id
stringlengths 1
8
| url
stringlengths 37
44
| title
stringlengths 1
250
| text
stringlengths 0
258k
|
---|---|---|---|
19820259 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19820259 | Cobalt(II) hydride | Cobalt(II) hydride là một hợp chất vô cơ có công thức hóa học CoH. Hợp chất này có tinh thể màu xám tối, oxy hóa chậm trong không khí và phản ứng với nước.
Hai dạng cobalt(II) hydride tồn tại dưới áp suất cao. Từ 4 đến 45 pascal có dạng lập phương tâm diện với công thức CoH. Điều này có thể được giải nén ở nhiệt độ thấp để tạo thành một hợp chất siêu bền ở áp suất khí quyển. Trên 45 pascal cobalt(II) hydride cũng kết tinh ở dạng lập phương tâm mặt.
Cobalt(II) hydride có thể được điều chế bằng phản ứng giữa phenylmagnesi bromide và cobalt(II) chloride trong khí hydro:
CoCl + 2CH MgBr + 2H → CoH + 2CH + MgBr + MgCl
|
19820273 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19820273 | Giáo phận Cheongju | Giáo phận Cheongju (; ) là một giáo phận của Giáo hội Latinh trực thuộc Giáo hội Công giáo Rôma với tòa giám mục đặt tại Cheongju, Hàn Quốc. Giáo phận là một giáo phận trực thuộc Tổng giáo phận Daegu. Giám mục đương nhiệm là Simôn Kim Jong-gang, bổ nhiệm ngày 19/3/2022.
Địa giới giáo phận bao gồm toàn bộ tỉnh Chungcheong Bắc ở Hàn Quốc, ngoại trừ thành phố Jecheon và huyện Danyang thuộc về Giáo phận Wonju.
Tòa giám mục được đặt tại thành phố Cheongju, cũng là nơi đặt Nhà thờ chính tòa Thánh Gia.
Giáo phận được chia thành 79 giáo xứ.
Hạt Đại diện Tông tòa Cheongju được thành lập vào ngày 23/6/1958 theo tông sắc "Sacro suadente" của Giáo hoàng Piô XII, trên phần lãnh thổ tách ra từ Giáo phận Seoul.
Vào ngày 10/3/1962 Hạt Đại diện Tông tòa được nâng cấp thành một giáo phận theo tông sắc "Fertile Evangelii semen" của Giáo hoàng Gioan XXIII.
Các giai đoạn trống tòa không quá 2 năm hay không rõ ràng bị loại bỏ.
Đến năm 2021, giáo phận có 172.238 giáo dân trên dân số tổng cộng 1.474.509, chiếm 11,7%.
|
19820295 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19820295 | Tổ chức ca cao thế giới | Tổ chức ca cao thế giới (ICCO) là một tổ chức toàn cầu, bao gồm các nước sản xuất và tiêu thụ ca cao. Trụ sở chính tại London, ICCO được thành lập năm 1973 để thực hiện Hiệp định Ca cao Quốc tế lần đầu tiên, được đàm phán tại Geneva trong một Hội nghị Ca cao Quốc tế của Liên Hợp Quốc. Kể từ đó, đã có bảy Hiệp định. Hiệp định Ca cao Quốc tế thứ Bảy được đàm phán tại Geneva vào năm 2010 và có hiệu lực tạm thời vào ngày 1 tháng 10 năm 2012.
Vào ngày 2 tháng 11 năm 2005, có hơn 80% các quốc gia xuất khẩu Ca cao đã gia nhập Hiệp định. Do đó, Hiệp định Ca cao Quốc tế năm 2001 đã có hiệu lực chính thức lần đầu tiên trong lịch sử 30 năm của các Hiệp định Ca cao Quốc tế. Các nước thành viên ICCO chiếm gần 85% sản lượng ca cao thế giới và hơn 60% tiêu thụ ca cao thế giới. Tất cả các thành viên đều được đại diện tại Hội đồng Ca cao Quốc tế, cơ quan quản lý cao nhất của ICCO.
Hai thành tựu quan trọng nhất của Hiệp định Ca cao Quốc tế hiện tại là việc thiết lập một nhiệm vụ rõ ràng về một nền kinh tế Ca cao thế giới bền vững và thành lập Consultative Board on the World Cocoa Economy.
Consultative Board on the World Cocoa Economy bao gồm mười bốn chuyên gia quốc tế trong lĩnh vực ca cao, tất cả đều từ khu vực tư nhân (bảy người từ các nước thành viên sản xuất ca cao và bảy người từ các nước thành viên tiêu thụ ca cao). Tuy nhiên, Hội đồng, với nhiệm vụ rộng rãi như Hội đồng Ca cao Quốc tế và bao gồm tất cả các khía cạnh của nền kinh tế ca cao thế giới, chỉ hoạt động với tư cách tư vấn, vì tất cả các quyết định cuối cùng đều do Hội đồng Ca cao Quốc tế đưa ra. Hội đồng được thành lập để ghi nhận tầm quan trọng của khu vực tư nhân trong nền kinh tế ca cao thế giới và vai trò ngày càng quan trọng của thương mại và công nghiệp trong ICCO.
|
19820296 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19820296 | G Hannelius | Genevieve Knight Hannelius (sinh ngày 22 tháng 12 năm 1998) là một nữ diễn viên, ca sĩ và nhân vật YouTube người Mỹ, người đã xuất hiện lần đầu với vai diễn Courtney Patterson trong loạt phim "Surviving Suburbia" (2009) của đài ABC. Cô đã có các vai diễn định kỳ trong loạt phim Disney Channel "Sonny with a Chance" (2009–2010) và "Good Luck Charlie" (2010–2011), và nhanh chóng được công nhận với vai Avery Jennings trong bộ phim sitcom "Dog with a Blog" của Disney Channel.
Hannelius sinh ra ở Boston, Massachusetts với Eric và Karla Hannelius. Cha cô là người Thụy Điển. Cô chuyển đến Yarmouth, Maine năm ba tuổi, sau đó chuyển đến Los Angeles năm chín tuổi cùng gia đình để theo đuổi diễn xuất. Cô ấy là cựu sinh viên của Xưởng diễn viên trẻ có trụ sở tại Los Angeles. Cô tốt nghiệp trường trung học Sierra Canyon vào tháng 5 năm 2017. Vào tháng 1 năm 2022, Hannelius chuyển đến Thành phố New York, New York.
|
19820305 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19820305 | Vera Ivanovna Zasulich | Vera Ivanovna Zasulich ( – 8 tháng 5 năm 1919) là một nhà hoạt động chính trị, cây bút và nhà cách mạng xã hội chủ nghĩa người Nga.
|
19820310 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19820310 | Kay (danh hiệu) | Kay (nghĩa là "vua") là một danh hiệu cai trị được sử dụng trong thần thoại Iran bởi các quốc vương Kayani trong Avesta, sau đó được các quân vương Kushano-Sasan áp dụng, tiếp theo là các vị vua Sasan của Iran.
|
19820317 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19820317 | The Oxford Dictionary of Late Antiquity | The Oxford Dictionary of Late Antiquity (ODLA), dịch nghĩa là "Từ điển Oxford về Thời kỳ cuối của Thời cổ đại" là tác phẩm tham khảo toàn diện, đa ngành đầu tiên, bao gồm văn hóa, lịch sử, tôn giáo và cuộc sống vào cuối thời kỳ cổ đại. Đây là giai đoạn ở châu Âu, Địa Trung Hải và Miền Cận Đông từ khoảng 250 đến 750 sau Công Nguyên. Được viết bởi hơn 400 tác giả đóng góp và biên tập bởi Oliver Nicholson, tác phẩm "Oxford Dictionary of Late Antiquity" đã được xuất bản vào năm 2018. Nó kết nối giai đoạn lịch sử giữa những giai đoạn được đề cập trong cuốn "Oxford Classical Dictionary (Từ điển Oxford Cổ điển)" và cuốn "The Oxford Dictionary of the Middle Ages (Từ điển Oxford thời Trung Cổ)". Phiên bản in ấn gồm có hai tập, Tập I: A–I; Tập II: J–Z.
|
19820320 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19820320 | Đường xá Sasan | Đường Sasan là hạ tầng vật chất quan trọng cho việc duy trì và phát triển Đế quốc Sasan. Rất nhiều hệ thống đường Sasan vẫn còn chưa được biết đến do có ít các cuộc khảo cổ được vận động. Những gì có thể suy ra được chủ yếu đến từ công việc của các nhà địa lý Hồi giáo sau này, chẳng hạn như Ibn Khordadbeh, người lại dựa vào thông tin do các thương nhân cung cấp. Con đường Sasan chính bắt đầu từ Lưỡng Hà. Một tuyến đường phía bắc đi qua Hatra và Nahavand hướng về Khorasan, Tokharistan và Transoxania. Một con đường phía bắc khác dẫn đến Armenia và Lazica thông qua Adurbadagan. Một con đường phía nam đi qua Dehloran và Susangerd hướng về Khuzestan trước khi cuối cùng đến Pars bằng cách đi theo một con đường ven biển dọc theo Vịnh Ba Tư. Tất cả các con đường của Đế chế Sasan đều được phục vụ bởi các trạm thu phí, thuế hàng hóa thương mại, và dịch vụ cũng được cung cấp cho những người du hành, mặc dù nhà sử học Khodadad Rezakhani lưu ý rằng "mức độ của chúng không rõ ràng từ góc độ khảo cổ học".
|
19820321 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19820321 | Dendrochirus bellus | Dendrochirus bellus là một loài cá biển thuộc chi "Dendrochirus" trong họ Cá mù làn. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1925.
Tính từ định danh "bellus" trong tiếng Latinh mang nghĩa là “xinh đẹp”, có lẽ hàm ý đề cập đến các vệt đốm màu nâu hoặc đen trên thân và vây, làm bắt mắt kiểu hình của loài cá này.
"D. bellus" có phạm vi giới hạn trong vùng Tây Bắc Thái Bình Dương, từ bán đảo Bōsō dọc theo bờ đông và nam Trung Quốc, gồm ngoài khơi Hoàng Hải và biển Hoa Đông đến đảo Đài Loan và Việt Nam. Ở bờ biển Việt Nam, "D. bellus" được ghi nhận ở ngoài khơi vịnh Bắc Bộ và trong vịnh Nha Trang.
"D. bellus" từng được ghi nhận ở vịnh Mannar (Ấn Độ), nhưng sau khi kiểm tra lại thì mẫu vật này có vẻ như thuộc về "Dendrochirus brachypterus". Ghi nhận của "D. bellus" ở Nouvelle-Calédonie nhiều khả năng cũng là nhầm lẫn.
"D. bellus" sống ở vùng triều có nền đáy là đá sỏi hoặc bùn cát, độ sâu có thể lên đến 200 m.
Chiều dài cơ thể lớn nhất được ghi nhận ở "D. bellus" là 15 cm. Loài này có màu cam, nhiều chấm xanh lam nhạt với 2–3 vệt đốm nhạt dọc lưng và cuống đuôi (các đốm sáng hoặc sẫm hơn tùy thuộc vào tình trạng của cá). Vây ngực có khoảng 9 dải dọc màu cam. Vây bụng có 5 dải tương tự. Vây lưng mềm, vây hậu môn và vây đuôi có các dải mảnh màu cam nhạt.
Số gai ở vây lưng: 13; Số tia vây ở vây lưng: 9–10; Số gai ở vây hậu môn: 3; Số tia vây ở vây hậu môn: 5–6; Số tia vây ngực: 16–18.
"D. bellus" nằm trong phức hợp loài "D. brachypterus". "D. bellus" có số vảy theo chiều dài cơ thể trung bình là 38 so với 44–51 ở những loài khác trong phức hợp, và chúng không có nắp da trên vùng hốc mắt và ở gốc ngạnh trên cùng của xương trước nắp mang. Những nhầm lẫn giữa "D. bellus" với "D. brachypterus" do việc xác định dựa trên đặc điểm mà Poss (1999) xuất bản, nhưng thiếu đi đặc điểm mà Matsunuma và cộng sự (2017) bổ sung sau này.
|
19820325 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19820325 | Nhật ký Murasaki Shikibu | Người ta cho rằng cuốn nhật ký được sáng tác vào khoảng thời gian từ năm 1008 đến năm 1010 khi Murasaki đang phục vụ với tư cách Nữ quan triều đình. Phần nội dung chủ yếu nói về những cuộc sinh nở của Hoàng hậu Shōshi (hay Akiko). Những đoạn biên thơ ngắn mô tả những mối quan hệ giữa các nữ quan cung đình cũng như những nữ văn sĩ cung đình khác như Izumi Shikibu, Akazome Emon và Sei Shōnagon. Murasaki đã thổi hồn cho tác phẩm bằng óc quan sát và quan điểm cá nhân, bà đã mang cả cuộc sống cung đình Heian thời thế kỉ 11 gói vào trong cuốn nhật ký, một thứ không được ghi chép nhiều trong những biên niên sử cũng như các tư liệu lịch sử khác vào thời đó.
Một cuộn tranh minh họa cho tác phẩm, tức , đã được sản xuất vào thời kỳ Kamakura (1185–1333), và những mảnh nhật ký đã trở thành cơ sở cho các bản dịch tiếng Anh sau này vào thế kỷ 20.
Vào thời kỳ hoàng kim của thời đại Heian, tức là khoảng thời gian từ cuối thế kỷ 10 đến đầu thế kỷ 11, khi Nhật Bản đang tìm cách thiết lập nền văn hóa độc đáo của riêng mình, đây cũng là khởi nguồn cho nền văn học Nhật Bản cổ đại, với sự phổ biến rộng rãi của văn học nữ lưu. Theo Haruo Shirane, với việc sử dụng và phổ biến rộng rãi của kana, những người phụ nữ trong giới hoàng gia quý tộc đã đóng góp rất lớn vào sự phát triển của văn học cung đình cổ đại. Bộ sưu tập thơ hoàng gia Kokin Wakashū đã được xuất bản từ năm 905 đã trở thành một mảnh ghép quan trọng trong văn học cung đình Nhật Bản. Vào thời kỳ đó, các tác phẩm văn chương Nhật hầu hết đều được viết bằng Hán tự – loại chữ viết truyền thống chỉ dành cho nam giới. Trong văn học cung đình, việc chuyển đổi ngôn ngữ viết sang loại chữ kana bản địa là một điều quan trọng và cần thiết, đây cũng là lý do khiến cho thơ trở nên phổ biến. Theo lời giải thích của Shirane thì: " đã trở thành một phần không thể thiếu trong đời sống quý tộc.Với quan điểm "nam nữ thụ thụ bất thân" của người xưa, thi ca cũng đóng vai trò như một công cụ giao tiếp quan trọng và là phương tiện giao tiếp giữa nam và nữ".
Vào đầu thế kỷ 11, thể loại văn học nữ lưu mới đã xuất hiện trong chốn cung đình dưới dạng nhật ký và truyện thơ. Những người phụ nữ có địa vị thấp hơn, họ đã nhanh chóng dùng kana làm ngôn ngữ viết, khác với những người đàn ông thời đó vẫn dùng chữ Hán làm ngôn ngữ viết. Vào thời Heian, ngôn ngữ viết của phụ nữ hoàn toàn khác so với đàn ông, chữ viết của nữ giới mang tính cá nhân và dễ dàng bộc lộ nội tâm sâu sắc hơn. Như vậy, ta có thể thấy rằng, ngôn ngữ viết của Nhật Bản đã được phát triển bởi phụ nữ; họ đã dùng ngôn ngữ làm công cụ để diễn tả cảm xúc của chính họ. Theo học giả văn học Nhật Bản Richard Bowring, chữ mềm được phát triển bởi những người phụ nữ đã xây dựng nên "một phong cách viết lách linh hoạt vượt ra khỏi thứ ngôn ngữ từng chỉ được tồn tại dưới dạng văn nói".
Dưới sự kiểm soát của gia tộc Fujiwara đầy quyền thế, trong hậu cung của Thiên hoàng Ichijō đã có 2 vị Hoàng hậu Teishi và Shōshi tại vị cùng lúc, cùng với đó là các Nữ quan thông thạo văn chương được đưa vào cung hầu hạ cho chủ nhân của họ, cũng như cho gia tộc Fujiwara. Vào thời kỳ Heian, có 3 tác phẩm thuộc thể loại đáng chú ý nhất là "Nhật ký Murasaki Shikibu", "Truyện Gối đầu của" Sei Shōnagon và "Nhật ký Izumi Shikibu" của Izumi Shikibu – hầu hết những vị nữ quan trên đều đến từ hậu cung của hai vị Hoàng hậu. Nhật ký của Murasaki trải dài trong những giai đoạn rời rạc khác nhau, chủ yếu là giai đoạn từ năm 1008 đến năm 1010. Chỉ còn những mẩu nhật ký rời rạc ngắn ngủi vẫn còn tồn tại cho đến ngày nay, và tầm quan trọng của nó một phần nằm ở những lời tiết lộ của chính tác giả về những người được ghi chép tiểu sử một cách chi tiết cũng như tập thơ ngắn do bà sáng tác vào khoảng năm 1014 là (còn gọi là "Hồi ức thi nhân").
Không có bất cứ tài liệu nào ghi lại tên thật của nữ sĩ Murasaki. Thông thường, phụ nữ thường được gọi bằng phẩm cấp của họ hay gọi theo địa vị của chồng hoặc người thân nam giới. Họ "Murasaki" được đặt sau khi bà nhập cung, lấy từ tên của một nhân vật trong "Truyện kể" "Genji"; còn cái tên "Shikibu" biểu thị cho phẩm cấp của cha bà trong Lễ bộ (tức ). Là một thành viên một nhánh nhỏ trong gia tộc Fujiwara, cha của bà đã trở thành một học giả về văn học Trung Quốc, do đó, ngay từ nhỏ, các con ông đã được học văn ngôn, mặc dù đây là một điều hiếm có đối với các bé gái thời bấy giờ.
Murasaki được cho là đã kết hôn với Fujiwara no Nobutaka vào khoảng năm 998 (); sau đó bà đã sinh con gái vào năm 999. Chồng bà mất 2 năm sau đó. Các học giả đều không chắc chắn về thời điểm bà viết "Truyện kể Genji", nhưng có thể bà đã viết nó sau khi trở thành quả phụ và đang trong tâm trạng đau khổ khi chồng mất. Bà đã mô tả lại cảm xúc của mình sau cái chết của chồng trong cuốn nhật ký: "Ta thấy rất buồn và hoang mang. Trong những năm qua, ngày ngày ta phải xuất hiện với bộ dạng bơ phờ với đống y phục bị bỏ bê [...] thời gian trôi qua ta đã không thể làm nhiều thứ[...] Ta không thể chịu được ý nghĩ sẽ duy trì nỗi cô đơn này nữa". Với danh tiếng nữ sĩ lừng lẫy của mình, Murasaki đã nhập cung hầu hạ Hoàng hậu Shōshi theo mệnh lệnh của Fujiwara no Michinaga, có lẽ đó là động lực để bà viết tiếp những chương tiếp theo của "Truyện kể Genji". Có thể bà đã bắt đầu viết cuốn nhật ký này sau khi trở thành Nữ quan trong cung.
Cuốn nhật ký chứa một lượng lớn các chi tiết mô tả về việc Hoàng hậu Shōshi (còn gọi là Akiko) sinh hạ trưởng tử là Thân vương Atsuhira, cùng với một đoạn biên thơ. Tác phẩm được đặt trong bối cảnh Hoàng cung Kyoto, với lời mở đầu như sau: "Khi mùa thu đến, dinh thự của đức ngài hoàng (bản gốc là "Tsuchimikado") đẹp đến mức không thốt lên lời. Từng cành cây bên hồ, từng ngọn cỏ trên bờ đền mang một màu sắc riêng được bao phủ bởi ánh đèn đêm ."
Các chi tiết đầu tiên mở đầu tác phẩm là những lời giải thích chi tiết về các sự kiện xung quanh việc sinh nở của Hoàng hậu Shōshi. Bà đã mở đầu tác phẩm với cảnh miêu tả chuyến đi của Hoàng hậu từ Hoàng cung đến nhà cha đẻ, những nghi lễ và yến hội trong suốt thời gian Hoàng hậu mang thai sẽ được tổ chức tại đây, cũng như việc tổ chức một nghi lễ quan trọng sau khi sinh con nhằm ăn mừng việc Hoàng hậu đã hạ sinh thành công một người thừa kế nam cho Hoàng thất. Những đoạn văn tiếp đó bao gồm việc đọc các bài khế kinh, cùng với việc mô tả những nghi thức Phật giáo liên quan đến việc Hoàng hậu sinh con.
Bảy đoạn văn tiếp theo đã giải thích chúng ta thấy sự bất mãn của Murasaki đối với cuộc sống chốn cung đình. Bà đã mô tả cảm giác vô dụng của chính mình, cũng như cảm giác kém cỏi khi so với những người thân cao quý trong dòng họ Fujiwara, và cảm giác cô quạnh sau cái chết của chồng. Khi diễn tả những điều như vậy, nữ tác giả có thể thêm những dòng về ý thức bản thân vào các mục của nhật ký.
Trong tác phẩm nhật ký này có chứa đoạn tự truyện kể về cuộc sống của Murasaki trước khi vào cung, cũng như những giai thoại về việc học Hán ngữ của bà thời thơ ấu:Một vài đoạn văn trong cuốn nhật ký đến nay đã không còn tồn tại. Bowring tin rằng rất khó để xác định lại các văn kiện đã thất lạc trong lịch sử, việc ghép những mẩu rời rạc lại với nhau sẽ khiến cho nội dung trở nên khó hiểu. Ông đã tìm thấy những đoạn văn bản tách rời nhau, bắt đầu từ đoạn mô tả về cuộc sinh nở, theo sau đó là những chi tiết miêu tả nội tâm với ngày tháng không rõ ràng, và cuối cùng là những đoạn nhật ký được viết theo trình tự thời gian. Theo lời của Bowring thì đó là "sự sắp xếp kì lạ", có thể đây là kết quả của việc chắp vá hàng loạt những đoạn văn bản không hoàn chỉnh hay những đoạn bị khuyết. Những đoạn văn bản trong nhật ký có thể đã được dùng để làm nguồn tư liệu viết nên – tác phẩm được viết ra nhằm ca ngợi Michinaga và gia tộc Fujiwara, được viết hoặc biên soạn vào thế kỷ 11 – với những đoạn kể hoàn toàn được sao chép từ những đoạn nguyên văn trong tác phẩm của Murasaki. Nhưng sự khác biệt giữa hai văn bản đã cho ta thấy góc nhìn khác của tác giả , có thể vẫn còn nhiều đoạn trong nhật ký vẫn tồn tại. Bowring đã đặt ra câu hỏi rằng liệu cấu trúc tác phẩm hiện tại có phải là bản gốc của Murasaki hay không, cũng như mức độ mà nó được sắp xếp hoặc viết lại khi bà còn là tác giả của nó.
Khác với chốn cung đình giả tưởng trong thiên tiểu thuyết lãng mạn "Truyện kể Genji," trong tác phẩm này, Murasaki đã mô tả cuộc sống Hoàng cung theo cách chân thực nhất. Một "vị hoàng tử lý tưởng ngời sáng" Genji trong tiểu thuyết của bà đối lập với một Quan nhiếp chính Michinaga với bản chất hết sức thô bỉ; một người luôn tỏ ra ngượng ngùng trước vợ và con gái vì hành vi say xỉn của mình, và thái độ ve vãn của ông ta đối với Murasaki khiến bà cảm thấy khó chịu. Nữ tác giả đã viết về việc buổi sáng bà thức dậy và thấy ông ta đang ẩn nấp trong khu vườn bên ngoài cửa sổ, và kế tiếp là cuộc trao đổi thơ từ():Liệu mối quan hệ giữa hai người này có thực sự thân thiết hay không vẫn là câu hỏi lớn đối với các học giả.
Mặc dù những đoạn Nhật ký mô tả ca sinh nở của Hoàng hậu Shōshi có ý nghĩa giống như một "cống phẩm" cho Michinaga, song vị nhiếp chính ấy được mô tả là đã "vượt quá tầm kiểm soát". Sự ra đời của đứa trẻ có tầm quan trọng to lớn đối với Michinaga, người đã đưa con gái mình vào cung làm phi cho Thiên hoàng Ichijō 9 năm về trước; Shōshi nhanh chóng được phong Hậu và địa vị Đế mẫu tương lai của bà đã được củng cố bởi người cha đầy quyền lực. Sự ra đời của đứa trẻ cùng những lời mô tả dài về nó như, "việc Hoàng tử ra đời đã đánh dấu sự thắt chặt cuối cùng của Michinaga trong việc thừa kế ngai vàng với kế sách hôn nhân chính trị tài tình của mình."
Michinaga đã nắm quyền thay cho Thiên hoàng và cho vời các tăng lữ đến lễ kỷ niệm ngày sinh của cháu trai mình. Sau khi Hoàng hậu sinh con, mỗi ngày Michinaga đều đến thăm con gái hai lần, trong khi Thiên hoàng chỉ ngự giá một lần duy nhất đến thăm con trai mình mà thôi. Những biên chép của Murasaki về từng lần viếng thăm của Michinaga với mục đích nghi lễ, cũng giống như cách ghi chép về buổi lễ chớp nhoáng được tổ chức 16 ngày sinh của Thân vương. Chúng bao gồm những chi tiết mô tả phức tạp về những thị nữ cung đình:Hoàng hậu Shōshi xuất hiện với bộ dạng trang nghiêm và bác học, là một vị Hoàng tộc mong đợi sự lịch thiệp và đoan chính đến từ các Nữ quan – điều này thường gây ra những khó khăn khi phải sống trong chốn thâm cung đầy khắc nghiệt . Khi Hoàng hậu yêu cầu Murasaki dạy Hán ngữ cho bà, bà nhất quyết cho rằng điều này cần phải giữ bí mật. Murasaki đã giải thích điều này rằng "Bởi lẽ Hoàng hậu [Shōshi] đã chứng minh niềm khao khát được biết nhiều điều hơn, cho nên để giữ bí mật, ta và Hoàng hậu phải chọn thời điểm khi những người phụ nữ khác không có mặt, và kể từ mùa hè năm trước, ta đã bắt đầu dạy cho Hoàng hậu những bài học bất thường về hai tập của cuốn sách 'Những bài ca mới'. Ta đã giấu sự thật này với những người khác, và Hoàng hậu cũng vậy".
Một số đoạn trong cuốn nhật ký đã thẳng thắn vạch trần những hành vi khiếm nhã chốn cung đình, cụ thể là hành vi tán tỉnh của những viên quan say xỉn đối với các cung nữ. Giống như phần mô tả của Keene, cung đình trong mắt Murasaki là nơi "những gã đàn ông say xỉn đùa cợt và tán tỉnh phụ nữ". Murasaki đã than phiền về cách cư xử tồi tệ của những viên quan say xỉn hay những vị Hoàng tử, chẳng hạn như trong một buổi yến tiệc, nhà thơ Fujiwara no Kintō đã xen vào một nhóm người toàn phụ nữ và hỏi Murasaki có ở đó không – điều này còn ám chỉ một nhân vật trong "Truyện kể Genji". Murasaki vặn lại rằng không hề có nhân vật tiểu thuyết nào lại sống trong cái cung đình tục tĩu khó chịu như vậy, thật sự không giống với cảnh cung đình trong cuốn tiểu thuyết mà bà viết ra. Bà đã rời khỏi yến hội khi "Tể tướng Takai[...] bắt đầu nắm lấy áo của phu nhân Hyōbu và hát một bài ca rùng rợn, nhưng ngài ấy lại chẳng nói gì cả. Ta đã nhận thấy rằng đây chắc chắn là điều khủng khiếp khi say rượu vào buổi tối, vì vậy[...] phu nhân Saishō và ta đã quyết định cáo lui."
Đã có những giai thoại về những bữa tiệc rượu và những vụ bê bối trong giới quý tộc có liên quan đến phụ nữ, vì những lý do khác nhau như cách cư xử hay độ tuổi, khi phạm phải những điều cấm kị, họ sẽ bị buộc phải xuất cung. Murasaki cho rằng những người phụ nữ cung đình khác đều yếu đuối, không có học thức, và không có kinh nghiệm đối phó với đàn ông.
Những người phụ nữ đã từng phải sống một cuộc sống bán ẩn dật phía sau những tấm rèm hay bức bình phong mà không hề có bất kỳ sự riêng tư nào. Vào thời đó, những người đàn ông có thể tùy ý ra vào nơi ở nữ giới bất cứ lúc nào. Khi Cung điện Hoàng gia gặp hỏa hoạn vào năm 1005, cả hậu cung đã phải di tản trong nhiều năm sau đó; điều này phụ thuộc vào sự sắp xếp nơi ở của Michinaga. Murasaki sống tại khu dinh thự Biwa của ông, nơi này còn được gọi là dinh thự Tsuchimikado, hay tư dinh của Thiên hoàng Ichijō, đó là một nơi có không gian nhỏ hẹp. Các nữ quan phải ngủ trên những tấm đệm futon mỏng manh trải trên sàn gỗ trần trong một căn phòng với rèm che xung quanh. Những ngôi nhà đã được nâng lên một chút và được mở ra phía những khu vườn truyền thống của Nhật, nhằm đáp ứng yêu cầu về không gian nhỏ cho việc riêng tư. Bowring đã giải thích về sự yếu đuối của phụ nữ khi họ thấy đàn ông: "Một người đàn ông đứng bên ngoài khu vườn và đưa mắt nhìn[...] đôi mắt anh ta ngang tầm với phần váy của những người phụ nữ ở trong."
Vào mùa đông, ngôi nhà trở nên bắt gió và lạnh lẽo, với vài lò than ở trong nhà giúp những người phụ nữ mặc trang phục nhiều lớp có thể giữ ấm cơ thể, đã có những lời mô tả chi tiết về việc này. Vào thời Heian, phụ nữ quý tộc thường mặc bộ trang phục gồm 6 đến 7 lớp áo, từng lớp từng lớp một đè lên nhau, các lớp áo lót bên trong là thành quả của việc kết hợp các màu sắc khác nhau. Những dòng miêu tả về trang phục mà các Nữ quan mặc trong những buổi lễ Hoàng gia đã cho ta thấy tầm quan trọng của trang phục Cung đình thời bấy giờ, về sự sắp xếp giữa các lớp áo, những điều này đều giống với góc nhìn của Murasaki:Từng lớp trang phục, từng lớp áo lót đè lên nhau, tất cả đều gộp thành sự kết hợp màu sắc hoàn hảo được gọi là ; nó được cho là một niềm đam mê thời trang bất tận đối với phụ nữ thời bấy giờ. Đây là điều khiến trang phục nữ giới thời đó trở nên thu hút, và điều quan trọng là phải đạt được sức hút thẩm mỹ về mặt cá nhân. Sự kết hợp màu sắc trang phục được dựa theo tên gọi gợi lên xúc cảm về các mùa trong năm, tương ứng với thời điểm mặc, và với việc lấy cảm hứng từ thiên nhiên như vậy, ta có thể thấy màu sắc trang phục thời Heian không phản ánh chính xác màu sắc nguyên bản của nó, thay vào đó là tái hiện màu sắc dựa theo các mùa trong năm. Murasaki đã ghi lại mức độ nghiêm trọng khi phạm phải lỗi sai trong việc phối màu trang phục của 2 người phụ nữ: "Một ngày nọ, khi tất cả nữ nhân cung đình đều cố gắng hết sức chuẩn bị y phục chỉn chu nhất thì[...] hai người trong số bọn họ đã thể hiện mắt thẩm mỹ "tài tình" của mình bằng việc phối hợp màu sắc ở phần tay áo [...] và đã bị các cận thần cũng như quý tộc cấp cao trông thấy."
Murasaki đã phải chịu sự cô quạnh vượt quá khả năng chịu đựng của một con người, nữ văn sĩ cũng có nỗi lo riêng về tuổi già, và không cảm thấy hạnh phúc khi phải sống trong cung. Bà trở nên khép nép hơn, và viết rằng có lẽ những người phụ nữ khác đã coi bà là kẻ ngu ngốc, nhút nhát hoặc cả hai: "Ta tự hỏi rằng mình có phải là con người tẻ nhạt đến vậy không? Nhưng ta vẫn là chính mình kia mà[...] Ngay cả Hoàng hậu [Shōshi] cũng nhận xét rằng ta không phải loại người khiến người ta dễ chịu khi ở gần[...] Ta hoàn toàn là con người độc lập; giá như ta có thể tránh xa những người mà ta kính trọng chút nhỉ." Keene đã suy đoán rằng với tâm trạng của một văn nhân cần sự đơn độc, nỗi cô quạnh của Murasaki có thể là "nỗi cô đơn của một nghệ sĩ khao khát được bầu bạn mà cũng có thể chối bỏ điều đó". Ông ám chỉ rằng nữ văn sĩ "có khả năng nhận thức đặc biệt" và có thể bà đã xa lánh những người phụ nữ khác khoảng từ 15 đến 16 tuổi mà bà đã mô tả trong cuốn nhật ký. Mặc dù bà đã từng khen ngợi những người đó, những lời bình phẩm của bà mang tính hồi tưởng hơn với góc nhìn của bản thân và lời mô tả khuyết điểm của những người đó.
Cái nhìn thấu suốt của nữ văn sĩ không giúp bà có được hảo cảm đối với những người phụ nữ ở trong cung, ở một nơi mà chuẩn mực của nó là những thủ đoạn, âm mưu và bê bối, tuy nhiên đây cũng là điều quan trọng đối với tiểu thuyết gia. Keene cho rằng Murasaki cần sự xa cách để có thể tiếp tục viết, nhưng bên cạnh đó bà cũng cần sự riêng tư, là một người phụ nữ "đã chọn không tiết lộ phẩm chất thật của mình" ngoại trừ những người mà bà tin tưởng và kính trọng, giống như Hoàng hậu Shōshi.
Cuốn nhật ký cũng bao gồm những đoạn mô tả về những Nữ quan kiêm văn sĩ cung đình khác, nhất là về Sei Shōnagon, là Nữ quan dưới trướng đối thủ của của Hoàng hậu Shōshi là Hoàng hậu Teishi (tức Sadako). Trong hậu cung đã bắt đầu có sự cạnh tranh ngầm giữa họ; cả hai vị Hoàng hậu đều được phục vụ bởi các Nữ quan có học thức và được khuyến khích "cạnh tranh" với những nữ văn sĩ khác. Trên thực tế, Shōnagon được cho là đã rời khỏi hậu cung sau khi Hoàng hậu Teishi qua đời vào năm 1006, và do đó, có thể Murasaki và Shōnagon chưa từng chạm mặt nhau. Murasaki đã nhận thức khá đầy đủ về phong cách viết cũng như tính cách của Shōnagon. Bà đã mô tả về Shōnagon trong nhật ký của mình:Murasaki cũng đưa ra lời đánh giá về hai nữ sĩ khác theo hầu Hoàng hậu Shōshi – nữ thi sĩ Izumi Shikibu và Akazome Emon - tác giả của một . Bà đã nói về phong cách văn chương và thơ từ của Izumi như sau:
Tiểu thuyết "Truyện kể Genji của" Murasaki rất ít khi được đề cập trong tác phẩm. Bà viết trong nhật ký về việc Thiên hoàng lệnh cho bà đọc tác phẩm, và sau đó giấy màu cùng những nét bút thư pháp đã được dùng để ghi bản thảo câu chuyện – tất cả đều được làm bởi một phụ nữ sống trong cung. Nữ văn sĩ cũng đã kể một giai thoại về việc Michinaga lén vào phòng bà và đích thân giúp đỡ việc sao chép bản thảo. Có sự tương đồng giữa các tập sau của Truyên kể "Genji" với phần còn lại của cuốn nhật ký. Theo học giả Shirane chuyên nghiên cứu về truyện kể Genji, cảnh mô tả hậu cung Thiên hoàng Ichijo di dời đến dinh thự của Michinaga vào năm 1008 có sự tương quan mật thiết với cảnh Hoàng tộc di tản trong chương 33 ("Lá Oải hương") trong "Truyện kể Genji". Shirane tin rằng có thể Murasaki đã viết những chi tiết tương đồng khiến độc giả liên tưởng đến Truyện kể "Genji" khi bà còn sống trong cung và viết nên cuốn nhật ký này.
Các tác phẩm nhật ký thời Heian có nét giống hồi ký hơn là dùng để diễn tả cảm xúc vào thời điểm viết. Tác giả của một tác phẩm văn học nhật ký thời Heian () sẽ quyết định điều gì sẽ có trong tác phẩm, điều gì sẽ được thêm vào cũng như bị loại bỏ. Mốc thời gian trong tác phẩm cũng được trình bày theo cách tương tự – Một nhật ký () có thể chứa những đoạn dài nói về một sự kiện đơn lẻ trong khi những sự kiện khác có thể bị lược đi. Nhật ký () được xem như là một thể loại văn học, chúng thường không được viết dựa theo góc nhìn của chủ thể, hầu hết những tác phẩm này đều được viết bởi người thuộc ngôi thứ ba, và đôi khi cũng bao gồm các yếu tố hư cấu hoặc lịch sử. Những tác phẩm văn học thuộc thể loại nhật ký này là cả một kho tàng kiến thức về cung đình Hoàng gia thời Heian, được đánh giá là có tầm quan trọng vô cùng lớn đối với nền văn học Nhật Bản, mặc dù rất nhiều trong số chúng đã không còn nguyên vẹn. Khuôn mẫu chung cho thể loại này bao gồm các bài thơ , với ý nghĩa truyền đạt thông tin tới độc giả giống như những đoạn Murasaki miêu tả về lễ nghi cung đình .
Chỉ có một số ít ngày tháng rõ ràng được ghi lại trong nhật ký của Murasaki và thói quen làm việc thường ngày của bà không được ghi lại. Theo Keene, tác phẩm nhật ký này không nên được so sánh với 'cuốn sổ ghi chép của một nhà văn' trong thời hiện đại. Mặc dù đây là tác phẩm ghi chép lại các sự kiện quan trọng trong triều, song điểm quan trọng nhất và cũng là điểm nhấn của tác phẩm là những đoạn kết nói lên cảm nhận của chính tác giả, tức là thêm những khía cạnh nhân sinh khác vào phần chính của câu chuyện. Theo đánh giá của Keene, tác giả của tác phẩm được tiết lộ là một người phụ nữ có trí tuệ sắc sảo và nhận thức tuyệt vời, nhưng lại là người sống khép kín và có ít bạn bè. Người phụ nữ ấy không hề nao núng trước những lời bình phẩm của mình về các quan viên quý tộc, nhìn sâu hơn vào điểm cốt lõi phía sau vẻ bề ngoài của từng sự kiện. Ta có thể thấy rằng, những lời nói của Keene hữu ích cho một tiểu thuyết gia nhưng lại không đem lại lợi ích gì đối với một xã hội khép kín mà nữ văn sĩ đã từng sống.
Bowring tin rằng tác phẩm có chứa tới 3 phong cách viết khác nhau. Đầu tiên là những lời tường thuật thực tế về từng sự kiện, một đoạn biên chép sự kiện thường được viết bằng Hán ngữ. Phong cách viết thứ hai được tìm thấy trong những đoạn nói chi tiết về cảm nhận của chính tác giả. Ông nhận ra rằng phần cảm nhận này là phần hoàn hảo nhất còn nguyên vẹn kể từ thời kỳ sáng tác, cho ta thấy cách Murasaki làm chủ nội tâm của chính mình. Đây vẫn là điều hiếm có đối với người Nhật nói chung, do đó, ta có thể thấy rằng, những phần bày tỏ suy nghĩ của nữ tác giả đã trở thành tấm gương phản chiếu những đóng góp của bà cho nền văn học viết Nhật Bản, được thể hiện ở chỗ bà đã chinh phục các giới hạn của ngôn ngữ và hệ thống chữ viết cứng nhắc. Những đoạn biên thơ trong tác phẩm thuộc về phong cách viết thứ ba, một phong cách viết mới phát triển gần đây. Bowring nhận thấy rằng đây là phần kém nhất trong tác phẩm, là phần mà nữ văn sĩ không thể thoát ly được nhịp điệu của ngôn ngữ nói. Ông giải thích rằng các nhịp điệu trong ngôn ngữ nói đóng vai trò giữ chân các thính giả, loại ngôn ngữ này thường không có ngữ pháp và phụ thuộc vào việc "giao tiếp bằng mắt, trao đổi kinh nghiệm và các mối quan hệ cụ thể nhằm tạo ra nền tảng và cho phép lời nói đôi khi bị tách đoạn". Trái lại, ngôn ngữ viết phải bù đắp cho "khoảng cách giữa người viết thông điệp và người nhận lại thông điệp đó". Có lẽ nữ văn sĩ đã từng thử nghiệm phong cách viết mới, có thể bà đã viết một bức thư thực sự hoặc chỉ là hư cấu, nhưng phần cuối của tác phẩm đã được viết với nhịp điệu yếu hơn, "trong phần đó, nhịp điệu phần cuối đã được thoái hóa[...] với những điệu văn rời rạc là đặc trưng của lời nói."
Vào năm 1920, Annie Shepley Omori và Kochi Doi đã xuất bản tác phẩm ""Nhật ký Nữ quan cổ đại Nhật Bản" (Diaries of Court Ladies of Old Japan)"; cuốn sách là sự kết hợp giữa ba bản dịch nhật ký của Murasaki cùng với nhật ký của Izumi Shikibu (tức ) và cùng với tác phẩm . Bản dịch của họ đã được giới thiệu bởi Amy Lowell.
Richard Bowring đã xuất bản một bản dịch vào năm 1982, trong đó có chứa một lời bình "khêu gợi và sống động" .
Vào thế kỷ 13, một cuộn tranh vẽ tay minh họa cuốn nhật ký đã được sản xuất, tức . Cuộn tranh này được đọc từ trái sang phải, trong đó có chứa những dòng chữ thư pháp minh họa cho các bức tranh. Trong tác phẩm "Ngôi nhà gắn liền trái tim", Học giả chuyên về Nhật Bản Penelope Mason giải thích rằng đó là một hay , là cách thức tường thuật đầy đủ một câu chuyện với sự kết hợp giữa người viết truyện và họa sĩ minh họa nó. Khoảng 20% cuộn tranh vẫn còn tồn tại; dựa trên những bức vẽ còn sót lại, ta có thể cho rằng cuộn tranh bám khá sát nội dung của nhật ký.
Những bức tranh minh họa trong cuộn emaki được dựa theo quy ước thiết lập vào cuối thời kỳ Heian, đầu thời kỳ Kamakura là ('vẽ đường kẻ mắt hoặc mũi') trong đó các nét mặt cụ thể sẽ bị bỏ qua. Một phong cách vẽ khác là ('thổi bay' mái nhà) là phương pháp mô tả nội thất từ trên cao xuống đến không gian bên trong. Theo Mason, cảnh nội thất và mô tả con người được đặt cạnh nhau, đối diện với khu vườn trống bên ngoài; tính chất này được gọi là 'ràng buộc nội cảnh'.
Murasaki đã viết nên tác phẩm nhật ký của mình với những cung bậc cảm xúc khác nhau, từ tình yêu, sự ghét bỏ và nỗi cô đơn; cảm nhận về các bức vẽ minh họa, theo lời của Mason thì đây là "ví dụ tiêu biểu nhất của kĩ thuật tường thuật tranh-thơ kể từ thời kỳ bấy giờ". Mason đã tìm thấy bức vẽ vẽ hai cận thần trẻ tuổi đang mở mành rèm che lên để có thể tiến sâu vào nơi ở của phụ nữ, bởi vì Murasaki đang cố gắng giữ mành che kéo xuống nhằm tránh lời mời từ bọn họ. Bức vẽ cũng cho ta thấy rằng kiến trúc bên trong ngôi nhà và những người đàn ông đang giữ nữ văn sĩ khỏi sự tự do ở phía khu vườn bên phải .
Cuộn tranh đã được tìm thấy vào năm 1920 với năm mảnh tranh còn lại bởi . Bảo tàng Gotoh giữ mảnh tranh thứ nhất, thứ hai và thứ tư; còn Bảo tàng Quốc gia Tokyo giữ mảnh thứ ba; mảnh tranh thứ năm hiện tại vẫn nằm trong bộ sưu tập riêng tư. Cuộn tranh được giữ bởi Bảo tàng Gotoh đã được công nhận là Quốc bảo Nhật Bản.
|
19820326 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19820326 | Gustavo Puerta | Gustavo Adolfo Puerta Molano (sinh ngày 23 tháng 7 năm 2003) là một cầu thủ bóng đá người Colombia hiện đang chơi ở vị trí tiền vệ cho câu lạc bộ Bayer Leverkusen của Đức.
Sinh ra tại La Victoria, Valle del Cauca, Puerta bắt đầu chơi bóng đá tại trường thể thao Talentos Gustavo Victoria Deportes ở Tuluá. Anh cũng từng thi đấu cho đội bóng nghiệp dư Supercampeones từ khi mười tuổi cho đến mười sáu tuổi.
Ban đầu bị từ chối thử nghiệm bởi đội Categoría Primera A Colombia Independiente Santa Fe vào năm 2019, Puerta sau đó đã gia nhập đội hạng hai Bogotá vào năm 2021.
Vào ngày 31 tháng 1 năm 2023, Puerta chuyển đến câu lạc bộ Bundesliga Đức Bayer Leverkusen, trước khi ngay lập tức được cho mượn đến 1. FC Nürnberg ở giải 2. Bundesliga.
Puerta đã đại diện cho Colombia ở cấp độ U-20. Anh là đội trưởng của đội tại Giải vô địch bóng đá U-20 Nam Mỹ 2023.
|
19820327 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19820327 | Phyllonorycter crataegella | Phyllonorycter crataegella là một loài bướm đêm thuộc họ Gracillariidae. Loài này được tìm thấy ở Canada (Nova Scotia, Québec, Ontario và New Brunswick), Hoa Kỳ (Kentucky, Massachusetts, Michigan, Missouri, New Hampshire, New Jersey, New York, Ohio, Pennsylvania, Virginia, West Virginia, Wisconsin, California, Maine, Vermont, Oregon, Arkansas, Connecticut và Illinois).
Sải cánh của "Phyllonorycter crataegella" dài 5,5–6 mm. Ấu trùng ăn các loài trong chi "Amelanchier" (bao gồm "Amelanchier canadensis"), các loài trong các chi "Aronia", "Crataegus" (bao gồm "Crataegus mollis"), "Cydonia" (bao gồm "Cydonia japonica" và "Cydonia oblonga"), "Malus" (bao gồm "Malus coronaria", "Malus domestica", "Malus malus", "Malus pumila", "Malus sieboldii" và "Malus sylvestris"), "Photinia", "Prunus" (bao gồm "Prunus americana", "Prunus avium", "Prunus domestica", "Prunus pennsylvanica", "Prunus persica", "Prunus serotina" và "Prunus virginiana"), "Pyrus" (bao gồm cả "Pyrus communis" và "Pyrus coronaria") và "Sorbus" (bao gồm cả "Sorbus americana" và "Sorbus aucuparia"). Chúng ăn lá của cây chủ. Mỏ có dạng mỏ hình tua ở mặt dưới của lá.
|
19820328 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19820328 | Phyllonorycter pictus | Phyllonorycter pictus là một loài bướm đêm trong họ Gracillariidae . Nó được tìm thấy ở Mexico và được phát hiện vào năm 1914 bởi Walsingham.
|
19820330 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19820330 | Jan Olschowsky | Jan Olschowsky (sinh ngày 18 tháng 11 năm 2001) là một cầu thủ bóng đá người Đức chuyên nghiệp, chơi ở vị trí thủ môn cho câu lạc bộ Borussia Mönchengladbach ở giải Bundesliga. Anh từng chơi cho SV Glehn từ năm 2008 đến 2009 và đã chơi cho Borussia Mönchengladbach từ năm 2009.
Olschowsky bắt đầu sự nghiệp bóng đá của mình vào năm 2008 và tham gia đội trẻ của "SV Glehn" ở khu vực Glehn thuộc Korschenbroich. Vào tháng 7 năm 2009, anh chuyển đến Borussia Mönchengladbach và đã trải qua tất cả các đội trẻ của câu lạc bộ. Anh đã thi đấu 29 trận cho đội U17 Mönchengladbach trong Bundesliga U17 và 27 trận cho đội U19 Mönchengladbach trong Bundesliga U19. Vào ngày 13 tháng 10 năm 2018, anh có trận ra mắt cho Borussia Mönchengladbach II trong trận thắng 2-1 trước SV 19 Straelen khi anh 16 tuổi, trở thành thủ môn trẻ nhất ở Regionalliga West.
Vào tháng 7 năm 2020, Olschowsky ký hợp đồng chuyên nghiệp với Borussia Mönchengladbach kéo dài đến ngày 30 tháng 6 năm 2023. Vào ngày 27 tháng 9 năm 2022, anh lần đầu tiên có tên trong danh sách đội hình của đội một. Với việc cả thủ môn chính Yann Sommer và thủ môn dự bị Tobias Sippel không thể ra sân do chấn thương, Olschowsky đã có trận ra mắt Bundesliga trong trận đấu với VfL Bochum vào ngày 8 tháng 11 năm 2022. Mönchengladbach đã thua trận với tỉ số 2-1 và anh đã được cổ động viên bầu là cầu thủ xuất sắc nhất của câu lạc bộ trong trận đấu.
Olschowsky đã thi đấu cho các đội trẻ quốc gia Đức ở các cấp độ U18, U19 và U20.
Hồ sơ DFB
|
19820331 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19820331 | Gary O'Neil | Gary Paul O'Neil (sinh ngày 18 tháng 5 năm 1983) là một cựu cầu thủ bóng đá người Anh hiện đang làm việc ở câu lạc bộ Wolverhampton Wanderers với vai trò huấn luyện viên.
O'Neil đã từng thi đấu cho Portsmouth (nơi ông là cầu thủ xuất sắc nhất mùa năm 2006), Walsall, Cardiff City, Middlesbrough, West Ham United, Queens Park Rangers, Norwich City, Bristol City, và Bolton Wanderers.
|
19820337 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19820337 | Marko Dmitrović | Marko Dmitrović (, ; sinh ngày 24 tháng 1 năm 1992) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Serbia hiện thi đấu ở vị trí thủ môn cho câu lạc bộ Sevilla tại La Liga.
|
19820338 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19820338 | Strahinja Pavlović | Strahinja Pavlović ( ; sinh ngày 24 tháng 5 năm 2001) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Serbia thi đấu ở vị trí trung vệ cho câu lạc bộ Red Bull Salzburg tại Austrian Bundesliga và đội tuyển quốc gia Serbia.
|
19820341 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19820341 | Strahinja Eraković | Strahinja Eraković (; sinh ngày 22 tháng 1 năm 2001) là một cầu thủ bóng đá người Serbia thi đấu ở vị trí trung vệ cho câu lạc bộ Zenit Saint Petersburg.
|
19820343 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19820343 | Nikola Milenković | Nikola Milenković (, ; sinh ngày 12 tháng 10 năm 1997) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Serbia thi đấu ở vị trí trung vệ và hậu vệ cho câu lạc bộ Fiorentina tại Serie A và đội tuyển quốc gia Serbia.
|
19820345 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19820345 | Miloš Veljković | Miloš Veljković (, ; sinh ngày 26 tháng 9 năm 1995) là một cầu thủ bóng đá thi đấu ở vị trí trung vệ cho câu lạc bộ Werder Bremen. Sinh ra ở Thụy Sĩ, anh ấy đại diện cho Serbia ở cấp độ quốc tế.
|
19820347 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19820347 | Ruth Handler | Ruth Marianna Handler ( Mosko; 4 tháng 11 năm 1916 - 27 tháng 4 năm 2002) là một nữ doanh nhân và nhà phát minh người Mỹ. Bà được biết đến nhiều nhất với việc phát minh ra búp bê Barbie vào năm 1959. Bà là người đồng sáng lập hãng sản xuất đồ chơi Mattel cùng với chồng là Elliot, đồng thời là chủ tịch đầu tiên của công ty từ năm 1945 đến năm 1975.
|
19820352 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19820352 | Tập đoàn Brookfield | Tập đoàn Brookfield là một công ty đa quốc gia đến từ Canada, là một trong những tập đoàn quản lý đầu tư thay thế lớn nhất thế giới. Tính đến năm 2022, tập đoàn này quản lý hơn 725 tỷ Đô la Mỹ tài sản. Brookfield tập trung vào việc đầu tư vào bất động sản, năng lượng tái tạo, cơ sở hạ tầng, tín dụng và vốn tư nhân. Công ty này thực hiện đầu tư vào các giấy nợ khó khăn thông qua Oaktree Capital, một công ty mà Brookfield đã mua vào năm 2019. Trụ sở chính của Brookfield đặt tại Toronto, và họ cũng có các văn phòng tại Thành phố New York, London, São Paulo, Mumbai, Shanghai, Dubai, và Sydney.
Công ty Brookfield được thành lập vào năm 1899 dưới tên São Paulo Tramway, Light and Power Company bởi hai người sáng lập là William Mackenzie và Frederick Stark Pearson. Công ty hoạt động trong việc xây dựng và quản lý cơ sở hạ tầng điện và giao thông tại Brasil.
Năm 1904, Tập đoàn Rio de Janeiro Tramway, Light and Power Company được thành lập bởi nhóm của Mackenzie.
Năm 1912, Công ty Điện và Năng lượng Brazil (Brazilian Traction, Light and Power Company) được thành lập tại Toronto như một công ty cổ phần để phát triển hoạt động sản xuất điện từ thủy điện và các dịch vụ tiện ích khác tại Brazil. Công ty này trở thành một tập đoàn mẹ cho Công ty Điện São Paulo và Công ty Điện Rio de Janeiro. Năm 1916, Công ty Điện lực Great Lakes (Great Lakes Power Company) được thành lập để cung cấp điện từ thủy điện tại Sault Ste. Marie và vùng Algoma ở Ontario.
Năm 1959, Edper Investments, do hai anh em Peter và Edward Bronfman sáng lập, mua lại Tập đoàn Điện và Năng lượng Brazil với giá 15 triệu Đô la Mỹ. Năm 1966, tập đoàn này đổi tên thành Công ty Điện và Năng lượng Brazil, và lại một lần nữa năm 1969, đổi tên thành Brascan Limited. Tên "Brascan" kết hợp từ hai từ "Brasil" và "Canada".
Trong những năm 1970, công ty bắt đầu bán các quyền lợi tại Brazil và tập trung đầu tư mạnh vào các ngành như bất động sản, lâm nghiệp và khai thác mỏ.
Năm 1979, công ty chuyển giao toàn bộ tài sản tại Brazil cho sở hữu của các công ty Brazil như Eletropaulo và Light S.A., trong khi đó, công ty đã mở rộng hoạt động vào các lĩnh vực khác. Công ty đã cung cấp dịch vụ điện và dịch vụ điện đường sắt tại São Paulo và Rio de Janeiro. Sau khi hoàn thành quá trình cải cách, danh mục tài sản tại Brazil của công ty hoạt động dưới tên gọi Light S.A., viết tắt của Brazilian Traction, Light and Power Co. Ltd.
Năm 2002, Bruce Flatt được bổ nhiệm làm CEO của Brascan. Năm 2005, sau 37 năm, Brascan Corp. đã thay đổi tên thành Brookfield Asset Management Inc. Từ năm 2013 đến 2018, công ty và các công ty con của nó đã đầu tư khoảng 10 tỷ đô la Mỹ vào các dự án năng lượng, cơ sở hạ tầng và bất động sản tại Brazil, bao gồm việc mua lại các đường ống dẫn dầu từ các công ty năng lượng như Petroleo Brasileiro SA.
Năm 1992, thông qua việc sáp nhập tại Canada giữa Brookfield và Johnson Controls một công ty quản lý hệ thống và cơ sở vật chất được thành lập vào cuối thế kỷ 19 bởi Warren S. Johnson, Brookfield và Johnson Controls đã tạo ra Brookfield Corporation. Johnson Controls nổi tiếng với việc phát minh ra bộ điều khiển nhiệt độ phòng điện tử đầu tiên, đánh dấu sự khởi đầu của ngành kiểm soát tòa nhà. Tới năm 2012, Brookfield và Johnson Controls đã trở thành nhà lãnh đạo trong ngành với 11.500 địa điểm hoạt động trải dài khắp Canada. Năm 2007, Brookfield Asset Management mua lại Multiplex, một công ty xây dựng quốc tế từ Australia được thành lập vào năm 1962 bởi John Roberts. và vào thời điểm đó, công ty này được định giá khoảng 7.3 tỷ đô la Úc. Công ty sau đó đã đổi tên thành Brookfield Multiplex vào năm 2016. Năm 2012, Brookfield Asset Management và Johnson Controls Global WorkPlace Solutions (GWS) đã hợp nhất để tạo ra Brookfield Johnson Controls.
Năm 2015, Brookfield Asset Management trở thành công ty mẹ của Brookfield Global Integrated Solutions (BGIS) khi mua lại quyền kiểm soát từ đối tác liên doanh Johnson Controls có trụ sở tại Milwaukee. Lúc đó, có một nhà đầu tư hoạt động đã thúc đẩy Johnson Controls thoái vốn khỏi phân khúc bất động sản. Phần kinh doanh quản lý cơ sở vật chất đã được đổi tên thành Brookfield Global Integrated Solutions (BGIS) theo kế hoạch của Brookfield để trở thành một "nhà cung cấp quản lý cơ sở vật chất hàng đầu toàn cầu". Từ khi Brookfield kiểm soát BGIS vào năm 2015, BGIS đã nhanh chóng mở rộng và vào năm 2016, khi BGIS mua lại McKinstry FMS - một dịch vụ quản lý trung tâm dữ liệu có trụ sở tại Hoa Kỳ với hơn 350 kỹ sư, kỹ thuật viên và quản lý chương trình, BGIS đã trở thành một trong những công ty quản lý cơ sở vật chất lớn nhất phục vụ trung tâm dữ liệu ở Bắc Mỹ. Đến năm 2017, khi Gord Hicks được bổ nhiệm làm CEO tại BGIS có trụ sở tại Toronto, công ty đã có 7,000 nhân viên và 100 khách hàng tại Hoa Kỳ, Vương quốc Anh, Châu Á và Canada, bao gồm cả chính phủ Canada. Đến năm 2022, theo phân tích của Đại học Carleton (Canada) School of Public Policy and Administration về các hợp đồng quản lý bất động sản của chính phủ Canada, Chính phủ đã chi hơn 1 tỷ đô la cho các hợp đồng với BGIS trong năm 2021-2022, đại diện cho nhà cung cấp lớn nhất vào thời điểm đó. Trong khoảng thời gian đó, công ty IBM Canada với hợp đồng trị giá khoảng 476 triệu đô la đã là nhà cung cấp có hợp đồng lớn thứ hai với chính phủ Canada. Năm 2019, Brookfield Asset Management đã bán cổ phần của mình tại BGIS cho CCMP Capital Advisors - một công ty đầu tư tư nhân tại Mỹ - với giá hơn 1.3 tỷ đô la Canada và CEO Gord Hicks vẫn giữ vị trí này. Và việc bán BGIS đã được vinh danh là Giao Dịch Vốn Tư Nhân của Năm 2020.
Vào năm 2018, Brookfield Asset Management đã sở hữu các công ty con lớn như Brookfield Infrastructure Partners, Brookfield Renewable Partners, Brookfield Property Partners và Brookfield Business Partners. Vào tháng 8 năm 2018, Brookfield đã mua Westinghouse Electric Company, một công ty sản xuất các bộ phận lớn cho lò phản ứng hạt nhân, với giá 4.6 tỷ đô la sau quá trình phá sản.
Vào ngày 13 tháng 3 năm 2019, Brookfield Asset Management thông báo mua phần lớn của Oaktree Capital Management với giá khoảng 4.7 tỷ đô la, tạo thành một trong những công ty quản lý tài chính thay thế lớn nhất trên thế giới. Vào ngày 31 tháng 7 năm 2019, việc bán Vodafone New Zealand Limited cho một liên doanh gồm Infratil Limited và Brookfield Asset Management Inc. đã được hoàn tất.
Vào tháng 10 năm 2019, Brookfield mua chuỗi khách sạn cao cấp The Leela Palaces, Hotels and Resorts ở Ấn Độ với mức giá 530 triệu đô la Mỹ. Thỏa thuận này đánh dấu sự gia nhập của Brookfield vào thị trường dịch vụ lưu trú tại Ấn Độ.
Năm 2020, đối với tác động của đại dịch COVID-19, CEO của Brookfield, Bruce Flatt, cho biết tác động kinh tế là "dễ quản lý hơn" so với các khủng hoảng trước đó.
Vào tháng 10 năm 2020, Mark Carney, người sắp rời vị trí Thống đốc Ngân hàng Anh, trở thành phó chủ tịch của Brookfield và dẫn dắt chiến lược đầu tư vào quỹ môi trường, xã hội và quản trị (ESG) và tác động.
Vào ngày 25 tháng 4 năm 2022, đã được thông báo rằng Brookfield và Tập đoàn Simon Property đang lên kế hoạch đề xuất mua cửa hàng Kohl's.
Vào tháng 8 năm 2022, Intel đã ký kết một thỏa thuận trị giá 30 tỷ đô la với Brookfield để tài trợ cho việc mở rộng nhà máy sản xuất gần đây của họ. Theo thỏa thuận, Intel sẽ chiếm cổ phần kiểm soát bằng cách tài trợ 51% chi phí xây dựng cơ sở sản xuất chip mới tại Chandler, Arizona, trong khi Brookfield sẽ nắm giữ 49% cổ phần còn lại, cho phép hai công ty chia sẻ doanh thu từ những cơ sở này.
Vào ngày 9 tháng 12 năm 2022, tên của công ty đã được thay đổi từ Brookfield Asset Management Inc. thành Brookfield Corporation. Sau đó, Brookfield Corporation đã tách ra 25% cổ phần trong kinh doanh quản lý tài sản của họ để tạo ra công ty con mới có tên là Brookfield Asset Management Ltd. được niêm yết công khai.
Vào tháng 9 năm 2010, một nhóm mang tên "Cổ đông Birch Mountain vì Công Lý" đã đệ đơn kiện Brookfield Asset Management tại Tòa Thượng Thẩm Ontario, đề nghị kiện Brookfield về việc mua và chuyển nhượng tài sản. Birch Mountain gặp khó khăn về tài chính và cáo buộc Brookfield đã sử dụng tài chính kỹ thuật để mua mỏ đá vôi trị giá 1,6 tỷ đô la của công ty với giá 50 triệu đô la. Theo Birch Mountain, Brookfield đã sử dụng tài chính vòng xoáy tử thần và giao dịch nội gián. Sau năm năm tranh tụng, vụ kiện đã bị bác bỏ, vì Birch Mountain không trình bày được bằng chứng đáng tin. Vào tháng 5 năm 2015, các bên đơn đã nộp đơn kháng cáo, nhưng vụ kiện của họ cũng bị bác bỏ hai năm sau.
Năm 2009, Brookfield kiện tập đoàn tài chính và bảo hiểm lớn American International Group (AIG) tại tòa liên bang Manhattan, cáo buộc rằng việc AIG sụp đổ đã gây ra các điều khoản mặc định trong các giao dịch trao đổi lãi suất. Vụ kiện bắt nguồn từ việc AIG chấp nhận gói cứu trợ trị giá 182,3 tỷ đô la từ chính phủ liên bang, mà Brookfield cho rằng đã làm thay đổi bảo vệ phá sản của AIG. Công ty bảo hiểm đáp lại bằng cách kiện lại, tuyên bố rằng Brookfield đang cố gắng thoát khỏi nợ 1,5 tỷ đô la đối với AIG. Vụ kiện kết thúc với Brookfield phải trả 905 triệu đô la để giải quyết.
Vào tháng 3 năm 2013, tổ chức Southern Investigative Reporting Foundation đã đặt câu hỏi về cấu trúc của Brookfield. Bài phân tích của Roddy Boyd cáo buộc công ty sử dụng một cấu trúc kiểm soát bậc thang, nghĩa là một nhóm nhỏ cổ đông có quyền lực quá lớn và có thể dễ dàng sử dụng vốn của nhà đầu tư khác mà không đối mặt với rủi ro riêng của họ.
Năm 2013, một công tố viên Brazil đã đưa ra cáo buộc chống lại phân nhánh địa phương của công ty, tố rằng công ty đã trả hối lộ cho các quan chức địa phương, việc này cũng vi phạm pháp luật hình sự liên bang Hoa Kỳ. Những khoản hối lộ được cho là đã được sử dụng để làm đường cho Brookfield xây dựng một trung tâm mua sắm tại São Paulo. Ủy ban Chứng khoán và Giao dịch Mỹ cũng đã mở cuộc điều tra chính thức về công ty liên quan đến các cáo buộc hối lộ. Công ty bác bỏ những cáo buộc này. Bộ Tư pháp Hoa Kỳ cũng đã khởi tố một cuộc điều tra hình sự về công ty liên quan đến những cáo buộc này, nhưng không có ai bị bắt giữ sau đó. Theo Trung tâm Luật Stanford về Luật Hành vi Dối trá Đối ngoại, đã nghiên cứu vụ việc này, cuộc điều tra và việc đưa ra cáo trạng đã được khởi xướng bởi một người báo chí và gợi ý nặc danh. Sau đó, được tiết lộ rằng người báo chí là cựu Giám đốc Tài chính của một công ty con của Brookfield. Bà cho rằng bị sa thải vì từ chối tham gia vào âm mưu hối lộ của Brookfield. Công ty đã tiết lộ các cuộc điều tra này qua một số biểu mẫu 6-K từ năm 2013 đến 2015.
Vào tháng 8 năm 2018, Brookfield đã ký một hợp đồng thuê kéo dài 99 năm cho tòa nhà chọc trời 666 Fifth Avenue, mà là tài sản của Jared Kushner, con rể của Donald Trump. Thỏa thuận này đã khiến mọi người nghi ngờ rằng Qatar Investment Authority, một nhà đầu tư quan trọng trong Brookfield, có thể đang cố gắng ảnh hưởng đến chính quyền Trump.
Vào tháng 11 năm 2020, đã được tiết lộ rằng Brookfield có thể hợp tác với tập đoàn viễn thông lớn Rogers Communications để biến khu vực của Rogers Centre thành những căn hộ chung cư mới, giảm một nửa không gian cho các hoạt động thể thao. Sân vận động đa năng ban đầu và mảnh đất của nó đã tốn 570 triệu USD, chủ yếu được tài trợ bởi người đóng thuế, nhưng 15 năm sau đó, chúng đã được bán cho Rogers chỉ với giá 25 triệu USD.
Vào tháng 2 năm 2021, Mark Carney, Phó Chủ tịch và Trưởng nhóm Đầu tư Tác động của Brookfield Asset Management và cựu Thống đốc Ngân hàng Anh, đã phải rút lại tuyên bố trước đó cho rằng danh mục trị giá 600 tỷ USD của công ty là không gây thêm lượng khí carbon vào môi trường. Ông đặt tuyên bố này dựa trên việc Brookfield sở hữu một danh mục lớn về năng lượng tái tạo và "tất cả lượng khí thải mà có thể tránh được từ đó". Tuyên bố này bị chỉ trích là một chiêu trò kế toán, vì việc tránh khí thải không đủ để bù đắp cho lượng khí thải từ các khoản đầu tư vào than đá và nhiên liệu hóa thạch khác, gây ra một lượng khí CO2 tương đương khoảng 5.200 tấn. Thực tế, công ty thực sự đang hướng đến mục tiêu trở thành tổng hợp carbon không vào năm 2050, mục tiêu này đã bị tụt lại phía sau so với các công ty hàng đầu một vài thập kỷ.
Vào năm tài chính 2018, Brookfield Asset Management báo cáo lợi nhuận đạt 3.584 tỷ USD, với tổng doanh thu hàng năm đạt 56.771 tỷ USD, tăng 39.2% so với chu kỳ tài chính trước đó. Các cổ phiếu của Brookfield Asset Management được giao dịch với giá trên 38 USD mỗi cổ phiếu, và vốn hóa thị trường của công ty đạt giá trị hơn 40.8 tỷ USD vào tháng 11 năm 2018.
|
19820355 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19820355 | Á Châu siêu tinh đoàn | Á Châu siêu tinh đoàn (, ) là chương trình tìm kiếm tài năng được TVB và Truyền thông Hoa Văn Tinh Không (STAR China Media) hợp tác sản xuất, chương trình được phát sóng độc quyền trên kênh truyền hình TVB và trên mạng Youku. 75 thí sinh tham gia đến từ các nơi khác nhau như Trung Quốc đại lục, Hồng Kông, Đài Loan, Nhật Bản, Hàn Quốc, Việt Nam, v.v... Cuối cùng sẽ trở thành một nhóm nhạc nam thời gian hạn định.
Ngày 8/8/2023, họp báo công bố hình poster của 75 thực tập sinh tham gia
|
19820356 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19820356 | Trường Trung học cơ sở Trần Đăng Ninh, Nam Định | Trường Trung học cơ sở Trần Đăng Ninh là trường trung học cơ sở chuẩn Quốc gia hệ công lập của tỉnh Nam Định, Việt Nam. Ban đầu trường có tiền thân là Trường Trung học Nguyễn Khuyến (phố Bến Củi), được thành lập năm 1950 trong vùng đô thị tạm chiếm của Pháp. Kể từ năm học 1960–1961, trường được mang tên người chiến sĩ cách mạng Trần Đăng Ninh. Trường có 2 lần được Chủ tịch nước trao tặng Huân chương Lao động hạng Nhì và 1 lần được trao Huân chương Lao động hạng Nhất. Năm học 2004–2005, trường được Chủ tịch nước tặng Huân chương Độc lập hạng Ba.
Xuyên suốt lịch sử 60 năm kể từ ngày thành lập, trường THCS Trần Đăng Ninh liên tục là trường tiên tiến xuất sắc cấp thành phố và cấp tỉnh, là trường cấp 2 trọng điểm của tỉnh Nam Định, cung cấp nguồn học sinh chủ yếu cho trường THPT chuyên Lê Hồng Phong và hệ thống các trường chuyên của Đại học Khoa học Tự nhiên (ĐHQGHN) và Đại học Sư phạm Hà Nội.
Tiền thân của trường THCS Trần Đăng Ninh là trường trung học Nguyễn Khuyến (phố Bến Củi), được thành lập năm 1950 trong vùng Pháp tạm chiếm.
Từ năm 1950-1954 trường nằm trên phố Bến củi cũ nay là địa điểm trường Tiểu học Trần Phú, phố Ngô Quyền
Năm học 1956-1957 trường rời về địa điểm khu Nhà Chung phố Nguyễn Du.
Trường được mang tên người chiến sĩ cách mạng Trần Đăng Ninh từ năm học 1960-1961.
Năm 1965, trường sơ tán về xã Mỹ Trung- Mỹ Lộc.
Năm 1970, trường hồi cư về thành phố Nam Định tại 39 Nguyễn Du.
Năm 1972, trường sơ tán về xã Mỹ Phúc – Mỹ Lộc.
Năm 1974, trường hồi cư về 39 nguyễn Du - Thành phố Nam Định.
Từ những năm 1970 của thế kỷ XX, nhằm đào tạo bồi dưỡng lớp học sinh năng khiếu học giỏi, ty giáo dục Nam Hà bấy giờ đã chỉ đạo chọn trường cấp III Lê Hồng Phong và trường cấp II Trần Đăng Ninh là trung tâm bồi dưỡng năng khiếu, học sinh giỏi trong tỉnh.
Từ năm học 1992-1993 đến năm học 1996-1997, trường mang tên Trường THCS chuyên Trần Đăng Ninh.
Từ năm học 2012-2013, trường được chuyển tới khu Đông- Đông Mạc, phường Hạ Long thành phố Nam Định. Ngôi trường mới với các dãy nhà cao tầng, khu hiệu bộ, cùng với các phòng chức năng bộ môn đáp ứng nhu cầu học tập, giảng dạy của yêu cầu nhiệm vụ mới: Trường THCS trọng điểm chất lượng cao của Thành phố Nam Định.
Ban giám hiệu nhà trường bao gồm:
Hiệu trưởng là cô Đinh Thị Thủy
Hiệu phó là cô Trần Thị Thủy
Hệ thống giáo viên, cán bộ, công nhân viên của trường được chia làm 6 tổ:
Trường có hơn 13.000 học sinh giỏi cấp tỉnh, trong đó hơn 500 em đạt giải quốc gia, gần 50 em được chọn đi thi học sinh giỏi quốc tế và đoạt hàng chục Huy chương Vàng, Bạc.
Từ năm 2000 đến nay trường đã có 3017 giải văn hóa cấp tỉnh, trong đó có 285 giải nhất, 45 huy chương thể thao cấp tỉnh, trong đó có 20 Huy chương vàng, 01 huy chương đồng cấp Quốc gia.
Hàng năm, trường có tới 2/3 số học sinh lớp 9 đỗ vào trường chuyên Lê Hồng Phong và các trường chuyên Hà Nội.
Xuyên suốt 60 năm liên tục là trường tiên tiến xuất sắc cấp Thành phố và cấp Tỉnh.
Năm 1962 được Chủ tịch nước tặng Huân chương Lao động hạng Ba
Năm 1976 được Bộ Giáo dục và Đào tạo tặng Cờ Đơn vị xuất sắc.
Năm 1978 được Chủ tịch nước tặng Huân chương Lao động hạng Nhì
Năm 1982 được Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng tặng cờ thi đua
Năm 1991 được Chủ tịch nước tặng Huân chương Lao động hạng Nhì (lần 2)
Năm 1996 được Chủ tịch nước tặng Huân chương Lao động hạng Nhất
Năm 1999 được chính phủ tặng Cờ “Đơn vị dẫn đầu phong trào thi đua trong năm 1999”
Năm 2000 được Công đoàn Giáo dục Việt Nam tặng cờ “Đơn vị xuất sắc trong công tác công đoàn năm 2000”
Năm học 2001-2002, trường được UBND tỉnh Nam Định tặng cờ “Đơn vị thi đua xuất sắc ngành Giáo dục – Đào tạo”
Năm học 2002-2003 được UBND tỉnh tặng Bằng khen. Cùng năm học này, Công đoàn nhà trường cũng được Thủ tướng chính phủ tặng Bằng khen.
Năm học 2004-2005 được Chủ tịch nước tặng Huân chương Độc lập hạng Ba
Năm học 2007-2008 được Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam tặng Bằng khen “Đơn vị thi đua xuất sắc”
Năm học 2008-2009, trường được Thủ tướng Chính phủ tặng “Cờ thi đua của Chính phủ”. Công đoàn giáo dục cũng tặng Bằng khen “Tập thể nữ giáo viên giỏi việc trường-đảm việc nhà ngay trong năm học này.
Từ năm học 2008 đến nay, nhà trường liên tục là đơn vị xuất sắc dẫn đầu của Thành phố và của Tỉnh .
Năm học 2013-2014 được Thủ tướng Chính phủ tặng Bằng khen.
Năm học 2016-2017 được Bộ trưởng Bộ GD-ĐT tặng Bằng khen.
Năm học 2017-2018 được UBND tỉnh Nam Định tặng Cờ thi đua
Năm học 2018-2019:
Bên cạnh đó, nhà trường liên tục được UBND tỉnh tặng Bằng khen, UBND thành phố tặng giấy khen về công tác bồi dưỡng Học sinh giỏi. Chi bộ Đảng nhà trường liên tục nhận danh hiệu chi bộ trong sạch vững mạnh. Công đoàn liên tục nhận danh hiệu công đoàn cơ sở vững mạnh, xuất sắc. Liên đội Thiếu niên Tiền phong nhà trường nhiều lần được tặng Bằng khen và Cờ mang chân dung Bác do Trung ương Đoàn TNCS Hồ Chí Minh trao tặng.
Năm 2013, trường được công nhận đạt chuẩn Quốc gia.
Năm 2019, trường được công nhận đạt chuẩn Xanh-Sạch-Đẹp-An toàn.
Ngoài ra trường còn được nhận hàng trăm giấy khen, Bằng khen, cờ thưởng về các hoạt động giáo dục toàn diện.
|
19820365 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19820365 | Alexander Petrovich Kazhdan | Alexander Petrovich Kazhdan (; – ) là một nhà nghiên cứu về Đế quốc Byzantine người Xô-viết - Mỹ. Trong số các công trình của ông, có ba tập sách Từ điển Oxford về Byzantium, một tác phẩm bách khoa toàn diện chứa hơn 5.000 đầu mục.
Sinh ra tại Moscow, Kazhdan được theo học tại Viện Giáo dục của Ufa và Đại học Quốc gia Moskva, nơi ông học cùng với nhà sử học về thời Trung cổ của Anh, Eugene Kosminsky. Một sáng kiến Liên Xô hậu chiến tranh nhằm phục hồi nghiên cứu Byzantium bằng tiếng Nga đã khiến cho Kazhdan viết một luận án về lịch sử nông nghiệp của thời kỳ cuối đế chế Byzantine (được xuất bản vào năm 1952 dưới tên "Agrarnye otnosheniya v Vizantii XIII-XIV vv."). Mặc dù có uy tín ngày càng tăng trong lĩnh vực của mình, định kiến bài Do Thái trong học viện Liên Xô thời Joseph Stalin đã buộc Kazhdan phải chấp nhận một loạt các vị trí giáo viên tại các trường tỉnh (ở Ivanovo, 1947–49, và Tula, 1949–52). Sau cái chết của Stalin vào năm 1953, tình hình ở Kazhdan được cải thiện và ông được thuê làm giảng viên tại một trường cao đẳng ở Velikie Luki. Năm 1956, ông cuối cùng cũng được đảm bảo một vị trí tại Viện Lịch sử của Học viện Khoa học Liên Xô, nơi ông ở lại cho đến khi rời khỏi Liên Xô vào năm 1978. Tại Hoa Kỳ, Kazhdan đã đào tạo nhiều nhà nghiên cứu Byzantium, trong số đó có M. V. Bibikov, S. A. Ivanov và I. S. Chichurov.
Kazhdan là một học giả kỳ cựu trong suốt sự nghiệp của ông tại Liên Xô, xuất bản hơn 500 cuốn sách, bài báo và đánh giá. Các công trình của ông đã đóng góp vào uy tín quốc tế ngày càng tăng trong ngành nghiên cứu Byzantium của Liên Xô. Bài viết của ông năm 1954, ""Vizantiyskie goroda v VII-XI vv."," được xuất bản trên tạp chí "Sovetskaya arkheologiya", dựa trên bằng chứng khảo cổ học và tiền tệ đã đề xuất rằng thế kỷ thứ bảy đã tạo thành một sự đứt đoạn lớn trong xã hội thành thị của Byzantium. Luận án này kể từ đó đã được chấp nhận một cách rộng rãi và dẫn đến những nghiên cứu sâu rộng về sự ngưng trệ trong lịch sử Byzantium và sự bác bỏ sau đó của quan niệm trước đây về đế chế Byzantine thời Trung cổ như một di tích cô đọng của thời Hậu kỳ Cổ đại. Các nghiên cứu lớn khác từ nửa đầu sự nghiệp của Kazhdan bao gồm "Derevnya i gorod v Vizantii IX-X vv." (1960), một nghiên cứu về mối quan hệ giữa thành thị và nông thôn trong thế kỷ thứ chín và mười; "Vizantiyskaya kul'tura (X-XII vv.)" (1968), một nghiên cứu về văn hóa Byzantine thời Trung cổ; và "Sotsial'ny sostav gospodstvujushchego klassa Vizantii XI-XII vv." (1974), một nghiên cứu thống kê thân thế quan trọng về cấu trúc của tầng lớp cai trị Byzantine trong thế kỷ thứ mười một và mười hai. Kazhdan cũng đã đóng góp mạnh mẽ cho lĩnh vực nghiên cứu về Armenia, đặc biệt là viết về những người Armenia đã hình thành tầng lớp cai trị ưu tú, quản lý Đế chế Byzantine trong thời Trung cổ Byzantine trong tác phẩm "Armiane v sostave gospodstvuyushchego klassa Vizantiyskoy imperii v XI-XII vv." (1975).
Vào năm 1975, con trai của Kazhdan, nhà toán học David Kazhdan, di cư đến Hoa Kỳ, nơi ông nhận một vị trí tại Đại học Harvard. Điều này đã tạo ra sự thay đổi ngay lập tức lên tình hình của nhà Kazhdan tại Liên Xô; vợ ông, Musja, đã bị sa thải khỏi vị trí của mình tại một nhà xuất bản ở Moscow và việc kiểm duyệt công trình của ông bởi các cấp trên trong cơ quan học thuật Liên Xô tăng lên. Vào tháng 10 năm 1978, Alexander và Musja rời khỏi Liên Xô, sau khi nhận được visa nhập cư tới Israel, và đến Hoa Kỳ ba năm sau đó. Vào tháng 2 năm 1979, họ đến Dumbarton Oaks, một trung tâm nghiên cứu Byzantine ở Washington, D.C., nơi Kazhdan giữ vị trí cộng tác nghiên cứu cấp cao cho đến khi tạ thế.
Các công trình đầu tiên của Kazhdan viết bằng tiếng Anh đều là công trình chung:
Dự án tiếng Anh lớn nhất của ông cũng là một nỗ lực cộng tác đồ sộ: bộ ba quyển từ điển "Oxford Dictionary of Byzantium" (1991), do Kazhdan biên tập hiệu đính, là tác phẩm tham khảo đầu tiên thể loại này từng được xuất bản, và vẫn là một điểm xuất phát không thể thiếu cho tất cả các ngành lĩnh vực nghiên cứu Byzantium. Ông đã viết khoảng 20%, hoặc khoảng 1.000, các đầu mục trong bộ "Từ điển", được ký tên với chữ viết tắt A.K. của ông.
Khi Kazhdan cảm thấy thoải mái hơn với tiếng Anh, nhịp xuất bản của ông một lần nữa bắt kịp với những năm làm việc của ông tại Nga. Các nghiên cứu sau này của ông được đánh dấu đặc biệt bởi sự quan tâm ngày càng tăng đối với văn học Byzantine, đặc biệt là hagiography (ngành nghiên cứu tiểu sử các cá nhân tôn giáo được thần thánh hoá, các câu chuyện/sự tích bán huyền thoại).
Kazhdan tạ thế tại Washington, D.C. năm 1997. Sự ra đi của ông đã tán đoạn công trình về một tác phẩm lịch sử khổng lồ về Văn học Byzantine""History of Byzantine Literature""; tuy nhiên, tập đầu tiên của tác phẩm này, bao gồm giai đoạn từ năm 650 đến 850, đã được xuất bản năm 1999.
|
19820386 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19820386 | Có hẹn với yêu thương | Có hẹn với yêu thương là một bộ phim truyền hình được thực hiện bởi Hãng phim Xuân Phước do Xuân Phước làm đạo diễn. Phim phát sóng vào lúc 20h00 từ thứ 2 đến thứ 7 hàng tuần bắt đầu từ ngày 22 tháng 7 năm 2023 trên kênh THVL1.
"Có hẹn với yêu thương" bắt đầu khi ông Bốn (Hoàng Sơn) tin rằng con trai cưng của mình đã tốt nghiệp ĐH. Ông hào hứng "đầu tư" thuê xe và "dàn cổ vũ" cầm băng rôn lên Sài Gòn chúc mừng ngày Hoàng Vĩnh (Huỳnh Đông) trở thành "niềm tự hào" của gia đình.
Cùng một số diễn viên khác...
Bài hát trong phim ca khúc "Có hẹn với yêu thương" do Nguyễn Minh Anh sáng tác và Nguyễn Phi Vũ / Nhã Phượng thể hiện.
|
19820396 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19820396 | COBISS | COBISS (viết tắt của "Co-operative Online Bibliographic System and Services") là một mô hình tổ chức kết nối các thư viện vào hệ thống thông tin thư viện quốc gia với việc sử dụng chung dịch vụ thư mục "cataloguing", cơ sở dữ liệu danh mục COBIB của liên minh và các cơ sở dữ liệu danh mục cục bộ của các thư viện tham gia, cơ sở dữ liệu COLIB về các thư viện, cơ sở dữ liệu CONOR về tên chính thức, và nhiều chức năng khác.
Vào năm 1987, hệ thống "cataloguing" chia sẻ đã được Hiệp hội Thư viện Quốc gia xưa kia của Liên bang Nam Tư áp dụng như một nền tảng chung cho hệ thống thông tin thư viện và hệ thống thông tin khoa học và công nghệ của Nam Tư. Vào năm 1991, (Viện Thông tin khoa học và công nghệ) đã chào mời COBISS như một bản nâng cấp của hệ thống "cataloguing" chia sẻ. Khi đó, từ viết tắt tương tự cũng bắt đầu được sử dụng cho phần mềm liên quan. Do sự tan rã của quốc gia Nam Tư, các thư viện ngoài Slovenia đã rời khỏi thành viên trong hệ thống "cataloguing" chia sẻ, tuy nhiên gần như tất cả sau đó dần dần tiếp tục hợp tác với IZUM và hiện đang xây dựng các hệ thống thông tin tự chủ của riêng họ dựa trên nền tảng COBISS với việc "cataloguing" chia sẻ trong mạng lưới COBISS.net. Thỏa thuận về việc thành lập mạng lưới COBISS.net và trao đổi miễn phí hồ sơ thư mục giữa các hệ thống thông tin thư viện tự chủ của Bosnia và Herzegovina, Montenegro, Bắc Macedonia, Slovenia và Serbia, đã được ký kết vào năm 2003. Năm 2006, thỏa thuận trên đã cũng được ký kết bởi Thư viện Quốc gia Bulgaria.
|
19820402 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19820402 | Quốc xã Bít tết | Quốc xã Bít tết () là một cụm từ được sử dụng tại Đức Quốc xã nhằm chỉ những người cộng sản và xã hội chủ nghĩa gia nhập Đảng Quốc xã. Hiện tượng này lần đầu được ghi chép trong cuốn "Hitler: A Biography" xuất bản năm 1936 của sử gia người Mỹ gốc München Konrad Heiden. Ông cho rằng trong hàng ngũ của tổ chức "Sturmabteilung" (Lính áo nâu; binh đoàn bão táp, SA) "có một lượng lớn người theo chủ nghĩa cộng sản và dân chủ xã hội" và "nhiều quân nhân trong lực lượng bão táp được ví như 'miếng bò bít tết' – bên ngoài màu nâu nhưng bên trong lại màu đỏ". Việc chuyển đảng phổ biến đến mức nội bộ SA thường đùa rằng: "Có 3 người quốc xã trong hàng ngũ chúng ta, chúng sẽ sớm bị loại bỏ khỏi đây".
Thuật ngữ này chủ yếu được sử dụng để chỉ các thành viên thuộc tầng lớp công nhân trong SA - những người theo chủ nghĩa Strasser. Hình ảnh của những người này được ví như "bít tết", mặc đồng phục màu nâu nhưng lại mang những quan điểm "đỏ" của chủ nghĩa cộng sản và xã hội chủ nghĩa. Sự tương phản này thể hiện lòng trung thành của họ đối với chủ nghĩa quốc xã chỉ mang tính nhất thời và vì lợi ích cá nhân.
Sau khi Adolf Hitler nắm quyền Thủ tướng vào thập niên 1930, những người "quốc xã bít tết" vẫn tồn tại trong quá trình đàn áp cộng sản và xã hội chủ nghĩa (lần lượt đại diện bởi Đảng Cộng sản Đức và Đảng Dân chủ Xã hội Đức). Cụm từ này trở nên phổ biến và được sử dụng rộng rãi từ năm 1933.
Ernst Röhm – người đồng sáng lập và chỉ huy SA đã thành lập một phong trào sùng bái chính bản thân ông trong hàng ngũ SA. Qua đó nhiều thành viên SA bắt đầu ủng hộ chế độ cách mạng xã hội chủ nghĩa, khiến SA trở nên cực đoan hóa. Röhm và phần lớn đảng viên của Đảng Quốc xã đã ủng hộ Chương trình Quốc xã gồm 25 điểm, thể hiện lập trường cách mạng xã hội chủ nghĩa và bài trừ chủ nghĩa tư bản. Họ đặt niềm tin vào Hitler và kỳ vọng ông sẽ thực hiện những cam kết này khi ông nắm được quyền lực. Vì Tổng tham mưu Röhm "đồng tình những khía cạnh xã hội chủ nghĩa trong Chương trình Quốc xã", "'một số cựu Đảng viên Cộng sản và xã hội chủ nghĩa đã chuyển sang gia nhập Đảng Quốc xã trong vài năm, và họ bị mỉa mai là 'những kẻ Quốc xã Bít tết' ".
Sau khi Hitler trở thành thủ tướng, Röhm đã tìm cách tiến hành cuộc cách mạng vĩnh cửu (hoặc 'cách mạng lần hai') khiến phong trào cực đoan của SA đạt đến đỉnh điểm. Với 2,5 triệu lính SA dưới quyền, Röhm bắt đầu kế hoạch thanh trừng phe bảo thủ tại Đức (được biết đến với tên gọi "Reaktion")."" Kế hoạch bao gồm việc mở rộng quy mô quốc hữu hóa ngành công nghiệp, "quyền sở hữu của công nhân đối với phương tiện sản xuất" và "tịch thu và tái phân phối tài sản của giới thượng lưu" . Việc xung đột chính trị và ý thức hệ trong nội bộ Đảng Quốc xã khiến Hitler ra lệnh hành quyết Röhm và một số thành viên khác trong đảng qua cuộc thanh trừng Đêm của những con dao dài vào mùa hè năm 1934.
Một số người cho rằng, phần lớn các thành viên SA có xuất thân từ tầng lớp lao động hoặc thất nghiệp, điều này khiến họ dễ bị thu hút bởi chủ nghĩa Marx. Tuy nhiên, sử gia Thomas Friedrich cho rằng Đảng Cộng sản Đức [sẽ] "cầm chắc thất bại" trong việc lôi kéo các thành viên SA. Vì phần lớn thành viên SA đều tập trung vào việc sùng bái Hitler và đặt mục tiêu ' tiêu diệt kẻ thù theo chủ nghĩa Marx' .
Chỉ huy cảnh sát mật Gestapo Rudolf Diels (giai đoạn 1933–1934) báo cáo rằng có đến "70 phần trăm" lính SA từng là người cộng sản tại thành phố Berlin.
Chú thích
Nguồn
|
19820405 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19820405 | Cộng hòa Slowjamastan | Slowjamastan, hay Cộng hòa Slowjamastan (tiếng Anh: Republic of Slowjamastan), tên chính thức là Lãnh thổ thống nhất của quốc gia có chủ quyền Cộng hòa Slowjamastan (tiếng Anh: United Territories of the Sovereign Nation of The People's Republic of Slowjamastan), là một vi quốc gia ở quận Imperial, Nam California, Hoa Kỳ.
Cộng hòa Slowjamastan nằm trên một khu đất trống rộng 45.000 mét vuông trên sa mạc ở quận Imperial, Nam California, dọc theo quốc lộ California 78, nằm giữa Ocotillo Wells ở San Diego và Westmorland, cách khoảng 23 kilômét về phía tây nam của Biển Salton và khoảng 161 kilômét từ San Diego. Mặc dù Slowjamastan không có công trình kiến trúc nào, nhưng nằm trên khu đất là một biển báo biên giới lớn cạnh đường cao tốc, một chốt kiểm soát biên giới và một cái bàn đóng vai trò là văn phòng của Randy Williams - sultan của vi quốc gia này. Hiện tại đang có kế hoạch mở rộng lãnh thổ.
Slowjamastan được tuyên bố độc lập vào ngày 1 tháng 12 năm 2021 bởi DJ Randy Williams, còn được biết đến với nghệ danh R Dub!. Ông đã đến thăm tất cả các quốc gia thành viên của Liên Hợp Quốc (hiện bao gồm 193 quốc gia có chủ quyền) với quốc gia cuối cùng là Turkmenistan, ông cũng đã đến thăm Cộng hòa Molossia - một vi quốc gia nằm ở Dayton, Nevada - vào tháng 8 năm 2021, và bản thân ông mong muốn được đến thăm quốc gia thứ 194, tất cả điều đó là nguồn cảm hứng để thành lập một vi quốc gia của riêng ông. Khi Williams trở về nơi cư trú của mình ở San Diego, ông ngay lập tức bắt tay vào thực hiện các kế hoạch cho vi quốc gia của riêng mình. Vào tháng 10 năm 2021, ông mua một khu đất rộng khoảng 45.000 mét vuông với giá 19.000 USD.
Các kế hoạch được Williams chuẩn bị tiến hành thực hiện để xây dựng các điểm thu hút khách du lịch ở Slowjamastan bao gồm một sân chơi bowling, trang trại tê tê tương tác, cửa hàng xúc xích, nhà hàng và một dòng sông lười, đang chờ thiết lập hệ thống nước hoạt động trong sa mạc. Williams dựa trên tính hợp pháp của Slojamastan dựa trên việc đáp ứng các tiêu chí của Công ước Montevideo. Khi tuyên bố độc lập, Williams đã gửi bưu thiếp cho người dân và doanh nghiệp gần đó. Trong khi các chủ doanh nghiệp địa phương tuyên bố ý tưởng về Slowjamastan là kỳ quái và lập dị, họ sẵn sàng đón nhận dự án vì có thể thu hút khách du lịch và tăng sự chú ý đến khu vực.
Slowjamastan là một chế độ độc tài và "dân chủ không thường xuyên" vì Williams - sultan của vi quốc gia này - cho phép người dân đóng góp ý kiến. Slowjamastan cũng có quốc hội. Luật của Slowjamastan dựa trên "những phiền toái hàng ngày" mà Williams đã trải qua khi lớn lên ở Hoa Kỳ. Một số lệnh cấm bao gồm đi dép crocs, rap lầm bầm, gác chân lên bảng đồng hồ và ăn phô mai sợi bằng cách cắn trực tiếp vào nó. Mọi người có thể nộp đơn xin nhập quốc tịch và các đăng ký vào các vị trí nội các thông qua trang web quốc gia của Slowjamastan. Tính đến tháng 6 năm 2023, số lượng công dân ở vi quốc gia này là hơn 500 người, với 4.500 hồ sơ tồn đọng đã được phê duyệt. Con số này tăng từ 99 hồ sơ vào tháng 2 năm 2022. Slowjamastan còn cũng cấp hộ chiếu có những câu nói nổi tiếng được trích dẫn từ các nghệ sĩ hip hop.
|
19820407 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19820407 | Copac | Copac (ban đầu là từ viết tắt của Hợp tác Thư mục Truy cập Công cộng Trực tuyến) là một danh mục liên minh cung cấp truy cập miễn phí đến các thư mục trực tuyến hợp nhất của nhiều thư viện nghiên cứu lớn và thư viện chuyên ngành ở Vương quốc Anh và Ireland, cùng với Thư viện Anh, Thư viện Quốc gia Scotland và Thư viện Quốc gia Wales. Đến năm 2019, nó có hơn 40 triệu hồ sơ từ khoảng 90 thư viện, đại diện cho một loạt các tài liệu trong tất cả các lĩnh vực. Copac là hoàn toàn miễn phí và tiếp cận được cho tất cả mọi người, và được sử dụng rộng rãi, với người dùng chủ yếu đến từ các cơ sở giáo dục đại học ở Vương quốc Anh, nhưng cũng trên toàn thế giới. Copac được người dùng đánh giá cao như một công cụ nghiên cứu.
Copac có thể tìm kiếm thông qua trình duyệt web hoặc một trình máy khách client Z39.50. Nó cũng có thể truy cập thông qua các giao diện OpenURL và Search/Retrieve via URL (SRU). Các giao diện này có thể được sử dụng để cung cấp liên kết đến các mục trên Copac từ các trang web bên ngoài, chẳng hạn như những trang web được sử dụng trên trang web Viện Nghiên cứu Lịch sử của vương quốc Anh.
Copac từng là dịch vụ của Jisc được cung cấp cho cộng đồng Vương quốc Anh dựa trên thỏa thuận với Research Libraries UK (RLUK). Dịch vụ này sử dụng các hồ sơ do các thành viên của RLUK cung cấp, cũng như một loạt các thư viện chuyên ngành có bộ sưu tập có liên quan đến các đề tài nghiên cứu quốc gia. Danh sách đầy đủ các bên đóng góp có thể được tìm thấy, bao gồm Cơ quan Quốc gia Anh về Địa điểm Lịch sử hoặc Vẻ đẹp Tự nhiên, Vườn thực vật Hoàng gia Kew, thư viện Middle Temple và Thư viện Hội kỹ sư cơ khí (IMechE).
Vào tháng 7 năm 2019, Jisc đã thay thế COPAC bằng Library Hub Discover.
|
19820412 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19820412 | Bành Quán Anh | Bành Quán Anh (tiếng Trung: 彭冠英; sinh ngày 18 tháng 2 năm 1986) là một nam diễn viên Trung Quốc, tốt nghiệp hệ biểu diễn Học viện Điện ảnh Bắc Kinh năm 2006.
Bành Quán Anh sinh ngày 18 tháng 2 năm 1986 tại thành phố Trường Xuân, tỉnh Cát Lâm, Trung Quốc. Từ khi còn nhỏ, anh đã có sở thích ca hát, biểu diễn và vận động. Năm 2006, Bành Quán Anh tham gia cuộc thi người mẫu của và giành giải quán quân khu vực Cát Lâm. Cùng năm, anh thi đỗ vào khoa biểu diễn thuộc Học viện điện ảnh Bắc Kinh dưới sự chỉ dạy của giáo sư Thôi Tân Cầm.
Năm 2007, nhờ bộ phim ngắn "Vòng xoáy" anh đoạt giải Nam diễn viên chính xuất sắc nhất tại "Giải thưởng sáng tạo phim ngắn Trung Quốc toàn cầu lần thứ hai". Thời gian theo học tại trường, Bành Quán Anh tham gia diễn xuất trong bộ phim "Vương Cương kể chuyện". Sau khi tốt nghiệp, anh được đạo diễn Đằng Hoa Đào nhìn trúng và có cơ hội đóng vai chính trong bộ phim "Thời Đại Hôn Nhân Công Khai".
Năm 2016, Bành Quán Anh trở nên nổi tiếng nhờ qua phim cổ trang "Lan Lăng Vương Phi". Sau đó anh liên tiếp xuất hiện ở nhiều dự án truyền hình khác nhau như "Trường An 12 canh giờ, Yêu em người chữa lành vết thương cho anh, " Đến năm 2020 Bành Quán Anh một lần nữa nhận được sự đón nhận rộng rãi của công chúng thông qua bộ phim "Dưới Ánh Mặt Trời" đóng cùng nữ diễn viên Thái Văn Tịnh.
|
19820416 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19820416 | Virus cuồng loạn | Virus cuồng loạn là một bộ phim điện ảnh hài kinh dị Việt Nam, phát hành năm 2022 do Nguyễn Ngọc Nhất Duy làm đạo diễn. Phim có sự tham gia diễn xuất của Ramani Raja, Bích Ngọc, Gia Bảo, với nội dung xoay quanh hành trình trốn thoát của một đoàn làm phim khỏi sự tấn công của những con zombie bị nhiễm độc thực phẩm.
Thời điểm ra rạp, tác phẩm đã bị xếp vào hàng "thảm họa điện ảnh" Việt với doanh thu chỉ khoảng 157 triệu đồng, đứng thứ hai bảng xếp hạng những phim Việt thu về ít tiền nhất trong năm 2022. Cùng với "Cù lao xác sống", bộ phim đã vướng phải làn sóng chỉ trích nặng nề từ công chúng cả về mặt chất lượng nội dung lẫn nghệ thuật, cũng như làm dấy lên câu hỏi về chất lượng chung của phim truyện Việt Nam.
Một đoàn làm phim đã lên một khu nghỉ dưỡng lớn ở vùng núi xa xôi để thực hiện tác phẩm điện ảnh về đề tài zombie. Họ không ngờ rằng sẽ phải chạm trán với zombie thật ngoài đời – là những nạn nhân của thực phẩm độc hại, mất an toàn vệ sinh được bày bán trên thị trường. Sau khi đại dịch zombie lan rộng, chúng đã bắt đầu tấn công vào ê-kíp phim và biến đổi hầu hết các thành viên trong đoàn phim. Những người sống sót còn lại phải cùng nhau tìm cách để thoát khỏi sự truy đuổi của xác sống đồng thời tìm đường tới sân bay để nhận sự trợ giúp từ quân đội chính phủ.
Danh sách diễn viên được lấy từ áp phích phim và nguồn từ "VnExpress":
Đạo diễn kiêm biên kịch của bộ phim là Nguyễn Ngọc Nhất Duy – con trai diễn viên Công Hậu. Đây là tác phẩm đầu tay và cũng được cho là sản phẩm tốt nghiệp của anh tại khoa đạo diễn Trường Đại học Sân khấu - Điện ảnh Thành phố Hồ Chí Minh. Đảm nhiệm phần quay phim cho tác phẩm là Lữ Bá Thịnh (Thịnh Lữ), bạn học của Nhất Duy. Trong quá trình làm phim, Công Hậu ngoài vai trò nhà đầu tư và sản xuất cũng tham gia tư vấn, chỉ đạo diễn xuất cho một số cảnh quay của phim. Các đơn vị tham gia sản xuất bộ phim gồm Ánh Sao Production, 3ND Entertainment và HGT Media.
"Virus cuồng loạn" được thực hiện trong vòng hai năm, với tổng kinh phí hơn 8 tỷ đồng. Hai cha con Nhất Duy đã bán hai mảnh đất để lấy tiền làm phim; cả Thịnh Lữ cũng bán vàng góp tiền vào đoàn phim. Để tìm bối cảnh phù hợp, đoàn phim phải mất một thời gian dài tìm nơi ghi hình tại vùng cao, vùng dân tộc ở Lâm Đồng, Bình Phước, sau đó dựng lên một làng dân tộc làm phim trường có trị giá 600 triệu đồng và thuê hơn 100 diễn viên hóa trang xác sống. Hầu hết diễn viên được giao vai "Virus cuồng loạn" đều là nghệ sĩ trẻ và những người ít tên tuổi. Diễn viên lồng tiếng Bích Ngọc – mẹ của đạo diễn Nhất Duy, đã nhận đóng một vai trong phim. Quá trình ghi hình phim diễn ra từ những tháng cuối năm 2019, đầu 2020. Dù ảnh hưởng từ việc phong tỏa cách ly trong đại dịch COVID-19 đã khiến đoàn làm phim bị mắc kẹt tại huyện Lâm Hà, Lâm Đồng, bộ phim vẫn được tiếp tục quay và đóng máy đúng theo kế hoạch dự tính. Khâu hậu kỳ được làm suốt 8 tháng tiếp theo, với sự hỗ trợ từ 3 ê-kíp hậu kỳ. Sau khi vượt qua cửa kiểm duyệt gắt gao từ Cục Điện ảnh Việt Nam, phim đã được ấn định phát hành vào những tháng cuối năm 2022.
Bộ phim, có thời lượng dài 75 phút, đã lựa chọn đề tài zombie làm chủ đề chính cho tác phẩm – một mảng nội dung thường ít được các nhà làm phim Việt Nam khai thác. Những con zombie xuất hiện trong phim đều bị nhiễm độc bởi "thực phẩm độc hại, không rõ nguồn gốc". Theo mô tả của đạo diễn Nhất Huy, "Virus cuồng loạn" làm theo hơi hướng "kinh dị – hài" nhưng sẽ đưa ra một thông điệp mang tính "nhân văn" tới xã hội và giới trẻ về vấn đề an toàn vệ sinh thực phẩm. Các "kỹ xảo, công nghệ mới" cũng được sử dụng trong bộ phim.
Trailer của phim đã được công bố vào cuối tháng 10 năm 2022, với thời lượng dài 1:34. Bộ phim ban đầu lên lịch chiếu vào dịp Halloween tại Việt Nam từ ngày 28 tháng 10 năm 2022 nhưng sau đó đã dời thời điểm ra mắt xuống ngày 4 tháng 11 cùng năm. Trước đó, "Virus cuồng loạn" đã có buổi ra mắt đầu tiên tại Thành phố Hồ Chí Minh vào ngày 1 tháng 11 năm 2022.
"Virus cuồng loạn" là bộ phim Việt duy nhất ra rạp trong tháng 11, cũng là bộ phim thứ hai của Việt Nam lấy chủ đề về zombie sau phim "Cù lao xác sống" ra mắt trước đó vào tháng 9 năm 2022. Phim ra rạp cùng thời điểm với một số phim bom tấn ngoại quốc như "Black Adam" và "Đặc vụ xuyên quốc gia 2".
Trong tuần đầu công chiếu, "Virus cuồng loạn" chỉ thu về vỏn vẹn 90 triệu đồng, bằng / kinh phí bỏ ra để sản xuất tác phẩm. Tờ "Tiền phong" đã nhận định đây là một trong những phim điện ảnh Việt Nam có doanh thu mở màn thấp nhất trong lịch sử, nêu ra thực tế rằng các bộ phim Việt có doanh thu thấp khác trong tuần đầu tiên ít nhất cũng phải thu về trên trăm triệu đồng. Sang đến tuần thứ hai, doanh thu phim giảm tiếp xuống còn 13,44 triệu đồng. Theo số liệu thống kê của Box Office Việt Nam, sau khi rút khỏi rạp doanh thu của bộ phim là hơn 157 triệu đồng, chỉ trên bộ phim "Huyền sử vua Đinh" một bậc về bảng xếp hạng những phim có doanh thu phòng vé kém nhất năm 2022.
Ban đầu, bộ phim đã thu hút sự tò mò của giới điện ảnh và công chúng vì đề tài khai thác về an toàn thực phẩm. Nhưng sớm sau đó, "Virus cuồng loạn" vấp phải làn sóng chỉ trích nặng nề từ những khán giả đại chúng bởi chất lượng nội dung. Ngay từ thời điểm ra mắt trailer và những hình ảnh đầu tiên, bộ phim đã hứng chịu vô số ý kiến trái chiều do chúng "quá xấu" và "cắt dựng cẩu thả". Một số "hạt sạn" đã được người xem chỉ ra như lỗi chính tả tiếng Anh, các dòng chữ quảng bá "ngô nghê" đem lại cảm giác "rẻ tiền" cho người xem. Phần đông mọi người đều đã dự đoán trước về diễn biến doanh thu "không mấy khả quan" của phim tại rạp.
Sau khi chính thức công chiếu, khán giả xem phim đã dành nhiều lời phê bình tiêu cực về bộ phim trên các trang mạng xã hội khác nhau. Một số người từng xem phim bình luận phim đem lại một cú "sang chấn tâm lý", hay "dở được đến thế kể cũng là phi thường". Số khác cũng so sánh tác phẩm với phim zombie ra rạp trước đó là "Cù lao xác sống", nói rằng "nợ "Cù lao xác sống" một lời xin lỗi" khi "Virus cuồng loạn" "nó loạn thật sự [...] Nội dung phim ngờ nghệch, tình tiết thì hời hợt và chắp vá không một chút sáng tạo... Diễn viên thì đơ cứng, không cảm xúc. Không thể phân biệt được là đang diễn hay đang cầm kịch bản đọc". Có ý kiến còn bình luận việc xem "Virus cuồng loạn" hay "Cù lao xác sống" là "ném tiền qua cửa sổ".
Bộ phim đã bị nhiều đánh giá xếp vào hàng "thảm họa điện ảnh" năm 2022, trong bối cảnh hàng loạt các bộ phim Việt khác ra rạp vào giai đoạn này đều là những bom xịt phòng vé có chất lượng nội dung thấp. Phần đông bài viết phê bình đều chỉ trích bộ phim về nhiều mặt như diễn xuất của dàn diễn viên, khâu kỹ xảo, âm thanh và kỹ thuật phim... Trong đó, chất lượng kịch bản bộ phim được nhiều người tập trung mổ xẻ và phê phán nhiều nhất. Bài viết của "Thanh Niên" đã coi "Virus cuồng loạn" là một ví dụ "điển hình" cho lối làm phim "cẩu thả, thiếu chất xám, thiếu tôn trọng người xem [...] nhưng lại mạnh dạn đem chiếu rạp để "ăn tiền" khán giả".
Tác giả Hạ Nguyệt viết cho "Thể thao & Văn hóa" đã chấm "Virus cuồng loạn" 0.5/5 điểm, nhận xét phim có "kỹ thuật của thập niên 80" với màu phim, âm thanh và cắt ghép phim chất lượng đều ở mức tệ, đem lại cho khán giả "một tổ hợp rời rạc vá chứ không phải tác phẩm hoàn chỉnh". Cô cũng chỉ trích cách hóa trang các nhân vật zombie và nội dung của phim, kết luận rằng tác phẩm là một "ví dụ điển hình cho lối làm phim cẩu thả, thiếu chất xám của điện ảnh Việt". Cây bút Minh Khuê của báo "Người lao động" cũng có chung một quan điểm, ngoài ra nhận xét lối diễn xuất "đơ cứng" của các diễn viên cùng kỹ xảo kém đã khiến bộ phim không thu hút được khán giả ra rạp. Trong một nhận xét tiêu cực hơn, trang "Thương hiệu và Pháp luật" đã so sánh phim với phim có "chất lượng trung bình thấp" "Cù lao xác sống" và kết luận rằng "Virus cuồng loạn" "còn không được xem là một bộ phim hoàn chỉnh để mang đi chiếu rạp". Báo "Phụ nữ" thì nhìn nhận với thái độ tích cực hơn, ghi nhận tinh thần và nhiệt huyết của tác giả và đoàn phim cùng một số điểm cộng về mặt hình ảnh và cách dẫn nhập, nhưng xét chung lại vẫn không thể che lấp đi phần nhiều khuyết điểm trong tác phẩm, "chưa thể chinh phục người xem".
|
19820418 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19820418 | Lê Đóa | Lê Đóa, tên khai sinh là Lê Hữu Đóa (19 tháng 8 năm 1922 - 31 tháng 8 năm 2008) là một nhạc sĩ quân đội chuyên ngành Chỉ huy. Ông được phong tặng danh hiệu Nghệ sĩ Ưu tú năm 1984 và Nghệ sĩ Nhân dân năm 1993.
Ông sinh ra và lớn lên trong một dòng họ và gia đình có truyền thống khoa bảng ở làng Tả Ao (nay là xã Xuân Giang), huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh. Ông là chắt đời thứ 9 của tiến sĩ Lê Đăng Truyền, một nhà thơ được người đời tôn vinh là một trong "Nghệ An tứ hổ". Thân phụ của ông, cụ Lê Hữu Phương, cũng là một nhân sĩ tham gia kháng chiến chống Pháp, từng làm phó Chủ tịch Ủy ban Kháng chiến Hành chánh huyện Nghi Xuân.
Ông có một người con trai, đã hy sinh trong cuộc Tổng tấn công Xuân Mậu Thân 1968 ở chiến trường Quân khu 9, chưa tìm được thi thể.
|
19820419 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19820419 | EBSCO Information Services | EBSCO Information Services, có trụ sở tại Ipswich, Massachusetts, là một phần của EBSCO Industries Inc., một công ty tư nhân có trụ sở tại Birmingham, Alabama. EBSCO cung cấp sản phẩm và dịch vụ cho các thư viện trên khắp thế giới. Các sản phẩm của họ bao gồm EBSCONET, một hệ thống quản lý tài nguyên thư mục điện tử hoàn chỉnh, và "EBSCOhost", cung cấp dịch vụ nghiên cứu trực tuyến có phí với 375 cơ sở dữ liệu toàn văn, một bộ sưu tập hơn 600.000 sách điện tử ebook, các chỉ mục chủ đề, các tài liệu tham khảo y khoa tại điểm chăm sóc và một loạt các lưu trữ lịch sử kỹ thuật số. Vào năm 2010, EBSCO giới thiệu "EBSCO Discovery Service" (EDS) cho các cơ sở, cho phép tìm kiếm trong danh mục tạp chí và tạp chí.
EBSCO Information Services là một phân đoạn của EBSCO Industries Inc., một công ty được thành lập vào năm 1944 bởi Elton Bryson Stephens Sr. và có trụ sở tại Birmingham, Alabama. "EBSCO" là từ viết tắt của Elton B. Stephens Company. EBSCO Industries có doanh số bán hàng hàng năm khoảng 3 tỷ đô la. Đây là một trong những công ty tư nhân lớn nhất ở Alabama và thuộc 200 công ty hàng đầu tại Hoa Kỳ, dựa trên doanh thu và số lượng nhân viên.
EBSCO Information Services ra đời vào năm 1984 dưới dạng một nhà xuất bản in ấn có tên "Popular Magazine Review", hiển thị các tóm tắt bài viết từ hơn 300 tạp chí. Vào năm 1987, công ty đã được EBSCO Industries mua lại và đổi tên thành EBSCO Publishing. Đến năm 2007, công ty đã có khoảng 750 nhân viên. Năm 2003, họ đã mua Whitston Publishing, một nhà cung cấp cơ sở dữ liệu khác. Năm 2010, EBSCO đã mua lại NetLibrary và năm 2011, họ tiếp quản H. W. Wilson Company. EBSCO Publishing đã hợp nhất với EBSCO Information Services vào ngày 1 tháng 7 năm 2013, với doanh nghiệp hợp nhất hoạt động dưới tên EBSCO Information Services. Năm 2015, EBSCO mua lại YBP (Yankee Book Peddler) Library Services từ Baker & Taylor, và sau đó đổi tên thành GOBI Library Solutions. Đến năm 2017, Tổng Giám đốc là Tim Collins.
Metapress được thành lập vào năm 1998 như một nền tảng xuất bản trực tuyến cho những người sáng tạo nội dung để sản xuất và lưu trữ phiên bản tạp chí in ấn của họ trực tuyến. Là một phần của EBSCO, nền tảng này đã trở thành một trong những máy chủ nội dung học thuật lớn nhất thế giới, với hơn 31.000 bản phát hành từ hơn 180 nhà xuất bản. Năm 2014, Atypon đã mua lại doanh nghiệp Metapress từ EBSCO, với kế hoạch ngưng hoạt động nền tảng Metapress và chuyển khách hàng sang nền tảng Literatum của Atypon. Nội dung đã được di chuyển sang Literatum vào ngày 21 tháng 5 năm 2015.
Vào tháng 2 năm 2020, EBSCO Information Services thông báo về thỏa thuận mua lại Zepheira, một công ty được thành lập vào tháng 2 năm 2007 và có trụ sở tại Reston, Virginia, với các nhà lãnh đạo trong lĩnh vực Semantic Web và đã đóng góp vào việc phát triển Dublin Core, BIBFRAME và mạng Library.Link. Sau quá trình sáp nhập, Zepheira tiếp tục hoạt động như một phân đoạn độc lập.
EBSCO có hai hệ thống điện mặt trời lớn, đang chuyển đổi đội xe hơi của công ty sang các xe hybrid, thành lập một "Green Team" tại trụ sở chính và đã phát hành GreenFILE, một cơ sở dữ liệu miễn phí được thiết kế để giúp mọi người nghiên cứu tác động của con người đối với môi trường. EBSCO đã được trao Giải Thưởng Thành tựu Môi trường năm 2008 từ Văn phòng New England của Cơ quan Bảo vệ Môi trường Hoa Kỳ và đã được tôn vinh bởi Hiệp hội Thư viện Đặc biệt với tư cách là "Những Nhà vô địch Xanh" trong khuôn khổ sáng kiến "Kiến thức hướng tới môi trường xanh" của hiệp hội vào Ngày Trái Đất 2009.
Các sáng kiến từ thiện của EBSCO bao gồm các nỗ lực để thu hẹp khoảng cách số về công nghệ thông tin (giữa thế giới công nghiệp và các nước đang phát triển) và hợp tác với Quỹ Open Society Foundations để cung cấp các cơ sở dữ liệu nghiên cứu cần thiết cho các trường đại học ở 39 nước đang phát triển. Năm 2012, gia đình Stephens đã được công nhận vì công việc từ thiện của họ.
|
19820431 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19820431 | Nemanja Maksimović | Nemanja Maksimović (, ; sinh ngày 26 tháng 1 năm 1995) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Serbia thi đấu ở vị trí tiền vệ cho PAOK tại giải vô địch quốc gia Hy Lạp và đội tuyển bóng đá quốc gia Serbia.
|
19820435 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19820435 | Nemanja Radonjić | Nemanja Radonjić (, ; sinh ngày 15 tháng 2 năm 1996) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Serbia thi đấu ở vị trí tiền vệ cánh cho câu lạc bộ Torino tại Serie A theo dạng cho mượn từ câu lạc bộ Marseille. Anh đã đại diện cho đội tuyển quốc gia Serbia.
|
19820436 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19820436 | Nemanja Gudelj | Nemanja Gudelj (; sinh ngày 16 tháng 11 năm 1991) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Serbia thi đấu ở vị trí tiền vệ cho Sevilla tại La Liga và đội tuyển quốc gia Serbia.
|
19820437 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19820437 | Predrag Rajković | Predrag Rajković (, ; sinh ngày 31 tháng 10 năm 1995) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Serbia hiện thi đấu ở vị trí thủ môn cho câu lạc bộ Mallorca tại La Liga và đội tuyển quốc gia Serbia.
|
19820439 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19820439 | Andrija Živković | Andrija Živković (, ; sinh ngày 11 tháng 7 năm 1996) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Serbia thi đấu ở vị trí tiền vệ cánh cho câu lạc bộ PAOK tại giải vô địch quốc gia Hy Lạp và đội tuyển quốc gia Serbia.
|
19820446 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19820446 | Các bản thảo kinh tế và triết học 1844 | Các bản thảo kinh tế và triết học năm 1844, còn được gọi là Bản thảo Paris, được Karl Marx viết ở Paris vào cuối tháng 5 đến tháng 8 năm 1844 và nằm trong số "những tác phẩm đầu tay" của Marx. Bản thảo Paris là tác phẩm đầu tiên của Marx, trong đó ông kết hợp sự phê phán kinh tế học với triết học để tạo thành một hệ thống của riêng mình. Chúng là tài liệu về “"sự vận động tách rời tư tưởng của chủ nghĩa Mác khỏi phái Hegel cánh Tả"” trong những năm 1843-1845. Chúng nhằm mục đích ghi chép lại các kết quả nghiên cứu của Marx và không được xuất bản trong suốt cuộc đời của ông. Các phần của các bản thảo chỉ còn sót lại trong các di cảo.
Dawid Borisowitsch Ryazanov và Siegfried Landshut đã phát hiện ra những bản thảo này vào cuối những năm 1920 với tiêu đề ""Nationalökonomie und Philosophie"" trong kho lưu trữ của SPD và xuất bản chúng lần đầu tiên vào năm 1932 trong ấn bản riêng của họ về các tác phẩm đầu tay của Marx.
Các khái niệm kinh tế và triết học quan trọng trong các bản thảo là lao động, sự tha hóa và sự công nhận, cũng như tiền lương, 'lợi nhuận của tư bản' và địa tô.
Điểm trung tâm trong các bản thảo là một khuynh hướng duy vật-lịch sử đối với khái niệm tha hóa của Hegel. Marx nhận thấy công nhân bị tha hóa theo bốn cách:
Trong tác phẩm này, Marx coi lao động bị tha hóa hoặc bị tước đoạt là nguyên nhân của sở hữu tư nhân:
""Nhưng khi phân tích khái niệm này, rõ ràng là khi sở hữu tư nhân xuất hiện với tư cách là lý do, là nguyên nhân của lao động bị tha hóa, thì đó đúng hơn là hệ quả của nó, giống như các vị thần ban đầu không phải là nguyên nhân mà là hậu quả của sự sai lệch về trí tuệ của con người . [...] Tiền lương là hệ quả trực tiếp của lao động bị tha hoá, và lao động bị tha hoá là nguyên nhân trực tiếp của tư hữu."”
Văn bản bao gồm ba tập sách, không được bảo tồn toàn bộ, cũng như "lời nói đầu".
Cuốn sách đầu tiên bao gồm bốn cột:
Về tiền lương (1), Mác viết: với tư cách là hàng hóa, tiền lương được quyết định bởi cuộc đấu tranh thù địch giữa nhà tư bản và công nhân. Khi nền kinh tế suy thoái, người lao động là người chịu thiệt hại nhiều nhất. Nếu nó phát triển, khối lượng công việc (sự xa lánh) và sự cạnh tranh giữa những người công nhân cũng sẽ tăng lên, và nhiều nhà tư bản sẽ trở thành công nhân. Vì ở đây người công nhân đã tụt xuống ngang hàng với máy móc, nên máy móc có thể cạnh tranh với anh ta. Tăng trưởng kinh tế cũng dẫn đến sản xuất thừa , gây ra các cuộc khủng hoảng định kỳ. Khi nền kinh tế trì trệ, tiền lương giảm do mức độ cạnh tranh cao.
Để đạt được vốn(2) ông viết: Tư bản được tạo ra bởi quyền sở hữu. Lợi nhuận của anh ta có thể được duy trì thông qua độc quyền, tính độc đáo của hàng hóa hoặc nhu cầu cao liên tục. Nó có thể được tăng lên thông qua quá trình chế biến tiếp theo thành một sản phẩm có giá trị cao hơn và tiến bộ công nghệ. Tiến bộ không làm tăng tiền lương, mà là lợi nhuận của tư bản. Sự phấn đấu của các cá nhân để có vốn không phải lúc nào cũng là điều hữu ích nhất cho xã hội. Cạnh tranh giữa các nhà tư bản sẽ dẫn đến tiền lương tăng, giá cả thị trường giảm, hàng hóa giảm sút, lợi nhuận giảm và nhiều nhà tư bản sẽ chìm vào giai cấp công nhân. Mặt khác, tích lũy tư bản dẫn đến độc quyền tích lũy nhiều tư bản hơn.
Trong chương Địa tô (3), ông nói rằng chính chủ đất sẽ tính giá cho việc sử dụng đất và gặt hái thành quả của nó. Nhu cầu tăng làm tăng giá và mang lại lợi ích cho chủ đất. Điều này và khả năng sinh lời cao hơn đã dẫn đến việc tích lũy tài sản trên đất liền. Sự cạnh tranh giữa các chủ đất khiến họ trở thành những nhà tư bản và làm cho sở hữu đất đai trở thành công nghiệp. Như vậy, trong xã hội chỉ xuất hiện hai giai cấp (công nhân và tư bản). Quá trình này có nghĩa là sự kết thúc của chế độ phong kiến và sự khởi đầu của chủ nghĩa tư bản. Sự bất mãn sẽ dẫn đến một cuộc cách mạng đòi giải thể các công ty độc quyền.
Về khái niệm lao động bị tha hóa (4), Marx viết rằng người công nhân càng trở nên nghèo hơn khi anh ta tạo ra nhiều của cải. Anh ta càng tạo ra nhiều hàng hóa thì bản thân anh ta càng trở nên rẻ hơn. Việc trở thành hàng hóa khiến người lao động xa rời hoạt động sản xuất và sản phẩm của anh ta, vì nó không còn là phương tiện sinh hoạt trực tiếp hay nhu cầu của anh ta nữa. Tự do của anh ta thay đổi từ mục đích thành phương tiện đơn thuần. Cuối cùng, con người trở nên xa lạ với chính mình.
Chỉ có một chương tồn tại từ tập thứ hai:
Marx mô tả mối quan hệ giữa sở hữu tư nhân (1) như sau: người công nhân sản xuất ra tư bản và tư bản sản xuất ra anh ta. Vì vậy, anh ấy làm việc để giữ lớp học của mình. Nếu không, anh ấy không thể tồn tại. Nông nghiệp đang trở thành tư bản chủ nghĩa bởi vì nó hiện đang thuê những người lao động tự do hơn là những người nông dân không được tự do. Ông cũng trình bày ý tưởng của mình về ""chủ nghĩa duy vật lịch sử"" , nhưng không sử dụng thuật ngữ này. Theo trình tự thời gian, tiến trình lịch sử cho đến cuộc cách mạng mà ông dự đoán sẽ diễn ra theo ba giai đoạn: 1. Sự thống nhất giữa lao động và tư bản (chủ nghĩa cộng sản nguyên thủy), 2. Tương phản giữa lao động và tư bản (chuyển đổi từ chế độ phong kiến sang chủ nghĩa tư bản), 3. Tương phản giữa mọi người chống lại chính mình (đỉnh điểm của chủ nghĩa tư bản).
Tập thứ ba được chia thành sáu chương. Ở đây, Marx liên hệ các khái niệm riêng lẻ đã xuất hiện trước đây:
Về sở hữu tư nhân và công việc (1), ông chỉ trích sự sùng bái hàng hóa một cách cuồng tín của các nhà kinh tế học. Nhận thức về chủ nghĩa tư bản này là phi tôn giáo.
Trong Sở hữu Tư nhân và Chủ nghĩa Cộng sản(2) Marx bác bỏ thuyết phổ quát của Hegel. Theo Hegel, việc thủ tiêu một khái niệm chỉ có thể thực hiện được thông qua sự khái quát hóa của nó. Theo Marx, việc xóa bỏ chủ nghĩa tư bản cũng sẽ đi theo con đường tương tự như chính chủ nghĩa tư bản, tuy nhiên, để thực sự xóa bỏ chủ nghĩa tư bản, tất cả các giai đoạn phát triển dẫn đến nó sẽ phải trải qua một lần nữa, cho đến chủ nghĩa cộng sản. Cuối cùng, dưới chế độ cộng sản, tài sản tư nhân thuộc về tất cả mọi người. Trong bước đầu tiên, tất cả những khác biệt cá nhân giữa mọi người sẽ bị xóa bỏ một cách cưỡng bức khi mọi người trở thành công nhân. Ở bước thứ hai, xã hội xóa bỏ chế độ dân chủ hay chế độ chuyên quyền vốn tồn tại từ trước đến nay của nó bằng cách xóa bỏ nhà nước, nhưng trong đó vẫn có sở hữu tư nhân nói chung. Cộng sản chưa nắm được bản chất của con người. Điều này được thực hiện trong bước thứ ba. Đây là nơi mọi người trở thành con người và tự nhiên trở lại. Trong chủ nghĩa cộng sản, mọi người có thể tận hưởng mà không cần sở hữu. Con người bây giờ tự cung tự cấp sẽ biết rằng anh ta đang tạo ra chính mình chứ không phải do một vị thần tạo ra.
Về nhu cầu và sản xuất (3), ông viết: Con người tư bản phụ thuộc vào tiền, bởi vì không có nó, anh ta không thể đáp ứng nhu cầu của mình. Vì vậy, anh ta sử dụng sản phẩm (với tư cách là nhà tư bản) hoặc (với tư cách là công nhân) sức lao động của mình làm mồi nhử để đạt được những gì anh ta có thể sử dụng để đáp ứng nhu cầu của mình. Do đó, tiền trở thành nhu cầu duy nhất và nhu cầu tự nhiên được coi là điểm yếu. Nhu cầu tích lũy tiền có nghĩa là các nhu cầu tự nhiên như giải trí, tập thể dục hoặc chế độ ăn uống đa dạng bị phủ nhận.
Mác viết về sự phân công lao động (4): Theo Smith, sự phân công lao động nảy sinh từ lý tính của con người. Cô thiết lập thương mại. Chỉ thông qua điều này, xã hội mới hình thành. Kinh tế coi quyền sở hữu tư nhân là điều kiện tiên quyết cho thương mại. Marx lặp lại những quan điểm này mà không cần bình luận.
Trong chương Tiền (5) Marx nói rằng tiền thường được quan niệm một cách bản thể trong chủ nghĩa tư bản. Bởi vì tiền có thể bù đắp cho những đặc điểm tiêu cực ở đây (ví dụ: lười biếng, xấu xí). Vì vậy, mọi thứ trở nên ngược lại: muốn mà không có tiền dẫn đến không thể. Không muốn có thể lãnh đạo bằng tiền.
Trong chương cuối, Phê phán phép biện chứng và triết học của Hegel (6), Marx đồng ý với phê bình của Feuerbach đối với Hegel: 1. rằng triết học với tư cách là một hình thức tôn giáo là sự tha hóa của con người, 2. rằng chủ nghĩa duy vật chân chính nên nắm giữ trong các mối quan hệ của con người, 3. rằng Feuerbach thích cái Tích cực hơn là phủ định cái tiêu cực. Do đó, con người không phải, như Hegel tuyên bố, là một sinh vật tinh thần, mà là một sinh vật thực tế. Marx cũng chỉ trích quan điểm tích cực của Hegel về nhà nước và tôn giáo. Họ không phục vụ sự tự nhận thức, nhưng đang xa lánh. Tuy nhiên, giá trị của phép biện chứng của Hegel là 1. luận đề cho rằng con người tự tạo ra mình thông qua lao động, 2. luận đề cho rằng một sự bãi bỏ chỉ có thể được kết luận bằng sự khái quát hóa và sau đó bằng sự hủy bỏ của chính nó.
|
19820447 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19820447 | Cây 100 gecs | Cây 100 gecs (biệt hiệu là Gecca) là một cây thông "Pinus ponderosa" ở Des Plaines, Illinois, Hoa Kỳ. Cây thông xuất hiện trên ảnh bìa album "1000 gecs" phát hành năm 2019 của bộ đôi ca sĩ người Mỹ 100 gecs và từ đó trở thành một điểm thu hút ưa thích với người hâm mộ.
Bộ đôi ca sĩ người Mỹ 100 gecs phát hành album đầu tay "1000 gecs" vào năm 2019. Ảnh bìa album mô tả hai người ở Chicago gần đó với tư thế cúi đầu xuống gốc cây và quay lưng đối với máy ảnh. Tọa độ của cái cây sau đó được xác định trên Google Maps, khiến rất nhiều người hâm mộ ban nhạc đã "hành hương" đến cây thông này.
Từ năm 2020, cây thông được liệt kê là "nơi thờ cúng" 4.9 sao với hàng trăm lượt phê bình trên Google Maps và một "bảo tàng nghệ thuật" trên Yelp. Những người hâm mộ đến viếng thăm cây thường để lại các lễ vật, bao gồm lon nước tăng lực Monster Energy, thuốc lá, que thử thai, đồ hút bồn cầu cùng "các mảnh vụn văn hóa đại chúng khác". Mối liên quan được rút ra giữa cái cây và American Football House, cả hai địa điểm hành hương âm nhạc và "những điều vô vị giữa Illinois".
Cây nằm trên tài sản cá nhân trong khi một phần của khu phức hợp văn phòng ở Des Plaines thuộc sở hữu của chi nhánh công ty Acuity Brands. Nhân viên bảo vệ của khu phức hợp đã yêu cầu du khách xúc tiến chuyến thăm của họ và không để lại bất kỳ vật dụng nào. Một tin đồn lan truyền trực tuyến cho rằng cái cây có thể bị đội bảo trì của khu phức hợp đốn hạ do bức xúc trước số lượng người hâm mộ xâm phạm và xả rác nhưng đã bị người quản lý cơ sở vật chất từ chối.
|
19820455 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19820455 | Ga Asan | Ga Asan (Tiếng Hàn: 아산역, Hanja: 牙山驛) là ga đường sắt trên Tuyến Janghang ở Jangjae-ri, Baebang-eup, Asan-si, Chungcheongnam-do, Hàn Quốc và là ga tàu điện ngầm trên Tàu điện ngầm vùng thủ đô Seoul tuyến 1. Tất cả ITX-Saemaeul, Mugunghwa-ho và Tàu điện ngầm vùng thủ đô Seoul tuyến 1 đều dừng tại ga này. Vì Ga Cheonan–Asan nằm gần đó nên có thể di chuyển giữa Tuyến Janghang và đường sắt cao tốc.
|
19820456 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19820456 | Louisa của Đại Anh | Louisa của Đại Anh (18 tháng 12 (lịch cũ) 1724 – 19 tháng 12 năm 1751) là Vương hậu Đan Mạch và Na Uy từ năm 1746 cho đến khi qua đời với tư cách là người vợ đầu tiên của Frederik V. Louisa là con gái út còn sống của George II của Đại Anh và Caroline xứ Ansbach.
Cuộc hôn nhân giữa Louisa của Đại Anh và Frederik V của Đan Mạch được dàn xếp chỉ vì lý do chính trị (các bộ trưởng của Quốc vương George II muốn có được sự hỗ trợ của Đan Mạch trong các cuộc tranh chấp với Phổ). Dù là một cuộc hôn nhân sắp đặt nhưng hai vợ chồng sống khá hòa hợp với nhau, ít nhất là trong những năm đầu chung sống. Louisa là một người khuyến khích các buổi biểu diễn của các diễn viên và nhạc sĩ và được yêu mến tại triều đình Đan Mạch mặc dù Vương hậu chưa bao giờ tạo được ảnh hưởng đáng kể đến các quyết định của chồng mình.
Louisa được sinh vào ngày 18 tháng 12 (theo lịch cũ) năm 1724 tại Điện Leicester, Westminster, London , là con gái thứ năm và là con út của Thân vương và Thân vương phi xứ Wales lúc bấy giờ. Bà được sinh ra mười năm sau khi ông nội là Tuyển hầu tước Georg Ludwig của Hannover, kế vị ngai vàng Vương quốc Anh và Ireland vào năm 1714 với tên hiệu George I, và cha của Vương tôn nữ do đó cũng trở thành Thân vương xứ Wales và chuyển đến Luân Đôn cùng gia đình. Thân vương xứ Wales có mối quan hệ căng thẳng với chính Quốc vương, và vào năm 1717, sau một cuộc cãi vã, George I đã trục xuất con trai mình khỏi triều đình. Sau đó, Vương tử George sống tại Điện Leicester, một khu nhà phố lớn dành cho giới quý tộc ở Westminster, bấy giờ là nơi gặp gỡ của nhưng người có xu hướng đối lập về chính trị của Quốc vương George I. Chính tại đây, Louisa đã được sinh ra.
Vương tôn nữ được rửa tội "Louisa" tại Điện Leicester vào ngày 22 tháng 12. Cha mẹ đỡ đầu của Louisa là chị gái Amelia của Đại Anh và hai người em họ:Luise Ulrike của Phổ (đại diện bởi Sarah Cadogan, Công tước phu nhân xứ Richmond và Lennox) và Friedrich, Thái tử Phổ (đại diện bởi Henry de Nassau d'Auverquerque, Bá tước thứ 1 xứ Grantham).
Mẹ của Louisa đã mang thai 11 lần nhưng vì mất 4 người con nên Vương nữ chỉ có 6 anh chị em sống đến tuổi trưởng thành. Trong số này, Louisa chỉ sống cùng hai người con khác là Vương tôn William và Vương tôn nữ Mary cùng cha mẹ tại Điện Leicester. Ba người tạo thành 'nhóm trẻ hơn', sinh ra ở Luân Đôn, trái ngược với 'nhóm lớn hơn', sinh ra ở Hannover bị Quốc vương George I tách khỏi cha mẹ vào năm 1717. Người chị gái yêu thích của Louisa là Mary, người sau này kết hôn với Friedrich II xứ Hessen-Kassel. Cuộc hôn nhân trong tương lai của hai chị em sẽ trở thành cơ sở cho những cuộc hôn nhân giữa Vương thất Đan Mạch và Gia tộc Hessen-Kassel của các thế hệ sau.
Vào ngày 11 tháng 6 năm 1727, khi Louisa mới hai tuổi, ông nội George I đã qua đời, cha của Louisa đã lên ngôi và lấy tên hiệu là George II. Sau đó, cả gia đình chuyển đến Cung điện Thánh James, nơi ở của Quốc vương Anh ở Luân Đôn. Tại đây Louisa lớn lên, trải qua những kỳ nghỉ tại dinh thự mùa hè của cha mẹ là Richmond Lodge, nằm gần sông Thames ở Richmond. Năm 1737, khi Louisa gần 13 tuổi, Vương hậu Caroline qua đời nên Louisa được nuôi dưỡng chủ yếu bởi chị gái là Vương nữ Caroline.
Năm 1743, một cuộc hôn nhân đã được thảo luận giữa Louisa và Thái tử Frederik của Đan Mạch và Na Uy. Cuộc hôn nhân được đề xuất bởi phía Vương quốc Anh vì lý do chính trị. Vào thời điểm kết hôn, cả Pháp và Anh đều mong muốn liên minh với Đan Mạch-Na Uy, và vì đức tin Kháng Cách, Anh có lợi thế hơn trong việc thiết lập liên minh hôn nhân. Chính phủ Đan Mạch ủng hộ đề xuất này, trong khi cha của Frederik, Christian VI, ban đầu tỏ ra miễn cưỡng. Nhưng nhà vua đã bị thuyết phục với hy vọng cuộc hôn nhân sẽ dẫn đến sự ủng hộ của Anh đối với việc Christian VI hoặc con trai tuyên bố lên ngôi ở Thụy Điển. Ở khía cạnh cá nhân hơn, có nhiều hy vọng rằng hôn nhân sẽ khiến Thái tử bỏ được thói quen uống rượu và trụy lạc của mình. Về phần Thái tử, sau khi được tặng một bức chân dung của Louisa và thấy Vương nữ có ngoại hình ấy rất hấp dẫn, và được cho biết tính cách sự hòa nhã đức nữ, Frederik tuyên bố sẵn sàng kết hôn với Louisa, hơn nữa bản thân Thái tử cũng nhận thấy được lợi ích cuộc hôn nhân mang lại trong tình thế chính trị bấy giờ.
Do đó, các thỏa thuận về hôn nhân bắt đầu được thực hiện vào năm 1743 và đã kết thúc thành công trong vòng vài tháng vào ngày 14 tháng 9. Ngày 19 tháng 10, Vương nữ Louisa 18 tuổi rời Luân Đôn và bắt đầu hành trình tới Copenhagen. Lord Chamberlain đã ra lệnh cung cấp vật dụng cho Vương nữ, bao gồm ""bộ khăn trải giường, tủ đựng quần áo, dụng cụ pha trà khi đi du lịch và các vật dụng cho Phu nhân" "Dives và du thuyền "Fubbs": tất cả ước tính khoảng £503"." Louisa trước tiên di chuyển bằng du thuyền vương thất HMY Fubbs đến lãnh thổ Đức của cha là Tuyển hầu quốc Hannover, và tiến hành kết hôn ủy nhiệm tại đây vào ngày 10 tháng 11, trong đó chú rể được đại diện bởi anh trai Louisa là William, Công tước xứ Cumberland. Sau đó, đoàn tùy tùng của Louisa và Frederik gặp nhau tại thành phố biên giới Altona, bấy giờ thuộc Công quốc Holstein của Đan Mạch, nơi Louisa gặp chồng mình lần đầu tiên một tuần sau đám cưới. Ở đó, đoàn tùy tùng người Anh của Louisa đã được thay thế bằng đoàn tùy tùng người Đan Mạch, đứng đầu là Ngài Carl Juel và Thị tùng trưởng là Christiane Henriette Louise Juel. Louisa và Frederik sau đó cùng nhau đến Copenhagen, nơi cả hai chính thức tiến vào thủ đô Đan Mạch vào ngày 11 tháng 12 trước sự cổ vũ nồng nhiệt của người dân. Cùng ngày hôm đó, lễ cưới thứ hai với sự hiện diện của chú rể được tổ chức tại nhà nguyện của Cung điện Christiansborg, một dinh thự chính mới hoàn thành của Vương thất Đan Mạch ở trung tâm Copenhagen.
Sau đám cưới, cặp đôi ban đầu cư trú tại Cung điện Charlottenborg , một dinh thự nhỏ theo phong cách Baroque của vương thất Đan Mạch nằm ở quảng trường lớn nhất Copenhagen, Kongens Nytorv. Tại đây, nơi ở của họ nhanh chóng trở thành một triều đình sôi động và thú vị, khác hẳn với sự cứng nhắc và nặng nề của những nghi thức cung đình tại triều đình của hai vợ chồng ở Cung điện Christiansborg. Louisa và chồng sống ở đó cho đến khi năm 1745, khi cả hai có thể chuyển đến Dinh thự Vương tử , một dinh thự trong thành phố do kiến trúc sư người Đan Mạch và bậc thầy xây dựng Nicolai Eigtved tu sửa theo phong cách Rococo và nằm đối diện Kênh đào Frederiksholm nhìn từ Cung điện Christiansborg.
Mặc dù là một cuộc hôn nhân sắp đặt nhưng cả hai sống khá hòa hợp với nhau, và ít nhất là trong những năm đầu tiên, mối quan hệ của họ có vẻ gần gũi. Cặp đôi có năm người con, trong đó người con trai cả Christian đã qua đời từ thời thơ ấu. Mặc dù Frederik rất coi trọng và luôn đối xử tử tế với Louisa, nhưng theo nhiều nguồn tin, Frederik không yêu vợ mình và vẫn duy trì lối sống trụy lạc. Tuy nhiên, Frederick cảm thấy thoải mái khi bên vợ, và Louisa cũng giả vờ không để ý đến sự không chung thỉu cũng như các mối quan hệ ngoài luồng của chồng, đặc biệt là với tình nhân được Frederik yêu thích là Else Hansen.
Louisa nhanh chóng trở nên được yêu mến trong triều đình Đan Mạch, và Quốc vương Christian VI của Đan Mạch nhận xét rằng Louisa là người con dâu tốt bụng và dễ mến. Thái tử phi cũng được người dân Copenhagen đón nhận rất nhiệt tình nhờ cách cư xử tự nhiên và thẳng thắn của mình. Không giống như mẹ chồng, Vương hậu Sophie Magdalene, Louisa nỗ lực học tiếng Đan Mạch ngay từ khi đặt chân đến Đan Mạch dưới sự giáo dục của linh mục triều đình Erik Pontoppidan. Louisa cũng thuê giáo viên để các con có thể học nói tiếng Đan Mạch.
Với cái chết của Christian VI vào ngày 6 tháng 8 năm 1746, Frederik đã lên ngôi với tên hiệu là Frederick V, và Louisa do đó trở thành Vương hậu Đan Mạch và Na Uy ở tuổi 21. Sau đó, tân vương và tân hậu di chuyển một đoạn ngắn từ Dinh thự Vương tử băng qua Kênh đào Frederiksholm vào Cung điện Christiansborg rộng lớn. Các nghi lễ đánh dấu sự lên ngôi kết thúc khi tân vương và tân hậu được xức dầu long trọng trong nhà nguyện của Cung điện Frederiksborg vào ngày 4 tháng 9 năm sau.
Những điều Louisa và chồng đã bắt đầu ở quy mô nhỏ tại Cung điện Charlottenborg và Dinh thự Vương tử, giờ đây họ tiếp tục ở quy mô lớn hơn tại Christiansborg. Việc Frederik V lên ngôi đã mang lại một sự thay đổi lớn trong cuộc sống tại triều đình Đan Mạch, giờ đây đã vui vẻ và thoải mái hơn nhiều so với sự nghiêm nghị đậm tính tôn giáo dưới thời bố mẹ chồng của Louisa. Gần như là một dấu hiệu của thời đại mới, những sợi xích sắt nặng nề bao quanh Christiansborg trước đây để giữ khoảng cách với người dân đã biến mất, cuộc sống cung đình lấy lại vẻ hào nhoáng, và các đại sảnh và phòng khách của cung điện một lần nữa trở thành địa điểm tổ chức vũ hội và là nơi tụ họp xã hội. Vương hậu Louisa rất được yêu quý ở Đan Mạch, và sự mến mộ lớn của cặp đôi là nhờ vào Vương hậu. Là người có tính cách hoạt bát, Louisa dễ dàng hòa đồng với những người khác. Vương hậu được miêu tả là người có học thức và giao thiệp khéo léo, không xinh đẹp nhưng rất đoan trang và rất phù hợp với vai trò quốc mẫu. Một nhà ngoại giao Thụy Điển tại Đan Mạch đã mô tả cô ấy như sau:
Nỗ lực học nói tiếng Đan Mạch của Louisa, bao gồm với các con khiến Vương hậu được đánh giá cao vì triều đình Đan Mạch chủ yếu nói tiếng Đức. Do đó, nhà văn người Đan Mạch-Na Uy Ludvig Holberg đã viết trong một trong những bức thư tín của mình rằng:
Là một người quan tâm đến âm nhạc, khiêu vũ và kịch nghệ, vào năm 1747, Louisa đã sắp xếp để công ty opera Ý của Pietro Mingotti được mời đến Copenhagen, nơi họ biểu diễn opera và ba lê cho triều đình tại Cung điện Charlottenborg cho đến năm 1750. Các thành viên bao gồm nhà soạn nhạc Christoph Willibald Gluck, người đã ở lại triều đình Đan Mạch từ 1748 đến 1749. Nhân dịp Vương hậu sinh ra người thừa kế ngai vàng, Thái tử Christian, ông đã sáng tác vở opera "La Contesa dei Numi" ("Cuộc tranh chấp của các vị thần"), trong đó các vị thần trên đỉnh Olympus tập trung tại bờ của Vành đai lớn và thảo luận xem ai nên là người bảo vệ vị vương tử mới. Vở opera được biểu diễn lần đầu tiên vào ngày 12 tháng 3 năm 1749 tại Charlottenborg nhân dịp Vương hậu đi lễ lần đầu tiên sau khi sinh. Năm 1748, đoàn kịch Pháp "Du Londel Troupe" dưới sự lãnh đạo của Jeanne Du Londel đã được mời biểu diễn kịch tại Copenhagen, nơi họ biểu diễn cho đến năm 1753, và họ cũng biểu diễn ở Oslo tại Na Uy trong thời gian quốc vương ở đó vào năm 1749.
Năm 1751, Vương hậu Louisa thất bại trong việc phản đối hôn ước giữa con gái là Vương nữ Sophie Magdalene, bấy giờ được 5 tuổi và người thừa kế ngai vàng Thụy Điển là Thái tử Gustav, sau này là Quốc vương Gustav III. Louisa lo sợ rằng con gái mình sẽ không được Vương hậu Thụy Điển Luise Ulrike đối xử tốt. Vương hậu Luise Ulrike được biết đến là người chống Đan Mạch và phản đối cuộc hôn nhân và vương hậu mới là người cai trị thực sự tại triều đình Thụy Điển. Bản thân Louisa cũng không thích những cuộc hôn nhân sắp đặt vì trải nghiệm của bản thân.
Cùng năm đó, Louisa bị bệnh nặng do thoát vị rốn khi đang mang thai đứa con thứ sáu. Bác sĩ phẫu thuật của triều đình đã phẫu thuật cho vương hậu nhưng không thể cứu được mạng sống của hai mẹ con. Louisa qua đời tại Cung điện Christiansborg vào ngày 19 tháng 12 năm 1751, một ngày sau sinh nhật lần thứ 27, sau 14 năm kết hôn và chỉ 5 năm từ khi trở thành Vương hậu. Tin tức về cái chết của vương hậu được yêu mến đã gây ra sự đau buồn tại triều đình và sự thương tiếc lớn của mọi người đối với vương hậu họ hết lòng yêu quý trong khoảng thời gian tại vị ngắn ngủi của đức hậu. Sau khi được tổ chức tang lễ cực kỳ long trọng tại nhà nguyện trong Cung điện Christiansborg ở Copenhagen, Louisa được an táng tại Nhà thờ chính tòa Roskilde trên đảo Sjælland, nơi chôn cất truyền thống của các vị quân chủ Đan Mạch từ thế kỷ 15.
Frederik V sống lâu hơn Louisa 14 năm. Mặc dù ban đầu không muốn tái hôn với một vương nữ ngoại quốc, trừ khi đó là với một vương nữ Anh, thế nhưng không có vương nữ Anh nào có thể gả cho Frederik V tại thời điểm đó. Vì vậy một cuộc hôn nhân mới cho quốc vương Đan Mạch đã được dàn xếp bởi Bá tước Adam Gottlob von Moltke, người cho rằng Frederik V nên tái hôn sớm nhất có thể. Do đó, cuộc hôn nhân thứ hai của Frederik diễn ra tại nhà nguyện của Cung điện Fredensborg vào ngày 8 tháng 7 năm 1752 với em vợ của Friederich Đại đế của Phổ là Juliane Marie xứ Braunschweig-Wolfenbüttel, con gái của Ferdinand Albrecht II xứ Braunschweig-Wolfenbüttel. Cuộc hôn nhân bị nhiều người phản đối vì cho rằng còn quá sớm để Frederik tái hôn. Vị tân nương không phù hợp với ý thích của Frederik và cũng không hợp ý triều đình và không bao giờ được yêu mến - không có lý do nào khác ngoài sự cứng nhắc về lễ nghi của tân vương hậu vốn được thực hành trong triều đình quý tộc của Đức, có vẻ kém thân thiện hơn so với Louisa của Anh.
Năm 1756, chị gái của Louisa là Mary, người bị chồng là Friedrich II xứ Hessen-Kassel ghẻ lạnh, chuyển đến Đan Mạch để chăm sóc các con của người em gái đã khuất. Mary mang theo ba người con trai của mình và nuôi dưỡng các con tại triều đình Đan Mạch. Hai người con trai lớn của Mary là Công tử Wilhelm và Công tử Karl sau này kết hôn với những người em họ của mình là Vương nữ Vilhelmine và Vương nữ Louise, và trong khi Wilhelm trở thành Tuyển hầu xứ Hessen, Karl và Friedrich thì chọn ở lại và lập nghiệp ở Đan Mạch.
Bởi vì Louisa vô cùng được yêu mến bởi người dân Đan Mạch, những hồi ước về Vương hậu trẻ tuổi ngày càng được vinh quang hóa theo thời gian. Một ví dụ của điều này là nhà thơ người Đức Friedrich Gottlieb Klopstock, một người vô cùng tận hiến và kính trọng Vương hậu Louisa; xúc động bởi những khó khăn mà Vương hậu phải chịu đựng cũng như là việc Louisa qua đời quá sớm, đã giải bày cảm xúc của mình cũng như lầ của người dân qua bài thơ ode "An den König" (Gửi đến Quốc vương), sau này gọi là "Die Königin Luise" (Vương hậu Louisa) từ năm 1752. Bị so sánh với hình mẫu lý tưởng từ Vương hậu Louisa, những vị vương hậu kế nhiệm là người vợ thứ hai của chồng là Juliane Marie và người cháu gái gọi cô cũng như là con dâu của Louisa là Caroline Matilda phải hứng chịu những sự phán xét nặng nề.
Ngày 30 tháng 8 năm 1727, với tư cách là con gái của quốc vương Đại Anh, Louisa đã được trao quyền sử dụng các vương huy của vương quốc nhưng không có biểu tượng Đế miện của Đế chế La Mã Thần thánh và được phân biệt bởi một dải bạc gồm ba dòng kẻ, mỗi dòng có 3 biểu tượng hình tròn đỏ.
|
19820461 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19820461 | Kẽm carbonat | Kẽm carbonat là hợp chất vô cơ có công thức ZnCO. Nó là một chất rắn màu trắng không hòa tan trong nước. Nó tồn tại trong tự nhiên dưới dạng khoáng vật smitsonit. Nó được điều chế bằng cách xử lý dung dịch kẽm sulfat lạnh với kali bicarbonat. Khi nóng lên, nó chuyển thành kẽm carbonat cơ bản (Zn(CO)(OH)).
Kẽm carbonat có cấu trúc tương tự như calci carbonat (calcit). Kẽm là bát diện và mỗi carbonat được liên kết với sáu trung tâm Zn sao cho các nguyên tử oxy có ba tọa độ.
|
19820494 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19820494 | Sự kiện UFO Thung lũng Hudson 1984 | Sự kiện UFO Thung lũng Hudson năm 1984 là những vụ nhìn thấy UFO xảy ra vào mùa hè năm 1984 ở New York và miền Tây Connecticut. Các vụ nhìn thấy diễn ra ở phía bắc Quận Westchester, Quận Dutchess, Quận Putnam và Quận Fairfield.
Cư dân địa phương cho biết đã nhìn thấy những vật thể có kích thước bằng cả một sân bóng bầu dục Mỹ, "thường có hình chữ V hoặc hình tròn", theo tờ "New York Times". Vật thể này được mô tả là có ánh đèn nhấp nháy, mà một người dân cho là UFO "Cho chúng tôi biết là mình đang xem nó". Chúng còn được kể lại có thể vọt thẳng lên trời và lơ lửng trên không trung trong thời gian dài. Vụ việc đã gây chấn động và nhiều người đam mê UFO bèn đổ xô tới Thung lũng Hudson với hy vọng được dịp tận mắt chứng kiến vật thể này.
Tuy vậy, UFO xuất hiện trên bầu trời được chứng minh là giả, khi nhóm phi công từ sân bay trong khu vực bị phát hiện thích đánh lừa những người cuồng UFO và cư dân địa phương bằng cách cho máy bay bay theo đội hình gần. Người phát ngôn của Sân bay Quốc tế Stewart nói rằng hành động này "không phải là bất hợp pháp nhưng thật khó chịu".
|
19820500 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19820500 | Jean-Bernard Zuber | Jean-Bernard Zuber là một nhà vật lý lý thuyết người Pháp.
Zuber theo học tại Trường Bách khoa Paris từ năm 1966 đến năm 1968 và sau đó trở thành nhà nghiên cứu CNRS tại Khoa vật lý lý thuyết của Trung tâm Nghiên cứu Hạt nhân ở Saclay. Năm 1974, ông nhận bằng tiến sĩ dưới sự hướng dẫn của Jean Zinn-Justin tại Trường Đại học Paris XI ở Orsay. Từ năm 1975 đến năm 2004, ông giữ chức vụ kỹ sư của Ủy ban Năng lượng Nguyên tử và Năng lượng Thay thế Pháp tại Viện Vật lý Lý thuyết () ở Saclay và đồng thời (từ năm 1995 đến năm 1998) là Giáo sư tại Đại học Paris Diderot. Từ năm 1995 đến năm 2000, ông là chủ tịch bộ phận vật lý lý thuyết của CNRS. Từ năm 2004, ông là giáo sư tại Université Pierre-et-Marie-Curie, (nay là Đại học Sorbonne), là giáo sư danh dự kể từ năm 2014, và từ năm 2005 đến 2013, ông là giám đốc của Fédération de Recherches Interactions Fondamentales (FRIF).
Năm 1989, ông nhận Prix Dostaut-Blutet của Viện Hàn lâm Khoa học Pháp và năm 1991, ông giành được giải thưởng Paul Langevin của Hội Vật lý Pháp. Từ năm 1999, ông là Chevalier des Palmes Academiques.
|
19820501 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19820501 | Giáo phận Bình Nhưỡng | Giáo phận Bình Nhưỡng (; ) là một giáo phận của Giáo hội Latinh trực thuộc Giáo hội Công giáo Rôma ở Bắc Triều Tiên. Giám mục chính tòa duy nhất của giáo phận, Phanxicô Hong Yong-ho, đã bị chính quyền Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên bắt giam vào năm 1949 và sau đó mất tích. Kể từ đó, các tổng giám mục Seoul kiêm nhiệm luôn chức Giám quản Tông tòa Bình Nhưỡng.
Địa giới giáo phận bao gồm các thành phố Bình Nhưỡng và các tỉnh Pyongan Bắc, Pyongan Nam và một phần tỉnh Chagang ở Bắc Triều Tiên.
Tòa giám mục được đặt tại thành phố Bình Nhưỡng, cũng là nơi đặt Nhà thờ chính tòa Changchung, nhà thờ chính tòa của giáo phận tại quận Sŏn'gyo.
Hạt Phủ doãn Tông tòa Hpyeng-yang được thành lập vào ngày 17/3/1927 theo tông chỉ "Quae fidelium" của Giáo hoàng Piô XI, trên phần lãnh thổ tách ra từ Hạt Đại diện Tông tòa Seoul (nay là Tổng giáo phận Seoul).
Hạt Phủ doãn Tông tòa đã đổi tên thành Hạt Phủ doãn Tông tòa Peng-yang vào ngày 17/3/1929 theo tông chỉ "Litteris Apostolicis"của Giáo hoàng Piô XI.
Vào ngày 11/7/1939, Hạt Phủ doãn Tông tòa được nâng cấp thành một Hạt Đại diện Tông tòa theo tông sắc "Si catholica" của Giáo hoàng Piô XII, đồng thời đổi tên thành Hạt Đại diện Tông tòa Heijō.
Hạt Đại diện Tông tòa đã đổi tên thành Hạt Đại diện Tông tòa Bình Nhưỡng (Pyong-yang) vào ngày 12/7/1950.
Vào ngày 10/3/1962 Hạt Đại diện Tông tòa được nâng cấp thành một giáo phận theo tông sắc "Fertile Evangelii" của Giáo hoàng Gioan XXIII.
Đến ngày 1/7/2013, tài liệu Tòa Thánh Annuario Pontificio vẫn ghi lãnh đạo giáo phận là Giám mục Phanxicô Hong Yong-ho, người trên lí thuyết sẽ bước sang tuổi thứ 100 vào năm đó (Ông sinh ngày 12/10/1906); Trên thực tế, không có nhiều tin tức về ông sau khi bán đảo Triều Tiên bị chia tách.
Từ năm 1975 các đời Tổng giám mục Tổng giáo phận Seoul đã giữ chức Giám quản Tông tòa của giáo phận, nhưng các hoạt động tôn giáo trên phần lãnh thổ của giáo phận cũng như toàn bộ Bắc Triều Tiên bị ngăn cấm.
|
19820523 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19820523 | Hiệu Ứng Trốn Chạy (album của Cá Hồi Hoang) | Hiệu Ứng Trốn Chạy là album phòng thu thứ tư của ban nhạc Việt Nam Cá Hồi Hoang được phát hành bởi Lumif Recordings vào ngày 31 tháng 7 năm 2019. Album bao gồm 15 bài hát với hai đĩa đơn đã ra mắt trước đó là "5am" và "Acid8".
Âm nhạc
|
19820532 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19820532 | Tổng giáo phận Esztergom–Budapest | Tổng giáo phận Esztergom–Budapest (; ) là một tổng giáo phận của Giáo hội Latinh trực thuộc Giáo hội Công giáo Rôma ở Hungary. Tổng giáo phận trực thuộc Giáo tỉnh Esztergom–Budapest, 1 trong 4 giáo tỉnh của Giáo hội Latinh tại nước này.
Các đời tổng giám mục của tổng giáo phận đã được nhận tước hiệu "Giáo trưởng", vì vậy ngai tòa của họ tại tổng giáo phận chính là ngai tòa kiểm soát các giáo phận Giáo hội Latinh ở Hungary, bao gồm các tổng giáo phận Eger, Kalocsa–Kecskemét và Veszprém, tuy nhiên một số tổng giám mục có thể tạm thời bị xếp sau khi có cá nhân nắm giữ quyền hành cao hơn theo phẩm trật trong Giáo hội Công giáo Rôma tại Hungary. Tổng giám mục đương nhiệm là Péter Erdő.
Cái tên đặc biệt của tổng giáo phận thể hiện rằng có hai ngai tòa tại đây, ngai tòa giáo trưởng cũ tại Esztergom và ngai tòa tại thủ đô hiện tại Budapest. Cả hai ngai tòa này đều thuộc một tổng giáo phận là do biến cố lịch sử tại Hungary vì Esztergom từng là một trong những thủ đô của Vương quốc Hungary.
Nhà thờ chính tòa và ngai tòa giáo trưởng được đặt tại Nagyboldogasszony és Szent Adalbert főszékesegyház, ở Esztergom-Vár.
Nhà thờ chính tòa đôi và tiểu Vương cung Thánh đường của tổng giáo phận là is Vương cung Thánh đường Thánh Stêphanô, một Di sản Thế giới ở Budapest-Szentistvánváros.
Tổng giáo phận có một tiểu Vương cung Thánh đường nữa, Kisboldogasszony-templom, Máriaremete, ở Székesfehérvár, hạt Fejér.
|
19820535 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19820535 | Summa Theologica | Học vấn quan trọng nhất của Châu Âu trung đại mà giáo lý của Cơ Đốc giáo được công nhận là lẽ thật duy nhất, chính là thần học. Triết học được phát triển như là một học ván bổ trợ nhằm phát triển thần học, nên đã phát sinh lời rằng "Triết học là nàng hầu của thần học"
Triết học trung đại thể này đã được bắt đầu bởi các giáo phụ như Augustine vào giai đoạn cuối của La Mã. Giáo phụ với ý nghĩa là "cha của giáo hội" chỉ ra người đã cống hiến cho sự thiết lập giáo lý của Cơ Đốc giáo thời kỳ đầu và sự phát triển của giáo hội, các giáo phụ đã tiếp nhận triết học của Hy Lạp và hệ thống hóa giáo lý của Cơ Đốc giáo. Triết học kinh viện được tiếp nhận triết học của Aristotle vào thần học dựa trên nền tảng là triết học giáo phụ thể này. Thomas Aquinas, người tuyển tập điều này, đã cố gắng làm hài hòa giữa tín ngưỡng và lý trí trong "Summa Theologica" (tổng luận thần học)
|
19820538 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19820538 | Gấp (album của Cá Hồi Hoang) | Gấp là album phòng thu thứ ba của ban nhạc Việt Nam Cá Hồi Hoang được phát hành bởi Luke Record vào ngày 18 tháng 11 năm 2017. Album bao gồm 10 bài hát với đĩa đơn đã ra mắt trước đó là "Tầng Thượng 102".
Âm nhạc
|
19820539 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19820539 | Samsung Galaxy A12 | Samsung Galaxy A12 là điện thoại thông minh Android được thiết kế và sản xuất bởi Samsung Electronics. Được phát hành ngày 24/12/2020.
Điện thoại được bố trí 3 camera phía sau với camera chính 48MP, màn hình PLS TFT LCD 6.5 inch, tần số 60Hz, và pin Li-ion 5000 mAh.Các mẫu điện thoại được xuất xưởng với One UI Core 3.1 trên Android 10. Thiết bị này là một phần của dòng A Series của Samsung.
Mẫu LTE được kết hợp với bộ xử lý MediaTek MT6765 Helio P35 (12 nm), bao gồm Octa-core (4x2.35 GHz Cortex-A53 & 4x1.8 GHz Cortex-A53) và GPU PowerVR GE8320 (12 nm)
Mẫu này co các kiểu bộ nhớ như:32GB 2GB RAM, 32GB 3GB RAM, 64GB 4GB RAM, 128GB 3GB RAM, 128GB 4GB RAM và 128GB 6GB RAM
Mẫu này có thể hỗ trợ thẻ nhớ MicroSDXC lên đến 1TB.
Mẫu điện thoại này có kích thước Dài 164 mm - Ngang 75.8 mm - Dày 8.9 mm
Trọng lượng của mẫu này là 205g
Mẫu này được trang bị pin Li-ion 5000mAh không thể tháo rời,
Hỗ trợ sạc nhanh 15W (USB Type-C 2.0 có dây).
Mẫu này có màn hình PLS TFT LCD 6.5inch độ phân giải HD+ (720 x 1600 Pixels), tốc độ làm tươi 60Hz.
Samsung Galaxy A13 có jack cắm tai nghe 3,5 mm,cảm biến vân tay được bố trí ở cạnh bên, Bluetooth 5.0,GPS.
Điện Thoại này có mặt trước bằng kính, mặt sau bằng nhựa và khung nhựa.
Điện thoại này có 3 màu sắc:Xanh,Đen, Trắng và Đỏ.
Mẫu đựoc trang bị Camera sau của Samsung Galaxy A12 chính 48 MP & Phụ 5 MP, 2 MP, với độ phân giải 1080p@30fps
1.https://www.gsmarena.com/samsung_galaxy_a12-10604.php
2.https://www.devicespecifications.com/en/model-cpu/a4905512
|
19820570 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19820570 | Love Has Won | Love Has Won (LHW) (tạm dịch là ""Tình yêu đã chiến thắng"") là một tổ chức phong trào tôn giáo mới được lãnh đạo bởi Amy Carlson (30 tháng 11 năm 1975 – tháng 4 năm 2021), người được ngợi ca trong giáo phái là "Đức Mẹ". Tổ chức này đã được các cựu tín đồ và các phương tiện truyền thông mô tả là một tà đạo. Giáo phái này có từ 12 đến 20 tín đồ toàn thời gian sống với Carlson cho đến thời điểm cô qua đời.
Theo lời kể của gia đình, Amy Carlson lớn lên ở Dallas, Texas, và là một "học sinh học lực hạng A". Tuy nhiên ở tuổi mới lớn, Amy bắt đầu tỏ ra nói nhiều về "những khái niệm kỳ lạ" như tàu vũ trụ. Vào giữa những năm 2000, Carlson bắt đầu quan tâm đến triết học Kỷ nguyên mới và trở thành người thường xuyên đăng tải những bài viết trên các diễn đàn của trang web Lightworkers.org. Trên diễn đàn, cô gặp được Amerith WhiteEagle, người đàn ông đã thuyết phục Carlson rằng cô là thần thánh, và Carlson bắt đầu tuyên bố bản thân đã trải qua những hiện tượng huyền bí. Cuối năm 2007, Carlson ly dị người chồng thứ ba và bỏ mặc các con mình cùng với công việc quản lý tại McDonald's. Cô thậm chí cắt liên lạc với hầu hết các thành viên trong gia đình để đến với với WhiteEagle tại Colorado. Giáo phái này ban đầu được biết đến với cái tên "Galactic Federation of Light". Họ đăng tải video đầu tiên lên YouTube vào năm 2009.
Thần học của Love Has Won đã được mô tả là đa dạng, kết hợp yếu tố tâm linh Kỷ nguyên mới, thuyết âm mưu và những yếu tố từ các tôn giáo khởi nguồn từ Abraham. Giáo phái này tự tuyên bố rằng Carlson là một "sinh vật thần thánh" có tuổi đời 19 tỷ năm, là người đã sinh ra mọi vật chất. Bản thân Carlson cũng tuyên bố cô có 534 kiếp, từng đầu thai làm Giê-su, Jeanne xứ Arc, Marilyn Monroe và Cleopatra, và cô sẽ dẫn 144.000 người vào "chiều không gian thứ 5 thần bí". Carlson đã trải qua nhiều mối tình khác nhau trong suốt thời gian hoạt động của giáo phái, bắt đầu từ Amerith WhiteEagle, người được gọi là "Đức Cha", đóng vai trò đồng lãnh đạo với vị trí tương đương với Carlson trong thuyết lý thần học của nhóm. Love Has Won cũng áp dụng các lý luận của thuyết âm mưu QAnon.
Love Has Won tự cho rằng Carlson chính là vị nữ vương của lục địa truyền thuyết Lemuria, và những tín đồ đã đồng thời tin rằng người Lemuria sống trong núi Shasta ở California. Carlson ngộ nhận rằng Donald Trump là cha của mình trong kiếp trước và cô đã trò chuyện với linh hồn của nam diễn viên quá cố Robin Williams, người mà cô gọi là Tổng lãnh thiên thần Zadkiel. Thần học của giáo phái cũng đề cập đến các quan niệm về Atlantis, Anunnaki và sinh vật thuộc thuyết "bò sát giống người". Họ tin rằng thế giới được điều hành bởi một "bè đảng" quyết tâm giữ hành tinh ở trạng thái "rung động thấp".
Love Has Won có một nhóm tín đồ thành viên nòng cốt gồm 12–20 người sống với Carlson ở Crestone, một thị trấn nhỏ ở quận Saguache ở tây nam bang Colorado. Giáo phái này tổ chức các buổi phát trực tiếp hàng ngày trên YouTube để kêu gọi thêm tín đồ, kêu gọi quyên góp và quảng bá sản phẩm Kỷ nguyên mới và thực phẩm chức năng bổ sung vitamin. Họ còn chào bán dịch vụ "phẫu thuật trường năng lượng" với chi phí 88 đô la một lần và thổi phồng công dụng rằng nó có thể loại bỏ bệnh tật và "năng lượng xấu" khỏi cơ thể.
Love Has Won đã được mô tả như là một tà đạo bởi các tín đồ cũ và nhiều phương tiện truyền thông. Các cựu tín đồ đã cáo buộc giáo phái này bạo hành thể chất và khiến họ mắc chứng thiếu ngủ, được cho là do bị ép chỉ được ngủ 4–5 tiếng một ngày. Văn phòng Cảnh sát trưởng quận Saguache báo cáo rằng cơ quan đã nhận về "nhiều lời phàn nàn" từ các gia đình liên quan đến giáo phái như việc người thân họ bị "tẩy não" và lừa đảo. Sau đó cảnh sát đã thông báo rằng họ tìm thấy một nạn nhân là tín đồ bỏ trốn giáo phái đang lang thang trong rừng với tình trạng khoả thân, mất nước và bị gai xương rồng đâm khắp chân. Người đàn ông này cũng bị tổn thương giác mạc do nhìn vào mặt trời quá lâu. Bất chấp việc giáo phái có điều luật cấm các thành viên uống rượu và dùng ma túy, Carlson vẫn bị buộc tội sử dụng một lượng lớn rượu và sau đó có hành vi ngược đãi người khác. Love Has Won đã xuất hiện trong một tập của talk show "Dr. Phil" vào tháng 9 năm 2020, nơi Carlson và hai thành viên phải đối mặt với những cáo buộc lạm dụng mà họ đã phủ nhận. Các đoạn ghi âm do họ thu lại cho thấy các thành viên của giáo phái đưa ra những nhận xét mang tính bài trừ Do Thái và phân biệt chủng tộc.
WhiteEagle chia tay Carlson vào khoảng năm 2014. Carlson có được tín đồ đầu tiên, Miguel Lamboy trong cùng năm đó. Miguel đóng vai trò là người quản lý tài chính và hậu cần của nhóm. Sự hoạt động của họ bắt đầu diễn ra từ năm 2014 trở đi chủ yếu nhờ vào internet. Giáo phái đã di chuyển quan lại giữa Colorado, Oregon, California và Florida tới năm 2018 trước khi chuyển đến Moffat, Colorado. Jason Castillo là người đàn ông giành được vị trí "Đức Cha" cuối cùng vào năm 2018. Tất cả thành viên Love Has Won đã di chuyển đến đảo Kauai ở Hawaii một thời gian ngắn vào tháng 8 năm 2020, nơi họ vấp phải sự thù địch của người dân địa phương sau khi Carlson công khai tuyên bố rằng cô là nữ thần Pele của Hawaii. Một cuộc biểu tình kéo dài nhiều ngày đã xảy ra sau đó với những người biểu tình đốt lửa gỗ lũa và hô khẩu hiệu xung quanh khu nhà thuê mà nhóm đang ở. Đoạn video do tín đồ Lauryn Suarez của Love Has Won cung cấp cho "The Denver Post" cho thấy trứng và đá đã bị ném vào nhà, cũng như cửa sổ của ngôi nhà và chiếc xe SUV đậu ở lối vào nhà bị vỡ. Thị trưởng của Kauai là Derek Kawakami đã đứng ra can thiệp để đàm phán về việc giáo phái này di dời khỏi hòn đảo. Sau đó, toàn bộ thành viên bay đến Sân bay Kahului trên Maui, nhưng được thuyết phục bay trở lại Colorado vào tháng 9 năm 2020.
Vào tháng 9 năm 2020, có thông tin cho rằng vị thủ lĩnh Carlson đã sa sút sức khỏe và bị liệt từ thắt lưng trở xuống, trong khi bản thân Carlson nói rằng cô bị ung thư. Vào đầu tháng 4 năm 2021, các thành viên bị yêu cầu giải tán do tụ tập quá đông người khi đang ở trong một ở Mount Shasta, bắc California. Lần cuối cùng một người ngoài nhóm nhìn thấy Carlson còn sống là vào ngày 10 tháng 4 năm 2021.
Vào ngày 28 tháng 4 năm 2021, thi thể của Carlson được phát hiện trong nhà truyền giáo gần Crestone. Tình trạng phân hủy của thi thể cho thấy cô đã tử vong được vài tuần và tử vong lúc 45 tuổi. Thi thể được tìm thấy trong một chiếc túi ngủ quấn đầy đèn Giáng sinh, khuôn mặt lấp lánh và không còn phần mắt, trong nơi mà nhà chức trách cho là một ngôi đền tạm thời. Bảy thành viên của giáo phái đã bị buộc tội lạm dụng xác chết cũng như lạm dụng trẻ em do sự hiện diện của hai đứa trẻ trong căn nhà. Kết quả khám nghiệm kết luận, phần mắt của nạn nhân không bị lấy đi mà chỉ biến mất do phân hủy nhanh hơn các bộ phận khác. Một bức ảnh vài tuần trước khi Carlson được cho là đã qua đời cho thấy vẻ ngoài hốc hác của cô, với mái tóc thưa và làn da đổi màu tím tái. Theo Tom Perrin, một điều tra viên của quận Saguache, Carlson đã ăn một lượng lớn keo bạc, thứ mà giáo phái đã quảng cáo là thuốc chữa bệnh COVID-19 và đã bị nhận cảnh báo từ FDA vì quảng bá chúng. Việc tiêu thụ keo bạc trong một thời gian dài có thể dẫn đến đổi màu da xám xanh, cũng như co giật và suy nội tạng. Một báo cáo khám nghiệm tử thi được công bố vào tháng 12 năm 2021 tiết lộ rằng Carlson đã chết vì "sự suy giảm chức năng toàn cơ thể trong thực trạng lạm dụng rượu, mắc chứng chán ăn và ngộ độc mãn tính do sử dụng keo bạc." Vào ngày 5 tháng 5 năm 2021, Phó Biện lý Quận Alex Raines đã công bố kế hoạch nâng cáo buộc lạm dụng xác chết lên tội danh nghiêm trọng hơn là can thiệp vào thi thể người chết, khiến cho các tín đồ trong nhóm được cho là sẽ phải đối mặt với nhiều tội danh như lạm dụng trẻ em, lạm dụng thi thể, phá hoại hài cốt người chết và giam giữ người khác. Tuy vậy sau đó họ không bị buộc tội những tội danh này.
Các nhà chức trách tuyên bố rằng Carlson không chết tại khu nhà cho thuê mà ở California, thi thể của cô sau đó đã được vận chuyển trở lại Colorado. Sau khi cái chết của Carlson được công khai, trang Facebook của nhóm tuyên bố rằng cô đã "thăng thiên" và trang web Lovehaswon.org đã bị gỡ. Nhóm đã đổi tên trang Facebook và kênh YouTube của họ thành "5D Full Disclosure", và hoạt động trên một website mới có tên 5dfulldisclosure.org.
Sau cái chết của Carlson, nhóm bị chia cắt, với "Đức Cha" gần đây nhất là Jason Castillo đã thành lập một giáo phái riêng biệt Joy Rains với một số lượng nhỏ tín đồ. Con trai của Carlson đã bày tỏ hi vọng cái chết của mẹ mình sẽ chấm dứt cho Love Has Won.
Vào tháng 6 năm 2021, HBO đã chỉ đạo một loạt phim tài liệu về giáo phái và thủ lĩnh Amy Carlson, do Hannah Olson đạo diễn. "Dateline NBC" đã phát sóng một bộ phim tài liệu dài hai giờ về Love Has Won vào ngày 15 tháng 10 năm 2021.
|
19820572 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19820572 | Ngày Ấy Và Sau Này (album của Cá Hồi Hoang) | Ngày Ấy Và Sau Này là album phòng thu thứ năm của ban nhạc Việt Nam Cá Hồi Hoang được phát hành bởi Lumif Recordings vào ngày 14 tháng 5 năm 2021. Album bao gồm 10 bài hát theo với 2 đĩa đơn đã ra mắt trước đó là "Chờ (Điều Tốt Nhất)" và "Một Màu".
Âm nhạc
|
19820575 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19820575 | T Express | T Express () một tuyến tàu lượn siêu tốc bằng gỗ tại Everland ở Yongin, Hàn Quốc. Đường ray nằm trong khu European Adventure của công viên. Nó có chủ đề là một thị trấn nhỏ trên dãy núi Alps. Đường tàu lượn này khai trương vào ngày 14 tháng 3 năm 2008 và do Intamin và Rocky Mountain Construction xây dựng. T Express là tàu lượn siêu tốc bằng gỗ đầu tiên của Hàn Quốc và là tàu lượn siêu tốc bằng gỗ thứ ba ở châu Á, đồng thời là tàu lượn siêu tốc bằng gỗ thứ tư của Intamin có đường ray làm sẵn. T Express là tàu lượn siêu tốc bằng gỗ cao nhất thế giới với độ cao 56,02 mét, cùng thông số với Wildfire ở Thụy Điển. Đây là tàu lượn siêu tốc bằng gỗ dốc thứ năm và có độ dốc lớn thứ bảy trên thế giới, cũng như nhanh thứ mười và dài thứ ba trên hành tinh này. Ngoài ra, đây là tàu lượn bằng gỗ dài nhất, cao nhất, nhanh nhất, độ dài dốc và độ dốc thẳng đứng lớn nhất ở châu Á. T Express từng là tàu lượn siêu tốc cao nhất, nhanh nhất và dốc nhất ở Hàn Quốc, cho đến khi bị thay thế bởi Draken khánh thành năm 2018 tại Gyeongju World. Tuy nhiên, nó vẫn giữ kỷ lục là tàu lượn siêu tốc dài nhất ở Hàn Quốc.
Đường tàu lượn siêu tốc bắt đầu được xây dựng vào khoảng tháng 2 năm 2007. T Express ban đầu do Intamin xây dựng, và được Rocky Mountain Construction, một công ty sản xuất có trụ sở tại Idaho, hỗ trợ xây dựng công trình. T Express được công bố lần đầu tiên vào ngày 12 tháng 3 năm 2008 trong một thông cáo báo chí của Everland, tuyên bố rằng họ sắp tung ra đường tàu lượn siêu tốc như "một cách để cạnh tranh với các công viên chủ đề khác như Universal Studios". T Express là tàu lượn siêu tốc bằng gỗ đầu tiên ở Hàn Quốc và thứ ba ở châu Á. T Express chính thức được mở cho công chúng sử dụng vào ngày 14 tháng 3 năm 2008. Tên của công trình đặt tên theo T World, một công ty điện thoại không dây của Hàn Quốc do SK Telecom điều hành đã tài trợ cho công trình này.
Sau khi rời ga, đoàn tàu từ từ leo lên đỉnh dốc cao 56,02 m (183,8 ft) bằng hệ thống cáp kéo, rồi uốn cong nhẹ sang phải. Sau đó, nó thả dốc từ con dốc nghiêng 77 độ. Sau đấy, nó lại đi lên khi cách mặt đất 46m rồi quay nhẹ về bên phải và lại thả dốc tiếp. Tiếp theo, tàu lượn rẽ phải, rồi rẽ trái, sau đó đi trên một ngọn dốc hình bướu lạc đà, rồi lại rẽ phải và hướng trở lại mặt đất. Có thêm một ngọn đồi hình bướu lạc đà, sau đó rẽ phải, tiếp theo là hai ngọn đồi thình bướu lạc đà nữa, rồi rẽ trái vào một ngọn đồi hình bướu lạc đà khác và rẽ phải. Tiếp đó là một đoạn hình bướu lạc đà rồi rẽ trái, sau đó là một loạt đoạn bướu lạc đà khác, rồi lại rẽ trái, sau đó đoàn tàu về lại vị trí xuất phát. T Express chạy khoảng 3 phút. Người chơi trải nghiệm dốc hình bướu lạc đà 12 lần trong suốt chuyến đi. Với tốc độ 103,9 km/h (64,6 mph), T Express là tàu lượn bằng gỗ nhanh thứ mười trên thế giới và nhanh thứ hai ở Hàn Quốc.
T Express có 3 đoàn tàu bằng thép và sợi thủy tinh. Mỗi đoàn có 6 toa, mỗi toa có 3 hàng và mỗi hàng có 2 chỗ ngồi, do đó mỗi đoàn tàu có thể chở 36 người trong một chuyến. T Express có thể chở tới 1.500 hành khách mỗi giờ.
T Express là tàu lượn siêu tốc bằng gỗ đầu tiên ở Hàn Quốc. Đường ray của T Express được làm từ chín tấm gỗ ép lãnh sam của Phần Lan. Tổng cộng 670 tấn gỗ, 45.000 khối gỗ và 50.000 chốt đã được sử dụng để xây dựng đường ray của T Express. T Express là tàu lượn bằng gỗ cao nhất thế giới, với chiều cao 183,8 ft (56,02 m). Chiều cao của T Express tận dụng lợi thế của địa hình đồi núi xung quanh và có thể là một sự khác biệt hơn so với chiều cao cấu trúc trực tiếp. T Express là tàu lượn siêu tốc bằng gỗ có chiều dài dốc lớn thứ bảy, với độ dài 150,9 ft (45,99 m), và dài thứ ba thế giới với tổng chiều dài 5.383,8 ft (1.641 m). Đây cũng là tàu lượn bằng gỗ dài nhất, cao nhất, nhanh nhất, có độ dài dốc và độ dốc thẳng đứng lớn nhất ở châu Á. T Express từng là tàu lượn siêu tốc cao nhất, nhanh nhất và dốc nhất ở Hàn Quốc kể từ lúc khánh thành, cho đến khi nó bị thay thế bởi Draken tại Gyeongju World vào năm 2018. Tuy nhiên, nó vẫn giữ kỷ lục về đường ray tàu lượn siêu tốc dài nhất ở Hàn Quốc.
T Express nằm trong khu European Adventure của Everland, nơi có hai khu vườn cũng như các tòa nhà được thiết kế để gợi lên phong cách kiến trúc châu Âu. Bản thân đường tàu lượn này có chủ đề dựa trên một tuyến đường sắt tuyệt đẹp bên trong một ngôi làng trên dãy Anpơ. Khi T Express mở cửa cho công chúng, Everland đã trang trí khu vực xung quanh trông giống như một thị trấn nhỏ trên dãy núi Anpơ.
T Express đã làm tăng lượng khách đến Everland, đặc biệt là thanh thiếu niên và sinh viên đại học. Số lượng sinh viên đại học đến Everland tăng 14% và thanh thiếu niên tăng 73%, theo thông cáo báo chí năm 2009 của Everland. Cũng theo thông cáo báo chí đó, trung bình ba trong mười du khách đến Everland đã đi T Express.
Trong vòng 6 tháng đầu khai trương, hơn 1.000.000 người đã sử dụng T Express và đến cuối năm hoạt động đầu tiên, hơn 1.758.800 người đã đi T Express. Trong vòng hai năm, T Express đã có tổng cộng hơn 3 triệu lượt tham gia, với 4.500 người chơi mỗi ngày.
|
19820576 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19820576 | Giáo phận Incheon | Giáo phận Incheon (; ) là một giáo phận của Giáo hội Latinh trực thuộc Giáo hội Công giáo Rôma có tòa giám mục đặt tại Incheon, Hàn Quốc. Giáo phận là một giáo phận trực thuộc Tổng giáo phận Seoul.
Địa giới giáo phận bao gồm các thành phố Incheon, Gimpo, Bucheon, Siheung (một phần) và Ansan thuộc tỉnh Gyeonggi ở Hàn Quốc.
Nhà thờ chính tòa của giáo phận là Nhà thờ chính tòa thánh Phaolô hay còn gọi là Nhà thờ Dapdong ở thành phố Incheon, cũng là nơi đặt tòa giám mục của giáo phận.
Giáo phận được chia thành 129 giáo xứ.
Hạt Đại diện Tông tòa Incheon được thành lập vào ngày 6/6/1961 theo tông sắc "Coreanae nationis orae" của Giáo hoàng Gioan XXIII, trên phần lãnh thổ tách ra từ Giáo phận Seoul.
Vào ngày 10/3/1962 Hạt Đại diện Tông tòa được nâng cấp thành một giáo phận theo tông sắc "Fertile Evangelii semen" của Giáo hoàng Gioan XXIII.
Các giai đoạn trống tòa không quá 2 năm hay không rõ ràng bị loại bỏ.
Đến năm 2021, giáo phận có 522.320 giáo dân trên dân số tổng cộng 4.401.357, chiếm 11,9%.
|
19820579 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19820579 | Њ | Nje hay Nye (Њ њ, chữ nghiêng: "Њ" "њ") là một chữ cái trong bảng chữ cái Kirin.
Nó là chữ ghép của En và dấu mềm . Nó được tạo ra bởi Vuk Stefanović Karadžić để sử dụng trong từ điển của ông vào năm 1818, thay thế cho chữ ghép trước đó là . Nó tương ứng với chữ ghép ⟨nj⟩ trong bảng chữ cái Latinh của Gaj cho tiếng Serbia-Croatia.
Ngày nay nó được sử dụng trong tiếng Macedonia, các biến thể của tiếng Serbia-Croatia khi được viết bằng chữ Kirin (tiếng Bosnia, tiếng Montenegro và tiếng Serbia), tiếng Itelmen và tiếng Udege, trong đó nó đại diện cho âm /ɲ/, tương tự như trong "canyon" (tương tự như trong tiếng Ba Lan, trong tiếng Séc và tiếng Slovak, ⟨ņ⟩ trong tiếng Latvia, trong tiếng Galicia và tiếng Tây Ban Nha, trong tiếng Việt, tiếng Occitan và tiếng Bồ Đào Nha, trong tiếng Catalunya và tiếng Hungary, trong tiếng Ý và tiếng Pháp).
Nje thường được phiên âm là nj nhưng nó cũng được phiên âm là ń hoặc ņ.
|
19820581 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19820581 | Ԋ | Komi Nje (Ԋ ԋ, chữ nghiêng: "Ԋ" "ԋ") là một chữ cái trong bảng chữ cái Molodtsov, một biến thể của bảng chữ cái Kirin. Nó chỉ được sử dụng trong chữ viết của tiếng Komi vào những năm 1920.
Hình thức của nó tương tự như chữ Latinh Hwair (Ƕ ƕ), nhưng dạng chữ thường là phiên bản nhỏ của chữ in hoa. Komi Nje đại diện cho âm , hơi giống cách phát âm của trong "onion". Nó tương ứng với chữ Kirin Nje (Њ њ), và chữ ghép Latinh Nj (Nj nj) được sử dụng trong tiếng Croatia và tiếng Serbia.
|
19820588 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19820588 | Ќ | Kje (Ќ ќ, chữ nghiêng: "Ќ" "ќ") là một chữ cái trong bảng chữ cái Kirin, chỉ được sử dụng trong bảng chữ cái tiếng Macedonia, trong đó nó đại diện cho âm /c/ hoặc âm /tɕ/. Kje là chữ cái thứ 24 trong bảng chữ cái của ngôn ngữ này. Nó được phiên âm là hoặc đôi khi là hoặc .
Những từ có âm này thường có cùng nguồn gốc với những từ trong tiếng Serbia-Croatia với / và trong tiếng Bulgaria với , hoặc . Ví dụ: "ноќ" trong tiếng Macedonia ("noḱ", ban đêm) tương ứng với "ноћ" ("noć") trong tiếng Serbia-Croatia, và "нощ" ("nosht") trong tiếng Bulgaria. Tên họ kết thúc bằng "-ić" được đánh vần là "-иќ" trong tiếng Macedonia.
|
19820590 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19820590 | Giấc.mơ.giấy (album của Cá Hồi Hoang) | Giấc.mơ.giấy là album phòng thu thứ hai của ban nhạc Việt Nam Cá Hồi Hoang được phát hành bởi Luke Record vào ngày 2 tháng 12 năm 2016. Album bao gồm 12 bài hát với 3 đĩa đơn đã ra mắt trước đó là "Chợt Muốn Nghe", "Ngày Xa Lắm" và "Thế Nên".
Âm nhạc
|
19820610 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19820610 | Cádiz CF | Cádiz Club de Fútbol, SAD, còn được gọi là Cádiz, là một câu lạc bộ bóng đá chuyên nghiệp Tây Ban Nha có trụ sở tại Cádiz, Andalusia. Được thành lập vào năm 1910 và có sân nhà Nuevo Mirandilla, đội hiện thi đấu tại La Liga.
|
19820611 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19820611 | Những điều đáng ghét (trích đoạn) | Những điều đáng ghét là một trích đoạn được trích từ tác phẩm "Truyện Gối đầu" của Sei Shōnagon, một nữ quan kiêm văn sĩ cung đình Nhật Bản sống vào giữa thời kỳ Heian vào khoảng năm 1000 sau công nguyên.
"Những điều đáng ghét" được viết dưới dạng liệt kê danh sách những điều mà tác giả khong thích. Đoạn văn kiện ngắn này là một ví dụ cho sự yêu thích của nữ tác giả đối với phong cách viết dưới dạng liệt kê . Bà đã viết ra danh sách những thứ mình không thích theo các chủ đề như nghi thức, về những người phụ nữ, đàn ông và cả xã hội. Sei đã chậm rãi giải thích cho người đọc về những thói quen của người khác mà bà cảm thấy khó chịu, cũng như đã đưa những điểm kỳ cục hài hước như tạo cho nó một sự thay đổi phù hợp với một danh sách thông thường . Ở cuối đoạn văn ngắn ấy, chúng ta có thể hiểu được tất cả những thứ khiến nữ tác giả cảm thấy khó chịu. Trong đoạn trích này, ta có thể thấy tác giả đã sử dụng những câu văn mang tính cường điệu nhằm diễn tả cảm giác của bản thân. Theo đó, nữ sĩ Shonagon đã đưa giọng điệu đầy tính trung thực và châm biếm vào danh sách liệt kê "những điều đáng ghét" của mình. Những chủ đề nhạy cảm đã được nữ văn sĩ diễn đạt theo lối cởi mở hơn. Chẳng hạn, tại một trong những chủ đề trong đoạn trích này nói về hành vi thô lỗ của những người đàn ông trăng hoa. Nữ văn sĩ đã mở đầu phần "sở đoản" của mình bằng cách nêu lên thực trạng của từng vấn đề, sau đó là câu chuyện làm dẫn chứng phía sau.
Đoạn trích ngắn đã mô tả những thứ mà Sei Shōnagon không thích dựa trên quan điểm cá nhân. Trong phần này, nữ tác giả đã tập trung vào các chủ đề về phép tắc lễ nghi, sự nghèo khổ, về những đứa trẻ và cả cha mẹ chúng nữa. Bà cũng đã phê phán những hành vi tại các mốc thời gian và địa điểm cụ thể nhằm thông báo cho người đọc về những cảm nhận của người khác khi rơi vào hoàn cảnh giống bà. Mục đích tác giả của nó viết ra danh sách này là để giúp độc giả giải trí với góc nhìn hài hước về nhu cầu luân chuyển của tâm tính con người. Sei đã viết ra nó với một giọng văn dè dặt để diễn đạt giấc mơ của bà về những thay đổi trong xã hội. Bà đã mô tả cho chúng ta thấy cách cỗ máy xã hội Nhật Bản vào thời đó vận hành ra sao, cũng như cảm nhận của bà về nó như thế nào.
Sei Shōnagon đã từng là nữ quan hầu hạ trong cung của Hoàng hậu Teishi (定子, Định Tử) vào khoảng thế kỷ 10. Không ai biết chính xác về ngày sinh của bà. Nữ văn sĩ đã sống trong suốt thời đại Heian - thời kỳ nở rộ của nền Văn học Nhật Bản, đồng thời tạo dựng mối quan hệ "cạnh tranh" với nữ sĩ Murasaki Shikibu. Sei được biết đến là một người phụ nữ độc lập và nổi bật, người đã sử dụng những kỹ năng của mình để viết nên "Những điều đáng ghét" một cách thẳng thắn mà không có bất cứ sự sàng lọc nào. Trong suốt thời kỳ Heian ấy, nữ văn sĩ cũng đã viết ra những mẩu chuyện khác nhằm bày tỏ quan điểm cá nhân với thể thức trình bày khá giống với đoạn trích trên, trong đó có "Những thứ phiền muộn" ("Depressing Things)" và "Những điều tao nhã" ("Elegant Things)". Đoạn trích ngắn trên thuộc về tác phẩm "Truyện Gối đầu" nổi tiếng của bà, nói về những niềm tin cá nhân trong đời sống xã hội khiến bà phải suy ngẫm.
Ngày nay, tại Nhật Bản, học sinh đôi khi sẽ lựa chọn hoặc được giao nhiệm vụ viết những văn bản có hình thức trình bày ăn theo hình thức của đoạn trích trên.
|
19820616 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19820616 | Banu al-Munajjim | Banu al-Munajjim (), là một gia tộc Iran của các quan lại Abbasid được ghi nhận vào thế kỷ thứ 9 và 10. Họ tuyên bố có nguồn gốc từ triều đại Sassanid.
Theo Ibn al-Nadim, gia tộc Banu al-Munajjim có nguồn gốc từ Mihr-Gushnasp, một người con của vị vua cuối cùng của triều đại Sasan, Yazdegerd III (năm 632 – 651). Gia tộc này lần đầu được đề cập là vào thế kỷ thứ 9, khi tổ tiên cùng tên của gia tộc, Abu Mansur al-Munajjim (nguyên danh là Aban-Gushnasp), làm việc tại triều đình của vị khaliph Abbasid thứ hai, al-Mansur (năm 754 – 775), một nhà chiêm tinh ("al-munajjim"). Con trai của ông, Yahya, làm việc tại triều đình Abbasid dưới thời al-Ma'mun (năm 813 – 833), sau đó cải từ Hoả giáo sang Hồi giáo. Yahya có bốn người con trai tên Ali, Sa'id, Abdallah, và Hasan. Bốn người con trai này, giống như cha mình, cũng làm việc tại triều đình Abbasid. Ali thậm chí còn trở thành bạn bè với khaliph al-Mutawakkil (năm 847 – 861), và con trai của ông, Yahya, cũng tương tự nhưng với al-Muwaffaq, người hợp thức "de facto" làm quản trị thay cho anh trai al-Mu'tamid (năm 870 – 892). Một trong những người con khác của Ali, Harun, cũng làm việc tại triều đình Abbasid. Harun còn có một người con tên là Ali, nhưng cuối cùng lại phục vụ dưới thời Buyid khi họ trở thành những nhà cai trị mới của Baghdad. Ông là thành viên cuối cùng được biết đến trong gia tộc này.
|
19820619 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19820619 | Bùi Duy Thường |
Bùi Duy Thường (sinh ngày 5 tháng 4 năm 1996) là một cầu thủ bóng đá người Việt Nam thi đấu ở vị trí tiền vệ cho câu lạc bộ Viettel tại V.League 1.
FC Viettel
U-21 Việt Nam
|
19820622 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19820622 | Bầu cử tổng thống Hoa Kỳ 1868 | Cuộc bầu cử tổng thống Hoa Kỳ năm 1868 là cuộc bầu cử tổng thống bốn năm một lần lần thứ 21, được tổ chức vào Thứ Ba, ngày 3 tháng 11 năm 1868. Đây là cuộc bầu cử đầu tiên trong Kỷ nguyên Tái thiết, ứng cử viên của Đảng Cộng hòa Ulysses S. Grant đã đánh bại Horatio Seymour của Đảng Dân chủ. Đây là cuộc bầu cử tổng thống đầu tiên diễn ra sau khi Nội chiến Hoa Kỳ kết thúc và chế độ nô lệ bị bãi bỏ. Đây là cuộc bầu cử đầu tiên mà người Mỹ gốc Phi có thể bỏ phiếu ở các bang miền Nam đang trong thời gian tái thiết, theo Đạo luật Tái thiết thứ nhất.
Tổng thống đương nhiệm Andrew Johnson kế nhiệm Abraham Lincoln vào năm 1865 sau khi Lincoln bị ám sát. Johnson, một đảng viên Đảng Dân chủ chủ chiến đến từ Tennessee, từng là đồng tranh cử với Lincoln vào năm 1864 với đề cử từ Đảng Liên minh Quốc gia, vốn ra đời để thu hút các đảng viên Cộng hòa và đảng viên Đảng Dân chủ chủ chiến. Khi lên nắm quyền, Johnson đã xung đột với Quốc hội kiểm soát bởi Đảng Cộng hòa về các chính sách Tái thiết và do đó bị luận tội và suýt bị phế truất khi cách biệt phiếu bãi nhiệm và tha bổng ông chỉ là 1 phiếu. Johnson đã nhận được một số sự ủng hộ để tái tranh cử tại Đại hội toàn quốc Đảng Dân chủ năm 1868, nhưng sau một số cuộc bỏ phiếu, đại hội đã đề cử Seymour, người trước đây từng là Thống đốc New York. Đại hội toàn quốc Đảng Cộng hòa năm 1868 đã nhất trí đề cử Tướng Grant, người giữ chức Tướng tư lệnh tối cao của Liên bang vào cuối Nội chiến. Đảng Dân chủ chỉ trích các chính sách Tái thiết của Đảng Cộng hòa và "đã vận động tranh cử bằng cách chống người da đen và ủng hộ người da trắng," trong khi Đảng Cộng hòa vận động dựa trên sự nổi tiếng của Grant và chiến thắng của Liên bang trong Nội chiến.
Grant đã giành chiến thắng cách biệt trong phiếu đại cử tri, nhưng cách biệt trong phiếu phổ thông lại hẹp nhiều. Ngoài sự nổi tiếng của mình ở miền Bắc, Grant còn hưởng lợi từ các phiếu bầu của những nô lệ mới được trao tự do ở miền Nam, trong khi nhiều người da trắng ở miền Nam bị tước quyền bỏ phiếu tạm thời. Vì 3 trong số các bang cũ của Liên minh miền Nam (Texas, Mississippi và Virginia) vẫn chưa tái gia nhập Liên bang, các đại cử tri của họ không thể bỏ phiếu trong cuộc bầu cử này. Đây là lần cuối cùng Missouri ủng hộ một ứng cử viên Đảng Cộng hòa cho đến năm 1904. Đây cũng là lần cuối cùng cho đến năm 1912, Đảng Dân chủ giành được nhiều phiếu đại cử tri từ miền Bắc (46) hơn miền Nam (34), mặc dù điều này một phần là do nhiều vấn đề liên quan đến Tái thiết, và vào năm 1912, Đảng Dân chủ nổi tiếng trên môi trường chính trị toàn quốc hơn cũng như dân số miền Bắc cao hơn. Đây cũng là lần cuối cùng đảng Cộng hòa giành được nhiều phiếu phổ thông ở miền Nam hơn ở miền Bắc cho đến năm 1964, một lần nữa do các bang tái thiết như Nam Carolina hay Tennessee.
Sau Nội chiến, quyền công dân của những cựu nô lệ là một vấn đề được tranh luận sôi nổi trong Liên bang. Grant ủng hộ các kế hoạch Tái thiết của đảng viên Đảng Cộng hòa cấp tiến trong Quốc hội, vốn theo tinh thần của Tu chính án thứ 14, cung cấp đầy đủ quyền công dân cho những cựu nô lệ, trong đó bao gồm cả quyền bầu cử. Cương lĩnh của Đảng Dân chủ đã hạ thấp các quyền này và bôi nhọ nó là "quyền thượng đẳng của người da đen" và yêu cầu khôi phục quyền của các bang, trong đó có quyền của các bang miền Nam tự quyết định xem có cho phép cựu nô lệ bỏ phiếu hay không. Các bang thuộc Liên minh miền Nam trước đây đã quyết tâm hạn chế quyền công dân của những cựu nô lệ nhằm ủng hộ ứng cử viên Đảng Dân chủ.
Năm 1868, Đảng Cộng hòa đã cảm thấy đủ nổi tiếng để không dùng tên Đảng Liên minh Quốc gia nữa, họ muốn đề cử một anh hùng nổi tiếng cho vị trí tổng thống. Tướng Ulysses S. Grant vốn tự tuyên bố bản thân là đảng viên Cộng hòa và do đó được nhất trí đề cử trong lần bỏ phiếu đầu tiên với tư cách là ứng cử viên Tổng thống của đảng tại đại hội đảng Cộng hòa ở Chicago, được tổ chức từ ngày 20 đến 21 tháng 5 năm 1868. Chủ tịch Hạ viện Schuyler Colfax, một đảng viên Đảng Cộng hòa cấp tiến từ Indiana, đã được đề cử làm Phó Tổng thống trong lần bỏ phiếu thứ sáu, đánh bại Thượng nghị sĩ Benjamin Wade từ Ohio.
Cương lĩnh của Đảng Cộng hòa ủng hộ quyền đi bầu cử của người da đen như một lời hứa theo tinh thần của Tu chính án thứ 14 rằng những cựu nô lệ có đầy đủ quyền công dân. Họ phản đối việc sử dụng đồng bạc xanh để mua lại trái phiếu Hoa Kỳ, khuyến khích nhập cư, tán thành các quyền đầy đủ cho công dân nhập tịch và ủng hộ Tái thiết khác với các chính sách khoan dung hơn của Tổng thống Andrew Johnson.
Đại hội toàn quốc Đảng Dân chủ được tổ chức tại thành phố New York từ ngày 4 đến ngày 9 tháng 7 năm 1868. Người dẫn đầu trong những cuộc bỏ phiếu đầu là George H. Pendleton (ứng cử viên Phó Tổng thống của đảng Dân chủ năm 1864), người đã dẫn đầu trong 15 lần bỏ phiếu đầu tiên, theo sau là Tổng thống Johnson, Winfield Scott Hancock, Sanford Church, Asa Packer, Joel Parker, James E. English, James Rood Doolittle, và Thomas A. Hendricks. Johnson vốn không được ưa chuộng, trước đó đã may mắn giữ được vị trí của mình sau cuộc luận tội, chỉ giành được 65 phiếu bầu trong lần bỏ phiếu đầu tiên, ít hơn một phần ba tổng số phiếu bầu cần thiết để được đề cử, và do đó đã thua cuộc bầu cử tổng thống ngay từ vòng sơ bộ.
Trong khi đó, chủ tịch Đại hội Horatio Seymour, cựu thống đốc New York, nhận được 9 phiếu trong lần bỏ phiếu thứ tư từ North Carolina. Động thái bất ngờ này đã tạo nên "sự cổ vũ lớn và nhiệt tình" cho ông, nhưng Seymour ban đầu từ chối.
Đến lần bỏ phiếu thứ 7, Pendleton và Hendricks đã nổi lên như hai ứng cử viên dẫn đầu, với Hancock là ứng cử viên duy nhất khác nhận được nhiều sự ủng hộ. Sau nhiều lần bỏ phiếu, John T. Hoffman, Francis P. Blair và Stephen Johnson Field đã lần lượt được xướng tên, nhưng không ứng cử viên nào trong số này nhận được sự ủng hộ đáng kể.
Trong suốt 21 lần bỏ phiếu, các ứng cử viên đã xâu xé lẫn nhau qua nhiều vấn đề: người miền Đông thì cạnh tranh với miền Tây, những người bảo thủ thì cạnh tranh với những người cấp tiến. Sự ủng hộ dành cho Pendleton đã chấm dứt sau lần bỏ phiếu thứ 15, nhưng số phiếu ủng hộ nghiêng về Hancock chứ không phải Hendricks, khiến đại hội càng rơi vào bế tắc. Họ đã xác định rằng bản thân họ chắc chắn sẽ không được đề cử tổng thống; vì họ cần đạt 2/3 số phiếu của đại hội, do đó, một ứng cử viên thỏa hiệp cần được tìm ra thay vì đề cử 2 người trên. Seymour vẫn hy vọng người đó sẽ là Chánh án Salmon P. Chase, nhưng trong lần bỏ phiếu thứ 22, trưởng phái đoàn Ohio tuyên bố ủng hộ Seymour làm ứng cử viên của đảng. Trong khoảnh khắc đó, Seymour phải chờ cho những tiếng reo hò lắng xuống trước khi ông có thể từ chới đề nghị này. Dẫu đã từ chối, ông vẫn được các đại biểu ủng hộ cho vị trí ứng cử viên. Lặp lại lời từ chối, Seymour định rời sân khấu để nghỉ ngơi. Ông vừa rời khỏi hội trường thì trưởng phái đoàn Ohio hét lên rằng phái đoàn của ông sẽ không chấp nhận lời từ chối của Seymour; trưởng phái đoàn của Utah cũng đứng lên và nói rằng Seymour là người mà họ cần tìm. Trong khi Seymour đang vắng mặt ở phòng họp, đại hội đã nhất trí đề cử ông làm tổng thống.
Quá mệt mỏi với vị trí Tổng thống, các đại biểu đã nhất trí đề cử Tướng Francis Preston Blair, Jr. làm Phó Tổng thống trong lần bỏ phiếu đầu tiên sau khi John A. McClernand, Augustus C. Dodge và Thomas Ewing, Jr., rút lui. Việc đề cử Blair là cách để cân bằng vùng miền trong liên danh tranh cử của đảng.
Chiến dịch năm 1868 của cả Horatio Seymour và Ulysses S. Grant đều được tiến hành rất sôi nổi, phần lớn tranh cãi về vấn đề Tái thiết nên được tiến hành như thế nào.
Chiến dịch của Seymour ghi dấu ấn bằng những lời kêu gọi phân biệt chủng tộc rõ ràng với nhiều lần cố gắng gán cho Tướng Grant là ứng cử viên của "người da đen" và Seymour là ứng cử viên của "người da trắng". Quân lệnh bài Do Thái do Grant ban hành trong Nội chiến là một vấn đề của toàn chiến dịch. Ông đã buộc phải lên tiếng xin lỗi trong một lá thư về quân lệnh gây tranh cãi của mình, giải thích rằng bản thân ông không ủng hộ quân lệnh đó dù đích thân ông là người ban hành. Trên thực tế, trong những ngày còn tại ngũ, ông đã có lần ghé thăm một cửa hàng địa phương do hai anh em nhà Seligman, những thương gia người Do Thái, làm chủ. Họ sau này đã trở thành những người bạn trong suốt cuộc đời Grant. Họ dần trở nên giàu có và là những người đã quyên góp rất nhiều cho chiến dịch tranh cử tổng thống của Grant.
Grant không tham gia tích cực vào chiến dịch của mình và không hứa hẹn điều gì. Nhưng đảng Cộng hòa đã trích dẫn câu "Hãy để chúng ta có hòa bình" từ lá thư chấp nhận đề cử của ông làm châm ngôn và lời hứa với cử tri suốt cuộc bầu cử. Sau 4 năm Nội chiến đẫm máu, 3 năm tranh cãi về Tái thiết và nỗ lực luận tội một Tổng thống, dân chúng đã khao khát từ lâu một quốc gia hòa bình mà Grant và đảng Cộng hòa cam kết sẽ gây dựng khi lên nắm quyền.
Seymour không phản hồi bất kỳ cáo buộc giả mạo nào chống lại ông, nhưng đã có một số bài phát biểu quan trọng. Một số tờ báo đã hiểu nhầm những việc làm của ông. Với tư cách là thống đốc, Seymour đã từng gửi quân viện trợ Liên bang tới Trận Gettysburg, nhưng một số tờ báo đã cố gắng miêu tả ông là một người không trung thành với Liên bang. Tờ "New York Tribune" đăng những bức ảnh châm biếm mô tả Seymour đứng trên bậc thềm của Tòa Thị chính và gọi đám đông những kẻ nổi dậy ở New York là "các bạn của tôi". "Hartford Post" miêu tả ông là "gần giống với một xác chết" giống như cựu Tổng thống James Buchanan vừa qua đời. Ngoài ra, các đảng viên Cộng hòa cáo buộc rằng gia đình Seymour bị tâm thần, lấy bằng chứng với việc cha ông tự sát.
Blair đã bắt đầu diễn thuyết trên toàn quốc, ở đó ông sử dụng rất nhiều thuật ngữ phân biệt chủng tộc, thậm chí hạ nhục người da đen bằng nhiều lời lẽ ghê tởm. Vì đó, đảng Cộng hòa kêu gọi người Mỹ không bỏ phiếu cho Seymour, vì Seymour vốn không muốn làm Tổng thống nên nhiều khả năng khi đắc cử, ông sẽ từ chức và Blair sẽ kế vị ông.
Blair nổi tiếng là người thẳng thắn và các bài phát biểu trong chiến dịch tranh cử của ông vào năm 1868 đã tấn công nhiều đảng viên Đảng Cộng hòa Cấp tiến. Samuel J. Tilden, một thành viên của Ủy ban toàn quốc Đảng Dân chủ, đã yêu cầu Blair hạn chế vận động tranh cử ở Missouri và Illinois vì sợ rằng ông ấy sẽ phá hỏng những nỗ lực của Đảng Dân chủ trong cuộc bầu cử.
Seymour, người không đóng vai trò tích cực trong chiến dịch cho đến thời điểm đó, đã tham gia vận động, tìm cách lái chiến dịch khỏi các bài phát biểu của Blair. Seymour nhấn mạnh rằng những thay đổi ở miền Nam nên được thực hiện ở cấp tiểu bang, không có sự can thiệp của Liên bang. Đảng Dân chủ đã vận động để tái kết nạp ngay lập tức tất cả các bang từng ly khai, cấp cho họ quyền bầu cử ở các bang và ân xá những hành vi phạm pháp trong thời Nội chiến. Ông cũng nhấn mạnh rằng Tổng thống và Tòa án Tối cao nên được tôn trọng hơn là bị tấn công, như ông tuyên bố Đảng Cộng hòa đã làm trong nhiệm kỳ của Johnson.
Horatio Seymour giành được 2.708.744 phiếu bầu trong khi Grant nhận được 3.013.650 phiếu.
Sự sít sao trong số phiếu phổ thông đã gây ngạc nhiên cho giới tinh hoa chính trị vào thời điểm đó. Dân biểu Đảng Cộng hòa James G. Blaine cho rằng đa số mong manh mà Grant giành được là "một sự thật rất đáng kinh ngạc." Ngay cả Blaine cũng thể giải thích được vì sao Đảng Dân chủ lại giành được nhiều phiếu bầu như vậy. Dù cách biệt số phiếu phổ thông rất hẹp, Seymour đã để mất toàn bộ số phiếu đại cử tri tại một số bang miền Bắc như Indiana, Connecticut và Pennsylvania. Nhiều người nghi ngờ những người da trắng bị tước quyền bầu cử ở miền Nam đã lén lút đi bầu cho Seymour dù không có bằng chứng cụ thể.
Đảng Dân chủ để thua ở hầu hết bang miền Nam, nơi những người Mỹ gốc Phi mới được trả tự do đã bỏ phiếu ủng hộ Grant với số lượng rất lớn. Đảng Cộng hòa thắng mọi bang miền Nam ngoại trừ Georgia và Louisiana, nơi sự tàn bạo của Ku Klux Klan cũng như cái gọi là "Hiệp sĩ Da trắng Camelia" và gian lận bầu cử đã mang lại chiến thắng cho đảng Dân chủ.
Đảng Dân chủ thắng áp đảo ở các bang vùng biên như Kentucky, Maryland và Delaware, với Kentucky thì người dân căm ghét những người theo chủ nghĩa Tái thiết Cấp tiến Cực đoan, điều này đã dẫn đến chính quyền đầu tiên sau Nội chiến của bang gần như hoàn toàn bao gồm các thành viên Liên minh cũ. Không có ứng cử viên tổng thống nào của Đảng Dân chủ trước hoặc sau đó đạt được tỷ lệ ủng hộ cao như vậy ở Kentucky hay Maryland, nơi người dân căm ghét quyền bầu cử của người da đen. Đối với Delaware, đảng Dân chủ chỉ có liên danh Johnson/Humphrey năm 1964 và liên danh Obama/Biden năm 2008 có tỷ lệ ủng hộ cao hơn.
Hai bang vùng biên, Missouri và Tây Virginia, đều mang về chiến thắng cho Đảng Cộng hòa. Seymour đã thắng ở bang New York quê hương của mình một cách sít sao, nhưng Blair lại bị tẩy chay tuyệt đối tại Missouri quê hương ông. "Đảng viên Đảng Dân chủ Missouri" vui mừng chế giễu ông rằng: "Tướng Blair bị tẩy chay tại phường của ông ấy, thành phố của ông ấy, quận của ông ấy và bang của ông ấy." Ở Tây Virginia, những người theo Liên minh miền Nam trước đây tạm thời bị cấm bỏ phiếu hoặc giữ các chức vụ công. Kết quả là khoảng 15.000 đến 25.000 cư dân da trắng đã bị tước quyền.
Trong số 1.708 quận tái gia nhập, Grant giành được 991 (58,02%) và Seymour 713 (41,74%). Bốn quận (0,23%) chia đều cho Grant và Seymour. Do đó, Đảng Dân chủ, ngay cả khi phải gánh chịu mọi tai tiếng của chiến tranh, chỉ chiếm được ít hơn 278 quận so với Đảng Cộng hòa. Điều đó đã giúp củng cố sự nổi tiếng của đảng ở cấp cơ sở trong các cuộc bầu cử địa phương năm 1867.
Cuộc bầu cử năm 1868 là cuộc bầu cử duy nhất kể từ Nội chiến mà hai ứng cử viên của đảng lớn cùng nhau giành được hơn 99,9% số phiếu bầu trên cả nước. Trong tổng số hơn 5,7 triệu phiếu bầu, chỉ có 46 phiếu bầu cho người "khác" mà không phải Grant hay Seymour.
Đây là cuộc bầu cử cuối cùng mà Đảng Cộng hòa thắng ở Tennessee cho đến năm 1920, cuộc bầu cử cuối cùng Đảng Dân chủ thắng ở Oregon cho đến năm 1912, và cuộc bầu cử cuối cùng Đảng Cộng hòa thắng Missouri cho đến năm 1904.
Việc Grant thua Seymour ở New York với cách biệt 10.000 phiếu bầu là nguồn gốc khiến các đảng viên Cộng hòa xấu hổ và tức giận. Chiến thắng của Seymour ở New York đã dẫn đến một cuộc điều tra liên bang. Vào ngày 4 tháng 11, Horace Greeley phát biểu tại Union League Club và sau đó ULC đã nhanh chóng kiến nghị Quốc hội xem xét đièu tra cuộc bỏ phiếu của bang. Bản kiến nghị đã được trình lên Hạ viện vào ngày 14 tháng 12 và được chấp thuận với tỷ lệ số phiếu 134-35 (52 phiếu trắng). Chủ tịch Hạ viện Schuyler Colfax, ứng cử viên Phó Tổng thống của Đảng Cộng hòa, đã chỉ định một ủy ban gồm 7 người: 5 thành viên Đảng Cộng hòa và 2 thành viên Đảng Dân chủ. Ủy ban được thành lập được cho là vì Đảng Cộng hòa vẫn cho rằng mình không thể để mất New York mà không có bất kỳ sự phản đối nào. Cuộc điều tra được báo cáo lên Hạ viện vào ngày 23 tháng 2 năm 1869. Ủy ban quyết định không thực hiện bất kỳ điều tra nào và Seymour đã giữ được 33 phiếu đại cử tri từ New York.
Theo người viết tiểu sử của Seymour, Stewart Mitchell, Đảng Cộng hòa đã tuyên bố có công trong việc cứu Liên bang và quyết tâm tiếp tục cai trị nó. Tỷ lệ đa số phổ thông của Grant phần lớn đến từ tỷ lệ ủng hộ cao trong số nửa triệu người đàn ông hoặc người da màu mới được trao quyền. Chiến lược này tương phản mạnh mẽ với những năm sau đó, khi các đảng viên Cộng hòa khổng thể ngăn chặn việc tước quyền bầu cử của người da đen ở các bang thuộc Liên minh miền Nam trước đây, vì họ có nhiều phiếu bầu mới và an toàn hơn ở các bang mới ở miền Tây Hoa Kỳ.
"Mississippi, Texas và Virginia không tham gia cuộc bầu cử năm 1868 do chưa tái gia nhập Liên bang." "Tại Florida, cơ quan lập pháp của bang đã bỏ phiếu đại cử tri cho Grant với tỷ lệ phiếu 40-9."
Nguồn: Dữ liệu từ Walter Dean Burnham, "Presidential phiếu, 1836–1892" (Johns Hopkins University Press, 1955) trang 247–57.
Màu đỏ biểu thị bang đảng viên Cộng hòa Ulysses S. Grant thắng; Xanh biểu thị bang đảng viên Dân chủ Horatio Seymour thắng.
Các bang có tỷ lệ chiến thắng dưới 1% (8 phiếu đại cử tri)
Các bang có tỷ lệ chiến thắng dưới 5% (93 phiếu đại cử tri)
Các bang có tỷ lệ thắng dưới 10% (35 phiếu đại cử tri)
Các quận có tỷ lệ phiếu bầu cao nhất (cho Đảng Cộng hòa)
Các quận có tỷ lệ phiếu bầu cao nhất (cho Đảng Dân chủ)
Các quận có tỷ lệ phiếu bầu cao nhất (cho ứng cử viên Khác)
|
19820624 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19820624 | Câu lạc bộ bóng đá Vị Trí Vàng Kon Tum | Câu lạc bộ bóng đá Vị Trí Vàng Kon Tum là một câu lạc bộ bóng đá chuyên nghiệp Việt Nam có trụ sở tại Gia Lai. Thành lập năm 2022, đội bóng hiện thi đấu tại giải hạng ba quốc gia, cấp độ thấp nhất của hệ thống bóng đá Việt Nam.
Đội bóng đá tỉnh Kon Tum được chuyển giao cho Tập đoàn Vị trí Vàng tiếp quản với tên gọi chính thức là Câu lạc bộ Bóng đá Vị trí Vàng Kon Tum, với mục tiêu xã hội hoá bóng đá tỉnh Kon Tum, phát triển toàn diện theo đúng xu thế bóng đá chuyên nghiệp. Câu lạc bộ Vị Trí Vàng Kon Tum đã chính thức được thành lập và đi vào tập luyện từ tháng 8 năm 2022 tại Trung Tâm Huấn Luyện Hàm Rồng (Gia Lai). Với đội hình được làm mới thay thế cho đội hạng nhì, lực lượng nòng cốt của câu lạc bộ là các cầu thủ trẻ học viên năng khiếu khoá 3 và khoá 4 của học viện Hoàng Anh Gia Lai cùng các cựu cầu thủ Hoàng Anh Gia Lai.
Ngày 6 tháng 10 năm 2022 tại thành phố Kon Tum, lễ ra mắt và xuất quân của câu lạc bộ được tổ chức, đội đặt mục tiêu giành vé thăng hạng ngay mùa giải đầu tiên tham dự giải hạng ba quốc gia 2022. Với chất lượng đội hình tốt, Vị Trí Vàng Kon Tum đã dẫn đầu bảng A Vòng loại với 5 trận toàn thắng (3 thắng và 2 hòa), qua đó tham dự vòng chung kết và tranh suất thăng hạng cùng Dugong Kiên Giang. Tuy nhiên tại trận chung kết, đội để thua 0–1 trước Dugong Kiên Giang, qua đó không thể giành vé thăng hạng lên giải hạng nhì 2023.
|
19820625 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19820625 | Hoa hậu Trái Đất Việt Nam 2023 | Hoa hậu Trái Đất Việt Nam 2023 (Tiếng Anh: Miss Earth Vietnam 2023) là cuộc thi tìm kiếm Hoa hậu Trái Đất Việt Nam lần thứ nhất, đêm chung kết sẽ diễn ra vào 10 tháng 10 năm 2023. Cuộc thi này được tổ chức sau 3 năm tạm dừng vì dịch bệnh COVID-19. Người đăng quang sẽ đại diện Việt Nam tham dự Hoa hậu Trái Đất 2023 được tổ chức tại Việt Nam.
|
19820628 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19820628 | National Bank Open 2023 | Giải quần vợt Canada Mở rộng 2023 (còn được biết đến với National Bank Open presented by Rogers vì lý do tài trợ) là một giải quần vợt thi đấu trên mặt sân cứng ngoài trời diễn ra từ ngày 7–13 tháng 8 năm 2023. Giải đấu nam diễn ra tại Sân vận động Sobeys ở Toronto và giải đấu nữ diễn ra tại Sân vận động IGA ở Montreal. Đây là lần thứ 133 giải đấu nam được tổ chức—là một giải Masters 1000 trong ATP Tour 2023, và lần thứ 121 giải đấu nữ được tổ chức—là một giải WTA 1000 không Mandatory trong WTA Tour 2023.
Dưới đây là những tay vợt được xếp loại hạt giống. Hạt giống dựa trên bảng xếp hạng ATP vào ngày 31 tháng 7 năm 2023. Xếp hạng và điểm trước vào ngày 7 tháng 8 năm 2023.
† Tay vợt không vượt qua vòng loại ở giải đấu năm 2022. Thay vào đó, điểm tốt nhất của lần 19 sẽ được thay thế vào.
Dưới đây là những tay vợt được xếp loại hạt giống, nhưng rút lui trước khi giải đấu bắt đầu.
Đặc cách:
Bảo toàn thứ hạng:
Vượt qua vòng loại:
Thua cuộc may mắn:
Đặc cách:
Thay thế:
Dưới đây là những tay vợt được xếp loại hạt giống. Hạt giống dựa trên bảng xếp hạng WTA vào ngày 31 tháng 7 năm 2023. Xếp hạng và điểm trước vào ngày 7 tháng 8 năm 2023.
† Điểm từ kết quả tốt nhất của lần 16 (cho điểm bảo vệ) hoặc kết quả tốt nhất của lần 17 (cho điểm thắng), vào ngày 7 tháng 8 năm 2023.<br>
‡ Tay vợt có điểm bảo vệ từ một giải WTA 125 (Concord).<br>
§ Không thay đổi điểm vì điểm từ giải đấu không được tính là một trong 16 kết quả tốt nhất của tay vợt.
Dưới đây là những tay vợt được xếp loại hạt giống, nhưng rút lui trước khi giải đấu bắt đầu.
† Điểm từ kết quả tốt nhất của lần 16.<br>
§ Không thay đổi điểm vì điểm từ giải đấu năm 2022 không được tính vào xếp hạng của tay vợt vào ngày 7 tháng 8 năm 2023.
Đặc cách:
Bảo toàn thứ hạng:
Vượt qua vòng loại:
Thua cuộc may mắn:
Đặc cách:
Thay thế:
|
19820632 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19820632 | Maurice Antoine François Monguillot | Maurice Antoine François Monguillot (ngày 9 tháng 8 năm 1874 – ngày 23 tháng 6 năm 1945) là quân nhân và quan chức thuộc địa người Pháp ở Đông Dương. Ông từng ba lần giữ chức quyền Toàn quyền Đông Dương; từ tháng 5 năm 1919 đến tháng 2 năm 1920, tháng 4 năm 1925 đến tháng 11 năm 1925 và tháng 11 năm 1927 đến tháng 8 năm 1928.
Monguillot được phong là Hiệp sĩ Quân đoàn Danh dự vào ngày 18 tháng 1 năm 1911, là Sĩ quan Quân đoàn Danh dự vào ngày 23 tháng 3 năm 1916, Chỉ huy Quân đoàn Danh dự vào ngày 18 tháng 1 năm 1921. Thông báo được công bố trao tặng Bắc Đẩu Bội tinh vào năm 1925 ghi rằng nhờ thành tựu trên cương vị là Toàn quyền Đông Dương, Thống sứ Bắc Kỳ và sau đó là quản lý Nhà máy Chưng cất Rượu Đông Dương, chủ tịch Tơ-rớt Thuộc địa, rồi lên làm chủ tịch các mỏ thiếc đã được quốc hữu hóa ở Thượng Bắc Kỳ.
Ông trúng tuyển vào trường École Polytechnique thuộc Bộ Chiến tranh vào năm 1894 trong bốn năm, sau đó tham chiến trong vai trò là lính pháo binh đội Thủy quân lục chiến từ năm 1896 và tham gia Thế chiến thứ nhất cho đến năm 1916. Ông từng đóng quân tại Bắc Kỳ năm 1902 trong thời chiến, Tunisia trong thời bình năm 1906, đến Antilles thuộc Pháp năm 1908, ở Nam Kỳ năm 1909, Bắc Kỳ thời chiến năm 1912, Madagascar thời chiến năm 1911–1912, Châu Phi Xích đạo thuộc Pháp năm 1913–1914 và trong Thế chiến thứ nhất ở Pháp từ ngày 2 tháng 8 năm 1914 đến 31 tháng 3 năm 1916.
Hồ sơ nhập học của Monguillot tại trường École Polytechnique ghi rằng ông cao 1,67m với mái tóc vàng sẫm và đôi mắt xanh xám.
Trong thời gian làm nhà quản lý thuộc địa ở châu Á, ông đã công bố một sắc lệnh vào ngày 30 tháng 10 năm 1925 nhằm bảo vệ di chỉ Angkor. Trong thời gian Andre Malraux lưu lại Đông Dương, Monguillot đã theo dõi sát sao ông ấy do mối quan hệ với những phần tử Bolshevik; khi Malraux ở Hà Nội, Monguillot từ chối gặp ông này.
Monguillot đã yêu cầu thực hiện (và đã được cấp) quyền hưởng lương hưu do ông đã có thời gian làm việc lâu dài với chính phủ (với sự miễn trừ đặc biệt do tuổi tác của ông) bắt đầu từ ngày 1 tháng 3 năm 1929. Lúc đó ông đã 55 tuổi.
Monguillot có một loài chim được đặt theo tên ông là sẻ thông họng vàng do nhà điểu học người Mỹ Jean Théodore Delacour đặt ra vào năm 1926 theo danh pháp nhị thức "Hypacanthis monguilloti"
|
19820637 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19820637 | Deutsche Digitale Bibliothek | Deutsche Digitale Bibliothek ("Thư viện Kỹ thuật số Đức") hoặc DDB là một thư viện ảo bằng tiếng Đức, kết nối 30.000 tổ chức văn hóa và nghiên cứu, mục tiêu là làm cho chúng được truy cập miễn phí bởi cộng đồng thông qua một nền tảng chung. Phiên bản beta của cổng thông tin với khoảng 5,6 triệu tài liệu, theo thông tin của chính nó, đã được đưa lên mạng vào ngày 28 tháng 11 năm 2012. Phiên bản đầy đủ đầu tiên được ra mắt vào ngày 31 tháng 3 năm 2014. Mục tiêu là tích hợp DDB vào Europeana ở cấp độ châu Âu.
|
19820646 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19820646 | Cơ sở dữ liệu thực vật mã bưu điện | Cơ sở dữ liệu thực vật mã bưu điện (Postcode Plants Database) là một nguồn tư liệu tại Vương quốc Anh nhằm xác định cây cảnh địa phương và các loài dựa trên mã bưu điện, được tổ chức bởi Bảo tàng Lịch sử Tự nhiên ở Luân Đôn.
Nguồn tài liệu này đã được thay thế bằng các trang phân tích trên trang web NBN Atlas. Tại đó có thể chọn hiển thị bất kỳ nhóm động vật hoang dã nào ở Vương quốc Anh trong bán kính của bất kỳ mã bưu điện cụ thể nào.
|
19820647 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19820647 | Plants for a Future | Plants For A Future (PFAF) là một nguồn tài nguyên trực tuyến phi lợi nhuận dành cho những người quan tâm đến các loại cây ăn được và có ích, tập trung vào các khu vực ôn đới. Được đặt theo cụm từ "kế hoạch cho tương lai" với ý chơi chữ, tổ chức tập trung vào các loại cây lâu năm.
PFAF là một tổ chức từ thiện giáo dục được đăng ký với các mục tiêu sau đây:
Trang web chứa một cơ sở dữ liệu trực tuyến với hơn 8000 loại cây: 7000 loại có thể trồng ở các khu vực ôn đới bao gồm cả Vương quốc Anh, và 1000 loại cây cho các tình huống nhiệt đới.
Cơ sở dữ liệu ban đầu được thành lập bởi Ken Fern, bao gồm 1.500 loại cây mà ông đã trồng trên khuôn viên nghiên cứu 28 acre của mình ở phía Tây Nam nước Anh.
Kể từ năm 2008, cơ sở dữ liệu được duy trì bởi người quản trị cơ sở dữ liệu được tuyển dụng bởi Tổ chức "Plants For A Future".
Tổ chức tham gia vào các cuộc thảo luận công khai thông qua việc xuất bản sách. Các thành viên đã tham gia vào các hội thảo khác nhau và cũng là những người tham gia trong Dự án Nghiên cứu Permaculture Quốc tế.
|
19820683 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19820683 | Raphael Zuber | Raphael Zuber (sinh ngày 5 tháng 6 năm 1973 tại Chur) là một kiến trúc sư Thụy Sĩ.
Raphael Zuber theo học tại Viện Công nghệ Liên bang Thụy Sĩ cho đến năm 2001 và thực tập với Valerio Olgiati ở . Sau khi tốt nghiệp, ông thành lập văn phòng kiến trúc ở Chur. Zuber giảng dạy tại Accademia di Architettura di Mendrisio, Trường Kiến trúc và Thiết kế Oslo, EPF Lausanne, ETH Zürich và tại Đại học Cornell, Ithaca. Raphael Zuber đã được Alejandro Aravena mời tham dự Venice Biennale of Architecture vào năm 2016, nơi ông trưng bày 4 dự án mới nhất của mình.
|
19820684 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19820684 | David Zuberer | David A. Zuberer là một nhà vi sinh vật học người Mỹ, hiện là Giáo sư danh dự tại Đại học Texas A&M.
|
19820686 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19820686 | Alia Zuberi | Alia Zuberi, còn được gọi là Kumari Alia (Ms. Alia) là một chính khách người Ấn Độ và là cựu Nghị sĩ đến từ Uttar Pradesh. Bà đã từng là người đại diện trong phái đoàn thiện chí Haj của Chính phủ Ấn Độ tại Ả Rập Xê Út vào năm 2005 và 2007. Bà đã nhiều lần được bầu làm thành viên của Ủy ban Quốc hội Toàn Ấn Độ.
|
19820688 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19820688 | M.A. Zuberi | Muhammad Ahmed Zuberi (2 tháng 7 năm 192012 tháng 12 năm 2010) còn được gọi là Muhammad Aziz Zuberi và M. A. Zuberi, là một nhà báo người Pakistan, người sáng lập và là tổng biên tập của nhật báo kinh doanh và tài chính Pakistan, "Business Recorder".
Muhammad Ahmed Zuberi sinh ngày 2 tháng 7 năm 1920 tại Marehra, Các tỉnh Thống nhất, Ấn Độ thuộc Anh.
Ông bắt đầu sự nghiệp của mình bằng việc gia nhập tờ báo "Dawn", sau này là tờ báo chính thức của Liên đoàn Hồi giáo toàn Ấn Độ, vào tháng 12 năm 1945 tại Delhi, theo yêu cầu của Muhammad Ali Jinnah và đã làm việc cho tờ báo này trong 20 năm với nhiều cương vị khác nhau. Sau khi Pakistan độc lập vào năm 1947, khi tờ báo "Dawn" bắt đầu xuất bản từ Karachi, Zuberi bắt đầu làm việc tại đó, giữ chức vụ biên tập viên phụ cấp cao.
Sau khi nghỉ hưu ở tờ báo Dawn, ông đã thực hiện ước mơ cả đời của mình là ra mắt tờ báo tài chính "Business Recorder" vào năm 1965, cũng có trụ sở tại Karachi. Đây là tờ báo đầu tiên ở Pakistan chuyên đưa tin về tài chính và kinh tế. Tờ báo đã được công chúng đón nhận nồng nhiệt và lượng độc giả của tờ báo không ngừng tăng lên theo năm tháng. Zuberi cũng là thành viên sáng lập của Hội đồng Biên tập viên Báo chí Pakistan (CPNE). Trong suốt sự nghiệp báo chí lâu dài của mình, ông đã đại diện cho Pakistan tại các diễn đàn quốc tế khác nhau Thịnh minh Báo chí Thịnh vượng chung, Liên Hợp Quốc và Ngân hàng Thế giới. Ông cũng là Tổng giám đốc của kênh truyền hình Aaj News và AAJ TV.
Zuberi, với tư cách là nhà đàm phán với chính quyền Pakistan về Hội Báo chí Toàn Pakistan và Hội đồng Biên tập viên Báo chí Pakistan, cũng đóng một vai trò quan trọng trong việc bảo vệ quyền lợi của các nhà báo.
Zuberi qua đời vào ngày 12 tháng 12 năm 2010 ở tuổi 90 tại Karachi, Pakistan. Việc chôn cất ông đã được lên kế hoạch trong khu phức hợp của Nghĩa trang Abdullah Shah Ghazi tại Clifton, Karachi. Hậu duệ của ông gồm có ba con trai và hai con gái và một số cháu.
Zuberi được coi là người tiên phong trong báo chí kinh tế và tài chính ở Pakistan.
|
19820689 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19820689 | Mahreen Zuberi | Mahreen Asif Zuberi (sinh ngày 6 tháng 1 năm 1981) là một nghệ sĩ người Pakistan đến từ Karachi, Pakistan. Cô theo học tại Đại học Nghệ thuật Quốc gia ở Lahore, và hoàn thành xuất sắc bằng Cử nhân Mỹ thuật.
Cô làm việc tại Đại học Karachi ở Karachi, Pakistan với tư cách là Điều phối viên chương trình Mỹ thuật tại Khoa Nghiên cứu Thị giác. Tác phẩm của cô đã được triển lãm từ năm 2003. Tác phẩm của cô nằm trong bộ sưu tập của QAGOMA (Phòng trưng bày Nghệ thuật Queensland và Phòng trưng bày Nghệ thuật Hiện đại), Bảo tàng Nghệ thuật Châu Á Fukuoka và Quỹ Nghệ thuật Devi.
|
19820702 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19820702 | Mubadala Citi DC Open 2023 | Giải quần vợt Washington Mở rộng 2023 (còn được biết đến với Mubadala Citi DC Open vì lý do tài trợ) là một giải quần vợt thi đấu trên mặt sân cứng ngoài trời. Đây là lần thứ 54 (nam) và lần thứ 11 (nữ) Giải quần vợt Washington Mở rộng được tổ chức. Giải đấu là một phần của ATP Tour 500 trong ATP Tour 2023 và WTA 500 trong WTA Tour 2023. Giải đấu diễn ra tại William H.G. FitzGerald Tennis Center ở Washington, D.C., Hoa Kỳ, từ ngày 31 tháng 7 đến ngày 6 tháng 8 năm 2023.
Bảng xếp hạng vào ngày 24 tháng 7 năm 2023.
Đặc cách:
Bảo toàn thứ hạng:
Vượt qua vòng loại:
Thua cuộc may mắn:
Bảng xếp hạng vào ngày 24 tháng 7 năm 2023.
Đặc cách:
Vượt qua vòng loại:
Bảng xếp hạng vào ngày 24 tháng 7 năm 2023.
Đặc cách:
Bảo toàn thứ hạng:
Vượt qua vòng loại:
Thua cuộc may mắn:
Bảng xếp hạng vào ngày 24 tháng 7 năm 2023.
Đặc cách:
|
19820709 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19820709 | Mubadala Citi DC Open 2023 - Đơn nam | Dan Evans là nhà vô địch, đánh bại Tallon Griekspoor trong trận chung kết, 7–5, 6–3. Đây là danh hiệu đơn ATP Tour thứ 2 của Evans.
Nick Kyrgios là đương kim vô địch, nhưng rút lui trước khi giải đấu bắt đầu do chấn thương.
Tất cả các hạt giống được miễn vào vòng 2.
|
19820710 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19820710 | Rukhsana Zuberi | Rukhsana Zuberi là một chính khách Pakistan, từng là Nghị sĩ của Thượng viện Pakistan, kể từ tháng 3 năm 2018. Trước đây, bà từng là nghị sĩ của Thượng viện từ năm 2003 đến 2009 và từng là thành viên của Hội đồng tỉnh Sindh trong một thời gian ngắn vào năm 1977.
Zuberi đã được bầu vào một ghế dành riêng cho phụ nữ trong Hội đồng tỉnh Sindh trong cuộc tổng tuyển cử năm 1977. Bà giữ chức vụ này từ ngày 30 tháng 3 năm 1977 đến ngày 5 tháng 6 năm 1977.
Zuberi được bầu vào Thượng viện Pakistan với tư cách là ứng cử viên của Đảng Nhân dân Pakistan (PPP) từ Sindh cho ghế dành riêng cho phụ nữ trong cuộc bầu cử Thượng viện năm 2003. Bà thôi giữ chức vụ Thượng nghị sĩ khi kết thúc nhiệm kỳ thượng nghị sĩ dài 6 năm vào năm 2009.
Zuberi đã được bầu lại vào Thượng viện với tư cách là ứng cử viên của Đảng Nhân dân Pakistan từ Sindh cho ghế kỹ trị gia trong cuộc bầu cử Thượng viện Pakistan năm 2018. Bà đã tuyên thệ nhậm chức Thượng nghị sĩ vào ngày 12 tháng 3 năm 2018.
|
19820711 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19820711 | Mubadala Citi DC Open 2023 - Đơn nữ | Coco Gauff là nhà vô địch, đánh bại Maria Sakkari trong trận chung kết, 6–2, 6–3. Đây là danh hiệu đơn WTA Tour thứ 4 của Gauff.
Liudmila Samsonova là đương kim vô địch, nhưng thua ở vòng bán kết trước Gauff.
4 hạt giống hàng đầu được miễn vào vòng 2.
|
19820712 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19820712 | Mubadala Citi DC Open 2023 - Đôi nam | Máximo González và Andrés Molteni là nhà vô địch, đánh bại Mackenzie McDonald và Ben Shelton trong trận chung kết, 6–7, 6–2, [10–8].
Nick Kyrgios và Jack Sock là đương kim vô địch, nhưng chọn không bảo vệ danh hiệu.
|
19820713 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19820713 | Đồng(II) metaborat | Đồng(II) metaborat là một hợp chất vô cơ của kim loại đồng và acid metaboric có công thức hóa học Cu(BO) – tinh thể màu lục lam, không tan trong nước.
Phản ứng giữa acid boric và đồng(II) nitrat có thể tạo ra đồng(II) metaborat.
Cũng có thể trộn dung dịch borax với đồng(II) sulfat hoặc đồng(II) chloride để tạo kết tủa đồng(II) metaborat.
Đồng(II) metaborat tạo thành tinh thể màu lục lam.
Hợp chất không hòa tan trong nước.
Hợp chất bị phân hủy khi đun nóng mạnh, tạo ra đồng(I) metaborat:
Đồng(II) metaborat có thể được sử dụng trong tranh sơn dầu, chất xúc tác khử hydro hóa, chất bảo quản gỗ và chất làm chậm sự cháy.
|
19820714 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19820714 | Những bước chân của rồng | "Những bước chân của rồng" là nhạc hiệu chính thức kể từ năm 2022 của các giải bóng đá chuyên nghiệp Việt Nam dưới sự quản lý của Công ty Cổ phần Bóng đá chuyên nghiệp Việt Nam. Bài nhạc do Hoàng Bách sản xuất, kết hợp cùng SlimV và Vincent Nguyễn, thực hiện từ tháng 6 năm 2021 đến tháng 1 năm 2022. Nó được sử dụng lần đầu tại mùa giải 2022 của Giải bóng đá Vô địch Quốc gia Việt Nam, qua đó đánh dấu lần đầu tiên các giải bóng đá chuyên nghiệp tại Việt Nam có một bài nhạc hiệu chính thức.
Trong nhiều năm, người hâm mộ bóng đá Việt Nam đã thắc mắc về việc tại sao các giải đấu như UEFA Champions League, FIFA World Cup thường có nhạc hiệu riêng khi các cầu thủ ra sân. Các giải vô địch bóng đá cấp quốc gia ở Anh, Pháp, Đức, Hàn Quốc, Nhật Bản và Thái Lan cũng có nhạc hiệu riêng khi các cầu thủ ra sân, nhưng Giải bóng đá Vô địch Quốc gia Việt Nam lại không có một bài nhạc hiệu như vậy. Trong nhiều mùa giải của Giải bóng đá Vô địch Quốc gia Việt Nam và nhiều giải đấu chuyên nghiệp khác do Công ty Cổ phần Bóng đá chuyên nghiệp Việt Nam tổ chức, nhạc hiệu chính thức khi các cầu thủ khi ra sân là Bài hát FIFA của Liên đoàn Bóng đá Thế giới. Năm 2020, Công ty Cổ phần Bóng đá chuyên nghiệp Việt Nam đã mua bản quyền một bản nhạc ra sân với thời hạn 1 năm. Vì thế, Công ty Cổ phần Bóng đá chuyên nghiệp Việt Nam quyết định đặt hàng nghệ sĩ Hoàng Bách sáng tác một bài nhạc riêng cho Giải bóng đá Vô địch Quốc gia Việt Nam và nhiều giải đấu chuyên nghiệp khác trong nước. Theo Hoàng Bách, anh được các lãnh đạo ở Công ty Cổ phần Bóng đá chuyên nghiệp Việt Nam đề nghị nhiều lần, và vì tình yêu bóng đá sẵn có, anh quyết định phải tạo ra một bản nhạc "không chỉ có giá trị cho duy nhất một mùa giải mà nó có thể kéo dài như một thương hiệu của V. League nói riêng và các giải bóng đá chuyên nghiệp Việt Nam".
Sau khi nhận lời đặt hàng từ Công ty Cổ phần Bóng đá chuyên nghiệp Việt Nam, nhạc sĩ Hoàng Bách đã lên ý tưởng và hướng phát triển bài hát, sau đó anh liên hệ Vincent Nguyễn và SlimV để tính toán, xây dựng nội dung bản nhạc. Sau khi đắn đo, họ quyết định xây dựng bản nhạc trên nền nhạc giao hưởng phương Tây, đan xen với giai điệu âm nhạc truyền thống của Việt Nam.
Nhạc sĩ Hoàng Bách và các cộng sự của mình đã thực hiện sản xuất bản nhạc từ tháng 6 năm 2021 đến tháng 1 năm 2022. Bản nhạc được thu âm và thực hiện ở 3 quốc gia là Việt Nam, Đức và Hungary, là sự kết hợp sản xuất của Space Speakers cùng hơn 60 nhạc công đến từ các dàn nhạc giao hưởng Budapest Scoring Orchestra và Hanse Haus Studio, kết hợp cùng với tiếng đàn bầu. Ngoài ra, Hoàng Bách và cộng sự còn hợp tác với nhạc trưởng Klaus Genuit, người từng đoạt 2 giải Grammy"." Do bản nhạc được thực hiện trong thời gian đại dịch COVID-19 bùng phát ở cả Việt Nam, Đức và Hungary, cho nên anh và cộng sự buộc phải làm việc xuyên suốt cả ngày lẫn đêm một cách liên tục và phải dời các thiết bị về nhà. Đây cũng là sản phẩm âm nhạc tiếp theo nằm trong dự án "Bach20", bắt đầu từ năm 2019 của Hoàng Bách. Với "Những bước chân của rồng", Hoàng Bách đã được Công ty Cổ phần Bóng đá chuyên nghiệp Việt Nam vinh danh là nhà tài trợ của các giải bóng đá chuyên nghiệp Việt Nam, cũng là nghệ sĩ đầu tiên được vinh danh trong vai trò này.
Bài nhạc "Những bước chân của rồng" được sử dụng lần đầu tiên vào mùa giải 2022 của Giải bóng đá Vô địch Quốc gia Việt Nam, đánh dấu lần đầu tiên bóng đá Việt Nam có một bản nhạc hiệu chính thức, độc quyền dành riêng cho các giải bóng đá chuyên nghiệp.
|
19820716 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19820716 | Aight D | = AightD =
Bắt đầu với dòng nhạc Hip-Hop từ những năm 2015, TRẦN DŨNG sinh năm 20/6/1999, hay còn được biết tới rapname AIGHT D, là một trong những nghệ sĩ trẻ tiên phong trong làn sóng Trap-Alternative Hip-Hop tại Việt Nam đến từ tổ đội RRC . Với niềm đam mê âm nhạc và sự sáng tạo không ngừng, AIGHT Dđã tạo ra những ca khúc độc đáo và ấn tượng, mang đậm dấu ấn cá nhân. Một số track nổi bật của AIGHT D có thể kể đến như: " GOAT","M.O.B", " INTRO ". Và gần đây nhất với sự phát triển và thăng tiến ở bản thân anh đã ra mắt Mixtape đầu tay " Long Live LTBC " , đều được đánh giá cao về chất lượng sản xuất và sự đa dạng trong âm hưởng. AIGHT D không chỉ sở hữu một chất giọng bass mạnh mẽ và cuốn hút, mà còn biết cách kết hợp kĩ thuật và flow linh hoạt để thể hiện những thông điệp và cảm xúc trong âm nhạc. AIGHT D luôn luôn thử thách bản thân và khám phá những phong cách mới, mang đến cho người nghe những trải nghiệm âm nhạc đầy mới mẻ và hấp dẫn. Nếu bạn là một fan cứng của dòng nhạc “New Wave”, bạn không thể bỏ qua AIGHT D, một nghệ sĩ tài năng và đầy tiềm năng của Hip-Hop Việt Nam.
Album đầu tay của rapper AIGHT D có tên là "Long Live LTBC" là một tác phẩm nghệ thuật đầy cảm xúc và sáng tạo. Album kể về quá trình tạo nên con người của AIGHT D hiện tại và quá khứ của anh những gì đã trải qua trong cuộc sống và nghệ thuật. Album thể hiện sự đổi mới trong dòng nhạc của AIGHT D, khi anh kết hợp nhiều thể loại nhạc khác nhau, từ rap, trap, drill, đến pop và rock. Album cũng là một lời tri ân của AightD đến nhóm LTBC, những người bạn thân thiết và đồng hành cùng anh trong suốt sự nghiệp. Album đã nhận được nhiều lời khen ngợi về chất lượng âm thanh, ca từ, và biểu diễn. Album "Long Live LTBC" là một dấu ấn đậm nét của AIGHT D của với hip hop Việt Nam hiện nay. Với sự cộng tác ăn ý từ các nghệ sĩ khác như (Rapper: " LVK ", " YUNG ATY ", " YOUNG BO5 ", " BILLY100 ", " GHINIB ", " LIEU BIN ", " OZEE KXNG ", " YOUNG VVS ", " LIL EKKO " | Producer: " MARLYKID " " CHUSAU ", " THINHHO ", " YOUNG DRACO ", " OZEE KXNG ", " K1EN ".)DANH SÁCH NHẠC:
|
19820718 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19820718 | Mubadala Citi DC Open 2023 - Đôi nữ | Laura Siegemund và Vera Zvonareva là nhà vô địch, đánh bại Alexa Guarachi và Monica Niculescu trong trận chung kết, 6–4, 6–4.
Jessica Pegula và Erin Routliffe là đương kim vô địch, nhưng Pegula không tham dự giải đấu. Routliffe đánh cặp với Ingrid Neel, nhưng thua ở vòng 1 trước Shuko Aoyama và Gabriela Dabrowski.
|
19820722 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19820722 | Cobalt(II) naphthenat | Cobalt(II) naphthenat là tên gọi hỗn hợp các dẫn xuất cobalt(II) của acid naphthenic. Các phức chất này được sử dụng rộng rãi trong chất làm khô dầu cho quá trình tự oxy hóa của dầu làm khô. Naphthenat kim loại không được xác định rõ ràng theo nghĩa hóa học thông thường, để chỉ ra rằng chúng là hỗn hợp. Cobalt(II) naphthenat là chất xúc tác được sử dụng rộng rãi vì chúng hòa tan trong các chất nền không phân cực, chẳng hạn như nhựa alkyd hoặc dầu lanh. Trên thực tế, muối naphthenat là một loại hỗn hợp giúp tạo độ hòa tan các chất này ở mức cao. Ưu điểm thứ hai là chi phí thấp. Một hợp chất được xác định rõ thể hiện nhiều tính chất của cobalt(II) naphthenat là phức hợp cobalt(II) của acid 2-ethylhexanoic. Thông thường trong tài liệu kỹ thuật, naphthenat được mô tả là muối, nhưng chúng cũng có thể là phức hợp phối hợp không ion với cấu trúc tương tự như kẽm acetat kiềm.
Tính xúc tác của cobalt(II) naphthenat tương tự như tính xúc tác của các hợp chất liên quan có chứa mangan và sắt. Những chất như vậy đôi khi được phân loại là chất làm khô hoạt động. Là chất xúc tác có các trung tâm kim loại mang hoạt tính oxy hóa khử, chúng thúc đẩy các phản ứng oxy hóa khử với các chất trung gian chứa hydroperoxide.
Cobalt(II) naphthenat được điều chế bằng cách cho cobalt(II) hydroxide hoặc cobalt(II) acetat tác dụng với acid naphthenic. Cobalt(II) naphthenat cũng được coi là sản phẩm phụ của quá trình tinh chế dầu mỏ.
Cobalt(II) naphthenat là một chất có độc tính vừa phải, có thể gây ra một loạt các tình trạng cấp tính và mãn tính, đồng thời nó cũng là chất gây ung thư. Nó thường được sử dụng dưới dạng pha loãng trong dầu. Thiết bị bảo hộ phải được sử dụng để tránh tiếp xúc với mắt và da. Hợp chất tinh khiết có mật độ hơi vào mức 3,9 (lấy không khí = 1) và áp suất hơi cực tiểu là 1 mmHg ở 25 °C (77 °F).
|
19820729 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19820729 | Long Vacation | Các nhân vật trong phim đều có điểm chung: nếu không thất nghiệp thì họ chẳng thể làm gì tốt hơn ngoài việc kiếm một công việc tạm thời. Đây là bức tranh miêu tả về thời kỳ Nhật Bản chìm trong suy thoái kinh tế nặng nề, khi người dân của họ phải chịu đựng trầm cảm nặng do liên tục không kiếm được thu nhập ổn định. Bộ phim cũng miêu tả cách các mối quan hệ được hình thành và tan vỡ, đồng thời khám phá cách mọi người dựa vào nhau để được an ủi.
Minami và Sena gặp nhau sau khi bạn cùng phòng của Sena là Asakura bỏ rơi Minami trong ngày cưới của họ. Minami biết được từ Sena rằng Asakura rời đi mà chẳng rõ tung tích. Sena cho phép Minami chuyển đến căn hộ, do cô trong tình trạng không một xu dính túi vì đã đưa hết tiền cho Asakura và không thể trả tiền thuê căn hộ của mình.
Đây là khởi đầu của mối tình lãng mạn giữa Sena và Minami. Minami và Sena tâm sự và an ủi nhau về những vấn đề tình cảm của họ cũng như những thất bại trong cuộc sống. Sena phải lòng đàn em của mình là Ryoko. Tuy nhiên, Ryoko lại không có tình cảm với anh mà lại đem lòng yêu Shinji, em trai của Minami.
Minami gặp một nhiếp ảnh gia chuyên nghiệp tên là Sugisaki và được anh này ngỏ lời cầu hôn. Mặc dù Sugisaki phù hợp với hình mẫu lý tưởng của Minami nhưng cô lại cảm thấy chưa chắc chắn về cảm xúc của mình. Trong khi đó, Sena có cơ hội chiến thắng trong một cuộc thi dương cầm và đến Boston và tham gia dàn nhạc giao hưởng. Sau khi giành chiến thắng trong cuộc thi, anh cầu hôn Minami và hai người cùng đến Boston.
Theo biên kịch Kitagawa Eriko, các tựa phim từng được đề xuất đặt là "Hoshi ni Negai wo" và "Toshiue no on'na." Tựa đề "Long Vacation" do chính bà đặt. Tòa nhà được sử dụng làm địa điểm ghi hình cho căn hộ của Sena (tòa số 1-8 Shinohashi, Koto-ku, Tokyo) được gọi là "Senaman" và được nhiều khán giả ghé thăm trong và sau khi bộ phim được trình chiếu. Tòa nhà đã bị phá bỏ sau khi phim hoàn tất và một tòa nhà chung cư đã được xây dựng trên khu đất này. Cầu Shin Onhashi bắc qua sông Sumida (gần tòa nhà trên) cũng thường xuyên xuất hiện trong phim.
Ban đầu, truyện phim định để kết là hai nhân vật chính bị chia cắt, nhưng theo đề xuất của người xem, nó đã được thay đổi thành truyện phim để hai người đến với nhau. Bài nhạc hiệu của bộ phim là "La La La Love Song" của Kubota Toshinobu.
Kimura là thành viên của nhóm nhạc SMAP, còn Yamaguchi Tomoko từng xuất hiện trong các chương trình ăn khách như "29-sai no Christmas" và "Double Kitchen". Phim đã góp phần tạo dựng tên tuổi của hai diễn viên này, đưa họ vào hàng ngũ minh tinh nổi tiếng ở Nhật lúc bấy giờ; chẳng hạn như giúp Kimura có được mệnh danh "Ông hoàng Rating". Vào ngày phát sóng tập cuối, Kimura và Yamaguchi đã xuất hiện trực tiếp từ Luân Đôn trên chương trình tin tức buổi tối FNN Super Time để quảng bá cho tập phim.
Các sản phẩm liên quan đến bộ phim cùng vô cùng đắt khách. "Long Vacation" được phát hành trên DVD tại Nhật Bản vào ngày 21 tháng 11 năm 2001. Vào thời điểm ra mắt, 5000 đĩa DVD đầu tiên có đính kèm một tập sách nhỏ giới hạn. Tính đến cuối tháng 11 năm 1996, các nhạc phẩm soundtrack của bộ phim đã tiêu thụ được 1,03 triệu bản. Tổng doanh số của 7 album liên quan mà Toshiba EMI (nay là EMI Music Japan) phát hành, tính cả album soundtrack kể trên, đã vượt mốc 1,6 triệu bản. Đĩa CD dương cầm của Glenn Gould (mà Sena nhắc là đĩa CD yêu thích của anh) đã bán ra 4000 bản/tháng, còn đĩa soundtrack gốc của phim cũng bán ra 60.000 bản sau một tháng ra mắt. Tính đến cuối tháng 11 năm 1996, toàn bộ 6 tệp đĩa DVD của phim đã bán ra 250.000 bản. Phiên bản tiểu thuyết của "Long Vacation" được chắp bút bởi Kitagawa Eriko cũng tiêu thụ 150.000 bản trong một tuần.
Phim từng được phát sóng ở Hồng Kông. Tại Hoa Kỳ, phim từng được phát sóng qua KTSF TV với phụ đề tiếng Anh.
Ngày 22 tháng 7 năm 2020, Viu thông báo rằng họ đã mua được quyền phát trực tuyến "Long Vacation" ở Đông Nam Á bằng phụ đề theo khu vực, bên cạnh các bộ phim truyền hình như "Love Generation, A Sleeping Forest, The Ordinary People, Hundred Million Stars From The Sky" và loạt "Hero".
Các tập phim có tỷ suất người xem trung bình là 29,5%; tỷ suất tập cuối là 36,7% (có lúc đạt tới 43,8%). Khi bộ phim ra mắt tại Nhật Bản, tác phẩm đã được khán giả nữ yêu thích đến mức ra đời hiện tượng . Từ đó cơn sốt của phim được gọi "hiện tượng Lon-bake" (hay Ron-bake, hoặc Lombake), chẳng hạn như gia tăng đột biến số lượng nam giới bắt đầu học chơi dương cầm. Theo một nghiên cứu do NHK thực hiện năm 2009, phần lớn người xem là thanh thiếu niên (13 tuổi trở lên), chiếm 40% người xem, nhóm thứ hai là những người ở độ tuổi 20 với 34%.
"Long Vacation" được xếp vào hàng kinh điển của phim ảnh Nhật Bản, được khán giả nước này và một số quốc gia khác ở châu Á yêu thích. Chẳng hạn như ở Hồng Kông, bộ phim phổ biến với khán giả nơi đây nhờ các bản sao VCD lậu được bán tại đây trước khi bộ phim được trình chiếu hợp pháp.
Theo "Television, Japan and Globalization", chủ đề tìm kiếm hạnh phúc được thể hiện qua Minami khi cô nhắc đến quyền tự mình tìm kiếm hạnh phúc thay vì kết hôn. Quan điểm này chú trọng vào cuộc sống của con người khi họ đi tìm ý nghĩa của hiện sinh.
Ngày 10 tháng 4 năm 2017, Kimura đã đến thăm sông Sumida bằng thuyền cùng với Akashiya Sanma như một phần của chuyến hành hương đến vùng đất linh thiêng trong chương trình "Santaku" được phát sóng vào ngày 10 tháng 4. Trong chương trình, địa điểm được giới thiệu là bối cảnh cho "Long Vacation," "Danjo Shichinin Aki Monogatari" và "Danjo Shichinin Natsu Monogatari".
Nửa đầu năm 2018, ở tập thứ 65 (ngày 15 tháng 6) của sê-ri "Hanbun, Aoi" thuộc chuỗi chương trình dài kỳ "Renzoku Terebi Shōsetsu" của NHK (cũng do Kitagawa Eriko chắp bút), cảnh quay từ phim truyền hình "Long Vacation" đã xuất hiện. Một cảnh tương tự như cảnh bóng nảy trong tập đầu tiên được vẽ ra, và một bài hát tương tự bài "La La La Love Song" cũng được phát (mặc dù thời gian ghi lại là năm 1992, trước khi bộ phim được sản xuất). Ca khúc được chọn làm bài nhạc hiệu thứ hai của "Hanbun, Aoi". Ngoài ra, vào ngày 11 tháng 7, Moriyama Ryoji (bạn diễn sau này của Tomoko) đã hát và trình bày "Sobani Iteyo" của Cagnet (đây là một bài hát được lồng vào phim "Long Vacation").
Năm 2019, khi chuyển sang thời kỳ Lệnh Hòa, số người biết đến hiện tượng ""Lon-bake"" và quan tâm đến "Long Vacation" sau khi xem Kimura Takuya diễn trong "Grand Maison Tokyo" đã tăng lên, và sau khi biên kịch bộ phim là Kitagawa Eriko đến xem buổi hòa nhạc solo của Kimura Takuya, số lượng tweet trả lời mong đợi một "phần tiếp theo" cũng tăng lên. Ngày 11 tháng 11 năm 2019, Fuji TV thông báo rằng các bức ảnh và đạo cụ của bộ phim đã được trưng bày tại Trụ sở chính của Fuji TV ở Odaiba để ghi dấu những tác phẩm truyền hình nổi tiếng nhất ở thời kỳ Bình Thành của đài trong một cuộc triển lãm cho đến tháng 1 năm 2020.
|
19820734 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19820734 | Chương II (album của Cá Hồi Hoang) | Chương II là album phòng thu thứ đầu tiên của ban nhạc Việt Nam Cá Hồi Hoang được phát hành bởi Luke Record vào ngày 27 tháng 11 năm 2014. Album bao gồm 10 bài hát với 3 bài hát đã ra mắt trước đó là "Một Phút Quay Lại", "Muông Thú" và "Cho Ngày Cưới".
Âm nhạc
|
19820736 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19820736 | Chúng Ta Đều Muốn Một Thứ (album của Cá Hồi Hoang) | Chúng Ta Đều Muốn Một Thứ là album phòng thu thứ sáu và cũng là album cuối cùng của ban nhạc Việt Nam Cá Hồi Hoang được phát hành bởi Lumif Recordings vào ngày 7 tháng 4 năm 2021. Album bao gồm 18 bài hát với 4 đĩa đơn đã ra mắt trước đó là "Tự Do", "Người Tìm Vàng", "Một Đời" và "Vậy Thì".
Âm nhạc
|
19820753 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19820753 | Danh sách núi tại Ukraina | Ukraina chủ yếu có hai vùng núi chính, là dãy núi Karpat ở phía tây nam và dãy núi Krym thuộc bán đảo cùng tên đang do Nga kiểm soát. Ukraina nằm ở đồng bằng Đông Âu, do đó phần lớn diện tích của nước này bao gồm chủ yếu là những ngọn đồi thoai thoải chứ không phải là những ngọn núi thực sự. Một số đỉnh núi cao có thể tồn tại trong các khu vực vùng đất cao Podilia và dãy núi Donets và hiếm khi xuất hiện tại những nơi khác.
Chornohora (Núi đen) là rặng núi thuộc Karpat bao gồm những đỉnh núi cao nhất trong cả nước. Các rặng núi đáng chú ý khác là Maramureş và Gorgany cũng nằm ở Karpat. Ở dãy núi Krym, rặng núi cao nhất Babuhan Yayla nằm gần Duyên hải phía Nam Krym (còn được gọi là UBK) và nó là một phần của chuỗi núi chính.
Trang này hiển thị những ngọn núi cao nhất ở Ukraina.
Danh sách gồm các đỉnh cao trên 1.500 m. Xếp hạng vị trí có thể có tranh chấp.
|
19820757 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19820757 | Hệ thống người dùng mạng kiến trúc và nghệ thuật Nhật Bản | Hệ thống người dùng mạng kiến trúc và nghệ thuật Nhật Bản (Japanese Architecture and Art Net Users System), hay JAANUS, là một từ điển trực tuyến về các thuật ngữ nghệ thuật và kiến trúc Nhật Bản do Tiến sĩ Mary Neighbor Parent biên soạn. Nó chứa khoảng tám nghìn đầu mục. Nó có thể tìm kiếm được bằng cả tiếng Anh và romaji, đồng thời chứa nhiều siêu liên kết và hình minh họa.
|
19820769 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19820769 | Higeki no Genkyou to Naru Saikyou Gedou Last Boss Joou wa Tami no Tame ni Tsukushimasu | Đệ Nhất Công chúa Pride, đã nhớ lại kí ức tiền kiếp và nhận thức rằng cô đã được tái sinh trong thế giới của một otome game. Theo như mạch truyện của trò chơi diễn ra, trong thời gian mười năm, cô sẽ trở thành trùm cuối dị giáo tàn độc nhất gây ra bi kịch. Tại Vương quốc Freesia, một đất nước nơi những người có năng lực đặc biệt được sinh ra, Pride, bằng cách thức tỉnh năng lực tiên tri đã trở thành nữ vương kế nhiệm lúc 8 tuổi. Để tránh khỏi thảm kịch, Pride quyết định sử dụng kí ức còn sót lại của cô ấy về tựa game để cứu cũng như bảo vệ những người bị cô lạm dụng.
Được viết bởi Tenichi, bộ truyện bắt đầu được đăng nhiều kỳ trên trang web Shōsetsuka ni Narō từ ngày 19 tháng 4 năm 2018.. Bộ truyện sau đó đã được Ichijinsha xuất bản bộ truyện dưới dạng bản in với tranh minh họa của Suzunosuke vào tháng 6. Đến tháng 8 năm 2023, 7 tập được phát hành.
Vào tháng 6 năm 2021, Seven Seas Entertainment thông báo rằng họ đã cấp phép xuất bản tiếng Anh cho bộ truyện này.
Bản chuyển thể anime đã được công bố vào ngày 28 tháng 10 năm 2022. Nó được sản xuất bởi OLM với Nitta Norio làm đạo diễn, Akao Deko viết kịch bản , Kōno Hitomi thiết kế nhân vật và Nakamura Hanae, Saiki Tatsuhiko, Sakuma Kanade và Nakajima Junko soạn nhạc. Phim được công chiếu lần đầu vào ngày 7 tháng 7 năm 2023, trên Tokyo MX và các nền tảng khác. Bài hát mở đầu là của Tsukuyomi, trong khi bài hát kết thúc là "Pride" của ChoQMay. Sentai Filmworks đã cấp phép cho sê-ri và phát trực tuyến trên HIDIVE. Muse Communication cũng đã cấp phép cho loạt phim ở khu vực Châu Á-Thái Bình Dương.
Vào năm 2021, bản chuyển thể manga đã được đề cử cho giải Tsugi ni kuru Manga Taishō ở hạng mục web.
|
19820791 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19820791 | Tổng giáo phận Reims | Tổng giáo phận Reims (; ) là một tổng giáo phận của Giáo hội Latinh trực thuộc Giáo hội Công giáo Rôma ở Pháp. Tổng giáo phận tiền thân là một giáo phận được thành lập khoảng năm 250 bởi Thánh Xíttô thành Reims, và đã được nâng cấp thành một tổng giáo phận khoảng năm 750. Các đời tổng giám mục của tổng giáo phận đã được nhận tước hiệu "Giáo trưởng xứ Gallia Belgica" từ năm 1089.
|
19820792 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19820792 | DSK | Trần Đức Minh, nghệ danh là DSK, là một rapper người Việt Nam. Mặc dù anh không có xuất hiện nhiều trên báo chí hay mạng xã hội, không có những video triệu view nhưng anh được rất nhiều người Rapper và các fan nhạc rap kính nể.
DSK được sinh ra vào ngày 23 tháng 11 năm 1987 tại Hà Nội, Việt Nam. Anh cùng gia đình sống tại thành phố Hồ Chí Minh cho đến năm 13 tuổi. Sau đó anh theo gia đình sang Cộng Hòa Liên Bang Đức sinh sống và định cư. Tại đây cũng chính là nơi mà anh được tiếp xúc với văn hóa đường phố là Hip Hop và nhạc rap rồi nhận ra đây chính là đam mê của mình.
DSK là 1 trong 5 người sáng lập ra GRV – tổ chức Rap hàng đầu Việt Nam với những tên tuổi như: Linh Lam, Rhymastic, Lee7, BDT, NAH, Andree, Việt Dragon...
Năm 2020 trong cuộc cypher với sự góp mặt của Dế Choắt, Đạt Maniac và DSK. Đạt Maniac sau đó ngồi ghế nóng King of Rap, trong khi Dế Choắt dự thi Rap Việt và đã trở thành quán quân.
Một số bài rap thành công của DSK có thể kể đến như:
|
19820798 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19820798 | Khu lưu niệm Đại thi hào Nguyễn Du | Khu lưu niệm Đại thi hào Nguyễn Du là quần thể những di tích liên quan đến cuộc đời, sự nghiệp của Đại thi hào và dòng họ Nguyễn Tiên Điền. Các điểm di tích phân bố trên địa bàn xã Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh. Là một quần thể di tích vườn, mà ở đó vừa có sự tách bạch, vừa có sự liên hoàn trong một tổng thể không gian khép kín, là một trong những khu di tích đậm tính nguyên bản của sự mộc mạc của nét làng Việt cổ. Ngày 27/9/2012, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 1419/QĐ-TTg, xếp hạng Khu lưu niệm Đại thi hào Nguyễn Du là Di tích quốc gia đặc biệt.
Quần thể di tích gồm: Khu lưu niệm chính; Mộ đại thi hào Nguyễn Du; Đền thờ và mộ Nguyễn Nghiễm; Đền thờ Nguyễn Trọng; Khu lăng văn sự.
Cuối năm 2015, tại di tích Quốc gia đặc biệt này đã diễn ra các hoạt động kỷ niệm 250 năm ngày sinh của danh nhân văn hóa thế giới Nguyễn Du.
Nhà thờ Nguyễn Du: Năm 1824, Nguyễn Ngũ (con Nguyễn Du) cùng con cháu trong dòng họ đã đưa hài cốt danh nhân về nhà cải táng và lập đền thờ ngay trên khu vườn nhà cũ của ông tại xóm Tiền, thôn Lương Năng (thuộc thôn Hòa Thuận ngày nay). Đến năm 1940, nhà thờ bị xuống cấp, hội Khai trí Tiến đức hỗ trợ 420 quan tiền giao cho cụ nghè Nguyễn Mai (đậu tiến sĩ năm 1904) chỉ đạo và giám sát việc di dời về đặt trong khu vườn gia tộc họ Nguyễn Tiên Điền. Nhà thờ được xây dựng theo kiểu chữ đinh (gồm thượng điện và hạ điện), nội thất còn lưu lại bài vị bằng đá ghi tên hiệu, tuổi, tước vị (phẩm trật) của Nguyễn Du và lư hương phía ngoài còn lưu giữ được đôi câu đối quý giá của vua Minh Mệnh điếu Nguyễn Du lúc mất tại Huế. Năm 2011, thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia, nhà thờ Đại thi hào Nguyễn Du được nâng cấp (xây thêm một tòa nhà bằng gỗ trước đền thờ hội Khai trí Tiến đức xây năm 1940) và khánh thành vào dịp kỷ niệm 247 năm sinh của Người vào tháng 11 năm 2012.
Nhà Văn thánh - Bình văn":" (Tư văn 1 và 2). Trước đây là "Văn miếu" hàng huyện thờ Khổng Tử và bài vị các nhà khoa bảng huyện Nghi Xuân, ban đầu đặt ở xã Xuân Viên. Khoảng năm 1735, Nguyễn Nghiễm sau khi đậu tiến sỹ, nhân đó đã xây "Văn miếu" trong khu vườn của dòng họ Nguyễn Tiên Điền. Hàng năm cứ dịp xuân về các bậc túc nho trong vùng hội tụ về đây bình văn, ngâm thơ."Đàn tế, bia đá Nguyễn Quỳnh:" Năm 1762, sau khi Nguyễn Nghiễm được thăng chức Tể tướng, ông cùng con là Nguyễn Khản và em là Nguyễn Trọng, lập đàn tế, dựng bia đá tưởng nhớ công ơn sinh thành của cha là Nhuận quận công Nguyễn Quỳnh và mẹ là Phan Thị Minh. Lời khắc trên bia, mặt trước là sắc phong truy tặng phẩm trật của cụ Nguyễn Quỳnh và bà Phan Thị Minh, mặt sau có chữ "Phúc" và dòng lạc khoản ghi tên, hiệu, chức tước của Nguyễn Nghiễm và Nguyễn Khản.
Hai cây cổ thụ: Cây muỗm và cây bồ lỗ. Trước đây, ông nội Nguyễn Du có trồng 3 cây trong khu vườn gia tộc Nguyễn Tiên Điền vào khoảng những năm 1715-1720. Năm 1956, cây rỏi bị đổ. Nay chỉ còn cây muỗm và cây bồ lỗ. Đây là những cây có tuổi thọ lâu năm nhất trong Khu lưu niệm Nguyễn Du.
Không gian văn hóa Nguyễn Du: Được khởi công xây dựng vào năm 2000, thiết kế dựa theo ý tưởng kiến trúc đình làng Việt, gồm thư viện Nguyễn Du có diện tích 500 m2 với 1 phòng đọc đa chức năng; Hội trường nhà bảo tàng Nguyễn Du, trưng bày, giới thiệu 700 hiện vật quý hiếm liên quan đến cuộc đời, sự nghiệp của Nguyễn Du, dòng họ Nguyễn - Tiên Điền và trước tác "Truyện Kiều." Ngoài sân không gian văn hóa được đặt tượng đồng tượng trưng Nguyễn Du vào năm 2002. Năm 2010, Bộ Văn hóa - Thể thao và Du lịch đã xây dựng lắp đặt trung tâm Trung tâm ngân hàng dữ liệu di sản văn hóa tại đây.
Năm 1820, Nguyễn Du mất tại kinh đô Huế vào ngày 10 tháng 8 năm Canh Thìn (ngày 16/9/1820), thọ 55 tuổi. Mộ được an táng tại cách đồng Bàu Đá, xã An Ninh, huyện Quảng Điền, tình Thừa Thiên, gần kinh thành Huế. Năm 1824, con là Nguyễn Ngũ và cháu là Nguyễn Thắng vào kinh đô cất bốc di dời làm thủ tục cải táng trong vườn nhà cũ tại xóm Tiền, thôn Lương Năng (nay là thôn Hòa Thuận). Năm 1826, Nguyễn Ngũ lại xin dòng họ dịch chuyển ra cách đó 500 m. Thời gian sau khoảng đầu thế kỷ XX, lại được con cháu chuyển ra khu nghĩa trang tại xứ Đồng Cùng, thuộc thôn Tiền Giáp. Ban đầu mộ được xây bằng gạch chỉ. Năm 1965, Giáo sư Đặng Thai Mai và lớp học trò từ Hà Nội vào đặt mộ chí bằng đá: "Tiên Điền, Nguyễn Du tiên sinh chi mộ". Năm 2005, khu mộ Đại thi hào được nâng cấp khang trang hơn. Năm 2015, để kỷ niệm 250 năm ngày sinh, khu mộ Đại thi hào Nguyễn Du Năm 1965, Giáo sư Đặng Thai Mai và lớp học trò từ Hà Nội vào đặt mộ chí bằng đá: "Tiên Điền, Nguyễn Du tiên sinh chi mộ". Năm 2005, khu mộ Đại thi hào được nâng cấp khang trang hơn. Năm 2015, để kỷ niệm 250 năm ngày sinh, khu mộ Đại thi hào Nguyễn Du được ốp đá.
Ở Giáp Tiền, thôn Lương Năng, làng Tiên Điền, là nơi Nguyễn Du ở ẩn trong khoảng 6 năm (1796 - 1802) và là nơi nghỉ dưỡng lúc về quê khi đang làm quan với nhà Nguyễn. Trước đây, ngôi nhà cũ có nhà chính, nhà ngang làm bằng gỗ, kết cấu 3 gian lợp ngói ta, sau khi đại thi hào mất, ngôi nhà được dùng làm nhà thờ. Khoảng năm 1934 -1935 bị hỏng, năm 1940, Hội Khai trí Tiến đức xây đền thờ Nguyễn Du trong vườn cũ của họ Nguyễn tại thôn Hồng Lam ngày nay (nhà thờ hiện tại). Năm 1960 - 1965, Bộ Văn hóa và tỉnh Hà Tĩnh có chủ trương quy hoạch khu vườn cũ, đưa phần mộ của đại thi hào ở khu vực Đồng Cùng về tại đây nhưng kế hoạch không được thực hiện. Hiện nay khu vườn cũ nằm trong khuôn viên sân trường tiểu học Tiên Điền và trên vườn cũ còn dấu tích có một cây đại cổ thụ mà tương truyền chính Nguyễn Du trồng.
Ông là con trai thứ 2 của Lĩnh Nam Công Nguyễn Quỳnh và là thân phụ Đại thi hào Nguyễn Du. Ông là nhà chính trị, nhà giáo dục, nhà sử học uyên bác và là người đứng đầu về cử nghiệp, khoa bảng của họ Nguyễn - Tiên Điền. Ông đậu tiến sỹ năm 1731, làm Tế tửu Quốc tử giám năm 1742, năm 1762 được thăng Tể tướng và có gần 50 năm hoạt động trên chính trường Lê - Trịnh, dù ở ngoài làm tướng võ cầm quân, trong triều làm tướng văn trị nước, ở chức nào Nguyễn Nghiễm cũng nổi tiếng tài giỏi và để lại nhiều trước tác có giá trị như "Quân trung liên vịnh", "Xuân Đình tập vịnh", "Cổ lễ nhạc thi văn" và bài phú "Khổng tử mộng Chu công". Đền thờ được xây dựng khi ông còn sống (sinh từ) thuộc thôn Bảo Kệ, xã Tiên Điền.
Các đồ thờ tự trong đền phần lớn bằng chất liệu đá Thanh. Trước cửa đền đặt ngựa đá, voi đá và tượng tướng quân cầm binh khí túc trực nghiêm trang. Kính trọng và ngưỡng mộ đức tài của Nguyễn Nghiễm, nhân dân thường gọi là đền thờ Đức Đại vương Hai.
Ông sinh năm 1710, mất năm 1789, là người giỏi về văn thơ, y, lý, số, đặc biệt là y học. Đền thờ Nguyễn Trọng được xây dựng khi ông còn sống ở thôn Tiên Quang, xã Tiên Điền ngày nay. Trong khuôn viên còn có mộ phần của ông. Kiến trúc đền thờ đơn giản, trong nội thất còn giữ lại nhiều đồ tế khí, hoành phi, câu đối có giá trị. Trước đền thờ có voi, ngựa đá, tượng người bằng gỗ, đặc biệt có tấm bia: "Tích thiện gia huấn", ghi lời dạy của ông cho con cháu trong nhà và các thế hệ đời sau.
Lăng văn sự trước đây nằm gần bờ sông Lam, thuộc giáp Đông, thôn Lương Năng. Là mộ tổ đời thứ 3 của họ Nguyễn Tiên Điền, mộ của Thuật Hiên Công Nguyễn Khản (anh cùng cha khác mẹ của Đại thi hào Nguyễn Du) từng là trụ cột của triều đình. Do sạt lở nên khu mộ được chuyển vào chỗ hiện nay, cách vị trí cũ 200 m. Khu lăng mới có diện tích 120 m, xây tường bao quanh, cổng vào đắp cuốn thư với 4 chữ "địa linh nhân kiệt" (đất thiêng người tài). Khu lăng hiện nay có các ngôi mộ: Nguyễn Thể (bố Nguyễn Quỳnh), Thuật Hiên Công Nguyễn Khản, Phương Trạch hầu Nguyễn Ổn, Chính thất Lê quý thị (vợ Phương Trạch hầu), tiến sỹ Giới Hiên Công Nguyễn Huệ (bác ruột Nguyễn Du) và Chính thất Nguyễn quý thị (vợ Nguyễn Huệ).
Ngày 20/12/2013, Thủ tướng Chính phủ có Quyết định số 2542/QĐ-TTg, phê duyệt Quy hoạch tổng thể bảo tồn, tôn tạo Khu lưu niệm Nguyễn Du, (huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh) với phạm vi nghiên cứu xác định khoảng 340 ha.
Khu lưu niệm Đại thi hào Nguyễn Du nằm cạnh Quốc lộ 8B, cách Thành phố Vinh 7km, cách Thành phố Hà Tĩnh 50km, cách Cầu Cửa Hội 12km. Đường sá đi lại thuận tiện.
|
19820799 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19820799 | VieZ.vn | VieZ.vn là một Trang thông tin điện tử tổng hợp được cung cấp bởi Công ty cổ phần VieZ trực thuộc Tổ hợp Đất Việt VAC tại Việt Nam. Trang báo được phát hành vào năm 2020,Chỉ sau hơn 6 tháng đẩy mạnh phát triển về số, VieZ.vn đã ghi nhận lượng người dùng truy cập hàng tháng đạt trung bình hơn 3 triệu users, nằm trong Top 60 Market Leader của toàn ngành Online News Publishing tại Việt Nam (số liệu của SimilarWeb) và sự ra mắt của Z.FutureNow, VieZ.REMIX để phục vụ độc giả
Trang VieZ.vn được lên kế hoạch phát triển vào năm 2016, Chỉ sau hơn 6 tháng đẩy mạnh phát triển về số, VieZ.vn đã ghi nhận lượng người dùng truy cập hàng tháng đạt trung bình hơn 3 triệu users, nằm trong Top 60 Market Leader của toàn ngành Online News Publishing tại Việt Nam (số liệu của SimilarWeb).
. VieZ chính thức được tập đoàn Đất Việt VAC phát hành vào ngày 02 tháng 6 năm 2020.
Niềm tự hào 2022 của VieZ còn nằm ở "VieZ.REMIX – Vũ trụ nhạc phiêu". Sự kiện này đưa VieZ thành thương hiệu báo chí đầu tiên tại Việt Nam tự sản xuất một chương trình live concert âm nhạc từ original format của mình. Sân chơi hội hè âm nhạc dành cho các tài năng trẻ và giao thoa thế hệ này dự kiến diễn ra hàng quý từ năm 2023.
Tháng 12/2022, còn đánh dấu sự xuất hiện của VieZ App - Read The Future, giúp thay đổi thói quen đọc thông tin giải trí của người trẻ trên app. Được biết, năm 2023, VieZ App sẽ là sản phẩm chủ lực trong chiến lược phát triển dài hạn của VieZ và DatVietVAC. Hiện tại, phiên bản beta của app đã có mặt trên Apple Store và Android.
VieZ.vn trở thành trang thông tin điện tử sở hữu những nền tảng social media có tốc độ tăng trưởng mạnh mẽ nhất thị trường.
CÁC CON SỐ ẤN TƯỢNG
Top 30 Social Leaders của toàn ngành Online News Publishing
Kênh Tiktok VieZ đã vượt mốc 1 tỷ views và giữ mức tăng trưởng trung bình hơn 1000% từ tháng 5 đến nay.
Trang Facebook VieZ.vn được ghi nhận có tỉ lệ interaction trung bình đứng thứ 1 trong số các đối thủ (số liệu của Crowdtangle).
Nội dung được triển khai với các tiêu chí:
Tốc độ, Tiên phong, Độc quyền, Hiệu quả, Tương tác, Phản biện thông qua hệ thống Social Media (Facebook, Tiktok) có tỉ lệ tương tác cao nhất Top 1 trong thị trường trang thông tin điện tử giải trí dành cho giới trẻ (theo số liệu Crowdtangle).
THÔNG TIN TRAFFIC VIEZ.VN
Pageview: 50 triệu
Users: 30 triệu
Visits: 35,4 triệu
Time on site: 00:02:17
Nội dung được triển khai với các tiêu chí:
Tốc độ, Tiên phong, Độc quyền, Hiệu quả, Tương tác, Phản biện thông qua hệ thống Social Media (Facebook, Tiktok) có tỉ lệ tương tác cao nhất Top 1 trong thị trường trang thông tin điện tử giải trí dành cho giới trẻ (theo số liệu Crowdtangle).
• Chị K. showbiz - Bé Tư hoa hậu
• V132 Calling hoặc "I Do"
• Khoan đã...
• Là Ai Zị?
• VieZ Mở
• VieZ Special: Real & Raw
• VieZ.Remix
• Có Z ở hậu trường
• Z.FutureNow
|
19820807 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19820807 | Các vị trí trong bóng chày | Trong môn thể thao bóng chày, mỗi người trong số chín cầu thủ của một đội được chỉ định một vị trí phòng ngự trên sân cụ thể khi đội của họ đang trong lượt phòng ngự của hiệp đấu. Mỗi vị trí sẽ được đánh số tương ứng để sử dụng bởi người phụ trách ghi lại tỉ số trận đấu, để cầu thủ ghi điểm chính thức sử dụng trong việc ghi điểm, bao gồm: 1 - cầu thủ giao bóng (pitcher), 2 - cầu thủ bắt bóng (catcher) , 3 - cầu thủ chốt 1 (first baseman), 4 - cầu thủ chốt 2 (second baseman), 5 - cầu thủ chốt 3 (third baseman), 6 - cầu thủ chặn ngặn (shortstop), 7 - cầu thủ trái ngoài (left fielder), 8 - cầu thủ giữa ngoài (center fielder) và 9 - cầu thủ phải ngoài (right fielder). Các vị trí này thường được chia thành ba nhóm: cầu thủ sân ngoài (trái ngoài, giữa ngoài, phải ngoài, cầu thủ sân trong (chốt 1, chốt 2, chốt 3, chặn ngắn) và battery (cầu thủ giao bóng và bắt bóng). Thông thường, cầu thủ trong mỗi nhóm có thể thay đổi vị trí linh hoạt (ví dụ như chốt 2 có thể chơi chặn ngắn, giữa ngoài có thể chơi phải ngoài). Tuy nhiên, cầu thủ phát bóng và cầu thủ bắt bóng là những vị trí đặc thù và hiếm khi chơi ở các vị trí khác.
Cầu thủ phòng ngự trên sân phải có khả năng bắt bóng tốt. Cầu thủ phải bắt được bóng đã bị đánh trước khi chúng chạm đất để loại cầu thủ đánh bóng (out), cũng như tạo cơ hội để chặn và loại cầu thủ chạy chốt (putout).
Ngoài ra, vị trí này cũng phải có khả năng ném bóng tốt, cầu thủ phòng ngự phải bắt bóng đã bị đánh trúng rồi rồi ném cho một cầu thủ phòng ngự khác, cầu thủ này có thể cầm bóng tay không hoặc bằng găng của họ. Lúc này, họ phải chạm vào cầu thủ đang chạy chốt hoặc chạm vào chốt nhanh hơn cầu thủ đang muốn chiếm chốt đó để loại.
Cầu thủ phòng ngự thường phải bứt tốc, đổ người và xoạc một cách nhanh chóng để lấy được bóng đã được đánh để luân chuyển bóng tới những cầu thủ phòng ngự khác. Họ cũng có nguy cơ va chạm mạnh với cầu thủ chạy chốt khi cố gắng chạm (tag out) để loại cầu thủ đó tại chốt.
Cầu thủ phòng ngự có nhiều nhiệm vụ khác nhau tùy thuộc vào tình hình trận đấu. Ví dụ, khi một cầu thủ sân ngoài cố gắng ném bóng từ gần hàng rào đến một trong các chốt, cầu thủ sân trong đóng vai trò như một "trạm chung chuyển" tiếp nhận bóng và đưa bóng tới nơi cần đến.
Cùng với nhau, cầu thủ sân ngoài có trách nhiệm ngăn chặn home run bằng cách vươn lên trên hàng rào (và có khả năng thực hiện động tác leo tường) để bắt lấy bóng đã bị đánh lên trên không trung. Cầu thủ sân trong có nhiệm vụ chạm vào (tag) chốt hoặc cầu thủ chạy chốt, đồng thời cũng cần phản xạ nhanh để bắt được bóng đã bị đánh trước khi bóng rời khỏi sân trong. Cầu thủ giao bóng và bắt bóng có trách nhiệm đặc biệt trong việc ngăn chặn cướp chốt, vì họ là những người xử lý bóng khi bóng chưa được đánh. Cầu thủ bắt bóng đôi khi cũng sẽ cố gắng chặn đĩa nhà để ngăn đội bạn ghi điểm.
|
19820809 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19820809 | Dư Hoa | Dư Hoa () sinh ngày 3 tháng 4 năm 1960 tại Hàng Châu, Chiết Giang, là nhà văn đương đại tại Trung Quốc. Bắt đầu nổi lên từ những năm 80 của thế kỉ XX, Dư Hoa được biết là một trong những cây bút tiêu biểu của phong trào "truyện ngắn tiên phong". Từ những năm 90 của thế kỉ trước, những bộ tiểu thuyết của Dư Hoa lần lượt được xuất bản cho thấy sự chuyển hướng trong sáng tạo, thể hiện sự tìm tòi lối đi riêng của ông. Trải qua ba thập niên sáng tác, Dư Hoa để lại một dấu ấn đậm nét trên nền văn học đương đại, phản chiếu sinh động những chuyển biến trong đời sống tư tưởng của thời đại cũng như diện mạo của văn học Trung Quốc từ khi tiến hành Cải cách và mở cửa.
|
19820811 | https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19820811 | Nickel(III) fluoride | Nickel(III) floride là hợp chất hóa học có công thức NiF. Nó là một hợp chất ion của nickel và fluor.
Nickel(III) fluoride có thể được điều chế bằng phản ứng của kali hexafluoronickelat(IV) với arsenic pentafluoride trong acid hydrofluoric.
|