Phiên âm
stringlengths
17
308
Dịch nghĩa
stringlengths
33
255
__index_level_0__
int64
0
13.7k
nghi văn bễ thị bất vong bản.
xăm rồng vào đùi để tỏ là không quên gốc”.
607
Thời, văn thích công dĩ hậu mệnh cung môn ngoại.
Bấy giờ thợ xăm đã đợi mệnh ở ngoài cửa cung.
608
Đế tứ Thượng hoàng tha cố tức hồi Trùng Hoa cung.
Vua rình lúc Thượng hoàng quay nhìn chỗ khác, về ngay cung Trùng Hoa.
609
Lương cửu, Thượng hoàng vấn: Quan Gia hà tại, tả hữu đối viết: dĩ hồi Trùng Hoa cung hĩ.
Một lúc lâu, Thượng hoàng hỏi Quan gia đâu rồi, các quan tả hữu thưa là đã về cung Trùng Hoa.
610
Thượng hoàng viết: Quan Gia dĩ độn gia? tắc văn thích Huệ Vũ Quốc Chẩn.
Thượng hoàng bảo: “Quan gia đã trốn rồi chăng? thì xăm cho Huệ Vũ Quốc Chẩn vậy”.
611
Quốc phụ bễ gian hữu long toa chi thích thị hậu tự hoàng vô văn bễ do Anh Tông thuỷ.
Quốc phụ có xăm hình rồng ở đùi, mà về sau nối ngôi không xăm ở đùi nữa là bắt đầu từ Anh Tông.
612
Mỗi dạ thừa khiên dư dữ thị vệ thập số nhân biến lịch kì nội, kê minh nãi hoàn cung.
Vua thích vi hành, cứ đêm đến, lại lên kiệu, cùng với hơn chục thị vệ đi khắp trong kinh kỳ, gà gáy mới trở về cung.
613
Thường dạ xuất chí quân phường, vô lại bối phao chuyên.
Có đêm, ra đến quân phường, bị bọn vô lại ném gạch
614
Nhất nhật, Thượng hoàng kiến Đế thủ sang ngân, cật chi cụ, dĩ thực đối.
Một hôm, thượng hoàng thấy đầu vua có vết thương, vặn hỏi, vua cứ thực mà thưa.
617
Ấn hành Phật giáo pháp sự đạo trường tân văn, cập công văn, cách thức phân thiên hạ .
In các sách Phật giáo pháp sư, Đạo trường tân văn và Công văn cách thức ban hành trong cả nước.
619
Chiếu thiên hạ sĩ nhân tập học nghiệp đãi thí .
Xuống chiếu cho sĩ nhân trong nước ôn luyện để đợi thi.
620
Dĩ Nội quan Trần Hùng Thao tham tri chính sự đồng tri Thánh Từ cung tả ti sự.
Trần Hùng Thao làm Tham tri chính sự, đồng tri Thánh Từ cung tả ty sự.
621
Hậu toạ phê bạ xuất nhân tội bãi.
Sau Hùng Thao can tội phê án tha người nên bãi chức.
622
Canh Tí bát niên, xuân chính nguyệt, nhị thập thất nhật, địa chấn giả tam tự Thân chí Tí chỉ .
Mùa xuân, tháng giêng, ngày 27, động đất 3 lần, suốt từ giờ thân đến giờ tý mới thôi.
623
châu nữ hữu tư sắc giả vi cơ thiếp, cố kì thứ tử Huệ Nghĩa, Quốc Trinh đẳng giai Diễn Châu nữ sở xuất.
con gái đẹp trong châu làm vợ lẽ nàng hầu, nên các con thứ như Huệ Nghĩa, Quốc Trinh đều do các bà Diễn Châu sinh ra.
626
Quyết hậu, Diễn Châu tri châu giai dĩ Quốc Khang tử tôn vi chi.
Về sau chức Tri châu Diễn Châu đều do con cháu Quốc Khang làm cả.
627
Cập miêu duệ chi tự, thuỷ dụng châu nhân lị sự .
Đến khi dòng giống thiếu người nối dõi, mới dùng người trong châu làm chức ấy.
628
Ngũ nguyệt thập, lục nhật,, chiếu phàm triều ban văn võ giai hữu phê tự nhi vô trướng hạ ấn giả giảm nhất tư kích tặc chi công bất giảm .
Tháng 5, ngày 16, xuống chiếu rằng các quan văn võ trong triều ai mới có chữ phê mà không có ấn trướng hạ thì phải giảm 1 tư, người có công đánh dẹp thì không phải giảm .
630
Hồng lộ phụ nữ sinh nam lưỡng đầu .
Người đàn bà lộ Hồng đẻ một con trai có hai đầu.
631
Đế hạnh kì đệ vấn viết: Như hữu bất huý Bắc khấu lai xâm, kì sách an tại? Đối viết: Tích Triệu Vũ lập quốc, Hán Đế gia binh tiểu dân thanh dã, đại quân xuất Liêm, Khâm kích Trường Sa, đoản binh phức hậu thử.
Vương trả lời: “Ngày xưa Triệu Vũ dựng nước, vua Hán cho quân đánh, nhân dân làm kế “thanh dã” , đại quân ra Khâm Châu, Liêm Châu đánh vào Trường Sa, còn đoản binh thì đánh úp phía sau.
634
Đinh Lê chi thế bạt đắc hiền lương, Nam địa tân cường, Bắc phương bì nhược, thượng hạ đồng dục, dân tâm bất li, trúc Bình Lỗ thành nhi phá Tống quân.
Đời Đinh, Lê dùng người tài giỏi, đất phương Nam mới mạnh mà phương Bắc thì mệt mỏi suy yếu, trên dưới một dạ, lòng dân không lìa, xây thành Bình Lỗ mà phá được quân Tống.
636
Thiên sử nhiên dã, Đại khái bỉ thị trường trận, ngã thị đoản binh.
Đại khái, nó cậy trường trận, ta dựa vào đoản binh.
637
Dĩ đoản chế trường, binh pháp chi thường dã.
Dùng đoản chế trường là sự thường của binh pháp.
638
Chỉ kiến bỉ quân biến chí như hoả, như phong, kì thế dị chế.
Nếu chỉ thấy quân nó kéo đến như lửa, như gió thì thế dễ chế ngự.
639
Nhược dụng tàm thực hoãn hành bất vụ, dân tài bất cầu, tốc thắng tắc bạt, dụng lương tướng quan kì quyền biến như vi mỗ, nhiên, tuỳ thời chế chi thu đắc phụ tử chi binh, thuỷ khả dụng dã.
Nếu nó tiến chậm như các tằm ăn, không cầu thắng chóng, thì phải chọn dùng tướng giỏi, xem xét quyền biến, như đánh cờ vậy, tuỳ thời tạo thế, cóđược đội quân một lòng như cha con thì mới dùng được.
640
dĩ vi thâm căn cố đế chi kế, thử thủ quốc chi thượng sách dã.
để làm kế sâu rễ bền gốc, đó là thượng sách giữ nước vậy”.
642
Quốc Tuấn An Sinh vương tử, sơ, sinh thời tướng giả kiến chi viết: Tha nhật khả kinh bang tế thế.
Quốc Tuấn là con Yên Sinh Vương, lúc mới sinh ra, có một thầy tướng xem cho và bảo: “ ngày sau có thể giúp nước cứu đời”.
643
Cập trưởng, dung mạo hoàn vĩ, thông minh quá nhân, bác tập quần thư, hữu văn võ tài.
Đến khi lớn lên, dung mạo khôi ngô, thông minh hơn người, đọc rộng các sách, có tài văn võ.
644
An sinh Vương sơ dữ Chiêu Lăng hữu khích, tâm hoài ưởng ưởng biến cầu nghệ năng chi sĩ dĩ huấn Quốc Tuấn.
Yên Sinh Vương trước đây vốn có hiềm khích với Chiêu Lăng , mang lòng hậm hực, tìm khắp những người tài nghệ để dạy Quốc Tuấn.
645
An Sinh tương chung chấp Quốc Tuấn thủ chúc viết: Nhữ bất năng vi ngã đắc thiên hạ, ngã tử địa hạ bất minh mục.
Lúc sắp mất, Yên Sinh cầm tay Quốc Tuấn giối giăng rằng: “Con không vì cha lấy được thiên hạ, thì cha chết dưới suối vàng cũng không nhắm mắt được?.
646
Quốc Tuấn trí chi vu hoài, nhi bất dĩ vi nhiên.
Quốc Tuấn ghi điều đó trong lòng, nhưng không cho là phải.
647
Cập thiên hạ bản đãng, quân quốc chi bính, tự kỷ xuất dĩ phụ ngôn, cáo gia nô Dã Tượng, Yết Kiêu.
Đến khi vận nước lung lay, quyền quân quyền nước đều do ở mình, ông đem lời cha dặn nói với gia nô là Dã Tượng, Yết Kiêu.
648
Nhị nô chỉ chi viết: Vi thử kế giả tuy phú quý nhất thời nhi danh xú lưu ư thiên tải.
Hai người gia nô can ông: “Làm kế ấy tuy được phú quý một thời nhưng để lại tiếng xấu ngàn năm.
649
nguyện vi vô trung hiếu chi quan, dĩ đồ dương Thuyết vi sư nhĩ.
muốn làm quan mà không có trung hiếu, chỉ xin lấy người làm thịt dê là Duyệt làm thầy mà thôi .
650
Quốc Tuấn cảm khấp, gia thán chi.
Quốc Tuấn cảm phục đến khóc, khen ngợi hai người.
651
Hựu nhất nhật dĩ vấn thứ tử Hưng Nhượng vương Quốc Tảng.
Lại một hôm Quốc Tuấn đem chuyện ấy hỏi người con thứ là Hưng Nhượng Vương Quốc Tảng.
652
Quốc Tảng xu tiến viết: Tống Thái Tổ điền xá ông dã thừa thời hưng vận dĩ hữu thiên hạ.
Quốc Tảng tiến lên thưa: “Tống Thái Tổ vốn là một ông lão làm ruộng, đã thừa cơ dấy vận nên có được thiên hạ” .
653
Hưng Vũ văn chi, xu xuất thế khấp phục tội, nãi thích chi.
Hưng Vũ Vương trả lời: “Dẫu khác họ cũng không nên, huống chi là cùng một họ!”.
654
Chí thị, cáo Hưng Vũ Vương viết: Ngã tử hậu cái quan định thuỷ hứa Quốc Tảng nhập lâm .
Đến đây, ông dặn Hưng Vũ Vương: “Sau khi ta chết, đậy nắp quan tài đã rồi mới cho Quốc Tảng vào viếng”.
655
Thu bát nguyệt, nhị thập nhật, Hưng Đạo Đại Vương Quốc Tuấn tốt ư Vạn Kiếp đệ.
Mùa thu, tháng 8, ngày 20, Hưng Đạo Vương Quốc Tuấn mất ở phủ đệ
656
thượng phụ thượng quốc công Nhân Vũ Hưng Đạo Đại Vương.
thượng phụ thượng quốc công Nhân Vũ Hưng Đạo Đại Vương.
657
Thánh Tông thường chế sinh từ bi văn dĩ nghĩ Thượng phụ.
Thánh Tông có soạn bài văn bia ở sinh từ , ví ông với Thượng phụ .
658
Hựu dĩ kì hữu đại huân lao, gia Thượng Quốc Công hứa chuyên dữ tước tự Minh tự dĩ hạ duy hầu trật tiên dữ hậu tấu.
Lại vì ông có công lao lớn, gia phong là Thượng quốc công, cho phép ông được quyền phong tước cho người khác, từ minh tự trở xuống, chỉ có tước hầu thì phong tước rồi tâu sau.
659
Nhi Quốc Tuấn vị thường dữ nhất nhân tước dã.
Nhưng Quốc Tuấn chưa bao giờ phong tước cho một người nào.
660
Cái Quốc Tuấn lĩnh Lạng Giang, Nguyên nhân lưỡng độ nhập khấu, lũ bại kì binh, lự hậu lai hoặc hữu phát quật chi hoạn.
Quốc Tuấn giữ Lạng Giang, người Nguyên hai lần vào cướp, ông liên tiếp đánh bại chúng, sợ sau này có thể xảy ra tai hoạ đào mả chăng.
661
Kì lự thân hậu kế hựu như thử.
Ông lo nghĩ tới việc sau khi mất lại như thế đấy.
662
Cố Trùng Hưng gian hữu bất thế chi công.
Vì thế, đời Trùng Hưng, lập nên công nghiệp hiếm có.
663
Danh văn Bắc Lỗ mỗi xưng An Nam Hưng Đạo Vương nhi bất danh.
Tiếng vang đến giặc Bắc, chúng thường gọi ông là An Nam Hưng Đạo Vương mà không dám gọi tên.
664
Một hậu Lạng giang châu huyện tai chẩn nhân đa đảo chi.
Sau khi mất rồi, các châu huyện ở Lạng Giang hễ có tai nạn bệnh dịch, nhiều người cầu đảo ông.
665
Huống dư dữ nhữ đẳng sinh ư nhiễu nhương chi thu, trưởng ư gian nan chi tế, thiết kiến nguỵ sứ vãng lai đạo đồ bàng ngọ trạo kiêu điểu chi thốn thiệt nhi lăng nhục triều đình uỷ khuyển dương chi xích khu nhi cự ngạo tể phụ.
Huống chi ta cùng các ngươi, sinh ra phải thời rối ren, lớn lên gặp buổi khó nhọc, ngó thấy sứ giặc đi lại nghênh ngang ngoài đường, uốn tấc lưỡi cú diều mà lăng nhục triều đình, ỷ cái thân dê chó mà bắt nạt tể phụ.
668
Thác Hốt Tất Liệt chi mệnh nhi sách ngọc bạch dĩ sự vô dĩ chi tru.
Thác lênh Hốt Tất Liệt mà đòi ngọc lụa để thoả lòng tham khôn cùng,
669
cầu giả Vân Nam Vương chi hiệu nhi nhu kim ngân dĩ kiệt hữu hạn chi thảng khố.
giả hiệu Vân Nam Vương mà thu bạc vàng, để vét của kho có hạn.
670
Thí do dĩ nhục đầu nỗi hổ ninh năng miễn di hậu hoạn dã tai.
Thật khác nào ném thịt cho hổ đói, giữ sao cho khỏi tai vạ về sau!.
671
Đương thử chi thời nhữ đẳng tuy dục tứ kì ngu lạc đắc hồ.
Lúc bấy giờ, chúa tôi nhà ta đều bị bắt, đau xót biết dường nào!
674
Nhữ đẳng hoặc năng chuyên tập thị thư, thụ dư giáo hối thị túc thế chi thần chủ dã, hoặc bạo khí thị thư, vi dư giáo hối thị túc thế chi cừu thù dã.
Các ngươi nếu biết chuyên tập tập sách, theo lời ta dạy bảo, thì trọn đời là tôi chủ, nhược bằng khinh bỏ sách này, trái lời ta dạy bảo, thì trọn đời là cừu thù.
677
Cố dục nhữ đẳng minh tri dư tâm nhân bút dĩ hịch vân.
Cho nên, ta viết bài hịch này để các ngươi biết rõ lòng ta!:.
679
Hựu tập chư gia binh pháp vi bát quái cửu cung đồ danh viết Vạn Kiếp tông bí truyền thư.
Quốc Tuấnlại sưu tập binh pháp các nhà, làm thành Bát quái cửu cung đồ, đặt tên là Vạn Kiếp tông bí truyền thư.
680
Nhân Huệ Vương Khánh Dư tự chi viết: Phu thiện sư giả bất trận thiện trận giả bất chiến, thiện chiến giả bất bại, thiện bại giả bất tử.
Nhân Huệ Vương Khánh Dư viết bài tựa cho sách ấy như sau: “Người giỏi cầm quân thì không cần bày trận, người giỏi bày trận thì không cần phải đánh, người giỏi đánh thì không thua, người khéo thua thì không chết.
681
sư nhi nhân bất can kì mệnh cập Chu Vũ Thành vi Văn Vũ sư âm mưu tu đức dĩ khuynh Thương chính nhi Hưng vương nghiệp, sở vị thiện sư giả bất trận hĩ.
sư mà không ai dám trái mệnh, đến Vũ Vương, Thành Vương nhà Chu làm tướng cho Văn Vương, Vũ Vương , ngầm lo sửa đức, để lật đổ nhà Thương mà dấy nên vương nghiệp, thế là người giỏi cầm quân thì không cần phải bày trận vậy.
683
dị Như Lí Thuyên tắc định kì suy hậu nhân bất năng hiểu kì nghĩa.
Như Lý Thuyên có soạn những điều suy diễn của mình, những người đời sau cũng không hiểu ý nghĩa.
685
Nhật duật dĩ trưởng tử danh Thánh An, nữ tử danh Thánh Nô, nãi mệnh hoàng tử danh Thánh Sinh, cái dục dĩ kỷ tử danh tương tự dã Hoàng tử tự ấu bảo dục chí trạch đế vị Nhật duật điều hộ chi công vi đa .
Nhật Duật nghĩ rằng con trưởng của mình tên là Thánh An, con gái tên là Thánh Nô, mới đặt tên cho hoàng tử là Thánh Sinh, vì muốn [tên hoàng tử[cũng giống với tên con mình.
687
Văn võ quan bất đắc trước xiêm, tụng quan bất đắc trước thường,.
Các quan văn võ không được mặc xiêm, tụng quan không được mặc thường .
688
Tân Sửu cửu niên, xuân chính nguyệt, chiếu văn võ kim đái đinh tự cân gia tử tu gian bích .
Mùa xuân, tháng giêng, xuống chiếu rằng các quan văn võ đều đội mũ chữ đinh, thêm miếng lụa bọc tóc màu tía xen màu biếc.
689
Thiên Trân công chúa giá Uy Túc công Văn Bích.
Gả công chúa Thiên Trân cho Uy Túc công Văn Bích
690
Tam nguyệt, thượng hoàng du phương hạnh Chiêm Thành .
Tháng 3, Thượng hoàng vân du các nơi, sang Chiêm Thành.
693
Phong Hưng Nhượng Đại Vương trưởng tử Quang Triều vi Văn Huệ Vương .
Phong con trưởng của Hưng Nhượng Đại Vương là Quang Triều làm Văn Huệ Vương.
695
Cựu chế, tân vương nhập tướng phục xưng Quốc công, thượng hầu nhập nội đình tắc gia Quan nội hầu .
Theo quy chế cũ: Tân vương vào làm tể tướng thì gọi là Quốc công thượng hầu, nếu vào nội đình thì gia phong Quan nội hầu.
697
Thời, hữu Bắc phương đạo sĩ Hứa Tông Đạo tuỳ thương bách lai cư chi An Hoa giang tân.
Bấy giờ có người đạo sĩ phương Bắc là Hứa Tông Đạo theo thuyền buôn sang ta, cho ở bến sông Yên Hoa .
698
phủ kiến Vô Lượng Pháp hội ư Phổ Minh tự, thí kim ngân tiền bạch chẩn cấp thiên hạ bần dân, cập thụ Giới thí kinh .
mở hội Vô lượng pháp ở chùa Phổ Minh, bố thí vàng bạc tiền lụa để chẩn cấp dân nghèo trong nước và giảng kinh Giới thí.
699
Nhị nguyệt, dĩ Đô áp nha thượng vị Chiêu Hoài hầu Hiện vi Nhập nội phụ quốc thái bảo .
Tháng 2, lấy Đô áp nha thượng vị Chiêu Hoài hầu Hiện làm Nhập nội phụ quốc thái bảo.
700
Đông thập nguyệt, chế vương hầu cân trường phát đái triều thiên cân đoản phát đái bao cân .
Mùa đông, tháng 10, quy định kiểu mũ của vương hầu: người tóc dài đội mũ triều thiên, người tóc ngắn đội mũ bao.
701
Dĩ Trần Khắc Chung vi Nhập nội đại hành khiển .
Lấy Trần Khắc Chung làm Nhập nội đại hành khiển.
702
kiến Thượng hoàng dữ ngữ tiềm giác di thời.
Thượng hoàng nói chuyện với Nhữ Hài có đến một giờ.
704
Giá hồi, vị tả hữu viết: Nhữ Hài tín thiện sĩ, nghi kì mông Quan gia sử lệnh dã.
Khi trở về, Thượng hoàng bảo tả hữu: “Nhữ Hài đúng là người giỏi, hắn được Quan gia sai khiến là phải”.
705
Tiên thị, ngã quốc sứ chí Chiêm Thành giai tiên bái quốc chủ nhi hậu khai chiếu.
Trước đây, sứ nước ta tới Chiêm Thành, đều lạy chúa Chiêm trước, rồi sau mới mở chiếu thư.
706
Thời, quốc chủ tại trắc tắc kì bái vị miễn thiếu hiềm nhiên dĩ bái chiếu nhi ngôn tắc ư lí vi thuận nhi sứ tiết diệc vi bất khuất hĩ.
Lúc ấy, chúa Chiêm đứng bên cạnh, lạy thế không khỏi có chút chưa ổn, nhưng lấy cớ mà lạy chiếu thư thì về lý là thuận, mà sứ tiết cũng không phải khuất.
708
Thứ nhật, Nhữ Hài ư Tì Ni huyền cấm thương bảng tuyên độc hất huyền chi những triệu tân lại cáo viết: Thử xứ thương giá tụ tạp hựu đương yếu tân chi xung nan ư thủ hộ.
Hôm sau, Nhữ Hài treo bảng cấm buôn bán ở Tỳ Ni , tuyên đọc xong, treo bảng lên, lại gọi viên coi cảng đến bảo: “Chỗ này người buôn bán tụ họp phức tạp, lại là bến tàu xung yếu, khó giữ gìn,
709
sứ hồi, lang thu kì bảng vô đắc khuy tổn.
sứ thần về rồi, cất ngay bảng đi, đừng để mất”.
710
Kì ý vị Chiêm Thành tuy dĩ thần phục, thực vị nội phụ bảng văn chung kiến phế các.
Ý ông cho rằng Chiêm Thành tuy đã thần phục, nhưng thực ra chưa chịu nội phụ, bảng cấm rốt cục cũng bị bỏ đi, cho nên nói trước như vậy, không để tự họ làm như thế.
711
Hậu chi sứ chiêm Thành bất bái quốc chủ tự Nhữ Hài thuỷ.
Sau này, đi sứ Chiêm Thành, không lạy chúa Chiêm là bắt đầu từ Nhữ Hài.
712
Cập hồi, Đế thậm gia chi, toại quyết ý đại dụng, cố hữu thị mệnh.
Khi về nước, vua rất khen ngợi ông và quyết ý dùng vào chức to, cho nên có lệnh này.
713
Giáp Thìn thập nhị niên, xuân chính nguyệt, kinh thành hữu bạn kiều Các Đài phường phụ nhân Lê thị sinh nữ lưỡng đầu thủ túc các tứ .
Mùa xuân, tháng giêng, người đàn bà là Lê thị, phường Các Đài, ở cầu bên hữu kinh thành đẻ con gái có hai đầu, bốn chân, bốn tay.
714
Nhị nguyệt, dĩ Bùi Mộc Đạc Chi hậu bạ thư chính chưởng phụng thị Thánh Từ cung.
Tháng 2, lấy Bùi Mộc Đạc làm Chi hậu bạ thư chánh chưởng trông coi cung Thánh Từ.
715
Mộc Đạc tự Minh Đạo tính Phí danh Mộc Lạc hữu tài năng.
Mộc Đạt tên tự là Minh Đạo , họ Phí, tên là Mộc Lạc, có tài năng.
716
Thượng hoàng dĩ tính Phí cổ vô văn, nhân cải Bùi Mộc Lạc, danh bất tường, cải Mộc Đạc, tỉ túc dạ bồi tòng.
Thượng hoàng cho rằng họ Phí từ xưa không thấy có, mới đổi làm họ Bùi, cái tên Mộc Lạc là điềm chẳng lành , mới đổi thành Mộc Đạc, sai theo hầu ngày đêm.
717
Trung Ngạn niên thập lục thời hiệu, thần đồng.
Trung Ngạn mới 16 tuổi, đương thời gọi là thần đồng.
720
Kì thí pháp tiên dĩ Y quốc thiên, Mục Thái tử truyện, ám tả thải nhũng.
Về phép thi: Trươc hết thi ám tả thiên Y quốc và truyện Mục Thiên tử để loại bớt.
721
Chiêm Thành Du Già tăng lai duy thực ngưu nhũ .
Sư Du Già nước Chiêm sang ta, chỉ ăn sữa bò.
722
Thu thất nguyệt, chiếu phàm miếu huý ngự danh chính văn giảm hoạ .
Mùa thu, tháng 7, xuống chiếu rằng các chữ huý về miếu hiệu, tên vua, thì viết bớt nét.
724
Bát nguyệt, cấm Lí triều miếu huý Uẩn, Mã, Tôn, Đức, Hoán, Tộ, Cán, sảm tự giảm hoạ .
cấm chữ huý miếu hiệu nhà Lý 8 chữ: Uẩn, Mã, Tôn, Đức, Hoán, Tộ, Cán, Sảm, viết bớt nét.
725
Cửu nguyệt, chiếu phàm điển ngục đoạn văn tự áp thủ dụng vô danh tả chỉ nhị tiết .
Tháng 9, xuống chiếu rằng, khi áp tay vào giấy tờ hình án hay văn tự thì dùng hai đốt của ngón tay vô danh bên trái.
726
Đông thập nhất nguyệt, chiếu thí thiên hạ sĩ nhân dụng thất khoa .
Mùa đông, tháng 11, xuống chiếu thi kẻ sĩ trong nước, hỏi về 7 khoa.
727
Chiếu Tông chính phủ định hoàng tông ngọc điệp.
Xuống chiếu cho phủ Tông chính soạn ngọc phả của họ vua.
730
Tị thập tam niên, xuân chính nguyệt, sách Hoàng đệ tứ tử Mạnh vi Đông Cung thái tử, những chế Dược thạch châm tứ chi .
Mùa xuân, tháng giêng, sách phong hoàng tử thứ tư là Mạnh làm Đông cung thái tử, làm bài Dược thạch châm ban cho.
731
Nhị nguyệt, Chiêm Thành khiến Chế Bồ Đài cập bộ đảng bách dư nhân phụng biểu tiến kim ngân kì hương dị vật cầu định sính lễ.
Tháng 2, Chiêm Thành sai Chế Bồ Đài và bộ đảng hơn trăm người dâng hiến vàng bạc, hương quý, vật lạ làm lễ vật cầu hôn.
732
Triều thần dĩ vi bất khả, độc Văn Túc vương Đạo Tái chủ kì nghị.
Các quan trong triều đều cho là không nên, duy có Văn Túc Vương Đạo Tái chủ trương bàn việc đó
733
Tam nguyệt, La Hồi quốc sứ tiến liễn la bố đẳng vật .
Tháng 3, nước La Hồi sai người dâng vải liễn la và các thứ khác.
735
Thời, hữu độc bạ Trần Cụ tính khoan hậu, cẩn nguyện, thiện cổ, cầm nỗ xạ cập xúc cúc hí.
Bấy giờ có viên độc bạ là Trần Cụ tính khoan hậu, cẩn thận, thật thà, giỏi ngề đánh cá, bắn nỏ và chơi cầu.
737
Thế chi nỗ xạ kì lập cước dữ cung xạ đồng sở vị Đinh tự bất thành bát tự bất chính giả dã.
Người đời bắn nỏ, chân đứng cũng như bắn cung, tức là kiểu chữ “đinh” không thành, chữ “bát” không ngay.
739
Kì sở cư ốc cập sở thừa thuyền mỗi lưỡng môn tương đối an trí trần thiết diệc tương đối giai yếu bình chính cái kì bản.
Nhà ông ta ở và thuyền ông ta đi, đều có hai cửa đối nhau, xếp đặt, bày biện các thứ cũng cân đối và phải ngay ngắn, vì là bản
741