text
stringlengths 82
354k
|
---|
Bắc Bộ (hay còn gọi là Miền Bắc, Bắc Kỳ, Bắc Phần) là một trong 3 miền địa lý của Việt Nam (gồm Bắc Bộ, Trung Bộ và Nam Bộ). Dân cư Bắc Bộ tập trung đông tại Đồng bằng sông Hồng dù rằng đồi núi chiếm đa số diện tích Bắc Bộ. Bắc Bộ gồm 3 vùng là Tây Bắc Bộ, Đông Bắc Bộ và Đồng bằng sông Hồng; đôi khi 2 vùng Tây Bắc Bộ và Đông Bắc Bộ được gộp chung lại thành một gọi là vùng Trung du và Miền núi phía Bắc. Với trung tâm là thành phố TW Hải Phòng và thủ đô của nước Việt Nam thành phố TW Hà Nội. Tùy vào ngữ cảnh, một phần của Bắc Trung Bộ cùng với Bắc Bộ được gọi chung là Miền Bắc Việt Nam. Khu vực này (Bắc Bộ và hai xứ Thanh – Nghệ) là vùng lõi lịch sử của Việt Nam, với nhà nước đầu tiên hình thành là Văn Lang. Sau thời Bắc thuộc, dân vùng đất này giành độc lập rồi mở công cuộc Nam tiến. Thời kỳ Trịnh – Nguyễn phân tranh, khu vực này được gọi là Đàng Ngoài (hay Bắc Hà). Thời Pháp thuộc, Bắc Bộ là một xứ bảo hộ lấy tên là Bắc Kỳ, vốn có từ thời vua Minh Mạng của Nhà Nguyễn. Tên gọi "Bắc Bộ" ra đời từ thời Đế quốc Việt Nam năm 1945. Bắc Bộ còn được gọi là "Bắc Phần" (1948 - 1975) dưới thời Quốc gia Việt Nam và Việt Nam Cộng hòa.
Vị trí, địa hình.
Bắc Bộ nằm ở vùng cực Bắc lãnh thổ Việt Nam, có phía bắc giáp Trung Quốc, phía tây giáp Lào và phía đông giáp biển Đông. Chiều ngang Đông – Tây là khoảng 600 km, chiều ngang lớn nhất so với Trung Bộ và Nam Bộ.
Địa hình Bắc Bộ đa dạng và phức tạp. Bao gồm đồi núi, đồng bằng, bờ biển và thềm lục địa. Có lịch sử phát triển địa hình và địa chất lâu dài, phong hóa mạnh mẽ. Có bề mặt thấp dần, xuôi theo hướng tây bắc - Đông Nam, được thể hiện thông qua hướng chảy của các dòng sông lớn.
Khu vực đồng bằng rộng lớn nằm ở lưu vực sông Hồng, có diện tích khoảng 15.000 km² và bằng 4.5% diện tích cả nước. Đồng bằng dạng hình tam giác, đỉnh là thành phố Việt Trì và cạnh đáy là đường bờ biển phía đông. Đây là đồng bằng châu thổ lớn thứ hai Việt Nam sau Đồng bằng sông Cửu Long, có diện tích 40.000 km² do sông Hồng và sông Thái Bình bồi đắp. Phần lớn bề mặt đồng bằng có địa hình khá bằng phẳng, có độ cao từ 0,4–12m so với mực nước biển.
Liền kề với Đồng bằng sông Hồng về phía tây và tây bắc là khu vực Trung du và Miền núi có diện tích khoảng 101 ngàn km² và bằng 30.7% diện tích cả nước Địa hình ở đây bao gồm các dãy núi cao và rất hiểm trở, kéo dài từ biên giới phía bắc (nơi tiếp giáp với Trung Quốc) tới phía tây tỉnh Thanh Hóa. Trong khu vực này từ lâu đã xuất hiện nhiều đồng cỏ, nhưng thường không lớn và chủ yếu nằm rải rác trên các cao nguyên ở độ cao 600 – 700m.
Về phía khu vực đông bắc phần lớn là núi thấp và đồi nằm ven bờ biển Đông, được bao bọc bởi các đảo và quần đảo lớn nhỏ. Ở Vịnh Bắc Bộ tập trung quần thể bao gồm gần 3.000 hòn đảo nằm trong các khu vực biển Vịnh Hạ Long, Bái Tử Long, Cát Hải, Cát Bà, Bạch Long Vĩ. Và nhiều bờ biển đẹp như bờ biển Trà Cổ, Bãi Cháy, Tuần Châu và Vân Đồn thuộc tỉnh Quảng Ninh. Cát Bà, Đồ Sơn thuộc thành phố Hải Phòng. Đồng Châu thuộc tỉnh Thái Bình. Hải Thịnh, Quất Lâm thuộc tỉnh Nam Định.
Bắc Bộ quanh năm có nhiệt độ tương đối cao và ẩm, nền khí hậu chịu ảnh hưởng từ lục địa Trung Hoa chuyển qua và mang tính chất khí hậu lục địa. Trong khi một phần khu vực Duyên hải lại chịu ảnh hưởng tính chất khí hậu cận nhiệt đới ấm và gió mùa ẩm từ đất liền.
Toàn vùng có khí hậu cận nhiệt đới ẩm với 2 mùa rõ rệt hè, đông. Đồng thời hàng năm chịu ảnh hưởng của gió mùa đông bắc và gió mùa Đông Nam. Nhiệt độ trung bình năm tăng dần từ phía Bắc xuống phía Nam và có khí hậu giao hoà, là đặc trưng của khu vực đồng bằng Bắc Bộ và ven biển. Thời tiết mùa hè từ tháng 4 đến tháng 10 nóng ẩm và mưa cho tới khi gió mùa nổi lên. Mùa đông từ tháng 11 tới tháng 3 trời lạnh, khô, có mưa phùn. Nhiệt độ trung bình hàng năm khoảng 25 °C, lượng mưa trung bình từ 1.700 đến 2.400 mm. Vào mùa Đông nhiệt độ xuống thấp nhất trong các tháng 12 và tháng giêng. Thời gian này ở khu vực miền núi phía bắc (như Sa Pa, Tam Đảo, Hoàng Liên Sơn) có lúc nhiệt độ còn lúc xuống dưới 0 độ C, xuất hiện băng giá và có thể có tuyết rơi.
Khí hậu vùng Bắc Bộ cũng thường phải hứng chịu nhiều tác động xấu của thời tiết, trung bình hàng năm có từ 6 đến 10 cơn bão và áp thấp nhiệt đới gây ra lũ lụt, đe dọa trực tiếp đến cuộc sống và ngành nông nghiệp của toàn địa phương trong vùng.
Tính đến thời điểm 0 giờ ngày 01/04/2019 dân số Việt Nam là 96.208.984 người. Khu vực đồng bằng Sông Hồng là nơi tập trung dân cư đông nhất (có tới 22.543.607 người) và 3 tỉnh có số dân thấp nhất là Điện Biên, Lai Châu, Bắc Kạn đều dưới con số 500.000 người.
Khu vực đồng bằng Sông Hồng có mật độ dân cư dày đặc nhất (khoảng 1.060 người/km²). Dân số khu vực thành thị chiếm 29,2% dân số toàn Bắc Bộ và có tốc độ gia tăng ở mức cao, bình quân có thêm 3,4%/năm (tỷ lệ tăng dân số ở khu vực nông thôn chỉ là 0,4%/năm). Trong khi đó ở khu vực Trung du miền núi với diện tích rộng lớn, tài nguyên thiên nhiên phong phú lại thiếu nguồn nhân lực khai thác và có mật độ dân số thấp hơn rất nhiều, chỉ 132 người/km2). Điều đó đã tạo ra nạn nhân mãn cho vùng đồng bằng Sông Hồng dưới áp lực của sự gia tăng dân số. Theo cuộc điều tra mức sống dân cư năm trong hai năm (1997 và 1998) ở riêng khu vực đồng bằng sông Hồng, tỷ số giới tính của trẻ em từ 1 đến 4 tuổi cao nhất nước (bằng 116), nghĩa là cứ có 100 con gái thì tương ứng với 116 con trai. Tuy nhiên, tỷ số giới tính có sự thay đổi theo cuộc tổng điều tra dân số năm 2019. Tại đồng bằng sông Hồng, tỉ số giới tính là 98,3; tại vùng trung du và miền núi phía bắc là 99,1.
Tại khu vực đông dân như đồng bằng Sông Hồng và các khu vực thuộc vùng kinh tế trọng điểm đều có mật độ dân số rất cao. Tuy tạo được những mặt tác động tích cực, là nguồn nhân lực dồi dào để phát triển kinh tế, là thị trường tiêu thụ rộng lớn, là thế mạnh để thu hút nguồn đầu tư từ nước ngoà, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần đến mỗi người dân lao động. Đồng thời các nhu cầu phúc lợi xã hội cũng bị hạn hẹp theo. Ngoài ra, ở những nơi tập trung đông dân cư sinh sống dễ dẫn đến tình trạng môi trường bị gia tăng tác động, gây ô nhiễm môi trường, dịch bệnh, suy giảm các nguồn tài nguyên tự nhiên ở khu vực.
Công tác phân bổ dân cư không đồng đều do cả khách quan lẫn chủ quan gây nên sự không hợp lý trong việc khai thác tài nguyên thiên nhiên, sử dụng lao động, gia tăng chênh lệch kinh tế, xã hội đối với các khu vực trong vùng, làm suy giảm hiệu quả trong quá trình xây dựng và phát triển chung của toàn xã hội. Ba thành phố lớn nhất là Hà Nội, Hải Phòng, Nam Định. Thành phố Hà Nội đã hơn 1000 năm tuổi, Nam Định hơn 750 năm còn Hải Phòng hơn 100 năm.
Bắc Bộ Việt Nam là nơi ghi dấu ấn lịch sử xưa nhất của dân tộc Việt Nam. Có Đền thờ các vua Hùng ở tỉnh Phú Thọ, thành Cổ Loa của An Dương Vương ở Đông Anh, Hà Nộ, nơi này được mang các tên như quận Giao Chỉ, rồi Giao Châu.
Thời Trịnh - Nguyễn phân tranh, đây là vùng đất Đàng Ngoài do Chúa Trịnh kiểm soát, kéo dài cho tới sông Gianh, đèo Ngang. Đàng Ngoài còn được gọi là Bắc Hà vì nằm phía Bắc sông Gianh, còn Đàng Trong, còn gọi là Nam Hà vì nằm phía Nam sông Gianh do Chúa Nguyễn kiểm soát.
Bắc Kỳ (chữ Hán: 北圻) là tên gọi do vua Minh Mạng đặt ra năm 1834 để chỉ phần đất từ Ninh Bình trở ra phía bắc của Việt Nam.
Ngày 25 tháng 8 năm 1883, nhà Nguyễn ký Hòa ước Quý Mùi, 1883 đầu hàng thực dân Pháp. Theo Hiệp ước này, khu vực từ đèo Ngang trở ra bắc gọi là Tonkin (Bắc Kỳ). Cũng theo đó Bắc Kỳ được tính từ địa giới phía nam tỉnh Ninh Bình trở ra.
Ngày 20 tháng 3 năm 1945, Thống sứ Nhật đã đổi tên Bắc Kỳ thành Bắc Bộ.
Ngày 27 tháng 4 năm 1945, Bảo Đại ra đạo dụ số 11 cử Phan Kế Toại làm Khâm sai đại thần Bắc Bộ. Phủ Thống sứ Bắc Kỳ cũ cũng được đổi thành Phủ Khâm sai Bắc Bộ.
Ngày 20 tháng 8 năm 1945, Việt Minh thành lập Ủy ban Nhân dân cách mạng Bắc Bộ nhằm giành chính quyền về tay mình.
Sau Cách mạng tháng 8 năm 1945, Bắc Bộ là một cấp hành chính chỉ trong một thời gian không dài.
Năm 1949, khi chính quyền Quốc gia Việt Nam thành lập, Quốc trưởng Bảo Đại đã lập dinh Thủ hiến Bắc Phần để thay mặt Quốc trưởng cai trị Miền Bắc. Đến sau 1954, khi chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tiếp quản Miền Bắc Việt Nam, dinh Thủ hiến Bắc Phần bị bãi bỏ.
Tên Hán Việt của Hà Nội (trung tâm Bắc Kỳ lúc bấy giờ), được người phương Tây biết đến khi đến Việt Nam lần đầu vào thời nhà Lê là Đông Kinh (東京). Tên gọi này được người Pháp đọc thành Tonkin, Tonquin hoặc Tongkin, Tongking. Ban đầu người Pháp cũng dùng tên gọi này để chỉ cho toàn bộ khu vực Đàng Ngoài (thời Trịnh - Nguyễn phân tranh), là vùng đất phía bắc nhất của Việt Nam. Các học giả phương Tây thế kỷ 17 thường gọi vùng Đàng Ngoài là "royaume de Tonquin/Tonkin" (vương quốc Đàng Ngoài).
Vịnh Bắc Bộ hiện nay cũng được gọi là "Gulf of Tonkin/Tongking" hoặc "Tonkin Gulf" trong tiếng Anh và "Golfe du Tonkin" trong tiếng Pháp.
Các đơn vị hành chính.
Theo cách phân chia hiện nay thì vùng Bắc Bộ Việt Nam, bao gồm các tỉnh và thành phố nằm ở phía bắc tỉnh Thanh Hóa, gồm có 25 tỉnh thành được chia thành 3 tiểu vùng:
Về mặt địa lý tự nhiên, Bắc Bộ có thể được chia thành hai vùng là vùng Đồng bằng sông Hồng và Trung du và miền núi phía bắc (bao gồm Vùng Đông bắc và Vùng Tây bắc).
Ngày 22/8/2008, theo công bố phân định từ Bộ Công Thương đã thành lập vùng I gồm 14 tỉnh miền núi và trung du Bắc bộ. Đó là Cao Bằng, Lạng Sơn, Bắc Kạn, Hà Giang, Lào Cai, Lai Châu, Điện Biên, Sơn La, Hòa Bình, Phú Thọ, Yên Bái, Tuyên Quang, Thái Nguyên, Bắc Giang. Toàn vùng có diện tích đất tự nhiên trên 95.000 km² và có dân số trên 11 triệu người, chiếm 28,8% diện tích và 13,1% dân số của cả nước. Vùng I hiện nay có gần 2.000 km đường biên tiếp giáp với Trung Quốc và Lào
Hiện tại, vùng Bắc Bộ có diện tích 116.134,3 km² "(tỷ lệ 35% so với tổng diện tích cả nước)" với số dân 35.076.473 người "(tỷ lệ 36,4% so với tổng dân số cả nước)", bình quân 302 người trên 1 km².
Ngày nay, khi có các công trình nghiên cứu và khảo sát về các hình mẫu hoa văn trên trống đồng Đông Sơn ta sẽ thấy chúng thuộc một nền văn minh tinh thần rất cao, vừa để làm cơ sở rằng tổ tiên người Việt Nam đã sớm có một nền văn minh phát triển mà tiêu biểu nhất là nền văn hoá của người Việt cổ.
Việt Nam hiện có 2 vùng văn hoá lịch sử truyền thống lâu đời và phát triển cao là đồng bằng sông Hồng và đồng bằng Nam Bộ. Đồng bằng sông Hồng là đồng bằng rộng lớn, nơi tập trung dân cư đông đúc với chủ yếu là người Việt có trình độ phát triển cao, được coi là đất gốc, quê hương của dân tộc Việt, văn hóa Việt.
Cư dân sống lâu đời trên mảnh đất cổ, do sức ép về gia tăng dân số nên đã có thời điểm rơi vào tình trạng thiếu đói lương thực. Họ sớm đi vào thâm canh nhất là nghề trồng lúa nước, là đặc thù của một vùng đồng bằng thấp (có độ cao từ 0,4 - 12m). Từ sự bắt đầu công cuộc đắp đê ngăn lũ, lấn biển và Nam tiến mở rộng diện tích sản xuất. Với sau lưng là "rừng thiêng nước độc" còn phía trước là "biển cả bao la", họ bao gồm các cộng đồng nhỏ dân cư chủ yếu từ miền núi tiến xuống. Bản chất thuần nông "xa rừng, nhạt biển", đã nhanh có biểu hiện rõ nét trong cuộc sống mới. Một thiết chế xã hội dần được hình thành, được tổ chức chặt chẽ và có thể xem là đặc sản văn hoá vùng miền nông thôn tại đồng bằng Bắc Bộ ngày nay. Văn hoá được ứng dụng từ mỗi cơ sở thực địa, địa bàn cư trú. Trong các cuộc sống cộng đồng tự quản đa dạng và phong phú. Văn hoá thể hiện mối ứng xử bình đẳng với thiên nhiên, với xã hội và bản thân của mỗi cư dân.
Người Việt Nam có điểm chung về cuộc sống hệ luỵ gia đình, làng, nước. Nói đến vùng Bắc Bộ thì yếu tố văn hoá này còn rất sâu đậm trong ý thức hệ của người dân, đặc biệt là khái niệm về dấu ấn quê hương xứ sở như văn hoá cổ làng xã, ngành nghề từ địa phương, đất đai và thờ cúng tổ tiê, xung quanh làng có hàng tre bao bọc, có cây đa cổng làng, có nơi thờ tự chung, có lễ hội dân gian và mùa vụ. Ngoài ra, người dân Bắc Bộ vẫn chịu ảnh hưởng nhiều của Nho giáo, như lề thói, khuôn phép, thứ bậc, tôn ti trong gia tộc và ngoài làng xã vẫn được xem trọng trong đời sống thường ngày của họ.
Vươn dậy từ công cuộc khai sinh lập địa có lịch sử khởi nguồn đầy khó khăn gian khổ, trải qua hàng ngàn năm xây dựng và phát triển để có được nền văn hoá dân tộc đa dạng, phong phú như ngày nay, những người dân Bắc Bộ nói riêng và cả Việt Nam nói chung không thể không tự hào.
Khởi đầu từ việc người Việt cổ rời bỏ cuộc sống hang động ở núi rừng (như hang động núi đá vôi vùng Hòa Bình) để tiến xuống chinh phục vùng sông nước mênh mang của vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng. Công cuộc chinh phục nền kinh tế thời đại cổ xưa được đánh dấu với việc khống chế sức mạnh của dòng nước. Chung sống và bắt nó phục vụ cho lợi ich của con người. Đã hàng ngàn năm nay, dọc theo hai bên bờ sông Hồng là những làng quê trù phú có đê điều chống lũ lụt bao quanh. Hơn hai thiên niên kỷ con cháu người Việt cổ bám trụ và phát triển ở vùng Châu thổ sông Hồng, đã tạo ra những thành quả chính cho nền kinh tế đương đại vùng Bắc Bộ Việt Nam.
Vùng Đồng bằng sông Hồng.
Hiện tại cũng như tương lai khu vực đồng bằng sông Hồng luôn đóng vai trò quan trọng vào sự nghiệp phát triển kinh tế, xã hội chung ở Việt Nam. Là nơi có vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên rất thuận lợi. Tài nguyên thiên nhiên phong phú, đa dạng, dân cư đông đúc, mặt bằng dân trí cao. Sự tập trung dân cư có mật độ cao liên quan đến nhu cầu và môi trường lao động, tính cộng đồng và truyền thống văn hoá dân tộc. Một nơi có truyền thống lâu đời về thâm canh lúa nước, có những trung tâm công nghiệp và hệ thống đô thị phát triể, mang đến sự thuận lợi cho công cuộc định cư lâu dài của con người.
Là vựa lúa lớn thứ hai của Việt Nam Đồng bằng sông Hồng có được đất đai màu mỡ do phù sa của sông Hồng và sông Thái Bình bồi đắp. Số đất đai để phát triển nông nghiệp trên 70 vạn ha, chiếm 56% tổng diện tích tự nhiên toàn vùng. Ngoài lúa nước, các địa phương nông nghiệp ở đồng bằng sông Hồng đều chú trọng phát triển loại cây ưa lạnh có hiệu quả kinh tế cao như ngô, khoai tây, su hào, cải bắp, cà chua. Những loại cây này đa phần được trồng xen canh giữa các mùa vụ.
Bắc Bộ là vùng có đường bờ biển dài, có cửa ngõ lớn và quan trọng thông thương với các khu vực lân cận và thế giới qua cảng biển Hải Phòng. Tài nguyên thiên nhiên gồm có các mỏ đá (ở Hải Phòng, Hà Nam, Ninh Bình), sét cao lanh ở Hải Dương, than nâu ở Hưng Yên và mỏ khí đốt ở huyện Tiền Hải (Thái Bình) đã được tiến hành khai thác từ nhiều năm nay.
Đặc biệt, trong lòng đồng bằng sông Hồng đang tồn tại hàng chục vỉa than lớn nhỏ có tổng trữ lượng vào khoảng 210 tỷ tấn (theo dự đoán qua số liệu khảo sát vào những năm 70 của thế kỷ trước). Trải rộng trên diện tích 3500km2, trải dài từ Hà Nội đến Thái Bình rồi ra đến bờ biển Đông. Các vỉa than này có chiều dày từ 2 đến 3m, có nơi tới 20m. Là những vỉa than có độ ổn định địa chất và chất lượng rất tốt.
Tuy nhiên, đồng bằng sông Hồng vẫn là một khu vực thiếu nguyên liệu phục vụ cho các ngành công nghiệp đang phát triển và luôn phải nhập từ các vùng khác. Một số lượng không nhỏ tài nguyên đang bị suy thoái do khai thác quá mức. Do nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới và gió mùa nên nền kinh tế vùng nói chung cũng phải chịu ảnh hưởng từ các rủi ro do thiên tai gây nên.
Khu vực Trung du và miền núi phía bắc.
Là khu vực giàu tài nguyên để phát triển nông nghiệp, trồng cây công nghiệp, cây đặc sản và chăn nuôi gia súc. Nơi đây có khá nhiều đồng cỏ, chủ yếu là trên các cao nguyên ở độ cao 600 – 700m dùng để phát triển chăn nuôi gia súc như trâu, bò, ngựa, dê. Ở Cao nguyên Mộc Châu (tỉnh Sơn La) là nơi có những nông trường nuôi bò sữa tập trung. Các loại gia súc trên cao nguyên được chăn nuôi có tính khoẻ hơn, chịu ẩm ướt giỏi và dễ thích nghi với điều kiện chăn thả trong rừng.
Khu vực có diện tích lớn đất feralit bên trên các dải đá vôi và đá phiến, có đất phù sa cổ ở vùng trung du. Do địa hình phần lớn chịu ảnh hưởng mạnh của gió mùa đông bắc, trong đó có nơi hứng chịu nhiệt độ mùa đông lạnh nhất Việt Nam là Sa Pa. Chính vì thế nơi đây có thế mạnh đặc biệt trong gieo trồng các cây công nghiệp có nguồn gốc cận nhiệt và ôn đới. Trung du và miền núi phía bắc cũng là khu vực trồng cây chè lớn nhất. Các loại chè được trồng nhiều ở Sơn La, Hà Giang, Yên Bái và Thái Nguyên.
Khu vực phía đông bắc có biển Quảng Ninh là một vùng biển giàu tiềm năng phát triển kinh tế. Hiện nay đang trên đà phát triển cùng với sự phát triển của vùng kinh tế trọng điểm vùng Bắc Bộ. Vùng biển Quảng Ninh có thế mạnh đối với ngành nuôi trồng thủy sản, đánh bắt cá xa bờ cùng ngành du lịch biển đảo cũng đang được chú trọng phát triển. Ở đây có vịnh Hạ Long đã được xếp vào danh mục di sản thiên nhiên của thế giới, là điểm đến du lịch rất giá trị về văn hoá.
Mặc dù tốc độ phát triển kinh tế của toàn vùng là khá toàn diện. Tuy nhiên, riêng với khu vực Trung du và miền núi phía bắc, nhất là vùng tây bắc vẫn còn nghèo so với các vùng khác trong cả nước. |
Miền Nam (Việt Nam)
Miền Nam Việt Nam là một khái niệm để chỉ vùng địa lý ở phía nam nước Việt Nam. Tuy nhiên, tùy theo từng thời điểm lịch sử và thói quen sử dụng mà khái niệm này đôi khi được dùng để chỉ các vùng lãnh thổ khác nhau theo nghĩa chính trị một cách không chính thức.
Sắc lệnh số 153-A/TTP của Phủ Tổng thống Việt Nam Cộng hòa ngày 22/09/1955 đã quy định gọi Bắc Việt, Trung Việt, Nam Việt tương ứng là Bắc Phần, Trung Phần, Nam Phần. Miền Nam Việt Nam là danh từ để chỉ:
Các tiểu vùng địa lý.
Nam Bộ bao gồm 17 tỉnh từ Bình Phước đến Cà Mau và hai thành phố: Thành phố Hồ Chí Minh và thành phố Cần Thơ.
Khu vực này chia làm 2 vùng chính:
Riêng tài liệu của Tổng cục Thống kê Việt Nam (và một số ít tài liệu khác dựa theo số liệu thống kê của Tổng cục Thống kê) lại xếp 2 tỉnh Ninh Thuận, Bình Thuận vào miền Đông Nam Bộ.
Các tên gọi khác.
Tên gọi này bắt nguồn từ thời Trịnh - Nguyễn phân tranh vào thế kỷ 17, với ranh giới xác định là ở phía nam sông Gianh (nay thuộc tỉnh Quảng Bình). Do đặc điểm cả hai vùng lãnh thổ tuy trên thực tế thuộc hai chính quyền khác nhau, nhưng về danh nghĩa vẫn cùng một quốc gia Đại Việt. Tên gọi Đàng Trong thường được dùng để chỉ vùng kiểm soát bởi chúa Nguyễn, vốn nằm xa Trung Quốc hơn nên mới có tên gọi này. Giai đoạn này người ngoại quốc đến giao thương với Việt Nam thường dùng tên gọi Cochinchina, hoặc Quinan để chỉ vùng lãnh thổ này.
Tên gọi Nam Hà xuất hiện cùng thời với tên gọi Đàng Trong. Nó có nghĩa đơn giản là "ở phía nam con sông", ở đây hàm ý chỉ con sông Gianh. Tuy nhiên, tên gọi này ít sử dụng phổ biến như tên gọi Đàng Trong và không bao gồm vùng đất Gia Định ở phía nam.
Gia Định ban đầu chỉ là cái tên để chỉ vùng lãnh thổ nhỏ ở phía nam vào năm 1698, sau mở rộng dần đến năm 1779 thì được dùng để chỉ toàn bộ vùng tương ứng với Nam Bộ hiện nay. Để tương ứng với đơn vị hành chính Bắc Thành ở phía bắc, từ năm 1802, vua Gia Long đã đặt ra Gia Định Trấn để cai quản vùng lãnh thổ từ Bình Thuận trở vào, gồm 5 trấn. Do dễ có sự nhầm lẫn nên từ năm 1808 đã được đổi tên là Gia Định Thành. Đứng đầu đơn vị hành chính này là một chức quan Lưu Trấn, sau 1808 đổi thành Tổng trấn. Vị Tổng trấn nổi tiếng nhất của Gia Định Thành là Lê Văn Duyệt. Gia Định Thành tồn tại mãi đến năm 1832, sau khi Lê Văn Duyệt mất và vua Minh Mạng quyết định giải thể Gia Định Thành.
Nam Kỳ là tên gọi từ năm 1832, dùng để chỉ vùng lãnh thổ thuộc quyền cai quản của Gia Định Thành trước kia. Do vua Minh Mạng chia vùng lãnh thổ này thành 6 tỉnh trực tiếp đặt dưới quyền cai quản của triều đình, nên nó còn có tên gọi là Nam Kỳ Lục tỉnh. Sau khi chiếm được Nam Kỳ, người Pháp thường sử dụng tên gọi Cochinchine để chỉ vùng này.
Danh xưng Nam Kỳ quốc (tiếng Pháp: "République de Cochinchine") được người Pháp dùng để chỉ một quốc gia do họ lập nên vào năm 1946, về danh nghĩa cai quản vùng trước đây là thuộc địa Nam Kỳ. Tuy nhiên, quốc gia này chỉ tồn tại trên danh nghĩa và chỉ đến năm 1948 thì bị giải thể.
Sau cuộc đảo chính Pháp tại Đông Dương ngày 9 tháng 3 năm 1945, quân đội Nhật đã tuyên bố trao lại quyền độc lập cho Đế quốc Việt Nam. Song song với quá trình thành lập chính phủ, Hoàng đế Bảo Đại cũng cho phân vùng lãnh thổ Việt Nam thành 3 khu vực hành chính, và đặt các chức quan Khâm sai thay mặt nhà vua để cai quản từng vùng. Nam Bộ là khu vực tương ứng với Nam Kỳ cũ.
Tên gọi Nam Bộ được sử dụng lâu dài cho đến ngày nay.
Tên gọi Nam Phần ra đời vào khoảng năm 1947, sau khi chính phủ Nam Kỳ quốc giai đoạn đầu giải tán, và chính phủ Nam phần Việt Nam được thành lập. Sau đó chính phủ Pháp và cựu hoàng Bảo Đại ký thỏa ước thành lập Quốc gia Việt Nam, theo đó lãnh thổ Việt Nam được phân thành 3 đơn vị hành chính cấp Phần, là một cấp cao hơn tỉnh, đứng đầu là một Thủ hiến do Quốc trưởng chỉ định. Vùng lãnh thổ Nam Phần tương ứng với vùng lãnh thổ của Nam Bộ vào năm 1945. |
Màu chàm (indigo) là màu của ánh sáng trong khoảng 440 đến 420 nm, nằm giữa màu xanh lam và màu tím. Giống như màu da cam, tên gọi của nó có xuất xứ từ tự nhiên, do màu này rất gần với màu của chất tanin lấy từ lá hay vỏ cây chàm dùng để nhuộm quần áo. Nó không phải là màu gốc bổ sung hay loại trừ nhưng trong các sách vật lý vẫn liệt kê nó như màu gốc. Lý do cơ bản là khi Newton chia quang phổ ra làm bảy phần để cho phù hợp với con số bảy hành tinh (khi đó chỉ biết có vậy), bảy ngày trong tuần và bảy nốt nhạc cũng như một số các danh sách khác chỉ có bảy phần tử thì ông đã đặt tên và định nghĩa nó như màu gốc. Mắt con người không nhạy cảm lắm với ánh sáng màu chàm. Một số người không thể phân biệt nó với màu xanh lam hay màu tím.
Số Hex = #15167209
RGB (r, g, b) = (75, 0, 130)
CMYK (c, m, y, k) = (42, 100, 0, 49)
HSV (h, s, v) = (275, 100, 51) |
Chàm (eczema) là tình trạng viêm da sẩn mụn nước do phản ứng với các tác nhân nội và ngoại sinh.
Bệnh Eczema, lấy từ gốc tiếng Hy Lạp: Eczeo – chỉ những tổn thương là mụn nước, bệnh được biết từ thế kỷ thứ 2 trước công nguyên với sự hiểu biết là do rối loạn một số yếu tố ở ngay trong cơ thể. Dân gian thường gọi là chàm tổ đỉa, vì tổn thương tái diễn lâu ngày da sần sủi kèm theo các lỗ hút sâu rỉ nước vàng như mồm con đỉa.
Eczema là một trạng thái viêm lớp nông của da cấp tính hay mạn tính, tiến triển từng đợt hay tái phát, lâm sàng biểu hiện bằng đám mảng đỏ da, mụn nước và ngứa. Nguyên nhân gây bệnh rất phức tạp, do: nội giới, ngoại giới nhưng bao giờ cũng có vai trò thể địa dị ứng. Về mô học có hiện tượng xốp bào (Spongiosis). Eczema là bệnh ngoài da phổ biến, là bệnh da ngứa điển hình, mạn tính hay tái phát, điều trị còn khó khăn
Triệu chứng và diễn biến của bệnh.
Bệnh là hiện tượng viêm bì, thượng bì, nguyên nhân rất phức tạp, thường phát sinh do một quá trình phản ứng của da trên một cơ địa đặc biệt dễ phản úng với dị nguyên ở trong cơ thể (hoặc một số rất ít) ở ngoài cơ thể, với biểu hiện tổn thương trên da là những mảng hồng ban, mụn nước thành đám, tái đi tái lại nhiều lần và rất ngứa.
Bệnh tiến triển qua các giai đoạn: Hồng ban, mụn nước, chảy nước, đóng vảy tiết, bong vảy và Lichen hóa.
Thường bị bỏ qua, bệnh nhân thường bỏ qua không đi khám bệnh, các thầy thuốc cũng thường bỏ qua vì nhiều khi dấu hiệu này biến mất không để lại dấu hiệu bệnh lý của bệnh ngoài da, hoặc đây chỉ là dấu hiệu ban đầu của một bệnh ngoài da khác
Đây là đặc trưng cơ bản của bệnh, mụn nước thường tập trung thành từng đám, kích thước to 1 – 2 mm, tương đối đồng đều, phát triển đùn từ dưới lên hết lớp này đển lớp khác, mụn nước tự vỡ (hoặc do gãi) làm chảy nước dịch nhày. Nếu có bội nhiễm thì tổn thương sưng phù nhiều dịch tiết hoặc có mủ
Bong da và lên da non: Dịch nhày và huyết tương đóng khô lại kèm theo hiện tượng da chết thành mảng bong ra để lại bện dưới là lớp da non nhẵn bóng như vỏ hành hơi sẫm màu nền da hơi chai cộm
Eczema tiến triển lâu ngày, da càng ngày càng sẫm màu, tăng nhiễm cộm, bề mặt xù xì thô ráp, sờ nền cứng cộm, các hằn da nổi rõ, ở giữa các hằn da có các sẩn dẹt như trong bệnh lichen, quá trình này gọi là liken hoá.
Bệnh diễn biến đan xen từng đợt, có thể có chu kỳ phát nặng (hoặc tạm lui) theo mùa. Các giai đoạn của bệnh thường xen kẽ lồng vào nhau, ngứa là triệu chứng xuyên suốt, xuất hiện sớm nhất và tồn tại dai dẳng
Các thể lâm sàng.
Eczema tiếp xúc (Contact eczema, contact dermatitis).
Xuất hiện đầu tiên ở vùng tiếp xúc, thường là vùng hở, có khi in rõ hình vật tiếp xúc (hình quai dép, dây đồng hồ, kính đeo mắ) Tổn thương cơ bản là da đỏ xung huyết, hơi nề, trên bề mặt có mụn nước, có thể có hình thái mãn tính khô dày cộm có vảy. Dừng tiếp xúc với dị vật bệnh thuyên giảm, tiếp xúc lại bệnh vượng lên. Làm phản ứng da với chất tiếp xúc cho kết quả dương tính
Eczema thể địa (Atopic dermatitis).
Đây là thể lâm sàng thường gặp nhất, liên quan nhiều đến yếu tố tự miễn, theo lứa tuổi lại có biểu hiện lâm sàng khác nhau:
Eczema thể địa ở tuổi nhũ nhi và sơ sinh: Bệnh thường ở mặt trán, hai bên cân đối nhau tạo nên tổn thương hình móng ngựa, hình cánh bướn (Bệnh chàm cánh bướm). Tổn thương thường là dát đỏ có nhiều mụn nước trên bề mặt, trợt, chảy dịch, có mủ hoặc đóng vảy tiết.
Eczema thể địa ở người lớn: Tổn thương cơ bản là những đám mảng mụn nước, tiết dịch hoặc đóng vảy tiết hoặc lichen hoá, vị trí ở bất cứ chỗ nào trên cơ thể, tính đối xứng hai bên ít hơn (thường là bị cả hai bên cơ thể, nhưng có nhiều trường hợp tổn thương chỉ khu trú rõ rệt ở một bên còn vị trí tương ứng ở bên kia hoàn toàn bình thường). Các tổn thương thường ở các nếp gấp lớn, bàn tay, bàn châ
Eczema thể đồng tiền (Nummular Eczema).
Các đám tổn thương hình tròn hoặc ovan, ban đầu là đám đỏ tiết dịch, có mụn nước, sẩn, tiết dịch, vảy tiết, vảy da, lichen hoá có giới hạn rõ ràng, thường khu trú rõ ràng ở mặt duỗi của chi (mặt trước cẳng chân, tay, mu bàn chân bàn , có ý kiến lại cho rằng eczema đồng tiền là một phân thể của eczema thể địa
Eczema da dầu (Seborrheic dermatitis).
Vị trí thường gặp nhất là đầu, ở mặt thường bị ở lông mày, quanh mắt, giữa mũi, nếp mũi má,sau tai. Tổn thương là đám mảng đỏ trên có vảy, vảy mỡ, đôi khi có sẩn trên bề mặt, giới hạn tương đổi rõ, khô. Vi thể có hiện tượng xốp bào.
Nguyên nhân và cơ chế bệnh sinh.
Nguyên nhân phức tạp nhiều khi khó hoặc không phát hiện được. Có thể do:
Nguyên nhân ngoại giới.
Các yếu tố vật lý,hoá học, thực vật, sinh vật học đụng chạm vào da gây cảm ứng thành viêm da, eczema (các chất này gọi là di nguyên). Ví dụ: ánh sáng, thuốc bôi, tiêm uống, các hoá chất dùng trong công nghiệp, trong gia đình (cao su, kền, crôm, xi măng, sơ) Một số bệnh ngoài da gây ngứa (nấm, ghẻ...) do chà xát, bôi thuốc linh
Nguyên nhân nội giới.
Rối loạn chức phận nội tạng, rối loạn thần kinh, rối loạn nội tiết có thể là nguyên nhân trực tiếp hay gián tiếp gây bệnh Eczema
Phản ứng dị ứng.
Dù nguyên nhân nội giới hay ngoại giới, cũng đều có liên quan đến phản ứng đặc biệt của cơ thể dẫn đến phản ứng dị ứng, bệnh nhân có thể địa dị ứng. Theo Halpem và Coombs: Phản ứng Eczema được xếp vào kiểu mẫn cảm tế bào trì hoãn trong đó có vai trò của tế bào lympho mang ký ức kháng nguyên.
Dân gian chữa Eczema.
Thường dùng vỏ cây Hoàng bá (núc nác), giã nát đắp lên vùng da tổn thương, trong bộ đội thời đánh Mỹ cũng lưu truyền bài thuốc chữa ngoài da có tác dụng chữa các bệnh ngoài da và được một số cơ sở điều trị quân y đã áp dụng và phát triển
Đông y chữa Eczema.
Do phong phối hợp với nhiệt và thấp lúc đầu thấy hơi đỏ và ngứa và sau một thời gian ngắn nổi cục, mụn nước, chảy nước, đóng vẩy, bong vẩy và khỏi.
Các bài thuốc Đông y chữa Eczema, chia thành 2 thể:
Triệu chứng: Da hồng, đỏ ngứa,có mụn nước, loét, chảy nước vàng, mùa hanh khô, chảy máu tươi, để lâu ngày có thể gây viêm họng
Pháp trị: thanh nhiệt táo thấp Bài thuốc trị Chàm thấp nhiệt: Hoàng cầm: 12; Hoàng bá: 12; bạch tiễn bì: 12; Linh bì: 12; Hoạt thạch: 12; Khổ sâm: 12; Sinh địa: 20 Ngân hoa: 20; Thổ phục linh: 20; N hoàng bá: 12; Hoàng đằng: 8;
Triệu chứng: da hơi đỏ có mụn nước phát toàn thân, ngứa gãi chảy nước, ít loét
Pháp trị: Sơ phong thanh nhiệt, trừ thấp
Bài thuốc trị chàm phong nhiệt: Long đởm tả can thang gia giảm
Hoàng cầm: 8; Chi tử: 12; Qui đầu: 8; Sài hồ: 8; mộc thông: 8; Cam thảo: 2; sinh địa: 8; Trạch tả: 12; Sa tiền: 8; Thuyền thoái:6 Kinh giới: 12; X truật: 8; Ngưu bàng: 12; Khổ sâm: 12; N hoàng bá: 8; long đởm thảo: 8
Thuốc ngâm: Dùng Tô mộc, Kinh giới, H đằng sắc đặc ngâm chỗ tổn thương khi nước còn nóng. Hoặc hàng ngày tắm bằng nước lá tre
Tuỳ vị trí cơ thể, chọn huyệt tại chỗ và lân cận. Chân: Tam âm giao, Dương lăng tuyề: Trừ phong: Hợp cốc Trừ thấp: Túc tam lý Hoạt huyết: Huyết hải
Do phong và huyết táo gây ra: da dày khô, ngứa, nổi cục, có mụn nước, hay gặp ở đầu,mặt, cổ chân, cổ tay, khuỷu tay, đầu gối, pháp trị: khu phong dưỡng huyết nhuận táo chàm mãn tính
Bài thuốc: Qui đầu: 12; Thục địa: 20; Bạch thược: 12; xuyên khung: 8; Kinh giới: 16; X truật: 12; Khổ sâm: 8; Thuyền thoái: 6; Phòng phong: 12 Tiễn bì: 10; Tật lê: 8; Địa phụ tử: 8; Hoàng bá: 8; Hy thiêm: 12;
Thuốc dùng ngoài: Thuốc ngâm: Kinh giới, Hy thiêm đều 50g. nấu nước ngâm rửa làm mềm chỗ da bị xơ cứng và giảm ngứa nhanh
Tây y chữa Eczema.
Phác đồ điều trị được chia thành 3 thể. |
Yersinia pestis ("Y. pestis") (trước đây là "Pasteurella pestis") là một loài vi khuẩn coccobacillus gram âm, không có tính di động, hình que thuộc họ Enterobacteriaceae. Nó là tác nhân gây bệnh của dịch hạch — căn bệnh đã gây nhiều trận dịch kinh hoàng với tỉ lệ tử vong rất cao trong lịch sử nhân loại (nếu không được điều trị, tử vong ở thể hạch là 75%, và ở thể phổi là gần 100%) như ở trận Đại dịch hạch (1665 ở Anh với 60.000 người chết) và Cái chết đen (giữa thế kỉ 14, giết chết 1/3 dân số châu Âu). Có 3 dạng bệnh dịch hạch chính là dịch hạch thể hạch, dịch hạch thể phổi và dịch hạch thể máu.
Giống "Yersinia" là các coccobacillus nhuộm Gram âm và lưỡng cực (hình quả tạ). Cũng như các "Enterobacteriaceae" khác, nó có khả năng lên men đường. "Yersinia pestis" có khả năng tiết ra chất nhờn chống thực bào. Vi khuẩn trở nên di động trong môi trường phân lập, nhưng bất động khi ở trong vật chủ (động vật có vú).
"Y. pestis" được khám phá vào năm 1894 do công của bác sĩ và nhà vi khuẩn học người Pháp Alexandre Yersin trong trận dịch của bệnh dịch hạch tại Hồng Kông. Yersin là thành viên của "trường phái Pasteur". Shibasaburo Kitasato, một nhà vi khuẩn học người Nhật được huấn luyện tại Đức, thuộc "trường phái Koch" đối thủ, lúc bấy giờ cũng tham gia tìm tác nhân gây bệnh của dịch hạch. Tuy nhiên chính Yersin là người đã liên kết bệnh dịch hạch với "Yersinia pestis". Vi khuẩn này lúc đầu được gọi là "Pasteurella pestis", và sau đó được đặt lại tên theo tên của Yersin.
Tính sinh bệnh và miễn dịch.
Tính sinh bệnh là do hai kháng nguyên kháng thực bào F1 và VW; cả hai đều cần thiết cho độc tính của vi khuẩn. Chúng được vi khuẩn sản xuất ra ở 37 °C, điều này giải thích tại sao một số côn trùng như bọ chét chỉ mang khuẩn không độc tính. Hơn nữa, "Y. pestis" sống sót và sản xuất các kháng nguyên F1 và VW bên trong các tế bào máu như bạch cầu đơn nhân mà không trong bạch cầu đa nhân trung tính. Miễn dịch tự nhiên hay cảm ứng có được là do cơ thể sản xuất kháng thể opsonin đặc hiệu chống lại các kháng nguyên F1 và VW. Chúng kích thích hiện tượng thực bào ở bạch cầu trung tính.
Hiện nay có vắcxin bất hoạt formalin cho người lớn ở mức nguy cơ cao, nhưng nó không hiệu quả lắm và có thể gây phản ứng viêm trầm trọng. Các thí nghiệm với kĩ thuật di truyền sản xuất vắcxin dựa trên các kháng nguyên F1 và VW đang được tiến hành và tỏ ra có nhiều triển vọng.
"Y. pestis" nhạy cảm cao đối với vài loại kháng sinh, chủ yếu là streptomycin và chloramphenicol. |
Viêm da là tình trạng viêm nhiễm nông ở da, đặc trưng mô học là phù thượng bì và lâm sàng là mụn nước (khi cấp tính), hồng ban bờ kém, phù, xuất tiết, đóng sừng, tróc vảy, thường kèm đau, và lichen hoá do gãi hay chà.
Hiện vẫn còn bất đồng về tên gọi "viêm da" và "eczema". Thông thường eczema dùng để chỉ viêm da mụn nước, nhưng một số người lại giới hạn eczema vào viêm da mạn tính. Một số cũng dùng từ viêm da để chỉ viêm da xốp do có đặc điểm mô học là hiện tượng xốp hoá (phù nội thượng bì).
Bệnh viêm da dị ứng.
Viêm da dị ứng là viêm da do tiếp xúc với chất gây kích ứng như: hóa chất, bụi ô nhiễm,xi măng gây bệnh đặc thù là dị ứng xi măng |
Kỹ thuật di truyền
Kỹ thuật di truyền hay kỹ thuật gen là thao tác thay đổi gen bằng công nghệ sinh học. Nó bao gồm các phương pháp kỹ thuật dùng để thay đổi nhân tố di truyền của các tế bào, bao gồm sự dịch chuyển gen cùng loài và khác loài để tạo ra những sinh vật mới hoặc hoàn hảo hơn. Những DNA mới được tạo ra bằng cách cách ly và sao chép lại nhân tố di truyền mong muốn qua phương pháp DNA tái tổ hợp hoặc bằng phương pháp chế tạo gen nhân tạo. Một vector thường được tạo ra để truyền DNA mới vào vật chủ. Phân tử DNA tái tổ hợp đầu tiên được tạo ra bởi Paul Berg vào năm 1972 bằng cách kết hợp DNA của virus khỉ SV40 với virus lambda. Và phương pháp thêm gen vào bộ gen của vật chủ còn có thể dùng để loại bỏ gen. Mẫu DNA có thể được thêm vào bộ gen một cách ngẫu nhiên hoặc vào một vị trí chính xác trong bộ gen.
Sinh vật được tạo ra bằng kỹ thuật di truyền được gọi là sinh vật biến đổi gen (tiếng Anh "GMO"). GMO đầu tiên là vi khuẩn được tạo ra bởi Herbert Boyer và Stanley Cohen vào năm 1973. Rudolf Jaenisch tạo ra động vật biến đổi gen đầu tiên khi ông ta thêm DNA lạ vào một chuột biến đổi gen vào năm 1974. Công ty đầu tiên trong ngành kỹ thuật di truyền là Genentech. Nó được thành lập vào năm 1976 và bắt đầu sản xuất protein người. Insulin đã thay đổi gen được sản xuất vào năm 1978, và vi khuẩn có khả năng tự tạo ra insulin đó được thương mại hóa vào năm 1982. Thực phẩm biến đổi gen được bán từ năm 1994 với sự ra đời của cà chua Flavr Savr. Cà chua Flavr Savr được cải tạo để tồn trữ được lâu hơn, nhưng đa số những cây trồng bây giờ được biến đổi gen để tăng sự chống chịu với sâu bọ và thuốc trừ sâu. GloFish là GMO đầu tiên tạo ra để làm thú nuôi. Nó bắt đầu được thương mại hóa ở Hoa Kỳ vào tháng 12 năm 2003. Vào năm 2016, cá salmon được biến đổi gen nội tiết tố để kích thích tăng trưởng được bán ra thị trường.
Kỹ thuật di truyền đã được áp dụng trong nhiều lĩnh vực khác nhau bao gồm nghiên cứu, y học, công nghệ sinh học, và nông nghiệp. Trong nghiên cứu, GMO được dùng để nghiên cứu về chức năng và biểu hiện gen qua các phương pháp như làm mất chức năng, tạo ra chức năng mới, theo dõi và thí nghiệm biểu hiện gen. Bằng cách loại bỏ một số gen với chức năng đã được biết đến, chúng ta có thể tạo ra sinh vật mô hình động vật để nghiên cứu bệnh người. Ngoài việc có thể tạo ra nội tiết tố, vắc-xin, và các dược phẩm khác, kỹ thuật di truyền còn có tiềm năng chữa bệnh qua phương pháp điều trị gen. Những kỹ thuật dùng để tạo ra dược phẩm còn có các ứng dụng công nghiệp khác như sản xuất enzyme để làm thuốc tẩy, phô mai, và các sản phẩm khác.
Sự phát triển thương mại hóa của cây trồng biến đổi gen đã mang lại nhiều lợi ích kinh tế cho nông dân ở nhiều quốc gia khác nhau, nhưng nó còn gây ra nhiều cuộc tranh cãi về cây trồng biến đổi gen. Những tranh cãi này đã xuất hiện ngay từ thời kỳ đầu; những cuộc thử nghiệm biến đổi gen đầu tiên đã bị phá hủy bởi những người chống lại kỹ thuật biến đổi gen. Tuy giới khoa học đa số đã đồng thuận rằng những thức ăn được chế biến từ cây trồng biến đổi gen không có hại với sức khỏe hơn thức ăn tự nhiên, một số người vẫn lo ngại đến sự an toàn thực phẩm của thức ăn biến đổi gen. Trao đổi gene, mức độ ảnh hưởng tới những sinh vật khác, cách vận hành cung cấp thực phẩm, và sở hữu trí tuệ là những vấn đề đang trong vòng tranh cãi. Những lo ngại này đã dẫn tới sự thành lập một khuôn khổ quy định từ năm 1975. Điều này dẫn tới hiệp ước quốc tế, Cartagena Protocol on Biosafety, được ký kết năm 2000. Những quốc gia đã đưa ra những hệ thống quy định riêng về GMO với sự khác biệt lớn giữa Hoa Kỳ và Châu Âu.
Kỹ thuật di truyền: là quá trình thêm thông tin di truyền mới vào tế bào hiện hữu để sửa đổi một sinh vật cụ thể nhằm mục đích thay đổi đặc điểm của sinh vật đó.
"Lưu ý": định nghĩa từ chú thích.
Kỹ thuật di truyền là một tiến trình thay đổi cấu trúc nhân tố di truyền bằng cách loại bỏ hoặc cấy DNA. Khác với chăn nuôi và nhân giống cây trồng truyền thống, bao gồm phải lai giống nhiều lần và sau đó chọn sinh vật có những kiểu hình mong muốn, kỹ thuật di truyền chỉ cần lấy gen từ một sinh vật này và cấy gen đó vào một sinh vật khác. Kỹ thuật này hiệu quả hơn nhiều so với cách truyền thống. Với kỹ thuật này, ta có thể cấy bất kỳ gen nào từ một sinh vật bất kỳ (ngay cả những sinh vật từ những vực khác nhau) và có thể phòng ngừa sự di chuyển của những gen không mong muốn.
Kỹ thuật di truyền có khả năng chữa lành các bệnh di truyền bằng cách hoán đổi gen bị lỗi với một gen còn hoạt động. Đây là một công cụ quan trọng trong nghiên cứu cho phép nghiên cứu chức năng của các gen cụ thể. Thuốc, vắc-xin, và các sản phẩm khác được tạo ra từ những sinh vật đã được biến đổi gen. Để bảo đảm an ninh lương thực, cây trồng được biến đổi gen để tăng năng suất, dinh dưỡng, và sức chịu đựng trong môi trường khắc nghiệt.
DNA có thể được cấy thẳng vào một sinh vật nào đó hoặc cấy vào tế bào, sau đó nó có thể kết hợp với các tế bào khác hoặc lai giống với sinh vật chủ. Điều này dựa trên kỹ thuật DNA tái tổ hợp để tạo ra các tổ hợp gen di truyền mới. Tiếp theo, chúng được cấy vào một sinh vật khác gián tiếp bằng hệ thống vector hoặc trực tiếp bằng kỹ thuật tiêm vi mô hoặc bọc chất vi mô.
Kỹ thuận di truyền thường không bao gồm các loại phối giống truyền thống ví dụ như thụ tinh trong ống nghiệm, thể đa bội cảm ứng, quá trình đột biến sinh học và kỹ thuật tổng hợp tế bào mà không dùng tới tổ hợp gen di truyền hoặc sinh vật biến đổi gen. Tuy nhiên, một số định nghĩa bao quát hơn của công nghệ sinh học bao gồm cả chọn giống vật nuôi. Kỹ thuật di truyền không bao gồm nghiên cứu về nhân bản vô tính và tế bào gốc. Tuy nhiên, các ngành này có liên quan tới nhau và đều sử dụng kỹ thuật di truyền. Sinh học tổng hợp là một ngành mới nổi đã giúp phát triển kỹ thuật di truyền bằng cách đưa DNA nhân tạo tổng hợp vào một sinh vật.
Những thực vật, động vật, hoặc vi sinh vật được thay đổi gen qua kỹ thuật di truyền được gọi là sinh vật biến đổi gen hoặc GMOs. Nếu như DNA từ một loài khác được đưa vào vật chủ thì sinh vật đó sẽ được gọi là sinh vật chuyển gen. Còn DNA từ chung loài được đưa vật chủ thì được gọi là sinh vật hợp gen. Khi dùng kỹ thuật di truyền để xóa bỏ DNA từ một sinh vật thì sinh vật đó được gọi là sinh vật bị loại gen. Ở Châu âu, sửa đổi di truyền đồng nghĩa với kỹ thuật di truyền trong khi ở Hoa Kỳ và Canada thì sửa đổi di truyền còn có hàm ý bao gồm các cách nhân giống thông thường. |
Google LLC (#đổi ) là một công ty công nghệ đa quốc gia của Mỹ, chuyên về các dịch vụ và sản phẩm liên quan đến Internet, bao gồm các công nghệ quảng cáo trực tuyến, công cụ tìm kiếm, điện toán đám mây, phần mềm và phần cứng. Đây được coi là một trong những công ty công nghệ Big Four, cùng với Amazon, Apple và Facebook.
Google được thành lập vào năm 1998 bởi Larry Page và Sergey Brin trong khi họ là nghiên cứu sinh đã có bằng tiến sĩ tại Đại học Stanford ở California. Họ cùng nhau sở hữu khoảng 14% cổ phần và kiểm soát 56% quyền biểu quyết của cổ đông thông qua cổ phiếu ưu đãi. Họ đã hợp nhất Google thành một công ty tư nhân vào ngày 4 tháng 9 năm 1998. Một đợt chào bán công khai lần đầu (IPO) diễn ra vào ngày 19 tháng 8 năm 2004 và Google chuyển đến trụ sở chính tại Mountain View, California với tên Googleplex. Vào tháng 8 năm 2015, Google đã công bố kế hoạch tổ chức lại công ty với tư cách là một tập đoàn có tên là Alphabet Inc. Google là công ty con hàng đầu của Alphabet và sẽ tiếp tục là công ty ô dù vì lợi ích Internet của Alphabet. Sundar Pichai được bổ nhiệm làm CEO của Google, thay thế Larry Page trở thành CEO của Alphabet.
Sự phát triển nhanh chóng của công ty kể từ khi thành lập đã kích hoạt một chuỗi các sản phẩm, mua lại để sáp nhập và hợp tác ngoài công cụ tìm kiếm cốt lõi của Google (Google Tìm kiếm). Nó cung cấp các dịch vụ được thiết kế cho công việc và năng suất (Google Docs, Google Sheets và Google Slides), email (Gmail/Inbox), lập lịch và quản lý thời gian (Lịch Google), lưu trữ đám mây (Google Drive), mạng xã hội (Google+), nhắn tin và trò chuyện video trực tiếp (Google Allo, Duo, Hangouts), dịch ngôn ngữ (Google Dịch), lập bản đồ và điều hướng (Google Maps, Waze, Google Earth, Chế độ xem phố), chia sẻ video (YouTube), ghi chú (Google Keep) và tổ chức và chỉnh sửa ảnh (Google Ảnh). Công ty dẫn đầu sự phát triển của hệ điều hành di động Android, trình duyệt web Google Chrome và Chrome OS, một hệ điều hành nhẹ dựa trên trình duyệt Chrome. Google đã ngày càng chuyển sang phần cứng; từ năm 2010 đến 2015, nó hợp tác với các nhà sản xuất điện tử lớn trong việc sản xuất các thiết bị Nexus của mình và đã phát hành nhiều sản phẩm phần cứng vào tháng 10 năm 2016, bao gồm điện thoại thông minh Google Pixel, loa thông minh Google Home, bộ định tuyến không dây Google Wifi và Daydream-tai nghe thực tế ảo. Google cũng đã thử nghiệm trở thành nhà cung cấp dịch vụ Internet (Google Fiber, Project Fi và Google Station).
Google và YouTube là hai trang web được truy cập nhiều nhất trên thế giới, tiếp theo là Facebook và Google X cũng là công cụ tìm kiếm, ứng dụng bản đồ và định vị, nhà cung cấp email, bộ ứng dụng văn phòng, nền tảng chia sẻ video, nhà cung cấp bộ nhớ đám mây và ảnh, hệ điều hành di động, trình duyệt web, ML framework và nhà cung cấp trợ lý ảo AI lớn nhất thế giới khi đo lường theo thị phần. Trên danh sách các thương hiệu có giá trị nhất, Google được Forbes xếp hạng thứ hai và Interbrand xếp hạng thứ tư.
Google bắt đầu vào tháng 1 năm 1996 như một dự án nghiên cứu của Larry Page và Sergey Brin khi họ đều là những nghiên cứu sinh tiến sĩ tại Đại học Stanford ở California. Dự án ban đầu có sự tham gia của một "người đồng sáng lập thứ ba" không chính thức, Scott Hassan, là lập trình viên chính ban đầu đã viết phần lớn mã cho công cụ tìm kiếm Google Search ban đầu, nhưng ông đã rời đi trước khi Google được thành lập chính thức như một công ty; Hassan tiếp tục theo đuổi sự nghiệp robot và thành lập công ty Willow Garage vào năm 2006.
Trong khi các công cụ tìm kiếm thông thường xếp hạng kết quả bằng cách đếm số lần các cụm từ tìm kiếm xuất hiện trên trang, họ đã đưa ra giả thuyết về một hệ thống tốt hơn có thể phân tích mối quan hệ giữa các trang web. Họ gọi thuật toán này là PageRank; nó xác định mức độ liên quan của một trang web bằng số lượng trang và tầm quan trọng của các trang đó liên kết ngược với trang web ban đầu. Page đã nói về ý tưởng của mình với Hassan, người bắt đầu viết mã để thực hiện ý tưởng của Page.
Ban đầu Larry Page và Sergey Brin đặt biệt hiệu cho công cụ tìm kiếm mới là "BackRub", bởi vì hệ thống kiểm tra các liên kết ngược để ước tính tầm quan trọng của một trang web. Scott Hassan và Alan Steremberg được Page và Brin trích dẫn là những người đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển Google. Rajeev Motwani và Terry Winograd sau đó đã đồng tác giả với Page và Brin trong bài báo đầu tiên về dự án, mô tả PageRank và nguyên mẫu ban đầu của công cụ tìm kiếm Google, được xuất bản vào năm 1998. Héctor García-Molina và Jeff Ullman cũng được trích dẫn là những người đóng góp cho dự án. PageRank chịu ảnh hưởng của một thuật toán xếp hạng trang và xếp hạng trang tương tự trước đây được sử dụng cho RankDex, được phát triển bởi Robin Li vào năm 1996, với bằng sáng chế PageRank của Larry Page bao gồm trích dẫn bằng sáng chế RankDex trước đó của Li; Li sau đó tiếp tục tạo ra công cụ tìm kiếm Baidu của Trung Quốc.
Cuối cùng, họ đã đổi tên thành Google; tên của công cụ tìm kiếm là một lỗi đánh máy của từ "googol", một số rất lớn được viết là 10100được chọn để biểu thị rằng công cụ tìm kiếm được dự định cung cấp một lượng lớn thông tin.
Google ban đầu được tài trợ bởi khoản đầu tư 100.000 đô la vào tháng 8 năm 1998 từ Andy Bechtolsheim, đồng sáng lập Sun Microsystems. Khoản đầu tư ban đầu này đã trở thành động lực để thành lập công ty để có thể sử dụng số tiền đó. PPage và Brin ban đầu đã tiếp cận David Cheriton để xin lời khuyên vì ông có một văn phòng gần đó ở Stanford, và họ biết ông có kinh nghiệm khởi nghiệp, gần đây đã bán công ty ông đồng sáng lập, Granite Systems, cho Cisco với giá 220 triệu USD. David đã sắp xếp một cuộc gặp mặt giữa Page và Brin và đồng sáng lập Granite của ông là Andy Bechtolsheim. Cuộc họp được ấn định lúc 8 giờ sáng tại hiên nhà trước nhà của David ở Palo Alto và phải ngắn gọn vì Andy có cuộc họp khác tại Cisco, nơi ông hiện làm việc sau khi mua lại, lúc 9 giờ sáng. Andy đã nhanh chóng thử nghiệm bản demo của trang web, thích những gì ông thấy và sau đó quay lại xe của mình để lấy tấm séc. David Cheriton sau đó cũng tham gia với khoản đầu tư 250.000 USD.
Google đã nhận được tiền từ hai nhà đầu tư thiên thần khác vào năm 1998: Jeff Bezos, người sáng lập A, và Ram Shriram, một doanh nhân. Page và Brin lần đầu tiên tiếp cận Shriram, một nhà đầu tư mạo hiểm, để xin tài trợ và tư vấn, và Shriram đã đầu tư 250.000 USD vào Google vào tháng 2 năm 1998. Shriram biết Bezos vì Amazon đã mua lại Junglee, nơi Shriram là chủ tịch. Chính Shriram là người giới thiệu Google cho Bezos. Bezos đã yêu cầu Shriram sắp xếp một cuộc gặp mặt với những người sáng lập Google và họ đã gặp nhau sáu tháng sau khi Shriram đầu tư vào Google, khi Bezos và vợ đang trong chuyến du lịch đến Bay Area. Vòng gọi vốn ban đầu của Google đã chính thức đóng lại, nhưng vị thế CEO của Amazon của Bezos đã đủ để thuyết phục Page và Brin mở rộng vòng gọi vốn và chấp nhận khoản đầu tư của ông.
Với sự tài trợ từ những nhà đầu tư ban đầu, bạn bè và gia đình, Google đã huy động được khoảng 1 triệu đô la Mỹ, cho phép họ mở văn phòng đầu tiên ở Menlo Park, California. Craig Silverstein, một nghiên cứu sinh tiến sĩ khác tại Stanford, được thuê làm nhân viên đầu tiên. Sau một số khoản đầu tư nhỏ bổ sung vào cuối năm 1998 và đầu năm 1999, một vòng gọi vốn mới trị giá 25 triệu đô la Mỹ đã được công bố vào ngày 7 tháng 6 năm 1999, với các nhà đầu tư lớn bao gồm các công ty đầu tư mạo hiểm Kleiner Perkins và Sequoia Capital. Ban đầu, cả hai công ty đều do dự về việc đầu tư chung vào Google, vì mỗi công ty đều muốn nắm giữ tỷ lệ kiểm soát lớn hơn đối với công ty. Tuy nhiên, Larry và Sergey đã khăng khăng nhận đầu tư từ cả hai. Cuối cùng, cả hai công ty đầu tư đều đồng ý đầu tư chung 12,5 triệu đô la Mỹ mỗi công ty do họ tin vào tiềm năng lớn của Google và nhờ sự trung gian của các nhà đầu tư thiên thần trước đó là Ron Conway và Ram Shriram, những người có mối quan hệ với các công ty đầu tư.
Vào tháng 3 năm 1999, công ty chuyển văn phòng đến Palo Alto, California, nơi có trụ sở của một số công ty khởi nghiệp công nghệ nổi bật ở Silicon Valley. Năm sau, Google bắt đầu bán quảng cáo liên quan đến các từ khóa tìm kiếm, trái ngược với quan điểm ban đầu của Page và Brin về một công cụ tìm kiếm được tài trợ bởi quảng cáo. Để duy trì thiết kế trang gọn gàng, quảng cáo chỉ dựa trên văn bản. Vào tháng 6 năm 2000, Google được thông báo sẽ trở thành nhà cung cấp công cụ tìm kiếm mặc định cho Yahoo!, một trong những trang web phổ biến nhất thời bấy giờ, thay thế Inktomi.
Năm 2003, sau khi đã phát triển vượt quá hai địa điểm khác, Google đã thuê lại một khu phức hợp văn phòng từ Silicon Graphics tại 1600 Amphitheatre Parkway ở Mountain View, California. Khu phức hợp này được biết đến với cái tên Googleplex, một từ ghép của từ googolplex, con số một theo sau bởi một googol số không. Ba năm sau, Google đã mua lại tài sản này từ SGI với giá 319 triệu USD. Đến thời điểm đó, tên "Google" đã trở thành một phần của ngôn ngữ hàng ngày, khiến động từ "google" được thêm vào Từ điển Merriam-Webster Collegiate và Từ điển Oxford English, với nghĩa là: "sử dụng công cụ tìm kiếm Google để tìm kiếm thông tin trên Internet". Lần đầu tiên động từ này được sử dụng trên truyền hình là trong tập phim Buffy the Vampire Slayer vào tháng 10 năm 2002.
Ngoài ra, vào năm 2001, các nhà đầu tư của Google cảm thấy cần có một bộ máy quản lý nội bộ mạnh mẽ và họ đã đồng ý thuê Eric Schmidt làm chủ tịch kiêm CEO của Google. Eric được đề xuất bởi John Doerr từ Kleiner Perkins. Ông đã cố gắng tìm kiếm một CEO mà Sergey và Larry sẽ chấp nhận trong vài tháng, nhưng họ đã từ chối một số ứng viên vì họ muốn giữ quyền kiểm soát công ty. Michael Moritz từ Sequoia Capital thậm chí còn đe dọa yêu cầu Google ngay lập tức trả lại khoản đầu tư 12,5 triệu đô la Mỹ của Sequoia nếu họ không thực hiện lời hứa thuê một giám đốc điều hành, điều đã được thực hiện bằng miệng trong các cuộc đàm phán đầu tư. Eric ban đầu cũng không hào hứng tham gia Google, vì tiềm năng đầy đủ của công ty vẫn chưa được công nhận rộng rãi vào thời điểm đó và vì ông đang bận rộn với trách nhiệm của mình tại Novell, nơi ông là CEO. Khi tham gia, Eric đã đồng ý mua 1 triệu đô la cổ phiếu ưu đãi của Google như một cách thể hiện sự cam kết của mình và cung cấp nguồn vốn mà Google cần.
Đợt chào bán công khai ban đầu (IPO).
Vào ngày 19 tháng 8 năm 2004, Google đã trở thành một công ty đại chúng thông qua đợt Phát hành công khai lần đầu (IPO). Tại thời điểm đó, Larry Page, Sergey Brin và Eric Schmidt đã đồng ý làm việc cùng nhau tại Google trong 20 năm, cho đến năm 2024. Công ty đã chào bán 19.605.052 cổ phiếu với giá 85 USD/cổ phiếu. Cổ phiếu được bán theo định dạng đấu giá trực tuyến sử dụng hệ thống được xây dựng bởi Morgan Stanley và Credit Suisse, các nhà bảo lãnh cho thương vụ này. Việc bán được 1,67 tỷ USD đã mang lại cho Google giá trị vốn hóa thị trường hơn 23 tỷ USD.
Vào ngày 13 tháng 11 năm 2006, Google đã mua lại YouTube với giá 1,65 tỷ USD cổ phiếu Google, Vào ngày 11 tháng 3 năm 2008, Google đã mua lại DoubleClick với giá 3,1 tỷ USD, mang lại cho Google các mối quan hệ có giá trị mà DoubleClick có với các nhà xuất bản web và các công ty quảng cáo. Đến năm 2011, Google đang xử lý khoảng 3 tỷ lượt tìm kiếm mỗi ngày. Để xử lý khối lượng công việc này, Google đã xây dựng 11 trung tâm dữ liệu trên toàn thế giới với hàng nghìn máy chủ trong mỗi trung tâm. Các trung tâm dữ liệu này cho phép Google xử lý khối lượng công việc thay đổi liên tục một cách hiệu quả hơn. Vào tháng 5 năm 2011, số lượng khách truy cập duy nhất hàng tháng đến Google lần đầu tiên vượt quá một tỷ.
Vào tháng 5 năm 2012, Google đã mua lại Motorola Mobility với giá 12,5 tỷ USD, trong thương vụ mua lại lớn nhất của mình cho đến nay. Việc mua lại này được thực hiện một phần để giúp Google có được danh mục bằng sáng chế đáng kể của Motorola về điện thoại di động và công nghệ không dây, để giúp bảo vệ Google trong các tranh chấp bằng sáng chế đang diễn ra với các công ty khác, chủ yếu là Apple và Microsoft, và để cho phép Google tiếp tục cung cấp Android miễn phí.
Tháng 6 năm 2013, Google đã mua lại Waze với giá 966 triệu USD. Mặc dù Waze vẫn là một thực thể độc lập, nhưng các tính năng xã hội của nó, chẳng hạn như nền tảng vị trí do người dùng đóng góp, được cho là những sự tích hợp có giá trị giữa Waze và Google Maps, dịch vụ lập bản đồ của riêng Google.
Google công bố ra mắt một công ty mới tên là Calico vào ngày 19 tháng 9 năm 2013, do Arthur Levinson, chủ tịch của Apple Inc. lãnh đạo. Trong tuyên bố công khai chính thức, Page giải thích rằng công ty "sức khỏe và hạnh phúc" này sẽ tập trung vào "thách thức của lão hóa và các bệnh liên quan".
Vào ngày 26 tháng 1 năm 2014, Google thông báo đã đồng ý mua lại DeepMind Technologies, một công ty tư nhân về trí tuệ nhân tạo có trụ sở tại London. Trang web tin tức công nghệ Recode cho biết công ty đã được mua với giá 400 triệu USD, nhưng không tiết lộ nguồn tin. Người phát ngôn của Google từ chối bình luận về giá cả. Việc mua lại DeepMind góp phần vào sự phát triển gần đây của Google trong lĩnh vực trí tuệ nhân tạo và robot. Năm 2015, AlphaGo của DeepMind đã trở thành chương trình máy tính đầu tiên đánh bại một kỳ thủ chuyên nghiệp hàng đầu thế giới ở môn cờ vây. Theo báo cáo thường niên Best Global Brands của Interbrand, Google là thương hiệu có giá trị thứ hai trên thế giới (sau Apple Inc.) trong các năm 2013, 2014, 2015, và 2016, với giá trị được định giá 133 tỷ USD.
Vào ngày 10 tháng 8 năm 2015, Google thông báo kế hoạch tái cơ cấu các lợi ích khác nhau của mình thành một tập đoàn có tên Alphabet Inc. Google trở thành công ty con lớn nhất của Alphabet và là công ty mẹ của các lợi ích Internet của Alphabet. Sau khi hoàn thành việc tái cơ cấu, Sundar Pichai trở thành CEO của Google, thay thế Larry Page, người trở thành CEO của Alphabet.
Vào ngày 8 tháng 8 năm 2017, Google đã sa thải nhân viên James Damore sau khi anh ta phân phối một bản ghi nhớ khắp công ty, trong đó lập luận rằng thiên vị và "buồng vọng ý thức hệ của Google" đã làm mờ suy nghĩ của họ về sự đa dạng và hòa nhập, và rằng đó cũng là các yếu tố sinh học, không chỉ phân biệt đối xử, khiến cho phụ nữ trung bình ít quan tâm hơn nam giới ở các vị trí kỹ thuật. CEO Sundar Pichai của Google đã cáo buộc Damore vi phạm chính sách của công ty bằng cách "khuyến khích các định kiến giới tính có hại tại nơi làm việc của chúng tôi", và anh ta đã bị sa thải vào cùng ngày.
Từ năm 2018 đến năm 2019, căng thẳng giữa lãnh đạo công ty và nhân viên Google đã leo thang khi nhân viên phản đối các quyết định của công ty về quấy rối tình dục nội bộ, Dragonfly (một công cụ tìm kiếm của Trung Quốc bị kiểm duyệt) và Dự án Maven (trí tuệ nhân tạo máy bay không người lái quân sự), được coi là lĩnh vực tăng trưởng doanh thu cho công ty. Vào ngày 25 tháng 10 năm 2018, The New York Times đã công bố bài báo phơi bày "Google đã bảo vệ Andy Rubin, 'Cha đẻ của Android' như thế nào". Sau đó, công ty thông báo rằng "48 nhân viên đã bị sa thải trong hai năm qua" vì quấy rối tình dục. Vào ngày 1 tháng 11 năm 2018, hơn 20.000 nhân viên và nhà thầu của Google đã tổ chức một cuộc đình công toàn cầu để phản đối cách xử lý các khiếu nại quấy rối tình dục của công ty. Giám đốc điều hành Sundar Pichai được cho là ủng hộ các cuộc biểu tình. Sau đó vào năm 2019, một số công nhân đã cáo buộc công ty trả thù các nhà hoạt động nội bộ.
Vào ngày 19 tháng 3 năm 2019, Google tuyên bố sẽ tham gia thị trường trò chơi điện tử bằng việc ra mắt một nền tảng chơi game đám mây có tên là Google Stadia. Vào ngày 3 tháng 6 năm 2019, Bộ Tư pháp Hoa Kỳ thông báo rằng họ sẽ điều tra Google về vi phạm luật chống độc quyền. Điều này dẫn đến việc đệ đơn kiện chống độc quyền vào tháng 10 năm 2020, với lý do công ty đã lạm dụng vị thế độc quyền trong thị trường tìm kiếm và quảng cáo tìm kiếm. Tháng 12 năm 2019, cựu giám đốc điều hành của PayPal, Bill Ready, trở thành giám đốc thương mại mới của Google. Vai trò của Ready sẽ không liên quan trực tiếp đến Google Pay.
Vào tháng 4 năm 2020, do đại dịch COVID-19, Google đã thông báo một số biện pháp cắt giảm chi phí. Các biện pháp này bao gồm giảm tốc độ tuyển dụng trong phần còn lại của năm 2020, ngoại trừ một số lĩnh vực chiến lược, điều chỉnh lại trọng tâm và tốc độ đầu tư vào các lĩnh vực như trung tâm dữ liệu và máy móc, cũng như tiếp thị và đi lại không cần thiết cho doanh nghiệp. Hầu hết nhân viên cũng đang làm việc tại nhà do đại dịch COVID-19 và thành công của nó thậm chí đã dẫn đến việc Google thông báo rằng họ sẽ chuyển đổi vĩnh viễn một số công việc của họ sang làm việc tại nhà.
Các sự cố mất điện của dịch vụ Google năm 2020 đã gián đoạn các dịch vụ của Google: một sự cố vào tháng 8 đã ảnh hưởng đến Google Drive cùng một số dịch vụ khác, một sự cố khác vào tháng 11 ảnh hưởng đến YouTube và sự cố thứ ba vào tháng 12 ảnh hưởng đến toàn bộ bộ ứng dụng Google. Tất cả ba sự cố đã được giải quyết trong vòng vài giờ. Năm 2021, Công đoàn Công nhân Alphabet được thành lập, bao gồm chủ yếu là nhân viên của Google. Vào tháng 1 năm 2021, Chính phủ Úc đã đề xuất luật pháp yêu cầu Google và Facebook phải trả tiền cho các công ty truyền thông để có quyền sử dụng nội dung của họ. Đáp lại, Google đã đe dọa đóng cửa quyền truy cập vào công cụ tìm kiếm của mình ở Úc. Vào tháng 3 năm 2021, Google được cho là đã trả 20 triệu đô la cho các cổng Ubisoft trên Google Stadia. Google đã chi "hàng chục triệu đô la" để có được các nhà phát hành lớn như Ubisoft và Take-Two mang một số trò chơi lớn nhất của họ lên Stadia.
Vào tháng 4 năm 2021, The Wall Street Journal đưa tin rằng Google đã chạy một chương trình kéo dài nhiều năm có tên là "Project Bernanke", sử dụng dữ liệu từ các cuộc đấu thầu quảng cáo trước đây để giành lợi thế so với các dịch vụ quảng cáo cạnh tranh. Điều này được tiết lộ trong các tài liệu liên quan đến vụ kiện chống độc quyền được đệ trình bởi 10 tiểu bang Hoa Kỳ chống lại Google vào tháng 12. Vào tháng 9 năm 2021, chính phủ Úc tuyên bố kế hoạch hạn chế khả năng bán quảng cáo mục tiêu của Google, với cáo buộc rằng công ty này có vị thế độc quyền trên thị trường, gây hại cho các nhà xuất bản, nhà quảng cáo và người tiêu dùng.
Năm 2022, Google bắt đầu chấp nhận các yêu cầu xóa số điện thoại, địa chỉ vật lý và địa chỉ email khỏi kết quả tìm kiếm của mình. Trước đó, công ty chỉ chấp nhận các yêu cầu xóa dữ liệu mật, chẳng hạn như số An sinh xã hội, số tài khoản ngân hàng và số thẻ tín dụng, chữ ký cá nhân và hồ sơ y tế. Ngay cả với chính sách mới, Google cũng chỉ có thể xóa thông tin khỏi một số nhưng không phải tất cả các truy vấn tìm kiếm. Công ty sẽ không xóa nội dung "có ích rộng rãi", chẳng hạn như các bài báo tin tức hoặc đã là một phần của hồ sơ công khai. Vào tháng 5 năm 2022, Google thông báo rằng công ty đã mua lại Raxium, một công ty khởi nghiệp phát triển và sản xuất công nghệ màn hình MicroLED có trụ sở tại California. Raxium sẽ tham gia nhóm Thiết bị và Dịch vụ của Google để hỗ trợ phát triển quang học vi mô, tích hợp monolithic và tích hợp hệ thống.
Vào đầu năm 2023, sau thành công của ChatGPT và lo ngại rằng Google đang tụt hậu trong cuộc đua AI, ban quản lý cấp cao của Google đã phát ra "code red" và "chỉ thị rằng tất cả các sản phẩm quan trọng nhất của mình - những sản phẩm có hơn một tỷ người dùng - phải kết hợp AI tổng hợp trong vòng vài tháng". Vào đầu tháng 5 năm 2023, Google đã công bố kế hoạch xây dựng thêm hai trung tâm dữ liệu ở Ohio. Các trung tâm này, sẽ được xây dựng tại Columbus và Lancaster, sẽ cung cấp năng lượng cho các công cụ của công ty, bao gồm công nghệ AI. Trung tâm dữ liệu này sẽ được bổ sung vào trung tâm đã hoạt động gần Columbus, nâng tổng số vốn đầu tư của Google vào Ohio lên hơn 2 tỷ USD.
Sản phẩm và dịch vụ.
Công cụ tìm kiếm.
Google Search là công cụ tìm kiếm phổ biến nhất hiện nay. Google lập chỉ mục hàng tỷ trang web để cho phép người dùng tìm kiếm thông tin họ mong muốn thông qua việc sử dụng từ khóa và toán tử. Theo nghiên cứu thị trường của comScore từ tháng 11 năm 2009, Google Search là công cụ tìm kiếm thống trị thị trường Hoa Kỳ, với thị phần 65,6%. Tháng 5 năm 2017, Google đã kích hoạt tab "Personal" mới trong Google Search, cho phép người dùng tìm kiếm nội dung trong các dịch vụ khác nhau của tài khoản Google của họ, bao gồm email từ Gmail và ảnh từ Google Photos.
Google đã ra mắt dịch vụ Google News vào năm 2002, một dịch vụ tự động tóm tắt các bài báo tin tức từ nhiều trang web khác nhau. Google cũng lưu trữ Google Books, một dịch vụ tìm kiếm văn bản có trong sách trong cơ sở dữ liệu của Google và hiển thị bản xem trước giới hạn hoặc toàn bộ sách khi được phép. Google đã mở rộng các dịch vụ tìm kiếm của mình để bao gồm mua sắm (ban đầu được ra mắt với tên Froogle vào năm 2002), tài chính (ra mắt năm 2006), và chuyến bay (ra mắt năm 2011).
Google kiếm tiền chủ yếu từ quảng cáo. Điều này bao gồm tiền bán ứng dụng, tiền mua hàng trong ứng dụng, tiền bán nội dung kỹ thuật số trên Google và YouTube, tiền cấp phép Android và tiền dịch vụ, bao gồm tiền sử dụng dịch vụ Google Cloud. Khoảng 46% lợi nhuận của Google đến từ việc người dùng nhấp vào quảng cáo (chi phí cho mỗi nhấp chuột), lên tới 109,652 tỷ USD vào năm 2017. Google có ba phương pháp quảng cáo chính là AdMob, AdSense và DoubleClick AdExchange. Ngoài các thuật toán của riêng mình để hiểu yêu cầu tìm kiếm, Google còn sử dụng công nghệ thu được từ DoubleClick để dự đoán sở thích của người dùng và hiển thị quảng cáo phù hợp với ngữ cảnh tìm kiếm và lịch sử của người dùng.
Năm 2007, Google ra mắt "AdSense for Mobile", tận dụng lợi thế của thị trường quảng cáo di động đang nổi lên. Google Analytics cho phép chủ sở hữu trang web theo dõi nơi và cách mọi người sử dụng trang web của họ, chẳng hạn như bằng cách kiểm tra tỷ lệ nhấp chuột cho tất cả các liên kết trên trang. Quảng cáo Google có thể được đặt trên các trang web của bên thứ ba trong một chương trình hai phần. Google Ads cho phép các nhà quảng cáo hiển thị quảng cáo của họ trong mạng nội dung Google, thông qua chương trình trả tiền cho mỗi nhấp chuột. Dịch vụ chị em, Google AdSense, cho phép chủ sở hữu trang web hiển thị các quảng cáo này trên trang web của họ và kiếm tiền mỗi khi quảng cáo được nhấp vào.
Dịch vụ tiêu dùng.
Trên nền tảng web.
Google cung cấp Gmail để gửi và nhận email, Google Calendar để quản lý thời gian và lịch trình, Google Maps để xem bản đồ, định vị và hình ảnh vệ tinh, Google Drive để lưu trữ tệp trên đám mây, Google Docs, Sheets và Slides để hỗ trợ năng suất làm việc, Google Photos để lưu trữ và chia sẻ ảnh, Google Keep để ghi chú, Google Translate để dịch ngôn ngữ, YouTube để xem và chia sẻ video, Google My Business để quản lý thông tin doanh nghiệp công khai, và Duo để tương tác xã hội. Vào tháng 3 năm 2019, Google đã ra mắt dịch vụ chơi trò chơi đám mây có tên Stadia. Google cũng có một sản phẩm tìm kiếm việc làm được tạo ra trước năm 2017, Google for Jobs là một tính năng tìm kiếm nâng cao tổng hợp các danh sách việc làm từ các trang web tìm kiếm việc làm và trang web tuyển dụng. Một số dịch vụ của Google không dựa trên web. Google Earth, được ra mắt vào năm 2005, cho phép người dùng xem các bức ảnh vệ tinh chất lượng cao từ khắp nơi trên thế giới miễn phí thông qua phần mềm khách được tải xuống máy tính của họ.
Google phát triển hệ điều hành di động Android, cũng như đồng hồ thông minh, tivi, ô tô, và các biến thể thiết bị thông minh hỗ trợ Internet of Things. Google cũng phát triển trình duyệt web Google Chrome, và ChromeOS, một hệ điều hành dựa trên Chrome.
Tháng 1 năm 2010, Google phát hành Nexus One, chiếc điện thoại Android đầu tiên mang thương hiệu riêng của mình. Nexus One đã mở đường cho một loạt điện thoại và máy tính bảng dưới thương hiệu "Nexus" cho đến khi ngừng sản xuất vào năm 2016 và được thay thế bằng một thương hiệu mới có tên Pixel. Năm 2011, Google giới thiệu Chromebook, chạy hệ điều hành ChromeOS. Tháng 7 năm 2013, Google giới thiệu dongle Chromecast, cho phép người dùng truyền nội dung từ điện thoại thông minh của họ lên TV. Tháng 6 năm 2014, Google công bố Google Cardboard, một kính xem VR đơn giản cho phép người dùng đặt điện thoại thông minh của họ vào một ngăn đặc biệt ở mặt trước để xem nội dung thực tế ảo (VR).
Dịch vụ doanh nghiệp.
Google Workspace (trước đây là G Suite cho đến tháng 10 năm 2020) là dịch vụ đăng ký hàng tháng dành cho các tổ chức và doanh nghiệp để truy cập vào bộ sưu tập các dịch vụ của Google, bao gồm Gmail, Google Drive và Google Docs, Google Sheets và Google Slides, với các công cụ quản trị bổ sung, tên miền duy nhất và hỗ trợ 24/7.
Vào ngày 24 tháng 9 năm 2012, Google đã ra mắt Google dành cho Doanh nhân, một vườn ươm doanh nghiệp phần lớn phi lợi nhuận cung cấp cho các công ty khởi nghiệp không gian làm việc chung được gọi là Khu học xá, với sự hỗ trợ dành cho những người sáng lập công ty khởi nghiệp có thể bao gồm các hội thảo, hội nghị và cố vấn. Hiện tại, có bảy địa điểm tại Berlin, London, Madrid, Seoul, São Paulo, Tel Aviv và Warsaw.
Vào ngày 15 tháng 3 năm 2016, Google đã công bố ra mắt Google Analytics 360 Suite, "một bộ sản phẩm phân tích dữ liệu và tiếp thị tích hợp, được thiết kế đặc biệt cho nhu cầu của các nhà tiếp thị doanh nghiệp" có thể được tích hợp với BigQuery trên Nền tảng Google Cloud. Trong số những thứ khác, bộ sản phẩm được thiết kế để giúp "các nhà tiếp thị doanh nghiệp" "xem hành trình khách hàng hoàn chỉnh", tạo ra "những hiểu biết hữu ích" và "cung cấp trải nghiệm hấp dẫn cho đúng người". Jack Marshall của"The Wall Street Journal" đã viết rằng bộ sản phẩm này cạnh tranh với các dịch vụ đám mây tiếp thị hiện có của các công ty bao gồm Adobe, Oracle, Salesforce và IBM.
Vào tháng 2 năm 2010, Google đã công bố dự án Google Fiber, với kế hoạch thử nghiệm xây dựng mạng băng thông rộng tốc độ cực cao cho 50.000 đến 500.000 khách hàng ở một hoặc nhiều thành phố của Mỹ. Sau khi Google tái cấu trúc doanh nghiệp để trở thành công ty mẹ của Alphabet Inc., Google Fiber đã được chuyển sang bộ phận Access của Alphabet. Vào tháng 4 năm 2015, Google đã công bố Project Fi, một nhà khai thác mạng ảo di động, kết hợp mạng Wi-Fi và mạng di động từ các nhà cung cấp viễn thông khác nhau để mang lại khả năng kết nối liền mạch và tín hiệu Internet nhanh.
Các dịch vụ tài chính.
Vào tháng 8 năm 2023, Google trở thành công ty công nghệ lớn đầu tiên tham gia OpenWallet Foundation, được thành lập hồi đầu năm, với mục tiêu tạo ra phần mềm mã nguồn mở cho ví điện tử có khả năng tương tác.
Những chỉ trích và tranh cãi.
Google đã bị chỉ trích về các vấn đề như trốn tránh thuế tích cực, tính trung lập của tìm kiếm, bản quyền, kiểm duyệt kết quả tìm kiếm và nội dung, và quyền riêng tư.
Các chỉ trích khác bao gồm việc bị cáo buộc sử dụng và thao túng kết quả tìm kiếm, sử dụng tài sản trí tuệ của người khác, lo ngại rằng việc thu thập dữ liệu của Google có thể vi phạm quyền riêng tư của mọi người và mức tiêu thụ năng lượng của máy chủ của Google, cũng như những lo ngại về các vấn đề kinh doanh truyền thống như độc quyền, hạn chế thương mại, hành vi chống cạnh tranh và vi phạm bằng sáng chế.
Google trước đây đã tuân thủ các chính sách kiểm duyệt Internet của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, được thực thi bằng các bộ lọc được gọi là "Vạn Lý Tường lửa Trung Quốc", nhưng hiện không còn làm như vậy. Do đó, tất cả các dịch vụ của Google ngoại trừ Google Maps Trung Quốc đều bị chặn truy cập trong lãnh thổ Trung Quốc mà không có sự trợ giúp của mạng riêng ảo (VPN), máy chủ proxy hoặc các công nghệ tương tự khác.
Vào tháng 7 năm 2018, quản lý chương trình của Mozilla, Chris Peterson, đã cáo buộc Google cố tình làm chậm hiệu suất của YouTube trên Firefox. Vào tháng 4 năm 2019, cựu giám đốc điều hành của Mozilla, Jonathan Nightingale, đã cáo buộc Google cố tình và có hệ thống phá hoại trình duyệt Firefox trong thập kỷ qua để thúc đẩy việc áp dụng Google Chrome.
Vào tháng 8 năm 2018, The Intercept đưa tin rằng Google đang phát triển cho Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa một phiên bản kiểm duyệt của công cụ tìm kiếm của mình (được gọi là Dragonfly) "sẽ chặn các trang web và thuật ngữ tìm kiếm về nhân quyền, dân chủ, tôn giáo và phản đối ôn hòa". Tuy nhiên, dự án đã bị tạm dừng do lo ngại về quyền riêng tư.
Vào năm 2019, một trung tâm dành cho những người chỉ trích Google được thành lập trên cộng đồng trực tuyến Reddit /r/degoogle, với mục đích kêu gọi người dùng từ bỏ việc sử dụng các sản phẩm của Google. Chiến dịch DeGoogle tiếp tục phát triển khi các nhà hoạt động bảo vệ quyền riêng tư công bố thông tin về các sản phẩm của Google và việc công ty xâm phạm quyền riêng tư cá nhân.
Vào tháng 11 năm 2019, Văn phòng Quyền công dân thuộc Bộ Y tế và Dịch vụ Nhân sinh Hoa Kỳ đã bắt đầu điều tra Dự án Nightingale để đánh giá xem việc "thu thập dữ liệu hồ sơ y tế của cá nhân" có tuân thủ Đạo luật Trách nhiệm Giải trình và Di động Bảo hiểm Y tế (HIPAA) hay không. Theo The Wall Street Journal, Google đã bí mật bắt đầu dự án này vào năm 2018 với công ty chăm sóc sức khỏe Ascension có trụ sở tại St. Louis.
Theo một phán quyết của Hội đồng Quan hệ Lao động Quốc gia vào năm 2022, các tài liệu của tòa án cho thấy Google đã tài trợ cho một dự án bí mật—Project Vivian—để tư vấn cho nhân viên và ngăn chặn họ thành lập công đoàn.
Vào ngày 1 tháng 5 năm 2023, Google đã đặt một quảng cáo phản đối Dự luật số 2630 của Quốc hội Brazil, dự luật chống thông tin sai lệch sắp được thông qua, trên trang chủ tìm kiếm của mình tại Brazil, kêu gọi người dùng yêu cầu đại diện quốc hội phản đối dự luật này. Chính phủ và ngành tư pháp của Brazil cáo buộc công ty can thiệp không đáng có vào cuộc tranh luận tại Quốc hội, cho rằng đây có thể là hành vi lạm dụng sức mạnh kinh tế và yêu cầu công ty thay đổi quảng cáo trong vòng hai giờ sau khi thông báo hoặc sẽ phải đối mặt với khoản tiền phạt 1 triệu reais (năm 2023) (185.528,76 đô la Mỹ) cho mỗi giờ không tuân thủ. Sau đó, công ty đã nhanh chóng gỡ bỏ quảng cáo.
Theo dõi nhắm vào chủng tộc.
Google đã hỗ trợ các chính phủ gây tranh cãi trong các dự án theo dõi hàng loạt, chia sẻ với cảnh sát và quân đội danh tính của những người biểu tình chống lại bất công về chủng tộc. Năm 2020, họ đã chia sẻ với FBI thông tin được thu thập từ tất cả người dùng Android tham gia biểu tình Black Lives Matter ở Seattle, bao gồm cả những người đã chọn không thu thập dữ liệu vị trí.
Google cũng là một phần của Dự án Nimbus, một thỏa thuận trị giá 1,2 tỷ đô la trong đó các công ty công nghệ Google và Amazon sẽ cung cấp cho Israel và quân đội của họ các dịch vụ trí tuệ nhân tạo, học máy và các dịch vụ điện toán đám mây khác, bao gồm việc xây dựng các trang web điện toán đám mây tại chỗ sẽ "giữ thông tin trong biên giới của Israel theo các nguyên tắc an ninh nghiêm ngặt." Hợp đồng đã bị các cổ đông cũng như nhân viên của họ chỉ trích vì lo ngại rằng dự án sẽ dẫn đến thêm nhiều lạm dụng quyền con người của người Palestine trong bối cảnh việc chiếm đóng bất hợp pháp đang diễn ra và cuộc xung đột Israel-Palestine. Ariel Koren, cựu giám đốc quảng cáo cho các sản phẩm giáo dục của Google và là người phê phán dự án này, đã viết rằng Google "hệ thống hóa việc im lặng các tiếng nói của người Palestine, người Do Thái, người Ả Rập và người Hồi giáo quan tâm đến sự đồng lõa của Google trong việc vi phạm quyền con người của người Palestine - đến mức trả đũa chính thức đối với công nhân và tạo ra một môi trường sợ hãi," phản ánh quan điểm của cô rằng lời đe dọa cuối cùng đã đến như một hình thức trả đũa cho sự phản đối và tổ chức chống lại dự án của mình.
Chống độc quyền, quyền riêng tư và các vụ kiện tụng khác.
Tiền phạt và kiện tụng.
Liên minh Châu Âu.
Vào ngày 27 tháng 6 năm 2017, công ty đã nhận được khoản tiền phạt kỷ lục 2,42 tỷ euro từ Liên minh Châu Âu vì "đưa dịch vụ so sánh mua sắm của riêng mình lên đầu kết quả tìm kiếm". Vào ngày 18 tháng 7 năm 2018, Ủy ban Châu Âu đã phạt Google 4,34 tỷ euro vì vi phạm các quy tắc chống độc quyền của EU. Việc lạm dụng vị thế thống lĩnh thị trường đã được quy cho việc Google hạn chế các nhà sản xuất thiết bị Android và nhà khai thác mạng để đảm bảo rằng lưu lượng truy cập trên thiết bị Android sẽ đến công cụ tìm kiếm của Google. Vào ngày 9 tháng 10 năm 2018, Google đã xác nhận rằng họ đã kháng cáo khoản tiền phạt lên Tòa án sơ thẩm của Liên minh Châu Âu.
Vào ngày 8 tháng 10 năm 2018, một vụ kiện tập thể đã được đệ trình chống lại Google và Alphabet do dữ liệu tài khoản Google+ "không công khai" bị lộ do lỗi cho phép các nhà phát triển ứng dụng truy cập vào thông tin cá nhân của người dùng. Vụ kiện đã được dàn xếp vào tháng 7 năm 2020 với giá 7,5 triệu đô la Mỹ, với khoản thanh toán cho các nguyên đơn ít nhất 5 đô la mỗi người, tối đa là 12 đô la mỗi người.
Vào ngày 20 tháng 3 năm 2019, Ủy ban Châu Âu đã phạt Google 1,49 tỷ euro (1,69 tỷ đô la Mỹ) vì ngăn chặn các đối thủ cạnh tranh "cạnh tranh và đổi mới công bằng" trên thị trường quảng cáo trực tuyến. Ủy viên cạnh tranh của Liên minh Châu Âu, Margrethe Vestager, cho biết Google đã vi phạm các quy tắc chống độc quyền của EU bằng cách "áp đặt các hạn chế hợp đồng chống cạnh tranh đối với các trang web của bên thứ ba" yêu cầu họ loại bỏ kết quả tìm kiếm từ các đối thủ của Google.
Vào ngày 14 tháng 9 năm 2022, Google đã thua kháng cáo về khoản tiền phạt 4,125 tỷ euro (3,5 tỷ bảng Anh), vốn được yêu cầu phải trả sau khi Ủy ban Châu Âu chứng minh được rằng Google đã buộc các nhà sản xuất điện thoại Android phải cài đặt các ứng dụng tìm kiếm và trình duyệt web của Google. Kể từ cáo buộc ban đầu, Google đã thay đổi chính sách của mình.
Vào ngày 21 tháng 1 năm 2019, cơ quan quản lý dữ liệu của Pháp CNIL đã phạt Google mức kỷ lục 50 triệu euro vì vi phạm Quy định chung về bảo vệ dữ liệu của Liên minh Châu Âu. Phán quyết cho rằng Google đã không thông báo đầy đủ cho người dùng về các phương pháp thu thập dữ liệu để cá nhân hóa quảng cáo. Google đã đưa ra một tuyên bố cho biết họ "cam kết sâu sắc" đối với tính minh bạch và đang "nghiên cứu quyết định" trước khi đưa ra phản hồi.
Vào ngày 6 tháng 1 năm 2022, cơ quan quản lý quyền riêng tư dữ liệu của Pháp CNIL đã phạt Google của Alphabet 150 triệu euro (169 triệu đô la Mỹ) vì không cho phép người dùng Internet của mình dễ dàng từ chối Cookie cùng với Facebook.
Sau các phiên điều trần của Quốc hội Hoa Kỳ vào tháng 7 năm 2020, avà báo cáo từ Tiểu ban Chống độc quyền của Hạ viện Hoa Kỳ được công bố vào đầu tháng 10 Bộ Tư pháp Hoa Kỳ đã đệ đơn kiện chống độc quyền đối với Google vào ngày 20 tháng 10 năm 2020, khẳng định rằng Google đã duy trì vị thế độc quyền của mình một cách bất hợp pháp trong tìm kiếm web và quảng cáo tìm kiếm. Đơn kiện cáo buộc Google đã tham gia vào hành vi chống cạnh tranh bằng cách trả cho Apple từ 8 tỷ đến 12 tỷ đô la để trở thành công cụ tìm kiếm mặc định trên iPhone. Cuối tháng đó, cả Facebook và Alphabet đều đồng ý "hợp tác và hỗ trợ lẫn nhau" trước cuộc điều tra về hoạt động quảng cáo trực tuyến của họ. Một vụ kiện khác đã được đệ trình chống lại Google vào năm 2023 vì độc quyền trái phép thị trường công nghệ quảng cáo.
Vụ kiện về chế độ duyệt web riêng tư.
Vào đầu tháng 6 năm 2020, một nhóm người tiêu dùng đã đệ đơn kiện tập thể trị giá 5 tỷ đô la Mỹ chống lại Google, cáo buộc rằng chế độ duyệt web Ẩn danh của Chrome vẫn thu thập lịch sử người dùng của họ. Vụ kiện được biết đến vào tháng 3 năm 2021 khi một thẩm phán liên bang bác bỏ yêu cầu của Google về việc bác bỏ vụ kiện, phán quyết rằng họ phải đối mặt với các cáo buộc của nhóm. Reuters đưa tin rằng vụ kiện cáo buộc CEO Sundar Pichai của Google đã cố gắng che giấu vấn đề này với người dùng.
Vụ kiện phân biệt đối xử giới tính.
Vào năm 2017, ba phụ nữ đã kiện Google, cáo buộc công ty vi phạm Đạo luật Bình đẳng Tiền lương của California bằng cách trả lương thấp hơn cho nhân viên nữ. Vụ kiện cho biết khoảng cách tiền lương là khoảng 17.000 đô la và Google đã nhốt phụ nữ vào các con đường sự nghiệp thấp hơn, dẫn đến mức lương và tiền thưởng thấp hơn. Vào tháng 6 năm 2022, Google đã đồng ý trả khoản tiền dàn xếp 118 triệu đô la cho 15.550 nhân viên nữ làm việc ở California kể từ năm 2013. Là một phần của thỏa thuận dàn xếp, Google cũng đồng ý thuê một bên thứ ba để phân tích các hoạt động tuyển dụng và trả lương của mình.
Hợp đồng với chính phủ Hoa Kỳ.
Sau các báo cáo của giới truyền thông về PRISM, chương trình giám sát điện tử quy mô lớn của NSA, vào tháng 6 năm 2013, một số công ty công nghệ đã được xác định là những người tham gia, bao gồm Google. Theo các nguồn tin không được tiết lộ, Google đã tham gia chương trình PRISM vào năm 2009, còn YouTube tham gia vào năm 2010.
Google đã hợp tác với Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ về phần mềm máy bay không người lái thông qua Dự án Maven 2017, có thể được sử dụng để cải thiện độ chính xác của các cuộc tấn công bằng máy bay không người lái. Vào tháng 4 năm 2018, hàng nghìn nhân viên của Google, bao gồm cả các kỹ sư cấp cao, đã ký một lá thư kêu gọi CEO Sundar Pichai của Google chấm dứt hợp đồng gây tranh cãi này với Lầu Năm Góc.
Cơ sở hạ tầng.
Google đã xây dựng hệ thống cáp quang biển tư nhân của riêng mình. Cáp đầu tiên, có tên là Curie, nối California với Chile và được hoàn thành vào ngày 15 tháng 11 năm 2019. Cáp biển thứ hai hoàn toàn thuộc sở hữu của Google, có tên là Dunant, nối Hoa Kỳ với Pháp và dự kiến bắt đầu hoạt động vào năm 2020. Cáp biển thứ ba của Google, Equiano, sẽ nối Lisbon, Bồ Đào Nha với Lagos, Nigeria và Cape Town, Nam Phi. Cáp thứ tư của công ty, có tên là Grace Hopper, nối các điểm cập bến ở New York (Hoa Kỳ) Bude (Vương quốc Anh) và Bilbao (Tây Ban Nha) và dự kiến hoạt động vào năm 2022.
Vào tháng 10 năm 2006, Google đã công bố kế hoạch lắp đặt hàng nghìn tấm pin mặt trời để cung cấp tới 1,6 Megawatt điện, đủ để đáp ứng khoảng 30% nhu cầu năng lượng của công ty. Hệ thống này là nhà máy điện quang điện trên mái nhà lớn nhất được xây dựng trên một khu công nghiệp của Hoa Kỳ và là một trong những nhà máy lớn nhất trên bất kỳ khu công nghiệp nào trên thế giới. Kể từ năm 2007, Google đã đặt mục tiêu đạt được mức trung hòa carbon đối với các hoạt động của mình.
Google tiết lộ vào tháng 9 năm 2011 rằng công ty "liên tục sử dụng đủ điện năng để cung cấp năng lượng cho 200.000 hộ gia đình", gần 260 triệu watt hoặc khoảng một phần tư sản lượng của một nhà máy điện hạt nhân. Tổng lượng khí thải carbon cho năm 2010 chỉ dưới 1,5 triệu tấn, chủ yếu do nhiên liệu hóa thạch cung cấp điện cho các trung tâm dữ liệu. Google cho biết 25% năng lượng của họ được cung cấp bởi nhiên liệu tái tạo vào năm 2010. Một lượt tìm kiếm trung bình chỉ sử dụng 0,3 watt-giờ điện, vì vậy tất cả các lượt tìm kiếm trên toàn cầu chỉ có 12,5 triệu watt hoặc 5% tổng lượng điện năng tiêu thụ của Google.
Năm 2010, Google Energy đã thực hiện khoản đầu tư đầu tiên vào một dự án năng lượng tái tạo, rót 38,8 triệu USD vào hai trang trại gió ở North Dakota. Công ty đã thông báo rằng hai địa điểm này sẽ tạo ra 169,5 megawatt điện, đủ để cung cấp cho 55.000 hộ gia đình. Vào tháng 2 năm 2010, Ủy ban Điều tiết Năng lượng Liên bang đã cấp cho Google giấy phép mua và bán năng lượng với giá thị trường. Tập đoàn đã thực hiện giấy phép này vào tháng 9 năm 2013 khi thông báo sẽ mua toàn bộ điện năng được sản xuất bởi trang trại gió Happy Hereford 240 megawatt chưa được xây dựng. Vào tháng 7 năm 2010, Google đã ký một hợp đồng với một trang trại gió ở Iowa để mua 114 megawatt điện trong 20 năm.
Vào tháng 12 năm 2016, Google đã thông báo rằng bắt đầu từ năm 2017, công ty sẽ mua đủ năng lượng tái tạo để đáp ứng 100% nhu cầu năng lượng của các trung tâm dữ liệu và văn phòng của mình. Cam kết này sẽ biến Google trở thành "công ty mua năng lượng tái tạo lớn nhất thế giới, với các cam kết đạt 2,6 gigawatt (2.600 megawatt) năng lượng gió và mặt trời".
Vào tháng 11 năm 2017, Google đã mua 536 megawatt điện gió. Việc mua bán này giúp công ty đạt được 100% năng lượng tái tạo. Năng lượng gió đến từ hai nhà máy điện ở Nam Dakota, một nhà máy ở Iowa và một nhà máy ở Oklahoma. Vào tháng 9 năm 2019, CEO của Google đã công bố kế hoạch đầu tư 2 tỷ USD vào năng lượng gió và mặt trời, đây là thương vụ năng lượng tái tạo lớn nhất trong lịch sử doanh nghiệp. Công ty cho biết, điều này sẽ tăng trưởng 40% hồ sơ năng lượng xanh của họ, cung cấp thêm cho họ 1,6 gigawatt năng lượng sạch.
Vào tháng 9 năm 2020, Google thông báo rằng họ đã bù đắp được tất cả lượng khí thải carbon của mình kể từ khi thành lập công ty vào năm 1998. Công ty cũng cam kết vận hành các trung tâm dữ liệu và văn phòng của mình chỉ sử dụng năng lượng không carbon vào năm 2030. Vào tháng 10 năm 2020, công ty đã cam kết sẽ biến bao bì cho các sản phẩm phần cứng của mình thành 100% không nhựa và 100% có thể tái chế vào năm 2025. Công ty cũng cho biết rằng tất cả các địa điểm sản xuất lắp ráp cuối cùng của họ sẽ đạt được chứng nhận Zero Waste to Landfill UL 2799 vào năm 2022 bằng cách đảm bảo rằng phần lớn chất thải từ quá trình sản xuất được tái chế thay vì đưa vào bãi chôn lấp. |
Yahoo! Inc. là một tập đoàn đại chúng Hoa Kỳ, với một mạng lưới rộng lớn và một số dịch vụ khác, trong đó có Yahoo! Mail, Yahoo! Search và Yahoo! News. Yahoo! được sáng lập bởi hai sinh viên cao học tại trường Đại học Stanford là David Filo và Jerry Yang (楊致遠, "Dương Trí Viễn") vào tháng 1 năm 1994 và được thành lập vào ngày 2 tháng 3 năm 1995. Trụ sở công ty được đặt tại Sunnyvale, California.
Theo Alexa Internet và Netcraft là hai công ty chuyên về thống kê lưu lượng Web, Yahoo! là website được nhiều người coi thứ hai hiện giờ (sau Google). Mạng lưới toàn cầu các website của Yahoo! có 3 tỷ lần xem hằng ngày (vào tháng 10 năm 2004, xem thống kê trên Alexa ).
Năm 2002, Yahoo! mua công ty Inktomi. Năm 2003, Yahoo! mua lại công ty Overture - công ty đứng đằng sau AlltheWeb và AltaVista. Ngoài máy tính của mình, ban đầu Yahoo! còn sử dụng các kết quả lấy về từ Google để hiển thị trên trang chủ Y, Yahoo! tung ra máy tìm độc lập dựa trên sự kết hợp các công nghệ hãng có. Yahoo! là một trong 3 công cụ tìm kiếm phổ biến nhất cùng với Google và Bing
Vào ngày 13 tháng 1 năm 2009, Yahoo! đã bổ nhiệm bà Carol Bartz, cựu giám đốc điều hành của Autodesk, làm Giám đốc điều hành mới và một trong những thành viên của Hội đồng quản trị.
Sau khi bán mảng kinh doanh cổng thông tin của mình cho Verizon vào năm 2017, Yahoo Inc. đã đổi tên thành Altaba Inc. với tài sản chủ yếu là cổ phần tại tập đoàn Alibaba Group và Yahoo! Nhật Bản. Vào tháng 9 năm 2018, công ty đã bán cổ phần của mình trong Yahoo! Nhật Bản cho tập đoàn công nghệ Nhật Bản Softbank. Vào tháng 6 năm 2019, Altaba quyết định bán cổ phiếu của Alibaba và việc giải thể của chính công ty này, được hoàn tất vào ngày 21 tháng 1 năm 2020.
Cổng thông tin điện tử Yahoo hiện nay là thành viên của nhóm công ty Verizon kể từ năm 2016, nơi nó trở thành một phần của Oath vào năm 2017 (từ năm 2019: Verizon Media). Vào tháng 5 năm 2021, công ty đầu tư Apollo Global Management của Verizon đã mua lại Yahoo và AOL.
Yahoo khởi đầu là "Jerry's Guide to the World Wide Web" (Cẩm nang của Jerry về mạng lưới), nhưng sau này được đổi tên. Tên Yahoo! là một từ viết tắt cho "Yet Another Hierarchical Officious Oracle," nhưng Filo và Yang nhất định rằng họ chọn tên này vì họ thích nghĩa của từ "yahoo" trong từ điển (một giống thú mang hình người trong cuốn sách phiêu lưu "Những cuộc du hành của Gulliver" của Jonathan Swift). Đầu tiên Yahoo chỉ ở trong máy tính làm việc của Yang, trong khi phần mềm ở trong máy tính của Filo.
Yahoo được niêm yết cổ phần vào ngày 12 tháng 4 năm 1996, bán được 2,6 triệu cổ phiếu loại mệnh giá 13$.
Trong khi Yahoo ngày càng được phổ biến và phát triển, những dịch vụ của Yahoo! ngày càng phong phú và đa dạng hơn. Có thể kể đến các dịch vụ như Yahoo! Mail, Yahoo! Messenger, Yahoo! G, như GeoCities và eGroups.
Yahoo! nay đã bắt đầu hợp tác với một số công ty viễn thông và dịch vụ Internet như BT tại Vương quốc Anh, Rogers Communications tại Canada và SBC Communications tại Hoa Kỳ - để tạo dịch vụ băng rộng có nhiều nội dung để cạnh tranh với dịch vụ của AOL. Công ty cũng cấp một thẻ tín dụng tên là "Yahoo! Visa" trong một hợp tác với First USA.
Từ cuối năm 2002, Yahoo! đã âm thầm mua một số công ty có kỹ thuật tìm kiếm khác. Vào tháng 12 năm 2002, Yahoo! đã mua Inktomi, và vào tháng 7 năm 2003 mua Overture Services, Inc. (đồng thời AltaVista và Alltheweb, hai sở hữu của Overture). Vào ngày 18 tháng 2 năm 2004, Yahoo! ngừng sử dụng kết quả tìm kiếm từ Google và dùng kỹ thuật riêng để tìm kiếm.
Từ ngày 15 tháng 6 năm 2005, Yahoo!Mail được bản địa hoá có thêm giao diện tiếng Việt trên trang , cho nên người nhận thư Yahoo! tiếng Việt có thể đọc thư một cách dễ dàng, một trường hợp không thể có với giao diện tiếng Anh. Đồng thời, bất cứ người nào có tài khoản Yahoo!Mail đều có thể dùng giao diện tiếng Việt bằng cách đến , và chọn "Yahoo! Vietnam" trong mục "New Setting". Tuy nhiên, giao diện tiếng Việt còn thiếu vài chức năng quan trọng của giao diện tiếng Anh.
Sau khi bị Yahoo từ chối, vào ngày 1 tháng 2 năm 2008, Microsoft ngỏ lời mua Yahoo! với giá 44,6 tỷ đô la.
Ngày 18 tháng 3 năm 2015, Yahoo tuyên bố đã thông báo đến nhân viên về việc cắt giảm nhân sự ở Trung Quốc.
Ngày 25 tháng 7 năm 2016, Yahoo đã bán mảng Internet cốt lõi cho Verizon Communications với giá 4,8 tỷ đô la.
Tháng 6 năm 2017, thương vụ chính thức diễn ra. Toàn bộ các mảng chính của Yahoo bao gồm tìm kiếm, email và công cụ nhắn tin Yahoo Messenger được định giá 4,48 tỷ USD, thấp hơn mức giá 4,8 tỷ USD.
Trước đó, thương vụ bán mình đã được Yahoo! thông báo từ năm 2016, nhưng bị trì hoãn do những bê bối mà công ty này gặp phải, trong đó có việc rò rỉ dữ liệu của hàng trăm triệu người dùng.
Sau khi thỏa thuận với Verizon Communications hoàn tất, Yahoo sẽ đổi tên thành Altaba - một công ty với tài sản chủ yếu là cổ phần tại tập đoàn Alibaba Group và Yahoo! Nhật Bản. Yahoo cũng sẽ trở thành anh em với AOL (thuộc sở hữu của Verizon Communications) để tạo thành liên doanh, từ đó thương hiệu Yahoo! chính thức bị khai tử, đổi tên công ty thành Altaba.
Tuồn email khách hàng cho tình báo Hoa Kỳ.
Ngày 4 tháng 10 năm 2016, Reuters tiết lộ thông tin động trời dựa theo nguồn tin từ 3 nhân viên làm việc cho Yahoo. Năm ngoái Yahoo đã phát triển một phần mềm có thể sục sạo tất cả email của khách hàng nhằm cung cấp cho ngành tình báo Hoa Kỳ
. Theo đó, Yahoo đã chấp hành những yêu cầu bí mật của chính phủ Hoa Kỳ để kiểm tra hàng trăm triệu thư điện tử Yahoo Mail của khách hàng theo yêu cầu của Cơ quan An Ninh Quốc gia Mỹ (NSA) và Cục Điều tra Liên bang (FBI)
Đáp lại yêu cầu phản hồi của Reuters, phía Yahoo phát tuyên bố cho biết: “Yahoo là một công ty ràng buộc với luật pháp và tuân thủ luật pháp nước Mỹ”. Công ty này từ chối đưa ra thêm bất cứ bình luận nào.
Yahoo điều hành một cổng thông tin cung cấp tin tức, thể thao, giải trí mới nhất. Cổng thông tin này cũng cung cấp cho người dùng truy cập vào các dịch vụ Yahoo khác như Yahoo! Search, Yahoo Mail, Yahoo Maps, Yahoo Finance, Yahoo Groups và Yahoo Messenger.
Yahoo Messenger, Yahoo Mail.
Yahoo Photos, Flickr, Yahoo 360°, Yahoo Mash.
Dịch vụ Internet đồng thương hiệu.
Yahoo phát triển quan hệ đối tác với các nhà cung cấp băng thông rộng như ATT Inc. (thông qua Prodigy, BellSouth SBC), Verizon Communications, Rogers Communications, and British Telecom, cung cấp nhiều nội dung và dịch vụ miễn phí và cao cấp của Yahoo tới các thuê bao.
Yahoo cung cấp dịch vụ bản đồ và địa lý thông qua GeoPlanet. |
Lịch sử Hoa Kỳ (1776–1789)
Ngày 19 tháng 4 năm 1775, một nhóm binh lính trong quân đội Anh hành quân vào đất liền từ Boston, Massachusetts để tìm một kho trữ vũ khí và được lệnh bắt giữ một số người lãnh đạo địa phương. Tại Lexington, họ đụng độ và bị một nhóm vũ trang địa phương nhỏ tập hợp tại trung tâm thành phố bắn trả. Đi xa thêm nữa, họ đụng độ một nhóm vũ trang khác lớn hơn tại một cây cầu tại Concord và phải rút lui, mở ra niềm vinh hiển cho lịch sử Mỹ. Trở về lại Boston, nhóm lính bị nhiều người bắn tỉa. Các cuộc đụng độ này, xảy ra sau 12 năm từ khi xung đột chính trị giữa nhóm người Mỹ và Nghị viện Anh ngày càng tăng, là dấu hiệu đầu tiên của Cách mạng Hoa Kỳ.
Vào ngày 10 tháng 5, 1775, Đệ Nhị Quốc hội Lục địa ("Continental Congress") với đại biểu từ khắp 13 thuộc địa Anh bắt đầu họp tại thành phố Philadelphia, Pennsylvania. Quốc hội tức khắc thiết lập một Chính phủ liên bang bao gồm cả 13 thuộc địa, chiếm lấy những chức năng trước kia của vua và Nghị viện Anh, và chỉ thị các bang này soạn ra hiến pháp của họ để tự trị. Quốc hội bổ nhiệm George Washington làm người lãnh đạo Quân đội Lục địa ("Continental Army") và gửi ông đến Boston, nơi các nhóm vũ trang địa phương đang bao vây quân đội Anh.
Sau một năm xung đột, Quốc hội tuyên bố rằng nước Hợp chúng quốc Hoa Kỳ độc lập từ Anh trong bản Tuyên ngôn độc lập. Nhiệm vụ soạn bản tuyên ngôn độc lập được giao cho một ủy ban 5 người, trong đó có John Adams và Benjamin Franklin, nhưng tài liệu này phần lớn là do Thomas Jefferson chấp bút. Tuy nhiên, văn bản của Jefferson đã được Franklin duyệt lại nhiều lần và được trình lên Quốc hội sau khi sửa đổi nhiều chỗ, trong đó có cả việc cắt xén phần tố cáo vua George về vấn đề nô lệ.
Quốc gia đầu tiên công nhận Hoa Kỳ sau khi tuyên bố độc lập là nước Dubrovnik (lúc đó được gọi là Ragusa).
Với sự giúp đỡ của Pháp, Hoa Kỳ cuối cùng chiến thắng cuộc Chiến tranh Cách mạng Mỹ với Anh, ký Hiệp định Paris, cấp cho đất nước mới sinh ra này một lãnh thổ bao la trải dài từ Đại Tây Dương đến sông Missisippi, kể cả khu vực Ngũ Đại Hồ. Nền độc lập của Hoa Kỳ sau đó cũng được Vương quốc Phổ dưới triều vua Friedrich II Đại Đế thừa nhận.
Trong hậu quả chiến tranh, quốc gia non trẻ này bị suy yếu kinh tế, và sự yếu đuối của các tổ chức chính trị làm lung lay chính quyền. Đệ nhị Quốc hội Lục địa vẫn còn giữ địa vị Chính phủ liên bang, được chính thức trong Những Điều khoản Liên hiệp, được đưa ra và có hiệu lực vào năm 1778, nhưng không được phê chuẩn cho đến năm 1781. Những Điều khoản Liên hiệp là sơ đồ chính quyền của một liên minh lâu dài giữa các bang, nhưng không định rõ Hoa Kỳ là một quốc gia thật sự hay chỉ là một liên minh giữa các bang độc lập đang hợp tác với nhau.
Vào năm 1787, khi nhiều người nhận rõ quốc gia này cần một Chính phủ liên bang mạnh và trọn vẹn hơn, một hội nghị để xem xét sửa đổi các điều khoản được tổ chức. Quốc hội này, họp mặt tại Philadelphia, quyết định soạn thảo một hiến pháp, được 11 bang phê chuẩn vào năm 1788.
Hiến pháp Hoa Kỳ có hiệu lực từ năm 1789, và George Washington được bầu làm tổng thống đầu tiên.
Cách mạng và Độc lập.
Hợp Chúng Quốc Hoa Kỳ là một liên hiệp gồm có 13 thuộc địa trải dài vùng duyên hải miền đông Bắc Mỹ. Trong thế kỷ 17 và 18, các thuộc địa đã thành lập truyền thống dân chủ tự trị khi bị Anh sao lãng trong lúc đang đương đầu với nội chiến và nhiều vấn đề khác. Sau khi Chiến tranh Bảy Năm (tại Bắc Mỹ được gọi là Chiến tranh Pháp và Người da đỏ) kết thúc vào năm 1763, Anh trở thành cường quốc mạnh nhất, nhưng bị nợ nần đầy rẫy. Nỗ lực tăng thuế của Nghị viện Anh làm nhiều người thuộc địa lo rằng quyền tự trị của họ đang có nguy cơ.
Sau một vài bất đồng với Nghị viện Anh về chuyện thuế má, những thuộc địa đầu tiên thành lập ủy ban để truyền đạt thông tin về các chống đối và cuối cùng tổ chức một hội nghị để tẩy chay hàng hóa Anh. Đệ nhất Quốc hội Lục địa này có 12 thuộc địa tham dự, nhưng không có lãnh địa Florida của Anh và Georgia tại miền nam và Newfoundland và Nova Scotia tại miền bắc, cũng như lãnh địa nói tiếng Pháp Québec. Quốc hội đệ nhất này quyết định sẽ tổ chức một Quốc hội đệ nhị nếu nỗ lực giải hòa với Anh bị thất bại.
Đệ nhị Quốc hội Lục địa khai mạc vào tháng 5 năm 1775, sau cuộc xung đột giữa các nhóm vũ trang tại Massachusetts và quân đội Anh vào tháng 4. Với 13 thuộc địa tham dự, Quốc hội đệ nhị bắt đầu tổ chức một Chính phủ liên bang và chỉ thị các bang này soạn ra hiến pháp bang để tự trị. Tháng 6 năm 1775, George Washington, một người Virginia tiếng tăm có kinh nghiệm trong Chiến tranh Pháp và Người da đỏ được bổ nhiệm làm chỉ huy Quân đội Lục địa mới vừa được thành lập do sự kết hợp của các lực lượng vũ trang đang bao vây quân đội Anh tại Boston.
Ngày 4 tháng 7 năm 1776, Đệ nhị Quốc hội Lục địa, đang vẫn còn họp tại Philadelphia, tuyên bố độc lập trong một tài liệu quan trọng, bản Tuyên ngôn độc lập, được soạn thảo bởi Thomas Jefferson. Nước đầu tiên công nhận Hoa Kỳ là thành bang Dubrovnik (được gọi là Ragusa vào thời đó) ở Ý. Cùng năm đó, có phái bộ sứ thần Mỹ đến yết kiến Triều đình Phổ, được nhà vua Friedrich II Đại Đế tiếp đón nồng hậu. Ngay khi nền Cộng hòa non trẻ Mỹ trỗi dậy, vua Phổ đã tìm cách trong đổi hàng hóa với họ. Không những thế, Nữ hoàng nước Nga là Ekaterina II Đại Đế cũng có cảm tình với người Mỹ.
Trong tháng 8, từ chính quốc, quân đội Anh đổ bộ lên Thành phố New York, nơi quân Anh đang đóng chiếm vì quân phòng thủ của Washington còn quá yếu kém. Quân Anh đóng chiếm thành phố này cho đến khi cuộc chiến tranh chấm dứt. Cuối năm 1776, quân Mỹ giành những chiến thắng về chiến thuật và tinh thần. Một kế hoạch lớn, sau này được gọi là Chiến dịch Saratoga, được chính phủ Anh thiết lập tại kinh thành Luân Đôn để kéo quân từ Canada xuống nam và từ Hudson lên bắc, họp binh tại Albany, New York để chia các thuộc địa thành hai phần, cách ly Tân Anh Cát Lợi ("New England") ra khỏi các lục địa khác. Vì không được thông tin, quân Anh do tướng John Burgoyne chỉ huy xuống từ Canada đã gặp phải rừng rậm vào phía bắc của Albany, New York. Trong suốt mùa hè 1777, quân của Burgoyne chỉ tiến được một vài dặm, và cuối cùng đã bị một lực lượng Mỹ đông người hơn đánh bại tại Trận chiến Saratoga. Trong lúc đó, quân đội Anh đáng lẽ phải tiến lên Hudson để gặp Burgoyne, nhưng lại tiến đến Philadelphia trong một nỗ lực kết thúc chiến tranh bằng cách chiếm giữ "thủ đô" của người Mỹ.
Chiến thắng tại Saratoga của quân dân Mỹ đã khiến Pháp công khai đồng minh với Mỹ. Khi Pháp tham gia, chiến tranh này đã trở thành một cuộc tranh chấp toàn cầu, sau đó Tây Ban Nha và Hà Lan cũng tham gia vì họ là những cường quốc muốn ngăn chận sự bành trướng của Anh Quốc. Chính phủ Anh lại đem quân đến các lục địa miền nam ít người ở hơn và sự hăng hái tham gia vào cuộc cách mạng cũng thấp hơn. Nữ hoàng Nga Ekaterina II Đại Đế cũng thiết lập "Liên minh các nước trung lập vũ trang" (1780) chống đối Anh Quốc. Với vua Friedrich II Đại Đế, nước Phổ gia nhập liên minh này, cùng với vài nước mạnh ở Bắc Âu. Trong năm 1781, tình hình hai bên bế tắc. Trong trận đánh lớn ở Tòa án Guilford, quân Anh do Huân tước Charles Cornwallis cầm đầu đánh bại được quân Mỹ của tướng Nathanael Greene chỉ huy. Nhưng người Anh thiệt hại nặng nên phải rút quân khỏi đây.
Sau đó, George Washington khôn khéo đánh lừa quân Anh, để rồi liên quân Mỹ - Pháp phong tỏa đất liền trong khi phần biển bị thủy binh Pháp phong tỏa. Trong trận kịch chiến tại Yorktown, Virginia, quân Anh bị đánh bại, Cornwallis thấy vậy phải cho quân ngừng bắn. Sau khi Cornwallis đầu hàng, Anh không còn nỗ lực tìm giải pháp quân sự nữa.
Trong các cuộc đàm phán, phía Mỹ được đại diện bởi một nhóm dưới sự lãnh đạo của Benjamin Franklin, trong đó có John Adams và John Jay. Họ bác bỏ thỏa thuận với Pháp để không thương lượng riêng với Anh Quốc (làm cho Pháp không đòi hỏi được gì từ Anh Quốc) và đã thương lượng được một ranh giới cho Mỹ. Ranh giới này vượt qua dãy Allegehny cho đến tận sông Mississippi và khu vực phía nam Ngũ Đại Hồ, bao gồm một diện tích đất chưa có người ở lớn gần bằng Tây Âu. Thỏa thuận này được gọi là Hiệp ước Paris (1783). Sau đó, vào ngày 11 tháng 9 năm 1785, Hiệp định thương mại và hữu nghị Phổ - Mỹ được nhà vua Friedrich II Đại Đế ký kết. Hiệp định này có hiệu lực 10 năm, qua đó người Mỹ được tự do buôn bán với người Phổ.
Sự hình thành các tổ chức liên bang.
Những Điều khoản Liên hiệp.
Hiệp ước Paris đem lại hòa bình và nền độc lập cho Hoa Kỳ, nhưng với một chính phủ chưa ổn định. Đệ nhị Quốc hội Lục địa đã viết ra Những Điều khoản Liên hiệp trong năm 1777 để làm rõ vai trò của Quốc hội. Các điều khoản này đã tạo ra một liên minh lâu dài, thật sự mà nói về Quốc hội này tuy là tổ chức liên bang duy nhất nhưng ít quyền về tự quản lý tài chính hay thi hành các nghị quyết được đưa ra. Trong thời kỳ khủng hoảng kinh tế hậu chiến, tại một vài tiểu bang các cuộc bạo động về chính trị đã nổ ra thêm vào đó các nỗ lực dùng chính phủ để xóa nợ của các con nợ đã khiến giới lãnh đạo lo lắng. Sự bất lực rõ ràng trong đền bù các món nợ chiến tranh, thêm vào đó Quốc hội không xứng là diễn đàn hợp tác hiệu quả của các tiểu bang nhằm thúc đẩy phát triển thương mại và kinh tế, điều đó làm cho tình hình thêm u ám.
Quốc hội lập hiến.
Một số nỗ lực để tổ chức một phong trào đề cương và đòi hỏi cải cách đã dẫn đến Quốc hội tổ chức một đại hội mới, đã được khai mạc tại Philadelphia, Pennsylvania trong mùa hè năm 1787. Nay được gọi là Quốc hội lập hiến năm 1787, nó có mục đích đơn giản là đưa ra những đề nghị cải cách Những Điều khoản Liên hiệp, nhưng đã bí mật trở thành một hội nghị để viết một hiến pháp mới sau buổi họp đầu tiên. Bản Hiến pháp từ hội nghị kêu gọi thành lập một chính phủ liên bang, với các đặc tính:
Mô hình tổ chức Quốc hội này là nét dung hòa chính của hội nghị, vì các tiểu bang nhỏ muốn vẫn được giữ quyền mỗi Tiểu bang một phiếu (quyền họ đã được có trong các điều khoản của Những Điều khoản Liên hiệp trước đây). Các tiểu bang lớn thì đòi hỏi quyền hạn mỗi Tiểu bang phải được dựa trên dân số và tài nguyên. Để đạt được dung hòa, hội nghị quyết định Thượng nghị viện sẽ là nơi các tiểu bang được đại diện bình quyền, còn số dân biểu vào Hạ nghị viện của mỗi tiểu bang sẽ được tuyển cử theo tổng số địa hạt cử tri (electoral district) với dân số tương đương (như vậy các tiểu bang đông dân sẽ có nhiều địa hạt cử tri và đại biểu hơn các tiểu bang đất rộng nhưng dân thưa).
Ngôn ngữ bản Hiến pháp cũng kêu gọi việc phê chuẩn qua hình thức các Hội nghị Lập hiến của mỗi tiểu bang, được đặc cử vào công việc nầy. Do đó, hội nghị đã gửi bản Hiến pháp nầy về các tiểu bang với yêu cầu cần phải tổ chức các Hội nghị Lập hiến địa phương.
Một số các Tiểu bang nhỏ, dẫn đầu bởi Delaware, chấp nhận bản dự thảo Hiến pháp không chút do dự. Nhưng tại cả hai tiểu bang New York và Virginia, nhất là tại New York, vấn đề này trở thành đề tài bàn cãi sôi nổi.
Virginia, thuộc địa Anh đầu tiên thành công trong việc định cư Bắc Mỹ, là tiểu bang với dân số đông, có truyền thống chính trị lâu đời, và có hàng ngũ lãnh đạo là những người đã cống hiến lớn lao cho cuộc Cách mạng giành độc lập. Riêng New York cũng là một tiểu bang lớn đông đúc dân cư. Với số cảng nằm ở vị trí lý tưởng bên bờ Đại Tây Dương, Tiểu bang nầy sẽ góp phần định đoạt thành công hay thất bại của nước Hoa Kỳ trong tương lai. Thế nhưng quyền lực chính trị địa phương New York lại nằm chặt trong vòng kiểm soát của một số lãnh đạo địa phương có quyền lực lâu đời, mà không có gì cho thấy những người nầy sẽ muốn chia quyền cho các lãnh đạo quốc gia hay những người sẽ nắm chính phủ liên bang.
Hội nghị Phê chuẩn Hiến pháp New York vì thế trở nên tâm điểm của các cuộc tranh luận sôi nổi về đề tài chấp nhận hiến chương.
Việc phê chuẩn hiến chương.
Phe ủng hộ Hiến pháp lấy tên gọi là Nhóm Liên bang (the Federalists), và họ nhanh chóng được lòng toàn dân trong nước. Trong nhóm nầy, nổi tiếng nhất là các ông Alexander Hamilton, James Madison, và John Jay. Ba nhân vật này là những người đóng góp nhiều nhất vào Liên bang Thư tập (Federalist Papers), tên gọi chung của khoảng 85 bài tham luận được đăng trên báo chí New York thời điểm đó. Nhìn từ nhiều góc độ khác nhau, các bài này là các văn kiện lập quốc của Hoa Kỳ. Tuy nhiên, các bài viết này ra đời sau Hội nghị Lập hiến, và chỉ là một phần đóng góp cho cuộc tranh luận ở New York.
Phe thiếu thiện cảm với một chính phủ trung ương nhiều quyền uy lấy tên là Nhóm Phi Liên bang (anti-Federalists). Họ e ngại rằng một chính quyền với quyền thu thuế sẽ nhanh chóng trở nên độc tài và hủ bại như chính phủ thuộc địa Anh trước đây vài thập niên. Trong nhóm nầy, đứng đầu là hai ông Patrick Henry và George Mason. Hai ông rất quan tâm đến việc Hiến pháp hiện chưa có Bộ luật Dân quyền (Bill of Rights).
Điều lý thú nhất là ông Thomas Jefferson—lúc đó đang là đại sứ Mỹ tại Pháp—lại không theo nhóm nào, mà chỉ có thái độ trung lập để đón nhận bất cứ một trong hai đường hướng. Tuy vậy, từ Pháp ông cũng có viết thư về bày tỏ băn khoăn của ông về bản dự thảo Hiến pháp với một bằng hữu—sau nầy là đồng minh của ông—là ông James Madison. Trong khi đó, nhóm Liên bang cũng gây được thêm rất nhiều uy tín và lợi thế khi Đại tướng George Washington, khi đó đang là chủ tịch Hội nghị Lập hiến, lên tiếng ủng hộ lập trường của họ.
Khi được Madison hứa hẹn là sẽ có Bộ luật Dân quyền, Virginia đồng ý phê chuẩn. Tại New York, gia đình Clinton, những người nắm trọn chính trường New York, cũng nhân nhượng phần nào để Alexander Hamilton đạt được thắng lợi phê chuẩn trong hội nghị. Theo dự thảo, Chính phủ liên bang sẽ bắt đầu có hiệu lực tại các tiểu bang đã phê chuẩn một khi có chín Tiểu bang bỏ phiếu thuận. Hiến pháp Hiệp chúng quốc Hoa Kỳ do đó chính thức ra đời khi New Hampshire bỏ phiếu thuận vào ngày 21 tháng sáu, năm 1788. Khi Virginia bỏ phiếu thuận ngày 26 tháng sáu và New York ngày 26 tháng bảy, tổng cộng 11 tiểu bang đã thông qua hiến pháp, trong đó có tất cả các tiểu bang lớn nhất.
Tại Bắc Carolina, Hội nghị phê chuẩn chấm dứt trước khi bỏ phiếu bình bầu. Với đa số đại biểu thuộc phe Phi Liên bang, lại được chủ tọa bởi một người rất ngưỡng mộ ông Jefferson (và vì thế tán đồng với những băn khoăn do dự của ông này như đã nói trên), hội nghị quyết định hoãn lại việc phê chuẩn. Sự đình hoãn này có hiệu lực cho đến khi tân Quốc hội có dự luật cụ thể đưa đến Bô luật Dân quyền, nhằm tu chính Hiến pháp và đảm bảo một số quyền lợi công dân căn bản.
Riêng tiểu bang Đảo Rhode không tổ chức hội nghị phê chuẩn nào trước khi Chính phủ liên bang bắt đầu hoạt động vào tháng 4 năm 1798
Quốc hội sau đó sắp xếp tổ chức cuộc tổng tuyển cử toàn quốc đầu tiên, với kết quả Đại tướng George Washington đắc cử tổng thống, và John Adams đắc cử phó tổng thống. Thành phố New York được chọn làm thủ đô đầu tiên và tạm thời của quốc gia, và ông Washington tuyên thệ nhiệm chức nơi đây tháng 4 năm 1798, tại Liên bang phủ (Federal Hall), hạ-lưu bán đảo Manhattan.
Dưới sự lãnh đạo của James Madison, Quốc hội tiên khởi giữ đúng lời hứa trước đây về luật dân quyền, và đề cử về các tiểu bang 12 tu chính án. Trong số 12 tu chính án nầy, 10 tu chính án sẽ được bỏ phiếu thuận nhanh chóng và trở thành Dự luật Dân quyền, một sẽ không được phê chuẩn, và một sẽ được thông qua sau này dưới tên gọi tu chính án 27.
Được tin Dự luật Dân quyền được thông qua, Bắc Carolina lập tức tái triệu tập hôi nghị phê chuẩn và nhanh chóng thông qua Hiến pháp. Đảo Rhode theo sau và phê chuẩn vào 29 tháng năm, 1790, một tuần trước khi Dự luật Dân quyền chính thức ra đời.
Sự hình thành của hệ thống đa nguyên.
Trong Hiến pháp Hoa Kỳ không có đề cập đến đảng phái chính trị, và nhóm khai quốc (founding fathers) thường xuyên nhạo báng điều mà các ông gọi là "chủ thuyết bè phái", hiện tượng thường gặp ở các chính phủ tiểu bang. Tuy nhiên người ta có thể thấy nhen nhúm trong cuộc tranh luân lập hiến giữa các phe nhóm sự thành phình phôi thai của một hệ thống đa nguyên, sau này sẽ được lộ diện.
Nhóm Liên bang, những người trước đây hô hào lập hiến, trở nên những phần tử đắc lực đưa Chính phủ liên bang vào hoạt động. Riêng nhóm Phi Liên bang, trước vốn đã không có tổ chức vững chắc, sau khi Hiến pháp ra đời nhan chóng tan rã. Tuy nhiên, quan niệm chính trị của họ (về việc tập trung quyền lực về các tiểu bang và việc giảm bớt quyền lực của chính phủ trung ương) vần được lưu truyền và thịnh hành. Những tư tưởng của họ được hấp thụ vào tiến trình thành lập một đảng phái mới, lấy tên đảng Cộng hòa, hay Dân chủ cộng hòa. Đảng này sau đó luôn đóng vai trò đối lập với nhóm Liên bang, và nắm quyền tham chính năm 1800 khi ông Thomas Jefferson đắc cử tổng thống. |
Điện toán () là hoạt động định hướng mục tiêu (goal-oriented activity) nào đó, có yêu cầu, hưởng lợi từ hoặc tạo ra một chu trình toán học được gọi là thuật toán thực hiện bằng máy tính hay còn gọi là máy điện toán.
Điện toán bao gồm thiết kế, phát triển và xây dựng hệ thống phần cứng và phần mềm thuộc máy điện toán; biên tập, tạo cấu trúc và quản lý các loại thông tin; nghiên cứu khoa học trên máy tính; làm cho hệ thống máy tính hoạt động thông minh; tạo ra và sử dụng phương tiện truyền thông và giải trí. Lĩnh vực điện toán bao gồm kỹ thuật máy tính, công nghệ phần mềm, khoa học máy tính, hệ thống thông tin và công nghệ thông tin.
Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. |
Văn hóa (chữ Hán: 文化, Tiếng Latinh: cultura) là khái niệm mang nội hàm rộng với rất nhiều cách hiểu khác nhau, liên quan đến mọi mặt đời sống vật chất và tinh thần của con người.
Văn hoá là những giá trị vật chất và tinh thần còn lại sau thời gian, được cộng đồng xã hội tự nguyện lưu truyền từ đời này sang đời khác thông qua các chuỗi sự kiện trong đời sống hàng ngày.
Trong cuộc sống hằng ngày, văn hóa thường được hiểu là văn học, nghệ thuật như thơ ca, mỹ thuật, sân khấu, điện ả"trung tâm văn hóa" có ở khắp nơi chính là cách hiểu này. Một cách hiểu thông thường khác: "văn hóa" là cách sống bao gồm phong cách ẩm thực, trang phục, cư xử và cả đức tin, tri thức được tiếp nhậ"văn hóa cao", "có văn hóa" hoặc "văn hóa thấp", "vô văn hóa". Trong nhân loại học và xã hội học, khái niệm văn hóa được đề cập đến theo một nghĩa rộng nhất. Văn hóa bao gồm tất cả mọi thứ vốn là một bộ phận trong đời sống con người . Văn hóa không chỉ là những gì liên quan đến tinh thần mà bao gồm cả vật chất.
Văn hóa liên kết với sự tiến hóa sinh học của loài người và nó là sản phẩm của người thông minh ("Homo sapiens"). Trong quá trình phát triển, tác động sinh học hay bản năng dần dần giảm bớt khi loài người đạt được trí thông minh để định dạng môi trường tự nhiên cho chính mình. Đến lúc này, bản tính con người không không còn mang tính bản năng mà là văn hóa. Khả năng sáng tạo của con người trong việc định hình thế giới hơn hẳn bất kỳ loài động vật nào khác và chỉ có con người dựa vào văn hóa hơn là bản năng để đảm bảo cho sự sống còn của chủng loài mình. Con người có khả năng hình thành văn hóa và với tư cách là thành viên của một xã hội, con người tiếp thu văn hóa, bảo tồn nó đồng thời truyền đạt nó từ thế hệ này sang thế hệ khác. Việc cùng có chung một văn hóa giúp xác định nhóm người hay xã hội mà các cá thể là thành viên.
Văn hóa là bao gồm tất cả những sản phẩm của con người, và như vậy, văn hóa bao gồm cả hai khía cạnh: khía cạnh phi vật chất của xã hội như ngôn ngữ, tư tưởng, giá trị và các khía cạnh vật chất như nhà cửa, quần áo, các phương tiện,
Có nhiều định nghĩa khác nhau về văn hóa, mỗi định nghĩa phản ánh một cách nhìn nhận và đánh giá khác nhau. Ngay từ năm 1952, hai nhà nhân loại học Mỹ là Alfred Kroeber và Clyde Kluckhohn đã từng thống kê có tới 164 định nghĩa khác nhau về văn hóa trong các công trình nổi tiếng thế giới . Văn hóa được đề cập đến trong nhiều lĩnh vực nghiên cứu như "dân tộc học", "nhân loại học" (theo cách gọi của Mỹ hoặc "dân tộc học hiện đại" theo cách gọi của châu Âu) , "dân gian học", "địa văn hóa học", "văn hóa học", "xã hội học"... và trong mỗi lĩnh vực nghiên cứu đó định nghĩa về văn hóa cũng khác nhau. Các định nghĩa về văn hóa nhiều và cách tiếp cận khác nhau đến nỗi ngay cả cách phân loại các định nghĩa về văn hóa cũng có nhiều. Một trong những cách đó phân loại các định nghĩa về văn hóa thành những dạng chủ yếu sau đây :
Tóm lại, văn hóa là sản phẩm của loài người, văn hóa được tạo ra và phát triển trong quan hệ qua lại giữa con người và xã hội. Song, chính văn hóa lại tham gia vào việc tạo nên con người, và duy trì sự bền vững và trật tự xã hội. Văn hóa được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác thông qua quá trình xã hội hóa. Văn hóa được tái tạo và phát triển trong quá trình hành động và tương tác xã hội của con người. Văn hóa là trình độ phát triển của con người và của xã hội được biểu hiện trong các kiểu và hình thức tổ chức đời sống và hành động của con người cũng như trong giá trị vật chất và tinh thần mà do con người tạo ra. ::::
Khái niệm về văn hóa: Từ văn hóa có rất nhiều nghĩa. Trong tiếng Việt, văn hóa được dùng theo nghĩa thông dụng để chỉ học thức, lối sống. Theo nghĩa chuyên biệt để chỉ trình độ phát triển của một giai đoạn. Trong khi theo nghĩa rộng, thì văn hóa bao gồm tất cả, từ những sản phẩm tinh vi, hiện đại, cho đến tín ngưỡng, phong tục, lối số
Theo "Đại từ điển tiếng Việt" của Trung tâm Ngôn ngữ và Văn hóa Việt Nam - Bộ Giáo dục và đào tạo, do Nguyễn Như Ý chủ biên, Nhà xuất bản Văn hóa – Thông tin, xuất bản năm 1998, thì: "Văn hóa là những giá trị vật chất, tinh thần do con người sáng tạo ra trong lịch sử".
Trong "Từ điển tiếng Việt" của Viện Ngôn ngữ học, do Nhà xuất bản Đà Nẵng và Trung tâm Từ điển học xuất bản năm 2004 thì đưa ra một loạt quan niệm về văn hóa:
Trong cuốn "Xã hội học Văn hóa" của Đoàn Văn Chúc, Viện Văn hóa và Nhà xuất bản Văn hóa - Thông tin, xuất bản năm 1997, tác giả cho rằng: Văn hóa – vô sở bất tại: Văn hóa - không nơi nào không có! Điều này cho thấy tất cả những sáng tạo của con người trên nền của thế giới tự nhiên là văn hóa; nơi nào có con người nơi đó có văn hóa.
Trong cuốn "Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam", PGS.TSKH Trần Ngọc Thêm cho rằng: Văn hóa là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo và tích lũy qua quá trình hoạt động thực tiễn, trong sự tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên và xã hội của mình.
Theo tổ chức giáo dục và khoa học của Liên Hợp Quốc UNESCO: Văn hóa bao gồm tất cả những gì làm cho dân tộc này khác với dân tộc kia.
Như vậy, có thể thấy rằng: Văn hóa là tất cả những giá trị vật thể do con người sáng tạo ra trên nền của thế giới tự nhiên.
Tiểu văn hóa là văn hóa của các cộng đồng xã hội mà có những sắc thái khác với nền văn hóa chung của toàn xã hội. Người ta thường hay nhắc đến tiểu văn hóa của thanh niên, của một dân tộc ít người nào đó hay tiểu văn hóa của một cộng đồng người dân sinh sống lâu đời ở một nước, , tiểu văn hóa vẫn là một bộ phận của nền văn hóa chung; nó chỉ có những nét khác biệt khá rõ so với nền văn hóa chung, song không đối lập với nền văn hóa chung đó.
Mỗi xã hội đều có những dân tộc và cộng đồng khác nhau, và mỗi cộng đồng nhỏ ấy đều có những mô hình ứng xử riêng, mang đặc trưng của cộng đồng ấy. Những biểu hiện ấy được gọi là "tiểu văn hóa" hay "văn hóa phụ". Các cộng đồng này thường bao gồm những cá nhân có cùng một nền tảng dân tộc hoặc chủng tộc, quốc tịch hoặc tôn giáo, đôi khi đó còn là những nhóm người trong các lĩnh vực nghề nghiệp, lứa tuổ, nhưng giữa các nhóm tiểu văn hóa với toàn xã hội nói chung, vẫn thường xảy ra sự bất đồng nào đó.
Văn hóa nhóm là hệ thống các giá trị, các quan niệm, tập tục được hình thành trong nhóm. Văn hóa nhóm được hình thành từ khi các mối quan hệ trong nhóm được thiết lập và cùng với thời gian các quy chế được hình thành, các thông tin được trao đổi và các thành viên cùng trải qua các sự kiện. Tất cả các nhóm nhỏ đều có văn hóa của mình, nhưng đồng thời cũng là một phần của nền văn hóa toàn xã hội. Như vậy, văn hóa nhóm cho thấy trong nền văn hóa chung còn có thể có những nét riêng biệt của các tập đoàn, các tổ chức xã hội khác nhau. Cũng có những ý kiến cho rằng, văn hóa nhóm dùng để chỉ nền văn hóa riêng nhỏ hơn tiểu văn hóa.
Ở một khía cạnh nào đó, cũng cần phân biệt văn hóa với văn minh. Đây là một vấn đề khá phức tạp và đã từng tồn tại rất nhiều quan niệm khác nhau về sự phân biệt này. Một số nhà xã hội học thì cho rằng, sự gần nhau hay khác nhau giữa văn hóa và văn minh là nằm ở nội dung mà đưa ra hai khái niệm văn hóa và văn minh.
Văn hóa được coi là biểu hiện tinh thần sâu xa của cộng đồng, còn văn minh thì bắt nguồn từ khoa học và thể hiện trước hết ở sự tiến bộ của kỹ thuật, của máy móc, sản xuất. Hoặc có quan điểm khác cho rằng, thực chất, thuật ngữ văn minh là để chỉ toàn bộ những nền văn hóa riêng biệt có nguồn gốc chung hay quan hệ chung, như văn minh phương Tây bao gồm văn hóa Pháp, Anh, Đứ
Một cách nhìn nhận khác, thì coi văn hóa là những khía cạnh trừu tượng hóa của một xã hội riêng biệt. Còn văn minh được chia thành những bậc cao thấp khác nhau. Văn minh bậc cao được coi là một tổng thể văn hóa bao gồm những nét đặc trưng văn hóa quan trọng nhất thấy được trong nhiều xã hội riêng biệt; văn minh phương Tây trong đó có nhiều xã hội có chung một hình thức đặc thù về khoa học, kỹ thuật, nghệ thuậ(văn minh Ai Cập, Trung H).
Cộng tính văn hóa.
Cộng tính văn hóa là khái niệm mô tả khả năng sẵn sàng chấp nhận các hệ giá trị của văn hóa khác của một cộng đồng (hoặc cá nhân) thuộc một văn hóa xác định vào hệ giá trị, bất chấp việc các giá trị mới có thể đối nghịch với hệ giá trị đang tồn tại . Tại Việt Nam, hiện tượng cộng tính văn hóa được thể hiện rõ nét qua sự tồn tại và ảnh hưởng lẫn nhau của tam giáo (hay truyền thống, trường phái tôn giáo và triết học của Nho giáo, Phật giáo, và Đạo giáo). Cho nên hiện tượng cộng tính văn hóa được xem là một đặc tính tiêu biểu của tôn giáo và triết lý tại Việt Nam.
Khái niệm cộng tính văn hóa được xây dựng dựa trên cơ chế mindsponge. Dựa trên cơ chế nạp xả giá trị văn hóa mindsponge, ta có thể hiểu cách mà một cộng đồng (hoặc cá nhân) tiếp thu và loại bỏ các giá trị văn hóa mà họ tiếp xúc có ảnh hưởng quyết định đối với mức độ cộng tính văn hóa của cộng đồng (hoặc cá nhân) đấy . Một cộng đồng (hoặc cá nhân) có thể xem là có cộng tính văn hóa cao nếu như cộng đồng (hoặc cá nhân) đấy chấp nhận được nhiều sự tồn tại và tương tác của nhiều giá trị văn hóa khác nhau cùng lúc. Mức độ cộng tính sẽ giảm đi nếu cộng đồng (hoặc cá nhân) đấy lựa chọn loại bỏ các giá trị văn hóa mâu thuẫn với các giá trị mà họ xem là giá trị văn hóa cốt lõi .
Cơ cấu của văn hóa.
Biểu tượng là bất cứ cái gì mang một ý nghĩa cụ thể được các thành viên của một cộng đồng người nhận biết . Âm thanh, đồ vật, hình ảnh, hành động của con người và cả những ký tự của trang viết nà, thậm chí trái ngược nhau trong những nền văn hóa khác nhau. Gật đầu ở Việt Nam đều được hiểu là đồng ý nhưng ở Bulgaria nó lại có nghĩa là không. Ý nghĩa tượng trưng là nền tảng của mọi nền văn hóa, nó tạo cơ sở thực tế cho những cá nhân trải nghiệm trong các tình huống xã hội và làm cuộc sống trở nên có ý nghĩa. Tuy vậy trong cuộc sống hàng ngày, các thành viên thường không nhận thức được đầy đủ tầm quan trọng của biểu tượng do chúng đã trở nên quá quen thuộc. Khi thâm nhập vào một nền văn hóa khác, với những biểu tượng văn hóa khác người ta có thể thấy sức mạnh của biểu tượng văn hóa. Nếu sự khác biệt đủ lớn, người thâm nhập có thể bị một cú sốc văn hóa. Trong mọi nền văn hóa, con người đều sắp xếp biểu tượng thành ngôn ngữ, đó là hệ thống các ký hiệu có ý nghĩa chuẩn giúp cho các thành viên trong xã hội có thể truyền đạt được với nhau . Ngôn ngữ có ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết, mọi nền văn hóa đều có ngôn ngữ nói nhưng không phải tất cả đều có ngôn ngữ viết. Ở những nền văn hóa có cả hai loại ngôn ngữ thì ngôn ngữ nói cũng khác với ngôn ngữ viết. Ngôn ngữ là phương tiện quan trọng nhất để chuyển giao văn hóa, làm cho văn hóa có thể được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Ngôn ngữ cũng là nền tảng cho trí tưởng tượng của con người do nó được liên kết bởi các ký hiệu một cách gần như vô hạn. Điều đó giúp cho con người có khả năng thay thế được những nhận thức thông thường về thế giới tạo tiền đề cho sự sáng tạo. Ngôn ngữ quan trọng đến mức Edward Sapir và học trò của ông là Benjamin Whorf đã đưa ra giả thuyết (gọi là "Giả thuyết Sapir-Whorf") rằng con người có thể khái niệm hóa thế giới chỉ thông qua ngôn ngữ nên ngôn ngữ đi trước suy nghĩ . Ngôn ngữ ảnh hưởng đến những cảm nhận, suy nghĩ của con người về thế giới đồng thời truyền đạt cho cá nhân những chuẩn tắc, giá trị, sự chấp nhận quan trọng nhất của một nền văn hóa. Chính vì thế, việc du nhập một ngôn ngữ mới vào một xã hội trở thành vấn đề nhạy cảm tại nhiều nơi trên thế giới và là tiêu điểm của các cuộc tranh luận về vấn đề xã hội. Trong quá trình phát triển của xã hội, ngôn ngữ cũng biến đổi: nhiều từ ngữ mất đi, nhiều từ ngữ mới xuất hiện (ví dụ máy tính điện tử ra đời làm xuất hiện những từ ngữ như "bộ nhớ truy cập ngẫu nhiên", "byte"...).
Chân lý chính là tính chính xác, rõ ràng của tư duy. Có người thì cho rằng, chân lý đó là những nguyên lý được nhiều người tán thành thừa nhận. Hay theo quan điểm thực dụng gắn ý nghĩa của chân lý với tính lợi ích thực tế của nó. Hiểu đúng và sâu hơn, thì chân lý là sự phản ánh đúng đắn thế giới khách quan trong ý thức con người. Chân lý là tri thức phù hợp với hiện thực khách quan và được thực tế kiểm nghiệm. Ở khía cạnh xã hội học, chân lý là những quan niệm về cái thật và cái đúng. Chính vì lẽ đó mà xã hội, mỗi nền văn hóa có những cái thật, cái đúng khác nhau. Điều này có nghĩa có những cái mà nền văn hóa này coi là chân lý, thì có thể ở nền văn hóa khác lại bị phủ nhận.
Một cá nhân không thể xây dựng được chân lý. Chân lý chỉ có thể được hình thành thông qua nhóm người. Cá nhân qua tiếp xúc, tương tác với nhóm nhỏ, nhóm lớn hình thành nên những ý kiến cho là đúng, là thật ngày càng có tính khách quan hơn, càng gần hiện thực hơn. Như vậy văn hóa là toàn bộ các chân lý. Chân lý luôn là cụ thể vì cái khách quan hiện thực là nguồn gốc của nó. Những sự vật, những quá trình cụ thể của xã hội, con người luôn tồn tại không tách rời những điều kiện khách quan lịch sử cụ thể. Những điều kiện khách quan thay đổi thì chân lý khách quan thay đổi.
Mỗi một dân tộc đều có những hoàn cảnh lịch sử khác nhau và vì vậy trong nền văn hóa của họ có các bộ phận chân lý khác nhau. Ngay với một dân tộc ở các thời điểm lịch sử khác nhau thì cũng có các chân lý khác nhau.
Giá trị (value) với tư cách là sản phẩm của văn hóa và thuật ngữ giá trị có thể quy vào những mối quan tâm, thích thú, những ưa thích, những sở thích, những bổn phận, những trách nhiệm, những ước muốn, những nhu cầu, những ác cảm, những lôi cuốn và nhiều hình thái khác nữa của định hướng lựa chọn. Khó có một xác định nào mô tả đầy đủ phạm vi và tính đa dạng của những hiện tượng giá trị được thừa nhận. Khoa học xã hội coi giá trị như những quan niệm về cái đáng mong muốn ảnh hưởng tới hành vi lựa chọn. Trong cách nhìn rộng rãi hơn thì bất cứ cái gì tốt, xấu đều là giá trị hay giá trị là điều quan tâm của chủ thể. Giá trị là cái mà ta cho là đáng có, mà ta thích, ta cho là quan trọng để hướng dẫn cho hành động của ta.
Giá trị là những gì mà qua đó thành viên của một nền văn hóa xác định điều gì là đáng mong muốn và không đáng mong muốn, tốt hay không tốt, đẹp hay xấ, các thành viên đều xây dựng quan điểm riêng về bản thân mình và về thế giới dựa trên những giá trị văn hóa. Trong quá trình trưởng thành, con người học hỏi từ gia đình, nhà trường, tôn giáo, giao tiếp xã hộ, thậm chí có những giá trị mà đại đa số các thành viên trong nhiều nền văn hóa đều thừa nhận và có xu hướng trường tồn như tự do, bình đẳng, bác ái, hạnh phú, trong chính bản thân từng cá nhân cũng có xung đột về giá trị chẳng hạn như giữa thành công của cá nhân mình với tinh thần cộng đồng.
Mục tiêu là một trong những yếu tố cơ bản của hành vi và sự hành động có ý thức của con người. Mục tiêu được coi như sự dự đoán trước kết quả của hành động. Đó là cái đích thực tế cần phải hoàn thành. Con người tổ chức mọi hành động của mình xoay quanh những cái đích thực tế đó. Mục tiêu có khả năng hợp tác những hành động khác nhau của con người vào trong một hệ thống, kích thích đến sự xây dựng phương án cho các hành động. Thực tế, tồn tại mục tiêu cá nhân và mục tiêu chung (cộng đồng, xã hội). Mục tiêu chung sinh ra bằng hai con đường: qua sự đồng ý lẫn nhau của các mục tiêu cá nhân trong nhóm, qua sự trùng nhau của một vài mục tiêu cá nhân của các thành viên trong nhóm. Mục tiêu là một bộ phận của văn hóa và phản ánh văn hóa của một dân tộc.
Mục tiêu chịu ảnh hưởng mạnh của giá trị. Giá trị thế nào thì dễ sinh ra mục tiêu như thế, không có giá trị thì cũng không có mục tiêu, giá trị gắn bó với mục tiêu. Tuy nhiên mục tiêu là khác với giá trị.
Chuẩn mực là tổng số những mong đợi, những yêu cầu, những quy tắc của xã hội được ghi nhận bằng lời, bằng ký hiệu hay bằng các biểu trưng, mà qua đó xã hội định hướng hành vi của các thành viên . Trên góc độ xã hội học, những "chuẩn mực văn hóa" quan trọng được gọi là "chuẩn mực đạo đức" và những chuẩn mực văn hóa ít quan trọng hơn được gọi là "tập tục truyền thống". Do tầm quan trọng của nó nên các chuẩn mực đạo đức thường được luật pháp hỗ trợ để định hướng hành vi của các cá nhân (ví dụ: hành vi "ăn cắp" là vi phạm chuẩn mực đạo đức, ngoài việc bị xã hội phản ứng một cách mạnh mẽ, luật pháp còn quy định những hình phạt có tính chất cưỡng chế). Những tập tục truyền thống như quy tắc giao tiếp, ứng xử trong đám đô(ví dụ: người ta có thể huýt gió trong buổi biểu diễn nhạc rock nhưng không làm thế khi nghe "nhạc thính phòng") và thành viên vi phạm tiêu chuẩn bị xã hội phản ứng ít mạnh mẽ hơn (ví dụ: nếu một người mặc quần áo ngủ vào siêu thị mua hàng thì những người xung quanh sẽ dị nghị nhưng gần như chắc chắn không có ai phản đối trực tiếp). Chuẩn mực văn hóa khiến cho các cá nhân có tính tuân thủ và phản ứng tích cực (phần thưởng) hay tiêu cực (hình phạt) của xã hội thúc đẩy tính tuân thủ ấy. Phản ứng tiêu cực của xã hội trước những vi phạm chuẩn mực văn hóa chính là cơ sở của hệ thống kiểm soát văn hóa hay "kiểm soát xã hội" mà qua đó bằng những biện pháp khác nhau, các thành viên của xã hội tán đồng sự tuân thủ những chuẩn mực văn hóa. Ngoài phản ứng của xã hội, phản ứng của chính bản thân cũng góp phần làm cho những chuẩn mực văn hóa được tuân thủ. Quá trình này chính là tiếp thu các chuẩn mực văn hóa, hay nói một cách khác, hòa nhập chuẩn mực văn hóa vào nhân cách của bản thân.
Các loại hình văn hóa.
Văn hóa tinh thần.
Văn hóa tinh thần hay còn gọi là văn hóa phi vật chất là những ý niệm, tín ngưỡng, phong tục, tập quán, giá trị, chuẩn mự, đôi khi có thể phân biệt một giá trị bản chất. Chính giá trị này mang lại cho văn hóa sự thống nhất và khả năng tiến hóa nội tại của nó.
Văn hóa vật chất.
Ngoài các yếu tố phi vật chất như giá trị, tiêu chuẩ"đồ tạo tác" . Những con đường, tòa cao ốc, đền đài, phương tiện giao thông, máy móc thiết bị... đều là "đồ tạo tác". Văn hóa vật chất và phi vật chất liên quan chặt chẽ với nhau. Khảo sát một nền văn hóa có thể thấy văn hóa vật chất phản ánh những giá trị văn hóa mà nền văn hóa đó coi là quan trọng. Ở các nước Hồi giáo, công trình kiến trúc đẹp nhất và hoành tráng nhất thường là thánh đường trong khi ở Mỹ, nó lại là trung tâm thương mại. Văn hóa vật chất còn phản ánh công nghệ hiểu theo khái niệm xã hội học là sự áp dụng kiến thức văn hóa vào sinh hoạt trong môi trường tự nhiên. Tháp Eiffel phản ánh công nghệ cao hơn tháp truyền hình Hà Nội. Ngược lại, văn hóa vật chất cũng làm thay đổi những thành phần văn hóa phi vật chất.
Văn hóa lý tưởng và văn hóa thực tế.
Giá trị và tiêu chuẩn là những gì nên làm, trên thực tế ở những mẫu xã hội, hành vi của các thành viên không hoàn toàn nhất quán với những giá trị, tiêu chuẩn ấy. Những mẫu xã hội nhất quán với giá trị, tiêu chuẩn được gọi là "văn hóa lý tưởng" còn những mẫu xã hội trên thực tế gọi là "văn hóa thực tế". Sự khác biệt giữa văn hóa lý tưởng và văn hóa thực tế tồn tại ở mọi nền văn hóa. Đại đa số người Việt Nam ở đô thị thừa nhận tầm quan trọng của bảo vệ môi trường nhưng một tỷ lệ đáng kể vẫn sẵn sàng vứt rác ra đường phố. Mặt khác, tiêu chuẩn, giá trị thay đổi theo thời gian và có sự khác nhau giữa các nhóm khác nhau trong xã hội nên những mẫu văn hóa trên thực tế cũng khác với văn hóa lý tưởng.
Tính đa dạng văn hóa và văn hóa chung.
Trong một nền văn hóa, sự khác biệt về độ tuổi, điều kiện sống, giai cấp xã hộ, hay còn gọi là "tiểu văn hóa". Người nông thôn có thể cho người thành phố là "giả dối" trong khi họ lại bị người thành phố coi là "người nhà quê". Những thanh niên mê nhạc Hip Hop cũng có lối sống và quan niệm khác hẳn những giáo sư đứng tuổi. Trong hầu hết những xã hội hiện đại đều tồn tại những tiểu văn hóa cấu thành dựa trên sắc tộc. Xã hội Việt Nam được cấu thành bởi các tiểu văn hóa của trên 50 sắc tộc. Tính đa dạng về văn hóa đôi khi gây ra sự mâu thuẫn. Canada là một xã hội có hai "nhóm văn hóa chính", "nhóm văn hóa" tổ tiên người Anh và nhóm văn hóa tổ tiên người Pháp trong đó đa số nói tiếng Anh, thiểu số còn lại nói tiếng Pháp hoặc nói cả hai thứ tiếng. Thiểu số nói tiếng Pháp có một số bất lợi trong một xã hội mà văn hóa của những người nói tiếng Anh thống trị. Mặc dù chính phủ Canada chính thức công nhận hai ngôn ngữ quốc gia, nhưng mâu thuẫn giữa những người nói tiếng Anh và nói tiếng Pháp vẫn tiếp tục mà biểu hiện rõ nét là các cuộc trưng cầu dân ý về việc tách Quebec (nói tiếng Pháp) ra khỏi Canada.
Trong trường hợp một mẫu văn hóa có sự khác biệt với văn hóa thống trị ở một mức độ đáng kể thì trong xã hội học người ta gọi là "văn hóa nghịch dòng" hay "phản văn hóa" . Khi "văn hóa nghịch dòng xuất hiện" thì sẽ xuất hiện vấn đề xem xét lại tiêu chuẩn, đạo đức của văn hóa thống trị và do vậy xã hội có các biện pháp "kiểm soát văn hóa" từ đưa tin một cách tiêu cực trên các phương tiện truyền thông đến can thiệp bằng luật pháp. Nhiều trào trào lưu "văn hóa nghịch dòng" được xuất phát từ giới trẻ như phong trào hippie ở Mỹ những năm 1960 hoặc làn sóng "đầu trọc" hiện nay.
Mặc dù đa dạng nhưng những nền văn hóa có những cung cách thực hành và niềm tin phổ biến nào đó được gọi là "những văn hóa chung" hay "tính phổ biến văn hóa". Nhà nhân loại học nổi tiếng người Mỹ George Murdock (1897–1985) đã liệt kê một danh sách những cái thuộc văn hóa chung như các bộ môn thể thao, nấu ăn, y khoa, lễ tang, những hạn chế và ràng buộc về tình dụ
Văn hóa và ý thức hệ chủ đạo.
Văn hóa và xã hội hòa hợp với nhau và muốn duy trì sự ổn định phải có những giá trị trung tâm và những tiêu chuẩn chung đủ mạnh. Trên một góc độ khác, có thể những giá trị và tiêu chuẩn trung tâm ấy được dùng để duy trì đặc quyền, đặc lợi của một nhóm người trong xã hội. "Ý thức hệ chủ đạo" là một tập hợp các niềm tin và thực tiễn văn hóa giúp duy trì các lợi ích hùng mạnh về kinh tế, xã hội và chính trị. Khái niệm này được những nhà Marxist George Lukacs (người Hungary) và Antonio Gramsci (người Ý) đưa ra lần đầu tiên vào thập niên 1920. Quan điểm này trở nên phổ biến trong xã hội học vào thập niên 1950, tuy nhiên đến đầu thập niên 1970 mới giành được chỗ đứng ở Mỹ. Theo quan điểm của Karl Marx xã hội tư bản có một ý thức hệ thống trị nhằm phục vụ cho lợi ích của các tầng lớp thống trị . Các nhóm và các định chế có quyền lực nhất trong xã hội không chỉ nắm được của cải và tài sản mà còn kiểm soát được ý nghĩa của việc tạo ra các niềm tin về thực tại thông qua tôn giáo, giáo dục và các phương tiện truyền thông đại chúng.
Sự thay đổi văn hóa.
Văn hóa liên tục thay đổi và quá trình này diễn ra rất nhanh chóng do các nguyên nhân chủ yếu sau:
Tuy vậy, các yếu tố văn hóa không phải đều thay đổi ở cùng một mức độ, mặc dù văn hóa vật chất và phi vật chất tác động qua lại với nhau nhưng yếu tố văn hóa vật chất thường thay đổi nhanh hơn. Sự không đồng đều trong thay đổi đó gọi là "độ trễ văn hóa". Công nghệ khiến cho người phụ nữ này có thể sinh con nhờ trứng của một phụ nữ khác thụ tinh trong ống nghiệm rõ ràng đặt ra vấn đề phải hiểu thế nào là tình mẫu tử, tình phụ tử nhưng công nghệ đó thay đổi nhanh hơn những giá trị như tình mẫu tử, tình phụ tử.
Chủ nghĩa vị chủng văn hóa và thuyết tương đối văn hóa.
Trong một nền văn hóa tồn tại nhiều "tiểu văn hóa" và trên Trái Đất của chúng ta lại có rất nhiều nền văn hóa. Văn hóa không chỉ là cơ sở đối với nhận thức của con người về thế giới mà còn đối với vấn đề đánh giá đúng, sai; tốt, xấ:
Mô hình lý thuyết nghiên cứu văn hóa.
Có hai mô hình xã hội học chính được sử dụng để nghiên cứu văn hóa:
Ngoài ra còn có hai mô hình lý thuyết khác được sử dụng để phân tích văn hóa trong đó nhấn mạnh văn hóa được hình thành trong thế giới tự nhiên vì thế được gọi là phân tích văn hóa theo chủ nghĩa tự nhiên: |
Màu sắc là đặc trưng của nhận thức thị giác được mô tả thông qua "các loại" màu, với các tên như đỏ, cam, vàng, xanh lá cây, xanh dương hoặc tím. Nhận thức về màu sắc này xuất phát từ sự kích thích của các tế bào cảm quang (đặc biệt là tế bào hình nón trong mắt người và mắt động vật có xương sống khác) bằng bức xạ điện từ (trong phổ nhìn thấy trong trường hợp của con người).Các loại màu và thông số kỹ thuật vật lý của màu được liên kết với các vật thể thông qua các bước sóng của ánh sáng được phản xạ từ chúng và cường độ của chúng. Sự phản xạ này bị chi phối bởi các tính chất vật lý của vật thể như sự hấp thụ ánh sáng, quang phổ phát xạ,
Bằng cách xác định một không gian màu, màu sắc có thể được xác định bằng số theo tọa độ, mà năm 1931 cũng được đặt tên theo thỏa thuận toàn cầu với các tên màu được quốc tế đồng ý như đã đề cập ở trên (đỏ, cam, ) bởi Ủy ban Chiếu sáng Quốc tế. Các không gian màu RGB ví dụ là một không gian màu sắc tương ứng với 3 lớp màu của con người và các tế bào hình nón ba loại mà đáp ứng với ba dải ánh sáng: bước sóng dài, đạt đỉnh gần 564-580 nm "(màu đỏ);" bước sóng trung bình, đạt cực đại gần 534-545 nm ("màu xanh lá cây"); và ánh sáng bước sóng ngắn, gần 420-440 nm ("màu xanh"). Cũng có thể có nhiều hơn ba kích thước màu trong các không gian màu khác, chẳng hạn như trong mô hình màu CMYK, trong đó một trong các kích thước liên quan đến tính màu sắc của một màu nhất định).
Khả năng cảm thụ hình ảnh của "đôi mắt" của các loài khác cũng thay đổi đáng kể so với con người và do đó dẫn đến nhận thức "màu sắc" tương ứng khác nhau mà không thể dễ dàng so sánh với nhau. Chẳng hạn, ong mật và ong vò vẽ có tầm nhìn màu ba màu nhạy cảm với tia cực tím nhưng không nhạy cảm với màu đỏ. Papilio bướm có sáu loại cơ quan thụ quang và có thể có tầm nhìn 5 lớp màu. Hệ thống thị giác màu phức tạp nhất trong vương quốc động vật đã được tìm thấy trong các loài tôm tít (như tôm bọ ngựa) với tối đa 12 loại thụ thể quang phổ được cho là hoạt động như nhiều đơn vị lưỡng sắc.
Khoa học về màu sắc đôi khi được gọi là khoa học sắc ký, hoặc đơn giản là khoa học màu sắc. Nó bao gồm nghiên cứu về nhận thức màu sắc của mắt và não người, nguồn gốc của màu sắc trong vật liệu, lý thuyết màu sắc trong nghệ thuật và vật lý của bức xạ điện từ trong phạm vi nhìn thấy (nghĩa là, thường được gọi đơn giản là "ánh sáng").
Vật lý của màu sắc.
Các dao động của điện trường trong ánh sáng tác động mạnh đến các tế bào cảm thụ ánh sáng trong mắt người. Có ba loại tế bào cảm thụ ánh sáng trong mắt người, cảm nhận 3 vùng quang phổ khác nhau (tức ba màu sắc khác nhau). Sự kết hợp cùng lúc 3 tín hiệu từ ba loại tế bào này tạo nên những cảm giác màu sắc phong phú. Để tạo ra hình ảnh màu trên màn hình, người ta cũng sử dụng ba loại đèn phát sáng ở 3 vùng quang phổ nhạy cảm của người (xem phối màu phát xạ).
Tế bào cảm giác màu đỏ và màu lục có phổ hấp thụ rất gần nhau, do vậy mắt người phân biệt được rất nhiều màu nằm giữa màu đỏ và lục (màu vàng, màu da cam, xanh nõn chuố). Tế bào cảm giác màu lục và màu lam có phổ hấp thụ nằm xa nhau, nên mắt người phân biệt về các màu xanh không tốt. Trong tiếng Việt, từ "xanh" đôi khi hơi mơ hồ - vừa mang nghĩa xanh lục vừa mang nghĩa xanh lam.
Những cặp màu bổ túc là những cặp màu có tính tương phản mạnh, mà khi kết hợp với nhau đúng tỷ lệ, sẽ tạo ra màu trắng (theo nguyên tắc phối màu cộng) hoặc đen (theo nguyên tắc phối màu trừ). Trong hệ phối màu trừ truyền thống, được các họa sĩ sử dụng lâu nay, những cặp màu bổ túc là:
Những màu này không thể gây cảm giác đồng thời đối với con người, chẳng hạn không thể có một màu gọi là "đỏ - lục" hoặc "vàng - tím". Điều này tương tự cảm giác về nhiệt độ, không có cảm giác nào được gọi là cảm giác "nóng - lạnh", mà là "nóng" hoặc "lạnh".
Trong hệ phối màu cộng thì những cặp màu bổ túc là:
Y học của màu sắc.
Y học hiện nay cho rằng sắc màu làm cho cuộc sống mỗi con người đẹp hơn. Mỗi màu khác nhau và có một ý nghĩa khác nhau. Đây là một thứ do chính thiên nhiên ban tặng.
Màu sắc có 2 cảm giác: màu nóng và màu lạnh.
Các màu có cảm giác nóng là các màu như: đỏ, vàng, cam, hồ
Màu có cảm giác lạnh như: xanh da trời, xanh lá cây, tím nhạ
Riêng màu trắng và đen hội họa không coi đấy là 2 màu.
Phương pháp tái tạo màu trên phim đen trắng được làm như sau: |
Giấy điện tử, là một công nghệ cho phép thay đổi hình ảnh hiển thị hấp thụ trên "giấy". Tờ "giấy" này có thể làm bởi công nghệ điện tử hữu cơ sử dụng chất dẻo dẫn điện bên trong có chứa các hòn bi tích điện bé xíu có thể quay, hoặc chuyển động dưới điện trường tạo ra bởi các điện cực trên giấy, làm thay đổi hiển thị trên giấy như các điểm ảnh trên màn hình máy tính.
Giấy điện tử không phát sáng, mà chỉ hấp thụ và phản xạ ánh sáng tự nhiên, giống như hiển thị trên sách báo, do vậy có thể làm người đọc cảm thấy dễ chịu hơn so với nhìn màn hình máy tính. Làm bằng chất dẻo, giấy này có thể uốn được, nhẹ và có thể rẻ hơn màn hình thông thường. Ngoài ra, các điểm ảnh trên giấy có thể giữ nguyên trạng thái mà không cần nguồn năng lượng, khiến giấy này tiết kiệm năng lượng, và không nhấp nháy tần số cao có thể có hại cho mắt người.
Một số nhược điểm hiện tại của giấy này là tốc độ đổi màu chậm và độ tương phản thấp. Tuy nhiên những nhược điểm này có thể sẽ được tháo gỡ.
Giấy điện tử được phát triển lần đầu vào những năm 1970 bởi Nick Sheridon tại Trung tâm nghiên cứu Palo Alto của Xerox. Tờ giấy điện tử đầu tiên, Gyricon, chứa các hòn bi tích điện bé xíu một mặt trắng và mặt kia đen. Các "chữ" hiện ra nhờ thay đổi điện trường, làm quay các hòn bi theo ý muốn.
Những năm 1990 một loại giấy điện tử khác được phát minh bởi Joseph Jacobson. Giấy này dùng các ống nhỏ chứa các hòn bi trắng nằm trong dầu có màu. Các mạch điện trên giấy điều khiển sự lên xuống của các hòn bi, thay đổi màu sắc của các ống. Joseph Jacobson gây dựng nên công ty E Ink năm 1997 để sản xuất giấy điện tử thương mại. Năm 1999, sản phẩm đầu tiên ra đời là một bảng hiển thị trong siêu thị. E Ink tiếp tục phát triển các phiên bản dùng bi đen và trắng trong dầu trong suốt.
Ngày nay có nhiều kỹ thuật khác nhau được phát triển bởi nhiều công ty trong lĩnh vực.
Ví dụ như thay đổi công nghệ LCD, hiển thị điện màu, và công nghệ tương tự Etch-A-Sketch của Đại học Kyushu. Các công ty trong ngành hiện nay là Gyricon (con đẻ của Xerox), Philips Electronics, Kent Displays, N
Tháng 4, 2004, Sony cho ra mắt màn hiển thị giấy điện tử thương mại đầu tiên, LIBRIé.
[[Thể loại:Phát minh của Hoa Kỳ]]
[[Thể loại:Kỹ thuật điện tử]]
[[Thể loại:Công nghệ hiển thị]] |
Séc (tiếng Séc: "Česko"), tên chính thức là Cộng hòa Séc ( ), là quốc gia nội lục thuộc khu vực Trung Âu và giáp Ba Lan, Đức, Áo và Slovakia. Thủ đô và thành phố lớn nhất của quốc gia là Praha với hơn 1,3 triệu dân cư ngụ tại đây. Cộng hòa Séc là quốc gia đa đảng theo chế độ cộng hòa đại nghị. Tổng thống là người đứng đầu nhà nước, còn thủ tướng là người đứng đầu chính phủ. Quốc hội có hai viện gồm thượng viện và hạ viện. Cộng hòa Séc gia nhập NATO vào năm 1999 và trở thành thành viên của Liên minh châu Âu từ năm 2004. Ngày 21 tháng 12 năm 2007, Cộng hòa Séc đã thông qua Hiệp ước Schengen, tạo điều kiện thuận lợi hơn cho việc đi lại và du lịch vào nước này. Ngoài ra, Cộng hòa Séc là thành viên của các tổ chức OECD, OSCE, Ủy hội châu Âu và Nhóm Visegrád.
Lãnh thổ Cộng hòa Séc bao gồm các vùng đất đã từng tồn tại trong lịch sử là Bohemia, Morava và 1 phần Silesia. Séc trở thành bộ phận của Đế quốc Áo và Đế quốc Áo-Hung trong hàng thế kỉ cho đến năm 1918 khi Séc cùng với Slovakia tuyên bố thành lập nước Tiệp Khắc. Trong Chiến tranh thế giới thứ hai, Tiệp Khắc bị phát xít Đức chiếm đóng. Sau đó, nước này trở thành quốc gia xã hội chủ nghĩa cho đến năm 1989 khi cuộc Cách mạng Nhung diễn ra đưa đất nước trở về tiến trình dân chủ. Ngày 1 tháng 1 năm 1993, một cuộc ly khai đã diễn ra, Tiệp Khắc lại tách thành 2 quốc gia độc lập là Séc và Slovakia.
Tên gọi cũ trong tiếng Anh của Cộng hòa Séc là "Bohemia" biến đổi từ tiếng Latinh "Boiohaemum" có nghĩa là "quê hương của người Boii". Tên gọi Séc hiện tại lấy từ tên "Čechy" chuyển hóa từ cách phát âm "Cžechy" của Ba Lan.
Sau khi Tiệp Khắc ("Československo" trong tiếng Séc hay "Czechoslovakia" trong tiếng Anh), 1 liên bang bao gồm Séc và Slovakia giải thể thành 2 quốc gia riêng biệt, Séc không có tên gọi chính thức trong tiếng Anh. Năm 1993, Bộ Ngoại giao Cộng hòa Séc đề nghị tên Czechia như là tên thay thế chính thức cho tất cả trường hợp không phải là các văn bản chính thức và tên gọi của cơ quan chính quyền nhưng tên gọi này không sử dụng rộng rãi trong các văn bản tiếng Anh như là Czech Republic.
Tháng 4 năm 2016 chính phủ Séc dự định sẽ đề nghị lên Liên Hợp Quốc về việc coi "Czechia" là 1 trong những tên gọi chính trong cơ sở dữ liệu địa lý.
Tên "Séc" trong tiếng Việt là phiên âm của từ "tchèque" trong "République tchèque" ("Cộng hòa Séc") từ tiếng Pháp (nếu không dùng kèm từ "République" - "Cộng hòa" thì nước này trong tiếng Pháp gọi là "Tchéquie", đọc phiên âm như là "Séc-ki"). Hiện tại trong tiếng Trung, Séc vẫn được gọi là Tiệp Khắc (捷克) lấy chữ Hán có âm Quan thoại gần giống ("Jiékè") để phiên âm từ quốc hiệu "Česko". Tuy nhiên "Tiệp Khắc" hay "Tiệp" trong tiếng Việt hiện dùng để chỉ nhà nước liên bang cũ của Séc và Slovakia hoặc các chính thể tương tự.
Các nhà khảo cổ học đã tìm thấy bằng chứng của người tiền sử sinh sống tại vùng đất ngày nay là Cộng hòa Séc. Từ thế kỷ thứ III trước Công nguyên, các bộ tộc Celt, Boii đã đến Séc định cư. Đến thế kỷ I, các bộ tộc Marcomanni và Quani tại vùng đất thuộc Đức ngày nay cũng đến sinh sống tại vùng đất này. Trong suốt Giai đoạn Di cư tại châu Âu vào thế kỷ 5, các bộ lạc thuộc Đức đã rời khỏi vùng đất Séc và di tản ra các vùng đất ở phía Đông và phía Tây.
Người Slav từ vùng Biển Đen-Karpat định cư tại đây (do các cuộc tấn công từ vùng Siberia và các bộ lạc Đông Âu: Hung, Avar, Bulgar và Magyar). Vào thế kỷ 6 họ di cư tới các vùng đất tại phía Nam như Bohemia, Moravia và 1 số vùng đất mà ngày nay thuộc về lãnh thổ Áo. Trong suốt thế kỷ VII, thương gia Samo đến từ vùng Francia đã lãnh đạo và ủng hộ cuộc khởi nghĩa của người Slav để chống lại tộc người Avar năm 623, trở thành người thống trị của Vương quốc Slav đầu tiên. Đây là tổ chức chính quyền đầu tiên của người Slav nhưng thực tế đây là 1 liên minh của 1 số bộ lạc chứ không thực sự là 1 quốc gia quân chủ chuyên chế.
Sau khi Đế chế của vua Samo tan rã, người Moravia và Nitra đã thành lập các công quốc mới. Năm 833, Mojmir I của Moravia đã tấn công và sáp nhập công quốc Nitra, lập ra 1 công quốc duy nhất là Đại Moravia ("Velká Morava").
Năm 846, Mojmir I nhường ngôi cho người cháu của mình là Rastislav (846-870). Dưới thời Rastislav, 1 cuộc cải cách văn hóa đã diễn ra khi 2 nhà truyền giáo Kyrillô và Mêthôđiô bị người này mời đến Đại Moravia để truyền bá đạo Thiên chúa vào đất nước này. Họ cũng góp công trong việc xây dựng bảng chữ cái của người Slav tức bảng ký tự Cyril.
Dưới thời vua Svatopluk I, Đại Moravia đạt tới sự mở rộng lớn nhất về diện tích. Lãnh thổ của nó trải dài trên các vùng đất ngày nay là Hungary, Ba Lan, Áo, Đức, Serbia, Slovenia, Croatia và Ukraina. Về sau, những cuộc chiến tranh với Đế chế Frank đã làm cho Đại Moravia suy yếu và những người Hungary xâm lược đã khiến đất nước tan rã vào đầu thế kỷ 10.
Thời kỳ Trung cổ.
Năm 995, công quốc Bohemia thành lập dưới sự lãnh đạo của vương triều Premyslid, thành viên của 1 bộ tộc tên là Séc. Vương triều Premyslid đã thống nhất các vương triều Séc khác và thành lập 1 chính quyền trung ương.
Đầu thế kỷ XI, công quốc Bohemia đã chinh phục nước Đại Moravia. Tuy Moravia vẫn là 1 lãnh địa tách biệt của Bohemia song nước này lại bị cai trị bởi 1 trong những người con trai của vua Bohemia.
Vào năm 1306, dòng họ Premyslid không có người kế vị. Sau những cuộc chiến giành quyền lực, dòng họ Luxemburg đã đoạt được ngôi vua Bohemia. Vị vua thứ 2 của triều đại Luxemburg là Karel IV (1342-1378, "Charles" trong tiếng Anh và tiếng Pháp, "Karl" trong tiếng Đức) đã thay đổi đất nước Bohemia. Năm 1344, người này nâng chức Giám mục của thành phố Praha lên thành tổng Giám mục đồng thời kiềm chế quyền lực của các quý tộc Séc và đưa Bohemia, Moravia trở thành các quận hành chính và đưa Brandenburg (tới năm 1415), Lusatia (tới năm 1635), Silesia (tới năm 1742) vào quyền kiểm soát của Séc. Karel IV cũng tạo ra các công trình xây dựng như lâu đài Praha và cầu Karl. Karel IV cũng thành lập Đại học Karl ở Praha ("Univerzita Karlova") năm 1348 với mong muốn biến Praha thành 1 trung tâm học vấn của châu Âu.
Vào thế kỷ XV, 1 cuộc chiến tranh tôn giáo đã diễn ra tại Séc, lịch sử gọi là cuộc Chiến tranh Hussite. Séc suy yếu và đến năm 1526 đã bị sáp nhập vào đế chế Habsburg.
Thời kỳ thuộc triều đại Habsburg.
Sau khi bị sáp nhập vào Đế chế Habsburg, người Séc bắt đầu bị đồng hóa. Tiếng Séc bị cấm sử dụng và tiếng Đức trở thành ngôn ngữ chính thức ở Séc.
Năm 1618, người Bohemia đã nổi dậy chống lại triều đình Habsburg. Họ đã chọn 1 người theo đường lối của Jean Calvin là Frederick của Palatinate ("Fridrich Falcký") lên ngôi. Nhưng đến ngày 6 tháng 11 năm 1620, quân đội Séc bị đánh bại tại Trận Núi Trắng ("Bitva na Bílé hoře"). Chiến tranh Ba mươi năm (1618-1648) đã phá hủy phần lớn những làng mạc, thành phố của Bohemia.
Đến thời nữ hoàng Maria Theresa và con trai, vua Joseph II, những người chịu ảnh hưởng của Thời đại Khai sáng, tình hình Bohemia bắt đầu có những chuyển biến. Tuy chính sách đồng hóa vẫn không thay đổi nhưng tình hình xã hội, giáo dục đã cải thiện cho người Séc. Vào thế kỷ XIX, chủ nghĩa bành trướng của Pháp dưới thời vua Napoleon I đã kích thích tinh thần phục hưng dân tộc của người Séc. Tầng lớp trí thức mới hơn đã đóng vai trò nhất định trong việc phục hưng và phát triển ngôn ngữ dân tộc. Tháng 2 năm 1848, cuộc Cách mạng tháng 2 ở Pháp đã làm bùng nổ cao trào cách mạng tư sản lan khắp châu Âu. Vào ngày 12 tháng 6 năm 1848, khởi nghĩa của những người dân chủ cấp tiến và sự hưởng ứng của nhân dân đã bùng nổ tại Praha và đến ngày 17 tháng 6, cuộc khởi nghĩa bị dập tắt.
Năm 1867, nhà nước quân chủ lưỡng hợp Áo-Hung ra đời trong đó Séc nằm trong tầm ảnh hưởng của Áo. Vào những năm ở nửa sau của đế chế Áo-Hung, tình hình giữa người Séc và người Đức ở Bohemia trở nên căng thẳng hơn. Mối quan hệ xấu đi giữa các dân tộc trong đế chế đã đẩy nhanh hơn sự sụp đổ của quốc gia này. Năm 1900, Tomáš Garrigue Masaryk người sau này trở thành tổng thống Tiệp Khắc đã thành lập Đảng Tiến bộ Séc. Ý tưởng về quốc gia kết hợp giữa hai dân tộc Séc và Slovakia bắt đầu hình thành.
Sau khi Chiến tranh thế giới thứ nhất kết thúc cùng với sự sụp đổ của Đế chế Áo-Hung, ngày 28 tháng 10 năm 1918, Cộng hòa Tiệp Khắc (bao gồm Séc và Slovakia ngày nay) tuyên bố độc lập. Hiệp ước St. Germain bị ký kết vào tháng 9 năm 1919 đã chính thức công nhận nền cộng hòa mới của Tiệp Khắc. Sau đó, Ruthenia cũng sáp nhập vào Tiệp Khắc vào tháng 6 năm 1920. Quốc gia Tiệp Khắc mới thành lập có dân số khoảng 13,5 triệu người, thừa hưởng 70-80% các cơ sở công nghiệp của Áo-Hung. Lúc đó Tiệp Khắc nằm trong 10 nước công nghiệp hóa nhất thế giới.
Trước chiến tranh thế giới thứ hai, chính quyền phát xít ở Đức bắt đầu đe dọa tiến hành xâm lược Trung Âu. Sau khi sáp nhập nước Áo vào lãnh thổ Đức, Tiệp Khắc trở thành mục tiêu tiếp theo của phát xít Đức. Tháng 4 năm 1938, Đức nêu yêu sách đòi vùng đất Sudetenland của Tiệp Khắc. Ngày 29 tháng 9 năm 1938, Hiệp ước München bị ký kết. Anh, Pháp vì không muốn chiến tranh với Đức đã quyết định vứt bỏ liên minh quân sự với Tiệp Khắc. Và hậu quả là đến ngày 16 tháng 3 năm 1939, toàn bộ lãnh thổ Tiệp Khắc đã bị Đức chiếm đóng. Trong những năm Chiến tranh thế giới thứ hai, khoảng 390.000 người dân thành thị trong đó có 83.000 người Do Thái đã bị giết hại hoặc bị hành quyết. Hàng trăm ngàn người đã bị đưa vào các nhà tù và các trại tập trung để làm việc. Chiến tranh kết thúc vào ngày 9 tháng 5 năm 1945 với việc cuộc khởi nghĩa Praha lật đổ ách thống trị của phát xít Đức thành công và quân đội Liên Xô và Hoa Kỳ tiến vào Tiệp Khắc.
Từ năm 1945-1946, đa phần người Đức thiểu số (khoảng 2,7 triệu người) đã bị trục xuất khỏi Tiệp Khắc sang Đức và Áo. Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, Đảng Cộng sản Tiệp Khắc phát triển nhanh hơn do sự thất vọng của người Tiệp Khắc đối với phương Tây vì đã vứt bỏ họ trong Hiệp ước München và do ảnh hưởng ngày càng mạnh của Liên Xô. Trong cuộc bầu cử năm 1946, Đảng Cộng sản đã giành tỉ lệ phiếu 38%, trở thành chính đảng lớn nhất và chính thức cầm quyền từ tháng 2 năm 1948. Sau đó, Đảng Cộng sản Tiệp Khắc đã xây dựng 1 chính quyền toàn cộng sản.
Sau khi nắm quyền, Đảng Cộng sản Tiệp Khắc đã quốc hữu hóa các ngành kinh tế, xây dựng nền kinh tế kế hoạch. Kinh tế tăng trưởng nhanh hơn trong thập niên 1950 và thập niên 1960 sau đó bắt đầu giảm sút từ thập niên 1970 và rơi vào khủng hoảng hơn. Chính quyền cộng sản trở nên thiếu dân chủ hơn. Năm 1968, phong trào Mùa Xuân Praha bùng nổ đòi mở rộng tự do dân chủ và thực hiện đa nguyên chính trị song sau đó bị quân đội Liên Xô đàn áp và dập tắt.
Tháng 11 năm 1989, cuộc Cách mạng Nhung lụa đưa Tiệp Khắc trở lại quá trình dân chủ. Ngày 1 tháng 1 năm 1993, Tiệp Khắc diễn ra cuộc "chia li trong hòa bình". 2 dân tộc Séc và Slovakia tách ra thành lập 2 quốc gia mới là Cộng hòa Séc và Cộng hòa Slovakia.
Cộng hòa Séc (từ 1993).
Sau khi lại trở thành 1 quốc gia độc lập vào năm 1993, quốc hội Cộng hòa Séc đã quyết định giữ nguyên lá cờ của Liên bang Tiệp Khắc cũ làm lá cờ của Cộng hòa Séc. Cùng năm đó, nước này gia nhập Liên Hợp Quốc. Đến năm 1995, Cộng hòa Séc trở thành thành viên của Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD) và Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). Ngày 12 tháng 3 năm 1999, Cộng hòa Séc gia nhập NATO. Vào năm 2004, cùng với 9 quốc gia Đông Âu và Nam Âu khác, Cộng hòa Séc đã trở thành thành viên của Liên minh châu Âu. Kinh tế Cộng hòa Séc đi theo nền kinh tế thị trường và đã trên đà phát triển song vẫn đối mặt với những mạo hiểm và thách thức.
Hệ thống chính trị.
Cộng hòa Séc là quốc gia đa đảng theo chế độ dân chủ nghị viện. Theo hiến pháp, tổng thống là người đứng đầu nhà nước còn thủ tướng là người điều hành chính phủ.
Tổng thống Cộng hòa Séc do Quốc hội bầu với nhiệm kỳ 5 năm. Theo Hiến pháp, tổng thống không được phép nắm quá 2 nhiệm kỳ liên tiếp. Tổng thống có vai trò chủ yếu về mặt nghi thức song cũng có thể dừng thông qua 1 đạo luật hoặc giải tán quốc hội trong những trường hợp đặc biệt. Cộng hòa Séc đã thông qua bộ luật về việc bầu cử tổng thống trực tiếp tức là tổng thống sẽ do dân bầu ra chứ không do Quốc hội.
Thủ tướng Cộng hòa Séc là người đứng đầu chính phủ. Thủ tướng nắm trong tay 1 số quyền lực như quyết định các vấn đề đối nội và đối ngoại, triệu tập quốc hội và chọn ra các bộ trưởng của chính phủ.
Quốc hội của Cộng hòa Séc tổ chức theo mô hình lưỡng viện bao gồm hạ viện và thượng viện. Hạ viện ("Poslanecká sněmovna") gồm 200 ghế còn thượng viện ("Senát") bao gồm 81 ghế. Tại Cộng hòa Séc có 14 khu vực bầu cử tương ứng với 14 khu vực hành chính của cả nước.
Tòa án Hiến pháp (hay Tòa án Lập pháp) của Cộng hòa Séc gồm có 15 thành viên và có nhiệm kỳ 10 năm. Các thành viên của Tòa án Hiến pháp do tổng thống chỉ định và thông qua bởi thượng viện.
Là quốc gia đa đảng, chính trường Cộng hòa Séc có sự tham gia của các đảng phái. Chẳng hạn trong kỳ bầu cử vào Hạ viện Quốc hội Séc tiến hành ngày 28 và 29 tháng 5 năm 2010 đã có 27 đảng phái và tổ chức chính trị đăng ký tham gia. 2 đảng có ảnh hưởng lớn nhất ở Cộng hòa Séc là Đảng Dân chủ Công dân ("Občanská demokratická strana") và Đảng Xã hội Dân chủ Séc ("Česká strana sociálně demokratická").
Quân đội Séc gồm có lục quân, không quân và lực lượng hậu cần đặc biệt. Quân đội Séc là 1 phần của Quân đội Tiệp Khắc trước kia vốn là 1 trụ cột của Hiệp ước Warsaw cho đến năm 1989. Từ khi gia nhập NATO vào ngày 12 tháng 3 năm 1999, lực lượng quân đội Séc đã có những sự thay đổi đa phương diện. Tuy số lượng binh lính giảm xuống còn khoảng 67.000 nhưng về mặt chất lượng lại nâng cao và trình độ tổ chức chuyên nghiệp hơn. Năm 2004, chế độ nghĩa vụ quân sự bắt buộc bị giải thể.
Lực lượng quân đội Séc ngoài nhiệm vụ phòng thủ, bảo vệ đất nước còn tham gia lực lượng gìn giữ hòa bình của Liên Hợp Quốc tại Iraq, Afghanistan, Bosna và Hercegovina, Kosovo. Năm 2005, ngân sách quốc phòng của Cộng hòa Séc đạt khoảng hơn 2 tỉ USD chiếm 1,81% GDP.
Bắt đầu từ năm 2000, Cộng hòa Séc chia thành 13 khu vực ("kraje" hoặc "kraj") và 1 thủ đô. Mỗi khu vực có 1 Hội đồng Địa phương ("krajské zastupitelstvo") bầu chọn qua bầu cử và người lãnh đạo riêng ("hejtman"). Ở Praha, quyền lực do Hội đồng Thành phố và thị trưởng của Praha thi hành.
Mỗi khu vực nói trên của Cộng hòa Séc bị coi là 1 vùng cấp 3 của Liên minh châu Âu. Trong khi đó, toàn bộ lãnh thổ Cộng hòa Séc bị coi là 1 vùng cấp 2 của Liên minh châu Âu. ("Xem Các vùng của Liên minh châu Âu")
Về mặt địa lý, Cộng hòa Séc nằm ở khu vực Trung Âu còn theo phân loại của Liên Hợp Quốc thì nước này thuộc khu vực Đông Âu. Về mặt lịch sử và văn hóa, Cộng hòa Séc bị xem là có liên hệ gần gũi hơn với các nước Đông Âu đặc biệt là trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh.
Diện tích Cộng hòa Séc xếp hàng thứ 115 thế giới (xem "Danh sách quốc gia theo diện tích"). Tổng diện tích của nước này là 78.886 km², trong đó phần đất chiếm 77.276 km² và phần nước chiếm 1.590 km². Do bị bao quanh bởi các quốc gia khác nên Cộng hòa Séc không giáp biển. Nước này có chung đường biên giới 1.881 km với các nước Đức về phía tây, Ba Lan về phía đông bắc, Slovakia về phía đông nam và Áo về phía nam.
Về mặt lịch sử, lãnh thổ Cộng hòa Séc có thể chia làm 3 vùng lịch sử: Bohemia, Moravia và Silesia. Silesia chỉ có 1 phần lãnh thổ ở Cộng hòa Séc.
Địa hình nước này có thể chia thành 2 miền chính: Bohemia ở phía tây và Moravia ở phía đông. Địa hình Bohemia có cấu trúc như 1 bồn địa gồm những đồng bằng và cao nguyên bao bọc xung quanh bởi những dãy núi như dãy Karkonosze và dãy Sudeten. Đỉnh núi Snezka tại Bohemia và ngọn núi cao nhất Cộng hòa Séc (1602 m). Trong khi địa hình Bohemia bằng phẳng hơn thì ngược lại, địa hình Moravia chủ yếu là đồi núi. Cộng hòa Séc là nơi bắt nguồn của sông Elbe, sông Vltava ở xứ Bohemia và sông Morava ở xứ Moravia. Các con sông của nước này chảy vào các biển khác nhau như: biển Bắc, biển Baltic và biển Đen.
Về khoáng sản, Cộng hòa Séc có 1 số tài nguyên như than đá, than chì, cao lanh, đất sét, gỗ xây dự
Cộng hòa Séc nằm trong khu vực khí hậu ôn hòa. Do nằm sâu trong lục địa và không còn chịu các tác động của biển nên Cộng hòa Séc có khí hậu ôn đới lục địa, 1 nguyên nhân gây ra sự chênh lệch giữa thời tiết mùa hạ và mùa đông tại nước này. Sự đa dạng của địa hình cũng góp phần làm nên sự đa dạng của các kiểu khí hậu khác nhau tại Cộng hòa Séc.
Nhìn chung trên toàn lãnh thổ Cộng hòa Séc, khí hậu về mùa đông không khắc nghiệt như 1 số nước. Nhiệt độ trung bình thấp nhất tại nước này vào tháng 1, tháng lạnh nhất trong năm là -5,4 °C. Tuyết thường rơi nhiều hơn tại 1 số vùng núi nhưng tan nhanh hơn tại các vùng thấp hơn của Cộng hòa Séc khiến cho mùa đông ở nước này ẩm hơn. Khi mùa đông kết thúc, băng tuyết tan chảy làm mực nước các con sông dâng lên và thỉnh thoảng có thể gây lũ. Mùa hè tại Cộng hòa Séc có nhiệt độ trung bình cao nhất vào tháng 7, tháng nóng nhất tại Cộng hòa Séc là 23,3 °C. Mùa hè tại nước này có nhiều mưa hơn 1 số nước. Những trận bão từ Đại Tây Dương có thể tràn vào nước này cũng mang theo 1 lượng mưa bổ sung. Nhiệt độ và lượng mưa giảm dần về mùa thu và các rừng cây bắt đầu rụng lá.
Dân số Cộng hòa Séc từng rơi vào khoảng 10,3 triệu người. Dân số tại đây đã có những biến động. Số liệu thống kê năm 1857 cho thấy dân số của vùng đất Séc lúc đó là khoảng 7 triệu người. Sau đó con số này tăng dần qua các năm và đến đầu thế kỷ 20 thì đạt xấp xỉ 9,4 triệu dân. Sang năm 1910, dân số của Séc vượt qua ngưỡng 10 triệu. Các cuộc Chiến tranh thế giới thứ nhất và Chiến tranh thế giới thứ hai đã khiến cho dân số của nước này giảm sút. Sau chiến tranh, số lượng nhân khẩu của nước này tiếp tục phục hồi. Hiện nay dân số Cộng hòa Séc lại có chiều hướng giảm xuống tuy phần nào đỡ hơn 1 số nước Đông Âu khác. Theo báo cáo dân số năm 2006 của Liên Hợp Quốc, tốc độ tăng dân số của Cộng hòa Séc là -0,03%. Nguyên nhân là do tỉ lệ sinh của nước này giảm cùng với việc Cộng hòa Séc gia nhập EU năm 2004 làm xuất hiện dòng người nhập cư sang các nước phát triển hơn ở Tây Âu kiếm sống.
Đa phần dân cư của Cộng hòa Séc là người Séc chiếm tỉ lệ 95%. Bên cạnh đó, tại Séc còn có các cộng đồng dân tộc thiểu số khác như người Slovakia, người Đức, người Ba Lan, người Hungary, người Việt Nam. Sau khi Liên bang Tiệp Khắc tan rã, 1 bộ phận người Slovakia vẫn tiếp tục ở lại Cộng hòa Séc và trở thành nhóm sắc tộc thiểu số lớn nhất nước này, chiếm 3% dân số. Xếp tiếp sau đó là người Ba Lan. Ở Cộng hòa Séc có 1 số trường tiểu học và trung học cơ sở dạy tiếng Ba Lan. Trước kia, người Đức chiếm 1 tỉ lệ lớn hơn trong dân số Séc nhưng sau khi Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, chính quyền Tiệp Khắc đã ra lệnh trục xuất khoảng 3 triệu người Đức ra khỏi lãnh thổ nước này. Ngày nay cộng đồng người Đức tại Séc có nguy cơ bị đồng hóa do tiếng Đức không phổ biến bằng 1 số ngôn ngữ khác tại đây.
Bên cạnh các dân tộc có nguồn gốc từ các quốc gia láng giềng trong khu vực còn có 1 số dân tộc khác mới nhập cư vào Séc trong thế kỷ XX. Khi cuộc nội chiến Hy Lạp xảy ra, 1 số người Hy Lạp đã chạy sang Tiệp Khắc đầu tiên là những trẻ em tị nạn vào năm 1948-1949 rồi tiếp đó là thân nhân và cả những người cánh tả tại Hy Lạp. Cộng đồng người gốc Á lớn nhất tại Cộng hòa Séc là người Việt Nam. Người Việt Nam đến Tiệp Khắc lần đầu vào năm 1956 để du học theo thỏa thuận về giáo dục giữa hai chính phủ cộng sản lúc bấy giờ. Số người Việt Nam nhập cư vào Cộng hòa Séc tăng nhanh hơn cho đến khi chế độ xã hội chủ nghĩa tại nước này sụp đổ vào năm 1989. Thế hệ đầu tiên của người Việt Nam tại đây chủ yếu kinh doanh trong những cửa hàng còn thế hệ người Việt tiếp theo sinh ra tại Séc có những thành tích học tập nhất định. Trong năm 2009, có khoảng 70.000 người Việt tại Cộng hòa Séc. Ngày 3 tháng 7 năm 2013, chính phủ Cộng hòa Séc công nhận cộng đồng người Việt tại Séc trở thành dân tộc thứ 14 của quốc gia này.
Người Do Thái từng có 1 cộng đồng lớn hơn tại Cộng hòa Séc nhưng đa phần họ trong Thế chiến Thứ 2 đã bị Đức Quốc Xã tàn sát. Tại Séc những nét văn hóa của người Do Thái đã được gìn giữ đặc biệt là tại thủ đô Praha.
Khái quát lịch sử.
Vào thế kỷ XIX, hai vùng đất Bohemia và Moravia của Cộng hòa Séc ngày nay là trung tâm công nghiệp chính của Đế chế Áo-Hung. Vì vậy sau khi Đế chế Áo-Hung sụp đổ sau Chiến tranh thế giới thứ nhất, nước này đã thừa kế một phần lớn những cơ sở công nghiệp. Vào thời điểm đó, Tiệp Khắc được đánh giá là một nước có cơ sở hạ tầng tốt với trình độ dân trí cao song nhiều nhà máy và thiết bị của nước này có phần lạc hậu hơn so với các nước tư bản Tây Âu. Trong thời kỳ xã hội chủ nghĩa, kinh tế Tiệp Khắc tương đối phát triển và gắn bó chặt chẽ với Liên Xô. Nhưng đến năm 1991, chế độ xã hội chủ nghĩa tại Liên Xô và Đông Âu sụp đổ đã khiến cho nền kinh tế Séc mất đi nhiều thị trường lớn ở phía đông và rơi vào khủng hoảng.
Cuộc Cách mạng Nhung lụa diễn ra vào năm 1989 đã tạo điều kiện cho sự thay đổi căn bản toàn bộ nền kinh tế Séc. Tháng 1 năm 1991, "liệu pháp sốc" đã mang đến những thay đổi rất lớn: 95% các mặt hàng không còn chịu kiểm soát giá cả của nhà nước, lạm phát hạ xuống dưới 10%, tỉ lệ thất nghiệp thấp, thâm hụt ngân sách và nợ nước ngoài giảm đáng kể và đáng chú ý nhất là sự chuyển đổi trọng tâm hợp tác kinh tế từ Đông sang Tây. Cộng hòa Liên bang Đức, Hà Lan và Mỹ trở thành những nhà đầu tư lớn nhất tại Cộng hòa Séc. Sự chuyển đổi đó cũng yêu cầu những cải cách mạnh mẽ về luật pháp và hành chính nhằm tạo điều kiện thuận lợi hơn nữa cho đầu tư và phát triển. Ngân hàng và bưu chính viễn thông được quan tâm đẩy mạnh. Về tài chính, từ năm 1995, tỷ giá hối đoái giữa đồng koruna của Cộng hòa Séc và đôla Mỹ đã được thiết lập một cách ổn định. Sự tư nhân hóa ồ ạt nền kinh tế cũng diễn ra với tốc độ chóng mặt: năm 1998, đã có đến hơn 80% xí nghiệp thuộc sở hữu tư nhân.
Cuộc khủng hoảng chính trị và tài chính 1997 đã tác động mạnh đến nền kinh tế Séc. Tốc độ tăng trưởng kinh tế năm 1997 hạ xuống còn 0,3%, năm 1998 là -2,3% và năm 1999 là -0,5%. Nguyên nhân là do sự thực hiện "liệu pháp sốc" một cách vội vã và không vững chắc. Chính phủ Cộng hòa Séc đã phải xem xét lại các chính sách kinh tế của mình và điều chỉnh lại sao cho thích hợp hơn như tăng tốc việc hội nhập với các tiêu chuẩn kinh tế của EU, tái cơ cấu các doanh nghiệp, tiến hành tư nhân hóa với các ngân hàng và các ngành dịch vụ công cộng. Bắt đầu từ năm 2000, tốc độ tăng trưởng của nước này dần dần hồi phục. Xuất khẩu vào thị trường EU, đặc biệt là Đức tăng mạnh đã làm giảm thâm hụt thương mại của nước này xuống còn 5% GDP. Năm 2004, Cộng hòa Séc chính thức trở thành một thành viên của Liên minh châu Âu, đòi hỏi nước này phải thúc đẩy quá trình cải cách kinh tế hơn nữa.
Những năm gần đây, Cộng hòa Séc đang trở thành một trong những quốc gia có nền kinh tế phát triển mạnh tại khu vực Đông Âu. Theo số liệu của Quỹ tiền tệ Quốc tế, năm 2016, GDP danh nghĩa của Cộng hòa Séc là 193.535 tỷ USD (GDP theo sức mua tương đương: 34,768 tỷ USD), thu nhập bình quân đầu người đạt 17,570 USD, cao hơn so với nhiều nước Đông Âu khác như Ba Lan, Hungary, Slovakia tuy nhiên vẫn còn thấp hơn mức trung bình của Liên minh châu Âu. Nền kinh tế nước này được đánh giá là tăng trưởng nhanh và ổn định. Năm 2007, tốc độ tăng trưởng kinh tế của nước này đạt 5,7%. Cộng hòa Séc là thành viên của nhiều tổ chức kinh tế lớn như Liên minh châu Âu, WTO và OECD.
Các ngành kinh tế.
Nông nghiệp của Cộng hòa Séc không có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển. Các loại cây trồng chủ yếu của nước này là lúa mì, khoai tây, củ cải đường, cây hublô, nông nghiệp chiếm 3,4% GDP của Cộng hòa Séc.
Vốn là một nước có sẵn những cơ sở công nghiệp từ thế kỷ XIX, nền công nghiệp của Cộng hòa Séc có nhiều điều kiện thuận lợi phát triển. Các ngành công nghiệp chính của nước này là luyện kim, sản xuất máy móc, thiết bị điện tử, phương tiện giao thông, dệt may, chất hóa học, dược phẩm, chế biến lương thực thực phẩ, Cộng hòa Séc rất với ngành công nghiệp sản xuất đồ gốm sứ và pha lê. Công nghiệp chiếm tỉ trọng 39,3% trong nền kinh tế. Về phương tiện giao thông, cộng hòa Séc nổi tiếng với ngành chế tạo ô tô cùng thương hiệu ô tô Skoda - được sáng lập năm 1895 bởi Václav Klement và Václav Laurin.
Dịch vụ là lĩnh vực đóng góp nhiều nhất trong nền kinh tế, chiếm 57,3% GDP. Các ngành ngân hàng, công nghệ thông tin, viễn thông là những động lực năng động của nền kinh tế Séc và thu hút nhiều vốn đầu tư nước ngoài. Thương mại là một hoạt động kinh tế quan trọng với các đối tác thương mại chủ yếu là Cộng hòa Liên bang Đức, Slovakia, Áo, Ba L, doanh thu từ du lịch mang về cho nước này khoảng 118 tỉ koruna, đóng góp tới 5,5% GNP của nước này. Thủ đô Praha thường là lựa chọn hàng đầu của du khách với rất nhiều các công trình văn hóa, lịch sử nổi tiếng. Những khu du lịch spa như Karlovy Vary thường là điểm đến được yêu thích vào các kỳ nghỉ. Những lễ hội âm nhạc hay bia của Cộng hòa Séc cũng góp phần làm đất nước này trở thành một địa điểm du lịch hấp dẫn.
Đồng tiền chính thức hiện nay của Cộng hòa Séc là đồng koruna. Trong tiếng Séc, từ "koruna" có nghĩa là "vương miện". Đồng tiền này chính thức được sử dụng từ ngày 18 tháng 2 năm 1993 sau khi Cộng hòa Séc và Slovakia tách khỏi Tiệp Khắc. Ký hiệu trong giao dịch quốc tế của đồng koruna Séc theo ISO 4217 là CZK.
Đồng tiền koruna của Cộng hòa Séc bắt đầu tham gia các tỷ giá hối đoái từ năm 1995 và được thả nổi kể từ năm 1999. Trong năm 2007, chỉ số lạm phát của đồng tiền này là 2,4% và đã được duy trì ổn định trong suốt nhiều năm qua. Cộng hòa Séc có kế hoạch gia nhập khu vực sử dụng đồng tiền chung châu Âu (euro) vào năm 2012 nhưng sau đó đã tuyên bố hoãn lại. Đầu năm 2008, Ngân hàng Quốc gia Séc tuyên bố sẽ lùi thời hạn gia nhập khu vực đồng tiền chung đến năm 2019.
Văn học Séc bắt nguồn từ thế kỷ VIII Công Nguyên dưới thời Đại Moravia. Hai anh em Cyril và Methodius đã được vương triều Byzantine cử tới Đại Moravia để truyền bá Đạo Thiên chúa, đồng thời sáng lập ra ngôn ngữ viết Slav đầu tiên: tiếng Slavonic cổ viết trên bảng chữ cái Glogotic, tiền thân của bảng ký tự Cyril sau này.
Sau khi Đại Moravia sụp đổ và được thay thế bởi vương triều Bohemia vào thế kỷ IX, tiếng Latinh đã dần lấn lướt tiếng Slavonic cổ để trở thành ngôn ngữ chính thức trong nền văn học Séc. Bên cạnh đó, tiếng Đức cũng trở thành một ngôn ngữ có tầm ảnh hưởng lớn tại vùng đất này cho đến tận cuối thế kỷ XIX. Vào thế kỷ XIII, dưới triều đại Premyslid của Bohemia, nền văn học Séc đã có những thay đổi đáng chú ý. Những nhà thống trị ở Bohemia bắt đầu tách họ ra khỏi nền văn học Tây Âu lúc đó nói chung và cố gắng xây dựng một nền văn học dân tộc riêng của người Séc. Thời kỳ này văn học Séc được chia làm hai thể loại chính là huyền thoại và sử thi về các anh hùng. Văn xuôi cũng bắt đầu xuất hiện trong thời gian này. Hai tác phẩm đáng chú ý xuất hiện trong giai đoạn này là cuốn từ điển Séc-Latinh và bộ sử biên niên đầu tiên viết bằng tiếng Séc: sử biên niên Dalimil.
Trong thời kỳ chiến tranh tôn giáo Hussite, văn học còn được dùng tranh luận và đả kích giữa các nhóm tôn giáo với nhau. Sự phân hóa rõ rệt thể hiện trên phương diện ngôn ngữ: tiếng Latinh được dùng bởi những người theo đạo Thiên chúa, còn tiếng Séc được dùng bởi những người theo đạo Tin lành. Trận Núi Trắng năm 1620 với thất bại của những người Tin lành đã khiến nền văn học viết bằng tiếng Séc bị ảnh hưởng. Những chính sách đồng hóa dưới thời Đế chế Áo và Đế chế Áo-Hung càng làm cho tiếng Séc có nguy cơ biến mất. Tuy nhiên Thời kỳ Khai sáng trong Đế chế Áo-Hung đã lại tạo điều kiện cho tiếng Séc có cơ hội phát triển, cùng với đó là cả một nền văn học Séc mới. Từ đó đến nay, nền văn học Séc đã trải qua nhiều thăng trầm, biến động và sản sinh ra những tác gia lớn. Franz Kafka, nhà văn gốc Do Thái của Cộng hòa Séc với những tác phẩm viết bằng tiếng Đức, ông được coi là người khơi nguồn cho văn học phi thực ở châu Âu. Năm 1984, Jaroslav Seifert đã trở thành công dân Cộng hòa Séc đầu tiên (lúc đó là Tiệp Khắc) đoạt giải thưởng Nobel về Văn học.
Cộng Hòa Séc, cùng với Estonia, là một trong những nước có tỉ lệ người không tín ngưỡng cao nhất thế giới mặc dù người dân Séc từ xưa đã luôn có thái độ khoan dung đối với tôn giáo. Theo thống kê năm 2001, 59% dân số Cộng hòa Séc không theo một tôn giáo nào, một tỉ lệ khá lớn nếu so sánh với các nước láng giềng như Đức và Ba Lan .. Tôn giáo phổ biến nhất tại Cộng hòa Séc là Công giáo, chiếm tỉ lệ 26,8%. Tin Lành chiếm tỉ lệ 2,1%. Trong vòng từ năm 1991 đến năm 2001, tỉ lệ người không có tín ngưỡng tăng 19.1 phần trăm (gần hai triệu người) trong vòng 10 năm. Cơ Đốc Giáo dường như không có dấu hiệu phát triển và số người theo đạo Công giáo giảm một triệu người. Chỉ 19% người dân Séc nói rằng họ tin vào Chúa (ty lệ thấp nhì trong Liên Minh châu Âu sau Estonia với 16%)
Tại Cộng hòa Séc, giao hưởng và nhạc kịch có một sư liên hệ mật thiết với các vũ khúc dân gian truyền thống của Bohemia và Moravia. Một trong những thể loại nhạc độc đáo và đặc trưng nhất của xứ Bohemia là "Polka", một loại nhạc nhảy có tiết tấu nhanh và vui nhộn được hình thành vào giữa thế kỷ XIX. Nhạc Polka (tiếng Séc có nghĩa là "cô gái Ba Lan") đã nhanh chóng trở nên thịnh hành không chỉ ở châu Âu mà còn trên khắp thế giới, đồng thời nó cũng trở thành chất liệu để viết giao hưởng của hai nhạc sĩ người Áo là Johann Strauss I và Johann Strauss II. Nhạc dân gian Moravia được chơi với nhiều loại nhạc cụ như đại hồ cầm, kèn clarinet và violông. Nhạc Moravia thường biểu hiện những ảnh hưởng từ nước ngoài, đặc biệt là từ România và Ba Lan.
Ngày nay, các hình thức âm nhạc hiện đại như pop, rock and roll đang ngày càng trở nên phổ biến. Các bài hát trong tiếng Anh nhiều khi được người Séc đặt lại lời theo tiếng Séc và kết hợp với một vài phong cách truyền thống của họ.
Cộng hóa Séc có hai ngày quốc khánh (tức ngày độc lập). Ngày 1 tháng 1 năm 1993 là ngày Cộng hòa Séc tách ra từ Liên bang Tiệp Khắc để trở thành một quốc gia độc lập. Còn ngày quốc khánh thứ hai là 28 tháng 10 năm 1918, ngày mà nhân dân hai nước Séc và Slovakia cùng nhau thành lập Liên bang Tiệp Khắc sau sự sụp đổ của Đế chế Áo-Hung.
Giống với nhiều quốc gia châu Âu khác, Cộng hòa Séc cũng tổ chức những ngày lễ quan trọng của Kitô giáo như Lễ Phục sinh, Lễ Giáng sinh. Vào đêm vọng Lễ Giáng Sinh 24 tháng 12, tất cả các thành phố lớn của Cộng hòa Séc đều được trang hoàng lộng lẫy. Ngày tiếp theo là ngày Giáng Sinh 25 tháng 12. Tiếp đó ngày 26 tháng 12 được gọi là ngày Thánh Stêphanô, được coi như ngày Giáng sinh thứ hai của Cộng hòa Séc.
Bên cạnh đó, Cộng hòa Séc còn là điểm đến của nhiều lễ hội văn hóa quốc tế. Lễ hội Âm nhạc Quốc tế Praha được tổ chức vào mùa xuân hàng năm thu hút rất nhiều các dàn nhạc giao hưởng từ khắp nơi trên thế giới. Bên cạnh đó còn có Liên hoan Phim Quốc tế được tổ chức tại thành phố Karlovy Vary hay các lễ hội bia được tổ chức tại nhiều miền khác nhau của đất nước này.
Ẩm thực Cộng hòa Séc có ảnh hưởng lớn đến các nền ẩm thực tại khu vực Trung Âu và bản thân nó cũng chịu ảnh hưởng của các nền ẩm thực khác. Nhiều món ăn phổ biến trong khu vực có nguồn gốc và xuất xứ từ đất nước này. Đa phần các món ăn chính của Cộng hòa Séc đều có thịt, gồm thịt lợn, thịt bò và thịt gà. Do không phải một quốc gia giáp biển nên cá là một món ăn hiếm gặp tại nước này, chủ yếu được dùng nhiều vào dịp Giáng sinh.
Thịt heo hầm với bánh mì hấp và dưa cải muối (tiếng Séc: "vepřo-knedlo-zelo") được coi là một trong những món ăn phổ biến nhất của Cộng hòa Séc. Dưa cải muối trong món ăn này có hai cách chế biến khác nhau. Nó được chế biến chua hơn tại Bohemia và ngọt hơn tại Moravia. Thịt bò hầm nấu với sữa ("svíčková na smetaně") cũng là một món ăn thịt khá phổ biến. Món ăn này gồm những miếng thịt bò hầm chấm với nước sốt đặc từ sữa, được kèm theo bởi bánh mì hấp, một thìa mứt quả và một lát chanh.
Một số món ăn nhẹ tiêu biểu cho ẩm thực Séc là món bánh kếp rán ("bramboráky") được làm từ hỗn hợp khoai tây, bột mì, sữa kèm theo một số gia vị rồi đem rán. Bên cạnh đó, pho mát cũng là một món ăn được ưa chuộng với nhiều chủng loại đa dạng.
Món bánh mì hấp có nhân mứt hoa quả xay nghiền ("ovocné knedlíky") được làm từ bột khoai tây nhào trộn và bộc mứt nghiền trái cây, sau đó đem luộc và được dùng với bơ, đường và pho mát. Có rất nhiều loại bánh bọc hoa quả khác nhau được chế biến cùng nhiều loại trái cây đa dạng như dâu tây, đào, anh đào, mơ, mậ, món bánh "vánočka" sẽ được làm cùng với rất nhiều bánh quy và kẹo ngọt ("vánoční cukroví").
Cộng hòa Séc còn là một quốc gia về bia. Nghề làm bia tại Cộng hòa Séc đã có lịch sử lâu đời từ hàng trăm năm nay và được làm chủ yếu từ hoa của cây hublông. Một trong những loại bia của nước này là bia Plzeň ("Pilsener"), được làm tại thành phố Plzeň (tiếng Đức: "Pilsen") ở xứ Bohemia.
Thể thao là một phần không thể thiếu trong cuộc sống tinh thần của người dân Cộng hòa Séc. Hai môn thể thao phổ biến và giành được nhiều sự hâm mộ nhất tại nước này là bóng đá và hockey trên băng. Bên cạnh đó, các môn thể thao như bóng rổ, bóng chuyền, bóng ném, điền
Hockey trên băng là một môn thế mạnh của Cộng hòa Séc. Nước này đã từng 1 lần đoạt huy chương vàng tại Thế vận hội Mùa đông 1998 và 5 lần vô địch giải hockey trên băng toàn thế giới. Bóng đá cũng là một môn thể thao ưa chuộng tại nước này. Trước kia khi còn nằm trong Liên bang Tiệp Khắc, đội tuyển bóng đá quốc gia Tiệp Khắc đã từng hai lần đoạt ngôi vị á quân thế giới (World Cup) và một lần vô địch châu Âu (Euro). Còn hiện nay, đội tuyển bóng đá quốc gia Cộng hòa Séc đã từng đạt ngôi á quân tại Euro 1996. Nước này cũng có tên trong danh sách 16 đội tuyển tham dự vòng chung kết Euro 2008 tại Áo và Thụy Sĩ. Theo bảng xếp hạng các đội tuyển bóng đá quốc gia của FIFA (tháng 1 năm 2008), Cộng hòa Séc xếp thứ 6 thế giới.
Bên cạnh đó, Cộng hòa Séc còn được biết đến là quê hương của một số tay vợt trong môn tennis như Martina Navratilova và Ivan Lendl.
Giáo dục phổ thông ở Cộng hòa Séc kéo dài từ 12 đến 13 năm, giáo dục tiểu học và trung học cơ sở là bắt buộc. Trẻ em đến trường khi 6 tuổi, kết thúc bậc tiểu học năm 11 tuổi và trung học cơ sở lúc 15 tuổi. Sau đó học sinh có thể học tiếp bậc phổ thông trung học 4 năm hoặc học các trường đào tạo nghề 3 năm. Tốt nghiệp phổ thông trung học hoặc đào tạo nghề, học sinh có thể học lên bậc đại học kéo dài 3 năm. Ở bậc trên đại học, đào tạo thạc sĩ mất từ 2 đến 3 năm; đào tạo tiến sĩ là 3 năm. Hệ thống giáo dục cơ sở của nước này gồm trường công, trường tư và trường tôn giáo (thường ít gặp). Năm học tại Cộng hòa Séc bắt đầu từ ngày 1 tháng 9 hoặc ngày thứ hai đầu tiên của tháng 9 (nếu ngày 1 tháng 9 là thứ bảy hoặc chủ nhật) và kết thúc vào ngày 30 tháng 6 năm sau (hoặc ngày thứ sáu cuối cùng của tháng 6). Học sinh được nghỉ trong những dịp lễ như Giáng sinh, Năm mới và Phục sinh.
Cộng hòa Séc từ lâu là một trong những trung tâm văn hóa, giáo dục quan trọng hàng đầu tại châu Âu. Năm 1348, vua Charles IV (tiếng Séc: "Karel IV") đã thành lập trường Đại học Charles tại Praha ("Univerzita Karlova"). Ngày nay đây vẫn là trường đại học lớn và dẫn đầu về chất lượng giáo dục tại nước này.
Cộng hòa Séc chú trọng nâng cao sức khỏe cộng đồng với các chương trình mang tính chất phòng ngừa cũng như tích cực chống lại bệnh ung thư, hút thuốc lá...Người dân được cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe dựa trên cơ sở bảo hiểm y tế, người bệnh không trực tiếp chi trả tiền chữa bệnh. Dịch vụ y tế có thể được cung cấp bởi cả khu vực công cộng và khu vực tư nhân với chi phí nhìn chung thấp hơn mức bình quân của châu Âu. |
Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
Trương Trọng Thi (1936-2005) là một kỹ sư người Pháp gốc Việt. Ông được xem là "cha đẻ của máy tính cá nhân" vì đã tạo ra Micral, máy tính cá nhân không phải công cụ và được thương mại hóa đầu tiên.
Trương Trọng Thi sinh năm 1936 tại Chợ Lớn (Sài Gòn). Năm 14 tuổi, ông sang Pháp học, rồi trở thành kỹ sư ở Trường Vô tuyến điện Pháp (tên cũ là "École Française de Radioélectricité" hay "EFR", nay là "École des technologies de l'information et du management" hay "EFRE"). Sau một thời gian làm cho Schlumberger, ông thành lập công ty riêng là R2E (viết tắt của "Réalisation d'Études Électroniques").
Năm 1973, ông chế tạo ra Micral mà nhiều người coi là máy tính cá nhân đầu tiên trên thế giới. Một bản mẫu của nó hiện được trưng bày trong Viện bảo tàng máy tính Boston (Mỹ). Chiếc máy này ra đời hơn một năm trước máy Altair của công ty Mỹ MITS Electronics, công ty này cũng cho mình là cha đẻ của PC.
Trong một chuyến sang Hoa Kỳ, ông được biết công ty Intel đã phát triển một bộ vi xử lý có kích thước nhỏ. Khi quay về Pháp ông đã cho ra đời máy tính Micral với bộ vi xử lý Intel 8008, đây không chỉ là một máy tính tay đơn thuần mà là một chiếc máy tính cá nhân hoàn chỉnh có bộ nhớ 256 bytes (có thể mở rộng đến 1K!), bàn phím và màn hình. Micral tiếp tục được phát triển đến năm 1978, năm đó R2E bị tập đoàn Bull mua lại. Tập đoàn này sau đó đã thương mại hóa các phiên bản khác nhau của Micral để phục vụ cho các cơ quan hành chính Pháp và các trạm thu lộ phí. Tuy nhiên, Bull lại không thực hiện ý tưởng của Trương Trọng Thi là phát triển chiếc máy này thành công cụ sử dụng rộng rãi trong mọi gia đình.
Năm 1995, ông thành lập APCT, một công ty chuyên về các phần mềm bảo mật.
Ông được trao Huân chương Bắc Đẩu Bội tinh vào năm 1999.
Công lao của Trương Trọng Thi trong ngành máy tính còn được ghi nhận ở những ý tưởng tiên phong về loại máy vi tính tương thích, về xử lý và lưu trữ dữ liệu, về lưu trữ dữ liệu trên đĩa quang học.
Trương Trọng Thi mất ngày ngày 4 tháng 4 năm 2005 tại Paris sau hơn 2 năm rưỡi nằm viện. |
Toán học ứng dụng
Toán học ứng dụng là một ngành toán học áp dụng các kiến thức toán học cho các lĩnh vực khác.
Các ứng dụng có thể bao gồm giải tích số, toán học tính toán, mô hình toán học, tối ưu hoá, toán sinh học, tin sinh học, lý thuyết thông tin, lý thuyết trò chơi, xác suất và thống kê, toán tài chính, mật mã, hình học hữu hạn, khoa học máy tí
Phương pháp toán chủ yếu để giải các bài toán cụ thể trong từng lĩnh vực là việc thiết lập một mô hình toán học cho hệ thống nằm trong nghiên cứu của bài toán.
Các chủ đề chính.
Toán cho kỹ sư giải quyết các bài vật lý, do vậy gần như trùng với vật lý lý thuyết. Một số phân ngành của lĩnh vực này: thủy động học, âm học, phương trình Maxwell, cơ học, phương pháp Toán lý...
Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. |
Màu be (gốc tiếng Pháp "beige" /bεʒ/) là màu xám ánh vàng nhạt
Danh từ màu be là do vải be (là một loại hàng bằng len gốc, tức len tự nhiên không nhuộm). Có khi màu be được dùng để chỉ màu nâu rất nhạt.
Màu be trong mỹ thuật thuộc gam màu tạo cảm giác mát mẻ hay ôn hòa dễ chịu.
Màu be là một màu trung tính, phổ biến và rất đa dụng trong nhiều lĩnh vực. Màu này thường có độ sáng thấp và gần giống với màu của cát hoặc bã đậu. Nó có thể có nhiều tông khác nhau, từ tông nâu đến tông xanh lá cây, tùy thuộc vào tỷ lệ pha trộn của các màu cơ bản.
Trong thời trang, màu be thường được sử dụng cho các bộ trang phục cơ bản, như áo sơ mi, quần tây hoặc váy đầm. Màu này cũng rất phổ biến trong trang trí nội thất, đặc biệt là trong các phòng khách và phòng ngủ. Nó có thể được sử dụng cho các bộ sofa, tấm rèm, thảm trải sàn và các vật dụng trang trí khác.
Trong thiết kế đồ họa, màu be thường được sử dụng để tạo nền cho các trang web, bìa sách hoặc bài thuyết trình. Nó cũng thường được sử dụng để tạo ra các biểu tượng và hình ảnh đơn giản.
Màu be là một màu rất ổn định và dễ dàng kết hợp với nhiều màu khác nhau. Nó có thể được kết hợp với các màu sáng để tạo ra một không gian sạch sẽ và thanh lịch hoặc kết hợp với các màu tối để tạo ra một không gian ấm áp và dịu dàng.
Số Hex = #F5F5DC
RGB (r, g, b) = (245, 245, 220)
CMYK (c, m, y, k) = (0, 0, 10, 4)
HSV (h, s, v) = (60, 10, 96) |
Máy tính cá nhân
Máy tính cá nhân hay còn gọi là PC là một loại máy vi tính đa năng có kích thước, khả năng và giá cả phù hợp cho việc sử dụng cá nhân. Máy tính cá nhân được thiết kế để người dùng cuối điều hành trực tiếp, thay vì một chuyên gia hay kỹ thuật viên máy tính. Không như các máy tính mini và mainframe lớn, đắt tiền, việc chia sẻ tài nguyên cho nhiều người dùng (time-sharing) thường không xảy ra ở máy tính cá nhân. Đặc biệt vào cuối những năm 1970 và những năm 1980, thuật ngữ máy tính gia đình cũng được sử dụng. Sự ra đời của máy tính cá nhân cùng với sự cách mạng kỹ thuật số (Digital Revolution) đã ảnh hưởng đáng kể đến cuộc sống của con người trên toàn thế giới.
Chủ sở hữu máy tính cá nhân vào những năm 1960 phải tự viết chương trình của họ để thực hiện công việc hữu ích với máy. Mặc dù người dùng máy tính cá nhân có thể phát triển các ứng dụng của họ, thường thì hệ thống này chạy phần mềm thương mại, phần mềm miễn phí ("freeware"), đa số là độc quyền, hoặc phần mềm mã nguồn mở miễn phí, được cung cấp dưới dạng đã biên dịch (binary). Phần mềm cho máy tính cá nhân thường được phát triển và phân phối độc lập khỏi nhà sản xuất phần cứng hay hệ điều hành. Nhiều người dùng máy tính cá nhân không còn cần phải tự viết chương trình để sử dụng máy tính cá nhân, mặc dù lập trình người dùng cuối vẫn khả thi. Điều này trái ngược với các hệ thống di động, nơi mà phần mềm thường chỉ có sẵn thông qua kênh được hỗ trợ bởi nhà sản xuất, và việc phát triển chương trình người dùng cuối có thể bị hạn chế do thiếu hỗ trợ của nhà sản xuất.
Từ đầu những năm 1990, phần cứng Intel và hệ điều hành của Microsoft (đầu tiên là MS-DOS sau đó là Windows) - tổng hợp lại được gọi là 'Wintel' - đã chiếm ưu thế trong ngành công nghiệp máy tính cá nhân, và ngày nay thuật ngữ "PC" thường chỉ đến nền tảng Wintel phổ biến. Các lựa chọn thay thế cho Windows chiếm tỷ lệ ít hơn trong ngành công nghiệp; điển hình như nền tảng Mac từ Apple (chạy hệ điều hành macOS), và các hệ điều hành Unix-tự do mã nguồn mở, như Linux. Các nền tảng đáng chú ý khác đến những năm 1990 bao gồm Amiga từ Commodore, và PC-98 từ NEC.
"PC" là từ viết tắt của "Personal Computer". Dù trong tên của máy tính cá nhân IBM (IBM Personal Computer) có chứa dòng chữ "Personal Computer", thuật ngữ này ban đầu dùng để mô tả máy tính cá nhân của bất kỳ hãng nào.
Trong một sỗ ngữ cảnh, khái niệm "PC" được dùng để đối lập với "Mac", là một máy tính Apple Macintosh. Tuy nhiên, thực chất các máy tính Apple đều là máy tính cá nhân.
Một trong những máy tính cá nhân đầu tiên trên thế giới là máy Xerox Alto của Xerox vào năm 1973. Nó có một giao diện người dùng đồ họa (GUI) sau này trở thành cảm hứng cho dòng máy Macintosh của Apple. Alto chỉ mang tính chất biểu diễn, không được thương mại hóa do chi phí quá cao.
Đến năm 1974, chiếc máy tính cá nhân "thực sự" đầu tiên của thế giới là Altair 8800 ra đời, sử dụng vi xử lý 8080 của Intel. Nó được công nhận là đã mở ra cuộc các mạng về máy vi tính và là máy tính cá nhân đầu tiên được thương mại hóa thành công. Hệ thống bus của Altair 8800 trở thành tiêu chuẩn de facto dưới dạng bus S-100, và ngôn ngữ lập trình đầu tiên của nó cũng là sản phẩm thành lập của Microsoft, Altair BASIC.
Năm 1976, Steve Jobs và Steve Wozniak bán bo mạch của máy tính Apple I và bao gồm khoảng 30 chip. Apple I khác với các máy tính dạng kit khác thời đó. Theo yêu cầu của Paul Terrell, chủ của Byte Shop, Job và Wozniak nhận được đơn đặt hàng đầu tiên với 50 máy Apple I, với điều kiện các máy phải được lắp ráp và kiểm lỗi đầy đủ, không phải dạng kit. Bởi Terrell muốn bán máy tính cho một bộ phận lớn người dùng, không chỉ riêng dân điện tử những người có khả năng hàn mạch. Cuối cùng Apple I vẫn chỉ được bán ở dạng kit, vì nó không có nguồn, vỏ hay bàn phím.
Chiếc máy tính cá nhân được quảng bá số đông thành công đầu tiên là chiếc Commodore PET vào tháng 1 năm 1977. Ba tháng sau đó (tức tháng Tư), Apple II được công bố với chiếc đầu tiên xuất xưởng ngày 10 tháng 6 năm 1977 và chiếc TRS-80 của Tandy Corporation/Tandy Radio Shack theo sau đó vào tháng Tám 1977, và bán được hơn 100.000 máy trong suốt vòng đời của nó. Cả ba máy này được gọi là chung là "bộ ba 1977".
Khoảng đầu thập niên 1980, các máy tính gia đình được phát triển cho sử dụng trong các hộ gia đình, phục vụ mục đích lập trình hoặc chơi các trò chơi điện tử. Chúng thường sử dụng tivi làm màn hình hiển thị, có độ phân giải thấp và màu sắc hạn chế. Sinclair Research, một công ty ở Vương quốc Anh đã bán máy tính ZX Spectrum tổng cộng được 8 triệu máy. Sau đó là Commodore 64 với tổng cộng 17 triệu máy tính được bán. Cho đến giữa thập niên 80, xuất hiện các máy tính gia đình sử dụng vi xử lý 16/32 bit manh hơn như Amiga 1000, với nhiều bộ nhớ hơn, có hệ điều hành đồ họa đa nhiệm và hiển thị nhiều màu sắc hơn.
Mặt khác, ở thị trường doanh nghiệp, sự xuất hiện của IBM PC năm 1981 nhanh chóng đặt ra một tiêu chuẩn trong nền công nghiệp máy tính tương thích. Tất cả các kiến trúc máy tính khác đều nhanh chóng biến mất do sự thống trị của nền tảng này. Nhận ra điều đó, các hãng sản xuất bắt đầu tìm cách sao chép IBM PC và phát triển nó lên thành tiêu chuẩn chung cho mọi máy tính cá nhân sau này.
Phần cứng máy tính là một thuật ngữ toàn diện cho tất cả các bộ phận vật lý của máy tính, được phân biệt với dữ liệu chứa hoặc hoạt động và phần mềm cung cấp hướng dẫn cho phần cứng để thực hiện các tác vụ. Một số hệ thống con của máy tính cá nhân có thể chứa bộ xử lý chạy chương trình cố định hoặc chương trình cơ sở, chẳng hạn như bộ điều khiển bàn phím. Phần sụn thường không bị thay đổi bởi người dùng cuối của máy tính cá nhân.
Hầu hết các máy tính thời kỳ 2010 chỉ yêu cầu người dùng cắm vào nguồn điện, màn hình và các loại cáp khác. Một máy tính để bàn thông thường bao gồm vỏ máy tính (hoặc "tháp"), khung kim loại chứa nguồn điện, bo mạch chủ, ổ đĩa cứng và thường là ổ đĩa quang. Hầu hết các tòa tháp có không gian trống, nơi người dùng có thể thêm các thành phần bổ sung. Các thiết bị bên ngoài như màn hình máy tính hoặc bộ hiển thị hình ảnh, bàn phím và thiết bị trỏ (chuột) thường được tìm thấy trong máy tính cá nhân.
Bo mạch chủ kết nối tất cả bộ xử lý, bộ nhớ và các thiết bị ngoại vi với nhau. RAM, card đồ họa và bộ xử lý trong hầu hết các trường hợp được gắn trực tiếp lên bo mạch chủ. Bộ xử lý trung tâm (chip vi xử lý) cắm vào ổ cắm CPU, trong khi các mô-đun bộ nhớ cắm vào ổ cắm bộ nhớ tương ứng. Một số bo mạch chủ có bộ điều hợp hiển thị video, âm thanh và các thiết bị ngoại vi khác được tích hợp trên bo mạch chủ, trong khi một số khác sử dụng khe cắm mở rộng cho card đồ họa, card mạng hoặc các thiết bị I / O khác. Card đồ họa hoặc card âm thanh có thể sử dụng hộp thoát ra để giữ các bộ phận tương tự tránh xa bức xạ điện từ bên trong vỏ máy tính. Ổ đĩa, cung cấp lưu trữ lớn, được kết nối với bo mạch chủ bằng một cáp và với nguồn điện thông qua cáp khác. Thông thường, các ổ đĩa được gắn trong cùng trường hợp với bo mạch chủ; khung mở rộng cũng được thực hiện để lưu trữ đĩa bổ sung.
Đối với lượng dữ liệu lớn, một ổ băng từ có thể được sử dụng hoặc các đĩa cứng bổ sung có thể được đặt cùng nhau trong trường hợp bên ngoài. Bàn phím và chuột là các thiết bị bên ngoài được cắm vào máy tính thông qua các đầu nối trên bảng I / O ở mặt sau của vỏ máy tính. Màn hình cũng được kết nối với bảng đầu vào / đầu ra (I / O), thông qua một cổng trên bo mạch chủ hoặc một cổng trên card đồ họa. Khả năng của phần cứng máy tính cá nhân đôi khi có thể được mở rộng bằng cách bổ sung các thẻ mở rộng được kết nối thông qua một bus mở rộng. Bus ngoại vi tiêu chuẩn thường được sử dụng để thêm thẻ mở rộng trong máy tính cá nhân bao gồm PCI, PCI Express (PCIe) và AGP (bus PCI tốc độ cao dành riêng cho bộ điều hợp đồ họa, được tìm thấy trong các máy tính cũ). Hầu hết các máy tính cá nhân hiện đại đều có nhiều khe cắm mở rộng PCI Express vật lý, với một số khe cắm PCI cũng vậy.
Phần mềm máy tính là bất kỳ loại chương trình, quy trình hoặc tài liệu máy tính nào thực hiện một số tác vụ trên hệ thống máy tính. Thuật ngữ này bao gồm phần mềm ứng dụng như bộ xử lý văn bản thực hiện các tác vụ sản xuất cho người dùng, phần mềm hệ thống như hệ điều hành có giao diện với phần cứng máy tính để cung cấp các dịch vụ cần thiết cho phần mềm ứng dụng và phần mềm trung gian điều khiển và điều phối hệ thống phân tán.
Các ứng dụng phần mềm là phổ biến để xử lý văn bản, duyệt Internet, fax Internet, e-mail và tin nhắn kỹ thuật số khác, phát lại đa phương tiện, chơi trò chơi máy tính và lập trình máy tính. Người dùng có thể có kiến thức đáng kể về môi trường hoạt động và các chương trình ứng dụng, nhưng không nhất thiết phải quan tâm đến lập trình và thậm chí không thể viết chương trình cho máy tính. Do đó, hầu hết các phần mềm được viết chủ yếu cho máy tính cá nhân có xu hướng được thiết kế với mục đích sử dụng đơn giản hoặc "thân thiện với người dùng". Tuy nhiên, ngành công nghiệp phần mềm liên tục cung cấp một loạt các sản phẩm mới để sử dụng trong máy tính cá nhân, nhắm vào cả người dùng chuyên gia và người dùng không chuyên gia.
Một hệ điều hành (HĐH) quản lý tài nguyên máy tính và cung cấp cho các lập trình viên một giao diện được sử dụng để truy cập các tài nguyên đó. Một hệ điều hành xử lý dữ liệu hệ thống và đầu vào của người dùng và phản hồi bằng cách phân bổ và quản lý các tác vụ và tài nguyên hệ thống nội bộ dưới dạng dịch vụ cho người dùng và các chương trình của hệ thống. Một hệ điều hành thực hiện các tác vụ cơ bản như kiểm soát và phân bổ bộ nhớ, ưu tiên các yêu cầu hệ thống, kiểm soát các thiết bị đầu vào và đầu ra, tạo điều kiện cho mạng máy tính và quản lý tệp.
Các hệ điều hành máy tính để bàn hiện đại phổ biến là Microsoft Windows, macOS, Linux, Solaris và FreeBSD. Windows, macOS và Linux đều có các biến thể máy chủ và cá nhân. Ngoại trừ Microsoft Windows, các thiết kế của mỗi người trong số họ được lấy cảm hứng từ hoặc được thừa hưởng trực tiếp từ hệ điều hành Unix.
Các máy tính cá nhân ban đầu sử dụng các hệ điều hành hỗ trợ tương tác dòng lệnh, sử dụng màn hình chữ và số và bàn phím. Người dùng phải nhớ một loạt các lệnh, ví dụ, mở một tệp để chỉnh sửa hoặc để di chuyển văn bản từ nơi này sang nơi khác. Bắt đầu từ đầu những năm 1960, những lợi thế của giao diện người dùng đồ họa bắt đầu được khám phá, nhưng việc áp dụng rộng rãi đòi hỏi phải có thiết bị hiển thị đồ họa với chi phí thấp hơn. Đến năm 1984, các hệ thống máy tính thị trường đại chúng sử dụng giao diện người dùng đồ họa đã có sẵn; vào đầu thế kỷ 21, các hệ điều hành chế độ văn bản không còn là một phần đáng kể của thị trường máy tính cá nhân.
Nói chung, người dùng máy tính sử dụng phần mềm ứng dụng để thực hiện một tác vụ cụ thể. Phần mềm hệ thống hỗ trợ các ứng dụng và cung cấp các dịch vụ phổ biến như quản lý bộ nhớ, kết nối mạng và trình điều khiển thiết bị, tất cả các ứng dụng có thể được sử dụng bởi các ứng dụng nhưng không được người dùng cuối quan tâm trực tiếp. Một sự tương tự đơn giản trong thế giới phần cứng sẽ là mối quan hệ của bóng đèn điện (ứng dụng) với nhà máy phát điện (hệ thống): nhà máy điện chỉ đơn thuần tạo ra điện, không phải là sử dụng thực sự cho đến khi được khai thác cho một ứng dụng như đèn điện thực hiện một dịch vụ có lợi cho người dùng.
Ví dụ điển hình của các ứng dụng phần mềm là trình xử lý văn bản, bảng tính và trình phát phương tiện. Nhiều ứng dụng được gói cùng nhau như một gói đôi khi được gọi là một bộ ứng dụng. Microsoft Office và LibreOffice, kết hợp bộ xử lý văn bản, bảng tính và một số ứng dụng riêng biệt khác là những ví dụ điển hình. Các ứng dụng riêng biệt trong một bộ thường có giao diện người dùng có một số điểm chung giúp người dùng dễ dàng tìm hiểu và sử dụng từng ứng dụng hơn. Thông thường, họ có thể có một số khả năng tương tác với nhau theo những cách có lợi cho người dùng; ví dụ, một bảng tính có thể có thể được nhúng trong tài liệu xử lý văn bản mặc dù nó đã được tạo trong ứng dụng bảng tính riêng biệt.
Hệ thống điều chỉnh phát triển người dùng cuối để đáp ứng nhu cầu cụ thể của người dùng. Phần mềm do người dùng viết bao gồm các mẫu bảng tính, macro xử lý văn bản, mô phỏng khoa học, kịch bản đồ họa và hoạt hình; thậm chí các bộ lọc email là một loại phần mềm người dùng. Người dùng tự tạo phần mềm này và thường bỏ qua tầm quan trọng của nó.
PC chơi game là phổ biến trong thị trường PC cao cấp. Theo phân tích thị trường tháng 4 năm 2014, các nền tảng Gaming như Steam, Uplay, Origin và GOG.com (cũng như các tựa game thể thao điện tử cạnh tranh như League of Legends) chịu trách nhiệm lớn cho các hệ thống PC vượt qua doanh thu bảng điều khiển trong năm 2013.
Tác động môi trường.
Chi phí bên ngoài của tác động môi trường không được bao gồm đầy đủ trong giá bán của máy tính cá nhân.
Chương trình Môi trường Liên Hợp Quốc cho biết, máy tính cá nhân đã trở thành một đóng góp lớn cho 50 triệu tấn chất thải điện tử bị loại bỏ được tạo ra hàng năm. Để giải quyết vấn đề rác thải điện tử ảnh hưởng đến các nước đang phát triển và môi trường, các hành vi trách nhiệm của nhà sản xuất (EPR) đã được thực hiện ở nhiều quốc gia và tiểu bang khác nhau. Trong trường hợp không có luật pháp hoặc quy định quốc gia toàn diện về xuất khẩu và nhập khẩu chất thải điện tử, Liên minh độc hại Thung lũng Silicon và BAN (Mạng lưới hành động Basel) đã hợp tác với các nhà tái chế điện tử ở Mỹ và Canada để tạo ra một chương trình quản lý điện tử cho trật tự xử lý chất thải điện tử. Một số tổ chức phản đối quy định EPR và cho rằng các nhà sản xuất tự nhiên chuyển sang sử dụng vật liệu và năng lượng giảm. |
Ngôn ngữ là một hệ thống giao tiếp có cấu trúc được sử dụng bởi con người. Cấu trúc của ngôn ngữ được gọi là ngữ pháp, còn các thành phần tự do của nó được gọi là từ vựng. Ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp chính của con người, tồn tại ở dạng lời nói, ký hiệu hoặc chữ viết. Phần lớn các ngôn ngữ trên thế giới sở hữu các hệ chữ viết có chức năng ký âm và bảo tồn lời nói. Trong số các hệ thống giao tiếp ở động vật, ngôn ngữ của con người độc đáo ở nhiều điểm như: nó không phụ thuộc vào một phương thức truyền tải duy nhất nào, nó khác biệt giữa từng nền văn hóa và từng giai đoạn lịch sử, và nó có phạm vi biểu đạt rộng hơn nhiều so với các hệ thống khác.
Ngôn ngữ con người có tính năng sản ("productivity", tức là khả năng tạo ra vô số từ mới chỉ dựa trên các yếu tố cơ bản) và tính dịch chuyển ("displacement", tức là khả năng nhắc đến thứ nằm ngoài ngữ cảnh hiện tại), đồng thời nó phải dựa trên quy ước xã hội và sự học tập tiếp thu.
Số lượng ngôn ngữ trên thế giới dao động trong khoảng từ 6.000-7.000, phụ thuộc vào chỉ tiêu phân biệt giữa ngôn ngữ và phương ngữ của từng tác giả. Ngôn ngữ tự nhiên có thể là khẩu ngữ, thủ ngữ hoặc cả hai; tuy vậy, bất kỳ ngôn ngữ nào cũng có thể được mã hóa bằng phương tiện thứ cấp được tiếp nhận bởi thính giác, thị giác hoặc xúc giác; ví dụ như văn bản, biển báo, chữ nổi hoặc huýt sáo. Nói cách khác, ngôn ngữ của con người độc lập khỏi phương thức biểu đạt, còn ngôn ngữ ký hiệu và ngôn ngữ viết là các phương thức lưu giữ hoặc mã hóa tiếng nói tự nhiên hoặc cử chỉ của con người.
Khi được sử dụng như một khái niệm chung, ngôn ngữ có thể được hiểu là (1) "khả năng nhận thức để tiếp thu và sử dụng các hệ thống giao tiếp phức tạp", hoặc (2) "tập hợp các quy tắc tạo nên các hệ thống giao tiếp đó", hoặc (3) "tập hợp các ngữ lưu (utterance) có thể được tạo ra từ những quy tắc đó". Tất cả các ngôn ngữ đều phải dựa vào quá trình thiết hiệu ("semiosis") để liên hệ dấu hiệu ("sign") với một ý nghĩa ("meaning") cụ thể. Khẩu ngữ, thủ ngữ và ngôn ngữ xúc giác đều có hệ thống âm vị ("phonology") quy định sự kết hợp các biểu tượng ("symbol") với nhau để tạo thành các chuỗi gọi là từ hoặc hình vị; cùng một hệ thống cú pháp quy định sự kết hợp các từ và hình vị để tạo thành ngữ đoạn ("phrase") và ngữ lưu.
Môn khoa học nghiên cứu ngôn ngữ được gọi là ngôn ngữ học. Các xem xét phản biện về ngôn ngữ (triết học ngôn ngữ, mối quan hệ giữa ngôn ngữ và tư duy, điển hình như khẳng định 'ngôn từ đại diện cho kinh nghiệm', v.v) đã được thảo luận từ thời của các triết gia Gorgias và Plato của Hy Lạp cổ đại. Các nhà tư tưởng sau đó như Rousseau (1712–1778) thì cho rằng ngôn ngữ bắt nguồn từ cảm xúc, trong khi Immanuel Kant (1724–1804) lại cho rằng ngôn ngữ bắt nguồn từ suy nghĩ luân lý và logic. Các triết gia thế kỷ 20 như Ludwig Wittgenstein (1889–1951) cho rằng triết học chẳng qua là nghiên cứu ngôn ngữ. Hai học giả quan trọng nhất có công tạo dựng nên ngành ngôn ngữ học hiện đại là Ferdinand de Saussure và Noam Chomsky.
Ngôn ngữ được cho là đã dần tách ra từ hệ thống giao tiếp linh trưởng tiền khởi, khi các hominin sơ khai lĩnh hội khả năng hình thành lý thuyết tâm trí ("theory of mind") và tính ý hướng ("intentonality") chung. Sự phát triển những đặc điểm này trùng hợp với khuynh hướng gia tăng khối lượng não ở người. Nhiều nhà ngôn ngữ học coi cấu trúc của ngôn ngữ đã tiến hóa để phục vụ các chức năng giao tiếp và chức năng xã hội cụ thể. Ngôn ngữ được xử lý ở nhiều khu vực trực thuộc não bộ, chủ yếu ở vùng Broca và Wernicke. Con người thụ đắc ngôn ngữ thông qua giao tiếp xã hội từ thời thơ ấu; trẻ em thường nói trôi chảy khi lên 3. Ngôn ngữ và văn hóa phụ thuộc lẫn nhau; do vậy, bên cạnh công dụng giao tiếp, ngôn ngữ còn có những công dụng xã hội như biểu thị bản sắc nhóm, phân tầng xã hội, giải trí và chải chuốt xã hội ("social grooming").
Ngôn ngữ biến đổi và đa dạng hóa theo thời gian; lịch sử diễn tiến của ngôn ngữ có thể được phục nguyên ("reconstruction") thông qua phương pháp so sánh lịch sử nhằm tìm ra điểm chung giữa các ngôn ngữ hiện đại và suy luận ra được đặc điểm mà ngôn ngữ tổ tiên chung của chúng đã sở hữu. Một nhóm ngôn ngữ có chung nguồn gốc từ cùng một tổ tiên được gọi là một ngữ hệ; ngược lại, một ngôn ngữ mà chưa được chứng minh là có bất cứ mối quan hệ nào với các ngôn ngữ đồng đại hoặc lịch đại khác thì được gọi là ngôn ngữ biệt lập. Hiện vẫn có những ngôn ngữ chưa được nghiên cứu phân loại và đôi khi có các ngôn ngữ giả mạo bị báo cáo nhầm hoặc do sự cố tình lừa đảo. Giới học thuật hiện nay nhất trí cho rằng 50-90% ngôn ngữ được nói vào đầu thế kỷ 21 có lẽ sẽ "tuyệt chủng" vào năm 2100.
Trong tiếng Việt, "ngôn ngữ" là phiên âm Hán-Việt của cặp Hán tự 言語 (bính âm Quan thoại chuẩn: "yányǔ"). Trong giai đoạn tiếng Hán trung cổ, hai chữ này được phát âm là /ŋɨɐn ŋɨʌX/, và trong giai đoạn tiếng Hán thượng cổ, 言 và 語 được phục nguyên lần lượt là "*ŋan" và "*ŋaʔ" theo nhà ngôn ngữ học Thượng Phương (2003). Schuessler (2007) cho rằng 言 (OC: "*ŋan") là danh từ phái sinh của động từ 語 (OC: "*ŋaʔ", nghĩa là 'nói') vì có kèm hậu tố "*-n". Một từ nữa dùng để chỉ ngôn ngữ nói trong tiếng Việt là "tiếng", bắt nguồn từ "tiếng" của tiếng Việt trung đại (thế kỷ 17) và là một từ mượn có gốc Hán trung cổ, 聲 (MC: ɕiᴇŋ) 'âm thanh'.
Trong tiếng Anh, "language" 'ngôn ngữ' được vay mượn từ "language" 'ngôn ngữ' của tiếng Pháp cổ (âm Pháp cổ là "lanˈɡʷadʒə"), bắt nguồn từ "lingua" 'lưỡi' của tiếng Latin, chính nó lại bắt nguồn từ "*dn̥ǵʰwéh₂s" 'lưỡi, lời nói, ngôn ngữ' của tiếng Ấn-Âu nguyên thủy.
Danh từ "ngôn ngữ" có thể được dùng để chỉ mật mã, cipher và ngôn ngữ nhân tạo, ví dụ như ngôn ngữ máy tính trong kỹ thuật lập trình. Theo đó, ngôn ngữ được định nghĩa là hệ thống các dấu hiệu nhằm mục đích mã hóa và giải mã thông tin. Bài viết này tập trung vào ngôn ngữ tự nhiên của loài người, được nghiên cứu bởi ngành ngôn ngữ học.
"Ngôn ngữ", trong vai trò là đối tượng nghiên cứu của ngôn ngữ học, có hai nghĩa chính: khái niệm trừu tượng hoặc hệ thống ngôn ngữ cụ thể kiểu như "tiếng Việt". Nhà ngôn ngữ học Thụy Sĩ Ferdinand de Saussure (người có công định hình nghiên cứu ngôn ngữ học hiện đại) là người đầu tiên phân biệt rõ ràng sự khác biệt đó. Ông sử dụng từ "language" để chỉ khái niệm, từ "langue" để chỉ ví dụ cụ thể của một hệ thống ngôn ngữ và từ "parole" để chỉ phương cách sử dụng lời nói của một ngôn ngữ cụ thể.
Khi nói về ngôn ngữ như một khái niệm chung, nhiều định nghĩa có thể được vận dụng để nhấn mạnh các khía cạnh khác nhau của hiện tượng này. Mỗi định nghĩa sẽ định hình phương pháp nghiên cứu và sự thấu hiểu ngôn ngữ theo từng cách riêng, dẫn đến những trường phái lý thuyết khác nhau hoặc xung khắc nhau. Các tranh luận xoay quanh bản chất và nguồn gốc của ngôn ngữ đã tồn tại từ thời cổ đại. Các triết gia Hy Lạp như Gorgias và Platon hoài nghi về mối quan hệ giữa từ ngữ, khái niệm và thực tế. Gorgias cho rằng ngôn ngữ không thể đại diện cho trải nghiệm khách quan lẫn trải nghiệm nhân sinh, rằng giao tiếp và chân lý đều bất khả dĩ. Trái lại, Platon cho rằng chúng ta có thể giao tiếp được vì ngôn ngữ đại diện cho các ý tưởng và khái niệm tồn tại độc lập khỏi ngôn ngữ và trước cả ngôn ngữ.
Trong các cuộc tranh luận về nguồn gốc loài người vào thời kỳ Khai sáng, các suy đoán về nguồn gốc ngôn ngữ đã trở nên rất thịnh hành. Các nhà tư tưởng như Rousseau và Herder cho rằng ngôn ngữ bắt nguồn từ sự biểu đạt cảm xúc theo bản năng, và nó ban đầu gần với âm nhạc và thơ ca hơn là logic và tư duy lý trí. Các nhà triết học duy lý như Kant và Descartes lại có quan điểm ngược lại. Khoảng đầu thế kỷ 20, các nhà tư tưởng bắt đầu băn khoăn về vai trò của ngôn ngữ trong việc hình thành trải nghiệm của con người về thế giới – đặt câu hỏi liệu ngôn ngữ có phản ánh đơn thuần cấu trúc khách quan của thế giới, hay liệu ngôn ngữ tạo ra những khái niệm mà nó áp đặt lên trải nghiệm về thế giới khách quan của chúng ta. Điều này lại dẫn đến câu hỏi liệu các vấn đề triết học có thực sự trước hết phải là vấn đề ngôn ngữ học hay không. Sự trỗi dậy của quan điểm cho rằng ngôn ngữ đóng vai trò chủ đạo trong việc tạo ra và lưu thông các khái niệm, cùng quan điểm cho rằng nghiên cứu triết học về cơ bản là nghiên cứu ngôn ngữ, gắn liền với cái được gọi là bước ngoặt ngôn ngữ học ("linguistic turn") và triết gia Ludwig Wittgenstein của thế kỷ 20. Các tranh luận về quan hệ của ngôn ngữ với ý nghĩa và tham chiếu, với nhận thức và ý thức, vẫn đang rất sôi nổi cho đến tận ngày nay.
Khả năng tâm trí, cơ quan hay bản năng.
Một định nghĩa coi ngôn ngữ chủ yếu là khả năng tâm trí ("mental faculty") cho phép con người thực hiện các hành vi ngôn ngữ: để học ngôn ngữ, để sản xuất và để hiểu lời nói. Định nghĩa này nhấn mạnh tính phổ quát của ngôn ngữ ở loài người và cơ sở sinh học của khả năng sử dụng ngôn ngữ như là một sự phát triển độc đáo của não người. Những người ủng hộ quan điểm này cho rằng sự thụ đắc ngôn ngữ là bẩm sinh ở loài người; họ khẳng định điều này là hiển nhiên vì lẽ, tất cả trẻ em bình thường lớn lên trong môi trường tiếp xúc với ngôn ngữ đều có thể tiếp thu ngôn ngữ mà chẳng cần hướng dẫn. Ngôn ngữ thậm chí có thể phát triển một cách tự nhiên trong môi trường con người sống và lớn lên cùng nhau mà không có ngôn ngữ chung; ví dụ, các ngôn ngữ Creole và ngôn ngữ ký hiệu Nicaragua. Quan điểm này bắt nguồn từ thời các triết gia Immanuel Kant và René Descartes, về sau còn xuất hiện trong thuyết ngữ pháp phổ quát của Noam Chomsky và thuyết bẩm sinh cực độ của triết gia người Mỹ Jerry Fodor. Định nghĩa này thường được sử dụng trong các nghiên cứu ngôn ngữ thuộc khuôn khổ khoa học nhận thức và ngôn ngữ học thần kinh.
Hệ thống biểu tượng hình thức.
Một định nghĩa khác coi ngôn ngữ là một hệ thống hình thức ("formal system") bao gồm các biểu tượng tuân theo quy tắc ngữ pháp kết hợp nhằm truyền tải một ý nghĩa. Định nghĩa này nhấn mạnh rằng ngôn ngữ con người có thể được mô tả như một hệ thống kết cấu đóng, trong đó bao gồm các quy tắc ánh xạ các dấu hiệu cụ thể tới các ý nghĩa cụ thể. Quan điểm cấu trúc này được Ferdinand de Saussure đề xướng, và thuyết cấu trúc ("structuralism") của ông là nền móng của nhiều phương pháp tiếp cận ngôn ngữ hậu thế.
Những người ủng hộ lý thuyết ngôn ngữ của Saussure chủ trương một cách tiếp cận hình thức để nghiên cứu cấu trúc ngôn ngữ bằng cách xác định các yếu tố cơ bản rồi trình bày các quy tắc kết hợp các yếu tố đó nhằm hình thành từ và câu hoàn chỉnh. Noam Chomsky, cha đẻ thuyết ngữ pháp tạo sinh ("generative grammar"), là người ủng hộ nhiệt tình lý thuyết này. Chomsky định nghĩa ngôn ngữ là sự xây dựng các câu cú có thể được tạo ra bằng ngữ pháp chuyển đổi ("transformational grammar"). Chomsky cho rằng các quy tắc đó là đặc điểm bẩm sinh của tâm trí con người và tạo thành các nguyên lý cơ bản của ngôn ngữ. Khái niệm ngữ pháp chuyển đổi cũng thường xuyên được áp dụng trong các ngành như logic học, ngôn ngữ học hình thức và ngôn ngữ học máy tính.
Công cụ giao tiếp.
Một định nghĩa khác coi ngôn ngữ là một hệ thống giao tiếp cho phép con người trao đổi ngữ lưu lời nói ("verbal") hoặc biểu tượng ("symbolic"). Định nghĩa này nhấn mạnh chức năng xã hội của ngôn ngữ; con người sử dụng ngôn ngữ để bộc lộ bản thân và thao túng đối tượng trong môi trường. Các lý thuyết chức năng của ngữ pháp giải thích các cấu trúc ngữ pháp dựa trên chức năng giao tiếp của chúng, cho rằng các cấu trúc ngữ pháp của ngôn ngữ là kết quả của một quá trình thích ứng trong đó ngữ pháp được hiệu chỉnh nhằm phục vụ nhu cầu giao tiếp của người sử dụng.
Quan điểm này gắn liền với việc nghiên cứu ngôn ngữ trong khuôn khổ các ngành ngữ dụng học, ngôn ngữ học nhận thức, ngôn ngữ học tương tác, ngôn ngữ học xã hội và nhân học ngôn ngữ. Các lý thuyết chức năng thường coi ngữ pháp như những hiện tượng động, như những cấu trúc luôn trong quá trình thay đổi khi người nói sử dụng. Quan điểm này đặt trọng tâm nghiên cứu ở ngành loại hình học ngôn ngữ ("linguistic typology"), tức là phân loại ngôn ngữ theo đặc điểm cấu trúc, do có thể chỉ ra rằng sự ngữ pháp hóa ("grammaticalization") có xu hướng đi theo quỹ đạo phụ thuộc một phần vào loại hình học. Trong triết học ngôn ngữ, quan điểm coi ngữ dụng là trung tâm của ngôn ngữ và ý nghĩa thường gắn liền với các tác phẩm của Wittgenstein và các triết gia ngôn ngữ thông thường như J.L. Austin, Paul Grice, John Searle hay W.O. Quine.
Các độc đáo của ngôn ngữ con người.
Nhà ngôn ngữ học Charles Hockett đã mô tả nhiều đặc điểm khác biệt của ngôn ngữ con người, mà được ông đặt tên là các đặc điểm thiết kế ("design feature"), tách biệt ngôn ngữ con người khỏi các hệ thống giao tiếp ở loài vật.
Các hệ thống giao tiếp ở động vật như ong hoặc vượn là các hệ thống đóng bao gồm một số lượng hữu hạn (thường rất hạn chế) các ý tưởng có thể diễn đạt. Ngược lại, ngôn ngữ con người là hệ thống mở và năng sản, tức là nó cho phép con người tạo ra một loạt các ngữ lưu từ một tập hợp hữu hạn các yếu tố và cho phép con người tạo ra các câu từ mới. Điều này khả thi bởi vì ngôn ngữ con người dựa trên một mã kép ("dual code"), trong đó một số lượng hữu hạn các yếu tố vô nghĩa ban đầu (ví dụ: âm thanh, chữ cái hoặc cử chỉ) có thể được kết hợp để tạo thành vô số đơn vị ý nghĩa lớn hơn (từ và câu). Tuy nhiên, một nghiên cứu đã chứng minh rằng loài chim "Pomatostomus ruficeps" ở Úc có khả năng sử dụng các yếu tố âm giống nhau nhưng theo cách dàn xếp khác nhau để tạo ra hai âm thanh khác biệt về chức năng. Ngoài ra, loài chim "Turdoides bicolor" có khả năng tạo ra hai giọng hót khác biệt về chức năng được cấu thành từ cùng một loại âm, chỉ có thể được phân biệt bằng số lượng các yếu tố âm lặp lại.
Một số loài động vật đã được chứng minh là có khả năng tiếp thu các hình thức giao tiếp thông qua học tập xã hội: ví dụ như một con tinh tinh lùn tên là Kanzi đã học cách thể hiện bản thân bằng cách sử dụng một bộ từ vựng tượng trưng (xem tiếng Yerkes). Tương tự, nhiều loài chim và cá voi học các tiếng kêu âm hưởng bằng cách bắt chước các thành viên khác trong đàn của chúng. Tuy đúng là một số loài vật có thể tiếp thu số lượng lớn từ và ký hiệu, khả năng tiếp thu của chúng vẫn còn kém xa một đứa bé loài người năm 4 tuổi trung bình và chúng vẫn chưa tạo ra bất kỳ thứ gì tương tự như ngữ pháp phức tạp ở ngôn ngữ con người.
Ngôn ngữ con người khác biệt với các hệ thống giao tiếp động vật ở chỗ: nó sở hữu các đặc điểm ngữ pháp và ngữ nghĩa, chẳng hạn danh từ và động từ, thì hiện tại và thì quá khứ, được sử dụng để truyền đạt những ý nghĩa cực kỳ phức tạp. Ngôn ngữ con người còn độc đáo với tính đệ quy: ví dụ, một cụm danh từ có thể chứa một cụm danh từ khác (kiểu như "[môi [con tinh tinh]]") hoặc một mệnh đề có thể chứa một mệnh đề khác (kiểu như "[Tôi thấy [con chó đang chạy]]"). Ngôn ngữ con người là hệ thống giao tiếp tự nhiên duy nhất được biết mà khả năng thích ứng có thể coi là độc lập về phương thức ("modality independent"). Điều này tức là ngôn ngữ có thể được sử dụng không chỉ để giao tiếp thông qua một kênh hoặc phương tiện duy nhất. Ví dụ, ngôn ngữ nói sử dụng phương thức thính giác, trong khi ngôn ngữ ký hiệu và chữ viết sử dụng phương thức trực quan, còn chữ nổi sử dụng phương thức xúc giác.
Các giả thuyết về nguồn gốc ngôn ngữ khác nhau ở các giả định cơ bản về ngôn ngữ. Một số giả thuyết dựa trên ý tưởng rằng ngôn ngữ phức tạp đến mức nó không thể nào chỉ đơn thuần xuất hiện từ hư không ở dạng hoàn chỉnh, chắc hẳn nó đã tiến hóa từ các hệ thống tiền ngôn ngữ ở tổ tiên vượn nhân. Những giả thuyết thế này được gọi là các giả thuyết mang tính liên tục. Quan điểm trái lại cho rằng ngôn ngữ là một đặc điểm riêng của con người và không thể so sánh với bất cứ thứ gì ở những loài phi-người và do đó, nó đã phải xuất hiện đột ngột trong quá trình tiến hóa từ tiền-hominid sang loài người sơ khai. Những lý thuyết dạng này được gọi là các giả thuyết mang tính gián đoạn. Ngoài ra, các giả thuyết dựa trên quan điểm di truyền do Noam Chomsky tiên phong coi ngôn ngữ như một khả năng bẩm sinh được mã hóa chủ yếu trong di truyền; còn các giả thuyết theo lý thuyết chức năng coi ngôn ngữ như một hệ thống văn hóa chủ yếu, được lĩnh hội thông qua tương tác xã hội.
Các lý thuyết liên tục được đa số học giả ủng hộ nhưng bất đồng về quá trình phát triển. Các học giả coi ngôn ngữ là khả năng bẩm sinh, chẳng hạn nhà tâm lý học Steven Pinker, coi tiền thân của ngôn ngữ là nhận thức ở động vật, còn một số khác coi ngôn ngữ là công cụ giao tiếp được học thông qua xã hội, chẳng hạn nhà tâm lý học Michael Tomasello, cho rằng ngôn ngữ là công cụ tiến hóa từ giao tiếp động vật ở linh trưởng: giao tiếp bằng cử chỉ hoặc tiếng kêu để hỗ trợ và hợp tác. Các mô hình dựa trên tính liên tục khác cho rằng ngôn ngữ tiến hóa từ âm nhạc và rất được tán thành bởi Rousseau, Herder, Humboldt và Charles Darwin. Một người đề xướng nổi bật của quan điểm này là nhà khảo cổ học Steven Mithen. Nhà ngôn ngữ học Mỹ Stephen Anderson khẳng định rằng tuổi của ngôn ngữ nói rơi vào khoảng 60.000 đến 100.000 năm và rằng:Các nhà nghiên cứu về nguồn gốc tiến hóa của ngôn ngữ thường thấy hợp lý khi cho rằng ngôn ngữ chỉ được phát minh duy nhất một lần và tất cả các ngôn ngữ nói hiện đại theo một cách nào đó đều có quan hệ với nhau, ngay cả khi mối quan hệ đó không còn khôi phục được nữa ... vì những hạn chế của các phương pháp hiện thời nhằm tái tạo chúng.
Bởi lẽ ngôn ngữ đã xuất hiện từ thời tiền sử, trước khi có bất kỳ ghi chép thành văn nào, sự phát triển ban đầu của nó không để lại bất kì dấu tích lịch sử nào và giới khoa học tin rằng hiện giờ ta không thể quan sát bất kì quá trình nào có thể mô phỏng lại sự khởi thủy đó. Các học giả theo thuyết liên tục chủ trương tìm kiếm ở động vật các đặc điểm có thể xem là tương tự với ngôn ngữ ở loài người sơ khai. Các nhà khảo cổ thì có khả năng kiểm định và tìm kiếm các dấu vết sinh học thích nghi cho việc sử dụng ngôn ngữ ở con người, hoặc tìm kiếm các dạng hành vi biểu tượng tiền ngôn ngữ. Một số các dấu hiệu hóa thạch con người biểu hiện khả năng ngôn ngữ là: kích thước não so với khối lượng cơ thể, sự tiến hóa của thanh quản có khả năng tạo ra âm thanh tiên tiến và một số công cụ cùng các đồ tạo tác.
Một quan điểm truyền thống trong giới khảo cổ là các australopithecine tiền nhân tựu trung có hệ thống giao tiếp không khác mấy so với các loài vượn lớn. Tuy nhiên, một nghiên cứu về loài "Ardipithecus ramidus" năm 2017 đã thách thức quan điểm trên. Một số học giả cho rằng sự phát triển của các hệ thống tiền ngôn ngữ ("proto-language") bắt đầu sớm nhất với "Homo habilis" (2,3 triệu năm trước) trong khi nhiều học giả khác cho rằng sự tiến hóa của giao tiếp biểu tượng nguyên thủy bắt đầu với "Homo erectus" (1,8 triệu năm trước) hoặc "Homo heidelbergensis" (0,6 triệu năm trước), và sự tiến hóa của ngôn ngữ chính thống bắt đầu với "Homo sapiens" hiện đại về mặt giải phẫu trong cuộc cách mạng Đồ đá cũ Thượng chưa đầy 100.000 năm trước.
Chomsky là học giả nổi bật đề xướng lý thuyết gián đoạn của sự tiến hóa ngôn ngữ. Ông bình luận về các học giả quan tâm đến bản chất ngôn ngữ, "thảo luận về sự tiến hóa của năng lực ngôn ngữ là lạc đề." Chomsky đề xuất rằng có lẽ "một số đột biến ngẫu nhiên đã xảy ra [...] và chúng đã tái tổ chức bộ não, cấy ghép một cơ quan ngôn ngữ vào bộ não đa phần linh trưởng." Mặc dù Chomsky khuyên rằng không nên coi giả thuyết này theo nghĩa đen, ông vẫn khẳng định "nó có lẽ gần với thực tế hơn nhiều câu chuyện cổ tích khác về các quá trình tiến hóa, bao gồm cả ngôn ngữ."
Ngôn ngữ học đã phát triển thành một ngành khoa học kể từ khi những mô tả ngữ pháp đầu tiên của các ngôn ngữ cụ thể ở Ấn Độ hơn 2000 năm trước, sau sự phát triển của hệ chữ Brahmi. Ngôn ngữ học hiện đại là một ngành khoa học nghiên cứu tất cả các khía cạnh của ngôn ngữ, xem xét nó từ tất cả các quan điểm lý thuyết đã được nêu ở trên.
Nghiên cứu học thuật về ngôn ngữ được tiến hành trên nhiều lĩnh vực chuyên ngành và từ nhiều góc độ lý thuyết khác nhau, tất cả những thứ đó đều cung cấp các phương pháp tiếp cận hiện đại đối với ngôn ngữ học. Ví dụ, ngôn ngữ học mô tả mổ xẻ ngữ pháp của một ngôn ngữ đơn lẻ; ngôn ngữ học lý thuyết phát triển các lý thuyết, khái niệm ngôn ngữ và xác định bản chất ngôn ngữ dựa trên dữ liệu từ nhiều ngôn ngữ khác nhau; ngôn ngữ học xã hội nghiên cứu cách thức sử dụng ngôn ngữ trong bối cảnh xã hội, để rồi áp dụng ngược sang để nghiên cứu các chức năng xã hội của ngôn ngữ và mô tả ngữ pháp; ngôn ngữ học thần kinh nghiên cứu cách thức ngôn ngữ được xử lý trong bộ não và kiểm định các lý thuyết; ngôn ngữ học tính toán được xây dựng trên nền tảng ngôn ngữ học lý thuyết và mô tả để tạo nên các mô hình tính toán của ngôn ngữ nhằm xử lý ngôn ngữ tự nhiên hoặc thử nghiệm các giả thuyết ngôn ngữ học; và ngôn ngữ học lịch sử lần theo dấu vết lịch sử của từng ngôn ngữ dựa theo các mô tả ngữ pháp, từ vựng và tái tạo lại quan hệ ngôn ngữ thông qua phương pháp so sánh lịch sử.
Nhà ngữ pháp học Ấn Độ thế kỷ thứ 5 TCN Pāṇini, nổi tiếng với công trình liệt kê 3.959 quy tắc hình thái tiếng Phạn, thường được coi là người khởi đầu ngành nghiên cứu ngữ pháp chính thống. Tuy nhiên, người Sumer đã nghiên cứu sự khác biệt giữa ngữ pháp tiếng Sumer và tiếng Akkad từ rất lâu trước đó rồi (vào khoảng năm 1900 TCN). Các truyền thống mô tả ngữ pháp tiếp tục phát triển ở tất cả các nền văn hóa cổ đại tiếp thu chữ viết.
Vào thế kỷ 17, các nhà ngữ pháp Port-Royal của Pháp có ý tưởng cho rằng ngữ pháp của mọi ngôn ngữ là sự phản ánh những điều cơ bản phổ quát của ý nghĩ và chính vì vậy, ngữ pháp tất phải phổ quát. Vào thế kỷ 18, nhà bác ngữ và chuyên gia về Ấn Độ cổ đại người Anh tên là William Jones lần đầu tiên áp dụng phương pháp so sánh lịch sử để nghiên cứu ngôn ngữ và đánh dấu cho sự khởi đầu của ngành ngôn ngữ học so sánh lịch sử. Wilhelm von Humboldt sau đó mở rộng ý tưởng nghiên cứu ngôn ngữ lịch sử từ các ngôn ngữ Ấn-Âu sang các nhóm ngôn ngữ khác. Đầu thế kỷ 20, Ferdinand de Saussure đề xuất khái niệm ngôn ngữ như một hệ thống tĩnh gồm các đơn vị liên kết với nhau, được xác định thông qua sự đối lập giữa chúng.
Saussure đã đặt nền móng cho ngành ngôn ngữ học hiện đại với sự phân biệt giữa phân tích đồng đại ("synchrony") và lịch đại ("diachrony") trong nghiên cứu ngôn ngữ. Ông cũng đưa ra một số khía cạnh khái niệm cơ bản của phân tích ngôn ngữ, cho đến nay vẫn là đại cương trong nhiều lý thuyết ngôn ngữ học, chẳng hạn sự phân biệt ngữ đoạn-mẫu hình, sự phân biệt langue-parole tách ngôn ngữ thành hai phần là hệ thống trừu tượng ("langue") và ngôn ngữ cụ thể hiện thân của hệ thống này ("parole").
Ngôn ngữ học hiện đại.
Vào những năm 1960, Noam Chomsky xây dựng lý thuyết tạo sinh của ngôn ngữ, cho rằng hình thức cơ bản nhất của ngôn ngữ là một tập hợp các quy tắc cú pháp phổ quát ở toàn bộ loài người và đóng vai trò là cơ sở ngữ pháp của tất cả ngôn ngữ loài người. Bộ quy tắc này được ông gọi là Ngữ pháp Phổ quát ("Universal Grammar"); theo Chomsky, mục tiêu chính của ngôn ngữ học là tìm ra thứ ngữ pháp này. Vì vậy, ông cho rằng ngữ pháp của từng ngôn ngữ riêng lẻ chỉ có tầm quan trọng nhất định do chúng cho phép ta suy ra các quy tắc cơ bản phổ quát mà từ đó tạo ra sự biến đổi ngôn ngữ có thể quan sát được ngày nay.
Đối lập với các lý thuyết hình thức của trường phái tạo sinh, các lý thuyết chức năng của ngôn ngữ cho rằng ngôn ngữ về cơ bản là một công cụ, thế nên cấu trúc của nó được phân tích và hiểu rõ nhất khi ta đi nghiên cữu chức năng của nó. Các lý thuyết hình thức về ngữ pháp tìm cách xác định các yếu tố khác nhau của ngôn ngữ và mô tả sự liên hệ giữa chúng như là hệ thống các quy tắc hoặc các thao tác hình thức, trong khi các lý thuyết chức năng tìm cách xác định các chức năng của ngôn ngữ và sau đó liên hệ chúng với các yếu tố ngôn ngữ thực hiện chức năng đó. Khuôn khổ ngôn ngữ học nhận thức giải thích ngôn ngữ dưới dạng các khái niệm (đôi khi phổ quát, và đôi khi cụ thể cho một ngôn ngữ cá biệt) ẩn dưới cái hình thức. Ngôn ngữ học nhận thức quan tâm chủ yếu đến cách trí óc tạo ra ý nghĩa thông qua ngôn ngữ.
Kiến trúc sinh lý và thần kinh của ngôn ngữ và lời nói.
Nói là phương thức mặc định để diễn đạt ngôn ngữ ở tất cả các nền văn hóa. Việc tạo ra ngôn ngữ nói phụ thuộc vào năng lực điều khiển môi, lưỡi và các thành phần khác của bộ máy thanh âm rất tinh vi; dựa vào khả năng giải mã âm thanh của giọng nói, và dựa vào bộ máy thần kinh cần thiết để tiếp thu và sản xuất ngôn ngữ. Ngành nghiên cứu cơ sở di truyền của ngôn ngữ con người vẫn còn rất non trẻ: gen duy nhất hiện được biết có liên quan đến sự sản xuất ngôn ngữ ở người là FOXP2, mất đoạn gen này sẽ gây gián đoạn chức năng ngôn ngữ ở người.
Bộ não là trung tâm điều phối mọi hoạt động ngôn ngữ; nó kiểm soát cả việc sản xuất nhận thức ngôn ngữ, ý nghĩa và cơ chế tạo ra lời nói. Tuy nhiên, kiến thức của chúng ta về các cơ sở thần kinh liên quan đến ngôn ngữ vẫn còn rất hạn chế mặc cho những tiến bộ đáng kể trong kỹ thuật hình ảnh hiện đại. Ngành ngôn ngữ học chuyên nghiên cứu các khía cạnh thần kinh của ngôn ngữ được gọi là ngôn ngữ học thần kinh.
Công tác ban đầu của ngành ngôn ngữ học thần kinh là nghiên cứu ngôn ngữ ở những người bị tổn thương não, để xem xét các tổn thương ở những khu vực đó ảnh hưởng thế nào đến ngôn ngữ và lời nói. Các nhà khoa học thần kinh vào thế kỷ 19 phát hiện ra 2 khu vực của não bộ liên quan mật thiết đến quá trình xử lý ngôn ngữ của con người. Khu vực đầu tiên là vùng Wernicke, nằm ở phần sau của hồi thái dương trên thuộc bán cầu đại não ưu thế. Những người bị tổn thương vùng não này biểu hiện chứng thất ngôn tiếp thu, tức là tình trạng suy giảm trầm trọng khả năng hiểu ngôn ngữ, nhưng lời nói vẫn giữ nhịp điệu tự nhiên và cấu trúc câu tương đối bình thường. Khu vực thứ hai là vùng Broca, nằm ở phần sau của hồi trán dưới của bán cầu não ưu thế. Những người bị tổn thương khu vực này biểu hiện chứng thất ngôn biểu đạt, tức là họ biết điều mình muốn nói nhưng không tài nào nói ra được. Các đối tượng đôi khi hiểu được cuộc trò chuyện nhưng không thể nói trôi chảy, thường lặp từ của người khác, có biểu hiện nói không đúng ngữ điệu và không có khả năng sử dụng thông tin cú pháp để xác định ý nghĩa của câu. Cả hai loại thất ngôn trên ảnh hưởng đến ngôn ngữ ký hiệu y hệt như ngôn ngữ nói miệng. Chứng thất ngôn biểu đạt khiến cho đối tượng ra ký hiệu chậm hơn và sai ngữ pháp, còn chứng thất ngôn tiếp thu khiến đối tượng tuy ra hiệu trôi chảy, nhưng thường lan man khó hiểu và thường không hiểu được ý của đối phương. Những điều trên cho thấy rằng hai vùng này đặc trưng cho khả năng sử dụng ngôn ngữ, nhưng không liên quan gì đến khả năng tạo ra giọng nói.
Với những tiến bộ công nghệ vào cuối thế kỷ 20, các nhà ngôn ngữ học thần kinh đã và đang vận dụng các kỹ thuật không xâm nhập như chụp cộng hưởng từ chức năng (fMRI) và điện sinh lý để nghiên cứu quá trình xử lý ngôn ngữ ở những người khỏe mạnh.
Giải phẫu lời nói.
Ngôn ngữ nói dựa vào khả năng vật lý của con người để tạo ra âm thanh, tức là một kiểu sóng dọc truyền trong không khí ở tần số rung động trống tai. Khả năng này phụ thuộc vào sinh lý của cơ quan tạo lời nói ở con người. Những cơ quan này bao gồm phổi, thanh quản, cổ họng, miệng và mũi. Bằng cách điều phối các bộ phận thuộc bộ máy phát âm, luồng khí được điều chỉnh để tạo ra các âm thanh giọng nói khác nhau.
Âm thanh của lời nói có thể được phân tích thành sự kết hợp của các yếu tố đoạn tính và siêu đoạn tính ("segmental and suprasegmental"). Các phần tử phân đoạn là những phần tử nối tiếp nhau theo trình tự, thường được biểu thị bằng các chữ cái riêng biệt trong bảng chữ cái, chẳng hạn chữ Latinh. Trong lời nói tự do, không có ranh giới rõ ràng giữa phân đoạn này và phân đoạn tiếp, và thường không có bất kỳ khoảng tạm dừng âm thanh nào giữa chúng. Do đó, các phân đoạn được phân biệt bằng các âm riêng biệt là kết quả của các cách phát âm khác nhau (có thể là nguyên âm hoặc phụ âm). Hiện tượng siêu phân đoạn bao gồm các yếu tố như trọng âm ("stress"), kiểu tạo âm ("phonation type"), âm sắc ("timbre"), điệu tính ("prosody") hoặc ngữ điệu ("intonation"), tất cả đều có thể có ảnh hưởng trên nhiều phân đoạn.
Các phân đoạn phụ âm và nguyên âm kết hợp với nhau để tạo thành âm tiết, sau đó kết hợp với nhau để tạo thành ngữ lưu; điều mà có thể được phân biệt bằng khoảng trống giữa hai lần hít vào. Về mặt âm học, các phân đoạn khác nhau đặc trưng bởi các cấu trúc formant khác nhau, được biểu thị trong phổ sóng ghi lại âm thanh. Formant chính là các đỉnh biên độ trong phổ tần số của một âm thanh cụ thể.
Nguyên âm là những âm thanh không có ma sát nghe được, gây ra bởi sự thu hẹp hoặc tắc nghẽn một số chặng của đường dẫn âm trên. Chúng khác nhau về chất âm ("quality") tùy theo độ mở của môi và vị trí của lưỡi trong khoang miệng. Nguyên âm được gọi là đóng ("close") khi môi tương đối khép, chẳng hạn âm [i] (tiếng Việt ký âm là "i" hoặc "y"); được gọi là mở ("open") khi môi tương đối mở, chẳng hạn nguyên âm [a] (tiếng Việt ký âm là "a"). Nếu lưỡi nằm về phía sau miệng, chất âm sẽ thay đổi, tạo ra các nguyên âm như [u] (tiếng Việt ký âm là "u"). Chất âm cũng thay đổi tùy thuộc vào độ làm tròn ("roundedness") và không làm tròn ("unroundedness") của môi, ví dụ sự khác biệt giữa [i] (nguyên âm trước không làm tròn) và [y] (nguyên âm trước làm tròn trong tiếng Đức "ü" ).
Phụ âm là những âm bị ma sát nghe được hoặc bị cản trở tại một số chặng của đường dẫn âm trên. Các phụ âm thay đổi tùy theo vị trí cấu âm ("place of articulation"), tức là vị trí luồng khí bị cản trở trong đường dẫn âm, thường là ở môi, răng, kẽ kề nướu răng, ngạc cứng, ngạc mềm, lưỡi gà hoặc thanh môn. Mỗi vị trí cấu âm sẽ tạo ra một tập hợp các phụ âm khác nhau, được phân biệt rõ ràng hơn bởi phương pháp cấu âm ("manner of articulation") hoặc loại ma sát, kể cả khi đóng hoàn toàn (trong trường hợp đó phụ âm được gọi là âm tắc hoặc dừng), hoặc các mức khẩu độ khác nhau tạo ra âm xát và âm lướt. Phụ âm cũng có thể là hữu thanh hoặc vô thanh ("voiced-unvoiced"), tùy thuộc vào độ rung động của dây thanh trong quá trình phát âm.
Một số âm cần sự giải phóng luồng khí bằng khoang mũi nên được gọi là âm mũi hoặc âm mũi hóa ("nasalized"). Một số âm được tạo ra bởi chuyển động lưỡi trong miệng, như các âm l thì được gọi là âm bên ("lateral") vì luồng khí chạy dọc hai bên lưỡi, và như các âm r thì được gọi là âm r-tính ("rhotic").
Con người có thể tạo ra hàng trăm âm thanh riêng biệt: một số âm xuất hiện rất thường xuyên trong các ngôn ngữ trên thế giới, còn một số âm thanh lại phổ biến hơn trong một số ngữ hệ, khu vực ngôn ngữ nhất định hoặc thậm chí chỉ xuất hiện ở một ngôn ngữ cụ thể.
Phương thức biểu đạt.
Ngôn ngữ con người rất linh hoạt trong cách thức truyền tải. Hai phương thức giao tiếp được coi là cơ bản: bằng miệng (lời nói và ra hiệu bằng miệng) và bằng tay (ra hiệu bằng tay và cử chỉ). Thông thường, ngôn ngữ bằng miệng đi kèm với cử chỉ và ngôn ngữ ký hiệu đi kèm với mấp máy miệng. Ngoài ra, một số cộng đồng ngôn ngữ sử dụng cả hai phương thức để truyền tải ý nghĩa từ vựng hoặc ngữ pháp, bổ trợ lẫn nhau. Việc sử dụng ngôn ngữ theo hai phương thức như vậy đặc biệt phổ biến trong các thể loại như kể chuyện (ví dụ thủ ngữ Anh-điêng đồng bằng và thủ ngữ thổ dân Úc đi đôi với ngôn ngữ miệng), đôi khi cũng xảy ra trong các cuộc trò chuyện thông thường. Ví dụ: nhiều ngôn ngữ Úc có một tập hợp phong phú các hậu tố cách ngữ pháp ("case") cung cấp thông tin chi tiết về công cụ được sử dụng để thực hiện một hành động. Nhiều ngôn ngữ khác thiếu độ chính xác ngữ pháp như vậy ở ngôn ngữ nói, nhưng được bổ sung bằng cử chỉ để truyền đạt thông tin đó. Ví dụ, trong tiếng Iwaidja, câu nói 'anh ta đi săn cá với ngọn đuốc' được nói đơn giản là "anh ấy-săn cá đuốc", nhưng từ 'đuốc' được đi kèm với một cử chỉ biểu thị rằng nó đã được cầm. Một ví dụ nữa, ngôn ngữ nghi lễ Damin có vốn từ vựng truyền miệng chỉ vỏn vẹn vài trăm từ, mỗi từ đều rất chung chung về nghĩa, nhưng được bổ sung bằng cử chỉ để có độ chính xác cao hơn (ví dụ: từ duy nhất chỉ cá là "l*i", sẽ đi kèm một cử chỉ để xác định loài cá).
Các phương thức ngôn ngữ thứ cấp bao gồm chữ viết (bao gồm chữ nổi), dấu hiệu (bằng ngôn ngữ được mã hóa thủ công), huýt sáo và đánh trống. Các phương thức ngôn ngữ bậc ba - chẳng hạn semaphore, mã Morse và bảng chữ cái chính tả - truyền tải phương thức viết thứ cấp theo một phương tiện khác. Đối với một số ngôn ngữ chết còn được duy trì cho mục đích nghi lễ hoặc phụng vụ, chữ viết mới là phương thức biểu đạt chính, còn nói chỉ là phương thức thứ yếu.
Nếu được coi như một hệ thống giao tiếp tượng trưng theo truyền thống, ngôn ngữ được xem như bao gồm ba phần: dấu hiệu ("sign"), ý nghĩa ("meaning") và mã ("code") cầu nối giữa dấu hiệu và ý nghĩa. Khoa học nghiên cứu quá trình thiết hiệu (phương thức các dấu hiệu và ý nghĩa được liên kết, sử dụng và giải thích) được gọi là ngành ký hiệu học. Dấu hiệu có thể bao gồm âm thanh, cử chỉ, chữ cái hoặc biểu tượng, tùy thuộc vào ngôn ngữ được nói, ra hiệu hay viết và chúng có thể được kết hợp thành các dấu hiệu phức tạp hơn, chẳng hạn từ và cụm từ. Khi được sử dụng để giao tiếp, một dấu hiệu sẽ được mã hóa và truyền đi bởi người gửi ("sender") thông qua một kênh ("channel") đến người nhận ("receiver") phải giải mã nó.
Một số đặc tính tách biệt ngôn ngữ con người khỏi các hệ thống giao tiếp khác, đó là: "tính võ đoán" ("arbitrariness") của dấu hiệu ngôn ngữ, tức là ta không thể lường trước mối liên kết giữa dấu hiệu và ý nghĩa; "tính sóng đôi" ("duality") của hệ thống ngôn ngữ, tức là những cấu trúc ngôn ngữ lớn hơn được xây dựng từ sự kết hợp các yếu tố nhỏ hơn, ví dụ: âm thanh xây dựng từ ngữ, rồi từ ngữ xây dựng ngữ đoạn; "tính phân lập" ("discreteness") của các yếu tố ngôn ngữ, tức là các yếu tố cấu thành dấu hiệu ngôn ngữ là các đơn vị rời rạc, ví dụ: âm thanh và từ ngữ, có thể được phân biệt và tái sắp xếp theo các kiểu mẫu khác nhau; và "tính năng sản" ("productivity") của hệ thống ngôn ngữ, tức là trên lý thuyết, một tổ hợp ngôn từ vô hạn có thể được sáng tạo từ hữu hạn yếu tố ngôn ngữ.
Các quy tắc mà các dấu hiệu tuân theo để kết hợp và tạo thành từ ngữ/ngữ đoạn được gọi là cú pháp hoặc ngữ pháp. Ý nghĩa ẩn sau của từng dấu hiệu, hình vị, từ ngữ, ngữ đoạn và văn bản được gọi là ngữ nghĩa. De Saussure là nhà ngôn ngữ học tiên phong cho phương pháp phân chia ngôn ngữ thành các hệ thống ký hiệu và ý nghĩa riêng biệt như vậy, mà hiện nay được áp dụng trong hầu hết các ngành ngôn ngữ học.
Các ngôn ngữ biểu đạt ý nghĩa thông qua sự liên hệ dạng ký hiệu (sign form) với một ý nghĩa hoặc nội dung. Dạng dấu hiệu phải là thứ có thể nhận biết được, chẳng hạn âm thanh, hình ảnh hoặc cử chỉ, sau đó được liên hệ đến một ý nghĩa cụ thể dựa theo quy ước xã hội. Vì mối quan hệ dạng ký hiệu-ý nghĩa lệ thuộc vào quy ước xã hội, các dấu hiệu ngôn ngữ có thể coi là tùy ý, tức là quy ước đó được thiết lập về mặt xã hội và lịch sử, chứ không phải về mặt tự nhiên giữa một dạng dấu hiệu cụ thể và ý nghĩa của nó.
Như vậy, ngôn ngữ phải có vốn dấu hiệu liên quan đến ý nghĩa cụ thể. Ví dụ, ký hiệu tiếng Việt "chó" làm ta liên tưởng đến một thành viên của loài "Canis familris". Một mảng các dấu hiệu tùy ý kết nối với các ý nghĩa cụ thể được gọi là từ vựng ("lexicon"), còn từng ký hiệu đơn lẻ kết nối với từng ý nghĩa một được gọi là từ vị ("lexeme"). Chưa chắc mọi ý nghĩa trong một ngôn ngữ đều được thể hiện bằng các từ đơn. Thông thường, các khái niệm ngữ nghĩa được gắn với hình thái hoặc cú pháp của ngôn ngữ dưới dạng các đặc điểm ngữ pháp (ví dụ: đuôi "-s" chỉ số nhiều ở tiếng Anh, v.v).
Mọi ngôn ngữ đều có một cấu trúc ngữ nghĩa gọi là vị ngữ, đảm nhận chức năng xác định thuộc tính, trạng thái hoặc hành động. Ngữ nghĩa học có thể được định nghĩa là ngành khoa học nghiên cứu về phương thức người nói hoặc người thông dịch gán giá trị chân lý cho các phát biểu; do đó, ý nghĩa có thể được hiểu là quá trình mà một vị ngữ phát biểu đúng hoặc sai về một thực thể, ví dụ: "[x [là y]]" hay "[x [làm y]]". Gần đây, mô hình ngữ nghĩa học này đã được bổ sung với nhiều mô hình ý nghĩa năng động hơn, kết hợp thêm kiến thức về ngữ cảnh chung, trong đó một dấu hiệu được diễn giải tạo ra ý nghĩa. Những mô hình kiểu vậy được nghiên cứu trong lĩnh vực ngữ dụng học.
Âm thanh và ký hiệu.
Tùy thuộc vào phương thức biểu đạt, cấu trúc ngôn ngữ có thể dựa trên hệ thống âm thanh (lời nói), cử chỉ (ngôn ngữ ký hiệu), đồ họa hoặc biểu tượng xúc giác. Cách thức ngôn ngữ sử dụng âm thanh hoặc biểu tượng để xây dựng ý nghĩa được nghiên cứu trong ngành âm vị học.
Âm thanh thuộc một phần của hệ thống ngôn ngữ được gọi là âm vị ("phoneme"). Âm vị là loại âm thanh trừu tượng, được định nghĩa là đơn vị nhỏ nhất trong ngôn ngữ có thể dùng để phân biệt ý nghĩa của một cặp tối thiểu ("minimal pair"). Ví dụ trong tiếng Việt, "tương" [tɨəŋ˧˧] và "thương" [tʰɨəŋ˧˧] tạo thành một cặp tối thiểu, trong đó sự phân biệt /t/ và /th/ tạo ra hai từ khác hẳn nhau về nghĩa; tương tự trong tiếng Anh, "bat" [bæt] 'dơi' và "pat" [pʰæt] 'vỗ' tạo thành cặp tối thiểu do sự phân biệt /b/ và /p/. Tuy nhiên, mỗi ngôn ngữ tương phản âm thanh theo những cách khác nhau. Nếu như một ngôn ngữ không phân biệt giữa phụ âm hữu thanh và vô thanh, thì âm [p] và [b] (nếu xuất hiện) có thể được coi là một âm vị duy nhất và hai từ sẽ có cùng nghĩa. Giống tiếng Hàn và tiếng Hindi, tiếng Anh không phân biệt ngữ âm giữa phụ âm bật hơi và không bật hơi: /p/ trong "spin" [spɪn] và /p/ trong "pin" [pʰɪn] được coi là hai cách phát âm khác nhau của cùng một âm vị (hai âm này do vậy sẽ được gọi là tha âm vị ("allophone")), trái lại trong tiếng Quan Thoại thì lại phân biệt giữa [pʰá] 'cúi' và [pá] 'tám' (dấu sắc của "á" ở đây tượng trưng cho thanh điệu cao).
Mọi ngôn ngữ nói đều có âm vị thuộc hai loại cơ bản là nguyên âm và phụ âm, có thể kết hợp lại thành âm tiết ("syllable"). Bên cạnh phụ âm và nguyên âm, một số ngôn ngữ sử dụng nhiều đặc điểm khác để truyền đạt và phân biệt ý nghĩa, ví dụ như trọng âm ("stress"), cao độ ("pitch"), thời lượng ("duration") và thanh điệu ("tone"). Bởi vì những hiện tượng này hoạt động bên ngoài mức độ đoạn tính đơn lẻ, chúng được gọi là siêu phân đoạn. Một số ngôn ngữ có rất ít âm vị, chẳng hạn tiếng Rotokas và tiếng Pirahã sở hữu lần lượt 11 và 10 âm vị, trong khi một số lại có rất nhiều âm vị, chẳng hạn tiếng Taa sở hữu tận 141 âm vị. Trong nghiên cứu ngôn ngữ ký hiệu, thứ tương đương với âm vị được gọi là hiệu vị ("chereme"), tức là các yếu tố cơ bản của cử chỉ chẳng hạn hình dạng, hướng, vị trí và chuyển động của tay, tương ứng với phương pháp cấu âm trong khẩu ngữ.
Hệ thống chữ viết là hệ thống sử dụng các ký hiệu trực quan để đại diện cho ngôn ngữ nói. Bảng chữ cái Latinh (và những bảng chữ cái dựa theo hoặc bắt nguồn từ nó) ban đầu được tạo ra nhằm ký âm đơn lẻ, vì vậy những cộng đồng ngôn ngữ sử dụng bảng Latinh phải ghép các chữ cái lại để tạo thành một từ hoàn chỉnh. Trong các hệ chữ âm tiết ("syllabic script"), chẳng hạn hệ chữ Inuktitut, mỗi ký hiệu đại diện cho toàn bộ một âm tiết. Trong các hệ chữ tượng hình (logographic script), mỗi dấu hiệu đại diện cho toàn bộ một từ và hầu như không gợi ý cách phát âm của từ đó.
Bởi các ngôn ngữ đều có số lượng từ vựng rất lớn, không một hệ chữ tượng hình thuần túy nào tồn tại. Ngôn ngữ viết mô phỏng lại sự tiếp nối của các âm thanh và lời nói bằng cách sắp xếp các ký hiệu theo một khuôn mẫu, tuân theo một chiều viết nhất định. Chiều viết của một hệ chữ hoàn toàn tùy thuộc theo quy ước. Một số hệ chữ viết theo chiều ngang (từ trái sang phải giống hệ Latinh hoặc từ phải sang trái giống hệ Ả Rập), còn một số hệ khác viết theo chiều dọc, ví dụ như từ trên xuống dưới giống hệ chữ Hán truyền thống. Một số hệ viết theo các hướng ngược nhau xen kẽ các dòng, và một số hệ, chẳng hạn hệ Maya cổ, có thể được viết theo cả hai hướng và sử dụng các ký hiệu đặc biệt để chỉ dẫn người đọc hướng viết.
Các nhà ngôn ngữ học đã phát triển bảng chữ cái phiên âm quốc tế (IPA) để đại diện cho tất cả các đơn vị âm thanh rời rạc góp phần tạo nên ý nghĩa trong tất cả các ngôn ngữ nói miệng của con người.
Ngữ pháp là bộ quy tắc của một ngôn ngữ cụ thể quy định sự kết ghép các các hình vị lại để tạo thành một ngữ lưu. Nếu hình vị được tự do di chuyển trong một ngữ lưu, chúng được gọi là từ; còn nếu bị ràng buộc với các từ hoặc hình vị khác thì gọi là phụ tố. Các quy tắc cấu trúc bên trong của từ được gọi là hình thái còn quy tắc cấu trúc bên trong của các cụm từ và câu thì gọi là cú pháp.
Phạm trù ngữ pháp.
Ngữ pháp có thể được mô tả là một hệ thống các phạm trù ("category") và một tập hợp các quy tắc kết hợp các phạm trù đó để tạo thành các khía cạnh ý nghĩa khác nhau. Từng ngôn ngữ sẽ có một kiểu mã hóa ý nghĩa theo phạm trù hoặc từ vị riêng. Tuy nhiên, vẫn có một số đặc điểm nhất quán đến mức gần như phổ quát ở mọi ngôn ngữ.
Các nhà ngôn ngữ học chia các thành phần trong câu nói thành các lớp từ theo chức năng và vị trí của chúng so với các phần khác của một câu. Ví dụ, tất cả các ngôn ngữ đều phân biệt giữa nhóm từ biểu thị nguyên mẫu sự vật-khái niệm và nhóm từ biểu thị nguyên mẫu hành động-sự kiện. Nhóm từ chỉ sự vật-khái niệm, bao gồm các từ tiếng Việt như "chó" và "nhạc", được gọi là danh từ. Nhóm từ chỉ hành động-sự kiện, bao gồm "nghĩ" và "hát", được gọi là động từ. Một nhóm từ phổ biến nữa là tính từ, mô tả đặc tính hoặc phẩm chất của các danh từ, chẳng hạn "chua" hoặc "lớn". Lớp từ "mở" nếu ta luôn có thể thêm từ mới vào lớp đó, nhưng "đóng" nếu chỉ có một số lượng cố định từ ngữ ở lớp đó. Trong tiếng Anh, lớp đại từ là lớp đóng còn lớp tính từ là lớp mở, do vô số tính từ có thể phái sinh từ động từ (ví dụ: "saddened") hoặc danh từ (ví dụ: thêm hậu tố "-like" vào sau một danh từ có thể tạo ra các tính từ, như trong "noun-like" 'giống danh từ'). Trong các ngôn ngữ khác như tiếng Hàn, điều này trái lại, số lượng đại từ là bất định nhưng số lượng tính từ lại cố định.
Mỗi từ loại đảm nhận những chức năng khác nhau của ngữ pháp. Ví dụ, động từ cấu thành vị ngữ, còn danh từ cấu thành tham tố ("argument") của vị ngữ; ví dụ trong câu "Sally runs", vị ngữ sẽ là "runs" vì nó chỉ trạng thái cụ thể của tham tố "Sally". Một số động từ như "curse" có thể liên kết với 2 tham tố, ví dụ: "Sally cursed John". Một vị ngữ chỉ có thể nhận một tham tố duy nhất thì gọi là nội động từ ("intransitive verb"), còn nếu có thể nhận hai tham tố thì gọi là ngoại động từ ("transitive verb").
Ngoài ra, ngôn ngữ còn có rất nhiều từ loại, chẳng hạn: liên từ để nối các mệnh đề, mạo từ để đánh dấu tính xác định của danh từ, thán từ để bộc lộ cảm xúc, biểu ý từ (ideophone) để gợi lên ý tưởng bằng âm thanh, giới từ để xác định vị trí của sự vật trong không gian, loại từ để phân loại danh từ theo hình dáng hoặc phẩm chất của sự vật,
Trong ngôn ngữ học, việc nghiên cứu cấu trúc bên trong của các từ phức và quá trình mà các từ ngữ hình thành được gọi là hình thái học. Trong hầu hết các ngôn ngữ, từ phức có thể được xây dựng từ nhiều hình vị. Ví dụ, từ "unexpected" trong tiếng Anh có thể được phân tích thành ba hình vị là "un-", "expect" và "-ed".
Hình vị có khả năng đứng độc lập gọi là căn tố (root), còn nếu phải đi kèm với các hình vị khác thì gọi là phụ tố ("affix"). Phụ tố có thể được phân loại dựa theo vị trí của chúng so với căn tố: tiền tố ("prefix"), hậu tố ("postfix") và trung tố ("infix"). Phụ tố có vai trò thay nghĩa hoặc bổ nghĩa cho căn tố. Trong một số ngôn ngữ, từ ngữ có thể biến âm để biểu thị một ý nghĩa khác; ví dụ trong tiếng Anh, từ "run" ở thì quá khứ là "ran". Hiện tượng biến âm đó được gọi là ablaut. Ngoài ra, hình thái học phân biệt giữa hai khái niệm biến tố (thay nghĩa hoặc bổ nghĩa một căn tố) và phái sinh (tạo ra từ mới dựa trên một căn tố hiện có). Trong tiếng Anh, động từ "sing" có dạng biến tố thì quá khứ là "sung" và dạng phái sinh kèm hậu tố chỉ nghề nghiệp "-er" là "singer".
Dựa vào hình thái-cú pháp, ngôn ngữ có thể được phân thành 4 loại sau đây:
Nhiều hình thái ngôn ngữ thể hiện tính tham chiếu chéo các từ trong một câu, gọi là sự phù ứng ("agreement"). Ví dụ trong nhiều ngôn ngữ Ấn-Âu, các tính từ phải tham chiếu chéo với danh từ mà chúng bổ nghĩa về lượng, cách và giống. Chính vì vậy, từ "bonus" trong tiếng Latinh phải dùng sau một danh từ giống đực, số ít và ở dạng cách. Trong nhiều ngôn ngữ hỗn nhập, các động từ phải tham chiếu chéo với chủ thể và đối tượng. Ví dụ trong cụm từ tiếng Basque "ikusi nauzu", nghĩa là "bạn đã thấy tôi", động từ phụ trợ thì quá khứ n-au-zu (tương tự như "do" trong tiếng Anh) phù ứng với chủ ngữ (bạn) qua tiền tố "n-" và phù ứng với đối tượng (tôi) qua hậu tố "-zu". Giải nghĩa từng hình vị của từ này sẽ là "thấy bạn-làm "thì quá khứ"-tôi".
Một cách truyền đạt ý nghĩa khác của ngôn ngữ là thông qua thứ tự các từ trong một câu, đó chính là cú pháp. Các quy tắc cú pháp của một ngôn ngữ cho ta biết tại sao "I love you" là câu có nghĩa, nhưng "*love you I" thì không. Các quy tắc cú pháp xác định trật tự từ và sự ràng buộc cấu trúc câu, và làm thế nào những ràng buộc đó góp phần tạo nên ý nghĩa. Ví dụ, trong tiếng Anh, hai câu: "the slaves were cursing the master" [Đám nô lệ chửi ("thì quá khứ tiếp diễn") tên chủ nô] và "the master was cursing the slaves" [Tên chủ nô chửi ("thì quá khứ tiếp diễn") đám nô lệ] có nghĩa khác nhau bởi vì chủ ngữ là danh từ đứng trước động từ, còn tân ngữ là danh từ đứng sau động từ. Trái lại trong tiếng Latin, cả "Dominus servos vituperabat" và "Servos vituperabat dominus" đều có nghĩa là [Chủ nhân khiển trách ("thì quá khứ tiếp diễn") đám nô lệ] bởi vì từ "servos" 'nô lệ' đang ở dạng đối cách (accusative case, biểu thị vị ngữ) và "dominus" 'chủ nhân' đang ở dạng danh cách (nominative case, biểu thị chủ ngữ).
Tiếng Latin sử dụng hình thái để phân biệt giữa chủ thể và đối tượng, còn tiếng Anh sử dụng trật tự từ. Một ví dụ khác về tầm ảnh hưởng của quy tắc cú pháp làm thay đổi ý nghĩa của câu là quy tắc đảo ngược trật tự từ trong câu hỏi, xuất hiện ở nhiều ngôn ngữ. Quy tắc này giải thích tại sao trong tiếng Anh, câu "John is talking to Lucy" khi chuyển thành câu hỏi phải là "Who is John talking to?" (1), chứ không phải "John is talking to who?" (2). Tất nhiên, câu (2) đôi khi được sử dụng để thay đổi sắc thái câu hỏi, nhấn mạnh sự nghi vấn vào "who?". Ngoài ra, cú pháp còn bao gồm các quy tắc kết hợp các ngữ đoạn ở những vị trí khác nhau lại để tạo thành một câu hoàn chỉnh. Câu có thể được coi là một cấu trúc dạng cây, tách ra thành các đơn vị ngữ đoạn nhỏ hơn ở những cấp khác nhau. Hình bên trên minh họa cú pháp đã phân tích của câu "the cat sat on the mat" tiếng Anh, bao gồm danh ngữ ("noun phrase"), động từ, và giới ngữ ("prepositional phrase"). Đoạn giới ngữ có thể được phân tích tiếp thành một giới từ và một danh ngữ, và danh ngữ đó lại có thể phân tích tiếp thành một mạo từ và một danh từ.
Lý do câu có thể được phân tích thành các ngữ đoạn là bởi vì mỗi ngữ đoạn hoàn toàn có thể di chuyển trong câu như một thành phần duy nhất nếu như một thao tác cú pháp nào đó được thực hiện. "The cat" và "on the mat" là hai ngữ đoạn/cụm từ, vì chúng được coi là các đơn vị riêng lẻ nếu người nói/người viết quyết định đưa giới ngữ lên đầu câu để nhấn mạnh vị trí: "[And] on the mat, the cat sat”. Các khuôn khổ hoặc trường phái hình thức và chức năng khác nhau sẽ có lý thuyết mô tả cú pháp câu riêng, do vậy sự phân tích cấu trúc câu còn dựa theo từng trường phái lý thuyết ngôn ngữ.
Loại hình và phổ niệm.
Ngôn ngữ có thể được phân loại theo các kiểu hình ngữ pháp. Các ngôn ngữ dù có thuộc các ngữ hệ khác nhau vẫn thường có các đặc điểm chung, có xu hướng tương quan với nhau. Ví dụ, ngôn ngữ có thể được phân loại dựa trên thứ tự từ cơ bản của chúng, tức là thứ tự tương đối của động từ với các thành phần của một câu thông thường. Trong tiếng Anh, thứ tự từ cơ bản là SVO (chủ–động–tân): "Snake bit the man" (rắn cắn người), nhưng nếu nói một câu tương tự trong thổ ngữ Gamilaraay Úc thì phải theo trật tự SOV (chủ-tân-động): "d̪uyugu n̪ama d̪ayn yiːy" (rắn người cắn). Kiểu thứ tự từ được coi là một tham số ("parameter") loại hình vì kiểu trật tự từ cơ bản còn tương ứng với các tham số cú pháp khác, chẳng hạn thứ tự tương đối của danh từ và tính từ, hoặc sự sử dụng tiền giới từ ("preposition") hoặc hậu giới từ ("postpositions"). Những mối tương quan kiểu vậy được gọi là sự phổ niệm tất suy hay phổ niệm ngầm ("implicational universal"). Hầu hết, không phải tất cả, các ngôn ngữ có thứ tự câu SOV đều sử dụng hậu giới từ thay vì tiền giới từ, và tính từ thì thường đứng trước danh từ.
Mọi ngôn ngữ đều có các cấu trúc Chủ ngữ, Động từ và Tân ngữ, nhưng chúng lại khác nhau ở cách phân loại các mối quan hệ giữa tác thể và hành động. Tiếng Anh thuộc loại hình thái chủ cách-đối cách ("nominative-accusative"): trong các mệnh đề vị từ ngoại động tiếng Anh, chủ ngữ của câu nội động ""I run" lẫn câu ngoại động "I love you"" được coi là như nhau, được thể hiện bằng cùng một đại từ "I" "tôi". Một số ngôn ngữ khác thuộc loại hình thái khiển cách ("ergative"), ví dụ tiếng Gamilaraay, lại phân biệt giữa Tác thể ("Agent") và Bị thể ("Patient"). Trong các ngôn ngữ khiển cách, tham tố đơn lẻ trong một câu nội động, chẳng hạn "I run", lại giống hệt như bị thể trong một câu ngoại động, tức là "me run" = "I run". Chỉ trong các câu ngoại động thì từ tương đương với "I" mới được sử dụng. Do vậy, các vai trò ngữ nghĩa có thể ánh xạ lên các mối quan hệ ngữ pháp theo những cách khác nhau, gộp một chủ thể nội động hoặc với Tác thể (kiểu đối cách) hoặc Bị thể (kiểu khiển cách) hoặc thậm chí làm cho ba vai trò khác hẳn nhau, thì được gọi là kiểu ba bên.
Các đặc điểm giống nhau giữa các ngôn ngữ thuộc cùng một loại hình có thể phát sinh hoàn toàn độc lập. Sự đồng đẳng đó có thể là do các quy luật phổ quát chi phối cấu trúc của ngôn ngữ tự nhiên, tức là "phổ niệm ngôn ngữ", hoặc chúng có thể là kết quả của sự hội tụ ngôn ngữ sinh ra bởi các vấn đề giao tiếp lặp đi lặp lại mà con người sử dụng ngôn ngữ để giải quyết.
Ngôn ngữ trong bối cảnh xã hội.
Mặc dù con người có khả năng học bất kỳ ngôn ngữ nào, nhưng họ chỉ có thể làm được điều đó nếu họ lớn lên trong môi trường mà ngôn ngữ đó tồn tại và được người khác sử dụng. Chính vì vậy, ngôn ngữ phải phụ thuộc vào một cộng đồng ngôn ngữ ("speech community"), trong đó, trẻ em tiếp thu ngôn ngữ từ người lớn và bạn bè xung quanh chúng, rồi chúng tiếp tục truyền ngôn ngữ cho con cái chúng sau này. Ngôn ngữ là công cụ để giao tiếp và giải quyết rất nhiều nhiệm vụ xã hội. Các khía cạnh của việc ngữ dụng đã thích nghi cho mục đích này. Do cách thức truyền ngôn ngữ giữa các thế hệ và trong một cộng đồng, ngôn ngữ luôn biến đổi và đa dạng hóa thành các ngôn ngữ mới, hoặc hội tụ lại do tiếp xúc ngôn ngữ. Các quá trình này có phần giống với tiến hóa sinh học, trong đó quá trình phái sinh với sự biến đổi dẫn đến sự hình thành cây phát sinh chủng loại.
Tuy nhiên, ngôn ngữ khác với sinh vật ở chỗ: ngôn ngữ dễ dàng tiếp nhận yếu tố từ các ngôn ngữ khác thông qua quá trình khuếch tán khi những cộng đồng ngôn ngữ khác biệt tiếp xúc với nhau. Con người đôi khi nói nhiều hơn một ngôn ngữ, tiếp thu ngôn ngữ mẹ đẻ hoặc nhiều ngôn ngữ khi còn nhỏ, hoặc học ngôn ngữ mới khi lớn lên. Vì sự tiếp xúc ngôn ngữ ngày càng tăng trong thế giới toàn cầu hóa, nhiều ngôn ngữ nhỏ đang lâm nguy bởi người nói chuyển sang dùng ngôn ngữ khác mà cho họ cơ hội tham gia vào cộng đồng ngôn ngữ lớn hơn và có ảnh hưởng hơn.
Từ ngữ và ký hiệu thường có nhiều ý nghĩa khác nhau, tùy thuộc vào bối cảnh xã hội mà chúng được sử dụng. Đơn cử là quá trình trực chỉ ("deixis"), mô tả cách thức mà một số từ ngữ nhất định đề cập đến các thực thể thông qua mối quan hệ giữa chúng với một điểm cụ thể trong thời gian và không gian. Ví dụ một số từ đảm nhận chức năng như vậy là: "tôi" (chỉ người đang nói), "bây giờ" (chỉ thời điểm nói), và "đây" (chỉ vị trí nói). Trực chỉ là một phần quan trọng trong cách chúng ta sử dụng ngôn ngữ để chỉ ra các thực thể của thế giới xung quanh. Ý nghĩa của ký hiệu cũng có thể bị thay đổi theo thời gian, bởi sự biến hóa không ngừng của các quy ước ra hiệu. Ngành ngôn ngữ học nghiên cứu sự biến đổi ý nghĩa trong bối cảnh xã hội được gọi là ngữ dụng học. Ngành này chủ yếu quan tâm đến các mô hình của việc sử dụng ngôn ngữ và sự tạo nên ý nghĩa của những mô hình đó. Trong mọi ngôn ngữ, các biểu thức ("expression") không chỉ có chức năng truyền đạt thông tin mà còn có cả chức năng hành động ("action"). Một số hành động nhất định chỉ có thể được thực hiện thông qua ngôn ngữ, điều mà vẫn có thể tác động một cách hữu hình lên thực thể, chẳng hạn "đặt tên" (hành động tạo ra từ riêng để chỉ một số thực thể) hoặc "tuyên bố hai người là vợ là chồng" (hành động tạo ra một khế ước xã hội về hôn nhân). Những hành động bằng ngôn ngữ nêu trên được các nhà ngữ dụng học gọi là ngôn hành ("speech act"), và chúng cũng có thể được thực hiện thông qua văn viết hoặc thủ ngữ.
Hình thức biểu đạt ngôn ngữ thường không tương ứng với ý nghĩa mà nó thực sự có trong bối cảnh xã hội. Ví dụ, tại bàn ăn, một người hỏi bằng tiếng Anh: "Can you reach the salt?", tức là ở đây, ý của anh ta không phải là muốn biết chiều dài sải tay của người kia, mà là đề nghị người kia một cách lịch sự rằng lấy hộ anh ấy lọ muối. Do vậy, ý nghĩa của câu từ còn phải phụ thuộc vào ngữ cảnh; khái niệm này được các nhà ngữ dụng học gọi là hàm ngôn hội thoại ("conversational implicature"). Những quy tắc xã hội của việc sử dụng ngôn ngữ chỉ phù hợp trong một số tình huống nhất định và cách thức phát biểu được hiểu thế nào trong mối quan hệ với bối cảnh khác nhau giữa từng cộng đồng văn hóa, và việc học các quy tắc đó đóng vai trò rất lớn trong năng lực giao tiếp ngôn ngữ của một người.
Thụ đắc ngôn ngữ.
Tất cả con người khỏe mạnh, phát triển bình thường đều có khả năng học cách sử dụng ngôn ngữ. Trẻ em tiếp thu bất kỳ ngôn ngữ nào được sử dụng đáng kể xung quanh chúng, bất kể là thủ ngữ hay khẩu ngữ. Quá trình tiếp thu ngôn ngữ của trẻ em được gọi là thụ đắc ngôn ngữ đầu tiên ("first-language acquisition"), vì không giống như nhiều quá trình tiếp thu khác, sự "thụ đắc" không cần phải được giảng dạy mà diễn ra thụ động. Trong cuốn "The Descent of Man", nhà tự nhiên học Charles Darwin gọi quá trình này là "an instinctive tendency to acquire an art" (một xu hướng bản năng nhằm tiếp thu nghệ thuật).
Thụ đắc ngôn ngữ đầu tiên diễn ra theo một trình tự khá đều đặn, mặc dù có sự khác biệt về thời điểm của từng giai đoạn cụ thể ở trẻ sơ sinh phát triển bình thường. Các nghiên cứu được công bố vào năm 2013 chỉ ra rằng thai nhi có khả năng tiếp thu ngôn ngữ ở một mức độ nào đó. Ngay từ khi sinh ra, trẻ sơ sinh ưu tiên phản ứng với lời nói con người hơn các âm thanh khác. Khoảng 1 tháng tuổi, trẻ đã có khả năng phân biệt giữa các âm tố khác nhau. Khoảng 6 tháng tuổi, trẻ sẽ bắt đầu bập bẹ, tạo ra các âm tố hoặc ký hiệu của ngôn ngữ sử dụng xung quanh chúng. Khoảng từ 12-18 tháng tuổi, trẻ hình thành khái niệm từ; vốn từ vựng trung bình của một đứa trẻ lúc 18 tháng tuổi rơi vào khoảng 50 từ. Thuật ngữ để chỉ những ngữ lưu đầu tiên của trẻ là holophrasis (nghĩa đen là "toàn bộ câu"), tức là những ngữ lưu chỉ sử dụng một từ để truyền đạt một số ý tưởng. Vài tháng sau khi đứa trẻ bắt đầu tạo ra từ, chúng sẽ nói các ngữ lưu hai từ và trong vòng vài tháng nữa sẽ bắt đầu tạo ra các câu điện tín ("telegraphic speech"), tức những câu đơn giản về mặt ngữ pháp so với câu nói của người lớn nhưng vẫn có kết cấu cú pháp thông thường. Khoảng từ 3-5 tuổi, khả năng nói hoặc ra hiệu của trẻ được tinh chỉnh đến mức giống với ngôn ngữ của người lớn.
Tiếp thu ngôn ngữ thứ hai và thứ ba/bốn/v.v có thể diễn ra ở mọi lứa tuổi, thông qua sự "phơi bày" trong cuộc sống hàng ngày hoặc ôn luyện tại các khóa học. Trẻ em học ngôn ngữ thứ hai có nhiều khả năng đạt được sự trôi chảy như người bản xứ không như người lớn, nhưng tựu trung, rất hiếm khi người nói ngôn ngữ thứ hai có nói hoàn toàn giống như người bản ngữ. Một sự khác biệt quan trọng giữa tiếp thu ngôn ngữ đầu tiên và tiếp thu ngôn ngữ bổ sung là quá trình tiếp thu ngôn ngữ bổ sung bị ảnh hưởng bởi các ngôn ngữ mà người học đã biết.
Ngôn ngữ còn được hiểu là tập hợp các quy tắc nói cụ thể của một cộng đồng cụ thể, và là một phần của nền văn hóa bao trùm cộng đồng nói chúng. Các ngôn ngữ không chỉ khác nhau ở mặt phát âm, từ vựng và ngữ pháp; mà còn khác "văn hóa nói". Con người sử dụng ngôn ngữ như một phương tiện báo hiệu bản sắc nhóm, cũng như nhấn mạnh sự khác biệt với các nhóm khác. Ngay cả giữa những người nói chung một ngôn ngữ, vẫn có sự khác biệt trong lối nói và mỗi lối nói đó báo hiệu sự liên kết với một nhóm cụ thể trực thuộc nền văn hóa lớn hơn. Các nhà ngôn ngữ học, nhân học, và đặc biệt là các nhà xã hội học, dân tộc học và nhân học ngôn ngữ chuyên nghiên cứu các lối nói khác nhau giữa các cộng đồng ngôn ngữ.
Các nhà ngôn ngữ học sử dụng thuật ngữ "biến thể" ("varieties") để chỉ lối cách khác nhau khi nói cùng một ngôn ngữ. Thuật ngữ này bao hàm các phương ngữ ("dialect") được xác định theo địa lý hoặc văn hóa xã hội, cũng như các biệt ngữ nghề nghiệp ("jargon") hoặc phong cách ("style") của các nền văn hóa phụ. Các nhà nhân học ngôn ngữ và các nhà xã hội học về ngôn ngữ định nghĩa phong cách giao tiếp là phương thức ngôn ngữ được sử dụng và thông hiểu trong một nền văn hóa cụ thể.
Bởi vì các quy tắc sử dụng ngôn ngữ được chia sẻ bởi các thành viên của một nhóm cụ thể, phong cách giao tiếp cũng trở thành một cách thể hiện và xây dựng bản sắc nhóm. Sự khác biệt về ngôn ngữ có thể trở thành dấu hiệu rõ rệt của sự phân chia giữa các nhóm xã hội; ví dụ, giọng cụ thể của một thứ tiếng ("accent") có thể ngụ ý nhóm dân tộc hoặc tầng lớp xã hội mà người nói thuộc về, quê hương hoặc địa vị của người nói, hoặc thứ bậc thành thạo thứ tiếng của người nói. Những sự khác biệt này không phải là một phần của hệ thống ngôn ngữ, nhưng vẫn là một phần quan trọng trong cách con người sử dụng ngôn ngữ như một công cụ xã hội để xây dựng các nhóm.
Tuy vậy, nhiều ngôn ngữ cũng có các quy ước ngữ pháp báo hiệu vị trí xã hội của người nói trong mối quan hệ với người khác thông qua việc sử dụng các âm vực có liên quan đến thứ bậc hoặc phân cấp xã hội. Trong nhiều ngôn ngữ, có sự khác biệt về văn phong hoặc thậm chí ngữ pháp giữa lối nói của đàn ông và đàn bà, giữa các nhóm tuổi hoặc giữa các tầng lớp xã hội, chẳng hạn nhiều ngôn ngữ sử dụng các từ khác nhau tùy vào người nghe. Ví dụ, trong tiếng Dyirbal, một người đàn ông đã kết hôn phải sử dụng một nhóm từ đặc biệt để chỉ các vật dụng hàng ngày khi có sự hiện diện của mẹ vợ. Một số nền văn hóa có những hệ thống "trực chỉ xã hội" ("social deixis") rất phức tạp, tức là những hệ thống báo hiệu khoảng cách xã hội thông qua phương tiện ngôn ngữ. Trong tiếng Anh, trực chỉ xã hội được thể hiện chủ yếu thông qua sự phân biệt xưng hô khi gọi một số người bằng tên riêng và những người khác bằng họ; và các chức danh như "Mrs", "boy", "Mr" hoặc "Your Honor". Ở các ngôn ngữ khác, những hệ thống như vậy có thể rất phức tạp và hệ thống hóa bằng toàn bộ ngữ pháp và từ vựng. Ví dụ, trong các ngôn ngữ Đông Á như tiếng Thái, tiếng Miến Điện hay tiếng Java, đại từ xưng hô phụ thuộc vào cấp bậc, trật tự hay tôn ti của người nói và đối phương, ví dụ: động vật và trẻ em xếp hạng thấp nhất, còn các vị thần và hoàng tộc sẽ đứng cao nhất.
Chữ viết và biết chữ.
Suốt chiều dài lịch sử, nhiều kiểu cách biểu diễn ngôn ngữ bằng phương tiện trực quan đã được phát minh. Chúng được gọi là hệ chữ viết.
Chữ viết khiến ngôn ngữ trở nên hữu ích hơn đối với con người. Chữ viết cho phép con người lưu trữ số lượng lớn thông tin mà có thể dùng lại/kích hoạt lại sau này, đồng thời nó cho phép con người giao tiếp vượt khoảng cách địa lý và thời gian, điều mà trước đó bất khả thi. Nhiều ngôn ngữ sử dụng các thể loại, phong cách và âm vực khác nhau giữa dạng viết và nói; và ở một số cộng đồng ngôn ngữ, ngôn ngữ viết truyền thống là một ngôn ngữ khác hoàn toàn so với ngôn ngữ nói. Có một số bằng chứng cho thấy chữ viết ảnh hưởng đến sự phát triển nhận thức ở con người, có lẽ bởi vì để có được khả năng đọc viết, con người cần phải được giáo dục chính quy.
Thời điểm hệ chữ viết đầu tiên xuất hiện có tương quan với sự khởi đầu của thời đại đồ đồng vào cuối thiên niên kỷ thứ 4 TCN. Chữ hình nêm của người Sumer và chữ tượng hình Ai Cập cổ xưa được nhiều học giả coi là các hệ chữ viết xuất hiện sớm nhất, cả hai đều phái sinh từ các hệ thống biểu tượng tiền-chữ viết trước đó vào khoảng 3400-3200 TCN, với các văn bản mạch lạc sớm nhất xuất hiện vào khoảng năm 2600 TCN. Phần lớn học giả cho rằng chữ viết của người Sumer là một phát minh độc lập; tuy nhiên, vẫn còn có những tranh luận rằng chữ viết Ai Cập và chữ viết Sumer có mối quan hệ nào đó. Các chuyên gia cũng có nghi vấn tương tự về Hán tự của Trung Quốc, xuất hiện lần đầu vào khoảng 1200 TCN. Các hệ chữ Trung Bộ châu Mỹ tiền-Columbus (ví dụ chữ Olmec và chữ Maya) nhiều khả năng đã phát triển độc lập.
Biến đổi ngôn ngữ.
Tất cả các ngôn ngữ đều biến đổi theo thời gian khi người nói sử dụng hoặc phát minh ra những lối nói mới và lan truyền sang các thành viên khác trong cộng đồng ngôn ngữ. Sự biến đổi ngôn ngữ xảy ra ở tất cả các cấp độ, từ âm vị đến từ vựng, hình thái, cú pháp và diễn ngôn. Mặc dù sự biến đổi ngôn ngữ ban đầu thường bị coi là tiêu cực bởi những người nói ngôn ngữ đó, thường là "sự suy đồi" hoặc dấu hiệu lệch khỏi chuẩn mực sử dụng ngôn ngữ, nhưng đó là điều tự nhiên và không thể tránh khỏi.
Những biến đổi có thể ảnh hưởng đến một âm vị cụ thể hoặc toàn bộ hệ thống âm vị. Sự biến đổi ngữ âm ("sound change") bao hàm: sự thay thế âm tố ("speech sound") hoặc nét khu biệt ("distintive feature") bằng một âm tố hoặc nét khu biệt khác, sự mai một hoàn toàn âm vị bị ảnh hưởng hoặc đôi khi là sự phát triển của âm vị mới chưa từng có. Sự biến đổi ngữ âm có tính "điều kiện" ("conditioned") trong trường hợp âm đó chỉ bị biến đổi nếu nó xuất hiện ở vùng lân cận của các âm khác. Sự biến đổi ngữ âm có tính "quy tắc" ("regular"), tức là nó sẽ xuất hiện bất cứ khi nào các điều kiện cấu trúc được đáp ứng, bất kể yếu tố phi âm vị. Mặt khác, sự biến đổi ngữ âm xảy ra "hãn hữu" ("sporadic"), chỉ ảnh hưởng đến một từ hoặc một vài từ cụ thể mà không có sự đều đặn nào. Đôi khi một biến đổi đơn giản lại gây ra sự biến đổi dây chuyền khiến toàn bộ hệ thống âm vị bị ảnh hưởng. Điều này từng xảy ra trong ngữ tộc German, khi luật biến đổi âm Grimm ảnh hưởng đến tất cả các âm tắc trong hệ thống âm vị. Trong các ngôn ngữ nhánh German, phụ âm "*bʰ" gốc trở thành /b/, *b gốc trở thành /p/, và *p gốc trở thành /f/. Quy trình này diễn ra ở tất cả các phụ âm tắc và giúp lý giải hiện tượng các ngôn ngữ nhánh Ý như tiếng Latin lại có "p" ở pater 'cha' và pisces 'cá', còn các ngôn ngữ nhánh German như tiếng Anh lại có âm "f" ở father 'cha' và fish 'cá'.
Một ví dụ lịch sử nữa cho sự biến đổi ngữ âm là Đại Dịch chuyển Nguyên âm tiếng Anh, và đây chính là lý do tại sao chính tả tiếng Anh không tương thích với phát âm hiện tại. Một nguồn khác của sự biến đổi ngữ âm là sự xói mòn từ ngữ khi phát âm trở nên bất phân biệt và sự rút gọn các âm tiết hoặc âm thanh trong một từ. Ví dụ về sự rút gọn âm: "mea domina" trong tiếng Latin trở thành "madame" trong tiếng Pháp và "ma'am" trong tiếng Anh Mỹ.
Ngữ pháp của một ngôn ngữ có thể bị biến đổi nếu các mẫu diễn ngôn như các thành ngữ hoặc các cấu trúc câu cụ thể được ngữ pháp hóa ("grammaticalized"). Điều này thường xảy ra khi các từ hoặc các hình vị bị lược bỏ trong lời nói hằng ngày, khiến cho hệ thống ngữ pháp sắp xếp lại một cách vô thức để bù đắp cho các yếu tố đã mất. Ví dụ, tiếng Tây Ban Nha tiêu chuẩn phải thêm âm /s/ cuối động từ để đánh dấu chủ ngữ ngôi thứ hai "bạn"; nhưng một số biến thể của tiếng Tây Ban Nha Caribe không còn âm /s/ ở cuối từ nữa, khiến người nói tiếng Tây Ban Nha Caribe hiện nay phải diễn đạt ngôi thứ hai bằng cách sử dụng đại từ "tú". Chẳng hạn, câu hỏi "tên bạn là gì" trong tiếng Tây Ban Nha chuẩn là ¿como te llamas? [ˈKomo te ˈjamas], song trong tiếng Tây Ban Nha Caribe phải là [ˈkomo ˈtu te ˈjama]. Một sự biến đổi ngữ âm đơn giản có thể gây ảnh hưởng đến hình thái lẫn cú pháp. Một nguyên nhân phổ biến khác của sự biến đổi ngữ pháp là "sự hóa thạch" dần dần các thành ngữ thành các dạng ngữ pháp mới, điển hình như cấu trúc "going to" trong tiếng Anh, đang dần trở thành một thì tương lai ngữ pháp chính thức trong nhiều biến thể Anh ngữ (ví dụ: I'm gonna).
Sự biến đổi có thể được thúc đẩy bởi các yếu tố "nội tại ngôn ngữ", chẳng hạn cách phát âm thay đổi do các âm tố gần giống nhau khó phân biệt bị đồng hóa, hoặc thông qua các kiểu mẫu biến đổi khiến cho các cấu trúc hiếm gặp "trôi dạt" thành các cấu trúc thông thường hơn. Một số biến đổi ngôn ngữ xảy ra bởi lý do xã hội, chẳng hạn khi một cách phát âm được liên kết với nhóm/tầng lớp xã hội nhất định hoặc với hệ tư tưởng nhất định, và do đó cách phát âm ấy lan sang những cá nhân muốn trở thành một phần của nhóm hoặc hệ tư tưởng đó. Vì lẽ đó, các vấn đề liên quan đến bản sắc và chính trị cũng có thể ảnh hưởng sâu sắc đến cấu trúc ngôn ngữ.
Tiếp xúc ngôn ngữ.
Một nguyên nhân nữa rất quan trọng đối với quá trình biến đổi ngôn ngữ là sự tiếp xúc và lan tỏa đặc điểm ngôn ngữ. Tiếp xúc ngôn ngữ xảy ra khi các nhóm người nói hai hoặc nhiều ngôn ngữ/phương ngữ tương tác dai dẳng với nhau. Đa ngôn ngữ rất phổ biến suốt lịch sử nhân loại, và hiện nay, phần lớn dân số loài người biết từ hai ngôn ngữ trở lên. Trước khi xuất hiện khái niệm quốc gia dân tộc, chỉ có những nhóm dân cư sinh sống trên các đảo nhỏ cô lập mới không biết ngôn ngữ nào ngoài tiếng mẹ đẻ. Nhưng sau sự trỗi dậy của ý thức hệ coi một dân tộc-một nhà nước-một ngôn ngữ là thể chế chính trị lý tưởng nhất, chủ nghĩa đơn ngôn ngữ mới có cơ hội lan rộng toàn cầu. Trên thế giới hiện chỉ có 250 quốc gia cùng với khoảng 6.000 ngôn ngữ, do vậy, hầu hết các quốc gia thực chất đều đa ngôn ngữ và hầu hết các ngôn ngữ tồn tại trong mối liên hệ lân cận với các ngôn ngữ khác.
Khi các cộng đồng nói các ngôn ngữ khác nhau sinh sống trao đổi ngay sát nhau, thì sự ảnh hưởng lẫn nhau giữa các ngôn ngữ của họ là điều hiển nhiên. Thông qua sự tiếp xúc ngôn ngữ bền vững trong một khoảng thời gian dài, đặc điểm ngôn ngữ sẽ bị khuếch tán giữa các ngôn ngữ. Tức là nếu chúng tuy thuộc các ngữ hệ khác nhau và ban đầu không có nhiều điểm chung, sau khi tiếp xúc lâu dài lại bị hội tụ và trở nên giống nhau hơn. Ở những khu vực có nhiều ngôn ngữ tiếp xúc, điều này có thể dẫn đến việc hình thành các "Sprachbund" hay "vùng ngôn ngữ", trong đó các ngôn ngữ không liên quan chia sẻ nhiều điểm chung. Một số vùng ngôn ngữ đã được ghi nhận là vùng ngôn ngữ Balkan, vùng ngôn ngữ Trung Bộ châu Mỹ, vùng ngôn ngữ Ethiopia, , các khu vực diện rộng như Nam Á, Châu Âu và Đông Nam Á đôi khi cũng được coi là các vùng ngôn ngữ vì sự phổ biến của nhiều đặc điểm vùng ("areal feature").
Tiếp xúc ngôn ngữ cũng có thể dẫn đến nhiều hiện tượng ngôn ngữ thú vị khác, bao gồm hội tụ ngôn ngữ ("language convergence"), sự vay mượn ("borrowing") và sự thay thế từ vựng ("relexification"). Nếu các ngôn ngữ tiếp xúc dai dẳng với nhau, một hoặc nhiều ngôn ngữ hỗn hợp không thuộc ngữ hệ nào có khả năng sẽ được khai sinh. Ngôn ngữ pidgin (hoặc tiếng bồi) là một thể loại ngôn ngữ trộn, xuất hiện khi hai nhóm người trưởng thành nói hai ngôn ngữ riêng biệt thường xuyên trao đổi và tương tác với nhau, nhưng không nhóm nào biết nói trôi chảy ngôn ngữ của nhóm kia. Trong trường hợp đó, hai nhóm thường sẽ xây dựng hình thức ngôn ngữ có đặc điểm ngôn ngữ của cả hai nhóm, nhưng với cấu trúc ngữ pháp và ngữ âm được giản lược. Thứ tiếng mới đó có thể tiếp thu hầu hết phạm trù ngữ pháp và ngữ âm tồn tại ở ngôn ngữ cha mẹ. Định nghĩa chính thức của tiếng bồi là ngôn ngữ mà không có người bản ngữ, mà chỉ là ngôn ngữ thứ cấp được nói bởi những người đã có sẵn tiếng mẹ đẻ rồi. Tuy vậy, nếu tiếng bồi trở thành ngôn ngữ chính của một cộng đồng, thì thế hệ sau lớn lên trong môi trường đó sẽ thụ đắc tiếng bồi như tiếng mẹ đẻ của chúng. Trong quá trình truyền khẩu, cấu trúc của tiếng bồi sẽ thay đổi và trở nên phức tạp hơn theo thời gian. Các nhà ngôn ngữ học gọi thứ tiếng bồi "đã" trải qua sự phức tạp hóa là ngôn ngữ Creole (hoặc tiếng lai). Ví dụ: tiếng Tok Pisin là một ngôn ngữ lai chính thức của Papua New Guinea, ban đầu là một ngôn ngữ pidgin dựa trên tiếng Anh và tiếng Nam Đảo; tiếng Kreyòl ayisyen là một ngôn ngữ phái sinh từ tiếng Pháp ở Haiti; tiếng Michif là một ngôn ngữ lai giữa tiếng Cree của thổ dân Anh-điêng và tiếng Pháp.
Sự đa dạng ngôn ngữ.
"SIL Ethnologue" định nghĩa "ngôn ngữ sống" là "ngôn ngữ có ít nhất một người nói và phải là ngôn ngữ đầu tiên của họ". Số lượng chính xác các ngôn ngữ sống đã biết dao động trong khoảng 6.000 đến 7.000, tùy thuộc vào định nghĩa "ngôn ngữ" của mỗi tác giả và phương thức xác định sự khác biệt giữa "ngôn ngữ" và "phương ngữ". Tính đến năm 2016, "Ethnologue" đã lập danh mục 7.097 ngôn ngữ sống của con người. "Ethnologue" phân loại nhóm ngôn ngữ dựa trên các nghiên cứu về mức độ thông hiểu lẫn nhau ("mutual intelligibility"), và do đó thường bao gồm nhiều mục hơn các phân loại bảo thủ. Ví dụ, tiếng Đan Mạch được hầu hết các nhà ngôn ngữ học coi là một ngôn ngữ với một phương ngữ nhưng "Ethnologue" lại liệt thành hai ngôn ngữ riêng biệt (ngôn ngữ Đan Mạch và phương ngữ/ngôn ngữ Jutland).
Theo "Ethnologue", 389 ngôn ngữ (chiếm 6% tổng số ngôn ngữ) có hơn một triệu người nói. Những ngôn ngữ này cộng lại chiếm 94% dân số thế giới, trong khi 94% ngôn ngữ trên thế giới được nói bởi 6% dân số toàn cầu còn lại.
Ngôn ngữ và phương ngữ.
Không có sự phân biệt rõ ràng giữa ngôn ngữ và phương ngữ. Nhà ngôn ngữ học Max Weinreich từng nói một câu cách ngôn rất nổi tiếng rằng "ngôn ngữ là một phương ngữ với quân đội và hải quân". Biên giới các quốc gia thường bóp méo sự khác biệt ngôn ngữ thực chất, làm khó khăn cho việc phân loại ngôn ngữ và phương ngữ. Ví dụ, tiếng Khách Gia, tiếng Quảng Đông và tiếng Quan Thoại thường được coi là "phương ngữ" của tiếng Trung, mặc dù sự khác biệt giữa chúng rất lớn, hơn cả sự khác biệt giữa giọng Hà Nội và giọng thành phố Hồ Chí Minh của tiếng Việt chẳng hạn. Trước chiến tranh Nam Tư, tiếng Serbo-Croatia được coi là một ngôn ngữ duy nhất với hai biến thể quy chuẩn, nhưng vì lý do chính trị xã hội, tiếng Croatia và tiếng Serbia hiện nay bị coi là những ngôn ngữ riêng biệt và sử dụng các hệ chữ viết khác nhau. Nói cách khác, sự phân biệt ngôn ngữ-phương ngữ còn phụ thuộc vào tình hình chính trị, văn hóa, hệ chữ viết hoặc mức độ thông hiểu lẫn nhau.
Các ngữ hệ của thế giới.
Các ngôn ngữ trên thế giới có thể được nhóm lại thành các ngữ hệ nếu người ta chứng minh được chúng diễn tiến từ một tổ tiên chung. Hiện nay các nhà ngôn ngữ học đã xác định được hàng trăm ngữ hệ, song phải chú ý rằng các ngữ hệ có thể được gộp lại nếu các bằng chứng mới lộ diện ủng hộ tổ tiên chung của chúng. Ngoài ra, cũng tồn tại hàng tá ngôn ngữ biệt lập, tức những ngôn ngữ không thể được chứng minh là có quan hệ "di truyền" với bất kỳ ngôn ngữ nào khác trên thế giới. Một vài ví dụ điển hình bao gồm: tiếng Basque ở châu Âu, tiếng Zuni ở New Mexico, tiếng Purépecha ở Mexico, tiếng Ainu ở Nhật Bản, tiếng Burushaski ở Pakistan,
Ngữ hệ có nhiều người nói nhất trên thế giới là hệ Ấn-Âu với khoảng 46% dân số thế giới sử dụng. Hệ này bao gồm nhiều ngôn ngữ chính trên thế giới như tiếng Anh, tiếng Tây Ban Nha, tiếng Pháp, tiếng Đức, tiếng Nga và tiếng Hindustani (tiếng Hindi/tiếng Urdu). Ngữ hệ Hán-Tạng được sử dụng bởi tầm 20% dân số thế giới và bao gồm nhiều ngôn ngữ ở Đông Á, bao gồm tiếng Khách Gia, tiếng Quan Thoại, tiếng Quảng Đông, tiếng Tây Tạng, tiếng Miến Điện và hàng trăm ngôn ngữ khác.
Châu Phi là ngôi nhà chung của rất nhiều ngữ hệ. Lớn nhất trong số đó là ngữ hệ Niger-Congo, bao gồm các ngôn ngữ như tiếng Swahili, tiếng Shona và tiếng Yoruba. Người nói các ngôn ngữ Niger-Congo chiếm 6,9% dân số thế giới. Có một số lượng tương tự người nói các ngôn ngữ Phi-Á ở châu Phi và châu Á, bao gồm ngữ tộc Semit như tiếng Ả Rập, tiếng Do Thái và các ngôn ngữ của vùng Sahara, chẳng hạn ngữ tộc Berber và tiếng Hausa.
Ngữ hệ Nam Đảo được 5,5% dân số thế giới sử dụng và phân bố trải dài từ Madagascar đến Đông Nam Á hải đảo rồi ra tận Châu Đại Dương. Hệ này bao gồm các ngôn ngữ như tiếng Malagasy, tiếng Māori, tiếng Samoa và nhiều ngôn ngữ bản địa của Indonesia và Đài Loan. Các ngôn ngữ Nam Đảo có nguồn gốc từ đảo Đài Loan vào khoảng 3000 năm TCN và bành trướng qua châu Đại dương thông qua các luồng di cư trên đại dương với công nghệ hàng hải tiên tiến của người Nam Đảo. Các ngữ hệ đông dân khác là hệ Dravidia ở Nam Á (chẳng hạn tiếng Kannada, tiếng Tamil và tiếng Telugu), hệ Turk ở Trung Á (chẳng hạn tiếng Thổ Nhĩ Kỳ và tiếng Duy Ngô Nhĩ), hệ Nam Á (chẳng hạn tiếng Môn, tiếng Khmer và tiếng Việt), và hệ Tai–Kadai ở Đông Nam Á (chẳng hạn tiếng Thái, tiếng Lào và tiếng Tày).
Các khu vực trên thế giới có sự đa dạng ngôn ngữ lớn nhất, chẳng hạn Châu Mỹ, Papua New Guinea, Tây Phi và Nam Á, có hàng trăm ngữ hệ nhỏ. Những khu vực này có sự đa dạng ngôn ngữ rất cao so với thế giới mặc dù không chiếm phần đông người nói. Ở châu Mỹ, một số ngữ hệ lớn nhất bao gồm ngữ hệ Quechua, ngữ hệ Arawak, và ngữ hệ Tupi-Guarani của Nam Mỹ, ngữ hệ Ute-Aztec, ngữ hệ Oto-Mangue và ngữ hệ Maya của Trung Bộ châu Mỹ, và ngữ hệ Na-Dene, ngữ hệ Iroquois và ngữ hệ Algonqui của Bắc Mỹ. Ở Úc, hầu hết các ngôn ngữ bản địa thuộc về ngữ hệ Pama–Nyungar, còn New Guinea là nơi phân bố phần lớn các hệ nhỏ và các nhóm biệt lập, cũng như một số ngôn ngữ Nam Đảo.
Ngôn ngữ bị đe dọa.
Một ngôn ngữ được coi là bị đe dọa khi đa số người nói ngôn ngữ đó mất đi hoặc chuyển sang dùng ngôn ngữ khác. Sự mai một ngôn ngữ xảy ra khi một ngôn ngữ không còn người nói bản ngữ và trở thành ngôn ngữ chết. Nếu một ngôn ngữ chết không được lưu giữ lại hoặc không phát sinh ra ngôn ngữ hậu duệ nào, thì nó được gọi là một ngôn ngữ thất truyền hay "tuyệt chủng" ("extinct"). Sự thất truyền ngôn ngữ là điều thường xuyên xảy ra suốt lịch sử nhân loại; tuy vậy khi nhân loại bước vào thế kỷ 20 và 21, nhiều ngôn ngữ đang dần biến mất với tốc độ nhanh chóng mặt do các quá trình toàn cầu hóa và chủ nghĩa thực dân mới, điều kiện mà khiến cho các ngôn ngữ nhỏ bị lấn át bởi các ngôn ngữ có vị thế kinh tế-xã hội vượt trội hơn.
Trong số 6.000 đến 7.000 ngôn ngữ được sử dụng tính đến năm 2010, 50-90% tổng số đó được dự đoán là sẽ thất truyền vào năm 2100. 20 ngôn ngữ top đầu đều có hơn 50 triệu người nói, chiếm tận 50% dân số thế giới; trong khi đó, hầu hết các ngôn ngữ nhỏ có số lượng người nói chỉ vỏn vẹn dưới 10.000.
Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên Hợp Quốc (UNESCO) đề ra 5 mức độ nguy cấp ngôn ngữ như sau: "an toàn", "sắp nguy cấp" (trẻ em chỉ nói ngôn ngữ đó ở nhà), "chắc chắn nguy cấp" (trẻ em không được nói ngôn ngữ đó), "cực kỳ nguy cấp" (chỉ thế hệ già lão mới biết nói ngôn ngữ đó) và "nguy cấp trầm trọng "(chỉ một bộ phận thế hệ già nhất biết nói ngôn ngữ đó, mà cũng hiếm khi sử dụng trong hội thoại hằng ngày). Bất chấp những luận điệu kiểu như "thế giới sẽ tốt đẹp hơn nếu mọi người chỉ sử dụng một ngôn ngữ chung duy nhất", chẳng hạn tiếng Anh hoặc tiếng Esperanto, các chuyên gia đồng thuận rằng sự mai một ngôn ngữ sẽ gây tổn hại tới đa dạng văn hóa của thế giới. Quay lại câu chuyện về tháp Babel trong Cựu ước, nhiều người tin rằng sự đa dạng ngôn ngữ là nguyên nhân gây ra xung đột chính trị, nhưng điều này mâu thuẫn với thực tế rằng nhiều xung đột lớn trên thế giới diễn ra ở những nơi có sự đa dạng ngôn ngữ rất thấp, chẳng hạn chiến tranh Nam Tư và nội chiến Hoa Kỳ, hoặc cuộc diệt chủng Rwanda, trong khi nhiều nơi có sự đa dạng ngôn ngữ cao lại có tình hình chính trị rất ổn định.
Nhiều dự án đã và đang được đưa ra nhằm ngăn chặn hoặc làm chậm lại sự mất mát ngôn ngữ bằng cách tái thiết các ngôn ngữ đang bị đe dọa, ví dụ như việc thúc đẩy giáo dục và xóa nạn mù chữ ở các cộng đồng bản ngữ. Trên khắp thế giới, nhiều quốc gia đã ban hành những đạo luật cụ thể nhằm bảo tồn các ngôn ngữ bản địa. Tuy vậy, một số ít các nhà ngôn ngữ học cho rằng sự mất mát ngôn ngữ là quá trình tự nhiên không nên chống lại, và việc lưu trữ các ngôn ngữ đó cho hậu thế đã là quá đủ.
Noi theo dự án phục hồi tiếng Wales đã rất thành công ở Anh, Đại học Waikato ở New Zealand cũng đã khởi hoạt chương trình phục hồi tiếng Māori của riêng họ. Năm 2019, công ty truyền hình Hawaii thuộc kênh Oiwi đã đến thăm một trung tâm dạy tiếng Wales ở Nant Gwrtheyrn, Bắc Wales, để trao đổi nhằm tìm phương án bảo tồn ngôn ngữ Ōlelo Hawaiʻi của họ. |
Kde domov můj? (tạm dịch: "Quê hương tôi nơi đâu?") là quốc ca của Cộng hòa Séc từ năm 1993 khi nước này tách ra khỏi Cộng hòa Liên bang Tiệp Khắc. Tuy nhiên Cộng hòa Séc đã dùng bài này như quốc ca chính thức từ năm 1990, ngay khi vẫn còn là thành viên của Liên bang Tiệp Khắc. Quốc ca Séc còn là phần đầu của Quốc ca Tiệp Khắc, phần thứ hai là Quốc ca Slovakia ngày nay. Sau Cách mạng Nhung vào năm 1989, Quốc ca Tiệp Khắc tiếp tục được dùng làm quốc ca của Cộng hòa Liên bang Tiệp Khắc.
Bài này được nhà soạn nhạc František Škroup và nhà soạn kịch Josef Kajetán Tyl sáng tácref name="law 3/1993"/ref trong hài kịch "Fidlovačka aneb žádný hněv a žádná rvačka" (Fidlovačka hay là không giận và không cãi). Bài này được biểu diễn lần đầu tiên tại nhà hát Stavovské Divadlo tại Praha vào ngày 21 tháng 12 năm 1834. Bài hát này nhanh chóng trở thành bài hát dân gian và chiếm lĩnh địa vị bài hát của dân tộc Séc. Chỉ có phần đầu của bài hát được dùng làm quốc ca Séc, phần thứ hai ít được biết đến.
Dưới thời Đệ nhất Cộng hòa Tiệp Khắc (1918-1938) có một phiên bản tiếng Đức và tiếng Hungary chính thức.
Kde domov můj, kde domov můj?
Voda hučí po lučinách,
bory šumí po skalinách,
v sadě skví se jara květ,
zemský ráj to na pohled!
A to je ta krásná země,
země česká domov můj,
země česká domov můj!
Kde domov můj, kde domov můj.
V kraji znáš-li Bohu milém,
duše útlé v těle čilém,
mysl jasnou, vznik a zdar,
a tu sílu vzdoru zmar?
To je Čechů slavné plémě,
mezi Čechy domov můj,
mezi Čechy domov můj! |
Y học, y khoa hay gọi ngắn là y (Tiếng Anh: "medicine") là khoa học ứng dụng liên quan đến chẩn đoán, tiên lượng, điều trị và phòng ngừa bệnh tật. Y học gồm nhiều phương pháp chăm sóc sức khỏe vốn liên tục phát triển với mục đích duy trì, hồi phục sức khỏe từ việc phòng ngừa và chữa bệnh. Y học hiện đại áp dụng khoa học y sinh, nghiên cứu y sinh, y sinh học di truyền và công nghệ y tế để chẩn đoán, điều trị và ngăn ngừa chấn thương và bệnh tật thông qua thuốc men, phẫu thuật hoặc liệu pháp phong phú như tâm lý trị liệu, nẹp, thiết bị y tế, dược chất sinh học, trị liệu bức xạ...
Y học đã tồn tại từ hàng ngàn năm trước, phần lớn lịch sử coi đây lại là một môn nghệ thuật, có mối liên hệ chặt chẽ với tôn giáo và triết học theo từng bản sắc văn hóa địa phương. Ví dụ, thầy sắc thuốc sẽ cầm dược liệu thảo mộc và cầu nguyện để chữa bệnh, hoặc triết gia và bác sĩ thời cổ đại sẽ trích máu dựa trên thuyết thể dịch ("humorism"). Thế kỷ gần đây, kể từ khi khoa học hiện đại ra đời, y học là sự kết hợp giữa nghệ thuật và khoa học (cả nghiên cứu ban đầu và ứng dụng, một dạng phân ngành của khoa học y tế). Mặc dù kỹ thuật khâu khi phẫu thuật mang tính nghệ thuật, chỉ được học thông qua thực hành, nhưng kiến thức sinh học tế bào và y học phân tử sẽ bổ trợ kiến thức cho các bác sĩ khi thực hành.
Từ "y học" trong tiếng Anh là "medicine" có nguồn gốc từ tiếng Latin là "ars medicina", nghĩa là "nghệ thuật chữa bệnh".
Dù công nghệ y học cũng như sự chuyên môn hóa ngành y đã phát triển thành trụ cột nền y học hiện đại nhưng vì phương pháp chữa trị trực tiếp giữa bác sĩ và bệnh nhân vẫn hiệu quả giúp giảm thiểu đau bệnh nên chúng cần tiếp tục thực hiện, thông qua việc quan tâm đến cảm xúc cũng như lòng trắc ẩn nói chung của con người.
Song hành với y học hiện đại còn có y học cổ truyền và y học dân gian. Ví dụ, bằng chứng về tính hiệu quả liệu pháp châm cứu có sự "thay đổi và không nhất quán" đối với tình trạng bệnh tật cụ thể, nhưng lại an toàn khi một học viên qua đào tạo thực hành trên người.
Lang băm ám chỉ người hoặc thao tác chữa bệnh, không phân biệt việc đây là hành động tiền khoa học (y học cổ truyền và y học dân gian) hay giả khoa học hiện đại. Ví dụ,phương pháp nắn chỉnh cột sống ("chiropractic") phủ nhận hoàn toàn lý thuyết mầm bệnh của khoa học hiện đại.
Lịch sử y học.
Cho đến nay, nhiều tác giả cho rằng lịch sử y học có thể đã ra đời cùng với lịch sử phát sinh bệnh tật và lịch sử người thầy thuốc. Trong hang Ba anh em (La Grotte des Trois Frères) người ta đã tìm được bức vẽ cách đây khoảng 17 ngàn năm mô tả một phù thủy đầu hươu đang chữa bệnh.
Y học thời tiền sử dùng thảo mộc, thể tạng động vật hay khoáng chất để chữa trị mà nhiều khi chúng được người chữa trị (như tu sĩ, thầy thuốc) mô tả như là những chất thần diệu. Ngành nhân y học (tiếng Anh: medical anthropology) nghiên cứu các hệ thống y học thời tiền sử cùng quan hệ của chúng với xã hội con người.
Y khoa sơ khởi được ghi nhận từ lâu trong nhiều nền văn minh cổ như Ấn Độ, Ai Cập, Trung Hoa hay Hy Lạp. Ông Hippocrates được xem là tổ sư của ngành y mà kế thừa ngày nay là y học phương Tây hay Tây y., còn ông [[Galen]] đã đặt nền tảng phát triển cho lý luận y khoa. Sau khi [[đế quốc La Mã|đế chế La Mã]] sụp đổ và bắt đầu thời Trung Cổ, các lương y trong thế giới [[hồi giáo|đạo Hồi]] đã kế tục và tạo nên bước đột phá lớn cho ngành nhờ được hỗ trợ từ bản dịch sang [[tiếng A rập]] các công trình của Hippocrates và Galen. Nhiều lương y tiên phong nổi tiếng là người A Rập, như ông [[Avicenna]] được gọi là "tổ sư y học hiện đại", ông [[Abu al-Qasim al-Zahrawi|Abulcasisl]]à tổ sư ngành phẫu thuật, ông [[Ibn Zuhr|Avenzoar]] là tổ sư ngành phẫu thuật thực nghiệm, ông [[Ibn al-Nafis]] là tổ sư ngành sinh lý học circulatory physiology, và ông [[Averroes]]. Còn ông [[Muhammad ibn Zakarīya Rāzi|Rhazes]] sáng lập ngành [[nhi khoa]] là người đầu tiên phản biện thuyết Grecian về [[humorism]] vẫn ảnh hưởng đến y học phương Tây thời [[Trung đại]].
Ngành [[y sinh học]] hiện đại theo tiêu chuẩn khoa học (kết quả nghiên cứu có thể kiểm tra và tái lập) ra đời đã thay thế Tây y truyền thống vốn dựa vào thảo dược. Mốc thời gian đánh dấu ngành y hiện đại hình thành là khi [[Robert Koch]] phát hiện sự lây bệnh do [[vi khuẩn]] khoảng năm 1880 và sự ra đời của [[thuốc kháng sinh]] năm 1900. Thời kì hiện đại khởi đi từ cuối thế kỷ XVIII tại châu Âu đã sinh ra nhiều tên tuổi có đóng góp nền tảng cho ngành y, chẳng hạn tại [[Đức]] và [[Áo]] có [[Rudolf Virchow]], [[Wilhelm Röntgen|Wilhelm Conrad Röntgen]], [[Karl Landsteiner]], [[Otto Loewi]]; tại [[Anh]] có [[Alexander Fleming]], [[Joseph Lister]], [[Francis Crick]]; tại [[Hoa Kỳ]] có [[William Williams Keen]], [[Harvey Cushing]], [[William Coley]], [[James D. Watson]]; tại Pháp có [[Jean-Martin Charcot]], [[Claude Bernard]], [[Paul Broca]] và nhiều người ở các nước khác.
Khi khoa học kĩ thuật phát triển thì ngành y ngày càng dựa vào dược phẩm nhiều hơn, ngành dược học bắt nguồn từ thảo dược ra đời và đến ngày nay nhiều loại thuốc vẫn được bào chế từ thực vật (như atropine, [[ephedrine]], warfarin, aspirin, digoxin, vinca alkaloids, taxol, ) mà loại đầu tiên tên [[arsphenamine]]/[[Salvarsan]] do ông [[Paul Ehrlich]] tìm ra năm 1908 khi ông nhận thấy vi khuẩn nhiễm độc chất nhuộm nhưng tế bào người lại không bị. Hai ông [[Edward Jenner]] và [[Louis Pasteur]] tìm ra [[vắc-xin]] (vaccine). Loại kháng sinh đầu tiên do người Pháp chế ra có tên gọi [[thuốc sulfa]] có nguồn gốc từ thuốc nhuộm azo. Nhiều rắc rối bắt đầu nảy sinh từ đấy. Khoa [[công nghệ sinh học]] hiện đại chấp nhận việc bào chế thuốc nhắm đến một quá trình sinh lý cụ thể nhưng đôi khi cũng bào chế thuốc sao cho thích ứng với cơ thể nhằm tránh tác dụng phụ của thuốc.
[[Y học thực chứng]] là một trào lưu hiện thời có mục đích thiết lập quy trình chẩn trị hiệu quả nhất bằng phương pháp "xét duyệt có hệ thống" (tiếng Anh: systematic review) và "phân tích lượng lớn" (meta-analysis) theo khoa [[khoa học Thống kê|thống kê]]. Nó phát triển nhờ tiến bộ của khoa học thông tin hiện đại giúp thu thập và phân tích khối lượng dữ liệu, bằng chứng rất lớn theo quy chuẩn, sau đó phổ biến cho các nơi làm dịch vụ chăm sóc sức khỏe hay phòng trị bệnh. Một nan đề cho phương pháp "tối ưu" này là nó có thể bị xem là cách tiếp cận có tính "tiểu thuyết", nghĩa là sẽ tạo ra nhiều đánh giá khác nhau. Báo cáo của chương trình hợp tác Cochrane là phong trào chủ trương ý kiến này năm 2001 cho biết trong 160 bản "xét duyệt có hệ thống" của Cochrane, căn cứ vào hai người nhận xét, thì có 21,3% bằng chứng không đầy đủ, 20% không công hiệu và 22,55% bằng chứng là dương tính.
Thao tác lâm sàng.
Những bước cơ bản nhất để thiết lập một [[chẩn đoán]] y khoa là Hỏi, Nhìn, Sờ, Gõ, Nghe trong Y học hiện đại (Tây y) hoặc Tứ chẩn là Vọng chẩn (nhìn), Văn chẩn (nghe), Vấn chẩn (hỏi) và Thiết chẩn (sờ nắn, bắt mạch) trong [[Y học cổ truyền]]. Một khi đã có chẩn đoán sơ bộ từ việc thăm khám lâm sàng nói trên, người [[thầy thuốc]] có thể quyết định điệu trị ngay hoặc đề nghị một số xét nghiệm cận lâm sàng khác để xác định chẩn đoán hoặc loại trừ chẩn đoán. Các [[xét nghiệm]] cận lâm sàng thường được dùng trong chẩn đoán là [[huyết học]], [[sinh hóa]], [[hình ảnh học]], [[vi sinh học|vi sinh vật học]], [[tế bào học]], [[giải phẫu bệnh]], [[thăm dò chức năng]] và có thể là các xét nghiệm cao cấp hơn như [[di truyền học]].
Trong kĩ thuật điều trị, [[bác sĩ]] tiếp xúc [[bệnh nhân]] và dùng phương pháp [[chẩn đoán]] gồm dự chẩn, ngăn ngừa, trị bệnh; hay còn được gọi bằng thuật ngữ "quan hệ người bệnh-thầy thuốc", nghĩa là bác sĩ làm việc với bệnh nhân dựa trên bệnh sử, bệnh án của họ bằng vấn chẩn rồi khám tổng quát bằng một số y cụ thông thường như ống nghe, thiết bị nội soi. Sau khi vấn chẩn tìm [[triệu chứng]] và khám để tìm dấu hiệu bệnh, bác sĩ thường đề nghị bệnh nhân làm vài xét nghiệm như thử máu, làm [[sinh thiết]] hoặc kê đơn thuốc hay là phép điều trị khác nữa.
Nhiều phương pháp [[chẩn đoán]] chuyên biệt được dùng phân tích bệnh tình trên cơ sở thông tin cung cấp. Trong buổi vấn chẩn điều rất quan trọng là thu thập được chi tiết nhất mọi dữ liệu liên quan đến bệnh nhân để có được thông tin trung thực nhất, sau đó kết quả vấn chẩn được ghi vào bệnh án. Các bước kế tiếp có thể ngắn hơn nhưng cũng tuân theo quy trình cơ bản như vậy.
Các ngành y học.
[[Giải phẫu học]] là nghiên cứu cấu trúc thể chất của sinh vật. Ngược lại với giải phẫu học vĩ mô hoặc tổng thể, tế bào học và mô học liên quan đến cấu trúc vi mô.
Giải phẫu học còn nghiên cứu về các cơ quan của con người.
[[Hóa sinh học]] là nghiên cứu về hóa học diễn ra trong sinh vật sống, đặc biệt là cấu trúc và chức năng của các thành phần hóa học của chúng.
[[Cơ sinh học]] (Biomechanics) là nghiên cứu cấu trúc và chức năng của các hệ thống sinh học bằng các phương pháp của Cơ học,
Chức năng hoạt động và nguyên lý hoạt động của một loài vật
[[Thống kê sinh học]] (Biostatistics) là việc áp dụng thống kê vào các lĩnh vực sinh học theo nghĩa rộng nhất. Kiến thức về thống kê sinh học rất cần thiết trong công tác lập kế hoạch, đánh giá và giải thích kết quả nghiên cứu y khoa. Nó cũng là môn căn bản cho dịch tễ học và y học dựa trên bằng chứng.
[[Lý sinh học]] là một khoa học liên ngành sử dụng các phương pháp vật lý và hóa học vật lý để nghiên cứu hệ thống sinh học.
[[Tế bào học]] là nghiên cứu vi mô của tế bào, cách hoạt động của tế bào.
[[Phôi thai học]] là nghiên cứu sự phát triển sớm của các sinh vật.Quá trình phát triển của một phôi thai và những vấn đề gây ra các dị tật cho phôi thai cũng cần nghiên cứu.
[[Nội tiết học]] là nghiên cứu về hoóc môn và các ảnh hưởng của chúng trên cơ thể động vật.
[[Dịch tễ học]] là nghiên cứu sự phát triển về số lượng của quá trình bệnh, và bao gồm, không chỉ giới hạn ở việc nghiên cứu dịch bệnh.Nghiên cứu quá trình ủ và phát bệnh, nghiên cứu thuốc chữa.
[[Di truyền học]] là nghiên cứu về gien và vai trò của chúng trong việc thừa kế sinh học.
[[Mô học]] là nghiên cứu cấu trúc của các mô sinh học bằng kính hiển vi ánh sáng, kính hiển vi điện tử và mô miễn dịch.
[[Miễn dịch học]] là nghiên cứu về hệ miễn dịch, bao gồm hệ miễn dịch bẩm sinh và thích ứng ở người.
[[Vật lý y tế]] là nghiên cứu ứng dụng các nguyên lý vật lý trong y học.
[[Vi sinh vật học]] là nghiên cứu về các vi sinh vật, bao gồm các nguyên sinh, vi khuẩn, nấm và virut.
[[Sinh học phân tử]] là nghiên cứu cơ sở phân tử của quá trình nhân bản, sao chép và chuyển dịch những vật liệu di truyền.
[[Khoa học tâm thần]] bao gồm những ngành khoa học có liên quan đến việc nghiên cứu hệ thống thần kinh. Trọng tâm chính của khoa học tâm thần là sinh học và sinh lý học của bộ não con người và tủy sống. Một số chuyên khoa lâm sàng liên quan bao gồm thần kinh, phẫu thuật thần kinh và tâm thần.
[[Khoa học dinh dưỡng]] (trọng tâm lý thuyết) và chế độ ăn kiêng (trọng tâm thực hành) là nghiên cứu về mối quan hệ giữa thức ăn và thức uống với sức khoẻ và bệnh tật, đặc biệt trong việc xác định chế độ ăn tối ưu. Trị liệu dinh dưỡng y học được các chuyên gia dinh dưỡng thực hiện và được quy định cho bệnh tiểu đường, bệnh tim mạch, trọng lượng và rối loạn ăn uống, dị ứng, suy dinh dưỡng, và các bệnh ung thư.
[[Bệnh học]] như một khoa học nghiên cứu về bệnh tật - nguyên nhân, tiến trình, sự tiến triển và sự giải quyết của bệnh.
[[Dược học]] là nghiên cứu về thuốc và các tương tác của chúng và cũng cần nghiên cứu các dược liệu cần thiết để bào chế thuốc, những người tạo ra các loại thuốc bào chế mới gọi là Dược Sĩ.
[[Quang sinh học]] (Photobiology) là nghiên cứu tương tác giữa bức xạ không ion hóa và sinh vật sống.
[[Sinh lý học]] là nghiên cứu về chức năng bình thường của cơ thể và các cơ chế điều tiết cơ bản.
[[Sinh học phóng xạ]] (Radiobiology) là nghiên cứu về tương tác giữa bức xạ ion hoá và sinh vật sống.
[[Độc tố học]] là nghiên cứu các tác động nguy hại của thuốc và chất độc tác động lên cơ thể của sinh vật.
[[Thể loại:Y học| ]]
[[Thể loại:Bài cơ bản dài trung bình]]
[[Thể loại:Khoa học sức khỏe]] |
Ở nhiều quốc gia, trong đó có Việt Nam, các thầy thuốc phải đọc Lời thề Hippocrates khi chuẩn bị ra trường để hành nghề. Lời thề này được các sinh viên Y khoa đọc và nguyện làm theo trong lễ tốt nghiệp.
Người ta cho rằng Hippocrates (được coi là cha đẻ của Y học phương Tây) hoặc một đệ tử của ông chính là tác giả của lời thề này. Nó được viết bằng tiếng vùng Ionia của Hy Lạp cổ đại (cuối thế kỷ thứ 5 trước Công nguyên). Học giả cổ điển Ludwig Edelstein đã cho rằng các lời tuyên thệ này được viết bởi các môn sinh phái Pythagore, tuy nhiên thuyết này đã bị nghi ngờ do thiếu bằng chứng xác thực.
Phiên bản hiện đại.
Lời thề này được viết vào năm 1964 bởi Louis Lasagna, Hiệu trưởng của Trường Y khoa tại Đại học Tufts, và được sử dụng trong nhiều trường y khoa ngày nay.
Tôi thề phải thực hiện, đến hết khả năng và sự phán đoán của tôi, giao ước này:...
Nếu tôi không vi phạm lời thề này, tôi sẽ được tận hưởng cuộc sống mỹ mãn, được tôn trọng khi còn sống và nhớ đến mãi về sau. Tôi sẽ luôn làm việc để giữ gìn các truyền thống của điều mà tôi đã chọn và tôi sẽ có thể trải nghiệm niềm vui của việc cứu chữa những người tìm kiếm sự giúp đỡ của tôi.
Các lời thề tương đương.
Trong khung cảnh hiện đại, lời thề Hippocrates đã bị bỏ, thay đổi hay thay thế bằng các lời thề phản ảnh giá trị văn hóa và xã hội ngày nay, nhất là tại các trường y khoa phương Tây.
Huyện thoại ngành y
Lời thề Hippocrates cũng đã được đổi mới dựa theo Tuyên ngôn Geneva. Hội đồng Y khoa ("General Medical Council") của Anh đã có một hướng dẫn rõ cho các thành viên của họ trong các tài liệu sau "Duties of a doctor" và "Good Medical Practice" (tiếng Anh).
Mười hai điều Quy định về Y đức.
12 điều Y đức là Tiêu chuẩn đạo đức của người làm công tác y tế được ban hành kèm theo quyết định số: 20881BYT-QĐ ngày 06 tháng 11 nǎm 1996 của Bộ trưởng Bộ Y tế. Nội dung của các điều này gồm:
Lời tuyên thệ của người thầy thuốc (trước 1975).
Trước đ"ấng tối cao" mà tôi tin tưởng. Trước các "Y tổ" của thế giới và Việt Nam Hippocrates và Hải Thượng Lãn Ông. Trước các "thầy" và các "bạn đồng môn" đã gây dựng "y-nghiệp" cho tôi. Trước các "bậc sinh thành" ra tôi. Và nhất là trước "lương tâm chức nghiệp" của chính tôi. Tôi xin tuyên thệ
Qui ước đạo đức ngành y của Hiệp hội Y khoa Thế giới (World Medical Association).
Nhiệm vụ chung của người thầy thuốc.
1. Thực hành nghề nghiệp và duy trì chuẩn mực chuyên môn ở mức độ cao nhất.
2. Tôn trọng quyền của bệnh nhân chấp nhận hay bác bỏ đề nghị của thầy thuốc.
3. Không để cho phán xét cá nhân bị chi phối bởi quyền lợi cá nhân hay phân biệt đối xử.
4. Hết lòng trong việc cung cấp dịch vụ chuyên môn cho bệnh nhân.
5. Hành xử thành thật với bệnh nhân và đồng nghiệp. Báo cáo cho giới chức có trách nhiệm biết những thầy thuốc thiếu y đức hoặc bất tài hoặc có hành vi lừa đảo.
6. Không thuyên chuyển bệnh nhân hoặc ra toa thuốc để hưởng lợi ích tài chính hay quà cáp.
7. Tôn trọng quyền và sự lựa chọn của bệnh nhân.
8. Có trách nhiệm giáo dục công chúng về những khám phá mới trong y học, nhưng cần phải cẩn thận trong việc áp dụng các phương pháp còn trong vòng thử nghiệm.
9. Cố gắng sử dụng tài nguyên y tế một cách sáng suốt nhằm đem lại lợi ích cho bệnh nhân và cộng đồng.
10. Tìm người điều trị nếu mình mắc bệnh.
11. Tôn trọng các chuẩn mực đạo đức địa phương và quốc gia.
Nhiệm vụ chung của người thầy thuốc đối với bệnh nhân.
12. Tôn trọng sinh mạng của con người.
13. Hành động vì lợi ích của bệnh nhân.
14. Tuyệt đối trung thành với bệnh nhân. Bất cứ khi nào phương pháp điều trị hay xét nghiệm ngoài khả năng của mình, người thầy thuốc phải giới thiệu đến một chuyên gia khác.
15. Tôn trọng quyền riêng tư của bệnh nhân. Không tiết lộ bất cứ thông tin nào về bệnh nhân cho bất cứ ai, nếu không có sự đồng thuận của bệnh nhân.
16. Cung cấp dịch vụ chăm sóc trong trường hợp khẩn cấp.
17. Không quan hệ tình dục với bệnh nhân. Không lợi dụng mối quan hệ thầy thuốc – bệnh nhân. |
Virus, thường được viết là vi-rút (bắt nguồn từ tiếng Pháp "virus" /viʁys/), còn được gọi là siêu vi, siêu vi khuẩn hay siêu vi trùng, là một tác nhân truyền nhiễm chỉ nhân lên được khi ở bên trong tế bào sống của một sinh vật khác. Virus có thể xâm nhiễm vào tất cả các dạng sinh vật, từ động vật, thực vật cho tới vi khuẩn và cổ khuẩn. Kể từ bài viết đầu tiên của Dmitriy Iosifovich Ivanovsky năm 1892, mô tả về một dạng mầm bệnh không thuộc vi khuẩn mà lây nhiễm vào cây thuốc lá, và sự khám phá ra virus khảm thuốc lá của Martinus Beijerinck năm 1898, cho đến nay có khoảng 9,000 loại virus đã được miêu tả chi tiết, mặc dù vẫn còn có tới hàng triệu (hoặc tỷ) dạng virus khác nhau. Virus được tìm thấy ở hầu hết mọi hệ sinh thái trên Trái Đất và là dạng có số lượng nhiều nhất trong tất cả các thực thể sinh học. Khoa học nghiên cứu virus được biết với tên virus học ("virology"), một chuyên ngành phụ của vi sinh.
Các phần tử (hay "hạt") virus (được gọi là "virion hoặc vi-ri-ông") được tạo thành từ hai hoặc ba bộ phận: phần vật chất di truyền được tạo nên từ DNA hoặc RNA – những phân tử dài có mang thông tin di truyền, một lớp vỏ protein – được gọi với tên capsid – có chức năng bảo vệ hệ gen và một lớp vỏ bọc bên ngoài làm từ lipid mà bao bọc bên ngoài lớp vỏ protein khi virus ở ngoài tế bào (chỉ có trong một số trường hợp). Hình dạng của virus có sự khác nhau, từ dạng xoắn ốc hay khối hai mươi mặt đều đơn giản cho tới những cấu trúc phức tạp hơn. Một virus có kích thước trung bình vào khoảng 1/100 kích cỡ trung bình của một con vi khuẩn. Hầu hết virus đều quá nhỏ nên không thể quan sát trực tiếp dưới kính hiển vi quang học.
Nguồn gốc của virus trong lịch sử tiến hóa của sự sống không rõ ràng: một số có thể đã tiến hóa từ những plasmid – những đoạn DNA ngắn có khả năng di chuyển giữa các tế bào – trong khi số khác có thể đã tiến hóa từ vi khuẩn. Trong tiến hóa, virus là một phương tiện chuyển gen ngang quan trọng, góp phần gia tăng sự đa dạng di truyền. Virus được công nhận là một dạng sống bởi một số nhà khoa học, do chúng có mang vật chất di truyền, có thể sinh sản và tiến hóa thông qua quá trình chọn lọc tự nhiên. Tuy nhiên mặt khác chúng lại thiếu những đặc tính thiết yếu (như cấu trúc tế bào) – những điều được công nhận rộng rãi là cần thiết để được coi như sinh vật sống. Bởi vì chỉ có một số chứ không tất cả các phẩm chất cần thiết, nên virus được mô tả như "những sinh vật ở bên lề của sự sống". Tuy nhiên, virus chỉ có thể xâm nhập qua một số tế bào nhất định nhờ có giác bám (gai glycoprotein) của virus bám đặc hiệu lên thụ thể của tế bào chủ.
Virus lây lan theo nhiều cách; virus thực vật thường được truyền từ cây này sang cây khác qua những loài côn trùng hút nhựa cây như rệp vừng; trong khi virus động vật lại có thể được truyền đi nhờ những côn trùng hút máu. Những sinh vật mang mầm bệnh như vậy được gọi là những véc-tơ. Virus cúm lan truyền thông qua ho và hắt hơi. Norovirus và rotavirus, nguyên nhân chính của bệnh viêm dạ dày ruột siêu vi, lây lan qua đường phân-miệng và truyền từ người này sang người khác thông qua tiếp xúc, cũng như xâm nhập vào cơ thể qua thức ăn hay nước uống. HIV là một trong vài loại virus lây nhiễm thông qua quan hệ tình dục và tiếp xúc với máu bị nhiễm bệnh. Mỗi virus chỉ có thể xâm nhiễm vào một số dạng tế bào vật chủ nhất định, gọi là "biên độ vật chủ" ("host range"); biên độ này có thể rất hẹp hoặc rất rộng, tùy vào số lượng những sinh vật khác nhau mà virus có khả năng lây nhiễm.
Sự xâm nhập của virus trong động vật đã kích hoạt một phản ứng miễn dịch nhằm loại bỏ virus xâm nhiễm. Những phản ứng miễn dịch cũng có thể được tạo ra bởi vắc-xin, giúp tạo ra miễn dịch chủ động nhân tạo đối với một virus xâm nhiễm nhất định. Tuy nhiên, một số virus, bao gồm những loại gây ra AIDS và viêm gan siêu vi, lại có thể trốn tránh những phản ứng trên và gây ra sự nhiễm bệnh mãn tính. Đa phần các chất kháng sinh không có hiệu quả đối với virus, dù vậy cũng đã có những loại thuốc kháng virus được phát triển.
Từ "virus" trong tiếng Việt bắt nguồn từ từ tiếng Pháp "virus" /viʁys/.. Từ "virus" trong tiếng Pháp thì bắt nguồn từ từ tiếng Latinh "virus", có nghĩa là chất độc. "Virus" được ghi nhận với nghĩa "tác nhân gây bệnh truyền nhiễm" lần đầu vào năm 1728, trước khi Dmitri Ivanovsky phát hiện ra virus vào năm 1892. Thuật ngữ "virion" bắt đầu có từ năm 1959, được dùng để chỉ một phần tử virus, đơn lẻ, ổn định, có khả năng lây nhiễm được giải phóng ra từ tế bào và hoàn toàn có thể xâm nhập các tế bào khác cùng loại.
Vào những năm 1880, Louis Pasteur khi nghiên cứu về bệnh dại đã không thể tìm ra tác nhân gây ra bệnh này, và dự đoán về một mầm bệnh quá nhỏ để có thể phát hiện được dưới kính hiển vi. Năm 1884, nhà vi sinh vật học người Pháp Charles Chamberland đã phát minh ra một bộ lọc (được biết tới ngày nay là bộ lọc Chamberland hay bộ lọc Chamberland-Pasteur) với các lỗ có kích thước còn nhỏ hơn cả vi khuẩn. Nhờ thế, ông có thể cho một dung dịch chứa vi khuẩn chảy qua bộ lọc và hoàn toàn loại bỏ chúng khỏi dung dịch. Năm 1892, nhà sinh vật học người Nga, Dmitriy Iosifovich Ivanovskiy đã sử dụng bộ lọc này để nghiên cứu về thứ mà hiện nay được biết với tên virus khảm thuốc lá. Thí nghiệm của ông cho thấy chiết xuất từ lá cây thuốc lá nhiễm bệnh được nghiền nát vẫn có thể lây nhiễm sau khi lọc. D. I. Ivanovskiy đề xuất rằng sự nhiễm bệnh có thể là do một độc tố từ vi khuẩn gây ra, nhưng đã không theo đuổi ý tưởng đó. Lý do là vì vào thời điểm đó, người ta đã nghĩ rằng tất cả các tác nhân truyền nhiễm đều có thể bị các bộ lọc giữ lại và chỉ có thể phát triển trên một môi trường dinh dưỡng – đây là một phần của thuyết mầm bệnh. Năm 1898, nhà vi sinh vật học người Hà Lan Martinus Beijerinck đã lặp lại thí nghiệm và tin rằng dung dịch đã lọc vẫn còn chứa một dạng tác nhân truyền nhiễm mới. Ông nhận thấy rằng tác nhân này chỉ có thể nhân lên trong tế bào đang phân chia, nhưng thí nghiệm của ông không chỉ ra là nó được làm từ các hạt; ông gọi tác nhân này là một "contagium vivum fluidum" (mầm sống có thể hòa tan) và sử dụng lại từ "virus" để gọi nó. Beijerinck giữ quan điểm rằng virus có bản chất là chất lỏng, tuy nhiên về sau thuyết này đã bị bác bỏ bởi Wendell Stanley, người chứng minh được chúng có dạng hạt. Trong cùng năm đó, Friedrich Loeffler và Frosch đã cho chảy lần đầu tiên dung dịch chứa virus động vật – tác nhân gây bệnh lở mồm long móng (aphthovirus) – qua một bộ lọc tương tự.
Vào đầu của thế kỷ XX, Frederick Twort - một nhà vi khuẩn học người Anh - đã khám phá ra một nhóm những virus có thể xâm nhiễm vào vi khuẩn, mà nay gọi là thực khuẩn thể ("bacteriophage" hay "phage"), và nhà vi sinh học người Canada gốc Pháp Félix d'Herelle đã miêu tả về virus rằng: khi thêm chúng vào vi khuẩn trên thạch agar, sẽ tạo ra những vùng vi khuẩn bị chết. Ông đã pha loãng chính xác một dịch huyền phù những virus trên và khám phá ra rằng những dịch pha loãng cao nhất (mật độ virus thấp nhất), thay vì giết chết toàn bộ vi khuẩn, đã tạo những vùng riêng biệt gồm những cá thể bị chết. Tính toán diện tích những vùng này và nhân với hệ số pha loãng cho phép ông tính được số lượng virus trong dịch huyền phù gốc. Phage đã được cho rằng sẽ là một giải pháp điều trị tiềm năng cho những bệnh như thương hàn và tả, nhưng triển vọng của chúng đã bị lãng quên cùng với sự phát triển của penicillin. Nghiên cứu về phage đã cung cấp cái nhìn sâu hơn về sự bất hoạt và kích hoạt gen, và một cơ chế hữu hiệu cho việc đưa những gen bên ngoài vào bên trong vi khuẩn.
Cho đến cuối thế kỷ XIX, virus được định nghĩa dựa trên sự lây nhiễm của chúng, khả năng chống lọc, và việc chúng đòi hỏi phải có một vật chủ. Virus đã từng chỉ được nuôi trong thực vật và động vật. Năm 1906, Ross Granville Harrison phát minh ra một phương pháp để nuôi dưỡng mô trong bạch huyết, và sau đó năm 1913, E. Steinhardt, C. Israeli, và R. A. Lambert đã sử dụng phương pháp này để phát triển virus vaccinia trong những mảnh vụn của mô giác mạc chuột lang nhà. Năm 1928, H. B. Maitland và M. C. Maitland đã nuôi virus vaccinia trong những thể huyền phù của thận gà băm nhỏ. Phương pháp của họ đã không được áp dụng rộng rãi cho tới thập niên 1950, khi poliovirus được nuôi ở quy mô lớn phục vụ việc sản xuất vaccine.
Một bước đột phá khác đến vào năm 1931, khi nhà bệnh học Hoa Kỳ Ernest William Goodpasture đã nuôi dưỡng virus cúm và vài loại virus khác trong trứng gà đã thụ tinh. Năm 1949, John Franklin Enders, Thomas Weller, và Frederick Robbins cũng nuôi cấy virus bại liệt trong tế bào phôi người, virus đầu tiên được nuôi mà không sử dụng mô thể rắn của động vật hay trứng. Công trình này cho phép Jonas Salk tạo ra một vắc-xin bại liệt hiệu quả.
Những hình ảnh đầu tiên của virus thu nhận được là nhờ sự phát minh ra kính hiển vi điện tử năm 1931 của hai kĩ sư người Đức Ernst Ruska và Max Knoll. Năm 1935, Wendell Meredith Stanley - một nhà sinh hóa và virus học người Mỹ - đã nghiên cứu virus khảm thuốc lá và nhận thấy chúng được tạo thành phần lớn từ protein. Một thời gian ngắn sau, virus này đã được phân tách thành các phần protein và RNA riêng biệt.
Virus khảm thuốc lá là dạng virus đầu tiên được tinh thể hóa và cấu trúc của nó do đó đã được làm sáng tỏ chi tiết. Những hình ảnh nhiễu xạ tia X đầu tiên của virus kết tinh đã được Bernal và Fankuchen thu được vào 1941. Dựa trên những tấm hình này, Rosalind Franklin đã khám phá ra cấu trúc DNA hoàn thiện của loại virus này vào năm 1955. Cùng trong năm đó, Heinz Fraenkel-Conrat và Robley Williams chứng minh được là chiết xuất RNA và vỏ protein của virus khảm thuốc lá có thể tự lắp ráp lại để tạo thành những virus có chức năng, cho thấy cơ chế đơn giản này có thể là cách virus sinh ra trong tế bào vật chủ.
Nửa sau của thế kỷ XX đánh dấu một kỉ nguyên vàng cho sự khám phá virus với hầu hết trong số hơn 2.000 loài virus động vật, thực vật và vi khuẩn đã được phát hiện trong những năm này. Năm 1957, virus arteri ở ngựa và virus gây bệnh tiêu chảy ở bò (một loại pestivirus) đã được phát hiện. Năm 1963, virus viêm gan siêu vi B cũng được Baruch Blumberg khám phá, và năm 1965, Howard Temin đã mô tả loại retrovirus đầu tiên. Sau đó, enzym phiên mã ngược ("Reverse transcriptase"), loại enzym quan trọng mà retrovirus sử dụng để phiên mã RNA của chúng thành DNA, được miêu tả lần đầu vào năm 1970, một cách độc lập bởi Howard Martin Temin và David Baltimore. Năm 1983, nhóm nghiên cứu của Luc Montagnier tại Viện Pasteur ở Pháp, đã lần đầu tiên phân lập một loại retrovirus được biết với tên gọi ngày nay là virus suy giảm miễn dịch ở người (HIV).
Virus được tìm thấy ở bất cứ nơi nào có sự sống và có thể đã tồn tại kể từ khi tế bào sống đầu tiên được tiến hóa thành. Nguồn gốc của virus không rõ ràng bởi chúng không tạo hóa thạch, vì vậy các kĩ thuật phân tử đã được sử dụng để so sánh RNA hay DNA của virus và là một công cụ hiệu quả để nghiên cứu xem chúng phát sinh ra sao. Nhìn chung, có ba giả thuyết chính để giải thích nguồn gốc của virus:
Giả thuyết thoái hóa.
Giả thuyết này cho rằng virus có thể đã từng là những tế bào nhỏ ký sinh bên trong những tế bào lớn hơn. Trải qua thời gian, những gen không cần thiết cho sự ký sinh này mất đi. Những vi khuẩn như "Rickettsia" và "Chlamydia" cũng sống trong tế bào và giống như virus, chỉ có thể sinh sản khi ở bên trong tế bào vật chủ. Những vi khuẩn này đã hỗ trợ cho giả thuyết thoái lui, do sự phụ thuộc ký sinh của chúng có thể đã làm mất đi những gen cho phép chúng tồn tại bên ngoài tế bào. Giả thuyết này còn được gọi là "giả thuyết thoái hóa" ("degenracy hypothesis"), hoặc "giả thuyết suy giảm" ("reduction hypothesis").
Giả thuyết nguồn gốc từ tế bào.
Theo giả thuyết này, một số virus có thể đã tiến hóa từ những mảnh DNA hay RNA mà "thoát ra" ("escape") từ hệ gen của những sinh vật lớn hơn. DNA thoát ra có thể là từ những plasmid (những đoạn DNA trần mà có thể di chuyển giữa những tế bào) hoặc từ những transposon (những phân tử DNA mà nhân lên và di chuyển quanh những vị trí khác nhau bên trong bộ gen của tế bào). Từng được gọi là những "gen nhảy", transposon là những ví dụ của các yếu tố di truyền di động và có thể là nguồn gốc của một số virus. Chúng được Barbara McClintock phát hiện ở cây ngô vào năm 1950. Đôi khi giả thuyết này còn được gọi là "giả thuyết lang thang" ("vagrancy hypothesis"), hoặc "giả thuyết trốn thoát" ("escape hypothesis").
Giả thuyết đồng tiến hóa.
Giả thuyết này còn được gọi là "giả thuyết virus-đầu tiên" ("virus-first hypothesis"), đề xuất rằng virus có thể đã tiến hóa từ những phân tử protein và acid nucleic phức tạp cùng một thời điểm khi tế bào xuất hiện lần đầu trên Trái Đất, và đã không hề bị phụ thuộc vào tế bào trong hàng tỷ năm. Viroid là những phân tử RNA mà không được phân loại là virus bởi chúng thiếu đi lớp vỏ protein. Tuy nhiên, chúng có những đặc tính tương đồng với vài loại virus và thường được gọi là những "tác nhân dưới virus" ("subviral agent"). Viroid là những mầm bệnh quan trọng ở thực vật. Chúng không mã hóa protein nhưng lại tương tác với tế bào chủ và sử dụng bộ máy tế bào vật chủ cho sự nhân lên của chúng. Virus viêm gan siêu vi D trên người cũng có bộ gen RNA tương đồng với viroid nhưng có lớp vỏ protein xuất xứ từ virus viêm gan B và không có khả năng tạo ra lớp vỏ của riêng chúng. Vì vậy, chúng là một loại virus khiếm khuyết và không thể tự nhân lên mà không có virus viêm gan B giúp đỡ. Tương tự như vậy, sputnik virophage cũng bị lệ thuộc vào mimivirus, loại virus lây nhiễm trên "Acanthamoeba castellanii". Những virus phụ thuộc vào sự hiện diện của những loài virus khác trong tế bào vật chủ được gọi là những "vệ tinh" và có thể là đại diện cho một bước trung gian trong quá trình tiến hóa giữa viroid và virus.
Sự tranh cãi giữa các giả thuyết về nguồn gốc của virus.
Trong quá khứ, tất cả những giả thuyết trên đều gặp phải vấn đề: giả thuyết thoái lui không giải thích được tại sao kể cả những ký sinh nội bào nhỏ nhất cũng không giống với virus ở bất kỳ góc độ nào. Giả thuyết trốn thoát không lý giải được về lớp vỏ capsid phức hợp và các cấu trúc khác của phần tử virus. Giả thuyết virus-đầu tiên thì trái với định nghĩa của virus là chúng đòi hỏi phải có tế bào chủ. Cho đến hiện nay, virus được công nhận là rất cổ xưa và có nguồn gốc mà bắt đầu từ trước cả sự rẽ nhánh của sự sống vào ba vực. Phát hiện này đã khiến những nhà virus học hiện đại phải xem xét và đánh giá lại cả ba giả thuyết cổ điển trên.
Bằng chứng về một thế giới của những tế bào RNA tổ tiên và những phân tích máy tính về trình tự DNA của virus và vật chủ đã đem lại sự hiểu biết tốt hơn về mối quan hệ tiến hóa giữa những loại virus khác nhau, và có thể giúp xác định tổ tiên của những virus hiện đại. Cho đến nay, những phân tích này vẫn chưa chứng tỏ được giả thuyết nào ở trên là đúng. Tuy nhiên, có vẻ như ít có khả năng rằng tất cả các virus hiện đang được biết có cùng một tổ tiên chung, và virus có lẽ đã phát sinh nhiều lần trong quá khứ bởi một hay nhiều cơ chế.
Prion là những phân tử protein có khả năng lây nhiễm mà không phải DNA hay RNA. Chúng có thể gây các bệnh như bệnh ngứa điên ở cừu ("scrapie"), bệnh viêm não thể bọt biển ở bò (bệnh bò điên) và bệnh suy mòn mãn tính ở hươu; ở con người, những bệnh gây ra bởi prion bao gồm bệnh Kuru, bệnh Creutzfeldt–Jakob, và hội chứng Gerstmann–Sträussler–Scheinker. Prion có khả năng nhân lên do một số protein có thể tồn tại ở hai hình dạng khác nhau, và prion thay đổi hình dạng thông thường của protein vật chủ thành dạng prion. Điều này sẽ phát động một phản ứng chuỗi khi mỗi protein prion biến đổi nhiều protein vật chủ thành nhiều prion hơn, và những prion mới này lại tiếp tục biến đổi càng lúc càng nhiều protein thành prion hơn nữa; và tất cả những bệnh liên quan tới prion được biết đến đều dẫn đến tử vong. Mặc dù những prion về cơ bản khá khác biệt với virus và viroid, thì sự khám phá ra chúng đã làm gia tăng niềm tin vào học thuyết rằng virus có thể đã tiến hóa từ những phân tử tự sao chép.
Đặc điểm đời sống.
Có những ý kiến khác nhau về việc liệu virus có phải là một dạng sống không, hay chỉ là những cấu trúc hữu cơ tương tác với những sinh vật sống. Chúng đã được mô tả là "những sinh vật bên lề của sự sống" ("organisms at the edge of life"), do chúng giống với những cơ thể sống ở chỗ chúng mang những gen và tiến hóa nhờ quá trình chọn lọc tự nhiên, và có thể sinh sản bằng cách tạo ra rất nhiều bản sao của chính chúng bằng cách tự lắp ráp. Dù vậy, chúng lại không có cấu trúc tế bào, thứ mà thường được coi như đơn vị cơ bản của sự sống. Virus cũng không có hệ thống trao đổi chất của riêng chúng, và đòi hỏi phải có một tế bào chủ để tạo ra cá thể mới. Chúng do đó không thể sinh sản tự nhiên bên ngoài tế bào vật chủ – dù một số loài vi khuẩn như "Rickettsia" và "Chlamydia" được công nhận là sinh vật sống cũng có giới hạn tương tự. Những dạng sống được chấp nhận thường phải sử dụng phân chia tế bào để sinh sản, trong khi virus lại tự lắp ráp bên trong tế bào. Chúng cũng khác với sự tăng trưởng tự động của những tinh thể, do chúng được thừa hưởng những đột biến di truyền và phải chịu sự chọn lọc tự nhiên. Sự tự lắp ráp của virus trong tế bào chủ có ý nghĩa quan trọng cho việc nghiên cứu nguồn gốc sự sống, và củng cố niềm tin cho giả thuyết về việc sự sống có thể đã bắt đầu từ những phân tử hữu cơ tự lắp ráp.
Virus rất đa dạng về kích thước và hình dạng, được gọi chung là những hình thái của virus. Nhìn chung, virus có kích cỡ nhỏ hơn vi khuẩn. Hầu hết các virus được nghiên cứu có đường kính trong khoảng từ 20 đến 300 nanomet. Một số filovirus có tổng chiều dài lên tới 1400 nm; dù đường kính của chúng chỉ vào khoảng 80 nm. Đa phần các virus đều không thể quan sát được bằng kính hiển vi quang học, cho nên kính hiển vi điện tử quét và truyền qua được sử dụng để trực quan hóa những virion. Để gia tăng sự tương phản giữa virus và xung quanh, người ta phải sử dụng những "vết nhuộm" ("stain") với mật độ electron dày đặc. Những dung dịch muối của những kim loại nặng, như wolfram, có thể phân tán electron khỏi những vùng được các vết nhuộm che phủ. Nếu virion được bao bọc bằng các vết nhuộm (nhuộm dương tính), những chi tiết tỉ mỉ sẽ bị che mờ. Phương pháp nhuộm âm tính vì thế sẽ giúp khắc phục vấn đề này khi chỉ nhuộm màu môi trường nền.
Một phần tử (hạt) virus hoàn chỉnh - được gọi virion - bao gồm acid nucleic được bao bọc bởi một lớp vỏ protein bảo vệ gọi là capsid. Lớp vỏ này được tạo thành từ những tiểu đơn vị protein giống hệt nhau gọi là capsomer. Ngoài ra, virus có thể có một vỏ bọc bằng lipid có xuất xứ từ màng tế bào vật chủ. Vỏ capsid được tạo ra từ protein được dịch mã bởi bộ gen của virus và hình dạng của chúng chính là cơ sở để phân biệt về mặt hình thái học. Các tiểu đơn vị protein do virus mã hóa sẽ tự lắp ráp để tạo nên vỏ capsid, nhìn chung sẽ đòi hỏi sự có mặt của bộ gen virus. Những virus phức tạp còn mã hóa những protein trợ giúp cho quá trình xây dựng capsid của chúng. Những protein mà kết hợp với acid nucleic được biết với tên nucleoprotein, và sự kết hợp của những protein ở capsid với acid nucleic của virus được gọi là một nucleocapsid. Vỏ capsid và toàn bộ cấu trúc virus có thể được thăm dò vật lý (cơ học) thông qua kính hiển vi lực nguyên tử. Nhìn chung, có bốn hình thái virus chính:
Những virus này được tạo thành từ một loại capsomer duy nhất xếp chồng lên quanh một trục trung tâm để tạo nên cấu trúc xoắn ốc, có thể có một khoang trung tâm hoặc là một ống rỗng. Sự sắp xếp này dẫn đến việc tạo ra những virion dạng hình que hay sợi, chúng có thể ngắn và rất cứng, hoặc dài và rất linh hoạt. Vật liệu di truyền nhìn chung là RNA sợi đơn (ssRNA), nhưng đôi khi là DNA sợi đơn (ssDNA), và được gắn chặt với chuỗi xoắn protein bằng những tương tác giữa acid nucleic mang điện tích âm và phần điện tích dương trên protein. Nói chung, độ dài của vỏ capsid xoắn ốc có liên quan tới độ dài của acid nucleic bên trong nó và đường kính thì phụ thuộc vào kích thước và cách sắp xếp các capsomer. Loại virus khảm thuốc lá - mà đã được nghiên cứu kĩ lưỡng - là một ví dụ của virus dạng xoắn ốc.
Khối hai mươi mặt đều.
Hầu hết virus động vật đều có dạng khối hai mươi mặt đều hoặc gần hình cầu với hai mươi mặt đều đối xứng (nhị thập diện đều). Một khối hai mươi mặt đều bình thường là cách tối ưu để tạo nên một vỏ khép kín từ những tiểu đơn vị giống y như nhau. Số lượng các capsomer tối thiểu cần đến là 12, trong đó mỗi capsomer tạo thành từ năm tiểu đơn vị y hệt nhau. Nhiều virus, ví dụ rotavirus, có nhiều hơn 12 capsomer và xuất hiện dưới dạng hình cầu nhưng vẫn giữ tính đối xứng. Capsomer tại mỗi đỉnh được bao quanh bởi 5 capsomer khác gọi là penton. Capsomer trên những mặt hình tam giác thì được bao quanh bởi 6 và gọi là hexon. Hexon về bản chất thường phẳng và penton, cấu trúc tạo nên 12 đỉnh, lại thường cong. Cùng một protein cũng có thể là tiểu đơn vị của cả penton và hexon, hoặc chúng có thể được cấu tạo bởi những protein khác nhau.
Có cấu trúc một khối hai mươi mặt đều được kéo dài gấp năm lần theo chiều dài của trục; đây cũng cách sắp xếp phổ biến ở đầu của mỗi bacteriophage. Nó tạo thành một hình trụ với nắp đậy ở hai đầu.
Những virus này có một capsid mà không hoàn toàn xoắn hay hoàn toàn khối hai mươi mặt đều, và có thể mang những cấu trúc thêm vào như đuôi protein hoặc một vách ngăn ngoài phức hợp. Một số bacteriophages, như Enterobacteria phage T4, có cấu trúc phức tạp bao gồm một đầu hình khối hai mươi mặt đều gắn với một đuôi xoắn; đuôi này có thể có một đĩa nền lục giác đều với các sợi đuôi protein nhô ra. Cấu trúc đuôi này đóng vai trò một ống tiêm phân tử, giúp gắn vào vi khuẩn vật chủ rồi sau đó bơm bộ gen của virus vào bên trong tế bào.
Một vài loài virus bao phủ bản thân chúng bằng một lớp vỏ bọc, là một dạng chỉnh sửa của một trong những màng tế bào: có thể là lớp màng ngoài bao quanh tế bào vật chủ bị nhiễm, hoặc màng trong như màng nhân hay mạng lưới nội chất, tạo ra một lớp lipid kép bao ngoài được gọi là vỏ bọc virus ("viral envelope"). Màng này được đính vào những protein mã hóa bởi bộ gen virus và bộ gen vật chủ; ngoài ra, tất cả màng lipid và bất cứ carbohydrat đều có nguồn gốc từ vật chủ. Virus cúm và HIV là ví dụ cho những loại sử dụng chiến thuật này. Hầu hết các virus có màng đều phụ thuộc vào lớp vỏ của chúng để có thể xâm nhiễm vào vật chủ.
poxvirus là những virus lớn, phức tạp có hình thái bất thường. Bộ gen của chúng được gắn với protein bên trong một cấu trúc đĩa ở trung tâm gọi là một nucleoid. Nucleoid được bao quanh bởi một lớp màng và hai cơ quan ở hai bên mà không rõ chức năng. Virus có một vỏ bọc ngoài với một lớp protein dày đính trên bề mặt vỏ bọc. Về tổng thể, virion của poxvirus là đa hình thái, do có thể có hình dạng trứng hoặc hình dạng gạch. Mimivirus là virus lớn nhất thường được biết, với đường kính vỏ capsid là 400 nm. Các sợi protein có thể nhô lên khỏi bề mặt với chiều dài lên tới 100 nm. Vỏ capsid có dạng đa giác đều dưới kính hiển vi điện tử, do đó có thể đây là một virus dạng khối hai mươi mặt đều. Năm 2011, các nhà nghiên cứu đã khám phá ra một virus lớn hơn ở đáy đại dương gần bờ biển Las Cruces, Chile. Nó tạm được đặt tên là "Megavirus chilensis", và có thể nhìn thấy được dưới kính hiển vi quang học cơ bản.
Một số loại virus khác.
Một vài loại virus mà lây nhiễm vào vi khuẩn cổ có cấu trúc phức tạp mà không liên quan tới bất kỳ dạng virus nào khác, với những hình dạng bất thường rất đa dạng, từ những cấu trúc hình con suốt, cho tới hình que có móc, hình giọt nước, hay thậm chí cả hình cái chai. Những virus trên vi khuẩn cổ giống khác thì tương tự với những bacteriophage có đuôi, và có thể có nhiều dạng cấu trúc đuôi khác nhau.
Có rất nhiều cấu trúc bộ gen có thể được nhìn thấy ở các loài virus; chúng là nhóm có sự đa dạng cấu trúc bộ gen nhiều hơn thực vật, động vật, vi khuẩn hay vi khuẩn cổ. Có tới hàng triệu loại virus khác nhau, dù mới chỉ có khoảng 7.000 trong số đó đã được mô tả chi tiết. Cho đến tháng 1 năm 2021, cơ sở dữ liệu bộ gen virus của Trung tâm Thông tin Công nghệ sinh học Quốc gia Hoa Kỳ (NCBI) lưu trữ hơn 193.000 trình tự bộ gen hoàn chỉnh, nhưng chắc chắn còn nhiều vấn đề cần khám phá.
Một virus có các gen DNA hay RNA được gọi tương ứng là một virus DNA hoặc virus RNA. Phần lớn virus có bộ gen là RNA. Virus thực vật có xu hướng có bộ gen RNA sợi đơn và bacteriophage thường có bộ gen DNA sợi đôi.
Bộ gen virus có dạng mạch vòng, như ở polyomavirus, hay mạch thẳng, như ở adenovirus. Loại acid nucleic không liên quan tới hình dạng của bộ gen. Ở các virus RNA hay một số virus DNA, bộ gen thường được phân làm các phần riêng biệt, gọi là "bị phân đoạn". Với virus RNA, mỗi phân đoạn thường mã hóa cho chỉ một protein và chúng thường được tìm thấy với nhau trong một capsid. Tuy nhiên, tất cả phân đoạn không bắt buộc phải ở trong cùng một virion của virus để có thể xâm nhiễm, như được minh chứng ở virus khảm brom và vài loại virus thực vật khác.
Bộ gen virus, bất kể là loại acid nucleic nào, gần như luôn luôn có dạng sợi đơn hay sợi đôi. Bộ gen sợi đơn chứa một acid nucleic không bắt cặp, giống như một nửa của một cái thang bị cắt làm đôi ở giữa. Bộ gen sợi đôi có chứa hai acid nucleic bắt cặp bổ sung cho nhau, giống như toàn bộ cái thang. Những phần tử của một số họ virus, chẳng hạn những loại thuộc họ "Hepadnaviridae", có một bộ gen mà một phần sợi đơn và một phần sợi đôi.
Với hầu hết virus có bộ gen RNA và một số với bộ gen DNA sợi đơn, những sợi đơn lẻ được cho là có tính dương (+) hoặc tính âm (-), tùy thuộc vào liệu chúng có bổ sung với RNA thông tin (mRNA) của virus hay không. RNA dương tính tức là có cùng tính với mRNA và do vậy có ít nhất một phần của nó có thể dịch mã trực tiếp bởi tế bào vật chủ. RNA âm tính thì bổ sung với mRNA và do vậy phải được chuyển thành RNA dương tính bởi một enzym RNA polymerase phụ thuộc RNA trước khi dịch mã. Danh pháp DNA với virus bộ gen ssDNA đơn tính thì tương tự như danh pháp RNA, trong đó "sợi mã hóa" cho mRNA của virus thì bổ sung với nó (-) và "sợi không mã hóa" là một bản sao của nó (+). Tuy nhiên, một vài loại virus ssDNA và ssRNA có bộ gen lưỡng tính trong đó sự phiên mã và dịch mã có thể xảy ở cả hai loại sợi trong một trung gian sao chép dạng sợi đôi. Ví dụ như geminivirus, những virus thực vật có bộ gen ssDNA, và arenavirus, những virus động vật có bộ gen ssRNA.
Kích thước bộ gen khác biệt rất lớn giữa các loài. Bộ gen virus nhỏ nhất – circovirus ssDNA, thuộc họ "Circoviridae" – chỉ mã hóa cho hai loại protein và có kích cỡ bộ gen vào khoảng 2 nghìn cặp base; bộ gen lớn nhất – của mimivirus – có kích thước bộ gen lên tới hơn 1,2 triệu cặp base và mã hóa cho hơn 1000 protein. Nói chung, virus RNA có bộ gen nhỏ hơn virus DNA do có tỷ lệ lỗi cao hơn khi sao chép, và có giới hạn trên về kích thước tối đa. Khi vượt qua giới hạn này, những lỗi trong bộ gen khi sao chép sẽ làm cho virus trở nên vô dụng hoặc không có tính cạnh tranh. Để khắc phục điều này, virus RNA thường có bộ gen phân đoạn – chia bộ gen thành những phân tử nhỏ hơn – để làm giảm xác suất mà một lỗi trong một bộ gen đơn phần sẽ làm mất khả năng của toàn bộ bộ gen. Trái ngược lại, virus DNA thường có bộ gen lớn hơn do độ chính xác cao của những enzym sao chép của chúng. Tuy nhiên những virus DNA sợi đơn là một ngoại lệ của quy luật này, bởi tỷ lệ đột biến ở bộ gen những loại này có thể đạt đến mức cực đại như ở trường hợp virus RNA sợi đơn.
Virus cũng trải qua sự biến đổi di truyền theo một số cơ chế. Chúng bao gồm một quá trình gọi là biến động di truyền (hay trôi dạt di truyền, "gentic drift") khi những base đơn lẻ trong RNA hoặc DNA đột biến thành những base khác. Hầu hết những đột biến điểm này đều "im lặng" – không thay đổi protein mà gen đó mã hóa – nhưng số khác lại có thể đem tới những lợi thế về tiến hóa như sự đề kháng với các thuốc kháng virus. Sự trôi dạt kháng nguyên diễn ra khi có một thay đổi lớn trong bộ gen của virus, có thể là hệ quả của tái tổ hợp hoặc tái sắp xếp vật liệu di truyền. Khi điều này xảy ra với virus cúm, những đại dịch có thể sẽ xảy ra. Virus RNA thường tồn tại ở dạng những loài giả (hay "biến chủng", "quasispecies") hoặc những đám virus của cùng một loài nhưng có trình tự nucleoside của bộ gen hơi khác nhau. Những biến chủng này là mục tiêu chính của chọn lọc tự nhiên.
Những bộ gen phân đoạn cũng đem tới những lợi thế tiến hóa; các chủng khác nhau của cùng một virus với bộ gen phân đoạn có thể xáo trộn ngẫu nhiên và tổ hợp các gen để sản xuất ra những virus thế hệ sau (con cái) có những đặc tính độc nhất vô nhị. Điều này gọi là sự tái sắp xếp hay "sự giao phối của virus" ("viral sex").
Tái tổ hợp di truyền là quá trình mà một sợi DNA bị phá vỡ và sau đó nhập vào đoạn cuối của một phân tử DNA khác. Điều này có thể xảy ra đồng thời khi virus xâm nhiễm vào tế bào và những nghiên cứu về sự tiến hóa của virus đã cho thấy rằng tái tổ hợp rất tràn lan ở các loài được nghiên cứu. Nó phổ biến ở cả virus RNA lẫn virus DNA.
Chu trình nhân lên.
Những quần thể virus - do là những thực thể vô bào - nên không thể tăng trưởng thông qua sự phân chia tế bào. Thay vào đó, chúng sử dụng bộ máy và hệ trao đổi chất của tế bào vật chủ để tạo ra rất nhiều bản sao của chính chúng, và tự lắp ráp ở bên trong đó.
Chu trình sống của virus có sự khác nhau rất lớn giữa các loài, nhưng nhìn chung có 6 giai đoạn cơ bản trong chu trình sống (vòng đời) của virus:
Vật liệu di truyền bên trong, và phương pháp nhân lên của những vật liệu đó, khác nhau đáng kể giữa những loại virus khác nhau.
Ảnh hưởng đến tế bào vật chủ.
Phạm vi của những tác động về cấu trúc và sinh hóa của virus lên tế bào vật chủ là rất rộng lớn. Chúng được gọi là những "tác động bệnh tích tế bào". Hầu hết những sự xâm nhiễm virus cuối cùng đều dẫn đến cái chết của tế bào vật chủ. Nguyên nhân gây ra chết bao gồm làm tan tế bào (tiêu bào), thay đổi màng ngoài tế bào và chết rụng tế bào. Thường tế bào bị chết là do việc ngừng lại các hoạt động thông thường của nó gây ra do sự ức chế của những protein đặc trưng của virus, dù không phải tất cả số đó đều là thành phần của các hạt virus.
Một số virus không gây ra sự thay đổi rõ ràng đối với tế bào bị nhiễm. Tế bào mà virus tiềm tan và bất hoạt thì cho thấy rất ít dấu hiệu bị nhiễm và thường hoạt động bình thường. Điều này gây nên sự nhiễm bệnh dai dẳng và virus thường 'ngủ đông' trong nhiều tháng hoặc nhiều năm. Điển hình cho việc này là những virus herpes. Một số loại, như virus Epstein-Barr, có thể khiến tế bào tăng sinh mà không gây ra khối u ác tính, trong khi một số loại khác như virus papilloma lại được xem là một nguyên nhân được xác nhận của bệnh ung thư.
Biên độ vật chủ.
Virus chính là những thực thể sinh học dồi dào nhất từ trước tới nay trên Trái Đất, và chúng có số lượng đông hơn tất cả những loài khác cộng lại với nhau. Chúng có thể xâm nhiễm lên tất cả các dạng tế bào bao gồm của động vật, thực vật, vi khuẩn, vi khuẩn cổ và nấm. Tuy nhiên, những loại khác nhau của virus thì chỉ có thể lây nhiễm trên một phạm vi giới hạn những vật chủ khác nhau, và nhiều loại có tính đặc hiệu loài. Một số, ví dụ như virus đậu mùa, chỉ có thể nhiễm vào một loài duy nhất – trong trường hợp này là con người, và vì thế chúng được nói rằng có "biên độ vật chủ" ("host range") hẹp. Những virus khác, ví dụ như virus dại, có thể lây lan trên nhiều loài động vật có vú, và do vậy có biên độ rộng. Virus mà chỉ lây nhiễm vào thực vật thì vô hại với động vật, và hầu hết virus mà xâm nhiễm lên các động vật khác thì vô hại với con người. Biên độ vật chủ của một số virus vi khuẩn - bacteriophage - thì bị giới hạn vào chỉ duy nhất một chủng vi khuẩn và chúng có thể được dùng để truy nguyên nguồn gốc bùng phát bệnh truyền nhiễm bằng một phương pháp gọi là phân loại bằng phage ("phage typing").
Phân loại virus tìm cách mô tả tính đa dạng của virus bằng cách đặt tên và nhóm chúng dựa trên cơ sở là những điểm tương đồng. Năm 1962, André Lwoff, Robert Horne, và Paul Tournier là những người đầu tiên phát triển một phương pháp phân loại virus, dựa trên hệ thống thứ bậc của Linnaeus. Hệ thống này tạo cơ sở cho sự phân loại theo ngành, lớp, bộ, họ, chi và loài. Virus được nhóm lại dựa theo những thuộc tính chung của chúng (mà không phải của vật chủ) và loại acid nucleic tạo nên bộ gen. Về sau, Ủy ban Quốc tế về Phân loại Virus được thành lập. Tuy nhiên, virus không được phân loại theo ngành hay lớp, do bộ gen có kích thước nhỏ và tỷ lệ đột biến cao khiến chúng khó xác định tổ tiên ở trên cấp Bộ. Vì vậy, hệ thống phân loại Baltimore đã được sử dụng để bổ sung thay thế cho các cấp bậc truyền thống này.
Hệ thống phân loại ICTV.
Ủy ban Quốc tế về Phân loại Virus (ICTV) đã phát triển hệ thống phân loại hiện hành và viết ra các hướng dẫn mà đề cao hơn đến các thuộc tính nhất định của virus để duy trì tính thống nhất của chúng trong một họ. Một hệ thống phân loại thống nhất đã được thành lập. Báo cáo lần thứ 7 của ICTV đã chính thức hóa lần đầu tiên khái niệm loài virus như là taxon (nhóm) thấp nhất trong hệ thống thứ bậc phân nhánh của các nhóm virus. Tuy nhiên, hiện tại chỉ có một phần nhỏ trong sự đa dạng của virus được nghiên cứu: phân tích các mẫu lấy từ con người cho thấy rằng có khoảng 20% trình tự virus được phục hồi là chưa từng được nhìn thấy trước đó, phân tích các mẫu lấy từ môi trường, như nước biển và trầm tích đại dương, giúp phát hiện ra một lượng lớn những trình tự mà hoàn toàn mới lạ với con người.
Cấu trúc hệ thống phân loại chung như sau:
Theo bảng phân loại năm 2013 của ICTV, có sáu bộ được xác lập, bao gồm Caudovirales, Herpesvirales, Mononegavirales, Nidovirales, Picornavirales và Tymovirales. Bộ thứ bảy Ligamenvirales cũng đã được đề xuất. Ủy ban không chính thức phân biệt các phân loài, chủng và dòng phân lập. Tổng cộng hiện nay có 7 bộ, 87 họ, 19 phân họ, 349 chi và khoảng 2.827 loài
Hệ thống phân loại Baltimore.
Nhà sinh vật học từng đoạt giải Nobel - David Baltimore đã phát minh ra hệ thống phân loại Baltimore. Nó được sử dụng kết hợp với hệ thống phân loại ICTV trong phân loại virus hiện đại.
Baltimore phân loại virus dựa trên cơ chế sản xuất RNA thông tin (mRNA). Virus phải tạo ra mRNA từ bộ gen của chúng để sản xuất protein và sao chép chính chúng, nhưng có những cơ chế khác nhau đã được sử dụng để đạt được điều này trong mỗi họ virus. Bộ gen virus có thể là sợi đơn (ss) hoặc sợi đôi (ds), RNA hoặc DNA, và có thể sử dụng enzym phiên mã ngược (RT) hoặc không. Thêm vào đó, những virus ssRNA có thể là dương bản (+) hoặc âm bản (−). Hệ thống phân loại này sắp xếp virus vào 7 nhóm:
Lấy một ví dụ, virus thủy đậu, Varicella zoster virus (VZV), thuộc về bộ Herpesvirales, họ "Herpesviridae", phân họ "Alphaherpesvirinae", và chi "Varicellovirus". VZV thuộc nhóm I trong Phân loại Baltimore do nó là một virus DNA sợi đôi và không sử dụng phiên mã ngược.
Bệnh virus ở con người.
Những ví dụ về các loại bệnh thông thường ở người gây ra do virus bao gồm cảm lạnh, cúm, thủy đậu và mụn rộp ở môi. Nhiều bệnh nghiêm trọng như ebola, AIDS, cúm gia cầm, và SARS cũng gây ra bởi virus. Một số bệnh đang được điều tra xem liệu chúng cũng có một virus là tác nhân gây bệnh không, chẳng hạn mối liên hệ nếu có giữa virus herpes 6 ở người (HHV6) và các bệnh thần kinh như bệnh đa xơ cứng và hội chứng mệt mỏi mãn tính. Có những tranh cãi xung quanh bornavirus, trước thường được coi là gây nên các bệnh thần kinh ở ngựa, có thể nào là thủ phạm của những bệnh tâm thần ở người hay không.
Các virus có những cơ chế gây bệnh khác nhau ở một sinh vật, phụ thuộc phần lớn vào loài virus. Cơ chế ở cấp độ tế bào chủ yếu là tiêu bào - sự mở tan và cái chết của tế bào sau đó. Ở các sinh vật đa bào, nếu có đủ số lượng tế bào chết, toàn bộ cơ thể sẽ bắt đầu chịu tác động. Mặc dù virus cũng gây nên sự gián đoạn của cân bằng nội môi khỏe mạnh, gây nên bệnh tật, chúng có thể cùng tồn tại một cách vô hại bên trong một sinh vật. Một ví dụ là khả năng của virus herpes đơn dạng, nguyên nhân gây ra bệnh rộp môi, có thể duy trì trạng thái bất hoạt bên trong cơ thể người. Đây gọi là trạng thái tiềm ẩn ("latency") và là một đặc tính của các virus herpes, bao gồm virus Epstein-Barr, gây ra bệnh sốt tuyến, và virus varicella zoster, loại gây ra thủy đậu và zona. Hầu hết loài người đều đã từng nhiễm ít nhất một trong số các loại virus herpes. Tuy nhiên, những virus tiềm ẩn này đôi khi có thể có lợi, vì sự có mặt của virus làm gia tăng sự miễn dịch chống lại các mầm bệnh vi khuẩn, ví dụ như "Yersinia pestis".
Một số loại virus có thể gây ra sự nhiễm bệnh mãn tính hoặc suốt đời, khi mà virus tiếp tục nhân lên trong cơ thể bất kể có những cơ chế phòng ngự của vật chủ. Điều này rất phổ biến với bệnh do virus viêm gan B và viêm gan C. Những người bị nhiễm bệnh mãn tính gọi là những người mang ("carrier"), do họ đóng vai trò một nguồn dự trữ loại virus xâm nhiễm. Ở những quần thể có tỷ lệ người mang cao, căn bệnh được coi là có tính địa phương.
Dịch tễ học virus là một nhánh của y học, nghiên cứu sự lây truyền và kiểm soát bệnh truyền nhiễm do virus gây ra ở con người. Sự lây truyền của virus có thể theo chiều dọc, tức từ mẹ sang con, hoặc chiều ngang, tức từ người này sang người khác. Những ví dụ về truyền bệnh theo chiều dọc là virus viêm gan B và HIV, ở đây trẻ con sinh ra đã bị nhiễm virus lây từ mẹ. Một ví dụ khác, hiếm hơn, là virus varicella zoster, loại mặc dù chỉ gây ra sự nhiễm bệnh tương đối nhẹ ở người, lại có thể gây tử vong với thai nhi và trẻ sơ sinh.
Truyền bệnh theo chiều ngang là cơ chế lây lan virus phổ biến nhất trong quần thể. Sự lây bệnh có thể xảy ra khi: chất dịch cơ thể được trao đổi trong hoạt động tình dục (ví dụ HIV); máu được trao đổi do truyền máu bị nhiễm bệnh hoặc dùng chung kim tiêm (ví dụ virus viêm gan C); trao đổi nước bọt qua đường miệng (ví dụ virus Epstein-Barr); thực phẩm và nước bị nhiễm bẩn đi qua đường tiêu hóa (ví dụ norovirus); hít phải các sol khí chứa virion (ví dụ virus cúm); và các vector côn trùng như muỗi đưa mầm bệnh xâm nhập qua da của người bệnh (ví dụ sốt xuất huyết). Tỷ lệ hoặc tốc độ lây truyền bệnh virus phụ thuộc vào các nhân tố như mật độ dân số, số cá thể nhạy cảm (như những người không miễn dịch), chất lượng y tế và thời tiết.
Dịch tễ học được ứng dụng để phá vỡ chuỗi lây nhiễm trong các quần thể đang phải chịu sự bùng phát dịch bệnh do virus. Các phương pháp kiểm soát được dựa trên những kiến thức về cách mà virus lây lan. Việc tìm ra nguồn bệnh của sự bùng phát dịch và việc xác định virus rất quan trọng. Một qua virus đã được định danh, chuỗi lan truyền có thể được phá vỡ nhờ các vắc-xin; hoặc khi vắc-xin không có sẵn thì vệ sinh và khử trùng cũng có thể có hiệu quả. Thông thường, những người nhiễm bệnh bị cô lập khỏi phần còn lại của cộng đồng, và những người đã tiếp xúc với virus sẽ bị đặt trong tình trạng cách ly. Để khống chế sự bùng phát bệnh lở mồm long móng ở bò tại Anh năm 2001, hàng ngàn con bò đã bị giết. Hầu hết bệnh truyền nhiễm do virus ở người và các động vật khác có thời kỳ ủ bệnh khi sự nhiễm bệnh không gây ra dấu hiệu hay triệu chứng nào. Thời gian ủ bệnh do virus dao động từ một vài ngày đến vài tuần, được biết với hầu hết bệnh do virus. Mặc dù có hơi chồng lấn lên nhau, nhưng chủ yếu diễn ra sau thời kỳ ủ bệnh là một thời kỳ lây lan— giai đoạn mà một cá thể nhiễm bệnh dễ lây nhiễm và có thể lây sang những người hay động vật khác. Điều này cũng xảy ra với nhiều bệnh virus, và hiểu biết về độ dài của hai thời kỳ rất quan trọng đối với sự kiểm soát các trận dịch. Khi sự bùng phát gây nên một tỷ lệ cao bất thường các ca bệnh trong một cộng đồng hay một vùng, chúng được gọi là những "dịch bệnh" hay "dịch" ("epidemic"). Nếu sự bùng phát lan ra toàn thế giới, chúng được xem như những "đại dịch" ("pandemic").
Dịch và đại dịch.
Những quần thể người Mỹ bản địa đã bị tàn phá bởi những căn bệnh truyền nhiễm, đặc biệt bệnh đậu mùa, do những thực dân châu Âu mang tới châu Mỹ. Người ta không rõ là đã có bao nhiêu người Mỹ bản địa bị chết do những căn bệnh ngoại lai xuất hiện sau sự có mặt của Columbus ở châu Mỹ, nhưng đã ước tính là lên tới 70% dân số bản địa. Sự hủy diệt do những căn bệnh này gây ra đã hỗ trợ đáng kể cho nỗ lực của người châu Âu để thay thế và chinh phục những cộng đồng bản địa nơi đây.
Nhìn chung, một đại dịch là một dịch bệnh mang tính toàn cầu. Đại dịch cúm 1918, diễn ra cho đến năm 1919, là một đại dịch cúm nằm trong nhóm 5 (nhóm nghiêm trọng nhất) trong Chỉ số Nghiêm trọng của Đại dịch (PSI), gây ra bởi một dạng virus cúm A nguy hiểm chết người và nghiêm trọng một cách bất thường. Các nạn nhân thường là những thanh niên khỏe mạnh, trái ngược với hầu hết các dịch cúm khác vốn chủ yếu ảnh hưởng đến trẻ em, người già, hoặc nếu không là những bệnh nhân ốm yếu. Những ước tính ban đầu nói rằng dịch cúm này đã giết chết khoảng 40–50 triệu người, trong khi những nghiên cứu gần đây hơn đề xuất rằng nó có thể đã giết hại lên tới 100 triệu người, tức khoảng 5% dân số thế giới chỉ trong năm 1918.
Nhiều nhà nghiên cứu tin rằng virus HIV có xuất xứ từ châu Phi cận Sahara trong thế kỷ XX; nó hiện nay được công nhận là một đại dịch, với ước tính khoảng 38,6 triệu người hiện sống với căn bệnh này trên toàn thế giới. Chương trình Phối hợp của Liên Hợp Quốc về HIV/AIDS (UNAIDS) và Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) ước tính rằng AIDS đã giết hại hơn 25 triệu người tính từ khi được ghi nhận lần đầu vào 5 tháng 6 năm 1981, khiến nó là một trong những dịch bệnh hủy hoại nhất được ghi lại trong lịch sử. Chỉ trong năm 2007, có thêm khoảng 2,7 triệu ca nhiễm HIV mới và thêm 2 triệu người chết có liên quan tới HIV.
Một số mầm bệnh virus cực kỳ nguy hiểm khác là những thành viên của họ "Filoviridae". Filovirus là những virus gây ra bệnh sốt xuất huyết siêu vi, bao gồm virus Ebola và virus Marburg. Virus Marburg đã thu hút sự quan tâm rộng rãi của báo chí vào tháng 4 năm 2005 với một trận bùng phát đầu tiên ở Angola. Bệnh do vi rút Ebola cũng gây ra các đợt bùng phát không liên tục với tỷ lệ tử vong cao, kể từ năm 1976 khi lần đầu tiên được xác định. Tồi tệ và gần đây nhất là dịch bệnh tại Tây Phi năm 2014.
Ngoại trừ bệnh đậu mùa, hầu hết các đại dịch đều do virus mới tiến hóa gây ra. Các virus "mới nổi" này thường là đột biến của những loại virus ít gây hại hơn đã từng lưu hành trước đây ở người hoặc động vật khác.
Hội chứng hô hấp cấp tính nặng (SARS) và hội chứng hô hấp Trung Đông (MERS) đều do các chủng coronavirus mới gây ra. Các chủng coronavirus khác được biết đến là đã gây ra những bệnh nhiễm trùng nhẹ ở người, do vậy độc lực và sự lây lan nhanh chóng của SARS—vào tháng 7 năm 2003 đã gây ra khoảng 8.000 ca nhiễm và 800 ca tử vong—là điều không ngờ và hầu hết các quốc gia đều không chuẩn bị sẵn sàng để ứng phó.
Một chủng liên quan tới coronavirus, virus corona gây hội chứng hô hấp cấp tính nặng 2 (SARS-CoV-2), được cho là có nguồn gốc từ loài dơi, xuất hiện tại Vũ Hán, Trung Quốc vào tháng 11 năm 2019 và nhanh chóng lây lan trên toàn thế giới. Các trường hợp lây nhiễm virus này đã gây ra đại dịch COVID-19 bắt đầu vào năm 2020. Nhằm đối phó với đại dịch, những hạn chế chưa từng có trong thời bình đã được đặt ra đối với việc đi lại quốc tế, và lệnh giới nghiêm đã được áp dụng tại một số thành phố lớn trên thế giới.
Virus là một nguyên nhân được công nhận của bệnh ung thư ở con người và các loài khác. Ung thư do virus chỉ xảy ra ở một số ít người (hay động vật) bị nhiễm. Virus ung thư đến từ một loạt các họ virus, ở cả hai nhóm virus RNA và DNA, và không có bất kỳ loại đơn lẻ nào là "oncovirus" (một thuật ngữ đã lỗi thời ban đầu dùng để chỉ retrovirus chuyển đổi cấp). Sự phát triển của ung thư do virus được xác định bởi nhiều nhân tố, như sự miễn dịch của vật chủ và những đột biến bên trong vật chủ. Virus được đồng thuận là gây ra bệnh ung thư ở người bao gồm một số kiểu gen của các loại virus papilloma ở người, virus viêm gan B, virus viêm gan C, virus Epstein-Barr, virus herpes ung thư mô liên kết Kaposi và virus ưa lympho T ở người. Một loại virus ung thư ở người mới khám phá gần đây là polyomavirus (virus polyoma tế bào Merkel) mà gây ra phần lớn các ca của một dạng ung thư da hiếm gặp gọi là ung thư biểu mô tế bào Merkel.
Những virus viêm gan cũng có thể phát triển thành bệnh virus mãn tính mà dẫn tới ung thư gan. Sự xâm nhiễm của virus ưa bạch cầu T ở người cũng có thể dẫn tới chứng liệt cứng chi dưới nhiệt đới và ung thư bạch cầu tế bào T trưởng thành. Virus papilloma cũng được xác định là một trong những nguyên nhân của các dạng ung thư cổ tử cung, da, hậu môn, và dương vật. Trong họ "Herpesviridae", virus herpes ung thư mô liên kết Kaposi gây ra bệnh ung thư mô liên kết Kaposi (Kaposi's sarcoma) và ung thư hạch khoang cơ thể, và virus Epstein–Barr gây ra ung thư hạch Burkitt, ung thư hạch Hodgkin, rối loạn tăng sinh lympho B và ung thư vòm họng. Virus polyoma tế bào Merkel cũng có sự liên hệ mật thiết với SV40 và virus polyoma ở chuột mà đã được sử dụng như những mô hình tiêu biểu cho virus gây ung thư ở động vật trong hơn 50 năm qua.
Cơ chế phòng ngự của vật chủ.
Rào chắn bảo vệ đầu tiên của cơ thể chống lại virus là hệ thống miễn dịch tự nhiên. Nó bao gồm những tế bào và các cơ chế khác giúp bảo vệ vật chủ chống lại sự xâm nhiễm một cách không đặc hiệu. Điều này có nghĩa là những tế bào của hệ thống tự nhiên sẽ ghi nhận và phản ức với mầm bệnh theo một cách chung chung, nhưng không giống với hệ thống miễn dịch thích ứng, nó không cung cấp sự miễn dịch bảo vệ hoặc lâu dài với vật chủ.
Can thiệp RNA là một cơ chế phòng ngự bẩm sinh khác chống lại virus. Nhiều loại virus có chiến lược nhân lên mà có sự tham gia của RNA sợi đôi (dsRNA). Khi một virus như vậy lây nhiễm vào tế bào, nó giải phóng phân tử RNA của nó, thứ mà ngay lập tức sẽ gắn vào một phức hợp protein gọi là dicer, một enzym cắt RNA thành những mảnh nhỏ. Một con đường sinh hóa gọi là phức hợp RISC được kích hoạt, giúp phân hủy mRNA của virus và tế bào sẽ sống sót qua khỏi sự nhiễm bệnh. Rotavirus tránh cơ chế này bằng cách không lột vỏ hoàn toàn bên trong tế bào, và giải phóng mRNA mới qua các lỗ trong vỏ capsid trong của hạt virus. Bộ gen dsRNA nhờ thế vẫn được bảo vệ bên trong hạch tâm của virion.
Khi một hệ thống miễn dịch thích ứng của một động vật có xương sống gặp phải một virus, nó sẽ sản sinh ra các kháng thể đặc hiệu, gắn vào virus và thường làm nó không nhiễm bệnh. Đây gọi là miễn dịch dịch thể. Có hai loại kháng thể rất quan trọng, Loại đầu tiên gọi là IgM, rất hiệu quả trong việc trung hòa virus, được sản xuất bởi tế bào của hệ miền dịch chỉ trong vài tuần. Loại thứ hai, gọi là IgG, được sản xuất không giới hạn. Sự hiện diện của IgM trong máu vật chủ được sử dụng để kiểm tra sự nhiễm bệnh cấp tính, trong khi IgG biểu thị về sự nhiễm bệnh vào một lúc nào đó trong quá khứ. Kháng thể IgG cũng được đo trong các xét nghiệm miễn dịch.
Kháng thể cũng tiếp tục trở thành một cơ chế phòng ngự hữu hiệu ngay cả sau khi virus đã khống chế và xâm nhập vào tế bào chủ. Một protein trong tế bào này, gọi là TRIM21, có thể gắn vào kháng thể trên bề mặt của phần tử virus. Điều này chuẩn bị cho sự phá hủy virus kế tiếp thực hiện bởi các enzym của hệ thống proteosome trong tế bào.
Sự bảo vệ thứ hai của động vật có xương sống chống lại virus là miễn dịch qua trung gian tế bào, liên quan đến các tế bào miễn dịch được biết đến với tên tế bào T. Tế bào của cơ thể liên tục hiển thị các đoạn protein ngắn trên bề mặt tế bào, và nếu tế bào T nhận ra được một phân đoạn được nghi ngờ là của virus ở đây, tế bào chủ sẽ bị các tế bào giết tự nhiên T tiêu diệt, và những tế bào T đặc hiệu với virus sẽ sinh sôi nhanh chóng. Những tế bào như đại thực bào là những chuyên gia trong quá trình trình diện kháng nguyên. Sự sản xuất ra các interferon cũng là một cơ chế bảo vệ quan trọng. Đây là một hormone do cơ thể sinh ra khi virus xuất hiện. Vai trò của nó trong sự miễn dịch rất phức tạp; nó cuối cùng sẽ làm dừng lại sự sinh sản của virus bằng cách giết chết tế bào bị nhiễm và các tế bào xung quanh nó.
Không phải tất cả sự xâm nhiễm virus đều tạo ra một phản ứng miễn dịch bảo vệ theo cách trên. HIV trốn tránh khỏi hệ thống miễn dịch bằng cách liên tục thay đổi trình tự amino acid của protein trên bề mặt virion. Loại virus dai dẳng này trốn tránh sự kiểm soát miễn dịch bằng cách cô lập, phong tỏa trình diện kháng nguyên, đề kháng lại cytokine, tránh khỏi hoạt động của tế bào giết tự nhiên và chết rụng tế bào, cùng sự trôi dạt kháng nguyên. Một số loại virus khác, được gọi là "virus hướng thần kinh", có thể lây lan đến các tế bào thần kinh nơi hệ thống miễn dịch không thể nào tiếp cận chúng.
Phòng tránh và chữa trị.
Vì lý do virus sử dụng các con đường trao đổi chất quan trọng trong tế bào cho việc sinh sản, nên nói chung rất khó để loại bỏ chúng mà không sử dụng những loại thuốc gây ra những ảnh hưởng độc hại đến tế bào chủ. Những cách tiếp cận y tế hiệu quả nhất đối với bệnh do virus là sử dụng tiêm chủng để cung cấp khả năng miễn dịch đối với sự xâm nhiễm của virus, và dùng thuốc kháng virus để can thiệp có chọn lọc lên quá trình nhân lên của chúng.
Tiêm chủng là một biện pháp có phi tổn thấp và hữu hiệu để ngăn chặn sự xâm nhiễm của virus. Các vắc-xin đã được sử dụng để ngăn chặn để ngăn ngừa virus lây nhiễm trong một thời gian dài trước khi tìm thấy những loại virus thực sự. Việc sử dụng vắc-xin đã dẫn tới sự suy giảm đáng kể trong tỷ lệ mắc bệnh (bị ốm) và tỉ lệ tử vong (bị chết) bởi các bệnh liên quan tới virus như bại liệt, sởi, quai bị và rubella. Đặc biệt bệnh đậu mùa đã hoàn toàn bị loại trừ nhờ những chiến dịch tiêm chủng quy mô lớn. Vắc-xin có khả năng ngăn chặn hơn 13 bệnh lây nhiễm do virus khác ở người, và nhiều bệnh hơn ở động vật. Vắc-xin có thể bao gồm những virus còn sống đã làm giảm độc lực hoặc virus đã chết, hay những protein của virus (kháng nguyên). Vắc-xin sống có chứa các dạng đã bị làm suy yếu của virus, những dạng này không gây ra bệnh nhưng lại có thể tạo ra sự miễn dịch. Vắc-xin sống có thể gây nguy hiểm nếu được đưa vào cơ thể người mà có hệ miễn dịch yếu (người bị suy giảm miễn dịch), bởi ở những người này, virus suy yếu vẫn có thể gây ra bệnh như ban đầu. Công nghệ sinh học và các kĩ thuật di truyền đã được sử dụng để sản xuất ra vắc-xin tiểu đơn vị. Loại vắc-xin này chỉ sử dụng duy nhất protein ở vỏ capsid của virus. Vắc-xin virus viêm gan B là ví dụ cho loại vắc-xin này. Vắc-xin tiểu đơn vị thì an toàn với những bệnh nhân bị suy giảm miễn dịch do chúng không thể nào gây ra căn bệnh.
Vắc-xin virus sốt vàng, một chủng vắc-xin sống đã giảm độc lực được gọi là 17D, được xem có thể là chủng vắc-xin an toàn và hiệu quả nhất mà con người từng tạo ra.
Những loại thuốc kháng virus thường là những chất tương tự nucleoside - thành phần xây dựng nên DNA - khiến virus nhầm lẫn và tích hợp chúng vào trong bộ gen của virus lúc đang ở trong quá trình sinh sản. Vòng đời của virus sau đó sẽ bị dừng lại do DNA mới tổng hợp rơi vào trạng thái bất hoạt. Điều này là bởi những chất tương tự này thiếu đi nhóm hydroxyl (-OH), nhóm mà cùng với các nguyên tử phosphor, liên kết với nhau để tạo nên một bộ "xương sống" mạnh mẽ cho phân tử DNA. Việc làm này gọi là sự ngắt mạch DNA. Những ví dụ cho chất tương tự nucleoside là aciclovir, thuốc kháng lây nhiễm virus Herpes đơn dạng, và lamivudine, thuốc kháng lây nhiễm HIV và HBV. Aciclovir chính là một trong những loại thuốc kháng virus lâu đời nhất và thường được kê đơn nhất.
Những loại thuốc kháng virus khác hiện được sử dụng hướng tới những giai đoạn khác nhau trong chu kỳ sống của virus. Với HIV, loại virus phụ thuộc vào một enzym phân giải protein có tên HIV-1 protease để có thể hoàn toàn xâm nhiễm, thì có rất nhiều loại thuốc được gọi với tên chung là thuốc ức chế protease có vai trò bất hoạt loại enzym này.
Bệnh viêm gan C là một bệnh gây ra bởi một virus RNA. Ở 80% người bị nhiễm, căn bệnh này là mãn tính, và nếu không được điều trị thì người nhiễm sẽ mắc bệnh trong suốt phần đời còn lại của họ. Tuy nhiên, có một cách điều trị hiệu quả đó là sử dụng thuốc tương tự ucleoside ribavirin kết hợp với interferon. Việc điều trị những người mang virus viêm gan B mãn tính bằng cách sử dụng chiến thuật tương tự với thuốc lamivudine cũng đã được phát triển.
Lây nhiễm trên các loài khác.
Virus lây nhiễm lên tất cả các dạng sống tế bào và, dù virus xuất hiện rất phổ biến, thì mỗi loài sinh vật có tế bào đều có một phạm vi cụ thể những virus mà thường chỉ xâm nhiễm duy nhất lên loài đó. Một số virus, gọi là những vệ tinh, chỉ có nhân lên ở trong những tế bào mà đã từng bị xâm nhiễm bởi một virus khác. Virus là những tác nhân gây bệnh quan trọng ở gia súc. Những bệnh như lở mồm long móng và lưỡi xanh là những ví dụ về bệnh gia súc gây ra do virus. Các loài vật cưng như chó, mèo hay ngựa, nếu không được tiêm phòng, cũng dễ nhạy cảm với những bệnh virus nghiêm trọng. Bệnh virus parvo ở chó gây ra do một loại virus DNA nhỏ và sự nhiễm bệnh thường dẫn đến tử vong ở chó con. Các loài không xương sống, ví dụ như ong mật, cũng dễ bị lây nhiễm nhiều bệnh do virus. Tuy nhiên, hầu hết virus đều chung sống một cách vô hại với vật chủ và không gây ra bất kỳ dấu hiệu hay triệu chứng bệnh nào.
Có rất nhiều loại virus thực vật, nhưng chúng thường chỉ gây ra tổn thất về sản lượng, và sẽ không khả thi về mặt kinh tế khi cố gắng kiểm soát chúng. Virus thực vật thường lây lan từ cây này sang cây khác qua những sinh vật trung gian, gọi là các "vector". Chúng thường là côn trùng, nhưng một số loài nấm, giun tròn và sinh vật đơn bào cũng được chứng minh là những vector. Khi sự kiểm soát các bệnh virus thực vật được công nhận là kinh tế, ví dụ ở các cây ăn quả lâu năm, người ta thường tập trung các nỗ lực vào việc giết chết các vector và loại bỏ những vật chủ thay thế như cỏ dại. Virus thực vật không thể lây nhiễm lên con người và các loài động vật khác.
Thực vật có những cơ chế bảo vệ hiệu quả và phức tạp chống lại virus. Một trong những cơ chế hiệu quả nhất là sự có mặt của những gen gọi là gen đề kháng (R). Mỗi gen R giúp đề kháng một loại virus cụ thể bằng cách kích hoạt cái chết của những khu vực cục bộ các tế bào xung quanh tế bào bị nhiễm, những vùng này có thể nhìn thấy bằng mắt thường dưới dạng những đốm lớn. Điều này sẽ ngăn ngừa căn bệnh lây lan. Can thiệp RNA cũng là một cách phòng ngự hiệu quả ở thực vật. Khi chúng bị nhiễm bệnh, thực vật thường tạo ra những chất khử trùng tự nhiên để tiêu diệt virus, chẳng hạn như acid salicylic, nitơ monoxit và các phân tử oxy phản ứng.
Những phần tử virus hoặc giống virus ("virus-like particle", VLP) ở thực vật có những ứng dụng trong cả công nghệ sinh học và công nghệ nano. Vỏ capsid của phần lớn virus thực vật là những cấu trúc đơn giản và mạnh mẽ, có thể được sản xuất với số lượng lớn bởi bệnh lây nhiễm ở thực vật hay bởi biểu hiện của một loạt các hệ thống dị thể. Các phần tử virus thực vật có thể được chỉnh sửa về cả di truyền và hóa học để 'đóng gói' các vật liệu ngoại lai, và có thể tích hợp vào trong các cấu trúc siêu phân tử để sử dụng trong công nghệ sinh học.
Bacteriophage là một nhóm virus phổ biến và đa dạng, và là dạng thực thể sinh học nhiều nhất trong môi trường nước – chúng có số lượng nhiều gấp tới 10 lần số vi khuẩn ở các đại dương, đạt mật độ khoảng 250.000.000 bacteriophage mỗi mililít nước biển. Những virus này xâm nhiễm đặc hiệu vào các vi khuẩn bằng cách liên kết với những thụ thể trên bề mặt và sau đó đi vào trong tế bào. Trong một khoảng thời gian ngắn, đôi khi chỉ vài phút, polymerase của vi khuẩn sẽ bắt đầu dịch mã mRNA của virus thành protein. Những protein này sẽ tiếp tục trở thành những virion mới bên trong tế bào, hoặc các protein hỗ trợ, giúp đỡ lắp ráp virion mới, hay những protein tham gia vào tiêu bào. Những enzym virus xúc tác cho sự phá vỡ màng tế bào, và trong trường hợp của phage T4, thì chỉ hơn 20 phút sau khi bơm vào có tới hơn 300 phage có thể được giải phóng.
Cách thức chính mà vi khuẩn bảo vệ bản thân chúng khỏi bacteriophage là sản sinh ra những enzym mà phá hủy DNA ngoại lai. Những enzym này gọi là endonuclease giới hạn, cắt đi DNA mà bacteriophage tiêm vào trong tế bào vi khuẩn. Vi khuẩn cũng chứa một hệ thống có sử dụng các trình tự CRISPR để giữ lại các mảnh của bộ gen virus mà vi khuẩn đã từng tiếp xúc trong quá khứ, điều cho phép chúng ngăn chặn sự sao chép của virus thông qua một dạng can thiệp RNA. Hệ thống di truyền này sẽ cung cấp cho vi khuẩn sự miễn dịch thu được với sự xâm nhiễm của virus.
Một số loại virus sinh sản được bên trong cổ khuẩn; chúng là những virus DNA sợi đôi với hình dáng bất thường và đôi khi là độc nhất vô nhị. Những virus này đã được nghiên cứu chi tiết nhất ở những cổ khuẩn ưa nhiệt, đặc biệt trong bộ Sulfolobales và Thermoproteales. Sự phòng ngự chống lại những virus này có thể liên quan tới sự can thiệp RNA từ các trình tự DNA lặp lại bên trong bộ gen cổ khuẩn, thứ mà có liên hệ với những gen của virus.
Vai trò trong hệ sinh thái nước.
Một muỗng cà phê nước biển có chứa khoảng một triệu hạt virus. Chúng rất cần thiết cho sự điều hòa hệ sinh thái nước mặn và nước ngọt. Hầu hết những virus này đều là bacteriophage, những loại vô hại đối với thực vật và động vật. Chúng lây nhiễm và tiêu diệt vi khuẩn trong các cộng đồng vi sinh dưới nước, làm nên cơ chế quan trọng nhất trong sự tái chế carbon ở môi trường đại dương. Những phân tử hữu cơ được giải phóng ra khỏi tế bào vi khuẩn sẽ kích thích sự phát triển mới của vi khuẩn và tảo.
Những vi sinh vật chiếm hơn 90% tổng sinh khối ở biển. Ước tính rằng virus đã giết và giải phóng xấp xỉ 20% của lượng sinh khối đấy mỗi ngày và chúng có số lượng nhiều gấp 15 lần số lượng của vi khuẩn và cổ khuẩn ở đại dương. Virus là tác nhân chính gây nên sự tàn phá nhanh chóng của các đợt tảo nở hoa, hiện tượng mà thường giết hại những sinh vật biển khác. Số lượng virus trong đại dương giảm khi đi ra ngoài khơi và sâu vào trong nước, nơi có ít vật chủ hơn.
Những ảnh hưởng của virus đại dương rất sâu rộng; bằng cách gia tăng lượng quang hợp ở biển, virus là nguyên nhân gián tiếp làm giảm lượng khí carbon dioxide trong khí quyển vào khoảng xấp xỉ 3 tỉ tấn cacbon mỗi năm.
Giống như bất cứ sinh vật nào, động vật có vú ở biển cũng nhạy cảm với các bệnh do virus. Vào năm 1988 và 2001, hàng ngàn con hải cẩu đã bị giết hại ở châu Âu do virus sài sốt hải cẩu (PDV). Nhiều loại virus khác, như calicivirus, herpesvirus, adenovirus và parvovirus, cũng lưu hành trong cách quần thể động vật có vú đại dương.
Vai trò trong tiến hóa.
Virus là một phương tiện tự nhiên quan trọng để chuyển giao các gen giữa những loài khác nhau, điều góp phần gia tăng đa dạng di truyền và tạo ra sự tiến hóa. Có quan niệm rằng virus đóng một vai trò chủ chốt trong sự tiến hóa sơ khai, trước khi có sự đa dạng của vi khuẩn, vi khuẩn cổ và sinh vật nhân chuẩn và vào giai đoạn của tổ tiên chung cuối cùng của sự sống trên Trái Đất. Cho đến ngày nay, virus vẫn là một trong những nguồn dự trữ đa dạng di truyền lớn nhất mà chưa được khám phá trên Trái Đất.
Khoa học sự sống và y học.
Virus là những sinh vật rất quan trọng trong nghiên cứu sinh học phân tử và sinh học tế bào do chúng cung cấp những hệ thống đơn giản mà có thể sử dụng để thao tác và nghiên cứu các chức năng của tế bào. Những nghiên cứu và ứng dụng của virus đã đem tới những thông tin giá trị về các khía cạnh của sinh học tế bào. Ví dụ, virus rất hữu dụng trong nghiên cứu di truyền học và giúp đỡ cho sự hiểu biết của chúng ta về các cơ chế cơ bản của di truyền học phân tử, như tái bản DNA, phiên mã, xử lý RNA, dịch mã, vận chuyển protein, và miễn dịch.
Di truyền học thường sử dụng virus như những vector để đưa các gen vào tế bào mà họ đang nghiên cứu. Điều này rất có ích để tạo nên tế bào mà sản xuất ra một chất ngoại lai, hoặc nghiên cứu ảnh hưởng của việc đưa gen mới vào trong bộ gen. Theo cách tương tự, liệu pháp virus ("virotherapy") sử dụng những virus như những vector để điều trị các bệnh khác nhau, do chúng có thể nhắm đến các tế bào và DNA một cách đặc hiệu. Điều này cho thấy ứng dụng rất triển vọng của virus trong việc điều trị bệnh ung thư và trong liệu pháp gen. Các nhà khoa học Đông Âu cũng đã sử dụng liệu pháp phage như là một sự thay thế cho thuốc kháng sinh trong một thời gian, và mối quan tâm đến cách tiếp cận này đang gia tăng, bởi vì sự đề kháng kháng sinh ở mức độ cao hiện nay đã được tìm thấy ở một số vi khuẩn gây bệnh. Sự biểu hiện các protein dị thể bởi virus là cơ sở cho một vài quy trình sản xuất hiện đang được dùng để sản xuất nên nhiều protein như kháng nguyên của vắc-xin và kháng thể. Người ta gần đây cũng đã phát triển những quy trình công nghiệp sử dụng vector virus; và một số các protein dược phẩm hiện nay đang trong quá trình thử nghiệm tiền lâm sàng và lâm sàng.
Khoa học vật liệu và công nghệ nano.
Những xu hướng hiện nay trong công nghệ nano hứa hẹn sẽ đem lại việc ứng dụng virus một cách linh hoạt hơn. Theo quan điểm của các nhà khoa học vật liệu, virus có thể được xem như những hạt nano hữu cơ. Bề mặt của chúng chứa những công cụ đặc biệt được thiết kế để vượt qua các rào chắn của tế bào vật chủ. Kích cỡ và hình dạng của virus, cũng như số lượng và bản chất của các nhóm chức năng trên bề mặt chúng, đã được xác định một cách chính xác. Như vậy, virus có thể được sử dụng phổ biến trong khoa học vật liệu như giá đỡ cho những sửa đổi bề mặt được liên kết cộng hóa trị. Một phẩm chất đặc biệt của virus là chúng có thể được điều chỉnh nhờ tiến hóa có định hướng. Các kĩ thuật mạnh mẽ được phát triển trong các ngành khoa học sự sống đã đang trở thành nền tảng cho hướng tiếp cận kĩ thuật về vật liệu nano, mở ra một loạt những ứng dụng rộng rãi vượt ra khỏi sinh học và y học.
Do kích thước, hình dạng, và cấu trúc hóa học dễ xác định, virus được sử dụng như những bản mẫu để tạo nên những vật liệu ở cấp độ nano. Những ví dụ gần đây bao gồm nghiên cứu tại Phòng thí nghiệm Nghiên cứu Hải quân Mỹ ở Washington, D.C., sử dụng các phần tử virus khảm đậu đũa (CPMV) để khuếch đại những tín hiệu trong cảm biến dựa trên DNA microarray. Trong ứng dụng này, các hạt virus tách riêng các thuốc nhuộm huỳnh quang sử dụng cho báo hiệu để ngăn ngừa sự hình thành các dimer (chất nhị trùng) mà đóng vai trò là những tác nhân dập tắt huỳnh quang. Một ví dụ khác là việc sử dụng CPMV như một bộ cắm dây có kích thước nano dùng trong điện tử học phân tử.
Nhiều virus có thể được tổng hợp "từ đầu" ("de novo") và virus nhân tạo (virus tổng hợp) đầu tiên đã được tạo ra năm 2002. Mặc dù phần nào bị hiểu sai, nó thực chất không phải là một virus thực sự được tổng hợp, mà thay vào đó là bộ gen DNA của nó (nếu đó là virus DNA) hoặc một bản sao DNA bổ sung (cDNA) của bộ gen của nó (nếu đó là virus RNA). Với nhiều họ virus, DNA hay RNA nhân tạo dạng trần (khi được chuyển đổi lại bằng enzym từ phân tử cDNA) có khả năng lây nhiễm khi được đưa vào bên trong tế bào. Chúng có chứa tất cả các thông tin cần thiết để sản xuất những virus mới. Công nghệ này hiện nay được sử dụng để nghiên cứu những chiến lược vắc-xin mới. Khả năng tổng hợp nên những virus đã có những hệ quả sâu rộng,bởi virus nhờ vậy không bao giờ có thể coi là tuyệt chủng nếu trình tự bộ gen của chúng còn được biết đến và các tế bào cho phép tiếp nhận vẫn có sẵn. Hiện nay, trình tự bộ gen đầy đủ của 2408 loại virus khác nhau (bao gồm cả đậu mùa) đã được công bố công khai ở một cơ sở dữ liệu trực tiếp, được duy trì bởi Viện Y tế Quốc gia Hoa Kỳ.
Vũ khí sinh học.
Khả năng tạo nên những dịch bệnh trong xã hội loài người của virus đã đưa tới những lo ngại rằng virus có thể được vũ khí hóa cho chiến tranh sinh học. Mối lo lắng này được nâng lên bởi sự tái tạo thành công loại virus cúm Tây Ban Nha năm 1918 nổi tiếng ở một phòng thí nghiệm. Virus đậu mùa cũng đã tàn phá nhiều xã hội trong suốt lịch sử loài người trước khi nó bị tiêu diệt hoàn toàn. Chỉ có duy nhất hai trung tâm chính thức lưu trữ virus bệnh đậu mùa – Phòng thí nghiệm Vector của Nga và Trung tâm Kiểm soát Bệnh của Hoa Kỳ. Tuy nhiên, nỗi sợ rằng nó có thể được sử dụng làm vũ khí không hẳn là không có cơ sở; vắc-xin đậu mùa đôi lúc có những tác dụng phụ nghiêm trọng – trong những năm sau cùng trước khi bệnh đậu mùa bị tiêu diệt, nhiều người đã bị bệnh nghiêm trọng do hậu quả của tiêm chủng còn nhiều hơn số người bị nhiễm trực tiếp. Việc tiêm phòng đậu mùa cũng đã không còn được áp dụng rộng rãi, và như vậy, phần lớn dân số loài người hiện đại đều gần như không có sự đề kháng nào được thiết lập chống lại bệnh đậu mùa.
Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. |
Hồng Bàng thị (chữ Hán: 鴻龐氏) hay Thời đại Hồng Bàng là một giai đoạn lịch sử thuộc thời đại thượng cổ của lịch sử Việt Nam.
Thời đại này dựa nhiều trên các truyền thuyết, truyện kể ở những tác phẩm như Lĩnh Nam chích quái và được hợp thức hóa trở thành một giai đoạn lịch sử qua Đại Việt sử ký toàn thư, cuốn sử thư đã đưa Hồng Bàng thị làm Kỷ đầu tiên.
Theo Đại Việt Sử ký Toàn thư: "Đế Minh là cháu ba đời của vua Thần Nông, đi tuần thú phương Nam, đến núi Ngũ Lĩnh (nay thuộc tỉnh Hồ Nam, Trung Hoa) gặp một nàng tiên, lấy nhau đẻ ra người con tên là Lộc Tục. Sau Đế Minh truyền ngôi lại cho con trưởng là Đế Nghi làm vua phương Bắc (từ núi Ngũ Lĩnh về phía Bắc), phong cho Lộc Tục làm vua phương Nam (từ núi Ngũ Lĩnh về phía Nam), xưng là Kinh Dương Vương, quốc hiệu là Xích Quỷ. Kinh Dương Vương làm vua Xích Quỷ vào năm Nhâm Tuất 2879 TCN, lấy con gái Động Đình Hồ quân (còn có tên là Thần Long) và Vụ Tiên nữ là Long nữ sinh ra Sùng Lãm, nối ngôi làm vua, xưng là Lạc Long Quân. Lạc Long Quân lấy Âu Cơ (một nàng tiên ở phương Bắc), sinh một lần trăm người con. Một hôm, Lạc Long Quân bảo Âu Cơ rằng: "Ta là giống rồng, nàng là giống tiên, thủy hỏa khắc nhau, chung hợp thật khó". Bèn từ biệt nhau, chia 50 con theo mẹ về núi, 50 con theo cha về ở miền biển (có bản chép là về Nam Hải), phong cho con trưởng làm Hùng Vương, nối ngôi vua."
Còn trong bộ Việt sử lược có dành những dòng sau cho các vua Hùng:"Đến đời Trang Vương nhà Chu (696-682 trước Công nguyên-ND) ở bộ Gia Ninh có người lạ, dùng ảo thuật qui phục được các bộ lạc, tự xưng là Hùng Vương đóng đô ở Văn Lang, đặt quốc hiệu là Văn Lang, phong tục thuần lương chơn chất, chính sự dùng lối thắt gút. Truyền được 18 đời đều xưng là Hùng Vương." (Nếu dựa theo sách này thì 18 đời vua Hùng, mỗi đời sẽ cai trị trung bình hơn 24 năm).
Đầu thời kỳ đồ đồng, người Việt gồm khoảng 15 nhóm Lạc Việt khác nhau sống trên vùng núi miền Bắc và miền châu thổ sông Hồng và hơn 12 nhóm Âu Việt sống ở vùng Đông Bắc, ngoài ra còn có một số nhóm người sinh sống trên các lưu vực sông thuộc khu vực Thanh Nghệ Tĩnh ngày nay. Để tiện việc trao đổi buôn bán, phòng chống lụt lội, chống lại kẻ thù... những bộ lạc Lạc Việt dần được gom lại thành một nước lấy tên Văn Lang và người đứng đầu tự xưng là Hùng Vương.
Có ít nhất 18 đời Hùng Vương cai trị trong thời đại Hồng Bàng, cho đến năm 258 TCN. Các thông tin về các đời vua Hùng dựa nhiều trên các truyền thuyết. Cũng có nhiều bằng chứng khảo cổ học như trống đồng Đông Sơn được tìm thấy ở miền bắc Việt Nam có cùng niên đại với thời kỳ Hồng Bàng, thể hiện một nền văn hóa đồ đồng rất phát triển (văn hóa Đông Sơn).
"Xem thêm:" Hành chính Việt Nam thời Hồng Bàng
Hình thái xã hội.
Văn Lang, được coi là quốc hiệu đầu tiên của nước Việt Nam, có kinh đô đặt ở Phong Châu (nay thuộc tỉnh Phú Thọ). Lãnh thổ gồm Bắc Bộ và ba tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh bây giờ.
Theo "Lĩnh Nam chích quái", quyển 1, Hồng Bàng thị truyện (鴻龐氏傳) thì nước Văn Lang:
Cả nước được chia thành 15 bộ (部), còn gọi là quận (郡). Mỗi sách lại chép khác nhau, chủ yếu cóp nhặt từ tên các quận huyện thời Bắc thuộc và chỉ bao phủ phần Lưỡng Quảng của Trung Quốc. Việc chú giải các địa danh cổ theo bản đồ ngày nay vẫn còn tranh cãi.
Trong triều đình có các quan "Lạc hầu" (駱侯) giúp việc, đứng đầu các bộ là các quan "Lạc tướng" (駱將), đều có thái ấp riêng, các quan nhỏ ở địa phương gọi là "Bồ chính" (蒲正). Con trai vua gọi là "Quan lang" (官郎), con gái vua gọi là "Mị nương" (媢娘) hay "Mệ nàng", nữ nô lệ gọi là "xảo xứng" (稍稱) (còn gọi là "nô tỳ" (奴婢)). Xã hội phân làm ba tầng lớp là vua quan, dân, nô tỳ (nô lệ).
"Thủy kinh chú" (水經注) chép:
"Giao Chỉ có ruộng Lạc, trông nước triều lên xuống mà làm. Người ăn ruộng là Lạc Vương (Lạc Hầu). Các huyện gọi là Lạc Tướng (quan cai quản), có ấn đồng dãi xanh, tức quan lệnh ngày nay."
Trích "Lĩnh Nam chích quái":
"Hồi quốc sơ, dân không đủ đồ dùng, phải lấy vỏ cây làm áo, dệt cỏ gianh làm chiếu, lấy cốt gạo làm rượu, lấy cây quang lang, cây tung lư làm cơm (có chỗ viết là uống), lấy cầm thú, cá, ba ba làm mắm, lấy rễ gừng làm muối, cầy bằng dao, trồng bằng lửa. Đất sản xuất được nhiều gạo nếp, lấy ống tre mà thổi cơm. Bắc gỗ làm nhà để tránh hổ sói. Cắt tóc ngắn để dễ đi lại trong rừng rú. Đẻ con ra lấy lá chuối lót cho nằm, có người chết thì giã cối làm lệnh, người lân cận nghe tiếng đến cứu. Chưa có trầu cau, việc hôn thú giữa nam nữ lấy gói đất làm đầu, sau đó mới giết trâu dê làm đồ lễ, lấy cơm nếp để nhập phòng cùng ăn, sau đó mới thành thân."
Truyện "Hồng Bàng thị" trong Lĩnh Nam chích quái chép rằng:
""Long Quân lấy Âu Cơ rồi đẻ ra một bọc, cho là điềm bất thường, vứt ra cánh đồng; qua sáu bảy ngày, bọc vỡ ra một trăm quả trứng, mỗi trứng nở ra một con trai, mới đem về nhà nuô, cùng tôn người con cả lên làm vua, hiệu là Hùng Vương, lấy tên nước là Văn Lang, đông giáp Nam Hải, tây tới Ba Thục, bắc tới Động Đình hồ, nam tới nước Hồ Tôn (nay là Chiêm Thành). Chia nước làm 15 bộ (còn gọi là quận) là Việt Thường, Giao Chỉ, Chu Diên, Vũ Ninh, Phúc Lộc, Ninh Hải, Dương Tuyền, Lục Hải, Hoài Hoan, Cửu Chân, Nhật Nam, Chân Định, Văn Lang, Quế Lâm, Tượng Quận. Chia các em ra cai trị, lại đặt các em làm tướng văn tướng võ, văn là lạc hầu, võ là lạc tướng. Con trai vua gọi là quan lang, con gái vua gọi là mỵ nương, trăm quan gọi là bồ chính, thần bộc, nữ lệ gọi là xảo xứng (còn gọi là nô tỳ). Bề tôi gọi là hồn, đời đời cha truyền con nối gọi là phụ đạo. Vua đời đời thế tập gọi là Hùng Vương, không hề thay đổi"."
Học giả Trần Quốc Vượng nói rằng bánh chưng nguyên thủy có hình tròn và dài, giống như bánh tét; đồng thời bánh chưng và bánh dày tượng trưng cho dương vật và âm hộ trong tín ngưỡng phồn thực Việt Nam. Bánh tét, dùng thay cho bánh chưng vào các dịp Tết trong cộng đồng người Việt ở miền nam Việt Nam, theo Trần Quốc Vượng là dạng nguyên thủy của bánh chưng. |
An Dương Vương (: templatestyles src="Nôm/" /), tên thật là Thục Phán Thân (蜀审判体), là người lập nên nước Âu Lạc, nhà nước thứ hai trong lịch sử Việt Nam sau nhà nước Văn Lang. Niên đại trị vì của An Dương Vương được các tài liệu ghi khác nhau. Sử cũ "Đại Việt sử ký toàn thư" cho rằng thời gian ông làm vua Âu Lạc kéo dài từ 257 TCN đến 208 TCN. Các sử gia hiện đại căn cứ vào "Sử ký Tư Mã Thiên" là tài liệu gần thời đại nước Âu Lạc nhất, cho rằng An Dương Vương và nước Âu Lạc tồn tại từ khoảng 208 TCN đến 179 TCN, tức là gần 30 năm.
Vào thời kỳ Hồng Bàng cách đây khoảng 2.300 năm, ở vùng Bắc Bộ và phía Tây tỉnh Quảng Tây (Trung Quốc) có các bộ tộc người Âu Việt sống xen kẽ với người Lạc Việt. Nhà nước Văn Lang do Hùng Vương đứng đầu cai trị người Lạc Việt. Thục Phán là vua người Âu Việt, sau 1 cuộc xung đột , ông đã đánh bại Hùng Vương, thống nhất hai tộc Âu Việt và Lạc Việt vào chung 1 triều đình. Ông đổi quốc hiệu thành Âu Lạc, xưng là An Dương Vương và đóng đô tại Phong Khê (nay là vùng Cổ Loa, huyện Đông Anh, Hà Nội).
Sử kí Tác ẩn viết thời Nhà Đường – Tư Mã Trinh (679-732) soạn, dẫn Quảng châu kí chép:
"“Quận Giao Chỉ có ruộng Lạc, dân trông nước thủy triều lên xuống mà làm ăn ở ruộng ấy nên đặt tên là người Lạc. Có các chức Lạc Vương – Lạc hầu, các huyện tự đặt chức Lạc tướng đeo ấn đồng dải xanh, tức là chức Lệnh-Trưởng ngày nay vậy. Sau đó con vua Thục đem quân đánh Lạc Hầu, tự xưng là An Dương Vương, trị ở huyện Phong Khê.
Cựu Đường thư (viết thời Hậu Tấn – Lưu Hú soạn, năm 945 SCN) dẫn Nam triều công nghiệp diễn chí (viết thời Lưu Tống, 420 – 479) chép:
"“Đất quận Giao Chỉ rất là màu mỡ, ngày xưa có quân trưởng gọi là Hùng Vương, phụ tá là Hùng Hầ, trị đất Giao Chỉ"".
Đến thế kỷ 20, thẻ ngọc "An Dương hành bảo" được tìm thấy ở thành phố Quảng Châu thuộc lãnh thổ nước Nam Việt thời cổ. Đây là chiến lợi phẩm khi Nam Việt chiếm được Âu Lạc nên mới đào được ở Quảng Châu. Phát hiện khảo cổ này đã chứng minh ghi chép trong cổ sử là chính xác, chứng thực được rằng An Dương Vương và nhà nước Âu Lạc là có thật.
Bộ sử lâu đời nhất và gần thời An Dương Vương nhất là "Sử ký Tư Mã Thiên" chỉ nhắc tới nước Âu Lạc mà không nhắc tới An Dương Vương. Cựu Đường thư (Hậu Tấn – Lưu Hú soạn năm 945 SCN) và Nam Việt chí (viết thời Lưu Tống 420 – 479) thì có nhắc tới An Dương Vương nhưng không ghi cụ thể họ tên của ông, chỉ ghi: "vua Thục đem ba vạn lính đánh diệt Hùng Vương đi. Vua Thục nhân đó cho con mình làm An Dương Vương, trị đất Giao Chỉ". Như vậy cái tên “Thục Phán” có thể không chính xác, mà chỉ là truyền thuyết đời sau đặt ra để dễ ghi danh cho An Dương Vương.
Một số người còn đặt ra giả thuyết rằng An Dương Vương là dòng dõi hoàng tộc nước Thục cổ (nay thuộc tỉnh Tứ Xuyên), sau khi bị nước Tần xâm chiếm thì tổ tiên của ông chạy xuống phía Nam lập quốc. Tuy nhiên, đây chỉ là giả thuyết mang tính suy diễn vô căn cứ, không được hỗ trợ bởi bất kỳ sử liệu hoặc chứng cứ khảo cổ nào. Bộ sách Khâm định Việt sử Thông giám cương mục đã chỉ ra điểm vô lý của giả thuyết này: "Nước Thục từ năm thứ 5 đời Chu Thận Tịnh Vương (năm 316 TCN) đã bị nhà Tần diệt rồi, làm gì còn vua nữa? Huống chi từ Thục đến Văn Lang, còn có đất Kiển Vi (nay thuộc Vân Nam), đất Dạ Lang, đất Cùng, đất Tác, và đất Nhiễm Mang cách hàng 2 - 3 ngàn dặm, có lẽ nào người Thục vượt qua được các nước ấy mà sang đánh lấy nước Văn Lang?"
"Đại Việt Sử ký Toàn thư" chép:
"Hùng Vương có người con gái nhan sắc tuyệt trần tên là Mỵ Nương. Vua nước Thục nghe tin, sai sứ cầu hôn. Vua Hùng muốn gả nhưng Lạc Hầu can rằng:" Thục muốn lấy nước ta, chỉ mượn tiếng cầu hôn đó thôi. "Không lấy được Mỵ Nương, Thục Vương căm giận, dặn lại con cháu phải diệt Văn Lang mà chiếm lấy nước. Đời cháu Thục Vương là Thục Phán Thân mấy lần đem quân sang đánh nước Văn Lang. Nhưng Hùng Vương có tướng sĩ giỏi, đã đánh bại quân Thục. Hùng Vương nói:" Ta có sức thần, nước Thục không sợ hay sao? "Bèn chỉ say sưa yến tiệc không lo việc binh bị. Bởi thế, khi quân Thục lại kéo sang đánh nước Văn Lang, vua Hùng còn trong cơn say. Quân Thục đến gần, vua Hùng trở tay không kịp phải bỏ chạy rồi nhảy xuống sông tự tử. Tướng sĩ đầu hàng. Thế là nước Văn Lang mất. Giáp Thìn, năm thứ 1 [257 TCN], vua đã thôn tính được nước Văn Lang, đổi quốc hiệu là Âu Lạc."
Cựu Đường thư (Hậu Tấn – Lưu Hú soạn, 945 SCN), quyển 41, Chí 21, Địa lí 4, dẫn Nam Việt chí (viết thời Lưu Tống 420 – 479) chép:
"Đất quận Giao Chỉ rất là màu mỡ, ngày xưa có quân trưởng gọi là Hùng Vương, phụ tá là Hùng Hầu. Sau có vua Thục đem ba vạn lính đánh diệt Hùng Vương đi. Vua Thục nhân đó cho con mình làm An Dương Vương, trị đất Giao Chỉ. Đất nước ấy ở phía đông huyện Bình Đạo ngày nay. Thành nước ấy có chín vòng, chu vi chín dặm, dân chúng đông đúc".
Tục truyền rằng khi lên ngôi, Thục Phán Thân mới 22 tuổi và làm vua được 50 năm. Đại Việt sử ký toàn thư cho rằng ông làm vua từ năm 257 tới 208 TCN. Nhưng theo đối chiếu với Sử ký Tư Mã Thiên thì niên đại chính xác có lẽ là khoảng năm 208 tới 179 TCN.
Thục Phán Thân sau khi lấy được Văn Lang thì nhanh chóng ổn định quân đội, treo bảng cầu hiền, những tù trưởng thuộc Văn Lang cũ vẫn giữ nguyên chức vụ, ông lấy hiệu là An Dương Vương, đổi tên nước thành Âu Lạc, bộ máy nhà nước thời Âu Lạc không có nhiều thay đổi so với bộ máy nhà nước thời Văn Lang. Đứng đầu trong bộ máy hành chính ở trung ương vẫn là Vua và "Lạc hầu" - "Lạc tướng". Đứng đầu các bộ vẫn là "Lạc tướng". Đứng đầu các chiềng, chạ vẫn là "Bồ chính". Tuy nhiên, ở thời An Dương Vương quyền hành của nhà nước cao hơn và chặt chẽ hơn. Vua có quyền thế hơn trong việc cai trị đất nước.
Cùng thời kỳ này, bên Trung Hoa, Tần Thủy Hoàng sáp nhập sáu nước sau nhiều năm hỗn chiến thời Chiến Quốc. Ông tiếp tục tham vọng xâm chiếm Bách Việt, vùng đất đai của các bộ tộc Việt ở phía nam Trung Quốc và bắc Việt Nam ngày nay. Đạo quân xâm lược nhà Tần do Đồ Thư chỉ huy đã đánh chiếm nhiều vùng đất của Bách Việt, nhập vào lãnh thổ Trung Hoa. Khi vào lãnh thổ phía Đông Bắc nước Âu Lạc, quân Tần gặp phải cuộc kháng chiến trường kì của người Việt do Thục Phán Thân chỉ huy.
Năm 218 trước Công nguyên, Tần Thủy Hoàng huy động 50 vạn quân chia làm năm đạo đi chinh phục Bách Việt. Để tiến xuống miền Nam, đi sâu vào đất Âu Lạc, đạo quân thứ nhất do tướng Sử Lộc chỉ huy đã đào con kênh nối sông Lương (vùng An Hưng, Trung Quốc ngày nay) để chở lương thực. Nhờ vậy, Đồ Thư thống lĩnh đã vào được đất Tây Âu, giết tù trưởng Dịch Hu Tống (譯吁宋), chiếm đất rồi tiến vào Lạc Việt. Bên kia chiến tuyến, Thục Phán Thân được các Lạc tướng suy tôn làm lãnh tụ chung chỉ huy cuộc kháng chiến này. Khi Đồ Thư đem quân tiến sâu vào đất Âu Lạc, Thục Phán Thân lãnh đạo nhân dân chống giặc. Quân Tần đi đến đâu, dân Âu Lạc làm vườn không nhà trống đến đó. Quân Tần chiến đấu trong nhiều năm, Đồ Thư tổ chức tấn công-tiêu diệt không hiệu quả, dần lâm vào tình trạng thiếu lương thực trầm trọng. Khi quân nhà Tần đã kiệt sức vì thiếu lương, thì quân dân Âu Lạc do Thục Phán Thân chỉ huy mới bắt đầu xuất trận, quân Tần muốn tiến hay lui đều bị người Âu Lạc bủa vây đánh úp. Quân của Thục Phán Thân đánh tập kích bất ngờ và dùng cung nỏ tấn công quân Tần. Đồ Thư lúc này mới hối hận, không biết chớp thời cơ, bỏ mạng trong trận này. Mất chủ tướng, quân Tần hoang mang mở đường tháo chạy về nước. "Sử ký Tư Mã Thiên" mô tả tình trạng quân Tần lúc bấy giờ như sau:
"Đóng binh ở đất vô dụng… Tiến không được, thoái không xong. Đàn ông mặc áo giáp, đàn bà phải chuyên chở, khổ không sống nổi. Người ta phải thắt cổ trên cây dọc đường. Người chết trông nhau."
Theo "Hoài Nam Tử", tướng Đồ Thư bị giết, quân Tần thây phơi máu chảy mấy mươi vạn, nước Tần phải lấy tù nhân bị lưu đày để bổ sung quân đội.
Sau gần 10 năm kháng chiến, nhân dân Âu Việt giành được độc lập. Thục Phán Thân củng cố và xây dựng lại đất nước.
Xây thành Cổ Loa.
Sau chiến thắng trước quân Tần, danh tiếng của Thục Phán Thân vang vọng khắp vùng. Một trong những thủ lĩnh Văn Lang là Cao Lỗ, đã giúp An Dương Vương xây Thành Cổ Loa và chế tạo nỏ liên châu (bắn được nhiều mũi tên một phát).
Nhằm củng cố thêm khả năng phòng thủ quân sự, Thục Phán Thân đã cho quân dân ngày đêm xây đắp Thành Cổ Loa, trang bị cho thành trì nhiều vũ khí đáng sợ. Ông ra lệnh cho cấp dưới ra sức huấn luyện cho hàng vạn binh sĩ ngày đêm tập bắn nỏ. Còn ông thì giám sát tập bắn ở trên "Ngự xa đài". Bộ cung Âu Lạc thời bấy giờ vang danh khắp nơi là bất khả chiến bại, được xưng tụng sánh ngang với kỵ mã nhà Tần, nỏ liên châu trở thành thứ vũ khí thần dũng vô địch của nước Âu Lạc.
Theo truyền thuyết, thành xây nhiều lần nhưng đều đổ. Sau có Rùa thần Kim Quy hiện lên, bò quanh nhiều vòng dưới chân thành, lại dùng kế diệt trừ yêu quái. Thục An Dương Vương bèn cho xây theo dấu chân Rùa vàng. Từ đó, thành xây không đổ nữa. Rùa thần Kim Quy còn tặng cho An Dương Vương chiếc nỏ thần có thể bắn ra hàng trăm cung tên cùng một lúc. Sau đó thần Kim Quy tặng cho vua một chiếc móng của thần, rồi nó vuai An Dương Vương lấy móng làm cái lẩy cho chiếc cung của mình. Làm như thế sẽ giữ đất nước bất bại trước kẻ thù. cũng phát triển thủy binh và cho chế tạo nhiều vũ khí lợi hại, tạo lợi thế quân sự vững chắc cho Cổ Loa.
Di tích của thành Cổ Loa vẫn còn lưu lại cho đến nay, cách trung tâm Hà Nội khoảng 20km về phía đông bắc. Đền thờ An Dương Vương nằm ở trung tâm di tích này. Các nghiên cứu khảo cổ học tại đây vẫn tiếp tục làm sáng tỏ các thời kỳ lịch sử mà thành đã trải qua.
Theo "Sử ký Tư Mã Thiên", trong khoảng thời gian này 208 TCN - 207 TCN, quận úy Nam Hải là Nhâm Hiêu bị bệnh nặng rồi chết, giao quyền cho cấp phó Triệu Đà. Triệu Đà nhân dịp đó giết hết những quan lại nhà Tần bổ nhiệm ở Lĩnh Nam, cất quân đánh chiếm quận Quế Lâm, Tượng quận; tự xưng Nam Việt vương, chính thức ly khai khỏi nhà Tần. Để mở rộng lãnh thổ, Triệu Đà cho quân đánh xuống Âu Lạc.
Theo truyền thuyết của người Việt thì Triệu Đà dùng kế nội gián bằng cuộc kết hôn giữa con trai mình, Trọng Thủy, và con gái An Dương Vương là Mỵ Châu. Sau khi nắm được bí mật quân sự của An Dương Vương thông qua con trai, Triệu Đà đã thành công trong việc chinh phục Âu Lạc, buộc An Dương Vương bỏ chạy và nhảy xuống biển tự tử, kết thúc thời kỳ An Dương Vương.
Cựu Đường thư (Hậu Tấn – Lưu Hú soạn, 945 SCN), quyển 41, Chí 21, Địa lí 4, dẫn Nam Việt chí (viết thời Lưu Tống, 420 – 479) chép:
"Úy Đà đóng đô ở thành Phiên Ngu phát binh sang đánh. (An Dương) Vương có nỏ thần bắn một phát giết một vạn quân Việt. Triệu Đà bèn hòa với vương, rồi sai con mình tên là Thủy làm con tin. An Dương Vương đem con gái tên là Mị Châu gả cho Thủy, Thủy thấy được nỏ thần bèn hủy đi. Kịp khi quân Việt đến liền giết An Dương Vương, chiếm cả nước ấy".
Sách "Khâm định Việt sử Thông giám Cương mục" chép dẫn theo sách "Thái bình hoàn vũ ký", phần "Nam Việt chí" của Nhạc Sử nhà Lưu Tống:
"An Dương Vương cai trị Giao Châu, Úy Đà đem quân sang đánh. An Dương Vương có Cao Thông (Cao Lỗ) giúp đỡ, chế ra cái nỏ, bắn một phát giết chết quân [Nam] Việt hàng vạn người, bắn ba phát giết đến ba vạn. Triệu Đà biết rõ duyên cớ, liền lui về đóng ở Vũ Ninh, rồi cho con là Trọng Thủy sang làm tin, xin hòa hảo với nhau. Về sau, An Dương Vương đối xử với Cao Thông không được hậu, Cao Thông bỏ đi. An Dương Vương có người con gái là Mỵ Châu, thấy Trọng Thủy đẹp trai, liền phải lòng. Về sau, Trọng Thủy dụ dỗ Mỵ Châu đòi xem nỏ thần, Mỵ Châu đem cho xem. Trọng Thủy nhân đấy bẻ hỏng cái lẫy nỏ, rồi lập tức sai người ruổi về báo tin cho Triệu Đà. Triệu Đà lại đem quân sang đánh úp. Khi quân Triệu kéo đến, An Dương Vương đem nỏ ra bắn như trước, nhưng nỏ hỏng rồi! Quân Thục chạy tan tác. Triệu Đà phá được Thục".
Ngày nay, mẫu truyện lịch sử này đã được liệt vào một trong những dạng chiến tranh gián điệp rất sớm của lịch sử Việt Nam.
Về năm mất của triều đại An Dương Vương, các tài liệu ghi chép khác nhau. Đa phần sách sử Việt Nam ("Đại Việt Sử ký Toàn thư", "Khâm định Việt sử Thông giám Cương mục", ...) đều ghi chép An Dương Vương mất nước năm 208 TCN. Sách giáo khoa của Việt Nam căn cứ vào "Sử ký" ghi nước Âu Lạc mất năm 179 TCN. Sở dĩ như vậy vì "Sử ký" chépTriệu Đà diệt nước Âu Lạc "sau khi Lã Hậu chết", mà Lã Hậu chết năm 180 TCN, do đó nước Âu Lạc mất khoảng năm 179 TCN. Truyền thuyết An Dương Vương, Nỏ Thần, và Trọng Thủy ở rể nước Việt có nhiều chỗ không hợp với Sử Kí, cho dù "Sử ký" là nguồn tư liệu sớm nhất mà các nhà viết sử Việt Nam có được để tham khảo.
Thẻ ngọc "An Dương hành bảo".
Thẻ ngọc "An Dương hành bảo" được tìm thấy ở thành phố Quảng Châu thuộc lãnh thổ nước Nam Việt thời cổ. Thẻ ngọc có hình dạng gần chữ nhật, bốn góc thẻ khắc bốn chữ "安陽行寶" (An Dương hành bảo), khổ chữ to hơn khổ chữ phía trong mặt thẻ gồm 124 chữ lối cổ trựu. Bản khắc toàn văn sáu mươi (Giáp Tý), (60 chữ can chi). Xung quanh trang trí khắc đường vằn sóng lượn. Do bị chôn lâu ngày dưới đất nên màu vàng hơi hung hung đỏ. Mặt trái thẻ trang trí đường cong hình móc câu. Nét chạm trên thẻ ngọc An Dương thô. Nhà nghiên cứu "Sở giản" Dư Duy Cương ở thành phố Trường Sa, tỉnh Hồ Nam, Trung Quốc cho rằng: "Ngọc bảo An Dương này là của An Dương cổ đại Việt Nam. An Dương hành bảo có lỗ đeo, đây là loại ngọc phiến người xưa đeo làm vật báu hộ thân, trừ tà để được an lành." Thẻ ngọc này đào được ở phía đông nam và cách thành phố Quảng Châu 18km, ở trên hạ lưu sông Việt Giang do một nông dân khi cuốc đất đào được ở sườn núi năm 1932. Những thẻ ngọc đào được ở Quảng Châu khoảng 200 thẻ, trong đó có thẻ ngọc khắc chữ An Dương. Khi Nam Việt đánh bại Âu Lạc, các báu vật của Âu Lạc là chiến lợi phẩm nên mới đào được ở Quảng Châu. |
Vĩnh Phúc là một tỉnh vùng đồng bằng sông Hồng, Việt Nam, nằm ở chính giữa trung tâm hình học trên bản đồ miền Bắc. Đây là tỉnh nằm trong quy hoạch vùng thủ đô Hà Nội, vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ và là một trong những tỉnh có nền kinh tế phát triển nhất miền Bắc.
Năm 2022, Vĩnh Phúc là đơn vị hành chính Việt Nam đông thứ 37 về số dân, xếp thứ 13 về Tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP), xếp thứ 09 về GRDP bình quân đầu người, đứng thứ 31 về tốc độ tăng trưởng GRDP. Với 1.204.300 người dân, GRDP đạt 152.178 tỉ Đồng (tương ứng với 6,62 tỉ USD), GRDP bình quân đầu người đạt 105 triệu đồng (tương ứng với 5.494 USD), tốc độ tăng trưởng GRDP đạt 8,06%.
Trong thời kỳ Pháp tạm chiếm đóng miền Bắc giai đoạn 1946-1954, tỉnh này còn có tên gọi là tỉnh Vĩnh Phúc Yên. Trước đây, tỉnh Vĩnh Phúc vốn bao gồm các tỉnh Vĩnh Yên và Phúc Yên cũ. Tuy nhiên, ngày nay tỉnh chỉ còn bao gồm phần đất của tỉnh Vĩnh Yên cũ và một phần đất của tỉnh Phúc Yên cũ - thành phố Phúc Yên, sau khi tất cả các huyện thuộc tỉnh Phúc Yên cũ đã lần lượt sáp nhập vào thành phố Hà Nội là Đông Anh, Yên Lãng (nay là huyện Mê Linh), Đa Phúc và Kim Anh (hai huyện này đã hợp lại thành một huyện Sóc Sơn).
Vị trí địa lý.
Trung tâm hành chính của tỉnh là thành phố Vĩnh Yên, cách trung tâm thủ đô Hà Nội khoảng 55 km, cách thành phố Việt Trì khoảng 30 km, cách Sân bay quốc tế Nội Bài khoảng 25 km, có vị trí địa lý:
Các điểm cực của tỉnh Vĩnh Phúc:.
Do đặc điểm vị trí địa lý Vĩnh Phúc có ba vùng sinh thái rõ rệt: đồng bằng, trung du và miền núi; liền kề với thủ đô Hà Nội, gần sân bay quốc tế Nội Bài; có hệ thống giao thông đường bộ, đường sắt, đường sông thuận lợi trên trục phát triển kinh tế của Việt Nam.
Tỉnh có hệ thống giao thông khá thuận lợi, có tuyến Quốc lộ 2, đường cao tốc Hà Nội - Lào Cai và đường sắt Hà Nội - Lào Cai đi qua trên địa bàn. Chảy qua Vĩnh Phúc có 4 dòng chính: sông Hồng, sông Lô, sông Phó Đáy và sông Cà Lồ. Hệ thống sông Hồng là tuyến đường thủy quan trọng, thuận lợi cho tàu bè.
Lượng bốc hơi: Bốc hơi bình quân trong năm là 1.040 mm, lượng bốc hơi bình quân trong 1 tháng từ tháng 4 đến tháng 9 là 107,58 mm, từ tháng 10 đến tháng 3 năm sau là 71,72 mm.
Tỉnh Vĩnh Phúc có 47% dân số sống ở đô thị và 53% dân số sống ở nông thôn.
Tính đến ngày 1 tháng 4 năm 2019, toàn tỉnh có 4 tôn giáo khác nhau đạt 41.099 người, nhiều nhất là Công giáo có 35.270 người, tiếp theo là Phật giáo có 5.782 người. Còn lại các tôn giáo khác như đạo Tin Lành có 45 người và Hồi giáo có hai người.
Tỉnh Vĩnh Phúc có 9 đơn vị hành chính cấp huyện trực thuộc, bao gồm 2 thành phố và 7 huyện với 136 đơn vị hành chính cấp xã, bao gồm 16 phường, 18 thị trấn và 102 xã.
Vĩnh Phúc là cái nôi của người Việt cổ, với di chỉ khảo cổ học Đồng Đậu nổi tiếng. Thời kỳ 12 sứ quân, nơi đây là địa bàn chiếm đóng của sứ quân Nguyễn Khoan.
Tỉnh Vĩnh Phúc được thành lập vào ngày 12 tháng 2 năm 1950, do sự kết hợp của hai tỉnh Vĩnh Yên và Phúc Yên cũ. Khi hợp nhất tỉnh Vĩnh Phúc có diện tích 1.715 km², dân số 470.000 người, gồm 9 huyện: Bình Xuyên, Đa Phúc, Đông Anh, Kim Anh, Lập Thạch, Tam Dương, Vĩnh Tường, Yên Lạc, Yên Lãng.
Năm 1952, chính quyền Quốc gia Việt Nam thân Pháp do Bảo Đại đứng đầu mà đại diện là Thủ hiến Bắc Việt cũng hợp nhất hai tỉnh Vĩnh Yên và Phúc Yên thành một tỉnh mới nhưng lại lấy tên là tỉnh Vĩnh Phúc Yên. Tên gọi này chỉ tồn tại đến giữa năm 1954, sau khi Hiệp định Genève được ký kết và đất nước tạm thời bị chia đôi, theo đó chính quyền Quốc gia Việt Nam chuyển vào miền Nam.
Năm 1955, huyện Phổ Yên tách khỏi tỉnh Thái Nguyên nhập vào Vĩnh Phúc, đến năm 1957, lại trở về với tỉnh Thái Nguyên.
Ngày 1 tháng 2 năm 1955, tái lập 2 thị xã Vĩnh Yên và Phúc Yên.
Ngày 7 tháng 6 năm 1957, thị trấn Bạch Hạc chuyển sang tỉnh Phú Thọ và hợp nhất với thị trấn Việt Trì để trở thành thị xã Việt Trì (nay là thành phố Việt Trì trực thuộc tỉnh Phú Thọ).
Ngày 20 tháng 4 năm 1961, huyện Đông Anh (gồm 16 xã: Bắc Hồng, Cổ Loa, Đại Mạch, Hải Bối, Kim Nỗ, Nam Hồng, Nguyên Khê, Thụy Lâm, Tiên Dương, Uy Nỗ, Vân Nội, Việt Hùng, Vĩnh Ngọc, Võng La, Xuân Canh, Xuân Nộn), xã Kim Chung của huyện Yên Lãng, thôn Đoài xã Phù Lỗ (phía nam sông Cà Lồ) của huyện Kim Anh tách khỏi Vĩnh Phúc chuyển về thành phố Hà Nội.
Ngày 26 tháng 1 năm 1968, Ủy ban thường vụ Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra Nghị quyết số 504-NQ/TVQH về việc hợp nhất hai tỉnh Vĩnh Phúc và Phú Thọ thành tỉnh Vĩnh Phú.
Ngày 26 tháng 6 năm 1976, chuyển thị xã Phúc Yên thành thị trấn Phúc Yên thuộc huyện Yên Lãng.
Ngày 5 tháng 7 năm 1977, hợp nhất 2 huyện Vĩnh Tường và Yên Lạc thành huyện Vĩnh Lạc; hợp nhất 2 huyện Lập Thạch và Tam Dương thành huyện Tam Đảo; hợp nhất 2 huyện Bình Xuyên và Yên Lãng thành huyện Mê Linh; hợp nhất 2 huyện Đa Phúc và Kim Anh thành huyện Sóc Sơn.
Ngày 29 tháng 12 năm 1978, chuyển huyện Sóc Sơn; thị trấn Phúc Yên và 18 xã: Chu Phan, Đại Thịnh, Hoàng Kim, Kim Hoa, Liên Mạc, Mê Linh, Quang Minh, Tam Đồng, Thạch Đà, Thanh Lâm, Tiền Châu, Tiền Phong, Tiến Thắng, Tiến Thịnh, Tráng Việt, Tự Lập, Văn Khê, Vạn Yên của huyện Mê Linh về thành phố Hà Nội quản lý.
Ngày 26 tháng 2 năm 1979, tái lập huyện Lập Thạch và sáp nhập phần còn lại của huyện Mê Linh (sau khi chuyển thị trấn Phúc Yên và 18 xã về Hà Nội quản lý) vào các huyện Tam Đảo và Vĩnh Lạc.
Ngày 12 tháng 8 năm 1991, chuyển lại huyện Mê Linh đã lấy của thành phố Hà Nội năm 1978 về tỉnh Vĩnh Phú quản lý.
Ngày 7 tháng 10 năm 1995, chia huyện Vĩnh Lạc thành 2 huyện: Vĩnh Tường và Yên Lạc.
Kỳ họp thứ 10 Quốc hội khóa IX đã thông qua Nghị quyết (ngày 26 tháng 11 năm 1996) về việc tái lập tỉnh Vĩnh Phúc. Tỉnh Vĩnh Phúc chính thức được tái lập và đi vào hoạt động từ ngày 1 tháng 1 năm 1997. Khi tách ra, tỉnh Vĩnh Phúc có diện tích 1.370,73 km², dân số 1.066.552 người, gồm 6 đơn vị hành chính cấp huyện: thị xã Vĩnh Yên và 5 huyện: Lập Thạch, Mê Linh, Tam Đảo, Vĩnh Tường, Yên Lạc.
Tháng 6 năm 1998, tách huyện Tam Đảo thành 2 huyện Tam Dương và Bình Xuyên.
Ngày 9 tháng 12 năm 2003, thành lập thị xã Phúc Yên (tách ra từ huyện Mê Linh) và huyện Tam Đảo mới (tách 3 xã của huyện Lập Thạch, 4 xã của huyện Tam Dương, 1 xã của huyện Bình Xuyên và thị trấn Tam Đảo của thị xã Vĩnh Yên).
Ngày 1 tháng 12 năm 2006, chuyển thị xã Vĩnh Yên thành thành phố Vĩnh Yên.
Ngày 1 tháng 8 năm 2008, huyện Mê Linh được tách ra và sáp nhập vào thành phố Hà Nội theo Nghị quyết số 15/2008/QH12 về việc mở rộng địa giới hành chính thủ đô.
Ngày 23 tháng 12 năm 2008, chia huyện Lập Thạch thành 2 huyện: Lập Thạch và Sông Lô.
Ngày 7 tháng 2 năm 2018, chuyển thị xã Phúc Yên thành thành phố Phúc Yên.
Tỉnh Vĩnh Phúc có 2 thành phố và 7 huyện như hiện nay.
Kinh tế - xã hội.
Vĩnh Phúc vốn là một tỉnh công nghiệp thuộc vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ.
Vĩnh Phúc là một tỉnh thuộc vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, được thủ tướng chính phủ phê duyệt xây dựng 20 khu công nghiệp. Và 41 cụm công nghiệp trong đề án quy hoạch phát triển ngành công nghiệp Vĩnh Phúc đến năm 2020 và định hướng đến năm 2030.
Hiện nay trên địa bàn đã có chủ đầu tư các khu công nghiệp:
Cùng với hệ thống chợ truyền thống thì hệ thống siêu thị, trung tâm thương mại trên địa bàn Vĩnh Phúc khá sôi động và đầy đủ các thương hiệu lớn, phục vụ nhu cầu mua sắm và góp phần nâng cao phong cách tiêu dùng mua sắm người dân trong tỉnh, bao gồm:
Một số mốc thời gian của ngành y tế Vĩnh Phúc:
Vĩnh Phúc có 1 bệnh viện tuyến TW, 6 bệnh viện trực thuộc tỉnh, 9 bệnh viện cấp huyện và nhiều phòng khám, trung tâm y tế. Các bệnh viện thuộc tuyến tỉnh và trung ương (không kể bệnh viên tư, cấp huyện, phòng khám, trung tâm y tế):
Danh sách các bệnh viện tuyến TƯ, tỉnh.
Trong những năm qua ngành giáo dục của tỉnh Vĩnh Phúc đã có những bước tiến vượt bậc là một trong những tỉnh,thành có chất lượng giáo dục cao nhất cả nước, 3 năm liền (2012, 2013 và 2014) Vĩnh Phúc đứng đầu cả nước về điểm trung bình thi đại học. Năm 2013, học sinh Vĩnh Phúc đạt 1 huy chương bạc Olympic Toán, 1 huy chương đồng Olympic sinh học quốc tế, 49 học sinh đạt giải trong kỳ thi học sinh giỏi quốc gia.
Năm 2014 học sinh Vĩnh Phúc đứng thứ 6 cả nước về số giải trong kỳ thi học sinh giỏi 2014 với 67 giải, tiếp tục khẳng định vị trí số 1 toàn quốc về điểm trung bình 3 môn thi đại học.
Vĩnh Phúc có nhiều cảnh quan và danh thắng kỳ thú như khu danh thắng Tây Thiên với Thiền Viện Trúc Lâm Tây Thiên (là một trong 3 thiền viện lớn nhất Việt Nam cùng với Yên Tử và Đà Lạt), khu nghỉ mát Tam Đảo, tháp Bình Sơn, đền Gia Loan - chùa Biện Sơ, nghỉ má, văn hoá với 170 di tích được xếp hạng, trong đó 67 di tích được xếp hạng cấp quốc gia. Vĩnh Phúc còn có nhiều đầm hồ ở những địa thế đẹp có thể phát triển thành điểm du lịch nghỉ dưỡng hấp dẫn.
Danh sách lịch sử cấp quốc gia.
Chùa Tùng Vân, Đình Thổ Tang, Đình Bích Chu, Đình Thủ Độ, Đình Cam Giá, Đền Phú Đa, Đình Hòa Loan, Cụm di tích thờ Lê Ngọc Chinh (đền Ngòi, đình Đông, đình Nam), Đền Đuông, Chùa Thượng Trưng, Địa điểm lưu niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh, Chùa Hoa Dương, Đình - chùa Vĩnh Sơn, Đình Sông Kênh, Đình Tuân Lộ.
Đền Thính, Đền Tranh, Đền Đồng Lạc, Đình Yên Lạc, Đình Hùng Vĩ, Chùa Tiền Môn, Chùa Đại An, Đình Tri Chỉ, Đình Yên Nội, Chùa Biện Sơn, Di tích khảo cổ học Đồng Đậu.
Chiến khu Ngọc Thanh, Chùa Bảo Sơn, Đình Khả Do, Đình Cao Quang, Đền Ngô Miễn, Đình Đạm Xuyên, Đình Sen Hồ, Đền Trần Nguyên Hãn, Đền Đỗ Khắc Chung, Chùa Vĩnh Phúc, Đình Tây Hạ, Chùa Đông Lai, Đền Triệu Thái, Đình Ngõa, Đình Đình Chu, Đình Thạch Trục, Đình Tiên Lữ.
Thiền Viện Trúc Lâm Tuệ Đức
Đình Hương Canh, Đình Ngọc Canh, Đình Tiên Hường, Chùa Kính Phúc, Đền Xuân Lãng, Chùa Quảng Hựu, Đền Thánh Mẫu, Đình Mộ Đạo - Đình Bảo Đức - Đình Đại Phúc, Chùa Can Bi, Đình Quất Lưu.
Khu thắng cảnh Tây Thiên (Đền Mẫu Sinh- Đền Cô, Đền Cậu- Đền Thượng- Đền Thõng- Thiền viện Trúc Lâm Tây Thiên)
Đình Thứa Thượng, Đình Phú Vinh
Ở thành phố Vĩnh Yên:
Đình Đông Đạo, Chùa Tích Sơn, Chua Hà.
Các tuyến đường nối.
Đường bộ có quốc lộ 2, quốc lộ 23 đi qua. Đường cao tốc Nội Bài – Lào Cai đi qua 5 huyện thị: thành phố Phúc Yên, Bình Xuyên, Tam Dương, Lập Thạch, Sông Lô. Đường sắt có đường sắt Hà Nội - Lào Cai đi qua 5 huyện thị: thành phố Phúc Yên, Bình Xuyên, thành phố Vĩnh Yên, Tam Dương, Vĩnh Tường. Đường thủy có sông Hồng chảy qua.
Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
Tỉnh Bến Tre (Việt Nam)
Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
Tỉnh Chungcheongbuk (Hàn Quốc)
Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
Tỉnh Luang Namtha (Lào)
Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
Đặc sản ẩm thực.
Các đặc sản ẩm thực địa phương ở Vĩnh Phúc như: nộm vó cần Hương Canh, cá thính Văn Quán, bánh hòn Hội Hợp, đậu rùa Tuân Chính, bánh chưng Diệm Xuân, cá tép dầu đầm Vạc, bánh trùng mật mía Vĩnh Tường, bánh tráng Bảo Đức, trà hoa vàng Tam Đảo, xôi Trung Mỹ, dứa Tam Dương, chè kho Tứ Yên, bánh ngõa Lũng Ngoại, na dai Bồ Lý, măng Tam Đảo, măng ngâm ớt Tam Đảo, gạo gié cánh Hương Canh, thịt chó kiểu Ngũ Kiên, tương ngô Khả Do, bún bánh cuốn Hòa Loan, bánh tai mèo hành Kẻ Mỏ, rắn Vĩnh Sơn, bánh tẻ Tứ Yên, bánh gạo rang Tiên Lữ, bò tái kiến đốt Tam Đảo, tương gạo Láng, mắm tép Đức Bác, gà thả đồi, cháo se bánh hòn Hương Canh, bánh tro Tây Đình, chuối tiêu hồng Liên Châu, rượu rắn Vĩnh Sơn, mì gạo Bồ Sao, su su Tam Đảo, gạo Long Trì, rượu nếp Vân Giang, bánh nẳng chợ Tràng. |
DNA hay ADN là phân tử mang thông tin di truyền quy định mọi hoạt động sống (sinh trưởng, phát triển và sinh sản) của các sinh vật và nhiều loài virus. Đây là từ viết tắt thuật ngữ tiếng Anh deoxyribonucleic acid (,), theo tiếng Việt gọi là acid deoxyribonucleic (nguồn gốc từ tiếng Pháp: acide désoxyribonucléique, viết tắt: ADN). DNA và RNA là những acid nucleic, cùng với protein, lipid và carbohydrat cao phân tử (polysaccharide) đều là những đại phân tử sinh học chính có vai trò quan trọng thiết yếu đối với mọi dạng sống được biết đến. Phần lớn các phân tử DNA được cấu tạo từ hai mạch polymer sinh học xoắn đều quanh một trục tưởng tượng tạo thành chuỗi xoắn kép.
Hai mạch DNA này được gọi là các polynucleotide vì thành phần của chúng bao gồm các đơn phân "nucleotide". Mỗi nucleotide được cấu tạo từ một trong bốn loại nucleobase chứa nitơ—hoặc là cytosine (C, ở Việt Nam còn viết là xitôzin, viết tắt X), guanine (G), adenine (A), hay thymine (T)—liên kết với đường deoxyribose và một nhóm phosphat. Các nucleotide liên kết với nhau thành một mạch DNA bằng liên kết phosphodieste (liên kết cộng hóa trị) giữa phân tử đường của nucleotide với nhóm phosphat của nucleotide tiếp theo, tạo thành "khung xương sống" đường-phosphat luân phiên vững chắc.
Những base nitơ giữa hai mạch đơn polynucleotide liên kết với nhau theo nguyên tắc bổ sung (A liên kết với T, và C liên kết với G) thông qua các mối liên kết hydro để tạo nên chuỗi DNA mạch kép. Tổng số lượng cặp base liên quan tới DNA trên Trái Đất ước tính bằng 5,0 x 1037, và nặng khoảng 50 tỷ tấn. Để so sánh, tổng khối lượng của sinh quyển xấp xỉ bằng 4 nghìn tỷ tấn carbon.
DNA lưu trữ thông tin sinh học, các mã di truyền đến các thế hệ tiếp theo và để chỉ dẫn cho quá trình sinh tổng hợp protein. Mạch đơn DNA có liên kết hóa học vững chắc chống lại sự phân cắt, và hai mạch đơn của chuỗi xoắn kép lưu trữ thông tin sinh học như nhau. Thông tin này được sao chép nhờ sự phân tách hai mạch đơn. Một tỷ lệ đáng kể DNA (hơn 98% ở người) là các đoạn DNA không mã hóa (non-coding), nghĩa là những vùng này không giữ vai trò mạch khuôn để xác định trình tự protein thông qua các quá trình phiên mã, dịch mã.
Hai mạch DNA chạy song song theo hai hướng ngược nhau. Gắn với mỗi phân tử đường là một trong bốn loại "nucleobase" (hay các "base"). Thông tin di truyền được mã hóa bởi trình tự của bốn nucleobase gắn trên mỗi mạch đơn. Những mạch RNA được tổng hợp từ những khuôn mẫu là mạch gốc của DNA trong quá trình phiên mã. Và dưới sự chỉ dẫn của mã di truyền, phân tử RNA tiếp tục được diễn dịch để xác định trình tự các amino acid ở cấu trúc protein trong quá trình dịch mã.
DNA ở tế bào nhân thực (động vật, thực vật, nấm và nguyên sinh vật) được lưu trữ bên trong nhân tế bào và một số bào quan, như ty thể hoặc lục lạp. Ngược lại, ở sinh vật nhân sơ (vi khuẩn và vi khuẩn cổ), do không có nhân tế bào, DNA nằm trong tế bào chất. Bên trong tế bào, DNA tổ chức thành những cấu trúc dài gọi là "nhiễm sắc thể" (chromosome). Trong giai đoạn phân bào các nhiễm sắc thể hình thành được nhân đôi bằng cơ chế nhân đôi DNA, mang lại cho mỗi tế bào có một bộ nhiễm sắc thể hoàn chỉnh như nhau. Ở nhiễm sắc thể sinh vật nhân thực, những protein chất nhiễm sắc (chromatin) như histone giúp thắt chặt và tổ chức cấu trúc DNA. Chính cấu trúc thắt chặt này sẽ quản lý sự tương tác giữa DNA với các protein khác, quy định vùng nào của DNA sẽ được phiên mã.
Friedrich Miescher đã cô lập được DNA lần đầu tiên vào năm 1869. Francis Crick và James Watson nhận ra cấu trúc phân tử chuỗi xoắn kép của nó vào năm 1953, dựa trên mô hình xây dựng từ dữ liệu thu thập qua ảnh chụp nhiễu xạ tia X do Rosalind Franklin thực hiện. DNA trở thành một công cụ phân tử giúp các nhà nghiên cứu khám phá các lý thuyết và định luật vật lý sinh học, như định lý ergodic và lý thuyết đàn hồi. Những tính chất vật liệu độc đáo của DNA biến nó trở thành phân tử hữu ích đối với các nhà khoa học vật liệu quan tâm trong lĩnh vực chế tạo vật liệu cỡ micro và nano, như trong công nghệ nano DNA. Các tiến bộ trong lĩnh vực này bao gồm phương pháp origami DNA và vật liệu lai dựa trên DNA.
DNA là một polymer dài cấu tạo bởi các đơn phân nucleotide lặp lại. Cấu trúc DNA của mọi loài là động không phải là tĩnh. Hai mạch polynucleotide liên kết với nhau bằng liên kết hydro, xoắn đều quanh một trục tưởng tượng theo chiều từ trái sang phải (xoắn phải), mỗi chu kỳ xoắn (gồm 10 cặp nucleotide) dài 34 ångström (3,4 nm) và có bán kính 10 ångström (1,0 nm). Theo một nghiên cứu, khi đo đạc trong một dung dịch, chuỗi phân tử DNA rộng 22–26 Å (2,2–2,6 nm, và một đơn phân nucleotide dài 3,3 Å (0,33 nm). Dù cho mỗi đơn vị lặp lại có kích thước rất nhỏ, polymer DNA vẫn là những phân tử rất lớn chứa hàng triệu nucleotide. Ví dụ, DNA trong nhiễm sắc thể lớn nhất ở người, nhiễm sắc thể số 1, chứa xấp xỉ 220 triệu cặp base và dài đến 85 mm nếu được duỗi thẳng.
DNA thường không là một chuỗi đơn lẻ, mà thay vào đó là cặp chuỗi liên kết chặt chẽ với nhau. Hai mạch dài này quấn gắn kết với nhau. Một nucleobase liên kết với một phân tử đường tạo thành cấu trúc gọi là "nucleoside", và một base liên kết với một phân tử đường và một hoặc nhiều nhóm phosphat gọi là "nucleotide" (nucleotide trong DNA và RNA là loại nucleotide chỉ mang một nhóm phosphat). Mạch polymer chứa nhiều nucleotide liên kết với nhau (như trong DNA) được gọi là polynucleotide.
Khung xương chính của mạch DNA tạo nên từ các nhóm phosphat và phân tử đường xen kẽ nhau. Phân tử đường trong DNA là 2-deoxyribose, là đường pentose (5 carbon). Các phân tử đường liên kết với các nhóm phosphat tạo thành liên kết phosphodieste giữa nguyên tử carbon thứ 3 với nguyên tử carbon thứ 5 trên hai mạch vòng của hai phân tử đường liền kề. Liên kết bất đối xứng này cho phép xác định hướng chạy của mạch đơn DNA. Xem xét gần hơn trên một chuỗi xoắn kép, người ta nhận thấy các nucleotide hướng theo một chiều trên một mạch và theo chiều ngược lại trên mạch kia, gọi là: hai mạch "hướng ngược chiều nhau" hay "đối song song" (antiparallel). Các đầu không đối xứng kết thúc của chuỗi DNA là đầu 5′ ("năm phẩy") và đầu 3′ ("ba phẩy"), với đầu 5′ kết thúc bởi nhóm phosphat và đầu 3′ kết thúc bởi nhóm hydroxyl (OH). Sự khác nhau chủ yếu giữa DNA và RNA là ở phân tử đường, với đường 2-deoxyribose trong DNA được thay thế bởi đường ribose trong RNA.
Chuỗi xoắn kép DNA được ổn định bởi hai lực liên kết chính: liên kết hydro giữa các nucleotide của hai mạch và tương tác xếp chồng (base-stacking) giữa các base nitơ. Bốn base trong DNA là adenine (A), cytosine (C, ở Việt Nam còn viết là xitôzin, viết tắt X), guanine (G) và thymine (T). Bốn base này gắn với nhóm đường/phosphat để tạo thành nucleotide hoàn chỉnh, như adenosine monophosphate. Adenine ghép cặp với thymine và guanine ghép cặp với cytosine, ký hiệu bằng các cặp base A-T và G-C.
Nucleobase được phân thành hai loại: purine, gồm adenine (A) và guanine (G), là hợp chất dị vòng 5 và 6 cạnh hợp nhất; và pyrimidine, gồm cytosine (C) và thymine (T), có vòng 6 cạnh C và T. Nucleobase pyrimidine thứ năm là uracil (U), thường thay thế thymine (T) trong RNA và khác với thymine là thiếu đi nhóm methyl (–CH3) trên vòng. Ngoài RNA và DNA, một số lượng lớn chất tương tự acid nucleic nhân tạo được tạo ra để nghiên cứu các tính chất của acid nucleic, hoặc sử dụng trong công nghệ sinh học.
Uracil thường không có ở DNA, nó chỉ xuất hcủa cytosine. Tuy nhiên, ở một số thực khuẩn thể như: thực khuẩn thể ở "Bacillus subtilis" PBS1 và PBS2 và thực khuẩn "Yersinia" piR1-37, thì thymine được thay bằng uracil. Một thực khuẩn thể khác - thể Staphylococcal S6 - được phát hiện với bộ gene mà thymine thay bằng uracil.
Base J (beta-d-glucopyranosyloxymethyluracil), một dạng tinh chỉnh của uracil, cũng xuất hiện ở một số sinh vật: trùng roi "Diplonema" và "Euglena", và mọi nhóm Kinetoplastida. Sinh tổng hợp base J diễn ra theo hai bước: bước thứ nhất một thymidine xác định trong DNA được biến đổi thành hydroxymethyldeoxyuridine (HOMedU); bước thứ hai HOMedU được glycosyl hóa thành base J. Các nhà khoa học cũng khám phá ra những protein được tổng hợp từ base này. Những protein này dường như có họ hàng xa với gene gây ung thư (oncogene) Tet1 mà tham gia vào quá trình phát sinh bệnh bạch cầu myeloid cấp tính. Base J cũng đóng vai trò làm tín hiệu kết thúc cho enzyme RNA polymerase II.
Hai mạch đơn xoắn đôi vào nhau tạo thành bộ khung cho DNA. Ở chuỗi xoắn kép này có thể xuất hiện những khoảng trống nằm cách nhau giữa hai mạch gọi là các "rãnh" (groove). Những rãnh này nằm liền kề với các cặp base và có thể hình thành một điểm bám (binding site). Vì hai mạch đơn không đối xứng nhau nên dẫn đến các rãnh có kích thước không đều, trong đó rãnh lớn (major groove) rộng 22 Å và rãnh nhỏ (minor groove) rộng 12 Å. Độ rộng của rãnh giúp cho các cạnh của base trở nên dễ tiếp cận hơn trong rãnh lớn so với rãnh nhỏ. Kết quả là, các protein của các nhân tố phiên mã mà liên kết với những đoạn trình tự cụ thể trong chuỗi xoắn kép DNA thường thực hiện bằng việc tiếp xúc với các cạnh của các base ở rãnh lớn. Tình huống này thay đổi đa dạng tùy theo hình dáng bất thường của DNA bên trong tế bào "(xem ở dưới)", nhưng các rãnh lớn và rãnh nhỏ luôn luôn được đặt tên để phản ánh sự khác nhau về kích thước đo được nếu DNA vặn xoắn trở về dạng B thường gặp.
Trong chuỗi xoắn kép DNA, mỗi loại nucleobase trên một mạch chỉ liên kết với một loại nucleobase trên mạch kia. Đây được gọi là nguyên tắc bắt cặp bổ sung. Ở đây, purine tạo liên kết hydro với pyrimidine, trong đó adenine chỉ liên kết với thymine bằng hai liên kết hydro, và cytosine chỉ liên kết với guanine bằng ba liên kết hydro. Sự sắp xếp giữa hai nucleotide liên kết với nhau qua chuỗi xoắn kép gọi là cặp base Watson-Crick. DNA có cặp nhiều G-C ổn định hơn DNA có ít cặp G-C. Cặp base Hoogsteen là một dạng biến thể hiếm gặp của việc bắt cặp bổ sung. Vì liên kết hydro không phải là liên kết cộng hóa trị, nên có thể bị đứt gãy và liên kết lại tương đối dễ dàng. Hai mạch của DNA trong chuỗi xoắn kép do vậy có thể tách rời nhau bằng lực cơ học hoặc bằng nhiệt độ cao, giống như khóa kéo. Hệ quả của nguyên tắc bắt cặp bổ sung này là mọi thông tin trong trình tự chuỗi xoắn kép DNA được lặp lại ở mỗi mạch, và có vai trò quan trọng trong quá trình nhân đôi DNA. Sự tương tác đặc hiệu và có thể hồi phục này giữa các cặp bazơ bổ sung là tối quan trọng đối với mọi chức năng của DNA trong sinh vật.
Hình trên, cặp base G-C có ba liên kết hydro.
Hình dưới, cặp base A-T có hai liên kết hydro. Liên kết hydro không phải là liên kết cộng hóa trị được thể hiện bằng gạch ngang.
ssDNA so với dsDNA.
Như đã nói ở trên, hầu hết phân tử DNA bao gồm hai mạch polymer, liên kết thành dạng xoắn kép bằng liên kết hydro không phải là liên kết cộng hóa trị; cấu trúc mạch kép (dsDNA - double stranded DNA) được duy trì chủ yếu bởi tương tác xếp chồng base, mạnh nhất là xếp chồng G,C. Hai mạch có thể tách rời—quá trình gọi là sự nóng chảy—tạo thành hai phân tử DNA mạch đơn (ssDNA - single-stranded DNA). Sự tách rời xảy ra ở nhiệt độ cao, độ mặn thấp và độ pH cao (độ pH thấp cũng làm tách DNA, nhưng vì DNA không ổn định do quá trình khử purine, do đó độ pH thấp ít khi được sử dụng).
Sự ổn định của dạng mạch kép dsDNA không chỉ phụ thuộc vào thành phần codice_1 (tỷ lệ % cặp base G-C) mà còn phụ thuộc vào trình tự các base và độ dài (phân tử càng dài thì càng ổn định). Độ ổn định được đo bằng nhiều cách khác nhau; cách phổ biến là đưa phân tử đạt tới nhiệt độ nóng chảy (còn gọi là giá trị "Tm"), đó là nhiệt độ mà tại đấy khoảng 50% số phân tử mạch kép biến đổi thành phân tử mạch đơn; nhiệt độ nóng chảy phụ thuộc vào cường độ ion và nồng độ DNA. Do vậy, cả tỷ lệ phần trăm số cặp base codice_1 và chiều dài tổng thể của chuỗi xoắn kép DNA xác định nên cường độ liên kết giữa hai mạch DNA. Những chuỗi xoắn kép DNA dài có nhiều cặp codice_1 có tương tác giữa hai mạch mạnh hơn so với những chuỗi xoắn kép ngắn với thành phần nhiều codice_4. Trong hoạt động sinh học, có những phần của chuỗi xoắn kép DNA dễ dàng tách rời, ví dụ như Pribnow box codice_5 ở một số vùng khởi động (promoter), có xu hướng chứa nhiều thành phần codice_4, khiến cho các mạch có thể tách rời dễ dàng.
Trong phòng thí nghiệm, cường độ của tương tác này có thể đo bằng cách tìm ra nhiệt độ nóng chảy "Tm" cần thiết để phân tách một nửa liên kết hydro giữa hai mạch. Khi tất cả các cặp base nóng chảy, hai mạch của chuỗi DNA sẽ tách rời và tồn tại trong dung dịch như 2 phân tử hoàn toàn độc lập. Những phân tử mạch đơn DNA không có hình dạng chung, nhưng một số cấu trúc ổn định hơn cấu trúc khác.
Có nghĩa và đối nghĩa.
Một trình tự DNA gọi là "có nghĩa" (sense) nếu trình tự của nó giống với trình tự của bản sao RNA thông tin dùng để dịch mã thành protein. Khi đó, trình tự trên mạch bổ sung còn lại được gọi là trình tự "đối nghĩa" (antisense). Cả trình tự có nghĩa và đối nghĩa có thể tồn tại trên các đoạn khác nhau của cùng một mạch đơn DNA (tức là cả hai mạch có thể chứa cả trình tự có nghĩa lẫn đối nghĩa). Ở tế bào nhân thực và nhân sơ, các trình tự RNA đối nghĩa đều được tạo ra, nhưng chức năng của những RNA này vẫn chưa được hiểu rõ hoàn toàn. Có đề xuất cho rằng các RNA đối nghĩa có khả năng tham gia vào hoạt động điều hòa biểu hiện gene thông qua sự bổ sung base RNA-RNA.
Một vài trình tự DNA ở sinh vật nhân thực và nhân sơ, và hay gặp hơn ở plasmid và virus, xóa nhòa sự khác biệt giữa những mạch có nghĩa và đối nghĩa do có sự hiện diện của các gene chồng lợp (overlapping gene). Trong trường hợp này, một số trình tự DNA đảm nhận đến hai trách nhiệm, mã hóa cho một protein khi đọc dọc theo một mạch, và mã hóa protein thứ hai khi đọc theo hướng ngược lại dọc theo mạch kia. Trong vi khuẩn, sự chồng lợp này có thể tác động đến quá trình điều hòa phiên mã gene, trong khi ở virus, các gene chồng lợp lại làm tăng lượng thông tin được mã hóa bên trong bộ gene nhỏ bé của virus.
DNA có thể xoắn lại tựa như một sợi dây thừng theo một tiến trình gọi là DNA siêu xoắn (DNA supercoiling). Với DNA ở trạng thái "bình thường", một mạch thường xoắn đều quanh trục tưởng tượng của chuỗi xoắn kép theo từng đoạn ngắn mang khoảng 10,4 cặp base, nhưng nếu DNA bị vặn xoắn thì các mạch có thể trở nên siết chặt hơn hoặc lỏng lẻo hơn. Nếu DNA bị xoắn theo hướng của chuỗi xoắn kép, hay "siêu xoắn thuận" (positive supercoiling), thì các base giữ chặt với nhau hơn. Còn nếu DNA bị xoắn ngược hướng với chuỗi xoắn kép, hay "siêu xoắn nghịch" (negative supercoiling), thì các base phân tách dễ dàng hơn. Trong tự nhiên, hầu hết DNA trong tế bào đều ở trạng thái gần siêu xoắn nghịch do chịu sự tác động của nhóm enzyme có tên gọi topoisomerase. Những enzyme này cũng cần thiết để tháo xoắn các mạch DNA trong những quá trình như phiên mã và nhân đôi DNA.
Mô hình cấu trúc DNA khác.
DNA tồn tại ở nhiều cấu trúc, trong đó bao gồm dạng A, B, và Z, thế nhưng chỉ có cấu trúc B và Z là trực tiếp quan sát thấy trong những sinh vật chức năng. Cấu trúc DNA tương ứng phụ thuộc vào mức độ hydrat hóa, trình tự DNA, số lượng và chiều hướng siêu xoắn, các tu sửa hóa học trên base, loại và hàm lượng ion kim loại, cũng như sự hiện hữu của polyamin trong dung dịch.
Báo cáo đầu tiên về các mẫu nhiễu xạ tia X của dạng A và B—họ sử dụng phương pháp phân tích dựa trên hàm Patterson chỉ cung cấp một lượng thông tin giới hạn về cấu trúc của các sợi định hướng DNA (oriented fibers). Một phân tích khác, do Wilkins cùng cộng sự ("et al.") đề xướng vào năm 1953, cho biết các mẫu nhiễu xạ tia X "in vivo" DNA dạng B của các sợi DNA hydrat hóa cao tuân theo bình phương hàm Bessel. Trong cùng tạp chí, James Watson và Francis Crick trình bày phân tích mô hình phân tử DNA của họ các mẫu nhiễu xạ tia X và gợi ý rằng cấu trúc của DNA là chuỗi xoắn kép.
Dạng B là cấu trúc phổ biến nhất tìm thấy dưới những điều kiện của tế bào sống, tồn tại ở trạng thái gần giống tinh thể (paracrystalline state), đó là cấu trúc động mặc dù tính tương đối cứng của chuỗi xoắn kép DNA được giữ ổn định bởi liên kết hydro giữa các base. Để đơn giản, hầu hết những mô hình phân tử DNA đều bỏ qua liên kết động lực của nước và các ion đối với phân tử dạng B, và do đó ít hữu ích khi dùng các mô hình này để hiểu cách hoạt động của dạng B trong tế bào sống ở trạng thái bình thường ("in vivo"). Phân tích vật lý và toán học của ảnh chụp tia X cũng như dữ liệu quang phổ thu được cho dạng B tiền tinh thể (paracrystalline), do vậy phức tạp hơn so với dữ liệu nhiễu xạ tia X của ảnh chụp dạng A.
So với dạng B, dạng A xoắn ốc theo chiều tay phải rộng hơn, có rãnh nhỏ nông và rộng, trong khi rãnh lớn sâu hơn và hẹp hơn. Dạng A thường xuất hiện dưới các điều kiện phi sinh lý trong các mẫu DNA khử nước một phần, trong khi ở tế bào nó có thể ở dạng lai ghép 2 mạch đơn DNA với mạch đơn RNA, cũng như trong phức hệ enzym-DNA. Ở đoạn DNA nơi các base đã bị tu sửa về mặt hóa học bằng quá trình methyl hóa có thể trải qua sự thay đổi lớn về hình dạng cấu trúc và trở thành dạng Z. Ở cấu trúc này hai mạch xoắn quanh trục theo chiều tay trái, ngược chiều với hướng của dạng B phổ biến. Những cấu trúc bất thường này có thể nhận ra bằng loại protein đặc hiệu liên kết với DNA dạng Z và có thể tham gia vào quá trình điều hòa phiên mã.
DNA có thành phần hóa học thay thế.
Trong một vài năm, các nhà sinh học vũ trụ đã đề xuất về một sinh quyển bóng tối (shadow biosphere), một sinh quyển vi sinh vật giả thuyết tồn tại trên Trái Đất mà sử dụng các quá trình phân tử và hóa học khác căn bản so với những gì đã biết về sự sống hiện tại. Một trong các đề xuất đó là sự tồn tại của dạng sinh vật sống mà nguyên tử asen thay cho phospho trong DNA. Một báo cáo năm 2010 cho thấy khả năng này có mặt trong vi khuẩn GFAJ-1, mặc dù đã có những tranh cãi, và cuối cùng năm 2012 một báo cáo khác nêu ra bằng chứng cho thấy các vi khuẩn này chủ động ngăn không cho asen kết hợp vào bộ khung DNA của nó và những phân tử sinh học khác.
Cấu trúc 4 sợi.
Tại đầu mút của mỗi nhiễm sắc thể tuyến tính có những vùng chuyên biệt của DNA gọi là telomere. Chức năng chính của các vùng này đó là cho phép tế bào tái bản các đầu mút nhiễm sắc thể bằng cách sử dụng enzym telomerase, bởi vì bình thường các enzym tái bản DNA không thể nhân đôi đầu cực 3′ của nhiễm sắc thể. Những đầu mũ đặc hiệu này của nhiễm sắc thể cũng giúp bảo vệ đầu cực của DNA bị rút ngắn, và ngăn hệ thống sửa chữa DNA trong tế bào coi DNA bị hỏng cần được sửa chữa. Trong tế bào người, các telomere thường là những đoạn mạch đơn DNA chứa vài nghìn trình tự TTAGGG lặp đi lặp lại đơn giản.
Các trình tự giàu guanine giữ ổn định đầu mút của nhiễm sắc thể bằng cách hình thành nên cấu trúc gồm những đơn vị bốn base xếp chồng, hơn là bắt cặp bổ sung tìm thấy ở các phân tử DNA khác. Ở đây, bốn base, được gọi là 4 guanin tetrad, tạo thành một tấm phẳng. Sau đó, bộ 4 base phẳng này xếp chồng lẫn nhau hình thành nên cấu trúc G-quadruplex (cấu trúc 4 sợi) ổn định. Cấu trúc này được ổn định bởi liên kết hydro và chelat hóa ion kim loại nằm ở trung tâm của mỗi đơn vị bốn base. Những cấu trúc khác cũng có thể tồn tại, trung tâm của bộ bốn base đến từ một mạch đơn uốn quanh các base, hoặc là một vài mạch song song với nhau, trong đó mỗi mạch đều đóng góp một base vào cấu trúc trung tâm.
Bên cạnh cấu trúc xếp chồng, telomere cũng tạo thành cấu trúc dạng vòng lớn gọi là telomere loop, hay T-loop. Trong cấu trúc này, DNA mạch đơn cuộn quanh thành một vòng tròn dài được ổn định bởi các protein liên kết với telomere. Tại đầu mút của T-loop, DNA telomere mạch đơn được cho vào một vùng bao bởi DNA mạch kép bằng mạch telomere phân tách DNA mạch kép và bắt cặp bổ sung với một trong hai mạch. Cấu trúc mạch ba này (triple-stranded) được gọi là vòng 3 sợi (displacement loop) hay D-loop.
DNA phân nhánh có thể tạo thành mạng lưới chứa nhiều nhánh.
Ở chuỗi xoắn kép DNA, hiện tượng sờn tước đầu mút xuất hiện khi những đoạn không được bổ sung hiện diện tại đầu mút của DNA mạch kép. Qua đó, DNA phân nhánh có thể hình thành nếu có một mạch DNA thứ ba xuất hiện và mang những đoạn mới liên hợp với đoạn không được bổ sung của chuỗi xoắn kép đã bị sờn tước trước đó. Dạng đơn giản nhất của DNA phân nhánh chỉ bao gồm ba mạch DNA, tất nhiên là có thể tồn tại thêm nhiều nhánh phức tạp khác. DNA phân nhánh được ứng dụng trong công nghệ nano để lắp ráp những cấu hình phân tử mong muốn.
Tu sửa base và trình tự của DNA.
Cấu trúc của cytosine khi có và không có nhóm 5-methyl. Sự khử amin biến đổi 5-methylcytosine thành thymine.
Tu sửa base và bao gói DNA.
Biểu hiện của gene chịu ảnh hưởng bởi phương cách đóng gói DNA trong nhiễm sắc thể, thành một cấu trúc gọi là "chất nhiễm sắc" (chromatin). Những tác động chỉnh sửa base có thể xảy ra trong quá trình đóng gói, với các vùng không có hoặc có mức biểu hiện gene thấp thông thường chứa các base cytosine ở mức methyl hóa cao. Sự đóng gói DNA và ảnh hưởng của nó lên biểu hiện gene cũng xảy ra bởi hiệu ứng thay đổi liên kết cộng hóa trị tại lõi protein histone bọc quanh DNA trong cấu trúc chất nhiễm sắc hoặc bởi phức hệ chất nhiễm sắc tái mô hình hóa (xem Tái mô hình hóa chất nhiễm sắc (chromatin remodeling)). Do vậy, tác động xen lẫn giữa methyl hóa DNA và thay đổi liên kết ở histone có ảnh hưởng phối hợp đến chất nhiễm sắc và biểu hiện gene.
Ví dụ, sự methyl hóa cytosine, tạo ra 5-methylcytosine, có vai trò quan trọng đối với sự bất hoạt X của nhiễm sắc thể (X-inactivation). Mức độ methyl hóa trung bình thay đổi theo mỗi sinh vật – giun tròn "Caenorhabditis elegans" không có phản ứng methyl hóa cytosine, trong khi ở động vật có xương sống có mức độ cao hơn, lên tới 1% lượng DNA chứa 5-methylcytosine. Tuy 5-methylcytosine có vai trò quan trọng, nhưng nó vẫn có thể bị khử amin hóa để chuyển thành base thymine, do đó cytosine methyl hóa có khuynh hướng gây đột biến. Những thay đổi base khác bao gồm sự methyl hóa adenine ở vi khuẩn, sự hiện diện của 5-hydroxymethylcytosine trong não, và sự glycosyl hóa của uracil tạo thành "Base J" trong các loài Kinetoplastida.
DNA có thể bị hư hại bởi nhiều tác nhân đột biến, làm thay đổi trình tự DNA. Những tác nhân đột biến bao gồm các chất oxy hóa, ankyl hóa với cả bức xạ điện từ năng lượng cao như tia cực tím và tia X. Loại hư hại DNA được tạo ra phụ thuộc vào loại tác nhân đột biến. Ví dụ, tia UV có thể phá hủy DNA bằng cách tạo ra dimer thymine, nghĩa là liên kết chéo giữa các base của pyrimidine với nhau. Mặt khác, những tác nhân oxy hóa như gốc tự do hay hydro peroxide tạo ra nhiều dạng hư hại, bao gồm tu sửa base, đặc biệt là guanosine, và đứt gãy chuỗi xoắn kép. Một tế bào điển hình ở người chứa khoảng 150.000 base chịu tổn thương do bị oxy hóa. Trong số những tổn thương oxy hóa, nguy hiểm nhất đó là chuỗi xoắn kép bị đứt gãy, vì rất khó để gắn lại và có thể dẫn tới đột biến mất, thêm và thay thế trên trình tự DNA, cũng như là chuyển đoạn nhiễm sắc thể (chromosomal translocation). Những đột biến này có thể gây ra ung thư. Bởi vì những giới hạn vốn có trong cơ chế sửa chữa DNA, nên nếu con người sống đủ lâu, thì những hư hại này cuối cùng sẽ dẫn tới sự phát triển của ung thư. Những hư hại DNA xảy ra tự nhiên, là do các quá trình bình thường trong tế bào tạo ra các gốc tự do oxy hóa (ROS), chẳng hạn các phản ứng thủy phân của nước trong tế bào, v.v, cũng xảy ra thường xuyên. Mặc dù hầu hết những hư hại này đều sẽ được sửa chữa, nhưng trong bất kỳ tế bào nào vẫn có một số hư hại DNA có thể còn tồn tại mặc cho các hoạt động của quá trình sửa chữa. Những hư hại DNA còn sót lại sẽ tích tụ dần theo độ tuổi bên trong các mô hậu nguyên phân của động vật có vú. Sự tích tụ này dường như là một nguyên nhân quan trọng dẫn tới sự già yếu.
Nhiều tác nhân đột biến nằm gọn trong không gian giữa hai cặp base liền kề, hay gọi là "sự xen kẹp" (intercalation). Hầu hết các chất xen kẹp là những phân tử vòng thơm và vòng phẳng; ví dụ như: ethidium bromide, acridine, daunomycin và doxorubicin. Để cho một chất xen kẹp có thể vừa vặn không gian giữa hai cặp base, các base phải tách ra, bóp méo mạch DNA bằng cách tháo xoắn chuỗi xoắn kép. Điều này khiến ức chế quá trình phiên mã và nhân đôi DNA, gây ra độc tính và đột biến. Do đó, các phân tử xen kẹp vào DNA có thể là tác nhân gây ung thư, và trong trường hợp của thalidomide là tác nhân gây quái thai (teratogen). Những phân tử khác như benzo["a"]pyrene diol epoxide và aflatoxin tạo thành sản phẩm cộng vào DNA gây ra lỗi trong quá trình nhân đôi. Tuy nhiên, do khả năng ức chế phiên mã và nhân đôi DNA, những độc tố tương tự khác cũng được sử dụng trong hóa trị liệu để ức chế phát triển nhanh chóng của các tế bào ung thư.
Chức năng sinh học.
DNA thông thường hiện diện trong nhiễm sắc thể dạng thẳng ở sinh vật nhân thực, và nhiễm sắc thể dạng vòng ở sinh vật nhân sơ. "Nhiễm sắc thể" (chromosome) thực chất là "chất nhiễm sắc" (chromatin) bị co xoắn từ kỳ đầu của quá trình phân bào. Còn chất nhiễm sắc chính là phức hợp giữa chuỗi xoắn kép DNA với các protein histone và phi histone gói gọn thành một cấu trúc cô đặc. Điều này cho phép các phân tử DNA rất dài nằm gọn trong nhân tế bào. Cấu trúc vật lý của nhiễm sắc thể và chất nhiễm sắc thay đổi luân phiên tùy thuộc vào từng giai đoạn của chu kỳ tế bào. Tập hợp các nhiễm sắc thể trong một tế bào tạo thành bộ gene của nó; bộ gene người có xấp xỉ 3 tỷ cặp base DNA xếp thành 46 nhiễm sắc thể. Thông tin chứa trong DNA tổ chức dưới dạng trình tự của các đoạn DNA gọi là gene. Sự kế thừa thông tin di truyền trong gene được thực hiện thông qua các cặp base bổ sung. Ví dụ, trong quá trình phiên mã, khi một tế bào sử dụng thông tin ở một gene, trình tự DNA sẽ được sao mã vào trình tự bổ sung RNA thông qua lực hút giữa DNA và các nucleotide chính xác của RNA. Thông thường, bản sao RNA này được dùng làm khuôn mẫu để xác định trình tự các amino acid trong quá trình dịch mã, thông qua sự tương tác giữa các nucleotide RNA. Trong quá trình khác, một tế bào có thể tự sao chép thông tin di truyền của nó bằng quá trình nhân đôi DNA. Chi tiết của những chức năng này được nêu trong những bài viết liên quan; bài này tập trung vào tương tác giữa DNA và các phân tử khác mà đảm trách các chức năng của bộ gene.
Gene và bộ gene.
DNA chứa các đoạn gene được gói gọn và xếp chặt có thứ tự bởi quá trình cô đặc DNA (DNA condensation)"," để có thể vừa vặn trong một thể tích nhỏ của tế bào. Ở sinh vật nhân thực, DNA nằm trong nhân tế bào, cùng với một lượng nhỏ nằm trong ty thể và lục lạp. Ở sinh vật nhân sơ, DNA nằm trong một thể có hình dạng không đều giữa tế bào chất, gọi là "thể nhân" (hoặc "vùng nhân", nucleoid). Thông tin di duyền trong một bộ gene được lưu trữ bởi các gene, và tập hợp toàn bộ các gene trong tế bào của cơ thể thuộc một loài sinh vật được gọi là kiểu gene. Mỗi gene là một đơn vị của tính di truyền và là một đoạn của DNA có ảnh hưởng tới một đặc tính cụ thể trong cơ thể sinh vật. Các gene chứa một "khung đọc mở" (open reading frame) có thể được phiên mã, cùng với các vùng trình tự điều hòa (regulatory sequence) như vùng khởi động (promoter) và vùng tăng cường (enhancer) có khả năng điều hòa quá trình phiên mã của khung đọc mở.
Ở nhiều loài, chỉ một phần nhỏ trong tổng số trình tự của bộ gene là mã hóa cho protein. Ví dụ, chỉ khoảng 1,5% bộ gene người chứa các đoạn exon mã hóa cho protein, trong khi trên 50% DNA ở người chứa các trình tự lặp lại không mã hóa (non-coding repeated sequence). Những lý do cho sự có mặt của rất nhiều DNA không mã hóa ở bộ gene của sinh vật nhân thực và sự cách biệt rất lớn trong kích cỡ bộ gene, hay "giá trị C", giữa các loài đã đưa đến một vấn đề nan giải lâu năm gọi là "nghịch lý giá trị C". Tuy nhiên, một số trình tự DNA không mã hóa protein vẫn có thể có chức năng mã hóa các phân tử RNA không mã hóa tham gia vào quá trình điều hòa biểu hiện gene.
Một số trình tự DNA không mã hóa đóng vai trò cấu trúc bộ khung trong nhiễm sắc thể. Telomere và tâm động (centromere) điển hình chỉ chứa vài gene, nhưng lại có vai trò quan trọng đối với chức năng và sự ổn định của nhiễm sắc thể. Một dạng DNA không mã hóa xuất hiện ở người gọi là gene giả (pseudogene), là những bản sao của gene nhưng đã bị bất hoạt do tác động của đột biến. Những trình tự này thường chỉ là các hóa thạch phân tử, mặc dù chúng có thể phục vụ như là vật liệu di truyền dạng thô cho sự sản sinh gene mới thông qua quá trình nhân đôi (gene duplication) và phân ly gene.
Phiên mã và dịch mã.
Mỗi gene là một đoạn trình tự DNA chứa thông tin di truyền và có thể ảnh hưởng đến kiểu hình của sinh vật. Bên trong một gene, trình tự các base dọc theo một mạch DNA xác định nên trình tự của RNA thông tin, rồi từ đó xác lập nên trình tự của một hay nhiều protein. Mối liên hệ giữa trình tự nucleotide của các gene và trình tự các amino acid của protein được xác định bởi những quy tắc trong quá trình dịch mã, được biết đến với cái tên bộ mã di truyền. Mỗi mã di truyền chứa bộ ba 'chữ cái' gọi là "triplet" (bộ ba mã gốc) trên DNA hay "codon" (bộ ba mã sao) trên mRNA hay "anticodon" (bộ ba đối mã) trên tRNA tạo thành một trình tự gồm ba nucleotide (, CAG, TTT trên mạch gốc DNA).
Trong quá trình phiên mã, các triplet của một gene được sao chép sang RNA thông tin thành các codon tương ứng bằng enzyme RNA polymerase. Bản sao RNA này sau đó được giải mã bởi ribosome thông qua hoạt động đọc trình tự RNA bằng cách bổ sung cặp base trong RNA thông tin với RNA vận chuyển, loại phân tử mang theo amino acid. Vì có bốn loại base khác nhau được tổ hợp thành các mã bộ ba, do vậy có tất cả 64 codon (tổ hợp 43). Tất cả chúng được phân bổ để mã hóa cho 20 loại amino acid cơ bản của sự sống, do đó một amino acid có thể có nhiều hơn một codon mã hóa cho nó. Bên cạnh đó cũng có ba codon 'kết thúc' hoặc 'vô nghĩa' (nonsense) đánh dấu điểm kết thúc của một vùng mã hóa; chúng là các codon UAA, UAG và UGA (tương ứng với các triplet TAA, TAG và TGA).
Nhân đôi DNA (sao chép, tái bản).
Phân bào là quá trình cơ bản của sinh vật để có thể sinh trưởng, nhưng khi một tế bào phân chia, nó phải nhân đôi DNA trong bộ gene của nó sao cho hai tế bào con có cùng thông tin di truyền như của tế bào mẹ. Cấu trúc mạch kép DNA giúp hình thành một cơ chế đơn giản cho quá trình nhân đôi DNA. Ở đây, hai mạch đơn tháo xoắn tách rời nhau và mỗi mạch mới bổ sung với mỗi mạch gốc được tổng hợp bằng một loại enzyme gọi là DNA polymerase. Enzyme này tạo ra những mạch mới bằng cách tìm những nucleotide tự do từ môi trường nội bào và gắn kết chính xác với nucleotide trên mạch gốc ban đầu theo nguyên tắc bổ sung. Vì DNA polymerase chỉ tổng hợp mạch mới theo chiều 5′ → 3′, do vậy trên mạch khuôn có chiều 3' → 5' thì mạch bổ sung được tổng hợp liên tục do cùng chiều với chiều tháo xoắn. Còn trên mạch khuôn có chiều 5' → 3' thì mạch bổ sung được tổng hợp ngắt quãng tạo nên các đoạn ngắn gọi là đoạn Okazaki do ngược chiều với chiều tháo xoắn, sau đó các đoạn này được nối lại với nhau nhờ enzyme nối DNA ligase.
acid nucleic ngoại bào.
DNA ngoại bào trần (extracellular DNA - "eDNA"), hầu hết được giải phóng khi tế bào chết đi, xuất hiện khắp nơi trong môi trường. Mức độ tập trung của nó trong đất có thể lên tới 2 μg/lít, và trong môi trường nước tự nhiên lên tới 88 μg/lít. Đã có một số chức năng khả thi của eDNA được đề xuất: nó có thể tham gia vào chuyển gene ngang; cung cấp dinh dưỡng; và có khả năng hoạt động như một chất đệm để khôi phục hoặc chuẩn độ ion hoặc tính kháng sinh. DNA ngoại bào hoạt động như một thành phần chức năng của chất nền ngoại bào trong lớp màng vi sinh vật (phim sinh học - biofilm) của một số loài vi khuẩn. Nó có thể hoạt động như một nhân tố nhận diện để điều phối sự bám dính và phân tán của một số loại tế bào đặc hiệu trong phim sinh học; hoặc đóng góp vào sự hình thành phim sinh học; cũng như đóng góp vào đặc tính vật lý chắc chắn của phim sinh học và sức đề kháng trước những căng thẳng sinh học (biological stress).
Tương tác với protein.
Mọi chức năng của DNA phụ thuộc vào tương tác với protein. Những tương tác protein này có thể không đặc hiệu hoặc đặc hiệu khi protein liên kết với một trình tự DNA cụ thể. Các enzyme cũng liên kết với DNA và trong số này, những enzyme polymerase sao chép trình tự base của DNA trong quá trình phiên mã và nhân đôi DNA có vai trò đặc biệt quan trọng.
Protein liên kết DNA.
Tương tác của DNA (màu cam) với protein histone (màu lam). Những amino acid cơ bản của protein liên kết với các nhóm phosphat tính acid trên DNA.
Các protein cấu trúc liên kết với DNA là những ví dụ đã được nghiên cứu khá kĩ về tương tác không đặc hiệu DNA-protein. Bên trong nhiễm sắc thể, DNA được giữ trong phức hợp với protein cấu trúc. Những protein này tổ chức DNA thành một cấu trúc thắt đặc gọi là "chất nhiễm sắc" (chromatin). Trong sinh vật nhân thực, cấu trúc này bao gồm DNA liên kết với phức hợp các đơn vị protein cơ sở nhỏ gọi là histone, trong khi ở sinh vật nhân sơ lại có nhiều loại protein tham gia hơn. Các histone tạo thành một phức hợp dạng đĩa gọi là nucleosome, với chuỗi xoắn kép DNA bao quanh bề mặt cấu trúc bằng hai vòng xoắn. Những tương tác không đặc hiệu được hình thành thông qua các phần dư cơ bản trong histone, tạo ra liên kết ion với bộ khung đường-phosphat có tính acid của DNA, và do vậy phần lớn tương tác là độc lập với trình tự các base. Những phản ứng hóa học làm thay đổi các amino acid cơ bản này bao gồm phản ứng methyl hóa, phosphoryl hóa và acethyl hóa. Những thay đổi hóa học này làm ảnh hưởng tới cường độ tương tác giữa DNA và histone, khiến cho các nhân tố phiên mã trở nên dễ dàng hoặc khó tiếp cận được với DNA và do vậy thay đổi tốc độ quá trình phiên mã. Những protein liên kết DNA không đặc hiệu khác trong chất nhiễm sắc bao gồm các nhóm protein có tính linh động cao mà khi liên kết có thể uốn hoặc làm vặn DNA. Các protein này có vai trò quan trọng trong việc sắp uốn nucleosome và xếp đặt chúng thành những cấu trúc lớn hơn tạo thành nhiễm sắc thể.
Có một nhóm protein liên kết DNA đặc biệt là các protein chỉ liên kết đặc hiệu với một mạch đơn DNA. Ở người, protein A phục vụ quá trình nhân đôi DNA là protein được hiểu biết rõ ràng nhất trong nhóm này và tham gia vào những quá trình khi hai mạch xoắn kép đã tách rời nhau, bao gồm sao chép DNA, tái tổ hợp và sửa chữa DNA. Những protein liên kết này giúp ổn định hóa mạch đơn DNA và bảo vệ nó khỏi hiện tượng hình thành cấu trúc "vòng gấp kẹp tóc" (stem-loop/hairpin loop) hoặc bị phân cắt bởi enzyme nuclease.
Ngược lại, có những protein khác phải biến đổi cấu hình để liên kết với những trình tự DNA riêng biệt. Lĩnh vực nghiên cứu sâu rộng nhất về những protein này đó là nghiên cứu nhiều loại "nhân tố phiên mã" (transcription factor) khác nhau, đây chính là các protein điều hòa quá trình phiên mã. Mỗi nhân tố phiên mã liên kết với một tập hợp cụ thể các trình tự DNA và kích hoạt hoặc ức chế hoạt động phiên mã của gene tại những trình tự gần với vùng khởi động của chúng. Nhân tố phiên mã thực hiện vai trò này theo hai cách. Đầu tiên, chúng có thể gắn với RNA polymerase chịu trách nhiệm cho quá trình phiên mã, hoặc trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua các protein trung gian; giúp định vị polymerase tại vùng gene khởi động và cho phép bắt đầu phiên mã. Hoặc cách khác, nhân tố phiên mã có thể gắn với enzyme làm biến đổi các histone ở vùng khởi động. Điều này làm thay đổi khả năng tiếp cận của polymerase với mạch khuôn DNA.
Do những DNA đích này xuất hiện trong toàn thể bộ gene sinh vật, vì vậy những thay đổi trong hoạt động của một loại nhân tố phiên mã có thể ảnh hưởng tới hàng nghìn gene. Hệ quả là, những protein này thường là mục tiêu của các quá trình truyền tín hiệu tải nạp (signal transduction) mà điều khiển sự đáp ứng đối với những thay đổi của môi trường hoặc biệt hóa tế bào và điều khiển sự phát triển. Nét đặc trưng của những tương tác của các nhân tố phiên mã với DNA đến từ các protein tạo nhiều tiếp xúc với các cạnh của các base DNA, cho phép chúng "đọc" được trình tự DNA. Phần lớn những tương tác với base diễn ra ở rãnh lớn, nơi có thể tiếp xúc nhiều nhất với các base.
Enzyme chỉnh sửa DNA.
Nuclease là các enzyme có khả năng cắt mạch DNA bằng cách xúc tác cho phản ứng thủy phân các liên kết phosphodieste. Loại nuclease thủy phân nucleotide từ những đầu mút của mạch DNA được gọi là exonuclease, trong khi endonuclease lại phân cắt từ những điểm trong mạch. Những nuclease được sử dụng thường xuyên nhất trong sinh học phân tử là các endonuclease giới hạn, do chúng cắt DNA tại những đoạn trình tự đặc hiệu. Ví dụ, enzyme EcoRV ở hình ảnh bên trái nhận ra trình tự gồm 6 base 5′-GATATC-3′ và thực hiện việc cắt theo một đường nằm ngang. Trong tự nhiên, những enzyme này bảo vệ vi khuẩn chống lại sự tấn công của thể thực khuẩn bằng cách tiêu hóa DNA thể thực khuẩn khi chúng xâm nhập vào tế bào vi khuẩn, lúc này các enzyme hoạt động như một phần trong hệ thống hạn chế cải biến (restriction modification system). Trong công nghệ sinh học, những nuclease hoạt động với các trình tự đặc hiệu được sử dụng trong tách dòng phân tử (molecular cloning) và kỹ thuật nhận diện DNA (DNA profiling).
Những enzyme có chức năng nối lại những đoạn DNA bị cắt hoặc bị đứt gãy được gọi là DNA ligase. Ligase đặc biệt quan trọng trong việc nối lại các mạch theo sau ngắt quãng của DNA, tức là các đoạn Okazaki tại chạc tái bản thành một bản sao hoàn chỉnh từ mạch khuôn DNA. Chúng cũng tham gia vào việc sửa chữa DNA và tái tổ hợp di truyền.
Polymerase là những enzyme thực hiện tổng hợp mạch polynucleotide từ nucleoside triphosphat. Tính tuần tự của các sản phẩm của chúng được sinh ra dựa trên những mạch polynucleotide đã có—gọi là "mạch khuôn". Những enzyme này hoạt động bằng lần lượt thêm vào một nucleotide tại nhóm 3′ hydroxyl ở điểm cuối của mạch polynucleotide đang phát triển. Kết quả là, mọi polymerase hoạt động luôn theo chiều từ đầu 5′ đến đầu 3′. Tại trung tâm hoạt động của các enzyme này, phân tử nucleoside triphosphat đi đến ghép cặp với base của mạch khuôn: điều này cho phép polymerase tổng hợp một cách chính xác mạch bổ sung đối với mạch khuôn của nó. Các polymerase được phân loại theo các nhóm mạch khuôn mà chúng sử dụng.
Trong quá trình sao chép DNA, DNA polymerase phụ thuộc DNA tạo nên những bản sao của những mạch polynucleotide DNA. Để bảo toàn thông tin sinh học, điều cơ bản là trình tự của các base trong mỗi bản sao là trình tự bổ sung chính xác cho trình tự base trong mạch khuôn mẫu. Nhiều DNA polymerase có hoạt tính đọc và sửa sai (proofreading). Ở đây, polymerase nhận ra các lỗi thường xuất hiện trong phản ứng tổng hợp do sự thiếu đi những base ghép cặp giữa các nucleotide không khớp với nhau. Nếu polymerase phát hiện một sự không ăn khớp, hoạt tính exonuclease 3'-5′ được kích hoạt và base không khớp nào được phát hiện sẽ bị cắt bỏ. Trong hầu hết các sinh vật, DNA polymerase hoạt động trong một phức hệ lớn gọi là replisome có chứa nhiều tiểu đơn vị phụ, như protein kẹp DNA (DNA clamp) hay helicase.
DNA polymerase phụ thuộc RNA là những loại polymerase chuyên biệt thực hiện sao chép trình tự của mạch RNA sang DNA. Chúng bao gồm enzyme phiên mã ngược (reverse transcriptase, RT), ví dụ như một enzyme của virut retrovirus tham gia vào quá trình xâm nhập tế bào, và telomerase, cần cho quá trình sao chép telomere. Telomerase là một polymerase khác thường bởi vì nó chứa chính mạch khuôn RNA của nó như là một phần trong cấu trúc của enzyme này.
Sự phiên mã được thực hiện bởi RNA polymerase phụ thuộc DNA thông qua quá trình sao chép trình tự của mạch DNA sang RNA. Để bắt đầu giải mã một gene, RNA polymerase gắn với một trình tự của DNA gọi là "vùng khởi động" (promoter) và tách hai mạch DNA khỏi nhau. Sau đó nó sao chép trình tự gene vào một RNA thông tin cho đến khi nó đi đến "vùng kết thúc" (terminator) của DNA, nơi RNA polymerase dừng lại và tách khỏi DNA. Với DNA polymerase phụ thuộc DNA ở người, RNA polymerase II, enzyme thực hiện phiên mã hầu hết các gene trong bộ gene người, hoạt động như là một phần của một phức hệ protein lớn với nhiều tiểu đơn vị phụ và vùng điều hòa khác nhau.
Tái tổ hợp di truyền.
Cấu trúc của thể trung gian điểm giao Holliday trong tái tổ hợp di truyền. Bốn đoạn mạch DNA tách rời có màu đỏ, lam, lục vàng.
Chuỗi xoắn kép DNA thường không tương tác với những đoạn khác của DNA, và trong tế bào người các nhiễm sắc thể khác nhau thậm chí còn nằm ở những vùng tách biệt trong nhân tế bào gọi là "vùng nhiễm sắc thể" (chromosome territory). Sự tách biệt về không gian giữa các nhiễm sắc thể khác nhau là quan trọng đối với khả năng hoạt động của DNA như là nơi lưu giữ ổn định thông tin di truyền, khi một vài lần nhiễm sắc thể tương tác trong sự trao đổi chéo nhiễm sắc thể xảy ra trong quá trình sinh sản hữu tính, khi ấy tái tổ hợp di truyền mới diễn ra. Trao đổi chéo nhiễm sắc thể là khi hai chuỗi DNA tháo xoắn và tách rời từng mạch đơn ra, trao đổi các đoạn DNA cho nhau rồi tái gắn kết hai mạch đơn lại.
Tái tổ hợp cho phép nhiễm sắc thể trao đổi thông tin di truyền và tạo ra những tổ hợp gene mới, làm tăng hiệu quả của tính chọn lọc tự nhiên và có thể quan trọng đối với sự tiến hóa nhanh chóng cho những protein mới. Tái tổ hợp di truyền cũng bao gồm trong quá trình sửa chữa DNA, đặc biệt trong sự đáp ứng của tế bào đối với sự kiện chuỗi xoắn kép bị đứt gãy.
Dạng phổ biến nhất của trao đổi chéo nhiễm sắc thể là tái tổ hợp tương đồng, khi hai nhiễm sắc thể tham gia quá trình trên có trình tự DNA tương đồng. Tái tổ hợp không tương đồng có thể phá hủy tế bào, gây ra chuyển đoạn nhiễm sắc thể và biến dị di truyền. Phản ứng tái tổ hợp được xúc tác bởi các enzyme recombinase, như RAD51. Bước đầu tiên trong quá trình tái tổ hợp là một chuỗi DNA bị đứt gãy do tác động bởi enzyme endonuclease hay những phá hủy đối với DNA. Một loạt các bước tiếp theo có sự xúc tác một phần của recombinase, sau đó hai chuỗi xoắn kép nối lại tại ít nhất một "điểm giao Holliday" (Holliday junction), trong đó một đoạn của mạch đơn của chuỗi xoắn kép này được ghép nối với đoạn mạch đối ứng của chuỗi xoắn kép kia. Điểm giao Holliday là một cấu trúc tiếp xúc bốn nhánh mà có thể di chuyển dọc theo cặp nhiễm sắc thể, tráo đổi một mạch sang cho mạch khác. Phản ứng tái tổ hợp dừng lại khi điểm giao Holliday bị đứt và xảy ra quá trình hàn gắn lại chuỗi DNA được giải phóng.
DNA chứa thông tin di truyền cho phép tất cả dạng sống hiện đại hoạt động chức năng, sinh trưởng và sinh sản. Tuy nhiên, không rõ bao lâu trong hành trình lịch sử 4 tỷ năm của sự sống DNA đã bắt đầu đảm nhận chức năng này, vì có những đề xuất cho rằng các dạng sống xuất hiện sớm nhất có khả năng đã sử dụng phân tử RNA thay vì DNA làm vật liệu di truyền. RNA có thể đã trở thành thành phần trung tâm của quá trình trao đổi chất trong những tế bào sơ khai vì phân tử này có thể vừa truyền đạt thông tin di truyền cũng như mang hoạt tính xúc tác phản ứng dưới dạng ribozyme. Thế giới RNA cổ xưa này, một nơi acid nucleic được sử dụng cho cả quá trình xúc tác và di truyền, có thể ảnh hưởng đến sự tiến hóa của hệ thống mã di truyền hiện tại trên cơ sở bốn loại nucleobase. Điều này thực sự đã xảy ra, vì số lượng của những base khác nhau trong một cơ thể sống như là một sự thỏa hiệp giữa một số lượng nhỏ base tăng cường qua hoạt động nhân đôi chính xác và một số lượng lớn những base tăng cường qua hoạt động xúc tác hiệu quả của ribozyme. Không may thay, thực tế lại không có bằng chứng trực tiếp nào của hệ thống di truyền cổ xưa, như việc phục hồi DNA từ phần lớn các hóa thạch là điều không thể vì phân tử DNA chỉ tồn tại trong môi trường ít hơn một triệu năm và dần dần phân hủy thành những mảnh ngắn tan vào dung dịch. Những yêu cầu khảo sát đối với dạng DNA cổ xưa đã được thực hiện, trong đó báo cáo đáng chú ý nhất là về sự cô lập của một loại vi khuẩn tồn tại phát triển độc lập từ một tinh thể muối có niên đại cách đây 250 triệu năm, tuy nhiên những tuyên bố này vẫn còn trong vòng tranh cãi.
Những thành phần "vữa gạch" của DNA (adenine, guanine và cả những phân tử hữu cơ liên quan) có thể đã hình thành từ vũ trụ trong những khoảng không liên thiên thể. Những hợp chất hữu cơ cấu tạo nền tảng khác của DNA và RNA trong sự sống, bao gồm uracil, cytosine và thymine, cũng đã được tổng hợp trong phòng thí nghiệm dưới các điều kiện mô phỏng tương ứng tìm thấy trong không gian ngoài thiên thể, bằng cách sử dụng những chất hóa học khởi đầu, ví dụ pyrimidine, tìm thấy trong các mảnh vẫn thạch. Pyrimidine, như những hydrocarbon đa vòng thơm (polycyclic aromatic hydrocarbons - PAHs), là hợp chất hóa học giàu carbon nhất tìm thấy trong vũ trụ, có thể được hình thành trong những ngôi sao khổng lồ đỏ hay trong những đám mây khí và bụi giữa các vì sao.
Sử dụng trong công nghệ.
Kỹ thuật di truyền.
Nhiều phương pháp đã được phát triển để sàng lọc DNA từ sinh vật sống, như chiết lỏng-lỏng phenol-clorofom, và vận dụng trong phòng thí nghiệm, như phương pháp phân hủy giới hạn (restriction digest) và phản ứng chuỗi polymerase. Sinh học hiện đại và ngành hóa sinh sử dụng thường xuyên những kỹ thuật này trong công nghệ tái tổ hợp DNA. Tái tổ hợp DNA là một trình tự DNA nhân tạo được lắp ghép từ các trình tự DNA khác. Chúng có thể được biến nạp vào tế bào sinh vật dưới dạng plasmid hoặc trong những dạng thích hợp khác, bằng cách sử dụng vector virut. Những sinh vật biến đổi di truyền có thể được ứng dụng để sinh ra các sản phẩm như protein tái tổ hợp, sử dụng trong nghiên cứu y học, hoặc được nuôi trồng trong nông nghiệp.
Kỹ thuật nhận diện DNA.
Các nhà khoa học pháp y sử dụng DNA trong máu, tinh dịch, da, nước bọt hay tóc tìm thấy tại hiện trường để nhận ra DNA khớp với của một cá nhân, như của thủ phạm chẳng hạn. Quá trình này được gọi là "kỹ thuật nhận diện DNA" (DNA profiling), hay còn gọi là "kỹ thuật in dấu DNA" (DNA fingerprintin)). Trong kỹ thuật nhận diện DNA, độ dài của nhiều đoạn DNA lặp lại, như các đoạn trình tự vi vệ tinh (microsatellite) và vệ tinh nhỏ (minisatellite), được so sánh giữa các cá nhân có liên quan. Phương pháp này thường là một kỹ thuật cực kỳ tin cậy cho phép xác định những trình tự DNA ăn khớp với nhau. Tuy vậy, việc nhận dạng có thể trở nên phức tạp nếu tại hiện trường gây án có nhiều DNA của nhiều người. Kỹ thuật nhận diện DNA phát triển vào năm 1984 bởi nhà di truyền học người Anh Sir Alec Jeffreys, và lần đầu tiên được sử dụng trong ngành pháp y để cáo buộc Colin Pitchfork trong vụ án Enderby năm 1988.
Sự phát triển của khoa học pháp y, và khả năng hiện nay có thể nhận ra thông tin di truyền từ các mẫu máu, da, nước bọt hay tóc đã dẫn đến nhiều vụ án phải lật lại hồ sơ mặc dù tòa đã tuyên án. Chứng cứ mà hiện nay có thể được tiết lộ ra trong khi ở thời điểm thẩm vấn là bất khả thi về mặt khoa học. Kết hợp với đạo luật loại bỏ trường hợp bất trùng khả tố (double jeopardy-một người không bị xử hai lần về một tội) ở một số nơi, đã cho phép khởi tố lại một số vụ án khi bản án trước đó đã không nêu được chứng cứ thuyết phục để kết án. Những người mang tội danh nặng được phép yêu cầu lấy mẫu DNA nhằm mục đích so sánh. Trường hợp biện hộ rõ ràng nhất đó là mẫu DNA nhận được từ pháp y bị cho là đã bị ảnh hưởng từ những người ở xung quanh vụ án. Điều này làm cho các thủ tục điều tra trở nên chặt chẽ hơn trong những trường hợp phạm tội mới. Nhận diện DNA cũng được áp dụng thành công cho nhận dạng các nạn nhân trong những vụ tai nạn có thương vong lớn, từ những phần cơ thể, và nhận biết từng nạn nhân trong những mồ chôn tập thể trong chiến tranh, thông qua so sánh với DNA của người nhà nạn nhân.
Kỹ thuật nhận diện DNA cũng được sử dụng để xác thực mối liên hệ sinh học với cha mẹ hoặc ông bà của một đứa trẻ với xác suất chính xác lên tới 99,99%. Những phương pháp kiểm trình tự DNA bình thường được thực hiện sau sinh, nhưng những phương pháp mới có thể kiểm tra quan hệ huyết thống ngay cả khi người mẹ đang mang thai.
DNA enzyme hay xúc tác DNA.
Deoxyribozyme, cũng gọi là DNAzyme hay xúc tác DNA phát hiện lần đầu tiên vào năm 1994. Phần lớn chúng là những trình tự mạch đơn DNA được cô lập khỏi một vũng lớn gồm nhiều trình tự DNA ngẫu nhiên thông qua một hướng tiếp cận tổ hợp gọi là kỹ thuật lựa chọn in vitro hay phương pháp SELEX. Những DNAzyme tham gia xúc tác các phản ứng hóa học bao gồm phân cắt RNA-DNA, kết nối RNA-DNA, sự phosphoryl hóa - phản phosphoryl hóa các amino acid, hình thành liên kết carbon-carbon, (đặc hiệu với chì), CA1-3 DNAzymes (với đồng), 39E DNAzyme (với ion uranyl) và NaA43 DNAzyme (với natri). NaA43 DNAzyme, nhạy với natri gấp 10.000 lần so với các ion kim loại khác, được dùng để theo dõi natri theo thời gian thực trong tế bào sống.
Tin sinh học bao gồm các kỹ thuật lưu trữ, khai phá dữ liệu, tìm kiếm và thao tác với dữ liệu sinh học, bao gồm dữ liệu về trình tự acid nucleic DNA. Các kỹ thuật này mang đến những ứng dụng rộng rãi trong khoa học máy tính, đặc biệt là thuật toán tìm kiếm chuỗi, học máy và lý thuyết cơ sở dữ liệu. Thuật toán tìm kiếm chuỗi hay so khớp, trong đó tìm kiếm sự xuất hiện của một trình tự các chữ cái trong một trình tự các chữ cái lớn hơn, được phát triển để tìm ra những trình tự nucleotide cụ thể. Trình tự DNA có thể sắp gióng với những trình tự DNA khác để nhận ra các trình tự tương đồng và xác định vị trí đột biến khiến chúng khác biệt. Những kỹ thuật này, đặc biệt là kỹ thuật "sắp gióng đa trình tự" (multiple sequence alignment), được sử dụng để nghiên cứu các mối quan hệ phát sinh chủng loài học và chức năng của protein. Tập hợp dữ liệu của toàn bộ trình tự DNA, như được lập ra bởi Dự án bản đồ gene người, là khó để sử dụng mà không có các chú giải cho phép nhận ra vị trí của các gene hay các yếu tố điều hòa ở mỗi nhiễm sắc thể. Vùng trình tự DNA với những phần đặc trưng gắn với gene mã hóa cho protein hoặc RNA có thể tìm ra bằng thuật toán tìm kiếm gene (gene finding algorithm), cho phép các nhà nghiên cứu dự đoán sự có mặt của những sinh phẩm đặc biệt mã hóa bởi gen và chức năng của chúng trong sinh vật trước khi chúng được phát hiện bằng thực nghiệm. Toàn bộ hệ gene cũng có thể được đối sánh, để làm sáng tỏ lịch sử tiến hóa của từng sinh vật cụ thể và cho phép kiểm tra các sự kiện tiến hóa phức tạp.
Công nghệ nano DNA.
Công nghệ nano DNA sử dụng những tính chất tương tác của phân tử DNA và những acid nucleic khác để tạo ra những phức hợp DNA phân nhánh tự lắp ráp có tính năng hữu ích. Do vậy DNA được sử dụng như là vật liệu cấu trúc hơn là vật liệu mang thông tin sinh học. Các nhà khoa học đã tạo ra những dàn lưới hai chiều tuần hoàn (bằng phương pháp lát gạch và "origami DNA") và cấu trúc ba chiều đa diện đều. Thiết bị cơ nano và thuật toán tự lắp ráp cũng được chứng minh là khả dĩ, và những cấu trúc DNA này dùng làm khuôn mẫu để sắp xếp các phân tử khác như keo vàng (colloidal gold) và protein streptavidin trong vi khuẩn "Streptomyces avidinii".
Lịch sử và nhân chủng học.
Bởi vì theo thời gian DNA tích lũy các đột biến, do vậy chúng được di truyền lại, nên DNA chứa thông tin lịch sử, và bằng cách so sánh các trình tự DNA, những nhà di truyền học có thể suy luận ra lịch sử tiến hóa của mỗi loài sinh vật, hay phát sinh chủng loài của chúng. Lĩnh vực phát sinh chủng loài học là một công cụ mạnh của sinh học tiến hóa. Nếu so sánh những trình tự DNA của một loài với nhau, các nhà di truyền quần thể có thể biết được lịch sử phát triển của một quần thể đang nghiên cứu. Kết quả nghiên cứu của ngành này được áp dụng sang cho di truyền sinh thái và nhân chủng học. Ví dụ, các nhà khoa học đã sử dụng bằng chứng DNA để nghiên cứu sự kiện Mười bộ tộc biến mất (Ten Lost Tribes) của Israel.
Lưu trữ thông tin.
Trong một bài báo trên tạp chí "Nature" tháng 1 năm 2013, các nhà khoa học từ Học viện Tin sinh học Châu Âu và công ty Agilent Technologies đã đề xuất một cơ chế sử dụng khả năng mã hóa thông tin của DNA để phục vụ cho việc lưu trữ kỹ thuật số. Nhóm nghiên cứu mã hóa 739 kilobyte dữ liệu vào mã DNA, rồi tổng hợp nên DNA thực thụ, tiếp đó thực hiện giải trình tự DNA và giải mã thông tin ngược trở lại dạng ban đầu, mà họ thông báo là kết quả thu được với độ chính xác 100%. Thông tin được mã hóa chứa các tập tin định dạng văn bản và âm thanh. Một thí nghiệm khác thực hiện trước đó bởi nhóm nghiên cứu ở Đại học Harvard tháng 8 năm 2012, khi nhóm này mã hóa một quyển sách chứa 54.000 từ vào DNA.
Trong tế bào sinh vật sống, thông tin lưu trữ ở DNA có thể được kích hoạt bởi các enzyme. Ví dụ như các kênh ion có protein cảm thụ ánh sáng phối hợp với enzyme xử lý DNA là phù hợp cho nhiệm vụ trên trong ống nghiệm ("in vitro"). Những phân tử exonuclease huỳnh quang có thể truyền tín hiệu ra bên ngoài tuân theo các trình tự nucleotide mà chúng đọc được.
Lịch sử nghiên cứu DNA.
DNA lần đầu tiên được cô lập bởi thầy thuốc người Thụy Sĩ Friedrich Miescher, người mà vào năm 1869, đã khám phá ra một chất vi mô trong mủ của băng gạc được tháo bỏ sau phẫu thuật. Vì nó nằm trong nhân của tế bào, ông đã gọi nó là "nuclein". Năm 1878, Albrecht Kossel đã cô lập được thành phần không phải là protein của "nuclein", acid nucleic, và sau đó ông cô lập được năm nucleobase cơ bản của nó. Năm 1919, Phoebus Levene nhận biết được các đơn vị của nucleotide là base, đường và phosphat. Levene đề xuất rằng DNA chứa một chuỗi các đơn vị nucleotide được liên kết với nhau bằng các nhóm phosphat. Levene đã nghĩ rằng mạch này là ngắn và các base lặp lại theo một thứ tự cố định. Năm 1937, William Astbury chụp được ảnh thành phần nhiễu xạ tia X đầu tiên cho thấy DNA có một cấu trúc đều đặn.
Năm 1927, Nikolai Koltsov đề xuất rằng các tính trạng di truyền có thể được thừa hưởng thông qua một "phân tử di truyền khổng lồ" cấu thành từ "hai mạch đối xứng mà có thể sao chép theo cách bán bảo tồn sử dụng từng mạch như là một khuôn mẫu". Năm 1928, Frederick Griffith trong thí nghiệm của ông đã khám phá ra các tính trạng dạng "trơn" của phế cầu khuẩn ("Pneumococcus") có thể truyền sang dạng "thô" của cùng một loài vi khuẩn bằng cách trộn các vi khuẩn dạng "trơn" đã bị giết với các vi khuẩn dạng "thô" còn sống bằng thí nghiệm nổi tiếng gọi là thí nghiệm Griffith. Hệ thống thí nghiệm này cung cấp gợi ý rõ ràng đầu tiên về DNA mang thông tin di truyền—theo thí nghiệm Avery–MacLeod–McCarty—khi Oswald Avery, cùng với các đồng nghiệp Colin MacLeod và Maclyn McCarty, nhận ra DNA tuân theo nguyên lý biến nạp trong thí nghiệm Griffith vào năm 1943. Vai trò của DNA trong di truyền được xác nhận vào năm 1952, khi Alfred Hershey và Martha Chase trong thí nghiệm Hershey–Chase chỉ ra rằng DNA là vật liệu di truyền của thực khuẩn thể T2.
Năm 1953, James Watson và Francis Crick lần đầu tiên mà được chấp nhận ngày nay với cấu trúc DNA chuỗi xoắn kép đăng trên tạp chí "Nature". Mô hình phân tử chuỗi xoắn kép DNA của họ khi ấy dựa trên ảnh chụp nhiễu xạ tia X (còn gọi là "Ảnh chụp 51") do Rosalind Franklin và Raymond Gosling thực hiện vào tháng 5 năm 1952, và dựa trên thông tin rằng các base DNA ghép cặp với nhau.
Chứng cứ thực nghiệm ủng hộ mô hình Watson và Crick được công bố trong một loạt 5 bài báo đăng trên cùng một số của tờ "Nature". Trong các bài báo này, bài viết của Franklin và Gosling là công trình đầu tiên của chính họ công bố dữ liệu về nhiễu xạ tia X và phương pháp phân tích gốc giúp ủng hộ một phần mô hình của Watson và Crick; trong số báo này cũng bao gồm bài viết về cấu trúc DNA của Maurice Wilkins với hai đồng nghiệp của ông, khi họ thực hiện phân tích ảnh chụp tia X của dạng B-DNA "trong cơ thể sống" ("in vivo") mà cũng ủng hộ cho sự có mặt "trong cơ thể sống" của cấu trúc chuỗi xoắn kép DNA như đề xuất của Crick và Watson về mô hình phân tử DNA của họ trong bài báo dài 2 trang đăng ở số trước của tạp chí "Nature". Năm 1962, khi ấy Franklin đã qua đời, Watson, Crick, và Wilkins cùng nhận Giải Nobel Sinh lý và Y học. Do điều lệ của Quỹ Nobel chỉ trao giải cho những nhà khoa học còn sống. Vẫn có những tranh luận về sau liên quan đến những ai xứng đáng được công nhận liên quan đến khám phá này.
Trong một buổi nói chuyện có tầm ảnh hưởng vào năm 1957, Crick đưa ra luận thuyết trung tâm của sinh học phân tử, báo hiệu trước về mối quan hệ giữa các phân tử DNA, RNA, và protein, và khớp nối với "giả thuyết về dòng thông tin". Chứng cứ thực nghiệm cuối cùng xác nhận cơ chế sao chép mà hàm ý cấu trúc chuỗi xoắn kép được công bố vào năm 1958 thông qua thí nghiệm Meselson–Stahl. Những công trình về sau của Crick và các đồng nghiệp cũng như của nhiều nhà khoa học khác chứng tỏ mã di truyền có cơ sở là tổ hợp của bộ ba base không chồng lợp nhau, hay còn gọi là các codon, cho phép Har Gobind Khorana, Robert W. Holley và Marshall Warren Nirenberg làm sáng tỏ mã di truyền. Những phát hiện này đã khai sinh ra ngành sinh học phân tử.
Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. |
Lý thuyết Vụ Nổ Lớn, thường gọi theo tiếng Anh là Big Bang, là mô hình vũ trụ học nổi bật miêu tả giai đoạn sơ khai của sự hình thành vũ trụ. Theo lý thuyết này, Vụ Nổ Lớn xảy ra cách đây khoảng 13,8 tỷ năm trước, do đó được xem là tuổi của vũ trụ (các đo lường hiện tại về độ tuổi của vũ trụ là 13,787 ± 0,020 tỉ năm trong mô hình kết hợp Lambda-CDM tính vào năm 2018). Sau giai đoạn này, vũ trụ ở vào trạng thái cực nóng và đặc rồi bắt đầu giãn nở nhanh chóng. Sau giai đoạn lạm phát, vũ trụ đủ "lạnh" để hình thành nhiều hạt hạ nguyên tử, bao gồm proton, neutron, và electron. Tuy những hạt nhân nguyên tử đơn giản có thể hình thành nhanh chóng sau Big Bang, phải mất hàng nghìn năm sau các nguyên tử trung hòa điện mới xuất hiện. Nguyên tố đầu tiên sinh ra là hiđrô, cùng với lượng nhỏ heli và lithi. Những đám mây khổng lồ chứa các nguyên tố nguyên thủy sau đó hội tụ lại bởi hấp dẫn để hình thành nên các ngôi sao và các thiên hà rồi siêu đám thiên hà, và nguyên tố nặng hơn hoặc được tổng hợp trong lòng ngôi sao hoặc sinh ra từ các vụ nổ siêu tân tinh. Thuyết Vụ Nổ Lớn là một lý thuyết khoa học đã được kiểm chứng và được cộng đồng khoa học chấp nhận rộng rãi. Nó đưa ra cách giải thích hoàn thiện về nhiều loại hiện tượng quan sát thấy trong vũ trụ, bao gồm sự có mặt của những nguyên tố nhẹ, bức xạ nền vi sóng vũ trụ (CMB), cấu trúc vĩ mô của vũ trụ và định luật Hubble (hay định luật Hubble–Lemaître) đối với siêu tân tinh loại Ia. Những ý tưởng chính trong Vụ Nổ Lớn—sự giãn nở của vũ trụ, trạng thái cực nóng lúc sơ khai, sự hình thành của heli và sự hình thành các thiên hà—được suy luận ra từ những quan sát này và những quan sát khác độc lập với mọi mô hình vũ trụ học. Các nhà vật lý biết rằng khoảng cách giữa các đám thiên hà đang tăng lên, và họ lập luận rằng mọi thứ đã phải ở gần nhau hơn khi trở về quá khứ. Ý tưởng này đã được xem xét một cách chi tiết khi quay ngược trở lại thời gian đến thời điểm vật chất có mật độ và nhiệt độ cực cao, và những máy gia tốc hạt lớn đã được xây dựng nhằm thực hiện các thí nghiệm gần giống với thời điểm sơ khai, mang lại kết quả thúc đẩy phát triển cho mô hình. Mặt khác, những máy gia tốc chỉ có mức năng lượng bắn phá hạt giới hạn để có thể nghiên cứu miền năng lượng cao của các hạt cơ bản. Có rất ít manh mối về thời điểm sớm nhất sau sự giãn nở. Do đó, lý thuyết Vụ Nổ Lớn không thể và không cung cấp bất kỳ cách giải thích hay miêu tả nào về điểm khởi nguyên này; thay vào đó nó miêu tả và giải thích sự tiến hóa chung của vũ trụ sau thời điểm lạm phát. Nhà vũ trụ học và linh mục Georges Lemaître là người đầu tiên đề xuất cái mà sau này trở thành lý thuyết Vụ Nổ Lớn trong nghiên cứu của ông về "giả thuyết về nguyên tử nguyên thủy." Trong nhiều năm, các nhà vật lý dựa trên ý tưởng ban đầu của ông nhằm xây dựng lên các lý thuyết khác nhau và dần dần được tổng hợp lại thành lý thuyết hiện đại. Khuôn khổ cho lý thuyết dựa trên thuyết tương đối rộng của nhà vật lý Albert Einstein và trên giả thiết đơn giản về tính đồng nhất và đẳng hướng của không gian. Dựa vào phương trình trường Einstein, nhà vũ trụ học Alexander Friedmann đã tìm ra được các phương trình chi phối sự tiến hóa của vũ trụ. Năm 1929, nhà thiên văn Edwin Hubble phát hiện ra khoảng cách giữa các thiên hà tỷ lệ với giá trị dịch chuyển đỏ của chúng—một khám phá mà trước đó Lemaître đã nêu ra từ 1927. Quan sát của Hubble cho thấy mọi thiên hà ở rất xa cũng như các siêu đám thiên hà đang lùi ra xa khỏi Ngân Hà: nếu chúng càng ở xa, vận tốc lùi xa của chúng càng lớn. Từng có thời gian cộng đồng các nhà khoa học chia làm hai nhóm giữa một bên ủng hộ thuyết Vụ Nổ Lớn và một bên ủng hộ thuyết Trạng thái dừng, nhưng ngày nay hầu hết các nhà khoa học bị thuyết phục bởi kịch bản của lý thuyết Vụ Nổ Lớn phù hợp nhất với các quan sát đo lường sau khi bức xạ nền vi sóng vũ trụ phát hiện ra vào năm 1964, và đặc biệt khi phổ của nó (lượng bức xạ đo được ứng với mỗi bước sóng) được phát hiện phù hợp với bức xạ vật đen. Từ đó, các nhà thiên văn vật lý đã kết hợp những dữ liệu lớn trong quan sát và đưa thêm những tính toán lý thuyết vào mô hình Vụ Nổ Lớn, và mô hình tham số của nó hay mô hình Lambda-CDM trở thành khuôn khổ lý thuyết cho những nghiên cứu hiện đại về vũ trụ học.
Tiến trình Vụ Nổ Lớn.
Khi ấy, các nhà khoa học quay ngược thời gian của sự giãn nở vũ trụ sử dụng thuyết tương đối tổng quát sẽ thu được một trạng thái mật độ và nhiệt độ có giá trị vô hạn ở thời gian hữu hạn trong quá khứ. Điểm kỳ dị không–thời gian này chính là dấu hiệu vượt ngoài phạm vi tiên đoán của thuyết tương đối tổng quát. Các nhà khoa học có thể ngoại suy nhằm nghiên cứu điểm kỳ dị nhưng không thể gần đến lúc kết thúc kỷ nguyên Planck. Điểm kì dị trước kỷ nguyên Planck gọi là "Vụ Nổ Lớn", nhưng thuật ngữ cũng có thể nhắc đến thời điểm sớm hơn một chút, khi vũ trụ là điểm cực nóng và đậm đặc, và có thể xem là "khởi sinh" của vũ trụ. Dựa trên quan trắc siêu tân tinh loại Ia về sự giãn nở không thời gian, đo lường về những thăng giáng nhỏ trong bức xạ nền vi sóng và đo về hàm tương quan của các thiên hà, các nhà vật lý tính được vũ trụ có tuổi 13,772 ± 0,059 tỷ năm. Sự phù hợp về độ tuổi tính theo ba phương pháp đo lường độc lập này ủng hộ một cách thuyết phục mô hình ΛCDM mô tả chi tiết về thành phần vật chất trong vũ trụ. Tháng 3 năm 2013 dữ liệu mới thu được từ tàu Planck cho kết quả tuổi vũ trụ 13,798 ± 0,037 tỷ năm.
Có rất nhiều tính toán và mô hình về pha sớm nhất của Vụ Nổ Lớn. Trong những mô hình phổ biến nhất vũ trụ ban đầu được choán đầy bởi vật chất, năng lượng phân bố đồng nhất và đẳng hướng với mật độ năng lượng cực lớn cũng như áp suất và nhiệt độ rất cao, sau đó điểm kì dị này nhanh chóng giãn nở và lạnh đi. Sự giãn nở là ở bản chất của không gian giãn nở, chứ không phải là vật chất và năng lượng "nở ra" vào một không gian cố định trước đó. Khoảng xấp xỉ thời điểm 10−36 giây trong giai đoạn giãn nở, một sự chuyển pha là nguyên nhân gây ra sự giãn nở lạm phát của vũ trụ, khi thể tích của vũ trụ mở rộng tăng theo hàm mũ diễn ra trong khoảng thời gian rất ngắn đến thời điểm giữa 10−33 và 10−32 giây. Sự giãn nở này, do Alan Guth đề xuất, nguyên nhân là do có một "hằng số vũ trụ học" giá trị lớn và dương làm giãn nở không gian, nhưng sau giai đoạn lạm phát hằng số này lại biến mất. Sau giai đoạn lạm phát, kích thước vũ trụ đã tăng lên gấp 1030 so với kích thước ban đầu. Khi giai đoạn lạm phát kết thúc, vũ trụ lúc này chứa pha vật chất plasma quark–gluon, cũng như các hạt cơ bản khác. Lý thuyết lạm phát không những giải thích sự đồng nhất và đẳng hướng của không gian mà còn ở những thăng giáng nhỏ trong nhiệt độ của CMB. Nhiệt độ lúc này vẫn rất cao do vậy chuyển động ngẫu nhiên của các hạt là chuyển động với vận tốc tương đối tính, và sự sinh các cặp hạt–phản hạt liên tục tạo ra và hủy các cặp hạt này trong các va chạm. Ở một thời điểm chưa được biết chính xác, các nhà vật lý đề xuất tồn tại một pha gọi là "nguồn gốc phát sinh baryon" (baryongenesis) trong đó các phản ứng giữa vật chất và phản chất có sự vi phạm định luật bảo toàn số baryon, dẫn đến sự hình thành một lượng dư thừa rất nhỏ các hạt quark và lepton so với lượng phản quark và phản lepton— với tỷ lệ khoảng một hạt vật chất dư ra trên 30 triệu phản ứng. Kết quả này dẫn đến sự vượt trội về vật chất so với phản vật chất trong vũ trụ ngày nay.
Vũ trụ tiếp tục giảm nhiệt độ và mật độ, hay động năng của các hạt tiếp tục giảm (những sự giảm này là do không thời gian tiếp tục giãn nở). Hiện tượng phá vỡ đối xứng ở giai đoạn chuyển pha đưa đến hình thành riêng rẽ các tương tác cơ bản của vật lý và những tham số của các hạt sơ cấp mà chúng có như ngày nay. Sau khoảng 10−11 giây, chỉ còn ít tính chất của tiến trình vụ nổ mang tính ước đoán, do năng lượng của các hạt giảm xuống giá trị mà các nhà vật lý hạt có thể đánh giá và đo được trong các thí nghiệm trên máy gia tốc. Đến 10−6 giây, hạt quark và gluon kết hợp lại thành baryon như proton và neutron. Một lượng dư thừa quark so với phản quark dẫn đến hình thành lượng baryon vượt trội so với phản baryon. Nhiệt độ lúc này không đủ cao để phản ứng sinh cặp proton–phản proton xảy ra (và tương tự cho sinh cặp neutron–phản neutron), do vậy sự hủy khối lượng ngay lập tức xảy ra để lại đúng 1 hạt trong 1010 hạt proton và neutron, và không hạt nào có phản hạt của chúng. Một quá trình tương tự diễn ra khoảng 1 giây cho cặp hạt electron và positron. Sau quá trình hủy cặp hạt–phản hạt, vũ trụ chỉ còn lại các proton, neutron và electron và những hạt này không còn chuyển động với vận tốc tương đối tính nữa và mật độ năng lượng của Vũ trụ chứa chủ yếu photon (với một lượng nhỏ là đóng góp của neutrino).
Một vài phút sau sự giãn nở, khi nhiệt độ lúc này giảm xuống 1 tỷ (109; SI) kelvin và mật độ tương đương với mật độ không khí, lúc này hạt neutron kết hợp với proton để hình thành lên hạt nhân deuteri và heli trong quá trình gọi là phản ứng tổng hợp hạt nhân Vụ Nổ Lớn. Hầu hết những proton không tham gia phản ứng kết hợp trở thành proton tự do và chính là hạt nhân của nguyên tử hiđrô. Vũ trụ tiếp tục lạnh đi, mật độ năng lượng và khối lượng nghỉ của vật chất trở lên lấn át về lực hấp dẫn so với bức xạ photon. Sau khoảng 379.000 năm, nhiệt độ vũ trụ lúc này khoảng 3.000 K electron và hạt nhân bắt đầu kết hợp lại với nhau tạo nên nguyên tử (chủ yếu là hiđrô); và bức xạ photon không tương tác với electron tự do, nó không còn bị cản trở bởi plasma và lan truyền tự do trong không gian. Bức xạ tàn dư này chính là bức xạ phông vi sóng vũ trụ.
Trong thời gian dài, những vùng có mật độ vật chất tập trung hơi lớn hơn so với sự phân bố đồng đều của vật chất sẽ dần dần tạo ảnh hưởng lực hút hấp dẫn lên vật chất bên cạnh, và kết quả hình thành những vùng có mật độ tập trung vật chất lớn, hình thành lên các đám mây khí, sao, thiên hà, và những cấu trúc lớn khác trong vũ trụ quan sát được ngày nay. Chi tiết về quá trình này phụ thuộc vào lượng và kiểu vật chất trong vũ trụ. Có bốn loại vật chất mà các nhà vật lý đưa ra là vật chất tối lạnh, vật chất tối ấm, vật chất tối nóng, và vật chất baryon. Những kết quả khảo sát chính xác nhất (từ WMAP và tàu Planck) cho thấy dữ liệu phù hợp với giá trị của mô hình Lambda-CDM ở đây mô hình dựa trên vật chất tối lạnh (vật chất tối nóng bị loại trừ bởi pha tái sinh ion), và ước lượng chiếm khoảng 23% (WMAP) và mới nhất 26,8% (Planck) của tổng năng lượng/vật chất, trong khi vật chất baryon chiếm 4.9%. Trong "mô hình mở rộng" bao gồm vật chất tối nóng trong dạng của neutrino, thì nếu "mật độ baryon vật lý" Ωbh2 được ước lượng bằng 0,023 (giá trị này khác với giá trị 'mật độ baryon' Ωb biểu diễn theo tỷ lệ mật độ tổng vật chất/năng lượng, mà giá trị WMAP đo được 0,046), và tương ứng mật độ vật chất tối lạnh Ωch2 vào khoảng 0,11, thì mật độ neutrino tương ứng Ωvh2 ước lượng nhỏ hơn 0,0062.
Những số liệu quan sát độc lập từ các vụ nổ siêu tân tinh loại Ia và CMB cho thấy ngày nay Vũ trụ bị thống trị bởi dạng năng lượng bí ẩn gọi là năng lượng tối, và dường như chúng thấm vào mọi vùng không thời gian và như một dạng áp suất âm, đẩy mọi thứ ra xa. Quan sát mới nhất cho kết quả năng lượng tối chiếm 68,3% tổng mật độ năng lượng trong vũ trụ quan sát được ngày nay. Khi vũ trụ còn sơ khai, có thể nó đã chứa năng lượng tối, nhưng do thể tích không gian nhỏ hơn và mọi thứ vẫn đang ở gần nhau, lúc này lực hấp dẫn mạnh hơn và hút vật chất về nhau, và dần dần làm chậm lại sự giãn nở của không thời gian. Nhưng sau hàng tỷ năm giãn nở, năng lượng tối lại vượt trội lực hấp dẫn và như miêu tả bởi định luật Hubble nó đang làm sự giãn nở của không thời gian tăng tốc. Trong mô hình vũ trụ học Lambda-CDM, năng lượng tối thể hiện ở dạng đơn giản nhất thông qua hằng số vũ trụ học Λ xuất hiện trong phương trình trường Einstein của thuyết tương đối rộng, nhưng bản chất và cơ chế hoạt động của hằng số này vẫn còn là câu hỏi lớn, và nói chung, chi tiết của phương trình trạng thái vũ trụ học và mối liên hệ với Mô hình Chuẩn của vật lý hạt vẫn còn đang được khảo sát trên lĩnh vực quan sát thực nghiệm và lý thuyết.
Tất cả quá trình tiến hóa của vũ trụ sau kỷ nguyên lạm phát được mô hình hóa và miêu tả bằng toán học khá phức tạp trong mô hình ΛCDM của vũ trụ học, dựa trên hai khuôn khổ lý thuyết đó là cơ học lượng tử và thuyết tương đối tổng quát của Albert Einstein. Như chú ý ở trên, chưa có mô hình lý thuyết nào miêu tả được đặc điểm vũ trụ trước đó 10−15 giây khi hình thành. Các nhà vật lý cần lý thuyết hấp dẫn lượng tử thống nhất hai khuôn khổ lý thuyết hiện đại để có thể vượt qua trở ngại này. Hiểu được giai đoạn sớm nhất trong lịch sử vũ trụ hiện tại là một trong những vấn đề lớn nhất chưa giải quyết được của vật lý học.
Các tiên đề cơ sở.
Lý thuyết Vụ Nổ Lớn có hai tiên đề cơ sở: tính phổ quát của các định luật vật lý và nguyên lý vũ trụ học. Nguyên lý vũ trụ học phát biểu rằng trên cấp vĩ mô Vũ trụ là đồng nhất và đẳng hướng.
Những ý tưởng này ban đầu chỉ là giả thuyết, nhưng ngày nay các nhà vật lý đang có nỗ lực nhằm kiểm nghiệm hai tiên đề này. Ví dụ, họ kiểm tra giả thuyết về tính phổ quát của vũ trụ bằng cách nghiên cứu xem hằng số cấu trúc tinh tế có thay đổi theo tuổi của vũ trụ với độ chính xác 10−5 hoặc tỉ số khối lượng proton trên electron có thay đổi ở những nơi khác trong vũ trụ hay không. Hơn nữa, thuyết tương đối tổng quát đã trải qua những thí nghiệm kiểm tra rất chặt chẽ trong phạm vi Hệ Mặt Trời cũng như ở các sao xung hay lỗ đen.
Nếu cấu trúc lớn của Vũ trụ hiện lên đẳng hướng khi quan sát từ Trái Đất, nguyên lý vũ trụ học có phiên bản đơn giản hơn đó là nguyên lý Copernicus, phát biểu rằng không có điểm và hướng ưu tiên đặc biệt nào. Tính đồng nhất có nghĩa là vật chất và năng lượng phân bố hầu như đồng đều trên khoảng cách lớn trong vũ trụ. Đối với tính đẳng hướng và đồng nhất, nguyên lý vũ trụ học đã được xác nhận với độ chính xác cỡ 10−6 đối với thăng giáng nhiệt độ trong quan sát CMB.
Thuyết tương đối rộng miêu tả không thời gian bằng tenxơ mêtric, cho phép xác định khoảng cách, thời gian giữa hai điểm trong không thời gian. Những điểm này, tương ứng là các ngôi sao, thiên hà hoặc những thiên thể khác, được gắn bởi một tọa độ trong hệ tọa độ không thời gian. Nguyên lý vũ trụ học cho kết quả là mêtric sẽ đồng nhất và đẳng hướng trên thang vĩ mô, và mêtric này được miêu tả duy nhất bằng mêtric Friedmann–Lemaître–Robertson–Walker (mêtric FLRW). Trong mêtric chứa một hệ số tỷ lệ (scale factor) a(t) miêu tả sự biến đổi kích thước không gian theo thời gian. Sự biến đổi này cho phép các nhà vật lý lựa chọn một hệ tọa độ phù hợp gọi là tọa độ đồng chuyển động. Trong hệ tọa độ này, các trục tọa độ không gian giãn nở cùng với Vũ trụ, mà mọi thiên thể như đang chuyển động do sự giãn nở của không gian nhưng vẫn có giá trị cố định theo các trục tọa độ. Như vậy không gian vũ trụ có tính động lực, nó giãn nở hay co lại (chứ không phải các thiên hà đang lùi ra xa trong một không gian bất biến.) Trong khi "khoảng cách" biểu diễn trong hệ tọa độ "đồng chuyển động" là không đổi giữa hai thiên hà, thì khoảng cách "vật lý" thực tế giữa chúng lại giãn nở tăng lên tỷ lệ với hệ số a(t) trong Vũ trụ.
Vụ Nổ Lớn không phải là hiện tượng nổ vật chất bắn ra xa và lấp đầy không gian trống rỗng có từ trước. Thay vì vậy, không gian tự nó giãn nở ở khắp nơi theo thời gian và khoảng cách vật lý thực tăng lên giữa hai điểm đồng chuyển động. Bởi vì mêtric FLRW dựa trên sự phân bố đồng đều của vật chất và năng lượng, nó chỉ áp dụng cho Vũ trụ trên khoảng cách vĩ mô (trên 100 Mpc)—sự tập trung cục bộ của vật chất như hệ hành tinh, thiên hà thậm chí nhóm thiên hà liên kết bởi trường hấp dẫn không bị ảnh hưởng bởi sự giãn nở trên khoảng cách lớn của không gian. Các thiên hà gần tiến về nhau hoặc lùi ra xa chủ yếu là do tương tác hấp dẫn giữa chúng, và hầu như không bị ảnh hưởng bởi hằng số vũ trụ học.
Một đặc điểm quan trọng của không thời gian Vụ Nổ Lớn đó là sự có mặt của chân trời. Do Vũ trụ chỉ có tuổi hữu hạn, và ánh sáng có tốc độ hữu hạn, có những sự kiện trong quá khứ mà ánh sáng không đủ thời gian để đến được chúng ta. Điều này đặt ra giới hạn hoặc có một "chân trời quá khứ" về những thiên thể ở xa nhất mà có thể quan sát được. Ngược lại, bởi vì không gian đang giãn nở, các vật thể càng ở xa thì lùi càng xa hơn, và ánh sáng phát ra từ hành tinh chúng ta có thể không bao giờ "đến được" những vật thể ở rất xa này. Đây là định nghĩa cho "chân trời tương lai", nó đặt ra giới hạn cho những sự kiện trong tương lai mà chúng ta có thể ảnh hưởng đến được. Ảnh hưởng cụ thể của từng loại chân trời phụ thuộc chi tiết vào mêtric FLRW miêu tả Vũ trụ của chúng ta. Sự hiểu biết của chúng ta về Vũ trụ quay ngược lại thời gian sơ khai gợi ra có một chân trời quá khứ, mặc dù trong thiên văn khả năng quan sát của chúng ta còn bị giới hạn bởi độ mờ đục do vật chất quá đậm đặc lúc Vũ trụ còn trẻ. Vì vậy chúng ta không thể nhìn xa hơn về quá khứ, cũng như chân trời này lùi ra xa trong không gian. Nếu sự giãn nở của không gian Vũ trụ tiếp tục gia tốc, sẽ có một chân trời tương lai.
Fred Hoyle là người đầu tiên sử dụng thuật ngữ "Big Bang" năm 1949 trên một chương trình radio của BBC. Hoyle là người ủng hộ "Thuyết trạng thái dừng" của vũ trụ, và ông đưa ra thuật ngữ này để ví von khôi hài mô hình lý thuyết của những người khác về vũ trụ giãn nở. Hoyle phê phán mạnh mẽ cũng như bác bỏ lý thuyết này và nói rằng thuật ngữ Big Bang khắc họa sự khác biệt lớn giữa hai mô hình.
Lịch sử phát triển.
Mô hình Vụ Nổ Lớn phát triển từ những quan sát về cấu trúc của Vũ trụ và từ phương diện lý thuyết. Năm 1912 Vesto Slipher đo dịch chuyển Doppler của "tinh vân xoắn ốc" (thời đó người ta chưa biết tinh vân xoắn ốc là các thiên hà), và ông sớm phát hiện ra đa số các tinh vân này đang lùi ra xa Trái Đất. Nhưng ông không nhận ra ý nghĩa vũ trụ của phát hiện này, bởi vì trong thời gian này có tranh cãi lớn xung quanh những tinh vân này có hay không là những "hòn đảo vũ trụ" bên ngoài Ngân Hà. Cuối năm 1915, Albert Einsein hoàn thiện thuyết tương đối rộng, và năm 1917 ông áp dụng lý thuyết của mình cho toàn thể vũ trụ. Tuy nhiên các phương trình của ông tiên đoán vũ trụ có thể co lại bởi trường hấp dẫn hút vật chất về nhau. Để cho vũ trụ tĩnh tại như mọi người đương thời cũng như ông từng nghĩ, ông đã đưa thêm hằng số vũ trụ học-có ý nghĩa như một lực đẩy nhằm cân bằng với lực hấp dẫn-vào các phương trình của mình. Năm 1922, Alexander Friedmann, nhà toán học và vũ trụ học người Nga đã suy luận ra phương trình Friedmann từ phương trình trường Einstein, và phát hiện ra vũ trụ đang giãn nở mà không cần một hằng số vũ trụ học như Einstein đã nêu ra. Năm 1924 những đo lường của nhà thiên văn học người Mỹ Edwin Hubble đối với khoảng cách đến những tinh vân mà ông có thể quan sát ở thời đó chỉ ra rằng, quả thực những tinh vân xoắn ốc này là các thiên hà. Cũng trong năm 1924 Carl Wilhelm Wirtz, và năm 1925 Knut Lundmark, hai người đã nhận ra các tinh vân ở xa hơn thì lùi ra xa nhanh hơn so với các tinh vân ở gần. Georges Lemaître và Einstein sau khi thuyết trình về nguồn gốc vũ trụ, đây là một lý thuyết khoa học về cách vũ trụ bắt đầu, mà đã tiếp tục tạo ra các ngôi sao và các thiên hà ngày nay. Lemaitre qua đời vào ngày 20 tháng 6 năm 1966, ngay sau khi biết được phát hiện bức xạ nền vi sóng vũ trụ.
Điều này cung cấp thêm bằng chứng cho lý thuyết của ông về sự ra đời của vũ trụ. Công việc của Lemaitre đã được công nhận rộng rãi trên toàn thế giới, và có ảnh hưởng to lớn cho đến ngày nay. Năm 1931 Lemaître tiếp tục nghiên cứu trước đó và đề xuất về manh mối cho sự giãn nở của Vũ trụ, nếu chúng ta đi ngược lại thời gian, vào thời điểm càng xa trong quá khứ thì vũ trụ càng nhỏ hơn, cho đến một thời điểm hữu hạn ở quá khứ, mọi khối lượng và năng lượng của Vũ trụ tập trung lại tại một điểm, gọi là "nguyên tử nguyên thủy", nơi bắt đầu hình thành lên cấu trúc không thời gian. Ông là người đầu tiên đề xuất lý thuyết về giãn nở vũ trụ, mà người ta thường hay gán nhầm cho Edwin Hubble
Bắt đầu từ năm 1924, Hubble nỗ lực phát triển phương pháp đo khoảng cách đến những thiên hà xa, dựa trên sự biến đổi độ sáng của các sao Cepheid—một "ngọn nến" chuẩn để đo khoảng cách đến các thiên hà cho các nhà thiên văn—bằng sử dụng kính thiên văn mới lắp đặt Hooker đường kính 2.500 mm tại đài quan sát núi Wilson. Nhờ kính mới mà ông đã có thể ước tính được khoảng cách đến những thiên hà có độ dịch chuyển đỏ đã được đo trước đó bởi Slipher. Năm 1929 Hubble phát hiện ra tương quan giữa khoảng cách và vận tốc lùi xa của thiên hà—mà ngày nay gọi là định luật Hubble. Lemaître cũng đã từng đoán ra định luật này dựa trên nguyên lý vũ trụ học và phương trình Friedmann. Sau tất cả những khám phá trên, Einstein đã từ bỏ hằng số vũ trụ học và gọi đây là sai lầm lớn nhất của ông. Vì ông nhận ra là đã dựa trên niềm tin có từ lâu về vũ trụ tĩnh tại, mà thực tế mô hình này chưa hề được kiểm chứng do trước đây chỉ là niềm tin từ các nhà triết học cũng như cộng đồng khoa học.
Trong các thập niên 1920 và 1930 đa số các nhà vũ trụ học ủng hộ cho mô hình "Trạng thái dừng", một Vũ trụ tĩnh tại và vĩnh hằng. Một số người còn cho rằng khái niệm về sự khởi đầu của thời gian từ Vụ Nổ Lớn là mang vai trò của tôn giáo vào trong vật lý; những chống đối này sau này còn được những người ủng hộ thuyết Trạng thái dừng lặp lại. Sự nhận thức của họ còn được củng cố bởi vì nhà sáng lập thuyết Big Bang, Monsignor Georges Lemaître, là một thầy tu Công giáo La Mã. Arthur Eddington ủng hộ quan điểm của Aristotle khi cho rằng vũ trụ không có sự khởi đầu của thời gian, hay vật chất là tồn tại vĩnh hằng. Sự khởi đầu thời gian là điều "không thể chấp nhận" đối với ông. Tuy thế, Lemaître đã viếtNếu thế giới bắt đầu từ một điểm lượng tử, những khái niệm không gian và thời gian sẽ không có bất cứ một ý nghĩa gì tại thời điểm khởi đầu; nó chỉ bắt đầu có một ý nghĩa nhận thức được khi lượng tử ban đầu đã phân chia thành đủ một số lượng tử. Nếu đề xuất này là đúng, sự khởi nguyên của thế giới có thể còn hơi sớm hơn sự khởi đầu của không gian và thời gian.
Ở câu trên ý của Lemaître về sự phân chia lượng tử theo cách hiểu ngày nay chính là tiến trình của Vụ Nổ Lớn từ một nguyên tử nguyên thủy. (điểm lượng tử)
Trong thập niên 1930 những ý tưởng khác cũng đã được đề xuất như những mô hình vũ trụ học không tiêu chuẩn nhằm giải thích các kết quả quan sát của Hubble, bao gồm "mô hình Milne"; "Vũ trụ dao động", một vũ trụ nở ra rồi co lại trở về điểm kì dị ban đầu (do Friedmann đề xuất đầu tiên, với Albert Einstein và Richard Tolman là những người ủng hộ); và giả thiết về "sự mỏi" ánh sáng của Fritz Zwicky.
Sau chiến tranh thế giới lần thứ II, hai mô hình nổi bật còn đứng vững. Một là mô hình "Trạng thái dừng" của Fred Hoyle, với đề xuất khả năng vật chất được sinh ra khi vũ trụ giãn nở. Trong mô hình này vũ trụ gần như nhau tại mọi điểm trong thời gian. Mô hình kia là mô hình Vụ Nổ Lớn do Lemaître khởi xướng, và George Gamow là người ủng hộ và phát triển lý thuyết với khái niệm tổng hợp hạt nhân Vụ Nổ Lớn (BBN), một khái niệm ông nêu ra khi nghiên cứu quá trình và nguồn gốc sinh ra các nguyên tố nhẹ nhất. Những người khác như Ralph Alpher và Robert Herman cũng ủng hộ lý thuyết và tiên đoán sự tồn tại của bức xạ nền vi sóng (CMB). Và kỳ quặc là chính Hoyle đã nêu ra tên gọi Big Bang cho lý thuyết của Lemaître trong chương trình radio của BBC vào tháng 3 năm 1949. Trong một thời gian, số lượng người ủng hộ cho hai lý thuyết là gần bằng nhau. Cuối cùng, những quan sát thiên văn, chủ yếu từ các nguồn vô tuyến, bắt đầu ủng hộ Vụ Nổ Lớn và đánh bại Thuyết trạng thái dừng. Sự phát hiện và xác nhận tính chất của bức xạ nền vi sóng vũ trụ vào năm 1964 mang lại thắng lợi cho Vụ Nổ Lớn và lý thuyết trở thành mô hình phù hợp nhất cho nguồn gốc và sự tiến hóa của Vũ trụ. Những nghiên cứu hiện nay trong vũ trụ học bao gồm sự hình thành sao và thiên hà sau Vụ Nổ Lớn, quan sát và đo lường chính xác hơn bức xạ phông vi sóng cũng như tốc độ giãn nở của vũ trụ, kiểm nghiệm cơ sở của Nguyên lý vũ trụ học. Về phương diện lý thuyết đó là tìm hiểu điểm kì dị tại Vụ Nổ Lớn cũng như về một lý thuyết hấp dẫn lượng tử và tương lai tối hậu của vũ trụ.
Giữa thập niên 1990, khi các nhà thiên văn quan sát những cụm sao cầu họ thấy dường như có gì đó mâu thuẫn với lý thuyết Vụ Nổ Lớn. Các mô phỏng máy tính mà cho kết quả khớp với thực nghiệm về phân loại sao trong cụm sao cầu gợi ra rằng tuổi của chúng vào khoảng 15 tỷ năm, lớn hơn tưổi của Vũ trụ là 13.8 tỷ năm. Vấn đề này ngay sau đó được giải quyết khi vào cuối thập niên 1990 những mô phỏng siêu máy tính mới về hiệu ứng mất khối lượng trong gió sao cho kết quả tuổi của cụm sao cầu giảm đi. Vẫn còn những câu hỏi liên quan đến tuổi của các cụm sao cầu được đo chính xác đến mức nào, nhưng rõ ràng rằng quan sát về tuổi cụm sao cầu không thể cho giá trị mâu thuẫn với mô hình Vụ Nổ Lớn.
Những tiến bộ quan trọng trong vũ trụ học Vụ Nổ Lớn đã diễn ra từ cuối thập niên 1990 nhờ sự phát triển của công nghệ cũng như hiệu quả trong xử lý dữ liệu từ những dự án khảo sát như COBE, kính thiên văn không gian Hubble, WMAP. và tàu Planck Các nhà vũ trụ học hiện nay đã có những dữ liệu chính xác về các tham số của mô hình Vụ Nổ Lớn, và bất ngờ đã phát hiện ra sự giãn nở đang tăng tốc của không gian vũ trụ.
Bằng chứng thực nghiệm.
Những chứng cứ quan sát sớm và trực tiếp nhất đó là sự giãn nở không gian do Hubble phát hiện trong dữ liệu dịch chuyển đỏ các thiên hà, những đo lường chi tiết về bức xạ phông vi sóng vũ trụ, sự có mặt của các nguyên tố nhẹ nguyên thủy rạo ra bởi tổng hợp hạt nhân Vụ Nổ Lớn, sự hình thành cấu trúc lớn của vũ trụ và sự hình thành và tiến hóa của thiên hà được tiên đoán bởi ảnh hưởng của lực hấp dẫn trong mô hình chuẩn vũ trụ học. Những bằng chứng quan sát này đôi khi được gọi là "bốn trụ cột của lý thuyết Vụ Nổ Lớn".
Mô hình hiện đại chính xác về Vụ Nổ Lớn lôi cuốn từ nhiều hiện tượng vật lý kì lạ mà chưa từng được quan sát trong phòng thí nghiệm trên Trái Đất hay được mô tả bởi Mô hình chuẩn của vật lý hạt. Trong số những đặc điểm này, vật chất tối hiện đang là lĩnh vực nghiên cứu khảo sát năng động trong các phòng thí nghiệm. Những vấn đề khác như vấn đề tích tụ vật chất tối ở quầng thiên hà (cuspy halo problem) hay vấn đề thiên hà lùn liên hệ với vật chất tối lạnh. Năng lượng tối cũng là chủ đề được nhiều nhà khoa học quan tâm, nhưng người ta vẫn chưa biết liệu có thể phát hiện được trực tiếp năng lượng tối hay không. Giai đoạn lạm phát vũ trụ và nguồn gốc phát sinh baryon vẫn còn nhiều đặc điểm phỏng đoán và giả thuyết trong mô hình Vụ Nổ Lớn. Những nghiên cứu nhằm giải thích định lượng cho những hiện tượng này vẫn đang được các nhà vật lý tìm kiếm. Chúng cũng nằm trong danh sách những vấn đề chưa giải được của vật lý học.
Định luật Hubble và sự giãn nở của không gian.
Khi quan sát các thiên hà và quasar từ xa các nhà thiên văn nhận thấy những thiên thể này có phổ bị dịch chuyển đỏ—sóng điện từ phát ra từ chúng bị dịch chuyển bước sóng. Để nhận ra điều này các nhà thiên văn thu lấy phổ của vật thể và so sánh những dải phổ vạch phát xạ hoặc hấp thụ tương ứng với phổ nguyên tử của nguyên tố hóa học khi cho ánh sáng truyền qua. Sự dịch chuyển đỏ này có tính đồng nhất và đẳng hướng, phân bố đều đặn theo những thiên thể quan sát trong mọi hướng. Nếu dịch chuyển đỏ được coi như là một kiểu dịch chuyển Doppler, chúng ta sẽ tính được vận tốc lùi ra xa của thiên thể, và do vậy có thể ước lượng được khoảng cách đến chúng thông qua các chuẩn khoảng cách sẵn có. Khi các nhà khoa học vẽ đồ thị tương quan giữa vận tốc lùi xa và khoảng cách đến các thiên hà họ nhận thấy có một quan hệ tuyến tính hay chính là định luật Hubble:
Có hai cách giải thích cho định luật Hubble. Một là chúng ta đang ở tâm của một vụ nổ đẩy các thiên hà ra xa— mà dường như không phù hợp với nguyên lý Copernicus—hoặc Vũ trụ với không gian đang giãn nở đều ở mọi nơi. Cách giải thích thứ hai được nhà vật lý Alexander Friedmann tìm ra lần đầu tiên nhờ nghiên cứu các hệ quả của thuyết tương đối rộng năm 1922 và bởi Georges Lemaître năm 1927, trước các kết quả quan sát, phân tích của Hubble năm 1929 trên phương diện thực nghiệm. Hiện tượng không gian giãn nở vẫn là hòn đá tảng của lý thuyết Vụ Nổ Lớn, do các nhà khoa học Friedmann, Lemaître, Robertson, và Walker phát triển và nghiên cứu các tính chất của mêtric giãn nở.
Mô hình đòi hỏi phương trình "v" = "HD" thỏa mãn mọi lúc, với "D" là khoảng cách đồng chuyển động, "v" là vận tốc lùi xa, thậm chí "v", "H", và "D" có thể có giá trị biến đổi khi vũ trụ giãn nở (do đó chúng ta viết "H"0 nhằm ký hiệu "hằng số" Hubble do chúng ta quan sát ngày nay). Đối với khoảng cách nhỏ hơn kích thước của Vũ trụ quan sát được, dịch chuyển đỏ Hubble có thể coi như dịch chuyển Doppler tương ứng với vận tốc lùi xa "v". Tuy nhiên, hiện tượng dịch chuyển đỏ có bản chất khác với cách giải thích cổ điển của hiệu ứng Doppler, mà là ở kết quả của sự giãn nở không gian vũ trụ giữa thời gian ánh sáng phát ra từ thiên thể xa xôi và thời gian nó đến được thiết bị quan sát.
Mêtric giãn nở của không gian là hệ quả trực tiếp từ bằng chứng thực nghiệm về nguyên lý vũ trụ học và cụ thể hơn nguyên lý Copernicus, mà cùng với định luật Hubble thì không có một cách giải thích nào khác cho sự giãn nở này. Giá trị dịch chuyển đỏ của các thiên thể cho thấy sự đồng nhất và đẳng hướng gần hoàn hảo của không gian vũ trụ, và là bằng chứng thực nghiệm ủng hộ cho nguyên lý vũ trụ học rằng khi nhìn theo mọi hướng Vũ trụ giống như nhau, nguyên lý này còn được ủng hộ bởi các bằng chứng khác. Nếu sự dịch chuyển đỏ là kết quả của một vụ nổ tỏa ra từ tâm nào đó thì chúng sẽ không giống nhau khi quan sát ở những hướng khác nhau.
Kết quả khảo sát về bức xạ phông vi sóng vũ trụ trên động lực của các hệ thiên thể là một bằng chứng thuyết phục khác cho nguyên lý Copernicus, rằng trên cấp vĩ mô của vũ trụ, Trái Đất không phải là trung tâm của vũ trụ. Các nhà khoa học đã chứng minh bức xạ phát ra từ Vụ Nổ Lớn phải ấm hơn tại những thời điểm sớm hơn trong lịch sử vũ trụ. Sự lạnh đi đồng đều của CMB trên hàng tỷ năm chỉ có thể giải thích được nếu Vũ trụ trải qua sự giãn nở không gian, và ngoại trừ khả năng chúng ta ở một trung tâm đặc biệt nào đó của vụ nổ.
Bức xạ phông vi sóng vũ trụ.
Năm 1964, hai nhà vô tuyến học Arno Penzias và Robert Wilson tình cờ phát hiện ra bức xạ phông vi sóng vũ trụ CMB, một tín hiệu thuộc bước sóng vi ba đến từ mọi hướng trong không gian. Việc phát hiện này mang lại chứng cứ thực nghiệm quan trọng xác nhận những tiên đoán tổng quát về: bức xạ được đo với tính chất phù hợp hoàn hảo với phổ bức xạ vật đen trong mọi hướng; phổ này cũng bị dịch chuyển đỏ bởi sự giãn nở của không gian vũ trụ, với giá trị nhiệt độ ngày nay đo được xấp xỉ 2,725 K. Sự đồng đều tinh tế này là kết quả ủng hộ cho mô hình Vụ Nổ Lớn, và Penzias và Wilson nhận giải Nobel Vật lý năm 1978 cho khám phá của họ.
Khái niệm "bề mặt tán xạ cuối cùng" tương ứng với sự phát xạ của CMB ngay sau giai đoạn "tái kết hợp", kỷ nguyên mà các nguyên tử hiđrô trung hòa trở lên ổn định. Trước kỷ nguyên này, vũ trụ chứa đầy biển plasma hỗn hợp đặc nóng photon-baryon và photon bị tán xạ qua lại bởi các hạt điện tích tự do. Giá trị đỉnh tương ứng với khoảng thời gian #đổi
Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
nghìn năm, sau thời gian này vật chất trở lên trong suốt hơn do chúng kết hợp thành nguyên tử trung hòa và photon có thể tự do di chuyển quãng đường dài mà không bị tán xạ và cuối cùng chúng đến được các thiết bị khảo sát của chúng ta ngày nay.
Năm 1989 NASA phóng tàu "Cosmic Background Explorer satellite" (COBE). Nhiệm vụ của nó là tìm bằng chứng thực nghiệm cho các đặc điểm của CMB, và nó đã đo được bức xạ tàn dư đồng đều theo mọi hướng với nhiệt độ 2,726 K (những khảo sát gần đây mang lại kết quả chính xác hơn là 2,725 K) và lần đầu tiên con tàu đã phát hiện ra sự thăng giáng nhỏ (phi đẳng hướng) trong CMB, với độ chính xác 1 trên 105. John C. Mather và George Smoot đã nhận giải Nobel Vật lý năm 2006 cho vai trò là những người lãnh đạo dự án COBE. Trong những thập kỷ tiếp sau, tính phi đẳng hướng trong CMB đã được quan sát trên các thí nghiệm ở mặt đất cũng như bằng bóng thám không. Trong thí nghiệm năm 2000–2001, dự án thực nghiệm BOOMERanG đã tìm thấy hình dạng của Vũ trụ hầu như là không gian phẳng dựa trên kết quả đo độ phân giải góc điển hình (đường kính góc trên bầu trời) về tính phi đẳng hướng.
Đầu năm 2003, các nhà khoa học NASA công bố kết quả khảo sát đầu tiên từ tàu WMAP (Wilkinson Microwave Anisotropy Probe), mang lại dữ liệu thực nghiệm chính xác hơn trước về các tham số trong mô hình chuẩn của Vũ trụ học. Kết quả cũng bác bỏ nhiều tham số khác nhau tương ứng với một vài mô hình lạm phát cụ thể, nhưng nói chung đề phù hợp với những đặc điểm khái quát của mô hình lạm phát. Tàu Planck phóng lên từ tháng 5 năm 2009. Tháng 3 năm 2013 các nhà khoa học ESA cho công bố dữ liệu từ Planck với độ chính xác cao hơn WMAP và cho thấy Vũ trụ hầu như đồng nhất và đẳng hướng trên độ phân giải góc nhỏ. Đối với độ phân giải góc lớn hơn, họ phát hiện thấy có sự phi đẳng hướng nhỏ trên 2 cực của bầu trời và đang nỗ lực giải thích kết quả này trên lý thuyết. Nhiều khảo sát trên mặt đất và bằng bóng thám không khác cũng đang được thực hiện trên khắp thế giới.
Sự hình thành các nguyên tố cơ bản.
Lý thuyết Vụ Nổ Lớn có thể tính được số lượng tập trung của các nguyên tố heli-4, heli-3, deuteri, và lithi-7 trong Vũ trụ theo tỉ số với lượng hiđrô thông thường. Tỷ lệ có mặt của từng nguyên tố phụ thuộc vào một tham số đó là tỉ số photon trên baryon. Giá trị này có thể tính độc lập từ chi tiết thăng giáng trong cấu trúc CMB. Kết quả lý thuyết cho các tỉ số (theo khối lượng) là khoảng 0,25 cho 4He/H, khoảng 10−3 đối với 2H/H, khoảng 10−4 đối với 3He/H và khoảng 10−9 đối với 7Li/H..
Tất cả các giá trị lý thuyết về tỷ số photon-baryon cho các nguyên tố đều phù hợp thô với kết quả thực nghiệm. Tỷ số này phù hợp tuyệt vời với phép đo cho deuteri, gần với của 4He, và lệch 2 giá trị thập phân cho 7Li; hai trường hợp cuối là do độ sai số hệ thống trong phép đo. Trên tất cả, sự nhất quán nói chung về số lượng các nguyên tố nguyên thủy tiên đoán bởi mô hình Vụ Nổ Lớn với giá trị thực nghiệm là manh mối thuyết phục cho lý thuyết này, do nó là lý thuyết duy nhất cho tới nay có khả năng giải thích cho tỷ lệ có mặt của các nguyên tố nhẹ từ thời điểm sơ khai. Và các nhà lý thuyết chỉ ra không thể điều chỉnh các tham số cho Vụ Nổ Lớn nhằm tạo ra lượng heli nhiều hay ít hơn 20–30%. Quả thực không thể có một lý do thích đáng nào ngoài mô hình Vụ Nổ Lớn, ví dụ, lúc Vũ trụ còn sơ khai (trước khi các ngôi sao hình thành, như giả sử các nguyên tố nhẹ được sinh ra bởi các phản ứng tổng hợp hạt nhân trong lòng ngôi sao) mà có nhiều heli hơn deuteri hoặc lượng deuteri hơn 3He, và theo một hằng số duy nhất.
Sự phân bố và tiến hóa của các thiên hà.
Dựa trên những quan sát chi tiết về hình thái của các thiên hà và cấu trúc lớn trên Vũ trụ về sự phân bố thiên hà và quasar đều cho kết quả khớp với lý thuyết hiện tại về Vụ Nổ Lớn. Bằng cách kết hợp mô hình với dữ liệu thực nghiệm cho thấy những quasar và thiên hà đầu tiên hình thành khoảng 1 tỷ năm sau Vụ Nổ Lớn, và từ đó hình thành lên những cấu trúc lớn cấp vũ trụ, như các đám thiên hà, siêu đám thiên hà hay sợi vũ trụ (cosmic filament) và khoảng trống (void). Những ngôi sao hình thành đầu tiên và tiến hóa trong các thiên hà sớm này (thiên hà hình thành lúc vũ trụ sơ khai) hiện lên rất khác với những ngôi sao trong những thiên hà gần ngày nay (thiên hà trẻ)- ví dụ như về độ kim loại trong thành phần ngôi sao. Thậm chí, hình thái các thiên hà trẻ thuở vũ trụ sơ khai (ở khoảng cách rất lớn) cũng khác so với các thiên hà mới hình thành nhưng ở gần Ngân Hà hơn. Những kết quả này tương phản hoàn toàn với mô hình trạng thái dừng. Theo dõi tiến trình hình thành các ngôi sao, sự phân bố thiên hà và quasar và những cấu trúc lớn hơn, tất cả đều phù hợp tốt với những mô phỏng trên siêu máy tính về sự hình thành và tiến hóa của vũ trụ dựa theo mô hình Vụ Nổ Lớn, đồng thời cũng giúp các nhà vũ trụ học hoàn thiện hơn mô hình lý thuyết của họ.
Các đám mây khí nguyên thủy.
Năm 2011 các nhà thiên văn học tìm thấy chứng cứ mà họ tin rằng đây là những đám mây khí nguyên sơ của vũ trụ nguyên thủy, bằng phân tích vạch hấp thụ trong phổ của các quasar ở xa. Trước khi có khám phá này, mọi thiên thể khác được quan sát đều chứa những nguyên tố nặng hình thành trong lòng các ngôi sao. Tuy nhiên, hai đám mây khí nguyên thủy chỉ chứa các nguyên tố hiđrô và deuteri. Do các đám mây nguyên thủy này không chứa các nguyên tố nặng nào, dường như chúng hình thành từ những phút đầu tiên sau Vụ Nổ Lớn, trong giai đoạn tổng hợp hạt nhân Big Bang. Thành phần của chúng phù hợp với thành phần theo tiên đoán của lý thuyết Vụ Nổ Lớn. Kết quả quan sát này cung cấp chứng cứ trực tiếp về những chu kỳ này của vũ trụ trước khi hình thành lên những ngôi sao đầu tiên, khi hầu hết vật chất sơ khai trong vũ trụ nguyên thủy tồn tại trong những đám mây hiđrô trung hòa.
Những loại chứng cứ khác.
Tưổi của Vũ trụ ước tính từ định luật giãn nở không gian Hubble và độc lập từ bức xạ phông vi sóng CMB đều khớp khá tốt với tuổi của những ngôi sao già nhất, khi được đo bằng cách áp dụng lý thuyết về sự tiến hóa sao trong cụm sao cầu và thông qua phương pháp định tuổi bằng đồng vị phóng xạ của từng sao nhóm II.
Mô hình chuẩn của vũ trụ học tiên đoán nhiệt độ trong CMB cao hơn trong quá khứ cũng được ủng hộ bởi kết quả thực nghiệm quan sát những vạch hấp thụ nhiệt độ cực thấp trong các đám mây khí ở rất xa có dịch chuyển đỏ lớn. Tiên đoán này cũng thể hiện trong biên độ của hiệu ứng Sunyaev–Zel'dovich tại các cụm thiên hà mà biên độ này không phụ thuộc trực tiếp vào dịch chuyển đỏ. Khảo sát cũng đã xác nhận hiệu ứng này ở giá trị thô, bởi vì hiệu ứng này phụ thuộc vào cấu trúc phân bố của các đám thiên hà thay đổi theo thời gian (các thiên hà có động lực chuyển động), khiến cho kết quả đo khó chính xác.
Liên hệ với những vấn đề trong vật lý.
Bất đối xứng baryon.
Người ta vẫn không hiểu tại sao Vũ trụ có nhiều vật chất hơn phản vật chất. Giả thiết đưa ra là, khi vũ trụ còn trẻ và nóng, vũ trụ ở trong một trạng thái cân bằng thống kê và có số baryon bằng số phản baryon. Tuy nhiên, các quan sát cho thấy rằng tất cả vũ trụ đều được tạo thành từ vật chất, ngay cả tại những khoảng cách xa. Các nhà khoa học nêu ra giả thuyết có quá trình nguồn gốc sinh hạt baryon đã tạo ra sự bất đối xứng này. Để quá trình sinh hạt baryon xuất hiện, các điều kiện Sakharov, do Andrei Sakharov đưa ra, cần phải được thỏa mãn. Các điều kiện đó yêu cầu số các baryon không được bảo toàn, tức là đối xứng-C và đối xứng-CP bị vi phạm, và vũ trụ xuất phát từ trạng thái cân bằng nhiệt động. Tất cả những điều kiện này xuất hiện trong Mô hình chuẩn vật lý hạt, nhưng hiệu ứng của nó không đủ mạnh để giải thích sự tồn tại của bất đối xứng baryon. Các nghiên cứu mới về vật lý hạt năng lượng cao cần được tiến hành để giải thích vấn đề trên.
Những phép đo chi tiết về liên hệ dịch chuyển đỏ–độ sáng biểu kiến đối với các vụ nổ siêu tân tinh loại Ia cho thấy sự giãn nở của không gian Vũ trụ đang gia tốc từ thời điểm khoảng 6-7 tỷ năm trước. Để giải thích sự gia tốc này, bằng sử dụng thuyết tương đối tổng quát các nhà vật lý nhận thấy trong thành phần năng lượng Vũ trụ cần phải có một dạng năng lượng mới xuất hiện dưới dạng áp suất âm, mà họ gọi là "năng lượng tối". Năng lượng tối, dù mới chỉ trên lý thuyết, đã giải quyết được nhiều vấn đề khó. Kết quả từ khảo sát bức xạ phông vi sóng cho thấy hình học của vũ trụ là không gian phẳng, do vậy theo thuyết tương đối rộng Vũ trụ phải hầu như có mật độ giới hạn khối lượng/năng lượng như tiên đoán của lý thuyết. Nhưng khi đo mật độ khối lượng trong Vũ trụ bằng phương pháp thấu kính hấp dẫn của đám thiên hà, các nhà khoa học chỉ thu được khoảng xấp xỉ 30% tỉ số mật độ như lý thuyết tiên đoán. Do mô hình chuẩn vũ trụ học đề xuất rằng năng lượng tối không tụ đám theo cách thông thường, nó là cách giải thích tốt nhất cho sự "thiếu hụt" trong mật độ năng lượng giới hạn. Năng lượng tối cũng giải thích cho hai phương pháp đo hình học về độ cong toàn thể của Vũ trụ, một sử dụng phương pháp thấu kính hấp dẫn, một sử dụng phần đặc trưng trong cấu trúc lớn của vũ trụ.
Một số nhà vật lý cho rằng áp suất âm là tính chất của năng lượng chân không, một dạng thăng giáng chân không lượng tử do nguyên lý bất định Heisenberg; nhưng bản chất chính xác và sự tồn tại của nó vẫn còn là câu hỏi bí ẩn lớn trong mô hình Vụ Nổ Lớn. Ví dụ, một ước lượng thô sơ về mật độ năng lượng chân không theo cơ học lượng tử, sử dụng hằng số hấp dẫn "G", hằng số Planck ħ và tốc độ ánh sáng "c" cho kết quả mật độ năng lượng chân không ρΛ
với MP là khối lượng Planck (~ 1019 GeV/c2) và lP là độ dài Planck (~ 10−33 cm) hay mật độ năng lượng chân không xấp xỉ 10118 GeV/cm³,
và hằng số vũ trụ học đóng góp vào mật độ năng lượng theo thuyết tương đối rộng có dạng
và giá trị mật độ giới hạn năng lượng formula_3 đo được là 0,5x10−5 GeV/cm³. Giá trị lý thuyết và thực nghiệm đo được chênh lệch nhau cỡ 122 lần bậc độ lớn!
Các nhà khoa học đề xuất một số cách giải thích cho năng lượng tối bao gồm hằng số vũ trụ học và "yếu tố thứ 5". Kết quả thu được từ đội WMAP năm 2008 cho kết quả vũ trụ chứa 73% năng lượng tối, 23% vật chất tối, 4,6% vật chất thông thường và ít hơn 1% neutrino. Thuyết lý thuyết Vụ Nổ Lớn, mật độ năng lượng vật chất giảm khi vũ trụ giãn nở, nhưng mật độ năng lượng tối vẫn là hằng số (hoặc không thay đổi nhiều) khi vũ trụ giãn nở theo thời gian. Do vậy trong quá khứ vật chất thông thường và vật chất tối chiếm tỷ lệ lớn hơn so với giá trị ngày nay, nhưng tỷ lệ này giảm đi theo thời gian và trong tương lai năng lượng tối sẽ lấn át các dạng vật chất dẫn đến sự giãn nở tăng tốc của vũ trụ. Tháng 3 năm 2013, kết quả từ tàu Planck cho kết quả chính xác hơn WMAP và Vũ trụ chứa 68,3% năng lượng tối, 26,8% vật chất tối, 4,9% vật chất thường và neutrino.
Trong những năm 1970 và 1980 các quan sát thực nghiệm cho thấy rằng không có đủ "vật chất khả kiến" (vật chất quan sát được) để làm cho vật chất trong các thiên hà và giữa các thiên hà để giữ chúng quay bằng lực hấp dẫn. Điều này dẫn đến ý tưởng cho rằng 90% vật chất trong vũ trụ là vật chất ngoại lai không phát ra bước sóng điện từ, không được tạo thành từ các hạt baryon gọi là "vật chất tối". Nếu không có giả thuyết về vật chất tối thì không giải thích được tại sao vũ trụ lại quá phẳng và có quá ít deuterium đến thế. Lúc đầu, vật chất tối còn gây tranh cãi nhưng bây giờ nó được chấp nhận rộng rãi và được coi như một phần của mô hình chuẩn Vũ trụ học, nhờ vào các quan sát về tính dị hướng của bức xạ phông vũ trụ, phân bố vận tốc của các đám thiên hà, phân bố cấu trúc trên vĩ mô của vũ trụ, nghiên cứu về thấu kính hấp dẫn, các phép đo tia X về đám thiên hà...
Chứng cứ gián tiếp cho vật chất tối đến từ ảnh hưởng hấp dẫn lên các thiên thể, và chưa có dạng vật chất nào được tìm thấy trong phòng thí nghiệm. Nhiều ứng cử viên trong vật lý hạt cho vật chất tối đã được đề xuất, và đã có một vài dự án nhằm phát hiện chúng trực tiếp.
Nói chung có ba bài toán nổi bật từ lý thuyết Vụ Nổ Lớn: bài toán chân trời, bài toán độ phẳng, và bài toán đơn cực từ. Câu trả lời chung nhất cho những bài toán này là mô hình lạm phát; tuy vậy, do lý thuyết này lại nảy sinh các bài toán mới, có những lý thuyết khác đã được đề xuất như "giả thuyết độ cong Weyl".
Bài toán chân trời.
Bài toán về chân trời phát sinh từ việc thông tin không thể truyền nhanh hơn vận tốc ánh sáng. Trong một vũ trụ có tuổi hữu hạn điều này đặt ra một giới hạn—chân trời hạt— về sự tách biệt của hai vùng không gian bất kỳ có liên hệ nhân quả với nhau. Khi đó tính đẳng hướng của CMB có một thách thức khi xem xét đến liên hệ nhân quả: nếu bức xạ hay vật chất đã từng chi phối Vũ trụ cho đến thời điểm kết thúc kỷ nguyên của giai đoạn tán xạ cuối cùng, chân trời hạt khi đó tương ứng rộng khoảng 2 độ trên bầu trời. Do vậy không có một cơ chế nào khiến một vùng không gian rộng hơn 2 độ phải có cùng nhiệt độ với vùng trong chân trời hạt.
Sự bất hợp lý này có thể được giải quyết bằng lý thuyết lạm phát, lý thuyết này cho rằng có một trường năng lượng vô hướng đồng nhất và đẳng hướng thống trị vũ trụ tại thời điểm sớm (trước khi hình thành baryon). Trong giai đoạn lạm phát, vũ trụ trải qua sự tăng thể tích theo hàm mũ, và chân trời hạt mở rộng nhanh hơn so với người ta từng giả sử, do vậy những vùng hiện nay trên bầu trời ở hai phía ngược nhau vẫn nằm trong chân trời hạt của nhau. Kết quả quan sát về tính đẳng hướng của CMB cho thấy một thực tế là những vùng không gian lớn hơn có liên hệ nhân quả với nhau trước khi bắt đầu giai đoạn lạm phát.
Nguyên lý bất định Heisenberg tiên đoán rằng trong giai đoạn lạm phát sẽ có một sự thăng giáng nhiệt lượng tử, mà có thể phóng đại trên phạm vi vũ trụ. Lý thuyết lạm phát tiên đoán rằng thăng giáng nhiệt nguyên thủy có giá trị rất gần với bất biến vô hướng và tuân theo phân bố Gauss, mà đã được xác nhận bằng thực nghiệm đo đạc CMB.
Và nếu thực sự xảy ra giai đoạn lạm phát, sự giãn nở thể tích theo hàm mũ sẽ đẩy một số vùng không gian vượt ra ngoài chân trời của vũ trụ quan sát được.
Bài toán độ phẳng.
Bài toán độ phẳng là một vấn đề quan sát thực nghiệm kết hợp với các tham số trong mêtric Friedmann–Lemaître–Robertson–Walker. Hình học của vũ trụ có thể có độ cong không gian dương, âm, hay bằng 0 phụ thuộc vào tổng mật độ năng lượng của nó. Trong phương trình Friedmann, nếu đặt độ cong k và hằng số vũ trụ học Λ bằng 0 thì ta thu được mật độ giới hạn formula_4 và
tham số mật độ formula_6 được định nghĩa bằng tỷ số giữa mật độ quan sát được formula_7 và mật độ giới hạn formula_4
Độ cong có giá trị âm nếu formula_10, giá trị dương nếu lớn hơn, và bằng 0 nếu formula_11, và tương ứng với không gian "phẳng". Vấn đề ở đây là bất kỳ một sự nhiễu loạn nhỏ lệch khỏi giá trị mật độ giới hạn sẽ bị tích lũy theo thời gian, trong khi đó Vũ trụ ngày nay có hình học gần với hình học không gian phẳng. Bản chất độ lệch theo thời gian của vũ trụ khỏi hình học phẳng có thể xuất hiện từ thời điểm Planck, lúc 10−43 giây, và trên thực tế Vũ trụ đã không tiến hóa thành các kịch bản "cái chết nhiệt" hoặc "Vụ Co Lớn" sau hàng tỷ năm cần được các nhà khoa học làm sáng tỏ. Ví dụ, ngay cả khi Vũ trụ mới được vài phút tuổi (thời điểm diễn ra tổng hợp các hạt nhân nhẹ), mật độ trong vũ trụ phải nằm trong giá trị một phần 1014 của giá trị mật độ giới hạn, nếu không Vũ trụ không thể giãn nở ra thành trạng thái như ngày nay (nếu giá trị lớn hơn, lực hấp dẫn sẽ đủ mạnh để hút mọi vật chất về nhau).
Một cách giải quyết vấn đề mật độ giới hạn theo lý thuyết lạm phát là: trong giai đoạn lạm phát, không thời gian giãn nở rất nhanh làm trơn phẳng độ cong hình học của không gian. Do vậy, lý thuyết cho phép sự lạm phát đã khiến cho Vũ trụ có cấu trúc hình học gần như là phẳng như ngày nay, hay mật độ vật chất của nó gần bằng xấp xỉ mật độ giới hạn trong lý thuyết Vụ Nổ Lớn.
Đơn cực từ là một trong những phản đề xuất hiện vào cuối những năm 1970. Lý thuyết thống nhất lớn tiên đoán các sai hỏng điểm trong không gian có vai trò như các đơn cực từ có mật độ cao hơn mật độ mà các quan sát thu được, và cho đến nay, chưa tìm thấy một đơn cực từ nào. Bài toán này cũng được giải bằng lý thuyết lạm phát, loại bỏ tất cả các sai hỏng điểm tương tự như giải quyết bài toán về độ phẳng của vũ trụ ở phần trước..
Tương lai của lý thuyết Vụ Nổ Lớn.
Trước khi phát hiện ra có tồn tại dạng năng lượng là năng lượng tối, các nhà vũ trụ học đề xuất ra hai kịch bản cho tương lai của Vũ trụ. Nếu mật độ khối lượng của Vũ trụ lớn hơn mật độ giới hạn, thì sẽ có thời điểm Vũ trụ đạt đến thể tích cực đại và bắt đầu co sụp lại. Nó sẽ bắt đầu nóng hơn và đậm đặc hơn, và kết thúc ở trạng thái tương tự như thời điểm bắt đầu—Vụ Co Lớn. Kịch bản khác, nếu mật độ vật chất trong Vũ trụ bằng hoặc nhỏ hơn mật độ giới hạn, thì sự giãn nở không gian Vũ trụ sẽ chậm dần nhưng không bao giờ dừng lại. Quá trình hình thành sao sẽ dần dần tiêu thụ hết các đám mây phân tử hoặc các đám mây liên sao trở lên quá loãng khi Vũ trụ giãn nở để có thể tập trung lại hình thành các sao mới trong thiên hà; theo thời gian các sao sẽ đốt hết nhiên liệu và trở thành sao lùn trắng, sao neutron, và lỗ đen. Theo thời gian các lỗ đen có thể va chạm và sáp nhập thành những lỗ đen lớn hơn. Nhiệt độ của Vũ trụ sẽ giảm tiệm cận đến độ không tuyệt đối—"Trạng thái nguội lạnh lớn". Hơn nữa, nếu proton được tiên đoán sẽ phân hủy như lý thuyết thống nhất lớn là đúng, thì sau một thời gian dài vật chất baryon sẽ biến mất, chỉ còn lại bức xạ và lỗ đen. Thậm chí thời gian lâu, các lỗ đen cũng có thể bốc hơi do bức xạ Hawking trên lý thuyết. Và entropy của Universe sẽ tăng tới điểm mà không thể lấy được một dạng năng lượng nào từ Vũ trụ, hay là kịch bản "Cái chết nhiệt".
Những khảo sát hiện đại phát hiện ra vũ trụ giãn nở đang gia tốc hàm ý rằng nhiều vùng trong Vũ trụ quan sát được sẽ dần vượt qua chân trời sự kiện và chúng ta không quan sát được những vùng này. Kết quả cuối cùng như thế nào thì các nhà khoa học không chắc. Mô hình chuẩn Lambda-CDM của Vũ trụ chứa năng lượng tối theo dạng hằng số vũ trụ học. Lý thuyết này gợi ra rằng chỉ những hệ có liên hệ hấp dẫn với nhau, như sao trong thiên hà, sẽ vẫn ở cùng nhau, và chúng sẽ chịu cái chết nhiệt khi vũ trụ nở ra và lạnh đi. Có người cũng đề ra cách giải thích khác cho năng lượng tối, gọi là lý thuyết năng lượng bóng ma (phantom energy), với trạng thái sau cùng là mọi hạt nhân, nguyên tử trong hành tinh, sao, đám mây khí sẽ bị xé toạc ra-khi sự giãn nở ngày càng tăng- gọi là "Vụ Xé Lớn" (Big Rip)".
Vật lý vượt phạm vi lý thuyết Vụ Nổ Lớn.
Khuôn khổ lý thuyết và những nét khái quát của Vụ Nổ Lớn đã được kiểm nghiệm phù hợp khá tốt với thực nghiệm, trong tương lai có thể nó sẽ được tinh chỉnh các tham số trong mô hình. Chúng ta vẫn biết rất ít về thời điểm sớm nhất trong lịch sử Vũ trụ. Các phương trình phi lượng tử của thuyết tương đối rộng có hệ quả tồn tại một điểm kì dị hấp dẫn trong lúc vũ trụ sơ khai, mặc dù kết luận này phụ thuộc vào một vài giả sử. Hơn nữa, thuyết tương đối rộng cũng như các lý thuyết lượng tử mất hiệu lực tiên đoán trước khi Vũ trụ đạt tới nhiệt độ Planck, và để hiểu được thời điểm này các nhà vật lý cần một lý thuyết hấp dẫn lượng tử có thể tránh được điểm kì dị này.
Các nhà khoa học đã đề xuất ra một số thuyết nhưng chưa được kiểm chứng bao gồm:
Những đề xuất trong hai mô hình cuối cho lý thuyết hậu Vụ Nổ Lớn được cho là Vũ trụ nhúng trong một "vũ trụ" lớn hơn, hay đa vũ trụ.
Giải thích theo triết học và tôn giáo.
Là một lý thuyết về nguồn gốc hình thành Vũ trụ, ngoài mô hình Vụ Nổ Lớn còn có những cách giải thích thuần túy triết học và tôn giáo về sự khai sinh của Vũ trụ. Kết quả là nó là lĩnh vực sống động nhất có sự tranh luận xoay quanh khoa học và tôn giáo. Một số người tin rằng Vụ Nổ Lớn hàm ý đấng sáng tạo,
trong khi những người khác thiên về khoa học nói vũ trụ học Big Bang khiến chúng ta không cần đến một đấng sáng tạo nào.
| last1 = Kolb | first1 = E.
| last2 = Turner | first2 = M.
| year = 1988
| title = The Early Universe
| publisher = Addison–Wesley
| isbn = 0-201-11604-9
| last=Peacock | first=J.
| url=| publisher=Cambridge University Press
| title=A First Course in General Relativity
| publisher=Cambridge University Press
|edition=2 | date=ngày 31 tháng 5 năm 2009
| last=Woolfson | first=M.
| title=Time, Space, Stars and Man: The Story of Big Bang (2nd edition)
| publisher=World Scientific Publishing
| last=Alpher | first=R.A.
| last2=Herman | first2=R.
| title=Reflections on early work on 'big bang' cosmology
| volume=8 | pages=24–34
| first = | last = American Institute of Physics
| last=Barrow | first=J.D.
| title=The Origin of the Universe: To the Edge of Space and Time
| first = P.C.W. | last = Davies
| year = 1992
| title = The Mind of God: The scientific basis for a rational world
| url = | publisher = Simon Schuster
| last=Feuerbacher | first=B.
| title=Evidence for the Big Bang
| last=Mather | first=J.C.
| title=The very first light: the true inside story of the scientific journey back to the dawn of the Universe
| last=Singh | first=S.
| url=| publisher=Fourth Estate
| last= Scientific American. | first=
| title=Misconceptions about the Big Bang
| doi = 10.1038/scientificamerican0305-36
| date = ngày 23 tháng 4 năm 2006 | title=The First Few Microseconds: Overview/Mini Bangs |
Màu nâu (brown) là màu tạo ra bởi việc trộn một lượng nhỏ chất màu có màu đỏ và màu xanh lá cây, màu da cam và màu xanh lam, hay màu vàng và màu tía.
Màu nâu tạo ra cảm giác màu khi có sự tương phản màu sắc cao. Trong tiếng Việt, tên gọi của nó có nguồn gốc từ tự nhiên do màu này rất gần với màu của chất chứa tanin chiết ra từ củ nâu, dùng để nhuộm quần áo.
Một mẫu của màu nâu trong mô hình màu RGB có cường độ [150, 75, 0] trong thang độ 0 - 255.
Số Hex = #993300
RGB (r, g, b) = (153, 51, 0)
CMYK (c, m, y, k) = (0, 67, 100, 40)
HSV (h, s, v) = (20, 100, 60) |
Tòa Thánh (Latinh: "Sancta Sedes, English: Holy See") dùng để chỉ chung cho giáo hoàng và bộ máy giúp việc chính cho giáo hoàng, được gọi chung là giáo triều Rôma, và các thiết chế, định chế vô hình khác thuộc giáo hoàng và giáo triều. Như vậy, giáo hoàng và bộ máy giúp việc chính cho ông được gọi là giáo triều; Giáo triều và các thiết chế, định chế khác thuộc giáo triều được gọi là Tòa Thánh. Chính vì lý do này giáo hoàng và giáo triều Rôma thực sự là giáo quyền cai quản giáo hội Công giáo Hoàn vũ.
Mặc dù Tòa Thánh có mối liên hệ rất gần với Thành quốc Vatican nhưng chúng là hai thực thể riêng biệt. Trong khi "Vatican" là thuật ngữ thường để chỉ về lãnh thổ của một quốc gia với vài trăm công dân, có ý nghĩa về mặt hành chính thì "Tòa Thánh" (tức là "ngai tòa của thánh tông đồ") lại là thuật ngữ bao hàm ý nghĩa rộng lớn trên khía cạnh quan hệ tôn giáo với cơ cấu điều hành trên 1,2 tỷ tín hữu toàn cầu và cả khía cạnh quan hệ chính trị với thế giới thế tục.
Trong các quan hệ ngoại giao và đối ngoại, tên gọi "Tòa Thánh" (tiếng Anh: "Holy See", và cũng được dịch nghĩa ra các ngôn ngữ khác, gồm hai thành tố "Tòa" và "Thánh") được sử dụng, chứ không phải "Vatican". Văn kiện chính thức của thành phố Vatican được ban hành bằng tiếng Ý, còn của Tòa Thánh được ban hành chủ yếu bằng tiếng Latinh. Hai thực thể này cũng có hộ chiếu riêng biệt: Tòa Thánh cấp hộ chiếu ngoại giao và công vụ, trong khi Thành quốc Vatican cấp hộ chiếu phổ thông cho công dân.
Tòa Thánh không chấm dứt theo một triều đại giáo hoàng. Khi một giáo hoàng băng hà, tất cả các vị tổng trưởng các bộ trong giáo triều đồng thời chấm dứt nhiệm vụ, cũng như tất cả các giám mục trong giáo triều Rôma và các giám mục cai quản các giáo phận địa phương trên thế giới cũng đồng loạt không còn là giám mục chính tòa nữa, cho đến khi có lại giáo hoàng mới. Trong thời gian trống tông tòa ("sede vacante"), từ lúc giáo hoàng băng hà cho đến lúc bầu được giáo hoàng kế vị, Hồng y Đoàn ("Collegium Cardinal") sẽ tạm cai quản Tòa Thánh và Giáo hội Hoàn vũ. Vị Hồng y Thị Thần, còn gọi là Hồng y Nhiếp chính ("Cardinal Camerlengo") tạm thời điều hành các tài sản và vấn đề tài chính trong thời gian này. Giáo luật cũng ngăn cấm Hồng y Đoàn và Hồng y Nhiếp chính tự ban hành những luật lệ mới trong thời gian trống tòa. Ngoài ra, trong thời gian trống tông tòa, vị Hồng y Chánh án Tòa Ân giải Tối cao vẫn tiếp tục công việc, không buộc từ nhiệm. |
Màu xanh lơ (cyan) (còn gọi là màu cánh trả hay màu hồ thủy) là một màu cơ bản trong quang phổ, nhưng một vài biến thể về sắc thái có thể tạo ra bằng cách trộn các lượng bằng nhau của ánh sáng màu xanh lá cây và màu xanh lam. Vì vậy, màu xanh lơ là màu bù của màu đỏ: các chất màu xanh lơ hấp thụ ánh sáng đỏ. Màu này đôi khi còn gọi là màu xanh Thổ (tuy rằng không đúng) và nó rất khó phân biệt dưới ánh sáng màu xanh lam.
Mực màu xanh lơ là một trong các loại mực phổ biến sử dụng trong công nghệ in màu, cùng với mực màu hồng sẫm, vàng và đen; một bộ gồm bốn màu này được gọi là CMYK.
Lưu ý rằng tuy gọi là mực xanh lơ nhưng mực xanh lơ và ánh sáng màu xanh lơ tạo ra cảm giác màu khác nhau. Mực màu xanh lơ tạo ra cảm giác màu ít chói hơn, thực tế công nghệ in CMYK không thể tái tạo chính xác màu xanh lơ thuần khiết (100% xanh lam + 100% xanh lá cây) trên giấy.
Số Hex = #00FFFF
RGB (r, g, b) = (0, 255, 255)
CMYK (c, m, y, k) = (100, 0, 0, 0)
HSV (h, s, v) = (180, 100, 100) |
Vi ba là sóng điện từ có bước sóng dài hơn tia hồng ngoại, nhưng ngắn hơn sóng radio.
Vi ba còn gọi là sóng tần số siêu cao (SHF), có bước sóng khoảng từ 30 cm (tần số 1 GHz) đến 1 cm (tần số 30 GHz). Tuy vậy, ranh giới giữa tia hồng ngoại, vi ba và sóng radio "tần số cực cao (UHF)" là rất tuỳ ý và thay đổi trong các lĩnh vực nghiên cứu khác nhau. Sự tồn tại của sóng điện từ, trong đó vi ba là một phần của phổ tần số cao, được James Clerk Maxwell dự đoán năm 1864 từ các phương trình Maxwell nổi tiếng. Năm 1888, Heinrich Hertz đã chế tạo được thiết bị phát sóng radio, nhờ vậy lần đầu tiên chứng minh sự tồn tại của sóng điện từ.
"Chú thích:" trên 300 GHz, khí quyển Trái Đất hấp thụ bức xạ điện từ mạnh đến nỗi khí quyển thực sự không trong suốt đối với các tần số cao của bức xạ điện từ, nhưng khí quyển lại trở nên trong suốt trong phần quang phổ nhìn thấy được và vùng hồng ngoại.
Có thể tạo ra vi ba bằng nhiều thiết bị, chia làm hai loại: thiết bị chất rắn và thiết bị ống chân không.
Thiết bị vi ba chất rắn dựa trên chất bán dẫn như silicon hoặc arsenua galli, và ngay cả các transistor hiệu ứng trường (FET), transistor tiếp xúc mặt lưỡng cực (BJT), các diode Gunn và diode IMPATT (diode dòng thác va chạm có thời gian quá cảnh). Từ các transistor tiêu chuẩn người ta phát triển những linh kiện tốc độ cao hơn dùng trong các ứng dụng vi ba. Biến thể vi ba của transistor BJT có loại HBT ("heterojunction bipolar transistor"), biến thể vi ba của transistor FET thì có loại MESFET (transistor hiệu ứng trường có màng bán dẫn kim loại), loại HEMT (còn gọi là HFET), và transistor LDMOS.
Thiết bị ống chân không hoạt động dựa trên chuyển động của electron trong chân không dưới ảnh hưởng của điện trường hoặc từ trường, gồm có magnetron, klystron, đèn sóng chạy (TWT), và gyrotron.
Băng tần vi ba.
Phổ vi ba thường được xác định là năng lượng điện từ có tần số khoảng từ 1 GHz đến 1000 GHz, nhưng trước đây cũng bao gồm cả những tần số thấp hơn. Những ứng dụng vi ba phổ biến nhất ở khoảng 1 đến 40 GHz. Băng tần vi ba được xác định theo bảng sau:
Bảng trên theo cách dùng của Hội vô tuyến điện Anh ("Radio Society of Great Britain", RSGB). Đôi lúc người ta ký hiệu dải "tần số cực cao (UHF)" thấp hơn băng L là băng P. Xem thêm các định nghĩa khác: Letter Designations of Microwave Bands
Tác động của vi sóng đến sức khỏe.
Do vi ba là sóng điện từ có tần số dao động trùng với tần số cộng hưởng của nhiều phân tử chất hữu cơ có trong sinh vật, dẫn đến các phân tử hữu cơ hấp thụ vi sóng mạnh. Nó làm cho các phân tử protein bị biến tính, tức là thay đổi một số liên kết trong cấu trúc phân tử. Trong lò vi sóng thì quá trình biến tính xảy ra trước cả khi phát sinh nhiệt làm chín thức ăn.
Sự biến tính protein diễn ra theo các mức độ khác nhau, tùy theo cường độ và thời gian bị vi sóng tác động, và được gọi là bỏng vi sóng, phần lớn khó nhận thấy theo cảm giác:
Vì thế làm việc với vi sóng như ra đa, lò vi sóng, điện thoại di động,
Đặc biệt tháng 2/2016 vừa qua các nhà khoa học Israel công bố nghiên cứu xác định sóng điện thoại di động có ảnh hưởng tiêu cực đến sức khỏe sinh sản của nam giới, làm hư hại đến tinh trùng . Tuy nhiên cách đưa tin làm người đọc hiểu là "do sức nóng của điện thoại di động". Sự thật là điện thoại di động gửi mã liên lạc và lời thoại (đã số hóa) lên mạng bằng dãy xung vi ba ngắn liên tiếp nhau và khá mạnh, cỡ vài Watt, đủ làm biến tính protein của tinh trùng và của lò sản xuất chúng. Trong quá trình đó điện thoại nóng lên không đáng kể.
Nghiên cứu nói trên cũng là cảnh báo cho việc sử dụng thiết bị điện tử. Các thiết bị điện tử như máy tính (trạm, bàn, hay laptop)... hiện nay sử dụng tần số nhịp (clock) làm việc cực cao, cỡ từ 0,5 đến 3,5 GHz, cũng như các mạch dao động khác. Chúng có thể phát ra vi ba ký sinh nếu các tấm che không tốt. Về nguyên tắc có những tiêu chuẩn cho mức nhiễu này, sao cho không gây rối loạn các thiết bị điện tử khác. Song ở tầm sát vỏ máy, ví dụ để máy lên đùi, trong túi quần thì vi ba sẽ tác động lên vùng cơ thể gần đó.
Lịch sử và nghiên cứu.
Để biết thêm về lịch sử phát triển lý thuyết điện từ đến các ứng dụng vi ba hiện đại, xem:
Những thành tựu nổi bật về nghiên cứu vi ba và ứng dụng:
Thiết bị tích hợp vi ba (Mạch tích hợp vi ba đơn khối, Monolithic Microwave Integrated Circuit, MMIC) được sản xuất với những tấm arsenua galli (GaAs). |
Vàng kim loại (màu)
Màu vàng kim loại hay màu vàng kim (gold) là một sắc thái của màu "vàng" (yellow) rất gần với màu của kim loại vàng.
Cảm giác về màu vàng kim này có liên quan đến vàng kim loại vì ánh kim của nó. Nó không thể tái tạo bằng một màu thuần nhất vì hiệu ứng ánh kim có quan hệ với độ sáng của vật liệu là cái dao động theo các góc của người quan sát cũng như của nguồn sáng.
Điều này có nghĩa là tại sao trong nghệ thuật người ta thông thường sử dụng sơn kim loại (sơn nhũ) trông lấp lánh như vàng thật, nhưng màu thuần nhất như trong hình thuộc trang này thì lại không thể xem như là màu vàng kim. Đặc biệt trong các nhà thờ Kitô giáo hay đền chùa của đạo Phật các lá vàng thật được sử dụng để thể hiện màu vàng kim trong nghệ thuật sơn, thiếp vàng. Ví dụ như các vầng hào quang của các vị thánh hay thiên thần.
Tuy nhiên trong nghệ thuật sơn gần đây, ví dụ trong phái "Art Nouveau" người ta sử dụng sơn có màu vàng ánh kim là từ bột nhôm và chất sơn tạo màu vàng chứ không phải vàng kim loại thật.
Số Hex = #FFD700
RGB (r, g, b) = (255, 215, 0)
RRGGBB (rr, gg, bb) = (808000)
CMYK (c, m, y, k) = (0, 16, 100, 0)
HSV (h, s, v) = (51, 100, 100) |
Màu xám, đôi khi còn được gọi là màu ghi (gray, bắt nguồn từ từ tiếng Pháp "gris" /ɡʁi/), là màu thông thường được nhìn thấy trong tự nhiên. Nó được tạo ra bằng cách trộn màu trắng và màu đen trong các tỷ lệ khác nhau. Phụ thuộc vào nguồn sáng, mắt người có thể cảm nhận màu sắc của một vật hoặc là màu xám hoặc màu khác.
Hai màu được gọi là các màu bù nếu màu xám được tạo ra khi ánh sáng của hai màu này tổ hợp với nhau. Các màu gốc thuộc tâm lý là:
Các tập hợp khác của các màu bù bao gồm:
Màu xám là tự bù (trong ảo giác quang học thì màu sắc có thể bị chuyển sang màu bù của nó nếu nhìn lâu vào một vật).
Số Hex = #808080
RGB (r, g, b) = (128, 128, 128)
CMYK (c, m, y, k) = (0, 0, 0, 50)
HSV (h, s, v) = (0, 0, 50)
Trên lý thuyết, có thể đạt được thang độ màu xám với mực hoàn hảo khi: |
Màu da cam (hay chỉ là cam) là màu nằm giữa màu đỏ và màu vàng trong quang phổ, ở bước sóng khoảng 620-585 nm. Nó có tên như vậy do có màu gần với màu của vỏ quả cam. Với các chất liệu màu như sơn hay bút chì màu, phấn màu thì màu da cam là màu phụ, có thể được tạo ra từ các màu gốc bằng cách trộn màu đỏ và vàng.
Số Hex = #FFA500
RGB (r, g, b) = (255, 165, 0)
CMYK (c, m, y, k) = (0, 35, 100, 0)
HSV (h, s, v) = (38, 100, 100)
Màu da cam được sử dụng để tăng khả năng nhìn thấy. Các chất liệu màu da cam được tìm thấy là trong đất màu ochre hay các chất liệu chứa cadmi. Màu nâu là thực sự trên phần da cam của quang phổ.
Màu da cam quốc tế.
Màu tiêu chuẩn, da cam quốc tế hay da cam chói được sử dụng chủ yếu và được cho là đem lại sự tương phản tối ưu đối với các màu sắc trong tự nhiên. Các loại mũ, quần áo và phụ kiện cho thợ săn và công nhân làm đường cao tốc và những người (yêu cầu về an toàn phụ thuộc vào việc nhìn thấy từ xa) hầu như có màu da cam. Điện thoại và cáp quang thông thường có vỏ bọc bằng pôlyêtylen nhuộm màu da cam. Cầu Golden Gate (tại San Francisco) được sơn màu da cam quốc tế.
Tọa độ màu của nó.
Số Hex = #FF4F00
RGB (r, g, b) = (255, 79, 0)
CMYK (c, m, y, k) = (0, 69, 100, 0)
HSV (h, s, v) = (19, 100, 100)
Màu cam cháy như là một biến thể khác của màu da cam, được sử dụng trong trường Đại học tổng hợp Texas. Cụ thể xem bài màu cam cháy. |
Khái niệm số Hex là viết tắt trong tiếng Anh để biểu diễn các số hay chuỗi số dưới dạng của hệ đếm thập lục phân (cơ số 16).
Trong việc thiết kế Web bằng ngôn ngữ HTML hay CSS, khi cần biểu diễn giá trị của màu sắc dưới dạng RGB, người ta thường sử dụng hệ đếm cơ số này. Nó là một chuỗi trong hệ thập lục phân có sáu chữ hay số dạng ghép của ba số dạng một byte. Các byte biểu diễn cho ba thành phần màu của các loại màu sắc khác nhau là màu đỏ, xanh lá cây và xanh lam. Mỗi byte đại diện cho một số trong khoảng 00 đến FF (trong hệ thập lục phân), tức 0 đến 255 trong hệ thập phân. Số Hex trong Web được tạo thành bằng cách ghép nối ba số dạng một byte trong hệ thập lục phân.
Ví dụ, một màu có giá trị trong hệ thập phân là đỏ = 36, xanh lá cây = 104, xanh lam = 160 (màu xanh lam ánh xám). Các số 36, 104 và 160 trong hệ thập phân sẽ tương đương với 24, 68 và A0 trong hệ thập lục phân. Để tạo thành số Hex này, đơn giản ta chỉ cần ghép chúng với nhau theo trật tự sau: 2468A0. Lưu ý rằng nếu giá trị của một hay nhiều hơn trong ba thành phần này có giá trị nhỏ hơn 10 (trong hệ thập lục phân) thì cần phải bổ sung thêm một số 0 vào đằng trước. Ví dụ để biểu diễn giá trị màu có đỏ = 12, xanh lá cây = 27, xanh lam = 64 trong hệ thập phân, ta cần viết chuỗi số Hex trong Web như sau: đỏ = 12 = 0C (thập lục phân), xanh lá cây = 27 = 1B (thập lục phân), xanh lam = 64 = 40. Do vậy chuỗi số Hex tạo thành sẽ là "0C1B40".
tức là các giá trị cần đọc theo trật tự từ trái qua phải là (Đỏ)-(Xanh lá cây)-(Xanh lam).
Ứng dụng máy tính khác.
Chuỗi số Hex tạo thành bằng cách ghép nối ba số dạng một byte trong thiết kế Web là ngược lại với số Hex thực sự được tạo thành trong các ngôn ngữ lập trình để tạo các ứng dụng không phải là Web (chẳng hạn như Visual Basic). Trật tự này là ngược lại với cách ghép chữ và số trong số Hex của Web. Ví dụ chuỗi số 2468A0 trong Web sẽ tương đương với số A06824 (hay 10.512.408 theo hệ thập phân) trong ngôn ngữ này. Có thể hiểu đơn giản như là ghép của ba byte theo trật tự sau (tuy không chính xác):
tức là các giá trị cần đọc theo trật tự từ trái qua phải là (Xanh lam)-(Xanh lá cây)-(Đỏ).
Số Hex trong trường hợp này là một số "Long" (số nguyên lớn) có giá trị 4 byte.
Ví dụ trong VB 6.0, câu lệnh sau sẽ tạo ra màu vàng nhạt ánh xanh cho nền của Form1.
Giá trị của xanh lam = AB hay 171 (trong hệ thập phân), xanh lá cây = F0 hay 240, màu đỏ bằng D9 hay 217. Nó tương đương với:
Form1.BackColor = RGB(217, 240, 171) |
Màu lam cobalt là một màu xanh lam chưa bão hòa, tạo cảm giác lạnh, các chất liệu có màu như thế này chủ yếu tìm thấy trong các muối của cobalt. Màu xanh nhìn thấy trên phần lớn các loại kính, thủy tinh là màu cobalt.
Lam cobalt cũng là tên gọi của một bột màu lam được làm ra bằng cách thiêu kết cobalt(II) oxide với nhôm oxide (alumina) ở 1.200 °C. Về mặt hóa học, bột màu lam cobalt là cobalt(II) oxide - nhôm oxide, hay cobalt(II) aluminat, CoAl2O4. Màu lam cobalt là nhạt và ít chói hơn so với bột màu gốc sắt-cyanide là xanh Phổ. Màu này rất ổn định và theo dòng lịch sử đã được sử dụng làm tác nhân tạo màu trong nghề gốm (đặc biệt là trong đồ sứ Trung Hoa), nghề kim hoàn và trong sơn. Thủy tinh trong suốt được nhuộm màu bằng bột màu cobalt gốc silica là bột màu thủy tinh xanh.
Lịch sử sử dụng và sản xuất.
Bột màu lam cobalt ở dạng không tinh khiết đã được sử dụng từ lâu trong đồ sứ Trung Quốc. Ghi chép đầu tiên về việc sử dụng "cobalt blue" (lam cobalt) như là một tên gọi màu trong tiếng Anh là vào năm 1777. Nó được Louis Jacques Thénard phát hiện một cách độc lập như một chất màu nguyên chất dựa trên alumina vào năm 1802. Sản xuất thương mại ở Pháp bắt đầu năm 1807. Nhà sản xuất bột màu lam cobalt hàng đầu thế giới trong thế kỷ 19 là Công ty Na Uy Blaafarveværket (xưởng bột màu lam) của Jacob Benjamin Wegner thời Đan Mạch–Na Uy). Đức cũng nổi tiếng về sản xuất bột màu lam cobalt, đặc biệt là các xưởng bột màu lam cobalt ("Blaufarbenwerke") trong dãy núi Quặng ở Saxony.
Bột màu lam cobalt là chất màu lam chính được sử dụng nhiều thế kỷ trong đồ sứ hoa lam Trung Hoa, bắt đầu từ cuối thế kỷ VII hay đầu thế kỷ IX.
Họa sĩ màu nước John Varley (1778-1842) gợi ý rằng lam cobalt là thay thế tốt cho màu lam sẫm để vẽ màu bầu trời, khi viết trong "J Varley's List of Colours" (Danh sách các màu của J Varley) năm 1818: "Được sử dụng thay thế cho màu lam sẫm vì độ sáng của màu, và vượt trội hơn khi được sử dụng vẽ màu bầu trời và các đồ vật khác đòi hỏi sắc nhạt đều; thỉnh thoảng được sử dụng để lấy lại độ sáng của các sắc nhạt này khi chúng quá đậm và cho các sắc nhạt trên vải, , nó có thể làm giảm độ sáng của các màu xanh lam khác."
Màu lam cobalt được sử dụng trong hội họa kể từ khi Thénard phát hiện ra nó, với các họa sĩ như J. M. W. Turner, các họa sĩ theo trường phái ấn tượng như Pierre-Auguste Renoir và Claude Monet cũng như các họa sĩ trường phái hậu ấn tượng như Vincent van Gogh. Nó ổn định và khó bay màu cũng như tương thích với các chất màu khác. Maxfield Parrish, nổi tiếng một phần vì các bức vẽ cảnh bầu trời của ông bằng việc sử dụng màu lam cobalt, và kết quả là màu lam cobalt đôi khi được gọi là lam Parrish.
Hai đội bóng của Major League Soccer có màu lam cobalt là màu thứ hai: Real Salt Lake từ khi thành lập, và Sporting Kansas City trong trang phục thi đấu sân nhà kể từ mùa giải năm 2008.
Màu logo chính thức của Sega là lam cobalt. Nhím Sonic, con vật lấy khước hiện tại của Sega, cũng được tô màu lam cobalt.
Một vài quốc gia như Hà Lan và România, và tiểu bang Hoa Kỳ Nevada, có màu lam cobalt như là một trong ba sắc đậm trên cờ.
Sản xuất, xây dựng.
Một vài nhà sản xuất xe ô tô như Jeep và Bugatti có màu lam cobalt nhu là các tùy chọn sơn.
Do độ ổn định hóa học của lam cobalt trong môi trường kiềm, nên nó được sử dụng làm chất màu trong bê tông xanh.
Bột màu lam cobalt có độc khi nuốt hay hít phải. Các thợ gốm không thực hiện các biện pháp phòng ngừa đầy đủ khi sử dụng bột màu lam cobalt có thể bị ngộ độc cobalt. |
Màu vòi voi là màu có sắc từ tím trung bình, nhạt, hay chói tới màu tía ánh đỏ trung bình hay đậm. Ngoài ra nó cũng có thể là màu tía ánh xám. Một mẫu của màu này có giá trị như hình bên.
Số Hex = #DF73FF
RGB (r, g, b) = (223, 115, 255)
CMYK (c, m, y, k) = (13, 55, 0, 0)
HSV (h, s, v) = (286, 55, 100) |
Màu nâu đen là chất màu nâu sẫm lấy từ túi mực của con mực, và nó còn được gọi là màu mực hay màu nâu xám sẫm hoặc mực xêpia (sepia).
Màu nâu đen này trong quá khứ được sử dụng như mực viết. Trong những năm cuối thế kỷ 18, giáo sư Jacob Seydelmann từ Dresden đã phát triển một quy trình để chiết và sản xuất dạng đặc hơn để sử dụng trong chế tạo màu nước và sơn dầu.
Màu nâu đen cũng là màu ưa thích trong công nghệ nhiếp ảnh; màu này có thể thu được với quy trình rửa ảnh để tạo ra sắc nâu vàng. Ánh đỏ mà chúng ta cho là liên quan đến màu nâu đen thực tế là kết quả của sự mờ dần đi theo thời gian. Do đó, màu nâu đen là một thuật ngữ được định nghĩa rất mơ hồ.
Xem thêm Sắc nâu đen trong nhiếp ảnh.
Số Hex = #704214
RGB (r, g, b) = (112, 66, 20)
CMYK (c, m, y, k) = (0, 41, 82, 56)
HSV (h, s, v) = (30, 82, 44) |
Kaki (khaki) là một màu sắc pha giữa màu nâu nhạt và màu vàng.
Kaki là một loại màu sắc được sử dụng trong quân đội trên toàn thế giới, đặc biệt là trong những vùng sa mạc hoặc khô cằn. Màu kaki giúp che giấu người mặc trong môi trường chủ yếu là cát và bụi. Từ "kaki" đã được sử dụng như tên của một màu sắc trong tiếng Anh từ năm 1848, khi nó được dùng làm đồng phục cho quân đội lần đầu. Ngoài ra, trong thời trang phương Tây, màu kaki cũng là một lựa chọn phổ biến cho quần áo smart casual, được gọi là "kakis", phù hợp cho môi trường công sở và cuộc sống hàng ngày.
Trong tiếng Anh Anh và một số ngôn ngữ khác của Khối thịnh vượng chung, thuật ngữ "kaki" cũng có thể được sử dụng để chỉ một tông màu xanh ôliu.
"Khaki" là một từ mượn từ tiếng Urdu خاکی 'màu của đất', xuất phát từ tiếng Ba Tư خاک "khâk" 'đất' + ی (đuôi tính từ); nó đã nhập vào tiếng Anh thông qua Quân đội Ấn Độ Anh.
Kaki ban đầu được sử dụng làm bộ quân phục cho Đội Hướng dẫn, một đơn vị quân đội thành lập vào tháng 12 năm 1846 dưới sự chỉ đạo của Henry Lawrence (1806-1857), đại diện của Thống đốc Tổng quyền tại Miền Bắc Biên giới và đóng quân tại Lahore. Ban đầu, binh sĩ biên giới mặc trang phục bản địa của họ, gồm áo ngắn và quần lửng màu trắng làm từ vải bông tự nhiên xù, kèm theo một chiếc nón bằng bông và áo khoác da hoặc áo khoác bông để chống lạnh trong mùa đông. Tuy nhiên, vào năm 1848, một bộ quân phục màu kaki đã được giới thiệu. Sau đó, tất cả các đơn vị quân đội trong khu vực, bao gồm cả người Anh và người Ấn Độ, đều áp dụng màu kaki cho quân phục và trang phục mùa hè. Vải kaki ban đầu được làm từ vải gân chặt, sử dụng chủ yếu là vải lanh hoặc vải bông.
Sử dụng trong quân đội.
Các màu sáng truyền thống như áo màu đỏ, đặc biệt là trong các trận đánh nhỏ, đã được nhận thức là không thực tế từ rất sớm trong thế kỷ 19. Màu kaki có khả năng làm che mờ binh sĩ trên chiến trường nhờ sự tiến bộ của các công nghệ như máy bay giám sát từ trên không và bột không khói.
Quân đội Anh chính thức sử dụng quần áo màu kaki lần đầu tiên trong cuộc Thám hiểm Abyssinia năm 1868, khi binh sĩ Ấn Độ tham gia cuộc hành trình đến Ethiopia. Sau đó, màu kaki được áp dụng cho các trang phục chiến dịch thuộc địa và được sử dụng trong Chiến tranh Mahdi (1884-1889) và Chiến tranh Boer thứ hai (1899-1902). Các bộ quần áo này được gọi là áo kaki drill và phiên bản của chúng vẫn là một phần của đồng phục của Quân đội Anh.
Trong Chiến tranh Boer thứ hai, quân đội Anh trở nên nổi tiếng với biệt danh "Khakis" (kaki) do màu quần áo mà họ mặc.#đổi Sau khi chiến thắng trong cuộc chiến, chính phủ tổ chức một cuộc bầu cử được gọi là "Bầu cử kaki", thuật ngữ này sau đó được sử dụng để chỉ các cuộc bầu cử được tổ chức để tận dụng sự ủng hộ của công chúng đối với chính phủ ngay sau những chiến thắng quân sự.
Quân đội Hoa Kỳ đã áp dụng màu kaki trong cuộc Chiến tranh Mỹ-Hoa Kỳ (1898), thay thế cho trang phục trường màu xanh truyền thống. Hải quân Hoa Kỳ và thủy quân lục chiến Hoa Kỳ cũng đã làm tương tự, cho phép sử dụng quần áo kaki cho trang phục trường và làm việc.
Khi màu kaki được áp dụng cho bộ Đồng phục Dịch vụ của Quân đội Anh vào năm 1902, màu sắc được chọn có một tông màu xanh lá cây đậm và đỏ hơn (xem ảnh). Màu nâu-xanh này đã được áp dụng với một số biến thể nhỏ trong tất cả các quân đội thuộc Đế chế Anh. Quy định về đồng phục quân đội Hoa Kỳ năm 1902 cũng áp dụng một tông màu tương tự cho đồng phục mùa đông của binh sĩ dưới tên gọi olive drab (xanh đen dầu ô liu). Tông màu nâu-xanh này đã được sử dụng bởi nhiều quốc gia trong suốt hai Cuộc chiến thế giới.
Các tông màu của kaki.
Bên phải là màu kaki nhạt (còn được gọi là kaki tan hoặc chỉ là màu tan).
Đây là màu sắc được gọi là "kaki" trong HTML/CSS.#đổi
Màu sắc được hiển thị ở bên phải tương ứng với màu "kaki" được chỉ định trong cuốn sách "A Dictionary of Color" năm 1930, tiêu chuẩn cho thuật ngữ màu sắc trước khi máy tính được giới thiệu.
Bên phải là màu sắc web "kaki đậm".
Nó tương ứng với "Kaki đậm" trong danh sách màu X11.
Bên phải là màu kaki xanh, đôi khi được gọi đơn giản là "kaki" ở các quốc gia thuộc Khối Thịnh vượng chung. Nó thường được gọi là xanh ô liu hoặc xanh đen ô liu. |
Màu bạc (silver) là màu xám có ánh kim rất gần với bạc đánh bóng. Trong "phù hiệu học" không có sự phân biệt rõ ràng giữa màu bạc và màu trắng, được miêu tả như là "màu trắng bạc".
Cảm nhận thị giác thông thường liên kết với bạc kim loại là do ánh kim loại của nó. Nó không thể tái tạo bằng một màu thuần nhất, vì hiệu ứng ánh kim là do do độ sáng của vật liệu là cái dao động theo góc của bề mặt vật tới nguồn sáng và của người quan sát. Do đó, trong nghệ thuật người ta thường sử dụng sơn kim loại (sơn nhũ) để tạo độ lấp lánh như bạc kim loại. Mẫu màu xám như trong trang này không thể coi như là màu bạc.
Mẫu sử dụng trong Web.
Từ phiên bản 3.2 của HTML, màu bạc (tiếng Anh: "silver") là tên của một trong mười sáu (16) màu cơ bản của VGA.
Mẫu HTML: body bgcolor="silver"
Số Hex = #C0C0C0
RGB (r, g, b) = (192, 192, 192)
CMYK (c, m, y, k) = (0, 0, 0, 25)
HSV (h, s, v) = (0, 0, 75) |
Bước sóng là khoảng cách ngắn nhất giữa hai điểm dao động cùng pha hay khoảng cách giữa hai đỉnh sóng (điểm mà sóng đạt giá trị lớn nhất), hoặc tổng quát là giữa hai cấu trúc lặp lại của sóng, tại một thời điểm nhất định. Nó thường được viết tắt bằng chữ Hy Lạp lambda (λ).
Liên hệ với chu kỳ.
Chu kỳ "T" của sóng theo định nghĩa là thời gian ngắn nhất mà một cầu trúc sóng lặp lại tại một điểm. Thời gian này bằng khoảng cách giữa hai cấu trúc lặp lại, bước sóng (λ), chia cho vận tốc lan truyền của sóng, "v":
Liên hệ với tần số.
Tần số "f" của sóng, hay số đỉnh sóng đi qua một điểm trong một đơn vị thời gian, là nghịch đảo của chu kỳ sóng. Do vậy
Với sóng điện từ (radio, vi só) liên hệ này là: bước sóng (đo bằng mét) = 300 / tần số (đo bằng MHz).
Sóng ánh sáng (và có thể một số sóng điện từ khác) khi đi vào các môi trường (không phải là chân không) thì bước sóng của chúng bị giảm do vận tốc giảm, mặc dù tần số của sóng không đổi. Xem thêm vận tốc ánh sáng.
Trong nhiều môi trường truyền ánh sáng, vận tốc giảm "n" lần với "n" là chiết suất của môi trường. Do vậy:
λ0 là bước sóng trong chân không.
Khi không nói rõ, bước sóng của bức xạ điện từ thường được hiểu là bước sóng trong chân không.
Louis-Victor de Broglie đã khám phá ra rằng mọi hạt với động lượng "p" đều có thể coi như một "chùm sóng", còn gọi là sóng de Broglie, với bước sóng:
với "h" là hằng số Planck
Theo công thức này, các sóng có bước sóng càng ngắn có động lượng và do đó năng lượng càng cao. |
Debian (phát âm ), hay còn gọi là Debian GNU/Linux, là một hệ điều hành máy tính phổ biến được cấu thành hoàn toàn từ phần mềm tự do, được phát triển từ sự cộng tác của các tình nguyện viên trên khắp thế giới trong Dự án Debian. Dự án Debian lần đầu tiên được công bố vào ngày 16 tháng 8 năm 1993 bởi Ian Murdock. Debian 0,01 được phát hành vào ngày 15 tháng 9 năm 1993, và bản phát hành "stable" (ổn định) đầu tiên được phát hành vào năm 1996. Nhánh phát hành "stable" là phiên bản phổ biến nhất cho máy tính cá nhân và máy chủ sử dụng Debian, và được sử dụng làm nền tảng cho nhiều bản phân phối khác.
Công việc của dự án được thực hiện trên mạng Internet bởi một nhóm tình nguyện viên do Trưởng Dự án Debian hướng dẫn và ba tài liệu cơ bản: Hợp đồng Xã hội Debian, Hiến pháp Debian và Nguyên tắc Phần mềm Tự do Debian.
Từ lúc sáng lập dự án, những thành viên tham gia đã quyết định rằng Debian sẽ được phát triển công khai và tự do phân phối theo tinh thần của Dự án GNU. Quyết định này thu hút được sự chú ý và ủng hộ của Quỹ Phần mềm Tự do, đơn vị đã tài trợ dự án một năm kể từ tháng 11 năm 1994 đến tháng năm 1995. Sau khi tài trợ từ Quỹ Phần mềm Tự do kết thúc, Dự án Debian đã thành lập tổ chức phi lợi nhuận Software in the Public Interest nhằm huy động hỗ trợ tài chính cho Dự án Debian và một số dự án mã nguồn mở khác.
Tất cả bản phát hành Debian đều có nguồn gốc từ Hệ Điều Hành GNU, sử dụng GNU userland và Thư viện GNU C (glibc), các nhân khác ngoài Linux kernel cũng có sẵn, chẳng hạn như BSD kernels và GNU Hurd microkernel.
Debian được thành lập vào năm 1993 bởi Ian Murdock khi còn là sinh viên tại Đại học Purdue. Ian Murdock viết "Tuyên ngôn Debian" kêu gọi xây dựng một bản phân phối Linux được quản lý theo phong cách mở, trong tinh thần của Linux và GNU. Tên "Debian" được Ian Murdock đặt ra bằng cách kết hợp tên của bạn gái lúc bấy giờ (bây giờ là vợ) của anh là Debra với tên của chính anh Ian.
Hiện tại có rất nhiều hệ điều hành Linux được xây dựng dựa trên Debian GNU/Linux, trong đó có Ubuntu, Linux Mint, Knoppix, MEPIS, DreamLinux, Damn Small Linux và các hệ điều hành khác.
Debian nổi tiếng với hệ thống quản lý gói của nó, mà cụ thể APT (công cụ quản lý gói cao cấp, "Advanced Packaging Tool"), chính sách nghiêm ngặt đối với chất lượng các gói và bản phát hành, cũng như tiến trình phát triển và kiểm tra mở. Cách thức làm việc này đã giúp cho việc nâng cấp giữa các bản phát hành và việc cài đặt hay gỡ bỏ các gói phần mềm được dễ dàng hơn.
Các phiên bản của Debian vẫn được lấy tên mã ("code name") theo các nhân vật phim hoạt hình "Toy Story". Có một đặc điểm là phiên bản "unstable" (không ổn định) luôn luôn mang tên là "sid" (tên cậu bé hàng xóm phá phách trong phim "Toy Story").
Phiên bản "stable" là phiên bản phát hành chính thức. Phiên bản "testing" là phiên bản sẽ trở thành phiên bản chính thức tiếp theo sau khi xác nhận là đã chạy ổn định. Phiên bản "unstable" là phiên bản "rolling" (quay), tức là luôn luôn ở trạng thái phát triển liên tục.
Chu kỳ phát hành.
Phiên bản ổn định của Debian được phát hành định kỳ mỗi 2 năm. Nó sẽ nhận được hỗ trợ chính thức trong khoảng 3 năm với bản cập nhật cho các bản sửa lỗi bảo mật hoặc các lỗi về sử dụng. Các phát hành phụ của mỗi phiên bản chính gọi là Point Releases được thông báo cứ vài tháng một lần bởi Stable Release Managers (SRM).
Debian cũng đã khởi chạy Dự án Hỗ trợ Dài hạn (LTS) của mình kể từ Debian 6 (Debian Squeeze). Đối với mỗi bản phát hành Debian, nó sẽ nhận được hai năm cập nhật bảo mật bổ sung được cung cấp bởi LTS Team sau khi kết thúc vòng đời (EOL). Tuy nhiên, sẽ không có bản phát hành phụ thêm nào được thực hiện. Hiện tại mỗi bản phát hành Debian có thể nhận được tổng cộng 5 năm hỗ trợ bảo mật.
Sơ đồ vòng đời của một gói Debian
Debian luôn luôn có ít nhất ba bản trong chế độ bảo trì tích cực, gọi là "stable", "testing" và "unstable".
Trình quản lý gói.
Hoạt động Trình quản lý gói có thể được thực hiện với nhiều công cụ khác nhau có sẵn trên Debian, từ công cụ mức thấp nhất dpkg đến giao diện tương tác như Synaptic. Công cụ tiêu chuẩn được đề nghị cho quản trị các gói trên hệ thống Debian là bộ công cụ apt.
dpkg cung cấp cơ sở hạ tầng cấp thấp cho các trình quản lý gói. Dữ liệu của dpkg chứa danh sách các phần mềm đã cài đặt trên hệ thống. Công cụ dpkg không được biết tới các kho phần mềm(repositories). Công cụ này có thể làm việc cục bộ trên máy với các tệp gói .deb, và thông tin từ cơ sở dữ liệu dpkg.
Advanced Packaging Tool (APT) là một công cụ cho phép người quản trị tải và phân giải các gói dependencies từ kho phần mềm. Công cụ APT chia sẻ thông tin phụ thuộc và bộ nhớ cached các gói.
Các kho gói phần mềm.
Bản tuyên bố Nguyên tắc Phần mềm Tự do Debian (DFSG) tuân thủ nghiêm ngặt định nghĩa của phần mềm tự do (FOSS), mặc dù hệ điều hành này chưa nhận được sự công nhận của Free Software Foundation vì sự có chứa các phần mềm độc quyền trong các kho gói phần mềm. Những gói phần mềm không tự do này được tách ra thành kho phần mềm riêng có tên gọi là non-free.
Danh sách các kho phần mềm khác của Debian:
Biểu tượng "xoáy" được thiết kể bởi Raul Silva vào năm 1999 trong một cuộc thi thiết kế logo chính thức cho dự án.. Người thắng cuộc sẽ nhận được một hòm thư điện tử @, và một bộ CD cài đặt Debian 2.1 cho kiến trúc họ chọn. Không có tuyên bố chính thức nào về ý nghĩa của logo này, nhưng tại thời điểm logo được lựa chọn, mọi người cho rằng logo đặt diện cho khói ma thuật (hoặc thần) để làm cho máy tính hoạt động.
Một giả thuyết về nguồn gốc của logo Debian là Buzz Lightyear, nhân vật được chọn cho tên bản phát hành Debian đầu tiên, với một vòng xoáy ở cằm nhân vật này. Stefano Zacchiroli cũng gợi ý rằng xoáy này là xoáy Debian. |
Mẫu là một dạng, một khuôn thức, hay một mô hình (một cách trừu tượng, là một tập hợp các quy tắc) mà có thể dùng để làm ra hay tạo nên những sự vật hoặc các bộ phận của một vật. Đặc biệt, trong trường hợp nếu các sự vật được tạo nên này hội đủ các điểm chung để cho kết cấu bên trong của nó trở thành dự đoán được hay phân biệt được (với cái khác), thì sự vật (mẫu) này gọi là "bày biện" mẫu. Sự phát hiện của kết cấu bên trong được gọi là sự thừa nhận mẫu.
Mẫu đơn giản nhất thường có thể tạo nên bằng cách dựa vào sự trùng lặp: nhiều sự sao chép của cùng một khuôn thức được kết hợp mà không cần có sự sửa đổi. Thí dụ, trong ngành hàng không, một "mẫu chờ" là một phi đạo mà có thể lặp lại cho đến khi phi cơ được cho phép hạ cánh.
Sự thừa nhận mẫu thì phức tạp hơn khi mà các khuôn thức của nó được dùng để tạo nên các biến đổi. Thí dụ, trong tiếng Việt, các câu đơn thường theo mẫu "Danh từ + động từ + túc từ", nhưng trong nhiều trường hợp để hiểu đúng đòi hỏi phải có sự phát hiện mẫu (trong trường hợp các câu đối, câu chơi chữ chẳng hạn.)
Sự thừa nhận mẫu được nghiên cứu trong nhiều ngành, bao gồm tâm lý học, phong tục học, và ngay cả khoa học máy tính.
Một số mẫu (chẳng hạn như các mẫu thấy được bằng mắt) thì có thể được quan sát trực tiếp bằng các giác quan.
Các hành tinh trong Thái Dương hệ bị giữ bởi sức hút của mặt trời là một mẫu cổ đại. Các hành tinh dịch chuyển theo các quỹ đạo bầu dục (mà hoàn toàn có thể dự kiến được) trong nhiều tỉ năm. |
Ngữ hệ Kra-Dai (các tên gọi khác bao gồm: ngữ hệ Tai-Kadai, họ ngôn ngữ Tai-Kadai, ngữ hệ Kradai, họ ngôn ngữ Kradai, ngữ hệ Thái-Kradai, ngữ hệ Thái-Kadai, ngữ hệ Tráng-Đồng, ngữ hệ Thái-Tạp Đại v.v) là một ngữ hệ bao gồm khoảng 70 ngôn ngữ tập trung tại Đông Nam Á và miền nam Trung Quốc. Hiện nay ngữ hệ này được coi là bao gồm năm nhánh chính: ngữ chi Lê (Hlai), ngữ chi Đồng-Thủy (Kam-Sui), Ngữ chi Kra, ngữ chi Thái (Tai) và tiếng Ông Bối (OngBe hay Bê) với vị trí chưa rõ ràng.
Các ngôn ngữ chính trong ngữ hệ Kra-Dai bao gồm tiếng Thái và tiếng Lào, ngôn ngữ quốc gia của Thái Lan và Lào.
Khoảng 93 triệu người nói tiếng Tai-Kdai, 60% trong số họ nói tiếng Thái. Ethnologue liệt kê 95 ngôn ngữ trong ngữ hệ này, với 62 ngôn ngữ này thuộc nhánh Tai.
Sự đa dạng cao của các ngôn ngữ Kra-Dai ở miền nam Trung Quốc chỉ ra nguồn gốc ngữ hệ Kra-Dai ở miền nam Trung Quốc. Chi nhánh Tai di chuyển về phía nam vào Đông Nam Á chỉ khoảng 1000 năm sau Công nguyên.
Các mối liên quan ngoài.
Ngữ hệ Kradai trước đây được coi là một phần của ngữ hệ Hán-Tạng (tại Trung Quốc khi đó gọi là ngữ tộc Tráng-Đồng, ngữ tộc Đồng-Thái, ngữ tộc Tráng-Thái, ngữ tộc Thái hay ngữ tộc Kiềm Thái ), nhưng hiện nay nó được phân loại như là một ngữ hệ độc lập. Ngữ hệ này chứa một lượng lớn các từ cùng gốc với ngữ hệ Hán-Tạng. Tuy nhiên, chúng chỉ được tìm thấy một cách ngẫu nhiên trong mọi nhánh của ngữ hệ này, và không bao gồm từ vựng cơ bản, chỉ ra rằng chúng chỉ là các từ vay mượn từ thời cổ.
Tại Trung Quốc, ngữ hệ này trước đây được gọi là "ngữ tộc Tráng-Đồng" và nói chung được coi là một phần của Ngữ hệ Hán-Tạng cùng với ngữ hệ H'Mông-Miền (Miêu-Dao). Hiện tại, các học giả về ngôn ngữ học tại Trung Quốc vẫn còn tranh luận về việc liệu các ngôn ngữ trong Ngữ chi Cờ Ương như tiếng Ngật Lão, tiếng Pu Péo và tiếng La Chí có thể được gộp trong ngữ hệ Tráng-Đồng hay không, do chúng thiếu các từ cùng gốc Hán-Tạng, một điều kiện để gộp các ngôn ngữ Tráng-Đồng khác trong ngữ hệ Hán-Tạng.
Một vài học giả phương Tây tin rằng ngữ hệ Kradai có liên quan tới hay là một nhánh của ngữ hệ Nam Đảo (Austronesia), trong một ngữ hệ được gọi là ngữ hệ Nam-Thái (Austro-Tai). Ở đây có một lượng đáng kể nhưng hạn chế các từ cùng gốc trong từ vựng cốt lõi. Vẫn chưa có sự đồng thuận về việc chúng là nhánh Ngữ hệ Nam Đảo trên đại lục, được di cư ngược từ Đài Loan vào đại lục hay chúng là sự di cư muộn hơn từ Philippines tới Hải Nam trong thời kỳ mở rộng của Ngữ hệ Nam Đảo.
Phân loại nội bộ.
Ngữ hệ Kradai bao gồm năm nhánh được thiết lập khá vững chắc, bao gồm 4 ngữ chi là Lê (Hlai), Cờ Ương (Kra), Đồng-Thủy (Kam-Sui), Thái (Tai) và tiếng Ông Bối (Ong Be/Bê):
Dựa trên một lượng lớn từ vựng mà các ngôn ngữ trong ngữ hệ chia sẻ, các nhánh Kam-Sui, Be, Tai thường được gộp cùng nhau. (Xem ngữ tộc Đồng-Thái (hay Kam-Tai)). Tuy nhiên, nó cũng chỉ là chứng cứ phủ định, có lẽ là do sự thay thế từ vựng học ở các nhánh khác, và các nét tương đồng hình thái học gợi ý rằng Kra và Kam-Sui nên gộp cùng nhau như là nhánh Bắc Kradai, còn Hlai và Tai như là nhánh Nam Kradai.
Vị trí của tiếng Ông Bối trong đề xuất này là chưa xác định.
Nguồn gốc và di cư.
Nghiên cứu trên 100 quần thể dân cư Đông Á, bao gồm 30 các quần thể dân cư nói các tiếng Kradai đã đạt được các kết luận sau:
Thứ nhất, các quần thể dân cư nói các tiếng Kradai có một lượng lớn các điểm tương đồng di truyền học mặc dù sự pha trộn với cư dân bản địa khu vực đã xảy ra sau sự mở rộng của nó.
Thứ hai, một tỷ lệ đáng kể dân cư miền nam Trung Quốc có các dấu hiệu của dân cư nói các tiếng Kradai.
Thứ ba, thổ dân Đài Loan trông tương tự như các quần thể dân cư nói các tiếng Kradai hơn là giống các quần thể dân cư Austronesia khác, chẳng hạn như người Malay-Polynesia.
Thứ tư, việc tập trung thành cụm của các quần thể dân cư nói các tiếng Kradai tương ứng khá tốt với sự phân chia dựa theo các điểm tương đồng di truyền học, chỉ ra rằng chỉ một luồng gen hạn chế giữa họ sau khi có sự chia tách của các quần thể dân cư này.
Các quần thể dân cư nói các tiếng Kradai có nguồn gốc từ phần phía nam Đông Á và sau đó đã di cư về phía bắc và phía đông với nhánh Kam-Sui có lẽ là cổ nhất. |
Mẫu (đơn vị đo)
Mẫu là một đơn vị đo lường diện tích cũ của một số nước trong khu vực Đông Á, như Trung Quốc và Việt Nam.
Trong hệ đo lường cổ của Việt Nam, mẫu (chữ Nho 畝, là một đơn vị đo diện tích. Một mẫu bằng 10 công (1 công = 1 sào).
1 công hay 1 sào đất nam bộ là 1 000 m², ở trung bộ là 500 m², ở Bắc bộ là 360 m².
Một mẫu tính theo mét hệ bằng 3600 mét vuông và một công là 360 m².
Cách tính diện tích theo đơn vị mẫu hay sào khá tùy tiện, tùy theo từng vùng. Chẳng hạn, ở Bắc Bộ 1 mẫu là 3600 m²; Trung Bộ thì 1 mẫu là 4 970 m²; còn ở Nam Bộ thì 1 mẫu là 10 000 m².
Đơn vị mẫu cũng như sào hiện vẫn còn được sử dụng trong nông nghiệp ở Việt Nam.
Tuy nhiên, để thông dụng nhất, dễ dàng tính toán người ta hay dùng theo hệ thập phân của Nam Bộ, tức 1 công đất là 1 000 m², 1 mẫu đất bằng 10 công, tương đương 10 000 m², bằng 1 hecta.
Tại Trung Quốc, mẫu có nguồn gốc từ tỉnh điền chế thời Hạ, Thương, Chu, trong đó mỗi thửa ruộng hình vuông được chia đều thành 9 mảnh, với mảnh ở trung tâm do dân gieo trồng nhưng thuộc về nhà nước còn sản phẩm thu được từ tám miếng bao quanh là của dân. Một mẫu (亩/畝) bằng khoảng 667 m² hay 60 phương trượng (mỗi phương trượng bằng khoảng 11,111 m²). Khoảng 15 mẫu bằng một hecta sau này.
Mẫu cũng có thể là viết tắt của mẫu Anh (tiếng Anh "Acre"), đơn vị thường dùng để đo diện tích đất đai tại Anh, Mỹ, tương đương 4.046,8564224 mét vuông. |
Ngữ hệ Nhật Bản-Lưu Cầu
Ngữ hệ Nhật Bản-Lưu Cầu hay họ ngôn ngữ Nhật Bản-Lưu Cầu là một nhóm ngôn ngữ tập trung tại Nhật Bản và Quần đảo Lưu Cầu đã phát triển độc lập với các ngôn ngữ khác sau nhiều thế kỷ. Ngữ hệ Nhật Bản được chia ra làm 2 nhóm chính: tiếng Nhật và Nhóm Lưu Cầu ("Ryukyu"). Chi tiếng Nhật chỉ gồm duy nhất tiếng Nhật. Chi Lưu Cầu (Ryukyu) chia làm 2 nhóm ngôn ngữ, một nhóm bao gồm trực tiếp các ngôn ngữ thành viên và nhóm còn lại tiếp tục phân thành 2 nhánh ngôn ngữ (hay trong một số trường hợp còn được định danh là tiểu nhóm ngôn ngữ, tùy thuộc vào mức độ chính xác của từng định nghĩa chi, nhóm, nhánh khác nhau đang được sử dụng). Ngữ hệ Nhật Bản có 12 ngôn ngữ thành viên, tất cả trong số đó đều đang được duy nhất những cư dân đang sống trên đất Nhật sử dụng.
Tuy các ngôn ngữ thuộc hệ này đã được phát triển biệt lập, nhiều nhà ngôn ngữ học vẫn đang tìm kiếm các liên hệ giữa chúng với các ngôn ngữ khác. Một thuyết được để ý nhất đề nghị xếp hệ này cùng với một ngôn ngữ đã mai một – tiếng Goguryeo – vào "Nhóm Fuyu". Một thuyết khác nhắc đến những điểm giống nhau về ngữ pháp giữa các ngôn ngữ trong hệ này và tiếng Triều Tiên – tuy không giải thích được về sự khác biệt về từ vựng.
Sơ đồ của ngữ hệ Nhật Bản.
Sự phân chia cụ thể của ngữ hệ này như sau:
Nhiều nhà ngôn ngữ học lại có ý kiến khác về nhóm Lưu Cầu như sau đây:
Trong các ngôn ngữ trên, tuyệt đại đa số là được sử dụng bởi một thiểu số rất ít người, một số ngôn ngữ chỉ có vài trăm người sử dụng. Ngoài tiếng Nhật, duy có một ngôn ngữ có số người sử dụng gần 1 triệu là tiếng miền Trung Okinawa (xem thêm ). Tất cả 11 ngôn ngữ còn lại đều không thể dùng để giao tiếp với tiếng Nhật vì sự dị biệt tới mức không hiểu nổi giữa các ngôn ngữ này.
Các ngôn ngữ chính.
Bảng dưới tóm tắt một số đặc điểm của các ngôn ngữ chính trong ngữ hệ Nhật: |
Màu đỏ yên chi là chất màu có màu đỏ sáng thu được từ rệp son ("Dactylopius coccus"),và nó là thuật ngữ chung cho các màu sắc đỏ thẫm cụ thể nào đó.
Nó có thể được chế ra bằng cách cô đặc (sắc) rệp son với nước sôi và sau đó xử lý dung dịch trong suốt với phèn chua, kem tartar (muối tartarat kali, KHC4H4O6), chloride thiếc II, hay ôxalat kali; các chất màu có trong chất lỏng sẽ kết tủa. Các phương pháp khác cũng được sử dụng; đôi khi lòng trắng trứng, bột nhão cá, hay giêlatin được bổ sung trước khi cho kết tủa.
Chất lượng của chất màu yên chi bị ảnh hưởng bởi nhiệt độ và độ chiếu sáng trong quá trình kết tủa, ánh sáng mặt trời là cần thiết để sản xuất bột màu có sắc màu chói. Nó cũng khác nhau về màu theo tỷ lệ oxide nhôm trong đó. Nó đôi khi được pha trộn với chất màu đỏ son,hồ và các chất liệu khác; từ những hỗn hợp này chất màu đỏ yên chi có thể được tách ra bằng cách hòa tan nó trong amonia. Chất liệu màu yên chi tốt có thể dễ dàng bóp vụn bằng các ngón tay khi khô.
Thành phần hóa học.
Về phương diện hóa học, chất liệu màu yên chi là hỗn hợp của acid carminic với oxide nhôm, vôi sống và một vài acid hữu cơ khác. Màu đỏ yên chi chủ yếu là do acid carminic và thành phần này đôi khi được chiết ra để sử dụng như là chất liệu màu nguyên chất. Chất liệu màu yên chi được sử dụng trong sản xuất các loại hoa giả,màu nước, phấn, mỹ phẩm và mực màu đỏ thắm cũng như để sơn các vật nhỏ. Chất màu yên chi là chất màu thu được bằng cách bổ sung oxide nhôm tinh khiết để sắc bọ yên chi.
Số Hex = #960018br
RGB (r, g, b) = (150, 0, 24)br
CMYK (c, m, y, k) = (41, 100, 91, 0)br
HSV (h, s, v) = (350, 100, 59) |
Màu ôliu (olive) là màu xanh lá cây ánh vàng xỉn, sẫm thông thường nhìn thấy trên lá cây ôliu. Nó có thể tạo thành bằng cách bổ sung một chút màu đen vào thuốc nhuộm hay sơn màu vàng.
Các biến thể của màu ôliu, chẳng hạn như màu ôliu xám, được sử dụng thường xuyên để ngụy trang, hay cho quân đội nói chung.
Đôi khi có những người được gọi là có "nước da màu ôliu", để chỉ tới nước da có màu nâu trung bình với sắc thái vàng và lục nhạt.
Tương tự như màu xanh lá cây là "caca d'oie." ("phân ngỗng").
Số Hex = #808000
RGB (r, g, b) = (128, 128, 0)
CMYK (c, m, y, k) = (0, 0, 100, 50)
HSV (h, s, v) = (60, 100, 50) |
Màu ngọc lam hay xanh Thổ (turquoise) là màu có giá trị trung bình do pha trộn của màu xanh lam và xanh lá cây, là màu của loại đá quý ngọc lam.
Cảm giác về màu sắc này là nữ tính, ngọt ngào, trong khi đó các sắc thái sẫm hơn thông thường là phức tạp và tao nhã hơn. Nó có liên hệ mật thiết với vùng Trung Đông và tây nam nước Mỹ. Thuật ngữ "turquoise" có xuất xứ từ tiếng Pháp với nghĩa "Turkey" (Thổ Nhĩ Kỳ).
Số Hex = #40E0D0
RGB (r, g, b) = (64, 224, 208)
CMYK (c, m, y, k) = (71, 0, 7, 12)
HSV (h, s, v) = (174, 71, 88) |
Cẩm quỳ (tiếng Anh: "mauve", tiếng Pháp: "malva", bắt nguồn từ tên gọi chung của các loài cẩm quỳ (chi "Malva" họ Malvaceae)) là tên gọi của một màu, giống như màu hoa cà có ánh hồng xám nhạt, là một trong rất nhiều màu sắc trong dãy màu tía. Nó có ánh xám và lam hơn là ánh của màu hồng sẫm.
Màu cẩm quỳ được đặt tên lần đầu tiên năm 1856. Nhà hóa học , khi đó mới 18 tuổi, đã thử điều chế ký ninh nhân tạo để làm thuốc chống sốt rét. Phần còn lại ngoài dự kiến đã vô tình được ông để ý và nó đã trở thành thuốc nhuộm anilin đầu tiên — chính xác là , đôi khi được gọi là "anilin màu tía". Perkins đã rất thành công trong việc giới thiệu phát kiến của mình cho ngành công nghiệp sản xuất thuốc nhuộm, vì thế tiểu sử của ông do Simon Garfield viết được đặt tiêu đề là "Mauve", tức "màu cẩm quỳ" (2001).
"Thập niên cẩm quỳ" (The Mauve Decade) là nhan đề mà Thomas Beer (1889-1940) tìm ra để đặc tả cho "lối sống Mỹ vào cuối thế kỷ 19" vào năm 1926. Nhìn lại thời gian này, Beer không thích xu hướng mà nước Mỹ tiến tới, ông tin rằng nó đã rời xa khỏi các truyền thống của Tân Anh tới thời gian của "sự suy sụp và những cách nói vô nghĩa". Ông lấy nhan đề từ trích dẫn từ nghệ sĩ : "Cẩm quỳ chỉ là hồng cố trở thành tía."
Số Hex = #E0B0FF
RGB (r, g, b) = (224, 176, 255)
CMYK (c, m, y, k) = (12, 31, 0, 0)
HSV (h, s, v) = (276, 31, 100) |
Tần số là số lần của một hiện tượng lặp lại trên một đơn vị thời gian.
Để tính tần số, chọn một khoảng thời gian, đếm số lần xuất hiện của hiện tượng trong thời gian ấy, rồi chia số này cho khoảng thời gian đã chọn.
Như vậy đơn vị đo tần số là nghịch đảo đơn vị đo thời gian. Trong hệ đo lường quốc tế, đơn vị này là Hz đặt tên theo nhà vật lý Đức, Heinrich Rudolf Hertz. 1 Hz cho biết tần số lặp lại của sự việc đúng bằng 1 lần trong mỗi giây:
Đơn vị khác của tần số là:
Liên hệ với chu kỳ.
Tần số có thể tính qua liên hệ với chu kỳ, thời gian giữa hai lần xuất hiện liên tiếp của sự việc. Tần số "f" bằng nghịch đảo chu kỳ "T":
Trong chuyển động sóng.
Trong chuyển động sóng, tần số là số lần quan sát thấy đỉnh sóng tại một điểm trong một đơn vị thời gian. Tần số sóng âm trong âm nhạc còn được đặc trưng bởi nốt nhạc.
Liên hệ với bước sóng.
Bước sóng của sóng bằng chu kỳ nhân vận tốc sóng. Do vậy tần số "f" bằng vận tốc sóng "v" chia cho bước sóng λ:
Trong các môi trường truyền sóng.
Khi sóng đi qua các môi trường khác nhau, tần số không thay đổi (nhưng vận tốc và bước sóng có thể thay đổi). |
Màu xanh nõn chuối, hay còn gọi là xanh đọt chuối (tên tiếng Anh: "Chartreuse") chứa nhiều phần xanh lục pha chút vàng. Nó có tên như vậy vì giống phần lá non của cây chuối. Nó giống màu vàng chanh nhưng có nhiều sắc xanh lục hơn màu vàng chanh.
Màu websafe gần nhất của nó là #66ff00.
Số Hex = #7FFF00.
RGB (r, g, b) = (127, 255, 0).
CMYK (c, m, y, k) = (50, 0, 100, 0).
HSV (h, s, v) = (90, 100, 100). |
Toàn cầu hóa là khái niệm dùng để miêu tả các thay đổi trong xã hội và trong nền kinh tế thế giới, tạo ra bởi mối liên kết và trao đổi ngày càng tăng giữa các quốc gia, các tổ chức hay các cá nhân ở góc độ văn hóa, kinh tế... trên quy mô toàn cầu. Đặc biệt trong phạm vi kinh tế, toàn cầu hoá hầu như được dùng để chỉ các tác động của thương mại nói chung và tự do hóa thương mại hay "tự do thương mại" nói riêng. Cũng ở góc độ kinh tế, người ta chỉ thấy các dòng chảy tư bản ở quy mô toàn cầu kéo theo các dòng chảy thương mại, kỹ thuật, công nghệ, thông tin, văn hóa.
Xét về bản chất, toàn cầu hoá là quá trình tăng lên mạnh mẽ những mối liên hệ, những ảnh hưởng tác động lẫn nhau, phụ thuộc lẫn nhau của tất cả các khu vực, các quốc gia, các dân tộc trên thế giới.
Lịch sử của toàn cầu hoá.
Toàn cầu hoá, theo nghĩa cổ điển, đã bắt đầu vào khoảng thế kỷ thứ XV, sau khi có những thám hiểm hàng hải quy mô lớn. Cuộc thám hiểm lớn lần đầu tiên vòng quanh thế giới do Ferdinand Magellan thực hiện vào năm 1522. Cũng như việc xuất hiện các trục đường trao đổi thương mại giữa châu Âu, châu Á, châu Phi và châu Mỹ không phải là hiện tượng gần đây. Ngoài những trao đổi về hàng hoá vật chất, một số giống cây cũng được đem trồng từ vùng khí hậu này sang vùng khí hậu khác (chẳng hạn như khoai tây, cà chua và thuốc lá).
Do có hai khía cạnh kỹ thuật và chính trị, "toàn cầu hoá" sẽ có nhiều lịch sử khác nhau. Thông thường trong phạm vi của môn kinh tế học và kinh tế chính trị học, toàn cầu hoá chỉ là lịch sử của việc trao đổi thương mại không ngừng giữa các nước dựa trên những cơ sở ổn định cho phép các cá nhân và công ty trao đổi hàng hoá với nhau một cách trơn tru nhất.
Thuật ngữ "tự do hoá" xuất hiện để chỉ sự kết hợp của học thuyết kinh tế về thị trường tự do tuyệt đối và sự hủy bỏ các rào cản đối với việc lưu thông hàng hoá. Điều này dẫn tới sự chuyên môn hoá không ngừng của các nước trong lĩnh vực xuất khẩu, cũng như tạo ra áp lực chấm dứt hàng rào thuế quan bảo hộ và các rào cản khác. Thời kỳ bắt đầu dùng vàng làm tiêu chuẩn của hệ thống tiền tệ (bản vị vàng) và tự do hoá trong thế kỷ thứ XIX thường được chính thức gọi là "thời kỳ đầu của toàn cầu hoá". Cùng với thời kỳ bành trướng của đế quốc Anh ("Pax Britannica") và việc trao đổi hàng hoá bằng các loại tiền tệ có sử dụng tiền xu, thời kỳ này là cùng với giai đoạn công nghiệp hoá. Cơ sở lý thuyết là công trình của David Ricardo nói về lợi thế so sánh và luật cân bằng chung của Jean-Baptiste Say, cho rằng, về cơ bản các nước sẽ trao đổi thương mại một cách hiệu quả, và bất kỳ những bất ổn tạm thời về cung hay cầu cũng sẽ tự động được điều chỉnh. Việc thiết lập bản vị vàng bắt đầu ở các nước công nghiệp hoá chính khoảng giữa năm 1850 và năm 1880, mặc dù chính xác khi nào các nước này áp dụng bản vị vàng vẫn còn là đề tài gây nhiều tranh cãi.
"Thời kỳ đầu của toàn cầu hoá" rơi vào thoái trào khi bắt đầu bước vào Chiến tranh thế giới lần thứ nhất, và sau đó sụp đổ hẳn khi xảy ra khủng hoảng bản vị vàng vào cuối những năm 1920 và đầu những năm 1930.
Trong môi trường hậu Chiến tranh thế giới lần thứ hai, thương mại quốc tế đã tăng trưởng đột ngột do tác động của các tổ chức kinh tế quốc tế và các chương trình tái kiến thiết. Kể từ Chiến tranh thế giới lần thứ hai, các Vòng đàm phán thương mại do GATT khởi xướng, đã đặt lại vấn đề toàn cầu hoá và từ đó dẫn đến một loạt các hiệp định nhằm gỡ bỏ các hạn chế đối với "thương mại tự do". Vòng đàm phán Uruguay đã đề ra hiệp ước thành lập Tổ chức thương mại thế giới hay WTO, nhằm giải quyết các tranh chấp thương mại. Các hiệp ước thương mại song phương khác, bao gồm một phần của Hiệp ước Maastricht của châu Âu và Hiệp ước mậu dịch tự do Bắc Mỹ (NAFTA) cũng đã được ký kết nhằm mục tiêu giảm bớt các thuế quan và rào cản thương mại. Từ thập kỷ 1970, các tác động của thương mại quốc tế ngày càng rõ rệt, cả về mặt tích cực lẫn tiêu cực.
Thuật ngữ toàn cầu hoá xuất hiện vào những năm 1950, với sự phổ biến các phương tiện vận tải có động cơ và sự gia tăng các trao đổi thương mại; và được chính thức sử dụng rộng rãi từ những năm 1990 của thế kỷ thứ XX.
"Toàn cầu hóa" có thể có nghĩa là:
"Xem bài nói riêng về toàn cầu hoá kinh tế"
Khái niệm này cũng chia sẻ một số tính chất với khái niệm quốc tế hoá và có thể dùng thay cho nhau được, mặc dù có một số người thích dùng "toàn cầu hoá" để nhấn mạnh sự mờ nhạt của ý niệm nhà nước hay biên giới quốc gia.
Toàn cầu hóa được định nghĩa một cách khách quan nhất là sự phụ thuộc qua lại không ngừng giữa các quốc gia và các cá nhân. Sự phụ thuộc qua lại có thể xảy ra trên lĩnh vực kinh tế, công nghệ, môi trường, văn hoá hay xã hộ
Khái niệm chủ nghĩa toàn cầu, nếu chỉ được sử dụng trong phạm vi kinh tế, có thể được xem là trái ngược hẳn với khái niệm chủ nghĩa kinh tế quốc gia và chủ nghĩa bảo hộ. Nó có liên quan đến khái niệm chủ nghĩa tư bản không can thiệp và chủ nghĩa tân tự do.
Biểu hiện của toàn cầu hóa.
Có thể nhận biết toàn cầu hoá thông qua một số xu hướng, hầu hết các xu hướng đó bắt đầu từ Chiến tranh thế giới lần thứ hai. Trong số đó có lưu thông quốc tế ngày càng tăng đối với hàng hoá, tiền tệ, thông tin và người; cùng với việc phát triển các công nghệ, tổ chức, hệ thống luật lệ và cơ sở hạ tầng cho việc lưu thông này. Hiện nay vẫn còn nhiều tranh luận xung quanh sự tồn tại của một số xu hướng.
Các rào cản đối với thương mại quốc tế đã giảm bớt tương đối kể từ Chiến tranh thế giới lần thứ hai thông qua các hiệp ước như Hiệp ước chung về thuế quan và mậu dịch (GATT). Các đề xuất của GATT cũng như WTO bao gồm:
Có khá nhiều thảo luận mang tính học thuật nghiêm túc quanh việc xem toàn cầu hoá là một hiện tượng có thật hay chỉ là một sự đồn đại. Mặc dù thuật ngữ này đã trở nên phổ biến, nhiều học giả lý luận rằng các tính chất của hiện tượng này đã từng được thấy ở một thời điểm trước đó trong lịch sử. Tuy vậy, nhiều người cho rằng những dấu hiệu làm người ta tin là đang có tiến trình toàn cầu hoá, bao gồm việc gia tăng thương mại quốc tế và vai trò ngày càng lớn của các tập đoàn gia quốc gia, thực sự không rõ ràng như ta tưởng. Do vậy, nhiều học giả thích dùng thuật ngữ "quốc tế hoá" hơn là "toàn cầu hoá". Để cho đơn giản, vai trò của nhà nước và tầm quan trọng của các quốc gia lớn hơn nhiều trong khái niệm quốc tế hoá, trong khi toàn cầu hoá lại loại trừ vai trò các nhà nước quốc gia theo bản chất thực sự của nó. Chính vì vậy, các học giả này xem biên giới quốc gia, trong một nghĩa rộng, còn lâu mới mất đi, do vậy tiến trình toàn cầu hoá căn bản này vẫn chưa thể xảy ra, và có lẽ sẽ không bao giờ xảy ra vì dựa trên lịch sử thế giới người ta thấy rằng quốc tế hoá sẽ không bao giờ biến thành toàn cầu hoá — chẳng hạn như trường hợp Liên hiệp châu Âu và NAFTA hiện tại.
Tác động của toàn cầu hoá.
Khía cạnh kinh tế.
Các tổ chức quốc gia sẽ mất dần quyền lực (xem ảnh hưởng về khía cạnh chính trị phía dưới), quyền lực này sẽ chuyển về tay các tổ chức đa phương như WTO. Các tổ chức này sẽ mở rộng việc tự do đối với các giao dịch thương mại, và thông qua các hiệp ước đa phương hạ thấp hoặc nâng cao hàng rào thuế quan để điều chỉnh thương mại quốc tế. Mặt tích cực của thương mại tự do là nó cho phép các nước đang phát triển tiếp cận với thị trường thế giới do đó phát triển nền sản xuất của họ đến một quy mô vượt quá nhu cầu của thị trường nội địa. Đồng thời thông qua việc nhập khẩu hàng hóa, công nghệ từ các nước phát triển trình độ kỹ thuật của các nước đang phát triển tăng lên. Tuy nhiên tự do thương mại cũng có những mặt trái của nó như các nước phát triển với trình độ khoa học kỹ thuật cao có thể độc quyền sản xuất ra những mặt hàng công nghệ cao như phần mềm, thiết bị điện tử, thuốc chữa bệnh do đó có thể bán với giá cao để thu được lợi nhuận lợi nhuận siêu ngạch do độc quyền kỹ thuật mang lại trong khi các nước đang phát triển sản xuất các loại hàng hóa đơn giản, ít hàm lượng chất xám lại phải cạnh tranh với nhau do đó bán với giá rẻ, thu được tỷ suất lợi nhuận rất thấp. Các nước đang phát triển không thể sử dụng hàng rào thuế quan để bảo vệ các ngành công nghiệp non trẻ của mình trước sự tấn công của các công ty đa quốc gia từ các nước phát triển.
Toàn cầu hóa cũng làm cho sự di chuyển lao động giữa các quốc gia diễn ra nhiều và dễ dàng hơn, kéo theo hiện tượng lao động có trình độ cao di chuyển khỏi các nước đang phát triển đến các nước phát triển. Hiện tượng này góp phần gia tăng khoảng cách giàu nghèo giữa các quốc gia phát triển và đang phát triển, giữa từng khu vực riêng biệt trong một đất nước.
Toàn cầu hóa còn làm tăng mức độ tự do hóa tài chính của các quốc gia. Mặt tích cực là các quốc gia đang phát triển dễ dàng nhận được vốn đầu tư hơn từ các nước phát triển để phát triển kinh tế. Mặt trái của tự do hóa tài chính là các nhà đầu tư nước ngoài thực hiện đầu cơ trên thị trường tài chính của các quốc gia đang phát triển để kiếm lời sau đó rút vốn ra khỏi các quốc gia này khiến nền tài chính của các quốc gia này suy yếu do thất thoát ngoại tệ dẫn đến khủng hoảng tài chính. Tự do hóa tài chính cũng có thể khiến lãi suất ngân hàng tăng cao ảnh hưởng xấu đến đầu tư sản xuất làm một quốc gia tăng trưởng chậm lại.
Khía cạnh văn hoá, xã hội và ngôn ngữ.
Toàn cầu hoá sẽ tạo ra những hiệu quả trái ngược ở mức độ cá nhân hay dân tộc, mà kết cục thế nào đến nay cũng vẫn chưa ngã ngũ. Toàn cầu hoá sẽ tạo ra:
Mỗi người nhìn toàn cầu hoá theo một kiểu khác nhau. Có hai xu hướng chính:
Ở góc độ ngôn ngữ, chúng ta thấy khuynh hướng rõ ràng hướng tới đồng nhất hoá việc dùng "tiếng Anh toàn cầu" ("globish", viết tắt của "global English"), một thứ tiếng Anh nghèo nàn do những người không phải là người Anglo-Saxon dùng khi họ ở nước ngoài.
Sự phổ cập của tiếng Anh toàn cầu gắn với việc mất đi quyền lực chính trị ở cấp độ thế giới: thay vì một chính sách văn hoá quốc tế có sự phối hợp để có thể dẫn đến việc chọn một thứ tiếng có quy luật rõ ràng và ngữ âm học rõ ràng, phần lớn các nước đều chọn dạy tiếng Anh cho giới trẻ dựa trên lựa chọn của các nước khác! Do sự bắt chước một cách máy móc và sự trơ ì chính trị, tiếng Anh đã trở thành một ngôn ngữ của thế giới và được gọi là "tiếng Anh toàn cầu" ("globish") vì các yếu tố cơ bản của tiếng Anh Oxford đã bị biến dạng về phát âm, ngữ pháp, từ vựng. Đối với một số những người nói tiếng Anh, "tiếng Anh toàn cầu" là kết quả của chủ nghĩa đế quốc về ngôn ngữ của nước họ. Vấn đề là liệu có thể dễ dàng cho rằng các nỗ lực hướng đến việc dạy tiếng Anh thay vì giảng dạy các thứ tiếng khác sẽ làm giảm chất lượng của các ngôn ngữ khác hay không (như tiếng Pháp lai Anh - "franglais").
Khía cạnh chính trị.
Toàn cầu hóa làm cho các dân tộc xích lại gần nhau hơn. Marx nhận xét "Với sự phát triển của giai cấp tư sản, tự do buôn bán, thị trường thế giới, sự đồng đều của sản xuất công nghiệp và những điều kiện sinh hoạt thích ứng với nền sản xuất ấy thì những sự cách biệt dân tộc và những sự đối lập giữa nhân dân các nước cũng ngày càng mất đi.".
Toàn cầu hoá sẽ làm tăng lên nhiều lần các mối quan hệ giữa các công dân trên thế giới và cũng như các cơ hội cho từng người. Tuy nhiên nó đặt ra vấn đề là phải tìm ra một giải pháp thay thế cho hệ thống chính trị và hiến pháp hiện tại dựa trên khái niệm nhà nước-quốc gia. Các thực thể này đã từng gây ra những tác động tiêu cực trong suốt lịch sử do tính chất can thiệp mạnh bạo của nó. Ảnh hưởng của chúng giảm dần do sự toàn cầu hoá, và không còn đủ tầm xử lý nhiều thách thức mang tính toàn cầu ngày nay.
Từ đó nảy sinh thách thức cần thiết lập một toàn cầu hoá dân chủ thể chế nào đó. Kiểu toàn cầu hoá này dựa trên khái niệm "công dân thế giới", bằng cách kêu gọi mọi người sống trên hành tinh này tham gia vào quá trình quyết định những việc liên quan đến họ, mà không thông qua một bức màn "quốc tế".
Các tổ chức phi chính phủ muốn thay vào khoảng trống này, tuy nhiên họ thiếu tính hợp pháp và thường thể hiện các tư tưởng đảng phái quá nhiều để có thể đại diện tất cả công dân trên thế giới.
Phản ứng xung quanh toàn cầu hoá.
Chống toàn cầu hoá.
Các nhà hoạt động xã hội vì lợi ích cộng đồng coi một số khía cạnh của toàn cầu hoá là nguy hại. Phong trào này không có tên gọi thống nhất. "Chống toàn cầu hoá" là thuật ngữ mà báo chí hay dùng nhất. Ngay chính các nhà hoạt động xã hội như Noam Chomsky đã cho rằng tên này không có ý nghĩa gì cả vì mục tiêu của phong trào là toàn cầu hoá sự công bằng. Trên thực tế, có một tên phổ biến là "phong trào đòi công bằng toàn cầu". Nhiều nhà hoạt động xã hội cũng tập hợp dưới khẩu hiệu "có thể có một thế giới khác", từ đó ra đời những tên gọi như "altermondisme" hay "altermondialisation", đến từ tiếng Pháp.
Có rất nhiều kiểu "chống toàn cầu hoá" khác nhau. Nói chung, những phê phán cho rằng kết quả của toàn cầu hoá hiện không phải là những gì đã được hình dung khi bắt đầu quá trình tăng cường thương mại tự do, cũng như nhiều tổ chức tham gia trong hệ thống toàn cầu hoá đã không xét đến lợi ích cho các nước nghèo cũng như giới lao động.
Các lý luận kinh tế của các nhà kinh tế theo học thuyết thương mại công bằng thì cho rằng thương mại tự do không giới hạn chỉ đem lại lợi ích cho những ai có tỷ lệ vốn lớn () mà không hề quan tâm đến người nghèo.
Nhiều nhà hoạt động xã hội "chống toàn cầu hoá" coi toàn cầu hoá là việc thúc đẩy chương trình nghị sự của những người theo chủ nghĩa tập đoàn, một chương trình này nhằm mục tiêu giới hạn các quyền tự do cá nhân dưới danh nghĩa lợi nhuận. Họ cũng cho rằng sự tự chủ và sức mạnh ngày càng tăng của các tập đoàn dần dần hình thành nên các chính sách chính trị của nhà nước quốc gia.
Một số nhóm "chống toàn cầu hoá" lý luận rằng toàn cầu hoá chỉ đơn thuần là hình thức đế quốc, là một trong những lý do căn bản dẫn đến chiến tranh Iraq và là cơ hội kiếm tiền của Mỹ hơn là các nước đang phát triển.
Một số khác cho rằng toàn cầu hoá áp đặt một hình thức kinh tế dựa trên tín dụng, kết quả là dẫn tới các nợ nần và khủng hoảng nợ nần chồng chất không tránh khỏi.
Sự phản đối chủ yếu nhắm vào sự toàn cầu hoá "không kiểm soát" (như trong các chủ nghĩa tân tự do và tư bản tự do tuyệt đối) do các chính phủ hay các tổ chức gần như chính phủ (như Quỹ tiền tệ quốc tế và Ngân hàng thế giới) chỉ đạo và không chịu trách nhiệm đối với quần chúng mà họ lãnh đạo mà thay vào đó gần như chỉ đáp ứng lợi ích của các tập đoàn. Rất nhiều các cuộc hội thảo giữa các vị bộ trưởng tài chính và thương mại các nước trong trục toàn cầu hoá đã gặp phải những phản kháng rầm rộ, đôi khi cũng có bạo lực từ các đối tượng chống đối "chủ nghĩa toàn cầu tập đoàn".
Phong trào này quy tụ nhiều thành phần, bao gồm các nhóm tín ngưỡng, các đảng phái tự do dân tộc, các đảng phái cánh tả, các nhà hoạt động vì môi trường, các hiệp hội nông dân, các nhóm chống phân biệt chủng tộc, các nhà chủ nghĩa xã hội tự do và các thành phần khác. Đa số theo chủ nghĩa cải cách (hay ủng hộ chủ nghĩa tư bản nhưng mang tính nhân bản hơn) và một thiểu số tương đối thuộc thành phần cách mạng (ủng hộ một hệ thống nhân bản hơn chủ nghĩa tư bản). Nhiều người đã chê trách sự thiếu thống nhất và định hướng của phong trào, tuy nhiên một số khác như Noam Chomsky thì cho rằng sự thiếu tập trung hoá kiểu này trên thực tế có thể lại là một sức mạnh.
Những người phản đối bằng phong trào công bằng toàn cầu đã tổ chức các cuộc gặp mặt quốc tế lớn ở những thành phố nhỏ thay vì những trung tâm đô thị lớn như trước đây.
Ủng hộ toàn cầu hoá (chủ nghĩa toàn cầu).
Những người ủng hộ toàn cầu hoá dân chủ có thể được gọi là những người ủng hộ chủ nghĩa toàn cầu. Họ cho rằng giai đoạn đầu của toàn cầu hoá là hướng thị trường, và sẽ được kết thúc bởi giai đoạn xây dựng các thiết chế chính trị toàn cầu đại diện cho ý chí của toàn thể công dân thế giới. Sự khác biệt giữa họ với những người ủng hộ chủ nghĩa toàn cầu khác là họ không định nghĩa trước bất kỳ hệ tư tưởng nào để định hướng ý chí này, mà để cho các công dân được tự do chọn lựa thông qua một tiến trình dân chủ.
Những người ủng hộ thương mại tự do dùng các học thuyết kinh tế như lợi thế so sánh để chứng minh thương mại tự do sẽ dẫn đến một sự phân phối tài nguyên hiệu quả hơn, với tất cả những ai tham gia vào quá trình tìm kiếm lợi ích từ thương mại. Thương mại tự do sẽ cho những nhà sản xuất tại các nước một thị trường tiêu thụ rộng lớn hơn dẫn đến lợi nhuận cao hơn. Đồng thời tạo ra sự cạnh tranh giữa các nguồn tư bản, từ đó đem lại lợi ích cho người lao động trên toàn thế giới; cũng như cạnh tranh giữa nguồn nhân công trên toàn thế giới sẽ mang lại lợi ích cho các nhà tư bản và trên hết là cho người tiêu thụ. Nói chung, họ cho rằng điều này sẽ dẫn đến giá thành thấp hơn, nhiều việc làm hơn và phân phối tài nguyên tốt hơn. Toàn cầu hoá đối với những người ủng hộ dường như là một yếu tố dẫn đến phát triển kinh tế cho số đông. Chính từ điều này mà họ chỉ nhìn thấy trong sự truyền thông hoá khái niệm "toàn cầu hoá" một cố gắng biện minh đầy cảm tính và không duy lý của chủ nghĩa bảo hộ kinh tế.
Những người ủng hộ chủ nghĩa tự do cá nhân và những người ủng hộ chủ nghĩ tư bản tự do tuyệt đối cho rằng mức độ tự do cao về kinh tế và chính trị dưới hình thức dân chủ và chủ nghĩa tư bản ở phần thế giới phát triển sẽ làm ra của cải vật chất ở mức cao hơn. Do vậy họ coi toàn cầu hoá là hình thức giúp phổ biến nền dân chủ và chủ nghĩa tư bản.
Họ phê phán phong trào chống toàn cầu hoá chỉ sử dụng những bằng chứng vụn vặt để biện minh cho quan điểm của mình, còn họ thì sử dụng những thống kê ở quy mô toàn cầu. Một trong những dẫn chứng này là tỉ lệ phần trăm dân chúng ở các nước đang phát triển sống dưới mức 1 đôla Mỹ (điều chỉnh theo lạm phát) một ngày đã giảm một nửa chỉ trong hai mươi năm. Tuổi thọ gần như tăng gấp đôi ở các nước đang phát triển kể từ Chiến tranh thế giới lần thứ hai và bắt đầu thu hẹp khoảng cách với các nước phát triển nơi ít có sự cải thiện hơn. Tỉ lệ tử vong trẻ sơ sinh đã giảm ở các khu vực đang phát triển trên thế giới. Bất bình đẳng trong thu nhập trên toàn thế giới nói chung đang giảm dần.
Nhiều người ủng hộ chủ nghĩa tư bản cũng phản đối Ngân hàng thế giới và Quỹ tiền tệ quốc tế với lý luận rằng những tổ chức này đều tham ô, quan liêu do các nhà nước kiểm soát và cung cấp tài chính, chứ không phải các tập đoàn kinh doanh. Nhiều khoản cho vay chỉ đến tay những lãnh đạo độc tài không thực hiện bất kỳ một cải cách nào, rốt cuộc chỉ dân thường là những người phải trả những khoản nợ này về sau. Một số nhóm đặc biệt như các liên đoàn thương mại của thế giới phương Tây cũng phản kháng sự toàn cầu hoá vì mâu thuẫn quyền lợi.
Tuy nhiên, thế giới ngày càng chia sẻ những vấn đề và thách thức vượt qua khỏi quy mô biên giới quốc gia, nhất là vấn đề ô nhiễm môi trường tự nhiên, và như vậy phong trào được biết đến trước đây với tên gọi phong trào chống toàn cầu hoá từ nay đã biến thành một phong trào chung của các phong trào vì toàn cầu hoá; họ tìm kiếm, thông qua thử nghiệm, các hình thức tổ chức xã hội vượt qua khỏi khuôn khổ nhà nước quốc gia và nền dân chủ đại diện. Do đó, cho dù các lý lẽ của phe chống toàn cầu hoá lúc ban đầu có thể bác bỏ thông qua các thực tế về quốc tế hoá như ở trên, song sự xuất hiện của một phong trào toàn cầu là không thể chối cãi và do đó chúng ta có thể nói về một tiến trình thực sự hướng tới một xã hội nhân bản ở quy mô toàn cầu của tất cả các xã hội.
Bản tiếng Việt: Thomas L. Friedman, "Chiếc Lexus và cây ô liu", Lê Minh dịch, Hà Nội: Nhà xuất bản Khoa học xã hội, 2005. |
Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
Liên Xô hay Liên bang Xô viết, tên chính thức là Liên bang Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết, là một cựu quốc gia nằm ở phía bắc lục địa Á-Âu, tồn tại từ năm 1922 đến cuối năm 1991. Đây là một quốc gia đơn đảng, do Đảng Cộng sản Liên Xô lãnh đạo, với Moskva là thủ đô của nước cộng hòa lớn và đông dân nhất Liên Xô, Nga Xô viết. Các trung tâm đô thị lớn khác gồm Leningrad (Nga Xô viết), Kiev (Ukraina Xô viết), Minsk (Byelorussia Xô viết), Tashkent (Uzbekistan Xô viết), Alma-Ata (Kazakhstan Xô viết) và Novosibirsk (Nga Xô viết). Đây từng là quốc gia có diện tích lớn nhất trên thế giới với khoảng hơn và trải dài qua 11 múi giờ. Năm cảnh quan chính của Liên Xô là lãnh nguyên, rừng taiga, thảo nguyên, sa mạc và núi. Các sắc tộc đa dạng của quốc gia này được gọi tên chính thức là người Liên Xô.
Liên Xô được thành lập từ cuộc Cách mạng tháng 10 năm 1917 với tên gọi là Liên bang Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết Nga (Nga Xô viết, Р.С.Ф.С.Р), khi Đảng Bolshevik do Vladimir Ilyich Lenin lãnh đạo lật đổ Chính phủ lâm thời Nga, chính phủ đã thay thế chế độ quân chủ chuyên chế của Sa hoàng Nikolai II trong Chiến tranh thế giới thứ nhất. Năm 1922, sau cuộc nội chiến kết thúc với chiến thắng của Đảng Bolshevik, Liên Xô được thành lập, thống nhất những quốc gia cộng hòa bao gồm Nga, Ngoại Kavkaz, Ukraina và Belarus. Lenin qua đời vào năm 1924, kế nhiệm là Iosif Vissarionovich Stalin lên nắm quyền trong giữa những năm thập niên 1920. Stalin đã chính thức hóa hệ tư tưởng của Đảng Cộng sản Liên Xô là chủ nghĩa Marx–Lenin và thay thế nền kinh tế thị trường bằng nền kinh tế kế hoạch, từ đó mở ra một thời kỳ công nghiệp hóa nhảy vọt và tập trung hóa. Trong suốt thời kỳ này, tăng trưởng kinh tế nhanh chóng tạo nên những tiến bộ ấn tượng về mức sống, y tế và giáo dục, đặc biệt trong những khu vực đô thị; Liên Xô đã vươn lên trở thành cường quốc đứng thứ 2 thế giới. Bên cạnh những tiến bộ này, một số thất bại đã xảy ra. Nạn hạn hán, thiên tai liên tục ập đến trong khu vực, chính sách tập trung nông nghiệp, tất cả đã dẫn tới một nạn đói lớn trong năm 1932-1933. Những hoài nghi chính trị sôi sục, đặc biệt sau sự nổi lên của chủ nghĩa phát xít tại nước Đức Quốc xã năm 1933 và nguy cơ chiến tranh thế giới, đã tạo ra cuộc thanh lọc lớn, hàng trăm nghìn người bị buộc tội gián điệp hoặc chống chính phủ đã bị bắt giữ hoặc xử bắn.
Ngày 23 tháng 8 năm 1939, sau những nỗ lực không thành công để thành lập một liên minh chống phát xít với các cường quốc phương Tây, Liên Xô đã ký thỏa thuận không xâm lược lẫn nhau với Đức Quốc xã. Sau khi thế chiến thứ hai xảy ra, Liên Xô đã tấn công Ba Lan nhằm giành lại những lãnh thổ đã bị Ba Lan chiếm mất năm 1921, và sáp nhập 3 nước vùng Baltic sau những cuộc trưng cầu dân ý địa phương. Tháng 6 năm 1941, Đức xâm chiếm Liên Xô, mở màn Chiến tranh Xô-Đức. Đây là mặt trận có quy mô lớn nhất trong chiến tranh thế giới thứ hai, thương vong của Liên Xô chiếm số lượng cao nhất trong cuộc chiến, và cuối cùng họ đã giành thế thượng phong trước lực lượng phe Trục sau những trận đánh khốc liệt như ở Stalingrad và Kursk. Trong hầu hết các vùng lãnh thổ mà Hồng quân đánh chiếm khi tiến về nước Đức, những người cộng sản địa phương đã lên nắm quyền lực và thành lập các chính phủ liên minh với Liên Xô. Sau Thế chiến 2, châu Âu bị phân chia thành hai vùng có hệ tư tưởng khác nhau: tư bản chủ nghĩa ở Tây Âu và xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu đã dẫn đến căng thẳng gia tăng với Khối phương Tây do Hoa Kỳ lãnh đạo, được gọi là Chiến tranh Lạnh. Stalin qua đời năm 1953 và Nikita Sergeyevich Khrushchyov kế nhiệm. Đến năm 1956, Khruschev lên tiếng tố cáo Stalin và bắt đầu một thời kỳ cải cách được gọi là phi Stalin hóa. Khủng hoảng tên lửa Cuba xảy ra trong thời kỳ lãnh đạo của Khrushchev, một trong nhiều yếu tố dẫn đến việc ông bị miễn nhiệm vào năm 1964. Trong những năm 1970, có một giai đoạn ngắn gọn hòa dịu trong quan hệ với Hoa Kỳ, nhưng những căng thẳng tiếp tục diễn ra với Chiến tranh Xô-Afghanistan vào năm 1979. Sau năm 1985, tổng bí thư cuối cùng của Đảng Cộng sản Liên Xô Mikhail Gorbachev đã cố gắng cải tổ đời sống chính trị và nền kinh tế của đất nước thông qua các chính sách mới mang tính cực hữu của "glasnost" (cởi mở) và "perestroika" (tái cấu trúc). Những chính sách này thất bại, gây ra sự bất ổn chính trị phát sinh từ các phong trào dân tộc và ly khai. Năm 1989, chính phủ tại những quốc gia vệ tinh của Liên Xô ở Đông Âu cũng liên tục sụp đổ, chấm dứt sự lãnh đạo của các Đảng cộng sản.
Là một phần trong nỗ lực ngăn chặn sự tan rã của đất nước, một cuộc trưng cầu dân ý đã được tổ chức vào tháng 3 năm 1991, phần lớn cử tri đã ủng hộ việc duy trì nhà nước Liên Xô. Nhưng trong giới lãnh đạo lại phát sinh mâu thuẫn khi Tổng thống đầu tiên của Nga, Boris Nikolayevich Yeltsin đã chống lại một cuộc đảo chính của những người cứng rắn trong đảng. Cuối năm 1991, Gorbachev từ chức, Xô viết Tối cao Liên Xô đã chính thức tuyên bố Liên Xô tan rã. Mười hai nước cộng hòa Xô Viết còn lại tuyên bố độc lập. Liên bang Nga (trước đây là Cộng hòa Nga Xô viết) đã tiếp nhận quyền và nghĩa vụ của Liên Xô và được công nhận là quốc gia kế thừa trên thực tế của Liên bang Xô viết. Đồng thời, Ukraina theo luật pháp tuyên bố rằng họ cũng là một nước kế thừa nhà nước của cả Cộng hòa Ukraina Xô viết và Liên Xô. Ngày nay, Nga và Ukraina vẫn đang có tranh chấp đối với những lãnh thổ và di sản để lại của Liên Xô trước đây.
Liên Xô đã tạo ra nhiều thành tựu công nghệ và đổi mới quan trọng của thế kỷ 20, bao gồm cả nhà máy điện hạt nhân đầu tiên, vệ tinh nhân tạo đầu tiên của loài người, người đầu tiên bay vào vũ trụ và tàu thăm dò đầu tiên đáp xuống hành tinh khác (Sao Kim). Trước khi giải thể, đất nước này từng là một siêu cường, có nền kinh tế lớn thứ hai thế giới và quân đội thường trực lớn nhất thế giới. Liên Xô được công nhận là một trong năm quốc gia có vũ khí hạt nhân. Quốc gia này từng là thành viên thường trực của Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc, đồng thời là thành viên của Tổ chức An ninh và Hợp tác Châu Âu (OSCE), Liên hiệp Công đoàn Thế giới (WTFU) và là thành viên hàng đầu của Hội đồng Tương trợ Kinh tế (CMEA) và Khối Hiệp ước Warszawa (WP). Liên Xô thực hiện mở rộng tầm ảnh hưởng của mình ở Đông-Trung Âu và trên toàn thế giới với sức mạnh quân sự và kinh tế, chiến tranh ủy nhiệm, tài trợ cho các nước đang phát triển và phát triển nghiên cứu khoa học, đặc biệt là trong công nghệ vũ trụ và vũ khí.
Từ "Liên Xô" là gọi tắt của "Liên bang Xô viết" (Nga: , ). Trong tiếng Việt, "Xô viết" là từ được viết theo kiểu đọc phiên âm tiếng Việt cho từ Soviet. Từ "Soviet" () trong tiếng Nga có nghĩa là "hội chúng", "đại hội", "hội đồng" hay "nghị viện". Nhà nước Xô viết trong tiếng Nga có nghĩa là một nước cộng hòa được thành lập theo "cấu trúc nghị viện".
Tên chính thức của 15 quốc gia thành viên Liên Xô là:
Trong số 14 ngôn ngữ nói trên, ngoài tiếng Nga, tiếng Uzbek, tiếng Kazakh, tiếng Azerbaijan, tiếng Moldova, tiếng Kyrgyz và tiếng Turkmen sử dụng các từ gốc "Xô viết" hoặc từ nhận thức, từ vựng như dịch thuật.
Vì lý do lịch sử và địa lý (Liên Xô có phần lãnh thổ kế thừa từ Đế quốc Nga, gồm chủ yếu là Nga và Kazakhstan và các quốc gia cấu thành Trung Á khác, phần lớn dân số Liên Xô nói tiếng Nga), nên Liên Xô đôi khi bị gọi nhầm là "Nga" hoặc "Nga Xô viết". Điều tương tự cũng đúng trong tiếng Anh. Ví dụ, cách giải thích Từ điển tiếng Anh Oxford của từ "Russian" là "Nga", nghĩa là "thường đề cập đến các quốc gia Liên Xô cũ trong lịch sử".
Với diện tích là 22.402.200 km² (8.649.538 sq mi), Liên Xô là quốc gia rộng lớn nhất thế giới và vị thế này vẫn được Liên bang Nga (kế thừa hơn 17 triệu km² lãnh thổ của nó) giữ lại. Liên Xô bao phủ formula_1 bề mặt Trái Đất, kích thước gần tương đương với Bắc Mỹ, với diện tích là 24.709.000 km² (9.540.000 sq mi). Lãnh thổ phía Châu Âu chiếm một phần tư diện tích, là 3.960.000 km² (1.528.560 sq mi) đất nước và là trung tâm văn hóa và kinh tế. Phần phía đông ở châu Á diện tích là 13.100.000 km² (5.057.938 sq mi) mở rộng ra đến Thái Bình Dương ở phía đông và Afghanistan ở phía nam, ngoại trừ một số khu vực ở Trung Á, ít đông dân hơn nhiều. Liên Xô trải rộng trên 10.000 km (6,200 mi) theo hướng đông sang tây qua 10 múi giờ từ UTC+2 đến UTC+12 và hơn 7.200 km (4.500 mi) từ bắc xuống nam. lãnh thổ có đến năm vùng khí hậu: lãnh nguyên, taiga, thảo nguyên, sa mạc và núi. Do lãnh thổ trải dài từ Âu sang Á nên Liên Xô được xem là một đất nước nửa Châu Âu, nửa Châu Á, nửa phương Đông, nửa phương Tây. Vị trí địa lý như vậy ảnh hưởng lớn đến văn hóa, phong tục tập quán, tư duy của Liên Xô cũng như thái độ của phương Tây đối với Liên Xô cũng như nước Nga sau này.
Liên bang Xô viết có đường biên giới dài nhất trên thế giới, ước tính hơn 60.000 km (37.000 mi), hay #đổi chu vi của Trái Đất. Hai phần ba số đó là đường biên giới trên biển. Liên Xô giáp với Afghanistan, Trung Quốc, Tiệp Khắc, Phần Lan, Hungary, Iran, Mông Cổ, Bắc Triều Tiên, Na Uy, Ba Lan, România và Thổ Nhĩ Kỳ từ 1945 đến 1991. Băng qua eo Biển Bering là Hoa Kỳ.
Ngọn núi cao nhất của Liên Xô là đỉnh Cộng sản (nay là đỉnh Ismail Samani) ở Tajikistan, ở độ cao 7.495 mét (24.590 ft). Liên Xô cũng sở hữu nhiều hồ lớn trên thế giới; biển Caspi (cùng với Iran) và hồ Baikal, đây là hồ nước ngọt lớn nhất và sâu nhất thế giới nằm hoàn toàn trong Liên Xô.
Thành phần Liên bang Xô viết như sau:
Trong thời kỳ 1940 – 1954 tồn tại Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết Karelia-Phần Lan, về sau là Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết Tự trị Karelia trong Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết Liên bang Nga.
Ở thời điểm 1990, Liên Xô có tổng cộng 15 nước Cộng hòa trực thuộc.
Cách mạng và sự hình thành.
Sự hình thành Liên Xô gắn liền với sự sụp đổ của Đế quốc Nga trong Chiến tranh thế giới thứ nhất và hoạt động của Đảng Cộng sản Nga ("Bolshevik") do Vladimir Ilyich Lenin lãnh đạo.
Vào đầu thế kỷ XX, Đế quốc Nga là một nước lớn ở châu Âu có tiềm lực đất đai và dân số to lớn, nhưng trình độ phát triển kinh tế – xã hội còn rất lạc hậu so với các cường quốc châu Âu khác như Anh, Đức, Phá: xã hội Nga là xã hội chuyên chế độc tài của quý tộc và tư sản lớn, tự do tư tưởng bị bóp nghẹt không làm hài lòng giới trí thức (интеллигенция – "intelligentsia"), trung lưu thành thị và giới tư sản quý tộc nhỏ. Nước Nga lại là nơi có phong trào Marxist cấp tiến mạnh nhất, do Lenin lãnh đạo với đảng Bolshevik chủ trương làm cách mạng xã hội chủ nghĩa để xây dựng chủ nghĩa cộng sản.
Những mâu thuẫn trên trong Chiến tranh thế giới thứ nhất không những không được cởi bỏ mà còn trầm trọng thêm với những thất bại to lớn của quân Nga trong chiến tranh, xã hội Nga đi vào bất ổn. Quốc khố cạn kiệt, nợ nước ngoài tăng cao, lạm phát không kiểm soát được, dân chúng cực khổ, chiến tranh làm phá sản hàng loạt doanh nghiệp gây thất nghiệp đô thị trầm trọng, nạn đói lan tràn tại nông thôn, các tầng lớp nhân dân, binh lính oán ghét nhà cầm quyền và chiến tranh, trong quân đội mâu thuẫn giữa binh lính và tầng lớp sĩ quan quý tộc phát triển thành chống đối. Tháng 2 năm 1917 đã nổ ra Cách mạng tháng Hai: khởi nghĩa vũ trang tại Petrograd đã lật đổ chính phủ Nga hoàng và thành lập Chính phủ Lâm thời do Aleksandr Fyodorovich Kerensky – một đảng viên của Đảng Cách mạng Xã hội đứng đầu. Chính phủ Lâm thời chủ trương phá bỏ chế độ độc tài chuyên chế, tự do hóa xã hội Nga theo các tiêu chuẩn như các quốc gia châu Âu đương thời, đồng thời hứa đảm bảo quyền lợi của giai cấp công nhân, nông dân và các tầng lớp xã hội khác. Nhưng Chính phủ Lâm thời vẫn chủ trương theo đuổi thế chiến thứ nhất bên phía khối Hiệp ước với Anh – Pháp, bất chấp việc đất nước đã kiệt quệ vì chiến tranh. Việc không có được hòa bình như mong đợi khiến nhân dân và binh sỹ Nga trở nên bất bình.
Sau Cách mạng tháng Hai, tại các địa phương ở Nga đồng loạt xuất hiện các tổ chức "hội đồng" (tiếng Nga: "совет") hay Xô viết của công nhân, nông dân và binh lính để bảo vệ quyền lợi của chính họ. Thời gian giữa hai cuộc cách mạng là khi hai chính quyền song song tồn tại: chính quyền trung ương là của Chính phủ Lâm thời, nhưng các sắc lệnh muốn được thi hành phải có sự chấp thuận của các Xô viết gồm công – nông – binh địa phương, mà các Xô viết này lại ủng hộ sự lãnh đạo của đảng Bolshevik. Đảng Bolshevik rầm rộ tung khuếch trương cho cách mạng vô sản với khẩu hiệu "tất cả chính quyền về tay các Xô viết" và kêu gọi nhân dân, binh lính phản chiến làm cách mạng "Biến chiến tranh đế quốc thành nội chiến cách mạng".
Chính phủ Lâm thời trong thời gian tám tháng tồn tại đã tiếp tục tiến hành chiến tranh với Đức-Áo-Hung, song đã bất lực trong cả nỗ lực chiến tranh và ổn định tình hình trong nước. Sau một loạt thất bại do quân Đức gây ra, quân đội trở nên chán nản, binh lính tan rã không còn tuân lệnh cấp trên, bắt giết sĩ quan và tự động đào ngũ. Tướng Kornilov - "Корнилов" tiến quân về thủ đô để lập lại trật tự theo yêu cầu của Kerensky nhưng có âm mưu thiết lập chế độ độc tài quân sự. Chính phủ lâm thời không còn có thể kiểm soát được tình hình, buộc phải dựa vào sự trợ giúp của lực lượng công-nông-binh thuộc các Xô viết do những người Bolshevik lãnh đạo. Kornilov bị đánh bại, nhưng sau biến cố này, Chính phủ lâm thời cũng thể hiện rõ sự yếu ớt, bất lực, không đủ khả năng lãnh đạo đất nước. Nước Nga bước vào đêm trước của Cách mạng Tháng Mười.
Ngày 25 tháng 10 năm 1917 (theo lịch Julius, thời đó Nga còn dùng lịch Julius), tức ngày 7 tháng 11 theo lịch Gregory, Lenin và các đảng viên Bolshevik lãnh đạo các Xô viết làm Cách mạng Tháng Mười lập chính quyền Xô viết của công - nông - binh. Sau khi cách mạng thành công, chính quyền lập tức ban hành sắc lệnh về hòa bình, sắc lệnh về ruộng đất và thực hiện cam kết rút ra khỏi chiến tranh với các điều kiện rất ngặt nghèo của phía Đức (Hòa ước Brest-Litovsk).
Sự sụp đổ của chế độ Sa hoàng dẫn đến việc các dân tộc thiểu số trên Đế quốc Nga thành lập các quốc gia độc lập. Tại các quốc gia mới thành lập cũng xảy ra tranh chấp quyền lực giữa những người Bolsevik địa phương và các xu hướng chính trị khác như Melsevik, tự do chủ nghĩa, dân tộc chủ nghĩa, vô chính phủ... tương tự những gì đang diễn ra ở nước Nga.
Ngay sau Cách mạng Tháng Mười, nước Nga rơi vào thời kỳ nội chiến đẫm máu (1918-1922). Hồng quân Xô viết có thành phần chủ yếu là tầng lớp dưới của xã hội, học vấn thấp nhưng có số lượng đông đảo như công nhân, nông dân, cựu quân nhân và một bộ phận cựu sĩ quan của Đế quốc Nga cũ. Phía bên kia là các thành phần thuộc lực lượng bảo hoàng, các đảng phái đối lập, một bộ phận trung lưu thành thị, sĩ quan, một bộ phận nông dân, C, quân bạch vệ bị thất bại và mất quyền lực hoàn toàn, thay vào đó những người Bolshevik giành được chính quyền trên phần lớn lãnh thổ còn lại của Đế quốc Nga. Tuy nhiên, tại một số vùng lãnh thổ như Ba Lan, Phần Lan, các nước Baltic, các lực lượng dân tộc chủ nghĩa thắng thế.
Ngày 30 tháng 12 năm 1922, đại biểu Xô viết đến từ những vùng lãnh thổ còn lại của Đế quốc Nga cũ (trừ Ba Lan, Phần Lan và các nước Baltic) đã nhóm họp và thành lập liên minh các nhà nước tự trị trên lãnh thổ Đế quốc Nga, thống nhất quốc hiệu là Liên bang Các nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Xô viết. Các nhà nước hợp thành Liên Xô đều có điểm chung là do những người Bolsevik địa phương lãnh đạo chính vì thế về cơ bản Liên Xô là một quốc gia được thành lập trên nền tảng ý thức hệ chung là chủ nghĩa cộng sản, ý thức hệ là nhân tố gắn kết các nhà nước này lại với nhau.
Trước Chiến tranh thế giới thứ hai.
Sau thế chiến thứ nhất và nội chiến, nền kinh tế nước Nga đứng trước nguy cơ phá sản: ở nông thôn nạn đói hoành hành, cướp bóc thổ phỉ nổi lên khắp nơi, đất nông nghiệp bị tàn phá, nông dân đói chạy vào thành phố ăn xin; còn ở thành phố, công nghiệp đình đốn, thất nghiệp cực điểm, tiền không còn giá trị, nguyên liệu, tài chính cạn kiệt – tình hình xã hội lúc đó cực kỳ căng thẳng. Trong khoảng 2 năm 1921-1922, do chiến tranh đã tàn phá nông nghiệp, nạn đói lớn đã xảy ra tại các vùng nông thôn của nước Nga, đặc biệt là ở khu vực sông Volga và Ural, giết chết khoảng 2 triệu tới 5 triệu người. Nạn đói đã gây ra một cuộc khủng hoảng lớn, nhà văn Nga Maxim Gorky đã lên tiếng kêu gọi cộng đồng quốc tế giúp đỡ. Nhiều quốc gia trong đó có Mỹ và các nước châu Âu đã cung cấp viện trợ lương thực để giúp nước Nga Xô viết giải quyết nạn đói.
Để khắc phục những khó khăn của nền kinh tế nước Nga sau cuộc nội chiến, Lenin đã cho tiến hành chính sách kinh tế mới, hay NEP ("Новая экономическая политика – НЭП"), để thay thế cho chính sách cộng sản thời chiến đã được áp dụng trong nội chiến. NEP là chính sách dùng cơ chế kinh tế thị trường để kích thích sản xuất, kêu gọi đầu tư tư bản dưới sự định hướng kiểm soát của nhà nước. Đối với nông nghiệp, thay vì trưng thu và áp giá tối đa lên nông sản như trong thời chiến, NEP dùng cơ chế thuế để điều tiết, nông dân sau khi nộp thuế thì có thể mua bán nông sản trên thị trường tự do. Tại thành phố, chính sách mới khuyến khích đầu tư của tư bản trong nước và nước ngoài, nhà nước chỉ kiểm soát những ngành quan trọng với quốc gia như điện lực, ngân hà: nạn đói nhanh chóng bị đẩy lùi dần và hoàn toàn sau đó, công nghiệp, thương mại được phục hồi, tình hình nông thôn và thành thị được ổn định, xã hội có tích luỹ và đời sống người dân tốt lên nhanh chóng. Từ năm 1922, thành thị đã có đủ lương thực - thực phẩm, năm 1925 sản xuất nông nghiệp đạt mức 87%; công nghiệp đạt 75% sản lượng của năm 1913 (năm cao nhất của Đế quốc Nga cũ); đời sống nhân dân cải thiện rõ rệt, chính trị ổn định, chính quyền Liên Xô được củng cố, phát triển. Các nguy cơ lớn đe dọa đến sự tồn vong của nhà nước Liên Xô về cơ bản đã được giải quyết. Liên Xô bước vào thời kỳ mới: xây dựng và phát triển đất nước theo mô hình xã hội chủ nghĩa.
Ngay sau khi Lenin mất (1924), trong ban lãnh đạo đất nước này đã diễn ra cuộc đấu tranh nội bộ quyết liệt do những bất đồng về đường lối xây dựng đất nước, chủ yếu là giữa hai nhóm của Iosif Vissarionovich Stalin và Lev Davidovich Trotsky. Dần dần Stalin thắng thế, nắm vị trí độc tôn trong bộ máy lãnh đạo đảng và nhà nước. Để củng cố vị trí lãnh đạo cũng như giữ vững kỷ cương xã hội, Stalin kiểm soát phần lớn cơ cấu quyền lực vào tay mình, dùng trấn áp trong nội bộ đảng, nhà nước và ngoài xã hội để loại bỏ mọi mầm mống bất ổn ngay từ trước khi bộc lộ. Bộ máy Bộ dân ủy nội vụ (NKVD – "Народный коммисариат внутренних дел – НКВД") được dùng như công cụ để phát hiện các đối tượng cần phải loại bỏ, từ những nhóm đối lập với Stalin, các nhóm ly khai vũ trang, gián điệp cho tới quan chức tham nhũng, tội phạm hình sự... Stalin đã dùng bộ máy cảnh sát mật như công cụ hỗ trợ thanh lọc chính trị, ông là người quyết định và ra lệnh ai là kẻ phản bội cần phải bị loại trừ.. Sự theo dõi, tố cáo cũng được khuyến khích, đề cao trong nhân dân như một phẩm chất trung thành với đảng và đất nước. Ngay từ trong thập niên 1930 Stalin đã bắt đầu loại trừ những nhân vật bị xem là phản bội ra khỏi đảng Cộng sản Liên Xô. Các nhân vật này có khi bị xét xử thông qua những vụ án điểm được công khai để tác động dư luận quần chúng hoặc xử kín, bản án là xử bắn hoặc giam giữ trong các trại cải tạo lao động.. Theo các tài liệu Liên Xô được giải mật, trong khoảng thời gian từ năm 1937 tới năm 1938, có 1.548.367 người bị bắt giữ, trong đó 681.692 bị xử bắn. Sử gia Michael Ellman ước đoán rằng số người chết trực tiếp hoặc gián tiếp do cuộc thanh lọc của Stalin trong khoảng hai năm đó là chừng 950.000 tới 1,2 triệu người
Stalin coi các cuộc thanh trừng là biện pháp chống nạn quan liêu, cán bộ tham nhũng và biến chất, để nâng cao trình độ lãnh đạo và sự liêm chính của tổ chức Đảng. Theo một số nguồn thì các nhóm lớn nhất bị khai trừ trong Đại thanh trừng chính là các đảng viên kém năng lực, những người mang trọng trách nhưng không nhiệt tình với công việc. Tiếp đến là những cá nhân đã vi phạm kỷ luật đảng, quan chức tham nhũng và những người đã che giấu quá khứ phạm tội . Một số nguồn khác thì thống kê rằng 70% người bị xử bắn không phải là thành viên của Đảng Cộng sản Liên Xô mà chủ yếu là dân thường, với cáo trạng là hoạt động gián điệp hoặc tham gia các nhóm thổ phỉ, ly khai vũ trang, tổ chức bạo loạn.
Sự lãnh đạo cứng rắn của Stalin bắt nguồn từ 2 nguyên nhân: đầu tiên là truyền thống chuyên chế lâu đời của nước Nga, kết hợp với quan điểm "đấu tranh giai cấp" của Marx và chủ nghĩa "anh hùng sáng tạo lịch sử" của người dân Nga, kết hợp với kinh nghiệm từ những cuộc cách mạng và chiến tranh đầy bạo lực ở châu Âu và châu Mỹ (vốn là đặc trưng trong thời kỳ này). Thứ hai là việc Liên Xô thời kỳ này bị bao vây bởi các nước phương Tây, phải liên tục đối phó với các kế hoạch lật đổ của nước ngoài, cần phải có chính sách tập quyền và bảo đảm an ninh cao độ để không bị tiêu diệt. Có nhận xét cho rằng, về cơ bản, chính sách này là phù hợp với tình hình Liên Xô cũng như bối cảnh chính trị thế giới lúc đó Sách giáo khoa lịch sử của nước Nga ngày nay thì đánh giá rằng cuộc trấn áp của Stalin nhằm dập tắt các phong trào ly khai, củng cố sự thống nhất của Liên bang Xô-Viết. Vấn đề thanh lọc nội bộ cũng không phải để lạm sát, mà bản ý của Stalin là loại bỏ những cán bộ kém năng lực, suy thoái đạo đức, tham nhũng trong nội bộ chính quyền, nhằm bảo đảm cho bộ máy Nhà nước trong sạch và phát huy hiệu quả lớn nhất.
Đời sống tâm lý xã hội tại Liên Xô trong những năm 1920 – 1930 là kết hợp của hai yếu tố:
Về mặt kinh tế và xã hội, những năm 1920 – 1930 sau Lenin được đặc trưng bởi việc chấm dứt chính sách kinh tế mới và thiết lập nền kinh tế nhà nước tập trung cao độ theo kinh tế kế hoạch hóa toàn diện. Stalin đã hiện thực hóa ý tưởng của Lenin về chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước mà theo quan điểm của Lenin ""Chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước là sự chuẩn bị vật chất đầy đủ nhất cho chủ nghĩa xã hội, là phòng chờ đi vào chủ nghĩa xã hội" và "chủ nghĩa tư bản nhà nước là cái gì có tính chất tập trung, được tính toán, được kiểm soát và được xã hội hoá", trong đó nhà nước là nhà tư bản duy nhất sở hữu phần lớn tư liệu sản xuất của xã hội. Lenin cho rằng "Không có kỹ thuật đại tư bản chủ nghĩa được xây dựng trên những phát minh của khoa học hiện đại, không có một tổ chức Nhà nước có kế hoạch khiến cho hàng chục triệu người phải tuân theo một cách nghiêm ngặt một tiêu chuẩn thống nhất trong việc sản xuất và phân phối sản phẩm, thì không thể nói chủ nghĩa xã hội được"". Đất nước đặc trưng bởi sự bao trùm của bộ máy đảng trong mọi chức năng xã hội và các kế hoạch phát triển kinh tế.
Một quá trình to lớn có ảnh hưởng lâu dài của Liên Xô ở thời gian này là việc tiến hành thành công quá trình công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa. Cho đến nay trong và ngoài nước Nga vẫn còn nhiều nghiên cứu về sự nghiệp công nghiệp hóa này của Liên Xô trong các thập kỷ 1920, 1930. Đầu thập niên 1920, công nghiệp Liên Xô tụt hậu hoảng 50 - 100 năm so với các cường quốc phương Tây. Chỉ sau 15 năm, Liên Xô đã vươn lên trở thành một nước công nghiệp đứng thứ 2 trên thế giới trong một thời gian rất ngắn và điều này là nền tảng kinh tế cho chiến thắng của Liên Xô trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Mặt khác, công nghiệp hóa với tốc độ và quy mô rất lớn đã đòi hỏi các nỗ lực cực cao của xã hội và đã gây ra các căng thẳng, mất cân đối kinh tế. Để khắc phục nền nông nghiệp manh mún, Ban lãnh đạo Xô viết đã tiến hành tập thể hóa nông nghiệp ở nông thôn, với mục tiêu xóa bỏ sở hữu tư nhân ruộng đất và biến nền nông nghiệp từ sản xuất gia đình nhỏ lẻ thành nền sản xuất tập trung quy mô lớn (nông trường) để có thể áp dụng cơ giới hóa vào hoạt động sản xuất nông nghiệp, qua đó làm tăng năng suất và giảm chi phí nhờ lợi thế quy mô. Tập thể hóa nông nghiệp đã vấp phải sự phản đối dữ dội của tầng lớp địa chủ giàu có, là thiểu số nhưng lại sở hữu phần lớn ruộng đất tại Nga (được gọi là "Kulak"). Kulak không muốn chia đất cho nông dân nghèo, họ huy động nông dân làm thuê tiến hành bạo động để chống lại tập thể hóa. Ngoài ra việc tập thể hóa được tiến hành không tuân theo nguyên tắc tự nguyện, mang nặng tính cưỡng ép cũng đã khiến nhiều nông dân trở nên bất bình. Năm 1929, đã có 1.300 vụ bạo động nông dân xảy ra với hơn 200.000 người tham gia Tới tháng 3 năm 1930, đã có hơn 6.500 cuộc bạo động với 1,4 triệu nông dân tham gia. Để hỗ trợ cho tập thể hóa, Stalin đã cho tiến hành chiến dịch cưỡng bức tầng lớp Kulak rất quyết liệt: toàn bộ tài sản của Kulak bị tịch thu, gia đình họ bị đưa đến những vùng xa xôi hẻo lánh, những vụ bạo động của nông dân cũng bị trấn áp mạnh tay. Thiên tai (hạn hán ở Kazakstan, mưa lớn bất thường ở Ukraina), dịch bệnh trên cây trồng, việc tập trung tài chính cho công nghiệp hóa và những sai lầm trong việc tập thể hóa đã tạo nên nạn đói quy mô lớn ở Liên Xô từ cuối năm 1932 đến đầu năm 1933, trong đó khoảng 3 triệu người chết, 1/3 là tại Ukraina Đầu năm 1933, chính phủ Liên Xô thực hiện chiến dịch cứu trợ lớn và gửi hơn 20.000 công nhân công nghiệp về nông thôn hỗ trợ người dân, tất cả các thành viên Đảng Cộng sản cũng tham gia việc đồng áng. Bất chấp những điều kiện tự nhiên khủng khiếp, vụ thu hoạch rất thành công vào năm 1933 đã chấm dứt nạn đói ở hầu hết các khu vực.
Sau tập thể hóa, nông thôn Liên Xô đã có những biến đổi to lớn. Việc canh tác thủ công trên các mảnh ruộng nhỏ, dùng gia súc kéo cày đã được thay thế bởi các nông trường cỡ lớn được cơ giới hóa. Nông nghiệp Liên Xô đã cơ bản được cơ giới hóa, năm 1938 đã có 483.500 máy kéo và 153.500 máy gặt đập liên hợp, thay thế cho ngựa kéo trước đây Từ 1938 đến 1940, Liên Xô đã xây dựng mới hơn 1.200 trạm cơ giới kỹ thuật, nền nông nghiệp nhận được 92.000 máy kéo mới. Tới đầu năm 1941 đã điện khí hoá hơn 10 nghìn nông trang và 2.500 trạm cơ giới kỹ thuật. Sản lượng lương thực của nước Nga Sa hoàng năm 1913 là 4,8 triệu pud, còn Liên Xô năm 1937 đã tăng lên tới 6,8 triệu pud. Theo các học giả, mặc dù Stalin đã thực hiện tập thể hóa nông nghiệp theo lối cưỡng chế, chính sách này đã "hiện đại hóa đáng kể nền sản xuất nông nghiệp truyền thống ở Liên Xô và đặt cơ sở cho mức sản xuất lương thực tương đối cao vào những năm 1970 và 1980"
Liên Xô còn thi hành chính sách cấm phân biệt chủng tộc, bảo đảm sự bình đẳng giữa các dân tộc trên lãnh thổ Liên bang Xô Viết và thực hiện nam nữ bình quyền. Liên Xô cho phép phụ nữ có quyền bầu cử sớm hơn Hoa Kỳ, đồng thời khuyến khích, tạo điều kiện để phụ nữ được giáo dục ở bậc cao và tham gia vào các hoạt động chính trị - xã hội. Chính phủ Liên Xô chi ra những khoản đầu tư lớn để phát triển kinh tế xã hội tại các vùng kém phát triển như Trung Á, S
Giáo dục ở Liên Xô được phổ cập và miễn phí ngay sau khi chế độ xã hội chủ nghĩa được thành lập. Công dân trực tiếp tham gia lực lượng lao động có quyền hiến định về việc làm và đào tạo nghề miễn phí. Ước tính năm 1917, có 75-85% dân số Nga không biết chữ và các nhà chức trách của Liên Xô rất chú trọng đến việc loại bỏ nạn mù chữ. Những người biết chữ đã được thuê làm giáo viên. Trong một thời gian ngắn, số người được xóa mù chữ đã tăng nhanh. Vào năm 1940, Liên Xô đã có thể tự hào thông báo rằng nạn mù chữ đã được loại bỏ, điều mà nhiều cường quốc tư bản phương Tây đương thời như Mỹ, Phá, chuyên gia, nhà khoa học đạt đẳng cấp quốc tế. Chính vì vậy Liên Xô có nền khoa học cơ bản đứng đầu thế giới cùng khả năng nghiên cứu phát triển ra công nghệ mới không hề thua kém phương Tây. Nền giáo dục Liên Xô không những đáp ứng được nhu cầu đào tạo nhân lực cho nền kinh tế mà còn thúc đẩy kinh tế phát triển nhờ sự phát triển của vốn con người.
Về y tế, nguyên tắc xã hội chủ nghĩa về chăm sóc sức khỏe đã được hình thành ngay trong năm 1918. Chăm sóc sức khỏe được kiểm soát bởi nhà nước và sẽ được cung cấp miễn phí cho mọi công dân, điều này đồng thời là một khái niệm mang tính cách mạng, chưa từng có trên thế giới vào thời kỳ đó. Tuy vậy trong thời kỳ đầu hệ thống chăm sóc sức khỏe miễn phí của Liên Xô chưa đủ rộng để phổ cập toàn dân, đến năm 1969 thì hệ thống này mới được phổ cập tới toàn bộ người dân ở vùng nông thôn Điều 42 của Hiến pháp Liên Xô năm 1977 đã quy định: tất cả công dân có quyền được bảo vệ sức khỏe và phục vụ miễn phí tại bất kỳ cơ sở y tế nào ở Liên Xô. Sau cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa, tuổi thọ trung bình của người dân Liên Xô ở tất cả các nhóm tuổi đã tăng lên. Trong giai đoạn 1922-1950, nhờ việc thiết lập hệ thống y tế rộng khắp, tỷ lệ tử vong trẻ em đã giảm nhanh chóng, từ 286,6/1000 trẻ (năm 1913) xuống còn 81/1000 trẻ (năm 1950). Tiêu thụ rượu giảm 2 lần, các bệnh do nghiện rượu gây ra cũng giảm theo. Tỷ lệ dân số tử vong hàng năm giảm từ 2,91% (năm 1913) xuống còn 1% (năm 1950).
Việc được tiếp cận chăm sóc sức khoẻ và giáo dục miễn phí đã giúp dập tắt các dịch bệnh như sốt rét, dịch tả... và tuổi thọ trung bình của công dân Liên Xô đã tăng lên hàng chục năm. Trước cách mạng Tháng Mười, số lượng bác sĩ ở Đế quốc Nga là 20.000; con số này tăng lên 105.000 vào năm 1937. Số giường bệnh cũng tăng từ 175.000 lên đến 618.000 Phụ nữ Liên Xô lần đầu tiên được sinh đẻ trong những bệnh viện an toàn, với khả năng tiếp cận chăm sóc trước khi sinh đã làm giảm đáng kể tỷ lệ tai biến khi sinh đẻ. Chăm sóc y tế rộng rãi và miễn phí được nhìn nhận là sự ưu việt của hệ thống xã hội chủ nghĩa so với hệ thống tư bản chủ nghĩa #đổi
Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
Năm 1927, chính sách công nghiệp hóa được đưa ra với một nỗ lực rất cao, nhằm khắc phục tình trạng lạc hậu, biến Liên Xô thành một quốc gia hiện đại trong thời gian ngắn. Nhà lãnh đạo Stalin tuyên bố rằng "Phải hợp lực và ra sức tăng tốc. Kéo dài tốc độ công nghiệp hóa là sẽ bị lạc hậu, mà lạc hậu thì sẽ phải ăn đòn (bị nước ngoài xâm chiếm)". Tháng 2/1931, Stalin phát biểu về tầm quan trọng sống còn của việc công nghiệp hóa Xô viết trước sự đe dọa ngày càng tăng từ các nước phương Tây:
"Chúng ta lạc hậu hơn so với các cường quốc phương Tây cả 100 năm. Cần phải xây dựng nền công nghiệp bắt kịp phương Tây trong 10 năm. Ngành công nghiệp nặng. Nếu không thì chúng ta sẽ bị phương Tây tiêu diệt." (thực tế, đúng 10 năm 4 tháng sau đó, nước Đức Quốc xã đã tấn công Liên Xô)
Trong Kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1928-1932), Liên Xô đề ra kỷ luật lao động nghiêm khắc đối với công nhân công nghiệp; các định mức sản lượng cao, đòi hỏi thợ mỏ phải làm việc ba ca (khoảng 10-12 giờ một ngày). Việc không hoàn thành định mức có thể dẫn đến trách nhiệm cá nhân, bị trừ lương và giảm tiêu chuẩn sinh hoạt. Sau khi Kế hoạch 5 năm lần thứ nhất kết thúc, Liên Xô đã xây dựng được nền công nghiệp nặng với kỹ thuật tiên tiến với 1.500 xí nghiệp, chủ yếu là loại lớn và hiện đại. Giá trị tổng sản phẩm công nghiệp tăng 2 lần, trong đó công nghiệp nặng tăng 2,7 lần. Công nghiệp đã cho ra đời những ngành mới như sản xuất máy kéo, ô tô, máy bay, máy liên hợp, đầu máy chạy điện, sản xuất cao su nhân tạo, tơ tổng hợp và chất dẻo Kế hoạch 5 năm lần thứ nhất đã hoàn thành trước khi thời hạn (4 năm 3 tháng), nền công nghiệp Liên Xô lúc này có khả năng trang bị kỹ thuật mới không chỉ trong công nghiệp và cả trong các ngành giao thông vận tải, xây dựng và nông nghiệp.
Với sự hỗ trợ của chuyên gia thuê từ nước ngoài và sau đó là sự tự lực trong nước, Liên Xô đã xây dựng được một loạt các tổ hợp công nghiệp khổng lồ ở dọc sông Dniepr, các nhà máy luyện kim như Magnitogorsk, Lipetsk và Chelyabinsk, Novokuznetsk, Norilsk và Uralmash, nhà máy máy kéo ở Volgograd, Chelyabinsk, Kharkov, U
Kế hoạch 5 năm lần thứ 2 (1933-1937) đặc biệt chú trọng công nghiệp nặng, đã xây dựng 4.500 nhà máy; giá trị tổng sản phẩm công nghiệp tăng 2,2 lần, trong đó nhóm A tăng 2,4 lần. Công nghiệp nhẹ cũng tăng nhưng không đạt kế hoạch (do số vốn đầu tư phải rút bớt cho công nghiệp quốc phòng để đề phòng nguy cơ chiến tranh).
Công nghiệp hóa nông nghiệp được chú trọng hàng đầu. Với sự xuất hiện của ngành công nghiệp máy kéo trong nước, năm 1932 Liên Xô đã không cần nhập khẩu máy kéo từ nước ngoài và trong năm 1934 các nhà máy Kirov ở Leningrad bắt đầu sản xuất nhãn hiệu máy kéo "Universal", nhãn hiệu máy kéo đầu tiên xuất khẩu ra nước ngoài. Trong mười năm (1932-1941), Liên Xô đã xuất khẩu khoảng 700 nghìn máy kéo, chiếm 40% sản lượng thế giới.
Năm 1935, Liên Xô đã khởi công giai đoạn đầu tiên của Tuyến tàu điện ngầm Moskva với tổng chiều dài 11,2 km, một công trình hiện đại thời bấy giờ và vẫn được sử dụng cho tới ngày nay. Tới năm 1940, sản lượng công nghiệp của Liên Xô đã tăng gấp 7,7 lần so với năm 1922, bình quân hàng năm tăng 14%. Công nghiệp Liên Xô đã chiếm 77,4% cơ cấu nền kinh tế và chiếm 10% toàn thế giới.
Kế hoạch 5 năm lần thứ ba (1938-1942) đã đề ra nhiệm vụ "đuổi kịp và vượt qua các nước tư bản tiên tiến về mặt kỹ thuật và kinh tế". Dự tính đến cuối năm 1942 sẽ tăng sản lượng công nghiệp lên 88%, nông nghiệp tăng 52% so với năm 1937.
Sau công nghiệp hóa và tập thể hóa kinh tế, Liên Xô chỉ còn hai thành phần kinh tế nhà nước và tập thể với đặc điểm quản lý tập trung hóa và kế hoạch hóa cao độ.
Chính sách công nghiệp hóa của Liên Xô đã được thực hiện với một quyết tâm cao độ và kỷ luật sắt: Để nhanh chóng hoàn thành chỉ tiêu đề ra, chính phủ thắt chặt kỷ luật lao động, ví dụ, bộ luật lao động năm 1932 đã thông qua điều luật sa thải bất cứ người lao động nào vắng mặt không có lý do tại nơi làm việc. Lao động bị sa thải sẽ bị mất nhiều quyền lợi (bị đuổi khỏi nhà ở do Nhà nước cấp phát, không được cấp tem phiế) và có nguy cơ rất lớn rơi vào tình trạng đói nghèo. Bộ luật lao động sửa đổi năm 1938 quy định rằng bất cứ người lao động nào vắng mặt hoặc thậm chí đi làm trễ 20 phút mà không có lý do đều phải bị sa thải, trong khi hành vi tự ý bỏ việc có thể bị truy tố hình sự và bị phạt từ 2-4 tháng tù. Việc không hoàn thành chỉ tiêu có thể bị khép vào tội phản quốc. Tiền lương thực tế của công nhân bị sụt giảm trong những năm 1928-1937, điều kiện lao động thấp, có những người thợ mỏ đã phải làm việc 16 - 18 giờ mỗi ngày để hoàn thành chỉ tiêu. Các công đoàn bị bãi bỏ, việc xử lý quyền lợi lao động thuộc về chi bộ Đảng tại nhà máy, việc đình công hay bãi công cũng bị cấm. Khoảng 127.000 vụ tai nạn lao động đã xảy ra trong bốn năm (từ 1928 đến 1932). Do phân bổ tối đa nguồn lực cho ngành công nghiệp cùng với năng suất nông nghiệp giảm kể từ khi tập thể hóa, nạn đói đã xảy ra. Ngoài ra, Stalin tập trung phát triển công nghiệp nặng mà ít chú trọng tới các ngành công nghiệp nhẹ sản xuất hàng tiêu dùng, kết quả là người dân Liên Xô thường phải đối mặt với tình trạng thiếu hàng tiêu dùng. Nhiều học giả cho rằng công cuộc công nghiệp hóa của Stalin mặc dù đã đạt được nhiều thành tựu lớn, nhưng người dân Liên Xô cũng phải trải qua một giai đoạn phấn đấu gian khó để có được những thành tựu đó. Alec Nove cho rằng những chính sách công nghiệp hóa của Stalin không thực sự cần phải cứng rắn như vậy, ông cho rằng có những biện pháp khác "ít quyết liệt" hơn để đưa nền kinh tế Liên Xô đi lên . Tuy nhiên, trong bối cảnh thế giới khi đó, nhất là việc Đức Quốc xã đang nổi lên khiến thế chiến thứ hai sắp nổ ra, chỉ một chút chậm trễ và thiếu kiên quyết cũng có thể khiến đất nước phải trả giá đắt. Ngay từ đầu thập niên 1930, Stalin đã biết rằng thế chiến thứ hai sắp xảy ra và Liên Xô sẽ bị tiêu diệt nếu không có nền công nghiệp đủ mạnh, ông nói "Không có thời gian để mất, Hiệp ước Versailles không có gì hơn một lệnh ngừng bắn giữa hai cuộc chiến tranh". Vì vậy, có nhận xét cho rằng chính sách công nghiệp hóa quyết liệt và kỷ luật lao động cứng rắn mà chính phủ Liên Xô đề ra là điều cần thiết trong bối cảnh đó.
Tới trước Chiến tranh thế giới thứ hai, từ xuất phát điểm là Đế quốc Nga với nền sản xuất lạc hậu với tổng sản lượng công nghiệp chỉ đứng thứ 6 thế giới (năm 1917), Liên Xô đã vươn lên trở thành cường quốc công nghiệp thứ 2 thế giới và đứng đầu châu Âu, vượt qua Anh-Pháp-Đức và chỉ đứng sau Mỹ. Sản lượng công nghiệp năm 1937 đã tăng gấp 4,5 lần so với năm 1927 (so với năm 1917 thì tăng gần gấp 10 lần) và chiếm 77,4% tổng sản phẩm kinh tế quốc dân. Sản lượng nông nghiệp tăng 2 lần so với 1927, thu nhập bình quân đầu người tăng 3 lần so với 1927. Nạn mù chữ vốn chiếm gần 90% dân số Nga năm 1917, sau 20 năm đã cơ bản được thanh toán. Sản xuất quốc phòng tăng 2,8 lần chỉ sau 5 năm, vũ khí trang bị và trình độ cơ giới hóa cho quân đội Liên Xô đã đạt tương đương với các cường quốc khác trên thế giới.
Nếu tổng sản lượng công nghiệp năm 1913 được coi là 100 đơn vị, các chỉ số tương ứng của năm 1938 là 93,2 cho Pháp; 113,3 cho Anh, 120 cho Hoa Kỳ; 131,6 đối với Đức và 908,8 cho Liên Xô (tức là tăng gấp 9 lần). Trong chuyến thăm mùa hè năm 1944 của Eric Johnston, Chủ tịch Phòng Thương mại Hoa Kỳ, người đã đến thăm Ural, Siberia và Kazakhstan, đã tuyên bố rằng tiến bộ kinh tế của Liên Xô từ năm 1928 là "một thành tựu phi thường trong lịch sử phát triển công nghiệp của cả thế giới"
Năm 1940, tổng sản lượng kinh tế (GDP) của Liên Xô (quy đổi theo thời giá USD năm 1990) đạt 417 tỷ USD, so với Anh là 316 tỷ USD, Pháp là 164 tỷ USD, Italy là 147 tỷ USD, Đức là 387 tỷ USD, Nhật Bản là 192 tỷ USD. Nền kinh tế Liên Xô đã có quy mô đứng đầu châu Âu và đứng thứ 2 thế giới, chỉ kém Mỹ (943 tỷ USD)
Trong lịch sử, nước Anh cần 200 năm để trở thành một nước công nghiệp, nước Mỹ cần 120 năm, Nhật Bản cần 40 năm. Trong khi đó, Liên Xô chỉ cần 18 năm để hoàn thành về cơ bản quá trình công nghiệp hóa của mình. Đây là tốc độ công nghiệp hóa nhanh nhất mà thế giới từng ghi nhận.
Nói một cách hình tượng, trong một khoảng thời gian ít hơn 1/4 thế kỷ, trình độ kỹ thuật của nước Nga đã nhảy vọt từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XX. Kenneth Neill Cameron nhận xét:
""Rõ ràng là chúng ta đang chứng kiến một sự tiến bộ kinh tế to lớn nhất từng được ghi nhận, ngay cả so với các cuộc cách mạng công nghiệp. Trong thời hạn 10 năm, một xã hội chủ yếu là phong kiến đã thay đổi thành một đất nước công nghiệp. Và lần đầu tiên trong lịch sử, một bước tiến như vậy không phải do chủ nghĩa tư bản, mà là do chủ nghĩa xã hội tiến hành."
Các nhà kinh tế học khi nghiên cứu nghiêm túc nguồn gốc sự phát triển của nền kinh tế Liên Xô thấy rằng sự phát triển đó khá ấn tượng nhưng không có gì thần bí. Sản lượng của nền kinh tế Xô Viết phát triển nhanh chóng có thể giải thích bằng sự phát triển nhanh của những yếu tố đầu vào của nền sản xuất như: số việc làm tăng, phát triển giáo dục và trên tất cả là đầu tư khổng lồ vào tư liệu sản xuất. Sự phát triển nhanh chóng của nền kinh tế Liên Xô dựa hoàn toàn vào tiết kiệm: Nhà nước hạn chế tiêu dùng để dồn ngân sách cho đầu tư phát triển sản xuất, đó là việc hy sinh sự hưởng thụ hiện thời cho lợi ích lâu dài đạt được trong tương lai. Theo nghiên cứu của Mankiw, Romer và Weil, tỷ lệ tiết kiệm cao sẽ dẫn đến thu nhập cao hơn trong tình trạng kinh tế ổn định, đồng thời làm tăng vốn đầu tư cho con người cũng như tăng năng suất của nền kinh tế. Liên Xô đã sử dụng các nguồn lực thiên nhiên và con người hiệu quả hơn, có một định hướng kinh tế rõ ràng hơn thời Sa Hoàng, hệ thống chính trị có khả năng tập trung các nguồn lực để thực hiện các định hướng đó, do đó đã đạt được những thành tựu mà nước Nga phong kiến không thể nào đạt được. Ngoài ra sự thành công của Liên Xô dưới thời Stalin còn có sự đóng góp của những yếu tố đặc trưng của nước Nga như lãnh thổ rộng lớn, giàu tài nguyên; tầng lớp trí thức sót lại từ thời Sa Hoàng và tầng lớp khoa học gia mới được đào tạo có trình độ cao; sự siêng năng, ham hiểu biết, chính trực và những nỗ lực lao động vượt bậc của người N, biện pháp kinh tế của chính quyền Xô Viết cũng không phát huy được hiệu quả đến vậy.
Sự thành công của Liên Xô trong thời kỳ này cũng tạo ra sức ép với các nước tư bản chủ nghĩa. Ở Mỹ thời kỳ Đại suy thoái (1929-1933), mỗi ngày có 350 lá đơn của công dân Mỹ muốn được di cư sang Liên Xô. Tháng 7 năm 1934, Herbert George Wells nói với Stalin rằng: "Bây giờ các nhà tư bản nên học hỏi các ông để lãnh hội tinh thần chủ nghĩa xã hội. Tôi tin rằng với nước Mỹ, vấn đề nằm ở chỗ phải cải tạo sâu sắc, xây dựng nền kinh tế có kế hoạch, tức là kinh tế xã hội chủ nghĩa". Chính sách kinh tế mới của Hoa Kỳ năm 1934 nhằm khắc phục Đại suy thoái chính là tiếp thu những thế mạnh trong chính sách của Liên Xô
Giáo sư Kolesov tin rằng nếu không có các chính sách công nghiệp hóa của Stalin thì Liên Xô không thể duy trì nền độc lập chính trị và kinh tế của đất nước. Giá trị của công nghiệp hóa đã được xác định trước bởi tình trạng lạc hậu về kinh tế và một thời hạn quá ngắn để loại bỏ nó. Liên Xô đã loại bỏ tình trạng lạc hậu của đất nước chỉ trong thời gian rất ngắn là 13 năm (ngay trước khi Đức Quốc xã tấn công Liên Xô), thành quả rất lớn này đã cho phép Liên Xô chiến đấu và cuối cùng giành chiến thắng trong Chiến tranh thế giới thứ hai.
Trong Chiến tranh thế giới thứ hai.
Năm 1939, nguy cơ chiến tranh thế giới đã hiển hiện rất rõ ràng tại châu Âu. Liên Xô trước đó vài năm đã theo đuổi chính sách an ninh tập thể, Liên Xô kêu gọi một sự hợp tác với các nước Anh, Pháp để cùng kiềm chế nước Đức phát xít của Adolf Hitler đang quân phiệt hóa rất mạnh, nhưng Anh-Pháp đã không hồi đáp đề nghị này.
Năm 1939, sau khi Anh-Pháp ký với Đức Hiệp ước München và làm ngơ cho việc Đức chiếm toàn bộ Tiệp Khắc, ban lãnh đạo của Liên bang Xô viết tin rằng Anh-Pháp muốn hướng cỗ máy chiến tranh Đức nhắm vào họ. Phản ứng lại, Liên Xô thay đổi đột ngột chính sách đối ngoại của mình: quay sang hòa hoãn với Hitler. Liên Xô và Đức đã ký hiệp định không xâm phạm lẫn nhau (Hiệp ước Molotov-Ribbentrop) và đi xa hơn nữa hai bên ký biên bản thỏa thuận bí mật ("секретный протокол") phân chia ảnh hưởng ở các nước khác. Khi Đức tấn công Ba Lan, phần lãnh thổ Tây Ukraina, Tây Belarusia vốn bị quân Ba Lan chiếm năm 1919 sẽ được quay trở về Liên Xô. Liên Xô có quyền đòi lại những lãnh thổ từng thuộc nước Đế quốc Nga cũ: 3 quốc gia vùng biển Baltic (Estonia, Latvia, Litva), phần đất Karelia (bị Phần Lan chiếm năm 1921) và Bessarabia (Moldova ngày nay) bị România chiếm năm 1920. Đổi lại Liên Xô sẽ trung lập trong chiến tranh giữa Đức và khối Anh – Pháp.
Theo đúng tinh thần của biên bản bí mật, sau khi Đức tấn công Ba Lan mở đầu Chiến tranh thế giới thứ hai (1 tháng 9 năm 1939), Quân đội Xô viết kéo vào Ba Lan, thu hồi lại Tây Belarusia, Tây Ukraina. Vùng Bessarabia cũng được România trao trả để lập nên nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Moldavia (ngày nay là Moldova). Năm 1940, Liên Xô sáp nhập ba quốc gia vùng biển Baltic: Estonia, Latvia, Litva và lập nên ba nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa vùng Baltic (ban đầu không được phương Tây công nhận) và gây chiến tranh chống Phần Lan để thu hồi dải đất Karelia (bị Phần Lan chiếm năm 1921) để lập nên nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết tự trị Karelia. Trong Chiến tranh Liên Xô-Phần Lan (1940) quân đội Xô viết đã bộc lộ những yếu kém, lạc hậu của mình và đó cũng là một trong những nguyên nhân để Hitler tấn công Liên Xô năm 1941.
Ngày 22 tháng 6 năm 1941, nước Đức Quốc xã tấn công Liên bang Xô viết và bắt đầu "Chiến tranh vệ quốc vĩ đại" của Liên Xô (1941 – 1945). Liên Xô tham gia vào khối Đồng Minh gồm Anh, Pháp Tự do và sau này có thêm Mỹ, Úc, New Zealand, Canada, Trung Quố – 1942 đã chịu nhiều thất bại lớn, bị đẩy lùi với tổn thất rất lớn vì những nguyên nhân sau:
Trong hai năm 1941 – 1942, quân Đức đã chiếm đóng một phần lớn lãnh thổ phía tây của phần châu Âu của Liên Xô, nơi có 40% dân số và một phần đáng kể tiềm lực kinh tế của đất nước. Cuộc chiến tranh này đối với Liên Xô là có tính chất sống còn: nếu họ thất bại thì không chỉ mất lãnh thổ mà toàn bộ dân tộc sẽ đứng trước nguy cơ bị diệt chủng (đối với Đức, chiến tranh chống Liên Xô không phải là để kết thúc bằng một hiệp ước có lợi như các cuộc chiến tranh trước đó, mà là để tiêu diệt số lớn giống người Slav "hạ đẳng", đuổi số còn lại sang vùng Siberia hoang dã để chiếm đất cho "không gian sinh tồn" của giống người Đức Aryan "thượng đẳng" ("xem kế hoạch Barbarossa và chủ nghĩa phát xít").
Đảng Cộng sản Liên Xô lãnh đạo xã hội tiến hành kháng chiến. Các nhà máy lớn, các nông trường đều thành lập chi bộ Đảng để thực hiện nhanh chóng chỉ đạo từ trung ương. Nửa cuối năm 1941, hơn 1 triệu đảng viên nhập ngũ, chiếm 1/3 số binh sỹ Hồng quân (đến cuối chiến tranh, có tới 2,7 triệu chiến sỹ Hồng quân là Đảng viên). Chính phủ Liên Xô đã có những nỗ lực vô cùng to lớn để di chuyển toàn bộ các nhà máy và nguồn lực kinh tế sang các vùng sâu sau dãy Ural và Siberia và thiết lập dây chuyền sản xuất tại chỗ mới. Chỉ trong 4 tháng (từ tháng 7 tới tháng 11 năm 1941), đã tổ chức cho 1500 xí nghiệp và 10 triệu người sơ tán về phía Đông, xa khỏi đòn tấn công của Đức. Tại nơi ở mới, người dân bắt tay ngay vào sản xuất với những dây chuyền sản xuất được di tản cùng họ, thậm chí có nhà máy được dựng tạm ở ngay trên đất trống ngoài trời.
Chỉ sau một năm, sản xuất đã đạt mức trước chiến tranh và sau đó tiếp tục tăng lên với tốc độ rất cao, người Xô viết đã lao động tự giác, quên mình vì chiến thắng với các nỗ lực rất phi thường. Phần lớn các dân tộc các nước Cộng hòa của Liên bang Xô viết đã đoàn kết hiệp lực tin tưởng vào sự lãnh đạo của đảng cộng sản Liên Xô và lãnh tụ Stalin để đẩy lùi mối họa phát xít.
Quân đội Xô Viết tuy liên tục gặp thất bạị, bị tiêu diệt hoặc bị bắt làm tù binh hàng triệu người nhưng đã chống trả rất kiên cường theo khẩu hiệu "tử thủ" ("стоять насмерть") và gây cho quân Đức những tổn thất lớn, khiến đà tiến của Đức chậm dần. Đến cuối năm 1941, họ đã chặn đứng được quân đội Đức quốc xã tại cửa ngõ thủ đô Moskva. Đây cũng là trận thua lớn đầu tiên của quân đội Đức quốc xã trong thế chiến 2, cho thấy chiến tranh đã đảo chiều theo hướng bất lợi cho Đức và có lợi cho phía Liên Xô.
Khi quân Đức tấn công, đã có những dân tộc thiểu số muốn ly khai như người Chechen và người Thổ tại Kavkaz, người Tartar ở Krym, người Kozak tại Ukraina đã cộng tác với Đức quốc xã và được tham gia các lực lượng như Waffen-SS Đức, lực lượng Don Cossack (Kozak sông Đông)... Vì lý do này, nhiều dân tộc thiểu số do cộng tác với Đức Quốc xã đã bị trục xuất khỏi quê hương và bị tái định cư cưỡng bức. Trong giai đoạn từ 1941 đến 1948, Liên Xô trục xuất 3.266.340 người dân tộc thiểu số đến các khu định cư đặc biệt bên trong Liên Xô, 2/3 trong số đó bị trục xuất hoàn toàn dựa trên sắc tộc của họ, hơn một phần mười trong số đó qua đời trong thời gian này. Theo số liệu của Bộ Nội vụ Liên Xô vào tháng 1 năm 1953, số người "định cư đặc biệt" từ 17 tuổi trở lên là 1.810.140 người, trong đó có 56.589 người Nga.. Theo Krivosheev, có khoảng 215.000 người Liên Xô đã tử trận khi phục vụ trong hàng ngũ quân đội Đức Quốc xã (quân Đức gọi những người Liên Xô phục vụ cho họ là Hiwi).
Trong các năm 1942 – 1943, các nỗ lực chiến tranh và kinh tế to lớn của Liên bang Xô viết cộng với sự giúp đỡ của đồng minh Anh – Mỹ trong Liên minh chống Phát xít đã tạo được bước ngoặt cơ bản của chiến tranh bằng các chiến thắng lớn tại Stalingrad và Kursk. Với tiềm lực công nghiệp rất mạnh có được nhờ công nghiệp hóa thành công, sản lượng vũ khí của Liên Xô sớm bắt kịp rồi vượt xa Đức, đây là nhân tố quyết định cho chiến thắng của Liên Xô trong chiến tranh tổng lực với Đức. Đến cuối năm 1944, Liên Xô đã giải phóng được toàn bộ đất đai của mình và đánh đuổi quân Đức trên lãnh thổ các nước Đông Âu và Trung Âu và đưa chiến tranh vào chính nước Đức. Tháng 4 năm 1945, Hồng quân Liên Xô chiếm được Berlin. Nước Đức Quốc xã sụp đổ và đầu hàng.
Ngay sau chiến thắng đối với nước Đức, Liên Xô tham chiến chống Nhật Bản và vào đầu tháng 8 năm 1945, đã dễ dàng đánh tan 800.000 quân thuộc đạo quân Quan Đông của Nhật tại Mãn Châu. Ngày 15 tháng 8 năm 1945, Nhật Bản tuyên bố đầu hàng Đồng Minh vô điều kiện và Chiến tranh thế giới thứ hai chấm dứt.
Mặt trận Xô-Đức là mặt trận có quy mô lớn nhất trong thế chiến thứ 2. Đức đã tung ra 70% binh lực với các sư đoàn mạnh và tinh nhuệ nhất, cùng với khoảng 81% số đại bác, súng cối; 67% xe tăng; 60% máy bay chiến đấu, chưa kể binh lực góp thêm của các nước đồng minh của Đức (Ý, România, Bulgaria, Hungary, Phần L) Có những thời điểm hai bên chiến tuyến đồng thời hiện diện đến 12,8 triệu quân, 163.000 khẩu pháo và súng cối, 20.000 xe tăng và pháo tự hành, 18.800 máy bay. Ngay cả sau khi Mỹ, Anh mở mặt trận phía Tây, Đức vẫn sử dụng gần 2/3 binh lực để chiến đấu với Liên Xô. Các trận đánh như Trận Moskva, Trận Stalingrad, Trận Kursk, Chiến dịch Bagration là những chiến dịch có quy mô, sức tàn phá và số thương vong ghê gớm nhất trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Kết quả tại mặt trận Xô-Đức, quân Đức và chư hầu đã bị tổn thất 607 sư đoàn, trong đó có 507 sư đoàn Đức tinh nhuệ, chiếm 75% tổng số tổn thất của quân Đức trong chiến tranh thế giới 2. Về trang bị, Đức bị mất 75% số xe tăng, 70% số máy bay, 74% số pháo binh và 30% số tàu hải quân tại mặt trận Xô-Đức. Để so sánh, các nước đồng minh khác (Anh, Pháp, Mỹ, Úc, C) gộp lại đã đánh tan được 176 sư đoàn.
Chiến tranh thế giới thứ hai đã làm hơn 20 tới 26 triệu người Xô viết thiệt mạng (bao gồm 8,67 triệu binh sỹ và 12-18 triệu thường dân), 1.710 thành phố, thị trấn và hơn 70.000 làng mạc bị phá huỷ, 32.000 cơ sở công nghiệp, 98.000 nông trang tập thể, nhiều công trình văn hóa của Liên bang Xô viết bị phá huỷ, hơn 25 triệu người mất nhà cửa. Tổng cộng, Liên Xô mất gần 30% tài sản quốc gia và gần 1/8 dân số. Các trận đánh như Trận Moskva, Trận Stalingrad, Trận Kursk, Chiến dịch Bagration là những chiến dịch có quy mô, sức tàn phá và số thương vong ghê gớm nhất trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Dù vậy, mỗi người dân Liên Xô đã có những nỗ lực lao động phi thường để bù đắp tổn thất và góp phần làm nên chiến thắng chung cuộc. Chỉ trong 1 năm rưỡi (từ tháng 6/1941 đến hết 1942), Liên Xô đã sơ tán hơn 2.000 xí nghiệp và 25 triệu dân và sâu trong hậu phương. Các nhà máy tăng nhanh tốc độ sản xuất, năm 1942, sản lượng vũ khí đã tăng gấp 5 lần so với 1940 và đã bắt kịp Đức, tới năm 1944 thì đã cao gấp đôi Đức.
Giai đoạn 1941-1945, trung bình mỗi năm Liên Xô sản xuất được 27.000 máy bay chiến đấu, 23.774 xe tăng và pháo tự hành, 24.442 khẩu pháo (từ 76mm trở lên); con số này ở phía Đức là 19.700 máy bay chiến đấu, 13.400 xe tăng và pháo tự hành, 11.200 khẩu pháo. Nhờ sản lượng vũ khí khổng lồ, sau chiến tranh, Liên Xô đã có trong tay một lực lượng lục quân mạnh nhất thế giới với 11 triệu người, trang bị 40.000 xe tăng và pháo tự hành và hơn 100.000 khẩu pháo các loại. Nhiều loại vũ khí như xe tăng T-34, máy bay Il-2, pháo K
Sau chiến tranh, tại những vùng lãnh thổ của Đế chế Nga cũ đã xuất hiện các nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa mới thuộc Liên Xô: Moldavia, Estonia, Latvia, Litva, Karelia.
Với chiến thắng trong thế chiến, Liên Xô trở thành siêu cường thế giới, đủ sức cạnh tranh với Hoa Kỳ. Nước Anh từng là bá chủ thế giới trong thế kỷ XIX, nay đã bị tụt xuống chỉ còn là cường quốc hạng 2. Thủ tướng Anh Winston Churchill đã bình luận về tình hình châu Âu tại Hội nghị Yalta tháng 2 năm 1945: "Ở bên này là con gấu Nga to lớn, ở bên kia là con voi Mỹ khổng lồ, còn ở giữa là con lừa Anh còm cõi tội nghiệp". Sau thế chiến, Ủy ban Tham mưu của Anh đã từng lên kế hoạch đem 127 sư đoàn Anh-Mỹ tấn công Liên Xô và đẩy Hồng quân ra khỏi châu Âu, nhưng kế hoạch bị coi là không khả thi do quân đội Liên Xô có lực lượng còn mạnh hơn gấp đôi và kế hoạch này bị gọi là "Chiến dịch Không tưởng".
Mặc dù có những khó khăn to lớn do hậu quả của chiến tranh, Liên Xô bước ra khỏi chiến tranh với tư thế người chiến thắng góp phần quan trọng nhất vào việc đánh thắng chủ nghĩa phát xít với uy tín quốc tế cực kỳ cao và niềm phấn khởi tự hào lớn lao của nhân dân đối với cường quốc xã hội chủ nghĩa của mình tạo tiền đề để Liên Xô mạnh lên thành siêu cường thế giới sau thế chiến.
Sau chiến tranh, Liên Xô đã xây dựng lại và mở rộng nền kinh tế trong khi vẫn duy trì sự kiểm soát tập trung nghiêm ngặt. Liên Xô kiểm soát hiệu quả hầu hết các nước Đông Âu (trừ Nam Tư và Albania sau này) như là các quốc gia vệ tinh. Liên Xô đã kết hợp các quốc gia Đông Âu vào năm 1955 với một liên minh quân sự, Khối Hiệp ước Warszawa và một tổ chức kinh tế, Hội đồng Tương trợ Kinh tế hoặc Comecon (đối tác của Cộng đồng Kinh tế châu Âu (EEC)). Liên Xô tập trung vào việc tự phục hồi kinh tế, chuyển giao hầu hết các nhà máy công nghiệp của Đức và sử dụng các tập đoàn do Liên Xô lãnh đạo để thu tiền bồi thường chiến tranh từ Đông Đức, Hungary, România và Bulgaria. Liên Xô cũng có các thỏa thuận thương mại được thiết kế để mang lại lợi ích cho đất nước. Moskva có ảnh hưởng mạnh lên các Đảng cộng sản tại các quốc gia Đông Âu và họ thường ủng hộ các chính sách của Kremlin. Sau đó, Khối Comecon đã cung cấp hỗ trợ cho Đảng Cộng sản Trung Quốc, cuối cùng đã giành chiến thắng và ảnh hưởng của nó đã phát triển ở những nơi khác trên thế giới. Lo sợ tầm ảnh hưởng ngày cành tăng của Liên Xô, các đồng minh thời chiến của Liên Xô, gồm Anh và Hoa Kỳ, trở thành đối thủ của họ. Trong Chiến tranh Lạnh sau đó, hai bên đã đụng độ gián tiếp trong cuộc chiến ủy nhiệm, cạnh tranh ngoại giao, chạy đua khoa học công nghệ.
Phục hồi (1945 – 1955).
Sau khi Chiến tranh thế giới thứ hai chấm dứt, ngay lập tức các mâu thuẫn tư tưởng, chính trị giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa cộng sản đã phân các đồng minh cũ ra hai chiến tuyến của Chiến tranh Lạnh: Hoa Kỳ đứng đầu phe tư bản chủ nghĩa muốn hạn chế và triệt tiêu sự phát triển của chủ nghĩa cộng sản, còn Liên bang Xô viết lãnh đạo phe xã hội chủ nghĩa vì mục tiêu xây dựng chủ nghĩa cộng sản và truyền bá hệ tư tưởng này ra khắp thế giới.
Sự căng thẳng giữa Liên Xô và Hoa Kỳ và Vương quốc Anh bắt đầu gia tăng. Liên Xô vào năm 1948 đã thiết lập các chính phủ ủng hộ chủ nghĩa cộng sản ở các nước Đông Âu mà Liên Xô đã giải phóng khỏi sự kiểm soát của Đức Quốc Xã trong chiến tranh. Mỹ và Anh lo sợ sự lan rộng của chủ nghĩa cộng sản vào Tây Âu và trên toàn thế giới, vào năm 1949, Hoa Kỳ, Canada và các đồng minh châu Âu đã thành lập Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương (NATO), là liên minh giữa các quốc gia thuộc khối phương Tây là một chương trình chính trị có hiệu lực chống lại Liên Xô và các đồng minh. Để đáp trả NATO, Liên Xô năm 1955 đã liên kết quyền lực giữa các nước thuộc Khối Đông dưới một liên minh có tên là Khối Warszawa, khởi đầu Chiến tranh Lạnh. Cuộc đấu tranh giữa 2 khối trong Chiến tranh Lạnh đã diễn ra trên các mặt trận chính trị, kinh tế và tuyên truyền giữa Khối Đông và phương Tây, sẽ tồn tại dưới nhiều hình thức khác nhau cho đến khi Liên Xô tan rã năm 1991.
Sau chiến tranh thế giới hai, Liên Xô bị tàn phá nặng nề. Tổn thất vật chất ước tính là 2,5 nghìn tỷ rúp, tương đương với 30% toàn bộ nguồn của cải của đất nước. Sự phát triển các ngành kinh tế quan trọng bị thụt lùi tới 10-15 năm. Khoảng 20 tới 27 triệu người Liên Xô đã chết trong chiến tranh, hơn 5 triệu ngôi nhà bị phá hủy, 25 triệu người vô gia cư, thu hoạch nông nghiệp giảm 1/3. Hơn 70.000 ngôi làng, 7 vạn thôn trang, 32.000 nhà máy, 65.000 km đường sắt, 1.135 mỏ khoáng sản bị phá hủy. Trước những tổn thất nặng nề đó, Liên Xô đề ra một kế hoạch 5 năm nhằm khôi phục nền kinh tế và đã hoàn thành mục tiêu này trong 4 năm 3 tháng. Đến năm 1950, giá trị sản xuất công nghiệp tăng 73% so với năm 1940, nông nghiệp cũng khôi phục 99%. Liên Xô đã đạt tổng sản phẩm quốc dân là 153 tỷ đôla (thời giá 1950), đứng thứ hai thế giới chỉ sau Mỹ (287 tỷ đôla).
Tại châu Âu sau chiến tranh, các nước Đông Âu (Ba Lan, Hungary, Cộng hòa Dân chủ Đức, Bulgaria, Tiệp Khắc, România, Albania, Nam Tư) mặc nhiên được Hoa Kỳ và phương Tây coi là khu vực ảnh hưởng của Liên Xô. Tại đây Liên Xô giúp đỡ tài chính và quân sự cho các nước này phục hồi nền kinh tế, thành lập các nhà nước xã hội chủ nghĩa dưới sự kiểm soát của mình. Phần lớn các nước này vào năm 1955 đã tham gia Khối Warszawa với Liên bang Xô viết làm trụ cột để đối đầu với khối quân sự Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương (NATO) của phương Tây do Hoa Kỳ lãnh đạo. Sau này các quốc gia này tham gia Hội đồng tương trợ kinh tế COMECON. Liên Xô thông qua lực lượng quân sự hùng hậu của mình đóng trên lãnh thổ Đông Âu và bằng thỏa thuận kinh tế trong COMECON để uốn nắn đường lối chính trị của các đồng minh Đông Âu và sau này từng can thiệp trực tiếp để ngăn chặn các cuộc bạo động tại các nước này như tại Hungary (1956), Tiệp Khắc (1968) và Ba Lan (1982).
Ở châu Á sau chiến tranh, Liên Xô giúp Đảng Lao động Triều Tiên thành lập nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên của Kim Nhật Thành tại phần phía bắc bán đảo Triều Tiên. Đặc biệt vào năm 1949, với sự giúp đỡ về viện trợ của Liên Xô, Đảng Cộng sản Trung Quốc của Mao Trạch Đông đã chiến thắng trong Nội chiến Trung Quốc và thiết lập nhà nước xã hội chủ nghĩa tại quốc gia đông dân nhất thế giới, làm cho thế và lực của phong trào cộng sản trên toàn thế giới tăng lên rất mạnh. Cùng với Chiến tranh Triều Tiên giữa Bắc và Nam Triều Tiên với sự ủng hộ tích cực của Liên Xô và Trung Quốc cho Bắc Triều Tiên, tình hình thế giới trở nên rất căng thẳng: hai phe đã đụng độ quân sự trực tiếp, nguy cơ sử dụng vũ khí hạt nhân là rất nghiêm trọng.
Sau chiến tranh, lãnh thổ Liên Xô được mở rộng từ các quốc gia thất trận: Nam Sakhalin ("Южный Сахалин") và quần đảo Kuril ("Курильские острова") từ Nhật Bản, vùng Petsamo ("Петсамо – Печенга") từ Phần Lan, Klaipeda ("Kлайпеда"), Koenisberg ("Кёнигсберг", tên Nga là Kaliningrad – "Калининград") từ Đông Phổ của Đức, Ukraina Ngoại Karpat ("Закарпатская Украина") từ România. Chính quyền Xô viết tiến hành trấn áp rất mạnh các cuộc bạo loạn vũ trang ly khai tại Tây Ukraina, Tây Belarus, các nước cộng hòa Baltic và trấn áp các thành phần bất mãn đặc biệt là các quan chức, sĩ quan quân đội, cảnh sát, các lực lượng tư sản, địa chủ và dân tộc chủ nghĩa từng phục vụ cho chính quyền cũ.
Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, tuy không còn quy mô và ở mức độ như những năm 1930 nhưng theo dõi, bắt giữ vẫn là một thành tố của chính sách nhất quán giữ yên kỷ cương xã hội Liên Xô. Sau chiến tranh và đến trước khi qua đời (1953), Stalin còn kịp chỉ đạo NKVD tiến hành vài đợt thanh lọc như vụ Leningrad (bắt giam thành viên tỉnh uỷ Leningrad), vụ các bác sĩ giết người (bắt giam một số giáo sư bác sĩ nổi tiếng của Liên Xô chủ yếu là người Do Thái, vụ này mang sắc thái bài Do Thái rất rõ), vụ chống chủ nghĩa thế giới ("cosmopolitism")... Chỉ sau khi Stalin chết, lãnh đạo mới Khrushchov phát động chống sùng bái cá nhân Stalin và xử bắn Beria ("Лаврентий Павлович Берия") (giám đốc NKVD) thì Liên Xô mới đoạn tuyệt hẳn với chính sách kỷ luật sắt của chủ nghĩa Stalin.
Nhìn chung, Thời kỳ 1945 – 1955 là thời kỳ niềm phấn khởi tự hào của dân chúng Liên Xô dâng cao, nền kinh tế hồi phục và phát triển khá nhanh, làm cơ sở để phát triển công nghiệp hiện đại và chạy đua vũ trang. Liên Xô lúc này (và cả sau này) chủ yếu phát triển kinh tế theo chiều rộng: gia tăng sản xuất bằng việc xây dựng thêm các công trường, nhà máy mới, khai phá thêm các nguồn tài nguyên thiên nhiên, huy động thêm nguồn nhân lự(công nghệ hạt nhân, công nghệ tự động hóa, công nghệ vũ trụ, viễn thông, luyện kim). Cả đất nước như một công trường lớn với các dự án rất ấn tượng như chinh phục Angara, chinh phục Bắc Băng Dương, chinh phục Taiga và miền S
Về khoa học - kỹ thuật và quân sự, vào ngày 10/10/1948, Liên Xô đã bắn quả tên lửa đạn đạo đầu tiên (P-1). Tiếp đến ngày 29/8/1949, bom nguyên tử được Liên Xô thử thành công, phá vỡ thế độc quyền vũ khí hạt nhân của Mỹ. Năm 1954, Liên Xô là quốc gia đầu tiên trên thế giới xây dựng được nhà máy điện nguyên tử (Nhà máy điện hạt nhân Obninsk được xây dựng tại thành phố Obninsk). Đồng thời đất nước này còn chế tạo được tuốc-bin hơi nước có công suất 100 triệu oát, lớn nhất thế giới lúc bấy giờ. Công nghệ vũ trụ được nghiên cứu, tạo tiền đề cho việc phóng tàu vũ trụ đầu tiên trên thế giới vào năm 1957 mang theo vệ tinh nhân tạo đầu tiên của loài người. Những sự việc này ngoài những ý nghĩa quân sự, chiến lược, kinh tế còn có ý nghĩa tinh thần tượng trưng rất lớn: nó đánh dấu Liên Xô đã trở thành siêu cường thế giới mới với mục tiêu vươn lên vượt qua Hoa Kỳ.
Siêu cường thế giới (1955 – 1975).
Thời kỳ sau Stalin, nhất là từ đại hội 20 Đảng Cộng sản Liên Xô (1956) đến năm 1965 khi Bí thư thứ nhất Đảng Cộng sản Khrushchyov đã bị bãi chức được gọi là thời kỳ "tan băng". Trong thời kỳ này Bí thư thứ nhất Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô Nikita Sergeyevich Khrushchyov phát động phong trào chống sùng bái cá nhân Stalin: công khai lên án những sai lầm của Stalin, phục hồi danh dự cho những người bị oan, giải tán các trại tập trung lao động của GULAG và cho phép các dân tộc bị định cư cưỡng bức trở về quê hương, truy cứu trách nhiệm hình sự các lãnh đạo NKVD và các cơ cấu quyền lực đã lạm quyền trong trấn áp, khôi phục pháp chế nhà nước. Việc này có tiếng vang lớn và gây ra hệ quả hai mặt:
Liên Xô vào thời kỳ Khrushchyov đã có sự tiếp cận mới về đối ngoại: tìm cách hòa hoãn với Hoa Kỳ, thi hành chính sách cùng tồn tại hòa bình, ngoại giao nhân dân được phát triển, xóa bỏ tâm lý coi đế quốc như quỷ dữ, tránh gây căng thẳng có thể làm phương hại đến hòa bình thế giới. Tuy nhiên trong thời kỳ này trên thế giới đã xảy ra vài sự kiện làm căng thẳng tình hình thế giới đó là việc trấn áp cuộc bạo động tại Hungary (1956) và Khủng hoảng tên lửa Cuba năm 1962.
Thời kỳ của Khrushchyov ngoài sự nới lỏng tương đối về kỷ luật chính trị, tư tưởng còn có sự chuyển dịch lớn về kinh tế xã hội: Các nguồn lực thay vì trước đây chỉ dồn cho các mặt hàng công nghiệp nặng cho nhiệm vụ phát triển lực lượng sản xuất (công nghiệp nhóm A) nay nhà nước Liên Xô tập trung hơn đến các ngành công nghiệp nhẹ (nhóm B) và xây dựng, nông nghiệp để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của người dân Xô viết. Trong nông nghiệp đã cho phép kinh doanh vườn tược nhỏ của các hộ. Ở thời kỳ này, người dân Liên Xô đã được Nhà nước cấp phát cho các căn hộ tiện nghi và các tiện nghi sinh hoạt cao cấp, phát triển tâm lý hưởng thụ: có xe ô tô riêng và nhà nghỉ ngoại ô (tuy chưa nhiều). Đời sống của dân chúng sung túc lên rất nhiều. Đây là thời kỳ Liên Xô phóng thành công vệ tinh nhân tạo đầu tiên và đưa người đầu tiên vào vũ trụ, biểu tượng của sự vượt lên của Liên Xô đối với đối thủ tư bản chủ nghĩa Hoa Kỳ. Những thay đổi to lớn này đã tạo ra sự phấn chấn trong các tầng lớp người Xô viết.
Về cơ bản, chính sách của thời kỳ này vẫn là cố gắng cải cách xã hội trong khuôn khổ một xã hội tập quyền do Đảng lãnh đạo. Tuy đã đạt được một số thành quả quan trọng, nhưng mặt trái trong các cải cách của Khrushchyov đã gây ra một số bất mãn và gặp phải sự phản đối trong nội bộ đảng và cuối cùng các lực lượng phản đối đã thành công trong việc buộc Khrushchyov phải từ chức.
Nhìn chung, đây là giai đoạn Liên Xô đạt mức phát triển cao nhất và có vị thế chưa từng có trong lịch sử, ngay cả khi so với nước Nga đầu thế kỷ XXI:
Đặc biệt, Liên Xô đã có được vị trí dẫn đầu trong công nghệ vũ trụ (lĩnh vực được xem là tập trung tinh hoa của nhiều lĩnh vực khác, từ thiên văn học, toán học cho tới tự động hóa, vật liệu siêu bền). Liên Xô đã trở thành quốc gia đầu tiên mở màn cho kỷ nguyên thám hiểm vũ trụ của loài người với hàng loạt thành tựu:
Theo tài liệu của Chính phủ Mỹ thống kê về kinh tế các nước trên thế giới, năm 1975, tổng sản lượng kinh tế của Liên Xô đã đạt 943,5 tỷ USD (đứng thứ 2 thế giới và bằng 62% so với Hoa Kỳ), bình quân đầu người đạt 4.135 USD (bằng 52% so với Hoa Kỳ) tính theo thời giá năm 1977
Công dân Liên Xô được hưởng mức phúc lợi xã hội rất tốt so với nhiều nước cùng thời:
Tuy vậy, một báo cáo của "Ủy ban quốc gia nghiên cứu Liên Xô và Đông Âu" (thuộc chính phủ Hoa Kỳ) cho rằng mô hình phúc lợi xã hội của Liên Xô thời kì này vẫn còn tồn tại những hạn chế. Hệ thống y tế miễn phí của Liên Xô vẫn có sự phân hóa: Những người có vị trí cao hơn trong xã hội (ví dụ quan chức cấp cao, sĩ quan quân đội, khoa học gia nối tiếng) thường sẽ được hưởng dịch vụ y tế cao cấp hơn so với dân thường. Nhiều cơ sở khám chữa bệnh của Liên Xô thời kì này bị thiếu hụt thuốc men và các trang thiết bị y tế, nguyên nhân một phần là do ngân sách chi cho lĩnh vực y tế không đủ (một thống kê cho thấy tỷ trọng GNP dành cho hệ thống chăm sóc sức khoẻ chiếm một tỉ lệ khá nhỏ tại Liên Xô, chỉ bằng 1/3 so với Hoa Kỳ). Hệ thống y tế của Liên Xô tập trung vào việc chữa bệnh hơn là phòng ngừa, theo một bản báo cáo mật của CIA trình lên chính phủ Hoa Kỳ (được công khai vào năm 1999) thì tỷ lệ mắc bệnh thương hàn vào năm 1979 ở Liên Xô cao gấp 30 lần và tỷ lệ mắc bệnh sởi cao hơn gấp 20 lần so với Hoa Kỳ. Tuy nhiên, theo Mark Britnell thì nền y tế Liên Xô vẫn xứng đáng đạt huy chương vàng vào thời kỳ đó, khi mà vào năm 1985 thì số lượng bác sỹ và số giường bệnh bình quân đầu người của Liên Xô đã cao gấp 4 lần so với Hoa Kỳ. Truyền thống thu thập và nguyên cứu y tế giúp Liên Xô sở hữu một kho dữ liệu y tế và các thực nghiệm liên quan rất đồ sộ, với rất nhiều trung tâm và viện nghiên cứu phát triển vaccine rất mạnh và được liên kết với nhau. Cho đến mãi 30 năm sau, khi Đại dịch COVID-19 xảy ra, di sản về y tế của Liên Xô vẫn giúp nước Nga chế tạo vacxin với tiến độ rất nhanh chóng.
Cũng theo Ủy ban nghiên cứu Liên Xô và Đông Âu, nền giáo dục của Liên Xô hay xảy ra bệnh thành tích khi điểm số ở các trường được chấm một cách dễ dãi và nhiều khi không đúng với năng lực của học sinh. Việc chính phủ Liên Xô xây nhà ở hàng loạt để cấp miễn phí cho người dân đã dẫn tới hệ lụy là kiến trúc dân dụng thường chỉ coi trọng số lượng mà không coi trọng chất lượng, nên nhà ở tại Liên Xô thường có tiêu chuẩn kém hơn so với nhà ở tại các nước phát triển. Việc cung cấp nhà ở cũng có sự phân hóa đáng kể: người có địa vị cao trong xã hội thường được cấp cho những căn nhà tốt hơn hẳn so với những người bình thường Tình trạng thiếu hụt hàng tiêu dùng vẫn thường xuyên xảy ra, sự sẵn có của các loại hàng hóa và dịch vụ giải trí ở Liên Xô cũng ít hơn nhiều so với các nước phương Tây . Bất chấp những hạn chế, mô hình phúc lợi xã hội của Liên Xô nhìn chung đã hoạt động hiệu quả, đảm bảo tương đối tốt cho đời sống của mọi người dân cho đến những năm 1980, khi Liên Xô lâm vào khủng hoảng chính trị.
Trên bình diện quốc tế, Liên Xô xem hệ thống kinh tế - chính trị của mình là ưu việt đáng để người khác noi theo, họ mở rộng ảnh hưởng ra toàn thế giới và thiết lập hệ thống các quốc gia đồng minh bằng các biện pháp chính trị, quân sự hoặc kinh tế. Liên Xô từng can thiệp vào chính trị nội bộ nước khác như đưa quân đội vào các nước Đông Âu, A, các nhóm sắc tộc theo chủ nghĩa ly khai ở Nga thì coi Liên Xô là nhà nước kế vị của Đế quốc Nga với tham vọng mở rộng lãnh thổ cho dân tộc Nga. Một số cáo buộc Liên Xô là một nhà nước thực dân kiểu cũ, trong khi những người theo chủ nghĩa Mao kể từ sau mâu thuẫn Trung Xô đã cáo buộc Liên Xô là một đế chế trá hình trong hình thức quốc gia xã hội chủ nghĩa. Việc Nga hóa và Xô viết hóa hệ thống giáo dục và xã hội ở các quốc gia tự trị trên lãnh thổ Liên Xô cũng bị những nhóm này chỉ trích. Ngược lại, những người ủng hộ Liên Xô bác bỏ những quan điểm này. Họ dẫn chứng rằng Liên Xô đã giúp đỡ phong trào giải phóng dân tộc ở Á – Phi – Mĩ Latinh trong cuộc đấu tranh giành độc lập, chống lại chủ nghĩa thực dân của các nước Châu Âu, làm đảo lộn chiến lược toàn cầu của Mĩ và phương Tây, ủng hộ các phong trào đấu tranh vì độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Những năm 1960, trong cao trào đấu tranh giải phóng dân tộc được Liên Xô ủng hộ, đã có khoảng 100 quốc gia giành được độc lập dân tộc, một số nước không ngừng ủng hộ mạnh mẽ phong trào Xã hội chủ nghĩa, chọn đi theo con đường Xã hội chủ nghĩa với những mức độ khác nhau. Ngược lại cũng có một số nước chống Cộng và một số nước khác theo đường lối trung lập. Liên Xô đã viện trợ kinh tế, quân sự cho rất nhiều nước kém phát triển trên thế giới, giúp cho các nước này củng cố nền độc lập của họ và phát triển kinh tế - xã hội. Các nước Đông Âu là điển hình mà sự trợ giúp của Liên Xô đã phát huy tác dụng tích cực nhờ đó họ nhanh chóng phục hồi sau thế chiến thứ II và xây dựng nền tảng công nghiệp quốc gia để trở thành các nước công nghiệp hóa. Tại hội nghị ở Havana, Liên Minh các quốc gia châu Phi do Oliver Tambo dẫn đầu đã nhận xét về những lời chỉ trích Liên Xô từ các nước phương Tây: ""Liên bang Xô viết, Cuba, nhiều nước xã hội chủ nghĩa đã giúp cho nhiều đất nước ở đây tồn tại đến ngày hôm nay, trở thành các quốc gia độc lập. Đó là một "tội ác" chống lại các nước đế quốc. Chúng tôi hiểu điều đó"".
Các nước thuộc địa vừa giành được độc lập trở thành khu vực cạnh tranh ảnh hưởng của Liên Xô, Mỹ và Trung Quốc. Khi các nước hậu thuộc địa đầu tiên bắt đầu xuất hiện ở châu Phi, Trung Đông, châu Á và Mỹ Latinh, Liên Xô đã hỗ trợ vật chất to lớn đối với các quốc gia này. Ai Cập của Gamal Abdel Nasser, Indonesia của Sukarno và Ấn Độ của Jawaharlal Nehru đều được hưởng lợi từ chính sách này. Đến năm 1965, viện trợ của Liên Xô cho các nước mới giành độc lập đã vượt qua 9 tỷ USD, gồm cả hỗ trợ kinh tế lẫn quân sự. Dù không trở thành một phần của hệ thống xã hội chủ nghĩa, nhà máy thép đầu tiên của Ấn Độ đã được xây dựng như là quà tặng của Liên Xô. Khi Vương quốc Anh, Pháp và Israel xâm lược Ai Cập vào năm 1956, Liên Xô đã hỗ trợ nước này đẩy lui các thế lực thực dân cũ. Nhiều nước châu Phi và Mỹ La tinh cũng được hỗ trợ tương tự. Hàng triệu sinh viên từ các nước nghèo được Liên Xô giáo dục miễn phí về kỹ thuật, nông nghiệp và các ngành khác. Sức mạnh của Liên Xô và hệ thống xã hội chủ nghĩa có thể coi là một cực tiến bộ trong hơn 70 năm, không chỉ chống lại các cuộc chiến tranh đế quốc mà còn là nguồn cảm hứng và cơ sở cho chủ nghĩa xã hội và phong trào giải phóng dân tộc.
Với sự trợ giúp của Liên Xô, các quốc gia thuộc khối xã hội chủ nghĩa đã có bước tiến rất nhanh. Từ năm 1950 tới 1984, thu nhập quốc dân và sản lượng công nghiệp Bulgaria tăng tương ứng là 14 lần và 29 lần; Hungary là 5,1 lần và 9,2 lần; Đông Đức là 7,6 lần và 11 lần; Ba Lan là 5,9 lần và 14 lần; România là 17 lần và 38 lần; Tiệp Khắc là 5,3 lần và 9,4 lần. Để so sánh, trong cùng thời kỳ, các chỉ số của Mỹ tăng tương ứng là 1,8 lần và 2,1 lần; Pháp là 2,7 lần và 2,9 lần; Tây Đức là 3,4 lần và 3,9 lần. Từ năm 1948 tới 1984, Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên cũng tăng trưởng rất nhanh với sự hỗ trợ về kỹ thuật của Liên Xô: sản lượng công nghiệp năm 1984 tăng 431 lần so với năm 1946, sản xuất lương thực tăng 5,6 lần, thu nhập bình quân tăng 65 lần, đạt tới 2.400 USD theo thời giá năm 1986. Ở bên kia bán cầu, đất nước Cuba với sự hỗ trợ của Liên Xô cũng đã đạt được những thành tựu lớn về kinh tế (tăng trưởng bình quân 7% trong thập niên 1970, 8% trong nửa đầu thập niên 1980), nền giáo dục và y tế đạt mức tương đương các quốc gia phát triển trên thế giới.
Năm 1958, Giáo sư Viktor Zhdanov, Thứ trưởng Bộ Y tế Liên Xô, đã kêu gọi Đại hội đồng Y tế Thế giới thực hiện một chiến dịch toàn cầu để diệt trừ bệnh đậu mùa, và đề nghị được Liên hiệp quốc thông qua năm 1959. Liên Xô đã cung cấp một tỷ rưỡi liều vắc-xin chống đậu mùa cho các nước nghèo từ năm 1958 đến năm 1979, cũng như các nhân viên y tế để giúp đỡ các nước này Bệnh đậu mùa, căn bệnh đã giết hàng trăm triệu người khắp thế giới trong thế kỷ 20, đã được thanh toán vào năm 1979. Cho đến nay, đậu mùa là căn bệnh truyền nhiễm trên người duy nhất mà loài người đã tiêu diệt dứt điểm.
Sự lớn mạnh của Liên Xô trong giai đoạn này đã tạo sức ép cạnh tranh rất lớn đối với các nước phương Tây. Do sức hút từ mô hình phúc lợi xã hội của Liên Xô, trong nội bộ các nước phương Tây nổ ra nhiều phong trào đòi quyền lợi cho người lao động, đòi tăng lương và giảm giờ làm, chống sa thải tùy tiệ, giảm bất công và bất bình đẳng, mở rộng dân chủ. Để thu hút cử tri, các đảng phái cánh hữu cũng phải đưa những chính sách tương tự vào chương trình hành động của mình. Điều này dẫn đến việc chính phủ các nước phương Tây dù do cánh hữu hay cánh tả lãnh đạo cũng phải đề ra những biện pháp cải tổ kinh tế, tăng ngân sách an sinh xã hội cho y tế, giáo dục, tăng quyền lợi cho người lao độ, ở một số nước phương Tây như Đức, Thụy Điển, Phần L, các nước này vẫn áp dụng kinh tế thị trường nhưng Nhà nước đề ra các chính sách an sinh xã hội rộng khắp để làm giảm đi những khiếm khuyết và bất công của chủ nghĩa tư bản đồng thời làm giảm sức hấp dẫn của mô hình xã hội chủ nghĩa do Liên Xô tạo ra. Có thể nói rằng: trong cuộc chạy đua với Liên Xô, nhiều nước phương Tây cũng phải tự biến đổi mình, giảm bớt sự bất công xã hội và người lao động đã có quyền lợi tốt hơn so với trước.
Tổng thống Nga Putin nhận định: "mô hình xã hội và ý thức hệ nói chung không tưởng đó, mà nhà nước mới thành lập cố gắng thực hiện lúc đầu sau cách mạng 1917, đã là đầu máy chuyển hóa mạnh mẽ trên toàn thế giới (điều này là rõ ràng và cũng phải thừa nhận), cái mô hình đó đã khiến người ta phải đánh giá lại các mô hình phát triển, tạo ra cạnh tranh và mâu thuẫn, từ đó có lợi ích mà theo tôi phần lớn do phương Tây được hưở, hình thành giới trung lưu mạnh, cải tổ thị trường lao động và không gian xã hội, thúc đẩy giáo dục, đảm bảo nhân quyền gồm cả quyền cho người thiểu số và phụ nữ, vượt qua phân biệt chủng tộc mà quý vị nhớ đã từng là hành vi xấu hổ ở nhiều nước kể cả Mỹ, chỉ vài thập niên trước đây."
Nhìn chung, trong thời kỳ này, với tư cách là nhà nước Xã hội chủ nghĩa lớn và hùng mạnh nhất, Liên Xô đã trở thành đối trọng cân bằng với khối Tư bản chủ nghĩa do Mỹ đứng đầu và là nguồn viện trợ chính cho các phong trào giải phóng dân tộc tại các nước Á-Phi-Mỹ latinh. Các phong trào cách mạng tại châu Á, châu Phi và Mỹ Latinh liên tiếp thành công, nhiều phong trào coi Liên Xô là đồng minh hữu hảo, khiến vị thế quốc tế của Liên Xô tăng lên rất cao, khiến Mỹ và phương Tây lo ngại rằng "làn sóng Đỏ" dường như sắp bao vây họ.
Trì trệ (1980 – 1985).
Năm 1964, Hội nghị bất thường của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô đã bãi nhiệm Bí thư thứ nhất Khrushchov và đưa Leonid Ilyich Brezhnev ("Леонид Ильич Брежнев") vào cương vị Bí thư thứ nhất (từ ngày 8 tháng 4 năm 1966 gọi là Tổng Bí thư). Phần lớn thời gian từ năm 1965 đến 1985 là những năm nắm quyền của Brezhnev, thường được gọi đơn giản là thời kỳ "trì trệ" mặc dù thật ra "trì trệ" chỉ thực sự diễn ra vào nửa cuối giai đoạn lãnh đạo của Brezhnev (tức là từ năm 1980 trở về sau) và khái niệm này có tính tương đối (tức là có người cho rằng như vậy, nhưng có người thì không).
Thời kỳ này là thời kỳ mà những mâu thuẫn của xã hội Liên Xô đã chín muồi và phát tác gây những hệ quả xấu cho nền kinh tế và đời sống chính trị, xã hội. Trong kinh tế, nền sản xuất duy trì theo phương thức kế hoạch hóa và bao cấp không tạo được kích thích quyền lợi cho các đơn vị sản xuất nên kỷ luật lao động suy giảm, năng suất tăng chậm. Việc "trả lương theo mức chỉ tiêu kế hoạch" và "kế hoạch hóa theo sản lượng" đã triệt tiêu động lực của việc áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật: sản phẩm chế tạo càng nhanh hoàn thành và vượt chỉ tiêu kế hoạch sản lượng thì càng có lợi cho người sản xuất, việc nâng cao chất lượng ít được tính đến, nên hàng hóa của Liên Xô nhanh chóng kém hơn về chất lượng, mẫu mã so với hàng hóa của Tây Âu. Nền kinh tế không được khuyến khích chuyển sang phát triển theo chiều sâu, áp dụng tiến bộ kỹ thuật mà vẫn dựa nhiều vào khai thác ồ ạt các nguồn tài nguyên thiên nhiên nên ô nhiễm môi trường gia tăng. Hàng hóa trong thị trường nội địa bị thừa các sản phẩm khó tiêu thụ đồng thời lại khan hiếm hàng hóa dễ tiêu thụ, làm phát sinh đầu cơ, tích trữ và các loại kinh tế ngầm bất hợp pháp. Liên Xô cố gắng tăng thu nhập quốc dân bằng cách tăng đầu tư nhưng hiệu quả đầu tư ngày càng giảm, năng suất lao động tăng chậm do kỹ thuật sản xuất chậm cải tiến, trong khi đó phương Tây tăng trưởng bằng việc cải tiến công nghệ và phát triển các ngành công nghiệp mới khiến năng suất lao động và hiệu quả đầu tư đều tăng. Liên Xô có trình độ khoa học cơ bản và khả năng nghiên cứu phát triển ra công nghệ mới không thua kém phương Tây nhưng họ thiếu động lực ứng dụng những tiến bộ khoa học - kỹ thuật đó vào nền kinh tế, nên việc ứng dụng công nghệ mới vào nền kinh tế dân dụng của Liên Xô ngày càng chậm so với Hoa Kỳ, Tây Âu và Nhật Bản. Nhiều nhà máy của Liên Xô trong thập niên 80 vẫn sử dụng các loại máy móc có từ những năm 1930. Nguyên soái Liên Xô Nikolai Ogarkov trong cuộc phỏng vấn với một nhà báo người Mỹ vào năm 1982 đã nói rằng "Ở Mỹ, đến cả trẻ con cũng có thể chơi với máy tính. Trong khi đó chúng tôi thậm chí còn không có bất cứ chiếc máy tính nào trong tất cả các văn phòng của Bộ Quốc phòng. Và bạn biết lí do rồi đó, chúng tôi đã không thể làm cho máy tính trở nên phổ biến rộng rãi trong xã hội" .
Tâm lý dân chúng trở nên thờ ơ đối với các chính sách của Đảng và Chính phủ. Công tác giám sát, kỷ luật cán bộ của Đảng và nhà nước – bộ máy theo chỉ định ("Номенклатура") bị buông lỏng khiến tệ tham nhũng gia tăng và làm suy thoái đạo đức xã hội mà như sau này Mikhail Gorbachov đã từng gọi là các vị "cường hào mới" gây bất bình lớn trong xã hội. Trong nội bộ Liên Xô các mâu thuẫn dân tộc càng ngày càng sâu sắc. Tuy được chính quyền kiềm chế nhưng ở nhiều nước Cộng hòa (đặc biệt là ở ba nước cộng hòa Baltic – điểm đầu của sự phân rã Liên Xô sau này), dân địa phương không che giấu thái độ căm ghét người Nga, xuất hiện rất nhiều căng thẳng giữa các nhóm sắc tộc giữa các nước Cộng hòa và trong nội bộ từng nước. Trong nội bộ các nước cộng sản Đông Âu thái độ chống Liên Xô cũng được bộc lộ công khai. Năm 1968 Quân đội Xô viết đã phải can thiệp để ngăn cản Tiệp Khắc thoát khỏi tầm ảnh hưởng của chủ nghĩa cộng sản và điều này càng làm gia tăng chủ nghĩa bài Nga trong dân chúng các nước Đông Âu, họ coi sự hiện diện của Liên Xô đã kìm hãm sự phát triển của dân tộc mình. Việc Liên Xô đem quân tiến vào Afghanistan (1979) và sa lầy tại đây lại càng làm nước này bị mất đi nguồn lực cho phát triển đất nước.
Đây là thời kỳ Liên Xô chạy đua vũ trang và chạy đua vũ trụ với cường độ cao và coi ưu thế quân sự và vũ trụ so với Hoa Kỳ như một minh chứng cho tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội và đã có lúc Phương Tây cho rằng Liên Xô đã phá vỡ thế cân bằng chiến lược. Thời kỳ này đối đầu giữa hai phe khá căng thẳng nhưng cả hai bên đều có ý thức kiềm chế trong phạm vi an toàn. Trong thời gian này, Liên Xô còn giúp đỡ các lượng lượng cánh tả trên thế giới chống lại sự can thiệp của phương Tây và viện trợ kinh tế - quân sự cho các nước đồng minh. Việc sử dụng một tỷ lệ lớn ngân sách cho quốc phòng, chinh phục không gian và viện trợ cho các nước đồng minh khiến Liên Xô không thể nhanh chóng cải thiện hệ thống an sinh xã hội, tăng mức sống cho nhân dân, tạo ra gánh nặng rất lớn cho ngân sách của Xô viết và sau này nhiều người Nga cho đó cũng là một trong các nguyên nhân khiến Liên Xô tan rã.
Trong cuốn sách "The Politics of Bad Faith", tác giả David Horowitz đã đưa ra những thống kê cho thấy rằng tiêu chuẩn sống của người dân Liên Xô trong những năm 1980 ngày càng sụt giảm. Tình trạng thiếu hụt hàng tiêu dùng xảy ra thường xuyên bởi Liên Xô hạn chế phát triển công nghiệp nhẹ và tập trung nguồn lực cho các ngành công nghiệp nặng. Đến cuối thập niên 70, chỉ có 1/20 số hộ gia đình tại Liên Xô sở hữu ô tô, trong khi chỉ có 1/7 số hộ gia đình tại thành thị sở hữu điện thoại. Tỉ lệ sở hữu TV ở Liên Xô vào năm 1976 là 223 trên 1000 dân, chưa bằng một nửa so với Hoa Kỳ (571 trên 1000 dân) Nhiều nơi ở Liên Xô người dân đã phải đối mặt với tình trạng không có giấy vệ sinh để sử dụng (mặc dù Liên Xô có diện tích rừng lớn nhất trên thế giới). Cũng theo Horowitz, 1/3 số hộ gia đình ở Liên Xô không có hệ thống cấp nước, 2/3 số hộ gia đình không có hệ thống nước nóng. Hệ thống y tế từng là niềm tự hào của Liên Xô cũng đối mặt với nhiều khó khăn: 1/3 các bệnh viện ở Liên Xô thời kỳ này không có hệ thống cấp nước tự động, trang thiết bị y tế tại nhiều bệnh viện trở nên lỗi thời, tình trạng khan hiếm thuốc men tiếp tục diễn ra. Việc hối lộ các bác sĩ, y tá để có được sự chăm sóc y tế tốt và cả những tiện nghi cơ bản nhất như chăn ở các bệnh viện của Liên Xô đã trở nên phổ biến. Một hệ quả là tuổi thọ trung bình của người dân Liên Xô bị tụt thấp hơn so với các nước có nền kinh tế tư bản phát triển (kém hơn 9 tuổi so với người dân Hoa Kỳ và 12 tuổi so với người dân Nhật Bản) . Có những thời điểm mà các loại thực phẩm phổ biến như sữa, thịt, pho mát, đường, rau quả, bánh mì, khoai tây, và kể cả rượu vodka trở nên khan hiếm, còn xà phòng, bột giặt, và kem đánh răng thì gần như không còn tại các cửa hàng mậu dịch trên cả nước. Tình trạng thiếu hụt nhà ở tại Liên Xô cũng bắt đầu diễn ra, hàng ngàn người vô gia cư ở thủ đô Moscow đã phải sống trong những căn lều dựng tạm hoặc những trạm xe điện .
Tình trạng thiếu hụt diễn ra không phải vì quy mô sản xuất của Liên Xô thấp, mà bởi tính cứng nhắc của kinh tế kế hoạch tập trung. Việc kinh tế tăng trưởng nhanh trong suốt 25 năm (1950-1975) khiến nhu cầu tiêu dùng của người dân Liên Xô tăng lên nhanh chóng và ngày càng đa dạng, khiến các kế hoạch kinh tế tập trung không thể tính toán được hết nhu cầu của thị trường dân dụng. Ví dụ, năm 1979, công nghiệp xe hơi Liên Xô đã đạt mức sản lượng 1,32 triệu xe ô-tô và 776.000 xe tải mỗi năm, quy mô đứng thứ 5 thế giới, nhưng theo kế hoạch định trước, phần lớn số xe được dùng để phục vụ sản xuất, vận tải công cộng hoặc xuất khẩu ra nước ngoài, số xe bán ra thị trường dân dụng chỉ chiếm tỷ lệ nhỏ. Do vậy, nguồn cung ô-tô dân dụng bị thiếu, dù sản lượng chế tạo ô-tô của Liên Xô lớn tới mức đủ để xuất khẩu được hơn 400.000 xe mỗi năm Năm 1976, số xe ô tô riêng ở Hoa Kỳ là 98 triệu, trong khi của Liên Xô chỉ là 5 triệu. Rất nhiều người dân Liên Xô có đủ điều kiện sở hữu ô tô riêng, thế nhưng họ thường phải chờ từ 4-6 năm, thậm chí là tới 10 năm để có thể mua một chiếc xe. Tỷ lệ người sở hữu ô-tô riêng ở Liên Xô năm 1985 là 45 xe/1.000 dân, thấp hơn so với mức của các quốc gia phát triển trong cùng thời kỳ đó.
Thời kỳ này Liên Xô tiếp tục lập kế hoạch và triển khai các dự án lớn rất tốn kém, được tuyên truyền rầm rộ và phô trương nhưng sau này thực tế cho thấy hiệu quả kinh tế thấp, nặng về ý nghĩa tuyên truyền hình thứ, trong khi sự phát triển của kỹ thuật và nhu cầu của thị trường sẽ dẫn đến tiết kiệm. Cũng chính vì không có động lực kinh tế nên dù đất đai rộng lớn, phì nhiêu nhưng sản xuất nông nghiệp của Liên Xô lại bị sa sút trong thập niên 1970, không đáp ứng đủ nhu cầu xã hội, đến đầu thập niên 1980 thì đã thật sự nóng bỏng. Tài liệu của Ủy ban nghiên cứu Liên Xô và Đông Âu (của chính phủ Mỹ) cho rằng dù tổng GDP cao nhưng mức sống ở Liên Xô vẫn thấp hơn nhiều mức sống ở Mỹ và Tây Âu. Điều này bắt nguồn từ việc chính quyền Liên Xô có truyền thống hạn chế tiêu dùng để tập trung nguồn lực cho công nghiệp nặng, vì thế họ chỉ sử dụng một phần nhỏ hơn nhiều trong tổng thu nhập quốc dân Liên Xô cho tiêu dùng so với phương Tây, do vậy người dân thường bị thiếu hàng tiêu dùng. Người Liên Xô phải dùng đến 2/3 thu nhập của họ cho các nhu cầu cơ bản như thực phẩm và quần áo, điều này giống các nước đang phát triển hơn là các nước phát triển đã công nghiệp hóa. Tuy nhiên, các nhu cầu cơ bản khác là nhà ở, chăm sóc y tế và giáo dục ở Liên Xô thì người dân được cung cấp hoàn toàn miễn phí.
Để khắc phục những khó khăn, chính quyền Xô Viết đã có cố gắng cải cách mà điển hình nhất là cố gắng cải cách kinh tế của thủ tướng Aleksei Nikolayevich Kosygin ("Алексей Николаевич Косыгин"), cải cách đạt một số kết quả tuy chưa xử lý được nguyên nhân gốc rễ gây ra sự trì trệ. Kinh tế Liên Xô không lâm vào suy thoái và vẫn tiếp tục tăng trưởng, nhưng không nhanh như giai đoạn trước. Tốc độ tăng trưởng kinh tế giai đoạn 1965-1970 là 7,7% mỗi năm, đến giai đoạn 1980-1985 giảm xuống còn 3,6% mỗi năm. Năm 1980, sản lượng công nghiệp của Liên Xô vẫn giữ vững vị trí thứ 2 thế giới và bằng 80% so với Mỹ, sản lượng nông nghiệp vẫn đứng đầu châu Âu.
Trong 18 năm (từ 1965 tới 1982), hơn 1,6 tỷ mét vuông nhà ở được Liên Xô xây dựng và cung cấp miễn phí cho hơn 160 triệu người dân. Đồng thời, chi tiêu sinh hoạt trung bình không vượt quá 3% thu nhập của gia đình, bởi các nhu cầu cơ bản là nhà ở, chăm sóc sức khỏe và giáo dục được miễn phí hoặc có giá cả phải chăng. Theo khảo sát được thực hiện tại Nga vào năm 2006, 75% số người từ 36 tới 54 tuổi (những người đã sống vào thời kỳ này) cho rằng giai đoạn 1964-1982 vẫn là một thời kỳ thịnh vượng của đất nước và chỉ có 14% đánh giá tiêu cực về tiêu chuẩn sống trong giai đoạn này.
Đến cuối những năm 1980, Liên Xô vẫn duy trì được vị thế siêu cường với nền kinh tế lớn thứ hai thế giới (chỉ kém Mỹ) với GDP theo sức mua tương đương đạt 2,66 nghìn tỷ USD (năm 1990). Thu nhập bình quân đầu người của Liên Xô đạt 9.500 USD, đứng thứ 28 thế giới và thuộc nhóm các nước phát triển (của Nhật là 15.600 USD, Mỹ là 21.082 USD, Singapore là 10.300 USD, Hong Kong là 10.000 USD, Đài Loan là 6.000 USD, Hàn Quốc là 4.600 USD).
Tuy vẫn giữ thứ hạng cao, song nền kinh tế Liên Xô đã bộc lộ nhiều khiếm khuyết so với các nước phương Tây phát triển nhất gồm Mỹ, Nhật và Đức. Vào năm 1984 Bộ trưởng ngoại giao Liên Xô là Eduard Shevardnadze nói với Gorbachov rằng: ""Mọi thứ đã trở nên thối rữa. Cần có một sự thay đổi" . Các mâu thuẫn càng ngày càng tích tụ và đến năm 1985 thì Liên Xô cần có một cải cách cơ bản sâu rộng và đó là nguyên nhân để Tổng bí thư Gorbachov tiến hành cải cách cải tổ ("perestroika").
Năm 1986, Liên Xô đề ra cải cách mới, tập trung vào trang bị máy móc mới, tự động hóa bằng rô-bốt, công nghệ máy tính, vi xử lý, tăng cường đầu tư cho nông nghiệp và công nghiệp năng lượng. Hầu hết các nhà quan sát tin rằng ít nhất một phần của cải cách sẽ có hiệu quả, tạo động lực phát triển mới và khắc phục những điểm yếu của nền kinh tế Tăng trưởng kinh tế Liên Xô giai đoạn 1986-1990 vẫn đạt mức 1,5% mỗi năm Tuy nhiên những cải cách về mặt chính trị của Gorbachov lại thất bại, dẫn tới phá vỡ cơ cấu nhà nước và sự tan rã của Liên bang Xô Viết.
Cải tổ và tan rã.
Năm 1982, Brezhnev qua đời. Hai người kế nhiệm ông cũng không tại vị được lâu. Yuri Andropov lên nắm quyền vào năm 1982 và chết hai năm sau đó. Konstantin Chernenko trở thành Tổng bí thư vào năm 1984 và qua đời chỉ sau đó một năm. Năm 1985 Mikhail Sergeyevich Gorbachev được bầu làm Tổng bí thư mới. Gorbachev và những người cùng chí hướng với ông như Aleksandr Nikolayevich Yakovlev bắt đầu tiến hành chính sách cải tổ (perestroika – "Перестройка") và công khai hóa (glasnost – "Гласность") để thúc đẩy các tiềm năng chưa được khai thác của xã hội. Cải tổ tìm cách nới lỏng sự kiểm soát tập trung của Đảng và nhà nước trong một số lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội, tự do hóa ngôn luận, bầu cử cạnh tranh và tiến đến loại bỏ sự can thiệp của các cơ cấu đảng vào kinh tế và một số mặt của đời sống chính trị xã hội. Theo Gorbachev hồi tưởng - trích dẫn bởi Sputnik - "Niềm tin sâu sắc của tôi nằm ở con đường dẫn đến chủ quyền chính trị của các nước cộng hòa, đưa đến sự độc lập kinh tế, giữ gìn bản sắc của họ, cũng như phát triển văn hóa thông qua cải tổ liên bang, chuyển đổi thành một nhà nước liên bang dân chủ, thực chất, hiệu quả, mà các nước cộng hòa được ủy quyền"". Nhưng những nỗ lực cải cách đã không thu được kết quả như mong đợi. Sự tích cực của dân chúng dâng cao nhưng lại đi theo hướng khiến khủng hoảng chính trị trở nên sâu sắc: các tổ chức phi chính phủ, các nhóm dân tộc chủ nghĩa xuất hiện ngày càng nhiều và ngày càng có xu hướng chống chính quyền trung ương, đòi ly khai độc lập.
Tốc độ và quy mô của các sự kiện làm những người chủ xướng cải cách không còn kiểm soát được tình hình. Nền kinh tế chưa có chuyển biến đáng kể thì khủng hoảng chính trị đã trở nên trầm trọng: các lực lượng ly khai dần dần nắm các vị trí lãnh đạo của các nước cộng hòa và ra các tuyên bố về đòi ly khai độc lập. Xung đột sắc tộc trở nên phức tạp có đổ máu, thậm chí có nơi chính quyền nước cộng hòa thành viên lại xung đột với các nước cộng hòa lân cận. Mâu thuẫn dân tộc rất lớn trong lòng Liên Xô trước đây được kiềm chế thì nay đã bộc lộ và tiến triển không thể kiểm soát được. Một khi tình hình hỗn loạn thì các mối liên hệ kinh tế giữa các vùng miền và các nước cộng hòa cũng bị gián đoạn làm tình hình kinh tế trở nên sa sút, tình hình xã hội trở nên hỗn loạn. Các đảng viên cộng sản không còn chịu sự kiểm soát và không tuân thủ kỷ luật của Đảng, nhiều người quay sang trở thành các lực lượng dân tộc chủ nghĩa đòi ly khai. Ngay cả cộng hòa Xô viết Nga, nước trụ cột của Liên Xô, cũng ra nghị quyết đặt luật pháp nước cộng hòa Xô viết Nga cao hơn hiến pháp Liên Xô, quyền lực của nhà nước trung ương Liên Xô dần dần bị tan rã.
Trong bối cảnh đó, nội bộ Đảng Cộng sản Liên Xô lại dần bị khống chế bởi những nhân vật do Gorbachev bổ nhiệm. Tháng 4/1989, Gorbachev kêu gọi các ủy viên Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô tuổi đã cao hãy nghỉ hưu. 115 ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã tự viết đơn xin nghỉ hưu vì tin rằng đất nước sẽ phát triển hơn với đội ngũ được trẻ hóa. Đây chính là sai lầm của những người cộng sản trung thành với các nguyên tắc Marx-Lenin trong Đảng Cộng sản Liên Xô. Chỉ trong ba năm 1987-1989, đã có 8 ủy viên Bộ Chính trị và Ban Bí thư Trung ương Đảng, hơn 20 bộ trưởng, 92,5% trong 150 bí thư tỉnh ủy đã bị cách chức hoặc thay thế; khoảng 50% cán bộ cơ quan chiến lược trong quân đội, hơn 100 cán bộ chính trị cấp chiến dịch - chiến lược và 30% tướng lĩnh bị cách chức hoặc loại khỏi quân đội với lý do "tư tưởng bảo thủ, không ủng hộ cải tổ", thay thế họ là những phần tử "cấp tiến" Sức kháng cự của những Đảng viên trung thành dần suy yếu và cuối cùng đã tê liệt.
Năm 1988, Gorbachev cử Vadim Bakatin làm Bộ trưởng Bộ Nội vụ (MVD). Bakatin đã làm tê liệt Lực lượng Cảnh sát Liên Xô khi biệt phái nhiều sĩ quan sang các cơ quan, tổ chức khác và xóa bỏ mạng lưới đặc tình của lực lượng này. Sau đó, Bakatin đã hủy bỏ chính MVD, khi cho tách lực lượng này thành 15 cơ quan riêng biệt cho các nước Cộng hòa tự trị. Như vậy, về cơ bản Bakatin đã xóa sổ lực lượng cảnh sát của Nhà nước trung ương Liên Xô.
Những nhân vật ủng hộ Gorbachev cũng được bổ nhiệm tại các cơ quan truyền thông, báo chí, tuyên truyền lớn của Liên Xô. Tháng 7/1985, Gorbachev bổ nhiệm A. Yakovlev làm Trưởng ban Tuyên truyền Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô. Yakovlev có sự thù hận đặc biệt đối với Cách mạng Tháng Mười và luôn muốn phủ định chủ nghĩa cộng sản tại Liên Xô. Từ 1986 đến 1988, một loạt cán bộ chủ chốt của các tờ báo lớn tại Liên Xô được Yakovlev thay thế bởi những người có tư tưởng giống như Yakovlev, mặt trận báo chí của Đảng Cộng sản Liên Xô dần bị "đánh chiếm". Từ đó, báo chí Liên Xô liên tục gây khuynh đảo dư luận khi ngấm ngầm (rồi sau đó công khai) viết bài chỉ trích lịch sử cách mạng, xét lại lịch sử, trong khi lại tán dương phương Tây. Ảnh hưởng từ báo chí, tư tưởng Đảng viên và nhân dân Liên Xô trở nên dao động dữ dội, ngày càng có nhiều người bi quan về đất nước trong khi lại ảo tưởng về "thiên đường giàu có" ở phương Tây Được sự che đỡ của Yakovlev, truyền thông Liên Xô cũng bắt đầu khai thác các mặt trái về kinh tế xã hội, gồm điều kiện nhà ở xuống cấp, nạn nghiện rượu, sử dụng ma tuý, ô nhiễm, các nhà máy từ thời Stalin đã quá cũ kỹ và tình trạng tham nhũng trong bộ máy Nhà nước, những sai lầm của chính phủ Liên Xô dưới thời Stalin, đây vốn là những điều mà truyền thông chính thức đã cố tình bỏ qua. Hơn nữa, cuộc chiến tranh đang diễn ra tại Afghanistan và việc xử lý kém trong thảm hoạ Chernobyl năm 1986, càng làm xấu đi hình ảnh của chính phủ Xô viết ở thời điểm sự bất mãn đang gia tăng.
Gorbachev cũng khuyến khích đẩy mạnh sự tiếp xúc giữa công dân Liên Xô và thế giới phương Tây, đặc biệt là với Hoa Kỳ. Hạn chế về du lịch, việc kinh doanh và giao lưu văn hoá với nước ngoài được nới lỏng. Chính sách này đã góp phần làm cho chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa cá nhân kiểu phương Tây tràn vào Liên Xô dễ dàng, khiến nhiều người dân Liên Xô bị dao động về tư tưởng, ngày càng mất niềm tin vào chủ nghĩa xã hội cũng như Đảng và chính phủ Liên Xô. Hàng hóa phương Tây dần được người dân ưa chuộng hơn là hàng hóa ở trong nước, khiến cho các ngành công nghiệp nhẹ đặc biệt là công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng của Liên Xô gặp nhiều khó khăn Lối sống phương Tây được du nhập ồ ạt thông qua phim ảnh, sách bá, đặc biệt là trong giới trẻ. Chúng đã khiến tâm lý sùng bái phương Tây ngày càng gia tăng, làm suy yếu lý tưởng chính trị và tinh thần phấn đấu vì tập thể của người dân, đồng thời kích động tư tưởng chống lại Đảng và nhà nước Xô viết..
Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
Trong giáo dục, môn triết học Marxist bị báo chí chế nhạo và năm 1989, chính phủ Liên Xô ra lệnh bãi bỏ môn học Chủ nghĩa Marx - Lenin trong trường đại học. Năm 1994, nhà văn Yuri Boldarev khi nhìn lại sự biến chất của báo chí, truyền thông Liên Xô trong thời kỳ này đã nói: "Trong sáu năm, báo chí Liên Xô đã thực hiện được mục tiêu mà quân đội Đức Quốc xã với hàng triệu quân tinh nhuệ nhất cũng không thể thực hiện được khi xâm lược nước ta, đó là đánh đổ Nhà nước Liên Xô. Quân đội Đức có thiết bị kỹ thuật hàng đầu nhưng thiếu một thứ, đó là hàng triệu ấn phẩm mang vi khuẩn hủy diệt tư tưởng của nhân dân Liên Xô".
Tại Hội nghị toàn quốc lần thứ 19 của Đảng Cộng sản Liên Xô (từ 28/6 đến 1/7/1988), Gorbachev đã giải tán 23 ủy ban trực thuộc Trung ương Đảng, như vậy là gần như xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Liên Xô. Tháng 7/1990, Gorbachev công khai phê phán nguyên tắc tập trung dân chủ, điều lệ Đảng chính thức xóa bỏ nguyên tắc quan trọng nhất của Đảng mà Vladimir Ilyich Lenin đã lập ra.
Bất bình trước những chính sách của Gorbachev, ngày 19 tháng 8 năm 1991, một số nhà lãnh đạo theo đường lối cứng rắn (Chủ tịch Quốc hội Lukyanov, Chủ tịch KGB Kryuchkov, Phó Tổng bí thư Yanaev, Thủ tướng Pavlov) tiến hành đảo chính với mục tiêu chấm dứt sự hỗn loạn do Gorbachev gây ra, bảo toàn sự thống nhất của Liên bang Xô viết, lập Ủy ban nhà nước về tình trạng khẩn cấp, đưa quân đội vào thủ đô Moskva để phế bỏ chức vụ của Gorbachev. Thế nhưng phe đảo chính đã thất bại khi không thể giành được sự ủng hộ của quần chúng. Người dân Moscow đã tập trung gần Tòa nhà Quốc hội Liên bang Nga để bày tỏ sự ủng hộ cho Yeltsin và Gorbachev, họ cùng nhau xây các chướng ngại vật xung quanh Tòa nhà Quốc hội để chặn xe tăng của phe đảo chính.. Phe đảo chính đã cố gắng bắt giữ Yeltsin nhưng thất bại, và chính Yeltsin đã huy động người dân tham gia chống lại cuộc đảo chính. Một đơn vị xe tăng rời bỏ hàng ngũ quân đảo chính đến bảo vệ tòa nhà quốc hội. Hơn 200.000 người dân ở thành phố Leningrad đã tổ chức tuần hành để phản đối cuộc đảo chính
Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô Nikolai Ryzhkov nhận xét rằng các thành viên Ủy ban khẩn cấp đã lập kế hoạch một cách thiếu nghiêm túc: "Tất cả những chuyện đó, có cái gì đó giống như trò chơi của trẻ thơ vậy. Không nghiêm tú, mọi người chắc còn nhớ rất rõ cảnh các cô gái ngồi trên đùi các anh lính tăng và trên tháp pháo. Như thế là thế nào? Tất cả những cái đó thật là gàn dở. Tôi biết là cùng thời gian ấy Elsin đang ở Kazakhstan và đã uống ở đấy kha khá... Nhưng những người ở đấy (dân Kazakhstan) là những con người thông minh và tìm cách đuổi khé(Matxcova), đi đến nhà nghỉ ngoại ô, thế thì bắt ông ta đi, ai ngăn cản anh làm việc đó? Cả một nhóm KGB ngồi trong bụi cây và nhìn Elsin ngất ngưởng đi về nhà ngủ.". Sau 3 ngày, ngày 21 tháng 8 năm 1991, đại đa số quân đội được gửi tới Moskva công khai đứng về phía những người phản đối cuộc đảo chính, ủng hộ Yeltsin, như vậy cuộc đảo chính đã hoàn toàn thất bại. Những người cầm đầu cuộc đảo chính bị bắt giữ. Cuộc đảo chính không đạt được mục tiêu mà càng làm tăng thêm mâu thuẫn giữa các nước cộng hòa thành viên và các nhà nước trung ương.
Sau đảo chính, ngày 24/8/1991, Gorbachev tự ý tuyên bố giải tán Ban Chấp hành Trung ương Đảng và từ chức Tổng bí thư và tự phong mình là "Tổng thống Liên Xô". Ngày 29/8/1991, Gorbachev ra lệnh giải thể các cơ quan chính trị, chấm dứt các hoạt động Đảng trong quân đội. Hồng quân Liên Xô, thành trì quan trọng nhất bảo vệ nhà nước Xô Viết và Đảng Cộng sản Liên Xô, dù có lực lượng hùng mạnh nhưng đã hoàn toàn bị Gorbachev vô hiệu hóa do không còn công tác chỉ huy chính trị.
Không còn phải e ngại sự chống trả của Hồng quân Liên Xô, tổng thống Cộng hòa Xô viết Nga là Boris Yeltsin ra sắc lệnh quốc hữu hóa tất cả các tài sản, trụ sở của Đảng Cộng sản Liên Xô ở Nga. Yeltsin cũng ra sắc lệnh cấm tất cả các hoạt động của Đảng Cộng sản Liên Xô ở Nga (dù bản thân ông ta cũng từng là đảng viên Đảng Cộng sản Liên Xô). Đầu năm 1991, chính phủ 6 nước cộng hòa thành viên nhỏ (gồm Armenia, Estonia, Georgia, Latvia, Lithuania, và Moldova), chiếm 3,5% dân số Liên Xô, tuyên bố tẩy chay và không tổ chức cuộc trưng cầu dân ý về việc duy trì Liên Xô (tuy nhiên các điểm bỏ phiếu vẫn được chính phủ Trung ương tổ chức, cử tri tại các nước này không bị cấm đi bầu cử nếu muốn và phiếu của họ vẫn được tính, ví dụ như Moldova vẫn có 841.507 cử tri đi bầu và 98,7% ủng hộ duy trì Liên Xô) Sau cuộc đảo chính, ngày 24/8/1991, Gorbachev tự ý tuyên bố giải tán Ban Chấp hành Trung ương Đảng, chính phủ Liên Xô về cơ bản đã tan vỡ từ cuối tháng 8/1991. Tâm lý người dân Liên Xô và các nước cộng hòa thành viên bị khủng hoảng dữ dội khi hệ thống chính trị đầu não của đất nước đã không còn tồn tại. Ngay lập tức trong ngày hôm đó, Xô viết tối cao Ukraine tuyên bố độc lập, đổi tên thành Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xô viết Ukraine. Trong cuộc trưng cầu dân ý tại Ukraine vào đầu tháng 12 năm 1991 với câu hỏi "Bạn có ủng hộ Đạo luật Tuyên ngôn Độc lập của Ukraine không?", 92.3% cử tri đã bỏ phiếu ủng hộ độc lập (kết quả này hoàn toàn trái ngược với kết quả của cuộc trưng cầu dân ý được tổ chức vào tháng 3 năm đó khi đa số cử tri vẫn ủng hộ duy trì tư cách của Ukraine là một nước cộng hòa thành viên thuộc Liên Xô) Một số nước thành viên khác cũng tổ chức các cuộc trưng cầu dân ý về việc ly khai, kết quả là đa số đều ủng hộ độc lập và tách khỏi Liên Xô (ở Estonia tỉ lệ ủng hộ độc lập là 78,4%, ở Litva là 93%, ở Georgia là 99,5%, ở Latvia là 74,9%, ở Armenia là 99,5%) Liên Xô được thành lập dựa trên sự đoàn kết các nước cộng hòa thành viên có chung ý thức hệ là chủ nghĩa cộng sản, khi ý thức hệ này bị lãnh đạo các nước cộng hòa thành viên từ bỏ thì Liên Xô cũng tan rã.
Đến tháng 10, do khủng hoảng chính trị và việc chính phủ trung ương bị giải thể, kinh tế đất nước không còn được điều phối và lâm vào đình đốn. Lương thực thực phẩm khan hiếm trên diện rộng, nhiều nông dân từ chối thanh toán bằng tiền rúp Liên Xô, trong khi tỉ lệ lạm phát đã lên tới hơn 300%, các nhà máy giờ đây không còn đủ khả năng để trả lương cho công nhân, nguồn nhiên liệu dự trữ ở một số nơi thì chỉ đáp ứng 50-80% nhu cầu cho mùa đông đang đến. Ước tính kinh tế Liên Xô đã sụt giảm 20% do cuộc khủng hoảng chính trị năm 1991. Tổng thống Gorbachev kêu gọi sự hỗ trợ từ các nước phương Tây nhưng bị từ chối . Các tổ chức kinh tế- tài chính toàn cầu như IMF và WB cũng tuyên bố rằng nền kinh tế của Liên Xô hiện đã tê liệt và mọi sự giúp đỡ của họ vào thời điểm này là vô ích. Chính phủ Liên Xô đã buộc phải nhận viện trợ lương thực và thuốc men từ Ấn Độ - một nước còn kém phát triển.
Ngày 8 tháng 12 tại Minsk, thủ đô của Belarus, lãnh đạo ba nước cộng hòa Nga, Belarus và Ukraina ra tuyên bố ký thỏa thuận thành lập Cộng đồng các quốc gia độc lập (SNG – "Содружество Независимых Государств"), chấm dứt sự tồn tại của Liên bang Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Xô viết. Ngày 21 tháng 12 tại Alma Alta, thủ đô của Kazakhstan, tất cả các nước cộng hòa trừ ba nước vùng biển Baltic ký tuyên ngôn tôn trọng các tôn chỉ và mục đích của thỏa thuận thành lập Cộng đồng các quốc gia độc lập. Trong lá thư ngày 24 tháng 12 năm 1991, Boris Yeltsin, Tổng thống Liên bang Nga, thông báo cho Tổng thư ký Liên Hợp Quốc rằng vị trí của Liên Xô trong Hội đồng Bảo an và tất cả các cơ quan Liên hợp quốc khác sẽ được Liên bang Nga kế tục.
Vào thời điểm 19 giờ 32 phút ngày 25 tháng 12 năm 1991, lá cờ của Liên Xô trên nóc điện Kremlin bị hạ xuống và thay bằng lá cờ của Liên Bang Nga, tiếng chuông của tháp Đấng cứu thế vang lên, đánh dấu sự kiện Liên bang Xô Viết chính thức chấm dứt tồn tại. Khi Liên bang Xô-viết tan rã, tương ứng với Công ước Viên năm 1983, phân định tỷ lệ lãnh thổ của từng quốc gia trên cơ sở phân tích đóng góp và phần của các nước Cộng hòa được phân chia như sau: Nga có 61,34 %, Ukraina - 16,37%, Belarus - 4,13%, Kazakhstan - 3,86%, Uzbekistan - 3,27%, Gruzia - 1,62%, tiếp theo ít dần đến Estonia với 0,62%. Sau này, một số cựu quốc gia cộng hòa Xô viết vẫn giữ quan hệ gần gũi với Nga và đã thành lập những tổ chức đa phương như CIS, Cộng đồng kinh tế Á Âu, Liên bang quốc gia (Union State), Eurasian Customs Union và Eurasian Economic Union để nâng cao kinh tế và hợp tác an ninh.
Ngày 17/3/1991, tại Liên Xô đã có một cuộc trưng cầu dân ý toàn Liên bang về việc có duy trì Liên bang Xô Viết nữa hay không. Tổng cộng 148.574.606 cử tri tại các nước cộng hòa thành viên đã tham gia bỏ phiếu, với kết quả là 113.512.812 phiếu (76%) ủng hộ duy trì Liên Bang Xô Viết. Tại hai nước cộng hòa lớn nhất là Nga và Ukraine, chiếm 70% dân số của Liên Xô, đa số cử tri vẫn ủng hộ duy trì Liên bang. Như vậy, phần lớn người dân Liên Xô vẫn muốn đất nước tồn tại. Nikolai Ivanovich Ryzkov, nguyên Thủ tướng Liên Xô từ năm 1985 đến 1991 cho rằng: "Sự tan rã của Liên Xô không bắt nguồn từ ý nguyện của đa số nhân dân, mà thực chất nó là quyết định của giới lãnh đạo cấp cao Liên Xô: thay vì cải cách mô hình kinh tế thì những nhà lãnh đạo này đã quay sang đập phá hệ thống chính trị, làm suy yếu bộ máy Nhà nước, rồi chính họ tự ý ra quyết định giải tán Nhà nước Liên Xô (dù điều này trái với kết quả trưng cầu dân ý trước đó chỉ vài tháng)"
Theo báo Quân đội nhân dân:"Từ khi dựng nước, Liên Xô đã trải qua rất nhiều khó khăn thử thách và đã vượt qua tất cả: Năm 1917, 35 vạn đảng viên Bolshevik đã lãnh đạo giai cấp công nhân Nga lật đổ ách thống trị của Sa hoàng, cùng nhân dân đánh bại sự can thiệp vũ trang của 14 nước phương Tây để bảo vệ thành công cách mạng. Năm 1941, 5.540.000 đảng viên đã cùng nhân dân chiến thắng quân đội phát xít Đức trong cuộc chiến tranh Vệ quốc vĩ đại, rồi sau đó lãnh đạo công cuộc xây dựng Liên Xô trở thành siêu cường thế giới. Vậy nhưng, năm 1991, Liên Xô lại sụp đổ, không phải do quân đội kẻ thù tấn công, cũng không phải do kinh tế hay khoa học kỹ thuật yếu kém, mà chính là vì các quan chức cấp cao bên trong nội bộ Đảng và Nhà nước Liên Xô".
Nguyên nhân sự tan rã Liên Xô được nghiên cứu rất nhiều. Tại Trung Quốc, quốc gia có hệ thống chính trị có nhiều điểm chung với Liên Xô, có lãnh thổ rộng lớn, đa sắc tộc, nhiều ngôn ngữ như Liên Xô và cũng khao khát vươn lên vị trí siêu cường, vấn đề này càng được quan tâm. Năm 2000, Viện Khoa học xã hội Trung Quốc xác lập việc nghiên cứu nguyên nhân Liên Xô tan rã là đề tài cấp quốc gia. Năm 2006, bộ phim tài liệu 8 tập, dài tổng cộng 5 giờ dựa trên đề tài này được phát hành, rút ra những cảnh báo sâu sắc. Ủy ban Kiểm tra kỷ luật Đảng Cộng sản Trung Quốc và Ủy ban Chính pháp Trung ương đã yêu cầu tất cả các đơn vị trực thuộc đều phải xem và nghiền ngẫm. Các nhà nghiên cứu Trung Quốc kết luận rằng: Cùng với việc cảnh giác trước "sức mạnh cứng" thì còn phải song song ngăn chặn "sức mạnh mềm" từ các nước phương Tây nhằm làm phân hóa nội bộ Trung Quốc, ngăn chặn sự suy thoái tư tưởng trong nội bộ Đảng, đề phòng các phương thức mới như chiến tranh tiền tệ, thao túng văn hóa, tổ chức phi chính phủ thâm nhậ: Trung Quốc phải biết lấy bài học Liên Xô làm tấm gương soi, biến việc xấu thành việc tốt, vĩnh viễn không quên tổ tông, tổ tông đó chính là chủ nghĩa Marx, "chúng ta nói đường lối cơ bản của Đảng phải ổn định suốt 100 năm, muốn nước nhà yên ổn lâu dài, cái thực sự liên quan đến đại cục chính là việc nà"
Có nhiều nguyên nhân dẫn tới sự sụp đổ của Liên Xô, bao gồm cả nguyên nhân khách quan lẫn chủ quan:
Ngày 17/3/1991, tại Liên Xô đã có một cuộc trưng cầu dân ý toàn Liên bang về việc có nên duy trì Liên bang Xô Viết nữa hay không. Trong số 148.574.606 cử tri tham gia bỏ phiếu, đã có 113.512.812 phiếu (76%) ủng hộ duy trì Liên Bang Xô Viết. Như vậy, ý nguyện của phần lớn người dân Liên Xô là vẫn muốn đất nước tồn tại. Nguyên nhân sự tan rã của Liên Xô không bắt nguồn từ ý nguyện của đa số nhân dân, mà thực chất đó là hậu quả do giới lãnh đạo cấp cao Liên Xô tự gây nên: họ đã tự phá hủy hệ thống chính trị, làm suy yếu bộ máy Nhà nước, rồi sau đó tự ý ra quyết định giải tán Nhà nước Liên Xô (dù điều này trái với kết quả trưng cầu dân ý trước đó chỉ vài tháng).
Tháng 5/1993, Gorbachev thăm Pháp đã trả lời phỏng vấn báo "Le Figaro" về khả năng "hỗ trợ bên ngoài" trong việc xóa bỏ chủ nghĩa cộng sản tại Liên Xô, Gorbachev lần đầu tiên công nhận rằng trong cuộc gặp với Tổng thống Mỹ Ronald Reagan tại Reykjavik, ông đã "trao Liên Xô vào tay Mỹ" (trong hồi ký của mình, Reagan nói rằng ông ta đã bị sốc vì vui mừng khi biết một bộ phận trong giới chính trị cấp cao Liên Xô lại có tư tưởng chống Cộng). Sau này, năm 1999, tại trường đại học Mỹ ở Thổ Nhĩ Kỳ, Gorbachev tự thú nhận: ""Mục tiêu của toàn bộ đời tôi là tiêu diệt chủ nghĩa cộng sản. Chính vì để đạt được mục tiêu này tôi đã sử dụng địa vị của mình trong Đảng và trong Nhà nướ, tôi đã phải thay đổi toàn bộ Ban lãnh đạo Đảng cộng sản Liên Xô và Xô viết Tối cao cũng như Ban lãnh đạo ở tất cả các nước Cộng hoà. Tôi đã tìm kiếm những người ủng hộ để hiện thực hoá mục tiêu đó, trong số này đặc biệt có A. Yakovlev, S".
Tuy nhiên, một số người khác cho rằng Gorbachev là một chính khách yếu kém nên các chính sách của ông ta mới dẫn tới sự tan rã của Liên Xô. Nikolai Ryzhkov nhận xét "Nhưng dù không kính trọng Gorbachev, tôi vẫn phải nói lại là ông ta không muốn làm tan rã đất nước, không muốn. Chỉ đơn giản là bằng những hành động ngu ngốc của mình, ông ta đã đưa đất nước đến thảm cảnh đó... Sai lầm của Gorbachev là: bao giờ cũng bắt đầu từ kinh tế, không quan tâm gì đến vấn đề Đảng và Nhà nước.". Còn Lý Quang Diệu cho rằng "Cái ngày ông Gorbachev nói với quần chúng tại Moskva: không việc gì phải sợ KGB, tôi đã hít một hơi thật sâu. Tôi nghĩ con người này là một thiên tài thật sự... Cho tới khi tôi gặp ông ấy và tôi thấy ông ấy hoàn toàn lúng túng trước những gì đang xảy ra quanh mình. Ông ấy đã nhảy xuống phần rất sâu của bể nước mà không hề biết cách bơi.". Lý Quang Diệu nhận xét Gorbachev kém xa Đặng Tiểu Bình, người đã cải cách dần dần mà không hề làm Trung Quốc tan rã. Đến năm 2016, trả lời phỏng vấn của đài BBC, Gorbachev cho rằng "Những gì xảy ra cho Liên Xô là tấn kịch đời tôi. Và là tấn bi kịch cho mọi người sống ở Liên Xô". Ông cho rằng các các lãnh đạo Cộng hòa Xô viết Nga, Belorussia và Ukraina, những người đã ký văn bản giải thể Liên Xô đã "Phản bội ngay sau lưng tô(vì trưng cầu dân ý cho thấy 76% cử tri vẫn ủng hộ duy trì Liên Xô). Thế là họ phạm tội. Đó là đảo chính." và quyết định từ chức Tổng thống Liên Xô là vì "Chúng tôi đang đi tới nội chiến và tôi muốn tránh nó. Tôi không thể để điều đó xảy ra chỉ để bám níu quyền lực. Từ chức là thắng lợi của tôi."".
Theo Leon Aron, việc Liên Xô tan rã là một điều rất bất ngờ, ngay cả với đa số nhà nghiên cứu về Liên Xô thời kỳ ấy. "Nhiều người cho rằng Liên Xô tan rã là do tình trạng kinh tế yếu kém, nhưng sự thực không phải như vậy". Vào năm 1985, Liên Xô vẫn có nguồn lực kinh tế, khoa học và nhân sự rất mạnh mẽ. Tình trạng thiếu hụt hàng tiêu dùng có diễn ra, điều kiện sống của người dân Liên Xô thấp hơn so với hầu hết các nước Đông Âu và chắc chắn không bằng so với các nước phát triển ở Phương Tây, nhưng vẫn ổn định và tốt hơn nhiều các nước đang phát triển, và Liên Xô đã từng trải qua nhiều giai đoạn gian khó hơn nhiều mà vẫn vượt qua được. Từ năm 1981 đến năm 1990, mức tăng trưởng GDP của Liên Xô, mặc dù có chậm lại, nhưng vẫn đạt 1,9% một năm, tốc độ này không chậm hơn so với nhiều nước phát triển cùng thời kỳ. Thâm hụt ngân sách vẫn ở dưới mức 9% GDP cho đến hết năm 1989, tỷ lệ mà hầu hết các nhà kinh tế cho là hoàn toàn có thể khắc phục được. Mức thu nhập của người dân Xô viết vẫn tiếp tục gia tăng trong 5 năm 1985-1990, ở mức độ trung bình trên 7% mỗi năm. Chi phí cho cuộc chiến ở Afganistan là khoảng 4 - 5 tỷ đôla (thời giá năm 1985), không đáng kể khi so với GDP của Liên Xô. Nguyên nhân cốt lõi của việc Liên Xô tan rã, theo Leon Aron, chính là từ trên xuống: những chính sách phá vỡ nguyên tắc Xô Viết, vừa liều lĩnh lại vừa bạc nhược của Gorbachev; sự chia rẽ nhân tâm được kích động bởi những bài viết của các nhà văn, nhà báo chống Nhà nước Liên Xô mà không bị ngăn chặn..
Sau này, Tổng thống Nga Vladimir Putin cho biết ông phản đối sự tan rã của Liên Xô. Ông cho rằng lẽ ra Liên bang Xô Viết đã không bị sụp đổ, nếu như Đảng Cộng sản Liên Xô tiến hành cải cách đúng hướng và không "thả cửa" cho những tư tưởng phá hoại đất nước của giới báo chí biến chất cũng như các phần tử cơ hội trong nội bộ Đảng.. Mặc dù vậy, bản thân Putin không có ý định đưa mô hình Nhà nước Liên Xô quay trở lại nước Nga bởi nó không phù hợp với bối cảnh hiện nay "Bất cứ ai không cảm thấy tiếc nuối vì sự sụp đổ của Liên Xô là kẻ không có trái tim. Bất cứ ai muốn khôi phục nó thì là kẻ không có não". Khi nhận được câu hỏi về sự kiện nào trong lịch sử Nga mà ông muốn thay đổi nhất, Tổng thống Putin đáp ngắn gọn rằng: "Sự sụp đổ của Liên bang Xô Viết".
Hậu quả sau khi tan rã.
Sau khi Liên Xô tan rã, lớp Đảng viên trung thành với chủ nghĩa cộng sản trong Đảng Cộng sản Liên Xô vừa căm phẫn cực độ, vừa bất lực. Tổng Tham mưu trưởng quân đội, Anh hùng Liên Xô, nguyên soái Sergei Fyodorovich Akhromeev đã tự sát bằng khẩu súng ngắn từng theo ông suốt cuộc đời. Trong bức thư tuyệt mệnh, ông để lại sự phẫn nộ và than thở: "Tất cả những gì tôi phấn đấu cho Đảng đều đã tiêu ".
Ngược lại, bộ phận cựu Đảng viên chống chủ nghĩa cộng sản nay đã đạt được mục đích. Họ giành rất nhiều đặc quyền đặc lợi trong chính phủ mới: 75% số quan chức bên cạnh tân tổng thống, 57,1% cán bộ trong những chính đảng mới và 73,4% quan chức của chính phủ mới ở Nga là cựu Đảng viên. Họ lợi dụng sự hỗn loạn về thương mại hoá, thị trường hoá để trực tiếp chiếm đoạt tài sản nhà nước thành tài sản riêng.. Sau khi Liên Xô tan rã, theo "liệu pháp sốc" do người Mỹ tư vấn, chính phủ Nga tiến hành cưỡng chế tư hữu hóa trong lĩnh vực kinh tế. Hồi thập niên 1980, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô Nikolai Ryzhkov khi thảo luận về kế hoạch chuyển đổi nền kinh tế Liên Xô sang cơ chế thị trường đã từng cảnh báo "Các đồng chí sẽ phá nát đất nước này mất, nước ta tuyệt đối chưa sẵn sàng (cho những bước đi như vậy)! Các đồng chí hãy tưởng tượng xem, ví dụ suốt cả cuộc đời tôi, có ai đó luôn bảo tôi cần phải làm cái gì và đột nhiên tất cả bỏ hết và nói: tự xoay xở lấy! Và để mà có thể tự xoay xở được, ít nhất cũng phải mất có 1 đến 2 năm mò mẫm! Chúng ta hãy thực hiện một giai đoạn chuyển đổi nào đó. Cụ thể là trước mắt giao cho các nhà máy 50% công việc bằng các đơn đặt hàng nhà nước, còn 50% còn lại các nhà máy tự tìm đơn đặt hàng. Ít nhất, họ cũng có cái gì để mà làm việc chứ.". Nền kinh tế - chính trị thời hậu Liên Xô hoàn toàn chưa chuẩn bị gì cho giai đoạn quá độ và "liệu pháp sốc" cuối cùng đem lại vô số hậu quả bi kịch: các công ty quốc doanh bị bán cho tư nhân với mức giá rất rẻ mạt (ví dụ như Zil, hãng sản xuất xe tải rất lớn với 100.000 công nhân, lại được bán với giá chỉ 16 triệu USD). Các trùm tài phiệt nhanh chóng thâu tóm nền kinh tế và lũng đoạn chính trường Nga. Kết quả rất nhanh là đưa đến một nền kinh tế tiêu điều và suy thoái nghiêm trọng. Đất nước nghèo đi nhanh chóng, hệ thống an sinh xã hội suy yếu, xã hội rơi vào hỗn loạn, phạm tội xảy ra tràn lan, phân hóa giàu nghèo tăng mạnh. Hàng chục vạn nhà khoa học và lao động có trình độ cao di cư sang phương Tây.
Theo tài liệu của Bộ Nội vụ Nga, lúc đó toàn quốc xuất hiện hơn 8.000 băng nhóm tội phạm có tổ chức cỡ lớn. Trong Thông điệp tình hình đất nước năm 1996, Boris Yeltsin thừa nhận: "Nước Nga hiện nay đã vượt Italia, trở thành vương quốc băng đảng mafia lớn nhất thế giới". Số vụ giết người tăng nhanh, từ 14.300 vụ (năm 1990) tăng lên 29.800 vụ vào năm 2001. Bình quân cứ 100.000 dân thì có 1000 người phạm tội, tỷ lệ này ở mức cao nhất thế giới. Nạn buôn người để phục vụ cho công nghiệp tình dục và các ngành công nghiệp khác phát triển tại nước Nga sau khi Liên Xô sụp đổ là điều chưa từng có dưới thời Xô Viết.
Từ năm 1991 đến năm 1999, tổng giá trị sản xuất trong nước (GDP) của Nga giảm xuống 52% so năm 1990 (trong khi đó vào thời kỳ chiến tranh từ năm 1941 đến năm 1945 chỉ giảm 22%). Theo Ngân hàng Thế giới, GDP danh nghĩa bình quân đầu người của Nga đã giảm từ 3.429 USD/người năm 1989 xuống còn 1.331 USD/người vào năm 1999, nghĩa là chỉ còn 38,8% so với khi Liên Xô còn tồn tại. Mức suy thoái của Nga trong giai đoạn này thậm chí còn dài hơn và lớn hơn so với mức suy thoái của Mỹ trong thời kỳ Đại khủng hoảng (kéo dài 4 năm và chỉ sụt giảm ở mức 27%). Sản xuất công nghiệp giảm 64,5%, sản xuất nông nghiệp giảm 60,4%. Vật giá tăng cao hơn 5.000 lần.
Số nhân công kỹ thuật ở Nga đã giảm từ 2,5 triệu xuống còn 800.000 trong giai đoạn 1991-2001, rất nhiều nhân tài khoa học đã bỏ ra nước ngoài. Chảy máu chất xám rất nặng nề, nghiên cứu khoa học kỹ thuật cũng bị đình trệ
Hệ thống y tế miễn phí và rộng khắp của Liên Xô bị hủy bỏ, hàng loạt bệnh viện công bị tư hữu hóa. Viện phí theo đó tăng chóng mặt, nhiều người dân không có đủ tiền đi chữa bệnh (điều chưa từng xảy ra dưới thời Liên Xô), tỷ lệ tử vong do bệnh tật cũng tăng lên. Từ năm 1992 trở đi, dân số nước Nga luôn có xu thế giảm. Tuổi thọ bình quân của người Nga năm 1990 là 69,2 tuổi, đến năm 2001 sụt còn 65,3 tuổi. Thậm chí, tuổi thọ bình quân của nam giới ở một số vùng giảm xuống chỉ còn 50 tuổi. Dân số Nga đã giảm từ 147 triệu (1990) xuống còn 145 triệu vào năm 2002
Dưới thể chế đa đảng, hệ thống nhà nước yếu ớt và việc thiếu vắng một lý tưởng đoàn kết xã hội, tinh thần dân tộc chủ nghĩa ở các nước cộng hòa cũ thuộc Liên Xô đã không ngừng dâng cao, khuynh hướng ly khai, dân tộc hẹp hòi ngày càng trở nên trầm trọng. Thập niên 1990, hàng loạt các cuộc chiến tranh ly khai nổ ra tại các nước thành viên thuộc Liên Xô cũ, khiến hàng trăm ngàn người thiệt mạng.
Quan niệm đạo đức - tinh thần trong xã hội cũng trở nên hỗn loạn, luân lý xã hội và năng lực phân định đúng - sai biến mất, nền tảng đạo đức khủng hoảng toàn diện. Các giá trị đạo đức cũ mất hiệu lực, bị thực tế cuộc sống phủ định trong khi các giá trị đạo đức mới chưa hình thành. Một số phương tiện truyền thông tư nhân chỉ biết tập trung truyền bá các giá trị quan phương Tây, thực chất là khuyến khích người dân khéo léo vơ vét và theo đuổi lợi ích cá nhân, đặt đồng tiền lên trên hết, từ đó mất đi phẩm chất chính trực, yêu lao động vốn có của người dân Xô Viết.
Tại Nga và các nước Đông Âu, tầm ảnh hưởng của các Đảng cộng sản xuống thấp. Trong cuộc bầu cử Duma Quốc gia Nga năm 2016, Đảng Cộng sản Nga đạt được 13.4% tổng số phiếu bầu, qua đó giành được 42 ghế, đứng thứ 2 toàn quốc nhưng vẫn thấp hơn nhiều so với Đảng nước Nga thống nhất.
Sự sụp đổ của Liên Xô sau này được tổng thống Nga Putin gọi là "thảm họa địa chính trị tồi tệ nhất thế kỷ XX. Đối với nước Nga, nó đã trở thành một bi kịch thực sự. Hàng triệu công dân và những người yêu nước của chúng ta bỗng nhiên thấy họ đang sống bên ngoài lãnh thổ Nga.". Ông cho rằng "Hậu quả sụp đổ còn tồi tệ hơn nhiều so với những gì mọi người nghĩ và những gì họ có thể nghi ngờ ngay cả trong những giấc mơ tồi tệ nhất của mình". Cựu Thủ tướng Nga Evgeny Primakov cho rằng: "Cái giá của sự sụp đổ Liên Xô là rất khủng khiếp, nền kinh tế Nga tổn thất còn nhiều hơn Chiến tranh thế giới thứ hai. Sẽ là điên rồ nếu nói rằng đất nước này được hưởng lợi từ những năm 1990."
Đảng Cộng sản Liên Xô biến mất, Liên Xô tan rã đã mang lại hậu quả tai hại cho nhân dân Liên Xô. Rất nhiều học giả Nga cũng rút ra kết luận rằng, Liên Xô tan rã làm cho phát triển kinh tế - xã hội tại Nga thụt lùi mấy chục năm. Viện sỹ khoa học xã hội Dobrinkov nhận xét vào năm 2003 rằng: "Trên thực tế, cái gọi là cải tổ khiến kinh tế nước Nga thụt lùi 20-30 năm, một số tổn thất tinh thần thì không thể nào đo đếm được" Ngay cả nhà văn chống Xô viết là Maksimov, trước khi qua đời vào năm 1994 cũng cảm thấy ân hận về việc xóa bỏ Liên Xô: "Tôi chưa bao giờ nghĩ mình lại cảm thấy đau lòng như vậ, cứ như giương mắt mà nhìn mẹ mình bị hãm hiếp vậy. Không còn gì đau lòng hơn thế". Cựu Tổng thống Ukraina Leonid Kravchuk, một trong ba nhân vật hàng đầu tham gia ký kết hiệp định giải thể Liên Xô sau này đã nói: ""Nếu như năm 1991, tôi biết được đất nước sẽ phát triển đến như cục diện như ngày hôm nay thì khi đó tôi đã nhất quyết chặt đứt cánh tay mình chứ không ký vào Hiệp định đó".
Phải đến khi Tổng thống Nga Vladimir Putin (một cựu sỹ quan tình báo Liên Xô) lên nắm quyền năm 2000, nước Nga mới dần khôi phục, đến năm 2005 thì GDP đầu người của Nga cuối cùng cũng đã trở lại mức của năm 1990. Nếu tính GDP đầu người của Nga theo sức mua của năm 2010 thì đến năm 2007, GDP đầu người của Nga đã về lại mức năm 1989 và sau đó tiếp tục tăng trưởng. Tới năm 2010, người Nga đã đạt mức thu nhập bình quân đầu người cao hơn dưới thời Liên Xô. Số người ủng hộ việc khôi phục Nhà nước Liên Xô với hệ thống chính trị giữ nguyên như trước kia đã giảm dần, theo một khảo sát năm 2016 chỉ có 12% số người được hỏi ủng hộ việc khôi phục nguyên trạng nhà nước Liên Xô, tuy nhiên 46% ủng hộ việc đoàn kết các nước cộng hòa Xô viết cũ trong một liên minh mới tương tự như Liên minh châu Âu..
Theo cuộc khảo sát của Sputnik Mneniya tại 9 nước trong số 11 quốc gia thuộc Liên Xô cũ vào năm 2016, phần lớn cư dân trên 35 tuổi (những người đã trải qua cuộc sống dưới thời Liên Xô) cho rằng cuộc sống ở Liên Xô tốt hơn so với thời kỳ sau khi đất nước tan rã. Ở Nga, 64% số người đã trải qua thời kỳ Liên Xô đánh giá rằng chất lượng cuộc sống thời đó cao hơn. Ở Ukraina, đồng ý với tuyên bố này có 60% số người trả lời, còn tỷ lệ cao nhất là ở Armenia (71%) và Azerbaijan (69%) Trong một cuộc thăm dò do Trung tâm Levada tổ chức vào tháng 4/2016, 56% người được hỏi cho biết họ mong muốn Liên Xô vẫn tồn tại. Một điều tra của Trung tâm Công luận Toàn Nga (VTsIOM) cho thấy 64% người Nga sẽ bỏ phiếu cho việc gìn giữ Liên Xô nếu như tổ chức một cuộc trưng cầu dân ý vào năm 1991. Trong cuộc khảo sát của Trung tâm Levada năm 2016, 53% số người được hỏi nuối tiếc vì sự sụp đổ của hệ thống kinh tế kế hoạch hóa, 43% nuối tiếc cảm giác được sống trong một siêu cường.
Khảo sát của hai cơ quan điều tra dư luận ở Nga cho thấy: đa số người dân Liên Xô cũng không muốn đất nước Liên Xô tan rã. Cuối năm 2005, kết quả một cuộc điều tra dư luận của hai cơ quan độc lập nổi tiếng ở Nga cho thấy: 66% người Nga ngày nay cảm thấy nuối tiếc cho sự sụp đổ của Liên Xô; 76% số người cho rằng Liên Xô có rất nhiều điểm đáng để tự hào. 72% và 80% số người được hỏi lần lượt cho rằng Gorbachev và Yeltsin đã đẩy đất nước vào con đường sai lầm; chỉ có 1% số người được hỏi mong muốn sống dưới thời Yeltsin., 60% người Nga tin rằng: sự sụp đổ của Liên Xô gây nhiều tác hại nhiều hơn là lợi ích. Trong cơn đại hồng thủy đó, nhiều nước cộng hòa hậu Xô viết đã rơi vào bạo lực sắc tộc sau khi có được độc lập, khiến cả trăm ngàn người thiệt mạng.
Một cuộc thăm dò đã được tiến hành trong năm 2016 cho thấy có 35% người Ukraina nuối tiếc về sự sụp đổ của Liên Xô, 50% không nuối tiếc và 15% thấy phân vân. Trong số này, người miền Đông Ukraina (đa số là người gốc Nga) có tỷ lệ tiếc nuối cao gấp đôi so với người miền Tây (muốn Ukraina gia nhập EU và NATO). Những người già từng sống trong thời kỳ đó, hoặc người đang thất nghiệp có tỷ lệ tiếc nuối cao hơn.
Năm 1991, Tổng thống Hoa Kỳ George H.W. Bush đã bày tỏ cảm xúc sung sướng của mình nhân sự kiện Liên Xô sụp đổ: "Sự kiện vĩ đại nhất từng diễn ra trên thế giới trong suốt cuộc đời của tôi, trong toàn bộ cuộc đời của mỗi chúng ta, chính là sự kiện này đây: Nhờ vào ân sủng của Thiên Chúa, nước Mỹ đã chiến thắng cuộc Chiến tranh Lạnh" . Với việc Liên Xô sụp đổ, Hoa Kỳ trở thành siêu cường duy nhất còn tồn tại trên thế giới.
Theo sử gia Geoffrey Roberts, trên bình diện thế giới, sự sụp đổ của Liên Xô khiến phương Tây không còn một đối trọng đủ mạnh mẽ, thế giới ngày nay vẫn còn xa mới có thể gọi là an toàn. Theo tiến sĩ Marcus Papadopoulos, một chuyên gia về Nga, việc Liên Xô sụp đổ khiến cho sự can thiệp của Mỹ và phương Tây vào công việc nội bộ của các nước tăng mạnh, với các vi phạm luật pháp quốc tế ở mức độ chưa từng thấy. Nếu Liên Xô còn tồn tại thì những cuộc chiến tranh của phương Tây tấn công Nam Tư, Iraq, Libya, S
Liên Xô là quốc gia theo mô hình xã hội chủ nghĩa đầu tiên trên thế giới, mô hình chính trị của nhà nước Liên Xô là hình mẫu chung cho các quốc gia xã hội chủ nghĩa khác.
Khác với đa số các nhà nước cộng hòa khác trên thế giới theo nguyên tắc "tam quyền phân lập", hệ thống chính trị Xô viết theo nguyên tắc "tập trung dân chủ". Đảng Cộng sản lãnh đạo tối cao và toàn diện mọi mặt: chính trị, xã hội, kinh tế, văn hóa (điều 6 Hiến pháp Liên Xô). "Cơ quan quyền lực cao nhất" của Liên Xô là Xô viết Tối cao Liên Xô ("Верховный Совет"), có cả ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp và trực tiếp đảm nhiệm chức năng lập pháp. Cơ quan thường trực của Xô viết Tối cao là Đoàn Chủ tịch Xô viết Tối cao Liên Xô. Đoàn Chủ tịch Xô viết Tối cao Liên Xô là nguyên thủ quốc gia trên danh nghĩa, nhưng Tổng Bí thư Ủy ban Trung ương Đảng Cộng sản mới là nhân vật số một. (Từ năm 1988 "cơ quan quyền lực cao nhất" là Đại hội Đại biểu Nhân dân, cơ quan thường trực của nó là Xô viết Tối cao). Ở các cấp địa phương "cơ quan quyền lực cao nhất" là Xô viết địa phương do nhân dân bầu.
Xô viết Tối cao bầu ra Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (Thủ tướng) và phê chuẩn thành phần Hội đồng Bộ trưởng (Chính phủ) là cơ quan chấp hành của nó, đảm nhiệm chức năng hành pháp ở trung ương. Tương tự, Xô viết địa phương bầu ra Ủy ban hành chính ("Испольнительный коммитет", viết tắt là "Исполком" - Ispolkom) để đảm nhiệm chức năng hành pháp ở địa phương.
Xô viết Tối cao cũng bầu Chánh án Tòa án Tối cao đứng đầu cơ quan tư pháp trung ương là Toà án Tối cao. Xô viết địa phương bầu chánh án toà án các cấp địa phương.
Hiến pháp Liên Xô cũng quy định về các quyền cơ bản của công dân như quyền tự do ngôn luận, quyền tự do hội họp, tự do tín ngưỡ
Nhưng về thực chất đặc điểm nổi bật của hệ thống chính trị của Liên Xô là sự bao trùm của Đảng Cộng sản lên hệ thống chính trị. Đảng Cộng sản Liên Xô ("Коммунистическая партия Советского Союза - КПСС") là cơ quan lãnh đạo theo hiến pháp quy định, không do dân bầu. Để bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng, Liên Xô áp dụng hệ thống nhân sự theo "Nomenclatura" nghĩa là hệ thống cơ cấu cán bộ theo sự chỉ định của Đảng: ở mỗi cấp chính quyền hành chính, Xô viết hoặc tư pháp thì luôn song hành với đảng ủy (Parkom - "Партийный коммитет" viết tắt là Парком). Các đảng viên lãnh đạo đảng ủy (hay Parkom) luôn nắm các vị trí chi phối của các Xô viết theo một tỷ lệ đảm bảo sự lãnh đạo: ứng cử viên vào các Xô viết đều phải được sự đề cử của các Parkom và các liên danh ứng cử của đảng viên và người ngoài đảng bao giờ cũng có một tỷ lệ áp đảo của đảng viên. Đối với cơ quan hành pháp cũng vậy các chức vụ lãnh đạo của các Ispolkom là từ các Parkom, thường thì các phó bí thư đảng ủy là chủ tịch các uỷ ban hành chính (Ispolkom). Các Xô viết và các Ủy ban hành chính các cấp phải chấp hành các chỉ thị của cấp trên theo ngành dọc của mình và các chỉ thị, nghị quyết của Ủy ban đảng đồng cấp của địa phương mình và thường các chỉ đạo này là nhất quán với nhau. Ở cấp các nước Cộng hòa và cấp Liên bang cũng vậy: Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, Chủ tịch Xô viết tối cao, Chánh án Toà án tối cao thường là các Ủy viên Bộ chính trị của Đảng, đôi khi Tổng bí thư kiêm luôn Chủ tịch Đoàn Chủ tịch Xô viết tối cao (như Brezhnev) hoặc Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (như Khrushchov). Các Bộ trưởng thường là Ủy viên Bộ chính trị hoặc Trung ương Đảng. Khi họp Chính phủ hoặc Đoàn Chủ tịch Xô viết tối cao thì thực tế là họp Bộ Chính trị mở rộng. Nhân sự các nhiệm kỳ của các cơ quan chính trị, nhà nước trùng với nhân sự của đại hội Đảng, khi một cá nhân thôi chức tại Parkom thì họ cũng thôi nhiệm vụ tại Xô viết hoặc I: Đảng ủy có thể đưa ra các chỉ đạo thẳng đến các Xô viết và các Ủy ban hành chính chứ không cần thiết phải biến các nghị quyết đảng đó thành các văn bản của các cơ quan này nữa.
Hệ thống chính trị như vậy của nhà nước Liên Xô làm xã hội Xô viết mang đặc tính tập trung quyền lực rất lớn của Đảng. Có lúc nào đó đặc tính này có thể mang lại tác dụng tốt, đảm bảo sự lãnh đạo và thực hiện nhanh chóng, nhất quán về một chính sách mà không bị cuốn vào những tranh cãi mất thời gian, nhưng đồng thời các cấp ủy gần như không bị nhân dân kiểm soát mà chỉ phải chịu sự giám sát từ hệ thống kiểm tra trong nội bộ đảng, nếu hệ thống giám sát mà bị buông lỏng thì dễ dẫn đến hiện tượng lạm dụng quyền lực của các cấp ủy, hiện tượng vi phạm các quyền tự do của công dân được hiến pháp quy định, cũng như các tiêu cực khác ví dụ tình trạng không quy được trách nhiệm cá nhâ, hệ thống giám sát bắt đầu bị buông lỏng vào thời Khruschov, và phát tác vào thời kỳ được gọi là "thời kỳ trì trệ" thập niên 1980.
Để hạn chế các khiếm khuyết của hệ thống chính trị một đảng lãnh đạo tập quyền tập trung như vậy, năm 1985 Tổng bí thư Gorbachov đã tiến hành cải cách chính trị. Cuộc cải cách chính trị của Gorbachov có mục đích giảm bớt sự lãnh đạo của Đảng đối với các cơ cấu nhà nước và xã hội, cho phép thành lập hàng loạt các tổ chức hội đoàn, xã hội dân sự, tổ chức phi chính phủ... nhưng chính sách này là phản tác dụng, gây ra khủng hoảng chính trị và dẫn đến sự tan rã của Liên Xô.
Mô hình hệ thống kinh tế Liên Xô cơ bản là kinh tế nhà nước, là nền kinh tế phi cạnh tranh, không định hướng theo thị trường, chịu sự lãnh đạo của Đảng và tập trung hóa, kế hoạch hóa cao độ cả ở cấp vi mô và vĩ mô. Đây cũng là mô hình kinh tế chung của các Quốc gia xã hội chủ nghĩa.
Những đặc điểm tập trung hóa, kế hoạch hóa cao độ dưới sự lãnh đạo của Đảng như vậy có tác dụng dễ dàng tập trung được nguồn lực quốc gia cho các mục tiêu trọng điểm, những ưu tiên của đất nước ví dụ điển hình như quá trình Công nghiệp hóa những năm 1930 đã thành công bất kể các căng thẳng của nền kinh tế, cũng như các dự án công nghiệp quốc phòng và các dự án khoa học lớn khác của Liên Xô sau này. Kinh tế có kế hoạch và tách xa thị trường nên kinh tế Liên Xô tránh được lạm phát, tránh được các khủng hoảng và các rủi ro của thị trường như trong các nền kinh tế tư bản chủ nghĩa, giá cả có khi được duy trì cố định trong vài chục năm.
Nhưng về sau, thì kinh tế Liên Xô thường không gắn liền với hiệu quả kinh tế nên thường gây lãng phí rất lớn: kinh tế phát triển nhanh nhờ khai thác các nguồn tài nguyên thiên nhiên nhưng năng suất lao động tăng không tương xứng. Việc lập kế hoạch chi tiết vẫn không thể nào sát được với thực tế cuộc sống, không thể tính được hết các yếu tố cung cầu, mức giá làm cho cung cân bằng với cầu. Các kế hoạch kinh tế không thể phân phối và sử dụng tài nguyên một cách hiệu quả nhất, các chỉ tiêu phát triển được duy trì cao nhưng mức sống của người dân tăng ngày càng chậm lại.
Nền kinh tế không linh hoạt: một doanh nghiệp không hoàn thành kế hoạch sẽ ảnh hưởng lây lan, do đó kế hoạch được coi như pháp lệnh nhà nước và có tính bắt buộc rất cao. Vì kế hoạch hóa mang nhiều tính mệnh lệnh quan liêu và không sát nhu cầu xã hội khiến hàng hóa Liên Xô có chất lượng và tính cạnh tranh ngày càng thấp so với nước ngoài. Giá cả cố định trong một thời gian khá dài cộng với thu nhập tăng đều, điều này là có lợi cho đời sống của các tầng lớp dân cư, sức mua của người dân tăng cao, nhưng ngược lại sức mua tăng mà sản lượng và chất lượng hàng tiêu dùng không tăng kịp theo yêu cầu của xã hội nên gây nên nạn khan hiếm hàng hóa, tạo "văn hóa xếp hàng" ở mọi nơi, gây bức xúc trong dân chúng nhất là dân thành thị.
Lợi ích doanh nghiệp và người lao động phụ thuộc vào việc hoàn thành và vượt chỉ tiêu kế hoạch được giao mà ít có áp lực cạnh tranh (ở Liên Xô cạnh tranh chỉ dưới hình thức thi đua Xã hội chủ nghĩa). Từ những năm 1960, khi thị hiếu của người dân nâng cao, việc thi đua vượt chỉ tiêu tạo nên một số loại hàng hóa dư thừa lớn trong xã hội, nhưng một số loại hàng hóa khác thì lại bị thiếu do chính phủ không đầu tư sản xuất. Kết quả là một số loại hàng hóa thì thừa nhiều, một số khác thì lại thiếu gây mất cân đối trong nền kinh tế. Hàng hóa dư thừa cũng ít khi được Liên Xô xuất khẩu để kiếm lợi nhuận, mà nhiều khi được viện trợ cho các nước nghèo ở châu Á, châu Phi dưới hình thức viện trợ không hoàn lại.
Việc không có cạnh tranh và sản xuất theo kế hoạch đồng thời thiếu những biện pháp khuyến khích tăng năng suất làm cho người lao động mất động lực dẫn đến sự sa sút kỷ luật và sự hăng hái lao động, làm nảy sinh thói bàng quan, vô trách nhiệm. Vào những năm Stalin và trong chiến tranh, người lao động làm việc dưới ảnh hưởng của tinh thần yêu nước và kỷ luật sắt, chính sách công nghiệp hóa có hiệu quả cao nên không có sự sa sút, nhưng về sau vì kém động lực kinh tế nên chiều hướng làm biếng dần trở nên phổ biến trong tâm lý người lao động. Đồng thời cách trả lương lao động mang tính bình quân chủ nghĩa không khuyến khích tính năng động và làm bất mãn những người muốn làm giàu. Để khuyến khích người lao động, từ những năm cuối thập kỷ 1970 Liên Xô cho áp dụng khoán sản phẩm trong các xí nghiệp công nghiệp ở phạm vi tổ đội lao động ("Бригадный подряд") nhưng kết quả chỉ thành công hạn chế và không gây được động lực lớn.
Tác giả Gregory ở Viện Hoover, trong một bài luận năm 2018, tóm tắt các điểm yếu của nền kinh tế Liên Xô gồm: điểm yếu lớn nhất là lập kế hoạch dựa trên "cân đối nguyên vật liệu", và ở mức độ nhẹ hơn là "ràng buộc ngân sách mềm". Liên Xô chỉ lập kế hoạch chi tiết đến từng giao dịch cho một số sản phẩm chiến lược, còn các sản phẩm khác chỉ được lập kế hoạch ở mức độ tổng sản lượng. Tất cả mọi kế hoạch đều chỉ là dự thảo, có thể được điều chỉnh bất cứ lúc nào. Việc áp dụng công nghệ mới hoặc làm giảm chi phí sản xuất không được đưa vào kế hoạch. Cơ quan lập kế hoạch không thể cân đối cung cầu bằng cách nâng hoặc hạ giá, vì vậy họ cân đối cung cầu bằng cách so sánh những vật liệu nào đang có sẵn với những vật liệu cần có - gọi là "cân đối nguyên vật liệu". Năm 1938 chỉ có 379 sự cân đối nguyên vật liệu ở trung ương được chuẩn bị cho một nền kinh tế có hàng triệu mặt hàng. Những sự cân đối này lại dựa trên những thông tin sai lệch. Các nhà sản xuất phải vận động để được phân bổ những mục tiêu thấp, che giấu năng lực sản xuất thật của họ. Những người sử dụng sản phẩm công nghiệp trong phép cân đối, ngược lại, lại khai vống lên những gì họ cần, để bảo đảm việc hoàn thành kế hoạch của riêng họ. Kế hoạch của mỗi năm là kế hoạch của năm trước đó cộng thêm một số điều chỉnh nhỏ. Việc này được áp dụng đến thập niên 1980, làm cho nền kinh tế giảm động lực tạo ra sản phẩm mới và áp dụng công nghệ mới bởi vì chúng đòi hỏi phải thiết kế lại hệ thống các cân đối. Janos Kornai, trong một nghiên cứu năm 1986, chỉ ra "ràng buộc ngân sách mềm" - xảy ra khi tương quan thu bù chi của doanh nghiệp không được tôn trọng - là một nguyên nhân khác làm suy yếu kinh tế xã hội chủ nghĩa. Các doanh nghiệp thua lỗ không được phép phá sản, vì sẽ làm ảnh hưởng dây chuyền tới toàn bộ kế hoạch, do đó ngân hàng trung ương đã thường xuyên phát hành tiền để cứu chúng.
Những điểm yếu này tác động nhiều vào nông nghiệp Xô viết khiến nó trở nên già cỗi, nông nghiệp và nông thôn chậm hiện đại hóa, khoảng cách thành thị – nông thôn ngày càng lớn, thanh niên nông thôn dồn hết vào thành phố, sản xuất nông nghiệp sa sút. Đến giữa những năm 1980 nông nghiệp và nông thôn đã là một vấn đề mất cân đối của kinh tế Xô viết. Tuy tổng sản lượng nông nghiệp Liên Xô vẫn đứng đầu châu Âu, nhưng một số sản phẩm nông nghiệp lại phải nhập khẩu từ nước ngoài. Đảng và chính phủ Liên Xô đã có những cố gắng đầu tư cho nông nghiệp trong những năm 1970 – 1980 bằng các dự án thành lập các tổ hợp nông – công nghiệp nhưng vì chưa đánh giá hết những nguyên nhân gốc rễ và cách tiếp cận cũng mang tính quan liêu mệnh lệnh nên chương trình nhiều tham vọng này cũng không thành công.
Đến giữa những năm 1980, nền kinh tế Xô viết đã bộc lộ những điểm yếu rất lớn. Tuy vẫn duy trì được vị thế nền kinh tế lớn thứ hai thế giới (chỉ kém Mỹ) với GDP đạt 2,66 nghìn tỷ USD (năm 1990), có nền khoa học kỹ thuật tiên tiến, nhưng nền kinh tế Liên Xô đã bị lạc hậu hơn so với các nước kinh tế thị trường phát triển nhất như Mỹ, Nhật, Đức. Vào năm 1987, hàng tiêu dùng chỉ chiếm 24% sản lượng hàng hóa ở Liên Xô, phần còn lại là dành cho đầu tư công nghiệp và nhu cầu quốc phòng. Trong nền kinh tế tích tụ rất nhiều mâu thuẫn ảnh hưởng lớn lên xã hội và đó là nguyên nhân để Tổng bí thư Gorbachov tiến hành cải cách cải tổ ("perestroika"), tuy nhiên cải cách chỉ tập trung vào cơ cấu chính trị trong khi không quan tâm đến cải cách mô hình kinh tế nên đã thất bại và Liên Xô sụp đổ.
Các quốc gia thành viên của Hội đồng Tương trợ Kinh tế:
– tháng 1 năm 1949
– tháng 1 năm 1949
– tháng 1 năm 1949
– tháng 1 năm 1949
– tháng 1 năm 1949
– tháng 1 năm 1949
– tháng 2 năm 1949
Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
Cộng hòa Nhân dân Mông Cổ– 1962
Ngoài ra còn một số quan sát viên.
Hội đồng Tương trợ Kinh tế còn ký hiệp định với một số nước như:
Đế quốc Nga bị mất vùng lãnh thổ với khoảng 30 triệu người sau khi Cách mạng Nga (Ba Lan: 18 triệu; Phần Lan: 3 triệu; România: 3 triệu; Các nước Baltic khẳng định 5 triệu và Kars đến Thổ Nhĩ Kỳ 400 nghìn người). Theo Viện Hàn lâm Khoa học Nga, Liên Xô đã chịu 26,6 triệu thương vong trong chiến tranh thế giới thứ hai, bao gồm sự gia tăng tỷ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh là 1,3 triệu. Tổng thiệt hại chiến tranh bao gồm các vùng lãnh thổ do Liên Xô sáp nhập năm 1939-1945.
Mặc dù tốc độ tăng dân số giảm theo thời gian, nhưng nó vẫn tích cực trong suốt lịch sử của Liên Xô ở tất cả các nước cộng hòa, và dân số tăng lên hơn 2 triệu mỗi năm trừ thời kỳ chiến tranh, tập thể hoá và nạn đói.
Theo điều tra dân số năm 1989 l, dân số Liên Xô bao gồm 70% Đông Slav, 12% Thổ Nhĩ Kỳ và phần còn lại là cư dân thiểu số với tỷ lệ dưới 10% mỗi người. Mặc dù phần lớn dân số Liên Xô chấp nhận chủ nghĩa vô thần 60%, nhưng có đến 20% tôn giáo Chính thống giáo Nga, 15% theo Hồi giáo, và còn lại là các tôn giáo khác.
Liên Xô đang thịnh hành trong các lĩnh vực châu Âu của Nhóm ngôn ngữ Đông Slav (tiếng Nga, tiếng Belarus và tiếng Ukraina), trong Nhóm ngôn ngữ gốc Balt là tiếng Litva và tiếng Latvia và tiếng Phần Lan, tiếng Estonia và tiếng Moldova (một ngôn ngữ thuộc Nhóm ngôn ngữ Rôman) đã được sử dụng ngoài sang tiếng Nga. Ở vùng Kavkaz, ngoài tiếng Nga, còn có tiếng Armenia, tiếng Azerbaijan và tiếng Gruzia. Ở phía Nga, có một số nhóm thiểu số nói Ngữ hệ Ural khác nhau; hầu hết các ngôn ngữ ở Trung Á là Ngữ chi Iran mà bởi tiếng Tajik trừ là Ngữ hệ Turk.
Mặc dù Liên Xô không có ngôn ngữ chính thức là "de jure" trong phần lớn lịch sử của nó trước năm 1990 và tiếng Nga "ngôn ngữ giao tiếp giữa các quốc gia" () theo quy định tuy nhiên, trên "de facto" đã trở thành ngôn ngữ chính thức. Đối với vai trò và ảnh hưởng của nó tại Liên Xô.
Liên Xô có nhiều tôn giáo khác nhau như Chính thống giáo (có số lượng tín đồ lớn nhất), Công giáo, Báp-tít và nhiều giáo phái Tin lành khác. Phần lớn Hồi giáo ở Liên Xô là Sunni, ngoại trừ đáng chú ý là Azerbaijan, phần lớn là người Shia. Do Thái giáo cũng có nhiều tín đồ. Các tôn giáo khác, được thực hành bởi một số ít tín đồ, bao gồm Phật giáo và Shaman giáo.
Chương trình vũ trụ.
Vào tháng 8 năm 1957, Liên Xô đã thực hiện thử nghiệm thành công đầu tiên đối với R-7 Semyorka, tên lửa đạn đạo liên lục địa (ICB) đầu tiên trên thế giới. R-7 là đỉnh cao của nghiên cứu và phát triển dựa trên tên lửa V-2 của Đức Quốc xã, đã được phóng vào các quốc gia Đồng minh trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Chiếc đầu tiên trong số này, tên lửa R-1, là một bản sao của chiếc V-2, do các tù nhân Đức chế tạo dưới sự hướng dẫn của Sergey Korolyov. Korolyov là một kỹ sư tên lửa, người đã sớm cải tiến thiết kế ban đầu của Đức. R-2 có thể bay xa gấp đôi so với R-1 và vào thời R-7, tên lửa đã có tầm bắn gần như toàn cầu, khiến chúng trở thành lựa chọn lý tưởng cho một phương tiện phóng vào không gian. Cuộc chạy đua vào không gian đã bắt đầu.
Tiến xa hơn, đưa con người ra ngoài vũ trụ.
Chỉ hai tháng sau khi Semyorka được thử nghiệm, Korolyov đã thành công trong việc đưa vật thể nhân tạo đầu tiên lên quỹ đạo quanh Trái đất. Vệ tinh này được gọi là Sputnik. Sau đó một tháng là Sputnik 2 mang theo động vật du hành vũ trụ đầu tiên, chú chó Laika. Vụ phóng của chúng là một thành công lớn về mặt tuyên truyền đối với Hoa Kỳ và ngay sau đó Korolyov được giao nhiệm vụ xây dựng dựa trên những thành tựu của Liên Xô trong không gian.
Việc lập kế hoạch cho một sứ mệnh có người lái bắt đầu vào năm 1958 và kết quả là chương trình Vostok, chạy từ năm 1960 đến năm 1963. Chương trình đã thành công rực rỡ và vào tháng 4 năm 1961, Yuri Gagarin trở thành người đầu tiên lên quỹ đạo Trái đất trên tàu Vostok 1, ông đã bay một vòng quanh Trái đất và hạ cánh thành công xuống thảo nguyên Kazakhstan. Ông đã tham gia cùng 5 nhà du hành vũ trụ đồng hành trong vòng 2 năm tới, bao gồm cả Valentina Tereshkova, người phụ nữ đầu tiên lên vũ trụ. Chương trình Vostok được nối tiếp bởi chương trình Voskhod, chương trình đã chứng kiến Liên Xô đạt được những cột mốc quan trọng hơn. Điều quan trọng nhất trong số này là do phi hành đoàn của Voskhod 2 đạt được, khi Aleksei Leonov thực hiện chuyến đi bộ ngoài không gian đầu tiên vào ngày 18 tháng 3 năm 1965.
Chạy đua với Hoa Kỳ.
Mục tiêu tiếp theo của Korolyov là cố gắng hạ cánh một người đàn ông lên mặt trăng trước Hoa Kỳ. Để đạt được mục tiêu này, ông đã thiết kế tên lửa N1 cùng với các nhân viên tại phòng thiết kế OKB-1 của mình, cũng như làm việc trên thiết kế cho tàu vũ trụ có người lái Soyuz. Sau đó, vào tháng 1 năm 1966, Korolyov qua đời vì một cơn đau tim trong một cuộc phẫu thuật thường lệ. Chỉ đến thời điểm này, thế giới mới biết được danh tính của thiết kế trưởng người Nga. Danh tính của ông đã được giữ bí mật trong suốt những năm 1950 và 1960, nhưng giờ đây ông đã được chôn cất với danh dự nhà nước tại nghĩa trang điện Kremli.
Trách nhiệm hạ cánh một người lên mặt trăng giờ được giao cho chỉ huy thứ hai của Korolyov, Vasily Mishin, người đã phê duyệt vụ phóng Soyuz 1 vào năm 1967. Con tàu vũ trụ gặp sự cố, giết chết nhà du hành vũ trụ Vladimir Komarov. Các vấn đề khác đã xảy ra khi mỗi chuyến bay thử nghiệm N1 không người lái đều phát nổ. Những bước lùi này đã chứng kiến Mỹ vượt lên trước Liên Xô trong cuộc chạy đua không gian và vào ngày 21 tháng 7 năm 1969, Neil Armstrong và Buzz Aldrin đã hạ cánh thành công lên mặt trăng. Mặc dù các kế hoạch cho một sứ mệnh của Nga vẫn tiếp tục kéo dài đến những năm 1970, chương trình này cuối cùng đã bị hủy bỏ vào năm 1974.
Xây dựng trạm vũ trụ Hòa Bình.
Trạm vũ trụ thành công nhất do Liên Xô xây dựng đã bay từ năm 1986 đến năm 2001. Nó được gọi là "Mir" (có nghĩa là "hòa bình") và được lắp ráp trên quỹ đạo. Nó đã tổ chức một số thành viên phi hành đoàn từ Liên Xô và các nước khác trong một buổi biểu diễn hợp tác không gian. Ý tưởng là giữ một tiền đồn nghiên cứu lâu dài trong quỹ đạo Trái đất thấp và nó tồn tại nhiều năm cho đến khi nguồn tài trợ bị cắt. Mir là trạm vũ trụ duy nhất được xây dựng bởi chế độ của một quốc gia và sau đó được điều hành bởi người kế nhiệm chế độ đó. Đến vào năm 2001, Nga đã thực hiện phá huỷ trạm Mir, vì nó tồn tại quá lâu, phục vụ nhân loại gấp ba lần thời hạn thiết kế ban đầu là 5 năm và dọn đường cho Trạm Vũ trụ Quốc tế vì Nga không có đủ kinh phí để vận hành cả hai trạm vũ trụ cùng một lúc. Mir cùng với tàu Progress sau đó cháy và tan vỡ trong khí quyển, những mảnh vỡ sót lại đã rơi xuống mặt Thái Bình Dương.
Sau cuộc đua không gian.
Ngoài các tàu thăm dò hành tinh của mình, Liên Xô còn rất quan tâm đến các trạm vũ trụ quay quanh quỹ đạo, đặc biệt là sau khi Mỹ công bố (và sau đó hủy bỏ) Phòng thí nghiệm trên quỹ đạo có người lái. Khi Hoa Kỳ công bố Skylab, Liên Xô cuối cùng đã xây dựng và đưa vào hoạt động trạm Salyut. Năm 1971, một phi hành đoàn đã đến Salyut và dành hai tuần làm việc trên trạm. Thật không may, họ đã chết trong chuyến bay trở về do rò rỉ áp suất trong khoang chứa của tàu Soyuz 11.
Cuối cùng, Liên Xô đã giải quyết được các vấn đề về Soyuz và trạm Salyut đã dẫn đến một dự án hợp tác chung với NASA về dự án Apollo–Soyuz. Sau đó, hai nước đã hợp tác xây dựng một loạt tàu con thoi-Mir và việc xây dựng Trạm Vũ trụ Quốc tế cùng với quan hệ đối tác với Nhật Bản và Châu Âu.
Kế tục chương trình vũ trụ của Liên Xô.
Chương trình không gian của Liên Xô phải đối mặt với những khó khăn khi Liên Xô tan rã. Thay vì cơ quan vũ trụ Liên Xô, Mir và các phi hành gia Liên Xô của họ (những người đã trở thành công dân Nga khi đất nước thay đổi) đến dưới sự quản lý của Cơ quan Vũ trụ Nga (Roscosmos), được thành lập vào năm 1992. Nhiều phòng thiết kế từng thống trị không gian và thiết kế hàng không vũ trụ đã bị đóng cửa hoặc được tái thiết thành các tập đoàn tư nhân. Nền kinh tế Nga trải qua những cuộc khủng hoảng lớn khiến chương trình vũ trụ bị ảnh hưởng. Cuối cùng, mọi thứ ổn định và đất nước tiến lên với kế hoạch tham gia vào Trạm vũ trụ Quốc tế (ISS), cùng với việc tiếp tục phóng các vệ tinh thông tin và thời tiết.
Ngày nay, Roscosmos đã vượt qua những thay đổi trong lĩnh vực công nghiệp vũ trụ của Nga và đang tiến lên với các thiết kế tên lửa và tàu vũ trụ mới. Nó vẫn là một phần của tổ hợp ISS và đã tuyên bố thay vì chương trình vũ trụ Liên Xô, Mir và các phi hành gia Liên Xô của họ (những người đã trở thành công dân Nga khi đất nước thay đổi) thuộc về Roscosmos, Cơ quan Vũ trụ Nga mới thành lập. Nó đã tuyên bố quan tâm đến các sứ mệnh mặt trăng trong tương lai và đang nghiên cứu các thiết kế tên lửa mới và cập nhật vệ tinh. Cuối cùng, Nga muốn lên đặt chân lên sao Hỏa và tiếp tục khám phá Hệ Mặt trời.
Khoa học và công nghệ.
Một trong những chủ trương chính sách quan trọng nhất của Nhà nước Xô viết là việc đầu tư, phát triển khoa học. Trong giai đoạn 1921-1930 đầu tư cho khoa học hàng năm tăng 30%, tính trung bình trong suốt thời kỳ Xô viết là 3% đến 3,5% GDP, còn cao hơn các nước tư bản phát triển khi đó. Ngay trong điều kiện kinh tế kiệt quệ do chiến tranh thế giới và cuộc nội chiến 1918-1922, nhà nước Xô viết vẫn dành một nguồn lực lớn để xây dựng cơ sở nghiên cứu cho các nhà khoa học lớn như Ivan Pavlov (giải Nobel năm 1905), Ilya Mechnikov (giải Nobel 1908) và nhiều nhà khoa học tên tuổi khác.
Tốc độ phát triển đội ngũ khoa học kĩ thuật của Nhà nước Xô viết hết sức nhanh chóng, nếu trong 1913 là 11,6 ngàn thì đến 1975 con số này đã tăng lên gần 1,2 triệu, đến năm 1989 là 1,6 triệu người, chiếm 1/4 số lượng cán bộ khoa học của toàn thế giới.
Liên Xô là cường quốc khoa học hàng đầu thế giới, đặc biệt là về toán học, vật lý lí thuyết, đại dương học, luyện kim, xúc tác hóa học, thủy động lực học từ trường. Liên Xô là nước đầu tiên xây dựng nhà máy điện nguyên tử (1954), chế tạo tàu phá băng đầu tiên, phóng vệ tinh nhân tạo đầu tiên (1957), đưa người đầu tiên bay vào vũ trụ (1961), và xây dựng trạm vũ trụ đầu tiên của loài người. Liên Xô cũng dẫn đầu trong nghiên cứu phản ứng nhiệt hạch và bom khinh khí, phát minh ra máy phát lượng tử (laser) cùng lúc với Mỹ. Ngành viễn thông, từ Internet toàn cầu đến các thiết bị di động đều là sản phẩm dựa trên phát minh của Viện sĩ Zhores Alferov (Nobel năm 2000), và còn rất nhiều thành tựu khoa học đỉnh cao khác.
Những thành tựu khoa học Liên Xô được ghi nhận qua 14 Giải Nobel về vật lí, 1 giải nobel về hóa học, 1 giải về kinh tế học và ba giải Fields về toán học. A. Gurshtein, nhà khoa học Mỹ đã viết:
Hoài niệm Liên Xô vẫn là một quan niệm phổ biến, và không chỉ đối với Nga. Trong cuộc trưng cầu dân ý diễn ra vào tháng 3 năm 1991 với đề nghị duy trì Liên Xô, rằng đó sẽ là "liên bang đổi mới của các nước cộng hòa có chủ quyền bình đẳng, trong đó quyền con người và quyền tự do của mọi người thuộc mọi quốc tịch sẽ được bảo đảm hoàn toàn", hơn 76% cử tri đã bỏ phiếu ủng hộ; Belarus (83%) thậm chí còn nhiệt tình hơn Ukraina (70%) và Nga (71%), và cử tri ở Trung Á nhiệt tình với việc duy trì Liên Xô hơn bất kỳ ai trong số họ. Có rất ít sự phản kháng đối với cuộc đảo chính đã cố gắng bảo vệ Liên Xô vào tháng 8 năm 1991, và có rất ít sự ủng hộ cho quyết định vội vàng và có thể vi hiến để chấm dứt Liên Xô vào tháng 12 năm 1991 - một "hiệp ước" khá kỳ dị, được thực hiện bởi tổng thống Nga Boris Yeltsin, người đã không có lập luận rõ ràng nào (theo những người tham gia, ông ta "say đến mức ngã ra khỏi ghế"), và trong bất kỳ trường hợp nào, không có cam kết nào trước đó về việc giải thể liên bang. Mức độ hỗ trợ của người dân cho nguyên tắc của một nhà nước Liên Xô đã luôn rất cao; trong cuộc khảo sát năm 2008 tại Nga, hơn một nửa người dân (57%) phần lớn hoặc hoàn toàn đồng ý rằng sự sụp đổ của Liên Xô đã là một "thảm họa", và gần hai phần ba (64%) cho rằng các nước cộng hòa thuộc Liên Xô cũ đã thành lập Cộng đồng các quốc gia Độc lập (CIS) nên tái lập Liên Xô như một quốc gia duy nhất hoặc ít nhất là hợp tác chặt chẽ hơn.
Những con số đáng kể, thực sự, tiếp tục khẳng định rằng sẽ tốt hơn nếu hệ thống của Liên Xô vẫn còn, và ở dạng mà nó đã có được trước khi "perestroika". Chẳng hạn, khoảng một nửa trong số những người được Trung tâm Levada hỏi vào tháng 1 năm 2005, đã nghĩ rằng "sẽ tốt hơn nếu mọi thứ vẫn giữ nguyên như trước năm 1985. Tại sao? Bởi vì chúng ta là một quốc gia lớn, thống nhất và trật tự" (26%); Ngoài ra, có "sự chắc chắn trong tương lai" (24%) và "giá hàng tiêu dùng thấp và ổn định" (20%). Đối với "perestroika", chỉ 21% nghĩ rằng đó là một sự phát triển tích cực, nhưng gần gấp ba lần (56%) có quan điểm ngược lại. Và ngay cả khi có nhiều người tin rằng "perestroika" là cần thiết, thì họ cũng tin nó nên được tiến hành theo một cách khác: "không phá hủy trật tự xã hội chủ nghĩa" (33%), hoặc "phát triển vững chắc quan hệ thị trường trong nền kinh tế, nhưng không thúc đẩy phát triển hệ thống đa đảng" (19%). Nhìn lại, quá trình công nghiệp hóa vào cuối những năm 1920 và 1930 được coi là thời kỳ tích cực nhất trong toàn bộ thế kỷ XX của Nga, tiếp theo là những động thái hướng tới chính phủ hiến pháp vào đầu thế kỷ và 'tan băng' dưới thời Khrushchev ở những năm 1950 và đầu những năm 1960; "perestroika" được coi là gây thiệt hại nhất trong tất cả các thay đổi diễn ra trong cùng thời kỳ, theo sát sau đó là sự chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường trong những năm 1990 và tập thể hóa nông nghiệp trong những năm 1930.
Khi được hỏi vào tháng 10 năm 2007, quan điểm của người Nga về cuộc cách mạng tháng Mười, hơn một nửa nghĩ rằng nó đã "mở ra một kỷ nguyên mới trong lịch sử Nga" (24%) hoặc "kích thích sự phát triển kinh tế và xã hội" (31%), thay vì chia sẻ ý kiến này vào năm 1990. Lenin là nhân vật trong lịch sử Nga, hơn ai hết, khơi dậy sự ủng hộ lớn nhất (27%); ông được theo sau bởi Giám đốc cục an ninh chính trị Felix Dzerzhinsky và sau đó là Joseph Stalin. Tỷ lệ 17% cho biết họ sẽ ủng hộ những người Bolshevik trong sự kiện giả thuyết về một cuộc cách mạng tháng Mười khác và 13% khác ít nhất sẽ hợp tác với họ, nhiều hơn 6% sẽ ủng hộ đối thủ của họ, mặc dù số lượng lớn hơn sẽ ở thế trung lập hoặc di cư. Ở cả ba quốc gia, những thay đổi diễn ra rõ ràng phức tạp hơn so với "quá trình chuyển đổi sang dân chủ": đó hầu như không phải là quá trình chuyển đổi dân chủ, mà là do quyết định của một bộ phận giới lãnh đạo. Người Nga, ít nhất, thường thích sử dụng thuật ngữ trung lập "sự sụp đổ của Liên bang" ("raspad soyuza") cho những gì đã xảy ra vào cuối năm 1991, mà không đưa ra những đánh giá giá trị lớn hơn và phức tạp hơn.
Liên Xô được cho là đã xây dựng những ảnh hưởng sau:
Các nước đồng minh/vệ tinh.
Những quốc gia liên minh với Liên Xô là thành viên của Hội đồng Tương trợ Kinh tế (đồng minh kinh tế), hoặc là thành viên Khối Warszawa (đồng minh quân sự) và thuộc khối Đông Âu. Các quốc gia này đều có (hoặc từng có) quân Liên Xô trú đóng trên lãnh thổ và bị Liên Xô chi phối về mặt chính trị và quân sự.
Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
Lực lượng kháng chiến Nam Tư/Nam Tư (kết thúc liên minh năm 1948 do Chia rẽ Tito–Stalin)
Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
Albania (chấm dứt làm thành viên Comecon năm 1961)
từ 1945 tới 1950. Sau chiến tranh Triều Tiên, Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên tiếp tục làm đồng minh của Nga, song lại sử dụng Tư tưởng Chủ thể. Việc lính Trung Quốc rút quân năm 1958, và Liên Xô tan rã năm 1991 đưa nước này trở thành một trong số những quốc gia cô lập nhất thế giới.
Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
Afghanistan (1978-1990) tuy không là thành viên của Comecon và thuộc khối Đông Âu nhưng vẫn được xem là một quốc gia vệ tinh của Liên Xô khi kêu gọi Liên Xô can thiệp quân sự, gây ra cuộc chiến tranh Afghanistan lần 1 và hoàn toàn bị Liên Xô chi phối về mặt đối nội và đối ngoại.
Các quốc gia thân thiết.
Đây là những quốc gia thường không tham gia vào bên nào, thuộc về các nước Thế giới thứ ba, song có các chính phủ thân Liên Xô tồn tại. Không phải chính thể nào cũng là đồng minh của Liên Xô mà hầu hết nó đều chỉ mang tính tạm thời.
Các quốc gia thân Liên Xô song không theo chủ nghĩa cộng sản được để nghiêng:
Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
" Cộng hòa Dân chủ Somalia (1969–1977); năm 1977, với việc Somalia xâm lược Ethiopia, Liên Xô cắt ngoại giao với nước này. Phản ứng lại, Somalia cắt ngoại giao với Liên Xô và Hoa Kỳ sau đó ủng hộ nước này thay thế.
Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
Cộng hòa Nhân dân Congo (1963–1991)
Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Yemen (1967–1990)
Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
Cộng hòa Dân chủ Madagascar "(1972–1991)
Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Ethiopia (1987–1991)
Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
Cộng hòa Nhân dân Bénin (1975–1990)
Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
Cộng hòa Nhân dân Mozambique (1975–1990)
Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
Cộng hòa Nhân dân Angola (1975–1991)
Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
Chính phủ Cách mạng Nhân dân Grenada (1979–1983)
Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (1945–1976).
Các nước cộng sản đối lập.
Có một số các quốc gia đối lập với Liên Xô và họ gần như không bị Moskva chi phối, trong khi vẫn chia sẻ quan điểm tương đồng về ý thức hệ:
Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
Albania (do Chia rẽ Trung-Xô)
(do Chia rẽ Trung -Xô)
Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
Kampuchea (1975–1979, do Chiến tranh Campuchia-Việt Nam)
Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
Somalia (1977–1991), bởi cuộc chiến tranh Ogaden)
Các nước trung lập.
Phần Lan là quốc gia hiếm hoi ở phương tây giữ thế trung lập. Trong Chiến tranh thế giới thứ hai, Phần Lan đã chống cự thành công các cuộc tấn công từ Liên Xô, và cũng là quốc gia tư bản với kinh tế thị trường. Thế nhưng, Hiệp ước Phần Lan-Liên Xô năm 1948 đã phần nào hạn chế sự độc lập của Phần Lan trong chính sách ngoại giao của nước này. Hiệp ước buộc Phần Lan phải bảo vệ Liên Xô nếu có chiến tranh, đồng nghĩa với việc Phần Lan không thể gia nhập NATO và giúp Liên Xô có chỗ đứng trong vấn đề ngoại giao Phần Lan. Để ứng phó, Phần Lan phát triển chính sách Paasikivi–Kekkonen để vừa phát triển ngoại giao với phương Tây và kinh tế, cũng như giúp họ cân bằng ngoại giao với Nga. Thế nhưng ở phương Tây, nó vô tình tạo nên nỗi sợ Phần Lan hóa về nguy cơ các nước phương Tây không thể hỗ trợ nhau trước sự tấn công của Liên Xô.
Phân cấp hành chính.
Giai đoạn 1954–1991, Liên Xô bao gồm 15 nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xô viết:
Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
Và phần lớn các nước này lại được phân chia thành các tỉnh (ngoại trừ 5 nước Latvia, Litva, Estonia, Moldavia và Armenia).
Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Xô viết Liên bang Nga (RSFSR) được phân chia thành 16 nước "cộng hòa tự trị" (avtonomnaya respublika-"автономная республика"), 6 "khu" (krai-"край") và 49 "tỉnh" (oblast-"область"). Dưới cấp khu có thể có "tỉnh tự trị", dưới cấp tỉnh và khu còn có thể có các "vùng dân tộc" (thiểu số) (nationalny okrug-"национальный округ"), đến năm 1977 được đổi tên thành "vùng tự trị" (avtonomny okrug-"автономный округ"). Có tất cả năm tỉnh tự trị, 10 vùng tự trị.
Trong một số nước cộng hòa (Nga, Gruzia, Azerbaidjan, Uzbekistan, Tadjikistan) còn có các nước "cộng hòa tự trị" và "tỉnh tự trị".
Tất cả các đơn vị hành chính-lãnh thổ nói trên được phân chia thành các huyện (rayon-"район") và thành phố trực thuộc tỉnh, vùng và nước cộng hòa.
Đến thế kỷ 19, nghệ thuật văn học Nga đã đạt đến đỉnh cao của sự nổi tiếng thế giới như Aleksandr Pushkin, Lev Tolstoy, Fyodor Dostoyevsky và Anton Chekov đều được coi là biểu tượng của văn học cổ điển. Mặc dù có truyền thống vĩ đại này, tuy nhiên, các nhà văn và nghệ sĩ Liên Xô của thế kỷ 20 đã bị ảnh hưởng sâu sắc bởi bầu không khí chính trị thay đổi.
Thời kỳ xung quanh Cách mạng Nga năm 1917 được đánh dấu bằng một đợt bùng nổ thử nghiệm và sáng tạo văn hóa. Anna Akhmatova và Marina Tsvetaeva đã sản xuất thơ tuyệt đẹp, trong khi các tác giả văn xuôi như Isaak Babel làm chủ truyện ngắn và tiểu thuyết. Marc Chagall và Vasily Kandinsky quay sang bức tranh trừu tượng, và Ballets Russes của Sergei Diaghilev được công chiếu một cách gây sốc khi Nghi lễ mùa xuân của Igor Stravinsky. Giám đốc nhà hát Vsevolod Meyerhold đã tinh chỉnh các phương pháp diễn xuất được cách điệu cao của ông, điều này ảnh hưởng đến nhà làm phim Sergei Eisenstein trong các bộ phim như "Chiến hạm Potemkin".
Khi những năm 1920 phát triển, các nhà lãnh đạo chính trị đã cảnh giác với các loại hình nghệ thuật thử nghiệm này và sự kiểm duyệt được thắt chặt. Chính phủ đã tiếp quản báo in, thay thế các hiệp hội của các nhà văn và nhạc sĩ bằng các công đoàn do nhà nước kiểm soát, và đóng cửa các nhà hát và xưởng vẽ nghệ thuật. Những chiến thuật này đã ngăn chặn một cách hiệu quả bất kỳ tài liệu nào được coi là không phù hợp về mặt chính trị và sự sáng tạo bị kìm hãm nghiêm trọng.
Năm 1934, chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa được tuyên bố chính thức là phương pháp duy nhất được chấp nhận để thể hiện nghệ thuật. Các nhà lãnh đạo cảm thấy rằng nghệ thuật nên không quá phức tạp, nên được sáng tác với mục đích chính là tuyên truyền và tôn vinh Đảng cộng sản, và thực tế là mô tả văn hóa vô sản. Sự chỉ trích đối với Đảng bị nghiêm cấm. Các nghệ sĩ chọn ở lại Liên Xô đã bị buộc phải làm việc trong giới hạn của Chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa. Nhưng phản ứng đối với một số quy định này là không thể tưởng tượng: nhiều người di cư, những người khác đã tự sát, trong khi một số bị cầm tù và thậm chí bị xử tử.
Một sự hồi sinh của văn học và nghệ thuật cuối cùng đã xuất hiện sau cái chết của Stalin. Năm 1954, "Thời báo New York" đã gọi cuốn tiểu thuyết của Ilya Ehrenburg là "The Thaw", vụ đánh bom nhỏ, vì cuộc kiểm tra quan trọng về cuộc sống ở một thị trấn nhà máy và thảo luận về các chủ đề cấm kỵ trước đây. Một phong cách văn xuôi mới khác do Vasily Aksyonov và Vladimir Voinovich dẫn đầu đã mô tả văn hóa giới trẻ hiện đại theo phong cách của J. D. Salinger. Thơ của Yevgeny Yevtushenko đã được đọc trong các sân vận động bóng đá đông đúc và "Một ngày trong cuộc đời của Ivan Denisovich Solanchitsyn" đã được xuất bản. Tuy nhiên, vào cuối những năm 1960, những xu hướng này đã bị đảo ngược một lần nữa và nhiều nhà văn trở lại im lặng hoặc rời khỏi đất nước.
Trong suốt thế kỷ 20, đời sống văn hóa ở Liên Xô đã chịu sự kiểm soát chính trị. Mặc dù phần lớn tác phẩm của họ được tạo ra trong bí mật và bị chính phủ lên án, nhưng các nghệ sĩ Liên Xô đã đạt được sự công nhận đúng đắn trong lịch sử văn hóa thế giới.
Truyền thống chuộng thể thao từ Nga trước Chiến tranh thế giới thứ nhất vẫn tiếp tục tồn tại ở Liên Xô, ngoại trừ việc tập thể thao không còn là đặc quyền của giới thượng lưu, mà mở cửa cho toàn dân. Thể dục, thể thao phổ biến cũng như thể thao hàng đầu, được nhà nước Liên Xô thúc đẩy mạnh mẽ. Có một tổ chức được thành lập đặc biệt trong thực thể liên bang, có nhiệm vụ là làm công tác thanh niên và tìm kiếm những tài năng đầy triển vọng, được đào tạo trong các trường thể thao.
Trong Chiến tranh Lạnh, thể thao là một trong nhiều lĩnh vực của Liên Xô và phương Tây đã cạnh tranh gay gắt. Thể thao có ý nghĩa rất lớn đối với chính quyền Liên Xô cũng như các giải thưởng và huy chương vàng. Các vận động viên thường dành phần lớn thời gian của họ để đào tạo trong các cơ sở đẳng cấp thế giới mặc dù họ có thể là công nhân nhà máy hoặc sĩ quan quân đội.
Sự kiện thể thao lớn nhất từng được Liên Xô tổ chức là Thế vận hội Mùa hè 1980 tại Moskva. Nó trở thành một dấu mốc trong lịch sử hiện đại khi tổng cộng 65 quốc gia (chủ yếu là Tây Âu) tẩy chay sự kiện do Chiến tranh Liên Xô–Afghanistan. Trước tháng 7 năm 1980 đã diễn ra Thế vận hội mùa đông tháng hai ở Lake Placid, New York và một trận đấu khúc côn cầu trên băng mà sau đó được biết đến với tên gọi "Phép màu trên băng".
Kết quả của Liên Xô trong các giải đấu thể thao quốc tế lớn:
Liên Xô chủ yếu có 8 ngày lễ, và các ngày lễ và ngày lễ khác tổng cộng khoảng 30 ngày.
Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. |
Siêu dẫn là một hiện tượng vật lí xảy ra đối với một số vật liệu ở nhiệt độ đủ thấp và từ trường đủ nhỏ, đặc trưng bởi điện trở bằng 0 dẫn đến sự suy giảm nội từ trường (hiệu ứng Meissner). Siêu dẫn là một hiện tượng lượng tử. Trạng thái vật chất này không nên nhầm với mô hình lý tưởng dẫn điện hoàn hảo trong vật lý cổ điển, ví dụ từ thủy động lực học.
Trong chất siêu dẫn thông thường, sự siêu dẫn được tạo ra bằng cách tạo một lực hút giữa một số electron truyền dẫn nào đó nảy sinh từ việc trao đổi phonon, làm cho các electron dẫn trong chất siêu dẫn biểu hiện pha siêu lỏng tạo ra từ cặp electron tương quan. Ngoài ra còn tồn tại một lớp các vật chất, biết đến như là các chất siêu dẫn khác thường, phô bày tính chất siêu dẫn nhưng tính chất vật lý trái ngược lý thuyết của chất siêu dẫn đơn thuần. Đặc biệt, có chất siêu dẫn nhiệt độ cao có tính siêu dẫn tại nhiệt độ cao hơn lý thuyết thường biết (nhưng hiện vẫn thấp hơn nhiều so với nhiệt độ trong phòng). Hiện nay chưa có lý thuyết hoàn chỉnh về chất siêu dẫn nhiệt độ cao.
Sự khác biệt giữa vật siêu dẫn và vật dẫn điện hoàn hảo.
Từ trường bên trong vật dẫn điện hoàn hảo và vật siêu dẫn dưới tác động của môi trường ngoài ở nhiệt độ phòng và nhiệt độ thấp (nhiệt độ nhỏ hơn nhiệt độ Curie). Từ trường bị đẩy ra khỏi vật siêu dẫn ở nhiệt độ thấp không phụ thuộc vào trạng thái ban đầu của vật liệu siêu dẫn ở nhiệt độ phòng. Trạng thái của vật siêu dẫn ở nhiệt độ thấp là trạng thái không thuận nghịch.
Đối với kim loại nói chung, ở nhiệt độ rất cao thì điện dẫn xuất λ tỉ lệ với nhiệt độ T. Ở nhiệt độ thấp, λ tăng nhanh khi T giảm. Nếu kim loại hoàn toàn tinh khiết, có thể nói rằng về nguyên tắc khi T=0 thì λ tiến tới vô cực, nghĩa là điện trở kim loại dần tiến tới 0. Nếu kim loại có lẫn tạp chất thì ở nhiệt độ rất thấp (khoảng vài độ K) kim loại có điện trở dư không phụ thuộc nhiệt độ và tỉ lệ với nồng độ tạp chất. Thực tế không thể đạt tới nhiệt độ T=0 độ K và không thể có kim loại nguyên chất hoàn toàn, nên vật thể có điện trở bằng 0 chỉ là vật dẫn lý tưởng.
Năm 1911, Heike Kamerlingh Onnes làm thí nghiệm với thủy ngân nhận thấy rằng sự phụ thuộc của điện trở thủy ngân vào nhiệt độ khác hẳn sự phụ thuộc đối với kim loại khác. Khi nhiệt độ thấp, điện trở thủy ngân không phụ thuộc vào nhiệt độ nữa, chỉ phụ thuộc vào nồng độ tạp chất. Nếu tiếp tục hạ nhiệt độ xuống tới Tc=4,1 độ K, điện trở đột ngột hạ xuống 0 một cách nhảy vọt. Hiện tượng nói trên gọi là hiện tượng siêu dẫn, và Tc là nhiệt độ tới hạn.
Đến tháng 1 năm 1986 tại Zurich, hai nhà khoa học Alex Muller và Georg Bednorz tình cờ phát hiện ra một chất gốm mà các yếu tố cấu thành là: Lanthan, Đồng, Bari, Oxit kim loại. Chất gốm này trở nên siêu dẫn ở nhiệt độ 35 độ K.
Một thời gian ngắn sau, các nhà khoa học Mỹ lại phát hiện ra những chất gốm tạo thành chất siêu dẫn ở nhiệt độ tới 98 độ K.
Quá trình tìm kiếm, chế tạo chất siêu dẫn.
Chất siêu dẫn có những đặc tính phổ biến như cản từ trường và bóp méo từ trường. Chất siêu dẫn hầu như không tồn tại các dòng chảy electron tự do, sử dụng kĩ thuật đo khe năng lượng sẽ biết được hiệu ứng siêu dẫn trên vật liệu đó. Ngoài ra, vật liệu siêu dẫn không phát ra các bức xạ nhiệt nhưng khi lượng bức xạ đủ mạnh sẽ gây giảm tính siêu dẫn mặc dù chất vẫn trong điều kiện siêu lạnh. Các đặc tính siêu dẫn đó chỉ xảy ra ở một nhiệt độ xác định, thường là nhiệt độ thấp.
Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. |
Màu men gốm (tính từ): nói về tông màu của một sản phẩm hoặc một dòng gốm.
Màu men gốm (danh từ): chỉ những sản phẩm mang sắc men có tính phân biệt hoặc tính đặc trưng.
Ví dụ: Khi nói đến men ngọc, màu men celadon, men celadon, celadon hoặc dòng gốm cổ Trung Hoa là ta hiểu ngay đó là sản phẩm tráng men có màu xanh lục-xanh nước biển nhạt (thực tế thường biến đổi từ lục xám nhẹ đến lục ngả vàng). Nó có tên gọi như vậy do người ta tìm thấy màu này chủ yếu trong nước men của đồ gốm có xuất xứ từ Trung Quốc.
Về mặt kỹ thuật, màu này được tạo thành bằng cách nung sản phẩm đã tráng men có chứa FeO, Cr2O3, NiO, SnO2 và TiO2 với hàm lượng thích hợp trong môi trường khử.
Số Hex = #ACE1AF
RGB (r, g, b) = (172, 225, 175)
CMYK (c, m, y, k) = (21, 0, 19, 12)
HSV (h, s, v) = (123, 24, 88) |
Màu lam sẫm (ultramarine), hay còn gọi là màu xanh hải quân, là biến thái sẫm màu của màu xanh lam. Một số người nhầm màu này với màu đen, đặc biệt khi nó liên quan đến màu quần áo. Nó có tên gọi xanh hải quân do đồng phục của Hải quân Hoàng gia Anh có màu này từ năm 1748 và sau đó được chấp nhận bởi các lực lượng hải quân khác trên thế giới.
Số Hex = #000080
RGB (r, g, b) = (0, 0, 128)
CMYK (c, m, y, k) = (100, 100, 0, 50)
HSV (h, s, v) = (240, 100, 50) |
Nguyễn Cao (1837 - 1887), tên đầy đủ là Nguyễn Thế Cao, hiệu là "Trác Hiên"; là một danh tướng nhà Nguyễn và là một nhà thơ Việt Nam ở thế kỷ 19.
Nguyễn Cao sinh ra trong một gia đình có truyền thống yêu nước, khoa bảng tại làng Cách Bi, huyện Quế Dương, tỉnh Bắc Ninh (nay thuộc phường Cách Bi, thị xã Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh).
Cha là Nguyễn Thế Hanh, đỗ đầu thi Hương, làm Tri huyện các huyện: Thạch An, Tiên Minh, Thủy Đường. Mẹ là Nguyễn Thị Điềm, tục gọi là "Bà Huyện Quế Dương" thuộc dòng họ võ quan Nguyễn Đức ở Quế Ổ.
Năm 1867, đời vua Tự Đức, Nguyễn Cao thi đỗ Giải Nguyên kỳ thi Hương khoa Đinh Mão, nhưng không ra làm quan ngay, mà về quê mở trường dạy học.
Năm 1873, quân Pháp đánh chiếm thành Hà Nội lần thứ nhất, khi ấy ông mới ra làm quan và được giữ chức Tán lý quân vụ tỉnh Bắc Ninh (cho nên người đời còn gọi ông là Tán Cao). Ngay sau đó, ông cùng với Ngô Quang Huy, Phạm Thận Duật, Trương Quang Đản dẫn quân bao vây tỉnh thành Hà Nội, đánh bật đồn bốt của đối phương tại Gia Lâm ngày 4 tháng 12 năm 1873, rồi kéo quân về Siêu Loại đánh dẹp luôn quân phỉ, giữ yên cho dân chúng.
Được triều đình tin cậy, ông được bổ làm tri huyện Yên Dũng, rồi tri phủ Lạng Giang. Khi đương chức, ông xin triều đình cho dân khai khẩn ruộng đất hoang ở vũng Nhã Nam, Phú Bình lập nhiều trang ấp, làng xóm.
Năm 1882, Pháp tiến đánh Hà nội lần thứ hai, Nguyễn Cao lại đem quân về đánh Pháp tại Gia Lâm, rồi sau đó đem quân bao vây tỉnh thành Hà Nội.
Ngày 27 tháng 3 năm 1883 ông đem quân đánh vào phố hàng Đậu, Cửa Đông (Hà Nội), sau đó rút quân về phía bắc sông Hồng. Ngày 15 tháng 5 năm ấy, Nguyễn Cao chỉ huy nghĩa quân đánh một trận lớn tại Gia Lâm. Trận này ông bị thương nặng, nhưng vẫn cố sức chiến đấu. Sau đó, ông còn đánh với Pháp nhiều trận khác nữa, như ở: Phả Lại, Yên Dũng, Quế Dương, Võ Giàng, Từ Sơn, Thuận Thà
Năm 1884, khi thành Bắc Ninh mất vào tay quân Pháp, Nguyễn Cao rút quân về thành Tỉnh Đạo, rồi cùng với Nguyễn Thiện Thuật, Ngô Quang Huy lãnh đạo phong trào "Tam tỉnh Nghĩa Đoàn" hoạt động trên các địa bàn Bắc Ninh, Hưng Yên, Hải Dương, Hà Tây.
Ngày 27 tháng 3 năm 1887, tại một trận đánh ở làng Kim Giang (Hà Tây) ông bị quân Pháp bắt. Đối phương dùng mọi thủ đoạn dụ dỗ, mua chuộc, nhưng đều bị Nguyễn Cao cự tuyệt. Để giữ tròn khí tiết, ông đã tự rạch bụng, moi ruột, hỏi đối phương: "Ruột gan tao đây, bay xem có khúc nào phản thì bảo".
Biết không thể dụ hàng được, ngày 14 tháng 4 năm Đinh Hợi (1887), quân Pháp đã đem Nguyễn Cao ra chém đầu tại vườn Dừa (gần Hồ Gươm, Hà Nội), lúc ấy ông mới 50 tuổi.
Trong "Việt Nam vong quốc sử" của Phan Bội Châu, cái chết của Nguyễn Cao có phần khác hơn đôi chút:
"Bấy giờ hưu quan ở nhà khởi nghĩa rồi tuẫn nạn có Án sát Hải Dương tức giải nguyên Bắc Ninh là Nguyễn Cao. (Ông) tụ đảng hơn nghìn người, mưu lấy lại tỉnh thành, bị quân Pháp bắt được, ông tự mổ bụng, không chết, lại tự cắn lưỡi mà chết. Có người nghĩa sĩ viếng câu đối rằng:
"Thệ tâm thiên địa lưu trường xích,
"Thiết xỉ giang sơn thổ thiệt hồng."
"Lòng thề trời đất tuôn ruột đỏ,
"Răng nghiến non sông nhả lưỡi hồng."
"Ông Cao chết, quân Pháp còn lấy làm hận vì chưa tự tay chém giết được, liền chặt đầu đem bêu"...
Con ông là Nguyễn Hào định làm cuộc kháng Pháp, nhưng bị đối phương phát giác nên bị sát hại. Thấy chồng con đều đã vong thân, bà vợ Nguyễn Cao sau đó cũng tự quyên sinh.
Sinh thời, Nguyễn Cao làm thơ để tỏ chí. Hiện còn lưu truyền đôi ba bài, như: "Khấp Ái Bộc" ("Khóc chú giúp việc thân yêu"), "Văn Hà Nội chế đài Hoàng Diệu ai tín" ("Nghe tin Tổng đốc Hà Nội Hoàng Diệu mất"), "Trách dụ xuất thú" ("Trách kẻ dụ ra đầu thú")...Trong đó có bài "Tự Phận Ca" gồm 58 câu thơ chữ Hán, mà mỗi đoạn đều bắt đầu từ câu: Ta ta tạo vật, hề dĩ ngã vi sinh? ("Hỡi trẻ tạo hóa, sinh ta làm chi?"). Trích một đoạn (dịch nghĩa):
"Hỡi trẻ tạo hóa, sinh ta làm chi?
"Sống mà chìm đắm trong vùng dê chó,(chỉ Pháp)
"Thà chết đi cùng trời đất đi về
"Sống mà làm vật thừa, bướu thịt cõi nhân thế
"Thà chết mà được làm cành quỳnh, hoa ngọc nơi nước đẹp, non kỳ.
"Nhị biếc vẫn đó, Nùng xanh vẫn kia
"Một tấc đất sạch, nấm mồ lè xè
"Dằng dặc thay! Lồng lộng thay!
"Nào gươm núi Sóc, nào thơ trên trời!, nào cọc sông Đằng!
"Khí thiêng lên xuống trên chín tầng mây,
"Hãy hòa làm gió mưa, sấm sét
"Rửa hôi tanh cho dòng nước trôi đi"...
Ngay khi Nguyễn Cao mất, Phụ chính Tôn Thất Thuyết (1835 - 1913), có làm bài "Vãn Nguyễn Cao" để điếu ông. Và trong dân gian cũng có thơ rằng:
Nhất thế khoa danh bách thế hùng
Điện cơ nguy sự tự thung dung
Thệ tâm thiên địa phi trường bạch,
Khiến sử giang sơn mãn thiệt hồng
"Rất mực tài hoa rất mực hùng
"Liều mình vì nước tự thung dung
"Tấc thề trời đất lòng phơi trắng,
"Răng nghiến non sông lưỡi nhuốm hồng."
Nhiều địa phương (mà trước kia ông từng khai lập làng xóm, đóng quân) đã lập đền thờ hoặc thờ ông là Thành hoàng. Tên ông được đặt cho một trong những đường phố lớn của thành phố Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh và thành phố Bắc Ninh. Nhiều trường học cũng đã mang tên ông. |
Trong khoa học và đời sống nói chung, chu kỳ là khoảng thời gian giữa hai lần lặp lại liên tiếp của một sự việc, hay thời gian để kết thúc một vòng quay, một chu trình. Như vậy đơn vị đo chu kỳ là đơn vị đo thời gian.
Trong toán học và một số lĩnh vực khác, chu kỳ có thể hiểu là độ dài giữa hai cấu trúc lặp lại.
Trong chuyển động sóng.
Trong chuyển động sóng, chu kỳ là thời gian giữa hai lần xuất hiện liên tiếp của đỉnh sóng tại một điểm.
Liên hệ với tần số.
Chu kỳ "T" là nghịch đảo của tần số "f":
Liên hệ với bước sóng.
Chu kỳ "T" bằng thời gian để sóng đi với vận tốc "v" đi hết một bước sóng λ:
Trong thiên văn học, chu kỳ quay của một thiên thể nói chung quanh một tâm nào đó là thời gian để thiên thể này hoàn thành một vòng quay trên quỹ đạo của nó, ví dụ chu kỳ quay của Mặt Trời và Hệ Mặt Trời xung quanh tâm Ngân Hà, chu kỳ quay của một hành tinh trên quỹ đạo quanh Mặt Trời, chu kỳ quay của một vệ tinh tự nhiên trên quỹ đạo quanh hành tinh chủ của nó.
Khái niệm chu kỳ quỹ đạo của một hành tinh hay vệ tinh có thể có giá trị khác nhau, tùy theo cách chọn điểm mốc tính.
Chu kỳ tính theo một vị trí cố định trong không gian, tức là lấy nền các sao làm chuẩn, được gọi là chu kỳ theo sao. Đây là chu kỳ đích thực, đúng nghĩa là một vòng quay chính xác của hành tinh hay vệ tinh đó. Thông thường khi nói "chu kỳ quỹ đạo" mà không nói gì thêm thì đây chính là chu kỳ theo sao.
Các khái niệm chu kỳ khác không đúng nghĩa là một vòng quay chính xác của hành tinh hay vệ tinh đó gồm có:
Chu kỳ có thể dùng trong chu kỳ sinh trưởng, thời gian hoàn thành một vòng đời của loài vật.
Trong sức khoẻ phụ nữ.
Chu kỳ có thể dùng trong chu kỳ kinh nguyệt, thời gian từ ngày đầu tiên ra máu kinh đến trước lần ra máu kế tiếp.
Còn một loại chu kì sinh học nữa trên cơ thể con người. Trong đó có 3 yếu tố mang tính chu kì là sức khỏe, trí tuệ và tình cảm. Một số nghiên cứu cho rằng con người bị ảnh hưởng nhiều bởi các chu kì này (có thời gian khác nhau). Một số người cho rằng có thể tránh các tai họa bằng cách tránh các ngày mà trạng thái của các yếu tố đó ở mức thấp nhất. Họ tránh quyết định các công việc mang tính bước ngoặt vào ngày mà trí tuệ của họ ở mức thấp. Trong cuộc sống sẽ có những ngày cả ba đường đều ở mức cực đại. Đó là những ngày rất tốt cho việc có một đứa con. Người ta cho rằng nếu cả cha và mẹ đứa bé khi giao hợp tại thời điểm đó thì đứa trẻ sinh ra sẽ có những khả năng khác thường. Tuy nhiên điều này không dễ xảy ra. Thế mới có chuyện cha mẹ đều là những người có trí tuệ chậm, kém nhưng con cái lại rất thông minh nhanh nhẹn. |
Màu nâu tanin (tan) là màu nâu ánh hung đen. Tên gọi của nó có xuất xứ từ chữ "tannum", hay nước ép từ vỏ cây sồi, được sử dụng trong quy trình thuộc da. Kết quả của quy trình này thông thường tạo ra da với màu 'tanin'.
Số Hex = #D2B48C
RGB (r, g, b) = (210, 180, 140)
CMYK (c, m, y, k) = (18, 29, 45, 0)
HSV (h, s, v) = (34, 33, 82) |
Nhóm ngôn ngữ Rôman
Nhóm ngôn ngữ Rôman là một phân nhóm của nhóm ngôn ngữ gốc Ý (thuộc hệ Ấn-Âu). Nhóm này là hậu thân của tiếng Latinh bình dân được dùng bởi các dân bản địa sau khi Đế quốc La Mã sụp đổ. Nhóm Rôman được chia ra làm ba nhánh: nhánh phía Đông, nhánh phía Nam và nhánh Ý-Tây.
Sơ đồ của Nhóm ngôn ngữ Rôman.
Nhóm ngôn ngữ Rôman (thuộc Ngữ hệ Ấn-Âu) |
Nhóm ngôn ngữ gốc Balt
Nhóm ngôn ngữ Balt là một nhóm ngôn ngữ trong nhánh Balt-Slav của ngữ hệ Ấn-Âu. Nhón ngôn ngữ Balt là tiếng nói của các dân tộc Balt, ngày nay sống ở khu vực phía đông và đông nam của biển Balt.
Các học giả thường xem nhóm này là một ngữ tộc gồm hai nhánh: Balt Tây (gồm toàn ngôn ngữ tuyệt chủng) và Balt Đông (gồm hai thứ tiếng còn tồn tại, tiếng Litva và tiếng Latvia). Phạm vi ảnh hưởng của nhóm Balt Đông có lẽ có thời từng chạm đến tận dãy Ural, nhưng tính xác thực của điều này còn chịu nhiều ngờ vực.
Tiếng Phổ cổ, một ngôn ngữ Balt Tây biến mất vào thế kỷ XVIII, được coi là mang nhiều nét nguyên thủy nhất nhóm Balt. |
Trong vật lý, toán học và các lĩnh vực liên quan, sóng là sự xáo trộn của một trường trong đó một thuộc tính vật lý dao động liên tục tại mỗi điểm hoặc truyền từ một điểm đến các điểm lân cận khác, hoặc dường như di chuyển trong không gian.
Các sóng thường được nghiên cứu trong vật lý là sóng cơ học và sóng điện từ. Sóng cơ học là một biến dạng cục bộ trong một số môi trường vật lý mà truyền từ hạt này sang hạt khác bằng cách tạo ra các ứng suất cục bộ gây ra biến dạng ở các hạt lân cận. Ví dụ, sóng âm thanh trong không khí là các biến thể của áp suất cục bộ lan truyền do va chạm giữa các phân tử khí. Các ví dụ khác về sóng cơ học là sóng địa chấn, sóng trọng lực, sóng xoáy và sóng xung kích. Một sóng điện từ bao gồm sự kết hợp của các trường điện và từ biến đổi, lan truyền trong không gian theo các phương trình của Maxwell. Sóng điện từ có thể truyền qua môi trường điện môi phù hợp hoặc qua chân không; ví dụ như sóng vô tuyến, bức xạ hồng ngoại, ánh sáng nhìn thấy, bức xạ cực tím, tia X và tia gamma.
Các loại sóng khác bao gồm sóng hấp dẫn, là nhiễu loạn trong trường hấp dẫn lan truyền theo thuyết tương đối rộng; sóng khuếch tán nhiệt; sóng plasma, kết hợp biến dạng cơ học và trường điện từ; sóng khuếch tán phản ứng, như trong phản ứng Belousov-Zhabotinsky; và nhiều loại khác.
Sóng cơ học và điện từ dường như thường truyền qua không gian; nhưng, trong khi chúng có thể mang năng lượng, động lượng và thông tin thông qua vật chất hoặc không gian trống, chúng có thể làm điều đó mà không chuyển bất kỳ khối lượng nào. Trong toán học và điện tử học sóng được nghiên cứu như là tín hiệu. Mặt khác, một số sóng dường như không di chuyển chút nào, như sóng đứng (vốn là nền tảng cho âm nhạc) và sóng nhảy thủy lực. Một số loại sóng, giống như sóng xác suất của cơ học lượng tử, có thể hoàn toàn tĩnh.
Một sóng phẳng dường như truyền theo một hướng xác định và có giá trị không đổi trên bất kỳ mặt phẳng nào vuông góc với hướng đó. Về mặt toán học, sóng đơn giản nhất là sóng hình sin. Sóng phức tạp thường có thể được mô tả là tổng của nhiều sóng phẳng hình sin. Một sóng phẳng có thể là sóng ngang, nếu hiệu ứng của nó tại mỗi điểm được mô tả bằng một vectơ vuông góc với hướng truyền hoặc truyền năng lượng; hoặc sóng dọc, nếu các vectơ mô tả song song với hướng truyền năng lượng. Trong khi sóng cơ học có thể là cả ngang và dọc, sóng điện từ là ngang trong chân không.
Một sóng vật lý hầu như luôn bị giới hạn trong một số vùng hữu hạn của không gian, được gọi là miền của nó. Ví dụ, sóng địa chấn do động đất tạo ra chỉ có ý nghĩa trong phần bên trong và bề mặt của hành tinh, vì vậy chúng có thể bị bỏ qua bên ngoài hành tinh. Tuy nhiên, sóng có miền vô hạn, trải rộng trên toàn bộ không gian, thường được nghiên cứu trong toán học và là công cụ rất có giá trị để hiểu sóng vật lý trong các miền hữu hạn.
Mô tả sóng vật lý.
Mọi sóng đều thoả mãn một phương trình vi phân riêng phần gọi là phương trình sóng. Các phương trình sóng có thể có nhiều dạng, phụ thuộc vào môi trường truyền và kiểu lan truyền.
Dạng đơn giản nhất, dành cho sóng lan truyền theo phương "x", theo thời gian "t" và dao động sóng thay đổi trên biến "y":
Ở đây, "v" là vận tốc lan truyền sóng. Hàm sóng tổng quát thoả mãn phương trình trên, giải bởi d'Alembert, là:
Một ví dụ khác về phương trình sóng là phương trình Schrödinger mô tả chuyển động của sóng hạt trong vật lý lượng tử. Nghiệm của phương trình này là hàm sóng mô tả xác suất tìm thấy hạt tại một điểm trong không-thời gian.
Trong một môi trường đồng nhất và đẳng hướng, Joseph Fourier đã tìm thấy là mọi hàm sóng sẽ có dạng tổng quát sau:
có thể được miêu tả như là sự chồng nhau của nhiều sóng điều hoà
Ở đây "A"("x", "t") là biên độ của sóng điều hòa, ω là tần số góc, "k" là số sóng và φ là pha ban đầu. Nếu biên độ của sóng không phụ thuộc thời gian:
thì sóng gọi là sóng dừng.
Tần số góc liên hệ với tần số qua:
Còn số sóng liên hệ với vận tốc lan truyền "v" của sóng qua:
Ở đây λ là bước sóng và "f" là tần số. Tần số "f" liên hệ với chu kỳ "T" qua:
Mọi sóng điều hoà đều có thể đặc trưng bởi biên độ, tần số, vận tốc và pha. Ngoài ra, sóng có thể được mô tả theo phương dao động.
Sóng ngang là sóng vật lý với các dao động vuông góc với phương lan truyền. Ví dụ: sóng lan truyền trên dây đàn khi gẩy đàn, sóng điện.
Sóng dọc là sóng vật lý với các dao động nằm trùng với phương lan truyền, hoặc liên quan đến các biến đổi của các đại lượng vô hướng. Ví dụ: sóng âm thanh, sóng ánh sáng,
Mọi sóng đều có thể biểu diễn bằng một sóng có một bước sóng λ di chuyển với một vận tốc v và có biên độ sóng thay đổi theo hàm số sin
Khi sóng di chuyển đụng vật cản sẽ tạo ra các phản ứng sóng sau
Các sóng ngang đều là có phân cực theo phương nào đó trong mặt phẳng vuông góc với phương lan truyền. Phân cực có thể có nhiều dạng.
Có những sóng có dao động tròn, kết hợp cả sóng ngang và sóng dọc. Ví dụ: sóng nước với các phân tử nước trên bề mặt dao động xoay tròn theo hình elíp.
Phân cực của sóng điện từ ở dải bước sóng mà tính hạt photon thể hiện rõ hơn thì bị phân cực photon ngẫu nhiên che mất, và chỉ hiện ra khi lọc bằng kính phân cực.
Lưỡng tính Sóng Hạt của Phổ Tần Phóng Xạ.
Theo nghiên cứu vật lý phóng xạ cho thấy Phóng Xạ Điện Từ có Phổ tần phóng xạ lưởng tính
Hạt formula_9, formula_10, formula_11
Sóng formula_12, formula_13, formula_14 |
Trong vật lý, tần số góc (hay tốc độ góc; ký hiệu là Ω hay ω) của một chuyển động tròn là đại lượng đo bằng góc mà bán kính quét được trong một đơn vị thời gian. Tốc độ góc của chuyển động tròn đều là đại lượng không đổi. Nó cũng là độ lớn vô hướng của vector vận tốc góc. Ngoài ra "vector tần số góc" formula_1 cũng được hiểu như vận tốc góc. Tần số góc (hay tốc độ góc) là độ lớn của vận tốc góc vectơ.
Tần số góc có đơn vị đo là nghịch đảo thời gian. Trong hệ đo lường quốc tế (SI), tần số góc được đo bằng rad trên giây.
Một vòng quay là 2π rad, bằng tốc độ góc ω nhân với thời gian đi hết một vòng quay (chính là chu kỳ "Τ"). Vậy nên:
ω là tần số góc hoặc tốc độ góc (tính bằng radian trên giây),
T là khoảng thời gian để quay hết 1 vòng (tính bằng giây)
f là tần số thông thường (được đo bằng hertz)
Tần số góc có thể hiểu như là một bội số của tần số. Nó được sử dụng thay tần số để tránh việc xuất hiện nhiều của π, trong các lĩnh vực liên quan nhiều đến chuyển động quay và dao động, như cơ học lượng tử, điện động lực học |
Thánh địa Mỹ Sơn
Thánh địa Mỹ Sơn thuộc xã Duy Phú, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam, cách thành phố Đà Nẵng khoảng 69 km và gần thành cổ Trà Kiệu, bao gồm nhiều đền đài Chăm Pa, trong một thung lũng đường kính khoảng 2 km, bao quanh bởi đồi núi. Đây từng là nơi tổ chức cúng tế của vương triều Chăm Pa. Thánh địa Mỹ Sơn được coi là một trong những trung tâm đền đài chính của Ấn Độ giáo ở khu vực Đông Nam Á và là di sản duy nhất của thể loại này tại Việt Nam.
Thông thường người ta hay so sánh Thánh địa này với các tổ hợp đền đài chính khác ở Đông Nam Á như Borobudur (Java, Indonesia), Pagan (Myanmar), Wat Phou (Lào), Angkor Wat (Campuchia) và Prasat Hin Phimai (Thái Lan). Từ năm 1999, Thánh địa Mỹ Sơn đã được UNESCO chọn là một trong các di sản thế giới tân thời và hiện đại tại phiên họp thứ 23 của Ủy ban di sản thế giới theo tiêu chuẩn C (II) như là một ví dụ điển hình về trao đổi văn hoá và theo tiêu chuẩn C (III) như là bằng chứng duy nhất của nền văn minh châu Á đã biến mất. Hiện nay, nơi đây đã được thủ tướng chính phủ Việt Nam đưa vào danh sách xếp hạng 23 di tích quốc gia đặc biệt quan trọng.
Mỹ Sơn có lẽ được bắt đầu xây dựng vào thế kỷ IV. Trong nhiều thế kỷ, Thánh địa này được bổ sung thêm các ngọn tháp lớn nhỏ và đã trở thành khu di tích chính của văn hóa Chămpa tại Việt Nam. Ngoài chức năng hành lễ, giúp các vương triều tiếp cận với các Thánh thần, Mỹ Sơn còn là trung tâm văn hóa và tín ngưỡng của các triều đại Chămpa và là nơi chôn cất các vị vua, thầy tu nhiều quyền lực. Những di vật đầu tiên được tìm thấy ghi dấu thời đại vua Bhadravarman I (Phạm Hồ Đạt) (trị vì từ năm 381 đến 413), vị vua đã xây dựng một Thánh đường để thờ cúng linga và Shiva. Mỹ Sơn chịu ảnh hưởng rất lớn của Ấn Độ cả về kiến trúc (thể hiện qua các đền tháp đang chìm đắm trong huy hoàng quá khứ), và về văn hóa—thể hiện qua các dòng bia ký bằng chữ Phạn cổ trên các tấm bia.
Dựa trên các tấm bia văn tự khác, người ta biết nơi đây đã từng có một đền thờ đầu tiên được làm bằng gỗ vào thế kỷ IV. Hơn 2 thế kỷ sau, ngôi đền bị thiêu hủy trong một trận hỏa hoạn lớn. Vào đầu thế kỷ VII, vua Sambhuvarman (Phạm Phạn Chi) (trị vì từ năm 577 đến năm 629) đã dùng gạch để xây dựng lại ngôi đền còn tồn tại đến ngày nay (có lẽ sau khi dời đô từ Khu Lật về Trà Kiệu). Các triều vua sau đó tiếp tục tu sửa lại các đền tháp cũ và xây dựng các đền tháp mới để thờ các vị thần. Gạch là vật liệu tốt để lưu giữ ký ức của một dân tộc kỳ bí; và kỹ thuật xây dựng các tháp này của người Chăm cho tới nay vẫn còn bí ẩn. Người ta vẫn chưa tìm ra lời giải đáp thích hợp nào về chất liệu gắn kết, phương thức nung gạch và xây dựng.
Những ngọn tháp và lăng mộ có niên đại từ thế kỷ VII đến thế kỷ XIV, nhưng các kết quả khai quật cho thấy các vua Chăm đã được chôn cất ở đây từ thế kỷ IV. Tổng số công trình kiến trúc là trên 70 chiếc. Thánh địa Mỹ Sơn có thể là trung tâm tôn giáo và văn hóa của nhà nước Chăm Pa khi thủ đô của quốc gia này là Trà Kiệu hay Đồng Dương.
Sau khi vương quốc Chiêm Thành lụi tàn, Thánh địa Mỹ Sơn đã chìm trong lãng quên hàng thế kỷ, đến năm 1885, nó mới được phát hiện. Mười năm sau, các nhà nghiên cứu bắt đầu thực hiện các cuộc phát quang, nghiên cứu khu di tích này.
Có thể chia việc nghiên cứu của các nhà khoa học Pháp về Mỹ Sơn thành hai giai đoạn:
Đến năm 1904, những tài liệu cơ bản nhất về Mỹ Sơn đã được L. Finot và H. Parmentier công bố. Từ công trình nghiên cứu của H. Parmentier, người ta biết cách đây hơn 100 năm Mỹ Sơn còn 68 công trình kiến trúc, và ông đã chia chúng thành các nhóm từ A, A’ đến N.
Nhà nghiên cứu nghệ thuật F.S. Tern chia di tích Chăm Việt Nam thành 7 phong cách nghệ thuật theo quá trình tiến triển của nó. Mỹ Sơn có đủ đại biểu các phong cách, trong đó có 2 phong cách xuất phát từ Mỹ Sơn. Đặc biệt phong cách Mỹ Sơn A1 với xuất phát là đền A1 thường được gọi là kiệt tác kiến trúc của di tích Chăm.
Các nhà khảo cổ học Pháp chia các công trình kiến trúc ở Mỹ Sơn ra làm 10 nhóm chính: A, A', B, C, D, E, F, G, H, K để đặt tên cho mỗi công trình theo kiểu ghép chữ cái và số.
Về mặt kiến trúc thì các đền tháp, lăng mộ ở Mỹ Sơn là nơi hội tụ của các kiểu dáng khác nhau, từ những kiểu cổ đại hay kiểu Mỹ Sơn E1 (thế kỷ VIII, Mỹ Sơn E1 và F1), kiểu Hòa Lai (cuối thế kỷ VIII - đầu thế kỷ IX, Mỹ Sơn A2, C7 và F3), kiểu Đồng Dương (cuối thế kỷ IX - đầu thế kỷ X, Mỹ Sơn A10, A11-13, B4, B12), kiểu Mỹ Sơn A1 (thế kỷ X, Mỹ Sơn B5, B6, B7, B9, C1, C2, C5, D1, D2, D4), kiểu chuyển tiếp Mỹ Sơn A1-Bình Định (đầu thế kỷ XI - giữa thế kỷ XII, Mỹ Sơn E4, F2, nhóm K) và kiểu Bình Định (cuối thế kỷ XI - đầu thế kỷ XIV, Mỹ Sơn B1 và các nhóm G, H).
Nghệ thuật và kiến trúc qua bố cục đền tháp mang ảnh hưởng lớn của phong cách Ấn Độ. Khu Thánh địa gồm nhiều cụm tháp, bố cục mỗi cụm tháp đều có một tháp chính ("Kalan") ở giữa và nhiều tháp phụ nhỏ bao bọc xung quanh. Kalan thường thờ Linga (sinh thực khí) hay linh tượng Shiva. Mặt trước mỗi cụm tháp là một tháp cổng ("Gopura"), tiếp đến tiền đình ("Mandapa"), hạng mục công trình có chức năng là nơi sắp xếp lễ vật và múa hát nghi thức hành lễ. Bên cạnh là một kiến trúc luôn quay về hướng Bắc (hướng thần tài lộc Kuvera), gồm 1 hay 2 phòng, gọi là Kósa Grha dùng để chứa đồ tế nhuyễn và thức ăn (cỗ) cúng chư thần. Các tháp đều có hình chóp, biểu tượng của đỉnh Meru thần Thánh, nơi cư ngụ của các vị thần Hindu. Cổng tháp thường quay về phía đông để tiếp nhận ánh sáng Mặt Trời. Nhiều tháp có kiến trúc rất đẹp với hình những vị thần được trang trí với nhiều loại hoa văn. Phần lớn những kiến trúc này hiện nay đã bị suy tàn, nhưng đây đó vẫn còn sót lại những mảng điêu khắc mang dấu ấn hoàng kim của các triều đại Chăm Pa huyền thoại. Những đền thờ chính ở Mỹ Sơn thờ một bộ linga hoặc hình tượng của thần Shiva - thần bảo hộ của các triều vua Chăm Pa. Những người cầu nguyện thời trước thường đi vòng quanh tháp theo chiều kim đồng hồ trên một lối nhỏ.
Cụm tháp A (Kalan Mỹ Sơn A1) thờ một bộ Linga, có 6 ngôi đền nhỏ từ A2-A7 đối xứng nhau bao quanh thờ các vị thần phương hướng (trừ 2 hướng Đông, Tây): hướng Đông-thần sấm Indra, hướng Đông Nam-thần lửa Agni, hướng Nam-Diêm vương Yama, hướng Tây-thần bầu trời Varuna, hướng Tây Nam-thần Nirrti, hướng Tây Bắc-thần gió Vayu, hướng Bắc-thần Kuvera, hướng Đông Bắc-thần toàn năng Isána. Tháp A1 có 2 cửa chính đối diện nhau, quay về 2 hướng Đông và Tây. Bao phía ngoài, xa tháp chính A1 hơn, là các tháp phụ tương đối lớn, được ký hiệu từ A8-A12, phân bố trên một mặt bằng vuông vắn.
Đối diện với cụm tháp A, là cụm tháp B (Kalan Mỹ Sơn B1) là cụm tháp trung tâm của Thánh địa Mỹ Sơn.
Mặc dù chịu ảnh hưởng lớn từ Ấn Độ giáo, song biểu tượng của Phật giáo cũng tìm thấy ở Mỹ Sơn, vì đạo Phật Đại Thừa ("Mahayana") đã trở thành tín ngưỡng chính của người Chăm vào thế kỷ X. (Một số đền đài đã được xây dựng trong thời gian này, tuy nhiên vào thế kỷ XVII nhiều tòa tháp ở Mỹ Sơn đã được tu sửa và xây dựng thêm) thông tin này không chính xác.
Tại Thánh địa Mỹ Sơn có một đền xây dựng bằng đá, nó cũng là đền đá duy nhất của các di tích Chăm. Văn bia tại Mỹ Sơn cho biết, đền này được trùng tu lần cuối cùng bằng đá vào năm 1234. Nhưng rất tiếc là xây dựng chưa hoàn thành. Khi người Pháp khám phá Mỹ Sơn nó có nền như ngày nay, phía trên là đống gạch khổng lồ mà họ phải dọn dẹp 2 tháng mới xong (theo Vòng tròn Mỹ Sơn, tác giả Parmentier, 1904) Ngày nay, ngôi đền này đã bị sập (có lẽ do bom Mỹ trong chiến tranh Việt Nam, vì ngay sát tháp là một hố bom sâu hoắm vẫn dấu tích) nhưng hệ móng của nó cho thấy nó cao trên 30 m và đây là ngôi đền cao nhất của Thánh địa này. Các tài liệu thu thập được xung quanh khu đền này cho thấy nhiều khả năng đây là vị trí của ngôi đền đầu tiên vào thế kỷ IV.
Công việc bảo tồn đầu tiên diễn ra năm 1937 bởi các nhà khoa học người Pháp. Trong giai đoạn từ năm 1937 đến 1938, đền A1 và các đền nhỏ xung quanh nó được trùng tu. Các năm sau, từ năm 1939 đến 1943, các tháp B5, B4, C2, C3, D1, D2 được trùng tu và gia cố lại. Tuy nhiên, nhiều tháp và lăng mộ (bao gồm tổ hợp A với tháp A1 đã từng rất tráng lệ - gồm tháp chính A1 cao 24 mét và 6 tháp phụ xung quanh, bị hủy diệt năm 1969) đã bị hủy diệt trong Chiến tranh Việt Nam.
Phần lớn các đền đài trong các nhóm khu vực trung tâm như B, C và D còn tồn tại, và mặc dù rất nhiều pho tượng, bệ thờ và linga đã bị lấy về Pháp trong thời kỳ thực dân hay gần đây được chuyển tới các viện bảo tàng như Viện bảo tàng Lịch sử Việt Nam, Viện bảo tàng Thành phố Hồ Chí Minh và Bảo tàng Nghệ thuật điêu khắc Chăm Đà Nẵng, vẫn có một viện bảo tàng thứ ba được thiết lập trong 2 ngôi đền với sự trợ giúp của người Đức và Ba Lan để trưng bày các mô hình các lăng mộ và hiện vật còn lại. Ngày 24 tháng 3 năm 2005 tỉnh Quảng Nam đã tổ chức lễ khánh thành nhà trưng bày, giới thiệu di tích Mỹ Sơn với diện tích 5.400 m² với nhà trưng bày chính rộng 1.000 m² ngay lối dẫn vào di tích (khoảng 1 km) do Nhật Bản tài trợ không hoàn lại. Tuy nhiên, hiện nay vẫn còn nhiều lo ngại về tình trạng của các công trình kiến trúc, một số trong đó có khả năng sập đổ. Trong giai đoạn từ năm 2002 đến 2004, Bộ Văn hóa và Thông tin Việt Nam đã chi khoảng 7 tỷ VNĐ (USD 440.000) cho dự án phục chế khẩn cấp Thánh địa Mỹ Sơn; một dự án của UNESCO được hỗ trợ bởi chính phủ Ý với số tiền là USD 800.000 và các cố gắng phục chế có nguồn vốn từ Nhật Bản hiện nay cũng đang góp phần ngăn chặn tình trạng xuống cấp của chúng. Các công việc phục chế tại đây cũng được "World Monuments Fund" (WMF) góp vốn.
Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. |
Quần đảo Cát Bà
Quần đảo Cát Bà là một quần đảo gồm 367 đảo, trong đó có đảo Cát Bà ở phía nam vịnh Hạ Long, ngoài khơi thành phố Hải Phòng và tỉnh Quảng Ninh, cách trung tâm thành phố Hải Phòng khoảng 30 km, cách thành phố Hạ Long khoảng 25 km. Về mặt hành chính, quần đảo thuộc huyện Cát Hải, thành phố Hải Phòng. Nơi đây đã được UNESCO công nhận là khu dự trữ sinh quyển thế giới. Cơ sở hạ tầng khá phát triển với tổ hợp nhiều khách sạn, nhà nghỉ, khu nghỉ dưỡng, chùa chiền và đặc biệt là toàn bộ khu vực đảo đã được thành phố Hải Phòng triển khai các trạm thu phát sóng vô tuyến (Wifi). Cát Bà đang không ngừng được đầu tư và phát triển để trở thành địa điểm du lịch mang tầm vóc quốc tế trong tương lai.
Vị trí địa lý.
Quần đảo có tọa độ 106°52′- 107°07′Đông, 20°42′- 20°54′độ vĩ Bắc. Diện tích khoảng gần 300 km². Dân số 45.000 người (năm 2019). Các đảo nhỏ khác: hòn Cát Ông, hòn Cát Đuối, hòn Mây, hòn Quai Xa, hòn Tai Ké
Cát Bà, còn gọi là đảo Ngọc, là hòn đảo lớn nhất trên tổng số 1.969 đảo trên vịnh Lan Hạ.Theo truyền thuyết địa phương thì tên Cát Bà còn được đọc tên Các Bà. Vì có một thời các bà, các chị ở đây đứng ra lo việc hậu cần cho các ông đánh giặc trên một hòn đảo lân cận. Đảo có tên là đảo các Ông (Cát Ông). Như vậy, Cát Bà là đọc chệch của các Bà.
Cát Bà là một hòn đảo đẹp và thơ mộng lịch sử
Tương truyền xưa kia tên đảo là "Các Bà", là hậu phương cho "Các Ông" theo Thánh Gióng đánh giặc Ân. Ở thị trấn Cát Bà hiện nay có đền Các Bà. Các bản đồ hành chính thời Pháp thuộc (như bản đồ năm 1938) còn ghi là "Các Bà". Như vậy có lẽ tên gọi "Các Bà" đã bị đọc chệch thành "Cát Bà".
Trước đây đảo Cát Bà thuộc huyện Cát Bà, năm 1977 mới sáp nhập với huyện Cát Hải thành huyện Cát Hải mới. Trước đây đảo thuộc tỉnh Quảng Yên, sau thuộc khu Hồng Quảng, đến năm 1956 mới chuyển về thành phố Hải Phòng.
Thị trấn Cát Bà hiện nay là huyện lị huyện Cát Hải. Trước năm 1945, thị trấn Cát Bà là phố Cát Bà, rồi đại lý Cát Bà thuộc huyện Cát Hải, tỉnh Quảng Yên. Sau năm 1945, trở thành thị xã Cát Bà. Đến năm 1957 thị xã Cát Bà đổi thành thị trấn và huyện Cát Bà mới thành lập.
Nằm trong khu vực nhiệt đới gió mùa chịu ảnh hưởng của đại dương nên các chỉ số trung bình về nhiệt độ, độ ẩm, lượng mưa cũng tương đương như các khu vực xung quanh, tuy nhiên có đặc điểm là mùa đông thì ít lạnh hơn và mùa hè thì ít nóng hơn so với đất liền. Cụ thể là:
Quần đảo gồm 367 hòn đảo lớn nhỏ nằm trên diện rộng khoảng 300 km². Đảo Cát Bà lớn nhất có diện tích 153 km², là đảo lớn thứ ba ở Việt Nam sau Phú Quốc và Cái Bầu, có đỉnh cao nhất 331m. Các đảo còn lại ít khi độ cao đạt 100-250m, phần nhiều là đảo nhỏ có độ cao dưới 100m và các hòn rất nhỏ thường chỉ cao 20-50m . Đây là một khu vực địa hình karst nhiệt đới bị ngập chìm do biển tiến Holocen, có cảnh quan độc đáo tương tự vịnh Hạ Long là phổ biển các chóp kiểu Phong Tùng và các chóp kiểu Phong Linh, các thung karst và phễu karst. Các hòn đảo là các chóp hoặc tháp kart đơn lẻ hoặc thành cụm, vách bờ dốc đứng nổi trên mặt nước biển trong xanh. Nhiều tên đảo gọi theo hình dáng của vạn vật như Ớt, Chuông, Mai Rùa, Lã Vọng, Đuôi Rồng, Báo và Sư Tử , độc đáo hình dạng các hòn đảo. Trên đảo Cát Bà có các thung lũng karst như Trung Trang, Gia Luận, Tai Lai và Việt Hải. Chúng có độ cao 5-8m, chiều rộng 100-600m, có nơi rộng tới 1 km, kéo dài một vài tới chụckm, được lấp đầy bằng các trầm tích sông-biển Pleistocen muộn. QĐCB có rất nhiều hang động đẹp thuộc ba nhóm: hang ngầm cổ, hang nền và hang hàm ếch biển. Các hang ngầm cổ như động Hùng Sơn, động Hoa, hang Trung Trang v.v thường có độ cao trên 10m. Các hang nền phổ biến nhưng thường có kích thước nhỏ và thường có độ cao dưới 10m. Hang hàm ếch biển có khi xuyên thủng các khối đá vôi tạo thành hang luồn như hang Xích, hang Thủng, , rạn san hô, đồng bằng đáy vịnh và luồng lạch. Tùng, áng là các thung lũng hoặc phễu karst bị biển ngập chìm. Tùng có 26 chiếc với hình dạng kéo dài (tùng Gấu, tùng Chàng ). Áng có 33 chiếc với hình dạng đẳng thước (áng Thảm, áng Vẹm và áng Kê, ).
Về cấu trúc địa chất, quần đảo nằm trên bể Đông Bắc Bắc Bộ, ưu thế các đá trầm tích carbonat Paleozoi và trầm tích bở rời Đệ Tứ. Biểu hiện magma ở QĐCB không đáng kể với vài thể đá magma xâm nhập dạng mạch đã được xác định là spesartit và minet tại Hùng Sơn và Bến Bèo. Hệ tầng Phố Hàn "(D3-C1 ph)" có tuổi Đevon muộn - Cac bon sớm, phân bố chủ yếu ở phía TN Nam và giữa đảo Cát Bà, lộ ít hơn ở phía Bắc đảo, dày khoảng 400 – 650 m, gồm đá vôi xám đen phân lớp xen các đá lục nguyên và đá silic. Ở bờ vụng Cát Bà lộ ra mặt cắt địa tầng chuyển tiếp giữa Đevon và Carbon rất có giá trị khoa học và di sản địa chất. "Hệ tầng Bắc Sơn" ("C1-P2 bs") "(C1-P2 bs"), tuổi Carbon sớm - Permi muộn, phân bố rộng khắp, dày khoảng 700–1000 m, chủ yếu gồm đá vôi màu xám, xám sáng, phân lớp dày và dạng khối. Các trầm tích Đệ Tứ gồm trầm tích hệ tầng Vĩnh Phúc "(Q13 vp)" tuổi Pleistocen muộn, thành phần cát, cuội cấu tạo nên bậc thềm biển cao 5-8m ở Ao Cối và các trầm tích sông - biển ở các thung lũng Gia Luận, Trung Trang; Trầm tích hệ tầng Hải Hưng "(Q11-2 hh)," tuổi Holocen sớm - giữa và "Trầm" tích hệ tầng Thái Bình "(Q22-3 tb)." Các trầm tích hiện đại gồm có trầm tích bãi biển, bãi triều, bãi lầy sú vẹt và trầm tích đáy biển nông, thành phần từ sét, bột đến cát sạn. Biển tiến sau băng hà lần cuối cùng bắt đầu từ 17-18 nghìn năm trước, khi mực biển thấp hơn hiện nay 100 - 120m, đến khoảng 7-8 nghìn năm trước bắt đầu tràn ngập khu vực Cát Bà, mở rộng nhất vào 5-6 nghìn năm trước chính thức biến nơi này thành quần đảo.
Lễ hội của người dân Cát Bà giống như lễ hội của những người Kinh ở khu vực khác, tuy nhiên có thêm ngày 1 tháng 4 dương lịch là lễ hội ngày Bác Hồ về thăm làng cá.Còn có thêm lễ hội " Đền Bà " ở xã Hiền Hào. Đây cũng là một trong những lễ hội lớn của người dân địa phương. ngoài ra còn rất nhiều lễ hội khác.
Trên đảo chính Cát Bà có rừng nguyên sinh trên núi đá vôi là một nơi đang được đẩy mạnh phát triển du lịch sinh thái. phía đông nam của đảo có vịnh Lan Hạ, phía tây nam có vịnh Cát Gia có một số bãi cát nhỏ nhưng sạch, sóng không lớn thuận tiện cho phát triển du lịch tắm biển, nghỉ dưỡng. Trên biển xuất hiện nhiều núi đá vôi đẹp tương tự vịnh Hạ Long và Bái Tử Long. Ở một số đảo nhỏ, cũng có nhiều bãi tắm đẹp.
Cát Bà với vẻ đẹp nguyên sơ và hùng vĩ, nó được mệnh danh là Hòn Ngọc của Vịnh Bắc Bộ
Khu dự trữ sinh quyển.
Quần đảo Cát Bà có rừng mưa nhiệt đới trên đảo đá vôi, rừng ngập mặn, các rặng san hô, thảm rong - cỏ biển, hệ thống hang động, tùng áng, là nơi hội tụ đầy đủ các giá trị bảo tồn đa dạng sinh học, bảo đảm các yêu cầu của khu dự trữ sinh quyển thế giới theo quy định của UNESCO.
Cát Bà đã được UNESCO công nhận là khu dự trữ sinh quyển thế giới ngày 02 tháng 12 năm 2004. Ngày 1 tháng 4 năm 2005 tại đây đã diễn ra lễ đón nhận bằng quyết định của UNESCO và kỷ niệm sự kiện này. Việt Nam hiện có 06 khu dự trữ sinh quyển thế giới được UNESCO công nhận là: Cần Giờ, Cát Tiên, châu thổ sông Hồng, miền Tây Nghệ An, Kiên Giang và quần đảo Cát Bà.
Tổng diện tích khu dự trữ sinh quyển Cát Bà rộng hơn 26.000 ha, với 2 vùng lõi (bảo tồn nghiêm ngặt và không có tác động của con người), 2 vùng đệm (cho phép phát triển kinh tế hạn chế song kết hợp với bảo tồn) và 2 vùng chuyển tiếp (phát triển kinh tế). Khu dự trữ sinh quyển Cát Bà là vùng hội tụ đầy đủ cả rừng mưa nhiệt đới trên đảo đá vôi, rừng ngập mặn, các rạn san hô, thảm rong và đặc biệt là hệ thống hang động.
Sách đỏ Việt Nam.
Gần 60 loài đã được coi là các loài đặc hữu và quý hiếm đã được đưa vào Sách đỏ Việt Nam như các loài động vật: ác là, quạ khoang, voọc đầu vàng, voọc quần đùi trắng và các loài thực vật như chò đãi, kim giao ("Podocarpus fleurii"), lá khôi ("Ardisia" spp.), lát hoa ("Chukrasia tubularis"),dẻ hương, thổ phục linh, trúc đũa, sến mật. Ngoài ra còn 8 loài rong, 7 loài động vật đáy cũng cần được bảo vệ.
Đề cử di sản thế giới.
Thất bại với đề cử di sản thiên nhiên thế giới (độc lập) năm 2014.
Năm 2014, tại kỳ họp thứ 38 của Ủy ban Di sản thế giới tại Qatar Quần đảo Cát Bà từng được đưa ra bầu chọn là di sản thiên nhiên thế giới nhưng bị thất bại (Hồ sơ Quần đảo Cát Bà được các cơ quan tư vấn của UNESCO đặt ở mức N - Not recommended for inscription, tức không được khuyến khích để ghi danh vì lý do Cát Bà Vịnh Lan Hạ nằm cùng quần thể với Vịnh Hạ Long, cần được đệ trình như là một quần thể). Trước đó, Cát Bà ứng cử hồ sơ di sản theo các tiêu chí sau:
Đệ trình Vịnh Hạ Long - Cát Bà là di sản thiên nhiên thế giới.
Với sự hỗ trợ của Cơ quan Phát triển Quốc tế Hoa Kỳ (USAID) sáng kiến Liên minh Vịnh Hạ Long - Cát Bà được khởi xướng vào năm 2014 nhằm xây dựng cơ chế hợp tác giữa Nhà nước, doanh nghiệp và cộng đồng địa phương từ đó thúc đẩy hoạt động bảo tồn, bảo vệ môi trường tại Vịnh Hạ Long và quần đảo Cát Bà.
Năm 2015, Liên minh đã thành lập Ban lãnh đạo với định hướng tăng cường sự tham gia của DN, giải quyết những thách thức về môi trường từ hoạt động của các du thuyền, hỗ trợ kỹ thuật cho UNESCO trong công tác quản lý Vịnh Hạ Long cũng như đề xuất mở rộng Di sản Thiên nhiên thế giới Vịnh Hạ Long bao gồm quần đảo Cát Bà.
Đại diện TP Hải Phòng cũng thông tin, tháng 7/2017, Hải Phòng đã nộp báo cáo tóm tắt về di sản đến Trung tâm Di sản thiên nhiên thế giới và đã được chấp nhận. Từ đó đến nay đã tập trung xây dựng hồ sơ và đến nay Hồ sơ chính đã được hoàn thành, đang lấy ý kiến các sở, ban ngành trước khi chuyển sang Quảng Ninh và trình Ủy ban Di sản quốc , đầu tháng 9/2018, sẽ nộp Bộ hồ sơ lên Thường trực Trung tâm Di sản thiên nhiên thế giới và sẽ hoàn thiện lại theo ý kiến tham vấn, tháng 2/2019, sẽ trình bộ hồ sơ chính thức |
Đồ Sơn là một quận nội thành thuộc thành phố Hải Phòng, Việt Nam.
Đồ Sơn là một bán đảo nhỏ do dãy núi Rồng vươn dài ra biển 5 km với hàng chục mỏm đồi cao từ 25 đến 130 m. Quận nằm ở phía đông nam thành phố Hải Phòng, cách trung tâm thành phố khoảng 22 km về hướng đông nam, có vị trí địa lý:
Đồ Sơn có một khu nghỉ mát gồm nhiều bãi biển có phong cảnh đẹp ở miền bắc Việt Nam.
Do ở phía bắc và phía nam của quận là hai cửa sông Lạch Tray và Văn Úc thuộc hệ thống sông Thái Bình đổ ra biển đem theo nhiều phù sa, cộng thêm việc quai đê lấn biển ở Đảo Hòn Dấu để xây dựng khu Resort cao cấp, nên nước biển ở khu vực này đục (nhất là khu II) nhưng vẫn có sức thu hút du khách.
Quận Đồ Sơn có diện tích tự nhiên là 42,37 km² và dân số là 102.234 người.
Quận Đồ Sơn có 6 đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc, bao gồm 6 phường: Bàng La, Hải Sơn, Hợp Đức, Minh Đức, Ngọc Xuyên, Vạn Hương.
Đồ Sơn là bãi biển nổi tiếng từ thời nhà Nguyễn và thời Pháp thuộc. Cũng được nhắc đến trong truyện Trống mái (1936) của nhà văn Khái Hưng.
Thị xã Đồ Sơn được thành lập ngày 14 tháng 3 năm 1963 trên cơ sở tách khu vực Đồ Sơn và 2 xã: Vạn Sơn, Ngọc Hải thuộc huyện Kiến Thụy; cũng từ đó, thành lập 4 tiểu khu Vạn Hương, Vạn Sơn, Ngọc Hải, Ngọc Xuyên.
Ngày 7 tháng 4 năm 1966, chuyển xã Bàng La thuộc huyện Kiến Thụy vào thị xã Đồ Sơn.
Ngày 26 tháng 12 năm 1970, giải thể xã Bàng La, chuyển các thôn của xã Bàng La thành các tiểu khu trực thuộc thị xã Đồ Sơn.
Ngày 5 tháng 3 năm 1980, thị xã Đồ Sơn nhập với 21 xã của huyện An Thụy là: Tú Sơn, Đại Hợp, Đoàn Xá, Hợp Đức, Hòa Nghĩa, Anh Dũng, Minh Tân, Tân Phong, Đông Phương, Đại Đồng, Hưng Đạo, Đa Phúc, Ngũ Đoan, Đại Hà, Tân Trào, Thụy Hương, Kiến Quốc, Ngũ Phúc, Thanh Sơn, Hữu Bằng, Thuận Thiên thành huyện Đồ Sơn, nội thị của thị xã Đồ Sơn trở thành thị trấn Đồ Sơn thuộc huyện cùng tên, tái lập xã Bàng La. Từ đó, huyện Đồ Sơn gồm 1 thị trấn Đồ Sơn và 24 xã: Bàng La, Anh Dũng, Hưng Đạo, Đa Phúc, Hải Thành, Tân Thành, Hòa Nghĩa, Hợp Đức, Đông Phương, Đại Đồng, Hữu Bằng, Thuận Thiên, Ngũ Phúc, Kiến Quốc, Thụy Hương, Thanh Sơn, Đại Hà, Ngũ Đoan, Tân Trào, Đoàn Xá, Đại Hợp, Tú Sơn, Tân Phong, Minh Tân. Tuy nhiên, thị trấn Đồ Sơn không phải là huyện lỵ của huyện cùng tên Đồ Sơn, huyện lỵ của huyện đặt tại xã Thanh Sơn.
Ngày 14 tháng 2 năm 1987, thành lập thị trấn Núi Đối, thị trấn huyện lỵ huyện Đồ Sơn trên cơ sở một phần các xã Minh Tân và Thanh Sơn.
Tháng 6 năm 1988, huyện Đồ Sơn chia lại thành thị xã Đồ Sơn và huyện Kiến Thụy. Thị xã Đồ Sơn được tái lập gồm 4 phường: Ngọc Hải, Vạn Sơn, Vạn Hương, Ngọc Xuyên và xã Bàng La.
Ngày 12 tháng 9 năm 2007, thị xã Đồ Sơn sáp nhập thêm xã Hợp Đức thuộc huyện Kiến Thụy và được chuyển thành quận Đồ Sơn theo Nghị định số 145/2007/NĐ-CP của Chính phủ Việt Nam. Đồng thời, chuyển xã Bàng La thành phường Bàng La; chia xã Hợp Đức thành 2 phường: Hợp Đức và Minh Đức.
Ngày 1 tháng 2 năm 2020, sáp nhập phường Ngọc Hải và phường Vạn Sơn thành phường Hải Sơn.
Từ đó, Quận Đồ Sơn có 6 phường như hiện nay.
Nguồn gốc tên gọi Đồ Sơn.
Đồ Sơn (塗山) nghĩa Hán là núi bùn, núi đất. Tên gọi này có từ xa xưa. Vào thời Mạc thì Nguyễn Bỉnh Khiêm có viết: "Ông cùng với các lão tăng đàm luận và thường thả thuyền dạo chơi ở Kim Hải hay Úc Hải để xem đánh cá. Các danh sơn thắng cảnh như An Tử, Ngọa Vân, Kính Chủ, Đồ Sơn, nơi nào ông cũng chống gậy trèo lên, thừa hứng ngâm vịnh, quên cả sớm chiều".
Tiềm năng du lịch của Đồ Sơn mới bắt đầu được khai thác bởi người Pháp từ những năm đầu thế kỷ XX. Còn trước đó hơn 2 thế kỷ, trong các thế kỷ XVII - XVIII, dù tên gọi Đồ Sơn chưa được nhắc tới nhưng trong thư tịch và bản đồ cổ của những nhà hàng hải, thương nhân châu Âu tới Đàng Ngoài (chủ yếu là người Hà Lan và người Anh) thì tên gọi "Batsha" hay "Batshaw" đã xuất hiện phổ biển. Ngày nay người ta đã xác định được vị trí của Batsha (Batshaw) ở các thế kỷ XVII - XVIII là một làng chài (hoặc xóm chài) nằm trên bán đảo Đồ Sơn.
Theo như mô tả của nhà hàng hải người Anh ở thế kỷ XVII William Dampier trong cuốn sách "Du hành và Khám phá" năm 1688, cư dân sống ở làng chài mang tên Batsha (Đồ Sơn ngày nay) không chỉ làm nghề đánh cá mà còn kiêm luôn vai trò làm hoa tiêu dẫn đường cho những thuyền buôn phương Tây vào vùng cửa sông Thái Bình thuộc khu vực các huyện Tiên Lãng và Vĩnh Bảo (Hải Phòng). Đây là khu vực chủ yếu ở Đàng Ngoài nơi mà các thương thuyền đến từ phương Tây như Hà Lan hay Vương quốc Anh được tự do ra vào, buôn bán trao đổi hàng hoá và lưu trú lâu dài vào thời đó.
Nhưng không phải chỉ những nhà hàng hải hay thương nhân châu Âu mới chú ý đến vai trò của Batsha (Batshaw) trên con đường thương mại của xứ Đàng Ngoài mà đến cả những tên tuổi vĩ đại trong lịch sử khoa học như Isaac Newton và Pierre-Simon Laplace cũng nhắc đến địa danh "Batsha" (Đồ Sơn) trong các tác phẩm của họ bởi hiện tượng thủy triều đặc biệt ở vùng biển Đồ Sơn.
Trong tác phẩm khoa học kinh điển "Principia Mathematica" của nhà vật lý kiêm toán học vĩ đại người Anh Isaac Newton xuất bản (nguyên bản tiếng Latinh) lần đầu vào năm 1687 có nhắc đến địa danh cảng "Batsha" nằm trong vĩ độ 20°50' bắc, thuộc vương quốc "Tunquini" (xứ Đàng Ngoài), nơi mà thủy triều lên xuống chỉ một lần trong ngày. Newton cũng cho biết ông có được thông tin đó từ những nhà hàng hải, những người có thể đã từng du hành tới Đàng Ngoài trong thế kỷ XVII.
Hơn một thế kỷ sau đó, một nhà nhà vật lý kiêm toán học vĩ đại khác là Pierre-Simon Laplace (người được giới khoa học mệnh danh là "Newton của nước Pháp") đã nhắc lại hiện tượng thủy triều ở "Batsha" trong tác phẩm nổi tiếng của ông xuất bản năm 1796 có tựa đề "Exposition du système du monde".
Nguồn gốc của Kinh tộc Tam Đảo.
Vào năm Hồng Thuận thứ 3 (1511) đời vua Lê Tương Dực, một nhóm ngư dân khoảng trên dưới 100 người từ bán đảo Đồ Sơn (khi đó thuộc huyện Nghi Dương, trấn Hải Dương, vốn là đất phát tích của Nhà Mạc) đã di cư theo đường biển đến lập nghiệp và bảo vệ chủ quyền biển đảo trên ba hòn đảo nhỏ (được gọi chung là Tam Đảo) thuộc châu Vĩnh An, trấn An Bang. Đến Hiệp định Pháp Thanh năm 1885 thì bị cắt về Trung Quốc. Sau này trở thành các thôn Vạn Vĩ (Wanwei), Vu Đầu (Wutou) và Sơn Tâm (Shanxin), ngày nay thuộc thành phố cấp huyện Đông Hưng, Phòng Thành Cảng, nằm trong địa phận quản lý của "địa cấp thị" Phòng Thành Cảng, Quảng Tây, Trung Quốc, gần biên giới Trung-Việt, cách cửa khẩu quốc tế Móng Cái khoảng 25 km theo đường bộ. Trải qua hơn 500 năm hòa nhập vào nền văn hóa địa phương, họ vẫn sử dụng tiếng Việt là ngôn ngữ giao tiếp chủ yếu và vẫn còn lưu giữ được nhiều truyền thống của người Việt từ xa xưa. Do chưa bị Hán hóa nên họ được gọi chung là Kinh tộc Tam Đảo.
Kinh tế - xã hội.
Cơ cấu kinh tế của toàn quận trong đó ngành Du lịch và dịch vụ chiếm khoảng 70%, đánh bắt thủy sản và nông nghiệp: chiếm 23% và Công nghiệp và xây dựng: 7%. Ước lượng đến năm 2005 GDP trên đầu người đạt khoảng 1.100 USD.
Đồ Sơn là khu nghỉ mát lớn nhất miền Bắc. Đồ Sơn rất đông du khách từ khắp mọi miền Việt Nam cũng như khách quốc tế về đây tắm biển, nghỉ ngơi và leo núi, cắm trại, ngắm nhìn phong cảnh biển đẹp buổi chiều tà:
*Đồ Sơn là khu nghỉ mát và tắm biển nổi tiếng ở miền Bắc Việt Nam, nơi đây có sự kết hợp hài hòa giữa một bên là cát trắng mịn màng, biển cả mênh mông đậm màu phù sa và một bên là những ngọn núi đồi thông, phi , Đồ Sơn là nơi lui tới nghỉ ngơi, hưởng thụ của vua chúa, quan lại đô hộ. Đồ Sơn có ba bãi tắm chính: khu Một, khu Hai và khu Ba.
*Khu du lịch đảo Dáu với bể bơi nhân tạo thuộc hàng lớn nhất Châu Á, có vườn chim, vườn thú, khu vui chơi giải trí, các khách sạn đẳng cấp 3 đến 5 sao, đặc biệt không thể thiếu ngọn hải đăng cổ kính hơn trăm năm tuổi. Kể từ khi được tu sửa khang trang, nơi đây còn có thêm khu "Đà Lạt thu nhỏ", hằng năm được rất đông du khách đến vui chơi giải trí vào những ngày hè.
Ngoài ra,khu du lịch Đồ Sơn còn vinh dự là nơi có hòn đảo nhân tạo đầu tiên của Việt Nam - đảo Hoa Phượng, toạ lạc tại trung tâm khu du lịch, được trang bị đầy đủ các tiện nghi hiện đại cực kỳ sang trọng như trung tâm thương mại cao cấp ở giữa đảo, bể bơi nhân tạo, phố ăn uống, khách sạn đẳng cấp 5 sao, khu biệt thự, bến du thuyề:
* Đến với Đồ Sơn, du khách có thể đến thăm di tích "bến tàu không số", nằm ở chân đồi Nghĩa Phong,tìm hiểu về con đường Hồ Chí Minh trên biển đầy gian khổ.
* Tại đây hiện nay có sòng bạc Do Son Casino, là nơi rất nhiều du khách quốc tế đến chơi, đặc biệt là người Trung Quốc, tuy nhiên sòng bạc không cho phép người dân nội địa vào giải trí.
* Từ Đồ Sơn bằng tàu cao tốc du khách có thể đi ra đảo Cát Bà, Tuần Châu (TP Hạ Long) hoặc vịnh Hạ Long,để thăm thú hết những tinh hoa của Hải Phòng nói riêng, Việt Nam nói chung.
Đồ Sơn nổi tiếng với dịch vụ mại dâm, tập trung ở 2 khu vực. Một là Xó Lặng ở khu 1 (10 nhà nghỉ). Hai là khu 203 hay còn gọi là Bộ Xây dựng (20 nhà nghỉ).
Mỗi năm công an ra quân bắt được 1-3 vụ mại dâm tại đây, mỗi vụ khoảng 2 người. Cục Phòng chống tệ nạn xã hội (Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội) cho biết, báo cáo của Hải Phòng cho thấy không phát hiện ra tệ nạn mại dâm tại Đồ Sơn, chỉ có một vài trường hợp, không đáng kể.
Trong dịp Tết, người dân khắp nơi đổ về Đồ Sơn viếng thăm đền Bà Đế, cầu phúc cho mưa thuận gió hoà. Ngoài ra hàng năm ở Đồ Sơn còn lễ hội đảo Dấu. Vào ngày này, người dân Đồ Sơn nói riêng và người dân buôn bán khắp nơi đi thuyền ra đảo cúng và thắp hương cầu may cho một năm buôn bán thuận lợi và sức khỏe bình an.
Một trong các hoạt động văn hóa nổi bật là Lễ hội chọi trâu Đồ Sơn. Lễ hội được tổ chức 2 vòng: Vòng sơ loại vào ngày 8 tháng 6 âm lịch và vòng chung kết vào ngày 9 tháng 8 âm lịch, thu hút rất đông du khách cả ở trong và ngoài nước. Các trận đấu vòng chung kết được truyền hình trực tiếp trên sóng truyền hình Hải Phòng. |
Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
Vịnh Hạ Long là một vịnh nhỏ thuộc phần bờ tây vịnh Bắc Bộ tại khu vực biển Đông Bắc Việt Nam, bao gồm vùng biển đảo của thành phố Hạ Long thuộc tỉnh Quảng Ninh.
Là trung tâm của một khu vực rộng lớn có những yếu tố ít nhiều tương đồng về địa chất, địa mạo, cảnh quan, khí hậu và văn hóa, với vịnh Bái Tử Long phía Đông Bắc và quần đảo Cát Bà phía Tây Nam, vịnh Hạ Long giới hạn trong diện tích khoảng 1.553 km² bao gồm 1.969 hòn đảo lớn nhỏ, phần lớn là đảo đá vôi, trong đó vùng lõi của vịnh có diện tích 335 km² quần tụ dày đặc 775 hòn đảo. Lịch sử kiến tạo địa chất đá vôi của vịnh đã trải qua khoảng 500 triệu năm với những hoàn cảnh cổ địa lý rất khác nhau; và quá trình tiến hóa karst đầy đủ trải qua trên 20 triệu năm với sự kết hợp các yếu tố như tầng đá vôi dày, khí hậu nóng ẩm và tiến trình nâng kiến tạo chậm chạp trên tổng thể. Sự kết hợp của môi trường, khí hậu, địa chất, địa mạo, đã khiến vịnh Hạ Long trở thành quần tụ của đa dạng sinh học bao gồm hệ sinh thái rừng kín thường xanh mưa ẩm nhiệt đới và hệ sinh thái biển và ven bờ với nhiều tiểu hệ sinh thái. 17 loài thực vật đặc hữu và khoảng 60 loài động vật đặc hữu đã được phát hiện trong số hàng ngàn động, thực vật quần cư tại vịnh.
Những kết quả nghiên cứu, thám sát khảo cổ học và văn hóa học cho thấy sự hiện diện của những cư dân tiền sử trên vùng vịnh Hạ Long từ khá sớm, đã tạo lập những hình thái văn hóa cổ đại tiếp nối nhau bao gồm văn hóa Soi Nhụ trong khoảng 18.000-7.000 năm trước Công Nguyên, văn hóa Cái Bèo trong 7.000-5.000 năm trước Công Nguyên và văn hóa Hạ Long cách ngày nay khoảng từ 3.500-5.000 năm. Tiến trình dựng nước và truyền thống giữ nước của dân tộc Việt Nam, trong suốt hành trình lịch sử, cũng khẳng định vị trí tiền tiêu và vị thế văn hóa của vịnh Hạ Long qua những địa danh mà tên gọi gắn với điển tích còn lưu truyền đến nay, như núi Bài Thơ, hang Đầu Gỗ, Bãi Cháy , vịnh Hạ Long là một khu vực phát triển năng động nhờ những điều kiện và lợi thế sẵn có như có một tiềm năng lớn về du lịch, nghiên cứu khoa học, nuôi trồng, đánh bắt thủy sản, giao thông thủy đối với khu vực vùng biển Đông Bắc Việt Nam nói riêng và miền Bắc Việt Nam nói chung.
Từ hơn 500 năm về trước trong bài thơ "Lộ nhập Vân Đồn", Nguyễn Trãi đã lần đầu tiên ca ngợi vịnh Hạ Long là "kỳ quan đá dựng giữa trời cao". Năm 1962 Bộ Văn hóa - Thông tin (Việt Nam) đã xếp hạng vịnh Hạ Long là di tích danh thắng cấp quốc gia đồng thời quy hoạch vùng bảo vệ. Năm 1994 vùng lõi của vịnh Hạ Long được UNESCO công nhận là Di sản Thiên nhiên Thế giới với giá trị thẩm mỹ (tiêu chuẩn vii), và được tái công nhận lần thứ 2 với giá trị ngoại hạng toàn cầu về địa chất-địa mạo (tiêu chuẩn viii) vào năm 2000. Cùng với vịnh Nha Trang và vịnh Lăng Cô của Việt Nam, vịnh Hạ Long là một trong số 29 vịnh được Câu lạc bộ những vịnh đẹp nhất thế giới xếp hạng và chính thức công nhận vào tháng 7 năm 2003.
Vịnh Hạ Long cùng với đảo Cát Bà tạo thành một trong 21 khu du lịch quốc gia đầu tiên ở Việt Nam. Năm 2015, Cục Di sản văn hóa đã công bố về số lượng khách tham quan vịnh Hạ Long là trên 2,5 triệu lượt khách.
Truyền thuyết về vịnh Hạ Long.
Vịnh Hạ Long có từ xa xưa do những kiến tạo địa chất. Tuy nhiên, trong tâm thức của người Việt từ thời tiền sử với trí tưởng tượng dân gian và ý niệm về cội nguồn con Rồng cháu Tiên, một số truyền thuyết cho rằng khi người Việt mới lập nước đã bị giặc ngoại xâm, Ngọc Hoàng sai Rồng Mẹ mang theo một đàn Rồng Con xuống hạ giới giúp người Việt đánh giặc. Thuyền giặc từ ngoài biển ào ạt tiến vào bờ vừa lúc đàn Rồng tới hạ giới. Đàn Rồng lập tức phun ra lửa thiêu cháy thuyền giặc, một phần nhả Châu Ngọc dựng thành bức tường đá sừng sững làm cho thuyền giặc đâm phải mà vỡ tan, chặn đứng bước tiến của ngoại bang.
Sau khi giặc tan, thấy cảnh mặt đất thanh bình, cây cối tươi tốt, con người nơi đây lại cần cù, chịu khó, đoàn kết giúp đỡ nhau, Rồng Mẹ và Rồng Con không trở về trời mà ở lại hạ giới, nơi vừa diễn ra trận chiến để muôn đời bảo vệ con dân Đại Việt. Vị trí Rồng Mẹ đáp xuống là Hạ Long; nơi Rồng Con đáp xuống là Bái Tử Long và nơi đuôi đàn rồng quẫy nước trắng xoá là Bạch Long Vĩ. Tuy nhiên, tên gọi Hạ Long hay Bái Tử Long chỉ mới có từ thời Pháp thuộc.
Lại có truyền thuyết khác nói rằng, vào thời kỳ nọ khi đất nước có giặc ngoại xâm, một con rồng đã bay theo dọc sông xuôi về phía biển và hạ cánh xuống ở vùng ven biển Đông Bắc làm thành bức tường thành chặn bước tiến của thủy quân giặc. Chỗ rồng đáp xuống che chở cho đất nước được gọi là Hạ Long.
Điều kiện tự nhiên và xã hội.
Là một vịnh nhỏ, bộ phận của vịnh Bắc Bộ, vịnh Hạ Long được giới hạn với phía Đông Bắc giáp vịnh Bái Tử Long; phía Tây Nam giáp quần đảo Cát Bà; phía Tây và Tây Bắc giáp đất liền bằng đường bờ biển khoảng 120 km kéo dài từ thị xã Quảng Yên, qua thành phố Hạ Long, Thành phố Cẩm Phả đến hết huyện đảo Vân Đồn; phía Đông Nam và phía Nam hướng ra vịnh Bắc Bộ. Trong diện tích 1.553 km² gồm vùng lõi và vùng đệm, nằm tại các tọa độ từ 106°58'-107°22' Đông và 20°45'-20°50' Bắc, vịnh Hạ Long bao gồm 1.969 hòn đảo lớn nhỏ, trong đó 989 đảo có tên và 980 đảo chưa được đặt tên.
Môi trường và khí hậu.
Vịnh Hạ Long là vùng biển đảo có khí hậu phân hóa 2 mùa rõ rệt: mùa hạ nóng ẩm với nhiệt độ khoảng 27-29 °C và mùa đông khô lạnh với nhiệt độ 16-18 °C, nhiệt độ trung bình năm dao động trong khoảng 15-25 °C. Lượng mưa trên vịnh Hạ Long vào khoảng từ 2.000 mm–2.200 mm tuy có tài liệu chi tiết hóa lượng mưa là 1.680 mm với khoảng trên 300 mm vào mùa nóng nhất trong năm (từ tháng 6 đến tháng 8) và dưới 30 mm vào mùa khô nhất trong năm (từ tháng 12 đến tháng 2 năm sau). Hệ thủy triều tại vịnh Hạ Long rất đặc trưng với mức triều cường vào khoảng 3,5-4m/ngày. Độ mặn trong nước biển trên vùng vịnh dao động từ 31 đến 34.5 MT vào mùa khô nhưng vào mùa mưa, mức này có thể thấp hơn. Mực nước biển trong vùng vịnh khá cạn, có độ sâu chỉ khoảng 6m đến 10m và các đảo đều không lưu giữ nước bề mặt.
Trong số 1.969 đảo của Hạ Long hiện nay chỉ có khoảng 40 đảo là có dân sinh sống, những đảo này có quy mô từ vài chục đến hàng ngàn hecta tập trung chủ yếu ở phía Đông và Đông Nam vịnh Hạ Long. Mấy chục năm gần đây, nhiều vạn chài sống trôi nổi trên mặt nước, bắt đầu lên một số đảo định cư biến những đảo hoang sơ trở thành trù phú như đảo Sa Tô (thành phố Hạ Long), đảo Thắng Lợi (huyện đảo Vân Đồn).
Dân số trên vịnh Hạ Long hiện nay khoảng 1.540 người, tập trung chủ yếu ở các làng đánh cá Cửa Vạn, Ba Hang, Cặp Dè (thuộc phường Hùng Thắng, thành phố Hạ Long). Cư dân vùng vịnh phần lớn sống trên thuyền, trên nhà bè để thuận tiện cho việc đánh bắt, nuôi trồng và lai tạo các giống thủy sản, hải sản. Ngày nay đời sống của cư dân vịnh Hạ Long đã phát triển do kinh doanh dịch vụ du lịch.
Hiện nay, chính quyền tỉnh Quảng Ninh đã có chủ trương di dời các hộ dân sống trong lòng vịnh lên bờ tái định cư, ổn định cuộc sống và bảo vệ cảnh quan môi trường vùng di sản. Đã có hơn 300 hộ dân sinh sống trên các làng chài trên vịnh Hạ Long đã được di dời lên bờ sinh sống tại Khu tái định cư Khe Cá (nay là Khu 8, phường Hà Phong, thành phố Hạ Long) từ tháng 5/2014, công việc này sẽ còn tiếp tục được triển khai. Tỉnh sẽ chỉ giữ lại một số làng chài để phục vụ du lịch tham quan.
Tên gọi Hạ Long qua các thời kỳ lịch sử.
Tên gọi Hạ Long đã thay đổi qua nhiều thời kỳ lịch sử, thời Bắc thuộc khu vực này được gọi là Lục Châu, Lục Hải. Các thời Lý, Trần, Lê vịnh mang các tên Hoa Phong, Hải Đông, An Bang, Vân Đồn, Ngọc Sơn hay Lục Thủy. Tên Hạ Long (rồng đáp xuống) mới xuất hiện trong một số thư tịch và các bản đồ hàng hải của Pháp từ cuối thế kỷ XIX.
Trên tờ "Tin tức Hải Phòng" xuất bản bằng tiếng Pháp có bài viết về sự xuất hiện của sinh vật giống rồng trên khu vực là vịnh Hạ Long ngày nay với nhan đề "Rồng xuất hiện trên vịnh Hạ Long", khi viên thiếu úy người Pháp Legderin, thuyền trưởng tàu Avalence cùng các thủy thủ bắt gặp một đôi rắn biển khổng lồ ba lần (vào các năm 1898, 1900 và 1902). Có lẽ người châu Âu đã liên tưởng con vật này giống như con rồng châu Á, loài vật huyền thoại được tôn sùng trong văn hóa Việt Nam nói riêng và văn hóa các nước đồng văn châu Á nói chung. Bên cạnh những truyền thuyết của Việt Nam về Rồng Mẹ và Rồng Con đáp xuống khu vực vịnh đảo vùng Đông Bắc này, sự xuất hiện con vật lạ hiện hữu như rồng trong thực tại, có thể đã trở thành các lý do khiến vùng biển đảo Quảng Ninh được người Pháp gọi bằng cái tên vịnh Hạ Long từ đó và phổ biến đến ngày nay.
Vùng di sản trên vịnh Hạ Long được thế giới công nhận (vùng lõi) có diện tích 434 km², như một hình tam giác với ba đỉnh là đảo Đầu Gỗ (phía Tây), hồ Ba Hầm (phía Nam) và đảo Cống Tây (phía Đông), bao gồm 775 đảo với nhiều hang động, bãi tắm. Vùng kế bên (vùng đệm), là di tích danh thắng quốc gia đã được bộ Văn hóa Thông tin Việt Nam xếp hạng từ năm 1962. Địa hình Hạ Long là đảo, núi xen kẽ giữa các trũng biển, là vùng đất mặn có sú vẹt mọc và những đảo đá vôi vách đứng tạo nên những vẻ đẹp tương phản, kết hợp hài hòa, sinh động các yếu tố: đá, nước và bầu trời.
Các đảo ở vịnh Hạ Long có hai dạng là đảo đá vôi và đảo phiến thạch, tập trung ở hai vùng chính là vùng phía Đông Nam vịnh Bái Tử Long và vùng phía Tây Nam vịnh Hạ Long. Theo thống kê của ban quản lý vịnh Hạ Long, trong tổng số 1.969 đảo của vịnh Hạ Long có đến 1.921 đảo đá với nhiều đảo có độ cao khoảng 200 m. Đây là hình ảnh cổ xưa nhất của địa hình có tuổi kiến tạo địa chất từ 250-280 triệu năm về trước, là kết quả của quá trình vận động nâng lên, hạ xuống nhiều lần từ lục địa thành trũng biển. Quá trình carxtơ bào mòn, phong hóa gần như hoàn toàn tạo ra một vịnh Hạ Long độc nhất vô nhị, với hàng ngàn đảo đá nhiều hình thù, dáng vẻ khác nhau lô nhô trên mặt biển, trong một diện tích không lớn của vùng vịnh.
Vùng tập trung các đảo đá có phong cảnh ngoạn mục và nhiều hang động đẹp là vùng trung tâm Di sản Thiên nhiên vịnh Hạ Long, bao gồm phần lớn vịnh Hạ Long (vùng lõi), một phần vịnh Bái Tử Long và vịnh Lan Hạ thuộc quần đảo Cát Bà (vùng đệm).
Các đảo trên vịnh Hạ Long có những hình thù riêng, không giống bất kỳ hòn đảo nào ven biển Việt Nam và không đảo nào giống đảo nào. Có chỗ đảo quần tụ lại nhìn xa ngỡ chồng chất lên nhau, nhưng cũng có chỗ đảo đứng dọc ngang xen kẽ nhau, tạo thành tuyến chạy dài hàng chục kilômét như một bức tường thành. Đó là một thế giới sinh linh ẩn hiện trong những hình hài bằng đá đã được huyền thoại hóa. Đảo thì giống khuôn mặt ai đó đang hướng về đất liền (hòn Đầu Người); đảo thì giống như một con rồng đang bay lượn trên mặt nước (hòn Rồng); đảo thì lại giống như một ông lão đang ngồi câu cá (hòn Lã Vọng); phía xa là hai cánh buồm nâu đang rẽ sóng nước ra khơi (hòn Cánh Buồm); đảo lại lúp xúp như mâm xôi cúng (hòn Mâm Xôi); rồi hai con gà đang âu yếm vờn nhau trên sóng nước (hòn Trống Mái); đứng giữa biển nước bao la một lư hương khổng lồ như một vật cúng tế trời đất (hòn Lư Hương); đảo khác tựa như nhà sư đứng giữa mặt vịnh bao la chắp tay niệm Phật (hòn Ông Sư); đảo lại có hình tròn cao khoảng 40m trông như chiếc đũa phơi mình trước thiên nhiên (hòn Đũa), mà nhìn từ hướng khác lại giống như vị quan triều đình áo xanh, mũ cánh chuồn, nên dân chài còn gọi là hòn Ông
Bên cạnh các đảo được đặt tên căn cứ vào hình dáng, là các đảo đặt tên theo sự tích dân gian (núi Bài Thơ, hang Trinh Nữ, đảo Tuần Châu), hoặc căn cứ vào các đặc sản có trên đảo hay vùng biển quanh đảo (hòn Ngọc Vừng, hòn Kiến Vàng, đảo Khỉ ). Dưới đây là một vài hòn đảo nổi tiếng:
Hòn Con Cóc nằm cách cảng tàu du lịch Bãi Cháy khoảng 12 km về phía Đông Nam, trên Vùng vịnh Hạ Long. Đây là hòn núi đá rất đẹp có góc nghiêng và hình dáng như một con cóc ngồi xổm giữa biển nước, cao khoảng 9 m.
Hòn Đỉnh Hương (Lư Hương).
Hòn Đỉnh Hương nằm phía tây nam hang Đầu Gỗ, nằm ngay sát với hòn Chó Đá. Hiện nay hình ảnh Hòn Đỉnh Hương được in trên tờ tiền 200.000 vnđ.
Là một trong những hòn đảo nổi tiếng trên vịnh Hạ Long, hòn Gà Chọi (hay đôi khi gọi là Hòn Trống Mái) nằm gần hòn Đỉnh Hương ở phía Tây Nam của vịnh, cách cảng tàu du lịch Bãi Cháy khoảng 5 km. Đây là cụm gồm 2 đảo có hình thù giống như một đôi gà, một trống một mái, có chiều cao khoảng hơn 10m với chân thót lại ở tư thế rất chênh vênh. Là biểu tượng trên logo của vịnh Hạ Long, hòn Gà Chọi cũng là biểu tượng trong sách hướng dẫn du lịch Việt Nam nói chung.
Đảo Ngọc Vừng nằm cách cảng tàu du lịch khoảng 34 km, thuộc huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh, có đặc điểm là một trong số ít đảo đất trên vùng vịnh Hạ Long. Xung quanh đảo có nhiều bãi biển đẹp, có núi Vạn Xuân cao 182m và có di chỉ khảo cổ thuộc văn hoá Hạ Long rộng 45.000m².
Đảo Ngọc Vừng rộng 12 km², có người ở, có bến cảng cổ Cống Yên thuộc hệ thống thương cảng cổ Vân Đồn từ thế kỷ XI, và có di tích thành cổ nhà Mạc, thành nhà Nguyễn. Phía đông của đảo có bãi cát dài tới hàng kilômét với cát trắng trải ra tới tận bến tàu.
Khu vực này tương truyền trước kia có nhiều ngọc trai, đêm đêm phát sáng cả một vùng trời biển, nên có một số đảo mang tên đảo Ngọc như đảo Ngọc Vừng (ngọc phát sáng), hay Minh Châu (ngọc châu, ngọc sáng). Trước kia cư dân trên đảo sống bằng nghề đánh bắt hải sản và khai thác ngọc trai. Ngày nay cư dân ở đây vẫn còn mò trai lấy ngọc, đồng thời nghề nuôi trai lấy ngọc cũng đang phát triển mạnh.
Đảo Ti Tốp, thời Pháp thuộc mang tên hòn Cát Nàng, nằm trên khu vực vịnh Hạ Long cách Bãi Cháy chừng 14 km về phía Đông. Đảo được đặt tên Ti Tốp từ khi chủ tịch Hồ Chí Minh đến thăm vịnh Hạ Long cùng với nhà du hành vũ trụ người Nga Gherman Titov, vào năm 1962.
Đảo Ti Tốp có bờ dốc đứng và bãi cát trắng phẳng hình vầng trăng nằm dưới chân. Các tour du lịch thường ghé tàu vào đảo để du khách lên bờ leo núi ngắm toàn cảnh vùng vịnh, tắm biển, chèo thuyền kay-ắc, kéo phao và kéo dù.
Nằm cách cảng tàu du lịch Bãi Cháy khoảng 4 km về phía Tây Nam trên vùng vịnh Hạ Long, đảo Tuần Châu là một đảo đất rộng khoảng 3 km², gần bờ, có làng mạc và dân cư thưa thớt. Trước kia trên đảo các nhà khoa học đã tìm được nhiều di chỉ khảo cổ thuộc nền văn hóa Hạ Long. Từ năm 2001, một con đường lớn đã được xây dựng nối đảo với đất liền. Một tổ hợp dịch vụ vui chơi, giải trí, quần thể khách sạn, nhà hàng và bãi tắm sang trọng được xây dựng, đưa vào phục vụ góp phần làm thay đổi bộ mặt của Hạ Long từ năm du lịch 2003 tới nay.
Các hang động nổi tiếng.
Không chỉ những biến đổi của những đảo đá màu xanh đen trên mặt nước biếc vùng vịnh hấp dẫn du khách, trên những chiếc thuyền dơi màu nâu đỏ xuất phát từ bến tàu Hạ Long bắt đầu hành trình ngoạn cảnh, những khám phá lại tiếp tục khi du khách lên đảo, thăm thú những hang động ẩn chứa nhiều chứng tích lịch sử. Những hang động tại Hạ Long, theo các nhà thám hiểm địa chất người Pháp, khi nghiên cứu về vịnh Hạ Long đầu thế kỷ XX, khẳng định rằng hầu hết trong số chúng đều được kiến tạo trong thế Pleistocen kéo dài từ 2 triệu đến 11 ngàn năm trước, nằm trong 3 nhóm hang ngầm cổ, hang nền carxtơ và các hàm ếch biển.
Hang Sửng Sốt, hay động Sửng Sốt nằm trên đảo Bồ Hòn ở trung tâm vịnh Hạ Long, được người Pháp đặt tên "Grotte des surprises" (động của những kỳ quan). Đây là một hang động rộng và đẹp vào bậc nhất của vịnh Hạ Long. Nằm ở vùng trung tâm du lịch của vịnh với hệ thống trong tuyến du lịch bao gồm bãi tắm Ti Tốp - hang Bồ Nâu - động Mê Cung - hang Luồn - hang Sửng Sốt.
Vị trí và diện tích:
Hang Sửng Sốt là một hang dạng ống, nằm ở độ cao 25 m so với mực nước biển hiện tại. Diện tích khoảng 10.000 m², chiều dài hơn 200 m, chỗ rộng nhất 80 m, khoảng cách lớn nhất từ nền tới trần hang xấp xỉ 20 m. Hang được chia thành 2 ngăn chính.
Quá trình phát hiện và quản lý:
Đường lên hang Sửng Sốt quanh co uốn lượn dưới những tán lá rừng, với những bậc đá ghép cheo leo, khúc khuỷu. Động được chia làm hai ngăn chính, toàn bộ ngăn thứ nhất như một nhà hát lớn rộng thênh thang với trần hang được phủ bằng nhũ đá, những tượng đá, voi đá, hải cẩu, mâm xôi, hoa lá, mở ra một thế giới của cổ tích. Ngăn 2 cách biệt với ngăn 1 qua một lối đi hẹp. Bước vào lòng ngăn này, động mở ra một khung cảnh mới khác lạ hoàn toàn với lòng ngăn rộng có thể chứa được hàng ngàn người. Trong lòng ngăn 2 của hang Sửng Sốt có những hình tượng được gắn với truyền thuyết Thánh Gióng: cạnh lối ra vào là khối đá hình chú ngựa, thanh gươm dài và trong lòng hang có những ao hồ nhỏ như vết chân ngựa Gióng.
Cách thành phố Hạ Long khoảng 8 km và cách bến tàu du lịch 4 km là đảo Vạn Cảnh, còn gọi là đảo Canh Độc có tọa độ 107°00'54" và 20°54'78". Trong sách "Đại Nam nhất thống chí" có ghi: "hòn Canh Độc lưng chừng đảo có động rộng rãi chứa được vài ngàn người, gần đó có hòn Cặp Gà, Hòn Mèo, Hòn L". Ngày nay, qua khảo cứu, đảo Vạn Cảnh có đỉnh cao 189m, hình dáng như một chiếc ngai ôm hai hang động là hang Đầu Gỗ nằm chênh vênh trên cao và động Thiên Cung ở cách mép nước không xa. Hang Đầu Gỗ và động Thiên Cung cách nhau chừng 100m, được thông nhau bằng những lối đi quanh co, uốn lượn dưới tán lá rừng.
Động Thiên Cung nằm ở lưng chừng đảo Canh Độc, ở độ cao 25m so với mực nước biển. Du khách vừa bước vào cửa động Thiên Cung, lòng động đột ngột mở ra không gian có tiết diện hình tứ giác với chiều dài hơn 130 mét, với những măng đá như một đền đài mỹ lệ. Vách động cao và thẳng đứng được bao bọc bởi những nhũ đá và trên mỗi vách động ấy thiên nhiên đã khảm nhiều hình thù kỳ lạ, hấp dẫn người xem. Đó là 4 cột trụ to lớn giữa động mà từ chân cột tới đỉnh đều được chạm nổi nhiều hình thù kỳ lạ như chim cá, cảnh sinh hoạt của con người, hoa lá cành; là những thạch nhũ mang hình tượng Nam Tào, Bắc Đẩu, tiên nữ múa hát; là trần hang với những điêu khắc người, chim, hoa, muông thú đang dự tiệc, hoàn toàn do bàn tay nhào nặn của tạo hóa tác thành qua hàng vạn năm. Cửa động nhỏ hẹp được giấu kín trong lòng núi nhưng càng đi vào bên trong, lòng động càng mở lớn và rộng, dẫn dắt người xem đi từ bất ngờ này đến bất ngờ khác.
Từ cửa Suốt nhìn vào hòn Canh độc, người ta thấy đầu của hòn núi này nhô ra trông giống như đầu một cây gỗ nổi lập lờ trên mặt nước. Hai bên "đầu gỗ" có hai hốc lõm vào, trông tựa như "mắt gỗ" mà thợ sơn tràng thường khoét vào đầu gỗ để kéo - lôi khi khai thác. Những cư dân vạn chài của vùng sông nước dã căn cứ vào hình dáng đó mà đặt tên cho cái hang mà họ thường lưu lại tại đảo này trong những ngày nghỉ ngơi, tránh mùa dông bão. Tên đảo Đầu gỗ; hang Đầu gỗ phải chăng đã được hình thành như vậy. Người Pháp khi lập bản đồ khu vực này, y cứ theo lời kể của cư dân sông nước mà ghi tên thành hang "daugo", cũng như tên "hòn đảo của những búi gai" thành "hongai" để rồi thành Hồng Gai.
Có lẽ vì quá yêu lịch sử chiến công của thời Trần mà người ta cố ghép tên hang "Đầu gỗ", "Giấu gỗ" cho trận chiến Bạch Đằng năm 1288, gắn với tên tuổi của vị anh hùng Trần Hưng Đạo, Trần Khánh Dư.
Trong sách "Đại Nam nhất thống chí" có ghi: "hòn Canh Độc lưng chừng đảo có động rộng rãi chứa được vài ngàn người, gần đó có hòn Cặp Gà, Hòn Mèo, Hòn L". Động nói ở đây chính là hang "Đầu gỗ"; Động Thiên cung chỉ mới được phát hiện vào những năm tám mươi của thế kỉ trước.
Đi hết động Thiên Cung cũng là lúc du khách bước chân sang hang Đầu Gỗ, còn gọi là hang Giấu Gỗ, một hang động với những nhũ đá tráng lệ. Tên gọi Hang Đầu Gỗ (tập trung gỗ) có từ sau khi tướng Trần Hưng Đạo chỉ huy ba quân giấu các cọc gỗ lim tại đây, trước khi đem đóng xuống lòng sông Bạch Đằng để bày thế trận cùng thủy quân đánh úp, đốt cháy đoàn thuyền tải lương thực của giặc Nguyên Mông vào mùa xuân năm 1288. Hiện các nhà khảo cổ còn tìm thấy rất nhiều khúc gỗ và mẩu gỗ vụn còn sót lại trong động. Nếu động Thiên Cung hoành tráng khoẻ khoắn, hiện đại thì hang Đầu Gỗ trầm mặc uy nghi nhưng cũng rất đồ sộ. Cuốn "Merveilles du Monde" (kỳ quan thế giới) của Pháp xuất bản năm 1938 chuyên về du lịch giới thiệu về các danh thắng nổi tiếng thế giới đã mệnh danh hang Đầu Gỗ là "Grotte des merveilles" (động của các kỳ quan).
Cửa hang Đầu Gỗ ở lưng chừng vách núi và trong lòng hang được chia thành 3 ngăn chính. Ngăn phía ngoài hình vòm cuốn tràn ánh sáng tự nhiên, với trần hang như một bức tranh khổng lồ vẽ phong cảnh thiên nhiên hoang sơ với những đàn voi, những chú hươu sao, sư tử trong những tư thế sinh động. Phía dưới là rừng măng đá, nhũ đá nhiều màu với nhiều hình thù tùy theo trí tưởng tượng của từng người. Chính giữa lòng hang là một cột trụ đá khổng lồ hàng chục người ôm, từ phía dưới chân cột lên trên là những hình mây bay, long phi phượng vũ, hoa lá, dây leo. Qua ngăn thứ nhất, vào ngăn thứ 2 bằng một khe cửa hẹp lòng hang mở ra với ánh sáng chiếu vào mờ ảo, những bức tranh đá trở nên long lanh hơn và những chùm hoa đá lúc ẩn lúc hiện. Tận cùng hang là một chiếc giếng nước ngọt và những hình tượng bằng đá như đang diễn tả một trận hỗn chiến kỳ lạ.
Năm 1917, hang Đầu Gỗ được vua Khải Định lên thăm và cho khắc một tấm văn bia với nội dung ca ngợi cảnh đẹp của non nước Hạ Long nói chung và hang Đầu Gỗ nói riêng. Hiện nay, tấm bia đá vẫn còn ở phía bên phải cửa động tuy chữ đã bị mài mòn.
Một số hang động khác.
Ngoài hai hang động trên, du khách còn tham quan hàng chục hang động đẹp và quyến rũ khác như hang Bồ Nâu có cửa uốn vòng cung với nhũ đá buông xuống mềm mại như cành liễu; hang Hanh cách thành phố Cẩm Phả 9 km về phía tây, là một hang động đẹp và dài nhất so với các hang động hiện có trên vịnh Hạ Long, với chiều dài 1.300m chạy xuyên suốt dãy núi đá Quang Hanh ra tới biển; hang Trinh Nữ với tảng đá hình cô gái đứng xõa mái tóc dài hướng ra biển, và đối diện với nó là hang Trống (hay hang Con Trai) với bức tượng chàng trai hóa đá quay mặt hướng về phía hang Trinh Nữ; rồi hang Tiên Long, Ba Hang, hang Luồn, động Tiên Ông, động Tam Cung, động Lâu đài, Ba Hầm
Địa chất địa mạo.
Giá trị lịch sử địa chất của vịnh Hạ Long được đánh giá qua 2 yếu tố: "lịch sử kiến tạo" và "địa chất địa mạo (karst)":
Lịch sử kiến tạo.
Vịnh Hạ Long và các vùng lân cận là một phần của lãnh địa liên hợp (composite terrane) Việt-Trung, trải qua các quá trình tiến hoá tách trôi, va chạm và biến cải trong Tiền Cambri - Phanerozoi. Móng Tiền Cambri và Paleozoi hạ phần lớn bị che phủ, chỉ lộ ra vài nơi quanh vịnh Bắc Bộ, nhưng các thành tạo từ Ordovic đến nay lộ ra khá đầy đủ trên các vùng này.
Lịch sử địa chất địa mạo của vịnh Hạ Long trải qua ít nhất 500 triệu năm với những hoàn cảnh cổ địa lý rất khác nhau, với nhiều lần tạo sơn-biển thoái và sụt chìm-biển tiến. Vịnh Hạ Long từng là khu vực biển sâu vào các kỷ Ordovic-Silua (khoảng 500-410 triệu nẳm trước); khu vực biển nông vào các kỷ Cacbon-Pecmi (khoảng 340-250 triệu năm trước); biển ven bờ vào cuối kỷ Paleogen đầu kỷ Neogen (khoảng 26-20 triệu năm trước) và trải qua một số lần biển lấn trong kỷ Nhân sinh (khoảng 2 triệu năm trước?). Vào kỉ Trias (240-195 triệu năm trước) khu vực vịnh Hạ Long là những đầm lầy ẩm ướt với những cánh rừng tuế, dương xỉ khổng lồ tích tụ nhiều thế hệ.
Địa chất địa mạo.
Vịnh Hạ Long có quá trình tiến hóa karst đầy đủ trải qua trên 20 triệu năm nhờ sự kết hợp đồng thời giữa các yếu tố như tầng đá vôi dày, khí hậu nóng ẩm và quá trình nâng kiến tạo chậm chạp trên tổng thể, với nhiều dạng địa hình karst kiểu Phong Tùng gồm một cụm đá vôi thường có hình chóp nằm kề nhau có đỉnh cao trên dưới 100m, cao nhất khoảng 200m; hoặc kiểu Phong Linh đặc trưng bởi các đỉnh tách rời nhau tạo thành các tháp có vách dốc đứng, phần lớn các tháp có độ cao từ 50-100m. Tỉ lệ giữa chiều cao và rộng khoảng 6 lần.
Cánh đồng karst của Hạ Long là lòng chảo rộng phát triển trong các vùng karst có bề mặt tương đối bằng phẳng, thường xuyên ngập nước, được tạo thành theo những phương thức: hoặc nhờ kiến tạo liên quan các hố sụt địa hào; hoặc nhờ sụt trần của các thung lũng sông ngầm, hang động ngầm; hoặc cũng có thể nhờ tồn tại các tầng đá không hòa tan bị xói mòn mạnh mẽ nằm giữa vùng địa hình karst cao hơn vây quanh mà thành.
Vịnh Hạ Long còn bao gồm địa hình karst ngầm là hệ thống các hang động đa dạng trên vịnh, được chia làm 3 nhóm chính: nhóm 1 là di tích các hang ngầm cổ, tiêu biểu là hang Sửng Sốt, động Tam Cung, động Lâu đài, động Thiên Cung, hang Đầu Gỗ, Thiên Long, , Bồ Nâu, Tiên Ông, Hang Trống. Nhóm 3 là hệ thống các hàm ếch biển mà tiêu biểu như 3 hang thông nhau ở cụm hồ Ba Hầm, hang Luồn, Ba Hang.
Karst vịnh Hạ Long có ý nghĩa toàn cầu và có tính chất nền tảng cho khoa học địa mạo. Môi trường địa chất vịnh Hạ Long còn là nền tảng phát sinh các giá trị khác như đa dạng sinh học, văn hóa khảo cổ và các giá trị nhân văn khác.
Đa dạng sinh học.
Vịnh Hạ Long là nơi tập trung đa dạng sinh học với 2 hệ sinh thái điển hình là "hệ sinh thái rừng kín thường xanh mưa ẩm nhiệt đới" và "hệ sinh thái biển và ven bờ". Trong mỗi hệ lớn nói trên lại có nhiều dạng sinh thái.
Hệ sinh thái rừng kín thường xanh mưa ẩm nhiệt đới.
Hệ sinh thái rừng kín thường xanh mưa ẩm nhiệt đới ở vịnh Hạ Long rất đặc trưng, phong phú với tổng số loài thực vật sống trên các đảo khoảng trên 1.000 loài. Một số quần xã các loài thực vật khác nhau bao gồm các loài ngập mặn, các loài thực vật ở bờ cát ven đảo, các loài mọc trên sườn núi và vách đá, trên đỉnh núi hoặc mọc ở của hang hay khe đá. Các nhà nghiên cứu của Hiệp hội Bảo tồn thiên nhiên thế giới đã phát hiện 7 loài thực vật đặc hữu của vịnh Hạ Long. Những loài này chỉ thích nghi sống ở các đảo đá vôi vịnh Hạ Long mà không nơi nào trên thế giới có được, đó là: thiên tuế Hạ Long, khổ cử đại tím ("Chirieta halongensis"), cọ Hạ Long ("Livisona halongensis"), khổ cử đại nhung ("Chirieta hiepii"), móng tai Hạ Long, ngũ gia bì Hạ Long, hài vệ nữ hoa vàng. Một số tài liệu khác mở rộng danh sách thực vật đặc hữu của Hạ Long lên 14 loại, bao gồm cả những loại đã được người Pháp khám phá và đặt tên gắn với địa danh từ trước như sung Hạ Long, nhài Hạ Long, sóng bè Hạ Long, giềng Hạ Long, phất dụ núi, phong lan Hạ Long , do chưa có một công trình nghiên cứu nào thực sự đầy đủ, toàn diện về thực vật trên tất cả các đảo trong khu vực vịnh và vùng lân cận. Chẳng hạn loài trúc mọc ngược mà mấy năm gần đây các nhà khoa học mới phát hiện ra trên một số đảo đá của vịnh Hạ Long, một giống trúc có cành chĩa xuống đất, khác các giống trúc thông thường chĩa cành lên trời.
Theo thống kê, hệ sinh thái rừng kín thường xanh mưa ẩm nhiệt đới ở vịnh Hạ Long và vịnh Bái Tử Long có 477 loài mộc lan, 12 loài dương xỉ và 20 loài thực vật ngập mặn; đối với động vật người ta cũng thống kê được 4 loài lưỡng cư, 10 loài bò sát, 40 loài chim và 14 loài thú. Ở vùng này còn có loại khỉ thân nhỏ, hiện được nuôi theo phương pháp đặc biệt tại đảo Khỉ.
Hệ sinh thái biển và ven bờ.
Hệ sinh thái biển và ven bờ của vịnh Hạ Long bao gồm trong đó "hệ sinh thái đất ướt" và "hệ sinh thái biển" với những điểm đặc thù:
Hệ sinh thái đất ngập nước:
Hệ sinh thái biển:
Đến nay sơ bộ đánh giá hệ thực vật trong vùng vịnh Hạ Long có khoảng 347 loài, thực vật có mạch thuộc 232 chi và 95 họ. Trong tổng số 347 loài thực vật đã biết, có 16 loài đang nằm trong danh sách đỏ của Việt Nam đã nguy cấp và sắp nguy cấp. Trong các loài thực vật quý hiếm, có 95 loài thuộc cây làm thuốc, 37 loài cây làm cảnh, 13 loài cây ăn quả và 10 nhóm có khả năng sử dụng khác nhau.
Các đảo tại vịnh Hạ Long có các loài động vật thân mềm đa dạng, đặc biệt là các loài cư trú trong hốc đá, và có tới 60 loài động vật đặc hữu. Hải sản Hạ Long được khai thác và nuôi trồng bao gồm bào ngư, hải sâm, sá sùng, tôm, cá, mực (mực ống, mực nang, mực thước), bạch tuộc, sò huyết, trai và điệp nuôi lấy ngọc. Tài liệu của Phân viện Hải dương học Hải Phòng cho thấy trong 1.151 loài động vật tại Hạ Long thì đã có tới gần 500 loài cá, 57 loài cua.
Di chỉ khảo cổ và chứng tích lịch sử.
Di chỉ khảo cổ.
Năm 1937, ông Vũ Xuân Tảo, một công nhân lò nấu thủy tinh, trong lúc đào cát để làm nguyên liệu chế tạo thủy tinh đã tình cờ phát hiện được một chiếc rìu đá trên đảo Ngọc Vừng. Phát hiện này đã gây xôn xao các nhà khảo cổ học Pháp thời ấy, bước đầu xác định Hạ Long không chỉ là kỳ quan thiên nhiên mà còn là cái nôi của người tiền sử. Những nghiên cứu từ phía các nhà khảo cổ học Andecxen người Thụy Điển và chị em nhà Colani người Pháp sau đó đã cho thấy những công cụ đá, đồ đựng bằng gốm, đồ trang sức bằng đá và xương được phát hiện, thu thập ở Hạ Long đều thuộc thời đại hậu kỳ đá mới. Những di chỉ khảo cổ tại vịnh Hạ Long ban đầu được các nhà khoa học Pháp xếp vào khái niệm văn hóa Danhdola, trong đó Danhdola là tên đảo Ngọc Vừng do người Pháp đặt.
Khi miền Bắc Việt Nam được giải phóng, các nhà khoa học Việt Nam và các chuyên gia khảo cổ học Liên Xô đã tiến hành nhiều cuộc thám sát điều tra trên diện rộng, quy mô lớn trong khu vực vịnh Hạ Long và vùng lân cận. Những cuộc khảo sát năm 1960 đã phát hiện tại di chỉ Tấn Mài trên vùng vịnh những mảnh ghè của người vượn và tiếp đó là khai quật được những mũi tên đồng từ thời Hùng Vương. Những kết quả nghiên cứu đó đã cho phép khẳng định về một nền văn hóa Hạ Long cách nay khoảng từ 3.500-5.000 năm.
Từ 1960 đến nay, sự thám sát và nghiên cứu rộng mở về khảo cổ học, văn hóa học tại trên 40 địa điểm, bao gồm trong đó Đồng Mang, Xích Thổ, Cột 8, Cái Dăm (thành phố Hạ Long) Soi Nhụ, Thoi Giếng (Móng Cái), Hà Giắt (Vân Đồn), hòn Hai Cô Tiên , còn có nền văn hóa Soi Nhụ cách ngày nay trong khoảng 18.000-7.000 năm trước Công Nguyên, phân bố rộng trong khu vực vịnh Hạ Long và vịnh Bái Tử Long với các di chỉ tiêu biểu tại Mê Cung, Tiên Ông, Thiên Long. Các di vật còn lại chủ yếu là sản phẩm đã được sử dụng làm thức ăn như ốc núi (cyclophorus) và ốc suối (melania), một số hóa thạch của nhuyễn thể nước ngọt và một số công cụ lao động thô sơ tích tụ cấu tạo thành tầng văn hóa. Các nhà khoa học nhận thấy, phương thức sống chủ yếu của cư dân Soi Nhụ là bắt sò ốc, hái lượm, đào củ, đào rễ cây, biết bắt cá nhưng chưa có nghề đánh cá. So sánh với các cư dân văn hóa Hòa Bình, văn hóa Bắc Sơn đương thời thì cư dân Soi Nhụ sống gần biển hơn nên chịu sự chi phối từ biển nhiều hơn, trực tiếp hơn.
Bên cạnh nền văn hóa Soi Nhụ không thể không nói đến văn hóa Cái Bèo, cách ngày nay 7000-5000 năm trước Công Nguyên, được coi như giai đoạn gạch nối giữa văn hóa Soi Nhụ trước đó và văn hóa Hạ Long về sau. Di chỉ khảo cổ Cái Bèo tập trung chủ yếu thuộc đảo Cát Bà (Hải Phòng) và Giáp Khẩu, Hà Gián thuộc vịnh Hạ Long. Văn hóa Cái Bèo là một trong những bằng chứng chắc chắn về sự đương đầu với biển khơi từ rất sớm của người Việt cổ, là điểm hội tụ của nhiều yếu tố, sắc thái khác biệt vào một dòng văn hóa đá cuội truyền thống rất lâu đời trong khu vực Việt Nam và Đông Nam Á. Phương thức cư trú và sinh sống của người cổ đại Cái Bèo ngoài săn bắt hái lượm đã có thêm nghề khai thác sản vật từ biển.
Tiếp nối không gián đoạn trong suốt tiến trình sơ sử, ba nền văn hóa mang tên Soi Nhụ-Cái Bèo-Hạ Long trên khu vực vịnh Hạ Long chứa đựng những giá trị nhất định, cho thấy vịnh Hạ Long và khu vực lân cận một thời đã từng là một cái nôi văn hóa của nhân loại. Những đặc điểm của nền văn hóa này chưa được giải mã toàn diện, và những kết quả thám sát khảo cổ học trong những năm gần đây vẫn tiếp tục hé lộ những bất ngờ mới mà một trong số đó là sự phát hiện di chỉ Đông Trong vào năm 2006. Trong một hang động tại Đông Trong, các nhà khảo cổ học phát hiện được di cốt người tiền sử, rìu đá, mảnh nồi gốm, trầm tích nhuyễn thể được sử dụng làm thức ăn và hàng trăm hạt chuỗi làm từ vỏ ốc, là một trong ba khu vực trên vùng vịnh Hạ Long tìm thấy di cốt người tiền sử sau Soi Nhụ và hòn Hai Cô Tiên.
Chứng tích lịch sử, văn hóa và phong tục.
Vịnh Hạ Long là nơi gắn liền với những trang sử của quân dân Việt Nam trong suốt thời kỳ dựng nước và giữ nước với những địa danh như Vân Đồn, nơi có hải cảng cổ tại miền Bắc Việt Nam vào thế kỷ XII. Sách Đại Việt sử ký toàn thư cho biết sự hình thành thương cảng Vân Đồn: ""Kỷ Tỵ, (Đại Định) năm thứ 10 (1149). Mùa xuân, tháng hai, thuyền buôn ba nước Trảo Oa, Lộ Lạc, Xiêm La vào cảng Hải Đông (vịnh Hạ Long) xin cư trú buôn bán, bèn cho lập trang ở hải đảo, gọi là Vân Đồn, để mua bán hàng hóa quý, dâng tiến sản vật địa phương"." Thương cảng Vân Đồn với đặc điểm là có nhiều đảo đất, đảo đá ngang dọc, chia cắt biển thành nhiều vũng, luồng lạch sâu và kín gió, giúp cho thuyền bè neo đậu an toàn, không bị gió bão uy hiếp, đã khiến khu vực này trở nên sầm uất trong thông thương với khu vực và nhiều nơi trên thế giới.
Bên cạnh thương cảng Vân Đồn, tại vùng vịnh Hạ Long còn có Núi Bài Thơ lịch sử, nơi lưu lại bài thơ chữ Hán của Lê Thánh Tông hoàng đế khắc trên đá từ năm 1468, nhân chuyến tuần du vùng biển phía Đông; và bút tích của chúa Trịnh Cương năm 1729. Bãi Cháy phía bờ Tây của vịnh, tương truyền gắn với sự tích những chiến thuyền chở lương thực của quân Nguyên-Mông bị quân dân nhà Trần do Trần Khánh Dư chỉ huy đốt cháy, dạt vào làm cháy cả cánh rừng trong khu vực. Trên vịnh còn có hang Đầu Gỗ, nơi còn vết tích hiện vật là những cây cọc gỗ được Trần Hưng Đạo cho đem giấu trước khi đóng xuống lòng sông Bạch Đằng, và cách vịnh không xa là cửa Sông Bạch Đằng, chứng tích của hai trận thủy chiến trong lịch sử chống ngoại xâm phương Bắc.
Hàng trăm đảo, hang động, nhũ đá trong vịnh Hạ Long được đặt tên theo các huyền thoại, truyền thuyết, hoặc theo trí tưởng tượng dân gian phong phú của cộng đồng cư dân nơi đây.
Về phong tục và văn hóa, ngư dân làng chài Cửa Vạn trên vùng vịnh Hạ Long hiện nay còn lưu giữ những câu hát giao duyên cổ xưa, đó là lối hát đúm, hò biển và hát đám cưới. Trong đó, theo cụ Nguyễn Văn Cải, ngư dân cao tuổi của làng chài Cửa Vạn, hát đám cưới của Hạ Long không kém gì lối hát của người quan họ Kinh Bắc, và đám cưới của cư dân vạn chài cũng khá đặc biệt vì theo phong tục chỉ được tổ chức trong những ngày rằm. Đây là lúc trên vịnh có trăng sáng, cá ăn tản, người dân chài không đi đánh cá.
Các tiềm năng của vịnh Hạ Long.
Tiềm năng du lịch, nghiên cứu.
Với các giá trị ngoại hạng về cảnh quan và địa chất, địa mạo, lại là trung tâm của khu vực có nhiều yếu tố đồng dạng bao gồm vịnh Bái Tử Long phía Đông Bắc, quần đảo Cát Bà với vịnh Cát Bà và vịnh Lan Hạ phía Tây Nam, vịnh Hạ Long hội tụ những điều kiện thuận lợi để phát triển ngành kinh tế du lịch với loại hình đa dạng. Đến vịnh Hạ Long, du khách có thể tham gia các hoạt động nghiên cứu khoa học, tham quan ngắm cảnh, tắm biển, bơi thuyền, thả dù, lặn khám phá rặng san hô, câu cá giải trí. Hiện nay, khách đến vịnh Hạ Long chủ yếu tham quan ngắm cảnh, tắm biển và bơi thuyền. Các loại hình du lịch du thuyền tại vịnh Hạ Long bao gồm tham quan vịnh ban ngày, đi tour buổi chiều ngắm hoàng hôn trên vịnh, du thuyền đêm để ngắm cảnh vịnh về đêm kết hợp với câu cá mực, thậm chí có thể tự chèo thuyền để khám phá vịnh. Trong những năm tới, ngành du lịch sẽ mở thêm nhiều tuyến điểm tham quan và tăng thêm nhiều loại hình du lịch khác. Hiện nay, Quảng Ninh là một trong những điểm du lịch lớn nhất cả nước.
Quá trình đô thị hóa thành phố Hạ Long đang diễn ra mạnh mẽ về mọi mặt là một tiền đề vững chắc để phát triển du lịch. Hiện thành phố Hạ Long có khoảng 300 khách sạn từ 1 sao đến 5 sao với 4500 phòng nghỉ và nhiều khách sạn mini cơ bản đáp ứng được nhu cầu của khách du lịch. Sự tăng trưởng về số lượng khách ở Hạ Long được đánh giá là nhanh nhất ở Việt Nam trong những năm gần đây. Năm 1996, vịnh Hạ Long đón 236 lượt khách, thì năm 2003 vịnh Hạ Long đón tới 1.306.919 lượt khách. Năm 2005, lượng khách đến vùng vịnh ước đạt 1,5 đến 1,8 triệu, và đến năm 2010 dự đoán vịnh Hạ Long sẽ là điểm đón tiếp 5-6 triệu lượt khách. Tuy nhiên, đã không đạt được.
Là một trong 2 vịnh biển đẹp nhất Việt Nam bên cạnh vịnh Nha Trang, vịnh Hạ Long là nơi thường xuyên đón tiếp các tàu du lịch quốc tế chọn làm điểm dừng tham quan.
Tiềm năng cảng biển và giao thông thủy.
Bên đặc điểm là vịnh kín ít chịu tác động của sóng gió, vịnh Hạ Long cũng có hệ thống luồng lạch tự nhiên dày đặc và cửa sông ít bị bồi lắng. Điều kiện thuận lợi này cho phép xây dựng hệ thống giao thông cảng biển lớn bên cạnh cảng nước sâu Cái Lân (Hạ Long) và Cửa Ông (Cẩm Phả). Ngoài ra, Quảng Ninh còn có một hệ thống cảng phụ trợ như: Mũi Chùa, Vạn Gia, Nam Cầu Trắng. Mục tiêu đến năm 2010 sẽ xây dựng hoàn chỉnh cảng Cái Lân với 7 cầu cảng, công suất hơn 14 triệu tấn cho phép tiếp nhận tàu trọng tải trên 5 vạn tấn.
Tiềm năng thủy hải sản.
Vùng biển Quảng Ninh nói chung và vùng biển vịnh Hạ Long nói riêng chứa đựng nhiều hệ sinh thái có giá trị đa dạng sinh học, trữ lượng hải sản lớn. Vùng vịnh thích hợp cho việc nuôi trồng và đánh bắt hải sản do có các điều kiện thuận lợi: khí hậu tốt, diện tích bãi triều lớn, nước trong, ngư trường ven bờ và ngoài khơi có trữ lượng hải sản cao và đa dạng với cá song, cá giò, sò, tôm, bào ngư, trai ngọc các loại.
Vấn đề tổ chức.
Tuy thế, gần đây vịnh Hạ Long bị phản ánh trên các phương tiện truyền thông vì nạn "chặt chém", chất lượng dịch vụ kém, buông lỏng quản lý, gây ấn tượng xấu với du khách và sự đô thị hóa làm hại thắng cảnh thiên nhiên và tình trạng ô nhiễm môi trường, ô nhiễm dầu đáng quan ngại ở vịnh Hạ Long.
Di sản Việt Nam và thế giới.
Di sản quốc gia Việt Nam.
Năm 1962, vịnh Hạ Long được Bộ Văn hóa-Thông tin Việt Nam xếp hạng di tích danh thắng cấp quốc gia với diện tích 1553 km² bao gồm 1969 hòn đảo.
Các đảo trong vùng vịnh Hạ Long được quy hoạch là khu bảo tồn các di tích văn hoá-lịch sử và cảnh quan quốc gia, theo Quyết định Số 313/VH-VP của Bộ Văn hoá-Thông tin Việt Nam ngày 28 tháng 4 năm 1962 (ADB 1999). Các đảo này cũng có trong danh sách các khu rừng đặc dụng theo Quyết định Số 194/CT, ngày 9 tháng 8 năm 1986 của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (nay là Thủ tướng Chính phủ).
Năm 1995, vịnh Hạ Long, cùng với đảo Cát Bà, được Phân viện Hải dương học Hải Phòng đề nghị đưa vào danh sách hệ thống các khu bảo tồn biển.
Năm 1999, Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB 1999) đề xuất thành lập một khu bảo vệ có tên là Khu cảnh quan thiên nhiên vịnh Hạ Long rộng 155.300 ha, tuy nhiên hiện nay vẫn chưa thực hiện được.
Di sản thế giới lần 1: giá trị thẩm mỹ.
Ngày 21 tháng 12 năm 1991 Chính phủ Việt Nam cho phép xây dựng hồ sơ về cảnh quan vịnh Hạ Long để trình lên Hội đồng Di sản Thế giới xét duyệt di sản thiên nhiên thế giới. Năm 1993, hồ sơ khoa học về vịnh Hạ Long được hoàn tất và chuyển đến UNESCO để xem xét. Trong quá trình hoàn chỉnh hồ sơ, UNESCO lần lượt cử các đoàn chuyên gia đến Quảng Ninh khảo sát, hướng dẫn, nghiên cứu, thẩm định hồ sơ tại chỗ. Hồ sơ vịnh Hạ Long được chấp nhận đưa vào xem xét tại hội nghị lần thứ 18 của Hội đồng Di sản Thế giới.
Ngày 17 tháng 12 năm 1994, trong kỳ họp thứ 18 tại Phuket, Thái Lan, Ủy ban Di sản Thế giới đã công nhận vịnh Hạ Long vào danh mục di sản thiên nhiên thế giới với giá trị ngoại hạng toàn cầu về mặt thẩm mĩ (tiêu chí VII), theo tiêu chuẩn của Công ước Quốc tế về bảo vệ Di sản tự nhiên và văn hóa của thế giới.
Di sản thế giới lần 2: giá trị địa chất địa mạo.
Đầu năm 1998, Ban Quản lý vịnh Hạ Long đã đề nghị TS. Trần Đức Thạnh ở Phân Viện Hải dương học tại Hải Phòng (nay là Viện Tài nguyên và Môi trường biển thuộc Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam) tiến hành nghiên cứu và đánh giá các giá trị địa chất và khả năng trình UNESCO công nhận vịnh Hạ Long là di sản Thế giới theo tiêu chí địa chất học. Kết quả nghiên cứu [4] cho thấy tính khả thi cao của việc trình UNESCO công nhận Di sản Địa chất vịnh Hạ Long và cần phải nghiên cứu bổ sung chi tiết về địa mạo karst.
Tháng 9 năm 1998, theo đề nghị của Ban quản lý vịnh Hạ Long và IUCN, Tiến sĩ Tony Waltham, chuyên gia địa chất học, trường Đại học Trent Nottingham đã tiến hành nghiên cứu địa mạo vùng đá vôi karst vịnh Hạ Long với sự trợ giúp của TS.Trần Đức Thạnh. Tiến sĩ Waltham Tony đã gửi bản báo cáo về giá trị địa mạo karst vịnh Hạ Long tới UNESCO tại Paris, Văn phòng IUCN tại Thụy Sĩ và Hà Nội, đồng gửi Ban quản lý vịnh Hạ Long. Ngày 25 tháng 2 năm 1999, sau khi nhận được báo cáo của Tiến sĩ Tony Waltham, UNESCO đã gửi thư tới Ủy ban Nhân dân tỉnh Quảng Ninh, Ủy ban quốc gia UNESCO Việt Nam và Ban quản lý vịnh Hạ Long yêu cầu xúc tiến việc chuẩn bị hồ sơ trình UNESCO công nhận về giá trị địa chất, địa mạo vùng đá vôi vịnh Hạ Long.
Tới tháng 7 năm 1999, hồ sơ trình Hội đồng Di sản Thế giới để công nhận vịnh Hạ Long về giá trị địa chất với tư vấn khoa học của TS.Trần Đức Thạnh đã hoàn tất và được gửi đến Trung tâm Di sản thế giới tại Paris. Tháng 12 năm 1999 tại hội nghị lần thứ 23 Hội đồng Di sản Thế giới họp tại Thành phố Marrakech của Maroc, Hội đồng Di sản Thế giới đã đưa việc thẩm định hồ sơ để công nhận giá trị địa chất vịnh Hạ Long vào năm 2000. Tháng 3 năm 2000 Giáo sư Erery Hamilton Smith, chuyên gia của tổ chức IUCN được cử đến Hạ Long để thẩm định. Tháng 7 năm 2000, kỳ họp giữa năm của Trung tâm Di sản thế giới tại Paris đã chính thức đề nghị Ủy ban Di sản Thế giới công nhận vịnh Hạ Long là Di sản thế giới bởi giá trị toàn cầu về địa chất, địa mạo, theo tiêu chuẩn VIII của UNESCO "là ví dụ nổi bật đại diện cho các giai đoạn của lịch sử Trái Đất, bao gồm bằng chứng sự sống, các tiến triển địa chất đáng kể đang diễn ra trong quá trình diễn biến của các kiến tạo địa chất hay các đặc điểm địa chất và địa văn".
Ngày 2 tháng 12 năm 2000, căn cứ Công ước Quốc tế về bảo vệ Di sản văn hóa và thiên nhiên thế giới và kết quả xét duyệt hồ sơ địa chất vịnh Hạ Long, tại Hội nghị lần thứ 24 của Hội đồng Di sản Thế giới tại Thành phố Cairns, Queensland, Úc, Hội đồng Di sản Thế giới đã công nhận vịnh Hạ Long là di sản thế giới lần thứ 2 theo tiêu chuẩn (viii) về giá trị địa chất với hai giá trị nổi bật toàn cầu về lịch sử địa chất và địa mạo caxtơ.
Đề cử di sản thế giới lần thứ 3.
Hiện nay, tỉnh Quảng Ninh đang xúc tiến đệ trình UNESCO công nhận vịnh Hạ Long là Di sản thế giới lần thứ 3, dựa trên những giá trị về khảo cổ học và đa dạng sinh học trong vùng vịnh.
Bình chọn trong Bảy Kì quan Thiên nhiên Mới của Thế giới.
Trong 4 năm từ 2007-2011, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch cùng kết hợp với Bộ Ngoại giao, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Thông tin và Truyền thông, báo Tuổi Trẻ các hội đoàn như Đoàn Thanh niên, Hội Sinh viên , tổ chức vận động quy mô bầu chọn cho Hạ Long là một trong Bảy Kì quan Thiên nhiên Mới của Thế giới, là một cuộc bình chọn do Tổ chức tư nhân NewOpenWorld (NOWC). Cuộc bình chọn này không phải do Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên Hợp Quốc tổ chức và kết quả bầu chọn cũng không được tổ chức này công nhận, nên có những dư luận không đồng tình cũng như chỉ trích. Nhưng theo ông Trần Nhất Hoàng, Giám đốc Trung tâm Xúc tiến Văn hóa, Thể thao và Du lịch, thì cuộc thi là ""một cơ hội quảng bá cho Việt Nam, Thứ hai nữa là sau khi có danh hiệu, sẽ tiếp tục quảng bá, thu hút thêm nhiều khách du lịch tới Việt Nam thêm nữa"." Khi so với việc quảng bá trên kênh truyền thông quốc tế như CNN, BBC, mỗi lần mất khoảng 160.000 USD-200.000 USD (4 tỷ đồng) mà chỉ quảng cáo được trong 1 clip dài 30 giây, thì chi phí vận động là không đáng kể trong khi hiệu quả lại cao hơn nhiều. So với chi phí quảng bá du lịch hàng năm ở các nước cùng khu vực cũng là rất nhỏ, như Malaysia đầu tư 80 triệu USD, Thái Lan 70 triệu USD, và Singapore gần 60 triệu USD.
Lúc 7h ngày 11 tháng 11 năm 2011 nhằm 2h ngày 12 tháng 11 năm 2011 (giờ Việt Nam), vịnh Hạ Long được tổ chức New7Wonders tuyên bố là một trong bảy kỳ quan thiên nhiên thế giới mới sau cuộc kiểm phiếu sơ bộ.
Vấn đề bảo tồn.
Tác động của chủ quan và khách quan đối với vùng vịnh.
Hạ Long, Hải Phòng và Hà Nội là các Thành phố trung tâm quan trọng của sự phát triển kinh tế ở miền Bắc Việt Nam. Sự phát triển kinh tế của các khu đô thị này, cùng với sự vươn lên nhanh chóng của các khu vực phía Nam Trung Quốc kể cả Hồng Kông, đều dẫn đến sự gia tăng về sức ép của con người tới vịnh Hạ Long. Khu vực ven biển tỉnh Quảng Ninh và Thành phố Hải Phòng hiện có mức tăng trưởng rất nhanh về sự phát triển cơ sở hạ tầng, đặc biệt về mặt giao thông, tàu biển, khai thác than và các ngành du lịch, dịch vụ. Từ năm 1999, Ngân hàng phát triển châu Á (ADB) đã cảnh báo rằng việc xây dựng cảng mới ở vùng vịnh Hạ Long có thể dẫn đến sự gia tăng về giao thông đường biển trong khu vực, và phát triển cơ sở hạ tầng của du lịch sẽ là các mối đe dọa đối với vịnh. Ô nhiễm do chất thải công nghiệp, sự khai thác và đánh bắt tận diệt thủy sản cũng mang lại những đe dọa nghiêm trọng. Có những ý kiến cho thấy cần tiếp tục xem xét một cách thận trọng về sự phát triển trong vùng vịnh thông qua cơ cấu quản lý vì các giá trị quan trọng về mặt môi trường cho toàn vùng.
Hiện nay, sự phát triển mở rộng đô thị và sự gia tăng dân số cơ học, việc xây dựng bến cảng và nhà máy; các hoạt động du lịch và dịch vụ, rác thải trong sinh hoạt và chế xuất, hoạt động đánh bắt và nuôi trồng thủy sản đã không chỉ còn là nguy cơ, mà sự ô nhiễm môi trường và sự biến đổi cảnh quan của vịnh Hạ Long đã ở mức báo động. Do ô nhiễm, tình trạng những bãi san hô ở đáy biển sâu của vịnh Hạ Long đang trụi dần đi mà gần đây các nhà môi trường Việt Nam mới phát hiện ra. Mặt nước trong xanh của vịnh đang ngày càng đục dần, bồi lắng khiến các nhà khoa học lên tiếng cảnh báo nguy cơ vịnh Hạ Long có thể bị "đầm lầy hóa". Thêm vào đó, do khu vực vịnh Hạ Long có hàng ngàn hòn đảo mà phần lớn là núi đá vôi, nguồn nguyên liệu xây dựng tốt lại thuận tiện cho khai thác nên rất dễ bị tư nhân lợi dụng, gây biến dạng cảnh quan.
Ở một khía cạnh khác, biến đổi khí hậu toàn cầu với mực nước biển dâng cao sẽ tác động mạnh tới cảnh quan, hệ thống đảo, hang động và đa dạng sinh học của vịnh mà Việt Nam chưa đủ nhân lực, vật lực để sẵn sàng ứng phó.
Về văn hóa cộng đồng, một vấn đề mà nhiều du khách quốc tế đã phàn nàn là ý thức về bảo vệ môi trường di sản của khách du lịch và của cộng đồng địa phương còn chưa cao, chưa xây dựng được hình ảnh, thương hiệu du lịch Hạ Long hiện đại, văn minh và lịch sự. Vẫn còn hiện tượng người ăn xin đeo bám khách du lịch, ảnh hưởng tới môi trường du lịch của di sản. Việc giáo dục, tuyên truyền để nâng cao nhận thức trong mỗi người dân; sự hạn chế các khu lưu trú nghỉ dưỡng trên các đảo; nỗ lực kiểm soát theo tiêu chuẩn du lịch sinh thái và quy định bảo tồn di sản đối với cả mặt nước vùng đệm của di sản, đang là những vấn đề lớn đặt ra nhiều thách thức với chính quyền địa phương. Các nhũ đá trong hệ thống các hang động của di sản vịnh Hạ Long đang bị đập phá, cưa trộm, mang về bán cho những người muốn dùng để trang trí hòn non bộ (2016). Một số hang động còn bị đổ bê tông lên nền hang để lấy nơi bày bàn tiệc. Thêm vào đó, hoạt động của các thuyền chài và du khách cũng tạo ra nguồn rác thải gây ô nhiễm mà chính quyền còn chưa thể xử lí triệt để.
Công tác bảo tồn.
Trong những động thái nhằm ngăn chặn sự tác động tiêu cực của con người đến thiên nhiên vùng vịnh Hạ Long, chính quyền tỉnh Quảng Ninh đã cấm các loại xuồng máy cao tốc phục vụ du khách trong khu vực vịnh để bảo vệ môi trường và đa dạng sinh học trong vùng vịnh. Ngoài ra, tỉnh Quảng Ninh cũng thực hiện di dời các hộ dân sinh sống trên các vạn chài vào đất liền để bảo vệ môi trường nước của vịnh Hạ Long; đồng thời cấm bốc dỡ than đá trong khu vực di sản để chống ô nhiễm bụi than và bùn than cho vịnh theo khuyến cáo của UNESCO. Tại vịnh, một số người dân đã có ý thức tự nguyện giữ gìn cảnh quan, thông qua việc lập tổ hợp tác tự nguyện thu gom và xử lý rác thải. Từ ngày 1 tháng 9 năm 2019, UBND thành phố Hạ Long nghiêm cấm việc dùng sản phẩm từ nhựa sử dụng một lần trên vịnh. Đây là một động thái quyết liệt, quan trọng nhằm bảo tồn môi trường vịnh.
Sự tương đồng về cảnh quan, địa chất địa mạo, đa dạng sinh học, cũng như những giá trị văn hóa, khảo cổ của toàn vùng, bao gồm không chỉ vịnh Hạ Long mà còn cả quần đảo Cát Bà và vùng biển đảo vịnh Bái Tử Long khiến những nghiên cứu khoa học địa chất, khảo cổ, văn hóa, và những hoạt động du lịch, khai thác hải sản , không chỉ giới hạn trong diện tích nhỏ hẹp của vùng vịnh Hạ Long hiện nay mà còn bao quát cả vùng biển đảo có những yếu tố đồng dạng, kéo dài từ Quần đảo Cát Bà lên sát biên giới Việt Trung. Với chiều dài khoảng 300 km và chiều rộng khoảng 60 km, toàn bộ khu vực này có thể được nhìn nhận và bảo tồn như một vùng sinh thái đặc biệt về biển của Việt Nam.
Vịnh Hạ Long trong thi ca.
Cách đây hơn 5 thế kỷ, Nguyễn Trãi đi ngang qua khu vực này và lần đầu tiên ca ngợi vịnh Hạ Long là kỳ quan, khi viết trong bài "Lộ nhập Vân Đồn":
"Lộ nhập Vân Đồn san phục san"
"Thiên khôi địa khiết phó kỳ quan"
(Đường tới Vân Đồn lắm núi sao!
Kỳ quan đất dựng giữa trời cao)
Vua Lê Thánh Tông đề trên vách đá Núi Bài Thơ năm 1468:
"Cự lẫm uông dương triều bách xuyên"
"Loạn sơn kì bố bích liên thiên"
"Tráng tâm sơ cảm hàm tam cổ"
"Tín thủ dao đề tốn nhị quyền"
"Thần bắc khu cơ sân hổ lữ"
"Hải Đông phong toại tức lang yên"
"Thiên nam vạn cổ sơn hà tại"
"Chính thị tu văn yển vũ niên"
Năm 1729, chúa Trịnh Cương cũng có những vần thơ ứng tác trước vẻ đẹp của Hạ Long:
"Minh bộ vô nhai hối tổng xuyên"
"Sơn liên tiêu thủy, thủy man thiên"
Bể lớn mênh mông họp cả con con sông lại,
Núi lấp loáng bóng nước, nước lênh láng lưng trời.
Trong số thơ chữ Nho của Hồ Xuân Hương có bài "Độ Hoa Phong" vịnh cảnh Hạ Long:
Hình ảnh Hạ Long cũng xuất hiện trong thơ của những nhà thơ hiện đại, như Xuân Diệu:
"Đây bản thảo tạo vật còn nặn dở..."
"Đá thuở trước khổng lồ chơi ném thử."
Không chỉ cảnh đẹp của Hạ Long, nguồn tài nguyên phong phú ở đây cũng là đề tài cho thi ca. Huy Cận viết trong bài "Đoàn thuyền đánh cá":
"Cá nhụ, cá chim cùng cá đé,
"Cá song lấp lánh đuốc đen hồng
"Cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe
"Đêm thở sao lùa nước Hạ Long?"
Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. |
Hồ Ba Bể là một hồ nước ngọt ở Bắc Kạn, Việt Nam. Đây là hồ nước ngọt tự nhiên lớn nhất Việt Nam và là một trong một trăm hồ nước ngọt lớn nhất thế giới. Hồ nằm trong Vườn quốc gia Ba Bể, nơi đây được công nhận là khu du lịch quốc gia Việt Nam.
Hồ Ba Bể có tên tiếng địa phương (tiếng Tày) là "Slam Pé" - nghĩa là ba hồ. Tên gọi này bắt nguồn từ việc lòng hồ bị những dãy núi đá vôi chia thành ba hồ lớn thông với nhau bởi những eo nước hẹp. Ba hồ nước này đều có tên riêng: Pé Lầm, Pé Lù và Pé Lèng.
Đặc điểm địa lý.
Toàn bộ diện tích của Hồ Ba Bể nằm trong địa giới xã Nam Mẫu, huyện Ba Bể, tỉnh Bắc Kạn. Hồ cách thành phố Bắc Kạn 70km về phía Tây Bắc.
Hồ Ba Bể nằm ở cánh cung sông Gâm, địa hình gồ ghề và cắt xé bởi các ngọn núi cao từ 1.400m đến 1.600m và xen kẽ là các thung lũng. Hồ được hình thành từ cách đây hơn 200 triệu năm. Cuộc kiến tạo lục địa Đông Nam Á cuối kỷ Cambri, đã đưa một khối nước khổng lồ với diện tích bề mặt xấp xỉ 5 triệu m² và chiều dày hơn 30m lên lưng chừng vùng núi đá vôi, tạo ra hồ Ba Bể.
Hồ Ba Bể nằm ở độ cao khoảng 145m so với mực nước biển, có diện tích mặt nước là hơn 650 ha, được bao bọc bởi những dãy núi đá vôi có nhiều hang động và những suối ngầm. Độ sâu trung bình của hồ là 20-25 m vào mùa mưa nhưng có thể xuống xấp xỉ 10 m vào mùa khô.
Hồ được cấp nước bởi hai con sông nhỏ là sông Chợ Lèng và sông Nam Cường rồi đổ ra sông Năng. Nước trong hồ di chuyển với vận tốc khoảng 0,5 m/s. Vào mùa lũ, vận tốc tăng lên đến 2,5-3 m/s. Có hai đảo nhỏ nổi lên giữa hồ là đảo An Mã và đảo Bà Góa.
Hồ Ba Bể trong văn hóa.
Từ lâu, hồ Ba Bể đã là một phần quan trọng trong cuộc sống của người Tày trong vùng. Điều này được thể hiện ở các truyền thuyết và lễ hội trong văn hóa.
Sự tích hồ Ba Bể:.
Ngày xưa, ở vùng Bắc Kạn, mỗi năm dân làng Nam Mẫu đều có tổ chức lễ cúng Phật lớn, gọi là lễ Vô Giá. Dân chúng khắp miền quay về tụ tập rất đông. Một hôm, có một bà lão bệnh cùi đến làng để xin ăn. Quần áo bà rách rưới, tả tơi. Người bà có mùi hôi hám, rất khó chịu, khiến mọi người phải lánh xa. Bà lão cui hủi này đến nhà nào xin ăn đều phì phào mấy tiếng đói lắm các ông các bà ơi, nhưng bà lão đi đến đâu cũng đều bị xua đuổi.
Tuy nhiên, có người biết động lòng thương hại. Đó là một người đàn bà goá, ở với con trai. Bà góa này không những không kinh tởm mà còn kêu bà lão vào nhà cho ăn uống no đủ. Sau đó, bằng lòng cho bà lão ăn mày ngủ nhờ một đêm, ở góc vựa lúa, trong lều. Đến nửa đêm, hai mẹ con bỗng giật mình thức giấc, nghe có tiếng động ầm ầm dữ dội từ phía vựa thóc. Mở cửa vựa thóc ra, không thấy bà lão bị cùi đâu, mà là một con giao long lớn uốn mình ầm ầm như tiếng sấm, đầu gác lên giường đuôi thò xuống đất. Hai mẹ con kinh hãi trở ra, thao thức, lo sợ, không ngủ được nữa. Đến sáng, thấy bà lão đi ra từ vựa thóc, nói:
"Tôi thật sự không phải là người, tôi là một con giao long, chỉ giả dạng ăn mày để thử lòng từ thiện của tín hữu nam nữ đến làng Nam Mẫu lễ Phật. Tất cả mọi người đều xua đuổi tôi, ngoại trừ hai mẹ con nhà cô. Họ đều là khẩu Phật tâm xà, sẽ không tránh khỏi hình phạt của bề trên đã giao phó cho tôi thi hành, đó là một trận đại hồng thủy. Tôi cho hai mẹ con nhà cô gói tro này hãy rải quanh nhà để tránh khỏi kiếp nạn này. còn có hai mảnh vỏ trấu này sẽ biến thành hai chiếc thuyền giúp hai mẹ con"
Nói xong, bà lão liền biến mất. Hai mẹ con liền vội chia nhau báo cho dân làng nhưng ai nấy đều không tin
Ngày hôm sau, trong lúc mọi người đang chen nhau đến dự lễ Phật giữa làng, bỗng nhiên, nước từ đâu cuồn cuộn chảy đến làm ngập cả một vùng rộng lớn. riêng nhà của bà góa và cậu con trai lương thiện đã được rải tro nên hễ nước dâng đến đâu là mảnh đất liền dâng cao hơn đến đấy. Hai mẹ con bà góa không chịu được cảnh dân làng chết trước mắt mình nên liền đem hai mảnh vỏ trấu thả xuống nước lập tức biến thành hai chiếc thuyền giúp hai mẹ con cứu vớt dân làng.
Cả làng bị nước tràn ngập thì hoá thành ba cái hồ rộng lớn người ta gọi là Hồ Ba Bể. Nước không thể đi được từ hồ này sang hồ kia, vì có các đập đá lớn ngăn trở. Hồ Ba Bể rộng bát ngát, nước trong xanh như ngọc bích, nổi bật giữa núi rừng hùng vĩ của miền thượng du Bắc Việt.Giữa hồ là một hòn đảo nhỏ,người địa phương gọi đó là Hòn Bà Góa, đồng thời những người còn sống đã lập đèn thờ có tên An Mạ (nơi an nghỉ của dân làng).
Người Tày sinh sống ở các bản làng bên bờ hồ Ba Bể đều tổ chức hội "Lồng tồng" (có nghĩa là "xuống đồng" trong tiếng Tày) vào ngày mùng 9 đến 11 tháng Giêng hàng năm. Lễ hội Lồng tồng được người dân nơi đây coi là lễ hội quan trọng bậc nhất vào dịp đầu năm mới, gắn liền với nền nông nghiệp trồng trọt, được tổ chức nhằm gửi gắm những mong ước của con người, cầu cho mưa thuận gió hòa, cây trồng tốt tươi, mang lại no ấm.
Giá trị và hiện trạng.
Giá trị lớn nhất của Hồ Ba Bể là cảnh quan địa chất độc đáo, giá trị nổi bật về địa chất địa mạo và giá trị to lớn về đa dạng sinh học. Năm 1995, Hồ Ba Bể đã được Hội nghị Hồ nước ngọt thế giới, tổ chức tại Mỹ, công nhận là một trong 20 hồ nước ngọt đặc biệt của thế giới cần được bảo vệ. Cuối năm 2004, Vườn quốc gia Ba Bể được công nhận là Vườn di sản ASEAN. Ngày 27/9/2012, Thủ tướng Chính phủ đã ký "Quyết định số 1419/QĐ-TTG" xếp hạng Danh lam thắng cảnh Hồ Ba Bể là Di tích quốc gia đặc biệt .
Với thảm thực vật và động vật hoang dã phong phú, môi sinh hồ Ba Bể nay bị đe dọa nặng vì việc khai thác khoáng sản, nhất là mỏ sắt ở lưu vực hồ. Mặc dù Vườn Quốc gia Ba Bể đã quy định hơn 10.000 ha dưới sự bảo vệ của cơ quan này, việc thi hành vẫn còn nhiều thiếu sót khiến một số nhà khoa học đã báo động rằng hồ đang "chết dần". |
Sa Pa là phường trung tâm của thị xã Sa Pa, tỉnh Lào Cai, Việt Nam.
Phường Sa Pa nằm ở trung tâm thị xã Sa Pa, có vị trí địa lý:
Phường có diện tích 6,25 km², dân số năm 2018 là 9.412 người, mật độ dân số đạt 1.506 người/km².
Phường Sa Pa được chia thành 7 tổ dân phố đánh số từ 1 đến 7.
Trước đây, Sa Pa là một thị trấn huyện lỵ thuộc huyện Sa Pa. Điạ bàn phường Sa Pa hiện nay tương ứng với khu vực trung tâm của thị trấn này.
Cuối năm 2018, thị trấn Sa Pa có 23,65 km² diện tích tự nhiên và 31.010 người.
Ngày 11 tháng 9 năm 2019, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết 767/NQ-UBTVQH14 (nghị quyết có hiệu lực từ ngày 1 tháng 1 năm 2020). Theo đó:
Sau khi thành lập, phường Sa Pa có 6,25 km² diện tích tự nhiên và 9.412 người. |
Đà Lạt là thành phố tỉnh lỵ trực thuộc tỉnh Lâm Đồng, nằm trên cao nguyên Lâm Viên, thuộc vùng Tây Nguyên, Việt Nam. Từ xa xưa, vùng đất này vốn là địa bàn cư trú của những cư dân người Lạch, người Chil và người Srê thuộc dân tộc Cơ Ho. Cuối thế kỷ 19, khi tìm kiếm một địa điểm để xây dựng trạm nghỉ dưỡng dành cho người Pháp ở Đông Dương, Toàn quyền Paul Doumer đã quyết định chọn cao nguyên Lâm Viên theo đề nghị của bác sĩ Alexandre Yersin, người từng thám hiểm tới nơi đây vào năm 1893. Trong nửa đầu thế kỷ 20, từ một địa điểm hoang vu, người Pháp đã quy hoạch và xây dựng lên một thành phố xinh đẹp với những biệt thự, công sở, khách sạn và trường học, một trung tâm du lịch và giáo dục của Đông Dương khi đó. Trải qua những khoảng thời gian thăng trầm của hai cuộc chiến tranh cùng giai đoạn khó khăn những thập niên 1970–1980, Đà Lạt ngày nay là một thành phố khá đông dân, đô thị loại I trực thuộc tỉnh, giữ vai trò trung tâm chính trị, kinh tế và văn hóa quan trọng của tỉnh Lâm Đồng và vùng Tây Nguyên, hướng đến là thành phố trực thuộc Trung ương vào năm 2030.
Với độ cao 1.500 mét so với mực nước biển và được các dãy núi cùng quần hệ thực vật rừng bao quanh, Đà Lạt thừa hưởng một khí hậu miền núi ôn hòa và dịu mát quanh năm. Lịch sử hơn một thế kỷ cũng để lại cho thành phố một di sản kiến trúc giá trị, được ví như một bảo tàng kiến trúc châu Âu thế kỷ XX. Những tài nguyên thiên nhiên và nhân văn phong phú giúp Đà Lạt trở thành một trong những điểm du lịch nổi tiếng của Việt Nam, mỗi năm thu hút hàng triệu du khách tới thăm viếng và nghỉ dưỡng. Đà Lạt còn là một trung tâm giáo dục và nghiên cứu khoa học, một thành phố đa dạng về tôn giáo với sự hiện diện của hàng trăm ngôi chùa, nhà thờ, tu việ, cảnh quan thiên nhiên tươi đẹp và di sản kiến trúc phong phú, Đà Lạt còn được biết đến với nhiều tên gọi khác như "Thành phố mù sương", "Thành phố ngàn thông", "Thành phố ngàn hoa", "Xứ hoa Anh Đào" hay "Tiểu Paris".
Địa danh Đà Lạt được bắt nguồn từ chữ "Đạ Lạch", tên gọi của con suối Cam Ly. Khởi nguồn từ huyện Lạc Dương, thác Cam Ly chảy qua khu vực Đà Lạt theo hướng Bắc – Nam, trong đó đoạn từ khoảng Hồ Than Thở tới thác Cam Ly ngày nay được gọi là Đạ Lạch. Theo ngôn ngữ của người Thượng, "Da" hay "Dak" có nghĩa là nước, tên gọi Đà Lạt có nghĩa "nước của người Lạt", hay "suối của người Lạt (người Cơ Ho)". Trong một bài phỏng vấn đăng trên tạp chí "Revue Indochine" tháng 4 năm 1944, công sứ Cunhac, một trong những người tham gia xây dựng thành phố từ ngày đầu, đã nói: "Cho mãi tới những năm sau này, khung cảnh ban sơ vẫn không có gì thay đổi. Ở tại chỗ của cái hồ nước trước đó, con suối nhỏ của bộ lạc người Lát đã chảy qua và người ta đã gọi suối này là Đà Lạt". Vào thời kỳ đầu, các bản đồ cũng như sách báo thường chỉ nhắc đến địa danh Dankia hay Lang Biang. Nhưng sau khi Đà Lạt được chọn làm nơi nghỉ dưỡng thay vì Dankia, và đặc biệt từ khi nơi đây trở thành một thành phố, địa danh Đà Lạt mới xuất hiện thường xuyên.
Những người có công kiến thiết thành phố còn sáng tạo một câu cách ngôn khéo léo bằng tiếng La Tinh: "Dat Aliis Laetitiam Aliis Temperiem", có nghĩa "Cho người này nguồn vui, cho người khác sự mát mẻ". Tác giả André Morval đã viết câu cách ngôn chiết tự này ở đầu một bài báo nhan đề "Dalat: Cité de la Jeunesse" với nội dung: "Những người khai sinh ra nơi nghỉ mát trên miền núi danh tiếng của chúng ta đã xác định một cách rất hợp lý những nét hấp dẫn và những đặc tính tốt bằng một câu cách ngôn ghép chữ đầu rất khéo léo để liền theo huy hiệu thành phố". Năm 1937, khi xây dựng chợ Đà Lạt mới thay cho ngôi chợ cũ bằng gỗ bị cháy, người ta đã đề dòng chữ "Dat Aliis Laetitiam Aliis Temperiem" trên tường đầu hồi của công trình, phía trên là huy hiệu thành phố hình tròn, tạc hình một đôi thanh niên nam nữ người dân tộc cùng với hình núi đồi nhấp nhô và hình hiệu một con cọp Với khí hậu ôn hòa, cảnh quan thiên nhiên tươi đẹp và những di sản kiến trúc Pháp phong phú, Đà Lạt còn được gọi bằng nhiều cái tên khác như "Thành phố mù sương", "Thành phố ngàn thông", "Thành phố ngàn hoa", "Xứ hoa Anh Đào" hay "Tiểu Paris".
Vùng cao nguyên Lâm Viên từ xa xưa là địa bàn cư trú của người Lạch, người Chil và người Srê thuộc dân tộc Cơ Ho. Cuối thế kỷ 19, nhiều nhà thám hiểm người Pháp đã thực hiện những chuyến đi xuyên sâu vào vùng đất này. Tiên phong trong số họ là bác sĩ Paul Néis và trung úy Albert Septans với chuyến thám hiểm thực hiện đầu năm 1881. Năm 1893, nhận nhiệm vụ từ Toàn quyền Jean-Marie de Lanessan, bác sĩ Alexandre Yersin đã tiến hành khảo sát một tuyến đường bộ từ Sài Gòn xuyên qua vùng đất của người Thượng và kết thúc ở một địa điểm trên bờ biển Trung Kỳ. Ngày 21 tháng 6 năm 1893, trên hành trình thám hiểm, Alexandre Yersin đã tới cao nguyên Lâm Viên. Năm 1897, trong khi tìm kiếm một địa điểm để xây dựng trạm nghỉ dưỡng ("station balnéaire d'altitude") cho người Pháp ở Đông Dương, Toàn quyền Paul Doumer gửi thư hỏi ý kiến Alexandre Yersin. Khi nhận được thư của Paul Doumer, Alexandre Yersin gợi ý chọn cao nguyên Lâm Viên, một vùng đất lý tưởng thỏa mãn đầy đủ các điều kiện: độ cao thích hợp, diện tích đủ rộng, nguồn nước bảo đảm, khí hậu ôn hòa và có thể thiết lập đường giao thông. Cuối tháng 3 năm 1899, Paul Doumer cùng với Alexandre Yersin đích thân đến khảo sát thực tế tại cao nguyên Lâm Viên.
Dự án xây dựng Đà Lạt bị gián đoạn khi Toàn quyền Paul Doumer trở về Pháp vào năm 1902 và Toàn quyền Paul Beau, người kế vị, thì không sốt sắng gì về việc xây dựng thị trấn miền núi. Mặc dù vậy, trong khoảng thời gian tiếp theo, nhiều đoàn khảo sát vẫn được gửi đến cao nguyên Lâm Viên để nghiên cứu và các tuyến đường giao thông tới Đà Lạt cũng dần hình thành. Giữa thập niên 1910, Chiến tranh thế giới thứ nhất bùng nổ khiến nhiều người Pháp không thể về quê hương trong những kỳ nghỉ, Đà Lạt dần trở thành nơi họ tìm đến để tìm chút gì của nước Pháp miền ôn đới. Ngày 20 tháng 4 năm 1916, Hội đồng Phụ chính của vua Duy Tân thông báo Vụ thành lập thị tứ Đà Lạt. Toàn quyền Maurice Long đi thêm bước nữa khi bổ nhiệm Ernest Hébrard làm chủ sự quy hoạch thị trấn Đà Lạt. Hébrard là người chủ trương dùng mẫu kiến trúc cổ điển Âu châu nhưng thêm vào đó một số trang trí thuộc mỹ thuật Việt Nam để tạo ra phong cách riêng mà ông gọi là "une architecture indochinoise". Hébrard đã thực hiện lối kiến trúc này trong những công trình khác như tòa nhà của Viện Viễn Đông Bác cổ, Hà Nội. Nay lối kiến trúc này được áp dụng quy mô hơn ở Đà Lạt. Đặc biệt là Hébrard vẽ đồ án có vườn hoa, trường sở, sân vận động, biệt thự nhưng hoàn toàn không có công xưởng sản xuất để giữ y nguyên không gian trong lành và yên tĩnh của thị trấn này. Trong vòng ba mươi năm, từ một địa điểm hoang vu, một thành phố đã hình thành với đầy đủ hệ thống cơ sở hạ tầng, các trường học, bệnh viện, khách sạn, công sở và dinh thự. Trên diện tích tổng cộng là 1760 ha, thì 500 ha được chính quyền quy hoạch cho các cơ sở công chánh, 185 ha thuộc nhà binh, 173 ha cho công chức và 206 cho dân bản xứ. Phần còn lại còn lại (non 700 ha) thì bán cho người Pháp.
Tới thập niên 1940, Đà Lạt bước vào giai đoạn cực thịnh của thời kỳ Pháp thuộc, "thủ đô mùa hè" của toàn Liên bang Đông Dương. Trong những năm chiến tranh, thành phố vẫn giữ vai trò một trung tâm du lịch nghỉ dưỡng và khoa học giáo dục của Việt Nam Cộng hòa. Dưới thời Tổng thống Ngô Đình Diệm, nhiều trường học, trung tâm văn hóa và các công trình kiến trúc tiếp tục ra đời. Đà Lạt cũng là nơi định cư của nhiều người di cư từ miền Bắc. Nhưng kể từ năm 1964, khi cuộc chiến tranh Việt Nam bước vào giai đoạn khốc liệt, việc phát triển đô thị ít được coi trọng, thay vào đó là sự xuất hiện của những công trình phục vụ cho mục đích quân sự.
Sau chiến tranh, Đà Lạt tiếp tục bước vào một thời kỳ khó khăn khi phải đối mặt với vấn đề lương thực và thực phẩm, việc xây dựng phát triển thành phố vì thế không còn được chú trọng. Diện tích canh tác nông nghiệp mở rộng đã ảnh hưởng nhiều tới cảnh quan thiên nhiên và môi sinh của thành phố. Du lịch Đà Lạt giai đoạn này cũng trầm lắng bởi sự khó khăn chung của nền kinh tế Việt Nam. Từ cuối thập niên 1980, đầu thập niên 1990, thành phố dần phát triển trở lại với làn sóng khách du lịch tìm tới ngày một đông và hệ thống cơ sở hạ tầng tiếp tục được xây dựng.
Sau năm 1975, thành phố Đà Lạt là tỉnh lỵ thuộc tỉnh Lâm Đồng mới hợp nhất, ban đầu gồm có 6 đơn vị hành chính cấp xã, bao gồm 6 phường:1,2,3,4,5 và 6.
Ngày 10 tháng 03 năm 1977, Hội đồng Chính phủ ban hành Quyết định số 51-CP. Theo đó, sáp nhập xã Lát thuộc huyện Đức Trọng vào thành phố Đà Lạt.
Lúc này, thành phố Đà Lạt có 7 đơn vị hành chính cấp xã, bao gồm 6 phường:1,2,3,4,5,6 và xã Lát.
Ngày 14 tháng 3 năm 1979, Hội đồng Chính phủ ban hành Quyết định số 116-CP. Theo đó:
Lúc này, thành phố Đà Lạt có 9 đơn vị hành chính cấp xã, bao gồm 6 phường:1,2,3,4,5,6 và 3 xã:Xuân Trường, Trạm Hành, Tà Nung.
Ngày 6 tháng 6 năm 1986, Hội đồng Bộ trưởng ban hành Quyết định 67-HĐBT. Theo đó:
Ngày 24 tháng 7 năm 1999, thành phố Đà Lạt được Thủ tướng Chính phủ công nhận là đô thị loại II theo quyết định số 158/1999/QĐ-TTg.
Ngày 6 tháng 3 năm 2009, thành lập xã Trạm Hành trên cơ sở điều chỉnh 5.431,38 ha diện tích tự nhiên và 5.086 nhân khẩu của xã Xuân Trường.
Như vậy, thành phố Đà Lạt có 39.329,01 ha diện tích tự nhiên và 195.365 nhân khẩu với 16 đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc, bao gồm 12 phường: 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9, 10, 11, 12 và 4 xã: Tà Nung, Xuân Thọ, Xuân Trường, Trạm Hành như hiện nay.
Ngày 23 tháng 3 năm 2009, thành phố Đà Lạt được Thủ tướng Chính phủ công nhận là đô thị loại I trực thuộc tỉnh Lâm Đồng theo quyết định số 373/QĐ-TTG.
Ngày 28/3/2023, Sở Nội vụ tỉnh Lâm Đồng cho biết vừa có báo cáo đề xuất phương án sắp xếp đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã giai đoạn 2023 - 2030. Theo đó, đề xuất phương án sáp nhập Huyện Lạc Dương vào Đà Lạt kể từ năm 2025. Như vậy, Đà Lạt sẽ trở thành thành phố trực thuộc tỉnh có diện tích lớn nhất Việt Nam, với diện tích gần 1800km² và dân số khoảng 300.000 người.
Thành phố Đà Lạt có diện tích 394,64 km², nằm trên cao nguyên Lâm Viên, nơi có độ cao khoảng 1.500 mét so với mực nước biển. Thành phố có tọa độ địa lý 11°48′36″ đến 12°01′07″ vĩ độ bắc và 108°19′23″ đến 108°36′27″ kinh độ đông, cách Thành phố Hồ Chí Minh 307 km về phía bắc, cách Hà Nội 1.500 km và cách Đà Nẵng 658 km về phía nam.
Thành phố có vị trí địa lý:
Dân số Đà Lạt từ kết quả Kết quả Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2022 là 237.565 người. Đây là đô thị miền núi đông dân đứng thứ hai cả nước, chỉ sau thành phố Buôn Ma Thuột.
Địa hình Đà Lạt được phân thành hai dạng rõ rệt: địa hình núi và địa hình bình nguyên trên núi. Địa hình núi phân bố xung quanh vùng cao nguyên trung tâm thành phố. Các dãy núi cao khoảng 1.700 mét tạo thành một vành đai chắn gió che cho khu vực lòng chảo trung tâm. Từ thành phố nhìn về hướng bắc, núi Langbiang như một tường thành theo hướng đông bắc – tây nam, kéo dài từ suối Đạ Sar đến hồ Dankia. Hai đỉnh cao nhất của dãy núi này có độ cao 2.167 mét và 2.064 mét. Án ngữ phía đông và đông nam Đà Lạt là hai dãy Bi Doup và Cho Proline. Về phía nam, địa hình núi chuyển tiếp sang bậc địa hình thấp hơn, đặc trưng là khu vực đèo Prenn với các dãy núi cao xen kẽ những thung lũng sâu. Trung tâm Đà Lạt như một lòng chảo hình bầu dục dọc theo hướng bắc – nam với chiều dài khoảng 18 km, chiều rộng khoảng 12 km. Những dãy đồi đỉnh tròn ở đây có độ cao tương đối đồng đều nhau, sườn thoải về hướng hồ Xuân Hương và dần cao về phía các vùng núi bao quanh. Nơi cao nhất trong trung tâm thành phố là dinh Nguyễn Hữu Hào trong Bảo tàng Lâm Đồng với độ cao 1.532 mét, còn điểm thấp nhất là thung lũng Nguyễn Tri Phương, độ cao 1.398 mét.
Trên địa phận thành phố Đà Lạt, xen giữa vùng đồi thấp trung tâm thành phố và các dãy núi bao quanh, có thể thấy hơn 20 dòng suối có chiều dài trên 4 km, thuộc các hệ thống suối Cam Ly, Đa Tam và hệ thống sông Đa Nhim. Đây đều là những con suối đầu nguồn thuộc lưu vực sông Đồng Nai, trong đó hơn một nửa là các con suối cạn, chỉ chảy vào mùa mưa và cạn kiệt vào mùa khô. Suối Cam Ly dài 64,1 km, bắt nguồn từ huyện Lạc Dương, chảy theo hướng bắc – nam và đổ vào hồ Xuân Hương. Đây chính là hệ thống suối lớn nhất Đà Lạt, có vai trò quan trọng trong việc tạo cảnh quan cho khu vực đô thị trung tâm. Đà Lạt còn nổi tiếng là thành phố của hồ và thác với khoảng 16 hồ lớn nhỏ phân bố rải rác, phần nhiều là các hồ nhân tạo. Hồ Xuân Hương nằm ở trung tâm thành phố, rộng khoảng 38 ha, được tạo lập năm 1919 trong quá trình xây dựng Đà Lạt. Trước năm 1986, hồ Xuân Hương cùng hồ Chiến Thắng và hồ Than Thở là nguồn cung cấp nước chủ yếu cho thành phố. Ngày nay, nguồn nước sinh hoạt được dẫn về từ hồ Dankia thuộc huyện Lạc Dương, cách Đà Lạt khoảng 17 km.
Do nằm ở độ cao 1.500 mét và được các dãy núi cùng quần hệ thực vật rừng, đặc biệt là rừng thông bao quanh, nên đối lập với khí hậu nhiệt đới gió mùa của miền trung và khí hậu nhiệt đới xavan ở miền nam, thành phố Đà Lạt có một khí hậu miền núi ôn hòa dịu mát quanh năm.
Nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới xavan, Đà Lạt có hai mùa rõ rệt: mùa mưa và mùa khô. Mùa mưa bắt đầu từ tháng 4 và kết thúc vào tháng 10. Còn mùa khô kéo dài từ tháng 11 năm trước đến tháng 3 năm sau. Vào mùa khô, Đà Lạt chịu ảnh hưởng của khối không khí biển Đông, mang lại thời tiết nắng ấm, ít mây, không mưa, nhiệt độ hạ thấp về ban đêm và biên độ nhiệt lớn. Trong những tháng mùa mưa, gió mùa đông bắc hầu như không còn ảnh hưởng đến Đà Lạt, thay thế bởi khối không khí xích đạo từ phía nam tràn lên phía bắc. Gió mùa tây nam mang lại nguồn ẩm chủ yếu cho những trận mưa lớn và những đợt mưa kéo dài nhiều ngày. Mặc dù vậy, do ảnh hưởng của khối không khí nhiệt đới Thái Bình Dương, trong mùa mưa vẫn có những thời kỳ thời tiết tạnh ráo.
Nhiệt độ trung bình tháng ở Đà Lạt luôn dưới 20°C, ngay cả trong những tháng nóng nhất. Tuy vậy, Đà Lạt cũng không phải là nơi có nhiệt độ trung bình tháng thấp nếu so với các tỉnh thành phố miền bắc có khí hậu cận nhiệt đới. Trong những tháng mùa đông, nhiệt độ trung bình tháng vẫn trên 15 °C. Theo số liệu thống kê từ năm 1964 tới năm 1998, nhiệt độ trung bình năm ở Đà Lạt là 2.9 °C, trong đó năm 1973 có nhiệt độ trung bình cao nhất lên đến 18,5 °C, còn năm 1967 nhiệt độ trung bình xuống thấp nhất, 17,4 °C. Nếu so sánh với Sa Pa, thị xã nghỉ dưỡng ở miền Bắc ở độ cao 1.581 mét so với mặt biển và nằm trong vùng cận nhiệt đới, thì nhiệt độ trung bình năm ở Đà Lạt cao hơn 2,6 °C. Vào tháng 12 thời điểm cuối năm, Đà Lạt hạ nhiệt vào ban đêm từ 6 °C đến 8 °C thậm chí xuống 4 °C. Buổi sáng vào mùa đông, Đà Lạt có mưa phùn và trời ít khi có nắng. và nếu xét riêng các tháng mùa đông thì nhiệt độ trung bình của Đà Lạt cao hơn Sapa đến 7 °C (tuy nhiên về mùa hè Sapa thường ấm hơn khoảng 2 °C đến 3 °C so với Đà Lạt không đáng kể).
Biên độ nhiệt độ ngày đêm ở Đà Lạt rất lớn, trung bình năm đạt 11 °C, cao nhất trong những tháng mùa khô, lên tới 13 – 14 °C, và thấp nhất trong những tháng mùa mưa, chỉ khoảng 6 – 7 °C. Ngược lại, biên độ nhiệt trung bình giữa các tháng trong năm lại nhỏ, tháng ấm nhất và tháng lạnh nhất cũng chỉ chênh lệch 3,5 °C. Độ dài ngày trong các mùa ở Đà Lạt không có sự chênh lệch lớn, trung bình khoảng từ 11 đến ít hơn 12 giờ vào mùa đông và trên 12 giờ vào mùa hè. Tổng số giờ nắng trong năm ở đây tương đối cao, khoảng 2.236 giờ một năm, tập trung chủ yếu vào các tháng 12, 1, 2 và 3 của mùa khô. Tổng lượng bức xạ thu nhập ở Đà Lạt khoảng 140 kCalo/cm²/năm, nhiều nhất vào tháng 4 và ít nhất vào tháng 8. Nếu so với các vùng lân cận, lượng bức xạ Mặt Trời của Đà Lạt không cao, nhưng đây là nguồn năng lượng chủ yếu cho các quá trình trao đổi nhiệt, mang lại nền nhiệt độ thấp và tương đối ôn hòa.
Mùa mưa ở Đà Lạt thường bắt đầu vào cuối tháng 4, đầu tháng 5 và kết thúc vào khoảng cuối tháng 10, đầu tháng 11. Tuy hàng năm, thời điểm bắt đầu và kết thúc của mùa mưa có thể thay đổi, nhưng mùa mưa ở đây thường kéo dài khoảng hơn 6 tháng. Trung bình, một năm Đà Lạt có 160 ngày mưa với lượng mưa 1.768 mm, tập trung nhiều nhất vào ba tháng 7, 9 và 10, ba tháng có sự hoạt động mạnh của trường gió mùa tây nam. Nếu lấy trung bình từ tháng 5 tới tháng 10, tổng lượng mưa trong mùa mưa ở Đà Lạt chiếm đến gần 80% lượng mưa của cả năm. So với vùng đồng bằng, Đà Lạt có số ngày mưa trong năm nhiều hơn, nhưng lượng mưa lại thấp hơn. Ở Đà Lạt còn có một hiện tượng thời tiết đáng chú ý khác là sương mù, trung bình 80 đến 85 ngày trong một năm, nhưng xuất hiện nhiều nhất vào khoảng thời gian từ tháng 2 tới tháng 5 và từ tháng 9 đến tháng 10. Phổ biến hơn cả là loại sương mù bức xạ được hình thành khi mặt đất bị lạnh đi nhiều do bức xạ vào lúc trời quang, lặng gió. Sương mù dày ít xảy ra hơn, thường gặp vào tháng 9 và tháng 10, trung bình mỗi tháng có tới 4 đến 5 ngày sương mù dày.
Thành phố Đà Lạt có 16 đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc, bao gồm 12 phường: 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9, 10, 11, 12 và 4 xã: Tà Nung, Trạm Hành, Xuân Thọ, Xuân Trường.
Ủy ban nhân dân thành phố nằm tại số 3 đường Trần Hưng Đạo, đối diện Ủy ban nhân dân tỉnh Lâm Đồng và không xa trụ sở Hội đồng nhân dân thành phố. Nhiệm kỳ 2011–2016, người giữ chức vụ Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố Đà Lạt là ông Võ Ngọc Hiệp. Thành ủy Đà Lạt có trụ sở tại 31 đường Đinh Tiên Hoàng, Phường 2. Bí thư Thành ủy nhiệm kỳ 2010–2015 là ông Đoàn Văn Việt, cũng là người giữ cương vị Chủ tịch Hội đồng nhân dân Đà Lạt nhiệm kỳ 2011–2016.
Trải qua hơn một trăm năm lịch sử, từ một trung tâm nghỉ dưỡng trở thành một đô thị lớn, cộng đồng dân cư Đà Lạt thay đổi theo quá trình hình thành và phát triển của thành phố. Vào năm 1893, khi bác sĩ Alexandre Yersin đến cao nguyên Lâm Viên, nơi đây chỉ là một vùng dân cư thưa thớt, một vài ngôi làng của người Lạch tập trung ở chân núi. Đến tận năm 1902, khi dự án xây dựng một thành phố của Toàn quyền Paul Doumer dừng lại, cư dân Đà Lạt vẫn chỉ là những nhóm dân tộc thiểu số người Lạch, người Chil cùng một nhóm nhỏ người Việt di cư lên đây từ trước đó. Năm 1906, một lần nữa, nơi đây được chọn làm nơi nghỉ dưỡng dành cho công chức và binh sĩ Pháp, ngoài các cư dân bản địa, ở Đà Lạt bắt đầu có các công chức người Pháp, những du khách châu Âu, và người Việt cũng bắt đầu tới đây nhiều hơn trước. Giai đoạn sau Chiến tranh thế giới thứ nhất là thời kỳ thành phố phát triển mạnh mẽ. Cơ sở hạ tầng cùng đường sá được xây dựng khiến dân cư từ nhiều nơi tới Đà Lạt định cư, du lịch và nghỉ dưỡng. Dân số Đà Lạt đã tăng lên đáng kể từ 1.500 người vào năm 1923 lên 11.500 người năm 1939. Những năm Chiến tranh thế giới thứ hai, nhiều người Pháp không thể trở về nghỉ ở quê hương và Đà Lạt trở thành điểm đến của họ. Thành phố tiếp tục được mở rộng và dân số tăng lên nhanh chóng, từ 13.000 người năm 1940 lên 25.500 người vào năm 1944.
Những biến cố của cuộc chiến tranh Đông Dương ảnh hưởng mạnh mẽ tới dân số Đà Lạt. Thời kỳ này rất nhiều cư dân của thành phố lánh về Cầu Đất, Đơn Dương, Ninh Thuận, Bình Thuận hoặc trở về quê hương cũ. Vào năm 1946, dân số Đà Lạt chỉ còn khoảng 5.200 người, khiến người Pháp gọi nơi đây là "thành phố quạnh hiu". Nhưng khoảng thời gian tiếp theo, khi Đà Lạt một lần nữa thuộc về người Pháp, các hoạt động kinh tế, xã hội dần ổn định trở lại. Vào cuối năm 1952, dân số thành phố đạt 25.041 người, trong đó có 1.217 người châu Âu, 752 người Hoa, 22.232 người Kinh và 840 người dân tộc bản địa. Cuối năm 1953, đầu năm 1954, cuộc chiến tranh Đông Dương bước vào giai đoạn khốc liệt nhất, Đà Lạt trở thành nơi dân cư các tỉnh lân cận tìm đến để tỵ nạn chiến tranh. Năm 1954, sau hiệp định Genève, thành phố đón nhận một lượng lớn những di dân từ miền Bắc cùng làn sóng người miền Trung đến lập nghiệp, khiến dân số Đà Lạt tăng vọt từ 25.000 người năm 1954 lên 58.958 người vào năm 1956. Dân số thành phố gia tăng điều đặn trong thập niên 1960, nhưng giảm sút trong thập niên 1970, khi chiến tranh Việt Nam bước vào giai đoạn căng thẳng. Khoảng thời gian đầu sau sự kiện 30 tháng 4 năm 1975, nhiều người phục vụ trong quân đội, chính quyền Việt Nam Cộng hòa trở về quê quán khiến dân số Đà Lạt giảm xuống, nhưng sau đó được bổ sung bởi các di dân mới từ miền Bắc và miền Trung. Cuối thế kỷ 20, địa giới hành chính Đà Lạt được mở rộng, dân số thành phố tăng lên mạnh mẽ và có sự gia tăng dân số cơ học đáng kể. Năm 2011, Đà Lạt có dân số 211.696 người, chiếm 17,4% dân số của tỉnh Lâm Đồng, mật độ 536 người/km².
Trong lịch sử, Đà Lạt từng là nơi sinh sống của nhiều nhóm dân cư có nguồn gốc đa dạng, từ người Kinh, người Cơ Ho đến những người Hoa, người Pháp. Ngày nay, phần lớn cư dân của thành phố là người Kinh, phần nhỏ còn lại gồm những người Hoa, người Cơ Ho và các dân tộc thiểu số khác như Tày, Nùng, Chă, Đà Lạt có 191.803 cư dân thành thị, tương đương 90%. Cấu trúc theo giới tính, thành phố có 100.520 cư dân nam và 111.176 cư dân nữ. Cũng như các đô thị khác, mật độ dân số của Đà Lạt không đồng đều, dân cư tập trung nhiều nhất ở các phường trung tâm như Phường 1, Phường 2, Phường 6. Ở ngoại thành, cư dân sống chủ yếu bằng nông nghiệp, lâm nghiệp và tiểu thủ công nghiệp, trong đó nông nghiệp chiếm một phần quan trọng. Khu vực ngoại thành của Đà Lạt rõ nét nhất là các xã Xuân Trường, Xuân Thọ và Tà Nung.
Tôn giáo và tín ngưỡng.
Do những đặc điểm trong quá trình hình thành cộng đồng dân cư, đời sống tín ngưỡng và tôn giáo ở Đà Lạt rất đa dạng. Trên thành phố ngày nay có thể thấy sự hiện diện của 43 nhà thờ, tu viện Công giáo hay Tin Lành, 55 ngôi chùa và tịnh xá Phật giáo, 3 thánh thất Cao Đài cùng rất nhiều những ngôi đình làng nằm rải rác. Phần lớn cư dân Đà Lạt hiện nay là những người Việt đến từ nhiều vùng miền, vì thế có thể bắt gặp ở đây tất cả những hình thái tín ngưỡng phổ biến của người Việt như tục thờ cúng tổ tiên, tín ngưỡng Thành hoàng, tục thờ Mẫu, tục thờ gia thầ, các thôn làng ở đây không có những gốc tích xa xưa, những ngôi đình làng tuy xuất hiện dày đặc nhưng phần lớn đều mới được dựng lên cách đây chỉ 3, 4 thập kỷ và mang quy mô nhỏ. Ở nhiều ngôi đình, trên bàn thờ chính chỉ có một chữ "Thần" bằng chữ Hán và những người tham gia tế lễ cũng không biết danh tính, công đức của vị thánh mà mình thờ phụng. Đặc biệt, trong tín ngưỡng thờ Thành hoàng, những người có công mở làng lập ấp lại không được coi là Thành hoàng làng. Bên cạnh đó, đời sống tâm linh tại Đà Lạt còn có sự góp mặt của những hình thái tín ngưỡng dân gian thuộc các dân tộc thiểu số và cộng đồng người Hoa.
Hầu hết các tôn giáo lớn ở Việt Nam đều có mặt tại Đà Lạt, trong đó đạo Phật là tôn giáo có lượng tín đồ đông đảo nhất, tiếp đến là Công giáo, đạo Cao Đài và đạo Tin Lành. Các tôn giáo du nhập vào vùng cao nguyên Lâm Viên từ khá sớm và sự tăng trưởng về số lượng tín đồ, cơ sở thờ tự đều gắn liền với quá trình hình thành và phát triển của thành phố. Hầu như mỗi cuộc di dân đến đây đều đem lại cho Đà Lạt thêm một số lượng tín đồ cùng sự hình thành các cơ sở thờ tự mới. Có mặt sớm nhất ở Đà Lạt là Công giáo, xuất hiện ngay từ những ngày đầu xây dựng thành phố. Muộn hơn một chút là sự hoằng dương của Phật giáo rồi đến sự du nhập của đạo Tin Lành và đạo Cao Đài. Tuy hội đủ các loại hình tôn giáo khác nhau, nhưng các tôn giáo ở Đà Lạt chung sống hòa bình, trong gần 100 năm qua không hề có những xung đột tôn giáo. Nhiều thánh đường Công giáo nằm bên các chùa chiền và không xa có thể là một thánh thất Cao Đài. Bên cạnh sứ mệnh mở mang tôn giáo, những người tu hành của Thiên Chúa giáo, Tin Lành và Phật giáo ở Đà Lạt còn tham gia vào các hoạt động xã hội, đặc biệt trong lĩnh vực từ thiện nhân đạo. Rất nhiều những ngôi trường, cô nhi viện của thành phố xuất phát từ các cơ sở do những tổ chức tôn giáo thành lập. Theo số liệu của Ủy ban nhân dân thành phố Đà Lạt vào năm 2002, có khoảng 63% số hộ và 67% số nhân khẩu ở thành phố là tín đồ của Phật giáo, Cao Đài, Công giáo, hoặc Tin Lành.
Kinh tế - xã hội.
Đà Lạt có một nền kinh tế thiên về các lĩnh vực du lịch, dịch vụ và nông nghiệp. Vào năm 2007, các ngành du lịch và dịch vụ chiếm đến 70% tổng sản phẩm nội địa của thành phố. Giá trị sản xuất công nghiệp theo giá thực tế của Đà Lạt năm 2011 đạt 2.047,400 tỷ đồng, tương đương với Bảo Lộc, thành phố thứ hai của Lâm Đồng. Trong lĩnh vực công nghiệp, thu hút nhiều lao động nhất là các ngành công nghiệp chế biến. Một số sản phẩm của Đà Lạt như rượu vang, trà Atisô hay mứt trái cây từ lâu đã được biết đến rộng rãi. Nhờ điều kiện khí hậu và thổ nhưỡng thích hợp, Đà Lạt còn là vùng đất trồng nhiều trà và cà phê, cũng là hai sản phẩm quan trọng trong lĩnh vực công nghiệp chế biến của thành phố. Một nghề mới phát triển trong những năm cuối thế kỷ 20 tại Đà Lạt là nghề thêu, nổi bật hơn cả là những sản phẩm tranh thêu của Công ty XQ Đà Lạt. Trong thành phố, còn có thể thấy sự hiện diện của các công ty in ấn, may mặc, dệt, chế biến tinh dầu, sản xuất lâm sả, thành phố Đà Lạt có tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt 17%, tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu đạt 42,7 triệu đô la Mỹ và thu nhập bình quân đầu người khoảng 26,6 triệu đồng.
Nhờ thổ nhưỡng và khí hậu thuận lợi, Đà Lạt có điều kiện để phát triển nhiều loại cây ôn đới. Trừ một vài giống rau từ miền Bắc, hầu hết các giống rau của thành phố đều được nhập về từ Pháp, Đức, Hà Lan, Nhật Bản, Hoa Kỳ... Cây rau chiếm diện tích canh tác chủ yếu tại Đà Lạt cả trước đây và hiện nay là cải bắp, nhiều nhất là giống cải bắp của Nhật Bản, được trồng quanh năm. Các cây cải thảo và cải bông cũng có mặt ở khắp các địa phương, tập trung vào vụ đông xuân hàng năm. Một loại cây rau ngắn ngày nổi tiếng của Đà Lạt là xà lách, có thời gian sinh trưởng ngắn nên được trồng xen với những chủng loại cây rau khác. Trên các vùng trồng rau của Đà Lạt còn có thể thấy các giống cây nông nghiệp như khoai tây, cà rốt, hành tây, đậu Hà Lan, rau chân vị, với các giống Mai anh đào Đà Lạt, hoa lan, hoa hồng, hoa lys, hoa lay ơn, hoa cẩm tú cầu, hoa bất tử, hoa cẩm chướ, Lan hoàng thảo, Lan hài, Lan hoàng hậ, một số giống lan vùng nhiệt đới và á nhiệt đới cũng được trồng thành công như giống lai trong chi Hồ điệp, Hoàng y Mỵ Nương, Lan nhện. Các loài lay ơn, hoa hồng, hoa lys đều được trồng ở Đà Lạt từ khoảng giữa thế kỷ 20. Trên các vùng đất ngoại ô thành phố, còn có thể thấy những vườn cây ăn trái như đào, mận, hồng, dâu tâ, cà phê, hay atisô, loài cây dược liệu nổi tiếng của Đà Lạt. Vào năm 2011, thành phố có 7.123 hecta gieo trồng rau, 441 hecta trồng cây ăn quả, 25 hecta trồng lúa, và gần 3.500 hecta diện tích trồng hoa, trong đó khoảng 1.500 hecta nhà kính.
Trước đây, tham gia sản xuất nông nghiệp ở Đà Lạt là các gia đình nông dân và một số điền trang tư nhân quy mô nhỏ. Thời kỳ sau năm 1975, với chính sách kinh tế kế hoạch tập trung, ở Đà Lạt xuất hiện các hợp tác xã nông nghiệp và các tập đoàn sản xuất. Sản xuất nông nghiệp khi đó được thực hiện theo kế hoạch đến từng khóm dân cư, việc thu mua rau do Công ty Nông sản Thực phẩm và Công ty Ngoại thương đảm nhận. Nhưng đến cuối thập kỷ 1980, hầu hết các tập đoàn sản xuất và hợp tác xã đều ngừng hoạt động và tự tan rã, phần lớn đất sản xuất được giao khoán đến từng gia đình nông dân. Những năm gần đây, Đà Lạt xuất hiện nhiều công ty nông nghiệp tư nhân và nước ngoài, như Dalat Hasfarm Agrivina, Bonnie Farm, Rừng Hoa Đà Lạt, Langbiang F, Rau Nhà Xanh, Kim Bằng, Bio-O, phát triển ngành sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, vào năm 2002 và 2006, Hiệp hội rau quả Đà Lạt và Hiệp hội hoa Đà Lạt lần lượt được thành lập. Nhờ mở rộng diện tích canh tác và áp dụng những tiến bộ kỹ thuật, sản lượng nông nghiệp của thành phố tăng mạnh mẽ trong những năm gần đây. Vào năm 1996, Đà Lạt thu hoạch 82.448 tấn rau, đến năm 2002 con số này lên tới 183.300 tấn, và năm 2011, sản lượng rau của thành phố đạt 212.870 tấn.
Tương tự, ngành sản xuất hoa Đà Lạt cũng tăng trưởng trung bình 20% một năm, sản lượng hoa cắt cành ở mức 150 triệu cành năm 2001 đã tăng lên trên 900 triệu cành vào năm 2009 và 1,5 tỷ cành vào năm 2011. Sản phẩm hoa của thành phố được tiêu thụ chủ yếu ở thị trường Việt Nam, trong hơn 10 năm gần đây, chỉ khoảng 5% hoa Đà Lạt xuất khẩu ra nước ngoài.
Vào thời kỳ mới thành lập, ở Đà Lạt chỉ có một trạm cứu thương lưu động, đến năm 1921 thành phố mới có được trạm xá đầu tiên. Năm 1922, Bệnh viện Đà Lạt được người Pháp khởi công xây dựng và hoàn thành vào năm 1938. Cũng trong thời kỳ này, Viện Pasteur Đà Lạt được khánh thành vào ngày 1 tháng 1 năm 1936, là đơn vị cuối cùng trong hệ thống các viện Pasteur ở Đông Dương. Thời Việt Nam Cộng hòa, Bệnh viện Đà Lạt được phát triển thành Trung tâm Y tế toàn khoa thuộc Bộ Y tế. Sau năm 1975, trung tâm này được đổi lại thành Bệnh viện Đà Lạt, tiếp đó trở thành Bệnh viện Đa khoa tỉnh Lâm Đồng khi tỉnh Lâm Đồng được thành lập. Bệnh viện Y học cổ truyền được thành lập trên đường Cô Bắc năm 1986, tới năm 1993 đổi tên thành Bệnh viện Y học cổ truyền Phạm Ngọc Thạch. Năm 1990, với sự giúp đỡ của Làng Hòa Bình Quốc tế Cộng hòa Liên bang Đức, thành phố có được một Trung tâm phục hồi chức năng trẻ em dị tật. Cơ sở y tế này sau đó được sáp nhập với Viện Điều dưỡng, vốn được thành lập năm 1988, trở thành Bệnh viện Điều dưỡng và Phục hồi chức năng.
Ngày nay, Bệnh viện Đa khoa Lâm Đồng, Bệnh viện Y học cổ truyền Phạm Ngọc Thạch và Bệnh viện Điều dưỡng và Phục hồi chức năng là ba bệnh viện tuyến tỉnh tại Đà Lạt, với tổng cộng 630 giường bệnh. Cuối năm 2008, Bệnh viện đa khoa Hoàn Mỹ Đà Lạt tọa lạc trên đồi Long Thọ, thuộc Phường 10, bắt đầu hoạt động. Đây là bệnh viện tư đầu tiên của Đà Lạt và vùng nam Tây Nguyên với diện tích sàn sử dụng 30.000 mét vuông và 200 giường bệnh. Năm 2010, Bệnh viện Nhi Đà Lạt bắt đầu được xây dựng trên đồi thông thuộc khu Thánh Mẫu - Tô Hiệu thuộc Phường 8. Dự kiến hoàn thành vào cuối năm 2013, Bệnh viện Nhi Đà Lạt có quy mô 150 giường bệnh, sẽ là bệnh viện nhi đầu tiên ở khu vực Tây Nguyên và Nam Trung Bộ. Bên cạnh các cơ sở y tế tuyến tỉnh, thành phố cũng có một mạng lưới y tế riêng bao gồm các cơ sở như Nhà hộ sinh Thành phố, Văn phòng Trung tâm Y tế, các phòng khám đa khoa khu vự, xã. Những tổ chức hội y tế, gồm Hội Y Dược học, Hội Y học cổ truyền và Hội Chữ thập đỏ, cũng tham gia vào các hoạt động y tế ở thành phố. Theo số liệu thống kê năm 2011, thành phố Đà Lạt có 195 bác sĩ, 146 y sĩ và kỹ thuật viên, 285 y tá và 1.085 giường bệnh. Năm 2019, Phòng khám Đa khoa Phương Nam do tư nhân được thành lập, sở hữu hệ thống phòng khám hiện đại với 20 chuyển khoa, tọa lạc tại trung tâm thành phố Đà Lạt.
Sau khi triều đình Huế thông báo dụ thành lập thị tứ Đà Lạt vào năm 1916, dân cư Đà Lạt và vùng lân cận dần tăng lên, hệ thống giáo dục ở đây bắt đầu hình thành và phát triển cùng với sự phát triển của thành phố. Trường học đầu tiên ở Đà Lạt là trường École française, khai giảng vào ngày 20 tháng 12 năm 1919, chỉ dành riêng cho các học sinh người Pháp. Cuối thập niên 1920, những công chức người Pháp tới Đà Lạt ngày một đông, thành phố có thêm hai ngôi trường Pháp mới, Petit Lycée và Grand Lycée. Trường Grand Lycée được khởi công xây dựng vào năm 1929 và khai giảng năm 1933, dành cho con em người Pháp và các quan lại người Việt. Đến năm 1935, trường khánh thành và mang tên Trung học Yersin, tiền thân của Trường Cao đẳng Sư phạm Đà Lạt ngày nay. Ngôi trường dành cho học sinh Việt Nam đầu tiên là một trường tư được thành lập năm 1927. Năm 1928, ngôi trường công dành cho học sinh Việt mang tên École communale de Dalat, ngày nay là trường tiểu học Đoàn Thị Điểm, khai giảng khóa đầu tiên. Năm 1934, Trường Couvent des Oiseaux và năm 1939, Trường Thiếu sinh quân Đà Lạt lần lượt được ra đời. Ở bậc giáo dục đại học, niên học 1944-1945, Chính phủ Pháp cho mở một lớp chuyên khoa toán đặt tại Trung học Yersin. Lớp học này có khoảng 40 sinh viên, chỉ tồn tại đến tháng 3 năm 1945, thời điểm Nhật đảo chính Pháp. Thời kỳ 1945 đến 1954, ở Đà Lạt còn xuất hiện thêm hai ngôi trường mới, Trường Hành chính Quốc gia và Trường Võ bị Liên quân Đà Lạt. Sau năm 1954, dân số Đà Lạt tăng đột biến nhờ một lượng lớn di dân từ miền Bắc và miền Trung, nhiều ngôi trường mới tiếp tục ra đời. Năm 1957, Viện Đại học Đà Lạt được thành lập, xuất phát từ một tổ chức tư thục do giáo hội Thiên Chúa giáo quản lý. Từ 49 sinh viên trong niên học đầu tiên 1958-1959, đến niên học 1974-1975, Viện Đại học Đà Lạt có khoảng 5.000 sinh viên theo học, bao gồm các trường Đại học Sư phạm, Đại học Văn khoa, Đại học Khoa học và Đại học Chính trị - Kinh doanh. Thời điểm trước tháng 4 năm 1975, tại Đà Lạt có đến 61 ngôi trường, cả công lập và tư thục. Bên cạnh các trường phổ thông, đại học, ở đây còn có nhiều trường đào tạo quân sự và tôn giáo như Trường Võ bị Quốc gia, Trường Chiến tranh chính trị, Trường Chỉ huy và Tham mưu, Giáo hoàng học viện.
Ngày nay, Đà Lạt vẫn là một trung tâm giáo dục của miền Nam Việt Nam. Năm 2011, ở bậc giáo dục tiểu học và phổ thông, toàn thành phố Đà Lạt có 44 trường, 1.763 giáo viên và 37.711 học sinh, trong đó 16.712 học sinh tiểu học, 12.311 học sinh trung học cơ sở và 8.688 học sinh trung học phổ thông. Thành phố cũng có 25 trường, 417 giáo viên và 8.972 học sinh bậc mẫu giáo. Tại Đà Lạt còn có thể thấy sự hiện diện của ba trường đại học, bốn trường cao đẳng cùng các trung tâm giáo dục thường xuyên, các trường giáo dục chuyên nghiệp, các cơ sở giáo dục đặc biệt dành cho trẻ em khuyết tậ, đến năm 1992, trường hợp nhất với Trung học Sư phạm và Sư phạm Mầm non trở thành một trường sư phạm đa hệ. Do nhu cầu giáo viên các bậc học mầm non, tiểu học và trung học cơ sở giảm bớt nên quy mô đào tạo trường cũng thu hẹp lại, chỉ còn hơn 1.000 sinh viên chính quy. Năm 1976, Trường Đại học Đà Lạt được thành lập trên cơ sở của Viện Đại học Đà Lạt trước đó. Thời gian đầu, trường chỉ đào tạo cử nhân cho các ngành khoa học cơ bản với quy mô nhỏ, 250 sinh viên trong niên học 1977-1979. Ngày nay, Đại học Đà Lạt trở thành một trường đại học đa ngành với 52 ngành nghề của các bậc đào tạo từ trung cấp chuyên nghiệp, cao đẳng, đại học, sau đại học đến nghiên cứu sinh. Năm 2011, Trường Đại học Đà Lạt có 22.665 sinh viên đang theo học ở tất cả các bậc đào tạo. Từ năm 2004, thành phố Đà Lạt có thêm một trường đại học mới mang tên Alexandre Yersin. Hiện nay, Trường Đại học Dân lập Yersin Đà Lạt gồm 8 khoa, đào tạo 2.329 sinh viên trong năm 2011. Đà Lạt vẫn tiếp tục là địa điểm của một đại học quân sự quan trọng. Sau tháng 4 năm 1975, các trường quân sự của Việt Nam Cộng hòa bị giải thể. Bộ Quốc phòng quyết định chuyển địa điểm của Học viện Quân sự từ Hà Nội vào Đà Lạt, tiếp nhận cơ sở từ các trường quân sự cũ. Học viện Lục quân ngày nay nằm ở phía đông bắc thành phố, là nơi đào tạo sĩ quan trung cao cấp cho Quân đội Việt Nam, cũng là một cơ quan nghiên cứu khoa học quân sự. Bên cạnh các cơ sở giáo dục, ở Đà Lạt còn có sự hiện diện của nhiều trung tâm nghiên cứu khoa học quan trọng, như Viện Sinh học Tây Nguyên, Viện Nghiên cứu hạt nhân Đà Lạt hay Viện Pasteur Đà Lạt.
Văn hóa - du lịch.
Đà Lạt là đô thị duy nhất ở Việt Nam được quy hoạch bài bản ngay từ khi hình thành. Vào năm 1906, khi nơi đây vẫn còn là một địa điểm hoang vắng, thị trưởng đầu tiên của Đà Lạt Paul Champoudry đã thiết lập một đồ án tổng quát kèm theo Dự án chỉnh trang và phân lô cho thành phố tương lai, áp dụng phương pháp quy hoạch phân khu chức năng rất hiện đại thời kỳ đó. Năm 1921, thời điểm công cuộc kiến thiết thành phố bước vào giai đoạn mạnh mẽ nhất, kiến trúc sư nổi tiếng Ernest Hébrard nhận nhiệm vụ xây dựng đồ án quy hoạch với định hướng Đà Lạt có thể trở thành thủ đô của Liên bang Đông Dương trong tương lai. Đặc biệt quan tâm tới vấn đề bảo vệ cảnh quan và bố cục không gian thẩm mỹ của thành phố, Ernest Hébrard đã sử dụng dòng suối Cam Ly như trục cảnh quan trung tâm, kết hợp cùng hệ thống các hồ nước nhân tạo. Bố cục chính của thành phố được tổ chức dựa trên trục cảnh quan này và mỗi hồ nước là một trung tâm cảnh quan của các công trình trong một phân khu chức năng. Sau hơn 10 năm áp dụng đồ án Hébrard, đến năm 1933, kiến trúc sư Louis Georges Pineau đưa ra nghiên cứu "Chỉnh trang thành phố Đà Lạt" với những quan niệm thực tế hơn. Louis Georges Pineau kế thừa ý tưởng của Ernest Hébrard, đề nghị mở rộng hơn nữa các hồ nước và công viên, bố trí các khu vực xây dựng phù hợp với cảnh trí, khí hậu địa phương, và thiết lập một vùng bất kiến tạo rộng lớn để bảo vệ tầm nhìn về hướng núi Lang Biang. Năm 1940, trong "Tiền dự án chỉnh trang và phát triển Đà Lạt", kiến trúc sư Mondet đề ra phương án không kéo dài thành phố, mà tổ chức hợp nhóm lại và mở rộng bằng cách ưu tiên sử dụng những lô đất gần trung tâm. Đồ án của Mondet tuy không được áp dụng nhưng đã được kiến trúc sư Jacques Lagisquet kế thừa trong "Chương trình chỉnh trang và phát triển Đà Lạt" năm 1943. Vẫn giữ ý tưởng của Ernest Hébrard về một "thành phố phong cảnh", nhưng Jacques Lagisquet quy hoạch xây dựng những khu trung tâm hành chính, thương mại, khu vực khách sạn, bệnh viện, trường họ, nhưng các đồ án quy hoạch của Hébrard, Pineau, Mondet và Lagisquet mang tính kế thừa lẫn nhau và chung một ý tưởng xuyên suốt: Đà Lạt là một thành phố du dịch với cảnh quan thiên nhiên tươi đẹp.
Thành phố Đà Lạt được ví như một bảo tàng kiến trúc phương Tây đầu thế kỷ 20 với nhiều công trình nổi tiếng và những biệt thự xinh đẹp. Các công trình kiến trúc tiêu biểu nơi đây đều chọn lựa bố cục tổng thể theo hình khối nằm ngang ổn định, gắn kết chặt chẽ với địa hình và hòa hợp với thiên nhiên. Những công trình xây dựng dưới thời thuộc địa đều có cơ sở thiết kế phù hợp với điều kiện tự nhiên của địa phương và điều kiện sinh hoạt của cư dân. Trải qua một thời gian dài xây dựng thành phố, phong cách kiến trúc đã có nhiều thay đổi, từ phong cách kiến trúc thuộc địa tiền kỳ đơn giản với những cửa cuốn vòm và hành lang bao quanh, tới phong cách Tân cổ điển với những trang trí phong phú, đến phong cách kiến trúc địa phương Pháp của những ngôi biệt thự, và phong cách kiến trúc Hiện đại với nhiều hình khối, bố cục phi đối xứng ở các dinh thự. Tuy Đà Lạt mang đậm dấu ấn của những kiến trúc sư người Pháp, nhưng các nhà kiến trúc này khi thiết kế những công trình cho Đà Lạt cũng đã chịu ảnh hưởng của đặc điểm thiên nhiên, đặc biệt là các điều kiện về khí hậu thời tiết, cảnh quan môi trường nơi đây. Hiện tượng giao thao này đã đem lại cho Đà Lạt một phong cách kiến trúc riêng độc đáo và nhiều bản sắc. Tuy vậy, sau nhiều thập niên phát triển thiếu quy hoạch và buông lỏng quản lý, kiến trúc đặc sắc của Đà Lạt đã chịu nhiều biến dạng. Tình trạng xây cất trái phép, không phù hợp với quy hoạch, lấn chiếm những khu vực trống, tàn phá rừng nội ô... khiến bộ mặt kiến trúc đô thị của Đà Lạt ngày nay trở nên nhem nhuốc. Không ít công trình kiến trúc giá trị không được bảo tồn tốt phải hứng chịu sự tàn phá của thời gian. Trong khắp thành phố, nhiều ngôi biệt thự cổ bị bỏ hoang hoặc biến thành chung cư, nhà trọ. Năm 2010, chính quyền tỉnh Lâm Đồng thông báo quyết định mời một nhóm kiến trúc sư thuộc Viện Thiết kế quy hoạch đô thị Paris và một công ty thiết kế quy hoạch khác của Pháp thực hiện quy hoạch lại Đà Lạt.
Địa điểm văn hóa.
Mặc dù là một thành phố du lịch nổi tiếng, đô thị trung tâm của vùng Tây Nguyên, Đà Lạt lại rất thiếu vắng các địa điểm văn hóa và giải trí. Thành phố chỉ có một bảo tàng, một rạp chiếu phim (Cinestar) và có một nhà hát hay sân khấu (Dalat Opera House). Trước đây, dù dân số Đà Lạt chỉ khoảng 70 ngàn người, thành phố có đến 4 rạp chiếu phim, gồm rạp Hòa Bình hay rạp 3-4, rạp Ngọc Lan, rạp Ngọc Hiệp, và một rạp mini trên đường Trương Công Định. Sau năm 1975, Đà Lạt còn có thêm rạp hát của Nhà Thiếu nhi. Nhưng cùng với thời gian, bốn rạp chiếu phim đã bị phá bỏ, thay thế bởi các khách sạn hoặc công trình khác. Thành phố hiện nay chỉ còn lại rạp 3-4, xây dựng cách đây hơn nửa thế kỷ. Mặc dù vậy, rạp chiếu này cùng khu Hòa Bình cũng bị dự định dỡ bỏ để quy hoạch lại. Các thiết chế văn hóa chủ yếu ở Đà Lạt ngày nay còn có Thư viện tỉnh Lâm Đồng, Bảo tàng Lâm Đồng và Nhà Thiếu nhi Lâm Đồng.
Thư viện tỉnh Lâm Đồng nằm ở số 22 đường Trần Phú, vốn là Thư viện Đà Lạt thành lập từ năm 1958 trên cơ sở tiếp quản toàn bộ khuôn viên tòa thị chính thị xã Đà Lạt. Sau năm 1975, cơ sở này được giao cho cơ quan văn hóa quản lý. Năm 1976, Thư viện tỉnh Lâm Đồng được thành lập dựa trên nền tảng Thư viện Đà Lạt và hàng ngàn bản sách do Thư viện Hà Giang gửi tặng. Hiện nay, thư viện lưu giữ trên 200.000 bản sách và hàng chục ngàn bản báo và tạp chí, phục vụ 35.397 lượt độc giả trong năm 2011. Năm 1978, Bảo tàng tỉnh Lâm Đồng được thành lập với các hiện vật về dân tộc học từ một số bộ sưu tập cá nhân và của chính quyền Việt Nam Cộng hòa để lại. Vào thời điểm ra đời, bảo tàng nằm ở số 31 đường Trần Bình Trọng. Sau nhiều lần thay đổi địa điểm, năm 1999, Bảo tàng Lâm Đồng chuyển về số 4 đường Hùng Vương, vốn là biệt thự của điền chủ Nguyễn Hữu Hào, cha của Hoàng hậu Nam Phương. Ngày nay, Bảo tàng Lâm Đồng được xem như bảo tàng tổng hợp về khảo cứu địa phương, lưu giữ khoảng hơn 15.000 hiện vật về các nghiên cứu, phát hiện khảo cổ học, dân tộc học, lịch sử và hai cuộc chiến tranh. Năm 2011, nơi đây đã đón 16.949 lượt khách tới tham quan.
Cơ quan truyền thông.
Từ năm 1949, thành phố Đà Lạt đã có đài phát thanh, Radio Dalat là một trong bốn đài phát thanh thành lập đầu tiên ở Việt Nam. Trước đó, vào tháng 8 năm 1945, Ủy ban khởi nghĩa Đà Lạt - Lâm Viên từng thiết lập một trạm truyền thanh trong một căn phòng nhỏ ở trước chợ trung tâm Đà Lạt, ngày nay là rạp 3-4, dùng cho mục đích tuyên truyền. Radio Dalat thời gian đầu được đặt trên tầng ba của khách sạn Hôtel du Parc, phát thanh hàng ngày bằng ba thứ tiếng Việt, Pháp và Cơ Ho. Tháng 4 năm 1975, quân đội miền Bắc tiến vào Đà Lạt, tiếp quản cơ sở của Đài Phát thanh Đà Lạt, thiết lập nên Đài Phát thanh Đà Lạt giải phóng. Nhờ sự trợ giúp kỹ thuật của Truyền hình Việt Nam, tháng 9 năm 1977, một trạm tiếp sóng truyền hình được xây dựng tại nhà thờ Dòng Chúa Cứu Thế thuộc Phường 7, tiếp sóng kênh 9 Đài Truyền hình Thành phố Hồ Chí Minh. Năm 1984, Ủy ban Nhân dân tỉnh quyết định đổi tên Đài Phát thanh Lâm Đồng thành Đài Phát thanh – Truyền hình Lâm Đồng. Hiện nay, cùng với việc tiếp phát sóng của hai đài quốc gia, chương trình truyền hình của Đài Phát thanh – Truyền hình Lâm Đồng phát sóng 11 giờ mỗi ngày, chương trình phát thanh phát sóng 7 giờ mỗi ngày. Bên cạnh Đài Phát thanh – Truyền hình Lâm Đồng, thành phố Đà Lạt còn có Đài Truyền thanh – Truyền hình Đà Lạt, nằm ở số 4 đường Thủ Khoa Huân. Là trung tâm hành chính của Lâm Đồng, ở Đà Lạt có sự hiện diện của nhiều tờ báo, tạp chí của tỉnh, trong đó quan trọng nhất là "Báo Lâm Đồng". Tờ báo này ra số đầu tiên vào ngày 19 tháng 8 năm năm 1977, hiện nay phát hành 3 số mỗi tuần vào thứ ba, thứ năm và thứ bảy. "Báo Lâm Đồng" cũng có một ấn bản điện tử cập nhật hàng tuần vào ngày thứ sáu với nội dung tổng hợp từ tin bài của các số báo in. Ngoài ra, báo chí Đà Lạt có thể kể đến các tờ tạp chí "Thông tin Khoa học và Công nghệ" của Sở Khoa học và Công nghệ, tạp chí "Lang Bian" của Hội Văn học Nghệ thuật Lâm Đồng, tạp chí "Du lịch Đà Lạt" của Sở Du lịch và Thương mại.
Đà Lạt là nơi tổ chức nhiều lễ hội diễn ra như Festival Hoa Đà Lạt, Lễ hội đồi cỏ hồng, Lễ hội mư
Năm 2022, Lần đầu tiên Đà Lạt tổ chức lễ hội Festival hoa Đà Lạt 2022 kéo dài 2 tháng từ ngày 1/11/2022 đến 31/12/2022 với chủ đề " Đà Lạt - Thành phố bốn mùa hoa".
Ở Việt Nam, Đà Lạt từ lâu đã là một thành phố du lịch nổi tiếng. Khí hậu mát mẻ, tài nguyên thiên nhiên và nhân văn phong phú giúp thành phố mỗi năm thu hút hàng triệu du khách tới thăm viếng và nghỉ dưỡng. Sau một thời gian trầm lắng của thập niên 1980, du lịch Đà Lạt thay đổi mạnh mẽ trong những năm gần đây. Vào thời điểm năm 2001, thành phố có 369 khách sạn gồm 4.334 phòng với sức chứa 15.821 khách, đến năm 2009 số cơ sở lưu trú tại Đà Lạt đã lên đến 673 cơ sở với hơn 11 ngàn phòng và sức chứa trên 38 ngàn khách. Tuy vậy, phần lớn các cơ sở lưu trú của thành phố có quy mô trung bình hoặc nhỏ, mang tính cá nhân, gia đình và thiếu chuyên nghiệp. Trong 673 cơ sở, chỉ 85 khách sạn đạt tiêu chuẩn 1 đến 5 sao và 11 khách sạn từ 3 đến 5 sao. Các khách sạn lớn tập trung chủ yếu ở khu vực Phường 1 và Phường 2, một số ít nằm rải rác ở các phường lân cận. Hiệu suất thuê phòng của các khách sạn tại Đà Lạt khoảng 30 đến 35% và phân bố không đều trong năm, tập trung vào các ngày lễ và kỳ nghỉ hè.
So với các đô thị khác của Việt Nam, Đà Lạt là thành phố được thiên nhiên dành cho nhiều ưu ái. Những thắng cảnh của thành phố, nằm rải rác ở cả khu vực trung tâm lẫn vùng ngoại ô, như hồ Xuân Hương, đồi Cù, thung lũng Tình Yêu, hồ Than Thở, thác P, hồ Than Thở hay thác Prenn đã mất đi nét hoang sơ bởi sự xuất hiện của quá nhiều hàng quán, khu trò chơi và cây cảnh. Thác Voi, một thắng cảnh khác không xa Đà Lạt, cũng bị ô nhiễm nặng do những người dân sinh sống ở vùng thượng nguồn thường xả rác và chất bẩn xuống dòng suối. Vào năm 2008, Sở Văn hóa Thông tin tỉnh Lâm Đồng đã có văn bản đề nghị Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch rút tên hai thác Liên Khương và Gougah khỏi danh sách di tích quốc gia bởi cảnh quan hai danh thắng này đã bị thay đổi.
Lịch sử đã để lại cho Đà Lạt không ít những công trình kiến trúc giá trị, như những công sở, trường học, nhà thờ, tu viện, chùa chiền, công trình công cộ, những dinh thự, biệt điện xưa kia từng thuộc về các nhân vật quyền lực, ngày nay được mở cửa đón khách viếng thăm. Ba dinh thự nổi tiếng của Đà Lạt trước đây đều là địa điểm du lịch, nhưng hiện nay chỉ Dinh III còn giữ chức năng này và tiếp tục thu hút du khách. Dinh II, hay còn gọi Dinh Toàn quyền, được dùng làm khách sạn, nơi hội thảo của chính quyền địa phương, còn Dinh I đã đóng cửa vài năm gần đây để sửa chữa. Một dinh thự khác của Đà Lạt, biệt điện Trần Lệ Xuân cũng trở thành điểm du lịch ngay từ năm 1964, ngày nay là Trung tâm Lưu trữ quốc gia IV, nơi lưu giữ Mộc bản triều Nguyễn. Bên cạnh những di sản kiến trúc Pháp, một vài công trình xây dựng những thập niên gần đây như thiền viện Trúc Lâm Đà Lạt, biệt thự Hằng Nga hay XQ Sử quán cũng đã trở thành địa điểm du lịch hấp dẫn. Khuôn viên nhà ga Đà Lạt, một trong những biểu tượng nổi tiếng của thành phố, trở thành bãi tập kết gốm sứ, cây cảnh và vườn rau bắp cải của người dân. Quần thể di tích kiến trúc Trường Cao đẳng Sư phạm không chỉ xuống cấp mà còn bị "chung cư hóa" bởi sự sinh hoạt của hơn 30 gia đình dân cư. Khu lăng mộ Nguyễn Hữu Hào từng bị bỏ hoang nhiều năm và trở thành địa điểm của những người nghiện ma túy và hoạt động mại dâm.
Từ năm 2005, thành phố bắt đầu tổ chức Festival Hoa Đà Lạt, một lễ hội với nhiều sự kiện cùng các hoạt động nghệ thuật nhằm giới thiệu các loài hoa địa phương cũng như từ những vùng miền khác. Năm 2007, dù chưa thực sự được tổ chức tốt, Festival Hoa Đà Lạt lần thứ hai đã thu hút khoảng 120 ngàn du khách tới thăm. Festival Hoa Đà Lạt 2010 là sự kiện đầu tiên trong chuỗi bảy sự kiện quốc gia mừng đại lễ 1000 năm Thăng Long – Hà Nội. Trong dịp này, đã có gần 300 ngàn du khách đến với Đà Lạt trong suốt 4 ngày của lễ hội. Năm 2012, Festival Hoa được tổ chức vào dịp nghỉ lễ Tết Dương lịch và đã thu hút hơn 300 ngàn du khách tới tham dự. Trong những năm gần đây, số lượng khách du lịch tới Đà Lạt vẫn tiếp tục tăng. Vào năm 2000, thành phố đón 710 ngàn lượt khách tới thăm, đến năm 2009, con số đã tăng gấp ba với trên 2,1 triệu lượt khách, trong đó khoảng 10% là du khách quốc tế. Mặc dù vậy, thời gian trung bình khách lưu lại Đà Lạt chỉ 2 ngày, trong khi tỷ lệ của Bình Thuận là 3,8 đến 4 ngày. Du lịch Đà Lạt phải đối mặt với sự cạnh tranh mạnh mẽ của Nha Trang và Phan Thiết, hai thành phố du lịch duyên hải không xa Đà Lạt.
Đà Lạt với nghệ thuật.
Thành phố Đà Lạt thơ mộng là nguồn cảm hứng cho rất nhiều tác phẩm nghệ thuật, đặc biệt trong các lĩnh vực âm nhạc, nhiếp ảnh và văn chương. Những tác phẩm đầu tiên viết về Đà Lạt chủ yếu là nhật ký và ghi chép của các nhà thám hiểm như bác sĩ Paul Néis, trung úy Albert Septans, bác sĩ Alexandre Y"Lâm Viên hành trình nhật ký" của Đoàn Đình Duyệt, Thượng thư Bộ công của triều đình Huế, người lên Đà Lạt năm 1917 để nghiên cứu việc xây dựng hành cung. Khi nơi đây dần trở thành một thành phố, trên báo chí bắt đầu xuất hiện những bài viết, phóng sự về Đà Lạt. Trong lĩnh vực thi ca, ghi lại dấu ấn trong giai đoạn đầu này là hai bài thơ "Đà Lạt trăng mờ" của Hàn Mặc Tử và "Đà Lạt đêm sương" của Quách Tấn. Khoảng thời gian 1954 đến 1975, khi Đà Lạt là một trong những trung tâm tri thức của miền Nam Việt Nam, các tác phẩm với bối cảnh thành phố cũng ra đời nhiều hơn, như truyện dài "Hoa bươm bướm" của Võ Hồng, "Vòng tay học trò" của Nguyễn Thị Hoàng, "Con đường" của Nguyễn Đình Toàn, các tiểu thuyết "Tóc Mây" và "Thung lũng tình yêu" của Lệ Hằng hay tập truyện ngắn "Bay đi những cơn mưa phùn" của Phạm Công Thiện. Đà Lạt cũng là nơi các nhà văn, nhà thơ nổi tiếng đương thời như Nhất Linh, Vũ Hoàng Chương, Bùi Giá
Với âm nhạc, trong rất nhiều các tác phẩm viết về Đà Lạt, có thể kể đến những ca khúc nổi tiếng như "Cỏ hồng" của Phạm Duy, "Thành phố buồn" của Lam Phương, "Thương về miền đất lạnh" và "Đà Lạt hoàng hôn" của Minh Kỳ, "Còn nắng trên đồi", "Hãy ngồi xuống đây", "Vũng lầy của chúng ta" của Lê Uyên Phương, "Tuổi đá buồn" của Trịnh Công Sơn hay "Ai lên xứ hoa đào","Bài thơ hoa đào" của Hoàng Nguyên và "Đồi thông hai mộ" của Hồng Vân. Đà Lạt cũng là thành phố gắn bó với nhiều nhạc sĩ, nghệ sĩ tên tuổi của tân nhạc Việt Nam. Trong những năm đầu sự nghiệp, nữ danh ca Khánh Ly sống tại Đà Lạt và hát cho các phòng trà nơi đây. Năm 1964, Khánh Ly gặp nhạc sĩ Trịnh Công Sơn trong quán Café Tùng và cuộc hội ngộ này đã tạo nên một cặp đôi nổi tiếng của âm nhạc Việt Nam. Quán Café Tùng – ngày nay vẫn nằm trong trung tâm thành phố Đà Lạt. Một cặp đôi khác cũng gặp gỡ tại Đà Lạt và gắn liền tên tuổi với thành phố này là nhạc sĩ Lê Uyên Phương và ca sĩ Lê Uyên.
Phong cảnh và con người Đà Lạt, Lâm Đồng đã trở thành đề tài khai thác của rất nhiều nhiếp ảnh gia Việt Nam. Những năm gần đây, không ít những triển lãm với đề tài Đà Lạt đã được tổ chức tại chính thành phố hoặc ở những đô thị khác. Triển lãm ảnh "Đà Lạt xưa" với sự tham gia của các nhiếp ảnh gia danh tiếng của Việt Nam và nước ngoài được tạp chí "Xưa Nay" tổ chức tại khách sạn Sammy Đà Lạt năm 2008. Năm 2010, triển lãm ảnh "Đà Lạt - Cadasa" tại Công trường Lam Sơn, Thành phố Hồ Chí Minh, đã trưng bày tác phẩm của những nữ nghệ sĩ nhiếp ảnh về các biệt thự cổ vừa được trùng tu trên đường Trần Hưng Đạo, phản ảnh sự hồi sinh của quần thể biệt thự cổ và ý thức về trách nhiệm giữ gìn di sản kiến trúc, văn hóa và lịch sử. Năm 2010, những bức ảnh về Đà Lạt được đưa đến tham dự triển lãm tại thành phố Nam Ninh, Trung Quốc nhằm mang hình ảnh của "Đà Lạt - thành phố hoa" đến với ASEAN. Đây là hội chợ triển lãm những thành phố đẹp thuộc các nước ASEAN diễn ra hàng năm tại Trung Quốc và Đà Lạt là thành phố Việt Nam được chọn triển lãm nhằm giới thiệu, trưng bày, quảng bá những hình ảnh địa phương tới du khách. Vào năm 2000, tại Liên hoan ảnh nghệ thuật quốc tế Hasselblad Austrian Super Circuit ở Áo, câu lạc bộ Nhiếp ảnh Đà Lạt đã được ban tổ chức tặng Cúp vàng và bình chọn là câu lạc bộ có bộ ảnh dự thi đẹp nhất trong số 41 ngàn bức ảnh từ hơn 120 nước trên thế giới.
Trong lĩnh vực nghệ thuật thứ bảy, Đà Lạt là nơi lý tưởng mà nhiều đạo diễn truyền hình và điện ảnh trong nước chọn làm địa điểm quay phim. Thành phố thu hút các nhà làm phim nhờ giá sinh hoạt tương đối thấp và dễ dàng tìm được bối cảnh cho những cảnh quay đẹp. Một lý do khác, khí hậu mát mẻ, dễ chịu của Đà Lạt cũng tạo nhiều thuận lợi trong việc làm phim. Với những lợi thế để trở thành một phim trường thực sự, bao gồm phong cảnh thiên nhiên ưu đãi và những thắng cảnh, không gian những tòa kiến trúc, biệt thự, Đà Lạt từng có dự án đầu tư một phim trường và khu công viên nghệ sĩ tại Khu du lịch hồ Tuyền Lâm, tuy vậy đến thời điểm 2011, dự án này vẫn chưa được triển khai. Trong lịch sử điện ảnh Việt Nam, có thể thấy không ít những bộ phim lấy bối cảnh Đà Lạt, trong số đó có thể kể đến như "Con ma nhà họ Hứa" (1973), "Giỡn mặt tử thần" (1975), "Tình nhỏ làm sao quên" (1993), "Khi yêu đừng quay đầu lại" (2010), "Taxi, em tên gì?" (2014), "Bí mật của gió" (2020)...
Do đặc điểm địa hình, giao thông Đà Lạt chỉ gồm đường bộ, đường sắt và đường hàng không, nhưng hiện nay chỉ giao thông đường bộ và đường hàng không thực sự hoạt động. Tuyến đường quan trọng nhất nối Đà Lạt với các thành phố khác là quốc lộ 20. Con đường này giao với Quốc lộ 1 tại ngã ba Dầu Giây, tỉnh Đồng Nai, từ đó hướng về Thành phố Hồ Chí Minh và nối với quốc lộ 27 tại D'Ran để về Phan Rang và các tỉnh Nam Trung Bộ. Quốc lộ 20 còn cắt qua Di Linh, từ đây theo quốc lộ 28 về hướng nam sẽ dẫn đến thành phố Phan Thiết. Xuất phát từ Đà Lạt, tuyến quốc lộ 27C (trước kia là đường 723) đi xuyên qua các huyện Lạc Dương của Lâm Đồng và Khánh Vĩnh, Diên Khánh của Khánh Hòa, tới thành phố Nha Trang. Con đường này được hoàn thành vào năm 2007, giúp hành trình giữa hai thành phố du lịch nổi tiếng chỉ còn khoảng 130 km, so với lộ trình cũ Đà Lạt – Phan Rang – Nha Trang dài 228 km. Đà Lạt còn một tuyến tỉnh lộ khác là đường 722 đi Đam Rông, nối thành phố với các vùng tây bắc của tỉnh Lâm Đồng. Đây cũng là điểm cuối của đường cao tốc Dầu Giây – Đà Lạt (phân đoạn Liên Khương – Prenn). Giao thông nội thị, các tuyến xe buýt của thành phố hình thành vào năm 2006, với tuyến đầu tiên nối Đà Lạt với Đức Trọng. Thời điểm 2007, Đà Lạt có ba công ty kinh doanh vận tải xe buýt, gồm Công ty Cổ phần Vận tải Ô tô Lâm Đồng, Công ty Trách nhiệm Hữu hạn Thái Hòa và Công ty Cổ phần Phương Trang, tổng cộng 79 đầu xe, khai thác các tuyến nội thị và từ Đà Lạt đến các huyện lân cận. Thành phố cũng có khoảng 10 công ty tham gia kinh doanh vận tải taxi, trong đó có các hãng lớn như Mai Linh, Phương Trang và Thắng Lợi.
Ngày nay, số lượng công ty lữ hành khai thác tuyến vận chuyển từ các tỉnh/thành phố đến Đà Lạt rất nhiều. Bên cạnh các hãng xe khách giường nằm truyền thống, còn có các hãng vận chuyển hành khách bằng xe Limousine như Đà Lạt Amazing Limousine
Tên đường phố Đà Lạt trước năm 1975:
Giao thông hàng không của Đà Lạt được thực hiện qua sân bay Liên Khương và sân bay Cam Ly. sân bay Liên Khương cách trung tâm thành phố Đà Lạt 28 km về phía nam, nằm cạnh quốc lộ 20, thuộc thị trấn Liên Nghĩa, huyện Đức Trọng. Phi trường này được người Pháp cho xây dựng và đưa vào hoạt động vào năm 1933, khi đó chỉ có một đường băng bằng đất nện cứng dài 700 mét. Trong Chiến tranh thế giới thứ hai, Quân đội Nhật Bản đã nâng cấp sân bay Liên Khương, đường hạ cất cánh được rải cán đá và dùng cho mục đích quân sự. Phi trường còn tiếp tục được xây dựng dưới thời Việt Nam Cộng hòa với nhà ga dân dụng mới và mặt đường băng phủ bê tông nhựa có thể sử dụng cho máy bay dưới 35 tấn. Sau năm 1975, phi trường được Quân đội nhân dân Việt Nam tiếp quản và điều hành, tới năm 1980 chuyển về Tổng công ty Cảng hàng không Miền Nam quản lý. Năm 2003, Tổng công ty Cảng hàng không Miền Nam đã nâng cấp sân bay Liên Khương đạt tiêu chuẩn 4C theo phân cấp của Tổ chức Hàng không Dân dụng Quốc tế. Cuối tháng 12 năm 2009, nhà ga mới của sân bay với diện tích sàn 12.000 mét vuông được khánh thành, bắt đầu khai thác các đường bay quốc tế. Thời điểm 2012, Hãng hàng không Vietnam Airlines khai thác mỗi ngày một chuyến bay khứ hồi Đà Lạt – Hà Nội, bốn chuyến bay khứ hồi Đà Lạt – Thành phố Hồ Chí Minh và một chuyến bay khứ hồi Đà Lạt – Đà Nẵng. Hãng hàng không Air Mekong cũng khai thác mỗi ngày một chuyến bay khứ hồi Đà Lạt – Hà Nội và một chuyến bay khứ hồi Đà Lạt – Thành phố Hồ Chí Minh. Phi trường thứ hai của Đà Lạt là sân bay Cam Ly, thuộc Phường 5, cách trung tâm thành phố 3 km về phía tây. Trước kia, đây là sân bay quân sự của Quân đội Hoa Kỳ và Quân lực Việt Nam Cộng hòa. Sau năm 1975, sân bay Cam Ly thuộc Học viện Lục quân, rồi chuyển giao cho Tổng công ty Cảng hàng không Miền Nam. Do hoạt động không hiệu quả, sân bay này bị bỏ hoang nhiều năm và tới cuối 2010, được giao lại cho Bộ Quốc phòng quản lý.
Tuyến đường sắt Tháp Chàm – Đà Lạt được xây dựng từ năm 1903 đến năm 1928, tới năm 1932 bắt đầu khai thác vận tải toàn tuyến. So với các tuyến đường sắt khác ở Việt Nam, tuyến Tháp Chàm – Đà Lạt độc đáo nhờ sử dụng hệ thống đường sắt răng cưa, gồm ba đoạn từ Sông Pha lên tới Đà Lạt, tổng cộng gần 16 km. Điểm cuối của tuyến đường sắt này là nhà ga Đà Lạt, xây dựng từ năm 1932 đến năm 1938, một công trình kiến trúc độc đáo do hai kiến trúc sư người Pháp Révéron và Moncet thiết kế. Đường sắt Tháp Chàm – Đà Lạt được sử dụng tới năm 1972, khi chiến tranh Việt Nam trở nên khốc liệt, tuyến đường buộc phải ngừng hoạt động. Từ năm 1991, thành phố Đà Lạt cho khôi phục 7 km đường sắt từ Đà Lạt tới Trại Mát, kết hợp cùng nhà ga Đà Lạt để phục vụ du lịch. Nơi đây ngày nay trở thành một trong những điểm hấp dẫn du khách của thành phố. Mặc dù không còn kết nối trực tiếp với hệ thống đường sắt Việt Nam, nhà ga vẫn bán vé tàu cho hành khách và có xe trung chuyển từ ga Đà Lạt đến ga Nha Trang và ga Tháp Chàm. |
Phú Quốc là một thành phố đảo trực thuộc tỉnh Kiên Giang, Việt Nam. Đảo Phú Quốc cùng các đảo nhỏ lân cận và quần đảo Thổ Chu hợp lại tạo thành Thành phố Phú Quốc ở vịnh Thái Lan, đây là thành phố đảo đầu tiên được thành lập của Việt Nam.
Từ thế kỷ thứ V TCN, con người bắt đầu xuất hiện ở Phú Quốc, mang đặc trưng của văn hóa Óc Eo, không có dấu hiệu người Khmer ở đây. Năm 1671, một người Hoa tên Mạc Cửu (Mạc Kính Cửu), quê ở Lôi Châu tỉnh Quảng Đông, mang cả gia đình, binh sĩ và một số sĩ phu khoảng 400 người lên thuyền rời khỏi Phúc Kiến. Sau nhiều ngày lênh đênh trên biển cả, phái đoàn Mạc Cửu đổ bộ lên một vùng đất hoang trong vịnh Thái Lan. Sau khi dò hỏi và biết vùng đất này thuộc ảnh hưởng Chân Lạp, phái đoàn liền tìm đường đến Oudong xin tị nạn, nhưng lúc đó nội bộ Chân Lạp có loạn.
Năm 1680, Mạc Cửu lập ấp rải rác từ Vũng Thơm, Trủng Kè, Cần Vọt, Rạch Giá, Cà Mau. Hà Tiên trở thành thương cảng quan trọng, thôn ấp định cư nằm sát mé biển, thuận tiện cho ghe thuyền tới lui, hoặc ở đất cao theo Giang thành, sông Cái Lớn, sông Gành Hào, Ông Đốc để canh tác. Ông lập ra 7 sòng bạc dọc bờ biển: Mán Khảm (hay Mang Khảm, "Peam"), Long Kỳ ("Ream"), Cần Bột ("Kampot"), Hương Úc ("Kampong Som"), Sài Mạt ("Cheal Meas" hay Banteay Meas), Linh Quỳnh ("Kiri Vong") và Phú Quốc ("Koh Tral"). Thủ phủ đặt tại Mán Khảm (tức Hà Tiên), sau đổi thành Căn Khẩu (Căn Kháo hay Căn Cáo). Tiếng đồn vang xa, lưu dân gốc Hoa từ khắp nơi trong vịnh Thái Lan xin vào đây lập nghiệp, dần dần vùng đất này trở thành một lãnh địa phồn vinh với tên gọi mới: Căn Khẩu Quốc. Đảo Koh Tral cũng đổi tên thành Phú Quốc (vùng đất giàu có).
Năm 1708, Mạc Cửu liên lạc được với Chúa Quốc Nguyễn Phúc Chu. Năm 1714, Mạc Cửu xin làm thuộc hạ của chúa Nguyễn và được phong chức tổng binh cai trị đất Căn Khẩu. Năm 1724, Mạc Cửu dâng luôn toàn bộ đất đai và được phong làm đô đốc cai trị lãnh thổ Căn Khẩu, đổi tên thành Long Hồ dinh. Từ năm 1729, Long Hồ dinh nổi tiếng là vùng đất trù phú nhất vịnh Thái Lan. Năm 1735, Mạc Cửu mất, con là Mạc Sĩ Lân, sau đổi thành Mạc Thiên Tứ, được phong làm đô đốc, kế nghiệp cha cai trị Long Hồ dinh. Gia đình họ Mạc được Ninh vương Nguyễn Phúc Chú nâng lên hàng vương tôn. Long Hồ dinh đổi tên thành Hà Tiên trấn. Năm 1739, Mạc Thiên Tứ lập thêm bốn huyện: Long Xuyên (Cà Mau), Kiên Giang (Rạch Giá), Trấn Giang (Cần Thơ) và Trấn Di (Bắc Bạc Liêu).
Năm 1755, Nặc Nguyên nhờ Mạc Thiên Tứ dâng chúa Nguyễn lãnh thổ hai phủ Tầm Bôn (Tân An) và Lôi Lập (Gò Công) để được về Nam Vang cai trị. Năm 1758, chúa Nguyễn đưa Nặc Tôn ("Ang Ton II") lên làm vua và được tặng thêm lãnh thổ Tầm Phong Long (Châu Đốc và Sa Đéc). Nặc Tôn tặng riêng Mạc Thiên Tứ lãnh thổ 5 phủ miền đông nam Chân Lạp: Hương Úc ("Kampong Som"), Cần Bột ("Kampot"), Châu Sum (Chân Sum có thể là Trực Sâm, Chưng Rừm (Chhuk nay thuộc tỉnh Kampot, Chân Sum cũng có thể là phủ Chân Sum (còn gọi là Chân Chiêm) nằm giữa Châu Đốc và Giang Thành, nay là vùng Bảy Núi An Giang (nơi có núi Chân Sum).), Sài Mạt ("Cheal Meas" hay Banteay Meas) và Linh Quỳnh ("Kiri Vong").
Năm phủ này là vùng duyên hải (ven bờ Vịnh Thái Lan) từ Srae Ambel tỉnh Koh Kong (tức Cổ Công, giáp với vùng người Thái (Xiêm La) kiểm soát) cho đến Mang Khảm (Peam), bờ đất liền đối diện phía Đông Bắc đảo Phú Quốc, đã được Mạc Thiên Tứ dâng hết cho Võ vương Nguyễn Phúc Khoát. Võ vương sáp nhập tất cả các vùng đất mới vào trấn Hà Tiên, giao cho Mạc Thiên Tứ cai trị.
Năm 1770, nhà truyền giáo Pierre Pigneau de Béhaine (Bá Đa Lộc) đặt chân lên Phú Quốc và xác nhận cư dân ở đây sử dụng tiếng Việt để giao tiếp, không sử dụng tiếng Khmer.
Năm 1822, đại sứ nước Anh John Crawfurd trên hành trình đi sứ Xiêm và Cochin China [Việt Nam] đã ghé thăm và khám phá đảo Phú Quốc. Ngày 13 tháng 3 năm 1822, Crawfurd neo tàu để lên hòn đảo lớn nhất ở hướng tây bắc. Đảo này có nhiều người sinh sống, họ mến khách và họ toàn là người Cochin China.
Trên đảo cũng có người Hoa gốc Hải Nam nên dễ dàng cho đoàn của Crawfurd thông dịch. Crawfurd được người trên đảo bảo rằng đoàn người của ông là những người châu Âu đầu tiên mà họ thấy ghé thăm đảo. Ông nhận thấy người dân trên đảo khá cởi mở, già trẻ, gái trai không thấy bị lễ giáo ràng buộc nhiều. Crawfurd trao đổi với các vị quan trên đảo thông qua người thông dịch gốc Hoa của mình. Thực ra họ chỉ dùng bút đàm [viết chữ Hán], chứ không cần hé môi một lời nào. Đảo này tiếng Cochin China gọi là Phu-kok [Phú Quốc], tiếng Thái là Koh-dud, hoặc "đảo xa xôi". Tiếng Campuchia thì gọi đảo này là Koh-trol, hay đảo con thoi. Bản đồ cũ thì gọi là Quadrole.
Đây là đảo lớn nhất phía đông vịnh Xiêm, dài không dưới 34 dặm. Sản vật quý giá nhất trên đảo là lignum aloes hay agila wood [trầm hương]. Dân số Phu-kok từ 4-5 nghìn người, hầu hết là người Việt, một số ít là người Hoa tạm trú [người Khách]. Người dân trên đảo, ngoài trồng cây ăn trái và rau cải, họ trồng nhiều nhất là Convolvulus batatas [khoai lang]. Họ nhập lúa gạo từ Kang-kao [Cảng Khẩu, Hà Tiên]. Đa số dân Phu-kok làm nghề đánh cá, sống chủ yếu ở bờ Đông của đảo. Ngày 17 tháng 3 năm 1822, Crawfurd rời Phu-kok đi Bangkok. Năm 1855, Hoàng để Napoleon III của Pháp xác nhận Phú Quốc thuộc chủ quyền Việt Nam.
Thời Pháp thuộc, Pháp đặt Phú Quốc làm đại lý hành chính, thuộc hạt thanh tra Kiên Giang, rồi Rạch Giá. Ngày 1 tháng 8 năm 1867, Phú Quốc thuộc hạt Hà Tiên. Ngày 25 tháng 5 năm 1874, Pháp thành lập hạt Phú Quốc, bao gồm các đảo nằm trong khu vực 100°Đ - 102°Đ và 9°B - 11°30'B. Đồng thời, Pháp còn mở cảng Dương Đông cho tàu thuyền các nước vào buôn bán.
Ngày 16 tháng 6 năm 1875, giải thể hạt Phú Quốc, tái lập tổng thuộc hạt Hà Tiên, gồm 5 thôn: Lạc Hiệp, An Thới, Dương Quốc, Hàm Ninh, Phú Dự. Từ ngày 5 tháng 1 năm 1876, các thôn gọi là làng, thuộc hạt Hà Tiên. Ngày 18 tháng 5 năm 1878, đổi tên làng Lạc Hiệp thành làng Lạc Phú. Từ ngày 12 tháng 1 năm 1888, tổng Phú Quốc thuộc hạt tham biện Châu Đốc. Từ ngày 27 tháng 12 năm 1892, lại thuộc hạt Hà Tiên. Ngày 1 tháng 1 năm 1900, thuộc tỉnh Hà Tiên. Ngày 4 tháng 10 năm 1912, nhập hai làng An Thới và Lạc Phú vào làng Dương Đông, do Lanchier làm đại biện Pháp. Từ ngày 09 tháng 2 năm 1913, tổng Phú Quốc đổi thành đại lý Phú Quốc, thuộc tỉnh Châu Đốc, cử Henri Besnard làm đại biện Pháp đầu tiên.
Ngày 25 tháng 4 năm 1924, đặt làm quận Phú Quốc, thuộc tỉnh Hà Tiên, quản lý đầu tiên là tri phủ Ngô Văn Chiêu. Sau năm 1956, quận Phú Quốc thuộc tỉnh Kiên Giang, các làng gọi là xã, giải thể xã Phú Dự, còn hai xã Dương Đông và Hàm Ninh, dân số năm 1965 là 12.449 người. Năm 1949, khi quân Trung Hoa Dân quốc thua trận trước Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc, Hoàng Kiệt, một tướng lĩnh Quốc dân đảng, gốc tỉnh Hồ Nam, dẫn hơn 30.000 quân chạy sang Việt Nam lánh nạn. Lúc bấy giờ, thực dân Pháp cho họ ra đóng quân tại phía Nam đảo Phú Quốc. Sau đó, năm 1953, họ về Đài Loan theo Tưởng Giới Thạch. Đội quân Trung Hoa này bỏ lại nhà cửa, đồn điề, lập ra nhà tù rộng khoảng 40 ha gọi là "Trại Cây Dừa", có sức giam giữ 14.000 tù nhân.
Thời kì Việt Nam Cộng hòa, Phú Quốc là một duyên khu của hải quân. Năm 1964, vua Sihanouk của Campuchia tuyên bố chấp nhận đường Brevie từ thời thuộc địa là biên giới biển, đồng nghĩa với việc từ bỏ yêu sách của mình đối với Phú Quốc, công nhận Phú Quốc thuộc chủ quyền Việt Nam. Năm 1969, chính quyền Việt Nam Cộng hòa bác bỏ đề xuất lấy đường Brevie từ thời thuộc địa là biên giới biển và tiến hành mở rộng hải phận của Việt Nam. Khmer Đỏ đã hoàn toàn chấp nhận đường Brevie trong các cuộc đàm phán của họ với người Việt Nam (cho dù Khmer Đỏ đã tiến hành một chiến dịch chiếm đảo thất bại vào năm 1975). Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, Phú Quốc là một huyện thuộc tỉnh Kiên Giang, gồm thị trấn Dương Đông và 3 xã: Cửa Dương, Dương Tơ, Hàm Ninh.
Ngày 4 tháng 5 năm 1975, một toán quân Khmer Đỏ đột kích đảo Phú Quốc. Ngày 10 tháng 5 năm 1975, Khmer Đỏ dùng tàu đổ bộ LSM và 3 tàu tuần tra PCF đưa quân đánh chiếm đảo Thổ Châu, dồn hơn 500 người dân Việt Nam trên đảo đưa về Campuchia và tàn sát toàn bộ. Ngày 27 tháng 5 năm 1975, hải quân nhân dân Việt Nam giải phóng đảo Thổ Châu.
Ngày 17 tháng 2 năm 1979, chia xã Cửa Dương thành hai xã Cửa Dương và Cửa Cạn, chia xã Dương Tơ thành hai xã Dương Tơ và An Thới.
Ngày 24 tháng 4 năm 1993, thành lập xã Thổ Châu trên cơ sở quần đảo Thổ Châu, thành lập xã Bãi Thơm từ một phần các xã Cửa Dương và Cửa Cạn.
Ngày 18 tháng 3 năm 1997, thành lập xã Gành Dầu trên cơ sở điều chỉnh một phần diện tích và dân số của xã Cửa Cạn.
Năm 1999, Chính phủ Vương quốc Campuchia và Chính phủ Việt Nam thống nhất về đường Brevie và Phú Quốc thuộc chủ quyền Việt Nam.
Ngày 11 tháng 2 năm 2003, giải thể xã An Thới để thành lập thị trấn An Thới và xã Hòn Thơm.
Ngày 17 tháng 9 năm 2014, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 1676/QĐ-TTg công nhận huyện đảo Phú Quốc là đô thị loại II.
Cuối năm 2019, huyện Phú Quốc có 10 đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc, bao gồm 2 thị trấn: Dương Đông (huyện lỵ), An Thới và 8 xã: Bãi Thơm, Cửa Cạn, Cửa Dương, Dương Tơ, Gành Dầu, Hàm Ninh, Hòn Thơm, Thổ Châu.
Ngày 9 tháng 12 năm 2020, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết số 1109/NQ-UBTVQH14 (nghị quyết có hiệu lực từ ngày 1 tháng 1 năm 2021). Theo đó:
Sau khi thành lập, thành phố Phú Quốc có 2 phường và 7 xã trực thuộc như hiện nay.
Đảo Phú Quốc nằm trong vịnh Thái Lan, phía tây nam của Việt Nam. Phú Quốc trải dài từ vĩ độ: 9°53′ đến 10°28′ vĩ bắc và kinh độ: 103°49′ đến 104°05′ kinh đông. Phú Quốc cách thành phố Rạch Giá 120 km và cách thành phố Hà Tiên 45 km. Nhìn trên bảnđồ, Phú Quốc có hình dáng con cá đang vẫy đuôi trong vịnh Thái Lan.
Thành phố Phú Quốc có diện tích 589,27 km², dân số năm 2020 là 144.460 người, mật độ dân số đạt 245 người/km².
Địa hình - Địa chất.
Vùng biển Phú Quốc có 22 hòn đảo lớn nhỏ, trong đó đảo Phú Quốc lớn nhất có diện tích 580 km², dài 49 km. Địa hình thoải chạy từ bắc xuống nam với 99 ngọn núi đồi. Tuy nhiên, cụm đảo nhỏ của cảng An Thới bị ngăn cách hẳn với phần mũi phía nam của đảo Phú Quốc bởi một eo biển có độ sâu tới hơn 60 m.
Đảo Phú Quốc được cấu tạo từ các đá trầm tích Mesozoi và Kainozoi, bao gồm cuội kết đa nguồn gốc phân lớp dày, sỏi thạch anh, silica, đá vôi, riolit và felsit. Các đá Mesozoi thuộc hệ tầng Phú Quốc (K pq). Trầm tích Kainozoi thuộc các hệ tầng Long Toàn (Pleistocen giữa - trên), hệ tầng Long Mỹ (Pleistocene trên), hệ tầng Hậu Giang (Holocene dưới - giữa), các trầm tích Holocene trên và các trầm tích Đệ Tứ không phân chia (Q).
Khí hậu - Thủy văn.
Thời tiết mát mẻ mang tính nhiệt đới gió mùa. Khí hậu chia hai mùa rõ rệt.
Mùa khô: Đảo Phú Quốc chịu ảnh hưởng gió tín phong bán cầu Bắc. Nhiệt độ cao nhất 35 độ C vào tháng 4 và tháng 5.
Mùa mưa: Đảo Phú Quốc là cửa ngõ đón gió mùa Tây - Tây Nam, độ ẩm cao từ 85 đến 90%.
Thành phố Phú Quốc có 9 đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc, bao gồm 2 phường: An Thới, Dương Đông và 7 xã: Bãi Thơm, Cửa Cạn, Cửa Dương, Dương Tơ, Gành Dầu, Hàm Ninh, Thổ Châu.
Hồ tiêu Phú Quốc.
Hồ tiêu Phú Quốc là một loại gia vị đặc sản của thành phố Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang, Việt Nam.
Hồ tiêu Phú Quốc có vị thơm nồng, đặc biệt là đậm vị hơn nhiều loại hồ tiêu đến từ những vùng miền khác, trong đó phải kể đến tiêu đỏ (tiêu chín). Tiêu được người dân Phú Quốc thu hoạch từng đợt chín và chủ yếu là bằng thủ công, chọn lựa những quả chín phơi riêng gọi là tiêu chín (tiêu đỏ), những quả còn xanh sau khi phơi khô được gọi là tiêu cội (tiêu đen). Do nhu cầu của thị trường, người dân đã dùng tiêu đen tẩy bỏ vỏ chỉ còn lại phần lõi hạt gọi là tiêu sọ. trong các loại tiêu thì tiêu sọ là ngon nhất và đắt tiền nhất.
Một đặc tính canh tác nữa là hàng năm người trồng tiêu thường lấy những vùng đất mới xung quanh vườn bón xung quanh gốc cây (còn gọi là "đất xây thầu"). Cây nọc (choái) chủ yếu là lấy từ lõi của các loại cây quý như ổi rừng, kiềng kiềng, trai, chay, săn đá... Phân bón chủ yếu là phân bò, phân cá, xác mắm (phần xác cá cơm bị loại bỏ sau khi hoàn tất quy trình sản xuất nước mắm).
Hom giống chủ yếu trồng từ hom thân nên giá thành rất cao. Trung bình để trồng xong một héc-ta từ 300 - 400 triệu/héc-ta nên ít có nông dân đủ tiền trồng một lần đủ diện tích lớn mà phải trồng từ từ nhiều năm, nên một vườn tiêu ở Phú Quốc thường là có nhiều tuổi khác nhau.
Cây hồ tiêu được trồng ở Phú Quốc hàng trăm năm. Với diện tích trung bình là 471 héc-ta tập trung ở 3 xã Cửa Dương, Cửa Cạn và Dương Tơ. Thời điểm diện tích lớn nhất là vào những năm 1995-2000 là hơn 1000 ha. Đây là thời điểm giá tiêu cao nhất (100.000 - 120.000 đồng/kg tương đương 30 – 40 kg gạo) người trồng tiêu có lời từ 200 - 300 triệu/ha (thời điểm năm 1995 - 2000).
Giống và năng suất.
Giống hồ tiêu trồng chủ yếu là 2 giống Hà Tiên và Phú Quốc (hồ tiêu lá lớn và hồ tiêu lá nhỏ). Hai nhóm giống này có thời gian thu hoạch gần tương đương nhau từ tháng 11 âm lịch kéo dài hết tháng 2 âm lịch. Giống hồ tiêu Hà Tiên có năng suất cao hơn nhóm Phú Quốc nhưng tuổi thọ và kháng sâu bệnh kém hơn.
Năng suất tiêu ở Phú Quốc trung bình là 2000 – 3000 kg/ha, mật độ trồng từ 2500 - 3000 nọc/ha.
Khi kể về những điều đặc biệt ở Phú Quốc, không thể không kể về giống chó Phú Quốc. Đây là loài chó có đặc điểm rất riêng biệt so với các loài chó khác ở Việt Nam. Chó Phú Quốc luôn có một bờm lông dựng đứng và xoáy trên lưng, có chân dài, dáng người thon, và rất khỏe mạnh.
Về đặc tính, chúng là loại chó rất thông minh và có khả năng tự lập rất cao cho dù có sống chung với con người. Loài chó này có khả năng tự săn mồi rất tốt, có thể khả năng bơi lội giỏi, đặc biệt chúng có đặc điểm tự đào hang để trú ẩn, sinh sản nếu sống ở nơi có đất rộng.
Ở đảo Phú Quốc, vào ngày rằm tháng 7 âm lịch người dân thường đi chùa tại phường Dương Đông. Vào ngày này sinh hoạt tôn giáo diễn ra khá nhộn nhịp.
Cũng như những nơi khác ở Việt Nam, Phật giáo là tôn giáo có nhiều tín đồ và có ảnh hưởng nhất ở Phú Quốc với những ngôi chùa có hàng trăm năm tuổi như chùa Sùng Hưng, Sùng Đức, Sư Muôn (còn gọi là chùa Hùng Long)...
Phú Quốc được xem là nơi phát tích của đạo Cao Đài. Ngày nay trên đảo có hai Thánh thất Cao Đài ở phường Dương Đông. Một là Thánh thất Dương Đông thuộc Hội Thánh Cao Đài Tòa Thánh Tây Ninh, hai là Thánh thất Cao Đài Hội Thánh thuộc phái Cao Đài Chiếu Minh Tam Thanh Vô Vi.
Phú Quốc này trước đây có một số nhà nguyện, nhà thờ: Khoảng năm 1930, một số giáo dân miền bắc vào đảo này làm đồn điền cao su ở gần Bãi Khem. Hai linh mục người Malaysia là Albelza và Merdrignac đã cho xây một nhà nguyện tạm bằng lá để làm nơi cầu nguyện, lễ lạc. Việc trồng cao su thất bại nên một số lớn dân chúng vào đất liền chỉ còn lại ít dân nhà nguyện dần dần bị bỏ hoang. Năm 1955, một linh mục cho xây nhà thờ ở phường Dương Đông. Sau năm 1975, nhà thờ này lại bỏ trống, hiện nay được nhà nước quản lý.
Sau năm 1954, có khoảng 1.000 giáo dân quê quán ở Nghệ An ra đảo sinh sống, dưới sự dẫn dắt của linh mục Giuse Trần Đình Lữ. Nhà thờ An Thới được thành lập vào năm 1957 để phục vụ nhu cầu đời sống tôn giáo của các giáo dân. Những năm sau đó, nhiều linh mục và thầy giảng đã được Giám mục Giáo phận Long Xuyên sai đến để phục vụ. Hiện tại, chính xứ là Linh mục Gioan Trần Văn Trông, với sự giúp đỡ của 2 phó xứ là Linh mục Hải Đăng và Vinh Sơn Nguyễn Văn Cảnh. Số giáo dân hiện tại khoảng 2.000 người.
Danh lam thắng cảnh.
Năm 2006, Khu dự trữ sinh quyển ven biển và biển đảo Kiên Giang bao gồm cả thành phố này được UNESCO công nhận là khu dự trữ sinh quyển thế giới.
Phú Quốc được xác định là trung tâm du lịch sinh thái và trung tâm giao thương tầm cỡ khu vực và quốc tế. Tại đây có nhiều thắng cảnh đẹp như:
1/ Vườn quốc gia Phú Quốc
2/ Khu bảo tồn biển Phú Quốc
4/ Quần đảo An Thới
10/ Làng chài Hàm Ninh
11/ Vinpearl Safari Phú Quốc (vườn thú bán hoang dã đầu tiên của Việt Nam)
12/ Công viên giải trí VinWonders Phú Quốc 50ha (Khu vui chơi lớn nhất Châu Á)
13/ Đảo sim (Sim Island Phú Quốc)
14/ Cáp treo Hòn Thơm
Phương tiện đến Phú Quốc chủ yếu bằng máy bay đến sân bay quốc tế Phú Quốc, tàu cao tốc hay phà. Dưới đây là các lựa chọn để đến Phú Quốc tùy theo từng điểm xuất phát khác nhau: |
Côn Đảo là một quần đảo nằm ở ngoài khơi bờ biển Nam Bộ và cũng là đơn vị hành chính cấp huyện trực thuộc tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, Việt Nam.
Quần đảo cách thành phố Vũng Tàu 97 hải lý theo đường biển. Nơi gần Côn Đảo nhất trên đất liền là xã Vĩnh Hải, thị xã Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng, cách 40 hải lý. Côn Đảo từng được biết đến là nơi giam giữ và lưu đày tù nhân lớn nhất Đông Dương trước năm 1975. Ngày nay, Côn Đảo là điểm du lịch nghỉ dưỡng và tham quan với các bãi tắm và khu bảo tồn thiên nhiên Vườn quốc gia Côn Đảo.
Côn Đảo hay Côn Sơn cũng hay dùng cho tên của hòn đảo lớn nhất trong quần đảo này. Sách sử Việt Nam trước thế kỷ XX thường gọi đảo Côn Sơn là đảo Côn Lôn. Theo các nhà nghiên cứu, tên gọi "Côn Lôn" có nguồn gốc từ tiếng Mã Lai, là "Pulau Kundur" (tạm dịch là "hòn Bí"). Người châu Âu phiên âm thành Poulo Condor (trong các văn bản tiếng Anh và tiếng Pháp). Riêng tên trong tiếng Khmer là "Koh Tralach".
Năm 1977, Quốc hội Việt Nam quyết định tên gọi chính thức là Côn Đảo. Tên gọi này được sử dụng cho đến tận ngày nay.
Căn cứ vào các kết quả khảo cổ học, các nhà nghiên cứu cho rằng Côn Đảo đã có sự hiện diện của con người từ thời tiền sử qua các di vật công cụ tạo tác, được xác định "ở vào khoảng giữa sơ kỳ thời đại Kim khí và có quan hệ mật thiết với di vật gốm thời tiền Sa Huỳnh sớm ở Nam Trung Bộ và Đông Nam Bộ".
Nằm cách xa đất liền, nhưng do nằm ở vị trí thuận lợi trên đường hàng hải nối liền Âu-Á nên Côn Đảo sớm được người phương Tây biết đến. Những ghi chép ban đầu của một thương gia thương nhân Ả Rập sống ở thế kỷ thứ IX là Soleyman (hay Sulaymân), được các tài liệu Pháp dẫn lại, có ghi nhận một quần đảo có tên gọi là Sender-Foulat (hoặc Cundur-fũlát) nằm ở vùng biển phía Nam Trung Hoa. Theo học giả người Pháp Gabriel Ferrand: Cundur-fũlát là cách đọc cổ, Sundur-fũlát là cách đọc hiện đại; có nghĩa là "những hòn đảo trái bí" (les iles de la courge) trong tiếng Mã Lai. Ông cũng khẳng định đó chính là đảo Poulo Condore, tọa lạc tại địa điểm cách đồng bằng sông Mékong bốn mươi dặm về phía Nam; tương ứng vị trí quần đảo Côn Đảo ngày nay.
Trong tác phẩm Marco Polo du ký, thương gia người Ý Marco Polo có ghi chép vào năm 1294, đoàn thuyền buôn 14 chiếc của ông trên đường từ Trung Hoa về nước bị một cơn bão nhấn chìm mất 8 chiếc; số còn lại đã dạt vào trú tại Côn Đảo, được ông ghi nhận với tên gọi Poulo Condore.
Giai đoạn thế kỷ XV-thế kỷ XVI: có rất nhiều đoàn du hành của châu Âu ghé qua thăm Côn Đảo.
Cuối thế kỷ XVII và đầu thế kỷ XVIII: các nhà tư bản Anh, Pháp đã bắt đầu để ý đến các nước phương Đông. Nhiều lần các công ty của Anh, Pháp cho người tới Côn Đảo điều tra, dò xét tình hình mọi mặt với dụng ý chiếm Côn Đảo.
Năm 1702, tức năm thứ 12 đời Chúa Nguyễn Phúc Chu, đích thân giám đốc Công ty Đông Ấn của Anh chỉ huy quân đổ bộ lên Côn Đảo, xây dựng pháo đài và cột cờ.
Sau 3 năm, vào ngày 3 tháng 2 năm 1705 thì xảy ra cuộc nổi dậy của lính Macassar (lính người Sulawesi). Đoàn quân Anh phải rời bỏ Côn Đảo.
Ngày 28 tháng 11 năm 1783, trong chuyến đem vương tử Cảnh và vương ấn của Chúa Nguyễn Ánh về Pháp, Pigneau de Béhaine (Bá Đa Lộc) tự đứng ra đại diện cho Nguyễn Ánh để ký với Bá tước De Mantmarin (đại diện cho vua Louis XVI của Pháp) một hiệp ước tên gọi là Hiệp ước Versailles. Đây là văn kiện đầu tiên nhượng cho Pháp chủ quyền cửa biển Touron và quần đảo Côn Lôn. Đổi lại, Pháp sẽ giúp Nguyễn Ánh 4 tàu chiến, 1.200 lính, 200 pháo thủ, 250 người lính Phi để chống lại nhà Tây Sơn. Cách mạng Pháp nổ ra khiến nước này không thực hiện được cam kết trên.
Tương truyền trong đợt thứ 3 bị Tây Sơn truy sát thì Nguyễn Ánh và thuộc hạ đã trốn ra Côn Lôn. Ông sống ẩn dật mấy tháng trời ở đây. Vì thế, hiện nay ở đảo Côn Sơn có một ngọn núi cao gọi là núi Chúa; ở làng An Hải có đền thờ thứ phi của Nguyễn Ánh là Hoàng Phi Yến và ở làng Cỏ Ống có Miếu Cậu thờ Hoàng tử Cải con của thứ phi Hoàng Phi Yến.
Vào thời Gia Long, theo "Đại Nam nhất thống chí" thì Côn Đảo thuộc quyền quản hạt của đạo Cần Giờ, trấn Phiên An, tổng trấn Gia Định (Gia Định thành).
Đến năm Minh Mạng 20 (1839) thì Côn Đảo được chuyển sang thuộc tỉnh Vĩnh Long của Nam Kỳ Lục tỉnh.
Năm 1822, đại sứ nước Anh John Crawfurd trên hành trình đi sứ Xiêm và Cochin China Việt Nam đã ghé thăm và khám phá Côn Đảo.
Ngày 1 tháng 9 năm 1858, Pháp tấn công Đà Nẵng, chiếm đóng bán đảo Sơn Trà và chuẩn bị đánh Huế.
Tháng 4 năm 1861, Pháp đánh chiếm Định Tường. Chính trong thời gian này, Pháp khẩn cấp đặt vấn đề chiếm đóng Côn Đảo vì sợ Anh chiếm mất vị trí chiến lược quan trọng này.
Vào lúc 10 giờ sáng, ngày 28 tháng 11 năm 1861, Thủy sư đô đốc Hải quân Pháp là Louis Adolphe Bonard hạ lệnh cho tàu thông báo "Norzagaray" đến chiếm Côn Đảo, thượng cờ Pháp.
Trung úy Hải quân Pháp Lespès Sebastien Nicolas Joachim lập biên bản "Tuyên cáo chủ quyền" của Pháp tại Côn Đảo.
Ngày 14 tháng 1 năm 1862, chiếc tàu chở hàng "Nievre" đưa một số nhân viên ra đảo. Những người này có nhiệm vụ tìm vị trí thuận lợi dựng tạm hải đăng Côn Đảo nhằm chống chế nếu có nước nào phản kháng hành động tuyên bố chủ quyền.
Ngày 5 tháng 6 năm 1862, triều đình Huế ký Hòa ước Nhâm Tuất với Pháp. Khoản 3 của Hoà ước ghi rõ rằng nhà Nguyễn phải nhượng hoàn toàn chủ quyền Côn Lôn cho Hoàng đế Pháp. Nguyễn (2012) cho rằng, sở dĩ Pháp ép triều đình Huế là do Anh phản đối việc Pháp chiếm Côn Lôn năm 1861. Lý lẽ của Anh là, Pháp chiếm đảo dựa theo một hiệp ước vốn dĩ không được thi hành (tức Hiệp ước Versailles năm 1783).
Thời Việt Nam Cộng hoà.
Ngày 22 tháng 10 năm 1956, Tổng thống Ngô Đình Diệm ký sắc lệnh số 143-NV công bố danh sách các đơn vị hành chính Nam Việt, trong đó có tỉnh Côn Sơn.
Ngày 24 tháng 4 năm 1965, chính quyền Việt Nam Cộng hòa đổi tỉnh Côn Sơn thành Cơ sở Hành chính Côn Sơn trực thuộc Bộ Nội vụ. Chức tỉnh trưởng được đổi thành đặc phái viên hành chính.
Ngày 1 tháng 5 năm 1975, quân Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam tiếp quản Côn Đảo.
Tóm lược lịch sử hành chính.
Trước thời Pháp thuộc, Côn Đảo thuộc tỉnh Hà Tiên, sau đổi cho tỉnh Vĩnh Long quản lý.
Ngày 16 tháng 5 năm 1882, Tổng thống Pháp Jules Grévy ký sắc lệnh công nhận quần đảo Côn Lôn là một quận của Nam Kỳ.
Tháng 9 năm 1954, dưới chính quyền Quốc gia Việt Nam, Thủ tướng Ngô Đình Diệm tiếp tục chế độ nhà tù của Pháp và đổi tên quần đảo Côn Lôn thành hải đảo Côn Sơn.
Ngày 22 tháng 10 năm 1956, dưới thời Đệ Nhất Cộng hòa Việt Nam, Tổng thống Ngô Đình Diệm ký sắc lệnh số 143/NV đổi tên các tỉnh thành Nam Việt, trong đó thành lập tỉnh Côn Sơn.
Ngày 24 tháng 4 năm 1965, tỉnh Côn Sơn đổi thành Cơ sở hành chính Côn Sơn, trực thuộc Bộ Nội vụ Việt Nam Cộng hòa. Chức Tỉnh trưởng được đổi thành Đặc phái viên hành chính.
Ngày 1 tháng 11 năm 1974, dưới thời Đệ Nhị Cộng hòa Việt Nam của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, Cơ sở hành chính Côn Sơn đổi tên thành thị xã Phú Hải thuộc tỉnh Gia Định. Các trại tù đều được ghép thêm chữ Phú: Trại I thành Trại Phú Thọ, Trại II thành Trại Phú Sơn, Trại IV thành Trại Phú Tường, Trại V thành Trại Phú Phong, Trại VI thành Trại Phú An, Trại VII thành Trại Phú Bình và Trại VIII thành Trại Phú Hưng. Giai đoạn này số tù nhân lên đến 8.000 người.
Ngày 18 tháng 9 năm 1976, Hội đồng Chính phủ ra Nghị định số 164-CP thành lập huyện Côn Sơn trực thuộc Thành phố Hồ Chí Minh.
Ngày 15 tháng 1 năm 1977, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa VI, kỳ họp thứ 2 ban hành nghị quyết phê chuẩn việc đổi tên huyện Côn Sơn thành huyện Côn Đảo và sáp nhập huyện Côn Đảo vào tỉnh Hậu Giang.
Ngày 30 tháng 5 năm 1979, huyện Côn Đảo sáp nhập với thị xã Vũng Tàu và xã Long Sơn thuộc huyện Châu Thành, tỉnh Đồng Nai để thành lập đặc khu Vũng Tàu - Côn Đảo trực thuộc trung ương. Ngày 10 tháng 12 năm 1979, Côn Đảo được chuyển thành quận trực thuộc đặc khu Vũng Tàu - Côn Đảo.
Ngày 12 tháng 8 năm 1991, đặc khu Vũng Tàu - Côn Đảo giải thể, Côn Đảo trở thành huyện thuộc tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu như hiện nay.
Hiện nay Côn Đảo là một huyện có chính quyền một cấp, thông qua các cơ quan chức năng huyện, trực tiếp đến địa bàn khu dân cư, không có các cấp phụ thuộc như xã, phường hay thị trấn.
Địa lý tự nhiên.
Quần đảo Côn Đảo nằm cách thành phố Vũng Tàu 97 hải lý và cách cửa sông Hậu 45 hải lý, có cùng một kinh độ với Thành phố Hồ Chí Minh (106°36′ Đông) và cùng một vĩ độ với tỉnh Cà Mau (8°36′ Bắc). Quần đảo gồm 16 hòn đảo, trong đó 14 hòn quây cụm gần nhau; riêng hai hòn Trứng Lớn và Trứng Nhỏ nằm tách biệt về phía tây, vốn dĩ mới được chính quyền Việt Nam nhập vào huyện Côn Đảo từ năm 1995. Côn Đảo có tổng diện tích đất nổi là 76 km², trong đó đảo lớn nhất là đảo Côn Sơn 51,52 km². Đảo này có địa hình đồi núi, ưu thế bởi các dãy đá granit chạy từ phía tây nam đến đông bắc, che chở cho các vùng vịnh của đảo cả về hai phía khỏi những luồng gió mạnh. Điểm cao nhất của quần đảo là đỉnh núi Thánh Giá trên đảo Côn Sơn, cao 577 m. Địa chất quần đảo có tính đa dạng cao, gồm đá mácma Mesozoi xâm nhập axít, đá mácma phun trào axít và phun trào trung tính và trầm tích Đệ Tứ.
Khí hậu Côn Đảo mang đặc điểm á xích đạo - hải dương nóng ẩm, chia thành hai mùa rõ rệt: mùa mưa kéo dài từ tháng 5 đến tháng 11 và mùa khô kéo dài từ tháng 12 đến tháng 4 năm sau. Nhiệt độ trung bình năm là 26,9 °C. Tháng 5 oi bức, có lúc nhiệt độ lên đến 34 °C. Lượng mưa bình quân trong năm đạt 2.200 mm; mưa ít nhất vào tháng 1. Quần đảo Côn Đảo nằm ở vùng giao nhau giữa luồng hải lưu ấm từ phía nam và luồng hải lưu lạnh từ phía bắc. Nhiệt độ nước biển từ 25,7 °C đến 29,2 °C.
Vườn quốc gia Côn Đảo được thành lập từ năm 1993 trên cơ sở chuyển từ Khu rừng cấm Côn Đảo với diện tích 6.000 ha trên cạn và 14.000 ha vùng nước, bao trùm 14 hòn đảo (không bao gồm hòn Trứng Lớn và hòn Trứng Nhỏ).
Về thực vật, người ta thống kê được 882 loài thực vật rừng bậc cao thuộc 562 chi, 161 họ, trong đó có 371 loài thân gỗ, 30 loài phong lan, 103 loài dây leo, 202 loài thảo mộ, hiện đã biết 144 loài bao gồm 28 loài thú, 69 loài chim, 39 loài bò sá
Vùng biển của vườn quốc gia sở hữu 1.383 loài sinh vật biển, trong đó có 127 loài rong biển, 11 loài cỏ biển, 157 loài thực vật phù du, 115 loài động vật phù du, 202 loài cá, 8 loài thú và bò sát biể; độ phủ trung bình là 42,6 %. Côn Đảo không chỉ là vùng có nhiều rùa biển nhất nước Việt Nam mà còn là nơi duy nhất ở Việt Nam còn tồn tại một quần thể bò biển có cuộc sống không tách rời các thảm cỏ biển.
Dân cư trên đảo sống tập trung trong một thung lũng hình bán nguyệt ở tọa độ 8°40′57″ Bắc 106°36′10″ Đông. Thung lũng có chiều dài từ 8 đến 10 km, chiều rộng từ 2 đến 3 km và có độ cao trung bình khoảng 3 m so với mặt nước biển. Một mặt trông ra vịnh Đông Nam trong khi ba mặt còn lại vây quanh là núi. Khu vực này nằm ở khoảng giữa của sân bay Cỏ Ống và cảng Bến Đầm (khoảng cách ước chừng là 12 km). Đây là nơi tập trung toàn bộ đời sống kinh tế, chính trị và xã hội của quần đảo nhưng không mang danh nghĩa đơn vị hành chính thực sự vì Côn Đảo chỉ có chính quyền một cấp (là cấp huyện), không có xã hoặc thị trấn.
Dân số Côn Đảo tính đến năm 2014 8.360 người thuộc 10 khu dân cư.
Huyện Côn Đảo có diện tích là 76,78 km², dân số hiện trạng đến đầu năm 2021 đạt khoảng 10.760 người.
Tính đến năm 2010, ngành dịch vụ chiếm tỉ trọng cao nhất (71,63%) trong cơ cấu kinh tế của huyện, kế đó là công nghiệp (20,20%) và cuối cùng là nông nghiệp (8,27%). GDP bình quân đầu người là 965 đô la Mỹ. Hàng năm ngành dịch vụ tăng trưởng với nhịp độ khoảng 33,7%; số khách du lịch đến Côn Đảo đạt khoảng 200.000 đến 250.000 người/năm.
Cơ sở hạ tầng.
Từ Cảng Cát Lỡ - Vũng Tàu, có thể đi đến Côn Đảo bằng tàu Côn Đảo 9 và Côn Đảo 10. Lịch tàu chạy được cập nhật theo tháng và không thông báo hủy chuyến (tùy thuộc vào điều kiện thời tiết). Thời gian đi từ Vũng Tàu đến Côn Đảo khoảng 12 tiếng với quãng đường 97 hải lý. Vào ngày 15/2/2019, hãng Phú Quốc Express đã đưa vào khai thác tàu cao tốc Côn Đảo Express tuyến Vũng Tàu - Côn Đảo với thời gian khoảng 3 giờ 15 phút.
Năm 2019, dự kiến sẽ có tàu tuyến Thành phố Hồ Chí Minh - Côn Đảo với thời gian khoảng 5 giờ.
Vào tháng 7 năm 2017, hãng tàu Supperdong thực hiện chuyến tàu thương mại đầu tiên tuyến Sóc Trăng - Côn Đảo.
Vào tháng 3 năm 2019, có tuyến tàu cao tốc từ Thành phố Cần Thơ - Côn Đảo.
Cuộc sống người dân đảo phụ thuộc nhiều vào những chuyến tàu, nhất là trong những ngày gió bão tàu không chạy được. Hàng hóa không ra được đảo sẽ có thể khiến Côn Đảo rơi vào tình trạng thiếu lương thực và mọi sinh hoạt đều bị ảnh hưởng.
Trên hòn Bảy Cạnh có ngọn hải đăng lâu đời được dựng bằng công sức lao động khổ sai của các tù nhân. Lịch sử kể lại rằng vào ngày 27 tháng 8 năm 1883, Pháp cho dời hải đăng dựng tạm ở ngọn đồi phía bắc thung lũng Cỏ Ống (đảo Côn Sơn) về mỏm núi ở phía đông hòn Bảy Cạnh với độ cao và tầm chiếu sáng ưu thế hơn. Hải đăng có chiều cao tâm sáng 212 m; ánh sáng trắng, chớp nhóm 2, chu kì 10 giây. Tầm hiệu lực ban ngày là 35 hải lý còn ban đêm là 26,7 hải lý.
Sân bay Côn Đảo là sân bay duy nhất của quần đảo được xây dựng từ thời Pháp thuộc và chính thức khai thác hàng không dân dụng từ năm 2004. Năm 2011, đánh dấu sự phát triển của đường bay Côn Đảo khi hãng không Air Mekong thông báo mở đường bay từ Thành phố Hồ Chí Minh đi Côn Đảo. VASCO cũng mở thêm đường bay từ Cần Thơ đi Côn Đảo và tăng thêm một chuyến từ Thành phố Hồ Chí Minh đi Côn Đảo lên thành 4 chuyến/ngày. Từ ngày 6 tháng 9 năm 2011, Air Mekong đã mở thêm tuyến bay Côn Đảo - Hà Nội với tần suất 3 chuyến/tuần. Vietnam Airline cũng khai thác đường bay từ Thành phố Hồ Chí Minh đến Côn Đảo với tuần suất 4 chuyến/ngày. Trong 9 tháng đầu năm 2017, công ty dịch vụ Hàng không Vasco cũng vận chuyển được 148.736 lượt khách đến với Côn Đảo, tăng 25,58% so với cùng kỳ năm 2016, tần suất vận chuyển trong mùa cao điểm (từ tháng 2 đến hết tháng 8 dương lịch) lên tới 10 - 12 chuyến/ngày. Việc tăng tần suất vận chuyển đưa đón du khách như trên đã cho thấy sức hút du lịch của huyện đảo này. Theo thông cáo báo chí, sân bay Côn Đảo sẽ tạm ngừng khai thác để nâng cấp trong năm 2023 và trở lại hoạt động vào năm 2024 với nhiều hạng mục được thay đổi, bao gồm đường băng được kéo dài và nhà ga có công suất lớn hơn
Côn Đảo đã được phủ sóng điện thoại và chất lượng sử dụng rất tốt. Hiện có 4 mạng điện thoại di động phủ sóng là VinaPhone, Mobifone, Viettel Telecom và Vietnamobile. Ngoài ra, còn có mạng điện thoại cố định không dây của Viettel. Cuối tháng 8 năm 2007, Côn Đảo đã có kết nối Internet tốc độ cao ADSL, đảm bảo thông tin liên lạc. Côn Đảo cũng có đài phát thanh và truyền hình.
Côn Đảo là một trong 21 khu du lịch quốc gia của Việt Nam. Nơi đây được nhiều du khách đánh giá là thiên đường của nghỉ dưỡng và khám phá thiên nhiên (rừng và biển). Côn Đảo được xem là hòn đảo du lịch với những bãi tắm hoang sơ tuyệt đẹp, làn nước trong xanh mát lạnh, bãi cát dài phẳng mịn. Không khí trên đảo thật trong lành, được ví như thiên đường nghỉ dưỡng. Sở hữu rừng nguyên sinh và biển được bảo tồn đa dạng sinh học, Côn Đảo không chỉ là nơi nghiên cứu của các nhà khoa học mà còn là nơi để du khách đến du lịch khám phá, với các chương trình du lịch sinh thái.
Tháng 5 năm 2011, tạp chí "Travel + Leisure" gọi Côn Đảo - nơi có "những vách đá dốc đứng bên cạnh những bãi biển hoang sơ và làn nước xanh trong vắt" - là một trong những đảo bí ẩn và tốt nhất thế giới. Tương tự, "Lonely Planet" cũng xếp Côn Đảo vào danh sách những đảo bí ẩn và tốt nhất thế giới, đồng thời ca ngợi Côn Đảo là "thiên đường thiên nhiên với những cánh rừng rậm rạp, làn nước màu ngọc bích, những bãi cát trắng và là ngôi nhà của bò biển, cá heo, rùa biển và những rạn san hô ngoạn mục".
Ngày 5 tháng 9 năm 2011, Thủ tướng Chính phủ Việt Nam ký Quyết định số 1518/QĐ-TTG phê duyệt điều chỉnh Quy hoạch chung xây dựng Côn Đảo, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu đến năm 2030, theo đó định hướng sẽ phát triển Côn Đảo thành khu kinh tế du lịch hiện đại, tầm cỡ khu vực và quốc tế.
Nguyên là đảo Côn Lôn Nhỏ. Tương truyền thời còn bị quân Tây Sơn truy sát, chúa Nguyễn Ánh từng trốn ra Côn Lôn ẩn trú và tính kế mượn nhờ sức mạnh người Pháp để phục thù. Một người thiếp của ông tên Yến (tục gọi là Răm) đã khuyên can. Chúa nổi giận, đày bà ra đảo Côn Lôn Nhỏ, từ đó đảo này có tên gọi là "hòn Bà".
Tương truyền chúng bắt nguồn từ tên của hai anh em sinh đôi là Đặng Phong Tài và Đặng Trác Vân. Cả hai đều là tùy tùng phò vua Hàm Nghi chống thực dân Pháp. Năm 1899, Pháp đày Đặng Phong Tài ra Côn Đảo; tại đây ông kết duyên cùng một cô gái tên Đào Minh Nguyệt. Về sau, người em Đặng Trác Vân cũng bị đày ra đây. Người chị dâu nảy sinh tình ý với em chồng, khiến Vân dần cảm thấy lo ngại và bèn quyết định bỏ sang hòn đảo khác. Khi Tài lần sang đảo tìm em thì Vân lại bỏ đi tiếp đảo khác nữa.
Nhà tù được thành lập ngày 1 tháng 2 năm 1862, do tướng Bonard, tư lệnh quân viễn chinh Pháp ký quyết định thành lập, biến Côn Lôn thành nơi giam giữ các phạm nhân chống Pháp. Về sau, chính quyền Việt Nam Cộng hòa đã phát triển nơi đây thành hệ thống nhà tù và nơi lưu đày, chủ yếu là tù chính trị với hệ thống chuồng cọp nổi tiếng. Dưới chế độ nhà tù Côn Đảo, khoảng 20.000 người Việt Nam thuộc nhiều thế hệ đã chết và được chôn cất tại Nghĩa trang Hàng Dương. |
Phố cổ Hội An
Phố cổ Hội An là một đô thị cổ nằm ở hạ lưu sông Thu Bồn, thuộc vùng đồng bằng ven biển tỉnh Quảng Nam, Việt Nam, cách thành phố Đà Nẵng khoảng 30 km về phía Nam. Nhờ những yếu tố địa lý và khí hậu thuận lợi, Hội An từng là một thương cảng quốc tế sầm uất, nơi gặp gỡ của những thuyền buôn Nhật Bản, Trung Quốc và phương Tây trong suốt thế kỷ XVII và XVIII. Trước thời kỳ này, nơi đây cũng từng có những dấu tích của thương cảng Chăm Pa hay được nhắc đến cùng con đường tơ lụa trên biển. Thế kỷ XIX, do giao thông đường thủy ở đây không còn thuận tiện, cảng thị Hội An dần suy thoái, nhường chỗ cho Đà Nẵng khi đó đang được người Pháp xây dựng. Hội An may mắn không bị tàn phá trong hai cuộc chiến tranh và tránh được quá trình đô thị hóa ồ ạt cuối thế kỷ 20. Bắt đầu từ thập niên 1980, những giá trị kiến trúc và văn hóa của phố cổ Hội An dần được giới học giả và cả du khách chú ý, khiến nơi đây trở thành một trong những điểm du lịch hấp dẫn của Việt Nam.
Đô thị cổ Hội An ngày nay là một điển hình đặc biệt về cảng thị truyền thống ở Đông Nam Á được bảo tồn nguyên vẹn và chu đáo. Phần lớn những ngôi nhà ở đây là những kiến trúc truyền thống có niên đại từ thế kỷ 17 đến thế kỷ 19, phân bố dọc theo những trục phố nhỏ hẹp. Nằm xen kẽ giữa các ngôi nhà phố, những công trình kiến trúc tôn giáo, tín ngưỡng minh chứng cho quá trình hình thành, phát triển và cả suy tàn của đô thị. Hội An cũng là vùng đất ghi nhiều dấu ấn của sự pha trộn, giao thoa văn hóa. Các hội quán, đền miếu mang dấu tích của người Hoa nằm bên những ngôi nhà phố truyền thống của người Việt và những ngôi nhà mang phong cách kiến trúc Pháp. Bên cạnh những giá trị văn hóa qua các công trình kiến trúc, Hội An còn lưu giữ một nền văn hóa phi vật thể đa dạng và phong phú. Cuộc sống thường nhật của cư dân phố cổ với những phong tục tập quán, sinh hoạt tín ngưỡng, nghệ thuật dân gian, lễ hội văn hóa vẫn đang được bảo tồn và phát triển. Hội An được xem như một bảo tàng sống về kiến trúc và lối sống đô thị.
Với những giá trị nổi bật, tại kỳ họp lần thứ 23 cuối năm 1999 (ngày 4 tháng 12), Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên Hợp Quốc (UNESCO) đã công nhận đô thị cổ Hội An là một di sản văn hóa thế giới, dựa trên hai tiêu chí:
Tên gọi "Hội An" ngày nay được hình thành từ rất lâu trong lịch sử, nhưng thật khó có thể xác định chính xác thời điểm ra đời của nó. Theo tác giả Dương Văn An trong cuốn sách "Ô Châu cận lục", vào năm 1553, huyện Điện Bàn có 66 xã, trong đó có các xã Hoài Phô, Cẩm Phô, Lai Nghi, nhưng chưa thấy cái tên "Hội An" được ghi lại. Dưới thời Lê, tấm bản đồ do đại thần Đỗ Bá vẽ in trong "Thiên Nam tứ chí lộ đồ" có ghi lần đầu tiên các địa danh "Hội An phố", "Hội An đàm", "Hội An kiều". Trên tấm bia Phổ Đà Linh Sơn Trung Phật tại động Hoa Nghiêm, Ngũ Hành Sơn ghi tên những người góp tiền xây dựng chùa, tên làng Hội An được nhắc tới ba lần. Thời chúa Nguyễn Phúc Lan, làng Minh Hương được thành lập bên cạnh làng Hội An đã có trước đó. Căn cứ vào văn bản của dinh trấn Quảng Nam thời Minh Mạng gửi trưởng bang Hoa kiều, Hội An phố gồm 6 làng: Hội An, Minh Hương, Cổ Trai, Đông An, Diêm Hộ, Hoa Phô. Nhà nghiên cứu người Pháp Albert Sallet cho rằng làng Hội An là làng quan trọng nhất trong năm làng tạo nên quần cư Hội An cổ, gồm Hội An, Cẩm Phô, Phong Niên, Minh Hương và An Thọ.
Người phương Tây xưa kia gọi Hội An bằng cái tên "Faifo". Xuất xứ của cái tên này ngày nay vẫn tồn tại nhiều giả thuyết. Trong cuốn "Từ điển Việt-Bồ-La" của Alexandre de Rhodes in tại Roma năm 1651, chữ "Hoài phô" được định nghĩa: một làng trong xứ Cochinchine mà người Nhật ở và gọi là Faifo. Một giả thuyết phổ biến cho rằng "Faifo" xuất phát từ tên "Hội An phố", cái tên sử sách và địa chí Trung, Việt đều nhắc tới. Theo một thuyết khác, nhánh sông Thu Bồn chảy qua phố cổ Hội An hiện nay có tên là sông Hoài, nên Hội An còn được gọi là Hoài Phố, sau Hoài Phố biến thành Phai Phố ["Faifo]". Trong những thư từ, ghi chép của những giáo sĩ, học giả phương Tây, cái tên "Faifo" từng xuất hiện nhiều lần. Alexandre de Rhodes trong bản đồ An Nam gồm Đàng Trong và Đàng Ngoài ấn hành năm 1651 có ghi rõ tên "Haifo". Về sau, trên bản đồ chính thức của chính quyền Đông Dương, người Pháp đều sử dụng tên "Faifo" để chỉ Hội An.
Thời kỳ tiền Hội An
Khu đô thị cổ Hội An nằm gần cửa sông Thu Bồn, con sông lớn nhất của tỉnh Quảng Nam. Mặc dù vậy, ngày nay từ trung tâm thành phố tới đến cửa sông cũng không còn gần lắm. Hạ lưu sông Thu Bồn khi đổ ra biển Đông được chia thành nhiều nhánh. Nhánh tiếp xúc với khu phố cổ mang tên sông Hội An, còn dòng chảy giữa hai cồn Cẩm Nam và Cẩm Kim là dòng chính của sông Thu Bồn. Trên những bản đồ cổ thế kỷ 17, 18, Hội An nằm trên bờ Bắc của sông Thu Bồn, thông với biển Đông bẳng cửa Đại Chiêm và một dòng sông nối với cửa Đại của Đà Nẵng, phía ngoài là một doi cát rộng. Dấu vết dòng sông nối liền Hội An với biển Cửa Hàn có thể xác định là con sông Cổ Cò - Đế Võng ngày nay. Trên thủy trình cổ này đã từng tìm thấy nhiều lô tàu, mỏ neo bị chôn vùi trong lòng đất.
Tuy địa danh "Hội An" được cho rằng xuất hiện vào khoảng cuối thế kỷ 16, nhưng vùng đất xung quanh đô thị này đã có một lịch sử rất lâu đời. Trong suốt thời kỳ "tiền Hội An", nơi đây từng tồn tại hai nền văn hóa lớn, đó là văn hóa Sa Huỳnh và văn hóa Chăm Pa. Di chỉ đầu tiên của văn hóa Sa Huỳnh là phố Sa Huỳnh ở Quảng Ngãi bị cát vùi lấp, được các nhà khảo cổ người Pháp phát hiện. Năm 1937, nữ học giả Madeleine Colani chính thức xác nhận đây là một nền văn hóa. Chỉ riêng trong khu vực thành phố Hội An đã phát hiện được hơn 50 địa điểm là di tích của nền văn hóa này, phần lớn tập trung ở những cồn cát ven sông Thu Bồn cũ. Đặc biệt, sự phát hiện hai loại tiền đồng Trung Quốc thời Hán, những hiện vật sắt kiểu Tây Há, nơi đây đã bắt đầu có những giao dịch ngoại thương. Một đặc điểm khác có thể nhận thấy là khu vực Hội An không có những dấu tích của thời kỳ đầu và giữa, nhưng mảnh đất nơi đây đã từng tồn tại và có sự phát triển rực rỡ nền văn hóa Sa Huỳnh muộn.
Tiếp sau nền văn hóa Sa Huỳnh, suốt từ thế kỷ 2 đến đến thế kỷ 15, một dải đất miền trung Việt Nam nằm dưới sự thống trị của vương quốc Chăm Pa. Những di tích đặc trưng của nền văn hóa này là các nhóm điện thờ đạo Hindu phân bổ dọc từ miền Trung tới miền Nam, và một trong những trung tâm đó nằm ở lưu vực con sông Thu Bồn. Ở đây, có thể thấy một thủ phủ mang tính chính trị tại Trà Kiệu và một trung trung tâm mang tính tôn giáo nằm tại Sởn Mi. Những dấu tích đền tháp Chăm còn lại, những giếng nước Chăm, những pho tượng Chăm, những di vật của người Đại Việt, Trung Hoa, Trung Đông thế kỷ 2 - 14 làm sáng tỏ giả thuyết nơi đây từng có một Lâm Ấp Phố với một cảng biển là Đại Chiêm phát triển hưng thịnh. Nhiều thư tịch cổ ghi nhận trong một thời gian khá dài, Chiêm cảng - Lâm Ấp Phố đóng một vai trò quan trọng trong việc tạo nên sự phồn vinh của kinh thành Trà Kiệu và khu di tích đền tháp Mỹ Sơn. Trải qua nhiều cuộc chiến tranh, vương quốc Chăm Pa bị Đại Việt đẩy dần về phía Nam. Năm 1471, thủ phủ cuối cùng của Chăm Pa ở Bầu Giá, Bình Định ngày nay, bị nhà Lê chiếm. Vùng đất Hội An trở thành lãnh thổ của Đại Việt từ đó, nhưng phải về sau nơi đây mới phát triển thành một khu vực thương mại. Hội An được hình thành dựa trên sự kế thừa cảng biển của người Chăm và người Việt bắt đầu tới đây từ thế kỷ 15. Đó là bước chuẩn bị trực tiếp cho sự ra đời của đô thị Hội An.
Thời kỳ Hội An.
Ra đời và phát triển phồn vinh.
Hội An ra đời vào khoảng nửa cuối thế kỷ 16, thời kỳ Việt Nam nằm dưới sự trị vì của nhà Lê. Vào năm 1527, Mạc Đăng Dung giành ngôi nhà Lê, vùng Đông Kinh thuộc quyền cai quản của nhà Mạc. Năm 1533, Nguyễn Kim nhân danh nhà Lê tập hợp binh sĩ chống lại nhà Mạc. Sau khi Nguyễn Kim chết năm, người con rể Trịnh Kiểm nắm giữ quyền hành, dòng họ Nguyễn Kim bị lấn át. Năm 1558, người con thứ của Nguyễn Kim là Nguyễn Hoàng cùng gia quyến và một số binh lính lui về cố thủ ở vùng Thuận Hóa và từ sau năm 1570, Nguyễn Hoàng tiếp tục nắm quyền trấn thủ Quảng Nam. Cùng với con trai là Nguyễn Phúc Nguyên, Nguyễn Hoàng xây dựng thành lũy, ra sức phát triển kinh tế Đàng Trong, mở rộng giao thương buôn bán với nước ngoài và Hội An trở thành thương cảng quốc tế sầm uất bậc nhất khu vực Đông Nam Á thời kỳ đó.
Thế kỷ 17, trong khi vẫn tiếp tục cuộc chiến với chúa Trịnh ở miền Bắc, chúa Nguyễn không ngừng khai phá miền Nam, lấn chiếm lãnh thổ của người Chăm. Trên những vùng đất do chúa Nguyễn cai quản, có những khu phố nước ngoài hình thành dựa trên một số luật lệ nhằm bảo hộ cho các hoạt động thương mại của người ngoại quốc. Vào năm 1567, triều đình nhà Minh của Trung Quốc từ bỏ chủ trương bế quan tỏa cảng, cho thuyền buôn vượt biển giao thương với các quốc gia vùng Đông Nam Á, nhưng vẫn cấm xuất khẩu một số nguyên liệu quan trọng sang Nhật Bản. Điều này đã bắt buộc Mạc phủ Toyotomi rồi Mạc phủ Tokugawa cấp phép cho các thuyền buôn Châu Ấn sang mở rộng quan hệ thông thương với Đông Nam Á và mua lại hàng hóa Trung Quốc từ các quốc gia đó. Những con tàu Châu Ấn bắt đầu xuất dương từ năm 1604 dưới thời Mặc phủ Tokugawa, cho tới năm 1635, khi chính sách đóng cửa được ban bố, đã có ít nhất 356 con tàu Châu Ấn ra đời. Nơi thuyền Châu Ấn đi qua nhiều nhất chính là cảng Hội An. Trong vòng 30 năm, 75 con tàu Châu Ấn đã cập cảng nơi đây, so với 37 con tàu cập bến Đông Kinh, khu vực do chúa Trịnh cai trị. Các thương nhân người Nhật khi đó tới bán những đồ đồng, tiền đồng, sắt, đồ gia dụ, tơ lụa, trầm hươ, phố Nhật Bản ở Hội An được hình thành và phát triển cực thịnh trong đầu thế kỷ 17. Qua bức họa "Giao Chỉ quốc mậu dịch độ hải đồ" của Chaya Shinroku, có thể thấy khu phố người Nhật với những công trình kết cấu gỗ hai, ba tầng. Thuyền trưởng người Hà Lan Delft Haven ghi lại năm 1651, Hội An khi đó có khoảng 60 căn nhà của người Nhật nơi dọc bờ sông, nhà cửa xây bằng đá để tránh hỏa hoạn, nằm sát vách nhau. Nhưng khoảng thời gian tiếp sau, do chính sách bế quan của Mạc phủ Tokugawa cũng những chính sách đàn áp người Nhật Công giáo của chúa Nguyễn, khu phố Nhật ở Hội An dần bị lu mờ. Mặc dù vẫn còn một số nhỏ người Nhật định cư lại đây nhưng người Hoa dần thay thế vai trò của người Nhật trong việc buôn bán.
Khác với người Nhật, những người Hoa biết đến Hội An từ rất sớm, ngày từ thời vùng đất này còn thuộc về vương quốc Chăm Pa. Đến thời kỳ người Việt thay thế người Chăm, những thương nhân Trung Hoa vẫn tiếp tục tới buôn bán vì các tỉnh miền Nam của Trung Quốc rất cần các mặt hàng muối, vàng, quế... Mặc dù vậy, trong suốt thời kỳ tiền Hội An, người Hoa chỉ tới buôn bán rồi trở về, không ở lại định cư, lập phố xá. Phải sau loạn Minh Thanh xảy ra khoảng giữa thế kỷ 17, đặc biệt sau khi nhà Minh bị thất thủ, rất nhiều người Hoa di cư tới Trung Bộ Việt Nam và xây dựng nên nhiều cộng đồng Minh Hương Xã. Tại Hội An, người Hoa tới lưu trú ngày một nhiều và thế chân người Nhật nắm quyền buôn bán. Cảng thị Hội An khi đó là nơi tập trung nhiều nhất hàng hóa ngoại quốc. Khu phố dọc bờ sông, được gọi khu Đại Đường, kéo dài 3, 4 dặm. Các cửa hàng hai bên phố không khi nào rảnh rỗi. Dân cư ở đây phần lớn là người Phúc Kiến, mọi người ăn vận theo trang phục của nhà Minh. Nhiều người Trung Quốc tới định cư để buôn bán đã kết hôn với những phụ nữ bản địa. Bên cạnh những người Hoa nhập quốc tịch Việt Nam, nhiều người Hoa khác vẫn giữ quốc tịch Trung Quốc mà người Việt thường gọi là "Khách trú". Năm 1695, sứ giả người Anh Thomas Bowyear của Công ty Đông Ấn Anh đến đàm phán với chúa Nguyễn về việc xây dựng một khu cư trú tại Hội An. Việc thương thảo tuy không thành, nhưng cũng đã để lại một ghi chép:
Thời kỳ suy vong.
Thế kỷ 18, khi cuộc khởi nghĩa Tây Sơn diễn ra ở miền Nam, chúa Trịnh đánh chiếm Quảng Nam dinh năm 1775, cảng thị Hội An rơi vào cảnh chiến tranh loạn lạc. Sau khi chiếm được Hội An, quân Trịnh đã triệt phá những nhà cửa thuộc khu vực thương mại, chỉ để lại các công trình tín ngưỡng. Nhiều nhân vật quan trọng của dòng họ Nguyễn cùng những thương gia người Hoa giàu có đã di cư vào miền Nam, mang theo của cải và lập nghiệp tại Sài Gòn - Chợ Lớn, để lại một Hội An điêu tàn, đổ nát. Năm 1778, một người Anh Charles Chapman đi qua đây sau thời Tây Sơn đã ghi lại: "Khi tới Hội An, thành phố lớn này chẳng còn lại là bao những khu phố được quy hoạch quy củ với những ngôi nhà xây bằng gạch, đường lát đá mà chỉ thấy một cảnh hoang tàn làm cho ta cảm thấy xót xa. Trời ơi, những công trình ấy bây giờ chỉ còn đọng lại trong ký ức mà thôi." Khoảng 5 năm sau, cảng thị Hội An mới dần dần hồi sinh, hoạt động thương mại được phục hồi nhưng không được như trước. Người Việt cùng người Hoa cùng xây lại thành phố từ những đống đổ nát cũ, những ngôi nhà mới mọc lên theo kiến trúc của họ và vô tình, dấu vết của khu phố Nhật Bản đã bị xóa đi mãi mãi.
Thế kỷ 19, cửa sông Cửa Đại ngày càng bị thu hẹp lại và con sông Cổ Cò cũng bị phù sa bồi lấp, khiến các thuyền lớn không còn ghé được cảng Hội An. Bên cạnh đó, triều đình nhà Nguyễn cũng thực hiện chính sách đóng cửa, hạn chế quan hệ với nước ngoài, đặc biệt các quốc gia phương Tây. Từ đó, Hội An dần suy thoái, mất đi vị thế cảng thị quốc tế quan trọng. Mặc dù vậy, với vai trò một trung tâm thương nghiệp lớn, thành phố vẫn được phát triển, những con đường mới về phía Nam dòng sông được xây dựng và các khu phố được mở rộng thêm. Năm Minh Mạng thứ 5, nhà vua có qua Hội An, nhận thấy nơi đây không còn sầm uất như xưa, nhưng vẫn hưng thịnh hơn các thị trấn khác của người Việt. Năm 1888, khi Đà Nẵng trở thành nhượng địa của Pháp, nhiều người Hoa tới đó để bỏ vốn lập các cơ sở vận tải, thương mại, một số khác tiếp tục duy trì hoạt động kinh doanh ở cả Hội An và Đà Nẵng. Nhưng do giao thông đường thủy ngày càng trở nên khó khăn, cùng với chính sách phát triển Đà Nẵng của người Pháp, hoạt động thương nghiệp ở Hội An dần bị đình trệ. Mặc dù vậy, phần lớn các kiến trúc nhà ở trong khu phố cổ, các hội quán còn lại đến ngày nay đều có hình dáng được tạo nên từ giai đoạn này.
Đầu thế kỷ 20, tuy mất đi vai trò cảng thị quan trọng, hoạt động buôn bán ở Hội An chưa khi nào chấm dứt và nơi đây vẫn là thị xã, thủ phủ của tỉnh Quảng Nam. Khi tỉnh Quảng Nam-Đà Nẵng được thành lập vào năm 1976, thành phố Đà Nẵng trở thành tỉnh lỵ của tỉnh mới, Hội An rơi vào một thời kỳ bị quên lãng. Chính nhờ sự thay đổi vai trò trong lịch sử, cộng với nhiều yếu tố khác nên Hội An đã may mắn tránh được sự biến dạng của quá trình đô thị hóa mạnh mẽ ở Việt Nam trong thế kỷ 20. Từ thập niên 1980, Hội An bắt đầu nhận được sự chú ý của các học giả Việt Nam, Nhật Bản và phương Tây. Tại kỳ họp lần thứ 23 từ 29 tháng 11 đến 4 tháng 12 năm 1999 ở Marrakech, Tổ chức Giáo dục Khoa học và Văn hóa Liên Hợp Quốc đã ghi tên Hội An vào danh sách các di sản thế giới. Đô thị cổ Hội An dần phồn vinh trở lại nhờ những hoạt động du lịch.
Kiến trúc đô thị.
Khu phố cổ nằm trọn trong phường Minh An, diện tích khoảng 2 km², với những con đường ngắn và hẹp, có đoạn uốn lượn, chạy dọc ngang theo kiểu bàn cờ. Nằm sát với bờ sông là đường Bạch Đằng, tiếp đó tới đường Nguyễn Thái Học rồi đường Trần Phú nối liền với Nguyễn Thị Minh Khai bởi Chùa Cầu. Do địa hình khu phố nghiêng dần từ Bắc xuống Nam, các con đường ngang Nguyễn Huệ, Lê Lợi, Hoàng Văn Thụ và Trần Quý Cáp hơi dốc dần lên nếu đi ngược vào phía sâu trong thành phố. Đường Trần Phú xưa kia là con đường chính của thị trấn, nối từ Chùa Cầu tới Hội quán Triều Châu. Vào thời Pháp thuộc, đường này được mang tên "Rue du Pont Japonnais", tức Phố cầu Nhật Bản. Ngày nay, đường Trần Phú rộng khoảng 5 mét với nhiều ngôi nhà không có phần hiên, kết quả của lần mở rộng khoảng cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20. Hai con đường Nguyễn Thái Học và Bạch Đằng hình thành muộn hơn, đều do bùn đất bồi lấp. Đường Nguyễn Thái Học xuất hiện năm 1840, sau đó được người Pháp đặt tên là "Rue Cantonnais", tức Phố người Quảng Đông. Đường Bạch Đằng ra đời năm 1878, nằm sát bờ sông nên xưa kia từng có tên gọi là "Đường Bờ Sông". Nằm sâu về phía thành phố, tiếp theo đường Trần Phú là đường Phan Chu Trinh, con đường mới được xây dựng thêm vào khoảng thời gian sau này. Trong khu phố cổ còn nhiều đường hẻm khác nằm vuông góc với đường chính kéo dài ra đến tận bờ sông.
Đường Trần Phú là con đường chính, nơi tập trung nhiều nhất những công trình kiến trúc quan trọng, cũng như những ngôi nhà cổ điển hình cho kiến trúc Hội An. Nổi bật nhất trong số này là các hội quán do người Hoa xây dựng để tưởng nhớ đến quê hương của họ. Nếu bắt đầu từ Chùa Cầu, sẽ thấy năm hội quán trên đường Trần Phú, tất cả đều bên số chẵn: Hội quán Quảng Đông, Hội quán Trung Hoa, Hội quán Phúc Kiến, Hội quán Quỳnh Phủ và Hội quán Triều Châu. Ở góc đường Trần Phú và Nguyễn Huệ là miếu Quan Công, di tích đặc trưng cho kiến trúc đền miếu của người Minh Hương ở Việt Nam. Ngay sát miếu về phía Bắc, có thể thấy Bảo tàng Lịch sử - Văn hóa Hội An, nguyên trước đây là ngôi chùa Quan Âm của dân làng Minh Hương. Bảo tàng văn hóa Sa Huỳnh và Bảo tàng Gốm sứ Mậu dịch cũng nằm trên con đường này. Theo đường Trần Phú, đi qua Chùa Cầu sẽ dẫn tới đường Nguyễn Thị Minh Khai. Những ngôi nhà truyền thống ở đây được tu bổ và bảo tồn rất tốt, phần lối đi bộ hai bên được lát gạch đỏ, phía cuối đường là vị trí của đình Cẩm Phô. Phía Tây đường Nguyễn Thái Học có một dãy phố được hình thành bởi những ngôi nhà có kiến trúc mặt tiền kiểu Pháp, còn phần phía Đông là khu phố mua bán nhộn nhịp với những ngôi nhà kiểu hai tầng, diện tích lớn. Bảo tàng Văn hóa Dân gian Hội An nằm ở số 33 của con đường này là ngôi nhà cổ lớn nhất khu phố cổ, có chiều dài 57 mét, chiều ngang 9 mét. Trong mùa mưa bão, đường Nguyễn Thái Học và khu vực xung quanh thường bị ngập lụt, dân cư phải sử dụng thuyền để đi mua sắm và đến các quán ăn. Khu phố phía Đông phố cổ từng là khu phố của người Pháp. Trên đường Phan Bội Châu, dãy phố phía Tây được xây dựng san sát những ngôi nhà với mặt đứng kiểu châu Âu, đa số một tầng. Nơi đây từng là nhà ở của các công chức dưới thời Pháp thuộc.
Kiến trúc truyền thống.
Kiểu nhà ở phổ biến nhất ở Hội An chính là những ngôi nhà phố một hoặc hai tầng với đặc trưng chiều ngang hẹp, chiều sâu rất dài tạo nên kiểu nhà hình ống. Những vật liệu chính dùng để xây dựng nhà ở đây đều có sức chịu lực và độ bền cao do đặc điểm khí hậu khắc nghiệt và bão lụt hàng năm của vùng này. Thông thường, các ngôi nhà có kết cấu kiểu nhà khung gỗ, hai bên có tường gạch ngăn cách. Khuôn viên trung bình của các ngôi nhà có chiều ngang khoảng 4 đến 8 mét, chiều sâu khoảng 10 đến 40 mét, biến thiên theo từng tuyến phố. Bố cục mặt bằng phổ biến của những ngôi nhà ở đây gồm: vỉa hè, hiên, nhà chính, nhà phụ, hiên, nhà cầu và sân trong, hiên, nhà sau ba gian, vườn sau. Thực chất, nhà phố ở Hội An bao gồm nhiều nếp nhà bố trí theo chiều sâu và cấu thành không gian kiến trúc gồm 3 phần: không gian buôn bán, không gian sinh hoạt và không gian thờ cúng. Cách phân chia này phù hợp với mặt bằng hẹp và kết hợp nhiều công năng của ngôi nhà. Có thể nhận thấy đây là một sản phẩm kiến trúc mang tính văn hóa khu vực.
Ở không gian nhà chính, hệ thống 16 cây cột phân bố 4 x 4 tạo thành phân vị chiều ngang và chiều sâu theo cấu trúc 3 x 3 gian, trong đó 4 cột trung tâm cao hơn hẳn các cột còn lại. Đây chính là không gian dành cho buôn bán với gian đầu từ đường vào là chỗ bán hàng, gian kế tiếp là kho hàng hóa được ngăn bằng vách, gian thứ ba bố trí nhà thờ quay mặt vào bên trong. Điểm đặc biệt này là một đặc trưng rất quan trọng của nhà phố Hội An, dù đôi khi cũng có trường hợp bàn thờ quay ra phía đường. Bên cạnh các nhà chính phổ biến dạng 3 x 3 gian, một số ít ngôi nhà khác có nhà chính rộng hoặc hẹp hơn, kiểu 3 x 2 gian hoặc 3 x 5 gian. Không gian tiếp theo nhà chính là nhà phụ, thường thấy ở những ngôi nhà hai tầng có chiều cao thấp. Khoảng không gian mở này vừa được tiếp nối với mặt đường, vừa tách biệt với những hoạt động buôn bán phía ngoài, lại có thể tiếp nhận ánh sáng của sân trời, được dùng làm nơi gia chủ tiếp khách. Nhà cầu và sân trong là không gian được chia hai phần theo chiều dọc, có kết cấu độc lập với nhà trước và nhà sau, mang chức năng chuyển tiếp. Phần sân trời được lát đá, trang trí bể nước, non bộ, cây cảnh, giúp ngôi nhà thoáng và hòa hợp với thiên nhiên hơn. Ngược lại, phần nhà cầu có mái nối liền nhà trước với nhà sau thành một cơ cấu liên tục, rất phù hợp với điều kiện khí hậu nhiều mưa và nắng nóng ở đây. Dù trong bất kỳ điều kiện thời tiết nào, mọi sinh hoạt trong nhà vẫn có thể diễn ra bình thường. Nhà sau là không gian sinh hoạt của cả gia đình, được ngăn buồng bằng các vách gỗ. Phía sau nhà sau còn một khoảng không gian nữa, dành cho bếp, nhà vệ sinh và các chức năng phụ khác. Đối với một ngôi nhà thông thường, không gian thờ cúng chỉ chiếm một phần nhỏ, nhưng luôn được dành riêng một vị trí quan trọng. Để các công năng buôn bán, vận chuyển hàng hóa, sinh hoạt không bị cản trở, ban thờ thường được chuyển lên gác lửng. Ở những ngôi nhà một tầng, ban thờ được đặt ở phần mái phụ của nhà trước hoặc trung tâm nhà sau. Trong những ngôi nhà hai tầng, toàn bộ tầng hai của nhà chính thường được dùng làm kho hàng và ban thờ cũng được bố trí ở tầng này.
Những ngôi nhà ở Hội An hầu hết được làm theo dạng hai mái, đa số nhà chính và nhà phụ không chung một mái mà là hai nếp mái kế tiếp nhau. Rất ít trường hợp mái nhà chính phủ lên cả phần nhà phụ. Ngược lại, đa số nhà cầu được lợp theo kiểu bốn mái. Trên mặt bằng tổng thể thì nhà trước, nhà cầu và nhà sau được lợp bằng những mái riêng biệt. Ngói ở Hội An là loại ngói làm từ đất, mỏng, nung thô, mang hình vuông, mỗi cạnh khoảng 22 cm và có dạng hơi cong. Khi lợp, đầu tiên người ta xếp một hàng ngói ngửa lên và sau đó tiếp tới một hàng ngói úp xuống. Cách lợp này được gọi là kiểu lợp ngói âm dương. Khi lợp xong mái, các viên ngói được cố định bằng vữa, tạo thành những dải ngói nhô lên dọc xuôi theo mái, khiến toàn bộ mái toát nên một vẻ cứng cáp, mạnh mẽ. Ở trên đỉnh mái, phần nóc mái được xây cao lên hình chữ nhật như một cái hộp, cũng có một số trường hợp hai bên tường hồi cũng được xây cao hẳn làm cho toàn bộ tổng thể dường như bị mất cân đối. Hình thức và cách trang trí của tường hồi luôn gây một ấn tượng mạnh và là yếu tố tạo ra giá trị rất riêng của phố cổ Hội An.
Các di tích kiến trúc.
Mặc dù phần lớn các ngôi nhà phố của Hội An ngày nay được hình thành vào thời kỳ thuộc địa, nhưng trong khu phố cổ vẫn gìn giữ được nhiều di tích phản ánh các giai đoạn lịch sử hình thành, hưng hịnh và suy tàn của đô thị. Các loại hình kiến trúc từ thế kỷ 16 đến đầu thế kỷ 18 thường mang chức năng có bản, bị tác động bởi nền kinh tế, yếu tố cảng thị của Hội An khi đó. Tiêu biểu cho giai đoạn này là những bến thuyền, giếng nước, chùa chiền, đền miếu, cầu, mộ, những nhà thờ tộc và các thương điếm. Từ thế kỷ 18, Hội An không còn vị trí thương cảng bậc nhất nữa. Thời kỳ này xuất hiện phổ biến những văn miếu, văn chỉ, đình, nhà thờ và đặc biệt là các hội quán. Qua sự phân bố, quy mô, hình thức, chức năng của các công trình kiến trúc, có thể thấy sự chuyển đổi của Hội An trong giai đoạn này. Thời kỳ Pháp thuộc, cũng như nhiều đô thị khác của Việt Nam, Hội An chịu ảnh hưởng sâu đậm của kiến trúc Pháp. Những ngôi nhà mang phong cách thuộc địa xuất hiện nhiều và tập trung trên một tuyến phố. Sự đan xen phong cách kiến trúc Pháp giữa những ngôi nhà cổ truyến thống là hệ quả của một lối sống phương Tây đã xuất hiện trong đời sống của cư dân Hội An. Các công trình thời kỳ này giữ được vẻ hài hòa trong ngôn ngữ kiến trúc, mềm dẻo trong trang trí, phù hợp với không gian đô thị, mang lại cho Hội An một dáng vẻ mới. Theo thống kê tháng 12 năm 2000, Di sản thế giới Hội An có 1360 di tích gồm 1068 nhà cổ, 11 giếng nước cổ, 38 nhà thờ tộc, 19 ngôi chùa, 43 miếu thờ thần, 23 đình, 44 mộ cổ loại đặc biệt và 1 cây cầu. Khoảng hơn 1100 di tích trong số này nằm trong khu vực đô thị cổ.
Hội An từng là một trung tâm của Phật giáo sớm của Đàng Trong với đa số các ngôi chùa theo dòng Tiểu thừa. Nhiều ngôi chùa ở đây có niên đại khởi dựng khá sớm, nhưng hầu hết kiến trúc gốc đã bị thay đổi, thậm chí mai một qua những biến thiên của lịch sử và những lần trùng tu. Ngôi chùa sớm nhất được biết đến là chùa Chúc Thánh, tương truyền có gốc gác từ năm 1454, nằm cách trung tâm khu phố cổ khoảng 2 km về phía Bắc. Nơi đây vẫn lưu giữ nhiều di vật, tượng thờ, bia ký liên quan đến quá trình du nhập và phát triển của Phật giáo ở Đàng Trong. Ngoại ô khu phố cổ còn nhiều ngôi chùa khác như Phước Lâm, Vạn Đức, Kim Bửu, Viên Giá, nổi bật trong số này là chùa Long Tuyền hoàn thành vào năm 1909. Bên cạnh những ngôi chùa tách khỏi làng xóm, nằm ven những dòng chảy cổ, ở Hội An còn có các ngôi chùa làng gắn với những quần cư như một thành phần hữu cơ của tổng thể làng xóm. Điều này phản ánh giới tu hành gắn bó với thế tục và chứng tỏ Minh Hương Xã ở đây đã có một thiết chế văn hóa sinh hoạt cộng đồng khá mạnh. Trong khu phố cổ, Bảo tàng Lịch sử - Văn hóa Hội An nguyên trước đây là ngôi chùa thờ Phật bà Quan Âm do người Việt và người Minh Hương khởi dựng vào khoảng thế kỷ 17.
Các công trình đền miếu ở Hội An mang chức năng chính là nơi thờ cúng các vị tiên hiền có công sáng lập phố, hội và Minh Hương Xã. Loại hình kiến trúc này thường có hình thức đơn giản, nằm ngay trong làng xóm, bố cục mặt bằng 1 x 3 gian tường gạch chịu lửa, mái ngói âm dương với ban thờ được đặt ở gian chính giữa. Tiêu biểu nhất cho loại hình kiến trúc này chính là miếu Quan Công, còn được gọi là Chùa Ông, nằm trong trung tâm khu phố cổ, số 24 đường Trần Phú. Công trình được người Minh Hương và người Việt khởi dựng vào năm 1653, thờ Quan Công, vị tướng thời Tam Quốc, biểu tượng của trung hiếu, tiết nghĩa. Tuy đã qua nhiều lần trùng tu, miếu Quan Công vẫn không mất đi dáng vẻ ban đầu. Toàn bộ miếu bao gồm nhiều nếp nhà với các mái lợp bằng ngói ống men màu xanh lục, kết cấu gồm ba phần: tiền sảnh, sân trời và hậu sảnh. Ở phần tiền sảnh, công trình nổi bật với màu sơn đỏ, những trang trí cầu kỳ, mái ngói vững trãi và hai cánh cửa chính lớn chạm nổi đôi rồng màu xanh đang uốn mình trong mây. Hai bên, sát với tường là chiếc chuông đồng nặng trên nửa tấn và chiếc trống lớn đặt trên giá gỗ do vua Bảo Đại ban tặng. Tiếp đó đến phần sân trời, khoảng trống lộ thiên trang chí các hòn non bộ, tạo cho miếu vẻ sáng sủa, thoáng mát. Hai bên sân trời là hai nếp nhà dọc Đông, Tây. Một bia gắn vào tường nhà Đông ghi lại lần trùng tu miếu đầu tiên vào năm 1753. Chính điện nằm ở hậu sảnh, nếp nhà sau cùng, là nơi đặt hương án thờ Quan Công. Tượng Quan Công cao gần 3 mét, mặt đỏ, mắt phượng, râu dài, mặc áo bào màu xanh lục, tọa trên mình con ngựa bạch đang quỳ. Hai bên là tượng Quan Bình và Châu Thương, hai người con nuôi, cũng là hai võ quan trung thành của Quan Công. Trước đây, miếu Quan Công là trung tâm tín ngưỡng của các thương gia Hội An, nơi chứng giám, tạo niềm tin cho các thương gia trong những cuộc giao kèo thương mại. Ngày nay, vào ngày 13 tháng 1 và 24 tháng 6 âm lịch hàng năm, lễ hội Chùa Ông được tổ chức thu hút rất đông tín đồ và dân chúng tới dự.
Tại Hội An, cũng như nhiều địa phương khác của Việt Nam, các dòng họ đều có nơi thờ cúng tổ tiên, được gọi là miếu tộc hay nhà thờ họ. Đây là một dạng kiến trúc nhà ở đặc biệt, của những dòng họ lớn có công lập làng dựng phố từ thời kỳ sơ khai của Hội An và truyền lại cho con cháu làm nơi thờ tự tổ tiên. Những dòng họ nhỏ, nhà thờ họ kết hợp với nhà ở của vị trưởng họ có nguồn gốc từ Trung Hoa. Hậu duệ về sau có trách nhiệm hương khói và tu sửa kiến trúc tùy theo tình trạng ngôi nhà. Phần lớn các nhà thờ họ tập trung ở khoảng giữa hai đường Phan Chu Trinh và Lê Lợi, một số ít rải rác trên đường Nguyễn Thị Minh Khai hay nằm ngay sau những ngôi nhà phố trên đường Trần Phú. Các nhà thờ tộc có niên đại sớm nhất hầu hết của người Hoa kiều, vào đầu thế kỷ 17, số có niên đại thế kỷ 18 chỉ chiếm một phần nhỏ. Khác với những nhà thờ tộc ở thôn quê, nhà thờ họ ở Hội An thường mang phong cách đô thị. Vì là nơi thờ tự nên nhà thờ tộc được xây dựng theo dạng khuôn viên, có bố cục và kết cấu chặt chẽ, bao gồm cả sân vườn, cổng, tường rào, nhà phụ... Nhiều nhà thờ họ ở đây có quy mô và kiến trúc rất đẹp, như nhà thờ tộc Trần, nhà thờ tộc Trương, nhà thờ tộc Nguyễn hay nhà thờ Tiền hiền Minh Hương.
Nhà thờ tộc Trần nằm ở số 21 đường Lê Lợi, được xây dựng vào đầu thế kỷ 19. Cũng giống như các nhà tộc khác ở Hội An, nhà thờ tọa sâu trong một khuôn viên rộng khoảng 1500 m², tường cao bao quanh, sân trước trồng cây cảnh, hoa, cây ăn quả. Ngôi nhà có kiến trúc chịu ảnh hưởng từ Trung Quốc, Nhật Bản và Việt Nam, dựng từ gỗ quý, 3 gian 2 nếp, mái dốc lợp ngói âm dương. Không gian trong nhà được chia làm hai phần, phần chính để thờ cúng, phần phụ là nơi ở của vị trưởng tộc và tiếp khách. Gian thờ cúng có ba cửa ra vào, trong đó cửa bên phải dành cho nữ, bên trái dành cho nam, cửa chính ở giữa dành cho những người cao tuổi có vai vế trong họ và chỉ mở vào dịp lễ tết. Trên bàn thờ, các hộp nhỏ đựng di vật và tiểu sử những người họ Trần xếp theo vai vế trong dòng tộc. Trong ngày lễ hay giỗ kỵ, vị trưởng tộc sẽ mở những hộp gỗ này để tưởng nhớ đến người quá cố. Phía sau ngôi từ đường có một vạt đất cao dùng để chôn những núm nhau của các thành viên trong tộc khi sinh ra. Cũng trên vạt đất này, phía sau còn trồng một cây khế, tượng trưng cho sự gắn bó với quê hương đất tổ của các thế hệ con cháu trong họ.
Một trong những đặc tính nổi trội của người Hoa là bất cứ nơi cư trú nào của họ ở ngoại quốc đều có các hội quán, sản phẩm sinh hoạt cộng đồng dựa trên cơ sở những người đồng hương. Tại Hội An ngày nay vẫn tồn tại 5 hội quán tương ứng với 5 bộ phận dân cư Hoa kiều lớn ở đây: Phúc Kiến, Trung Hoa (Hội quán Ngũ Bang), Triều Châu, Quỳnh Phủ và Quảng Đông. Các hội quán này có quy mô khá lớn, đều nằm trên trục phố Trần Phú và thống nhất hướng chính ra sông Thu Bồn. Về hình thức, các hội quán ở Hội An được xây dựng theo một nguyên mẫu các hội quán vẫn thường gặp ở những đô thị cổ khác. Đó là một tổng thể bao gồm: cổng lớn phía trước, tiếp đến một khoảng sân rộng có trang trí cây cảnh, non bộ và hai nhà phụ thờ Tả thần và Hữu thần, sau đó là phương đình, nơi tiến hành các nghi lễ, kết thúc bởi nhà thờ, kiến trúc lớn nhất của tổng thể. Các hội quán đều được trang trí cầu kỳ, tỷ mỷ với bộ khung gỗ được chạm trổ, sơn son thếp vàng, phần mái tô điểm các con thú bằng sành tráng men nhiều màu. Ngày nay, các hội quán tuy đã bị thay đổi sửa chữa nhiều, nhưng bộ khung gỗ vẫn bảo lưu được nhiều yếu tố gốc. Ngoài chức năng duy trì sinh hoạt cộng đồng, hội quán còn một chức năng quan trọng khác, đó là tín ngưỡng. Tùy theo tục quán tín ngưỡng của từng cộng đồng mà hội quán lấy cơ sở để thờ phụng.
Trong năm hội quán ở Hội An, Phúc Kiến là hội quán lớn nhất, nằm ở số 46 đường Trần Phú. Buổi ban đầu, nơi đây chỉ là một ngôi chùa lợp tranh do người Việt dựng vào năm 1697 để thờ Phật. Qua thời gian, ngôi chùa bị hư hỏng và người Việt không đủ khả năng để sửa chữa. Những thương nhân Phúc Kiến mua lại ngôi chùa vào năm 1759 và sau nhiều lần trùng tu, năm 1792 đổi thành Hội quán Phúc Kiến. Công trình có kiến trúc theo kiểu chữ Tam, kéo dài từ đường Trần Phú đến đường Phan Chu Trinh, theo thứ tự: cổng tam quan, sân, hai dãy nhà Đông Tây, chính điện, sân sau và hậu điện. Cổng tam quan của hội quán mới được xây dựng trong lần trùng tu lớn đầu thập niên 1970. Chiếc cổng có một hệ mái ngoạn mục gồm 7 mái lợp ngói ống men xanh uốn lượn, xếp nối nhau thấp dần xuống, cân xứng giữa hai bên. Phía cao của cổng, dưới tầng mái trên, một tấm bảng trắng có ghi ba chữ Hán màu đỏ "Kim Sơn Tự". Phía dưới tầng mái dưới cũng có một tấm biển đá xanh đề bốn chữ Hán màu đỏ "Hội quán Phúc Kiến". Hai bức tường hai bên cổng tam quan ngăn cách sân trong của hội quán với một sân bên ngoài. Phần chính điện của hội quán được trang trí những cây cột màu đỏ son, treo những đôi liễn gỗ ca tụng Thiên Hậu Thánh Mẫu. Chính điện thờ tượng Quan Thế Âm Bồ Tát đang ngồi thiền, phía trước là một lư hương lớn. Hai bên hương án sẽ thấy hai bức tượng Thiên Lý Nhãn và Thượng Phong Nhĩ, hai vị thần phụ tá cho Thiên Hậu cứu giúp các thuyền buôn người Hoa gặp nạn. Tiếp theo chính điện, băng qua sân sau sẽ tới hậu điện. Ở đây phần chính giữa được dành để thờ sáu vị tướng nhà Minh người Phúc Kiến, bên trái là ban thờ 3 bà chúa Sanh Thai và 12 bà mụ, bên phải là ban thờ Thần Tài. Ngoài ra, hậu điện còn thờ những người đã có công đóng góp tiền của xây dựng hội quán và chùa Kim Sơn. Hàng năm, vào ngày 23 tháng 3 âm lịch, lễ vía Thiên Hậu Thánh Mẫu được người Hoa tổ chức với nhiều hoạt động như múa lân, bán pháo hoa, xộ cỗ, xin lộ
Chiếc cầu cổ duy nhất còn lại ở Hội An ngày nay là Chùa Cầu, còn có tên gọi khác là Cầu Nhật Bản. Cây cầu này dài khoảng 18 mét, bắc qua một lạch nước nhỏ chảy ra sông Thu Bồn, nối liền đường Trần Phú với đường Nguyễn Thị Minh Khai. Theo sự tích kể lại thì Cầu Nhật Bản được xây dựng vào năm 1593, nhưng không có một cơ sở chính xác nào để khẳng định điều này. Trong "Thiên Nam tứ chí lộ đồ" năm 1630, cái tên "Hội An Kiều" và hình ảnh một cây cầu có mái đã xuất hiện. Nhà sư Thích Đại Sán cũng nhắc tới cái tên "Nhật Bản Kiều" trong cuốn "Hải ngoại ký sự" năm 1695. Trải qua rất nhiều lần trùng tu, hình dáng cây cầu đã bị thay đổi nhiều, dáng vẻ ngày nay được hình thành trong những lần sửa chữa vào thế kỷ 18 và 19. Những trang trí bằng mảnh sứ tráng men hay đĩa sứ là biểu hiện đặc trưng của kiến trúc thời Nguyễn.
Cầu Nhật Bản có một kiến trúc khá độc đáo, kiểu "thượng gia hạ kiều", tức trên là nhà dưới là cầu, một loại hình kiến trúc khá phổ biến ở những quốc gia châu Á nhiệt đới. Dù mang tên Cầu Nhật Bản nhưng sau nhiều lần trùng tu, thật khó có thể tìm thấy một chút dấu tích kiến trúc Nhật Bản trên cây cầu này. Nhìn từ bên ngoài, cây cầu nổi bật nhờ hệ mái cong mềm mại nâng đỡ bởi một hệ thống kết cấu gỗ, và phần móng được làm bằng vòm trụ đá. Mặt cầu vồng lên kiểu cầu vồng, được lát ván làm lối qua lại, hai bên có bệ gỗ nhỏ, trước kia làm nơi bày hàng buôn bán. Gắn liền với cầu về phía thượng nguồn là một ngôi chùa rất nhỏ thờ Huyền Thiên đại đế, xây dựng sau cầu khoảng nửa thế kỷ. Ngôi chùa nằm ngay cạnh cầu, ngăn cách bởi một lớp vách gỗ và bộ cửa "thượng song hạ bản", tạo không gian riêng biệt. Trên cửa chùa treo bức hoành màu đỏ với ba chữ "Lai Viễn Kiều" do chúa Nguyễn Phúc Chu ban tặng vào năm 1719 với ý nghĩa cây cầu của những người bạn từ phương xa đến. Ở mỗi đầu cầu, hai bên lối đi đều có hai bức tượng thú, một bên tượng khỉ, bên kia tượng chó. Các tượng đều được chạm bằng gỗ mít trong tư thế ngôi chầu, phía trước mỗi tượng có một bát nhang. Theo truyền thuyết, con thủy quái Mamazu có đầu nằm ở Nhật Bản, đuôi ở Ấn Độ Dương và thân thì ở Việt Nam, mỗi khi cựa mình sẽ gây ra động đất, thiên tai, lũ lụt. Vì vậy những người Nhật đã xây dựng cây cầu cùng tượng Thần Khỉ và Thần Chó để trấn yểm con quái vật. Một thuyết khác cho rằng những bức tượng khỉ và chó xuất hiện trên cầu vì công trình này được khởi dựng vào năm Thân, hoàn thành vào năm Tuất. Cây cầu nhỏ này ngày nay đã trở thành biểu tượng của thành phố Hội An.
So với các đô thị khác của Việt Nam, Hội An có những đặc điểm lịch sử và địa lý nhân văn rất riêng biệt. Mảnh đất nơi đây có một lịch sử lâu đời và là nơi gặp gỡ, giao thoa của nhiều nền văn hóa. Đặc điểm đầu tiên có thể nhận thấy ở văn hóa Hội An chính là tính đa dạng. Những người Việt vào cư trú ở Hội An từ cuối thế kỷ 15 chung sống hòa bình với bộ phận dân cư người Chăm vẫn định cư rất lâu từ trước đó. Khi Hội An trở thành thương cảng quốc tế sầm uất, nơi đây đã tiếp nhận nhiều cư dân mới đến từ nhiều nền văn hóa khác nhau. Điều này giúp cho Hội An có được một nền văn hóa nhiều tầng, nhiều lớp và đa dạng, thể hiện ở tất cả các hình thái văn hóa phi vật thể như phong tục tập quán, văn học dân gian, ẩm thực, lễ hộ, kinh thành cũ, nơi nhiều di sản văn hóa mang tính chất cung đình, hệ thống di tích của Hội An là những thiết chế văn hóa cổ truyền của cuộc sống đời thường. Ở Hội An, văn hóa phi vật thể vẫn đang sống và tương thích với hình thái văn hóa vật thể.
Tại Hội An, bên cạnh tục thờ cúng gia tiên, những người dân còn có tục thờ Ngũ tự gia đường. Theo quan niệm ở đây, nước có vua nhà có chủ, thần chủ nhà chính là Ngũ tự gia đường. Phần đông ý kiến cho rằng Ngũ tự gia đường là năm vị thần trong coi cai quản và sắp đặt vận mệnh cho một gia đình, gồm thần Bếp, thần Giếng, thần Cổng, Tiên sư bổn mạng và Cửu thiên huyền. Với một số ít người Hoa, Ngũ tự gia đường gồm năm vị thần Táo quân, Môn thần, Hộ thần, Tỉnh thần và Trung Lưu thần. Khám thờ Ngũ tự gia đường được đặt trang trọng ngay giữa nhà, trên bàn thờ gia tiên. Thực tế, trong các ngôi nhà ở Hội An, ngoài khám thờ chung, mỗi vị thần trong Ngũ tự gia đường lại có nơi thắp hương riêng, như thần Táo được thờ ở bếp, thần Cổng được thắp nhang nơi cổng, thần Giếng có ban thờ gần giế, trong các gia đình người Hoa, thay vì thờ Táo Quân trong bếp, họ lại đặt khám thờ Táo Quân ở không gian sân trời, bên cạnh khám thờ thần Thiên quan tứ phước. Về tôn giáo, có thể thấy ở Hội An tồn tại nhiều tôn giáo khác nhau như Phật giáo, Công giáo Rôma, Tin Lành, Cao Đà, một số gia đình còn thờ Tam thế phật, gồm Thích Ca Mâu Ni và hai vị Quân Âm Bồ Tát, Thế Chí Bồ Tát. Trong mỗi nhà, khám thờ Phật được đặt nơi trang nghiêm, thanh tịnh, thường cao hơn ban thờ gia tiên một bậc. Thậm chí có những gia đình dành riêng một gian rộng để thờ Phật và làm nơi tụng niệm.
Một điểm khác biệt nữa trong tín ngưỡng ở Hội An là tục thờ Quan Công, tuy ít gặp ở nông thôn nhưng đặc biệt phổ biến ở thành thị. Tuy hệ thống thần thánh được tôn thờ ở Hội An rất đa dạng và phong phú, nhưng Quan Công lại được xem như vị thánh linh thiêng nhất. Miếu thờ Quan Công được xây dựng ngay trong trung tâm khu phố cổ, trở thành một trung tâm tín ngưỡng thiêng liêng, quanh năm hương khói nghi ngút. Trong các gia đình, từ xa xưa người Hội An đã có quan niệm thờ Quan Công như thờ một vị thần hộ mạng, bảo hộ cho sự bình an của gia đình. Trên khám thờ Quan Công thường được đặt bộ tượng hoặc tranh Quan Công, Quan Bình cùng Châu Thương. Trong các di tích của người Hoa, đặc biệt là các hội quán, những vị thần thánh được thờ tùy thuộc vào tín ngưỡng riêng của cộng đồng. Tại Hội quán Phước Kiến, những người Hoa thờ Thiên Hậu Thánh mẫu, vị thần có nguồn gốc Phước Kiến, cùng Lục tánh vương gia, sáu vị trung thần của nhà Minh. Những người Hải Nam lập Hội quán Quỳnh Phủ thờ 108 vị Chiêu Ứng. Họ là 108 người dân Hải Nam đi buôn bán trên biển, không may bị nạn, sau được triều Nguyễn sắc phong làm Chiêu Ứng Công và ban thờ cúng. Người Triều Châu có Hội quán Triều Châu thờ vị thần chém sóng cứu nạn thuyền buôn trên biển Phục Ba Tướng quân. Ở Hội An còn có những hình thức tín ngưỡng khác như thờ bà cô, ông mãnh, vô danh vô vị, thờ đá bùa, đá thạch cảm đương.
Lễ hội truyền thống.
Ở Hội An hiện nay vẫn gìn giữ được nhiều loại hình lễ hội truyền thống, như lễ hội kính ngưỡng thành hoàng làng, lễ hội tưởng niệm những vị tổ sư ngành nghề, lễ hội kỷ niệm các bậc thánh nhân, lễ hội tín ngưỡng tôn giáo. Quan trọng nhất chính là những lễ hội đình ở các làng ven đô thị. Thông thường, mỗi làng đều có một ngôi đình để thờ thành hoàng và các vị tiền hiên. Mỗi năm, thường vào đầu mùa xuân, các làng lại mở lễ hội để kính ngưỡng vị thánh của làng mình và tưởng nhớ công lao các vị tiên hiền. Công việc này thường do những người cao niên phụ trách, cứ đến kỳ hạn họ bầu ra một ban tế lễ và dân làng cùng đóng góp kinh phí, tham gia vệ sinh, trang hoàng đình miếu. Lễ cúng thường diễn ra trong hai ngày, ngày thứ nhất chỉ làm lễ cáo yết, ngày thứ hai mới là ngày tế chính thức. Vào dịp rằm tháng giêng và rằm tháng bảy hàng năm, những người dân vùng Hội An tổ chức lễ hội Long Chu tại các đình làng. Dịp tổ chức lễ hội chính là hai thời điểm chuyển từ mùa mưa sang mùa khô và ngược lại, khoảng thời gian dịch bệnh thường xảy ra. Trong suy nghĩ của dân gian, các dịch bệnh cho những thế lực thiên nhiên xấu xa mang tới, vì vậy tất cả mọi người trong làng, không trừ một ai, đều tham gia vào lễ hội. Vào ngày lễ chính, toàn thể dân làng rước Long Chu, một chiếc thuyền làm theo hình rồng, về đình và người chủ bái cùng thầy phù thủy sẽ khai quan điểm nhãn cho Long Chu. Sau nhiều nghi lễ cúng tế, buổi tối các tráng đinh đưa Long Chu đến những nơi cần yểm và sau đó mang đốt rồi thả ra biển.
Tại các làng chài ven sông, biển của Hội An, đua ghe là một sinh hoạt văn hóa không thể thiếu, thường diễn ra trong dịp mừng xuân từ mùng 2 đến mùng 7 tháng giêng, cầu ngư vào rằm tháng hai và cầu an vào khoảng trung tuần tháng ba âm lịch. Theo quan niệm dân gian, đua ghe là dịp làm vui lòng các thánh thần thượng sơn hạ thủy và những đấng khuất mặt đã phù hộ cho thôn xóm được bình yên. Trước mỗi cuộc đua ghe, các làng xã náo nhiệt chuẩn bị, tập luyện. Chiến thắng trong các cuộc đua là niềm tự hào của dân làng và mang ý nghĩa mang lại một vận may trong mùa màng sắp tới. Trước đây, trong hội đua ghe, các yếu tố lễ, hội đều được xem trọng, nhưng ngày nay, phần hội thường nổi trội hơn và đọng lại lâu trong tâm thức mọi người. Cũng vào dịp cầu ngư hàng năm, dân cư các làng chài Hội An còn tổ chức lễ tế cá Ông, tri ân cá Ông đã cứu giúp những người hoạn nạn trên biển. Trong những lễ tế này, thường có hoạt động hát bả trạo, một loại hình văn nghệ dân gian độc đáo, miêu tả lại cảnh sinh hoạt, lao động trên sông nước. Và giống như các địa phương khác ở ven biển miền Trung, mỗi dịp cá Ông chết trôi dạt vào bờ, ngư dân thường tổ chức chôn cất, cúng tế rất linh đình.
Từ năm 1998, chính quyền Hội An bắt đầu tổ chức Lễ hội đêm rằm phố cổ vào mỗi đêm 14 âm lịch hàng tháng. Ý tưởng độc đáo này xuất phát từ mong ước của kiến trúc sư Ba Lan Kazimierz Kwiatkowski, người đã dành nhiều công sức trong việc bảo tồn hai di sản Hội An và Mỹ Sơn. Trong dịp lễ hội, thời gian từ 17 đến 22 giờ, tất cả các ngôi nhà, hàng quán, tiệm ăn đều tắt điện, toàn bộ khu phố chìm trong ánh sáng của trăng rằm và những ngọn đèn lồng. Trên các con phố, những phương tiện giao thông tạm thời bị cấm, chỉ dành cho người đi bộ. Tại các điểm di tích, nhiều hoạt động ca nhạc, trò chơi dân gian, thi đấu cờ tướng, đành bài chòi, thả hoa đă, các hoạt động văn hóa sẽ phong phú hơn với những vũ hội hóa trang, vịnh thơ Đường, múa lâ
Âm nhạc, diễn xướng và trò chơi dân gian.
Những hình thức diễn xướng, trò chơi dân gian ở Hội An kết tinh từ quá trình lao động của cư dân địa phương, ngày nay vẫn được gìn giữ và là một phần quan trọng trong đời sống tinh thần nơi đây. Có thể kể đến những điệu hát hò khoan, các điệu hò giựt chì, hò kéo neo, những điệu lý, vè, các hình thức hát tuồng, bả trạo, hô thai, hô bài chò, tang ma hiếu hỉ, và truyền thống ca nhạc tài tử với những nghệ nhân khá nổi tiếng. Những người dân ở đây cũng có rất nhiều thú chơi, tiêu biểu có thể kể đến trò bài tới, trò đỗ xăm hường, trò thai đề xổ cử nhân, trò thả thơ, trò chơi thư pháp.
Bài chòi, một thú giải trí đậm nét văn hóa của người dân xứ Quảng và cả vùng duyên hải miền Trung, vẫn được diễn đều đặn vào mỗi tối 14 âm lịch hàng tháng trên khuôn viên nhỏ ở góc đường Nguyễn Thái Học và Bạch Đằng. Nếu theo đúng thể thức, trong trò chơi bài chòi sẽ có khoảng 10 chiếc chòi được dựng, mỗi chòi sẽ được phát ba quân bài trên đó ghi những chữ khác nhau. Bộ bài này được gọi là bộ bài tới, in theo lối mộc bản trên giấy gió, phủ qua một lớp điệp rồi bồi thêm giấy cứng, mặt sau phết màu đỏ, xanh lá cây hoặc xanh xám. Ở chòi trung tâm có một ống thẻ đựng bài cái. Khi tiếng trống hội đã dứt, những người chơi đã vào chòi con, tay cầm quân bài, anh hiệu sẽ bước đến ống thẻ, xóc đi xóc lại rồi rút ra một quân bài. Mỗi lần rút, anh hiệu lại hô lên những tiếng, ví dụ như "ông ầm", "tam quăn", "tứ cẳng"... chòi nào có đúng quân bài đó sẽ gõ ba tiếng mõ và nhận được một lá cờ từ anh lính lệ. Khi chòi nào nhận được đủ ba cờ thì sẽ hô "Tới". Một hồi mõ kép dài, ở chòi trung tâm tiếng trống tum, trống cán sẽ vang lên. Trong trò bài chòi, tiếng hô của anh hiệu là cốt lõi của trò chơi. Anh hiệu phải là người thuộc những bài truyền khẩu dân gian cộng với tài ứng tác, để nội dung cuộc chơi luôn bất ngờ. Thay vì chỉ hô tên con bài, anh hiệu có thể hô một hay nhiều câu lục bát ứng tác bát có liên quan đến con bài. Hô bài chòi là một hình thức diễn xướng mang đậm nét dân dã, điểm hấp dẫn chính của trò chơi.
Một hình thức diễn xướng dân gian có vai trò rất lớn trong đời sống tinh thần, tâm linh của cư dân vùng biển Hội An là hát bả trạo. Trình tự một buổi biểu diễn bả trạo có kết cấu như một hoạt cảnh thể hiện những diễn biến từ khi con thuyền ra khơi cho đến khi cập bến an toàn. Bả trạo thuộc thể loại dân ca lễ nghi, có sự kết hợp với hình thức diễn tuồng, một loại hình sân khấu rất được người dân Quảng Nam yêu thích. Ngoài lối múa hát chèo thuyền đã được nghệ thuật hóa, lối hát trong bả trạo còn có lối xướng, hô và trình diễn các điệu dân ca như hò, lý, ngâm, há, hát bả trạo thể hiện sự thành kính, thương tiếc cá Ông "Ngọc Lân Nam Hải", vị thần cứu giúp ngư dân trong cơn hoạn nạn trên biển, đồng thời cũng thể hiện mong ước bình yên trước cảnh sóng nước mênh mông, bão tố rập rình. Những cư dân Hội An còn dùng diễn xướng bả trạo làm nghi thức trong tang lễ những người dân ven biển, than khóc số phận người xấu số, ca ngợi công đức người đã khuất.
Ẩm thực dân gian.
Với vị trí vùng cửa sông ven biển, nơi gặp nhau của các tuyến giao thông đường thủy và cũng là nơi hội tụ về kinh tế, văn hóa liên tục trong nhiều thế kỷ, Hội An có được một nền ẩm thực đa dạng và mang những sắc thái riêng biệt. Vùng đất nơi đây không có được những cách đồng rộng lớn như đồng bằng sông Cửu Long hay đồng bằng sông Hồng, nhưng bù lại Hội An có các cồn bãi ven sông màu mỡ và những thửa ruộng hẹp giàu phù sa. Môi trường sông biển này đã ảnh hưởng trực tiếp đến cuộc sống hàng ngày, phong tục tập quán, lối sống của cư dân địa phương, trong đó có thói quen ẩm thực. Trong bữa ăn hàng ngày của người dân Hội An, thủy hải sản luôn chiếm một phần lớn, còn ngoài chợ, số lượng tôm cua cá được tiêu thụ thường gấp đôi số lượng thịt. Cá trở thành một món ăn không thể thiếu trong khẩu phần hàng ngày của dân cư Hội An và người ta quen gọi khu vực bày bán thức ăn là chợ cá. Ngày nay tại Hội An vẫn lưu truyền một số thói quen, tập quán ẩm thực của một số gia đình người Hoa. Vào những dịp lễ tết, các dịp hôn hỉ, họ thường nấu một số món ăn riêng như bún xào Phước Kiến, cơm Dương Châu, kim tiền kê, phạch xồ, cũng là dịp nhớ lại nguồn gốc dân tộc. Những người Hoa đã góp phần đáng kể làm nên sự phong phú của ẩm thực Hội An, cũng là tác giả của nhiều món đặc sản chỉ có ở đây.
Một trong những món ăn tiêu biểu của ẩm thực Hội An là món cao lầu. Nguồn gốc món ăn, cùng như cái tên "Cao lầu", ngày nay rất khó xác định. Những Hoa kiều ở Hội An không công nhận đây là món ăn của họ. Một số nhà nghiên cứu Nhật Bản cho rằng cao lầu có nét giống món mỳ ở vùng Ise, nhưng trên thực tế hương vị và cách chế biến của cao lâu khác món mỳ này. Sợi cao lầu được chế biến rất công phu. Người ta ngâm gạo và nước trong được lọc kỹ, sau đó xay thành nước bột. Bột được dùng vải bòng nhiều lần để khô, dẻo rồi cán thành miếng vừa cỡ và cắt thành con mỳ. Cao lầu không cần nước lèo, nước nhân, thay vào đó là thịt xíu, nước xíu, tép mỡ và để bớt béo người ta dùng kèm với giá trụng, rau sống. Khi bán, người ta trần mỳ, giá đổ ra bát và thêm mấy lát thịt xíu hoặc thịt ba chỉ, đổ tép mỡ, thêm một muỗng mỡ heo rán sẵn ở lò bên. Trước đây ở Hội An có các tiệm cao lầu ông Cảnh, Năm Cơ từng đi vào câu ca dao: "Hội An có Hạ Uy Di. Chùa Cầu, Âm Bổn, cao lầu Năm Cơ".
Bên cạnh những món đặc sản mang tính phố thị như cao lầu, hoành thánh, bánh bao, bánh vạ, hến trộn, bánh xèo, bánh trá, món mỳ này có nguồn gốc xuất phát từ Quảng Nam. Mỳ Quảng cũng như phở, bún đều được chế biến từ gạo nhưng lại có sắc thái và hương vị rất riêng biệt. Để làm mỳ, người ta dùng gạo tốt ngâm nước cho mềm, đem xay thành bột nước mịn rồi pha thêm phèn sa để sợi mỳ giòn, cứng, đem tráng thành lá mỳ. Khi mỳ chín được vớt ra đặt lên vỉ cho nguội, thoa sơ một lớp mỡ cho mỳ khỏi dính rồi cắt thành sợi. Nước nhân mỳ được làm bằng tôm, thịt lợn hoặc thịt gà, có khi được làm bằng cá lóc, thịt bò. Nước nhân mỳ không cần nhiều màu mè, không nhiều gia vị mà phải trong và có vị ngọt. Ở Hội An, mỳ Quảng được bán khắp nơi, từ các quán ăn thành thị đến những hàng quán ở thôn quê, đặc biệt là những quán mỳ trên hè phố.
Bánh bao, bánh vạc là một trong những món ăn sang trọng, ngon và lạ của phố cổ Hội An. Bánh bao, bánh vạc thường đi đôi với nhau, cả hai đều được làm bằng nguyên liệu chính là bột gạo. Ngay từ khâu chọn gạo đã thấy bánh bao bánh vạc là loại bánh kén chọn nguyên liệu. Bột gạo làm bánh phải lấy từ loại gạo thơm ngon, mua về sàng sảy kỹ rồi cho vào nước và xay thành bột. Nước dùng để xay phải trong, không nhiễm mặn, nhiễm phèn, thường là nước từ giếng cổ Bá Lễ. Sau nhiều lần chắt lọc, bột được vê lại và để trong một chiếc thau sạch. Cùng với việc chế biến bột, người thợ tiến hành làm nhân bánh, gia chế hành, khử vàng hành dùng trải trên bánh trước khi ăn. Nhân bánh được chia làm hai loại, nhân bánh bao và nhân bánh vạc. Nhân bánh bao chủ yếu gồm tôm và gia vị được pha trộn và giã nhiều lần trong cối. Nhân bánh vạc hơi khác và phong phú hơn, ngoài chả tôm còn có giá hột, nấm mèo, măng tre, thịt heo thái hình hạt lựu, lá hành. Tất cả hỗn hợp nhân này được cho vào xoong và xào với muối, mắm. Bắt đầu vào công đoạn chế biến bánh, cả bánh bao và bánh vạc được làm song song, thường có từ 2 đến 4 thợ làm bánh. Bánh bao được làm với lớp bột thật mỏng, cách điệu như những cánh hoa hồng. Bánh vạc lớn hơn bánh bao, trông giống hình quai vạc. Khi làm xong, bánh được chưng cách thủy trên bếp, khoảng chừng 10 đến 15 phút là chín. Lúc ăn, hai loại bánh được dùng chung với nhau, nhưng thực khách có thể chọn bánh bao bánh vạc tùy thích. Những chiếc bánh được bày cầu kỳ, bánh bao xếp ở giữa và bên trên, bánh vạc xếp xung quanh và bên dưới. Bánh xếp xong được trải lớp hành phi vàng, kế đó rưới thêm một muỗng dầu phụng khử chín. Bánh bao, bánh vạc được dùng với nước chấm riêng, pha chế từ nước mắm, có vị ngọt của thịt tôm, có vị chua của chanh và vị cay nồng của những lát ớt vàng được xắt khéo léo.
Không chỉ có những món ăn ngon, phong phú, các hàng quán ở Hội An còn có cách bài trí, phục vụ mang những nét riêng. Những nhà hàng trong khu phố cổ thường treo một vài bức tranh xưa, xung quanh trang trí chậu hoa, cây cảnh hoặc đồ mỹ nghệ. Một số hàng quán còn có thêm hồ cá, hòn non bộ... tạo sự thư giãn, thoải mái cho thực khách. Tên những nhà hàng cũng mang tính truyền thống, được kế thừa từ đời này sang đời khác. Bên cạnh ẩm thực truyền thống, một số món ăn, thói quen xuất phát từ Pháp, Nhật và phương Tây vẫn được duy trì và phát triển, góp phần làm phong phú nếp ẩm thực của Hội An, phục vụ nhu cầu đa dạng của những du khách.
Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. |
Ao Bà Om hay Ao Vuông là một thắng cảnh độc đáo và nổi tiếng ở tỉnh Trà Vinh, Việt Nam.
Ao Bà Om thuộc khóm 3, phường 8, thành phố Trà Vinh (trước đây là ấp Tà Cụ, xã Nguyệt Hóa, huyện Châu Thành), cách trung tâm thành phố Trà Vinh khoảng 7 km dọc theo Quốc lộ 53 về phía Tây Nam. Ao có hình chữ nhật, rộng 300 m, dài 500 m (vì gần với hình vuông nên còn được gọi là Ao Vuông), diện tích hơn 300 ha, gồm 3 phần chính là ao, bờ ao và rừng cây cổ thụ bao quanh. Mặt nước ao trong xanh và phẳng lặng được phủ bởi hoa sen, hoa súng. Ao được bao bọc xung quanh bởi các gò cát mấp mô với các hàng cây sao, cây dầu cổ thụ hàng trăm năm tuổi có rễ nổi lên khỏi mặt đất tạo nên những hình thù kì lạ.
Theo truyền thuyết, để có hồ nước ngọt dùng trong mùa khô, dân làng người Khmer tổ chức cuộc thi đào ao giữa hai nhóm phái nam và nữ đồng thời cũng để quyết định phái nào thua sẽ phải đi cưới hỏi phái kia. Bên phái nam ỷ sức mạnh, vừa làm vừa chơi. Bên phái nữ dưới sự lãnh đạo của người tên Om, dùng nhiều mưu mẹo để trì hoãn nhóm nam. Khi đào gần xong, họ còn cho thả đèn lồng ở phía đông làm cho nhóm nam tưởng là sao Mai đã mọc nên nghỉ sớm. Sau cuộc thi, nhóm nam thua cuộc và ao của họ hiện vẫn còn dấu tích tuy đã cạn nước. Ao của nhóm nữ được đặt tên theo tên của bà Om.
Ngày nay ao Bà Om thường được các học sinh sinh viên chọn làm nơi cắm trại vào những dịp lễ hay lúc nghỉ hè. Đây cũng là nơi hẹn hò của nhưng đôi nam nữ cũng như là nơi các cặp vợ chồng mới cưới đưa nhau ra chụp hình quay phim lưu niệm.
Gần ao có chùa Âng (Chùa Angkorajaborey) là ngôi chùa Khmer cổ nhất Trà Vinh theo truyền thuyết được xây dựng vào năm 990 tức cuối thế kỷ 10, độc đáo và hài hoà với cảnh sắc thiên nhiên.
Di tích cấp Quốc gia.
Ngày 20 tháng 7 năm 1994, Bộ Văn hoá – Thông tin ban hành Quyết định số 921-QĐ/BT công nhận Ao Bà Om là di tích cấp Quốc gia thuộc loại hình danh lam thắng cảnh. |
Ngủ đông (tiếng Anh: "hibernation") là trạng thái hạ thân nhiệt có điều hòa ở động vật để giảm mức trao đổi chất. Hiện tượng này xảy ra trong vài ngày hoặc hàng tuần giúp cho động vật tiết kiệm năng lượng trong mùa đông, hoặc qua đêm băng giá trên núi cao.
Quá trình ngủ đông.
Trong quá trình ngủ đông, một số loài động vật giảm bớt các hoạt động trao đổi chất đến mức rất thấp, thân nhiệt và nhịp thở cũng giảm.Lúc này năng lượng sử dụng để duy trì sự sống được lấy chủ yếu từ chất béo (lipid).
Động vật ngủ đông.
Một số loài động vật có hiện tượng ngủ đông là chuột, dơi, sóc, rắn, ếch nhá("The Illustrated Natural History of Selborne") cũng đồng ý, chim điển hình không ngủ đông thay vào đó là trạng thái lờ đờ uể oải, nhưng một loài chim hiếm thấy là Poorwill là có hiện tượng ngủ đông. Động vật sống ở dưới nước có thể ngủ đông ở dưới nước hoặc ở trên cạn. Rùa tai đỏ ngủ đông ở dưới nước bằng cách vùi cơ thể chúng vào bùn ở dưới đáy ao. Con sa giông có thể ngủ đông trên cạn hoặc dưới nước.
Một con vật được xem như là động vật ngủ đông nhưng sự thật không phải như vậy là con gấu. Trong khi nhịp tim của nó chậm, nhiệt độ cơ thể tương đối ổn định và nó có thể dễ dàng bị đánh thức. Những loài vật không phải động vật ngủ đông khác (mà được công nhận như động vật ngủ đông) là con lửng, gấu trúc Mĩ (sống ở Bắc Mỹ) và thú có túi.
Trước khi bắt đầu quá trình ngủ đông phần lớn các loài vật ăn một lượng thức ăn lớn và dự trữ năng lượng để có thể tồn tại qua mùa đông. Một số loài động vật có vú ngủ đông trong khi mang thai và sinh sau khi con mẹ kết thúc quá trình ngủ đông một thời gian ngắn.
Trong thế kỷ 20 có sự ra đời của hai kết luận là cá mập sống ở dưới đáy biển và nó có ngủ đông. Dụng cụ theo dõi đã được cài vào 20 con cá mập vào năm 2002 để chứng thực giả thuyết này.
Cho tới gần đây cả động vật linh trưởng và động vật có vú nhiệt đới đều không ngủ đông. Tuy nhiên nhà sinh lý học động vật Kathrin Dausmann của Đại học Philipps tại Marburg và bạn đồng nghiệp đưa ra bằng chứng trong một loại sách xuất bản năm 2004 của tạp chí "Nature" chỉ ra rằng vượn cáo lùn đuôi béo ở Madagasca ("Madagascan fat-tailed dwarf lemur") ngủ đông trong những cái lỗ trên cây 7 tháng trong năm. Thật là thú vị bởi vì nhiệt độ mùa đông của Madagasca có khi lên tới trên 30 °C (86 °F) nên hiện tượng ngủ đông không phải của riêng sự thích nghi với nhiệt độ thấp xung quanh. Hiện tượng ngủ đông của vượn cáo phụ thuộc mạnh mẽ vào thói quen giữ ấm trong thời tiết lạnh của lỗ cây của nó, nếu cái lỗ mà cách nhiệt kém thì nhiệt độ cơ thể của vượn cáo sẽ dao động mạnh một cách thụ động theo môi trường xung quanh, còn nếu cách nhiệt tốt thì nhiệt độ cơ thể của nó ở mức khá ổn định.
Tiếng ồn và những chấn động từ xe chạy bằng máy trên tuyết, các xe địa hình và những cái tương tự như vậy thỉnh thoảng sẽ đánh thức quá trình ngủ đông của động vật. Kết quả của sự thức dậy sớm này có thể làm nó phải chịu đựng dữ dội hoặc chết vì thiếu lương thực. |
Electrum là một hợp kim tự nhiên của vàng và bạc, với một lượng nhỏ của đồng và các kim loại khác. Người Hy Lạp cổ đại gọi nó là "vàng" hoặc "vàng trắng", trái ngược với "vàng tinh luyện". Màu sắc của nó từ nhạt đến vàng tươi, tùy thuộc vào tỷ lệ vàng và bạc có trong hợp kim. Nó đã được sản xuất nhân tạo, và còn được gọi là "vàng xanh".
Hàm lượng vàng của electrum tự nhiên ở Tây Anatolia hiện đại dao động từ 70% đến 90%, trong khi đó tỷ lệ này chỉ có 45-55% trong tiền đúc của Lydia cổ đại ở cùng khu vực địa lý. Điều này cho thấy rằng một lý do cho việc phát minh ra tiền đúc trong khu vực đó là để tăng lợi nhuận từ việc lưu hành tiền bằng cách phát hành tiền tệ có hàm lượng vàng thấp hơn so với kim loại lưu hành phổ biến. (Xem thêm: Giảm giá trị/Debasement).
Electrum được sử dụng sớm nhất là vào thiên niên kỷ thứ III trước Công nguyên ở Vương quốc Ai Cập cổ đại, đôi khi được sử dụng như một lớp phủ bên ngoài cho các chóp đỉnh các kim tự tháp và tháp đài (obelisk) của Ai Cập cổ đại. Nó cũng được sử dụng trong việc sản xuất các bình uống cổ. Những đồng tiền kim loại đầu tiên từng được làm bằng electrum và có niên đại vào cuối thế kỷ thứ VII hoặc đầu thế kỷ thứ VI trước Công nguyên. Trong nhiều thập kỷ, các huy chương của giải Nobel được làm bằng hợp kim electrum mạ vàng (gold-plated green gold).
Nguồn gốc tên gọi.
Từ "electrum" là dạng Latinh hóa của từ ἤλεκτρον (ḗlektron) trong tiếng Hy Lạp, được đề cập trong thiên sử thi Hy Lạp cổ đại "Odyssey" để chỉ một loại hợp kim giữa vàng và bạc. Cũng có một từ tương tự sử dụng để chỉ hổ phách, có thể là do màu vàng nhạt của nó giống na ná với hợp kim electrum.
Trong tiếng Anh các từ "Electrostatics" (Tĩnh điện học), "electron" (điện tử) và "electricity" (điện) đều có nguồn gốc từ thuật ngữ hợp kim electrum trong tiếng Hy Lạp cổ đại.
Electrum thường được gọi là "vàng trắng" trong thời cổ đại, nhưng có thể được mô tả chính xác hơn là "vàng nhạt", vì nó thường có màu vàng nhạt hoặc trắng vàng. Cách sử dụng hiện đại của thuật ngữ vàng trắng thường liên quan đến vàng được hợp kim với bất kỳ chất nào hoặc sự kết hợp của nikel, bạc, Platin và palladi để tạo ra vàng có màu bạc.
Hợp kim Electrum chủ yếu bao gồm vàng và bạc, nhưng đôi khi được tìm thấy có thêm bạch kim, đồng và các kim loại khác. Tên này chủ yếu được áp dụng một cách không chính thức cho các chế phẩm có khoảng 20–80% vàng và 20–80% bạc, nhưng chúng được gọi một cách chính xác là vàng hoặc bạc tùy thuộc vào nguyên tố chi phối. Phân tích thành phần của electrum trong tiền đúc Hy Lạp cổ đại có niên đại khoảng 600 năm trước Công nguyên cho thấy hàm lượng vàng khoảng 55,5% trong tiền đúc do Phocaea phát hành.
Vào thời kỳ đầu cổ đại, hàm lượng vàng của electrum dao động từ 46% trong tiền đúc ở Phokaia đến 43% trong tiền đúc ở Mytilene. Trong quá trình đúc tiền muộn hơn từ những khu vực này, có niên đại 326 trước Công nguyên, hàm lượng vàng trung bình từ 40% đến 41%. Vào thời kỳ Hy Lạp hóa, đồng tiền electrum với tỷ lệ vàng giảm thường xuyên đã được người Punic phát hành. Trong Đế chế Đông La Mã sau này do Constantinople kiểm soát, độ tinh khiết của vàng trong tiền đúc đã bị giảm xuống, và một hợp kim có thể được gọi là electrum bắt đầu được sử dụng.
Electrum đã được đề cập đến trong các thư tịch cổ khá sớm, điển hình như trong phần trường thuật về một cuộc thám hiểm được gửi bởi Pharaon Sahure thuộc Vương triều thứ Năm của Ai Cập. Khái niệm electum cũng đã được thảo luận bởi Gaius Plinius Secundus trong "Natural History" do ông viết. Electrum cũng được đề cập trong Kinh thánh tiếng Do Thái.
Tiền đúc thời kỳ đầu.
Những đồng tiền đúc bằng hợp kim electrum sớm nhất được biết đến, chính là tiền xu Lydia và Đông Hy Lạp được tìm thấy dưới Đền Artemis ở Ephesus, hiện có niên đại vào nửa sau của thế kỷ thứ VII trước Công nguyên (625–600 trước Công nguyên). Electrum được cho là đã được sử dụng trong tiền xu từ 600 năm trước Công nguyên ở Lydia dưới thời trị vì của Alyattes.
Hợp kim Electrum dùng để đúc tiền tốt hơn nhiều so với vàng tinh chất, chủ yếu là vì nó cứng hơn và bền hơn do có thêm bạc và một ít kim loại khác, nhưng cũng vì kỹ thuật tinh chế vàng chưa phổ biến vào thời điểm đó. Sự khác biệt giữa hàm lượng vàng của quặng electrum ở Tây Anatolia hiện đại (70–90%) và tiền đúc Lydia cổ đại (45–55%) cho thấy rằng người Lydia đã giải quyết được công nghệ tinh chế bạc và đã thêm bạc tinh chế vào một số loại tiền đúc electrum ở địa phương, trước khi tiền đúc bằng bạc nguyên chất được giới thiệu vài thập kỷ sau đó.
Ở Lydia, hợp kim electrum được đúc thành tiền xu nặng 4,7 gram (0,17 oz), mỗi đồng có giá trị 1⁄3 stater (nghĩa là "tiêu chuẩn"). Ba trong số những đồng xu này - với trọng lượng khoảng 14,1 gam (0,50 oz) - được tính bằng một stater, khoảng một tháng lương cho một người lính. Để bổ sung cho stater, các phân số được tạo ra: trite (3), hekte (6), , bao gồm 1⁄24 của một stater, và thậm chí xuống 1⁄48 và 1⁄96 của một stater. Hạng 1⁄96 chỉ khoảng 0,14 gam (0,0049 oz) đến 0,15 gam (0,0053 oz). Các mệnh giá lớn hơn, chẳng hạn như đồng stater, cũng được đúc.
Do sự thay đổi trong thành phần của Electrum, rất khó để xác định giá trị chính xác của mỗi đồng xu. Giao dịch rộng rãi đã bị cản trở bởi vấn đề này, vì giá trị nội tại của mỗi đồng tiền electrum không thể dễ dàng xác định được.
Những khó khăn này đã được loại bỏ vào khoảng năm 570 trước Công nguyên khi tiền xu Croeseid được phát hành, là một loại tiền đúc bằng vàng và bạc nguyên chất. Tuy nhiên, tiền bằng hợp kim electrum vẫn phổ biến cho đến khoảng năm 350 trước Công nguyên. Lý do đơn giản nhất cho điều này là do hàm lượng vàng trong một stater 14,1 gam có giá trị tương đương với mười stater bạc 14,1 gam. |
Bức xạ X (còn gọi là tia X hay X-ray hay tia Röntgen) là một dạng của sóng điện từ. hầu hết tia X có dải bước sóng trong khoảng từ 0,01 đến 10 nano mét tương ứng với dãy tần số từ 30 Petahertz đến 30 Exahertz (3×1016 Hz to 3×1019 Hz) và có năng lượng từ 120 eV đến 120 keV. Trong nhiều ngôn ngữ, bức xạ X được gọi là bức xạ Röntgen, được đặt tên theo nhà khoa học người Đức gốc Hà Lan Wilhelm Röntgen, ngay sau khi ông khám phá ra một loại bức xạ mà chưa ai biết đến.
Các dải năng lượng.
Tia X cứng và tia X mềm.
Các tia X có năng lượng photon cao (trên 5-10 keV, bước sóng dưới 0,2-0,1 nm) được gọi là tia X cứng, những tia X có năng lượng thấp được gọi là tia X mềm. Do có khả năng đâm xuyên, các tia X cứng được sử dụng rộng rãi để nhìn thấy hình ảnh bên trong các vật thể, thường được dùng để chụp X quang trong y tế và kiểm tra hành lý tại an ninh sân bay. Thuật ngữ X-quang được sử dụng để chỉ một hình ảnh được tạo bởi tia X. Vì các bước sóng của tia X cứng tương đương với kích thước của các nguyên tử, nó rất hữu ích để xác định các cấu trúc tinh thể bằng tinh thể học tia X. Ngược lại, tia X mềm bị hấp thụ dễ dàng trong không khí; độ dài suy giảm khoảng 600 eV (~ 2 nm). Các tia X trong môi trường nước nhỏ hơn 1 micromet.
Không có sự đồng thuận về một định nghĩa phân biệt giữa tia X và tia gamma. Một thực tế phổ biến là để phân biệt giữa hai loại bức xạ dựa trên nguồn của chúng: tia X phát ra bởi các electron, trong khi các tia gamma được phát ra bởi hạt nhân nguyên tử. Định nghĩa này gặp một số vấn đề: các quá trình khác cũng có thể tạo ra các photon năng lượng cao, hoặc đôi khi phương pháp tạo ra không được biết. Một giải pháp thay thế phổ biến khác là phân biệt X và gamma trên cơ sở bước sóng (tần số hoặc năng lượng photon),Với bức xạ ngắn hơn một số bước sóng tùy ý, chẳng hạn như 10−11 m (0,1 Å), thì là bức xạ gamma.
Phương pháp này chỉ định một photon cho một thể loại đã rõ, nhưng chỉ có thể xác định được nếu biết được bước sóng. Tuy nhiên, hai định nghĩa này thường trùng với nhau vì bức xạ điện từ phát ra bởi các tia X thường có bước sóng và năng lượng photon thấp hơn phóng xạ phát ra từ hạt nhân phóng xạ.
Các photon tia X khi mang đủ năng lượng có thể ion hóa nguyên tử và phá vỡ liên kết phân tử. Điều này làm cho nó trở thành một loại bức xạ ion hoá, do đó gây hại cho mô sống cơ thể. Liều bức xạ cao trong một khoảng thời gian ngắn gây ra bệnh nhiễm xạ, trong khi liều thấp hơn có thể làm tăng nguy cơ ung thư do xạ trị. Chụp X-quang trong y tế có nguy cơ làm tăng bị ung thư mặc dù nó có nhiều lợi ích của việc kiểm tra. Khả năng ion hoá của tia X có thể được sử dụng trong điều trị ung thư để diệt tế bào ác tính bằng cách sử dụng phương pháp xạ trị. Nó cũng được sử dụng để xác định đặc tính vật liệu bằng cách sử dụng quang phổ tia X.
Tia X có bước sóng ngắn hơn nhiều so với ánh sáng nhìn thấy, nó có thể được cấu trúc nhỏ hơn nhiều so với những gì có thể nhìn thấy bằng kính hiển vi bình thường. Điều này có thể được sử dụng trong kính hiển vi X-quang để có được hình ảnh có độ phân giải cao và xác định vị trí các nguyên tử trong tinh thể.
Các tia X cực mạnh có thể đi qua các vật thể dày mà không bị hấp thu hoặc phân tán nhiều. Vì lý do này, tia X được sử dụng rộng rãi để thu hình ảnh bên trong các đối tượng bọc kín. Các ứng dụng thường thấy nhất là trong chụp X quang y tế và máy quét an ninh sân bay, nhưng các kỹ thuật tương tự cũng quan trọng trong công nghiệp (ví dụ chụp X quang công nghiệp và CT công nghiệp) và nghiên cứu (ví dụ CT động vật nhỏ). Độ sâu thâm nhập thay đổi theo một vài bậc độ lớn so với phổ tia X. Điều này cho phép điều chỉnh năng lượng photon cho ứng dụng để truyền tải đầy đủ thông qua đối tượng và đồng thời có độ tương phản tốt trong hình ảnh.
Khả năng nhìn thấy ở mắt người.
Quan điểm thông thường coi mắt người không nhìn thấy tia X. Tuy nhiên ngay sau phát hiện của Röntgen vào năm 1895 đã có thông báo nhìn thấy ánh sáng màu xanh lục-xám yếu khi trong phòng tối. Song vì sự nguy hiểm của tia X nên không có nghiên cứu tiếp theo để xác định cơ chế thật sự. Giả thiết đưa ra là tia X kích thích trực tiếp võng mạc và/hoặc kích thích huỳnh quang và mắt người cảm nhận ánh sáng thường thứ cấp .
Câu chuyện phát hiện ra tia X.
Tối ngày 8 tháng 11 năm 1895, Wilhelm Röntgen đang kiểm tra xem liệu tia cathode (tia âm cực) có thể đi xuyên qua kính hay không thì bất ngờ nhận thấy một ánh sáng phát ra từ một tấm được phủ hóa chất gần đó. Ông gọi những tia tạo ra ánh sáng này là tia X, vì bản chất chưa rõ của chúng.
Với đầu óc nhạy bén, đầy kinh nghiệm của một nhà vật lý học, việc này đã lôi cuốn ông và 49 ngày sau ông liên tục ở lỳ trong phòng thí nghiệm, mỗi ngày ông chỉ ngừng công việc nghiên cứu ít phút để ăn uống, vệ sinh và chợp mắt nghỉ ngơi vài giờ. Nhờ thế, ông đã tìm ra tính chất của thứ tia bí mật mà ông tạm đặt tên là tia X và mang lại cho ông giải Nobel về vật lý đầu tiên vào năm 1901.
Nguồn phát tia X.
Phát hiện của Wilhelm Röntgen dẫn đến việc chế tạo ra "đèn phát tia X" (hay đèn Röntgen, X-ray tube). Đó là nguồn phát tia X nhân tạo, thứ dụng cụ hiện vẫn đang sử dụng phổ biến trong các ứng dụng tia X. Nguyên lý hoạt động của đèn Röntgen là trong một ống chân không các điện tử được gia tốc tới tốc độ cao, khi đập vào anode sẽ bị hãm đột ngột, và phát xạ ánh sáng năng lượng cao. "Bức xạ khi bị hãm" hay bức xạ hãm theo tiếng Đức là "Bremsstrahlung", trở thành thuật ngữ được sử dụng trong văn liệu tiếng Anh.
Trong thiên nhiên thì sự phân rã phóng xạ của các đồng vị phóng xạ trong đất đá, sự xâm nhập của tia vũ trụ... dẫn đến sự có mặt các hạt tích điện năng lượng cao và tia gamma trong sinh quyển. Tương tác của chúng với vật chất ở đây làm phát sinh tia X theo hai cơ chế chính.
Các vụ sét đánh tạo ra vùng plasma nhiệt độ cao cũng phát ra tia X, nhưng liều lượng không đáng kể.
Trong thực tế đời sống không phải quan tâm đến phông tia X. Chỉ trong nghiên cứu sinh học di truyền tiến hóa, tia X tự nhiên được coi là đóng góp vào việc tạo ra các biến dị trong DNA.
Các thiên thể có nhiệt độ cực cao bức xạ tia X theo lý thuyết bức xạ của vật đen tuyệt đối, và là cơ sở để xác định nhiệt độ vì sao đó.
Sử dụng trong Y tế.
Từ khi Wilhelm Conrad Röntgen phát hiện ra tia X có thể chẩn đoán cấu trúc xương, tia X được phát triển để sử dụng cho chụp hình y tế.
Năm 1897, tia X lần đầu tiên được sử dụng trên chiến trường quân sự, trong Chiến tranh Balkan, để tìm các mảnh đạn và vị trí xương gãy bên trong cơ thể bệnh nhân.
Khoa X quang là một lĩnh vực chuyên biệt trong y tế sử dụng ảnh tia X và các kĩ thuật khác để chẩn đoán bệnh bằng hình ảnh nên còn được gọi là Khoa chẩn đoán hình ảnh.
Việc sử dụng tia X đặc biệt hữu dụng trong việc xác định bệnh lý về xương, nhưng cũng có thể giúp ích tìm ra các bệnh về phần mềm. Ưu điểm của ứng dụng này là chẩn đoán và điều trị nhiều bệnh tật một cách nhanh chóng mà không làm bệnh nhân đau đớn (ví dụ như các bệnh về đường máu, bệnh ung thư...). Một vài ví dụ như khảo sát ngực, có thể dùng để chẩn đoán bệnh về phổi như là viêm phổi, ung thư phổi hay phù nề phổi, và khảo sát vùng bụng,có thể phát hiện ra tắc ruột (tắc thực quản), tràn khí (từ thủng ruột), tràn dịch (trong khoang bụng). Trong vài trường hợp, sử dụng X quang còn gây tranh cãi, như là sỏi mật (ít khi cản quang) hay sỏi thận (thường thấy nhưng không phải luôn luôn). Hơn nữa, các tư thế chụp X quang truyền thống ít sử dụng trong việc tạo hình các phần mềm như não hay cơ. Việc tạo hình cho phần mềm được thay thế bằng kĩ thuật chụp Cắt lớp vi tính (Tiếng Anh: computed axial tomography, CAT hay CT scanning) hoặc tạo hình bằng chụp cộng hưởng từ (MRI) hay siêu âm.
Tia X còn được sử dụng trong kỹ thuật soi trực tiếp "thời gian thực", như thăm khám thành mạch máu hay nghiên cứu độ cản quang của các tạng rỗng nội tạng (chất lỏng cản quang trong các quai ruột lớn hay nhỏ) bằng cách sử dụng máy chiếu huỳnh quang. Hình ảnh giải phẫu mạch máu cũng như các can thiệp y tế qua hệ thống động mạch đều dựa vào các máy soi X quang để định vị các thương tổn tiềm tàng và có thể chữa trị.
Xạ trị tia X, là một can thiệp y tế, hiện nay dùng chuyên biệt cho các tế bào ung thư nông (là những khối u không nằm quá sâu trong cơ thể), dùng các tia X có năng lượng mạnh.
Phục vụ kiểm tra an ninh tại cửa khẩu.
Chiếu X quang để thu được hình ảnh các đồ vật bên trong hành lý gói kín hay trong quần áo trên thân người, được thực hiện tại các cửa khẩu có yêu cầu an ninh cao, như cửa lên máy bay, cửa khẩu sang nước khác, và một số nhà giam đặc biệt.
Hệ thống quét an ninh thường tích hợp chiếu X quang với quét dò kim loại, để thu được thông tin tin cậy hơn về đối tượng được quét.
Hóa phân tích dùng tia X.
Phổ tán sắc năng lượng tia X viết tắt là EDX hay EDS (tiếng Anh: Energy-dispersive X-ray spectroscopy), là kỹ thuật phân tích thành phần hóa học của vật rắn dựa vào việc ghi lại phổ tia X phát ra từ vật rắn do tương tác với các bức xạ mà chủ yếu là chùm điện tử có năng lượng cao trong các kính hiển vi điện tử. Có ba biến thể đo như dưới đây.
Thiên văn học tia X.
Thiên văn học tia X nghiên cứu các vật thể vũ trụ ở các bước sóng tia X. Nó xác định ra các đối tượng phát xạ nhiệt có nhiệt đô trên 107 độ Kelvin, là các sao hay vùng khí dày (được gọi là phát xạ vật đen tuyệt đối).
Vì tia X bị khí quyển Trái Đất hấp thụ mạnh, việc quan sát phải được thực hiện trên khí cầu ở độ cao lớn, các tên lửa, hay trên tàu vũ trụ.
Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. |
Trong quang học, nhất là trong quang hình, một tia sáng hay một quang tuyến là một đường đi của ánh sáng hoặc các bức xạ điện từ khác từ nguồn đến chỗ thu.
Trong các trường hợp đơn giản nhất của quang hình, quang tuyến trong một môi trường đồng nhất là đường thẳng. Ánh sáng đi từ một môi trường này đến một môi trường khác có thể bị thay đổi hướng đi, ví dụ bởi khúc xạ (theo định luật Snell) hoặc phản xạ. Cũng vì hiện tượng khúc xạ, trong các môi trường không đồng nhất, quang tuyến sẽ không còn là đường thẳng.
Trong mọi trường hợp, đường thẳng trong môi trường đồng nhất hay đường gấp khúc khi qua các bề mặt có biến đổi môi trường đột ngột hoặc đường cong trong môi trường biến đổi liên tục, tia sáng này luôn vuông góc với mặt sóng trong lý thuyết quang sóng. |
Thanh Xuân là một quận nội thành thuộc thành phố Hà Nội, Việt Nam.
Nguồn gốc tên gọi.
Thế kỷ XII, tại huyện Thanh Oai có chùa Thanh Xuân (tức chùa Phùng Khoang thuộc phường Trung Văn, quận Nam Từ Liêm ngày nay).
Thời Pháp thuộc, ven đường Thiên Lý đi vào nội thành Hà Nội, trước cửa chùa Thanh Xuân xuất hiện một dãy phố nên gọi là phố Thanh Xuân, có bến xe điện Thanh Xuân. Đến đầu những năm 60 của thế kỷ XX, nhiều khu chung cư được xây dựng thành khu tập thể Thanh Xuân, sau trở thành tiểu khu Thanh Xuân thuộc khu phố Đống Đa (năm 1981 đổi thành phường Thanh Xuân, quận Đống Đa, nay là phường Thanh Xuân Trung trong quận). Năm 1982 thành lập phường Thanh Xuân Bắc, quận Đống Đa (nay là 2 phường Thanh Xuân Bắc và Thanh Xuân Nam trong quận).
Quận Thanh Xuân có vị trí địa lý:
Dân số năm 2018 là 285.400 người.
Quận Thanh Xuân có 11 đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc, bao gồm 11 phường: Hạ Đình, Khương Đình, Khương Mai, Khương Trung, Kim Giang, Nhân Chính, Phương Liệt, Thanh Xuân Bắc, Thanh Xuân Nam, Thanh Xuân Trung, Thượng Đình.
Công viên hồ điều hòa Nhân Chính (quận Thanh Xuân) chính thức mở cửa phục vụ nhân dân từ ngày 10.9.2018 sau gần 2 năm chậm tiến độ. Nằm trên địa bàn 2 quận Thanh Xuân và Cầu Giấy, với diện tích khoảng 13,2 ha. Dự án công viên hồ điều hòa Nhân Chính được khởi công vào tháng 5.2016 với tổng mức đầu tư gần 300 tỷ đồng.
Quận Thanh Xuân được thành lập ngày 28 tháng 12 năm 1996, trên cơ sở tách 5 phường: Thượng Đình, Thanh Xuân Bắc, Thanh Xuân, Kim Giang, Phương Liệt; 78,1 ha diện tích tự nhiên và 20.862 nhân khẩu của phường Nguyễn Trãi, 98,4 ha diện tích tự nhiên và 5.506 nhân khẩu của phường Khương Thượng thuộc quận Đống Đa; xã Nhân Chính thuộc huyện Từ Liêm và xã Khương Đình thuộc huyện Thanh Trì.
Theo đó, quận Thanh Xuân có diện tích tự nhiên 913,2 ha và 117.863 nhân khẩu, gồm 11 đơn vị hành chính trực thuộc là
1. Phường Thanh Xuân (được đổi tên thành phường Thanh Xuân Trung) có 106,2 ha diện tích tự nhiên và 11.036 nhân khẩu.
2. Phường Thượng Đình có 65,8 ha diện tích tự nhiên và 13.516 nhân khẩu.
3. Phường Kim Giang có 22,3 ha diện tích tự nhiên và 8.387 nhân khẩu.
4. Phường Phương Liệt có 102,8 ha diện tích tự nhiên và 13.030 nhân khẩu.
5. Phường Thanh Xuân Nam được thành lập trên cơ sở 32,8 ha diện tích tự nhiên và 8.266 nhân khẩu của phường Thanh Xuân Bắc.
Địa giới phường Thanh Xuân Nam: Đông giáp phường Hạ Đình, phường Thanh Xuân Trung; Tây giáp phường Trung Văn (quận Nam Từ Liêm); Nam giáp xã Tân Triều (huyện Thanh Trì), phường Văn Quán (quận Hà Đông), Bắc giáp phường Thanh Xuân Bắc.
6. Phường Thanh Xuân Bắc còn lại 48,4 ha diện tích tự nhiên và 17.857 nhân khẩu.
Địa giới phường Thanh Xuân Bắc: Đông giáp phường Nhân Chính, Tây và Bắc giáp phường Trung Văn (quận Nam Từ Liêm), Nam giáp phường Thanh Xuân Nam.
7. Phường Khương Mai được thành lập trên cơ sở 98,4 ha diện tích tự nhiên và 5.506 nhân khẩu của phường Khương Thượng.
Phường Khương Thượng (quận Đống Đa) sau khi điều chỉnh địa giới hành chính còn lại 33,5 ha diện tích tự nhiên và 10.010 nhân khẩu.
8. Phường Khương Trung được thành lập trên cơ sở 78,1 ha diện tích tự nhiên và 20.862 nhân khẩu của phường Nguyễn Trãi (quận Đống Đa).
Phường Nguyễn Trãi (quận Đống Đa) sau khi điều chỉnh địa giới hành chính còn lại 23,4 ha diện tích tự nhiên và 11.230 nhân khẩu, được đổi tên thành phường Ngã Tư Sở.
9.Phường Khương Đình được thành lập trên cơ sở 138,9 ha diện tích tự nhiên và 5.929 nhân khẩu của xã Khương Đình.
Địa giới phường Khương Đình: Đông giáp xã Định Công (huyện Thanh Trì); Tây giáp phường Hạ Đình; Nam giáp phường Kim Giang và phường Đại Kim (quận Hoàng Mai); Bắc giáp phường Khương Trung.
10. Phường Hạ Đình được thành lập trên cơ sở phần còn lại của xã Khương Đình gồm 58,6 ha diện tích tự nhiên và 4.245 nhân khẩu.
Địa giới hành chính phường Hạ Đình: Đông giáp phường Khương Đình; Tây giáp phường Thanh Xuân Trung, Thanh Xuân Nam; Nam giáp xã Tân Triều (huyện Thanh Trì); và phường Kim Giang; Bắc giáp phường Thượng Đình.
11. Phường Nhân Chính được thành lập trên cơ sở toàn bộ diện tích tự nhiên và nhân khẩu của xã Nhân Chính, gồm 160,9 ha và 9.229 nhân khẩu.
Địa giới hành chính phường Nhân Chính: Đông giáp phường Láng Hạ, phường Thịnh Quang (quận Đống Đa); Tây giáp phường Trung Văn (quận Nam Từ Liêm) và phường Thanh Xuân Bắc; Nam giáp phường Thượng Đình, phường Thanh Xuân Trung; Bắc giáp phường Trung Hòa (quận Cầu Giấy)
Quận Thanh Xuân có 11 phường: Hạ Đình, Khương Đình, Khương Mai, Khương Trung, Kim Giang, Nhân Chính, Phương Liệt, Thanh Xuân Bắc, Thanh Xuân Nam, Thanh Xuân Trung, Thượng Đình cho đến ngày nay.
Quốc lộ 6 từ Hà Nội đi các tỉnh phía Tây Bắc bắt đầu từ Ngã Tư Sở đi qua địa bàn quận.
Những điểm nhấn quan trọng nhất về quận Thanh Xuân:
Di tích lịch sử.
Đình Phương Liệt ở phường Phương Liệt, quận Thanh Xuân thờ Tích Lịch Đại Vương Phạm Tích là tướng nhà Đinh, 3 anh em ông, một người mặt xanh tên là Tích; mặt trắng tên là Thánh; mặt đỏ tên là Thành đã cùng theo giúp Đinh Tiên Hoàng lập được nhiều công lớn. |
Di sản thế giới
Di sản thế giới là một điểm mốc hay khu vực được lựa chọn bởi Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên Hợp Quốc (viết tắt là UNESCO) có giá trị về văn hóa, lịch sử, khoa học hoặc hình thức có ý nghĩa khác và được pháp luật bảo vệ bởi các điều ước quốc tế. Các địa điểm này được đánh giá là có tầm quan trọng đối với lợi ích tập thể nhân loại.
Một địa điểm có thể là di chỉ, di tích hay danh thắng của một quốc gia như rừng, dãy núi, hồ, sa mạc, tòa nhà, quần thể kiến trúc hay thành phố... do các nước có tham gia Công ước Di sản thế giới đề cử cho Ủy ban Di sản thế giới, được công nhận và quản lý bởi UNESCO. Sau đó UNESCO sẽ lập danh mục, đặt tên và bảo tồn những vị trí nổi bật về văn hóa hay đặc điểm tự nhiên cho di sản nhân loại chung. Những vị trí được đưa vào danh sách di sản thế giới có thể được nhận tiền từ Quỹ Di sản thế giới theo một số điều kiện nào đó. Ủy ban này được thành lập bởi Công ước về Bảo vệ di sản văn hóa và thiên nhiên thế giới, gọi tắt là Công ước Di sản thế giới, nó được Đại hội đồng UNESCO chấp nhận ngày 16 tháng 11 năm 1972. Trong hệ thống các danh hiệu của UNESCO, di sản thế giới là danh hiệu danh giá nhất và lâu đời nhất.
Một Di sản thế giới do Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên Hợp Quốc (viết tắt là UNESCO) công nhận là địa điểm hoặc những địa điểm có chung đặc điểm. Các địa điểm này có thể là rừng, dãy núi, hồ, sa mạc, tòa nhà, quần thể kiến trúc hay thành phố... do các nước có tham gia Công ước Di sản thế giới đề cử cho Ủy ban Di sản thế giới, được công nhận bởi những giá trị văn hóa hay ý nghĩa vật lý đặc biệt và quản lý bởi Ủy ban Di sản thế giới của UNESCO. Ủy ban này bao gồm 21 quốc gia tham gia ký kết và phê chuẩn Công ước Di sản thế giới. Tính đến nay, có 190 quốc gia thành viên. Chỉ có Bahamas, Liechtenstein, Nauru, Somalia, Nam Sudan, Đông Timor và Tuvalu không là thành viên của Công ước. Đại hội đồng Quốc gia thành viên với nhiệm kỳ 4 năm một lần có nhiệm vụ thảo luận về việc quản lý các di sản thế giới đã được công nhận, đồng thời xem xét việc chấp nhận một di sản mới được đề cử từ các quốc gia thành viên.
Tính đến năm 2023, có tất cả 1172 di sản được liệt kê, trong đó có 901 di sản về văn hóa, 231 di sản về những khu thiên nhiên và 40 di sản thuộc cả hai loại. Các di sản đó hiện diện tại 165 quốc gia. Ý là quốc gia có số lượng di sản thế giới được công nhận nhiều nhất với 50 di sản, tiếp theo là Trung Quốc có 47 di sản và Tây Ban Nha với 44 di sản. Tài liệu tham khảo tại trang web chính thức của UNESCO, mỗi một di sản thế giới được xác định bằng mã số ký hiệu riêng tạo thành một trang nhỏ riêng biệt, có những địa điểm trước đó đã từng được liệt kê và đề cử danh sách nhưng thất bại. Kết quả là, mã số ký hiệu đã vượt quá con số 1.200 mặc dù số lượng di sản thế giới trong danh sách là ít hơn.
Tuy di sản thế giới vẫn là một phần của lãnh thổ quốc gia đó nhưng UNESCO xem xét nó trên mối quan tâm của cộng đồng quốc tế để bảo vệ chúng trước những tác động có thể gây ra.
Năm 1954, chính phủ Ai Cập quyết định xây dựng đập Aswan (đập Aswan trên), một sự kiện sẽ khiến một thung lũng có chứa những kho báu vô giá của Ai Cập cổ đại như các ngôi đền Abu Simbel bị nhấn chìm trong biển nước. UNESCO sau đó đã phát động một chiến dịch bảo vệ các di tích này trên toàn thế giới. Abu Simbel và ngôi đền Philae đã được tháo rời, di chuyển đến một vị trí cao hơn, và xếp lại với nhau từng khối đá một, trong khi ngôi đền Dendur đã được chuyển đến thành phố New York còn các đền thờ của Debod đã được chuyển đến Madrid.
Chi phí của dự án là 80 triệu USD, trong đó khoảng 40 triệu USD được vận động đóng góp từ 50 quốc gia. Dự án được coi là một thành công, và là nền tảng cho các chiến dịch bảo vệ khác, như Venice và vùng đầm phá ở Ý, tàn tích Mohenjo-daro ở Pakistan, và đền Borobudur ở Indonesia. UNESCO sau đó thành lập Hội đồng Di tích và Di chỉ Quốc tế, cùng với một dự thảo quy ước bảo vệ di sản văn hóa chung của nhân loại.
Mỹ là quốc gia đầu tiên khởi xướng ý tưởng về bảo tồn văn hóa và thiên nhiên. Một hội nghị tại Nhà Trắng vào năm 1965 nhằm bảo tồn các khu vực tự nhiên tuyệt đẹp trên thế giới, danh lam thắng cảnh và các di tích lịch sử. Liên minh Quốc tế Bảo tồn Thiên nhiên tổ chức một hội nghị tương tự vào năm 1968 và vào năm 1972 tại hội nghị Liên hợp quốc về Con người và Môi trường tại Stockholm. Theo Ủy ban Di sản thế giới, các nước ký kết được yêu cầu cung cấp dữ liệu và báo cáo định kỳ cho Ủy ban Di sản thế giới tổng quan về việc thực hiện của mỗi quốc gia tham gia Công ước Di sản thế giới và một "bản chụp hình ảnh" điều kiện hiện tại của các Di sản thế giới đã được công nhận.
Một văn bản duy nhất được thống nhất giữa tất cả các quốc gia tham gia, và Công ước liên quan đến bảo vệ Di sản văn hóa và thiên nhiên thế giới đã được thông qua bởi Đại hội đồng UNESCO vào ngày 16 tháng 11 năm 1972.
Di sản văn hóa.
Theo "Công ước Di sản thế giới" thì di sản văn hóa là:
Di sản thiên nhiên.
Theo "Công ước Di sản thế giới" thì di sản thiên nhiên là:
Di sản hỗn hợp.
Năm 1992, Ủy ban Di sản thế giới đưa ra khái niệm "di sản hỗn hợp" hay còn gọi là di sản kép, cảnh quan văn hóa thế giới để miêu tả các mối quan hệ tương hỗ nổi bật giữa văn hóa và thiên nhiên của một số khu di sản. Một địa danh được công nhận là di sản thế giới hỗn hợp phải thỏa mãn ít nhất là một tiêu chí về di sản văn hóa và một tiêu chí về di sản thiên nhiên.
Để được ghi vào danh sách Di sản thế giới của UNESCO, một tài sản phải đáp ứng các tiêu chuẩn về văn hoá hoặc thiên nhiên theo Công ước Di sản thế giới đã được Ủy ban về Di sản thế giới của UNESCO duyệt lại.
Một di tích văn hóa phải xác thực, có ảnh hưởng sâu rộng hoặc có bằng chứng độc đáo đối với sự phát triển của nghệ thuật kiến trúc, hoặc di tích đó phải gắn liền với tư tưởng hay tín ngưỡng có ý nghĩa phổ biến, hoặc là điển hình nổi bật của một lối sống truyền thống đại diện cho một nền văn hóa nào đó.
Một di chỉ thiên nhiên có thể điển hình cho một giai đoạn, các quá trình tiến hóa địa cầu, hoặc cho những biến đổi sinh thái học, hoặc bao gồm những vùng cư trú tự nhiên các Loài cực kỳ nguy cấp. Di chỉ thiên nhiên có thể là một khung cảnh đẹp khác thường, một cảnh quan ngoạn mục, hoặc là một khu bảo tồn số lượng lớn các động vật hoang dã.
Cho đến cuối năm 2004, có 6 tiêu chí cho di sản văn hóa và 4 tiêu chí cho di sản thiên nhiên. Đến năm 2005, điều này đã được sửa đổi để chỉ có một bộ 10 tiêu chí, trong đó 6 tiêu chí đầu thuộc về di sản văn hóa, còn các tiêu chí 7 đến 10 thuộc về di sản thiên nhiên.
Tiêu chuẩn văn hóa
(I) - là một tuyệt tác về tài năng sáng tạo của con người.
(II) - Thể hiện một sự giao lưu quan trọng giữa các giá trị của nhân loại, trong một khoảng thời gian hoặc trong phạm vi một vùng văn hoá của thế giới, về các bước phát triển trong kiến trúc hoặc công nghệ, nghệ thuật tạo hình, quy hoạch đô thị hoặc thiết kế cảnh quan.
(III) - Là một bằng chứng độc đáo hoặc duy nhất hoặc ít ra cũng là một bằng chứng đặc biệt về một truyền thống văn hoá hay một nền văn minh đang tồn tại hoặc đã biến mất.
(IV) - Là một ví dụ nổi bật về một kiểu kiến trúc xây dựng hoặc một quần thể kiến trúc cảnh quan minh hoạ cho một hay nhiều giai đoạn có ý nghĩa trong lịch sử nhân loại.
(V) - Là một ví dụ tiêu biểu về sự định cư của con người hoặc một sự chiếm đóng lãnh thổ mang tính truyền thống và tiêu biểu cho một hoặc nhiều nền văn hóa, nhất là khi nó trở nên dễ bị tổn thương dưới tác động của những biến động không thể đảo ngược được.
Tiêu chuẩn tự nhiên
(VII) - Chứa đựng các hiện tượng, địa điểm tự nhiên hết sức nổi bật hoặc các khu vực có vẻ đẹp tự nhiên độc đáo và tầm quan trọng về thẩm mỹ.
(VIII) - Là những ví dụ nổi bật đại diện cho những giai đoạn lớn trong lịch sử của Trái Đất, trong đó có lịch sử về sự sống, các quá trình địa chất quan trọng đang tiếp diễn trong sự phát triển của các địa mạo, hoặc các đặc điểm quan trọng về địa chất hoặc địa lý tự nhiên.
(IX) - Là những ví dụ tiêu biểu cho quá trình sinh thái và sinh học đang tiếp diễn trong quá trình tiến hoá và phát triển của các dạng địa hình, vùng nước ngọt, biển và ven biển và các quần xã động vật, thực vật.
(X) - Là những nơi cư trú tự nhiên quan trọng nhất và tiêu biểu nhất, mang giá trị bảo tồn nguyên trạng sự đa dạng sinh học, trong đó có những môi trường sống chứa đựng những loài động vật hoặc thực vật đang bị đe dọa, có giá trị nổi bật toàn cầu xét theo quan điểm khoa học hoặc bảo tồn.
Ngoài các tiêu chuẩn như trên, những địa điểm đó còn phải đáp ứng về tính toàn vẹn được quy định dưới đây:
Mỗi địa điểm tự nhiên phải được đánh giá một cách tương đối, nghĩa là phải được so sánh với những địa điểm khác cùng loại, cả trong và ngoài quốc gia chủ quyền của địa danh đó, thuộc cùng một vùng địa lý sinh vật hay trên cùng một đường di trú.
Biểu tượng Di sản thế giới.
Những di sản được xếp trong danh mục Di sản thế giới sẽ được gắn biển đồng có biểu tượng của Di sản thế giới và được hưởng các quy chế đặc biệt của Công ước quốc tế về bảo tồn các di sản cũng như của Quỹ Di sản thế giới.
Biểu tượng Di sản thế giới là một hình vuông nội tiếp trong một hình tròn nối liền. Trong đó, hình vuông là biểu hiện kiệt tác do loài người sáng tạo còn hình tròn biểu hiện cho thiên nhiên và cũng là Trái Đất, nó thể hiện thái độ trân trọng bảo vệ các di sản của nhân loại. Hình vuông và hình tròn nối liền nhau thể hiện sự hài hòa và thống nhất.
Danh sách các di sản thế giới.
UNESCO cố gắng tôn trọng sự cân bằng giữa các châu lục trong vấn đề di sản thế giới. Ban đầu, châu Âu chiếm số đông hơn, nhưng những di sản tự nhiên đã góp phần điều hòa sự cân bằng các châu lục trên thế giới.
. Năm 2017, thế giới có 1.073 di sản trên 167 quốc gia: 832 về văn hóa, 206 tự nhiên và 35 di sản hỗn hợp (tự nhiên và văn hóa). Những di sản này được xếp theo 5 vùng địa lý, trong đó México mặc dù thuộc Bắc Mỹ nhưng các di sản được xếp vào Mỹ Latinh và Caribe. Vùng hoang dã ở Tasmania của Úc và Thái Sơn của Trung Quốc là 2 di sản thế giới kép đáp ứng nhiều tiêu chuẩn nhất với 7/10 tiêu chuẩn.
Nga và các nước Kavkaz được xếp vào khu vực châu Âu và Bắc Mỹ
Danh sách cụ thể.
Danh sách dưới đây được xếp theo 4 khu vực địa lý là các châu lục, các di sản tại Thổ Nhĩ Kỳ và Nga được xếp vào châu Âu (kể cả các di sản thuộc phần lãnh thổ châu Á), còn di sản tại Bắc Mỹ được xếp vào châu Mỹ Latinh và Caribê. Các di sản tại thuộc địa và vùng lãnh thổ hải ngoại thì vẫn xếp theo quốc gia đề cử và chính quốc. Các nước Ả rập bao gồm một số quốc gia thuộc châu Phi và một số quốc gia thuộc Trung Đông được xếp vào khu vực châu Á và châu Đại Dương.
Di sản thế giới trong tình trạng nguy hiểm.
Khi một di sản văn hóa hay thiên nhiên có nguy cơ tiêu vong hay hủy hoại nặng nề do bị xuống cấp mạnh bởi các nguyên nhân như: phát triển kinh tế, xã hội, các nguyên nhân tự nhiên (thiên tai, lũ lụt, động đất, độ ẩm cao, quá nóng v.v) thì di sản đó sẽ được ghi vào danh mục "Những di sản trong tình trạng nguy hiểm" để cảnh báo quốc gia, vùng lãnh thổ có di sản đó phải có các biện pháp bảo tồn khẩn cấp cũng như để Ủy ban Di sản thế giới cung cấp các sự hỗ trợ cần thiết về kinh phí, kỹ thuật v.v từ Quỹ Di sản thế giới để bảo tồn các di sản đó.
Trong danh sách năm 2013 có 44 di sản thế giới của 31 quốc gia và vùng lãnh thổ được xếp vào danh mục "Những di sản trong tình trạng nguy hiểm" theo quy định tại Điều 11 (4) của Công ước Di sản thế giới..
Di sản thế giới tại Việt Nam.
Hiện tại, Việt Nam đã có 8 di tích được UNESCO công nhận là Di sản thế giới gồm: |
Hóa sinh ( hay ) là phân ngành nghiên cứu các quá trình hóa học bên trong và liên quan tới sinh vật sống. Là một phân ngành của cả hóa học và sinh học, hóa sinh có thể thể được chia làm ba lĩnh vực: sinh học cấu trúc, enzym và trao đổi chất. Suốt những thập niên cuối của thế kỷ 20, ngành hóa sinh đã thành công trong việc giải thích các quá trình sống nhờ ba phân ngành kể trên. Hầu hết mọi lĩnh vực của các môn khoa học sự sống đang được khám phá và phát triển nhờ nghiên cứu và phương pháp hóa sinh học. Hóa sinh chú trọng vào vốn hiểu biết về cơ sở hóa học cho phép những phân tử sinh học tạo nên các quá trình xảy trong tế bào sống và giữa các tế bào, đổi lại liên quan mật thiết tới vốn hiểu biết về mô và cơ quan, cũng như cấu trúc và chức năng của sinh vật. Hóa sinh có mối quan hệ mật thiết tới sinh học phân tử, ngành nghiên cứu các cơ chế phân tử của hiện tượng sinh học.
Phần lớn hóa sinh liên quan tới các cấu trúc, liên kết, chức năng, tương tác của những đại phân tử sinh học, chẳng hạn như protein, acid nucleic, carbohydrate và lipid. Chúng cung cấp cấu trúc của tế bào và thực hiện nhiều chức năng liên quan tới sự sống. Mảng hóa học của tế bào còn phụ thuộc vào phản ứng của những phân tử và ion nhỏ. Chúng có thể là hợp chất vô cơ (ví dụ như nước và ion kim loại) hoặc hữu cơ (ví dụ acid amin, chất được dùng để tổng hợp các protein). Những cơ chế mà tế bào sử dụng để chuyển hóa năng lượng từ môi trường thông qua các phản ứng hóa học được gọi là trao đổi chất. Những phát hiện trong môn hóa sinh được ứng dụng chủ yếu trong y học, dinh dưỡng và nông nghiệp. Trong y học, các nhà hóa sinh nghiên cứu nguyên nhân gây bệnh và các liều thuốc trị bệnh. Dinh dưỡng thì nghiên cứu cách duy trì sức khỏe và thể trạng và cả những hệ quả của kém dinh dưỡng. Trong nông nghiệp, các nhà hóa sinh nghiên cứu đất và phân bón, bên cạnh đó là các mục tiêu cải thiện canh tác, bảo quản cây trồng và kiểm soát loài gây hại.
Theo định nghĩa bao hàm trọn vẹn nhất, hóa sinh có thể được xem là ngành nghiên cứu các thành phần và cấu tạo của sinh vật, cách chúng kết hợp với nhau để trở thành sự sống. Theo nghĩa này, do đó lịch sử hóa sinh có thể truy ngược về thời Hy Lạp cổ đại. Tuy nhiên, hóa sinh dưới dạng một phân ngành khoa học chuyên biết bắt đầu vào khoảng thế kỷ 19 (hoặc sớm hơn một chút), phụ thuộc vào khía cạnh nào mà hóa sinh đang chú trọng tới. Một số người cho rằng khởi đầu của hóa sinh có thể là phát hiện enzyme đầu tiên, diastase (nay được gọi là amylase) của Anselme Payen vào năm 1833, trong khi một bộ phận khác xem màn trình bày một quá trình lên men rượu hóa sinh phức tạp của Eduard Buchner trong các chiết xuất không tế bào vào năm 1897 là sự ra đời của hóa sinh. Một số người khác cũng chỉ ra rằng hóa sinh khởi đầu bằng một công trình giàu ảnh hưởng của Justus von Liebig vào năm 1842, "Animal chemistry, or, Organic chemistry in its applications to physiology and pathology" - tác phẩm trình bày lý thuyết hóa học về trao đổi chất, hay thậm chí sớm hơn nữa là những nghiên cứu về lên men và hô hấp của Antoine Lavoisier vào thế kỷ 18. Nhiều nhà tiên phong trong mảng hóa sinh đã giúp tầng phức tạp của hóa sinh và họ được xem là những người đặt nền móng cho hóa sinh hiện đại. Emil Fischer (tác giả nghiên cứu hóa học của protein) và F. Gowland Hopkins (tác giả nghiên cứu enzyme và bản chất động lực học của hóa sinh) là hai ví dụ đại diện cho hóa sinh thời kì đầu.
Bản thân thuật ngữ "biochemistry" (hóa sinh) xuất phát từ sự kết hợp giữa sinh học và hóa học. Năm 1877, Felix Hoppe-Seyler sử dụng thuật ngữ ("biochemie" trong tiếng Đức) như một từ đồng nghĩa với hóa sinh lý trong phần lời tựa đầu cho số đầu tiên của "Zeitschrift für Physiologische Chemie" (Tạp chí hóa sinh lý học), nơi ông lập luận cho việc thành lập các viện nghiên cứu dành riêng cho lĩnh vực này. Tuy nhiên nhà hóa học người Đức Carl Neuberg thường được xem là người đặt ra từ này vào năm 1903, trong khi ấy một số người lại ghi công cho Franz Hofmeister.
Người ta thường tin rằng sự sống và các vật chất có một số thuộc tính hoặc chất thiết yếu (thường được xem là "sinh lực luận"), khác với bất kì thứ gì được tìm thấy ở vật thể không sống, và người ta cho rằng chỉ vật thể sống mới có thể tạo ra các phân tử của sự sống. Năm 1828, Friedrich Wöhler xuất bản một bài báo về quá trình tổng hợp ure tình cờ của ông từ potassium cyanat và ammonium sulfat; một số người coi đấy là bàn đạp đổ trực tiếp lên sinh lực luận và thành lập nên hóa học hữu cơ. Tuy nhiên, phép tổng hợp của Wöhler gây tranh cãi vì một số người bác bỏ cái chết của sinh lực luận trên bàn tay ông. Kể từ ấy, hóa sinh đã tiến bộ vượt bậc, đặc biệt từ giữa thế kỷ 20, với sự phát triển của những kỹ thuật mới như sắc ký, tinh thể học tia X, phép đo giao thoa phân cực kép, quang phổ NMR, dán nhãn đồng vị, dùng kính hiển vi điện tử và mô phỏng động lực học phân tử. Những kỹ thuật này cho phép khám phá và phân tích chi tiết nhiều phân tử và các con đường trao đổi chất của tế bào, ví dụ như đường phân và chu trình Krebs (chu trình acid citric), và dẫn tới vốn hiểu biết hóa sinh ở cấp độ phân tử.
Một sự kiện bước ngoặt khác trong lịch sử hóa sinh là việc khám phá ra gen và vai trò của nó trong việc truyền thông tin trong tế bào. Ở thập niên 1950, James D. Watson, Francis Crick, Rosalind Franklin và Maurice Wilkins là những người có công trong việc giải cấu trúc DNA và trình bày mối quan hệ của nó với vận chuyển thông tin di truyền. Năm 1958, George Beadle và Edward Tatum nhận giải Nobel vì công trình nghiên cứu nấm thể hiện một gen tạo ra một enzym. Năm 1988, Colin Pitchfork là người đầu tiên bị kết tội ám sát bằng bằng chứng DNA, dẫn tới sự phát triển của ngành khoa học pháp y. Gần đây hơn, Andrew Z. Fire và Craig C. Mello nhận giải Nobel 2006 vì phát hiện ra vai trò can thiệp RNA (RNAi), trong việc làm vô hiệu biểu hiện gen.
Nguyên vật liệu khởi đầu: những nguyên tố hóa học của sự sống.
Khoảng hai tá nguyên tố hóa học là thiết yếu với nhiều kiểu sống sinh học. Hầu hết các nguyên tố hiếm trên Trái Đất không cần thiết đối với sự sống (ngoại trừ seleni và iod), trong khi một số ít loại nguyên tố thông thường (nhôm và titani) không được dùng đến. Hầu hết sinh vật có chung nhu cầu dùng tới nguyên tố, song có một số ít khác biệt giữa thực vật và động vật. Ví dụ, tảo biển sử dụng brom, nhưng thực vật trên cạn và động vật dường như không cần tới nguyên tố ấy. Tất cả động vật đều cần natri, nhưng một vài thực vật thì không. Thực vật cần đến bor và silic, nhưng thực vật có thể không cần (hoặc có thể cần một lượng rất ít).
Chỉ có 6 nguyên tố—carbon, hydro, nitro, oxy, calci và phosphor—chiếm gần 99% khối lượng tế bào sống, tính cả những tế bào ở cơ thể người (xem danh sách hoàn chỉnh ở bài thành phần cơ thể người). Ngoài 6 nguyên tố chính cấu thành nên phần lớn cơ thể người, thì con người cần tới một lượng nhỏ gồm 18 nguyên tố trở lên.
Phân tử sinh học.
4 lớp phân tử chính trong ngành hóa sinh (thường gọi là phân tử sinh học) là carbohydrat, lipid, protein và acid nucleic. Nhiều phân tử sinh học là các polymer: theo thuật ngữ này, monomer là những đại phân tử tương đối nhỏ liên kết với nhau để tạo ra đại phân tử lớn còn gọi là các polymer. Khi các monomer liên kết với nhau để tổng hợp một polymer sinh học, chúng trải qua một quá trình gọi là tổng hợp khử nước. Những đại phân tử khác nhau có thể tập hợp ở các phức hợp to hơn, thường để phục vụ hoạt tính sinh học.
Hai trong số những chức năng chính của carbohydrat là dự trữ năng lượng và cung cấp cấu trúc. Một trong những loại đường phổ biến nhất, glucose là carbohydrat, nhưng không phải tất cả carbohydrat đều là đường. Có nhiều carbohydrat trên Trái Đất hơn bất kì loại phân tử sinh học nào được biết tới; chúng được dùng để dự trữ năng lượng và thông tin di truyền, cũng như đóng vai trò quan trọng trong các tương tác và liên hệ của tế bào.
Loại carbohydrat đơn giản nhất là monosaccharide, với đặc tính chứa carbon, hydro và oxyg, chủ yếu theo tỷ lệ 1:2:1 (công thức tổng quát là C"n"H2"n"O"n", "n" ít nhất từ 3 trở lên). Glucose (C6H12O6) là một trong những carbohydrat quan trọng nhất; những loại khác gồm fructose (C6H12O6) – loại đường thường liên quan tới vị ngọt của trái cây,[a] và deoxyribose (C5H10O4), một thành phần của DNA. Một monosaccharide có thể chuyển đổi giữa dạng mạch hở và mạch vòng. Dạng mạch hở có thể biến thành một vòng nguyên tử carbon, với cầu nối là một nguyên tử oxygen được tạo ra từ nhóm chức carbonyl của nguyên tử cuối và nhóm hydroxyl của một nguyên tử nữa. Phân tử mạch vòng mang nhóm chức hemiacetal hoặc hemiketal, phụ thuộc vào dạng mạch thẳng là một aldose hay một ketose.
Ở những dạng mạch vòng này, vòng thường có 5 hoặc 6 nguyên tử. Những dạng này được gọi là furanose và pyranose — lần lượt tương đương với furan và pyran, những hợp chất đơn giản nhất cùng mang vòng carbon-oxy (mặc dù chúng thiếu liên kết đôi carbon-carbon của hai phân tử này). Ví dụ, aldohexose glucose có thể hình thành một liên kết hemiacetal giữa nhóm hydroxyl trên carbon 1 và oxy trên carbon 4, tạo ra phân tử mang vòng 5-cạnh, gọi là glucofuranose. Phản ứng tương tự có thể xảy ra giữa các carbon 1 và 5 để hình thành nên một phân tử mang vòng 6-cạnh, gọi là glucopyranose. Những dạng mạch vòng có 7-cạnh gọi là heptoses thì hiếm.
Lipid tập hợp một lượng lớn phân tử và ở mức độ nào đấy là chất xúc tác đối với các hợp chất không tan trong nước hoặc phi phân cực có nguồn gốc sinh học, bao gồm sáp, acid béo, phospholipid, sphingolipid, glycolipid và terpenoid bắt nguồn từ acid béo (ví dụ, retinoid và steroid). Một số lipid là các phân tử không vòng, mạch hở và thẳng, trong khi số khác có cấu trúc mạch vòng. Một vài là chất thơm (mang cấu trúc mạch vòng và mạch thẳng) trong khi số khác thì không. Một số chất thì ling hoạt, trong khi số khác thì cố định.
Lipid thường được làm một phân tử glycerol kết hợp với các phân tử khác. Trong triglyceride (nhóm chính của lipid lớn), có một phân tử glycerol và ba acid béo. Trong trường hợp ấy, các acid béo được xem là monomer, và có thể là hợp chất bão hòa (không liên kết đôi trong chuỗi carbon) hoặc không bão hòa (một hoặc nhiều liên kết đôi trong chuỗi carbon).
Hầu hết lipid có vài đặc tính phân cực ngoài đa phần là phi phân cực. Nhìn chung, số lượng lớn cấu trúc của chúng là phi phân cực hoặc là chất kị nước, tức là nó không tương tác tốt với các dung môi phân cực như nước. Phần khác trong cấu trúc của chúng là phân cực hoặc chất ưa nước và sẽ có xu hướng liên kết với các dung môi phân cực như nước. Điều này biến chúng thành các phân tử lưỡng phần (tức có cả phần ưa nước lẫn kị nước). Trong trường hợp của cholesterol, nhóm phân cực chỉ là –OH (hydroxyl hoặc alcohol). Trong trường hợp của phospholipid, nhóm phân cực lớn hơn đáng kể và có tính phân cực hơn.
Protein là những phân tử rất lớn—đại-polymer sinh học—được tạo ra từ những monomer là amino acid. Một amino acid tập hợp gồm một nguyên tử alpha carbon gắn với một nhóm amino, –NH2, một nhóm carboxylic acid, –COOH (mặc dù chúng tồi tại dưới dạng –NH3+ và –COO− trong điều kiện sinh lý), một nguyên tử hydro đơn giản, và một nhánh bên ghi là "–R". Nhánh bên "R" khác nhau với từng amino acid vốn có tới 20 nhóm chuẩn. Chính nhóm "R" này làm từng amino acid khác biệt, và đặc tính của các nhánh bên có ảnh hưởng rất lớn tới hình dạng ba chiều của một protein. Một vài amino acid tự mang chức năng hoặc ở dạng biến đổi; ví dụ, chức năng của glutamic là một chất dẫn truyền thần kinh quan trọng. Những amino acid có thể tương tác thông qua một liên kết peptide. Trong phép tổng hợp khử nước này, một phân tử nước bị loại bỏ và liên kết peptide kết nối nitơ của một nhóm amino thuộc amino tới carbon thuộc nhóm acid carboxylic của một amino acid khác. Phân tử ra đời được gọi là một "dipeptide", còn các đoạn ngắn của amino acid (thông thường từ 30 trở xuống) được gọi là các "peptide" hay polypeptide. Những đoạn dài hơn thì được chọn làm các "protein" chủ đạo. Lấy ví dụ, albumin protein huyết tương chứa 585 gốc amino acid. |
Tôn giáo hay đạo (Tiếng Anh: "religion", Chữ Hán: "宗教") là hình thái ý thức xã hội dựa trên sự tin tưởng và sùng bái các yếu tố siêu nhiên (thần linh, thiên chúa, ...) mà ở đó các yếu tố siêu nhiên được cho rằng quyết định nên số phận hay tương lai của con người, hoặc được lấy làm cơ sở để đặt nền tảng cho cuộc sống. Tôn giáo thường được cấu thành bởi một hệ thống các văn hoá, tín ngưỡng, đức tin bao gồm các hành vi và hành động được chỉ định cụ thể, các quan niệm về thế giới, thể hiện thông qua các kinh sách, khải thị, các địa điểm linh thiêng, lời tiên tri, quan niệm đạo đức, hoặc tổ chức, liên quan đến nhân loại với các yếu tố siêu nhiên, siêu việt hoặc tâm linh. Tuy nhiên, hiện tại chưa có sự đồng thuận học thuật về những gì chính xác cấu thành một tôn giáo.
Các tôn giáo khác nhau có thể chứa hoặc không chứa nhiều yếu tố khác nhau, bao gồm các yếu tố thần thánh, những điều thiêng liêng, tín ngưỡng, một thế lực hoặc nhiều thế lực siêu nhiên hoặc "một số thế lực siêu việt tạo ra các chuẩn mực và sức mạnh cho phần còn lại của cuộc đời ". Các hoạt động tôn giáo có thể bao gồm các nghi lễ, bài giảng, lễ kỷ niệm hay biểu hiện sự tôn kính (các vị Thần, Thánh, Phật), tế tự, lễ hội, nhập hồn, lễ nhập đạo, dịch vụ tang lễ, dịch vụ hôn nhân, thiền, cầu nguyện, âm nhạc, nghệ thuật, múa, dịch vụ công cộng, hoặc các khía cạnh khác của văn hóa con người. Các tôn giáo có lịch sử và các kinh sách thiêng liêng, có thể được bảo tồn trong các thánh thư, các biểu tượng và thánh địa, nhằm mục đích chủ yếu là tạo ra ý nghĩa cho cuộc sống. Tôn giáo có thể chứa những câu chuyện tượng trưng, đôi khi được những người tin theo cho là đúng, có mục đích phụ là giải thích nguồn gốc của sự sống, vũ trụ và những thứ khác. Theo truyền thống, đức tin, cùng với lý trí, đã được coi là một nguồn gốc của các niềm tin tôn giáo.
Có khoảng 10.000 tôn giáo khác nhau trên toàn thế giới, nhưng khoảng 84% dân số thế giới theo một trong năm nhóm tôn giáo lớn nhất, đó là Kitô giáo, Hồi giáo, Ấn Độ giáo, Phật giáo và các dạng tôn giáo dân gian. Các nhân khẩu học không tôn giáo bao gồm những người không liên kết với bất kỳ tôn giáo cụ thể nào, những người Vô thần hoặc Bất khả tri. Trong khi số lượng những người không có tôn giáo cụ thể càng ngày càng tăng trên toàn cầu, nhiều người trong số những người không theo tôn giáo cụ thể nào vẫn có nhiều niềm tin tôn giáo khác ="Pew Global Unaffiliated 12/2012"/ref
Nghiên cứu về tôn giáo bao gồm nhiều ngành học, bao gồm Thần học, tôn giáo so sánh và nghiên cứu khoa học xã hội. Các lý thuyết về tôn giáo đưa ra các giải thích khác nhau về nguồn gốc và hoạt động của tôn giáo, bao gồm các nền tảng bản thể học của các thực thể tôn giáo và niềm tin.
"Tôn giáo" trong tiếng Việt có nguồn gốc từ chữ Hán: "宗敎," vốn đọc là "tông giáo". Sau vì kị húy tên vua Nguyễn Phúc Miên Tông của nhà Nguyễn mà đọc thành "tôn giáo", rồi được sử dụng phổ biến đến tận bây giờ.
Trong tiếng Anh, tôn giáo là "Religion" - xuất phát từ tiếng Latinh cổ điển: "Religio," được ghi lại từ thế kỉ 1 TCN vào cuối thời Cộng hòa La Mã, mang ý nghĩa là "tuân thủ một cách nghiêm ngặt và thành khẩn các phong tục và lễ nghi truyền thống ". Trong bối cảnh thế tục, "Religio" có nghĩa là "sự tận tâm, ý thức về quyền, nghĩa vụ đạo đức hay trách nhiệm đối với mọi vật, mọi hành động"; trong bối cảnh tâm linh, nó cũng có nghĩa là cảm giác "kính sợ và lo lắng" do các vị thần và linh hồn gây ra.
Bổn phận và sự gắn kết giữa con người với thần linh, xét trên một phương diện nào đó, là một cách thức để giúp con người sống và tồn tại với sức mạnh siêu nhiên từ đó tạo ra lợi ích cho vạn vật và con người. "Tôn giáo" đôi khi đồng nghĩa với tín ngưỡng, thường được định nghĩa là niềm tin vào những gì siêu nhiên, thiêng liêng hay thần thánh, cũng như những đạo lý, lễ nghi, tục lệ và tổ chức liên quan đến niềm tin đó. Những ý niệm cơ bản về tôn giáo chia thế giới thành hai phần: "Thiêng liêng" và "Trần tục". "Trần tục" là những gì bình thường trong cuộc sống con người, còn "Thiêng liêng" là cái siêu nhiên, thần thánh. Đứng trước sự "Thiêng liêng", con người sử dụng lễ nghi để bày tỏ sự tôn kính, sùng bái và đó chính là cơ sở của tôn giáo. Trong nghĩa tổng quát nhất, có quan điểm đã định nghĩa tôn giáo là kết quả của tất cả các câu trả lời để giải thích nguồn gốc, quan hệ giữa nhân loại và vũ trụ; những câu hỏi về mục đích, ý nghĩa cuối cùng của sự tồn tại. Chính vì thế những tư tưởng tôn giáo thường mang tính triết học. Số tôn giáo được hình thành từ xưa đến nay được xem là vô số, có nhiều hình thức trong những nền văn hóa và quan điểm cá nhân khác nhau. Tuy thế, ngày nay trên thế giới chỉ có một số tôn giáo lớn được nhiều người theo hơn những tôn giáo khác.
Tín ngưỡng tôn giáo là niềm tin và sự sùng bái thần thánh hay các quyền lực vô biên, siêu nhiên, vào cuộc sống sau khi đã mấ, tóm lại, "là những phát biểu mà vì đó các thành viên của một tôn giáo nào đó gắn bó vào đó". Tín ngưỡng thường phát sinh khi một lãnh tụ tinh thần khẳng định một số hiểu biết đặc biệt về chân lý thần thánh và tổ chức tín đồ của mình. Cũng có quan điểm cho rằng, tín ngưỡng tôn giáo là "hoạt động tôn giáo ít hay không có điểm chung với các tổ chức tôn giáo khác trong một xã hội cụ thể." Theo quan điểm này thì tín ngưỡng là một cái gì đó hoàn toàn mới, nó có thể là kết quả của sự truyền bá quan điểm tôn giáo từ một xã hội này sang một xã hội khác, nơi mà nó chưa từng có tiền lệ. Do vậy khi mới hình thành, tín ngưỡng thường chưa được chính thức hóa và hay có mâu thuẫn với xã hội, nếu tiếp tục phát triển, tín ngưỡng sẽ trở nên có tổ chức, nghi lễ chặt chẽ hơn và có thể trở thành tôn giáo. Tuy nhiên tín ngưỡng tôn giáo không phải là các giáo phái, giáo phái là những nhóm ly khai với giáo hội hay tổ chức tôn giáo truyền thống của nó còn tín ngưỡng thì hoàn toàn mới. Tôn giáo là những hệ thống tín ngưỡng thường tìm câu trả lời cho những khái niệm sau:
Thông thường, những tôn giáo khác nhau và những phe không tôn giáo đều có câu trả lời khác nhau về các khái niệm trên, và nhiều tôn giáo có nhiều trả lời cho mỗi khái niệm.
Ngoài nghĩa rộng về tôn giáo trên, có nhiều cách sử dụng cũng như nhiều nghĩa của từ "tôn giáo." Một số lối giải thích như sau:
Nếu không kể những chứng tích khảo cổ học cho thấy niềm tin tôn giáo về cuộc sống sau khi chết có từ rất xa xưa, khi mà người ta chôn đồ tùy táng cùng với người chết thì "ít nhất cách đây 40.000 năm, tổ tiên con người đã có niềm tin tôn giáo và tham gia các nghi lễ tôn giáo." Trong các xã hội săn bắn và hái lượm, phổ biến là thuyết vật linh, cho rằng vật thể trong thế giới tự nhiên được phú cho nhận thức và tác động đến đời sống con người. Biển cả, núi cao, gió và thậm chí cả cây cố, hái lượm có tổ chức chưa phức tạp nên đời sống tôn giáo chủ yếu tồn tại trong gia đình. Địa vị "pháp sư" (shaman) có thể được trao cho một người như là lãnh tụ tôn giáo nhưng hoạt động này không phải chiếm toàn bộ thời gian của người đó.
Sang đến giai đoạn xã hội trồng trọt và chăn nuôi, niềm tin thần thánh là nguyên nhân hình thành thế giới dần dần được phát triển. Một hệ thống văn hóa đạo đức được ủng hộ bằng việc công nhận thần thánh đồng thời tôn giáo vượt qua khỏi phạm vi gia đình và thường gắn chặt với chính trị, lãnh tụ xã hội thường được xem là vua và tăng lữ như các Pharaoh Ai Cập.
Trước Cách mạng Công nghiệp, tôn giáo đã rất phát triển và là thể chế xã hội vô cùng quan trọng ở khắp các lục địa. Đây cũng là lúc các tôn giáo có nhiều xung đột với nhau: Kitô giáo với Hồi giáo qua nhiều cuộc Thập tự chinh; Ấn Độ giáo xung đột với Phật giáo và về cơ bản đã loại trừ tôn giáo này ra khỏi miền đất phát tích của nó vào thế kỷ 13; người Hồi giáo chinh phục và truyền bá tôn giáo của mình đến những vùng khá
Từ khi Cách mạng Công nghiệp nổ ra, những tiến bộ của khoa học kỹ thuật đã khiến cho ảnh hưởng của tôn giáo không còn mạnh mẽ như trước, tôn giáo dần bị tách rời khỏi nhà nước. Trong đời sống xã hội, khoa học cũng dần thay thế cho tôn giáo, chẳng hạn một người khi gặp bệnh tật tìm đến bác sĩ nhiều hơn là tu sỹ. Tuy vậy, thậm chí ngay cả cho đến nay, nhiều phong trào tôn giáo mới vẫn tiếp tục phát triển.
Những phong tục dựa vào tín ngưỡng tôn giáo thường gồm có:
Những tín đồ của một tôn giáo thường họp mặt để làm lễ, đọc hay tụng kinh, cầu nguyện, thờ phụng, và giúp đỡ tinh thần lẫn nhau. Tuy nhiên, cầu nguyện và ngồi thiền một mình cũng thường được xem là quan trọng, cũng như sống theo tín ngưỡng ngoài đời hay với những người không theo đạo đó. Đây thường là một chức năng của tôn giáo đó.
Các tôn giáo chính.
Niềm tin và thực tiễn tôn giáo vô cùng đa dạng và có rất nhiều tôn giáo trên thế giới ngày nay, có tôn giáo chỉ hạn chế trong một vùng địa lý không lớn nhưng có những tôn giáo có thể gọi là tôn giáo thế giới với nhiều triệu tín đồ ở khắp nơi trên thế giới. "Nói chung có khoảng 87 phần trăm dân số thế giới đang gắn bó với một tôn giáo nào đó; chỉ có khoảng 13 phần trăm là không tôn giáo."
Việc thống kê số liệu tín đồ của từng tôn giáo rất phức tạp và nhiều phương pháp khác nhau do đó các nguồn số liệu có thể cho kết quả khác nhau đáng kể, tuy vậy nó cung cấp cái nhìn tương đối về quy mô của các tôn giáo đặc biệt là trong tương quan với nhau.
Tôn giáo và khoa học.
Quan điểm về tôn giáo và khoa học có thể đi từ thái cực cái nọ phủ nhận cái kia cho đến dung hòa hơn. Ở thái cực này, một số người cho rằng những hiểu biết tôn giáo có thể trả lời mọi câu hỏi liên quan đến vũ trụ và đời sống con người. Ở thái cực khác một số người lại cho rằng những hiểu biết tôn giáo là mê tín, phi lý, hoang đường, chỉ có khoa học mới đưa ra được câu trả lời đúng đắn. Ở giữa hai thái cực, có quan điểm coi tôn giáo và khoa học dùng các phương pháp, hay nói đúng hơn, trả lời cho các câu hỏi khác nhau để tìm đến Chân lý và kiến thức đồng thời bổ sung cho nhau. Tôn giáo dùng những phương pháp dựa theo sự hiểu biết chủ quan của trực giác cá nhân và kinh nghiệm và/hoặc căn cứ vào chức trách của các kinh sách hay người được xem là tiên tri. Khoa học, trái lại, dùng phương pháp khoa học, một quá trình khách quan để điều tra nghiên cứu dựa theo chứng cớ vật chất, dùng các hiện tượng có thể quan sát và xác minh được. Tương tự, có hai loại câu hỏi mà tôn giáo và khoa học cố gắng trả lời: những câu hỏi về các hiện tượng có thể quan sát và xác minh được (như các luật vật lý, hay cách hành xử của con người) và những câu hỏi về các hiện tượng không thể quan sát được và việc đánh giá về giá trị, ý nghĩa, mục đích (như làm sao có các luật vật lý, thế nào là "thiện" và "ác"). Quan điểm này có thể được minh họa bằng những lời Hồng y Barberini đã từng nói với Galileo: "Anh dạy cho mọi người biết bầu trời di chuyển như thế nào; còn chúng tôi dạy cho mọi người biết cách lên trời". Nói cách khác, "thế giới này hoạt động ra sao là vấn đề khoa học, nhưng tại sao chúng ta và phần vũ trụ còn lại nói chung lại tồn tại là vấn đề khoa học không sao giải thích được."
Cặp từ "tôn giáo và khoa học" lần đầu xuất hiện vào thế kỷ 19. Mối quan hệ này được miêu tả khác nhau như 'xung đột', 'hòa hợp', 'phức tạp', 'độc lập khỏi nhau'. Từ phương Tây, các triết gia thời Khai sáng phổ biến luận thuyết xung đột về mối quan hệ giữa khoa học và tôn giáo. Tuy nhiên, ngày nay đa số các sử gia về khoa học đã bác bỏ luận thuyết này. Trong lịch sử, Công giáo có vai trò quan trọng bảo trợ cho sự phát triển của khoa học hiện đại.
Tôn giáo và chính trị.
Trong lịch sử, tôn giáo thường đi song song với chính trị. Các hoàng đế Trung Quốc lấy căn cứ quyền của họ từ Thiên mệnh (天命). Giáo hội Công giáo Rôma đã thống trị phần lớn châu Âu cho đến cuộc Cải cách Tin lành. Đến Thời đại Ánh sáng vào thế kỷ 18 tại châu Âu, nhiều triết gia tin vào việc tách biệt giữa giáo hội và nhà nước ("separation of church and state"). Hiện nay tôn giáo đóng nhiều vai trò khác nhau tại nhiều nơi trên thế giới:
Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. |
Danh sách người đứng đầu chính phủ Việt Nam
Chính phủ hiện đại ở Việt Nam xuất hiện vào khoảng tháng 4 năm 1945 với sự thành lập của cơ quan Nội các nhà Nguyễn gồm các Bộ trưởng. Tuy nhiên, một Chính phủ đúng nghĩa có quyền thực thi hành pháp lại chỉ xuất hiện vào tháng 9 năm 1945 dưới chế độ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Từ đó cho đến nay, tên gọi cũng như mức độ quyền lực của chức vụ đứng đầu Chính phủ tại Việt Nam có những sự thay đổi qua những thời kỳ. Theo Hiến pháp hiện hành (2013), người đứng đầu Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Thủ tướng Chính phủ, thường được gọi là Thủ tướng.
Thủ tướng Chính phủ Việt Nam hiện tại là Phạm Minh Chính.
Dưới thời nhà Nguyễn, vua Minh Mạng cho thành lập cơ quan Nội các (1829) theo mô hình Trung Quốc, nhưng Nội các nhà Nguyễn lại đứng dưới Lục bộ. Năm 1934, vua Bảo Đại giải tán Nội các, thay bằng Ngự tiền văn phòng, đứng đầu là một quan viên nhất phẩm gọi là Đổng lý, có hình thái của một Chính phủ. Tháng 3 năm 1945, quân đội Nhật Bản tiến hành đảo chính, thay thế người Pháp nắm giữ chính quyền thuộc địa Đông Dương. Dưới áp lực của người Nhật, 17 tháng 4, vua Bảo Đại ban hành Đạo dụ số 5, thành lập một Nội các mới mang hình thức của một Chính phủ hiện đại do Trần Trọng Kim làm Tổng trưởng.
Ngày 16 tháng 8, dưới sự chủ trì của Mặt trận Việt Minh, đại biểu các đảng phái, đoàn thể, dân tộc, tôn giáo có mưu cầu giành độc lập cho Việt Nam ở Đông Dương và hải ngoại đã tổ chức Đại hội Quốc dân tại đình Tân Trào (Tuyên Quang). Đại hội đưa ra chủ trương Tổng khởi nghĩa và thành lập Ủy ban Dân tộc Giải phóng Việt Nam, do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch.
Cách mạng Tháng Tám nổ ra và xóa bỏ chính quyền thuộc địa ở Việt Nam. Ngày 23 tháng 8, Bảo Đại tuyên bố thoái vị, Nội các Trần Trọng Kim tan rã. Ngày 28 tháng 8, Chính phủ cách mạng lâm thời của nước Việt Nam mới được thành lập trên cơ sở Ủy ban Dân tộc Giải phóng Việt Nam, đứng đầu là Hồ Chí Minh, giữ chức vụ Chủ tịch Chính phủ. Ngày 2 tháng 9, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thành lập, chính phủ mới ra mắt quốc dân.
Ngày 9 tháng 11 năm 1946, Quốc hội khóa I nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thông qua bản Hiến pháp đầu tiên. Theo Hiến pháp 1946, Chính phủ gồm Chủ tịch nước, Phó Chủ tịch nước và Nội các; Nội các gồm Thủ tướng, (Phó Thủ tướng), các Bộ trưởng, Thứ trưởng, đứng đầu Nội các là Thủ tướng.
Ngày 23 tháng 9 năm 1945, quân đội Pháp bắt đầu tái chiếm thuộc địa Đông Dương, Cao ủy d'Argenlieu quyết định trao quy chế tự trị cho thuộc địa Nam Kỳ để tách khu vực này khỏi Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Ngày 26 tháng 3 năm 1946, Hội đồng Tư vấn Nam Kỳ ủy nhiệm Nguyễn Văn Thinh làm Thủ tướng để thành lập Chính phủ tự trị. Ngày 27 tháng 5 năm 1948, Chính phủ tự trị ngừng hoạt động. Ngày 5 tháng 6 năm 1948, Thông cáo chung Vịnh Hạ Long được ký kết, chính quyền Pháp đồng ý thành lập một chính quyền Việt Nam khác thuộc Liên hiệp Pháp thay thế Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, gọi là Quốc gia Việt Nam. Chính phủ lâm thời Quốc gia Việt Nam được thành lập, đứng đầu là Thủ tướng.
Sau Hiệp định Genève (1954), nước Việt Nam tạm thời chia làm hai khu vực tập kết quân đội, lấy vĩ tuyến 17 làm giới tuyến quân sự tạm thời. Quân đội của chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tập kết ra miền bắc, quân đội Liên hiệp Pháp (gồm Quốc gia Việt Nam) tập kết vào miền nam. Cuộc tổng tuyển cử thống nhất sẻ được tổ chức vào tháng 7 năm 1956.
Ngày 23 tháng 10 năm 1955, một cuộc trưng cầu dân ý được tiến hành ở miền nam, Bảo Đại bị lật đổ, chính quyền Quốc gia Việt Nam bị xóa sổ. Ngày 26 tháng 10, chính quyền Việt Nam Cộng hòa được thành lập do Ngô Đình Diệm làm Tổng thống. Theo Hiến pháp 1956, Việt Nam Cộng hòa thi hành chế độ Tổng thống chế, với Tổng thống đứng đầu mặt hành pháp, trực tiếp quản lý Chính phủ. Tháng 11 năm 1963, Tổng thống Ngô Đình Diệm bị lật đổ trong một cuộc đảo chính quân sự, Hiến pháp 1956 bị hủy bỏ và Nguyễn Ngọc Thơ được quân đội đề cử làm Thủ tướng lâm thời, Việt Nam Cộng hòa lâm vào một loạt các vụ đảo chính trong các năm 1963-1965. Ngày 12 tháng 6 năm 1965, Nguyễn Văn Thiệu và Nguyễn Cao Kỳ tiến hành đảo chính, Ủy ban Hành pháp Trung ương được thành lập đóng vai trò như một Chính phủ, do Nguyễn Cao Kỳ làm Chủ tịch. Năm 1967, Hiến pháp mới của chính quyền Việt Nam Cộng hòa được thông qua, Chính phủ dân sự được tái lập với người đứng đầu là Thủ tướng.
Tháng 6 năm 1969, Đại hội Đại biểu Quốc dân miền Nam Việt Nam đã bầu ra Chính phủ lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam do Huỳnh Tấn Phát làm Chủ tịch Chính phủ.
Tại miền bắc, ngày 31 tháng 12 năm 1959, Quốc hội Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thông qua Hiến pháp mới. Theo đó, cơ quan hành pháp tối cao được gọi là Hội đồng Chính phủ, đứng đầu là Thủ tướng, còn gọi là Thủ tướng Chính phủ.
Tháng 5 năm 1975, Cộng hòa miền Nam Việt Nam giành thắng lợi trong cuộc Tổng tiến công nổi dậy mùa xuân, hoàn toàn xóa bỏ chính quyền Việt Nam Cộng hòa. Tháng 6 năm 1976, hai miền Việt Nam được thống nhất trở thành nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, tiếp tục duy trì theo Hiến pháp 1959.
Ngày 18 tháng 12 năm 1980, Quốc hội Việt Nam thông qua Hiến pháp mới. Theo đó, cơ quan Chính phủ được gọi là Hội đồng Bộ trưởng, lãnh đạo bởi Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng.
Ngày 15 tháng 4 năm 1992, Quốc hội Việt Nam thông qua Hiến pháp mới, thay cơ quan hành chính cao nhất từ Hội đồng Bộ trưởng thành Chính phủ, lãnh đạo bởi Thủ tướng, còn gọi là Thủ tướng Chính phủ.
Ngày 13 tháng 8 năm 2013, Quốc hội Việt Nam thông qua Hiến pháp mới, cơ quan hành chính nhà nước cao nhất vẫn là Chính phủ, người lãnh đạo chính phủ là Thủ tướng Chính phủ.
Dưới đây là danh sách Thủ tướng ở Việt Nam từ năm 1945 trên hai miền nam và bắc Việt Nam.
Từ khi thành lập Chính phủ lâm thời tháng 8 năm 1945 (danh sách Chính phủ lâm thời đầu tiên được đăng trên các báo ngày 28 tháng 8) đến 1954, Hồ Chí Minh giữ chức vụ Chủ tịch Chính phủ, vừa đại diện đất nước, vừa nắm quyền Hành pháp. Tuy Hiến pháp 1946 có quy định chức vụ Thủ tướng đứng đầu Nội các hỗ trợ Chủ tịch Chính phủ, nhưng trước năm 1955 không có ai giữ cương vị này nên Chủ tịch Hồ Chí Minh được coi như kiêm nhiệm cả công việc của Thủ tướng Nội các. Trong công hàm đề ngày 19 tháng 7 năm 1955 gửi Quốc trưởng và Thủ tướng Chính phủ miền Nam Việt Nam về vấn đề hiệp thương chính trị có ghi chức vụ của Hồ Chí Minh là Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa kiêm Chủ tịch Chính phủ.
Những người có tên được in đậm và nghiên là người nắm giữ quyền Thủ tướng và phần chức vụ in nghiên chức danh. |
Muối ăn hay trong dân gian còn gọi đơn giản là muối (tuy rằng theo đúng thuật ngữ khoa học thì không phải muối nào cũng là muối ăn) là một khoáng chất, được con người sử dụng như một thứ gia vị cho vào thức ăn. Có rất nhiều dạng muối ăn: muối thô, muối tinh, muối iod. Đó là một chất rắn có dạng tinh thể, có màu từ trắng tới có vết của màu hồng hay xám rất nhạt, thu được từ nước biển hay các mỏ muối. Muối thu được từ nước biển có các tinh thể nhỏ hoặc lớn hơn muối mỏ. Trong tự nhiên, muối ăn bao gồm chủ yếu là natri chloride (NaCl), nhưng cũng có một ít các khoáng chất khác (khoáng chất vi lượng). Muối ăn thu từ muối mỏ có thể có màu xám hơn vì dấu vết của các khoáng chất vi lượng. Muối ăn là cần thiết cho sự sống của mọi cơ thể sống, bao gồm cả con người. Muối ăn tham gia vào việc điều chỉnh độ chứa nước của cơ thể (cân bằng lỏng). Vị của muối là một trong những vị cơ bản. Sự thèm muối có thể phát sinh do sự thiếu hụt khoáng chất vi lượng cũng như do thiếu chloride natri. Muối có thể tồn tại hàng trăm triệu năm không bị phân hủy trong môi trường bảo quản tốt.
Muối ăn là tối thiết cho sự sống, nhưng việc sử dụng quá mức có thể làm tăng độ nguy hiểm của các vấn đề sức khỏe, chẳng hạn như bệnh cao huyết áp. Trong việc nấu ăn, muối ăn được sử dụng như là chất bảo quản cũng như là gia vị.
Khả năng bảo quản muối là cơ sở của sự buôn bán, trao đổi giữa các nền văn minh. Nó góp phần loại bỏ sự phụ thuộc vào khả năng cung ứng thực phẩm theo mùa và cho phép con người có thể đi xa khỏi nơi cư trú mà không lo sợ thiếu thực phẩm. Vào thời Trung cổ, các đoàn lữ hành cùng với khoảng 40.000 lạc đà đã đi tới 4.000 dặm xuyên qua Sahara có chở theo muối, đôi khi để trao đổi lấy nô lệ.
Cho đến những năm đầu thế kỷ 20, muối vẫn còn là một trong các động cơ chủ yếu của các nền kinh tế và các cuộc chiến tranh. Muối đóng một vai trò nổi bật trong việc xác định quyền lực và sự phân bổ vị trí của các thành phố lớn nhất trên thế giới. Timbuktu đã từng là một trong các thị trường buôn bán muối lớn nhất. Liverpool phát triển từ một cảng nhỏ của Anh để trở thành hải cảng xuất khẩu chủ yếu đối với các loại muối mỏ được khai thác từ mỏ muối lớn Cheshire và vì thế trở thành nguồn của muối thế giới trong những năm thế kỷ 19.
Muối đã tạo ra và hủy diệt các vương quốc. Các mỏ muối ở Ba Lan đã dẫn tới sự ra đời của hoàng loạt các vương quốc trong thế kỷ 16, và chỉ bị tiêu diệt khi người Đức đưa ra loại muối ăn làm từ nước biển (thông thường, đối với phần lớn trên thế giới, được coi là 'hơn hẳn' muối mỏ). Người Venezuela đã đánh nhau và giành thắng lợi trong cuộc chiến với người Genova về vấn đề muối. Tuy nhiên, người Genova mới là người giành thắng lợi cuối cùng. Những công dân Genova như Christopher Columbus và Giovanni Caboto đã "phá hủy" thương mại ở Địa Trung Hải bằng việc giới thiệu Tân Thế giới đối với thị trường.
Muối đã từng là một trong số các hàng hóa có giá trị nhất đối với loài người. Muối đã từng bị đánh thuế có lẽ từ thế kỷ 20 TCN ở Trung Quốc. Trong thời kỳ Đế chế La Mã, muối đôi khi được sử dụng như là đơn vị tiền tệ, và có lẽ là nguồn gốc của từ salary ("salt money"-tức tiền muối, xem dưới đây từ nguyên học). Cộng hòa La Mã và Đế chế La Mã đã kiểm soát giá muối, tăng nó để có tiền cho các cuộc chiến hay giảm nó để đảm bảo cho các công dân nghèo nhất cũng có thể dễ dàng có được phần quan trọng trong khẩu phần thức ăn này. Trong tiến trình lịch sử, muối ăn đã có ảnh hưởng tới diễn biến các cuộc chiến, chính sách tài chính của các nhà nước và thậm chí là sự khởi đầu của các cuộc cách mạng.
Tại đế chế Mali, các thương nhân ở Timbuktu thế kỷ 12 - cánh cửa tới sa mạc Sahara và trung tâm văn học - đánh giá muối có giá trị đến mức chỉ có thể mua nó theo trọng lượng tính đúng bằng trọng lượng của vàng; việc kinh doanh này dẫn tới truyền thuyết về sự giàu có khó tưởng tượng nổi của Timbuktu và là nguyên nhân dẫn tới lạm phát ở châu Âu, là nơi mà muối được xuất khẩu tới. Thời gian sau này, ví dụ trong thời kỳ đô hộ của người Anh thì việc sản xuất và vận chuyển muối đã được kiểm soát ở Ấn Độ như là các biện pháp để thu được nhiều tiền thuế. Điều này cuối cùng đã dẫn tới cuộc biểu tình muối ở Dandi, do Mahatma Gandhi dẫn đầu vào năm 1930 trong đó hàng nghìn người Ấn Độ đã ra biển để sản xuất muối cho chính họ nhằm phản đối chính sách thuế của người Anh.
Việc buôn bán muối dựa trên một thực tế là nó đem lại nhiều lợi nhuận hơn khi bán các thực phẩm có chứa muối chứ không phải chính muối. Trước khi các mỏ muối ở Cheshire được phát hiện thì việc kinh doanh khổng lồ các loại cá của người Anh đối với muối của người Pháp đã từng tồn tại. Điều này không phải là sự hòa hợp tốt đẹp cho mỗi quốc gia khi họ không muốn phụ thuộc vào nhau. Cuộc tìm kiếm cá và muối đã dẫn tới cuộc chiến tranh bảy năm giữa hai nước. Với sự kiểm soát của người Anh đối với nghề muối ở Bahamas và cá tuyết Bắc Mỹ thì tầm ảnh hưởng của họ đã tăng lên nhanh chóng trên thế giới. Việc tìm kiếm các mỏ dầu vào cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20 đã sử dụng các công nghệ và phương thức mà những người khai thác muối đã dùng, thậm chí đến mức mà họ tìm kiếm dầu ở những nơi có các mỏ muối.
Các dạng muối ăn.
Một số người cho rằng muối thô "tốt hơn" cho sức khỏe hay "tự nhiên hơn". Tuy nhiên muối thô có thể chứa không đủ lượng iod cần thiết để phòng ngừa một số bệnh do thiếu iod như bệnh bướu cổ. muối thô thường có vị mặn hơn và hạt muối thường to hơn một chút so với các loại muối khác.
Muối tinh, được sử dụng rộng rãi hiện nay, chủ yếu là chứa natri clorua (NaCl). Tuy nhiên, chỉ có khoảng 7% lượng muối tinh được sử dụng trong đời sống hàng ngày như là chất thêm vào thức ăn. Phần lớn muối tinh được sử dụng cho các mục đích công nghiệp, từ sản xuất bột giấy và giấy tới việc hãm màu trong công nghệ nhuộm vải hay trong sản xuất xà phòng và chất tẩy rửa và nó có một giá trị thương mại lớn.
Việc sản xuất và sử dụng muối là một trong những ngành công nghiệp hóa chất lâu đời nhất. Muối có thể thu được bằng cách cho bay hơi nước biển dưới ánh nắng trong các ruộng muối. Muối thu được từ nước biển đôi khi còn được gọi là "muối biển". Ở những nước có mỏ muối thì việc khai thác muối từ các mỏ này có thể có giá thành thấp hơn. Các mỏ muối có lẽ được hình thành do việc bay hơi nước của các hồ nước mặn cổ. Việc khai thác các mỏ muối này có thể theo các tập quán thông thường hay bằng cách bơm nước vào mỏ muối để thu được nước muối có độ bão hòa về muối.
Sau khi thu được muối thô, người ta sẽ tiến hành các công nghệ làm tinh để nâng cao độ tinh khiết cũng như các đặc tính để dễ dàng vận chuyển, lưu giữ. Việc làm tinh muối chủ yếu là tái kết tinh muối. Trong quá trình này người ta sẽ làm kết tủa các tạp chất (chủ yếu là các hợp chất của magnesi và calci). Quá trình bay hơi nhiều công đoạn sau đó sẽ được sử dụng để thu được chloride nátri tinh khiết và nó được làm khô.
Các chất chống đông bánh hoặc iodide kali (KI) (nếu làm muối iod) sẽ được thêm vào trong giai đoạn này. Các chất chống đông bánh là các hóa chất chống ẩm để giữ cho các tinh thể muối không dính vào nhau. Một số chất chống ẩm được sử dụng là tricalci phosphat, cacbonat calci hay magnesi, muối của các acid béo, oxide magnesi, dioxide silic, silicat nátri-nhôm, hay silicat calci-nhôm. Cũng lưu ý rằng có thể có độc tính của nhôm trong hai hóa chất sau cùng, tuy nhiên cả liên minh châu Âu (EU) và FDA của Mỹ vẫn cho phép sử dụng chúng với một liều lượng có điều chỉnh.
Muối tinh sau đó được đóng gói và phân phối theo các kênh thương mại.
Muối ăn ngày nay là muối tinh, chứa chủ yếu là chloride natri nguyên chất (95% hay nhiều hơn). Nó cũng chứa các chất chống ẩm. Thông thường nó được bổ sung thêm iod dưới dạng của một lượng nhỏ iodide kali (KI). Nó được sử dụng trong nấu ăn và làm gia vị. Muối ăn chứa iod làm tăng khả năng loại trừ các bệnh có liên quan đến thiếu hụt iod. Iod là chất quan trọng trong việc ngăn chặn việc sản xuất không đủ của các hoóc môn tuyến giáp, thiếu iod là nguyên nhân của bệnh bướu cổ hay chứng đần ở trẻ em và chứng phù niêm ở người lớn.
Các ứng dụng sức khỏe.
Natri là một trong những chất điện giải cơ bản trong cơ thể. Quá nhiều hay quá ít muối ăn trong ăn uống có thể dẫn đến rối loạn điện giải, có thể dẫn tới các vấn đề về thần kinh rất nguy hiểm, thậm chí có thể gây chết người. Việc sử dụng quá nhiều muối ăn còn liên quan đến bệnh cao huyết áp.
Các chất thay thế cho muối ăn (với mùi vị tương tự như muối ăn thông thường) cho những người cần thiết phải hạn chế ion natri Na+ trong cơ thể, chủ yếu là chứa chloride kali (KCl).
Lợi ích khác của muối.
Muối dùng để ướp các thực phẩm tươi sống như cá, tôm, cua, thịt trước khi chế biến để tránh bị ươn, hư, dùng làm chất bảo quản cho các thực phẩm, để làm một số món ăn như muối dưa, muối cà, làm nước mắ
Do có tính sát trùng nên muối ăn còn được pha loãng làm nước súc miệng hay rửa vết thương ngoài da.
Muối ăn không chỉ dùng để ăn mà còn dùng cho các việc khác trong ngành công nghiệp đặc biệt là ngành hóa chất:
2NaCl + 2H2O (điện phân dung dịch có màng ngăn) → 2NaOH + H2 + Cl2
NaCl (điện phân nóng chảy) → Na + 1/2Cl2
2NaOH + Cl2 → NaCl + NaClO + H2O
NaClO + H2O + CO2 → NaHCO3 + HClO |
Đại lượng vật lý
Đại lượng vật lý là các thể hiện về mặt định lượng bản chất vật lý có thể đo lường được của một vật thể hay hiện tượng tự nhiên, như khối lượng, trọng lượng, thể tích, vận tốc, lực, , giá trị đo được là một con số theo sau bởi một đơn vị đo (còn gọi là thứ nguyên của đại lượng đó).
Ký hiệu đại lượng.
Thông thường, các ký hiệu của các đại lượng vật lý học được chọn lựa từ các chữ cái đơn của Bảng chữ cái Latinh hay Bảng chữ cái Hy Lạp, và được in nghiêng. Cả chữ in hoa và in thường được sử dụng. Thỉnh thoảng, ta thấy sự xuất hiện của các "ký tự in trên" hay các "ký tự in dưới". Nếu các ký tự in trên hay các ký tự in dưới này tự chúng đã là ký hiệu cho các đại lượng vật lý học, chúng sẽ được in nghiêng.
Biểu diễn giá trị đo được của một đại lượng.
Lấy một thí dụ:
P = 42,3 x 103 W
"P" là đại lượng vật lý công suất
"42,3 x 103" là một giá trị số
"W" là đơn vị chuẩn của công suất trong hệ thống đo lường quốc tế SI
Đại lượng cơ bản và đại lượng dẫn xuất.
Trong vật lý học có rất nhiều đại lượng nên chúng cần được sắp xếp một cách hệ thống và hợp lý. Đa số các đại lượng lại có mối quan hệ mật thiết với nhau, chẳng hạn như vận tốc là tỉ số giữa quãng đường và thời gian. Do đó, chúng ta cần chọn một số đại lượng làm đại lượng cơ bản và các đại lượng khác được định nghĩa dựa trên các đại lượng cơ bản, nói cách khác chúng được "dẫn xuất" từ các đại lượng cơ bản, và được là các đại lượng dẫn xuất.
Đại lượng vật lý cơ bản: là các đại lượng tồn tại độc lập, đặc trưng cho các thuộc tính cơ bản nhất của sự vật, hiện tượng. Gồm có bảy loại: chiều dài, khối lượng, thời gian, nhiệt độ, cường độ dòng điện, cường độ sáng và lượng chất.
Đại lượng vật lý dẫn xuất: biểu diện các thuộc tính của sự vật, hiện tượng, chúng được định nghĩa từ các đại lượng cơ bản thông qua các phương trình vật lý. |
Sự kiện 30 tháng 4 năm 1975
Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
Sự kiện 30 tháng 4 năm 1975, thường được gọi là Ngày 30 tháng Tư, Ngày giải phóng miền Nam, Thống nhất Đất nước (tên gọi của Nhà nước Việt Nam) hoặc ngày Sài Gòn sụp đổ ("Fall of Saigon," cách gọi của báo chí phương Tây), hoặc Ngày Quốc hận và Tháng Tư Đen (trong cộng đồng người Việt chống Cộng ở nước ngoài), là sự kiện chấm dứt Chiến tranh Việt Nam khi Quân đội Nhân dân Việt Nam và Quân Giải phóng miền Nam tiến vào thành phố Sài Gòn, Tổng thống Việt Nam Cộng hòa Dương Văn Minh cùng nội các tuyên bố đầu hàng vô điều kiện Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam vào sáng ngày 30 tháng 4 năm 1975. Ngày này là kết quả trực tiếp của Chiến dịch Mùa Xuân năm 1975 và là một mốc quan trọng trong lịch sử Việt Nam. Thành phố Sài Gòn sau đó được đổi tên thành Thành phố Hồ Chí Minh, theo tên của cố Chủ tịch Việt Nam Dân chủ Cộng hòa Hồ Chí Minh nhằm vinh danh ông và sự kiện này.
Sự kiện 30 tháng 4 diễn ra sau khi tất cả công dân và lính Mỹ cùng hàng ngàn người Việt ở miền Nam Việt Nam di tản khỏi Sài Gòn. Chiến dịch Gió lốc trở thành hoạt động di tản bằng trực thăng lớn nhất trong lịch sử. Vì nhiều người đã di tản và chính phủ Việt Nam Xã hội chủ nghĩa áp dụng quy định mới về hộ khẩu đã góp phần làm cho dân số thành phố giảm xuống sau đó, tuy nhiên tỷ lệ giảm không nhiều (tốc độ giảm trung bình là 10.000 người mỗi năm trong khi dân số Sài Gòn là gần 4 triệu người); nhưng đến năm 1979, dân số thành phố lại bắt đầu tăng trở lại.
Có rất nhiều tên gọi khác nhau để chỉ về sự kiện này do lập trường chính trị khác nhau giữa các bên. Chính phủ Việt Nam chính thức gọi đây là "Ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước" hay "Ngày giải phóng", "Ngày thống nhất", Sách báo của phương Tây thì thường gọi đây là sự kiện "Sài Gòn thất thủ" (Fall of Saigon), hay "Giải phóng Sài Gòn" (Liberation of Saigon). Cộng đồng Việt kiều chống cộng lưu vong ở nước ngoài lại gọi đây là "Tháng tư đen", hay "Ngày Quốc hận", "Ngày Quốc nhục", "Ngày mất nước" và các tên gọi khác tương tự. Có sách của Trung Hoa Dân Quốc (Đài Loan) thì gọi đây là ngày "Sài Gòn sụp đổ" hay "Sài Gòn thất thủ".
Sau Hiệp định Paris năm 1973, tinh thần và khả năng chiến đấu của quân đội Việt Nam Cộng hòa bị suy giảm nghiêm trọng, nhất là sau khi Richard Nixon từ chức vì vụ Watergate vào tháng 8 năm 1974. Sự suy sụp này còn do các mục tiêu tác chiến không thể hoàn thành như đã định cũng như những thất bại liên tiếp trên chiến trường.
Hoa Kỳ giảm viện trợ.
Sau khi quân đội Mỹ rút khỏi miền Nam Việt Nam, viện trợ quân sự của Mỹ cho Việt Nam Cộng hòa đã dần bị cắt giảm. Theo lời kể của ông Nguyễn Tiến Hưng, Tổng trưởng Kế hoạch của chính phủ Việt Nam Cộng hòa lúc bấy giờ, thì Giáo sư Warren Nutter là cựu Phụ tá Tổng trưởng Quốc phòng, đặc trách phần tài chính của chương trình "Việt Nam hóa". Khi dự điểm tâm với Tổng thống Việt Nam Cộng hòa Nguyễn Văn Thiệu vào sáng ngày 23 tháng 8 năm 1974 tại Dinh Độc Lập, ông Thiệu bày tỏ sự lo ngại về viện trợ:
"Mới vài ngày trước đây là một tỷ, bây giờ còn 700 triệu, tôi làm gì được với số tiền này? Như là chuyện cho tôi 12 đô la và bắt tôi mua vé máy bay hạng nhất từ Sài Gòn đi Tokyo."
Giáo sư Nutter cũng rất bối rối và giải thích hành động của Quốc hội:
"Quốc hội Hoa Kỳ đôi khi hành động vô trách nhiệm như vậy… Cái Trung tâm Tài nguyên Đông Dương (Indochina Resource Center, một trung tâm của những người phản chiến) đang hết sức tìm cách tiêu diệt quý quốc."
Nền kinh tế và chi tiêu của Việt Nam Cộng hòa duy trì được chủ yếu nhờ viện trợ Mỹ. Nền công nghiệp miền Nam nhỏ bé, nông nghiệp bị chiến tranh tàn phá. Lạm phát phi mã xảy ra cùng với tệ tham nhũng, lợi dụng chức quyền càng làm cho nền kinh tế thêm tồi tệ. Ông Bùi Diễm, Đại sứ Việt Nam Cộng hòa tại Hoa Kỳ, nhận định tình hình kinh tế và quân sự của miền Nam Việt Nam rất xấu đã khiến người dân không hài lòng với chính quyền Nguyễn Văn Thiệu, tiền lương quân nhân không đủ sống do đó tình hình chính trị cũng xấu theo. Nạn đào ngũ là một vấn đề nghiêm trọng đối với Quân lực Việt Nam Cộng hòa. Riêng từ tháng 4 tới tháng 12/1974 đã có 176.000 lính đào ngũ. Tại các lực lượng tinh nhuệ của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, Biệt động quân có tỷ lệ đào ngũ lớn nhất (55%), tiếp theo là các đơn vị Dù (30%) và Thủy quân Lục chiến (15%). Trong khi đó, Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam đã duy trì một lợi thế tâm lý mạnh mẽ, với những người lính tràn đầy tinh thần sẵn sàng hy sinh mục đích cá nhân để cống hiến cho nỗ lực chiến tranh của tập thể, đó là "ưu thế quyết định" của họ. Bên cạnh đó, họ đã cố gắng duy trì nỗ lực chiến tranh giải phóng đất nước suốt 30 năm và không có lý do gì để từ bỏ nó khi mà quân đội của mình ngày càng hùng mạnh và chiếm được thế thượng phong. Mọi người lính và chỉ huy quân Giải phóng đều cho rằng ngày chiến thắng đã cận kề, chỉ còn cách họ một trận đánh cuối cùng.
Sự suy yếu của Quân lực Việt Nam Cộng hòa.
Sau này, trong tập hồi ký "Mùa Xuân Đại Thắng", Đại tướng Văn Tiến Dũng của Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam đã viết: Một trong những động cơ thúc đẩy Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam và Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam mở cuộc tổng tấn công ở miền Nam là do Mỹ đã giảm viện trợ, khiến cho lực lượng quân lực Việt Nam Cộng hòa (vốn được tổ chức rập khuôn theo lối đánh tốn kém của Mỹ) đã không thể có đủ tài chính để duy trì số lượng lớn vũ khí. Đó là vì "hỏa lực không quân đã sút giảm gần 60% vì thiếu bom, đạn; khả năng di động cũng giảm đi 50% vì thiếu máy bay, xe cộ và nhiên liệu". Trong khi quân đội Sài Gòn cần 3 tỉ đô mỗi năm để duy trì bộ máy chiến tranh thì đối thủ của họ chỉ cần 10% con số đó để xây dựng một lực lượng quân sự đủ lớn để vừa giữ vững miền Bắc vừa tăng cường quân đội chiến đấu ở miền Nam. Sự suy yếu của Quân lực Việt Nam Cộng hòa còn do yếu tố tâm lý khi tinh thần của binh lính xuống rất thấp, số lượng đào ngũ tăng mạnh. Ngay cả tại những đơn vị tinh nhuệ của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, tỷ lệ đào ngũ cũng tăng lên mức rất cao. Biệt động quân có tỷ lệ đào ngũ lớn nhất (55% mỗi năm), tiếp theo là các đơn vị Dù (30%) và Thủy quân Lục chiến (15%).
Tuy nhiên, quân số và vũ khí của Quân lực Việt Nam Cộng hòa vẫn có những sự vượt trội nhất định khi có 1.351.000 quân, 383 xe tăng (162 M48A3, 221 M41) và 1.691 thiết giáp chở quân M-113, không quân vượt trội hoàn toàn với 550 phi cơ A-1H, A-37 và F-5, 23 phi đoàn trực thăng, trang bị khoảng 1.000 phi cơ UH-1 và CH-47, khoảng 200 phi cơ O1, O2 và U17, khoảng 150 phi cơ C7, C-47, C-119 và C-130), 1 không đoàn tân trang chế tạo, 4 phi đoàn hỏa long, trang bị phi cơ AC-119, AC-130 Spectre Gunship. Ngoài ra còn có phi đoàn trắc giác (tình báo kỹ thuật), phi đoàn quan sát RC-119L và biệt đoàn đặc vụ 314, trong khi đó Quân Giải phóng không thể triển khai lực lượng không quân ở miền Nam và lực lượng tăng thiết giáp cũng tương đối hạn chế. Ngay cả lực lượng bộ binh của quân Giải phóng cũng không thể đạt tới con số 1 triệu quân, kể cả ở thời điểm cao nhất.
Theo hồi ký của Đại tướng Văn Tiến Dũng thì cục diện chiến trường đang chuyển biến ngày càng bất lợi cho quân lực Việt Nam Cộng hòa. Tại Khu 9, các cuộc hành quân lấn chiếm bị thất bại, hơn 2.000 đồn bốt bị phá, 400 ấp chiến lược với gần 800.000 dân bị quân Giải phóng xóa bỏ. Khu 8 có hơn 200 ấp chiến lược với hơn 130.000 dân bị xóa bỏ. Tại Khu 5, quân Giải phóng đã chuyển lên thế tiến công ngày càng mạnh, mở rộng bàn đạp vùng giáp ranh (Nông Sơn, Thượng Đức, Tuy Phước, Minh Long, Giá Vụt), xoá hẳn gần 800 đồn bốt, giải phóng 250 ấp với 200.000 dân.
Trong hồi ký của mình, Đại tướng Văn Tiến Dũng cho rằng tinh thần và sức chiến đấu của quân lực Việt Nam Cộng hòa giảm sút rõ rệt. Do Hoa Kỳ cắt giảm viện trợ, nhiều binh sĩ mất chỗ dựa tinh thần từ lâu nay (được cường quốc số 1 hỗ trợ), nền kinh tế thì ngày càng khó khăn do kinh tế khủng hoảng và nạn lạm phát 300% trong năm 1974. Có 170.000 lính đào ngũ, rã ngũ trong năm 1974, dù tăng cường thêm lính quân dịch thì tổng số quân vẫn giảm 20.000 so với năm 1973. Cuối 1974, quân Giải phóng chủ lực của miền Đông Nam Bộ phối hợp với lực lượng của địa phương mở chiến dịch Đường 14 - Phước Long giành thắng lợi lớn. Trong hơn 20 ngày quân Giải phóng đã diệt và bắt trên 5.400 lính, thu 3.000 súng các loại, giải phóng thị xã Phước Long và toàn tỉnh Phước Long. Chiến bại này đánh dấu một bước suy sụp mới của quân Sài Gòn. Quân chủ lực của Việt Nam Cộng hòa đã không còn đủ sức hành quân giải tỏa quy mô lớn để lấy lại các vùng, các căn cứ và thị xã quan trọng trên các địa bàn giáp ranh, dù Phước Long chỉ cách Sài Gòn 50 km.
Ngay sau thất bại Phước Long, cố vấn Mỹ John Pilger đã tiên liệu trước về sự sụp đổ của chế độ Sài Gòn sẽ diễn ra trong nay mai. Ông viết:
"Sài Gòn đang sụp đổ trước mắt, một Sài Gòn được người Mỹ hậu thuẫn, một thành phố được coi là "thủ đô tiêu dùng" nhưng chẳng hề sản xuất được một mặt hàng nào ngoài chiến tranh. Trong hàng ngũ của quân đội "lớn thứ tư" thế giới vào thời điểm đó, binh lính đang đào ngũ với tốc độ cả nghìn người trong một ngà"
Diễn biến chính trị và quân sự.
Các động thái của Hoa Kỳ.
Tổng thống Gerald Ford không thuyết phục được Quốc hội Hoa Kỳ chi thêm ngân sách cho chiến trường Việt Nam. Đầu năm 1975, sau hai năm ký hiệp định Paris, Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam đã huy động gần như toàn bộ lực lượng của mình gồm 270 ngàn quân chủ lực cho chiến dịch, mở cuộc tấn công lớn trên toàn miền Nam Việt Nam, bắt đầu là ở Tây Nguyên. Buôn Ma Thuột thất thủ gây chấn động hệ thống phòng thủ của quân đội Việt Nam Cộng hòa và là khởi đầu của những chiến dịch nối tiếp nhau.
Quân lực Việt Nam Cộng hòa đông hơn nhiều với hơn 1,3 triệu quân nhưng tỏ ra bất lực và đề nghị Mỹ chi viện. Ngày 23 tháng 3, Nguyễn Văn Thiệu nhận được thư của Tổng thống Mỹ là Gerald Ford:
"Ngày 22 tháng 3 năm 1975"
"Cuộc tấn công hiện nay của Bắc Việt Nam chống lại quý quốc thật vô cùng xáo trộn khiến riêng cá nhân tôi lo âu. Theo quan điểm của tôi, thì cuộc tấn công của Hà Nội tượng trưng cho một sự việc không kém gì sự hủy bỏ Hiệp định Paris bằng vũ lực."
"Biến chuyển này mang theo hậu quả nghiêm trọng nhất cho cả hai dân tộc chúng ta. Đối với Ngài và nhân dân Ngài thì đây là lúc hy sinh lớn nhất, nó sẽ quyết định chính số phận quý quốc. Tôi tin tưởng rằng dưới quyền lãnh đạo của Ngài, quân lực và nhân dân Việt Nam Cộng Hòa sẽ tiếp tục công cuộc bảo vệ kiên trì chống lại vụ xâm lược mới này. Tôi cũng tin tưởng chắc chắn rằng nếu có được sự yểm trợ bổ túc từ bên ngoài vào thì quý quốc sẽ thắng thế trong cuộc đấu tranh giành quyền tự quyết của mình."
"Riêng đối với Hoa Kỳ thì vấn đề cũng không kém phần cấp bách."
"Khi hành động như thế này, Hà Nội đang tìm cách hủy diệt tất cả những gì mà chúng ta đã chiến đấu để thành đạt, với phí tổn vô cùng to lớn, suốt mười năm qua."
"Sự quyết tâm của Hoa Kỳ để yểm trợ một người bạn đang bị các lực lượng (Bắc Việt) với vũ khí hùng mạnh tấn công, hoàn toàn vi phạm một thỏa ước quốc tế (đã được ký kết) long trọng, là một điều hết sức cần thiết."
"Riêng tôi, tôi quyết tâm rằng Hoa Kỳ sẽ đứng vững sau lưng Việt Nam Cộng hòa trong giờ phút tối quan trọng này. Với mục đích tôn trọng những bổn phận của Hoa Kỳ trong tình thế này, tôi đang theo dõi những biến chuyển với chủ tâm cao độ nhất và đang khẩn cấp tham khảo ý kiến các cố vấn của tôi về những hành động mà tình thế có thể đòi hỏi và pháp luật cho phép. Về việc cung ứng viện trợ quân sự đầy đủ cho quân đội Ngài, xin Ngài yên tâm là tôi sẽ cố tâm nỗ lực để thoả mãn những nhu cầu vật chất của Ngài trên chiến trường."
"Trước khi chấm dứt, tôi xin được nhắc lại một lần nữa lòng cảm phục liên tục của tôi đối với quyết tâm của Ngài và đối với sức bền bỉ và sự anh dũng của nhân dân Việt Nam Cộng Hòa".
"(ký) Gerald R. Ford"
Dù là nói tới quyết tâm ủng hộ nhưng người thảo bức thư đã khôn khéo gài vào: "(tôi) đang khẩn cấp tham khảo ý kiến các cố vấn về những hành động mà tình thế có thể đòi hỏi và pháp luật cho phép".
Ngày 23 tháng 3, Huế rơi vào tay Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam trong khi ở Đà Nẵng, hàng ngàn binh lính tìm cách chạy thoát một cách thiếu tổ chức bằng đường biển khỏi thành phố đang bị bao vây và nã pháo. Trong 4 sư đoàn bộ binh của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, 4 liên đoàn Biệt động quân, lữ đoàn thiết giáp, sư đoàn không quân, tổng cộng 12 vạn quân và hàng ngàn nhân viên quân sự và địa phương quân, chỉ có 16.000 rút được. Trong số gần 2 triệu dân thường dồn lại tại Đà Nẵng từ cuối tháng 3, chỉ có hơn 50.000 người sơ tán được bằng đường thủy. Còn lại là 70.000 binh sĩ Việt Nam Cộng hòa bị bắt làm tù binh. Ngoài ra 33 máy bay phản lực A-37 còn nguyên vẹn cùng gần 60 máy bay khác tại căn cứ không quân Phù Cát cũng bị bỏ lại. Trong cuộc sụp đổ của Đà Nẵng, không có một trận chiến nào. Khi Quân Giải phóng tiến vào thành phố, không mấy binh sĩ Việt Nam Cộng hòa đóng quanh thành phố chống cự. Các trung tâm phòng thủ còn lại dọc theo bờ biển cũng nhanh chóng tan vỡ dây chuyền: Quảng Ngãi ngày 24 tháng 3; Quy Nhơn và Nha Trang ngày 1 tháng 4; và cảng Cam Ranh ngày 3 tháng 4.
Ngày 28/3/1975, Tham mưu trưởng Lục quân Hoa Kỳ, tướng Frederick C. Weyand, bay sang Sài Gòn khảo sát tình hình để báo cáo cho Tổng thống Mỹ. Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Mỹ là James R. Schlesinger đã chỉ đạo Weyand không được hứa gì nhiều với chính quyền Nguyễn Văn Thiệu vì không thể đảo ngược được tình thế, ông ta thấy tình hình của quân Việt Nam Cộng hòa đã trở nên quá tồi tệ.
Sau khi tướng Weyand về Mỹ, Bộ trưởng Quốc phòng Schlesinger tuyên bố một giả thuyết giật gân, rằng ""nếu cộng sản nắm chính quyền thì có thể 200.000 người Việt Nam sẽ bị tàn sát”". Sáng hôm sau, tờ báo Pacific Starsand Stripes (tờ báo của quân đội Mỹ), xuất bản ở Sài Gòn, đăng lại lời tuyên bố ấy bằng chữ đậm. Nhiều người dân ở miền Nam Việt Nam tin lời Schlesinger và hoảng sợ, bỏ nhà cửa để tìm cách chạy trốn (tuy nhiên, cuối cùng không có một cuộc tàn sát nào xảy ra, quân Giải phóng tiến vào Sài Gòn một cách thuận lợi với sự hỗ trợ của nhiều người dân, nhiều người dân khác thì rất ngạc nhiên vì quân Giải phóng có thái độ mềm mỏng và kỷ luật tốt, họ không hề tiến hành cướp bóc hoặc phá phách như những gì báo chí Mỹ-Việt Nam Cộng hòa tuyên truyền).
Thấy rõ sự thất bại không thể cứu vãn nổi, sau khi xem báo cáo của Weyand, Ngoại trưởng Henry Kissinger đã nguyền rủa: "“Sao bọn chúng [Việt Nam Cộng hòa] không chết quách đi. Điều tồi tệ nhất có thể xảy ra là chúng cứ sống vất vưởng hoài”". Phần lớn các nhân vật trong Quốc hội và Chính phủ Mỹ phản đối việc đưa quân Mỹ trở lại Việt Nam. Vấn đề cấp bách hơn lúc này là phải đưa người Mỹ ra khỏi miền Nam Việt Nam.
Các tướng Việt Nam Cộng hòa bỏ ra nước ngoài.
Trong nửa đầu tháng 4, với Quân đoàn 2 của quân Giải phóng từ phía bắc tiến vào và Quân đoàn 3 từ Tây Nguyên đổ xuống, các tỉnh Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa lần lượt rơi vào tay Quân Giải phóng.
Ngày 9 tháng 4, Quân đoàn 4 Quân giải phóng định đánh chiếm huyện Xuân Lộc tỉnh Đồng Nai trên hành tiến - tuyến phòng thủ từ xa cuối cùng của Sài Gòn - nhưng Sư đoàn 18 của Quân lực Việt Nam Cộng hòa đã kháng cự ác liệt có tổ chức để giữ vững được thị xã. Đây là trận đánh dài ngày có tổ chức cuối cùng của Quân lực Việt Nam Cộng hòa. Trận Xuân Lộc đã gây thương vong rất lớn cho cả hai bên.
Ngày 17 tháng 4, Thượng viện Hoa Kỳ từ chối khoản viện trợ khẩn cấp trị giá 722 triệu Mỹ kim mà chính phủ Gerald Ford đề nghị. Tuy không ai tin rằng viện trợ Mỹ có thể xoay chuyển tình thế, một số chuyên viên như Ngoại trưởng Mỹ Henry Kissinger hy vọng rằng ngân khoản đó có thể giúp Việt Nam Cộng hòa lấy lại được đủ vị thế về quân sự để thuyết phục đối phương ngừng tiến quân và đàm phán. Hai ngày sau phán quyết này của Thượng viện, giám đốc CIA William Colby nói với Tổng thống Ford: "Nam Việt Nam đang đối mặt với thất bại hoàn toàn và nhanh chóng". Các chuyến bay di tản do CIA tổ chức đã bắt đầu đưa các cộng tác viên người Việt rời Việt Nam, và Sứ quán Mỹ đã bắt đầu đốt tài liệu mật từ trước đó. Ngày 20 tháng 4 các thủ tục pháp luật được đơn giản hóa cho việc sơ tán người Việt bắt đầu có hiệu lực. Việc sơ tán này được thực hiện tại sân bay quân sự Tân Sơn Nhất, do tướng Homer Smith chỉ huy. Các máy bay C-130 và C-140 liên tục lên xuống vào ban ngày; công việc giấy tờ được tiếp tục suốt đêm. Tướng Smith đã phải dùng đến toàn bộ trung đội Thủy quân Lục chiến số 43 của Mỹ để giữ trật tự tại Tân Sơn Nhất.
Ngày 20 tháng 4, lực lượng phòng thủ Xuân Lộc của Quân lực Việt Nam Cộng hòa bị buộc phải rút lui. Khi Xuân Lộc thất thủ, không còn gì có thể cứu vãn chế độ Sài Gòn nữa. Việc bỏ Xuân Lộc khiến Sài Gòn gần như bỏ ngỏ, không còn phòng thủ từ xa nữa; quân Giải phóng áp sát thành phố ở các tuyến ngoại vi. Cùng ngày 20 tháng 4, Đại sứ Mỹ Martin đến phủ Tổng thống thuyết phục Nguyễn Văn Thiệu từ chức, bởi phía Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã liên tục tuyên bố sẽ không đàm phán với Nguyễn Văn Thiệu.
Do sức ép lớn từ các tướng dưới quyền như Trần Văn Đôn, Cao Văn Viên, Thủ tướng Nguyễn Bá Cẩn, Bộ trưởng Kinh tế Nguyễn Văn Hảo, Nguyễn Văn Thiệu từ chức vào tối ngày 21 tháng 4 năm 1975. Khi từ chức, Nguyễn Văn Thiệu đã xuất hiện trên truyền hình phát biểu suốt 3 giờ đồng hồ để trách móc việc thoái thác trách nhiệm của chính phủ Mỹ. Ông Thiệu đổ lỗi thất bại là do người Mỹ bằng những lời lẽ nửa tức giận, nửa thách thức: "“Mỹ đánh không lại Cộng sản nên bỏ mặc Việt Nam Cộng hòa đánh một mình thì làm sao ăn nổi. Có giỏi thì Mỹ vô đây lần nữa…”" Ông Thiệu lên án thẳng Hoa Kỳ là ""một đồng minh vô nhân đạo với những hành động vô nhân đạo"."
Cũng trong bài diễn văn từ chức, Nguyễn Văn Thiệu tuyên bố mạnh mẽ rằng ông sẽ không bỏ chạy mà sẽ tiếp tục cầm súng chiến đấu:
"Dù mất một Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, quân đội vẫn còn Trung tướng Nguyễn Văn Thiệu, đồng bào còn một chiến sĩ Nguyễn Văn Thiệu. Tôi nguyện sẽ chiến đấu kề bên anh em chiến sĩ..."
Tuy nhiên, những tuyên bố đó đã không được Nguyễn Văn Thiệu thực hiện. Sau khi từ chức, ông Thiệu về nhà, đề nghị Mỹ thu xếp một chuyến bay để đưa ông và gia đình ra nước ngoài. Chỉ 4 ngày sau, Nguyễn Văn Thiệu đã bí mật lên máy bay thoát khỏi Sài Gòn vào đêm ngày 25 tháng 4 năm 1975. Cuộc ra đi của Nguyễn Văn Thiệu diễn ra bí mật trong đêm tối, dưới sự sắp đặt của Thomas Polgar - trưởng CIA ở Sài Gòn. Để cho việc ra đi danh chính ngôn thuận, Trần Văn Hương ký quyết định cử Nguyễn Văn Thiệu là đặc sứ của Việt Nam Cộng hòa đến Đài Bắc để phúng điếu Tưởng Giới Thạch (nhưng thực ra Tưởng Giới Thạch đã qua đời từ trước đó 3 tuần).
Phó Tổng thống Trần Văn Hương lên thay nhưng phía Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam không chấp nhận nói chuyện với ông này. Thời điểm 21 tháng 4 khi Nguyễn Văn Thiệu từ chức có ý nghĩa quyết định. Đại tướng Võ Nguyên Giáp nói rằng ""chìa khóa là ngày 21 tháng 4, khi Thiệu từ chức. Khi đó tôi biết rằng chúng tôi phải tấn công ngay lập tức, cướp lấy thời cơ, tất cả chúng tôi cũng đồng ý như vậy"." Đêm hôm đó, tại Sở Chỉ huy Tiền phương tại Lộc Ninh, cách Sài Gòn 75 dặm, tướng Văn Tiến Dũng, người chỉ huy các cánh quân Giải phóng tiến về thành phố, ra lệnh bắt đầu cuộc tổng tiến công.
Để đảm bảo áp đảo chắc thắng, quân Giải phóng đưa thêm cả Quân đoàn 1 (hay còn gọi là Binh đoàn Quyết thắng) bằng tàu biển và hàng không vào chiến trường cho trận cuối cùng có tên là Chiến dịch Hồ Chí Minh. Lực lượng tiến công Sài Gòn tương đương 20 sư đoàn, tổ chức thành 5 quân đoàn.
Trong nỗ lực cuối cùng, tướng Nguyễn Cao Kỳ phát biểu trước khoảng 6 nghìn người Thiên Chúa giáo hữu khuynh vào xế trưa ngày 25 tháng 4 về chuyện phòng thủ Sài Gòn, rằng "ông sẽ ở lại Sài Gòn và chiến đấu cho tới chết, những kẻ chạy theo Mỹ là hèn nhát". Phụ nữ và trẻ con sẽ được gửi đi đảo Phú Quốc, còn người dân Sài Gòn "sẽ ở lại chiến đấu". Thậm chí Nguyễn Cao Kỳ còn tuyên bố rằng: Sài Gòn "sẽ trở thành một Leningrad thứ hai" (Leningrad là nơi quân dân Liên Xô đã cầm cự 900 ngày trong vòng vây hãm của quân Đức). Nguyễn Cao Kỳ hứa hẹn: Việc phân phối vũ khí sẽ được ông ta cho làm ngay, mọi người nên ở lại Sài Gòn để chiến đấu. Nhưng tất cả chỉ là những lời nói suông và chẳng được thực hiện một chút nào. Sau khi phát biểu xong, Nguyễn Cao Kỳ bỏ vào sân bay Tân Sơn Nhất để sắp xếp cho các máy bay di tản sang Thái Lan và đồng thời cũng bí mật ra lệnh cho một trực thăng đến đón mình. Sáng ngày 29 tháng 4 năm 1975, Nguyễn Cao Kỳ đã dùng trực thăng chạy ra ngoại quốc, bỏ lại sau lưng những lời thề hứa chiến đấu quyết tử mà ông từng hùng hồn tuyên bố trước đó bốn ngày.
Chiến dịch Hồ Chí Minh mở màn.
Lúc 17 giờ ngày 26 tháng 4, Chiến dịch Hồ Chí Minh bắt đầu nổ súng với 5 quân đoàn ở 5 hướng tấn công: hướng Bắc với Quân đoàn 1, hướng Tây Bắc với Quân đoàn 3, hướng Tây và Tây Nam với Đoàn 232, hướng Đông với Quân đoàn 4 và hướng đông nam với Quân đoàn 2.
Ngày 27 tháng 4, sân bay quân sự Tân Sơn Nhất tại Sài Gòn chịu 3 loạt hỏa tiễn của Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam, lần đầu tiên trong hơn 40 tháng làm nhiều người chết và bị thương, nhà cửa đổ nát. Hai lính Mỹ thiệt mạng do hỏa tiễn, là những lính thiệt mạng cuối cùng của Mỹ trong cuộc chiến.
Tại phía Nam của Sài Gòn, ngay từ ngày 28 tháng 4 năm 1975, Bộ Tư lệnh Biệt khu Thủ đô của chính quyền Sài Gòn không còn quân trù bị để phòng thủ. Họ buộc phải rút một liên đoàn Biệt động quân đang hành quân về quận lỵ Cần Đước và đặt dưới quyền điều động của Bộ tư lệnh Biệt khu Thủ đô. Liên tỉnh lộ nối liền Chợ Lớn và Cần Đước cũng bị cắt nhiều đoạn nên các lực lượng Việt Nam Cộng hòa không thể phá vỡ được các chốt chận của quân Giải phóng tại cầu Nhị Thiên Đường vốn đã bị chiếm từ rạng sáng ngày 29 tháng 4 năm 1975.
Các đơn vị nhảy dù phòng ngự tại phòng tuyến khu vực từ ngã tư Quân Vận (gần Trung tâm Huấn luyện Quang Trung) đến cầu Tham Lương Bà Quẹo, khu Bình Thới - Ngã ba Bà Quẹo, khu Bảy Hiền - Lăng Cha Cả đã cố gắng ngăn chặn đối phương. Một chiến đoàn thuộc Liên Đoàn 81 Biệt cách Nhảy dù tại vòng đai Bộ Tổng Tham mưu do Thiếu tá Phạm Châu Tài chỉ huy đã dàn quân và từ 8 giờ sáng đến 10 giờ sáng, chiến đoàn này đã bắn cháy 6 chiến xa và đánh bật đối phương ra khỏi trận địa.
Tuy nhiên các nỗ lực kháng cự lẻ tẻ này không làm chậm quân Giải phóng được bao nhiêu. Đến cuối ngày 28 tháng 4, tất cả các tuyến phòng thủ đã bị chọc thủng ở mọi hướng, quân Giải phóng có thể tiến ngay vào thành phố nhưng họ dừng lại để có thêm thời gian cho giải pháp đàm phán. Các lực lượng chính trị thứ ba dàn xếp để đưa Đại tướng Dương Văn Minh lên làm tổng thống trong ngày 28 tháng 4 năm 1975. Ngay khi nhậm chức, để tiến hành đàm phán Tổng thống Dương Văn Minh yêu cầu người Mỹ ra đi.
4 giờ sáng ngày 29/4 tức 16 giờ ngày 28/4 theo giờ Washington, hỏa tiễn và đạn pháo Quân giải phóng đã nã tới tấp xuống phi trường Tân Sơn Nhất, phá hủy nhiều phi cơ trên mặt đất, vô hiệu hóa phi trường này và làm cho số người Việt đang tụ tập ở đấy sợ hãi trốn chạy, một sự hỗn loạn thực sự.
Tổng thống Ford triệu tập Hội đồng An ninh Quốc gia họp khẩn cấp lúc 19h30, ông đã yêu cầu Đại sứ Graham Martin phải di tản ngay những người Mỹ còn lại và cả những người Việt Nam càng nhiều càng tốt.
Ở Sài Gòn và phần còn lại của Việt Nam Cộng hòa, hàng triệu người dân Việt Nam bắt đầu tự đặt cho mình 1 câu hỏi mấu chốt: họ có thể ở lại sống dưới chế độ mới hay là tự tìm cách bỏ ra nước ngoài bằng đường biển.
Trong các ngày 28, 29 tháng 4 từ các hàng không mẫu hạm của Hạm đội số 7 ngoài khơi, Thủy quân Lục chiến Mỹ dùng trực thăng di tản người nước ngoài và một số người Việt đã từng cộng tác chặt chẽ với họ, trong đó có chiến dịch Babylift. Cuộc di tản đã diễn ra trong hỗn loạn vì rất nhiều người muốn ra đi nhưng không thể đáp ứng hết được. Các điểm đỗ của trực thăng náo loạn. Lính Thủy quân Lục chiến Mỹ đã phải cố gắng mới duy trì được trật tự. Người Mỹ đã phải bỏ lại nhiều người Việt để ưu tiên người Mỹ vì số lượng phương tiện có hạn. Hình ảnh di tản đã in đậm trong trí óc nhiều người Mỹ và Việt Nam như một kỷ niệm buồn. Đại sứ Graham Martin là một trong những người Mỹ cuối cùng ra đi. Trong số 120.000 người Việt và 20.000 người Mỹ được di tản trong đợt này, không có một người nào bị thiệt mạng do hoạt động quân sự của quân Giải phóng.
Quân Giải phóng dừng lại bên ngoài thành phố một ngày để cho người Mỹ di tản hết mới vào. Theo lời tướng Trần Văn Trà, cánh quân của ông đã đợi vì mục đích chính là để giải phóng Sài Gòn chứ không phải để giết người Mỹ và sỉ nhục họ. Ở một cánh quân khác, theo hồi ký của tướng Hoàng Cầm, cánh quân của Quân đoàn 4 mà ông chỉ huy gặp rất nhiều kháng cự trên đường tiến về Sài Gòn và chỉ đến nơi vừa kịp sáng ngày 30 tháng 4.
Theo hồi ký của các tướng tá của quân lực Việt Nam Cộng hòa như Nguyễn Hữu Hạnh, Nguyễn Chánh Thi, và cựu dân biểu Lý Quí Chung, thì sáng ngày 28/4, tướng tình báo Pháp Francois Vanussème đã tới gặp Tổng thống Dương Văn Minh và đề nghị Việt Nam Cộng hòa kêu gọi Trung Quốc đem quân can thiệp để cứu quân lực Việt Nam Cộng hòa đang trong cơn nguy kịch. Một nhân viên ngoại giao Trung Quốc đề nghị quân lực Việt Nam Cộng hòa hãy cố thủ, án ngữ Vùng 4 Chiến thuật, hứa hẹn Trung Quốc sẽ đem quân đánh vào biên giới miền Bắc Việt Nam để giải vây. Dương Văn Minh, vốn đã được Ban Binh vận Trung ương Cục miền Nam thông qua em trai là Dương Văn Nhựt (bí danh Mười Ty, Đại tá Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam) và gia đình thuyết phục từ trước, đã từ chối và nói:
Theo tác giả Trần Viết Đại Hưng, một cựu sĩ quan quân lực Việt Nam Cộng hòa, thì Nguyễn Cao Kỳ còn tính làm một cuộc đảo chính chính phủ Dương Văn Minh mới thành lập để nắm quyền và ra lệnh cố thủ. Người Mỹ biết chuyện đó và giám đốc CIA ở Sài Gòn lúc đó là Polgar đã cảnh cáo Kỳ là không được manh động. Nguyễn Cao Kỳ nghe vậy thì dẹp bỏ kế hoạch vì ông ta hiểu rằng: nếu chống lại sách lược của Mỹ thì sẽ mang họa vào thân.
Ngày 30 tháng 4.
Ngày 29 tháng 4, sau cơn giận dữ của Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Schlesiger và Cố vấn Henry Kissinger ở Washington vì sự nấn ná của Đại sứ Graham Martin ở Sài Gòn để cố tạo ra vẻ "người Mỹ đàng hoàng ra đi", Tổng thống Mỹ Gerald Ford ra lệnh dứt khoát: "Chấm dứt cuộc di tản vào 3 giờ 30 phút, giờ địa phương, sáng 30 tháng 4". Tuy nhiên, lệnh vẫn không thi hành kịp do sự chần chừ của đại sứ Martin, "cuộc tháo chạy" đã diễn ra cho tới khi chiếc trực thăng Mỹ cuối cùng rời Sài Gòn vào lúc 5 giờ 24 phút ngày 30 tháng 4.
Dương Văn Minh chuẩn bị tuyên bố đầu hàng.
8 giờ sáng ngày 30 tháng 4, Tổng thống Dương Văn Minh và Bộ Tổng Tham mưu quân đội Việt Nam Cộng hòa hạ lệnh đơn phương ngừng chiến, sẵn sàng đón quân đối phương tiến vào Sài Gòn:
Theo phía Quân Giải phóng, lệnh này trên thực tế cũng không có nhiều tác dụng do phần lớn quân lực Việt Nam Cộng hòa lúc đó đã tan rã, hầu hết binh lính đã ra hàng hoặc vứt bỏ vũ khí về với gia đình. Do đó khi quân Giải phóng tiến vào Sài Gòn hầu hết chỉ gặp những ổ kháng cự nhỏ lẻ, thiếu tổ chức. Việc Trung tá Bùi Văn Tùng yêu cầu Tổng thống Việt Nam Cộng hòa Dương Văn Minh đầu hàng thay vì phương án thành lập chính phủ liên hiệp ba thành phần là nhằm buộc Quân lực Việt Nam Cộng hòa trên khắp chiến trường buông súng, tránh thương vong không cần thiết cho cả hai bên lẫn dân thường.
Theo Tổng trưởng Thương mại - Kinh tế Việt Nam Cộng hòa Nguyễn Văn Diệp, trước khi quân Giải phóng tiến vào Sài Gòn, ký giả Pháp là François Vanuxem đến gặp các ông Dương Văn Minh, Nguyễn Văn Huyền - Chủ tịch Thượng viện Sài Gòn và Vũ Văn Mẫu vào sáng 30 tháng 4 để đề nghị Việt Nam Cộng hòa tiến hành hoãn binh, không đầu hàng Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam mà tiếp tục đưa ra yêu sách thành lập chính phủ liên hiệp. Nếu chính phủ liên hiệp được thành lập, Pháp sẽ giúp Việt Nam Cộng hòa nhận được sự bảo trợ của Cộng hòa nhân dân Trung Hoa. Tuy nhiên, Tổng thống Dương Văn Minh ngay lập tức từ chối do không muốn thêm một lần làm tay sai cho nước ngoài.
Động cơ của Pháp lúc đó là muốn Sài Gòn ngừng bắn để bảo vệ các tài sản của Pháp tại Sài Gòn tránh khỏi sự tàn phá của việc giao tranh, việc bảo vệ Sài Gòn chính là bảo vệ các lợi ích của Pháp. Pháp muốn thiết lập lại ảnh hưởng của họ trên thuộc địa cũ. Trong Bộ Ngoại giao Pháp và các cố vấn ở Phủ Tổng thống có hai xu hướng giải quyết đối với vấn đề Sài Gòn. Một thì ra sức hoạt động cho một sự thu xếp ngừng bắn, một thì chủ trương nên tính chuyện làm ăn với Chính phủ Cách mạng lâm thời. Thậm chí, khi quân Giải phóng bắt đầu chiến dịch giải phóng Đà Nẵng, Pháp đã cử Đại sứ Pháp tại Hà Nội Philippe Richer tới gặp Thủ tướng Việt Nam Dân chủ Cộng hòa Phạm Văn Đồng để bàn cách lật đổ chính phủ Nguyễn Văn Thiệu để dựng lên một chính quyền có thể nói chuyện được với Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam. Tổng thống Dương Văn Minh đã nhìn ra ý đồ của Pháp và không muốn Trung Quốc can thiệp vào quá trình thống nhất Việt Nam nên đã từ chối, chấp nhận đầu hàng Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam để nhanh chóng có hòa bình và thống nhất.
Tướng Dương Văn Minh lên làm Tổng thống không có ý để thương thuyết với cách mạng vì đã thấy không còn khả năng thương thuyết; cũng không có ý để tiếp tục chiến tranh vì lâu nay ông Minh chủ trương hòa bình, chấm dứt chiến tranh. Điều này thể hiện rõ khi Dương Văn Minh chỉ định hai "cơ sở ngầm" của Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam (Chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh và Luật sư Triệu Quốc Mạnh) nắm hai lực lượng vũ trang là quân đội và cảnh sát; cử một người dân sự (Giáo sư Bùi Tường Huân) làm Bộ trưởng Bộ Quốc phòng; chưa đầy một ngày sau khi nhậm chức thì ngày 29 tháng 4 năm 1975 ông đã ra lệnh thả tù chính trị, chấm dứt liên lạc với phái đoàn DAO của Mỹ, không di chuyển quân, không phá cầ
Quân Giải phóng tiến vào Sài Gòn.
8 giờ sáng cùng ngày, đúng 3 tiếng đồng hồ sau khi chiếc trực thăng cuối cùng của Mỹ rời nóc tòa Đại sứ quán, tướng Trần Văn Trà lệnh cho quân Giải phóng tiến vào Sài Gòn từ năm hướng. Họ đã tiến nhanh mà không gặp một sự kháng cự có tổ chức nào.
Đánh chiếm sân bay Tân Sơn Nhất và Bộ tổng tham mưu.
Đến tối ngày 29/4, lực lượng thọc sâu của quân đoàn bao gồm Trung đoàn Bộ binh 24 (Sư đoàn 10) và Tiểu đoàn xe tăng 1 (Trung đoàn xe tăng 273) đã tới khu vực Ngã ba Bà Quẹo, sẵn sàng cho trận đánh cuối cùng.
Sáng sớm ngày 30/4, Thê đội 1 của đội hình thọc sâu gồm 7 xe tăng T-54 của Đại đội Xe tăng 1 và 4 xe K63 của Đại đội 11 do quyền đại đội trưởng Nguyễn Hồng Tư chỉ huy cùng với một đại đội BB tiến về phía Ngã tư Bảy Hiền. Bất chấp sự cản phá của không quân và bộ binh địch, lực lượng đi đầu do xe tăng T-54 số 979 của Nguyễn Hồng Tư dẫn đầu vừa đi vừa bắn, chiếm được ngã tư Bảy Hiền. Khi vượt qua ngã tư và rẽ trái để hướng về phía Cổng 5 sân bay thì xe 979 bị 1 xe tăng M48 Patton phục ở hướng bệnh viện Vì Dân bắn trúng. Xe bốc cháy, các thành viên tổ lái hy sinh. Xe tăng số 985 của trung đội trưởng Mai Trọng Hoạt vừa lao lên ngã tư cũng bị bắn hỏng pháo. Trưởng xe Mai Trọng Hoạt ra lệnh cho xe lao thẳng tới, định húc vào chiếc M48 đi đầu. Chiếc M48 vội lùi vào một ngôi nhà ven đường, ngôi nhà đổ sụp trùm lên chiếc xe, kíp lái M48 bỏ xe chạy mất. Chiếc M48 chạy sau quay đầu rồi chạy khỏi khu vực
Thê đội 1 của lực lượng thọc sâu tiếp tục bổ sung lực lượng và tiến về mục tiêu chủ yếu là sân bay Tân Sơn Nhất theo đường Võ Tánh (đường Hoàng Văn Thụ ngày nay). Liên đoàn Biệt cách Dù 81 phòng thủ ở đây có trang bị khá mạnh. 9 giờ 30, xe tăng và bộ binh quân Giải phóng bắt đầu xung phong về hướng sân bay, khi vượt qua Lăng Cha Cả được khoảng 100 mét thì xe tăng số 875 đi đầu trúng đạn bốc cháy, xe T-54 thứ hai vừa vượt qua ngã ba cũng bị bắn cháy. Xe K63 của đại đội trưởng Đại đội 11 bám sát yểm hộ 2 xe tăng cũng bị trúng đạn. Mũi tiến công này của xe tăng và bộ binh bị chặn lại
Trung đoàn trưởng bộ binh và tiểu đoàn trưởng xe tăng điều 2 khẩu pháo 85mm lên bắn trực tiếp, đồng thời điều Đại đội Xe tăng 2 lên thay cho Đại đội xe tăng 1 tiếp tục đột phá. Khẩu pháo đầu tiên của Trung Đoàn Pháo binh 4 do Đại đội trưởng Chính chỉ huy vừa vào tới khu vực bên trái Lăng Cha Cả, đang triển khai thì đã trúng hỏa tiễn. Pháo hỏng, cả khẩu đội cùng Đại đội trưởng Chính hy sinh. Trung đoàn phó Trương Văn Việt quyết định đột phá sang khu vực bên trái Lăng Cha Cả. Bộ binh được chia thành 2 mũi, một mũi cùng xe tăng đánh theo cổng số 5, một mũi đánh vào cổng phía Tây. Xe tăng số 326 vừa vượt qua Lăng Cha Cả lại bị bắn cháy, xe tăng số 815 vượt qua khu vực Lăng được một đoạn cũng bị bắn cháy. Xe tăng số 353 thì bị hư hại, tổ lái không rời xe mà tiếp tục dùng súng 12,7 mm chi viện bộ binh xung phong. Bên cổng phía Tây, sau khi tiêu diệt được một số chốt chặn, 3 xe tăng của Đại đội xe tăng 1 và 4 xe K63 của Đại đội 11 cùng bộ binh xung phong vào sân bay, đánh chiếm Khu truyền tin, Bộ Tư lệnh Sư đoàn 5 Không quân, Bộ Tư lệnh Dù...
Trong khi đó, cánh quân của Tiểu đoàn xe tăng 2 và Trung đoàn Bộ binh 28 sau khi đánh chiếm được quân trường Quang Trung thì nhận lệnh nhanh chóng tiến công trụ sở Bộ Tổng tham mưu địch. Cuộc chiến đấu ở cổng Bộ Tổng tham mưu và cổng sân bay vẫn đang quyết liệt thì có tin Dương Văn Minh ra lệnh đầu hàng, tuy nhiên một số lính biệt cách dù cho đó là lừa bịp và vẫn tiếp tục bắn trả lẻ tẻ. Đến khi các mũi tiến công khác làm chủ được sân bay Tân Sơn Nhất và Bộ Tổng tham mưu, quân dù mới đầu hàng hoàn toàn
Đánh chiếm Dinh Độc Lập.
Đại đội 9, Lữ đoàn 273, Quân đoàn 3 gồm 4 xe tăng T-54 nhận nhiệm vụ thần tốc tiến về trung tâm Sài Gòn. Dọc đường, 4 xe tăng gặp nhiều chốt chặn. Sau 30 phút, 4 chiếc xe tăng của Đại đội 9 đã tiêu diệt 12 xe tăng - thiết giáp của địch, 12 chiếc khác ra đầu hàng, phía quân Giải phóng bị bắn cháy 1 xe tăng. Sau khi đánh bại quân địch tại các trạm chốt ở khu vực cầu Sài Gòn, Hàng Xanh, cầu Thị Nghè, 2 xe tăng số hiệu 843 và 390 tiến về Dinh Độc Lập. Xe 843 đi trước do Đại đội trưởng Bùi Quang Thận chỉ huy.
10 giờ 45 phút ngày 30 tháng 4, chiếc xe tăng T-54 mang số hiệu 843 húc nghiêng cổng phụ của Dinh Độc Lập và bị kẹt tại đó. Trung úy Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam Bùi Quang Thận từ xe 843 nhảy xuống, cầm cờ Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam chạy bộ vào. Xe tăng 390 của Vũ Đăng Toàn húc sập cánh cửa chính của dinh. Những phút sau đó, tiếp tục có thêm nhiều xe tăng - xe thiết giáp và bộ đội quân Giải phóng kéo vào trong dinh.
11 giờ 30 phút cùng ngày, Trung úy Bùi Quang Thận đã hạ lá cờ Việt Nam Cộng hòa trên nóc dinh xuống sau đó kéo lá cờ Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam lên.
Cùng lúc này, Đại úy Trung đoàn phó Trung đoàn 66 Phạm Xuân Thệ cùng lực lượng đột kích thọc sâu của Quân đoàn 2 và Biệt động thành Sài Gòn tiến vào dinh Độc Lập bắt Tổng thống cuối cùng của Việt Nam Cộng hòa là ông Dương Văn Minh cùng toàn bộ những nhân vật chủ chốt của nội các chính phủ Sài Gòn. Dương Văn Minh nói: "Tôi chờ các ông tới để bàn giao chính quyền", Bùi Văn Tùng trả lời: "Các ông đã không còn gì để bàn giao. Thay mặt Cách mạng, tôi đề nghị ông ra lệnh đầu hàng vô điều kiện để tránh đổ máu không cần thiết". Dương Văn Minh đồng ý.
Khoảng 12 giờ trưa, Đại úy Phạm Xuân Thệ đưa Tổng thống Dương Văn Minh, Thủ tướng Vũ Văn Mẫu lên xe Jeep để đến đài phát thanh. Chiếc xe thứ hai chở Trung tá Chính ủy Lữ đoàn Xe tăng 203 Bùi Văn Tùng cùng hai nhà báo Borries Gallasch (người Đức, báo "Der Spiegel") và Hà Huy Đỉnh. Đến đài Phát thanh, tất cả lên phòng ghi âm nhỏ chỉ rộng khoảng 20 m vuông. Trong lúc đứng đợi, một nhân viên của Đài giật chân dung Nguyễn Văn Thiệu trên tường xuống, ném qua cửa sổ xuống sân. Không khí căng thẳng thay đổi khi đại uý Thệ thay đổi thái độ, vui vẻ nói:
"Anh Minh, anh yên tâm! Chúng tôi chiến đấu cho dân tộc, vì vậy chúng tôi buộc phải đánh bại những kẻ cam tâm bán nước. Nhưng bây giờ chúng tôi đã vào đây, không ai làm gì anh đâu và cũng không ai sẽ bắt tội anh."
Chính uỷ Tùng muốn tướng Minh đọc qua những lời thảo trước khi ghi âm. Song không tìm thấy một chiếc máy ghi âm nào trong Đài Phát thanh do toà nhà vừa trải qua một trận hôi của. Chỉ còn chiếc máy ghi âm nhỏ của báo Spiegel. Việc thu âm tiến hành đến ba lần. Lần thứ nhất ông Minh không đọc tiếp khi đến dòng chữ "Tôi, Dương Văn Minh, tổng thống chính quyền Sài Gò". Ông chỉ muốn giản lược là "Tướng Minh" và không muốn nhắc đến chức vị Tổng thống mới tiếp nhận được hai ngày. Cuối cùng mọi người nhất trí với lời văn: "Tôi, tướng Dương Văn Minh ra lệnh cho tất cả binh sĩ hạ vũ khí đầu hà"
Tại đài phát thanh, Tổng thống Dương Văn Minh thay mặt toàn bộ nội các của chính phủ Sài Gòn đã đọc tuyên bố đầu hàng vô điều kiện với quân đội cách mạng (tức quân Giải phóng miền Nam Việt Nam). Thay mặt các đơn vị quân Giải phóng đánh chiếm dinh Độc Lập, Trung tá Bùi Văn Tùng đọc lời tiếp nhận đầu hàng. Thủ tướng Vũ Văn Mầu cũng tuyên bố đầu hàng sau đó. Chiến tranh kết thúc. Tổng thống Dương Văn Minh khi tuyên bố đầu hàng nêu rõ:
Thủ tướng Vũ Văn Mẫu tuyên bố:
Ngay sau đó Trung tá, Chính ủy Bùi Văn Tùng, người biên soạn tuyên bố đầu hàng cho Tổng thống Dương Văn Minh tuyên bố:
Sau khi tin đầu hàng phát đi từ Sài Gòn, có 5 tướng của Quân lực Việt Nam Cộng hòa đã tự sát vào ngày 30 Tháng 4, là Nguyễn Khoa Nam, Phạm Văn Phú, Lê Văn Hưng, Lê Nguyên Vỹ và Trần Văn Hai
Theo Jean Louis Margolin, tác giả xác nhận là không có giết chóc trong ngày quân Giải phóng tiến vào Sài Gòn nhưng ông đưa ra con số 200 ngàn tù binh bị giam giữ theo xác nhận của Phạm Văn Đồng. Ngược lại, một số quan chức Việt Nam Cộng hòa đã cộng tác với chính phủ Cách mạng lâm thời và được giữ chức vụ trong chính phủ mới như Dương Văn Minh, Nguyễn Hữu Hạ, nhiều cựu binh sĩ Việt Nam Cộng hòa đã được Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam gọi tái ngũ để giúp vận hành các loại vũ khí thu được của Mỹ.
Tom Polgar, nhân viên cao cấp tòa Đại sứ Mỹ ở Việt Nam, một trong những người Mỹ cuối cùng di tản, đã ghi lại cảm tưởng của mình vào ngày hôm ấy:
"Đó là một cuộc chiến tranh [chiến tranh Việt Nam] lâu dài và khó khăn mà chúng ta đã thua. Thất bại độc nhất của lịch sử Hoa Kỳ chắc sẽ không báo trước sức mạnh bá chủ toàn cầu của nước Mỹ đã chấm dứt. Như, bắt buộc sẽ phải lặp lại sai lầm trong lịch sử".
Trong trưa ngày 30 tháng 4, nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đã liên lạc với quân Giải phóng và tuyên bố trên Đài Phát thanh Sài Gòn sau lời tuyên bố đầu hàng của Tổng thống Dương Văn Minh:
Chiều ngày 30 tháng 4, ca khúc “Nối vòng tay lớn” của Trịnh Công Sơn được chính ông trình bày trên Đài phát thanh Sài Gòn và là ca khúc đầu tiên được phát trên đài sau khi chế độ Việt Nam Cộng hòa sụp đổ.
Trước đó, chính phủ Sài Gòn đã tuyên truyền về một cuộc tắm máu của Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam khi Sài Gòn thất thủ. Do đó, trong sáng ngày 30 tháng 4, rất ít người dám ra đường mà chỉ ở trong nhà nghe phát thanh. Tuy nhiên, theo quan sát của các nhà báo quốc tế, tại Sài Gòn và nhiều thành phố khác của miền Nam Việt Nam đã không hề có bất kỳ một cuộc tắm máu nào xảy ra như những gì bộ máy tuyên truyền của Việt Nam Cộng hòa cảnh báo. Hoàn toàn không có việc bắn giết, cướp bóc, bạo lực. Ngược lại, những binh sĩ đã hạ vũ khí được tự do đi lại trên đường phố mà không bị truy sát. Các hình ảnh do chính phóng viên ảnh và quay phim nước ngoài ghi lại đã cho thấy nhiều người dân đã đón chào và dẫn đường cho quân Giải phóng đánh chiếm các mục tiêu trong trưa 30/4/1975 tại Sài Gòn.
Hoạt động nổi dậy của người dân Sài Gòn.
Song song với các hoạt động quân sự của quân Giải phóng là hoạt động nổi dậy giành chính quyền của quần chúng nhân dân. Phía Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam đã có những hoạt động chuẩn bị để quần chúng nổi dậy ngay từ tháng 3/1975, trong đó xác định lực lượng thanh niên là nòng cốt. Hoạt động nổi dậy sẽ diễn ra ở 5 khu vực, bao gồm:
Để chuẩn bị cho cuộc nổi dậy thành công, Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam đã lập các chốt phòng vệ để ngăn cản lực lượng Cảnh sát Việt Nam Cộng hòa biết tin. Đặc biệt, trước khi nổi dậy, một số lượng lớn cờ Chính phủ Cách mạng lâm thời đã được may cùng với nhiều khẩu hiệu, trong đó nội dung hướng tới là lực lượng Việt Nam Cộng hòa cần đầu hàng ngay để hưởng khoan hồng, Chính phủ Cách mạng lâm thời sẽ bảo đảm đầy đủ tính mạng và tài sản của người dân. Ngay sau khi Tổng thống Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng, không còn tiếng súng thì người dân bắt đầu đổ ra đường. Lúc này, lực lượng thanh niên tự vệ Giải phóng nhanh chóng giúp quân Giải phóng tiếp quản các cơ sở chính trị của Việt Nam Cộng hòa và ổn định trật tự. Bên cạnh đó, người dân Sài Gòn cũng bắt đầu đổ ra đường để chào đón, cầm cờ Chính phủ Cách mạng lâm thời dẫn đường cho quân Giải phóng tiến về Dinh Độc Lập.
Đại tá Nguyễn Văn Tàu (sinh năm 1928 ở Bà Rịa – Vũng Tàu), biệt danh Tư Cang, nguyên Chính ủy Lữ đoàn Biệt động 316, người trực tiếp chiếm giữ, bảo vệ cầu Rạch Chiếc để xe tăng tiến vào giải phóng Sài Gòn năm 1975 kể lại: ""Điều kỳ diệu là thành phố còn nguyên vẹn, điện nước đầy đủ. Theo tôi có được điều ấy là do nhân dân. Lòng dân hướng về cách mạng, các đoàn thể được tổ chức chặt chẽ. Khi các cánh quân tiến vào thì quần chúng đã đứng lên diệt ác ôn, giải phóng phường, treo cờ cách mạng. Đó là sự chuẩn bị, gây dựng quần chúng từ mấy chục năm. Phong trào quần chúng ví như thùng thuốc nổ, khi có ngòi nổ đủ sức công phá thì sức mạnh quần chúng bung ra không gì cản nổi. Quân đội như chúng tôi chỉ đóng vai trò ngòi nổ đủ mạnh"."
Chiến dịch Gió lốc.
Chiến dịch Gió lốc là chiến dịch của không quân Mỹ nhằm di tản bằng trực thăng người Mỹ và các quan chức, tướng lĩnh Việt Nam Cộng hòa ra khỏi Sài Gòn, miền Nam Việt Nam, từ 29 đến 30 tháng 4 năm 1975, những ngày cuối cùng của chiến tranh Việt Nam. Hơn 50.000 người đã di tản từ nhiều điểm ở Sài Gòn. Đây là chiến dịch cuối cùng của quân đội Mỹ trong chiến tranh Việt Nam.
Có 50.493 người (trong đó có 2.678 trẻ mồ côi Việt Nam) được di tản từ Sân bay Tân Sơn Nhất. Các phi công đã bay tổng cộng 1.054 giờ và 682 chuyến bay trong suốt chiến dịch. Chiến dịch diễn ra suôn sẻ, không có máy bay nào bị rơi vì quân Giải phóng có lệnh không bắn vào các máy bay Mỹ di tản.
Sự kiện 30 tháng 4 năm 1975 có vai trò rất quan trọng và lâu dài trong lịch sử Việt Nam với kết quả:
Dòng thời gian [[Chiến tranh Việt Nam]]
Không ổn định [[Nguyễn Văn Thiệu]]
#đổi [[Bản mẫu:Vòng lặp for]]
[[Thể loại:Tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân 1975|S]]
[[Thể loại:Lịch sử Việt Nam thời kỳ 1945–1975]]
[[Thể loại:Việt Nam hải ngoại]]
[[Thể loại:Trận đánh liên quan tới Việt Nam]]
[[Thể loại:Việt Nam năm 1975]]
[[Thể loại:Lịch sử miền Nam Việt Nam]]
[[Thể loại:Xung đột năm 1975]]
[[Thể loại:Di cư bắt buộc]] |
Quy hoạch đô thị
Quy hoạch đô thị là một khái niệm hay được dùng để chỉ các hoạt động kiểm soát hay tổ chức môi trường sống đô thị. Các hoạt động này có thể bao gồm: ban hành luật, quy định kiểm soát phát triển; xây dựng và vận hành các bộ máy quản lý đô thị; đề ra các tiêu chí, lập và phê duyệt quy hoạch; thực hiện các chương trình đầu tư phát triển đô thị; nghiên cứu đô thị; đào tạo bộ máy nhân lực; trao đổi tranh luận về các vấn đề đô thị...
Điều cần chú ý là trong các bối cảnh khác nhau, các hoạt động này thường không có mục đích, nội dung hay phương pháp thực hiện giống nhau. Nguyên nhân là đô thị thường có các vấn đề khác nhau trong mỗi giai đoạn phát triển. Việc nhìn nhận, đánh giá, giải quyết các vấn đề đô thị không chỉ phụ thuộc vào năng lực các bộ máy chuyên môn mà còn lệ thuộc nhiều và chủ trương của bộ máy cầm quyền và khả năng đáp ứng của nền kinh tế. Trong mỗi giai đoạn phát triển, bộ máy cầm quyền thường chỉ chú trọng kiểm soát hay thúc đẩy một số hoạt động quy hoạch đô thị mà họ cho là quan trọng. Trong khi đó, nghiên cứu và đào tạo nhân lực trong các ngành liên quan quy hoạch đô thị thường được coi là lĩnh vực tách biệt với thực tế hành nghề. Kết quả là luôn có nhiều quan điểm về nội dung và cách thức thực hiện quy hoạch đô thị.
Đặc điểm quy hoạch đô thị Việt Nam sau năm 1954.
Tại Việt Nam, quy hoạch đô thị chủ yếu đóng vai trò là công cụ phục vụ các kế hoạch và chương trình phát triển của các cơ quan nhà nước.
Vì lẽ đó, nội dung quy hoạch đô thị chỉ được gói gọn trong tổ chức, xây dựng không gian đô thị. Quy hoạch đô thị được gọi là Quy hoạch xây dựng đô thị. Kiến trúc sư quy hoạch tại Việt Nam thường chỉ làm các công việc của kiến trúc sư: nghĩa là thiết kế, tổ chức xây dựng các không gian đô thị sao cho đẹp mắt, phù hợp nhất với thực tế. Cơ sở các đồ án quy hoạch thường là những chỉ thị, quyết định, các chủ trương đầu tư quy hoạch được phê duyệt bởi lãnh đạo các bộ ngành và cơ quan chính quyền. Hiện trạng phát triển đô thị chỉ có ý nghĩa cụ thể hóa các chủ trương quy hoạch đã được hoạch định bởi các cơ quan nhà nước. Quy chuẩn quy hoạch chỉ mang tính tham khảo bởi mỗi đồ án quy hoạch được phép áp dụng các chỉ tiêu quy hoạch khác nhau, theo sự phê duyệt của cấp có thẩm quyền.
Đặc điểm này khiến nhiều cơ quan bộ ngành, quản lý nhà nước trở thành các nhà quy hoạch vì họ được phép ra các văn bản, quy định, yêu cầu; thiết lập các dự án, kế hoạch phát triển; định đoạt nội dung đầu tư sử dụng của các lô đất đô thị - làm nền tảng cho các quy hoạch cụ thể - trong khi họ gần như không bị chi phối bởi luật quy hoạch cũng như không phải xin phép Hội đồng nhân dân các cấp. Vì thế, không có cơ quan nào có khả năng kiểm soát hay chịu trách nhiệm về chất lượng quy hoạch. Quy hoạch thường được lập một cách không nhất quán, thiếu cơ sở, và không hiệu quả trong việc giải quyết các vấn đề đô thị.
Trong giai đoạn 1954-1986, các hoạt động kinh tế tư nhân bị hạn chế tối đa tại miền Bắc Việt Nam, quy hoạch chủ yếu nhằm đáp ứng kế hoạch phát triển của các bộ ngành. Nội dung quy hoạch hầu như chỉ bao gồm chuẩn bị quỹ đất cho các dự án nhà nước và tổ chức mạng lưới giao thông kết nối các cơ sở kinh tế văn hóa. Tư liệu xây dựng gần như nằm hoàn toàn trong sự kiểm soát của bộ máy nhà nước, ưu tiên dành cho các dự án xây dựng trọng điểm. Mọi lô đất lớn gần đường giao thông được ưu tiên dành cho các bộ ngành, cơ sở sản xuất để tiết kiệm chi phí đầu tư; Một số quy hoạch bài bản theo mô hình Liên Xô mới bắt đầu được lập, khởi đầu bằng nghiên cứu, lập quy hoạch chung các thành phố. Tuy nhiên chưa có quy hoạch chung nào được triển khai chi tiết đến mức có thể áp dụng để quản lý đầu tư xây dựng, phát triển đô thị.
Sau năm 1986, nhà nước mở rộng ưu ái cho các dự án đầu tư vốn nước ngoài, ưu tiên phát triển các khu công nghiệp tập trung các dự án khách sạn, khu đô thị mới.
Quy hoạch xây dựng đô thị tại Việt Nam.
Quy hoạch xây dựng đô thị là bộ môn khoa học kỹ thuật, xã hội, nhân văn, là nghệ thuật về tổ chức không gian sống cho các đô thị và các khu vực đô thị. Nó là nghệ thuật sắp xếp tổ chức các không gian chức năng, khống chế hình thái kiến trúc trong đô thị trên cơ sở các điều tra, dự báo, tính toán sự phát triển, đặc điểm, vai trò, nhu cầu và nguồn lực của đô thị, nhằm cụ thể hóa chính sách phát triển, giảm thiểu các tác động có hại phát sinh trong quá trình đô thị hóa, tận dụng tối đa mọi nguồn lực, và hướng tới sự phát triển bền vững. Các không gian đô thị, công trình hạ tầng kỹ thuật, công trình hạ tầng xã hội đô thị cần được quy hoạch phù hợp với phát triển tổng thể kinh tế - xã hội- môi trường, an ninh - quốc phòng.
Những hoạt động cụ thể liên quan đến ngành quy hoạch đô thị là:
Bộ khung pháp lý cho các đồ án Quy hoạch đô thị ở Việt Nam gồm:
Hệ thống đồ án Quy hoạch đô thị ở Việt Nam tuân theo Quy định của Luật Quy Hoạch, Nghị định 37/2010, Thông tư 10/2010/TT-BXD, bao gồm:
Các đồ án khác có liên quan gồm có:
Cơ sở của quy hoạch đô thị là hệ thống các tiêu chuẩn và các nguyên tắc tổ chức xây dựng đô thị. Dựa vào hệ thống các nguyên tắc này, theo điều kiện thực tế và chính sách, mục tiêu phát triển ngắn hạn và dài hạn; nhóm bốn đối tượng tác động chính đến kết quả đồ án quy hoạch là: các nhà quy hoạch, các nhà quản lý, các nhà đầu tư và những người trực tiếp chịu ảnh hưởng của quy hoạch đề xuất ra các giải pháp, mục đích, thời gian và nguồn lực cụ thể để thực hiện.
Hiện nay ở Việt Nam việc lập các đồ án quy hoạch chưa được tổ chức thực hiện còn chưa theo đúng nguyên tắc do điều kiện về kinh phí, trang thiết bị, năng lực chuyên môn còn hạn chế và sự can thiệp tùy tiện của nhiều tổ chức cơ quan tới quá trình lập đồ án Quy hoạch, cũng như các yếu tố khác. Khung luật pháp cho việc thực hiện quy hoạch hiện nay còn thiếu hụt trong khi công tác quản lý và thực thi quy hoạch lại khá lỏng lẻo. Các đồ án Quy hoạch hiện nay đang là công cụ cho việc hợp thức hóa một số chuyển đổi đất sai mục đích hoặc chưa đủ các cơ sở nghiên cứu đánh giá một cách chính xác và khoa học.
Quy hoạch đô thị tại Tp. Hồ Chí Minh
Thành phố Hồ Chí Minh là đầu mối giao thông chiến lược hàng đầu của vùng nam Bộ và Tây Nguyên. Thành phố có một hệ thống sông ngòi, kênh rạch chằng chịt và một hệ thống đường bộ gồm các Quốc lộ 1, Quốc lộ 22, Quốc lộ 13 và hàng chục con đường khác, nối liền Thành phố Hồ Chí Minh với các địa phương Nam Bộ, cả nước và quốc tế.
Vai trò, vị trí với nhiều lợi thế so sánh về kinh tế, khí hậu và việc làm tất yếu dẫn đến sức ép rất lớn về tăng dân số, tiếp theo là nhu cầu mở rộng Thành phố Hồ Chí Minh về không gian phát triển và xây dựng mới ngày càng trở nên cấp bách.
Nhìn xuyên suốt 30 năm qua, tiến trình đô thị hóa của thành phố vừa tự phát, vừa tự giác, hay nói cách khác vừa xây dựng theo quy hoạch, vừa hợp thức hóa xây dựng bằng quy hoạch.
Quy hoạch thành phố Hồ Chí Minh tính tới thời điểm 2010 có khoảng trên dưới 600 dự án quy hoạch tại 13 quận huyện.
"Quy hoạch treo" là tình trạng diện tích đất đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền ghi trong kế hoạch sử dụng đất cho một hay nhiều mục đích khác nhau, đã công bố là sẽ thu hồi đất nhưng không thực hiện đúng tiến độ, kế hoạch . Luật Đất đai không nêu rõ về việc "dự án treo" trong thời hạn bao lâu thì bị hủy bỏ mà chỉ có thời hạn hủy bỏ quy hoạch đối với việc thu hồi hoặc chuyển mục đích sử dụng đất, nếu sau 3 năm không có quyết định thu hồi đất, chưa được phép chuyển đổi mục đích sử dụng đất kể từ ngày công bố quy hoạch theo quy định tại Khoản 8 Điều 49 Luật Đất đai 2013 sửa đổi. |
Phật giáo (tiếng Hán: 佛教 - tiếng Phạn: बुद्ध धर्म - IAST: "buddha dharm", Tiếng Anh: "Buddhism") hay đạo Phật là một tôn giáo đồng thời cũng là một hệ thống của triết học có nguồn gốc từ Ấn Độ bao gồm một loạt các giáo lý, tư tưởng triết học cũng như tư tưởng cùng tư duy về nhân sinh quan, vũ trụ quan, thế giới quan, giải thích hiện tượng tự nhiên, tâm linh, xã hội, bản chất sự vật và sự việc; các phương pháp thực hành, tu tập dựa trên những lời dạy ban đầu của một nhân vật lịch sử có thật tên là "Tất-đạt-đa Cồ-đàm" (悉達多瞿曇, सिद्धार्थ गौतम, Siddhārtha Gautama) và các truyền thống, tín ngưỡng được hình thành trong quá trình truyền bá, phát triển Phật giáo sau thời Tất-đạt-đa Cồ-đàm.
Tất-đạt-đa Cồ-đàm thường được gọi là Bụt, Phật Thích Ca hay Đức Phật hoặc "người giác ngộ", "người tỉnh thức". Theo nhiều các tài liệu kinh điển của Phật giáo, cũng như các tài liệu khoa học và khảo cổ đã chứng minh rằng, ông đã sống và thuyết giảng ở vùng đông bắc Ấn Độ ngày nay từ khoảng thế kỉ thứ 6 TCN đến thế kỉ thứ 5 TCN. Sau việc Đức Phật nhập niết-bàn ("nibbāna") được khoảng hơn 100 năm, khi Đại hội kết tập kinh điển Phật giáo lần thứ hai diễn ra thì Phật giáo bắt đầu phân hóa ra thành nhiều nhánh và nhiều hệ tư tưởng khác nhau, với nhiều sự khác biệt, mặc dù cùng có xuất phát từ tư tưởng của Phật giáo Nguyên thủy của Đức Phật. Ngày nay có tồn tại ba truyền thống Phật giáo chính ở trên thế giới.
Phật giáo Nam tông thì phát triển mạnh ở Sri Lanka và Đông Nam Á (Campuchia, Miến Điện, Lào, Thái Lan, Miền Nam Việt Nam). Phật giáo Bắc tông thì phát triển mạnh ở Đông Bắc Á (Trung Quốc, Triều Tiên, Nhật Bản, Đài Loan,Việt Nam) và bao gồm nhiều phân nhánh nhỏ hơn như Tịnh độ tông, Thiền tô, Mông Cổ, Nepal và Bhutan. Mặc dù phát triển chủ yếu ở châu Á, nhưng hiện nay Phật giáo được tìm thấy ở khắp thế giới. Ước tính số người chính thức theo Phật giáo (đã làm lễ Quy y Tam bảo) vào khoảng 350 triệu đến 750 triệu người, tuy nhiên số người chưa chính thức theo Phật giáo nhưng có niềm tin vào Phật giáo còn đông hơn con số đó rất nhiều, có thể đạt tới 1,5 tỷ người. Chẳng hạn như Trung Quốc với hơn 1,4 tỷ dân thì phần lớn dân số tin một phần hoặc toàn bộ giáo lý Phật giáo và thường đi chùa lễ Phật, dù trên giấy tờ tùy thân thì họ không được xác định là tín đồ Phật giáo.
Phật giáo sơ khởi là duy lý và có tính vô thần, hướng con người đến nhận thức chân lý, hay còn gọi là tỉnh thức, giác ngộ. Phật nguyên tiếng Phạn là Buddha, Bud là giác (biết, nhận thức), dha là người - nghĩa là người hiểu biết. Đức Phật là một nhân vật lịch sử có thật tên là Tất-đạt-đa Cồ-đàm (625 - 545 TCN) và theo Phật giáo Nam tông thì ông đã dùng 45 năm cuộc đời (còn theo Phật giáo Bắc tông là 49 năm cuộc đời) để đi khắp miền bắc Ấn Độ để truyền bá triết lý. Mặc dù vậy, theo ý niệm nguyên thủy của Phật giáo, Phật là một con người đã giác ngộ nghĩa là đã đạt được sự nhận thức đúng đắn về bản ngã và thế giới xung quanh nên đã được giải thoát. Ai cũng có thể trở thành Phật nếu người đó tự sử dụng trí tuệ của mình để nhận thức đúng đắn bản ngã và thế giới xung quanh do đó được giải thoát. Khi đã vượt qua sự vô minh, con người giác ngộ trở thành Phật và được giải thoát. Phật giáo không theo chủ nghĩa duy vật, cũng không theo chủ nghĩa duy tâm và khuôn mẫu các quan điểm chủ quan khác.
Các trường phái Phật giáo khác nhau ở quan điểm về bản chất của con đường đưa đến giác ngộ để được giải thoát, tính chính thống của các bài thuyết giảng và kinh điển, đặc biệt là ở phương thức tu tập. Vì hướng đến việc nhận thức đúng đắn bản ngã và thế giới khách quan nên hệ thống triết lý Phật giáo chứa đựng nhiều quan điểm bản thể luận và nhận thức luận. Siêu hình học trong triết học Phật giáo đã phát triển đến một trình độ cao. Phương Tây dịch giác ngộ thành khai sáng ("enlightenment") vì trong triết học phương Tây, khai sáng là tự sử dụng trí tuệ của mình để nhận thức đúng đắn thế giới, tương đương như giác ngộ trong Phật giáo. Cũng như Nho giáo, Lão giáo và triết học phương Tây hiện đại, Phật giáo là một hệ thống triết học mang tính khai sáng nhằm hướng con người đến Chân - Thiện - Mỹ.
Phía đông bắc của tiểu lục địa Ấn Độ là dãy núi Hy-mã-lạp-sơn ("Himalaya") cao lớn và dài tạo nên một hàng rào cô lập các vùng bình nguyên của xứ này với các vùng còn lại. Để liên lạc với bên ngoài thì chỉ có con đường núi xuyên qua Afghanistan. Khoảng 3000 năm TCN, người Dravidian bản địa xây dựng nên nền văn minh cổ xưa nhất ở Ấn Độ ven bờ sông Ấn và sông Hằng. Sau đó, người Aryan du mục đã dần mở mang và xâm chiếm các vùng lãnh thổ Ấn Độ và lan rộng ra hầu hết bán đảo Ấn Độ khoảng 1000 năm TCN. Nền văn hóa triết học chính ngự trị thời bấy giờ là văn hóa Vệ-đà ("Vedas").
Văn hoá Vệ-đà nghiêng về sùng bái nhiều thần thánh cũng như có các quan điểm duy tâm và thần bí về thế giới và vũ trụ. Những sự phát triển về sau đã biến văn hóa Vệ-đà thành Đạo Bà-la-môn ("Đạo Brāhmaṇa") và phân hoá xã hội thành bốn giai cấp chính trong đó đẳng cấp Bà-la-môn (tầng lớp tăng lữ) là giai cấp thống trị. Tư tưởng luân hồi cho rằng sinh vật có các vòng sinh tử thoát thai từ đạo Bà-la-môn (hay sớm hơn từ văn hóa Vệ-đà). Đạo Bà-la-môn còn cho rằng tồn tại một bản chất chung của vạn vật, đó là Đại ngã ("Brahman").
Tôn giáo gắn liền với nó là triết học phát triển mạnh tại Ấn Độ với sự xuất hiện rất nhiều hướng triết lý và cách hành đạo khác nhau và đôi khi phản bác nhau. Trong thời gian trước khi Phật giáo xuất hiện, đã có rất nhiều trường phái tu luyện. Các xu hướng triết học cũng phân hoá mạnh như là các xu hướng, chủ nghĩa khoái lạc, ngẫu nhiên, hoài nghi mọi thứ, huyền bí pháp thuật, duy vật, duy tâm, tu khổ hạnh, tu đức hạnh, trì niệm chú, đọc tụng
Phật giáo được Tất-đạt-đa Cồ-đàm, người sáng lập Phật giáo, thuyết giảng ở miền bắc Ấn Độ vào thế kỷ 6 TCN. Được truyền bá trong khoảng thời gian 45 năm theo Phật giáo Nam tông (hoặc 49 năm theo Phật giáo Bắc tông) khi Đức Phật còn tại thế ra đến nhiều nơi, nhiều dân tộc nên lịch sử phát triển của Phật giáo khá đa dạng về các bộ phái cũng như các nghi thức, nghi lễ hay phương pháp thực tập, tu học. Ngay từ buổi đầu, Đức Phật đã tổ chức được một giáo hội với các giới luật chặt chẽ. Tại Ấn Độ, Phật giáo có thể đã bắt đầu suy tàn từ thế kỉ thứ 7 và đạo Phật thật sự biến mất trên đất Ấn Độ từ đầu thế kỉ thứ 13 bởi sự đàn áp mạnh của chính quyền và quân Hồi giáo bên ngoài. Mãi đến giữa thế kỉ thứ 20, phong trào chấn hưng Phật giáo ở Ấn Độ mới bắt đầu nhờ công của 1 nhà hoạt động chính trị-xã hội và nhà kinh tế học người Ấn Độ tên là Bhimrao Ambedkar. Tuy nhiên, Phật giáo lại phát triển mạnh ở những nước lân cận. Phật giáo được truyền bá từ Ấn Độ sang Tây Tạng, Trung Quốc, Đông Bắc Á và Đông Nam Á. Nhờ vào tính chất khai sáng cùng sự uyển chuyển, linh hoạt của triết lý, Phật giáo được nhiều người tiếp nhận và có thể thích nghi với nhiều hoàn cảnh xã hội, nhiều tầng lớp giai cấp, nhiều phong tục tập quán ở các thời kỳ, đất nước khác nhau, và do đó ngày nay Phật giáo vẫn tiếp tục tồn tại và ngày càng phát triển rộng rãi trên toàn thế giới ngay cả trong các nước có nền khoa học tiên tiến như Hoa Kỳ, Canada, Úc và châu Âu. Triết lý Phật giáo phù hợp với tinh thần khai sáng của châu Âu nên nhiều nhà triết học ở đây chú ý nghiên cứu Phật giáo và truyền bá nó.
Ngay sau khi thành đạo dưới cội cây Bồ-đề ("Bodhi") ở tại Bồ-đề Đạo Tràng ("Bodh Gaya") vào khoảng giữa sau thế kỉ thứ 6 TCN - có tài liệu cho đó là vào năm 590 TCN theo Phật giáo Nam tông hay năm 595 TCN theo Phật giáo Bắc tông, Đức Phật đã quyết định thuyết giảng lại sự hiểu biết của mình. Bài kinh đầu tiên mà Đức Phật thuyết giảng đó là Kinh Chuyển pháp luân ("Dhammacakkappavattana Sutta") giáo hóa nhóm có năm vị Tỳ-kheo ("Bhikkhu") trở thành A-la-hán (Arahant): Kiều-trần-như ("Koṇḍañña") trưởng nhóm, Vappa, Bhaddiya, Mahānāma và Assaji tại vườn phóng sinh nai tên gọi Vườn Lộc Uyển ("Mrigadava") gần kinh thành Ba-la-nại ("Bārāṇasī"). 100 đệ tử đầu tiên là những người có quan hệ gần với Đức Phật đã hình thành Tăng-già (hay Tăng Đoàn, "saṅgha") đầu tiên. Sau đó, những người này chia nhau đi khắp nơi và truyền bá thêm ngày càng nhiều người muốn theo thực tập và tu học. Để làm việc được với một lượng người theo thực tập và tu học ngày càng đông, Đức Phật đã đưa ra một chuẩn mực cho các đệ tử có thể dựa vào đó mà thu nhận thêm người được gọi là giới luật. Giới luật này phần chính là việc Quy y Tam bảo (Nương tựa Ba ngôi báu cao quý) - tức là chấp nhận theo hướng dẫn của chính Đức Phật, những lời dạy của Đức Phật ("Giáo Pháp"), và cộng đồng những người xuất gia thực hành theo lời dạy của Đức Phật ("Tăng Đoàn").
Trong thời Đức Phật còn tại thế thì những người xuất gia theo Phật giáo được tập hợp trong tổ chức được gọi là Tăng Đoàn, trực tiếp được sự hướng dẫn của Đức Phật về giáo pháp và phương thức thực hành, tu tập. Tăng Đoàn là tổ chức thống nhất, bình đẳng giữa mọi thành viên không phân biệt giới tính, tuổi tác, thân thế, giai cấp xã hội và có mục tiêu tối cao là đem lại giác ngộ cho mọi thành viên. Giới luật của Tăng Đoàn dựa trên nguyên tắc tự giác. Trong các kì họp, giới luật được nêu lên, sau đó thành viên tự xét và nhận vi phạm nếu có. Những điều lệ chính được đề cập là nhẫn nhục, hành thiện tránh ác, tự chủ và kiềm chế trong ăn nói và tinh tấn. Nhờ vào tổ chức có tính bình đẳng và quy củ nên Tăng Đoàn tránh được nhiều chia rẽ. Ngoài những người xuất gia, Đức Phật còn có rất nhiều đệ tử tại gia hay cư sĩ. Giới cư sĩ cũng được Đức Phật thuyết giảng và ngược lại tham gia ủng hộ Tăng Đoàn về nhiều mặt. Khi Đức Phật còn tại thế. Ông là một nhà triết học, một vị chân sư còn các tu sĩ và quần chúng nhân dân là học trò của ông. Chỉ sau khi ông nhập niết-bàn thì Phật giáo mới hình thành với hệ thống giáo lý là những lời dạy của Đức Phật, giáo hội được các đệ tử của Đức Phật thành lập, giáo chúng là những người tin vào lời dạy của Đức Phật và tôn kính Đức Phật.
Sau khi Đức Phật niết-bàn thì Tôn giả Ma-ha-ca-diếp ("Maha Kassapa") thay phần lãnh đạo giáo hội. Ông tập họp 500 vị Tỳ-kheo tại thành Vương-xá (Rājagaha) để tổ chức đại hội kết tập kinh điển Phật giáo lần thứ nhất nhằm kết tập những lời dạy của Đức Phật. Tại kỳ kết tập này giáo luật Phật giáo được tôn giả Ưu-ba-li ("Upāli") kết tập và được tăng đoàn chấp thuận. Tôn giả A-nan-đà ("Ananda") kết tập giáo pháp và được đại chúng nhất trí. Tôn giả A-nan-đa lần lượt kết tập các kinh Tăng nhất, Tăng thập, Đại nhân duyên, Tăng Kỳ Đà, Sa môn quả, Phạm Động và những kinh Phật thuyết giảng cho Tỳ-kheo, Tỳ-kheo Ni, Ưu bà tắc, Ưu bà di, chư Thiên và nhân loại. Những kinh dài kiết tập thành một bộ gọi là Trường A Hàm, những kinh trung bình kết tập lại thành một bộ gọi là Trung A Hàm. Những kinh nói cho nhiều đối tượng như Tỳ-kheo, Tỳ-kheo Ni, Ưu bà tắc, Ưu bà di và chư Thiên kết tập thành một bộ gọi là Tạp A Hàm. Những kinh lần lượt nói từ một pháp tăng dần đến mười một pháp kết tập thành một bộ gọi là Tăng Nhất A Hàm. Ngoài ra tập họp các kinh bao quát nhiều vấn đề thành một bộ gọi là Tạp Tạng. Sau kỳ kết tập này Luật tạng và Kinh tạng của Phật giáo cơ bản hình thành. Giáo hội giữ nguyên các hoạt động truyền thống của mình cho đến kì kết tập kinh điển lần thứ hai.
Đại hội kết tập kinh điển Phật giáo lần thứ hai diễn ra sau khi Đức Phật niết-bàn khoảng 100 năm do có sự mâu thuẫn về giới luật và tranh cãi về tính không hoàn hảo của một vị A-la-hán. Sự kiện diễn ra như sau, Trưởng lão Da-sá ("Ya-za") trong lần tuần du đến thành Tỳ-xá-ly ("Vaishali") đã nhận thấy các Tỳ-kheo ở đây thực hiện nhiều hành vi vi phạm giới luật. Trong đó nghiêm trọng nhất là việc nhận vàng bạc của thí chủ cúng dường. Ông nói như thế này với người dân và Tỳ-kheo ở Tỳ-xá-ly: "các ngươi không nên cúng thí tiền, ta từng đích thân theo Phật nghe pháp, nếu ai cầu thí không đúng với giáo pháp, cũng như những ai cúng thí không đúng với giáo pháp, cả hai đều đắc tội". Các vị Tỳ kheo ở đây từ chối cho rằng mình có tội, họ nói đó là những điều chỉnh thích hợp đối với văn hóa và phong tục nơi đây, mâu thuẫn không thể giải quyết và do vậy họ quyết định trục xuất Da-sá. Da-sá sau đó đi đến nhiều vùng đất khác nhau tập hợp các Trưởng lão và những người am hiểu phật pháp nhằm mục đích xem xét các hành vi trái với giới luật là có thể chấp nhận được hay không. Kỳ đại hội này đánh dấu sự phân phái chính thức đầu tiên của Phật giáo thành Trưởng lão bộ và Đại chúng bộ. Đại hội còn có 2 tên khác là "Thất bách kết tập" và "Tỳ-xá-ly kết tập" vì cuộc kết tập diễn ra tại thành Tỳ-xá-ly với sự tham giá của 700 vị A-la-hán. Khi đại hội kết thúc, trưởng lão Revata (Ly-bà-đa) kết luận: ""Những gì không do Phật chế thì không được tùy tiện chế định, những gì do Phật đã chế thì không được vi phạm. Tăng chúng phải chăm chỉ học tập những gì Phật đã truyền dạy"".
Đại hội kết tập kinh điển Phật giáo lần thứ ba diễn ra sau Đại hội kết tập kinh điển Phật giáo lần thứ hai đúng 118 năm dưới sự bảo trợ của vua Asoka ("A-dục"), nghĩa là sau Đức Phật niết-bàn khoảng 218 năm, tức là khoảng 325 năm TCN. Đại hội kéo dài khoảng 9 tháng dưới sự chủ tọa của Mục-kiền-liên-tử Đế-tu ("Moggaliputta-Tissa"). Địa điểm diễn ra đại hội là vườn Viên-lâm ("Uyỳana"), thành Hoa-thị (Pàtaliputta), thuộc miền Trung Ấn Độ. Số người tham gia đại hội là 1000 người. Mục đích của đại hội là ngăn chặn việc các sư đem giáo luật ngoại đạo giảng cho tín đồ, qua đó ngăn chặn rạn nứt trong Tăng Đoàn. Thể thức kết tập cũng giống hai lần đại hội trước. Sau khi kết tập, Mục-kiền-liên-tử Đế-tu đã soạn sách Thuyết-sự (Kathàvatnu) để phản bác nghĩa lý của các phái ngoại đạo đương thời. Một công việc quan trọng khác của Đại hội này là biên tập lại các bộ luận. Từ đó, kinh điển Phật giáo được hệ thống hóa đầy đủ thành tam tạng gồm tạng Luật, tạng Kinh và tạng Luận. Mục-kiền-liên-tử Đế-tu giao cho đệ tử phổ biến tam tạng này sang 9 nước khác gồm: Lankadipa (Sri Lanka), Suvannabhumi (Mon / Myanmar, Thái Lan), Himavanta (ở Himalaya), Yona (Hy Lạp)...
Đại hội kết tập kinh điển Phật giáo lần thứ tư là tên gọi chung cho hai đại hội kết tập kinh điển Phật giáo tại Sri Lanka và Kashmir. Năm 25 TCN tại chùa Thūpārama ở kinh đô Anuradhapura của Sri Lanka phái Thượng tọa bộ tổ chức đại hội kết tập kinh điển. Cũng có thuyết cho rằng đại hội này diễn ra vào khoảng 400 năm sau khi Gautama qua đời và được vua Vattagàmani bảo trợ. Lại có thuyết nữa cho rằng Đại hội này diễn ra vào năm 232 TCN (năm Phật lịch 313) thời vua Devanampiya Tissa (trị vì: 307 TCN – 267 TCN, mất 267 TCN). Thành quả của cuộc kết tập này của phái Thượng tọa bộ là bộ kinh điển bằng tiếng Pali, được viết lên lá cọ và được truyền bá sang xứ của người Môn ở Myanmar, Campuchia, Thái Lan, Lào ngày nay. Một đại hội khác được phái Thuyết nhất thiết hữu bộ tổ chức tại Kashmir diễn ra vào khoảng 400 năm sau khi Cồ-đàm qua đời (tức khoảng năm 78) tại thành Kasmira nước Kushan dưới sự bảo hộ của vua nước này là Kanishka. Chủ tọa đại hội là Vasumitra (Thế Hữu). Số đại biểu là 500 người. Mục đích của đại hội là hệ thống hóa lại các bộ luận của phái Thuyết nhất thiết hữu bộ. Thành quả của cuộc kết tập của phái Thuyết nhất thiết hữu bộ là 3 bộ luận bằng chữ Phạn gồm 300 ngàn bài kệ và 9.6 triệu từ được khắc trên các lá đồng.
Đại hội kết tập kinh điển Phật giáo lần thứ năm được tổ chức vào năm 1871 ở Mandalay, Miến Điện dưới sự bảo trợ của vua Mindon. Về dự đại hội có 2400 tu sĩ Phật giáo. Chủ trì đại hội là Thượng tọa Pong Yi Sayadaw. Các nhà sư nổi tiếng như Jāgarābhivamsa, Narindābhidhaja, Sumangalasāmi đã tham dự đại hội. Kết quả kết tập là toàn bộ Tam tạng được viết trên 729 phiến đá cẩm thạch, mỗi phiến đá cao hơn 1,5 m và rộng gần 1 m, khắc chữ đầy cả hai mặt. Luật tạng khắc trên 101 phiến đá, Kinh tạng trên 520 phiến, và Luận tạng trên 108 phiến. Phần chú giải của Tam tạng được khắc trên 1774 phiến đá khác. Các phiến đá này được vua cho lưu trữ ở tháp Mahalokamarakhin và tháp Candamunī.
Đại hội kết tập kinh điển Phật giáo lần thứ sáu diễn ra từ ngày Phật đản 17 tháng 5 năm 1954 đến ngày Phật đản năm 1956 ở thủ đô Yangon, Miến Điện. Đại hội do Chính phủ Miến Điện bảo trợ. Các đại biểu đến từ Miến Điện và các nước có Thượng tọa bộ gồm Campuchia, Lào, Thái Lan, Việt Nam, Sri Lanka, Ấn Độ và Nepal. Chủ tọa Đại hội là Nyungan Sayadaw. Người nêu nghi vấn về kinh điển là Mahasi Sayadaw. Người giải đáp nghi vấn là Mingun Sayadaw (Bhadanta Vicittasāra Bhivamsa). Cuộc vấn đáp được chủ tọa và 2500 tu sĩ Phật giáo theo dõi, chất vấn và ghi chép. Kinh điển được kết tập, xem xét, chú giải bằng ba thứ tiếng Pāli, tiếng Myanmar, và tiếng Anh. Các kinh điển của kỳ Đại hội lần thứ năm được sử dụng làm căn cứ và đối chiếu với các bản kinh cổ của Sri Lanka, Campuchia, Thái Lan và Hiệp hội Thánh điển Pāli ở Luân Đôn.
Giáo lý cốt lõi.
Từ bi và trí tuệ là hai trụ cột trong giáo lý Phật giáo. Toàn bộ giáo lý Phật giáo nhằm hướng con người đến việc sử dụng trí tuệ của mình nhận thức thế giới đúng như nó thật là để từ đó sống từ bi.
Toàn bộ giáo pháp của Phật giáo được chứa đựng trong Tam tạng (zh. 三藏, sa. "tripiṭaka", pi. "tipiṭaka", bo. "sde snod gsum" སྡེ་སྣོད་གསུམ་) gồm:
Tam tạng còn được truyền lại trọn vẹn nhất chính là Tam tạng tiếng Pali. Theo lịch sử, Kinh tạng và Luật tạng bằng tiếng Pali được viết lại trong lần kết tập thứ nhất (năm 480 trước Công nguyên), trong đó Ưu-bà-li nói về Luật và A-nan-đà trình bày giáo pháp. Những lời thuật lại của hai vị đại đệ tử này đã trở thành cơ sở của hai tạng đó. Và tạng vi diệu pháp cũng hình thành ngay sau đó.
Trong kinh Di Giáo, trước khi vào Niết bàn, Phật Thích ca để lại di huấn: "Sau khi Như Lai diệt độ rồi, các Tỳ kheo hãy lấy Giới luật làm Thầy". Trong tam tạng pháp bảo (Tạng Kinh, Tạng Luật, Vi Diệu Pháp), Phật coi Giới Luật là điều quan trọng nhất để duy trì đạo phật - "“Giới luật còn, Phật pháp vẫn còn. Giới luật không còn, Phật pháp cũng mất”".
Kinh Phật cũng ghi rằng Đức Phật từng tiên tri giáo pháp của ông sẽ tồn tại được 5.000 năm rồi sẽ bị hoại diệt. Bởi qua thời gian lâu dài, các thế hệ tăng ni - Phật tử sau này ngày càng khó thực hành theo lời giáo huấn của Phật, các giáo lý cũng ngày càng bị pha tạp hoặc bị hiểu nhầm. Dần dần đến thứ cốt yếu - những giới luật thanh tịnh - cũng sẽ không còn giữ được nữa, khi giới luật mất đi thì cũng là lúc đạo Phật cũng tiêu hoại. Đây được gọi là thời kỳ Mạt pháp. Sự hoại diệt này cũng đã từng xảy ra với giáo pháp của tất cả những vị Phật trong quá khứ. Phật Thích ca cũng tiên tri rằng: trong một tương lai rất xa nữa, khi đạo Phật đã hoại diệt và sự tồn tại của Phật Thích Ca đã bị nhân loại lãng quên từ rất lâu rồi, sẽ có vị Phật kế tiếp là Phật Di Lặc xuất hiện, một lần nữa truyền dạy lại đạo Phật cho nhân loại.
Cơ sở tư tưởng và cốt lõi của triết lý Phật giáo là Tứ Thánh Đế. Bốn chân lý giải thích bản chất của sự khổ trong luân hồi (輪回), nguyên nhân của sự khổ, và làm thế nào để giải trừ đau khổ. Nếu như có một ngọn lửa tự cháy giữa hư không, vô nhân, vô duyên, vậy thì khi muốn dập tắt ngọn lửa ấy là điều không thể nào, thế nhưng ngược lại, trong thực tế ngọn lửa nào cháy lên cũng có nhân, có duyên của: chất đốt, không khí, , tương tự như vậy, Đức Phật dạy Ở đời thực có khổ đau (Khổ đế), khổ đau cũng có nguyên nhân (Tập đế), khổ đau có thể dập tắt (Diệt đế), và Bát chánh đạo - Trung đạo là con đường đưa đến khổ diệt (Đạo đế). Tứ diệu đế là sự nhận thức đúng đắn các loại khổ đau, nguyên nhân dẫn đến khổ đau, trạng thái không có khổ đau và con đường để thoát đau khổ. Con người chỉ thoát khỏi đau khổ nhờ nhận thức đúng về đau khổ. Thoát khỏi vô minh thì hết đau khổ. Đây là quan điểm triết học mang tính duy lý.
- Hành giả thực hành chánh tư duy để xây dựng tâm hồn, thành đạo đức hiền lương theo từng lần tác ý.
- Khi khởi tâm bất thiện, hành giả quyết chí diệt trừ, biết hối hận ăn năn, biết canh phòng lần khác.
- Khi tiếp xúc với cuộc sống, hành giả luôn chủ động tác ý thiện lành, tự nhắc chẳng có ta, để mà tham sân giận.
- Hành giả thường tự răn tự nhắc, phải biết sống vị tha, luôn cung kính ái hòa, không khoe khoang kiêu mạn.
- Hành giả thường khởi tâm tôn kính Mười phương Phật Pháp Tăng, như ngưỡng vọng cao sơn, còn mình như bụi rác.
- Hành giả thường khỏi tâm từ bi ban rải khắp nơi.
- Hành giả tự nhắc mình tránh khỏi những ô nhiễm thấp hèn, gắng giữ giới hạnh sạch trong theo gương các bậc Thánh.
- Việc tu hành tiến bộ căn cứ vào việc hành giả ngày càng tinh tế, kiểm soát tâm ý mình và phát hiện ra những ý niệm sai.
- Không chê bai bừa bãi, không nói điều dơ bẩn, không nói điều khen mình, không nói điều đua ganh, không nói điều giả dố, vẫn có những trường hợp phải nói ra những lầm lỗi của người khác để họ biết sửa lỗi và tránh thiệt hại cho cộng đồng.
- Cần thực hành nói những lời hòa ái, khen ngợi người tốt cho người khác nghe, thường ngợi ca đạo lý Phật dạy, thường nói về nhân quả, về nhiều kiếp luân hồ
- Hành giả không thực hiện, ngăn người khác thực hiện những điều ác độc gây đau khổ chúng sinh, chỉ làm những việc lành và khuyến khích người khác làm những việc lành, cho chúng sinh an lạc.
Có khi là nhường người tốt tiến lên, có khi là gánh lấy những trách nhiệm nặng nhọc, có khi là nghiêm khắc ngăn kẻ xấu làm sai, có khi là trợ giúp những ai làm điều thiện.
- Hành giả rất siêng năng lễ kính Phật, sám hối nghiệm nghìn xưa, việc bất thiện không làm nữa, việc thiện lành gắng vun bồi.
- Các bậc Bồ tát lại có những Chánh nghiệp phi thường, thường gián tiếp giúp đỡ mà chúng sinh không biết.
- Hành giả thực hành vô số việc làm cụ thể để tạo thành vô biên phước báo.
- Nhờ phước báo từ Chánh Nghiệp, mà hành giả được tự do chọn lựa nghề nghiệp sao cho phước lành sinh thêm mãi.
- Nghề tốt phải gồm đủ 2 yếu tốt: tạo phước từng ngày và có thời gian tu tập.
- Riêng nghề tu sĩ là "khất thực"(xin ăn), nhưng không luồn cúi thấp hèn mà luôn đĩnh đạc uy nghi.
- Ở giai đoạn này, hành giả gặp rất nhiều khó khăn, trở ngại trong quá trình tu tập. Dù còn nhiều chướng ngại, nhưng hành giả vững lòng thực hành thiền định hướng về mục tiêu Vô ngã.
- Công phu thiền định được thực hành cẩn thận, được sự nhắc nhở của các bậc Chân tu để có thể tiến đạo.
Ở trạng thái này, hành giả kiểm soát tâm, không mờ mịt mê lầm, chạy theo ngoài thanh sắc. Tuy chỉ mới bắt đầu, chưa phải đã vào sâu trong quá trình tu tập, hành giả cần cẩn thận tác ý, tránh kiêu căng kiêu mạn.
Hành giả còn cần trải qua nhiều kiếp an trú vững chắc mới hết giai đoạn Chánh niệm.
Giá trị tu hành của giai đoạn này để hành giả diệt trừ được 5 triền cái theo trình tự: Tham (vị này không còn tham lam, muốn tích trữ bất cứ thứ gì), Sân (vị này không còn nổi nóng vì bất cứ lý do gì), Hôn trầm (nếu cần phải tỉnh táo không ngủ, thì tỉnh rất dễ dàng, dù cơ thể sẽ mệt), Nghi (có trí tuệ thông hiểu rất nhiều điều trong cuộc sống), Trào cử (thân người trong thiền định cứng chắc, có thể ngồi thiền rất lâu dài).
Với đạo đức rất trọn vẹn và thiện nghiệp lớn lao, hành giả có thể chứng đắc được Thánh quả Tu Đà Hoàn (Sơ quả) và Tư Đà Hàm (Nhị quả) trong giai đoạn Chánh niệm.
Cơ sở 4 tầng thiền: sơ thiền (ly dục ly ác pháp sinh hỷ lạc, có tầm, có tứ), nhị thiền (diệt tầm, diệt tứ, định sinh hỷ lạc, nội tĩnh, nhất tâm), tam thiền (ly hỷ, trú xả), tứ thiền (xả lạc, xả khổ, xả niệm thanh tịnh) cùng với những phương pháp hỗ trợ như Tứ Niệm Xứ, quán niệm hơi thở, quán thân vô thườ
Với đạo đức rất trọn vẹn và thiện nghiệp lớn lao, hành giả có thể chứng đắc được Thánh quả Tư Đà Hàm (Tam quả).
Sau khi đã đạt Tứ thiền, hành giả quán chiếu đầy đủ về Vô Ngã, vị này sẽ chứng đạt Tam minh gồm: Túc mạng minh, Thiên nhãn minh, Lậu tận minh. Chứng tam minh xong, hành giả giải thoát hoàn toàn, thành tựu thánh quả A-la-hán, các vị A-la-hán tuyên bố "Tái sinh đã tận, hạnh thánh đã thành, việc nên đã làm, không còn trở lại sinh tử này nữa".
Nhân quả và luân hồi.
Trong Phật giáo có hai khái niệm quan trọng là nhân quả và luân hồi.
Trong đạo Phật những vấn đề siêu hình không là vấn đề hệ trọng đối với những ai đang cố thực hiện cuộc thực nghiệm tâm linh. Đối với các vị tỳ kheo hay đặt những thắc mắc siêu hình, đức Phật thường quở phạt là vì lẽ đó. Ông dạy rằng điều hệ trọng nhất là phải tự tinh tiến lên để được giải thoát giác ngộ, đừng phí thì giờ và tâm lực vào những vấn đề siêu hình ""Này các tỳ kheo, các thầy đừng thắc mắc về vấn đề thế giới nầy là hữu hạn hay vô hạn, hữu cùng hay vô cùng. Dù thế giới nầy là hữu hạn hay vô hạn, là hữu cùng hay vô cùng, thì điều mà chúng ta phải nhận là thực có ở giữa đời nầy, vẫn là những khổ đau sinh lão bệnh tử". Đức Phật lựa chọn một ít những chân lý căn bản có lợi cho sự giải thoát diệt khổ để dạy cho tứ chúng đệ tử. Trong Kinh có chép câu chuyện của một người bị trúng tên độc không chịu cho người ta nhổ tên để rịt thuốc "Khoan, khoan nhổ mũi tên đã. Để tôi còn phải tìm hiểu kẻ nào đã bắn tôi, mặt mũi ra sao, tên gì, làng nào, có thù hằn gì với tôi không, rồi sau hãy nhổ."" Nếu mà tìm hiểu được từng ấy thứ thì thuốc độc đã ngấm vào thân thể rồi, còn cứu làm sao được. Đức Phật cho rằng các đệ tử phải thực hành phương pháp giải thoát diệt khổ, đừng mất thì giờ đi tìm hiểu những chuyện vu vơ.
Những vị đệ tử chưa chứng ngộ thường thắc mắc về Niết Bàn và đặt những câu hỏi về Niết Bàn. Đức Phật có nhiều lần đã im lặng trước những câu hỏi đó. Sự im lặng của ông cũng đã là một cách trả lời. Tìm hiểu về Niết Bàn là một việc làm mất thì giờ lại còn dễ đưa người tới những tưởng tượng hư vọng. Niết Bàn là một thực thể cần được thực chứng chứ không phải là đối tượng của những suy luận duy lý. Không cho những vấn đề siêu hình là quan trọng, đó là một điểm đặc biệt của đạo Phật. Một vị tỳ kheo quyết tâm chứng đạo, không bắt buộc phải có lòng tin của một tín đồ. Người ấy có thể không bận tâm đến các vấn đề cực lạc, thiên đường, luân hồi, địa ngục. Người ấy chỉ cần đặt vấn đề giải thoát diệt khổ. Bởi vì người ấy đã có thể nhận chân được tính cách khổ, không, vô thường, vô ngã của vạn hữu (khổ đế) cùng nguyên nhân của những khổ đau ràng buộc ấy (tập đế) và cương quyết trừ diệt chúng bằng những phương pháp hợp lý (đạo đế) để đi đến sự chiến thắng khổ đau, sống trong tịnh lạc (diệt đế). Một khi thành công, người sẽ biết tất cả, hiểu tất cả, vì bấy giờ người đã sống trong chân lý. Cuộc thực nghiệm tâm linh sẽ đưa đến chỗ chứng đạo, thấu hiểu mọi chân lý mầu nhiệm bằng trí tuệ Bát nhã. Có quan điểm cho rằng chân lý chỉ có thể thấu triệt bằng thực nghiệm, vậy thì những cuộc suy luận về các vấn đề siêu hình đều chỉ là "hý luận" không cần thiết vì vậy chớ nên nghĩ rằng giáo lý đạo Phật chỉ nhằm mục đích giải đáp những thắc mắc siêu hình.
Nhiều tôn giáo khác cho rằng Trái Đất là trung tâm của vũ trụ, là nơi được Thượng đế ưu ái nhất. Nhưng Đạo Phật thì cho rằng Trái Đất chỉ là một trong muôn vàn các thế giới cùng tồn tại, mỗi thế giới lại có những đặc điểm khác nhau, thế giới mà chúng ta đang sống chỉ giống như một hạt cát trong vũ trụ. Phật Thích Ca nói rằng: ông chỉ là vị Phật truyền đạo trong cõi Ta Bà (tên gọi Trái Đất trong Phật giáo) mà thôi, chứ thực ra còn có vô số các cõi thế giới khác nữa. Cũng tương ứng như vậy, ngoài Phật Thích Ca thì còn có vô số các vị Phật khác đã, đang hoặc sẽ xuất hiện và truyền đạo ở các cõi thế giới khác nhau (tiêu biểu như Phật Nhiên Đăng, Phật Padumuttara, Phật Tỳ Bà T, khi cõi Ta Bà (tức Trái Đất hiện nay) còn chưa hình thành).
Phật giáo có khái niệm "Tiểu thiên thế giới" (1 ngàn hành tinh), "Trung thiên thế giới" (1 triệu hành tinh), đại thiên thế giới (1 tỷ hành tinh), "Tam thiên đại thiên thế giới" (3 nghìn tỷ hành tinh). Đức Phật nói vũ trụ này lại có "vô số Tam thiên đại thiên thế giới", tức là số lượng các thế giới khác nhau gần như là vô hạn. Phật Thích Ca từng nói: "Trên vũ trụ này còn vô số những thế giới khác, trong một ly nước cũng có vô số những con trùng trong đó". Đối chiếu theo quan điểm khoa học hiện đại, thì "Tam thiên đại thiên thế giới" chính là tương ứng với một thiên hà, còn những con trùng trong bát nước chính là vi khuẩn, và quả thực là trong vũ trụ có vô số thiên hà, cũng như trong 1 ly nước có vô số vi khuẩn.
Một vài tôn giáo khác coi loài người là sinh vật tối thượng. Còn Phật giáo quan niệm "chúng sinh là bình đẳng", loài người (nhân giới) cũng chỉ là một kiếp sống như các loài sinh vật khác (súc sinh giới, a-tu-la giới, thiên giới), loài người cũng không phải là tối thượng (loài người kém hơn các "chư Thiên" về sức mạnh và trí tuệ). Song dù là loài người, "chư Thiên" hay súc sinh thì cũng đều là sinh vật, phải chịu quy luật Nhân quả (làm thiện gặp thiện, làm ác gặp ác), không sinh vật nào là vĩnh cửu mà đều phải có lúc chết, lúc chết thì sẽ luân hồi sang kiếp sống khác, kiếp sau như thế nào thì phải tùy vào việc làm nhiều thiện nghiệp hay ác nghiệp (ví dụ: một người mà làm nhiều điều thiện thì kiếp sau có thể luân hồi thành 1 vị "chư Thiên", nhưng nếu mà làm nhiều điều ác thì kiếp sau lại trở thành súc sinh).
Phật giáo cũng nói về thần thánh và gọi đó là các "chư Thiên", nhưng Đức Phật nói rằng các vị thần đó cũng chỉ là một dạng sinh vật sống trong 1 thế giới khác. Họ có sức mạnh và trí tuệ vượt trội con người, nhưng bản thân họ cũng có những giới hạn: họ không thoát khỏi được luật Nhân - Quả, không thoát khỏi được sinh tử luân hồi), cũng không phải là bất tử (dù tuổi thọ của họ rất dài lâu, nhưng rồi cũng phải đến lúc họ chết đi). Như vậy, Phật giáo coi các "chư Thiên" không phải là đấng tối cao toàn năng, mà chỉ là một dạng sống văn minh hơn loài người mà thôi. Đối chiếu theo quan điểm khoa học hiện đại, có thể coi các "chư Thiên" mà Phật giáo nói tới chính là những nền văn minh ngoài Trái Đất có trình độ cao hơn hẳn so với loài người.
Lịch trình tu học.
Buddha (Phật) chỉ người đã thức tỉnh nhờ sự sáng suốt và nỗ lực của họ, mà không cần ai khác chỉ cho biết giáo pháp tu luyện (Sanskrit; Pali "dhamma"; "cách sống đúng"). "Trở thành Phật" tức là một người đã giác ngộ, tức đã tìm ra con đường trừ bỏ mọi khổ đau, ở trong trạng thái "không học thêm nữa". Phật nghĩa là một người đã biết tất cả (toàn giác), đã nắm chân lý, đã đạt đến một trình độ khai sáng hoàn thiện nhất có thể tự sử dụng trí tuệ của mình để nhận thức thế giới mà không cần ai chỉ bảo.
Kinh Phạm võng viết:
Phật có hai mức độ giác ngộ:
Phật giáo không xem Tất-đạt-đa Cồ-đàm là vị Phật duy nhất. Kinh Phật đã nói đến rất nhiều vị Phật khác từng xuất hiện trong quá khứ, tại các thế giới khác nhau. Phật giáo không có một đấng tối cao phán xét hay có toàn quyền sinh sát. Mỗi người tự làm chủ số phận của mình bằng Nhân Quả do Nghiệp lực của mình tạo ra, không một ai ngoài bản thân có thể phán xét, cứu vớt, xóa tội cho mình. Phật tính bình đẳng trong tất cả chúng sinh, bất cứ ai cũng có khả năng giải thoát niết bàn nếu tích lũy đủ thiện nghiệp và nỗ lực tu luyện. Tăng-già (僧伽) của Phật giáo bao gồm Tỳ-kheo (भिक्खु, 比丘, xuất gia nam), Tỳ-kheo-ni (भिक्खुनी, 比丘尼, xuất gia nữ) và Ưu-bà-tắc (Upāsaka, tại gia Nam), Ưu-bà-di (Upāsikā, tại gia Nữ)
Theo giáo lý nguyên thủy thì một hành giả đạt Bồ-đề, giác ngộ khi người đó đạt được một cái "nhìn vạn vật như chúng đích thật là" (Như thật tri kiến) tức là đạt đến chân lý, với một tâm thức thoát khỏi phiền não và si mê. Trong các loại phiền não thì tham ái và vô minh, cũng được gọi là si, là những loại nặng nhất. Tham, sân và si được gọi chung là ba chất độc (tam độc), vì chúng gây ảnh hưởng lớn đến tâm thức. Vì phiền não vây phủ tâm thức nên hành giả gắng sức tiêu diệt chúng, và để tiêu diệt được thì người đó phải gắng sức đạt được tri kiến chân chính bằng cách thực hành bát chánh đạo. Khi chưa nhìn vạn vật như chúng đích thật (sự thật tuyệt đối hay còn gọi là chân đế) thì con người sẽ chấp trước, giành giật, tranh luận, tranh chấp trong các luận thuyết như người mù sờ voi vì họ chỉ nhìn một phía. Người ta chìm đắm trong các giáo điều như người mê ngủ. Người thức tỉnh là người đã vứt bỏ hết mọi giáo điều để tự nhận thức vạn vật như chúng thật là (sự thật tuyệt đối của vật chất và ý thức). Không những vậy, muốn đạt được chân lý con người còn phải vô ngã. Khi tâm được trong sáng là lúc trí tuệ hiện ra. Người chấp ngã sẽ khởi lên sầu, bi, khổ, ưu, não. Muốn được giải thoát khỏi mọi đau khổ, an trú trong các thiện pháp, sống an lạc, không ưu phiền thì phải vô ngã.
Người tu học thực hành thiền Tứ Niệm Xứ (thiền minh sát hay còn gọi là thiền tuệ, thiền Vipassana) để thấy rõ bản chất của sự vật, đồng thời cũng không ngừng học hỏi, lắng nghe những ý kiến trái chiều và thực hành giáo pháp. Cách thực hành trong Phật giáo cũng được phân chia theo tam học, cụ thể là tu học về giới (giới luật: giới người tại gia và giới của bậc xuất gia), định (thiền định) và tuệ (thiền tuệ, thiền minh sát). Trước hết hành giả phát lòng tin (tín, sa. "śraddhā") vào tam bảo, giữ giới luật đúng theo địa vị của mình (cư sĩ, sa-di hoặc tỳ kheo). Qua đó mà ông ta chuẩn bị cho cấp tu học kế đến là thiền định. Cấp này bao gồm bốn trạng thái thiền (tứ thiền). Một số cách thực hành được nhắc đến nhằm hỗ trợ bốn cấp thiền định trên, đó là Tứ Niệm Xứ, Tứ Vô Lượng Tâm, tức là trau dồi bốn tâm thức Từ, Bi, Hỉ và Xả (cũng được gọi là Tứ Phạm trú). Cách thiền định ở cấp này được phân làm hai loại: 1. Chỉ là phương pháp lắng đọng tâm, và 2. Quán là cách thiền quán lập cơ sở trên chỉ, tức là có đạt định an chỉ xong mới có thể thành tựu công phu Quán. Phần thứ ba của tam học là tuệ học, lập cơ sở trên thiền quán. Đối tượng quán chiếu trong thiền định ở đây có thể là tứ diệu đế, nguyên lý duyên khởi hoặc ngũ uẩn. Ai hoàn tất Tam học này sẽ đạt được sự hiểu biết về giải thoát, biết là mình đã đạt giải thoát. Phiền não của hành giả này đã được tận diệt, các lậu hoặc đã chấm dứt (vô lậu) và hành giả ấy đạt tứ thánh quả A-la-hán. Khi tu học, người học Phật cần phải có sự hiểu biết trong Pháp học (toàn bộ tam tạng Pali) và Pháp Hành (Thiền Tứ Niệm Xứ). Người tu học đi theo Trung đạo để đạt đến giác ngộ nghĩa là xa lìa hai lối sống truy hoan và thực hành ép xác khổ hạnh. Người giác ngộ sẽ thấy được sự sinh, sự diệt của tâm và vật chất, thấy được tam tướng vô thường - khổ não - vô ngã, thấy được chân lý tứ thánh đề bằng trí tuệ thiền tuệ để đạt tới giải thoát cuối cùng là Tứ thánh đạo - Tứ thánh quả - Niết bàn.
Song song với cách tu hành theo Tam học trên ta cũng tìm thấy phương cách theo 37 Bồ-đề phần.
Với thời gian truyền đạo hơn 40 năm, số lượng bài giảng của Đức Phật nằm toàn bộ trong tam tạng Pali. Ngoài ra, do sự khác biệt về căn bản của các đệ tử, ông đã trình bày những bài giảng khác nhau nhằm tương hợp với khả năng tiếp thu của từng người. Sau khi ông qua đời, các thế hệ đệ tử trải qua hơn 2.500 năm truyền đạo, qua nhiều khu vực địa lý, môi trường văn hóa đã dung hợp và bổ túc vào giáo lý căn bản, hình thành nhiều sự dị biệt, dẫn đến sự ra đời của các tông phái khác nhau. Tuy nhiên, sự khác biệt của tông phái đã dẫn đến sự sai lệch rất nhiều so với giáo lý nguyên bản. Mặc dù vậy, bản thân giáo lý Phật giáo dù có phát triển qua thời gian, nhưng phật giáo nguyên thủy vẫn giữ toàn vẹn giáo lý nguyên thủy lúc đầu.
Mặc dù đã có những khác biệt đã hình thành trong Tăng Đoàn ngay từ thời Phật tại thế, các nhà nghiên cứu đều thống nhất rằng sự phân chia thành các bộ phái Phật giáo rõ nét đầu tiên là vào khoảng 100 năm sau khi Phật nhập Niết-bàn, trong Đại hội kết tập kinh điển Phật giáo lần thứ hai, khi Tăng đoàn nảy sinh những sự bất đồng về yêu cầu thay đổi 10 điều giới luật. Trải qua hơn 2.500 năm, các cuộc phân phái về sau trở nên phức tạp và đa dạng hơn. Nhiều tông phái đã bị thất truyền, nhưng cũng có nhiều tông phái phát triển ở quy mô lớn hơn phạm vi của một quốc gia. Tại một số quốc gia cũng xuất hiện các tông phái Phật giáo bản địa đặc trưng của quốc gia đó.
Dưới đây là một số tông phái Phật giáo nổi bật nhất:
Phật giáo Bắc truyền.
Là một tông phái lấy pháp môn niệm danh hiệu A Di Đà, để cầu được vãng sanh về Tây Phương Cực Lạc do Đức Phật A Di Đà là Giáo chủ, tông này lấy Kinh Vô Lượng Thọ, Quán Vô Lượng Thọ, và Tiểu Bản A Di Đà làm căn bản.
Tuệ Viễn (334-416) là đệ nhất Tổ Tịnh Độ Tông Trung Hoa, tại Lư Sơn ông dựng chùa Đông Lâm và trụ trỉ ròng rã 30 năm không hề xuống núi, nơi đây ông lập ra hội Niệm Phật gọi là Bạch Liên Xã, có 123 người, trong đó có 18 vị gọi là "Đông Lâm Thập Bát Hiền".
Những vị Tổ Tịnh Độ Tông Trung Hoa lần lượt được tôn vị như sau: 1) Tuệ Viễn, 2) Thiện Đạo, 3) Thừa Viễn, 4) Phát Chiếu, 5) Thiếu Khương, 6) Diên Thọ, 7) Tỉnh Thường, 8) Châu Hoằng, 9) Ngẩu Ích, 10) Hành Sách, 11) Tỉnh Am, 12) Triệt Ngộ, 13) Ấn Quang.
Tổ Bồ Đề Đạt Ma là vị Tổ thứ 28 truyền thừa từ đệ nhất Tổ Ca Diếp, từ Ấn Độ sang Trung Hoa hoằng dương chánh pháp, ông trở thành đệ nhất Tổ Thiền Tông Trung Hoa.
Còn gọi là Pháp Hoa Tông.
Còn gọi là Hiền Thủ Tông
Phật giáo Mật truyền.
Là một tông phái Phật giáo đặc biệt, do ba vị đại học giả của Mật giáo là Thiện Vô Úy, Kim Cương Trí, và Bất Không đem Mật giáo từ Ấn Độ truyền sang Trung Hoa gọi là Mật Tông, y vào giáo lý bí mật của Kinh Đại Nhật, Kinh Kim Cương Đính gọi là Mật Tông hay Chơn Ngôn Tông.
Mật Tông có "tam mật", nêu về ý thú thực tiễn tu hành, khi tu tới Tam Mật Tương Ứng với nhau, tức là "Tức thân thành Phật", nghĩa là tay thì kiết ấn "Thân mật", miệng đọc chú "Khẩu mật", ý trụ Tam ma địa "Ý mật".
Phật giáo trên thế giới.
Phật giáo có số lượng tín đồ vào khoảng 488 triệu người trên khắp thế giới, 495 triệu, hoặc 535 triệu người trong thập niên 2010, chiếm 7% tới 8% dân số toàn thế giới.
Trung Quốc là quốc gia có đông tín đồ Phật giáo nhất, khoảng 244 triệu Phật tử hay 18,2% dân số cả nước. Đa phần họ theo hệ tư tưởng "Đại thừa", làm cho hệ phái này trở thành bộ phận đông đảo nhất của Phật giáo. Phật giáo Đại thừa, cũng hiện diện ở các nước có văn hóa Đông Á khác, có hơn phân nửa số Phật tử trên toàn thế giới tu tập.
Bộ phận lớn thứ hai trong các hệ phái Phật giáo là "Thượng tọa bộ", chủ yếu thu hút các tín đồ tại Đông Nam Á. Bộ phận thứ ba và cũng là nhỏ nhất của Phật giáo, "Kim cương thừa", với tín đồ hầu hết ở Tây Tạng, vùng Himalaya, Mông Cổ và nhiều khu vực ở Nga, nhưng cũng được phổ biến trên khắp thế giới.
Theo báo cáo phân tích nhân khẩu học của Peter Harvey (2013):
Các con số trên chỉ là ước tính số người chính thức theo Phật giáo (đã làm lễ Quy y tam bảo), còn số người chưa chính thức theo Phật giáo (chưa làm lễ Quy y tam bảo) nhưng có niềm tin vào Phật giáo thì còn đông hơn con số đó rất nhiều. Ví dụ như tại Việt Nam và Trung Quốc, số lượng người đã làm lễ quy y tam bảo chỉ chiếm vài phần trăm dân số, nhưng số người đi chùa lễ Phật, cúng Phật tại gia, tin vào giáo lý đạo Phậ
Phật giáo được du nhập vào Việt Nam từ rất sớm, ngay từ đầu Công nguyên với truyện cổ tích Chử Đồng Tử (ở Hưng Yên ngày nay) học đạo của một nhà sư Ấn Độ. Luy Lâu (thuộc tỉnh Bắc Ninh) là trụ sở của quận Giao Chỉ sớm trở thành trung tâm Phật giáo quan trọng. Các truyền thuyết về Tứ Pháp và Man Nương Phật Mẫu xuất hiện cùng với sự giảng đạo của Khâu Đà La (Ksudra) trong khoảng các năm 168-189.
Phật giáo ăn sâu, bám rễ vào Việt Nam từ rất sớm. Đến đời nhà Đinh, nhà Tiền Lê, nhà Lý, nhà Trần, Phật giáo phát triển cực thịnh, được coi là quốc giáo, ảnh hưởng đến tất cả mọi vấn đề trong cuộc sống. Đến đời nhà Hậu Lê thì Nho giáo được coi là quốc giáo và Phật giáo đi vào giai đoạn suy thoái. Đến đầu thế kỷ 17, Quang Trung cố gắng chấn hưng Phật giáo, chỉnh đốn xây chùa, nhưng vì mất sớm nên việc này không có nhiều kết quả. Đến đời nhà Nguyễn, Phật giáo Việt Nam lại phát triển mạnh mẽ khởi đầu từ các đô thị khắp cả nước với các đóng góp quan trọng của các nhà sư Khánh Hòa, Thiện Chiế
Tóm lại, lịch sử Phật giáo Việt Nam trải qua bốn giai đoạn:
Những năm đầu Công nguyên, Phật giáo Nam Tông du nhập vào Việt Nam. Mãi đến thời kỳ Bắc thuộc, Phật giáo Mật tông và Phật giáo Bắc Tông có hai tông phái được truyền vào Việt Nam là Thiền tông, Tịnh độ tông.
Phần lớn người dân Việt Nam không quan tâm đến sự phân biệt giữa các tông phái Phật giáo, chỉ cần là chùa thờ Phật thì các tín đồ đều coi trọng như nhau. Các vị sư trong chùa tu hành theo tông phái nào cũng không quan trọng, miễn là các vị sư này giữ gìn được các giáo giới quan trọng nhất của Phật giáo (không sát sinh, không trộm cắp, không phạm sắc giới, không uống rượu, không ăn thịt). Họ cũng không có hiểu biết sâu sắc về giáo lý Phật giáo mà chỉ hiểu đơn giản là thiện nghiệp thiện báo hoặc thậm chí hiểu sai lạc cúng dường cho chùa nhiều thì thiện báo. Có người đến chùa chỉ để cầu xin cho bản thân và coi Phật như là thần linh có thể giúp họ toại nguyện chứ không hiểu rằng những gì họ nhận được chính là kết quả của những gì họ tạo ra. Còn những sinh hoạt như cúng bái, cầu siêu, cầu an, bói toán, thỉnh vong, đốt vàng mã... là những hoạt động được du nhập vào Phật giáo từ Nho giáo, Đạo giáo và Shaman giáo.
"Bài chi tiết: Phật giáo Trung Quốc"
Theo sử liệu cho thấy Phật giáo được giới thiệu đến Trung Quốc do các nhà buôn hay các nhà sư truyền giáo người Ấn qua các ngã đường biển và đường bộ. Về đường biển thì xuất phát từ các hải cảng vùng Nam Ấn rồi qua ngã Sri Lanka, Nam Dương để vào hải cảng Quảng Đông. Về đường bộ, còn gọi là con đường tơ lụa (Silk road) nối liền Đông Tây, di chuyển bằng lạc đà, xuất phát từ miền Đông Bắc Ấn, rồi băng qua các sa mạc ở Trung Á để tới Lạc Dương (kinh đô của nhà Hán).
Theo biên niên sử thì Phật giáo truyền đến Trung Quốc vào thế kỷ thứ 2 trước Công Nguyên từ Trung Á nhằm niên hiệu Nguyên Thọ đời vua Hán Ai Đế nhà Tây Hán, nhưng Phật giáo không truyền bá rộng rãi cho đến năm 65 Công nguyên, dưới triều vua Hán Minh Đế (niên hiệu Vĩnh Bình thứ 10 nhà Hậu Hán, 25-220 công nguyên), thì Phật giáo mới bắt đầu cắm rễ và phát triển ở Trung Quốc. Vì muốn thần dân tu học Phật pháp nên vua Minh Đế đã cử một phái đoàn gồm 18 người đến Ấn Độ để thỉnh cầu hai Thiền sư người Ấn là Ca Diếp Ma Đằng (Kàsyapama'tanga) và Trúc Pháp Lan (Dharmaraksa) đến Trung Quốc hoằng pháp. Hai vị Tăng người Ấn này đã mang đến Trung Quốc bộ Kinh Bốn Mươi Hai Chương và trú ngụ tại chùa Bạch Mã (ngôi chùa đầu tiên ở Trung Quốc do vua Minh Đế xây dựng, đến nay vẫn còn) ở Lạc Dương để hoằng dương Phật Pháp.
Tiếp theo sau hai nhà sư Ca Diếp Ma Đằng và Trúc Pháp Lan, những nhà truyền giáo khác đến Trung Quốc là An Thế Cao (An Shih-Kao), là người An Tức (Parthian, thuộc Bắc Ấn), Chi Lâu Ca Sấm (Lokaksema), Trúc Phật Sóc (Sangha Buddha) đến Trung Quốc vào năm 148 Công nguyên, mang theo nhiều kinh điển hệ phái Đại thừa để phổ biến nơi vùng đất mới này.
Đầu thế kỷ 20 là thời điểm chấn hưng Phật giáo Trung Quốc. Sau cuộc cách mạng Tân Hợi năm 1911 đã tạo ra một làn sóng mới về dân chủ tự do cho nhân dân Trung Quốc thoát khỏi ách thống trị của chế độ phong kiến. Năm 1912, Tổng hội Phật giáo Trung Quốc (Chinese Buddhist Association) ra đời tại Thượng Hải, một năm sau đó một hội khác ra mắt tại Bắc Kinh là Trung ương Phật giáo Công hội. Đến năm 1922, công cuộc chấn hưng Phật giáo Trung Quốc đã lên cao với sự lãnh đạo phong trào tích cực của Đại sư Thái Hư (T'ai-Hsu, 1890-1947), người khai sáng Hội Phật giáo Trung Quốc (Buddhist Society of China) có hơn 5 triệu thành viên trên khắp đất nước. Mở đầu ông cho thành lập Phật học viện Pháp Tạng (Fa t'sang Buddhist School), ông nhấn mạnh rằng chương trình dạy được kết hợp hài hòa giữa Phật học và khoa học để thu hút giới thanh niên trí thức, kết quả là học viên theo học rất đông.
Không những Đại sư Thái Hư chăm lo chấn hưng nền Phật giáo trong nước mà sư còn có nhiều đóng góp để chấn hưng Phật giáo thế giới. Chẳng hạn, năm 1924, ông tổ chức Hội nghị Phật giáo thế giới (World Buddhist Conference) tại Lô Sơn, Trung Quốc. Năm 1925, ông tổ chức Hội nghị Phật giáo Đông Á (East Asian Buddhist Conference) ở Tokyo, Nhật Bản. Và từ năm 1928, ông bắt đầu các chuyến đi hoằng pháp ở các nước ở phương Tây. Ông đã trở thành một trong những nhà truyền giáo người châu Á đầu tiên đến diễn thuyết tại Pháp, Đức, Anh và Mỹ, riêng tại Pháp, vào 1931, ông đã cho xây dựng một Học viện Phật giáo tại Paris để hướng dẫn quần chúng Tây phương học Phật.
Nhìn chung với sự góp sức chấn hưng của các Đại sư Thái Sư và sự ủng hộ của chính phủ Trung Quốc, Phật giáo Trung Quốc đã nhanh chóng phục hưng về mọi phương diện từ kiến thiết trùng tu cơ sở cho đến văn hóa nghệ thuật, in ấn kinh điển. Phong trào chấn hưng Phật giáo tại Trung Quốc lúc ấy đã ảnh hưởng và lan tỏa đến các nước láng giềng như Nhật Bản, Triều Tiên và Việt Nam.
Vào đầu thế kỷ 20, Phật giáo Trung Quốc phải chịu trải qua một thời kỳ cải cách để có thể thích hợp trào lưu mới của xã hội, những tưởng vận mệnh Phật giáo Trung Quốc đã thoát khỏi tai ách của thời cuộc, nhưng không bao lâu sau đó, Phật giáo Trung Quốc lại tiếp tục bị tàn phá trầm trọng qua cuộc chiến Trung-Nhật (1940-1945), rồi tiếp đó là cuộc Cách mạng văn hóa (1966-1976), Phật giáo Trung Quốc đã trở thành nạn nhân của các cuộc đàn áp vô căn cứ của chính sách đổi mới lạ lùng này.
Từ năm 1982 đến nay, tuy Chính phủ Trung Quốc có nhiều chính sách cởi mở hơn để khôi phục lại Phật giáo, nhưng nhìn chung Phật giáo Trung Quốc vẫn chưa lấy lại được sinh khí của mình như thuở nào. Tất cả phải đợi chờ đến một cuộc đổi mới khác trong một tương lai gần.
Hiện nay, Phật giáo tại Trung Quốc gồm dòng là Phật giáo Bắc Tông, Phật giáo Tây Tạng, Phật giáo Nam Tông, tăng lữ xuất gia của ba hệ phái lớn này có 200 nghìn người. Hiện nay Trung Quốc có hơn 13.000 chùa mở cửa, có 33 trường Phật giáo và gần 50 loại sách báo, tạp chí Phật giáo xuất bản.
"Bài chi tiết: Phật giáo Miến Điện"
Truyền thuyết cho rằng Miến Điện (Myanmar) đã tiếp cận với đạo Phật trong thời A-dục vương (zh. 阿育王, sa. "aśoka", pi. "asoka", thế kỉ thứ 3 trước CN). Theo một thuyết khác, Phật giáo đã đến Miến Điện trong thời đức Phật còn tại thế, do hai thương nhân từ Ấn Độ mang tới. Những vị này mang theo cả tóc Phật, ngày nay được giữ trong đền Shwe-Dagon tại Rangun (Yangon).
Kể từ thế kỉ thứ 5, Phật giáo phát triển rực rỡ với sự có mặt của Thượng tọa và Phát triển. Kể từ thế kỉ thứ 7, hai phái Nguyên Thủy và Phát triển song hành tại Miến Điện, sau đó Mật tông cũng bắt đầu có ảnh hưởng. Thế kỷ 11, nhà vua A-na-ra-tha tuyên bố chỉ chấp nhận Thượng tọa bộ và từ đó, phái Đại thừa biến mất tại đây. Tại Miến Điện, Bagan ở miền bắc trở thành trung tâm Phật giáo. Phật giáo Miến Điện liên hệ chặt chẽ với Phật giáo Sri Lanka, nhất là với Đại Tự. Thế kỉ thứ 15, vua Đạt-ma-tất-đề (pi. "dhammaceti") lại xác định lần nữa rằng Phật giáo Miến Điện mang nặng quan điểm của Thượng tọa bộ. Sự có mặt của người Anh trong thế kỉ thứ 19 làm xáo trộn Phật giáo Miến Điện đáng kể. Mãi đến lúc giành lại độc lập năm 1947, Miến Điện mới trở lại cơ chế cũ. Năm 1956 tại Rangun có một cuộc kết tập kinh điển quan trọng do Đại hội Phật giáo thế giới tổ chức. Ngày nay, 90% dân Miến Điện là Phật tử, Phật giáo được xem là quốc giáo.
"Bài chi tiết: Phật giáo Sri Lanka"
Người ta cho rằng Phật giáo đến Sri Lanka khoảng năm 250 trước Công nguyên, do Ma-hi-đà và Tăng-già-mật-đa (pi. "saṅghamitta"), hai người con của A-dục vương (sa. "aśoka", pi. "asoka"), truyền từ Ấn Độ. Nhà vua Sri Lanka hồi đó là Thiên Ái Đế Tu (pi. "devānampiya tissa") trở thành Phật tử và thành lập Đại tự nổi tiếng, nơi đó ông trồng một nhánh cây Bồ-đề có nguồn từ nơi Phật thành đạo, Bồ-đề đạo tràng. Đại tự trở thành trung tâm của Thượng tọa bộ.
Theo thời gian, nhiều tông phái Phật giáo khác thành hình và gây nhiều tranh cãi, đến nỗi có khi nhà vua phải can thiệp. Đó là những tranh luận ban đầu của Tiểu thừa và mầm mống của Đại thừa, của cả Mật tông thời bấy giờ. Cuối cùng, Thượng tọa bộ thắng, trong đó Phật Âm - một Luận sư xuất sắc của Thượng tọa bộ - đóng vai trò quyết định. Tác phẩm của Phật Âm ngày nay vẫn còn ảnh hưởng lên Phật giáo Sri Lanka. Đến thế kỉ thứ 12, vua Ba-lạc-la Ma-bà-ha-y (pi. "parakkambahu"), họp hội nghị Phật giáo và ép tất cả các trường phái phải theo giáo lý của Thượng tọa bộ tại Đại tự.
Qua thế kỉ thứ 16, người Bồ Đào Nha vào Sri Lanka. Đến thế kỉ thứ 17, người Hà Lan lại ủng hộ việc khôi phục Phật giáo tại Sri Lanka. Ngoài ra, Miến Điện và Thái Lan cũng có ảnh hưởng đáng kể lên nền Phật giáo tại đây. Kể từ khi Sri Lanka giành lại độc lập năm 1948, Phật giáo luôn luôn đóng một vai trò quan trọng trong việc tín ngưỡng và nền văn hóa của xứ này.
"Bài chi tiết: Phật giáo Indonesia"
Người ta cho rằng Phật giáo du nhập đến Indonesia khoảng thế kỉ thứ 3 sau Công nguyên. Cao tăng Pháp Hiển, vị tăng Trung Quốc đầu tiên đến Ấn Độ, cũng là người đến Nam Dương năm 418. Cuối thế kỉ thứ 5 thì Phật giáo bắt đầu phát triển tại Indonesia, đến thế kỉ thứ 7 thì Sumatra và Java trở thành hai trung tâm Phật giáo quan trọng. Tại đây, giáo lý Đại thừa được truyền bá rộng rãi, có một số tư tưởng Tiểu thừa, có lẽ của Thuyết nhất thiết hữu bộ, được thừa nhận. Dưới thời vua Shai-len-dra, Phật giáo phát triển rực rỡ, đó là thời kì xây dựng tháp tại Borobudur, là Phật tích lớn nhất còn lưu tới ngày nay. Khoảng cuối thế kỉ thứ 8, Mật tông bắt đầu thịnh hành. Đại thừa và Mật tông tồn tại mãi đến thế kỉ thứ 15, trong suốt thời gian này, Phật giáo Nam Dương liên hệ nhiều với Ấn Độ và với viện Na-lan-đà (sa. "nālandā"). Với sự xâm nhập của Hồi giáo, Phật giáo bắt đầu tàn lụi tại Nam Dương, kể từ thế kỉ thứ 15. Ngày nay chỉ còn một số nhỏ tín đồ, nhất là trong giới Hoa kiều.
"Bài chi tiết: Phật giáo Campuchia"
Người ta cho rằng Phật giáo du nhập vào Campuchia trong thế kỉ thứ 3 sau CN, theo văn hệ Phạn ngữ, trường phái Thuyết nhất thiết hữu bộ và đạt được đỉnh cao khoảng thế kỉ thứ 5, thứ 6. Năm 791 người ta tìm thấy gần đền Brahma (Angkor Wat) một văn bản chứng tỏ rằng Đại thừa đã có mặt nơi đây song song với việc thờ thần Shiva (sa. "śiva"). Sự hỗn hợp này có lẽ bắt nguồn từ việc thờ cúng Bồ Tát Quán Thế Âm, mà Thấp-bà được xem là một hóa thân. Mọi nhà vua của Campuchia cũng đều được xem là hóa thân của Quan Thế Âm. Sau một thời gian thì yếu tố thần Shiva hầu như bị mất đi, nhưng đến thế kỉ thứ 13, người ta lại tôn thờ thần Shiva và tăng giả Phật giáo bị bức hại. Theo các Cao tăng Trung Quốc thì trong thời gian này, Thượng tọa bộ được phát triển trong lúc Đại thừa bị lu mờ. Một số văn bản bằng văn hệ Pali ghi năm 1309 chứng minh rằng Thượng tọa bộ được hoàng gia công nhận và kể từ đó là giáo phái chính thống của Campuchia. Mãi đến cuối thế kỉ thứ 19, Phật giáo truyền từ Thái Lan mới bắt đầu có ảnh hưởng.
"Bài chi tiết: Phật giáo Thái Lan"
Người ta biết rất ít việc Phật giáo được truyền bá đến Thái Lan. Kết quả khảo cổ cho thấy Phật giáo đến Thái Lan khoảng thế kỉ thứ 6 từ Miến Điện. Ban đầu giáo lý Therevada tức Phật giáo nguyên thủy Nam tông có ảnh hưởng rộng rãi. Khoảng giữa thế kỉ thứ 8 và 13, Mahayana (hay phái Bắc Tông) được truyền bá rộng hơn. Giữa thế kỉ thứ 11 và 14, ảnh hưởng của Ấn Độ giáo bắt đầu phát triển. Trong thế kỉ 13, Hoàng gia Thái Lan chính thức công nhận Thượng tọa bộ (giáo lý của Phật giáo nguyên thủy Therevada)và mối liên hệ với Sri Lanka trong thời kì này càng làm cho bộ này phát triển thêm rộng rãi. Năm 1782, nhà vua triệu tập một đại hội nhằm kiểm điểm lại Tam tạng kinh điển. Trong thế kỉ thứ 19, nhà vua Ma-ha Mông-cút ("mongkut") lên ngôi, bản thân ông cũng đã là một tăng sĩ, ông là người đặt nền tảng cho nền Phật giáo cận đại. Ông thành lập Pháp tông ("dhammayut"), cơ sở dựa vào Luật tạng và ngày nay có nhiều tín đồ nhất tại Thái Lan. Vua Chulalangkorn - trị vì từ 1868 đến 1910 - cho xuất bản các tạng kinh quan trọng của Phật giáo, có thể gọi là đầy đủ nhất từ xưa đến nay. Ngày nay, 95% dân số Thái Lan theo Phật giáo.
"Bài chi tiết: Phật giáo Triều Tiên"
Trong thế kỉ thứ 4 sau CN, Phật giáo du nhập vào Triều Tiên và phát triển rực rỡ nhất là giữa thế kỉ thứ 6 và thứ 9. Trong thời kì này, các trường phái quan trọng của Trung Quốc đều được thành lập tại Triều Tiên như Thiền tông, Hoa Nghiêm tông, Mật tông (Chân ngôn tông). Bộ kinh "Bát-nhã ba-la-mật-đa" cũng được truyền bá rộng rãi rất sớm tại Triều Tiên. Người ta cũng tìm thấy nhiều tác phẩm văn hóa mang đặc tính Phật giáo tại đây. Suốt thời nhà Lý ("yi", 1392-1910), nền văn hóa Khổng giáo trở thành quốc đạo và tăng ni Phật giáo bị ép buộc phải vào núi tu hành. Sau năm 1945, Phật giáo được phục hưng và phát sinh một phong trào mới gọi là Viên Phật giáo (en. "won-buddhism"). Ngày nay, tại Hàn Quốc người ta ít phân biệt các tông phái đạo Phật và thực hành song song với nhau thiền quán, niệm Phật A-di-đà và tụng kinh. Phép niệm thần chú cũng được truyền bá rộng rãi, vốn có nguồn gốc từ Mật tông của thời trung cổ. Trong giới trí thức, Thiền tông được nhiều người theo trong lúc giới bình dân lấy niệm danh hiệu các đức Phật làm chủ yếu. Trộn lẫn với Phật giáo là hình thức thờ đa thần như thần núi, linh vật, thần tinh tú.
"Bài chi tiết: Phật giáo Mông Cổ"
Theo nhà nghiên cứu sử học người Anh Andrew Skilton, Phật giáo được truyền vào Mông Cổ từ Ấn Độ, Trung Á và Trung Hoa vào đầu thế kỷ 4 TCN bằng con đường tơ lụa (Silk Road) qua các nhà buôn người Ấn Độ. Từ đó Phật giáo dần dà phát triển đến thế kỷ 13 với nhiều đợt truyền giáo của Phật giáo Tây Tạng và Phật giáo Trung Quốc. Tuy nhiên, Phật giáo Tây Tạng chiếm ưu thế và ảnh hưởng mạnh mẽ vào đời sống của người dân Mông Cổ. Đỉnh cao của sự ảnh hưởng này là Đạt-lại Lạt-ma thứ 4 là người Mông Cổ (1588). Trước khi Phật giáo được truyền vào Mông Cổ, tôn giáo bản địa là Shaman giáo, một tôn giáo chịu ảnh hưởng từ truyền thống tâm linh của người Ba Tư.
Phật giáo Mông Cổ bắt đầu hưng thịnh từ thế kỷ 13 đến cuối thế kỷ 19 khi tôn giáo này trở thành quốc giáo của Mông Cổ. Đến đầu thế kỷ 20, Mông Cổ chịu nhiều đau khổ vì chiến tranh, xung đột chính trị từ các cường quốc bên ngoài, sau Trung Quốc (1912), Nhật Bản đánh chiếm vào Manchuria vào năm 1931, và sau thế chiến thứ 2 vào năm 1945, Hồng quân Liên Xô bắt đầu cuộc giải phóng cho Mông Cổ. Và từ đó trở đi Mông Cổ trở thành quốc gia xã hội chủ nghĩa, với chính sách không khoan nhượng tôn giáo, có hàng chục ngàn tăng ni và cư sĩ Phật giáo Mông Cổ trí thức bị trục xuất hoặc bị tống giam, thanh thiếu niên dưới 18 tuổi không được xuất gia, hơn 800 tự viện bị phá hủy hoàn toàn trên khắp Mông Cổ.
Từ năm 1989 đến nay, khi Mông Cổ trở thành nước đa đảng thì các rào cản về sinh hoạt tín ngưỡng được tháo bỏ, các hoạt động của Phật giáo đã từng bước trở lại bình thường, có hơn 160 ngôi Tu viện Phật giáo được xây dựng hoặc mở cửa trở lại và rất nhiều người xuất gia tu học và làm công tác truyền giáo. Hiện nay, 50% dân số Mông Cổ theo Phật giáo Tây Tạng.
Hầu hết nhân dân Lào theo Phật giáo. Phật giáo trở thành quốc giáo của họ. Ở Lào, Phật giáo giữ vị trí quốc giáo từ nhiều thế kỷ nay. Phật giáo có ảnh hưởng đến việc hình thành tính cách dân tộc, nhân sinh của người Lào.
Theo nhiều nguồn sử liệu còn để lại cho thấy, vào khoảng thế kỷ 12, những người Môn đầu tiên di cư xuống vùng Tây Lào đã truyền bá Phật giáo cho những cư dân tại đây. Những người Môn này đã mang theo rất nhiều kinh Phật, tượng Phật và những tu sĩ am hiểu Phật giáo từ Sri Lanka đến truyền bá Phật pháp. Từ đó họ truyền đi các ngả và phát triển rộng khắp đến các vùng phía Tây của Lào.
Đến thế kỷ 13 khi tộc người Lào Thay chinh phục xong toàn bộ phần đất Bắc Lào rộng lớn họ đã tiếp thu Phật giáo hệ phái Thượng tọa Bộ hay Therevada - Phật giáo Nam tông và phát triển rộng khắp cả vùng Bắc và Trung Lào. Thời gian này, Phật giáo Lào có quan hệ mật thiết với Phật giáo Srilanka. Trong khi đó, từ phía Nam, Phật giáo Lào cũng chịu ảnh hưởng của Phật giáo Khmer vốn theo Thượng tọa Bộ - Therevada. Dưới thời của đế chế Angkor, thống trị từ thế kỷ thứ 7 đến thế kỷ 13, Phật giáo Đại thừa đã được truyền bá vào Lào. Thế kỷ 14 khi vua Phà Ngừm (1316 - 1373) thống nhất toàn bộ lãnh thổ nước Lào, ông đã tiếp thu Phật giáo Thượng tọa Bộ từ Campuchia và phát triển trên khắp đất nước Lào.
Hiện nay, Phật giáo tại Lào tồn tại song song hai hệ phái là Phật giáo Bắc tông và Phật giáo Thượng tọa Bộ, trong đó hệ phái Phật giáo Thượng tọa Bộ - Therevada chiếm đa số. Theo con số thống kê, hiện nay ở Lào có hơn 20.000 tăng ni, khoảng 6.300 cơ sở thờ tự, chiếm khoảng 85% dân số nước này. Phật giáo Thượng tọa Bộ ở Lào phân chia thành 2 phái nhỏ là Đại tông phái truyền thống chiếm 94% số chùa, 90% số sư sãi. Tông phái này từ Thái Lan truyền sang vào thế kỷ 14. Và Pháp tông phái vốn do nhà vua Mongkut (Rama IV) của Vương triều Chakri (Thái Lan) lập ra khi nhà vua chưa lên ngôi. Phái này chủ trương cải cách Phật giáo, chủ trương bảo vệ giới luật nghiêm túc, do các cao tăng điều hành. Sư tăng của phái nầy tuy hạn chế, nhưng phần lớn là các quý tộc xuất gia, nhiều nhà trí thức, trước kia được Hoàng gia Lào ủng hộ.
Phật giáo bắt đầu từ Ấn Độ từ thế kỷ thứ 6 trước Công Nguyên. Một nhánh chính của Phật giáo, nhánh Mahayana hay gọi là Phật giáo Bắc tông đã du nhập vào Nhật Bản. Phật giáo được du nhập vào Nhật từ Trung Hoa và Triều Tiên dưới dạng món quà của vương quốc thân hữu Triều Tiên Kudara vào thế kỷ thứ 6 sau Công Nguyên. Trong khi Phật giáo được giới quý tộc cai trị ủng hộ, lúc đầu nó lại không phổ biến trong giới thường dân vì những lý thuyết phức tạp của nó. Đến thời Nara, Phật giáo mới phát triển mạnh mẽ trong dân chúng và toàn nước Nhật.
Trong nhiều thế kỷ, Phật giáo là quốc giáo của nước này. Ảnh hưởng lớn đến chính trị, xã hội, văn hóa của quốc gia này. Từ khi Phật giáo truyền đến nước Nhật, sự hợp nhất giữa Phật giáo và Thần đạo đã diễn ra trong một khoảng thời gian dài. Phật giáo bắt đầu thời kỳ suy vi tại Nhật vào thế kỉ 19, vào thời Minh Trị, chính quyền lúc bấy giờ đã ra sắc lệnh "Thần Phật phân ly", tách Thần Đạo ra khỏi Phật giáo, đồng thời nỗ lực chấn hưng tôn giáo bản địa. Đây là thời kì Thần Đạo phát triển mạnh mẽ với sự bảo trợ đặc biệt của chính quyền. Thần Đạo trở thành quốc giáo của Nhật Bản, gắn liền với các hoạt động của nhà nước. Phật giáo được khôi phục lại sau Chiến tranh thế giới thứ hai với việc nhiều tổ chức Phật giáo ra đời làm sống dậy các sinh hoạt Phật sự trên khắp nước Nhật.
Theo thống kê gần đây, Phật giáo Nhật Bản có 70.000 ngôi chùa, 250.000 tăng ni, 96 triệu Phật tử, chiếm 3/4 dân số. Việc nghiên cứu và giảng dạy Phật giáo khá phát triển. Có trên 20 trường đại học, trung học và viện nghiên cứu Phật giáo ở khắp đất nước Nhật. Giáo lý Phật giáo được nghiên cứu và quy tập, hiệu đính, chú giải có hệ thống bằng phương pháp nghiên cứu của phương Tây từ đầu thế kỷ XX mà đỉnh cao là sự ra đời của Đại chính tân tu đại tạng kinh. Phật giáo Nhật Bản có rất nhiều tông phái khác nhau, được chia thành mười ba tông phái chính.
So với các tôn giáo khác.
2. Quan niệm về thế giới:
3. Quan niệm về loài người và thần linh:
Tóm lại, Phật giáo giống như con đường giải thoát dành cho tất cả chúng sinh, không phân biệt ai. Phật giáo nói lên một con đường khách quan để đi tới chân lý. Giáo lý của Phật giáo không phải do Phật sáng tạo ra mà là chân lý khách quan theo giác ngộ của Phật. Phật chỉ là người phát hiện, dấn thân và chứng đắc, để rồi đi truyền dạy lại cho chúng sinh cách để giải thoát với trí tuệ và lòng từ bi vô lượng. Phật xem tất cả chúng sinh là bình đẳng, và ai cũng hoàn toàn có thể trở thành Phật trong tương lai.
Ảnh hưởng tới văn hóa.
Những danh từ chuyên môn của Phật giáo đã biến thành văn hóa người Việt qua ngôn ngữ của người bình dân Việt Nam thường sử dụng, đã được truyền bá rộng rãi trong dân gian và trở nên phổ biến trong văn hóa người Việt.
Ảnh hưởng rõ ràng nhất của Phật giáo nguyên thủy từ Ấn Độ khi đến Trung Quốc đã phân tách thành các dòng lớn, mang màu sắc văn hóa nước này. Phật giáo Trung Quốc chủ yếu là Phật giáo Bắc tông Hán truyền. Ở những tỉnh như Tây Tạng, Tứ Xuyên, Thanh Hải thì có hệ thống Tạng truyền. Tại tỉnh Vân Nam có hệ thống Phật giáo Nam truyền. Nhiều nghiên cứu đã khẳng định rằng Phật giáo rất phù hợp cho sự phát triển về kinh tế - xã hội và văn hóa của đất nước Trung Quốc. Với sách lược là phải khôi phục toàn bộ văn hóa truyền thống của Trung Quốc, trong đó Phật giáo cũng được khôi phục và phát triển, đã giúp nhu cầu về tín ngưỡng cũng như tu học của con người trong xã hội Trung Quốc ngày càng cao, và do vậy, Phật giáo đã ứng dụng các tiện ích hiện đại để đáp ứng nhu cầu đó một cách trọn vẹn.
Ngày nay, Phật giáo không còn tồn tại phổ biến ở Ấn Độ nữa. Tuy nhiên, nhiều hệ phái của Ấn Độ giáo coi Phật Thích Ca là hóa thân thứ 9 của thần Vishnu, hóa thân cuối cùng của vị thần này để giáo hóa nhân gian trước khi kết thúc một chu kì của vũ trụ (ở hóa thân thứ 10, Vishnu sẽ trở lại thế gian, cưỡi trên một con ngựa trắng cùng với thanh gươm rực rỡ để hủy diệt những con quỷ và những con người độc ác còn sót lại trước khi thế giới được thiết lập lại). Do vậy, Phật Thích Ca ngày nay vẫn được tôn thờ trang trọng trong hệ thống tôn giáo Ấn Độ.
Quốc kì Ấn Độ ngày nay có họa tiết trung tâm là Ashoka Chakra (bánh xe pháp của A-dục vương). A-dục vương là vị vua đầu tiên đã thống nhất gần như toàn bộ Ấn Độ, và ngài cũng là một Phật tử thành tín, đã tổ chức truyền bá Phật giáo ra khắp châu Á. Biểu tượng Ashoka Chakra chính là dựa theo Pháp luân của Phật giáo. 24 nan hoa của Ashoka Chakra đại diện cho 12 liên kết nhân quả được dạy bởi Đức Phật và paṭiccasamuppāda (Duyên khởi) theo thứ tự thuận và nghịch. Khi sử dụng biểu tượng này trên quốc kì, Ấn Độ muốn thể hiện tinh thần kế tục di sản của A-dục vương, vị vua thành tín với đạo Phật.
Nhà bác học Vật lý Albert Einstein có nhắc qua về Phật giáo trên tờ New York Times số ra 09.11 năm 1930 như sau:
Friedrich Nietzsche dù ngưỡng mộ song cũng kèm theo phê phán việc Phật giáo thúc đẩy những thứ ông gọi là "thuyết hư vô" (nihilism). Ông cho rằng, Phật giáo có thể được mô tả như một nỗ lực, thông qua sự kiềm chế từ hành động, để thoát khỏi đau khổ và đi vào trạng thái không tồn tại một cách tuyệt đối, cái mà ông phê phán và cho rằng đó là sự trốn chạy hèn nhát trước thực tại. Nhưng học giả người Mỹ Benjamin A. Elman cho rằng Friedrich Nietzsche đã hiểu biết sai lệch và cực đoan về đạo Phật.
"Buddhism. Its Essence and Development", Oxford 1953.
"A Short History of Buddhism", London 1980. |
Khoa học máy tính
Khoa học máy tính nghiên cứu các cơ sở lý thuyết của thông tin và tính toán, cùng với các kỹ thuật thực tiễn để thực hiện và áp dụng các cơ sở này.
Khoa học máy tính () là ngành nghiên cứu các cơ sở lý thuyết về thông tin và tính toán cùng sự thực hiện và ứng dụng của chúng trong các hệ thống máy tính. Khoa học máy tính là cách tiếp cận khoa học và thực tiễn để tính toán và các ứng dụng của nó và nghiên cứu có hệ thống về tính khả thi, cấu trúc, biểu hiện và cơ giới hóa các thủ tục (hoặc các thuật toán) cơ bản làm cơ sở cho việc thu thập, đại diện, xử lý, lưu trữ, truyền thông và truy cập thông tin. Một định nghĩa thay thế, gọn gàng hơn về khoa học máy tính là nghiên cứu về các quy trình thuật toán tự động hóa mà có thể nhân rộng trên quy mô lớn. Một nhà khoa học máy tính là chuyên gia về lý thuyết tính toán và thiết kế các hệ thống tính toán.
Khoa học máy tính gồm nhiều ngành hẹp; một số ngành tập trung vào các ứng dụng thực tiễn cụ thể chẳng hạn như đồ họa máy tính, trong khi một số ngành khác lại tập trung nghiên cứu đến tính chất cơ bản của các bài toán tính toán như lý thuyết độ phức tạp tính toán). Ngoài ra còn có những ngành khác nghiên cứu các vấn đề trong việc thực thi các phương pháp tính toán. Ví dụ, ngành lý thuyết ngôn ngữ lập trình nghiên cứu những phương thức mô tả cách tính toán khác nhau, trong khi ngành lập trình nghiên cứu cách sử dụng các ngôn ngữ lập trình và các hệ thống phức tạp, và ngành tương tác người-máy tập trung vào những thách thức trong việc làm cho máy tính và công việc tính toán hữu ích, và dễ sử dụng đối với mọi người dùng.
Lịch sử của khoa học máy tính đã bắt đầu từ nhiều năm trước phát minh ra máy tính hiện đại. Các máy móc dành cho việc tính toán các bài toán số học đã tồn tại từ thời cổ đại, chẳng hạn như bàn tính. Hơn nữa, các thuật toán để thực hiện tính toán đã có kể từ thời cổ đại, ngay cả trước khi phát triển các thiết bị tính toán phức tạp.
Wilhelm Schickard đã thiết kế và hoàn thành chiếc máy tính cơ học đầu tiên năm 1623. Năm 1673, Gottfried Leibniz trình diễn một máy tính cơ học số, được gọi là Stepped Reckoner. Ông có thể được coi là nhà khoa học máy tính đầu tiên và nhà lý thuyết thông tin mà đã ghi lại hệ thống số nhị phân.
Blaise Pascal thiết kế và xây dựng máy tính cơ học hoạt động được mang tên Pascaline, năm 1642. Charles Babbage đã thiết kế một máy tính theo hiệu ("difference engine") vào thời Victoria, và Ada Lovelace đã viết bản hướng dẫn sử dụng máy. Nhờ công trình này, ngày nay, bà được coi là lập trình viên đầu tiên trên thế giới. Vào khoảng năm 1900, tập đoàn IBM đã bán những chiếc máy tính dùng thẻ đục lỗ. Tuy nhiên, tất cả những chiếc máy này đều chỉ thực hiện một nhiệm vụ đơn, hoặc cùng lắm là một tập nhỏ các nhiệm vụ.
Trước năm 1920, công việc tính toán được thực hiện chủ yếu bởi những nhân viên chuyên nghiệp. Những nhà nghiên cứu đầu tiên về ngành mà sau này được gọi là khoa học máy tính, chẳng hạn Kurt Gödel, Alonzo Church và Alan Turing, đã quan tâm đến câu hỏi về khả năng tính toán: những gì có thể được tính toán bởi một người thủ quỹ - người chỉ đơn giản dùng giấy và bút chì để làm một danh sách các bước tính toán, cho đến khi nào xong việc mà không cần đến trí thông minh hay hiểu biết? Một phần của động cơ này là ước muốn phát triển các "máy tính" có khả năng tự động hóa các công việc tính toán thường là buồn tẻ và dễ sai của một "người tính toán". Vấn đề then chốt là xây dựng các hệ thống tính toán phổ dụng có khả năng (về lý thuyết) thực hiện mọi nhiệm vụ tính toán có thể cần đến, và nhờ đó tổng quát hóa tất cả các máy tính chuyên biệt trước kia thành một khái niệm đơn nhất về chiếc máy tính phổ dụng.
Trong những năm 1940, khi các máy tính mới hơn và mạnh hơn được phát triển, người ta thấy rõ ràng hơn rằng máy tính có thể được sử dụng cho nhiều mục đích khác ngoài các tính toán toán học, lĩnh vực khoa học máy tính được mở rộng thành ngành nghiên cứu tính toán nói chung. Từ thập kỷ 1960, khoa học máy tính bắt đầu được thiết lập như là một ngành học riêng biệt, với sự ra đời của các khoa Khoa học máy tính đầu tiên và các chương trình đào tạo đại học chuyên ngành Khoa học máy tính. Từ khi các máy tính được sử dụng trong thực tiễn, nhiều ứng dụng của tính toán đã trở thành các lĩnh vực nghiên cứu riêng biệt.
Những thành tựu đáng kể.
Tuy được trở thành một bộ môn giáo dục chính thức với một quãng thời gian lịch sử ngắn ngủi, khoa học máy tính đã có một số cống hiến quan trọng đối với khoa học và xã hội. Những cống hiến này bao gồm:
Lôgic Bool và các phương pháp tương ứng dùng để mô hình hóa các truy vấn lôgic; Sự sử dụng các phương pháp chứng minh hình thức ("formal proof") cùng những hạn chế của chúng.
Lý thuyết về chứng minh và các khảo nghiệm trong việc lùng tìm những chứng minh trong giới hạn các số nguyên. Lý thuyết số được sử dụng trong mật mã học và đồng thời được dùng như một phương thức kiểm thử trong trí tuệ nhân tạo.
Cơ sở cho cấu trúc dữ liệu và các thuật toán tìm kiếm.
Phân tích quy chính các kiểu dữ liệu, cùng sự sử dụng các kiểu dữ liệu nhằm giảng giải tính chất của các chương trình phần mềm - đặc biệt là tính an toàn của chương trình.
Lý thuyết phân loại cho phép tổng quát các phương pháp toán học và các phương thức tính toán thành một ước thể.
Chuyên tâm vào việc nghiên cứu các thuật toán nhằm giải quyết những vẫn đề được đề bạt trên phương diện hình học.
Nền tảng của các thuật toán trong toán học rời rạc, đồng thời cũng dùng để nghiên cứu những giới hạn trong các tính toán dùng số thập phân (1.0E-3), bao gồm những sai số xảy ra trong phương pháp làm tròn số ("round-off errors").
Các cấu trúc lôgic khác nhau có thể sử dụng để giải quyết các bài toán.
Những gì có thể tính toán được bằng các mô hình máy tính hiện tại. Các chứng minh của Alan Turing và những người khác bày tỏ cho chúng ta biết được khả năng những gì có thể tính toán được và những gì không thể.
Các giới hạn căn bản (cụ thể là thời gian và dung lượng bộ nhớ đòi hỏi) đối với các hạng loại bài toán khác nhau.
Phương thức biểu hiện và chuyển hóa dữ liệu sử dụng những đặc tính của vật chất cùng cơ chế lượng tử.
Độ phức tạp về thời gian và không gian của các thuật toán.
Các quá trình lôgic trên nguyên tắc được sử dụng cho việc tính toán và tính hiệu quả của các quá trình này.
Tổ chức của dữ liệu và các quy tắc thao tác dữ liệu.
Dịch toàn bộ mã nguồn của ngôn ngữ lập trình thành chương trình đích rồi sau đó mới thực hiện, thường là từ các ngôn ngữ lập trình bậc cao sang các ngôn ngữ lập trình bậc thấp, hay dịch sang mã máy. Các ngôn ngữ sử dụng trình biên dịch như Pascal, C...
Là cách dịch từng lệnh một, dịch tới đâu thực hiện tới đó. Chẳng hạn ngôn ngữ LISP sử dụng trình thông dịch.
Ngôn ngữ lập trình là một ngôn ngữ được thiết kế và tạo ra để viết chương trình cho máy tính. Những ngôn ngữ này còn đồng thời biểu hiện những đặc tính không giống nhau giữa các ngôn ngữ khác nhau (ví dụ, chúng thích hợp cho việc giải các bài toán thuộc dạng nào).
Lý thuyết và thực tiễn của tính toán đồng thời; an toàn dữ liệu trong môi trường đa nhiệm hay đa luồng bất kỳ.
Tính toán sử dụng nhiều thiết bị tính toán trên một mạng để thực hiện một nhiệm vụ hoặc một mục tiêu chung.
Tính toán sử dụng nhiều luồng thực thi đồng thời.
Lấy ý tưởng từ lý thuyết thuật toán để năng động kiến tạo các giải pháp đối với những nhiệm vụ trên thực tế.
Dùng ngôn ngữ lập trình để thực thi các thuật toán.
Sử dụng toán học để miêu tả và lập luận đối với các thiết kế phần mềm.
Ứng dụng phương pháp khoa học vào việc phân tích và lý giải một phần mềm tùy thích vốn có.
Những nguyên lý và thực hành trong việc thiết kế, phát triển và kiểm thử các chương trình, cùng những phương pháp thực hành kỹ nghệ đúng đắn.
Việc thiết kế, tổ chức, tối ưu hóa và kiểm định một hệ thống máy tính, chủ yếu về CPU và tiểu hệ bộ nhớ máy tính (và hệ thống bus nối giữa chúng).
Nghiên cứu các kiến trúc máy tính trên cơ sở các mô tả mạch điện, bộ xử lý trung tâm, bọ xử lý tín hiệu số của máy tính.
Những hệ thống dùng để quản lý các chương trình máy tính và cung cấp nền tảng cơ bản cho một hệ thống khả dụng.
Những thuật toán và cấu trúc dữ liệu dùng để kiến tạo, thao tác, lưu trữ, và truyền thanh các bản ghi âm thanh kỹ thuật số ("digital audio"). Ngành này còn đóng vai trò quan trọng đối với các ứng dụng nhận dạng tiếng nói ("speech recognition") nữa.
Các thuật toán và giao thức dành cho việc truyền thông dữ liệu một cách đáng tin cậy qua các môi trường truyền thông chuyên dụng hoặc chia sẻ khác nhau. Thường khi bao gồm cả việc sửa lỗi("error correction") trong truyền thông.
Áp dụng kết quả của các lý thuyết độ phức tạp tính toán, lý thuyết xác suất, và lý thuyết số để kiến tạo và phá mật mã.
Nghiên cứu các phương pháp sàng lọc, rút ra những thông tin cần thiết từ các nguồn dữ liệu khác nhau.
Nghiên cứu các thuật toán tìm kiếm và xử lý thông tin trong các tài liệu và cơ sở dữ liệu; có quan hệ gần gũi với ngành thu thập thông tin ("information retrieval").
Sự nghiên cứu và thực thi các hệ thống có khả năng tự thể hiện trí thông minh hoặc tự biểu đạt những hành vi của chính bản thân mình.
Sự nghiên cứu các sinh thể kỹ thuật số ("digital organisms") để hiểu biết thêm về các hệ thống sinh học ("biological systems") và quá trình tiến hóa.
Nghiên cứu các động cơ giải quyết bài toán, chẳng hạn như được sử dụng trong Prolog, các động cơ này tạo ra các bước dẫn đến một kết quả nếu cho trước một truy vấn về một sự kiện và một cơ sở dữ liệu gồm các luật ("rule database").
Các thuật toán nhận dạng các đối tượng ba chiều từ một hoặc nhiều hình ảnh hai chiều.
Nghiên cứu việc tự động tạo nhóm các luật và tiên đề dựa trên những dữ liệu cho trước.
Tự động hóa việc tiếp thu và kiến tạo ngôn ngữ loài người.
Các thuật toán điều khiển hành vi của rôbô.
Các lĩnh vực của khoa học máy tính.
Một thuật ngữ tổng hợp dành cho các kỹ thuật được sử dụng để giải các bài toán cụ thể, xem bài chính.
Những thuật toán sử dụng trong cả hai trường hợp, kiến tạo hình ảnh một cách nhân tạo mà người thường có thể xem được bằng mắt, đồng thời kết hợp và thay đổi các dữ liệu về không gian và thị giác thu được từ môi trường sống bên ngoài.
Dùng tính toán để lấy thông tin từ một hình ảnh.
Nghiên cứu phương pháp làm cho máy tính và sự tính toán của chúng trở nên hữu dụng, có thể tiếp cận và sử dụng bởi bất cứ ai trên thế giới là người dùng, bao gồm cả việc nghiên cứu và thiết kế giao diện người dùng.
Sử dụng khoa học máy tính để bảo trì, phân tích, lưu trữ dữ liệu sinh học ("biological data") và để hỗ trợ việc giải các bài toán sinh học chẳng hạn như quá trình gấp cuộn của chất đạm ("protein folding"), dự đoán chức năng của cấu trúc chất đạm ("function prediction"), và phát sinh chủng loại ("phylogeny").
Sử dụng kỹ thuật máy tính để kiến tạo các mô hình của trí tuệ con người.
Mô hình hóa tổ chức của chất hóa học trên lý thuyết bằng tính toán, hòng xác định cấu trúc và đặc tính của chúng.
Mô hình hóa bộ não con người bằng tính toán.
Sử dụng số học để mô phỏng những hệ thống lớn bất khả phân tích ("large non-analytic systems").
Dùng các thuật toán để giải các đề toán của toán học, chẳng hạn như thuật toán tìm ẩn số của hàm ("Root-finding algorithm"), integration, the solution of ordinary differential equations and the approximation/evaluation of special functions.
Manipulation and solution of expressions in symbolic form, also known as Đại số máy tính.
Đào tạo về khoa học máy tính.
Một số trường đại học đào tạo khoa học máy tính như là một ngành nghiên cứu lý thuyết về tính toán và lập luận thuật toán. Các chương trình đào tạo này thường bao gồm các môn lý thuyết tính toán, phân tích thuật toán, các phương pháp hình thức, lý thuyết tương tranh, cơ sở dữ liệu, đồ họa máy tính và phân tích hệ thống cùng các môn khác. Các chương trình này thường cũng dạy cả lập trình, nhưng coi đây chỉ là một phương tiện để hỗ trợ các lĩnh vực khác của khoa học máy tính chứ không phải là một trọng tâm của nghiên cứu ở mức độ cao.
Các trường cao đẳng và đại học khác, cũng như các trường trung học và những chương trình dạy nghề có giảng dạy về khoa học máy tính, lại nhấn mạnh thực hành lập trình cao cấp thay vì lý thuyết đối với các thuật toán và tính toán trong chương trình giáo dục của họ. Những chương trình này thường có xu hướng tập trung vào những kỹ năng quan trọng cho những người đi làm trong ngành công nghiệp phần mềm. Phương diện thực hành của việc lập trình thường được gọi là kỹ nghệ phần mềm. Tuy nhiên, có rất nhiều bất đồng xung quanh ý nghĩa thật của từ "kỹ nghệ phần mềm" ("software engineering") và về việc nó với lập trình ("programming") có phải là một hay không. |
Hưng Yên là một tỉnh nằm ở trung tâm đồng bằng sông Hồng, Việt Nam.
Năm 2022, Hưng Yên là đơn vị hành chính Việt Nam có dân số khoảng 1.302.000 người (xếp thứ 28 về dân số), mật độ trung bình 1.400 người/km2 (xếp thứ 4 cả nước), quy mô GRDP đạt 132.176 tỉ đồng, GRDP bình quân đầu người đạt 102,3 triệu đồng/ người tương ứng với 4.396 USD (xếp thứ 12 cả nước và thứ 6 khu vực Bắc Bộ), tốc độ tăng trưởng GRDP trung bình hàng năm giai đoạn 2011-2020 trên 7,5%, Năm 2022 tăng 13,4% đứng thứ 5 toàn quốc.
Chỉ số CPI xếp hạng 14/63, PAPI xếp hạng 11/63, PAR INDEX xếp hạng 12/63, SIPAS xếp hạng 6/63 tỉnh, thành phố.
Tỉnh Hưng Yên nguyên thuộc thừa tuyên Sơn Nam đặt vào năm Quang Thuận thứ 10 đời Lê (1466). Đến năm Cảnh Hưng thứ 2 (1741) thì chia thành Sơn Nam Thượng và Sơn Nam Hạ. Đời nhà Nguyễn năm Minh Mệnh thứ 3 (1822), Sơn Nam Thượng được đổi thành trấn Sơn Nam còn Sơn Nam Hạ thì gọi là trấn Nam Định. Năm Minh Mệnh thứ 12 (1831), tỉnh Hưng Yên được thành lập gồm các huyện Đông Yên, Kim Động, Ân Thi, Tiên Lữ, Phù Dung của trấn Sơn Nam và Thần Khê, Hưng Nhân, Duyên Hà của trấn Nam Định (các huyện Thần Khê, Duyên Hà và Hưng Nhân sau bị cắt vào tỉnh Thái Bình mới thành lập).
Tuy là tỉnh "mới" chỉ hơn 553 năm, vùng đất Hưng Yên đã nổi danh từ thời kỳ Trịnh - Nguyễn phân tranh trước đó với Phố Hiến, vốn là thương cảng đô hội quan trọng bậc nhất ở Đàng Ngoài. Thuyền bè ngược sông Hồng lên Thăng Long "Kẻ Chợ" đều phải dừng ở Phố Hiến đợi giấy phép nên Phố Hiến trở thành tụ điểm sầm uất. Người Tàu, người Nhật và người Tây phương đều đến đấy buôn bán. Do vậy dân gian đã có câu: "Thứ nhất kinh kỳ, thứ nhì phố Hiến".
Ngày 27 tháng 1 năm 1968, tỉnh Hưng Yên hợp nhất với tỉnh Hải Dương thành tỉnh Hải Hưng.
Ngày 11 tháng 3 năm 1977, hợp nhất 2 huyện Phù Cừ và Tiên Lữ thành huyện Phù Tiên; hợp nhất 2 huyện Văn Giang và Yên Mỹ thành huyện Văn Yên ; hợp nhất 2 huyện Văn Lâm và Mỹ Hào thành huyện Văn Mỹ .
Ngày 24 tháng 2 năm 1979, hợp nhất 2 huyện Kim Động và Ân Thi thành huyện Kim Thi; hợp nhất huyện Văn Mỹ và một phần huyện Văn Yên thành huyện Mỹ Văn ; hợp nhất phần còn lại của huyện Văn Yên và huyện Khoái Châu thành huyện Châu Giang.
Ngày 27 tháng 1 năm 1996, chia huyện Kim Thi thành 2 huyện: Kim Động và Ân Thi.
Ngày 6 tháng 11 năm 1996, tái lập tỉnh Hưng Yên từ tỉnh Hải Hưng. Khi tách ra, tỉnh Hưng Yên có 6 đơn vị hành chính gồm thị xã Hưng Yên và 5 huyện: Ân Thi, Châu Giang, Kim Động, Mỹ Văn, Phù Tiên.
Ngày 24 tháng 2 năm 1997, chia huyện Phù Tiên thành 2 huyện: Phù Cừ và Tiên Lữ.
Ngày 24 tháng 7 năm 1999, chia huyện Châu Giang thành 2 huyện: Khoái Châu và Văn Giang; chia huyện Mỹ Văn thành 3 huyện: Mỹ Hào, Văn Lâm, Yên Mỹ.
Ngày 19 tháng 1 năm 2009, chuyển thị xã Hưng Yên thành thành phố Hưng Yên.
Ngày 1 tháng 5 năm 2019, chuyển huyện Mỹ Hào thành thị xã Mỹ Hào.
Hiện nay, tỉnh Hưng Yên có 1 thành phố, 1 thị xã và 8 huyện đó là thành phố Hưng Yên, thị xã Mỹ Hào, và các huyện: Kim Động, Tiên Lữ, Văn Giang, Yên Mỹ, Phù Cừ, Ân Thi, Khoái Châu, Văn Lâm.
Trung tâm hành chính của tỉnh là thành phố Hưng Yên, nằm cách trung tâm thủ đô Hà Nội khoảng 54 km về phía đông nam, cách thành phố Hải Dương khoảng 50 km về phía tây nam, cách trung tâm thành phố Hải Phòng khoảng 93 km, có vị trí địa lý:
Điều kiện tự nhiên.
Hưng Yên nằm ở trung tâm đồng bằng Bắc Bộ, nằm trong vùng kinh tế trọng điểm Bắc bộ, là một trong hai tỉnh Bắc bộ có địa hình hoàn toàn đồng bằng, không có rừng, núi. Hưng Yên không giáp biển. Độ cao đất đai gần như đồng đều, rất thuận lợi cho giao thông, sản xuất.
Điểm trung tâm của đồng bằng Bắc Bộ nằm ở thôn Dung (Thiên Xuân), xã Hưng Đạo, huyện Tiên Lữ.
Hưng Yên nằm trong vùng khí hậu cận nhiệt đới ẩm, chia làm 4 mùa rõ rệt: xuân, hạ, thu, đông. Mùa mưa kéo dài từ cuối tháng 4 đến tháng 10 hàng năm. Lượng mưa trong mùa mưa chiếm tới trên 80% tổng lượng mưa cả năm.
Tỉnh Hưng Yên được phân chia thành 10 đơn vị hành chính cấp huyện, gồm 1 thành phố, 1 thị xã và 8 huyện với 161 đơn vị hành chính cấp xã, gồm 139 xã, 14 phường và 8 thị trấn.
Năm 2022 tăng trưởng GRDP đạt 13,4% giá trị sản xuất công nghiệp tăng 10,5% , xây dựng tăng 41,52%; thương mai dịch vụ tăng 19,32%, nông nghiệp thủy sản tăng 2,5%. Trong đó nông, lâm nghiệp và thủy sản 7,49%; công nghiệp và xây dựng 63,91%; dịch vụ 28,6%; thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm 6,7%.GRDP đầu người đạt 102,3 triệu đồng tăng 16% so với năm 2021. Kim ngạch xuất khẩu 6,3 tỷ $. Trên địa bàn tỉnh có 104 chợ 24 siêu thị 2 trung tâm thương mại đang được xây dựng. Thu ngân sách năm 2022 đạt 50.850 tỷ đồng bằng 260% dự toán tăng 2,67 lần so với năm 2021. Tổng vốn đầu tư phát triển 57.600 tỷ đồng tăng 46%. Chỉ số CPI xếp hạng 39/63, PAPI xếp hạng 5/63, PARINDEX xếp hạng 12/63, SIPAS xếp hạng 3/63 tỉnh, thành phố.
Sản phẩm công nghiệp của tỉnh rất đa dạng là dệt may, giày da, ô tô, xe máy, điện tử, điện dân dụng, công nghiệp thực phẩm, cơ khí chính xác, thép xây dự, tại các khu công nghiệp trên địa bàn tỉnh Hưng Yên có hơn 211 doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đăng ký thực hiện 515 dự án đầu tư còn hiệu lực với tổng vốn đầu tư đăng ký là 6099,5 triệu đô la Mỹ . Số lao động sử dụng của các doanh nghiệp FDI hiện nay khoảng 60.000 người.
Nhưng phân hoá kinh tế không đồng đều giữa các khu vực trong tỉnh đang gây khó khăn cho việc thu hút đầu tư và phát triển kinh tế của tỉnh cũng như cho những vùng, khu vực kinh tế còn chậm phát triển trong tỉnh.
Tính đến ngày 31 tháng 12 năm 2021, diện tích là 930,20 km², dân số tỉnh đạt 1.284,600 người. Dân số thành thị là 213.600 người (16,63%), dân số nông thôn là 1.071.000 người (83,37%). Dân số nam là 644.100 người, dân số nữ là 640.400 người. Mật độ dân số đạt 1.381 người/km², xếp thứ 4 cả nước sau thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội và Bắc Ninh.
Khi mới tái lập tỉnh 1997 tỷ lệ dân số làm nông nghiệp rất cao, ước tính 50-55%. Tuy nhiên, gần đây tỷ lệ này thay đổi một cách nhanh chóng do tốc độ phát triển của công nghiệp, dịch vụ có xu hướng tăng nhanh hơn. Tỷ lệ dân số làm nông nghiệp năm 2008 ước tính còn 40-45%, công nghiệp 45%, dịch vụ 13%, năm 2010 công nghiệp chiếm 48,12% và đến năm 2015 công nghiệp 48,98%; năm 2018, công nghiệp, xây dựng chiếm 51,56%, thương mại, dịch vụ chiếm 37,86% tỷ trọng trong cơ cấu kinh tế của tỉnh, Năm 2018 tỉ lệ dân số làm nông nghiệp còn 10,58%. Thành phần dân số sống ở đô thị là 44% và nông thôn là 56%. Số người biết chữ đạt 99%, tỷ lệ lao động từ 15 tuổi trở lên đã qua đào tạo chiếm 26,7%., tỷ lệ thất nghiệp 2,67%.
Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên 10,8%, Tỷ suất sinh 2,43 con/ phụ nữ, Tỷ lệ tăng dân số bình quân 1,11%, Tỷ suất nhập cư bình quân 4,74%, xuất cư bình quân 3,94%, di cư 0,78%.
Tỷ lệ dân số từ 15 tuổi trở lên biết chữ trên 98%. Lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên 680.500 người chiếm 52% dân số.
Tính đến ngày 1 tháng 4 năm 2019, toàn tỉnh có 5 tôn giáo khác nhau đạt 40.858 người, nhiều nhất là Công giáo có 26.226 người, tiếp theo là Phật giáo có 4.556 người. Còn lại các tôn giáo khác như đạo Tin Lành có 72 người, Hồi giáo có 3 người và Phật giáo Hòa Hảo chỉ có 1 người.
Giáo dục - đào tạo.
Năm 2021, tỉnh có tổng số 422/534 trường học các cấp được công nhận trường chuẩn Quốc gia. Tỷ lệ học sinh tốt nghiệp THPT đạt 92,01%, tỷ lệ trúng tuyển đại học 66,37%.
Tỉnh Hưng Yên có mạng lưới y tế từ tỉnh đến xã khá hoàn thiện, tuyến tỉnh có 2 bệnh viện đa khoa, 6 bệnh viện chuyên khoa, 4 trung tâm, 2 chi cục; tuyến huyện có 10 trung tâm y tế và 155 trạm y tế xã, phường, thị trấn với tổng số cán bộ, nhân viên y tế toàn ngành hơn 4.000 người trong đó có 1172 bác sỹ, tổng số giường bệnh 3880 giường, tỷ lệ trẻ em dưới một tuổi được tiêm chủng đầy đủ bình quân 97%. Với 100% y tế các xã được công nhận đạt chuẩn Quốc gia. Tỷ lệ người dân tham gia bảo hiểm y tế 92,5%.
Thông tin liên lạc.
Hạ tầng thông tin không ngừng được đầu tư phát triển. Chỉ số sẵn sàng cho phát triển CNTT-TT của tỉnh xếp thứ 13/63 cả nước.
Trên địa bàn Hưng Yên có các quốc lộ sau chạy qua:
Năm 2021, vận tải hành khách ước tính đạt 12,7 triệu lượt và 745,3 triệu lượt hành khách km luân chuyển.
Năm 2021, vận tải hàng hóa ước tính đạt 30,5 triệu tấn và 1.095 triệu tấn luân chuyển.
Di tích lịch sử.
Hưng Yên là vùng đất cổ với hơn 1.800 di tích và trên 500 lễ hội văn hóa truyền thống. Có 446 di tích đã được xếp hạng trong đó có 172 di tích quốc gia, 3 di tích quốc gia đặc biệt được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch xếp hạng cấp Quốc gia, đứng thứ 3 cả nước về số lượng di tích cấp Quốc gia (sau Hà Nội với hơn 1200 di tích cấp quốc gia và Bắc Ninh với 204 di tích cấp quốc gia). Ngoài ra còn có 271 di tích cấp tỉnh, 7 bảo vật và nhóm bảo vật quốc gia, hàng trăm làng nghề và làng nghề truyền thống.
Nghệ thuật chèo ở Hưng Yên.
Nghệ thuật chèo được hình thành từ thế kỷ 10 tại Kinh đô Hoa Lư (Ninh Bình) dưới thời nhà Đinh. Nghệ thuật chèo ở Hưng Yên có sự giao thoa, mang cả âm hưởng chủ đạo của chiếu chèo Nam, ảnh hưởng nhiều bởi chiếu chèo Đông và ít hơn bảo chiếng chèo Bắc.
Hưng Yên là đất chèo gốc, là cái nôi của các làn điệu chèo cổ. Trong bảy vị tổ chèo từ thời Đinh đến thời Lý được Lương Thế Vinh chép trong "Hý phường phả lục" thì có hai vị ở Hưng Yên. Vùng đất này đã sản sinh ra những nghệ sĩ nổi tiếng như các vị hậu tổ sân khấu chèo: Đào Văn Só (thời Đinh), Sái Ất (thời Lý) và Đào Thị Huệ (thời Lê). Các nghệ sĩ sau này như: Phạm Đình Nghị, NSND Hoa Tâm (Nhà hát Chèo Hà Nội), NSND Hoàng Lan (Đoàn Chèo Hải Phòng), NSND Tư Liêm (Nhà hát Chèo Việt Nam) và NSND Đinh Mạnh Phóng (Nhà hát Chèo Việt Nam) là những "cây đại thụ" trong làng chèo Việt Nam.
Nhà hát Chèo Hưng Yên là đơn vị sự nghiệp công lập có thu trực thuộc Sở Văn hoá - Thể thao và Du lịch Hưng Yên. Đây là tổ chức nghệ thuật chuyên nghiệp của tỉnh; có chức năng tổ chức biểu diễn, nghiên cứu, liên kết, hướng dẫn, truyền nghề về nghệ thuật chèo nhằm phục vụ nhiệm vụ chính trị của tỉnh, góp phần bảo tồn và phát triển nghệ thuật truyền thống của dân tộc.
Thể dục - Thể thao.
Câu lạc bộ bóng đá Phố Hiến đang thi đấu tại Giải bóng đá Hạng Nhất Quốc gia Việt Nam
Với hơn 1.800 di tích và trên 500 lễ hội văn hóa truyền thống mang đậm nét văn hóa, phong tục Việt cùng với các giải pháp đồng bộ phát triển du lịch mang tầm chiến lược lâu dài, 175 di tích cấp quốc gia, hàng trăm làng nghề và làng nghề truyền thống. Hưng Yên đang dần trở thành một địa chỉ hấp dẫn du khách trong và ngoài nước đến với các khu, điểm du lịch của tỉnh như khu di tích qốc gia đặc biệt Phố Hiến (đền Mẫu, đền Trần, chùa Chuông, Văn miếu Xích Đằ) gắn với phát triển du lịch đường sông; điểm du lịch di tích đền Đa Hoà - Dạ Trạch gắn với tour du lịch sông Hồng; điểm du lịch di tích đền Đậu An; cụm di tích quốc gia đình Đại Đồng, đình Đanh Xá; di tích đền Ghênh và chùa Nôm; khu đô thị sinh thái Ecopark, du lịch cộng đồng gắn với các làng nghề, sản phẩm nông nghiệp tiêu biể
Qua từng năm, số lượng khách du lịch đến với Hưng Yên đều tăng lên đáng kể. Chỉ tính năm 2018, toàn tỉnh đón trên 900.000 lượt khách, tăng 13% so với năm 2017, trong đó khách quốc tế đạt 20.000 lượt, tăng 16% so với năm 2017, khách nội địa đạt 880.000 lượt. Riêng 6 tháng đầu năm 2019, số lượng khách du lịch đến với tỉnh đạt khoảng 670.000 lượt khách, tăng 10% so với cùng kỳ năm 2018, cả năm ước đạt khoảng 1 triệu lượt khách, tăng khoảng 11%. |
Bắc Ninh là một tỉnh ở Việt Nam. Đây là tỉnh có diện tích nhỏ nhất cả nước, với vị trí nằm trong Vùng thủ đô Hà Nội, vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, thuộc vùng Đồng bằng sông Hồng. Bắc Ninh là trung tâm của xứ Kinh Bắc xưa, với 44 làng quan họ cổ, là cái nôi của Dân ca Quan họ được công nhận là di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại sau nhã nhạc cung đình Huế, không gian văn hóa Cồng Chiêng Tây Nguyên và cùng đợt với ca trù. Tỉnh cũng nằm trong Vùng kinh tế trọng điểm Bắc bộ, Việt Nam.
Năm 2022, Bắc Ninh là đơn vị hành chính Việt Nam đông thứ 22 về số dân số, với 2 thành phố, 2 thị xã và 4 huyện tổng cộng 1.488.250 người, xếp thứ tám về Tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP), xếp thứ ba về GRDP bình quân đầu người., GRDP đạt 248.376 tỉ Đồng (tương ứng hơn 10,8 tỉ USD), GRDP bình quân đầu người đạt 7.250 USD (tương ứng với 167 triệu đồng), tốc độ tăng trưởng GRDP 2022 đạt 7,39%.
Vị trí và lãnh thổ.
Bắc Ninh tiếp giáp với vùng trung du Bắc Bộ tại tỉnh Bắc Giang. Trung tâm hành chính của tỉnh là thành phố Bắc Ninh, nằm cách trung tâm thủ đô Hà Nội khoảng 30 km về phía đông bắc, có vị trí địa lý:
Các điểm cực của tỉnh Bắc Ninh:.
Trong quy hoạch xây dựng, tỉnh này thuộc vùng Thủ đô.
Ngoài ra, Bắc Ninh còn nằm trên 2 hành lang kinh tế.
Bắc Ninh là tỉnh với dân ca quan họ. Bắc Ninh là trung tâm xứ Kinh Bắc cổ xưa. Hiện nay trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh có khoảng 41 lễ hội đáng chú ý trong năm được duy trì. Trong đó có những lễ hội lớn như: hội chùa Dâu, Hội Lim, hội Đền Đô (Đền Lý Bát Đế - thờ 8 vị vua nhà Lý), hội đền Bà Chúa Kho. Bắc Ninh được biết đến là vùng đất với nghề tơ tằm, gốm sứ, đúc đồng, khắc gỗ, làm giấy, tranh vẽ dân
Điều kiện tự nhiên.
Địa hình của tỉnh không hoàn toàn là đồng bằng mà xen kẽ là các đồi thấp có hướng dốc chủ yếu từ Bắc xuống Nam và từ Tây sang Đông, được thể hiện qua các dòng chảy bề mặt đổ về sông Đuống và sông Thái Bình. Vùng đồng bằng thường có độ cao phổ biến từ 3-7 m, địa hình trung du (thị xã Quế Võ và huyện Tiên Du) có một số dải đồi thấp độ cao không quá 200 m. Diện tích đồi núi chiếm tỷ lệ nhỏ (chiếm 0,53%) so với tổng diện tích, chủ yếu ở Quế Võ và Tiên Du.
Bắc Ninh có mạng lưới sông ngòi khá dày đặc, mật độ lưới sông khá cao, trung bình 1,0 - 1,2 km/km², có 3 sông lớn chảy qua gồm sông Đuống, sông Cầu và sông Thái Bình.
Với hệ thống sông này nếu biết khai thác trị thủy và điều tiết nước sẽ đóng vai trò quan trọng trong hệ thống tiêu thoát nước của tỉnh. Trong khi đó tổng lưu lượng nước mặt của Bắc Ninh ước khoảng 177,5 tỷ m3, trong đó lượng nước chủ yếu chứa trong các sông là 176 tỷ m3; được đánh giá là khá dồi dào. Cùng với kết quả thăm dò địa chất cho thấy trữ lượng nước ngầm cũng khá lớn, trung bình 400.000 m3/ngày, tầng chứa nước cách mặt đất trung bình 3–5 m và có bề dày khoảng 40 m, chất lượng nước tốt. Toàn bộ nguồn nước này có thể khai thác để phục vụ chung cho cả sản xuất và sinh hoạt trong toàn tỉnh, trong đó có các hoạt động của đô thị.
Bắc Ninh nằm trong vùng khí hậu cận nhiệt đới ẩm, chia làm 4 mùa rõ rệt (xuân, hạ, thu, đông). Có sự chênh lệch rõ ràng về nhiệt độ giữa mùa hè nóng ẩm và mùa đông khô lạnh. Sự chênh lệch đạt 15-16 °C. Mùa mưa kéo dài từ tháng 5 đến tháng 9 hàng năm. Lượng mưa trong mùa này chiếm 80% tổng lượng mưa cả năm. Lượng mưa trung bình hàng năm: 1.400-1.700 mm. Nhiệt độ trung bình: 23,3 °C. Số giờ nắng trong năm: 1.530-1.776 giờ. Độ ẩm tương đối trung bình: 79%.
Tài nguyên, khoáng sản.
Tài nguyên rừng không lớn, chủ yếu là rừng trồng. Tổng diện tích đất rừng là 661,26 ha phân bố tập trung ở Quế Võ (317,9 ha) và Tiên Du (254,95 ha). Tổng trữ lượng gỗ ước tính 3.279 m³, trong đó rừng phòng hộ 363 m³, rừng đặc dụng 2916 m³.
Bắc Ninh nghèo về tài nguyên khoáng sản, chủ yếu chỉ có vật liệu xây dựng như: đất sét làm gạch, ngói, gốm, với trữ lượng khoảng 4 triệu tấn ở Quế Võ và Tiên Du, đất sét làm gạch chịu lửa ở thành phố Bắc Ninh, đá cát kết với trữ lượng khoảng 1 triệu tấn ở Thị Cầu - Bắc Ninh, đá sa thạch ở Vũ Ninh - Bắc Ninh có trữ lượng khoảng 300.000 m³. Ngoài ra còn có than bùn ở Yên Phong với trữ lượng 60.000 - 200.000 tấn.
Bắc Ninh hình thành lâu đời gắn liền với nền Văn minh sông Hồng. Luy Lâu từng là trung tâm tôn giáo cổ xưa nhất của Việt Nam, ngoài ra từng là trị sở Giao Chỉ. Từ hàng nghìn năm trước người Việt cổ đã cư trú và lập làng ở ven sông Cầu, sông Dâu, sông Đuống, sông Ngũ Huyện Khê, sông Tiêu Vương sống chủ yếu bằng canh tác nông nghiệp kết hợp làm nghề thủ công. Hàng loạt di vật như trống đồng, dao găm, rìu, giáo, tấm che ngực, mảnh giáp bằng đồng với những hoa văn độc đáo được tìm thấy ở các di tích Lãng Ngâm, Đại Trạch, Quả Cảm, Đại Lai mảnh khuôn đúc trống đồng trong thành cổ Luy Lâu đã chứng tỏ người xứ Bắc rất tinh xảo trong nghề đúc đồng, chế tác các đồ trang sức, làm gốm. Những giá trị tinh thần, tư tưởng được phản ánh qua các huyền thoại ông Đùng, bà Đùng, ông khổng lồ cắn nát núi, hút sạch rừng, băng ngang lũ; về Kinh Dương Vương, Lạc Long Quân, Âu Cơ. Cùng với huyền thoại truyền thuyết là đậm đặc các di tích tiêu biểu như lăng mộ Kinh Dương vương, đền thờ Lạc Long Quân, Âu Cơ ở Thuận Thành.
Thời kỳ Hồng Bàng, nước Văn Lang được chia làm có 15 bộ, bộ Vũ Ninh là vùng lãnh thổ thuộc phần lớn tỉnh Bắc Ninh hiện nay. Trong thời Bắc thuộc, Giao Chỉ gồm có 10 huyện trong đó có huyện Luy Lâu. Luy Lâu đã từng là đô thị lớn, là trung tâm thương mại trong suốt thời kỳ dài từ cuối thế kỷ thứ II đến thế kỷ IX-X. Xung quanh Luy Lâu là các làng nông nghiệp, làng thủ công, làng buôn bán phát triển. Tại đây, tư tưởng Nho giáo và văn hoá Hán Đường đã được truyền bá liên tục vào Việt Nam. Trung tâm Luy Lâu là nơi đầu tiên có trường dạy chữ và văn hoá Hán ở Việt Nam. Ngoài ra Luy Lâu còn là trung tâm Phật giáo lớn và cổ xưa nhất của người Việt. Hệ thống di tích, chùa tháp quần tụ đậm đặc ở đây với trung tâm là chùa Dâu cùng nhiều nguồn di vật, tài liệu như tượng pháp, bia ký, bản khắc Cổ Châu Pháp Vân và lễ hội chùa Dâu - lễ hội Phật giáo lớn nhất trong đồng bằng Bắc Bộ với các nghi lễ Tân Phật, rước Tứ Pháp, rước nước chứng tỏ Luy Lâu là tổ đình của Phật giáo Việt Nam. Luy Lâu là không gian điển hình đan xen, hỗn dung tiếp xúc, biến đổi hội tụ và kết tinh văn hoá Việt Nam cổ với văn hoá Phật - Ấn, Nam Á và Trung Á, văn hoá Nho Lão (Trung Hoa - Đông Á) để rồi sinh thành bản sắc văn hoá Kinh Việt. Đến thời Ngô Quyền, Giao Châu gồm các vùng phía nam sông Hồng và sông Đuống, thuộc Hà Nội, Bắc Ninh, một phần Hưng Yên.
Thời loạn 12 sứ quân, địa bàn Bắc Ninh là nơi chiếm đóng của 2 sứ quân Nguyễn Thủ Tiệp và Lý Khuê với các căn cứ ở Tiên Du và Thuận Thành. Các vua thời Lý lập Phủ Thiên Đức (vốn là châu Cổ Pháp). Bắc Ninh là đất phát tích nhà Lý - triều đại khai mở ra nền văn minh Đại Việt gắn liền với tên tuổi của những nhân vật lịch sử - văn hoá kiệt xuất như: Lý Công Uẩn, Lý Nhân Tông, Lê Văn Thịnh. Đây là nơi vang vọng bài thơ Nam quốc sơn hà- bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên của dân tộc Việt Nam.
Cuối thời Trần, cả nước có 24 đơn vị hành chính. Lộ Bắc Giang bao trùm Bắc Ninh và một phần Hà Nội, Bắc Giang ngày nay, gồm có 3 châu, lộ trực tiếp quản lý 2 huyện Siêu Loại và Gia Lâm. Châu Gia Lâm gồm 3 huyện: An Định (Gia Bình hiện nay), Tế Giang (Văn Giang hiện nay), Thiện Tài (Lương Tài hiện nay). Châu Vũ Ninh gồm 5 huyện: Tiên Du (Tiên Du hiện nay), Vũ Ninh (Võ Giàng hiện nay), Đông Ngàn (Từ Sơn và một phần Sóc Sơn thuộc Hà Nội hiện nay), Từ Sơn (Quế Võ hiện nay), Yên Phong (Yên Phong hiện nay). Châu Bắc Giang gồm 3 huyện Tân Phúc (Đa Phúc cũ, một phần Sóc Sơn hiện nay), Phật Thệ (Hiệp Hòa thuộc Bắc Giang hiện nay), Yên Việt (Việt Yên hiện nay).
Năm 1490, vua Lê Thánh Tông cho định lại bản đồ cả nước, gồm 13 (đạo) xứ thừa tuyên. Vùng đất Bắc Ninh thuộc trấn (xứ) Kinh Bắc.
Thời Minh Mạng, cả nước được chia thành 31 đơn vị hành chính: phủ Thừa Thiên là trung tâm, các trấn (tên đơn vị hành chính thời Hậu Lê và Tây Sơn) được đổi thành 30 tỉnh. Việc lập các tỉnh được thực hiện trong 2 đợt. Đợt đầu tiên vào năm 1831, Minh Mạng thực hiện chia các trấn phía bắc làm 18 tỉnh. Tỉnh Bắc Ninh được thành lập (nay là Bắc Ninh và Bắc Giang, một phần đất Hà Nội và Vĩnh Phúc này nay).
Bắc Ninh là cửa ngõ của cố đô Thăng Long, là vùng đất trung chuyển giữa kinh đô xưa với miền địa đầu giáp giới Trung Quốc. Do có đường quốc lộ lên ải Bắc chạy qua, nên vị trí quân sự của Bắc Ninh cực kỳ hệ trọng. Chính vì thế, mùa xuân 1884, Pháp đánh thành Bắc Ninh hoàn thành gấp công cuộc thống trị và bảo hộ Việt Nam.
Năm 1895, tách phủ Lạng Giang ra lập tỉnh Bắc Giang. Năm 1903, tách các huyện Đông Anh, Kim Anh, Đa Phúc nhập vào tỉnh Vĩnh Yên (từ năm 1977, 2 huyện Kim Anh và Đa Phúc hợp nhất thành huyện Sóc Sơn). Ngày 28 tháng 11 năm 1948, huyện Gia Lâm sáp nhập vào tỉnh Hưng Yên nhưng đến ngày 7 tháng 11 năm 1949 lại sáp nhập trở lại tỉnh Bắc Ninh. Năm 1960, huyện Văn Giang của Bắc Ninh được tách sang tỉnh Hưng Yên.
Ngày 20 tháng 4 năm 1961, Quốc hội ban hành nghị quyết về việc mở rộng thành phố Hà Nội. Theo đó, tách toàn bộ huyện Gia Lâm gồm 15 xã: Giang Biên, Phúc Lợi, Thạch Bàn, Cự Khối, Trung Thành, Tiền Phong, Quyết Tiến, Quyết Thắng, Toàn Thắng, Quyết Chiến, Tân Hưng, Đại Hưng, Thừa Thiên, Quang Minh, Kim Lan) nhập vào thành phố Hà Nội..
Ngày 31 tháng 5 năm 1961, tách thị trấn Yên Viên và 5 xã: Dương Hà, Đình Xuyên, Ninh Hiệp, Quang Trung, Tiền Phong thuộc huyện Từ Sơn; 2 xã Phù Đổng, Trung Hưng thuộc huyện Tiên Du; 2 xã Đức Thắng, Chiến Thắng thuộc huyện Thuận Thành để nhập vào huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội. Cùng vói đó, tách 5 xã Liên Hà, Vân Hà, Dục Tú, Đông Hội, Mai Lâm của huyện Từ Sơn nhập vào huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội.
Vào năm 1963, tỉnh Bắc Ninh được sáp nhập với tỉnh Bắc Giang thành tỉnh Hà Bắc; cùng lúc đó, 2 huyện Tiên Du và Từ Sơn hợp nhất thành huyện Tiên Sơn, 2 huyện Quế Dương và Võ Giàng hợp nhất thành huyện Quế Võ. Mặc dù không còn vị trí tỉnh lỵ như trước đây (lúc đó Bắc Giang trở thành tỉnh lỵ của tỉnh Hà Bắc), nhưng thị xã Bắc Ninh vẫn là một trung tâm kinh tế – xã hội quan trọng của Hà Bắc, nhất là trong mối quan hệ giao lưu với thủ đô Hà Nội..
Ngày 1 tháng 1 năm 1997, tỉnh Bắc Ninh chính thức được tái lập theo Nghị quyết của Quốc hội khoá IX, kỳ họp thứ 10 ngày 06 tháng 11 năm 1996. Khi vừa tái lập, tỉnh Bắc Ninh có 6 đơn vị hành chính gồm thị xã Bắc Ninh (tỉnh lỵ) và 5 huyện Gia Lương, Quế Võ, Thuận Thành, Tiên Sơn, Yên Phong.
Ngày 9 tháng 8 năm 1999, chia huyện Tiên Sơn thành hai huyện Tiên Du và Từ Sơn; chia huyện Gia Lương thành 2 huyện Gia Bình và Lương Tài.
Ngày 26 tháng 1 năm 2006, chuyển thị xã Bắc Ninh thành thành phố Bắc Ninh.
Ngày 24 tháng 9 năm 2008, chuyển huyện Từ Sơn thành thị xã Từ Sơn.
Ngày 25 tháng 6 năm 2014, thành phố Bắc Ninh được công nhận là đô thị loại II và đến ngày 25 tháng 12 năm 2017 được công nhận là đô thị loại I trực thuộc tỉnh Bắc Ninh.
Ngày 1 tháng 11 năm 2021, chuyển thị xã Từ Sơn thành thành phố Từ Sơn.
Ngày 10 tháng 4 năm 2023, chuyển hai huyện Thuận Thành và Quế Võ thành hai thị xã có tên tương ứng.
Tỉnh Bắc Ninh có 2 thành phố, 2 thị xã, 4 huyện như hiện nay.
Tỉnh Bắc Ninh có dân số năm 2022 là 1.488.250 người với 8 đơn vị hành chính cấp huyện, bao gồm 2 thành phố, 2 thị xã và 4 huyện với 126 đơn vị hành chính cấp xã, bao gồm 52 phường, 4 thị trấn và 70 xã, tỷ lệ đô thị hóa năm 2023 đạt 60,34% - nằm trong top đầu các tỉnh phía Bắc
Năm 2022, dân số Bắc Ninh là 1.488.250 người, chiếm 1,4% dân số cả nước và đứng thứ 22/63 tỉnh, thành phố, trong đó nam 732.045 người và nữ 756.205 người; khu vực thành thị 763.770 người, chiếm 60,3% dân số toàn tỉnh và khu vực nông thôn 724.480 người, chiếm 39,7%. Mật độ dân số Bắc Ninh năm 2022 đã lên tới 1.809 người/km², gần gấp 5 lần mật độ dân số bình quân của cả nước và là địa phương có mật độ dân số cao thứ 3 trong số 63 tỉnh, thành phố, chỉ thấp hơn mật độ dân số của Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh..
Bắc Ninh có lực lượng lao động là 789.420 người, chiếm 53,04% tổng dân số. Tính đến năm 2022 Bắc Ninh có 60,34% dân số sống tại các đô thị (I, III, IV, V) với 898.010 người và 39,66% với 590.240 người sống ngoài đô thị. Mục tiêu của Bắc Ninh phù hợp với tiêu chí đô thị loại I trực thuộc trung ương.
Trên địa bàn tỉnh hiện có nhiều dân tộc sinh sống, trong đó Kinh chiếm tuyệt đối đại đa số từ ngàn đời nay. Dưới đây là 3 dân tộc đông dân nhất là:
Cũng giống như phần lớn các tỉnh khác tại Miền Bắc Việt Nam, Bắc Ninh có đại đa số cư dân "không tôn giáo". Theo thống kê năm 2019, số người theo có tôn giáo tại tỉnh Bắc Ninh là 43.573 người, tức chiếm 3,7% tổng dân số của tỉnh. Hiện nay, Bắc Ninh có 7 tôn giáo hoạt động là Phật giáo, Công giáo, Tin Lành, Hồi giáo, Minh Lý đạo,Phật giáo Hòa Hảo và Cao Đài. Bắc Ninh có 40 xứ đạo Công giáo hoạt động và tất cả các hoạt động Công giáo ở Bắc Ninh đều do Toà Giám mục Giáo phận Bắc Ninh chỉ đạo.
Y tế - Phúc lợi xã hội.
Theo Tổng cục Thống kê Việt Nam thì năm 2010, Bắc Ninh có 217 cơ sở khám chữa bệnh trực thuộc sở Y tế, trong đó có 19 bệnh viện, 10 phòng khám khu vực và 186 trạm y tế.. Cùng với hệ thống y tế của nhà nước, cũng có một hệ thống bệnh viện, phòng khám tư nhân đang dần phát triển. Bắc Ninh hiện có các bệnh viện sau:
Phúc lợi xã hội.
Bắc Ninh là một trong những tỉnh đi đầu cả nước về chính sách an sinh, phúc lợi xã hội. Nổi bật là chính sách hỗ trợ người cao tuổi từ đủ 65 tuổi trở lên; hỗ trợ điện chiếu sáng cho thôn, khu phố; mở rộng đối tượng thụ hưởng chương trình Sữa học đường đến khối lớp 1 và lớp , tỷ lệ hộ nghèo giảm dần qua các năm, năm 2017 giảm hộ nghèo xuống còn 2,06%.
Trong lịch sử, Bắc Ninh là tỉnh có nhiều Trạng nguyên nhất Việt Nam dù rằng diện tích nhỏ nhất trong nước. Khoa thi đầu tiên là khoa Minh kinh bác học, và khoa thi Nho học với tên gọi Trạng nguyên chính thống lần đầu thì người khai khoa đều là người Bắc Ninh. Trong những kỳ thi Đình dưới các triều đại phong kiến, cả nước chọn được 47 Trạng nguyên và 2991 Tiến sĩ thì riêng Kinh Bắc đã có tới 17 Trạng nguyên và 622 Tiến sĩ. Riêng thôn Tam Sơn có 2 Trạng nguyên. Có 2 vị được đi sứ dự thi cùng các Nho sĩ Trung Quốc, được đỗ đầu trở thành Lưỡng quốc Trạng nguyên. Bắc Ninh là mảnh đất địa linh, nhân kiệt với câu vè mang tính ước lệ nói về các vị tài danh xứ Kinh Bắc: "Một giỏ ông Đồ/ Một bồ ông Cống/Một đống ông Nghè/ Một bè Tiến sỹ/Một bị Trạng nguyên/Một thuyền Bảng nhãn". Riêng làng Ngọc Quan vì có tính đặc sắc trong khoa cử được mang danh hiệu "Làng Khôi nguyên xứ Bắc".
Có những vị vừa là Thủ khoa Nho học vừa là Tể tướng như Nguyễn Đăng Đạo (Trạng nguyên - Tham tụng), Vũ Miên (Hội nguyên - Tham tụng, Quốc tử giám Tế tửu, Quốc sử quán Tổng tài). Có những dòng họ lưu giữ được truyền thống nhiều đời: dòng họ Vũ làng Lương Xá (Vũ Kính, Vũ Giớ), họ Vũ làng Xuân Lan (Vũ Miên, Vũ Tú...)
Các Trạng nguyên người Bắc Ninh bao gồm
Riêng bảng nhãn, thám hoa, tiến sĩ có rất nhiều. Đặc biệt Làng Kim Đôi có 25 vị trong đó, họ Nguyễn có 18 vị, họ Phạm có 7 vị (Theo Trạng nguyên, Bảng nhãn, Thám hoa Việt Nam). Làng Tam Sơn là làng duy nhất của cả nước có đủ (Trạng nguyên, Bảng nhãn, Thám hoa).
Sự nghiệp giáo dục - đào tạo phát triển toàn diện theo hướng bền vững. Công tác phổ cập giáo dục ở các cấp học tiếp tục được quan tâm và công nhận hoàn thành phổ cập giáo dục – xóa mù chữ các cấp học ở mức độ cao nhất cả nước. Cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học được đầu tư có trọng tâm, trọng điểm, đồng bộ, hiện đại.
Tỉnh Bắc Ninh đã và đang quy hoạch 3 làng Đại học:
Năm 2008, toàn tỉnh có 18.293 học sinh tốt nghiệp Trung học phổ thông, thì có 19.380 lượt học sinh dự thi ĐH, với tổng điểm bình quân 3 môn thi ĐH là 12,85. Bắc Ninh xếp thứ 6 toàn quốc về tổng điểm bình quân 3 môn thi
Bắc Ninh là tỉnh có hệ thống giao thông đa dạng, gồm cả đường bộ, đường sắt và đường sông. Trong đó, hệ thống đường bộ được đánh giá là tương đối đồng bộ so với các tỉnh khác trong cả nước.
Hệ thống đường nội bộ các khu đô thi mới, khu công nghiệp trên đia bàn toàn tỉnh được đồng bộ hiện đại thích ứng được với quá trình đô thị hóa nhanh của các địa phương trong tỉnh, các tuyến này cũng được liên kết với nhau nhằm tạo lập hệ thống giao thông liên hoàn để việc vận chuyển hàng hóa thuận lợi hơn giảm áp lực giao thông cho các quốc lộ, tỉnh lộ trên địa bàn.
Bắc Ninh hiện có hàng trăm di tích lịch sử văn hóa với nhiều đình, chùa, lễ hội và những làn điệu dân ca Quan họ. Bề dày lịch sử, văn hóa đã tạo cho Bắc Ninh tiềm năng phát triển du lịch văn hóa.. Bắc Ninh có 3 khu du lịch là: Khu du lịch văn hoá Quan họ Cổ Mễ (thành phố Bắc Ninh); khu du lịch văn hoá Đền Đầm (thành phố Từ Sơn); khu du lịch văn hoá Phật Tích (huyện Tiên Du). Bên cạnh đó, theo dự kiến sẽ có 3 khu du lịch khác là: Khu du lịch lâm viên Thiên Thai (huyện Gia Bình); khu du lịch văn hoá lịch sử Như Nguyệt (huyện Yên Phong); khu du lịch tâm linh Hàm Long - Núi Dạm (thành phố Bắc Ninh) và lựa chọn 22 điểm di tích quy hoạch phát triển thành điểm du lịch làm động lực cho các tuyến du lịch khép kín, liên hoàn và hấp dẫn trên địa bàn. Trong đó có một số di tích lịch sử - văn hóa tiêu biểu để hình thành các điểm, các tuyến du lịch hấp dẫn như Văn Miếu Bắc Ninh, chùa Phật Tích, lăng Kinh Dương Vương, chùa Dâu, chùa Bút Tháp, đền Đô, đền thờ Lê Văn Thịnh, Đền, chùa Cổ Lũng (xã Nội Duệ), Chùa Lim. Ngoài ra, còn có du lịch cộng đồng tại làng gốm Phù Lãng (thị xã Quế Võ), khu vực chùa Bút Tháp (thị xã Thuận Thành), làng Quan họ Viêm Xá (Thành phố Bắc Ninh), làng gỗ mĩ nghệ Đồng Kỵ .
Bắc Ninh có một nền văn hoá đặc sắc, một vùng quê có nhiều di tích lịch sử văn hoá, lễ hội dân gian, làng nghề truyền thống. Những dấu ấn lịch sử sống động truyền thống văn hoá Việt Nam, đậm đà bản sắc Kinh Bắc, được kết tinh trong những di sản văn hoá, các lễ hội dân gian. Bắc Ninh là địa phương thứ 3 xây dựng văn miếu có tầm cỡ, quy mô, trang trọng. Văn miếu Bắc Ninh với 677 vị đại khoa, chiếm 1/3 tổng số vị đại khoa của cả nước đã được vinh danh. Văn miếu Bắc Ninh với những trang lịch sử văn hóa, giáo dục còn lưu giữ được cho đến ngày nay là những cứ liệu vô cùng giá trị của nền văn minh ở vùng Kinh Bắc, nơi có thành cổ Luy Lâu, nơi Sĩ Nhiếp truyền bá Hán học. Chùa Dâu, Chùa Phật Tích, Chùa Bút Tháp là những nơi phát tích của Phật giáo Việt Nam, Chùa Dận. Bắc Ninh với các làn điệu quan họ, các làng nghề như làng tranh Đông Hồ, làng gốm Phù Lãng, gỗ mỹ nghệ Đồng Kỵ, rèn sắt Đa Hội, đúc đồng Đại Bái, dệt Hồi Quan. Các di tích lịch sử đáng kể có Lăng và đền thờ Kinh Dương Vương - thờ Thủy Tổ Việt Nam, đền Đô - thờ tám vị vua triều Lý, đền Phụ Quốc, đình làng Đình Bảng, chùa Cổ Lũng , bánh tẻ làng Chờ, bánh khúc làng Diềm, nem Bùi (Ninh Xá), rượu nếp làng Cẩm, cháo cá Bắc Ninh, tương Đình Tổ, bánh tro. Các nghề có truyền thống lâu đời như tơ tằm, gốm sứ, đúc đồng, khắc gỗ, làm giấy, tranh vẽ dân gian.
Tính đến ngày 05/12/2015 Bắc Ninh đã nhận 3 danh hiệu UNESCO Việt Nam đó là:
Hàng năm, trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh diễn ra hơn 300 lễ hội lớn nhỏ khác nhau. Một số lễ hội tiêu biểu được liệt kê dưới đây (Theo âm lịch):
Mùng bảy hội Khám, mùng tám hội Dâu
Mùng chín đâu đâu cũng về hội Gióng
Di tích, di sản văn hóa.
Bắc Ninh có khoảng 1600 di tích lịch sử văn hoá, trong đó có 651 di tích được xếp hạng (trong đó có 204 di tích xếp hạng cấp Quốc gia, 4 di tích Quốc gia đặc biệt, 443 di tích xếp hạng cấp tỉnh), 17 bảo vật quốc gia. Là tỉnh có nhiều di tích cấp quốc gia chỉ sau thành phố Hà Nội. Điều đặc biệt ở Bắc Ninh là tín ngưỡng thờ Thánh Tam Giang rất phổ biến với vài trăm làng thờ, tập trung nhiều ở các làng quan họ ven sông Cầu.
Di sản văn hóa phi vật thể tiêu biểu nhất ở Bắc Ninh là dân ca Quan họ Bắc Ninh đã được Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên Hợp Quốc xếp vào Kiệt tác truyền khẩu và phi vật thể nhân loại.
Làng nghề truyền thống.
Bắc Ninh với nhiều làng nghề truyền thống có tuổi đời hàng trăm năm, đã làm ra những sản phẩm thủ công tinh xảo, độc đáo. Hiện nay, Bắc Ninh có 62 làng có nghề. Trong đó 30 làng nghề đã được cấp bằng công nhận gồm 21 làng nghề truyền thống, 9 làng nghề mới, 32 làng có nghề. Các làng nghề chủ yếu trong các lĩnh vực như đồ gỗ mỹ nghệ xuất khẩu, sản xuất giấy, gốm, sắt, thép tái chế, đúc đồng. Các làng nghề đã góp phần rất lớn trong việc giải quyết công ăn việc làm cho nhân dân trong tỉnh (trên 72.000 lao động thường xuyên và trên 10.000 lao động thời vụ).
Món ăn đặc trưng địa phương của tỉnh không có nhiều nhưng cũng ấn tượng: bánh đa thôn Đoài, bánh tro (âm) Đình Tổ, bánh khoai Thị Cầu, đậu gù Trà Lâm, bún tươi Khắc Niệm, tỏi An Thịnh, bánh xu xê Đình Bảng, gà Hồ, bánh tẻ Chờ, giò chả Tân Hồng, cà rốt Gia Lương, thịt chuột Đình Bảng, kẹo lạc, cháo thái Đình Tổ, khoai tây Quế Võ, rượu nếp làng Cẩm, phở gan cháy Đáp Cầu, kẹo cốm Lũng Giang, bánh đa nem Yên Phụ, mì gạo Tử Nê, bánh cuốn Mão Điền, rượu Đại Lâm, tương Đình Tổ, nem Bùi, bánh khúc làng Diềm.
Ô nhiễm môi trường làng nghề ở Bắc Ninh đang ở mức độ nghiêm trọng đặc biệt ở 4 làng nghề trọng điểm là giấy Phong Khê, sắt thép Đa Hội, nhôm Văn Môn, đồng Đại Bái. Ngoài ra, một số công ty trong các khu công nghiệp cũng gây ô nhiễm như công ty Kingmo New Materials (khu công nghiệp Tiên Sơn). Ô nhiễm đang ảnh hưởng lớn tới tới đời sống, sức khỏe của người dân và công nhân việc ô nhiễm xảy ra ngay tại từng thôn xóm của Bắc Ninh. Tuy nhiên điều này vẫn chưa được các cấp chính quyền quan tâm đúng mức.
Bắc Ninh có Câu lạc bộ bóng chuyền Kinh Bắc Bắc Ninh là đội bóng chuyên nghiệp đang thi đấu tại Giải vô địch bóng chuyền quốc gia Việt Nam. |
Hà Tây là một tỉnh cũ thuộc vùng Đồng bằng sông Hồng, Việt Nam, từng tồn tại trong hai giai đoạn: 1965–1976 và 1991–2008.
Vào ngày 1 tháng 8 năm 2008, toàn bộ diện tích và dân số của tỉnh Hà Tây được sáp nhập vào thủ đô Hà Nội và như vậy tỉnh này không còn tồn tại nữa.
Địa bàn tỉnh Hà Tây cũ tương ứng với khu vực phía tây và phía nam thành phố Hà Nội hiện nay. Trung tâm hành chính của tỉnh là thành phố Hà Đông (nay là quận Hà Đông) nằm cách trung tâm Hà Nội cũ khoảng 10 km về phía tây nam.
Tỉnh Hà Tây có vị trí địa lý:
Trước khi giải thể vào năm 2008, tỉnh có diện tích 2.193,41 km², dân số là 2.568.007 người, mật độ dân số đạt 1.171 người/km².
Tỉnh Hà Tây được thành lập vào ngày 21 tháng 3 năm 1965 theo Quyết định số 103-NQ-TVQH của Ủy ban thường vụ Quốc hội trên cơ sở sáp nhập hai tỉnh Sơn Tây và Hà Đông. Trước đó, tỉnh Sơn Tây bao gồm thị xã Sơn Tây và 6 huyện: Bất Bạt, Phúc Thọ, Quảng Oai, Quốc Oai, Thạch Thất, Tùng Thiện; tỉnh Hà Đông gồm thị xã Hà Đông và 8 huyện: Chương Mỹ, Đan Phượng, Hoài Đức, Mỹ Đức, Phú Xuyên, Thanh Oai, Thường Tín, Ứng Hòa.
Khi hợp nhất, tỉnh Hà Tây gồm 2 thị xã: Hà Đông (tỉnh lỵ), Sơn Tây và 14 huyện: Bất Bạt, Chương Mỹ, Đan Phượng, Hoài Đức, Mỹ Đức, Phú Xuyên, Phúc Thọ, Ba Vì, Quốc Oai, Thạch Thất, Thanh Oai, Thường Tín, Tùng Thiện, Ứng Hòa.
Ngày 26 tháng 7 năm 1968, hợp nhất 3 huyện Bất Bạt, Quảng Oai và Tùng Thiện thành huyện Ba Vì.
Ngày 27 tháng 12 năm 1975, tỉnh Hà Tây hợp nhất với tỉnh Hòa Bình thành tỉnh Hà Sơn Bình (tức Hà Đông, Sơn Tây (2 thị xã chính của Hà Tây) và Hoà Bình). Ngày 14 tháng 12 năm 1978, cùng với 2 huyện Mê Linh, Sóc Sơn của tỉnh Vĩnh Phú (tức Vĩnh Phúc và Phú Thọ), hai thị xã Sơn Tây, Hà Đông và các huyện Ba Vì, Phúc Thọ, Thạch Thất, Đan Phượng, Hoài Đức được sáp nhập vào thành phố Hà Nội. Tuy nhiên, trên thực tế thị xã Hà Đông vẫn tạm thời là tỉnh lỵ tỉnh Hà Sơn Bình.
Theo Nghị quyết của Quốc hội khóa VIII kỳ họp thứ 9 ngày 12 tháng 8 năm 1991, tỉnh Hà Sơn Bình được chia lại thành hai tỉnh Hòa Bình và Hà Tây. Đồng thời, thị xã Sơn Tây và 5 huyện: Ba Vì, Phúc Thọ, Thạch Thất, Đan Phượng, Hoài Đức thuộc thành phố Hà Nội được chuyển về tỉnh Hà Tây (cùng thời điểm này, huyện Mê Linh của Hà Nội chuyển về tỉnh Vĩnh Phú (từ năm 1997 - 31/7/2008 thuộc tỉnh Vĩnh Phúc) quản lý). Sau khi tái lập, tỉnh Hà Tây có 2.169 km² diện tích tự nhiên và 2.086.926 người với 14 đơn vị hành chính trực thuộc, gồm 2 thị xã: Hà Đông (tỉnh lỵ), Sơn Tây và 12 huyện: Ba Vì, Chương Mỹ, Đan Phượng, Hoài Đức, Mỹ Đức, Phú Xuyên, Phúc Thọ, Quốc Oai, Thạch Thất, Thanh Oai, Thường Tín, Ứng Hòa.
Ngày 27 tháng 12 năm 2006, Chính phủ ban hành Nghị định số 155/2006/NĐ-CP. Theo đó, thành lập thành phố Hà Đông trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của thị xã Hà Đông. Ngày 2 tháng 8 năm 2007, Chính phủ ban hành Nghị định số 130/2007/NĐ-CP. Theo đó, thành lập thành phố Sơn Tây trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của thị xã Sơn Tây.
Cuối tháng 7 năm 2008, tỉnh Hà Tây có 2 thành phố: Hà Đông (tỉnh lỵ), Sơn Tây và 12 huyện: Ba Vì, Chương Mỹ, Đan Phượng, Hoài Đức, Mỹ Đức, Phú Xuyên, Phúc Thọ, Quốc Oai, Thạch Thất, Thanh Oai, Thường Tín, Ứng Hòa.
Ngày 29 tháng 5 năm 2008, Quốc hội ban hành Nghị quyết số 15/2008/QH12 về việc điều chỉnh địa giới hành chính thành phố Hà Nội và một số tỉnh có liên quan (nghị quyết có hiệu lực từ ngày 1 tháng 8 năm 2008). Theo đó, hợp nhất toàn bộ 219.341,11 ha diện tích tự nhiên và 2.568.007 người của tỉnh Hà Tây và 4 xã Đông Xuân, Tiến Xuân, Yên Bình, Yên Trung thuộc huyện Lương Sơn, tỉnh Hòa Bình vào thành phố Hà Nội (cũng trong năm này, huyện Mê Linh của tỉnh Vĩnh Phúc cũng được nhập vào Hà Nội). Từ đó, tỉnh Hà Tây không còn tồn tại.
Ngày 8 tháng 5 năm 2009, thành phố Hà Đông trở thành một quận của thủ đô Hà Nội, còn thành phố Sơn Tây bị hạ cấp xuống thành thị xã Sơn Tây. Đồng thời, địa giới các huyện Quốc Oai, Thạch Thất cũng được điều chỉnh lại, sáp nhập thêm 4 xã thuộc huyện Lương Sơn, tỉnh Hòa Bình.
Tổng sản phẩm (GDP) trong tỉnh năm 2001 ước đạt 14.900 tỷ đồng. Theo tài liệu thì năm 2001 dân số toàn tỉnh Hà Tây là 2.432.000 người, do đó GDP/người là 434 USD, tương đương với 6.157.300 VNĐ
Cơ cấu kinh tế:
Hà Tây có trên 200 làng nghề với những sản phẩm đặc sắc và được nhiều người ưa chuộng như pháo Bình Đà, lụa Vạn Phúc, sơn mài - Duyên Thái, tiện gỗ - Nhị Khê, thêu - Quất Động, Nón Chuông, Quạt Vác, khảm trai Chuyên Mỹ, hàng mây tre Phú Vinh, đồ mộc Chàng Sơn, Sơn Đồng, may Trạch Xá, đàn Đào Xá, mộc Đại Nghiệp, tơ lưới Hà Thao, tò he Xuân L
Bài hát "Hà Tây quê lụa" của Nhật Lai ra đời khi Không quân Hoa Kỳ tăng cường đánh phá miền Bắc Việt Nam với ca từ đẹp, giai điệu mượt mà đã trở nên nổi tiếng.
Hà Tây là tỉnh giàu tiềm năng du lịch. Với địa hình giao thoa giữa miền núi và đồng bằng, Hà Tây có nhiều hồ, suối và hang động. Ngoài ra, số lượng di tích lịch sử được công nhận ở Hà Tây chỉ đứng sau Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh.
Hà Tây là tỉnh có 2 trong số 21 khu du lịch quốc gia là:
Các địa điểm du lịch nổi tiếng khác gồm:
Dù đã sáp nhập vào thành phố Hà Nội từ năm 2008 nhưng vẫn còn đó ký ức về các đặc sản nổi tiếng xứ Đoài. Có thể kể đến như: nem Phùng, miến Cự Đà, giò chả Ước Lễ, bánh cuốn Vân Đình, kẹo lạc Đường Lâm, rau sắng Chùa Hương, cà dầm tương Tam Hiệp, bưởi thồ Bạch Hạ, sữa Ba Vì, tương Mông Phụ, kẹo lạc- kẹo dồi Cổ Hoàng, rượu Ngự Câu, khoai tây Thường Tín, miến rong Dương Liễu, gạo Khu Cháy, nhãn muộn Đại Thành (Quốc Oai Hà Tây), chè lam Thạch Xá, trứng Liên Châu, kẹo lạc Tháp Thượng, bánh giò, bún tươi Bích Hòa, rượu nếp Bá Giang, chè Long Phú, thịt chó Cao Xá, vịt nướng Vân Đình, bột sắn Minh Hồng, bánh tro Đắc Sở, rượu nếp Chi Nê, cơm lam Ba Vì, thịt chuột Canh Nậu, bánh nếp, mơ Hương Sơn, đậu phụ Trúng Đích, bánh tẻ Phúc Lâm, miến rong làng So, chuối Vân Nam, bánh giầy Quán Gánh, mạch nha Hoài Đức, gạo bồ nâu Thanh Văn, tò he Xuân La, miến rong Minh Khai, củ mài Hương Sơn, giò chả Hoàng Trung, rượu Trại Chiêu, giá đỗ Trung Châu, gà mía Sơn Tây, rau sắn nấu cá trê Thạch Thất, tương nếp Cự Đà, bún cá rô đồng, cau sấy Hạc Sơn, bánh đa nem Ngự Câu, cá mòi sông Hồng, bún tươi làng Bặt, men rượu Tân Độ, cháo se làng Hạ, bột sắn Hoài Đức, tiểu hổ Cự Đà, bánh đúc Kim Bài, chè Ba Trại, bánh khúc, bánh khoai, chè lam Đường Lâm, bánh cuốn Thanh Lương, nem Phượng, rau muống Linh Chiểu, bánh bác Giang Xá, bánh mứt kẹo La Phù, giò chả Thượng Hội, vịt cỏ Vân Đình, cải mào gà Hoài Đức, nem thính Cao Bộ, thịt quay đòn Sơn Tây, bún khô Minh Khai, chè củ mài Chùa Hương, cam Canh, cháo vịt Vân Đình, rượu nếp làng Mai, vật vờ sông Hồng, gà đồi Ba Vì, bún hến Phú Xuyên, bánh gai làng Giá, bánh tẻ Phú Nhi, chè kho Đại Đồng.
Chiếng chèo xứ Đoài.
Trong "Tứ chiếng chèo" đồng bằng sông Hồng thì Hà Tây là trung tâm của chiếng chèo Đoài (vùng đất gồm phần lớn tỉnh Hà Tây cũ, các tỉnh Phú Thọ, Vĩnh Phúc và một phần các tỉnh Tuyên Quang, Hòa Bình). Hà Tây là cái nôi chèo lớn của Việt Nam với những tên tuổi lớn của sân khấu chèo như NSND Tào Mạt, NSND Chu Văn Thức, NSND Diễm Lộc, NSND Khắc Tư, NSND Đoàn Thanh Bình, NSƯT Văn Chương, NSND Thu Huyề
Nghệ thuật chèo được hình thành từ thế kỷ 10 tại Kinh đô Hoa Lư (Ninh Bình) dưới thời nhà Đinh. Ưu bà Phạm Thị Trân đã truyền dạy nghệ thuật chèo cho cung nữ và quân lính. Sau đó chèo phát triển rộng ra lãnh thổ Đại Cồ Việt (vùng châu thổ Bắc Bộ và các tỉnh Thanh - Nghệ - Tĩnh trở ra). Vào thế kỷ 15, vua Lê Thánh Tông đã không cho phép biểu diễn chèo trong cung đình. Chèo trở về với nông dân, gắn liền với sinh hoạt đời sống, hội hè của người Việt.
Nghệ thuật chèo Đồng bằng sông Hồng trở thành cái nôi chèo với Tứ chiếng chèo Đông, Đoài, Nam, Bắc. Chiếng Chèo là những phường Chèo hoạt động trong một vùng văn hóa, địa lý nhất định. Phong trào hát chèo xưa phân vùng chèo châu thổ sông Hồng thành 4 chiếng chèo Đông, chèo Đoài, chèo Nam, chèo Bắc với kinh đô Thăng Long - Hà Nội ở vị trí trung tâm. Mỗi chiếng có những "ngón nghề" riêng, kỹ thuật riêng, khó lưu truyền và phát triển ra đến bên ngoài do sự khác nhau trong phong cách nghệ thuật dựa trên cơ sở dân ca, dân vũ và văn hóa địa phương, chỉ người trong chiếng mới diễn được với nhau.
Hiện tại Hà Tây đã sáp nhập vào Hà Nội, nơi đây vẫn còn những vùng chèo tiêu biểu như Thạch Thất, Quốc Oai, Ba Vì, Sơn Tây, Thường Tí |
Khí quyển Sao Hỏa
Khí quyển Sao Hỏa là lớp các chất khí hay các hạt chất rắn và chất lỏng nhỏ bay lơ lửng quanh hành tinh Sao Hỏa và được giữ lại bởi lực hấp dẫn của Sao Hỏa. Từ những quan sát đầu tiên cho đến nay, khí quyển Sao Hỏa luôn lộ ra như một thế giới vừa khác lạ và vừa quen thuộc.
Lịch sử khám phá.
Người đầu tiên chỉ ra các bằng chứng khoa học về sự hiện diện của một khí quyển trên Sao Hỏa là William Herschel bằng quan sát về các dấu hiệu của mây và khói qua kính viễn vọng năm 1783. Bốn năm sau đó, Johann Schröter cũng có những kết luận tương tự bằng quan sát của ông .
Tuy nhiên năm 1830, Beer và Mädler, sau khi xây dựng được một kính viễn vọng tốt hơn, đã cho những quan sát phủ định: "Giả thuyết về các chấm trông giống mây trên Sao Hỏa là vô căn cứ." Dù vậy, ý tưởng về một bầu khí quyển nhiều hơi nước trên Sao Hỏa vẫn được nhiều người ủng hộ, như vào năm 1870, Richard Procter thậm chí còn cho rằng Sao Hỏa có biển cả và sự sống.
Thực tế là những năm cuối thế kỷ 19, các quan sát qua kính thiên văn đã gặp phải khó khăn trong việc phân tích các chi tiết trên bề mặt Sao Hỏa. Các vùng sáng và tối trên bề mặt đã được cho là các lục địa và đại dương. Sao Hỏa đã được tin là có lớp khí quyển dày. Các nhà thiên văn hồi đó đã biết chu kỳ tự quay quanh trục của Sao Hỏa (và do đó độ dài của một ngày trên Sao Hỏa) gần bằng so với Trái Đất; và họ cũng đã biết Sao Hỏa có trục nghiêng so với mặt phẳng quỹ đạo quanh Mặt Trời, do vậy cũng có các mùa. Người ta cũng đã quan sát thấy các lớp băng trên 2 cực của Sao Hỏa co lại và nở rộng ra theo từng mùa. Sự thay đổi này đã được cho là sự phát triển theo mùa của các loài thực vật. Từ đài thiên văn Lowell, Percival Lowell đã còn quan sát thấy cả các "kênh đào Sao Hỏa". Ông đã đưa ra giả thuyết về một hệ thống tưới tiêu nước của một nền văn minh trên Sao Hỏa.
Giả thuyết về kênh đào Sao Hỏa và hơi nước trên Sao Hỏa gây ra một cuộc tranh cãi vào đầu thế kỷ 20. Năm 1909, Campbell công nhận việc không thấy dấu hiệu của hơi nước, ngược lại với những gì Vesto Slipher và Frank Very khẳng định. Vào đầu thế kỷ 20, người ta đã dần nhận ra rằng Sao Hỏa rất khô và có áp suất khí quyển rất thấp. Năm 1908 Lowell, dựa vào đo đạc hệ số phản xạ, ước lượng áp suất bề mặt khoảng 87 millibar (0,087 áp suất khí quyển Trái Đất), một kết quả phù hợp với các quan sát của Vaucouleurs sau đó.
Với các quan sát quang phổ, chi tiết về thành phần khí quyển Sao Hỏa dần được sáng tỏ bắt đầu từ thập kỷ 1930. Walter Adams và Theodore Dunham vào những năm này không tìm thấy dấu hiệu của hơi nước và oxy trong quang phổ Sao Hỏa. Nhà thiên văn Gerard Kuiper là người đầu tiên khẳng định sự hiện diện của thán khí vào khoảng năm 1947, 1948. Nitơ đã được biết là thành phần chính của khí quyển Trái Đất cuối thế kỷ 19 , nên vào đầu thập kỷ 1950, người ta cũng đưa ra giả thuyết rằng khí quyển Sao Hỏa chứa nhiều nitơ và thán khí chỉ là thành phần nhỏ . Giả thuyết này tính đến việc nitơ là chất khó phát hiện bởi quan sát quang phổ từ Trái Đất để giải thích các kết quả âm tính về chất khí này.
Tuy nhiên, phải đợi đến kỷ nguyên của du hành vũ trụ, thì bầu khí quyển Sao Hỏa mới thực sự được nghiên cứu chi tiết. Bức ảnh chụp cận cảnh đầu tiên cho thấy các hố lồi lõm do va chạm với thiên thạch để lại trên bề mặt giống như hoang mạc, đã được gửi về bởi tàu thám hiểm Mariner 4 năm 1965. Sao Hỏa lộ ra như một sa mạc khổng lồ nhất của hệ Mặt Trời với một bầu khí quyển đặc trưng bởi các đám bụi oxide sắt màu hồng trôi lơ lửng. Tiếp đó tín hiệu phân tích quang phổ và chụp ảnh của tàu Mariner 9 cho thấy các lớp bụi dày và sương mù băng khô cùng sự tồn tại của các đám mây ti chứa nước đá trên Sao Hỏa. Hai tàu đổ bộ Viking 1 và Viking 2 đã gửi một lượng dữ liệu khổng lồ từ năm 1976 đến năm 1982, cho thấy nhiều chi tiết về một cấu trúc khí quyển có cả tầng đối lưu và tầng bình lưu gồm chủ yếu là thán khí với các lớp mây nước đá và đá thán khí nằm ở ranh giới các tầng này. Trong vòng một thập kỷ trở lại đây, một loạt các cuộc thám hiểm với sự hợp tác quốc tế rộng lớn chưa từng thấy đã tìm đến mục tiêu Sao Hỏa. Hiện nay, các dữ liệu về Sao Hỏa và bầu khí quyển của nó đang trở về Trái Đất với một tốc độ bùng nổ, bao gồm một số khám phá như dấu hiệu khá rõ về sự tồn tại của nước lỏng trong quá khứ cũng như bể chứa nước đá ngầm hiện tại của Sao Hỏa, sự có mặt của khí mêthan (CH4) trong các vùng khí quyển địa phương ...
Hiểu biết hiện đại về khí quyển Sao Hỏa.
Khí quyển Sao Hỏa ngày nay.
Ngày nay Sao Hỏa có một bầu khí quyển với khí hậu sa mạc. Vào ban ngày, lớp bụi lơ lửng trong khí quyển tạo nên bầu trời màu hồng. Lúc hoàng hôn và bình minh, bầu trời trở nên có màu xanh lam.
Các số liệu cơ bản.
Khí quyển Sao Hoả được tạo thành chủ yếu (95,32% thể tích) bởi khí các-bo-níc (CO2). Nó rất mỏng, với khối lượng tổng cộng là 2,5 × 1016 kilôgam, thấp hơn 1% khối lượng khí quyển Trái Đất (do đó áp suất cũng thấp hơn 1% áp suất khí quyển Trái Đất). Nhiều nhà khoa học cho rằng trong quá khứ, từng tồn tại bầu khí quyển dày hơn nhiều và nước từng chảy thành sông đổ ra biển trên Sao Hỏa. Ngày nay chỉ còn lại một lượng rất ít (210 ppm) hơi nước được thấy trong tầng khí quyển thấp của Sao Hỏa, thỉnh thoảng tụ lại thành những dải mây nước đá hoặc, trong vài trường hợp hiếm, các cơn sương mù nước đá. Cũng được tìm thấy với lượng nhỏ trong khí quyển Sao Hỏa là nitơ (2,7%), oxy (0.13%), CO (0.08%), và các khí hiếm như neon (2,5 ppm), argon (1,6%), krypton (0.3ppm) và xenon (0,08ppm).
Áp suất khí quyển bề mặt Sao Hỏa trung bình là khoảng 6 milibar ở "mực nước biển". Áp suất này thay đổi rất lớn theo mùa, dao động trong khoảng 4 đến 8,7 milibar, do khí các-bo-níc bị ngưng tụ thành tuyết rơi xuống các cực vào mùa đông. Viking 1 và Viking 2 đã đo được thay đổi áp suất theo mùa khoảng 26%. Lượng thay đổi này tương đương với lượng tuyết các-bo-níc dày vài mét rơi xuống các cực.
Áp suất khí quyển Sao Hỏa giảm theo hàm mũ (phân bố Boltzmann) theo độ cao. Cứ lên cao thêm 7,7 km, áp suất lại giảm một nửa (tỷ lệ cao khoảng 11,1 km). Do vậy, áp suất thay đổi mạnh theo độ cao thấp của bề mặt Sao Hỏa, nơi cao nhất là đỉnh núi Olympus Mons, cao +27 km (so với "mực nước biển" của Sao Hỏa) có áp suất 0,5 milibar, bằng 1/17 nơi thấp nhất là lòng chảo Hellas, sâu -4 km, có áp suất 8,4 milibar.
Nhiệt độ bề mặt.
Nhiệt độ trung bình bề mặt là 200K, nhưng nhiệt độ này thay đổi rất mạnh giữa ban ngày và ban đêm, dao động lên tới khoảng 50K, do khí quyển Sao Hỏa quá mỏng không giữ được nhiệt. Nhiệt độ cũng thay đổi giữa các mùa. Nhiệt độ này giảm dần theo độ cao ở gần bề mặt, giảm khoảng 1,5K khi lên cao mỗi kilômét.
Gió, bụi và mây.
Mặc dù khí quyển Sao Hỏa mỏng, gió luôn thổi khá mạnh trên Sao Hỏa, đủ sức cuốn tung lớp bụi rất mịn trên bề mặt Sao Hỏa. Tốc độ gió nhẹ khoảng 2 đến 7 m/s vào mùa hè, trung bình khoảng 5 đến 10 m/s vào mùa thu, và mạnh khoảng 17 đến 30 m/s, vào những mùa bão bụi.
Được gió cuốn từ mặt đất lên, các lớp bụi luôn trôi nổi trong khí quyển Sao Hỏa. Chúng có màu vàng và đỏ, do chứa nhiều oxide sắt (giống đất đỏ trên Trái Đất). Chúng tạo nên bầu trời màu đỏ của Sao Hỏa vào ban ngày. Chúng là thành phần chủ yếu giúp giữ ấm khí quyển Sao Hỏa, giảm chênh lệch nhiệt độ ngày và đêm . Thỉnh thoảng gió lốc xoáy mạnh thổi bùng lên các đợt bão bụi che phủ toàn Sao Hỏa. Sự xuất hiện đột ngột này thay đổi hoàn toàn khí hậu Sao Hỏa trong vài tuần, rồi tan đi nhanh chóng. Bụi của Sao Hỏa cũng gây ra hiện tượng vào lúc hoàng hôn và bình minh, bầu trời của Sao Hỏa lại trở nên màu xanh lam, ngược lại với Trái Đất (bầu trời xanh lam ban ngày và đỏ lúc hoàng hôn và bình minh). Điều này là do hàm tán xạ của bụi Sao Hỏa tỏa ra đều mọi hướng với bước sóng ánh sáng đỏ, nhưng là tập trung về phía trước với bước sóng ánh sáng xanh lam. Khi Mặt Trời ở gần đường chân trời, ánh sáng tới mặt đất đi qua lớp khí quyển dày theo hướng thẳng về phía trước, với các ánh sáng đỏ bị tán xạ ra hướng khác trên đường đi, còn ánh sáng xanh lam rọi thẳng xuống đất. Khi Mặt Trời khuất dưới đường chân trời, sự xuất hiện của các đám mây trên cao có thể phản chiếu ánh sáng xanh lam xuống đất.
Mây trên Sao Hỏa là do hơi nước và khí các-bo-níc thường xuyên ngưng đọng thành các hạt đá nhỏ li ti, trôi lơ lửng. Chúng tạo nên các dải mây trắng, thỉnh thoảng có ánh vàng do lẫn bụi vào. Các dải mây ti nước đá thường ở độ cao chừng 16 km, trong khi mây thán khí đá nằm ở độ cao từ 40 đến 100 km. Việc ngưng tụ của hơi nước thành mây cho thấy sự bão hòa hơi nước tại các vùng khí quyển địa phương của Sao Hỏa và có thể là dấu hiệu quan trọng trong nghiên cứu chu trình biến đổi hơi nước cũng như khí tượng của khí quyển Sao Hỏa .
Cấu trúc các tầng khí quyển.
Cấu trúc thẳng đứng của các tầng khí quyển Sao Hỏa, gồm thay đổi của áp suất và nhiệt độ theo độ cao, được quyết định bởi sự cân bằng của các dòng đối lưu và các dòng di chuyển của năng lượng nhiệt (như việc hấp thụ năng lượng Mặt Trời bởi khí quyển và sự thất thoát ra ngoài không gian do bức xạ).
Khí quyển Sao Hỏa về cơ bản có tầng đối lưu và tầng bình lưu rõ rệt.
Tầng đối lưu cao đến 40 km với nhiệt độ giảm dần theo độ cao. Tại ranh giới giữa tầng đối lưu và bình lưu, nhiệt độ tương đối ổn định khoảng 120K. Lượng bụi lớn trong khí quyển Sao Hỏa đã đẩy cao tầng đối lưu lên như vậy (so với khí quyển Trái Đất chỉ khoảng 10 đến 18 km).
Ở tầng đối lưu, hai thành phần chính quyết định cấu trúc khí quyển là CO2 và bụi khí quyển. CO2 bức xạ nhanh nhiệt ra không trung, tại điều kiện nhiệt độ của Sao Hỏa, làm nguội nhanh khí quyển vào ban đêm. Các hạt bụi hấp thụ tốt năng lượng Mặt Trời và phân phối đều nhiệt lượng trong tầng đối lưu. Trong những đợt bão bụi, ảnh hưởng của bụi càng rõ, làm thay đổi nhiệt độ ngày đêm đáng kể.
Sự thay đổi nhiệt độ ở tầng đối lưu, trên phạm vi toàn Sao Hỏa, tuân theo dao động ngày đêm đều đặn, đồng bộ với vị trí Mặt Trời, đôi khi gọi là "thủy triều nhiệt".
Tầng bình lưu trên Sao Hỏa thường nằm trong khoảng độ cao từ 70 km đến 140 km.
Trong tầng bình lưu, nhiệt độ dao động trong khoảng từ 120K đến 130K (tức là khoảng -153°C đến -143 °C). Lên trên ranh giới bình lưu, nhiệt độ lại tăng theo độ cao.
Trong tầng này và các tầng cao hơn của Sao Hoả, không tồn tại mây nước đá và bụi, tuy nhiên đôi khi có quan sát thấy mây thán khí đá. Các mây thán khí đá có thể đạt tới độ cao 100 km.
Trên 100 km, cấu trúc khí quyển được định đoạt bởi các quá trình phân ly các phân tử, dưới hấp thụ bức xạ Mặt Trời. Tia tử ngoại của Mặt Trời làm ion hóa các phân tử khí dẫn đến hàng loạt các phản ứng hóa học phức tạp. Các phân tử bị phân ly, trở nên nhẹ hơn, có xu hướng bay lên trên cao, thậm chí thoát khỏi sức hút Sao Hỏa. Các phân tử nặng tổng hợp trong các phản ứng hóa học rơi xuống dưới thấp. Nhiệt độ ở tầng trên cùng khoảng 300K.
Các quá trình động lực và khí tượng.
Về cơ bản, các quá trình động lực trong khí quyển Sao Hỏa rất giống với các quá trình động lực trên khí quyển Trái Đất. Lý do là các nguyên lý vật lý đều xuất phát từ các phương trình thủy động lực học giống nhau. Các mô hình dự báo khí tượng trên Sao Hỏa như mô hình GFDL, LMD/AOPP trên tầm vĩ mô đều tách làm hai phần chính, phần tính toán động lực học, cho thấy sự tương tác trên toàn cầu, và phần tính toán truyền xạ địa phương, cho thấy quá trình biến đổi khí tượng tại vùng địa phương dưới tác động của nguồn nhiệt là năng lượng Mặt Trời. Các mô hình này dùng lại nguyên vẹn tính toán động lực học của các mô hình dự báo khí tượng trên Trái Đất. Điểm khác nhau duy nhất giữa dự báo khí tượng trên Trái Đất và Sao Hỏa là quá trình truyền xạ địa phương, trong đó bụi và mây Sao Hỏa đóng vai trò quan trọng.
Các ví dụ về sự giống nhau giữa động lực học khí quyển Sao Hỏa và Trái Đất có thể được thể hiện qua sự có mặt của vòng hoàn lưu Hadley, tạo nên gió mậu dịch, các sóng nhiệt, các cuộn xoáy (bão). Sự tương tự trong chuyển động của Sao Hỏa quanh Mặt Trời cũng tạo ra chu trình tuần hoàn ngày đêm, và chu kỳ tuần hoàn theo mùa của thời tiết.
Điểm khác biệt trong quá trình truyền xạ địa phương, với sự có mặt của bụi, tạo nên những hiện tượng động lực học rất đặc trưng, nổi bật là hiện tượng thổi tung bụi từ mặt đất vào khí quyển. Đây là một hiện tượng có tính nhiễu loạn ngẫu nhiên cao, chưa được hiểu kỹ lưỡng. Mặc dù hiện tượng này xảy ra trên quy mô địa phương, với lực nâng bụi tỷ lệ với ứng suất gió tại bề mặt, vẫn thường xuyên quan sát thấy sự nâng bụi lên khỏi mặt đất có thể xảy ra đồng loạt trên phạm vi toàn cầu, tạo nên các mùa bão bụi. Hiện chưa có cơ chế vật lý nào được xây dựng để giải thích mối liên hệ giữa bão bụi toàn cầu và các cơn lốc bụi địa phương. Đây là một trong các nguồn tạo ra sai số lớn cho các cố gắng dự báo khí tượng trên Sao Hỏa.
Quá trình tiến hóa.
Theo các kết quả nghiên cứu từ trước đến nay, có thể tóm tắt quá trình tiến hóa của khí quyển Sao Hỏa từ khi hành tinh này hình thành cùng hệ Mặt Trời như sau. Khi mới hình thành, khí quyển Sao Hỏa có lẽ đã rất giống với khí quyển Sao Kim và khí quyển Trái Đất vào cùng thời điểm đó. Nghĩa là các khí quyển này đếu có áp suất cỡ 106-107 Pascal, gồm chủ yếu là khí cácboníc và một phần nitơ. Giai đoạn tiếp theo, giống như trên Trái Đất, đa phần khí cácboníc phản ứng với khoáng sản trên bề mặt, và bị hấp thụ trong các khoáng sản này, khiến áp suất khí quyển giảm dần. Không giống với Trái Đất và Sao Kim, Sao Hỏa có trọng trường nhỏ hơn vì khối lượng bé hơn, do đó vận tốc vũ trụ cấp hai nhỏ. Bức xạ cực tím từ Mặt Trời phá hủy các khí ở tầng trên cùng thành các nguyên tử có khối lượng nhỏ, và qua va chạm nhiệt, có vận tốc lớn hơn vận tốc vũ trụ cấp hai của Sao Hỏa. Các nguyên tử này thoát dần khỏi sức hút yếu của Sao Hỏa, làm khí quyển này ngày càng mỏng đi. Khối lượng nhỏ bé của Sao Hỏa cũng không giúp nó giữ nhiệt năng lâu như Trái Đất hay Sao Kim. Các hoạt động núi lửa, vốn có tác dụng phóng vào khí quyển nguồn thán khí các chất khí mới, bị nhanh chóng chấm dứt do tiêu thụ nhanh nhiệt năng trong lòng hành tinh này. Không có nguồn cung ứng mới và bị mất mát do các quá trình đã miêu tả, khí quyển Sao Hỏa trở nên mỏng như ngày nay.
Những điều cần giải đáp.
Mô hình về quá trình tiến hóa của khí quyển Sao Hỏa miêu tả ở trên không giải thích hết mọi chi tiết đã quan sát được.
Một trong các câu hỏi còn đang nằm trong tiêu điểm khám phá là "nước của Sao Hỏa đã đi đâu?". Các dấu vết bề mặt về sự xói mòn đất đá của nước hay các lòng sông suối đổ ra biển đã cạn cho thấy rõ nước và hơi nước đã từng tồn tại trên Sao Hỏa. Tại sao ngày nay nước đã biến mất?
Nhiều giả thuyết đã được đặt ra. Đáng kể nhất là giả thuyết về hiện tượng hiệu ứng nhà kính không hồi phục và va chạm thiên thạch. Giả thuyết đầu tiên cho rằng thán khí trong khí quyển Sao Hỏa đã làm nóng bầu khí quyển đến mức làm tăng khả năng bốc hơi nước trong khí quyển. Hơi nước bay lên tầng cao, bị tia cực tím phá hủy thành hydrô và oxy. Các nguyên tử này, đặc biệt là hydrô rời trọng trường yếu của Sao Hỏa. Các nguyên tử oxy không đủ nhanh để rời khí quyển thì cũng bị mất trong quá trình oxy hóa bề mặt, tạo nên lớp bụi oxide sắt. Giả thuyết thứ hai cho rằng một vụ va chạm với một thiên thạch khổng lồ đã thay đổi vĩnh viễn bầu khí quyển Sao Hỏa. Một số dấu hiệu trên bề mặt hành tinh có thể được cho là dấu vết của vụ va chạm mạnh này. Các chương trình thám hiểm đã được đề nghị để kiểm tra giả thuyết này bằng cách đổ bộ lên hai vệ tinh tự nhiên của Sao Hỏa (Phobos và Deimos) và tìm lại những mảnh bắn ra từ vụ va chạm bị giữ lại tại hai vệ tinh này.
Ngoài câu hỏi trên, cũng tồn tại các câu hỏi khác liên quan đến quá trình tiến hóa của khí quyển Sao Hỏa như "tại sao tỷ lệ thán khí cao?" hay "tại sao có mêtan?". |
Thượng Hải (chữ Hán: 上海, bính âm: "Shànghǎi") là thành phố đông dân nhất Trung Quốc, và là thành phố không bao gồm vùng ngoại ô lớn nhất thế giới. Thượng Hải nằm ở bờ biển phía Đông của Trung Quốc và là một trong 4 thành phố trực thuộc trung ương của nước này. Diện tích: 6.340,5 km². Năm 2018, Thượng Hải là đơn vị hành chính đông thứ 25 về số dân với 27 triệu dân, tương đương với Cameroon và đứng thứ 11 về kinh tế Trung Quốc với GDP đạt 4465 tỷ NDT (tương đương 663,874 tỷ USD GDP danh nghĩa, GDP theo sức mua tương đương là 1090 tỷ USD), GDP danh nghĩa tương ứng với Thái Lan, gấp gần 1,5 lần so với GDP Việt Nam năm 2022 (432,7 tỷ USD). Thượng Hải có chỉ số GDP đầu người đứng thứ hai Trung Quốc, chỉ sau Bắc Kinh, đạt 137.000 NDT (tương đương 20.130 USD). Thượng Hải được xem là thủ đô kinh tế của Trung Quốc.
Ngày nay, Thượng Hải có hải cảng sầm uất nhất thế giới, hơn cả cảng Singapore và Rotterdam. Xuất phát là một làng chài hẻo lánh, Thượng Hải đã trở thành một thành phố quan trọng bậc nhất cho đến Thế kỷ XX, và là trung tâm văn hóa phổ thông, các mưu đồ chính trị và nơi tụ họp của giới trí thức trong thời kỳ Trung Hoa dân quốc. Thượng Hải đã từng một thời là trung tâm tài chính lớn thứ 3 thế giới, chỉ xếp sau Thành phố New York và Luân Đôn, và là trung tâm thương mại lớn nhất Viễn Đông cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX. Sau khi Mao Trạch Đông cầm quyền Trung Quốc kể từ năm 1949, Thượng Hải đã đi vào thời kỳ sụt giảm tốc độ phát triển do chế độ thuế má cao và do sự triệt thoát kinh tế tư bản của chính quyền mới. Nhờ sự cải cách, mở cửa theo mô hình kinh tế thị trường do Đặng Tiểu Bình khởi xướng và lãnh đạo mà đặc biệt là từ năm 1992, Thượng Hải đã có những bước bứt phá ngoạn mục về phát triển kinh tế và nhanh chóng vượt qua Thâm Quyến và Quảng Châu - một thành phố đặc khu được tự do hóa sớm nhất Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa để trở thành đầu tàu kinh tế Trung Quốc. Vẫn còn nhiều thách thức cho thành phố này đầu thế kỷ XXI như nạn di dân ồ ạt và sự phân hóa giàu nghèo. Tuy nhiên, bất chấp những thách thức đó, các khu nhà chọc trời và cuộc sống đô thị sôi động của Thượng Hải vẫn là biểu tượng cho sự tăng trưởng mạnh mẽ của nền kinh tế Trung Quốc.
Nguồn gốc tên gọi.
Dân Thượng Hải đọc tên thành phố là /zɑ̃.'he/, phiên âm pinyin theo tiếng Quan Thoại là "Shànghǎi". Thượng Hải (Thượng là trên, Hải là biển) là cái tên xuất phát từ thời Nhà Tống (thế kỷ XI) - lúc này đã có một cửa sông và một thị trấn cùng tên gọi. Nghĩa của tên gọi đang là vấn đề gây tranh cãi "phía trên biển" hoặc "đi ra biển". Người Việt Nam gọi là "Thượng Hải"; Người Đức viết là "Schanghai", tiếng Hà Lan là "Sjanghai", tiếng Bồ Đào Nha là "Xangai", tiếng Pháp là "Shanghaï". Tuy nhiên, kể từ những năm 1990, phiên âm pinyin "Shanghai" đã được sử dụng rộng rãi trên toàn thế giới. Tiếng Nhật viết tên thành phố gần với cách đọc trong Quan Thoại là シャンハイ "shanhai".
Tên viết tắt của thành phố là "Hỗ" /"Hộ" (滬/沪) và "Thân" (申). Tên đất Hỗ/Hộ do tên cổ Hỗ/Hộ Độc (滬瀆/沪渎) của con sông Tô Châu. Tên Thân lấy tên theo Xuân "Thân" quân (春申君), một viên quan thời nước Sở vào thế kỷ III Trước Công Nguyên - Xuân Thân là một anh hùng thời đó của nước Sở (trong lãnh thổ đó có đất Thượng Hải bây giờ). Do vậy Thượng Hải còn được gọi là "Thân Thành" (申城). Trong tiếng Anh thành phố này có nhiều biệt danh: "Paris phương Đông", "Nữ hoàng phương Đông", "Hòn ngọc phương Đông" và thậm chí cả "Gái điếm châu Á" (gọi trong thời kỳ 1920-1930, lúc đó thành phố là một trung tâm tội phạm, ma túy và mại dâm).
Trước khi thành lập thành phố Thượng Hải, Thượng Hải là một phần của huyện Tùng Giang (松江縣), thuộc phủ Tô Châu (蘇州府). Từ thời Nhà Tống (960-1279), Thượng Hải dần trở thành một hải cảng sầm uất, vượt lên trên vai trò chính trị là một địa phương thuộc huyện. Ngày nay, Tùng Giang (淞江) là 1 quận thuộc thành phố Hà Nội
Một bức tường thành được xây dựng năm 1553 - thời điểm được xem như bắt đầu hình thành thành phố Thượng Hải. Tuy nhiên, trước thế kỷ XIX, Thượng Hải không được xem là thành phố lớn của Trung Hoa. Do đó, so với phần lớn các thành phố khác của Trung Quốc, có rất ít công trình cổ tiêu biểu ở thành phố này ngày nay. Một vài địa điểm văn hóa ít ỏi có thể thấy ở Thượng Hải ngày nay rất cổ kính và tiêu biểu thời Tam Quốc do địa điểm này nằm trong trung tâm văn hóa lịch sử của nước Đông Ngô (222-280).
Trong thời kỳ Càn Long thời Nhà Thanh, Thượng Hải đã trở thành một cảng khu vực quan trọng của khu vực sông Trường Giang và sông Hoàng Phố. Thành phố cũng trở thành hải cảng chính của các tỉnh Giang Tô và Triết Giang gần đấy dù trao đổi mậu dịch với nước ngoài thời kỳ này bị triều đình cấm. Một khu vực lịch sử quan trọng của thời kỳ này là Ngũ Giác Trường (五角场) (ngày nay là quận Dương Phố) - là nền tảng của trung tâm thành phố. Khoảng cuối thời Càn Long, Thập Lục Phố (ngày nay là quận Hoàng Phố) trở thành cảng lớn nhất Đông Á.
Thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX.
Tầm quan trọng của Thượng Hải tăng lên nhanh chóng vào thế kỷ XIX do vị trí chiến lược của thành phố này ở cửa sông Dương Tử khiến nơi đây có vị trí lý tưởng để giao thương với phương Tây. Trong cuộc chiến tranh nha phiến lần thứ nhất vào đầu thế kỷ XIX, các lực lượng của Anh đã tạm thời chiếm giữ Thượng Hải. Cuộc chiến kết thúc năm 1842 với hòa ước Nam Kinh với kết quả là các cảng nhượng quyền trong đó có Thượng Hải, mở cửa cho các nước buôn bán. Hiệp ước Bogue được ký năm 1843 và Hiệp ước Wangsia Trung-Mỹ ký năm 1844 khiến cho phương Tây giành được có đặc quyền ngoại giao trên đất Trung Hoa và chính thức tồn tại cho đến năm 1943 nhưng về bản chất không còn tồn tại từ cuối những năm 1930. Từ những năm 20 đến cuối những năm 30 của thế kỷ XX, Thượng Hải được gọi là thành phố tội phạm. Các băng nhóm chiếm giữ quyền lực và điều hành các sòng bạc và các nhà thổ.
Thái Bình Thiên Quốc nổ ra năm 1850 và năm 1853 Thượng Hải bị chiếm giữ bởi hội Tam Hoàng gọi là Tiểu Đao hội (Small Swords Society). Các cuộc thanh trừng phá hủy các miền quê nhưng không đụng chạm đến các khu định cư của phương Tây. Mặc dù trước đó người Hoa bị cấm sống trong các khu định cư của người nước ngoài, năm 1854 các quy định mới đã cho phép người Hoa được đến ở. Giá đất tăng lên đáng kể.
Trong năm 1854, cuộc họp thường niên đầu tiên của Hội đồng thành phố Thượng Hải đã họp, Hội đồng này được tạo ra để quản lý các khu định cư của dân ngoại quốc.
Năm 1863, khu định cư của Anh, tọa lạc dọc theo bờ Tây sông Hoàng Phố đến phía nam nhánh sông Tô Châu (quận Hoàng Phố) và khu định cư người Mỹ tọa lạc ở bờ Tây sông Hoàng Phố đến phía Bắc của nhánh sông Tô Châu (quận Hán Khẩu) sáp nhập với nhau thành Khu định cư quốc tế. Người Pháp chọn lựa phương án ra khỏi Hội đồng thành phố Thượng Hải và thay vào đấy là duy trì Khu nhượng địa Pháp, tọa lạc ở phía Tây của Khu định cư quốc tế. Thời kỳ này có một lượng lớn dân di cư từ châu Âu và Bắc Mỹ, những người tự gọi mình là "Shanghighlanders".
Chiến tranh Thanh-Nhật nổ ra năm 1894-1895 với kết quả là đế quốc Nhật Bản giành quyền kiểm soát bán đảo Triều Tiên theo hiệp ước Shimonoseki, cùng với đó nước này nổi lên như là một cường quốc đóng vai trò đầu tư kinh tế cho Thượng Hải. Nhật Bản đã xây dựng các nhà máy đầu tiên ở Thượng Hải, vốn đã sớm được sao chép bởi các cường quốc nước ngoài khác. Thượng Hải lúc đó là trung tâm tài chính quan trọng nhất ở Viễn Đông. Tất cả hoạt động quốc tế này đã mang lại cho Thượng Hải biệt danh "Athens của Trung Quốc".
Dưới thời Trung Hoa Dân Quốc (1912-1949), Thượng Hải đã được nâng lên thành đô thị vào ngày 14 tháng 7 năm 1927. Mặc dù các nhượng địa bị loại khỏi tầm kiểm soát của họ, đô thị Trung Quốc mới này vẫn có diện tích 828,8 km vuông (320,0 dặm vuông)), bao gồm các quận hiện đại của Bảo Sơn, Yangpu, Zhabei, Nanshi và Phố Đông. Do một thị trưởng và hội đồng thành phố Trung Quốc đứng đầu, nhiệm vụ đầu tiên của chính quyền thành phố mới là tạo ra một trung tâm thành phố mới ở thị trấn Jiangpu của quận Yangpu, bên ngoài ranh giới của các nhượng địa. "Kế hoạch Đại Thượng Hải" bao gồm bảo tàng, thư viện, sân vận động thể thao và hội trường thành phố, được xây dựng một phần đến khi kế hoạch bị gián đoạn bởi cuộc xâm lược của Nhật Bản.
Ngày 28 tháng 1 năm 1932, quân Nhật nổ súng xâm lược Thượng Hải. Chính quyền Trung Quốc chống cự, chiến đấu bế tắc; một cuộc ngừng bắn đã được môi giới vào tháng Năm. Trận Thượng Hải (1937) đã dẫn đến việc chiếm đóng các bộ phận quản lý của Trung Quốc ở Thượng Hải ngoài khu định cư quốc tế và nhượng địa Pháp. Các nhượng địa cuối cùng đã bị chiếm đóng bởi người Nhật vào ngày 8 tháng 12 năm 1941 và vẫn bị chiếm đóng cho đến khi Nhật Bản đầu hàng vào năm 1945, trong thời gian đó nhiều tội ác chiến tranh của binh sĩ Nhật đã xảy ra.
Ngày 27 tháng 5 năm 1949, Quân đội Giải phóng Nhân dân nắm quyền kiểm soát Thượng Hải. Theo Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa mới (PRC), Thượng Hải là một trong ba thành phố không sáp nhập vào các tỉnh lân cận trong thập kỷ tới (những nơi khác là Bắc Kinh và Thiên Tân). Thượng Hải trải qua một loạt các thay đổi trong ranh giới các phân khu của nó trong thập kỷ tới. Sau năm 1949, hầu hết các công ty nước ngoài chuyển văn phòng của họ từ Thượng Hải sang Hồng Kông, như là một phần của việc thoái vốn nước ngoài do chiến thắng của Cộng sản.
Trong những năm 1950 và 1960, Thượng Hải trở thành trung tâm chủ nghĩa cực đoan từ khi nó là trung tâm công nghiệp của Trung Quốc với hầu hết các công nhân lành nghề. Người chủ nghĩa cánh tả cực đoan Giang Thanh và ba đồng minh của bà, cùng với tứ nhân bang, có trụ sở tại thành phố. Tuy nhiên, ngay cả trong thời kỳ hỗn loạn nhất của Cách mạng Văn hóa, Thượng Hải vẫn có thể duy trì năng suất kinh tế cao và ổn định xã hội tương đối. Trong phần lớn lịch sử của CHND Trung Hoa, Thượng Hải là một thành phố đóng góp tương đối lớn về thu thuế cho chính quyền trung ương, Thượng Hải vào năm 1983 đã đóng góp nhiều hơn vào doanh thu thuế cho chính quyền trung ương so với lúc đã nhận được khoản đầu tư trong 33 năm trước đó. Điều này dẫn đến chi phí của phúc lợi tàn phá nghiêm trọng của người Thượng Hải và phát triển cơ sở hạ tầng và vốn của Thượng Hải. Thượng Hải cuối cùng đã được phép khởi xướng cải cách kinh tế vào năm 1991, bắt đầu sự phát triển lớn vẫn được thấy ngày nay và sự ra đời của Lujiazui (Lục Gia Chủy) ở Phố Đông.
Các đơn vị hành chính.
"Xem thêm "Danh sách các đơn vị hành chính Thượng Hải"
Thượng Hải là một trong 4 thành phố trực thuộc Trung ương ("trực hạt thị") và gồm 16 quận ("thị hạt khu"). Thượng Hải không có quận nào độc chiếm vị thế trung tâm thành phố, mà khu vực trung tâm trải ra vài quận. Các khu vực kinh doanh có tiếng là Lục Gia Chủy (陆家嘴; Lujiazui) bên bờ đông sông Hoàng Phố, Bund tức Ngoại Than (外灘; Wàitān) và Hồng Kiều (虹桥) ở bờ tây sông Hoàng Phố. Tòa thị chính và các cơ quan hành chính chủ yếu nằm ở quận Hoàng Phố. Đây cũng là khu vực thương mại, kể cả đường Nam Kinh ("Nam Kinh lộ") nổi tiếng.
Chín quận thuộc Phố Tây, khu vực Thượng Hải lâu đời, nằm phía bờ tây sông Hoàng Phố. Chín quận này được gọi chung là "Thượng Hải thị khu" (上海市区) hay trung tâm thành phố (市中心), gần đây Phố Tây chỉ còn 7 quận sau sáp nhập:
Phố Đông (浦东) là khu vực mới khai phá của Thượng Hải thuộc bờ đông sông Hoàng Phố, có quận mới Phố Đông (浦东新区 Pǔdōng Xīn Qū, "Phố Đông tân khu"), từ năm 1992 trở về trước vẫn còn là huyện Xuyên Sa.
Tám quận của Thượng Hải bao quát các thành phố cấp huyện vệ tinh, các vùng ngoại ô và nông thôn cách xa trung tâm thành phố:
Đảo Sùng Minh nằm ở cửa sông Trường Giang là địa bàn huyện Sùng Minh (崇明县 Chóngmíng Xiàn).
Tính đến năm 2003, Thượng Hải có 220 đơn vị hành chính cấp hương: 114 "trấn", 3 "hương" và 103 "nhai đạo".
Thượng Hải nằm trên bờ biển phía đông thuộc miền Hoa Đông của Trung Quốc, là cầu nối quan trọng giữa thủ đô Bắc Kinh ở Hoa Bắc và Quảng Châu ở Hoa Nam. Thượng Hải nằm cách Bắc Kinh khoảng 1.207 km và Quảng Châu khoảng 1.450 km. Thành phố cổ (phố Tây) và trung tâm thương mại hiện đại Thượng Hải (phố Đông) hiện đang nằm ở trung tâm bán đảo đang mở rộng giữa đồng bằng sông Dương Tử ở phía Bắc và vịnh Hàng Châu về phía nam, được hình thành bởi sự bồi tụ tự nhiên của Dương Tử và các dự án cải tạo đất hiện đại. Khu đô thị Thượng Hải quản lý cả khu vực phía đông bán đảo này và nhiều hòn đảo xung quanh. Phía Bắc và Tây giáp tỉnh Giang Tô, phía nam giáp tỉnh Chiết Giang và phía đông là biển Hoa Đông. Điểm cực bắc của thành phố này nằm ở đảo Sùng Minh, là hòn đảo lớn thứ hai ở Trung Hoa đại lục sau khi nó được mở rộng trong thế kỷ 20. Về mặt hành chính, đô thị này không bao gồm một phần tách rời của Giang Tô ở phía bắc Sùng Minh hoặc hai hòn đảo tạo thành cảng Dương Sơn, là một phần của quận Thặng Tứ thuộc Chiết Giang.
Trung tâm thành phố Thượng Hải bị chia cắt bởi sông Hoàng Phố, một chi lưu do con người tạo ra của sông Dương Tử theo lệnh của Xuân Thân quân trong thời kỳ Chiến Quốc. Trung tâm lịch sử của thành phố nằm ở bờ phía tây của Hoàng Phố (Puxi), gần cửa sông Tô Châu, kết nối nó với Thái Hồ và Đại Vận Hà. Khu tài chính trung tâm Lục Gia Chủy đã lớn lên ở bờ phía đông của Hoàng Phố. Việc phá hủy các vùng đất ngập nước địa phương do xây dựng Sân bay Quốc tế Phố Đông đã được bù lại bởi sự bảo vệ và mở rộng bãi cạn gần đó là Jiuduansha như một cách bảo tồn thiên nhiên.
Vị trí của Thượng Hải trên đồng bằng phù sa với diện tích đất rộng 6.340,5 km2 (2,448.1 dặm vuông) phẳng, với độ cao trung bình là 4 m (13 ft). Tính chất đất đai của thành phố đã buộc các tòa nhà chọc trời của nó phải được xây dựng với cọc bê tông sâu để ngăn chặn chúng từ chìm vào mặt đất mềm của khu vực trung tâm. Một vài ngọn đồi như Sheshan nằm về hướng tây nam và điểm cao nhất là đỉnh của đảo Dajinshan ở vịnh Hàng Châu (103 m hay 338 ft). Thành phố có nhiều sông, kênh rạch, suối và hồ và được biết đến với nguồn tài nguyên nước phong phú như một phần của khu vực thoát nước Thái Hồ.
Thượng Hải có khí hậu cận nhiệt đới ẩm (Köppen Cfa) và trải qua bốn mùa rõ rệt. Mùa đông lạnh và ẩm ướt, với gió tây bắc từ Siberia có thể khiến nhiệt độ ban đêm rơi xuống dưới 0 °C (32 °F), mặc dù trong năm chỉ có một hoặc hai ngày tuyết rơi. Mùa hè nóng và ẩm, với trung bình 8,7 ngày vượt quá 35 °C (95 °F) hàng năm; những trận mưa nhỏ hoặc những trận bão có thể xảy ra. Thành phố cũng dễ bị ảnh hưởng bởi bão vào mùa hè và đầu mùa thu, nhưng trong những năm gần đây đã không gây ra thiệt hại đáng kể. Những mùa dễ chịu nhất là mùa xuân, mặc dù có thể thay đổi và thường có mưa, và mùa thu, thường có nắng và khô. Thành phố có nhiệt độ trung bình 4.2 °C (39.6 °F) vào tháng Giêng và 27.9 °C (82.2 °F) vào tháng 7, với mức trung bình hàng năm là 16.1 °C (61.0 °F). Với mức ánh sáng mặt trời hàng tháng có thể thay đổi, từ 34% vào tháng Ba đến 54% vào tháng Tám, thành phố này nhận được 1,895 giờ ánh nắng mặt trời hàng năm. Nhiệt độ cực hạn là từ -10,1 °C (14 °F) ngày 31 tháng 1 năm 1977 (kỷ lục không chính thức -12,1 °C (10 °F) được ấn định vào ngày 19 tháng 1 năm 1893) lên 39,9 °C (104 °F) vào ngày 6 và ngày 8 tháng 8 năm 2013. Một kỷ lục nhiệt độ cao nhất khác là 40,9 °C (106 °F) đã được ghi nhận tại Xujiahui, một ga trung tâm thành phố vào ngày 21 tháng 7 năm 2017.
Tiếng mẹ đẻ của dân Thượng Hải là tiếng Thượng Hải, một phương ngữ của Ngô ngữ trong khi ngôn ngữ chính thức là tiếng Quan Thoại. Tiếng Thượng Hải và tiếng Quan Thoại khác nhau và thông thường dân Bắc Kinh không thể trò chuyện với dân Thượng Hải thông qua tiếng Thượng Hải. Tiếng Thượng Hải ngày nay là một phương ngữ của Ngô ngữ nói ở Tô Châu với các phương ngữ của Ninh Ba và các vùng phụ cận có dân nhập cư vào Thượng Hải với số lượng lớn vào thế kỷ XX. Gần như toàn bộ dân Thượng Hải dưới 40 tuổi có thể nói tiếng Quan Thoại thông thạo. Dân cư có thể nói ngoại ngữ phân bố không đều. Những người tốt nghiệp đại học trước cách mạng và những người làm cho các công ty nước ngoài có thể nói tiếng Anh. Những người dưới 26 tuổi đã có tiếp xúc với tiếng Anh kể từ tiểu học do tiếng Anh được bắt đầu dạy ở lớp 1.
Theo điều tra dân số năm 2010 của Trung Quốc, Thượng Hải có tổng dân số 23.019.148 người, mức tăng 37,53% từ 16.737.734 người năm 2000. 20,6 triệu dân trong đó, hay 89,3%, là dân thành thị và 2,5 triệu dân (10,7%) là dân nông thôn. Theo tổng dân số trong khu vực hành chính, Thượng Hải là thành phố trực thuộc trung ương lớn thứ nhì trong 4 thành phố trực thuộc trung ương của Trung Quốc, sau Trùng Khánh, nhưng Thượng Hải được xem là thành phố lớn hơn vì Trùng Khánh có dân số đô thị ít hơn.
Tôn giáo ở Thượng Hải (2012)
(10.4%)templatestyles src="Legend/" / Kitô hữu
(1.9%)templatestyles src="Legend/" / Công giáo
(0.7%)templatestyles src="Legend/" / Khác (0.1%)
Do lịch sử quốc tế của nó, Thượng Hải có một sự pha trộn của di sản tôn giáo như được hiển thị bởi các tòa nhà tôn giáo và các tổ chức vẫn còn rải rác xung quanh thành phố. Theo khảo sát năm 2012, chỉ có khoảng 13% dân số Thượng Hải thuộc về các tôn giáo có tổ chức, nhóm lớn nhất là Phật tử với 10,4%, tiếp theo là Tin lành với 1,9%, Công giáo với 0,7% và các tín ngưỡng khác với 0,1%. Khoảng 87% dân số có thể là không tôn giáo hoặc tham gia vào việc thờ phượng các vị thần và tổ tiên của thiên nhiên, các nhà thờ Nho giáo, Đạo giáo và các giáo phái dân gian.
Có những ngôi đền tôn giáo dân gian như Đền Thành hoàng ở trung tâm của thành phố cổ, và một ngôi đền dành riêng cho danh tướng nổi tiếng thời Tam Quốc Quan Vũ. Bạch Vân Quán của Thượng Hải là một trung tâm Đạo giáo quan trọng trong thành phố. Các Văn miếu là dành riêng cho Khổng Tử.
Phật giáo, giống như nhiều nơi khác ở Trung Quốc, đã có mặt tại Thượng Hải từ thời xa xưa. Đền Long Hoa, ngôi đền lớn nhất ở Thượng Hải, và đền Jing'an, lần đầu tiên được thành lập trong thời kỳ Tam Quốc. Một ngôi đền quan trọng khác là Chùa Phật Ngọc, được đặt tên theo một bức tượng Phật lớn được chạm khắc trên ngọc bích trong đền thờ. Trong những thập kỷ gần đây, hàng chục ngôi chùa hiện đại đã được xây dựng khắp thành phố.
Hồi giáo đến Thượng Hải 700 năm trước và một nhà thờ Hồi giáo được xây dựng vào năm 1295 ở Tùng Giang, Thượng Hải. Năm 1843, trường cao đẳng của một giáo viên cũng được thành lập. Hiệp hội Hồi giáo Thượng Hải nằm ở nhà thờ Hồi giáo Xiaotaoyuan ở Hoàng Phố.
Thượng Hải có một trong những tỷ lệ người Công giáo lớn nhất ở Trung Quốc (2003). Trong số các nhà thờ Công giáo, Nhà thờ St Ignatius (thánh Inhaxiô) ở Từ Gia Hối (Xujiahui) là một trong những nhà thờ lớn nhất, trong khi thánh đường She Shan (Xà sơn) là một địa điểm hành hương tích cực.
Các hình thức Kitô giáo khác ở Thượng Hải bao gồm thiểu số Đông Chính thống giáo và, từ năm 1996, đã đăng ký các nhà thờ Tin lành Kitô giáo. Trong Thế Chiến II, hàng ngàn người Do Thái đã xuống Thượng Hải trong một nỗ lực để chạy trốn chế độ của Hitler. Người Do Thái sống cạnh nhau trong một khu vực được gọi là Thượng Hải Ghetto và thành lập một cộng đồng sôi động tập trung vào Giáo đường Do thái Ohel Moishe, được bảo tồn phần còn lại của quá khứ tôn giáo phức tạp của Thượng Hải.
Cảnh quan thành phố.
Tháp truyền hình Minh Châu.
Tháp truyền hình Minh Châu (Hán tự: 明珠, nghĩa là "viên ngọc sáng") là tháp truyền hình cao thứ ba thế giới - sau tháp truyền hình ở Toronto (Canada) và Moskva (Nga) - nó cao tới 468 mét. Mặc dù vậy, khách chỉ có thể tham quan từ độ cao 350 mét trở xuống. Tháp có hệ thống thang máy rất nhanh (10 m/s).
Ở độ cao 263 mét là một khu sân hình tròn. Đây là nơi để du khách ngắm toàn cảnh Thượng Hải.
Tháp Thượng Hải là một tòa nhà chọc trời tọa lạc tại Lục Gia Chủy, Phố Đông. Tòa tháp cao tương đương 128 tầng. Tháp Thượng Hải hiện là công trình cao thứ hai thế giới, sau tháp Burj Khalifa và đồng thời là tòa nhà cao nhất Trung Quốc.
Việc xây dựng tòa tháp được bắt đầu từ tháng 11 năm 2008 và hoàn thành vào mùa hè năm 2015.
Thượng Hải thường được xem như trung tâm tài chính và thương mại của Trung Quốc đại lục. Thượng Hải bắt đầu thực sự phát triển nhanh từ năm 1992, sau các thành phố ở các tỉnh phía nam Trung Quốc (Quảng Châu, Thâm Quyến, Chu Hải, Sán Đầu, Hạ Mô) khoảng 10 năm. Trước đó, ngân sách của thành phố phần lớn để lại cho chính quyền trung ương ở Bắc Kinh, phần để lại cho thành phố này rất ít. Dù đã giảm gánh nặng thuế má kể từ 1992, nguồn thuế thu tại Thượng Hải vẫn đóng góp cho chính quyền trung ương chiếm khoảng 20-25%, trước đấy là 70%. Thượng Hải ngày nay vẫn là thành phố phát triển và đông dân nhất Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Cảng Thượng Hải xếp hàng đầu thế giới về lượng hàng hóa thông qua, khoảng 443 triệu tấn hàng/năm. Nếu tính về lượng container vận chuyển, các cảng của Thượng Hải xếp thứ 3, sau Singapore và Hồng Kông. Thượng Hải và Hồng Kông gần đây đang tranh đua vị trí trung tâm kinh tế của Trung Quốc. GDP đầu người của Thượng Hải là 12784 USD, của Hong Kong là 37.400. Hong Kong có lợi thế hơn về hệ thống pháp luật, hội nhập quốc tế, tự do hóa hơn và kinh nghiệm kinh tài cao hơn. Thượng Hải có mối liên hệ với lục địa Trung Hoa sâu hơn, mạnh hơn về ngành chế tạo và công nghệ. Thượng Hải đã và đang nâng cao vai trò là địa điểm của nhiều trụ sở các tập đoàn kinh tế, tài chính, thương mại, ngân hàng và giáo dục quốc tế. Tăng trưởng GDP đã đạt hai con số liên tục trong 14 năm. Năm 2005, tỷ lệ tăng trưởng GDP là 11,1%, đạt 114 tỷ USD. Năm 2010, GDP của Thượng Hải là 1.687 tỷ nhân dân tệ (tương đương 256,3 tỷ USD) với GDP đầu người đạt 76.000 nhân dân tệ (tương đương11.540 USD).. Thượng Hải được xem là thủ đô kinh tế của Trung Quốc.
Thượng Hải đứng thứ 13 trong chỉ số Trung tâm tài chính toàn cầu năm 2017 (và thứ tư cạnh tranh nhất ở châu Á sau Singapore, Hồng Kông và Tokyo) do Z / Yen Group và Qatar Financial Center xuất bản Thẩm quyền. Thành phố cũng là thành phố đắt đỏ nhất Trung Quốc, theo nghiên cứu của Economist Intelligence Unit vào năm 2017. Đây là thành phố lớn nhất và thịnh vượng nhất ở Đông Á trong những năm 1930, và sự tái phát triển nhanh chóng bắt đầu vào những năm 1990. Điều này được minh họa bởi quận Phố Đông, một khu đầm lầy cũ được khai hoang để phục vụ như một khu vực thí điểm cho cải cách kinh tế tích hợp. Đến cuối năm 2009, đã có 787 tổ chức tài chính, trong đó có 170 tổ chức đầu tư nước ngoài. Vào tháng 9 năm 2013, với sự ủng hộ của Thủ tướng Trung Quốc Lý Khắc Cường, thành phố đã đưa ra khu vực tự do thương mại phi công Trung Quốc (Thượng Hải) - khu thương mại tự do đầu tiên ở Trung Quốc đại lục. Khu vực đã giới thiệu một số cải cách thí điểm được thiết kế để tạo ra một môi trường ưu đãi cho đầu tư nước ngoài. Vào tháng 4 năm 2014, The Banker đã báo cáo rằng Thượng Hải "đã thu hút được khối lượng đầu tư trực tiếp nước ngoài khu vực tài chính cao nhất trong khu vực châu Á-Thái Bình Dương trong 12 tháng tính đến cuối tháng 1 năm 2014". Vào tháng 8 năm 2014, Thượng Hải được mệnh danh là tỉnh Trung Quốc trong tương lai của tạp chí FDi 2014/15 do "các buổi biểu diễn đặc biệt ấn tượng trong các loại Kết nối và Thân thiện với Doanh nghiệp, cũng như xếp hạng thứ hai trong các loại Kinh tế và Nhân lực và Lối sống".
Trong hai thập kỷ qua, Thượng Hải là một trong những thành phố phát triển nhanh nhất trên thế giới. Từ năm 1992, Thượng Hải đã ghi nhận tăng trưởng hai con số gần như hàng năm ngoại trừ trong cuộc suy thoái toàn cầu năm 2008 và 2009. [78] Năm 2011, tổng GDP của Thượng Hải đã tăng lên 1,92 nghìn tỷ NDT (297 tỷ USD) với GDP bình quân đầu người là 82.560 NDT (12.784 USD). [11] Ba ngành dịch vụ lớn nhất là dịch vụ tài chính, bán lẻ và bất động sản. Các ngành sản xuất và nông nghiệp chiếm lần lượt 39,9% và 0,7% tổng sản lượng. Thu nhập bình quân hàng năm của cư dân Thượng Hải, dựa trên ba quý đầu năm 2009, là 21.871 RMB.
Nằm ở trung tâm của đồng bằng sông Dương Tử, Thượng Hải có cảng container đông đúc nhất thế giới, xử lý 29,05 triệu TEU trong năm 2010. Thượng Hải đặt mục tiêu trở thành một trung tâm vận chuyển quốc tế trong tương lai gần.
Thượng Hải là một trong những trung tâm công nghiệp chính của Trung Quốc, đóng một vai trò quan trọng trong ngành công nghiệp nặng của Trung Quốc. Một số lượng lớn các khu công nghiệp, bao gồm Khu Phát triển Kinh tế và Công nghệ Hồng Kiều Thượng Hải, Khu Chế xuất Kinh tế Xuất khẩu Jinqiao, Khu Phát triển Công nghệ và Kinh tế Mẫn Hàng và Khu Phát triển Công nghệ cao Thượng Hải, là xương sống của ngành công nghiệp thứ cấp của Thượng Hải. Các nhà máy sản xuất thép lớn nhất Trung Quốc Baosteel Group, cơ sở đóng tàu lớn nhất Trung Quốc - Tập đoàn đóng tàu Hudong-Zhonghua và Nhà máy đóng tàu Jiangnan, một trong những nhà đóng tàu lâu đời nhất của Trung Quốc đều nằm ở Thượng Hải. Sản xuất ô tô là một ngành công nghiệp quan trọng khác. SAIC Motor có trụ sở tại Thượng Hải là một trong ba tập đoàn ô tô lớn nhất tại Trung Quốc và có quan hệ đối tác chiến lược với Volkswagen và General Motors.
Khu vực hội nghị cũng đang phát triển mạnh mẽ. Trong năm 2012, thành phố đã tổ chức 780 cuộc tụ họp quốc tế, tăng từ 754 năm 2011. Nguồn cung phòng khách sạn cao đã giữ giá phòng thấp hơn dự kiến, với giá phòng trung bình cho khách sạn 4 và 5 sao vào năm 2012 chỉ với RMB950 (US $ 153).
Tính đến tháng 9 năm 2013, Thượng Hải cũng là nơi có khu thương mại tự do lớn nhất ở Trung Quốc, Khu Tự do Thương mại Trung Quốc (Thượng Hải). Khu vực này có diện tích 29 km2 và tích hợp bốn khu ngoại quan hiện có - Khu Thương mại Tự do Waigaoqiao, Công viên Hậu cần Thương mại Tự do Waigaoqiao, Khu cảng Thương mại Tự do Dương Sơn và Khu Thương mại Tự do Toàn diện Sân bay Phố Đông. Một số chính sách ưu đãi đã được thực hiện để thu hút đầu tư nước ngoài vào các ngành khác nhau cho FTZ. Bởi vì Khu vực này không được coi là lãnh thổ của PRC vì mục đích thuế, nên các hàng hóa vào khu vực này không phải chịu thuế và thông quan như trường hợp khác.
Thượng Hải đang trải qua thời kỳ bùng nổ xây dựng, đặc biệt là xây dựng các cao ốc, các công trình công cộng khổng lồ với thiết kế hiện đại, độc đáo (như tháp truyền hình, nhà há). Khu Phố Đông là một khu đô thị mới với tốc độ xây dựng nhanh chóng, khoảng hơn 10 năm và đã trở thành trung tâm mới của Thượng Hải với rừng cao ốc. Nhà chọc trời Tháp Trung tâm Tài chính Thế giới Thượng Hải là tòa nhà chọc trời cao nhất ở thành phố này và cũng là tháp cao nhất Trung Quốc đại lục, cao thứ 5 thế giới. Ngoài ra còn có các công trình kiến trúc nổi bật khác như Tháp Minh Châu Phương Đông và Tháp Kim Mậu.
Năm 2009, Sở giao dịch chứng khoán Thượng Hải xếp thứ 3 thế giới về khối lượng chứng khoán giao dịch và xếp thứ 6 về tổng giá trị vốn hóa thị trường của các công ty niêm yết, và khối lượng giao dịch của 6 mặt hàng chính bao gồm cao su, đồng và kẽm trên Shanghai Futures Exchange đều xếp hạng nhất trên thế giới.
Cảng Thượng Hải là cảng container bận rộn nhất thế giới, 29,05 triệu TEU thông qua vào năm 2010. Thượng Hải đang hướng tới múc tiêu trở thành trung tâm hải vận quốc tế trong tương lai gần.
Thượng Hải nổi bật với tăng trưởng GDP đã đạt hai con số liên tục trong 14 năm. Năm 2005, tỷ lệ tăng trưởng GDP là 11,1%, đạt 114 tỷ USD. Năm 2010, GDP của Thượng Hải là 1.687 tỷ nhân dân tệ (tương đương 256,3 tỷ USD). Năm 2018, Thượng Hải là đơn vị hành chính (gồm 04 thành phố trực thuộc trung ương, 22 tỉnh, 05 khu tự tri dân tộc và 02 đặc khu hành chính) đông thứ hai mươi lăm về số dân, đứng thứ mười một về kinh tế Trung Quốc với 24 triệu dân, tương đương với Cameroon và GDP đạt 3.268 tỉ NDT (483,8 tỉ USD) tương ứng với Thái Lan. Thượng Hải là đơn vị hành chính có chỉ số GDP đầu người đứng thứ tư Trung Quốc, sau Ma Cao, Hồng Kông và Bắc Kinh, đạt 137.000 NDT (tương đương 20.130 USD). Thượng Hải được xem là thủ đô kinh tế của Trung Quốc.
Phương tiện công cộng.
Thượng Hải có một hệ thống giao thông công cộng rộng lớn, phần lớn dựa trên các thành phố lớn, xe buýt và taxi. Việc thanh toán tất cả các công cụ giao thông công cộng này có thể được thực hiện bằng cách sử dụng Thẻ Giao thông Công cộng Thượng Hải.
Hệ thống vận chuyển nhanh của Thượng Hải, Tàu điện ngầm Thượng Hải, kết hợp cả đường tàu điện ngầm và tàu điện ngầm hạng nhẹ và mở rộng đến mọi quận đô thị cốt lõi cũng như các quận ngoại thành lân cận. Tính đến năm 2017, có 16 tuyến tàu điện ngầm (không bao gồm Tàu Maglev Thượng Hải và Đường sắt Jinshan), 395 ga và 673 km (418 dặm) đường dây hoạt động, khiến nó trở thành mạng lưới dài nhất thế giới. Vào ngày 31 tháng 12 năm 2016, nó thiết lập kỷ lục về lượng người đi hàng ngày là 11,7 triệu. Giá vé phụ thuộc vào chiều dài của khoảng cách đi lại bắt đầu từ 3 RMB.
Trong năm 2010, Thượng Hải giới thiệu lại xe điện, lần này là một hệ thống Translohr cao su hiện đại, trong khu vực Zhangjiang của Đông Thượng Hải như Zhangjiang Tram. Một hệ thống xe điện thông thường được xây dựng ở huyện Songjiang. Các tuyến xe điện bổ sung đang được nghiên cứu tại Hongqiao Subdistrict và Jiading District.
Thượng Hải cũng có mạng lưới xe buýt đô thị rộng lớn nhất thế giới, với gần một nghìn tuyến xe buýt, do nhiều công ty vận tải khai thác. Hệ thống này bao gồm hệ thống xe đẩy hoạt động liên tục lâu đời nhất thế giới. Giá vé xe buýt thường là 2 RMB.
Taxi rất phổ biến ở Thượng Hải. Giá vé cơ sở hiện tại là ¥ 14 (sedan) / ¥ 16 (MPV) (bao gồm phụ phí nhiên liệu; 1; ¥ 18 từ 11:00 đến 5:00 sáng) bao gồm 3 km đầu tiên (2 dặm). Chi phí km ¥ 2,4 mỗi (¥ 3,2 từ 11:00 đến 5:00 sáng).
Thượng Hải là một trung tâm chính của mạng lưới đường cao tốc của Trung Quốc. Nhiều đường cao tốc quốc gia (bắt đầu bằng G) đi qua hoặc kết thúc tại Thượng Hải, bao gồm cả đường cao tốc Bắc Kinh-Thượng Hải G2 (chồng lên G42 Thượng Hải-Thành Đô), G15 Thẩm Dương–Hải Khẩu, G40 Thượng Hải-Tây An, G50 Thượng Hải-Trùng Khánh, G60 Thượng Hải-Côn Minh (chồng chéo G92 Thượng Hải-Ninh Ba) và G1501 Đường cao tốc Shanghai Ring. Ngoài ra, cũng có nhiều tuyến đường cao tốc của thành phố bắt đầu bằng S (S1, S2, S20, ). Thượng Hải có một đường hầm qua cầu bắc qua cửa sông Dương Tử ở phía bắc thành phố.
Ở trung tâm thành phố, có một số đường cao tốc cao để giảm bớt áp lực giao thông trên đường phố, nhưng việc sử dụng xe tăng đã khiến nhu cầu vượt xa khả năng, với tình trạng tắc nghẽn nặng là phổ biến. Có làn đường dành cho xe đạp tách biệt với giao thông ô tô trên nhiều đường phố, nhưng xe đạp và xe máy bị cấm từ nhiều tuyến đường chính bao gồm cả đường cao tốc trên cao. Gần đây, đi xe đạp đã thấy sự hồi sinh phổ biến nhờ vào sự xuất hiện của một số lượng lớn các cuộc đua xe đạp dựa trên ứng dụng không cần đế như Mobike, Bluegogo và Ofo.
Riêng quyền sở hữu xe hơi ở Thượng Hải đã tăng nhanh chóng trong những năm gần đây, nhưng một chiếc xe tư nhân mới không thể được thúc đẩy cho đến khi chủ sở hữu mua một giấy phép trong cuộc đấu giá tấm giấy phép xe tư nhân hàng tháng. Khoảng 11.500 tấm giấy phép được bán đấu giá mỗi tháng và giá trung bình là khoảng 84.000 RMB (12,758 USD). Theo quy định của thành phố năm 2016, chỉ có những người là cư dân đăng ký Thượng Hải hoặc đã đóng bảo hiểm xã hội hoặc thuế thu nhập cá nhân trong hơn 3 năm liên tiếp. Mục đích của chính sách này là hạn chế sự phát triển của giao thông ô tô và giảm bớt tắc nghẽn.
Thượng Hải có bốn ga đường sắt chính: Ga Thượng Hải, Ga Thượng Hải Nam, Ga Thượng Hải Tây và Ga Hồng Kiều Thượng Hải. Tất cả đều được kết nối với mạng lưới tàu điện ngầm và đóng vai trò là trung tâm trong mạng lưới đường sắt của Trung Quốc. Hai tuyến đường sắt chính kết thúc tại Thượng Hải: Đường sắt Bắc Kinh - Thượng Hải từ Bắc Kinh và Đường sắt Thượng Hải - Hàng Châu. Ga Hồng Kiều cũng là ga cuối Thượng Hải chính của ba tuyến đường sắt cao tốc: Đường sắt cao tốc Thượng Hải - Hàng Châu, Đường sắt cao tốc Thượng Hải - Nam Kinh và Đường sắt cao tốc Bắc Kinh - Thượng Hải.
Thượng Hải là một trong những cửa ngõ vận chuyển hàng không hàng đầu ở châu Á. Thành phố có hai sân bay thương mại: Sân bay quốc tế Phố Đông-Thượng Hải và Sân bay quốc tế Hồng Kiều Thượng Hải. Sân bay Phố Đông là sân bay quốc tế chính, trong khi Sân bay Hồng Kiều chủ yếu hoạt động các chuyến bay nội địa với các chuyến bay quốc tế có quãng đường ngắn. Trong năm 2010, hai sân bay phục vụ 71,7 triệu hành khách (Phố Đông 40,4 triệu, Hồng Kiều 31,3 triệu), và xử lý 3,7 triệu tấn hàng hóa (Phố Đông 3,22 triệu tấn, Hồng Kiều 480 nghìn tấn)
Thành phố kết nghĩa.
Thượng Hải là thành phố kết nghĩa với:
Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. |
Công nghệ thông tin
Công nghệ thông tin (), viết tắt CNTT, là một nhánh ngành kỹ thuật sử dụng máy tính và phần mềm máy tính để chuyển đổi, lưu trữ, bảo vệ, xử lý, truyền tải và thu thập thông tin.
Ở Việt Nam, khái niệm công nghệ thông tin được hiểu và định nghĩa trong Nghị quyết Chính phủ 49/CP ký ngày 4 tháng 8 năm 1993: "Công nghệ thông tin là tập hợp các phương pháp khoa học, các phương tiện và công cụ kỹ thuật hiện đại - chủ yếu là kỹ thuật máy tính và viễn thông - nhằm tổ chức khai thác và sử dụng có hiệu quả các nguồn tài nguyên thông tin rất phong phú và tiềm năng trong mọi lĩnh vực hoạt động của con người và xã hội."
Thuật ngữ "công nghệ thông tin" xuất hiện lần đầu vào năm 1958 trong bài viết xuất bản tại tạp chí "Harvard Business Review". Hai tác giả của bài viết, Leavitt và Whisler đã bình luận: "Công nghệ mới chưa thiết lập một tên riêng. Chúng ta sẽ gọi là công nghệ thông tin (information technology - IT)."
Các lĩnh vực chính của công nghệ thông tin bao gồm quá trình tiếp thu, xử lý, lưu trữ và phổ biến hóa âm thanh, phim ảnh, văn bản và thông tin số bởi các vi điện tử dựa trên sự kết hợp giữa máy tính và truyền thông. Một vài lĩnh vực hiện đại và nổi bật của công nghệ thông tin như: các tiêu chuẩn Web thế hệ tiếp theo, sinh tin học, điện toán đám mây, hệ thống thông tin toàn cầu, tri thức quy mô lớn và nhiều lĩnh vực khác. Các nghiên cứu phát triển chủ yếu trong ngành khoa học máy tính.
Từ tiếng Anh Information (hay còn gọi là Thông tin trong Tiếng Việt) bắt nguồn từ ngôn ngữ Latin với từ gốc ("information") của từ được bổ nhiệm ("informatio"): đây là danh từ có gốc từ động từ "Informare" có ý nghĩa như: "kỷ luật", "hướng dẫn", "dạy" và "đưa hình thức vào tâm trí".
Công nghệ thông tin là ngành quản lý công nghệ và mở ra nhiều lĩnh vực khác nhau như phần mềm máy tính, hệ thống thông tin, phần cứng máy tính, ngôn ngữ lập trình nhưng lại không giới hạn một số thứ như các quy trình và cấu trúc dữ liệu. Tóm lại, bất cứ thứ gì mà biểu diễn dữ liệu, thông tin hay tri thức trong các định dạng nhìn thấy được, thông qua bất kỳ cơ chế phân phối đa phương tiện nào thì đều được xem là phần con của lĩnh vực công nghệ thông tin. Công nghệ thông tin cung cấp cho các doanh nghiệp bốn nhóm dịch vụ lõi để giúp thực thi các chiến lược kinh doanh đó là: quá trình tự động kinh doanh, cung cấp thông tin, kết nối với khách hàng và các công cụ sản xuất.
Các chuyên gia IT tham gia xây dựng nhiều các chức năng khác nhau từ phạm vi cài đặt phần mềm ứng dụng đến thiết kế mạng máy tính phức tạp và cơ sở dữ liệu thông tin. Một vài công việc mà các chuyên gia thực hiện có thể bao gồm quản lý dữ liệu, mạng, kỹ thuật phần cứng máy tính, thiết kế phần mềm và thiết kế cơ sở dữ liệu cũng như quản lý, quản trị toàn bộ hệ thống. Công nghệ thông tin bắt đầu lan rộng hơn nữa so với máy tính cá nhân và công nghệ mạng thông thường, và có nhiều tích hợp các công nghệ khác như sử dụng điện thoại di động, ti vi, xe máy và nhiều nữa, và làm tăng trưởng nhu cầu nghề nghiệp cho các công việc đó.
Trong thời gian gần đây, Hội đồng Quản trị Tín nhiệm Cơ khí và Công nghệ và Hiệp hội Kỹ thuật máy tính đã hợp tác để hình thành tiêu chuẩn và chương trình giảng dạy cho các chứng chỉ ngành Công nghệ Thông tin như là một ngành học so với ngành Khoa học máy tính và Hệ thống thông tin ngày nay. SIGITE (Nhóm yêu thích đặc biệt về giáo dục IT) là nhóm làm việc ACM để định nghĩa các tiêu chuẩn trên. Các dịch vụ IT toàn cầu có tổng doanh thu 763 tỉ USD năm 2009.
Quy mô và tăng trưởng của công nghệ thông tin.
Hilbert và Lopez xác định tốc độ theo cấp số nhân về sự thay đổi công nghệ (một dạng của định luật Moore) như sau: năng suất ứng dụng máy móc chuyên dụng để tính toán thông tin bình quân đầu người đã tăng gần gấp đôi với chu kỳ 14 tháng từ năm 1986 đến năm 2007; năng suất bình quân đầu người về mục đích sử dụng máy tính nói chung trên thế giới đã tăng gấp đôi mỗi 18 tháng trong suốt hai thập kỉ; năng suất viễn thông toàn cầu bình quân đầu người tăng gấp đôi mỗi 34 tháng; khả năng lưu trữ bình quân đầu người trên thế giới tăng gấp đôi mỗi 40 tháng (3 năm) và thông tin phát sóng bình quân đầu người tăng gấp đôi khoảng 12,3 năm. |
Tam giáo (三教) chỉ đến ba truyền thống, trường phái tôn giáo và triết học có những ảnh hưởng rất lớn mạnh trong các nước chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của nền tảng văn hóa Trung Quốc như Trung Quốc bản thổ của Trung Quốc, Đài Loan (Trung Hoa Dân Quốc), Việt Nam, Triều Tiên và Nhật Bản. Tam giáo cũng được truyền bá rất là sâu sắc và phổ biến ra bên ngoài như là một đặc trưng của văn hóa và triết học phương Đông. Tam giáo gồm có:
Tại Việt Nam, cả 3 trường phái tôn giáo nói trên cùng tồn tại, tương tác và ảnh hưởng lẫn nhau tạo nên sự cộng hưởng tín ngưỡng lên văn hóa Việt Nam hiện đại. Công trình nghiên cứu về hiện tượng cộng tính văn hóa của Tam Giáo ở Việt Nam là nghiên cứu đầu tiên trên thế giới về khái niệm cộng tính văn hóa, đây cũng là một trong 3 nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn nổi bật của Việt Nam.
Một nghiên cứu song sinh, có liên quan mật thiết tới hệ thống Tam giáo, cũng như "cộng tính văn hóa" (cultural additivity), được xuất bản năm 2020 cũng góp phần chỉ ra ảnh hưởng lan truyền văn hóa xuyên thế hệ, có nhiều khả năng tác động lên cả nhận thức, quan niệm cũng như hành vi (bạo lực, nói dối). Trong lĩnh vực quản trị, nghiên cứu từ ĐH Khoa học và Công nghệ Thượng Hải xuất bản năm 2021, cũng sử dụng trực tiếp "Cộng tính văn hóa" trong việc tìm kiếm ảnh hưởng hệ thức xã hội Tam giáo như Trung Quốc lên hành vi và quy tắc chia sẻ quyền lực, và tác động tới vận hành của các doanh nghiệp niêm yết tại Trung Quốc.
Bên cạnh đó, một số học giả dựa trên hệ thống tư tưởng Tam giáo, và hiện tượng "cộng tính văn hóa" còn phát hiện ra tác động lên hành vi phản ứng đương đại cả của cư dân lẫn chính sách, cụ thể trong ứng phó đại dịch COVID-19, chẳng hạn như Small và Blanc, của Đại học New York, năm 2021 trên ấn phẩm "Frontiers in Psychiatry", có nhan đề "Sức khỏe tinh thần trong đại dịch COVID-19: Tam giáo và phản ứng của Việt Nam".
Một nghiên cứu của các tác giả University of South Australia, Adelaide, Úc, về những người hoạt động công tác xã hội và vấn đề tính dục thiểu số cho thấy ảnh hưởng trực tiếp liên quan Tam giáo và cộng tính văn hóa thông qua tác động triết lý và ý thức hệ, đăng trên ấn phẩm "Qualitative Social Work" năm 2021.
Đặc biệt đáng lưu ý, trong một nghiên cứu xuất bản năm 2021, học giả kỳ cựu và có ảnh hưởng lớn của Nhật Bản trong hệ thống quản trị tri thức là Noboru Konno đã sử dụng ý niệm "Cộng tính văn hóa" của hệ thống Tam giáo trong khi xem xét vị trí và ảnh hưởng "vốn tri thức" trong Xã hội 5.0 tương lai. |
Thái Bình là một tỉnh ven biển ở đồng bằng sông Hồng. Theo quy hoạch phát triển kinh tế, Thái Bình thuộc vùng duyên hải Bắc Bộ .
Theo cuộc Tổng điều tra dân số tính đến ngày 01/04/2019, Thái Bình là đơn vị hành chính Việt Nam đông thứ 11 về số dân với 1.860.447 người (xếp sau Đắk Lắk và xếp trên Bắc Giang), xếp thứ 29 về Tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP), xếp thứ 49 về GRDP bình quân đầu người, đứng thứ tám về tốc độ tăng trưởng GRDP. Với 1.860.447 người dân, GRDP đạt 68.142 tỉ Đồng (tương ứng với 2,9595 tỉ USD), GRDP bình quân đầu người đạt 38 triệu đồng (tương ứng với 1.650 USD), tốc độ tăng trưởng GRDP đạt 10,53%.
Trung tâm hành chính của tỉnh là thành phố Thái Bình, cách trung tâm thủ đô Hà Nội khoảng 100 km về phía đông nam, cách trung tâm thành phố Hải Phòng khoảng 75 km về phía tây nam. Vị trí tiếp giáp tỉnh Thái Bình:
Địa hình tỉnh Thái Bình khá bằng phẳng với độ dốc thấp hơn 1%; độ cao phổ biến từ 1–2 m trên mực nước biển, thấp dần từ bắc xuống đông nam. Thái Bình có bờ biển dài 52 km.
Tỉnh Thái Bình có bốn con sông chảy qua: phía bắc và đông bắc có sông Hóa dài 35 km, phía bắc và tây bắc có sông Luộc (phân lưu của sông Hồng) dài 53 km, phía tây và nam là đoạn hạ lưu của sông Hồng dài 67 km, sông Trà Lý (phân lưu cấp 1 của sông Hồng) chảy qua giữa tỉnh từ tây sang đông dài 65 km. Các sông này tạo ra 4 cửa sông lớn: Diêm Điền (Thái Bình), Ba Lạt, Trà Lý, Lân. Do đặc điểm sát biển nên chúng đều chịu ảnh hưởng của chế độ thủy triều, mùa hè mức nước dâng nhanh với lưu lượng lớn và hàm lượng phù sa cao, mùa đông lưu lượng giảm nhiều và lượng phù sa không đáng kể khiến nước mặn ảnh hưởng sâu vào đất liền từ 15–20 km.
Khí hậu - Thủy văn.
Thái Bình nằm trong vùng khí hậu cận nhiệt đới ẩm: có bốn mùa trong năm(Xuân,Hạ,Thu,Đông) mùa hè nóng ẩm, mưa nhiều từ tháng 5 đến tháng 9; mùa đông khô lạnh từ tháng 11 năm trước đến tháng 3 năm sau; từ tháng 7 tới tháng 10 là mùa thu thời tiết lúc này se lạnh dụi mát và mùa xuân bắt đầu từ giữa tháng 1 tới giữa tháng 3 tuy không rõ rệt như các nước nằm phía trên vành đai nhiệt đới. Nhiệt độ trung bình: 23,5 °C. Số giờ nắng trong năm: 1.600-1.800 giờ. Độ ẩm tương đối trung bình: 85-90%
Tỉnh Thái Bình nằm trong vùng cận nhiệt đới ẩm, nên hàng năm đón nhận một lượng mưa lớn (1.600-1.800mm), lại là vùng bị chia cắt bởi các con sông lớn, đó là các chi lưu của sông Hồng, trước khi chạy ra biển. Mặt khác, do quá trình sản xuất nông nghiệp, trải qua nhiều thế hệ, người ta đã tạo ra hệ thống sông ngòi dày đặc. Tổng chiều dài các con sông, ngòi của Thái Bình lên tới 8492 km, mật độ bình quân từ 5–6 km/km². Hướng dòng chảy của các con sông đa số theo hướng tây bắc xuống đông nam. Phía bắc, đông bắc tỉnh Thái Bình thuộc lưu vực sông Thái Bình.
Các hệ thống sông của tỉnh Thái Bình gồm:
Quá trình hình thành các con sông lớn nhỏ của Thái Bình là sự kết hợp giữa sự phát triển tự nhiên và nhu cầu hoạt động sản xuất, sinh hoạt của con người. Các con sông tự nhiên được hình thành do quá trình vận động của các dòng chảy, bắt đầu từ thượng nguồn, về phía hạ lưu hướng dòng chảy luôn thay đổi do sông uốn khúc nhiều. Sông Hồng trước đây thường hay thay đổi dòng chảy. Từ khi hình thành hệ thống đê điều, dòng chảy của sông Hồng ổn định gần như diện mạo hôm nay. Hệ thống sông trong đê là kết quả quá trình chinh phục của con người, nhằm hạn chế tác hại của thiên tai, tận dụng các điều kiện tự nhiên để tưới tiêu trong nông nghiệp. Trải qua nhiều thập niên, người nông dân Thái Bình liên tục cải tạo, khơi sâu, nắn dòng các con sông nội đồng với mục đích tưới tiêu thuận lợi và một phần phục vu vận tải đường thủy.
Trên địa bàn Thái Bình không có các hồ, đầm lớn, chủ yếu là các ao nhỏ, nằm xen kẽ với làng xóm hoặc ven đê, ven biển do lấy đất đắp đê hoặc do vỡ đê tạo thành các điểm trũng tích nước. Các ao hồ nhỏ nằm rải rác, xen kẽ các khu dân cư là kết quả của quá trình tạo lập đất ở. Xưa kia, đất được bồi đắp không bằng phẳng, chỗ cao chỗ thấp, người ta đào ao lấy đất đắp nền nhà, tạo thành vườn tược, và tận dụng nguồn nước từ ao hồ quanh nhà để lấy nước sinh hoạt. Vì vậy phần lớn làng xóm, cư dân của Thái Bình (nhà cửa, ruộng vườn) đều gần với ao đầm. Tổng diện tích ao hồ gần 6.575ha, chiếm 4,25% đất đai của tỉnh. Các ao hồ của Thái Bình thường có diện tích không lớn (khoảng 200-300m²). Những năm gần đây, diện tích một số ao hồ được cải tạo, có xu hướng tập trung thành quy mô trang trại để nuôi tôm cá theo quy trình bán công nghiệp. Bước đầu một số ao hồ nuôi tôm cá đã đem lại hiệu quả kinh tế cao, nhất là các vùng nuôi tôm ở các ao đầm ven biển (tôm sú, tôm rảo..)
Biển Thái Bình nằm trong vùng biển vịnh Bắc Bộ, là một phần của Biển Đông. Biển Đông là một biển lớn thông với Thái Bình Dương qua các eo biển rộng. Vịnh Bắc Bộ nằm ở phía tây bắc biển Đông, thực ra là phần lục địa bị chìm dưới nước biển do đó biển nông, nơi sâu nhất không quá 200 mét mực nước ngầm.
Thái Bình là bộ phận của tam giác châu thổ sông Hồng, thuộc trầm tích bờ rời Đệ Tứ có nguồn gốc song - biển hỗn hợp. Xét về mặt tổng thể thì trầm tích này có khả năng chứa nước rất lớn, mực nước ngầm nông, dễ khai thác.
Theo tài liệu nghiên cứu về địa chất và thủy văn, vùng này có sự phân đới thủy địa hóa theo phương nằm ngang và phương thẳng đứng như sau:
Phân đới thủy hóa theo phương nằm ngang:
Phân đới thủy hóa theo phương nằm ngang, lấy sông Trà Lý chảy qua giữa tỉnh làm ranh giới: Phía bắc sông Trà Lý gồm các huyện Hưng Hà, Đông Hưng, Quỳnh Phụ và một số xã thuộc huyện Thái Thụy gần khu vực sông Hóa, nằm trong đới nước ngọt có tổng độ khoáng hóa dao động từ 300–500 mg/l. Các tầng chứa nước ngọt rất tốt. Phía nam sông Trà Lý bao gồm các huyện Vũ Thư, Kiến Xương, Tiền Hải, phần lớn huyện Thái Thụy và Thành phố Thái Bình nằm trong đới nước mặn. Các lỗ khoan cho thấy, nước khoan lên có tổng độ khoáng hóa dao động trong khoảng 600-2.500 mg/l, nước thuộc loại Chloride Natri. Do bị nhiễm mặn nên không đạt tiêu chuẩn dùng cho nước sinh hoạt.
Phân đới thủy hóa theo phương thẳng đứng từ mặt đất đến độ sâu 140 mét bao gồm các tầng cách nước và chứa nước sau:
+ Tầng chứa nước nghèo thuộc hệ tầng Thái Bình
+ Tầng cách nước thuộc hệ tầng Hải Hưng II
+ Tầng chứa ít nước thuộc hệ tầng Hải Hưng II
+ Tầng cách nước thuộc hệ tầng Vĩnh Phúc I
+ Tầng chứa nước lỗ hổng thuộc hệ tầng Vĩnh Phúc II
+ Tầng chứa nước trong trầm tích cát - cuội- sỏi hệ Hà Nội
Tài nguyên nước trong dòng chảy mặt ở Thái Bình rất phong phú. Mật độ sông ngòi dày đặc chứa và lưu thông một lượng nước mặt khổng lồ. Nguồn cung cấp hàng tỷ m3 từ các con sông lớn như sông Hồng, sông Trà Lý, sông Thái Bình, cộng vào đó là lượng nước mưa nhận được hàng năm cũng rất lớn (hàng tỉ tấn). Đây là điều kiện thuận lợi để cư dân sử dụng tài nguyên nước mặt phục vụ cho sinh hoạt và sản xuất ở mọi nơi trong tỉnh. Các dòng chảy mặt đã được sử dụng tưới tiêu cho đồng ruộng thông qua hệ thống thủy lợi: mương, máng tưới tiêu, hệ thống cống tự chả
Dòng chảy mặt của các con sông nội đồng ngoài tác dụng tưới cho đồng ruộng, phục vụ sinh hoạt của cư dân, còn mang theo các chất thải ở thể lỏng chảy ra biển Đông (nước thải sinh hoạt, nước thau chua, rửa mặn đồng ruộng).
Hệ thống dòng chảy mặt, nhất là hệ thống sông ngòi nội đồng chảy quanh co, ngang dọc trên đất Thái Bình làm thành cảnh quan, tạo ra một khung cảnh sông nước, đồng ruộng, vườn cây trái, hài hòa, yên bình, thơ mộng.
Các tầng chứa nước nông đều có hàm lượng sắt cao, vượt quá tiêu chuẩn cho phép; Để dùng được phải qua xử lý, khử bớt sắt mới đảm bảo tiêu chuẩn cho phép. Hầu hết các giếng khoan đã có biểu hiện ô nhiễm các chất hữu cơ do tàn tích của các loài thực vật, có xuất hiện các ion độc hại như NH4, NO2, P04, S...
Tầng chứa nước lỗ hổng trong trầm tích cát - cuội- sỏi hệ tầng Hà Nội sâu 80-140m có khả năng chứa nước lớn, có giá trị cung cấp cả về số lượng lẫn chất lượng cho những trạm xử lý và cung cấp nước trung bình và nhỏ. Do tầng chứa nước ở dưới sâu nên khả năng gây ô nhiễm nguồn nước trong tầng này được bảo vệ bởi các tầng chứa nước phía trên. Tuy nhiên, để đảm bảo an toàn khi khai thác và sử dụng, cần lưu ý biện pháp bảo vệ và khai thác với mức độ hợp lý.
Nước ngầm tầng mặt của Thái Bình, về mùa khô chỉ đào sâu xuống 1-1,5m, mùa mưa chỉ đào sâu chưa đến 1m. Tuy nhiên, đây chỉ là nước ngầm trên mặt, nếu đào sâu xuống sẽ gặp nước mặn và chua, độ trong không đảm bảo, không thể dùng trong sinh hoạt ngay được mà cần phải xử lý. Càng sâu trong đất liền (Quỳnh Phụ, Hưng Hà) thì mức độ mặn, chua giảm hơn.
Tài nguyên khoáng sản.
Các khoáng sản chính:
Khu dự trữ sinh quyển thế giới.
Tỉnh Thái Bình có 2 trong số 5 khu vực đa dạng sinh học được UNESCO công nhận là khu dự trữ sinh quyển thế giới châu thổ sông Hồng, 3 khu vực còn lại thuộc Nam Định và Ninh Bình.
Khu dự trữ sinh quyển châu thổ sông Hồng nằm trên địa bàn các xã ven biển thuộc 3 tỉnh Thái Bình, Nam Định và Ninh Bình đã được UNESCO công nhận là khu dự trữ sinh quyển thế giới từ năm 2004 với những giá trị nổi bật toàn cầu về đa dạng sinh học và có ảnh hưởng lớn đến sự sống của nhân loại.
Khu dự trữ sinh quyển ven biển Thái Bình gồm 2 phần nằm ở cửa biển, nơi giáp Hải Phòng và Nam Định:
Vùng đất thuộc tỉnh Thái Bình ngày nay, vào thời Bắc Thuộc trước thế kỉ 10, thuộc hương Đa Cương (vùng đất từ sông Luộc ra đến biển) của quận Giao Chỉ. Thời 12 sứ quân vùng đất này là căn cứ của sứ quân Trần Lãm. Tới nhà Hậu Lê, thời vua Lê Thánh Tông về sau vùng đất Thái Bình ngày nay thuộc trấn Sơn Nam. Từ năm Minh Đức thứ 1 (1527) đến hết thời Mạc và kéo dài đến cuối thời Lê trung hưng, Nhà Mạc đổi trấn Hải Dương thành đạo Hải Dương. Năm Minh Đức thứ 3 (1529), Mạc Thái Tổ (Mạc Đăng Dung) trao ngôi vua cho con là Mạc Đăng Doanh còn Mạc Đăng Dung làm Thái thượng hoàng về Cổ Trai, lấy Nghi Dương làm Dương Kinh, trích phủ Thuận An ở Kinh Bắc và các phủ Khoái Châu, Tân Hưng, Kiến Xương, Thái Bình ở Sơn Nam cho lệ thuộc vào Dương Kinh (gần hết tỉnh Thái Bình, Nam Định ngày nay). Qua khảo cứu Cột chúc đài (bia đá vuông) năm Vĩnh Thịnh 6 (1710) ở chùa Cao Linh (tên cũ Cao Dương) có ghi Đại Việt quốc, Sơn Nam – Hải Dương nhị xứ, Thái Bình – Nam Sách nhị phủ, Thụy Anh huyện, Cao Dương xã. Tạm dịch là: Xã Cao Dương, huyện Thụy Anh, hai phủ Thái Bình – Nam Sách, hai xứ Sơn Nam – Hải Dương, nước Đại Việt.
Đến cuối thời nhà Lê trung hưng sang đầu nhà Nguyễn, vùng này thuộc trấn Sơn Nam Hạ. Năm 1832, vua Minh Mạng nhà Nguyễn cắt hai phủ Thái Bình, Kiến Xương nhập vào tỉnh Nam Định, nhập phủ Tiên Hưng vào tỉnh Hưng Yên.
Ngày 21 tháng 3 năm 1890, Toàn quyền Đông Dương ra nghị định thành lập tỉnh Thái Bình, gồm phủ Thái Bình, phủ Kiến Xương (tách từ tỉnh Nam Định) và huyện Thần Khê (tách từ tỉnh Hưng Yên và sáp nhập vào phủ Thái Bình - sau đổi tên là phủ Thái Ninh). Tỉnh lỵ đặt tại phủ lỵ Kiến Xương, bờ nam sông Trà Lý. Vị trí này nằm trên đường Hải Phòng- Nam Định nhưng chỉ cách Nam Định 17 km nên người dân nơi đây thường đi phà Tân Đệ (sau này là cầu) sang Nam Định mua các thứ cần thiết.
Ngày 28 tháng 11 năm 1894, Toàn quyền Đông Dương ra nghị định cắt hai huyện Hưng Nhân và Duyên Hà thuộc phủ Tiên Hưng, tỉnh Hưng Yên sáp nhập vào tỉnh Thái Bình; lấy sông Luộc làm ranh giới giữa hai tỉnh Hưng Yên và Thái Bình. Như vậy lúc mới thành lập, tỉnh Thái Bình gồm có 3 phủ Kiến Xương, Thái Ninh, Tiên Hưng với tổng cộng là 12 huyện Đông Quan, Duyên Hà, Hưng Nhân, Trực Định, Phụ Dực, Quỳnh Côi, Thanh Quan, Thư Trì, Thụy Anh, Tiền Hải, Thần Khê, Vũ Tiên.
Sau đó, bỏ cấp phủ, các huyện có sở lỵ phủ thì đổi theo tên của phủ kiêm quản trước đó: Thanh Quan thành Thái Ninh, Trực Định thành Kiến Xương, Thần Khê thành Tiên Hưng.
Tỉnh lị tỉnh Thái Bình khi mới thành lập năm 1890, đặt tại xã Kỳ Bố, trước là huyện lỵ của huyện Vũ Tiên (từ thời Minh Mạng). Sau này, tỉnh lỵ Thái Bình phát triển mở rộng sang các huyện lân cận thành thị xã Thái Bình, rồi thành thành phố Thái Bình.
Sau năm 1945, bỏ cấp phủ, gọi chung là huyện, tỉnh Thái Bình có 13 đơn vị hành chính gồm thị xã Thái Bình và 12 huyện: Đông Quan, Duyên Hà, Hưng Nhân, Kiến Xương, Phụ Dực, Quỳnh Côi, Thái Ninh, Thư Trì, Thụy Anh, Tiền Hải, Tiên Hưng, Vũ Tiên.
Ngày 2 tháng 12 năm 1955, điều chỉnh địa giới của các huyện Đông Quan, Phụ Dực, Quỳnh Côi, Thái Ninh, Thụy Anh, Tiên Hưng, Tiền Hải.
Ngày 28 tháng 2 năm 1958, điều chỉnh địa giới của ba huyện Phụ Dực, Quỳnh Côi và Thụy Anh.
Ngày 17 tháng 6 năm 1969, 2 huyện Đông Quan và Tiên Hưng hợp nhất thành huyện Đông Hưng; 2 huyện Hưng Nhân, Duyên Hà và 5 xã: Bắc Sơn, Đông Đô, Hòa Bình, Chi Lăng và Tây Đô của huyên Tiên Hưng hợp nhất thành huyện Hưng Hà; 2 huyện Quỳnh Côi và Phụ Dực hợp nhất thành huyện Quỳnh Phụ; 2 huyện Thái Ninh và Thụy Anh hợp nhất thành huyện Thái Thụy; 2 huyện Vũ Tiên và Thư Trì hợp nhất thành huyện Vũ Thư; riêng 13 xã của huyện Vũ Tiên cũ được sáp nhập vào huyện Kiến Xương. Tỉnh Thái Bình còn 1 thị xã và 7 huyện.
Ngày 29 tháng 4 năm 2004, chuyển thị xã Thái Bình thành thành phố Thái Bình. Tỉnh Thái Bình có 1 thành phố và 7 huyện như hiện nay.
Ngày 12 tháng 12 năm 2013, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định 2418/QĐ-TTg công nhận thành phố Thái Bình là đô thị loại II.
Năm 2019, Thái Bình có 1.860.447 người với mật độ dân số 1.138 người/km². Thành phần dân số:
Tính đến ngày 1 tháng 4 năm 2019, toàn tỉnh có 5 tôn giáo khác nhau đạt 169.589 người, nhiều nhất là Công giáo có 116.630 người, tiếp theo là Phật giáo có 52.671 người, đạo Tin Lành có 285 người. Còn lại các tôn giáo khác như đạo Cao Đài có hai người và Bửu Sơn Kỳ Hương chỉ có một người.
Tỉnh Thái Bình có 8 đơn vị hành chính cấp huyện trực thuộc, bao gồm 1 thành phố và 7 huyện với 260 đơn vị hành chính cấp xã, bao gồm 10 phường, 9 thị trấn và 241 xã.
Định hướng phát triển
Các khu Công nghiệp của Tỉnh Thái Bình.
Ngoài các khu Công nghiệp trên, tương lai sẽ thành lập một số Khu Công nghiệp:
Ngành Giáo dục - Đào tạo và khoa học công nghệ được giữ vững và phát triển. Trong năm học 2012 - 2013, Thái Bình là một trong năm tỉnh, thành phố đầu tiên trong cả nước được công nhận đạt phổ cập mầm non cho trẻ 5 tuổi; học sinh tốt nghiệp trung học phổ thông đạt tỷ lệ cao; số học sinh đỗ đại học, cao đẳng xếp thứ 2 trên toàn quốc.
Giáo dục chuyên ngành.
Danh sách các cơ sở giáo dục:
Giáo dục phổ thông.
Năm 2004, Thái Bình có 295 trường mầm non, 293 trường tiểu học, 276 trường trung học cơ sở, 39 trường trung học phổ thông.
Học sinh THPT tại Thái Bình đã giành rất nhiều huy chương tại các kì thi Olympic Quốc tế (Tất cả đều là học sinh trường THPT Chuyên Thái Bình).
Tuyến xe buýt Thái Bình
1, Tuyến 01 Hoàng Hà: TP. Thái Bình -Kiến Xương - KCN Tiền Hải - Đồng Châu.
Lộ trình: Cầu Phúc Khánh - Đường Trần Thái Tông - Đường Lý Bôn (Vườn Hoa, Bến xe khách Thái Bình, Bệnh viện Đa khoa Thái Bình) - Đường Lê Lợi - Đường Lý Thường Kiệt - Quốc lộ 39 B (Thị trấn huyện Kiến Xương, Thị trấn huyện Tiền Hải) - KCN Tiền Hải - Khu vực ngã tư xã Đông Minh huyện Tiền Hải.
2, Tuyến 02 Hoàng Hà: TP. Thái Bình - TT. Diêm Điền - Hồng Quỳnh.
Lộ trình: Trường CĐSP Thái Bình - Đường Quang Trung - Đường Lý Bôn (Vườn Hoa, Bến xe khách Thái Bình) - Quốc lộ 10 - Quốc lộ 39 (huyện Đông Hưng) - Cống Thóc thị trấn Diêm Điền - Hồng Quỳnh huyện Thái Thụy.
3, Tuyến 03 Hoàng Hà: TP. Thái Bình - Đông Hưng - Hưng Hà - Cầu Triều Dương.
Lộ trình: Trường CĐSP Thái Bình - Đường Quang Trung - Ngô Thì Nhậm - Đường Lý Bôn (BV Đa khoa Thái Bình, Vincom Thái Bình - Bến xe khách Thái Bình) - Quốc lộ 10 (huyện Đông Hưng) - Quốc lộ 39 (huyện Hưng Hà) - Cầu Triều Dương tỉnh Hưng Yên.
4, Tuyến 04 Hoàng Hà: TP. Thái Bình -Đông Hưng - Quỳnh Côi - Phố Bến Hiệp.
Lộ trình: Trường CĐSP Thái Bình - Đường Quang Trung - Ngô Thị Nhậm - Đường Lý Bôn (Vườn Hoa, Bến xe khách Thái Bình) - Quốc lộ 10 (huyện Đông Hưng) - Ngã ba Đọ - Thị trấn Quỳnh Côi - Bến Hiệp huyện Quỳnh Phụ.
5, Tuyến 05 Hoàng Hà: TP. Thái Bình - Thái Ninh - Bến xe Chợ Lục.
Lộ trình: Trường CĐSP Thái Bình - Đường Quang Trung - Đường Lý Bôn (Vườn Hoa, Bến xe khách Thái Bình) - Quốc lộ 10 - Quốc lộ 39 (huyện Đông Hưng) - Thái Giang - Thái Hà - Thái Phúc, Thái Ninh, chợ Lục, chợ Cầu, Thái Thượng huyện Thái Thụy.
6, Tuyến 06 Hoàng Hà: TP. Thái Bình - Hưng Hà - Đền Trần.
Lộ trình: Trường CĐSP Thái Bình - Cầu Cống Trắng - Đường Ngô Thì Nhậm - Đường Phan Bá Vành - Đường Lý Bôn - Bệnh viện Đa khoa Thái Bình - Vincom Thái Bình - Bến xe khách Hoàng Hà - Ngã tư Tân Bình (Trường ĐH Thái Bình) - Tân Hòa - Minh Lãng - Song Lãng - Hiệp Hòa - Xuân Hòa – Cầu Tịnh Xuyên - Minh Hòa (ĐT453) - Độc Lập - Minh Tân - Hồng An - Tiến Đức (Đền Trần).
7, Tuyến 07 Phiệt Học: TP. Thái Bình - Vô Hối - Diêm Điền - Thụy Tân.
Lộ trình: Thành phố Thái Bình - Long Hưng - Gia Lễ - Vô Hối - Diêm Điền - Thụy Tân.
8, Tuyến 08 Phiệt Học: TP. Thái Bình - Kiến Xương - Tiền Hải - Cồn Vành.
Lộ trình: CĐSP Thái Bình - Quang Trung -Trần Thái Tông - Lý Bôn -Ngô Quyền - Lê Quý Đôn -Cầu Trắng - đường 39B (Vũ Quý, Thanh Nê, Tiền Hải) - đường trục xã Tây Giang - BVĐK Tiền Hải - Nam Hà - Nam Hải - Nam Hồng - Nam Trung - Nam Phú - Cồn Vành.
9, Tuyến 209 Huy Hoàng: Thành phố Thái Bình - Quý Cao - Thành phố Hải Dương.
Lộ trình: Thành phố Thái Bình - thị trấn Đông Hưng - Cầu Nghìn - Vĩnh Bảo - Quý Cao - Tứ Kỳ - Thành phố Hải Dương.
Văn hóa - xã hội.
Nghệ thuật chèo ở Thái Bình.
Nếu như Hà Nội (với 3 Nhà hát Chèo Việt Nam, Hà Nội và Quân đội) là cái nôi của nghệ thuật chèo chuyên nghiệp, kinh đô Hoa Lư (Ninh Bình) là đất tổ của sân khấu chèo thì Thái Bình được xem là cái nôi của phong trào hát chèo quần chúng. Trước Cách mạng tháng Tám số phường gánh hội chèo Thái Bình nở rộ khá đông đảo được hình thành, phát triển từ yêu cầu thưởng thức nghệ thuật của bà con lối xóm trong các hội làng, số phường gánh lớn mạnh thường gắn kết với số lễ hội có lịch sử lâu dài trong vùng thông qua những ước định về cúng tế lễ tiết hòa vào vô số ràng buộc của tín ngưỡng tập quán bản địa. Với ba vùng chèo: chèo Hà Xá, chèo Sáo Đền, chèo Khuốc, cùng với các nghệ nhân hát hay, diễn giỏi nổi tiếng: cụ Nguyễn Mầm, Tống Văn Ngũ (tức Năm Ngũ), Nguyễn Tích, Trần Văn Linh (tức Hai Sinh), Cao Kim Trạch, Giáo sư Hà Văn Cầ
Tới thời điểm hiện tại, các vùng chèo Thái Bình vẫn hoạt động rất tích cực và tỉnh có chủ trương phát triển và bảo tồn loại hình nghệ thuật này. Thống kê tới năm 2015 cho thấy Thái Bình cùng với Ninh Bình là 2 tỉnh sinh ra nhiều nghệ sĩ nhân dân hát chèo nhất với 5 NSND mỗi tỉnh. Đến năm 2021, Thái Bình đã vươn lên dẫn đầu với 8 NSND chèo.
Nhà hát Chèo Thái Bình là đơn vị hoạt động nghệ thuật chèo chuyên nghiệp. Đây là một đơn vị nghệ thuật thuộc chiếng Chèo xứ Nam nơi có phong trào hát chèo không chuyên phát triển bậc nhất ở Việt Nam. Thái Bình hiện cũng là địa phương được giao chủ trì lập hồ sơ đề nghị UNESCO ghi danh nghệ thuật chèo đồng bằng sông Hồng là di sản văn hóa thế giới. Từ tháng 6/2019, Nhà hát Chèo Thái Bình lại có thêm Đoàn Cải lương Thái Bình và Đoàn Ca múa kịch Thái Bình sáp nhập về.
Năm 2021 Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Thái Bình đã xây dựng hồ sơ "Nghệ thuật chèo đồng bằng sông Hồng" để trình UNESCO đưa vào danh sách di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại.
Thái Bình là quê hương của các vị danh nhân tiêu biểu qua nhiều thời kỳ.
Trước thời kỳ phong kiến, nơi này có những danh nhân tiêu biểu như:
Trước, trong và Sau cách mạng tháng tám, Thái Bình có:
Các đặc sản, ẩm thực ở Thái Bình gồm có: bánh cáy làng Nguyễn, nộm sứa Thái Thụy, nem chạo Vị Thủy, mì gạo Dụ Đại, cá nướng Thái Xuyên, kẹo lạc làng Nguyễn, gỏi nhệch, bánh khúc Vũ Thư, canh cá Quỳnh Côi, bánh đa làng Me, gỏi cá mè Vũ Thắng, rươi Thụy Việt, gà Tò, chè mét Việt Thuận, bánh cuốn Tiền Hải, bún tươi làng Cọi, mọc mò, nước mắm Diêm Điền, bún tươi Đông Xuân, vịt biển Đông Xuyên, bánh gai Đại Đồng, gỏi día Thái Thụy, bún bung hoa chuối, miến rong Đông Thọ, rượu nếp làng Keo, cốm Thanh Hương, mì gạo Tô Đê, cuốn tôm làng Nấp, bánh mật Bách Thuận, nộm sứa Thái Thụy, bánh cuốn tôm chợ Gú, bánh nghệ Tiền Hải, cá vược Thụy Tân, bánh chưng Cầu Báng, giò lây, bánh đúc làng Tè, đậu phụ làng Kênh, bánh giò Bến Hiệp, nước mắm Nam Hải, bánh chưng đường Tiền Hải, ổi Bo, thuốc lào An Cố, mắm cáy Hồng Tiến.
Những làng nghề nổi tiếng.
Làng nghề chạm bạc Đồng Xâm.
Làng nằm ở phía Bắc của huyện Kiến Xương, thuộc xã Hồng Thái, đây là một làng nghề chạm khắc trên mặt kim loại. Cách đây hơn 400 năm nghệ nhân nghề chạm bạc tên là Nguyễn Kim Lâu theo thuyền dọc sông Trà Lý về lập nghiệp ở đây. Ông đã truyền nghề chạm bạc cho dân làng, trải qua nhiều thời kỳ đến nay nghề vẫn được duy trì và ngày càng phát triển.
Sau khi ông mất, để tưởng nhớ đến công lao của ông, nhân dân ở đây đã lập đền thờ ông ở ngay làng gọi là Đền Đồng Xâm. Hàng năm lễ hội đền Đồng Xâm được tổ chức từ ngày 1- 3/4 âm lịch với nghi lễ rước, tế linh đình, các trò chơi dân gian được duy trì và mở rộng nên đã thu hút được nhiều du khách từ các tỉnh, thành về dự. Vào ngày hội các sản phẩm chạm bạc của làng được trưng bày và bán hàng lưu niệm.
Làng Nguyễn chỉ là một tên gọi khác của xã Nguyên Xá huyện Đông Hưng tỉnh Thái Bình. Nói tới Thái Bình là mọi người nghĩ ngay đến một món đặc sản đó là Bánh Cáy Làng Nguyễn. Cũng không biết nghề làm Bánh Cáy có từ bao giờ nhưng tương truyền ngày xửa ngày xưa hoàng tử con vua mắc bệnh biếng ăn, bao nhiêu là cao lương ngũ vị nhưng hoàng tử cũng chẳng chịu ăn và ngày một gầy đi. Hoàng thượng lo lắng đã ban chiếu trong cả nước mong tìm được một món ăn làm cho hoàng tử thích nhất. Sau một thời gian chiếu ban, bao nhiêu là món ngon của lạ được dâng lên nhưng tất cả đều không được hoàng tử để ý đến, tất cả triều đình đều lo cho sức khỏe của người. Một hôm, có một người ăn mặc rách rưới đến xin được yết kiến hoàng thượng và nói rằng có thể làm một món mà sẽ làm cho hoàng tử thích. Nhìn người đàn bà rách rưới, các quan ra mặt khinh bỉ nhưng nghe nói có thể làm được món mà hoàng tử thích nên cũng để cho làm thử xem sao. Sau khi món ăn được dâng lên thì lạ thay hoàng tử đã rất thích và ăn một cách ngon lành. Đức vua và bá quan văn võ đều lấy làm vui mừng, nhà vua quyết định ban thưởng cho người đàn bà đã làm ra thứ bánh đó. Nhưng khi nhà vua cho triệu tập thì người đó đã bỏ đi, nhà vua cho tìm tung tích nhưng chẳng được kết quả gì, chỉ biết rằng người đó làm nghề mò bán cáy. Để ghi nhớ công ơn của bà, nhà vua quyết định đặt tên cho món đó là món Bánh Cáy.
Đó là sự tích mà mọi người được biết về món Bánh Cáy, chẳng biết thục hư ra sao nhưng Bánh Cáy ngày nay đã trở thành một đặc sản của Thái Bình và Làng Nguyễn đã trở thành cái nôi sản sinh ra món đặc sản đó.
Làng Chiếu Tân Lễ.
Làng Hới (Thái Bình) có nghề dệt chiếu lâu đời và nổi tiếng ở làng Hải Triều xã Tân Lễ Thái Bình (tên tỉnh).
Chưa có ai biết nghề chiếu xuất hiện ở Hới từ bao giờ, cũng như Tổ nghề thật sự là ai. Theo truyền thuyết, vào thời Tiền Lê - Lý (thế kỷ X-XI), làng Hới đã bắt đầu dệt chiếu, rồi phát triển mạnh vào thời Hậu Lê (thế kỷ XV). Nghề dệt chiếu Hới thịnh đạt lúc bấy giờ là nhờ công lao của Trạng nguyên Phạm Đôn Lễ (1457 - ?)- Ông người làng Hải Triều, huyện Ngự Thiêm, phủ Tân Hưng. Ông thi đỗ Trạng nguyên khoa thi Tân Sửu, niêu hiệu Hồng Đức năm thứ 12 (1481) làm quan tới chức Thượng thư. Khi ông lớn lên, làng Hới đã có nghề dệt chiếu từ lâu. Nhưng chiếu dệt khung đứng, không có ngựa đỡ sợi nên chiếu không đẹp. Đi sứ sang Trung Quốc, khi qua vùng Ngọc Hà, Châu Quế Lâm, tỉnh Quảng Tây, Phạm Đôn Lễ đã tìm hiểu và học được bí quyết kỹ thuật dệt chiếu của người Trung Quốc. Đó là kỹ thuật dệt khung nằm, có ngựa đỡ sợi dọc, làm cho sợi đay căng, chao cói nhanh hơn và chiếu đẹp hơn. Ông đã phổ biến kinh nghiệm và kỹ thuật dệt mới cho nhân dân. Ông cho cải tiến khung dệt. Nhờ vậy, chiếu Hới đẹp hơn và nổi tiếng từ đó. Dân làng tôn ông là ông Tổ nghề dệt chiếu, gọi ông là "Trạng Chiếu" và lập đền thờ sau khi ông mất; đền thờ Phạm Trạng nguyên.
Như thế, sản phẩm chiếu dệt thủ công của làng Hới từ lâu đã trở thành một sản phẩm tiêu biểu không chỉ của một địa phương nhỏ, mà của cả một tỉnh nông nghiệp loại lớn nhất ở đồng bằng Bắc Bộ và lưu vực sông Hồng.
Làng vườn Bách Thuận.
Làng Bách Thuận nằm cách Thành phố Thái Bình 10 km theo hướng Cầu Tân Đệ đi Nam Định thuộc huyện Vũ Thư. Đây là một làng vườn trù phú, rìa làng là bãi phù sa nơi trồng dâu nuôi tằm. Trong làng là những vườn cây ăn quả, cây cảnh.
Đến Bách Thuận du khách như lạc vào công viên thu nhỏ với đủ các gam màu đậm, nhạt dọc theo hai bên đường làng là màu xanh của cây hòe, táo. Thiên nhiên ưu đãi cho Bách Thuận phát triển nghề vườn truyền thống, ở đây có đủ các loại hoa quả bốn mùa: táo, ổi, cam, chanh, hồng xiêm, roi, chuối bên cạnh những vườn cây ăn quả là những vườn cây cảnh, cây thế. Mỗi loại cây cảnh đều mang một dáng, nét riêng với những tên gọi khác nhau tùy theo sự uốn tỉa của chủ nhân của nó.
Bách Thuận còn là một làng quê cổ, tiêu biểu cho vùng quê ở vùng đồng bằng bắc bộ. Nơi đây có chùa Từ Vân và chùa Bách Tính đã được Nhà nước công nhận xếp hạng di tích lịch sử, là một điểm du lịch để du khách đến tham quan, vãn cảnh. Du khách trong và ngoài nước rất thích thú với cảnh quan, môi trường sinh thái ở làng vườn Bách Thuận này.
Biển Đồng Châu thuộc huyện Tiền Hải, cách thành phố Thái Bình 35 km theo tỉnh lộ đi Kiến Xương - Tiền Hải. Khu du lịch bao gồm bờ biển thuộc xã Đông Minh; Cửa Lân; hai đảo biển Cồn Thủ và Cồn Vành. Diện tích toàn khu du lịch rộng hàng chục km², trung tâm của khu du lịch là bãi biển Đồng Châu dài 5 km, nơi đây đã hình thành hệ thống các khách sạn, nhà nghỉ cao tầng. Ngoài ra, Đồng Châu còn có đền Nhà Bà thờ vợ một vị vua đời Tống bên Trung Quốc đã có công giúp nhà Trần đánh quân Nguyên Mông và đây cũng là cơ sở hoạt động của xứ uỷ Bắc Kỳ trước cách mạng tháng Tám.
Khu du lịch sinh thái biển Cồn Vành.
Cách đất liền 7 km, Cồn Thủ và Cồn Vành nổi lên như hai ngọn sóng xanh giữa biển khơi.
Cồn Thủ có bãi cát trắng mịn, có rừng thông, rừng phi lao xanh ngắt, có bãi tắm nhỏ thơ mộng là địa điểm lý tưởng cho du khách đi tắm biển, tổ chức các cuộc picnic và nghỉ dưỡng bằng tàu thuyền với các trò vui chơi, giải trí trên biển như câu cá, lướt ván, bóng chuyền bãi biể
Cồn Vành rộng 15 km², có khu bảo tồn rừng ngập mặn là điểm dừng chân của các loài chim quý hiếm như cò thìa, bồ nông, mòng biể, khách du lịch tới thăm cồn đảo.
Cồn Vành được xem là một điểm có nhiều tiềm năng thuận lợi để phát triển thành một khu du lịch sinh thái lý tưởng và hấp dẫn. Đây là bãi sa bồi rộng gần 2 nghìn hecta, với địa hình tương đối bằng phẳng, nằm ở phía đông xã Nam Phú (Tiền Hải), phía Bắc giáp Cồn Thủ, phía Nam giáp cửa Ba Lạt (cửa sông Hồng), phía Đông giáp biển đông. Cồn Vành thuộc khu vực khu dự trữ sinh quyển châu thổ sông Hồng (đã được UNESCO công nhận vào tháng 12 năm 2004), nằm trong hệ thống liên hoàn các khu rừng ngập mặn ven biển trải dài từ Ninh Bình - Nam Định - Thái Bình. Nơi đây có hệ sinh thái rừng ngập mặn khá phong phú với nhiều loài thực vật như sú, vẹt, bần, thông, trên 200 loài hải sản có giá trị và nhiều loài chim quý hiếm. Ngày nay, nhờ có tuyến đê PAM dài gần 10 km và 4 cây cầu mới được xây dựng, nối liền các nhánh sông, việc đi lại đã thuận tiện hơn rất nhiều, khiến cho giao thông đến Cồn Vành trở nên dễ dàng hơn.
Khu du lịch sinh thái biển Cồn Đen.
Cồn Đen Cách đất liền khoảng 3 km thuộc địa phận xã Thái Đô, Thái Thụy, Thái Bình. Cách trung tâm TP Thái Bình khoảng 40 km.
Nơi đây vẫn giữ được những nét hoang sơ của một cồn biển đẹp nhất miền Bắc với rừng ngập mặn ven biển gồm những loại sú vẹt, bần đước, và những rặng phi lao thẳng tắp và rừng dừa nước ngập mặn rất hoang sơ.
Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
Tỉnh Trà Vinh, Việt Nam |