instruction
stringclasses
20 values
input
stringlengths
0
5.97k
output
stringlengths
0
8.22k
I'm looking for someone to translate these sentences into Vietnamese.
"Well I just won't tell them the entire truth. They won't know the difference. What's there to lose?" Jenny asked to stay with her friends that night. Her parents frowned but said, "All right." She got ready for the big event excitedly. However, as she rushed around preparing, she began to feel guilty about all the lies. She got rid of her guilt by telling herself she would have fun with the pizza, the party and a moonlight ride out. Well the pizza was good, and the party was great but the moonlight ride would have to wait, as Jeff was half drunk by the time. Despite being half drunk, he kissed her and said that he was fine. The room began to fill with smoke and Jeff took a puff. Jenny couldn't believe he was smoking that stuff. Soon, Jeff said he was ready to ride to the point but only after he smoked another joint. They jumped into the car for the moonlight ride without any consideration on whether if he was too drunk to drive. They finally made it to the point at last and Jeff started trying to make a pass at Jenny. A pass is not what Jenny wanted at all (and by a pass, I don't mean playing football.). "Perhaps my parents were right. Maybe I am too young. Boy, how could I ever, ever be so dumb?"
"A, mình sẽ không kể hết cho họ nghe. Họ sẽ không biết sự khác biệt. Có mất mát gì đâu?" Jenny xin được ở lại với bạn cô vào tối hôm đó. Cha mẹ cô không bằng lòng nhưng nói, "Thôi được rồi." Cô hào hứng chuẩn bị cho sự kiện lớn.Tuy nhiên, trong khi cô loay hoay vội vã chuẩn bị, cô bắt đầu cảm thấy có tội vì đã nói dối. Cô tự nói với bản thân để thoát khỏi tội lỗi của mình rằng cô sẽ rất vui với bánh pizza, bữa tiệc và cuộc lái xe đi dạo dưới ánh trăng. Bánh pizza thì ngon, bữa tiệc thì tuyệt nhưng đi dạo ngắm trăng thì phải chờ xem sao, vì lúc đó Jeff đã ngàngàsay. Mặc dù đã ngà ngà say, anh vẫn hôn cô và nói rằng anh ổn. Căn phòng bắt đầu đầy khói thuốc và Jeff hút 1 điếu thuốc. Jenny không thể tin được là anh lại hút thứ đó. Ngay lúc đó, Jeff bảo anh đã sẵn sàng để lái xe đi nhưng chỉ sau khi anh hút thêm điếu khác. Họ lên xe để chuẩn bị cho cuộc dạo chơi dưới trăng mà không hề để ý xem anh có quá say để lái xe không. Cuối cùng họ cũng đến được điểm cuối và Jeff bắt đầu cố gắng để tấn công Jenny. Một sự tấn công là điều Jenny không hề muốn chút nào (và sự tấn công này không phải là cú chuyền bóng trong bóng đá đâu nhé) "Có lẽ cha mẹ mình nói đúng. Có lẽ mình còn quá trẻ. Trời ơi, sao mình có thể ngu ngốc như thế này?"
Please convert these English sentences into Vietnamese.
With all of her might, she pushed Jeff away and said, "Please take me home, I don't want to stay." Jeff cranked up the engine and floored the gas pedal. In a matter of seconds they were going too fast. As Jeff drove on in a fit of wild anger, Jenny knew that her life was in danger. She begged and pleaded for him to slow down but he just got faster as they neared the town. "Just let me get home! I'll confess that I lied. I really went out for a moonlight ride." Then all of a sudden, she saw a big flash.
Với tất cả sức lực của mình, cô đẩy Jeff ra và nói, "Hãy đưa tôi về nhà, tôi không muốn ở đây." Jeff tăng số và đạp lút ga. Trong một vài giây họ phóng đi rất nhanh. Khi Jeff lái xe trong cơn giận dữ điên dại, Jenny biết sinh mạng cô đang gặp nguy hiểm. Cô nài nỉ và cầu xin anh chạy chậm lại nhưng anh còn chạy nhanh hơn khi họ gần tới thành phố. " Hãy đưa tôi về nhà! Tôi sẽ thú nhận là đã nói dối. Thực sự tôi đã đi chơi đêm." Rồi bất ngờ, cô thấy một ánh đèn pha lóe sáng .
Can you help me with the translation of these English sentences to Vietnamese?
She only remembered that everything went black all of a sudden. She felt someone remove her from the twisted rubble and cried out, "Call an ambulance! These kids are in trouble!" She heard voices but it was only a few words at best. She knew there were two cars involved in the wreck. She wondered to herself if Jeff was all right and if the people in the other car were alive. She woke up to sad faces in the hospital. "You've been in a wreck and it looks pretty bad." These voices echoed inside her head as they gently told her that Jeff was dead. They said, "Jenny, we've done all we can do. However, it looks as if we'll lose you too." "What about the people in the other car?" Jenny asked. "We're sorry Jenny. They died." Jenny prayed, "God, forgive me for what I've done. I only wanted to have just one night of fun." "Tell the families of those involved in the accident that I am sorry I've made their lives dim and I wish I could return their families to them." "Tell Mom and Dad I'm sorry I lied to them and that it's my fault so many have died. Oh nurse, won't you please tell them that for me?" The nurse stood there solemnly. She never agreed. She held Jenny's hand with tears in her eyes. And a few moments later, Jenny died. A man asked the nurse, "Why didn't you do your best to grant that girl her one last request?" She looked at the man with sadness, "Because the people in the other car were her mom and dad."
Cô chỉ nhớ rằng mọi thứ đột nhiên tối sầm lại. Cô cảm nhận có ai đó đưa cô ra từ đống đổ nát và hét lên, "Hãy gọi cấp cứu! Những đứa trẻ đang nguy kịch!" Cô nghe tiếng người nói nhưng nhiều lắm chỉ được 1 vài từ. Cô biết có 2 chiếc xe hư hỏng nặng. Cô tự hỏi không biết Jeff có ổn không và những người trong chiếc xe kia có còn sống không. Cô thức dậy nhìn thấy những khuôn mặt buồn bã trong bệnh viện. "Cô ta ở trong đống đổ nát và trông khá tệ." Những giọng nói cứ văng vẳng trong đầu cô như thể họ nói với cô rằng Jeff đã chết. Họ nói, "Jenny, chúng tôi đã làm tất cả những gì có thể. Tuy nhiên, có vẻ như chúng tôi cũng sẽ mất em". Jenny hỏi, "Còn những người trong chiếc xe kia thìsao?" "Chúng tôi rất tiếc, Jenny à. Họ chết hết rồi." Jenny cầu nguyện, "Chúa ơi, xin hãy tha thứ cho những gì con đã gây ra. Con chỉ muốn có 1 đêm vui vẻ." "Hãy nói với những gia đình liên quan trong vụ tai nạn rằng tôi xin lỗi vì đã làm cho cuộc sống của họ u tối và tôi ước gì tôi có thể trả lại mái gia đình cho họ." "Hãy nói với Cha mẹ tôi rằng tôi xin lỗi vì đã nói dối họ và do lỗi của tôi mà nhiều người phải chết. Cô y tá à, cô sẽ nói với họ dùm tôi chứ?" Cô ý tá đứng đó lặng im. Cô không hề ưng thuận. Cô cầm tay Jenny khóc. Và chỉ vài giây sau, Jenny chết. Một người đàn ông hỏi cô y tá, "Tại sao cô đã không làm hết sức mình để ban cho cô bé đó lời yêu cầu cuối cùng?" Cô buồn bã nhìn người đàn ông và nói, "Vì những người trong chiếc xe kia chính là Cha và mẹ của cô ấy."
I would like to have these sentences translated into Vietnamese.
My father had given me so much, in so many ways, and at this moment I also wanted to give something that I had to him. How about the 100-meter gold medal? It was the highest achievement that I got in my athletic. It is also the one thing I could give him to represent all the good things we did together, all the positive things that had happened to me because of him. I had never before taken any of my medals out of the bank vault where I usually kept them. But that day, on the way to the airport, I stopped at the bank to get the medal, and carefully I put it in the pocket of my suit jacket. I decided to take it to New Jersey, my home - for Dad. The day of the funeral, when our family was viewing the body for the last time, I pulled out the medal and respectfully placed in my father's hand. My mother asked me if I was sure I wanted to bury the medal, and I was. It would be my father's as I was going to be with him forever. "But I'm going to get another one," I told my mother. Turning to my father, I said, "Don't worry. I'm going to get another one." That was a promise - to myself and to Dad as well. He was lying there so peacefully, his hands resting on his chest in release. When I placed the medal in his hand, it neatly fit perfectly. Yes, it really belonged to my father from that day on.
Cha đã cho tôi rất nhiều thứ, bằng nhiều cách, và bây giờ tôi cũng muốn dành tặng cha một thứ gì đó mà tôi có được. Tấm huy chương vàng môn chạy cự ly 100 mét có được không nhỉ? Đó là thành tích cao nhất mà tôi đạt được trong sự nghiệp điền kinh của mình. Đó cũng là thứ duy nhất tôi có thể dành tặng cha để tượng trưng cho tất cả những điều tốt đẹp mà hai cha con tôi đã có với nhau, tượng trưng cho tất cả những gì tốt đẹp mà tôi có được nhờ cha mình. Trước đây, tôi chưa bao giờ lấy bất kỳ tấm huy chương nào của mình ra khỏi két sắt ở ngân hàng nơi tôi vẫn thường cất giữ. Nhưng ngày hôm ấy, trên đường đến sân bay, tôi đã ghé vào ngân hàng để lấy tấm huy chương đó, rồi cẩn thận cất nó vào trong túi áo khoác. Tôi quyết định mang nóvề nhà ở New Jersey để dâng tặng cha. Ngày tang lễ, khi cả nhà đứng nhìn di hài của cha lần cuối, tôi lấy ra tấm huy chương và kính cẩn đặt vào bàn tay cha. Mẹ hỏi rằng liệu tôi có chắc là muốn chôn đi tấm huy chương ấy hay không và tôi trả lời mẹ rằng tôi muốn như vậy. Nó sẽ vĩnh viễn thuộc về cha tôi, như là có tôi luôn kề cận bên cha vậy. Tôi nói với mẹ: "Rồi con sẽ giành được một tấm huy chương khác, mẹ ạ!". Quay sang nhìn di hài của cha, tôi nói: "Cha hãy an tâm. Con sẽ đạt được một tấm huy chương khác". Đó là một lời hứa – với chính bản thân tôi và với cả cha nữa. Người nằm đó, thật bình yên và thanh thản, với đôi tay đặt trước ngực, thật bình an. Lúc tôi đặt tấm huy chương vào tay cha, nó nằm gọn trong bàn tay ấy, thật vừa khít. Vâng, nó đã thực sự thuộc về cha tôi kể từ hôm đó.
I'm looking for someone to translate these sentences into Vietnamese.
Heaven and hell
Thiên đàng và địa ngục
I'm looking for a Vietnamese translation of these sentences.
A holy man was having a conversation with the Lord one day and said, 'Lord, I would like to know what Heaven and Hell are like.' The Lord led the holy man to two doors. He opened one of the doors and the holy man looked in. In the middle of the room was a large round table. In the middle of the table was a large pot of stew, which smelled delicious and made the holy man's mouth water. The people sitting around the table were thin and sickly. They appeared to be famished. They were holding spoons with very long handles that were strapped to their arms and each found it possible to reach into the pot of stew and take a spoonful. But because the handle was longer than their arms, they could not get the spoons back into their mouths. The holy man shuddered at the sight of their misery and suffering. The Lord said, 'You have seen Hell.' They went to the next room and opened the door. It was exactly the same as the first one. There was the large round table with the large pot of stew which made the holy man's mouth water. The people were equipped with the same long-handled spoons, but here the people were well nourished and plump, laughing and talking. The holy man said, 'I don't understand.' 'It is simple,' said the Lord. 'It requires but one skill. You see they have learned to feed each other, while the greedy think only of themselves.'
Một người sùng đạo nói chuyện với Chúa. "Thưa Chúa, con rất muốn biết Thiên đường và Địa ngục như thế nào". Chúa dẫn anh ta vào hai cái cửa... Chúa mở cái cửa đầu tiên, người đàn ông nhìn vào. Ở giữa phòng có một cái bàn tròn lớn. Ở giữa bàn có một nồi nước hầm bốc khói nghi ngút trông thật ngon và hấp dẫn, khiến cho người đàn ông nhỏ nước miếng. Nhưng mọi người ngồi xung quanh bàn thì lại gầy guộc, xanh xao, cứ như là bị bỏ đói từ lâu vậy. Mỗi người ai cũng đang cầm chiếc thìa có cán dài được buộc vào cánh tay. Họ có thể với chiếc thìa dài tới nồi nước hầm để múc, nhưng vì nó dài quá, và bị buộc vào tay, nên họ không thể cho vào miệng được. Người đàn ông rùng mình trước cảnh tượng khổ sở như vậy. Chúa nói: "Đấy, con vừa nhìn thấy Địa ngục". Tiếp tục họ bước sang phòng thứ hai và mở cửa. Mọi thứ xung quanh đều giống phòng đầu tiên. Có một cái bàn tròn lớn với một nồi nước hầm hấp dẫn làm cho người đàn ông nhỏ nước miếng. Mọi người xung quanh cũng cầm cái thìa có cán dài, nhưng mọi người ở đây trông thật béo tốt, no nê, mãn nguyện, cười nói rôm rả. Người đàn ông thắc mắc: "Con không hiểu, thưa Chúa". "Đơn giản thôi" - Chúa đáp - "Ở nơi này, mọi người biết cách đút cho nhau ăn".
I would like to have these sentences translated into Vietnamese.
Roses for Mama
Đóa hồng dâng mẹ
I'm in need of a Vietnamese translation for these English sentences.
A man stopped at a flower shop to order some flowers to be wired to his mother who lived two hundred miles away. As he got out of his car he noticed a young girl sitting on the curb sobbing. He asked her what was wrong and she replied, "I wanted to buy a red rose for my mother." "But I only have seventy-five cents, and a rose costs two dollars." The man smiled and said, "Come on in with me, I'll buy you a rose." He bought the little girl her rose and ordered his own mother's flowers. As they were leaving he offered the girl a ride home. She said, "Yes, please! you can take me to my mother." She directed him to a cemetery, where she placed the rose on a freshly dug grave. The man returned to the flower shop, cancelled the wire order, picked up a bouquet and drove the two hundred miles to his mother's house.
Một người đàn ông ghé vào một tiệm hoa để đặt mua vài bông hoa gửi qua đường bưu điện tặng cho mẹ ông sống cách đó 200 dặm. Khi vừa bước xuống xe, ông ấy chợt thấy một cô bé ngồi bên vệ đường khóc thút thít. Ông hỏi cô bé xem có chuyện gì xảy ra và và cô bé trả lời, "Cháu muốn mua một bông hồng đỏ để tặng mẹ cháu" "Nhưng cháu chỉ có 75 xu mà một bông hồng tới 2 đô-la." Người đàn ông mỉm cười và nói, "Hãy đi với chú nào, chú sẽ mua cho cháu một bông hồng". Ông mua cho cô bé một bông hồng và đặt hoa cho mẹ của mình. Khi rời khỏi tiệm hoa ông đề nghị đưa cô bé về nhà. Cô bé nói, "Dạ, cảm ơn chú ! Chú làm ơn đưa cháu đến chỗ mẹ cháu nhé." Cô bé dẫn đường cho ông ấy đến một nghĩa trang, nơi cô đặt bông hồng lên một ngôi mộ mới đắp. Người đàn ông ấy quay trở lại tiệm hoa huỷ đơn đặt hàng gửi qua bưu đện, cầm bó hoa trên tay và lái 200 dặm về nhà mẹ của ông.
I'm looking for someone to translate these sentences into Vietnamese.
It's never too late
Không bao giờ là quá muộn
I need help with translating these English sentences into Vietnamese.
Several years ago, while attending a communications course, I experienced a most unusual teaching process. The instructor asked us to list anything in our past that we felt ashamed of, guilty about, regretted, or incomplete about. The next week he invited participants to read their lists aloud. This seemed like a very private process, but there's always some brave soul in the crowd who will volunteer. As people read their lists, mine grew longer. After three weeks, I had 101 items on my list. The instructor then suggested that we find ways to make amends, apologize to people, or take some action to right any wrongdoing. I was seriously wondering how this could ever improve my communications, having visions of alienating just about everyone from my life. The next week, the man next to me raised his hand and volunteered this story: "While making my list, I remembered an incident from high school. I grew up in a small town in Iowa. There was a sheriff in town that none of us kids liked. One night, my two buddies and I decided to play a trick on Sheriff Brown. After drinking a few beers, we found a can of red paint, climbed the public water tank in the midle of town, and wrote, on the tank, in bright red letters: Sheriff Brown is an s.o.b. The next day, the town arose to see our glorious sign. Within two hours, Sheriff Brown had my two pals and me in his office. My friends confessed and I lied, denying the truth. No one ever found out.
Cách đây nhiều năm, khi tham dự khóa học về giao tiếp, tôi đã biết đến một phương pháp giảng dạy khác thường. Giảng viên yêu cầu chúng tôi liệt kê ra tất cả những việc mà chúng tôi vẫn còn thấy hổ thẹn, day dứt, hối tiếc hoặc chưa hoàn tất. Qua tuần tiếp theo, giảng viên mời các học viên đọc to bảng danh sách của mình. Vì đây là những điều rất riêng tư của mỗi cá nhân, nên những ai can đảm lắm mới tình nguyện đọc trước cả lớp. Khi mọi người đọc bảng danh sách của họ thì những điều ân hận của tôi lại dài ra thêm, đến hơn 101 việc chỉ sau ba tuần. Tiếp theo, giảng viên gợi ý để chúng tôi tìm giải pháp cho những hành động đó, hoặc xin lỗi hoặc sửa sai để chuộc lại lỗi lầm. Thật tình, tôi rất phân vân, tự hỏi liệu cách này có giúp cải thiện những mối quan hệ của mình không, khi nghĩ đến cảnh bị mọi người lạnh nhạt xa lánh. Sang tuần tiếp theo, người ngồi cạnh tôi xung phong kể lại câu chuyện như sau: "Khi đang ghi ra những lỗi lầm của mình thì tôi chợt nhớ đến một sự việc xảy ra khi còn học trung học tại một thị trấn nhỏ thuộc bang Iowa. Ngày ấy, chúng tôi chúa ghét Brown, viên cảnh sát trưởng nơi chúng tôi sinh sống. Một đêm, tôi cùng hai đứa bạn quyết định chơi khăm ông ta. Sau khi uống vài ly bia trong quán, chúng tôi tìm một hộp sơn đỏ, trèo lên bồn chứa nước công cộng ngay giữa phố, rồi viết lên đó hàng chữ lớn đỏ chói: "Cảnh sát Brown là đồ khốn!" Ngày hôm sau, hàng chữ chói chang ấy nổi bật dưới ánh mặt trời, đập ngay vào mắt mọi người. Chưa đầy hai tiếng đồng hồ, ông Brown đã triệu được cả ba chúng tôi lên đồn cảnh sát. Hai người bạn tôi thú nhận, nhưng tôi thì chối phăng. Chẳng ai phát hiện ra điều đó cả.
I'm looking for someone to translate these sentences into Vietnamese.
Nearly 20 years later, Sheriff Brown's name appears on my list. I didn't even know if he was still alive. Last weekend, I dialed information in my hometown back in Iowa. Sure enough, there was a Roger Brown still listed. I dialed his number. After a few rings, I heard: "Hello?" I said: "Sheriff Brown?" Pause. "Yup." "Well, this is Jimmy Calkins. And I want you to know that I did it." Pause. "I knew it!" he yelled back. We had a good laugh and a lively discussion. His closing words were: "Jimmy, I always felt badly for you because your buddies got it off their chest, and I knew you were carrying it around all these years. I want to thank you for calling me... for your sake."
Gần hai mươi năm sau, cái tên 'Cảnh sát trưởng Brown' chợt hiện lên trong danh sách của tôi. Tôi không biết giờ ông ấy có còn sống hay không. Cuối tuần vừa rồi, tôi gọi điện về phòng cung cấp thông tin ở thị trấn ở Iowa, hỏi thăm thông tin và được biết có một người tên là Roger Brown. Tôi gọi theo số điện thoại họ cho. Sau vài hồi chuông, đầu dây bên kia nhấc máy: "Xin chào!" tôi mở lời: "Chú là Cảnh sát trưởng Brown phải không ạ?" "Phải!" tôi nghe sau vài giây im lặng. "Cháu là Jimmy Calkins đây. Cháu muốn chú biết rằng chính cháu đã viết bậy lên bồn nước dạo ấy."Đầu dây bên kia lại im lặng, rồi bỗng ông nói như hét lên: "Tôi biết mà!" Và rồi chúng tôi cùng cười to thật thoải mái và trò chuyện vui vẻ. Trước khi gác máy, ông Brown bảo tôi: "Jimmy à, hồi ấy tôi cảm thấy thương thay cho cậu. Bởi vì hai bạn cậu đã trút bỏ được gánh nặng do sự bồng bột của mình, còn cậu vẫn phải mang nó theo suốt những năm tháng vừa qua. Tôi cảm ơn cậu đã gọi điện cho tôi... vì sự thanh thản của chính bản thân cậu."
I'm looking for a Vietnamese translation of these sentences.
Jimmy inspired me to clear up all 101 items on my list. It took me almost two years, but became the springboard and true inspiration for my career as a conflict mediator. No matter how difficult the conflict, crisis or situation, I always remember that it's never too late to clear up the past and begin resolution.
Câu chuyện của Jimmy giúp tôi can đảm "gột sạch" tất cả 101 lỗi lầm của mình. Tuy phải mất gần hai năm, nhưng bù lại, điều đó đã trở thành điểm khởi đầu và là nguồn cảm hứng thực sự thôi thúc tôi chọn cho mình một công việc chuyên hòa giải mâu thuẫn. Cho dù mâu thuẫn, bất hòa haytình huống có khó khăn đến đâu đi nữa, lúc nào tôi cũng luôn tâm niệm rằng: Chẳng bao giờ là quá muộn để gột sạch quá khứ và bắt đầu làm lại.
Could you translate these sentences from English to Vietnamese?
Great value in Disaster
Giátrị vĩ đại của một tai nạn
Could you convert these sentences from English to Vietnamese for me?
An afternoon in the park
Một buổi chiều trong công viên
Please translate these English sentences into Vietnamese for me.
When he had gone about three blocks, he met an old woman. She was sitting in the park just staring at some pigeons. The boy sat down next to her and opened his suitcase. He was about to take a drink from his root beer when he noticed that the old lady looked hungry, so he offered her a Twinkie. She gratefully accepted it and smiled at him. Her smile was so pretty that the boy wanted to see it again, so he offered her a root beer. Once again she smiled at him. The boy was delighted! They sat there all afternoon eating and smiling, but they never said a word. As it began to grow dark, the boy realized how tired he was and he got up to leave. He turned around, ran back to the old woman and gave her a hug. She gave him her biggest smile ever. When the boy opened the door to his own house a short time later, his mother was surprised by the look of joy on his face. She asked him, "What did you do today that made you so happy?" He replied, "I had lunch with God. You know what? She's got the most beautiful smile I've ever seen!" Meanwhile, the old woman, also radiant with joy, returned to her home. Her son was stunned by the look of peace on her face and he asked, "Mother, what did you do today that made you so happy?" She replied, "I ate Twinkies in the park with God. You know, he's much younger than I expected."
Có một cậu bé muốn gặp Thượng Đế. Cậu biết rằng phải đi cả một quãng đường rất dài mới có thể đến được nơi ở của Người, nên gói ghém mang theo bên mình những chiếc bánh Twinkie và cả sáu hộp nước trái cây, rồi bắt đầu cuộc hành trình. Khi đi qua được khoảng ba dãy phố, cậu gặp một bà lão. Bà đang ngồi trong công viên, lặng nhìn đàn chim bồ câu đang ríu rít trước mặt. Cậu bé ngồi xuống cạnh bà và mở túi xách của mình ra. Cậu định uống một hộp nước trái cây, nhưng chợt để ý thấy bà lão có vẻ đói, nên không ngần ngại mời bà một chiếc bánh. Bà cầm lấy và mỉm cười với cậu. Nụ cười của bà tươi tắn đến nỗi cậu bé muốn trông thấy một lần nữa, thế nên cậu mời bà một hộp nước trái cây. Bà lại cười với cậu. Cậu bé cảm thấy rất vui sướng! Cả buổi chiều, hai bà cháu cứ ngồi bên nhau, vừa ăn, vừa mỉm cười, nhưng không nói với nhau lời nào. Khi trời bắt đầu sẩm tối, cậu bé cảm thấy mệt nên đứng dậy ra về. Đi được một lúc, cậu quay trở lại, chạy đến bên bà và ôm bà. Bà cười với cậu - một nụ cười đẹp nhất mà cậu từng được thấy. Khi cậu bé bước vào nhà, mẹ cậu rất đỗi ngạc nhiên vì nét mặt tươi tắn hân hoan của cậu. Bà hỏi: "Hôm nay có chuyện gì mà trông con vui thế?" Cậu trả lời: "Con đã ăn trưa với Thượng Đế mẹ à! Mẹ biết không, Người có nụ cười tuyệt nhất mà con từng thấy!" Trong khi đó, bà lão cũng về tới nhà, khuôn mặt rạng rỡ niềm vui.Con trai bà lấy làm ngạc nhiên trước niềm hạnh phúc rạng ngời trên gương mặt bà: "Mẹ ơi, hôm nay có chuyện gì khiến mẹ vui đến thế?" Bà hân hoan: "Mẹ ăn bánh Twinkie trong công viên với Thượng Đế. Con biết không, Người còn bé hơn là mẹ nghĩ cơ đấy!"
Please assist me in translating these sentences into Vietnamese.
As Mahatma Gandhi stepped aboard a train one day, one of his shoes slipped off and landed on the track. He was unable to retrieve it as the train was moving. To the amazement of his companions, Gandhi calmly took off his other shoe and threw it back along the track to land close to the first. Asked by a fellow passenger why he did so, Gandhi smiled. "The poor man who finds the shoe lying on the track," he replied, "will now have a pair he can use."
Có lần trong lúc vội bước lên xe lửa, Mahatma Gandhi đã đánh rơi một chiếc giầy xuống đường ray và không thể nào lấy lên được vì xe lửa đã lăn bánh. Ông bèn cởi ngay chiếc giầy còn lại và ném ra xa xuống đường ray, gần chỗ chiếc giầy đã rớt, trước sự ngạc nhiên của những người trên xe. Một hành khách không nén được thắc mắc đã lên tiếng hỏi ông tại sao lại làm như vậy. Gandhi mỉm cười và đáp: "Khi một người nghèo nào đó tìm thấy chiếc giầy thứ nhất trên đường ray thì họ cũng sẽ tìm thấy chiếc thứ hai, và như vậy họ sẽ có đủ cả đôi để mang".
Please transform these English sentences into Vietnamese.
Give then receive
Cho đi rồi sẽ nhận về
Can you help me with the translation of these English sentences to Vietnamese?
When I was working as a disc jockey in Columbus, Ohio, I used to stop at a local hospital on my way home. I would walk into different people's rooms and read Scripture to them or talk to them. It was a way of forgetting about my problems and being thankful to God. It made a difference in the lives of those I visited. One time, it literally saved my life. One night, I came home at about two o'clock in the morning. As I began to open my door, a man came out from behind the side of my house and said. "Are you Les Brown?" I said "Yes, sir." He said, "I was sent here to carry out a contract on you." "Me? Why?" I asked. He said, "Well, there's a promoter that's very upset about the money you cost him when you said that the entertainers who were coming to town were not the original real group." "Are you going to do something to me?" I asked. He said, "No - I'll tell you why. My mother was in Grant Hospital and she wrote me about how you came in one day and sat down and talked to her and read Scripture to her. She was so impressed that this morning disc jockey, who didn't know her, came in and did that. She wrote me about you when I was in the Ohio penitentiary. I was impressed with that and I've always wanted to meet you. When I heard the word out on the street that somebody wanted to knock you off," he said, "I told them about you, about thoughts of my mother and others patients in the hospital. After listening to me, they accepted to leave out everything and let you peaceful."
Khi đang làm công việc giới thiệu các ca khúc trên đài phát thanh ở Columbus, Ohio, tôi thường hay ghé vào một bệnh viện địa phương trên đường về nhà. Tôi vào các phòng bệnh để đọc Kinh Thánh cho các bệnh nhân nghe hoặc trò chuyện cùng họ. Đó thật sự là một giải pháp hữu hiệu để tôi có thể quên đi những rắc rối của mình, và cũng là cách để tôi cảm ơn Thượng Đế. Chính điều tôi làm đã mang lại nhiều biến chuyển cho các bệnh nhân mà tôi đến thăm. Và có một lần, nó cũng đã cứu mạng tôi. Hôm đó, tôi trở về nhà lúc hai giờ sáng. Khi tôi vừa mới mở cửa, một người đàn ông chợt bước ra từ bên hông nhà tôi và hỏi: "Chị là Les Brown phải không?" "Vâng, đúng thế!" tôi trả lời. "Tôi đến đây gặp chị vì một thỏa thuận có liên quan đến chị!" ông ta nói. "Liên quan đến tôi à? Tại sao cơ chứ?" "Một nhà tài trợ đang rất tức tối vì số tiền hắn đã phải chịu thiệt khi chị tuyên bố rằng nhóm nhạc đến diễn ở đây không phải là nhóm thật!" "Vậy anh định làm gì với tôi bây giờ?" tôi hỏi. "Không đâu!" người đàn ông phân bua. "Tôi sẽ nói cho chị nghe tại sao. Mẹ tôi đang điều trị ở bệnh viện Grant. Bà từng kể cho tôi nghe rằng chị đã đến thăm, trò chuyện và đọc Kinh Thánh cho bà nghe. Bà đã rất cảm động về một người vẫn thường giới thiệu ca khúc mỗi sáng trên đài phát thanh, người không hề biết bàlà ai, mà lại đến thăm bà. Bà đã viết thư kể tôi nghe về chị khi tôi còn đang ở trại giam ở Ohio. Tôi cảm thấy vô cùng ấn tượng về những điều chị đã làm và rất muốn được gặp chị. Khi tôi tình cờ nghe được rằng có một người nào đó muốn ám hại chị, tôi đã kể lại tất cả về chị, về suy nghĩ của mẹ tôi và của những bệnh nhân trong bệnh viện. Sau khi nghe xong, họ đã đồng ý bỏ qua mọi chuyện và để cho chị được yên."
Please convert these English sentences into Vietnamese.
A story tells that two friends were walking through the desert. During some point of the journey they had an argument, and one friend slapped the other one in the face. The one who got slapped was hurt, but without saying anything, wrote in the sand: "TODAY MY BEST FRIEND SLAPPED ME IN THE FACE." They kept on walking until they found an oasis, where they decided to take a bath. The one, who had been slapped, got stuck in the mire and started drowning, but the friend saved him. After the friend recovered from the near drowning, he wrote on a stone: "TODAY MY BEST FRIEND SAVED MY LIFE." The friend who had slapped and saved his best friend asked him, "After I hurt you, you wrote in the sand and now, you write on a stone, why?" The other friend replied: "When someone hurts us, we should write it down in sand where winds of forgiveness can erase it away. But, when someone does something good for us, we must engrave it in stone where no wind can ever erase it."
Có chuyện kể rằng có hai người bạn đang đi qua một sa mạc. Trong suốt cuộc hành trình, họ có vài cuộc cãi vã, và một người đã tát vào mặt người kia. Người bị tát rất đau, nhưng không nói một lời, viết lên cát rằng: "HÔM NAY NGƯỜI BẠN TỐT NHẤT CỦA TÔI ĐÃ TÁT VÀO MẶT TÔI." Họ tiếp tục đi cho đến khi tìm thấy một ốc đảo, ở đó họ quyết định tắm. Người bị tát, bị mắc kẹt ở một bãi lầy và bắt đầu bị lún sâu, nhưng người bạn kia đã cứu anh ta. Sau khi hoàn hồn vì suýt bị chìm sâu, anh ta viết lên một tảng đá: 'HÔM NAY NGƯỜI BẠN TỐT NHẤT CỦA TÔI ĐÃ CỨU SỐNG TÔI". Người bạn, người đã tát và cứu sống anh ta, hỏi: "Sau khi tớ đánh cậu, cậu viết lên cát và giờ, cậu viết lên một hòn đá, tại sao thế?" Anh ấy trả lời: "Khi ai đó làm chúng ta tổn thương, chúng ta nên viết nó lên cát và cơn gió của sự tha thứ sẽ xoá mờ nó. Nhưng, khi có ai đó làm điều gì tốt đẹp cho chúng ta, chúng ta phải khắc nó vào đá để không cơn gió nào có thể xoá nó đi được."
Could you help me translate these sentences into Vietnamese?
Two Frogs
Hai con ếch
Please assist me in translating these sentences into Vietnamese.
A group of frogs were traveling through the woods, and two of them fell into a deep pit. When the other frogs saw how deep the pit was, they told the two frogs that they were as good as dead. The two frogs ignored the comments and tried to jump up out of the pit with all their might. The other frogs kept telling them to stop, that they were as good as dead. Finally, one of the frogs took heed to what the other frogs were saying and gave up. He fell down and died.The other frog continued to jump as hard as he could. Once again, the crowd of frogs yelled at him to stop the pain and just die. He jumped even harder and finally made it out. When he got out, the other frogs said, "Did you not hear us?" The frog explained to them that he was deaf. He thought they were encouraging him the entire time.
Có một bầy ếch đang đi qua những cánh rừng, thì có hai con ếch rơi xuống một cái hố sau. Khi những con ếch khác nhìn thấy cái hố sâu như thế nào, chúng nói với hai con ếch kia rằng coi như chúng chết chắc. Hai con ếch lờ đi những lời đó và cố gắng nhảy ra khỏi cái hố với tất cả sức lực của mình. Những con ếch khác liên tục bảo chúng dừng lại, bảo rằng chúng hãy chịu chết đi. Cuối cùng, một trong số hai con ếch đó nghe lời những con ếch nói và bỏ cuộc, nó rơi xuống và chết. Con ếch còn lại tiếp tục nhảy hết sức. Một lần nữa, những con ếch ở trên mắng nhiếc nó, bảo nó dừng lại và chấp nhận số phận đi. Nó thậm chí còn nhảy cao hơn trước và cuối cùng đã lên được mặt đất. Khi nó thoát khỏi cái hố, những con ếch khác hỏi: "Cậu không nghe thấy chúng tớ nói gì ư?" Con ếch nói với chúng rằng nó bị điếc. Nó tưởng rằng chúng đang cổ vũ cho nó suốt thời gian nó ở dưới cái hố.
I'm looking for someone to translate these sentences into Vietnamese.
Laughter Is The Best Medicine
Nụ cười là liều thuốc tốt nhất
Please convert these English sentences into Vietnamese.
Once there lived a grumpy king. He never used to laugh nor allow anyone in the kingdom to laugh. One day, a small boy couldn't control his laughter. Later, scared of the punishment, he thought of a plan. He wrote a funny story and converted it into a drama. Then he went to the palace and asked the king, "May I present my drama to you?" the king let him do it. Then the boy started the play. In the end, he came to the funniest part of the story which made the king laugh. All people present in the court were amazed. The king then allowed everybody to laugh. Everyone then lived happily thereafter.
Xưa kia có một ông vua rất cáu kỉnh. Ông ta không bao giờ cười hoặc cho phép mọi người trong vương quốc được cười. Một ngày kia, một cậu bé không thể nén được tiếng cười của mình. Sau đó, vì sợ bị trừng phạt, cậu bé nghĩ ra một kế hoạch. Cậu viết một câu chuyện cười và chuyển nó thành một vở kịch. Rồi cậu bé đi đến cung điện và hỏi nhà vua: "Liệu cháu có thể trình diễn vở kịch của mình với Đức vua được không ạ?" và nhà vua đã cho phép. Cậu bé bắt đầu vở kịch. Đến cuối, cậu diễn phần buồn cười nhất của câu chuyện và làm nhà vua bật cười. Tất cả những người có mặt ở đó đều rất ngạc nhiên. Nhà vua đã cho phép mọi người được cười. Mọi người sống hạnh phúc từ đó về sau.
Can you provide a Vietnamese translation for these English sentences?
Once a fox and a crane became friends. So, the fox invited the crane to dinner. The crane accepted the invitation and reached the fox's place at sunset. The fox had prepared soup for his mate. But as we all know that foxes are cunning by nature, he served the soup in flat dishes. So, he himself lapped the crane's share with his tongue enjoying its relish a lot. But the crane could not enjoy it at all with his long beak and had to get back home hungry. The shrewd fox felt extremely amused. After few days, the crane invited the fox to dine in with him. The fox reached his place well in time. The crane gave him a warm welcome and served the soup in a jug with a long and narrow neck. So, the crane enjoyed the soup with great relish using his long beak. The fox's mouth couldn't reach the soup through the narrow neck of the jug. He had to return home hungry. Now he realized that he had been repaid for his behaviour with the crane.
Ngày xưa có một con cáo và một con sếu làm bạn với nhau. Vì thế một lần con cáo mời con sếu đến ăn cơm tối. Con sếu nhận lời mời đó và đến chỗ con cáo vào lúc mặt trời lặn. Con cáo đã chuẩn bị canh để mời bạn. Nhưng loài cáo vốn tinh ranh, nó bày canh ra những cái đĩa phẳng. Vì thế mà nó thoải mái liếm cái đĩa đựng phần của con sếu với cái lưỡi dài của mình. Nhưng con sếu thìkhông thích thú chút nào bởi cái mỏ dài của nó và phải ôm bụng đói về nhà. Con sói cảm thấy cực kì thoả mãn. Sau đó vài ngày, con sếu lại mời con cáo đến ăn cơm với mình. Con cáo đến nhà con sếu vừa kịp giờ ăn. Con sếu chào đón nó và bày ra món canh đựng trong một cái bình có cổ dài và hẹp. Vì thế, con sếu thưởng thức món canh rất thong dong nhờ vào cái mỏ dài của nó. Mõm con cáo thì không thể chạm tới món canh qua cái cổ bình hẹp ấy. Nó phải về nhà với cái bụng đói meo. Giờ thì nó nhận ra nó phải trả giá cho hành vi của mình đối với con sếu.
I require the translation of these English sentences into Vietnamese.
Once a teacher had a disciple who used to live in a hermitage. One day, the disciple was going somewhere. He hadn't gone too far when suddenly it started raining cats and dogs. He returned and told this problem to his teacher. The teacher said, "You should have faith in god. He will save you from all problems." The disciple obeyed and resumed his journey. He kept reciting the name of god and cleared all the hurdles. Next day, the teacher had to go on the same route. When he reached a deep drain, he doubted whether god would save him or not. The teacher got drowned. Thus, doubt drowns you and faith saves you.
Một người thầy có một học trò từng sống ở một tu viện. Một ngày, người học trò đi đâu đó. Cậu ta chưa đi được xa lắm thì bỗng nhiên trời đổ mưa rất to. Cậu ta quay về và kể lại chuyện đó với người thầy của mình. Người thầy nói rằng: "Con nên có đức tin vào Chúa, Người sẽ giúp con khỏi mọi rắc rối." Người học trò nghe lời và tiếp tục hành trình của mình. Cậu ta liên tục nhẩm tên Chúa và vượt qua mọi trở ngại. Ngày tiếp theo, người thầy phải đi qua cùng con đường đó. Khi ông ta đến một rãnh nước rất sâu, ông ta nghi ngờ liệu Chúa có cứu ông ta hay không. Cuối cùng ông ta đã bị chìm. Vì thế, nghi ngờ sẽ nhấn chìm ta còn đức tin thì cứu sống chúng ta.
Can you provide a Vietnamese translation for these English sentences?
Once there was a big pool near a village. The villagers used the water of the pool for drinking and for other purposes also. The pool was abounded with fish. Once a fisherman went fishing to the pool. He cast his net into the pool and sat down. But he was very impatient. So, he tied a long string to a small stone. Then putting it into the pool, he began to stir the water to drive more fish into his net. A villager saw him do so and asked him not to make the water muddy. But the fisherman didn't listen to him and went on beating the water and making it dirty. So, the villagers brought some companions armed with weapons. Seeing them, the fisherman got scared. He drew out his stone and apologized.
Xưa kia có một cái hồ lớn ở gần một ngôi làng. Dân làng dùng nước ở hồ để uống và các mục đích khác nữa. Trong hồ có rất nhiều cá. Có một ngư dân đến câu cá ở hồ. Ông ta quăng lưới xuống hồ rồi ngồi xuống. Nhưng ông ta là người thiếu kiên nhẫn. Vì thế ông ta buộc một sợi dây dài vào một cục đá nhỏ. Rồi ông ta quăng lưới và khuấy nước để dụ cá vào lưới của ông ấy. Một người dân làng nhìn thấy ông ta làm như thế và bảo ông ta không được làm nước trong hồ trở nên đục ngầu. Nhưng người ngư dân không thèm nghe và tiếp tục khuấy nước lên. Vì thế những người dân làng kéo nhau đến cùng với vũ khí. Nhìn thấy thế, người ngư dân trở nên sợ hãi. Ông ta kéo cục đá lên và xin lỗi mọi người.
Can you provide a Vietnamese translation for these English sentences?
Whenever I'm disappointed with my spot in life, I stop and think about little Jamie Scott. Jamie was trying out for a part in a school play. His mother told me that he'd set his heart on being in it, though she feared he would not be chosen. On the day the parts were awarded, I went with her to collect him after school. Jamie rushed up to her, eyes shining with pride and excitement. "Guess what, Mum," he shouted, and then said those words that remain a lesson to me: "I've been chosen to clap and cheer."
Mỗi lần gặp thất bại trong cuộc sống, tôi lại nghĩ ngay đến câu chuyện của cậu bé Jamie Scott. Ngày đó, Jamie đang thử diễn một vai trong vở kịch của trường. Mẹ cậu bé nói với tôi rằng em đã đặt hết tâm huyết vào vai diễn thử này, mặc dầu trong thâm tâm bà lo sợ con trai mình sẽ không được chọn. Đến ngày nhà trường quyết định chọn vai diễn, tôi theo bà đến trường để đón Jamie sau giờ tan học. Vừa nhìn thấy mẹ, Jamie chạy vội ngay đến, đôi mắt sáng long lanh ngập tràn hãnh diện và thích thú: "Mẹ ơi, mẹ đoán thử xem nào?", cậu bé la toáng lên rồi nói luôn câu trả lời mà sau này trở thành bài học cho tôi: "Con được cô chọn là người vỗ tay và cỗ vũ, mẹ ạ!"
I require the translation of these English sentences into Vietnamese.
One day a wolf found a sheepskin. He covered himself with the sheepskin and got into a flock of sheep grazing in a field. He thought, "The shepherd will shut the sheep in the pen after sunset. At night I will run away with a fat sheep and eat it." All went well till the shepherd shut the sheep in the pen and left. The wolf waited patiently for the night to advance and grow darker. But then an unexpected thing happened. One of the servants of the shepherd entered the pen. His master had sent him to bring a fat sheep for supper. As luck would have it, the servant picked up the wolf dressed in the sheepskin. That night the shepherd and his guests had the wolf for supper.
Một ngày kia, có một con cáo tìm thấy một tấm da cừu. Nó lấy tấm da cừu khoác lên mình và trà trộn vào một đàn cừu đang gặm cỏ trên đồng. Nó nghĩ bụng: "Người chăn cừu sẽ nhốt lũ cừu vào chuồng sau khi mặt trời lặn. Đêm đến ta sẽ mang theo một con cừu thật béo đi và ăn thịt nó." Mọi chuyện đều tốt đẹp đến khi người chăn cừu nhốt đàn cừu vào chuồng và bỏ đi. Con sói kiên nhẫn chờ đợi màn đêm buông xuống. Nhưng rồi có một chuyện không ngờ tới đã xảy ra. Một người hầu của người chăn cừu đã đến chuồng nhốt cừu. Chủ nhân của anh ta đã sai anh ta mang về một con cừu béo để làm bữa ăn nhẹ. Đen đủi thay, người hầu đã chọn con cáo trong tấm da cừu. Thế là đêm hôm đó, người chăn cừu và khách của ông ta đã có thịt sói làm bữa ăn nhẹ.
I would like to have these sentences translated into Vietnamese.
One day a young man was standing in the middle of the town proclaiming that he had the most beautiful heart in the whole valley. A large crowd gathered and they all admired his heart for it was perfect. There was not a mark or a flaw in it. Yes, they all agreed it truly was the most beautiful heart they had ever seen. The young man was very proud and boasted more loudly about his beautiful heart. Suddenly, an old man appeared at the front of the crowd and said "Why your heart is not nearly as beautiful as mine." The crowd and the young man looked at the old man's heart. It was beating strongly, but full of scars, it had places where pieces had been removed and other pieces put in, but they didn't fit quite right and there were several jagged edges. In fact, in some places there were deep gouges where whole pieces were missing. The people stared - how can he say his heart is more beautiful, they thought? The young man looked at the old man's heart and saw its state and laughed. "You must be joking," he said. "Compare your heart with mine, mine isperfect and yours is a mess of scars and tears." "Yes," said the old man, "Yours is perfect looking but I would never trade with you. You see, every scar represents a person to whom I have given my love. I tear out a piece of my heart and give it to them, and often they give me a piece of their heart which fits into the empty place in my heart. But, because the pieces aren't exact, I have some rough edges, which I cherish, because they remind me of the love we shared. Sometimes I have given pieces of my heart away, and the other person hasn't returned a piece of his heart to me. These are the empty gouges - giving love is taking a chance. Although these gouges are painful, they stay open, reminding me of the love I have for these people, I hope someday they may return and fill the space I have waiting. So now do you see what true beauty is?" The young man stood silently with tears running down his cheeks. He walked up to the old man, reached into his perfect young and beautiful heart, and ripped a piece out. He offered it to the old man with trembling hands. The old man took his offering, placed it in his heart and then took a piece from his old scarred heart and placed it in the wound in the young man's heart. It fit, but not perfectly, as there were some jagged edges. The young man looked at his heart, not perfect anymore but more beautiful than ever, since love from the old man's heart flowed into his. They embraced and walked away side by side. How sad it must be to go through life with a whole heart.
Có một chàng thanh niên đứng giữa thị trấn và tuyên bố mình có trái tim đẹp nhất vì chẳng hề có một tì vết hay rạn nứt nào. Đám đông đều đồng ý đó là trái tim đẹp nhất mà họ từng thấy. Bỗng một cụ già xuất hiện và nói: "Trái tim của anh không đẹp bằng trái tim tôi!". Chàng trai cùng đám đông ngắm nhìn trái tim của cụ. Nó đang đập mạnh mẽ nhưng đầy những vết sẹo. Có những phần của tim đã bị lấy ra và những mảnh tim khác được đắp vào nhưng không vừa khít nên tạo một bề ngoài sần sùi, lởm chởm; có cả những đường rãnh khuyết vào mà không hề có mảnh tim nào trám thay thế. Chàng trai cười nói: - Chắc là cụ nói đùa! Trái tim của tôi hoàn hảo, còn của cụ chỉ là những mảnh chắp vá đầy sẹo và vết cắt. - Mỗi vết cắt trong trái tim tôi tượng trưng cho một người mà tôi yêu, không chỉ là những cô gái mà còn là cha mẹ, anh chị, bạn bè... Tôi xé một mẩu tim mình trao cho họ, thường thì họ cũng sẽ trao lại một mẩu tim của họ để tôi đắp vào nơi vừa xé ra. Thế nhưng những mẩu tim chẳng hoàn toàn giống nhau, mẩu tim của cha mẹ trao cho tôi lớn hơn mẩu tôi trao lại họ, ngược lại với mẩu tim của tôi và con cái tôi. Không bằng nhau nên chúng tạo ra những nếp sần sùi mà tôi luôn yêu mến vì chúng nhắc nhở đến tình yêu mà tôi đã chia sẻ. Thỉnh thoảng tôi trao mẩu tim của mình nhưng không hề được nhận lại gì, chúng tạo nên những vết khuyết. Tình yêu đôi lúc chẳng cần sự đền đáp qua lại. Dù những vết khuyết đó thật đau đớn nhưng tôi vẫn luôn hy vọng một ngày nào đó họ sẽ trao lại cho tôi mẩu tim của họ, lấp đầy khoảng trống mà tôi luôn chờ đợi. Chàng trai đứng yên với giọt nước mắt lăn trên má. Anh bước tới, xé một mẩu từ trái tim hoàn hảo của mình và trao cho cụ già. Cụ già cũng xé một mẩu từ trái tim đầy vết tích của cụ trao cho chàng trai. Chúng vừa nhưng không hoàn toàn khớp nhau, tạo nên một đường lởm chởm trên trái tim chàng trai. Trái tim của anh không còn hoàn hảo nhưng lại đẹp hơn bao giờ hết vì tình yêu từ trái tim của cụ già đã chảy trong tim anh…
Can you render these English sentences in Vietnamese, please?
Angel with a red hat
Thiên thần mũ đỏ
I'm looking for a Vietnamese translation of these sentences.
I was scared as I sat in the coffee shop. Tomorrow I would have spinal surgery. The risk was high, but my faith was strong. I prayed, "Oh, heavenly Father, in my time of trial, send me an angel." As I looked up, preparing to leave, I saw an elderly lady walking very slowly to the register. I stood by her, admiring her flair for fashion - a bright paisley dress of red and purple, a scarf, a brooch, and a brilliant scarlet hat. I said, "Excuse me, madam. I just must say what a beautiful woman you are." She friendly clasped my hand and said, "My child, bless you, for you see, I have an artificial arm and a plate in the other, and my leg is not my own. It takes me quite some time to get dressed. I do my best, but as years go by, people don't seem to think it matters. You've made me feel so special today. May the Lord watch over and bless you." As she walked away, she had touched my soul in such away that I knew she could have only been the angle.
Ngồi một mình trong quán cà phê, tôi cảm thấy rất lo sợ. Ngày mai, tôi phải trải qua một cuộc phẫu thuật cột sống. Khả năng xảy ra rủi ro là rất lớn, nhưng tôi vẫn cố bám lấy niềm tin. "Thượng Đế ơi, xin Người hãy gửi cho con một thiên thần để giúp con vượt qua thử thách ngày mai!" tôi thì thầm khẩn nguyện. Khi ngẩng đầu nhìn lên và chuẩn bị rời khỏi quán, tôi thấy một người phụ nữ đã lớn tuổi đang chậm rãi bước đến gần quầy tính tiền. Tôi đứng cạnh bà, lòng thầm ngưỡng mộ bộ váy thời trang có hình những cánh hoa màu đỏ và tím rất trang nhã mà bà đang mặc, cả chiếc khăn quàng cổ, chiếc ghim cài và chiếc mũ màu đỏ tía nổi bật. "Xin lỗi bà, bà quả thật là một người phụ nữ xinh đẹp!" tôi buột miệng. Bà nắm chặt tay tôi một cách thân ái và bảo: "Con gái à, ta cảm ơn con nhiều lắm. Ta có một cánh tay giả, và cả cánh tay còn lại cũng phải nẹp sắt. còn cái chân này cũng không phải thật đâu. Ta phải tốn khá nhiều thời gian để thay quần áo cơ đấy. Ta luôn cố gắng hết sức mình, nhưng lâu quá cũng thành quen rồi. Con đã khiến ta cảm thấy vui lắm. Cầu mong Thượng Đế luôn dõi theo và ban phước lành cho con!" Nhìn bà đi khỏi, tôi chợt cảm thấy lòng mình thật nhẹ nhõm. Bà quả thật là một thiên thần mà Thượng Đế đã gửi đến cho tôi.
Please convert these English sentences into Vietnamese.
Lady, are you rich?
Thưa cô, cô giàu chứ ạ?
I'm seeking a Vietnamese translation for these English sentences.
The miracle bridge
Cây cầu kỳ vĩ
Please translate these English sentences into Vietnamese for me.
The Brooklyn Bridge that spans the river between Manhattan and Brooklyn is simply an engineering miracle. In 1883, a creative engineer, John Roebling, was inspired by an idea for this spectacular bridge project. However, bridge-building experts told him to forget it, it just was not possible. Roebling convinced his son, Washington, an up-and-coming engineer, that the bridge could be built. The two of them conceived the concept of how it could be accomplished, and how to overcome the obstacles. Somehow they convinced bankers to finance the project. Now with unharnessed excitement and energy, they hired their crew and began to build their dream bridge. The project was only a few months under way when a tragic on-site accident killed John Roebling and severely injured his son. Washington was severely brain-damaged, unable to talk or walk. Everyone thought that the project would have been scrapped since the Roeblings were the only ones who understood how the bridge could be built. Though Washington Roebling was unable to move or talk, his mind was as sharp as ever. One day, as he lay in his hospital bed, an idea flashed in his mind as to how to develop a communication code. All he could move was one finger, so he touched the arm of his wife with that finger. He tapped out the code to communicate to her what she was to tell the engineers who continued building the bridge. For 13 years, Washington tapped out his instructions with one finger until the spectacular Brooklyn Bridge was finally completed.
Cầu Brooklyn bắc ngang con sông nằm giữa vùng Manhattan và Brooklyn được xem là phép lạ của ngành xây dựng. Vào năm 1883, một kỹ sư giàu óc sáng tạo tên là John Roebling, cảm thấy hứng thú với ý tưởng sẽ xây cây cầu ngoạn mục này. Tuy nhiên, các chuyên gia cầu đường bảo ông hãy quên ý tưởng đó đi vì đó là một dự án bất khả thi. Không nản lòng, ông thuyết phục con trai mình là Washington, cũng là một kỹ sư đầy tiềm năng. Cả hai cha con cùng ấp ủ ý tưởng về cách hoàn thành cây cầu và cách vượt qua mọi trở ngại. Bằng mọi cách, họ thuyết phục các ngân hàng đầu tư tài chính cho dự án xây cầu này. Hết sức phấn khởi và nhiệt thành, họ tuyển nhân công và bắt đầu xây cây cầu như mơ ước của mình. Dự án mới tiến hành được vài tháng thì tai họa ập đến. Một tai nạn ngay tại công trường đã cướp đi sinh mạng của John Roebling, còn Washington, con trai ông, thì bị tổn thương não nặng nề, không thể đi đứng và nói được. Ai cũng nghĩ rằng cuối cùng dự án sẽ tan thành mây khói vì chỉ có cha con Roebling là những người duy nhất hiểu được cách xây chiếc cầu này. Mặc dầu không thể đi lại và nói chuyện được, nhưng đầu óc Washington Roebling vẫn còn rất tinh anh. Một hôm, khi đang nằm trong bệnh viện, trong đầu anh chợt nghĩ ra cách hình thành một bộ mã truyền tin. Vận động duy nhất của cơ thể anh là nhúc nhích được một ngón tay. Với bộ mã này, anh dùng ngón tay còn chuyển động được gõ ra ý nghĩ của mình để thông tin với vợ những gì cần nói với các kỹ sư vẫn đang tiếp tục xây dựng cây cầu. Trong suốt 13 năm, Washington đã ra lệnh bằng ngón tay duy nhất còn chuyển động của mình cho đến khi hoàn thành cây cầu Brooklyn kỳ vĩ.
Could you convert these sentences from English to Vietnamese for me?
Consider this
Hãy suy ngẫm
Please translate these English sentences into Vietnamese for me.
In 1889, Rudyard Kipling - an author won the Literature Nobel Prize in 1907 received the following rejection letter from the San Francisco Examiner. "I'm sorry, Mr. Kipling, but you just don't know how to use the English language." Winston Churchill failed sixth grade. He did not become Prime Minister of England until he was 62, and then only after a lifetime of defeats and setbacks. His greatest contributions came when he was a "senior citizen." Albert Einstein did not speak until he was four years old and didn't read until he was seven. His teacher described him as "mentally slow, unsociable and adrift forever in his foolish dreams." He was expelled and was refused admittance to the Zurich Polytechnic School. Louis Pasteur was only a mediocre pupil in undergraduate studies and ranked 15th out of 22 in chemistry. General Douglas MacArthur was turned down for admission to West Point not once but twice. But he tried a third time, was accepted and marched into the history books. In 1944, Emmeline Snively, director of the Blue Book Modeling Agency, told modeling hopeful Norma Jean Baker (Marilyn Monroe), "You'd better learn secretarial work or else get married." While turning down the British rock group called The Beatles, one executive of Decca Recording Company said, "We don't like their sound. Groups of guitars are on the way out." In 1954, Jimmy Denny, manager of the Grand Ole Opry, fired Elvis Presley after one performance. He told Presley, "You ain't goin' nowhere... son. You ought to go back to drivin' a truck." When Alexander Graham Bell invented the telephone in 1876, it did not ring off the hook with calls from potential backers. President Rutherford Hayes said, "That's an amazing invention, but who would ever want to use one of them?" When Thomas Edison invented the light bulb, he tried over 2,000 experiments before he got it to work. A young reporter asked him how it felt to fail so many times. He said, "I never failed once. I invented the light bulb. It just happened to be a 2,000- step process." After years of progressive hearing loss, by age 46 German composer Ludwig van Beethoven had become completely deaf. Nevertheless, he wrote his greatest music - including five symphonies - during his later years. Failure is only the opportunity to begin again more intelligently. - Henry Ford
Năm 1889, Rudyard Kipling - nhà văn được giải Nobel Văn học năm 1907, đã từng nhận một lá thư từ chối của hội đồng chấm thi San Francisco: "Tôi rất lấy làm tiếc, thưa ông Kipling, nhưng quả thực ông không biết cách sử dụng tiếng Anh." Winston Churchill từng thi rớt kỳ thi vào lớp sáu. Ông trở thành Thủ tướng của nước Anh khi đã 62 tuổi, sau cả một đời chỉ toàn gặp thất bại. Sự đóng góp lớn nhất của ông là khi ông đã về hưu. Albert Einstein đến năm lên 4 tuổi mới biết nói, và phải đến năm 7 tuổi mới biết đọc. Thầy giáo đã từng nhận xét về ông như sau: "Chậm phát triển, khó gần, luôn có những ước mơ ngớ ngẩn." Ông từng bị đuổi học và bị từ chối nhận vào trường Bách khoa Zurich. Louis Pasteur chỉ là một sinh viên bình thường trong số những sinh viên chưa tốt nghiệp, từng xếp thứ hạng 15/22 ở môn Hóa. Tướng Douglas MacArthur đã từng bị từ chối gia nhập West Point không chỉ một mà đến hai lần. Đến lần thứ ba, ông mới được chấp nhận và đã lập nhiều chiến công ghi vào sử sách. Năm 1944, Emmeline Snively, giám đốc của hãng đào tạo người mẫu Blue Book từng nói với cô người mẫu triển vọng Norma Jean Baker (Marilyn Monroe) rằng: "Cô nên học làm thư ký hay lấy chồng đi thì hơn." Khi từ chối ban nhạc rock The Beatles của Anh, người quản lý của hãng thu âm Decca đã nói rằng: "Chúng tôi không thích thứ âm nhạc của họ. Mấy nhóm guitar như thế đã lỗi thời rồi!" Năm 1954, Jimmy Denny, giám đốc của hãng Grand Ole Opry, đã sa thải Elvis Presley chỉ sau một buổi biểu diễn. Ông nói với Presley rằng: "Anh chẳng thể đi đến đâu được. Anh nên quay về lái xe tải đi thì hơn." Khi Alexander Graham Bell phát minh ra chiếc điện thoại đầu tiên vào năm 1876, nó đã không nhận được sự ủng hộ của mọi người. Tổng thống Rutherford Hayes nói: "Đây quả thực là một phát minh gây ngạc nhiên, nhưng liệu có ai muốn sử dụng nó không?" Trước khi phát minh ra bóng đèn tròn, Thomas Edison đã tiến hành hơn 2.000 cuộc thử nghiệm. Một phóng viên trẻ hỏi về cảm giác của ông sau khi thất bại quá nhiều lần như vậy. Ông nói: "Tôi chưa bao giờ thấy mình thất bại, dù chỉ một lần. Tôi phát minh ra bóng đèn tròn. Quá trình phát minh này có đến 2.000 bước". Sau nhiều năm thính lực bị giảm, đến năm 46 tuổi, nhà soạn nhạc người Đức Ludwig van Beethoven hoàn toàn không thể nghe được. Bất chấp điều đó, ông vẫn viết được những tuyệt phẩm âm nhạc - gồm năm bản nhạc giao hưởng - vào những năm cuối đời của mình. Thất bại chính là cơ hội để bạn khởi đầu lần nữa một cách hoàn hảo hơn. - Henry Ford
I'm looking for someone to translate these sentences into Vietnamese.
Unconditional love
Tình yêu vô điều kiện
I would like to have these sentences translated into Vietnamese.
A story is told about a soldier who was finally coming home after having fought in Vietnam. He called his parents from San Francisco. "Mom and Dad, I'm coming home, but I've a favor to ask. I have a friend I'd like to bring home with me."
Câu chuyện kể về một người lính cuối cùng cũng về nhà sau cuộc chiến ở Việt Nam. Anh ấy gọi điện cho bố mẹ của mình từ San Francisco. "Bố mẹ ơi, con sắp về rồi, nhưng con có một thỉnh cầu. Con muốn mang một người bạn về nhà cùng với mình"
Could you render these English sentences in Vietnamese?
"Sure," they replied, "we'd love to meet him." "There's something you should know the son continued, "he was hurt pretty badly in the fighting. He stepped on a landmine and lost an arm and a leg. He has nowhere else to go, and I want him to come live with us." "I'm sorry to hear that, son. Maybe we can help him find somewhere to live." "No, Mom and Dad, I want him to live with us." "Son," said the father, "you don't know what you're asking. Someone with such a handicap would be a terrible burden on us. We have our own lives to live, and we can't let something like this interfere with our lives. I think you should just come home and forget about this guy. He'll find a way to live on his own." At that point, the son hung up the phone. The parents heard nothing more from him. A few days later, however, they received a call from the San Francisco police. Their son had died after falling from a building, they were told. The police believed it was suicide. The grief-stricken parents flew to San Francisco and were taken to the city morgue to identify the body of their son. They recognized him, but to their horror they also discovered something they didn't know, their son had only one arm and one leg. The parents in this story are like many of us. We find it easy to love those who are good- looking or fun to have around, but we don't like people who inconvenience us or make us feel uncomfortable. We would rather stay away from people who aren't as healthy, beautiful, or smart as we are. Thankfully, there's someone who won't treat us that way. Someone who loves us with an unconditional love that welcomes us into the forever family, regardless of how messed up we are.
"Được thôi" họ trả lời, "Bố mẹ cũng muốn gặp anh ấy." Người con trai tiếp tục "Có điều này bố mẹ nên biết, anh ấy bị thương khá nặng trong chiến tranh. Anh ấy giẫm phải quả mìn và mất một cánh tay và một chân. Anh ấy không còn nơi nào để đi, và con muốn anh ấy đến sống cùng chúng ta." "Con trai à, bố buồn khi nghe chuyện này. Chúng ta có thể tìm cho anh ấy một chỗ để ở nhé." "Không, bố mẹ à, con muốn anh ấy sống cùng với chúng ta." "Con trai à," người cha nói, " con không biết con đang định hỏi cái gì à. Người tàn tật như thế sẽ là gánh nặng khủng khiếp cho chúng ta đấy. Chúng ta có cuộc sống riêng của ḿnh nữa, chúng ta không thể dính líu vào việc này được. Bố nghĩ con nên về nhà và quên anh bạn đó đi. Anh ấy sẽ biết cách tự lo liệu thôi." Nghe tới đây, anh con trai gác điện thoại. Bố mẹ anh không được tin tức gì thêm từ anh nữa. Tuy nhiên, vài ngày sau, họ nhận được cuộc điện thoại từ cảnh sát ở San Francisco. Họ được báo là con trai của mình đã chết sau khi rơi khỏi toà nhà. Cảnh sát cho đó là vụ tự sát. Bố mẹ mòn mỏi vì đau buồn đă đáp máy bay đến San Francisco và được đưa đến nhà xác thành phố để nhận diện thi thể con trai của họ. Họ đã nhận ra anh ấy, nhưng trước nỗi kinh hãi của mình họ cũng phát hiện ra được điều mà họ không biết, con trai của họ chỉ có một cánh tay và một chân. Bố mẹ trong câu chuyện này giống như nhiều người trong chúng ta. Chúng ta cảm thấy dễ yêu những người có ngoại hình dễ nhìn hay vui tính ở quanh mình, nhưng chúng ta lại không ưa những người làm phiền chúng ta hoặc làm chúng ta cảm thấy không thoải mái. Chúng ta muốn tránh xa những người không khoẻ mạnh, xinh đẹp, hoặc thông minh như chúng ta. May mắn thay, có người sẽ không đối xử với chúng ta như vậy. Họ yêu thương chúng ta bằng một tình yêu vô điều kiện và chào đón chúng ta vào gia đình mãi mãi, bất kể chúng ta sai phạm điều gì.
Please transform these English sentences into Vietnamese.
Lessons from a jigsaw puzzle
Bài học từ trò chơi ghép hình
Can you provide me with the Vietnamese equivalents of these English sentences?
Don't force a fit. If something is meant to be, it will come together naturally. When things aren't going so well, take a break. Everything will look different when you return. Be sure to look at the big picture. Getting hung up on the little pieces only leads to frustration. Perseverance pays off. Every important puzzle went together bit by bit, piece by piece. When one spot stops working, move to another. But be sure to come back later. Establish the border first. Boundaries give a sense of security and order. Don't be afraid to try different combinations. Some matches are surprising. Anything worth doing takes time and effort. A great puzzle can't be rushed. Take time to celebrate your successes, even little ones. They will encourage you to go ahead. Life is not the sum of what we have been, but what we yearn to be.
Chúng ta không thể mong muốn tất cả mọi thứ sẽ phải hoàn thiện ngay lập tức. Hãy để sự việc thể hiện theo đúng bản chất tự nhiên của chúng. Khi mọi việc không trôi chảy, hãy nghỉ ngơi đôi chút. Mọi thứ sẽ khác đi khi bạn quay lại. Đừng quên có lúc bạn phải nhìn vào bức tranh toàn cảnh. Loay hoay với những mảnh nhỏ chỉ khiến bạn nản chí. Lòng kiên trì sẽ được đền đáp. Mọi thử thách lớn đều được giải quyết từng bước một. Mỗi khi gặp bế tắc, hãy chuyển sang một hướng khác. Và sau đó nhớ quay lại. Việc đầu tiên bạn cần làm là thiết lập đường biên. Có ranh giới, bạn mới cảm nhận được sự an toàn và trật tự. Đừng ngại thử nhiều cách kết hợp khác nhau. Đôi khi chúng sẽ khít khao đến ngạc nhiên. Bất kỳ điều gì đáng làm cũng đều đòi hỏi sự kiên trì và nỗ lực. Bạn không thể vội vã trước một thách đố lớn. Hãy dành thời gian để tận hưởng những thành công dù nhỏ bé của mình. Chúng sẽ động viên bạn bước tiếp. Cuộc đời không phải là tổng thể những gì chúng ta đạt được, mà là những gì chúng ta khao khát vươn tới.
Can you provide a Vietnamese translation for these English sentences?
Roles, and how we play them
Bài học về cách chấp nhận
Could you render these English sentences in Vietnamese?
Whenever I'm disappointed with my spot in life, I stop and think about little Jamie Scott. Jamie was trying out for a part in a school play. His mother told me that he'd set his heart on being in it, though she feared he would not be chosen. On the day the parts were awarded, I went with her to collect him after school. Jamie rushed up to her, eyes shining with pride and excitement. "Guess what, Mum," he shouted, and then said those words that remain a lesson to me: "I've been chosen to clap and cheer."
Mỗi lần gặp thất bại trong cuộc sống, tôi lại nghĩ ngay đến câu chuyện của cậu bé Jamie Scott. Ngày đó, Jamie đang thử diễn một vai trong vở kịch của trường. Mẹ cậu bé nói với tôi rằng em đã đặt hết tâm huyết vào vai diễn thử này, mặc dầu trong thâm tâm bà lo sợ con trai mình sẽ không được chọn. Đến ngày nhà trường quyết định chọn vai diễn, tôi theo bà đến trường để đón Jamie sau giờ tan học. Vừa nhìn thấy mẹ, Jamie chạy vội ngay đến, đôi mắt sáng long lanh ngập tràn hãnh diện và thích thú: "Mẹ ơi, mẹ đoán thử xem nào?", cậu bé la toáng lên rồi nói luôn câu trả lời mà sau này trở thành bài học cho tôi: "Con được cô chọn là người vỗ tay và cỗ vũ, mẹ ạ!"
I'm in need of a Vietnamese translation for these English sentences.
The Circus
Rạp xiếc
I would like to have these sentences translated into Vietnamese.
Once when I was a teenager, my father and I were standing in line to buy tickets for the circus. Finally, there was only one family between us and the ticket counter. This family made a big impression on me. There were eight children, all probably under the age of 12. You could tell they didn't have a lot of money. Their clothes were not expensive, but they were clean. The children were well-behaved, all of them standing in line, two-by- two behind their parents, holding hands. They were excitedly jabbering about the clowns, elephants and other acts they would see that night. One could sense they had never been to the circus before. It promised to be a highlight of their young lives. The father and mother were at the head of the pack standing proud as could be. The mother was holding her husband's hand, looking up at him as if to say, "You're my knight in shining armor." He was smiling and basking in pride, looking at her as if to reply, "You got that right." The ticket lady asked the father how many tickets he wanted. He proudly responded, "Please let me buy eight children's tickets and two adult tickets so I can take my family to the circus." The ticket lady quoted the price. The man's wife let go of his hand, her head dropped, the man's lip began to quiver. The father leaned a little closer and asked, "How much did you say?" The ticket lady again quoted the price. The man didn't have enough money. How was he supposed to turn and tell his eight kids that he didn't have enough money to take them to the circus?
Một lần, khi tôi còn là thiếu niên, bố và tôi cùng đứng xếp hàng mua vé xem xiếc. Rốt cuộc rồi cũng chỉ còn duy nhất 1 gia đình đứng trước chúng tôi ở quầy bán vé. Gia đình đó đã gây một ấn tượng mạnh đối với tôi. Họ có 8 đứa trẻ, có lẽ tất cả đều nhỏ hơn 12 tuổi. Có thể nói là họ không có nhiều tiền. Quần áo của họ không đắt, tuy nhiên chúng rất gọn gàng. Bọn trẻ cư xử rất phải phép, tất cả chúng đều đứng xếp hàng, cứ hai đứa một nắm tay nhau đứng xếp sau bố mẹ chúng. Chúng háo hức nói về những chú hề, những con voi và các diễn viên khác mà tối nay chúng sẽ được xem. Có thể nhận thấy trước kia chúng chưa từng được đi xem xiếc và buổi xem xiếc này hứa hẹn sẽ là một sự kiện đáng nhớ trong thời niên thiếu của chúng. Bố mẹ bọn trẻ đứng trước bọn trẻ hết sức tự hào. Người mẹ nắm tay chồng, nhìn ông ấy như muốn nói: "Anh là một hiệp sĩ trong bộ giáp chói ngời." Người chồng mỉm cười và chìm đắm trong niềm kiêu hãnh, nhìn người vợ như muốn đáp: "Em nói đúng." Cô bán vé hỏi người bố xem ông ấy muốn mua mấy vé. Ông nói một cách hãnh diện: "Vui lòng cho tôi mua 8 vé trẻ em và 2 vé người lớn để tôi có thể đưa gia đình mình vào xem xiếc." Cô bán vé nói số tiền cần trả. Người vợ lập tức buông tay chồng cúi đầu, môi người đàn ông bắt đầu run. Ông cúi gần một chút đến cô bán vé và hỏi, "Cô nói là bao nhiêu cơ?" Cô bán vé nói lại số tiền cần trả. Người đàn ông không có đủ tiền. Làm sao ông có thể quay lại và nói với 8 đứa con của mình rằng ông không có đủ tiền để đưa chúng vào rạp xiếc đây?
I'm in need of a Vietnamese translation for these English sentences.
Seeing what was going on, my dad put his hand into his pocket, pulled out a $20 bill and dropped it on the ground. (We were not wealthy in any sense of the word!) My father reached down, picked up the bill, tapped the man on the shoulder and said, "Excuse me, sir, this fell out of your pocket." The man knew what was going on. He wasn't begging for a handout but certainly appreciated the help in a desperate, heartbreaking, embarrassing situation. He looked straight into my dad's eyes, took my dad's hand in both of his, squeezed tightly onto the $20 bill, and with his lip quivering and a tear streaming down his cheek, he replied, "Thank you, thank you, sir. This really means a lot to me and my family." My father and I went back to our car and drove home. We didn't go to the circus that night, but we didn't go without.
Nhìn thấy sự việc diễn ra, bố tôi đưa tay vào túi, lấy ra đồng 20 đô la và làm rơi xuống đất. (Chúng tôi không phải là những người giàu có theo đúng nghĩa!) Bố tôi với xuống, nhặt tờ tiền, vỗ vai người đàn ông và nói: "Xin lỗi, thưa ông, cái này rơi ra từ túi của ông." Người đàn ông hiểu ngay chuyện gì đang diễn ra. Ông ấy không cầu xin một sự bố thí nhưng chắc chắn rất biết ơn sự giúp đỡ đó trong tình huống tuyệt vọng, thê thảm và xấu hổ như vậy. Ông ấy nhìn thẳng vào mắt bố tôi, nắm lấy tay bố tôi bằng cả hai tay mình, ép chặt tờ tiền 20 đô la và mấp máy môi với một hàng nước mắt chảy trên má, ông ấy nói: "Cảm ơn ông, cảm ơn ông. Việc làm của ông có ý nghĩa vô cùng lớn đối với tôi và gia đình tôi." Bố và tôi quay lại xe rồi lái xe về nhà. Tối đó chúng tôi không xem xiếc, nhưng chúng tôi đã không tốn công vô ích.
I would like to have these sentences translated into Vietnamese.
Lunce with God
Bữa trưa với Thượng Đế
Please convert these English sentences into Vietnamese.
There once was a little boy who wanted to meet God. He knew it was a long trip to where God lived, so he packed his suitcase with Twinkies and a six-pack of root beer and started his journey. When he had gone about three blocks, he met an old woman. She was sitting in the park just staring at some pigeons. The boy sat down next to her and opened his suitcase. He was about to take a drink from his root beer when he noticed that the old lady looked hungry, so he offered her a Twinkie. She gratefully accepted it and smiled at him. Her smile was so pretty that the boy wanted to see it again, so he offered her a root beer. Once again she smiled at him. The boy was delighted! They sat there all afternoon eating and smiling, but they never said a word. As it grew dark, the boy realized how tired he was, and he got up to leave; but before he had gone more than a few steps, he turned around, ran back to the old woman and gave her a hug. She gave him her biggest smile ever.
Có một cậu bé muốn gặp Thượng Đế. Cậu biết rằng phải đi cả một quãng đường rất dài mới có thể đến được nơi ở của Người, nên gói ghém mang theo bên mình những chiếc bánh Twinkie và cả sáu hộp nước trái cây, rồi bắt đầu cuộc hành trình. Khi đi qua được khoảng ba dãy phố, cậu gặp một bà lão. Bà đang ngồi trong công viên, chăm chú nhìn lũ bồ câu. Cậu bé ngồi xuống cạnh bà và mở túi xách của mình ra. Cậu định uống một hộp nước trái cây, nhưng chợt để ý thấy bà lão có vẻ đói, nên không ngần ngại mời bà một chiếc bánh. Bà cảm ơn, cầm lấy bánh và mỉm cười với cậu. Nụ cười của bà tươi tắn đến nỗi cậu bé muốn trông thấy một lần nữa, thế nên cậu mời bà một hộp nước trái cây. Bà lại cười với cậu. Cậu bé cảm thấy rất vui sướng! Họ ngồi đó cả buổi chiều, ăn bánh và mỉm cười với nhau, họ không cần nói với nhau một lời nào. Khi trời bắt đầu tối, cậu bé cảm thấy mệt nên đứng dậy ra về. Đi được vài bước, cậu quay trở lại, chạy đến bên bà và ôm bà. Bà cười với cậu - một nụ cười đẹp nhất mà cậu từng được thấy.
Can you provide me with the Vietnamese equivalents of these English sentences?
When the boy opened the door to his own house a short time later, his mother was surprised by the look of joy on his face. She asked him, "What did you do today that made you so happy?" He replied, "I had lunch with God." But, before his mother could respond, he added, "You know what? She's got the most beautiful smile I've ever seen!" Meanwhile, the old woman, also radiant with joy, returned to her home. Her son was stunned by the look of peace on her face; and he asked, "Mother, what did you do today that made you so happy?" She replied, "I ate Twinkies in the park with God." But, before her son responded, she added, "You know, he's much younger than I expected."
Không lâu sau, khi cậu mở cửa bước vào nhà, mẹ cậu rất đỗi ngạc nhiên vì nét mặt tươi tắn hân hoan của cậu. Mẹ cậu hỏi: "Hôm nay có chuyện gì mà trông con vui thế?" Cậu trả lời: "Con đã ăn trưa với Thượng Đế mẹ à!" trước khi mẹ cậu kịp nói, cậu lại tiếp: "Mẹ biết không, Người có nụ cười đẹp nhất mà con từng thấy!" Trong khi đó, bà lão cũng về tới nhà, khuôn mặt rạng rỡ niềm vui. Con trai bà lấy làm ngạc nhiên trước niềm hạnh phúc rạng ngời trên gương mặt bà: "Mẹ ơi, hôm nay có chuyện gì khiến mẹ vui đến thế?" Bà đáp: "Mẹ ăn bánh Twinkie trong công viên với Thượng Đế." Trước khi con trai bà kịp nói, bà lại tiếp: "Con biết không, Người còn bé hơn là mẹ nghĩ cơ đấy!"
Could you convert these sentences from English to Vietnamese for me?
Puppies for sale
Bán chó con
I'm in need of a Vietnamese translation for these English sentences.
A store owner was tacking a sign above his door that read "Puppies for Sale". Signs have a way of attracting children, and soon a little boy appeared at the store and asked, "How much are you gonna sell those puppies for?" The store owner replied, "Anywhere from $30 to $50." The little boy reached into his pocket and pulled out some change. "I have $2.37, can I look at them?" The store owner smiled and whistled. Out of the back of the store came his dog running down the aisle followed by five little puppies. One puppy was lagging considerably behind. Immediately the little boy singled out the lagging, limping puppy. "What's wrong with that little dog?" he asked. The man explained that when the puppy was born the vet said it had a bad hip socket and would limp for the rest of it's life. The little boy got really excited and said "That's the puppy I want to buy!" The man replied "No, you don't want to buy that little dog. If you really want him, I'll give him to you." The little boy got upset. He looked straight into the man's eyes and said, "I don't want you to give him to me. He is worth every bit as much as the other dogs and I'll pay the full price. In fact, I will give you $2.37 now and 50 cents every month until I have him paid for." The man countered, "You really don't want to buy this puppy, son. He's never gonna be able to run, jump and play like other puppies." The little boy reached down and rolled up his pant leg to reveal a badly twisted, crippled left leg supported by a big metal brace. He looked up at the man and said, "Well, I don't run so well myself and the little puppy will need someone who understands." The man was now biting his bottom lip. Tears welled up in his eyes... He smiled and said, "Son, I hope and pray that each and every one of these puppies will have an owner such as you."
Chủ một cửa hàng bách hóa đính kèm trên bảng hiệu ở cửa hàng dòng chữ "Bán chó con". Bảng hiệu liền thu hút trẻ nhỏ ngay, và đúng như vậy, một cậu bé đã đến dưới bảng hiệu của chủ cửa hàng bách hóa. "Ông định bán những con chó nhỏ với giá bao nhiêu?", cậu bé hỏi. Chủ cửa hàng bách hóa trả lời: "Bất cứ giá nào từ 30 đô la đến 50 đô la". Cậu bé lấy trong túi và đặt ra ngoài một ít tiền lẻ. "Cháu có 2 đô la 37 xu", cậu bé nói. "Làm ơn cho cháu nhìn chúng được không?". Chủ cửa hàng bách hóa mỉm cười, huýt gió và đi xuống chuồng chó. Ở đằng sau là một con chó đang bị cách ly. Ngay lập tức cậu bé phát hiện ra con chó khập khiễng, đi chậm phía sau và nói: "Có điều gì không bình thường với con chó nhỏ này à?". Chủ cửa hàng bách hóa giải thích rằng bác sĩ thú y đã khám bệnh cho con chó nhỏ này và phát hiện ra nó không có cái hông. Nó sẽ luôn luôn đi khập khiễng và luôn luôn bị tật. Cậu bé cảm thấy bị kích động và nói: "Đó là con chó nhỏ mà cháu muốn mua". "Không, cháu không nên mua con chó nhỏ đó. Nếu cháu thật muốn nó, chú sẽ tặng nó cho cháu", chủ cửa hàng bách hóa nói. Cậu bé nhận được kết quả hết sức bất ngờ. Cậu nhìn thẳng vào trong đôi mắt của ông chủ cửa hàng bách hóa, chỉ ngón tay về phía con chó và nói: "Cháu không muốn chú tặng con chó cho cháu. Con chó nhỏ đó trị giá nhiều như tất cả con chó khác và cháu sẽ trả giá đầy đủ. Nói tóm lại, cháu sẽ đưa cho chú 2 đô la 37 xu bây giờ, và 50 xu mỗi tháng cho đến khi cháu trả hết cho chú". Chủ cửa hàng bách hóa lưỡng lự và khuyên: "Thật ra cháu không nên mua con chó nhỏ này. Nó không thể chạy, nhảy và chơi với cháu như những con chó khác". Đến đây, cậu bé cúi xuống vén ống quần lên, cái chân cậu bị xoắn rất xấu, chân trái bị tật được chống giữ bởi một thanh kim loại lớn. Cậu bé ngước nhìn chủ cửa hàng bách hóa và trả lời một cách nhẹ nhàng: "Vâng, cháu không đi dạo một mình và con chó nhỏ sẽ cần một người nào đó quan tâm đến." Chủ cửa hàng bách hóa cắn môi dưới của mình, nước mắt trào ra, cười và nói: "Con trai, ta hy vọng và cầu nguyện rằng mỗi một con chó nhỏ sẽ có một người chủ tốt như con."
I'm in need of a Vietnamese translation for these English sentences.
Is that so?
Thật thế sao?
Please assist me in translating these sentences into Vietnamese.
The Zen master Hakuin was praised by his neighbors as one living a pure life. A beautiful girl whose parents owned a food store lived near him. Suddenly, without any warning, her parents discovered she was with child. This made her parents angry. She would not confess who the man was, but after much harassment at last named Hakuin. In great anger the parents went to the master. "Is that so?" was all he would say. After the child was born it was brought to Hakuin. By this time he had lost his reputation, which did not trouble him, but he took very good care of the child. He obtained milk from his neighbors and everything else the little one needed. A year later the girl-mother could stand it no longer. She told her parents the truth that the real father of the child was a young man who worked in the fishmarket. The mother and father of the girl at once went to Hakuin to ask his forgiveness, to apologize at length, and to get the child back again. Hakuin was willing. In yielding the child, all he said was, "Is that so?"
Thiền sư Hakuin luôn được mọi người sống quanh ngài ca ngợi về nếp sống trong sạch, đạo hạnh. Gần nơi ngài sống có một cửa hàng thực phẩm. Hai vợ chồng người chủ cửa hàng có một cô con gái trẻ đẹp. Thật bất ngờ, một hôm hai người bỗng nhận ra cô con gái của mình đã mang thai! Điều này làm cho cha mẹ cô gái bừng bừng nổi giận. Cô lại nhất định không chịu thừa nhận ai là cha của bào thai đó. Tuy nhiên, sau bao nhiêu lần tra vấn hạch hỏi, cuối cùng cô lại chỉ đến thiền sư Hakuin. Trong tâm trạng cực kỳ tức giận, cha mẹ cô lập tức tìm đến chỗ vị thiền sư. Sau khi nghe sự việc, ngài chỉ hỏi lại: "Thật thế sao?" Rồi chẳng biện bạch gì Sau khi đứa bé được sinh ra, người ta mang đến giao cho ngài. Vào lúc này, thanh danh của ngài chẳng còn gì nữa, nhưng ngài không màng đến điều đó. Ngài hết lòng chăm sóc đứa bé. Ngài đi xin sữa từ những người hàng xóm cũng như tất cả những thứ cần thiết để nuôi dưỡng nó. Một năm sau, người mẹ trẻ không còn dằn lòng được nữa, liền thú nhận sự thật với cha mẹ nàng, rằng người cha thực sự của đứa trẻ là một thanh niên làm việc ở chợ cá. Cha mẹ nàng lập tức đến chỗ thiền sư Hakuin để tạ lỗi, cầu xin sự tha thứ của ngài, và xin được nhận đứa bé về. Thiền sư vui vẻ chấp thuận. Khi trao lại đứa bé, ngài cũng chỉ nói mỗi một câu: "Thật thế sao?"
I'm looking for a Vietnamese translation of these sentences.
A broken pot
Chiếc bình nứt
I'm seeking a Vietnamese translation for these English sentences.
A water bearer in India had two large pots, each hung on the ends of a pole which he carried across his neck. One of the pots had a crack in it, while the other pot was perfect and always delivered a full portion of water. At the end of the long walk from the stream to the house, the cracked pot arrived only half full. For a full two years this went on daily, with the bearer delivering only one and a half pots full of water to his house. Of course, the perfect pot was proud of its accomplishments, perfect for which it was made. But the poor cracked pot was ashamed of its own imperfection, and miserable that it was able to accomplish only half of what it had been made to do. After two years of what it perceived to be a bitter failure, it spoke to the water bearer one day by the stream. "I am ashamed of myself, and I want to apologize to you. I have been able to deliver only half my load because this crack in my side causes water to leak out all the way back to your house. Because of my flaws, you have to do a lot of this work, and you don't get full value from your efforts," the pot said. The bearer said to the pot, "Did you notice that there were flowers only on your side of the path, but not on the other pot's side? That's because I have always known about your flaw, and I planted flower seeds on your side of the path, and every day while we walk back, you've watered them. For two years I have been able to pick these beautiful flowers to decorate the table. Without you being just the way you are, there would not be this beauty to grace the house." Moral: Each of us has our own unique flaws. We're all cracked pots. But it's the cracks and flaws we each have that make our lives together so very interesting and rewarding.
Một người gùi nước ở Ấn Độ, có hai cái bình gốm lớn, mỗi cái được cột vào đầu của một sợi dây và rồi được đeo lên cổ anh ta. Một trong hai cái bình thì còn rất tốt và không bị chút rò rỉ nào cả. Cái còn lại bị nứt một chút nên nước bị vơi trên đường về nhà, chúng chỉ còn lại có hai phần ba. Hai năm trời anh ta vẫn sử dụng hai cái bình gùi nước đó, mặc dù lượng nước mà anh ta mang về nhà không còn nguyên vẹn. Và lẽ dĩ nhiên, cái bình tốt tỏ vẻ hãnh diện, trong khi cái bình nứt thì cảm thấy vô cùng xấu hổ. Một ngày nọ, bên dòng suối, cái bình nứt đã thưa chuyện với người gùi nước: "Tôi rất xấu hổ về bản thân và muốn nói lời xin lỗi ông về thời gian đã qua". Anh ta hỏi lại cái bình: "Sao lại phải xin lỗi? Mà ngươi xin lỗi về chuyện gì?". Cái bình nứt đáp lại: "Suốt hai năm qua, do vết nứt của tôi mà nước đã bị rò rỉ trên đường về nhà, ông đã phải làm việc chăm chỉ nhưng kết quả mang lại cho ông đã không hoàn toàn như ông mong đợi". Với lòng trắc ẩn của mình, người gùi nước rất thông cảm với cái bình nứt, ông ta nói: "Khi chúng ta trên đường về nhà, ta muốn ngươi chú ý đến những bông hoa tươi đẹp mọc bên vệ đường" Quả thật, cái bình nứt đã nhìn thấy những bông hoa tươi đẹp dưới ánh nắng mặt trời ấm áp trên đường về nhà và điều này khuyến khích được nó đôi chút. Nhưng khi đến cuối đường mòn, nó vẫn cảm thấy rất tệ bởi nước đã chảy ra rất nhiều, một lần nữa nó lại xin lỗi người gùi nước. Người gùi nước liền nói: "Ngươi có thấy rằng những bông hoa kia chỉ nở một bên vệ đường, chỉ phía bên ngươi không?". Thật ra, ta đã biết rất rõ về vết nứt của ngươi, và ta đã lấy điểm yếu đó để biến nó thành lợi điểm. Ta đã gieo một số hạt hoa ở vệ đường phía bên ngươi, và mỗi ngày trong khi ta gùi nước về nhà, ta đã tưới chúng từ những chỗ rò rỉ của ngươi. Giờ đây, ta có thể hái những bông hoa tươi tắn ấy để trang trí nhà cửa của ta. Không có vết nứt của ngươi, ta đã không có những bông hoa duyên dáng để làm đẹp ngôi nhà của mình. Trong cuộc sống cũng vậy, ai cũng đều có những vết nứt, vì vậy chẳng ai là hoàn hảo cả, tất cả chúng ta đều có thể là cái bình nứt, nhưng nếu chúng ta biết chấp nhận và tận dụng nó, thì mọi thứ đều có thể trở nên có ích.
Could you convert these sentences from English to Vietnamese for me?
The King with four wives
Vị vua và bốn bà vợ
I need help with translating these English sentences into Vietnamese.
Once upon a time, there was a rich king who had four wives. He loved the fourth wife the most and adorned her with rich robes and treated her to the finest delicacies. He gave her nothing but the best. He also loved the third wife very much and showed her off to neighboring kingdoms. However, he feared that one day she would leave him for another. He also loved the second wife. She was his confidante and was always kind, considerate and patient with him. Whenever the King faced a problem, he could confide in her to help him get through the difficult times. The King's first wife was a very loyal partner and had made great contributions in maintaining his wealth and kingdom. However, he did not love the first wife and although she loved him deeply, he hardly took notice of her. One day, the King fell ill and he knew that his time was short. Thus, he asked the 4th wife, "I have loved you the most, endowed you with the finest clothing and showered great care over you. Now that I'm dying, will you follow me and keep me company?" "No way!" replied the 4th wife and she walked away without another word. Her answer cut like a sharp knife right into his heart. The sad King asked the 3rd wife, "I have loved you all my life. Now that I'm dying, will you follow me and keep me company?" "No!" replied the 3rd wife. "Life is too good! When you die, I am going to remarry!" His heart sank and turned cold. He then asked the 2nd wife, "I have always turned to you for help and you've always been there for me. When I die, will you follow me and keep me company?" "I'm sorry, I can't help you out this time!" replied the 2nd wife. "At the very most, I can only send you to your grave." Her answer came like a bolt of thunder and the King was devastated. Then a voice called out: "I'll leave with you and follow you no matter where you go."The King looked up and there was his first wife. She was so skinny, because she suffered from malnutrition. Greatly grieved, the King said, "I should have taken better care of you when I had the chance!" In truth, we all have four wives in our lives: Our 4th wife is our body. No matter how much time and effort we lavish in making it look great, it'll leave us when we die. Our 3rd wife is our possessions, status and wealth. When we die it will all go to others. Our 2nd wife is our family and friends. No matter how much they have been there for us, the furthest they can stay by us is up to the grave. Our 1st wife is our Soul, often neglected in pursuit of wealth, power and pleasures of the ego. However, our Soul is the only thing that will follow us wherever we go. So cultivate, strengthen and cherish it now! It is your greatest gift to offer the world.
Ngày xửa ngày xưa, có một vị vua giàu có trị vì một vương quốc hùng mạnh. Ông có đến 4 bà vợ, bà nào cũng xinh đẹp. Nhà vua yêu bà vợ thứ tư nhất và luôn chiều theo mọi sở thích của bà, không bao giờ từ chối. Kế đến là người vợ thứ ba, nhà vua lúc nào cũng sợ mất bà, đi đâu cũng muốn đưa bà đi theo. Bà vợ thứ hai là chỗ dựa tinh thần cho nhà vua, bà rất tử tế, dịu dàng và kiên nhẫn. Mỗi khi nhà vua gặp chuyện khó khăn, ông thường tâm sự với bà và thường nhận được những lời khuyên quí giá. Người vợ thứ nhất của nhà vua là trung thành nhất, giúp cho nhà vua trị vì và làm cho đất nước ngày càng giàu có nhưng nhà vua lại không dành nhiều tình cảm cho bà. Nhà vua luôn nghĩ rằng bà có thể tự chăm sóc lấy mình và ít để ý đến bà. Không may một ngày nọ nhà vua lâm bệnh và biết rằng mình không còn sống được bao lâu nữa. Ông nghĩ: "Ta có đến 4 bà vợ nhưng khi ra đi e rằng lại hoàn toàn cô đơn". Nghĩ vậy nhà vua gọi người vợ thứ tư đến và nói: "Ta yêu thương nàng nhất, luôn dành mọi thứ tốt đẹp cho nàng. Giờ đây ta sắp chết, nàng có theo ta để ta khỏi cô đơn ko?" Nhà vua nhận được câu trả lời: "Bệ hạ rất tốt với thiếp nhưng yêu cầu đó khó quá, thiếp không thể làm được!". Nhà vua lặng đi một lúc rồi cho gọi người vợ thứ ba, bà trả lời: "Không thưa đức vua, cuộc sống còn đẹp lắm, sẽ có một vị vua khác đến để tiếp tục che chở và chiều chuộng thiếp!". Trái tim vị vua cảm thấy lạnh buốt vì buồn bã và thất vọng. Ngài lại cho gọi người vợ thứ hai, bà đáp: "Lần này thiếp không thể giúp gì hơn nhưng thiếp hứa sẽ chăm sóc bệ hạ đến phút cuối cùng và sẽ luôn nhớ đến bệ hạ. Nhà vua hoàn toàn tuyệt vọng. Nhà vua không hề nhớ ra người vợ thứ nhất cho đến khi ngài nghe một giọng nói cất lên :"Thiếp sẽ theo ngài đến bất cứ nơi đâu ngài tới cho dù đó là cõi chết. "Đó chính là người vợ thứ nhất của ông. Trông bà mệt mỏi và gầy yếu. Buồn bã và tiếc nuối vô hạn vì cách đối xử của mình, nhà vua thốt lên: "Lẽ ra ta phải chăm sóc và yêu thương nàng nhiều hơn mới phải." Bạn vừa đọc một câu chuyện cổ tích, trong đó có vua và các bà hoàng. Nếu coi mỗi chúng ta cũng giống như nhà vua thì để ý xem mỗi chúng ta cũng có 4 "người vợ" đấy. Người vợ thứ tư (Cơ thể): Hầu như ai cũng lo lắng,chăm sóc đến bản thân, đến cơ thể mình nhiều nhất. Nhưng khi chúng ta ra đi thì cơ thể ấy cũng tan biến, không để lại gì trên đời. Người vợ thứ ba (địa vị và của cải): Đây chính là thứ dễ mất nhất vì dù sao chúng chỉ là vật chất. Khi ta ko còn thì "địa vị" ko còn và của cải cũng sẽ thuộc về người khác. Người vợ thứ hai (Gia đình và bạn bè): Họ luôn quan tâm và giúp đỡ, luôn an ủi và khuyên giải, nhưng họ chỉ có thể chăm sóc ta đến những phút cuối cùng và nhớ thương ta. Người vợ thứ nhất (TÂM HỒN): Không phải ai cũng nhớ đến nó khi sống trong 1 thế giới mọi người đều phải chạy đua với của cải,địa vị để thoả mãn cái "tôi" của mình. Thế nhưng TÂM HỒN là điều duy nhất luôn đi cùng với chúng ta đến bất cứ nơi nào chúng ta đến, và chính là thứ để mọi người nhớ mãi đến ta dù ta có ở nơi nào.
I would like to have these sentences translated into Vietnamese.
The Apple Tree
Cây táo
Could you render these English sentences in Vietnamese?
A long time ago, there was a huge apple tree. A little boy loved to come and play around it every day. He climbed to the tree top, ate the apples, took a nap under the shadow. He loved the tree and the tree loved to play with him. Time went by the little boy had grown up and he no longer played around the tree every day. One day, the boy came back to the tree and he looked sad. "Come and play with me," the tree asked the boy. "I am no longer a kid, I don't play around trees anymore." The boy replied, "I want toys. I need money to buy them." "Sorry, but I don't have money... but you can pick all my apples and sell them. Then you will have money." The boy was so excited. He grabbed all the apples on the tree and left happily. The boy never came back after he picked the apples. The tree was sad. One day, the boy returned and the tree was so excited. "Come and play with me" the tree said. "I don't have time to play. I have to work for my family. We need a house for shelter. Can you help me?". "Sorry, but I don't have a house. But you can chop off my branches to build your house." So the boy cut all the branches of the tree and left happily. The tree was glad to see him happy. The tree was again lonely and sad. One hot summer day, the boy returned and the tree was delighted. "Come and play with me!" the tree said. "I am sad and getting old. I want to go sailing to relax myself. Can you give me a boat?" "Use my trunk to build your boat. You can sail far away and be happy." So the boy cut the tree trunk to make a boat. He went sailing and never showed up for a long time. Finally, the boy returned after he left for so many years. "Sorry, my boy. But I don't have anything for you anymore. No more apples for you..." the tree said. "I don't have teeth to bite" the boy replied. "No more trunk for you to climb on", "I am too old for that now," the boy said. "I really can't give you anything ... the only thing left is my dying roots" the tree said with tears. "I don't need much now, just a place to rest. I am tired after all these years." The boy replied. "Good! Old tree roots is the best place to lean on and rest. Come, Come sit down with me and rest." The boy sat down and the tree was glad and smiled with tears. This is a story for everyone. The tree is our parent. When we were young, we loved to play with Mom and Dad. When we grew up, we left them only come to them when we need something or when we are in trouble. No matter what, parents will always be there and give everything they can to make you happy. You may think the boy is cruel to the tree but that is how all of us are treating our parents.
Ngày xửa ngày xưa, có một cây táo khổng lồ. Một cậu bé thích đến chơi quanh quẩn với nó hàng ngày. Cậu bé leo lên ngọn cây, ăn táo, ngủ trưa dưới bóng râm. Cậu yêu cây táo và cây táo thích chơi với cậu. Thời gian qua đi cậu bé nay đã lớn và không còn chơi quanh quẩn bên cây táo mỗi ngày nữa. Một hôm nọ, cậu quay về cây táo và trông có vẻ buồn rầu. "Đến chơi với tôi nào," cây táo yêu cầu cậu bé. "Tôi không còn là con nít nữa, tôi cũng không chơi với cái cây nào nữa." Cậu bé trả lời, "Tôi muốn có đồ chơi. Tôi cần tiền để mua chúng." "Xin lỗi, nhưng tôi không có tiền ... nhưng cậu có thể hái tất cả quả táo của tôi và bán chúng. Sau đó cậu sẽ có tiền." Cậu bé vô cùng phấn khởi. Nó gom hết tất cả những quả táo trên cây và vui vẻ bỏ đi. Cậu bé không bao giờ trở lại sau khi lấy hết những quả táo. Cây táo buồn. Một hôm nọ, cậu bé trở lại và cái cây rất hồ hởi. "Đến chơi với tôi đi" cây táo nói. "Tôi không có thời gian để chơi đùa. Tôi phải làm việc nuôi gia đình tôi. Chúng tôi cần nhà để ở. Ông có thể giúp tôi được không?" "Xin lỗi, nhưng tôi không có nhà. Nhưng cậu có thể chặt những nhánh cây của tôi để xây nhà cho cậu." Vì thế cậu bé chặt tất cả các nhánh cây và vui vẻ bỏ đi. Cây táo vui mừng khi nhìn thấy cậu bé hạnh phúc. Cây táo lại cô đơn và buồn rầu. Một ngày mùa hè oi bức nọ, cậu bé trở lại và cây táo rất vui mừng. "Đến chơi với tôi nào!" cây nói. "Tôi buồn và giờ đã già rồi. Tôi muốn ra khơi để thư giãn. Ông có thể cho tôi một con tàu được không?" "Hãy lấy thân của tôi để làm tàu cho cậu nhé. Cậu có thể giong thuyền ra khơi xa và vui vẻ." Vì vậy cậu chặt thân cây để làm tàu. Cậu giong thuyền ra khơi và không xuất hiện trong một thời gian dài. Cuối cùng, cậu bé trở về sau khi đã bỏ đi nhiều năm. "Xin lỗi, cậu bé của tôi. Nhưng tôi không còn bất cứ thứ gì cho cậu nữa. Không còn quả táo nào nữa cho cậu..." cây nói. "Tôi cũng không còn răng để nhai" cậu bé trả lời." "Không còn thân cành để cậu leo trèo", "Tôi giờ đã quá già để làm việc ấy" cậu bé nói. "Tôi thật sự không thể cho cậu bất cứ thứ gì nữa ... điều duy nhất còn lại là nhúm rễ sắp chết này của tôi " cây táo nói trong nước mắt. "Tôi không cần gì nhiều bây giờ, chỉ là một chỗ để nghỉ ngơi. Tôi đã quá mệt mỏi sau bao năm" cậu bé trả lời. "Tốt! Rễ cây già nua là nơi tốt nhất để tựa vào và nghỉ ngơi. Đến đây, hãy đến ngồi xuống với tôi và nghỉ ngơi nhé. " Cậu bé ngồi xuống và cây táo vui mừng và mỉm cười trong nước mắt. Đây là câu chuyện cho tất cả mọi người. Cây táo là ba mẹ của chúng ta. Khi chúng ta còn nhỏ, chúng ta thích chơi với Ba Mẹ. Khi chúng ta lớn lên, chúng ta bỏ họ mà đi và chỉ quay về với họ khi ta cần cái gì đó hoặc khi ta đang gặp khó khăn. Bất kể điều gì, ba mẹ sẽ mãi ở đó và cho hết mọi thứ mà họ có thể để làm bạn hạnh phúc. Bạn có thể nghĩ cậu bé độc ác với cây táo nhưng đó là cách tất cả chúng ta đang đối xử với ba mẹ mình.
Can you provide me with the Vietnamese equivalents of these English sentences?
Where I'm belonging
Nơi trở về
I need these sentences to be translated into Vietnamese.
A small boy and a star
Cậu bé và ngôi sao
Can you provide me with the Vietnamese equivalents of these English sentences?
A small boy looked at a star And began to weep - Boy why are you weeping? And the boy said, - You are so far away - I will never be able to touch you. And the star answered, - Boy if I were not already in your heart - You would not be able to see me.
Cậu bé ngước mắt nhìn ngôi sao xa títVà bắt đầu thút thít Ngôi sao dịu dàng hỏi nhỏ: - Kìa bạn tôi ơi, cớ sao bạn lại khóc Cậu bé nức nở: - Sao kia ở mãi tận trời cao - Đôi tay tôi không sao với tới! Ngôi sao xa mỉm cười đáp lại: - Nếu tôi không có trong tim bạn - Thì bạn chẳng thể nào thấy được tôi đâu!
I'm seeking a Vietnamese translation for these English sentences.
Tucked away in our subconscious is an idyllic vision. We are traveling by train - out the windows, we drink in the passing scenes of children waving at a crossing, cattle grazing on a distant hillside, row upon row of corn and wheat, flatlands and valleys, mountains and rolling hillsides and city skylines. "When we reach the station, that will be it!" we cry. "When I'm 18." "When I buy a new 450 SL Mercedes Benz!" "When I put the last kid through college." "When I have paid off the mortgage!" "When I get a promotion." "When I reach retirement, I shall live happily ever after!" Sooner or later, we realize there is no station, no one place to arrive. The true joy of life is the trip. The station is only a dream. It constantly outdistances us. "Relish the moment" is a good motto, especially when coupled with Psalm 118:24: "This is the day which the Lord hath made; we will rejoice and be glad in it." It isn't the burdens of today that drive men mad. It is the regrets over yesterday and the fear of tomorrow. Regret and fear are twin thieves who rob us of today. So stop pacing the aisles and counting the miles. Instead, climb more mountains, eat more ice cream, go barefoot more often, swim more rivers, watch more sunsets, laugh more, cry less. Life must be lived as we go along. The station will come soon enough.
Ẩn sâu trong tiềm thức của chúng ta là một khung cảnh đồng quê. Chúng ta đang đi bằng tàu lửa - và chúng ta đang say sưa với những phong cảnh thoáng qua bên ngoài khung cửa sổ kia - lũ trẻ đang vẫy tay chào trên những ngả đường vắt ngang đường ray, đàn gia súc nhởn nhơ gặm cỏ dưới chân đồi, những hàng bắp, lúa mì thẳng tắp nối đuôi nhau, những bình nguyên bằng phẳng, những thung lũng, ngọn núi chập chùng, những sườn đồi thoai thoải và những làng mạc thấp thoáng trên nền trời xa xa. Nhưng trên hết trong tâm tríchúng ta là đích đến cuối cùng. Vào một ngày nào đó, chúng ta sẽ đến sân ga. Những dàn nhạc sẽ nổi lên, rừng cờ hoa vẫy chào. Khi đã đến nơi, mọi giấc mơ của chúng ta sẽ trở thành sự thật, và mọi phần của cuộc sống trở nên khít chặt như một bức tranh ghép hình hoàn hảo. Cảm giác ấy khiến chúng ta cảm thấy bồn chồn, chúng ta đi đi lại lại dọc lối đi, đếm từng phút - chờ đợi, chờ đợi, chờ đợi để đến được nhà ga. "Khi chúng ta đến ga, thì thật hạnh phúc biết bao!" chúng ta kêu lên và chợt nghĩ. "Khi tôi 18." "Khi tôi mua một chiếc Mercedes Benz 450 SL!" "Khi tôi gửi đứa con út vào đại học." "Khi tôi trả hết nợ nần!" "Khi tôi được thăng chức." "Khi tôi về hưu, tôi sẽ sống một cuộc sống thật an nhàn, hạnh phúc!" Không sớm thì muộn, chúng ta sẽ nhận ra rằng chẳng có lấy một nhà ga nào, chẳng có một nơi chốn nào để đến. Niềm vui đích thực của cuộc sống nằm trên từng chặng đường của một cuộc hành trình. Nhà ga, đó chỉ là một giấc mơ. Nó luôn luôn vượt xa khỏi chúng ta. "Hãy tận hưởng từng phút giây hiện tại này!" quả là một lời khuyên đúng đắn, nhất là khi kết hợp với đoạn kinh thánh: "Đây là một ngày mà Thượng Đế đã tạo ra. Chúng ta sẽ vui mừng và hân hoan trong ngày này!" Chẳng phải chính những gánh nặng của ngày hôm nay khiến chúng ta mỏi mệt? Không, đó chính là những hối tiếc của ngày hôm qua và nỗi sợ hãi về ngày mai. Sự hối tiếc và những nỗi sợ hãi là những tên trộm song hành đánh cắp ngày hôm nay của chúng ta. Vì thế, hãy ngừng đi lại dọc lối đi và nhẩm đếm từng dặm đường. Thay vào đó, hãy cứ trèo thêm lên những ngọn núi cao, hãy ăn thật nhiều kem cho thỏa thích, hãy đi chân trần thường xuyên, hãy thoải mái thả mình trong dòng nước mát lạnh của các con sông, hãy dành thời gian ngắm hoàng hôn xuống, hãy cười nhiều lên và khóc ít lại. Cuộc sống là một hành trình màchúng ta đang đi. Và rồi chúng ta cũng sẽ mau chóng đến được ga thôi.
I'm in need of a Vietnamese translation for these English sentences.
Never regret yesterday, life is in you today and you will make your tomorrow.
Đừng bao giờ nuối tiếc quá khứ, cuộc sống đích thực của bạn là vào ngày hôm nay và bạn sẽ tạo dựng tương lai cho mình.
Can you help me with the translation of these English sentences to Vietnamese?
Story: Mrs. Thompson and Teddy
Cô giáo Thompson và cậu bé Teddy
Please assist me in translating these sentences into Vietnamese.
There is a story many years ago of an elementary teacher. Her name was Mrs. Thompson. And as she stood in front of her 5th grade class on the very first day of school, she told the children a lie. Like most teachers, she looked at her students and said that she loved them all the same. But that was impossible, because there in the front row, slumped in his seat, was a little boy named Teddy. Mrs. Thompson had watched Teddy the year before and noticed that he didn't play well with the other children, that his clothes were messy and that he constantly needed a bath. And Teddy could be unpleasant. It got to the point where Mrs. Thompson would actually take delight in marking his papers with a broad red pen, making bold X's and then putting a big "F" at the top of his papers.
Câu chuyện đã xảy ra từ nhiều năm trước. Lúc đó, cô Thompson đang dạy tại trường tiểu học của thị trấn nhỏ tại Hoa Kỳ. Vào ngày khai giảng năm học mới, cô đứng trước những em học sinh lớp năm, nhìn cả lớp và nói cô sẽ yêu tất cả các học sinh như nhau. Nhưng thực ra cô biết mình sẽ không làm được điều đó bởi cô đã nhìn thấy cậu học sinh Teddy Stoddard ngồi lù lù ngay bàn đầu. Năm ngoái, cô đã từng biết Teddy và thấy cậu bé chơi không đẹp với bạn bè, quần áo thì lôi thôi lếch thếch, còn người ngợm thì lại quá bẩn thỉu. "Teddy trông thật khó ưa." Chẳng những thế, cô Thompson còn dùng cây bút đỏ vạch một chữ thật rõ đậm vào hồ sơ cá nhân của Teddy và ghi chữ F đỏ chói ngay phía ngoài (chữ F là hạng kém).
I'm looking for a Vietnamese translation of these sentences.
At the school where Mrs. Thompson taught, she was required to review each child's past records and she put Teddy's off until last. However, when she reviewed his file, she was in for a surprise. Teddy's first grade teacher wrote, "Teddy is a bright child with a ready laugh. He does his work neatly and has good manners...he is a joy to be around." His second grade teacher wrote, "Teddy is an excellent student, well-liked by his classmates, but he is troubled because his mother has a terminal illness and life at home must be a struggle." His third grade teacher wrote, "His mother's death has been hard on him. He tries to do his best but his father doesn't show much interest and his home life will soon affect him if some steps aren't taken." Teddy's fourth grade teacher wrote, "Teddy is withdrawn and doesn't show much interest in school. He doesn't have many friends and sometimes sleeps in class."
Ở trường này, vào đầu năm học mỗi giáo viên đều phải xem thành tích của từng học sinh trong lớp mình chủ nhiệm. Cô Thompson đã nhét hồ sơ cá nhân của Teddy đến cuối cùng mới mở ra xem, và cô rất ngạc nhiên về những gì đọc được. Cô giáo chủ nhiệm lớp 1 nhận xét Teddy như sau: "Teddy là một đứa trẻ thông minh và luôn vui vẻ. Học giỏi và chăm ngoan… Em là nguồn vui cho người chung quanh". Cô giáo lớp 2 nhận xét: "Teddy là một học sinh xuất sắc, được bạn bè yêu quý nhưng có chút vấn đề vì mẹ em ốm nặng và cuộc sống trong gia đình thật sự là một cuộc chiến đấu". Giáo viên lớp 3 ghi: "Cái chết của người mẹ đã tác động mạnh đến Teddy. Em đã cố gắng học, nhưng cha em không mấy quan tâm đến con cái và đời sống gia đình sẽ ảnh hưởng đến em nếu em không được giúp đỡ". Giáo viên chủ nhiệm lớp 4 nhận xét: "Teddy tỏ ra lãnh đạm và không tỏ ra thích thú trong học tập. Em không có nhiều bạn và thỉnh thoảng ngủ gục trong lớp".
Could you render these English sentences in Vietnamese?
By now, Mrs. Thompson realized the problem and she was ashamed of herself. She felt even worse when her students brought her Christmas presents, wrapped in beautiful ribbons and bright paper, except for Teddy's. His present was clumsily wrapped in the heavy, brown paper that he got from a grocery bag. Mrs. Thompson took pains to open it in the middle of the other presents. Some of the children started to laugh when she found a rhinestone bracelet with some of the stones missing and a bottle that was one quarter full of perfume. She stifled the children's laughter when she exclaimed how pretty the bracelet was, putting it on, and dabbing some of the perfume on her wrist. Teddy stayed after school that day just long enough to say, "Mrs. Thompson, today you smelled just like my Mom used to." After the children left she cried for at least an hour. On that very day, she quit teaching reading, and writing, and arithmetic. Instead, she began to teach children. Mrs. Thompson paid particular attention to Teddy. As she worked with him, his mind seemed to come alive. The more she encouraged him, the faster he responded. By the end of the year, Teddy had become one of the smartest children in the the class and, despite her lie that she would love all the children same, Teddy became one of her "teacher's pets." A year later, she found a note under her door, from Teddy, telling her that she was still the best teacher he ever had in his whole life Six years went by before she got another note from Teddy.He then wrote that he had finished high school, second in his class, and she was still the best teacher he ever had in his whole life. Four years after that, she got another letter, saying that while things had been tough at times, he'd stayed in school, had stuck with it, and would soon graduate from college with the highest of honors. He assured Mrs. Thompson that she was still the best and favorite teacher he ever had in his whole life. Then four more years passed and yet another letter came. This time he explained that after he got his bachelor's degree, he decided to go a little further. The letter explained that she was still the best and favorite teacher he ever had. But now his name was a little longer. The letter was signed, Theodore F. Stollard, M.D. The story doesn't end there. You see, there was yet another letter that spring. Teddy said he'd met this girl and was going to be married. He explained that his father had died a coupleof years ago and he was wondering if Mrs. Thompson might agree to sit in the place at the wedding that was usually reserved for the mother of the groom. Of course, Mrs. Thompson, did. And guess what? She wore that bracelet, the one with several rhinestones missing. And she made sure she was wearing the perfume that Teddy remembered his mother wearing on their last Christmas together. They hugged each other, and Teddy whispered in Mrs. Thompson's ear, "Thank you, Mrs. Thompson, for believing in me. Thank you so much for making me feel important and showing me that I could make a difference." Mrs. Thompson, with tears in her eyes, whispered back. She said, "Teddy, you have it all wrong. You were the one who taught me that I could make a difference. I didn't know how to teach until I met you."
Đọc đến đây, cô Thompson chợt hiểu ra vấn đề và cảm thấy tự hổ thẹn. Cô còn thấy áy náy hơn khi đến lễ Giáng sinh, tất cả học sinh trong lớp đem tặng cô những gói quà gói giấy màu và gắn nơ thật đẹp, ngoại trừ món quà của Teddy. Em đem tặng cô một gói quà bọc vụng về bằng loại giấy gói hàng nâu xỉn mà em tận dụng lại từ loại túi giấy gói hàng của tiệm tạp hoá. Cô Thompson cảm thấy đau lòng khi mở gói quà ấy ra trước mặt cả lớp. Một vài học sinh đã bật cười khi thấy cô giơ lên chiếc vòng giả kim cương cũ đã sút mất một vài hột đá và một chai nước hoa chỉ còn lại một ít. Nhưng cô đã dập tắt những tiếng cười nhạo kia khi cô khen chiếc vòng đẹp, đeo nó vào tay và xịt ít nước hoa trong chai lên cổ. Hôm đó Teddy đã nén lại cho đến cuối giờ để nói với cô: "Thưa cô, hôm nay cô thơm như mẹ em ngày xưa". Sau khi đứa bé ra về, cô Thompson đã ngồi khóc cả giờ đồng hồ. Và chính từ hôm đó, ngoài dạy học cô còn lưu tâm chăm sóc cho Teddy hơn trước. Mỗi khi cô đến bàn em để hướng dẫn thêm, tinh thần Teddy dường như phấn chấn hẳn lên. Cô càng động viên em càng tiến bộ nhanh. Vào cuối năm học, Teddy đã trở thành học sinh giỏi nhất lớp. Và trái với phát biểu của mình vào đầu năm học, cô đã không yêu thương mọi học sinh như nhau. Teddy là học sinh cưng nhất của cô. Một năm sau, cô tìm thấy một mẩu giấy nhét qua khe cửa. Teddy viết: "Cô là cô giáo tuyệt vời nhất trong đời em". Sáu năm sau, cô lại nhận được một bức thư ngắn từ Teddy. Cậu cho biết đã tốt nghiệp trung học, đứng hạng 3 trong lớp và "Cô vẫn là người thầy tuyệt vời nhất trong đời em". Bốn năm sau, cô lại nhận được một lá thư nữa. Teddy cho biết dù hoàn cảnh rất khó khăn khiến cho cậu có lúc cảm thấy bế tắc, cậu vẫn quyết tốt nghiệp đại học với hạng xuất sắc nhất, nhưng "Cô vẫn luôn là cô giáo tuyệt vời mà em yêu quý nhất trong đời". Rồi bốn năm sau nữa, cô nhận được bức thư trong đó Teddy báo tin cho biết cậu đã đậu tiến sĩ và quyết định học thêm lên. "Cô vẫn là người thầy tuyệt nhất của đời em", nhưng lúc này tên cậu đã dài hơn. Bức thư ký tên Theodore F. Stoddard - giáo sư tiến sĩ. Câu chuyện vẫn chưa kết thúc tại đây. Một bức thư nữa được gửi đến nhà cô Thompson. Teddy kể cậu đã gặp một cô gái và cậu sẽ cưới cô ta. Cậu giải thích vì cha cậu đã mất cách đây vài năm nên cậu mong cô Thompson sẽ đến dự lễ cưới và ngồi ở vị trí vốn thường dành cho mẹ chú rể. Và bạn thử đoán xem việc gì đã xảy ra? Ngày đó, cô đeo chiếc vòng kim cương giả bị rớt hột mà Teddy đã tặng cô năm xưa, xức thứ nước hoa mà Teddy nói mẹ cậu đã dùng vào kỳ Giáng sinh cuối cùng trước lúc bà mất. Họ ôm nhau mừng rỡ và giáo sư Stoddard thì thầm vào tai cô Thompson: "Cám ơn cô đã tin tưởng em. Cám ơn cô rất nhiều vì đã làm cho em cảm thấy mình quan trọng và cho em niềm tin rằng mình sẽ tiến bộ". Cô Thompson vừa khóc vừa nói nhỏ với cậu: "Teddy, em nói sai rồi. Chính em mới là người đã dạy cô rằng cô có thể sống khác đi. Cô chưa từng biết dạy học cho tới khi cô gặp được em."
Can you help me with the translation of these English sentences to Vietnamese?
And this too shall pass
Chuyện đó rồi cũng sẽ qua
Can you render these English sentences in Vietnamese, please?
One day Solomon decided to humble Benaiah ben Yehoyada, his most trusted minister. He said to him, "Benaiah, there is a certain ring that I want you to bring to me. I wish to wear it for Sukkot which gives you six months to find it." "If it exists anywhere on earth, your majesty," replied Benaiah, "I will find it and bring it to you, but what makes the ring so special?" "It has magic powers," answered the king. "If a happy man looks at it, he becomes sad, and if a sad man looks at it, he becomes happy." Solomon knew that no such ring existed in the world, but he wished to give his minister a little taste of humility. Spring passed and then summer, and still Benaiah had no idea where he could find the ring. On the night before Sukkot, he decided to take a walk in one of he poorest quarters of Jerusalem. He passed by a merchant who had begun to set out the day's wares on a shabby carpet. "Have you by any chance heard of a magic ring that makes the happy wearer forget his joy and the broken-hearted wearer forget his sorrows?" asked Benaiah. He watched the grandfather take a plain gold ring from his carpet and engrave something on it. When Benaiah read the words on the ring, his face broke out in a wide smile. That night the entire city welcomed in the holiday of Sukkot with great festivity. "Well, my friend," said Solomon, "have you found what I sent you after?" All the ministers laughed and Solomon himself smiled. To everyone's surprise, Benaiah held up a small gold ring and declared, "Here it is, your majesty!" As soon as Solomon read the inscription, the smile vanished from his face. The jeweler had written three Hebrew letters on the gold band: _gimel, zayin, yud_, which began the words "_Gam zeh ya'avor_" -- "This too shall pass." At that moment Solomon realized that all his wisdom and fabulous wealth and tremendous power were but fleeting things, for one day he would be nothing but dust.
Một ngày nọ, Vua Salomon bỗng muốn làm bẽ mặt Benaiah, một cận thần thân tín của mình. Vua bèn nói với ông: "Benaiah này, ta muốn ông mang về cho ta một chiếc nhẫn để đeo trong ngày lễ Sukkot và ta cho ông sáu tháng để tìm thấy chiếc nhẫn đó. " Benaiah trả lời: "Nếu có một thứ gì đó tồn tại trên đời này, thưa đức vua, tôi sẽ tìm thấy nó và mang về cho ngài, nhưng chiếc nhẫn ấy chắc phải có gì đặc biệt? " Nhà Vua đáp: "Nó có những sức mạnh diệu kỳ. Nếu kẻ nào đang vui nhìn vào nó, sẽ thấy buồn, và nếu ai đang buồn, nhìn vào nó sẽ thấy vui". Vua Salomon biết rằng sẽ không đời nào có một chiếc nhẫn như thế tồn tại trên thế gian này, nhưng ông muốn cho người cận thần của mình nếm một chút bẽ bàng. Mùa xuân trôi qua, mùa hạ đến nhưng Benaiah vẫn chưa có một ý tưởng nào để tìm ra một chiếc nhẫn như thế. Vào đêm trước ngày lễ Sukkot, ông quyết định lang thang đến một trong những nơi nghèo nhất của Jerusalem. Ông đi ngang qua một người bán hàng rong đang bày những món hàng trên một tấm bạt tồi tàn. Benaiah dừng chân lại hỏi "Có bao giờ ông nghe nói về một chiếc nhẫn kỳ diệu làm cho người hạnh phúc đeo nó quên đi niềm vui sướng và người đau khổ đeo nó quên đi nỗi buồn không? ". Người bán hàng lấy từ tấm bạt lên một chiếc nhẫn giản dị có khắc một dòng chữ. Khi Benaiah đọc dòng chữ trên chiếc vòng đó, khuôn mặt ông rạng rỡ một nụ cười. Đêm đó toàn thành phố hân hoan, tưng bừng đón mừng lễ hội Sukkot. "Nào, ông bạn của ta, " Vua Salomon nói, "Ông đã tìm thấy điều ta yêu cầu chưa? ". Tất cả những cận thần đều cười lớn và cả chính vua Salomon cũng cười. Trước sự ngạc nhiên của mọi người, Benaiah đưa chiếc nhẫn ra và nói: "Nó đây thưa đức vua". Khi vua Salomon đọc dòng chữ, nụ cười biến mất trên khuôn mặt vua. Trên chiếc nhẫn đó khắc 3 chữ cái Do Thái cổ: _gimel, zayin, yud_,, là những chữ đầu của "_Gam zeh ya'avor_" -- "Điều đó rồi cũng qua đi" Vào chính giây phút ấy, vua Salomon nhận ra rằng tất thảy những sự khôn ngoan, vương giả và quyền uy của ông đều là phù du, bởi vìmột ngày nào đó, ông cũng chỉ là cát bụi.
I need help with translating these English sentences into Vietnamese.
The 20 Dollar Bill
Tờ 20 đô la
Please assist me in translating these sentences into Vietnamese.
Once upon a time lived on a cloud that was grown up over a very beautiful country. One day, she saw another much bigger cloud and she felt so much envy, then the cloud decided that in order to get bigger and grow more, her water would never abandon her, and will never start raining again.
Ngày xửa ngày xưa có một đám mây lớn lên ở một đất nước rất trù phú. Một ngày, nó nhìn thấy một đám mây to hơn nó rất nhiều, và nó cảm thấy rất ghen tỵ, sau đó đám mây quyết định rằng để trở nên to hơn và lớn nhanh hơn, và nước của nó sẽ không bỏ rơi nó, và nó cũng sẽ không làm mưa nữa.
I need these sentences to be translated into Vietnamese.
A young man was getting ready to graduate from college. For many months he had admired a beautiful sports car in a dealer's showroom, and knowing his father could well afford it, he told him that was all he wanted.
Một chàng trai trẻ đang chuẩn bị tốt nghiệp đại học. Đã từ nhiều tháng nay cậu rất thích một chiếc xe hơi thể thao ở phòng trưng bày, và biết rằng cha mình có thể mua được chiếc xe ấy, cậu nói với cha rằng đó là những gì cậu muốn.
Could you translate these sentences from English to Vietnamese?
A man and his son were once going with their Donkey to market. As they were walking along by its side a countryman passed them and said: "You fools, what is a Donkey for but to ride upon?" So the Man put the Boy on the Donkey and they went on their way. But soon they passed a group of men, one of whom said: "See that lazy youngster, he lets his father walk while he rides." So the Man ordered his Boy to get off, and got on himself. But they hadn't gone far when they passed two women, one of whom said to the other: "Shame on that lazy lout to let his poor little son trudge along." Well, the Man didn't know what to do, but at last he took his Boy up before him on the Donkey. By this time they had come to the town, and the passers-by began to jeer and point at them. The Man stopped and asked what they were scoffing at. The men said: "Aren't you ashamed of yourself for overloading that poor donkey of yours and your hulking son?"
Một người đàn ông và con trai của mình đang đi với con lừa của họ đến chợ. Khi họ đang đi ngang qua một người nông dân, ông ta nói: "Các người đúng là ngốc, có lừa thì để cưỡi chứ làm gì?" Vì thế người Bố để người Con lên con Lừa và họ tiếp tục đi. Nhưng sau đó họ gặp một nhóm người, trong số đó có người nói: "Hãy nhìn đứa bé lười biếng kia mà xem, nó để bố nó đi bộ trong khi nó thì ngồi lưng lừa." Vì thế người Bố bảo người Con xuống và tự mình leo lên lưng Lừa. Nhưng họ chưa đi được bao xa khi họ gặp hai người phụ nữ, một trong số họ nói với người còn lại: "Người đàn ông kia thật đáng xấu hổ, ông ta để đứa con tội nghiệp lếch thếch đi theo." Người Bố không biết làm gì nữa, cuối cùng ông bế người Con đặt lên lưng con Lừa với mình. Nhưng lần này khi họ đến thị trấn, những người đi đường bắt đầu chỉ trỏ họ. Người Bố dừng lại và hỏi họ đang nói về chuyện gì. Một người đàn ông đáp: "Ông không thấy xấu hổ khi bắt con lừa tội nghiệp kia phải chở cả ông và đứa con trai của ông ư?
Could you render these English sentences in Vietnamese?
An act of kindness
Một hành động của lòng nhân ái
Please convert these English sentences into Vietnamese.
President Abraham Lincoln often visited hospitals to talk with wounded soldiers during the Civil War. Once, doctors pointed out a young soldier who was near death and Lincoln went over to his bedside. "Is there anything I can do for you now?" asked the president. The soldier obviously didn't recognize Lincoln, and with some effort he was able to whisper, "Would you please write a letter to my mother?" A pen and paper were provided and the president carefully began to write down what the young man was able to say: "My dearest mother, I was badly hurt while doing my duty. I'm afraid I'm not going to recover. Don't grieve too much for me, please. Kiss Mary and John for me. May God bless you and father." The soldier was too weak to continue, so Lincoln signed the letter for him and added, "Written for your son by Abraham Lincoln." The young man asked to see the note and was astonished when he discovered who had written it. "Are you really the president?" he asked. "Yes, I am," Lincoln replied quietly. Then he asked if there was anything else he could do. "Would you please hold my hand?" the soldier asked. "It will help to see me through to the end." In the hushed room, the tall gaunt president took the soldier's hand in his and spoke warm words of encouragement until death came.
Trong suốt thời gian xảy ra nội chiến, Tổng thống Abraham Lincoln vẫn thường đến các bệnh viện để thăm hỏi vàtròchuyện với những thương binh đang điều trị ở đó. Một lần, các bác sĩ dẫn Lincoln đến bên giường một người lính trẻ đang gần kề cái chết. "Tôi có thể làm cho anh được điều gì ngay bây giờ không?" Tổng thống hỏi. Người lính trẻ rõràng không nhận ra Lincoln. Anh cố thều thào: "Xin ông hãy giúp tôi viết một lá thư cho mẹ!" Bút vàgiấy được mang tới, vàvị Tổng thống bắt đầu nắn nót viết từng chữ mà người lính trẻ cóthể đọc được bằng hơi sức yếu ớt còn lại của mình: "Mẹ yêu quý! Con bị thương rất nặng trong khi đang thi hành nhiệm vụ. Con e rằng con không thể qua khỏi được. Nhưng mẹ ơi, mẹ đừng quá đau buồn vìcon nhé. Xin hãy hôn em Mary và John giúp con. Xin ơn trên phùhộ cho bố mẹ." Người lính đã quá yếu sức vàkhông thể tiếp tục được nữa, nên vị Tổng thống ký tên giùm anh vào cuối bức thư và thêm vào dòng chữ: "Viết thay cho con trai bà– Abraham Lincoln." Người lính trẻ nhìn vào bức thư, và anh thật sự ngạc nhiên khi đọc thấy tên người đã giúp anh thực hiện nguyện vọng cuối cùng của mình. "Ngài chính là Tổng thống ư?" anh hỏi. "Vâng, tôi đây!" Lincoln trả lời một cách bình thản, vàlại tiếp tục hỏi rằng ông có thể làm thêm được gìcho anh. "Xin ngài hãy nắm lấy tay tôi!" anh nói. "Điều đó sẽ giúp tôi rất nhiều khi phải đối mặt với cái chết!" Và trong căn phòng tĩnh lặng, vị Tổng thống cao gầy nắm chặt tay anh lính trẻ trong bàn tay mình, nhẹ nhàng nói những lời an ủi, động viên cho đến khi anh ra đi trong thanh thản.
Could you convert these sentences from English to Vietnamese for me?
Heart song
Bài hát từ trái tim
I would like to have these sentences translated into Vietnamese.
There was a great man who married the woman of his dreams. With their love, they created a little lovely girl. When the little girl was growing up, the great man would hug her and tell her, "I love you, little girl." The little girl would pout and say, "I'm not a little girl anymore." Then the man would laugh and say, "But to me, you'll always be my little girl." The little girl who-was-not-little-anymore decided to leave her home and went into the world. As she learned more about herself, she learned more about the man. One of his strengths was his ability to express his love to his family. It didn't matter where she went in the world, the man would call her and say, "I love you, little girl." The day came when the little girl who-was- not-little-anymore received an unexpected phone call. The great man was damaged. He had had a stroke. He couldn't talk, smile, walk, hug, dance or tell the little girl who-was-not-little-anymore that he loved her. And so she went to the side of the great man. When she walked into the room and saw him, he looked small and not strong at all. He looked at her and tried to speak, but he could not. The little girl did the only thing she could do. She sat next to the great man, and drew her arms around the useless shoulders of her father. Her head on his chest, she thought of many things. She remembered she had always felt protected and cherished by the great man. She felt grief for the loss she was to endure, the words of love that had comforted her. And then she heard from within the man, the beat of his heart. The heart beat on, steadily unconcerned about the damage to the rest of the body. And while she rested there, the magic happened. She heard what she needed to hear. His heart beat out the words that his mouth could no longer say… I love you, little girl… I love you, little girl… and she was comforted.
Có một người đàn ông tốt bụng cưới được người phụ nữ như ông hằng mơ ước. Tình yêu của họ đơm hoa kết trái và họ sinh hạ được một côcon gái rất xinh xắn, dễ thương. Khi cô gái đã lớn, người cha vẫn thường ôm cô vào lòng và nói: "Bố yêu con, con gái bé bỏng của bố". Cô con gái giận dỗi: "Kìa bố, con không còn là một đứa bé nữa". Nhưng người cha luôn cười xòa và đáp: "Đối với bố, con luôn làcon gái bé bỏng của bố". Một ngày kia, cô-con-gái-không-còn-bé- bỏng ấy quyết định rời khỏi ngôi nhà thân yêu của mình để khám phá thế giới xung quanh. Khi cô gái thật sự hiểu về bản thân mình thì cũng là lúc cô hiểu về cha mình hơn. Một trong những điểm mạnh của ông làông luôn bày tỏ tình thương yêu với gia đình của mình. bất kể cô đang ở đâu, cha vẫn gọi cho côvà nói rằng: "Bố yêu con, con gái bé bỏng của bố". Một ngày nọ, cô gái nhận được một cú điện thoại không mong đợi: cha cô đã bị liệt sau một cơn đột quỵ. Ông không thể nói, không thể cười, không thể đi lại… và không thể nói được với côrằng ông rất yêu cô. Cô trở về bên cha. Khi bước vào phòng, cô thấy ông nằm đó, trông thật bé nhỏ và ốm yếu. Ông gắng gượng trò chuyện cùng cô nhưng không thể. điều duy nhất màcôcó thể làm là ngồi bên cạnh ông, vòng tay ôm lấy đôi vai bất động của cha mình. Tựa đầu lên ngực cha, cô suy ngẫm nhiều điều. Cô nhớ lại rằng mình luôn cảm thấy được cha che chở, nâng niu từ tấm bé. Cô thấy lòng quặn thắt trước nỗi đau sắp mất đi người cha yêu quý. Không còn nữa rồi những lời yêu thương vỗ về của cha. Và bỗng nhiên, cô nghe tiếng nhịp đập trái tim người cha. Trái tim ông vẫn đập đều đều, mạnh mẽ, như muốn vượt lên tất cả những phần cơ thể đau yếu còn lại. Và trong giây phút được bình yên trên ngực cha như thế, điều kỳ diệu đã xảy ra: Cô đã nghe được những lời yêu thương mà cô muốn nghe! Trái tim của người cha phát ra những lời mà miệng ông không còn nói được nữa: "Bố yêu con, con gái bé bỏng của bố… Bố yêu con…" và cô đã được vỗ về, an ủi bởi những lời nói yêu thương vô hình ấy của cha.
Please convert these English sentences into Vietnamese.
THE BUM …
KẺ ĂN MÀY …
Please assist me in translating these sentences into Vietnamese.
There was a great man who married the woman of his dreams. With their love, they created a little lovely girl. When the little girl was growing up, the great man would hug her and tell her, "I love you, little girl." The little girl would pout and say, "I'm not a little girl anymore." Then the man would laugh and say, "But to me, you'll always be my little girl." The little girl who-was-not-little-anymore decided to leave her home and went into the world. As she learned more about herself, she learned more about the man. One of his strengths was his ability to express his love to his family. It didn't matter where she went in the world, the man would call her and say, "I love you, little girl." The day came when the little girl who-was- not-little-anymore received an unexpected phone call. The great man was damaged. He had had a stroke. He couldn't talk, smile, walk, hug, dance or tell the little girl who-was-not-little-anymore that he loved her. And so she went to the side of the great man. When she walked into the room and saw him, he looked small and not strong at all. He looked at her and tried to speak, but he could not. The little girl did the only thing she could do. She sat next to the great man, and drew her arms around the useless shoulders of her father. Her head on his chest, she thought of many things. She remembered she had always felt protected and cherished by the great man. She felt grief for the loss she was to endure, the words of love that had comforted her. And then she heard from within the man, the beat of his heart. The heart beat on, steadily unconcerned about the damage to the rest of the body. And while she rested there, the magic happened. She heard what she needed to hear. His heart beat out the words that his mouth could no longer say… I love you, little girl… I love you, little girl… and she was comforted.
Một gã ăn mày tiến gần một quý ông ăn mặt sang trọng trên đường phố. "Này, ông bạn quý, ông cóthể cho hai đô la được không?" Người đàn ông ăn mặc sang trọng trả lời:" Bạn sẽ không tiêu tiền vào rượu chè, phải không?" "Không, thưa ngài, tôi không uống rượu," gã ăn mày cãi lại. "Bạn sẽ không quẳng nóvào những ván chơi tào lao, phải không?" người đàn ông thượng lưu hỏi. " Không theo lối đó. Tôi không chơi bài," gã ăn mày trả lời. " Bạn sẽ không tiêu hoang tiền vào những khoảng phíhõm của một cuộc gôn, phải không?" người đàn ông hỏi. "Không bao giờ," tên ăn mày nói, "tôi không chơi gôn." Người đàn ông hỏi gã ăn mày có muốn về nhàvới ông ta ăn cơm nhà không. Gã ăn mày hăm hở đồng ý. Trong khi họ đang đi hướng về nhà người đàn ông, gã ăn mày không thắng được tính tò mò. "Vợ ông sẽ không nổi giận khi bàấy thấy một gã như tôi tại bàn ăn của ông à?" " Chắc là có," người đàn ông nói, "nhưng sẽ đáng như thế. Tôi muốn cô ấy thấy điều gìxảy ra cho một gã không nhậu nhẹt, cờ bạc hoặc chơi gôn."
Could you help me translate these sentences into Vietnamese?
HOW TO LIVE?
LÀM SAO ĐỂ SỐNG?
Please transform these English sentences into Vietnamese.
"Darling," said the young man to his new bride. "Now that we are married, do you think you will be able to live on my modest income?" "Of course, dearest, no trouble," she answered. "But what will you live on?"
"Em yêu," một người đàn ông trẻ nói với cô dâu mới."Vì rằng chúng ta cưới nhau, em có nghĩ em sẽ cóthể sống bằng thu nhập khiêm tốn của anh?" "Dĩ nhiên, anh yêu, không sao cả," cô ta trả lời. "Nhưng anh sẽ sống bằng gì?"
I need these sentences to be translated into Vietnamese.
The Nellie, a cruising yawl, swung to her anchor without a flutter of the sails, and was at rest. The flood had made, the wind was nearly calm, and being bound down the river, the only thing for it was to come to and wait for the turn of the tide. The sea-reach of the Thames stretched before us like the beginning of an interminable waterway. In the offing the sea and the sky were welded together without a joint, and in the luminous space the tanned sails of the barges drifting up with the tide seemed to stand still in red clusters of canvas sharply peaked, with gleams of varnished sprits. A haze rested on the low shores that ran out to sea in vanishing flatness. The air was dark above Gravesend, and farther back still seemed condensed into a mournful gloom, brooding motionless over the biggest, and the greatest, town on earth. The Director of Companies was our captain and our host. We four affectionately watched his back as he stood in the bows looking to seaward. On the whole river there was nothing that looked half so nautical. He resembled a pilot, which to a seaman is trustworthiness personified. It was difficult to realize his work was not out there in the luminous estuary, but behind him, within the brooding gloom.
Nellie, chiếc thuyền hai buồm, buông neo không một tiếng buồm lật phật, lặng lẽ nghỉ ngơi. Nước đã xuống, gió cơ hồ đã lặng; được buộc dưới sông, nó chỉ còn một việc là đậu đó đợi triều lên. Cửa sông Thames trải dài trước mắt chúng tôi, như khởi đầu của một thủy lộ dài bất tận. Ngoài khơi xa biển và trời liền thành một tấm áo không thấy đường may, và trong không gian lung linh này, những cánh buồm rám nắng vẫn dập dờn trên ngọn thủy triều như đứng yên thành từng cụm vải bạt đỏ chóp nhọn, lấp lánh ánh vécni từ những cột buồm. Sương lan trên những bãi bồi phẳng lì chạy dài tít tắp về phía biển. Bầu trời trên Gravesend tăm tối, còn phía xa dường như vẫn ngưng tụ thành một quầng u ám thảm sầu, âm trầm bất động trùm lên đô thành lớn nhất và vĩ đại nhất trên trái đất. Tay Giám đốc Công ty là thuyền trưởng và chủ nhà của chúng tôi. Bốn người bọn tôi trìu mến nhìn bóng lưng gã đứng trên mũi thuyền, nhìn về phía biển. Cả sông không có hình ảnh nào đại dương bằng nửa gã. Nhìn gã như một hoa tiêu, niềm tin của người đi biển được nhân cách hóa. Khó mà nhận ra, nghề của gã không phải ngoài kia, nơi giang khẩu lung linh, mà ở sau lưng, giữa vùng âm trầm u ám nọ.
Can you render these English sentences in Vietnamese, please?
Between us there was, as I have already said somewhere, the bond of the sea. Besides holding our hearts together through long periods of separation, it had the effect of making us tolerant of each other’s yarns—and even convictions. The Lawyer—the best of old fellows—had, because of his many years and many virtues, the only cushion on deck, and was lying on the only rug. The Accountant had brought out already a box of dominoes, and was toying architecturally with the bones. Marlow sat cross-legged right aft, leaning against the mizzen-mast. He had sunken cheeks, a yellow complexion, a straight back, an ascetic aspect, and, with his arms dropped, the palms of hands outwards, resembled an idol. The director, satisfied the anchor had good hold, made his way aft and sat down amongst us. We exchanged a few words lazily. Afterwards there was silence on board the yacht. For some reason or other we did not begin that game of dominoes. We felt meditative, and fit for nothing but placid staring. The day was ending in a serenity of still and exquisite brilliance. The water shone pacifically; the sky, without a speck, was a benign immensity of unstained light; the very mist on the Essex marsh was like a gauzy and radiant fabric, hung from the wooded rises inland, and draping the low shores in diaphanous folds. Only the gloom to the west, brooding over the upper reaches, became more sombre every minute, as if angered by the approach of the sun.
Giữa chúng tôi, như đã có lần tôi từng nói, có sự gắn bó của biển khơi. Ngoài việc neo đậu lòng nhau sau những quãng dài xa cách, nó còn giúp chúng tôi chịu đựng được những huyên thuyên, thậm chí là định kiến, của nhau. Tay Luật sư - loại bạn già chơi rất được - bởi tuổi cao đức trọng nhất hội, sở hữu cái đệm duy nhất trên boong, và nằm trên tấm thảm duy nhất. Tay Kế toán ôm theo hộp domino và đang lẩn mẩn xây nhà với những mảnh ngà. Marlow ngồi xếp bằng ở đuôi tàu, lưng dựa vào cột buồm lái. Má hóp, da vàng, lưng thẳng, dung mạo khắc khổ, đôi tay buông xuôi, lòng bàn tay ngửa ra trước, gã nhìn như một bức ngẫu tượng. Tay giám đốc, yên tâm là neo đã chắc, xuống đuôi tàu nhập bọn với chúng tôi. Cả bọn uể oải trò chuyện đôi lời. Rồi boong tàu chìm trong im lặng. Bởi lẽ gì đó, chúng tôi không bắt đầu ván domino ấy. Chúng tôi thấy trầm tư, chẳng có hứng làm gì ngoài tĩnh tâm quan sát. Ngày tàn dần trong cái bình lặng của ánh quang huy thanh tĩnh và tú lệ. Nước tỏa sáng một cách bình yên; vòm trời, không một gợn mây, như một khoảng mênh mông ôn nhuận ngập tràn thứ ánh sáng vô nhiễm; màn sương trên đầm lầy miền Essex giống một tấm sa mỏng phát quang, rủ xuống từ những triền cao cây phủ trong nội địa, buông từng lớp trong mờ lên những bãi bồi. Chỉ riêng vùng ảm đạm phía tầy, vần vũ trên thượng lưu, là mỗi lúc một thêm u ám, như thể phẫn nộ trước sự lấn tới của mặt trời.
Could you translate these sentences from English to Vietnamese?
And at last, in its curved and imperceptible fall, the sun sank low, and from glowing white changed to a dull red without rays and without heat, as if about to go out suddenly, stricken to death by the touch of that gloom brooding over a crowd of men. Forthwith a change came over the waters, and the serenity became less brilliant but more profound. The old river in its broad reach rested unruffled at the decline of day, after ages of good service done to the race that peopled its banks, spread out in the tranquil dignity of a waterway leading to the uttermost ends of the earth. We looked at the venerable stream not in the vivid flush of a short day that comes and departs for ever, but in the august light of abiding memories. And indeed nothing is easier for a man who has, as the phrase goes, ‘followed the sea’ with reverence and affection, that to evoke the great spirit of the past upon the lower reaches of the Thames. The tidal current runs to and fro in its unceasing service, crowded with memories of men and ships it had borne to the rest of home or to the battles of the sea. It had known and served all the men of whom the nation is proud, from Sir Francis Drake to Sir John Franklin, knights all, titled and untitled—the great knights-errant of the sea. It had borne all the ships whose names are like jewels flashing in the night of time, from the GOLDEN HIND returning with her rotund flanks full of treasure, to be visited by the Queen’s Highness and thus pass out of the gigantic tale, to the EREBUS and TERROR, bound on other conquests— and that never returned. It had known the ships and the men. They had sailed from Deptford, from Greenwich, from Erith— the adventurers and the settlers; kings’ ships and the ships of men on ‘Change; captains, admirals, the dark ‘interlopers’ of the Eastern trade, and the commissioned ‘generals’ of East India fleets. Hunters for gold or pursuers of fame, they all had gone out on that stream, bearing the sword, and often the torch, messengers of the might within the land, bearers of a spark from the sacred fire. What greatness had not floated on the ebb of that river into the mystery of an unknown earth! … The dreams of men, the seed of commonwealths, the germs of empires.
Và cuối cùng, trong một đường lặn hình cung không thể cảm nhận được, mặt trời chìm dần, và từ màu trắng rực đổi sang sắc đỏ đục không phát quang và tỏa nhiệt, như thể sắp đột ngột tắt lịm, bị hạ sát khi chạm phải quầng u ám đang vần vũ trên một vùng người. Lập tức mặt nước bắt đầu thay đổi, và vẻ bình lặng kia bớt xán lạn nhưng lại nồng đậm hơn. Con sông lâu đời an tĩnh nghỉ ngơi giữa dòng nước mênh mang lúc ngày tàn, sau bao thuở phục vụ đắc lực chủng tộc định cư hai bên bờ, trải rộng trong vẻ tôn nghiêm bình đạm của một thủy lộ dẫn đến những chốn tận cùng trái đất. Bọn tôi quan sát dòng chảy khả kính này, không phải dưới hồng quang rực rỡ của một ngày ngắn ngủi một đến rồi đi không trở lại, mà trong ánh sáng uy nghi của ký ức trường tồn. Và quả thực, với kẻ từng, như người ta vẫn nói, “đi theo tiếng gọi biển khơi” với niềm đam mê và sùng kính, không gì dễ dàng hơn việc triệu hoán những anh linh quá khứ trên hạ lưu sông Thames. Con nước thủy triều vẫn miệt mài, tận tụy xuống lên, tràn ngập ký ức về người và thuyền từng được nó đưa về lại cố hương hoặc đem vào hải chiến. Nó từng quen biết và phục vụ tất cả những con người mà dân tộc này hằng tự hào, từ Sir Francis Drake tới Sir John Franklin, đều là Hiệp sĩ, có tước hiệu và không tước hiệu - những hiệp khách giang hồ của biển cả. Nó từng vận chuyển những con tàu với cái tên lấp lánh như ngọc trong đêm tối thời gian, từ chiếc Golden Hind trở về với hai mạn tròn chất đầy châu báu và được ngự giá Nữ hoàng đến thăm, rồi từ ấy rời xa dòng chảy huyền thoại này, đến chiếc Erebus và Terror, theo đuổi những cuộc chinh phục khác - và không bao giờ quay lại. Nó biết rõ cả hải thuyền và hải khách. Họ giong buồm từ Deptford, Greenwich và Erith - kẻ phiêu lưu lẫn người lập nghiệp; tàu Hoàng gia cùng thuyền thương khách; thuyền trưởng, đô đốc, đám hắc thương vùng Viễn Đông, các “tướng lĩnh tự phong của Hải đội Đông Ấn. Săn vàng hay cầu danh, ai nấy đều khởi hành theo dòng chảy ấy, mang gươm, và thường là cầm đuốc, sứ giả của quyền uy từ lục địa, hộ tống một điểm tinh hỏa từ ngọn lửa thiêng. Có sự vĩ đại nào không từng theo con nước của dòng sông ấy đến với bí ẩn của một miền đất lạ!... Giấc mơ của con người, hạt giống của thịnh vượng chung, mầm mống của đế quốc.
Can you provide me with the Vietnamese equivalents of these English sentences?
The sun set; the dusk fell on the stream, and lights began to appear along the shore. The Chapman light-house, a three-legged thing erect on a mud-flat, shone strongly. Lights of ships moved in the fairway—a great stir of lights going up and going down. And farther west on the upper reaches the place of the monstrous town was still marked ominously on the sky, a brooding gloom in sunshine, a lurid glare under the stars. ‘And this also,’ said Marlow suddenly, ‘has been one of the dark places of the earth.’ He was the only man of us who still ‘followed the sea.’ The worst that could be said of him was that he did not represent his class. He was a seaman, but he was a wanderer, too, while most seamen lead, if one may so express it, a sedentary life. Their minds are of the stay-at-home order, and their home is always with them—the ship; and so is their country—the sea. One ship is very much like another, and the sea is always the same. In the immutability of their surroundings the foreign shores, the foreign faces, the changing immensity of life, glide past, veiled not by a sense of mystery but by a slightly disdainful ignorance; for there is nothing mysterious to a seaman unless it be the sea itself, which is the mistress of his existence and as inscrutable as Destiny. For the rest, after his hours of work, a casual stroll or a casual spree on shore suffices to unfold for him the secret of a whole continent, and generally he finds the secret not worth knowing. The yarns of seamen have a direct simplicity, the whole meaning of which lies within the shell of a cracked nut. But Marlow was not typical (if his propensity to spin yarns be excepted), and to him the meaning of an episode was not inside like a kernel but outside, enveloping the tale which brought it out only as a glow brings out a haze, in the likeness of one of these misty halos that sometimes are made visible by the spectral illumination of moonshine.
Mặt trời lặn; hoàng hôn trùm lên dòng sông, và ánh đèn bắt đầu xuất hiện ven bờ. Hải đăng Chapman, một vật thể ba chân mọc lên từ bãi lầy, chiếu sáng rực rỡ. Ánh đèn từ những con tàu di chuyển trên thủy đạo - một dòng ngược xuôi tấp nập của những ngọn đèn. Và xa hơn về tây, trên thượng lưu, vùng trời phía trên thành phố khổng lồ kia vẫn mang dấu hiệu bất tường, một vầng âm trầm u ám trong ánh tịch dương, một tia nhìn giận dữ chói gắt dưới trời sao. “Nơi đây,” Marlow đột ngột lên tiếng, “cũng từng là một trong những chốn tối tăm trên trái đất.” Gã là người duy nhất trong cả hội còn “đi theo tiếng gọi biển khơi.” Nếu có nói xấu được gã điểm gì thì đó là gã không đại diện cho tầng lớp của mình. Gã là hải khách nhưng cũng là lãng khách, trong khi phần lớn những người đi biển khác sống một cuộc đời, ta tạm gọi là, yên vị. Đầu óc họ mang tâm thức tại gia, và nhà của họ luôn đi cùng họ - con tàu; và tổ quốc của họ cũng vậy - biển cả. Tàu nào cũng giống tàu nào, và biển cả thì muôn đời vẫn thế. Trong sự bất biến của môi trường quanh họ, những duyên hải xa xôi, những mặt người xứ lạ, những bao la biến động của cuộc đời, tất cả lướt qua, được che phủ không phải bởi cảm giác huyền bí mà dưới một thái độ vô tri ít nhiều khinh thị; bởi đối với người đi biển, chẳng có gì huyền bí trừ bản thân biển cả, người tình của sự hiện tồn của y, và khó nhìn thấu như chính số mệnh. Với họ, sau giờ lao động, một cuộc dạo chơi hoặc truy hoan tùy tiện trên bờ là đủ khám phá bí mật của cả một lục địa, và nhìn chung họ thấy bí mật này chả có gì đáng biết. Chuyện của dân đi biển có một sự giản đơn trực diện, toàn bộ ý nghĩa của nó chỉ gói gọn trong một cái vỏ lạc vỡ. Nhưng Marlow không phải dân đi biển điển hình (không kể xu hướng huyên thuyên ở gã), và với gã, ý nghĩa của sự kiện không nằm trong hạt lạc, mà ở ngoài, bao quanh sự tích phát sinh ra nó giống như nguồn sáng nhiệt phát sinh hồng quang, tương tự như những quầng sáng đôi khi ta vẫn quan sát thấy nhờ quang phổ của ánh trăng.
I'm seeking a Vietnamese translation for these English sentences.
He broke off. Flames glided in the river, small green flames, red flames, white flames, pursuing, overtaking, joining, crossing each other— then separating slowly or hastily. The traffic of the great city went on in the deepening night upon the sleepless river. We looked on, waiting patiently—there was nothing else to do till the end of the flood; but it was only after a long silence, when he said, in a hesitating voice, ‘I suppose you fellows remember I did once turn fresh-water sailor for a bit,’ that we knew we were fated, before the ebb began to run, to hear about one of Marlow’s inconclusive experiences. ‘I don’t want to bother you much with what happened to me personally,’ he began, showing in this remark the weakness of many tellers of tales who seem so often unaware of what their audience would like best to hear; ‘yet to understand the effect of it on me you ought to know how I got out there, what I saw, how I went up that river to the place where I first met the poor chap. It was the farthest point of navigation and the culminating point of my experience. It seemed somehow to throw a kind of light on everything about me— and into my thoughts. It was sombre enough, too—and pitiful— not extraordinary in any way—not very clear either. No, not very clear. And yet it seemed to throw a kind of light. ‘I had then, as you remember, just returned to London after a lot of Indian Ocean, Pacific, China Seas—a regular dose of the East—six years or so, and I was loafing about, hindering you fellows in your work and invading your homes, just as though I had got a heavenly mission to civilize you. It was very fine for a time, but after a bit I did get tired of resting. Then I began to look for a ship—I should think the hardest work on earth. But the ships wouldn’t even look at me. And I got tired of that game, too. ‘Now when I was a little chap I had a passion for maps. I would look for hours at South America, or Africa, or Australia, and lose myself in all the glories of exploration. At that time there were many blank spaces on the earth, and when I saw one that looked particularly inviting on a map (but they all look that) I would put my finger on it and say, ‘When I grow up I will go there.’ The North Pole was one of these places, I remember. Well, I haven’t been there yet, and shall not try now. The glamour’s off. Other places were scattered about the hemispheres. I have been in some of them, and … well, we won’t talk about that. But there was one yet—the biggest, the most blank, so to speak— that I had a hankering after.
Gã dứt lời. Những ngọn lửa lướt đi trên sông, những ngọn lửa nhỏ màu xanh, màu đỏ, màu trắng, rượt đuổi nhau, vượt mặt nhau, dung hợp nhau, giao cắt nhau - rồi lại chậm rãi hay hối hả tách ra. Giao thông của đại đô thành vẫn tiếp tục giữa đêm sâu trên dòng sông không ngủ. Chúng tôi quan sát, kiên nhẫn chờ đợi - đâu còn gì để làm khi triều chưa rút, nhưng phải đến khi, sau một quãng dài im lặng, gã ngập ngừng hỏi, “Chắc các cậu còn nhớ, có một thời tôi chuyển sang đi tàu nước ngọt,” chúng tôi mới biết là số mình sẽ phải, trước khi triều xuống, lắng nghe một trong những trải nghiệm không có hồi kết của Marlow. “Tôi không muốn bắt các cậu nghe nhiều về chuyện xảy ra với cá nhân tôi,” gã bắt đầu, qua đó cho thấy nhược điểm chung của nhiều người kể chuyện, vốn hiếm khi nhận thức được đâu là cái thính giả thích nghe nhất; “nhưng để hiểu tác động của nó với tôi, các cậu cần biết sao tôi lại đến đó, tôi đã thấy những gì, tôi ngược sông ra sao để đến nơi gặp kẻ bất hạnh ấy lần đầu. Đó vừa là điểm tận cùng của thủy trình vừa là cao trào của câu chuyện. Không rõ từ đâu nó đã rọi một thứ ánh sáng lên mọi điều về tôi - vào cả nội tâm tôi. Nó lại tăm tối - bi ai nữa - chẳng có chút gì đặc biệt - cũng không thật sự rõ ràng. Không, không thật sự rõ ràng. Thế nhưng nó lại soi rọi một thứ ánh sáng. “Dạo ấy, chắc các cậu vẫn nhớ, tôi vừa về London sau rất nhiêu lênh đênh trên Ấn Độ Dương, Thái Bình Dương, Biển Trung Hoa - nghĩa là trải đủ mùi phương Đông - độ sáu năm gì đó, đang lang thang vạ vật, quấy quả các cậu làm việc và ăn nhờ ở đậu như thể tôi có thiên mệnh giáo hóa các cậu. Lúc đầu, tôi thấy rất thoải mái, nhưng sau một thời gian tôi đâm chán nghỉ ngơi. Thế là tôi bắt đầu kiếm một con tàu - đó khéo là việc khó nhằn nhất trần đời. Song chẳng tàu bè nào đoái hoài đến tôi. Chẳng bao lâu tôi cũng nản. “Hồi bé, tôi rất mê bản đồ. Tôi dành hàng giờ ngắm nghía Nam Mỹ, hoặc châu Phi, hoặc châu Úc, và đắm chìm trong huy hoàng của niềm vui khám phá. Thời ấy, trên Trái đất vẫn còn nhiều vùng trống, và khi thấy chỗ nào đặc biệt quyến rũ trên bản đồ (khốn nỗi chỗ nào cũng quyến rũ cả), tôi lại chỉ vào đó và nói, khi nào lớn mình sẽ tới đây. Tôi nhớ Bắc Cực là một trong số ấy. Ờ, tôi vẫn chưa đến đó, và giờ chắc cũng không định đến. Hết hấp dẫn rồi. Những chỗ khác thì rải rác quanh Xích đạo, trải khắp các vĩ tuyến trên cả hai bán cầu. Tôi đã đến một số chỗ, và... mà thôi, nói chuyện ấy làm gì. Nhưng hãy còn một chỗ - nói sao nhỉ, lớn nhất, trống vắng nhất, mà tôi vẫn đau đáu nghĩ về.
Could you help me translate these sentences into Vietnamese?
‘I am sorry to own I began to worry them. This was already a fresh departure for me. I was not used to get things that way, you know. I always went my own road and on my own legs where I had a mind to go. I wouldn’t have believed it of myself; but, then—you see—I felt somehow I must get there by hook or by crook. So I worried them. The men said ‘My dear fellow,’ and did nothing. Then—would you believe it?—I tried the women. I, Charlie Marlow, set the women to work— to get a job. Heavens! Well, you see, the notion drove me. I had an aunt, a dear enthusiastic soul. She wrote: ‘It will be delightful. I am ready to do anything, anything for you. It is a glorious idea. I know the wife of a very high personage in the Administration, and also a man who has lots of influence with,’ etc. She was determined to make no end of fuss to get me appointed skipper of a river steamboat, if such was my fancy.
“Tôi lấy làm hổ thẹn khi phải phiền đến họ. Nẻo đường này hoàn toàn mới mẻ với tôi. Các cậu vẫn biết, trước nay tôi không quen được việc bằng cách ấy. Tôi luôn đi đường tôi, bằng chân của tôi, đến nơi nào tôi muốn đến. Chính tôi cũng không tin nổi mình; nhưng, lúc đó - các cậu biết đấy - không hiểu sao tôi cảm thấy phải đến đó bằng mọi giá. Nên tôi cầu viện họ. Các ông nói ‘Cháu quý hóa ơi,’ và không làm gì sất. Thế là - ai mà tin được? - Tôi tìm đến các bà. Tôi, Charlie Marlow, lùa các bà đi tìm việc cho mình. Chúa ơi! Ờ, các cậu biết đấy, ý tưởng ấy, nó xui khiến tôi. Tôi có một bà dì, một tâm hồn nhiệt tình dễ mến. Bà lão viết: “Thế thì hay lắm. Dì sẵn lòng làm bất kỳ, bất kỳ điều gì cho cháu. Một dự định tuyệt vời. Người quen của dì là vợ một nhân vật đức cao vọng trọng trong Chính quyền, còn là người rất có ảnh hưởng với,” vân vân và vân vân. Bà quyết không từ một phiền toái nào để giúp tôi làm thuyền trưởng một con tàu hơi nước, nếu quả đó là mơ mộng của tôi.
I require the translation of these English sentences into Vietnamese.
‘I got my appointment—of course; and I got it very quick. It appears the Company had received news that one of their captains had been killed in a scuffle with the natives. This was my chance, and it made me the more anxious to go. It was only months and months afterwards, when I made the attempt to recover what was left of the body, that I heard the original quarrel arose from a misunderstanding about some hens. Yes, two black hens. Fresleven—that was the fellow’s name, a Dane—thought himself wronged somehow in the bargain, so he went ashore and started to hammer the chief of the village with a stick. Oh, it didn’t surprise me in the least to hear this, and at the same time to be told that Fresleven was the gentlest, quietest creature that ever walked on two legs. No doubt he was; but he had been a couple of years already out there engaged in the noble cause, you know, and he probably felt the need at last of asserting his self-respect in some way. Therefore he whacked the old nigger mercilessly, while a big crowd of his people watched him, thunderstruck, till some man— I was told the chief’s son—in desperation at hearing the old chap yell, made a tentative jab with a spear at the white man— and of course it went quite easy between the shoulder-blades. Then the whole population cleared into the forest, expecting all kinds of calamities to happen, while, on the other hand, the steamer Fresleven commanded left also in a bad panic, in charge of the engineer, I believe. Afterwards nobody seemed to trouble much about Fresleven’s remains, till I got out and stepped into his shoes. I couldn’t let it rest, though; but when an opportunity offered at last to meet my predecessor, the grass growing through his ribs was tall enough to hide his bones. They were all there. The supernatural being had not been touched after he fell. And the village was deserted, the huts gaped black, rotting, all askew within the fallen enclosures. A calamity had come to it, sure enough. The people had vanished. Mad terror had scattered them, men, women, and children, through the bush, and they had never returned. What became of the hens I don’t know either. I should think the cause of progress got them, anyhow. However, through this glorious affair I got my appointment, before I had fairly begun to hope for it.
“Dĩ nhiên, tôi được bổ nhiệm; và được rất nhanh. Hình như bên Công ty vừa nhận được tin một thuyền trưởng bị giết vì ẩu đả với người bản xứ. Đó là cơ hội cho tôi, và nó khiến tôi càng háo hức. Phải nhiều, nhiều tháng sau, khi định thu nhặt di hài cho gã, tôi mới hay vụ cãi cọ ban đầu bắt nguồn từ hiểu nhầm về mấy con gà. Phải, hai con gà đen. Fresleven - đó là tên gã, dân Đan Mạch - cho rằng gã bị lừa bịp thế nào đó, bèn lên bờ dùng gậy vụt tay tù trưởng túi bụi. Tôi chẳng ngạc nhiên tí nào khi nghe chuyện đó, đồng thời cũng chẳng ngạc nhiên khi họ nói Fresleven là sinh vật hiền hòa lặng lẽ nhất từng đi hai chân trên thế gian này. Cái đó đã hẳn; nhưng đã mấy năm gã lăn lộn vì đại nghiệp, và có lẽ rốt cục gã thấy ít nhất cũng cần khẳng định lòng tự tôn bằng cách nào đó. Thế nên gã quật ông lão da đen không thương tiếc, trước ánh mắt thảng thốt của cả đám đông bộ lạc, đến khi một người - nghe nói là con trai vị tù trưởng - tuyệt vọng khi thấy ông cụ rên la, rón rén cầm giáo xiên tên da trắng - và tất nhiên mũi giáo xuyên rất ngọt vào giữa hai xương vai. Rồi cả làng tháo chạy vào rừng vì sợ đủ loại tai ương giáng xuống, trong khi con tàu hơi nước của Fresleven cũng táng đởm rút đi, dưới sự chỉ huy của tay thợ máy, tôi nghĩ vậy. Sau đó có vẻ chẳng ai quan tâm đến di cốt của Fresleven, cho đến khi tôi xuất hiện và kế nhiệm gã. Tôi không nỡ để gã nằm lại đó; nhưng cuối cùng, khi tôi có cơ hội gặp gỡ người tiền nhiệm, cỏ mọc xuyên lồng ngực đã cao đến mức che kín hài cốt gã. Tất cả vẫn còn nguyên đó. Không ai động đến sinh vật siêu nhiên ấy sau khi gã ngã xuống. Ngôi làng bị bỏ hoang, những túp lều há miệng đen ngòm, mục nát, tất cả ngả nghiêng sau lớp rào đã đổ. Tai ương đã ập xuống, hẳn rồi. Dân làng đã biến mất. Nỗi khiếp sợ kinh hoàng đã ly tán họ, đàn ông, đàn bà, con trẻ, vào rừng rậm, không bao giờ quay lại. số phận mấy con gà ra sao, tôi không rõ nữa. Có lẽ tôi nên nghĩ rằng trước sau gì chúng cũng bị cuốn vào guồng quay của tiến bộ. Tuy nhiên, nhờ biến cố huy hoàng này mà tôi được bổ nhiệm, trước khi tôi bắt đầu mơ tưởng đến điều đó.
I would like to have these sentences translated into Vietnamese.
‘One evening as I was lying flat on the deck of my steamboat, I heard voices approaching—and there were the nephew and the uncle strolling along the bank. I laid my head on my arm again, and had nearly lost myself in a doze, when somebody said in my ear, as it were: ‘I am as harmless as a little child, but I don’t like to be dictated to. Am I the manager—or am I not? I was ordered to send him there. It’s incredible.’ … I became aware that the two were standing on the shore alongside the forepart of the steamboat, just below my head. I did not move; it did not occur to me to move: I was sleepy. ‘It IS unpleasant,’ grunted the uncle. ‘He has asked the Administration to be sent there,’ said the other, ‘with the idea of showing what he could do; and I was instructed accordingly. Look at the influence that man must have. Is it not frightful?’ They both agreed it was frightful, then made several bizarre remarks: ‘Make rain and fine weather—one man—the Council—by the nose’— bits of absurd sentences that got the better of my drowsiness, so that I had pretty near the whole of my wits about me when the uncle said, ‘The climate may do away with this difficulty for you. Is he alone there?’ ‘Yes,’ answered the manager; ‘he sent his assistant down the river with a note to me in these terms: ‘Clear this poor devil out of the country, and don’t bother sending more of that sort. I had rather be alone than have the kind of men you can dispose of with me.’ It was more than a year ago. Can you imagine such impudence!’ ‘Anything since then?’ asked the other hoarsely. ‘Ivory,’ jerked the nephew; ‘lots of it—prime sort—lots—most annoying, from him.’ ‘And with that?’ questioned the heavy rumble. ‘Invoice,’ was the reply fired out, so to speak. Then silence. They had been talking about Kurtz.
“Tối nọ, khi đang nằm ngửa trên boong, tôi chợt nghe tiếng người tới gần - hóa ra là hai bác cháu nhà kia đang sải bước bên bờ sông. Tôi lại gối đầu lên tay và gần như chìm vào giấc ngủ thì có người nói, có thể gọi là sát bên tai: ‘Tính cháu lành như con nít, nhưng cháu không ưa bị chỉ đạo... Cháu có còn là giám đốc nữa không? Họ ra lệnh cho cháu cử hắn tới đó. Vớ vẩn hết sức,’ Tôi sực hiểu, hai bác cháu đang đứng trên bờ, sát thân tàu, ngay dưới đầu tôi. Tôi không cử động; tôi không nghĩ đến chuyện động đậy: tôi đang buồn ngủ. ‘Đáng ghét thật,’ lão bác lầm bầm. ‘Hắn yêu cầu Ban Quản Trị cử đi,’ gã cháu tiếp, ‘để chứng tỏ khả năng của mình; còn cháu được lệnh làm theo. Thế lực của hắn hẳn phải gớm lắm. Bác bảo thế có đáng ngại không?’ Cả hai nhất trí như thế thật đáng ngại, rồi đưa ra vài bình luận kỳ quái: ‘Ngửa tay làm mây, lật tay làm mưa - một cá nhân - cả Hội đồng - dắt mũi - từng mẩu hội thoại kỳ quái dần lấn át cơn buồn ngủ, vì thế nên tôi gần như hoàn toàn tỉnh táo khi lão bác thốt, ‘Biết đâu thời tiết sẽ giúp cháu chấm dứt nỗi lo này. Hắn có một mình à?’ ‘Phải,’ gã giám đốc đáp; ‘hắn cử trợ lý xuôi dòng mang đến cho cháu một lời nhắn, nội dung thế này: “Hãy tống cổ gã khốn kiếp ấy về nước, và chớ bận tâm gửi thêm cái ngữ đó tới đây nữa. Tôi thà xoay xở một mình còn hơn nhận loại anh có thể thí cho tôi.” Vụ ấy từ hơn một năm trước. Bác có hình dung nổi thái độ hỗn xược ấy không!’ ‘Từ đó còn gì nữa không?’ Lão kia khàn khàn hỏi. ‘Ngà,’ gã cháu giật giọng; ‘nhiều... loại hảo hạng... rất nhiều... thế mới đau chứ.’ ‘Và cùng với đó?’ Giọng trầm khàn hỏi. ‘Hóa đơn,’ câu trả lời được khạc ra. Rồi im lặng. Chúng vừa nói về Kurtz.
Can you provide a Vietnamese translation for these English sentences?
‘In a few days the Eldorado Expedition went into the patient wilderness, that closed upon it as the sea closes over a diver. Long afterwards the news came that all the donkeys were dead. I know nothing as to the fate of the less valuable animals. They, no doubt, like the rest of us, found what they deserved. I did not inquire. I was then rather excited at the prospect of meeting Kurtz very soon. When I say very soon I mean it comparatively. It was just two months from the day we left the creek when we came to the bank below Kurtz’s station.
“Vài ngày sau, đoàn thám hiểm Eldorado tiến vào vùng hoang dã kiên nhẫn ấy, và nó nuốt chửng họ như biển nuốt chửng thợ lặn. Khá lâu sau có tin rằng bầy lừa đã chết sạch, số phận của những động vật thấp kém hơn ra sao thì tôi không rõ. Bọn chúng, lẽ tất nhiên, như tất cả chúng ta, đều tìm thấy kết cục xứng đáng với mình. Tôi cũng không tìm hiểu. Khi ấy tôi đang hứng thú với khả năng sẽ sớm được gặp Kurtz. Chữ ‘sớm’ ở đây chỉ có tính tương đối. Từ khi chúng tôi rời con kênh đến khi cập bờ ở chỗ dẫn lên trạm của Kurtz vừa tròn hai tháng.
I'm seeking a Vietnamese translation for these English sentences.
‘Going up that river was like traveling back to the earliest beginnings of the world, when vegetation rioted on the earth and the big trees were kings. An empty stream, a great silence, an impenetrable forest. The air was warm, thick, heavy, sluggish. There was no joy in the brilliance of sunshine. The long stretches of the waterway ran on, deserted, into the gloom of overshadowed distances. On silvery sand-banks hippos and alligators sunned themselves side by side. The broadening waters flowed through a mob of wooded islands; you lost your way on that river as you would in a desert, and butted all day long against shoals, trying to find the channel, till you thought yourself bewitched and cut off for ever from everything you had known once—somewhere—far away—in another existence perhaps. There were moments when one’s past came back to one, as it will sometimes when you have not a moment to spare for yourself; but it came in the shape of an unrestful and noisy dream, remembered with wonder amongst the overwhelming realities of this strange world of plants, and water, and silence. And this stillness of life did not in the least resemble a peace. It was the stillness of an implacable force brooding over an inscrutable intention. It looked at you with a vengeful aspect. I got used to it afterwards; I did not see it any more; I had no time. I had to keep guessing at the channel; I had to discern, mostly by inspiration, the signs of hidden banks; I watched for sunken stones; I was learning to clap my teeth smartly before my heart flew out, when I shaved by a fluke some infernal sly old snag that would have ripped the life out of the tin-pot steamboat and drowned all the pilgrims; I had to keep a lookout for the signs of dead wood we could cut up in the night for next day’s steaming. When you have to attend to things of that sort, to the mere incidents of the surface, the reality—the reality, I tell you—fades. The inner truth is hidden—luckily, luckily. But I felt it all the same; I felt often its mysterious stillness watching me at my monkey tricks, just as it watches you fellows performing on your respective tight-ropes for—what is it? half-a-crown a tumble—‘
“Đi ngược con sông ấy giống như ngược về thuở hồng hoang của thế giới, khi thực vật tung hoành khắp địa cầu và đại thụ là chúa tể. Một dòng chảy trống rỗng, một sự im lặng vĩ đại, và một cánh rừng không thể xuyên qua. Không khí ấm, đặc, nặng nề, trì trệ. Mặt trời rực rỡ chẳng đem lại chút hân hoan nào. Những chặng thủy lộ dài chạy suốt, giữa hoang vu, vào cái âm trầm của những vùng xa xôi âm ám. Trên bờ cát ánh bạc, hà mã cùng cá sấu chen nhau nằm phơi nắng. Dòng nước rộng dần chảy qua một nhúm đảo nhấp nhô cây; trên con sông ấy, ta cũng bị lạc đường như ngoài sa mạc, và suốt ngày va phải những cồn cát ngầm, khi cố tìm lại luồng nước, cho đến khi nghĩ mình bị ma ám và vĩnh viễn đoạn tuyệt với mọi thứ ta từng quen thuộc... ở đâu đó... rất xa xăm... có lẽ từ kiếp khác. Có những giây phút dĩ vãng trở về, điều đôi khi vẫn xảy ra khi ta không có lấy một giây phút cho bản thân; nhưng nó hiện về trong hình hài một giấc mơ bất an và huyên náo, mà ta hồi tưởng trong nỗi bàng hoàng giữa thực tại choáng ngợp của thế giới kỳ dị của cây, của nước, và của im lặng này. Và sự tĩnh lặng này của sự sống tuyệt nhiên không giống với hòa bình. Đó là sự tĩnh lặng của một sức mạnh bất khả trấn an đang nuôi dưỡng một ý đồ vô phương đoán định. Nó nhìn ta bằng một diện mạo đầy thù hận. Sau này, tôi đâm quen với nó; tôi không nhìn nó nữa; tôi không có thời gian. Tôi liên tục phải phán đoán luồng lạch; tôi phải phát hiện, chủ yếu bằng linh cảm, dấu hiệu của các doi cát ẩn; tôi phải đề phòng đá ngầm; tôi học cách khôn ngoan nghiến răng trước khi tim vọt ra ngoài mỗi lần may phúc quẹt qua một khúc cây già hiểm độc dư sức tước đoạt sinh mệnh của con tàu hơi nước ọp ẹp và nhấn chìm mọi kẻ lữ hành; tôi phải không ngừng lùng sục dấu vết củi khô, để tối đến chặt sẵn làm nhiên liệu cho hôm sau. Khi phải lo lắng những chuyện đó, những sự vụ bề nổi ấy, thực tại... thực tại, các cậu hiểu không - nhòa đi. Sự thật bên trong bị ẩn đi... may thay, may thay. Nhưng tôi vẫn cảm thấy nó; tôi vẫn hay cảm thấy sự tĩnh lặng bí hiểm ấy đang dõi theo những trò ranh vặt của tôi, cũng như nó vẫn xem các cậu diễn trò thăng bằng trên sợi dây của mỗi người, để đổi lấy... bao nhiêu hả? Năm xu một cú ngã…”
I would like to have these sentences translated into Vietnamese.
‘The current was more rapid now, the steamer seemed at her last gasp, the stern-wheel flopped languidly, and I caught myself listening on tiptoe for the next beat of the boat, for in sober truth I expected the wretched thing to give up every moment. It was like watching the last flickers of a life. But still we crawled. Sometimes I would pick out a tree a little way ahead to measure our progress towards Kurtz by, but I lost it invariably before we got abreast. To keep the eyes so long on one thing was too much for human patience. The manager displayed a beautiful resignation. I fretted and fumed and took to arguing with myself whether or no I would talk openly with Kurtz; but before I could come to any conclusion it occurred to me that my speech or my silence, indeed any action of mine, would be a mere futility. What did it matter what any one knew or ignored? What did it matter who was manager? One gets sometimes such a flash of insight. The essentials of this affair lay deep under the surface, beyond my reach, and beyond my power of meddling.
“Nước chảy càng lúc càng xiết, con tàu xem ra đã kiệt sức, bánh xe chèo lọp phọp đầy uể oải, và tôi thấy mình rón rén lắng nghe mỗi nhịp đập kế tiếp của con tàu, vì thực lòng tôi chờ đợi cỗ máy khốn khổ ấy gục ngã bất kỳ lúc nào. Nó như thể quan sát tro tàn le lói của sự sống. Nhưng chúng tôi vẫn bò tiếp. Đôi khi, tôi chọn ra một gốc cây phía trước không xa làm mốc đo tiến độ đến chỗ Kurtz, nhưng tôi luôn lạc mất nó trước khi tàu đến nơi. Dán mắt vào một vật lâu thế vượt quá giới hạn kiên nhẫn của con người. Viên giám đốc thể hiện một vẻ nhẫn nhục nhìn sướng cả mắt. Tôi bồn chồn khấp khởi và tự tranh luận với bản thân xem có nên nói chuyện cởi mở với Kurtz; nhưng trước khi kịp đi đến bất cứ kết luận gì tôi lại nhận ra, mở lời hay im lặng, kỳ thực bất cứ hành động nào của tôi, cũng chỉ là vô nghĩa. Chuyện ai biết hay không thì có ý nghĩa gì? Chuyện ai làm giám đốc thì có ý nghĩa gì? Đôi khi ta bỗng nhiên bừng ngộ như thế đấy. Bản chất của việc này nằm sâu dưới bề mặt, ngoài tầm với, và ngoài khả năng can thiệp của tôi.
I need these sentences to be translated into Vietnamese.
‘Towards the evening of the second day we judged ourselves about eight miles from Kurtz’s station. I wanted to push on; but the manager looked grave, and told me the navigation up there was so dangerous that it would be advisable, the sun being very low already, to wait where we were till next morning. Moreover, he pointed out that if the warning to approach cautiously were to be followed, we must approach in daylight— not at dusk or in the dark. This was sensible enough. Eight miles meant nearly three hours’ steaming for us, and I could also see suspicious ripples at the upper end of the reach. Nevertheless, I was annoyed beyond expression at the delay, and most unreasonably, too, since one night more could not matter much after so many months. As we had plenty of wood, and caution was the word, I brought up in the middle of the stream. The reach was narrow, straight, with high sides like a railway cutting. The dusk came gliding into it long before the sun had set. The current ran smooth and swift, but a dumb immobility sat on the banks. The living trees, lashed together by the creepers and every living bush of the undergrowth, might have been changed into stone, even to the slenderest twig, to the lightest leaf. It was not sleep—it seemed unnatural, like a state of trance. Not the faintest sound of any kind could be heard. You looked on amazed, and began to suspect yourself of being deaf— then the night came suddenly, and struck you blind as well. About three in the morning some large fish leaped, and the loud splash made me jump as though a gun had been fired. When the sun rose there was a white fog, very warm and clammy, and more blinding than the night. It did not shift or drive; it was just there, standing all round you like something solid. At eight or nine, perhaps, it lifted as a shutter lifts. We had a glimpse of the towering multitude of trees, of the immense matted jungle, with the blazing little ball of the sun hanging over it—all perfectly still—and then the white shutter came down again, smoothly, as if sliding in greased grooves. I ordered the chain, which we had begun to heave in, to be paid out again. Before it stopped running with a muffled rattle, a cry, a very loud cry, as of infinite desolation, soared slowly in the opaque air. It ceased. A complaining clamour, modulated in savage discords, filled our ears. The sheer unexpectedness of it made my hair stir under my cap. I don’t know how it struck the others: to me it seemed as though the mist itself had screamed, so suddenly, and apparently from all sides at once, did this tumultuous and mournful uproar arise. It culminated in a hurried outbreak of almost intolerably excessive shrieking, which stopped short, leaving us stiffened in a variety of silly attitudes, and obstinately listening to the nearly as appalling and excessive silence. ‘Good God! What is the meaning—’ stammered at my elbow one of the pilgrims— a little fat man, with sandy hair and red whiskers, who wore sidespring boots, and pink pyjamas tucked into his socks. Two others remained open-mouthed a while minute, then dashed into the little cabin, to rush out incontinently and stand darting scared glances, with Winchesters at ‘ready’ in their hands. What we could see was just the steamer we were on, her outlines blurred as though she had been on the point of dissolving, and a misty strip of water, perhaps two feet broad, around her— and that was all. The rest of the world was nowhere, as far as our eyes and ears were concerned. Just nowhere. Gone, disappeared; swept off without leaving a whisper or a shadow behind.
“Đến tối ngày thứ hai chúng tôi ước tính mình còn cách trạm của Kurtz chừng tám dặm. Tôi muốn dấn tới; nhưng viên giám đốc mặt lầm lì, và nói lộ trình phía trước rất nguy hiểm, trong khi mặt trời đã sắp lặn, nên tốt nhất là đợi tới sáng hôm sau. Ngoài ra, gã lập luận, nếu lời cảnh báo cần thận trọng khi tiếp cận là đáng tin cậy, thì chúng tôi phải tiếp cận vào ban ngày chứ không phải lúc chạng vạng, hay khi trời tối. Lập luận của gã cũng hợp lý. Tám dặm tức là gần ba tiếng đi tàu, và tôi cũng có thể thấy những gợn nước đầy bất trắc phía trên quãng sông trước mặt. Dù vậy, sự chậm trễ ấy vẫn khơi dậy trong tôi một nỗi bức bối khôn tả, và gần như phi lý, bởi thêm một đêm chẳng nghĩa lý khi đã đi ngần ấy tháng. Bởi còn nhiều củi, và châm ngôn là thận trọng, tôi cho cập bờ ở giữa dòng. Quãng sông này hẹp, thẳng, bờ dốc như hào đường sắt. Bóng tối tràn đến từ lâu trước khi mặt trời lặn. Nước chảy rất êm và xiết, nhưng trên bờ là một sự bất động đờ đẫn. Những rặng cây sống, bị dây leo và đám cây bụi ở tầng thấp bó xiết lại với nhau, dường như đã hóa đá, từ cành cây mảnh mai nhất đến chiếc lá mỏng manh nhất. Chúng không ngủ - mà lâm vào một trạng thái phi tự nhiên, như thể hôn mê. Chúng tôi tuyệt không nghe thấy âm thanh nào, dù mơ hồ nhất. Ta thẫn thờ quan sát, và bắt đầu hoài nghi: hay mình bị điếc - thế rồi màn đêm bất ngờ ập xuống, làm ta mù luôn. Độ ba giờ sáng, một con cá to nhảy lên, và tiếng nước tõm làm tôi giật nảy mình như nghe thấy tiếng súng. Mặt trời lên cùng với một màn sương trắng, rất ấm và ẩm ướt, mịt mù còn hơn cả bóng đêm. Nó không dịch chuyển; mà cứ ở yên đó, vây quanh ta như một thứ hữu hình. Độ tám, chín giờ nó lật lên như một tấm cửa chớp. Chúng tôi thoáng thấy vô vàn chất ngất thân cây, trùng trùng điệp điệp rừng già, và lơ lửng bên trên là trái cầu mặt trời đỏ rực - tất cả đều bất động tuyệt đối - thế rồi tấm cửa chớp trắng kia lại sập xuống, êm ru như trượt trong rãnh bôi dầu. Tôi ra lệnh thả sợi xích neo vừa được kéo lên trở lại. Trước khi nó ngừng tuột xuống trong tiếng lạch xạch tắc nghẹt, một tiếng hú, một tiếng hú rất lớn, như thể từ một nỗi cô liêu bất tận, chầm chậm vang vọng giữa không gian mờ đục. Rồi lịm tắt. Một tràng hét la rền ri, được điều tiết trong nhịp hỗn loạn man dại, tràn ngập tai chúng tôi. Nỗi bất ngờ tột độ khua tóc tôi dựng đứng dưới vành mũ. Tôi không rõ người khác cảm giác thế nào, nhưng với tôi, hình như chính màn sương vừa thét lên, đột ngột, và rô ràng là cơn om sòm náo động và bi thương ấy đồng thời trỗi dậy từ mọi hướng. Nó tích tụ rồi cấp tập bùng phát thành một tràng rú rít cực độ gần như không ai chịu nổi, và bất ngờ chấm dứt, để lại chúng tôi đờ người với đủ kiểu biểu cảm ngớ ngẩn, và ương ngạnh lắng nghe sự im lặng cũng kinh hoàng và cực độ không kém. ‘Lạy Chúa! Cái đó nghĩa là s..,’ một gã hành hương bíu lấy khuỷu tay tôi lắp bắp, - một gã béo lùn tóc hung, ria đỏ, đi ủng, pyjama hồng nhét vào bít tất. Hai gã khác há hốc mồm cả phút, xộc vào cabin rồi chạy xổ ra ngay, tay lăm lăm khẩu Winchester và dớn dác nhìn quanh. Tất cả những gì chúng tôi nhìn thấy là con tàu của mình, đường viền của nó nhòa đi như đang tan rã, và một dải nước mù sương rộng chừng nửa mét quanh nó - thế là hết. Đối với thị giác và thính giác của chúng tôi, phần còn lại của thế giới đã chìm vào hư không. Chỉ hư không. Tan đi, tiêu biến; bị quét sạch không để lại một tiếng thì thầm hay một chiếc bóng.
Can you provide a Vietnamese translation for these English sentences?
‘I looked at him, lost in astonishment. There he was before me, in motley, as though he had absconded from a troupe of mimes, enthusiastic, fabulous. His very existence was improbable, inexplicable, and altogether bewildering. He was an insoluble problem. It was inconceivable how he had existed, how he had succeeded in getting so far, how he had managed to remain— why he did not instantly disappear. ‘I went a little farther,’ he said, ‘then still a little farther—till I had gone so far that I don’t know how I’ll ever get back. Never mind. Plenty time. I can manage. You take Kurtz away quick—quick—I tell you.’ The glamour of youth enveloped his parti-coloured rags, his destitution, his loneliness, the essential desolation of his futile wanderings. For months—for years—his life hadn’t been worth a day’s purchase; and there he was gallantly, thoughtlessly alive, to all appearances indestructible solely by the virtue of his few years and of his unreflecting audacity. I was seduced into something like admiration— like envy. Glamour urged him on, glamour kept him unscathed. He surely wanted nothing from the wilderness but space to breathe in and to push on through. His need was to exist, and to move onwards at the greatest possible risk, and with a maximum of privation. If the absolutely pure, uncalculating, unpractical spirit of adventure had ever ruled a human being, it ruled this bepatched youth. I almost envied him the possession of this modest and clear flame. It seemed to have consumed all thought of self so completely, that even while he was talking to you, you forgot that it was he— the man before your eyes—who had gone through these things. I did not envy him his devotion to Kurtz, though. He had not meditated over it. It came to him, and he accepted it with a sort of eager fatalism. I must say that to me it appeared about the most dangerous thing in every way he had come upon so far.
“Tôi nhìn gã, ngỡ ngàng vì kinh ngạc. Gã đứng đó trước mặt tôi, mặc lốt áo hề như thể vừa trốn khỏi gánh hát, hăng hái và huyền bí. Sự tồn tại của gã, bản thân nó đã là hoang đường, vô phương giải thích, về tổng thể là làm ta hoang mang. Gã là một nan đề không có lời giải. Thật không hiểu nổi làm sao gã lại tồn tại, làm sao gã đến được tận đây, làm sao gã trụ lại được - vì sao gã không biến mất ngay lập tức. ‘Tôi đi xa hơn một chút,’ gã nói, ‘rồi lại xa hơn chút nữa - đến khi xa tới mức tôi không biết liệu có còn quay lại được không. Có hề gì. Còn nhiều thời gian. Tôi sẽ lo được. Hãy đưa Kurtz đi ngay - ngay đi - hãy nghe tôi.’ Vẻ mỹ lệ của tuổi trẻ bao phủ tấm áo vá muôn màu, cảnh cơ hàn, sự cô đơn, và nỗi tịch liêu ăn vào cốt tủy trong mỗi cuộc lãng du vô vọng của gã. Suốt nhiều tháng - nhiều năm - tính mạng của gã chỉ tính bằng ngày; thế nhưng gã vẫn can trường và vô tư sống sót, tựa hồ bất diệt chỉ bằng tuổi đời ít ỏi và sự gan dạ không suy nghĩ của mình. Tôi bị cuốn vào một cảm xúc gần như ngưỡng mộ - như ghen tị. Hào quang giục gã tiến lên, hào quang giúp gã không mảy may thương tổn. Gã hiển nhiên chả cần gì từ hoang dã, ngoài không gian để hít thở và xông pha. Nhu cầu của gã là tồn tại, là tiến lên đối mặt với hiểm nguy tột cùng có thể và trong tình trạng thiếu thốn tối đa. Nếu tinh thần tuyệt đối thuần khiết, không toan tính và phi thực tế của máu phiêu lưu có từng chiếm lĩnh một con người, thì đó phải là gã thanh niên vá víu này. Tôi gần như ghen tị vì gã sở hữu ngọn lửa khiêm nhường và trong trẻo ấy. Dường như nó đã nuốt chửng mọi suy nghĩ về bản thân, đến mức ngay khi gã nói chuyện tới ta, ta còn quên mất rằng chính gã - người ngồi trước mặt ta - là người đã trải qua những điều đó. Tuy nhiên, tôi không ghen tị với sự tận tụy gã dành cho Kurtz. Gã không ngẫm nghĩ về điều đó. Nó đến với gã, và gã hào hứng đón nhận nó như một thứ định mệnh. Phải nói rằng tôi cảm thấy, xét trên mọi phương diện, đó dường như là điều nguy hiểm nhất gã phải đối mặt từ trước đến giờ.
Could you render these English sentences in Vietnamese?
‘They had come together unavoidably, like two ships becalmed near each other, and lay rubbing sides at last. I suppose Kurtz wanted an audience, because on a certain occasion, when encamped in the forest, they had talked all night, or more probably Kurtz had talked. ‘We talked of everything,’ he said, quite transported at the recollection. ‘I forgot there was such a thing as sleep. The night did not seem to last an hour. Everything! Everything! … Of love, too.’ ‘Ah, he talked to you of love!’ I said, much amused. ‘It isn’t what you think,’ he cried, almost passionately. ‘It was in general. He made me see things—things.’ ‘He threw his arms up. We were on deck at the time, and the headman of my wood-cutters, lounging near by, turned upon him his heavy and glittering eyes. I looked around, and I don’t know why, but I assure you that never, never before, did this land, this river, this jungle, the very arch of this blazing sky, appear to me so hopeless and so dark, so impenetrable to human thought, so pitiless to human weakness. ‘And, ever since, you have been with him, of course?’ I said.
“Họ đến với nhau là điều không tránh khỏi; như hai con tàu đứng lặng ở gần nhau cuối cùng sẽ cọ mạn. Tôi nghĩ Kurtz cần thính giả, vì có một lần, khi cắm trại trong rừng, họ nói chuyện suốt đêm, hay nhiều khả năng là chỉ Kurtz nói. ‘Chúng tôi nói về mọi thứ,’ gã kể, lâng lâng hồi tưởng chuyện cũ. Tôi đã quên mất trên đời có khái niệm ngủ. Đêm hôm ấy ngắn chẳng tày gang. Mọi thứ! Mọi thứ!... Cả tình yêu nữa,’ ‘À, ông ấy tâm sự với cậu về tình yêu?’ Tôi hỏi, hứng thú gia tăng. ‘Không phải như ông nghĩ đâu,’ gã thốt, gần như đắm đuối. ‘Tinh yêu nói chung... Ông ấy đã cho tôi thấy nhiều điều - nhiều điều,’ “Gã giơ tay lên trời. Chúng tôi đang ngồi trên boong, và tay trưởng nhóm đốn củi của tôi, đang nằm ườn gần đó, ngoảnh nhìn gã bằng đôi mắt nặng nề và lóng lánh. Tôi nhìn quanh, và tôi không rõ vì sao, nhưng tôi cam đoan với các anh rằng, chưa bao giờ, chưa một lần nào, miền đất này, dòng sông này, khu rừng này, vòm trời chói lóa này, lại hiện lên trước mắt tôi vô vọng và tối tăm đến thế, vô phương thấu hiểu trước suy nghĩ và tàn nhẫn trước điểm yếu của con người đến thế. ‘Từ đó tới nay, cậu vẫn ở cùng ông ấy chứ?’ Tôi hỏi.
Can you provide me with the Vietnamese equivalents of these English sentences?
‘I am not disclosing any trade secrets. In fact, the manager said afterwards that Mr. Kurtz’s methods had ruined the district. I have no opinion on that point, but I want you clearly to understand that there was nothing exactly profitable in these heads being there. They only showed that Mr. Kurtz lacked restraint in the gratification of his various lusts, that there was something wanting in him— some small matter which, when the pressing need arose, could not be found under his magnificent eloquence. Whether he knew of this deficiency himself I can’t say. I think the knowledge came to him at last—only at the very last. But the wilderness had found him out early, and had taken on him a terrible vengeance for the fantastic invasion. I think it had whispered to him things about himself which he did not know, things of which he had no conception till he took counsel with this great solitude—and the whisper had proved irresistibly fascinating. It echoed loudly within him because he was hollow at the core…. I put down the glass, and the head that had appeared near enough to be spoken to seemed at once to have leaped away from me into inaccessible distance.
“Tôi sẽ không tiết lộ bí mật thương mại nào. Kỳ thực, sau này chính viên giám đốc nói rằng phương pháp của Kurtz đã tàn phá vùng đất nọ. Tôi không có ý kiến gì về vụ ấy, nhưng muốn các cậu hiểu rõ rằng việc đám đầu lâu ở đó không mang lại lợi nhuận gì. Nó chỉ cho thấy rằng Kurtz thiếu kiềm chế trong việc thỏa mãn dục vọng đa dạng của y, rằng trong y thiếu hụt một điều gì đó - nhỏ thôi, nhưng khi nhu cầu bức thiết dâng cao, không thể tìm thấy dưới tài hùng biện xuất chúng của y. Y có ý thức được sự thiếu hụt đó không, tôi không rõ. Tôi nghĩ nhận thức ấy rốt cục cũng đến với y - vào phút chót. Nhưng hoang dã tìm ra y từ sớm, và giáng xuống y đòn báo thù khủng khiếp vì cuộc xâm lăng điên rồ này. Tôi nghĩ nó đã thì thầm bên tai y những điều y chưa rõ về bản thân, những điều y cũng chưa có ý niệm gì cho đến khi lắng nghe sự tịch liêu vĩ đại này - và lời thì thầm ấy hóa ra hấp dẫn vô phương cưỡng lại. Nó vang vọng trong y, bởi nội tâm y hoàn toàn trống rỗng... Tôi đặt ống nhòm xuống, và cái đầu vừa ở gần đến mức có thể cùng tôi nói chuyện dường như đột ngột nhảy vọt ra xa tôi đến một cự ly không thể tiếp cận.
I require the translation of these English sentences into Vietnamese.
‘The admirer of Mr. Kurtz was a bit crestfallen. In a hurried, indistinct voice he began to assure me he had not dared to take these—say, symbols—down. He was not afraid of the natives; they would not stir till Mr. Kurtz gave the word. His ascendancy was extraordinary. The camps of these people surrounded the place, and the chiefs came every day to see him. They would crawl…. ‘I don’t want to know anything of the ceremonies used when approaching Mr. Kurtz,’ I shouted. Curious, this feeling that came over me that such details would be more intolerable than those heads drying on the stakes under Mr. Kurtz’s windows. After all, that was only a savage sight, while I seemed at one bound to have been transported into some lightless region of subtle horrors, where pure, uncomplicated savagery was a positive relief, being something that had a right to exist—obviously—in the sunshine. The young man looked at me with surprise. I suppose it did not occur to him that Mr. Kurtz was no idol of mine. He forgot I hadn’t heard any of these splendid monologues on, what was it? on love, justice, conduct of life—or what not. If it had come to crawling before Mr. Kurtz, he crawled as much as the veriest savage of them all. I had no idea of the conditions, he said: these heads were the heads of rebels. I shocked him excessively by laughing. Rebels! What would be the next definition I was to hear? There had been enemies, criminals, workers—and these were rebels. Those rebellious heads looked very subdued to me on their sticks. ‘You don’t know how such a life tries a man like Kurtz,’ cried Kurtz’s last disciple. ‘Well, and you?’ I said. ‘I! I! I am a simple man. I have no great thoughts. I want nothing from anybody. How can you compare me to … ?’ His feelings were too much for speech, and suddenly he broke down. ‘I don’t understand,’ he groaned. ‘I’ve been doing my best to keep him alive, and that’s enough. I had no hand in all this. I have no abilities. There hasn’t been a drop of medicine or a mouthful of invalid food for months here. He was shamefully abandoned. A man like this, with such ideas. Shamefully! Shamefully! I—I— haven’t slept for the last ten nights …’
“Kẻ hâm mộ Kurtz có chiều ủ rũ. Bằng giọng vội vã, ấp úng, gã thanh minh rằng gã không dám gỡ những - tạm gọi là biểu tượng - ấy xuống. Gã không sợ thổ dân; họ sẽ không loạn động khi Kurtz chưa ra lệnh. Y có quyền uy phi thường. Họ cắm trại quanh đây; hàng ngày các tù trưởng đều tới ra mắt y. Họ sẽ bò... ‘Tôi không muốn biết gì về nghi lễ của họ khi yết kiến Kurtz hết,’ tôi hét. Kỳ lạ thay, cái cảm giác vừa xâm chiếm tôi, rằng những chi tiết ấy còn khó bề chịu đựng hơn đám đầu lâu bêu trên cọc ngoài cửa sổ nhà y. Nói cho cùng, đó chỉ là một cảnh tượng dã man, trong khi tôi sau một cú nhảy dường như đã được dịch chuyển đến một xứ sở vô quang của những điều kinh hoàng vi tế, nơi tục dã man giản đơn, thuần khiết - một hiện tượng có quyền tồn tại hiển nhiên dưới ánh mặt trời - lại thành ra niềm an ủi tích cực. Gã thanh niên kinh ngạc nhìn tôi. Việc tôi không thần tượng Kurtz có lẽ chưa từng thoáng qua đầu gã. Gã quên rằng tôi chưa hề nghe những đoạn độc thoại huy hoàng của y về, gì nhỉ? Tình yêu, công lý, cách sống và này kia. Nếu nói đến chuyện phủ phục trước Kurtz thì gã cũng phủ phục không kém gì kẻ man rợ nhất trong số họ. Tôi đâu có hiểu đầu đuôi câu chuyện, gã nói: đấy là đầu của bọn phản loạn. Tôi khiến gã choáng váng ghê gớm khi phá ra cười. Phản loạn! Không hiểu định nghĩa tiếp theo tôi sắp được nghe sẽ là gì? Đã có kẻ thù, tội phạm, công nhân - và nay có thêm phản loạn. Tôi thấy những cái đầu phản loạn ấy rất trầm lặng khi bị bêu trên cột. ‘Ông đâu biết người như Kurtz bị cuộc đời thử thách ra sao,’ tông đồ sau cùng của Kurtz thốt lên. ‘À, còn cậu?’ Tôi hỏi. ‘Tôi! Tôi! Tôi là người đơn giản. Tôi không có tư tưởng lớn lao. Tôi chẳng có bất kỳ đòi hỏi gì. Sao ông có thể so tôi với..,’ Cảm xúc dào dạt làm gã nghẹn lời, và đột nhiên, gã vỡ òa. ‘Tôi không hiểu,’ gã than. ‘Tôi đã làm hết sức mình để cứu sống ông ấy, và thế là đủ. Tôi không dính dáng đến tất cả những chuyện này. Tôi không có khả năng. Đã vài tháng nay ở đây chẳng có lấy một giọt thuốc hay một thìa thức ăn cho người ốm. Ông ấy bị bỏ rơi một cách thật đáng xấu hổ. Con người như thế, với tư tưởng như thế. Đáng xấu hổ! Đáng xấu hổ! Tôi... tôi... không ngủ đã mười đêm liền..,’
Can you provide me with the Vietnamese equivalents of these English sentences?
‘His voice lost itself in the calm of the evening. The long shadows of the forest had slipped downhill while we talked, had gone far beyond the ruined hovel, beyond the symbolic row of stakes. All this was in the gloom, while we down there were yet in the sunshine, and the stretch of the river abreast of the clearing glittered in a still and dazzling splendour, with a murky and overshadowed bend above and below. Not a living soul was seen on the shore. The bushes did not rustle. ‘Suddenly round the corner of the house a group of men appeared, as though they had come up from the ground. They waded waist-deep in the grass, in a compact body, bearing an improvised stretcher in their midst. Instantly, in the emptiness of the landscape, a cry arose whose shrillness pierced the still air like a sharp arrow flying straight to the very heart of the land; and, as if by enchantment, streams of human beings—of naked human beings—with spears in their hands, with bows, with shields, with wild glances and savage movements, were poured into the clearing by the dark-faced and pensive forest. The bushes shook, the grass swayed for a time, and then everything stood still in attentive immobility.
“Giọng gã lạc đi trong cái tính lặng của buổi tối. Những bóng dài của cánh rừng đã trườn xuống chân đồi trong khi chúng tôi nói chuyện, và đi quá cả căn lán xập xệ, quá cả hàng cọc biểu tượng kia từ lâu. Mọi thứ đều chìm trong bóng tối, trong khi chỗ chúng tôi ngồi vẫn nằm dưới nắng, và quãng sông trước mặt bãi trống vẫn lấp lánh một vẻ huy hoàng chói chang và tĩnh lặng, với một khúc quanh tối tăm và âm ám phía trên lẫn bên dưới. Trên bờ chẳng một bóng người. Bụi cây không xào xạc. “Đột nhiên từ sau nhà xuất hiện một nhóm người như thể từ dưới đất chui lên. Họ lội trong cỏ cao tới thắt lưng, tụ thành tốp nhỏ, khênh theo một chiếc cáng tự chế. Lập tức, giữa khung cảnh trống rỗng ấy, dậy lên một tiếng rú chói tai xuyên thủng không gian tĩnh lặng như một mũi tên nhọn sắc đâm thẳng vào trái tim xứ sở này; rồi, tựa hồ có ma thuật, từng dòng người - từng dòng người ở trần - tay cầm giáo, cầm cung, cầm khiên, nhãn thần hoang dại và động tác man rợ, được rừng già hắc diện và trầm tư trút ào ra khoảnh đất trống. Bụi rậm rung rinh, cỏ lao xao một lúc, rồi tất cả lại đứng yên trong một sự bất động đầy chăm chú.
I need help with translating these English sentences into Vietnamese.
‘Now, if he does not say the right thing to them we are all done for,’ said the Russian at my elbow. The knot of men with the stretcher had stopped, too, halfway to the steamer, as if petrified. I saw the man on the stretcher sit up, lank and with an uplifted arm, above the shoulders of the bearers. ‘Let us hope that the man who can talk so well of love in general will find some particular reason to spare us this time,’ I said. I resented bitterly the absurd danger of our situation, as if to be at the mercy of that atrocious phantom had been a dishonouring necessity. I could not hear a sound, but through my glasses I saw the thin arm extended commandingly, the lower jaw moving, the eyes of that apparition shining darkly far in its bony head that nodded with grotesque jerks. Kurtz—Kurtz—that means short in German—don’t it? Well, the name was as true as everything else in his life— and death. He looked at least seven feet long. His covering had fallen off, and his body emerged from it pitiful and appalling as from a winding-sheet. I could see the cage of his ribs all astir, the bones of his arm waving. It was as though an animated image of death carved out of old ivory had been shaking its hand with menaces at a motionless crowd of men made of dark and glittering bronze. I saw him open his mouth wide—it gave him a weirdly voracious aspect, as though he had wanted to swallow all the air, all the earth, all the men before him. A deep voice reached me faintly. He must have been shouting. He fell back suddenly. The stretcher shook as the bearers staggered forward again, and almost at the same time I noticed that the crowd of savages was vanishing without any perceptible movement of retreat, as if the forest that had ejected these beings so suddenly had drawn them in again as the breath is drawn in a long aspiration.
“ ‘Rồi, nếu ông ấy không nói với họ điều nên nói thì chúng ta coi như xong,’ gã Nga níu tay tôi. Tốp khiêng cáng đã dừng lại cách con tàu một đoạn, tựa hồ tê liệt. Tôi thấy người trên cáng ngồi dậy, gầy gò và một cánh tay giơ cao, quá vai phu khiêng cáng. ‘Hy vọng người có thể cao đàm khoát luận về tình yêu nói chung sẽ tìm thấy một lý do nói riêng để xá tội cho chúng ta lần này,’ tôi nói. Tôi ghét cay ghét đắng tính lố bịch của tình huống hiểm nghèo này như thể bị đặt dưới lòng nhân từ của bóng ma tàn ác kia là một sự cùng đường ô nhục. Tôi không nghe thấy tiếng động gì, nhưng bằng ống nhòm tôi thấy cánh tay gầy guộc vươn lên đầy quyền uy, hàm dưới chuyển động, cặp mắt u linh tỏa ánh hắc ám từ sâu trong cái đầu xương xẩu đang gục gặc gật đầu một cách kỳ dị. Kurtz - Kurtz - tiếng Đức là ngắn phải không nhỉ? Hà, cái tên ấy cũng chính xác như mọi thứ khác trong cuộc sống - lẫn cái chết - của y. Trông y ít nhất phải dài hơn hai mét. Tấm chăn đã tuột xuống, và cơ thể y nhô ra thảm thương và kinh khiếp như từ một tấm vải liệm. Tôi thấy rõ lồng ngực y nhấp nhô, xương tay y vẫy vẫy. Trông y như thể một hình ảnh hoạt họa của tử thần, điêu khắc từ ngà voi cũ, đang giũ đôi tay chất chứa tai ương lên đám đông bất động tạc bằng đồng đen lấp lánh. Tôi thấy y há miệng thật lớn - nó đem lại cho y một diện mạo tham tàn kỳ quái, như thể y muốn nuốt hết cả trời, cả đất, và cả người trước mặt. Một giọng nói âm trầm vẳng đến tai tôi. Hẳn là y vừa hét. Bỗng y ngã ngửa ra sau. Chiếc cáng lắc lư khi tốp phu loạng choạng tiến lên, và gần như đồng thời tôi phát hiện ra, bầy man di đang biến mất mà không có dấu hiệu nhận biết được nào của việc tháo lui, như thể rừng già sau khi phun những sinh vật này ra lại bất ngờ rút chúng về theo hơi thở trong một nhịp hít dài.