Phiên âm
stringlengths
2
728
Dịch nghĩa
stringlengths
2
731
__index_level_0__
int64
0
13.7k
Nhị nguyệt, Tuệ tinh hiện Bắc phương .
Tháng 2, sao chổi thấy ở phương Bắc.
403
Hạ tứ nguyệt, mệnh Đỗ Tử Bình định bổ Lâm Bìn, Thuận Hoá quân cập thiện hoàn Hoá Châu thành .
Mùa hạ, tháng 4, sai Đỗ Tử Bình duyệt bổ quân ở Lâm Bình, Thuận Hoá và đắp thành Hoá Châu.
404
Ngũ nguyệt, lôi chấn Thiên An điện .
Tháng 5, sét đánh điện Thiên An.
405
Tự ngũ nguyệt chí thu thất nguyệt, hạn.
Từ tháng 5 đến tháng 7 mùa thu, hạn hán.
406
Lục tù.
Soát tù.
407
Chiếu miễn thiên hạ kim niên tô thuế chi bán .
Xuống chiếu miễn cho cả nước một nửa tô thuế năm ấy.
408
Bát nguyệt, dĩ Hành Khiển Phạm Sư Mạnh tri Khu Mật viện sự .
Tháng 8, lấy Hành khiển Phạm Sư Mạnh làm tri Khu mật viện sự.
409
Đại cơ.
Mưa to.
410
Chiếu phú gia tiến túc chẩn bần dân, tứ tước hữu sai .
Xuống chiếu cho các nhà giàu dâng thóc để phát chẩn cho dân nghèo, ban tước theo thứ bậc khác nhau.
411
Cửu nguyệt, Đế hạnh Thiên Trường phủ.
Tháng 9, vua ngự đến phủ Thiên Trường.
412
Dân hữu tật dịch tứ quan dược cập tiền mễ hữu sai.
Dân có ai ốm thì được ban thuốc uống công và tiền gạo, ít nhiều khác nhau.
413
dĩ Đỗ Tử Bình đồng tri Môn hạ.
lấy Đỗ Tử Bình làm Đồng môn tri hạ.
414
Tam nguyệt, thí sĩ nhân, dĩ văn nghệ sung quán các.
Tháng 3, thi học trò, hỏi văn nghệ để lấy người bổ sung vào quán các.
415
Thí lại viên dĩ thư tả sung sảnh viện thuộc .
thi lại viên bằng viết chữ, lấy làm thuộc viên các sảnh, viện.
416
Hạ ngũ nguyệt, hoàn Trâu Canh tiền chức tước .
Mùa hạ, tháng 5, trả lại cho Trâu Canh chức tước cũ.
417
Lục nguyệt, một tịch Đại Lai xã trại chủ Ngô Dẫn gia.
Tháng 6, tịch thu gia sản của Ngô Dẫn, trại chủ xã Đại Lai.
418
trì ư hậu cung ngự uyển.
hồ ở vườn ngự trong hậu cung.
419
Trì trung tích thạch vi sơn tứ diện các khai xuyên lộ thông lưu.
Trong hồ xếp đá làm núi, bốn mạch đều khai ngòi cho chảy thông nhau.
420
Trì thượng chủng tùng trúc tạp thụ cập kì hoa dị bôi trân cầm dị thú.
Trên bờ hồ trồng thông, tre và các thứ hoa thơm cỏ lạ.
421
Hạ tứ nguyệt, triệu Vĩnh An cung chính chưởng phụng ngự Bùi Khoan dữ chi.
Mùa hạ, tháng 4, gọi Cánh chưởng phụng cung Vĩnh An là Bùi Khoan cùng
422
ẩm.
uống rượu.
423
Khoan dĩ kế trá ẩm tận bách thăng, Thưởng tước nhị tư .
Khoan lập mẹo uống vờ hết 100 thăng rượu, được thưởng tước 2 tư.
424
Lệnh dược quan Trâu Canh đẳng nhật dạ luân trực thị thang dược .
Sai quan thầy thuốc là bọn Trâu Canh thay nhau hầu thuốc thang.
425
Thu thất nguyệt tật dũ .
Mùa thu, tháng 7, vua khỏi bệnh.
426
Bát nguyệt, tuyển thiên hạ hoàng nam định tam đẳng quân ngũ tu chiến thuyền chiến khí dĩ phòng biên sự .
Tháng 8, chọn hoàng nam trong nước, định 3 bậc quân ngũ, sữa soạn thuyền chiến và vũ khí để phòng việc biên cương.
427
Đông thập nguyệt, Cung Túc vương Nguyên Dực tốt.
Mùa đông, tháng 10, Cung Túc Vương Nguyên Dục mất.
428
Tiên thị Hoá Châu tục mỗi niên xuân chính nguyệt hội sĩ nữ thu thiên ư BÀ Dương.
Trước đây, theo tục Hoá Châu, tháng giêng hàng năm, trai gái họp nhau ở Bà Dương chơi trò đánh đu.
429
Chiêm nhân ư tiền niên thập nhị nguyệt tiềm phục Hoá Châu nguyên đầu chí thị yểm chí lỗ lược nhân khẩu dĩ quy .
Người Chiêm đã nấp sẵn ở đầu nguồn Hoá Châu từ tháng 12 năm trước, đến khi ấy ập tới cướp bắt đem về.
430
Đông thập nhất nguyệt, chiếu Lạng Giang sơn liêu đẳng quân trấn thủ.
Mùa đông, tháng 11, xuống chiếu cho các quân Sơn Lão ở lạng Giang trấn giữ
431
biên phòng dĩ Bắc địa loạn Minh Hán tương tranh đồn Nam Ninh, Long Châu cố dã .
biên phòng, vì đất Bắc có loạn, Minh, Hán tranh nhau , đóng binh ở Nam Ninh, Long Châu.
432
Thời Thanh Hoá nhân Thiều Thốn vi Lạng Giang phòng ngự sứ thống Lạng Giang quân đồn Đông Bình giang, thiện phủ quân sĩ, quân trung lạc chi.
Bấy giờ có Thiều Thốn người Thanh Hoá, làm phòng ngự sứ Lạng Giang, thống lĩnh quân Lạng Giang, đóng ở sông Đông Bình, khéo vỗ về quân sĩ, trong quân ai cũng thích ông ta.
433
Hậu dĩ đệ kiêu điểm liên toạ, lạc chức.
Sau vì em trai kiêu ngạo làm bậy, ông bị tội lây, mất chức.
434
Triều đình văn chi, phục kì quan quân trung hựu vi ngữ viết: Thiên tri kì oan Thiều công đắc quan Vị cơ tốt .
Triều đình nghe biết chuyện ấy, khôi phục quan chức cho ông, trong quân lại có câu ca: "Trời đã thấu oan, ông Thiều lại làm quan".
435
Minh Từ Hoàng thái phi hoăng.
Minh Từ Hoàng Thái phi mất .
436
tam thiên quân cứ an Hải môn thập nhị ngã hoàn sơn
tam thiên quân cư an, Hải môn thập nhị ngã hoàn san.
437
phủ quan Phạm A Song kích bại chi.
Quan phủ Phạm A Song đánh bại chúng.
438
Thụ A Song Lâm Bình phủ đại tri phủ hành quân thủ ngự sứ .
Thăng A Song làm đại tri phủ Lâm Bình, Hành quân thủ ngự sứ.
439
Hạ tứ nguyệt, chiếu chư lộ An phủ sứ thu bổ đạo kiếp .
Mùa hạ, tháng 4, xuống chiếu cho An phủ sứ các lộ đi bắt giặc cướp.
440
Lục nguyệt, Đế ngự tiểu chu hạnh Mễ Sở hương Thiếu uý Trần Ngô Lang gia tam canh nãi hồi.
Tháng 6, vua ngự thuyền nhỏ đến chơi nhà Thiếu uý Trần Ngô Lang ở hương Mễ Sở , đến canh ba mới về.
441
Chí Chử Gia giang bị đạo thất bảo tỉ bảo kiếm.
khi tới sông Chử Gia bị cướp mất ấn báu, gươm báu.
442
Tự tri nghiệp đoản ích tung vi dật lạc yên .
vua tự biết mình không sống lâu, càng thả sức chơi bời.
443
Thị tuế, Hán vong.
Năm ấy, Hán mất nước .
444
Tam nguyệt, tạo trường lang tự Nguyên Huyền các trực để Tây đại triều môn dĩ tiện bách quan tiến triều tị thử vũ .
Tháng 3, làm hành lang dài suốt từ gác Nguyên Huyền đến tận cửa Đại triều phía Tây để tiện cho việc các quan vào chầu tránh nắng mưa.
445
Hạ tứ nguyệt, Trần Thế Hưng chí Chiêm Động.
Mùa hạ, tháng 4, Trần Thế Hưng đến Chiêm Động .
446
Chiêm nhân phục binh đạo phát ngã quân đại hội.
Người Chiêm phục quân đánh trộm, quân ta tan vỡ.
447
Thế Hưng vi tặc sở cầm, Tử Bình dẫn quân hoàn .
Thế Hưng bị giặc bắt, Tử Bình đem quân trở về.
448
Minh Thái Tổ tức vị ư Kim Lăng, kiến nguyên Hồng Vũ khiến Dịch Tế Dân lai sính .
Minh Thái Tổ lên ngôi ở Kim Lăng, đặt niên hiệu là Hồng Vũ, sai Dịch Tế Dân sang thăm ta.
449
Thu bát nguyệt, khiến Lễ bộ thị lang Đào Văn Đích như Minh báo sính .
Mùa thu, tháng 8, sai Lễ bộ thị lang Đào Văn Đích sang Minh đáp lễ.
450
Đông thập nguyệt, triệu Chí Linh đạo sĩ Huyền Vân phó kinh vấn dĩ tu luyện chi pháp.
Mùa đông, tháng 10, cho mời đạo sĩ Huyền Vân ở núi Chí Linh đến kinh để hỏi về phép tu luyện.
451
Bất hữu Nghệ Hoàng cập chư tông thất, tắc quốc gia dĩ phi Trần hữu hĩ.
Nếu không có Nghệ Hoàng và các vị tông thất khác thì quốc gia đã không còn là của họ Trần nữa rồi.
452
Đế năng tôn sư trọng đạo nhi bất dữ mưu cập quốc sự cố hiền giả bất khả hư câu.
Vua biết tôn trọng thầy dạy, nhưng lại không bàn việc nước với thầy.
453
Chu An chi khứ vô nhân cáo dĩ thiện đạo Sở vị bất tín nhân hiền tắc quốc không hư thị dã.
Chu An đi rồi, không còn ai bảo ban vua đạo hay lẽ phải nữa.
454
Kì mẫu hiệu Vương Mẫu giả vi truyền hí thời phương hữu thần Dực duyệt kì diễm sắc nạp chi cập sinh dĩ vi kỷ tử.
Mẹ Nhật Lễ khi đóng trò có tên hiệu là Vương Mẫu , đương có thai, Dục thấy nàng xinh đẹp, nên lấy làm vợ.
455
tảo khí thế.
sớm lìa đời.
456
Thu bát nguyệt, tứ nhật, Nhật Lễ tôn Hiến Từ Hoàng Thái Hậu vi Hiến Từ Tuyên Thánh Thái Hoàng Thái Hậu, Nghi Thánh Hoàng Hậu vi Huy Từ Tá Thánh Hoàng thái hậu .
Mùa thu, tháng 8, ngày mồng 4, Nhật lễ tôn Hiến Từ hoàng thái hậu làm Hiến Từ Tuyên Thánh thái hoàng thái hậu; Nghi Thánh hoàng hậu làm Huy Từ Tá Thánh hoàng thái hậu.
457
Nạp Cung Định Vương Phũ nữ vi Hoàng hậu .
Lập con gái Cung Định Vương Phủ làm hoàng hậu.
458
Hậu quả như kì ngôn .
Sau quả như lời ông ta nói.
459
Nhật Lễ bái Hữu tướng quốc Nguyên trác vi Thượng tướng quốc Thái tể .
Nhật Lễ phong Hữu tướng quốc Nguyên trác làm Thượng tướng quốc thái tể.
460
Thập nhị nguyệt, thập tứ nhật, Nhật Lễ thích Hiến Từ Tuyên Thánh Thái Hoàng Thái Hậu vu cung trung.
Tháng 12, ngày 14, Nhật lễ giết Hiến Từ Tuyên Thánh Thái hoàng thái hậu ở trong cung.
461
Thái hậu tính nhân hậu, đa hữu tương thành chi công.
Thái hậu vốn người nhân hậu, có nhiều công lao giúp rập .
462
Minh Tông đại hãi, chiếu tất bổ cung nhân, cung ẩu, cung tì án vấn.
Minh Tông sợ lắm, truyền bắt hết các cung nhân, bà mụ, thị tỳ trong cung để tra hỏi.
463
Thái hậu viết: "Thả thử khủng kì trung hữu oan giả.
Thái hậu thưa: "Khoan đã, sợ trong đó có kẻ bị
464
Tòng chi.
nghe theo.
465
Thái hậu dĩ văn Minh Tông cực lệnh cùng trị.
Thái hậu nói cho Minh Tông biết.
466
Minh Tông hiền chi đãi.
Minh Tông khen bà là người hiền.
467
Duy Hựu tức Hoàng Đế vị vu Cần Chính điện, cải nguyên vi Phúc Thái nguyên niên.
Duy Hựu lên ngôi hoàng đế ở điện Cần Chính, đổi niên hiệu là Phúc Thái năm thứ nhất.
468
Đại xá thiên hạ, phàm nhị thập thất điều.
Đại xá thiên hạ gồm 27 điều.
469
Hội thí thiên hạ sĩ nhân.
Thi Hội các sĩ nhân trong nước.
470
Thủ hợp cách Lê Trí Trạch đẳng cửu danh.
Lấy đỗ bọn Lê Trí Trạch 9 người.
471
Thập nhị nguyệt, Điện thí, tứ Nguyễn Khắc Thiệu đẳng nhị danh Tiến sĩ xuất thân, Lê Đình Dự đẳng thất danh đồng Tiến sĩ xuất thân.
Tháng 12, thi Điện, cho bọn Nguyễn Khắc Thiệu 2 người đỗ tiến sĩ xuất thân, bọn Lê Đình Dự 7 người đỗ đồng tiến sĩ xuất thân.
472
Hạ, tứ nguyệt, Thái Bạch kinh thiên.
Mùa hạ, tháng 4, sao Thái Bạch đi ngang trời.
473
Thị nguyệt,.
Tháng ấy,
474
mệnh quan khảo hạch thiên hạ sĩ vọng, trừ nhậm phủ huyện đẳng chức.
sai quan khảo hạch các cống sĩ trong nước, người nào có đức vọng bổ làm các chức phủ, huyện.
475
Đông, thập nhị nguyệt, mệnh Thái bảo Tây quận công Trịnh Tạc đồng đốc thị Dương Trí Trạch, Tán lí Phạm Công Trứ đẳng lược định Cao Bằng địa phương, tiến binh thiết phục, trảm đắc tặc tì tướng nhất nhân, phu hoạch tặc đảng nhi hoàn.
Mùa đông, tháng 12, sai Thái bảo Tây quận công Trịnh Tạc cùng Đốc thị Dương Trí Trạch, Tán lý Phạm Công Trứ đi dẹp đất Cao Bằng, tiến quân đặt phục, chém được một viên tỳ tướng của giặc, bắt được đảng giặc rồi về.
476
Ất Dậu tam niên,.
Ất Dậu, năm thứ 3 , .
477
Hạ, tứ nguyệt, thập cửu nhật, Huỳnh Hoặc nhập Quỷ tú, phạm Tích Thi.
Mùa hạ, tháng 4, ngày 19, sao Huỳnh Hoặc đi vào phần sao Quỷ, phạm vào sao Tích Thi.
478
Tấn phong Phó đô tướng Thái bảo Tây quận công Trịnh Tạc vi Khâm sai Tiết chế các xứ thuỷ bộ chư dinh Chưởng quốc quyền bính Tả tướng, Thái uý Tây quốc công, khai Khiêm Định phủ, phàm quốc gia thứ vụ, tất uỷ tài quyết.
Tiên phong phó đô tướng Thái bảo Tây quận công Trịnh Tạc làm Khâm sai tiết chế các xứ thuỷ bộ chư dinh chưởng quốc quyền binh tả tướng Thái uý Tây quốc công, mở phủ Khiêm Định, mọi công việc của nhà nước đều giao cho xử quyết.
479
Ngũ nguyệt nhật, Vương cảm mạo
Ngày tháng 5, Vương bị cảm.
480
Thái bảo Phù quận công Trịnh Lịch, Thái phó Hoa quận công Trịnh.
Thái bảo Phù quận công Trịnh Lịch, Thái phó Hoa quận công Trịnh
481
Sầm hận bất đắc chí, nãi xưng binh tác loạn.
Sầm, hận vì bất đắc chí, liền nổi quân làm loạn.
482
Thái uý Tây quốc công Trịnh Tạc phụng chỉ hiệp dữ văn vũ thần liêu tham nghị tấu văn vu Đế, nhưng cáo thiên địa tông miếu.
Thái uý Tây quốc công Trịnh Tạc vâng chỉ nghị bàn với các quan văn võ tâu lên vua biết và tế cáo trời đất, tông miếu.
483
Sơ nhị nhật, xuất binh công thảo, cầm hoạch nghịch Lịch chính thân, kì nghịch Sầm độn nhập Ninh Giang.
Ngày mồng 2, ra quân, đánh bắt được chính tên nghịch Lịch, còn nghịch Sầm thì trốn vào Ninh Giang .
484
Mệnh Thái bảo Khê quận công Trịnh Trượng đốc binh niếp bộ, truy cập ư Chúc Sơn phụ hoạch, hiến nộp, tịnh trí chư quốc pháp.
Sai Thái bảo Khê quận công Trịnh Trượng đốc quân đuổi theo, đuổi kịp ở Chúc Sơn , bắt được dâng nộp, đều đem chém cả.
485
Thời, Tán lí Phạm Công Trứ, võ tướng Đào Quang Nhiêu diệc dự hữu tham tán chinh thảo chi công.
Khi ấy Tán lý Phạm Công Trứ, Võ tướng Đào Quang Nhiêu cũng dự phần công bàn mưu, đánh dẹp.
486
Xá thiên hạ quý thuế chi bán.
Xá một nửa tiền thuế đinh trong nước.
487
Hựu cấm nhân dân vô đắc tác nặc danh thư, xuý hư truyền thuyết, cổ hoặc nhân tâm.
Lại cấm nhân dân không được làm thư nặc danh lưu truyền chuyện không đâu làm mê hoặc lòng người.
488
Lục nguyệt, thân minh khám tụng điều lệ, dĩ miễn đương quan liêm cần chi pháp, cách tiểu dân cáo kiết chi phong.
Tháng 6, nhắc rõ lại điều luật xét kiện để khuyến khích người làm quan thanh liêm, chăm việc, trừ bỏ thói kiện cáo gian lận của bọn tiểu thương.
489
Thu, thất nguyệt, cấm chư quyền quý cập.
Mùa thu, tháng 7, cấm các nhà quyền quý và
490
các cai nha môn tịnh nhị ti quan bất đắc chiếm thủ xã dân hộ phân, huyện quan diệc bất đắc lạm thu dân tiền.
các nha môn cùng quan hai ty không được lấy tiền của các hộ dân xa, quan huyện cũng không được thu lạm tiền của dân.
491
Kì các tế tiền mễ, tịnh tuỳ đại trung tiểu xã ưng xuất hữu sai, dĩ tỉnh dân phí.
Còn tiền gạo của các kỳ tế lễ đều theo xã lớn, xã vừa, xã nhỏ mà đóng theo mức độ khác nhau để bớt phí tổn cho dân.
492
Bính Tuất tứ niên,.
Bính Tuất, năm thứ 4 , .
493
Xuân, chính nguyệt, nhị thập nhị nhật, vũ bạc, điểu thú đa bị hại.
Mùa xuân, tháng giêng, ngày 22, mưa đá, chim muông bị hại nhiều.
494
Nhị nguyệt, Kinh sư vũ bạc.
Tháng 2, Kinh sư mưa đá.
495
Thị tuế cốc đại thu.
Năm ấy được mùa to.
496
Sai chánh sứ Nguyễn Nhân Chính; phó sứ Phạm Vĩnh Miên, Trần Khái, Nguyễn Cổn đẳng đồng thiên triều sứ Đô đốc Lâm Sâm giá hải vãng Phúc Kiến cầu phong vu Minh.
Sai chánh sứ Nguyễn Nhân Chính, phó sứ là bọn Phạm Vĩnh Miên, Trần Khái, Nguyễn Cổn cùng với sứ thiên triều là Đô đốc Lâm Sâm vượt biển sang Phúc Kiến cầu phong với nhà Minh.
497
Thời, Minh đế tức vị, vi Thanh nhân sở phá.
Khi ấy vua Minh lên ngôi, bị người Thanh đánh phá.
498
Minh thần tái tôn lập Vĩnh Lịch hoàng đế.
Bề tôi nhà Minh lại tôn lập Vĩnh Lịch Hoàng Đế.
499
Minh đế nhân khiển Hàn lâm Phan Kì đẳng lãi sắc thư cáo mệnh tịnh trà kim ngân ấn vãng.
Nhà Minh sai bọn Hàn lâm Phan Kỳ mang sắc thư, cáo mệnh và ấn bạc mạ vàng sang
500
bản quốc, sách phong Thái Thượng Hoàng vi An Nam quốc vương.
nước ta, phong cho Thái thượng hoàng làm An Nam quốc vương.
501
Minh sứ dữ Nhân Chính đẳng lục hành do trấn Nam Quan nhi hồi.
Sứ Minh cùng với bọn Nhân Chính đi đường bộ theo cửa Trấn Nam quan mà về.
502