt chiều dài lịch sử của mình, Sparta đã bị chiếm đóng bởi một thế lực ngoại bang, điều này đã khôi phục lại vị thế của Macedonia như là cường quốc số một ở Hy Lạp. Antigonos đã qua đời một năm sau đó có lẽ là do bệnh lao, ông đã để lại một vương quốc Hy Lạp hóa hùng mạnh cho người kế vị Philippos V.Philippos V của Macedonia (trị vì từ 221-179 TCN) ngay lập tức đã đối mặt với những thách thức đối với quyền lực của ông đến từ bộ lạc người Illyria là người Dardani và liên minh Aetolia. Philippos V và đồng minh của ông đã thành công trong việc chống lại người Aetolia và đồng minh của họ trong cuộc Chiến tranh Đồng Minh (220–217 TCN), tuy nhiên ông đã giảng hòa với người Aetolia ngay khi nghe tin về những cuộc tấn công của người Dardani ở phía Bắc và chiến thắng của người Carthage trước người La Mã tại Trận hồ Trasimene vào năm 217 TCN. Demetrios của Pharos được cho là đã thuyết phục Philippos V chiếm lấy Illyria trước tiên nếu muốn thực hiện một cuộc xâm lược nhằm vào bán đảo Ý. Năm 216 TCN, Philippos V đã phái 100 chiếc thuyền chiến hạng nhẹ tới khu vực biển Adriatic để tấn công Illyria, một động thái mà đã khiến cho Scerdilaidas của vương quốc Ardiaei kêu gọi sự trợ giúp từ người La Mã. Rome đã phản ứng lại bằng cách phái 10 chiếc quinquereme hạng nặng từ Sicily tới tuần tra khu vực bờ biển Illyria, điều này khiến cho Philippos V phải hủy bỏ kế hoạch và ra lệnh cho hạm đội của mình rút lui, ngăn chặn một cuộc chiến có thể xảy ra vào lúc đó.
Aratos đã phái một sứ thần tới chỗ Antigonos III vào năm 226 TCN để thiết lập một liên minh vốn không ai ngờ tới vào thời điểm đó khi mà vị vua cải cách Cleomenes III của Sparta đang đe dọa phần còn lại của Hy Lạp trong cuộc chiến tranh Cleomenes (229–222 TCN). Demetrios của Pharos được cho là đã thuyết phục Philippos V chiếm lấy Illyria trước tiên nếu muốn thực hiện một cuộc xâm lược nhằm vào bán đảo Ý. Năm 216 TCN, Philippos V đã phái 100 chiếc thuyền chiến hạng nhẹ tới khu vực biển Adriatic để tấn công Illyria, một động thái mà đã khiến cho Scerdilaidas của vương quốc Ardiaei kêu gọi sự trợ giúp từ người La Mã.
Vương quốc Macedonia
Vào năm 215 TCN, vào giai đoạn đỉnh điểm của cuộc chiến tranh Punic lần thứ hai với đế quốc Carthage, chính quyền La Mã đã chặn đứng một chiếc thuyền ở ngoài khơi bờ biển Calabria, trên chiếc thuyền này có một phái viên người Macedonia và một sứ thần người Carthage đang giữ một hiệp ước được Hannibal Barca soạn thảo, nó là một tuyên bố về một liên minh với Philippos V. Hiệp ước này quy định rằng chỉ có Carthage mới có quyền đàm phán các điều khoản về sự đầu hàng giả định của Rome và hứa trợ giúp lẫn nhau trong trường hợp sau khi được hồi sinh Rome sẽ tìm kiếm sự trả thù đối với Macedonia hoặc Carthage. Mặc dù vậy người Macedonia có lẽ chỉ quan tâm đến việc bảo vệ những vùng đất mới được chinh phục của họ ở Illyria, tuy thế người La Mã vẫn có thể ngăn trở bất cứ tham vọng lớn lao nào của Philippos V đối với khu vực Adriatic trong cuộc chiến tranh Macedonia lần thứ nhất (214–205 TCN). Vào năm 214 TCN, Rome đã bố trí một hạm đội tại Oricus, nơi này cùng với Apollonia đã bị người Macedonia tấn công. Khi người Macedonia chiếm Lissus vào năm 212 TCN, Viện nguyên lão La Mã đã phản ứng lại bằng cách xúi giục liên minh Aetolia, Sparta, Elis, Messenia, và Attalos I (trị vì từ 241-197 TCN) của Pergamon gây chiến chống lại Philippos V, giữ cho ông bận rộn và tránh xa khỏi Ý.Liên minh Aetolia đã ký kết một hiệp ước hòa bình với Philippos V vào năm 206 TCN, còn Cộng hòa La Mã đã đàm phán hiệp ước Phoenice vào 205 TCN để chấm dứt chiến tranh và cho phép người Macedonia giữ lại một số thành trì mà họ đã chiếm được ở Illyria. Mặc dù người La Mã đã từ chối lời đề nghị của người Aetolia vào năm 202 TCN về việc Rome một lần nữa tuyên bố chiến tranh với Macedonia, Viện nguyên lão La Mã đã cân nhắc nghiêm túc đối với lời đề nghị tương tự tới từ Pergamon và đồng minh Rhodes của nó vào năm 201 TCN. Những quốc gia này đã tỏ ra lo lắng về liên minh của Philippos V với Antiochos III Đại đế của đế quốc Seleukos, mà đã xâm lược đế quốc Ptolemaios vốn đã mệt mỏi vì chiến tranh và kiệt quệ về tài chính trong cuộc Chiến tranh Syria lần thứ Năm (202–195 TCN), khi Philippos V chiếm những thành trì của nhà Ptolemaios ở khu vực biển Aegea. Mặc dù các phái viên của Rome đã đóng một vai trò chủ chốt trong việc thuyết phục Athens gia nhập vào liên minh chống Macedonia cùng với Pergamon và Rhodes vào năm 200 TCN, thế nhưng comitia centuriata (hội đồng nhân dân) đã bác bỏ đề nghị về việc tuyên chiến với Macedonia của Viện nguyên lão La Mã. Trong khi đó, Philippos V đã chinh phục các vùng đất ở khu vực Hellespont và Bosporus cũng như là đảo Samos của nhà Ptolemaios, điều này đã dẫn đến việc Rhodes thành lập một liên minh với Pergamon, Byzantium, Cyzicus, và Chios chống lại Macedonia. Bất chấp trên danh nghĩa là đã liên minh với vị vua nhà Seleukos, Philippos V đã thua trận thủy chiến Chios vào năm 201 TCN và đã bị hạm đội của người Rhodes và Pergamon phong tỏa ở Bargylia.
Vào năm 215 TCN, vào giai đoạn đỉnh điểm của cuộc chiến tranh Punic lần thứ hai với đế quốc Carthage, chính quyền La Mã đã chặn đứng một chiếc thuyền ở ngoài khơi bờ biển Calabria, trên chiếc thuyền này có một phái viên người Macedonia và một sứ thần người Carthage đang giữ một hiệp ước được Hannibal Barca soạn thảo, nó là một tuyên bố về một liên minh với Philippos V. Hiệp ước này quy định rằng chỉ có Carthage mới có quyền đàm phán các điều khoản về sự đầu hàng giả định của Rome và hứa trợ giúp lẫn nhau trong trường hợp sau khi được hồi sinh Rome sẽ tìm kiếm sự trả thù đối với Macedonia hoặc Carthage. Mặc dù vậy người Macedonia có lẽ chỉ quan tâm đến việc bảo vệ những vùng đất mới được chinh phục của họ ở Illyria, tuy thế người La Mã vẫn có thể ngăn trở bất cứ tham vọng lớn lao nào của Philippos V đối với khu vực Adriatic trong cuộc chiến tranh Macedonia lần thứ nhất (214–205 TCN).
Vương quốc Macedonia
Trong lúc Philippos V đang bận giao chiến với các đồng minh Hy Lạp của Rome, thì Rome lại coi điều này như là một cơ hội để trừng phạt người đồng minh cũ của Hannibal bằng một cuộc chiến tranh mà họ hy vọng là sẽ mang đến một chiến thắng và không cần quá nhiều nguồn lực. Viện nguyên lão La Mã đã yêu cầu Philippos V chấm dứt chiến tranh chống lại các quốc gia Hy Lạp lân cận và tuân theo một ủy ban phân xử quốc tế để giải quyết các bất bình. Khi comitia centuriata cuối cùng đã bỏ phiếu tán thành việc tuyên chiến của Viện nguyên lão La Mã vào năm 200 TCN và trao tối hậu thư của họ cho Philippos V, trong đó yêu cầu rằng một tòa án đánh giá thiệt hại gây ra cho Rhodes và Pergamon, vị vua của Macedonia đã bác bỏ điều này. Điều này đã đánh dấu sự khởi đầu của Chiến tranh Macedonia lần thứ hai (200–197 TCN), với việc Publius Sulpicius Galba Maximus chỉ huy các hoạt động quân sự ở Apollonia.
Trong lúc Philippos V đang bận giao chiến với các đồng minh Hy Lạp của Rome, thì Rome lại coi điều này như là một cơ hội để trừng phạt người đồng minh cũ của Hannibal bằng một cuộc chiến tranh mà họ hy vọng là sẽ mang đến một chiến thắng và không cần quá nhiều nguồn lực. Khi comitia centuriata cuối cùng đã bỏ phiếu tán thành việc tuyên chiến của Viện nguyên lão La Mã vào năm 200 TCN và trao tối hậu thư của họ cho Philippos V, trong đó yêu cầu rằng một tòa án đánh giá thiệt hại gây ra cho Rhodes và Pergamon, vị vua của Macedonia đã bác bỏ điều này.
Vương quốc Macedonia
Người Macedonia đã thành công trong việc bảo vệ lãnh thổ của họ trong khoảng gần hai năm, thế nhưng chấp chính quan La Mã Titus Quinctius Flamininus đã thành công trong việc đánh bật Philippos V khỏi Macedonia vào năm 198 TCN, buộc binh sĩ của ông phải thoái lui tới Thessaly. Khi liên minh Achaea phản bội lại người Macedonia và đứng về phía Rome, vị vua của Macedonia đã cầu hòa, nhưng bởi vì các điều khoản đưa ra được cho là quá khắc nghiệt, và vì thế cuộc chiến tranh vẫn tiếp tục diễn ra. Vào tháng 6 năm 197 TCN, người Macedonia đã bị đánh bại tại Trận Cynoscephalae. Rome sau đó đã thông qua một hiệp ước mà buộc Macedonia phải từ bỏ phần lớn những vùng lãnh thổ Hy Lạp của nó ngoại trừ chính Macedonia, trừ khi nó đóng vai trò là một vùng đệm để đề phòng các cuộc tấn công của người Illyria và Thracia vào Hy Lạp. Mặc dù một số người Hy Lạp nghi ngờ người La Mã có ý định thay thế Macedonia như là một thế lực bá chủ mới ở Hy Lạp, Flaminius đã tuyên bố tại thế vận hội Isthmia vào năm 196 TCN rằng Rome có ý định bảo toàn quyền tự do của người Hy Lạp bằng việc không để lại bất cứ đơn vị đồn trú nào và cũng không đòi hỏi cống nạp bằng bất cứ hình thức nào. Lời hứa hẹn của ông đã bị trì hoãn bởi những cuộc đàm phán với vị vua Sparta là Nabis, vào lúc đó ông ta đã chiếm Argos, tuy vậy người La Mã đã rút quân khỏi Hy Lạp vào năm 194 TCN.Nhận được sự khuyến khích từ liên minh Aetolia và lời kêu gọi giải phóng Hy Lạp khỏi bàn tay của người La Mã từ họ, vị vua Seleukos Antiochos III đã đổ bộ cùng với quân đội của mình ở Demetrias, Thessaly, vào năm 192 TCN, và được người Aetolia bầu làm strategos. Macedonia, liên minh Achaea, và các thành bang Hy Lạp khác đã giữ sự liên minh của họ với Rome. Người La Mã sau đó đã đánh bại đế quốc Seleukos trong Trận Thermopylae vào năm 191 TCN và tiếp đó là trong trận Magnesia vào năm 190 TCN, điều này đã buộc nhà Seleukos phải trả một khoản bồi thường chiến tranh, phá hủy phần lớn hạm đội của họ, và từ bỏ yêu sách của họ đối với bất cứ vùng lãnh thổ nào nằm ở phía Bắc hoặc phía Tây của dãy núi Taurus theo hiệp ước Apamea vào năm 188 TCN. Được sự chấp nhận của Rome, Philippos V đã có thể chiếm được một vài thành phố ở miền trung Hy Lạp mà vốn đã liên minh với Antiochos III vào năm 191–189 TCN, trong khi đó Rhodes và Eumenes II (trị vì từ 197-159 TCN) của Pergamon đã giành được những vùng lãnh thổ ở Tiểu Á.Thất bại trong việc làm vừa lòng tất cả các phe trong những cuộc tranh chấp lãnh thổ khác nhau, vào năm 184/183 TCN Viện nguyên lão La Mã đã quyết định buộc Philippos V phải từ bỏ Aenus và Maronea, bởi vì chúng đã được tuyên bố là các thành phố tự do theo hiệp ước Apamea. Điều này đã làm giảm bớt nỗi sợ hãi của Eumenes II rằng Macedonia có thể gây ra một mối đe dọa đối với những vùng đất của ông ta ở Hellespont. Perseus của Macedonia (trị vì từ 179-168 TCN) đã kế vị Philippos V và xử tử người em trai Demetrios của mình, ông ta vốn được lòng người La Mã nhưng lại bị Perseus buộc tội phản quốc. Perseus sau đó đã cố gắng thiết lập các liên minh hôn nhân với Prusias II của Bithynia và Seleukos IV Philopator của đế quốc Seleukos, cùng với đó là đã nối lại các mối quan hệ với Rhodes mà đã khiến cho Eumenes II cảm thấy vô cùng lo lắng. Mặc dù Eumenes II đã cố gắng làm suy yếu ngấm ngầm các mối quan hệ ngoại giao này, Perseus đã gây dựng một liên minh với liên minh Boeotia, mở rộng quyền lực của mình tới Illyria và Thrace, và vào năm 174 TCN, ông đã giành được vai trò quản lý ngôi đền Apollo tại Delphi với tư cách là một thành viên của hội đồng đại nghị liên bang.
Người Macedonia đã thành công trong việc bảo vệ lãnh thổ của họ trong khoảng gần hai năm, thế nhưng chấp chính quan La Mã Titus Quinctius Flamininus đã thành công trong việc đánh bật Philippos V khỏi Macedonia vào năm 198 TCN, buộc binh sĩ của ông phải thoái lui tới Thessaly. Điều này đã làm giảm bớt nỗi sợ hãi của Eumenes II rằng Macedonia có thể gây ra một mối đe dọa đối với những vùng đất của ông ta ở Hellespont.
Vương quốc Macedonia
Eumenes II đã đến Rome vào năm 172 TCN và đọc một bài diễn văn trước Viện nguyên lão để tố cáo sự vi phạm và các tội ác được quy cho là của Perseus. Điều này đã thuyết phục được Viện nguyên lão tuyên bố cuộc chiến tranh Macedonia lần thứ Ba (171–168 TCN). Mặc dù Perseus đã giành chiến thắng trước người La Mã tại trận Callinicus vào năm 171 TCN, quân đội Macedonia đã bị đánh bại tại trận Pydna vào tháng 6 năm 168 TCN. Perseus chạy trốn tới Samothrace nhưng ông đã đầu hàng ngay sau đó và bị đưa tới Rome cho lễ diễu binh chiến thắng của Lucius Aemilius Paullus Macedonicus, ông sau đó bị quản thúc tại Alba Fucens và qua đời tại đây vào năm 166 TCN. Người La Mã đã bãi bỏ chế độ quân chủ của Macedonia bằng cách thiết lập bốn nước cộng hòa đồng minh riêng biệt thay cho nó, thủ phủ của chúng đặt tại Amphipolis, Thessalonica, Pella, và Pelagonia. Người La Mã đã áp đặt các điều luật khắt khe ngăn cản những sự tiếp xúc về kinh tế và xã hội giữa các cư dân của những nước cộng hòa này, bao gồm cả việc cấm các cuộc hôn nhân giữa họ và (tạm thời) ngăn cấm việc khai thác vàng và bạc. Một người tên là Andriskos đã tự xưng là hậu duệ của nhà Antigonos, ông ta sau đó nổi dậy chống lại người La Mã và được tuyên bố là vua của Macedonia. Ông đã đánh bại một đạo quân La Mã dưới quyền của vị praetor Publius Juventius Thalna trong cuộc chiến tranh Macedonia lần thứ Tư (150–148 TCN). Bất chấp điều này, Andriskos đã bị đánh bại trong Trận Pydna lần thứ hai bởi Quintus Caecilius Metellus Macedonicus vào năm 148 TCN Tiếp sau sự kiện này, người La Mã đã hủy diệt Carthage vào năm 146 TCN và giành chiến thắng trước liên minh Achaea trong Trận Corinth, mở ra thời kỳ Hy Lạp thuộc La Mã và sự thiết lập từ từ của Tỉnh Macedonia của La Mã.
Eumenes II đã đến Rome vào năm 172 TCN và đọc một bài diễn văn trước Viện nguyên lão để tố cáo sự vi phạm và các tội ác được quy cho là của Perseus. Bất chấp điều này, Andriskos đã bị đánh bại trong Trận Pydna lần thứ hai bởi Quintus Caecilius Metellus Macedonicus vào năm 148 TCN Tiếp sau sự kiện này, người La Mã đã hủy diệt Carthage vào năm 146 TCN và giành chiến thắng trước liên minh Achaea trong Trận Corinth, mở ra thời kỳ Hy Lạp thuộc La Mã và sự thiết lập từ từ của Tỉnh Macedonia của La Mã.
Vương quốc Macedonia
Đứng đầu chính quyền của Macedonia là nhà vua (basileos). Ít nhất là từ triều đại của Philippos II trở đi, nhà vua đã được trợ giúp bởi những người hầu hoàng gia (basilikoi paides), cận vệ (somatophylakes), các chiến hữu (hetairoi), những người bạn (philoi), một hội đồng mà bao gồm các thành viên của quân đội, và (trong thời kỳ Hy Lạp hóa) các quan tòa. Thiếu các bằng chứng cho thấy mức độ chia sẻ quyền lực của mỗi một nhóm trong số này với nhà vua hoặc là sự tồn tại của chúng đã có nền tảng trong một khuôn khổ hiến pháp chính thức. Trước triều đại của Philippos II, thể chế duy nhất được chứng minh bằng văn bản chứng từ đó là chế độ quân chủ.
Đứng đầu chính quyền của Macedonia là nhà vua (basileos). Ít nhất là từ triều đại của Philippos II trở đi, nhà vua đã được trợ giúp bởi những người hầu hoàng gia (basilikoi paides), cận vệ (somatophylakes), các chiến hữu (hetairoi), những người bạn (philoi), một hội đồng mà bao gồm các thành viên của quân đội, và (trong thời kỳ Hy Lạp hóa) các quan tòa.
Vương quốc Macedonia
Chính quyền được biết đến đầu tiên của Macedonia cổ đại đó là chế độ quân chủ của nó, chế độ này kéo dài tới năm 167 TCN khi nó bị người La Mã bãi bỏ. Chế độ quân chủ cha truyền con nối của người Macedonia đã tồn tại ít nhất là từ thời kỳ Hy Lạp cổ xưa với gốc rễ là tầng lớp quý tộc Homer từ thời kỳ Mycenae. Thucydides viết rằng vào thời xa xưa, Macedonia được phân chia thành các bộ lạc địa phương nhỏ, mỗi bộ lạc lại có một tiểu vương, các bộ lạc thuộc Hạ Macedonia cuối cùng đã được thống nhất lại dưới quyền của một vị vua vĩ đại, người đã thể hiện quyền lực như là một vị chúa tể đối với các vị tiểu vương của Thượng Macedonia.Sự kế vị cha-con theo trực hệ đã bị phá vỡ sau vụ ám sát Orestes của Macedonia vào năm 396 TCN (được cho là dưới bàn tay của vị nhiếp chính và người kế vị của ông là Aeropos II của Macedonia), làm mờ mịt vấn đề đó là không rõ liệu rằng ở đây là chế độ con trai trưởng thừa kế theo truyền thống có sẵn hay là một hội đồng quân đội hoặc của người dân sẽ có quyền lập hiến được lựa chọn một vị vua khác. Chúng ta không rõ liệu rằng con trai của các hoàng hậu hoặc những người vợ người Macedonia có luôn luôn được ưu tiên hơn những người khác hay không bởi vì Archelaos I của Macedonia đã lên ngôi sau khi đã ám sát người thừa kế được chỉ định của cha mình, bản thân Archelaos là một người con trai của Perdiccas II của Macedonia với một nữ nô lệ.
Chính quyền được biết đến đầu tiên của Macedonia cổ đại đó là chế độ quân chủ của nó, chế độ này kéo dài tới năm 167 TCN khi nó bị người La Mã bãi bỏ. Thucydides viết rằng vào thời xa xưa, Macedonia được phân chia thành các bộ lạc địa phương nhỏ, mỗi bộ lạc lại có một tiểu vương, các bộ lạc thuộc Hạ Macedonia cuối cùng đã được thống nhất lại dưới quyền của một vị vua vĩ đại, người đã thể hiện quyền lực như là một vị chúa tể đối với các vị tiểu vương của Thượng Macedonia.Sự kế vị cha-con theo trực hệ đã bị phá vỡ sau vụ ám sát Orestes của Macedonia vào năm 396 TCN (được cho là dưới bàn tay của vị nhiếp chính và người kế vị của ông là Aeropos II của Macedonia), làm mờ mịt vấn đề đó là không rõ liệu rằng ở đây là chế độ con trai trưởng thừa kế theo truyền thống có sẵn hay là một hội đồng quân đội hoặc của người dân sẽ có quyền lập hiến được lựa chọn một vị vua khác.
Vương quốc Macedonia
Chúng ta biết được rằng các vị vua Macedonia trước thời Philippos II đã nắm giữ những đặc quyền và thực hiện trách nhiệm tiếp đãi những sứ thần ngoại quốc, quyết định chính sách đối ngoại của vương quốc, và đàm phán liên minh với những cường quốc ngoại bang. Sau chiến thắng của người Hy Lạp ở Salamis vào năm 480 TCN, vị tướng người Ba Tư là Mardonius đã phái Alexandros I của Macedonia tới Athens với tư cách là một đại diện ngoại giao chính để dàn xếp một liên minh giữa đế quốc Achaemenes và Athens. Quyết định phái Alexandros được dựa trên sự thông gia của ông với một gia đình quý tộc Ba Tư và mối quan hệ chính thức trước đây của ông với thành bang Athens. Với việc nắm giữ các nguồn tài nguyên tự nhiên bao gồm vàng, bạc, gỗ và những vùng đất đai thuộc hoàng gia, các vị vua Macedonia thời kỳ đầu cũng còn có khả năng mua chuộc các phe phái trong nước và ngoại quốc bằng những món quà ấn tượng.Có ít thông tin được biết đến về hệ thống pháp luật của Macedonia cổ đại ngoại trừ việc nhà vua giữ vai trò là thẩm phán tối cao của vương quốc. Các vị vua Macedonia cũng là Tổng tư lệnh của quân đội. Philippos II cũng còn được đánh giá cao nhờ vào những hành động mộ đạo của mình trong vai trò như là tư tế tối cao của quốc gia. Ông đã thực hiện các nghi lễ hiến hế hàng ngày và dẫn dắt những lễ hội tôn giáo. Alexandros đã bắt chước nhiều khía cạnh khác nhau của triều đại người cha của mình, chẳng hạn như ban tặng đất đai và các món quà cho những quý tộc trung thành, nhưng ông cũng đã đánh mất sự ủng hộ của những người chủ chốt trong số họ vì đã chấp nhận một số lễ phục của một vị quân chủ Phương Đông, Ba Tư, một "chúa tể và chủ nhân" như Carol J. King đề xuất, thay vì của một "người chiến hữu" giống như mối quan hệ truyền thống của các vị vua Macedonia với những chiến hữu của họ. Cha của Alexandros, Philippos II, có lẽ đã chịu ảnh hưởng từ các truyền thống của người Ba Tư khi ông áp dụng các thể chế tương tự như các cơ quan ở trong vương quốc Achaemenes, chẳng hạn như là có một thư ký hoàng gia, kho lưu trữ hoàng gia, những người hầu hoàng gia, và một ngai vàng.
Chúng ta biết được rằng các vị vua Macedonia trước thời Philippos II đã nắm giữ những đặc quyền và thực hiện trách nhiệm tiếp đãi những sứ thần ngoại quốc, quyết định chính sách đối ngoại của vương quốc, và đàm phán liên minh với những cường quốc ngoại bang. Các vị vua Macedonia cũng là Tổng tư lệnh của quân đội.
Vương quốc Macedonia
Những người hầu hoàng gia là các cậu bé và những thiếu niên được triệu tập theo nghĩa vụ từ các gia đình quý tộc và phục vụ các vị vua Macedonia có lẽ là từ triều đại của Philippos II trở đi, mặc dù vậy bằng chứng chắc chắn hơn cho điều này có niên đại là vào triều đại của Alexandros Đại đế. Những người hầu hoàng gia đóng vai trò gián tiếp trong các hoạt động chính trị quan trọng và việc được triệu tập theo nghĩa vụ có vai trò như là một dự định để cho họ bước đầu làm quen với đời sống chính trị. Sau một thời gian huấn luyện và phụng sự, những người hầu này được kỳ vọng sẽ trở thành một trong những chiến hữu và tùy tùng cá nhân của nhà vua. Trong suốt quá trình huấn luyện của họ, những người hầu được kỳ vọng sẽ bảo vệ nhà vua khi ông yên giấc, dắt ngựa cho nhà vua, giúp nhà vua cưỡi ngựa, tháp tùng nhà vua trong các chuyến đi săn hoàng gia, và phụng sự nhà vua trong symposia (tức là các buổi tiệc rượu). Mặc dù có ít các bằng chứng về những người hầu hoàng gia vào thời kỳ nhà Antigonos, chúng ta biết được rằng một số người trong số họ đã bỏ chạy cùng với Perseus của Macedonia tới Samothrace sau thất bại của ông trước người La Mã vào năm 168 TCN.
Những người hầu hoàng gia là các cậu bé và những thiếu niên được triệu tập theo nghĩa vụ từ các gia đình quý tộc và phục vụ các vị vua Macedonia có lẽ là từ triều đại của Philippos II trở đi, mặc dù vậy bằng chứng chắc chắn hơn cho điều này có niên đại là vào triều đại của Alexandros Đại đế. Mặc dù có ít các bằng chứng về những người hầu hoàng gia vào thời kỳ nhà Antigonos, chúng ta biết được rằng một số người trong số họ đã bỏ chạy cùng với Perseus của Macedonia tới Samothrace sau thất bại của ông trước người La Mã vào năm 168 TCN.
Vương quốc Macedonia
Các chiến hữu, bao gồm lực lượng chiến hữu kỵ binh và lực lượng bộ binh pezhetairoi tinh nhuệ, về cơ bản đại diện cho một nhóm lớn hơn những cận vệ của nhà vua. Những người được tin cậy nhất hoặc những chiến hữu có cấp bậc cao nhất hình thành nên một hội đồng mà giữ vai trò như là một ban cố vấn cho nhà vua. Một số lượng nhỏ các bằng chứng cho thấy sự tồn tại của một hội đồng quân sự trong thời chiến và một hội đồng nhân dân trong thời bình.Các thành viên của hội đồng có quyền phát biểu một cách tự do, và mặc dù không có bằng chứng trực tiếp cho thấy rằng họ đã bỏ phiếu cho các vấn đề của nhà nước, một điều rõ ràng rằng đôi khi nhà vua ít nhất là đã chịu sức ép phải đồng ý với yêu cầu của họ. Hội đồng rõ ràng đã được trao quyền xét xử các vụ án phản quốc và ấn định hình phạt cho họ, chẳng hạn như Alexandros Đại đế đã đóng vai trò như là công tố viên trong phiên tòa xét xử và kết án ba người bị cáo buộc có liên quan đến âm mưu ám sát người cha của ông (trong khi những người khác đã được tuyên bố trắng án). Tuy nhiên, có lẽ là không đủ bằng chứng để cho phép kết luận rằng các hội đồng và hội nghị lập pháp thường xuyên được duy trì hoặc có cơ sở hợp hiến vững chắc, hoặc rằng những quyết định của họ luôn được nhà vua chú ý. Ngay sau khi Alexandros qua đời, các chiến hữu đã ngay lập tức tổ chức một hội đồng để nắm quyền kiểm soát đế quốc của ông, nhưng nó đã sớm trở nên mất ổn định bởi sự cạnh tranh và xung đột nổ ra giữa các thành viên của nó. Quân đội cũng sử dụng binh biến như là một công cụ để đạt được các mục đích chính trị.
Các chiến hữu, bao gồm lực lượng chiến hữu kỵ binh và lực lượng bộ binh pezhetairoi tinh nhuệ, về cơ bản đại diện cho một nhóm lớn hơn những cận vệ của nhà vua. Hội đồng rõ ràng đã được trao quyền xét xử các vụ án phản quốc và ấn định hình phạt cho họ, chẳng hạn như Alexandros Đại đế đã đóng vai trò như là công tố viên trong phiên tòa xét xử và kết án ba người bị cáo buộc có liên quan đến âm mưu ám sát người cha của ông (trong khi những người khác đã được tuyên bố trắng án).
Vương quốc Macedonia
Ở Athens cổ đại, chế độ dân chủ của Athen đã được khôi phục trong ba lần khác nhau sau khi thành phố bị chinh phục lần đầu tiên bởi Antipatros vào năm 322 TCN. Khi nó liên tục nằm dưới sự cai trị của người Macedonia, nó đã bị cai trị bởi một chế độ đầu sỏ do người Macedonia dựng nên bao gồm những công dân giàu có nhất của thành bang. Những thành bang khác đã được đối xử theo cách hoàn toàn khác và được cho phép có một mức độ tự chủ lớn hơn. Sau khi Philippos II chinh phục Amphipolis vào năm 357 TCN, thành phố này đã được phép giữ lại chế độ dân chủ của nó, bao gồm hiến pháp của nó, hội đồng nhân dân, hội đồng thành phố (boule), và các cuộc bầu cử những vị quan chức mới hàng năm, nhưng một đội quân đồn trú người Macedonia đã được bố trí bên trong các bức tường của thành phố cùng với một viên tham tán hoàng gia người Macedonia (epistates) để giám sát các vấn đề chính trị của thành phố. Philippi, thành phố được Philippos II thành lập, là thành phố duy nhất trong khối thịnh vương chung Macedonia mà có một chính quyền dân chủ với hội đồng nhân dân, bởi vì hội đồng (ecclesia) của Thessaloniki, trong thực tế dường như chỉ có vai trò hình thức. Một số thành phố cũng duy trì các khoản thu hàng năm của họ. Các vị vua của Macedonia và chính quyền trung ương quản lý các khoản thu được phát sinh từ những ngôi đền và tầng lớp tư tế.Trong khối thịnh vương chung Macedonia, một số bằng chứng từ thế kỷ thứ 3 TCN chỉ ra rằng các quan hệ ngoại giao với nước ngoài đã được quản lý bởi chính quyền trung ương. Mặc dù mỗi một thành phố Macedonia trên danh nghĩa là đã tham gia vào các sự kiện toàn Hy Lạp với tư cách là một thực thể độc lập, trong thực tế, việc cấp asylia (bất khả xâm phạm, miễn trừ ngoại giao, và quyền ẩn náu tại những nơi tôn nghiêm) cho các thành phố nhất định đã được xử lý trực tiếp bởi nhà vua. Tương tự, các thành bang Hy Lạp nằm trong koina Hy Lạp cùng thời (tức là liên bang của các thành bang, sympoliteia) tuân theo các nghị định được bỏ phiếu tập thể bởi các thành viên của liên minh. Trong các thành bang thuộc một liên minh hoặc liên bang, việc cấp proxenia (tức là việc tiếp đãi các sứ thần ngoại quốc) thường là một quyền được chia sẻ bởi chính quyền địa phương và trung ương. Nhiều bằng chứng còn sót lại cho thấy việc cấp proxenia là đặc quyền duy nhất của chính quyền trung ương ở trong liên minh Ipiros, và một số bằng chứng cho thấy sự sắp đặt tương tự ở trong khối thịnh vượng chung Macedonia. Các thành bang mà đã liên minh với Macedonia ban hành các nghị định liên quan đến proxenia của riêng họ. Các liên minh ngoại quốc cũng thiết lập liên minh với các vị vua Macedonia, chẳng hạn như liên minh Crete đã ký các hiệp ước với Demetrios II Aetolicos và Antigonos III Doson bảo đảm sự cung cấp lính đánh thuê Crete cho quân đội Macedonia, và bầu chọn Philippos V của Macedonia là quan nhiếp chính danh dự (prostates) của liên minh.
Ở Athens cổ đại, chế độ dân chủ của Athen đã được khôi phục trong ba lần khác nhau sau khi thành phố bị chinh phục lần đầu tiên bởi Antipatros vào năm 322 TCN. Tương tự, các thành bang Hy Lạp nằm trong koina Hy Lạp cùng thời (tức là liên bang của các thành bang, sympoliteia) tuân theo các nghị định được bỏ phiếu tập thể bởi các thành viên của liên minh.
Vương quốc Macedonia
Cấu trúc cơ bản của quân đội Macedonia cổ đại là sự phân chia giữa lực lượng chiến hữu kỵ binh (hetairoi) và lực lượng chiến hữu bộ binh (pezhetairoi), được tăng cường thêm bởi các đội quân đồng minh khác nhau, các binh sĩ ngoại quốc được tuyển mộ, và lính đánh thuê. Lực lượng chiến hữu bộ binh có lẽ đã tồn tại từ triều đại của Alexandros I của Macedonia. Kỵ binh Macedonia, mặc áo giáp cơ bắp, đã trở nên nổi tiếng trong và sau khi họ tham gia vào cuộc chiến tranh Peloponnesus, vào thời điểm đó họ đứng về phía Athens hoặc Sparta. Bộ binh Macedonia trong thời kỳ này bao gồm những người chăn cừu và nông dân được huấn luyện nghèo nàn, trong khi lực lượng kỵ binh bao gồm các quý tộc. Dựa vào các chứng cứ là những tác phẩm nghệ thuật thuộc giai đoạn đầu thế kỷ thứ 4 TCN, có một ảnh hưởng rõ rệt từ người Sparta đối với quân đội Macedonia trước thời Philippos II. Nicholas Viktor Sekunda tuyên bố rằng vào giai đoạn đầu triều đại của Philippos II vào năm 359 TCN, quân đội Macedonia bao gồm 10,000 bộ binh và 600 kỵ binh, thế nhưng Malcolm Errington cảnh báo rằng những con số được các tác giả cổ đại trích dẫn nên được xem xét với sự hoài nghi nhất định.
Cấu trúc cơ bản của quân đội Macedonia cổ đại là sự phân chia giữa lực lượng chiến hữu kỵ binh (hetairoi) và lực lượng chiến hữu bộ binh (pezhetairoi), được tăng cường thêm bởi các đội quân đồng minh khác nhau, các binh sĩ ngoại quốc được tuyển mộ, và lính đánh thuê. Kỵ binh Macedonia, mặc áo giáp cơ bắp, đã trở nên nổi tiếng trong và sau khi họ tham gia vào cuộc chiến tranh Peloponnesus, vào thời điểm đó họ đứng về phía Athens hoặc Sparta.
Vương quốc Macedonia
Sau khi dành nhiều năm làm một con tin chính trị ở Thebes, Philippos II đã cố gắng mô phỏng các bài tập quân sự mẫu của người Hy Lạp và phát những trang bị tiêu chuẩn cho các dân binh, và đã thành công trong việc biến quân đội Macedonia từ một đạo quân được tuyển mộ từ những người nông dân thành một đạo quân được huấn luyện tốt, một đạo quân chuyên nghiệp. Philippos II đã áp dụng một số chiến thuật quân sự từ kẻ thù của mình, chẳng hạn như là đội hình kỵ binh embolon từ người Scythia. Lực lượng bộ binh của ông sử dụng những chiếc khiên peltai thay thế cho những chiếc khiên kiểu hoplon trước đó, họ được trang bị với những chiếc mũ giáp bảo vệ, giáp bảo vệ chân, và cả áo giáp bảo vệ thân hoặc các dải băng quanh bụng kotthybos, cùng với những ngọn giáo sarissa và một dao găm là vũ khí phụ. Lực lượng bộ binh hypaspistai tinh nhuệ, bao gồm những người lính được tuyển chọn từ hàng ngũ pezhetairoi, được thành lập dưới triều đại của Philippos II và được tiếp tục sử dụng dưới triều đại của Alexandros Đại đế. Philippos II cũng là người thiết lập nên lực lượng cận vệ hoàng gia (somatophylakes).
Sau khi dành nhiều năm làm một con tin chính trị ở Thebes, Philippos II đã cố gắng mô phỏng các bài tập quân sự mẫu của người Hy Lạp và phát những trang bị tiêu chuẩn cho các dân binh, và đã thành công trong việc biến quân đội Macedonia từ một đạo quân được tuyển mộ từ những người nông dân thành một đạo quân được huấn luyện tốt, một đạo quân chuyên nghiệp. Lực lượng bộ binh hypaspistai tinh nhuệ, bao gồm những người lính được tuyển chọn từ hàng ngũ pezhetairoi, được thành lập dưới triều đại của Philippos II và được tiếp tục sử dụng dưới triều đại của Alexandros Đại đế.
Vương quốc Macedonia
Về phần đội quân chiến đấu tầm xa trang bị nhẹ của mình, Philippos II đã tuyển mộ lực lượng đánh thuê là các cung thủ Crete cũng như những lính phóng lao, lính ném đá, và cung thủ người Thrace, Paeonia, và Illyrii. Ông cũng chiêu mộ các kỹ sư chẳng hạn như Polyidos của Thessaly và Diades của Pella, những người có tài năng trong việc xây dựng các vũ khí công thành tiên tiến và những cỗ pháo mà có thể bắn những mũi tên lớn. Sau khi giành được các mỏ dồi dào ở Krinides (được đổi tên thành Philippi), ngân khố hoàng gia đã có đủ khả năng để đưa ra chiến trường một đạo quân chuyên nghiệp thường trực. Nguồn thu của nhà nước tăng lên dưới triều đại của Philippos II đã cho phép người Macedonia xây dựng một hạm đội nhỏ lần đầu tiên, mà bao gồm các tàu trireme.Đơn vị kỵ binh người Macedonia duy nhất được chứng thực dưới thời Alexandros là lực lượng chiến hữu kỵ binh, tuy vậy ông đã thành lập một lực lượng chiến hữu kỵ binh hipparchia (tức là một đơn vị gồm vài trăm kỵ binh) mà bao gồm toàn bộ là người Ba Tư trong giai đoạn tiến hành chiến dịch ở châu Á. Khi tiến quân tới châu Á, Alexandros đã mang theo 1,800 kỵ binh từ Macedonia, 1,800 kỵ binh từ Thessaly, 600 kỵ binh từ những vùng đất còn lại của Hy Lạp, và 900 kỵ binh prodromoi từ Thrace. Antipatros đã có thể nhanh chóng xây dựng một lực lượng gồm 600 kỵ binh bản địa người Macedonia để tham gia vào cuộc chiến tranh Lamia khi nó nổ ra vào năm 323 TCN. Những thành viên tinh nhuệ nhất trong lực lượng hypaspistai của Alexandros được gọi là agema, và một thuật ngữ mới cho hypaspistai đã được nảy sinh ra sau trận Gaugamela vào năm 331 TCN: argyraspides (những chiếc khiên bạc). Lực lượng này tiếp tục phụng sự sau giai đoạn triều đại của Alexandros Đại đế và có thể có nguồn gốc châu Á. Về tổng thể, lực lượng bộ binh phalanx sử dụng giáo của ông có số lượng khoảng 12,000 người, 3,000 trong số đó là lực lượng hypaspistai tinh nhuệ và 9,000 là pezhetairoi. Alexandros tiếp tục sử dụng các cung thủ Crete và đưa thêm lực lượng cung thủ bản địa người Macedonia vào quân đội. Sau trận Gaugamela, các cung thủ có gốc Tây Á đã trở nên phổ biến.
Về phần đội quân chiến đấu tầm xa trang bị nhẹ của mình, Philippos II đã tuyển mộ lực lượng đánh thuê là các cung thủ Crete cũng như những lính phóng lao, lính ném đá, và cung thủ người Thrace, Paeonia, và Illyrii. Alexandros tiếp tục sử dụng các cung thủ Crete và đưa thêm lực lượng cung thủ bản địa người Macedonia vào quân đội.
Vương quốc Macedonia
Quân đội Macedonia đã tiếp tục phát triển dưới thời nhà Antigonos. Người ta không rõ liệu có bao nhiêu người đã được chọn làm somatophylakes, có tám người trong lực lượng này vào giai đoạn cuối triều đại của Alexandros Đại đế, trong khi lực lượng hypaspistai dường như đã bị biến thành lực lượng hỗ trợ cho somatophylakes. Tại trận Cynoscephalae vào năm 197 TCN, người Macedonia đã chỉ huy khoảng 16,000 lính giáo phalanx. Đội kỵ binh chiến hữu hoàng gia của Alexandros Đại đế gồm 800 người, bằng số lượng kỵ binh trong đội kỵ binh thần thánh (tiếng Latin: sacra ala; tiếng Hy Lạp: hiera ile) được Philippos V của Macedonia chỉ huy trong cuộc chiến tranh Đồng Minh vào năm 219 TCN. Lực lượng kỵ binh chính quy người Macedonia có số lượng 3,000 người tại Callinicus, nó tách biệt với lực lượng kỵ binh thần thánh và kỵ binh hoàng gia. Trong khi các kỵ binh Macedonia vào thế kỷ thứ 4 chiến đấu mà không cần khiên, người Macedonia sau đó đã bắt chước sử dụng khiên cho kỵ binh từ những người Celt xâm lược vào thập niên 270 TCN, họ sau đó đã định cư ở Galatia, ở khu vực trung tâm Anatolia.Nhờ vào những bản khắc đương thời đến từ Amphipolis và Greia có niên đại lần lượt vào năm 218 và 181 TCN, các nhà sử học đã có thể dựng lại một phần nào đó tổ chức của quân đội nhà Antigonos dưới thời Philippos V. Ít nhất là từ triều đại của Antigonos III Doson trở đi, lực lượng bộ binh tinh nhuệ nhất dưới thời nhà Antigonos là lực lượng peltast, những người lính trang bị nhẹ hơn và cơ động hơn sử dụng những ngọn lao peltai, gươm, và một chiếc khiên đồng nhỏ hơn những chiếc khiên của những người lính phalanx Macedonia. Trong lực lượng peltast, khoảng gần 2,000 người được lựa chọn để phục vụ trong lực lượng tinh nhuệ tiên phong agema, cùng với các peltast khác với số lượng khoảng 3,000. Số lượng peltast biến đổi theo thời kỳ nhưng có lẽ chưa bao giờ vượt quá 5,000 người. Họ đã chiến đấu bên cạnh những người lính phalanx mà lúc này được chia thành các đội quân chalkaspides (khiên đồng) và leukaspides (khiên trắng).Các vị vua nhà Antigonos của Macedonia đã tiếp tục mở rộng và trang bị lực lượng hải quân. Kassandros đã duy trì một hạm đội nhỏ tại Pydna, Demetrios I của Macedonia có một hạm đội ở Pella, và Antigonos II Gonatas, trong thời kỳ đảm nhiệm vai trò như là một vị tướng cho Demetrios ở Hy Lạp, đã sử dụng hạm đội để giữ những pháo đài của người Macedonia ở Demetrias, Chalkis, Piraeus, và Corinth. Hải quân đã được phát triển đáng kể trong cuộc chiến tranh Chremonides (267–261 TCN), điều này cho phép hải quân Macedonia đánh bại hải quân Ai Cập của nhà Ptolemaios trong trận Cos vào năm 255 TCN và Trận Andros vào năm 245 TCN và cho phép mở rộng ảnh hưởng của người Macedonia lên toàn bộ quần đảo Cyclades. Antigonos III Doson đã sử dụng hải quân Macedonia để xâm lược Caria, trong khi Philippos V phái 200 tàu tham gia vào trận Chios vào năm 201 TCN. Hải quân Macedonia đã bị cắt giảm xuống còn 6 tàu theo hiệp ước hòa bình vào năm 197 TCN để kết thúc cuộc chiến tranh Macedonia lần thứ hai với cộng hòa La Mã, mặc dù vậy Perseus của Macedonia đã nhanh chóng tập hợp được một số tàu lemboi vào thời điểm cuộc chiến tranh Macedonia lần thứ ba bùng nổ vào năm 171 TCN.
Quân đội Macedonia đã tiếp tục phát triển dưới thời nhà Antigonos. Người ta không rõ liệu có bao nhiêu người đã được chọn làm somatophylakes, có tám người trong lực lượng này vào giai đoạn cuối triều đại của Alexandros Đại đế, trong khi lực lượng hypaspistai dường như đã bị biến thành lực lượng hỗ trợ cho somatophylakes.
Vương quốc Macedonia
Sau khi được chấp thuận là ngôn ngữ của triều đình dưới triều đại của Philippos II của Macedonia, các tác giả Macedonia cổ đại đã viết những tác phẩm của mình bằng tiếng Hy Lạp Koine, lingua franca vào giai đoạn cuối của thời kỳ Cổ Điển và ở Hy Lạp thời kỳ Hy Lạp hóa. Bằng chứng hiếm hoi bằng văn bản chỉ ra rằng tiếng Macedonia bản địa là một thổ ngữ của tiếng Hy Lạp tương tự như tiếng Hy Lạp Thessaly và tiếng Hy Lạp tây bắc, hoặc là một ngôn ngữ có họ hàng gần gũi với tiếng Hy Lạp. Đa phần các bản khắc còn sót lại từ thời kỳ Macedonia cổ đại đều được viết bằng tiếng Hy Lạp Attic và ngôn ngữ kế tục của nó là tiếng Koine. Tiếng Hy Lạp Attic (và tiếng Koine sau này) là ngôn ngữ thường được sử dụng bởi quân đội Macedonia cổ đại, mặc dù vậy chúng ta biết được rằng Alexandros Đại đế đã từng hét to một mệnh lệnh khẩn cấp bằng tiếng Macedonia cho các cận vệ của ông trong bữa tiệc rượu mà ông giết Cleitos Đen. Tiếng Macedonia đã biến mất trong thời kỳ Hy Lạp hóa hoặc là vào thời kỳ La Mã, và hoàn toàn bị thay thế bằng tiếng Hy Lạp Koine.
Sau khi được chấp thuận là ngôn ngữ của triều đình dưới triều đại của Philippos II của Macedonia, các tác giả Macedonia cổ đại đã viết những tác phẩm của mình bằng tiếng Hy Lạp Koine, lingua franca vào giai đoạn cuối của thời kỳ Cổ Điển và ở Hy Lạp thời kỳ Hy Lạp hóa. Tiếng Macedonia đã biến mất trong thời kỳ Hy Lạp hóa hoặc là vào thời kỳ La Mã, và hoàn toàn bị thay thế bằng tiếng Hy Lạp Koine.
Vương quốc Macedonia
Vào thế kỷ thứ 5 TCN, người Macedonia và những người Hy Lạp ở phía nam ít nhiều đã thờ cúng cùng các vị thần trong hệ thống các vị thần Hy Lạp. Ở Macedonia, các chức vụ chính trị và tôn giáo thường đan xen. Chẳng hạn, người đứng đầu thành phố Amphipolis cũng giữ vai trò là tư tế của thần Asklepios, vị thần y học của người Hy Lạp; một cơ cấu tương tự cũng đã tồn tại ở thành phố Kassandreia, tại đây vị tư tế của giáo phái tôn vinh người sáng lập nên thành phố là Kassandros cũng là người đứng đầu trên danh nghĩa của thành phố. Điện thờ chính của thần Zeus đã được duy trì ở Dion, trong khi một cái khác ở Veria được dành riêng cho Herakles và được vua Demetrios II Aetolikos (trị vì từ 239-229 TCN) bảo trợ. Trong khi đó, các giáo phái ngoại quốc từ Ai Cập đã được triều đình hoàng gia ủng hộ, chẳng hạn như ngôi đền Sarapis tại Thessaloniki. Người Macedonia cũng còn có các mối liên hệ với những giáo phái "quốc tế"; ví dụ như các vị vua Macedonia Philippos III của Macedonia và Alexandros IV của Macedonia đã dâng tặng những lễ vật tạ ơn cho quần thể đền thờ Samothrace của giáo phái thần bí Cabeiri.Trong ba ngôi mộ hoàng gia ở Vergina, các họa sĩ lành nghề đã trang trí những bức tường bằng một cảnh thần thoại về việc thần Hades bắt cóc nữ thần Persephone và các cảnh đi săn hoàng gia, ngoài ra những món đồ tùy táng xa hoa bao gồm vũ khí, áo giáp, các chiếc chén uống rượu, và những đồ vật cá nhân đã được chôn cất cùng với người chết, thi hài của họ được hỏa táng trước khi được chôn cất trong các quan tài vàng. Một số đồ tùy táng và trang trí vốn phổ biến trong các ngôi mộ Macedonia khác, thế nhưng một số đồ vật được tìm thấy ở Vergina rõ ràng lại gắn liền với hoàng gia, bao gồm một vương miện, các đồ vật xa xỉ, và vũ khí cùng áo giáp. Các học giả đã tranh luận về danh tính những người chủ nhân của các ngôi mộ kể từ lúc phát hiện ra tro cốt của họ vào năm 1977–1978, và nghiên cứu mới đây cùng với khám nghiệm pháp y đã đi đến kết luận rằng ít nhất một trong số những người được an táng ở đây là Philippos II. Nằm gần ngôi Mộ thứ nhất là tàn tích còn lại của một heroon, một ngôi đền dành cho các nghi lễ thờ cúng người chết. Vào năm 2014, Ngôi mộ Kasta đã được phát hiện ở ngoài rìa của Amphipolis và là ngôi mộ cổ đại lớn nhất được tìm thấy ở Hy Lạp (tới năm 2017).
Vào thế kỷ thứ 5 TCN, người Macedonia và những người Hy Lạp ở phía nam ít nhiều đã thờ cúng cùng các vị thần trong hệ thống các vị thần Hy Lạp. Ở Macedonia, các chức vụ chính trị và tôn giáo thường đan xen.
Vương quốc Macedonia
Những người Macedonia trẻ tuổi thường được cho là đã tham gia vào việc đi săn và đấu võ mà vốn là một hệ quả phụ sinh ra từ lối sống thay đổi bãi chăn nuôi theo mùa trong quá trình chăn thả các loài gia súc chẳng hạn như cừu và dê, trong khi đó nhân giống ngựa và chăn nuôi bò cũng là những nghề phổ biến khác. Một số người Macedonia lại làm nông, các hoạt động thủy lợi, khai hoang, và trồng trọt hay thường được hỗ trợ bởi chính quyền Macedonia. Nền kinh tế Macedonia và tài chính của nhà nước chủ yếu được hậu thuẫn nhờ vào việc khai thác gỗ và khai thác những kim loại giá trị chẳng hạn như là đồng, sắt, vàng, và bạc. Việc biến đổi những nguyên liệu này thành những sản phẩm hoàn chỉnh và việc bán những sản phẩm đó đã khuyến khích sự phát triển của các trung tâm đô thị và dần dần thay đổi lối sống mộc mạc của người Macedonia trong suốt thế kỷ thứ 5 TCN.Nhà vua Macedonia là một nhân vật chuyên chế đứng đầu chính quyền và xã hội, với quyền lực được cho là vô hạn để quản lý các vấn đề của nhà nước và chính sách công, nhưng ông còn là nhà lãnh đạo của một hê thống cai trị mang tính cá nhân cao độ với những mối quan hệ gần gũi hoặc họ hàng với hetairoi của ông, lực lượng nòng cốt của tầng lớp quý tộc Macedonia. Những quý tộc này chỉ đứng sau nhà vua về quyền lực và đặc quyền, họ nắm giữ các cấp bậc trong chính quyền của nhà vua và giữ vai trò là các sĩ quan chỉ huy trong quân đội.Các vương quốc Hy Lạp hóa kế tục đế quốc của Alexandros thì lại có hệ thống cai trị mang tính quan liêu nhiều hơn với sự di động xã hội lớn hơn dành cho các thành viên của xã hội trong quá trình tìm cách gia nhập vào tầng lớp quý tộc, đặc biệt là ở Ai Cập dưới thời nhà Ptolemaios. Mặc dù được cai trị bởi một vị vua và tầng lớp quý tộc thượng võ, Macedonia dường như không sử dụng nô lệ rộng rãi giống như các quốc gia Hy Lạp cùng thời.
Những người Macedonia trẻ tuổi thường được cho là đã tham gia vào việc đi săn và đấu võ mà vốn là một hệ quả phụ sinh ra từ lối sống thay đổi bãi chăn nuôi theo mùa trong quá trình chăn thả các loài gia súc chẳng hạn như cừu và dê, trong khi đó nhân giống ngựa và chăn nuôi bò cũng là những nghề phổ biến khác. Nền kinh tế Macedonia và tài chính của nhà nước chủ yếu được hậu thuẫn nhờ vào việc khai thác gỗ và khai thác những kim loại giá trị chẳng hạn như là đồng, sắt, vàng, và bạc.
Vương quốc Macedonia
Những tác phẩm nghệ thuật sơn màu của người Macedonia còn tồn tại cho đến ngày nay bao gồm các bức bích họa và tranh tường, ngoài ra còn có các trang trí trên những tác phẩm điêu khắc nghệ thuật chẳng hạn như các bức tượng và phù điêu. Chẳn hạn như, dấu vết của màu sắc vẫn còn tồn tại trên các bức phù điêu chạm nổi thấp của cỗ quan tài Alexandros có niên đại vào thế kỷ thứ 4 TCN. Những bức tranh của người Macedonia đã cho phép các nhà sử học nghiên cứu về kiểu cách quần áo cũng như các tranh bị quân sự được người Macedonia cổ đại sử dụng. Bên cạnh các tác phẩm nghệ thuật bằng kim loại và tranh vẽ, những bức tranh khảm là một hình thức quan trọng khác trong số những tác phẩm nghệ thuật Macedonia còn sót lại. Bức Tranh khảm săn hưu đực ở Pella với các đặc trưng ba chiều và phong cách mơ mộng của nó cho thấy ảnh hưởng rõ ràng từ các tác phẩm nghệ thuật sơn màu và khuynh hướng nghệ thuật Hy Lạp hóa rộng lớn hơn, mặc dù vậy đề tài săn bắn đơn sơ lại phù hợp với thị hiếu của người Macedonia. Tương tự, bức tranh khảm Săn Sư tử của Pella minh họa một cảnh tượng của Alexandros với người chiến hữu của mình là Crateros hoặc đơn giản là một bức tranh minh họa thông thường về sự đi săn tiêu khiển của hoàng gia. Những bức tranh khảm với các chủ đề thần thoại bao gồm cảnh tượng thần Dionysos cưỡi một con báo săn và Helen của Troy bị bắt cóc bởi Theseus, tranh khảm này sử dụng những đặc trưng mơ mộng và cách đánh bóng thực tương tự như các bức tranh của người Macedonia. Những chủ đề phổ biến trong các bức tranh và tranh khảm của người Macedonia bao gồm chiến tranh, cảnh đi săn, và cảnh tấn công tình dục của nam giới (tức là bắt cóc phụ nữ để hãm hiếp hoặc kết hôn); những chủ đề này đôi khi được kết hợp vào trong một tác phẩm duy nhất và có lẽ ngụ ý về một mối liên hệ ẩn dụ.
Những tác phẩm nghệ thuật sơn màu của người Macedonia còn tồn tại cho đến ngày nay bao gồm các bức bích họa và tranh tường, ngoài ra còn có các trang trí trên những tác phẩm điêu khắc nghệ thuật chẳng hạn như các bức tượng và phù điêu. Bên cạnh các tác phẩm nghệ thuật bằng kim loại và tranh vẽ, những bức tranh khảm là một hình thức quan trọng khác trong số những tác phẩm nghệ thuật Macedonia còn sót lại.
Vương quốc Macedonia
Philippos II đã bị ám sát vào năm 336 TCN tại nhà hát ở Aigai, Macedonia, vào giữa lúc đang diễn ra trò chơi và những chương trình biểu diễn kỷ niệm đám cưới của con gái ông, Cleopatra của Macedonia. Alexandros Đại đế được cho là một người có sự ngưỡng mộ lớn lao dành cho cả nhà hát và âm nhạc. Ông đặc biệt yêu thích các vở kịch của những tác giả bi kịch của Athen cổ điển là Aeschylos, Sophocles, và Euripides, những tác phẩm của họ đã góp phần hình thành nên nền giáo dục Hy Lạp thích hợp cho những thần dân phương đông mới của ông bên cạnh việc học tập bằng tiếng Hy Lạp, bao gồm cả các tác phẩm sử thi của Homer. Trong khi ông cùng quân đội của mình đóng quân tại Tyre (ngày nay ở Lebanon), Alexandros đã cho phép các vị tướng của mình vừa đóng vai trò là các quan toà trong các cuộc thi thể thao vừa tham gia biểu diễn trên sân khấu trong các vở bi kịch Hy Lạp. Các diễn viên nổi tiếng vào thời đó là Thessalos và Athenodoros đã biểu diễn tại sự kiện này.Âm nhạc cũng đã được đề cao ở Macedonia. Ngoài agora, gymnasium, sân khấu, các điện thờ tôn giáo và những ngôi đền được dành riêng cho các vị nam và nữ thần Hy Lạp, một trong những dấu hiệu chính của một thành phố Hy Lạp đích thực nằm trong đế quốc của Alexandros Đại đế đó là sự hiện diện của một Odeon dành cho biểu diễn ca kịch. Nó không chỉ hiện diện tại Alexandria ở Ai Cập mà còn ở những thành phố xa xôi như là Ai-Khanoum thuộc Afghanistan ngày nay.
Philippos II đã bị ám sát vào năm 336 TCN tại nhà hát ở Aigai, Macedonia, vào giữa lúc đang diễn ra trò chơi và những chương trình biểu diễn kỷ niệm đám cưới của con gái ông, Cleopatra của Macedonia. Trong khi ông cùng quân đội của mình đóng quân tại Tyre (ngày nay ở Lebanon), Alexandros đã cho phép các vị tướng của mình vừa đóng vai trò là các quan toà trong các cuộc thi thể thao vừa tham gia biểu diễn trên sân khấu trong các vở bi kịch Hy Lạp.
Vương quốc Macedonia
Perdiccas II của Macedonia có thể đã tiếp đón những vị khách là các học giả Hy Lạp Cổ điển nổi tiếng tại triều đình của ông, chẳng hạn như là nhà thơ trữ tình Melanippides và vị thầy thuốc lừng danh Hippocrates, và tác phẩm enkomion viết cho Alexandros I của Macedonia của Pindar có thể đã được sáng tác ngay tại triều đình của ông ta. Archelaos I đã tiếp đón nhiều học giả Hy Lạp, các nghệ sĩ, và những người nổi tiếng tại triều đình của ông hơn những vị tiên vương. Những vị khách danh dự của ông bao gồm họa sĩ Zeuxis, kiến trúc sư Callimachos, nhà thơ Choerilos của Samos, Timotheos của Miletos, và Agathon, cũng như nhà soạn kịch người Athen Euripides. Triết gia Aristotle, người đã học tập tại Học viện Plato của Athens và sáng lập ra trường phái Aristotle, đã chuyển tới Macedonia, người ta nói rằng ông vừa dạy dỗ chàng trai trẻ tuổi Alexandros Đại đế vừa đảm nhận vai trò là một nhà ngoại giao đáng kính cho Philippos II. Trong số những thành viên thuộc đoàn tùy tùng gồm các nghệ sĩ, nhà văn, và triết gia của Alexandros có Pyrrho của Elis, người sáng lập nên chủ nghĩa hoài nghi của Pyrrho, một trường phái triết học hoài nghi. Dưới triều đại Antigonos, Antigonos Gonatas đã xây dựng các mối quan hệ thân mật với Menedemos của Eretria, người sáng lập ra trường phái Eretria của triết học, và Zenon, người sáng lập nên chủ nghĩa khắc kỷ.Liên quan đến việc chép sử của người Hy Lạp thời kỳ đầu và việc chép sử của người La Mã sau này, Felix Jacoby đã xác định được có thể có đến 13 nhà sử học đã viết về Macedonia trong tác phẩm Fragmente der griechischen Historiker của ông. Ngoài các ghi chép của Herodotus và Thucydides, những tác phẩm được Jacoby sưu tập chỉ là những đoạn rời rạc, trong khi những tác phẩm khác đã bị mất hoàn toàn, chẳng hạn như là lịch sử cuộc chiến tranh Illyria của Perdiccas III do Antipatros viết. Những nhà sử học người Macedonia là Marsyas của Pella và Marsyas của Philippi đã viết các tác phẩm lịch sử của Macedonia, vị vua nhà Ptolemaios là Ptolemaios I Soter còn tác giả của một tác phẩm lịch sử về Alexandros, và Hieronymos của Cardia đã viết một tác phẩm lịch sử về những vị vua kế tục Alexandros. Sau chiến dịch Ấn Độ của Alexandros Đại đế, vị tướng người Macedonia là Nearchos đã viết một tác phẩm về chuyến du hành của ông từ cửa sông Ấn tới Vịnh Ba Tư. Sử gia người Macedonia Crateros đã xuất bản một tập hợp các nghị định được thi hành bởi hội đồng nhân dân của nền dân chủ Athen, có vẻ là trong khi ông theo học tại ngôi trường của Aristotle. Philippos V của Macedonia đã sở hữu các bản thảo của tác phẩm lịch sử do Theopompos viết về Philippos II, nó đã được các học giả triều đình của ông thu thập và phổ biến bằng các bản sao sau này.
Perdiccas II của Macedonia có thể đã tiếp đón những vị khách là các học giả Hy Lạp Cổ điển nổi tiếng tại triều đình của ông, chẳng hạn như là nhà thơ trữ tình Melanippides và vị thầy thuốc lừng danh Hippocrates, và tác phẩm enkomion viết cho Alexandros I của Macedonia của Pindar có thể đã được sáng tác ngay tại triều đình của ông ta. Philippos V của Macedonia đã sở hữu các bản thảo của tác phẩm lịch sử do Theopompos viết về Philippos II, nó đã được các học giả triều đình của ông thu thập và phổ biến bằng các bản sao sau này.
Vương quốc Macedonia
Khi Alexandros I của Macedonia thỉnh cầu để được tranh tài trong cuộc thi chạy của thế vận hội Olympia cổ đại, ban đầu những người tổ chức cuộc thi đã từ chối lời thỉnh cầu của ông, họ giải thích rằng chỉ có người Hy Lạp mới được phép tranh tài. Tuy nhiên, Alexandros I đã đưa ra bằng chứng đó là một gia phả hoàng gia của nhà Argead chứng minh dòng dõi từ Temenos của Argros cổ đại, một động thái mà cuối cùng đã thuyết phục được các giám khảo Hellanodikai của thế vận hội Olympia về nguồn gốc Hy Lạp của ông và thẩm quyền để tranh tài. Vào cuối thế kỷ thứ 5 TCN, vị vua người Macedonia Archelaos I đã được trao thưởng vòng hoa ô liu ở cả Olympia và Delphi (tại thế vận hội Pythia) vì giành chiến thắng trong các cuộc đua xe ngựa Philippos II đã nhận được tin báo về việc con ngựa của ông đã giành chiến thắng tại thế vận hội Olympia (trong một cuộc đua ngựa hoặc là đua xe ngựa) vào đúng ngày người con trai Alexandros Đại đế của ông được sinh ra, vào ngày 19 hoặc 20 tháng 7 năm 356 TCN. Những người Macedonia không thuộc hoàng gia cũng đã tranh tài và giành chiến thắng trong các cuộc thi đấu khác nhau tại thế vận hội Olympia vào thế kỷ thứ 4 TCN. Ngoài các cuộc thi văn chương, Alexandros đã tổ chức các cuộc thi thi âm nhạc và thể thao trên khắp đế quốc của ông.
Khi Alexandros I của Macedonia thỉnh cầu để được tranh tài trong cuộc thi chạy của thế vận hội Olympia cổ đại, ban đầu những người tổ chức cuộc thi đã từ chối lời thỉnh cầu của ông, họ giải thích rằng chỉ có người Hy Lạp mới được phép tranh tài. Ngoài các cuộc thi văn chương, Alexandros đã tổ chức các cuộc thi thi âm nhạc và thể thao trên khắp đế quốc của ông.
Vương quốc Macedonia
Macedonia cổ đại chỉ sản xuất ra một vài loại thực phẩm và đồ uống hảo hạng mà được đánh giá rất cao ở những nơi khác trong thế giới Hy Lạp, chúng bao gồm cá chình từ vịnh Strymon và đặc biệt là rượu vang được sản xuất ở Chalcidice. Việc sử dụng bánh mì dẹt như là một đĩa đựng thức ăn được biết đến sớm nhất là được thực hiện ở Macedonia vào thế kỷ thứ 3 TCN, mà có lẽ đã ảnh hưởng đến loại bánh mì mâm của thời kỳ Trung Cổ.Gia súc và dê đã được tiêu thụ, mặc dù vậy lại không có ghi chú nào về loại pho mát núi của người Macedonia trong văn chương cho tới tận thời kỳ Trung Cổ. Tác giả hài kịch Menandros đã viết rằng thói quen ăn uống của người Macedonia đã thâm nhập vào giới thượng lưu của Athen; ví dụ như, việc đưa thịt vào món tráng miệng của một bữa ăn. Người Macedonia dường như cũng đã đưa món mattye vào ẩm thực Athen, một món ăn thường được làm từ thịt gà hoặc các loại thịt được tẩm gia vị, muối, và nước xốt, nó được ăn trong khi uống rượu vang. Món ăn đặc biệt này đã bị chế giễu và gán ghép với sự phóng túng và say xỉn trong một vở kịch của nhà thơ trào phúng người Athen Alexis kể về sự suy đồi đạo đức của người Athen dưới thời Demetrios I của Macedonia.Tiệc rượu đêm ở vương quốc Macedonia và những vùng đất của người Hy Lạp là một bữa tiệc dành cho tầng lớp quý tộc và giai cấp đặc quyền, một dịp để tiệc tùng, chè chén, tiêu khiển, và đôi khi là thảo luận về triết học. Các hetairoi, những thành viên chủ chốt của chế độ quý tộc Macedonia, được cho là sẽ tham gia vào các bữa tiệc như vậy cùng với nhà vua của mình. Họ cũng được cho là sẽ tháp tùng nhà vua trong các chuyến đi săn hoàng gia để kiếm thịt thú săn cũng như là để giải trí.
Macedonia cổ đại chỉ sản xuất ra một vài loại thực phẩm và đồ uống hảo hạng mà được đánh giá rất cao ở những nơi khác trong thế giới Hy Lạp, chúng bao gồm cá chình từ vịnh Strymon và đặc biệt là rượu vang được sản xuất ở Chalcidice. Tác giả hài kịch Menandros đã viết rằng thói quen ăn uống của người Macedonia đã thâm nhập vào giới thượng lưu của Athen; ví dụ như, việc đưa thịt vào món tráng miệng của một bữa ăn.
Vương quốc Macedonia
Có một số bất đồng cả giữa các học giả cổ đại và hiện đại về bản sắc dân tộc của người Macedonia cổ đại. Ernst Badian nhận thấy rằng gần như toàn bộ các tài liệu tham khảo còn tồn tại tới ngày nay về sự tương phản và khác biệt giữa người Hy Lạp và Macedonia tồn tại trong các bài viết diễn văn của Arrianus, một người sống vào thời đế quốc La Mã, khi đó bất kỳ khái niệm nào về sự khác biệt chủng tộc giữa người Macedonia và những người Hy Lạp khác đều khó hiểu. Hatzopoulos lập luận rằng không có sự khác biệt thực sự nào về mặt dân tộc nào giữa người Macedonia và Hy Lạp, chỉ có duy nhất một sự khác biệt về mặt chính trị được tạo ra sau khi liên minh Corinth được tạo thành vào năm 337 TCN (mà được lãnh đạo bởi Macedonia thông qua việc bầu chọn Philippos II là hegemon của liên minh, trong khi ông không phải là một thành viên của liên minh này),N. G. L. Hammond khẳng định rằng các quan điểm cổ đại phân biệt bản sắc dân tộc của Macedonia với phần còn lại của thế giới nói tiếng Hy Lạp sẽ được xem là một sự biểu hiện xung đột giữa hai hệ thống chính trị khác nhau: hệ thống dân chủ của các thành bang (ví dụ như Athens) chống lại chế độ quân chủ (Macedonia). Các học giả khác mà cũng tán thành quan điểm cho rằng sự khác biệt giữa người Macedonia và Hy Lạp là về chính trị chứ chứ không phải là sự khác biệt về chủng tộc bao gồm Michael B. Sakellariou, Malcolm Errington, và Craige B. Champion.Anson lập luận rằng một số tác giả Hy Lạp đã diễn đạt những quan niệm phức tạp hoặc thậm chí luôn thay đổi và mơ hồ về bản sắc dân tộc chính xác của người Macedonia, vốn bị một số học giả chẳng hạn như Aristotle trong tác phẩm Chính trị của ông xem là người man rợ và những người khác cho là bán Hy Lạp hoặc là người Hy Lạp. Roger D. Woodard khẳng định rằng ngoài việc vẫn còn không chắc chắn về việc phân loại chính xác tiếng Macedonia và mối quan hệ của nó với tiếng Hy Lạp, các tác giả cổ đại vẫn còn đưa ra những ý kiến trái ngược nhau về người Macedonia.Simon Hornblower chỉ rõ bản sắc Hy Lạp của người Macedonia, xem xét đến nguồn gốc, ngôn ngữ, sự thờ cúng và trang phục của họ. Bất kỳ nhận thức nào trước đây về sự khác biệt dân tộc giữa người Hy Lạp và Macedonia đã phai mờ dần vào năm 148 TCN không lâu sau khi người La Mã chính phục Macedonia và sau đó là phần còn lại của Hy Lạp với thất bại của liên minh Achaea trước Cộng hòa La Mã tại trận Corinth.
Có một số bất đồng cả giữa các học giả cổ đại và hiện đại về bản sắc dân tộc của người Macedonia cổ đại. Roger D. Woodard khẳng định rằng ngoài việc vẫn còn không chắc chắn về việc phân loại chính xác tiếng Macedonia và mối quan hệ của nó với tiếng Hy Lạp, các tác giả cổ đại vẫn còn đưa ra những ý kiến trái ngược nhau về người Macedonia.Simon Hornblower chỉ rõ bản sắc Hy Lạp của người Macedonia, xem xét đến nguồn gốc, ngôn ngữ, sự thờ cúng và trang phục của họ.
Vương quốc Macedonia
Mặc dù đã sử dụng một sự pha trộn từ các hình mẫu và phong cách khác nhau đến từ phần còn lại của Hy Lạp, kiến trúc của người Macedonia lại không đại diện cho một phong cách độc đáo hoặc khác biệt nào xuất phát từ các kiến trúc Hy Lạp cổ đại khác. Trong số các thức cột cổ điển, các kiến trúc sư người Macedonia thích dùng thức cột Ionic, đặc biệt là trong các sân nhỏ có hàng cột bao quanh của những ngôi nhà riêng. Có một số ví dụ còn tồn tại cho tới ngày nay về kiến trúc cung điện của người Macedonia mặc dù chúng hiện ở trong tình trạng đổ nát bao gồm một cung điện tại địa điểm kinh đô Pella, dinh thự mùa hè ở Vergina gần cố đô Aigai, và dinh thự hoàng gia tại Demetrias gần Volos ngày nay. Tại Vergina, tàn tích của ba phòng tiệc lớn với các sàn lát bằng đá cẩm thạch (bị bao phủ bởi những mảnh vụn mái ngói) với kích thước mặt bằng sàn đo được khoảng 16.7 x 17.6 m (54.8 x 57.7 ft), có lẽ cho thấy những ví dụ sớm nhất về các giàn mái hình tam giác đồ sộ, chúng được cho là có niên đại là vào giai đoạn trước triều đại của Antigonos II Gonatas hoặc thậm chí là vào giai đoạn bắt đầu thời kỳ Hy Lạp hóa. Kiến trúc của người Macedonia sau này còn có thêm các vòm và mái vòm. Các cung điện ở cả Vergina và Demetrias đều có các bức tường xây từ loại gạch bùn được phơi khô, ngoài ra cung điện ở Demetrias lại có bốn tháp ở các góc và nằm vòng quanh một sân trong nằm ở trung tâm theo phong cách của một dinh thự kiên cố thích hợp cho một vị vua hoặc ít nhất là một vị tổng đốc quân sự.Các vị vua Macedonia còn trài trợ cho các công trình kiến trúc nằm ngoài Macedonia. Chẳng hạn, sau chiến thắng tại trận Chaeronea (338 TCN), Philippos II đã xây dựng một công trình tưởng niệm hình tròn tại Olympia, nó được gọi là Philippeion, ông đã cho trang trí bên trong nó bằng những bức tượng miêu tả bản thân mình, cha mẹ của ông là Amyntas III của Macedonia và Eurydice I của Macedonia, người vợ của ông là Olympias, và người con trai của ông, Alexandros Đại đế.
Mặc dù đã sử dụng một sự pha trộn từ các hình mẫu và phong cách khác nhau đến từ phần còn lại của Hy Lạp, kiến trúc của người Macedonia lại không đại diện cho một phong cách độc đáo hoặc khác biệt nào xuất phát từ các kiến trúc Hy Lạp cổ đại khác. Các cung điện ở cả Vergina và Demetrias đều có các bức tường xây từ loại gạch bùn được phơi khô, ngoài ra cung điện ở Demetrias lại có bốn tháp ở các góc và nằm vòng quanh một sân trong nằm ở trung tâm theo phong cách của một dinh thự kiên cố thích hợp cho một vị vua hoặc ít nhất là một vị tổng đốc quân sự.Các vị vua Macedonia còn trài trợ cho các công trình kiến trúc nằm ngoài Macedonia.
Vương quốc Macedonia
Vào thời kỳ Hy Lạp hóa, việc các quốc gia Hy Lạp tài trợ cho sự phát triển và phổ biến các loại vũ khí công thành vặn xoắn mạnh mẽ hơn, các tàu hải quân và những kiểu dáng tiêu chuẩn cho vũ khí và áo giáp đã trở nên phổ biến hơn bao giờ hết. Dưới thời Philippos II và Alexandros Đại đế, nhiều cải tiến đã được thực hiện đối với pháo công thành chẳng hạn như là các ballista bắn mũi nỏ và các vũ khí công thành chẳng hạn như là những tháp công thành khổng lồ. E. W. Marsden và M. Y. Treister cho rằng vị vua Macedonia Antigonos I Monophthalmos và người kế vị của ông Demetrios I của Macedonia đã có những cỗ pháo công thành mạnh nhất thế giới Hy Lạp hóa vào cuối thế kỷ thứ 4 TCN. Cuộc vây hãm Salamis, Cyprus, vào năm 306 TCN đã đòi hỏi phải xây dựng những vũ khí công thành lớn và triệu tập những người thợ lành nghề đến từ nhiều vùng của Tây Á. Demetrios I đã xây dựng một tháp công thành cho cuộc vây hãm Rhodes (305–304 TCN) của người Macedonia, nó cần trên 3000 binh sĩ để vận hành và được thiết kế cao 9 tầng. Phần bệ của nó có diện tích 4.300 foot vuông (399 mét vuông), 8 bánh xe có rãnh được điều khiển theo hai hướng bởi các trục xoay, ba mặt của nó được bao phủ bởi các tấm thép để bảo vệ chúng khỏi lửa, và các cửa sổ được mở một cách cơ học (che chắn bằng những màn che bằng vải nhồi len để làm giảm sự va đập từ những viên đạn của các ballista) có kích thước khác nhau để phù hợp với việc bắn các loại tên từ mũi tên cho tới những mũi nỏ lớn hơn.Trong cuộc vây hãm Echinus của Philippos V của Macedonia vào năm 211 TCN, đạo quân vây hãm đã đào các đường hầm dưới lòng đất để bảo vệ những người lính và công binh khi họ quay về và khi từ trại quay lại công sự vây hãm. Họ sử dụng hai tòa tháp công thành nối với nhau bằng một đoạn tường vách tạm thời bằng liễu gai, hai tòa tháp được trang bị máy bắn tên (ballista) và mái che để bảo vệ phần trước phiến gỗ công thành. Bất chấp tiếng tăm ban đầu của Macedonia như là một người dẫn đầu trong công nghệ vây hãm, Alexandria ở Ai Cập đã trở thành trung tâm cho những cải tiến về công nghệ đối với máy bắn đá vào thế kỷ thứ 3 TCN, như được chứng minh bởi các tác phẩm của Philo của Alexandria.
Vào thời kỳ Hy Lạp hóa, việc các quốc gia Hy Lạp tài trợ cho sự phát triển và phổ biến các loại vũ khí công thành vặn xoắn mạnh mẽ hơn, các tàu hải quân và những kiểu dáng tiêu chuẩn cho vũ khí và áo giáp đã trở nên phổ biến hơn bao giờ hết. Họ sử dụng hai tòa tháp công thành nối với nhau bằng một đoạn tường vách tạm thời bằng liễu gai, hai tòa tháp được trang bị máy bắn tên (ballista) và mái che để bảo vệ phần trước phiến gỗ công thành.
Vương quốc Macedonia
Việc đúc các đồng xu bằng bạc đã bắt đầu dưới triều đại của Alexandros I như là một cách thức để chi trả cho các phí tổn của hoàng gia. Archelaos I đã tăng hàm lượng bạc trong các đồng xu của ông cũng như đúc thêm các đồng xu bằng đồng để thúc đẩy thương mại trong nước và với nước ngoài. Việc đúc tiền xu đã gia tăng đáng kể dưới các triều đại của Philippos II và Alexandros Đại đế, đặc biệt là sau khi nguồn thu của nhà nước đã được gia tăng nhờ việc chiếm được vùng đồi Pangaion. Trong thời kỳ Hy Lạp hóa, các triều đại của Macedonia, nhà Ptolemaios ở Ai Cập, và vương quốc Pergamon đã độc quyền kiểm soát hoàn toàn đối với các hoạt động khai thác mỏ, đa phần là để đảm bảo kinh phí cho quân đội của họ. Vào giai đoạn cuối của những cuộc chinh phạt của Alexandros Đại đế, gần 30 xưởng đúc tiền kéo dài từ Macedonia tới Babylon đã sản xuất ra những đồng tiền xu tiêu chuẩn. Quyền đúc tiền được chia sẻ bởi chính quyền trung ương và một số chính quyền địa phương, tức là các chính quyền tự trị của các thành phố Thessaloniki, Pella, và Amphipolis nằm trong khối thịnh vượng chung của người Macedonia. Người Macedonia cũng là những người đầu tiên phát hành các đồng tiền khác nhau dành cho lưu hành nội bộ và với bên ngoài.Nguồn thu của nhà nước cũng còn được gia tăng thông qua việc thu nông sản từ những vùng đất trồng trọt, gỗ từ các cánh rừng, và thuế đối với những hàng nhập khẩu và xuất khẩu tại các bến cảng. Một số mỏ, các lùm cây, những vùng đất nông nghiệp, và các cánh rừng thuộc về nhà nước Macedonia đã được nhà vua Macedonia khai thác, mặc dù vậy chúng thường được cho thuê như là tài sản hoặc được trao như là tiền trợ cấp dành cho các thành viên thuộc giới quý tộc chẳng hạn như là các hetairoi và philoi. Thuế quan bắt buộc đối với những hàng hóa lưu thông đến và ra khỏi các cảng biển của người Macedonia đã tồn tại ít nhất là từ triều đại của Amyntas III, và Callistratos của Aphidnae (mất khoảng năm 350 TCN) đã giúp đỡ Perdiccas III tăng gấp đôi thu nhập hàng năm của vương quốc từ thuế hải quan, từ 20 lên thành 40 talent.Sau khi đánh bại Perseus tại Pydna vào năm 168 TCN, Viện nguyên lão La Mã đã cho phép mở lại các mỏ sắt và đồng, nhưng lại cấm khai thác vàng và bạc đối với bốn nhà nước chư hầu mới được thiết lập thay thế cho chế độ quân chủ ở Macedonia. Điều này có thể là do Viện nguyên lão lo ngại rằng sự giàu có vật chất thu được từ các hoạt động khai thác vàng và bạc sẽ cho phép người Macedonia tài trợ cho một cuộc khởi nghĩa vũ trang. Người La Mã có lẽ cũng đã quan tâm đến việc ngăn chặn sự lạm phát gây ra bởi một sự gia tăng cung ứng tiền tệ đến từ sự khai thác bạc của người Macedonia. Người Macedonia đã tiếp tục đúc các đồng tiền xu bằng bạc trong khoảng thời gian từ năm 167 đến năm 148 TCN (tức là ngay trước khi thiết lập tỉnh Macedonia của La Mã), và khi người La Mã dỡ bỏ lệnh cấm người Macedonia khai thác bạc vào năm 158 TCN, điều đó có thể chỉ đơn giản là đã phản ánh thực trạng địa phương vì hoạt động trái phép này đã tiếp diễn bất chấp sắc lệnh của Viện nguyên lão.
Việc đúc các đồng xu bằng bạc đã bắt đầu dưới triều đại của Alexandros I như là một cách thức để chi trả cho các phí tổn của hoàng gia. Người La Mã có lẽ cũng đã quan tâm đến việc ngăn chặn sự lạm phát gây ra bởi một sự gia tăng cung ứng tiền tệ đến từ sự khai thác bạc của người Macedonia.
Vương quốc Macedonia
Các vị vua Macedonia của các quốc gia kế tục như nhà Ptolemaios và Seleukos đã chấp nhận những người đến từ tất cả mọi nơi trong thế giới Hy Lạp như là các chiến hữu hetairoi của họ và không xây dựng một bản sắc dân tộc như nhà Antigonos. Các học giả hiện đại đã tập trung vào việc những vương quốc Hy Lạp hóa kế tục này đã bị ảnh hưởng bởi nguồn gốc Macedonia của họ nhiều hơn như thế nào so với các truyền thống của người phương đông hoặc người Hy Lạp miền nam. Trong khi xã hội Sparta vẫn chủ yếu giống như một hòn đảo và Athens tiếp tục đặt ra những giới hạn nghiêm ngặt đối với việc có được quyền công dân, các thành phố Hy Lạp hóa toàn cầu ở châu Á và đông bắc châu Phi đã có một sự tương đồng nhiều hơn với các thành phố của người Macedonia và chứa đựng một hỗn hợp dân cư bao gồm những cư dân bản địa, những người định cư gốc Hy Lạp và Macedonia, các cư dân phương Đông đã Hy Lạp hóa và nói tiếng Hy Lạp, nhiều người trong số họ là thành quả của các cuộc hôn nhân khác chủng tộc giữa người Hy Lạp và cư dân bản địa.Sự thần thánh hóa các vị vua người Macedonia có lẽ đã bắt đầu từ cái chết của Philippos II, nhưng người con trai của ông ta là Alexandros Đại đế rõ ràng mới là người đã tự xưng là một vị vị thần sống. Sau chuyến viếng thăm của ông tới chỗ nhà tiên tri ở Didyma vào năm 334 TCN mà đã ám chỉ về sự thần thánh của ông, Alexandros đã tới thăm nhà tiên tri của Zeus Ammon — cách gọi của người Hy Lạp đối với vị thần Ai Cập Amun-Ra — tại ốc đảo Siwa thuộc sa mạc Libya vào năm 332 TCN để xác nhận địa vị thần thánh của ông. Mặc dù hai đế quốc Ptolemaios và Seleukos vẫn duy trì những sự thờ cúng tổ tiên của họ và phong thần các vị vua của mình, các vị vua đã không được thờ phụng ở vương quốc Macedonia. Trong khi Zeus Ammon đã được người Hy Lạp biết đến trước triều đại của Alexandros, đặc biệt là tại thuộc địa của người Hy Lạp ở Cyrene, Libya, Alexandros là vị vua người Macedonia đầu tiên bảo trợ cho các vị thần và tầng lớp tư tế của Ai Cập, Ba Tư, và Babylon, tăng cường sự hợp nhất giữa các tín ngưỡng tôn giáo Cận Đông với của người Hy Lạp. Tiếp sau triều đại của ông, sự thờ cúng thần Isis đã truyền bá dần dần khắp thế giới Hy Lạp hóa và La Mã, trong khi đó tín ngưỡng thờ cúng vị thần Ai Cập Sarapis đã dần dần được Hy Lạp hóa bởi các vị vua nhà Ptolemaios của Ai Cập trước khi sự thờ cúng của vị thần này được truyền bá tới Macedonia và khu vực Aegea. Nhà sử học người Đức Johann Gustav Droysen lập luận rằng các cuộc chinh phục của Alexandros Đại đế và việc tạo dựng nên thế giới Hy Lạp hóa đã cho phép Thiên chúa giáo phát triển và được chính thức hóa trong thời kỳ La Mã.
Các vị vua Macedonia của các quốc gia kế tục như nhà Ptolemaios và Seleukos đã chấp nhận những người đến từ tất cả mọi nơi trong thế giới Hy Lạp như là các chiến hữu hetairoi của họ và không xây dựng một bản sắc dân tộc như nhà Antigonos. Tiếp sau triều đại của ông, sự thờ cúng thần Isis đã truyền bá dần dần khắp thế giới Hy Lạp hóa và La Mã, trong khi đó tín ngưỡng thờ cúng vị thần Ai Cập Sarapis đã dần dần được Hy Lạp hóa bởi các vị vua nhà Ptolemaios của Ai Cập trước khi sự thờ cúng của vị thần này được truyền bá tới Macedonia và khu vực Aegea.
Tượng nữ thần tự do
Kiến trúc sư Bartholdi lấy cảm hứng từ một lời nói của chính trị gia kiêm giáo sư luật học người Pháp, Édouard René de Laboulaye vào năm 1865 rằng bất cứ tượng đài nào dựng lên để đánh dấu ngày độc lập của Hoa Kỳ thì cũng đáng là một dự án chung của cả hai dân tộc Pháp và Mỹ. Vì tình hình chính trị xáo trộn tại Pháp, công trình bị hoãn cho đến đầu thập niên 1870. Năm 1875, Laboulaye đề nghị rằng Pháp sẽ tài trợ việc đúc tượng còn Mỹ sẽ xây phần bệ và tìm vị trí đặt tượng. Bartholdi hoàn thành phần đầu tượng và cánh tay cầm đuốc trước khi bức tượng được thiết kế toàn bộ. Các bộ phận của tượng được trưng bày triển lãm cho công chúng xem trong nhiều đợt triển lãm quốc tế. Riêng cánh tay phải cầm ngọn đuốc được trưng bày tại Công viên Quảng trường Madison của Thành phố New York từ năm 1876 đến năm 1882. Công việc xúc tiến gây quỹ gặp nhiều khó khăn, đặc biệt về phía người Mỹ. Năm 1885 công việc xây dựng bệ tượng bị đe dọa đình chỉ vì thiếu ngân sách. Joseph Pulitzer, chủ bút của nhật báo New York World, phải khởi động cuộc vận động quyên góp để hoàn thành dự án. Chiến dịch vận động của ông đã thu hút trên 120.000 người ủng hộ. Trong số người góp tiền, đa số góp dưới một đô la mỗi người.
Kiến trúc sư Bartholdi lấy cảm hứng từ một lời nói của chính trị gia kiêm giáo sư luật học người Pháp, Édouard René de Laboulaye vào năm 1865 rằng bất cứ tượng đài nào dựng lên để đánh dấu ngày độc lập của Hoa Kỳ thì cũng đáng là một dự án chung của cả hai dân tộc Pháp và Mỹ. Bartholdi hoàn thành phần đầu tượng và cánh tay cầm đuốc trước khi bức tượng được thiết kế toàn bộ.
Tượng nữ thần tự do
Bức tượng được xây dựng tại Pháp, xếp trong các thùng lớn và vận chuyển bằng tàu biển, rồi sau đó được ráp vào bệ tượng nằm trên hòn đảo vốn xưa kia có tên là Đảo Bedloe (nay là Đảo Liberty). Để đánh dấu việc hoàn thành bức tượng, một cuộc diễn hành lớn diễn ra tại Thành phố New York. Đó cũng là lần đầu tiên công chúng chứng kiến hoa giấy tung xuống đường phố như tuyết rơi. Buổi lễ khánh thành do Tổng thống Grover Cleveland làm chủ tọa.
Bức tượng được xây dựng tại Pháp, xếp trong các thùng lớn và vận chuyển bằng tàu biển, rồi sau đó được ráp vào bệ tượng nằm trên hòn đảo vốn xưa kia có tên là Đảo Bedloe (nay là Đảo Liberty). Buổi lễ khánh thành do Tổng thống Grover Cleveland làm chủ tọa.
Tượng nữ thần tự do
Bức tượng phải đóng cửa để tu sửa lớn vào năm 1938. Vào đầu thập niên 1980, vì có dấu hiệu hư hại, tượng lại trải qua một đợt đại trùng tu nữa. Trong thời gian tu sửa từ năm 1984 đến 1986, ngọn đuốc và phần lớn cấu trúc bên trong cũng được thay thế. Sau vụ tấn công ngày 11 tháng 9 năm 2001, Tượng Nữ thần Tự do bị đóng cửa vì lý do an ninh; bệ tượng mở cửa lại vào năm 2004 và toàn phần tượng lại đón khách vào xem kể từ năm 2009 nhưng với số lượng hạn chế được phép đi lên đến phần mũ miện. Nhà chức trách dự trù đóng cửa khoảng một năm, bắt đầu từ cuối năm 2011 để trang bị thêm một cầu thang phụ. Lối vào ban công bao quanh ngọn đuốc bị ngăn lại vì lý do an toàn kể từ năm 1916.
Bức tượng phải đóng cửa để tu sửa lớn vào năm 1938. Trong thời gian tu sửa từ năm 1984 đến 1986, ngọn đuốc và phần lớn cấu trúc bên trong cũng được thay thế.
Tượng nữ thần tự do
Lời phát biểu của Laboulaye không có dụng ý khởi xướng dự án nhưng đã gây nguồn cảm hứng cho một điêu khắc gia trẻ, Frédéric Bartholdi, người có mặt trong buổi ăn tối hôm đó. Vì chế độ độc tài chuyên chế của Napoleon III lúc bấy giờ, Bartholdi không thể thực hiện ý tưởng đó ngoài việc bàn luận với Laboulaye. Trái lại, Bartholdi tiếp xúc với Ismail Pasha và Khedive (quốc vương) của Ai Cập để đệ trình dự án xây một ngọn hải đăng khổng lồ có hình dạng một nữ nông dân cổ Ai Cập, vận áo choàng và tay cầm một ngọn đuốc đưa lên cao. Tượng sẽ đặt ở Cảng Said ngay lối vào phía Bắc Kênh đào Suez. Hình vẽ phác thảo và hình mẫu được thực hiện như dự định, nhưng ngọn hải đăng này không được thực hiện.
Lời phát biểu của Laboulaye không có dụng ý khởi xướng dự án nhưng đã gây nguồn cảm hứng cho một điêu khắc gia trẻ, Frédéric Bartholdi, người có mặt trong buổi ăn tối hôm đó. Trái lại, Bartholdi tiếp xúc với Ismail Pasha và Khedive (quốc vương) của Ai Cập để đệ trình dự án xây một ngọn hải đăng khổng lồ có hình dạng một nữ nông dân cổ Ai Cập, vận áo choàng và tay cầm một ngọn đuốc đưa lên cao.
Tượng nữ thần tự do
Trong lịch sử thì trước kia có một bức tượng cổ điển dựng lên bên bờ Kênh đào Suez; đó là Tượng thần Mặt Trời ở Rhodes, một pho tượng đồng tạc hình thần mặt trời Hy Lạp, Helios. Bức tượng này tương truyền cao trên 30 mét (100 ft), dáng đứng ngay lối vào cửa biển, tay cầm một ngọn đèn để hướng dẫn tàu thuyền.Chiến tranh Pháp-Phổ sau đó tiếp tục trì hoãn dự án xây bức tượng cho nước Mỹ. Bartholdi phải nhập ngũ, phục vụ với cấp bậc thiếu tá địa phương quân. Trong cuộc chiến tranh này, Hoàng đế Napoleon III bị bắt và truất ngôi. Tỉnh Alsace, quê hương của Bartholdi bị nhượng cho Phổ còn ở Pháp, một nền cộng hòa mới, cấp tiến hơn hình thành.Từ lâu Bartholdi từng ấp ủ ý định viếng thăm Hoa Kỳ. Sau khi bàn bạc với Laboulaye, ông cho là thời điểm đã đến nên hỏi ý chính giới Mỹ. Tháng 6 năm 1871, Bartholdi vượt Đại Tây Dương với lá thư giới thiệu do Laboulaye ký. Khi đến Thành phố New York, Bartholdi chọn đảo Bedloe làm nơi đặt tượng vì nhận thấy đây là địa điểm lý tưởng khi tàu thuyền ra vào hải cảng New York đều sẽ đi ngang qua hòn đảo này. Ông càng hứng khởi khi biết rằng hòn đảo này thuộc chính phủ liên bang Hoa Kỳ vì trước kia Nghị viện Tiểu bang New York đã nhượng đảo cho chính phủ Hoa Kỳ từ năm 1800 để phòng thủ bến cảng. Bartholdi kết luận trong lá thư gởi cho Laboulaye, "đất này là đất chung của tất cả các tiểu bang." Ngoài các cuộc gặp mặt với nhiều thân hào New York, Bartholdi còn đến thăm Tổng thống Ulysses Simpson Grant nhưng Grant cho rằng trưng dụng đảo Bedloe làm nơi dựng tượng là chuyện rất khó.Bartholdi đi khắp từ đông sang tây Hoa Kỳ hai lần bằng xe lửa, gặp mặt nhiều người Mỹ ủng hộ dự án. Tuy nhiên, Bartholdi cho rằng công luận ở cả Pháp lẫn Mỹ vẫn chưa đón nhận dự án một cách nồng nhiệt bèn cùng Laboulaye hoãn chờ một thời gian, đợi ngày mở cuộc vận động công chúng.
Trong lịch sử thì trước kia có một bức tượng cổ điển dựng lên bên bờ Kênh đào Suez; đó là Tượng thần Mặt Trời ở Rhodes, một pho tượng đồng tạc hình thần mặt trời Hy Lạp, Helios. Bức tượng này tương truyền cao trên 30 mét (100 ft), dáng đứng ngay lối vào cửa biển, tay cầm một ngọn đèn để hướng dẫn tàu thuyền.Chiến tranh Pháp-Phổ sau đó tiếp tục trì hoãn dự án xây bức tượng cho nước Mỹ.
Tượng nữ thần tự do
Bartholdi làm mô hình đầu tiên theo phác thảo của năm 1870. Theo người con của họa sĩ Mỹ John La Farge (bạn với Bartholdi) thì nhà điêu khắc Bartholdi cho ra đời phác họa đầu tiên nhân chuyến viếng thăm phòng tranh của La Farge ở Rhode Island, Hoa Kỳ. Bartholdi tiếp tục phát triển phác thảo này sau khi quay về Pháp. Khi về Pháp ông thực hiện một số tác phẩm điêu khắc làm khơi dậy lòng yêu nước của người Pháp dù bại trận sau chiến tranh Pháp-Phổ. Một trong số những bức tượng của thời kỳ đó là Sư tử Belfort, một tác phẩm điêu khắc tạc bằng sa thạch đặt ở chân pháo đài Belfort. Nơi này trong cuộc chiến đã cầm cự suốt hơn ba tháng cuộc vây hãm của quân Phổ. Con sư tử bất khuất này có chiều dài 22 mét (73 ft) và cao hơn 10 mét, biểu hiện thật hùng hồn đường nét lãng mạn mà sau này Bartholdi cũng đã lồng vào Tượng Nữ thần Tự do.
Bartholdi làm mô hình đầu tiên theo phác thảo của năm 1870. Theo người con của họa sĩ Mỹ John La Farge (bạn với Bartholdi) thì nhà điêu khắc Bartholdi cho ra đời phác họa đầu tiên nhân chuyến viếng thăm phòng tranh của La Farge ở Rhode Island, Hoa Kỳ.
Tượng nữ thần tự do
Bartholdi và Laboulaye cùng nhau cân nhắc, tìm cách diễn tả ý niệm lý tưởng tự do của Mỹ. Họ có hai mô típ để dùng. Từ thuở khai quốc, hai nhân vật phụ nữ thường dùng làm biểu tượng văn hóa của đất nước Hoa Kỳ là Columbia và Libertas. Columbia được xem như hiện thân của Hoa Kỳ cũng giống như Britannia là biểu tượng của Vương quốc Anh và Marianne đại diện cho nước Pháp. Trước đó công chúa da đỏ đã được dùng là biểu tượng của Mỹ nhưng vì công luận cho đó hàm ý mọi rợ, kém văn minh, thật không xứng đáng với nước Mỹ nên Columbia đã thay thế công chúa da đỏ. Còn Libertas, vị nữ thần tự do được thờ phụng rộng rãi vào thời cổ đại La Mã, nhất là trong giới nô lệ được phóng thích thì hình tượng này đã được dùng trên nhiều đồng tiền kim loại của Mỹ vào thời đó. Đồng thời Libertas cũng phổ biến trong mỹ thuật công cộng và văn hóa bình dân. Tiêu biểu là Tượng Tự do (1863) của Thomas Crawford nằm trên mái vòm của Tòa Quốc hội Hoa Kỳ. Hình tượng Nữ thần Tự do cũng có mặt trên Quốc ấn của Pháp.Mỹ thuật thế kỷ XVIII và thế kỷ XIX thường dùng Nữ thần Tự do là biểu tượng lý tưởng công chính của nền cộng hòa. Tuy nhiên Bartholdi và Laboulaye không muốn dùng hình nữ thần tự do để đề cao tinh thần cách mạng như trong bức tranh nổi tiếng Nữ thần Tự do dẫn dắt Nhân dân (tiếng Pháp: La Liberté guidant le peuple) (1830) của họa sĩ Eugène Delacroix. Bức tranh này kỷ niệm cuộc cách mạng Pháp năm 1830 với Nữ thần Tự một tay phất cờ, tay kia cầm súng hô hào toán người vũ trang tiến lên, đạp lên cả xác người đã gục. Laboulaye không có cảm tình với phe cách mạng nên hình ảnh Bartholdi chọn làm mẫu là thần tự do vận áo choàng dài. Thay vì đặt bạo động là trọng tâm như tác phẩm của Delacroix, Bartholdi muốn tạo cho tượng vẻ thanh thản, tay trương ngọn đuốc tượng trưng cho tiến bộ.Về phần pho tượng của Crawford trên mái vòm của Tòa Quốc hội Hoa Kỳ thì tượng được thiết kế vào đầu thập niên 1850. Ban đầu, theo dự định thì đầu tượng đội mũ hình nấm (pileus), một kiểu mũ của người nô lệ sau khi phóng thích có từ thời cổ La Mã. Tuy nhiên Bộ trưởng Chiến tranh Hoa Kỳ là Jefferson Davis, vốn là người miền Nam (sau làm tổng thống của Liên minh miền Nam Hoa Kỳ) thì ngần ngại cho rằng mũ hình nấm là biểu tượng của chủ nghĩa bãi nô nên không chấp thuận. Davis mới ra lệnh thay thế mũ hình nấm bằng mũ giáp (helmet).
Bartholdi và Laboulaye cùng nhau cân nhắc, tìm cách diễn tả ý niệm lý tưởng tự do của Mỹ. Tiêu biểu là Tượng Tự do (1863) của Thomas Crawford nằm trên mái vòm của Tòa Quốc hội Hoa Kỳ.
Tượng nữ thần tự do
Tranh của Delacroix thì vẽ thần Tự do đội mũ hình nấm, và Bartholdi có ý định dùng cùng một kiểu mũ nhưng sau chọn kiểu mũ miện (diadem hay như vương miện crown) cho pho tượng. Kiểu mũ miện tránh sự ngộ nhận thần Tự do với Marianne, biểu tượng nước Pháp vì Marianne luôn mũ hình nấm.Mũ miện của Bartholdi có bảy tia như vầng hào quang mặt Trời, tương ứng với bảy đại dương, và bảy đại lục địa. Ngoài ra tia sáng của mũ miện cùng ngọn đuốc thể hiện ánh sáng của Tự do rạng soi khắp thế giới.Tất cả những mẫu hình đầu tiên của Bartholdi đều có chung một nét: một người phụ nữ theo thể tân cổ điển tượng trưng cho tự do. Thân tượng khoác áo choàng dài (kiểu áo thường được dùng để cho các nữ thần La Mã); tay tượng cầm ngọn đuốc giương cao. Khuôn mặt tượng tạc theo chân dung của Charlotte Beysser Bartholdi, mẹ của chính điêu khắc gia. Ông thiết kế tượng với bố cục khỏe khoắn, không quá rườm rà để hòa vào biển trời bao la của hải cảng New York. Khách trên thuyền vào cửa bể có thể ngắm nhìn pho tượng từng khía cạnh một khi thuyền chậm tiến vào Manhattan. Tượng mang đậm nét cổ điển, điêu khắc gọn ghẽ, giản lược để tăng phần quy mô và vẻ uy nghi của toàn bố cục. Bartholdi tự thuật như sau:
Tranh của Delacroix thì vẽ thần Tự do đội mũ hình nấm, và Bartholdi có ý định dùng cùng một kiểu mũ nhưng sau chọn kiểu mũ miện (diadem hay như vương miện crown) cho pho tượng. Ông thiết kế tượng với bố cục khỏe khoắn, không quá rườm rà để hòa vào biển trời bao la của hải cảng New York.
Tượng nữ thần tự do
Vỏ ngoài của tượng nên khái quát và đơn giản; thiết kế thì cần xác định rõ ràng và đậm nét, nhấn mạnh ở vài trọng điểm. Tránh khuếch đại hay lặp lại những chi tiết thêm chi ly. Nếu phóng đại đường nét để dễ thấy hơn hay tăng cường những tiểu tiết thì ắt làm hỏng tỷ lệ toàn tác phẩm. Cuối cùng, mẫu hình như trong thiết kế cần có đặc tính tổng thể ví như ta phác thảo thật nhanh. Điều cần thiết là nét đặc trưng phải do chủ ý và nghiên cứu; nghệ nhân khi tập trung kiến thức sẽ tìm thấy hình thể và đường nét trong cái thật là đơn giản.
Vỏ ngoài của tượng nên khái quát và đơn giản; thiết kế thì cần xác định rõ ràng và đậm nét, nhấn mạnh ở vài trọng điểm. Tránh khuếch đại hay lặp lại những chi tiết thêm chi ly.
Tượng nữ thần tự do
Ngoài việc thay đổi kiểu mũ trên đầu tượng, bản mẫu cũng thay đổi những chi tiết khác trong lúc dự án đang tiến hành. Bartholdi định thêm sợi dây xích đứt trong tay Nữ thần Tự do nhưng sau đó lại thôi vì cho rằng hình ảnh đó chỉ gây chia rẽ giữa hai miền Nam Bắc Hoa Kỳ khi vừa mới xong chiến cuộc. Thay vì cầm xích, ông cho tượng đứng giẫm lên trên một đoạn xích gãy, một phần có gấu áo che khuất nên khó thấy từ chân bệ tượng nhìn lên. Ban đầu Bartholdi còn phân vân không biết tay trái của Nữ thần sẽ cầm gì; sau ông mới quyết định dùng tấm tabula ansata, một mảnh đá phiến như dạng đá đỉnh vòm (keystone), tượng trưng cho ý tưởng luật pháp. Một mặt Bartholdi rất khâm phục Hiến pháp Hoa Kỳ nhưng ông chọn khắc dòng chữ "JULY IV MDCCLXXVI" trên tấm tabula ansata, nối liền ngày Tuyên ngôn Độc lập Hoa Kỳ với ý niệm tự do.Sau khi tham khảo xưởng đúc kim loại mỹ thuật Gaget, Gauthier & Co., Bartholdi kết luận rằng vỏ tượng tốt nhất nên làm bằng những tấm đồng được nện thành hình như ý muốn qua phương pháp "repoussé". Theo cách tạo hình này thì tấm kim loại mỏng được trang trí hay tạo hình bằng cách nện uốn bên mặt trái. Lợi điểm của repoussé là toàn bức tượng khá nhẹ vì lớp vỏ đồng chỉ dày khoảng 0,094 inch (2,4 mm). Ông ấn định chiều cao của pho tượng là 151 ft (46 mét), tức là cao gấp đôi tượng Colosso di San Carlo Borromeo của Ý và tượng Arminius của Đức. Hai tác phẩm đó cũng làm theo phương pháp repoussé. Với dự án này, Bartholdi đã lôi cuốn được người thầy cũ là kiến trúc sư Eugène Viollet-le-Duc cùng hợp tác. Viollet-le-Duc đóng góp trong việc xây lõi gạch bên trong tượng để đính vỏ đồng ra bên ngoài.
Ngoài việc thay đổi kiểu mũ trên đầu tượng, bản mẫu cũng thay đổi những chi tiết khác trong lúc dự án đang tiến hành. Một mặt Bartholdi rất khâm phục Hiến pháp Hoa Kỳ nhưng ông chọn khắc dòng chữ "JULY IV MDCCLXXVI" trên tấm tabula ansata, nối liền ngày Tuyên ngôn Độc lập Hoa Kỳ với ý niệm tự do.Sau khi tham khảo xưởng đúc kim loại mỹ thuật Gaget, Gauthier & Co., Bartholdi kết luận rằng vỏ tượng tốt nhất nên làm bằng những tấm đồng được nện thành hình như ý muốn qua phương pháp "repoussé".
Tượng nữ thần tự do
Năm 1875, trong khi tình hình chính trị Pháp dần ổn định và kinh tế cũng hồi phục sau cuộc chiến tranh với Phổ thì dân chúng cũng náo nức mong đợi Hội chợ Thế giới năm 1876 sắp khai trương tại Philadelphia, Hoa Kỳ. Nhân cơ hội này Laboulaye mới vận động tìm hậu thuẫn để thực hiện dự án. Tháng 9 năm 1875, ông chính thức thông báo dự án và lập liên hội Mỹ-Pháp với vai trò gây quỹ cho kế hoạch Nữ thần Tự đo Soi sáng Thế giới. Pháp nhận tài trợ việc đúc tượng còn Mỹ thì sẽ lãnh phần trang trải khoản phí xây bệ tượng. Thông báo dự án của Laboulaye gây nhiều phấn khởi ở Pháp cho dù công luận ở Pháp vẫn còn có người oán giận Hoa Kỳ đã không hỗ trợ Pháp trong cuộc chiến với Phổ vừa qua. Phe bảo hoàng ở Pháp thì phản đối bức tượng chỉ vì Laboulaye là người khởi xướng mà Laboulaye thì thuộc phe cấp tiến đối lập. Dù vậy Laboulaye lại đắc cử là một trong 75 nghị sĩ với nhiệm kỳ trọn đời (tiếng Pháp: sénateur inamovible, nghị sĩ bất khả phế) nên tiếng tăm ông càng nổi. Laboulaye liền ra sức vận động chính giới Pháp cùng thân hào nhân sĩ bằng buổi trình diễn đặc biệt tại nhà hát nhạc kịch Paris. Vở kịch ngày 25 tháng 3 năm 1876 cũng là buổi ra mắt nhạc kịch "cantata" mới được Charles Gounod hoàn tất với tựa là La Liberté éclairant le monde. Đó cũng chính là tên tiếng Pháp của bức tượng.
Năm 1875, trong khi tình hình chính trị Pháp dần ổn định và kinh tế cũng hồi phục sau cuộc chiến tranh với Phổ thì dân chúng cũng náo nức mong đợi Hội chợ Thế giới năm 1876 sắp khai trương tại Philadelphia, Hoa Kỳ. Thông báo dự án của Laboulaye gây nhiều phấn khởi ở Pháp cho dù công luận ở Pháp vẫn còn có người oán giận Hoa Kỳ đã không hỗ trợ Pháp trong cuộc chiến với Phổ vừa qua.
Tượng nữ thần tự do
Tuy ban đầu họ tập trung vận động giới thượng lưu nhưng sau liên hội Mỹ-Pháp đã thành công huy động được mọi tầng lớp xã hội: thường dân và cả học sinh đều tham gia. Có 181 xã trải rộng khắp nước Pháp cũng góp tiền. Hưởng ứng lời kêu gọi nồng nhiệt là thân hữu của Laboulaye trong chính giới Pháp cùng hậu duệ quân nhân Pháp từng tham chiến trong cuộc Chiến tranh Cách mạng Mỹ. Ngoài ra còn có những thành phần tuy góp tiền nhưng có dụng ý muốn mua chuộc Hoa Kỳ để hậu thuẫn Pháp thực hiện kênh đào Panama. Công ty Japy Frères, chuyên buôn đồng hiến tặng toàn lượng đồng cần thiết để xây tượng, trị giá 64.000 franc (khoảng 16.000 đô la đương thời, tương đương với 323.000 đô la ngày nay). Có người cho rằng lượng đồng này xuất xứ từ Visnes, Na Uy, nhưng đến nay vẫn chưa rõ hư thực.Dù kế hoạch xây dựng tượng chưa được hoàn toàn đúc kết, Bartholdi liền khởi công, bắt đầu với cánh tay phải cầm ngọn đuốc và phần đầu tượng. Công việc tiến hành ở xưởng đúc Gaget, Gauthier & Co. Tháng 5 năm 1876, nhân danh là một thành viên trong phái đoàn Pháp tham dự Hội chợ Thế giới, Bartholdi vượt Đại Tây Dương sang Hoa Kỳ. Hội chợ ở Philadelpha năm đó cũng là năm kỷ niệm 100 năm nền độc lập Hoa Kỳ nên Bartholdi cũng thu xếp để triển lãm bức họa khổng lồ ở New York hầu công chúng hình dung được pho tượng vĩ đại ông muón thực hiện. Nếu đúng theo kế hoạch thì cánh tay cầm đuốc của pho tượng đồng cũng sẽ ra mắt dân chúng Mỹ khi Hội chợ khai mạc nhưng chuyến tàu hàng đến trễ nên rốt cuộc khi tàu cập bến Philadelphia vào tháng 8 thì đã trễ không kịp ghi danh. Vì thế mà danh mục triển lãm không ghi tên tác phẩm của Bartholdi khiến có nơi gọi lầm nó là "Cánh tay khổng lồ" hay "Ngọn đèn điện của Bartholdi". Khu trưng bày cũng có những tác phẩm quy mô khác, thu hút khách đến xem. Ngoài cánh tay đồng, Bartholdi cũng góp một đài phun nước rất lớn do ông thiết kế. Cánh tay được nhiều người chú ý, nhất là vào những ngày cuối cuộc triển lãm; khách được leo lên tận ban công của ngọn đuốc để ngắm nhìn toàn cảnh khu triển lãm. Sau khi bế mạc, tay tượng chuyển về New York, dựng ở Công viên Quảng trường Madison vài năm cho công chúng đến xem trước chuyển về Pháp "đoàn tụ" với thân tượng.Trong chuyến đi lần thứ hai này đến Hoa Kỳ, Bartholdi đi diễn thuyết nhiều nơi, nói chuyện về dự án lớn của ông và kêu gọi bên phía Mỹ hãy mau lập ủy ban cùng hợp tác với liên hội Mỹ-Pháp để xây tượng. Lần lượt các ủy ban địa phương ra đời tại New York, Boston và Philadelphia, phụ trách việc quyên góp để tài trợ phần xây bệ. Riêng ủy ban New York đảm nhiệm phần lớn việc vận động tại Hoa Kỳ nên sau mang danh là "Ủy ban Hoa Kỳ". Một trong những ủy viên ở New York lúc bấy giờ là Theodore Roosevelt, một thanh niên mới 19 tuổi. Nhân vật này sau đắc cử thống đốc tiểu bang New York rồi lên làm tổng thống Hoa Kỳ. Ngày 3 tháng 3 năm 1877, vào ngày cuối cùng của nhiệm kỳ, Tổng thống Grant ký một nghị quyết chính thức nhận bức tượng là quà tặng của Pháp. Tổng thống Rutherford Birchard Hayes, người kế nhiệm ngày hôm sau, đã phê duyệt và chọn lấy đảo Bedloe y như Bartholdi đề nghị trước kia.
Tuy ban đầu họ tập trung vận động giới thượng lưu nhưng sau liên hội Mỹ-Pháp đã thành công huy động được mọi tầng lớp xã hội: thường dân và cả học sinh đều tham gia. Hưởng ứng lời kêu gọi nồng nhiệt là thân hữu của Laboulaye trong chính giới Pháp cùng hậu duệ quân nhân Pháp từng tham chiến trong cuộc Chiến tranh Cách mạng Mỹ.
Tượng nữ thần tự do
Khi về Pháp năm 1877, Bartholdi tập trung vào việc hoàn tất phần đầu của pho tượng. Công đoạn này sau được ra mắt tại Hội chợ Thế giới Paris năm 1878. Nhiều mô hình nhỏ hơn được đem bán để hỗ trợ việc gây quỹ. Dân chúng cũng có thể mua vé vào xem công đoạn xây tượng đang diễn ra tại xưởng Gaget, Gauthier & Co. Ngoài ra chính phủ Pháp cho mở một cuộc xổ số; giải thưởng có một cái đĩa bằng bạc và một mô hình tượng bằng đất nung. Tính đến cuối năm 1879 thì đã quyên góp được khoảng 250.000 franc Pháp.Viollet-le-Duc có công trong việc cấu tạo đầu và tay tượng nhưng ông ngã bệnh năm 1879 rồi mất. Là người then chốt trong giai đoạn này, Viollet-le-Duc lại không để văn bản nào về cách ráp phần da vỏ đồng bên ngoài vào lõi tượng bằng nề bên trong. Phải đến năm sau Bartholdi mới tìm được người tiếp sức với nhiều sáng kiến: nhà xây cất và thiết kế Gustave Eiffel. Eiffel cùng với kỹ sư xây cất Maurice Koechlin quyết định bỏ không dùng lõi gạch; thay vào đó sẽ dùng giàn tháp cao bằng sắt. Eiffel cũng không dùng giàn cứng chắc vì áp suất sẽ đè lên vỏ ngoài, dần gây ra rạn nứt. Chủ ý của Eiffel là muốn pho tượng di dịch ít nhiều vì vị trí ở cửa biển đôi khi sẽ có gió lớn. Ngoài ra vào những ngày hè oi bức, tượng cần co giãn. Ông giải quyết hai nhu cầu trên bằng cách nối vỏ tượng ngoài vào giàn tháp trong bằng một khung giáp (armature). Khung này dùng mảnh sắt tạo từ những khuyên sắt nhỏ nối vỏ ngoài với sườn trong một cách kiên cố. Trong tiến trình thi công, mỗi mảnh bằng khuyên sắt phải được gia công riêng. Để ngăn ngừa cơ nguy vỏ bằng đồng làm soi mòn giàn tháptrong, Eiffel cho bọc lớp vỏ đồng bằng chất amiăng có trộn sơn cánh kiến. Việc thay đổi cấu trúc từ lõi bằng nề sang giàn tháp sắt đã cho phép Bartholdi sử đổi cách ráp tượng. Trước kia ông có ý định ráp vỏ tượng tại nơi dựng tượng khi khung nề hoàn tất như Viollet-le-Duc thiết kế; tuy nhiên với giàn tháp sắt Bartholdi chọn cho ráp tượng tại Pháp, sau đó tháo ra rồi chuyển đến Hoa Kỳ để ráp lại tại đảo Bedloe.Thiết kế của Eiffel đã làm cho bức tượng này trở thành một trong số những mẫu công trình xây dựng đầu tiên sử dụng kỹ thuật xây vách treo mà theo đó phần bên ngoài của công trình không phải là phần chịu tải, thay vào đó phần ngoài được một khung sườn phía bên trong nâng đỡ. Ông gắn thêm hai cầu thang hình xoáy ốc bên trong để khách tham quan dễ dàng di chuyển lên điểm quan sát nằm trên chiếc mũ miện hơn. Lối vào ban công quan sát nằm quanh ngọn đuốc cũng được thiết kế nhưng vì chỗ cánh tay hẹp nên chỉ có thể đặt được duy nhất một cái thang đơn độc dài 40 ft (12 mét). Khi sườn tháp được từ từ xây cao lên, Eiffel và Bartholdi cùng điều hợp công việc của họ một cách cẩn thận sao cho các đốt vỏ tượng ăn khớp hoàn toàn vào khung cấu trúc chống đỡ.Trong một hành động mang tính chất biểu tượng, Đại sứ Mỹ tại Pháp là Levi P. Morton đã đóng cây đinh tán đầu tiên vào vỏ tượng để kìm giữ tấm đồng vào ngón chân to của bức tượng. Tuy nhiên, vỏ tượng không được thi công theo đúng chiều thứ tự từ thấp đến cao; công việc lắp ráp vỏ tượng được tiến hành cùng lúc trên nhiều đoạn tượng khác nhau theo cách thường hay làm cho khách tham quan lẫn lộn. Một số công đoạn được những nhà thầu thi công — một số những ngón tay được làm đúng theo chi tiết của Bartholdi là do hãng làm kim loại đồng ở thị trấn Montauban miền Nam nước Pháp phụ trách. Vào năm 1882, bức tượng đã được hoàn chỉnh lên đến phần ngực, đây là một sự kiện mà Barthodi ăn mừng bằng cách mời các phóng viên đến dự một buổi ăn trưa được tổ chức trên một bục nền xây bên trong bức tượng. Năm 1883, Laboulaye qua đời. Ferdinand de Lesseps, người xây kênh đào Suez lên kế nhiệm ông làm chủ tịch ủy ban Pháp. Bức tượng hoàn chỉnh được chính thức trao cho Đại sứ Morton trong một buổi lễ tại Paris ngày 4 tháng 7 năm 1884, và de Lesseps thông báo rằng chính phủ Pháp đồng ý trả tiền cho việc chuyên chở bức tượng tới Thành phố New York. Bức tượng vẫn được để nằm yên tại Paris, chờ đợi phần bệ tượng đang được hoàn thành; đến tháng 1 năm 1885, việc gì đến đã đến, bức tượng được tháo rời và đóng thùng sẵn sàng cho chuyến vượt đại dương.
Khi về Pháp năm 1877, Bartholdi tập trung vào việc hoàn tất phần đầu của pho tượng. Để ngăn ngừa cơ nguy vỏ bằng đồng làm soi mòn giàn tháptrong, Eiffel cho bọc lớp vỏ đồng bằng chất amiăng có trộn sơn cánh kiến.
Tượng nữ thần tự do
Ủy ban tại Hoa Kỳ đối mặt với những khó khăn to lớn trong việc tìm nguồn quỹ cho bức tượng. Nỗi lo sợ năm 1873 đã tạo ra cuộc khủng hoảng kinh tế kéo dài nhiều thập niên. Dự án tượng Nữ thần Tự do không phải là dự án duy nhất đối mặt với khó khăn khi tìm nguồn quỹ: công trình xây dựng đài tưởng niệm hình tháp mà sau đó được biết với tên tượng đài Washington đôi khi bị ngưng trệ trong nhiều năm trời; sau cùng mất đến trên 3 thập niên rưỡi mới hoàn thành xong. Từng có sự chỉ trích cả về bức tượng của Bartholdi và việc món quà tặng của người Pháp lại phải bắt người Mỹ bỏ tiền ra xây bệ tượng. Trong những năm sau Nội chiến Hoa Kỳ, đa số người Mỹ ưa chuộng các tác phẩm nghệ thuật hiện thực mô tả những vị anh hùng và các sự kiện xảy ra trong lịch sử quốc gia hơn là những tác phẩm có tính chất biểu tượng như tượng Nữ thần Tự do. Cũng có ý kiến rằng người Mỹ nên tự thiết kế những công trình công cộng của Mỹ - việc lựa chọn họa sĩ Constantino Brumidi sinh tại Ý để trang trí Tòa Quốc hội Hoa Kỳ đã gây ra cuộc chỉ trích dữ dội cho dù ông là một công dân Mỹ nhập tịch. Tạp chí Harper's Weekly tuyên bố ước gì "Ông Bartholdi và các anh em họ người Pháp của chúng ta đã 'chi trọn gói' khi xây tượng và trao cho chúng ta cả bức tượng và bệ tượng ngay cùng một lúc." Nhật báo The New York Times lên tiếng rằng "không có người yêu nước chân chính nào có thể cho phép bất cứ sự chi tiêu nào như thế cho những hình tượng nữ bằng đồng với tình trạng tài chính hiện tại của chúng ta." Vì phải đối mặt với những lời chỉ trích như thế nên ủy ban Mỹ chỉ có một ít động thái trong vài năm.Nền móng cho bức tượng được đặt bên trong đồn Wood, một căn cứ lục quân bị bỏ hoang nằm trên Đảo Bedloe, được xây dựng giữa năm 1807 và 1811. Từ năm 1823, đồn này ít khi được sử dụng, tuy trong thời Nội chiến Hoa Kỳ, nó được dùng làm nơi tuyển mộ binh sĩ. Vành đai bảo vệ của căn cứ này có hình ngôi sao 11 cánh. Nền móng và bệ tượng được chỉnh sao cho bức tượng quay mặt về hướng Đông Nam để chào đón tàu thuyền từ Đại Tây Dương đi vào trong bến cảng. Năm 1881, ủy ban New York ủy nhiệm Richard Morris Hunt thiết kế bệ tượng. Trong mấy tháng, Hunt đệ trình một dự án chi tiết và cho biết rằng ông ước tính sẽ hoàn thành bệ tượng này trong 9 tháng. Ông đề nghị một bệ tượng cao 114 ft (35 mét); vì đối mặt với các vấn đề tài chính nên ủy ban quyết định giảm chiều cao bệ tượng xuống còn 89 ft (27 mét).Bản thiết kế bệ tượng của Hunt gồm có những chi tiết kiến trúc cổ điển trong đó có các cổng dùng thức cột Doric, và phần khối to lớn của nó được chia thành từng mảng với các chi tiết kiến trúc tỉ mỉ để tập trung sự chú ý vào bức tượng. Về hình thể, bệ tượng là một kim tự tháp bị cắt đỉnh nhọn, có đáy rộng 19 m² (62 bộ vuông) và phần chóp rộng 12 m² (39,4 bộ vuông). Bốn phía có hình dạng giống nhau. Ngay trên cửa ở mỗi phía có mười đĩa tròn mà Bartholdi đề nghị đặt huy hiệu của các tiểu bang Hoa Kỳ (giữa năm 1876 và 1889, có 40 tiểu bang Hoa Kỳ) nhưng điều này không được thực hiện. Phía trên đó, một ban công đặt ở mỗi phía được các cột đỡ chia thành từng ô. Bartholdi đặt một đài quan sát gần đỉnh của bệ tượng, nơi bức tượng vươn lên ở phía trên. Theo tác giả Louis Auchincloss, bệ tượng "ít nhiều gợi lên uy quyền của một châu Âu cổ đại mà sức chi phối của hình ảnh Tượng Nữ thần Tự do vươn đến tầm cao hơn". Ủy ban thuê cựu tướng lãnh lục quân là Charles Pomeroy Stone giám sát việc thi công xây dựng. Công cuộc xây dựng bắt đầu bằng việc xây một nền móng sâu 4,6 mét (15 ft) vào năm 1883, và viên đá đặt nền của bệ được đặt xuống vào năm 1884. Theo khái niệm ban đầu của Hunt, bệ tượng phải được làm hoàn toàn bằng đá granit. Những vấn đề tài chính lần nữa bắt buộc ông phải thay đổi bản thảo; bản thiết kế cuối cùng gồm có việc xây những bức tường bằng bê tông dày 6,1 mét (20 ft), và trên bề mặt được trang trí bằng những khối đá granit. Khối lượng bê tông được dùng đến ở mức lớn nhất chưa từng có vào thời đó.Cuộc vận động gây quỹ cho bức tượng bắt đầu từ năm 1882. Ủy ban Hoa Kỳ tổ chức một số lớn các sự kiện gây quỹ.Constance Cary Harrison, một nhà soạn kịch, phụ trách việc kêu gọi các nghệ sỹ tham gia buổi đấu giá, đã đề nghị Lazarus đóng góp một tác phẩm cho sự kiện này. Điều khiến Harrison bất ngờ là Lazarus thẳng thừng từ chối lời đề nghị và nói rằng bà không bao giờ viết theo "kiểu bị đặt hàng". Tuy nhiên, Harrison không bỏ cuộc, tìm cách thuyết phục nữ thi sỹ khi nhắm đến những hoạt động và tư tưởng vì xã hội của bà. Vào lúc đó, bà cũng đang tham gia vào công cuộc giúp đỡ người tị nạn đến Thành phố New York sau khi họ vượt thoát khỏi các cuộc náo loạn bài Do Thái tại Đông Âu. Những người tị nạn này buộc phải sống trong những điều kiện mà bà Lazarus giàu có chưa từng trải qua. Bà tìm thấy một cách để bày tỏ sự thông cảm của bà đối với những người tị nạn qua những từ ngữ diễn tả về bức tượng. Lazarus quay trở lại tìm Harrison hai ngày sau đó với một bài thơ hoàn chỉnh với cái tên "The New Colossus" (tạm dịch: "Bức tượng Khổng lồ mới") theo thể điệu "sonnet" ra đời, với nội dung ca ngợi bức tượng Nữ thần Tự do khổng lồ là biểu tượng cho sức mạnh của nữ quyền và bình đẳng. Bài thơ lần đầu tiên xuất hiện tại buổi triển lãm gây quỹ năm 1883 và nhanh chóng bị lãng quên sau sự kiện này, và thậm chí là cả khi tác giả của nó, nữ thi sỹ Emma Lazarus qua đời vì ốm bệnh vào tháng 11 năm 1887, khi mới 38 tuổi. Mãi đến năm 1901, khi một người bạn thân của Lazarus là Georgina Schuyler tìm thấy bài thơ, tác phẩm đầy ý nghĩa này mới thực sự sống lại. Để tưởng nhớ nữ thi sỹ Lazarus, Schuyler đã tổ chức các hoạt động quảng bá tác phẩm này và đưa nó đến gần hơn với người đọc. Năm 1903, "The New Colossus" được khắc trên một tấm bảng dưới chân tượng Nữ thần Tự do. Trên thực tế, Emma Lazarus chưa từng trực tiếp nhìn thấy Nữ thần Tự do khi bà viết "The New Colossus". Tuy nhiên, ý nghĩa của bài thơ cùng những gì mà hình ảnh Nữ thần Tự do mang lại về sự bảo vệ và công bằng, chắc chắn cũng đã là một phần không thể phủ nhận trong lịch sử của Hoa Kỳ.
Ủy ban tại Hoa Kỳ đối mặt với những khó khăn to lớn trong việc tìm nguồn quỹ cho bức tượng. Trong những năm sau Nội chiến Hoa Kỳ, đa số người Mỹ ưa chuộng các tác phẩm nghệ thuật hiện thực mô tả những vị anh hùng và các sự kiện xảy ra trong lịch sử quốc gia hơn là những tác phẩm có tính chất biểu tượng như tượng Nữ thần Tự do.
Tượng nữ thần tự do
Năm 1884, Grover Cleveland, thống đốc New York, phủ quyết một đạo luật cho phép tài trợ 50.000 đô la cho dự án. Một cố gắng vào năm sau đó để xin Quốc hội Hoa Kỳ cung cấp 100.000 đô la là đủ để hoàn thành dự án cũng thất bại khi các dân biểu thuộc đảng Dân chủ không đồng ý chi trả. Với vỏn vẹn 3.000 đô la trong ngân hàng, Ủy ban New York đã đình chỉ công việc xây bệ tượng. Đang lúc dự án gặp bế tắc thì các nhóm người từ những thành phố khác của Mỹ trong đó có Boston và Philadelphia đề nghị trả toàn bộ chi phí dựng tượng để đổi lấy việc dời vị trí dựng tượng sang thành phố của họ. Joseph Pulitzer, chủ bút nhật báo New York World của Thành phố New York, thông báo một chiến dịch gây quỹ 100.000 đô la (tương đương khoảng 2,3 triệu đô la ngày nay). Joseph Pulitzer tuyên bố là sẽ in tên của từng người đóng góp, không cần biết là họ đóng góp nhiều hay ít. Chiến dịch gây quỹ này đập vào mắt người New York, đặc biệt là khi Pulitzer bắt đầu cho in ra những dòng chữ mà ông nhận được từ những người đóng góp. "Một người con gái trẻ cô độc trên thế giới" quyên góp "60 xu, đây là kết quả của sự tự chối bỏ mình." Một người quyên tặng cho "năm xu như là một phần nhỏ đóng góp của một cậu bé tạp dịch nghèo dành cho Quỹ xây bệ tượng." Một nhóm trẻ em gởi tặng một đô la như là "số tiền mà chúng em tiết kiệm được để đi xem xiếc." Một đô la khác được quyên góp từ một "người phụ nữ rất già và cô độc." Những cư dân trong một ngôi nhà dành cho những người nghiện rượu trong thành phố đối thủ với Thành phố New York là thành phố Brooklyn (hai thành phố này vẫn chưa được sáp nhập mãi cho đến năm 1898) quyên tặng 15 đô la; những người nghiện rượu khác giúp đỡ tại các thùng quyên góp đặt trong quán bar và các nơi công cộng khác. Một lớp mẫu giáo tại Davenport, Iowa gởi đến tòa soạn nhật báo World một món quà là 1,35 đô la.Khi các cuộc quyên góp rầm rộ lên thì ủy ban bắt tay vào công việc trở lại để xây bệ tượng. Tháng 6, người New York tỏ ra hăng say nhiệt tình đối với bức tượng khi chiếc tàu Pháp Isère đến, mang theo những thùng hàng có chứa những mảnh rời của bức tượng. Hai trăm ngàn người đứng dọc theo các bến tàu và hàng trăm tàu thuyền chạy ra cửa biển để chào mừng con tàu Isère. Sau năm tháng kêu gọi hàng ngày để quyên góp quỹ cho bức tượng, ngày 11 tháng 8 năm 1885, nhật báo New York World thông báo rằng 102.000 đô la đã quyên góp được từ 120.000 người trong đó 80% tổng số tiền quyên góp được là từ những phần đóng góp riêng lẻ ít hơn 1 đô la cộng chung lại.Cho dù cuộc vận động gây quỹ thành công nhưng bệ tượng vẫn chưa được hoàn thành cho đến tháng 4 năm 1886. Ngay sau đó, công việc lắp ráp tượng bắt đầu được tiến hành. Khung sườn sắt của Eiffel được mắc kết nối vào các thanh thép hình chữ I nằm bên trong bệ tượng bằng bê tông cốt thép và được lắp ráp lại. Ngay sau khi hoàn thành, các khúc đoạn của vỏ tượng được gắn vào một cách cẩn thận. Vì chiều rộng của bệ tượng nên không thể nào dựng các giàn giáo. Các công nhân phải đu đưa trên những sợi dây thừng được cột chặt vào khung giáp để gắn các phân đoạn của vỏ tượng. Tuy nhiên, không có ai thiệt mạng trong suốt những ngày lắp ráp tượng. Bartholdi trước đó có dự tính sẽ đặt những chiếc đèn pha trên ban công của ngọn đuốc để thắp sáng ngọn đuốc; một tuần trước lễ khánh thành, Công binh Lục quân Hoa Kỳ phủ quyết đề nghị này vì sợ rằng các hoa tiêu tàu bè đi qua bức tượng sẽ bị chói mắt. Thay vào đó, Bartholdi cắt những lỗ nhỏ trong ngọn đuốc (ngọn đuốc được bọc bằng vàng lá) và đặt những ngọn đèn bên trong. Một máy phát điện được gắn trên đảo để thắp sáng ngọn đuốc và cũng để dùng cho những nhu cầu khác về điện. Sau khi vỏ tượng được lắp ráp hoàn toàn, kiến trúc sư nổi tiếng về cảnh quan là Frederick Law Olmstead, người vẽ thiết kế cho Công viên Trung tâm của Thành phố New York và Công viên Prospect của thành phố Brooklyn, trông coi việc dọn dẹp Đảo Bedloe để chuẩn bị cho lễ khánh thành tượng.
Năm 1884, Grover Cleveland, thống đốc New York, phủ quyết một đạo luật cho phép tài trợ 50.000 đô la cho dự án. Một cố gắng vào năm sau đó để xin Quốc hội Hoa Kỳ cung cấp 100.000 đô la là đủ để hoàn thành dự án cũng thất bại khi các dân biểu thuộc đảng Dân chủ không đồng ý chi trả.
Tượng nữ thần tự do
Lễ khánh thành được tổ chức vào buổi trưa ngày 28 tháng 10 năm 1886. Tổng thống Grover Cleveland, cựu thống đốc tiểu bang New York đứng ra làm chủ tọa cho buổi lễ. Vào buổi sáng ngày khánh thành, một cuộc diễu hành được tổ chức trong Thành phố New York; ước tính về số người xem từ vài trăm ngàn đến 1 triệu người. Tổng thống Cleveland dẫn đầu buổi diễu hành, rồi đứng vào đài quan sát để xem các ban nhạc và đoàn người diễu hành đến từ khắp nước Mỹ. Tướng Stone là trưởng ban phụ trách nghi lễ cho buổi diễu hành. Đường diễu hành bắt đầu từ Quảng trường Madison và tiến về Công viên Battery ở mũi phía Nam của Manhattan, qua ngã đường số 5 và đường Broadway với một chút đổi hướng để cuộc diễu hành đi ngang trước mặt tiền tòa báo World nằm trên đường Park Row. Khi đoàn diễu hành đi ngang qua Sở giao dịch chứng khoán New York, những người mua bán chứng khoán quăng các cuộn hoa giấy từ các cửa sổ xuống, khởi đầu cho truyền thống diễu hành có quăng hoa giấy tại Thành phố New York.Một cuộc diễu hành trên biển bắt đầu lúc 12:45 trưa. Tổng thống Cleveland lên một du thuyền đưa ông ngang bến cảng để tới Đảo Bedloe cho lễ khánh thành. De Lesseps thay mặt ủy ban Pháp đọc bài diễn văn đầu tiên, theo sau là diễn văn của chủ tịch ủy ban New York là Thượng nghị sĩ William M. Evarts. Một lá cờ Pháp quấn quanh mặt tượng sẽ được buông xuống như là nghi thức khánh thành bức tượng khi Evarts kết thúc bài diễn văn của mình. Nhưng vì Bartholdi lầm tưởng rằng bài diễn văn đã kết thúc khi Evarts ngưng giữa chừng bài diễn văn của mình và vì vậy lá cờ bị buông xuống trước khi bài diễn văn thật sự kết thúc. Những tiếng reo hò tiếp theo đó đã chấm dứt bài diễn văn của Evarts. Tiếp theo là Tổng thống Cleveland lên nói chuyện. Ông phát biểu rằng "luồng ánh sáng của bức tượng sẽ xuyên qua bóng tối của dốt nát và sự áp bức của con người cho đến khi Nữ thần Tự do soi sáng thế giới". Bartholdi, đứng quan sát gần bục lễ đài, được mời đến để nói chuyện nhưng ông từ chối. Sau đó Chauncey M. Depew kết thúc buổi lễ bằng một bài diễn văn dài.Không có thành viên công chúng nào được phép đến đảo trong suốt buổi lễ khánh thành mà chỉ dành riêng hoàn toàn cho giới quyền cao chức trọng. Những phụ nữ duy nhất được phép dự lễ khánh thành là vợ Bartholdi và cháu gái của de Lesseps; các viên chức nói rằng họ sợ phụ nữ có thể bị thương trong đám đông chen lấn. Sự hạn chế này đã xúc phạm đến những người vận động mở rộng quyền đầu phiếu đến mọi công dân. Họ thuê một chiếc tàu và tiến gần sát đảo ở mức có thể được. Những người lãnh đạo nhóm đọc diễn văn hoan nghênh việc chọn người phụ nữ làm hiện thân của Thần Tự do và hô hào cổ vũ cho quyền đầu phiếu của phụ nữ. Một buổi bắn pháo hoa được dự trù trước đó đã bị dời lại cho đến ngày 1 tháng 11 vì thời tiết xấu.Ngay sau khi kết thúc lễ khánh thành, tuần báo The Cleveland Gazette của người Mỹ gốc Phi đề nghị rằng ngọn đuốc của bức tượng không nên thắp sáng cho đến khi nào Hoa Kỳ trở thành một quốc gia tự do "thật sự":
Lễ khánh thành được tổ chức vào buổi trưa ngày 28 tháng 10 năm 1886. Những phụ nữ duy nhất được phép dự lễ khánh thành là vợ Bartholdi và cháu gái của de Lesseps; các viên chức nói rằng họ sợ phụ nữ có thể bị thương trong đám đông chen lấn.
Tượng nữ thần tự do
"Nữ thần Tự do soi sáng thế giới", thật hay ho làm sao! Lời lẽ này làm cho chúng tôi phát bệnh. Chính phủ này là một kẻ giễu cợt trò hề đang kêu rống. Họ không thể hay đúng hơn là không hề bảo vệ công dân ngay trong chính biên cương của họ. Hãy xô bức tượng của Bartholdi, ngọn đuốc và tất cả xuống đại dương cho đến khi nào "tự do" của quốc gia này như thể biến thành sự thật cho một người da màu cần cù siêng năng và vô hại có thể kiếm được cuộc sống đàng hoàng cho chính mình và gia đình mà không bị "Ku Klux Klan" làm hại, có thể là bản thân anh ta bị mưu sát, vợ và con gái bị sỉ nhục và tài sản bị hủy hoại. Ý tưởng về "tự do" của quốc gia này "soi sáng thế giới" hay thậm chí soi sáng Patagonia thật quá sức khôi hài.
"Nữ thần Tự do soi sáng thế giới", thật hay ho làm sao! Hãy xô bức tượng của Bartholdi, ngọn đuốc và tất cả xuống đại dương cho đến khi nào "tự do" của quốc gia này như thể biến thành sự thật cho một người da màu cần cù siêng năng và vô hại có thể kiếm được cuộc sống đàng hoàng cho chính mình và gia đình mà không bị "Ku Klux Klan" làm hại, có thể là bản thân anh ta bị mưu sát, vợ và con gái bị sỉ nhục và tài sản bị hủy hoại.
Tượng nữ thần tự do
Ngọn đuốc được thắp sáng vào đêm khánh thành tượng chỉ sinh ra một vệt sáng yếu ớt, khó nhìn thấy từ Manhattan. Nhật báo World diễn tả nó giống "như một con đom đóm hơn là một hải đăng." Bartholdi đề nghị mạ tượng để tăng khả năng phản chiếu ánh sáng nhưng điều này được chứng minh là quá tốn kém. Ban đặc trách Hải đăng Hoa Kỳ tiếp quản Tượng Nữ thần Tự do vào năm 1887 và cam kết gắn trang thiết bị để gia tăng hiệu quả của ngọn đuốc; mặc dù có nhiều cố gắng nhưng bức tượng vẫn gần như vô hình vào đêm. Khi Bartholdi trở lại Hoa Kỳ năm 1893, ông có thêm những đề nghị khác nhưng tất cả đều được chứng thực là không hiệu quả. Ông đã thành công trong việc vận động hành lang cho việc cải tiến hệ thống đèn bên trong bức tượng để cho du khách chiêm ngưỡng thiết kế bên trong bức tượng của Eiffel tốt hơn. Năm 1901, Tổng thống Theodore Roosevelt, trước đây từng là một thành viên của Ủy ban New York, ra lệnh thuyên chuyển tượng sang cho Bộ Chiến tranh Hoa Kỳ vì nó đã được chứng minh là vô dụng trong vai trò của một hải đăng. Một đơn vị của Quân đoàn Truyền tin Lục quân Hoa Kỳ đã đóng trại trên Đảo Bedloe cho đến năm 1923. Sau đó lực lượng quân cảnh thay thế và ở đó trong khi hòn đảo này còn nằm dưới thẩm quyền quân sự.Bức tượng nhanh chóng trở thành một danh thắng của Thành phố New York. Nhiều di dân vào Hoa Kỳ đi qua Thành phố New York thấy bức tượng như một dấu hiệu chào mừng họ. Những câu chuyện kể của di dân đã ghi lại những cảm xúc phấn khởi của họ khi lần đầu tiên thấy Tượng Nữ thần Tự do. Một di dân đến từ Hy Lạp nhớ lại:
Ngọn đuốc được thắp sáng vào đêm khánh thành tượng chỉ sinh ra một vệt sáng yếu ớt, khó nhìn thấy từ Manhattan. Nhiều di dân vào Hoa Kỳ đi qua Thành phố New York thấy bức tượng như một dấu hiệu chào mừng họ.
Tượng nữ thần tự do
Tôi thấy Tượng Nữ thần Tự do. Và tôi tự nói với chính mình, "Chào bà, bà đẹp như thế đó! Bà đã mở rộng đôi tay và đón nhận tất cả người ngoại quốc đến đây. Hãy cho tôi cơ hội chứng minh rằng tôi đáng được như vậy để làm điều gì đó, để là người nào đó tại Mỹ." Và bức tượng ấy luôn ở trong tâm trí tôi.
Tôi thấy Tượng Nữ thần Tự do. Và tôi tự nói với chính mình, "Chào bà, bà đẹp như thế đó!
Tượng nữ thần tự do
Ban đầu, bức tượng có màu đồng sậm nhưng chẳng bao lâu sau năm 1900, một lớp rỉ xanh do vỏ đồng bị oxy hóa bắt đầu lan rộng. Đến đầu năm 1902, báo chí bắt đầu đề cập đến vấn đề này, cho đến năm 1906, lớp rỉ xanh bao phủ đã toàn bộ bức tượng. Vì người ta tin rằng lớp rỉ này là bằng chứng của sự ăn mòn kim loại nên Quốc hội Hoa Kỳ cho phép chi tiêu 62.800 đô la để sơn bức tượng cả từ trong ra ngoài. Công chúng đã phản đối việc sơn bên ngoài bức tượng như đã được đề nghị. Công binh Lục quân Hoa Kỳ đã nghiên cứu lớp rỉ xanh xem có bất cứ hiệu ứng hư hại nào đối với bức tượng không và đi đến kết luận rằng lớp rỉ xanh đó đã bảo vệ vỏ tượng. Bức tượng chỉ được sơn phần bên trong. Công binh Lục quân cũng gắn thêm một thang máy để đưa du khách từ tầng nền lên đến đỉnh của bệ tượng.
Ban đầu, bức tượng có màu đồng sậm nhưng chẳng bao lâu sau năm 1900, một lớp rỉ xanh do vỏ đồng bị oxy hóa bắt đầu lan rộng. Công chúng đã phản đối việc sơn bên ngoài bức tượng như đã được đề nghị.
Tượng nữ thần tự do
Ngày 30 tháng 7 năm 1916, trong thời Chiến tranh thế giới thứ nhất, những kẻ phá hoại người Đức đã gây một vụ nổ trên bán đảo Black Tom nằm bên Thành phố Jersey, tiểu bang New Jersey trong khu vực mà ngày nay là một phần của Công viên Tiểu bang Nữ thần Tự do gần Đảo Bedloe. Những toa xe chở đầy chất nổ và những vật liệu nổ khác đang được chuẩn bị gởi đến Anh và Pháp phục vụ chiến tranh bị kích nổ. Bảy người bị thiệt mạng trong vụ việc này. Bức tượng bị thiệt hại nhẹ, phần lớn là ở chỗ cánh tay phải cầm đuốc và phải đóng cửa khoảng 10 ngày. Tổn phí sửa chữa bức tượng và những tòa nhà trên đảo là khoảng 100.000 đô la. Lối hẹp đi lên ngọn đuốc bị chặn lại vì lý do an toàn cho công chúng và nó vẫn còn đóng cửa từ đó đến ngày nay.Cùng năm đó, Ralph Pulitzer, thừa kế người cha làm chủ bút nhật báo World, bắt đầu mở chiến dịch quyên góp 30.000 đô la cho một hệ thống chiếu sáng bên ngoài để thắp sáng bức tượng về đêm. Ông tuyên bố có trên 80.000 người đóng góp nhưng không đạt đến số tiền mong muốn. Phần chi phí còn thiếu được một người giàu có lặng lẽ đóng góp — đây là sự thật không được công bố mãi cho đến năm 1936. Một dây cáp ngầm được đặt dưới biển để truyền điện từ đất liền sang và đèn pha được đặt dọc theo những bức tường của Đồn Wood. Gutzon Borglum, người sau này tạc tượng Núi Rushmore, đã thiết kế lại ngọn đuốc. Ông thay thế phần lớn khối đồng ban đầu bằng thủy tinh màu. Ngày 2 tháng 12 năm 1916, Tổng thống Woodrow Wilson bấm nút máy điện tín để bật đèn lên thắp sáng bức tượng một cách thành công.Sau khi Hoa Kỳ tham gia vào Chiến tranh thế giới thứ nhất năm 1917, những hình ảnh về bức tượng đã được sử dụng nhiều trong các tấm áp phích cổ động nhập ngũ và cổ động cho Trái phiếu Tự do, hối thúc công dân Hoa Kỳ ủng hộ tài chính cho chiến tranh. Việc này khiến công chúng cảm kích vì mục đích chiến tranh được cho là để đảm bảo sự tự do và được xem như một điều nhắc nhở rằng nước Pháp đang bị chiến tranh hoành hành đã từng trao tặng cho Hoa Kỳ bức tượng.Năm 1924, Tổng thống Calvin Coolidge dùng quyền lực của mình theo Đạo luật Antiquities tuyên bố bức tượng là một tượng đài quốc gia. Vụ tự tử thành công duy nhất trong lịch sử của bức tượng xảy ra 5 năm sau đó khi một người đàn ông trèo ra ngoài một trong các cửa sổ ở phần mũ miện và nhảy xuống tìm cái chết. Người này trượt qua ngực tượng và rơi xuống cạnh bàn chân nữ thần.
Ngày 30 tháng 7 năm 1916, trong thời Chiến tranh thế giới thứ nhất, những kẻ phá hoại người Đức đã gây một vụ nổ trên bán đảo Black Tom nằm bên Thành phố Jersey, tiểu bang New Jersey trong khu vực mà ngày nay là một phần của Công viên Tiểu bang Nữ thần Tự do gần Đảo Bedloe. Bảy người bị thiệt mạng trong vụ việc này.
Tượng nữ thần tự do
Năm 1933, Tổng thống Franklin Roosevelt ra lệnh thuyên chuyển bức tượng sang Cục Công viên Quốc gia Hoa Kỳ (NPS). Năm 1937, Cục Công viên nhận được thẩm quyền quản lý những phần còn lại trên Đảo Bedloe. Với việc ra đi của Lục quân, Cục Công viên Quốc gia bắt đầu chuyển đổi hòn đảo thành một công viên. Cơ quan Quản trị Tiến triển Công chánh (Works Progress Administration, viết tắt là WPA) san bằng phần lớn các tòa nhà cũ, phân định và sửa sang lại góc phía Đông hòn đảo, đồng thời xây một nền bậc thang bằng đá granit để làm một lối mới cho công chúng đến bức tượng từ phía sau lưng. WPA cũng tiến hành công việc trùng tu bên trong bức tượng, tạm thời tháo các tia khỏi vầng hào quang của tượng để thay thế phần nâng đỡ đã bị rỉ sét của chúng. Những bậc thang bằng gang rỉ sét trong bệ tượng được thay thế bằng những bậc thang mới làm bằng bê tông cốt thép; phần phía trên của những chiếc cầu thang bên trong tượng cũng được thay thế. Lớp bọc bằng đồng được gắn vào bệ tượng để chống nước mưa thấm vào gây thêm hư hại. Bức tượng bị đóng cửa từ tháng 5 cho đến tháng 12 năm 1938.Trong thời Chiến tranh thế giới thứ hai, bức tượng vẫn mở cửa cho du khách nhưng không được thắp sáng về đêm vì lệnh tắt đèn ban đêm ở bên ngoài thời chiến (phi công đối phương có thể dễ dàng tìm thấy mục tiêu tấn công). Tượng được thắp sáng ngắn ngủi vào ngày 31 tháng 12 năm 1943 và vào ngày D-Day, 6 tháng 6 năm 1944, khi các ngọn đèn của tượng chớp "chấm-chấm-chấm-gạch", mã Morse biểu thị cho chữ V có nghĩa là victory (chiến thắng). Hệ thống đèn mới và cực mạnh được gắn năm 1944-1945, và bắt đầu vào Ngày chiến thắng bức tượng lần nữa được thắp sáng sau hoàng hôn. Đèn được thắp chỉ vài tiếng đồng hồ mỗi chiều tối mãi cho đến năm 1957 thì bức tượng được thắp sáng cả đêm mỗi buổi tối. Năm 1946, phần bên trong của tượng ở những nơi mà du khách có thể với tay tới được bọc loại chất dẻo đặc biệt để có thể lau xóa các hình vẽ hay chữ viết trên tường.Năm 1956, một đạo luật của Quốc hội Hoa Kỳ chính thức đổi tên Đảo Bedloe thành Đảo Liberty (Đảo Tự do). Việc đổi tên đảo đã từng được những thế hệ của Bartholdi vận động trước đây. Đạo luật cũng có nhắc đến nỗ lực xây một Bảo tàng Di dân Mỹ trên hòn đảo mà những người hậu thuẫn cho nó đã tiến hành, vì mặc dù liên bang đã chấp thuận dự án nhưng chính phủ chậm chạp trong việc cấp ngân quỹ. Bằng tuyên cáo của Tổng thống Lyndon Johnson năm 1965, Đảo Ellis gần đó được biến thành một phần của Tượng đài Quốc gia Tượng Nữ thần Tự do. Năm 1972, bảo tàng di dân nằm trong nền tượng cuối cùng cũng được khánh thành bằng một buổi lễ do Tổng thống Richard Nixon chủ trì. Bảo tàng này đóng cửa năm 1991 sau khi bảo tàng di dân trên Đảo Ellis khánh thành.Năm 1976, một hệ thống đèn chiếu sáng cực mạnh mới được lắp đặt trước lễ mừng Hoa Kỳ 200 năm. Ngày 4 tháng 7 năm 1976, bức tượng là điểm hội tụ của Chiến dịch Thuyền buồm, một cuộc đua thuyền buồm gồm có những chiếc thuyền buồm cao to đến từ khắp nơi trên thế giới vào bến cảng New York và chạy quanh Đảo Liberty. Cuộc đua kết thúc với màn bắn pháo hoa hoành tráng gần bức tượng.
Năm 1933, Tổng thống Franklin Roosevelt ra lệnh thuyên chuyển bức tượng sang Cục Công viên Quốc gia Hoa Kỳ (NPS). Cơ quan Quản trị Tiến triển Công chánh (Works Progress Administration, viết tắt là WPA) san bằng phần lớn các tòa nhà cũ, phân định và sửa sang lại góc phía Đông hòn đảo, đồng thời xây một nền bậc thang bằng đá granit để làm một lối mới cho công chúng đến bức tượng từ phía sau lưng.
Tượng nữ thần tự do
Năm 1986, bức tượng được nhóm kỹ sư Hoa Kỳ và Pháp kiểm tra rất tỉ mỉ như là một phần của kế hoạch kỷ niệm sinh nhật lần thứ 100 của tượng. Năm 1982, có thông báo rằng bức tượng cần phải được trùng tu đáng kể. Cuộc nghiên cứu tỉ mỉ cho thấy cánh tay phải được gắn không chính xác vào cấu trúc chính của tượng. Cánh tay đung đưa nhiều hơn khi gặp gió mạnh và có nguy cơ đổ sập rất lớn. Ngoài ra, phần đầu tượng đã được gắn lệch khỏi trung tâm đến 0,61 mét (2 ft) và một trong số những tia trên mũ miện đã làm thủng một lỗ trên cánh tay phải khi bức tượng chuyển động theo gió. Cơ cấu khung giáp bị ăn mòn một cách tệ hại, và khoảng 2% các đĩa tròn bên ngoài cần được thay thế. Tuy những vấn đề của khung giáp đã được phát hiện từ sớm vào năm 1936, khi đó những phần thay thế bằng gang cho một số thanh trụ đã được gắn, nhưng phần nhiều những chỗ ăn mòn bị che lấp bởi nhiều lớp sơn phủ lên trong nhiều năm.Tháng 5 năm 1982, Tổng thống Ronald Reagan thông báo thành lập Ủy ban Trăm năm Tượng Nữ thần Tự do - Đảo Ellis do chủ tịch của công ty Chrysler Corporation là Lee Iacocca lãnh đạo nhằm vận động quyên góp quỹ cần thiết để hoàn thành công việc trùng tu. Qua chi nhánh vận động quyên góp của mình là Quỹ Tượng Nữ thần Tự do - Đảo Ellis, ủy ban này đã quyên góp được trên 350 triệu đô la. Tượng Nữ thần Tự do là một trong số những công trình hưởng lợi đầu tiên nhất của một chiến dịch tiếp thị gồm có nỗ lực của cả các tổ chức bất vụ lợi và các công ty thương mãi hợp tác tham gia (tiếng Anh gọi là cause marketing campaign). Một cuộc vận động tiếp thị năm 1983 quảng cáo rằng cứ mỗi lần mua hàng sử dụng thẻ tín dụng của American Express thì công ty sẽ đóng góp 1 xu cho việc trùng tu bức tượng. Chiến dịch vận động tiếp thị này tạo ra một khoảng đóng góp lên đến 1,7 triệu cho dự án trùng tu tượng.Năm 1984, bức tượng bị đóng cửa để trùng tu trong một khoảng thời gian dài. Các công nhân dựng giàn giáo làm che khuất bức tượng. Nitơ lỏng dùng để tẩy sạch các lớp sơn được quét lên phía bên trong vỏ tượng bằng đồng trong nhiều thập niên, để lại hai lớp nhựa than đá mà ban đầu được quét để bịt kín những chỗ xì và chống ăn mòn. Bột nổi được thổi vào để tẩy các lớp nhựa than đá mà không làm hư hại phần lõi đồng. Công việc trùng tu bị ngưng lại vì chất có chứa Amiăng mà Bartholdi đã sử dụng (không hiệu quả như các cuộc kiểm tra cho thấy) để chống ăn mòn đinh tán. Các công nhân trong khu vực bức tượng phải mặc quần áo bảo vệ, được gán tên là "bộ đồ lên cung trăng", cùng với hệ thống mặt nạ dưỡng khí. Những lỗ to hơn trên vỏ tượng được sửa chữa và thêm đồng vào chỗ cần thiết. Vỏ tượng thay thế được tháo từ phần trên cùng của một mái nhà của công ty Bell Labs (Phòng thí nghiệm Bell) vì lớp trên của mái nhà này có lớp đồng rỉ xanh tượng tự như của tượng nữ thần; đổi lại, phòng thí nghiệm được lấy vỏ đồng cũ để thí nghiệm. Ngọn đuốc được phát hiện bị nước rò rỉ vào sau nhiều lần thay đổi vào năm 1916 đã được thay thế bằng một mô hình y hệt như ngọn đuốc gốc bạn đầu của Bartholdi. Vấn đề thay thế cánh tay và bờ vai cũng được xem xét; Cục Công viên Quốc gia Hoa Kỳ luôn cho rằng nên sửa chữa chúng hơn là thay thế. Năm 1986, ngọn đuốc ban đầu được tháo dỡ và thay thế, và đó chính là ngọn đuốc hiện này. Ngọn lửa trên thân đuốc được phủ bằng vàng 24. Ban ngày, ngọn đuốc phản chiếu ánh mặt trời, còn buổi đêm, nó được ánh đèn pha chiếu rọi.
Năm 1986, bức tượng được nhóm kỹ sư Hoa Kỳ và Pháp kiểm tra rất tỉ mỉ như là một phần của kế hoạch kỷ niệm sinh nhật lần thứ 100 của tượng. Vỏ tượng thay thế được tháo từ phần trên cùng của một mái nhà của công ty Bell Labs (Phòng thí nghiệm Bell) vì lớp trên của mái nhà này có lớp đồng rỉ xanh tượng tự như của tượng nữ thần; đổi lại, phòng thí nghiệm được lấy vỏ đồng cũ để thí nghiệm.
Tượng nữ thần tự do
Toàn bộ khung giáp được thay thế. Những thanh sắt mà Eiffel sử dụng dần bị loại bỏ. Những thanh mới gắn vào tháp tượng được chế tạo từ thép không gỉ, có độ chống ăn mòn cao. Những thanh có đinh kẹp nằm cạnh bên vỏ tượng được làm bằng ferralium, một loại hợp kim dễ dàng uốn cong nhẹ nhàng và quay trở về hình thể ban đầu của nó khi bức tượng chuyển động. Để tránh các tia trên mũ miện và cánh tay va chạm vào nhau, các tia được điều chỉnh lại khoảng vài độ. Hệ thống chiếu sáng lại được thay thế - việc thắp sáng ban đêm hiện nay là do những ngọn đèn metal halide đảm trách. Chúng truyền từng chùm ánh sáng đến những phần đặc biệt trên bệ tượng hay bức tượng, soi rõ từng chi tiết khác nhau. Lối dẫn vào bệ tượng đi xuyên qua một chiếc cổng được xây trong thập niên 1960 được tân trang mở rộng và gắn thêm một bộ cửa đồng đồ sộ. Một thang máy hiện đại được lắp đặt giúp cho người tàn tật có thể dễ dàng lên đến khu vực quan sát của bệ tượng. Một thang máy khẩn cấp có thể đi lên đến bờ vai tượng được gắn bên trong bức tượng.Ngày 3-6 tháng 7 năm 1986 được ấn định là "Những ngày cuối tuần Tự do", đánh dấu 100 năm bức tượng và ngày khánh thành của nó. Tổng thống Reagan chủ tọa buổi lễ tái khánh thành cùng với sự hiện diện của Tổng thống Pháp François Mitterrand. Ngày 4 tháng 7 là ngày trở lại của Chiến dịch Thuyền buồm (cuộc đua thuyền buồm, khởi sự lần đầu tiên tại bến cảng New York ngày 4 tháng 7 năm 1976). Bức tượng được mở cửa trở lại cho công chúng ngày 5 tháng 7. Trong bài diễn văn tái khánh thành của Tổng thống Reagan, ông nói rằng "Chúng ta là những người giữ ngọn lửa của tự do; chúng ta đưa cao ngọn lửa cho thế giới nhìn thấy."Sau các vụ tấn công ngày 11 tháng 9, bức tượng và Đảo Liberty lập tức bị đóng cửa. Đảo được mở cửa trở lại vào cuối năm 2001 trong khi đó bệ tượng và bức tượng vẫn được đặt trong tình trạng đóng cửa đối với công chúng. Bệ tượng mở cửa lại vào tháng 8 năm 2004, nhưng Cục Công viên Quốc gia Hoa Kỳ thông báo rằng các du khách có thể không được an toàn khi vào bức tượng vì rất khó thoát ra khi có tình trạng khẩn cấp. Cục Công viên Quốc gia vẫn duy trì lập trường này cho đến hết thời gian còn lại của chính quyền George W. Bush. Anthony D. Weiner, một dân biểu Hoa Kỳ từ tiểu bang New York, đã tiến hành một cuộc vận động cá nhân để bức tượng được mở cửa trở lại. Ngày 17 tháng 5 năm 2009, Bộ trưởng Nội vụ của Tổng thống Barack Obama là Ken Salazar thông báo rằng vì là "một món quà tặng đặc biệt" cho nước Mỹ nên bức tượng sẽ được mở cửa trở lại cho công chúng vào ngày 4 tháng 7, nhưng mỗi ngày chỉ có một số người hạn chế được phép đi lên đến phần mũ miện. Bức tượng được dự trù đóng cửa vào cuối năm 2011 với thời hạn từ 9 tháng đến 1 năm để gắn vào một cầu thang mới nhằm trợ giúp cho tình trạng khẩn cấp phải di tản.
Toàn bộ khung giáp được thay thế. Những thanh mới gắn vào tháp tượng được chế tạo từ thép không gỉ, có độ chống ăn mòn cao.
Tượng nữ thần tự do
Bức tượng nằm trong Vịnh Thượng New York trên Đảo Liberty, phía Nam Đảo Ellis. Cả hai đảo này được tiểu bang New York nhượng lại cho chính phủ liên bang năm 1800. Như thỏa thuận được ký năm 1834 giữa tiểu bang New York và tiểu bang New Jersey trong việc ấn định đường ranh giới nằm ở khoảng giữa vịnh, các đảo gốc vẫn thuộc lãnh thổ New York mặc dù vị trí của chúng nằm bên phía ranh giới của New Jersey. Phần đất san lấp nhân tạo tại Đảo Ellis là lãnh thổ của New Jersey.Lối vào Tượng đài Quốc gia Tượng Nữ thần Tự do thì miễn phí nhưng tất cả du khách phải trả tiền phí qua phà vì các tàu thuyền tư không thể đậu ở hòn đảo. Năm 2007, "Statue Cruises" được chuyển nhượng quyền điều hành giao thông và bán vé cho các cơ sở tham quan trên đảo, thay thế "Circle Line" là dịch vụ phà hoạt động từ năm 1953.
Bức tượng nằm trong Vịnh Thượng New York trên Đảo Liberty, phía Nam Đảo Ellis. Cả hai đảo này được tiểu bang New York nhượng lại cho chính phủ liên bang năm 1800.
Tượng nữ thần tự do
Các chuyến phà khởi hành từ Công viên Tiểu bang Liberty trong Thành phố Jersey và Battery Park trong Hạ Manhattan cũng dừng lại ở Đảo Ellis giúp thực hiện được một chuyến tham quan kết hợp. Cùng với vé qua phà, du khách có ý định vào tầng hầm của bức tượng và bệ tượng phải mua một vé "mời tham quan bảo tàng/bệ tượng". Những ai muốn dùng cầu thang nằm trong bức tượng để lên đến phần mũ miện thì phải mua vé đặc biệt. Vé này có thể phải đặt mua trước đến 1 năm. Tổng cộng chỉ có khoảng 240 người được phép đi lên đến phần mũ miện mỗi ngày: mỗi nhóm là 10 người, mỗi giờ có 3 nhóm. Những người lên đó có thể chỉ được phép mang theo thuốc uống và máy ảnh - có các hộp tủ khóa cung cấp sẵn để cất những thứ vật dụng còn lại - và phải được kiểm tra an ninh lần thứ hai.
Các chuyến phà khởi hành từ Công viên Tiểu bang Liberty trong Thành phố Jersey và Battery Park trong Hạ Manhattan cũng dừng lại ở Đảo Ellis giúp thực hiện được một chuyến tham quan kết hợp. Những người lên đó có thể chỉ được phép mang theo thuốc uống và máy ảnh - có các hộp tủ khóa cung cấp sẵn để cất những thứ vật dụng còn lại - và phải được kiểm tra an ninh lần thứ hai.
Tượng nữ thần tự do
Có một vài bản khắc chữ (plaque) và bản nhỏ (tablet) tri ân được đặt trên hay gần Tượng Nữ thần Tự do. Một bản khắc nằm ngay phía dưới chân nữ thần tuyên bố rằng đây là một bức tượng khổng lồ đại diện cho Nữ thần Tự do, do Bartholdi thiết kế và phân xưởng Paris của công ty Gaget, Gauthier et Cie (Cie là chữ viết tắt tiếng Pháp có nghĩa là công ty) xây dựng. Một bản nhỏ giới thiệu cũng mang tên của Bartholdi, tuyên bố bức tượng là một món quà của nhân dân Pháp nhằm vinh danh "sự liên minh của hai quốc gia trong công cuộc giành độc lập cho Hoa Kỳ và chứng thực tình hữu nghị vĩnh cửu của hai quốc gia." Có một bản nhỏ do ủy ban New York dựng lên để kỷ niệm cuộc vận động gây quỹ để xây bệ tượng. Viên đá đặt nền xây bệ tượng cũng có mang một bản khắc do các thành viên của Hội Tam điểm dựng.Năm 1903, những người bạn của nữ thi sĩ Emma Lazarus trao tặng bà một bản khắc chữ nhỏ bằng đồng có chứa lời bài thơ "The New Colossus" và cũng là để tưởng niệm nữ thi sĩ. Bản khắc được đặt bên trong bệ tượng cho đến lần trùng tu năm 1986; hiện nay vẫn nằm trong Bảo tàng Tượng Nữ thần Tự do ở tầng nền. Nó được đặt cùng với một tấm bảng nhỏ ca ngợi cuộc đời của nữ thi sĩ do Ủy ban Tưởng niệm Emma Lazarus trao tặng năm 1977.Một nhóm gồm nhiều bức tượng được đặt ở góc cuối phía Tây của hòn đảo để vinh danh những người có liên quan mật thiết với Tượng Nữ thần Tự do. Hai người Mỹ là Pulitzer và Lazarus cùng ba người Pháp là Bartholdi, Laboulaye, và Eiffel được tạc tượng. Những bức tượng này là tác phẩm của điêu khắc gia từ tiểu bang Maryland là Phillip Ratner.Năm 1984, Tượng Nữ thần Tự do được UNESCO công bố là di sản thế giới. Trong "Lời tuyên bố về tầm quan trọng", UNESCO miêu tả bức tượng như một "kiệt tác tinh thần của nhân loại" đang "đứng vững như một biểu tượng hùng tráng cao độ — truyền cảm hứng cho dự tính, tranh luận và đấu tranh - cho những lý tưởng như tự do, hòa bình, nhân quyền, bãi nô, dân chủ và cơ hội."
Có một vài bản khắc chữ (plaque) và bản nhỏ (tablet) tri ân được đặt trên hay gần Tượng Nữ thần Tự do. Hai người Mỹ là Pulitzer và Lazarus cùng ba người Pháp là Bartholdi, Laboulaye, và Eiffel được tạc tượng.
Tượng nữ thần tự do
Hàng trăm mô hình Tượng Nữ thần Tự do được trưng bày khắp thế giới. Một mô hình nhỏ hơn, khoảng một phần 5 chiều cao bức tượng gốc, được cộng đồng người Mỹ tại Paris tặng cho thành phố. Hiện nay nó đứng trên Île aux Cygnes, quay mặt về hướng Tây nhìn về phía người chị em lớn hơn của mình (bức tượng gốc tại New York). Một mô hình của bức tượng cao 9,1 mét (30 ft) đặt trên nóc Liberty Warehouse ở Đường số 64 trong quận Manhattan đã đứng đó trong nhiều năm liền; hiện nay được đặt tại Bảo tàng Brooklyn. Trong cử chỉ bày tỏ lòng yêu nước như một phần của chiến dịch "Làm vững mạnh Cánh tay Tự do" năm 1949-1952, Nam Hướng đạo Mỹ đã tặng khoảng hàng trăm mô hình tượng Nữ thần Tự do làm bằng đồng, cao khoảng 2,5 mét (100 inch) cho các tiểu bang và khu tự quản khắp nơi ở Hoa Kỳ. Mặc dù không phải là mô hình thật nhưng bức tượng được biết với tên gọi là Nữ thần Dân chủ được dựng tạm thời trong suốt Cuộc biểu tình ở Quảng trường Thiên An Môn năm 1989 đã nhận cảm hứng tương tự từ những truyền thống dân chủ Pháp - những người tạc tượng này đã rất cẩn trọng để tránh mô phỏng trực tiếp Tượng Nữ thần Tự do. Trong các công trình giải trí ở Thành phố New York, bản sao của bức tượng là một phần cảnh quan dùng để trang trí bên ngoài tại Khách sạn và Sòng bài New York-New York ở Las Vegas, Nevada.
Hàng trăm mô hình Tượng Nữ thần Tự do được trưng bày khắp thế giới. Hiện nay nó đứng trên Île aux Cygnes, quay mặt về hướng Tây nhìn về phía người chị em lớn hơn của mình (bức tượng gốc tại New York).
Tượng nữ thần tự do
Là một hình tượng Mỹ, Tượng Nữ thần Tự do từ lâu đã được in trên những con tem thư và tiền kim loại của Hoa Kỳ, xuất hiện trên những đồng tiền kim loại tưởng niệm được phát hành để đánh dấu sinh nhật 100 năm của tượng và trên phiên bản tiền 25 xu của tiểu bang New York năm 2001 thuộc bộ phát hành tiền 25 xu kỷ niệm các tiểu bang Hoa Kỳ. Năm 1997, hình của bức tượng được chọn dùng cho loại tiền không lưu hành là đồng bạch kim đại bàng Mỹ (American Eagle platinum bullion coins) và xuất hiện ở mặt trái hay còn gọi là "mặt chữ" của bộ tiền kim loại 1 đô la Tổng thống đang được lưu hành. Hai hình ngọn đuốc của bức tượng (một lớn và một nhỏ) xuất hiện trên tờ giấy bạc 10 đô la lưu hành hiện nay.Nhiều cơ sở và cơ quan vùng cũng đã sử dụng mô hình hay hình tượng của bức tượng. Giữa năm 1986 và 2000, tiểu bang New York phát hành biển đăng ký số xe có hình bức tượng. Đội New York Liberty thuộc Hội Bóng rổ Nữ Quốc gia Hoa Kỳ sử dụng cả tên lẫn hình ảnh của tượng trên biểu trưng của mình trong đó ngọn lửa của tượng được cách điệu nhân đôi thành một quả bóng rổ. Đội New York Rangers thuộc Liên đoàn Khúc côn cầu Quốc gia Hoa Kỳ in hình đầu tượng trên áo thi đấu của mình bắt đầu từ năm 1997.Bức tượng là một đề tài thường xuyên có mặt trong văn hóa đại chúng. Trong âm nhạc, nó được gợi lên để chỉ sự ủng hộ cho những chính sách của Mỹ, thí dụ như trong bài hát "Courtesy of the Red, White, & Blue (The Angry American)" của Toby Keith. Trong chiều hướng đối ngược, bức tượng xuất hiện trong album phiên bản cover Bedtime for Democracy của ban nhạc The Dead Kennedys có nội dung phản đối những chính sách của chính phủ Reagan. Trong phim ảnh, ngọn đuốc là cảnh quay cao trào của bộ phim năm 1942 của đạo diễn Alfred Hitchcock với tựa đề Saboteur. Một trong những lần xuất hiện trên màn bạc nổi tiếng nhất của bức tượng là trong bộ phim năm 1968 có tựa đề Planet of the Apes, trong đó có cảnh bức tượng bị chôn vùi nửa phần dưới cát. Bức tượng cũng bị phá hủy trong những bộ phim khoa học viễn tưởng như Independence Day, The Day After Tomorrow và Cloverfield. Trong tiểu thuyết du hành thời gian của Jack Finney có tựa đề là Time and Again, cánh tay phải của bức tượng đóng vai trò quan trọng và được trưng bày trong Công viên Quảng trường Madison vào đầu thập niên 1880. Robert Holdstock, người tham vấn biên tập của Bách khoa Tự điển Khoa học Viễn tưởng, đã tự hỏi vào năm 1979:
Là một hình tượng Mỹ, Tượng Nữ thần Tự do từ lâu đã được in trên những con tem thư và tiền kim loại của Hoa Kỳ, xuất hiện trên những đồng tiền kim loại tưởng niệm được phát hành để đánh dấu sinh nhật 100 năm của tượng và trên phiên bản tiền 25 xu của tiểu bang New York năm 2001 thuộc bộ phát hành tiền 25 xu kỷ niệm các tiểu bang Hoa Kỳ. Đội New York Liberty thuộc Hội Bóng rổ Nữ Quốc gia Hoa Kỳ sử dụng cả tên lẫn hình ảnh của tượng trên biểu trưng của mình trong đó ngọn lửa của tượng được cách điệu nhân đôi thành một quả bóng rổ.
Kế hoạch Marshall
Kế hoạch Marshall (tiếng Anh: Marshall Plan) là một sáng kiến của Mỹ được ban hành vào năm 1948 nhằm cung cấp viện trợ nước ngoài cho Tây Âu sau khi Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc. Mang tên chính thức là Kế hoạch phục hưng châu Âu (European Recovery Program, viết tắt ERP), nhưng Kế hoạch Marshall thường được gọi theo tên của Ngoại trưởng Mỹ George Marshall, người đã khởi xướng và ban hành kế hoạch. Kế hoạch Marshall là thành quả lao động của các quan chức Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ, trong đó ghi nhận sự đóng góp đặc biệt của William L. Clayton và George F. Kennan.
Kế hoạch Marshall (tiếng Anh: Marshall Plan) là một sáng kiến của Mỹ được ban hành vào năm 1948 nhằm cung cấp viện trợ nước ngoài cho Tây Âu sau khi Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc. Mang tên chính thức là Kế hoạch phục hưng châu Âu (European Recovery Program, viết tắt ERP), nhưng Kế hoạch Marshall thường được gọi theo tên của Ngoại trưởng Mỹ George Marshall, người đã khởi xướng và ban hành kế hoạch.
Kế hoạch Marshall
Kế hoạch tái thiết được phát triển tại cuộc họp mặt của các quốc gia châu Âu ngày 12 tháng 7 năm 1947. Kế hoạch Marshall đề ra việc viện trợ tương đương cho Liên Xô và đồng minh của họ, nhưng không được chấp nhận. Kế hoạch được thực thi trong vòng 4 năm, kể từ tháng 7 năm 1947. Trong thời gian đó, có khoảng 17 tỷ đô la Mỹ viện trợ kinh tế và hỗ trợ kỹ thuật để giúp khôi phục các quốc gia châu Âu tham gia Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế – OECD. Nhiều quốc gia châu Âu đã nhận được viện trợ trước khi có Kế hoạch Marshall, kể từ năm 1945, cùng với các điều kiện chính trị kèm theo.
Kế hoạch tái thiết được phát triển tại cuộc họp mặt của các quốc gia châu Âu ngày 12 tháng 7 năm 1947. Trong thời gian đó, có khoảng 17 tỷ đô la Mỹ viện trợ kinh tế và hỗ trợ kỹ thuật để giúp khôi phục các quốc gia châu Âu tham gia Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế – OECD.
Kế hoạch Marshall
Phần lớn châu Âu bị tàn phá nặng nề với hàng triệu người chết và bị thương sau Chiến tranh thế giới thứ hai. Chiến sự tàn phá trên toàn lục địa, trải rộng trên một diện tích còn lớn hơn Chiến tranh thế giới thứ nhất. Các cuộc ném bom dai dẳng cũng đồng nghĩa với việc phần lớn các thành phố lớn đều bị tàn phá nặng nề, với các khu công nghiệp bị đánh phá nghiêm trọng. Rất nhiều thành phố lớn, bao gồm cả Warszawa và Berlin hoàn toàn đổ nát, các thành phố khác, như Luân Đôn và Rotterdam, thì bị thương tích nặng nề. Hạ tầng cơ sở kinh tế điêu tàn, hàng triệu người trở thành vô gia cư. Mặc dù nạn đói ở Hà Lan năm 1944 đã dịu đi cùng với nguồn viện trợ, nhưng sự hoang tàn của ngành nông nghiệp cũng khiến cho nạn đói xảy ra tại một số vùng trên lục địa, lại càng trở nên nghiêm trọng vì mùa đông đặc biệt khắc nghiệt năm 1946–1947 tại vùng tây bắc châu Âu. Đặc biệt hạ tầng giao thông bị phá hoại nghiêm trọng, vì đường sắt, cầu cống, đường sá là các mục tiêu không kích quan trọng, trong khi phần lớn các đoàn tàu thương mại đã bị đánh chìm. Mặc dù phần lớn các thị trấn nhỏ và làng mạc ở Tây Âu không phải chịu cảnh tàn phá ghê gớm như vậy, nhưng việc hệ thống giao thông bị tiêu hủy cũng làm cho họ trở nên cô lập về mặt kinh tế. Bất kỳ vấn đề nào trên đây đều không dễ để giải quyết, vì phần lớn các quốc gia tham chiến đều đã kiệt quệ về tài chính.
Phần lớn châu Âu bị tàn phá nặng nề với hàng triệu người chết và bị thương sau Chiến tranh thế giới thứ hai. Hạ tầng cơ sở kinh tế điêu tàn, hàng triệu người trở thành vô gia cư.
Kế hoạch Marshall
Tại Washington, người ta nhất trí là những sai lầm sau Chiến tranh thế giới thứ nhất không được phép tái diễn. Bộ ngoại giao dưới thời Tổng thống Harry S. Truman dồn tâm sức theo đuổi các hoạt động đối ngoại, nhưng Quốc hội thì phần nào tỏ ra không quan tâm. Ban đầu, người ta hy vọng là chỉ cần không nhiều tiền lắm cũng đủ để tái thiết châu Âu; và Anh, Pháp, với sự giúp sức từ các thuộc địa của họ, sẽ nhanh chóng khôi phục nền kinh tế của họ. Tuy nhiên, tới năm 1947 vẫn chỉ có rất ít tiến bộ. Và mùa đông giá lạnh liên tục trong mấy năm làm tình hình vốn đã xấu lại càng xấu hơn. Nền kinh tế châu Âu dường như không phát triển mạnh với tỷ lệ thất nghiệp cao, lương thực thiếu thốn, dẫn đến các cuộc đình công và bất ổn trong một số quốc gia. Năm 1947, nền kinh tế châu Âu vẫn còn ở dưới mức trước chiến tranh, và hầu như không có dấu hiệu tăng trưởng. Sản lượng nông nghiệp ở khoảng 83% mức năm 1938, sản xuất công nghiệp là 88%, xuất khẩu chỉ ở mức 59%.Sự thiếu hụt lương thực là một trong những vấn đề trầm trọng nhất. Trước chiến tranh, Tây Âu phụ thuộc vào nguồn lương thực thặng dư từ Đông Âu, nhưng những nguồn đó đã bị chặn lại phía sau Bức màn sắt. Tình hình trở nên đặc biệt tồi tệ tại Đức, nơi mà theo Alan S. Milward trong năm 1946–47 lượng kilocalorie trung bình trên đầu người chỉ là 1.800, không đủ đảm bảo sức khỏe về lâu về dài. Các nguồn khác cho biết lượng kilocalorie trong các năm đó thay đổi, có thể thấp đến mức 1.000 và 1.500. William Clayton thông báo cho Washington là "hàng triệu người đang từ từ chết đói". Một nhân tố cốt yếu khác cho nền kinh tế nói chung là sự thiếu hụt than đá, càng trở nên trầm trọng vì mùa đông lạnh lẽo 1946–47. Tại Đức, các căn hộ không được sưởi ấm, khiến hàng trăm người chết cóng. Tại Anh, tình hình không đến nỗi tồi tệ như vậy, nhưng nhu cầu dân chúng khiến cho sản xuất công nghiệp bị đình trệ hoàn toàn. Một trong những động cơ thúc đẩy kế hoạch trên là lòng nhân đạo muốn chấm dứt những thảm cảnh đó.
Tại Washington, người ta nhất trí là những sai lầm sau Chiến tranh thế giới thứ nhất không được phép tái diễn. Các nguồn khác cho biết lượng kilocalorie trong các năm đó thay đổi, có thể thấp đến mức 1.000 và 1.500.
Kế hoạch Marshall
Đức nhận được nhiều đề nghị từ các quốc gia Tây Âu đổi lương thực lấy than đá và sắt thép tối cần thiết khi đó. Nhưng cả Ý lẫn Hà Lan đều không thể được bán rau quả mà trước đó họ vẫn bán ở Đức, với hệ quả là Hà Lan phải tiêu hủy một phần đáng kể vụ thu hoạch của mình. Đan Mạch muốn đổi 150 tấn mỡ lợn một tháng, Thổ Nhĩ Kỳ muốn đổi hạt dẻ; Na Uy muốn đổi cá và dầu cá, Thụy Điển muốn đổi một lượng lớn mỡ. Các quốc gia Đồng Minh, trái lại, không muốn để người Đức được mua bán. Trước tình hình đó, Tướng Lucius D. Clay và Hội đồng Tham mưu trưởng Liên quân (Joint Chiefs of Staff) ngày càng tỏ ra lo lắng trước sự gia tăng ảnh hưởng của chủ nghĩa cộng sản tại Đức, cũng như tình hình thất bại của các nền kinh tế châu Âu không thể phục hồi mà không có nền công nghiệp Đức, là nền móng mà trước kia họ phải dựa vào. Mùa hè năm 1947, Ngoại trưởng, Tướng George Marshall, dựa vào lý do "cơ sở an ninh quốc gia", cuối cùng đã thuyết phục được Tổng thống Harry S. Truman bãi bỏ chỉ thị JCS 1067 trừng phạt Đức, thay vào đó bằng chỉ thị JCS 1779. Tháng 7 năm 1947 chỉ thị JCS 1067, vốn vẫn định hướng cho lực lượng chiếm đóng Mỹ tại Đức nhằm "... không thực hiện bất kỳ bước nào để tiến tới khôi phục nền kinh tế Đức", được thay thế bởi chỉ thị JCS 1779, nhấn mạnh "Một châu Âu trật tự, phồn vinh đòi hỏi phải có sự đóng góp kinh tế từ một nước Đức ổn định và hiệu quả". Chỉ thị JCS 1067 đã có hiệu lực trong vòng hơn hai năm. Những hạn chế áp đặt lên nền sản xuất công nghiệp của Đức phần nào trở nên thông thoáng hơn, cho phép sản xuất thép tăng lên từ mức 25% trước chiến tranh tới định mức 50% năng suất trước thế chiến.Nền công nghiệp Đức tiếp tục bị dỡ bỏ, và năm 1949 Thủ tướng Đức Konrad Adenauer viết thư cho phe Đồng Minh, yêu cầu chấm dứt việc đó, viện dẫn sự trái khoáy trong việc khuyến khích phát triển công nghiệp và việc phá bỏ các nhà máy, cũng như sự mất lòng dân từ chính sách đó. Sự ủng hộ cho việc dỡ bỏ các nhà máy lúc này tới chủ yếu từ phía Pháp, và Thỏa thuận Petersberg tháng 11 năm 1949 cho phép giảm tốc độ phá dỡ đi rất nhiều, mặc dù việc tháo dỡ các nhà máy nhỏ tiếp tục cho tới năm 1951. Kế hoạch "định mức công nghiệp" đầu tiên, được phe Đồng Minh ký ngày 9 tháng 3 năm 1946, tuyên bố nền công nghiệp nặng của Đức phải giảm xuống 50% mức năm 1938 bằng cách phá bỏ 1.500 nhà máy có tên trong danh sách. Tháng 1 năm 1946, Hội đồng kiểm soát Đồng Minh áp đặt cơ sở cho nền kinh tế Đức bằng cách đặt hạn mức cho sản xuất thép của Đức vào khoảng 5,8 triệu tấn một năm, bằng với 25% mức trước chiến tranh. Nước Anh, chiếm đóng những vùng sản xuất thép chính, đòi phải giới hạn sản lượng hơn nữa bằng cách đặt một tối đa là 12 triệu tấn thép một năm, nhưng cuối cùng cũng phải chịu theo ý Mỹ, Pháp và Liên Xô (vốn định đặt mức giới hạn 3 triệu tấn trước đó). Các nhà máy thép thừa ra sẽ phải bị phá bỏ. Nước Đức bị đẩy xuống mức sống khi cuộc Đại khủng hoảng lên tới đỉnh điểm năm 1932 Sản xuất ô tô bị định ở 10% mức trước thời chiến....Kế hoạch "Định mức công nghiệp Đức" được tiếp nối bởi một số kế hoạch mới hơn, kế hoạch cuối cùng được ký vào năm 1949. Tới năm 1950, sau khi thực tế đã hoàn thành các kế hoạch "định mức công nghiệp", người ta dỡ bỏ 706 nhà máy ở Tây Đức và sản lượng thép bị giảm xuống còn 6,7 triệu tấn. Vladimir Petrov nhận xét là phe Đồng Minh đã "trì hoãn trong vài năm sự phục hồi kinh tế của lục địa châu Âu bị chiến tranh tàn phá, sự phục hồi mà cuối cùng Mỹ phải tốn hàng tỷ đô la vào đó". Năm 1951, Tây Đức chấp thuận gia nhập Cộng đồng Than Thép châu Âu (ECSC) vào năm sau. Điều đó có nghĩa là một số hạn chế về định lượng và sản lượng thực tế do Ủy ban quốc tế giám sát vùng Ruhr được dỡ bỏ, và vai trò của ủy ban này được tiếp quản bởi ECSC.
Đức nhận được nhiều đề nghị từ các quốc gia Tây Âu đổi lương thực lấy than đá và sắt thép tối cần thiết khi đó. Mùa hè năm 1947, Ngoại trưởng, Tướng George Marshall, dựa vào lý do "cơ sở an ninh quốc gia", cuối cùng đã thuyết phục được Tổng thống Harry S. Truman bãi bỏ chỉ thị JCS 1067 trừng phạt Đức, thay vào đó bằng chỉ thị JCS 1779.
Kế hoạch Marshall
Cường quốc duy nhất mà cơ sở hạ tầng không bị thiệt hại trong thế chiến 2 là Hoa Kỳ. Họ tham chiến muộn hơn hầu hết các quốc gia châu Âu, và chỉ bị những tàn phá rất khiêm tốn trên lãnh thổ của mình. Số lượng dự trữ vàng của Hoa Kỳ vẫn còn nguyên, cũng như cơ sở hạ tầng nông nghiệp và sản xuất, với nền kinh tế lành mạnh. Những năm chiến tranh mang lại thời kỳ phát triển kinh tế mạnh mẽ nhất trong lịch sử, với các nhà máy của Mỹ sản xuất hàng hóa phục vụ cho cả nhu cầu vật tư chiến tranh của Mỹ lẫn đồng minh. Sau chiến tranh, các nhà máy này được nhanh chóng chuyển đổi sang sản xuất vật liệu tiêu dùng, và sự khan hiếm trong chiến tranh được thay thế bởi sự bùng nổ mức tiêu thụ hàng hóa. Sức khỏe về lâu dài của nền kinh tế Mỹ tuy nhiên phụ thuộc vào thương mại, vì để duy trì sự phồn thịnh nó cần xuất khẩu hàng hóa làm ra. Viện trợ từ Kế hoạch Marshall phần lớn sẽ được châu Âu sử dụng để mua vật tư cũng như hàng hóa sản xuất tại Mỹ.
Cường quốc duy nhất mà cơ sở hạ tầng không bị thiệt hại trong thế chiến 2 là Hoa Kỳ. Viện trợ từ Kế hoạch Marshall phần lớn sẽ được châu Âu sử dụng để mua vật tư cũng như hàng hóa sản xuất tại Mỹ.