instruction
stringclasses
20 values
input
stringlengths
0
5.97k
output
stringlengths
0
8.22k
I require the translation of these English sentences into Vietnamese.
Your man on the road, he doing promo You said keep our business on the low-low I'm just tryna get you out the friend zone 'Cause you look even better than the photos I can't find your house, send me the info Driving through the gated residential Found out I was coming, sent your friends home Keep on tryna hide it but your friends know I only call you when it's half past five The only time that I'll be by your side I only love it when you touch me, not feel me When I'm fucked up, that's the real me When I'm fucked up, that's the real me, yeah I only fuck you when it's half past five The only time I'd ever call you mine I only love it when you touch me, not feel me When I'm fucked up, that's the real me When I'm fucked up, that's the real me, babe I'ma let you know and keep it simple Tryna keep it up, don't seem so simple I just fucked two bitches 'fore I saw you You gon' have to do it at my tempo Always tryna send me off to rehab Drugs start to feel like it's decaf I'm just tryna live life for the moment And all these motherfuckers want a relapse I only call you when it's half past five The only time that I'll be by your side I only love it when you touch me, not feel me When I'm fucked up, that's the real me When I'm fucked up, that's the real me, yeah I only fuck you when it's half past five The only time I'd ever call you mine I only love it when you touch me, not feel me When I'm fucked up, that's the real me When I'm fucked up, that's the real me, babe Hills have eyes, the hills have eyes Who are you to judge, who are you to judge? Hide your lies, girl, hide your lies Only you to trust, only you I only call you when it's half past five The only time that I'll be by your side I only love it when you touch me, not feel me When I'm fucked up, that's the real me When I'm fucked up, that's the real me, yeah I only fuck you when it's half past five The only time I'd ever call you mine I only love it when you touch me, not feel me When I'm fucked up, that's the real me When I'm fucked up, that's the real me, babe
Người yêu em còn bận công chuyện, hắn đang đi diễn Em nói đừng làm rùm beng chuyện tình của hai ta Tôi đang cố gắng không đối xử với em như với bạn bè Vì em ngoài đời trông còn xinh đẹp hơn trong ảnh Tôi không tìm được nhà em, gửi địa chỉ cho tôi đi Lái xe qua khu dân cư Em đã nhận ra rằng tôi đang tới rồi thì bảo bạn bè em về hết đi Em cố gắng che giấu mỗi quan hệ này nhưng đám bạn em biết tỏng rồi Tôi chỉ có thể gọi cho em lúc năm rưỡi Đó là khoảnh khắc duy nhất tôi được ở bên em Tôi chỉ yêu những khi em vuốt ve tôi chứ không phải âu yếm Khi tôi làm rỗi tung mọi chuyện thì tôi mỡi là chính mình Khi tôi làm rỗi tung mọi chuyện thì tôi mỡi là chính mình Tôi chỉ có thể ân ái với em lúc năm rưỡi Đó là khoảnh khắc duy nhất tôi được ở bên em Tôi chỉ yêu những khi em vuốt ve tôi chứ không phải âu yếm Khi tôi làm rỗi tung mọi chuyện thì tôi mỡi là chính mình Khi tôi làm rỗi tung mọi chuyện thì tôi mỡi là chính mình Tôi sẽ nói hết cho em và nói đơn giản nhất có thể Em cố gắng lắng nghe nhé, chuyện này cũng hơi phức tạp Tôi đã ở bên hai người con gái trước khi đến gặp em Thế nến em phải ân ái với tôi ở nhà tôi Lúc nào tôi cũng bị tống vào trại cai nghiện Trong khi ma tuý với tôi chả khác gì cà phê Tôi chỉ cố gắng tận hưởng cuộc đời này thôi Và lũ mất dạy cứ cố gắng phá huỷ nó Tôi chỉ có thể gọi cho em lúc năm rưỡi Đó là khoảnh khắc duy nhất tôi được ở bên em Tôi chỉ yêu những khi em vuốt ve tôi chứ không phải âu yếm Khi tôi làm rỗi tung mọi chuyện thì tôi mỡi là chính mình Khi tôi làm rỗi tung mọi chuyện thì tôi mỡi là chính mình Tôi chỉ có thể ân ái với em lúc năm rưỡi Đó là khoảnh khắc duy nhất tôi được ở bên em Tôi chỉ yêu những khi em vuốt ve tôi chứ không phải âu yếm Khi tôi làm rỗi tung mọi chuyện thì tôi mỡi là chính mình Khi tôi làm rỗi tung mọi chuyện thì tôi mỡi là chính mình Làm gì thì cũng nên nhìn trước ngó sau Các người là ai mà có quyền phán xét cơ chứ Hãy giấu đi những lời dối trá của em Tôi chỉ còn biết tin vào em mà thôi Tôi chỉ có thể gọi cho em lúc năm rưỡi Đó là khoảnh khắc duy nhất tôi được ở bên em Tôi chỉ yêu những khi em vuốt ve tôi chứ không phải âu yếm Khi tôi làm rỗi tung mọi chuyện thì tôi mỡi là chính mình Khi tôi làm rỗi tung mọi chuyện thì tôi mỡi là chính mình Tôi chỉ có thể ân ái với em lúc năm rưỡi Đó là khoảnh khắc duy nhất tôi được ở bên em Tôi chỉ yêu những khi em vuốt ve tôi chứ không phải âu yếm Khi tôi làm rỗi tung mọi chuyện thì tôi mỡi là chính mình Khi tôi làm rỗi tung mọi chuyện thì tôi mỡi là chính mình
I need these sentences to be translated into Vietnamese.
I knew you were You were gonna come to me & here you are But you better choose carefully Cause I... I'm capable of anything Of anything & everything Make me your Aphrodite Make me your one and only But don't make me your enemy Your enemy Your enemy So you wanna play with magic Boy you should know what you're fallin' for Baby do you dare to do this? Cause I'm comin' at you like a dark horse Are you ready for Ready for A perfect storm Perfect storm Cause once you're mine Once you're mine There's no goin' back Mark my words This love will make you levitate Like a bird Like a bird without a cage We're down to earth If you choose to walk away Don't walk away It's in the palm of your hand now baby It's a yes or a no No maybe So just be sure Before you give it up to me Up to me Give it up to me So you wanna play with magic Boy you should know what you're fallin' for Baby do you dare to do this Cause I'm comin' at you like a dark horse Are you ready for Ready for A perfect storm Perfect storm Cause once you're mine Once you're mine There's no goin' back [Juicy J's Rap Verse] She's a beast I call her Karma She eat your heart out Like Jeffrey Dahmer Be careful Try not to lead her on Shawty's heart was on steroids Cause her love was so strong You may fall in love When you meet her If you get the chance you better keep her She swears by it but if you break her heart She turn cold as a freezer That fairy tale ending with a knight in shining armor She can be my Sleeping Beauty I'm gon' put her in a coma Woo! Damn I think I love her Shawty so bad I'm sprung and I don't care She got me like a roller coaster Turn the bedroom into a fair Her love is like a drug I was tryna hit it and quit it But lil'mama so dope I messed around and got addicted So you wanna play with magic Boy you should know what you're fallin' for (You should know) Baby do you dare to do this Cause I'm comin' at you like a dark horse (Like a dark horse) Are you ready for Ready for (Ready for) A perfect storm Perfect storm (A perfect storm) Cause once you're mine Once you're mine (ohhhh) There's no goin' back
Em biết anh mà Anh sắp đến gặp em Và anh đây rồi Nhưng anh tốt hơn là lựa chọn cẩn thận Bởi em... Em có năng lực cho bất cứ thứ gì đấy Cho bất cứ thứ gì Và mọi thứ luôn. Để em thành nữ thần tình yêu Aphrodite của anh đi. Để em thành người của anh và chỉ mình em thôi Đừng khiến em thành kẻ thù của anh Kẻ thù Kẻ thù của anh. Vậy anh muốn chơi đùa với phép ảo thuật Anh à anh nên biết điều mà anh đang mê mẩn chứ Cưng à anh có dám làm điều này không? Bởi em sẽ phi tới anh như một chú ngựa ô đấy. Anh đã sẵn sàng cho Sẵn sàng cho Một cơn bão hoàn hảo Một cơn bão hoàn hảo Bởi một khi anh là của em Một khi anh là của em Thì không có chuyện thay đổi đâu Chú ý những lời em nói Tình yêu này sẽ làm anh bay bổng đấy Như một chú chim ấy Như một chú chim sổ lồng Chúng ta sẽ đi xuống tận cùng trái đất Nếu anh chọn ra đi Đừng ra đi. Như trong lòng bàn tay anh bây giờ thôi Có hay không Có lẽ là không Vì vậy chỉ cần chắc chắn Trước khi anh phó mặc mọi chuyện cho em Để em quyết Để em quyết Vậy anh muốn chơi đùa với phép ảo thuật Anh à anh nên biết điều mà anh đang mê mẩn chứ Cưng à anh có dám làm điều này không? Bởi em sẽ phi tới anh như một chú ngựa ô đấy. Anh đã sẵn sàng cho Sẵn sàng cho Một cơn bão hoàn hảo Một cơn bão hoàn hảo Bởi một khi anh là của em Một khi anh là của em Thì không có chuyện thay đổi đâu [Phần Juicy J's Rap] Cô ấy như một con thú lớn vậy Tôi gọi cô ấy là Karma Cô ấy sẽ ăn tươi nuốt sống trái tim bạn Như Jeffrey Dahmer Cẩn thận đấy Cố gắng đừng lừa dối cô ấy Trái tim của cô nàng nóng bỏng đang đập mạnh đấy Bởi tình yêu của cô ấy quá mãnh liệt Bạn có thể yêu cô ấy Ngay khi bạn gặp cô ấy Nếu bạn có cơ hội, bạn tốt hơn là giữ lấy cô ấy nhé Cô ấy rất tin tưởng điều đó nhưng nếu bạn làm tổn thương trái tim cô ấy Cô ấy sẽ trở nên lạnh lùng như băng đá vậy Câu chuyện cổ tích kết thúc với chàng hiệp sĩ trong lớp áo giáp sáng bóng Cô ấy có thể là 'Nàng công chúa ngủ trong rừng của tôi ' Tôi sẽ để cô ấy chìm vào cơn mê Woo! Tôi nghĩ tôi cực kì yêu cô ấy Cô nàng nóng bóng quá tệ Tôi mê tít đó nhưng tôi mặc kệ Cô ấy làm tôi như chiếc tàu lượn Biến phòng ngủ thành một phiên chợ Tình yêu của cô ấy như chất gây nghiện vậy Ôi má ơi phê quá Tôi đã cố gắng chiếm lấy và rồi lại bỏ Tôi gây rốirồi lại bị cuốn hút Vậy anh muốn chơi đùa với phép ảo thuật Anh à anh nên biết điều mà anh đang mê mẩn chứ Cưng à anh có dám làm điều này không? Bởi em sẽ phi tới anh như một chú ngựa ô đấy. Anh đã sẵn sàng cho Sẵn sàng cho Một cơn bão hoàn hảo Một cơn bão hoàn hảo Bởi một khi anh là của em Một khi anh là của em Thì không có chuyện thay đổi đâu.
I would like to have these sentences translated into Vietnamese.
[Verse 1: Camila] I ain't worried 'bout nothin', I ain't wearin' na-nada I'm sittin' pretty, impatient, but I know you gotta Put in them hours, I'mma make it harder I'm sending pic after picture, I'mma get you fired [Pre-Chorus: Normani] I know you're always on the night shift But I can't stand these nights alone And I don't need no explanation Cause baby, you're the boss at home [Chorus: Lauren] You don't gotta go to work, work, work, work Work, work, work But you gotta put in work, work, work, work Work, work, work You don't gotta go to work, work, work, work Work, work, work Let my body do the work, work, work, work Work, work, work We can work from home, oh, oh, oh-oh We can work from home, oh, oh, oh-oh [Verse 2: Ally] Let's put it into motion, I'mma give you a promotion I'll make it feel like a vacay, turn the bed into an ocean We don't need nobody, I just need your body Nothin' but sheets in between us, ain't no getting off early [Pre-Chorus: Dinah] I know you're always on the night shift But I can't stand these nights alone And I don't need no explanation Cause baby, you're the boss at home [Chorus: Lauren] You don't gotta go to work, work, work, work Work, work, work But you gotta put in work, work, work, work Work, work, work You don't gotta go to work, work, work, work Work, work, work Let my body do the work, work, work, work Work, work, work We can work from home, oh, oh, oh-oh We can work from home, oh, oh, oh-oh [Verse 3: Ty Dolla $ign] Oh yeah, girl go to work for me Can you make it clap, no hands for me? Take it to the ground, pick it up for me Look back at it all over me Put in work like my timesheet She ride it like a '63 I'mma buy her new Céline Let her ride in a foreign with me Oh, she the bae, I'm her boo And she down to break the rules Ride or die, she gon' go I won't judge, she finessin' I pipe her, she take that Put in overtime on your body [Chorus: Lauren & Camila] You don't gotta go to work, work, work, work Work, work, work But you gotta put in work, work, work, work Work, work, work You don't gotta go to work, work, work, work Work, work, work Let my body do the work, work, work, work Work, work, work We can work from home, oh, oh, oh-oh We can work from home, oh, oh, oh-oh [Outro: Camila] Yeah, we can work from home Yeah, we can work from home Yeah
[Verse 1: Camila] Em chả lo lắng gì sất, em cũng chẳng mặc gì cả Em ngồi đây chờ đợi mòn mỏi nhưng vẫn biết rằng Anh còn đang bận việc, em sẽ cho anh nổi hứng chết luôn Em sẽ gửi hết hình này tới ảnh nọ tới khi anh bị đuổi việc mới thôi [Pre-Chorus: Normani] Em biết anh phải làm ca tối rồi Nhưng em chẳng thể chịu nổi những đêm cô độc Em không cần nghe giải thích gì hết Vì anh là "sếp" của em ở nhà mà [Chorus: Lauren] Anh đếch cần phải đi làm đâu Đi làm để làm giề chứ "Làm" với em đây này "Làm việc" đê anh Anh đếch cần phải đi làm đâu Đi làm để làm giề chứ Cứ để em lo "công việc" của anh "Công việc" ấy Ta có thể "làm" ngay ở nhà này Ta có thể "làm" ngay ở nhà này [Verse 2: Ally] "Làm việc" nhịp nhàng đi rồi em sẽ thăng chức cho Em sẽ cho anh cảm giác của một kì nghỉ, giường chiếu sẽ chẳng khác gì biển cả Hai ta chẳng cần ai hết cả, em chỉ cần mỗi anh thôi Giữa hai ta chỉ có tấm ga giường, chẳng cần phải dậy sớm nữa [Pre-Chorus: Normani] Em biết anh phải làm ca tối rồi Nhưng em chẳng thể chịu nổi những đêm cô độc Em không cần nghe giải thích gì hết Vì anh là "sếp" của em ở nhà mà [Chorus: Lauren] Anh đếch cần phải đi làm đâu Đi làm để làm giề chứ "Làm" với em đây này "Làm việc" đê anh Anh đếch cần phải đi làm đâu Đi làm để làm giề chứ Cứ để em lo "công việc" của anh "Công việc" ấy Ta có thể "làm" ngay ở nhà này Ta có thể "làm" ngay ở nhà này [Verse 3: Ty Dolla $ign] Cưng đi làm với anh nào Cưng vỗ tay mà không dùng tay được không? Ngồi xuống rồi lại đứng lên Lắc mông cho anh xem nào "Làm việc" với anh kín lịch luôn nào "Lái" anh như chiếc Corvette đời 63 đi Tôi sẽ mua cái Céline mới cho cô ấy Cho cô ấy lái luôn con xe ngoại của tôi Ôi chúng tôi là cục cưng của nhau Và cô ấy sẵn sàng phá bỏ mọi luật lệ "Lái" hoặc là chết, cô ấy là vậy đó Tôi không phán xét gì đâu nhưng cô ấy cũng "ngon" đó chứ Tôi nhắn tin, nàng nhận luôn Để "làm" thêm ít "việc" ngoài giờ nào [Chorus: Lauren & Camila] Anh đếch cần phải đi làm đâu Đi làm để làm giề chứ "Làm" với em đây này "Làm việc" đê anh Anh đếch cần phải đi làm đâu Đi làm để làm giề chứ Cứ để em lo "công việc" của anh "Công việc" ấy Ta có thể "làm" ngay ở nhà này Ta có thể "làm" ngay ở nhà này [Outro: Camila] Zề ta có thể "làm" ngay ở nhà này Zề ta có thể "làm" ngay ở nhà này Zề
Please translate these English sentences into Vietnamese for me.
Twerk [Hook (Miley Cyrus)] I came up in this party time to twerk I came up in this party & I'm turnt I came up in this party time to twerk Twerk, twerk, twerk, twerk, [etc...] [Justin Bieber] Hey pretty girl, tell me your name The way that you moving baby I'm happy you came Girl I've been looking for ya for a while now I would come and talk to you but it's loud now Girl we can take it slow... Don't need nobody to know... Let me see you get down on the floor girl We gonna party all night till it's over [Hook (Miley Cyrus)] I came up in this party time to twerk I came up in this party & I'm turnt I came up in this party time to twerk Twerk, twerk, twerk, twerk, [etc...] [Justin Bieber] I valet the car, throw me the keys It's time to go, girl you coming with me Girl I've been looking for ya for a while now I would come and talk to you but it's loud now Girl we can take it slow Don't need nobody to know Let me see you get down on the floor girl girl We gonna party all night till its over [Hook (Miley Cyrus)] I came up in this party time to twerk I came up in this party & I'm turnt I came up in this party time to twerk Twerk, twerk, twerk, twerk, [etc...] I came up in this party time to twerk Girl I can't believe what you do to me Got a feeling that I'm running outta of time And I really hope that you come closer, closer, closer, closer, closer... [Hook (Miley Cyrus)] I came up in this party time to twerk I came up in this party & I'm turnt I came up in this party time to twerk Twerk, twerk, twerk, twerk, [etc..]
Nhảy lắc hông. [Điệp khúc (Miley Cyrus)] Tôi đến dự buổi tiệc này chỉ để lắc hông Tôi đến dự buổi tiệc này và tôi lắc hông Tôi đến dự buổi tiệc này chỉ để lắc hông Lắc, lắc, lắc, lắc. [etc...] [Justin Bieber] Này cô nàng xinh đẹp kia ơi, nói cho anh biết tên em Cách em nhảy làm anh cảm thấy thật vui vẻ khi em tới em à. Anh đã tìm em lâu lắm rồi người ơi Anh muốn đến và nói chuyện với em nhưng ở đây bây giờ thật ồn ào. Em à, chúng ta có thể làm nó chậm lại Không cần bất cứ ai biết Để anh thấy em nằm xuống dưới sàn Chúng ta sẽ bắt đầu buổi tiệc thâu đêm cho tới khi nó kết thúc. [Điệp khúc (Miley Cyrus)] Tôi đến dự buổi tiệc này chỉ để lắc hông Tôi đến dự buổi tiệc này và tôi lắc hông Tôi đến dự buổi tiệc này chỉ để lắc hông Lắc, lắc, lắc, lắc. [etc...] [Justin Bieber] Anh đỗ xe cho, đáp chìa khóa cho anh Tới lúc phải đi rồi, em hãy đi với anh, em nhé. Anh đã tìm em lâu lắm rồi người ơi Anh muốn đến và nói chuyện với em nhưng ở đây bây giờ thật ồn ào. Em à chúng ta có thể làm nó chậm lại Không cần bất cứ ai biết Để anh thấy em nằm xuống dưới sàn Chúng ta sẽ bắt đầu buổi tiệc thâu đêm cho tới khi nó kết thúc. [Điệp khúc (Miley Cyrus)] Tôi đến dự buổi tiệc này chỉ để lắc hông Tôi đến dự buổi tiệc này và tôi lắc hông Tôi đến dự buổi tiệc này chỉ để lắc hông Lắc, lắc, lắc, lắc. [etc...] Tôi đến dự buổi tiệc này chỉ để lắc hông Anh không thể tin điều em làm được cho anh Có cảm giác như anh đang chạy vượt khỏi thời gian Và anh thực sự hi vọng rằng em đang tiến tới anh ngày một gần hơn, gần hơn, gần hơn,... [Điệp khúc (Miley Cyrus)] Tôi đến dự buổi tiệc này chỉ để lắc hông Tôi đến dự buổi tiệc này và tôi lắc hông Tôi đến dự buổi tiệc này chỉ để lắc hông Lắc, lắc, lắc, lắc. [etc...]
Can you help me with the translation of these English sentences to Vietnamese?
Yes I do, I believe That one day I will be, where I was Right there, right next to you And it's hard, the days just seem so dark The moon, the stars, are nothing without you Your touch, your skin, where do I begin? No words can explain, the way I'm missing you Deny this emptiness, this hole that I'm inside These tears, they tell their own story You told me not to cry when you were gone But the feeling's overwhelming, they're much too strong Can I lay by your side, next to you, you And make sure you're alright I'll take care of you, And I don't want to be here if I can't be with you tonight I'm reaching out to you Can you hear my call? (Who's to say you won't hear me?) This hurt that I've been through I'm missing you, missing you like crazy You told me not to cry when you were gone But the feeling's overwhelming, they're much too strong Can I lay by your side, next to you, you And make sure you're alright I'll take care of you And I don't wanna be here if I can't be with you tonight Lay me down tonight, lay me by your side Lay me down tonight, lay me by your side Can I lay by your side, next to you, you-ou And make sure you're alright I'll take care of you And I don't wanna be here if I can't be with you tonight
Đúng vậy, tôi có niềm tin Rằng một ngày nào đó trở lại nơi tôi thuộc về Là nơi có hình bóng của em, và ang sẽ sát cánh bên em Thật khó khi cuộc sống của chúng ta ngày càng bế tắt Những vì sao ảo huyền, mặt trăng đẹp lung linh chẳng còn nghĩa gì khi vắng em Cái kẽ chạm vào làn da của em, nhưng tôi phải bắt đầu từ đâu Không còn từ ngữ nào để có thể nói hết được rằng tôi nhớ em Cứ nói rằng mình không một mình, nhưng sự thật trong lòng rất cô đơn Những giọt nước mặt cứ rơi như thay lòng kể những chuyện riêng tư của tôi rằng tôi buồn Em dặn tôi rằng hãy mạnh mẽ lên khi em xa anh Nhưng cảm xúc không thế kìm nén mà nó cứ bộc lộ hết ra ngoài Tôi có thể nằm kế bên em được không? Mãi bên em Để biết được em luôn ổn Tôi sẽ chăm sóc cho em từng chút một Nếu không thể ở đây, tôi không biết ở đâu tối nay Đến bên em Em có nghe tôi gọi? Và ai sẽ nói với tôi rằng em sẽ không trả lời với tôi? Đây là nỗi đau mà anh từng trãi qua Tôi nhớ em, nhớ đến phát điên lên được Em dặn tôi rằng hãy mạnh mẽ lên khi em xa anh Nhưng cảm xúc không thế kìm nén mà nó cứ bộc lộ hết ra ngoài Tôi có thể nằm kế bên em được không? Mãi bên em Để biết được em luôn ổn Tôi sẽ chăm sóc cho em từng chút một Nếu không thể ở đây, tôi không biết ở đâu tối nay Nằm bên em, nằm ngay cạnh em Ở bên em, nắm tay em thật chặt Có thể để anh nằm bên em Để luôn chắc rằng em không bị gì cả Và tôi sẽ lo cho em Nếu không thể ở đây, tôi không biết ở đâu tối nay
I'm seeking a Vietnamese translation for these English sentences.
[Beyoncé:] Drink from me, drink from me Then we'll shoot across the sky Symphony Then we'll shoot across the sky We're on a... Drink from me, drink from me Then we'll shoot across the sky Symphony (So high, so high) Then we'll shoot across the sky [Coldplay:] Oh, angel sent from up above You know you make my world light up When I was down When I was hurt You came to lift me up Life is a drink And love's a drug Oh, now I think I must be miles up When I was a river, dried up You came to rain a flood [Coldplay & Beyoncé:] And said drink from me, drink from me When I was so thirsty Pour on a symphony Now I just can't get enough Put your wings on me, wings on me When I was so heavy Pour on a symphony When I'm low, low, low, low [Coldplay:] I, oh, I, oh Got me feeling drunk and high So high, so high I, oh, I, oh, I, oh Now I'm feeling drunk and high So high, so high Woo! [Coldplay & Beyoncé:] Oh, angel sent from up above I feel it coursing through my blood Life is a drink, your love's About to make the stars come out [Coldplay & Beyoncé:] Put your wings on me, wings on me When I was so heavy Pour on a symphony When I'm low, low, low, low [Coldplay:] I, oh I, oh I Got me feeling drunk and high So high, so high Oh I, oh I, oh I I'm feeling drunk and high So high, so high [Beyoncé & Coldplay:] I, oh I, oh I La la la la la la la So high, so high I, oh I, oh I I'm feeling drunk and high So high, so high [Beyoncé:] Then we'll shoot across the sky Then we'll shoot across the... Then we'll shoot across the sky Then we'll shoot across the... Then we'll shoot across the sky Then we'll shoot across the... Then we'll shoot across the sky Then we'll shoot across the...
[Beyoncé:] Hãy uống đi, uống cạn đi Sau đó chúng ta sẽ thắp sáng cả bầu trời Một bản giao hưởng Sau đó chúng ta sẽ thắp sáng cả bầu trời Ta đang... Hãy uống đi, uống cạn đi Sau đó chúng ta sẽ thắp sáng cả bầu trời Một bản giao hưởng (Quay cuồng, đầy phấn khích) Sau đó chúng ta sẽ thắp sáng cả bầu trời [Coldplay:] Một thiên thần từ trên trời cao đã được gửi xuống Ngài biết không, ngài vừa làm cho cả thế giới của tôi bừng sáng Khi tôi gục ngã Khi tôi bị thương Ngài đến để vực tôi dậy Cuộc đời là một cơn say Và tình yêu là một liều thuốc Bây giờ tôi nghĩ tinh thần mình khá lên như hàng dặm Khi tôi giống như là một con sông khô cạn Ngài đến để tạo nên một cơn lũ cho tôi [Coldplay & Beyoncé:] Và ngài nói: "Hãy uống đi, uống cạn đi" Khi tôi đang khát vô cùng Trút đầy nỗi buồn vào một bản giao hưởng Giờ tôi chẳng biết đâu là giới hạn Ngài đã chắp cho tôi thêm đôi cánh Khi lòng tôi trở nên nặng trĩu Trút đầy nỗi buồn vào một bản giao hưởng Khi tôi chìm trong tuyệt vọng [Coldplay:] Tôi, oh, tôi, oh Ngài làm tôi cảm thấy thật say và mê dại Quay cuồng, đầy phấn khích Tôi, oh, Tôi, oh, Tôi, oh Giờ tôi cảm thấy thật say và mê dại Quay cuồng, đầy phấn khích Woo! [Coldplay & Beyoncé:] Một thiên thần từ trên trời cao đã được gửi xuống Tôi cảm thấy có cái gì đó đang chảy trong huyết quản của mình Cuộc đời là một cơn say, tình yêu của ngài Đã làm cho những vì sao dần ló rạng [Coldplay & Beyoncé:] Ngài đã chắp cho tôi thêm đôi cánh Khi lòng tôi trở nên nặng trĩu Trút đầy nỗi buồn vào một bản giao hưởng Khi tôi chìm trong tuyệt vọng [Coldplay:] Tôi, oh tôi, oh tôi Ngài làm tôi cảm thấy thật say và mê dại Quay cuồng, đầy phấn khích Oh tôi, oh tôi, oh tôi Giờ tôi cảm thấy thật say và mê dại Quay cuồng, đầy phấn khích [Beyoncé & Coldplay:] Tôi, oh tôi, oh tôi La la la la la la la Quay cuồng, đầy phấn khích Tôi, oh tôi, oh tôi Tôi cảm thấy thật say và mê dại Quay cuồng, đầy phấn khích [Beyoncé:] Sau đó chúng ta sẽ thắp sáng cả bầu trời Sau đó chúng ta sẽ thắp sáng cả... Sau đó chúng ta sẽ thắp sáng cả bầu trời Sau đó chúng ta sẽ thắp sáng cả... Sau đó chúng ta sẽ thắp sáng cả bầu trời Sau đó chúng ta sẽ thắp sáng cả... Sau đó chúng ta sẽ thắp sáng cả bầu trời Sau đó chúng ta sẽ thắp sáng cả...
Could you render these English sentences in Vietnamese?
I don't know, it's just something about ya Got me feeling like I can't be without ya Anytime someone mention your name I be feeling as if I'm around ya Ain't no words to describe you baby All I know is that you take me high Can you tell that you drive me crazy? Cause I can't get you out my mind Think of you when I'm going to bed When I wake up think of you again You are my homie, lover and friend Exactly why You light me up inside Like the 4th of July Whenever you're around I always seem to smile And people ask me how Well you're the reason why I'm dancing in the mirror and singing in the shower La La Di, La La Da, La La Da Singing in the shower La La Di, La La Da, La La Da Singing in the shower All I want, all I need is your loving Baby you make me hot like an oven Since you came you know what I've discovered Baby I don't need me another No, no all I know (know) Only you got me feeling so (so) And you know that I got to have you And I don't plan to let you go Think of you when I'm going to bed When I wake up think of you again You are my homie, lover and friend Exactly why You light me up inside Like the 4th of July Whenever you're around I always seem to smile And people ask me how Well you're the reason why I'm dancing in the mirror and singing in the shower La La Di, La La Da, La La Da Singing in the shower La La Di, La La Da, La La Da Singing in the shower There ain't no guarantee But I'll take a chance on we Baby let's take our time (Singing in the shower) And when the times get rough There ain't no giving up Cause it just feels so right (Singing in the shower) Don't care what others say If I got you I'm straight You bring my heart to life yeah You light me up inside Like the 4th of July Whenever you're around I always seem to smile And people ask me how Well you're the reason why I'm dancing in the mirror and singing in the shower La La Di, La La Da, La La Da Singing in the shower La La Di, La La Da, La La Da You got me singing in the shower La La Di, La La Da, La La Da Singing in the shower La La Di, La La Da, La La Da
Em chẳng hiểu sao anh có gì Mà khiến em cảm thấy không thể thiếu được anh Mỗi lúc có người nhắc tới tên anh Em lại có cảm giác như đang gần anh lắm Chẳng lời nào có thể miêu tả được anh Chỉ biết anh giúp em vui vẻ thôi Anh có biết anh khiến em phát điên rồi không? Vì anh luôn hiển hiện trước mắt em Nghĩ về anh trước khi đi ngủ Đến lúc ngủ dậy lại nghĩ về anh Anh là người bạn, người tình, tri kỉ của em Đúng là vì Anh khiến em phấn khởi trong lòng Như trong ngày Quốc Khánh vậy Lúc nào anh ở bên Dường như em luôn mỉm cười Và mọi người cứ hỏi em thế nào Ừ thì chính anh là lí do Mà em nhảy nhót trước gương, hát hò trong phòng tắm La La Di, La La Da, La La Da Hát hò trong phòng tắm La La Di, La La Da, La La Da Hát hò trong phòng tắm Em chỉ cần mỗi tình yêu của anh thôi Anh khiến em như ngồi trên đống lửa Từ khi xuất hiện, anh đã biết những điều em hằng tìm kiếm Anh à em đâu cần ai khác Không em chỉ biết rằng Có mình anh cho em cảm giác ấy thôi Và anh biết đấy, em nhất định phải dành được anh Và em không để anh tuột khỏi tầm tay đâu Nghĩ về anh trước khi đi ngủ Đến lúc ngủ dậy lại nghĩ về anh Anh là người bạn, người tình, tri kỉ của em Đúng là vì Anh khiến em phấn khởi trong lòng Như trong ngày Quốc Khánh vậy Lúc nào anh ở bên Dường như em luôn mỉm cười Và mọi người cứ hỏi em thế nào Ừ thì chính anh là lí do Mà em nhảy nhót trước gương, hát hò trong phòng tắm La La Di, La La Da, La La Da Hát hò trong phòng tắm La La Di, La La Da, La La Da Hát hò trong phòng tắm Chẳng gì là chắc chắn Nhưng em sẽ cho hai ta một cơ hội Anh à, tận hưởng thời gian của chúng ta đi (Hát hò trong phòng tắm) Và khi gặp khó khăn Cũng đừng vội bỏ cuộc Vì cảm giác này thật tuyệt vời (Hát hò trong phòng tắm) Chẳng bận tâm tới lời người ta Có anh là em sướng rồi Anh mang đến cho trái tim của em sự sống Anh khiến em phấn khởi trong lòng Như trong ngày Quốc Khánh vậy Lúc nào anh ở bên Dường như em luôn mỉm cười Và mọi người cứ hỏi em thế nào Ừ thì chính anh là lí do Mà em nhảy nhót trước gương, hát hò trong phòng tắm La La Di, La La Da, La La Da Hát hò trong phòng tắm La La Di, La La Da, La La Da Anh khiến em hát hò trong buồng tắm La La Di, La La Da, La La Da Hát hò trong phòng tắm La La Di, La La Da, La La Da
Could you render these English sentences in Vietnamese?
Baby, this is what you came for Lightning strikes Every time she moves And everybody's watching her But she's looking at you, oh, oh You, oh, oh, you, oh, oh You, oh, oh, you, oh, oh You, oh, oh, oh, oh Baby, this is what you came for Lightning strikes Every time she moves And everybody's watching her But she's looking at you, oh, oh You, oh, oh, you, oh, oh You, oh, oh, you, oh, oh You, oh, oh, oh, oh We go fast 'Til they can't replay Who knows why it's gotta be this way We say nothing More than we need I say "your place" when we leave Baby, this is what you came for Lightning strikes Every time she moves And everybody's watching her But she's looking at you, oh, oh You, oh, oh, you, oh, oh You, oh, oh, you, oh, oh You, oh, oh, oh, oh Baby, this is what you came for Lightning strikes Every time she moves Yeah Baby, this is what you came for Lightning strikes Every time she moves And everybody's watching her But she's looking at you, oh, oh You, oh, oh, you, oh, oh You, oh, oh, you, oh, oh You, oh, oh, oh, oh
Đây là điều mang anh đến đây Những tia chớp lóe sáng lên Mọi nơi cô ấy bước chân đến Và ai ai cũng đều dõi theo cô ấy Nhưng cô ấy chỉ nhìn có mỗi mình anh Chỉ có đúng anh thôi, oh, oh, you, oh, oh Chỉ mình anh, oh, oh, you, oh, oh Có mỗi anh, oh, oh, oh, oh Đây là điều mang anh đến đây Những tia chớp lóe sáng lên Mọi nơi cô ấy bước chân đến Và ai ai cũng đều dõi theo cô ấy Nhưng cô ấy chỉ nhìn có mỗi mình anh Chỉ có đúng anh thôi, oh, oh, you, oh, oh Chỉ mình anh, oh, oh, you, oh, oh Có mỗi anh, oh, oh, oh, oh Đôi ta đã tiến triển quá nhanh Để cố cho sai lầm của mối tình cũ không lặp lại Ai mà biết được lý do mọi chuyện lại thành ra như này Ta chả thèm kể gì khác cho nhau nghe Ngoài những thứ quan trọng ta cần phải biết Em nói "chỗ của anh" mỗi khi ta rời đi Đây là lý do mang anh đến đây Những tia chớp lóe sáng lên Mọi nơi cô ấy bước chân đến Và ai ai cũng đều dõi theo cô ấy Nhưng cô ấy chỉ nhìn có mỗi mình anh Chỉ có đúng anh thôi, oh, oh, you, oh, oh Chỉ mình anh, oh, oh, you, oh, oh Có mỗi anh, oh, oh, oh, oh Đây là lý do mang anh đến đây Những tia chớp lóe sáng lên Mọi nơi cô ấy bước chân đến Yeah Đây là thứ mang anh đến đây Những tia chớp lóe sáng lên Mọi nơi cô ấy bước chân đến Và ai ai cũng đều dõi theo cô ấy Nhưng cô ấy chỉ nhìn có mỗi mình anh Chỉ có đúng anh thôi, oh, oh, you, oh, oh Chỉ mình anh, oh, oh, you, oh, oh Có mỗi anh, oh, oh, oh, oh
I need help with translating these English sentences into Vietnamese.
I might never be your knight In shining armor I might never be the one You take home to mother And I might never be the one Who brings you flowers But I can be the one, be the one tonight When I first saw you From across the room I could tell that You were curious Girl, I hope you're sure What you're looking for Cause I'm not good at making promises But if you like causing Trouble up in hotel rooms And if you like having secret little rendezvous If you like to do the things You know that we shouldn't do Baby, I'm perfect Baby, I'm perfect for you And if you like midnight driving With the windows down And if you like going places We can't even pronounce If you like to do whatever you've been dreaming about Baby, you're perfect Baby, you're perfect So let's start right now I might never be the hand You put your heart in Or the arms that hold you any time you want them But that don't mean that We can't live here in the moment Cause I can be the one you love from time to time When I first saw you From across the room I could tell that You were curious Girl, I hope you're sure What you're looking for Cause I'm not good at making promises But if you like causing Trouble up in hotel rooms And if you like having secret little rendezvous If you like to do the things You know that we shouldn't do Baby, I'm perfect Baby, I'm perfect for you And if you like midnight driving With the windows down And if you like going places We can't even pronounce If you like to do whatever you've been dreaming about Baby, you're perfect Baby, you're perfect So let's start right now And if you like cameras Flashing every time we go out And if you're looking for someone To write your breakup songs about Baby, I'm perfect Baby, we're perfect But if you like causing Trouble up in hotel rooms And if you like having secret little rendezvous If you like to do the things You know that we shouldn't do Baby, I'm perfect Baby, I'm perfect for you And if you like midnight driving With the windows down And if you like going places We can't even pronounce If you like to do whatever you've been dreaming about Baby, you're perfect Baby, you're perfect So let's start right now
Anh có thể sẽ không bao giờ là chàng kỵ sĩ Khoác trên mình bộ giáp sáng bóng của em Anh có thể sẽ không bao giờ là người Mà em sẽ đưa về nhà để ra mắt mẹ mình Và anh có thể sẽ không bao giờ là người Mang những đóa hoa đến tặng cho em được Nhưng anh có thể là người đó, là người đó vào tối nay Lần đầu tiên anh nhìn thấy em Từ phía bên kia căn phòng Anh đã có thể nói rằng Lúc đó em đã rất tò mò Cô gái, anh hy vọng em đã chắc chắn Với những gì mà em đang tìm kiếm Bởi vì anh không giỏi chuyện giữ lời hứa Nhưng nếu như em muốn được Quậy phá khi đang ở trong khách sạn Và muốn có những buổi hẹn hò bí mật Hay là muốn làm những chuyện mà Biết rằng ta đáng ra không nên làm Em yêu, anh hoàn hảo Em yêu, anh hoàn hảo với em Nếu như em muốn lái xe lúc nửa đêm Với cánh cửa sổ hạ xuống Hay thích đi chơi những nơi mà Ta thậm chí còn chả thể đọc nổi được tên Hoặc muốn làm những điều mà em đã từng mơ đến Em yêu, em hoàn hảo Em yêu, em hoàn hảo Vì vậy hãy bắt đầu ngay bây giờ Anh có thể sẽ không bao giờ là người Em trao trái tim của mình cho Hoặc là người ôm em bất cứ khi nào em cần Nhưng điều đó không có nghĩa là Ta không thể tận hưởng khoảnh khắc này bây giờ Vì anh có thể sẽ là người mà em yêu mãi mãi Lần đầu tiên anh nhìn thấy em Từ phía bên kia căn phòng Anh đã có thể nói rằng Lúc đó em đã rất tò mò Cô gái, anh hy vọng em đã chắc chắn Với những gì mà em đang tìm kiếm Bởi vì anh không giỏi chuyện giữ lời hứa Nhưng nếu như em muốn được Quậy phá khi đang ở trong khách sạn Và muốn có những buổi hẹn hò bí mật Hay là muốn làm những chuyện mà Biết rằng ta đáng ra không nên làm Em yêu, anh hoàn hảo Em yêu, anh hoàn hảo với em Nếu như em muốn lái xe lúc nửa đêm Với cánh cửa sổ hạ xuống Hay thích đi chơi những nơi mà Ta thậm chí còn chả thể đọc nổi được tên Hoặc muốn làm những điều mà em đã từng mơ đến Em yêu, em hoàn hảo Em yêu, em hoàn hảo Vì vậy hãy bắt đầu ngay bây giờ Và nếu em thích những chiếc máy ảnh Nhấp nháy mỗi lần ta bước ra ngoài Hay em đang tìm kiếm một ai đó để Sáng tác bài hát sau khi chia tay người đó Em yêu, anh hoàn hảo Em yêu, chúng ta hoàn hảo Nếu như em muốn được Quậy phá khi đang ở trong khách sạn Và muốn có những buổi hẹn hò bí mật Hay là muốn làm những chuyện mà Biết rằng ta đáng ra không nên làm Em yêu, anh hoàn hảo Em yêu, anh hoàn hảo với em Nếu như em muốn lái xe lúc nửa đêm Với cánh cửa sổ hạ xuống Hay thích đi chơi những nơi mà Ta thậm chí còn chả thể đọc nổi được tên Hoặc muốn làm những điều mà em đã từng mơ đến Em yêu, em hoàn hảo Em yêu, em hoàn hảo Vì vậy hãy bắt đầu ngay bây giờ
I need help with translating these English sentences into Vietnamese.
"One Last Time" I was a liar I gave into the fire I know I should've fought it At least I'm being honest Feel like a failure 'Cause I know that I failed you I should've done you better 'Cause you don't want a liar And I know, and I know, and I know She gives you everything but, boy, I couldn't give it to you And I know, and I know, and I know That you got everything But I got nothing here without you Chorus : So one last time I need to be the one who takes you home One more time I promise after that, I'll let you go Baby, I don't care if you got her in your heart All I really care is you wake up in my arms One last time I need to be the one who takes you home I don't deserve it I know I don't deserve it But stay with me a minute I swear I'll make it worth it Can't you forgive me? At least just temporarily I know that this is my fault I should've been more careful And I know, and I know, and I know She gives you everything but, boy, I couldn't give it to you And I know, and I know, and I know That you got everything But I got nothing here without you, baby Chorus : So one last time I need to be the one who takes you home One more time I promise after that, I'll let you go Baby, I don't care if you got her in your heart All I really care is you wake up in my arms One last time I need to be the one who takes you home I know I should've fought it At least I'm being honest But stay with me a minute I swear I'll make it worth it 'Cause I don't want to be without you Chorus : So one last time I need to be the one who takes you home One more time I promise after that, I'll let you go Baby, I don't care if you got her in your heart All I really care is you wake up in my arms One last time I need to be the one who takes you home (yeah) One last time I need to be the one who takes you home
"Một Lần Cuối Thôi Nhé Anh" Đúng ,em là một kẻ dối trá Em đã bị dục vọng làm cho mờ mắt Em biết phải đấu tranh vì điều đó Nhưng ít ra em được sự chân thật Cảm thấy mình như một kẻ bất tài Bởi vì đã làm anh tổn thương rất nhều Đáng lẻ vì anh mà em phải đối sử tốt hơn Nhưng em lại chẳng muốn làm những việc khiến con tim chạnh lòng Vâng, em biết mà, em biết hết mọi thứ Rằng cô ta cho anh những thứ mà em không thể cho anh Và em cũng biết rõ Rằng anh có tất cả mọi thứ Còn em chẳng có gì nếu thiếu anh trong từng giây Điệp khúc: Nên một lần cuối anh à Em muốn mình trở thành người dẫn anh về đến nơi tràn đầy hạnh phúc Và một lần nữa thôi anh nhé Rồi sau lần này, em hứa rằng sẽ để em đi mà không níu kéo gì cả Anh yêu, em sẽ chẳng quan tâm gì nếu anh dành trọn trái tim của cô ta Tất cả em thật sự cần là mỗi sáng mai thức dậy anh nằm trong vòng tay em thôi Lần cuối cùng này Em muốn mình trở thành người dẫn anh về đến nơi tràn đầy hạnh phúc Em biết mình không xứng đáng Và biết rằng em sẽ không được nhận tình cảm của anh Nhưng hãy ở bên em một chút nữa thôi Em hứa sẽ làm tình yêu đôi ta trở nên vô giá Anh có thể tha thứ cho anh lần này? Chỉ trong 1 khoảnh khắc cũng đủ làm em toại nguyện Biết rằng em chỉ là một kẻ có lỗi Và em phải cẩn thận hơn rất nhiều Vâng, em biết mà, em biết hết mọi thứ Rằng cô ta cho anh những thứ mà em không thể cho anh Và em cũng biết rõ Rằng anh có tất cả mọi thứ Còn em chẳng có gì nếu thiếu anh trong từng giây Điệp khúc: Nên một lần cuối anh à Em muốn mình trở thành người dẫn anh về đến nơi tràn đầy hạnh phúc Và một lần nữa thôi anh nhé Rồi sau lần này, em hứa rằng sẽ để em đi mà không níu kéo gì cả Anh yêu, em sẽ chẳng quan tâm gì nếu anh dành trọn trái tim của cô ta Tất cả em thật sự cần là mỗi sáng mai thức dậy anh nằm trong vòng tay em thôi Lần cuối cùng này Em muốn mình trở thành người dẫn anh về đến nơi tràn đầy hạnh phúc Em biết phải đấu tranh dù đó chỉ là một điều nhoi Nhưng dẫu sao em cũng phải thật thà hơn Nhưng anh hãy ở lại bên em dù 1 phút đi nữa Và em sẽ làm khoảnh khắc đó đáng để anh nhớ Vì em không muốn tiếp tục sống nếu thiếu đi anh Điệp khúc: Nên một lần cuối anh à Em muốn mình trở thành người dẫn anh về đến nơi tràn đầy hạnh phúc Và một lần nữa thôi anh nhé Rồi sau lần này, em hứa rằng sẽ để em đi mà không níu kéo gì cả Anh yêu, em sẽ chẳng quan tâm gì nếu anh dành trọn trái tim của cô ta Tất cả em thật sự cần là mỗi sáng mai thức dậy anh nằm trong vòng tay em thôi Lần cuối cùng này Em muốn mình trở thành người dẫn anh về đến nơi tràn đầy hạnh phúc Lần cuối cùng này thôi anh à Em muốn mình trở thành người dẫn anh về một nơi chỉ có đôi ta.
Please convert these English sentences into Vietnamese.
If you're happy and you know it, clap your hands (clap clap) If you're happy and you know it, clap your hands (clap clap) If you're happy and you know it, then your face will surely show it If you're happy and you know it, clap your hands. (clap clap) If you're happy and you know it, stomp your feet (stomp stomp) If you're happy and you know it, stomp your feet (stomp stomp) If you're happy and you know it, then your face will surely show it If you're happy and you know it, stomp your feet. (stomp stomp) If you're happy and you know it, shout "Hurray!" (hoo-ray!) If you're happy and you know it, shout "Hurray!" (hoo-ray!) If you're happy and you know it, then your face will surely show it If you're happy and you know it, shout "Hurray!" (hoo-ray!) If you're happy and you know it, do all three (clap-clap, stomp-stomp, hoo-ray!) If you're happy and you know it, do all three (clap-clap, stomp-stomp, hoo-ray!) If you're happy and you know it, then your face will surely show it If you're happy and you know it, do all three. (clap-clap, stomp-stomp, hoo-ray!)
Nếu bạn đang hạnh phúc và bạn biết điều đó, thì bạn hãy vỗ tay (clap clap) Nếu bạn đang hạnh phúc và bạn biết điều đó, thì bạn hãy vỗ tay (clap clap) Nếu bạn đang hạnh phúc và hãy đừng ngại ngùng thể hiện nó Nếu bạn đang hạnh phúc và bạn biết điều đó, thì bạn hãy vỗ tay của bạn. (clap clap) (clap clap) Nếu bạn đang hạnh phúc và bạn biết điều đó, thì bạn hãy đạp mạnh bàn chân của bạn(stomp stomp) Nếu bạn đang hạnh phúc và bạn biết điều đó, thì bạn hãy đạp mạnh bàn chân của bạn(stomp stomp) Nếu bạn đang hạnh phúc và bạn biết điều đó, và hãy đừng ngại ngùng thể hiện nó Nếu bạn đang hạnh phúc và bạn biết điều đó, thì bạn hãy đạp mạnh bàn chân của bạn. (stomp stomp) (stomp stomp) Nếu bạn đang hạnh phúc và bạn biết điều đó, hãy kêu la "hurray!" (hoo-ray!) Nếu bạn đang hạnh phúc và bạn biết điều đó, hãy kêu la "hurray!" (hoo-ray!) Nếu bạn đang hạnh phúc và bạn biết điều đó, và hãy đừng ngại ngùng thể hiện nó Nếu bạn đang hạnh phúc và bạn biết điều đó, hãy kêu la "hurray!" (hoo-ray!) Nếu bạn đang hạnh phúc và bạn biết điều đó, hãy làm cả ba (clap-clap, stomp-stomp, hoo-ray!) Nếu bạn đang hạnh phúc và bạn biết điều đó, hãy làm cả ba (clap-clap, stomp-stomp, hoo-ray!) Nếu bạn đang hạnh phúc và bạn biết điều đó, và hãy đừng ngại ngùng thể hiện nó Nếu bạn đang hạnh phúc và bạn biết điều đó, hãy làm cả ba (clap-clap, stomp-stomp, hoo-ray!) (clap-clap, stomp-stomp, hoo-ray!)
I'm looking for someone to translate these sentences into Vietnamese.
[Nicki Minaj] Spirit of Marilyn calling me, audibly Bawlin she, said that she would never leave Continued to torture me Telling me to come with her Underneath my comforter And she brought a gun with her Pills and some rum with her Took me on the balcony Telling me to jump with her Yeah I'm in the ghost but I ain't doing stunts with her I ain't tryna be that Haters wanna see that But I got 'em aggy Cause I win the gold like Gabby [Alicia Keys] She's just a girl, and she's on fire Hotter than a fantasy, longer like a highway She's living in a world, and it's on fire Feeling the catastrophe, but she knows she can fly away Oh, she got both feet on the ground And she's burning it do explain Oh, she got her head in the clouds And she's not backing down [Hook] This girl is on fire This girl is on fire She's walking on fire This girl is on fire Looks like a girl, but she's a flame So bright, she can burn your eyes Better look the other way You can try but you'll never forget her name She's on top of the world Hottest of the hottest girls say Oh, we got our feet on the ground And we're burning it down Oh, got our head in the clouds And we're not coming down This girl is on fire This girl is on fire She's walking on fire This girl is on fire Everybody stands, as she goes by Cause they can see the flame that's in her eyes Watch her when she's lighting up the night Nobody knows that she's a lonely girl And it's a lonely world But she gon' let it burn, baby, burn, baby [Nicki Minaj] Dear God, if you here God Make the rain disappear when they stare God Take away my fear when they interfere God Do you fear God? Cuz I fear God And in my backyard, that's a deer God And that's a horse ranch And to my core fans, keep reppin' me Do it the death me X in the box, cuz ain't nobody checkin' me This girl is on fire This girl is on fire She's walking on fire This girl is on fire Oh, oh, oh.. She's just a girl, and she's on fire
[Nicki Minaj] Linh hồn của Marilyn đang gọi tôi rất rõ ràng Tôi khẩn cầu, khẳng định rằng cô ta sẽ không bao giờ bỏ đi Vẫn tiếp tục tra tấn tôi Vẫy gọi tôi đi cùng cô ta Bên dưới chiếc khăn trải giường Và cô ta mang theo một khẩu súng Vài viên thuốc và chút rượu cùng Dẫn tôi ra ngoài ban công Bảo tôi hãy cùng nhảy với cô ta Yeah tôi muốn chết nhưng tôi không muốn nhào lộn cùng cô ta Tôi chẳng muốn cố làm chuyện đó Những kẻ ghét bỏ thì muốn thế Nhưng tôi đã làm chúng tức Vì tôi thắng huy chương vàng như Gabby (1) [Alicia Keys] Cô ấy chỉ là một cô gái, và cô ấy đang rực lửa Nóng hơn cả một giấc mơ, dài như xa lộ Cô sống trong một thế giới, và thế giới đó rực lửa Cảm giác như đại họa, nhưng cô biết mình có thể bay đi Ôi, cô đứng vững chắc trên mặt đất Và cô ấy đang thiêu cháy Ôi, cô ấy đã chạm được vào làn mây Và cô ấy sẽ không lùi bước [Hook] Cô gái này đang rực lửa Cô gái này đang rực lửa Cô đang bước đi trên lửa Cô gái này đang rực lửa Trông như một cô gái, nhưng cô ấy là ngọn lửa Chói sáng rực rỡ, cô ấy có thể đốt cháy mắt các người Nên tốt hơn là nhìn đi chỗ khác đi Các người có thể cố gắng những sẽ không thể quên tên cô ấy Cô ấy đứng trên cả thế giới này Những cô gái cháy bỏng nhất của sự cháy bỏng cùng nói Ôi, ta đứng vững trên mặt đất Và ta đang cháy bỏng Ôi, ta đã chạm đến làn mây Và ta sẽ không quay đầu lại Cô gái này đang rực lửa Cô gái này đang rực lửa Cô đang bước đi trên lửa Cô gái này đang rực lửa Mọi người đứng lên, khi cô ấy đi ngang Vì họ có thể thấy ngọn lửa rừng rực trong mắt cô Hãy xem cô ấy chiếu sáng rực rỡ màn đêm Chẳng ai biết cô gái ấy luôn cô đơn Và thế giới này cũng cô đơn Nhưng cô ấy sẽ để nó cháy, cưng à, cháy bỏng. [Nicki Minaj] Hỡi Chúa, nếu như Người ở đây Hãy để cơn mưa lụi tàn khi chúng trừng mắt hỡi Người Hãy vứt bỏ nỗi sợ khi chúng cản đường hỡi Người Chúa có sợ không? Vì con cũng sợ hỡi Người Và trong sân nhà con, có một con hươu hỡi Người Và đó là một trại ngựa Và hỡi các fan của tôi, hãy cứ đại diện cho tôi Hãy làm điều đó đến khi tôi chết Hãy tắt hết hình ảnh đi, vì chăng cần ai phán xét tôi (2) Cô gái này đang rực lửa Cô gái này đang rực lửa Cô đang bước đi trên lửa Cô gái này đang rực lửa Oh, oh, oh... Cố ấy chỉ là một cô gái, và cô ấy đang rực lửa
Please assist me in translating these sentences into Vietnamese.
See I'm just another average guy Looking for my perfect girl Still on my way and finding When you dragged me right into your world I was way too blind That hide all my feeling for love But now I finally realize Having you was more than enough I'm falling so deep for you now I admit Cuz you are the one in billions that I need Just hold my hand and say that I'm your man Cuz I'm dying for this chance to.. Say I love you love you babe Never gonna change it Say I love you love you babe I just wanna say it Say I..I..I love you I..I..I love you I..I..I love you girl..(x2) Just walking with you in the sun Smiling and having fun And when your lips first touched mine it's like the time stopped running I can find a million rhymes To claim that you're the one Promise you in this life I'll be the guy to trust Cus you're the girl that I'm fighting to keep Let me just prove to you how perfect I can be Hold me tight and say that I'm your guy And for the rest of my life I'll say.. Say I love you love you babe Never gonna change it Say I love you love you babe I just wanna say it Say I..I..I love you I..I..I love you I..I..I love you girl..(x2) Ba girl it's true I can give it all up for loving you I can picture us standing in the church I'm holding your arm with trust to confirm "I do" And there will be no lying here No crying tears, no fight or fear I promise to you that I'll be right near So close that your heartbeat I can hear This love is a beautiful fairy tales for only you and me, yeah I can tell Hold my hand until the very end like we were meant to be and we can write it down Cuz my princess she is finally found and we will make a life-time play of ours So let me start by saying this out, singing this loudly
Nhìn xem, anh cũng chỉ là một anh chàng bình thường khác Kiếm tìm người con gái hoàn hảo của mình Vẫn đang trên con đường kiếm tìm Khi em lôi kéo em vào thế giới của em Anh đã quá mù quáng. Che giấu đi tất cả những cảm xúc của anh về tình yêu Nhưng giờ đây cuối cùng anh đã nhận ra Có em đã là quá đủ rồi Anh đã quá yêu anh mất rồi giờ anh xin thừa nhận Bởi vì em là người duy nhất anh cần trong hàng tỉ người trên thế gian Hãy nắm lấy bàn tay anh, và nói rằng anh là người đàn ông của em Bởi vì anh luôn mòn mỏi chờ đợi cơ hội này để... Nói anh yêu em yêu em em à Điều đó không bao giờ thay đổi Nói anh yêu em yêu em em à Anh chỉ muốn nói lên điều đó Nói anh...anh...anh yêu em Anh... anh... anh yêu em Anh... anh... anh yêu em cô gái... (x2) Dạo bước cùng em trong ánh mặt trời Mỉm cười và thật vui vẻ Và khi đôi môi em lần đầu tiên chạm lên bờ môi anh Thời gian như ngừng trôi Anh có thể tìm ra hàng triệu giai điệu Để khẳng định em là người anh yêu Hứa với em rằng trong cuộc đời này Anh sẽ là anh chàng em có thể tin cậy Bởi em là cô gái anh luôn tranh đấu để gìn giữ Hãy để chứng minh cho em thấy anh có thể hoàn hảo như thế nào Hãy ôm anh thật chặt và nói rằng anh là chàng trai của đời em Và suốt cuộc đời này, anh sẽ nói... Nói anh yêu em yêu em em à Điều đó không bao giờ thay đổi Nói anh yêu em yêu em em à Anh chỉ muốn nói lên điều đó Nói anh...anh...anh yêu em Anh... anh... anh yêu em Anh... anh... anh yêu em cô gái... (x2) Em yêu à đó là sự thật Anh có thể từ bỏ tất cả mọi thứ để yêu em Anh có thể hình dung ra hình ảnh đôi ta đứng trong nhà thờ Anh đang nắm lấy đôi bàn tay em với sự tin tưởng và chứng thực rằng "Con đồng ý" Và sẽ không còn những lời nói dối nữa Không còn những giọt lệ rơi, không còn cãi vã hay sợ hãi Anh hứa với em anh sẽ ở bên em thật gần Gần đến nỗi anh có thể nhịp tim em đập Tình yêu này là câu chuyện thần tiên đẹp chỉ dành riêng cho em và anh, đúng vậy, anh có thể nói Hãy nắm lấy bàn tay anh cho đến tận cùng giống như đôi ta hằng đã định và chúng ta có thể viết nó ra Bởi nàng công chúa của anh, cuối cùng cô ấy đã được tìm thấy và chúng ta hãy cùng tham gia vở kịch của cả đời mình Vậy hãy để anh bắt đầu bằng cách nói ra điều này, hát lên điều này thật to
I need these sentences to be translated into Vietnamese.
Lonely I'm Mr Lonely, I have nobody, For my own I'm so lonely, I'm Mr. Lonely I have nobody, For my own I'm so lonely, Yo this one here goes out to all my players out there ya know got that one good girl who's always been there like ya Know took all the bullshit then one day she can't take it no more and decides to leave I woke up in the middle of the night and I noticed my girl wasn't by my side, coulda sworn I was dreaming, for her I was Feelin, so I had to take a little ride, back tracking over these few years, tryna figure out what I do to make it go bad, cause Ever since my girl left me, my whole life came crashing I'm so lonely (so lonely), I'm Mr. Lonely (Mr. Lonely) I have nobody (I have nobody) For my own (to call my own) girl I'm so lonely (so lonely) I'm Mr. Lonely (Mr. Lonely) I have nobody (I have nobody) For my own (to call my own) girl Can't believe I had a girl like you and I just let you walk right outta my life, after all I put you through you still stuck Around and stayed by my side, what really hurt me is I broke your heart, baby you were a good girl and I had no right, I Really wanna make things right, cause without you in my life girl I'm so lonely (so lonely) I'm Mr. Lonely (Mr. Lonely) I have nobody (I have nobody) For my own (to call my own) girl I'm so lonely (so lonely) I'm Mr. Lonely (Mr. Lonely) I have nobody (I have nobody) For my own (to call my own) girl Been all about the world ain't never met a girl that can take the things that you been through Never thought the day would come where you would get up and run and I would be out chasing you Cause ain't nowhere in the globe I'd rather be, ain't no-one in the globe I'd rather see then the girl of my dreams that made me Be so happy but now so lonely So lonely (so lonely) I'm Mr. Lonely (Mr. Lonely) I have nobody (I have nobody) For my own (to call my own) I'm so lonely (so lonely) I'm Mr. Lonely (Mr. Lonely) I have nobody (I have nobody) For my own (to call my own) girl Never thought that I'd be alone, I didn't think you'd be gone this long, I just want you to call my phone, so stop playing girl and Come on home (come on home), baby girl I didn't mean to shout, I want me and you to work it out, I never wished I'd ever Hurt my baby, and it's driving me crazy cuz... I'm so lonely (so lonely) I'm Mr. Lonely (Mr. Lonely) I have nobody (I have nobody) For my own (to call my own) I'm so lonely (so lonely) I'm Mr. Lonely (Mr. Lonely) I have nobody (I have nobody) For my own (to call my own) girl Lonely, so lonely So lonely, (so lonely), Mr. Lonely, so lonely So lonely, so lonely, (so lonely), Mr. Lonely
Cô đơn, tôi là Quý Ông Cô Đơn Tôi không có một ai Cho riêng tôi Tôi quá cô đơn, tôi là Quý Ông Cô Đơn Tôi không có một ai Cho riêng tôi Tôi quá cô đơn Này bạn, bài hát này cất lên dành tặng mấy tay ăn chơi của tôi ngoài kia Bạn biết đấy, tôi từng có một người con gái tốt luôn luôn ở gần bên tôi như bạn Biết gì không, cô ấy đã nhận lấy hết mấy lời nhảm nhí, rồi một ngày cô ấy chịu không nổi nữa nên quyết định bỏ đi Tôi tỉnh giấc vào giữa đêm khuya và tôi để ý rằng người con gái của tôi không còn bên cạnh tôi, tôi không thể thề rằng tôi đang nằm mơ về cô ấy Cảm giác ấy, thế nên tôi phải dạo một chuyến nhỏ theo dấu vết về lại lúc cách đây vài năm, cố gắng tìm ra tôi đã làm gì để chuyện theo hướng xấu thế này Vì kể từ lúc người con gái của tôi bỏ rơi tôi, cả cuộc đời tôi trở thành đống đổ nát Tôi quá cô đơn (quá cô đơn) Tôi là Quý Ông Cô Đơn (Quý Ông Cô Đơn) Tôi không có một ai (Tôi không có một ai) Cho riêng tôi (để gọi là người con gái của riêng tôi) Tôi quá cô đơn (quá cô đơn) Tôi là Quý Ông Cô Đơn (Quý Ông Cô Đơn) Tôi không có một ai (Tôi không có một ai) Cho riêng tôi (để gọi là người con gái của riêng tôi) Tôi không thể tin tôi có một người con gái như em và tôi cứ thế để em bước đi khỏi đời tôi Sau tất cả mọi chuyện tôi đặt em vào tròng, em vẫn còn bị vướng ở đây và bên cạnh tôi Điều thực sự làm tôi đau là tôi đã làm tan nát con tim em Em hỡi, em là một người con gái tốt và tôi không có quyền.. tôi.. Thực sự muốn hóa chuyện trở nên đúng đắn, vì không có em bên đời tôi, em hỡi Tôi quá cô đơn (quá cô đơn) Tôi là Quý Ông Cô Đơn (Quý Ông Cô Đơn) Tôi không có một ai (Tôi không có một ai) Cho riêng tôi (để gọi là người con gái của riêng tôi) Tôi quá cô đơn (quá cô đơn) Tôi là Quý Ông Cô Đơn (Quý Ông Cô Đơn) Tôi không có một ai (Tôi không có một ai) Cho riêng tôi (để gọi là người con gái của riêng tôi) Đi khắp thế gian không bao giờ gặp một người con gái có thể nhẫn nhục chịu đựng như em từng trải Không hề nghĩ rằng ngày ấy sẽ đến, lúc em sẽ đứng dậy và chạy, tôi sẽ chạy đuổi theo em Vì không nơi nào trên địa cầu tôi thích hợp hơn, không ai trên quả địa cầu tôi thấy yêu hơn người con gái đã dệt nên những giấc mộng trong tôi Thật hạnh phúc nhưng giờ đây quá cô đơn Tôi quá cô đơn (quá cô đơn) Tôi là Quý Ông Cô Đơn (Quý Ông Cô Đơn) Tôi không có một ai (Tôi không có một ai) Cho riêng tôi (để gọi là của riêng tôi) Tôi quá cô đơn (quá cô đơn) Tôi là Quý Ông Cô Đơn (Quý Ông Cô Đơn) Tôi không có một ai (Tôi không có một ai) Cho riêng tôi (gọi là người con gái của riêng tôi) Chưa hề nghĩ rằng tôi sẽ lẻ loi, tôi không nghĩ em sẽ đi xa chừng này, tôi chỉ muốn em gọi cho tôi, thế nên đừng bỡn cợt nữa em nhé, và.. Hãy quay về (quay về), em hỡi, tôi không có ý la hét, tôi muốn em và tôi làm lành Tôi không hề ước tôi làm em đau đâu, em hỡi, và điều đó đang làm tôi quẫn trí, vì.. Tôi quá cô đơn (quá cô đơn) Tôi là Quý Ông Cô Đơn (Quý Ông Cô Đơn) Tôi không có một ai (Tôi không có một ai) Cho riêng tôi (để gọi là của riêng tôi) Tôi quá cô đơn (quá cô đơn) Tôi là Quý Ông Cô Đơn (Quý Ông Cô Đơn) Tôi không có một ai (Tôi không có một ai) Cho riêng tôi (để gọi là người con gái của riêng tôi) Cô đơn, thật cô đơn Quá cô đơn (quá cô đơn) Quý Ông Cô Đơn, thật cô đơn Thật cô đơn, quá cô đơn (quá cô đơn), Quý Ông Cô Đơn
Please transform these English sentences into Vietnamese.
Listen, To the song here in my heart A melody I've start But can't complete Listen, to the sound from deep within It's only beginning To find release Oh, the time has come for my dreams to be heard They will not be pushed aside and turned Into your own all cause you won't Listen.... [Chorus] Listen, I am alone at a crossroads I'm not at home, in my own home And I tried and tried To say whats on my mind You should have known Oh, Now I'm done believing you You don't know what I'm feeling I'm more than what, you made of me I followed the voice you gave to me But now I gotta find, my own.. You should have listened There is someone here inside Someone I'd thought had died So long ago Oh I'm screaming out, for my dreams to be heard They will not be pushed aside or worse Into your own All cause you won't Listen... [Chorus] I don't know where I belong But I'll be moving on If you don't.... If you won't.... LISTEN!!! ... To the song here in my heart A melody I've start But I will complete Oh, Now I'm done believing you You don't know what I'm feeling I'm more than what, you made of me I followed the voice, you think you gave to me But now I gotta find, my own.. my ownn...
Hãy lắng nghe Bài hát từ trái tim em Giai điệu em đã bắt đầu Nhưng không thể hoàn thành Hãy lắng nghe, âm thanh từ sâu thẳm trong em Nó mới chỉ bắt đầu Để tìm sự giải thoát Oh, Thời khắc đã điểm Để những ước mơ của em được lắng nghe Chúng sẽ không bị gạt qua một bên và thành Của riêng anh Tất cả bởi vì anh sẽ không Lắng nghe.. [Chorus] Nghe này, Em bơ vơ ở ngã ba đường Em không ở trong mái ấm của riêng em Và em cố gắng nhiều lần Để nói ra những gì trong ý nghĩ của em Anh lẽ ra phải biết Oh, Lúc này, em đã không còn tin anh Anh không biết những điều em cảm thấy Em xứng đáng hơn những gì anh đã làm cho em Em đã nghe theo những lời Anh nói với em Nhưng bây giờ em cần phải tìm lại chính mình.. Anh lẽ ra phải lắng nghe Có một linh hồn trong đó Linh hồn em tin rằng đã chết Từ rất lâu rồi Oh Em đang hét lên để những mơ ước của mình được chú ý Chúng sẽ không bị gạt đi và phai nhạt đi trong anh Tất cả bởi anh không Lắng nghe.. [Chorus] Em không biết em thuộc về đâu Nhưng em sẽ ra đi Nếu anh không.. Nếu anh không.. NGHE ĐI!!!... Bài hát từ trái tim em Giai điệu em đã cất lên Nhưng em sẽ hoàn thành Oh, Giờ đây em đã không còn tin anh Anh không hiểu những điều em thấy Em xứng đáng hơn những gì anh đã làm cho em Em đã nghe theo lời nói em nghĩ anh dành cho em Nhưng ngay lúc này em cần phải tìm lại chính mình.. Chính em..
I'm in need of a Vietnamese translation for these English sentences.
Doh Doh doh doh, doh doh doh, doh doh Doh doh doh, doh doh doh, doh doh Doh doh doh, doh doh doh, doh doh Doh doh doh, doh duh (Aaaaaaow!) This hit That ice cold Michelle Pfeiffer That white gold This one, for them hood girls Them good girls Straight masterpieces Stylin ', while in Livin' it up in the city Got Chucks on with Saint Laurent Gotta kiss myself I'm so pretty I'm too hot (hot damn) Called a police and a fireman I'm too hot (hot damn) Make a dragon wanna retire, man I'm too hot (hot damn) Say my name you know who I am I'm too hot (hot damn) Am I bad 'bout that money Break it down Girls hit you hallelujah (whuoo) Girls hit you hallelujah (whuoo) Girls hit you hallelujah (whuoo) 'Cause Uptown Funk gon' give it to you 'Cause Uptown Funk gon' give it to you 'Cause Uptown Funk gon' give it to you Saturday night and we in the spot Don't believe me, just watch (Come on) DohDoh doh doh, doh doh doh, doh doh (Hah!) Don't believe me, just watch DohDoh doh doh, doh doh doh, doh doh (Hah!) Don't believe me, just watch Don't believe me, just watch Don't believe me, just watch Don't believe me, just watch Hey, hey, hey, oh! Stop ,Wait a minute Fill my cup put some liquor in it Take a sip, sign a check Julio! Get the stretch! Ride to Harlem, Hollywood, Jackson, Mississippi If we show up, we gon' show out Smoother than a fresh jar o' Skippy I'm too hot (hot damn) Called a police and a fireman I'm too hot (hot damn) Make a dragon wanna retire, man I'm too hot (hot damn) (hot damn) Bitch, say my name you know who I am I'm too hot (hot damn) Am I bad 'bout that money Break it down Girls hit your hallelujah (whuoo) Girls hit your hallelujah (whuoo) Girls hit your hallelujah (whuoo) 'Cause Uptown Funk gon' give it to you 'Cause Uptown Funk gon' give it to you 'Cause Uptown Funk gon' give it to you Saturday night and we in the spot Don't believe me, just watch (come on) DohDoh doh doh, doh doh doh, doh doh (Hah!) Don't believe me, just watch DohDoh doh doh, doh doh doh, doh doh (Hah!) Don't believe me, just watch Don't believe me, just watch Don't believe me, just watch Don't believe me, just watch Hey, hey, hey, oh! Before we leave Let me tell y'all a lil' something Uptown Funk you up, Uptown Funk you up Uptown Funk you up, Uptown Funk you up I said Uptown Funk you up, Uptown Funk you up Uptown Funk you up, Uptown Funk you up Come on, dance, Jump on it If you sexy then flaunt it If you freaky then own it Don't brag about it, come show me Come on, dance Jump on it If you sexy then flaunt it Well it's Saturday night and we in the spot Don't believe me, just watch (come on) Doh Doh doh doh, doh doh doh, doh doh (Hah!) Don't believe me, just watch Doh Doh doh doh, doh doh doh, doh doh (Hah!) Don't believe me, just watch Don't believe me, just watch Don't believe me, just watch Don't believe me, just watch Hey, hey, hey, oh! Uptown Funk you up, Uptown Funk you up (say whaa?!) Uptown Funk you up, Uptown Funk you up Uptown Funk you up, Uptown Funk you up (say whaa?!) Uptown Funk you up, Uptown Funk you up Uptown Funk you up, Uptown Funk you up (say whaa?!) Uptown Funk you up, Uptown Funk you up Uptown Funk you up, Uptown Funk you up (say whaa?!) Uptown Funk you up Aaaaaaow!
Doh Doh doh doh, doh doh doh, doh doh Doh doh doh, doh doh doh, doh doh Doh doh doh, doh doh doh, doh doh Doh doh doh, doh duh (Aaaaaaow!) Cài bài hit này, Như một xô nước đá lạnh Cứ như sự hoàn hảo của cô nàng Michelle Pfeiffer vậy Bài hát này xin tặng cho các cô em sành điệu và cả những cô em ngoan hiền Hãy cứ tỏa sáng đẹp rạng ngời thế nhé Chau chuốt nè, quẩy lên nào, Ăn chơi nhiệt tình ở cái thành phố này Khoác lên người đôi Chucks cùng chiếc áo khoác của Saint Laurent Ôi nhìn mình cute, hôn cái coi nè Anh quá hot Hot ghê luôn Có lẽ phải gọi cảnh sát hay cứu hỏa mới giúp anh tỏa nhiệt được Anh quyên rủ quá mấy cưng ơi Ngay cả con rồng lửa củng chịu thua anh nữa mà. Anh sexy và anh biết điều đó Hot ghê luôn Chỉ cần gọi tên anh thì mấy cưng sẽ thừa biết anh là ai thôi mà Vì anh quá nổi tiếng, Nổi ghê luôn Và ban nhạc của anh chẳng phải bận tâm đến tiền bạc đâu mấy cưng ạ Mấy gái cứ đứng đó nhìn mà hò hét đi Mấy gái cứ đứng đó nhìn mà hò hét đi Cứ từ từ chiêm ngưỡng con người anh đi Cứ cuồn loạn với sự tuyệt vời của anh đi Bởi Uptown funk của anh đây sẽ khiến các em phê như con tê tê Sẽ khiến các em ghiền như ăn khoai tây nghiền Sẽ khiến mấy em lắc lư quên hết cả lối về Tối thứ bảy này chúng ta sẽ quẩy ở sàn diễn Nếu em không tin thì cứ nhìn đi nè DohDoh doh doh, doh doh doh, doh doh (Hah!) Không tin thì cứ dán mắt vào anh đi nhé DohDoh doh doh, doh doh doh, doh doh (Hah!) Không tin thì đừng rời mắt khỏi màn hình Không tin lời anh thì đừng đi đâu nhé Không tin lời anh thì cứ chăm chú nhìn anh đây nè Không tin thì xem anh chứng minh đây Hey, hey, hey, oh! Ớ dừng lại nào, chờ xíu Rót vào cốc anh một ít rượu đi nào Húp một ngụm, ký tên một phát Julio, xe của anh đâu nào Xuyên qua Harlem, Hollywood rồi đến Jackson, Mississippi Nơi nào có chúng tôi là nơi đó sẽ được quẩy hết mình luôn Bơ đậu phộng Skippy cũng đừng mơ mà nuột như anh. Anh quá hot Hot ghê luôn Có lẽ phải gọi cảnh sát hay cứu hỏa mới giúp anh tỏa nhiệt được Anh quyên rủ quá mấy cưng ơi Ngay cả con rồng lửa củng chịu thua anh nữa mà. Anh sexy và anh biết điều đó Hot ghê luôn Chỉ cần gọi tên anh thì mấy cưng sẽ thừa biết anh là ai thôi mà Vì anh quá nổi tiếng, Nổi ghê luôn Và ban nhạc của anh chẳng phải bận tâm đến tiền bạc đâu mấy cưng ạ Mấy gái cứ đứng đó nhìn mà hò hét đi Mấy gái cứ đứng đó nhìn mà hò hét đi Cứ từ từ chiêm ngưỡng con người anh đi Cứ cuồn loạn với sự tuyệt vời của anh đi Bởi Uptown funk của anh đây sẽ khiến các em phê như con tê tê Sẽ khiến các em ghiền như ăn khoai tây nghiền Sẽ khiến mấy em lắc lư quên hết cả lối về Tối thứ bảy này chúng ta sẽ quẩy ở sàn diễn Nếu em không tin thì cứ nhìn đi nè DohDoh doh doh, doh doh doh, doh doh (Hah!) Không tin thì cứ dán mắt vào anh đi nhé DohDoh doh doh, doh doh doh, doh doh (Hah!) Không tin thì đừng rời mắt khỏi màn hình Không tin lời anh thì đừng đi đâu nhé Không tin lời anh thì cứ chăm chú nhìn anh đây nè Không tin thì xem anh chứng minh đây Hey, hey, hey, oh! Trước khi chúng ta rời chốn đây Anh có vài lời muốn nói với mấy em Bởi Uptown funk của anh đây sẽ khiến các em phê như con tê tê Sẽ khiến các em ghiền như ăn khoai tây nghiền Sẽ khiến mấy em lắc lư quên hết cả lối về Anh nói Uptown funk của anh là số một đó nha Nào nhảy cùng anh đi, Quẩy lên nào Nếu em gợi cảm thì hãy show ra cho mọi người chiêm ngưỡng đi nào Còn nếu có điều gì không bình thường thì cứ giấu kỹ trong người đi Cũng đừng có ngồi đó mà khoác lác, đến đây và chứng minh cho anh thấy đi nào Đến với anh đêm nay Quẩy đi nào Hãy khoe hết những đường công quyến rũ nơi em đi nào Tối thứ bảy này chúng ta sẽ quẩy ở sàn diễn Nếu em không tin thì cứ nhìn đi nè DohDoh doh doh, doh doh doh, doh doh (Hah!) Không tin thì cứ dán mắt vào anh đi nhé DohDoh doh doh, doh doh doh, doh doh (Hah!) Không tin thì đừng rời mắt khỏi màn hình Không tin lời anh thì đừng đi đâu nhé Không tin lời anh thì cứ chăm chú nhìn anh đây nè Không tin thì xem anh chứng minh đây Hey, hey, hey, oh!
Could you convert these sentences from English to Vietnamese for me?
I need your love I need your time When everything's wrong You make it right I feel so high I come alive I need to be free with you tonight I need your love [Beat break] I need your love I take a deep breath everytime I pass your door I know you're there but I can't see you anymore And that's the reason you're in the dark I've been a stranger ever since we fell apart I feel so out of see Watch my eyes are filled with fear Tell me do you feel the same Hold me in your arms again I need your love I need your time When everything's wrong You make it right I feel so high I come alive I need to be free with you tonight I need your love [Beat break] I need your love Now I'm dreaming, will ever find you now? I walk in circles but I'll never figure out What I mean to you, do I belong I try to fight this but I know I'm not that strong And I feel so helplessly Watch my eyes are filled with fear Tell me do you feel the same Hold me in your arms again I need your love I need your time When everything's wrong You make it right I feel so high I come alive I need to be free with you tonight I need your love [Beat break] I need your love All the years All the times You were never been to blame And now my eyes are perfect And now my heart is closing And all the tears All the lies All the waste I've been trying to make it change And now my eyes are perfect I need your love I need your time When everything's wrong You make it right I feel so high I come alive I need to be free [Beat break]
Em cần tình yêu của anh Em cần thời gian của anh Khi mọi thứ đều sai lầm Anh sửa lại đúng đắn Em cảm thấy ngất ngây Em vực sức sống Em cần được tự do cùng anh đêm nay Em cần tình yêu của anh [Nhạc dạo] Em cần tình yêu của anh Em thở thật sâu mỗi lần em qua cánh cửa của anh Em biết anh ở đây nhưng em không thể thấy anh nữa Và đó là lý do anh đang ở trong bóng tối Em đã từng là một kẻ lạ mặt kể từ khi đôi ta chia lìa Em cảm thấy như mù lòa Nhìn đôi mắt em đong đầy nỗi sợ hãi Nói em biết anh có cảm thấy thế không Hãy siết em trong vòng tay anh lần nữa Em cần tình yêu của anh Em cần thời gian của anh Khi mọi thứ đều sai lầm Anh sửa lại đúng đắn Em cảm thấy ngất ngây Em vực sức sống Em cần được tự do cùng anh đêm nay Em cần tình yêu của anh [Nhạc dạo] Em cần tình yêu của anh Nay em đang mộng mị, sẽ tìm thấy anh ngay chăng? Em vào những vòng tròn nhưng sẽ không thấu hiểu Em là gì đối với anh, em có thuộc về anh không Em cố kháng cự nhưng em biết em không mạnh thế Em cảm thấy như bất lực Nhìn đôi mắt em đong đầy nỗi sợ hãi Nói em biết anh có cảm thấy thế không Hãy siết em trong vòng tay anh lần nữa Em cần tình yêu của anh Em cần thời gian của anh Khi mọi thứ đều sai lầm Anh sửa lại đúng đắn Em cảm thấy ngất ngây Em vực sức sống Em cần được tự do cùng anh đêm nay Em cần tình yêu của anh [Nhạc dạo] Em cần tình yêu của anh Nhiều năm qua Suốt bao lần Anh chưa hề là cớ để trách cứ Và giờ đây đôi mắt em hoàn mỹ Và giờ đây con tim em đang khép lại Và tất cả những giọt nước mắt Tất cả dối trá Tất cả sự lãng phí Em vẫn không ngừng cố tạo nên sự thay đổi Và giờ đây đôi mắt em hoàn mỹ Em cần tình yêu của anh Em cần thời gian của anh Khi mọi thứ đều sai lầm Anh sửa lại đúng đắn Em cảm thấy ngất ngây Em vực sức sống Em cần được tự do [Nhạc dạo]
I need these sentences to be translated into Vietnamese.
[Verse 1: Ariana Grande] Tell me something I need to know Then take my breath and never let it go If you just let me invade your space I'll take the pleasure, take it with the pain [Pre-Chorus: Ariana Grande] And if in the moment I bite my lip Baby in that moment you'll know this is Something bigger than us and beyond bliss Give me a reason to believe it [Chorus 1: Ariana Grande] Cause if you want to keep me You gotta, gotta, gotta, gotta, got to love me harder And if you really need me You gotta, gotta, gotta, gotta, got to love me harder Love me, love me, love me, harder, harder [Verse 2: The Weeknd] I know your motives and you know mine The ones that love me I tend to leave behind If you know about me and choose to stay Then take this pleasure and take it with the pain [Pre-Chorus: The Weeknd] And if in the moment you bite your lip When I get you moaning, you know it's real Can you feel the pressure between your hips? I'll make it feel like the first time [Chorus 2: Ariana Grande (The Weeknd)] Cause if you want to keep me You gotta, gotta, gotta, gotta, got to love me harder (I'mma love you harder) And if you really need me You gotta, gotta, gotta, gotta, got to love me harder (Love me harder) Ooh-ooh-ooh-ooh love me, love me, love me Ooh-ooh-ooh-ooh harder, harder, harder, harder Ooh-ooh-ooh-ooh love me, love me, love me Ooh-ooh-ooh-ooh harder, harder, harder, harder [Bridge: The Weeknd (Ariana Grande)] So what do I do if I can't figure it out? (You got to try, try, try again, yeah) So what do I do if I can't figure it out? (I'm gonna leave, leave, leave again) [Chorus 3: Ariana Grande (The Weeknd)] Cause if you want to keep me You gotta, gotta, gotta, gotta, got to love me harder (I'll love, love, love) And if you really need me You gotta, gotta, gotta, gotta, got to love me harder (Love to love me baby) Cause if you want to keep me You gotta, gotta, gotta, gotta, got to love me harder (Love me harder) And if you really need me You gotta, gotta, gotta, gotta, got to love me harder (I'mma do it, do it, do it, I'mma love you harder) [Outro: Ariana Grande (The Weeknd)] Ooh-ooh-ooh-ooh love me, love me, love me (love you) Ooh-ooh-ooh-ooh harder, harder, harder, harder Love me, love me, love me just a little bit harder
Ver 1 Hãy nói em nghe điều em cần phải biết đi Và Nếu anh muốn em đến bên anh Em sẽ sẵn lòng dẫu sẽ có lúc em đau đớn Pre-Chorus Và nếu trong giây phút em cắn vào môi anh Khi ấy anh sẽ biết rằng Chuyện này còn tuyệt vời hơn cả hạnh phúc và hai ta Hãy cho em một lý do để tin vào điều đó đi anh Chorus Vì nếu anh muốn giữ em bên mình Anh phải yêu em nhiều hơn nữa Và nếu anh thực sự cần em Anh phải yêu em nhiều hơn nữa Phải yêu em nhiều hơn nữa Ver 2 Hai ta đều biết động cơ của nhau cả mà Những người yêu anh thì anh thường bỏ lại phía sau Nếu em hiểu anh và muốn ở lại bên anh Vậy thì em hãy tận hưởng niềm hạnh phúc này hòa chung với nỗi đau Pre-Chorus Và nếu trong giây phút em cắn vào môi em Khi anh khiến em phải rên lên, em biết rồi đó Em có chịu được "áp lực" phần dưới hông không Anh sẽ luôn cho em cảm giác như "lần đầu tiên" luôn Chorus Vì nếu anh muốn giữ em bên mình Anh phải yêu em nhiều hơn nữa (Anh sẽ yêu em mãnh liệt hơn) Và nếu anh thực sự cần em Anh phải yêu em nhiều hơn nữa (Yêu em mãnh liệt hơn nữa) Ooh-ooh-ooh-ooh yêu em đi anh Ooh-ooh-ooh-ooh mãnh liệt hơn nữa anh ơi Ooh-ooh-ooh-ooh yêu em đi anh Ooh-ooh-ooh-ooh mãnh liệt hơn nữa anh ơi Bridge Vậy anh biết làm gì nếu chẳng thể tìm ra được cách (Anh phải thử lại lần nữa rồi lại lần nữa) Vậy anh biết làm gì nếu chẳng thể tìm ra được cách (Em sẽ lại ra đi đó) Chorus Vì nếu anh muốn giữ em bên mình Anh phải yêu em nhiều hơn nữa (Anh sẽ làm vậy) Và nếu anh thực sự cần em Anh phải yêu em nhiều hơn nữa (Yêu cả anh nữa đi em) Vì nếu anh muốn giữ em bên mình Anh phải yêu em nhiều hơn nữa (Anh sẽ yêu em mãnh liệt hơn) Và nếu anh thực sự cần em Anh phải yêu em nhiều hơn nữa (Anh sẽ làm vậy, anh sẽ yêu em mãnh liệt hơn nữa) Outro Ooh-ooh-ooh-ooh yêu em đi anh Ooh-ooh-ooh-ooh mãnh liệt hơn nữa anh ơi Hãy yêu em mãnh liệt hơn chút đi anh...
Please assist me in translating these sentences into Vietnamese.
Dear future husband, Here's a few things You'll need to know if you wanna be My one and only all my life Take me on a date I deserve a break And don't forget the flowers every anniversary 'Cause if you'll treat me right I'll be the perfect wife Buying groceries Buy-buyin g what you need You got that 9 to 5 But, baby, so do I So don't be thinking I'll be home and making apple pies I never learned to cook But I can tire a hook Sing along with me Sing-sing along with me (hey) You gotta know how to treat me like a lady Even when I'm acting crazy Tell me everything's alright Dear future husband, Here's a few things you'll need to know if you wanna be My one and only all my life Dear future husband, If you wanna get that special lovin' Tell me I'm beautiful each and every night After every fight Just apologize And maybe then I'll let you try and rock my body right Even if I was wrong You know I'm never wrong Why disagree? Why, why disagree? You gotta know how to treat me like a lady Even when I'm acting crazy Tell me everything's alright Dear future husband, Here's a few things you'll need to know if you wanna be My one and only all my life (hey, baby) Dear future husband, Make time for me Don't leave me lonely And know we'll never see your family more than mine I'll be sleeping on the left side of the bed (hey) Open doors for me and you might get some kisses Don't have a dirty mind Just be a classy guy Buy me a ring Buy-buy me a ring, babe You gotta know how to treat me like a lady Even when I'm acting crazy Tell me everything's alright Dear future husband, Here's a few things you'll need to know if you wanna be My one and only all my life Dear future husband, If you wanna get that special loving Tell me I'm beautiful each and every night Future husband, better love me right
Gửi đến người chồng tương lai của em Dưới đây là vài điều anh phải biết nếu muốn trở thành Là người đàn ông duy nhất suốt cuộc đời em Đưa em đi hẹn hò Em xứng đáng được nghỉ ngơi Và đừng quên những bông hoa mỗi lễ kỉ niệm Bởi nếu anh đối tốt với em Thì em sẽ là người vợ tốt Hãy đến cửa hàng tạp hóa Và mua những thứ anh cần Anh phải đi làm Nhưng cưng à, em cũng thế Nên đừng có nghĩ em sẽ về nhà và làm bánh táo Em không bao giờ học nấu ăn đâu Nhưng em sẽ rất sốt sắng khi bị mắc bẫy Hát cùng em nào! Hát cùng em nào! Anh cần phải biết đối xử với em như một quý cô Ngay cả khi em hành động một cách điên rồ Anh phải nói với em rằng mọi thứ đều ổn Gửi đến người chồng tương lai của em Dưới đây là vài điều anh phải biết nếu muốn trở thành Là người đàn ông duy nhất suốt cuộc đời em Gửi đến người chồng tương lai của em Nếu anh muốn nhận được tình cảm yêu thương đặc biệt Thì hãy nói rằng em rất đẹp hằng đêm Sau mỗi cuộc cãi nhau Hãy chỉ cần xin lỗi Và có thể sau đó em sẽ cho anh thử "khuấy động" cơ thể em Ngay cả khi em sai Anh biết là em vẫn đúng còn gì Vậy tại sao vẫn không chấp nhận? Tại sao còn không chấp nhận? Anh cần phải biết đối xử với em như một quý cô Ngay cả khi em hành động một cách điên rồ Anh phải nói với em rằng mọi thứ đều ổn Gửi đến người chồng tương lai của em Dưới đây là vài điều anh phải biết nếu muốn trở thành Là người đàn ông duy nhất suốt cuộc đời em Gửi đến người chồng tương lai của em Hãy dành thời gian cho em Đừng để em cô đơn Và hãy biết rằng chúng ta sẽ thăm bố mẹ em nhiều hơn gia đình anh Em sẽ ngủ bên trái giường Mở cửa cho em và anh sẽ được hôn vài cái Đừng có nghĩ lung tung Anh là một người đàn ông ưu tú mà Mua cho em cái nhẫn đi Mua cho em cái nhẫn! Anh cần phải biết đối xử với em như một quý cô Ngay cả khi em hành động một cách điên rồ Anh phải nói với em rằng mọi thứ đều ổn Gửi đến người chồng tương lai của em Dưới đây là vài điều anh phải biết nếu muốn trở thành Là người đàn ông duy nhất suốt cuộc đời em Gửi đến người chồng tương lai của em Nếu anh muốn nhận được tình cảm yêu thương đặc biệt Thì hãy nói rằng em rất đẹp hằng đêm Hỡi người chồng tương lai, hãy yêu em hơn nữa.
I'm in need of a Vietnamese translation for these English sentences.
In my younger and more vulnerable years my father gave me some advice that I’ve been turning over in my mind ever since. ‘Whenever you feel like criticizing any one,’ he told me, ‘just remember that all the people in this world haven’t had the advantages that you’ve had.’ He didn’t say any more but we’ve always been unusually communicative in a reserved way, and I understood that he meant a great deal more than that. In consequence I’m inclined to reserve all judgments, a habit that has opened up many curious natures to me and also made me the victim of not a few veteran bores. The abnormal mind is quick to detect and attach itself to this quality when it appears in a normal person, and so it came about that in college I was unjustly accused of being a politician, because I was privy to the secret griefs of wild, unknown men. Most of the confidences were unsought—frequently I have feigned sleep, preoccupation, or a hostile levity when I realized by some unmistakable sign that an intimate revelation was quivering on the horizon—for the intimate revelations of young men or at least the terms in which they express them are usually plagiaristic and marred by obvious suppressions. Reserving judgments is a matter of infinite hope. I am still a little afraid of missing something if I forget that, as my father snobbishly suggested, and I snobbishly repeat a sense of the fundamental decencies is parcelled out unequally at birth.
Hồi tôi còn nhỏ tuổi, nghĩa là hồi dễ bị nhiễm các thói hư tật xấu hơn bây giờ, cha tôi có khuyên tôi một điều mà tôi ngẫm mãi cho đến nay: - Khi nào con định phê phán người khác thì phải nhớ rằng không phải ai cũng được hưởng những thuận lợi như con cả đâu. Ông không nói gì thêm, nhưng vì hai cha con chúng tôi xưa nay vẫn rất hiểu nhau mà chẳng cần nhiều lời nên tôi biết câu nói của ông còn nhiều hàm ý khác. Vì vậy tôi không thích bình phẩm một ai hết. Lối sống ấy đã mở ra cho tôi thấy nhiều bản tính kì quặc, nhưng đồng thời khiến tôi trở thành nạn nhân của không ít kẻ chuyên quấy rầy người khác. Những đầu óc không bình thường nhanh chóng nhận ra và gắn bó với đức tính này khi nó biểu lộ ở một người bình thường. Bởi vậy, ở trường đại học tôi bị mang tiếng oan là kẻ ranh mãnh vì tôi nghe thấu những nỗi đau khổ thầm kín của những tay ăn chơi bừa bãi mà tôi không quen biết. Phần lớn không phải do tôi tìm cách moi chuyện. Thường tôi giả vờ ngủ hay đang chăm chú vào việc gì đó, thảng hoặc còn tỏ ra hơi khó chịu nữa, mỗi khi tôi nhận thấy qua những dấu hiệu không thể nhầm được là sắp lại có một chuyện tâm sự gì đây. Bởi vì những chuyện tâm sự của các chàng trai trẻ, hay ít ra những lời lẽ mà họ dùng để diễn đạt, thường là cóp nhặt của người khác và mất hết ý nghĩa vì rõ ràng đã bị bớt xén đi nhiều chỗ. Không bình phẩm nghĩa là còn hi vọng, hi vọng mãi. Tôi e còn bỏ sót một điều gì đó nếu tôi quên nói, như cha tôi đã khẳng định một cách hợm hĩnh và tôi hợm hĩnh nhắc lại ở đây, rằng ý thức về những phép xử thế lịch sự cơ bản không được chia đều cho mọi người khi họ ra đời.
I'm looking for a Vietnamese translation of these sentences.
And, after boasting this way of my tolerance, I come to the admission that it has a limit. Conduct may be founded on the hard rock or the wet marshes but after a certain point I don’t care what it’s founded on. When I came back from the East last autumn I felt that I wanted the world to be in uniform and at a sort of moral attention forever; I wanted no more riotous excursions with privileged glimpses into the human heart. Only Gatsby, the man who gives his name to this book, was exempt from my reaction—Gatsby who represented everything for which I have an unaffected scorn. If personality is an unbroken series of successful gestures, then there was something gorgeous about him, some heightened sensitivity to the promises of life, as if he were related to one of those intricate machines that register earthquakes ten thousand miles away. This responsiveness had nothing to do with that flabby impressionability which is dignified under the name of the ‘creative temperament’—it was an extraordinary gift for hope, a romantic readiness such as I have never found in any other person and which it is not likely I shall ever find again. No—Gatsby turned out all right at the end; it is what preyed on Gatsby, what foul dust floated in the wake of his dreams that temporarily closed out my interest in the abortive sorrows and short-winded elations of men.
Sau khi đã khoe tính tôi khoan dung như thế rồi, tôi phải thú nhận rằng sự khoan dung của tôi cũng có giới hạn. Cách cư xử của con người ta có thể đặt trên nền tảng là đá rắn hay đầm lầy, nhưng quá một mức nào đó thì tôi bất cần biết nó xây dựng trên nền tảng nào. Khi tôi ở miền Đông trở về mùa thu vừa rồi, tôi như muốn tất cả mọi người đều mặc đồng phục và vĩnh viễn đứng ở tư thế nghiêm về đạo đức. Tôi không còn muốn những cuộc thâm nhập ồn ào với những đặc quyền dòm ngó vào tận trái tim con người. Trong phản ứng ấy, tôi chỉ chừa ra có Gatsby, người được lấy tên đặt cho cuốn sách này, một con người tiêu biểu cho tất cả những gì mà tôi thành thật khinh bỉ. Nếu nhân cách là một chuỗi liên tục những cử chỉ đúng dụng ý của mình thì ở con người này có một cái gì huy hoàng, một sự nhạy cảm sắc bén với những hứa hẹn của cuộc đời, tưởng chừng người ấy giống như những cỗ máy phức tạp ghi lại những trận động đất cách xa hàng vạn dặm. Sự ứng cảm nhạy bén ấy hoàn toàn không phải là tính dễ xúc cảm mềm yếu được tâng bốc là “khí chất sáng tạo”. Nó là một khả năng hi vọng hiếm có, một sự sẵn sàng ứng tiếp các biến cố trong đời, sẵn sàng đến lãng mạn, mà tôi chưa hề thấy có ở một ai khác và có lẽ cũng sẽ không bao giờ gặp lại nữa. Không, kết cục Gatsby hoá ra là một con người tốt. Chính những gì ám ảnh Gatsby, chính làn bụi nhơ nhuốc cuộn theo sau những giấc mơ của Gatsby đã tạm thời làm tôi mất hứng thú quan tâm đến những nỗi đau buồn ngắn ngủi và những niềm vui chốc lát của con người.
Could you render these English sentences in Vietnamese?
My family have been prominent, well-to-do people in this middle-western city for three generations. The Carraways are something of a clan and we have a tradition that we’re descended from the Dukes of Buccleuch, but the actual founder of my line was my grandfather’s brother who came here in fifty-one, sent a substitute to the Civil War and started the wholesale hardware business that my father carries on today.
Gia đình tôi là một gia đình danh giá và sung túc, đã sinh cơ lập nghiệp từ ba đời nay tại một thành phố miền Trung – Tây này. Dòng họ Carraway hợp thành một thứ gia tộc riêng và tục truyền chúng tôi thuộc dòng dõi các quận công Buccleuch, nhưng người thực sự sáng lập ra chi họ chúng tôi là em trai ông nội tôi. Người ông ấy của tôi đã đến thành phố này năm 1851, cử người thay mình tham gia cuộc Nội chiến, và khai trương nghề bán buôn đồ ngũ kim. Nghề kinh doanh ấy, cha tôi còn tiếp tục cho đến nay.
I need help with translating these English sentences into Vietnamese.
I never saw this great-uncle but I’m supposed to look like him—with special reference to the rather hard-boiled painting that hangs in Father’s office. I graduated from New Haven in 1915, just a quarter of a century after my father, and a little later I participated in that delayed Teutonic migration known as the Great War. I enjoyed the counter-raid so thoroughly that I came back restless. Instead of being the warm center of the world the middle-west now seemed like the ragged edge of the universe—so I decided to go east and learn the bond business. Everybody I knew was in the bond business so I supposed it could support one more single man. All my aunts and uncles talked it over as if they were choosing a prep-school for me and finally said, ‘Why—ye-es’ with very grave, hesitant faces. Father agreed to finance me for a year and after various delays I came east, permanently, I thought, in the spring of twenty-two.
Tôi chưa từng gặp người ông ấy, nhưng hình như tôi giống cụ, nhất là căn cứ vào bức chân dung sơn dầu mô tả một bộ mặt khá sắt đá treo trong phòng giấy của cha tôi. Tôi tốt nghiệp đại học ở New Haven năm 1915, đúng một phần tư thế kỉ sau cha tôi, và ít lâu sau tôi tham gia cuộc di dân muộn màng của người Teuton mà người ta gọi là cuộc Đại chiến thế giới. Tôi vui thích với cuộc phản công đến nỗi sau khi trở về quê hương, tôi cứ đứng ngồi không yên. Miền Trung Tây không còn là trung tâm ấm áp của thế giới nữa, mà tôi thấy nó bây giờ như một đường riềm rách nát của vũ trụ. Bởi vậy tôi quyết định đi New York học nghề giao dịch chứng khoán. Tất cả những người tôi quen đều ở ngành giao dịch chứng khoán, vì vậy tôi cho rằng nghề này có thể nuôi sống thêm một anh chàng chưa vợ nữa. Các bậc cô dì chú bác của tôi tề tựu đông đủ để bàn luận về việc này y như thể đây là việc chọn trường dự bị đại học cho tôi vậy. Cuối cùng, cả nhà kết luận: “Ờ cũng được”, với vẻ mặt rất nghiêm trang và do dự. Cha tôi đồng ý chu cấp cho tôi trong một năm, và sau mấy lần hoãn đi hoãn lại, tôi đến ở New York, tưởng là vĩnh viễn, vào mùa xuân năm 1922.
I need help with translating these English sentences into Vietnamese.
The practical thing was to find rooms in the city but it was a warm season and I had just left a country of wide lawns and friendly trees, so when a young man at the office suggested that we take a house together in a commuting town it sounded like a great idea. He found the house, a weather beaten cardboard bungalow at eighty a month, but at the last minute the firm ordered him to Washington and I went out to the country alone. I had a dog, at least I had him for a few days until he ran away, and an old Dodge and a Finnish woman who made my bed and cooked breakfast and muttered Finnish wisdom to herself over the electric stove.
Tìm chỗ ở ngay tại thành phố có lẽ thuận tiện hơn, nhưng nay đang vào lúc thời tiết ấm áp mà tôi lại vừa mới rời một nơi có những bãi cỏ rộng thênh thang và những hàng cây thân ái, cho nên khi có một đồng nghiệp trẻ tuổi ngỏ ý với tôi cùng thuê chung một ngôi nhà ở ngoại ô, tôi coi ngay đấy là một ý kiến tuyệt diệu. Anh ta tìm được một ngôi nhà gỗ đơn sơ đã dãi dầu mưa nắng với giá thuê là tám mươi đôla một tháng, nhưng đến phút chót anh ta được lệnh của công ty phái đến làm việc tại Washington, và thế là tôi về sống một mình ở ngoại ô. Tôi có một con chó – ít nhất cũng là trong vài ngày trước khi nó bỏ đi, – một chiếc xe Dodge cũ và một chị giúp việc người Phần Lan để dọn dẹp nhà cửa và vừa sửa soạn bữa sáng cho tôi vừa lẩm bẩm một mình những câu cách ngôn Phần Lan bên bếp điện.
I would like to have these sentences translated into Vietnamese.
There was so much to read for one thing and so much fine health to be pulled down out of the young breath-giving air. I bought a dozen volumes on banking and credit and investment securities and they stood on my shelf in red and gold like new money from the mint, promising to unfold the shining secrets that only Midas and Morgan and Maecenas knew. And I had the high intention of reading many other books besides. I was rather literary in college—one year I wrote a series of very solemn and obvious editorials for the ‘Yale News’—and now I was going to bring back all such things into my life and become again that most limited of all specialists, the ‘well-rounded man.’ This isn’t just an epigram—life is much more successfully looked at from a single window, after all.
Trước hết có bao cuốn sách cần đọc, biết bao nhiêu sức khoẻ cần thu lượm ở làn không khí tươi trẻ đem lại sức sống cho con người. Tôi mua khoảng một chục cuốn sách nói về công việc ngân hàng, tín dụng và đầu tư. Những cuốn sách ấy xếp thành hàng đỏ rực và vàng choé trên giá sách của tôi như những đồng tiền mới toanh vừa mới đúc, hứa hẹn sẽ tiết lộ cho tôi biết những bí quyết óng ánh mà chỉ Midas, Morgan và Maecenas nắm được. Ngoài ra tôi còn có tham vọng đọc nhiều cuốn sách khác nữa. Hồi ở đại học, tôi khá thích văn chương, có năm tôi đã viết một loạt bài xã luận rất long trọng và dễ hiểu cho tờ “Tin tức trường Yale”. Bây giờ tôi sẽ đưa tất cả những thứ đó trở lại cuộc sống của tôi và lại trở thành một trong những chuyên gia cực kì hiếm hoi là “con người toàn diện”. Đây không phải là một lời châm biếm – xét cho cùng, cuộc đời sẽ dễ hiểu hơn nhiều khi ta nhìn nó từ một cửa sổ duy nhất.
Could you help me translate these sentences into Vietnamese?
It was a matter of chance that I should have rented a house in one of the strangest communities in North America. It was on that slender riotous island which extends itself due east of New York and where there are, among other natural curiosities, two unusual formations of land. Twenty miles from the city a pair of enormous eggs, identical in contour and separated only by a courtesy bay, jut out into the most domesticated body of salt water in the Western Hemisphere, the great wet barnyard of Long Island Sound. They are not perfect ovals—like the egg in the Columbus story they are both crushed flat at the contact end—but their physical resemblance must be a source of perpetual confusion to the gulls that fly overhead. To the wingless a more arresting phenomenon is their dissimilarity in every particular except shape and size.
Ngẫu nhiên mà ngôi nhà tôi thuê lại nằm ở một trong những cộng đồng kì lạ nhất Bắc Mỹ. Nó nằm trên hòn đảo mảnh khảnh và huyên náo phơi mình về phía Đông New York. Ở đó, trong số nhiều cảnh lạ có hai địa hình khác thường. Cách thành phố khoảng hai mươi dặm có hai quả trứng khổng lồ giống hệt nhau về hình dáng nhô ra dải nước mặn bị thuần hoá nhất ở Tây bán cầu, tức là cái sân gia cầm khổng lồ ẩm ướt mà người ta gọi là Eo biển Long Island. Hai quả trứng ấy cách nhau một vũng nước được gọi là vịnh cho lịch sự. Chúng không phải là những hình bầu dục hoàn hảo; giống quả trứng trong câu chuyện về Columbus, chúng bị dẹt lại ở đầu tiếp xúc với đất liền, nhưng sự giống nhau về hình dạng của chúng hẳn phải làm cho đám hải âu bay lượn bên trên không bao giờ hết băn khoăn lúng túng. Còn đối với các sinh vật không cánh thì hiện tượng đáng chú ý hơn lại là sự khác nhau giữa hai quả trứng ấy về mọi mặt, trừ hình dáng và kích thước.
I'm seeking a Vietnamese translation for these English sentences.
Across the courtesy bay the white palaces of fashionable East Egg glittered along the water, and the history of the summer really begins on the evening I drove over there to have dinner with the Tom Buchanans. Daisy was my second cousin once removed and I’d known Tom in college. And just after the war I spent two days with them in Chicago.
Ở mé bên kia cái vịnh nhỏ xíu, các dinh thự trắng toát của làng East Egg sang trọng lung linh bên bờ nước, và lịch sử của mùa hè vừa rồi bắt đầu vào tối hôm tôi lái xe sang bên ấy ăn tối với vợ chồng Tom Buchanan. Daisy là cô em họ xa của tôi, còn chồng cô là Tom thì tôi đã quen hồi ở đại học. Ngay sau chiến tranh tôi đã về ở với vợ chồng họ hai ngày tại Chicago.
Please translate these English sentences into Vietnamese for me.
There was music from my neighbor’s house through the summer nights. In his blue gardens men and girls came and went like moths among the whisperings and the champagne and the stars. At high tide in the afternoon I watched his guests diving from the tower of his raft or taking the sun on the hot sand of his beach while his two motor-boats slit the waters of the Sound, drawing aquaplanes over cataracts of foam. On week-ends his Rolls-Royce became an omnibus, bearing parties to and from the city, between nine in the morning and long past midnight, while his station wagon scampered like a brisk yellow bug to meet all trains. And on Mondays eight servants including an extra gardener toiled all day with mops and scrubbing-brushes and hammers and garden-shears, repairing the ravages of the night before. Every Friday five crates of oranges and lemons arrived from a fruiterer in New York—every Monday these same oranges and lemons left his back door in a pyramid of pulpless halves. There was a machine in the kitchen which could extract the juice of two hundred oranges in half an hour, if a little button was pressed two hundred times by a butler’s thumb. At least once a fortnight a corps of caterers came down with several hundred feet of canvas and enough colored lights to make a Christmas tree of Gatsby’s enormous garden. On buffet tables, garnished with glistening hors-d’oeuvre, spiced baked hams crowded against salads of harlequin designs and pastry pigs and turkeys bewitched to a dark gold. In the main hall a bar with a real brass rail was set up, and stocked with gins and liquors and with cordials so long forgotten that most of his female guests were too young to know one from another.
Bên nhà người láng giềng của tôi, tiếng nhạc réo rắt suốt các đêm hè. Trong khu vườn màu thiên thanh của Gatsby, đàn ông đàn bà nườm nượp người đến kẻ đi như những con bướm đêm giữa những tiếng thì thào, giữa rượu sâm banh và các vì sao. Chiều chiều, những hôm nước triều lên, tôi đứng ngắm đám khách của Gatsby đùa giỡn với sóng biển hoặc tắm nắng trên bãi cát nóng thuộc khu vực nhà anh, trong khi hai xuồng máy rẽ nước trên mặt vịnh kéo những tấm ván lướt nặng qua những xoáy nước sủi bọt. Vào những ngày nghỉ cuối tuần, chiếc xe Rolls Royce lộng lẫy của Gatsby biến thành một chiếc xe buýt con đưa đón khách khứa đi về giữa thành phố và toà biệt thự suốt từ chín giờ sáng đến tận quá nửa đêm, trong khi chiếc xe du lịch có khoang chở hàng rộng đằng sau của anh vụt đi vụt lại loang loáng như một con ong vàng choé ra ga đón tất cả các chuyến tàu. Thứ hai hàng tuần, tám gia nhân cộng thêm một người thợ làm vườn phụ vất vả cả ngày với nào chổi và bàn chải, nào kìm, búa và dao xén cây, sửa chữa những chỗ bị tàn phá hư hại trong đêm trước. Tuần nào cũng vậy, cứ đến thứ sáu, một cửa hàng rau quả ở New York gửi đến năm hòm cam và chanh, và tuần nào cũng vậy, cứ đến thứ hai thì chỗ cam, chanh ấy, bị bổ làm đôi và moi hết ruột, chất thành từng đống có ngọn đi ra bằng cửa sau. Ở nhà bếp có một cái máy trong nửa giờ có thể vắt được hai trăm quả chanh nếu được ngón tay cái của một gia nhân ấn hai trăm lần lên một cái nút nhỏ. Ít nhất nửa tháng một lần, một toán thợ trang trí đem đến vài trăm mét vải và đủ đèn màu để biến cả khu vườn bát ngát của Gatsby thành một cây thông Noel. Trên các bàn ăn lấp lánh các món khai vị là những khúc giăm-bông nướng đậm đà nằm chen giữa những đĩa rau tươi màu sắc sặc sỡ, những khoanh bánh nhồi thịt lợn và những con gà tây vàng rộm như được quay bằng ma thuật. Tại gian tiền sảnh chính đã dựng lên một quầy rượu chất đầy các loại rượu trắng, rượu mùi, rượu khai vị, những loại rượu đã biến mất từ lâu trên thị trường đến nỗi hầu hết các đám khách nữ của Gatsby còn quá trẻ không phân biệt nổi loại nào với loại nào.
Please transform these English sentences into Vietnamese.
By seven o’clock the orchestra has arrived—no thin five-piece affair but a whole pitful of oboes and trombones and saxophones and viols and cornets and piccolos and low and high drums. The last swimmers have come in from the beach now and are dressing upstairs; the cars from New York are parked five deep in the drive, and already the halls and salons and verandas are gaudy with primary colors and hair shorn in strange new ways and shawls beyond the dreams of Castile. The bar is in full swing and floating rounds of cocktails permeate the garden outside until the air is alive with chatter and laughter and casual innuendo and introductions forgotten on the spot and enthusiastic meetings between women who never knew each other’s names. The lights grow brighter as the earth lurches away from the sun and now the orchestra is playing yellow cocktail music and the opera of voices pitches a key higher. Laughter is easier, minute by minute, spilled with prodigality, tipped out at a cheerful word. The groups change more swiftly, swell with new arrivals, dissolve and form in the same breath—already there are wanderers, confident girls who weave here and there among the stouter and more stable, become for a sharp, joyous moment the center of a group and then excited with triumph glide on through the sea-change of faces and voices and color under the constantly changing light. Suddenly one of these gypsies in trembling opal, seizes a cocktail out of the air, dumps it down for courage and moving her hands like Frisco dances out alone on the canvas platform. A momentary hush; the orchestra leader varies his rhythm obligingly for her and there is a burst of chatter as the erroneous news goes around that she is Gilda Gray’s understudy from the ‘Follies.’ The party has begun.
Bảy giờ thì dàn nhạc đến, không phải là một tốp nhạc nhỏ năm sáu người, mà là cả một đoàn nhạc công chơi đủ các loại kèn sáo, oboe, trombone, saxophone, cornet và piccolo cùng với trống cái và trống con. Đến giờ này, đám khách bơi ngoài bãi biển đã kéo nhau về hết và đang mặc quần áo trên gác. Xe hơi từ New York đến đỗ hàng năm trên đường xe chạy trong vườn, và ở các gian tiền sảnh, các phòng khách và hàng hiên đã sặc sỡ những màu sắc sống sượng, những kiểu tóc mới lạ, những chiếc khăn choàng Castile nằm mơ cũng không thấy. Quầy rượu hoạt động nhộn nhịp, các li rượu từng khay bay ra vườn cho đến khi không khí bên ngoài tràn ngập tiếng cười nói, những câu bóng gió vô tình, những lời giới thiệu nghe rồi quên ngay và những cuộc gặp gỡ nồng nhiệt giữa những đám khách nữ không bao giờ thuộc tên nhau. Ánh đèn mỗi lúc một rực rỡ hơn khi trái đất lảng xa dần mặt trời. Và khi dàn nhạc tấu lên điệu nhạc cocktail vàng thì bản hợp xướng các giọng người lại cao thêm một nấc nữa. Mỗi phút tiếng cười một dễ dàng hơn, nó tràn ra lênh láng, hào phóng, bật ra giòn giã sau một lời đùa vui. Các nhóm khách khứa thay hình đổi dạng mau lẹ hơn, vừa mới phình to ra với đám người mới đến đã lại tan đi rồi nhóm họp lại trong nháy mắt. Đã thấy có những cô gái trơ trẽn loăng quăng sà vào đám này một tí đám kia một tí giữa những cô gái khác đẫy đà hơn nên ít xê dịch hơn, bất thần trở thành trung tâm của một nhóm người trong một giây phút vui cười hể hả rồi náo nức vì thắng lợi, lại lướt đi tiếp giữa các gương mặt, các tiếng nói và màu sắc mỗi lúc một khác dưới những ánh đèn không ngừng biến đổi. Bỗng một trong những cô gái phiêu lãng ấy, run rẩy trong bộ xiêm áo trong mờ, vớ lấy một cốc rượu trong không trung, nốc cạn một hơi để lấy can đảm, tay vung vẩy như diễn viên múa Frisco, ra nhảy một mình trên một cái bục phủ vải dày. Không khí lặng đi một lát. Người chỉ huy dàn nhạc thay đổi nhịp điệu cho khớp với cô ta, và tiếng xì xào bỗng nổi lên vì mọi người tưởng nhầm truyền tai nhau bảo rằng cô ta chính là cô đào thường đóng thay vai Gilda Gray trong những tiết mục thoát y vũ. Cuộc vui đã bắt đầu.
Could you help me translate these sentences into Vietnamese?
I believe that on the first night I went to Gatsby’s house I was one of the few guests who had actually been invited. People were not invited—they went there. They got into automobiles which bore them out to Long Island and somehow they ended up at Gatsby’s door. Once there they were introduced by somebody who knew Gatsby and after that they conducted themselves according to the rules of behavior associated with amusement parks. Sometimes they came and went without having met Gatsby at all, came for the party with a simplicity of heart that was its own ticket of admission.
Đêm đầu tiên sang nhà Gatsby, tôi tin rằng tôi là một trong số khách ít ỏi đã thực sự được mời đến dự. Còn thì mọi người cứ tự nhiên đến, không cần tới ai mời. Họ nhảy lên xe hơi đưa họ đến Long Island rồi bỗng thấy mình cuối cùng đứng trước cửa nhà Gatsby và được một kẻ bất kì nào đó đã quen biết chủ nhà dẫn vào. Sau đấy, họ cư xử theo phép xử sự ở một công viên giải trí. Khách có khi đến rồi về mà chẳng hề gặp chủ nhân. Họ đến dự cuộc vui với sự hồn nhiên được coi là giấy vào cửa.
I'm seeking a Vietnamese translation for these English sentences.
I had been actually invited. A chauffeur in a uniform of robin’s egg blue crossed my lawn early that Saturday morning with a surprisingly formal note from his employer—the honor would be entirely Gatsby’s, it said, if I would attend his ‘little party’ that night. He had seen me several times and had intended to call on me long before but a peculiar combination of circumstances had prevented it—signed Jay Gatsby in a majestic hand. Dressed up in white flannels I went over to his lawn a little after seven and wandered around rather ill-at-ease among swirls and eddies of people I didn’t know—though here and there was a face I had noticed on the commuting train. I was immediately struck by the number of young Englishmen dotted about; all well dressed, all looking a little hungry and all talking in low earnest voices to solid and prosperous Americans. I was sure that they were selling something: bonds or insurance or automobiles. They were, at least, agonizingly aware of the easy money in the vicinity and convinced that it was theirs for a few words in the right key. As soon as I arrived I made an attempt to find my host but the two or three people of whom I asked his whereabouts stared at me in such an amazed way and denied so vehemently any knowledge of his movements that I slunk off in the direction of the cocktail table—the only place in the garden where a single man could linger without looking purposeless and alone. I was on my way to get roaring drunk from sheer embarrassment when Jordan Baker came out of the house and stood at the head of the marble steps, leaning a little backward and looking with contemptuous interest down into the garden. Welcome or not, I found it necessary to attach myself to someone before I should begin to address cordial remarks to the passers-by.
Tôi thì đã chính thức được mời. Hôm thứ bảy ấy, từ sáng sớm, một anh tài mặc đồng phục màu trứng sáo đi ngang qua bãi cỏ nhà tôi, cầm một bức thư ngắn của ông chủ, một bức thư hợp thức đến kinh ngạc. Bức thư viết là ông Gatsby lấy làm hân hạnh nếu tôi vui lòng đến dự buổi “dạ hội nhỏ” mà ông tổ chức tối nay. Ông ta đã gặp tôi nhiều lần và từ lâu đã định sang thăm tôi nhưng bị ngăn trở vì một loạt tình huống đặc biệt. Bên dưới kí tên Jay Gatsby bằng một nét chữ oai vệ. Trong bộ đồ bằng nỉ trắng, tôi đặt chân lên khu vườn của Gatsby vào lúc hơn bảy giờ một chút. Tôi đi vẩn vơ hơi ngượng nghịu giữa những cơn lốc và những đợt sóng người mà tôi không quen biết. Thỉnh thoảng đây đó có một bộ mặt mà tôi đã từng gặp trên các chuyến tàu ven nội ra vào New York. Tôi đã ngay lập tức kinh ngạc thấy sao đông thanh niên Anh đến thế trong đám khách khứa; họ đều ăn mặc lịch sự, đều có vẻ hơi đói ăn như nhau, đều nói chuyện sôi nổi và nho nhỏ với những người Mỹ vẻ chắc nịch và làm ăn phát đạt. Tôi đoán chắc là họ đang gạ bán cái gì đó: cổ phần, xe hơi hay bảo hiểm. Ít nhất có thể thấy rõ một điều là họ đau đớn khi nhìn thấy chung quanh họ những đồng tiền dễ kiếm và tin rằng chỉ cần một vài lời ăn nói đúng điệu là tiền bạc ấy sẽ về tay họ. Vừa đến nơi là tôi tìm gặp chủ nhân ngay, nhưng hỏi han hai bà khách, họ đều trân trân nhìn tôi với con mắt ngạc nhiên, và khăng khăng quả quyết rằng họ hoàn toàn không biết Gatsby hiện ở đâu, thành thử tôi đành lẩn đi về phía bàn rượu, chỗ độc nhất trong khu vườn mà một người đàn ông lẻ loi có thể ngồi nán lại mà không có vẻ là cô đơn và không biết dùng thời gian của mình làm gì. Chỉ vì lúng túng không biết làm gì, tôi đã toan uống cho say mềm thì Jordan Baker ở trong nhà bước ra, đứng ở bậc thềm bằng cẩm thạch trên cùng, hơi ngả người ra đằng sau một chút, nhìn xuống khu vườn với một vẻ chăm chú và dè bỉu. Được nghênh tiếp niềm nở hay không, tôi thấy vẫn cần phải tỏ ra thân quen với một ai đó đã, rồi mới có thể đi thân mật chuyện trò với những khách qua đường.
Can you help me with the translation of these English sentences to Vietnamese?
On Sunday morning while church bells rang in the villages along shore the world and its mistress returned to Gatsby’s house and twinkled hilariously on his lawn. ‘He’s a bootlegger,’ said the young ladies, moving somewhere between his cocktails and his flowers. ‘One time he killed a man who had found out that he was nephew to von Hindenburg and second cousin to the devil. Reach me a rose, honey, and pour me a last drop into that there crystal glass.’ Once I wrote down on the empty spaces of a time-table the names of those who came to Gatsby’s house that summer. It is an old time-table now, disintegrating at its folds and headed ‘This schedule in effect July 5th, 1922.’ But I can still read the grey names and they will give you a better impression than my generalities of those who accepted Gatsby’s hospitality and paid him the subtle tribute of knowing nothing whatever about him.
Sáng chủ nhật, khi chuông nhà thờ đổ hồi trong các làng ven biển, thì ai nấy cùng với người tình của mình lại trở lại nhà Gatsby, cười đùa hỉ hả trên thảm cỏ nhà anh. Các bà các cô lượn đi lượn lại giữa những li rượu và những chậu hoa của Gatsby, nói với nhau: - Gã này là một gã buôn lậu. Gã đã giết một người vì người này phát hiện ra gã là cháu của Von Hindenburg và là anh em họ xa gì đó với quỷ sứ. Này, chị thân yêu ơi, hái hộ em một bông hồng và rót hộ em một giọt rượu cuối cùng vào cái cốc pha lê này nào. Một hôm, tôi thử ghi lại tên những người đã đến nhà Gatsby mùa hè năm ấy vào những chỗ trống bên lề một bảng giờ tàu. Bảng giờ tàu ấy bây giờ cũ rồi, những chỗ gấp đã rách hết cả và có dòng chú thích: “Bảng giờ tàu này áp dụng từ ngày mồng 5 tháng 7 năm 1922”, nhưng tôi vẫn còn đọc được những tên người đã phai màu mực. Những tên ấy sẽ cho các bạn một khái niệm rõ hơn những lời kể chung chung của tôi về những người đã chấp nhận lòng hiếu khách của Gatsby, và đã đền đáp lại anh một cách tế nhị là tuyệt nhiên không thèm biết tí gì về anh.
Can you provide a Vietnamese translation for these English sentences?
From East Egg, then, came the Chester Beckers and the Leeches and a man named Bunsen whom I knew at Yale and Doctor Webster Civet who was drowned last summer up in Maine. And the Hornbeams and the Willie Voltaires and a whole clan named Blackbuck who always gathered in a corner and flipped up their noses like goats at whosoever came near. And the Ismays and the Chrysties (or rather Hubert Auerbach and Mr. Chrystie’s wife) and Edgar Beaver, whose hair they say turned cotton-white one winter afternoon for no good reason at all. Clarence Endive was from East Egg, as I remember. He came only once, in white knickerbockers, and had a fight with a bum named Etty in the garden. From farther out on the Island came the Cheadles and the O. R. P. Schraeders and the Stonewall Jackson Abrams of Georgia and the Fishguards and the Ripley Snells. Snell was there three days before he went to the penitentiary, so drunk out on the gravel drive that Mrs. Ulysses Swett’s automobile ran over his right hand. The Dancies came too and S. B. Whitebait, who was well over sixty, and Maurice A. Flink and the Hammerheads and Beluga the tobacco importer and Beluga’s girls. From West Egg came the Poles and the Mulreadys and Cecil Roebuck and Cecil Schoen and Gulick the state senator and Newton Orchid who controlled Films Par Excellence and Eckhaust and Clyde Cohen and Don S. Schwartze (the son) and Arthur McCarty, all connected with the movies in one way or another. And the Catlips and the Bembergs and G. Earl Muldoon, brother to that Muldoon who afterward strangled his wife. Da Fontano the promoter came there, and Ed Legros and James B. (“Rot-Gut’) Ferret and the De Jongs and Ernest Lilly—they came to gamble and when Ferret wandered into the garden it meant he was cleaned out and Associated Traction would have to fluctuate profitably next day.
Vậy là từ ở East Egg đến có cặp vợ chồng Chester Becker và vợ chồng Leech cùng với một người tên là Bunsen mà tôi có quen hồi ở trường đại học Yale. Có bác sĩ Webster Civet, ông này mùa hè năm sau bị chết đuối ở bang Maine. Có vợ chồng Hornbeam, và vợ chồng Willie Voltaire, và cả một nhóm tên là Blackbuck bao giờ cũng tụ tập với nhau riêng một nơi và hễ có ai đến gần là lại hếch mũi lên như những con dê. Có vợ chồng Ismay, vợ chồng Chrystie (hay nói cho đúng hơn là Hubert Auerbach và vợ của Chrystie) và Edgar Beaver. Anh chàng này, như người ta kể, vào một buổi chiều mùa đông, tóc bỗng dưng bạc trắng như bông. Clarence Endive là người ở East Egg sang, như tôi còn nhớ. Ông ta chỉ đến có một lần, mặc quần cộc trắng và đã đánh nhau ở trong vườn với một gã vô lại tên là Etty. Từ đầu đằng kia đảo Long Island đến có cặp vợ chồng Cheadle, vợ chồng O. R. P. Schraeder, vợ chồng Stonewall Jackson Abram người bang Georgia và vợ chồng Fishguard, vợ chồng Ripley Snell. Snell đến đây trước hôm vào ngồi tù ba ngày, nằm say mèm giữa đường xe chạy trong vườn, đến nỗi để cho chiếc xe hơi của bà Ulysses Swett chẹt đứt bàn tay phải. Vợ chồng Dancy cũng đến, rồi có S. B. Whitebait, tuổi đã quá sáu mươi, có Maurice A. Flink, vợ chồng Hammerhead, Beluga, nhà nhập khẩu thuốc lá và mấy cô bạn gái của Beluga. Từ West Egg đến có vợ chồng Pole, vợ chồng Mulready, có Cecil Roebuck, Cecil Schoen và Gulick, thượng nghị sĩ bang New York, có Newton Orchid, người nắm công ty “Những bộ phim tuyệt tác”, có Eckhaust, Clyde Cohen, Don S. Schwartze (con) và Arthur McCarty, tất cả đều dính líu với ngành điện ảnh bằng cách này hay cách khác. Có vợ chồng Catlip, vợ chồng Bemberg và G. Earl Muldoon, anh em gì đó với gã Muldoon mà sau này đã bóp cổ vợ. Nhà cổ động kinh doanh Da Fontano cũng hay lai vãng đến đấy. Ngoài ra còn có Ed Legros và James B. Ferret mệnh danh là “Thỏ đế” cùng với vợ chồng De Jong and Ernest Lilly – họ đến để đánh bạc, và khi Ferret tha thẩn trong vườn có nghĩa là ông ta đã nhẵn túi và thế nào hôm sau cổ phần của công ty Vận tải liên hợp cũng sẽ phải lên xuống.
Can you provide a Vietnamese translation for these English sentences?
A man named Klipspringer was there so often and so long that he became known as ‘the boarder’—I doubt if he had any other home. Of theatrical people there were Gus Waize and Horace O’Donavan and Lester Meyer and George Duckweed and Francis Bull. Also from New York were the Chromes and the Backhyssons and the Dennickers and Russel Betty and the Corrigans and the Kellehers and the Dewars and the Scullys and S. W. Belcher and the Smirkes and the young Quinns, divorced now, and Henry L. Palmetto who killed himself by jumping in front of a subway train in Times Square. Benny McClenahan arrived always with four girls. They were never quite the same ones in physical person but they were so identical one with another that it inevitably seemed they had been there before. I have forgotten their names—Jaqueline, I think, or else Consuela or Gloria or Judy or June, and their last names were either the melodious names of flowers and months or the sterner ones of the great American capitalists whose cousins, if pressed, they would confess themselves to be. In addition to all these I can remember that Faustina O’Brien came there at least once and the Baedeker girls and young Brewer who had his nose shot off in the war and Mr. Albrucksburger and Miss Haag, his fiancée, and Ardita Fitz-Peters, and Mr. P. Jewett, once head of the American Legion, and Miss Claudia Hip with a man reputed to be her chauffeur, and a prince of something whom we called Duke and whose name, if I ever knew it, I have forgotten. All these people came to Gatsby’s house in the summer.
Một gã tên là Klipspringer đến đấy luôn và ở lâu đến nỗi được đặt cho cái tên là “gã ở trọ” – tôi không chắc gã có một nơi ở nào khác. Trong số những nhân vật thuộc giới sân khấu đến đấy có Gus Waize và Horace O’Donavan, Lester Meyer, George Duckweed và Francis Bull. Cũng từ New York đến có vợ chồng Chrome và vợ chồng Backhysson, vợ chồng Dennicker và Russel Betty cùng với vợ chồng Corrigan, có vợ chồng Kelleher, vợ chồng Dewar và vợ chồng Scully cùng với S. W. Belcher, có vợ chồng Smirke và cặp vợ chồng trẻ Quinn, nay đã li dị nhau. Có Henry L. Palmetto, kẻ đã tự tử bằng cách lao đầu vào xe điện ngầm ở quảng trường Thời đại. Benny McClenahan bao giờ cũng đến cùng với bốn cô bạn gái. Không phải lần nào cũng vẫn những người cũ, nhưng họ giống hệt nhau đến nỗi không thể không làm cho người ta nhầm tưởng rằng lần trước họ đã đến rồi. Tôi quên mất tên những cô gái ấy – có lẽ là Jaqueline hay Consuela, Gloria hoặc Judy hay June gì đó, còn họ thì hoặc là du dương như tên gọi các loài hoa và các tháng, hoặc nghiêm trang hơn, đọc lên nghe giống họ của các nhà đại tư bản Mỹ mà mấy cô gái ấy sẽ thú nhận là bà con với mình nếu ta gạn hỏi. Ngoài tất cả những người ấy ra, tôi còn nhớ Faustina O’Brien đã đến đấy ít nhất một lần cùng với các cô gái nhà Baedeker và chàng thanh niên Brewer bị mất mũi trong chiến tranh. Tôi nhớ còn có Albrucksburger với vị hôn thê của ông ta là cô Haag, có vợ chồng Ardita Fitz-Peter và ông P. Jewett, người có một thời đã từng làm chủ tịch Hội cựu chiến binh Mỹ, có cô Claudia Hip đi cùng với một ông mà người ta bảo là tài xế của cô, và một ông hoàng gì đó mà người ta gọi là Công tước – tên của ông hoàng này nếu như tôi có biết thì nay cũng quên mất rồi. Tất cả bọn họ đã đến biệt thự Gatsby mùa hè năm ấy.
Please assist me in translating these sentences into Vietnamese.
At nine o’clock, one morning late in July Gatsby’s gorgeous car lurched up the rocky drive to my door and gave out a burst of melody from its three noted horn. It was the first time he had called on me though I had gone to two of his parties, mounted in his hydroplane, and, at his urgent invitation, made frequent use of his beach. ‘Good morning, old sport. You’re having lunch with me today and I thought we’d ride up together.’ He was balancing himself on the dashboard of his car with that resourcefulness of movement that is so peculiarly American—that comes, I suppose, with the absence of lifting work or rigid sitting in youth and, even more, with the formless grace of our nervous, sporadic games. This quality was continually breaking through his punctilious manner in the shape of restlessness. He was never quite still; there was always a tapping foot somewhere or the impatient opening and closing of a hand. He saw me looking with admiration at his car. ‘It’s pretty, isn’t it, old sport.’ He jumped off to give me a better view. ‘Haven’t you ever seen it before?’ I’d seen it. Everybody had seen it. It was a rich cream color, bright with nickel, swollen here and there in its monstrous length with triumphant hatboxes and supper-boxes and tool-boxes, and terraced with a labyrinth of windshields that mirrored a dozen suns. Sitting down behind many layers of glass in a sort of green leather conservatory we started to town.
Một buổi sáng cuối tháng bảy, vào lúc chín giờ, chiếc xe lộng lẫy của Gatsby lắc lư lăn bánh trên lối đi gồ ghề sỏi đá dẫn đến cửa nhà tôi và thả ra một nét nhạc du dương từ cái còi ba nốt của nó. Đây là lần đầu tiên Gatsby đến thăm tôi tuy tôi đã hai lần đến dự dạ hội ở nhà anh, đi chơi trên chiếc thuỷ phi cơ của anh, và theo lời mời khẩn khoản của anh, đã thường xuyên sử dụng bãi biển nhà anh. - Xin chào người anh em. Vì anh đã nhận lời đi ăn trưa với tôi hôm nay nên tôi đưa xe đến đón anh đi cùng. Thấy tôi trầm trồ ngắm nghía chiếc xe, Gatsby hỏi: - Đẹp đấy chứ, phải không, người anh em? Trước đây anh đã trông thấy nó bao giờ chưa? Tôi đã thấy nó. Ai cũng đã thấy nó. Chiếc xe sơn màu kem, mạ kền sáng loáng, thân xe dài khủng khiếp với nhiều chỗ phình ra làm ngăn đặt mũ, ngăn đựng đồ ăn đi cắm trại và ngăn đựng dụng cụ, còn trên mui là những thanh chắn gió đan với nhau lằng nhằng rắc rối và lấp lánh phản chiếu dễ đến hàng chục mặt trời. Ngồi sau nhiều lớp kính trông như một nhà kính ươm cây, chúng tôi cho xe chạy ra thành phố.
Can you help me with the translation of these English sentences to Vietnamese?
When I came home to West Egg that night I was afraid for a moment that my house was on fire. Two o’clock and the whole corner of the peninsula was blazing with light which fell unreal on the shrubbery and made thin elongating glints upon the roadside wires. Turning a corner I saw that it was Gatsby’s house, lit from tower to cellar. At first I thought it was another party, a wild rout that had resolved itself into ‘hide-and-go-seek’ or ‘sardines-in-the-box’ with all the house thrown open to the game. But there wasn’t a sound. Only wind in the trees which blew the wires and made the lights go off and on again as if the house had winked into the darkness. As my taxi groaned away I saw Gatsby walking toward me across his lawn.
Đêm ấy, khi xe về đến West Egg, tôi đã tưởng nhà tôi bị cháy. Hai giờ đêm mà cả một vùng bán đảo rực sáng, ánh sáng hư ảo chan hoà các lùm cây và kéo thành những sợi lấp lánh dài trên các đường dây điện. Sau một khúc ngoặt, tôi nhận ra đó là toà biệt thự của Gatsby, đèn bật sáng trưng từ tầng thượng đến tầng hầm. Thoạt tiên tôi tưởng lại có một cuộc vui mới, một buổi dạ hội điên loạn đã biến thành một trò “đi trốn đi tìm” lấy cả toà nhà làm chỗ chơi. Nhưng không có một tiếng động nào. Chỉ có gió thổi xào xạc trên ngọn cây đu đưa các sợi dây điện làm cho ánh đèn lấp loé như thể toàn nhà nhấp nháy mắt với bóng đêm. Trong khi chiếc tắc xi chở tôi rồ máy rời đi, tôi thấy Gatsby đi tạt ngang qua vườn nhà anh về phía tôi.
I'm looking for someone to translate these sentences into Vietnamese.
About this time an ambitious young reporter from New York arrived one morning at Gatsby’s door and asked him if he had anything to say. ‘Anything to say about what?’ inquired Gatsby politely. ‘Why,—any statement to give out.’ It transpired after a confused five minutes that the man had heard Gatsby’s name around his office in a connection which he either wouldn’t reveal or didn’t fully understand. This was his day off and with laudable initiative he had hurried out ‘to see.’ It was a random shot, and yet the reporter’s instinct was right. Gatsby’s notoriety, spread about by the hundreds who had accepted his hospitality and so become authorities on his past, had increased all summer until he fell just short of being news. Contemporary legends such as the ‘underground pipe-line to Canada’ attached themselves to him, and there was one persistent story that he didn’t live in a house at all, but in a boat that looked like a house and was moved secretly up and down the Long Island shore. Just why these inventions were a source of satisfaction to James Gatz of North Dakota, isn’t easy to say. James Gatz—that was really, or at least legally, his name. He had changed it at the age of seventeen and at the specific moment that witnessed the beginning of his career—when he saw Dan Cody’s yacht drop anchor over the most insidious flat on Lake Superior. It was James Gatz who had been loafing along the beach that afternoon in a torn green jersey and a pair of canvas pants, but it was already Jay Gatsby who borrowed a row-boat, pulled out to the TUOLOMEE and informed Cody that a wind might catch him and break him up in half an hour.
Vào khoảng thời gian này, một phóng viên trẻ xông xáo ở New York một hôm đến nhà Gatsby hỏi anh có muốn tuyên bố gì không. - Tuyên bố về cái gì cơ chứ? – Gatsby nhã nhặn hỏi lại. - À, về bất kể cái gì. Phải mất năm phút rối mò sau mới hiểu ra là anh chàng phóng viên nọ đã nghe lỏm được ai ở toà soạn nhắc đến tên Gatsby liên quan đến một sự việc nào đấy mà anh ta không chịu tiết lộ hoặc có khi anh ta cũng không biết rõ. Hôm nay được ngày nghỉ, với một sự chủ động đáng khen, anh ta vội tìm đến nhà ông Gatsby này “thử xem sao”. Đây chỉ là một việc khai thác hú hoạ, tuy vậy người phóng viên này đã linh cảm đúng. Tiếng tăm của Gatsby, – được truyền qua cửa miệng hàng trăm người đã chấp nhận lòng hiếu khách của anh và vì thế trở thành những nguồn tin có thẩm quyền về quá khứ của anh, – tăng lên trong suốt mùa hè đến mức Gatsby gần được đưa thành tin trên báo. Các giai thoại đương thời, như chuyện có một đường ống ngầm tuồn rượu lậu từ Canada vào Mỹ, cũng được gán ghép cho Gatsby. Còn có một chuyện đồn đại dai dẳng là Gatsby không sống trong một ngôi nhà mà sống trên một con thuyền trông giống một ngôi nhà, được di chuyển bí mật nay nơi này mai nơi khác ven bờ đảo Long Island. Còn tại sao những lời bịa đặt này lại làm cho anh chàng James Gatz ở bang Dakota Bắc thích thú thì không dễ mà giải thích được. James Gatz – đó là tên thật hay ít nhất là tên chính thức của Gatsby. Anh đã đổi lấy cái tên này hồi anh mười bảy tuổi, đúng vào giây phút anh bắt đầu bước vào đời, tức là giây phút anh nhìn thấy chiếc du thuyền của Dan Cody thả neo ở một bãi đất nông nham hiểm trong Hồ Thượng. Anh con trai mặc chiếc áo thun xanh rách, chân đi giày vải, lúc đi tha thẩn ven hồ chiều hôm ấy là James Gatz, nhưng anh con trai ấy đã trở thành Jay Gatsby khi anh ta mượn một chiếc mảng chèo ra chỗ chiếc du thuyền Tuolomee thả neo, báo cho Cody biết là nửa giờ nữa trời có thể sẽ nổi gió và lật nhào chiếc thuyền của ông.
Could you convert these sentences from English to Vietnamese for me?
suppose he’d had the name ready for a long time, even then. His parents were shiftless and unsuccessful farm people—his imagination had never really accepted them as his parents at all. The truth was that Jay Gatsby, of West Egg, Long Island, sprang from his Platonic conception of himself. He was a son of God—a phrase which, if it means anything, means just that—and he must be about His Father’s Business, the service of a vast, vulgar and meretricious beauty. So he invented just the sort of Jay Gatsby that a seventeen-year-old boy would be likely to invent, and to this conception he was faithful to the end. For over a year he had been beating his way along the south shore of Lake Superior as a clam digger and a salmon fisher or in any other capacity that brought him food and bed. His brown, hardening body lived naturally through the half fierce, half lazy work of the bracing days. He knew women early and since they spoiled him he became contemptuous of them, of young virgins because they were ignorant, of the others because they were hysterical about things which in his overwhelming self-absorption he took for granted. But his heart was in a constant, turbulent riot. The most grotesque and fantastic conceits haunted him in his bed at night. A universe of ineffable gaudiness spun itself out in his brain while the clock ticked on the wash-stand and the moon soaked with wet light his tangled clothes upon the floor. Each night he added to the pattern of his fancies until drowsiness closed down upon some vivid scene with an oblivious embrace. For a while these reveries provided an outlet for his imagination; they were a satisfactory hint of the unreality of reality, a promise that the rock of the world was founded securely on a fairy’s wing.
Tôi cho rằng anh đã ấp ủ cái tên này từ lâu. Cha mẹ anh là những tá điền chịu thương chịu khó nhưng không khấm khá lên được – trí tưởng tượng của anh tuyệt nhiên không bao giờ thực sự nhận họ là những người đẻ ra mình. Sự thực là chàng Jay Gatsby ở West Egg, Long Island, là sản phẩm do quan niệm lí tưởng thuần tuý của anh về mình sinh ra. Anh là một đứa con của Chúa trời – theo đúng nghĩa của câu nói đó nếu như câu nói đó có ý nghĩa – nên anh phải chăm lo đến công việc của Chúa cha: phụng sự một cái đẹp bao la, tầm thường và hào nhoáng. Vì thế anh đã tưởng tượng ra Jay Gatsby, đúng loại người mà một đứa trẻ mười bảy tuổi có thể nghĩ ra, và anh đã trung thành với khái niệm này cho đến cùng. Trước đó hơn một năm, anh đã lặn lội kiếm sống ở mạn phía nam Hồ Thượng, bắt ngao và đánh cá hoặc làm bất cứ nghề gì đem lại miếng cơm manh chiếu. Tấm thân rám nắng và rắn chắc của anh đã vững chãi thêm qua những việc làm vừa vất vả vừa rỗi rãi của những ngày này. Anh biết đến phụ nữ sớm, và vì phụ nữ làm hư anh nên anh khinh bỉ họ, khinh bỉ những cô gái tân non nớt vì họ ngu dốt, khinh bỉ những người đàn bà khác vì họ điên dại vì những chuyện mà anh coi là thường tình. Nhưng trái tim anh thì luôn luôn nổi loạn. Những điều tưởng tượng lố bịch và kì quái nhất ám ảnh anh ban đêm trên giường. Cả một thế giới cực kì sặc sỡ hào nhoáng được mở ra trong óc anh trong khi chiếc đồng hồ kêu tí tách trên giá rửa mặt, và ánh trăng ẩm ướt đổ xuống ướt sũng đống quần áo của anh ngổn ngang dưới sàn. Mỗi đêm anh lại điểm thêm những nét mới vào những điều tưởng tượng ngông cuồng của mình cho đến khi chúng được khép lại ở một cảnh sống động trong vòng tay ru của giấc ngủ. Trong một thời gian, những điều mơ tưởng này đem lại một lối thoát cho trí tưởng tượng của anh. Chúng nhắc nhở một cách thoả đáng đến vẻ huyền ảo của thực tế, chúng nhắn nhủ rằng nền tảng của thế giới được đặt vững chãi trên đôi cánh tiên nữ.
Could you render these English sentences in Vietnamese?
An instinct toward his future glory had led him, some months before, to the small Lutheran college of St. Olaf in southern Minnesota. He stayed there two weeks, dismayed at its ferocious indifference to the drums of his destiny, to destiny itself, and despising the janitor’s work with which he was to pay his way through. Then he drifted back to Lake Superior, and he was still searching for something to do on the day that Dan Cody’s yacht dropped anchor in the shallows along shore. Cody was fifty years old then, a product of the Nevada silver fields, of the Yukon, of every rush for metal since Seventy-five. The transactions in Montana copper that made him many times a millionaire found him physically robust but on the verge of soft-mindedness, and, suspecting this an infinite number of women tried to separate him from his money. The none too savory ramifications by which Ella Kaye, the newspaper woman, played Madame de Maintenon to his weakness and sent him to sea in a yacht, were common knowledge to the turgid journalism of 1902. He had been coasting along all too hospitable shores for five years when he turned up as James Gatz’s destiny at Little Girl Bay. To the young Gatz, resting on his oars and looking up at the railed deck, the yacht represented all the beauty and glamor in the world. I suppose he smiled at Cody—he had probably discovered that people liked him when he smiled. At any rate Cody asked him a few questions (one of them elicited the brand new name) and found that he was quick, and extravagantly ambitious. A few days later he took him to Duluth and bought him a blue coat, six pair of white duck trousers and a yachting cap. And when the TUOLOMEE left for the West Indies and the Barbary Coast Gatsby left too. He was employed in a vague personal capacity—while he remained with Cody he was in turn steward, mate, skipper, secretary, and even jailor, for Dan Cody sober knew what lavish doings Dan Cody drunk might soon be about and he provided for such contingencies by reposing more and more trust in Gatsby. The arrangement lasted five years during which the boat went three times around the continent. It might have lasted indefinitely except for the fact that Ella Kaye came on board one night in Boston and a week later Dan Cody inhospitably died.
Linh cảm về tương lai vẻ vang của mình đã khiến cho trước đó mấy tháng James Gatz đến theo học tại trường St. Olaf bé nhỏ của dòng tu Lutheran tại miền nam bang Minnesota. Anh lưu lại ở đó có hai tuần, chán nản trước sự dửng dưng hung hãn của nhà trường đối với tiếng trống giục giã của số phận mình, đối với bản thân số phận nói chung, và khinh rẻ những việc lao động trong trường mà anh phải làm để được theo học. Thế là James Gatz lại lang thang bên Hồ Thượng, và hôm chiếc du thuyền của Dan Cody thả neo xuống dải đất nông ven bờ thì James Gatz vẫn còn đang loay hoay chưa biết nên làm gì. Hồi bấy giờ Cody đã ở tuổi ngũ tuần. Ông là sản phẩm của những mỏ bạc Nevada, của dòng sông Yukon, của mọi cuộc đổ xô đi tìm các thứ kim loại suốt từ năm một nghìn tám trăm bảy mươi nhăm. Những cuộc mua bán các mỏ vàng ở Montana giúp ông trở thành người mấy mươi lần triệu phú, đã làm cho ông cường tráng về thể chất nhưng mềm yếu về tâm hồn. Đánh hơi thấy vậy, rất đông phụ nữ đã tìm cách tách ông rời khỏi tài sản của ông. Những thủ đoạn không lấy gì làm hay mà nữ kí giả Ella Kaye đã dùng để đóng vai người tình của ông và đẩy ông ra biển trên một chiếc du thuyền là những chuyện thường thấy trên mặt báo năm 1902. Khi Dan Cody đã đi men theo các bờ biển hiền hoà được năm năm thì ông trở thành người nhào nặn nên số phận của James Gatz tại vịnh Little Girls. Đối với chàng trai James Gatz, tì tay trên cán chèo ngước mắt nhìn lên boong thuyền, chiếc Tuolomee là tất cả những gì mĩ lệ và lộng lẫy của thế giới. Có lẽ anh đã cười nụ với Cody – anh chắc đã nhận ra mọi người thích mình khi mình cười nụ. Bất luận thế nào, Cody có hỏi anh vài ba câu (trong đó có câu đã làm bật ra cái tên mới toanh kia), thấy anh nhanh nhẹn và có những hoài bão quá ư ngông cuồng. Mấy hôm sau, Cody đưa anh về Duluth mua cho anh một cái áo xanh, sáu cái quần bằng vải trắng và một cái mũ thuỷ thủ. Khi chiếc Tuolomee lên đường đi Tây Ấn và bờ biển Barbary thì có mặt Gatsby ở trên thuyền. Gatsby được thuê mướn không với một danh nghĩa nhất định nào. Trong thời gian ở với Cody, khi thì Gatsby làm cần vụ, thừa phái, khi thì làm thuyền phó, hoa tiêu, và thậm chí làm cả cai ngục nữa, vì Dan Cody tỉnh biết những chuyện hoang toàng mà Dan Cody say có thể mắc phải, cho nên ông lo trước cho những tình huống đó bằng cách đặt lòng tin mỗi ngày một nhiều hơn vào Gatsby. Nếp sống này kéo dài năm năm, trong thời gian ấy chiếc du thuyền đi quanh lục địa được ba lần. Nếp sống ấy có thể còn kéo dài mãi nếu như không xảy ra sự việc là vào một đêm tại Boston, Ella Kaye trèo lên thuyền và một tuần sau thì Dan Cody chấm dứt lòng hiếu khách của mình bằng cách từ giã cõi đời.
Can you provide me with the Vietnamese equivalents of these English sentences?
I remember the portrait of him up in Gatsby’s bedroom, a grey, florid man with a hard empty face—the pioneer debauchee who during one phase of American life brought back to the eastern seaboard the savage violence of the frontier brothel and saloon. It was indirectly due to Cody that Gatsby drank so little. Sometimes in the course of gay parties women used to rub champagne into his hair; for himself he formed the habit of letting liquor alone. And it was from Cody that he inherited money—a legacy of twenty-five thousand dollars. He didn’t get it. He never understood the legal device that was used against him but what remained of the millions went intact to Ella Kaye. He was left with his singularly appropriate education; the vague contour of Jay Gatsby had filled out to the substantiality of a man.
Tôi còn nhớ bức ảnh chụp Cody treo trong phòng ngủ của Gatsby. Tóc ông lốm đốm bạc, da đỏ hồng hào, nét mặt rắn rỏi và trống rỗng – một mẫu người đi khai phá những vùng đất mới và sống một cuộc đời trác táng, bê tha, một mẫu người của một thời trong đời sống nước Mỹ, kẻ đã đem về bờ biển miền Đông sự hung bạo man rợ của các nhà chứa và các quán rượu biên thuỳ. Chính gián tiếp nhờ Cody mà Gatsby ít uống rượu đến vậy. Đôi khi, giữa những cuộc vui, đám phụ nữ lấy sâm banh đổ vào đầu anh bởi vì anh đã tự tạo cho mình cái nếp không bao giờ đụng đến rượu mạnh. Gatsby là người được Dan Cody cho thừa hưởng các tài sản của ông – di sản trị giá hai mươi nhăm nghìn đôla. Nhưng Gatsby không nhận được số tiền đó. Anh không bao giờ hiểu nổi cái thủ đoạn pháp lí đã được dùng để chống lại anh, chỉ biết là tất cả gia sản rơi hết vào tay Ella Kaye. Anh còn lại với cái vốn học thức đặc biệt thích hợp của mình. Hình bóng lờ mờ của Jay Gatsby đã được bồi đắp thành thực chất của một con người.
I need help with translating these English sentences into Vietnamese.
He told me all this very much later, but I’ve put it down here with the idea of exploding those first wild rumors about his antecedents, which weren’t even faintly true. Moreover he told it to me at a time of confusion, when I had reached the point of believing everything and nothing about him. So I take advantage of this short halt, while Gatsby, so to speak, caught his breath, to clear this set of misconceptions away. It was a halt, too, in my association with his affairs. For several weeks I didn’t see him or hear his voice on the phone—mostly I was in New York, trotting around with Jordan and trying to ingratiate myself with her senile aunt—but finally I went over to his house one Sunday afternoon. I hadn’t been there two minutes when somebody brought Tom Buchanan in for a drink. I was startled, naturally, but the really surprising thing was that it hadn’t happened before. They were a party of three on horseback—Tom and a man named Sloane and a pretty woman in a brown riding habit who had been there previously.
Những chuyện ấy, mãi về sau Gatsby mới kể với tôi, nhưng tôi ghi ra đây để xua tan những tin đồn lung tung về quá khứ của anh, những lời đồn ấy không có lấy một chút sự thật nào. Với lại, Gatsby kể với tôi chuyện này vào thời gian có nhiều xáo động, vào lúc mà tôi đi đến chỗ tin hết mọi điều đồng thời không tin một điều gì về anh. Vì vậy, tôi lợi dụng lúc tạm ngừng này, có thể nói là lúc Gatsby nghỉ lấy hơi, để dẹp đi tất cả những cách hiểu sai ấy. Đây cũng là thời gian tôi ngừng dính líu vào công việc của Gatsby. Suốt mấy tuần, tôi không gặp anh và không nghe thấy tiếng anh qua điện thoại – hầu hết thời gian này tôi ở New York, đi tha thẩn đây đó với Jordan và cố lấy lòng bà cô già của Jordan. Cuối cùng, một chiều chủ nhật, tôi sang chơi bên nhà Gatsby. Tôi đến chưa được hai phút thì có người dẫn Tom Buchanan vào chơi nhà anh. Tôi giật mình, tất nhiên, nhưng điều thực sự kinh ngạc là chuyện ấy đến bây giờ mới diễn ra. Đám khách này cưỡi ngựa đến. Họ có ba người: Tom cùng với một ông tên là Sloane và một phụ nữ kiều diễm mặc quần áo đi ngựa màu nâu đã từng đến chơi đây.
I'm seeking a Vietnamese translation for these English sentences.
I couldn’t sleep all night; a fog-horn was groaning incessantly on the Sound, and I tossed half-sick between grotesque reality and savage frightening dreams. Toward dawn I heard a taxi go up Gatsby’s drive and immediately I jumped out of bed and began to dress—I felt that I had something to tell him, something to warn him about and morning would be too late. Crossing his lawn I saw that his front door was still open and he was leaning against a table in the hall, heavy with dejection or sleep.
Suốt đêm tôi không sao ngủ nổi. Tiếng còi chỉ đường cho tàu trong sương cứ rền rĩ không dứt ngoài Eo. Tôi như người ốm dở, chao đảo giữa thực tế lố bịch và những cơn mê khủng khiếp, man rợ. Khoảng gần sáng tôi nghe có tiếng xe tắc-xi lăn bánh vào đường xe chạy trong vườn nhà Gatsby. Ngay lập tức, tôi nhảy khỏi giường và mặc quần áo – tôi thấy có điều cần phải báo cho anh biết, cần phải nhắc anh đề phòng, sợ để đến sáng thì muộn mất. Đi tạt ngang qua thảm cỏ nhà Gatsby, tôi thấy cổng trước vẫn để ngỏ và Gatsby đang tựa người vào một chiếc bàn trong gian tiền sảnh, vẻ hết sức ủ rũ vì chán nản hoặc mất ngủ.
I would like to have these sentences translated into Vietnamese.
His house had never seemed so enormous to me as it did that night when we hunted through the great rooms for cigarettes. We pushed aside curtains that were like pavilions and felt over innumerable feet of dark wall for electric light switches—once I tumbled with a sort of splash upon the keys of a ghostly piano. There was an inexplicable amount of dust everywhere and the rooms were musty as though they hadn’t been aired for many days. I found the humidor on an unfamiliar table with two stale dry cigarettes inside. Throwing open the French windows of the drawing-room we sat smoking out into the darkness.
Toà nhà của anh tôi thấy chưa bao giờ nó mênh mông như trong đêm hôm ấy khi chúng tôi đi tìm thuốc lá qua các gian phòng rộng lớn. Chúng tôi gạt những tấm rèm cửa to như những cánh buồm, sờ soạng trên không biết bao nhiêu thước tường tối đen để tìm nút bật đèn – một lần tôi vấp ngã xoài người trên hàng phím của một chiếc đàn dương cầm ma quái. Chỗ nào cũng đầy bụi, bụi rất nhiều, không hiểu ở đâu ra. Các gian phòng có mùi ẩm mốc và bí, như thể đã bao nhiêu lâu chúng không được thông gió. Tôi thấy hộp thuốc không để đúng chỗ trên một chiếc bàn, trong hộp còn hai điếu thuốc đã mất mùi và mốc meo. Mở tung cánh cửa sổ dài của phòng khách, chúng tôi ngồi xuống hút thuốc, nhả khói vào trong bóng tối.
I require the translation of these English sentences into Vietnamese.
She was the first ‘nice’ girl he had ever known. In various unrevealed capacities he had come in contact with such people but always with indiscernible barbed wire between. He found her excitingly desirable. He went to her house, at first with other officers from Camp Taylor, then alone. It amazed him—he had never been in such a beautiful house before. But what gave it an air of breathless intensity was that Daisy lived there—it was as casual a thing to her as his tent out at camp was to him. There was a ripe mystery about it, a hint of bedrooms upstairs more beautiful and cool than other bedrooms, of gay and radiant activities taking place through its corridors and of romances that were not musty and laid away already in lavender but fresh and breathing and redolent of this year’s shining motor cars and of dances whose flowers were scarcely withered. It excited him too that many men had already loved Daisy—it increased her value in his eyes. He felt their presence all about the house, pervading the air with the shades and echoes of still vibrant emotions.
Nàng là cô gái “con nhà” đầu tiên mà anh được biết từ trước đến giờ. Anh đã từng được tiếp xúc với hạng người như vậy với những tư cách khác nhau mà anh không nói ra, nhưng bao giờ ở giữa cũng có một hàng rào dây thép gai vô hình. Anh thấy nàng thật đáng say mê khao khát. Anh đến nhà nàng, đầu tiên cùng đi với các sĩ quan khác ở doanh trại Taylor, sau đến một mình. Ngôi nhà làm anh choáng ngợp – anh chưa bao giờ được đặt chân vào một ngôi nhà nào tráng lệ đến vậy. Nhưng sở dĩ ngôi nhà ấy gây cho người ta một cảm xúc mãnh liệt đến nghẹt thở, chính là vì có Daisy. Nàng sống ở đó cũng tự nhiên thoải mái như anh sống trong túp lều của anh tại doanh trại vậy. Ngôi nhà này mang trong lòng nó một điều bí ẩn đầy sức hấp dẫn như một quả cây chín mọng, nó làm cho ta tưởng tượng ra những buồng ngủ trên gác lộng lẫy và dịu mát hơn mọi buồng ngủ khác, những trò nghịch ngợm diễn ra suốt dọc các hành lang, những chuyện tình lãng mạn không khô héo và bị xếp xó như những cánh hoa ép, mà tươi tắn, rộn rã hơi thở, thơm mùi những chiếc xe hơi mới choáng lộn và những điệu nhảy đi kèm với những bông hoa chẳng mấy khi héo tàn. Một điều nữa cũng kích thích anh là đã có nhiều người yêu Daisy rồi – nó càng làm tăng giá trị của nàng đối với con mắt anh. Anh cảm thấy sự có mặt của đám người ấy ở khắp mọi nơi trong nhà, và không gian còn tràn ngập hình bóng và tiếng vọng của những cảm xúc hãy còn sống động.
I'm looking for a Vietnamese translation of these sentences.
But he knew that he was in Daisy’s house by a colossal accident. However glorious might be his future as Jay Gatsby, he was at present a penniless young man without a past, and at any moment the invisible cloak of his uniform might slip from his shoulders. So he made the most of his time. He took what he could get, ravenously and unscrupulously—eventually he took Daisy one still October night, took her because he had no real right to touch her hand. He might have despised himself, for he had certainly taken her under false pretenses. I don’t mean that he had traded on his phantom millions, but he had deliberately given Daisy a sense of security; he let her believe that he was a person from much the same stratum as herself—that he was fully able to take care of her. As a matter of fact he had no such facilities—he had no comfortable family standing behind him and he was liable at the whim of an impersonal government to be blown anywhere about the world.
Nhưng anh hiểu rằng anh có mặt ở nhà Daisy là do một sự tình cờ lớn. Dù cho tương lai của anh dưới cái tên Jay Gatsby có rực rỡ đến đâu, hiện tại anh vẫn chỉ là một kẻ hai bàn tay trắng, không gốc gác và bất kì lúc nào cái vỏ bảo vệ vô hình là bộ quân phục của anh cũng có thể tuột khỏi vai anh. Vì vậy anh phải tận dụng đến mức cao nhất thời gian của mình. Anh chiếm đoạt lấy những gì có thể chiếm đoạt, vồ lấy mà ngấu nghiến, không đắn đo cân nhắc – cuối cùng anh đã chiếm đoạt được Daisy vào một đêm tháng Mười êm ả, chiếm đoạt nàng vì lẽ thực ra anh không có quyền động đến dù chỉ bàn tay nàng. Lẽ ra anh phải khinh bỉ mình, vì chắc chắn anh đã chiếm đoạt nàng bằng cách lừa dối. Tôi không có ý nói anh đã khoe khoang những triệu đồng tiền ma của anh, nhưng anh đã cố ý gây cho Daisy một cảm nghĩ yên tâm: anh làm cho nàng tưởng lầm rằng anh là người cùng một tầng lớp với nàng, rằng anh hoàn toàn có khả năng trông nom chăm sóc nàng. Thực ra, anh tuyệt nhiên không có những khả năng đó, – anh không có một gia đình sung túc để hỗ trợ cho mình, anh bị lệ thuộc vào tính khí bất thường của một chính phủ không cá tính có thể đẩy anh đến bất cứ nơi nào trên thế giới.
Please convert these English sentences into Vietnamese.
For Daisy was young and her artificial world was redolent of orchids and pleasant, cheerful snobbery and orchestras which set the rhythm of the year, summing up the sadness and suggestiveness of life in new tunes. All night the saxophones wailed the hopeless comment of the ‘Beale Street Blues’ while a hundred pairs of golden and silver slippers shuffled the shining dust. At the grey tea hour there were always rooms that throbbed incessantly with this low sweet fever, while fresh faces drifted here and there like rose petals blown by the sad horns around the floor. Through this twilight universe Daisy began to move again with the season; suddenly she was again keeping half a dozen dates a day with half a dozen men and drowsing asleep at dawn with the beads and chiffon of an evening dress tangled among dying orchids on the floor beside her bed. And all the time something within her was crying for a decision. She wanted her life shaped now, immediately—and the decision must be made by some force—of love, of money, of unquestionable practicality—that was close at hand. That force took shape in the middle of spring with the arrival of Tom Buchanan. There was a wholesome bulkiness about his person and his position and Daisy was flattered. Doubtless there was a certain struggle and a certain relief. The letter reached Gatsby while he was still at Oxford.
Bởi vì Daisy còn trẻ, mà trong cái thế giới giả tạo của nàng thì tràn ngập những hoa phong lan và những thói đời hợm hĩnh chỉ biết đến cười cợt đùa vui, những dàn nhạc ấn định nhịp điệu cho từng năm, ghi lại nỗi buồn và hình ảnh của cuộc đời thành những khúc nhạc mới. Suốt đêm, các cây kèn xắc-xô nức nở lời than vãn tuyệt vọng của bản nhạc “Điệu blue phố Beale” trong khi hàng trăm đôi dép vàng dép bạc làm tung lên lớp bụi óng ánh. Vào những giờ uống trà mờ tối, luôn luôn có những gian buồng chìm đắm liên miên trong cơn sốt nhè nhẹ êm dịu này trong khi những khuôn mặt tươi tắn trôi giạt đây đó như những cánh hồng bị hơi thổi của những cây kèn co buồn bã làm tung bay khắp sàn nhà. Trong cái thế giới tranh tối tranh sáng ấy, Daisy lại bắt đầu giao tiếp khi mùa xuân đến. Đột nhiên nàng lại nhận lời mỗi ngày gần chục buổi hẹn hò với gần một chục chàng trai để rồi ngủ thiếp đi vào lúc bình minh với những chuỗi hạt trai và những tấm áo dạ hội nhàu nát vứt bừa bãi dưới sàn bên cạnh giường cùng với những cánh hoa lan tàn héo. Trong thời gian ấy luôn luôn có một nỗi niềm nào đó trong người thôi thúc nàng phải đi đến một quyết định. Nàng muốn cuộc sống của mình phải được định hình từ bây giờ, không chậm trễ. Mà làm được việc ấy phải là một sức mạnh nào đấy ở ngay cạnh nàng – sức mạnh của tình yêu, của tiền bạc, một sức mạnh hoàn toàn có giá trị thiết thực. Cái sức mạnh ấy hiện ra vào giữa mùa xuân với Tom Buchanan. Con người anh, địa vị anh, có một cái gì đồ sộ, vững chãi, và Daisy lấy làm hãnh diện. Chắc cũng có diễn ra một sự giằng co nhất định nhưng cũng đi đến một tâm trạng nhẹ nhõm. Bức thư đến tay Gatsby khi anh đang ở Oxford.
I'm seeking a Vietnamese translation for these English sentences.
It was dawn now on Long Island and we went about opening the rest of the windows downstairs, filling the house with grey turning, gold turning light. The shadow of a tree fell abruptly across the dew and ghostly birds began to sing among the blue leaves. There was a slow pleasant movement in the air, scarcely a wind, promising a cool lovely day.
Ở Long Island bây giờ trời đã rạng, chúng tôi đi mở nốt các cửa sổ ở tầng dưới để cho ánh sáng chỗ thì nhờ nhờ xám, chỗ đã hoe hoe vàng ùa vào trong nhà. Bóng một thân cây ngả dài cắt ngang lớp sương đêm và những con chim như những bóng ma bắt đầu cất lên tiếng hót giữa đám lá còn nhuốm màu xanh lam. Trong không khí có một sự xao động nhè nhẹ dễ chịu, chưa hẳn là một làn gió, hứa hẹn một ngày mát mẻ và thú vị.
I'm looking for someone to translate these sentences into Vietnamese.
After two years I remember the rest of that day, and that night and the next day, only as an endless drill of police and photographers and newspaper men in and out of Gatsby’s front door. A rope stretched across the main gate and a policeman by it kept out the curious, but little boys soon discovered that they could enter through my yard and there were always a few of them clustered open-mouthed about the pool. Someone with a positive manner, perhaps a detective, used the expression ‘mad man’ as he bent over Wilson’s body that afternoon, and the adventitious authority of his voice set the key for the newspaper reports next morning. Most of those reports were a nightmare—grotesque, circumstantial, eager and untrue. When Michaelis’s testimony at the inquest brought to light Wilson’s suspicions of his wife I thought the whole tale would shortly be served up in racy pasquinade—but Catherine, who might have said anything, didn’t say a word. She showed a surprising amount of character about it too—looked at the coroner with determined eyes under that corrected brow of hers and swore that her sister had never seen Gatsby, that her sister was completely happy with her husband, that her sister had been into no mischief whatever. She convinced herself of it and cried into her handkerchief as if the very suggestion was more than she could endure. So Wilson was reduced to a man ‘deranged by grief’ in order that the case might remain in its simplest form. And it rested there. But all this part of it seemed remote and unessential. I found myself on Gatsby’s side, and alone. From the moment I telephoned news of the catastrophe to West Egg village, every surmise about him, and every practical question, was referred to me. At first I was surprised and confused; then, as he lay in his house and didn’t move or breathe or speak hour upon hour it grew upon me that I was responsible, because no one else was interested—interested, I mean, with that intense personal interest to which every one has some vague right at the end. I called up Daisy half an hour after we found him, called her instinctively and without hesitation. But she and Tom had gone away early that afternoon, and taken baggage with them.
Đã hai năm qua, nay tôi chỉ nhớ về những giờ còn lại của ngày hôm ấy, đêm hôm ấy và ngày hôm sau như là một chuỗi người tấp nập ra vào không ngớt qua cổng nhà Gatsby – những viên cảnh sát, phóng viên nhiếp ảnh và nhà báo. Một sợi dây thừng được chăng ngang cổng, bên cạnh là một viên cảnh sát đứng chặn những kẻ tò mò, nhưng đám trẻ con chẳng mấy chốc phát hiện ra chúng có thể vào qua sân nhà tôi, cho nên lúc nào cũng có dăm ba đứa, miệng há hốc, đứng túm tụm quanh bể bơi. Một người dáng điệu tự tin, có lẽ là một thám tử, lúc cúi xuống trên xác Wilson chiều hôm ấy, đã thốt lên hai tiếng “thằng điên” và thẩm quyền ngẫu nhiên của lời nói ấy đã đề ra giọng điệu cho các bài tường thuật trên các báo sáng hôm sau. Hầu hết những bài báo này là những cơn ác mộng, – kệch cỡm, doạ dẫm, hung hăng và sai. Khi Michaelis khai ra với nhân viên điều tra sự nghi ngờ của Wilson đối với vợ, tôi đã tưởng toàn bộ sự việc sẽ bị phơi bày ra thành một chuyện xấu xa li kì, nhưng Catherine, tưởng sẽ bạ gì nói nấy, ai ngờ lại không hé lộ một lời nào. Cô lại còn tỏ ra có một bản lĩnh đáng kinh ngạc: nhìn thẳng vào nhân viên điều tra với con mắt kiên nghị dưới hàng lông mày vẽ lại, cô thề rằng chị cô chưa hề bao giờ gặp Gatsby, rằng chị cô sống hoàn toàn hạnh phúc với chồng và không làm bất cứ điều gì sai trái. Cô đã tự làm cho mình tin vào những lời mình nói, tay cầm mùi soa bưng mặt khóc như thể chỉ nghĩ đến việc sai trái ấy cô đã không chịu nổi rồi. Thành ra Wilson chỉ là một kẻ “quẫn trí vì quá đau buồn” khiến cho vụ này có thể được thu hẹp lại ở cái dạng đơn giản nhất của nó. Và nó đã dừng lại ở cái dạng đó. Nhưng tất cả phần ấy thật là xa xôi và không thiết yếu. Tôi ở lại bên cạnh Gatsby – mỗi mình tôi. Kể từ khi tôi gọi điện thoại báo tin dữ này đến làng West Egg, mọi điều phỏng đoán về Gatsby và mọi vấn đề thực tế đều đến tay tôi. Thoạt tiên, tôi lấy làm bất ngờ và bối rối. Rồi sau, trong lúc Gatsby nằm dài trong toà biệt thự của anh, không động đậy, không thở, không nói, hết giờ này qua giờ khác, tôi dần dần nhận thấy tôi phải đứng ra đảm đương công việc vì không có một ai khác quan tâm đến – tôi muốn nói là quan tâm bằng mối quan hệ cá nhân thân thiết mà có lẽ mọi người hình như đều có quyền được hưởng vào lúc cuối của đời mình. Tôi gọi điện thoại cho Daisy sau khi tìm được Gatsby chừng nửa giờ – tôi gọi cho nàng theo bản năng, không do dự. Nhưng Daisy và Tom đã ra đi từ đầu buổi chiều, đem theo cả hành lí.
Please translate these English sentences into Vietnamese for me.
It was seven o’clock of a very warm evening in the Seeonee hills when Father Wolf woke up from his day’s rest, scratched himself, yawned, and spread out his paws one after the other to get rid of the sleepy feeling in their tips. Mother Wolf lay with her big gray nose dropped across her four tumbling, squealing cubs, and the moon shone into the mouth of the cave where they all lived. ‘Augrh!’ said Father Wolf. ‘It is time to hunt again.’ He was going to spring down hill when a little shadow with a bushy tail crossed the threshold and whined: ‘Good luck go with you, O Chief of the Wolves. And good luck and strong white teeth go with noble children that they may never forget the hungry in this world.’
Bảy giờ tối, trong dãy đồi Seeonee trời rất ấm. Sói Cha thức dậy sau giấc ngủ ngày, gãi, ngáp, rồi duỗi hết chân này tới chân kia để xua đi cảm giác buồn ngủ trong các móng. Sói Mẹ nằm, cái mũi xám lớn vắt qua bốn sói con đang ngã lộn nhào kêu chí chóe. Trăng rọi vào miệng hang nơi họ sống. Sói Cha nói: “A-uu! Lại đến giờ săn rồi.” Lúc ông sắp phóng xuống đồi thì một cái bóng nhỏ đuôi xù tiến qua cửa hang rên rỉ: “Chúc may mắn, ôi Sói đầu đàn. Chúc đàn trẻ cao quý may mắn và có hàm răng trắng khỏe, để chúng đừng bao giờ quên nạn đói trên thế gian này.”
I'm seeking a Vietnamese translation for these English sentences.
It was the jackal—Tabaqui, the Dish-licker—and the wolves of India despise Tabaqui because he runs about making mischief, and telling tales, and eating rags and pieces of leather from the village rubbish-heaps. But they are afraid of him too, because Tabaqui, more than anyone else in the jungle, is apt to go mad, and then he forgets that he was ever afraid of anyone, and runs through the forest biting everything in his way. Even the tiger runs and hides when little Tabaqui goes mad, for madness is the most disgraceful thing that can overtake a wild creature. We call it hydrophobia, but they call it dewanee—the madness— and run.
Nó là con chó đồng Tabaqui Liếm đĩa. Loài sói ở Ấn Độ khinh bỉ Tabaqui vì nó chạy rông phá phách, bịa chuyện, nhá giẻ rách và mấy miếng da trong đống rác làng. Nhưng loài sói cũng ngán nó, vì hơn ai hết trong rừng Tabaqui dễ nổi điên, mà hễ đã nổi điên thì nó quên là nó đã từng sợ bất kỳ ai, cứ thế chạy băng rừng cắn mọi thứ nó gặp dọc đường. Ngay cả con cọp cũng chạy trốn lúc Tabaqui nhỏ tẹo lên cơn điên, vì điên khùng là điều nhục nhã nhất xảy đến cho thú rừng. Chúng ta gọi nó là bệnh sợ nước, nhưng họ gọi nó là dewanee – chứng điên – và họ bỏ chạy.
I'm looking for a Vietnamese translation of these sentences.
‘He has no right!’ Father Wolf began angrily—‘By the Law of the Jungle he has no right to change his quarters without due warning. He will frighten every head of game within ten miles, and I—I have to kill for two, these days.’ ‘His mother did not call him Lungri [the Lame One] for nothing,’ said Mother Wolf quietly. ‘He has been lame in one foot from his birth. That is why he has only killed cattle. Now the villagers of the Waingunga are angry with him, and he has come here to make our villagers angry. They will scour the jungle for him when he is far away, and we and our children must run when the grass is set alight. Indeed, we are very grateful to Shere Khan!’ ‘Shall I tell him of your gratitude?’ said Tabaqui. ‘Out!’ snapped Father Wolf. ‘Out and hunt with thy master. Thou hast done harm enough for one night.’ ‘I go,’ said Tabaqui quietly. ‘Ye can hear Shere Khan below in the thickets. I might have saved myself the message.’ Father Wolf listened, and below in the valley that ran down to a little river he heard the dry, angry, snarly, singsong whine of a tiger who has caught nothing and does not care if all the jungle knows it. ‘The fool!’ said Father Wolf. ‘To begin a night’s work with that noise! Does he think that our buck are like his fat Waingunga bullocks?’ ‘H’sh. It is neither bullock nor buck he hunts to-night,’ said Mother Wolf. ‘It is Man.’
Sói Cha nổi giận: “Nó không có quyền! Theo Luật Rừng nó không có quyền đổi vùng mà không báo trước. Nó sẽ làm hoảng sợ mọi con mồi trong vòng mười dặm, trong khi tôi hồi này phải săn cho cả hai.” Sói Mẹ khẽ nói: “Mẹ nó không phải vô cớ gọi nó là Lungri [Thọt]. Nó sinh ra đã què một cẳng. Vì vậy nó chỉ giết gia súc. Bây giờ dân làng Wainganga đang tức nó, rồi nó tới đây để chọc giận dân làng mình. Họ sẽ lùng sục trong rừng tìm nó khi nó đã trốn xa, còn mình với đàn con phải chạy khi người ta đốt cỏ. Thật là mình biết ơn Shere Khan nhiều lắm!” Tabaqui nói: “Tui chuyển lời cám ơn của bà cho ổng nhe?” Sói Cha gắt: “Cút ra! Cút ra săn với chủ của mày. Đêm nay mày phá hại vậy đủ rồi.” Tabaqui nói nhỏ: “Tui đi. Ông bà nghe Shere Khan trong bụi rậm bên dưới kìa. Lẽ ra tui đừng báo tin làm gì mất công.” Sói Cha lắng tai. Ông nghe thấy, trong thung lũng tối bên dưới đổ xuống dòng sông nhỏ, tiếng khô khốc, giận dữ, gầm gừ, ê a nhai nhải của con cọp chưa bắt được mồi và nếu cả Rừng đều biết chuyện thì nó cũng bất cần. Sói Cha nói: “Đồ ngu! Lại bắt đầu săn đêm bằng cái tiếng ồn đó! Bộ nó nghĩ con nai đực của đất nhà mình cũng giống mấy con bò thiến mập ở Wainganga của nó hay sao vậy hả?” Sói Mẹ nói: “Suỵt. Tối nay nó không săn bò thiến hay nai đực đâu. Nó săn Người.”
I require the translation of these English sentences into Vietnamese.
The Law of the Jungle, which never orders anything without a reason, forbids every beast to eat Man except when he is killing to show his children how to kill, and then he must hunt outside the hunting grounds of his pack or tribe. The real reason for this is that man-killing means, sooner or later, the arrival of white men on elephants, with guns, and hundreds of brown men with gongs and rockets and torches. Then everybody in the jungle suffers. The reason the beasts give among themselves is that Man is the weakest and most defenseless of all living things, and it is unsportsmanlike to touch him. They say too—and it is true —that man-eaters become mangy, and lose their teeth.
Luật Rừng bao giờ cũng có lý do, cấm muông thú ăn thịt Người, trừ phi nó giết để dạy con nó cách giết, và trong trường hợp đó nó phải săn ở ngoài khu đất săn của bầy hay đàn mình. Lý do thực sự là nếu giết người thì sớm muộn gì dân da trắng cũng sẽ cưỡi voi đến, mang theo súng, cùng hàng trăm người da nâu đem cồng chiêng, pháo sáng và đuốc. Khi đó mọi loài trong rừng sẽ chịu nạn. Còn lý do mà loài thú bảo nhau là: Người là sinh vật yếu nhất và thiếu khả năng tự vệ nhất trong mọi loài, vì vậy đụng tới họ chẳng hay hớm gì. Chúng cũng nói – điều này thì đúng – rằng đứa nào ăn thịt Người sẽ bị ghẻ lở và rụng răng.
Could you translate these sentences from English to Vietnamese?
The bushes rustled a little in the thicket, and Father Wolf dropped with his haunches under him, ready for his leap. Then, if you had been watching, you would have seen the most wonderful thing in the world—the wolf checked in mid-spring. He made his bound before he saw what it was he was jumping at, and then he tried to stop himself. The result was that he shot up straight into the air for four or five feet, landing almost where he left ground.
Bụi cây hơi có tiếng xào xạc, Sói Cha ngồi phệt xuống trên hai chân sau, sẵn sàng phóng lên. Khi đó, nếu nhìn kỹ bạn sẽ thấy điều kỳ diệu nhất trên thế gian: con sói sững lại giữa chừng cú nhảy. Nó chồm lên trước khi thấy cái nó đang nhảy tới, nhưng rồi nó cố dừng lại. Kết quả là nó phóng thẳng lên không trung một mét hai hay một mét rưỡi, rồi đáp xuống gần đúng chỗ nó đã rời mặt đất.
Could you translate these sentences from English to Vietnamese?
Father Wolf looked on amazed. He had almost forgotten the days when he won Mother Wolf in fair fight from five other wolves, when she ran in the Pack and was not called The Demon for compliment’s sake. Shere Khan might have faced Father Wolf, but he could not stand up against Mother Wolf, for he knew that where he was she had all the advantage of the ground, and would fight to the death. So he backed out of the cave mouth growling, and when he was clear he shouted: ‘Each dog barks in his own yard! We will see what the Pack will say to this fostering of man-cubs. The cub is mine, and to my teeth he will come in the end, O bush-tailed thieves!’
Sói Cha nhìn theo sửng sốt. Ông hầu như quên những ngày ông chinh phục Sói Mẹ trong cuộc đấu sòng phẳng với năm sói khác, khi bà sống trong Bầy và được cả Bầy gọi là Quỷ Dữ không phải chỉ để khen suông. Shere Khan có thể đối mặt Sói Cha, nhưng nó không thể chống lại Sói Mẹ, vì nó biết rằng khi nó ở cửa hang thì bà có mọi lợi thế của kẻ ở bên trong, bà sẽ đánh tới chết. Vì thế nó gầm gừ lùi khỏi miệng hang, và khi ra chỗ trống nó gầm lên: “Chó cậy gần nhà! Rồi xem Bầy sẽ nói sao về việc nuôi người-sói này. Đứa nhỏ là của tao, rốt cuộc rồi nó cũng sẽ tới hàm răng của tao, đồ ăn cắp đuôi xù!”