content
stringlengths
465
7.22k
question
stringlengths
10
193
answer
stringlengths
1
76
Phần lớn các loài thực vật gắn liền với nhiều loại nấm tại hệ rễ của chúng, trong dạng cộng sinh phụ thuộc, được biết đến như là nấm rễ (mycorrhiza). Nấm giúp cho cây thu được nước và các chất dinh dưỡng từ đất, trong khi cây cung cấp cho nấm các loại cacbohyđrat được sản xuất nhờ quang hợp. Một số thực vật còn là nơi ở cho các loại nấm sống trên cây, chúng bảo vệ cây khỏi các loài ăn cỏ bằng cách tiết ra các chất có độc tính. Một loại nấm như vậy là Neotyphodium coenophialum, có trên những cây cỏ đuôi trâu cao (Festuca arundinacea) đã gây ra nhiều tổn thất kinh tế cho ngành chăn nuôi bò của Hoa Kỳ.
Nấm giúp gì cho cây?
thu được nước và các chất dinh dưỡng từ đất
Các dạng khác nhau của sự sống ký sinh cũng khá phổ biến giữa các loài thực vật, từ dạng bán ký sinh như cây tầm gửi (một phần bộ Santalales) chỉ đơn thuần lấy đi một số chất dinh dưỡng từ cây chủ và vẫn có các lá có khả năng quang hợp, tới các loài ký sinh hoàn toàn như các loài cỏ chổi (chi Orobanche) hay các loài cỏ thuộc chi Lathrea lấy tất cả các loại chất dinh dưỡng chúng cần thông qua sự kết nối vào rễ các loài thực vật khác, và không có diệp lục. Một số loài thực vật, được biết đến như là dị dưỡng nấm, chúng ký sinh các loài nấm rễ, và vì thế có cơ chế hoạt động ký sinh ngoài trên các loài thực vật khác.
Loại ký sinh nào lấy tất cả các loại chất dinh dưỡng từ cây chủ và không có diệp lục?
ký sinh hoàn toàn
Các dạng khác nhau của sự sống ký sinh cũng khá phổ biến giữa các loài thực vật, từ dạng bán ký sinh như cây tầm gửi (một phần bộ Santalales) chỉ đơn thuần lấy đi một số chất dinh dưỡng từ cây chủ và vẫn có các lá có khả năng quang hợp, tới các loài ký sinh hoàn toàn như các loài cỏ chổi (chi Orobanche) hay các loài cỏ thuộc chi Lathrea lấy tất cả các loại chất dinh dưỡng chúng cần thông qua sự kết nối vào rễ các loài thực vật khác, và không có diệp lục. Một số loài thực vật, được biết đến như là dị dưỡng nấm, chúng ký sinh các loài nấm rễ, và vì thế có cơ chế hoạt động ký sinh ngoài trên các loài thực vật khác.
Một số loài thực vật lấy tất cả chất dinh dưỡng cần thiết thông qua cách nào?
kết nối vào rễ các loài thực vật khác
Các hóa thạch thực vật, bao gồm rễ, gỗ, lá, hạt, quả, phấn hoa, bào tử và hổ phách (nhựa hóa thạch do một số loài thực vật sinh ra). Hóa thạch của thực vật sống trên đất liền được ghi nhận lại trong các trầm tích đất liền, sông, hồ và ven biển. Các phấn hoa, bào tử và tảo (Dinoflagellata và Acritarch) được sử dụng để xác định niên đại các tầng đá trầm tích. Các phần còn lại của thực vật hóa thạch là không phổ biến như của động vật, mặc dù các hóa thạch thực vật là khá phổ biến mang tính cục bộ trong nhiều khu vực trên thế giới.
Phấn hoa và bào tử được sử dụng để làm gì?
xác định niên đại các tầng đá trầm tích
Các thực vật hóa thạch sớm nhất được biết đến từ kỷ Devon, bao gồm đá phiến silic Rhynie tại Aberdeenshire, Scotland. Các mẫu được bảo quản tốt nhất, mà từ đó kết cấu tế bào của chúng đã được miêu tả, được tìm thấy trong khu vực này. Sự bảo quản hoàn hảo đến mức các phần của các thực vật cổ này chỉ rõ từng tế bào riêng biệt trong mô thực vật. Kỷ Devon cũng cho thấy sự tiến hóa của những thực vật mà nhiều người tin là của loại cây thân gỗ hiện đại đầu tiên, Archaeopteris. Cây này giống như dương xỉ và có thân gỗ và lá lược của dương xỉ, không sinh ra hạt.
Những thực vật hóa thạch sớm nhất được tìm thấy từ kỷ nào?
Kỷ Devon
Các thực vật hóa thạch sớm nhất được biết đến từ kỷ Devon, bao gồm đá phiến silic Rhynie tại Aberdeenshire, Scotland. Các mẫu được bảo quản tốt nhất, mà từ đó kết cấu tế bào của chúng đã được miêu tả, được tìm thấy trong khu vực này. Sự bảo quản hoàn hảo đến mức các phần của các thực vật cổ này chỉ rõ từng tế bào riêng biệt trong mô thực vật. Kỷ Devon cũng cho thấy sự tiến hóa của những thực vật mà nhiều người tin là của loại cây thân gỗ hiện đại đầu tiên, Archaeopteris. Cây này giống như dương xỉ và có thân gỗ và lá lược của dương xỉ, không sinh ra hạt.
Thực vật hóa thạch sớm nhất được tìm thấy ở đâu?
đá phiến silic Rhynie
Các đơn vị than đá là nguồn chính của hóa thạch thực vật thuộc đại Cổ Sinh, với nhiều nhóm thực vật đã tồn tại vào thời kỳ này. Các đống đổ nát trong các mỏ than là các khu vực tốt nhất để thu thập; than tự bản thân nó là các phần còn lại của thực vật hóa thạch, mặc dù các chi tiết cấu trúc của các hóa thạch thực vật là ít rõ ràng trong than. Trong rừng hóa thạch tại công viên Victoria ở Glasgow, Scotland, các gốc cây của nhóm thực vật Lepidodendron được tìm thấy ở các vị trí phát triển nguyên thủy của chúng.
Các đơn vị than đá là nguồn chính của hóa thạch thực vật thuộc thời kỳ nào?
đại Cổ Sinh
Terbi kết hợp với nitơ, cacbon, lưu huỳnh, phốtpho, bo, selen, silic và asen ở nhiệt độ cao, tạo thành các hợp chất hóa trị hai khác nhau như TbH2, TbH3, TbB2, Tb2S3, TbSe, TbTe và TbN. Trong các hợp chất này, Tb chủ yếu thể hiện hóa trị +3 và đôi khi là +2. Các halogenua terbi (II) thu được bằng cách ủ các halogenua Tb (III) với sự có mặt của Tb kim loại trong thùng chứa bằng tantali. Terbi cũng có thể tạo ra sesquiclorua Tb2Cl3, là chất có thể khử tiếp thành TbCl bằng cách ủ ở 800 °C. Clorua terbi (I) tạo thành các viên nhỏ với cấu trúc tạo lớp giống như than chì.
Terbi kết hợp với yếu tố nào ở nhiệt độ cao?
nitơ, cacbon, lưu huỳnh
Terbi kết hợp với nitơ, cacbon, lưu huỳnh, phốtpho, bo, selen, silic và asen ở nhiệt độ cao, tạo thành các hợp chất hóa trị hai khác nhau như TbH2, TbH3, TbB2, Tb2S3, TbSe, TbTe và TbN. Trong các hợp chất này, Tb chủ yếu thể hiện hóa trị +3 và đôi khi là +2. Các halogenua terbi (II) thu được bằng cách ủ các halogenua Tb (III) với sự có mặt của Tb kim loại trong thùng chứa bằng tantali. Terbi cũng có thể tạo ra sesquiclorua Tb2Cl3, là chất có thể khử tiếp thành TbCl bằng cách ủ ở 800 °C. Clorua terbi (I) tạo thành các viên nhỏ với cấu trúc tạo lớp giống như than chì.
Terbi thể hiện hóa trị nào trong các hợp chất hóa học?
+3 và đôi khi là +2
Terbi nguồn gốc tự nhiên chỉ bao gồm 1 đồng vị ổn định là Tb159. Ngoài ra, 33 đồng vị phóng xạ cũng đã được miêu tả đặc trưng, với ổn định nhất là Tb158 có chu kỳ bán rã là 180 năm, Tb157Tb có chu kỳ bán rã 71 năm và Tb160 có chu kỳ bán rã 72,3 ngày. Tất cả các đồng vị còn lại đều là đồng vị phóng xạ với chu kỳ bán rã nhỏ hơn 6,907 ngày, và phần lớn có chu kỳ bán rã không quá 24 giây. Nguyên tố này ũng có 18 trạng thái giả ổn định, với ổn định nhất là Tb156m1 (t½ 24,4 giờ), Tb154m2 (t½ 22,7 giờ) và Tb154m1 (t½ 9,4 giờ).
Đồng vị Terbi ổn định nhất là gì?
Tb159
Terbi nguồn gốc tự nhiên chỉ bao gồm 1 đồng vị ổn định là Tb159. Ngoài ra, 33 đồng vị phóng xạ cũng đã được miêu tả đặc trưng, với ổn định nhất là Tb158 có chu kỳ bán rã là 180 năm, Tb157Tb có chu kỳ bán rã 71 năm và Tb160 có chu kỳ bán rã 72,3 ngày. Tất cả các đồng vị còn lại đều là đồng vị phóng xạ với chu kỳ bán rã nhỏ hơn 6,907 ngày, và phần lớn có chu kỳ bán rã không quá 24 giây. Nguyên tố này ũng có 18 trạng thái giả ổn định, với ổn định nhất là Tb156m1 (t½ 24,4 giờ), Tb154m2 (t½ 22,7 giờ) và Tb154m1 (t½ 9,4 giờ).
Terbi có bao nhiêu đồng vị phóng xạ?
33
Terbi nguồn gốc tự nhiên chỉ bao gồm 1 đồng vị ổn định là Tb159. Ngoài ra, 33 đồng vị phóng xạ cũng đã được miêu tả đặc trưng, với ổn định nhất là Tb158 có chu kỳ bán rã là 180 năm, Tb157Tb có chu kỳ bán rã 71 năm và Tb160 có chu kỳ bán rã 72,3 ngày. Tất cả các đồng vị còn lại đều là đồng vị phóng xạ với chu kỳ bán rã nhỏ hơn 6,907 ngày, và phần lớn có chu kỳ bán rã không quá 24 giây. Nguyên tố này ũng có 18 trạng thái giả ổn định, với ổn định nhất là Tb156m1 (t½ 24,4 giờ), Tb154m2 (t½ 22,7 giờ) và Tb154m1 (t½ 9,4 giờ).
Đồng vị nào của Terbi có chu kỳ bán rã ngắn nhất trong số các đồng vị phóng xạ được biết đến?
không quá 24 giây
Ban đầu Mosander phân chia "yttria" thành ba phân đoạn, "terbia" là phân đoạn có màu hồng (do nguyên tố hiện nay gọi là erbi), và "erbia" là phân đoạn về thực chất là không màu trong dung dịch, nhưng tạo ra ôxít màu nâu. Các công nhân khi đó rất khó quan sát phân đoạn sau, nhưng phân đoạn màu hồng thì không thể bỏ sót. Các tranh cãi quay qua quay lại về việc "erbia" có tồn tại hay không. Trong sự lộn xộn đó, các tên gọi ban đầu đã bị đảo lại, và sự tráo đổi các tên gọi bị làm rối lên. Hiện nay, người ta cho rằng những công nhân này đã dùng các sulfat kép của natri và kali để loại bỏ "ceria" ra khỏi "yttria", vô tình làm mất hàm lượng terbi trong của hệ thống trong kết tủa chứa ceria. Trong bất kỳ trường hợp nào, chất hiện nay gọi là terbi chỉ chiếm khoảng 1% của yttria ban đầu, nhưng như thế đã là đủ để truyền màu hơi vàng cho ôxít. Vì thế, terbi chỉ là thành phần thiểu số trong phân đoạn terbia ban đầu, với thành phần chủ yếu là các họ hàng gần của nó như gadolini và dysprosi. Sau này, khi các nguyên tố đất hiếm khác được tách ra khỏi hỗn hợp này, bất kỳ phân đoạn nào tạo ra ôxít màu nâu đều giữ tên gọi terbia, cho tới khi cuối cùng nó là tinh khiết. Các nhà nghiên cứu trong thế kỷ 19 không có được ích lợi gì từ công nghệ huỳnh quang, mà bằng cách đó việc quan sát huỳng quang tươi màu có thể làm cho việc theo dõi dấu vết của nguyên tố này trong hỗn hợp trở nên dễ dàng hơn.
Chất nào chỉ chiếm khoảng 1% của yttria ban đầu?
terbi
Ban đầu Mosander phân chia "yttria" thành ba phân đoạn, "terbia" là phân đoạn có màu hồng (do nguyên tố hiện nay gọi là erbi), và "erbia" là phân đoạn về thực chất là không màu trong dung dịch, nhưng tạo ra ôxít màu nâu. Các công nhân khi đó rất khó quan sát phân đoạn sau, nhưng phân đoạn màu hồng thì không thể bỏ sót. Các tranh cãi quay qua quay lại về việc "erbia" có tồn tại hay không. Trong sự lộn xộn đó, các tên gọi ban đầu đã bị đảo lại, và sự tráo đổi các tên gọi bị làm rối lên. Hiện nay, người ta cho rằng những công nhân này đã dùng các sulfat kép của natri và kali để loại bỏ "ceria" ra khỏi "yttria", vô tình làm mất hàm lượng terbi trong của hệ thống trong kết tủa chứa ceria. Trong bất kỳ trường hợp nào, chất hiện nay gọi là terbi chỉ chiếm khoảng 1% của yttria ban đầu, nhưng như thế đã là đủ để truyền màu hơi vàng cho ôxít. Vì thế, terbi chỉ là thành phần thiểu số trong phân đoạn terbia ban đầu, với thành phần chủ yếu là các họ hàng gần của nó như gadolini và dysprosi. Sau này, khi các nguyên tố đất hiếm khác được tách ra khỏi hỗn hợp này, bất kỳ phân đoạn nào tạo ra ôxít màu nâu đều giữ tên gọi terbia, cho tới khi cuối cùng nó là tinh khiết. Các nhà nghiên cứu trong thế kỷ 19 không có được ích lợi gì từ công nghệ huỳnh quang, mà bằng cách đó việc quan sát huỳng quang tươi màu có thể làm cho việc theo dõi dấu vết của nguyên tố này trong hỗn hợp trở nên dễ dàng hơn.
Nhà hóa học nào đã vô tình loại bỏ terbi khỏi hệ thống?
Các công nhân
Ban đầu Mosander phân chia "yttria" thành ba phân đoạn, "terbia" là phân đoạn có màu hồng (do nguyên tố hiện nay gọi là erbi), và "erbia" là phân đoạn về thực chất là không màu trong dung dịch, nhưng tạo ra ôxít màu nâu. Các công nhân khi đó rất khó quan sát phân đoạn sau, nhưng phân đoạn màu hồng thì không thể bỏ sót. Các tranh cãi quay qua quay lại về việc "erbia" có tồn tại hay không. Trong sự lộn xộn đó, các tên gọi ban đầu đã bị đảo lại, và sự tráo đổi các tên gọi bị làm rối lên. Hiện nay, người ta cho rằng những công nhân này đã dùng các sulfat kép của natri và kali để loại bỏ "ceria" ra khỏi "yttria", vô tình làm mất hàm lượng terbi trong của hệ thống trong kết tủa chứa ceria. Trong bất kỳ trường hợp nào, chất hiện nay gọi là terbi chỉ chiếm khoảng 1% của yttria ban đầu, nhưng như thế đã là đủ để truyền màu hơi vàng cho ôxít. Vì thế, terbi chỉ là thành phần thiểu số trong phân đoạn terbia ban đầu, với thành phần chủ yếu là các họ hàng gần của nó như gadolini và dysprosi. Sau này, khi các nguyên tố đất hiếm khác được tách ra khỏi hỗn hợp này, bất kỳ phân đoạn nào tạo ra ôxít màu nâu đều giữ tên gọi terbia, cho tới khi cuối cùng nó là tinh khiết. Các nhà nghiên cứu trong thế kỷ 19 không có được ích lợi gì từ công nghệ huỳnh quang, mà bằng cách đó việc quan sát huỳng quang tươi màu có thể làm cho việc theo dõi dấu vết của nguyên tố này trong hỗn hợp trở nên dễ dàng hơn.
Chất hiện nay gọi là terbi chiếm bao nhiêu % trong yttria ban đầu?
1%
Ban đầu Mosander phân chia "yttria" thành ba phân đoạn, "terbia" là phân đoạn có màu hồng (do nguyên tố hiện nay gọi là erbi), và "erbia" là phân đoạn về thực chất là không màu trong dung dịch, nhưng tạo ra ôxít màu nâu. Các công nhân khi đó rất khó quan sát phân đoạn sau, nhưng phân đoạn màu hồng thì không thể bỏ sót. Các tranh cãi quay qua quay lại về việc "erbia" có tồn tại hay không. Trong sự lộn xộn đó, các tên gọi ban đầu đã bị đảo lại, và sự tráo đổi các tên gọi bị làm rối lên. Hiện nay, người ta cho rằng những công nhân này đã dùng các sulfat kép của natri và kali để loại bỏ "ceria" ra khỏi "yttria", vô tình làm mất hàm lượng terbi trong của hệ thống trong kết tủa chứa ceria. Trong bất kỳ trường hợp nào, chất hiện nay gọi là terbi chỉ chiếm khoảng 1% của yttria ban đầu, nhưng như thế đã là đủ để truyền màu hơi vàng cho ôxít. Vì thế, terbi chỉ là thành phần thiểu số trong phân đoạn terbia ban đầu, với thành phần chủ yếu là các họ hàng gần của nó như gadolini và dysprosi. Sau này, khi các nguyên tố đất hiếm khác được tách ra khỏi hỗn hợp này, bất kỳ phân đoạn nào tạo ra ôxít màu nâu đều giữ tên gọi terbia, cho tới khi cuối cùng nó là tinh khiết. Các nhà nghiên cứu trong thế kỷ 19 không có được ích lợi gì từ công nghệ huỳnh quang, mà bằng cách đó việc quan sát huỳng quang tươi màu có thể làm cho việc theo dõi dấu vết của nguyên tố này trong hỗn hợp trở nên dễ dàng hơn.
Thành phần chủ yếu trong phân đoạn terbia ban đầu là gì?
gadolini và dysprosi
Các nguồn thương mại giàu terbi nhất hiện tại là lớp đất sét ion hấp phụ ở miền nam Trung Quốc. Các mẫu chứa nhiều yttri từ lớp đất sét này chứa khoảng 2/3 là ôxít yttri (theo trọng lượng) và khoảng 1% terbia. Tuy nhiên, các lượng nhỏ cũng có trong bastnasit và monazit, và khi chúng được chế biến bằng chiết dung dịch để phục hồi các kim loại nặng trong nhóm Lantan dưới dạng "cô đặc samari-europi-gadolini" thì hàm lượng terbi của quặng còn lại trong đó. Do một lượng lớn bastnasit được chế biến, một tỷ lệ đáng kể (tương đối so với đất sét giàu ion hấp phụ) nhu cầu về terbi trên thế giới có nguồn gốc từ bastnasit.
Kim loại nào có hàm lượng cao nhất trong các mẫu lớp đất sét giàu ion hấp phụ ở miền nam Trung Quốc?
ôxít yttri
Các nguồn thương mại giàu terbi nhất hiện tại là lớp đất sét ion hấp phụ ở miền nam Trung Quốc. Các mẫu chứa nhiều yttri từ lớp đất sét này chứa khoảng 2/3 là ôxít yttri (theo trọng lượng) và khoảng 1% terbia. Tuy nhiên, các lượng nhỏ cũng có trong bastnasit và monazit, và khi chúng được chế biến bằng chiết dung dịch để phục hồi các kim loại nặng trong nhóm Lantan dưới dạng "cô đặc samari-europi-gadolini" thì hàm lượng terbi của quặng còn lại trong đó. Do một lượng lớn bastnasit được chế biến, một tỷ lệ đáng kể (tương đối so với đất sét giàu ion hấp phụ) nhu cầu về terbi trên thế giới có nguồn gốc từ bastnasit.
Khoáng vật nào có thể chứa các lượng nhỏ yttri?
bastnasit
Các nguồn thương mại giàu terbi nhất hiện tại là lớp đất sét ion hấp phụ ở miền nam Trung Quốc. Các mẫu chứa nhiều yttri từ lớp đất sét này chứa khoảng 2/3 là ôxít yttri (theo trọng lượng) và khoảng 1% terbia. Tuy nhiên, các lượng nhỏ cũng có trong bastnasit và monazit, và khi chúng được chế biến bằng chiết dung dịch để phục hồi các kim loại nặng trong nhóm Lantan dưới dạng "cô đặc samari-europi-gadolini" thì hàm lượng terbi của quặng còn lại trong đó. Do một lượng lớn bastnasit được chế biến, một tỷ lệ đáng kể (tương đối so với đất sét giàu ion hấp phụ) nhu cầu về terbi trên thế giới có nguồn gốc từ bastnasit.
Lớp đất sét nào chứa nhiều yttri nhất?
đất sét ion hấp phụ
Các khoáng vật chứa terbi thô nghiền nát được xử lý bằng axít sulfuric đặc nóng để tạo ra sulfat hòa tan trong nước của các kim loại đất hiếm. Nước lọc có tính axít được trung hòa một phần bằng NaOH tới khi pH đạt giá trị 3-4. Thori kết tủa khỏi dung dịch dưới dạng hiđrôxít và bị loại bỏ. Sau đó dung dịch được xử lý bằng oxalat ammoni để chuyển đổi các kim loại đất hiếm thành các dạng oxalat không hòa tan của chúng. Các oxalat được chuyển hóa thành các ôxít nhờ ủ. Các ôxít được hòa tan trong axít nitric để tiếp tục loại bỏ một trong các thành phần chính là xeri, do ôxít của nó không hòa tan trong HNO3. Terbi được tách ra ở dạng muối kép với nitrat ammoni bởi sự kết tinh.
Terbi được tách ra khỏi các thành phần khác ở dạng gì?
muối kép với nitrat ammoni
Các khoáng vật chứa terbi thô nghiền nát được xử lý bằng axít sulfuric đặc nóng để tạo ra sulfat hòa tan trong nước của các kim loại đất hiếm. Nước lọc có tính axít được trung hòa một phần bằng NaOH tới khi pH đạt giá trị 3-4. Thori kết tủa khỏi dung dịch dưới dạng hiđrôxít và bị loại bỏ. Sau đó dung dịch được xử lý bằng oxalat ammoni để chuyển đổi các kim loại đất hiếm thành các dạng oxalat không hòa tan của chúng. Các oxalat được chuyển hóa thành các ôxít nhờ ủ. Các ôxít được hòa tan trong axít nitric để tiếp tục loại bỏ một trong các thành phần chính là xeri, do ôxít của nó không hòa tan trong HNO3. Terbi được tách ra ở dạng muối kép với nitrat ammoni bởi sự kết tinh.
Dung dịch nào được dùng để loại bỏ thori?
NaOH
Các khoáng vật chứa terbi thô nghiền nát được xử lý bằng axít sulfuric đặc nóng để tạo ra sulfat hòa tan trong nước của các kim loại đất hiếm. Nước lọc có tính axít được trung hòa một phần bằng NaOH tới khi pH đạt giá trị 3-4. Thori kết tủa khỏi dung dịch dưới dạng hiđrôxít và bị loại bỏ. Sau đó dung dịch được xử lý bằng oxalat ammoni để chuyển đổi các kim loại đất hiếm thành các dạng oxalat không hòa tan của chúng. Các oxalat được chuyển hóa thành các ôxít nhờ ủ. Các ôxít được hòa tan trong axít nitric để tiếp tục loại bỏ một trong các thành phần chính là xeri, do ôxít của nó không hòa tan trong HNO3. Terbi được tách ra ở dạng muối kép với nitrat ammoni bởi sự kết tinh.
Nguyên liệu đầu vào của quy trình xử lý này là gì?
khoáng vật chứa terbi thô nghiền nát
Các khoáng vật chứa terbi thô nghiền nát được xử lý bằng axít sulfuric đặc nóng để tạo ra sulfat hòa tan trong nước của các kim loại đất hiếm. Nước lọc có tính axít được trung hòa một phần bằng NaOH tới khi pH đạt giá trị 3-4. Thori kết tủa khỏi dung dịch dưới dạng hiđrôxít và bị loại bỏ. Sau đó dung dịch được xử lý bằng oxalat ammoni để chuyển đổi các kim loại đất hiếm thành các dạng oxalat không hòa tan của chúng. Các oxalat được chuyển hóa thành các ôxít nhờ ủ. Các ôxít được hòa tan trong axít nitric để tiếp tục loại bỏ một trong các thành phần chính là xeri, do ôxít của nó không hòa tan trong HNO3. Terbi được tách ra ở dạng muối kép với nitrat ammoni bởi sự kết tinh.
Quá trình nào được sử dụng để chuyển đổi các kim loại đất hiếm thành các dạng không hòa tan của chúng?
xử lý bằng oxalat ammoni
Phương thức hiệu quả nhất để tách các muối terbi ra khỏi dung dịch muối của các kim loại đất hiếm khác là trao đổi ion. Trong phương thức này, các ion kim loại đất hiếm được hấp thụ thành nhựa trao đổi ion thích hợp bằng trao đổi với các ion hiđrôni, ammoni hay đồng có trong nhựa. Các ion đất hiếm sau đó được rửa sạch có chọn lọc bằng các tác nhân tạo phức chất thích hợp. Giống như các kim loại đất hiếm khác, terbi kim loại được sản xuất bằng cách khử clorua hay florua khan bằng canxi kim loại. Các tạp chất canxi và tantali có thể loại bỏ bằng tái nóng chảy trong chân không, chưng cất, tạo hỗn hống hay nung chảy theo khu vực.
Phương pháp nào được sử dụng để sản xuất terbi kim loại?
khử clorua hay florua khan bằng canxi kim loại
Phương thức hiệu quả nhất để tách các muối terbi ra khỏi dung dịch muối của các kim loại đất hiếm khác là trao đổi ion. Trong phương thức này, các ion kim loại đất hiếm được hấp thụ thành nhựa trao đổi ion thích hợp bằng trao đổi với các ion hiđrôni, ammoni hay đồng có trong nhựa. Các ion đất hiếm sau đó được rửa sạch có chọn lọc bằng các tác nhân tạo phức chất thích hợp. Giống như các kim loại đất hiếm khác, terbi kim loại được sản xuất bằng cách khử clorua hay florua khan bằng canxi kim loại. Các tạp chất canxi và tantali có thể loại bỏ bằng tái nóng chảy trong chân không, chưng cất, tạo hỗn hống hay nung chảy theo khu vực.
Các ion kim loại đất hiếm được hấp thụ thành chất gì trong quá trình trao đổi ion?
nhựa trao đổi ion
Phương thức hiệu quả nhất để tách các muối terbi ra khỏi dung dịch muối của các kim loại đất hiếm khác là trao đổi ion. Trong phương thức này, các ion kim loại đất hiếm được hấp thụ thành nhựa trao đổi ion thích hợp bằng trao đổi với các ion hiđrôni, ammoni hay đồng có trong nhựa. Các ion đất hiếm sau đó được rửa sạch có chọn lọc bằng các tác nhân tạo phức chất thích hợp. Giống như các kim loại đất hiếm khác, terbi kim loại được sản xuất bằng cách khử clorua hay florua khan bằng canxi kim loại. Các tạp chất canxi và tantali có thể loại bỏ bằng tái nóng chảy trong chân không, chưng cất, tạo hỗn hống hay nung chảy theo khu vực.
Phương pháp hiệu quả nhất để tách các muối terbi ra khỏi dung dịch muối của các kim loại đất hiếm khác là gì?
trao đổi ion
Ôxít terbi được sử dụng trong các chất lân quang màu xanh lục trong các đèn huỳnh quang và các ống TV màu. Các chát lân quang "xanh lục" terbi (phát màu vàng chanh tươi) được kết hợp với các chất lân quang màu xanh lam của europi hóa trị 2 và các chất lân quang màu đỏ của europi hóa trị 3 để tạo ra công nghệ chiếu sáng "ba màu". Chiếu sáng ba màu cung cấp lượng sáng cao hơn khi xét cùng một lượng điện năng đầu vào so với các đèn nóng sáng. Đây cũng là lĩnh vực tiêu thụ terbi nhiều nhất trên thế giới. Borat terbi natri được sử dụng trong các thiết bị trạng thái rắn. Huỳnh quang tươi màu cho phép sử dụng terbi làm mẫu thăm dò trong hóa sinh học, trong đó nó là gần giống như canxi về hành vi.
Ôxít terbi được sử dụng để tạo ra công nghệ chiếu sáng nào?
Chiếu sáng ba màu
Ôxít terbi được sử dụng trong các chất lân quang màu xanh lục trong các đèn huỳnh quang và các ống TV màu. Các chát lân quang "xanh lục" terbi (phát màu vàng chanh tươi) được kết hợp với các chất lân quang màu xanh lam của europi hóa trị 2 và các chất lân quang màu đỏ của europi hóa trị 3 để tạo ra công nghệ chiếu sáng "ba màu". Chiếu sáng ba màu cung cấp lượng sáng cao hơn khi xét cùng một lượng điện năng đầu vào so với các đèn nóng sáng. Đây cũng là lĩnh vực tiêu thụ terbi nhiều nhất trên thế giới. Borat terbi natri được sử dụng trong các thiết bị trạng thái rắn. Huỳnh quang tươi màu cho phép sử dụng terbi làm mẫu thăm dò trong hóa sinh học, trong đó nó là gần giống như canxi về hành vi.
Terbi được sử dụng trong các thiết bị nào?
thiết bị trạng thái rắn
Giấy phép Tài liệu Tự do GNU (GFDL hoặc GNU FDL) là giấy phép bản quyền bên trái cho tài liệu tự do, do Quỹ Phần mềm Tự do (FSF) thiết kế cho Dự án GNU. Nó tương tự như Giấy phép Công cộng GNU, cung cấp cho người đọc quyền sao chép, tái phân phối và chỉnh sửa một tác phẩm và đòi hỏi tất cả các bản sao và tác phẩm phái sinh phải có thể được sử dụng với cùng giấy phép. Những bản sao có thể được bán thương mại, nhưng nếu được sản xuất với số lượng lớn (hơn 100), thì người nhận tác phẩm phải được phép truy xuất tài liệu gốc hoặc mã nguồn.
Giấy phép nào do Quỹ Phần mềm Tự do thiết kế?
GFDL
Giấy phép Tài liệu Tự do GNU (GFDL hoặc GNU FDL) là giấy phép bản quyền bên trái cho tài liệu tự do, do Quỹ Phần mềm Tự do (FSF) thiết kế cho Dự án GNU. Nó tương tự như Giấy phép Công cộng GNU, cung cấp cho người đọc quyền sao chép, tái phân phối và chỉnh sửa một tác phẩm và đòi hỏi tất cả các bản sao và tác phẩm phái sinh phải có thể được sử dụng với cùng giấy phép. Những bản sao có thể được bán thương mại, nhưng nếu được sản xuất với số lượng lớn (hơn 100), thì người nhận tác phẩm phải được phép truy xuất tài liệu gốc hoặc mã nguồn.
Ai thiết kế Giấy phép Tài liệu Tự do GNU?
Quỹ Phần mềm Tự do (FSF)
Vào ngày 1 tháng 12 năm 2007, Jimmy Wales thông báo rằng những cuộc thảo luận và đàm phán lâu dài giữa Quỹ Phần mềm Tự do, Creative Commons, Quỹ Wikimedia và những tổ chức khác đã đưa ra một đề xuất được cả Quỹ Phần mềm Tự do lẫn Creative Commons hỗ trợ để điều chỉnh Giấy phép Tài liệu Tự do sao cho nó cho phép Quỹ Wikimedia có khả năng chuyển các dự án sang giấy phép Creative Commons Ghi công - Chia sẻ tương tự (CC-BY-SA) tương tự. Những thay đổi này được hiện thực trong Phiên bản 1.3 của GFDL.
GFDL được sửa đổi sang phiên bản nào để Quỹ Wikimedia chuyển dự án sang giấy phép Creative Commons Ghi công - Chia sẻ tương tự (CC-BY-SA)?
Phiên bản 1.3
Vào ngày 1 tháng 12 năm 2007, Jimmy Wales thông báo rằng những cuộc thảo luận và đàm phán lâu dài giữa Quỹ Phần mềm Tự do, Creative Commons, Quỹ Wikimedia và những tổ chức khác đã đưa ra một đề xuất được cả Quỹ Phần mềm Tự do lẫn Creative Commons hỗ trợ để điều chỉnh Giấy phép Tài liệu Tự do sao cho nó cho phép Quỹ Wikimedia có khả năng chuyển các dự án sang giấy phép Creative Commons Ghi công - Chia sẻ tương tự (CC-BY-SA) tương tự. Những thay đổi này được hiện thực trong Phiên bản 1.3 của GFDL.
Ai thông báo về đề xuất điều chỉnh Giấy phép Tài liệu Tự do?
Jimmy Wales
Vào ngày 1 tháng 12 năm 2007, Jimmy Wales thông báo rằng những cuộc thảo luận và đàm phán lâu dài giữa Quỹ Phần mềm Tự do, Creative Commons, Quỹ Wikimedia và những tổ chức khác đã đưa ra một đề xuất được cả Quỹ Phần mềm Tự do lẫn Creative Commons hỗ trợ để điều chỉnh Giấy phép Tài liệu Tự do sao cho nó cho phép Quỹ Wikimedia có khả năng chuyển các dự án sang giấy phép Creative Commons Ghi công - Chia sẻ tương tự (CC-BY-SA) tương tự. Những thay đổi này được hiện thực trong Phiên bản 1.3 của GFDL.
Phiên bản 1.3 của GFDL được thực hiện khi nào?
1 tháng 12 năm 2007
Giấy phép phân biệt rõ ràng các loại "Tài liệu" với các "Tiết đoạn thứ cấp", những phần có thể không nằm trong Tài liệu, mà dùng trong các phần tài liệu ở phần trước hoặc phần phụ lục. Các tiết đoạn thứ cấp có thể chứa những thông tin liên quan đến mối quan hệ của tác giả hoặc của nhà xuất bản với nội dung của vấn đề, nhưng không phải bất kỳ nội dung nào của vấn đề. Trong khi Tài liệu tự nó là có thể sửa đổi được về tổng thể, và được bao trùm một cách thực chất bởi một giấy phép tương đương với (nhưng không tương thích tương hỗ với) Giấy phép Công cộng GNU, thì một số tiết đoạn thứ cấp có các hạn chế khác nhau, được tạo ra chủ yếu để giải quyết việc ghi công thích đáng cho các tác giả trước đó.
Giấy phép nào bao trùm Giấy phép Công cộng GNU?
giấy phép tương đương
Giấy phép phân biệt rõ ràng các loại "Tài liệu" với các "Tiết đoạn thứ cấp", những phần có thể không nằm trong Tài liệu, mà dùng trong các phần tài liệu ở phần trước hoặc phần phụ lục. Các tiết đoạn thứ cấp có thể chứa những thông tin liên quan đến mối quan hệ của tác giả hoặc của nhà xuất bản với nội dung của vấn đề, nhưng không phải bất kỳ nội dung nào của vấn đề. Trong khi Tài liệu tự nó là có thể sửa đổi được về tổng thể, và được bao trùm một cách thực chất bởi một giấy phép tương đương với (nhưng không tương thích tương hỗ với) Giấy phép Công cộng GNU, thì một số tiết đoạn thứ cấp có các hạn chế khác nhau, được tạo ra chủ yếu để giải quyết việc ghi công thích đáng cho các tác giả trước đó.
Phần nào có thể chứa thông tin liên quan đến mối quan hệ của tác giả với nội dung của vấn đề?
Tiết đoạn thứ cấp
Đặc biệt, các tác giả của các phiên bản trước cần phải được biết đến và các "tiết đoạn bất biến" nhất định, được tác giả ban đầu chỉ rõ và giải quyết mối quan hệ của người đó với nội dung của vấn đề, có thể không được thay đổi. Nếu như tài liệu được sửa đổi, tên gọi của nó cũng phải thay đổi (trừ khi các tác giả trước đó cho phép giữ lại tên gọi). Giấy phép cũng có các điều khoản để xử lý các văn bản của bìa trước và bìa sau của sách, cũng như cho "Lịch sử", các tiết đoạn "Lời cảm ơn", "Lời đề tặng" và "Lời ghi đằng sau".
Theo đoạn văn, điều gì là không được thay đổi trong tài liệu sửa đổi?
tiết đoạn bất biến
Dự án Debian và Nathanael Nerode đã có lời phản đối giấy phép. Những lập trình viên Debian cuối cùng đã biểu quyết đồng ý những sản phẩm được cấp phép theo GFDL là thỏa mãn với Hướng dẫn Phần mềm Tự do Debian của họ miễn là điều khoản về phần bất biến không được sử dụng. Những người này đề nghị sử dụng những giấy phép thay thế như các giấy phép Creative Commons chia sẻ tương tự, Giấy phép Tài liệu BSD, hay thậm chí là sử dụng GNU GPL. Họ xem GFDL là giấy phép không tự do. Lý do là GFDL bắt buộc các văn bản "bất biến" không được thay đổi hoặc xóa đi, cùng với sự cấm đoán những hệ thống quản lý quyền lợi kỹ thuật số (DRM) khi sử dụng GFDL về mặt từ ngữ còn áp dụng cho cả "những bản sao chép cá nhân được tạo ra nhưng không phân phối".
Theo các lập trình viên Debian, GFDL là gì?
giấy phép không tự do
Định nghĩa của dạng thức "trong suốt" (transparent) khá phức tạp, và có thể khó áp dụng. Ví dụ, những bản vẽ được yêu cầu phải ở định dạng cho phép chúng được sửa đổi dễ dàng bằng "một chương trình vẽ nào đó dễ dàng có được". Định nghĩa "dễ dàng lấy được" (từ gốc "widely available") có thể khó diễn dịch, và có thể thay đổi theo thời gian, vì có những phần mềm ví dụ như chương trình sửa đổi hình ảnh Inkscape mã nguồn mở liên tục phát triển, nhưng vẫn chưa đạt đến phiên bản 1.0. Tiết đoạn này, được viết lại giữa phiên bản 1.1 và 1.2 của giấy phép, đã sử dụng không nhất quán các thuật ngữ "dễ dàng có được" và "mang tính thương mại" (proprietary) mà không định nghĩa chúng. Theo một diễn dịch sát với giấy phép, việc tham chiếu đến "chương trình soạn thảo văn bản chung" (generic text editors) có thể được diễn dịch là loại trừ bất kỳ định dạng nào mà con người không đọc được thậm chí nếu nó được một bộ xử lý văn bản mã nguồn mở sử dụng; còn theo một cách diễn dịch thoáng, định dạng.doc của Microsoft Word cũng có thể được xem là trong suốt, vì một nhóm con trong các tập tin.doc có thể được sửa đổi hoàn hảo bằng OpenOffice.org, và do đó định dạng này không phải là thứ "chỉ có thể đọc hoặc sửa đổi bằng những phần mềm xử lý văn bản thương mại" (that can be read and edited only by proprietary word processors).
Tiết đoạn này được viết lại giữa các phiên bản nào của giấy phép?
1.1 và 1.2
Định nghĩa của dạng thức "trong suốt" (transparent) khá phức tạp, và có thể khó áp dụng. Ví dụ, những bản vẽ được yêu cầu phải ở định dạng cho phép chúng được sửa đổi dễ dàng bằng "một chương trình vẽ nào đó dễ dàng có được". Định nghĩa "dễ dàng lấy được" (từ gốc "widely available") có thể khó diễn dịch, và có thể thay đổi theo thời gian, vì có những phần mềm ví dụ như chương trình sửa đổi hình ảnh Inkscape mã nguồn mở liên tục phát triển, nhưng vẫn chưa đạt đến phiên bản 1.0. Tiết đoạn này, được viết lại giữa phiên bản 1.1 và 1.2 của giấy phép, đã sử dụng không nhất quán các thuật ngữ "dễ dàng có được" và "mang tính thương mại" (proprietary) mà không định nghĩa chúng. Theo một diễn dịch sát với giấy phép, việc tham chiếu đến "chương trình soạn thảo văn bản chung" (generic text editors) có thể được diễn dịch là loại trừ bất kỳ định dạng nào mà con người không đọc được thậm chí nếu nó được một bộ xử lý văn bản mã nguồn mở sử dụng; còn theo một cách diễn dịch thoáng, định dạng.doc của Microsoft Word cũng có thể được xem là trong suốt, vì một nhóm con trong các tập tin.doc có thể được sửa đổi hoàn hảo bằng OpenOffice.org, và do đó định dạng này không phải là thứ "chỉ có thể đọc hoặc sửa đổi bằng những phần mềm xử lý văn bản thương mại" (that can be read and edited only by proprietary word processors).
Định dạng .doc của Microsoft Word có được coi là "trong suốt" theo một cách diễn dịch thoáng không?
Định nghĩa của dạng thức "trong suốt" (transparent) khá phức tạp, và có thể khó áp dụng. Ví dụ, những bản vẽ được yêu cầu phải ở định dạng cho phép chúng được sửa đổi dễ dàng bằng "một chương trình vẽ nào đó dễ dàng có được". Định nghĩa "dễ dàng lấy được" (từ gốc "widely available") có thể khó diễn dịch, và có thể thay đổi theo thời gian, vì có những phần mềm ví dụ như chương trình sửa đổi hình ảnh Inkscape mã nguồn mở liên tục phát triển, nhưng vẫn chưa đạt đến phiên bản 1.0. Tiết đoạn này, được viết lại giữa phiên bản 1.1 và 1.2 của giấy phép, đã sử dụng không nhất quán các thuật ngữ "dễ dàng có được" và "mang tính thương mại" (proprietary) mà không định nghĩa chúng. Theo một diễn dịch sát với giấy phép, việc tham chiếu đến "chương trình soạn thảo văn bản chung" (generic text editors) có thể được diễn dịch là loại trừ bất kỳ định dạng nào mà con người không đọc được thậm chí nếu nó được một bộ xử lý văn bản mã nguồn mở sử dụng; còn theo một cách diễn dịch thoáng, định dạng.doc của Microsoft Word cũng có thể được xem là trong suốt, vì một nhóm con trong các tập tin.doc có thể được sửa đổi hoàn hảo bằng OpenOffice.org, và do đó định dạng này không phải là thứ "chỉ có thể đọc hoặc sửa đổi bằng những phần mềm xử lý văn bản thương mại" (that can be read and edited only by proprietary word processors).
Phần mềm Inkscape hiện đang ở phiên bản nào?
chưa đạt đến phiên bản 1.0
Công nghệ thông tin và truyền thông, thường được gọi là ICT, là cụm từ thường dùng như từ đồng nghĩa rộng hơn cho công nghệ thông tin (IT), nhưng thường là một thuật ngữ chung để nhấn mạnh vai trò của truyền thông hợp nhất và sự kết hợp của viễn thông (đường dây điện thoại và tín hiệu không dây), hệ thống quản lý tòa nhà thông minh và hệ thống nghe-nhìn trong công nghệ thông tin hiện đại. ICT bao gồm tất cả các phương tiện kỹ thuật được sử dụng để xử lý thông tin và trợ giúp liên lạc, bao gồm phần cứng và mạng máy tính, liên lạc trung gian cũng như là các phần mềm cần thiết. Mặt khác, ICT bao gồm IT cũng như là điện thoại, phương tiện truyền thông, tất cả các loại xử lý âm thanh và video, điều khiển dựa trên truyền tải và mạng và các chức năng giám sát. Cách diễn tả này xuất hiện lần đầu tiên vào năm 1997 trong một báo cáo của Dennis Stevenson gửi chính phủ Anh và được lan truyền rộng rãi trong các tài liệu mới của Chương trình giảng dạy Quốc gia Anh vào năm 2000.
ICT là viết tắt của cụm từ nào?
Công nghệ thông tin và truyền thông
Công nghệ thông tin và truyền thông, thường được gọi là ICT, là cụm từ thường dùng như từ đồng nghĩa rộng hơn cho công nghệ thông tin (IT), nhưng thường là một thuật ngữ chung để nhấn mạnh vai trò của truyền thông hợp nhất và sự kết hợp của viễn thông (đường dây điện thoại và tín hiệu không dây), hệ thống quản lý tòa nhà thông minh và hệ thống nghe-nhìn trong công nghệ thông tin hiện đại. ICT bao gồm tất cả các phương tiện kỹ thuật được sử dụng để xử lý thông tin và trợ giúp liên lạc, bao gồm phần cứng và mạng máy tính, liên lạc trung gian cũng như là các phần mềm cần thiết. Mặt khác, ICT bao gồm IT cũng như là điện thoại, phương tiện truyền thông, tất cả các loại xử lý âm thanh và video, điều khiển dựa trên truyền tải và mạng và các chức năng giám sát. Cách diễn tả này xuất hiện lần đầu tiên vào năm 1997 trong một báo cáo của Dennis Stevenson gửi chính phủ Anh và được lan truyền rộng rãi trong các tài liệu mới của Chương trình giảng dạy Quốc gia Anh vào năm 2000.
ICT là từ đồng nghĩa rộng hơn của thuật ngữ nào?
công nghệ thông tin (IT)
Tại Việt Nam, ngày 27 tháng 7 năm 2007 chính phủ Việt Nam thành lập Bộ Thông tin và Truyền thông để quản lý lĩnh vực này. Sau đó các Sở Thông tin và Truyền thông trên các tỉnh thành cả nước để thực hiện chức năng quản lý nhà nước về báo chí; xuất bản; bưu chính và chuyển phát; viễn thông và Internet; truyền dẫn phát sóng; tần số vô tuyến điện; công nghệ thông tin, điện tử; phát thanh và truyền hình và cơ sở hạ tầng thông tin truyền thông quốc gia; quản lý nhà nước các dịch vụ công trong các ngành, lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ. (trước đây thuộc Bộ Văn hóa).
Bộ Thông tin và Truyền thông của Việt Nam được thành lập vào ngày nào?
27 tháng 7 năm 2007
"ICT" được sử dụng như là một thuật ngữ chung cho tất cả các loại công nghệ cho phép người dùng tạo, truy cập và thao tác với thông tin. ICT là một sử kết hợp của công nghệ thông tin và công nghệ truyền thông. Trong một thế giới ngày càng gắn kết với nhau, sự tương tác giữa các thiết bị, hệ thống và con người đang tăng lên đáng kể. Các doanh nghiệp cần phải đáp ứng các nhu cầu của nhân viên và khách hàng của họ để cho phép tiếp cận nhiều hơn với các hệ thống và thông tin. Tất cả những nhu cầu liên lạc phải được truyền đi theo một cách thống nhất. Bằng cách cung cấp cơ sở hạ tầng có thể mở rộng, những mô hình điện toán đám mây cho phép các công ty làm việc thông minh hơn nhờ vào việc truy cập công nghệ và thông tin thông minh và hiệu quả về chi phí hơn. Nền tảng kết hợp này đã giảm thiểu chi phí và nâng cap năng suất giữa các doanh nghiệp và hơn thế nữa. Một phần của lộ trình công nghệ thông tin và truyền thông nên được củng cố về cơ sở hạ tầng, trong khi đó thêm vào những lợi ích cho người dùng trong việc hợp tác, gửi tin, sắp xếp lịch, tin nhắn tức thời (IM), âm thanh, video, và hội nghị qua Web. Điện toán đám mây làm cho việc vận chuyển và tiêu thụ năng lượng trong IT trở nên hiệu quả hơn và đưa ICT lên một tầm cao mới.
ICT là viết tắt của gì?
công nghệ thông tin và công nghệ truyền thông
Trong các hệ thống giáo dục trên toàn cầu hiện nay, ICT không được thực thi rộng rãi như ở những lĩnh vực khác, như kinh doanh. Có nhiều lý do khác nhau cho lỗ hổng của những công nghệ này trong giáo dục. Nhiều chuyên gia cho rằng chi phí cao trong việc trang bị đã không tạo điều kiện cho các trường học tiếp cận với công nghệ này trong lớp học. Các chuyên gia khác lại cho rằng theo tính chất xã hội của những hệ thống giáo dục hiện nay, nó đòi hỏi đáng kể sự liên lạc cá nhân giữa giáo viên và học sinh của họ, điều này làm cho những công nghệ không được hỗ trợ tốt trong lớp học.
Theo một số chuyên gia, điều gì đã ngăn cản các trường học tiếp cận ICT trong lớp học?
chi phí cao
Có rất nhiều cơ hội nghề nghiệp cho cả những chuyên viên ICT mới bắt đầu và đã có kinh nghiệm. Những người quản lý hệ thống thông tin máy tính giám sát tất cả những khía cạnh của một tổ chức, như việc phát triển phần mềm, bảo mật mạng và các hoạt động Internet. Những người thích thiết kế chương trình phần mềm có thể chú ý đến một công việc như là một lập trình viên máy tính. Làm việc theo nhóm rất cần thiết cho các Kỹ sư phần mềm máy tính, những người làm việc với một nhóm lớn để giải quyết vấn đề và tạo ra sản phẩm mới. Thậm chí những người đi du lịch hoặc liên lạc từ xa phải báo cáo cho đội hoặc ban quản lý. Những người quản trị cơ sở dữ liệu (DBA) sử dụng phần mềm để lưu trữ và quản lý thông tin. Họ cũng thiết lập cơ sở dữ liệu và có trách nhiệm giữ cho hệ thống vận hành hiệu quả. Những chuyên viên thống kê thu thập dữ liệu và xử lý chúng, tìm ra những khuôn mẫu giải thích hành vi hoặc mô tả thế giới như nó hiện tại.
Các Kỹ sư phần mềm máy tính cần làm việc gì?
giải quyết vấn đề và tạo ra sản phẩm mới
Có rất nhiều cơ hội nghề nghiệp cho cả những chuyên viên ICT mới bắt đầu và đã có kinh nghiệm. Những người quản lý hệ thống thông tin máy tính giám sát tất cả những khía cạnh của một tổ chức, như việc phát triển phần mềm, bảo mật mạng và các hoạt động Internet. Những người thích thiết kế chương trình phần mềm có thể chú ý đến một công việc như là một lập trình viên máy tính. Làm việc theo nhóm rất cần thiết cho các Kỹ sư phần mềm máy tính, những người làm việc với một nhóm lớn để giải quyết vấn đề và tạo ra sản phẩm mới. Thậm chí những người đi du lịch hoặc liên lạc từ xa phải báo cáo cho đội hoặc ban quản lý. Những người quản trị cơ sở dữ liệu (DBA) sử dụng phần mềm để lưu trữ và quản lý thông tin. Họ cũng thiết lập cơ sở dữ liệu và có trách nhiệm giữ cho hệ thống vận hành hiệu quả. Những chuyên viên thống kê thu thập dữ liệu và xử lý chúng, tìm ra những khuôn mẫu giải thích hành vi hoặc mô tả thế giới như nó hiện tại.
Những người thích thiết kế chương trình phần mềm có thể làm việc nào?
lập trình viên máy tính
Có rất nhiều cơ hội nghề nghiệp cho cả những chuyên viên ICT mới bắt đầu và đã có kinh nghiệm. Những người quản lý hệ thống thông tin máy tính giám sát tất cả những khía cạnh của một tổ chức, như việc phát triển phần mềm, bảo mật mạng và các hoạt động Internet. Những người thích thiết kế chương trình phần mềm có thể chú ý đến một công việc như là một lập trình viên máy tính. Làm việc theo nhóm rất cần thiết cho các Kỹ sư phần mềm máy tính, những người làm việc với một nhóm lớn để giải quyết vấn đề và tạo ra sản phẩm mới. Thậm chí những người đi du lịch hoặc liên lạc từ xa phải báo cáo cho đội hoặc ban quản lý. Những người quản trị cơ sở dữ liệu (DBA) sử dụng phần mềm để lưu trữ và quản lý thông tin. Họ cũng thiết lập cơ sở dữ liệu và có trách nhiệm giữ cho hệ thống vận hành hiệu quả. Những chuyên viên thống kê thu thập dữ liệu và xử lý chúng, tìm ra những khuôn mẫu giải thích hành vi hoặc mô tả thế giới như nó hiện tại.
Những ai sử dụng phần mềm để lưu trữ và quản lý thông tin?
quản trị cơ sở dữ liệu (DBA)
Vào đầu thời đại đồ đá mới, tại khu vực trung du Hoàng Hà đã có nhiều thể loại hình thức văn hóa phát sinh và phát triển, thông qua khảo cổ, đã phát hiện được văn hóa Bùi Lý Cương tồn tại trong khoảng thời gian 7000 TCN - 5000 TCN ở lưu vực Lạc Hà, khu định cư Gia Hồ từng tồn tại từ 7000 TCN - 5800 TCN ở khu vực huyện Vũ Dương ngày nay. Cư dân Gia Hồ khi đó đã trồng kê và lúa, trong khi việc trồng kê là điều thường thấy ở các cộng đồng thuộc văn hóa Bùi Lý Cương, thì việc trồng lúa chỉ xuất hiện duy nhất tại Gia Hồ.
Cư dân Gia Hồ trồng loại cây nào?
kê và lúa
Vào đầu thời đại đồ đá mới, tại khu vực trung du Hoàng Hà đã có nhiều thể loại hình thức văn hóa phát sinh và phát triển, thông qua khảo cổ, đã phát hiện được văn hóa Bùi Lý Cương tồn tại trong khoảng thời gian 7000 TCN - 5000 TCN ở lưu vực Lạc Hà, khu định cư Gia Hồ từng tồn tại từ 7000 TCN - 5800 TCN ở khu vực huyện Vũ Dương ngày nay. Cư dân Gia Hồ khi đó đã trồng kê và lúa, trong khi việc trồng kê là điều thường thấy ở các cộng đồng thuộc văn hóa Bùi Lý Cương, thì việc trồng lúa chỉ xuất hiện duy nhất tại Gia Hồ.
Văn hóa Bùi Lý Cương tồn tại trong khoảng thời gian nào?
7000 TCN - 5000 TCN
Vào đầu thời đại đồ đá mới, tại khu vực trung du Hoàng Hà đã có nhiều thể loại hình thức văn hóa phát sinh và phát triển, thông qua khảo cổ, đã phát hiện được văn hóa Bùi Lý Cương tồn tại trong khoảng thời gian 7000 TCN - 5000 TCN ở lưu vực Lạc Hà, khu định cư Gia Hồ từng tồn tại từ 7000 TCN - 5800 TCN ở khu vực huyện Vũ Dương ngày nay. Cư dân Gia Hồ khi đó đã trồng kê và lúa, trong khi việc trồng kê là điều thường thấy ở các cộng đồng thuộc văn hóa Bùi Lý Cương, thì việc trồng lúa chỉ xuất hiện duy nhất tại Gia Hồ.
Văn hóa Bùi Cương được phát hiện ở đâu?
lưu vực Lạc Hà
Tiếp sau, tại khu vực nay là bắc bộ Hà Nam đã xuất hiện văn hóa Ngưỡng Thiều (5000 TCN – 3000 TCN), cư dân thuộc nền văn hóa này chủ yếu trồng kê, một vài làng cũng trồng lúa mì hay lúa gạo, đánh cá và chăn nuôi các động vật như lợn, gà và chó, cũng như cừu, dê và bò, họ cũng có thể đã thực hành một dạng sớm của chăn nuôi tằm tơ. Đến cuối thời đại đồ đá mới, khu vực trung hạ du Hoàng Hà, bao gồm cả Hà Nam, thuộc về văn hóa Long Sơn (3000 TCN - 2000 TCN), cư dân của nền văn hóa này đã đạt được trình độ cao trong sản xuất đồ gốm, như sử dụng bàn xoay gốm.
Cư dân văn hóa Ngưỡng Thiều chủ yếu trồng loại cây nào?
Tiếp sau, tại khu vực nay là bắc bộ Hà Nam đã xuất hiện văn hóa Ngưỡng Thiều (5000 TCN – 3000 TCN), cư dân thuộc nền văn hóa này chủ yếu trồng kê, một vài làng cũng trồng lúa mì hay lúa gạo, đánh cá và chăn nuôi các động vật như lợn, gà và chó, cũng như cừu, dê và bò, họ cũng có thể đã thực hành một dạng sớm của chăn nuôi tằm tơ. Đến cuối thời đại đồ đá mới, khu vực trung hạ du Hoàng Hà, bao gồm cả Hà Nam, thuộc về văn hóa Long Sơn (3000 TCN - 2000 TCN), cư dân của nền văn hóa này đã đạt được trình độ cao trong sản xuất đồ gốm, như sử dụng bàn xoay gốm.
Nền văn hóa nào xuất hiện tại khu vực bắc bộ Hà Nam vào thời đại đồ đá mới?
văn hóa Ngưỡng Thiều
Tiếp sau, tại khu vực nay là bắc bộ Hà Nam đã xuất hiện văn hóa Ngưỡng Thiều (5000 TCN – 3000 TCN), cư dân thuộc nền văn hóa này chủ yếu trồng kê, một vài làng cũng trồng lúa mì hay lúa gạo, đánh cá và chăn nuôi các động vật như lợn, gà và chó, cũng như cừu, dê và bò, họ cũng có thể đã thực hành một dạng sớm của chăn nuôi tằm tơ. Đến cuối thời đại đồ đá mới, khu vực trung hạ du Hoàng Hà, bao gồm cả Hà Nam, thuộc về văn hóa Long Sơn (3000 TCN - 2000 TCN), cư dân của nền văn hóa này đã đạt được trình độ cao trong sản xuất đồ gốm, như sử dụng bàn xoay gốm.
Văn hóa Long Sơn thuộc thời đại nào?
đồ đá mới
Văn hóa Nhị Lý Đầu đã tạo ra bước nhảy từ thời đại đồ đá mới sang thời đại đồ đồng tại Trung Quốc, nền văn hóa này được đặt tên theo di chỉ Nhị Lý Đầu ở thôn cùng tên tại Yển Sư của Hà Nam. Nền văn hóa này tồn tại trong khoảng thời gian từ 1880 TCN đến 1520 TCN, Di chỉ Nhị Lý Đầu có dấu tích của các tòa cung điện và các xưởng nấu chảy đồng. Nhị Lý Đầu là nơi duy nhất sản xuất các bình đồng dùng trong lễ nghi đương thời tại Trung Quốc. Thời gian tồn tại của văn hóa Nhị Lý Đầu tương ứng với vương triều Hạ, quốc gia liên minh bộ lạc hay triều đại đầu tiên và có tính thần thoại cao trong lịch sử Trung Quốc. Khu vực Hà Nam ngày nay là trung tâm của vương triều Hạ, khu vực di chỉ Nhị Lý Đầu được nhiều học giả nhận định là đô thành trong toàn bộ thời gian hoặc thời kỳ thứ nhất, thứ hai của vương triều Hạ, song vẫn đang phải tìm kiếm các cơ sở vững chắc để làm rõ.
Di chỉ Nhị Lý Đầu là di chỉ của nền văn hóa nào?
Văn hóa Nhị Lý Đầu
Văn hóa Nhị Lý Đầu đã tạo ra bước nhảy từ thời đại đồ đá mới sang thời đại đồ đồng tại Trung Quốc, nền văn hóa này được đặt tên theo di chỉ Nhị Lý Đầu ở thôn cùng tên tại Yển Sư của Hà Nam. Nền văn hóa này tồn tại trong khoảng thời gian từ 1880 TCN đến 1520 TCN, Di chỉ Nhị Lý Đầu có dấu tích của các tòa cung điện và các xưởng nấu chảy đồng. Nhị Lý Đầu là nơi duy nhất sản xuất các bình đồng dùng trong lễ nghi đương thời tại Trung Quốc. Thời gian tồn tại của văn hóa Nhị Lý Đầu tương ứng với vương triều Hạ, quốc gia liên minh bộ lạc hay triều đại đầu tiên và có tính thần thoại cao trong lịch sử Trung Quốc. Khu vực Hà Nam ngày nay là trung tâm của vương triều Hạ, khu vực di chỉ Nhị Lý Đầu được nhiều học giả nhận định là đô thành trong toàn bộ thời gian hoặc thời kỳ thứ nhất, thứ hai của vương triều Hạ, song vẫn đang phải tìm kiếm các cơ sở vững chắc để làm rõ.
Văn hóa Nhị Lý Đầu tồn tại trong khoảng thời gian nào?
1880 TCN đến 1520 TCN
Xuất hiện sau văn hóa Nhị Lý Đầu là văn hóa Nhị Lý Cương, tồn tại trong khoảng thời gian 1500 TCN –1300 TCN và được đặt theo tên một di chỉ ở ngay bên ngoài khu đô thị của Trịnh Châu. Di chỉ có dấu tích của một tường thành lớn với chu vi gần 7 km, các xưởng lớn được đặt ngay bên ngoài tường thành: một xưởng sản xuất đồ cốt, một xưởng sản xuất đồ gốm, hai xưởng sản xuất bình đồng. Nhị Lý Cương là nền văn hóa khảo cổ học sớm nhất tại Trung Quốc thể hiện việc đã sử dụng phổ biến các bình đồng được đúc, phong cách cũng thống nhất hơn văn hóa Nhị Lý Đầu. Nhiều nhà khảo cổ Trung Quốc cho rằng thành cổ này là một trong những đô thành ban đầu của vương triều Thương, triều đại tiếp nối của vương triều Hạ. Minh Điều, nay là đông bộ Phong Khâu là nơi quân của Thương Thang đã quyết chiến với quân của vua Kiệt triều Hạ, kết quả là quân Hạ đại bại. Do việc lũ lụt, thiên tai, triều Thương đã phải thiên đô nhiều lần, cuối cùng định đô tại Ân Khư (thuộc An Dương ngày nay) trong thời gian vua Bàn Canh trị vì. Viên quan triều Thanh Vương Ý Vinh (王懿榮) đã phát hiện ra những xương và mai rùa được khắc chữ tại di chỉ An Khư vào năm 1899, được gọi là giáp cốt văn.
Di chỉ Nhị Lý Cương có chu vi bao nhiêu km?
7 km
Xuất hiện sau văn hóa Nhị Lý Đầu là văn hóa Nhị Lý Cương, tồn tại trong khoảng thời gian 1500 TCN –1300 TCN và được đặt theo tên một di chỉ ở ngay bên ngoài khu đô thị của Trịnh Châu. Di chỉ có dấu tích của một tường thành lớn với chu vi gần 7 km, các xưởng lớn được đặt ngay bên ngoài tường thành: một xưởng sản xuất đồ cốt, một xưởng sản xuất đồ gốm, hai xưởng sản xuất bình đồng. Nhị Lý Cương là nền văn hóa khảo cổ học sớm nhất tại Trung Quốc thể hiện việc đã sử dụng phổ biến các bình đồng được đúc, phong cách cũng thống nhất hơn văn hóa Nhị Lý Đầu. Nhiều nhà khảo cổ Trung Quốc cho rằng thành cổ này là một trong những đô thành ban đầu của vương triều Thương, triều đại tiếp nối của vương triều Hạ. Minh Điều, nay là đông bộ Phong Khâu là nơi quân của Thương Thang đã quyết chiến với quân của vua Kiệt triều Hạ, kết quả là quân Hạ đại bại. Do việc lũ lụt, thiên tai, triều Thương đã phải thiên đô nhiều lần, cuối cùng định đô tại Ân Khư (thuộc An Dương ngày nay) trong thời gian vua Bàn Canh trị vì. Viên quan triều Thanh Vương Ý Vinh (王懿榮) đã phát hiện ra những xương và mai rùa được khắc chữ tại di chỉ An Khư vào năm 1899, được gọi là giáp cốt văn.
Di chỉ Nhị Lý Cương có dấu tích của công trình nào?
tường thành lớn
Sau khi tộc Chu lật đổ vương triều Thương, lập ra vương triều Chu, Chu Vũ Vương theo kiến nghị của Chu công Đán đã cho con của Trụ Vương là Vũ Canh tiếp tục cai trị đất Ân. Nước Ân đóng đô tại thủ đô của triều Thương trước đây (tức Ân Khư), lãnh thổ của Ân gần tương ứng với khu vực bắc bộ tỉnh Hà Nam, nam bộ tỉnh Hà Bắc và đông nam bộ tỉnh Sơn Tây ngày nay. Không lâu sau, Vũ Canh nổi dậy chống lại triều đình nhằm khôi phục triều Thương, song cuối cùng đã bị Chu công Đán đánh bại. Sau đó Chu Công chia đất Ân làm đôi, một nửa phong cho người tông thất khác của nhà Ân là Vi Tử Khải ở nước Tống để giữ hương hoả nhà Ân còn nửa kia phong cho người em khác của Chu Vũ Vương là Khang Thúc Cơ Phong, đặt quốc hiệu là Vệ. Chu công Đán cũng cho xây thành Lạc Ấp (nay thuộc Tây Công, Lạc Dương) để làm căn cứ địa phòng bị các cuộc phản loạn ở phía đông.
Thủ đô của nước Ân là gì?
Ân Khư
Sau khi tộc Chu lật đổ vương triều Thương, lập ra vương triều Chu, Chu Vũ Vương theo kiến nghị của Chu công Đán đã cho con của Trụ Vương là Vũ Canh tiếp tục cai trị đất Ân. Nước Ân đóng đô tại thủ đô của triều Thương trước đây (tức Ân Khư), lãnh thổ của Ân gần tương ứng với khu vực bắc bộ tỉnh Hà Nam, nam bộ tỉnh Hà Bắc và đông nam bộ tỉnh Sơn Tây ngày nay. Không lâu sau, Vũ Canh nổi dậy chống lại triều đình nhằm khôi phục triều Thương, song cuối cùng đã bị Chu công Đán đánh bại. Sau đó Chu Công chia đất Ân làm đôi, một nửa phong cho người tông thất khác của nhà Ân là Vi Tử Khải ở nước Tống để giữ hương hoả nhà Ân còn nửa kia phong cho người em khác của Chu Vũ Vương là Khang Thúc Cơ Phong, đặt quốc hiệu là Vệ. Chu công Đán cũng cho xây thành Lạc Ấp (nay thuộc Tây Công, Lạc Dương) để làm căn cứ địa phòng bị các cuộc phản loạn ở phía đông.
Vương triều Chu được lập bởi ai?
tộc Chu
Năm 771 TCN, vương triều Chu dời đô đến Lạc Ấp, trở thành dấu mốc bắt đầu thời kỳ Đông Chu đầy bất ổn. Thời Xuân Thu, trên địa phận Hà Nam tồn tại rất nhiều nước chư hầu, mạnh nhất là các nước Trần, Sái, Tào, Trịnh, Vệ, Tống. Nước Tấn hùng mạnh ở phía bắc đến 403 TCN bị phân liệt, trong đó nước Hàn về sau thiên đô đến Tân Trịnh, nước Ngụy vào năm 361 TCN đã thiên đô đến Đại Lương (nay thuộc Khai Phong). Nam bộ Hà Nam là đất đai của nước Sở, cũng là một cường quốc, Hùng Dịch đã kiến lập quốc đô đầu tiên của Sở tại Đan Dương, nằm ở khu vực Tích Xuyên ngày nay. Tới thế kỷ III TCN, lãnh thổ nhỏ bé của triều Chu lại bị phân thành hai nước Tây Chu và Đông Chu, phạm vi hai nước này nằm xung quanh Lạc Dương ngày nay. Nước Tần ở phía tây lần lượt tiêu diệt Tây Chu, Đông Chu và Hàn vào các năm 256 TCN, 249 TCN và 230 TCN, tiến tới thống nhất Trung Quốc vào năm 221 TCN.
Vương triều Chu dời đô đến Lạc Ấp vào năm nào?
771 TCN
Năm 771 TCN, vương triều Chu dời đô đến Lạc Ấp, trở thành dấu mốc bắt đầu thời kỳ Đông Chu đầy bất ổn. Thời Xuân Thu, trên địa phận Hà Nam tồn tại rất nhiều nước chư hầu, mạnh nhất là các nước Trần, Sái, Tào, Trịnh, Vệ, Tống. Nước Tấn hùng mạnh ở phía bắc đến 403 TCN bị phân liệt, trong đó nước Hàn về sau thiên đô đến Tân Trịnh, nước Ngụy vào năm 361 TCN đã thiên đô đến Đại Lương (nay thuộc Khai Phong). Nam bộ Hà Nam là đất đai của nước Sở, cũng là một cường quốc, Hùng Dịch đã kiến lập quốc đô đầu tiên của Sở tại Đan Dương, nằm ở khu vực Tích Xuyên ngày nay. Tới thế kỷ III TCN, lãnh thổ nhỏ bé của triều Chu lại bị phân thành hai nước Tây Chu và Đông Chu, phạm vi hai nước này nằm xung quanh Lạc Dương ngày nay. Nước Tần ở phía tây lần lượt tiêu diệt Tây Chu, Đông Chu và Hàn vào các năm 256 TCN, 249 TCN và 230 TCN, tiến tới thống nhất Trung Quốc vào năm 221 TCN.
Nước Tấn phân liệt vào năm nào?
403 TCN
Năm 771 TCN, vương triều Chu dời đô đến Lạc Ấp, trở thành dấu mốc bắt đầu thời kỳ Đông Chu đầy bất ổn. Thời Xuân Thu, trên địa phận Hà Nam tồn tại rất nhiều nước chư hầu, mạnh nhất là các nước Trần, Sái, Tào, Trịnh, Vệ, Tống. Nước Tấn hùng mạnh ở phía bắc đến 403 TCN bị phân liệt, trong đó nước Hàn về sau thiên đô đến Tân Trịnh, nước Ngụy vào năm 361 TCN đã thiên đô đến Đại Lương (nay thuộc Khai Phong). Nam bộ Hà Nam là đất đai của nước Sở, cũng là một cường quốc, Hùng Dịch đã kiến lập quốc đô đầu tiên của Sở tại Đan Dương, nằm ở khu vực Tích Xuyên ngày nay. Tới thế kỷ III TCN, lãnh thổ nhỏ bé của triều Chu lại bị phân thành hai nước Tây Chu và Đông Chu, phạm vi hai nước này nằm xung quanh Lạc Dương ngày nay. Nước Tần ở phía tây lần lượt tiêu diệt Tây Chu, Đông Chu và Hàn vào các năm 256 TCN, 249 TCN và 230 TCN, tiến tới thống nhất Trung Quốc vào năm 221 TCN.
Quốc đô đầu tiên của nước Sở là gì?
Đan Dương
Năm 771 TCN, vương triều Chu dời đô đến Lạc Ấp, trở thành dấu mốc bắt đầu thời kỳ Đông Chu đầy bất ổn. Thời Xuân Thu, trên địa phận Hà Nam tồn tại rất nhiều nước chư hầu, mạnh nhất là các nước Trần, Sái, Tào, Trịnh, Vệ, Tống. Nước Tấn hùng mạnh ở phía bắc đến 403 TCN bị phân liệt, trong đó nước Hàn về sau thiên đô đến Tân Trịnh, nước Ngụy vào năm 361 TCN đã thiên đô đến Đại Lương (nay thuộc Khai Phong). Nam bộ Hà Nam là đất đai của nước Sở, cũng là một cường quốc, Hùng Dịch đã kiến lập quốc đô đầu tiên của Sở tại Đan Dương, nằm ở khu vực Tích Xuyên ngày nay. Tới thế kỷ III TCN, lãnh thổ nhỏ bé của triều Chu lại bị phân thành hai nước Tây Chu và Đông Chu, phạm vi hai nước này nằm xung quanh Lạc Dương ngày nay. Nước Tần ở phía tây lần lượt tiêu diệt Tây Chu, Đông Chu và Hàn vào các năm 256 TCN, 249 TCN và 230 TCN, tiến tới thống nhất Trung Quốc vào năm 221 TCN.
Tới thế kỷ III TCN, lãnh thổ triều Chu bị phân thành bao nhiêu nước?
hai nước
Sau khi thống nhất Trung Quốc, triều Tần đã thiết lập bảy quận: Tam Xuyên quận, Nam Dương quận, Dĩnh Xuyên quận, Hà Nội quận, Đông quận và Trần quận trên địa bàn Hà Nam ngày nay. Sang thời Tây Hán, trên địa bàn Hà Nam có tám quận: Hoằng Nông, Hà Nội, Hà Nam, Dĩnh Xuyên, Nhữ Nam, Trần Lưu, Nam Dương, Ngụy. Ngoài ra, trên địa bàn Hà Nam khi đó còn có hai nước chư hầu của triều Hán: nước Hoài Dương (trung tâm nằm tại Chu Khẩu) và nước Lương. Tại các quận và nước chư hầu, triều đình Tây Hán thiết lập nên các chức vụ tư lệ giáo úy và thứ sử để giám sát, Hà Nam phân thuộc tư lệ giáo úy bộ và Dự châu, Duyện châu, Kinh châu, Ký châu. Sau những biến loạn tại Trường An, Hán Quang Vũ Đế đã dời đô đến Lạc Dương vào tháng 10 năm 25 SCN, bắt đầu triều Đông Hán. Thời Đông Hán, trên địa bàn Hà Nam có hai nước chư hầu là Trần và Lương; phân thuộc tư lệ giáo úy bộ và năm châu: Dự, Duyện, Kinh, Ký, Dương.
Sau khi thống nhất Trung Quốc, triều Tần đã thiết lập mấy quận trên địa bàn Hà Nam?
bảy
Sau khi thống nhất Trung Quốc, triều Tần đã thiết lập bảy quận: Tam Xuyên quận, Nam Dương quận, Dĩnh Xuyên quận, Hà Nội quận, Đông quận và Trần quận trên địa bàn Hà Nam ngày nay. Sang thời Tây Hán, trên địa bàn Hà Nam có tám quận: Hoằng Nông, Hà Nội, Hà Nam, Dĩnh Xuyên, Nhữ Nam, Trần Lưu, Nam Dương, Ngụy. Ngoài ra, trên địa bàn Hà Nam khi đó còn có hai nước chư hầu của triều Hán: nước Hoài Dương (trung tâm nằm tại Chu Khẩu) và nước Lương. Tại các quận và nước chư hầu, triều đình Tây Hán thiết lập nên các chức vụ tư lệ giáo úy và thứ sử để giám sát, Hà Nam phân thuộc tư lệ giáo úy bộ và Dự châu, Duyện châu, Kinh châu, Ký châu. Sau những biến loạn tại Trường An, Hán Quang Vũ Đế đã dời đô đến Lạc Dương vào tháng 10 năm 25 SCN, bắt đầu triều Đông Hán. Thời Đông Hán, trên địa bàn Hà Nam có hai nước chư hầu là Trần và Lương; phân thuộc tư lệ giáo úy bộ và năm châu: Dự, Duyện, Kinh, Ký, Dương.
Thời Đông Hán, địa bàn Hà Nam phân thuộc tư lệ giáo úy bộ và bao nhiêu châu?
năm
Sau khi thống nhất Trung Quốc, triều Tần đã thiết lập bảy quận: Tam Xuyên quận, Nam Dương quận, Dĩnh Xuyên quận, Hà Nội quận, Đông quận và Trần quận trên địa bàn Hà Nam ngày nay. Sang thời Tây Hán, trên địa bàn Hà Nam có tám quận: Hoằng Nông, Hà Nội, Hà Nam, Dĩnh Xuyên, Nhữ Nam, Trần Lưu, Nam Dương, Ngụy. Ngoài ra, trên địa bàn Hà Nam khi đó còn có hai nước chư hầu của triều Hán: nước Hoài Dương (trung tâm nằm tại Chu Khẩu) và nước Lương. Tại các quận và nước chư hầu, triều đình Tây Hán thiết lập nên các chức vụ tư lệ giáo úy và thứ sử để giám sát, Hà Nam phân thuộc tư lệ giáo úy bộ và Dự châu, Duyện châu, Kinh châu, Ký châu. Sau những biến loạn tại Trường An, Hán Quang Vũ Đế đã dời đô đến Lạc Dương vào tháng 10 năm 25 SCN, bắt đầu triều Đông Hán. Thời Đông Hán, trên địa bàn Hà Nam có hai nước chư hầu là Trần và Lương; phân thuộc tư lệ giáo úy bộ và năm châu: Dự, Duyện, Kinh, Ký, Dương.
Sau khi thống nhất Trung Quốc, triều Tần thiết lập bao nhiêu quận tại địa bàn Hà Nam ngày nay?
bảy quận
Cuối thời Đông Hán, sau Khởi nghĩa Khăn Vàng, các quân phiệt Trung Nguyên cát cứ giao chiến và kình địch với nhau. Đầu tiên, Đổng Trác tiến vào Lạc Dương, sau phế Hán Thiếu Đế và lập Hán Hiến Đế lên ngôi, lại thiên đô về Trường An. Đến năm 196, Tào Tháo đem Hán Hiến Đế đến địa bàn của mình là Hứa Xương, kiến đô Hứa Đô ở đây. Bốn năm sau, Tào Tháo đã đánh bại quân phiệt Viên Thiệu trong trận Quan Độ ở đông bắc huyện Trung Mưu của Hà Nam hiện nay, thống nhất Hoa Bắc. Năm 220, Hán Hiến Đế thiện nhượng cho con trai của Tào Tháo là Tào Phi. Tào Phi kiến lập đô thành tại Lạc Dương, hiệu là Ngụy Văn Đế. Tào Ngụy sau đó thiên đô đến Lạc Dương, Tào Ngụy ở Trung Nguyên cùng với Ngô ở Giang Nam và Thục Hán ở tây nam mở ra thời kỳ Tam Quốc trong lịch sử Trung Quốc. Đến thời Ngụy Nguyên Đế, đại phu Tư Mã Chiêu nắm thực quyền đã đoạt lấy hoàng vị, lập nên nhà Tấn. Trong thời gian đó, Lạc Dương trở thành một trong các thành phố lớn và thịnh vượng nhất thế giới đương thời, mặc dù nhiều lần bị tổn hại do chiến loạn.
Thủ đô của nhà Ngụy là gì?
Lạc Dương
Cuối thời Đông Hán, sau Khởi nghĩa Khăn Vàng, các quân phiệt Trung Nguyên cát cứ giao chiến và kình địch với nhau. Đầu tiên, Đổng Trác tiến vào Lạc Dương, sau phế Hán Thiếu Đế và lập Hán Hiến Đế lên ngôi, lại thiên đô về Trường An. Đến năm 196, Tào Tháo đem Hán Hiến Đế đến địa bàn của mình là Hứa Xương, kiến đô Hứa Đô ở đây. Bốn năm sau, Tào Tháo đã đánh bại quân phiệt Viên Thiệu trong trận Quan Độ ở đông bắc huyện Trung Mưu của Hà Nam hiện nay, thống nhất Hoa Bắc. Năm 220, Hán Hiến Đế thiện nhượng cho con trai của Tào Tháo là Tào Phi. Tào Phi kiến lập đô thành tại Lạc Dương, hiệu là Ngụy Văn Đế. Tào Ngụy sau đó thiên đô đến Lạc Dương, Tào Ngụy ở Trung Nguyên cùng với Ngô ở Giang Nam và Thục Hán ở tây nam mở ra thời kỳ Tam Quốc trong lịch sử Trung Quốc. Đến thời Ngụy Nguyên Đế, đại phu Tư Mã Chiêu nắm thực quyền đã đoạt lấy hoàng vị, lập nên nhà Tấn. Trong thời gian đó, Lạc Dương trở thành một trong các thành phố lớn và thịnh vượng nhất thế giới đương thời, mặc dù nhiều lần bị tổn hại do chiến loạn.
Nhà Tấn được thành lập bởi ai?
Tư Mã Chiêu
Cuối thời Đông Hán, sau Khởi nghĩa Khăn Vàng, các quân phiệt Trung Nguyên cát cứ giao chiến và kình địch với nhau. Đầu tiên, Đổng Trác tiến vào Lạc Dương, sau phế Hán Thiếu Đế và lập Hán Hiến Đế lên ngôi, lại thiên đô về Trường An. Đến năm 196, Tào Tháo đem Hán Hiến Đế đến địa bàn của mình là Hứa Xương, kiến đô Hứa Đô ở đây. Bốn năm sau, Tào Tháo đã đánh bại quân phiệt Viên Thiệu trong trận Quan Độ ở đông bắc huyện Trung Mưu của Hà Nam hiện nay, thống nhất Hoa Bắc. Năm 220, Hán Hiến Đế thiện nhượng cho con trai của Tào Tháo là Tào Phi. Tào Phi kiến lập đô thành tại Lạc Dương, hiệu là Ngụy Văn Đế. Tào Ngụy sau đó thiên đô đến Lạc Dương, Tào Ngụy ở Trung Nguyên cùng với Ngô ở Giang Nam và Thục Hán ở tây nam mở ra thời kỳ Tam Quốc trong lịch sử Trung Quốc. Đến thời Ngụy Nguyên Đế, đại phu Tư Mã Chiêu nắm thực quyền đã đoạt lấy hoàng vị, lập nên nhà Tấn. Trong thời gian đó, Lạc Dương trở thành một trong các thành phố lớn và thịnh vượng nhất thế giới đương thời, mặc dù nhiều lần bị tổn hại do chiến loạn.
Sau Khởi nghĩa Khăn Vàng, ai tiến vào Lạc Dương và phế Hán Thiếu Đế?
Đổng Trác
Nội bộ Tây Tấn nổ ra loạn bát vương kéo dài từ 291 tới năm 306, nguyên khí triều Tấn vì thế mà bị tổn hại nghiêm trọng, cuối cùng chỉ còn lại Đông Hải vương Tư Mã Việt, trở thành người nắm chính trường. Nhân lúc triều Tấn có loạn, di dân Nam Hung Nô từ Sơn Tây và người Đê ở Tứ Xuyên phân biệt khởi nghĩa tạo phản, lập ra nước Hán và Thành. Năm 311, quân Hán dưới sự chỉ huy của Lưu Thông đã đánh bại đại quân Tấn tại Hoa Trung, chiếm được đô thành Lạc Dương của Tấn và bắt Tấn Hoài Đế, triều Tây Tấn bắt đầu diệt vong.
Đô thành Lạc Dương bị ai chiếm vào năm 311?
quân Hán
Nội bộ Tây Tấn nổ ra loạn bát vương kéo dài từ 291 tới năm 306, nguyên khí triều Tấn vì thế mà bị tổn hại nghiêm trọng, cuối cùng chỉ còn lại Đông Hải vương Tư Mã Việt, trở thành người nắm chính trường. Nhân lúc triều Tấn có loạn, di dân Nam Hung Nô từ Sơn Tây và người Đê ở Tứ Xuyên phân biệt khởi nghĩa tạo phản, lập ra nước Hán và Thành. Năm 311, quân Hán dưới sự chỉ huy của Lưu Thông đã đánh bại đại quân Tấn tại Hoa Trung, chiếm được đô thành Lạc Dương của Tấn và bắt Tấn Hoài Đế, triều Tây Tấn bắt đầu diệt vong.
Ai đã đánh bại đại quân Tấn tại Hoa Trung và chiếm được Lạc Dương?
quân Hán dưới sự chỉ huy của Lưu Thông
Nội bộ Tây Tấn nổ ra loạn bát vương kéo dài từ 291 tới năm 306, nguyên khí triều Tấn vì thế mà bị tổn hại nghiêm trọng, cuối cùng chỉ còn lại Đông Hải vương Tư Mã Việt, trở thành người nắm chính trường. Nhân lúc triều Tấn có loạn, di dân Nam Hung Nô từ Sơn Tây và người Đê ở Tứ Xuyên phân biệt khởi nghĩa tạo phản, lập ra nước Hán và Thành. Năm 311, quân Hán dưới sự chỉ huy của Lưu Thông đã đánh bại đại quân Tấn tại Hoa Trung, chiếm được đô thành Lạc Dương của Tấn và bắt Tấn Hoài Đế, triều Tây Tấn bắt đầu diệt vong.
Tây Tấn diệt vong vào năm nào?
311
Nội bộ Tây Tấn nổ ra loạn bát vương kéo dài từ 291 tới năm 306, nguyên khí triều Tấn vì thế mà bị tổn hại nghiêm trọng, cuối cùng chỉ còn lại Đông Hải vương Tư Mã Việt, trở thành người nắm chính trường. Nhân lúc triều Tấn có loạn, di dân Nam Hung Nô từ Sơn Tây và người Đê ở Tứ Xuyên phân biệt khởi nghĩa tạo phản, lập ra nước Hán và Thành. Năm 311, quân Hán dưới sự chỉ huy của Lưu Thông đã đánh bại đại quân Tấn tại Hoa Trung, chiếm được đô thành Lạc Dương của Tấn và bắt Tấn Hoài Đế, triều Tây Tấn bắt đầu diệt vong.
Năm 311, quân Hán đã đánh bại đại quân nào?
quân Tấn
Cùng với sự sụp đổ của triều Tây Tấn vào cuối thế kỷ IV và đầu thế kỷ V, các tộc du mục (Ngũ Hồ) từ phía bắc đã xâm chiếm miền Bắc Trung Quốc và lập ra nhiều chế độ kế tiếp nhau. Tuy nhiên, các dân tộc này dần dần bị Hán hóa. Trong thời Ngũ Hồ thập lục quốc, địa bàn Hà Nam trước sau thuộc về các nước Tiền Triệu, Hậu Triệu, rồi Tiền Yên, Tiền Tần. Sau khi Tiền Tần thống nhất Hoa Bắc, lại thất bại trong trận Phì Thủy trước triều Đông Tấn, Hoa Bắc lại một lần nữa phân liệt thành nhiều nước, Hà Nam lần lượt thuộc quyền cai quản của các nước Hậu Yên, Hậu Tần. Nhận thấy Hậu Tần có bất ổn nội bộ, thu năm 416, tướng Lưu Dụ của Đông Tấn đã cho mở một chiến dịch lớn đánh Hậu Tần, quân Tấn đã nhanh chóng đoạt được nửa phía đông của Hậu Tần, bao gồm cả thành Lạc Dương. Quân Đông Tấn sau đó liên tiếp giành được thắng lợi, lấy được vùng đất rộng lớn nằm ở phía bắc Hoài Hà và phía nam Hoàng Hà.
Quân Đông Tấn đã chiếm được nửa phía đông của nước nào trong năm 416?
Hậu Tần
Cùng với sự sụp đổ của triều Tây Tấn vào cuối thế kỷ IV và đầu thế kỷ V, các tộc du mục (Ngũ Hồ) từ phía bắc đã xâm chiếm miền Bắc Trung Quốc và lập ra nhiều chế độ kế tiếp nhau. Tuy nhiên, các dân tộc này dần dần bị Hán hóa. Trong thời Ngũ Hồ thập lục quốc, địa bàn Hà Nam trước sau thuộc về các nước Tiền Triệu, Hậu Triệu, rồi Tiền Yên, Tiền Tần. Sau khi Tiền Tần thống nhất Hoa Bắc, lại thất bại trong trận Phì Thủy trước triều Đông Tấn, Hoa Bắc lại một lần nữa phân liệt thành nhiều nước, Hà Nam lần lượt thuộc quyền cai quản của các nước Hậu Yên, Hậu Tần. Nhận thấy Hậu Tần có bất ổn nội bộ, thu năm 416, tướng Lưu Dụ của Đông Tấn đã cho mở một chiến dịch lớn đánh Hậu Tần, quân Tấn đã nhanh chóng đoạt được nửa phía đông của Hậu Tần, bao gồm cả thành Lạc Dương. Quân Đông Tấn sau đó liên tiếp giành được thắng lợi, lấy được vùng đất rộng lớn nằm ở phía bắc Hoài Hà và phía nam Hoàng Hà.
Quân Đông Tấn đã chiếm được vùng đất nào?
phía bắc Hoài Hà và phía nam Hoàng Hà
Cùng với sự sụp đổ của triều Tây Tấn vào cuối thế kỷ IV và đầu thế kỷ V, các tộc du mục (Ngũ Hồ) từ phía bắc đã xâm chiếm miền Bắc Trung Quốc và lập ra nhiều chế độ kế tiếp nhau. Tuy nhiên, các dân tộc này dần dần bị Hán hóa. Trong thời Ngũ Hồ thập lục quốc, địa bàn Hà Nam trước sau thuộc về các nước Tiền Triệu, Hậu Triệu, rồi Tiền Yên, Tiền Tần. Sau khi Tiền Tần thống nhất Hoa Bắc, lại thất bại trong trận Phì Thủy trước triều Đông Tấn, Hoa Bắc lại một lần nữa phân liệt thành nhiều nước, Hà Nam lần lượt thuộc quyền cai quản của các nước Hậu Yên, Hậu Tần. Nhận thấy Hậu Tần có bất ổn nội bộ, thu năm 416, tướng Lưu Dụ của Đông Tấn đã cho mở một chiến dịch lớn đánh Hậu Tần, quân Tấn đã nhanh chóng đoạt được nửa phía đông của Hậu Tần, bao gồm cả thành Lạc Dương. Quân Đông Tấn sau đó liên tiếp giành được thắng lợi, lấy được vùng đất rộng lớn nằm ở phía bắc Hoài Hà và phía nam Hoàng Hà.
Đội quân nào đã giành được thắng lợi trong trận Phì Thủy?
triều Đông Tấn
Năm 420, Lưu Dụ tiếm vị triều Đông Tấn, lập ra triều Lưu Tống. Đến năm 422, quân Bắc Ngụy dưới sự chỉ đạo của Ngụy Minh Nguyên Đế đã vượt Hoàng Hà, sau lần cuộc chiến này, Lưu Tống bị mất vùng đất từ Hồ Lục, Hạng Thành trở lên phía bắc. Nhân lúc Bắc Ngụy phải đối phó với Nhu Nhiên phía bắc, năm 429, Lưu Tống Văn Đế đòi Bắc Ngụy trả đất Hà Nam song Ngụy Thái Vũ Đế không chịu. Năm 430, Lưu Tống Văn Đế sai Đáo Ngạn Chi mang quân Bắc phạt, quân Bắc Ngụy ít nên chủ động rút lui song sau đó đã phản công, lấy lại được Lạc Dương và Hổ Lao. Tháng 2 năm 431, quân Ngụy giao tranh với quân Lưu Tống do Đàn Đạo Tế chỉ huy lên Bắc cứu Hoạt Đài (nay là huyện Hoạt), hai bên đánh nhau 30 trận, đều bị tổn thất nặng, cuối cùng Đàn Đạo Tế phải đưa quân Lưu Tống rút lui. Bắc Ngụy thống nhất hoàn toàn miền Bắc Trung Quốc vào năm 439, cùng với các triều đại ở phương Nam mở ra thời Nam Bắc triều trong lịch sử Trung Quốc. Năm 450, Bắc Ngụy Thái Vũ Đế điều 10 vạn quân vây đánh Huyền Hồ (懸瓠, nay thuộc Trú Mã Điếm) trong 42 ngày, quân Lưu Tống ở các thành xung quanh đều sợ thế Bắc Ngụy và bỏ thành rút chạy. Sau khi đánh bại quân Lưu Tống được cử đến cứu viện, Thái Vũ Đế lại đem quân Bắc Ngụy nam tiến, kết quả chiếm được vùng Hoài Bắc. Năm 493, Bắc Ngụy Hiếu Văn Đế đã cho mang đến Hà Dương (Hà Nam) 2 triệu con ngựa, tổ chức quân túc vệ 15 vạn thường trú tại Lạc Dương, dời hộ tịch toàn bộ người vùng Đại tới Lạc Dương. Hành động dời kinh đô đến Lạc Dương là để hiển thị Bắc Ngụy là chính quyền chính thống của Trung Quốc và có lợi cho việc hấp thụ mau lẹ văn hóa Hán. Sau khi Hiếu Vũ Đế sang Quan Trung với Tập đoàn quân phiệt Quan Lũng của Vũ Văn Thái, Cao Hoan đã lập Nguyên Thiện Kiến làm vua mới, tức là Đông Ngụy Hiếu Tĩnh Đế. Do thấy Lạc Dương gần họ Vũ Văn, ông thiên đô về Nghiệp Thành thuộc Hà Bắc ngày nay. Cả Cao Hoan và Vũ Văn Thái đều tuyên bố người mình ủng hộ là người thừa kế ngai vàng Bắc Ngụy, dẫn tới sự chia cắt lãnh thổ Bắc Ngụy thành hai nhà nước từ khoảng năm 534-535 thành Đông Ngụy và Tây Ngụy, tuy vậy hai triều đại này lại bị Bắc Tề và Bắc Chu phân biệt thay thế không lâu sau đó.
Bắc Ngụy thống nhất hoàn toàn miền Bắc Trung Quốc vào năm nào?
439
Nhà Tùy đã tái thống nhất Trung Quốc vào năm 589, triều đại này định đô ở Trường An. Sau khi Tùy Dạng Đế lên ngôi, vào tháng 3 năm 605 đã cho xây dựng Đông Đô Lạc Dương, yêu cầu tháng 1 năm sau phải hoàn thành. Đông Đô Lạc Dương là một công trình lớn trong khi thời hạn hoàn thành không đến một năm, nhân công dùng mỗi tháng cần hơn 2.000.000 người, do đôn đốc lao dịch quá gấp gáp khắt khe nên phu dịch cứ 10 người thì chết đến 4, 5. Thành Đông Đô được chia làm ba khu chính là Cung thành (chỗ Hoàng cung), Hoàng thành (phủ nha của các bá quan), Ngoại quách thành (khu nhà ở của quan và dân). Chu vi Ngoại quách thành dài hơn 50 dặm, trong thành có nơi cư trú cho quan và dân hơn 1.000 phường, ngoài ra còn có ba chợ buôn bán lớn là chợ Phong Đô, chợ Đại Đồng, chợ Thông Viễn. Một phần do hao tổn nhân lực, tiền bạc quá lớn để xây thành Đông Đô, triều Tùy suy sụp, các cuộc khởi nghĩa nông dân bùng nổ đã khiến triều đại này diệt vong vào năm 617.
Nhà Tùy định đô ở đâu?
Trường An
Nhà Tùy đã tái thống nhất Trung Quốc vào năm 589, triều đại này định đô ở Trường An. Sau khi Tùy Dạng Đế lên ngôi, vào tháng 3 năm 605 đã cho xây dựng Đông Đô Lạc Dương, yêu cầu tháng 1 năm sau phải hoàn thành. Đông Đô Lạc Dương là một công trình lớn trong khi thời hạn hoàn thành không đến một năm, nhân công dùng mỗi tháng cần hơn 2.000.000 người, do đôn đốc lao dịch quá gấp gáp khắt khe nên phu dịch cứ 10 người thì chết đến 4, 5. Thành Đông Đô được chia làm ba khu chính là Cung thành (chỗ Hoàng cung), Hoàng thành (phủ nha của các bá quan), Ngoại quách thành (khu nhà ở của quan và dân). Chu vi Ngoại quách thành dài hơn 50 dặm, trong thành có nơi cư trú cho quan và dân hơn 1.000 phường, ngoài ra còn có ba chợ buôn bán lớn là chợ Phong Đô, chợ Đại Đồng, chợ Thông Viễn. Một phần do hao tổn nhân lực, tiền bạc quá lớn để xây thành Đông Đô, triều Tùy suy sụp, các cuộc khởi nghĩa nông dân bùng nổ đã khiến triều đại này diệt vong vào năm 617.
Thời gian xây dựng Đông Đô Lạc Dương là bao lâu?
không đến một năm
Nhà Tống tái thống nhất Trung Quốc 982, triều đại này cũng định đô tại Khai Phong. Thời Bắc Tống, Hà Nam phân thuộc Khai Phong phủ cùng Kinh tây bắc lộ, Kinh tây nam lộ, Kinh Đông Tây lộ. Thời Bắc Tống, Trung Quốc tiến vào một thời kỳ văn minh và thịnh vượng mới, đô thành Khai Phong vượt qua Lạc Dương và Trường An để trở thành thành phố lớn nhất Đại Tống và thế giới đương thời,, dân số đô thành đạt trên 1 triệu người, thương mại mậu dịch đạt kim ngạch chiếm một nửa toàn quốc. Năm 1004, tức trong thời gian trị vì của Tống Chân Tông, triều Liêu của người Khiết Đan phát động chiến tranh xâm lược Tống, quân Khiết Đan tấn công ồ ạt vào vùng Thiền châu (nay là Bộc Dương). Mặc dù nhiều đại thần của Tống muốn hòa, song dưới sức ép của tể tướng Khấu Chuẩn, Tống Chân Tông đã đồng ý thân chinh đến Thiền châu. Quân Tống vì được khích lệ tinh thần chiến đấu, đã phản công quân Liêu và liên tục giành thắng lợi. Hai bên Tống-Liêu sau đó ký kết minh ước Thiền Uyên, đã tạo ra hòa bình giữa hai quốc gia trong trên 100 năm. Cuối thời Bắc Tống, Đông Kinh thành của Khai Phong phủ cũng được gọi là Biện Lương, Biện Kinh.
Triều đại nhà Tống định đô ở đâu?
Khai Phong
Nhà Tống tái thống nhất Trung Quốc 982, triều đại này cũng định đô tại Khai Phong. Thời Bắc Tống, Hà Nam phân thuộc Khai Phong phủ cùng Kinh tây bắc lộ, Kinh tây nam lộ, Kinh Đông Tây lộ. Thời Bắc Tống, Trung Quốc tiến vào một thời kỳ văn minh và thịnh vượng mới, đô thành Khai Phong vượt qua Lạc Dương và Trường An để trở thành thành phố lớn nhất Đại Tống và thế giới đương thời,, dân số đô thành đạt trên 1 triệu người, thương mại mậu dịch đạt kim ngạch chiếm một nửa toàn quốc. Năm 1004, tức trong thời gian trị vì của Tống Chân Tông, triều Liêu của người Khiết Đan phát động chiến tranh xâm lược Tống, quân Khiết Đan tấn công ồ ạt vào vùng Thiền châu (nay là Bộc Dương). Mặc dù nhiều đại thần của Tống muốn hòa, song dưới sức ép của tể tướng Khấu Chuẩn, Tống Chân Tông đã đồng ý thân chinh đến Thiền châu. Quân Tống vì được khích lệ tinh thần chiến đấu, đã phản công quân Liêu và liên tục giành thắng lợi. Hai bên Tống-Liêu sau đó ký kết minh ước Thiền Uyên, đã tạo ra hòa bình giữa hai quốc gia trong trên 100 năm. Cuối thời Bắc Tống, Đông Kinh thành của Khai Phong phủ cũng được gọi là Biện Lương, Biện Kinh.
Triều Liêu của người Khiết Đan tấn công vùng nào trong cuộc chiến xâm lược Tống?
Thiền châu
Nhà Tống tái thống nhất Trung Quốc 982, triều đại này cũng định đô tại Khai Phong. Thời Bắc Tống, Hà Nam phân thuộc Khai Phong phủ cùng Kinh tây bắc lộ, Kinh tây nam lộ, Kinh Đông Tây lộ. Thời Bắc Tống, Trung Quốc tiến vào một thời kỳ văn minh và thịnh vượng mới, đô thành Khai Phong vượt qua Lạc Dương và Trường An để trở thành thành phố lớn nhất Đại Tống và thế giới đương thời,, dân số đô thành đạt trên 1 triệu người, thương mại mậu dịch đạt kim ngạch chiếm một nửa toàn quốc. Năm 1004, tức trong thời gian trị vì của Tống Chân Tông, triều Liêu của người Khiết Đan phát động chiến tranh xâm lược Tống, quân Khiết Đan tấn công ồ ạt vào vùng Thiền châu (nay là Bộc Dương). Mặc dù nhiều đại thần của Tống muốn hòa, song dưới sức ép của tể tướng Khấu Chuẩn, Tống Chân Tông đã đồng ý thân chinh đến Thiền châu. Quân Tống vì được khích lệ tinh thần chiến đấu, đã phản công quân Liêu và liên tục giành thắng lợi. Hai bên Tống-Liêu sau đó ký kết minh ước Thiền Uyên, đã tạo ra hòa bình giữa hai quốc gia trong trên 100 năm. Cuối thời Bắc Tống, Đông Kinh thành của Khai Phong phủ cũng được gọi là Biện Lương, Biện Kinh.
Nhà Tống tái thống nhất Trung Quốc vào năm nào?
982
Nhà Tống tái thống nhất Trung Quốc 982, triều đại này cũng định đô tại Khai Phong. Thời Bắc Tống, Hà Nam phân thuộc Khai Phong phủ cùng Kinh tây bắc lộ, Kinh tây nam lộ, Kinh Đông Tây lộ. Thời Bắc Tống, Trung Quốc tiến vào một thời kỳ văn minh và thịnh vượng mới, đô thành Khai Phong vượt qua Lạc Dương và Trường An để trở thành thành phố lớn nhất Đại Tống và thế giới đương thời,, dân số đô thành đạt trên 1 triệu người, thương mại mậu dịch đạt kim ngạch chiếm một nửa toàn quốc. Năm 1004, tức trong thời gian trị vì của Tống Chân Tông, triều Liêu của người Khiết Đan phát động chiến tranh xâm lược Tống, quân Khiết Đan tấn công ồ ạt vào vùng Thiền châu (nay là Bộc Dương). Mặc dù nhiều đại thần của Tống muốn hòa, song dưới sức ép của tể tướng Khấu Chuẩn, Tống Chân Tông đã đồng ý thân chinh đến Thiền châu. Quân Tống vì được khích lệ tinh thần chiến đấu, đã phản công quân Liêu và liên tục giành thắng lợi. Hai bên Tống-Liêu sau đó ký kết minh ước Thiền Uyên, đã tạo ra hòa bình giữa hai quốc gia trong trên 100 năm. Cuối thời Bắc Tống, Đông Kinh thành của Khai Phong phủ cũng được gọi là Biện Lương, Biện Kinh.
Triều đại nào cũng định đô tại Khai Phong?
Nhà Tống
Đầu năm 1126, triều Kim của người Nữ Chân đã cho quân vượt Hoàng Hà, tiến sát tới Biện Kinh. Quá hoảng sợ, Tống Huy Tông đã thoái vị ngày 18 tháng 1 năm 1126 để nhường ngôi cho kỳ tử Triệu Hoàn, tức Tống Khâm Tông. Quân Kim sau đó bỏ việc bao vây Khai Phong và quay trở về phương Bắc song Tống đã buộc phải ký hòa ước với nhà Kim. Tuy nhiên, vài tháng sau, vào tháng 9 năm 1126, quân Kim lại quay trở lại phương Nam một lần nữa. Quân Kim cuối cùng đã vào được Biện Kinh vào ngày 9 tháng 1 năm 1127 và tiến hành các vụ cướp bóc, hãm hiếp, thảm sát trong nhiều ngày liền. Trong sự kiện Tĩnh Khang, quân Kim đã bắt Huy Tông, Khâm Tông, các tôn thất và bá quan của triều Tống. Bắc Tống diệt vong, song hoàng tử Triệu Cấu đã kịp chạy trốn về miền Nam, và thành lập triều đại Nam Tống. Năm 1129, Kim Thái Tông hạ lệnh cho Tông Phụ và Ngột Truật mang quân đánh triều Nam Tống mới hình thành. Quân Kim vượt Hoàng Hà rồi chia làm hai nhánh, Ngột Truật lĩnh 10 vạn quân đánh phủ Khai Đức (nay thuộc huyện Bộc Dương) nhưng bị thiếu lương nên ông mang quân quay lại đánh Bộc châu. Ngột Truật cử tướng tiên phong Ô Lâm Đáp Thái (乌林答大) tiến lên trước, đại phá 20 vạn quân Tống của Vương Thiện. Hạ được Bộc châu, Ngột Truật thừa thắng chiếm luôn 5 huyện lân cận. Sau đó, Ngột Truật mang quân quay lại đánh Khai Đức. Khi Ngột Truật dẫn quân Kim tiến đến Quy Đức (nay thuộc Thương Khâu), đã cho lính áp sát thành, đặt hỏa pháo ngay trên bờ hào, quân Tống trong thành sợ hãi xin hàng. Cuối cùng, Kim và Tống lấy Hoài Hà làm ranh giới, triều Tống phải cống nạp hằng năm cho Kim. Trong thời gian này, do được hưởng trạng thái hòa bình lâu dài cùng sự thịnh vượng về kinh tế-văn hóa, vùng Giang Nam đã thay thế Trung Nguyên để trở thành trung tâm kinh tế-văn hóa của Trung Quốc. Thời thuộc Kim, Hà Nam về mặt hành chính được phân thành Nam Kinh lộ và Hà Đông Nam lộ, Kinh Triệu phủ lộ, Đại Danh phủ lộ, Hà Bắc Đông lộ, còn về mặt kinh tế là một trong các khu vực kinh tế phát triển nhất nước. Biện Kinh đóng vai trò là "Nam Kinh" của triều Kim từ năm 1157 (nguồn khác nói là từ năm 1161) và được xây dựng lại trong thời gian này. Năm 1214, sau khi Mông-Kim hòa nghị thành công, Kim Tuyên Tông đã thiên đô đến Biện Kinh. Sau dó, Kim tiến hành chiến tranh chống Nam Tống kéo dài từ năm 1217 tới đầu năm 1224. Kim bị tiêu diệt vào năm 1234 trước sự tấn công của liên quân Mông Cổ-Nam Tống.
Biện Kinh đóng vai trò gì trong thời Kim?
Nam Kinh
Đầu năm 1126, triều Kim của người Nữ Chân đã cho quân vượt Hoàng Hà, tiến sát tới Biện Kinh. Quá hoảng sợ, Tống Huy Tông đã thoái vị ngày 18 tháng 1 năm 1126 để nhường ngôi cho kỳ tử Triệu Hoàn, tức Tống Khâm Tông. Quân Kim sau đó bỏ việc bao vây Khai Phong và quay trở về phương Bắc song Tống đã buộc phải ký hòa ước với nhà Kim. Tuy nhiên, vài tháng sau, vào tháng 9 năm 1126, quân Kim lại quay trở lại phương Nam một lần nữa. Quân Kim cuối cùng đã vào được Biện Kinh vào ngày 9 tháng 1 năm 1127 và tiến hành các vụ cướp bóc, hãm hiếp, thảm sát trong nhiều ngày liền. Trong sự kiện Tĩnh Khang, quân Kim đã bắt Huy Tông, Khâm Tông, các tôn thất và bá quan của triều Tống. Bắc Tống diệt vong, song hoàng tử Triệu Cấu đã kịp chạy trốn về miền Nam, và thành lập triều đại Nam Tống. Năm 1129, Kim Thái Tông hạ lệnh cho Tông Phụ và Ngột Truật mang quân đánh triều Nam Tống mới hình thành. Quân Kim vượt Hoàng Hà rồi chia làm hai nhánh, Ngột Truật lĩnh 10 vạn quân đánh phủ Khai Đức (nay thuộc huyện Bộc Dương) nhưng bị thiếu lương nên ông mang quân quay lại đánh Bộc châu. Ngột Truật cử tướng tiên phong Ô Lâm Đáp Thái (乌林答大) tiến lên trước, đại phá 20 vạn quân Tống của Vương Thiện. Hạ được Bộc châu, Ngột Truật thừa thắng chiếm luôn 5 huyện lân cận. Sau đó, Ngột Truật mang quân quay lại đánh Khai Đức. Khi Ngột Truật dẫn quân Kim tiến đến Quy Đức (nay thuộc Thương Khâu), đã cho lính áp sát thành, đặt hỏa pháo ngay trên bờ hào, quân Tống trong thành sợ hãi xin hàng. Cuối cùng, Kim và Tống lấy Hoài Hà làm ranh giới, triều Tống phải cống nạp hằng năm cho Kim. Trong thời gian này, do được hưởng trạng thái hòa bình lâu dài cùng sự thịnh vượng về kinh tế-văn hóa, vùng Giang Nam đã thay thế Trung Nguyên để trở thành trung tâm kinh tế-văn hóa của Trung Quốc. Thời thuộc Kim, Hà Nam về mặt hành chính được phân thành Nam Kinh lộ và Hà Đông Nam lộ, Kinh Triệu phủ lộ, Đại Danh phủ lộ, Hà Bắc Đông lộ, còn về mặt kinh tế là một trong các khu vực kinh tế phát triển nhất nước. Biện Kinh đóng vai trò là "Nam Kinh" của triều Kim từ năm 1157 (nguồn khác nói là từ năm 1161) và được xây dựng lại trong thời gian này. Năm 1214, sau khi Mông-Kim hòa nghị thành công, Kim Tuyên Tông đã thiên đô đến Biện Kinh. Sau dó, Kim tiến hành chiến tranh chống Nam Tống kéo dài từ năm 1217 tới đầu năm 1224. Kim bị tiêu diệt vào năm 1234 trước sự tấn công của liên quân Mông Cổ-Nam Tống.
Năm nào quân Kim tiến hành chiến tranh chống Nam Tống?
1217
Đầu năm 1126, triều Kim của người Nữ Chân đã cho quân vượt Hoàng Hà, tiến sát tới Biện Kinh. Quá hoảng sợ, Tống Huy Tông đã thoái vị ngày 18 tháng 1 năm 1126 để nhường ngôi cho kỳ tử Triệu Hoàn, tức Tống Khâm Tông. Quân Kim sau đó bỏ việc bao vây Khai Phong và quay trở về phương Bắc song Tống đã buộc phải ký hòa ước với nhà Kim. Tuy nhiên, vài tháng sau, vào tháng 9 năm 1126, quân Kim lại quay trở lại phương Nam một lần nữa. Quân Kim cuối cùng đã vào được Biện Kinh vào ngày 9 tháng 1 năm 1127 và tiến hành các vụ cướp bóc, hãm hiếp, thảm sát trong nhiều ngày liền. Trong sự kiện Tĩnh Khang, quân Kim đã bắt Huy Tông, Khâm Tông, các tôn thất và bá quan của triều Tống. Bắc Tống diệt vong, song hoàng tử Triệu Cấu đã kịp chạy trốn về miền Nam, và thành lập triều đại Nam Tống. Năm 1129, Kim Thái Tông hạ lệnh cho Tông Phụ và Ngột Truật mang quân đánh triều Nam Tống mới hình thành. Quân Kim vượt Hoàng Hà rồi chia làm hai nhánh, Ngột Truật lĩnh 10 vạn quân đánh phủ Khai Đức (nay thuộc huyện Bộc Dương) nhưng bị thiếu lương nên ông mang quân quay lại đánh Bộc châu. Ngột Truật cử tướng tiên phong Ô Lâm Đáp Thái (乌林答大) tiến lên trước, đại phá 20 vạn quân Tống của Vương Thiện. Hạ được Bộc châu, Ngột Truật thừa thắng chiếm luôn 5 huyện lân cận. Sau đó, Ngột Truật mang quân quay lại đánh Khai Đức. Khi Ngột Truật dẫn quân Kim tiến đến Quy Đức (nay thuộc Thương Khâu), đã cho lính áp sát thành, đặt hỏa pháo ngay trên bờ hào, quân Tống trong thành sợ hãi xin hàng. Cuối cùng, Kim và Tống lấy Hoài Hà làm ranh giới, triều Tống phải cống nạp hằng năm cho Kim. Trong thời gian này, do được hưởng trạng thái hòa bình lâu dài cùng sự thịnh vượng về kinh tế-văn hóa, vùng Giang Nam đã thay thế Trung Nguyên để trở thành trung tâm kinh tế-văn hóa của Trung Quốc. Thời thuộc Kim, Hà Nam về mặt hành chính được phân thành Nam Kinh lộ và Hà Đông Nam lộ, Kinh Triệu phủ lộ, Đại Danh phủ lộ, Hà Bắc Đông lộ, còn về mặt kinh tế là một trong các khu vực kinh tế phát triển nhất nước. Biện Kinh đóng vai trò là "Nam Kinh" của triều Kim từ năm 1157 (nguồn khác nói là từ năm 1161) và được xây dựng lại trong thời gian này. Năm 1214, sau khi Mông-Kim hòa nghị thành công, Kim Tuyên Tông đã thiên đô đến Biện Kinh. Sau dó, Kim tiến hành chiến tranh chống Nam Tống kéo dài từ năm 1217 tới đầu năm 1224. Kim bị tiêu diệt vào năm 1234 trước sự tấn công của liên quân Mông Cổ-Nam Tống.
Kim Tuyên Tông đã thiên đô đến đâu?
Biện Kinh
Đầu năm 1126, triều Kim của người Nữ Chân đã cho quân vượt Hoàng Hà, tiến sát tới Biện Kinh. Quá hoảng sợ, Tống Huy Tông đã thoái vị ngày 18 tháng 1 năm 1126 để nhường ngôi cho kỳ tử Triệu Hoàn, tức Tống Khâm Tông. Quân Kim sau đó bỏ việc bao vây Khai Phong và quay trở về phương Bắc song Tống đã buộc phải ký hòa ước với nhà Kim. Tuy nhiên, vài tháng sau, vào tháng 9 năm 1126, quân Kim lại quay trở lại phương Nam một lần nữa. Quân Kim cuối cùng đã vào được Biện Kinh vào ngày 9 tháng 1 năm 1127 và tiến hành các vụ cướp bóc, hãm hiếp, thảm sát trong nhiều ngày liền. Trong sự kiện Tĩnh Khang, quân Kim đã bắt Huy Tông, Khâm Tông, các tôn thất và bá quan của triều Tống. Bắc Tống diệt vong, song hoàng tử Triệu Cấu đã kịp chạy trốn về miền Nam, và thành lập triều đại Nam Tống. Năm 1129, Kim Thái Tông hạ lệnh cho Tông Phụ và Ngột Truật mang quân đánh triều Nam Tống mới hình thành. Quân Kim vượt Hoàng Hà rồi chia làm hai nhánh, Ngột Truật lĩnh 10 vạn quân đánh phủ Khai Đức (nay thuộc huyện Bộc Dương) nhưng bị thiếu lương nên ông mang quân quay lại đánh Bộc châu. Ngột Truật cử tướng tiên phong Ô Lâm Đáp Thái (乌林答大) tiến lên trước, đại phá 20 vạn quân Tống của Vương Thiện. Hạ được Bộc châu, Ngột Truật thừa thắng chiếm luôn 5 huyện lân cận. Sau đó, Ngột Truật mang quân quay lại đánh Khai Đức. Khi Ngột Truật dẫn quân Kim tiến đến Quy Đức (nay thuộc Thương Khâu), đã cho lính áp sát thành, đặt hỏa pháo ngay trên bờ hào, quân Tống trong thành sợ hãi xin hàng. Cuối cùng, Kim và Tống lấy Hoài Hà làm ranh giới, triều Tống phải cống nạp hằng năm cho Kim. Trong thời gian này, do được hưởng trạng thái hòa bình lâu dài cùng sự thịnh vượng về kinh tế-văn hóa, vùng Giang Nam đã thay thế Trung Nguyên để trở thành trung tâm kinh tế-văn hóa của Trung Quốc. Thời thuộc Kim, Hà Nam về mặt hành chính được phân thành Nam Kinh lộ và Hà Đông Nam lộ, Kinh Triệu phủ lộ, Đại Danh phủ lộ, Hà Bắc Đông lộ, còn về mặt kinh tế là một trong các khu vực kinh tế phát triển nhất nước. Biện Kinh đóng vai trò là "Nam Kinh" của triều Kim từ năm 1157 (nguồn khác nói là từ năm 1161) và được xây dựng lại trong thời gian này. Năm 1214, sau khi Mông-Kim hòa nghị thành công, Kim Tuyên Tông đã thiên đô đến Biện Kinh. Sau dó, Kim tiến hành chiến tranh chống Nam Tống kéo dài từ năm 1217 tới đầu năm 1224. Kim bị tiêu diệt vào năm 1234 trước sự tấn công của liên quân Mông Cổ-Nam Tống.
Sau sự kiện Tĩnh Khang, triều đại nào được thành lập?
Nam Tống
Sau khi chiếm được Hà Nam, người Mông Cổ thiết lập nên Hà Nam Giang Bắc đẳng xứ hành trung thư tỉnh, trị sở đặt tại Khai Phong. Trong chiến tranh Mông-Kim, phương Bắc Trung Quốc, trong đó có Hà Nam, đã bị phá hoại đến mức hủy diệt, ngoại trừ một số rất ít người chạy trốn được ra bên ngoài, đại đa số dân thường đã thiệt mạng, tạo thành những khu vực cả nghìn lý không có một bóng người. Các thiết bị, kế hoạch, tổ chức của các công trình thủy lợi bị phá hoại với số lượng lớn, lũ lụt Hoàng Hà ngày càng trở nên nghiêm trọng, vì thế Hà Nam đã bị mất đi ưu thế mà khu vực này đã từng có trong một thời gian dài.
Trong chiến tranh Mông-Kim, địa bàn nào bị phá hoại đến mức hủy diệt?
phương Bắc Trung Quốc, trong đó có Hà Nam
Sau khi chiếm được Hà Nam, người Mông Cổ thiết lập nên Hà Nam Giang Bắc đẳng xứ hành trung thư tỉnh, trị sở đặt tại Khai Phong. Trong chiến tranh Mông-Kim, phương Bắc Trung Quốc, trong đó có Hà Nam, đã bị phá hoại đến mức hủy diệt, ngoại trừ một số rất ít người chạy trốn được ra bên ngoài, đại đa số dân thường đã thiệt mạng, tạo thành những khu vực cả nghìn lý không có một bóng người. Các thiết bị, kế hoạch, tổ chức của các công trình thủy lợi bị phá hoại với số lượng lớn, lũ lụt Hoàng Hà ngày càng trở nên nghiêm trọng, vì thế Hà Nam đã bị mất đi ưu thế mà khu vực này đã từng có trong một thời gian dài.
Sau khi chiếm được Hà Nam, người Mông Cổ thiết lập cơ quan hành chính gì?
Hà Nam Giang Bắc đẳng xứ hành trung thư tỉnh
Sau khi chiếm được Hà Nam, người Mông Cổ thiết lập nên Hà Nam Giang Bắc đẳng xứ hành trung thư tỉnh, trị sở đặt tại Khai Phong. Trong chiến tranh Mông-Kim, phương Bắc Trung Quốc, trong đó có Hà Nam, đã bị phá hoại đến mức hủy diệt, ngoại trừ một số rất ít người chạy trốn được ra bên ngoài, đại đa số dân thường đã thiệt mạng, tạo thành những khu vực cả nghìn lý không có một bóng người. Các thiết bị, kế hoạch, tổ chức của các công trình thủy lợi bị phá hoại với số lượng lớn, lũ lụt Hoàng Hà ngày càng trở nên nghiêm trọng, vì thế Hà Nam đã bị mất đi ưu thế mà khu vực này đã từng có trong một thời gian dài.
Ai đã thiết lập Hà Nam Giang Bắc đẳng xứ hành trung thư tỉnh?
người Mông Cổ
Trong các cuộc dân biến vào cuối thời Nguyên, Hà Nam cũng trở thành khu vực phải hứng chịu sự phá hoại nghiêm trọng từ chiến tranh, dân số suy giảm. Vì thế, trong những năm Chu Nguyên Chương trị vì, triều đình nhà Minh đã tổ chức cưỡng chế di dân trên quy mô lớn từ Sơn Tây đến Trung Nguyên. Đại Minh được thành lập chính thức vào năm 1368, Hà Nam thừa tuyên bố chính sứ ti do triều đại này lập ra có ranh giới tương đồng với tỉnh Hà Nam hiện nay. Hà Nam thời Minh được chia thành tám phủ: Khai Phong, Hà Nam (Lạc Dương), Quy Đức (Thương Khâu), Nam Dương, Nhữ Ninh (Nhữ Nam), Vệ Huy, Chương Đức (An Dương), Hoài Khánh (Thấm Dương). Năm 1641, Lý Tự Thành công chiếm Lạc Dương, giết chết Phúc vương Chu Thường Tuân (朱常洵)- con trai thứ ba của Minh Thần Tông. Năm 1642, trong thời gian Lý Tự Thành bao vây Khai Phong, người ta đã đào bới để đưa nước Hoàng Hà làm ngập lụt thành này (có thuyết nói là do quân Lý Tự Thành, có thuyết nó là quân Minh đào), trong số 37 vạn dân toàn thành thì chỉ 3 vạn là còn sống sót.
Hà Nam được chia thành bao nhiêu phủ thời Minh?
tám phủ
Trong các cuộc chiến tranh cuối thời Minh và đầu thời Thanh (1630—1662), khu vực Hà Nam lại bị phá hoại nghiêm trọng. Đến thời Khang Hy Đế, kinh tế nông nghiệp Hà Nam phục hồi, lại bắt đầu trở thành khu vực tập trung dân cư và khu vực sản xuất lương thực chủ yếu của đất nước. Khai Phong trở thành thủ phủ của Hà Nam, thành phố này cũng trở nên phồn vinh sau khi chịu thiệt hại từ chiến loạn trong thời gian Lý Tự Thành khởi nghĩa và đầu thời Thanh. Đến những năm 60 của thế kỷ XIX, tại Hà Nam bùng phát các cuộc khởi nghĩa nông dân, sau hợp nhất vào khởi nghĩa lớn Niệp quân. Ngoài ra, quân Thái Bình Thiên Quốc cũng nhiều lần ra vào Hà Nam, vì thế Hà Nam trở thành một khu vực trung tâm của khởi nghĩa nông dân lưu vực Hoàng Hoài. Sau khi khởi nghĩa nông dân thất bại, nông nghiệp Hà Nam ngày càng suy thoái, tư tưởng văn hóa về cơ bản vẫn chìm đắm trong Trình-Chu lý học.
Khu vực nào trở thành trung tâm của khởi nghĩa nông dân lưu vực Hoàng Hoài?
Hà Nam
Trong các cuộc chiến tranh cuối thời Minh và đầu thời Thanh (1630—1662), khu vực Hà Nam lại bị phá hoại nghiêm trọng. Đến thời Khang Hy Đế, kinh tế nông nghiệp Hà Nam phục hồi, lại bắt đầu trở thành khu vực tập trung dân cư và khu vực sản xuất lương thực chủ yếu của đất nước. Khai Phong trở thành thủ phủ của Hà Nam, thành phố này cũng trở nên phồn vinh sau khi chịu thiệt hại từ chiến loạn trong thời gian Lý Tự Thành khởi nghĩa và đầu thời Thanh. Đến những năm 60 của thế kỷ XIX, tại Hà Nam bùng phát các cuộc khởi nghĩa nông dân, sau hợp nhất vào khởi nghĩa lớn Niệp quân. Ngoài ra, quân Thái Bình Thiên Quốc cũng nhiều lần ra vào Hà Nam, vì thế Hà Nam trở thành một khu vực trung tâm của khởi nghĩa nông dân lưu vực Hoàng Hoài. Sau khi khởi nghĩa nông dân thất bại, nông nghiệp Hà Nam ngày càng suy thoái, tư tưởng văn hóa về cơ bản vẫn chìm đắm trong Trình-Chu lý học.
Khu vực Hà Nam phục hồi kinh tế nông nghiệp vào thời vua nào?
Khang Hy Đế
Do ảnh hưởng từ khởi nghĩa Vũ Xương, đảng viên cách mạng Hà Nam đã thúc đẩy Tân quân tại tỉnh lỵ Khai Phong phản lại chính quyền, tổ chức khởi nghĩa vũ trang ở các phủ huyện khác, song không giành được thành công, trở thành một trong vài tỉnh chưa từng "độc lập". Trung Hoa Dân Quốc đã thay thế triều Thanh vào năm 1911, mở ra thời kỳ hiện đại trong lịch sử Trung Quốc. Việc xây dựng và mở rộng tuyến Đường sắt Bình Hán (thông xe năm 1906) và đường sắt Long Hải (thông xe đoạn Khai Phong-Lạc Dương năm 1910) đã biến Trịnh Châu, một phố huyện nhỏ vào lúc bấy giờ, thành một trung tâm giao thông lớn. Mặc dù có sự nổi lên của Trịnh Châu, kinh tế Hà Nam về tổng thể liên tục chịu thiệt hại nặng nề từ nhiều thảm họa đương thời. Chính phủ Quốc dân bỏ phủ giữ lại đạo, tại Hà Nam đã thành lập nên Khai Phong đạo, Hà Lạc đạo, Nhữ Dương đạo, Hà Bắc đạo; đạo doãn trú tương ứng tại Khai Phong, Lạc Dương, Tín Dương và huyện Cấp.
Trung Hoa Dân Quốc được thành lập vào năm nào?
1911
Do ảnh hưởng từ khởi nghĩa Vũ Xương, đảng viên cách mạng Hà Nam đã thúc đẩy Tân quân tại tỉnh lỵ Khai Phong phản lại chính quyền, tổ chức khởi nghĩa vũ trang ở các phủ huyện khác, song không giành được thành công, trở thành một trong vài tỉnh chưa từng "độc lập". Trung Hoa Dân Quốc đã thay thế triều Thanh vào năm 1911, mở ra thời kỳ hiện đại trong lịch sử Trung Quốc. Việc xây dựng và mở rộng tuyến Đường sắt Bình Hán (thông xe năm 1906) và đường sắt Long Hải (thông xe đoạn Khai Phong-Lạc Dương năm 1910) đã biến Trịnh Châu, một phố huyện nhỏ vào lúc bấy giờ, thành một trung tâm giao thông lớn. Mặc dù có sự nổi lên của Trịnh Châu, kinh tế Hà Nam về tổng thể liên tục chịu thiệt hại nặng nề từ nhiều thảm họa đương thời. Chính phủ Quốc dân bỏ phủ giữ lại đạo, tại Hà Nam đã thành lập nên Khai Phong đạo, Hà Lạc đạo, Nhữ Dương đạo, Hà Bắc đạo; đạo doãn trú tương ứng tại Khai Phong, Lạc Dương, Tín Dương và huyện Cấp.
Đạo nào được thành lập tại Hà Nam sau khi chính phủ Quốc dân bỏ phủ giữ lại đạo?
Khai Phong đạo
Thời kỳ Bắc Dương quân phiệt, năm 1920, Lạc Dương trở thành căn cứ của Ngô Bội Phu thuộc Trực hệ quân phiệt, có sở quan Lưỡng Hồ tuần duyệt sử và bộ tư lệnh sư đoàn 3 Lục quân. Năm 1926, Phùng Ngọc Tường tham gia chiến tranh Bắc phạt do Tưởng Giới Thạch phát động từ Quảng Châu nhằm triệt tiêu các quân phiệt phương Bắc, Phùng tiến quân về phía nam, trong đó Ngô Bội Phu cát cứ Hoa Trung được liệt là một mục tiêu chính. Ngô Bội Phu trước tình thế này đã kêu gọi Trương Tác Lâm "khôi phục pháp thống" song không nhận được hưởng ứng. Do Ngô Bội Phu có lập trường chống Liên Xô nên Liên Xô hỗ trợ cho chính phủ Quốc dân đóng ở Quảng Châu. Cùng năm, quân Bắc phạt đánh tan quân chủ lực của Ngô Bội Phu, Ngô Bội Phu buộc phải dẫn tàn quân về Hà Nam sau khi để mất Vũ Hán tam trấn, sau lại chạy trốn đến Tứ Xuyên. Năm 1930, Trung Quốc đã nổ ra nội chiến giữa quân của Tưởng Giới Thạch với Diêm Tích Sơn, Phùng Ngọc Tường và Lý Tông Nhân, được gọi là đại chiến Trung Nguyên. Cuộc nội chiến này diễn ra chủ yếu trên địa bàn Hà Nam và là cuộc chiến tranh quy mô nhất trong thời kỳ cận đại của Trung Quốc. Kết quả, Tưởng Giới Thạch toàn thắng, chấm dứt thời kỳ quân phiệt cát cứ. Năm 1932, sau sự kiện Nhất Nhị Bát tại Thượng Hải, chính phủ Quốc dân Nam Kinh đã định Lạc Dương là "hành đô", chuyển văn phòng đến Lạc Dương, đến tháng 12 cùng năm thì lại trở về Nam Kinh.
Chiến tranh Bắc phạt diễn ra vào năm nào?
1926
Thời kỳ Bắc Dương quân phiệt, năm 1920, Lạc Dương trở thành căn cứ của Ngô Bội Phu thuộc Trực hệ quân phiệt, có sở quan Lưỡng Hồ tuần duyệt sử và bộ tư lệnh sư đoàn 3 Lục quân. Năm 1926, Phùng Ngọc Tường tham gia chiến tranh Bắc phạt do Tưởng Giới Thạch phát động từ Quảng Châu nhằm triệt tiêu các quân phiệt phương Bắc, Phùng tiến quân về phía nam, trong đó Ngô Bội Phu cát cứ Hoa Trung được liệt là một mục tiêu chính. Ngô Bội Phu trước tình thế này đã kêu gọi Trương Tác Lâm "khôi phục pháp thống" song không nhận được hưởng ứng. Do Ngô Bội Phu có lập trường chống Liên Xô nên Liên Xô hỗ trợ cho chính phủ Quốc dân đóng ở Quảng Châu. Cùng năm, quân Bắc phạt đánh tan quân chủ lực của Ngô Bội Phu, Ngô Bội Phu buộc phải dẫn tàn quân về Hà Nam sau khi để mất Vũ Hán tam trấn, sau lại chạy trốn đến Tứ Xuyên. Năm 1930, Trung Quốc đã nổ ra nội chiến giữa quân của Tưởng Giới Thạch với Diêm Tích Sơn, Phùng Ngọc Tường và Lý Tông Nhân, được gọi là đại chiến Trung Nguyên. Cuộc nội chiến này diễn ra chủ yếu trên địa bàn Hà Nam và là cuộc chiến tranh quy mô nhất trong thời kỳ cận đại của Trung Quốc. Kết quả, Tưởng Giới Thạch toàn thắng, chấm dứt thời kỳ quân phiệt cát cứ. Năm 1932, sau sự kiện Nhất Nhị Bát tại Thượng Hải, chính phủ Quốc dân Nam Kinh đã định Lạc Dương là "hành đô", chuyển văn phòng đến Lạc Dương, đến tháng 12 cùng năm thì lại trở về Nam Kinh.
Lạc Dương trở thành căn cứ của Ngô Bội Phu vào năm nào?
1920
Thời kỳ Bắc Dương quân phiệt, năm 1920, Lạc Dương trở thành căn cứ của Ngô Bội Phu thuộc Trực hệ quân phiệt, có sở quan Lưỡng Hồ tuần duyệt sử và bộ tư lệnh sư đoàn 3 Lục quân. Năm 1926, Phùng Ngọc Tường tham gia chiến tranh Bắc phạt do Tưởng Giới Thạch phát động từ Quảng Châu nhằm triệt tiêu các quân phiệt phương Bắc, Phùng tiến quân về phía nam, trong đó Ngô Bội Phu cát cứ Hoa Trung được liệt là một mục tiêu chính. Ngô Bội Phu trước tình thế này đã kêu gọi Trương Tác Lâm "khôi phục pháp thống" song không nhận được hưởng ứng. Do Ngô Bội Phu có lập trường chống Liên Xô nên Liên Xô hỗ trợ cho chính phủ Quốc dân đóng ở Quảng Châu. Cùng năm, quân Bắc phạt đánh tan quân chủ lực của Ngô Bội Phu, Ngô Bội Phu buộc phải dẫn tàn quân về Hà Nam sau khi để mất Vũ Hán tam trấn, sau lại chạy trốn đến Tứ Xuyên. Năm 1930, Trung Quốc đã nổ ra nội chiến giữa quân của Tưởng Giới Thạch với Diêm Tích Sơn, Phùng Ngọc Tường và Lý Tông Nhân, được gọi là đại chiến Trung Nguyên. Cuộc nội chiến này diễn ra chủ yếu trên địa bàn Hà Nam và là cuộc chiến tranh quy mô nhất trong thời kỳ cận đại của Trung Quốc. Kết quả, Tưởng Giới Thạch toàn thắng, chấm dứt thời kỳ quân phiệt cát cứ. Năm 1932, sau sự kiện Nhất Nhị Bát tại Thượng Hải, chính phủ Quốc dân Nam Kinh đã định Lạc Dương là "hành đô", chuyển văn phòng đến Lạc Dương, đến tháng 12 cùng năm thì lại trở về Nam Kinh.
Cuộc nội chiến nổ ra năm 1930 ở Trung Quốc được gọi là gì?
đại chiến Trung Nguyên
Thời kỳ Bắc Dương quân phiệt, năm 1920, Lạc Dương trở thành căn cứ của Ngô Bội Phu thuộc Trực hệ quân phiệt, có sở quan Lưỡng Hồ tuần duyệt sử và bộ tư lệnh sư đoàn 3 Lục quân. Năm 1926, Phùng Ngọc Tường tham gia chiến tranh Bắc phạt do Tưởng Giới Thạch phát động từ Quảng Châu nhằm triệt tiêu các quân phiệt phương Bắc, Phùng tiến quân về phía nam, trong đó Ngô Bội Phu cát cứ Hoa Trung được liệt là một mục tiêu chính. Ngô Bội Phu trước tình thế này đã kêu gọi Trương Tác Lâm "khôi phục pháp thống" song không nhận được hưởng ứng. Do Ngô Bội Phu có lập trường chống Liên Xô nên Liên Xô hỗ trợ cho chính phủ Quốc dân đóng ở Quảng Châu. Cùng năm, quân Bắc phạt đánh tan quân chủ lực của Ngô Bội Phu, Ngô Bội Phu buộc phải dẫn tàn quân về Hà Nam sau khi để mất Vũ Hán tam trấn, sau lại chạy trốn đến Tứ Xuyên. Năm 1930, Trung Quốc đã nổ ra nội chiến giữa quân của Tưởng Giới Thạch với Diêm Tích Sơn, Phùng Ngọc Tường và Lý Tông Nhân, được gọi là đại chiến Trung Nguyên. Cuộc nội chiến này diễn ra chủ yếu trên địa bàn Hà Nam và là cuộc chiến tranh quy mô nhất trong thời kỳ cận đại của Trung Quốc. Kết quả, Tưởng Giới Thạch toàn thắng, chấm dứt thời kỳ quân phiệt cát cứ. Năm 1932, sau sự kiện Nhất Nhị Bát tại Thượng Hải, chính phủ Quốc dân Nam Kinh đã định Lạc Dương là "hành đô", chuyển văn phòng đến Lạc Dương, đến tháng 12 cùng năm thì lại trở về Nam Kinh.
Thời kỳ Bắc Dương quân phiệt, Ngô Bội Phu thuộc quân phiệt nào?
Trực hệ